luc mach than kiem 31-60

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi Thứ 31

Đoàn Chính Thuần đại chiến Đoàn Diên Khánh

Người nói mấy câu đó chính là A Tử.

Bọn Đoàn Chính Thuần đang lúc đau thương, bỗng nghe lời A Tử nói ra chiều khinh bạc thì trong lòng ai nấy không khỏi căm tức.

Bọn Phạm Hoa trợn mắt lên nhìn cô bé, giả tỷ cô không phải con gái Chúa công thì họ đã phát khùng lên rồi. Đoàn Chính Thuần cũng khí tức xông lên đến tận cổ, giơ tay định tát vào mặt A Tử.

Nguyễn Tinh Trúc trông thấy vội giơ tay ngăn lại hậm hực nói:

- Mười mấy năm trời chàng đã bỏ con chàng cho người khác nhìn đến, sống chết cũng không hay. Bữa nay mới được trùng phùng chàng còn nhẫn tâm đánh con nữa ư?

Đoàn Chính Thuần tự cảm thấy hổ thẹn với Nguyễn Tinh Trúc vì đã bỏ phóng nàng một nơi, nên bây giờ nàng nói gì ông cũng qua. Ông không muốn có sự xích mích với nàng trước mặt bọn thuộc hạ nên vừa giơ tay ra sắp chạm vào cáng tay Nguyễn Tinh Trúc, lại thu về ngaỵ Ông làm mặt giận mắng A Tử:

- Người ta đã chết vì mi đó, mi có biết chăng?

A Tử vênh mặt lên nói:

- Người ta đều gọi gia gia bằng Chúa công. Thế thì con là tiểu chủ nhân bọn họ. Giết chết một vài tên nô bọc có gì là quá đáng.

Về triều đại nhà Tống thân phận kẻ làm tôi đối với nhà Vua là nghiêm khắc cho nên có câu nói: "Vua bắt tôi chết, là phải chết".

Bọn Lăng Thiên Lý ở vào địa thần tử trong triều đình nước Đại Lý, cố nhiên là đối với nhà họ Đoàn phát xuất tự phái võ ở Trung Nguyên, nên nhất nhất cũng vẫn giữ đúng quy cũ giang hồ. Bọn Phạm Hoa, Lăng Thiên Lý dù là thần tử họ Đoàn, song Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần trước vẫn coi họ như anh em.

Hồi Đoàn Chính Thuần còn ít tuổi, thường bôn tẩu giang hồ tại đất Trung Nguyên. Lăng Thiên Lý vẫn kề cận ông, từng trải bao phen nguy hiểm, cùng xuất sinh nhập tử, đâu có phải như bọn nô bọc tầm thường?

A Tử nói mấy câu này khiến bọn Phạm Hoa rất không hài lòng.

Nên biết rằng bọn Phạm Hoa làm đến chức Tam công. Trừ khi ở triều đường không kể, còn ngoài ra, chính Bảo định đế Đoàn Chính Minh cũng lấy hai tiếng anh em để xưng hô bọn họ. Huống chi Đoàn Chính Thuần chưa lên ngôi hoàng đế mà A Tử chẳng qua là đứa con tư sinh của Đoàn Chính Thuần đã ăn nói khinh bạc.

Đoàn Chính Thuần đang đau khổ vì chết mất Lăng Thiên Lý, lại bị đứa con ngỗ nghịch như vậy, ông rất thẹn với mọi người, liền chống kiếm đi ra, trỏ vào mặt Đoàn Diên Khánh nói:

- Ngươi muốn giết ta thì động thủ đi! Họ Đoàn ta chỉ lấy nhân nghĩa để trị nước, vì nghĩ rằng tàn sát người vô tội thì dù có được nước cũng chẳng bền lâu.

Tiêu Phong cười thầm trong bụng, lẩm bẩm:

- Cái miệng mi nói thật dễ nghe! Đã đến lúc này mà mi còn khéo giả bộ mặt quân tử để bịp đời.

Đoàn Diên Khánh chí đầu trượng xuống băng mình đi một cái đã đến trước mặt Đoàn Chính Thuần.

Lão hỏi:

- Phải chăng mi đấu cùng ta một chỉ chọi một, không can thiệp đến người ngoài.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Đúng rồi! Mi cũng chỉ giết mình ta đây rồi về nước Đại Lý giết nốt Hoàng huynh ta nữa là đủ mãn nguyện. Những người thuộc hạ cùng gia nhân ta không liên quan gì đến công việc giữa ta với mi.

Đoàn Chính Thuần biết võ công Đoàn Diên Khánh ghê gớm quá. Hôm nay chắc mình phải mất mạng vì tay lão, ông chỉ mong lão đừng làm khó dễ đến Nguyễn Tinh Trúc, A Tử, cùng bọn Phạm Hoa.

Đoàn Diên Khánh nói:

- Ta phải giết cả nhà ngươi và sẽ tha cho bọn thuộc hạ. Trước kia phụ hoàng ta vì có lòng nhân nghĩa không giết hại hai anh em mi nên mới xảy ra cái họa phản nghịch, cướp ngôi.

Vừa dứt lời, gã phóng trượng ra điểm vào trán Đoàn Chính Thuần.

Đoàn Chính Thuần đã nghe chuyện Hoàng huynh mình là Đoàn Chính Minh và Huỳnh Mi Tăng nói đến võ công Đoàn Diên Khánh và biết lão sử dụng võ công bổn phái làm môn chính thống. Ngược lại, lão còn biết bao nhiêu tuyệt nghệ cực kỳ quái dị của các phái gì không rõ lai lịch từ đâu, thì nghĩ thầm: Đoàn Chính Thuần này có chết cũng phải giữ cho đàng hoàng không để người ta chê cười.

Rồi lạng mình về mé tả, nhìn thi thể Lăng Thiên Lý chắp tay nói:

- Lăng hiền đệ! Hôm nay Đoàn Chính Thuần này cũng biết song đôi trong công cuộc kháng địch.

Ông quay lại nói với Phạm Hoa:

- Phạm Tư Mã! Sau khi tôi chết, Tư Mã để phần mộ tôi ngang hàng với phần mộ Lăng hiền đệ, đừng phân biệt vua tôi chi cả.

Đoàn Diên Khánh cười nói:

- A ha! Mi giả nhân nghĩa khéo đấy! Phải chăng mi định phục nhân tâm để mong người ta liều chết cho mi.

Đoàn Chính Thuần không nói gì nữa, tay trái thủ thế, tay phải phóng kiếm ra chiêu "kỳ lợi đoạn kim" trong "Đoàn gia kiếm" ra chiêu mở đầu cuộc đấu của bản phái. Đoàn Diên Khánh đã biết rõ những biến hóa về chiêu này, liền rút trượng ra trả đòn một cách đường hoàng.

Cả hai bên lúc khởi sự đều sử dụng những môn võ gia truyền của họ Đoàn. Đoàn Diên Khánh dùng trượng thay kiếm. Lão cũng định bụng chỉ thi triển võ công "Đoàn gia kiếm".

Ta nên biết rằng lão cùng Đoàn Chính Thuần xảy ra cuộc chiến đấu không phải vì thù oán, mà vì tranh cướp ngôi vua nước Đại Lý. Hiện giờ tam công nước Đại Lý đều có mặt tại đây. Nếu lão dùng võ công của phái tà để giết Đoàn Chính Thuần tất quần thần không phục và cho là lão không phải dòng dõi chính thống. Còn như dùng "Đoàn gia kiếm" để thủ thắng thì thật là danh chính ngôn thuận, không còn ai can thiệp gì đến quần thần cả. Rồi đây lão lên ngôi vua cũng dễ dàng cho mình nhiều.

Đoàn Chính Thuần thấy lão sử dụng toàn võ công bản môn cũng yên lòng được một chút. Ông khoan thai để ý phóng kiếm, chiêu nạp cũng vững chảị Những người bàng quang đều là tay võ nghệ tinh thâm, thấy Đoàn Chính Thuần chân bước vững vàng, phóng kiếm ra chiêu nào công thủ cũng đúng phép tắc, ai cũng khen thầm.

Trong tay Đoàn Diên Khánh cầm hai cây gậy trúc đen rất lạ, nó cứng như gang thép nên đụng vào cây trường kiếm của Đoàn Chính Thuần vẫn chẳng có gì! Hai bên cùng sử dụng môn "Đoàn gia kiếm" chính tông. Thế kiếm công thủ rất trầm trọng, vững vàng, không làm mất thể thống vương giả.

Tiêu Phong tự nhủ:

- Hôm nay thật tình là mình gặp được cơ hội ngàn năm hiếm có. Mình vẫn băn khoăn về phép "Nhất dương chỉ" và "Lục Mạch Thần Kiếm" của họ Đoàn cực kỳ ghê gớm thì khéo sao lại là kẻ đối thủ vô cùng lợi hại với Đoàn Chính Thuần tìm đến. Phép "Lục Mạch Thần Kiếm" ghê gớm đến mực nào chỉ lát nữa là mình biết rõ.

Ông chăm chú theo dõi tỉ mỉ kiếm pháp cả hai bên. Mới xem dư chục chiêu, ông đã nhận ra rằng khí giới của hai người đều không tương hợp với "Đoàn gia kiếm" vì chiêu thức của môn nầy rất cổ kính cần có cây trường kiếm dài sáu thước để tiện vung lên vừa chém vừa phát mới hết được chỗ sở trường của nó. Thế mà Đoàn Diên Khánh lại sử dụng cây gậy trúc đen nhẹ quá, nên đòn đánh chỉ hời hợt trúng không được trầm trọng, còn cây kiếm của Đoàn Chính Thuần cũng nhỏ và nhẹ quá.

Tiêu Phong lại xem đấu hơn mười chiêu nữa, thì thấy cây gậy trúc đen của Đoàn Diên Khánh mỗi lúc một trầm trọng thêm, các chiêu sử dụng nó có vẻ trì trệ hơn trước, và mỗi lần cây trượng đẩy trường kiếm của Đoàn Chính Thuần bật văng đi mỗi lúc mạnh hơn.

Tiêu Phong là tay sử cây "Đả cẩu bổng" thuần thục đã nổi công bất giác lẩm nhẩm gật đầu: "Tuyệt nghệ của họ đã thò ra dần dần đây"! Cây gậy trúc nhẹ lâng lâng mà lão sử nặng tựa hồ cây thiết hơn tám mươi cân thì thật là một nghệ thuật phi phàm.

Ta phải biết rằng những tay cao thủ tuyệt vời thường thường cất nhắc vật nặng một cách nhẹ nhàng hay là sử dụng những thứ trầm trọng coi nhẹ như trên. Còn cất nhắc vật nhẹ mà hóa như công lực phải cao hơn từng nữa. Sử dụng binh khí nhẹ mà hóa không những ra chiêu mãnh liệt mà còn có lợi điều khiển nó nên dễ dàng linh diệu hơn khí giới hạng nặng.

Tiêu Phong thấy Đoàn Diên Khánh sử dụng cây trúc chẳng khác gì cây cương trượng, diệu ở chỗ mỗi lúc một nặng thêm, tựa như sức nặng không biết đến đâu là bờ bến, nên ông bội phục vô phần. Đoàn Chính Thuần thấy mỗi khi mình phóng kiếm ra đều bị cả một trái núi nhỏ đè lên, khiến cho hơi thở tức tối. Võ công họ Đoàn chuyên nghiên cứu rất kỹ về nội công nhất là bộ hô hấp phải được thư thái. Thở hít nặng nhọc để chống sự thất bại.

Tuy nhiên Đoàn Chính Thuần vẫn không hoang mang, và an ủi là mình đã được hưởng phúc nhiều rồi thì dù nay có bỏ mạng ở Tiểu Kính hồ cũng chẳng đáng tiếc nên ông coi chết như không. Hơn nữa bên cạnh có cô nhân tình xinh đẹp đang đứng theo dõi cuộc đấu, ông cho rằng có chết cũng hóa thành con quỷ phong lưu.

Đoàn Chính Thuần đi đến đâu là dắt nhân tình đến đấy. Thực ra thì sự luyến ái giữa ông và Nguyễn Tinh Trúc cũng chẳng hơn gì Thư Bạch Phụng hay các cô gái khác. Có điều bất luận ông đang ở với người tình nào cũng đối đãi rất nhiệt thành với người đó, thậm chí có vì người yêu mà mất mạng cũng không oán hối. Còn lúc ông bỏ phăng nhân tình ra đi chẳng chút đoái hoài thì đó là chuyện khác.

Đoàn Diên Khánh vẫn tiếp tục gia tăng nội lực cho cây trượng nặng thêm. Sau khi tranh đấu hơn sáu chục chiêu bao nhiêu thế trong "Đoàn gia kiếm pháp" lần lượt sử dụng hết rồi, lão chú ý nhìn nét mặt Đoàn Chính Thuần thấy đầu mũi ông đã có đọng mấy hạt mồ hôi, nhưng hơi thở vẫn điều hòa thong thả thì nghĩ bụng: Nghe nói thằng cha này có tính hiếu sắc, rất lắm nhân tình, vậy mà nội lực hắn vẫn còn dư, mình không thể coi thường hắn được.

Lúc này, lão phát huy nội lực vào cây gậy đến mức tối cao rối phóng ra veo véo. Đoàn Chính Thuần mỗ lần giơ kiếm là một lần lạng người đi. Hai bên đều sử dụng những chiêu thức đã luyện được rất thành thạo từ ngày mười hai, mười ba tuổi, không cần nói đến những con cháu dòng dõi chính thống họ Đoàn, ngay bọn Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch mấy chục năm nay cũng đã được xem lại hoài. Cuộc chiến đấu không phải ăn thua ở chiêu thức mà là cuộc tỷ thí nội lực.

Bọn Phạm Hoa xem đến đây đã thấy rõ Đoàn Chính Thuần không chống nổi được nữa. Họ liền đưa mắt cho nhau, lăm lăm cầm binh giới trong tay toan xông cả vào.

Bỗng thấy tiếng cười khanh khách của một cô gái vang lên rồi nói:

- Buồn cười, thật là buồn cười! Họ Đoàn nước Đại Lý vẫn nổi danh anh hùng hào kiệt, thế mà toan kéo cả bè cả lũ xông vào ỷ đông người để mong thủ thắng, như thế chẳng hóa ra bọn tiểu nhân rất vô liêm sỉ ư?

Mọi người nghe tiếng đều ngạc nhiên khi thấy câu đó lại từ miệng A Tử nói ra. Thực là một chuyên khó ai ngờ. Chính phụ thân cô lăn vào vòng nguy hiểm cô cũng biết rồi, sao còn buông lời diễu cợt chê bai?

Nguyễn Tinh Trúc cả giận mắng con:

- Mi biết gì mà dám nói láo? Gia gia mi làm Trấn Nam Vương nước Đại Lý đang ra tay đánh kẻ phản nghịch. Mấy ông bạn đây đã là thần tử triều đình đều có trách nhiệm trong công cuộc diệt quân cuồng bạo, giữ yên đất nước, sao mi dám mở miệng bảo là ỷ nhiều người đắc thắng?

Nguyễn Tinh Trúc chỉ giỏi về nghề bơi lội, còn võ công cũng loại thường thôi, mụ thấy tình lang gặp bước nguy hiểm thì trong lúc nóng nảy, lại lên tiếng giục:

- Các vị xông cả vào đi! Đối phó với quân hung đồ phản phúc thì còn kể đến luật lệ giang hồ sao được?

A Tử cười nói:

- Má má nói vậy đáng buồn cười nữa! Gia gia con có phải là bậc anh hùng hảo hán thì con mới nhìn nhận. Nếu y cũng là hạng vô liêm sỉ thì con nhìn nhận cái thứ gia gia đó làm gì?

A Tử nói câu này bằng một giọng oang oang, ai cũng nghe rõ.

Bọn Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch, Hoa Hách Cấn nhớn nhác không biết quyết định ra sao? Nhảy vào vòng chiến cả thì bẻ mặt, nếu không động thủ thì làm sao giải cứu cho Trấn Nam Vương được? Đoàn Chính Thuần tuy là một khách phong lưu đa tình, nhưng vẫn luyến tiếc bốn chữ "anh hùng hào kiệt". Ý ông muốn nói: nếu hào kiệt dù không thể nhắm mắt bỏ qua một mỹ nhân nhưng mất thể là một vị anh hùng.

Sở Bá Vương có Ngu Cơ, Hán Cao Tổ cóThích phu nhân, mà vẫn là những đấng anh hùng. Ông chỉ chủ trương quyết không làm điều gì ti tiện khiếp nhược.

Trong lúc Đoàn Chính Thuần đang chiến đấu kịch liệt với Đoàn Diên Khánh, ông thoáng nghe lời A Tử, liền lớn tiếng nói:

- Sống hay chết, thắng hay bại phỏng có chi đáng kể? Bất luận là ai nhảy vào vòng chiến để tiếp sức cho Đoàn Chính Thuần này chỉ khiến Đoàn mỗ khó chịu thêm mà thôi!

Trong khi ông mở miệng thốt ra bấy nhiêu lời, nội lực do đó giảm sút đi khá nhiều.

Đoàn Diên Khánh cũng tỏ vẻ anh hùng, chẳng những không thừa cơ hội này đánh gấp hơn, lão còn lùi ra mấy bước, chống đôi trượng đứng chớ ông nói xong rồi mới tiến lại tiếp tục cuộc chiến đấu.

Bọn Phạm Hoa ngấm ngầm kinh hãi trước hiện trạng này, vì biết rằng Đoàn Diên Khánh càng ra vẻ ung dung nhàn nhạ không thèm nhằm chỗ sơ hở của đối phương mà chiếm đoạt ưu thế, càng tỏ ra lão ỷ võ công tuyệt đỉnh, không cần phải chiếm lấy tiện nghi.

Đoàn Chính Thuần tủm tỉm cười, nói:

- Ta lại phát chiêu đây!

Ông phất tay áo bên trái phóng kiếm ra. Nguyễn Tinh Trúc bảo con:

- A Tử! Con trông kiếm pháp của gia gia kìa! Người phóng chiêu lợi hại biết chừng nào! Bản lãnh người như vậy tất dư sức hạ thằng cha mặt như người chết trôi kia! Có điều người là một vị Vương gia muốn để việc hạ hắn cho bọn thuộc hạ, không tiện tự mình ra tay.

A Tử nói:

- Gia gia hạ được hắn thì còn nói gì nữa? Con chỉ sợ hú vía, tuy ngoài miệng nói cứng mà trong bụng run như cầy sấy.

Cô nói mấy câu này thật trúng tâm bệnh mẫu thân cô.

Nguyễn Tinh Trúc tức giận trừng mắt nhìn A Tử lẩm bẩm:

- Con ranh này thật ngu quá! Chém tre không nể đầu mặt.

Bỗng thấy Đoàn Chính Thuần phóng trường kiếm luôn ba chiêu song nội lực Đoàn Diên Khánh mỗi lúc một tăng gia, chiêu nào của ông cũng bị gậy trúc gạt lật ngược lại. Đoàn Chính Thuần ra chiêu thứ tư gọi là "Kim mã đằng không", đưa lưỡi kiếm phạt ngang.

Đoàn Diên Khánh dồn nội lực vào lực vào tay để cố giựt ra nhưng không được. Lão hít hơi thật mạnh vào cổ kêu lên ồng ộc rồi thốt nhiên đầu gậy bên hữu xuống đất, nhảy vọt người lên cao. Đầu gậy trúc vẫn dắt chặt vào mũi kiếm đối phương.

Một bên hai chân bám sát xuống đất vững như núi, không chịu nhúc nhích, còn một bên toàn thân lơ lững trên không, đu qua đu lại như cành liễu trước gió. Mọi người bàng quan bất giác la lên một tiếng "Úi chao". Hai bên đang thi triển nội lực đến độ chết để tranh thắng.

Kể ra thời Đoàn Chính Thuần đứng dưới đất hai chân cố chết bíu, chiếm phần lợi hơn. Song Đoàn Diên Khánh trên cao đè xuống toàn lực ra áp đảo thanh trường kiếm của đối phương cũng nghi ngờ lắm! Chỉ trong khoảnh khắc, thanh trường kiếm dần dần cong lên hình cánh cung, còn cây gậy trúc bản chất mềm dẻo mà lại ngay thẳng như mũi tên. Xem thế đủ rõ nội lực hai bên phân biệt kẻ hơn người kém rồi.

Tiêu Phong thấy thanh trường kiếm của Đoàn Chính Thuần môi cong hơn. Ông e rằng chỉ cong thêm chút nữa là thanh kiếm gẫy đôi.

Ông lẩm bẩm:

- Đã đến tình trạng này mà hai người còn dụng phép "Lục Mạch Thần Kiếm" là nghĩa gì? Chẳng qua Đoàn Chính Thuần tự biết phép "Lục Mạch Thần Kiếm" của mình xem ra còn kém đối phương, nên phải dấu cái vụng về đi không để ra? Cứ coi vẻ mặt thì tựa hồ nội lực y gần hết đất, chúng còn bản lãnh nào khác nữa thì phải.

Ông có biết đâu rằng Đoàn Chính Thuần mới đứng vào hạng nhì trong những tay cao thủ họ Đoàn nước Đại Lý. Phép "Lục Mạch Thần Kiếm" mà con ông là Đoàn Dự còn biết sử dụng qua được thì chính ông lại chưa hiểu, đến "Nhứt Mạch Thần Kiếm" còn không biết nói chi đến "Lục Mạch Thần Kiếm"?

Đoàn Chính Thuần thấy cây trường kiếm trong tay mình cong lại gần như chiếc vòng tròn, không biết gãy lúc nào. Ông hít mạnh một hơi rồi đưa ngón tay trỏ bên hữu điểm ra. Đó là phép "Nhất dương chỉ". Song phép này của ông còn kém cả hoàng huynh ông là Đoàn Chính Minh. Chỉ lực của ông không phóng tới ngoài ba thước được. Ông lại dùng trường kiếm để đánh nhau với Đoàn Diên Khánh, cả hai thứ binh khí dắt vào nhau làm cho hai bên cách xa nhau đến tám thước thì phóng chỉ tới đối phương thế nào được? Nên chỉ đó không phải để điểm vào Đoàn Diên Khánh mà chỉ nhắm vào cây gậy trúc.

Tiêu Phong nhíu đôi lông mày nghĩ thầm: Hình như lão này không biết phép "Lục Mạch Thần Kiếm" có lẽ còn kém cả nghĩa đệ ta cũng người họ Đoàn.

Tiêu Phong nhíu đôi lông mày nghĩ thầm:

- Hình như lão này không biết phép "Lục Mạch Thần Kiếm" có lẽ còn kém cả nghĩa đệ ta cũng người họ Đoàn. Ngón chỉ này chẳng qua là phép điểm huyệt cách không mà thật chứ có gì kỳ diệu?

Tiêu Phong đang ngẫm nghĩ thì Đoàn Chính Thuần điểm đến đâu cây gậy trúc của đối phương xiêu dị đến đấy, mà cây trường kiếm của mình cũng duỗi ra được đôi chút.

Đoàn Chính Thuần điểm luôn ba chiêu, cây kiếm dần dần khôi phục lại được hình dạng thẳng thắn của nó.

A Tử lại lên tiếng:

- Má má ơi! Gia gia đã dùng trường kiếm, lại còn phóng chỉ ra nữa, mà mới đối phó được ngang sức với một cây gậy trúc của lão. Giả sử đối phương sử dụng cả cây gậy thứ hai nữa thì không biết gia gia lấy đâu ba tay để chống lại?

Nguyễn Tinh Trúc trong lòng lo lắng cho tình lang mà cô con gái đứng bên còn nói những câu như chọc vào tai. Bà ta chưa kịp trả lời thì bỗng thấy Đoàn Diên Khánh giơ trượng bên phải lên phóng đánh véo một tiếng. Quả nhiên Đoàn Chính Thuần lại lấy ngón tay trỏ bên trái điều khiển. Đoàn Diên Khánh sử dụng cây trượng nầy bằng nội kinh theo lối "Nhất dương chỉ". Nhưng lão lấy trượng làm chỉ nên đón đánh cao hơn.

Đoàn Chính Thuần cả kinh nghĩ thầm:

- Lão điều hòa hơi động chân khí lẹ đến thế, chẳng khác gì muốn sao được vậy. Phép "Nhất dương chỉ" của lão đến mức tinh diệu phi thường, mình thua lão xa.

Ông vừa nghĩ vừa phóng chỉ ra nhưng chậm mất một chút, người như rung động.

Đoàn Diên Khánh thấy cuộc đấu đã lâu, sợ kéo dài thời gian, xảy ra biến cố nguy hiểm. Tỷ dụ quần thần của đối phương xông vào thì mình lại phải tốn nhiều hơi sức. Lão vung trượng như gió cao bay, chớp mắt đã điểm luôn chín trượng. Đoàn Chính Thuần cố gắng chống đỡ, nhưng đến đòn trượng chín của đối phương điểm tới thì ông kiệt lực mất rồi.

Bỗng nghe đánh "sột" một tiếng, đầu cây gậy trúc đen đánh trúng vai bên trái Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần lạng người đi, kế tiếp đánh "rắc" một thanh trường kiếm trong tay phải gãy làm đôi.

Trong cổ họng Đoàn Diên Khánh bỗng phát ra một thứ thật quái gở rồi lão điểm rất nhanh cây gậy bên tay phải vào đầu Chính Thuần. Lão quyết ý đánh đòn nầy cho đối phương phải mệt. Lão sử dụng toàn bộ kinh lực, cây trượng phóng qua phóng lại rít lên tiếng gió ghê rợn.

Phạm Hoa, Hoa Cách Cẩn, Ba Thiên Thạch thấy Đoàn Chính Thuần sắp mất mạng về ngọn trượng của đối phương, ba người đồng thời nhảy ra chia ba mặt sấn đến bên Đoàn Diên Khánh.

Ba vị Tam Công nước Đại Lý này đều là những tay cao thủ đứng trước tình trạng vô cùng nguy hiểm và cấp bách, muốn xông vào cứu Đoàn Chính Thuần thì đã không kịp nữa, phải dùng cách "vây Ngụy cứu Triệu" nhằm đánh vào những yếu huyệt Đoàn Diên Khánh.

Đoàn Diên Khánh đã biết trước đến lúc nguy cấp thế nào quần thần nước Đại Lý cũng xông cả vào lão chuẩn bị sẵn sàng giả vờ dừng cây trượng bên trái lại một cách hững hờ mà kỳ thực lão đã ngấm ngầm vận động nội kinh để chống đỡ tất cả những chỗ xung yếu trong toàn thân.

Trong khi Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch cả ba người phóng binh khí đánh tới, Đoàn Diên Khánh chẳng né tránh mà cũng không lùi lại, đưa tay quét ngang cây trượng bên trái để che kín thân thể không cho khí giới của bọn Tam Công chạm vào người, còn cây trượng bên phải đánh thẳng vào đầu Đoàn Chính Thuần.

Tinh Trúc kêu rú lên một tiếng thất thanh xông vào, vì thấy tình lang sắp chết toi mạng, bà ta cũng liều mình không muốn sống nữa. Ngọn trượng của Đoàn Diên Khánh còn cách huyệt "bách hội" trên đầu Đoàn Chính Thuần không đầy ba tấc, thì đột nhiên người ông tung sang bên, ngọn trượng của Đoàn Diên Khánh đâm vào khoảng không.

Giữa lúc ấy, Đoàn Diên Khánh bị bộ ba Phạm Hoa, Hoa Hách Cần, Ba Thiên Thạch đánh rát phải rút trượng về. Ba Thiên Thạch động thủ như chớp nhoáng, xoay tay một cái đã nắm được cổ tay Nguyễn Tinh Trúc, khiến bà ta không thể liều mạng với Đoàn Diên Khánh được nữa.

Mọi người đều quay lại nhìn Đoàn Chính Thuần.

Đoàn Diên Khánh ra đòn nầy đinh ninh giết được đối phương dè đâu Đoàn Chính Thuần lại tránh được, trượng điểm chệch ra ngoài, lão giật mình kinh hãi vô cùng. Lão định thần nhìn lại thấy một Đại Hán kéo tay nắm lấy gáy Đoàn Chính Thuần nhấc ra.

Giữa lúc tính mạng của Đoàn Chính Thuần tựa ngàn cân treo đầu sợi tóc mà có người ngang nhiên nắm lấy gáy nhấc ra thì thần lực con người đó không ai có thể tưởng tượng được.

Đoàn Diên Khánh võ nghệ tuyệt luân, mà cũng tự nghĩ mình không làm được như thế. Da thịt trên mặt lão đã trơ ra, nên tuy lão vô cùng kinh ngạc mà không biến sắc, chỉ thấy lão khịt mũi một tiếng mà thôi.

Người ra tay cứu Đoàn Chính Thuần đó là Tiêu Phong. Ông đứng bên theo dõi cuộc đấu giữa hai người họ Đoàn không chớp mắt. Mặc nhiên ông thấy Đoàn Chính Thuần bị đối phương ra đòn chí mạng, ông nghĩ rằng nếu để cho ngọn trượng Đoàn Diên Khánh điểm tới, thì mối thù không đội trời chung chẳng còn cách nào trả được.

Mấy bữa nay Tiêu Phong đã lập bao nhiêu chí nguyện, tuyên lên bao nhiêu lời trọng thệ, quyết báo cho được mối thù sâu tựa biển. Bây giờ đã gặp kẻ thù ngay trước mặt, khi nào ông chịu để y chết về tay người khác? Nên ông tung người nhảy xổ lại nhấc Đoàn Chính Thuần nhảy tránh ra.

Đoàn Diên Khánh là người tâm linh cực kỳ mẫn tiệp, không để cho Tiêu Phong kịp đặt Đoàn Chính Thuần xuống, lão múa tít hai trượng trúc như gió táp mưa sa, điểm liên tiếp vào những huyệt trọng yếu Đoàn Chính Thuần. Lão quyết chí trừ khử cho bằng được vật chướng ngại đó để rồi đây bước lên ngôi hoàng đế. Còn đấu với Tiêu Phong ra sao thì sẽ tính sau.

Tiêu Phong xách Đoàn Chính Thuần nhằm vào những kẻ lao trượng phóng tới mà né tả tránh hữu. Đoàn Diên Khánh sử dụng liền một lúc hai mươi bảy trượng mà vẫn không chạm được vào tà áo Đoàn Chính Thuần chứ đừng nói chạm vào người ông. Lão ngấm ngầm kinh hãi biết ngay mình không phải địch thủ của Tiêu Phong.

Thốt nhiên lão hú lên một tiếng kỳ dị, tung người ra xa khỏi trượng rồi hỏi:

- Các hạ là ai? Cớ sao lại vào đây quấy rối?

Tiêu Phong chưa kịp trả lời, thì Vân Trung Hạc đã lên tiếng:

- Lão đại ca! Y trước đã làm Bang chúa Cái Bang tên gọi Kiều Phong. Đồ đệ của đại ca là Truy hồn trượng Đàm Thanh cũng bị chết dưới bàn tay gã côn đồ này đó.

Vân Trung Hạc vừa dứt lời, chẳng những mình Đoàn Diên Khánh run lên mà đám quần thần nước Đại Lý cũng cả kinh thất sắc. Cái tên Kiều Phong lừng lẫy khắp thiên hạ. Câu: Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, những người trong võ lâm chẳng ai là không biết. Nhưng lúc ông xưng tên với Đoàn Chính Thuần lại lấy họ tên đích thực là Tiêu Phong, mọi người có biết đâu rằng chính thị Kiều Phong, con người vang danh bốn bể.

Bây giờ nghe Vân Trung Hạc nói, mọi người đều sửng sốt, bất giác la lên:

- Té ra chính ông ta là con người võ công tuyệt thế, giàu lòng nghĩa hiệp, quả nhiên danh bất hư truyền.

Đoàn Diên Khánh nghe Vân Trung Hạc thuật chuyện lại biết đồ đệ mình là Đàm Thanh ở Tự Hiền Trang toan hại người không được lại bị Kiều Phong giết chết.

Bây giờ lại nghe Đại Hán này đúng là người đã sát hại đồ đệ mình thì trong lòng vừa căm tức vừa sợ hãi, cầm cây gậy trúc vạch xuống phiến đá xanh hàng chữ sau đây:

- Các hạ với tôi có thù oán gì đâu mà sát hại đồ đệ tôi, giờ lại phá hoại việc lớn của tôi nữa?

Dòng chữ khắc rất sâu vào đá, chỉ nghe "sạo sạo" một lúc, tựa hồ như viết chữ lên đống cát.

Nguyên thuật "phúc ngữ" của Đoàn Diên Khánh mà đem phối hợp với nội công thượng thừa của lão thì có thể khiến cho tâm hồn khác phải mê man, thần trí phải rối loạn. Đó là một thứ tà thuật cực kỳ lợi hại. Song tà thuật này chỉ đem tâm lực để chế phục đối phương. Nếu gặp phải kẻ địch nội lực hùng hậu hơn mình thì chẳng những không chế phục nổi mà còn bị hại đến bản thân là khác.

Đoàn Diên Khánh đã biết rõ cái chết của Đàm Thanh, lại thấy cước pháp Tiêu Phong cứu Đoàn Chính Thuần ghê gớm phi thường, nên không dám mạo hiểm dùng thuật "phúc ngữ" để đối thoạt với ông, mà phải viết chữ lên trên tấm đá.

Tiêu Phong thấy Đoàn Diên Khánh khắc chữ xong, ông cũng không nói gì, chạy lại đưa bàn chân đi lên mấy cái. Dòng chữ trên tấm đá đã bị xóa sạch sành sanh.

Một người lấy đầu gậy trúc để viết chữ vào đá kể khó lắm, lại đến người lấy chân di sạch được những vết chữ khắc vào đá, thì công lực ấy còn hùng hậu hơn người viết một tầng, vì viết chữ có thể tụ nội lực vào đầu gậy trúc. Phiến đá xanh ở trên hồ bị một người khắc chữ lên, lại có người di chân xóa đi tưởng chừng như đống bùn đống cát vậy.

Đoàn Diên Khánh thấy Tiêu Phong lấy chân di những tự tích trên phiến đá thì biết ông có ý: Một là để phô trương bản lãnh, hai là để hôm nay không có thù oán gì. Những việc đã qua chỉ vì vô ý gây nên xích mích, nếu bằng lòng bỏ đi không xét lại nữa thì hai bên lại hòa.

Đoàn Diên Khánh là người rất cơ trí, tự lượng không địch nổi Tiêu Phong thì lùi sớm đi là hơn để khỏi phải thất bại nhục nhã. Như vậy, lão dùng cây trượng bên tay phải sổ toẹt một cái, từ trên xuống dưới rồi lại móc lên thành hình móc câu. Cả một cử động này nói: Các thù trước đều xóa bỏ hết. Tay trái chỉ đầu gậy xuống người lão đã nhảy xa mấy trượng.

Nam Hải Ngạc Thần giương cặp mắt ti hí nhìn Tiêu Phong một chặp, ra chiều không phục, mắng:

- Mẹ nó! Quân "lộn kiếp" này làm tàng quá...!

Lão chưa dứt lời thì người lão đột nhiên vọt lên trên không rơi xuống giữa hồ đánh tỏm một tiếng, nước bắn tung tóe rồi chìm lỉm.

Nguyên Tiêu Phong căm giận lão mỉa mai ông là quân "lộn kiếp", tay trái ông xách Đoàn Chính Thuần bước tới, tay phải nắm lấy áo Hải Ngạc Thần quẳng xuống hồ. Ông hạ thủ một cách mau lẹ, vậy nên Nam Hải Ngạc Thần không kịp chống đối.

Nam Hải Ngạc Thần ở bể Nam đã lâu lại tự xưng là Ngạc Thần, bơi lội rất giỏi. Hai chân lão đứng xuống đáy hồ rồi lại nhảy vọt lên trên mặt nước hỏi:

- Mi làm gì vậy?

Nói xong một câu người lão lại chìm xuống nước. Xuống tới đáy hồ lão lại nhảy vọt toàn thân lên cao khỏi mặt nước, nói tiếp:

- Mi ám toán lão gia đây...

Đang nói dở câu lại rớt xuống đáy hồ. Lần thứ ba lão nhảy lên nói tiếp:

- Lão gia quyết không tha đâu!

Nam Hải Ngạc Thần tính nóng như lửa, lão tức quá không thể nhịn để chờ đến lúc lên bờ rồi hãy mắng Tiêu Phong, lão vừa nhô lên hụp xuống vừa nói mấy câu cho hả giận.

A Tử bật cười nói:

- Các người trông kìa! Lão ấy ở dưới nước nhô lên hụp xuống có khác chi con "rùa" không?

Vừa lúc ấy Nam Hải Ngạc Thần nhảy lên khỏi mặt nước mắng lại:

- Chính mi mới phải là con rùa!

A Tử giơ tay lên đánh véo một tiếng. Cô đã ném ra một mũi tinh thùy.

Nam Hải Ngạc Thần hụp xuống đáy hồ tránh khỏi rồi bơi ngầm vào bờ, quần áo ướt đẫm nhảy lên. Lão không kiên sợ gì hết, vác mặt chạy đến trước mặt Tiêu Phong, ngoẹo cổ giương đôi mắt ti hí nhìn ông hỏi:

- Mi vừa dùng thủ pháp gì để quẳng lão gia xuống hồ? Lão ta vẫn chưa hiểu đó.

Diệp Nhị Nương nói:

- Thôi lão tam cút đi! Đừng đứng giở trò nữa.

Nam Hải Ngạc Thần nói:

- Ta đã bị kẻ khác hất xuống hồ mà cả đến hắn dùng thủ pháp gì mình cũng không hay thì còn cái nhục nào bằng? Ta phải hỏi cho biết đã.

A Tử nói:

- Được lắm! Ta bảo cho ngươi hay: Tuyệt nghệ đó gọi là "Tróc quy công"

Nam Hải Ngạc Thần ngơ ngẩn nói:

- A! Môn đó gọi là "Tróc quy công" ư? Ta đã biết được thế võ này, sẽ cố tìm người dạy cho mình, rồi gắng công luyện tập sau này khỏi bị vố đau như hôm nay.

Lão nói xong rảo bước đi ngay. Lúc này Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đã chạy xa rồị Tiêu Phong đặt Đoàn Chính Thuần xuống. Nguyễn Tinh Trúc buông lời cảm tạ nói:

- Kiều Bang Chúa! Bang Chúa trước đã cứu con gái tôi, bây giờ lại cứu y, tôi không biết lấy gì để đền đáp!

Bọn Phạm Hoa, Chu Đan Thần cũng đều lạy tạ ơn. Tiêu Phong lầm lì nói:

- Sở dĩ Tiêu Phong này mà cứu tiên sinh là vì có chuyện riêng. Các vị tất bất phải cảm ơn tôi. Đoàn tiên sinh! Tôi xin hỏi tiên sinh một câu mong rằng tiên sinh trả lời thành thực cho. Trước kia tiên sinh đã ra ngoài "Nhạn môn quan" làm một chuyện rất lầm lỗi có đúng thế không?

Đoàn Chính Thuần đỏ bừng mặt lên rồi lại biến ra nhạt, cúi đầu nói:

- Đúng rồi! Đoàn mỗ trong lòng lúc nào cũng khắc khoải không yên đó. Nhưng tay trót đã nhúng chàm, không còn cách nào vãn hồi được nữa.

Hồi Thứ 32

Cuộc ước hội canh Ba trên cầu ván

Từ khi Tiêu Phong ở nhà Mã phu nhân tại thành Tín Dương, nàng tiết lộ "Thủ lĩnh đại ca" là Đoàn Chính Thuần, ông đã khắc khoải nghĩ mưu, chỉ mong tìm bắt cho được Chính Thuần lăng trì, quyết chí làm cho kẻ thù phải điêu đứng trăm chiều chỉ để chết một cách êm thắm.

Đến lúc gặp Đoàn Chính Thuần bên Tiểu Kính hồ lại thấy với bạn hết lòng nhân nghĩa, đối với kẻ địch cũng tỏ ra con người hào kiệt, trong lòng ông không khỏi nghi ngờ và tự hỏi: phải chăng việc hạ sát song thân mình ngoài ải Nhạn môn quan là do sự hiểu lầm. Những việc lầm lỡ hồ đồ dễ mấy ai tránh khỏi? Nhưng còn việc y giết nghĩa phụ, nghĩa mẫu ta là vợ chồng Kiều Tam Hòe, cùng việc chưởng đánh chết sư phụ ta là Huyền Khổ đại sư, đều là những ngập trời không thể tha thứ được. Chẳng lẽ bên trong lại còn có chi uất khúc?

Tiêu Phong bản tính rất cẩn thận tinh minh, không khi nào hành động lỗ mãng nên bây giờ ông hỏi lại việc cũ ở ngoài Nhạn môn quan để xem Đoàn Chính Thuần trả lời ra sao rồi hãy định liệu.

Tiêu Phong thấy Đoàn Chính Thuần vẻ mặt cực kỳ bẽn lẽn, ra lời cay đắng: "Trót vì tay đã nhúng chàm, dù ăn năn cũng khó nữa... trong lòng khắc khoải không yên..." Thật là những câu nói chân thành, nét mặt Đoàn Chính Thuần lại tựa hồ như bao phủ mảng sương dầy ảm đạm, lỗ mũi phập phồng.

Nguyễn Tinh Trúc bỗng hỏi xen vào:

- Tại sao các hạ biết vụ này?

Tiêu Phong liếc mắt nhìn thiếu phụ thấy bà ta mặt đỏ bừng ra chiều bẽn lẽn.

Ông lạnh lùng đáp:

- Việc gì mà muốn cho người ta không biết thì trừ phi mình đứng có dúng tay vào.

Rồi quay lại nói với Đoàn Chính Thuần:

- Đêm nay vào khoảng canh ba tôi sẽ đến trên cầu đá xanh chờ các hạ để cùng nhau thanh toán mọi việc.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Tôi xin đúng hẹn. Các hạ có ơn lớn với tôi, tôi không dám nói đến chuyện cảm tạ. Có điều các hạ từ xa tới đây mệt nhọc, sao không vào gian nhà kia để cùng nhau uống mấy chén rượu tẩy trần?

Tiêu Phong hỏi:

- Các hạ bị thương ra sao? Có cần phải điều dưỡng mấy ngày không?

Đoàn Chính Thuần thấy Tiêu Phong không trả lời mình về câu mời đi uống rượu, rất lấy làm lạ, nhưng cũng ngỏ lời từ tạ:

- Đa tạ Tiêu huynh đã quan tâm đến tôi. Tôi chỉ bị thương xoàng không có gì đáng ngại.

Tiêu Phong gật đầu nói:

- Thế thì hay lắm!

Rồi quay lại bảo A Châu:

- Chúng ta đi thôi!

Ông đi mấy bước lại quay lại bảo Đoàn Chính Thuần:

- Các hạ đi một mình thôi nhé! Đừng có dẫn mấy ông bạn theo nữa.

Đoàn Chính Thuần thấy Tiêu Phong có những hành động kỳ dị, nhưng mình đã mang ơn cứu mạng, liền đáp:

- Xin tuân lời tôi huynh dặn bảo.

Tiêu Phong cầm tay A Châu dắt đi thẳng một lèo, không quay đầu lại nữa.

Sở dĩ Tiêu Phong dặn Đoàn Chính Thuần đừng dẫn bọn Phạm Hoa, Hoa Hách Cần đi theo là vì ông thấy bọn này đều là những tên hảo hán, dốc dạ trung trinh. Nếu để bọn họ đi theo Đoàn Chính Thuần dự cuộc hội kiến trên cầu đá xanh, tất sẽ bị chết hết về tay mình, thật là đáng tiếc.

Tiêu Phong cùng A Châu tìm vào một nhà nông, mua gạc nấu cơm, lại mua đôi gà mổ thịt nấu canh. Bữa cơm nầy không có rượu cũng kém phần hứng thú.

Tiêu Phong thấy A Châu dường như có tâm sự gì thắc mắc lại nét mặt đăm chiêu không vui vẻ chuyện trò như mọi khi liền hỏi:

- Tôi đã tìm ra kẻ đại cừu nàng cũng mừng cho tôi mới được.

Tiêu Phong thấy nàng cố gượng cười, liền nói tiếp:

- Đêm nay giết xong kẻ thù rồi, chúng ta lập tức khởi hành đến đất Bắc, sang bên kia ải Nhạn môn quan tìm thú săn chồn đuổi thỏ, đừng bao giờ trở lại quan ải nữa. A Châu nàng ơi! Trước khi tôi gặp mặt Đoàn Chính Thuần đã thề độc sẽ giết hết cả nhà y không sót một mống. Nhưng bây giờ tôi thấy y có vẻ hào kiệt, không có vẻ hèn hạ vô liêm sỉ, thì nghĩ rằng: Ai làm nên tội người ấy phải bất tất giết cả nhà y làm gì?

A Châu nói:

- Đại ca có lòng nhân như vậy thực là phúc đức, tất được hưởng thụ về sau.

Tiêu Phong buông tiếng cười dòn nói:

- Tay tôi đã giết không biết bao nhiêu mạng người, còn tích đức mà đòi hưởng thụ về sau.

Tiêu Phong thấy A Châu nhíu đôi lông mày ra chiều lo lắng hỏi:

- A Châu! Sao nàng không vui? Hay là nàng không thích tôi giết người?

A Châu đáp:

- Có phải tôi không vui vẻ đâu? Không biết tại sao tôi thấy đau bụng quá chừng?

Tiêu Phong đưa tay ra cầm mạch nàng, quả thấy tim đập lúc khoan lúc nhặt, mạch chạy loạn xạ, liền ôn tồn bảo nàng:

- Nàng đi đường vất vả đã nhiều, e rằng bị cảm mạo phong hàn, để tôi gọi bà già nấu một bát khương thang cho nàng uống...

Khương thang chưa nấu xong thì toàn thân run lên bần bật. Nàng nói:

- Tôi rét... Tôi rét lắm!...

Tiêu Phong thương nàng quá, cởi áo trường bao khoác lên cho nàng.

A Châu nói:

- Đại ca ơi! Đêm nay đại ca trả được mối thù lớn rồi trút bỏ nỗi tâm sự bấy lâu canh cánh bên lòng. Tôi muốn theo đại ca đi cho có bạn. Nhưng còn phải chờ lúc nữa cho người mạnh hơn chút.

Tiêu Phong vội gạt đi:

- Không được! Không được! Nàng ở đây nghỉ ngơi, yên trí ngủ đi một giấc, lúc tỉnh dậy tôi sẽ đem thủ cấp Đoàn Chính Thuần về cho mà coi.

A Châu thở dài:

- Tôi thật khó nghĩ quá! Đại ca ơi! Tôi mệt thế này không thể bồi tiếp đại ca được nữa... Tôi muốn luôn luôn ở bên mình đại ca, không muốn xa rời lúc nào. Giờ đại ca đi một mình phải lẻ loi hiu quạnh, tôi chẳng đành lòng chút nào.

Tiêu Phong nghe nàng nỉ non mấy lời, trong lòng xiết bao cảm động, nắm tay nàng nói:

- Chúng ta chỉ xa nhau một lúc thôi mà, có đáng chi mà nàng phải bận tâm như vậy? A Châu nàng đối với tôi thật là hết lòng, tôi biết lấy chi báo đáp ân tình cho phải?

A Châu nói:

- Không phải xa nhau một lúc đâu đại ca ạ! Tôi biết rồi đại ca ơi! Tôi cùng đại ca chia ly phen nầy, đại ca sẽ suốt đời cô độc, tôi cũng một hình một bóng. Hay hơn hết là đại ca đem tôi ra ngoài Nhạn môn quan ngay bây giờ. Mối thù giữa đại ca và Đoàn Chính Thuần, năm nay chưa trả được thì sang năm sẽ tính. Tôi hãy gần đại ca thêm một năm nữa.

Tiêu Phong vừa vuốt mái tóc mềm mại nàng, vừa nói:

- Gặp được kẻ thù đâu phải chuyện dễ dàng? Đêm nay báo thù xong, chúng ta đi ngay không bao giờ trở lại Trung Nguyên nữa. Nếu để một năm rồi sẽ trở lại thì phải tìm đến tận nước Đại Lý mà những cao thủ họ Đoàn nước Đại Lý rất nhiều, đại ca nàng chưa chắc thắng nổi.

A Châu gật đầu khẽ nói:

- Phải rồi! Ta không nên tìm đến nước Đại Lý để báo thù. Một mình đại ca vào chốn hang hùm thì nguy hiểm vô cùng.

Tiêu Phong cười ha hả, bưng bát không lên uống. Ông quen uống từng bát lớn đầy rượu. Nhưng lúc này chỉ có bát không, ông cũng cầm lên uống cho có vẻ hào hứng rồi nói:

- Giả tỷ mà Tiêu Phong này có một mình thì nhà họ Đoàn nước Đại Lý có phải là nơi đầm rồng hang cọp, tôi cũng dám vào đó. Những cuộc sống chết, nguy hiểm chẳng coi vào đâu, song hiện giờ có cô bé A Châu, cần phải sống bầu bạn với cô, nên tính mạng Tiêu Phong bây giờ thành ra quý giá.

A Châu nằm phục trong lòng Tiêu Phong, lưng nàng không ngừng rung động. Tiêu Phong cảm thấy trong lòng ấm áp, lẩm bẩm:

- Ta được cô vợ như thế này, thì cuộc đời có chi là đáng tiếc nữa?

Chỉ trong khoảnh khắc, tâm hồn ông bất giác như lạc vào cõi phiêu diêu. Ông tưởng tượng đến phong cảnh bên kia quan ải, qua năm tháng mình sẽ cùng A Châu cỡi ngựa rong ruổi trên cánh đồng xanh bát ngát, hoặc thả trâu nuôi cừu, không còn phải đề phòng kẻ gian hãm hại nữa, và từ đấy sẽ trút hết nỗi lo âu thì sung sướng xiết bao? Có điều ông nhớ lại bữa trước ở Tự Hiền Trang được vị hảo hán áo đen cứu mạng cho mình, ông chưa báo được ơn to ấy, thì trong lòng không khỏi thắc mắc.

Song ông tự nhủ:

- Bậc đại anh hùng thi ân không cầu báo, món ân tình ấy mình chưa trả được cũng không sao.

Trời đã gần tối, A Châu nằm phục trong lòng Tiêu Phong, bằn bặt giấc nồng. Tiêu Phong lấy hai đồng cân bạc đưa cho chủ nhà bảo y dọn cho một căn phòng riêng. Ông ẵm A Châu vào phòng đặt trên giường, đắp chăn cho nàng, rồi buông màn xuống. Còn mình thì ra nhà ngoài ngồi nhắm mắt dưỡng thần, ngủ gà ngủ gật chừng độ một giờ.

Tiêu Phong mở cửa ra ngoài, nhìn lên trời thấy mảnh trăng lưỡi liềm hồi đầu tháng treo lơ lửng đầu cành từ góc Tây Bắc, mây đen kéo lên bao phủ nửa vòm trời, dường như sắp có mưa to gió lớn. Tiêu Phong khoác áo trường bào trông về phía cầu đá xanh mà đị Đi chừng được hơn năm dặm thì đến bờ sông. Mảnh trăng còn chiếu ánh vàng xuống nước long lanh, nhưng mây đen đã kéo gần phủ kín mít. Thỉnh thoảng tia chớp lóe lên làm cho cánh đồng hoang sáng rực một cái rồi trở lại tối om. Xa xa trên cảnh tha ma mộ địa, ánh lân tinh chập chờn lướt trên ngọn cỏ như thể ma trơi.

Tiêu Phong đi mỗi lúc một nhanh, chẳng mấy chốc đã đến cầu đá xanh. Thỉnh thoảng ánh sao Bắc đẩu lại ló ra, ông nhìn phương vị chòm sao nầy thấy mình đến sớm quá, bấy giờ mới vào khoảng canh hai, thì trong bụng cười thầm: ta vì việc đi báo thù mà nóng ruột quá không dằn lòng được. Ai lại đi sớm hàng trống canh bao giờ?

Kể ra trong một đời ông, ông đã bao lần ước hẹn cùng người tranh đấu một mất một còn, mà võ công của đối phương những lần trước so với Đoàn Chính Thuần còn lợi hại hơn nhiều. Mà lạ thay! Chuyến này lại khác với mọi khi, ông cảm thấy trong lòng rất đỗi băn khoăn, chứ không vững dạ như những lần trước coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

Tiêu Phong đứng trên đầu cầu, nhìn dòng nước lững lờ trôi, miệng lẩm bẩm:

- Phải rồi! Trước kia ta chỉ có một mình, không ai ràng buộc nên chẳng lo lắng gì. Song bữa nay ta còn có A Châu ở trong lòng. Hà hà! Thảo nào người ta thường nói "nhi nữ tình trường, anh hùng đa đoan" là phải lắm.

Nghĩ tới đây, bất giác ông liên tưởng đến mối tình êm dịu, miệng thoáng lộ một nụ cười, rồi ông tự nhủ:

- Giả tỷ A Châu không bên mình thì hay biết mấy!

Tiêu Phong hiểu rõ Đoàn Chính Thuần võ công còn kém mình.

Cuộc thắng bại đêm nay chẳng đáng quan hoài. Ông thấy giờ hẹn còn lâu, bèn ngồi xuống gốc cây đầu cầu, ngưng thần tỉnh trí điều hòa hơi thở, dần dần tinh thần trở lại sáng suốt và sạch lâng lâng, không có ý niệm phức tạp.

Bỗng tia chớp lóe lên rồi đánh "rầm" một tiếng vang trời. Tiếng sét từ trong đám mây đầy đen nghịt đánh xuống.

Tiêu Phong giật mình mở bừng mắt ra, tự nói một mình:

- Tối đến nơi rồi, bao giờ mới sang canh ba?

Giữa lúc ấy, một bóng người từ Tiểu Kính hồ thủng thỉnh tới. Người này khoác áo bào rộng thùng thình, thắt đai cẩn thận. Tiêu Phong nhìn kỹ thì đúng là Đoàn Chính Thuần.

Y đi thẳng tới trước mặt Tiêu Phong xá dài rồi nói:

- Kiều Bang Chúa với tôi đến đây có điều chi chỉ giáo?

Tiêu Phong khẽ nghiêng đầu một chút nghếch mắt nhìn Đoàn Chính Thuần, lửa giận bốc lên tận cổ. Ông hỏi ngay:

- Đoàn tiên sinh! Tôi ước hẹn tiên sinh tới đây với dụng ý chẳng lẽ tiên sinh chưa biết hay sao?

Đoàn Chính Thuần thở dài nói:

- Phải chăng vì câu chuyện năm trước ngoài ải Nhạn môn quan mà các hạ kêu tôi đến đây? Về vụ đó tôi lầm lỡ, tin lời kẻ gian, họ bày trò bịp bợm, làm tổn thương đến tính mạng lịnh tôn. Tôi xin chịu nhận sự lỡ lầm lớn lao đó.

Tiêu Phong lại hỏi:

- Sao tiên sinh còn sát hại nghĩa phụ nghĩa mẫu tôi là Kiều Tam Hòe. Rồi lại đánh chết cả ân sư là Huyền Khổ đại sư.

Đoàn Chính Thuần từ từ lắc đầu đáp:

- Tôi chỉ mong bưng bít vụ này, ngờ đâu càng che lấp bao nhiêu càng hãm mình vào vòng tội lỗi bấy nhiêu. Rốt cuộc không thể nào thoát ra được nữa.

Tiêu Phong nói:

- Chà! Tiên sinh quả là một bậc hảo hán ngay thẳng. Vậy bây giờ tiên sinh tự xử lấy hay để cho tôi động thủ?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Nếu không được Kiều Bang Chúa ra tay cứu viện thì Đoàn mỗ đã mất mạng trên bờ Tiêu Kính hồ từ giờ ngọ hôm nay rồi. Cuộc sống thêm được nửa ngày là nhờ ở nơi các hạ ban cho. Bây giờ Kiều Bang Chúa đòi mạng tại hạ xin động thủ!

Bất thình lình lại một tiếng sét nổ vang trời, rồi những hạt mưa to như hạt đậu ầm ầm đổ xuống.

Tiêu Phong nghe lời Đoàn Chính Thuần, bất giác động lòng, vì xưa nay ông ưa kết giao cùng những bậc anh hùng hảo hán. Từ lúc ông thấy Đoàn Chính Thuần là người thẳng thắn hiên ngang đã sinh lòng luyến tiếc. Giả tỷ chỉ là việc tầm thường thì ông quyết bỏ qua. Nhưng đây là mối thù giết cha, chẳng đội trời chung nên không thể bỏ qua được.

Tiêu Phong giơ tay lên nói:

- Đạo làm tử không thể không trả mối thù sát hại song thân cùng sư trưởng được. Tiên sinh đã sát hại song thân, nghĩa phụ nghĩa mẫu và ân sư tôi, cả thảy năm mạng. Tôi xin năm chưởng để trả thù tiên sinh. Sau khi phóng hết năm chưởng bất luận là tiên sinh còn sống hay đã chết rồi thì mối thù cũng coi như thanh toán xong xuôi.

Đoàn Chính Thuần nhăn nhó cười đáp:

- Mỗi mạng người chỉ đổi bằng một chưởng, như thế thì Đoàn mỗ được xử nhẹ lắm rồi. Đoàn mỗ thâm cảm thịnh tình của các hạ.

Tiêu Phong nghĩ bụng:

- Dù võ công họ Đoàn nước Đại Lý tuyệt vời, ta vẫn e rằng y không thể chịu nổi một chưởng trong "Hoàng Long Thập Bát Chưởng" của ta.

Nghĩ vậy ông thủng thẳng nói:

- Tiên sinh hãy coi chưởng của tôi đây!

Nói xong đánh ra một chưởng, chính là chiêu "Hoàng Long hữu hối" trong phép "Hoàng Long Thập Bát Chưởng".

Tia chớp lại lóe lên một tiếng sét dữ dội trên lưng chừng trời nghe điếc tai. Tiếng sét này dường như để trợ oai cho đòn chưởng đánh ra đến "binh" một cái vào giữa Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần đứng không vững ngã khuỵu xuống tựa lan can cầu. Người mềm nhũn ra không nhúc nhích được nữa.

Tiêu Phong giựt mình tự hỏi:

- Sao y không phóng chưởng lại mà cứ để mặc cho nên nỗi này?

Ông liền nhảy tới nắm cổ áo nhấc lên. Trong lòng bất giác kinh ngạc dị thường. Bên tai sấm sét vang trời, mưa rào trút xuống đầy mặt mà ông cũng không biết.

Ông buột miệng tự hỏi:

- Sao giờ y lại ra nhẹ thế này?

Nguyên lúc trưa hôm này, Tiêu Phong ra tay cứu Đoàn Chính Thuần cũng xách người lên hồi lâu. Con người võ công cao cường thế mà Tiêu Phong thì trong tay chỉ sút đi nửa cân thế là đủ phát giác ra ngay lập tức. Thế mà lúc này ông thấy Đoàn Chính Thuần nhẹ bổng hơn trước đến mấy chục cân. Vì thế mà trong lòng ông khỏi nghi ngờ sợ hãi, toàn thân toát mồ hôi lạnh.

Giữa lúc ấy tia chớp lại lóe lên sáng rực.

Tiêu Phong đưa tay rờ mặt Đoàn Chính Thuần thấy mềm xèo, trơn tuột. Vừa sờ vào lập tức buông tay ra ngay, vì nhờ ánh chớp soi sáng, ông trông rõ mặt, thất kinh kêu lên:

- A Châu! A Châu! Trời ơi! Té ra là nàng!

Ông chẳng còn hồn vía nào nữa, chân tay bải hoải, không đứng ngay được, quì phục ngay xuống, ôm lấy hai chân A Châu.

Tiêu Phong biết rằng chiêu "Càng long hữu hối" của ông vừa toàn lực đánh ra thì dù những bậc anh hùng hảo hán bậc nhất trong võ lâm nếu không phát chưởng để chống lại cũng không chịu nổi, huống chi là cô bé A Châu ẻo lả thướt tha này? Cố nhiên một chưởng cũng đủ làm cho nàng gãy hết gân cốt, ngũ tạng tan nát. Dù có Tiết Thần Y ở kề bên để đưa đến cứu chữa, cũng khó lòng vãn hồi tính mạng cho nàng được.

Mình A Châu tựa vào lan can cầu từ từ tụt xuống trên người Tiêu Phong.

Nàng khẽ hỏi:

- Đại ca ơi! Tôi có điều lầm lỗi với đại ca. Đại ca có oán giận tôi không?

Tiêu Phong lớn tiếng đáp:

- Tôi không giận nàng, tôi chỉ giận mình thôi... tôi chỉ giận mình thôi...

Nói xong ông giơ tay lên tự đập vào đầu mình luôn mấy cái.

A Châu cử động tay trái toan nhấc lên để ngăn trở Tiêu Phong không để ông tự tát mình nữa, nhưng tay không nhấc nổi, nàng liền nói:

- Đại ca ơi! Đại ca hứa với tôi, vĩnh viễn không tự hủy hoại thân mình.

Tiêu Phong la lên hỏi:

- Tại sao? Tại sao nàng?...

A Châu khẽ đáp:

- Đại ca ơi! Đại ca cởi áo mà xem vai bên tả tôi sẽ rõ.

Tiêu Phong cùng nàng quan san muôn dặm, tuy cùng đi một đường, cùng trọ một nơi, mà thủy chung vẫn giữ lễ giáo. Bây giờ thấy nàng giục mình cởi áo ra, không khỏi tần ngần.

A Châu nói:

- Tôi đã là người của đại ca rồi, tấm thân này hoàn toàn thuộc về đại ca. Đại ca mở vai bên trái tôi ra mà coi sẽ rõ.

Tiêu Phong nước mắt chạy quanh, nghe A Châu nói thần trí vẫn sáng suốt, trong lòng ông vẫn còn ý niệm đứng đắn. Ông hạ thấp tay trái xuống lưng nàng, vội vàng vận động chân khí để dồn nội lực lên người nàng thử xem có vãn hồi được lỗi lầm của mình chăng? Tay phải ông từ từ cởi áo nàng để lộ cánh tay và vai bên trái ra.

Một tia chớp ngoằn ngoèo suốt ngang trời sáng rực, Tiêu Phong nhìn rõ trên vai nõn nà A Châu có thích một chữ đỏ tươi như máu.

Tiêu Phong vừa kinh dị lại vừa đau lòng không dám nhìn lâu, cài áo lại cho nàng để che kín bả vai đi, ông nhẹ ôm nàng vào lòng hỏi:

- Chữ Đoàn trên vai nàng là nghĩa gì vậy?

A Châu đáp:

- Khi gia gia cùng má má tôi gởi tôi cho người khác, có thích trên vai chữ này để về sau dễ nhận.

Tiêu Phong hỏi bằng một giọng run run:

- Chữ... chữ... này?

A Châu nói:

- Lúc ban ngày hôm nay, trên vai A Tử Muội nương có in dấu ám ký, do đó mà ông bà ấy đã nhận ra cô ta là con gái mình. Đại ca... đại ca có nhìn nhận thấy dấu hiệu đó không?

Tiêu Phong đáp:

- Tôi không tiện để ý nhìn vào ám ký đó.

A Châu nói:

Dấu hiệu ở trên vai A Tử có thích chữ ĐOÀN đỏ, cũng giống hệt chữ ĐOÀN trên vai tôi đây...

Tiêu Phong nghe A Châu nói mới tỉnh ngộ ra, ông hỏi:

- Nàng... nàng cũng là con gái y ư?

A Châu nói:

- Trước kia tôi cũng không biết, từ lúc thấy ám hiệu trên vai A Tử mới hay, A Tử cũng đeo một cái dây chuyền giống hệt dây chuyền của tôi. Trên mặt cái khóa dây chuyền có chạm mười chữ nhỏ: "A Thi vừa mười tuổi, càng lớn càng tinh ranh", trước tôi vẫn tưởng tên mình là A Thi. Nhưng đó là tên má tôi. Má má tôi họ Nguyễn lại ở trong rừng trúc, nên người ta kêu bằng Nguyễn Tinh Trúc. Đôi khóa dùng dây chuyền này ông ngoại tôi đã đánh cho má má tôi hồi còn nhỏ. Từ khi má má sinh chị em liền chia cho mỗi đứa một cái để đeo cổ.

Tiêu Phong nói:

- A Châu nàng ơi, lai lịch của nàng mười phần tôi đã hiểu đến bảy, tám. Nàng bị thương nặng lắm rồi, tôi bồng nàng đi tìm chỗ trú mưa rồi sẽ tìm cách cứu chữa cho nàng. Câu chuyện này hãy bỏ đó rồi sẽ bàn sau, vội gì?

A Châu nói:

- Không được, không được! Tôi phải thuật rõ cho đại ca biết. Chỉ chậm một chút là không kịp nữa, đại ca nghe tôi nói hết đã.

Tiêu Phong không nỡ trái ý nàng, liền bảo:

- Được! Tôi nghe nàng nói hết đây, có điều nàng chớ để tâm cho mệt.

A Châu mỉm cười nói:

- Đại ca thực tử tế quá! Lúc nào cũng lo lắng cho tôi. Đại ca thương tôi như vậy, tôi cảm kích vô cùng!

Tiêu Phong nói:

- Sau này tôi còn thương nàng gấp trăm nghìn lần.

A Châu nói:

- Đại ca thương tôi như vậy là quá đủ rồi. Tôi không mong đại ca cư xử với tôi hơn thế này nữa, e rằng tôi sẽ phóng túng quá độ không còn ai cai quản nữa! Đại ca ơi! Tôi tôi... nấp ở sau nhà, lén nghe gia gia má má cùng A Tử tiểu Muội nói chuyện với nhau, thì ra gia gia tôi lấy vợ để riêng một nơi. Người cùng má má tôi không phải là vợ chồng chính thức. Năm trước người sinh tôi, rồi năm sau lại sinh ra A Tử. Sau gia gia tôi đòi về Đại Lý, má má tôi giữ lại không chịu đi rồi hai người lớn tiếng gây lộn. Má má tôi còn đánh gia gia, nhưng gia gia tôi chỉ chịu đòn chứ không đánh trả. Rút cục chẳng biết làm thế nào, hai người đành đi chỗ chia tay. Gia pháp nhà ngoại tôi rất là nghiêm ngặt! Ông tôi rất có thể vì việc này mà bỏ qua má má tôi được, nên má má tôi không dám đưa chị em tôi về nhà, lại đem cho người ta nuôi, với hy vọng ngày sau có dịp trùng phùng, sau thích vào vai chị em tôi chữ Đoàn để dễ nhận. Người nuôi tôi biết má tôi họ Nguyễn lại thấy cái khóa dây chuyền của tôi có khắc chữ Thi nên kêu tôi bằng Nguyễn Thi. Thực ra tôi họ Đoàn mới đúng...

Tiêu Phong càng thêm phần thương xót nàng, khẽ hỏi:

- Nàng thật là một đứa nhỏ đáng thương.

A Châu nói:

- Má má đem tôi cho người khác nuôi mới hơn một tuổi. Dù tôi không biết gia gia là ai, mà cả đến má má tôi cũng không nhận biết. Đại ca ơi! Thân thế đại ca cũng tương tự như tôi. Tối hôm đó trong rừng hạnh, tôi nghe thấy người ta nói đến hoàn cảnh đại ca tôi cũng thấy bùi ngùi trong dạ. Thực ra vì tôi trông người lại ngẫm đến đại ca cũng là một đứa khốn nạn như tôi.

Giữa lúc ấy, chớp giật nhoáng nhoáng không ngớt, sấm sét vang trời. Đột nhiên sét đánh trúng vào một cây to. Cây đổ, phát ra những tiếng rào rào. Hai người tuyệt nhiên không để ý đến sự vật bên ngoài nên những cuộc đại biến của vũ trụ đến đất lở, họ không hay.

A Châu lại nói:

- Người sát hại gia gia, má má đại ca lại chính là gia gia tôi. Trời bày chi ra những cảnh éo le đau khổ này cho chúng ta. Trời đã độc địa thì chớ, lại khiến cho chính tôi bày lập kế đến hỏi Mã phu nhân để bà ta phun ra tên họ gia gia tôi. Giả tỷ tôi cải trang làm Bạch Thế Kính đến đánh lừa Mã phu nhân không được, đời nào bà ta chịu đem tên họ gia gia tôi nói ra. Người ta thường nói rằng: "Bất luận việc gì cũng có trời ở trong". Trước đây tôi không tin như vậy nhưng dễ thường đúng thật. Còn đại ca, đại ca có tin như thế không?

Tiêu Phong ngẩng mặt lên nhìn, đầy trời mây kéo đen nghịt, ánh trăng không còn một tia sáng nào le lói ra được. Một luồng chớp ngoằn ngoèo chiếu sáng cả cánh đồng hoang, tựa hồ như nhà trời mở mắt ra vậy.

Tiêu Phong cúi đầu ủ rũ, thần trí bâng khuâng, hỏi A Châu:

- Nàng có tin chắc Đoàn Chính Thuần là gia gia nàng không?

A Châu đáp:

- Nhất định rồi, không thể sai được. Tôi nghe gia gia cùng má má tôi ôm em A Tử vừa khóc vừa kể lể chuyện bỏ phóng chị em tôi những thế nào. Rồi cả gia má tôi cùng biểu: Còn trời còn đất thì thế nào cũng tìm cho thấy tôi đưa về. Gia má tôi có biết đâu rằng con gái người đang nấp ngoài cửa sổ. Đại ca ơi! Mới rồi tôi giả vờ sinh bệnh rồi cải trang làm đại ca đến nói với gia tôi bãi cuộc ước hẹn đêm nay trên cầu đá xanh và bao nhiêu chuyện đã qua đều xóa bỏ hết. Tôi lại cải trang làm gia gia tôi đến đây tương hội với đại ca, để đại ca...

Nàng nói đến đây thì tựa hồ như người sắp hết hơi, chỉ còn thoi thóp thở.

Hồi 33

Nhìn nét chữ sinh lòng nghi hoặc

Tiêu Phong vận nội kinh vào lòng bàn tay cố giữ A Châu khỏi thoát hết chân lực ra ngoài. Ông sa lệ hỏi:

- Sao nàng không bảo tôi? Nếu tôi biết y là gia gia nàng...

Ông nói dở câu rồi không biết nói gì thêm nữa. Ông không biết Đoàn Chính Thuần là thân phụ A Châu. Giả tỷ ông biết rõ từ trước kẻ tử thù của mình lại là người cha thân yêu của nàng thì đối phó ra sao?

A Châu nói:

- Tôi nghĩ đi nghĩ lại đã nhiều, đắn đo rất lâu nhưng đại loại biết nói thế nào cho được? Chẳng lẽ tôi lại xin đại ca đừng báo thù cho năm người thân ái của đại ca bị thảm tử. Tôi suy đi tính lại khẩn cầu đại ca một điều vô lý như vậy, liệu đại ca có ưng thuận chăng?

Tiếng nàng nói mỗi lúc nhỏ đi, ngoài trời vẫn sấm sét ầm ầm không ngớt. Nhưng Tiêu Phong nghe mỗi câu nói của A Châu còn động phách hơn sấm sét nhiều.

Ông vò đầu bứt tai nói:

- Sao nàng không bảo gia gia trốn đi nơi khác đừng đến đây nữa? Sao nàng lại chịu khổ thân thế này.

Châu nói:

- Tôi cũng muốn nhắc nhở đại ca rằng một người có thể đánh chết ai mà thực không phải bản tâm họ. Cố nhiên là đại ca không muốn giết tôi, nhưng lầm lỡ đánh tôi một chưởng. Gia gia tôi giết song thân đại ca cũng do sự vô ý mà làm nên tội lỗi.

Tiêu Phong cúi xuống nhìn hai mắt nàng. Lúc này những đám mây đen ngẫu nhiên tản mát đi, để lộ ánh sao lờ mờ, ông thấy mắt nàng lộ ra xiết bao tình lưu luyến. Ông có cảm tưởng rung động cả tâm can và phát giác ra rằng A Châu là người tình tứ rất sâu đậm mà trước đây mình không tưởng đến mối tình của nàng lại đằm thắm quá như vậy.

Ông hỏi:

- A Châu, A Châu nàng ơi! Tôi coi dường như nàng còn nguyên nhân nào khác, ngoài nguyên nhân muốn cứu phụ thân và để nhắc nhở cho tôi biết thế nào là vô tâm gây nên tội lỗi. Tôi biết rõ nàng hy sinh đời sống cho tôi.

Ông đưa tay ra ẵm người nàng đứng lên. Trời vẫn mưa to. Từng dòng nước mưa đổ xuống đầu, và tát vào mặt ông. A Châu nét mặt bổng tươi lên, tựa hồ nàng thấy Tiêu Phong đã hiểu rõ thâm ý của mình mà lộ vẻ mừng vui. Nàng tự biết mình sắp chết đến nơi rồi, tuy nàng không mong gì tình lang hiểu rõ nỗi lòng thầm kín bấy lâu nay, mà bây giờ được ông đã hiểu rõ rồi.

Tiêu Phong hỏi lại:

- A Châu nàng ơi! Thật nàng đã hy sinh vì tôi, có đúng thế không?

A Châu đáp:

- Đúng.

Tiêu Phong hỏi dồn:

- Vậy là làm sao? Nàng nói rõ đi.

A Châu nói:

- Họ Đoàn nước Đại Lý có môn "Lục mạch thần kiếm". Đại ca đánh chết Trấn Nam Vương của họ, khi nào họ chịu bỏ qua? Đại ca...

Tiêu Phong giật mình tỉnh ngộ, bất giác hai hàng nước mắt nóng chảy xuống như mưa.

A Châu lại nói:

- Tôi xin đại ca một việc đại ca có ứng cho tôi không?

Tiêu Phong đáp:

- Đừng nói một việc, dù đến trăm việc, ngàn việc tôi cũng nhất y lời.

A Châu nói:

- Tôi chỉ có một đứa em gái cùng cha mẹ sinh ra. Chúng tôi thuở nhỏ không được ở với nhau, xin đại ca chiếu cố đến nó, tôi lo nó lầm đường lạc lối.

Tiêu Phong gượng cười nói:

- Chờ cho người nàng khỏe hẳn rồi chúng ta cùng tìm chị em đoàn tụ. Tính y tinh quái, e rằng không được như vậy, nàng sẽ săn sóc dạy dỗ y.

A Châu thều thào nói:

- Chờ cho tôi khỏe hẳn... Tôi khỏe hẳn rồi thì đại ca cùng đi ra ngoài ải Nhạn Môn Quan thả dê chăn cừu. Đại ca liệu em tôi có chịu đi không?

Tiêu Phong đáp:

- Tất nhiên là y chịu lắm. Chị ruột cùng chồng chị bảo đi mà y không chịu sao?

Bất thình lình có tiếng người ho vang lên. Một người từ dưới sông chỗ gầm cầu vọt lên, lớn tiếng la:

- Đẹp mặt chưa? Các người nói cái gì mà chị ruột với chị? Tôi không đi đâu!

Người này thân hình bé nhỏ, mặc áo lội nước, chính là A Tử.

Tiên Phong từ lúc lỡ tay đánh A Châu một chưởng, bao tâm trí để cả vào nàng. Bản lãnh như ông lẽ nào không phác giác ra người nấp dưới gầm cầu? Nhưng một là vì mưa to sét ầm ầm, hai là vì tâm thần rối loạn, nên mãi đến lúc A Tử xuất hiện ông mới biết, ông giật mình, cất tiếng gọi to:

- A Tử. A Tử Cô lại đây mà coi chị cô.

A Tử bĩu môi đáp:

- Ta nấp dưới gầm cầu định để coi người cùng gia gia ta đánh nhau quyết liệt. Nào ngờ ngươi phải tỷ nương ta. Hai người to nhỏ thầm thì, ta không muốn nghe. Các người đã nói chuyện tình ái với nhau thì chớ, sao lại dính cả ta vào?

Nàng vừa nói, vừa tiến lại gần. A Châu nói:

- Muội nương ơi! Sau này Tiêu đại ca sẽ chiếu cố đến em... Em cũng phải hết lòng với đại ca.

A Tử cười khanh khách nói:

- Thằng cha man rợ thô lỗ khó coi này, tôi không thể nhìn nhận y được?

Tiêu Phong đang bồng A Châu lên định tìm chỗ trú mưa, thì thấy người nàng giẫy lên mấy cái đầu rủ xuống, mớ tóc đẹp xõa trên vai ông người nàng không nhúc nhích nữa.

Tiêu Phong thất kinh kêu lên:

- A Châu, A châu!

Mạch máu nàng đã ngừng chạy. Tiêu Phong hoảng hốt, trái tim cơ hồ ngừng đập. Ông để tay lên mũi nàng, thì nàng tắt thở rồi. Ông vẫn gọi giật giọng:

- A Châu, A châu!

Nhưng dù ông có gọi đến trăm lần cũng không thưa nữa. A Tử thấy A Châu chết rồi, nàng cũng kinh hãi không đùa cợt nữa. Nàng căm giận run lên nói:

- Mi đánh chết tỉ nương ta... Mi đánh chết tỉ nương ta!

Tiêu phong nói:

- Phải rồi, chính tôi đánh chết lệnh tỉ, thì cô nên vì tình tỉ mình mà báo thù. Cô giết tôi đi, mau lên! Mau lên!

Ông hạ tay cho A Châu thấp xuống rồi ưỡn ngực ra kêu lên:

- Cô giết chết tôi đi!

Thực tình ông mong A Tử cầm dao đâm vào ngực ông, thì ông mới thoát khỏi nỗi đau khổ vô cùng tận này. A Tử thấy Tiêu Phong mặt mũi nhăn nhó gân guốc trông dễ sợ, cũng kêu lên:

- Mi... Mi đừng giết ta.

Tiêu Phong chạy gần lại hai bước, đưa tay xé áo đánh roạch tiếng. Áo rách để hở ngực ra. Ông nói:

- Cô có độc châm, độc chùy... cô phóng chết tôi đi!...

A Tử nhờ ánh chớp lóe lên, trông rõ ngực Tiêu Phong có đầu con sói xanh, nhe nanh giơ vuốt, hình thù dữ tợn lại càng hét lên một tiếng rồi ù té chạy. Tiêu Phong đứng trên cầu đá ngẩn người ra một lúc, tay đập mạnh một cái vào lan can cầu đánh chát một tiếng. Một mảnh thành cầu rơi tõm xuống sông. Gan ruột Tiêu Phong cũng rã rời chẳng khác gì phiến đá rơi khỏi cầu. Ông muốn gào khóc mà khóc không ra tiếng.

Một luồng chớp nhoáng soi rõ mặt A Châu. Những nét đẹp tha thiết như còn lưu lại trên đôi mí mắt nàng. Tiêu Phong gào một tiếng:

- A Châu!

Rồi ôm người nàng lên chạy thẳng vào chốn đồng hoang, vang ầm ầm, mưa như trút nước. Tiêu Phong lúc chạy lên núi, xuống khe mà ông chẳng biết thân mình đang ở nơi đâu, loạn như kẻ điên khùng.

Một lúc lâu, sấm sét tạm đình nhưng vẫn còn mưa to. Phương Đông đã hé ánh bình minh, một lúc sau thì trời sáng rõ.

Tiêu Phong chạy đã lâu mà không biết mỏi mệt là gì. Ông chỉ mong thân hình tàn tạ và chết ngay đi để vĩnh viễn được bầu bạn với A Châu. Dưới đồng những người mặc áo tơi vác cày cuốc qua lại, ai thấy Tiêu Phong vẻ mặt phờ phạc ghê gớm, đều không khỏi kinh dị. Ông cứ chạy tràn, chạy ẩu, chẳng còn biết trời đất gì nữa. Quanh quẩn thế nào, lại chạy vào cầu đá xanh.

Tiêu Phong miệng vẫn lảm nhảm:

- Ta đi tìm Đoàn Chính Thuần kêu y giết ta đi để báo thù cho con gái y!

Thế rồi ông chạy càng nhanh về phí Tiểu Kính Hồ. Chẳng mấy chốc đã đến bên hồ. Tiêu Phong cất tiếng gọi to:

- Đoàn Chính Thuần! Ta giết con gái ngươi rồi đây! Ngươi ra ma giết ta đi! Ta quyết không đánh trả đâụ Ngươi ra đây giết ta mau.

Ông cắp ngang A Châu đứng trước rừng phương trúc, chời đã lâu mà trong rừng vẫn lặng ngắt như tờ, không thấy ai ra.

Tiêu Phong chạy lại thẳng vào rừng đến trước căn nhà tre đạp tung cánh cửa bước vào gọi to:

- Đoàn Chính Thuần ngươi giết ta đi!

Nhưng chỉ là căn nhà bỏ trống, chẳng còn một ai. Ông tìm khắp cả hiên trước, hiên sau, chẳng những không thấy Đoàn Chính Thuần cùng bọn thuộc hạ mà cả chủ nhân căn nhà tre này là Nguyễn Tinh Trúc và A Tử cũng không ở đó nữa. Những đồ trần thiết vẫn còn y nguyên như cũ. Chắc là bọn này hốt hoảng ra đi không kịp thu dọn gì nữa, nên bỏ lại.

Tiêu Phong nghĩ thầm:

- Phải rồi! A Tử đem tin về, chắc hiểu ta đến giết thân phụ cô để báo thù, Đoàn Chính Thuần tuy không muốn chạy, nhưng thiếu phụ họ Nguyễn kia cùng bọn thuộc hạ bắt buộc phải xa chạy cao bay. Chao ôi! Ta có lại giết ngươi đâu? Ta đến để cho ngươi giết ta. Ta chỉ mong ngươi giết mà thôi.

Tiêu Phong lại la lên:

- Đoàn Chính Thuần! Đoàn Chính Thuần!

Âm thanh vang dội cả một góc rừng, nhưng chỉ nghe tiếng gió rú, rừng trúc rạt rào, mà chẳng thấy tiếng người. Bên hồ Tiểu kính, rừng phượng trúc quạnh quẽ không một bóng người. Tiêu Phong tưởng chừng như một khoảng trời đất bao la chỉ có một mình mình.

Từ lúc A Châu chết đi, ông vẫn ẵm luôn trong lòng, không khi nào đặt nàng xuống, và không biết bao nhiêu lần ông vận động chí công để truyền vào nội thể nàng, những mong trời thương hại như lần trước nàng đã bị trúng "kim cương chưởng" của chưởng môn phương trượng chùa Thiếu Lâm. Những lần đó, nàng bị rung chuyển còn lần nầy thì trúng thực một chưởng "cang long hữu hối" của Tiêu Phong đánh giữa ngực thì còn sống làm sau được?

Qua một lúc nữa, Tiêu Phong càng thêm bàng hoàng. Ông đặt A Châu ngồi xuống trước thềm vẻ mặt thẩn thờ, từ sáng đến trưa, trưa đến tối.

Bây giờ đã hết mưa vòm trời xanh ngắt. Ánh là dương như tỏa chiếu vào người A Châu.

Khi Tiêu Phong ở tự Hiến Trang bị quần hùng vây đánh anh em phản bạn, bao người thân thích phân ly. Tình thế cực kỳ nguy hiểm, nhưng ông không vì thế mà bàng hoàng lo lắng. Lúc này chính tay ông đã gây nên một sự lầm lỡ quá lớn không còn cách nào phục hồi được. Ông càng nghĩ càng thấy mình cô đơn hiu quạnh. Ông suy nghĩ đến cuộc sống trên đời không còn một chút lạc thú nào nữa:

- A Châu đã chết thay cho phụ thân nàng, mình không thể đi tìm Đoàn Chính Thuần để báo thù. Thế thì còn có việc gì mà làm? Cơ nghiệp này của Cái Bang chỉ là để minh xác hùng tâm tráng trí trong bao niên, bây giờ không đáng để cho mình quan hoài nữa.

Tiêu Phong chạy ra sau nhà, chợt nhìn thấy cái bồ cào trên tường thì nghĩ bụng:

- Thôi ta vĩnh viễn ở đây để bầu bạn với A Châu.

Ông liền bồng nàng sang tay trái, còn tay phải cầm bồ cào đi vào rừng trúc. Ông đào xong một cái huyệt, lại đào thêm một cái nữa bằng đầu với cái trước.

Đào huyệt xong, Tiêu Phong nghĩ bụng:

- Song thân nàng trở lại đây, không biết ngôi mộ nào, có khi lại đào lên xem. Chi bằng ta dựng bia lên mộ.

Nghĩ vậy ông bẻ một đoạn trúc bửa làm đôi, quay về nhà bếp lấy dao vót nhẵn rồi sang phòng mé tây. Trong phòng này có để sẵn giấy bút mực, áp tường kê một gía sách. Đây chắc là nơi Nguyễn Tinh Trúc ngồi xem sách.

Tiêu Phong mài mực, cầm bút viết vào một mảnh trúc dòng chữ: "Khất Đan mãng phu Tiêu Phong chi mộ"

Ông lại cầm mảnh trúc thứ hai trầm ngâm tự hỏi: "Ta biết viết thế nào đây?" Ông toan viết "Tiêu môn Đoàn phu nhân chi mộ", rồi ông lại lắc đầu nói một mình: "Không được! Tuy nàng có đính ước nghĩa phu thê với ta, song chưa thành hôn. Lúc chết nàng vẫn là cô gái còn trinh bạch mà mình kêu bằng phu nhân chẳng hóa ra tiết mạn nàng ru?" Ông lại suy nghĩ lúc nữa mà chưa giải quyết được. Lúc ngửng đầu lên ngẫu nhiên để mắt vào bức tứ bình trên vách có viết mấy hàng chữ.

Tiêu Phong thuận miệng đọc ngay lên thì ra một bài "từ" đại ý như sau:

- Sóng thu dường điểm mực,

Tóc Phượng rủ bên tai.

Dung nhan tuấn nhã,

Vẽ thiên nhiên càng ngắm càng tươi.

Nhớ lại:

Cách hoa nhìn bóng dáng,

Vằng vặc ánh sao thưa.

Ngồi tựa lan can ngắm,

Mặt hồ gương phẳng lặng như tờ.

Vẻ người đoan chinh,

Hồn mộng mơ màng.

Kìa ai ngấp nghé,

Người thanh tao đáng mặt đàn lang.

Lặng lẽ canh chầy ngóng,

Chờ nhau một nụ cười.

Xét trong tình ý,

Tác hợp duyên kia đã vẹn mười.

Nồng nàng giấc điệp,

Chung gối uyên ương.

Người còn ngái ngủ,

Luống ngại ngùng đến trước đài gương.

Ngồi trong trướng:

Đôi bên nhìn mặt,

E ngại bẽ bàng.

Nhìn nhau trước điện,

Ánh đèn lại ngỡ ánh dương quang.

Tàng tàng chén cúc,

Rạo rực đàn ca.

Thềm lan sức núc,

Tống tình đôi mắt những đưa qua.

Bao giờ quên được:

Hình ảnh lúc chia phôi,

Khăn là ướt đẫm.

Ly biệt đôi hàng giọt lệ rơi.

Tiêu Phong cứ đọc từng chữ một, nhưng ông ít xem sách nên chưa thông văn lý, huống chi bà từ nay trong đó bảy, tám chữ chưa biết. Ông xem bài từ này mà không hiểu dụng ý dùng để miêu tả đôi mắt đẹp của mỹ nhân. Đoạn trên nói về đôi bên nam nữ cùng nhau ước định mối tình. Còn đoạn dưới nói đến lúc chia ly. Tiêu Phong coi một cách hàm hồ không để ý đến bài từ nói gì. Ông cứ thuận miệng đọc cho đến hết. Phía dưới bài từ có đề mấy dòng chữ lạc khoản: "Khúc sấm Viên Xuân này viết tặng Trúc Muội để che vách nát và để kỷ niệm những ngày mài miệt với người mắt sáng lưng thon, không còn biết đến trời đất lại quyên cả tháng ngày. Đoàn Nhị nước Đại Lý đề nhảm giữa lúc say mèm."

Đọc xong. Tiêu Phong cất giọng oang oang lặp lại:

- Chà! Thằng cha nầy sung sướng thật!... "Mài miệt cùng người mắt sáng lưng thon, không còn biết đến trời đất quên cả tháng ngày. Đoàn Nhị nước Đại Lý đề nhảm lúc say mèm." Đoàn Nhị nước Đại lý là ai? Thôi phải rồi! Đoàn Chính Thuần đề tặng cho tình nhân y là Nguyễn Tinh Trúc. Đây là một thiên tình sử vui tươi trước kia của gia gia cùng má má A Châu.

Rồi ông tự đặt câu hỏi và tự trả lời:

- Nhưng tại sao y lại dám đàng hoàng treo tại nơi đây, không sợ người ta cười cho ư? À phải rồi! Ít khi có người vào đến chốn rừng trúc này. Bình nhật chỉ có mình má má nàng ở đây thôi. Không chừng Đoàn Chính Thuần qua chơi chốn cũ mới đem ra treo.

Ông xem kỹ lại bức tứ bình thấy màu giấy vàng khè liền nói:

- Bức tứ bình này viết có đến mười mấy năm rồi.

Tiêu Phong là người rất tinh tế, tuy ông đã quyết ý tự sát đặng xuống Diêm đài bầu bạn với A Châu, nhưng một khi ông đã thấy bất luận là sự vật gì mà bên trong còn có điều kỳ dị chưa hiểu, ông cũng không chịu bỏ qua.

Ông tự hỏi:

- Bây giờ mình biết đề mộ chi A Châu thế nào đây?

Ông tìm mãi không ra được danh từ nào vừa ý liền viết vỏn vẹn có bốn chữ: "A Châu chi mộ"

Rồi bỏ bút xuống đứng lên cầm thanh trúc bào cắm ở trước cửa, định bụng hãy chôn táng cho nàng yên đã rồi mình sẽ tự sát sau.

Tiêu Phong ẳm A Châu lên, lại đưa mắt nhìn bức tứ bình lần cuối. Bất thình lình ông nhảy tung người rồi hốt hoảng la lên với một kinh dị:

- Ô hay! Sao thế này? Trật rồi! Việc này quả là trật rồi!

Đoạn bước gần lại coi kỹ bức tứ bình, thấy lối chữ nho nhã thanh lịch rõ ra con người phú quý.

Đồng thời tựa như bên tai có tiếng người nói lớn:

- Chữ viết trên bức thư kia "Thủ lãnh đại ca" gửi cho Bang chúa so với chữ viết trên bức tứ bình hoàn toàn khác nhau, có phải chữ của một người?

Tiêu Phong tuy là người ít thông hiểu văn tự, không biết mẫu bút tích. Nhưng chữ viết trên bức tứ bình rõ ra một lối lão luyện thúc, còn chữ viết trên bức thư nét gầy mà gân guốc, vừa trông biết ngay là do tay một người võ biền trong đám giang hồ. Hai tên khác nhau đặt biệt, ai trông cũng nhận ra ngay.

Tiêu Phong giương cặp mắt tròn xoe nhìn chằm chặp vào bình, tựa hồ như muốn tìm ở mấy hàng chữ này những điều hoặc những âm mưu khuất khúc bên trong.

Hồi Thứ 34

Những diễn biến bất ngờ ở rừng Phương Trúc

Tiêu Phong nghĩ quanh nghĩ quẩn, ôn lại chuyện tối hôm đó tại rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, ông đã thấy phong thư kia của "Thủ lãnh đại ca" viết gởi cho Uông Bang Chúa. Nhà sư Trí Quang đã dùng ngụy kế xé mất tên người thụ danh ở cuối thơ, rồi bỏ vào miệng nuốt đi, khiến ông không còn cách nào tìm biết người viết thơ là ai? Có điều chữ viết trên bức thơ in sâu vào óc ông còn rõ mồn một.

Người viết lá thơ kia và người viết bức tứ bình này dưới thụ danh là Đoàn Nhị nước Đại Lý không phải là một. Điều này chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa.

Ông tự hỏi:

- Hay là gã "Thủ lãnh đại ca" đã mượn người khác viết thay mình lá thư kia?

Tiêu Phong ngẩm nghĩ một chút rồi tự trả lời:

- Không thể thế được. Đoàn Chính Thuần viết bức tứ bình này tỏ ra con người nho nhã, đúng là một người cầm bút đã quen. Huống chi lại là thơ viết cho Uông Bang Chúa để nói về một việc tối quan trọng, thì có lý đâu mượn người khác viết thay?

Tiêu Phong càng nghi ngờ, ông không ngớt tự nêu ra nhiều nghi vấn:

- Phải chăng gã "Thủ lãnh đại ca" là Đoàn Chính Thuần? Hay là bức tứ bình này không phải Đoàn Chính Thuần viết?

Câu hỏi trên ông chưa tìm ra câu trả lời, còn câu dưới thì ông cả nguyệt ngay rằng:

- Không có lý nào thế được. Đoàn Nhị nước Đại Lý không phải Đoàn Chính Thuần thì còn ai vào đây mà viết bức thư hình treo đó.

Ông lại tự hỏi:

- Chẳng lẽ Mã phu nhân lại nói sai?

Rồi ông nhận thấy điều này lại càng khó hiểu. Phu nhân vốn không quen biết Đoàn Chính Thuần, một đằng ở tận biên giới cõi Nam, một đằng ở miền Bắc. Họ có thù hằn gì nhau mà bảo phu nhân có ý để lừa ta.

Sau khi ông được tin "Thủ lãnh đại ca" là Đoàn Chính Thuần thì trong lòng ông không còn nghi ngờ gì nữa và chỉ nghĩ sao bằng được mà thôi.

Từ lúc ngó thấy bức tứ bình thì vô số nghi vấn lại hiện trong đầu óc:

- Giả tỷ bức thư kia không phải Đoàn Chính Thuần viết thì "Thủ lãnh đại ca" dĩ nhiên không phải là y. Nếu thủ lãnh đại ca quả không phải Đoàn Chính Thuần thì là ai? Tại sao mã phu nhân lại bịa đặt nên lời? Hay là trung gian còn có âm mưu ngụy kế gì đây.

Cái điều làm cho ông đau khổ nhất là đã đánh chết A Châu, ông lẩm bẩm một mình:

- Đã đành ta đánh chết A Châu chỉ là một vụ ngộ sát. Do ta, vì gia gia nàng mà chết, nàng cam tâm tình nguyện như vậy, trên những điều oan ức chưa tìm ra manh mối tại chồng chất ngờ lòa mây này nữa...

Một câu hỏi lại đột ngột xuất hiện ra trong óc Tiêu Phong:

- Sao hôm mình đã vào đây mà chưa phát giác ra bức thư này?

Nguyên bức tứ bình treo ở gian chái nếu không để ý tận mắt nhìn thấy. Giả tỷ thủy chung Tiêu Phong vẫn không nhìn thấy bức thư này thì táng xong cho A Châu rồi tự sát, và vụ này đến đây là kết thúc. Ai ngờ mấy lần ông nhìn thấy bức tứ bình mà lại nhìn thấy được cái phút trước khi ông tự sát nên mới dây dưa đến bao vụ sóng bất ngờ.

Ánh dương quang lạt dần, trời đã hoàng hôn, bổng ngoài bờ hồ Tiểu kính có tiếng bước chân hai người đi vào rừng phương trúc. Hai người này còn ở ngoài xa, nhưng Tiêu Phong rất thính tai nên dù chỉ là tiếng động rất khẽ, ông đã nghe thấy rồi.

Tiêu Phong chú ý lắng tai nghe thì ra hai người đàn bà, liền lầm bầm một mình:

- Đây hẳn là mẹ con A Tử đi trở về! Ta đang muốn hỏi Đoàn phu nhân xem bức tứ bình này có phải là Đoàn Chính Thuần viết không. Nhưng phu nhân đang căm thù mình về tội giết A Châu chắc phu nhân muốn giết ta. Ta... ta...

Ông đã định bụng dầu có bị Nguyễn Tinh Trúc đâm chết cũng thôi, chứ không trả đòn. Nhưng rồi ông lại nghĩ:

- Nếu A Châu quả bị chết oan. Kẻ giết gia gia cùng má má ta lại là người khác thì con người đại ác này còn phải gánh thêm một món nợ máu nữa, vì hắn mà thêm một mạng nữa phải thác oan. Người vợ rất thân yêu của ta là A Châu cũng coi như bị hắn giết. Ta không báo được những mối thù này thì làm sao yên tâm mà tự sát được?

Hai người đàn bà đã gần đến nơi, đang đi vào rừng trúc rồi dây lát Tiêu Phong nghe rõ tiếng hai người nói chuyện với nhau.

Một người nói:

- Phải cẩn thận nghe! Quân tiện nhân này tuy võ công tầm thường nhưng thị nhiều nguy kế lắm đó!

Lại thấy tiếng một cô gái nhỏ tuổi đáp lại:

- Bây giờ thị có một mình, đằng này mình hai mẹ con, thế nào mà chả hạ được thị?

Người lớn tuổi lại nói:

- Thôi im đi! Đừng nói gì nữa. Thấy thị là động thủ ngay đừng chờ già nghe!

Thiếu nữ lại nói:

- Nếu gia gia biết thì...

Người đàn bà lớn tuổi gạt đi:

- Hừ! Mi lại còn nể gia gia mi hay sao?

Thế rồi hai người không nói gì nữa, Tiêu phong nghe rõ hai người đi rón rén, nhón gót vào nhà. Một người vào thẳng cửa trước, còn một người quanh ra phía sau, rõ ràng chia ra hai mặt tiền hậu để đánh.

Tiêu Phong rất lấy làm kỳ, nghĩ thầm:

- Nghe lời họ nói với nhau thì hai người này không phải là Nguyễn Tinh Trúc cùng A Tử. Mà dường như họ định vào đây để giết một người đàn bà có thể chắc là định đến hạ sát Nguyễn Tinh Trúc. Nghe giọng cô gái mà bản thân cô không tán thành việc này.

Nghĩ vậy thì nghĩ, nhưng ông chẳng để tâm đến việc người ta chỉ ngồi ngơ ngẩn xuất thần.

Lát sau bổng thấy tiếng kẹt cửa, cánh cửa mở ra có người bên phòng. Tiêu Phong vẫn không ngẩng đầu lên. Ông thấy hai bàn chân nhỏ nhắn đi hài đen lại tới trước mặt, còn cách chừng bốn thước thì dừng bước. Tiếp theo lại thấy cánh cửa sổ phía bên có người đẩy ra ngoài, vào đứng gần bên Tiêu Phong.

Tiêu Phong vừa nghe tiếng người đó nhảy qua cửa sổ đã biết là hạng võ công tầm thường. Ông đang lúc lòng nguội lạnh, kệ ai vào cũng mặc chẳng thèm ngửng lên trông. Trong đầu óc vẫn quay quẩn mấy cấu hỏi:

- Thủ lĩnh đại ca có phải là Đoàn Chính Thuần không? Những câu của nhà sư Trí Quang có ẩn ý gì? Lời nói của Mã phu nhân hư thực thế nào?

Thật là những nghi vấn mờ mịt hết đoán thế này lại nghĩ thế khác nào những làn sóng rạt rào quay lộn trong đầu, ruột rối ren bòng bong.

Bỗng nghe thiếu nữ nhỏ tuổi cất tiếng hỏi:

- Người là ai? Con tiện tỳ họ Nguyễn đâu?

Tiếng cô the thé giọng nói đầy vẻ vô lễ. Tiêu phong vẫn không lý gì đến câu hỏi, ông còn bận nghĩ riêng về tâm sự của mình.

Người đàn bà lớn tuổi hỏi bằng một giọng ôn tồn:

- Tôn giá có thân thuộc với Nguyễn Tinh Trúc? Cô gái nằm chết đó là ai? Nói ngay cho tôi biết.

Tiêu Phong vẫn làm thinh. Thiếu nữ điên tiết hỏi giật giọng:

- Mi câm hay là mi điếc? Chúng ta hỏi bấy nhiêu câu, sao không trả lời?

Tiêu Phong vẫn làm ngơ, ngồi trơ như phỗng đá. Thiếu nữ vung cây kiếm cầm trong tay lên loảng xoảng rồi bước tới nhằm đâm chéo vào huyệt Thái Dương Tiêu Phong chỉ còn cách vài tấc, cô chỉ đưa thêm mũi kiếm chút nữa là Tiêu Phong mất mạng tức khắc nhưng cô lại lẩm bẩm:

- Mi còn giả vờ ngớ ngẩn thì ta cho mi nếm mùi lưỡi kiếm này.

Cô có biết đâu rằng Tiêu Phong đã không coi những sự nguy hiểm đến bản thân vào đâu nữa, mà chỉ nghĩ đến giải quyết mấy vấn đề nghi ngờ.

Thiếu nữ vẫn không thấy Tiêu Phong hé răng hé lợi, liền phóng tới. Nhưng mục đích của cô chẳng qua là hỏi cho ra tin tức Nguyễn Tinh Trúc, chứ không có ý giết Tiêu Phong, nên mũi kiếm phóng trệch đi một chút chỉ lướt qua bên cổ còn cách chừng một tấc.

Tiêu Phong nghe rõ đường mũi kiếm đi trệch không thèm né tránh mà thản nhiên như không thấy gì. Hai mẹ con cô gái thấy vậy không khỏi kinh hãi đưa mắt nhìn nhìn nhau.

Thiếu nữ hỏi mẹ:

- Này má má ơi! Hay gã này là một đứa si ngốc?

Người đàn bà lớn tuổi đáp:

- Có lẽ y giả vờ đó, trong nhà con tiện nhân này còn có ai đâu? Hãy đập cho y một đao rồi khảo đã!

Nói xong mụ đưa tay trái lên cầm đao nhằm bả vai Tiêu Phong chém xuống. Tiêu Phong khi nào để cho mụ chém trúng. Ông thấy đao cắm gần bả vai chừng nửa thước, liền đưa tay phải ra phía trước, dùng hai tay cặp lấy sóng đao. Thanh đao dường như bị đóng đanh vào không gian không chém xuống được. Tiêu Phong vận chỉ lực đẩy về phía trước. Đốc đao đụng đúng yếu huyệt trên vai mụ, khiến mụ không còn nhúc nhích được nữa. Tiêu Phong tiện đà tay, đập mạnh một cái, có tiếng cách cách lên, thanh đao gãy làm đội. Ông liền quăng xuống đất, thủy chung không ngẩng đầu lên nhìn mụ đàn bà.

Thiếu nữ thấy ông vừa ra tay đã chế phụ mẫu thân giác cả kinh, nhảy lùi lại. Rồi "véo, véo" liên thanh vang lên, bản đoản tiến nhầm Tiêu Phong phóng tới. Tiêu Phong lượm mảnh đao gẫy khoa lên, bao mũi đoán tiến lả tả rớt xuống hết. Ông lại vung tay liệng mảnh đao gẫy ra đánh một tiếng. Chuôi đao trúng vào lưng thiếu nữ.

Thiếu nữ rú lên một tiếng:

- Ôi chao!

Huyệt đạo cô cũng bị đốc đao liệng trúng. Người cô lại cứng đơ. Người đàn bà luống tuổi thất kinh hỏi:

- Con có bị thương không?

Thiếu nữ đáp:

- Đốc đao đụng vào vai khá đau, nhưng chưa đến nổi bị thương. Má ơi! Con bị hắn ném trúng huyệt "Kinh môn."

Người đàn bà lớn tuổi nói:

- Ta cũng bị hắn điểm trúng huyệt "Trung phu". Gã này võ công lợi hại lắm!

Thiếu nữ nói:

- Má má! Gã này là ai? Sao hắn không đứng lên mà cũng kềm chế được mẹ con ta? Con xem dường như hắn dùng tà thuật gì đây?

Mụ đàn bàn đã bị chế phục không dám hung hăng nữa, đành xử nhũn nói:

- Tôn giá cùng mẹ con tôi vốn không có thù oán gì, vừa rồi tôi mất thủ càn rỡ, mạo phạm tôn giá. Chúng tôi biết hối hận rồi. Xin tôn giá rộng lượng nới tay cho.

Thiếu nữ vội xen vào:

- Không! Không! Ta thua thì đành chịu, hà tất phải năn nỉ hắn?

Rồi quay sang bảo Tiêu Phong:

- Ngươi có giỏi chém chết cô nương này đi thì ta mới thôi.

Tiêu Phong nghe hai người nói một cách lờ mờ, chỉ biết đại khái là người mẹ năn nỉ xin tha, song cô còn lại ra giọng bướng bỉnh quật cường. Nhưng ông tai nọ chuồn ra tai kia, chẳng câu nào để vào lòng.

Lúc này trong nhà đã lờ mờ tối, qua một hồi nữa thì trời tối mịt. Tiêu Phong thủy chung vẫn ngồi yên một chỗ, không xê dịch đi một chút nào.

Bình nhật ông là người sáng suốt mẫn tiệp. Dù gặp việt gì khó giải quyết đến đâu, ông cũng quyết đoán rất mau lẹ. Gặp việc không thể tra xét cho ra sự thật ngay thì hãy tạm gác một bên, chớ không chần chờ do dự. Song bữa nay lầm lỡ đánh chết A Châu, trong lòng bi ai đến cực điểm, vẻ mặt bơ phờ, ngơ ngác như người điên khùng, mất trí, không giữ được thái độ cả quyết như trước.

Người đàn bà khẽ bảo con:

- Con thử vận chân khí rồi khai thông huyệt "hoàn khiêu" chưởng huyệt "phong thị" coi, không chừng làm như vậy sẽ chuyển động đến các kinh mạch mà cởi mở được huyệt đạo bị phong tỏa cũng nên.

Thiếu nữ nói:

- Con đã làm như vậy, nhưng chẳng ăn thua gì...

Thiếu phụ bỗng nói:

- Có người vào!

Quả có tiếng chân bước lạo xạo, rồi một người đẩy cửa bước vào và cũng là một người đàn bà.

Người đàn bà mới vào này lấy đá lửa ra bật lửa lên châm ngọn đèn dầu xong, xoay mình lại chợt nhìn thấy Tiêu Phong, A Châu, và hai người đàn bà nữa, không khỏi buột miệng la lên một tiếng "Ôi cha" kinh dị.

Thiếu phụ yên trí trong nhà không có ai, bất thình lình trông thấy bốn người, kẻ nằm người ngồi, chẳng ai nhúc nhích, bất giác giựt mình. Tay bà đang cầm mấy viên đá lửa bỗng run lên rơi tạch xuống đất.

Thiếu phụ đến trước đột nhiên thét to lên:

- Nguyễn Tinh Trúc! Mi! Mi!

Người đàn bà vào sau chính là Nguyễn Tinh Trúc. Bà quay lại thấy người gọi rõ tên tuổi mình vừa rồi là một mụ nạ dòng, bà còn có cô gái toàn thân vận đồ đen. Cả hai cùng xinh đẹp mà bà không gặp qua bao giờ.

Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Đúng đó! Tôi đây họ Nguyễn. Còn hai vị là ai?

Thiếu phụ bị điểm huyệt nằm trơ, không nhúc nhích được nên không chịu xưng tên họ mình cho Nguyễn Tinh Trúc nghe, mà mắt nhìn lườm lườm vào mặt bà thấy vẻ người lịch sự, đoán tuấn tú thì lửa giận càng bốc lên ngùn ngụt...

Nguyễn Tịnh Trúc quay sang hỏi Tiêu Phong:

- Kiều Bang Chúa! Các hạ đã đánh chết tiện nữ còn vào đây làm chi? Ối con ơi!... là con ơi!... Tội nghiệp cho con tôi quá!...

Bà vừa gọi vừa khóc rống lên, nhảy xổ lại ôm thi thể A Châu. Tiêu Phong vẫn ngồi thộn mặt ra mà nhìn, hồi lâu buồn rầu nói:

- Đoàn phu nhân! Tôi gây nên tội ác ngập đầu. Xin phu nhân chém chết tôi đi!

Nguyễn Tinh Trúc vừa khóc vừa nói:

- Dù tôi có chém chết các, dù thì đứa con xấu số của tôi cũng không sống lại được nữa.

Bà lại vừa khóc vừa kể lể:

- A Châu!... A Châu con ơi!... Ta đem con ra ngoài ải Nhạn Môn Quan cho người ta nuôi, tưởng rằng trời kia có ngày thường lại...

Lúc này Tiêu Phong đầu óc đang mê Muội rối bời. Hồi lâu ông mới giật mình hỏi:

- Phu nhân nói cái gì... ngoài ải Nhạn Môn Quan...?

Nguyễn Tinh Trúc khóc đáp:

- Các hạ biết rồi sao còn hỏi đi hỏi lại. A Châu... A Châu là đứa con tư sinh, tôi không dám đưa nó về nhà, đem ra ngoài ải Nhạn Môn Quan cho người ta nuôi.

Tiêu Phong nói bằng một giọng run run:

- Hôm qua tại hạ hỏi Đoàn vương gia phải chăng người đã làm một việc tội lỗi ngoài ải Nhạn Môn Quan? Vương gia thẳng thắn nhận ngay không úy kỵ gì. Đồng thời phu nhân cũng đỏ mặt lên hỏi tại sao tại hạ biết việc đó? Bây giờ tôi xin hỏi phu nhân: Cái việc tội lỗi ngoài ải Nhạn Môn Quan đó có phải là việc đem A Châu... cho người khác nuôi không?

Nguyễn Tinh Trúc nổi giận nói:

- Tôi đã bị lương tâm cắn rứt về việc đó còn chưa đủ ư? Thiên hạ muốn coi tôi là hạng đàn bà tệ hơn thế nữa, chỉ chuyên làm nên tội ác hay sao?

Bà vừa thẹn vừa giận Tiêu Phong đến cực điểm, nhưng lại sợ so võ công ông ghê gớm, không dám động thủ đành chịu buông lời trách móc cho bớt giận. Tiêu Phong ngồi xuất thần một lúc, đột nhiên giơ tay lên tự đánh "bốp, bốp, bốp" vào mặt mình luôn mấy cái. Nguyễn Tinh Trúc cả kinh, đứng phắt dậy, nhảy lùi lại hai bước. Tiêu Phong vẫn ra sức tát vào mặt mình rất mạnh. Ông tát mạnh đến nỗi chỉ trong khoảnh khắc mà hai má đã sưng vếu lên.

Bỗng ngoài cửa khẽ vang lên một tiếng:

- Ui cha.

Rồi một người đẩy cửa bước vào, cất tiếng gọi:

- Má má ơi. Thảo lấy bức tứ bình rồi...

Chưa dứt lời, người này thấy trong nhà có người, lại thấy Tiêu Phong đang tự tát mình không ngớt, thì không khỏi kinh ngạc, đứng trước mặt ra mà nhìn...

Tiêu Phong mặt mũi chỗ sưng húp, chỗ nát nhừ. Mồ hôi hòa máu tươi dây ra khắp cả. Máu tươi vẫn không ngớt chảy và bắn tung tóe. Trên vách, mặt bàn, chân ghế, chỗ nào cũng có vấy máu. Cả bức tứ bình treo trên vách cũng lỗ chỗ những vết máu đỏ.

Nguyễn Tinh Trúc không nỡ nhìn những hiện trạng thảm hai này bèn nhắm mắt lại, nhưng bên tai vẫn nghe tiếng tát "bốp, bốp" rùng rợn.

Bà la lên:

- Các hạ dừng tay thôi! Các hạ dừng tay thôi!

A Tử cũng hét lên:

- Người làm hoen ố bức tứ bình có thủ bút của gia gia ta để trên đó, ta bắt đền người đây.

Cô nhảy tót lên mặt bàn, tháo bức tứ bình treo trên vách xuống.

Nguyên hai mẹ con Nguyễn Tinh Trúc đã ra đi, nhưng quên bức tứ bình phải trở lại lấy. Tiêu Phong nghe A Tử nói giật mình, dừng tay lại không tát nữa.

Ông nói:

- Đoàn nhị nước Đại Lý để bức tứ bình đó có phải là Đoàn Chính Thuần không?

Nguyễn Tinh Trúc đáp:

- Không phải chàng thì còn ai vào đấy?

Đề cập đến Đoàn Chính Thuần, nét mặt phu nhân bất giác lộ ra một mối thâm tình đầy kiêu ngạo.

Mấy câu bà ta nói giải mối nghi ngờ cho Tiêu Phong.

Ông kết luận:

- Người viết bức thư tứ bình này đúng là Đoàn Chính Thuần, người viết bức thư kia quyết không phải là Đoàn Chính Thuần. Gã "Thủ lãnh đại ca" chắc cũng không phải là Đoàn Chính Thuần.

Do kết luận trên đây, trong lòng nẩy ra một ý nghĩ khác:

- Sở dĩ Mã phu nhân đổ oan cho Đoàn Chính Thuần là vì bên trong có một mối uẩn tình rất trọng đại, chớ chẳng không. Bây giờ trước hết ta phải gỡ cho xong mớ bòng bong này thì rồi bao nhiêu vụ khác sẽ ra manh mối hết.

Tiêu Phong nghĩ như vậy, lập tức bỏ ý niệm tự tận hủy thân mình. Vừa rồi, vì giận mình quá độ, ông tự đánh tát một hồi. Tuy máu tươi chảy ra lênh láng, nhưng cũng nhờ đó mà những nỗi uất hận đau thương phát tiết ra được đôi phần. Tiêu Phong ôm thi thể A Châu đứng dậy, chưa nói gì thì A Tử đã trông thấy hai mảnh trúc có viết chữ để làm mộ chị.

Cô bật cười nói:

- Ha ha! Thảo nào ngoài kia có đào hai cái huyệt, ta đang nghi ngờ chưa hiểu, té ra ngươi định chết theo tỷ nương ta và cùng táng một nơi. Ngươi cũng vào hạng đa tình lắm đó?

Tiêu Phong nói:

- Tôi lỡ trúng phải độc kế của gian nhân, đánh chết A Châu. Bây giờ còn tìm kẻ gian để báo thù cho nàng xong đã, rồi mới yên tâm theo nàng xuống diêm đài được.

A Tử hỏi:

- Gian nhân là ai?

Tiêu Phong đáp:

- Hiện giờ tôi cũng chưa biết, còn phải đi điều tra.

Nói xong ôm A Châu rồi cứ thế chạy luôn. A Tử ngơ ngác hỏi:

- Ngươi cứ ôm thi thể tỷ nương ta thế kia để tìm thù nhân ư?

Tiêu Phong ngẩn người ra một lúc, trong dạ phân vân chưa quyết định ra sao. Rồi ông nghĩ: Nếu mình cứ ôm thi thể nàng ra đi, đường xa diệu vợi hề hàng ngàn dặm, thì bất tiện thật. Nhưng bỏ nàng lại thì khó nổi dứt tình cho cam. Tiêu Phong ngơ ngẩn nhìn A Châu, máu hòa với nước mắt tưới mặt ông tầm tã nhỏ xuống. Nước mắt trộn với máu biến thành dòng nước đỏ hung hung, đọng lại trên mặt lợt lạt A Châu, thật là huyết tâm ly!

Nguyễn Tinh Trúc thấy ông thương tâm quá đỗi, bao nhiêu sự căm hờn ông đều tiêu tan hết, bà khuyên giải:

- Kiều Bang Chúa ơi! Dù sao bình đã vỡ rồi, không còn cách nào vãn hồi được... các hạ.. các hạ...

Bà muốn khuyên giải người đẹp bớt nổi bi ai, nhưng chính bà khóc rống lên, rồi bà tự trách:

- Trăm điều ngang ngửa vì tôi... Đúng là tự tôi mà ra cả! Tại sao tôi lại đem đứa con yêu quý đi gửi người khác.

Thiếu nữ bị Tiêu Phong điểm huyệt cũng xen vào:

- Đúng là tại mi chẳng ra gì! Vợ chồng người ta đang tử tế với nhau sao mi lại đâm vào tranh cướp để gây nổi chia ly cho gia đình người ta?

Nguyễn Tinh Trúc ngửng đầu lên nhìn thiếu nữ rồi hỏi:

- Sao cô nương lại nói thế? Cô là ai?

Thiếu nữ nói:

- Mi thật là giống hồ ly yêu quái. Mi làm cho má má ta cực kỳ đau khổ! Khổ cho ai... khổ cho ta...

A Tử thấy thiếu nữ buông lời sỉ nhục mẫu thân mình, giơ tay toan lại tát vào mặt thiếu nữ. Thiếu nữ cũng bị điểm huyệt không nhúc nhích được, trông thấy chưởng đánh tới mà không có cách nào né tránh thì Nguyễn Tinh Trúc vội nắm giữ A Tử lại, nói:

- A Tử không được lỗ mãng thế!

Bà nhìn thiếu phụ lại lần nữa. Đột nhiên tỉnh ngộ nói:

- Phải rồi! Tôi trông hiền tỷ tay cầm song đao mới nhớ ra. Hiền tỷ... hiền tỷ là Tu la đao. Tần... Hồng Miên hiền tỷ nương.

Nguyên thiếu phụ nạ dòng dòng này chính là Tu la đao Tần Hồng Miên đã bị Đoàn Chính Thuần bỏ rơi, còn thiếu nữ áo đen kia là con gái ruột bà, tên gọi Mộc Uyển Thanh.

Máu ghen của Tần Hồng Miên kể cũng lạ đời. Bà không oán trách Đoàn Chính Thuần là con người bạc tình lẵng lơ, ra tuồng ong bướm vật vờ, đi đến đâu vợ con đến đó, bà lại thù hận người đàn bà khác dỡ thói trăng hoa quyến rũ, chiếm đoạt mất tình lang.

Tầng Hồng Miên chờ cho Mộc Uyển Thanh khôn lớn, thành thuộc võ nghệ rồi cho nó xuống núi, đi hành thích vợ chính thất Đoàn Chính Thuần là Thư Bạch Phụng. Sau bà biết Đoàn Chính Thuần còn có một tình nhân tên gọi Nguyễn Tinh Trúc, ẩn cư tại rừng Phương trúc gần Tiểu kính hồ, bà tìm đến để toan hạ sát.

Mộc Uyển Thanh từ khi phát giác ra Đoàn Dự là anh ruột cùng cha khác mẹ với mình, mối lương duyên không thể thành tựu được, rất buồn bực ra đi, lại len lỏi vào chốn gian hồ dúng tay vào những chuyện giết người. Tần Hồng Miên được tin phải đi tìm nàng, rồi hai mẹ con dắt nhau đến Tiểu kính hồ. Không ngờ vào đây lại gặp Tiêu Phong đã bị ông điểm huyệt như người bị trói cả chân tay không nhúc nhích được.

Tần Hồng Miên thấy Nguyễn Tinh Trúc đã nhận ra mình. Hắn giận quát lên:

- Phải đó! Ta đây là Tàn Hồng Miên. Ai mượn con la kêu ta bằng tỷ nương?

Nguyễn Tinh Trúc vốn tính giảo quyệt, khác hẳn Tần Hồng Miên ở chỗ không nóng nảy lỗ mãng. Bà chưa đoán Tần Hồng Miên làm vì việc gì, những sợ tình địch sau đây gặp Đoàn Chính Thuần việc cũ kỹ lại bốc cháy, liền cười nói với một giọng rất thân mật ngọt ngào:

- Phải rồi tôi lỡ lời nói lầm mất rồi, tuổi mình còn kém còn nhan sắc mình nguyệt thẹn hoa nhường, trách nào Đoàn Chính Thuần phải mê tơi. Mình là em tôi mới phải. Vây bây giờ tôi xin đáp Tần gia Muội nương ôi! Hằng ngày Đoàn lang hằng tưởng nhớ đến Muội nương, không lúc nào khuây. Ta mừng thầm cho Muội thật tốt phước!

Người ta thường nói rằng: "Nói ngọt thì lọt đến xương." Tần Hồng Miên nghe Nguyễn Tinh Trúc khen mình trẻ đẹp, quả kinh khí đã hạ xuống ba phần. Khi nghe bà ta nói Đoàn Chính Thuần ngày tưởng nhớ đến mình thì lửa giận lại giảm đi ba phần nhưng vẫn lên mặt khôn ngoan nói:

- Ta đây không ưa những kẻ miệng thơn thớt dạ ớt như ngươi, chỉ quen tìm câu nói dài dòng đâu nhé.

Nguyễn Tinh Trúc lại quay ra phỉnh thiếu nữ:

- Còn vị cô nương đây, phải chăng là lệnh ái? Chà! Đột ngột vị thiên kim nguyệt than hoa nhường. Sao Tần gia Muội nương lại sinh hạ được cô gái sinh đẹp đến thế...

Tiêu Phong nghe hai bà nói toàn là câu chuyện gió trăng không nhẫn được nữa. Ông là một trang hảo hán hành động dứt khoát, không những chuyện dài dòng. Nhất là hồi này ông đang trải qua những hoàn cảnh nát ruột tan hồn. Sau lúc bi thương, ông liền nghĩ ngay đến những đại sự phải hành động. Ông ôm thi hài A Châu ra huyệt, đặt nàng xuống, đưa hai bàn tay hộ pháp ra bốc đất từ từ lấp xuống người nàng. Nhưng thủy chung vẫn để hở mặt không vùi đất lên.

Ông mở to hai mắt nhìn A Châu và nghĩ rằng:

- Chỉ mấy vốc đất cho xuống là từ đây không nhìn thấy mặt nàng nữa.

Bên tai Tiêu Phong tựa hồ còn văng vẳng nghe tiếng nàng nói bao sự ái ân đầm thấm. Nàng đòi ra ngoài ải Nhạn Môn Quan thả bò chăn ắn và bảo ông ở luôn bên cạnh nàng. Mới trước đây một vài ngày còn có biết bao nhiêu tình tứ, lúc rất nghịch ngợm lúc nghiêm trang. Nhiều lúc nàng cười đùa rất ngộ nghĩnh. Nhưng từ đây trở đi không còn bao giờ được nghe lời nàng nữa.

Tiêu Phong quì ở bên huyệt đã đến nửa giờ. Ông vẫn không chịu lấp đất lấp lên mặt A Châu. Rồi đột nhiên ông đứng phắt dậy, gầm lên một tiếng thật to không nhìn A Châu nữa, đưa hai tay ra ban hết đất huyệt bên cạnh vun cả lên mình lên mặt A Châu. Đoạn ông trở gót vào phòng.

Tiêu Phong vào phòng thấy Nguyễn Tinh Trúc vẫn đang thủ thỉ trò chuyện với Tần Hồng Miên. Nguyễn Tinh Trúc miệng dẻo như kẹo khéo đưa đẩy cho Tần Hồng Miên rất vui lòng. Những mối hiềm khích trước kia đều bỏ đi hết.

Nguyễn Tinh Trúc quay ra nói với Tiêu Phong:

- Kiều Bang Chúa Muội nương đây đắc tội với Bang chúa là bởi ta làm mà ra, xin Bang chúa khai phong huyệt đạo cho mẹ con y.

Nguyễn Tinh Trúc đã là thân mẫu A Châu, Tiêu Phong dĩ nhiên là nể lời. Huống chi ông vẫn định buông tha hai người, liền đến bên cạnh đưa tay ra vỗ vào vai Tần Hồng Miên và Mộc Uyển Thanh. Hai người thấy một luồng nhiệt khí từ bả vai xông thẳng vào người, huyệt đạo bị phong tỏa rồi lập tức chân tay khôi phục được, từ đó mẹ con đưa mắt nhìn nhau tỏ vẻ rất khâm phục công lực võ công của Tiêu Phong.

Tiêu Phong nhìn A Tử nói:

- A Tử Muội nương! Bức tứ bình của gia gia Muội nương. Muội nương lấy cho ta xem một chút.

A Tử nói:

- Ta không muốn người kêu ta một điều Muội nương, hai điều Muội nương.

Cô nói vậy thì nói nhưng vẫn cầm bức tứ bình đưa cho Tiêu Phong. Tiêu Phong mở ra xem kỹ lại nét chữ viết của Đoàn Chính Thuần một lượt.

Nguyễn Tinh Trúc mặt đỏ bừng lên nói:

- Bức này có gì mà xem?

Tiêu Phong hỏi:

- Hiện giờ Đoàn vương gia ở đâu?

Nguyễn Tinh Trúc hoảng hốt thất sắc can:

- Thôi... Thôi!... Bang chúa đừng đi tìm y nữa.

Tiêu Phong nói:

- Không phải tìm đến để làm khó dễ vương gia đâu, ta hỏi vương gia mấy điều.

Nguyễn Tinh Trúc không tin nói:

- Bang chúa đã lỡ tay đánh chết A Châu là đủ rồi, chẳng lẻ tìm y nữa.

Tiêu Phong biết chừng bà ta không chịu nói nên không nhắc nói đến mà cuộc bức tứ bình trao trả lại A Tử, nói:

- A Châu có di ngôn lại biểu tôi phải chăm nom cho em nàng là Tử Muội nương. Đoàn phu nhân! Nếu sau này A Tử có điều gì khó khăn mà cấn đến sức mọn của Tiêu Phong này giúp đỡ thì xin phu nhân cứ nói, Tiêu mỗ quyết không từ chối.

Nguyễn Tinh Trúc cả mừng nghĩ thầm: "A Tử được một vị bán thân gớm ghê như ông để nương tựa, thì ra mình gặp dữ hóa lành". Liền nói:

- Như thế thì còn gì bằng! Tôi xin đa tạ.

Rồi bà quay lại bảo con:

- A Tử! Con tạ ơn Kiều đại ca đi mau.

Trước bà vẫn kêu Tiêu Phong bằng Kiều Bang Chúa, bây giờ đổi cách xưng hô là Kiều đại ca, để cho ông cùng A Tử có mối liên quan thân thiết.

A Tử bĩu môi:

- Con làm gì mà có điều khó khăn cần đến y giúp đỡ? Sư phụ đã là thiên hạ vô địch. Ngoài ra con còn biết bao sư huynh, kẻ nào cho có ba đầu sáu tay cũng không dám khinh miệt con. Ốc chưa lo mình ốc, việc y, y làm chưa xong còn mong y giúp gì cho mình?

Cô nỏ mồm nói luôn một hồi, toàn những câu trường ba khoát lác bằng một giọng sáng sảng.

Nguyễn Tinh Trúc mấy lần đưa mắt ra hiệu ngăn lại, nhưng A Tử giả vờ như không trông thấy. Nguyễn Tinh Trúc dậm chân nói:

- Hừ! Con nhỏ này ăn nói hỗn láo! Kiều Bang Chúa đừng để chúng.

Tiêu Phong nói:

- Tại hạ là Tiêu Phong chứ không phải họ Kiều.

Tử cũng xen vào:

- Ông này đến họ mình cũng chẳng biết.

Nguyễn Tinh Trúc quát lên:

- A Tử!...

Tiêu Phong vái chào nói:

- Tại hạ xin tạm biệt, sau này còn có ngày tái hội.

Ông quay lại bảo Mộc Uyển Thanh:

- Đoàn cô nương! Cô chẳng nên dùng mấy món ám ảnh ác độc này nữa, vì gặp phải tay đối thủ bản lĩnh hơn cô thì chắc chắn vô ích mà còn hại đến mình nữa.

Mộc Uyển Thanh chưa kịp trả lời thì A Tử đã nói:

- Tỷ nương đừng nghe y nói nhăng. Y đã biểu ám khi mấy khi ném trúng đối phương thì còn có hại gì nữa?

Tiêu Phong không nói gì nữa, trở gót đi ra cửa. Lúc chuyển bước qua ngưỡng cửa, ông phất tay áo bên phải một cái thì kình phong phát ra vù vù quạt bay mũi đoản tiễn rơi xuống. Mũi đoản tiễn nầy do Mộc Uyển Thanh nhằm phóng vào. Những mũi đoản tiễn đã rớt xuống đất, lại bay tung lên đánh lên tiếng nhằm bắn ngay A Tử.

Tên bay vụt đi nhanh như chớp.

A Tử không kịp tránh kêu lên một tiếng:

- Ối chao!

Bảy mủi tên đi khít qua đầu, qua cổ, qua mình A Tử và bay vào tường phía sau lưng cô, ngập sâu đến tận chuôi.

Nguyễn Tinh Trúc chạy lại nâng A Tử dậy, hốt hoảng gọi:

- Tần gia Muội nương ơi! Lấy thuốc giải mau ra đây.

Tần Hồng Miên hỏi dồn:

- Bị thương ở đâu! Bị thương ở đâu?

Mộc Uyển Thanh vội thò tay vào bọc lấy thuốc giải vào thoa cho A Tử. Lát sau A Tử hết sợ mới nói:

- Không... không bắn trúng tôi!

Cả bốn người đàn bà đều nhìn vào tường thấy bảy mủi đoản tiền cắm ở đó. Ai nấy cả kinh thất sắc.

Nguyên Tiêu Phong nhớ lời di ngôn của A Châu dặn trong nom cho A Tử, ông nhớ đến câu A Tử nói: "Sư phụ con là người thiên hạ vô địch. Ngoài ra con còn có bao nhiêu sư huynh, kẻ nào có ba đầu sáu tay cũng không dám khinh miệt con." Ông biết rằng Tinh Tú Hải là phái chuyên dùng thuốc cùng ám khí cực độc, sợ nàng quá ỷ mình không còn sợ ai, thì sau này sẽ phải chịu nhiều sự đau khổ. Vì thế mà phất tay áo để hất ám tiễn lại hăm dọa cô:

- Đừng có một tí tuổi đầu khinh người không coi các vị anh hùng trong thiên hạ vào đâu.

Ấy là thân tâm của ông muốn cho cô trở nện người hay.

Tiêu Phong ra khỏi rừng trúc đến bờ Tiểu kính hồ, tìm đến một lớp cành lá rậm rạp rồi tung mình nhảy lên ngồi trên ngọn. Nguyên Tiêu Phong muốn đi tìm Đoàn Chính Thuần để hỏi cho rõ: Tại sao Mã phu nhân lại cố ý hại y? Nhưng Nguyễn Tinh Trúc lắc đầu không chịu nói thì còn cách ngấm ngầm theo dõi.

Ông ngồi trên ngọn cây chờ không bao lâu đã thấy mẹ con Tần Hồng Miên đi trước, mẹ con Nguyễn Tinh Trúc theo sau. Ông biết chừng đây là Nguyễn Tinh Trúc tiễn chân khách. Bọn này ra bờ hồ, Tần Hồng Miên nói:

- Nguyễn tỉ nương! Tôi cùng tỉ nương mới gặp nhau lần đầu mà tâm tình cố cựu. Bao nhiêu những điều hờn giận trước kia từ nay đã hết. Thế là lòng tôi đã nhẹ bớt được một mối hận. Nhưng bây giờ còn một tên đầu khác nữa. Tôi chỉ biết con họ đó họ Khang. Tỷ nương có biết thị ở đâu không?

Nguyễn Tinh Trúc ngơ ngẩn hỏi lại:

- Muội nương tìm y thị ấy làm gì?

Tần Hồng Miên tủm tỉm cười đáp:

- Tôi cùng Đoàn lang đang ăn ở với nhau, ân ái nồng nàn, con yêu tinh đó mê hoặc chàng...

Nguyễn Tinh Trúc trầm ngâm một lát rồi nói:

- Thị họ Khang à? ... Thị là ai nhỉ? Hừ! Tôi không nhớ đâu? Muội nương mà tìm thấy thị thì đâm thêm cho thị giúp tôi.

Tần Hồng Miên nói:

- Cái đó lọ là phải nói, chỉ có việc tìm được thị là khó lắm. Xin chào tỉ nương! Nếu tỉ nương có gặp Đoàn lang...

Nguyễn Tinh Trúc run lên hỏi:

- Gặp y thì sao?

Tần Hồng Miên nói:

- Tỉ nương thay mặt tôi tát cho y hai cái. Một cái cho tôi, một cái về phần cháu Uyển.

Nguyễn Tinh Trúc mỉm cười nói:

- Tôi làm sao mà tìm được anh chàng chết đâm bất tiệt. Bao giờ Muội nương có gặp y, tôi cũng nhờ Muội nương tát hai cái, một của tôi, còn một cái của A Tử. Y đã sinh con ra mà nhỏi gì đến, để làm gì không đánh?

Tiêu Phong núp trên cây nghe hai người đối thoại rất giận, nghĩ thầm:

- Đoàn Chính Thuần võ công không đến nỗi hèn, đãi với anh em rất thủy chung, chỉ phải một tội là ham mê sắc nhất cả khí phách anh hùng.

Bỗng nghe Tần Hồng Miên dắt Mộc Uyển Thanh qua Nguyễn Tinh Trúc rồi lại đi ngay. Nguyễn Tinh Trúc cũng dắt A Tử trở vào rừng trúc mà nghĩ bụng:

- Thế nào rồi mẹ con Nguyễn Tinh Trúc cũng tìm Đoàn Chính Thuần, nhưng bà không muốn cho Tần Hồng Miên biết mà thôi. Bà đã nói là quay lại lấy bức tứ bình, thế thì Đoàn Chính Thuần hắn cũng ở gần đâu đây để chờ bà ta. Vậy mình cứ chực sẳn ở đây.

Bỗng nghe trong đám cây rậm rạp có tiếng động rất khẽ, rồi hai bóng đen vùn vụt chạy ra. Tưởng ai té ra là hai mẹ con Tần Hồng Miên. Bà ta đã đi rồi lại quay trở lại.

Tiêu Phong nghe tiếng Tần Hồng Miên khẽ bảo con:

- Uyển Nhi! Sao con vô tâm đến thế? Chẳng có ý tứ gì cả, nên ta bị lừa. Trong phòng ngủ Nguyễn tỷ nương ở dưới chân giường có đôi giày đàn ông thiêu bằng chỉ vàng hai chữ. Giày chân trái thiêu chữ lụa, giày bên phải thêu chữ Hà. Đó là đôi giày của gia gia con. Đôi giày mà đế còn ướt nguyên, bùn nước chưa khô. Xem thế thì biết gia gia hiện ở gần đây!

Mộc Uyển Thanh nói:

- Thế ra Nguyễn thị nói dối mẹ con ta.

Tần Hồng Miên nói:

- Phải rồi! Đời nào y chịu để con người bạc bẽo lại gặp mẹ con ta.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Gia gia đã là người bạc bẽo vô lương tâm thì má chẳng cần gặp chi nữa!

Tần Hồng Miên lặng lẽ hồi lâu rồi nói:

- Ta muốn coi mặt y nhưng không muốn để y nhìn thấy ta. Xa nhau bấy lâu chắc y đã già đi nhiều, mà má má đây cũng gìa rồi.

Mấy câu nói tuy bình dị như vậy, nhưng nó chứa một mối tình thầm kín rất sâu xa.

Mộc Uyển Thanh nói:

- Phải đấy!

Hai tiếng này cũng nói bằng một giọng đau khổ. Từ khi nàng cùng Đoàn Dự chia tay, lòng nhớ nhung mỗi ngày một tăng, đã biết rõ đó là một đối tương tư vô hy vọng. Trước mặt nàng không dám để lộ tâm sự ra, song lòng nàng sầu khổ có tất cả mẫu thân.

Tần Hồng Miên nói:

- Chúng ta cứ đứng đây chờ chắc chẳng bao lâu gia gia sẽ tớịi.

Nói xong bà vạch cỏ ẩn vào sau một gốc cây.

Dưới ánh sao lờ mờ, Tiêu Phong nhìn rõ vẻ mặt Tần Hồng Miên trắng hệch thoáng hiện màu hồng, tỏ ra bà ta đang bị xúc động.

Ông nghĩ thầm:

- Chữ tình để lụy cho người ta đến thương nhớ liên tưởng đến A Châu mà trong lòng không khỏi tê tái.

Chẳng bao lâu lại có tiếng chân người vội vã đi tới, Tiêu Phong nghe đã nghĩ bụng:

- Đây không phải là Đoàn Chính Thuần.

Quả nhiên người nầy gần tới nơi, nhìn ra là bút nghiễng Đan Thần.

Nguyễn Tinh Trúc cũng nghe thấy tiếng bước chạy ra mà nhìn rõ. Bà yên yên trí đó là Đoàn Chính Thuần vội cất tiếng gọi:

- Đoàn lang! Đoàn lang!

Vừa gọi vừa chạy ra nghênh tiếp. Chu Đan Thần cúi rạp tận đất, nói:

- Chúa công sai thuộc hạ về đây bẩm báo: người đi gấp, bữa nay không trở lại đây được.

Nguyễn Tinh Trúc buồn rầu hỏi:

- Việc chi mà gấp vậy? Đến bao giờ mới về?

Chu Đan Thần đáp:

- Việc này có liên quan đến nhà Mộ Dung. Hành tung của Mộ Dung công tử đã phát hiện. Chúa công chẳng quản xa muôn dặm là có ý tìm chàng. Chúa công có dặn rằng: Sau khi đại gia xong xuôi, người sẽ về Tiểu Kính Hồ ngay. Xin phu nhân bất tất phải mong mỏi.

Nguyễn Tinh Trúc nước mắt chảy quanh, nghẹn ngào nói:

- Mỗi lần y ra đi cũng nói là về ngay, mà mỗi lần có đến ba năm, mười năm cũng chưa thấy mặt, biết trông chờ đến bao giờ y mới trở lại?

Chu Đan Thần rất căm phẫn về việc A Tử làm cho Lăng Thiên Lý tức uất hận mà chết, nên vừa đưa tin của Đoàn Chính Thuần về cho Nguyễn Tinh Trúc xong, gã không muốn dai dẳng gì thêm nữa, vội nghiêng mình thi lễ rồi trở gót cắm đầu đi thẳng.

Nguyễn Tinh Trúc chờ gã đi xa rồi khẻ bảo A Tử:

- Khinh công con còn giỏi hơn má nhiều, con theo dõi coi gã đi đến đâu. Trên đường con ghi lại những ám ký để má biết đường mà theo.

A Tử nhõng nhẹo cười nói:

- Má bảo con đi theo dõi gia gia, thế má có thưởng gì cho con không?

Nguyễn Tinh Trúc nói:

- Bất luận cái gì của má cũng là của con rồi, mà tất phải đòi thưởng.

A Tử nói:

- Thế thì được! Con đi tới đâu sẽ viết vào góc tường một chữ và bên dưới vẽ một mủi tên chỉ, má cứ thế mà theo dõi.

Nguyễn Tinh Trúc vỗ vai A Tử nói:

- Con cái má thật ngoan quá!

A Tử băng mình chạy đuổi theo Chu Đan Thần. Nguyễn Tinh Trúc đứng lại trên bờ Tiểu Kính Hồ một lâu mới theo đường nhỏ chạy đi. Nguyễn Tinh Trúc đi đã xa rồi, hai mẹ con Tân Hồng Miên xuất hiện, vỗ tay ra hiệu, nhón gót chạy theo.

Tiêu Phong nghĩ thầm:

- Dọc đường A Tử đã ghi dấu hiệu đi tìm Đoàn Chính Thuần không có chi là khó nữa.

Ông đi được mấy bước, ngẫu nhiên nhìn dưới ánh trăng thân mình lộn ngược trong nước hồ, lạnh lẽo tịch mịch, bất giác một nỗi cô đơn hiu quạnh và chua xót trong lòng. Ông muốn qua rừng trúc ngồi trước mộ A Châu một lúc. Nhưng chỉ thoáng câu khởi lòng hào kiệt, vung chưởng đánh chơi, phát ra một luồng phong lướt tới đâu, nước hồ bắn tung tóe lên tới đó. Bóng bắn nước tan ra thành nhiều mảnh. Tiêu Phong hú lên một tiếng dài rồi cất bước đi mau.

Tiêu Phong đi luôn mấy hôm, ngày đi đêm nghĩ. Ông ngủ nhiều hơn là ăn cơm. Mỗi khi tới một thị trấn, thấy dưới chân A Tử đều có viết chữ "Đoàn" làm dấu. Có chỗ đã bị Nguyễn Tinh Trúc đi qua rồi xóa đi hãy còn dấu vết rất dễ nhận. Đường đi vẫn nhắm hướng Bắc mà tiến, khi trời đã trở lạnh. Hôm đó đi tới địa giới tỉnh Hà Nam, lưng trời tuyết rơi phới và xuống rất nhiều.

Vào khoảng giờ ngọ, Tiêu Phong đi luôn vào một tửu đường định uống hết 12, 13 bát rượu. Rượu đang cất chưa được, Tiêu Phong cụt hứng liền bỏ ra đi, một lúc thì đến một tòa thành lớn tới nơi, trong lòng ông cảm thấy hồi hộp vì đây chính là thành phố.

Chuyến này Tiêu Phong lẽo đẽo một mình cứ theo dấu vết để lại mà đi. Trong lòng chỉ nghĩ đến tâm sự của mình chẳng chú ý gì đến phong cảnh cùng nhận vật chung quanh. Ông đi đến thành Tín Dương chỉ cốt đi tìm Đoàn Chính Thuần. Kể ra với cước lực của ông thì chỉ trong vài ngày là đến nơi. A Châu vừa mới chết đi, cõi lòng bâng khuâng tan nát, không do dự bằng cách gì? Lúc nào trong óc ông cũng loanh quanh với câu hỏi: "Đoàn Chính Thuần rồi làm gì đây?"

Rồi ông lại tự hỏi:

- Tìm đến tên chánh phạm báo thù xong rồi làm gì? Một mình ta về bên kia ải Nhạn Môn Quan thả bò nuôi dê trong bãi hoang lớn hay làm gì? Những việc đó không có chi là gấp rút.

Tiêu Phong đến thành Tín Dương rồi, không kịp vào quán uống rượu, lập tức đi tìm dấu vết của A Tử. Bỗng thấy dưới chân tường có chữ Đoàn viết bằng than. Dưới chữ Đoàn có vẽ mũi tên trỏ về hướng tây. Tiêu Phong lại cảm thấy trong lòng chua xót. Ông nhớ lại bữa trước cùng A Châu sánh vai nhau đi đến nhà Mã phu nhân ở phía tây thành Tín Dương để dò la tin tức. Bữa nay hồi tưởng lại thì không khác gì đây là con đường dẫn A Châu xuống âm ty.

Tiêu Phong ra khỏi phía tây thành đi chừng năm sáu dặm. gió heo may vi vút. Trời vẫn xuống tuyết rất nhiều. Tiêu Phong theo dấu vết của A Tử đi về phía tây thì thấy những dấu vết này mới để lại chưa lâu. Có chỗ cô cắt vỏ cây ra để viết chữ vào cành cây, cành cây bị đao chém, nhựa hãy còn ướt.

Tiêu Phong càng lấy làm kỳ vì dấu hiệu này theo đúng đường lối vào nhà Mã Đại Nguyên. Ông tự hỏi: "Phải chăng Đoàn Chính Thuần kết Mã phu nhân hãm hại mình nên tìm vào bà ta để thanh toán món nợ đó?"

Rồi ông tự trả lời:

- Phải rồi! Lúc A Châu sắp chết trên cầu đá xanh, nàng đã nói những gì với ta đều bị A Tử nghe lõm hết. Nàng có đề cập đến chuyện Mã phu nhân do nàng cải trang làm Bạch Thế Kính đến đánh lừa, phu nhân mới chịu tiết lộ "Thủ lãnh đại ca" là Đoàn Chính Thuần. Thế nào A Tử chả về tố cáo với gia gia cô. Có điều lúc đó A Châu cùng ta chỉ nói là Mã phu nhân, mà sao bọn họ cũng biết được tành thị Mã phu nhân nầy?

Tiêu Phong vừa đi vừa hồi hộp, trong lòng khắc khoải không biếc bây giờ gặp chuyện lạ này, tinh thần ông lại xao xuyến, chẳng khác gì ngày trước lúc cùng với bọn kình địch giao phong.

Còn đang nghĩ ngợi liên miên, Tiêu Phong thấy bên đường có một nhà chùa bỏ hoang, ông liền đi vào khép cửa chùa lại, ngồi ngủ gà ngủ gật trong ba giờ. Vào khoảng canh hai ông chợt tỉnh giấc dậy, đi theo đường nhỏ vào nhà Mã phu nhân.

Gần tới nơi, Tiêu Phong ẩn mình sau gốc cây lớn, để ý tình thế chung quanh, nghe ngóng hồi lâu, bỗng trên miệng thoát nụ cười.

Trên góc đông bắc nóc nhà Mã phu nhân ông đã nhìn người nằm phục. Ông chú ý nhìn kỹ đúng là Nguyễn Tinh Trúc. Tiêu Phong để ý một hồi nữa lại thấy hai mẹ con Tần Hồng Miên cũng nấp trên nóc nhà về phía góc tây nam. Trời vẫn xuống tuyết lớn cả bốn người đàn bà đều phủ trắng xóa. Trong phong phía đông có ánh đèn le lói qua cửa sổ chiếu sáng một cách yêu ớt. Nhưng tứ bề vẫn lặng ngắt như tờ. Tiêu Phong bẻ một cành cây liệng về phía đông, rơi xuống "cách" một tiếng.

Bọn Nguyễn Tinh Trúc bốn người đều ngoảnh nhìn vào tiếng động, Tiêu Phong đã lẹ làng nhảy đến bên cửa sổ phía Đông.

Vì tiết trời giá lạnh, nên cửa sổ Mã gia đều đóng kính bắc tám ván gỗ. Tiêu Phong đứng ngoài cửa sổ một lúc, gió bất rít lên. Ông chờ cho cơn gió đập vào cửa sổ, khẽ đánh một chưởng phong hòa với gió trời đập mạnh vào ván cửa vang lên tiếng động ván nứt ra một kẽ hở, đồng thời đánh rách cả miếng giấy dán tường.

Bọn Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc tuy gần đó, nhưng gió thổi ào ào lẫn với tiếng cành cây chạm nhau lách cách, không phát giác ra luồng chưởng phong của Tiêu Phong đánh nứt ván cửa sổ, thì dù trong phòng có người cũng không hay biết được.

Tiêu Phong ghé mắt nhòm qua kẻ nứt tấm ván cửa sổ vào phòng. Vừa thấy cảnh vật bên trong, thốt nhiên ông thộn mặt ra, tưởng như mình mắt mờ. Rõ ràng Đoàn Chính Thuần mặc quần áo ngủ ngồi xếp bằng cạnh cửa, tay cầm chén rượu nhỏ cười hì, liếc nhìn người đàn bà ngồi phía trong.

Người đàn bà này mình mặc toàn đồ trắng, trên mặt thoa phớt một làn phấn mỏng, đầu mày cuối mắt đầy vẻ tình tứ, đôi mắt ướt mượt mơ màng liếc nhìn Đoàn Chính Thuần tựa như cười mà không phải cười, tựa như giận mà không phải giận.

Người này chính là quả phụ Mã Đại Nguyên tứ là Mã phu nhân!

Tiêu Phong nghĩ thầm:

- Giả tỷ không phải chính mắt mình trông thấy chuyện bịa đặt để nói xấu người, quyết không thể nào tin được.

Khi ở rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, Tiêu Phong đã gặp Mã phu nhân lần đầu, rồi mấy lần sau ông lại hội kiến phu nhân và đều cho bà là tuyệt vời tuyệt sạch giá trong, là người có sắc đẹp mê hồn nhưng rất nghiêm thị, không ai dám đụng chạm đến. Cả đến nụ cười của bà, ông cũng chưa từng nhìn thấy bao giờ. Ai có ngờ đâu lại xảy ra cảnh tượng hôm nay.

Một điều kỳ lạ hơn nữa là sao Mã phu nhân lại gạt A Châu cùng giả làm Bạch Thế Kính "Thủ lãnh đại ca" là Đoàn Chính Thuần hãm hại y; dường như bà ta có một mối thù hận sâu với y; mà bây giờ nhìn vào trong căn phòng ấm cúng thật tình bà ta lộ vẻ đôi mắt cùng liếc đôi lòng cùng ưa, rượu nồng hương dặm phơi phới xuân thơm, mọi vẻ mọi ưa nào đâu là thù lá oán?

Hồi Thứ 35

Mã phu nhân xin kể chuyện xưa

Tiêu Phong còn đang nghĩ ngợi bỗng thấy Đoàn Chính Thuần gọi:

- Mình ơi, lại đây! Lại gần đây uống với tôi một chén rượu đôi thành lứa!

Mã phu nhân nũng nịu "hứ" một tiếng rồi nói:

- Sau khi mình cùng Mã Phó bang chúa thành hôn còn đến thăm mình, thì sao tránh khỏi tiếng thị phi. Mã phó nhân cũng là một bậc anh hùng hảo hán, có địa vị cao cả tại Cái còn đến với mình, chẳng hoá ra tôi là... một kẻ tiểu nhân sao.

Nói rồi cười khà khà. Mã phu nhân nói:

- Ai mượn "cái mặt ấy" đến đây săn sóc người ta, người ta lo "cái mặt ấy" chẳng hiểu có được yên lành không không? Việc lớn việc nhỏ có trong ấm ngoài êm không? Có vô sự thì người ta mới yên lòng và cuộc đời mới có ý vị. Mình mình ở tận nước Đại Lý, tôi muốn biết tin tức mình dễ lắm đấy hử?

Bà nói mỗi lúc một thấp giọng xuống. Tiêu Phong tuy không nghe rõ nữa, nhưng ông biết toàn là những đoạn tình tứ lâm ly. Những ơn thót quyến rũ nầy khiến người ta nghe phải bần thần như kẻ mất hồn.

Tiêu Phong đã được biết hai người cùng Đoàn Chính Thuần già nhân ngãi non vợ chồng là Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên là người sắc sảo mặn mà lanh chanh nóng nảy, còn Nguyễn Tinh Trúc thì mỹ miều uyển chuyển. Bây giờ ông thấy Mã phu nhân đây lại khéo ỏn thót hơn, dáng điệu nhu mì đến cực điểm. Mà người một vẽ phong lưu khác nhau. Đoàn Chính Thuần nghe Mã phu nhân nói bấy nhiêu lời mà mê tâm thần, đưa tay ra kéo bà lại gần rồi ông vào lòng.

Mã phu nhhân "hứ" một tiếng đưa tay ra đẩy, giả vờ chống cự gọi "Phận làm gái".

Tiêu Phong chao mày không muốn nhìn hai người giở trò bỉ ổi khó coi nữa, chợt nghe có tiếng người bước mạnh trên dất đầy tuyết rơi mà cũng vang lên tiếng động nhỏ.

Ông lẩm bẩm:

- Thôi hỏng bét! Bà này nổi cơn tan bành lên rồi! Họ làm hư việc lớn của mình mất.

Tiêu Phong lạng mình đi như gió, lẹ làng đến sau bốn người đàn bà, ông điểm trúng huyệt trên lưng cả bốn. Mấy người đều chưa biết là thủ đoạn của ai thì người đã không nhúc nhích được nữa. Phen này Tiêu Phong điểm vào á huyệt bọn này, khiến họ không liếng được.

Tần Hồng Miên cùng Nguyễn Tinh Trúc nghe tình lang mình một người đàn bà thủ thỉ với nhau "mình mình tôi tôi" thì lửa bùng lên, cơn ghen sôi nổi, nhưng người nằm lăn dưới dất, lưỡi cứng đơ. Tiêu Phong lại dòm qua khe cửa sổ thấy Mã phu nhân đang ngồi bên cạnh Đoàn Chính Thuần, đầu gục vào vai y. Toàn thân bà ta như bị mềm nhủn, không chống chọi được nữa.

Bỗng thấy bà ta trách:

- Lang quân tôi bị người ám hại, chắc mình cũng biết mình không thèm vác mặt đến thăm tôi xem sao? Lang quân ôi, mình còn tỵ hiềm điều gì nữa?

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Tôi chả đến là gì đây? Tôi đi suốt ngày đêm, ngựa dừng vó, từ Đại lý qua đây lòng những thấp thỏm chỉ thẹn một bước.

Mã phu nhân hỏi:

- Đến chậm thì làm sao mà mình phải sợ?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Tôi sợ mình không chịu được cảnh chăn đơn gối chiếc tịch mịch, đi lấy người khác thì cái công tôi xông pha từ Đại lý đường xa muôn dặm thực là uổng. Mối tương tư canh cách trong mười năm trời đành buông theo ngọn nước thủy triều.

Mã phu nhân tặc lưỡi nói:

- Ái chà! Mình khéo đặt để nên lời bảo người ta lạnh đơn đi lấy người khác ư? Kỳ thực mình có nghi đến người thế mà miệng leo lẻo nói những gì tương tư hàng mười năm mà không biết ngượng miệng.

Đoàn Chính Thuần, hai tay ôm Mã phu nhân, cười nói:

- Tôi không nhớ mình thì làm sao lại bôn ba từ nước Đại lý đến.

Mã phu nhân cười nói:

- Đoàn lang ơi! Được lắm, tôi tin mình nhớ tôi rồi, đây mình xếp đặt cho tôi ra sao?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Bây giờ hãy biết việc hiện tại, nghĩ đến việc mai hậu. Mình để cho tôi ôm chặt lấy mình, xa cách nhau trong mười năm đối với mình nó nhẹ hay là nó nặng?

Nói xong lại ôm ghì lấy Mã phu nhân chặt hơn. Mã phu nhân hỏi:

- Thế mình không chịu đưa tôi về Đại lý ư?

Đoàn Chính Thuần nhíu cặp lông mày nói:

- Đại lý chả có phong cảnh nào đẹp để cho mình xem mình ngắm lại là vùng thấp nhiệt. Mình qua đó không phục thủy thổ chỉ ra mang bịnh vào thân.

Mã phu nhân thở dài hỏi:

- Mình lại nói dối tôi để mua vui chốc lát chứ gì?

Đoàn Chính Thuần cười:

- Sao lại bảo là mua vui chốc lát. Tôi phải cải chính đây là cuộc song hỉ chân chính của đội ta.

Mã phu nhân từ từ gỡ tay Đoàn Chính Thuần rót một chung rượu nói:

- Đoàn lang! Hãy uống thêm chung rượu này đi!

Đoàn Chính Thuần nói:

- Tôi chả uống nữa, uống thế là đủ rồi.

Mã phu nhân thỏ thẻ tiếng oanh:

- Không! Tôi không nghe đâu! Tôi muốn mình uống say mê kia!

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Say mê mang để làm gì?

Vừa nói vừa đón lấy chung rượu uống một hơi cạn sạch.

Tiêu Phong đứng ngoài cửa sổ nghe hai người nói chuyện phong cách đã chán cả hai tai, lại thấy Đoàn Chính Thuần uống hết chung này lại chung khác ông thèm quá, nuốt nước miếng ừng ực.

Bỗng Đoàn Chính Thuần ngáp dài ra chiều mỏi mệt, nằm trên giường. Mã phu nhân nói:

- Đoàn lang! Tôi kể câu chuyện cũ cho mình nghe nha.

Tiêu Phong run lên, lẩm bẩm:

Bà này kể chuyện cũ, không chừng phọt ra những điều đang dò la đây?

Đoàn Chính Thuần lại nói:

- Mình kề vào gối đầu mà kể cho tôi nghe nào!

Mã phu nhân nguýt Đoàn Chính Thuần:

- Đoàn lang ơi! Mình có biết không? Lúc tôi còn nhỏ cơ cực lắm, muốn có bộ áo mới mà gia gia cùng má má cũng không có tiền may cho được. Tôi rất lấy làm buồn. Lúc nào tưởng tượng, nương nhà Trương gia ở giáp vách cứ hết năm chị ta lại nhìn, sao mình không được thế mới tức chứ.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Lúc nhỏ tôi chắc mình đã xinh đẹp lắm! Một vị tiểu Muội như mình ghì cù có mặc quần áo rách đến đâu chăng nữa chẳng kém vẻ mỹ miều.

Mã phu nhân nói:

- Không! Tôi cứ muốn mặc áo hoa kia!

Đoàn Chính Thuần nói:

Hiện giờ mình vận bộ tang chế nước da trắng như làm tăng thêm vẻ đẹp rất nhiều. Chiếc áo hoa có gì là đẹp?

Mã phu nhân nghe lọt tai, chúm môi nở một nụ cười, nói một giọng rất nhu mì:

- Lúc tôi còn nhỏ ấy mà, tưởng đến bộ áo hoa chẳng khó tương tư!

Đào Chính Thuần hỏi:

- Mình mơ tưởng bộ áo hoa cho đến năm mười tám tuổi phải không?

Mã phu nhân hai má ửng hồng nói:

- Đoàn lang ơi! Mình làm cho tôi đau khổ về bệnh tương tư!

Đoàn Chính Thuần nghe tiếng oanh thỏ thẻ mà ngây ngất tâm hồn, dang tay ra định níu lấy Mã phu nhân, nhưng vì rượu đã say mèm, chân tay mềm nhũn, giơ cánh tay lên rồi bất lực đành hạ xuống cười nói:

- Mình cứ bắt tôi uống rượu nhiều quá, bây giờ muốn... muốn... thì Tiểu Khang mình ơi! Rồi mấy năm sau mình mới được vận áo hoa, đi giầy mới.

Mã phu nhân đáp:

- Mình được trời cho giàu sang ngay từ thuở tấm bé thì biết đâu cái khổ sở của những kẻ cơ hàn. Hồi ấy, mình có biết tôi làm gì không? Tôi phải lấy một sợi dây đỏ để buộc túm tóc trên đầu, trong lòng lúc nào cũng ấm ức.

Ngừng một lát bà nói tiếp:

- Năm tôi lên bảy tuổi, tháng ngày vùng vụt đã mấy chốc đã hết. Gia gia tôi nuôi được con lợn đem ra chợ bán, bảo để mua áo mới đem về cho tôi. Mình thử tưởng tượng xem lúc đo tôi vui sướng biết là chừng nào! Gia gia tôi ra khỏi cửa chưa mấy chốc, tôi đã ra dừng đứng ngóng, rồi lại về nhà ngồi đợi. Ngồi nhà một lúc lại chạy ra đường đóng gia gia. Cái ngày hôm ấy sao mà nó dài thế, tôi nóng ruột mà phải chờ mãi đến lúc mặt trời gác núi, mới thấy gia gia tôi thủng thỉnh đang đi trên đường cái về nhà. Tôi ba chân bốn cẳng chạy ra đón.

Nàng buông tiếng thở dài nói tiếp:

- Trời ơi! Tôi trông thấy gia gia mà phải hết hồn. Áo người cụt bên tay, mặt mũi sưng vếu lên. Vai đang chảy máu tươi ra không dứt. Rõ ràng là gia gia tôi đã bị người ta đánh. Tôi hỏi: "Áo của con đâu?"

Tiêu Phong nghe Mã phu nhân nói, sa sầm nét mặt nghe "Mụ này thật là bạc bẽo. Gia gia đã bị người ta đánh đến nỗi bị thế mà mụ tuyệt không một lời an ủi, chỉ nghĩ đến chuyện đòi áo hoa khi đó mụ hãy còn nhỏ, nhưng không thể thế được."

Ông còn đang nghĩ, Mã phu nhân lại nói:

- Gia gia tôi lắc đầu sa nước mắt chớ không nói gì. Tôi nói: "Gia gia có mua áo mới cho con không?" Gia gia cầm tay tôi. "Tiền bán lợn đã bị chủ nợ cướp mất rồi. Ta nợ tiền y, y tính lãi kép..." Tôi thất vọng quá ngồi phệch xuống đất khóc ầm lên, ngày tôi phải chăn lợn, nuôi nó từ nhỏ đến lớn vớ cái kỳ cực nhất là lúc bán đi sẽ được ấm no áo mới, rút cục không vẫn không.

Tiêu Phong hồi còn nhỏ ở với vợ chồng Kiều Tam Hòe bao nhiêu đau khổ. Nghĩa phụ ông là Kiều Tam Hòe bị tài chủ chưa có tiền trả, thường bị đánh đập ông đã từng. Bây giờ nghe Ma phu nhân kể lại sự tình lúc ba ta còn nhỏ, bất giác nghĩ đến phụ nghĩa mẫu thì lòng đau như cắt.

Bỗng nghe thấy Mã phu nhân kể tiếp:

- Gia gia tôi biểu: "Tiểu khang con! Bắt đầu từ mai ta nuôi con lợn khác. Lần này đem bán nhất định mua cho con áo hoa". Tôi vẫn khóc lóc không nghe, nhưng không nghe thì cũng làm gì được. Còn không đầy một tháng lại hết năm. Tiểu cô nương với họ Trương ở kế bên may một bộ áo màu vàng hoa đỏ mới với quần màu lục hoa xanh. Tôi trông thấy tức quá, mắt đỏ ngầu, nhà làm bánh tết, tôi hờn không ăn.

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Khi đó tôi mà biết, nhất định tôi tặng cho mình một bộ áo mới.

Mã phu nhân nói:

- Tôi cũng chẳng hy vọng nhiều như thế. Hôm ấy là ba mươi tết. Đến đêm tôi trằng trọc không sao ngủ được, rón rén lần mò sang nhà Trương bá bá. Người lớn hãy còn thức để đón tết, chưa ai ngủ. Trong nhà đèn nếu sáng trưng, tôi thấy tiểu cô nương nằm ngủ trên giường, bên lò sưởi. Quần áo mới của cô đắp lên người. Lửa hồng chiếu vào trông lại càng đẹp. Tôi đứng ngẩn người mà nhìn hồi lâu rồi lén vào phòng, cầm bộ quần áo mới lên...

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Ăn cắp áo của người ta phải không? Trời ơi! Tôi tưởng cô Tiểu Khang của tôi chỉ biết ăn cắp chàng trai, té ra lại biết ăn cắp cả quần áo nữa.

Mã phu nhân đưa đẩy sóng tình, cười rất tươi nói:

- Tôi không ăn cắp bộ quần áo mới đó đâu. Tôi cầm lại chỗ bàn có để đủ đồ dùng về việc may vá, lấy kéo cắt nát cái áo mới đó ra, còn cái quần thì tôi rọc ra thành nhiều mảnh khiến cho không tài nào vá lại được nữa.

Phu nhân thở phào một cái rồi nói tiếp:

- Tôi cắt nát được bộ quần áo mới của Tiểu cô nương nhà họ Trương xong thì trong lòng vui thỏa vô cùng, có lẽ thỏa hơn là chính mình có quần áo mới.

Đoàn Chính Thuần nét mặt đang tươi cười, nghe nàng nói tới đó, dần dần biến đổi, ra chiều kém vui, ông nói:

- Tiểu Khang mình ơi! Đừng nói câu chuyện cũ kỹ đó nữa. Chúng ta ngủ thôi!

Mã phu nhân nói:

- Không! Chả mấy khi được cùng mình xum họp vài ngày và từ nay trở đi, e rằng đời ta không còn dịp nào hội diện nữa. Tôi muốn nói chuyện với mình nhiều cho hả dạ.

Bà trầm ngâm một lát rồi hỏi:

- Đoàn lang ơi! Mình có biết tại sao tôi muốn kể lại câu chuyện này còn nhỏ với mình không?

Rồi trả lời:

- Tôi có ý cho mình hiểu rõ gan ruột tôi. Từ thuở nhỏ tôi đã mật ghen túc như vậy đó. Tôi phải cái nết bất luận sự vật gì tôi đã ngày đêm ao ước mà không vào tay mình, lại để cho kẻ khác có được, thì bất cứ bằng cách này hay cách khác phải phá tan được sự vật đó mới nghe.

Phu nhân liếc mắt nhìn Đoàn Chính Thuần để dò ý tứ rồi nói:

- Còn bé dại gì thì dùng phương pháp cỏn con đó. Người một lớn, trí thông minh cũng mỗi ngày mỗi tiến bộ, mà phương pháp hành động càng tế nhị, càng huyền diệu hơn.

Đoàn Chính Thuần lắc đầu lia lịa nói:

- Mình ơi! Tôi không ưa nghe những câu chuyện ấy đâu.

Mã phu nhân tủm tỉm cười, rỡ mớ tóc trên đầu ra, tóc thả rũ thỏng xuống sau lưng mềm ruồi ruội. Bà cầm cái lược bằng ngọc dương, từ từ chải tóc rồi thốt nhiên quay lại nhìn Đoàn Chính Thuần nở một nụ cười, một nụ cười rất quyến rũ.

Bà nói:

- Đoàn lang ơi! Mình lại ôm tôi đi!

Giọng nói mới êm ái não nùng làm sao.

Tần Hồng Miên cùng Nguyễn Tinh Trúc nằm lăn bên ngoài tuy không nhìn thấy cảnh tượng trong nhà, nhưng nghe phu nhân mà lửa ghen bốc lên như đốt cháy tâm can.

Đoàn Chính Thuần cười ha hả, chống tay xuống giường ngồi lên chạy lại ôm lấy Mã phu nhân, nhưng say quá không dậy được cười:

- Mới uống có bốn năm chung rượu mà đã say, Tiểu Khang mình ơi! Nhan sắc nguyệt thẹn hoa nhường của mình cho người ta say mệt say mê, thực say chẳng kém gì uống rượu nồng. Trời ơi là trời!

Tiêu Phong nghe Đoàn Chính Thuần nói giật mình, mới uống có bốn, năm chung rượu đã say đến thế được Đoàn Chính Thuần đâu phải tầm thường, tửu lượng kém vậy thì thật là vô lý. Phải chăng có điều gì bí ẩn bên trong?

Bỗng lại thấy Mã phu nhân cười khanh khách nói:

- Đoàn lang! Mình lại đây mau! Tôi không còn chút khí lực nào nữa rồi! Mình... Mình lại bồng tôi lên giường mới được.

Đoàn Chính Thuần lại gắng gượng một lần nữa mà vẫn không tài nào được, cười nói:

- Lạ quá mình ạ! Sao tôi cũng mất hết khí lực? Tôi nhìn thấy mình chẳng khác gì chuột trông thấy mèo, bủn rủn cả người.

Mã phu nhân cười nói:

- Đoàn lang ơi! Tôi không tin mình đâu, mới uống một tý rượu mà đã giả vờ say để dối người ta thì ai nghe được. Mình thử vận động nghị lực xem có được không nào?

Đoàn Chính Thuần vận công, đề khí, nhưng trong bụng trống rỗng như cõi hư vô, chẳng thấy gì hết. Mười năm trời bồi dưỡng nội lực mà đột nhiên mất hết không còn sót lại mảy may chẳng hiểu nội lực đã thoát đi đâu hết tự bao giờ? Đoàn Chính Thuần thấy vậy, rất đỗi hoang mang, biết là tình thế cực nghiêm trọng rồi. Nhưng ông vốn người lịch duyệt gian hồ, từng là nguy hiểm, ngoài mặt vẫn không mảy may xúc động.

Ông cười nói:

- Với nội kinh về "Nhất dương chỉ" cùng "Lục mạch Thần kiếm" ta say rồi chỉ biết giết người, chứ không ôm người bao giờ.

Tiêu Phong nghe câu này của Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng Đoàn Chính Thuần tuy hiếu sắc nhưng vẫn giữ được bản lãnh con người hào kiệt không đến nỗi u mê tăm tối. Y biết mình lâm vào tình trạng hiểm nghèo mà còn biết nói câu: "chỉ biết giết người chứ không biết ôm người!." Thực ra y chỉ có phép "Nhất dương chỉ" còn đến "Lục Mạch Thần Kiếm" thì chắc là chưa biết. Đúng là y hư trương lực lượng để hăm dọa.

Tiêu Phong đang ngẫm nghĩ, bỗng nghe Mã phu nhân nhõng nhẽo:

- Ối chao! Tôi nhức đầu! Đoàn lang ơi! Hay là... hay là có kẻ bỏ thuốc mê vào rượu?

Đoàn Chính Thuần đang ngờ mình bị Mã Phu nhân, chợt nghe bà nói vậy, lại không ngờ bà ta nữa. Ông nhìn bà vẫy:

- Tiêu Khang! Mình lại đây! Tôi nói để mình nghe.

Mã phu nhân làm bộ dạng cất bước lại gần Đoàn Chính Thuần người không nhúc nhích được, nằm gục xuống bàn, vẻ mặt như bông hoa đào, thở hổn hển hói:

- Đoàn lang ơi! Tôi không cất nổi chân rồi. Sao mình... hại tôi?

Đoàn Chính Thuần lắc đầu, dúng tay vào chung rượu trên bàn:

- Bị địch nhân ám toán rồi, ráng mà chấn tỉnh!

Nhưng miệng ông giả vờ nói cứng:

- Mấy chén rượu độc này làm mê ta thế nào được?

Mã phu nhân viết lên bàn một câu hỏi:

- Có đúng thế không?

Đoàn Chính Thuần viết:

- Đừng tỏ ra khiếp nhược.

Và lên tiếng hỏi to:

- Tiểu Khang mình ơi! Hay mình có kẻ thù nào hạ nhục để hại tôi?

Tiêu Phong từ lúc thấy Đoàn Chính Thuần viết năm câu tỏ ra khiếp nhược, lẩm bẩm: "Hỏng rồi" Ông nghĩ rằng Đoàn Chính Thuần là tay đáo để nhưng hãy còn thấp cơ so với bà. Rõ ràng là chính tay Mã phu nhân bỏ thuốc độc vào rượu. Y nói câu: "...chỉ biết giết người chứ không biết ôm người". Mụ sợ võ công họ Đoàn ghê gớm, giả vờ trúng độc để xem hư thực ra sao. Thế là y mắc bẫy mụ ngay.

Bỗng thấy Mã phu nhân tỏ vẻ lo lắng, lại viết lên một câu "Có thật mình hết nội lực rồi, không thể cự địch được nữa"

Ngoài miệng phu nhân nói:

- Đoàn lang ơi! Nếu mình hạ được quân gian tặc để ngó chúng ta thì hay lắm! Mình không cần đắn đo gì, cứ cho kẻ nào lớn mật có dám vào đây động thủ không?

Đoàn Chính Thuần viết:

- Chỉ mong thuốc mê chóng nhạt, địch đến chậm lại.

Ngoài miệng ông đáp:

- Phải đó! Tôi đang cảm thấy tịch mịch đây, có kẻ nào vào cho mình tiêu khiển một lúc càng vui, tôi đang mong họ lắm! Tiểu Khang mình ơi! Mình có muốn coi tôi cách không điểm huyệt chăng?

Mã phu nhân cười nói:

- Tôi chưa được coi tuyệt nghệ đó bao giờ. Nếu nội lực mình đã mất hết thì thử ra thủ pháp cách không điểm huyệt cho tôi coi sao! Mình dùng phép "Nhất dương chỉ" điểm thủng tấm giấy dán cửa sổ kia xem có được không?

Đoàn Chính Thuần vừa khẽ chau mày vừa đưa mắt ra hiệu nói giằng giọng ỡm ờ:

- Nội lực tôi mất sạch còn đâu? Không thể cách không điểm huyệt được nữa rồi.

Ðoạn ông thấp giọng:

- Bây giờ tôi thi triển thủ thuật, địch nhân nghe thấy thì sao? Chẳng chả có ý tứ gì hết!

Mã phu nhân càng giục gấp:

- Mình động thủ đi! Cứ động thủ đi! Mình chỉ điểm cho mảnh giấy kia thủng ra một lỗ là địch nhân bỏ vía phải chuồn cho sớm. Mình còn chờ để địch nhân tỏ tường thực hư thì hỏng bét đấy!

Đoàn Chính Thuần chột dạ nghĩ thầm:

- Trước này nàng thông minh lanh lợi như thế, sao lúc này lại cố ý làm ngớ ngẩn?

Ông còn đang suy nghĩ, bỗng thấy Mã phu nhân nhỏ nhẹ nói:

- Đoàn lang ơi! Mình trúng phải thứ "Thập hương mê hồn tán" thật vô cùng. Dù mình còn có bản lãnh nghiêng trời cũng mất hết nội trạng. Nếu mình còn có thể cách không điểm huyệt được, thì thử cố sức thử vào mảnh ván cửa kia, nếu thủng được thì tuyệt lắm!

Đoàn Chính Thuần thất thanh hỏi:

- Tôi trúng phải thứ "Thập hương mê hồn tán" cực độc đó ư?

Mã phu nhân cười đáp:

- Mình... mình có biết đâu? Tôi rót rượu cho mình, bỏ thuốc kịch độc đó rớt vào hồ rượu mới chết chứ!

Đoàn Chính Thuần gượng cười nói:

- À ra thế đấy! Nếu như vậy thì không cần.

Bây giờ ông mới hiểu rõ, biết mình bị Mã phu nhân kiềm mình lại, phát cáu quát mắng cũng chẳng ích gì. Ông vờ phớt tỉnh như không có chuyện gì, cố giữ tâm thần cho bình tĩnh để ứng phó diện nguy hiểm này.

Ông lại nghĩ:

- Nàng đối với mình vốn có một mối tình hẳn cũng không có ý sát hại mình đâu. Đây chắc là nàng cho mình về nước nữa, ở lại đây với nàng vĩnh viễn đó thôi, trở về Đại Lý cũng phải đưa nàng đi theo, kết đôi vợ chồng một chính ngôn thuận, thế thì nàng si tình với mình, dù nàng quá tệ cũng không phải vì nàng có lòng đen tối.

Mã phu nhân lại hỏi:

- Bây giờ mình có chịu cùng tôi kết nghĩa phu thê cho răng long đầu bạc không?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Mình thật tệ hại quá! Thôi, tôi chịu đầu hàng với mình theo tôi về nước Đại Lý. Tôi lấy mình vào hàng trắc Trấn Nam Vương.

Tần Hồng Miên cùng Nguyễn Tinh Trúc nghe tức chết:

- Con tiện nhân này ra tuồng gì đâu? Sao chàng không cự, mà lại chịu nó.

Hai bà đang uất ức, bỗng nghe Mã phu nhân nói:

- Đoàn lang! Nãy tôi đã hỏi mình liệu chừng nào, thì mình nói tại nước Đại Lý nhiều Lam khí, khí hậu thấp nhiệt, tôi qua đó chỉ tổ sinh bịnh. Bây giờ bách mình mới chịu, chứ bản tâm mình đối với tôi đâu có tình nghĩa.

Hồi Thứ 36

Dưới khóm Mẫu Đơn đành bỏ mạng

Chết là quỷ sứ cũng phong lưu. Đoàn Chính Thuần thở dài nói:

- Tiểu Khang mình ơi! Tôi nói để mình hay, tôi là Hoàng Thái nước Đại Lý ở ngôi Trấn Nam Vương lãnh quyền Bảo Quốc Đại tướng quân, Hoàng huynh tôi lại không có con trai. Sau khi người trăm tuổi, tôi sẽ lên kế vị làm Hoàng Đế. Tôi ở lại Trung Nguyên thì chỉ là một vũ phu, nhưng khi đã về nước Đại Lý rồi thì không còn bừa bãi được nữa, có phải không mình?

Mã phu nhân nói:

- Phải rồi! Thế thì làm sao?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Tôi đã đưa mình về Đại Lý, quyết nhiên không canh cho được ước hẹn nữa. Địa vị tôi ở nước Đại Lý, bất luận đối với ai cũng không thể nói lời rồi lại ăn lời được.

Mã phu nhân khẽ thở dài nói:

- Tôi biết mình nói đúng lý lắm rồi. Về sau mình làm Hoàng Thượng thể phong tôi làm Hoàng Hậu nương nương được không?

Đoàn Chính Thuần ngần ngừ đáp:

- Tôi đã có vợ nguyên phối, chức Hoàng Hậu không thể để cho bà được.

Mã phu nhân nói:

- À phải! Tôi là một quả phụ làm Hoàng Hậu nương nương thế là được. Như thế người ta cười chết phải không?

Phu nhân lại cầm lược từ từ chải đầu cười nói:

- Đoàn lang! Vừa rồi tôi nói câu chuyện gì cho mình nghe. Chắc mình hiểu ý tôi rồi chứ?

Đoàn Chính Thuần mồ hôi trán toát ra đầm đìa gắng gượng an tinh thần, nhưng nội công cần cù mấy chục năm trời là lạ, bây giờ không biết thoát đi đâu mất hết, khác nào người ngoài nước chới với không biết bám víu vào đâu, dù chỉ là một môn không có.

Bỗng nghe Mã phu nhân hỏi:

- Đoàn lang! Trong người mình nóng phải không? Đấm mồ hôi cho mình.

Nói xong nàng rút trong túi ra một cái khăn lụa trắng, lại lau Đoàn Chính Thuần, nhẹ nhàng lau mồ hôi trán cho y rồi nói rất ngọt:

- Đoàn lang! Mình phải giữ thân cho cẩn thận mới được. Người ta sau khi uống rượu, rất dễ bị cảm gió. Nếu mình khó ở thì đâm lo!

Đoàn Chính Thuần ở trong nhà cũng như Tiêu Phong ở ngoài cửa sổ, nghe mụ nói câu này đều phát ớn.

Đoàn Chính Thuần gượng cười nói:

- Tối hôm đó, mình ra mồ hôi nhiều, tôi đã lau cho mình. Khăn tay đó tôi còn để trong người tôi làm kỷ niệm.

Mã phu nhân nói bằng một giọng mơ màng:

- Chuyện cũ mười mấy năm trước đây mình còn nhắc lại làm gì. Mình thử lấy khăn tay đó cho tôi coi nào!

Đoàn Chính Thuần quả có đem chiếc khăn tay cũ bên mình. Điều này làm cho phụ nữ say mê là vì y biết cách chìu đàn bà bằng nhiều yếu tố rất tế nhị, khiến cho cô nào đã cùng y vướng víu một đoạn đời đều tin y thực tâm với mình. Nếu việc lương duyên không được thỏa mãn với y, là do những biến cố bất thường chứ không phải là người bạc bẽo.

Đoàn Chính Thuần toan thò tay móc khăn ra để Mã phu nhân nhìn lại mối tình mà xưa động tâm giải thoát đại nạn cho mình chăng trong tay đã tê dại. Thứ "Thập lý mê hồn hương" chất độc cũng gom góp làm cho Đoàn Chính Thuần không thò tay lấy khăn ra được.

Mã phu nhân lại giục:

- Mình lấy cho coi đi! Chà! Mình lại lừa dối tôi rồi!

Đoàn Chính Thuần nhăn nhó cười nói:

- Ha ha! Say đến nỗi tay không cất nhắc được. Mình thò tay mà lấy.

Mã phu nhân nói:

- Tôi không mắc lừa mình đâu. Mình muốn tôi lại gần rồi đem "Nhất dương chỉ" ra điểm chết tôi.

Đoàn Chính Thuần tủm tỉm cười nói:

- Con người nghiêng nước nghiêng thành, mỹ lệ tuyệt luân như mình, tôi có là một tên hung đồ tội ác ngập trời cũng không dám động đến chân lông mình.

Mã phu nhân cười nói:

- Có thật thế không? Đoàn lang ơi! Tôi vẫn có chỗ không yên tâm phải lấy dây trói hai tay mình lại đã rồi sau... mới lấy dây tơ cột trái tim mình được.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Mình cột trái tim tôi từ trước rồi không thì làm sao tôi cứ phải đã đến với mình?

Mã phu nhân cười nói:

- Mình thật là người tốt quá. Chả trách lúc nào tôi cũng quyến luyến mình!

Mụ vừa nói vừa rút ở cái lót yên ngựa ra một khúc gân bò.

Đoàn Chính Thuần cả kinh lẩm bẩm: Té ra nàng đã chuẩn bị từ trước cả, mình cứ lơ mơ chẳng biết gì hết. Đoàn Chính Thuần ơi là Đoàn Chính Thuần! Nay ngươi có mất mạng nơi đây cũng đừng trách ai nữa!

Mã phu nhân nói:

- Đoàn lang ơi! Tôi hẵng trói tay mình trước và nói thay mình hay là tôi thương yêu mình không tả, mình đừng có giận tôi.

Giả tỉ đối với người khác thì Đoàn Chính Thuần thà là cũng quát mắng ầm lên cho hả giận chứ không chịu. Nhưng đây lại năn nỉ đem cả tình xưa nghĩa cũ ra để mong cảm động Mã phu nhân. Đoàn Chính Thuần biết rõ Mã phu nhân có tính hiểm độc, nàng là đàn bà song so với nam nhi tầm thường thì nàng còn ghê hơn nhiều. Dù có chửi mắng đến đâu cũng chẳng làm được cơn tức giận, mà van lơn cũng chẳng khiến cho nàng hồi tâm nghĩ lại, nay chỉ còn cách kéo dài thời gian, thử xem may ra còn có cơ thoát hiểm được mà thôi. Nghĩ vậy y liền cười nói:

- Mỗi khi tôi trông thấy đôi mắt say đắm của mình thì bỗng nhiên trời công tan thành mây khói. Mình lại đây cho tôi ngắm hoa nhài trên đầu mình!

Mười năm trước đây vì câu nói tình tứ này mà Đoàn Chính Thuần đã cùng Mã phu nhân gây nên một mối tình khăng khít. Lúc này gợi lại chuyện xưa. Mã phu nhân lạng tấm thân mềm mại uyển chuyển trước mặt Đoàn Chính Thuần, vẻ phong tình kể sao cho xiết, bẽn lẽn lại càng duyên dáng vô cùng.

Mã phu nhân đưa tay ra vỗ nhè nhẹ vào mặt Đoàn Chính Thuần tiếng oanh thỏ thẻ:

- Đoàn lang ơi hỡi Đoàn lang! Buổi đó tôi trao thân gởi phận mình và hỏi mình: Nếu sau mình ăn ở hai lòng thì sao?

Đoàn Chính Thuần hoa cả mắt lên. Trên trán từng giọt mồ hôi bằng hạt đậu đang nhỏ xuống.

Mã phu nhân nói tiếp:

- Bạc tình lang ơi! Mình đã thể thốt nặng lời rồi chớp nháy quên ngay ư?

Đoàn Chính Thuần nhăn nhó cười đáp:

- Ngày đó tôi biểu mình sẽ đem thịt tôi cho mình cắn ra từng miếng. Lời thề thốt đó tôi tưởng chỉ là câu nói đùa những lúc đôi trai gái say mê trong cuộc truy hoan, thiếu gì những câu nói ngộ nghĩnh như tương tự. Nhưng bây giờ nghe lại không khỏi hãi hùng!

Mã phu nhân cười rất duyên dáng nói:

- Tôi thật không thể không ngoạm thịt mình được. Đoàn lang ơi! Tôi muốn trói tay mình lại, mình có chịu không! Mình chịu thì tôi trói còn không chịu thì thôi. Trước nay tôi không hề trái ý mình bao giờ, cách cốt sao cho mình đạng vui lòng.

Đoàn Chính Thuần biết rằng đã đến nước này, nàng quyết không buông tha mình nữa rồi. Nếu mình không chịu để cho nàng trói, tất nàng có cách khác càng ghê gớm hơn.

Nghĩ vậy, y gượng cười nói:

- Mình muốn trói thì trói đi. Dưới khóm mẫu đơn đành bỏ mạng chết thành quỷ sứ cũng phong lưu. Tôi được chết về tay mình cũng là một sự khoái lạc hiếm có rồi.

Tiêu Phong đứng bên ngoài cửa sổ nghe câu này rất bội phục Đoàn Chính Thuần là con người gan dạ ghê gớm. Đang lúc nguy ngập như vậy mà y vẫn cười nói ung dung.

Bỗng thấy Mã phu nhân bắt quặt hai tay Đoàn Chính Thuần ra sau lưng dùng chão gân bò trói lại đến bảy tám vòng xiết thật chặt. Đừng nói Đoàn Chính Thuần lúc này đã mất hết võ công, mà ngay khi nội lực còn nguyên, cũng không thể nào cựa thoát được.

Mã phu nhân lại cười rất tươi nói:

- Tôi còn giận cặp giò của mình nữa, hễ bước ra đi là mất hút.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Năm trước tôi cùng mình hội ngộ được là nhờ cặp giò đó mang đến. Vậy thì cặp giò này tuy tội rất lớn nhưng công lao nó cũng không phải nhỏ.

Mã phu nhân nói:

- Được lắm! Để tôi cột chúng lại.

Nói xong lại lấy một chão gân bò khác cột chặt hai chân Đoàn Chính Thuần. Mã phu nhân lại lấy một lưỡi dao nhỏ, từ từ rạch vai áo của Đoàn Chính Thuần để lộ da thịt cánh tay trắng nõn.

Đoàn Chính Thuần tuy đã hơn bốn mươi tuổi, nhưng trên thân vương trong Hoàng cung, thức ăn chốn ở cực kỳ sung sướng được vinh hoa phú quí suốt đời nên bả vai và cánh tay da mịn màng.

Mã phu nhân đưa tay ra khẽ vỗ vào vai y rồi ghé cái miệng hôn má y chùn chụt, hôn từ đầu dần dần xuống đến bả vai.

Đột nhiên Đoàn Chính Thuần kêu rú lên một tiếng:

- Ối chao!

Tiếng rú kinh hồn như xé tan bầu không khí tịch mịch đêm khuya. Mã phu nhân ngẩng đầu lên, miệng đầy máu tươi. Mụ đã cắn một miếng thịt bả vai Đoàn Chính Thuần đứt hẳn ra. Máu tươi tuôn thương chảy ra như suối.

Mã phu nhân nhổ miếng thịt xuống đất, vẫn nói bằng giọng rất quyến rũ:

- Đoàn lang ơi! Đây là chính miệng mình nói ra. Mình đã nói với tôi nếu thay lòng đổi dạ thì chịu để cho tôi ngoạm từng miếng thịt.

Đoàn Chính Thần cười ha hả nói:

- Đúng rồi! Tiểu Khang mình ơi! Tôi đã nói thế nào là đúng thế ấy. Có lúc tôi đã nghĩ sau không biết mình chết cách nào cho lý thú? Nằm trên giường bệnh mà chết thì là việc quá tầm thường so chiến trường tranh đấu để bảo vệ đất nước mà chết tuy là đáng khen nhưng đó chẳng qua mới được tiếng anh dũng cho được phong lưu. Cái chết đó tuy cao đẹp nhưng vẫn còn khiếm tốn được thỏa chí bình sinh của Đoàn Chính Thuần này. Tiểu Khang mình ơi! Bữa nay mình nghĩ ra được một cách tuyệt hay là Đoàn Chính Thuần chết dưới cái miệng anh đào của một bậc mỹ nhân đẹp nhất trần gian rằng đều như hạt trân châu, thật là xứng với tâm nguyện của tôi.

Tần Hồng Miên cùng Nguyễn Tinh Trúc nghe tới đây đều hồn vía bay mây, biết rằng tính mạng Đoàn lang sẽ chết trong khoảnh khắc. Hai người lại thấy Tiêu Phong có đứng dưới cửa sổ dòm ngó động tĩnh, vẫn không ra tay cứu viện thì rủa ngầm ông chẳng tiết lời, vì nếu ông không bấm huyệt thì hai bà đã chạy vào cấp cứu.

Tiêu Phong chưa biết ý định của Mã phu nhân ra sao. Không hiểu mụ thực tình giết Đoàn Chính Thuần hay chỉ hăm dọa cho y nếm mùi tội lỗi về thói đa tình, rồi buông tha y, đặng bắt y từ đây sắp tới phải vĩnh viễn dốc dạ trung thành dưới bóng quần hồng. Giả tỷ mà hành vi của mụ chỉ quanh quẩn ở trong vấn đề tình tứ, ngoài ra không có gì khác, mà mình hấp tấp nhảy vào phòng cứu y, thì sự cứu viện này chẳng những vô ý thức mà còn lỡ mất cơ hội do thám chân tướng y.

Tiêu Phong nghĩ vậy nên vẫn trầm mặc theo dõi cuộc diễn biến. Bổng thấy Mã phu nhân cười nói:

- Đoàn lang ơi! Tôi định cắn mình từ từ cho đến chết, cắn hàng ngàn hằng vạn miếng mới hả giận. Song lại sợ bộ hạ của mình đến cứu. Vậy tôi cắm sẵn mũi dao vào chỗ trái tim mình, chỉ đâm sâu chừng nửa mũi để đó. Nếu cắn mình chưa chưa chết đã có người đến cứu, thì tôi đâm mạnh chuôi dao một chút, mình sẽ chết ngay và khỏi phải chịu đau đớn.

Mã phu nhân vừa nói vừa rút lưỡi dao trủy thủ ra sáng loáng, rạch trước ngực Đoàn Chính Thuần, cầm lưỡi dao trủy thủ mũi nhọn cắm đúng chỗ trái tim, rồi bàn tay nhỏ nhắn khẽ đâm một cái. Mũi dao trủy thủ cắm vào trước ngực Đoàn Chính Thuần và dĩ nhiên mụ phu nhân đâm rất nông mà thôi.

Lúc Mã phu nhân cầm dao trủy thủ đâm vào ngực Đoàn Chính Thuần, Tiêu Phong nhìn tay mụ không chớp mắt. Giả tỷ ông thấy mụ ra sức mạnh có nguy hại đến tính mạng Đoàn Chính Thuần thì lập tức sẽ phóng chưởng đánh vào bật văng mụ ra. Nhưng thấy mụ cắm mũi dao vào, nên ông để mặc kệ.

Bỗng nghe Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Tiểu Khang mình ơi! Sau khi mình cắn chết tôi rồi, tôi không lìa khỏi bên mình đâu!

Mã phu nhân hỏi:

- Sao thế?

Đoàn Chính Thuần đáp:

- Vì hễ khi vợ giết chồng thì linh hồn không tiêu tan mà quẩn bên mình vợ để giữ không cho gã trai thứ hai nào bén theo được.

Đoàn Chính Thuần nói câu này là cốt để hăm dọa mụ, mụ nao núng trong lòng mà không dám ra tay độc ác nữa chăng.

Không dè Mã phu nhân nghe xong tái mặt, bất giác ngoái nhìn phía sau.

Đoàn Chính Thuần hỏi:

- Thằng chó chết đứng sau mình đó là ai?

Mã phu nhân cả kinh đáp:

- Có ai đâu? Mình chỉ nói nhăng.

Đoàn Chính Thuần nói:

- Hừ! Gã trai này đang toét cái miệng khả ố ra mà và đang sờ tay lên cổ, dường như cổ hắn bị đau lắm. Thằng cha này Người nó cao nghệu mắt nó sa lệ!

Mã phu nhân vội xoay lại, mà nào có thấy ai đâu. Mụ rung lên.

- Mình lừa tôi! Mình dối tôi!...

Ban đầu Đoàn Chính Thuần tưởng thuận miệng nói câu ra chơi. Y thấy Mã phu nhân hoảng hốt lạ thường thì trong lòng của Y đoán rằng Mã Đại Nguyên bị sát hại không chừng có điều nghi bên trong. Y biết Mã Đại Nguyên chết vì đòn "Tỏa hầu cầm nã" liền cố ý nói ra gã đàn ông đứng sau lưng mụ dường như đau cổ họng lắm và chảy nước mắt ra, quả nhiên Mã phu nhân hoảng hốt vô cùng.

Đoàn Chính Thuần đã đoán ra được mấy phần về vụ Mã Đại Nguyên bị giết thì nghĩ thầm: Bữa nay mình muốn thoát khỏi tai nạn phải dùng những yếu tố trong vụ này làm phương châm.

Đoàn Chính Thuần nghĩ vậy làm bộ ngạc nhiên nói:

- Ô hay! Lạ quá! Thằng cha đó chớp mắt đã chạy đâu mất rồi, không thấy đứng đó nữa. Hắn là ai vậy? Hắn là ai vậy?

Mã phu nhân tuy trong lòng kinh hãi nhưng chỉ trong giây lát đã trấn tỉnh lại ngay, mụ nói:

- Đoàn lang ơi! Bữa nay đã đến nước này, chắc mình cũng biết rằng không ứng nghiệm thề không xong. Đôi ta đã cùng nhau vui thú một hồi, âu là tôi kết liễu cuộc đời cho mình một cách mau lẹ khoan khoái!

Nói xong mụ tiến sát lại thêm một bước đưa tay ra toan nắm lấy đuôi dao trủy thủ đâm mạnh vào.

Đoàn Chính Thuần biết tính mạng mình tựa hồ ngàn cân treo đầu sợi tóc, dù có muốn kéo dài thời gian thêm chút nữa cũng không được nào. Y liền trợn trừng hai mắt nhìn về phía sau Mã phu nhân la hoảng:

- Mã Đại Nguyên! Đại Nguyên mau bóp chết nó đi!

Mã phu nhân thấy vẻ mặt Đoàn Chính Thuần hốt hoảng lạ thường mụ đã giật mình, lại thấy y gọi "Mã Đại Nguyên" bất giác quay đầu nhìn lại. Đoàn Chính Thuần chụp lấy cơ hội chớp nhoáng này, cúi đầu xuống đâm đúng xương quai hàm Mã phu nhân hất mạnh lên.

Bỗng đánh "huỵch" một tiếng, Mã phu nhân ngã lăn ra chết giấc.

Nguyên Đoàn Chính Thuần đã dồn hết nội lực, nên y hất đầu lên được mãnh liệt. Mã phu nhân chỉ ngất đi một chút rồi hồi tỉnh lại được ngay. Mụ vội vàng đứng vậy gĩư lấy xương quai hàm nói:

- Đoàn lang ơi! Mình thật dã man quá, hất hàm làm cho ta đau chết đi được. Mình kiếm chuyện dọa tôi, nhưng tôi không tha mình đâu.

Đoàn Chính Thuần gom góp khí lực hàng mấy giờ chỉ được dồn cả vào để xô Mã phu nhân một cái xong nội lực y lại hết nghĩ rằng đã đến lúc sức cùng lực kiệt, không còn cách nào thắng nữa, liền buông tiếng thở dài, ngấm ngầm than rằng:

- Mạng ta đến đây là hết, thôi còn nói gì nữa!

Không biết Đoàn Chính Thuần nghĩ sao lại nói:

- Tiểu Khang mình ơi! Mình định giết tôi thật ư? Rồi Cái Bang sẽ truy vấn mình về tội mưu sát thân phu, còn ai dám đến mình nữa?

Mã phu nhân cười hì hì nói:

- Ai biểu tôi mưu sát thân phu? Sau khi tôi giết mình tôi xa chạy cao bay, còn lần chần ở đây làm gì nữa?

Mụ thở dài nói tiếp:

- Đoàn lang ơi! Thật tình tôi thương mình, nhớ mình nhiều, vì tôi không giữ được mình, nên cần phải giết đi. Lòng dạ của tôi đó, ngoài cách này không còn cách nào nữa.

Đoàn Chính Thuần nói:

- À! Phải! Rồi hôm ấy mình cố ý đánh lừa cô bé khiến Tiêu Phong giết tôi thì ra cũng vì chuyện này.

Mã phu nhân nói:

- Đúng thế! Thằng cha Tiêu Phong chẳng làm nên trò gì, có cái việc giết mình, gã cũng không làm xong.

Tiêu Phong nghĩ thầm:

- A Châu giả làm Bạch Thế Kính thần diệu vô song đến mình cũng không nhịn, bà này ít khi cùng ngồi với Bạch Thế Kính mà sao lại khám phá ra được mới kỳ?

Bỗng thấy Mã phu nhân nói:

- Đoàn lang ơi! Tôi lại cắn mình miếng nữa nhé?

Đoàn Chính Thuần nói:

- Mình cắn đi! Tôi chỉ mong vậy thôi!

Tiêu Phong nghĩ bụng:

- Mình không thể chần chờ được nữa.

Liền thò tay vào. Bức vách đất phía sau Đoàn Chính Thuần chẳng có gì kiên cố cho lắm, ông ngầm vận nội kình lực vào cánh tay để dùi thủng qua, không một tiếng động, đặt bàn tay lên lưng Đoàn Chính Thuần.

Giữa lúc ấy, Mã phu nhân ngoạm một miếng thịt nữa trên bả vai Đoàn Chính Thuần. Đoàn Chính Thuần lại kêu rú lên một tiếng thật to, người run lên lẩy bẩy. Nhưng thốt nhiên y thấy chân tay được tự do.

Nguyên dây chão gân bò trói tay Đoàn Chính Thuần đã bị Tiêu Phong dùng mấy ngón cấu đứt, đồng thời ông vận một luồng kình lực thâm hậu vào kinh mạch y.

Hồi Thứ 37

Một người bí mật

Ðoàn Chính Thuần giật mình biết rằng phía ngoài đã công thủ đến viện trợ cho mình. Y vừa nghĩ ngợi vừa thấy luồng lực từ sau lưng chuyền đến cánh tay rồi dẫn cả vào đầu ngón tay, thần công "Nhất dương chỉ" đã phóng ra.

Mã phu nhân trúng chỉ ở dưới nách, rú lên một tiếng thật kinh khủng rồi ngã vật xuống giường. Tiêu Phong thấy Đoàn Chính Thuần đã kiềm chế được địch nhân vội rút tay ra.

Đoàn Chính Thuần toan mở miệng tạ ơn, bỗng thấy cánh cửa mở ra, một người xồng xộc chạy vào cất tiếng hỏi:

- Tiểu Khang! Mình không cắt đứt được mối tình xưa thật ư? Sao mãi mà chưa thanh toán xong hắn?

Tiêu Phong đứng ngoài cửa sổ, vừa nhìn thấy người này đã thộn mặt ra. Trong khoảnh khắc, đầu óc ông nảy ra không nhiều nghi vấn, nhưng chớp mắt dường như ông đã tìm ra giải đáp.

Tiêu Phong đoán ra rằng:

- Hôm ấy ở trong rừng hạnh, người vô tích, Mã phu nhân đem cây quạt của mình ra phao vu là công tử đến ăn cắp thư tín rồi vội vã bỏ rơi.

Ông tự nêu ra nhiều câu hỏi:

- Cây quạt này ở đâu ra? Nếu quả có người lấy cắp thì phải là người rất thân mình và người ấy là ai? Ta là người Khất Đan, vụ đó rất bí mật, đã dấu nhẹm được ba mươi năm, sao đột nhiên lại phanh phui ra? A Châu cải trang làm Bạch Thế Kính đến trời cũng không biết. Mã phu nhân khám phá ra đươc?

Nguyên người lẻn vào phòng này chẳng phải ai xa lạ mà chính là pháp trưởng lão tại Cái Bang tên gọi là Bạch Thế Kính.

Nghe Bạch Thế Kính hỏi, Mã phu nhân kinh sợ đáp:

- Hắn... Hắn chưa mất hết võ công. Hắn điểm... điểm trúng huyệt đạo tôi.

Bạch Thế Kính vừa nghe xong nhảy chồm lại Đoàn Chính Thuần cầm lấy hai tay bẻ "rắc rắc" xương cổ tay Đoàn Chính Thuần bị gãy nát.

Ta nên biết rằng Tiêu Phong có trút được chân khí vào thân thể Đoàn Chính Thuần thì nội lực y cũng chỉ tạm thời chống chọi được một lát, Tiêu Phong rút tay về thì y lại thành phế nhân. Từ lúc Tiêu Phong ngó thấy Bạch Thế Kính, trong đầu óc ông tuôn luồng tư tưởng nổi lên như sóng cồn. Ông không nghĩ đến chuyện lại ra tay viện trợ cho Đoàn Chính Thuần, đồng thời ông cũng không ngờ Bạch Thế Kính lại hạ độc thủ ngay. Khi biết ra thì xương cổ tay Đoàn Chính Thuần đã bị bẻ gãy rồi chàng tặc lưỡi lẩm bẩm:

- Lão này lắm vẻ phong tình, đầy lòng hiếu sắc, bữa nay để lão đau khổ cho đáng kiếp. Mình có nể mặt A Châu thì cũng chờ đến lúc cuối cùng sẽ cứu tính mạng cho lão.

Tiêu Phong còn đang nghĩ ngợi, bỗng nghe Bạch Thế Kính nói:

- Gã họ Đoàn kia! Ta không ngờ bản lãnh ngươi ghê gớm đến thế! Ngươi đã uống "Thập hương mê hồn tán" mà nội lực vẫn còn lại mấy phần.

Đoàn Chính Thuần tuy chưa biết người đứng bên ngoài bức vách chưởng vào viện trợ nội lực cho mình là ai? Nhưng y biết chắc là một nhân vật bản lãnh ghê gớm. Trước mặt tuy thêm một kẻ cường tráng nhưng sau lưng đã có tay đại viện nên trong lòng y chẳng chút hoang mang.

Nghe giọng cười Bạch Thế Kính, Đoàn Chính Thuần hiểu Bạch chưa biết có người giúp sức cho mình, liền hỏi:

- Phải chăng tôn giá là người trưởng lão Cái Bang? Tại sao tôn giá chưa từng quen biết nhau, sao lại hạ độc thủ đến thế?

Bạch Thế Kính không trả lời, chạy vội đến bên mình Mã thò tay vào nắn lưng mụ mấy cái. Song phép "Nhất dương Chỉ" họ Đoàn cực kỳ thần diệu, tuy võ công Bạch Thế Kính ghê gớm mà không sao giải khai huyệt đạo được cho mụ.

Bạch Thế Kính nhíu cặp lông mày hỏi:

- Mình thấy trong người thế nào?

Giọng nói rất là quan thiết! Mã phu nhân đáp:

- Chân tay tôi bị tê liệt không nhúc nhích được. Thế này mình ơi! Mình thanh toán xong hắn đi, rồi đôi ta mau thoát khỏi đây... Tôi không muốn chần chừ ở trong căn nhà này nữa.

Đoàn Chính Thuần đột nhiên buông một tràng cười ròn rã:

- Ha ha! Ha ha! Tiểu Khang mình ơi! Mình... ơi! Ha ha!

Mã phu nhân nói:

- Mình ơi! Mình vẫn hứng chí lắm nhỉ? Chết đến nơi mà vui cười được kia ư?

Bạch Thế Kính nổi dóa la lên:

- Mi còn gọi hắn bằng Đoàn lang ư? Con tiện nhân kia.

Nói xong trở tay tát một cái thật mạnh. Đoàn Chính Thuần cũng nổi giận quát:

- Dừng tay ngay! Sao ngươi lại đánh nàng?

Bạch Thế Kính cười lạt hỏi lại:

- Thị là người của ta. Ta muốn đánh thì đánh, muốn mắng thì mắng việc gì đến mi?

Đoàn Chính Thuần cười nói:

- Con người nguyệt thẹn hoa nhường như nàng, sao ngươi dám dỡ thói vũ phu, thế mà cũng học đòi làm người! Ngươi phải dằn lòng đừng ăn nói sổ sàng để nàng được vui lòng mới phải chứ?

Mã phu nhân nhìn Bạch Thế Kính nói:

- Mình nghe đó! Người ta đối với tôi thế nào? Sao mình lại phũ phàng đến thế mà không biết thẹn?

Bạch Thế Kính quát mắng:

- Con dâm phụ này! Rồi ta sẽ liệu cho mi! Còn gã họ Đoàn si ngốc kia! Bây giờ ta mới biết mi chỉ quen thói nịnh đàn bà. Vậy mà sao mụ vẫn ám hại mi? Này nhớ nhé! Sang năm cũng vào ngày này là ngày giỗ đầu mi đó!

Nói xong lão sấn lại dơ tay ra toan ấn sâu lưỡi dao trủy thủ vẫn để trên ngực Đoàn Chính Thuần từ trước.

Giữa lúc ấy đột nhiên cửa phòng có luồng gió mạnh thổi vào. Vèo một tiếng, luồng kình phong thổi tắt phục lửa đi. Trong phòng tối như mực. Mã phu nhân rú lên một tiếng kinh hãi. Bạch Thế Kính có kẻ địch mới vào không rảnh tay giết Đoàn Chính Thuần, vội chạy vào nghinh địch.

Lão quát hỏi:

- Ai?

Lão vừa giơ hai tay lên đỡ ngực vừa xoay người lại. Luồng kình phong thổi tắt đèn lửa, rõ ràng do một nhân vật bản lãnh tuyệt cao phóng ra, những đèn lửa tắt hết, lại không nghe động tỉnh gì. Bạch Thế Kính, Đoàn Chính Thuần, Mã phu nhân, Tiêu Phong người để hết tinh thần nghe ngóng, đều cảm thấy trong phòng có một người.

Mã phu nhân không nén nổi sự kinh hãi la lên:

- Có người! Có người!

Người mới vào này vẫn lập lờ đứng ở cửa phòng, hai tay chống nhưng không nhìn rõ mặt và người y cũng không nhúc nhích.

Kế đến Bạch Thế Kính quát hỏi:

- Ai?

Lão tiến ra một bước. Người lạ vẫn chẳng nói năng gì mà cũng chẳng nhúc nhích như không nghe tiếng.

Bạch Thế Kính lại quát:

- Nếu không biết người mới đến là bạn hay là thù.

Lão cho chưởng lực quạt tắt đèn lửa vừa rồi phải là tay võ công. Lão không dám mạo hiểm động thủ. Người này vẫn không hé miệng mà cũng không cử động. Căn phòng tối đen, dường như bao phủ một làn không khí ngột ngạc rùng rợn.

Đoàn Chính Thuần ở trong phòng cũng như Tiêu Phong ở ngoài, thấy điệu bộ người mới đến đều kinh hãi nghĩ thầm chắc người này ghê gớm lắm, sao mình nghĩ không ra nhân vật võ lâm giống y? Cả hai người đều lịch duyệt giang hồ, kiến văn rộng không đoán được ra ai.

Mã phu nhân thét lên lanh lảnh:

- Mình đốt lửa lên cho sáng. Tôi sợ... Tôi sợ lắm!

Bạch Thế Kính nghĩ bụng: "Con dâm phụ này ngu quá! Bây giờ đi thắp đèn lửa, lỡ ra kẻ địch thừa cơ đánh úp thì sao?"

Lão vẫn để hai tay đỡ ngực chờ cho địch nhân ra chiêu trước để đoán sơ qua về gốc gác y rồi sẽ tính sau. Nào ngờ người đó vẫn trơ trơ. Hai bên quay mặt vào nhau chừng uống cạn tuần trà. Tiêu Phong dĩ nhiên không muốn lên tiếng. Đoàn Chính Thuần cũng quyết không mở miệng để cho Bạch Thế Kính dò la gốc gác đối phương. Bốn bề im phăng phắc, cả loại côn trùng cũng im tiếng. Từng mảnh tuyết rơi cũng có thể nghe rõ được.

Tình trạng này càng kéo dài, Bạch Thế Kính càng băn khoăn. Lão lại hỏi:

- Người này quyết nhiên là thù chớ không phải là bạn. Nhưng tại sao lão cứ đứng lì chưa chịu ra tay?

Rồi lão tự trả lời:

- Phải rồi! Chắc y còn đợi người đến tiếp viện, vì y sợ một mình không địch lại ta. Nếu để đến lúc kẻ tiếp viện cho y nơi, tất bị bọn chúng cứu Đoàn Chính Thuần đem đi mất.

Nghĩ tới đây, Bạch Thế Kính không dám trì hoãn lại la lên:

- Các hạ đã không trả lời, tại hạ đành phải mạo phạm.

Nói vậy thì nói nhưng lão vẫn chưa ra tay. Đối phương vẫn không động tĩnh. Bạch Thế Kính liền thò tay vào bọc rút ra một cây phá giáp cương vây tung mình nhảy lại. Một ánh sáng xanh lè lấp loáng trong đêm tối vẫn cương trùy nhằm đâm thẳng vào trước ngực đối phương.

Chiêu "Quang xạ đầu ngưu" là một tuyệt kỹ mà bình sinh lão đắc nhất. Người lạ né mình tránh khỏi.

Bạch Thế Kính thấy một luồng gió mạnh phóng lại, ngón tay đối phương nhằm cổ họng mình chụp xuống. Đòn đánh lẹ quá, Bạch Thế Kính chưa kịp thu cương trùy về thì năm đầu ngón tay đối phương đã đụng vào cổ họng mình. Lão hồn vía lên mây hốt hoảng quay lùi về phía sau để tránh đòn rồi run run hỏi:

- Ngươi... ngươi...

Lão sợ quá vì không những đối phương võ công cực cao hình thức vừa rồi chính là đòn "tỏa hầu cầm nã thủ."

Ta nên biết rằng "tòa hầu cầm nả thủ" là một đòn tuyên truyền của Mã Đại Nguyên tức vong phu Mã phu nhân. Chính này ngoại trừ con em nhà họ Mã, không một người nào trong đó biết sử dụng. Từ khi Mã Đại Nguyên chết đi rồi, người ta lo tính nghề này sẽ bị thất truyền.

Bạch Thế Kính chơi thân với Mã Đại Nguyên hàng mấy năm biết rõ cả chiêu thức võ công nhà họ Mã. Chiêu này vừa đánh Thế Kính sợ quá toát mồ hôi lạnh ngắt, chú ý nhìn đối phương thấy y thân hình cao lớn cùng cỡ Mã Đại Nguyên, song trong không nhìn được rõ mặt.

Người lạ vẫn không hé răng và không cử động cứ đứng trơ đường như bị bao phủ một làn không khí đầy ma quỷ. Bạch Thế Kính cảm thấy trong cổ ngấm ngầm đau, dường như ngón tay đâm thủng da.

Lão định thần cất tiếng hỏi:

- Phải chăng tôn giá họ Mã?

Người lạ vẫn như câm điếc, chẳng nói sao. Bạch Thế Kính nói:

- Tiểu Khang mình ơi! Mình thắp đèn sáng lên.

Mã phu nhân đáp:

- Tôi có cử động được đâu, mình thắp lên đi.

Bạch Thế Kính vẫn e dè sợ sệt không dám hành động hở. Nhưng lão lại nghĩ rằng: Rõ ràng võ công người này rất nhiều. Giả tỉ y muốn cứu Đoàn Chính Thuần, cũng chả cần đến giúp sức, không biết tại sao y chỉ ra một đòn rồi không đánh nữa. Lại qua một quãng thời gian cực kỳ tịch mịch, ngột ngạt khó chịu không một tiếng động.

Bạch Thế Kính đột nhiên phát giác ra một điều kỳ quái. Trong phòng tuy không một ai lên tiếng, không một ai cử động, nhưng vẫn nghe rõ hơi thở từng người:

- Hơi thở Mã phu nhân, hơi thở Đoàn Chính Thuần, rồi hơi thở chính mình lão đều biết hết. Đặc biệt là người bí mật đứng trước mặt lão tuyệt nhiên không thấy phát ra hơi thở.

Bạch Thế Kính liền tự mình nín thở, chú ý lắng tai nghe. Với nghị lực của lão bất luận là ai phác ra hơi thở lão cũng cảm giác được. Thế mà đối với người bí mật này, lão chú ý hồi lâu vẫn tuyệt không nghe thấy một tý gì. Nếu là người còn sống có lý nào lại không hô hấp bao giờ? Trong khi đó lão nghe rõ cả tiếng trái tim mình đập.

Bạch Thế Kính nghe tiếng tim mình đập mỗi lúc một mạnh hơn cảm thấy trong dạ bồn chồn vô kể, tựa hồ trái tim muốn chảy ra ngoài. Không thể nhẫn nại được nữa, lão quát lên một tiếng thật to, nhẩy lên tới người bí mật. Ngọn "Phá giáp trùy" vung lên loang loáng đâm tới tấp vào mặt đối phương.

Người bí mật vung tay trái lên, hất tay phải Bạch Thế Kính ra bên ngoài cửa, đưa tay phải ra nhanh như chớp chụp vào yết hầu lão. Bạch Thế Kính đã đề phòng người bí mật lại thi triển chiêu "Tỏa cầm nã thủ" cúi đầu xuống luồng dưới nách đối phương để tránh. Người bí mật không đánh theo chỉ đứng trơ như phỗng ngay trước cửa. Bạch Thế Kính lại phóng Trùy đâm vào đùi đối phương. Người bí mật tung mình nhảy thẳng lên để tránh.

Mã phu nhân thấy người bí mật lúc nhảy vọt lên không co đầu gối lại, người y cứ ngay đưỡn tung lên bất giác mụ la hoảng:

- Quỷ nhập tràng! Quỷ nhập tràng!

Bỗng nghe đánh "bịch" một tiếng, người bí mật lại hạ mình xuống. Bạch Thế Kính cũng sợ ớn da gà, tự hỏi:

- Người này mà sao nhảy lên hạ xuống trông cũng như que củi? Chẳng lẽ quả có quỷ nhập tràng ư?

Tuy nhiên lão giữ địa vị một nhân vật cao cấp nhất Cái Bang lại có lý nào lại để cho hiện tượng quái gở này khủng bố thì lão do dự một chút rồi uốn mình nhảy chồm lên phóng luôn bằng "Phá giáp trùy" phát ra những tiếng veo véo đâm vào đối phương. Người bí mật quả nhiên không co đầu gối lại được, người ngay đơ nhảy lên tránh đòn. Xem chừng y không thể bước được. Bạch Thế Kính đâm mé tả thì người bí mật nhảy sang mé hữu, đâm mé hữu thì y lại nhảy tránh qua mé tả.

Bạch Thế Kính phát giác ra nhược điểm của đối phương lòng đỡ được đôi phần khiếp sợ. Có điều lão càng để ý càng nhận thấy đối phương không phải là người còn sống. Bạch Thế Kính đâm luôn mấy trùy nữa, xem chừng đỡ cử động vụng về. Song lão mấy lần thay đổi thế đánh cho biến ảo tinh diệu bội phần mà thủy chung vẫn không đánh bị thương được.

Đột nhiên, Bạch Thế Kính cảm thấy sau cổ mát rượi, bàn tay to tướng lạnh như băng đè lên cổ lão. Bạch Thế Kính giật mình, xoay trùy lại đâm về phía mình "Vèo" một tiếng, ngọn trùy đâm vào quãng không. Bàn tay to tướng đè xuống dần dần. Bạch Thế Kính vội ra lực ra để chống lại. Nhưng lão càng vận nội lực bao nhiêu, sức đè xuống càng mạnh thêm bấy nhiêu. Đầu tiên lão mới phải cuối đầu, rồi sau lưng cũng phải xụm xuống. Bạch Thế Kính cảm thấy trên đầu trên cổ mình dường như phải đội hàng đá nặng tới ngàn cân, khiến người lão cong lại cơ hồ sắp gãy làm hai.

Bạch Thế Kính thở lên hồng hộc. Tiêu Phong cùng Đoàn Chính Thuần nghe thấy đều lấy làm quái lạ. Mã phu nhân sợ quá la hoảng:

- Thế Kính! Thế Kính! Mình làm sao vậy?

Bạch Thế Kính không còn hơi sức để đáp lời Mã phu nhân. Lão cảm thấy nội lực trong người bị sức đè ép quá trầm trọng tiết ra dần dần. Đột nhiên bàn tay to tướng cứng như sắt, lạnh như băng, sờ lên mặt Bạch Thế Kính. Bàn tay này đúng không phải tay người sống vì tuyệt không còn một chút sinh khí nào.

Bạch Thế Kính không nhịn được nữa, cố la lên:

- Quỷ nhập tràng! Quỷ nhập tràng!

Thanh âm lão cực kỳ thê thảm rùng rợn.

Bàn tay to tướng chuyển động mơn man từ trên đầu dần xuống mắt, những ngón tay đưa đi đưa lại chỗ này làm cho Bạch Thế Kính hết hồn, những ngón tay đó, chỉ ấn mạnh một chút là đôi tròng bị móc ra. Nhưng may bàn tay lạnh buốt này lại đưa xuống dưới sờ mũi lão, rồi tiếp tục sờ xuống miệng.

Bàn tay quỷ quái này đưa từng chút một sờ đến miệng Bạch Thế Kính rồi cuối cùng đưa xuống đến cổ họng thì dừng lại. Người bí mật dùng ngón tay trỏ và ngón tay giữa kẹp chặt lấy yết hầu Bạch Thế Kính xiết dần dần chặt vào.

Bạch Thế Kính khiếp sợ mê man la lên:

- Đại nguyên hiền đệ! Tha chết cho ta! Tha chết cho ta!

Mã phu nhân nghe tiếng, hét lên như còi:

- Mình... mình nói gì vậy? Hắn... hắn là Đại nguyên ư?

Bạch Thế Kính tiếp tục năn nỉ:

- Đại nguyên!... Đại nguyên hiền đệ ơi! Trăm điều sai vì nàng cả, không can dự gì đến tôi.

Mã phu nhân tức giận nói:

- Việc gì cũng chính ta chủ trương thì đã sao? Mã Đại nguyên ngươi sống trên thế gian cũng là cái bị thịt. Ngươi chết đi được cái quái gì? Lão nương không sợ ngươi đâu!

Lúc Bạch Thế Kính mở miệng nói ra bấy nhiêu lời để nhiệm cho kẻ khác thì ngón tay người bí mật lại nới ra một chút, lời mới nói rõ được. Bây giờ lão dừng lại không nói nữa, thì người bí mật lại từ từ xiết chặt lại. Bạch Thế Kính trong lòng hồi hộp nghe Mã phu nhân nói người bí mật là Mã Đại Nguyên thì lão yên chí cái quái này Mã Đại Nguyên đã nhập vào thây ma thành quỷ nhập tràng.

- Tha chết cho ta, chính phu nhân hiền đệ đã đôi ba hiền đệ tiết lộ thân thế bí mật của Kiều Phong mà hiền đệ không chịu, cho nên nàng... nàng mới nẩy ra ý kiến ám hại.

Tiêu Phong đứng ngoài nghe mà rùng mình. Ông không trá gian có ma quỷ mà chắc người bí mật này là một nhà võ hạng giả vờ lộng ghép thần thông khiến Bạch Thế Kính cùng Mã phu nhân phải khiếp sợ hoang mang, phun ra những điều ám muội, cùng hai phạm nhân này và quả nhiên Bạch Thế Kính vì khủng hoảng mà thổ lộ hết. Cứ theo những lời họ vừa phun ra đây chờ Bạch Thế Kính là tòng phạm. Sở dĩ Mã phu nhân mưu giết do nguyên nhân mụ đòi phanh phui những điều bí mật mình mà Mã Đại Nguyên không nghe.

Rồi ông tự hỏi:

- Tại sao mụ căm hờn mình đến thế? Tại sao mụ cố hất đổ cho bằng được cái ngôi bang chúa của tôi?

Tiêu Phong còn đang ngẫm nghĩ lại thấy Mã phu nhân hét lên lanh lợi:

- Mã Đại Nguyên! Ngươi lại bóp chết ta đi, ta không muốn nhìn mặt bị thịt của ngươi nữa, loài tiểu quỷ kia!

Thốt nhiên văng vẳng nghe tiếng "sạo sạo" rất nhỏ, xương sụm bụng Bạch Thế Kính bị móng tay quỷ quái bấm nát một chỗ. Bạch Thế Kính thục thân cựa quậy mà không sao thoát khỏi bàn hộ pháp của người bí mật. Tiếp theo vang lên tiếng "bục bục", cổ họng Bạch Thế Kính bị hả rời.

Bạch Thế Kính thở phì phì, nhưng không khí hít vào miệng vào không xuống phổi được nữa. Chân tay lão giãy lên đành đạch, người run lên như gà bị cắt tiết rồi tắt hơi chết liền. Người bí mật cấu chết Bạch Thế Kính xong, xoay mình đi một cái đã biến mất không còn thấy bóng đâu nữa.

Tiêu Phong cảm thấy trong lòng xúc động tự hỏi:

- Người này! Ta phải theo dõi gã xem sao?

Nghĩ vậy, Tiêu Phong băng mình lại phía cửa trước. Nhờ ánh trắng xóa, ông nhìn thấy một bóng người lờ mờ đang vun vút về phía Đông Bắc. Cước lực Tiêu Phong kỳ tuyệt phi thường không thì làm sao mà thấy được. Tiêu Phong lẩm bẩm: "Thân pháp người này khiếp thật"! Ông đề bồi rất gấp một hồi còn cách chừng hơn mười trượng. Bây giờ ông rõ ràng hơn. Võ công người bí mật hiển nhiên vào hạng cao thủ.

Tiêu Phong lúc này nhìn rõ cả cước pháp của người bí mật. Người này không cất bước như người thường, mà chạy rất nhanh, chẳng gì lướt người trên mặt tuyết trơn tuột.

Về môn khinh công, Tiêu Phong bắt nguồn tự phái sau lại được Uông Bang chúa Cái Bang rèn luyện. Ông rất thân về phái dương cương. Cứ mỗi bước lại băng mình xa ra hơn một. Người còn đang lơ lửng trên không đã tung chân ra bước nữa. Kể về kiểu cách thì Tiêu Phong coi có vẻ còn nặng nề, không nhẹ nhàng ung dung nhàn nhã như người bí mật chạy trước, đường trường thì phương thức của ông có phần trội hơn bằng thực lực.

Tiêu Phong đuổi bấy lâu, dĩ nhiên người bí mật chạy trước cảm giác được có người đang rượt theo mình. Ngay từ lúc y bước chân Tiêu Phong chạy trên đường đất đầy tuyết phủ ra rằng kẻ theo mình có một bản lãnh kinh người. Tiêu Phong bỗng thấy người bí mật thay đổi thân pháp đột ngột, không biết y chạy thế nào mà trông như một chiếc buồm thuận gía xuôi dòng lướt băng băng, chớp mắt lại cách thêm chừng một trượng nữa.

Tiêu Phong âm thầm kinh hãi trong lòng lẩm bẩm: có phải làm một tay cao thủ thứ nhứt hay thứ nhì trong võ lâm. Không thế thì sao y chỉ giơ tay lên một cái đã đủ hạ sát Bạch Thế Kính?

Nguyên Tiêu Phong được trời phú cho một bản ngã khó có kỳ tài về võ học là môn đồ Huyền Phổ đại sư cùng Uông Bang chúa. Tuy võ công hai vị này cao cường thật, song cũng chưa phải nhân vật đặc biệt. Tiêu Phong võ công đặc sắc giỏi hơn nhiều. Chỉ là một chiêu thức tầm thường nhưng ở tay phóng ra cũng thành một mãnh lực vô biên. Những người ông đều cho là võ công ông vào bậc thiên tài, có sẵn năng khiếu sơ sinh mới được thế, chứ không phải chỉ trông vào sự rèn luyện thành tài.

Tiêu Phong chính mình cũng không hiểu tại sao mình tới được bản này, ông chỉ hiểu mình bất luận chiêu thức nào đã qua mặt một lần là biết, đã biết là tinh thục ngay, nhất là lúc lâm địch, ông tự nhiên có cách biến hóa cực kỳ huyền bí... Có điều ngoài võ công ra, bất là đọc sách hay thủ công gì ông cũng chỉ vào hạng bình thường có chi đặc biệt.

Võ công của Tiêu Phong đã đến độ tài cao đặc biệt, không ai bì. Đời ông ít khi gặp được tay đối thủ. Kể ra cũng có nhiều tay cường nội lực rất thâm hậu như ông, chiêu thức xảo diệu chẳng thua gì ông. Nhưng lúc giao đấu với ông, đến hồi tối hậu khẩn đối phương chỉ sai một ly mà chịu thất bại, mà thất bại một cách khâm phục, chức không ai ấm ức. Vì thề mà rất hiếm có kẻ tìm để trả thù rửa hận.

Hiện tại Tiêu Phong gặp được tay khinh công cao hơn mình, bất hùng khí bốc lên ngùn ngụt, ông vận khinh công lên đến tột đuổi gấp hơn. Hai tay địch thủ kẻ trước người sau như bóng với hình nhắm thẳng hướng đông bắc lao nhanh như gió mà thủy chung Tiêu Phong vẫn không đuổi sát đến được. Một giờ qua, hai giờ lại qua, hai người đã chạy hơn tám mươi dặm vẫn nguyên một mực không ai chịu thua ai về môn khinh công. Đuổi nhau chừng hơn nữa giờ nữa thì trời vừa hừng sáng, tuyết bóng xuống nữa, đêm tối đã biến thành ánh sáng ban mai.

Tiêu Phong nhìn rõ chân núi có một thị trấn, nhà cửa đầy như bát nhân dân trù mật. Tiếng gà xao xác gáy mau, tiếng trước vừa dứt kế tiếng sau.

Tiêu Phong thèm rượu cất tiếng gọi to:

- Này anh chạy trước ơi! Tôi mời anh vào thị trấn uống vài bát rượu đã, rồi ta lại tỷ thí cước lực, anh tính sao?

Người bí mật không trả lời, gia tăng cước lực chay nhanh hơn. Tiêu Phong cười nói:

- Dù anh là một gian nhân hạ thủ giết Bạch Thế Kính song là một bậc anh hùng hảo hán, Tiêu Phong này cam chịu thua nước võ môn khinh công rồi. Hai ta đi uống rượu thôi, đừng ngại nữa!

Tiêu Phong vừa nói vừa đuổi theo rất gấp nhưng chưa chạy lại chút nào.

Người bí mật đột nhiên dừng bước, nói:

- Người ta đồn đại "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung", danh bất hư truyền. Người miệng nói mà nội lực vẫn được tự nhiên. Thật là anh hùng! Đúng là tay hào kiệt!

Tiêu Phong nghe thanh âm người bí mật có vẻ ra người dường như hơn tuổi mình nhiều, liền nói:

- Tiền bối quá khen đó thôi! Vãn bối có ý muốn kết giao với tiền bối. Chẳng hiểu tiền bối có vui lòng chăng?

Người kia thở dài nói:

- Lão phu già rồi, chẳng được việc gì đâu. Hảo hán đừng đuổi nữa, chỉ chạy thêm một giờ là lão phu đành chịu thua.

Dứt lời lão đi chầm chậm lại trông về phía trước thẳng. Tiêu Phong muốn chạy theo để nói chuyện với lão, nhưng khoa chân, chợt nghĩ ra: "Lão đã có lời biểu mình dừng đuổi"

Hồi Thứ 38

Người Đẹp ai ngờ dạ hiểm sâu

Kiều Phong tuy rất mong được cùng người bí mật kết giao, song nghĩ đến lão biểu đừng đuổi nữa, trong bụng đã ngần ngừ. Mặt khác ông nghĩ mình từng bị bọn hào kiệt Trung Nguyên thù ghét thì e rằng người này cũng vào hạng khinh bỉ người Khất Đan, nên chỉ đưa mắt nhìn sau lưng người bí mật đi mỗi lúc một xa với tấm lòng cảm khái, than rằng:

- Người này khinh công tuyệt diệu, nội lực có thừa. Mình chưa được thấy mặt thực là đáng tiếc!

Kiều Phong dừng chân lặng lẽ nghỉ ngơi hồi lâu rồi mới đi vào thị trấn. Ông vào một tiểu điếm nhỏ, mua rượu uống. Mỗi khi cầm bát rượu lên nhắp, Kiều Phong lại vỗ bàn than thở:

- Đáng mặt nam nhi! Xứng tài hảo hán! Đáng tiếc! Đang tiếc!

Câu "Đáng mặt nam nhi! Xứng tài hảo hán!" là khen người bí mật võ nghệ rất cao thâm, còn câu "đáng tiếc" là tỏ ý cảm khác chưa được giao kết bạn bè cùng người bí mật. Ta nên biết rằng Kiều Phong trước nay là người coi bạn bè trọng như tính mạng mình. Phen này ông bị đuổi ra khỏi Cái bang, kết mối thâm cừu với quần hùng tại Trung Nguyên.

Tình bằng hữu từ trước đến nay đã mất hết, trong lòng ông buồn thảm vô cùng. Bữa nay ngẫu nhiên được gặp một anh hùng, về võ công tương xứng với mình, mà mình vô duyên không được cùng lão kết giao, ông đành mượn rượu giải sầu. Uống hết luôn hai chục bát rượu, tính trả tiền hàng, rồi ra khỏi tửu lầu.

Ông nghĩ thầm:

- Đoàn Chính Thuần chưa thoát nạn, bọn Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên... bị mình điểm huyệt nằm lăn quay. Âu là ta trở lại giải cứu cho bọn họ.

Nghĩ vậy, liền rảo bước quay về Mã gia. Lúc này Kiều Phong thi triển môn khinh công đi thong thả hơn trước nhiều. Về tới Mã gia thì trời đã quá trưa. Kiều Phong không gặp người nào, trên mặt đất còn tuyết đọng bên ngoài Mã phủ. Nguyễn Tinh Trúc, A Tử, Tần Hồng Miên, Mộc Uyển Thanh, bốn người đi sạch cả rồi.

Ông không khỏi kinh ngạc tự hỏi:

- Ai đã đến đây giải huyệt đạo để cứu bọn họ?

Kiều Phong đẩy cửa bước vào nhà, thấy thi thể Bạch Thế Kính nằm cong queo bên cạnh cửa. Đoàn Chính Thuần không thấy đâu. Một người đàn bà nằm phục bên cạnh lò sưởi, mình đầy máu chính là Mã phu nhân.

Mã phu nhân ngoảnh đầu lại, khẽ nói:

- Tốt lắm! Mau lại giết ta đi!

Kiều Phong thấy mặt mụ xám ngắt, mới trải qua một đêm mà như người mụ đã già đi thêm hai chục tuổi. Con người hôm qua nguyệt thẹn hoa nhường mà nay đã xấu như quỷ dạ xoa. Ông cất tiếng hỏi:

- Đoàn Chính Thuần đâu rồi?

Mã phu nhân đáp:

- Họ cứu đưa đi rồi! Bọn người độc ác đó...

Đột nhiên mụ hét lên tiếng kinh khủng:

- Trời ơi!

Thanh âm lanh lảnh nghe chói tai. Trong lúc bất ngờ, Kiều Phong nghe mụ thét, giật nảy mình lùi lại một bước, hỏi:

- Phu nhân làm sao vậy?

Mã phu nhân thở hổn hển, nói:

- Ngươi... ngươi là Kiều... Bang chúa?

Kiều Phong nhăn nhó, gượng cười nói:

- Tôi có phải là Bang chúa Cái bang nữa đâu! Chẳng lẽ phu nhân không biết hay sao?

Mã phu nhân nói:

- Phải rồi! Ngươi đúng là Kiều Bang chúa. Hãy làm ơn làm phúc giết ta mau đi!

Kiều Phong nhíu cặp lông mày, nói:

- Tôi không giết phu nhân. Phu nhân mưu hại thân phu để người Cái bang đến xử phu nhân.

Mã phu nhân năn nỉ:

- Ta... thực tình không chịu đựng được nữa rồi. Con tiểu tiện hạ nhân đó thủ đoạn cực kỳ thâm độc. Ta... ta chết thành quỷ sứ sẽ không tha cho nó. Ngươi... ngươi coi thân thể ta đây này...

Mã phu nhân nằm phục trong xó tối không trông rõ. Ông đẩy cửa ra cho ánh sáng lọt vào phòng. Kiều Phong vừa nhìn rõ người Mã phu nhân, bất giác run lên. Bả vai, cánh tay, dưới nách bắp đùi mụ chỗ nào cũng bị dao khoét. Những vết thương này đều bị kiến bâu đầy.

Kiều Phong mới nhìn những vết thương Mã phu nhân, biết ngay tứ chi cùng sau lưng mụ đều bị cắt gân cùng mạch máu, nên không nhúc nhích được. Trường hợp này không giống như điểm huyệt. Người bị điểm, sau khi khai thông huyệt đạo lại cử động được như thường, đằng này Mã phu nhân bị cắt đứt gân mạch thì từ đây trở đi thành phế nhân. Kiều Phong còn lấy làm lạ là ở miệng các vết thương sao lại có kiến bâu đầy.

Bỗng nghe Mã phu nhân nói:

- Con tiện tỳ đó đã cắt đứt gân mạch chân tay ta làm cho khắp mình ta bị thương. Nó còn lấy mật ngọt bôi vào miệng vết thương cho kiến đốt, để ta phải chịu cực khổ suốt một ngày đêm, sống không được, chết chẳng chết cho nó mới cam lòng.

Kiều Phong trông những vết thương của mụ không khỏi rùng mình. Ông vốn không phải là hạng gan dạ mềm yếu. Nhưng dù có đốt nhà cũng chỉ thích làm cho mau lẹ, không có lòng độc ác hành hạ địch nhân. Ông buông một tiếng thở dài, ra cầu tiêu xách thùng nước rưới lên người mụ để kiến bò đi, đỡ cho mụ được cái nhức nhối bị đốt.

Mã phu nhân nói:

- Cám ơn ngươi! Ngươi thật là tốt bụng, nhưng ta không sống được nữa đâu. Ngươi làm phúc chém ta một nhát cho rồi.

Kiều Phong hỏi:

- Ai đã hành tội phu nhân?

Mã phu nhân nghiến răng đáp:

- Một đứa tiện tỳ lỏi con, tuổi mới độ mười lăm, mười sáu mà tâm địa cùng thủ đoạn độc ác đến thế!

Kiều Phong thất kinh, hỏi:

- Có phải A Tử không?

Mã phu nhân đáp:

- Đúng rồi! Ta nghe một đứa đàn bà khác kêu nó thôi. Nhưng con lỏi này có lẽ muốn trị ta, nó bảo phải làm cho ta đau khổ vô cùng để báo thù cho cha mẹ.

Kiều Phong nhíu cặp lông mày, hỏi:

- Ngày trước Đoàn Chính Thuần đã có mối tình với phu nhân thì bây giờ dù phu nhân có muốn giết y, nhưng thấy con gái mình hành hạ tàn khốc phu nhân như vậy, có lẽ nào lại không ngăn trở?

Mã phu nhân đáp:

- Y mê man có biết gì đâu? Đó là... vì y đã uống phải "thập hương mê hồn tán".

Kiều Phong gật đầu, nói:

- Có thế chứ! Y là một bực hảo hán biết rõ đường phải trái có lý đâu lại để con gái hành động một cách nhẫn tâm như thế? À, còn mấy người đàn bà bị điểm huyệt...

Mã phu nhân nói:

- Thôi mi đừng hỏi nữa, giết ta mau đi!

Kiều Phong "hừ" một tiếng rồi nói:

- Nếu phu nhân không trả lời tôi thì tôi lại bôi mật ngọt vào những chỗ vết thương rồi bỏ đi, để phu nhân sống chết ra sao thì ra.

Mã phu nhân nói:

- Bọn đàn ông các ngươi là phường độc ác, lòng lang dạ thú...

Kiều Phong nói:

- Thế còn phu nhân ám hại Mã Đại Nguyên hiền đệ, thủ đoạn đó không độc ác ư?

Mã phu nhân lấy làm lạ, hỏi:

- Tại sao... cái gì ngươi cũng biết? Ai bảo ngươi vậy?

Kiều Phong lạnh lùng đáp:

- Tôi hỏi phu nhân chứ có phải phu nhân hỏi tôi đâu? Phu nhân cầu đến tôi, không phải tôi cầu đến phu nhân. Thôi, nói mau đi!

Mã phu nhân nói:

- Được rồi! Ta nói cho mi biết hết, đó là một gã Đại Hán cao to mặc áo vải xô, đầu đội mũ gai. Gã khai phóng huyệt đạo cho A Tử trước tiên. Ta nghe con A Tử kêu gã bằng Tam sư huynh. Sau A Tử nhờ gã giải khai huyệt đạo cho má má nó là con tiện nhân Nguyễn Tinh Trúc, Nguyễn Tinh Trúc lại yêu cầu gã giải khai huyệt đạo cho hai đứa tiện nhân kia.

Kiều Phong nghe đoạn bất giác rùng mình. Ông biết rằng A Tử là môn hạ Tinh Tú Hải Lão Ma thì những môn võ cô ta học cũng là môn tà độc. Bao nhiêu hào kiệt tại Trung Nguyên nghe đến Tinh Tú Hải Lão Ma ai không bịt mũi bưng tai bỏ đi thì cũng tỏ ra khó chịu. Cũng may mà lão tự biết phái võ của mình làm thiên hạ phẫn nộ nên ít khi lão ra khỏi sào huyệt.

Kiều Phong không hiểu lão đã đến Trung Nguyên chưa. Kiều Phong nghe Mã phu nhân nói người giải khai huyệt đạo cho mấy người đàn bà là Tam sư huynh của A Tử, thì ra bọn Tinh Tú Lão Ma đã lục tục kéo vào Trung Nguyên, tất sẽ có những cuộc rồng tranh hổ đấu sặc mùi máu tanh không thể nào tránh khỏi.

Kiều Phong nói:

- Gã độ bao nhiêu tuổi? Mang theo thứ khí giới gì?

Mã phu nhân đáp:

- Gã chưa đến ba mươi, có lẽ còn kém mi mấy tuổi, không thấy gã mang theo khí giới chi hết.

Kiều Phong lại hỏi:

- Thế thì phải rồi! Sau đó bọn nó đi về phía nào?

Mã phu nhân đáp:

- Ta không biết, ta không biết. Mi... giết ta đi.

Kiều Phong nói:

- Tôi hỏi cho biết rõ rồi sẽ giết phu nhân cũng chưa muộn. Người ta muốn chết thì có chi là khó, chỉ có muốn sống mới không phải là chuyện dễ.

Ông lại hỏi luôn:

- Tại sao phu nhân giết Mã hiền đệ?

Cặp mắt Mã phu nhân phóng ra tia sáng hung dữ. Mụ hỏi lại:

- Mi không biết không được hay sao mà phải hỏi mãi?

Kiều Phong nói:

- Đúng thế! Không hỏi cho ra không được! Tôi vốn là một gã nam nhi có tính ương ngạnh và gan dạ trơ như đá, không biết thương xót phu nhân là gì cả.

Mã phu nhân nói:

- Chà! Mi không nói há ta lại không biết ư? Nay mà đến nông nỗi này cũng đều do mi hại ta. Mi là một đứa ngông cuồng, tự tôn tự đại, là một đứa súc sinh coi người bằng nửa con mắt. Mi là tên giặc mọi rợ Khất Đan không bằng tuồng chó lợn. Mi chết rồi tất phải xuống đến cùng mười tám tầng địa ngục, hết ngày này sang ngày khác bị bọn quỷ ác hành hạ. Mi lấy mật ngọt bôi vào vết thương ta đi! Sao mi không dám làm thế nữa? Mi là quân chó má... là quân khốn nạn...

Mụ thóa mạ mỗi lúc một thêm ác miệng, tỏ ra trong lòng đã chứa đựng biết bao nhiêu mối căm hờn cần phát tiết ra cho hả dạ. Càng về sau mụ càng mồm loa mép giải văng ra những câu tục tĩu chướng tai. Từ thuở nhỏ Kiều Phong đã hòa mình với bọn ăn xin, bao nhiêu lời thô tục nghe mãi quen tai.

Lúc lớn lên ông ngồi uống rượu với bạn bè xong thường nói tục chửi càn. Nhưng Mã phu nhân trước nay là người văn nhã mà bây giờ cũng mở miệng cho ra những câu tệ hại như thế mới thật là kỳ. Có nhiều câu ô uế, trước nay ông cũng chưa từng nghe thấy bao giờ.

Kiều Phong nín thinh không nói gì, để mặc Mã phu nhân chửi bới cho sướng miệng. Mặt mụ đang lợt lạt mà từ lúc sau buông lời thóa mạ má đỏ bừng lên. Hai mắt phóng ra những tia sáng thỏa mãn hả hê. Mã phu nhân chửi mắng hồi lâu, thanh âm mụ dần dần trầm xuống rồi mỗi lúc một ít lời.

Sau cùng mụ nói:

- Gã Kiều Phong chó má kia! Bữa nay mi hại ta ra nông nỗi thế này, để ta xem sau này mi sẽ ra sao?

Kiều Phong vẫn bình tĩnh hỏi:

- Phu nhân thoá mạ đã xong chưa?

Mã phu nhân nói:

- Ta nghỉ xả hơi một lúc rồi ta còn tiếp tục thoá mạ mi nữa. Thằng chó đẻ không cha mẹ kia. Ta bảo cho mi biết ta đây mà còn một hơi thở thì vĩnh viễn không bao giờ hết chửi bới mi được.

Kiều Phong nói:

- Hay lắm! Phu nhân chửi bới là phải. Lần đầu tiên tôi được yết kiến phu nhân tại rừng hạnh ngoài thành Vô Tích. Khi đó Đại Nguyên hiền đệ đã bị phu nhân ám hại rồi. Còn về trước, tôi có được biết phu nhân bao giờ. Phu nhân lại bảo tôi hại phu nhân đến nông nỗi này.

Mã phu nhân hậm hực nói:

- Mi bảo mi gặp ta trong rừng hạnh ngoài thành Vô Tích lần đầu. Phải rồi, chính vì câu này mà mi tự cao tự đại, tưởng mình võ công đệ nhất thiên hạ, rồi mi kiêu ngạo không còn coi ai ra gì nữa.

Mã phu nhân lại thoá mạ Kiều Phong một hồi, lảm nhảm không dứt. Kiều Phong để mụ chửi mắng cho sướng miệng, chờ đến khi kiệt lực mới nhắc lại câu hỏi:

- Phu nhân chửi mắng đã xong chưa?

Mã phu nhân hậm hực nói:

- Ta đã bảo vĩnh viễn không bao giờ ta thôi chửi mắng mi. Mi làm phách với ta, dù mi có làm đến hoàng đế ta cũng không coi mi vào đâu.

Kiều Phong nói:

- Đúng thế! Dù tôi có làm Hoàng đế thì phu nhân cũng chẳng việc gì phải nể nang. Trước nay chẳng bao giờ tôi tự coi mình là thiên hạ vô địch. Vừa rồi... ngay gã phu nhân vừa nói đó, võ công cũng còn cao hơn tôi.

Mã phu nhân chẳng thèm để ý gì đến lời Kiều Phong, lại tiếp tục chửi mắng om lên một hồi nữa rồi hỏi:

- Mi bảo gặp ta lần đầu ở ngoài thành Vô Tích, thế thì trong cuộc hội "Bách Hoa" tại thành Lạc Dương, mi không trông thấy ta hay sao?

Kiều Phong giật mình: cuộc hội họp thưởng thức trăm hoa tại Lạc Dương mới diễn ra cách đây hai năm, ông đã cùng anh em Cái bang đi phó hội, chơi trò oẳn tù tì uống rượu. Hôm ấy ông uống rượu nhiều quá, chẳng còn nhớ gì nữa, quên cả Mã phu nhân cũng có mặt tại đại hội này, liền hàm hồ đáp:

- Hôm ấy Đại Nguyên hiền đệ có đi nhưng không đưa phu nhân đi theo.

Phu nhân lại mắng một hồi, nói:

- Mi là cái thá gì? Chẳng qua là tên đứng đầu bọn Cái bang đã ăn thua gì? Trong hội "bách hoa" ta đứng bên bồn hoa thược dược, bao nhiêu anh hùng hảo hán đến dự hội, ai là người không đứng thộn mặt ra nhìn ta? Ai là người thấy mặt ta mà không khỏi điên đảo thần hồn? Chỉ có mình mi cậy mình là bậc anh hùng hảo hán, không ham nữ sắc không thèm để mắt trông đến ta một lần. Mi là một đứa ngụy quân tử, một đứa vô liêm sỉ!

Kiều Phong như chợt nhớ ra, nói:

- Phải rồi! Tôi nhớ ra hôm ấy quả có mấy cô đứng bên bồn hoa thược dược. Lúc đó tôi chỉ thích uống rượu, chứ có để ý gì đến hoa thơm cỏ lạ cùng nam thanh nữ tú đâu? Giả tỷ có ai là bậc tiền bối nữ kiệt thì đương nhiên tôi phải đến bái kiến. Còn phu nhân là vợ Mã hiền đệ thì dù tôi có không nhìn đến há phải là điều thất lễ, sao phu nhân lại hận tôi về việc đó.

Mã phu nhân nói:

- Mi có mắt không tròng hay sao? Bất luận là vị anh hùng hảo hán nào, tiếng tăm lừng lẫy bốn phương cũng chăm chú nhìn ta từ đầu đến gót chân. Cả đến bậc đạo cao đức trọng, dù không dám nhìn thẳng vào mặt ta, vì sợ người ngoài biết, thì cũng đưa mắt liếc trộm. Chỉ có mình mi, một mình mi... Giữa đại hội "bách hoa" lúc đó có hàng ngàn chàng trai mà chỉ mình mi thuỷ chung vẫn không nhìn ta một lần.

Kiều Phong thở dài, nói:

- Từ thuở nhỏ tôi không ưa đánh bạn với con gái mà lớn lên cũng không hay dòm ngó đàn bà, chẳng riêng gì đối với mình phu nhân mà cả đến một cô gái đẹp hơn nữa cũng vậy. Lúc ban đầu tôi không để ý đến nàng, sau này thì lại chậm mất rồi...

Mã phu nhân hỏi giật giọng:

- Sao? Mi bảo còn có người đẹp hơn ta ư? Người đó là ai?

Kiều Phong đáp:

- Nàng là con gái Đoàn Chính Thuần chị ruột A Tử.

Mã phu nhân nhổ nước miếng đánh toẹt một cái, lên giọng khinh khỉnh nói:

- Hừ! Chỉ có cái loại đê tiện ấy mới vừa lòng mi được...

Mã phu nhân chưa dứt lời, Kiều Phong nắm lấy tóc mụ nhấc bổng người lên liệng mạnh xuống đất, nói bằng một giọng hung dữ căm tức:

- Nếu mi còn dám thốt ra những câu xúc phạm đến danh dự nàng, thì ta sẽ cho mi nếm thủ đoạn tàn khốc của ta!

Mã phu nhân bị Kiều Phong quật một cái, suýt nữa chết. Bao nhiêu khớp xương mụ nghe kêu rau ráu. Thế mà mụ bỗng nổi lên một chuỗi cười khanh khách, nói móc:

- Thế ra... thế ra một bậc đại anh hùng, một vị Đại hiệp họ Kiều nhà ta cũng bị lưới tình cầm chân, bị mỹ nhân mê hoặc. Ha ha! Thế này thì buồn cười đến nẻ ruột ra mà chết được. Ngài chúa tể Cái bang mơ ước một vị công nương nước Đại Lý tấp tểnh ngôi phò mã trong phủ Trấn Nam Vương. Kiều Phong ơi! Tôi cứ tưởng đối với ngài thì dù là tiên nga giáng thế cũng không thể lọt vào mắt xanh của ngài được, thì ra tôi đã... tôi đã lầm to.

Ngừng một lát, phu nhân cười lạt hỏi bằng một giọng nửa lễ phép nửa ỡm ờ:

- Bang chúa mơ tưởng nàng, trong mình ngài lại có một bản lĩnh tuyệt luân, sao không cướp lấy mà lại đành ngồi than thở?

Kiều Phong lặng lẽ lắc đầu, hồi lâu ông mới buồn rầu đáp:

- Dù có bản lãnh nghiêng trời cũng không thể cướp được nàng đem về.

Mã phu nhân cười ha hả, hỏi lại:

- Tại sao vậy?

Kiều Phong khẽ đáp:

- Nàng chết mất rồi!

Mã phu nhân đột nhiên nín cười, vì mụ cũng cảm thấy bùi ngùi trong dạ, và không khỏi có đôi phần xót thương cho con người trước kia vẫn cao ngạo là Kiều Bang chúa nay phải ôm mối hận ngàn thu. Hai người vẫn yên lặng không nói gì nữa.

Lát sau, Kiều Phong uể oải đứng dậy, nói:

- Thương thế ngươi nặng lắm, không thể cứu chữa được nữa. Ngươi đã mưu sát thân phu, chết là đáng lắm. Bây giờ chỉ còn Tiết Thần Y may ra mới cữu chữa ngươi khỏi được, nhưng ta chẳng hoài công mà đi mời ông đến chữa cho ngươi. Vậy ngươi còn muốn nói gì nữa không?

Mã phu nhân nghe Kiều Phong gạn hỏi câu sau cùng, lầm tưởng ông sắp ra tay hạ sát mình, đâm ra sợ hãi năn nỉ:

- Bang chúa tha cho tôi! Xin đừng giết tôi!

Kiều Phong nói:

- Ta không hạ thủ giết ngươi đâu.

Nói xong rảo bước đi luôn. Mã phu nhân thấy Kiều Phong bước ra khỏi phòng rồi đi thẳng không thèm ngoảnh đầu lại nhìn mình nữa.

Mụ lại tức giận, lớn tiếng mắng:

- Gã Kiều Phong chó má kia! Này này! Ta nói cho mi hay. Năm trước ta căm giận mi chỉ vì mi không thèm nhìn ta. Ta bảo Mã Đại Nguyên giết mi, nhưng hắn không chịu nghe lời ta, nên ta đành bảo Bạch Thế Kính giết hắn. Bữa nay mi... mi đối với ta chẳng chút động tâm.

Kiều Phong quay lại, lạnh lùng nói:

- Ngươi bảo đã mưu sát thân phu chỉ vì lý do độc nhất là ta không để ý nhìn ngươi một lần nào. Cách man trá đó ai mà tin được.

Mã phu nhân đáp:

- Ta chết đến nơi rồi, còn gạt ngươi làm chi? Ngươi đã tỏ ra khinh mạn ta thì làm cho ngươi phải thân danh tan nát, mất mặt với mọi người, ta đã tìm thấy trong chiếc rương sắt của Mã Đại Nguyên bức di thư của Uông Bang chúa, mới biết rõ tình tiết trước kia của ngươi. Ta liền bảo Đại Nguyên tiết lộ thân thế bí mật của ngươi khiến cho các hảo hán khắp thiên hạ đều biết ngươi là người Khất Đan mọi rợ, để ngươi mất ngôi Bang chúa Cái bang và không còn đất đứng ở chốn Trung Nguyên nữa, chẳng những ngươi hết chỗ đứng mà tính mệnh cũng khó lòng bảo toàn được.

Kiều Phong nghe giọng lưỡi Mã phu nhân thâm độc như vậy, ông biết rõ mụ không nhúc nhích được thì chẳng còn cách nào hại mình nữa. Thế mà những lời thâm độc của mụ cũng đủ làm cho ông phát run.

Ông đằng hắng một tiếng rồi hỏi:

- Phải chăng Đại Nguyên hiền đệ không chịu theo lời ngươi nên ngươi giết y?

Mã phu nhân đáp:

- Đúng thế! Chẳng những y không nghe lời ta, lại còn hùng hổ mắng ta là khác. Trước kia ta nói gì y cũng nghe theo, có bao giờ nổi đoá với ta đâu? Ta bị y khinh mạn, ta đang tìm cách làm cho y thiệt thân. Khéo sao, hôm sau Bạch Thế Kính đến chơi, gã liếc mắt nhìn ta một lần rồi hai lần. Hà hà! Thằng cha hiếu sắc như quỷ đói ấy, ta bảo hắn làm gì mà chả phải làm, khi nào còn dám bướng bỉnh?

Kiều Phong thở dài, nói:

- Bạch Thế Kính là một tay hảo hán mặt sắt, tim đồng không ai lay chuyển nổi mà cũng mắc tay bợm già của ngươi. Ngươi cho Đại Nguyên hiền đệ uống thuốc "Thập hương mê hồn" rồi kêu Bạch Thế Kính cấu cổ y, giả làm chiêu thức "Toả Hầu Cầm Nã Thủ" để giết y, định đổ cho họ Mộ Dung ở Cô Tô phải không?

Mã phu nhân đáp:

- Phải đó! Ha ha! Chẳng làm vậy thì làm thế nào? Còn những việc về sau ngươi đã biết rồi, ta bất tất phải nói nữa.

Kiều Phong hỏi:

- Cái quạt của ta có phải đúng Bạch Thế Kính lấy cắp không?

Mã phu nhân đáp:

- Ha ha! Đúng thế!

Kiều Phong lại hỏi:

- Đoàn cô nương cải trang làm Bạch Thế Kính đến trời cũng không hay mà ngươi khám phá ra được, phải chăng vì ngươi kề cận hắn nhiều lần?

Mã phu nhân nói:

- Chà chà! Con ranh ấy đáo để thật! Nó làm ta phải hở ra. Nó còn nói ngày rằm tháng tám gì gì... Ngày đó chính là ngày Mã Đại Nguyên chết mới gớm chứ! Nhưng sau ta khẽ hỏi nó vài mẩu chuyện phong tình thì nó trả lời một cách đầu Ngô mình Sở nên cơ mưu nó bị bại lộ. Ta đang muốn giết Đoàn Chính Thuần thì vừa gặp dịp định mượn tay ngươi.

Ngừng một lát, lại cười nói:

- Kiều Phong! Ngươi cải trang vụng lắm! Ta vừa khám phá ra con tiện nhân kia giả mạo ta liền để ý đến ngươi. Há há! Ha ha, làm gì mà ta chẳng nhận ra ngay?

Kiều Phong nghiến răng nói:

- Thế là ngươi giết Đoàn cô nương. Món nợ máu ngươi gây ra giờ phải trả.

Mã phu nhân nói:

- Đó là tại nó đến gạt ta mà thôi. Giả tỷ nó không đến kiếm ta, thì ta sẽ đành chờ Bạch Thế Kính lên ngôi chua tể Cái bang sẽ gây cho người Cái bang thù oán họ Đoàn nước Đại Lý, mà gã Đoàn Chính Thuần chẳng chóng thì chày cũng thoát khỏi tay ta.

Kiều Phong nói:

- Ngươi thật là hiểm độc vô cùng! Những bậc nam nhi có thâm tình với ngươi, ngươi muốn giết họ đã là quá rồi. Còn những chàng trai không thèm nhìn mặt ngươi, ngươi cũng muốn giết nữa là cớ làm sao?

Mã phu nhân nói:

- Có người đẹp đứng ngay trước mắt sao lại không nhìn? Trên đời ta chưa thấy ai lại học thói ngụy quân tử như ngươi.

Mụ nói đến chỗ đắc ý, hai má ửng hồng ra chiều vui thích. Đến khi lực kiệt dần không chống nổi nữa, nhiều lúc mụ phải nói nhát gừng không liên tiếp được.

Kiều Phong nói:

- Ta hỏi ngươi một câu cuối cùng nữa. Người đã viết thư cho Uông Bang Chúa là ai? Gã "Thủ lãnh đại ca" đó tên gì? Ngươi đã đọc bức thư đó có thư danh ở dưới thì ngươi biết rõ, vậy nói cho ta hay.

Mã phu nhân cười lạt, hỏi:

- Ha ha! Kiều Phong! Bây giờ ngươi khẩn cầu ta hay ta cầu khẩn ngươi? Ngày nay Mã Đại Nguyên chết rồi, Từ trưởng lão, Triệu Tiền Tôn, Thiết diện Phán quan Đơn Chính, Đàm Công, Đàm Bà ở Hoa Sơn đều chết rồi, cả Trí Quang đại sư ở trên núi Thiên Thai cũng viên tịch nốt. Trên thế gian này chỉ còn ta và đích thân "thủ lãnh đại ca" mới biết người đó là ai thôi!

Kiều Phong trái tim càng hồi hộp, nói:

- Đúng rồi! Bây giờ quả đến lúc tôi cầu khẩn phu nhân. Xin phu nhân nói cho Kiều mỗ hay tên họ người đó.

Mã phu nhân nói:

- Ta sắp chết đến nơi rồi, ngươi trả ơn ta bằng cách gì?

Kiều Phong đáp:

- Bất luận phu nhân muốn bảo chi mà sức Kiều mỗ làm được quyết không từ chối.

Mã phu nhân tủm tỉm cười, nói:

- Ta còn mong gì nữa Kiều Phong! Ta căm giận ngươi không để mắt nhìn đến ta, nên nỗi giận gây ra bao nhiêu tai họa. Giờ ngươi muốn ta cho hay tên họ "thủ lãnh đại ca" cũng chẳng khó gì. Ngươi chỉ cần ẵm ta vào lòng, nhìn ta hàng nửa ngày là được.

Kiều Phong nhíu cặp lông mày, trong lòng rất khó chịu. Song trên đời thực ra chỉ còn một mình mụ hiểu rõ vụ bí mật này. Mối huyết cừu sâu tựa biển của mình, có báo được hay không chỉ trông vào miệng mụ nói ra mấy tiếng. Đừng nói việc này quá dễ dàng, mà ngay việc khó khăn nguy hiểm đến đâu cũng phải gắng gượng làm theo ý mụ.

Bây giờ mụ chỉ còn thoi thóp thở, không biết tắt hơi lúc nàọ Đem uy thế để bức bách hay lợi danh để cám dỗ cũng đều vô dụng.

Kiều Phong lẩm bẩm:

- Nếu mình khăng khăng không nghe theo lời mụ thì đến lúc mụ tắt hơi thở thì kẻ đại cừu giết cha mẹ mình là ai, từ đây còn người nào biết nữa. Muốn thành việc lớn chẳng nên câu nệ tiểu tiết. Ta đành bồng mụ lên, nhìn mụ mấy cái phỏng có hại gì?

Nghĩ vậy liền đáp:

- Thôi được! Tôi nghe lời phu nhân.

Nói xong ông khom lưng ẵm mụ vào lòng, cặp mắt loang loáng chăm chú nhìn vào mặt Mã phu nhân. Lúc này Mã phu nhân mặt đầy vết máu lại dính đất cát bụi bậm. Hơn nữa, suốt một ngày đêm chịu đựng biết bao sự đau khổ dày vò, dung nhan tiều tuỵ, trông rất khó coi. Kiều Phong ẵm mụ đã là miễn cưỡng, lại còn phải nhìn bộ mặt dơ dáy này, bất giác nhíu cặp lông mày tỏ vẻ khó chịu.

Mã phu nhân hỏi:

- Sao? Ngươi ngán ta lắm ư?

Kiều Phong hàm hồ đáp:

- Không phải thế.

Ông đáp câu này trái với ý nghĩ của mình. Lúc bình thời thì dù gặp việc nguy nan đến đâu, ông cũng không chịu bụng nghĩ một đằng miệng nói một nẻo. Song lúc này ông ở vào tình trạng vạn bất đắc dĩ đành phải nói dối.

Mã phu nhân nói:

- Nếu ngươi không chán ghét thì cúi gần xuống mặt ta.

Kiều Phong nghiêm nét mặt nói:

- Ấy chết! Không thể thế được! Phu nhân là vợ Đại Nguyên hiền đệ. Kiều Phong này là người quân tử biết giữ lễ giáo, đâu dám chớt nhả với người quả phụ của anh em.

Mã phu nhân hỏi:

- Ha ha! Ngươi đã biết thủ lễ, sao còn ẵm ta vào lòng?

Giữa lúc ấy, bỗng nghe phía ngoài cửa số có tiếng cười khúc khích rồi có thanh âm nói vọng vào:

- Gã Kiều Phong kia! Ngươi không biết xấu mặt! Ngươi đã giết chết tỷ nương ta, lại còn đi ôm ấp ngoại thất của gia gia ta để ăn trộm ái tình, thế mà không biết thẹn?

Người nói câu đó chính là A Tử.

Kiều Phong tự vấn lương tâm không có điều chi hổ thẹn, nên đối với câu nói của đứa trẻ nít chưa hiểu việc đời, ông chẳng buồn để vào lòng, chỉ nhìn Mã phu nhân, giục:

- Phu nhân nói mau đi! Gã "thủ lãnh đại ca" là ai?

Mã phu nhân hỏi bằng một giọng ỏn thót:

- Ta bảo ngươi cúi gần xuống nhìn vào mặt ta, sao ngươi lại lảng sang chuyện khác?

Giọng nói của mụ vẫn đầy vẻ cám dỗ. Lúc đó A Tử đã bước vào phòng, cười hỏi:

- Mi còn chưa chết kia ư? Cái mặt ngươi bây giờ có khác chi quỷ dạ xoa, còn gã trai nào dám nhìn tới nữa?

Mã phu nhân hỏi:

- Mi nói cái gì? ... Mi... mi bảo ta xấu như quỷ dạ xoa ư? Gương đâu? Lấy cho ta soi lại!

Mụ hỏi mấy câu này với một giọng bàng hoàng. Kiều Phong lại giục:

- Nói đi! Nói mau đi, tôi sẽ lấy gương cho!

A Tử thuận tay cầm chiếc gương trên bàn giơ vào trước mặt Mã phu nhân, cười nói:

- Gương đây, ngươi coi lại xem có đẹp hay không?

Mã phu nhân ngẩng lên nhìn vào trong gương, thấy mặt mình đầy máu me đất cát, đầy vẻ hoảng hốt, dữ tợn, độc ác, oán hờn. Tất cả bao nhiêu xấu xa, khả ố tập trung cả vào đầu mày khoé mắt. Còn đâu là sắc nước hương trời khiến người nhìn phải say mê, thương hương tiếc ngọc như trước nữa.

Mụ giương đôi mắt thao láo ra nhìn rồi không nhắm lại được nữa. Kiều Phong nói:

- A Tử! Cất gương đi đừng để phu nhân phải căm hận.

A Tử nói:

- Tôi muốn cho mụ nhìn coi bộ mặt mụ đã thành quỷ dạ xoa chưa?

Kiều Phong nói:

- Nếu cô làm cho phu nhân tức uất lên mà chết thì hỏng việc.

Kiều Phong phát giác ra rằng Mã phu nhân không cử động mảy may nào nữa, lại không nghe thấy hơi thở. Ông vội để tay lên mũi thấy mụ đã tắt thở rồi.

Kiều Phong cả kinh la lên:

- A Tử! Hỏng rồi! Mã phu nhân tắt thở mất rồi!

Tiếng ông la hoảng chẳng khác gì vạ lớn đến cho mình. A Tử bĩu môi, nói:

- Trong lòng ngươi thực tình thương mụ phải không? Cái loại đàn bà này chết đi làm gì mà ngươi phải hoảng hồn đến thế?

Kiều Phong dẫm chân nói:

- Trời ơi! Tuồng con nít còn có biết gì? Ta đang cần hỏi một việc, mà việc này trên đời chỉ còn có một mình mụ biết mà thôi. Nếu cô không đến quấy nhiễu thì mụ đã nói ra rồi.

A Tử cũng la lên:

- Úi chà! Thế ra ta làm hỏng việc lớn của ngươi phải không?

Kiều Phong thở dài, nghĩ bụng: "Người đã chết rồi không sống lại được nữa. A Tử là một đứa cứng đầu cứng cổ quen rồi, đến cha mẹ cô còn chẳng quản được, huống chi người ngoài. Dù sao mình cũng nghĩ tới A Châu, không tiện gây gổ với cô".

Kiều Phong đặt Mã phu nhân xuống giường, nói:

- Chúng ta đi thôi!

Ông đưa mắt nhìn khắp nơi một lượt, nhưng trong nhà chẳng còn gì cả, mụ lão tẩu cũng bỏ đi đâu rồi. Ông liền lấy đá quẹt lửa lên châm vào đống củi trong phòng. Chỉ trong khoảnh khắc lửa bốc ngất trời. Hai người ra đứng bên ngoài phòng thấy đàn chuột sợ lửa bỗng chui qua cửa sổ chạy ra ngoài. Trong vòng hai giờ sau, chắc người và nhà cháy thành than.

Kiều Phong hỏi:

- Cô không về chỗ gia gia má má cô sao?

A Tử đáp:

- Không! Ta không về với gia giá cùng má má nữa, vì bọn thủ hạ của gia gia hễ thấy ta là họ vểnh râu, trừng mắt lên nhìn ta, coi bộ rất khả ố. Ta bảo gia gia giết hết bọn chúng đi, nhưng người nhất định không nghe.

Kiều Phong nghĩ bụng:

- Cô đã làm chết mất Lăng Thiên Lý là người bạn thâm giao của Đoàn Chính Thuần, hẳn làm cho ông ta bực mình lắm rồi. Có lý đâu còn nghe cô giết chết cả bọn thuộc hạ đầy lòng trung nghĩa. Cô này không biết điều lại còn giận gia gia, thật là một đứa mất nết.

Ông nghĩ vậy liền nói:

- Thôi! Ta đi đây!

Nói xong, trở gót trông hướng Bắc mà đi.

Hồi Thứ 39

Tiểu Cô Nương ám ảnh Kiều Phong

A Tử nói:

- Ồ! Thong thả đã, chờ tôi một chút.

Kiều Phong dừng bước, quay lại hỏi:

- Cô đi đâu bây giờ? Phải chăng tìm về chỗ sư phụ?

A Tử đáp:

- Không, hiện giờ tôi chưa dám về với sư phụ tôi.

Kiều Phong ngạc nhiên, hỏi:

- Tại sao cô không dám về? Chắc lại gây ra tai vạ gì nữa rồi à?

A Tử đáp:

- Có gây ra tai vạ gì đâu? Tôi lấy của sư phụ tôi một bộ sách, giờ trở về người đoạt lại mất. Tôi phải tìm một nơi luyện xong mới về. Lúc đó sư phụ có lấy lại sách cũng không cần nữa.

Kiều Phong hỏi:

- Phải chăng là sách luyện võ? Đã là tình thầy trò sao cô không hỏi xin, làm gì mà người chả cho. Vả lại cô tự luyện lấy, nhất định có nhiều chỗ mình không hiểu rõ. Sao bằng sư phụ ở bên chỉ điểm cho chẳng hay hơn ư?

A Tử bĩu môi đáp:

- Sư phụ đã biểu không cho rồi, năn nỉ cũng bằng vô ích.

Kiều Phong đối với cô bé tính nết giảo quyệt này vốn dĩ không ưa. Ông cự tuyệt:

- Thế bây giờ cô muốn làm gì thì làm hay đi đâu thì đi. Tôi không dính líu gì đến cô nữa.

A Tử hỏi:

- Bây giờ ông đi đâu?

Kiều Phong đưa mắt nhìn mấy gian phòng ốc trong Mã phủ lửa cháy ngất trời, thở dài nói:

- Tôi toan đi rửa hận, nhưng không biết kẻ thù là ai. Thế là suốt đời tôi trên cõi thế gian này, đành ôm mối hận ngàn thu, không còn bao giờ trả được nữa!

A Tử nói:

- À! Tôi biết rồi. Chỉ có Mã phu nhân là biết kẻ thù đó, nhưng tiếc rằng tôi đã chọc giận cho mụ chết rồi. Từ nay trở đi ông không còn cách gì tìm cho ra được kẻ thù. Hay lắm! Hay lắm! Oai danh Kiều Bang chúa lẫy lừng mà bị tôi làm cho mất sạch.

Kiều Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy nàng lộ vẻ hớn hở đắc chí sau khi đã gieo tai rắc hoạ cho người. Ánh lửa hồng chiếu vào khuôn mặt tươi thắm rất khả ái, ông nghĩ ngay đến chỗ sau bộ mắt trái xoan tươi thắm này, che đậy biết bao nhiêu ẩn ý thâm độc.

Kiều Phong giận sôi máu, giơ tay lên toan tát nàng một cái thật mạnh, song ông nhớ đến A Châu lúc sắp chết, khẩn cầu mình chiếu cố cho cô em ruột độc nhất của nàng liền lẩm bẩm: "A Châu đã dặn ta hết sức trông nom cô bé này, có lý đâu ta lại phải bội di ngôn của nàng? Dù cô bé này có là kẻ đại gian đại ác đi nữa, ta cũng phải hết sức sửa cho cô, huống chi cô còn nhỏ tuổi, kiến thức nông cạn thì tính nết bướng bỉnh nghịch ngợm là thường".

A Tử ngẩng đầu lên, hất hàm hỏi:

- Sao? Anh định đánh chết tôi ư? Sao không đánh đi? Tỷ nương tôi đã bị anh đánh chết rồi. Bây giờ anh đánh chết cả tôi nữa cũng chả sao!

Mấy câu này như mũi dao nhọn đâm vào gan ruột Kiều Phong, ông chua xót trong lòng, không còn biết nói sao, cắm đầu rảo bước đi trên con đường tuyết phủ, không ngoảnh cổ lại nữa.

A Tử cười, hỏi:

- Ơ kìa! Thong thả đã, đi đâu mà vội thế?

Kiều Phong đáp:

- Tôi không ở Trung Nguyên được, phải về ải Bắc và từ đó không trở lại đất này nữa...

A Tử ngoẹo đầu hỏi:

- Anh đi đường nào?

Kiều Phong nói:

- Trước hết tôi tới Nhạn Môn quan.

A Tử vỗ tay reo:

- Thế thì may quá! Tôi định đi đến Tần Dương, cùng anh đi đường cho có bạn.

Kiều Phong hỏi:

- Cô đến Tần Dương làm gì? Đường xa kể hàng ngàn dặm, một cô gái bé nhỏ đi một mình sao được?

A Tử cười, nói:

- Ha ha! Đường xa diệu vợi thì sợ cóc gì? Tôi đã từ Tinh Tú Hải về đến đây, xa gấp mấy còn đi được. Đã có anh là bạn đồng hành, sao lại bảo đi một mình?

Kiều Phong lắc đầu, đáp:

- Tôi không đi với cô được.

A Tử hỏi:

- Sao vậy?

Kiều Phong tiếp:

- Tôi là đàn ông, cô là con gái ít tuổi. Ngày đi đêm nghỉ có điều bất tiện.

A Tử nói:

- Anh nói gì mà kỳ vậy? Tôi chả bảo bất tiện thì thôi, còn anh thì việc gì mà bất tiện? Anh đi với tỷ nương tôi cũng chẳng ngày đi đêm nghỉ, đường xa muôn dặm là gì?

Kiều Phong hạ thấp giọng nói:

- Tôi đi với tỷ nương cô vì cùng nhau ước hẹn cuộc hôn nhân, đâu phải chuyện tầm thường?

A Tử vỗ tay cười, nói:

- Trời ơi! Thế mà nghĩ không ra. Tỷ nương tôi cũng như má má tôi, mà anh cũng như gia gia tôi, chưa kết nghĩa phu thê mà sớm đã thành đôi lứa rồi.

Kiều Phong tức mình quát lên:

- Cô không được nói nhăng. Tỷ nương cô đến lúc chết vẫn còn tiết sạch giá trong. Đối với nàng, tôi vẫn một mực thủ lễ, một niềm kính trọng.

A Tử thở dài, nói:

- Anh lớn tiếng hăm doạ tôi làm chi? Tỷ nương tôi đã bị anh đánh chết rồi còn chi nữa?

Kiều Phong nghe A Tử nói Tỷ nương tôi đã bị anh đánh chết rồi thì trong lòng đau như cắt. Ông ôn tồn bảo A Tử:

- Cô nên về Tiểu Kính hồ ở với má má cô. Nếu không thì tìm nơi nào thanh vắng, đem cuốn sách đó ra luyện tập cho mau thành tài, rồi về chỗ sư phụ cô, đi Tấn Dương làm gì?

A Tử vẫn nằng nặc:

- Có phải tôi đi dông dài đâu? Tôi tới đó vì một việc khẩn yếu trọng đại.

Kiều Phong lắc đầu, nói:

- Tôi không đi với cô.

Nói xong cất bước chạy nhanh. A Tử cũng thi triển khinh công, vừa đuổi theo vừa gọi:

- Đợi tôi với! Đợi tôi với!

Kiều Phong không lý gì đến nàng, tăng gia cước lực chạy mau hơn. Đi chưa bao lâu, gió bắc lại bắt đầu thổi mạnh, trời tối dần. Kiều Phong đội gió, dầm tuyết mà đi rất mau. Ông nhớ đến mối thù sâu tựa biển không còn cách nào trả được, lòng uất hận vô cùng nhưng không còn cách nào được, đành gác bỏ, không nghĩ tới nữa, nên trong lòng lại thấy nhẹ nhàng lâng lâng.

Đi chừng được trên ba mươi dặm thì đến một thị trấn. Đây là cửa Trường Đài ở phía bắc thành Tín Dương. Việc đầu tiên là ông tìm vào một tửu điếm. Ông gọi lấy mười cân rượu đế, năm cân thịt và một con gà quay. Kiều Phong uống hết mười cân rượu, lại gọi thêm năm cân nữa.

Ông đang rót rượu ra bát bỗng nghe có tiếng chân người. Người bước vào quán chính là A Tử. Kiều Phong vừa thấy nàng đã lẩm bẩm:

- Cô này lại đến phá tửu hứng của mình.

Ông liền quay đi giả vờ không trông thấy. A Tử tủm tỉm cười, ngồi vào một bàn khác đối diện với Kiều Phong rồi cất tiếng gọi:

- Chủ quán! Lấy rượu cho ta!

Gã tửu bảo chạy đến bên, cười hỏi:

- Tiểu cô nương! Cô cũng uống rượu ư?

A Tử làm mặt giận gay gắt:

- Cô nương là cô nương! Sao ngươi còn thêm chữ tiểu vào. Làm sao ta không uống rượu? Mi lấy cho ta mười cân rượu đế, năm cân thịt bò, một con gà quay ra đây mau lên! Và phải dự bị năm cân rượu nữa để phòng ta gọi đến nghe!

Gã tửu bảo rụt cổ lè lưỡi, chưa đi ngay còn đứng hỏi lại:

- Ối chao! Mẹ ơi là mẹ! Cô nương lại nói giỡn thôi, làm gì mà uống được nhiều thế?

Gã vừa nói vừa liếc mắt nhìn Kiều Phong, lẩm bẩm: "Cô ta chắc muốn chọc ông này rồi! Ông ăn uống thứ gì cô ta cũng gọi bấy nhiêu thứ".

Gã còn đang ngẫm nghĩ, thì A Tử hỏi lại:

- Mi sợ ta không có tiền trả mi phải không?

Nói xong, nàng móc túi lấy ra một đĩnh bạc quăng lên trên bàn đánh xoảng một tiếng, nói tiếp:

- Ta ăn uống không hết, còn thừa thì đổ cho chó, nghe chưa?

Gã tửu bảo nở một nụ cười cầu tài, nói:

- Vâng! Vâng!

Gã lại liếc mắt nhìn Kiều Phong, lẩm bẩm:

- Cô ta muốn ăn thua với ông kia đâm ra mình ở giữa bị mắng.

Lát sau rượu thịt bầy lên bàn, gã tửu bảo lấy cái bát lớn đặt trước mặt A Tử, cười nói:

- Thưa cô nương, tôi xin rót rượu để cô xơi.

A Tử gật đầu, nói:

- Được lắm!

Gã tửu bảo rót rượu đầy ra bát lớn, lẩm bẩm:

- Cô uống cạn bát rượu này mà say lăn kềnh xuống đất tôi mới chịu là giỏi.

A Tử bưng bát rượu lên để vào miệng nhắp một chút, nhíu cặp lông mày, nói:

- Cay quá! Cay quá! Thứ rượu này khó uống lắm. Trên đời nếu không có mấy gã ngu xuẩn chịu uống thì rượu của ngươi không biết bán cho ai?

Tửu bảo lại nheo mắt nhìn Kiều Phong, thấy ông thuỷ chung vẫn không quay lại thì không khỏi cười thầm. A Tử lại xé một miếng đùi gà, cắn một miếng rồi kêu lên:

- Trời ơi! Thịt ôi!

Gã tửu bảo cãi:

- Con gà này béo lắm, thịt của nó thơm ngon. Sáng nay nó còn gáy o... o... Thịt của nó tươi nguyên sao cô bảo thiu?

A Tử nói:

- Hừ! Thế thì có lẽ mình ngươi hôi thối, mà không thì trong quán này tất có khách hôi thối.

Lúc đó, trời xuống tuyết phơi phới như hoa bay, ngoài đường không có khách bộ hành. Trong quán rượu chỉ có Kiều Phong cùng A Tử là hai người khách hàng. Tửu bảo cười, nói:

- Vâng, chính người tôi hôi thối, dù sao tôi cũng phải nhận là mình tôi nặng mùi. Thưa tiểu cô nương! Cô ăn nói cần giữ ý tứ, không lại đắc tội với người khác.

A Tử hỏi:

- Ta làm gì mà đắc tội với người khác, chẳng lẽ họ phóng chưởng đánh chết ta ư?

Nàng vừa nói, vừa cầm đũa gắp một miếng thịt bò bỏ vào miệng nhưng không nhai không nuốt, lại nhổ ra, kêu lên:

- Trời ơi! Thịt gì mà tanh thế, chắc không phải thịt bò mà là thịt người. Đây đúng là hắc điếm!

Tửu bảo thấy nàng la như vậy, chân tay luống cuống, vội nói:

- Bò tươi vừa mổ, sao cô lại bảo thịt người? Thịt người làm gì có to thế này? Màu sắc đâu có được đỏ hổng như thịt bò?

A Tử hỏi:

- Được lắm! Ngươi bảo ngươi biết màu sắc thịt người, vậy ta hỏi, trong quán ngươi đã giết bao nhiêu người rồi?

Tửu bảo cười, đáp:

- Cô tiểu thư này hay nói giỡn quá! Cửa Trường Đài thành Tín Dương là một thị trấn lớn. Chúng tôi mở quán đã đến bốn chục năm nay, làm gì có chuyện giết người bán thịt?

A Tử nói:

- Được rồi! Thế không phải thịt người thì cái gì tanh hôi như vậy? Trời ơi! Hay là đôi giày ta đi trên mặt đấy đầy tuyết phủ dẫm phải chứ gì?

Nói xong cầm một miếng thịt bò thơm ngon tươi thắm, bốc hơn lên ngùn ngụt lau giày. Đôi giày nàng đã dẫm lên bùn lầy còn ướt. Vừa lau vào, bùn đất rơi xuống, mỡ thịt đi trên mặt da khiến cho giày bóng loáng. Gã tửu bảo thấy A Tử phí phạm của trời, lấy miếng thịt to tướng đem lau giày thì xót ruột quá, đứng bên không ngớt thở dài.

A Tử hỏi:

- Ngươi ấm ức điều chi mà thở ngắn thở dài?

Tửu bảo đáp:

- Món thịt bò rán của tửu điếm là một món có danh tiếng ở thịt trấn này, xa gần trong vòng trăm dặm chẳng ai là không biết. Thế mà cô nương lấy để chùi giày. Thế thì... thế thì...

A Tử trừng mắt hỏi:

- Thế thì làm sao?

Tửu bảo đáp:

- Tựa hồ cô nương có vẻ khinh thường món ăn của tiểu điếm quá.

A Tử nói:

- Ngươi nói vậy thì chính ngươi đã khinh thường đôi giày ta quá! Này nhé! Thịt bò lấy ở trong con bò, giày ta cũng lấy ở da bò ra. Sao ngươi bảo ta khinh thường món ăn của nhà ngươi? Thôi đi! Trong quán còn thức ăn gì không ngươi nói cho ta nghe?

Tửu bảo đáp:

- Món ăn thì nhiều thứ, nhưng chỉ đắt tiền thôi.

A Tử móc trong bọc ra một đĩnh bạc nữa quăng lên bàn đánh choang một tiếng, hỏi:

- Bấy nhiêu đã đủ chưa?

Tửu bảo thấy đĩnh bạc nặng tới năm lượng. Tính cả rượu và đồ nhắm cũng đủ, vội cười nói:

- Đủ lắm rồi, đủ lắm rồi! Có gì mà chả đủ? Tiểu điếm có những món: cá chép, thịt cừu, gà quay, giò heo...

A Tử đáp:

- Tốt lắm, ngươi lấy mỗi thứ ba đĩa.

Tửu bảo nói:

- Cô nương ăn, tôi tưởng mỗi thứ một đĩa cũng đủ rồi.

A Tử sa sầm nét mặt, nói:

- Ta bảo lấy ba đĩa, thì ngươi cứ lấy ba đĩa, việc gì phải nói đi nói lại?

Tửu bảo vội đáp:

- Vâng! Vâng!

Rồi vội truyền ra lấy thức ăn đem đến.

Kiều Phong ngồi đó vẫn lạnh lùng như khách bàng quan. Ông cũng biết rằng A Tử đem tửu bảo ra làm cái bung xung, kỳ thực muốn gây chuyện với mình, can thiệp vào việc cô hay không là do mình. Ông vẫn giả tảng như không hay biết gì và tiếp tục uống rượu thưởng tuyết.

Một lát sau A Tử thấy nhà bếp đưa thịt cừu lên, bèn sai tửu bảo:

- Ngươi để đây một đĩa, đem một đĩa sang bàn vị quý khách bên kia, còn một đĩa nữa hẵng để bàn bên cạnh, rồi sắp bát đũa rót những thứ rượu hảo hạng ra để cả vào bàn đó.

Tửu bảo nói:

- Cô nương còn có khách nữa ư?

A Tử trừng mắt mắng:

- Ngươi thật là lắm chuyện! Phải giữ mồm miệng không ta xẻo lưỡi bây giờ!

Tửu bảo thè lưỡi ra cười, hỏi:

- Cô nương cắt lưỡi tôi ư? Tôi chỉ sợ cô cắt không nổi thôi!

Kiều Phong không khỏi động lòng đưa mắt nhìn gã tửu bảo, lẩm bẩm: "Thằng cha này lại muốn chết hẳn? Trêu vào con quỷ này phải biết".

Gã tửu bảo đặt một đĩa thịt cừu lên bàn Kiều Phong. Kiều Phong chẳng nói năng gì, cầm đũa gắp ăn liền. Lát sau, người nhà bưng ba đĩa cá chép vào, một đĩa cho Kiều Phong, một đĩa để bàn A Tử, còn một đĩa cũng để sang bàn bên. Kiều Phong cũng không cự tuyệt gắp ăn luôn.

A Tử mỗi đĩa chỉ nếm một miếng rồi la:

- Ôi lắm! Khét lắm! Những thứ này chỉ đáng cho chó ăn.

Rồi nàng bốc từng nắm thịt cừu, cá chép xát vào đôi giày. Gã tửu bảo nhìn thấy xót ruột nhưng không làm sao được.

Kiều Phong đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ nghĩ thầm: "Con quỷ này thật là khó chịu! Ta mà vướng nó vào thân thì hậu quả tai hại không biết đến đâu mà kể! A Châu bảo ta chiếu cố cho ả nhưng ả là một con quỷ sứ đủ tinh khôn lắm rồi, cần gì phải có người trông nom cho nữa. Ả tự liệu cho ả cũng thừa sức rồi, chả cần đến ta nhọc lòng nữa. Ta nên lánh xa ả, khỏi phải nhìn thấy nữa là yên thân hơn."

Kiều Phong nghĩ đến đây, bỗng nghe xa xa có tiếng chân người đi trên mặt đất đầy tuyết phủ. Thân pháp người này rất là quái dị. Dường như y đi đường mà không co chân cất bước, cặp giò tựa như đôi gậy, chống xuống trượt tuyết mà đi. Cách ăn mặc của y cũng rất kỳ dị. Giữa tháng chạp đang lúc thịnh đông, y chỉ mặc một mảnh áo đơn bằng xô gai sắc vàng mà tuyệt đối không biết rét là gì cả.

Lát sau, y đi gần tới nơi.

Kiều Phong nhìn rõ người này tuổi chạc bốn mươi. Hai bên tai đều đeo một chiếc vòng vàng lớn. Mũi như mũi sư tử, miệng rộng quá đến mang tai. Tướng mạo rất hung ác, kỳ quái, rõ ràng không phải là một nhân vật Trung Nguyên. Dị nhân tới trước quán rượu vén màn bước vào.

Gã vừa thấy A Tử thì khẽ giật mình, rồi lộ vẻ mừng rỡ, muốn nói lại thôi. Gã ngồi xuống bàn trống. A Tử bảo dị nhân:

- Sẵn rượu thịt đấy sao không ngồi xuống ăn đi?

Dị nhân thấy một cái bàn chưa có người ngồi mà đã bày đủ rượu thịt, liền hỏi:

- Phần ta đây phải không? Xin đa tạ sư Muội.

Nói xong, ngồi sang bàn đã bày rượu thịt, gã móc trong bọc ra một lưỡi dao nhỏ bằng vàng. Gã vừa cắt thịt vừa bốc ăn.

Một điều lạ hơn nữa là gã ăn cá không nhai xương vẫn không sợ hóc. Gã trệu trạo rồi nuốt cả xương cá vào ruột. Gã ăn từng miếng thịt to, uống từng bát rượu lớn, tửu lượng cũng khá lắm.

Kiều Phong nghĩ bụng: "Té ra gã này là sư huynh của A Tử, chắc là đồ đệ Tinh Tú Hải Lão Ma". Ông vốn dĩ không ưa tướng mạo cùng cử chỉ của gã này, nhưng thấy tửu lượng gã cũng gớm, thì lại nghĩ bụng: "Gã này cũng có chút bản lãnh đây".

A Tử thấy gã uống cạn bát rượu, liền nhìn tửu bảo nói:

- Ngươi đưa thứ rượu này sang cho quý khách bên kia.

Nói xong, thò hai tay vào bát rượu quấy lên, rửa bàn tay nhầy nhụa mỡ màng rồi đẩy bát rượu đi một cái. Tửu bảo tự hỏi: "Bát rượu này còn uống được kia ư?"

A Tử thấy tửu bảo ngần ngừ không chịu bưng bát rượu đi, liền giục:

- Sao mi không bưng mau đi, người ta đang chờ rượu uống.

Tửu bảo cười, nói:

- Cô nương lại nói giỡn rồi! Bát rượu này cô đã rửa tay vào, ai mà dám uống?

A Tử quắc mắt hỏi:

- Ngươi chê tay ta bẩn ư? Đã thế thì ngươi uống đi một hớp, rồi ta cho một đĩnh bạc.

A Tử vừa nói vừa móc trong bọc ra một đĩnh bạc vụn cân nặng một lạng quẳng lên bàn. Tửu bảo cả mừng, nói:

- Uống một hớp rượu mà được một lạng thì lời! Đừng nói cô mới rửa tay, cô rửa cả chân vào tôi cũng dám uống.

Nói đoạn gã bưng bát rượu lên uống một hớp. Dè đâu rượu vừa uống vào miệng khác nào như miếng sắt nung đỏ, cháy cả đầu lưỡi. Đau rát không chịu được.

Gã tửu bảo la lên một tiếng úi chao rồi há miệng, nhổ rượu ra. Gã đau quá hai chân giãy giụa rối rít, vừa giãy giụa vừa la:

- Trời ơi! Úi cha ơi là mẹ ơi!

Kiều Phong thấy vậy cả kinh, chỉ thấy gã càng kêu càng hầm hồ, không biết vì lẽ gì đầu lưỡi gã sưng lên. Chủ quán cùng những người cất rượu nghe tiếng rên vội chạy ùa ra, hỏi:

- Chi vậy? Chi vậy?

Gã tửu bảo đưa tay lên trỏ vào mặt mình chứ không nói được. Gã thè lưỡi ra thì đầu lưỡi gã sưng lên gấp ba người thường. Cả cái lưỡi đen xạm lại.

Kiều Phong lại càng kinh ngạc lẩm bẩm:

- Gã tửu bảo dường như trúng phải kịch độc rồi! Con quỷ cái này chỉ thò tay vào rượu ngâm một lúc mà bát rượu đã độc đến thế.

Mọi người thấy gã tửu bảo hình trạng kỳ dị như vậy, ai ai cũng bở vía, hốt hoảng la lên:

- Gã trúng độc rồi!

- Gã phải nọc rắn rết gì đây?

- Thôi chết rồi! Mau đi mời thầy lang.

Gã tửu bảo đưa tay trỏ A Tử, đột nhiên chạy đến trước mặt nàng quỳ mọp xuống dập đầu lạy binh binh.

A Tử cười, nói:

- Ta không dám! Ngươi yêu cầu ta việc chi?

Tửu bảo ngẩng đầu lên, trỏ tay vào lưỡi mình rồi cứ lạy hoài. A Tử cười, nói:

- Ngươi muốn ta chữa cho phải không?

Tửu bảo đau quá, mồ hôi trán toát ra đầm đìa. Hai tay gã suýt xoa khắp mình mẩy rồi lại chắp tay vào dập đầu lạy mãi.

A Tử thò tay vào bọc lấy ra một lưỡi dao vàng nhỏ xíu, giống như lưỡi dao của gã mũi sư tử dùng để cắt thịt ra ăn. Nàng giơ tay ra nắm lấy sau ót gã, tay phải vung dao lên đánh xẹt một tiếng, cắt luôn một miếng đầu lưỡi gã. Mọi người bàng quan thất thanh la hoảng, chỗ đầu lưỡi bị đứt, máu tuôn ra như suối.

Ban đầu gã tửu bảo vừa đau đớn khủng khiếp, nhưng một lúc máu tươi chảy ra, đồng thời chất độc cũng ra theo mà đầu lưỡi giảm đau được một vài phần, lưỡi cũng không sưng nữa. A Tử lại móc trong bọc ra một bình nhỏ thuốc vàng bôi vào vết thương. Lạ thay, thuốc vừa bôi vào đã cầm máu được ngay.

Gã tửu bảo oán hận không xong mà tạ ơn cũng không phải. Gã ngẩn ngơ nói ấp úng:

- Cô nương... cô nương.

Vì gã bị cắt mất đầu lưỡi nên nói không rõ được. A Tử cầm đĩnh bạc vụn cười, nói:

- Ta bảo ngươi uống một hớp rượu thì ta mới cho lạng bạc này, nhưng ngươi uống vào lại nhả ra thì ta lấy lại. Ngươi muốn lấy đĩnh bạc này phải uống hớp khác.

Gã tửu bảo khoát tay lia lịa, hàm hồ nói:

- Tôi không uống rượu mà cũng không lấy tiền nữa.

A Tử cất tiền vào bọc, cười nói:

- Lúc nãy ngươi nói gì? Dường như ngươi bảo "Cô nương định cắt lưỡi tôi. Tôi chỉ sợ cô nương không đủ bản lãnh" có phải thế không? Bây giờ ngươi lạy lục năn nỉ ta cắt cho. Thế thì cô nương có đủ bản lãnh chăng?

Bấy giờ gã tửu bảo mới tỉnh ngộ mà biết tự mình nói một câu thất thố nên phải chịu đau khổ như vậy. Trong lòng gã căm hận không biết đến đâu mà kể. Gã toan ra tay rửa hận ngay lập tức, liều lĩnh đánh cho cô ả một mẻ. Nhưng gã lại thấy một tráng sĩ khôi ngô hùng vĩ ngồi bàn ngay trước mặt và lại là người đến cùng với cô một lúc nên gã đâm ra khiếp đảm.

A Tử lại hỏi:

- Ngươi không uống rượu ư?

Tửu bảo tức mình đáp:

- Lão... lão gia...

Gã chỉ nói được mấy tiếng, toan thoá mạ A Tử cho hả giận, nhưng trong lòng vẫn kinh sợ. Gã rảo bước chạy vào nhà trong không dám thò mặt ra nữa. Mọi người ai đi làm việc nấy. Một gã tửu bảo khác được đưa ra phòng khách để hầu hạ ả. Gã tửu bảo mới này trông gương gã trước, nơm nớp lo sợ không dám nói một câu nào.

Kiều Phong không đè nén được cơn giận lẩm bẩm:

- Gã tửu bảo kia chỉ nói có một câu mà con tiểu quỷ này đã trị gã đến nỗi mang tật suốt đời. Từ đây sắp tới gã nói thành ngọng nghịu không rõ ràng được nữa. Cô ta làm việc này thật là độc ác vô cùng.

Bỗng nghe A Tử nói:

- Tửu bảo! Ngươi hãy cầm bát rượu này cho vị quý khách ngồi kia uống.

Nàng nói xong trỏ vào gã mũi sư tử. Tửu bảo vừa thấy A Tử trỏ vào bát rượu, gã đã sợ run bắn lên. Khi gã nghe nàng bảo đưa bát rượu cho người khác uống lại càng sợ nữa.

A Tử cười, nói:

- Ồ! Ngươi không muốn đưa bát rượu này cho ông khách kia uống, chắc là ngươi muốn uống. Nếu vậy càng hay. Đây, ngươi bưng uống đi!

Gã tửu bảo khiếp sợ mặt không còn hạt máu, vội nói:

- Không, không... tiểu nhân... tiểu nhân không uống.

A Tử giục:

- Vậy thì ngươi bưng đi.

Tửu bảo vội nói:

- Vâng! Vâng!

Gã run lập cập bưng bát rượu dâng lên bàn gã mũi sư tử, vừa bưng vừa sợ không cẩn thận rót ra ngoài mấy giọt. Lúc gã đặt bát rượu lên mặt bàn nghe kêu lạch cạch vì hai tay gã run quá.

Gã mũi sư tử hai tay bưng bát rượu lên chú ý nhìn kỹ rượu, để cách môi chừng một thước thì không đưa lên nữa mà cũng không hạ xuống bàn.

A Tử cười, hỏi:

- Nhị ca! Sao vậy? Tiểu Muội mời nhị ca xơi rượu mà nhị ca không nể mặt tiểu Muội ư?

Kiều Phong nghĩ bụng:

- Thứ rượu này độc vô cùng, quyết gã kia không phải nhịn nhục để cô ả muốn nói khích thế nào thì nói, chẳng lẽ gã uống vào để mất mạng ư? Dù người có nội công ghê gớm đến đâu cũng không thể chống lại được với thứ thuốc độc này.

Ngờ đâu gã mũi sư tử ngẫm nghĩ một lúc rồi đưa bát rượu lên môi húp "Ừng ực" rồi nuốt xuống bụng.

Kiều Phong giật mình tự hỏi:

- Chẳng lẽ gã này nội lực thâm hậu đến thế ư? Sao gã có thể chống nổi với bát rượu độc này?

Kiều Phong còn đang ngẫm nghĩ thì gã mũi sư tử đã uống cạn bát rượu, đặt bát xuống mặt bàn. Hai ngón tay cái còn rượu ướt đầm đìa gã tiện tay lấy vạt áo ra lau.

Kiều Phong là người có tính cách hào sảng, xong xử sự rất là tinh tế. Ông trầm lặng suy nghĩ một lúc rồi hiểu ngay, lẩm bẩm một mình:

- Phải rồi! Thằng cha này đã luyện được môn hoá độc đại pháp của Tinh Tú Lão Ma truyền cho. Trước khi gã uống, lúc cầm bát gã thò hai ngón tay cái vào trong rượu hồi lâu không uống ngay, thì ra gã đã thi triển môn hoá độc đại pháp đem nội lực chế hoá chất độc trong rượu. Khi chế hoá được chất độc rồi, gã mới uống vào bụng thì không còn gì đáng ngại nữa.

A Tử chờ gã mũi sư tử uống cạn bát rượu độc rồi ra chiều kinh ngạc, gượng cười nói:

- Nhị sư huynh! Công lực nhị sư huynh tiến bộ rất nhiều! Tiểu Muội xin mừng cho sư huynh.

Gã mũi sư tử mặc kệ cho A Tử muốn nói gì thì nói, gã ăn như rồng cuốn một lúc, cả bàn đồ nhắm mười phần đã hết chín rồi vỗ bụng, đứng lên nói:

- Đi thôi!

A Tử nói:

- Xin sư huynh cứ tuỳ tiện. Chúng ta còn có ngày tái ngộ.

Gã mũi sư tử trừng đôi mắt một to một nhỏ, nói:

- Sư Muội nói chi... Có ngày tái ngộ, sư Muội đi với ta ngay bây giờ!

A Tử lắc đầu, đáp:

- Tiểu Muội không đi.

Đoạn nàng chạy đến bên Kiều Phong, nói tiếp:

- Tiểu Muội đã có lời hẹn ước với đại ca đây, chuyến này cùng đi Giang Nam với nhau.

Gã mũi sư tử trừng mắt nhìn Kiều Phong, hỏi:

- Cha này là ai?

A Tử nói:

- Sư huynh nói cái gì mà cha này với cha nọ? Y là thân phu tỷ nương tiểu Muội. Tiểu Muội là em vợ y. Thế là họ gần lắm.

Gã mũi sư tử nói:

- Sư Muội ra đề tiểu huynh đã làm bài xong rồi. Còn sư Muội quên lề luật của môn phái ta rồi ư?

Kiều Phong nghĩ bụng:

- Té ra A Tử kêu gã mũi sư tử uống rượu độc là đưa ra một vấn đề khó khăn, không ngờ gã lại giải quyết được.

A Tử lại nói tiếp:

- Sư huynh sao lại bảo là tiểu Muội ra đầu đề? Phải chăng sư huynh nói về chuyện uống bát rượu vừa rồi? Ha ha! Buồn cười quá! Bát rượu đó tiểu Muội dành cho gã tửu bảo uống, không ngờ đường đường một bậc cao đồ phái Tinh Tú lại đi uống thứ nước dơ dáy của gã tửu bảo uống thừa. Gã tửu bảo uống vào chẳng sao thì sư huynh uống có gì là lạ? Tiểu Muội xin hỏi sư huynh, gã tửu bảo tầm thường kia còn uống được thì đời nào tôi lại đem cái đó làm đề mục?

Tuy nàng cãi cối như vậy, nhưng muốn bác ý kiến của nàng cũng không phải là dễ. Gã mũi sư tử tuy trong lòng tức giận nhưng cố dịu, nói:

- Sư phụ có lệnh bảo ta đến tìm sư Muội về, sư Muội không về, sư Muội muốn chống lại mệnh lệnh của sư phụ phải không?

A Tử cười, đáp:

- Nhị ca ơi! Sư phụ thương tiểu Muội lắm kia! Nhờ sư huynh về bẩm lại với sư phụ rằng tiểu Muội đang đi đường thì gặp người anh rể cùng xuống Giang Nam du ngoạn ít bữa, đồng thời xem có thứ đồ cổ hoặc châu báu thì mua đem về biếu sư phụ.

Gã mũi sư tử lắc đầu, nói:

- Không được! Không được! Sư Muội lấy cắp của sư phụ...

Nói tới đây, gã đưa mắt nhìn Kiều Phong, tựa hồ sợ tiết lộ bí mật. Ngừng một lát, gã lại nói tiếp:

- Sư phụ giận lắm đấy! Bảo sư Muội phải về ngay.

A Tử năn nỉ:

- Nhị sư huynh cũng biết là sư phụ khi đã nổi lôi đình mà còn bắt tiểu Muội phải về thì chắc là người có ý làm cho sư Muội phải đau khổ. Nếu lần này sư huynh không bênh vực tiểu Muội thì lần sau sư phụ có trách phạt sư huynh, tiểu Muội cũng không van xin cho nữa đâu.

A Tử nói câu này tựa hồ khiến cho gã mũi sư tử phải động tâm. Gã nghĩ đến A Tử còn nhỏ tuổi lại được Tinh Tú Hải Lão Ma rất cưng chiều. Nàng nói câu gì cũng được lão hay nghe. Gã mũi sư tử trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Nếu sư Muội không chịu về thì phải đưa cho ta vật gì đem về làm bằng để phục mệnh. Có thế sư phụ mới nguôi giận được.

A Tử nói:

- Sư huynh bảo saa? Bây giờ phải đưa thứ gì để sư huynh đem về, tiểu Muội không hiểu?

Gã mũi sư tử dằn giọng nói:

- Này ta bảo cho sư Muội biết! Sở dĩ ta chưa động thủ mạo phạm đến sư Muội là ta còn nghĩ tình đồng môn đó. Vậy sư Muội phải biết điều chút mới được.

A Tử cười, nói:

- Tiểu Muội biết điều phải trái lắm chớ. Tiểu Muội mời sư huynh ăn cơm uống rượu là điều phải, còn sư huynh bức bách tiểu Muội phải về với sư phụ là điều trái.

Gã mũi sư tử nói:

- Nhiều lời vô ích. Bây giờ chỉ có hai đường, sư Muội chọn lấy một. Một là sư Muội giao cho ta hai vật đó đem về trình sư phụ, hai là sư Muội phải theo ta đi.

A Tử vẫn nằng nặc:

- Tiểu Muội không về đâu. Còn hai vật sư huynh nói đó, tiểu Muội chưa hiểu là vật gì? Phải chăng là những vật tiểu Muội đeo trong mình. Nếu vậy thì được...

Nàng vừa nói vừa rút cành kim thoa trên đầu ra, nói tiếp:

- Sư huynh cần có thứ để làm bằng cớ trình sư phụ. Vậy hãy cầm cành kim thoa này về là được.

Gã mũi sư tử tức giận nói:

- À, ra mi bắt buộc ta phải động thủ mới xong hả?

Nói xong gã tiến thêm lại một bước. A Tử biết nhị sư huynh mình đã học được sáu bảy thành những tuyệt nghệ của sư phụ. Bản lãnh gã cao hơn mình nhiều, quyết là mình không thể địch nổi. Huống chi võ công phái Tinh Tú cực kỳ hiểm độc. Nguyên ba mươi sáu đường quyền cước hoặc chiêu thức bằng khí giới của phái Tinh Tú không có chiêu nào là nhẹ nhàng cả.

Đối phương chỉ trúng phải một chiêu thì không chết cũng không bị trọng thương đến thành tàn phế suốt đời, mà chết cũng thảm khốc phi thường. Vì thế mà các sư huynh đệ trong môn phái này không giao đấu với nhau bao giờ. Chỉ một chiêu hay một quyền để phân cao thấp là có người bị chết hay bị thương.

Giữa sư phụ và đồ đệ cũng không bao giờ diễn thử võ nghệ. Tinh Tú Lão Ma truyền thụ những yếu quyết cho đồ đệ rồi, mỗi người đi một chỗ mà rèn luyện. Bản lãnh cao thấp thế nào ai biết phận người nấy mà thôi. Trừ khi cùng nhau đối địch mới rõ hơn kém.

Hồi Thứ 40

Môn đồ Tinh Tú khiếp oai thần

A Tử đã được mục kích nhị sư huynh đánh chết liền một lúc ba tên đại đạo tại miền Tứ Xuyên Tây Tạng. Thủ pháp gã hiểm độc khiến người kinh hồn táng đởm. Tuy nàng gan dạ vô cùng mà trong lòng không khỏi nơm nớp lo sợ. Việc A Tử vừa dùng rượu độc để thử thách sư huynh cũng là một lề luật của phái Tinh Tú dùng để đo tài bạn đồng môn, chứ không phải chuyện tầm thường. Giả tỷ gã mũi sư tử chịu nhận thua cuộc thì bất luận điều kiện gì gã cũng phải chịu nàng kiềm chế. Nhưng đằng này, gã tuyệt nhiên không do dự, bưng bát rượu độc uống một hơi cạn sạch, nên đúng lý ra thì A Tử không được phản kháng một điều gì nữa.

A Tử thấy tình thế nguy cấp, vội níu áo Kiều Phong gọi:

- Tỷ phu, người này định giết tôi! Tỷ phu cứu tôi với!

Kiều Phong thấy nàng gọi một điều tỷ phu hai điều tỷ phu thì không khỏi động lòng, nhớ tới lời di ngôn của A Châu đã phó thác nàng cho mình, toan ra tay đánh bại gã mũi sư tử đi ngay. Nhưng trông thấy vết máu tươi dưới đất, Kiều Phong lại nghĩ đến tâm địa độc ác của A Tử đối với gã tửu bảo, nên ông muốn để nàng bị đau khổ cho biết thân, âu đó cũng là một cách răn dạy con người bướng bỉnh tàn ác. Tính toán như vậy, ông liền để mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, không hỏi han gì đến A Tử.

Gã mũi sư tử bản ý cũng không muốn cùng A Tử động thủ, chỉ cốt hăm dọa cho nàng biết sợ, chịu ép một bề theo mình về là được. Gã đưa tay phải ra toan nắm lấy cổ tay trái Kiều Phong.

Kiều Phong nhác thấy vai gã động đậy đã biết ngay là gã định ăn thua với mình, song ông cứ mặc kệ cho gã nắm lấy tay. Trên da thịt cùng trong lòng bàn tay gã đều có chất kịch độc. Trước này Kiều Phong rất căm giận những hạng người dùng thuốc độc, nhưng ngoài mặt ông vẫn thản nhiên như không, chỉ ngấm ngầm vận động chân khí ra cổ tay rồi cười, hỏi:

- Chi vậy! Phải chăng các hạ muốn cùng tôi uống bát rượu chơi.?

Nói xong tay phải cầm bồ rót đầy rượu vào hai bát lớn, nói:

- Nào xin mời các hạ.

Gã mũi sư tử đã vận nội lực trước khi nắm tay Kiều Phong mà thấy ông vẫn ung dung như không hay biết gì, gã lẩm bẩm:

- Mi đừng đắc ý vội, lát nữa sẽ biết tay ta.

Nghe Kiều Phong mời uống rượu, gã đáp:

- Uống rượu thì uống, sao lại không dám!

Gã vừa nói vừa bưng bát rượu lên uống ực. Dè đâu rượu vừa nuốt đến cổ họng, đột nhiên một luồng nội khí ở dưới ngực đẩy ngược lên. Gã không sao nhịn được, oẹ lên một tiếng, bát rượu uống vào lại nôn ra hết, ướt cả vạt áo đằng trước. Nôn rượu ra xong, gã ho sù sụ một lúc mới yên lại được. Tình trạng này khiến cho gã mũi sư tử phải hoảng hồn. Gã biết rằng sở dĩ luồng nội khí bốc ngược lên là do nội lực hùng hậu của đối phương thúc vào thân thể mình mà ra.

Giả tỷ y muốn hại mình cũng dễ như trở bàn tay. Gã sợ quá, vội buông cổ tay Kiều Phong ra. Nào ngờ tay gã dường như có chất gì dán chặt vào tay Kiều Phong không tài nào gỡ ra được. Gã kinh hãi, cố sức đẩy ra. Kiều Phong vẫn ngồi yên không nhúc nhích, gã mũi sư tử xô đẩy ông vẫn trơ trơ như núi đá, chẳng ăn thua gì.

Kiều Phong lại rót rượu đầy bát, nói:

- Vừa rồi lão huynh chưa uống rượu, vậy xin lão huynh uống nốt bát này rồi ta sẽ phân tay.

Ý ông muốn nói ngươi có uống được bát rượu này thì ta sẽ buông tay ngươi ra. Gã mũi sư tử lại hết sức cựa quậy mà vẫn không thoát ra được, gã liền vung tay trái đánh ra một quyền vào mặt Kiều Phong. Quyền chưa đánh tới, Kiều Phong đã ngửi thấy mùi tanh hôi như mùi cá ươn. Ông khẽ đưa tay phải gạt ra.

Gã mũi sư tử đã dùng toàn lực để phóng quyền, ngờ đâu phóng dở dang đã bị gạt trẹo đi. Gã không tự chủ được nữa, biết chiêu thức của mình bị chưởng lực đối phương gạt đi. Đoạn một tiếng "chát" vang lên, thì ra chính tay gã lại đập vào bả vai gã rất mạnh khiếp xương bả vai bị trật khớp.

A Tử cười, hỏi:

- Nhị sư huynh thật khéo giở trò. Ai lại vung tay mình lên đánh mình bao giờ? Thật không hiểu ý tứ sư huynh ra sao?

Gã mũi sư tử căm hận vô cùng, khốn nỗi tay phải bị dính chặt vào tay Kiều Phong không tài nào gỡ ra được. Còn tay trái gã không dám đánh ra chưởng thứ hai nữa. Gã mũi sư tử giẫy giụa đến lần thứ ba không thoát được, bèn vận động nội lực định dồn những chất kịch độc trong lòng bàn tay vào người đối phương.

Dè đâu luồng nội lực của gã vừa đụng vào tay Kiều Phong, lập tức bị hất ngược trở lại. Gã mũi sư tử giật mình, vội vận nội lực để chống đỡ. Song nội lực của gã so với Kiều Phong kém xa rất nhiều. Luồng nội lực âm độc của gã mũi sư tử bị nội lực Kiều Phong đánh bạt đi không ăn thua gì, khác nào như sóng biển tràn vào trong sông.

Luồng nội lực của đối phương tràn vào khớp xương khuỷu tay, đưa xuống nách, rồi luân chuyển vào trong bụng. Gã mũi sư tử tự biết chất độc trong tay mình ghê gớm, nếu xông vào đến tâm trạng là lập tức chết ngay. Luồng nội lực của đối phương thúc đẩy quá mãnh liệt khiến cho nội lực của mình vô phương ngăn trở, gã bồn chồn mồ hôi trán toát ra đầm đìa, nhỏ giọt.

A Tử cười, nói móc:

- Nhị sư huynh! Nội lực của sư huynh thật là cao cường. Trời rét lạnh thế này mà sư huynh ra mồ hôi lắm quá, khiến cho tiểu Muội khâm phục vô cùng.

Gã mũi sư tử còn lòng dạ nào mà nghe lời châm chọc của A Tử. Gã biết rằng kiếp vận số tới rồi, song chẳng lẽ bó tay chờ chết, còn chống chọi được lúc nào hay lúc ấy.

Kiều Phong nghĩ bụng:

- Gã này không có thù oán gì với ta. Tuy gã vừa ra tay đã hạ độc thủ là một điều rất mạo phạm, nhưng ta cũng chẳng nên vì thế mà giết chết gã.

Nghĩ vậy, ông đột nhiên thu nội lực. Gã mũi sư tử bỗng nhiên thấy bàn tay mình đang bị gắn chặt đã buông ra, cả luồng nội lực thúc đẩy chất độc ở tay mình cũng thoát ra. Gã vừa mừng vừa sợ lùi lại hai bước, không dám tiến lại gần Kiều Phong nữa. Gã mũi sư tử thoát chết rồi khác nào đã xuống Quỷ môn quan lại được trở về.

Gã tửu bảo không biết chuyện gì hết, sợ gã mũi sư tử nổi nóng lật đật lại rót rượu. Gã mũi sư tử phóng chưởng ra tát vào mặt gã tửu bảo. Gã tửu bảo rú lên một tiếng té nằm ngửa dưới đất. Gã mũi sư tử xông ra cửa lớn trông về hướng tây nam chạy nhanh như bay. Bỗng nghe thấy tiếng tiêu nhẹ nhàng khẽ vọng lại.

Kiều Phong nhìn gã tửu bảo thấy mặt đen xạm và đã chết rồi. Ông không khỏi tức giận, quát lên:

- Thằng cha đó thật là khả ố! Mình tha mạng hắn ai ngờ hắn lại ra tay giết người?

Ông vỗ bàn đứng dậy muốn đuổi theo. A Tử ngăn lại, kêu lên:

- Tỷ phu! Tỷ phu hãy ngồi xuống để tôi nói cho tỷ phu nghe.

Giả tỷ nàng kêu ông bằng Kiều Bang chúa hay Tiêu đại gia gì gì thì Kiều Phong nhất định không nhìn gì đến nàng. Song hai tiếng tỷ phu vừa gọi lên, ông lập tức nhớ tới A Châu, lòng đau như cắt, liền hỏi:

- Chi vậy?

A Tử đáp:

- Không phải nhị sư huynh là một kẻ khả ố đâu. Gã đã ra tay định sát hại tỷ phu không xong, chất độc chưa tan đi, gã đành bắt buộc phải giết người khác.

Kiều Phong biết võ công ở phái tà có thứ thủ pháp kêu là độc thủ. Chất độc tụ ở lòng bàn tay rồi mà không phát tán vào trong người địch nhân được phải đánh chết trâu, ngựa hay bất luận đánh chết một thứ súc sinh nào, không thì chất độc chạy vào trong thân thể ngay.

Ông nói:

- Muốn tán độc sao gã không đánh chết một giống súc sinh mà lại vô cớ đi đánh chết người?

A Tử cười, đáp:

- Thằng người ngu ngốc đó có khác gì trâu ngựa? Giết y cũng như giết một giống súc sinh.

Miệng nàng nói thao thao, khác nào thiên kinh địa nghỉ, lý đương nhiên là như vậy, chứ không vấp váp ngượng nghịu chút nào. Kiều Phong nghe nàng nói mà phát ớn. Ông tự nghĩ: "Cô này tính độc ác chẳng khác nào giống cầm thú. Hà tất ta phải chiếu cố đến cô." Kiều Phong thấy chủ quán chạy ra, ông không muốn lôi thôi, bèn ra khỏi quán trông về hướng bắc mà đi. Bên tai ông vẫn nghe tiếng chân A Tử chạy theo. Ông liền gia tăng cước bộ chạy nhanh hơn, chỉ trong chốc lát đã bỏ A Tử khá xa, khiến nàng muốn đuổi theo cũng không thể kịp.

Bỗng nghe A Tử lanh lảnh gọi to:

- Tỷ phu ơi! Tỷ phu chờ tôi với! Tôi... tôi không theo kịp...

Kiều Phong nghe nàng gọi tỷ phu lại động tâm dừng bước. Vừa đây ông cùng nàng đối diện nói chuyện thì từ vẻ mặt cho đến cử chỉ, trong lòng không hết chán ghét. Nhưng lúc này nàng lật đật chạy theo cất tiếng gọi thì y hệt như A Châu gọi mình.

Cả hai cô đã là chị em ruột với nhau, âm điệu lại cũng in như nhau, khiến cho Kiều Phong bàng hoàng trong dạ. Ông ngoảnh đầu nhìn lại, nước mắt chạy quanh. Ông thấy xa xa một cô gái nhỏ tuổi đương chạy như bay trên đất đầy tuyết phủ, chẳng khác gì A Châu phục sinh, bất giác ông giang hai tay ra, khẽ kêu lên:

- A Châu! A Châu!

Kiều Phong ôm choàng lấy A Tử một lúc, ông mơ màng nhớ đến ngày cùng A Châu đi từ Nhạn môn quan xuống đến Trung Nguyên. Quang cảnh hai người thủ thỉ chuyện trò đằm thắm lại hiện ra trước mắt. Đột nhiên tấm thân mềm mại ấm áp trong lòng ông có tiếng nhõng nhẽo hỏi:

- Tỷ phu! Sao lúc nãy không đợi em!

Kiều Phong giật mình như người trong giấc mơ, choàng tỉnh dậy đưa tay khẽ đẩy A Tử ra, nói:

- Cô theo tôi làm gì?

A Tử đáp:

- Tỷ phu đánh đuổi được nhị sư huynh cho em, đương nhiên em phải đến tạ ơn tỷ phu.

Kiều Phong lạnh lùng nói:

- Cô không cần tạ ơn tôi. Thực ra có phải bản tâm tôi muốn cứu cô đâu. Tại hắn động thủ với tôi, tôi phải tự vệ để khỏi chết vì tay hắn mà thôi.

Nói xong trở gót đi ngay. A Tử giơ hai tay ra định kéo Kiều Phong. Kiều Phong khẽ né người i.ị Nàng loạng choạng xiêu về phía trước. Kể ra thì với bản lĩnh của nàng, nàng có thể gượng đứng lên như chơi, song nàng thừa cơ để trượt chân cho người ngã lăn xuống đống tuyết rồi la lên:

- Trời ơi! Ngã đau chết đi được!

Kiều Phong biết nàng giả vờ. Nhưng nghe giọng nói ỏn ẻn, hình ảnh A Châu lại xuất hiện trong đầu óc, một mùi hương thoang thoảng, lại cảm xúc vào dây thần kinh ông.

Kiều Phong quay lại đưa tay ra nắm cổ áo A Tử kéo lên, thì nàng cười rất tươi, nói:

- Tỷ phu ơi! Tỷ nương em bảo tỷ phu phải chiếu cố cho em sao tỷ phu không tuân theo di ngôn của tỷ nương? Em là một đứa nhỏ lênh đênh cơ khổ bị bao nhiêu người ức hiếp! Tỷ phu cũng ghét em hay sao?

Nàng nói mấy câu bằng một giọng dím dót nghe rất đáng thương. Kiều Phong biết nàng mười phần có đến tám là giả tạo, mà vẫn không khỏi mềm lòng.

Ông hỏi:

- Cô đi theo tôi có được ích gì? Trong lòng tôi đang buồn bực không muốn nói chuyện với cô đâu. Chỉ khi nào cô làm điều càn rỡ tôi mới can thiệp vào thôi.

A Tử nói:

- Nếu tỷ phu trong lòng không vui thì có em đây giải muộn cho chứ sao? Và cõi lòng tỷ phu biết đâu chẳng dần dần trở lại ấm áp... Nếu tỷ phu uống rượu thì em rót cho. Tỷ phu thay quần áo thì em sẽ giặt giũ khâu vá cho. Nếu em có việc gì lỗi đạo, tỷ phu can thiệp cho thì còn gì hay bằng? Từ thuở nhỏ em đã bị gia nương bỏ rơi, không người quản cố giáo hoá, nên việc đời em chẳng hiểu thế nào là phải quấy.

Nói đến đây hai mắt nàng đỏ mọng. Kiều Phong nghĩ bụng:

- Cả hai chị em cô này đều có thiên tài về tinh nghịch và hóm hỉnh. Bản lĩnh gạt người lại càng ghê gớm, thật là tám lạng người nửa cân, chẳng ai thua ai. May mà mình sớm biết cô này rất thâm độc mới khỏi mắc bẫy. Cô nhất định theo mình, hẳn là có âm mưu ngụy kế chi đây? Phải chẳng sư phụ cô phái cô theo sát mình để âm mưu, ám hại?

Nghĩ tới đây, Kiều Phong không khỏi rùng mình, tự hỏi:

- Phải chăng kẻ đại thù của ta cùng Tinh Tú Lão Ma có dính líu với nhau? Hay chính lão là kẻ thù của ta cũng nên?

Kiều Phong quyết định chủ ý, lẩm bẩm một mình:

- Chẳng lẽ Kiều Phong này đường đường là một trang nam tử trượng phu lại sợ cô bé này ngấm ngầm hạ độc thủ ư? Chi bằng mình tương kế tựu kế cho cô đi theo, để ý xem cô thi hành quỷ kế gì? Có khi vì cô mà mình báo được mối tư thù lớn cũng chưa biết chừng.

Kiều Phong nghĩ vậy liền nói:

- Cô đã nói vậy thì đi theo tôi. Nhưng tôi giao hẹn trước, nếu cô tự nhiên giết người vô tội, tôi không tha cô đâu!

A Tử thè lưỡi ra, nói:

- Thế nhưng người ta hại đến em, tỷ phu có để em giết hắn không?

Kiều Phong nghĩ bụng:

- Cô này thật giảo hoạt, cô ra tay giết người rồi, chắc lại tìm lời nói khéo đổ lỗi cho người ta động thủ trước thì dù đối phương có là người tốt, cô cũng đổ lỗi cho người ta được.

Tính toán như vậy, Kiều Phong liền gạt phắt đi:

- Bất luận là người xấu hay tốt, tôi không cần cô phải can thiệp. Cô đã đi với tôi,quyết không ai có thể giết cô được. Nói tóm lại, tôi không cho cô động thủ với bất cứ ai.

A Tử thở dài, nói:

- Trời ơi! Tỷ phu bất quả là lang quân của tỷ nương em, mà tỷ phu quản cố em đến thế kia ư? Giả tỉ tỷ nương em không chết mà lấy tỷ phu thì rồi cũng đến chết về sự quản thúc của tỷ phu mà thôi.

Kiều Phong đã lên ruột toan lớn tiếng mắng mỏ, nhưng trong lòng lại không nỡ. Ông thoáng thấy trong cặp mắt A Tử lộ vẻ giảo hoạt bèn tự hỏi:

- Mình nói mấy câu đó không hiểu sao đột nhiên cô ta lại lấy làm đắc ý?

Kiều Phong nghĩ một lúc không ra, liền bỏ đi không nghĩ nữa, lên đường đi tiếp. Đi chừng hơn một dặm, Kiều Phong sực nhớ ra điều gì, la lên:

- Chết rồi! Không khéo A Tử bị kẻ đối đầu hoặc kẻ cừu thù ở đây, định làm khó dễ với cô ta, nên cô ta gạt mình hộ vệ cho cô. Mình đã hứa cùng cô cô đã đi với tôi, quyết không ai giết cô được tức là mình đã nhận lời bảo vệ cho cô, bất luận cô ta phải hay trái. Dù mình chẳng nói câu đó, nhưng đã để cô đi bên mình, thì quyết nhiên không thể để cô thất bại được.

Đi thêm mấy dặm nữa, A Tử bỗng nhiên hỏi:

- Tôi hát một khúc chơi, tỷ phu nghe xem có được không nhé?

Kiều Phong đã định chủ ý rằng đối với cô này càng gay go nhiều càng có ích cho cô bấy nhiêu, liền gạt đi:

- Thôi đừng hát nữa.

A Tử bĩu môi:

- Tỷ phu làm gì mà cay nghiệt thế? Vậy tôi nói chuyện vui tỷ phu nghe có được không?

Kiều Phong vẫn xẵng giọng:

- Không được!

A Tử nói:

- Vậy tôi đánh đố để tỷ phu đoán thử coi.

Kiều Phong cũng gạt luôn:

- Không được!

A Tử nói:

- Thế thì tỷ phu nói chuyện vui cho em nghe vậy, được không?

Kiều Phong đáp:

- Không được!

A Tử nói:

- Thế thì tỷ phu hát cho em nghe được không?

A Tử đề nghị luôn bảy tám điều, Kiều Phong không suy nghĩ gì cự tuyệt ngay. A Tử lại xoay chiều hỏi ngược lại:

- Vậy em chẳng thổi sáo để tỷ phu nghe nữa đâu nhé?

Kiều Phong buột miệng đáp như mọi lần:

- Không được!

Kiều Phong vẫn một mực không suy nghĩ đáp luôn bằng hai tiếng "không được". Rồi ông nghĩ lại biết ngay là mình mắc hợm. Vì cô ta hỏi vậy em chẳng thổi sáo để tỷ phu nghe nữa nhé mà mình lại bảo không được thì ra giục nàng thổi sáo mất rồi. Song đã trót nói ra miệng, đành để mặc cô ta muốn thổi sáo thì thổi.

A Tử làm bộ thở dài, nói:

- Điều gì tỷ phu cũng bảo không được, thật khó mà chiều ý tỷ phu quá. Riêng có điều em thổi sáo là tỷ phu ưng ý.

Nói xong, nàng rút trong bọc ra một ống ngọc địch rất kỳ dị chỉ dài chừng bẩy tấc, toàn ống bóng lộn trông rất xinh xắn. A Tử đưa lên môi khẽ thổi, một luông âm thanh réo rắt vang đi thật xa.

Kiều Phong sực nhớ vừa rồi lúc gã mũi sư tử ra khỏi quán cũng thấy nổi lên một thanh âm réo rắt du dương, thì ra cũng là tiếng sáo này vang dội nghe rất lọt tai, song tiếng ngọc địch của A Tử lại thê lương não nùng, không phải điệu nhạc hoà vui.

Kiều Phong cảm thấy nao nao trong dạ. Nhưng lúc ông hiểu ra lại cười thầm lẩm bẩm một mình:

- Phải rồi! Chắc cô này dùng tiếng sáo để gọi đồng đảng mai phục gần đây để tập kích ta. Kiều mỗ này há sợ đoàn chuột nhắt. Ta có sợ là sợ bọn đệ tử dưới trướng Tinh Tú Lão Ma chuyên dùng võ công hiểm độc. Nếu chúng ra mặt giao chiến thì mình chẳng coi vào đâu. Nhưng họ thi hành độc kế gì mà mình lơ là một chút tất bị họ ám toán.

Kiều Phong lắng tai nghe tiếng địch của A Tử thổi, lúc lên cao, lúc xuống trầm, lúc thét lên như heo bị chọc tiết, lúc thê thảm như ma quỷ kêu gào, rất là khó chịu. Một cô gái sắc nước hương trời như A Tử cầm cây ngọc bích xinh đẹp là thế mà thổi những âm thanh chói tai thì ra dưới thế gian bát ngát chẳng có điều kỳ lạ nào là không có.

Kiều Phong vẫn không hỏi han gì đến A Tử, cứ thản nhiên tiếp bước. Chẳng bao lâu, đi tới một con đường nhỏ hẹp trên đỉnh núi. Nẻo đường này vừa một người đi.

Kiều Phong nghĩ bụng:

- Nếu địch nhân muốn phục kích ta ắt chọn chỗ này.

Quả nhiên lên tới đỉnh núi, vừa hết một chỗ quanh, đã thấy trước đó có bốn người đứng đón.

Bốn gã này đều mặc vải xô vàng y phục hệt như gã mũi sư tử đã gặp trong tửu điếm. Bốn gã không đứng thành hàng chữ nhất được mà phải đứng kẻ trước người sau. Mỗi gã trong tay đều cầm một cây cương trượng khá dài.

A Tử vừa thấy bốn gã, đột nhiên không thổi sáo nữa, dừng tay gọi to:

- Tam sư huynh, tứ sư huynh, thất sư huynh, bát sư huynh đều mạnh giỏi đấy ạ? Các vị sư huynh đến hội tụ nơi đây làm gì?

Kiều Phong cũng dừng bước tựa lưng vào vách núi nói một mình:

- Thử xem bọn chúng định giở trò quỷ quái gì đây?

Trong bốn gã này, gã đi đầu là một gã Đại Hán béo mập nhìn Kiều Phong từ đầu đến gót chân một hồi rồi hỏi A Tử:

- Tiểu sư Muội mạnh giỏi chứ? Sao sư Muội lại đem tâm hại nhị sư huynh?

A Tử giật mình, hỏi dồn:

- Nhị sư huynh bị thương hay sao? Ai đánh sư huynh bị thương? Bị thương có nặng lắm không?

Gã đứng sau cùng lớn tiếng nói:

- Mi đừng khéo giả ngây giả dại nữa. Chính nhị sư huynh bảo mi kêu kẻ khác đánh y bị thương.

Gã vừa nói, người đã thấp lùn, lại đứng sau cùng bị ba người đứng trước che khuất. Kiều Phong nhìn không rõ mặt, chỉ nghe tiếng gã nói rất mau đủ biết gã nóng tính vô cùng. Cây cương trượng của gã lại đặc biệt lớn hơn và dài hơn các cây của đồng đảng. Xem thế đủ biết cánh tay gã mạnh lắm. Vì gã thấp lùn nên mang thứ khí giới đặc biệt để tỏ ra có chỗ hơn người.

A Tử ỡm ờ hỏi:

- Bát ca! Sư huynh bảo sao? Nhị sư huynh bảo bát ca kêu người đánh y bị thương ư? Trời ơi! Sao bát ca độc ác như vậy? Sư phụ mà biết nhất định sẽ trách phạt bát ca ghê gớm lắm đó. Bát ca không sợ ư?

Gã thấp lùn tính nóng như lửa, cầm cây cương trượng đập vào sườn núi chan chát, lớn tiếng quát:

- Chính mi làm cho nhị ca phải bị thương, chứ có phải ta đâu?

A Tử cãi lại:

- Sao? Bát ca làm cho nhị sư huynh bị thương chứ không phải tiểu Muội... Được rồi! Bát ca đã thừa nhận cả ba vị sư huynh đây đều nghe rõ rồi nhé! Bát ca miệng đã nói ra sát hại nhị sư huynh đúng rồi! Bát ca đã dùng phép Tam âm ngô công trảo giết nhị sư huynh.

Gã thấp lùn gầm lên:

- Ai biểu nhị sư huynh chết rồi? Y chưa chết đâu mới bị thương thôi, với lại cũng không phải do phép Tam âm ngô công trảo.

A Tử mồm năm miệng mười, cướp lời:

- Không phải Tam âm ngô công trảo ư? Thế thì nhất định là phép Trưu tủy chưởng rồi! Nhị sư huynh không cẩn thận nên bị Bát ca ám toán. Bát ca ơi! Bát ca độc ác lắm.

Gã thấp lùn nói:

- Tam sư huynh! Động thủ đi thôi! Bắt con tiểu tiện nhân này về để sư phụ phát lạc. Nó... nó... nó nói vơ nói vẩn chẳng ai hiểu.

Khẩu âm gã vốn đã khó nghe lại đang cơn nóng giận, gã nói lắp lại càng khó hiểu hơn. Gã béo mập nói:

- Việc gì phải động thủ? Tiểu sư Muội trước nay vẫn ngoan ngoãn dễ bảo.

Rồi gã quay lại hỏi A Tử:

- Tiểu sư Muội! Bây giờ sư Muội theo chúng ta về nhé?

Gã béo mập ăn nói rất ôn tồn, có vẻ con người rất hoà nhã. A Tử cũng ỏn thót không vừa, nàng nói:

- Tam ca ơi! Trước nay tam ca bảo làm sao, tiểu Muội cũng đều làm vậy, có bao giờ cãi lời Tam ca đâu?

Gã béo mập ra chiều đắc ý, cười ha hả, nói:

- Thế thì còn gì hay bằng! Chúng ta đi thôi, tiểu sư Muội ạ.

A Tử nói:

- Vâng xin các sư huynh tùy tiện.

Gã thấp lùn ở phía sau lại oang oang:

- Mi bảo tuỳ tiện cái gì? Mi phải đi với chúng ta, đừng có nói lăng nhăng!

A Tử cười, nói:

- Các sư huynh hãy đi trước, rồi tiểu Muội sẽ theo sau ngay mà.

Gã thấp lùn gắt lên:

- Không được! Phải đi ngay với chúng ta ngay bây giờ! Không đi trước đi sau gì cả.

A Tử nói:

- Tiểu Muội cũng muốn đi ngay lắm, nhưng tỷ phu tiểu Muội đây không chịu.

Nàng vừa nói vừa trỏ vào Kiều Phong. Kiều Phong lầm bầm:

- Đó, đó! Cô ả lại sắp giở trò rồi.

Ông vẫn đứng tựa lưng vào vách núi, hai tay khoanh để trước ngực, dường như không quan tâm gì đến những chuyện trước mắt.

Gã thấp lùn nói:

- Ai là tỷ phu mi? Sao ta không trông thấy người đâu?

A Tử cười, nói móc:

- Tại Bát ca cao quá đấy mà! Tỷ phu tiểu Muội cũng không ngó thấy bát ca.

Gã thấp lùn bản tính cực kỳ cục súc, khi gã nghe thấy ai chế giễu thân hình gã là lập tức gã nổi đoá muốn đánh nhau ngay. Bỗng một tiếng chát vang lên. Gã chống mạnh cây cương trượng xuống đất, lấy đà nhảy vọt lên không trung rồi cả người lần lượt vọt qua đầu ba gã sư huynh, hạ xuống trước mặt A Tử.

Gã quát lên:

- Đi về với chúng ta ngay!

Nói xong giơ tay toan nắm lấy vai A Tử. Kiều Phong thấy gã thếp lùn, song lưng to vai rộng. Nếu trông bề ngang thì thân thể gã cũng vạm vỡ, động tác lại rất mau lẹ. A Tử không né tránh, cứ để mặc cho gã nắm lấy. Không ngờ bàn tay của gã thấp lùn sắp chạm vào vai A Tử, gã đột nhiên ngẩn người rồi dừng tay lại, không nắm lấy vai nàng nữa.

Gã hỏi:

- Mi đã lấy được rồi phải không?

A Tử hỏi:

- Cái gì?

Gã thấp lùn nói:

- Bích Ngọc Vương Đỉnh chứ còn cái gì nữa?

Gã vừa buột miệng nói ra bốn chữ Bích Ngọc Vương Đỉnh, ba gã kia đồng thanh quát lên:

- Bát sư đệ! Ngươi nói nhăng gì đó?

Giọng nói đều tỏ vẻ nghiêm nghị. Gã thấp lùn nét mặt lập tức ra chiều hoảng sợ.

Kiều Phong bề ngoài mặt tựa hồ không quan tâm gì đến chuyện của bọn này, song không một lời nói hay một cử động nào của bốn gã cùng A Tử qua khỏi tai mắt ông.

Kiều Phong tự hỏi: "Bích ngọc Vương đỉnh là cái gì? Cứ coi vẻ mặt của bọn này thì đó là một vật rất quan trọng chứ không phải là tầm thường. Nếu mà bọn chúng mai phục ở đây để tập kích mình, sao không thấy động thủ mà lại đấu khẩu với nhau? Chẳng lẽ bọn chúng không địch nổi mình, còn chờ thêm ngoại viện đến?"

Kiều Phong còn đang ngẫm nghĩ, bỗng thấy gã thấp lùn giơ tay, bảo A Tử:

- Đưa đây!

A Tử làm bộ ấp úng hỏi:

- Cái bích... bích... ấy phải không?

Rồi nàng trỏ Kiều Phong nói tiếp:

- Tiểu Muội đưa cho tỷ phu rồi.

Nàng vừa nói câu đó, cả bốn gã cùng đưa mắt nhìn Kiều Phong chằm chặp và lộ vẻ tức giận. Kiều Phong nghĩ bụng:

- Bọn này đều có vẻ khả ố! Mình chẳng hoài công lời qua tiếng lại với chúng.

Nghĩ vậy, ông từ từ đứng dậy, đột nhiên điểm hai chân xuống đất, người vọt lên cao, tựa hồ con chim khổng lồ bay vụt lên, nhảy qua đầu cả bốn gã. Bốn gã gọi nhau ơi ới đuổi theo Kiều Phong. Nhưng khinh công của ông tuyệt bích, bọn chúng đuổi kịp thế nào được. Chớp mắt, Kiều Phong đã cách xa hàng mấy trượng... Bỗng một tiếng véo véo vang lên, một thứ binh khí nặng nề ném tới sau lưng. Kiều Phong không quay đầu lại, cũng biết có người liệng cây cương trượng tới, ông giơ tay ra phía sau bắt lấy cây cương trượng.

Bốn gã cả giận, quát tháo om sòm, lại liệng hai cây cương trượng nữa tới. Kiều Phong lại xoay tay bắt lấy. Mỗi cây cương trượng nặng có tới năm chục cân, cả ba cây nặng đến ngoài một trăm sáu mươi cân mà Kiều Phong cầm cả trong tay như không, chân vẫn bước đều, không ngừng lại chút nào.

Lại có tiếng vù vù cây cương trượng thứ tư liệng tới. Cây này là của gã thấp lùn nặng hơn cả ba cây trước, tiếng gió reo càng mạnh. Kiều Phong tuy không phải là hạng người hung hăng ưa đánh nhau, nhưng rất ham võ nghệ. Lúc bình thời ở Cái bang ông thường cùng bọn trưởng lão giảng tập võ nghệ. Đã mấy tháng nay, ông gặp bao nhiêu việc bất như ý, không động thủ với ai nên cũng thấy phiền muộn trong lòng.

Ông nghĩ bụng:

- Bọn này ngu dốt quá, nên cho chúng biết tay.

Ông nghe biết cây cương trượng phóng tới sau gáy chỉ còn cách một thước lại xoay tay nắm lấy. Cả bốn gã sư huynh đệ đều bị ông bắt mất khí giới vừa giận vừa sợ, biết rằng có đuổi kịp ông, cũng khó lòng địch nổi, nhưng chúng vẫn la ó đuổi theo rất gấp.

Kiều Phong chờ cho bọn chúng đuổi một lúc rồi đột nhiên dừng chân lại. Bốn gã đang gắng sức đuổi theo, vội thu chân, lúc đã dừng được thì đã đến phía trước Kiều Phong. Gã nào cũng thở hồng hộc.

Kiều Phong từ lúc thấy bọn chúng phóng cương trượng chạy đuổi theo, để ý đoán biết võ công bọn chúng tới mức nào. Tên thấp lùn là sức cánh tay mạnh hơn cả, còn ngoài ra ba gã kia cũng bằng gã mũi sư tử mà ông đã gặp trong quán rượu.

Kiều Phong tủm tỉm cười, cất tiếng hỏi:

- Các vị đuổi theo tại hạ có điều chi dạy bảo?

Gã thấp lùn nói:

- Ngươi... ngươi là ai? Ta xem võ công của ngươi ghê gớm lắm.

Kiều Phong cười, nói:

- Cũng thường thôi, có chi mà các hạ quá khen?

Ông vừa nói vừa vận kình lực vào bàn tay, cắm một cây cương trượng xuống đất. Quãng đường núi này tuy không phải thuần đá cứng rắn, nhưng cũng đá nhiều đất ít. Thế mà Kiều Phong vẫn cắm sâu xuống đầu trượng chỉ còn chìa trên mặt đất chừng hai thước, đoạn ông buông tay, dùng gót chân đạp mạnh một cái, khiến cho cây cương trượng ngập bằng mặt đất không chìa lên chút nào.

Bốn gã thấy thần lực Kiều Phong ghê gớm như vậy, đều nghĩ là ông dùng tà phép, không ai có thể tin rằng thực lực con người lại lớn đến thế. Có gã giương hai mắt tròn xoe mà nhìn, có gã há hốc miệng ra không ngậm lại nữa. Kiều Phong cắm hết cây trượng này, đến cây khác cũng để chừa trên mặt chừng hai thước rồi đưa gót chân dậm lên cả hai cây một lúc cho ngập tịt xuống mặt đất. Đến khi Kiều Phong toan cắm cây cương trượng thứ tư xuống thì gã thấp lùn nhảy vọt lại, quát lên:

- Đừng đụng vào khí giới của ta!

Kiều Phong cười, nói:

- Được lắm! Đây ta trả cho!

Nói xong, tay phải ông cầm cây cương trượng ngắm vách núi liệng mạnh vào. Cây cương trượng này dài tám thước thì có đến bảy thước ngập vào vách đá, mà lại là chỗ vách đá rất cứng rắn.

Kiều Phong thấy mình vận kình lực phóng trượng sâu vào vách đá như vậy, tự nhiên trong mình cũng lấy làm khoan khoái, nghĩ thầm: "Mấy tháng nay mình phải trải qua bao nhiêu nỗi lo phiền. Vậy mà công lực không bị giảm sút. Trái lại dường như còn tiếng hơn trước là khác. Nửa năm trước đây có lẽ mình không phóng trượng ngập sâu được đến thế".

Cả bốn gã đều reo lên một tiếng "Ồ" kinh ngạc và đều lộ vẻ kinh sợ Kiều Phong. A Tử chạy sau cũng đuổi đến nơi. Nàng la lên:

- Tỷ phu ơi! Võ công tỷ phu giỏi quá rồi! Tỷ phu dạy cho em.

Gã thấp lùn cả giận, nói:

- Mi nói cái gì? Mi đã là đệ tử phái Tinh Tú, sao còn được đi kêu người ngoài dạy võ nghệ.

A Tử vểnh mặt lên nói:

- Y là tỷ phu tiểu Muội, sao bát ca còn bảo là người ngoài?

Hồi Thứ 41

Đỉnh Ngọc làm nên phép Hóa Công

Gã thấp lùn vội nhảy lại để thu lấy khí giới của mình.

Do Kiều Phong đã lượng biết sức khinh công của gã đến mức nào, nên ông phóng cây cương trượng vào vách đá núi cao hơn mặt đất hai trượng. Gã thấp lùn nhảy lên cũng còn cách nửa thước nữa mới với tới được.

A Tử vỗ tay cười, nói:

- Hay quá! Bát ca ơi! Bát ca có nhổ được khí giới của Bát ca ra được thì tiểu Muội mới theo Bát ca về bái kiến sư phụ, còn nhổ không được thì đừng hòng.

Gã thấp lùn nhảy cái vừa rồi đã dùng hết sức bình sinh và thi triển khinh công đến tột độ, muốn nhảy cao hơn một tấc nữa thì khó lòng. Gã nghe A Tử nói móc tức quá, cố sức nhảy lên cao hơn nhưng chỉ có đầu ngón tay giữa là chạm tới cây cương trượng mà thôi.

A Tử lại cười, nói:

- Mới chạm tới là không kể, phải nhổ ra mới được.

Gã thấp lùn lại càng tức giận hơn nữa. Lần này gã chuẩn bị lâu hơn hai lần trước, điểm hai chân xuống, vận hết khinh công, nhảy vọt lên. Quả nhiên ngón tay gã bám vào được cây cương trượng, nhưng người gã treo lơ lửng trên không đu qua đu lại. Gã dùng tay lay đi lay lại cây trượng. Nhưng cây trượng cắm sâu vào trong đá đến bảy thước mà gã cứ đu qua đu lại để lay như vậy thì cho đến ba ngày ba đêm cũng không nhổ ra cho được, chỉ tổ làm trò cười cho mọi người.

Kiều Phong cười, nói:

- Kiều mỗ xin kiếu các vị đây!

Gã thấp lùn không chịu buông tay, vì võ công gã đến mức nào gã tự biết rồi. Gã vừa nhảy lên nắm cây cương trượng đã là may mắn lắm, nếu tuột xuống thì sau có nhảy lên nữa vị tất đã nắm được. Cây cương trượng này gã tiếc lắm vì nó vừa vặn với sức gã. Muốn đánh cái khác được đúng như vậy cũng khó. Gã lại cố sức lắc cây trượng mấy cái nữa, song vẫn không nhúc nhích. Vừa nhìn thấy Kiều Phong chuyển mình bước đi, gã vội la lên:

- Ơ kìa! Ngươi phải để Bích Ngọc Vương Đỉnh lại đã! Nếu không thì sau này rắc rối lắm đó.

Kiều Phong hỏi:

- Bích Ngọc Vương Đỉnh gì đâu? Nó là cái chi vậy?

Ba gã đệ tử phái Tinh Tú tiến lại, nói:

- Võ công các hạ thật là xuất quỷ nhập thần. Chúng tôi bội phục vô cùng. Cái đỉnh nhỏ đó là một vật rất quan trọng của bản môn, người ngoài có cũng chẳng làm gì được, xin các hạ trả lại cho, chúng tôi xin đền đáp.

Kiều Phong thấy bọn chúng không có vẻ giả trá mà cũng không phải mai phục tại đây để tập kích mình, liền nói:

- A Tử! Cô lấy cái "Bích Ngọc Vương Đỉnh" chi chi đó cho tôi xem đó là cái gì?

A Tử đáp:

- Trời ơi! Em đã đưa cho tỷ phu rồi mà, còn muốn trả lại hay không là tùy ở nơi tỷ phu. Nếu tỷ phu giữ lại thì cũng là của tỷ phu, không can dự gì tới em nữa.

Kiều Phong nghe A Tử nói, đã đoán ra cô ả đánh cắp bảo vật của sư môn cô. Song cô cố ý bảo đã đưa cho mình rồi là cốt để gieo vạ cho mình đây.

Ông liền tương kế tựu kế, cười ha hả nói:

- Cô đưa cho tôi rất nhiều thứ mà tôi chẳng biết cái nào là Bích Ngọc Vương Đỉnh cả.

Gã thấp lùn đang lơ lửng trên không vừa nghe Kiều Phong nói vậy, cũng xen vào:

- Cái đỉnh ngọc cao độ năm tấc, toàn thân màu xanh ngọc ấy mà.

Kiều Phong nói:

- Ồ, cái đó hử? Tôi quả đã thấy rồi, nhưng cứ tưởng là một thứ đồ chơi trẻ con, chẳng dùng làm gì được.

Gã thấp lùn nói:

- Ngươi có hiểu gì đâu! Sao lại bảo là một cái đồ chơi con trẻ? Cái đỉnh ngọc đó...

Gã toan nói nữa thì gã béo mập vội quát lên:

- Sư đệ nói lăng nhăng gì lắm thế?

Rồi quay lại nói với Kiều Phong:

- Cái đó tuy là đồ chơi không dùng được việc gì, song của gia sư... Thân phụ của gia sư đã để lại cho người, vì thế mà không thể để mất được, xin các hạ trả lại cho.

Kiều Phong nói:

- Chết chưa! Thế mà tôi đã quăng đi mất rồi! Cũng không nhớ quăng ở đâu. Không biết còn tìm lại được nữa không? Nếu là một vật quan trọng thì tôi phải trở lại Tín Dương để tìm. Có điều đường sá xa xôi đi lại phiền phức và mất thì giờ.

Gã thấp lùn vội la lên:

- Quan trọng lắm chứ sao lại không? Chúng ta mau... quay lại để tìm kiếm.

Nói tới đây, gã buông mình nhảy xuống, bỏ luôn cả cây khí giới rất quý của gã. Kiều Phong đưa tay khẽ vỗ trán mình mấy cái, nói:

- Chà! Mấy bữa nay ít uống rượu thành ra lú lẫn. Cái đỉnh ngọc này không biết bỏ ở Tín Dương hay ở Đại Lý? Không chừng ở Tín Dương cũng nên...

Gã thấp kùn tính nóng như lửa, lớn tiếng la lên:

- Trời ơi! Ngươi nói cái gì mà rắc rối vậy? Ở Đại Lý hay ở Tín Dương? Muốn ở đâu thì ở, nhưng đừng nói đùa.

Gã béo mập xem chừng Kiều Phong cố ý làm khó dễ, liền nói:

- Các hạ bất tất nói giỡn. Nếu chiếc đỉnh ngọc còn nguyên vẹn không sứt mẻ đưa trả lại cho, thì chúng tôi xin tạ ơn rất hậu quyết chẳng sai lời.

Kiều Phong nói:

- Chết rồi! Tôi nhớ ra rồi...

Bốn gã nhớn nhác hỏi:

- Sao?

Kiều Phong nói:

- Cái đỉnh ngọc đó bỏ ở nhà Mã phu nhân, tôi bỏ vào đống lửa. Nhà phu nhân đã bị đốt cháy thành than không còn một mảnh ngói. Cái đỉnh đó bị lửa đốt không hiểu có việc gì không?

Gã thấp lùn lớn tiếng kêu lên:

- Thế thì hư mất rồi còn gì? Cái này... cái này... Tam sư huynh làm sao thì làm tôi không biết đâu. Sư phụ có trách phạt cũng không liên quan gì đến tôi.

Đoạn, gã quay sang bảo A Tử:

- Tiểu sư Muội! Sư Muội nói với sư phụ thế nào thì nói, tôi mặc kệ đó.

A Tử cười, nói:

- Tôi nhớ dường như cái đó không bỏ tại nhà Mã phu nhân. Thôi Muội xin kiếu các vị sư huynh để các vị nói chuyện với tỷ phu.

Nói xong nàng lạng người đi một cái, bước lên trước Kiều Phong. Kiều Phong quay lại giang tay cản trở bốn gã, nói:

- Nếu các vị nói rõ lai lịch cái Bích Ngọc Vương Đỉnh ở đâu ra thì không chừng tôi còn có thể giúp các vị để tìm lạị Nếu không thì tại hạ cũng xin kiếu luôn.

Gã thấp lùn nói:

- Tam sư huynh! Tôi nghĩ không còn cách nào nữa. Sư huynh đem cái đó nói rõ cho y biết đi!

Gã béo mập nói:

- Được rồi! Tôi nói để các hạ hay...

Kiều Phong không chờ cho gã béo mập hết lời, đột nhiên lạng người đi một cái nhảy đến bên gã thấp lùn, đưa tay ra nâng nách gã, nói:

- Chúng ta lên trên kia nói chuyện. Ta chỉ tin lời ngươi thôi chứ không nghe họ.

Nguyên Kiều Phong biết gã béo mập tuy mặt ngoài ra vẻ hiền hậu nhưng kỳ thật gã rất xảo quyệt, không có câu nào thành thực. Vả lại gã thấp lùn tuy láu táu nhưng thực thà không biết nói dối, Kiều Phong kéo gã thấp lùn chạy thẳng lên vách núi.

Chỗ vách này tuy không dựng đứng nhưng cũng khó trèo và chẳng bấu víu vào đâu được. Thế mà Kiều Phong đề khí đi thẳng lên. Chạy một mạch đã được hơn ba mươi trượng, thì đến một chỗ có mô đá lồi ra. Ông liền đặt gã thấp lùn lên mô đá này, còn chính mình thì ông một chân đạp vào vách, còn một chân ở ngoài không gian.

Ông nói:

- Bây giờ ngươi nói cho ta nghe đi.

Gã thấp lùn ở trên cao nhìn xuống, bất giác choáng váng, vội la lên:

- Mau... buông ta xuống!

Kiều Phong cười, nói:

- Ngươi nhảy mà xuống!

Gã thấp lùn nói:

- Ngươi đừng nói nhảm! Cao thế này mà nhảy xuống thì người nát ra như cám còn gì!

Kiều Phong thấy gã lâm vào tình cảnh nguy ngập, mà không chịu nói ra thì trong lòng không khỏi khen thầm gã là người gan dạ.

Ông hỏi:

- Tên ngươi là gì?

Gã đáp:

- Ta là Xuất Trần Tử.

Kiều Phong tủm tỉm cười, nghĩ bụng:

- Cái tên nghe có vẻ phong nhã. Có điều thân thể gã không tương xứng.

Ông nói tiếp:

- Ta không đứng đây với ngươi được nữa, xin kiếu thôi. Sau này có ngày tái ngộ.

Xuất Trần Tử la lên:

- Không được, không được! Trời ơi! Ta té chết bây giờ.

Hai tay gã bám chặt vào vách núi, ngầm vận nội lực muốn bám lấy mỏm đá. Song chỗ sờ tay thấy trơn tuột không bấu víu vào đâu được, tuy gã võ công cao cường, song ở trên cao, ba mặt chơi vơi trông mà phát khiếp. Ba gã đứng dưới đất la hoảng không ngớt.

Kiều Phong giục:

- Nói mau đi! Bích Ngọc Vương Đỉnh dùng làm gì? Nếu ngươi không chịu nói thì ta xuống đây, để mặc kệ ngươi ngồi đó.

Xuất Trần Tử vội nói:

- Tôi... tôi không nói không được hay sao?

Kiều Phong đáp:

- Ngươi không nói cũng được. Nhưng kiếu ngươi đấy!

Xuất Trần Tử vội nắm áo Kiều Phong:

- Để tôi nói! Bích Ngọc Vương Đỉnh này là... một trong tam bảo của tệ phái. Nó... có công dụng về việc luyện Hoá Công Đại Pháp. Sư phụ tôi bảo bọn võ lâm ở Trung Nguyên khi nghe đến thuật Hoá Công Đại Pháp của tệ phái đều hồn vía lên mây. Nên hễ họ trông thấy Bích Ngọc Vương Đỉnh này là muốn đập tan ngay lập tức. Vật này là một thứ kỳ trân, trên đời ít có chứ không phải tầm thường.

Kiều Phong đã nghe tiếng Hoá Công Đại Pháp từ lâu biết đó là một tà thuật. Ông vừa nghe nói Bích Ngọc Vương Đỉnh dùng vào việc đó liền không hỏi gì nữa. Ông đưa tay ra nắm lấy nách Xuất Trần Tử chạy ngay xuống núi. Sườn núi dốc tựa bờ tường, nên lúc xuống rất mau nhưng cực kỳ nguy hiểm. Xuất Trần Tử kinh hãi vô cùng, hô hoán rầm lên, song tiếng hô chưa dứt thì hai chân đã chấm đất. Mặt gã xám ngắt, hai đầu gối run lên bần bật.

Gã béo mập hỏi:

- Bát sư đệ! Sư đệ đã nói cả rồi ư?

Xuất Trần Tử chưa kịp trả lời, Kiều Phong đã gọi A Tử, bảo:

- Đưa đây!

A Tử hỏi lại:

- Đưa cái gì cơ tỷ phu?

Kiều Phong nói:

- Bích Ngọc Vương Đỉnh.

A Tử nói:

- Tỷ phu vừa bảo bỏ trong nhà Mã phu nhân rồi kia mà, sao còn đòi em?

Kiều Phong đưa mắt nhìn thấy nàng thân hình mảnh dẻ, chiếc lưng thon nhỏ xíu, lại mặc áo mỏng, tựa hồ nàng không để cái đỉnh ngọc cao năm tấc bên trong mình thì nghĩ bụng:

- Cô này thật là xảo quyệt. Nhưng đây là việc nội bộ môn phái cô ta thì mình chẳng cần can thiệp đến làm quái gì. Có điều những thứ tà thuật ma quái này ám ảnh ghê gớm lắm. Nếu âm hồn không tan mà cứ theo mình quấy nhiễu thì cũng ớn lắm!

Ông nghĩ vậy, liền nói:

- Cái đó Tiêu mỗ chẳng dùng làm chi được, thì lấy làm cóc gì? Các ngươi tin lời ta cũng vậy mà không tin cũng thế thôi. Tiêu mỗ xin cáo từ đây.

Nói xong rảo bước đi ngay.

Ông mới nhô lên thụt xuống vài lần đã bỏ năm người kia khá xa. Bốn gã khiếp sợ thần oai của Kiều Phong, nửa muốn đuổi theo, nửa không dám. Chúng bàn nhau mãi chưa quyết định ra sao thì Kiều Phong đã mất hút dù có muốn đuổi cũng không kịp nữa.

Kiều Phong chạy một mạch hơn bẩy mươi dặm đường mới tìm được một tửu điếm liền vào đó uống rượu ăn cơm. Đêm hôm ấy Kiều Phong nghỉ lại quán Chu Vương. Ông vận nội công một lúc rồi đi ngủ ngay.

Đến nửa đêm Kiều Phong đang ngủ say, thốt nhiên nghe tiếng sáo lanh lảnh vang lên. Ông là người nội công thâm hậu, thấy tiếng sáo đó nổi lên từ đằng xa, ông đã nghe tiếng mà có vẻ quái lạ. Tiếng sáo tuy không lớn lắm, song vẫn làm cho ông giật mình tỉnh giấc. Ông ngồi dậy để ý lắng tai nghe. Một lúc sau, về góc Tây Nam, Kiều Phong nghe thấy mấy tiếng sáo đáp lại. Tiếng sáo này gắt gao thê thảm dị thường.

Ông nhận ra rằng đó là tiếng ngọc địch của phái Tinh Tú Hải Ma thì cười thầm trong bụng, lẩm bẩm:

- Bọn chúng đã đến gần đây, mình chẳng thèm để ý đến làm chi.

Thế rồi ông lại nằm xuống. Đột nhiên lại hai tiếng sáo"toe toe" vang lên và nghe rất gần, dường như ở ngay trong tửu điếm này.

Tiếp theo có tiếng người giục:

- Dậy mau đi! Đại sư huynh đã đến! Chắc là bắt được tiểu sư Muội rồi!

Một người khác hỏi lại:

- Bắt được rồi ư? Anh liệu phen này cô ả còn sống được nữa chăng?

Người trước đáp:

- Ai biết đâu đấy! Đi mau, đi mau!

Tiếng hai người nói rất khẽ, song Kiều Phong nghe được rõ ràng. Tiếp theo mấy tiếng đẩy cửa số, rồi có tiếng người nhảy ra ngoàịi.

Kiều Phong nghĩ bụng:

- Đây là hai gã đệ tử khác của phái Tinh Tú Hải. Không ngờ trong tửu quán này cũng có bọn chúng mai phục. Có lẽ hai gã đến đây trước ta và im hơi lặng tiếng nên ta chưa phát giác ra. Nguyên bản ý Kiều Phong cũng không muốn can thiệp vào việc người, song ông thấy hai gã hỏi nhau "Phen này liệu A Tử còn sống được chăng" thì ông lại nhớ tới lời di ngôn của A Châu dặn ông phải trông nom cho A Tử.

Ông lẩm bẩm:

- Cô bé này tuy rất thâm độc, ta cũng không thể để cô bị chúng giết chết. Nếu ta bỏ mặc thì còn tình nghĩa gì với A Châu nữa?

Nghĩ vậy, ông nhảy ra khỏi phòng, thì nghe thấy tiếng sáo liên miên không ngớt. Chỗ này dứt thì chỗ kia lại nổi lên đáp lại và đều chuyển về hướng tây nam. Kiều Phong theo tiếng sáo chạy đi. Chẳng bao lâu, ông đã đuổi kịp hai gã ở trong tiểu điếm đi ra. Hai gã này ăn mặc cùng một kiểu với những gã kia, song nghe tiếng bước chân đã ra người già nua. Tuổi hai gã này nhiều hơn mấy gã đệ tử mà ông đã được gặp trước. Kiều Phong đi cách sau hai người chừng hai mươi trượng rồi cứ giữ mực đó theo dõi.

Ông đi qua hai ngọn núi, chợt thấy trong hang núi trước mặt có đống lửa sáng. Ngọn lửa này cao chừng năm thước, màu sắc xanh biếc, khác hẳn lửa thường. Kiều Phong để ý nhìn, tựa hồ như ma quỷ âm thầm. Hai gã nhắm đống lửa mà chạy. Tới trước đống lửa, hai gã lại phục xuống đất. Kiều Phong cũng dừng bước, ẩn vào phía sau tảng đá để nhìn ra, thấy đến hơn mười người đang tụ tập bên đống lửa. Gã nào cũng mặc áo xô vàng, kẻ cao người thấp, ánh lửa xanh biếc chiếu vào mặt chúng, tên nào cũng lộ vẻ thê thảm.

Bên trái đống lửa biếc, có một người mặc áo tía đang đứng chính là A Tử. Hai tay nhỏ nhắn của nàng đã bị dây sắt trói lại. A Tử mặt trắng như tuyết, ánh lửa xanh lè chiếu vào, trông khác hẳn đi. Song trên môi nàng vẫn nở một nụ cười, tỏ ra nàng rất quật cường chẳng sợ hãi gì.

Mọi người ngồi bên không ai lên tiếng, mắt chăm chú nhìn đống lửa, tay trái để lên trước ngực, miệng lâm râm không biết khấn khứa gì. Kiều Phong biết các môn phái tà mà đều có một nghi thức riêng biệt nên không cần để ý. Thốt nhiên, Kiều Phong nghe hai gã đệ tử lúc nãy lên tiếng:

- Đại sư huynh đã đến!

Ông nghe biết gã là đại đệ tử phái Tinh Tú và là một nhân vật đầu não trong đám này. Ông lại đưa mắt ngó mười mấy gã, thấy già có trẻ có và đều ăn mặc giống như nhau. Vẻ mặc cử chỉ những người này không có ai đặc sắc tỏ ra là người cầm đầu.

Kiều Phong còn đang ngẫm nghĩ, bỗng nghe ba tiếng sáo "toe toe toe" có vẻ ôn hoà từ phía đông bắc vọng lại. Mọi người quay lại nhìn về phía có tiếng sáo, nghiêng mình thi lễ. A Tử chỉ sẽ hé môi chứ không xoay mình. Kiều Phong cũng nhìn về phía có tiếng sáo thì thấy bóng một người mặc áo trắng vun vút đi tới. Hành động của gã này cực kỳ mau lẹ. Gã cầm một ống sáo trắng đưa lên miệng nhìn vào đống lửa mà thổi, đống lửa lập tức tắt phụt ngay. Giang sơn lại chìm đắm vào trong thế giới hắc ám.

Chỉ trong khoảnh khắc, ngọn lửa xanh biếc lại sáng loé lên, vụt một cái ngọn lửa bùng lên trên không cao chừng ba trượng rồi từ từ hạ xuống.

Mọi người hô vang:

- Đại sư huynh pháp lực rất là thần diệu, khiến chúng tôi được mở rộng tầm con mắt.

Kiều Phong để ý nhìn gã đại sư huynh, bất giác rùng mình. Trong bụng ông vẫn đinh ninh đại sư huynh phải là người già đến năm sáu chục tuổi. Không ngờ bên đống lửa xuất hiện thêm một người áo trắng đứng sừng sững. Gã là một thiếu niên chừng hai mươi hai, hai mươi ba tuổi. Người gã cao và gầy, sắc mặc trông xanh và hơi vàng, tướng mạo khôi ngô tuấn tú. Cặp lông mày hình thanh kiếm chênh chếch đi lên trông rất oai nghiêm. Tay trái gã cầm một ống ngọc địch dài đến hai thước.

Kiều Phong đã nhìn thấy kỹ thuật thổi lửa của y, cùng khinh công vun vút lúc gã tới đây, ông biết lực gã lợi hại vô cùng. Nhưng luồng hơi thổi tắt lửa vừa rồi lại thổi cháy lên đều không phải do nội lực mà ra. Ông chắc rằng trong ống sáo có giấu thứ thuốc gì đặc biệt.

Ông lẩm bẩm:

- Gã này tuy tuổi còn nhỏ, nhưng đúng là tay kình địch, không trách ai đã nghe danh phái Tinh Tú đều sợ mất mật. Quả nhiên nhân tài phái này cũng ghê gớm lắm. Đồ đệ đã lợi hại thế này, thì Tinh Tú Lão Ma còn ghê gớm đến đâu. Hạng người này đã đến đây mà mình muốn cứu A Tử không phải là việc dễ.

Kiều Phong nghĩ vậy có vẻ hối hận là mình không động thủ ngay từ lúc mới đến, có phải cứu xong A Tử rồi không. Hiện giờ ta chỉ có một mình, nếu gặp kình địch dù không đáng sợ, nhưng chưa chắc đã cứu được A Tử bình yên.

Thiếu niên áo trắng nhìn A Tử, hỏi:

- Tiểu sư Muội! Sư Muội to gan thật đấy! Biết bao nhiêu anh em phải chật vật về sư Muội.

Tiếng gã trong trẻo rất dễ nghe. A Tử cười, nói:

- Cả đến đại sư huynh cũng phải đích thân đi tìm kiếm, thì quả nhiên thể diện tiểu Muội tăng thêm được ít nữa. Dù sao thì tiểu Muội cũng đã dựa vào thế vững như núi, chả còn sợ gì nữạa.

Thiếu niên áo trắng hỏi:

- Sư Muội cậy thế ai mà bảo vững như núi?

A Tử đáp:

- Đúng thế! Tiểu Muội có gia gia, có bá phụ, có má má lại có cả tỷ phu nữa. Bấy nhiêu người mà chẳng vững như núi là gì?

Thiếu niên áo trắng hắng giọng hỏi lại:

- Sư Muội từ thuở nhỏ đã do gia gia ta nuôi dưỡng cho đến ngày khôn lớn, có thấy cha mẹ gì đâu? Bây giờ tự nhiên ở đâu mọc ra họ hàng thân thích thế?

A Tử đáp:

- Có ai lại không cha không mẹ bao giờ, chẳng lẽ ở trong hòn đá chui ra hay sao? Có điều gia gia má má tiểu Muội giữ tên họ bí mật, không muốn cho người ta biết mà thôi.

Thiếu niên áo trắng hỏi:

- Thế song thân sư Muội là ai?

A Tử đáp:

- Tiểu Muội nói ra e làm cho đại ca phải khiếp vía. Nếu đại ca muốn cho tiểu Muội nói ra, thì hãy mở trói cho tiểu Muội trước.

Thiếu niên áo trắng không ngờ bị cô lừa gạt, liền nói:

- Sư Muội muốn ta mở trói cho cũng chẳng khó gì. Hãy đưa Bích Ngọc Vương Đỉnh cho ta trước.

A Tử nói:

- Cái đỉnh đó ở nơi tỷ phu tiểu Muội. Tam sư huynh, Tứ sư huynh, Thất, Bát sư huynh không chịu đòi lại thì tiểu Muội biết làm sao được?

Thiếu niên áo trắng đưa mắt nhìn bốn gã mà Kiều Phong đã gặp lúc ban ngày. Vẻ mặt thiếu niên rất ôn hoà, thế mà bốn gã cũng sợ run.

Xuất Trần Tử nói:

- Đại sư huynh! Việc này không liên quan đến tiểu đệ. Tỷ phu sư Muội... bản lãnh ghê gớm quá, chúng tôi không đuổi kịp.

Thiếu niên áo trắng nói:

- Tam sư đệ! Nói cho ta nghe.

Gã béo mập đáp:

- Vâng, vâng!

Đoạn, đem việc gặp Kiều Phong ở đâu, ông đón lấy những cây cương trượng như thế nào, rồi đem Xuất Trần Tử lên vách núi tra hỏi ra sao thuật lại kỹ một lượt, không giấu giếm câu nào. Gã béo mập vốn là người rất bình tĩnh, lúc nào ăn nói cũng thản nhiên, thế mà đứng trước gã thiếu niên áo trắng, hắn sợ quá giọng run run dường như vạ lớn đã đến cho mình.

Thiếu niên áo trắng chờ gã nói xong, gật đầu rồi quay lại hỏi Xuất Trần Tử:

- Ngươi nói với y cả rồi hay sao?

Xuất Trần Tử đáp:

- Tiểu đệ tiểu đệ...

Thiếu niên áo trắng vẫn ôn tồn:

- Ngươi nói với y thế nào cư thuật lại cho ta hay.

Xuất Trần Tử nói:

- Tiểu đệ tiểu đệ bảo Bích Ngọc Vương Đỉnh là một trong ba thứ báu vật của bản môn, là... là thứ để luyện đại pháp... đó. Tiểu đệ lại nói cho y hay rằng sư phụ thường nói bọn võ lâm ở Trung Nguyên hễ nghe đến Hoá Công Đại Pháp của chúng ta là hồn vía lên mây. Nếu Bích Ngọc Vương Đỉnh vào tay họ là họ đập tan ngay.

Ngừng giây lát, Xuất Trần Tử kể tiếp:

- Tiểu đệ còn bảo y Bích Ngọc Vương Đỉnh là vật chí bảo trên đời hiếm có. Vì thế... vì thế mà xin y trả lại cho.

Thiếu niên áo trắng nói:

- Hay lắm! Thế rồi y bảo sao?

Xuất Trần Tử nói:

- Y không nói gì cả, buông tiểu đệ xuống.

Thiếu niên áo trắng nói:

- Thế thì ngươi khá đấy! Ngươi bảo y cái Bích Ngọc Vương Đỉnh đó dùng vào việc luyện Hoá Công Đại Pháp, lại còn sợ y không hiểu Hoá Công Đại Pháp là cái chi chi nên phải mách thêm cho y rằng bọn võ lâm ở Trung Nguyên hễ đề cập đến đại pháp này là hồn vía lên mây. Thế là tuyệt diệu! Nhưng y có phải là người trong môn phái võ ở Trung Nguyên không?

Xuất Trần Tử nói:

- Tiểu đệ tiểu đệ cũng không biết nữa.

Thiếu niên áo trắng hỏi vặn lại:

- Ngươi biết mà bảo không, hay ngươi không biết thật?

Gã thiếu niên vẫn nói bằng một giọng rất ôn hoà, thế mà Xuất Trần Tử, con người quật cường táo bạo, phải sợ đến kinh hồn tản đảm, hai hàm răng chạm vào nhau cầm cập.

Gã run lên đáp:

- Tiểu đệ tiểu đệ... không biết... thật.

Gã cố giữ cho hàm răng khỏi đập vào nhau mà không sao giữ được. Gã đã nói lắp lại thâm vào những tiếng run cầm cập rất khó nghe.

Thiếu niên áo trắng hỏi:

- Ngươi bảo vậy có làm y khiếp sợ hồn vía lên mây không. Hay là y chẳng sợ cóc gì?

Xuất Trần Tử đáp:

- Dường như... y... không sợ thì phải...

Thiếu niên áo trắng hỏi:

- Ngươi thấy thế nào mà đoán là y không sợ?

Xuất Trần Tử nói:

- Tiểu đệ đoán không ra. Xin đại... đại huynh cho tiểu đệ biết.

Thiếu niên áo trắng nói:

- Người các phái võ ở Trung Nguyên sợ nhất là Hoá Công Đại Pháp của chúng ta. Nhưng chiếc đỉnh ngọc đó đã vào tay y, môn Hóa Công Đại Pháp không thể luyện được nữa, vì thế mà y không sợ.

Xuất Trần Tử nói:

- Phải rồi, phải rồi! Đại... đại ca trông... trông thấy xa... muôn dặm... liệu việc như thần. Tiểu... tiểu đệ còn kém xa lắm.

Hồi Thứ 42

Cách trừng phạt ghê hồn của Trích Tinh Tử

Tiêu Phong lúc ban ngày đã gặp bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy trong đám này có gã Xuất Trần Tử là kẻ thẳng thắn thực thà nên đã có cảm tình với gã. Bây giờ thấy gã sợ hãi thiếu niên áo trắng thế, có ý muốn ra tay cứu gã. Không ngờ càng nghe lâu ngày càng thấy gã ăn nói chẳng ra gì cả, chỉ là hạng hèn nhát, xu mị gã thiếu niên một cách khả ố.

Ông lẩm bẩm:

- Gã này đâu phải là trang hảo hán? Dù gã sống hay chết cũng mặc, chẳng thèm bận tâm đến nữa.

Thiếu niên áo trắng quay sang hỏi A Tử:

- Tiểu sư Muội! Tỉ phu sư Muội là ai?

A Tử nói:

- Tỉ phu tiểu Muội ư? Tiểu Muội nói ra sợ đại ca hoảng hồn!

Thiếu niên áo trắng nói:

- Không sao đâu. Sư Muội cứ nói ra. Nếu là trang anh hùng lừng lẫy tiếng tăm thì Trích Tinh Tử này cũng cần biết để mà lưu ý.

Tiêu Phong nghe gã tự xưng danh, liền lẩm bẩm:

- Gả Trích Tinh Tử này xem ra có vẻ khoác lác! Vừa rồi mình thấy thân pháp gã lướt nhanh như gió, tuy khinh công giỏi thật, song cũng chẳng hơn gì ba tên Thạch Đại Lý hay Vân Trung Hạc, một trong tứ ác. Có điều công phu gã này cổ quái ác hơn.

Bỗng thấy A Tử hỏi lại:

- Đại ca! Trong các phái võ Trung Nguyên, ai là người đứng đầu đại ca có biết không?

Thiếu niên áo trắng tức Trích Tinh Tử đáp:

- Người ta thường đồn đại đến hai tên: "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung." Chẳng lẽ cả hai người đều là tỉ phu sư Muội?

Tiêu Phong nghe Trích Tinh Tử nói đến câu: "Chẳng lẽ hai người đều là tỉ phu sư Muội?" Thì lửa giận bốc lên bùng bùng. A Tử chỉ có một cô chị, sao lại có hai tỉ phu được?

Ông lẩm bẩm:

- Thằng lỏi này quen thói ăn nói càn rỡ, sẽ cho người biết tay để chửa thói hồ đồ.

A Tử cưới khanh khách nói:

- Đại ca nói thế mới là thú vị! Tiểu Muội chỉ có một tỉ nương lấy đâu ra hai tỉ phu?

Trích Tinh Tử tủm tỉm cười nói:

- Nào ta có biết tỉ sư Muội chỉ có một tỉ nương? Hề hề. Dù tiểu sư Muội chỉ có một cô chị mà có những hai tỉ phu lại càng là một chuyện ly kỳ.

A Tử nói:

- Này này! Tỉ phu tiểu Muội hay ghen lắm đó! Lần sau tiểu Muội gặp tỉ phu sẽ đem câu chuyện này thuật cho y nghe để đại ca nếm mùi đau khổ với y. Tiểu Muội nói để đại ca biết, tỉ phu tiểu Muội! Bang Chúa Cái Bang, oai danh lừng lẫy khắp Trung Nguyên, Bắc Kiều Phong chính thị!

A Tử vừa dứt lời, mấy gã đệ tử phái Tinh Tú đã gặp Tiêu Phong đều giật mình không nhịn được, đồng la lên:

- Ủa!

Nhị sư huynh tứ gã mũi sư tử nói:

- Thảo nào, thảo nào! Y bóp gẫy tay tôi, tôi cũng không ân hận gì nữa.

Trích Tinh Tử sẽ nhíu cặp lông mày, nói:

- Bích Ngọc Vương Đỉnh đã vào trong tay Cái Bang thì thật khó lòng lấy lại rồi đấy.

Xuất Trần Tử tuy đang sợ hãi nhưng không sao đổi được cái tật lổm mồm. Gã lắp bắp:

- Đại sư huynh! Gã Kiều Phong đó hết... làm Bang Chúa... Cái Bang rồi! Đại ca vừa ở miền tây về chẳng lẽ chưa được nghe các phái Trung Nguyên vừa đây mới xảy ra một việc quan trọng. Gã Kiều Phong đó bị người Cái Bang trục xuất ra khỏi Cái Bang rồi.

Trích Tinh Tử khẽ thở dài. Song bộ mặt gã chỉ khẩn trương một lúc rồi trở lại bình thường.

Gã nói:

- Kiều Phong bị trục xuất khỏi Cái Bang rồi ư? Việc đó có thật không?

Tam đệ tử tức là gã béo mập đáp:

- Khắp chốn giang hồ đâu cũng nói vậy. Họ còn đồn đại hắn không phải người Hán mà là người Khất Đan và đã trở nên kẻ thù số một của các anh hùng Trung Nguyên. Ai cũng muốn giết y cho hả giận. Tiểu đệ còn nghe nói Tiêu Phong giết song thân, giết sư phụ giết cả bạn bè, còn là một gã hèn hạ bỉ ổi, không một điều tàn ác nào gã từ.

Tiêu Phong nấp ở phía sau tảng đá núi nghe chúng kể chuyện về những tai bay vạ gió không may mình gặp phải từ mấy tháng thì không khỏi đau lòng. Mặc dầu ông võ công tuyệt thế, đởm hơn người mà thanh danh ông bị các bậc anh hùng trong võ lâm lăn mạ, lòng ông một phen uất ức, chán nản cuộc đời.

Bỗng thấy Trích Tinh Tử hỏi A Tử:

- Sao tỉ nương sư Muội đi lấy con người ấy? Chẳng lẽ khắp nơi thiên hạ chết hết cả, không còn chàng trai nào nữa hay sao? Hay là bị hắn tiền dâm hậu thú, rồi bị ép uổng phải lấy hắn là chồng?

A Tử cười lạt nói:

- Về việc tỉ nương tiểu Muội lấy hắn trong trường hợp nào, tiểu Muội không biết. Song tỉ nương tiểu Muội đã bị hắn ra tay đánh cho vài chưởng chết mất rồi.

Bọn chúng đều la lên một tiếng kinh ngạc. Bọn này nguyên là một lũ tà đạo lòng dạ trơ như gỗ đá, thế mà nghe nói Tiêu Phong giết cha mẹ, giết thầy, giết bạn, lại giết cả vợ con cũng không khỏi cảm xúc, ghê cho thủ đoạn tàn ác trên đời ít có.

Trích Tinh Tử nói:

- Tưởng gã còn ở Cái Bang, người nhiều thế mạnh, thì quả là điều khó khăn trong việc đối phó với hắn, nay hắn đã bị trục xuất khỏi Cái Bang, chẳng lẽ mình còn sợ hắn hay sao? Ha ha!

Đột nhiên hắn buông mấy tiếng cười lạt nói:

- Thế mà bọn võ lâm tại Trung Nguyên nêu danh Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung gì gì hay quá: Ta không tin rằng hai gã có thì chống chọi lại với công phu kỳ diệu của phái Tinh Tú ta.

Gã bép mập nói:

- Chính thế! Bọn sư đệ chúng tôi cũng nghĩ vậy. Võ công của đại ca đã siêu phàm nhập thánh, phen này đại ca đến Trung Nguyên chém chết luôn cả Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung làm tỏa nhụt nhuệ khí các phái võ Trung Nguyên, để họ biết phái Tinh Tú ta lợi hại đến thế nào!

Trích Tinh Tử hỏi:

- Gã Kiều Phong hiện giờ ở đâu? Bọn ta đi phương nào tìm hắn?

A Tử nói:

- Hắn biểu ra ngoài ải Nhạn Môn Quan. Bọn ta theo phương đó mà đuổi chẳng sớm thì chầy cũng tìm được hắn.

Trích Tinh Tử nói:

- Phải rồi! Nhị Tam, Tứ, Thất, Bát. Năm vị sư đệ vừa rồi lâm tịch để thất cơ bại trận, các người muốn lãnh tội gì đây?

Cả năm gã khom lưng nói:

- Bọn tiểu đệ cung kính nhận lãnh trách phạt của đại ca.

Trích Tinh Tử nói:

- Bọn ta đến Trung Nguyên, hành động nhiều việc. Nếu ta hình hạt quá nặng, không khỏi giảm sút đi một số người. Thôi đành thế này vậy...

Chưa dứt lời, vung tay trái lên, trong tay áo phóng ra năm điểm ánh sáng xanh lè, tựa như năm con đom đóm bay ra xông thẳng đến gã. Mỗi điểm ánh sáng này rớt xuống vai một gã, tiếp theo là những vòng xèo xèo. Năm gã rú lên những tiếng kinh khủng.

Tiêu Phong ngửi thấy mùi thịt cháy khét lẹt tự hỏi:

- Mấy điểm lửa đó phải chăng đã đốt cháy thịt bọn kia?

Những điểm lửa đó tắt ngay song bộ mặt năm gã mỗi lúc một lộ vẻ đau đớn hơn lên.

Tiêu Phong nghĩ thầm:

- Gã thiếu niên áo trắng kia vừa phóng thứ điểm lửa ngoài chất lưu hoàn lân tiêu, bên trong còn có chất độc khác nhau nên lửa tắt rồi, chất độc thấm vào da thịt khiến người đau đớn không thể chịu được.

Bỗng thấy Trích Tinh Tử nói:

- Đây là thứ luyện tâm đạn hạng nhỏ, chỉ trong vòng bảy bảy bốn mươi chín ngày là mãn kỳ hạn, các ngươi sẽ hết đau đớn mà da sẽ được một phen rèn luyệt cho sức nhẫn nại sẽ gia tăng. Lần sau có cường địch, không đến nỗi mới đánh một trận đã chịu khuất phục và lần nầy làm mất mặt cho môn phái Tinh Tú Hải.

Gã mũi sư tử cùng gã béo mập đồng thanh nói:

- Vâng vâng! Xin đa tạ những lời răn dạy của đại ca.

Còn ba gã kia chỉ vận động nội lực để chống lại với sự đau đớn. Mô tả không mở miệng nói được câu gì. Trong khoảng thời gian cháy hết tuần hương, năm gã mới thấy trong người dần dần bớt đau. Lúc vừa rồi người ngoài trông thấy năm gã nghiến răng gắng gượng nhịn đau, bộ mặt cùng tiếng rên la của bọn họ thật rất khủng khiếp. A Tử trông thấy cảnh tượng rùng rợn này không khỏi khiếp sợ. Trông cũng đành phó thác cho trời đến đâu thì đến.

Trích Tinh Tử từ từ đưa mắt nhìn Xuất Trần Tử nói:

- Bát sư đệ! Ngươi tiết lộ việc cơ mật trọng đại của bản phái, khiến cho vật đó có thể bị phá hủy, nên chịu tội gì?

Xuất Trần Tử thộn mặt ra, rồi đột nhiên quỳ mọp xuống đất năn nỉ:

- Đại ca... đại ca! Tiểu đệ lúc đó hồ đồ buột miệng nói ra... xin đại ca tha chết cho. Từ rày... từ rày sắp tới, đại ca có bắt tiểu đệ làm thân trâu ngựa, tiểu đệ... cũng không dám... nửa lời oán trách.

Nói xong lắc đầu lia lịa. Trích Tinh Tử thở dài nói:

- Bát sư đệ! Ta cùng ngươi đã là bạn đồng môn. Nếu ta đủ quyền lực cũng muốn tha cho ngươi lắm. Nhưng lần nầy tha cho ngươi sau nầy có ai không tuân theo nghiêm lệnh của sư phụ thì làm thế nào? Thôi ngươi ra tay đi! Luật lệ của bản môn thế nào, ngươi đã biết rồi đó! Chỉ còn cách ngươi đánh bại được nguời chấp pháp thì bất luận tội nghiệt gì cũng xóa bỏ hết. Vậy ngươi đứng dậy ra tay tiếp đòn của ta.

Xuất Trần Tử khi nào dám chống lại với thiếu niên áo trắng, gã dập đầu không ngớt. Trích Tinh Tử nói:

- Ngươi không ra tay để tiếp chiêu với ta ư?

Xuất Trần Tử vẻ mặt hoảng hốt đứng phắt dậy. Người gã tuy thấy lùn béo mập mà thân pháp rất mau lẹ. Gã nghe đại sư huynh nói vậy biết là không thể nào được tha nữa. Thứ binh khí mà gã quen dùng là cây cương trượng thì đã bị Tiêu Phong phóng chặt vào vách núi rồi không nhổ ra được đành bỏ lại đó.

Xuất Trần Tử vội cúi xuống nhặt hai hòn đá to bằng nắm tay. Hai tiếng vù vù vang lên, gã vừa nhắm Trích Tinh Tử ném tới, vừa nói:

- Đại sư ca! Tiểu đệ đắc tội với đại ca đây!

Hai hòn đá vừa rời khỏi tay, gã nhặt luôn hai hòn khác ném liên tục. Người gã nhảy về góc Đông Bắc. Đồng thời lại vang lên những tiếng "vù vù", gã ném luôn hai hòn nữa. Người gã tròn ủng trông chẳng khác quả cầu bằng thịt, bắn đi khá xa. Xuất Trần Tử tự biết võ công mình kém Trích Tinh Tử xa lắm, gã liệng đá ra với mục đích để ngăn trở đối phương một chút , may ra chạy thoát được chăng? Xuất Trần Tử định bụng nếu chuyến này thoát nạn thì từ rày sắp tới gã kiếm chốn mai danh ẩn tích để bọn môn đồ phái Tinh Tú không thể đến nơi được.

Ngờ đâu Trích Tinh Tử phất tay một cái, một luồng kình lực từ trong tay áo phóng ra chạm vào viên đá. Lập tức viên đá bay ngược lại nhằm liệng vào lưng Xuất Trần Tử. Tiêu Phong nấp trong tảng đá lớn, thấy hòn đá phản kích mà còn rất mãnh liệt, bất giác gật đều khen thầm:

- Gã nầy có thuật trợn đà nội lực của đối phương để phản kích rất giỏi. Đây là bản lĩnh của gã chứ không phải tà phép chi hết.

Xuất Trần Tử vừa nghe tiếng gió rất gấp đã biết rằng nếu mình xoay thêm về phía trước thế nào cũng trúng phải hòn đá, còn xoay tay đỡ thì lại không đủ nội lực. Gã đành nhảy tránh sang bên tả. Xuất Trần Tử vừa nhảy tránh qua mé tả, thì Trích Tinh Tử lại khất tay áo cho hòn đá thứ hai bay tới, khiến cho gã không còn giây nào ngừng lại. Gã vừa đặt chân trái tới đất, một luồng kinh phong lại bay đến sau lưng, hòn đá thứ ba đã liệng tới nơi.

Tiêu Phong biết rằng nghệ thuật này bọn sư huynh sư đệ đồng môn chúng đã luyện rất thuần thục. Trích Tinh Tử đã hiểu rõ sư đệ gã là Xuất Trần Tử muốn né tránh để định tâm có hành động gì rồi, nên gã liệng đá lại, hòn nào phuơng vị cũng vừa vặn để đối phương còn né tránh được nhưng không cho dừng chân lúc nào mà cứ phải tránh mãi về mé tả.

Tiêu Phong lại biết rõ Trích Tinh Tử cố ý muốn làm cho sự đệ gã hoảng hồn chứ không muốn giết ngay. Trích Tinh Tử ném đến những hòn đá thứ năm thứ sáu thì làm cho chậm lại một lúc, vì nếu không chậm lại thì Xuất Trần Tử tránh không kịp. Mỗi một hòn đá văng lại đều bức bách Xuất Trần Tử nhảy tránh sang mé tả. Sáu hòn đá liệng lại, Xuất Trần Tử nhảy tránh sáu lần thành ra lại trở về bên đống lửa.

Viên đá thứ sáu vừa rơi xuống thì Xuất Trần Tử sắc mặt lợt lạt thò tay vào bọc rút lưỡi dao trủy thủ ra, toan đâm vào ngực mình để tự tử. Trích Tinh Tử khi nào để cho gã chết một cách dễ dàng như vậy? Gã phất tay áo ra, một chấm lửa xanh lè bay vút tới cổ tay Xuất Trần Tử.

"Xèo xèo", viên đạn lửa đã xuyên vào, đốt cháy huyệt đạo ở cổ tay Xuất Trần Tử. Xuất Trần Tử đau quá rời tay ra, lưỡi đao trủy thủ rớt xuống đất.

Gã lớn tiếng la lên:

- Xin đại ca mở lòng từ bi! Xin đại ca mở lòng từ bi!

Trích Tinh Tử lại phất tay áo, một luồng kinh phong phát ra bay vụt tới đống lửa xanh lè. Đột nhiên từ trong đống lửa nầy có một tia lửa nhỏ xíu bật thẳng vào Xuất Trần Tử. Tia lửa này đốt cháy quần áo, đầu tóc Xuất Trần Tử. Xuất Trần Tử lăn lộn dưới đất, rú lên những tiếng thê thảm mà không chết ngay được. Mùi thịt cháy khét lẹt bay ra bốn phía. Thảm trạng này thật là khủng khiếp khiến ai trông thấy cũng phải ghê hồn.

Tiêu Phong tuy đã gặp không biết bao nhiêu cảnh tượng hung ác, hiểm độc, mà lúc này trông thấy thảm họa của Xuất Trần Tử trong lòng ông không khỏi rung động. Bọn đồ đệ phái Tinh Tú sợ quá đến nỗi không dám thở mạnh.

Trích Tinh Tử cất tiếng hỏi:

- Anh em không ai nói gì. À phải rồi! Các ngươi cho ta là có thủ đoạn thâm độc quá. Xuất Trần Tử bị chết một cách oan uổng phải không?

Mấy câu hỏi hời hợt khiến cho bọn kia hoảng hồn tranh nhau lên tiếng.

Một gã nói:

- Tội Xuất Trần Tử chết là đáng lắm. Đại ca lại tìm cách luyện xác trước khi hắn về Tây phương cực lạc. Thế là đại ca đối với gã nhân từ lắm rồi!

Có gã nói:

- Đại ca là người anh minh quyết đoán, xử trí mọi việc rất đíc đáng đã không nhu nhược, lại không thái quá. Chúng tôi rất là kính phục.

Có gã nói:

- Y đã tiết lộ những việc cơ mật của bản phái để vật chi bảo của đồng môn dùng vào việc luyện công có thể lâm vào tình trạng bị phá hủy đáng tội lăng tri, xẻo từng miếng thịt để chịu đau khổ bảy ngày bảy đêm rồi mới xử tử. Thế mà đại ca nghĩ tình đồng môn chỉ xử y một cách nhẹ nhàng. Dù y chết rồi thành ma quỷ cũng còn cảm kích ơn đức Đại ca.

Có gã nói:

- Bọn tiểu đệ đều có tội hết, xin đại ca bao dung cho.

Những lời tán tụng vô liêm sỉ xen lẫn với tiếng rên la thảm thiết Xuất Trần Tử hợp thành một điệu nhạc rất khó nghe. Tiêu Phong cảm thấy chán ghét vô cùng, không muốn nghe nữa. Ông ngay mình, điểm chân phải xuống, nhảy bật người lên không một tiếng động, đã văng xa ra ngoài hai trượng. Đến tay bản lãnh cao cường như Trích Tinh Tử mà cũng không hay biết chi hết.

Tiêu Phong vừa tung mình đi một cái, đang khoa chân toan nhảy bước thứ hai bỗng nghe Trích Tinh Tử ôn tồn hỏi:

- Tiểu sư Muội! Tiểu Muội lấy cắp bảo đỉnh của sư môn đem đưa cho người ngoài, nên chịu trừng phạt cách nào đây?

Gã nói mấy câu đó bằng một giọng ôn nhu văn nhã, song Tiêu Phong vừa nghe đã run lên, ông lẩm bẩm:

- A Tử tuy là đứa tiểu tiện nhân khả ố, nhưng mình đã nhận lời ủy thác của A Châu, lẽ nào để cô ta chết ở dưới tay bọn qủy quái này? Chỉ sợ cô ta phải chịu những hình phạt còn thảm khốc gấp mười gã Xuất Trần Tử. Nếu mình thỏng tay bỏ mặc, thì yên tâm thế nào được?

Nghĩ vậy ông xoay mình trở lại, lằng lặng ẩn mình vào chỗ cũ. Bỗng nghe A Tử đáp:

- Đại ca! Tiểu Muội đã phạm vào lề luật của sư phụ. Điều đó tiểu Muội không dám cãi. Tiểu Muội xin hỏi đại ca còn muốn lấy lại chiếc đỉnh báu đó nữa không?

Trích Tinh Tử đáp:

- Đó là một trong tam bảo của bản môn, lý đương nhiên là cần lắm chứ! Nhưng sao Tiểu Muội lại để lọt vào tay người một cách dễ dàng thế được?

A Tử nói:

- Tỉ phu tiểu Muội là người tính nết rất quật cường, cái đỉnh đó tiểu Muội đưa cho y. Nếu tiểu Muội gặp y đòi thì thế nào y cũng phải để y nguyên lành lặn mà trả lại, chớ nếu người khác đến đòi thì đại ca thử tưởng tượng xem liệu y có chịu trả không?

Trích Tinh Tử "ồ" lên một tiếng nghĩ bụng:

- Thằng cha Kiều Phong trước đã làm Bang chúa Cái Bang, tiếng tăm lừng lẫy trên chốn giang hồ, e rằng y không chịu khuất phục dễ dàng bất cứ ai.

Gã nghĩ vậy liền đáp:

- Việc này khó mà nói trước được. giả tỷ cái bảo đỉnh đó mà bị sức mẻ rồi mới đưa về trả, thì tội trạng tiểu Muội còn nặng hơn một từng nữa.

A Tử nói:

- Nếu các vị sư huynh tìm đến y để đòi lại vô luận thế nào y cũng không chịu trả đâu. Võ công đại ca dù cao cường đến bực nào đi nữa thì cũng đến giết y là cùng, còn việc lấy được lại đỉnh thì tật là muôn vạn khó khăn.

Trích Tử trầm ngâm một lát rồi hỏi:

- Theo ý sư Muội thì nên làm thế nào bây giờ?

A Tử nói:

- Đại ca hãy tha tiểu Muội để một mình tiểu Muội đến Nhạn Môn Quan đòi tỷ phu trả bảo đỉnh đem về. Cái đó kêu bằng đem công chuộc tội. Có điều đại ca hứa với tiểu Muội sau khi lấy được đỉnh về đừng trách phạt tiểu Muội.

Trích Tinh Tử nói:

- Lời tiểu Muội nói nghe ra cũng có lý. Có điều Tiểu sư Muội làm thế là lột da hết cả mặt mũi ta mất rồi còn gì. Và từ đây trở đi ta không còn có thể làm người thừa kết phái Tinh Tú Hải nữa. Một khi ta lại buông tha tiểu Muội rồi, tiểu Muội xa chạy cao bay cùng tỷ phu để biệt tích, thì rồi ta biết đi đâu tìm tiểu Muội? Về việc tìm lấy cái bảo đỉnh này ta tưởng có chí thì nên. Gã họ Kiều kia vị tất đám phá đi. Điều cần nhất đừng tiết lộ những điều bí mật cho ai biết.

Ngừng dây lát, Trích Tinh Tử lại nói tiếp:

- Tiểu sư Muội! Sư Muội ra tay đi! Chỉ cần sư Muội đánh bại ta là đương nhiên thành người kế vị phái Tinh Tú, và ngược lại ta sẽ phải tuân theo hiệu lệnh của sư Muội. Khi đó Tiểu sư Muội sẽ thành đại sư mà ta đây là tiểu sư đệ.

Tiêu Phong nghe đến đây mới hiểu rõ là phái này xếp đặt trên dưới tùy theo võ công mạnh hay yếu, chứ không xếp theo thời kỳ nhập môn trước hay sau. Vì thế mà gã Trích Tinh Tử nhỏ tuổi lại được làm đại sư huynh, còn bao nhiêu đệ tử lớn tuổi hơn vẫn phải ở hàng sư đệ. Theo luật này sẽ đưa đến chỗ giữa ban đồng môn với nhau thường thường xảy ra giành nhau, tàn sát nhau, không kể gì đến tình nghĩa anh em.

Nhưng ông có biết đâu rằng lề luật này cũng đem lại một điều lợi cho mỗi đời chưởng môn, võ công lại cao lên một tầng. Oai quyền của Đại sư huynh trong môn phái rất lớn nắm trong tay quyền sinh sát các sư đệ. Sư đệ nào không phục tòng y thì bất cứ lúc nào cũng có thể lấy võ lực ra phản kháng. Nếu kẻ làm sư đệ bị hại thì đại sư huynh đắc thắng, mà kẻ làm sự đệ dù bị đánh hay bị giết thế nào cũng đành chịu, không chống cự hay kêu ca vào đâu được. Trường hợp sư đệc đắc thắng thì lập tức nhẩy một bước lên làm đại sư huynh rồi đem xử tử gã đại sư huynh cũng được, chứ vị chưởng môn sư phụ đứng ngoài thỏng tay bỏ mặc, quyết không can thiệp.

Dưới lề luật này người nào cũng phải gắng sức cầu tiến. Có điều bề ngoài ai nấy đều im lìm không tỏ vẻ gì hết có khi còn làm bộ võ công kém cỏi để cho đại sư huynh khỏi nghi kỵ. Gã Xuất Trần Tử ỷ mình có sức mạnh ở cánh tay rất lợi hại. Cây cương trượng của y đúc vừa dài vừa lớn, rất là trầm trọng, vì thế mà gã ở hàng bát sư đệ đã bị Trích Tinh Tử đem lòng ghen ghét, hễ có dịp nào là y mượn cớ để trừ khử ngay.

Đồ đệ các phái khác thì chuyên chú luyện võ nghệ cho đến một mực nào đó nhứt định rồi dừng lại đó, không tiến thêm được nữa. Còn đồ đệ phái Tinh Tú thì không có ngày nào nhàn rỗi, phải luyện tập không dám chểnh mảng. Kẻ làm Đại sư huynh thì sợ bọn sự đệ quay lại khiêu chiến với mình, còn kẻ làm sư đệ lại sợ Đại sư huynh tìm đổ lên đầu mình những cuộc thí nghiệm để cho cuộc luyện võ được thành tựụ Đại sư huynh mà không nắm chắc phần thắng thì không bao giờ dám gây hấn.

A Tử đã tưởng Trích Tinh Tử tha thiết vào cái bảo đỉnh không nở hại mình dè đâu gã không bị mắc vào tròng, mà lập tức đòi cô ta phải động thủ.

A Tử vừa nghe Trích Tinh Tử giục mình ra tay, thì cả kinh thất sắc. Cô thấy Xuất Trần Tử còn đang rên la hô hoán chưa chết đi được. Thâm trạng của gã sẽ đến với cộ Cô không biết làm thế nào run run nói:

- Chân tay tiểu Muội đều bị trói chặt làm sao động thủ được? Đại ca muốn hại tiểu Muội mới bày ra cách này.

Trích Tinh Tử nói:

- Được lắm! Ta mở khóa chân tay cho sư Muội.

Gã nói xong phất tay áo một cái, một luồng hơi mạnh bắn vào đống lửa. Đống lửa xanh lè chia ra một giây nhỏ tựa như một tia nước chợt bắn vào chiếc khóa sắt trên tay A Tử.

Tiêu Phong nhìn rất rõ ràng: Đường tia lửa bắn đi đúng vào chỗ trong tay A Tử chứ không phải đốt cháy thân thể cô. Hơn nữa gã Trích Tinh Tử tự phụ võ công cao cường, địa vị cao quý, quyết không muốn khuất uy tín trước mặt đồng môn. Võ công gã cao hơn A Tử rất nhiều cần gì hắn phải đánh lén. Có điều ông chưa biết nội lực gã ra sao, liệu có đốt gãy riêng cái khóa mà khỏi tổn thương đến cổ tay A Tử không?

Tiêu Phong còn đang suy nghĩ bỗng nghe thấy những tiếng xè xè. Chẳng mấy chốc, hai tay A Tử đã giang ra được. Quả nhiên cái khóa sắt đã gãy quãng giữa song còn lòng thòng móc dây xích ở trên tay.

Tia lửa vừa rồi đột nhiên rụt về, rồi lại bắn ra phía trước. Nhưng lần nầy tia lửa nhằm chiếc chìa khóa sắt dưới chân A Tử vọt ra. Cũng chỉ trong khoảnh khắc, cái khóa sắt đã bị gãy rời.

Tiêu Phong ban đầu thấy tia lửa xanh lè nung khóa sắt ông không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, tưởng nội lực của Trích Tinh Tử cực kỳ ghê gớm. Đến nổi tia lửa bắn vào xì chiếc khóa dưới chân. Lần này ông nhìn được rõ ràng hơn, thấy tia lửa bắn vào chỗ nào, lập tức khóa thay đổi màu sắc chỗ đó. Xem thế thì lửa này có điều chi quái lạ, chứ không phải là do nội lực mà ra.

Chân tay A Tử được tự do rồi, cô không còn cách gì chối từ được nữa mặc dầu cô là người tâm trí linh mẫn, song việc này không là điểu giảo quyệt để thoát khỏi đại nạn trước mắt.

Bỗng nghe bọn đồng môn thi nhau tán tụng Trích Tinh Tử. Một gã nói:

- Bọn Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung gì gì đó, không dám xách giày cho đại ca.

Lại một gã nữa nói:

- Tiểu sư Muội! Sư Muội đã thấy kinh hồn chưa? Có điều đáng tiếc là tuy sư Muội biết hối nhưng đã muộn mất rồi.

Mỗi gã một câu bàn đi tán lại không ngớt. Gã Trích Tinh Tử nghe lời xiểm nịnh ra chiều khoan khoái. Mặt gã hớn hở tươi cười, liếc mắt nhìn A Tử. A Tử chỉ mong bọn chúng tán hoài để gã Trích Tinh Tử trì hoãn việc trừng phạt mình lúc nào hay lúc ấy. Nhưng bọn chúng tâng bốc một hồi lâu cũng đâm nhàm. Sau cùng không tìm được danh từ gì mới lạ để hót thêm nữa. Lời tán tụng dần dần ít đi và rời rạc.

Trích Tinh Tử thủng thẳng nói:

- Tiểu sư Muội! Ra đòn đi thôi chứ!

A Tử nghĩ đến tình trạng Xuất Trần Tử bị thảm hình vừa rồi run lên hỏi:

- Tiểu Muội không ra đòn đâu!

Trích Tinh Tử hỏi:

- Sao sư Muội không chịu ra đòn? Ta xem sư Muội bản lãnh cũng khá đấy mà!

A Tử nói:

- Tiểu Muội không đánh nhau với đạ ca vì biết rõ mình đánh không lại, tội gì đánh cho mệt? Đại ca muốn giết tiểu Muội thì giết phất cho rồi.

Trích Tinh Tử thở dài nói:

- Ta thực không muốn giết sư Muội. Một vị tiểu cô nương mặt đẹp như hoa, ta giết đi thật là đáng tiếc. Song biết làm thế nào? Thôi sư Muội ra đòn đi. Sư Muội giết ta rồi để mà làm đại sư tỷ. Trong phái Tinh Tú trừ sư phụ, còn ngoài ra sẽ đều phải theo mệnh lệnh của sư Muội hết.

A Tử nghiến răng nói:

- Dù tiểu sư Muội có đánh được, nhưng cũng nhất quyết không giết đại ca.

Trích Tinh Tử hỏi:

- Sao vậy?

A Tử đáp:

- Vì... vì Muội rất thương yêu đại ca.

Trích Tinh Tử nghe cô nói câu này, bỗng run lên. Tiêu Phong trong lòng cũng không khỏi chấn động vì không ngờ cô dám nói trắng trợn như vậy. Bọn đệ tử đưa mắt nhìn nhau, không ai dám hé môi hé lợi, chúng ra mắt ngó dưới đất, không dám nhìn Trích Tinh Tử để khỏi rước họa vào thân.

Sau một lúc đột nhiên Trích Tinh Tử cười nói:

- Sư Muội còn nhỏ tuổi thế đã biết gì mà nói đến chuyện yêu thương với chẳng yêu thương? Ta đã có vợ rồi, tiểu Muội chưa hay sao?

A Tử đáp:

- Đại ca là bậc anh hùng hiên ngang, võ công cao cường. Có vợ hay không phỏng có can gì? Tiểu Muội... tiểu Muội vẫn thương yêu đại ca.

Trích Tinh Tử thở dài nói:

- Giả tỉ tiểu Muội không phải tội này thì ta thà làm tiểu tinh cũng chẳng hề chi. Nhưng giờ... Ta có thương tiểu Muội cũng không thể giúp được. Thôi tiểu Muội ra đòn đi!

Trích Tinh Tử nói xong phất tay áo một cái, một luồng kình phong vụt tới đống lửa. Một giây lửa từ từ bắn lại chỗ A Tử, dường như không muốn giết cô ta ngay, nên khiến tia lửa đi rất chậm.

A Tử sợ quá kêu lên rồi nhảy tránh về phía hữu hai bước. Tia lửa lại đến bức bách, A Tử phải lùi thêm một bước nữa thì sau lưng cô đã giáp tảng đá lớn, phía sau có Tiêu Phong ẩn nấp. Trích Tinh Tử lại vận nội lực cho tia lửa đó đi gần lại thêm nhưng xương sống A Tử đã sát vào tảng đá lớn, không còn đất lùi. A Tử toan nhảy sang bên, song Trích Tinh Tử huy động tay áo, hai luồng kình phong chia ra bao vây hai bên tả hữu, khiến cô ta không còn né tránh được, mà phía trước mặt thì tia lửa đã gấn tới nơi.

Tiêu Phong biết tia lửa xanh lè này chạm vào người cô ta là lập tức sém da cháy thịt. Ông thấy tia lửa cách mặt cô không đầy hai thước rồi cứ xích gần mãi lại, liền khẽ bảo:

- Cô đừng sợ! Tôi đến giúp cô đây!

Vừa nói vừa giơ tay ra che lấy lưng cô rồi nói tiếp:

- Cô vận chưởng lực nhắm vào tia lửa mà đánh ra!

Hồi Thứ 43

Tiêu Phong ám trợ Tiểu cô nương

A Tử đang hồn lạc phách xiêu, đột nhiên nghe tiếng Tiêu Phong, thì không khác gì vớ được cứu tinh từ trên trời sa xuống. A Tử không suy nghĩ gì nữa, vung chưởng đánh ra. Lúc đó Tiêu Phong đã truyền nội lực mình vào thân thể nàng. A Tử phóng chưởng lực ra, kình lực rất hùng hậu khiến cho tia lửa xanh lè phải co lại hai thước.

Trích Tinh Tử giật mình, vì gã yên trí rằng A Tử khác nào như cá nằm trong thớt, chỉ cần việc thi triển nội công phóng tia lửa đến trước mặt nàng quay đi quay lại mấy vòng cho nàng hết hồn, rú lên những tiếng kinh khủng trước mặt bọn đồng môn để dương oai với chúng một hồi rồi mới giết nàng. Ngờ đâu cô bé A Tử, tuổi còn măng sữa, mà nội lực đã ghê gớm đến thế, thật là một sự đột ngột khiến cho Trích Tinh Tử phải sửng sốt.

Nguyên những đồ đệ phái Tinh Tú sau khi được sư phụ truyền võ công cho rồi, ai nấy tự rèn luyện lấy cho mình, nên trình độ ai đến mực nào, nếu không được mục kích lúc lâm địch, hoặc lúc bạn đồng môn tranh đấu để hại nhau, thì không thể nào biết được.

A Tử phóng ra một chưởng đẩy lui được tia lửa co về khiến cho mọi người phải la lên một tiếng kinh ngạc, nhưng không một ai ngờ nàng có người ám trợ, mà đều cho là do A Tử có thiên tư thông tuệ khác thường và đã ngấm ngầm rèn luyện nội lực đến độ cực kỳ thâm hậu.

Trích Tinh Tử vận nội lực thúc đẩy tia lửa lại nhằm mặt A Tử lướt tới. Lần này gã dùng sức rất mạnh xẹt nhanh như chớp.

A Tử la lên:

- Úi chà!

Rồi không biết làm thế nào để chống lại được, nàng liền né sang một bên để tránh. May mà kình lực Trích Tinh Tử phóng vào tia lửa để cho nó đổi chiều nên đã giảm sút. Tia lửa phóng thẳng vào phiến đá "xèo xèo"

Tiêu Phong khẽ bảo:

- Phóng chưởng bên trái ra để cắt đứt tia lửa đi!

A Tử nói:

- Cách đó tuyệt diệu!

Một luồng chưởng lực phóng ra đánh tạt ngang. Chưởng phong vừa đến nơi, lửa xanh lè lập tức bị đứt đội. Mẩu cước không có hậu lực nối tiếp chỉ cháy được một lúc trên phiến đá rồi lụi đi dần dần.

Trích Tinh Tử nghĩ thầm:

- Nếu mình để mẩu lửa kia tắt ngấm thì mình bị thua một trận trước mặt bọn sư đệ thì còn chi là nhuệ khí?

Nghĩ vậy gã lại dồn chưởng lực cho tia lửa bên ngoài lướt tới tảng đá để tiếp ứng nối liền với mẩu đầu tia lửa bị đứt ra. A Tử thấy bàn tay Tiêu Phong đặt trên lưng mình vẫn dồn nội lực cuồn cuộn vào cho mình không ngớt, chẳng khác sông lớn nước nhiều, cứ tràn đầy vào trong người. Nếu không phát tiết nội lực ra thì cái thân bé nhỏ của mình không đủ chỗ chứa, đến phải căng thẳng rồi nổ tung.

Nàng liền vung tay phải phóng chưởng ra.

Nội lực của Tiêu Phong thâm hậu vô cùng, tuy trút sang người A Tử sức mạnh đã giảm đi vài phần, song nếu nàng khép vận dụng để đánh Trích Tinh Tử trong lúc bất ngờ thì chỉ một đòn là có thể thắng. Nhưng vì nàng còn hoảng hốt, chưởng của nàng phóng ra hời hợt, không được trầm trọng và đúng mức như lúc bình tĩnh. Chưởng phong phát ra vù vù làm tắt phụt tia lửa nhỏ bé chứ chưa tổn hại gì đến nội lực Trích Tinh Tử.

Thấy A Tử phóng chưởng ra đánh tắt tia lửa thần, các đồ đệ phái Tinh Tú đều khiếp vía, nhìn nhau thất sắc. Chỉ có gã thất sư đệ ngu ngốc chẳng biết gì, đã gặp lúc này mà gã kiếm lời tán tụng Trích Tinh Tử.

Gã nói:

- Đại ca! Công lực của đại ca thật là hùng hậu, ngọn chưởng của sư Muội phóng ra chẳng qua đánh tắt ngọn lửa thần là cùng, làm cóc gì được đại ca!

Mấy câu này gã nói thực tình để phỉnh phờ nịnh hót. Trích Tinh Tử lại tưởng lầm câu nói xỏ xiên. Gã điên tiết lên, đột nhiên phất tay một cái, tia lửa xanh lè vọt ra như tên bắn vào mặt thất sư đệ. Tia lửa chỉ chạm vào mặt gã một cái xong lại co về ngay thế mà đã bị cháy bỏng, hai tay ôm mặt, gã lăn xuống đất, kêu thét lên như bị chọc tiết.

Tiêu Phong khẽ bảo:

- Thằng cha Trích Tinh Tử này bị bại một đòn đã thẹn quá hóa ra rồ, cô phải cẩn thận lắm mới được.

Ông tập trung hẹp tiếng nói thành một dãy như tia nước rót vào A Tử.

Trích Tinh Tử tuy nội lực gớm ghê là thế cũng không nghe thấy trông chi bọn sư đệ thì còn biết sao được. Tiêu Phong vừa dứt lời quả nhiên thấy Trích Tinh Tử trừng trị thất sư đệ, lại phóng chưởng đánh xéo đi cho tia lửa bắn sang phía A Tử. Lần này tia lửa lớn hơn lần trước nhiều, thanh thế dữ dội, phát ra tiếng vù vù vàsáng rực lên soi rõ cả mặt mũi A Tử lẫn tảng đá nàng dựa vào. A Tử sợ tia lửa sáng quá chiếu rỏ cả đến Tiêu Phong nấp ở sau tảng đá, nàng liền nghiêng người đi phóng chưởng ra để chận tia lửa không cho tiến gần lại nữa.

Tia lửa xanh lè bị chưởng lực A Tử ngăn chặn, không tài nào phóng thêm vào phía trước được nữa rồi cứ lơ lửng ở nguyên một chỗ cố ló dài thêm được lên một tấc thì phải co về đến hai tấc ngay.

Tia lửa xanh không đứng yên được, luôn luôn phóng ra co lại, khác nào con trường xà (rắn dài) sắc xanh ngoe nguẩy trên không gian lúc đêm tối, hình dáng vừa rực rỡ vừa huyền ảo. Trích Tinh Tử dồn chưởng lực luôn ba lần đều bị A Tử ngăn chặn khiến cho ngọn lửa phải lùi lại. Bất giác gã vừa phải nóng ruột vừa phần căm giận, lại thúc đẩy chưởng lực luôn hai lần nữa, mà tia lửa vẫn không tiến lên được.

Đột nhiên một ý nghĩ thoáng qua làm cho Trích Tinh Tử phải lạnh xương sống, gã lẩm bẩm:

- Dư lực của con... con lỏi này làm sao mãi không hết? Dường như nó định trêu chọc ta. Chẳng lẽ sư phụ có lòng thì tự ngấm ngầm đem kỹ thuật rối thượng của bản môn truyền thụ cho nó. Thôi ta... ta mắc vào tròng của nó rồi.

Gã nghĩ đến đây, trong lòng hoang mang trống rỗng, chưởng lực trong tay bất giác giảm yếu đi. Con "Trường xà" xanh lè nhanh như điện chớp thụt lùi về đống lửa.

Trích Tinh Tử đột nhiên quát lên:

Chẳng lẽ ta lại sợ mi?

Dứt tiếng quát, gã lại gia tăng chưởng lực làm cho ngọn lửa to bằng cái đầu, khác nào một trái hỏa cầu xông lại phía A Tử.

A Tử thấy thế nguy, phóng ra một chưởng nhưng không ngăn nổi trái hỏa cầu cứ lù lù xông tới, nàng vội phóng cả chưởng lực tay trái ra mới chặn lại được. Trái hỏa cầu ở trên không tuy không tiến thêm được, nhưng vẫn lúc lắc xoay chuyển mau lẹ vô cùng.

Bọn đệ tử thấy thế đều cất tiếng reo hò trầm trồ. Nào là:

- Công lực đại ca quả là thần diệu vô cùng! Phen này thì con tiểu tiện nhân sẽ phải nát ra như cám!

Nào là:

- Tiểu sư Muội ơi! Đừng hung hăng nữa! Chịu thua sớm đi may ra đại ca còn để sống.

A Tử không sao trấn tĩnh được, thúc đẩy chưởng lực liên miên. Chưởng lực của Tiêu Phong tu cực kỳ hùng hậu nhưng truyền vào cho nàng dù sao cũng chỉ là thứ nội lực ngoại lai nên kém phần mãnh liệt đầu có bằng được thực lực của chính mình nên lúc nàng vận tung thứ nội lực mượn của người ngoài này không được thuần thục.

Trích Tinh Tử cùng A Tử đôi bên cầm cự nhau một hồi thì gã phát giác chỗ nhược điểm của nàng nghĩ thầm:

- Con tiểu tiện nhân này được sư phụ đặc biệt chiếu cố rèn luyện võ công cho nó đã đến mức tuyệt vời, chẳng kém gì mình. Có điều phóng chưởng ra không đủ thanh thế chỉ một mức thúc đẩy về phía trước, để hai bên sơ hở khá nhiều. May mà nó mắc vòng tội lỗi, mình sớm phát giác ra nếu không thì chỉ trong vòng ba bốn năm nữa, trưởng pháp nó rèn luyện đên nơi đến chốn, lúc bấy giờ mình chết không có chỗ chôn.

Nghĩ tới đó gã bất giác nhíu cặp lông mày đưa ngón tay trỏ ra luôn hai cái. Đống lửa phát ra tiếng "xùy xùy" rồi những tia lửa vọt ra mấy vòng hoa. Những bông hoa lửa này khác nào những ánh sao chia ra xông hai bên tả, hữu A Tử nhanh như chớp.

A Tử la lên:

- Úi chà!

Nàng chưa biết làm thế nào, chưởng lực lại vướng vào việc ngăn chặn trái hỏa cầu, không rảnh tay để đẩy lui hai đóa hoa lửa. Nàng đành né người sang bên để tránh. Song Trích Tinh Tử lúc ra kêu công kích đã tính trước đối phương không còn cách nào khác bài cách né tránh sang bên. Gã chỉ cần đóa hoa lửa làm cháy xém người A Tử dù không hại được tính mạng nàng, nhưng da thịt bị cháy xém đau đớn, cũng làm cho nội lực nàng phải giảm sút, rồi bấy giờ gã sẽ phóng hai đóa hoa nữa tới tiếp tục đốt thêm, thì quyết nàng không chịu nổi, còn hơi sức đâu nữa để công kích?

Gã vừa thấy A Tử né tránh, lại vận nội lực thúc đẩy cho đóa hoa lửa phóng tới. Tiêu Phong khẽ la lên:

- Thôi hỏng rồi!

Ông biết A Tử không còn sức chống đỡ được nữa liền vung hai tay lên, hai luồng chưởng lực từ từ phóng ra. Bỗng thấy lúc thân hình A Tử chuyển động, hai đầu dây lưng nàng cũng bay phất phơ tung lên quạt xuống. Hai đóa hoa lửa bay vụt trở lại phía Trích Tinh Tử. Gã sợ quá đứng thộn mặt ra một dây thì đóa hoa lửa đã bắn ngược trở lại đến nơi.

Gã chỉ kịp kêu lên một tiếng:

- Ối chao!

Rồi nhảy vọt lên tránh. Đóa hoa lửa chui qua gầm chân gã bay đi.

Hai tên sư đệ reo lên:

- Tuyệt diệu! Bản lãnh đại ca thật là tuyệt diệu!

Tiếng reo chưa dứt thì đóa hoa lửa thứ hai lại bay tới trước Trích Tinh Tử. Trích Tinh Tử còn đang lơ lửng trên không, không tài nào lại nhảy lên được nữa, bị đóa hoa đốt xém bụng. Gã lại rú lên một tiếng rồi hạ mình xuống.

Nguyên Tiêu Phong thấy Trích Tinh Tử lúc nãy mở miệng nói xúc phạm đến A Châu nên ông mới trừng phạt sơ qua bằng cách đó. Trích Tinh Tử vừa đặt chân xuống đất, thì trái hỏa cầu cũng trở về đồng lửa.

Từ lúc đó bọn đệ tử phái Tinh Tú nhìn A Tử bằng con mắt kinh và trong bụng ai nấy đều nghĩ thầm:

- Công lực của tiểu sư Muội quả là ghê gớm, đại sư huynh vị tất đã thắng nổi nàng. Giờ mình có hò khen ngợi Đại sư huynh không nên rầm rộ quá nữa.

Trích Tinh Tử giơ hai tay lên, rỡ búi tóc ra cho buông xỏa xuống mặt đi, rồn cắn đầu lưỡi phun máu tươi vào đống lửa. Đống lửa tối lại rồi đột nhiên ngọn lửa lại sáng bùng lên soi lóa mọi người khiến không ai mở to ra được.

Bọn sư đệ lại nức nở khen:

- Công lực đại ca thật là ghê gớm, khiến cho chúng tôi được mở tầm mắt!

Trích Tinh Tử đột nhiên chạy quanh co chừng độ mười vòng rồi cầm tay áo một cái, cả đống lửa hất tung lên như một bức tường ánh lửa xông lại đè ập xuống A Tử. Gã ngưng tụ hết nội lực đánh đòn nàng.

Tiêu Phong vừa nhìn thanh thế trận này của Trích Tinh Tử đã biết đây là một tà thuật lợi hại vô cùng, nếu mình vận động huyền công phá thì chẳng những công lực đối phương không giảm sút đi, mà ngược lại bị hao tổn rất nhiều. Gã này tuy đại gian ác, song không có oán thù gì với mình, tội gì ra mặt tranh đấu.

Nghĩ vậy ông xoay bàn tay lại nắm lấy lưng A Tử toan nhấc bổng nàng lên rồi cứ thế đem đi, chắc Trích Tinh Tử cũng không thể đuổi kịp được.

Bỗng thấy A Tử la lên:

- A Châu tỉ nương ơi! Đứa em ruột thịt độc nhất rất thân ái của Muội người ta khinh mạn thế này đây! Tỉ nương có linh thiêng thì báo thù cho em.

Tiêu Phong ngạc nhiên nghĩ thầm:

- Sao cô này lại hô hoán A Châu? Ta làm thế nào đi được bây giờ?

Tiêu Phong ngẩn người một lát, đám lửa xanh quay lại rất mau sắp đè ập vào người A Tử, thật là một mối nguy cơ chỉ còn khe sợi tóc. Bây giờ dù Tiêu Phong có muốn nắm A Tử chạy trốn cũng không kịp nữa, ông bất giác cả kinh nghĩ thầm:

- Gã này nội công quả là ghê gớm mới phóng ngọn lửa đến mau thế được, mình thật không ngờ.

Vì việc cứu A Tử gấp, ông liền phóng cả hai chưởng ra. Hai luồng kình lực như gió bão. Kình lực của Tiêu Phong đã nhằm vào bức tường lửa xanh lè đẩy mạnh. Ðám lửa ở trên không ngừng lại một chút rồi từ từ lui về phía Trích Tinh Tử. Trích Tinh Tử sợ quá lại cắn đầu lưỡi phun máu tươi vào. Đám lửa sáng rực lên bay về phía trước. Nhưng mới tiến được chừng hai thước lại bị nội lực của Tiêu Phong đẩy ngược trở về.

Bọn đệ tử thấy tay áo A Tử kình phong thổi phồng lên khác nào cánh buồm thuận gặp gió, đều cho là nội lực của tiểu sư Muội này mãnh liệt đến cùng cực, chúng biết đâu rằng sau lưng cô còn có người ngoài.

Trích Tinh Tử lúc này sắc mặt lợt lạt, phun luôn mấy lần máu tươi vào đám lửa. Mỗi lần phun máu ra là công lực lại bị giảm đi một ít. Nhưng bây giờ gã đã thành thế cưỡi hổ, không thể xuống được nữa đành phải liều mạng đến cùng. Gã định cố đốt chết A Tử rồi lập tức rời khỏi nơi đây tìm chỗ tu luyện lại nguyên khí. Không thế thì để bọn sư đệ nhìn rõ nhược điểm của mình, biết đâu chúng không thừa cơ hội này quay ra khiêu chiến với mình. Nhưng việc trước mắt là phải thanh toán xong A Tử đã rồi sẽ liệu. Mình đang ở vào thế bị cháy lông mày, hãy tìm cách cứu nguy trước mắt, còn bao nhiêu việc khác hãy tạm gác lại!

Trích Tinh Tử không ngớt phun máu ra, song bị nội lực cực kỳ hùng hậu của Tiêu Phong đẩy lại thì đám lửa làm sao mà tiến lên được?

Tiêu Phong trong lúc đấu kình lực đã phát giác ra hàn khí đối phương mỗi lúc một thêm suy yếu, khác nào đèn khô dầu, liền khẽ bảo A Tử:

- Cô bảo gã nhận thua đi thôi đừng đấu nữa!

A Tử nghe lời, cất tiếng gọi:

- Đại sư huynh! Đại ca không đấu lại được với tiểu Muội đâu. Ðại Ca quỳ xuống van xin, tiểu Muội không giết đại ca đâu. Đại ca nhận lời đi! Đại ca nhận thua đi!

Trích Tinh Tử trong lòng hoảng hốt lạ thường, biết rằng tính mạng nguy đến nơi rồi, nghe A Tử bảo vậy liền gật đầu.

A Tử nói:

- Sao đại ca không mở miệng? Đại ca không nói ra tức là không chịu thua.

Trích Tinh Tử lại gật đầu lia lịa nhưng vẫn không nên tiếng.

Nguyên gã đang phải vận toàn lực để chống lại nội lực của Tiêu Phong. Nếu gã mở miệng ra không giữ được nữa, ngọn lửa sẽ lập tức lại đốt chết mình ngay. Bọn sư đệ thấy Trích Tinh Tử lâm vào tình trạng cực kỳ nguy hiểm lại đua nhau lên tiếng mắng nhiếc.

Có kẻ nói:

- Trích Tinh Tử! Mi thua rồi sao không quỳ xuống dập đầu?

Có gã nói:

- Đồ bị thịt! Thế mà cũng học đòi định làm thừa kế phái Tinh Tú để xấu mặt cả môn phái!

Có gã nhiếc móc:

- Ngày thường mi làm tàng với bọn ta lắm, gây bao nhiêu thảm hại cho anh em! Bây giờ tiểu sư Muội ra tay là mi phải tan xác!

Thật là một đám người đê tiện quen thói dậu đổ bìm leo. Chúng thấy Trích Tinh Tử sắp thất bại đến nơi liềm tìm đủ điều nhục nhã độc sĩ mạgã như tát nước vào mặt.

Tiêu Phong nghĩ thầm:

- Tinh Tú lão ma thu toàn hạng đệ tử chẳng có nhân cách gì hết, thì làm sao mà luyện được thành những tay có võ công cao siêu? A Tử từ thuở nhỏ đã nhập hàng ngũ với bọn này, thì dĩ nhiên tư cách cũng đê tiện như thế. Vừa mới lúc nãy gã nào cũng xu mị Trích Tinh Tử một điều đại ca, hai điều đại ca tán dương nứt lời, tựa hồ như trên trời dưới đất không còn có ai bằng gã, một vị đại anh hùng vô địch trên thế gian mà bây giờ đã coi đại sư huynh không bằng tuồng chó lợn.

Tiêu Phong thấy Trích Tinh Tử sỡ hãi quá, ông cho là mình trừng phạt thế là quá đủ, liền thu nội lực về, hai tay áo A Tử rũ xuống. Trích Tinh Tử vẻ mặt yếu sìu, người gã loạng choạng, đột nhiên hai gối mềm nhủn, ngồi phệch xuống đất.

A Tử hỏi:

- Đại ca! Đại ca làm sao thế? Đã chịu phục tiểu Muội chưa?

Trích Tinh Tử khẽ ấp úng:

- Tôi chịu thua rồi! Sư tỉ.. Sư tỉ... đừng kêu tôi bằng đại ca nữa. Bây giờ sư Muội đã thành đại sư tỉ chúng tôi rồi!

Gã vừa nói câu này bọn đệ tử reo hò vang dội. Nào là:

- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Võ công đại sư tỷ thật là anh hùng quán thế. Phái Tinh Tú ta có người thừa kế như đại sư tỉ, tiếng tăm sẽ lừng lẫy khắp thiên hạ!

Nào là:

- Đại sư tỉ! Đại sư tỉ đi giết ngay mấy tên "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung" gì gì đó, để cho phái Tinh Tú ta thành phái độc tôn ở Trung Nguyên.

Bỗng có kẻ bác ngay:

- Ngươi nói lăng nhăng gì thế: "Bắc Kiều Phong" đã là tỉ phu đại sư tỉ sao lại giết được?

Gã kia cãi:

- Giết được lắm chứ sao lại không? Trừ khi hắn biết điệu đến hàng phái Tinh Tú ta, cam chịu thua kém.

Tiêu Phong đứng sau tảng đá, nghe bọn chúna tức lại vừa buồn cười.

A Tử bỗng lên tiếng kẻ cả:

- Các ngươi làm gì mà rần lên thế? Hãy im miệng ngay!

Đoạn quay sang hỏi Trích Tinh Tử:

- Đại sư huynh! Vừa nãy tiểu Muội năn nỉ đại sư huynh tha mạng. Nhưng đại sư huynh lòng lang dạ thú không chịu tha cho, bây giờ đại sư huynh tính sao đây?

Trích Tinh Tử nói:

- Tôi... Tôi đáng chết lắm! Đại sư tỉ bảo đem lòng yêu tôi, tôi thà về nhà giết vợ để cùng đại sư tỉ kết nghĩa phu thê, vĩnh viễn tuân theo mệnh lệnh của sử tỉ không bao giờ dám trái ý.

Bọn đệ tử nghe Trích Tinh Tử nói mấy câu này đều đứng im thin, ngơ ngác nhìn nhau và đều nghĩ thầm:

- Thôi chết rồi! Sư Muội đã bảo đem lòng thương yêu đại sư huynh. Bây giờ y về giết vợ con để lấy cô này làm chánh thất, chắc cô ta sướng quá! Họ lấy nhau rồi thì hai người như một, ai làm thừa kế phái Tinh Tú cũng vậy. Mình vừa lên tiếng sỉ mạ tất sẽ bị trị tội.

Gã thất sư đệ từ lúc bị Trích Tinh Tử đốt mặt bị đau đớn vô cùng, bây giờ đã bớt một chút, lại kiếm lời tấn công.

Gã lớn tiếng nói:

- Phải rồi! Đại sư tỉ sánh duyên cùng đại sư ca, thật lang tài nữ đẹp đôi nhất đời. Trong võ lâm ai chẳng khen sao? Nếu trên đời đại sư ca là bậc nhân tài xuất chúng còn ai đáng sánh vai được đại sư tỉ.

Một gã khác cướp lời:

- Đại sư tỉ! Đại sư huynh tuy võ công kém đại sư tỉ đôi chút nhưng hiện nay ở trên thế gian ngoài y ra không còn người thứ hai nào nữa. Từ đây y nhứt định phải tuân theo mệnh lệnh của đại sư tỉ khi nào dám phản bội? Điều này tiểu đệ xin hết sức bảo đảm.

Một gã khác nói:

- Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu!!Sau này hai vị sinh con, lý đương nhiên thành người thừa kế cho phái Tinh Tú và từ đây cứ truyền tử nhược tôn muôn đời không dứt. Đó cũng là một đại hảo sự trong võ lâm.

Bọn đệ tử đua nhau mỗi người một câu, tìm không thiếu chi danh từ tốt đẹp nịnh bợ, cốt làm vừa lòng A Tử và Trích Tinh Tử.

Tiêu Phong ở phía sau tảng đá nghĩ thầm:

- A Tử đã thương yêu Trích Tinh Tử, bây giờ nàng lấy gã cũng là thiên duyên tác hợp dựng nên đôi lứa. Nếu gã không phải là người cùng phái Tinh Tú với nàng thì còn ai nhịn được những câu ti tiện hạ cấp đó?

Ông nghĩ vậy đưa mắt nhìn A Tử thấy nàng cười hì hì tỏ ra rất hoan hỉ, ông lẩm bẩm:

- Đây là nàng tự nguyện như vậy, mà ta đối với A Châu cũng hết trách nhiệm. Từ đây nàng đã có nơi nương tựa, ta bất tất phải săn sóc gì đến nàng nữa.

Tiêu Phong muốn đứng dậy ra đi, bỗng nghe A Tử nói:

- Đại ca! Đại ca thật tình yêu thương Muội hay chỉ là sự bất đắc dĩ phải giết vợ con để lấy tiểu Muội?

Trích Tinh Tử vội đáp:

- Thật lòng. Tôi thật lòng như vậy. Nếu có chút giả dối thì trời tru đất diệt, chẳng được chết yên lành.

Bọn đệ tử lại đồng thanh phụ họa. Một tên nói:

- Tôi xem đại ca đúng là chân tâm. Một nhân tài như đại sư tỉ thì ai chả them khát, chỉ sợ cầu không được, lý nào còn chẳng chân tâm?

Tên khác nói:

- Đại sư huynh giết sư tẩu, nếu không tiện tự mình ra tay thì để tiểu đệ làm cho.

Một gã khác cướp lời:

- Thôi đi! Lý nào đại ca lại không dám hạ thủ. Y đối với đại sư một lòng thành thực, đương nhiên tự mình ra tay hạ sát người vợ kia mới phải. Ngươi nói khó nghe lắm?

A Tử hỏi:

- Vừa rồi tiểu Muội cầu đại ca tha mạng, sao đại ca không chịu?

Trích Tinh Tử ấp úng:

- Cái đó... là tôi muốn nói rỡn với đại sư tỉ....

Nguyên Trích Tinh Tử vừa đấu với Tiêu Phong một hồi nội lực gã kiệt quệ. Bây giờ ngay bọn đệ tử kia bất luận là ai khiêu chiến gã không chống nổi. Chỉ còn cách hi vọng A Tử tha mạng cho, rồi đến lúc khôi phục lại được nguyên khí mới quay về tìm cách thanh toán sau này.

A Tử hỏi:

- Theo thể lệ của bản môn thì người thừa kế sau đối với người thừa kế trước phải thế nào?

Trích Tinh Tử toát mồ hôi trán nhỏ xuống ròng ròng run lên đáp:

- Đại sư tỉ! Xin đại sư tỉ...

A Tử cười khanh khách nói:

- Tiểu Muội thật tình muốn tha sư huynh, nhưng tiếc rằng thể phản bản môn không thể để bị phá hoại vì tay tiểu Muội. Đại ca! Lúc này tiểu Muội thương yêu đại ca thật, nhưng bây giờ càng thấy tư cách đại ca lại ngán lắm rồi! Đại ca có biết không?

Trích Tinh Tử cuối đầu nói:

- Vâng vâng.

A Tử giục:

- Đại ca ra chiêu đi! Có bao nhiêu bản lĩnh xin đem hết ra đi để tỉ phu tỉ thí với tiểu Muội.

Trích Tinh Tử biết mệnh vận mình đã quyết định rồi năn nỉ gì nữa. Gã ngưng tụ nội lực vào hai bàn tay rồi phóng chưởng ra đống lửa. Ngờ đâu gã đã kiệt lực, hai chưởng phóng ra rồi, đống lửa xanh lè chỉ hơi nhúc nhích rồi yên tĩnh trở lại.

A Tử cười nói:

- Hay quá! Thật là hay quá! Sao pháp thuật của đại ca không ứng nghiệm nữa?

Nàng bước lên hai bước, vung chưởng đánh ra, một tia lửa xanh bắn vào Trích Tinh Tử. Nội lực nàng cũng bình thường thôi, tia lửa chẳng lấy gì làm mạnh lắm. Song lúc này Trích Tinh Tử không còn một chút lực lượng nào để chống đỡ, ngay gã muốn thí triển khinh công để chạy trốn cũng không còn đủ khí lực. Tia lửa bắn vào người Trích Tinh Tử, chỉ trong chớp mắt là đầu tóc cùng áo quần gã cháy bùng lên. Gã rú lên những tiếng cực kỳ thê thảm rồi toàn thân bị tràn ngập dưới ngọn lửa xanh.

Bọn đệ tử lại reo hò vang dội, đua nhau khen công lực đại sư tỉ đã đến chỗ xuất phàm nhập thánh đáng thay thế cho một kẻ bại hoại để làm thừa kế phái Tinh Tú và tạo phúc cho đồng môn.

Tiêu Phong tuy trải qua không biết bao nhiêu cảnh thảm khốc hung tàn trên chốn giang hồ, song ông thấy A Tử, con người diễm lệ khả ái mà làm việc hiểm độc thế thì nghĩ thầm:

- Nếu chính mắt mình không trông thấy, thì dù ai nói cũng không tin.

Trong lòng ông chán nản cuộc đời không biết đến đâu mà nói. Ông thở dài thường thượt rồi cất tiếng bước ra đi. A Tử bỗng cất tiếng gọi:

- Tỉ phu! Tỉ phu! Đừng chạy nữa, hãy chờ em một chút!

Tiêu Phong nghe tiếng A Tử gọi, song không trả lời cứ ngang nhiên ra đi. Các đệ tử phái Tinh Tú thấy từ sau tảng đá lớn có người xuất hiện một cách đột ngột thì không khỏi kinh ngạc. Sau chúng nhận ra chính là Tiêu Phong lại càng sợ mất mật.

A Tử lại reo lên:

- Tỉ phu! Tỉ phu đợi em đi!

Vừa réo vừa chạy đến bên Tiêu Phong. Giữa lúc ấy tiếng Trinh Tinh Tử rên la càng lớn, gã hét lên như còi đang dội cả một khu rừng núi, nghe rất chói tai.

Tiêu Phong chau mày, gắt gỏng hỏi A Tử:

- Cô theo tôi làm chi? Cô đã trở nên thừa kế phái Tinh Tú, thứ vị một bậc đại sư tỉ bao nhiêu môn đồ trong phái còn chưa mãn nguyện hay sao?

A Tử cười đáp:

- Không được.

Rồi nàng hạ thấp giọng xuống nói:

- Cái chức đại sư tỉ hàm hồ lắm, có ăn thua gì đâu? Tỉ phu! Mang em đi với tỉ phu ra ngoài ải Nhạn Môn Quan.

Tiêu Phong nghe tiếng Trích Tinh Tử kêu la, không muốn chần chờ nữa, rảo bước tiến về phía Bắc. A Tử sánh vai cùng ông vừa đi vừa quay đầu lại gọi:

- Nhị sư đệ! Ta có việc phải ngược lên miền Bắc. Các sư đệ quanh đây chờ ta về, không được thiện tiện bỏ đi, đã nghe rõ chưa?

Bọn đệ tử nhất tề chạy theo mấy bước, khom lưng kính cẩn. Một lời nói:

- Tiểu Muội xin kính cẩn vâng pháp chỉ đại sư tỉ! Bọn sư đệ đâu dám trái lệnh.

Sau gã này, nhưng gã kia thi nhau tán tụng.

Nào là:

- Kính chúc đại sư tỉ thượng lộ bình an.

Nào là:

- Kính chúc đại sư tỉ mọi sự như ý.

Nào là:

- Kính chúc đại sư tỉ mở cờ chiến thắng, ngựa tới thành công.

A Tử vẫy tay mấy cái ra chiều hớn hở tươi cười.

Tiêu Phong nhờ ánh tuyết nhìn rõ trên khuôn mặt trái xoan đầy vẻ con nít vui tươi như khi được cái đồ chơi mới hoặc được ăn kẹo. Nếu không chính mắt mình trông thấy thì chẳng ai dám tin là nàng vừa mới hạ độc thủ sát hại đại sư huynh và lên ngôi thừa kế một tà phái lớn trong thiên hạ.

Tiêu Phong khẽ thở dài, chán ngán cho cuộc đời vô vị ở nơi trần tục. A Tử hỏi:

- Tỉ phu! Sao tỉ phu lại thở dài? Phải chăng vì tiểu Muội quá tinh nghịch?

Nàng cho việc giết người vừa rồi chỉ là một chuyện tinh nghịch. Tiêu Phong nói:

- Việc đó sao gọi là tinh nghịch được mà chính là một việc tàn nhẫn rất hung ác. Bọn đàn ông lớn tuổi chúng ta phạm vào thì chẳng có chi đáng kể. Cô nương là một cô gái nhỏ tuổi sao đã độc ác đến thế?

Ngừng một lát ông lại nói móc:

- Cô biểu cô yêu thương gã đại sư huynh cô. Sao còn đốt chết gã?

A Tử lấy làm lạ hỏi lại:

- Tỉ phu biết rồi cố ý hỏi chơi hay là chưa biết thật?

Nói xong nàng ngoẹo đầu nhìn Tiêu Phong với vẻ mặt tò mò. Tiêu Phong nói:

- Tôi không biết mới hỏi chứ.

A Tử nói:

- Thế mới lại càng kỳ nữa! Tại sao tỉ phu lại không biết? Cái chức đại sư tỉ của tiểu Muội là giả đó chứ. Chức đó chính là của tỉ phu cho tiểu Muội, bất quá bọn chúng không nhìn thấy sự thật mà thôi. Tiểu Muội không giết Trích Tinh Tử, tất một ngày kia gã khám phá được bấy giờ tỉ phu tất đã ở bên mình tiểu Muội, thì tiểu Muội sẽ mất mạng với gã. Tiểu Muội muốn sống thì chẳng thế nào không giết gã được.

Tiêu Phong nói:

- Cô thương gã đã mấy năm rồi? Bây giờ lớn tuổi, lấy gã làm chồng sao gã còn giết cô?

A Tử nói:

- Gã biểu về giết vợ con để lấy tiểu Muội, tiểu Muội là vợ gã sau này có người bảo gã về giết tiểu Muội, tất gã cũng nghe theo, hơn nữa tiểu Muội cảm thấy kết duyên với gã chẳng có gì là lý thú.

Tiêu Phong nghĩ thầm:

- Bây giờ cô này lại giở giọng con nít rồi. Nếu lấy người ta làm chồng là việc lớn cả một đời người, sao lại biểu là thú với chả chứ? Hay là cô bé này chưa hiểu việc đời mà sao cô đã nhiều mưu mẹo? Thế thì lúc cô hiểu đời chắc còn gây ra lắm chuyệt tai hại hơn.

Nghĩ vậy ông nói:

- Cô theo tôi đến ải Nhạn Môn Quan làm gì?

A Tử đáp:

- Tỉ phu! Tiểu Muội xin nói thật với tỉ phu. Tỉ phu có muốn nghe không?

Tiêu Phong lẩm bẩm:

- À! Thế ra trước nay cô chưa nói thật bao giờ hay sao mà bây giờ mới nói thật.

Ông nói:

- Tôi muốn nghe lắm chứ, nhưng chỉ sợ cô nói không thực.

A Tử cười khanh khách nắm lấy tay ông nói:

- Tỉ phu có sợ tiểu Muội không?

Tiêu Phong đáp:

- Tôi chỉ sợ cô hay gây chuyện reo tai rắc họa và tự tiện giết người, lại còn sợ cô làm những việc kỳ quái...

A Tử hỏi:

- Như vậy tỉ phu đối với tôi thế nào?

Tiêu Phong đáp:

- Tôi chịu lời trọng thác của tỉ cô nương, dĩ nhiên là phải trông nom cho cô.

A Tử hỏi:

- Nếu tỉ nương tiểu Muội không ủy thác thì sao? Hay là tiểu Muội không phải là em chị A Châu thì sao?

Tiêu Phong hắng giọng nói:

- Nếu không thế thì bất tất tôi phải chăm lo cho cô.

A Tử nói:

- Tỉ nương em thì tỉ phu trọng vọng như vậy mà sao tỉ phu chẳng coi em vào đâu?

Tiêu Phong nói:

- Cái đó đã hẳn. Tỉ nương cô được người, được nết gấp nghìn gấp vạn cô, còn cô thì vĩnh viễn không bao giờ bằng tỉ nương cô được.

Nói đến đây cặp mắt ông đỏ hoe giọng nói rất là chua sót. A Tử bĩu môi nói:

- Chị A Châu đã hay thế thì tỉ phu gọi chị ấy đi theo.

A Tử nói xong trở gót đi liền. Tiêu Phong bỏ mặt không hỏi gì đến nàng, cất bước ra đi trong lòng không khỏi đau thương, lẩm bẩm:

- Giả tỉ có A Châu cùng đi với mình, trên mặt đất đầy tuyết phủ mà nàng đột nhiên giận dỗi bỏ đi, thì dĩ nhiên mình phải đuổi theo nắm lại xin lỗi nhưng mà chẳng có bao giờ thế cả. Ngay từ lúc đầu mình thấy nàng ngoan ngoãn dịu dàng không khi nào còn chọc giận và việc đều chiều ý nàng cả. Hỡi ơi! A Châu đối với mình một niềm thuận, làm gì có chuyện giận dỗi mình?

Tiêu Phong còn đang nghĩ vơ nghĩ vẫn, bỗng nghe có tiếng bước tới. A Tử bỏ đi đã lộn trở về. Nàng gọi:

- Tỉ phu ơi! Tỉ phu thật là con người khe khắt, đã bảo không em là nhất định không đợi, chẳng có chút lòng dạ nhân từ nào cả.

Tiêu Phong cười khẩy một tiếng rồi hỏi:

- A Tử! Cô nói cái gì lòng dạ nhân từ? Cô đã nghe ai nói đến chữ "Nhân từ."

A Tử đáp:

- Em nghe ma má em nói đó. Má má còn biểu: Đối với người chẳng nên hung ác, bá đạo thái quá, phải có chút lòng nhân từ bi phải.

Tiêu Phong nói:

- Má má cô nói đúng đó! Đáng tiếc là cô không ở cùng má má từ thuở nhỏ, mà lại đi theo sư phụ học lấy cái nghề tâm địa độc ác.

A Tử cười nói:

- Thế thì được lắm! Tỉ phu ơi! Từ đây tôi đi theo hiền tỉ phu học lấy chút hảo tâm.

Tiêu Phong giẩy nẩy lên khoát tay lia lịa nói:

- Không nên đâu! Cô theo con người cổ lổ này thì cô chỉ là hại. A Tử! Cô đi thôi! Cô theo tôi chỉ tổ làm phiền cho tôi mà thôi. Muốn yên tâm để nghĩ ngơi một chút cũng không được.

A Tử nói:

- Tỉ phu có tâm sự gì bực rọc, cứ nói cho em hay để em lo giúp. Tỉ phu ơi! Tỉ phu là người tốt bụng quá nên dễ bị người ta lừa.

Tiêu Phong vừa tức mình vừa buồn cười, hỏi:

- Cô còn là đứa trẻ nít đã biết gì? Chẳng lẽ có điều tôi nghĩ chưa đến mà cô nghĩ được hay sao?

A Tử nói:

- Cái đó đã hẳn. Có vô số việc tỉ phu nghĩ chưa đến.

A Tử ngừng lại giây lát, bốc nắm tuyết dưới vò tròn lại rồi liệng ra xa, hỏi tiếp:

- Tỉ phu ơi! Tỉ phu định ra ngoài ải Nhạn Môn Quan làm gì?

Tiêu Phong lắc đầu đáp:

- Chả làm gì cả. Thả trâu nuôi cừu cho đến hết đời, chỉ có thế thôi.

A Tử hỏi:

- Ai nấu cơm cho tỉ phu ăn? Ai khâu áo cho tỉ phu mặc.

Tiêu Phong ngẩn người ra, vì ông chưa tính đến chuyện đó, buột miệng đáp:

- Cơm ăn áo mặc thì có khó gì? Người Khất Đan chúng tôi ăn đã có thịt trâu thịt cừu, mặc đã có da trâu da cừu, tới đâu là nhà, ngã đâu là giường, như thế cũng xong.

A Tử nói:

- Những lúc tịch mịch tỷ phu trò chuyện với ai?

Tiêu Phong đáp:

- Tôi về đó sẽ kết giao với người cùng chủng tộc cho có bạn.

A Tử hỏi:

- Bọn họ giở đi giở lại bất quá là mấy câu chuyện săn bắn, cưỡi ngựa mổ trâu giết cừu tì còn có chi là thú?

Tiêu Phong buông một tiếng thở dài, biết nàng nói đúng không trả lời được.

A Tử lại hỏi tiếp:

- Tỉ phu không về Khất Đan không được hay sao? Nếu không cần phải về thì ở đây uống rượu so gươm sống cuộc đời oanh liệt, chẳng kể gì hai chữ tử sanh có hay hơn không?

Tiêu Phong nghe nàng nói đến câu ở lại uống rượu so gươm, trong cuộc đời oanh liệt bất giác lại nổi máu anh hùng. Ông ngẩn đầu lên một tiếng dài rồi nói:

- Cô nói cũng có lý.

A Tử nắm cánh tay Tiêu Phong đáp:

- Tỉ phu! Tỉ phu đừng nói nữa nhé. Em cũng không về Tỉnh Hải nữa, đi theo tỉ phu uống rượu so gươm.

Tiêu Phong nghe nàng nói một cách ngây thơ chất phác, cười hỏi:

- Cô là đại sư tỉ phái Tinh Tú, cô bỏ đi để môn phái người ta mất cả người thừa kế, mất luôn cả đại sư tỉ sao được?

A Tử nói:

- Cái chức đại sư tỉ của em là láo toét, chân tướng mà bị hại lộ mất mạng lập tức há phải chuyện chơi? Họ không người thừa kế tuy mất đại sư tỉ cũng chẳng làm cóc gì. Em nhất định đi theo tỉ phu uống rượu so gươm hay hơn.

Tiêu Phong nói:

- Nói đến uống rượu thì cô tửu lượng kém lắm, chỉ sợ cô không chống nổi một bát thì đã say mèm, còn về so gươm thì bản lĩnh cô chưa cao đâu. Lúc tôi nguy cấp cô chẳng giúp ích được gì, mà tôi lại còn phải đỡ hộ cho cô nữa.

A Tử xịu mặt ra buồn rầu, nàng chau mày bước đi, nhưng chưa lấy hai bước, đột nhiên ngồi phệch xuống đất khóc bù lu bù loa. Tiêu Phong giật nảy mình lên vội hỏi:

- Cô... Cô làm sao vậy?

A Tử chẳng nói năng gì nàng vẫn khóc hu hu. Nàng khóc cực kỳ thảm thiết. Tiêu Phong từ khi biết nàng, thấy chỗ nào nàng cũng không chịu thua ai. Cả lúc bị bọn Tinh Tú trói, nàng cũng vẫn bướng bĩnh chẳng chịu khuất phục ai. Ông không ngờ nàng lại biết khóc rống lên một cách thống thiết đến thế, ông đâm ra luống cuống hỏi dồn:

- Này này! A Tử em! Em làm sao thế?

A Tử nức nở nói:

- Thôi tỉ phu đi đi để mặc em ngồi đây khóc đến chết thôi, để cho tỉ phu vui sướng.

Tiêu Phong cười nói:

- Có ai mà khóc chết người được bao giờ?

A Tử vừa khóc vừa nói:

- Em quyết khóc cho đến chết, khóc cho đến chết!

Tiêu Phong cười nói:

- Cô cứ thủng thẳng ngồi đây mà khóc nghe. Tôi không thể ngồi đây với cô được nữa.

Nói xong ông cất bước đi ngay. Mới đi được hai bước thốt nhiên tiếng khóc im bặt. Tiêu Phong rất lấy làm kỳ, ngoảnh đầu lại xem, thấy A Tử vẫn còn nằm phục xuống đống tuyết, không nhúc nhích.

Ông cười thầm trong bụng:

- Cô bé này làm nũng đây! Nếu mình cứ chịu cô, cô càng làm giả, chả biết thế nào cho cùng.

Nghĩ vậy, ông cứ bỏ mặc đi luôn. Đi chừng được hơn mười dặm ông mới quay đầu nhìn lại, nhưng trên mặt đất đầy tuyểt phủ chẳng thấy động tĩnh gì. Khu này là một cánh đồng bát ngát, nhỡn lực Tiêu Phong nhìn được rất xa, lại không vướng cây cối chi hết, dường như A Tử vẫn nằm ỳ ra đó không nhúc nhích.

Tiêu Phong không khỏi băng khoăn, ông tự hỏi:

- Cô này thật là tai quá! Chẳng lẽ cô cứ nằm lỳ mãi không bao giờ dậy nữa?

Rồi ông lẩm bẩm:

- Mình đã lỡ tay đánh chết tỉ nương cô, thì dầu A Châu chẳng căn dặn, mình đã không trông nom bảo vệ cho cô thì chớ, cũng không nên nói khích cho cô tức chết.

Nhớ tới A Châu bầu nhiệt huyết lại nổi lên, ông rảo bước quay lại lối cũ. Đến gần A Tử, Tiêu Phong quả nhiên thấy nàng vẫn nằm phục dưới đất y nguyên hiện trạng như lúc bỏ đi, không xê xích một ly nào.

Hồi Thứ 44

Hão hán tay không đánh chết cọp

Tiêu Phong bước lại gần thêm bước nữa, bỗng nhiên giật mình, vì thấy người A Tử ngập tuyết dầy đến mấy tấc. Tuyết đóng lại không tan rữa. Theo lẽ thường thì nhiệt khí trong người A Tử nằm bấy lâu tống ra tuyết bên mình nàng phải tan thành nước rồi mới phải, thế mà hiện tại không tan chút nào, hay là nàng chết thật?

Tiêu Phong sợ quá đưa tay sờ vào mặt A Tử, nhưng tay sờ chỗ nào cũng giá lạnh. Ông đặt tay lên mũi, cũng thấy ngừng thở rồi. Tiêu Phong nhớ lại A Tử chết để lừa gạt cả song thân nàng, biết nàng đã học được thuật "Quy tức công" của phái Tinh Tú, có thể bế tắc hô hấp, nên ông không hoang mang nữa. Ông đưa ngón tay trỏ điểm huyệt dưới nách. Nội lực ở trong người ông chuyển vào A Tử. A Tử ú ớ rồi từ từ mở mắt ra.

Nàng vừa nhìn thấy Tiêu Phong đột nhiên hé miệng phun ra một mũi châm rất nhỏ nhằm bắn vào mí mắt Tiêu Phong. Tiêu Phong chỉ cách A Tử chừng hơn một thước. Ông không thể ngờ đến nàng đột nhiên hạ độc thủ. Mũi độc châm bay ra rất nhanh. Trong lúc bất ngờ lại ở gần gang tấc thì dù võ công ông cao cường đến đâu muốn né tránh cũng không kịp. Tiêu Phong nghĩ ngay đến môn ám khí hiểm độc vô song của phái Tinh Tú, ai đã trúng phải thì tính mạng khó mà hy vọng sống được, ông giơ tay phải lên phóng ra một chưởng, luồng chưởng phong đầy cực kỳ hùng hậu.

Tiêu Phong ngưng tụ hết công lực phóng ra để tự cứu mình, mũi nóc châm phóng ra nhanh như chớp lại chỉ cách đích có hơn một thước bị luồng chưởng phong hất đi mất tiêu. Mũi ông còn thoáng ngửi lấy mùi tanh sặc do mũi độc châm tiết ra bay xít qua mặt ông cách đầy một tất, thật là một trường hợp nguy hiểm vô cùng.

Giữa lúc ấy, A Tử bị luồng chưởng phong quá mãnh liệt đánh bật hất ra ngoài mười trượng. Người nàng rớt xuống đất rồi còn trượt thêm mấy trượng nữa vì mặt tuyết phủ trơn như mỡ. Tiêu Phong thoát được tai nạn chỉ còn khe chừng sợi tóc, bất giác âm thầm:

- Thật là hú vía!

Lúc đầu ông nguyền rủa cô gái yêu tinh lòng dạ hiểm sâu đã ngấm ngầm hạ độc thủ mình một cách tối độc ác! Nhưng nhìn đến A Tử luồng chưởng phong của mình đánh hất ra ngoài mười trượng thì giật mình la lên:

- Trời ơi! Thôi chết rồi! Làm sao cô ta chịu nổi chưởng đó? Trông chừng mình đánh chết cô ta rồi cũng nên?

Ông nhẩy phốc đến bên A Tử thấy nàng hai mắt nhắm nghiền. Hai khóe mắt đang rỉ máu tươi ra, sắc mặt lợt lạt, phen này thì nàng tắt thở thật rồi.

Tiêu Phong đứng thộn mặt ra lẩm bẩm:

- Mình đã đánh chết A Châu, lại đánh chết cả cô em. Nàng... nàng.... lúc lâm chung còn dặn mình trông nôm cho em mình, thế mà... thế mà... mình lại đánh chết cô ta.

Tiêu Phong mới ngớ ngẩn mà tâm thần ông miên man, tựa hồ như trải qua một thời gian rất lâu. Ông lắc đầu vội đưa tay đặt vào lưng A Tử, hút chân khí mình truyền vào người nàng. Hồi lâu A Tử mới hơi nhúc nhích được.

Tiêu Phong cả mừng gọi rối rít:

- A Tử! A Tử! Em đừng chết. Ta đã biểu bất luận gặp trường hợp nào vẫn cứu gỡ sinh mạng cho em.

Xong A Tử chỉ khẽ cử động một chút rồi lại nằm trơ ra đó, không nhút nhích. Tiêu Phong lại càng bồn chồn trong dạ, nhưng có điều ông từng trãi sóng gió đã nhiều, nên gặp tình thế càng nguy cấp bao nhiêu ông càng cố trấn tĩnh bấy nhiêu. Ông ngồi sếp bằng xuống đất, khẽ đẩy lưng A Tử dậy, đặt vào trước mặt mình, hai tay đón lấy lưng nàng phóng nội lực từ từ chuyển vào người A Tử.

Tiêu Phong biết A Tử bị thương rất nặng, hiện giờ còn cách gĩư cho nàng đừng tắc thở để khỏi chết ngay lập tức, rồi sẽ từ từ cứu vãng. Vì thế ông cần phải đem chân khí mình chuyển vào thân nàng. Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, trên đầu ông tiết ra những tia độc khí, tỏ ra rằng ông đã đem toàn lực vận nội công một cách liên tục không gián đoạn để cứu vãng tình thế.

Cuộc vận công kéo dài thêm một giờ nữa, người A Tử đã hơi nhúc nhích được một chút thì nàng phiều phào gọi:

- Tỉ phu!

Tiêu Phong cả mừng, tiếp tục vận công lực chứ không nói gì rồi thấy người nàng dần dần ấm lại một chút, không giá lạnh như trước nữa, mũi nàng cũng thấy thoi thóp thở. Tiêu Phong chỉ sợ mình ngừng vận nội công một chút là nàng sẽ tắt thở ngay, nên không dám ngừng lại giây phút nào.

Đến giữa trưa thì hơi thở A Tử đã đều đều, Tiêu Phong mới ẵm nàng đứng dậy ra đi, xong mặt nàng vẫn trắng bệt không một chút huyết sắc. Tiêu Phong rảo bước đi nhanh và giữ cho thật im để A Tử trong lòng mình không bị sốc chút nào.

Ông vừa đi vừa đặt tay trái vào lưng A Tử để truyền chân khí luôn luôn vào người nàng. Đi được chừng một giờ thì đến một thị trấn nhỏ. Song thị trấn này không có phạn điếm. Tiêu Phong lại quay về hướng Bắc mà đi, chừng hai mươi dặm mới gặp một quán cơm tồi tàn. Trong quán này không có tiểu nhị. Chính chủ quán ra mời khách. Tiêu Phong vội xin chủ quán lấy một bát nước nóng, dùng canh múc đỗ vào miệng A Tử. Xong chỉ nàng chỉ nuốt ba thìa rồi lại trào ra hết. Nước nóng nôn ra có lẫn máu đen.

Tiêu Phong trong dạ bồn chồn và cảm thấy A Tử bị thương chuyến này khó lòng chữa khỏi được... Diêm vương Địch Tiết Thần Y không biết hiện giờ ông ở đâu. Mà dù lão có ở ngay bên cạnh, vị tuất đã chữa nổi chứng nội thương trầm trọng do trưởng lực của ông gây nên.

Tiêu Phong lại nghĩ lại A Châu trước kia bị chưởng môn phương trượng chùa thiếu lâm phóng chưởng làm nàng bị thương, nhưng không phải người nàng hứng lấy chưởng lực, tình trạng nhẹ hơn nhiều nên Tiết Thần Y mới chữa khỏi. Tuy ông biết rõ không thể cứu sống được A Tử nhưng còn nước còn tát cho đến hơi sức cuối cùng mới thôi.

Ông nghĩ bụng:

- Mình đây hết lòng hết sức, dù cho chân khí cùng nghị lực kiệt quệ, cũng phải chống đỡ đến kỳ cùng không phải là để cứu A Tử mà thật ra là để khỏi phụ lời phó thác của A Châu.

Kể ra thì A Tử động thủ ám toán Tiêu Phong trước, khiến ông lâm vào tình trạng không phóng chưởng ra hất mũi độc châm đi tức bị mất hướng về tay nàng. Ông là người võ công cao cường thì lúc gặp cảnh nguy cấp, không còn kịp suy nghĩ gì nữa, cách phản ứng tự nhiên là triển phương pháp có hiệu lực nhất để tự cứu giải cho mình. Ông làm cho A Tử bị thương đây là ở trong trường hợp bất đắt dĩ. Dù cho A Châu có mặt trong trường hợp này, quyết nhiên nàng cũng không có căm lời oán trách, vì chính tại A Tử tự rước vạ vào mình, chứ có quan hệ gì đến người khác. Chỉ vì A Châu không biết, nên Tiêu Phong cảm thấy rất ân hận với nàng.

Suốt đêm hôm ấy, Tiêu Phong không chợp mắt, cả ngày hôm sau chàng cũng không lúc nào ngớt phóng chân khí và người A Tử để duy trì cứu mạng cho nàng.

Ngày trước, A Châu bị thương, chỉ có những lúc hơi thở nàng hạn hắt quá, Tiêu Phong mới phải ra tay truyền nội lực. Còn lần này, không lúc nào ông dám rờ bàn tay ra khỏi người A Tử, vì chỉ nhấc tay ra một cái là nàng tắt thở ngay lập tức.

Qua ngày thứ hai cho mãi đến đêm Tiêu Phong vẫn giữ nguyên tình trạng đó. Tuy công lực ông rất thâm hậu xong hai ngày hai đêm liền phải dồn nội lực cho A Tư thì tránh sao khỏi mệt nhoài. Trong quán cơm này chỉ có cất hai hủ rượu, Tiêu Phong uống sạch không còn một giọt, ông muốn sai chủ quán đi mua chỗ khác, nhưng trong mình không giắt sẵn tiền.

Nguyên Tiêu Phong là người nghiện rượu. Trong một ngày không ăn cơm còn nhịn được, chứ không có rượu uống thì thật là khó chịu, nhất là tâm thần cũng như sức lực đều bải hoải, lại càng cần uống rượu để phấn khởi tinh thần.

Tiêu Phong nghĩ bụng:

- Chắc trong mình A Tử có giắt tiền bây giờ đang cần, mình đành dùng tiền của cô, rồi sẽ liệu!

Nghĩ vậy ông liền cởi bộc áo của nàng ra, quả nhiên có thấy ba đỉnh vàng nhỏ. Ông liền lấy ra một đỉnh rồi gói lại cẩn thận để sang một bên. Lúc sách bộc áo lên, bổng nhìn thấy một dãi lụa tía, một đầu buột vào bộc áo, còn một đầu buộc vào sau.

Tiêu Phong lẩm bẩm:

- Cô bé này thế mà rất cẩn thận, cô sợ có người rút mất bộc áo, nên mới buộc một đầu dây vào vật gì trong mình. Thế này kể cũng khó chịu cho cô.

Nghĩ vậy ông đưa tay ra cởi dải buộc ở trên lưng. Dải này có thắt nút chặt qua, rất khó cởi. Tiêu Phong hí hoáy hồi lâu mới cởi ra được. Lúc ông kéo dải ra thì đầu dây kia có buộc một vật gì nặng chĩu, mà vật đó lại bỏ vào trong quần không chìa ra ngoài chút nào. Tiêu Phong buông dây ra thì vật đó đánh xuống đất đánh "Cạch" một cái. Ông rút ra coi thì vật đó màu xanh biết, sáng bóng nhìn ra thì là cái đỉnh ngọc bé nhỏ. Tiêu Phong thở dài cuối xuống nhặt để trên bàn.

Đỉnh ngọc này trạm trỗ rất tinh vi. Trong nền ngọc xanh biết có hiện lên những văn hồng, trong càng tăng thêm vẽ đẹp. Trước nay Tiêu Phong không thích đồ chơi. Dưới mắt thì dù châu báu, bảo vật quí hơn nữa, ông chỉ coi như hòn gạch, hòn ngói.

Ông nhìn một lát rồi không nghĩ tới nữa, chỉ lẩm bẩm:

- Cô bé A Tử này thật là gião quyệt, mồm năm miệng mười bảo với bọn đệ Tinh Tú Hải là Bích Ngọc Vương Đỉnh giao cho mình rồi. Ai ngờ buộc nó vào trong quần. Bọn đồng môn với cô một là Tinh Đỉnh Ngọc mình dắt trong người, hai là không tiện xục tìm trong quần cô, chúng không phát giác ra được. Hỡi ơi! Nay tính mạng cô còn mà giữ được thì vật này để làm gì?

Tiêu Phong gọi chủ quán lại đưa cho gã một đồng tiền vàng bảo mua rượu, mua thịt cho mình về ăn uống. Một mặt ông vẫn tiếp tục nhả nội lực để duy trì tính mạng cho A Tử.

Ở trong tiểu điếm đã được bốn ngày. Tiêu Phong không thể chống lại với sự mệt mỏi, ông đành hai tay nắm lấy hai tay A Tử và đưa nàng vào lòng để tựa lưng vào ngực mình, truyền chân khí qua bàn tay vào trong thân thể nàng. Sau một lúc, hai mắt ông nhích lại không mở ra được, gật gưỡng một lúc rồi thiếp đi.

Nhưng trong lòng ông vẫn khoắc khoải về sự sống chết của A Tử, nên mới ngủ được một lúc, đã giật mình tỉnh giấc. May mà trong lúc ông ngủ đi, chân khí vẫn không ngừng lưu động. Nếu ông rời tay ra một chút là nàng tắt thở liền.

Tình trạng này lại kéo dài hai ngày nữa. Tiêu Phong thấy A Tử tuy đã chết, xong thương thế không chuyển chút nào. Nếu cứ nằm trong tiểu điếm này thì biết bao giờ cho ngã ngũ.

A Tử ngẫu nhiên mở mắt ra, xong mắt vẫn lờ đờ rõ ràng không biết trời biết đất gì nữa mà cũng không nói được. Tiêu Phong lại uống hết hai hũ rượu lớn mà không nghĩ ra được điều gì.

Sau đó ông quyết định:

- Ta đành ẵm nàng lên đường vừa đi vừa vận chân khí, chứ cứ ở lại trong tiểu điếm này thì rốt cục vô kế khả thi.

Nghĩ vậy tay trái ông bồng A Tử, tay phải cầm bộc áo nhét vào trong bụng. Lúc trông đến cái Bích Ngọc Vương Đỉnh vẫn để trên bàn, ông nghĩ bụng "Cái vật hại người này, đập tan quách đi cho rồi."

Nhưng cầm đỉnh lên ông lại nghĩ :

- A Tử trăm cay ngàn đắng mới lấy cắp được vật này. Xem thương thế nàng không thể khỏi được. Trước lúc lâm chung, hoặc giả thần chí cô có tỉnh lại, tức hỏi đến đỉnh này, mình sẽ đưa cho cô coi để cô yên tâm mà chết, không còn ân hận điều gì.

Nghĩ vậy ông cầm lấy đỉnh ngọc vào tay thì cảm thấy trong đỉnh hình như có vật gì ngó ngoái. Ông rất lấy làm kỳ, để ý nhìn kỹ thì ra mé đỉnh có năm lỗ nhỏ. Nhìn kỹ thêm thì ở cổ đỉnh có một đường rất nhỏ, tựa hồ như đỉnh chia làm hai nửa. Tiêu Phong lấy ngón tay út và ngón tay đeo nhẫn cặp chặt lấy cái đỉnh, còn ngón tay giữa và ngón tay cái giữ lấy nửa trên khẽ xoay về bên tả. quả nhiên thấy đỉnh xoay đi.

Ông xoay luôn mấy vòng thì mở được nắp ra. Ông nhìn vào trong đỉnh, bất giác cả kinh và nôn mửa. Nguyên trong đỉnh này có hai con trùng độc đang cắn nhau, một con rết và một con bò cạp. Hai con đang cắn nhau vật lộn rất kịch liệt.

Tiêu Phong là người kiến văn rộng rãi, biết là phái Tinh Tú dùng những trùng độc này luyện một môn tà pháp quái đản. Ông liền dốc đỉnh ngọc cho rết cùng bò cạp rớt xuống đất rồi dẫm lên cho chết đi. Đoạn ông lại đậy nắp cẩn thận bỏ vào trong bọc áo.

Tiêu Phong tính trả tiền hàng, ẵm A Tử gội gió dầm mưa tiết đi về phía bắc. Ông tự biết mình đã mắc tội với bọn hào kiệt Trung Nguyên lại không muốn thay đổi hình dạng, cứ để vậy nhắm hướng Bắc mà đi. Tiêu Phong đi như vậy được mấy trăm dặm vẫn bình yên vô sự.

Một hôm đến một thị trấn lớn, thấy có tiệm bán thuốc trên biễn đề: "Tiệm thuốc gia truyền của Vương Thông Trị" ông nghĩ bụng:

- Ở địa phương tầm thường này làm gì có bậc danh y, nhưng ta cứ vào thử xem cũng chẳng hề chi.

Ông liền ăm A Tử vào tiệm xin chữa thuốc. Gã nho y là vương thông trị vừa cầm mạch A Tử vừa nhìn Tiêu Phong. Gã đã thấy mạch A Tử đã tắt, liền đưa mắt nhìn Tiêu Phong thấy vẻ mặt ông ngơ ngác quái lạ. Thốt nhiên lão đưa tay ra cầm mạch tay ông.

Tiêu Phong tức mình hỏi:

- Tiên sinh? Tôi đến xin tiên sinh chữa bệnh cho em tôi, chớ có đến chữa bệnh cho tui đâu.

Vương Thông Trị lắc đầu nói:

- Tôi coi lão huynh có bịnh, thần chí mê hoảng mất rồi cần phải chữa kẻo nguy đó.

Tiêu Phong hỏi:

- Sao tiên sinh bảo thần trí tôi mê loạn?

Vương Thông Trị đáp:

- Cô nương đây mạch đã tắt ngấm chết tự bao giờ. Có điều người cô chưa cứng đờ mà thôi. Thế thì lão huynh còn đến cầu thầy chữa cái gì? Chẳng phải thần trí lão huynh đã mê loạn là gì? Lão huynh ơi! Người ta đã chết không thể sống lại được nữa. Lão huynh chẳng nên thương tâm quá độ, đem thi thể lịnh Muội mai táng đi, để người chết được yên phần xác.

Tiêu Phong khóc dở miếu dở, nhưng ông cũng biết rằng lời y không phải hoàn toàn vô lý. Thật ra A Tử đã chết đã lâu rồi chỉ còn nhờ vào chân khí của mình mà cầm được chút hơi tàn. Như vậy thì thầy lang tầm thường chữa thế nào được? Nghĩ vậy Tiêu Phong đứng dậy trở gót đi ra.

Bỗng thấy một người ăn mặc ra lối quản gia ở đâu hấp tấp chạy đến tiệm thuốc hốt hoảng la lên:

- Phải đi tìm cho mau một lão sơn Nhân Sâm thật tốt. Lão gia nhà tôi trúng phong sắp tắt thở, thế mà nhờ có nhân sâm cứu sống được đó.

Gã trưởng quỷ trong tiệm thuốc vội nói:

- Phải rồi! Phải rồi ở đây có lão Sơn Nhân.

Tiêu Phong lẩm bẩm:

- Phải có lão Sơn Nhân Sâm mới cứu sống được. Một người bịnh sắp tắt thở, nếu quả uống vài hớp sâm thang mà giữ hơi thở sống thêm chốc lát để xem người chết có di ngôn gì để lại không, thì trường hợp này Tiêu Phong cũng đã biết rồi, chứ dùng lão Sơn Nhân Sâm để cứu mạng cho A Tử có ăn thua gì! Nhưng ông nghe lão quản gia nói, lại thấy lão chưởng quỷ lấy ra một hộp gỗ đỏ, trân trọng mở nắp ra bên trong có đựng ba con nhân sâm bằng ngón tay.

Trước kia Tiêu Phong đã nghe nói nhân sâm lớn chừng nào thì tốt chừng nấy. Ngoài da vàng dăn deo xù xì càng quí. Thứ nhân sâm lớn giống như hình người, đủ cả đầu lẫn tay chân là thượng hảo hạn sống đã lâu năm. Ba con sâm này toàn là vật tầm thường chẳng có chi đặt biệt. Gả quan gia chọn hộ một con rồi hấp tấp đi ngay.

Tiêu Phong lấy một đỉnh vàng mua luôn cả ba con. Trong tiệm thuốc có đủ đồ dùng sắc thuốc cho khách hàng. Chỉ một lát sắc lên thành nước sâm thang, từ từ đổ cho A Tử uống mấy thìa. Lần này nàng uống sâm thang vào rồi không nôn ra, nên ông lại đổ thêm cho uống mấy thìa nữa. Tiêu Phong thấy mạch cô đã hơi chuyển động hơi thở cũng khá hơn, bất giác mừng thầm trong bụng.

Gã nhờ Y Vương Thông Trị đứng bên vẫn lắc đầu quầy quậy nói:

- Lão huynh ơi! Nhân sâm không phải là thứ dễ tìm, dùng một cách phí phạm thì thật là đáng tiếc. Nó không phải là tiên đan. Nếu có cứu được người chết cho sống lại thì ra người giàu tiền vĩnh viễn không bao giờ chết.

Tiêu Phong mấy ngày liền không dám rời A Tử, trong lòng bực bội đã lâu. Ông nghe Vương Thông Trị đứng bên nói lải nhải, bất giác điên tiếc lên, xoay tay lại toan phóng chưởng ra đánh.

Nhưng tay vừa dơ lên, ông lẩm bẩm:

- Tiêu Phong hỡi Tiêu Phong! Ngươi đánh cả người không biết võ công thì đâu phải là anh hùng hảo hán?

Nghĩ vậy liền dừng tay lại bồng A Tử lên chạy ra khỏi tiệm thuốc ông còn nghe văng vẳng tiếng Vương Thông Trị vừa cười vừa nói:

- Thằng cha này thật là hồ đồ, gã ôm một cái tử thi chạy lui chạy tới xem chừng chính gã cũng chẳng sống được mấy nỗi nữa.

Hắn còn biết đâu rằng vừa rồi suýt nữa hắn đã phải xuống chầu âm vương.

Tiêu Phong mà không nén được cơn tức giận phóng chưởng đánh ra, thì đến mười gã Vương Thống Trị cũng đi đời. Tiêu Phong ra khỏi tiệm thuốc nghĩ thầm:

- Mình nghe nói thứ lão Sơn Nhân sản xuất nhiều ở núi Trường Bạch trên một dãy đất cực kỳ rét lạnh. Chi bằng mình về phía Đông Bắc để thử xem công thứ sâm đó có thể bồi dưỡng nguyên khí cho A Tử được không? Mình xem ra không còn cách gì cứu sống được cô ta, nhưng nếu cứu cho cô tĩnh lại ở nhân gian một ngày thì đối với A Châu mình cũng bớt được đôi chút ân hận.

Nghĩ vậy, ông theo ngã Đông Bắc mà tiến. Dọc đường thì gặp tiệm thuốc, Tiêu Phong lại vào hỏi mua nhân sâm. Sau này tiền xài hết rồi ông chẳng nể nang gì nữa, cứ thò tay ra lấy liền. Mấy tên làm ăn trong tiệm chống thế nào nổi.

A Tử sau khi uống nhiều nhơn sâm, thương thế quả nhiên khá nhiều, có lúc nàng đã mở mắt ra khẽ gọi: "Tỉ Phu". Ban đêm Tiêu Phong ngủ đi có lúc rời tay ra không tiếp chân khí cho A Tử mà nàng vẫn còn thoi thóp thở. Càng ngược lên mạn Đông Bắc đường càng vắng teo. Tiêu Phong trông thấy mấy khi gặp người qua lại. Về sau thì chỉ thấy cỏ hoang mờ mịt tuyết đọng thành gò đốn.

Tiêu Phong có khi suốt ngày không gặp một ai, bất giác ông nản chí than thầm:

- Hỏng bét! Thật là hỏng bét! giả tỷ gặp chỗ có sâm, nhưng tuyết ngập cao thế này thì làm sao mà đào được? Mình đành trở lại thấy chỗ nào có sâm, có tiền thì mua, không tiền thì cướp.

Nghĩ vậy, ông bồng A Tử quay về. Gặp chính tiết đại hàn, mặt đất tuyết đọng dầy đến mấy thước, đi lại rất khó khăn. Nếu ông không phải là tay võ công trác tuyệt, lại đèo theo một người, thì chẳng bị chết cóng, chân cũng bị sa lầy không rút lên được, và không tài nào thoát chết.

Đến ngày thứ ba, chiều trời thảm đạm, xem chừng sắp có gió to, mưa tuyết, Tiêu Phong buông tầm mắt nhìn ra thì trước sau toàn một màu tuyết phủ, không một vết chân người. Ông cảm thấy mình cô độc khác nào con thuyền lạc lõng giữa biển khơi, bên tai chỉ nghe gió rít từng hồi.

Tiêu Phong biết mình lạc đường mất rồi, mấy lần nhẩy lên cây cao trong ra bốn mặt, chỉ thấy biển tuyết bát ngát che phủ hết cả những khu rừng rậm rạp một mầu trắng xóa, chẳng còn phân biệt đâu là đông tây, nam, bắc nữa. Ông sợ A Tử rét cóng, đành cởi áo trường bào ra quấn cho nàng.

Tuy ông là người chẳng biết chẳng sợ trời sợ đất, nhưng lúc này ông ở giữa bầu vũ trụ mênh mông, tựa hồ trong khoảng trời đất bao la chỉ còn sót lại một mình ông, lòng ông không khỏi hoang mang sợ sệt. Nếu chỉ có một mình ông thôi thì còn khá, dù biển tuyết bao la vô bờ bến, cũng không vây hãm nổi ông được, nhưng đằng nầy ông lại ôm trong lòng một người mê man sống dở là cô bé A Tử.

Tiêu Phong luôn ba ngày chưa được ăn cơm. Ở trong bể tuyết bát ngát này, muốn kiếm một con gà rừng hay con thỏ nội cũng chẳng thấy bóng.

Ông nghĩ thầm:

- Hiện giờ bốn phương mờ mịt muốn tìm đường ra cũng được, đành nghĩ lại trong rừng một đêm, chờ ngớt mưa tuyết có mặt trời hoặc có trăng sao mới biết đường mà tìm phương hướng.

Nghĩ vậy, Tiêu Phong liềm tìm đến một chỗ kín gió và bẻ mấy cành khô đốt lửa lên. Lửa cháy mỗi lúc một to, ông cảm thấy trong mình ấm áp nhưng bụng đói như cào. Tiêu Phong nhìn gốc cây thấy mấy gốc cỏ úa, màu xám xịt, xem chừng không độc, liền nhổ lên mấy cây nướng vào bên đống lửa cho tái đi, để ăn cho đở đói. Ăn mười mấy cây cỏ, tinh thần đã hơi phấn khởi. Tiêu Phong bồng A Tử lên để tựa vào ngực mình ngồi trước đống lửa sưởi ấm.

Tiêu Phong định chợp mắt ngủ đi, bất thình lình vang lên một tiếng gầm rùng rợn, đúng là tiếng cọp rừng, từ góc Đông Bắc vọng lại. Ông cả mừng lẩm bẩm:

- Có cọp đến đây, mình lại có thịt ăn.

Tiêu Phong để ý lắng tai nghe thì ra một đôi lão hổ đang chạy đất đầy tuyết. Ông lại văng vẳng nghe có tiếng quát tháo, dường như có người đương rượt theo lão hổ. Tiêu Phong nghe thấy tiếng người thì lại càng mừng rỡ, rồi rõ ràng tiếng chân hai con cọp đang chạy về phía Tây. Ông liền thi triển khinh công chạy ra đón đường. Lúc này tuyết xuống càng mạnh, gió bắt rít lên từng cơn cuốn trong mãnh tuyết trắng phau thổi bạt đi.

Tiêu Phong mới chạy được hơn mười trượng thì trước mặt hiện lên một cánh thung lũng rộng rải bát ngát. Hai con mãnh hổ vẫn gầm thét chạy đến. Phía sau là một Đại Hán khoác áo da, tay cầm đinh ba rất lớn đuổi theo. Tiêu Phong thấy cặp mãnh hổ này thân hình cao lớn, trông mà không khiếp. Người đi săn chỉ có một mình dám cả gan đuổi hổ, thật dạng vào hạng hiến có. Hai con mãnh hổ chạy một lúc, bỗng một con quay lại gầm lên, nhìn người đi săn nhẩy sổ tới.

Đại Hán giơ đinh ba lên chằm cổ họng mãnh hổ đâm tới. Con hổ này cử động cực kỳ mau lẹ. Nó nghiêng đầu đi một cái là tránh khỏi mũi đinh ba. Con hổ thứ hai lại xông tới. gười đi săn chân tay cũng mau lẹ dị thường. Gã trở cây đinh ba đánh chát một tiếng. Cán cây đinh ba đập trúng vào đầu hổ. Con hổ bị đau gầm lên một tiếng, cúp đuôi cúi đầu chạy thẳng. Con hổ kia cũng không ham đánh nữa, bỏ chạy ngay.

Tiêu Phong thấy chân tay người đi săn mau lẹ, sức mạnh vô cùng, nhưng dường như chẳng hiểu võ công là gì cả. Có điều gì gã đã quen tính dã thú. Lúc lão hổ chưa nhảy tới gã đã cầm đinh ba để chờ sẳn đặng phóng trúng đầu. Đó là lối liệu địch của gã. Song đâm chết hai con mãnh hổ không phải là việc dễ.

Tiêu Phong lớn tiếng gọi:

- Lão huynh! Tôi đến giúp lão huynh đánh hổ đây.

Ông lạng mình xông ra đón đầu hai con mãnh hổ. Người đi săn thấy Tiêu Phong xông ra một cách đột ngột thì giật mình kinh sợ la lên, giọng nói líu lo. Tiêu Phong nghe âm thanh không phải là người Hán, và chẳng hiểu gã nói gì. Ông đành bỏ mặc không nói nữa, giơ tay lên nhắm đúng đầu hổ đánh ra một chưởng đến "Huỵch" một tiếng. Con hổ bị trúng chưởng té lăn đi mây vòng. Nó điên tiết lên, nhằm Tiêu Phong nhảy xổ lại.

Tiêu Phong phóng chưởng đến bảy thành công lực, nếu là người thì dù võ công cao cường đến đâu cũng phải nát óc. Song mãnh hổ đầu rắn xương to, nên đòn chưởng vừa rồi có thể đập vỡ đá tan bia trúng vào đầu nó mà nó chỉ bị ngã lăn long lóc, rồi chồm dậy được ngay.

Tiêu Phong buột miệng khen:

- Con thú này giỏi thực! Ông né mình đi một cái để tránh. Tay trái vung lên đánh chéo xuống.

Một tiếng chát vang lên, Tiêu Phong đã phạt trúng lưng mãnh hổ. Đòn này ông đã tăng thêm phần công lực. Mãnh hổ xông về phía trước mấy bước. Trông chân nó loạng choạng thì biết ngay rằng nó bị đau quá và tìm đường chạy trốn. Tiêu Phong khi nào chịu bỏ, nhảy lên hai bước, đưa tay phải ra chụp lấy đuôi hổ. Ông quát to lên một tiếng, tay trái cũng nắm lấy phía trên khấu đuôi, phấn khởi thần lực, cả hai tay kéo mạnh một cái. Con mãnh hổ đang ra sức chạy trốn, đột nhiên bị người kéo lại, hai luồng kình lực hất mạnh, tung con hổ lên không.

Người săn cầm đinh ba đang cùng con hổ kia tranh đấu chợt thấy Tiêu Phong xách mãnh hổ kia tung lên thì kinh hãi vô cùng. Con hổ đang lơ lững trên không, há miệng, nhe nanh, giơ vuốt ra, Tiêu Phong chồm xuống. Tiêu Phong lại quát lên một tiếng, vung hai chưởng ra đánh mạnh vào bụng hổ. Bụng hổ là chỗ mềm nhũn bị chiêu "bài vân song chưởng", chiêu thức mà Tiêu Phong đắc ý nhất, đánh trúng. Con cọp bự lập tức tan nát phủ tạng lăn lộn mấy cái rồi nằm chết dăng cẳng trong đống tuyết.

Người đi săn thấy Tiêu Phong tay không đánh chết hổ trong lòng kính phụ vọ cùng, nghĩ thầm:

- Trong tay mình cầm đinh ba mà không đánh chết được hổ chẳng hóa ra để họ coi thường mình ư? Gã liền hết sức bình sinh phóng cây đinh ba đâm chết bên tả sang bên hữu, nhát dao cũng trúng vào mình cọp.

Con mãnh hổ bị trúng đinh ba hăng tiết lên, nhe bộ răng trắng ởn cắn người đi săn. Thấy mãnh hổ hết chồm lại vồ, người đi săn né mình tránh khỏi, tung cây đinh ba đâm tạt ngang, đánh "sột" một tiếng. Cây đinh ba trúng vào cổ mãnh hổ. Người đi săn đưa cả hai tay hết sức đâm thật mạnh chênh chếch. Mãnh hổ gầm lên rùng rợn rồi té vật xuống đất. Người đi săn ấn mạnh cây đinh ba như người đóng đanh con ác thú xuống đất.

Bỗng nghe "roạc" một tiếng, tấm da thú gã khoác vào người để làm áo bị rách toạc một đường dài để hở cả sống lưng ra, trong rõ những bắp thịt nổi lên cuồn cuộn, coi rất hùng vĩ.

Tiêu Phong ngó thấy, bấc giác buột miệng khen thầm:

- Thật là một trang bảo hán!

Con mãnh hổ nằm kềnh dưới đất, bụng ngữa lên trời, nhưng đã bị đinh ba đóng chặt xuống không lăn lộn được. Nó giơ bốn vó lên giảy giụa hồi lâu rồi nằm yên không nhúc nhích được nữa. Bây giờ Đại Hán mới rút đinh ba lên, buông một tràng cười ha hả ra chiều đắc chí. Gã xoay mình lại nhìn Tiêu Phong, giơ thẳng hai ngón tay cái lên nói bi bô mấy câu. Tiêu Phong không hiểu gã nói gì, nhưng trông vẻ mặt cũng biết đại khái là gã tán dương mình là bậc đáng kính.

Ông cũng bắt chước kiểu gã giơ thẳng hai ngón tay cái lên cất tiếng nói:

- Anh hùng...! Hảo hán...!

Chừng Đại Hán cũng hiểu là Tiêu Phong tán dương gã. Gã ra vẻ thích trí, trỏ tay lên sóng mũi nói líu lo:

- Hoàn Nhan A Cốt Đã!

Tiêu Phong đoán chừng gã tự giới thiệu danh tánh mình, liền cũng trỏ tay lên sống mũi đáp:

- Tiêu Phong!

Đại Hán hỏi:

- Tiêu Phong? ... Khất Đan? ...

Tiêu Phong gật đầu rồi hỏi lại:

- Tôi Khất Đan! Còn hảo hán!

Ông vừa hỏi vừa trỏ tay vào gã để gã hiểu ý. Đại Hán đáp:

- Hoàn Nhan A Cốt Đả! Nữ Chân!...

Tiêu Phong đã được nghe ở về phía đông nước liêu, phía bắc nước Cao Ly, có một bộ lạc tên gọi Nữ Chân. Người bộ lạc này rấ khỏe mạnh thiện chiến. Nguyên Hoàn A Cốt Đả này là người bộ lạc Nữ Chân.

Tiêu Phong tuy không hiểu tiếng nói, nhưng ở giữa "bể tuyết" hẻo lánh này gặp một người đồng bạn, thì ông cũng hoan hỉ vô cùng. Tiêu Phong giơ hai ngón tay lên trỏ ra hiệu cho Đại Hán biết mình còn có một người đồng bạn nữa.

A Cốt Đả gật đầu có ý hiểu rồi. Đoạn gã đưa tay ra nhắc con cọp mà gã vừa đâm chết lên. Tiêu Phong cũng xách con cọp của mình lên trở lại chỗ A Tử nằm, ra dấu A Cốt Đã theo sau ông.

A Tử tuy không mở mắt ra nhưng còn nuốt được huyết cọp đến mười hớp. Tiêu Phong cả mừng ông xé lấy hai đùi cọp để vào đống lửa nướng. A Cốt Đả thấy Tiêu Phong không cần đao, lấy tay không xé đứt cọp sống như xé thịt gà chín thì ghê cho sức mạnh của ông. Chẳng những gã mắt chưa được nhìn, mà tai cũng chưa được nghe ai đến chuyện hi hữu này.

Gã thộn mặt ra nhìn hai tay Tiêu Phong xét một hồi, rồi đưa bàn tay ra khẽ vuốt ve cổ tay ông với vẻ mặt rất trọng kính. Thịt cọp chín rồi, Tiêu Phong cùng A Cốt Đả ăn một bữa no.

A Cốt Đả giơ tay ra hiệu hỏi Tiêu Phong đến đây có việc gì? Tiêu Phong cũng dùng hai tay ra hiệu móc đất lấy nhân sâm để chữa bịnh cho A Tử rồi bị lạc đường. A Cốt Đả cười ha hả một hồi ra hiệu cho Tiêu Phong rằng, nhân sâm dễ lắm cứ theo gã rồi muốn lấy bao nhiêu cũng có. Tiêu Phong cả mừng liền đứng dậy, tay trái ẵm A Tử tay phải xách một con cọp lên.

A Cốt Đả lại chìa ngón tay lên ra hiệu khâm phục chân lực của Tiêu Phong vô cùng. A Cốt Đả thuộc kỹ đường lối dãy đất này. Dù gặp trời bão tuyết mặt đất trắng xóa không rõ lối nào đi mà gã cũng không lạc đường.

Hai người đi cho đến lúc trời tối thì vào trong rừng ngủ đỡ. Trời sáng lại ra đi. Hai người cứ nhắm về hướng Tây mà đi trong hai ngày liền từ sáng đến tối. Đến trưa hôm thứ ba, Tiêu Phong nhìn thấy nhiều vết chân người trên tuyết liền đưa mắt hỏi A Cốt Đả.

A Cốt Đả giơ tay ra hiệu cho hiểu đây đã gần đến bộ lạc gã ở. quả nhiên đi hết hai khu thung lũng, thấy trên sườn núi phía đông xám xịt lộ ra mấy doanh trại quây bằng da các giống thú sắc trắng. A Cốt Đả chũm môi lên như một hồi còi, lát sau có người chạy ra đón. Tiêu Phong theo A Cốt Đả lại gần, thì thấy phía trước trại nào cũng đốt một đống lửa. Xung quanh đống lửa có vô số đàn bà con gái ngồi hoặc khâu da thú rừng hoặc ướp thịt dã thú.

A Cốt Đả dẫn Tiêu Phong đến trước trại lớn nhất, vén màn bước vào. Tiêu Phong cũng theo A Cốt Đả đi vào thấy trong trại có mười mấy người ngồi quanh quẩn đang uống rượu. Mọi người nhìn thấy A Cốt Đả lớn tiếng reo mừng. A Cốt Đả trỏ Tiêu Phong nói liến thoắng một hồi.

Tiêu Phong coi bộ dạng biết rằng gã đang thuật lại chuyện mình tay không đánh chết hổ. Cả bọn xúm đến quanh mình Tiêu Phong, chỉ thẳng ngón tay cái lên trầm trồ khen ngợi. Đang lúc câu chuyện náo nhiệt bỗng có một người Hán ăn mặc ra kiểu mãi võ từ ngoài chạy vào.

Gã nhìn Tiêu Phong hỏi:

- Lão gia biết tiếng Hán không?

Tiêu Phong mừng như bắt được của đáp ngay:

- Biết chứ! Biết chứ!

Rồi ông hỏi đến lai lịch bộ này, thì rằng:

- Đây là trại vị tù trưởng bộc lạc Nữ Chân. Lão râu đen ngồi giữa là tù trưởng tên gọi Hòa Lý Bố. Lão có 11 người con mà toàn là những tay anh hùng hảo hán. A Cốt Đả là con thứ lão.

Người Hán vừa vào đã tự giới thiệu với Tiêu Phong tên gọi Hứa Trác Thành. Hàng năm cứ đến mùa đông là lại tới mua nhân sâm cùng lông da thú rừng và ở đây cho đến sang xuân mới về. Hứa Trác Thành hiểu tiếng Nữ Chân. Lúc này Tiêu Phong nhờ làm thông ngôn cho mình.

Người Nữ Chân rất kính phục những bậc anh hùng hảo hán. Gã Hoàn nhân Cốt Đả là người thông minh nhanh nhẹn, được phụ thân gã rất mến yêu. Người trong bô lạc ai cũng ưa chuộng gã.

Gã khen Tiêu Phong nứt lưỡi, nên mọi người đối đãi với ông như một bậc thượng khách, cự kỳ cung kính.

Hồi Thứ 45

Mối hận thù giữa bộ lạc Nữ Chân và người Khất Đan

A Cốt Ðả nhường lều của mình làm nơi cư trú cho Tiêu Phong cùng A Tử. Y là người có quyền thế lớn trong bộ lạc Nữ Chân. Túp lều của y rộng rãi quang đãng hơn người thường nhiều.

Tiêu Phong từ chối mấy câu. Nhưng A Cốt đã nhất định không chịu. Tiêu Phong là người tính tình khoáng đạt, thấy đối phương có ý chân thành, liền ẵm A Tử vào trong lều nghĩ ngơi.

Tối hôm ấy bộ lạc Nữ Chân mở ra tiệc lớn để hoan nghênh Tiêu Phong. Họ nấu thịt hai con cọp làm món trân hào cho bữa tiệc. Tiêu Phong hơn nửa tháng nay không biết mùi rượu là gì, bây giờ đuợc người Nữ Chân đem ra từng túi da đựng rượu mạnh, ông uống hết túi này đến túi khác khoan khoái vô cùng!

Người Nữ Chân cất rượu không ngon lắm, nhưng chất rượu cực mạnh, người thường chỉ uống được nữa túi nhỏ đã say mèm. Thế mà Tiêu Phong uống liền một lúc hơn mười túi, sắc mặt vẫn không biến đổi.

Người Nữ Chân cho ai có tửu lượng giỏi là bậc hảo hán. Lúc Tiêu Phong tay không đánh chết cọp, họ không đước mắt thấy, nhưng xem ông uống rượu thì cả mười mấy Đại Hán Nữ Chân cộng lại cũng chưa bằng mình ông, tất nhiên là ông được ai nấy kính sợ.

Đêm hôm ấy uống rượu xong, Tiêu Phong nghỉ tại bộ lạc Nữ Chân trong lòng cảm thấy khoan khoái vô cùng. Bọn người Nữ Chân không ai có thành kiến hẹp hòi, tính tình bộc trực, rất hợp với Tiêu Phong. Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân đem lòng khâm phục Tiêu Phong, gã cũng cực kỳ cung kính.

Tiêu Phong ở bộ lạc này rỗi rãi quá không có việc gì làm. Ban ngày ông cùng A Cốt Ðã đi săn. Tối về nhờ Hứa Trác Thành dạy tiếng Nữ Chân. Khi ông đã học được đến bảy phần mười tiếng nói bộ lạc này, lại tự nghĩ mình là người Khất Đan, nếu không biết nói Khất Đan thì không được. Ông liền nhờ Hứa Trác Thành dạy ông thứ tiếng mẹ đẻ ngay.

Hứa Trác Thành là một gã được đi nhiều nơi bất luận là tiếng Khất Đan, tiếng Tây Hạ hay tiếng Nữ Chân đều rất thạo. Tiêu Phong về lối học tiếng nói không được thông minh cho lắm, nhưng học mãi rồi cũng đủ phô diễn tư tưởng mình cho người khác hiểu, không cần phải thông dịch.

Ngày tháng thoi đưa, đông hết đã sang xuân. Hàng ngày A Tử lấy nhân sâm làm cơm, thương thế nàng đã khá nhiều. Nên hiểu rằng bộ lạc Nữ Chân ở nơi sơn dã hoang vu, đào được những thứ nhân sâm lâu ngày vào hạng thượng phẩm, thực là quí hơn cả vàng bạc nữa.

Mỗi lần Tiêu Phong đi săn đều được nhiều dã thú, liền đem về đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng. Thời bấy giờ trừ phi là công chúa của đức Hoàng đế, còn bất luận là ai, cũng không có nhân sâm mà uống. Tiêu Phong mỗi ngày chỉ cần vận khí dồn lực vào cho A Tử hai lần là đủ, không phải đặt bàn tay lên lưng nàng suốt ngày đêm như trước nữa. A Tử có đôi khi đã gắng gượng nói được vài câu, song tứ chi tuyệt lực, không nhúc nhích được. Những việc ẩm, thực, của nàng nhất nhất đều do Tiêu Phong lo liệu.

Mỗi khi ông nhớ tới thâm tình của A Châu thì dù có phải nhọc nhằn về A Tử ông cũng vui lòng chẳng những không ân hận chút nào mà còn cảm thấy việc thị phụng A Tử càng cực bao nhiêu càng tỏ lòng báo đáp ân tình của A Châu bấy nhiêu.

Một hôm A Cốt Ðã đem hơn mười người trong bộ lạc đi săn con gấu lớn ở ngọn núi về phía Tây Bắc. Gã mời Tiêu Phong cùng đi. Con gấu lớn này da đã dày, lại nhiều mỡ. Hùng Chưởng (tay gấu) là một món ăn trân quý thời bấy giờ.

Tiêu Phong đã nghỉ được ít lâu, thấy A Tử tinh thần tiến rất nhiều nên vui vẻ đi theo. Đoàn người ra đi từ lúc chưa sáng, nhằm hướng Tây Bắc mà tiến. Bấy giờ sang tiết đầu hạ, băng rữa tuyết tan, đường bùn lầy rất khó đi, song người Nữ Chân cước lực rất mạnh nên vẫn đi được mau lẹ.

Đến khoảng giờ ngọ đã đi được chừng hơn trăm dặm. Tiêu Phong băn khoăn về A Tử ở nhà, ông lo còn phải đi xa nữa, bỗng thấy một người già la lên:

- Gấu! Gấu!

Mọi người nhìn về phía tay lão trỏ, thấy dưới bùn lầy còn in những vết tay gấu rất lớn. Cách đó không xa nhìn rõ cả vết chân. Mọi người phấn khởi theo vết chân gấu đuổi theo. Con gâu lớn chân tay ấn sâu xuống đất đến vài tấc, dù là đứa nhỏ chẳng biết theo bút. Đoàn Đại Hán vừa đuổi theo vừa reo, vết chân đi thẳng về phía Tây.

Sau khi ra khỏi quãng bùn lầy, đến một cánh đồng cỏ, mọi người chạy mau. Đoàn người đang hấp tấp rượt gấu, bất thình lình nghe tiếng vó ngựa dồn dập phía trước cát bụi bay mù, một đại đội nhân mã chạy nhanh tới. Chỗ này là một cánh đồng cỏ bằng phẳng, một con gấu đen quay quanh chạy trở lại vì phía sau có bảy tám chục người cưỡi ngựa hò hét đuổi theo.

Đoàn người ngựa này hoặc cầm trường mâu, hoặc mang tên ná người nào coi bộ cũng rầt hung hăng.

A Cốt Ðã la lên:

- Bọn Khất Đan! Bọn Khất Đan! Chúng nhiều người lắm, ta chạy đi thôi!

Tiêu Phong nghe nói là bản xứ, trong lòng đã có ý muốn lận cận, nhưng thấy A Cốt Ðã trở gót trốn chạy. Mình ông không tiện tới, đành dừng bước lại để xem cho rõ.

Bỗng thấy bọn Khất Đan hô lớn:

- Nữ Chân man tử! Bắn chúng đi! Bắn chúng đi! Những tiến lách tách vang lên, không ngờ tên bắn ra như mưa.

Tiêu Phong trong lòng căm giận lẩm bẩm:

- Sao chưa hỏi nguyên do, vừa thấy mặt bắn ngay lập tức?

Mấy mũi tên bắn tới bên mình, đều bị ông giơ tay ra hất đi. Bỗng nghe một tiếng rú ối chao rất thê thảm. Một ông già người Nữ Chân trong bọn đi săn bị bắn trúng lưng, ngã xuống chết liền. A Cốt Ðã dẫn mọi người chạy núp vào phía sau một mô đất nằm xuống, giương cung lên bắn ngã hai tên Khất Đan. Tiêu Phong đứng giữa không biết nên giúp bên nào. Bọn cung nỏ Khất Đan nhắm Tiêu Phong bắn không ngớt bằng những mũi tên dài. Tiêu Phong nắm được một mũi tên tiện tay múa lên để rồi rớt xuống tới tấp.

Ông lớn tiếng quát hỏi:

- Các ngươi làm gì vậy? Sao chưa hỏi han gì đã ra tay giết người.

A Cốt Ðã ở sau mô đất lớn tiếng gọi:

- Tiêu đại ca, Tiêu đại ca! Lại đây mau! Bọn chúng không biết đại ca là người Khất Đan đâu!

Giữa lúc ấy có tên Khất Đan vác mâu phóng ngựa đến trước mặt Tiêu Phong. Hai gã hai bên đâm vào cạnh sườn ông. Tiêu Phong không muốn sát hại người đồng tộc giơ tay ra nắm lấy hai mũi mâu khẽ giật một cái, cả hai đều ngã lăn xuống ngựa. Tiêu Phong liền dùng cán mâu khều hai gã lên. Hai gã đang lơ lửng trên không và kêu thét lên, thì Tiêu Phong đã bỏ ngã xuống đất, hồi lâu không bò dậy được.

Bọn A Cốt đang lớn tiếng hoan hô. Bỗng thấy một Đại Hán mặc áo hồng bào trong bọn Khất Đan đang lớn tiếng truyền lệnh. Mấy chục tên Khất Đan chia ra làm hai cánh bao vây xa xa để chận đường về bọn A Cốt Ðả. A Cốt Ðã thấy thế nguy, nếu để lọt vào vòng vây bên địch, tất bị chết hết. Gã liền hô đồng đảng xoay mình chạy trốn. Bọn Khất Đan tên bắn như mưa, lại mấy người Nữ Chân nữa trúng tên té nhào.

Tiêu Phong thấy người Khất Đan dã man vô cùng không biết là lẽ phải. Tuy họ là người cùng chủng tộc cũng không thể nhường nhịn được nữa. Ông liền cướp một cây cung lớn, bắn luôn bốn phát:

- Cách! Cách! Cách! Cách!.

Mỗi mũi tên đều trúng vào vai hoặc vào đùi khiến cho bốn gã Khất Đan phải ngã ngựa, nhưng chưa đến nỗi mất mạng. Không ngờ lão mặc áo hồng bào lớn tiếng quát, bọn người Khất Đan chẳng những không lùi mà con phóng ngựa đuổi theo cực kỳ hung hăng. Tiêu Phong thấy trong bọn đi với mình chỉ có A Cốt Đã và ba thanh niên vừa bắn vừa chạy, ngoài ra đều bị Khất Đan bắn chết hết.

Cánh đồng cỏ này không có chỗ nào ẩn nấp được, Tiêu Phong xem chừng nếu còn đánh nữa thì cả A Cốt Đã cũng sẽ chết.

Ông nghĩ đến mình được người Nữ Chân trọng đãi vào hàng thượng tân, rồi tự hỏi: "Những người bạn tốt gặp bước nguy nan mà mình không che chở được thì sao đáng mặt anh hùng hảo hán! Nếu mình lại giết hết bọn Khất Đan là người cùng chủng tộc thì sao cho đành dạ? Ông nghĩ chỉ còn cách bắt lấy lão cầm đầu mặc áo hồng bào, buộc y phải hạ mình lui binh hai bên bãi chiến là hơn cả."

Nghĩ vậy, Tiêu Phong lớn tiếng quát:

- Này! Này! Nếu bọn ngươi không lùi bước thì ta không nể!

Chưa dứt lời, ba cây trường mâu "vù vù" phóng tới. Tiêu Phong nghĩ bụng: "Bọn này thật không biết đều chút nào". Ông hạ thấp người lạng nhanh lại phía người mặc áo hồng bào.

A Cốt Đả thấy Tiêu Phong mạo hiểm thì hốt hoảng la lên:

- Không được đâu! Tiêu đại ca! Về đây mau!

Tiêu Phong chẳng nói gì cứ việc xông lại. Bọn Khất Đan la ó rầm lên, kẻ bắn tên, người phóng mâu đến tới tấp. Tiêu Phong phóng chưởng ra đánh. "choang" một tiếng, một cây trường mâu gãy làm hai. Ông cầm lấy cây trường mâu gãy, khác như thanh trường kiếm để gạt tên rồi chạy như bay xông đến trước người mặc áo hồng bào. Lão này đây mặt râu đâm tua tủa, trông rất oai phong thấy Tiêu Phong xông lại, vẫn chẳng hoang man chút nào.

Lão giựt lấy ba cây thương ở trong tay bọn hộ vệ bên mình." Vèo" một tiếng, một cây thương nhắm Tiêu Phong phóng tới. Tiêu Phong giơ tay ra nắm lấy. Ngọn thương thứ hai phóng tới cũng bị Tiêu Phong chụp được nên hai gã hộ vệ ngã lăn xuống ngựa.

Người mặc áo hồng bào quát lớn:

- Thằng cha này giỏi thật! Lão phóng ngọn thương thứ ba ra.

Tiêu Phong giơ tay trái lên dùng thủ pháp "Tá lực đả lực" trở ngọn thương đâm trở ngược lại đánh "sột" một tiếng. Mũi thương đâm sâu vào bụng ngựa lão mặc áo hồng bào.

Lão la lên:

- Úi chà!

Rồi không để mình ngã ngựa, lão nhảy phắt xuống. Tiêu Phong uốn mình đi tiến lại vươn tay trái ra nắm lấy vai bên phải lão.

Giữa lúc ấy, Tiêu Phong nghe sau lưng có tiếng gió vù vù, biết là ngưới ám toán. Ông liền vận kình lực vào hai chân đẩy mạnh người về phía trước hơn một trượng. Hai tiếng phập phập vang lên, hai cây trường mâu cắm sâu xuống đất. Tiêu Phong ôm lấy lão mặc áo hồng bào, nhảy sang bên tả, tới sau lưng một kỵ sĩ Khất Đan. Ông phóng chưởng ra hất gã nầy xuống rồi nhảy phốc lên lưng ngựa.

Lão mặc áo hồng bào vung quyền lên toan thúc vào mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong thích mạnh tay vào nách lão, khiến lão không nhúc nhích được nữa.

Ông bảo:

- Nếu ngươi không hạ lệnh cho đồng đảng rút lui thì ta bóp chết ngươi ngay tức khắc.

Lão mặc áo hồng bào bất đắc dĩ phải la lên:

- Anh em rút lui đi.

Bọn Khất Đan lùi lại nhưng tới tấp xông đến bên Tiêu Phong, toan nhằm cơ hội để cứu viện cho thủ lãnh. Tiêu Phong cầm mũi mâu chí vào đầu lão mặc áo hồng bào quát hỏi:

- Các ngươi có muốn ta đâm chết lão này không?

Một lão già Khất Đan la lên:

- Ngươi muốn yên lành thì thả ngay thủ lãnh bọn ta. Nếu không sẽ bị năm ngựa phân thây lập tức.

Tiêu Phong cười ha hả vung chưởng lên nhắm lão cách không xa phóng ra.

Nguyên Tiêu Phong muốn phóng chưởng này thị uy hăm dọa bọn chúng để khỏi phải giết hại nhiều người, nên ông dùng sức rất mạnh. Vừa nghe "binh" một tiếng, lão hán bị chưởng phong đánh hất từ trên ngựa bay ra ngoài mấy trượng miệng hộc máu tươi ra chết liền.

Bọn Khất Đan chưa thấy ai có thần lực phóng chưởng ra không gian mà lợi hại đến thế, đều dừng ngựa lùi về phía sau, mặt lộ vẻ hoảng hốt, chỉ lo Tiêu Phong phóng chưởng lực không hình không bóng, khác nào yêu pháp đánh vào đâu cũng khó lòng chống nổi.

Tiêu Phong nói:

- Nếu bọn ngươi không rút lui, ta phóng chưởng đánh chết lão này ngay.

Ông vừa nói vừa giơ tay lên như muốn đánh vào đầu lão mặc hồng bào. Lão la hoảng:

- Các người lui đi! Lui mau đi.

Bọn Khất Đan cho ngựa lùi lại mấy bước nhưng vẫn chưa chịu rời khỏi nơi đây. Tiêu Phong nghĩ bụng:

- Chỗ này là một giải bình ngục gát. Kêu mình tha cho lão thủ lĩnh thì bọn Khất Đan cưỡi ngựa rượt theo vẫn không thể trốn thoát được.

Ông liền bảo lão mặc hồng bào:

- Ngươi bảo chúng đem bốn con ngựa lại đây.

Lão mặc hồng bào theo lời ra lệnh cho bọn kỵ sĩ Khất Đan giắt bốn con ngựa lại giao cho A Cốt Đã. A Cốt Đã đang căm hận bọn Khất Đan sát hại bao nhiêu đồng đảng của mình, gã phóng quyền ra đánh "binh" một tiếng khiến gã kỵ sĩ Khất Đan dắt ngựa đến bị lăn đi mấy vòng. Bọn Khất Đan tuy nhiều người, nhưng không dám đánh trả.

Tiêu Phong lại nói:

- Ngươi ra lệnh cho thủ hạ hãy giết ngựa đi không được để một con nào.

Lão mặc hồng bào tính nết mau mắn, không tranh luận với Tiêu Phong nữa, lớn tiếng truyền lệnh:

- Các ngươi xuống ngựa và đâm chết hết ngựa đi!

Bọn kỵ sĩ không do dự chút nào, nhảy xuống ngựa rồi dùng trường mâu đâm chết ngựa của mình. Tiêu Phong không ngờ bọn võ sĩ lại ngoan ngoãn tuân theo lời thủ lãnh đến thế, trong lòng sinh ra cảm phục.

Ông lại nghĩ:

- Lão mặc hồng bào này xem ra có địa vị rất tôn quí. Lão chỉ hô một tiếng là bọn kỵ sĩ không dám trái lệnh. Quân lệnh người Khất Đan nghiêm minh như vậy không trách gì họ đánh nhau với người Tống, phần nhiều thắng trận.

Tiêu Phong lại nói:

- Ngươi bảo đồng đảng về đi, không được đuổi theo chỉ một người truy kích là ta chặt một cánh tay ngươi. Hai người truy kích ta chặt hai tay, bốn người truy kích là cả tứ chi.

Lão mặc hồng bào tức giận râu dựng ngược lên, nhưng đã bị Tiêu Phong uy hiếp, chẳng còn làm thế nào được, bất đắc dĩ phải ra lệnh:

- Các ngươi về cả đi! Sau này sẽ điều động nhân mã đến phá sào huyệt bọn Nữ Chân.

Bọn võ sĩ đồng thanh đáp:

- Xin tuân lệnh.

Vừa đáp vừa khom lưng ra chìu cung kính. Tiêu Phong dắt ngựa chờ cho bọn A Cốt Đã lên ngựa hết nhắm hướng Đông rong đuổi theo đường cũ. Ông thấy bọn A Cốt Đã đi mấy dặm, mà bọn Khất Đan không đuổi theo. Bấy giờ ông mới nhảy sang yên con ngựa khác, nhường con ngựa vừa cưỡi cho lão mặc hồng bào. Cả sáu người ngựa đi thẳng một mạch về đến đại doanh.

A Cốt Đã đem việc gặp giặc bẩm với phụ thân là Hòa Lý Bố. Đã tường thuật được cả việc Tiêu Phong giải cứu và bắt thủ lĩnh Khất Đan đưa về.

Hòa Lý Bố rất mừng nói:

- Hay lắm! Đem con chó Khất Đan vào đây cho ta!

Lão mặc hồng bào tiến vào trong trướng vẻ mặt vẫn ngang nhiên lẫm liệt, đứng thẳng người chứ không chịu quỳ. Hòa Lý Bố biết lão là người tôn quý bên Khất Đan, cất tiếng hỏi:

- Ngươi tên họ là chi? Làm chức tước gì bên Liêu Quốc?

Lão ngang nhiên đáp:

- Ta có phải bị ngươi bắt về đâu mà ngươi hỏi được ta?

Nguyên người Khất Đan cũng như người Nữ Chân đã có lệnh hễ ai bắt được địch nhân đó chỉ làm nô lệ riêng cho người đã bắt được. Ai bắt được con gái, tiền bạc cũng giữ riêng làm của mình. Nếu người bắt được không bằng lòng tặng cho thì bất luận là ai cũng không tranh lại được. Đây là một thông lệ cho tất cả các dân tộc dã man cùng các bộ lạc khắp bốn phương Đông Tây Nam Bắc.

Hòa Lý Bố cười ha hả nói:

- Người nói phải đó!

Lão mặc hồng bào chạy đến trước mặt Tiêu Phong đưa tay phải lên trán nói:

- Thưa chủ nhân! Chủ nhân là bậc anh hùng quán thế, tôi đã bị bắt, tuyệt không oán hận điều chi. Nếu anh hùng bằng lòng thả tôi về thì tôi xin đem ba chục xe bạc trắng, ba trăm con tuấn mã lại kính dâng.

Thúc phụ A Cốt Đã là Phã Lạp Thục nói:

- Ngươi là bậc đại quý ở Khất Đan mà chỉ chuộc có thế, không đủ, Tiêu hảo hán! Hảo hán bắt y phải đem ba chục xe vàng, ba trăm xe bạc, ba nghìn tuấn mã đến chuộc.

Nguyên ba xe vàng, ba chục xe bạc, ba trăm con tuấn mã cũng là nhiều lắm rồi. Người Khất Đan và người Nữ Chân giao chiến đã mấy chục năm nay, chưa bao giờ có khoản thục kim lớn đến thế. Nếu lão hồng bào không chịu thêm nữa thì cũng chịu nhận cho xong, không ngờ lão hồng bào ngần ngừ một lát rồi đáp:

- Thôi, thế cũng được!

Những người trong bộ lạc Nữ Chân nghe lão mặc áo hồng bào Khất Đan ưng chịu khoản thục kim như lời Phã Lạp Thục đều lấy làm kinh ngạc. Họ còn ngờ là tai nghe không rõ.

Nên biết rằng, hai chủng tộc Nữ Chân cùng Khất Đan tuy là những chủng tộc bán khai, kiến thức về văn hóa hãy còn lạc hậu, nhưng đã giao ước điều chi thì một là một, hai là hai, không bao giờ nói dối lời, dù là việc tầm thường cũng vậy, huống chi đây lại là khoản thục kim. Giả tỉ người Khất Đan không nạp đủ số, hoặc cố ý phản phúc thì lão mặc áo hồng bào không được trở về nước, cho nên không ai hứa hông làm gì.

Phã Lạp Thục còn ngờ rằng lão bị bắt sợ hãi quá độ, thần trí mê man, liền nhắc lại:

- Ngươi đã nghe rõ chưa? Ta biểu ba mươi xe vàng, ba trăm xe bạ, ba ngàn con tuấn mã?

Người mặc áo hồng bào, vẻ mặt cực kỳ ngạo mạn, nói:

- Ba chục xe vàng, ba trăm xe bạc, ba ngàn cỗ ngựa có chi là không kể? Sau này nước Đại Liêu ta giàu bốn bể, có cả thiên hạ thì khoản thục kim nhỏ mọn này đã vào đâu?

Dứt lời, lão quay lại nhìn Tiêu Phong ra chiều cung kính nói:

- Thưa chủ nhân! Tại hạ chỉ tuân lời một mình chủ nhân dậy còn kẻ khác nói chõ vào, tại hạ không thèm trả lời đâu.

Phã Lạp Thục nói:

- Tiêu huynh đệ! Bạn thử hỏi xem y làm quan chức gì bên nước Liêu?

Tiêu Phong đưa mắt nhìn người mặc hồng bào, chưa kịp hỏi thì đã nói ngay:

- Thưa chủ nhân! Chủ nhân muốn biết lai lịch tại hạ thì dù tại hạ nói quanh để lừa gạt chủ nhân, chắc chủ nhân cũng khó mà phân biệt được chơn hay giả. Nhưng chủ nhân là bực anh hùng hảo hán, tại hạ cũng là bậc anh hùng hảo hán. Tại hạ đã không muốn lừa thì chủ nhân bất tất hỏi làm gì.

Tiêu Phong quay tay trái rút thanh đoản đao ở sau lưng ra, dùng ngón tay phải bật vào lưỡi dao đánh keng một tiếng. Thanh đoản đao đúc bằng thép nguyên chất lập tức gãy làm hai đoạn.

Ông lớn tiếng quát:

- Người không chịu nói thì to gan thực! Ta chỉ bưng vào đầu ngươi một cái xem nó rắn đến đâu?

Người mặc áo hồng bào vẫn thản nhiên không sợ hãi gì, chìa thẳng ngón tay cái lên, khen:

- Bản lãnh tuyệt vời! Công lực ghê gớm! Bữa nay tại hạ được thấy người anh hùng thứ nhất trên thế gian thật là không uổng phí một đời. Tiêu anh hùng! Anh hùng cậy mạnh đè người muốn bắt tại hạ phải khuất phục thì không được đâu. Chủ nhân muốn giết thì giết, người Khất Đan tuy không đánh nổi chủ nhân, nhưng cốt cách quyết không chịu kém.

Tiêu Phong cười ha hả nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ta không giết ngươi tại đây. Vì nếu ta chỉ chém ngươi một nhát cho xong đời, vị tất ngươi đã chịu khâm phục. Vậy chúng ta đưa nhau đi tới một chỗ xa vắng để cùng nhau tỷ thí một phen.

Hòa Lý Bố cùng Phả Lạp Thục đồng thanh can:

- Tiểu huynh đệ! Giết lão này đi thì thực là đáng tiếc. Chi bằng lưu lão ta lại để lấy khoản thục kim hay hơn. Nếu ông bạn tức mình với lão thì nên dùng côn gỗ roi da đánh vào một chập là đủ.

Tiêu Phong nói:

- Không được! Lão muốn làm hảo hán, tại hạ không chịu được.

Nói xong, ông quay sang mượn cặp trường mâu và đôi cung nỏ của một người Nữ Chân đứng bên. Đoạn ông cầm cổ tay lão mặc hồng bào kéo đi ra khỏi đại trại.

Tiêu Phong nhẩy lên ngựa, giục:

- Ngươi cũng lên ngựa đi!

Lão mặc hồng bào coi chết như không, lão biết rõ mình đấu với Tiêu Phong tất là phải chết và lão ngờ rằng Tiêu Phong đã bắt được lão cũng như mèo vồ được chuột, chờn vờn chơi một lúc rồi mới giết. Nhưng lão vẫn ngang nhiên chẳng sợ hãi gì, nhảy tót lên lưng ngựa nhắm hướng Bắc mà đi. Tiêu Phong cưỡi ngựa theo sau.

Hai người đi được vài dặm Tiêu Phong nói:

- Bây giờ rẽ về hướng Tây!

Lão mặc hồng bào nói:

- Phía Tây phong cảnh rất đẹp. Ta được chết tại đó cũng hả.

Tiêu Phong nói:

- Khí giới đây ngươi đón lấy!

Rồi đưa cho lão một thanh trường mâu, một cây cung. Lão đón lấy rồi dõng dạc nói:

- Tiêu anh hùng! Tại hạ biết rõ là không đủ sức đối địch với anh hùng. Song người Khất Đan thà chết chứ không chịu nhục. Tại hạ động thủ đây!

Tiêu Phong nói:

- Khoan đã!

Rồi liệng thanh trường mâu và cây cung đang cầm trên tay xuống đất. Hai tay không cầm binh khí. Tiêu Phong dừng ngựa tủm tỉm cười.

Lão mặc hồng bào cả giận nói:

- À! Ra ngươi muốn tay không để đấu với ta. Thế thì ngươi kinh ta quá lắm!

Tiêu Phong lắc đầu nói:

- Không phải thế, Tiêu mỗ bình sinh rất kính trọng những bậc anh hùng, rất mến tiếc những tay hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta, nhưng cũng là một tay đại anh hùng, đại hảo hán, xứng đáng là người bạn của Tiêu mỗ. Vậy Tiêu mỗ để cho hảo hán về nước.

Lão mặc hồng bào cả kinh hỏi:

- Thế náo?

Tiêu Phong tươi cười đáp:

- Ta đã bảo hán là người bạn tốt của Tiêu mỗ. Vậy để hảo hán bình yên về nước.

Lão mặc hồng bào khác nào người ở dưới quỷ môn quan được trả về, mừng rỡ khôn xiết, hỏi lại:

- Tiêu anh hùng thả ta về thật ư? Hay là anh hùng có dụng ý. Ta về rồi sẽ cho người đem thục kim gấp mười lần đến trao anh hùng.

Tiêu Phong khoát tay nói:

- Ta đã lấy tình bạn đối với hảo hán, sao hảo hán lại không lấy nghĩa bằng hữu đối đãi với ta? Tiêu Phong này đường đuờng một đấng anh hào, há còn đi tham tiền bạc hay sao?

Lão mặc hồng bào nói:

- Dạ! Dạ!

Đoạn quăng binh khí, nhẩy ra khỏi mình ngựa quỳ xuống đất nói:

- Đa tạ ân công đã mở lượng hải hà tha mạng cho.

Tiêu Phong cũng quỳ xuống đáp lễ nói:

- Tiêu Phong đã không giết bạn khi nào còn dám nhận lạy của bạn. Nếu là kẻ nô lệ để Tiêu mỗ nhận lạy thì Tiêu mỗ quyết không tha mạng đâu.

Lão mặc hồng bào mừng quá, đứng lên nói:

- Tiêu anh hùng! Anh hùng một điều gọi tại hạ là bạn, hai điều gọi tại hạ là bạn. Tại hạ muốn với lên cao cùng anh hùng kết làm anh em được không?

Tiêu Phong sau khi học thành tài liền gia nhập ngay vào Cái Bang. Trong bang, phân chia địa vị rõ rệt. Trên là Bang Chúa, phó Bang Chúa, dưới có các vị trưởng lão, truyển công, chấp pháp, và bốn vị trưởng lão đại hộ pháp. Sau nữa đến Đà chúa các phân Đà. Các hạng đệ tử thì từ Bát Đại (tám túi) thất đại trở xuống. Tại Cái Bang ông chỉ là nguời làm nên công trung vẻ vang, chứ chưa từng kết nghĩa anh em với ai. Vềsau tại thành Vô Tích, nhân cuộc uống rượu thi cùng Đoàn Dự, vì cũng hâm mộ nhau mà kết nghĩa chi lan. Bây giờ, ông thấy người mặc áo hồng bào đề cập đến việc này, bỗng nhớ lại những năm mình ở Trung Nguyên giao du với các bậc hào kiệt khắp thiên hạ, bữa nay bôn đào đến nước man mọi, cảm thấy mình phiêu lưu cô độc, lại có người nêu ra việc này thì trong lòng ông không khỏi cảm kích. Ông nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ là Tiêu Phong, năm nay ba mươi ba tuổi, còn tôn huynh bao nhiêu?

Người đó cười nói:

- Tại hạ người họ Gia Luật, lớn hơn ân công mười một tuổi.

Tiêu Phong nói:

- Sao huynh trưởng còn kêu tiểu đệ bằng ân công? Huynh trưởng là đại ca, vậy nhận cho tiểu đệ một lạy này.

Nói xong lạy phục xuống. Đoạn đốt lông đuôi mũi tên làm hương khói rồi hai người trông lên trời lây tám lạy, kết làm anh em.

Gia Luật Cơ rất mừng nói:

- Hiền đệ họ Tiêu, dường như cũng là người Khất Đan với ta.

Tiêu Phong nói:

- Chẳng dấu gì đại ca, Tiểu đệ nguyên là người Khất Đan.

Nói xong cởi áo ra để hở dấu chàm đầu con Lang sắc xanh ở trước ngực. Gia Luật Cơ trông thấy cả mừng nói:

- Quả nhiên đúng rồi. Hiền đệ thuộc dòng họ Vương hậu nước Khất Đan ta. Hiền đệ ơi! Đất Nữ Chân rét quá chi bằng hiện đệ theo ta về thượng kinh cùng hưởng phú quý.

- Xin đa tạ hảo ý của ca ca. Tiểu đệ vốn là người nghèo hèn không hợp với đời sống nơi giàu sang. Tiểu đệ ở lại Nữ Chân để săn đón uống rượu làm vui, tiêu dao ngày tháng hay hơn. Sau này nhớ tới ca ca sẽ trở về Liêu Quốc thăm hỏi.

Tiêu Phong từ giả A Tử ra đi đã lâu, sự nhớ đến thương thế nàng liền nói:

- Ca ca ơi! Ca ca về đi để người nhà cùng bọn thuộc hạ khỏi mong đợi.

Gia Luật Cơ gật đầu nói:

- Thế cũng hay! Bữa nay trong lúc thảng thốt anh em mình chưa được nói chuyện nhiều, nhưng chúng ta đã kết nghĩa chi lan, sau này thì thân cận nhiều hơn mới được.

Gia Luật Cơ nói xong lên ngựa nhắm hướng Tây mà đi. Tiêu Phong cũng lên ngựa quay về thì thấy A Cốt Đã dẫn mười tên thuộc hạ ra nghênh tiếp. Nguyên A Cốt Đã thấy Tiêu Phong đi lâu không về, rất sợ ông không phải gian kế người mặc áo hồng bào, trong lòng hồi hộp không định đi tiếp ứng. Tiêu Phong kể cho gã nghe mình đã tha cho người mặc áo hồng bào về nước Liêu rồi. A Cốt Đã cũng là bậc anh hùng có kiến thức, rất tán đồng việc Tiêu Phong rỏ ra con người đại lượng.

Một hôm Tiêu Phong cùng A Cốt Đã ngồi rỗi nói chuyện, ông đề nghị tới chuyện A Tử bị thương do chưởng lực mình lỡ tay gây ra. Tuy đã dùng nhân sâm để duy trì tính mạng cho nàng nhưng lâu ngày vẫn không khỏi được nên trong lòng rất là phiền muộn.

A Cốt Đã trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

- Tiêu đại ca! Thế ra lệnh Muội bị ngoại thương. Người Nữ Chân chúng tôi ai bị đánh hay bị ngã thành thương tích thì vẫn dùng gân hổ, xương hổ và mật gấu, ba vị đó làm thuốc điều trị rất hiệu nghiệm Đại ca thử chữa bằng thứ đó coi.

Tiêu Phong cả mừng nói:

- Thứ gì thì khó, chứ gân hổ, xương hổ đây chẳng thiếu gì. Chỉ còn mật gấu thì tôi rán đi tìm giết, lấy mật là đủ.

Đoạn ông hỏi rõ cách dùng rồi đem xương hổ, gân hổ nấu nhừ thành cao cho A Tử uống. Sáng sớm hôm sau, Tiêu Phong vào rừng sâu chằm lớn để săn gấu. Ông chỉ đi có một mình nên hết sức thì triển khinh công, so với cuộc đi săn đông người được mau lẹ hơn nhiều.

Hôm đầu ông không tìm thấy dấu vết con gấu đen nào. Ðến ngày thứ hai ông săn được một con, liền mổ ra lấy mật chạy về trại cho A Tử uống dần. Cao Hổ Cốt cùng mật gấu và nhân sâm lâu năm ở núi Trường Bạch đều là những dược vật rất qúy báu để trị thương thế, nhất là mật gấu còn tươi nguyên ở Trung Nguyên lại càng khó kiếm.

Lão Tiết Thần Y tuy là tay chữa bịnh như thần, song nếu không có được vật cũng không xong. Đem tài lão so với Tiêu Phong chỉ trong vài ngày đã kiếm được mật gấu cho A Tử uống thì Tiết Thần Y cũng khó mà bì kịp. Âu cũng là số mệnh A Tử chưa đến nổi chết nên đến gần núi Trường Bạch chính là nơi sản xuất nhân sâm rất nhiều, mà cũng là nơi tìm được cao xương hổ cùng mật gấu rất dễ. Hơn nữa lại được Tiêu Phong có một bản lĩnh ghê người để chạy chữa cho nàng.

Hơn hai tháng trời A Tử đã uống hơn hai mươi cái mật gấu, thương thế bớt rất nhiều. Gân Cốt trước ngực nàng bị gãy nát đã nối liền lại được. Thỉnh thoảng nàng đã nói được bảy tám tiếng liền. Tiêu Phong rất lấy làm an ủi trong lòng vì xem ra tính mạng A Tử có cơ vãn hồi được. Chỉ cần ở lại chân núi Trường Bạch này trong vài năm là nàng có hy vọng hoàn toàn khỏi hẳn.

Một hôm về buổi chiều Tiêu Phong đương ngồi trước trại chặt xương hổ, cạo gân hổ để nấu cao, bỗng thấy một người Nữ Chân hấp tấp chạy lại nói:

- Tiêu đại ca ơi! Có mười mấy người Khất Đan đưa đồ lễ đến đại ca đó!

Tiêu Phong reo lên một tiếng biết ngay rằng đó là người của nghĩa huynh Gia Luật Cơ đến. Bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một toán người ngựa từ từ đi trên lưng ngựa thì đều xếp đầy phẩm vật. Người đội trưởng Khất Đan đã được nghe Gia Luật Cơ kể lại tướng mạo Tiêu Phong nên vừa trông thấy từ đằng xa đã biết rồi.

Gã xuống ngựa chạy đến trước mặt, lạy phục xuống đất nói:

- Từ khi chủ nhân tiểu tốt cùng Tiêu đại nhân chia tay, người nhớ tưởng đại gia đêm ngày, nay sai tiểu tốt đưa lễ mọn sang mời Tiêu Phong nhân qua Thượng Kinh chơi ít bữa để chủ nhân tiểu tốt được thỏa đáng bấy lâu khát vọng.

Nói xong dập đầu lạy, rồi hai tay đưa trình lễ đơn một cách cực kỳ cung kính. Tiêu Phong cầm lễ đơn cười nói:

- Đại ca thật hậu tình quá! Thôi ngươi đứng dậy đi!

Ông mở lễ đơn ra coi trong đơn kê:

- 5000 lạng vàng, 50. 000 lạng bạc, 1000 trâu béo, 5000 con cừu, 3000 tuấn mã.

Ngoài ra còn đồ mặc, đồ dùng không thiếu thứ gì.

So với khoản bạc kim mà Phả Lập Thục yêu sách hôm trước thì trong lễ đơn này còn lâu hơn gấp mấy.

Tiêu Phong xem lễ đơn xong không khỏi giật mình. Lúc ban đầu nhìn thấy mưới mấy con ngựa thồ chất đầy phẩm vật đã cho là nhiều lắm rồi. Nhưng so với trong lễ đơn thì không biết phải bao nhiêu ngựa mới chất hết.

Gã đội trưởng khom lưng nói:

- Chủ nhân tiểu tốt lo rằng trong khi đi đường xa những giống sẽ thất lạc đi phần nào, cho nên ngoài số trâu lừa ngựa kê trong lễ đơn, người còn đưa thêm đi một số để dự bị điển khuyết. May nhờ thiêng phúc của Tiêu đại gia cùng của chủ nhân tiểu tốt, dọc đường không gặp mưa tuyết hay dã thú chi hết nên sự tổn thất không có gì đáng kể.

Tiêu Phong cảm động nói:

- Gia Luật ca ca chu đáo đến thế kia ư? Nếu ta không nhận thì sợ phụ lòng người mà thu nhận thì ta chẳng yên tâm chút nào.

Đội trưởng nói:

- Chủ nhân tiểu tốt dặn đi dặn lại rằng Tiêu đại gia chối từ không nhận thì tiểu tốt về sẽ bị trọng phạt.

Bất thình lình hiệu tù và nổi lên inh ỏi. Mọi người trong các doanh trại Nữ Chân đều cầm đao thương, cung tên chạy ra.

Rồi có tiếng hô lớn:

- Quân địch đã kéo đến, ai nấy phải chuẩn bị nghênh chiến.

Tiêu Phong nhìn về phía có hiệu tù và nổi lên, thì thấy cát bụi bay mù, tựa hồ có vố số quân mã đang tiến về phía đó.

Bọn Khất Đan có người lên tiếng gọi to:

- Các vị khỏi hoang mang đó là toán trâu dê lừa ngựa của Tiêu đại gia.

Họ dùng tiếng Nữ Chân kêu gọi liền mấy lần, song bọn người Nữ Chân không tin. Bọn Hòa Lý Bố, Phả Lạp Thúc, A Cốt Đã chia nhau ra thống lĩnh những toán người trong bộ lạc bày thành đội ngũ ở phía Tây ngoài doanh trại.

Đây là lần đầu Tiêu Phong được xem người Nữ Chân bày thành trận thế để sẵn sàng nghênh địch, ông thấy các vị thủ lĩnh hiệu lịnh nghiêm minh và người trong bộ lạc đều kiêu dũng hăng hái thì nghĩ thầm: "Nhân số bộ lạc Nữ Chân tuy ít, song rất tinh nhuệ. Bọn thủ hạ chưa kiêu dũng bằng người Nữ Chân. Còn bọn quan binh nhà Đại Tống ở Nhạn Môn Quan thì càng kém xa nữa."

Gã đội trưởng Khất Đan nói:

- Tiểu tốt xin ra bảo thuộc hạ tạm phải dừng lại đừng tiến vào vội, để tránh hiểu lầm.

Gã nói xong trở gót nhảy lên yên, toan gia roi cho ngựa chạy, thì A Cốt Đã vẫy tay một cái. Bốn tên Nữ Chân cũng lên ngựa theo sau gã đội trưởng Khất Đan. Năm gã cho ngựa đi từ từ tiến về phía trước. Khi gần tới nơi thì thấy trâu dê lừa ngựa rải rác khắp trên đồi dưới đồi. Hơn một trăm mục tử Khất Đan tay cầm gậy dài, quát tháo, xua đuổi bầy mục súc tuyệt không có một tên quân nào. Bốn gã người Nữ Chân thấy vậy bật cười, bắt ngựa quay về báo với Hòa Lý Bố.

Chẳng bao lâu đoàn súc vật đã đến gần. Tiếng trâu rống lẫn với tiếng ngựa hí rất là huyên náo, không còn ai nói ai nghe thấy gì nữa.

Tối hôm ấy, Tiêu Phong nhờ người Nữ Chân giết bò mổ dê đãi khách phương xa. Sáng hôm sau Tiêu Phong lấy một ít vàng bạc gấm vóc tặng cho bọn Khất Đan đưa lễ vặt đến. Sau khi bọn Khất Đan từ biệt ra về rồi, ông đem vàng bạc gấm vóc để lừa ngựa chuyển hết lại cho A Cốt Đã để gã chia cho người dòng bộ lạc.

Người Nữ Chân tự nhiên được vô số tài vật đều không xiết vui mừng! Cả bộ lạc mở đại yến ăn uống mấy ngày. Ai nấy đều cảm ơn Tiêu Phong.

Quang âm thấm thoát, lại hết hạ sang thu. Bệnh tình A Tử đã bớt được vài phần. Tinh thần nàng đã tỉnh táo. Suốt ngày, nàng nằm trong điều dưỡng thương thế, sinh ra chán ngán, nên nàng đòi Tiêu Phong lên ngựa để ra ngoài xem ngắm phong cảnh cho giải lòng sầu muộn. Tiêu Phong nhất nhất chìu theo ý nàng.

Mấy tháng sau, trừ những ngày gió to tuyết lớn, A Tử đành chịu ở nhà, còn những ngày tạnh nắng hai người lại lên ngựa rong chơi. Lâu những nơi gần quanh xem mãi cũng chán. Hai người đem theo mùng mền đi khá xa để nghỉ đêm ở ngoài, có khi mấy ngày liền không về. Tiêu Phong nhân cơ hội những đêm ở ngoài đi săn cọp, săn gấu đào nhân sâm về chữa thương cho A Tử. Vì những mũi độc châm A Tử phóng ra là giết được cọp và gấu, cho nên ở khu vực này trông biết bao nhiêu cọp vằn, gấu đen đã bị về tay Tiêu Phong.

Muốn tiện cho việc tìm sâm, Tiêu Phong lại đi về hướng Đông Tây, hướng Bắc. Một hôm, A Tử bảo phong cảnh mặt đông và mặt bắc nàng xem qua rồi, còn muốn đi về phía Tây.

Tiêu Phong nói:

- Mé Tây chỉ là một cánh đồng cỏ rộng mông mênh, chả có sơn tây gì đáng xem hết.

A Tử nói:

- Nếu là cánh đồng cỏ bát ngát lại càng tốt, vì cánh đồng cỏ rộng, biển cả bao la, mà em chưa được coi biển cả bao giờ. Trước em ở Tinh Tú Hải, tuy gọi là biển, nhưng vẫn còn thấy bờ thấy bến.

Tiêu Phong nghe nàng nói đến ba tiếng "Tinh Tú Hải" trong lòng không khỏi băn khoăn.

Ông nghĩ:

- Gần một năm nay đến ở chung với người Nữ Chân bao nhiêu chuyện võ lâm đã quên dần. A Tử không được tự do hành động, nên không gây ra những vụ tàn nhẫn.

Ông chỉ nghĩ đến trị thương cứu mạng cho nàng chớ không bao giờ tưởng đến sau khi khỏi thương thế thì tính tình quái ác của nàng lại phát sinh thì làm thề nào?

Tiêu Phong ngoảnh đầu lại nhìn A Tử thấy khuôn mặt trái xoan trắng như tuyết chưa có một chút ánh hồng nào, hai má nàng lỏm vào và cặp mắt đen sâu hoắm, dung nhan cực kỳ tiều tụy, thì trong lòng không khỏi đau thương, ông lẩm bẩm:

- Nàng là một cô bé trước kia lanh lợi khả ái biết bao nhiêu vì bị trúng chưởng của mình đến nỗi thập tử nhất sinh biến thành chiếc thân tàn ma dại thế này, nỡ nào mình còn nghĩ đến những điều ác đức của nàng?

Nghĩ vậy, Tiêu Phong liền cười nói:

- Cô đã muốn đi về phía Tây thì tôi đưa cô đi. A Tử! Đến khi cô khỏi bệnh, tôi sẽ đưa cô đến biên giới nước Cao Ly để xem biển cả thật, một làn nước biết bao la không còn nhìn thấy đâu là bờ là bến. Cánh đồng cỏ ở gần đây đã thấm vào đâu.

A Tử vỗ tay cười nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Em tưởng chẳng cần phải chờ cho em khỏi nữa, mà có thể ngay bây giờ.

Tiêu Phong "Ồ" lên một tiếng vừa sợ vừa mừng hỏi:

- Chân tay cô đã cử động được như thường chưa?

A Tử cười nói:

- Bốn năm hôm trước đây, hai tay em đã cất nhắc được rồi, hôm nay thì cử động càng linh hoạt hơn.

Tiêu Phong cả mừng nói:

- Hay quá! Cô ả tinh quái này lại nói dối ta rồi?

A Tử tia mắt thoáng lộ vẻ giảo quyệt mỉm cười nói:

- Chẳng thà em vĩnh viễn không nhúc nhích được hay hơn, vì có thế thì tỉ phu ngày nào cũng ngồi với em, chẳng hơn là em hết bệnh rồi tỉ phụ lại đuổi em đi!

Tiêu Phong nghe nàng nói bằng một giọng chân thành, quả nhiên chàng sinh lòng ái ngại cho nàng rủ rỉ hỏi:

- Ta thà là người thô lỗ cục cằn, mới sơ ý một lần mà đánh cô suýt uổng mạng, thì dù hàng ngày kề cận cô, phỏng chi là thú?

A Tử không trả lời, hồi lâu nàng mới hỏi khẽ:

- Tỉ phu ơi! Sao hôm ấy tỉ phu lại phóng chưởng đánh em mạnh đến thế?

Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu gạt đi:

- Thôi việc đã qua rồi, cô còn nhắc làm chi A Tử! Ta làm cô bị trọng thương như vậy, trong lòng rất hối hận, cô có giận tôi không?

A Tử đáp:

- Dĩ nhiên là em không oán giận. Tỉ phu thử nghĩ coi tại sao em không oán giận? Em chỉ mong được gần gũi tỉ phu, thì hiện nay tỉ phu chẳng ở liền bên cạnh em là gì? Thế là em thỏa lòng lắm rồi.

Tiêu Phong nghe nàng nói vậy, tuy ông biết nàng là một cô bé có những quan niệm kỳ dị. Song thực ra gần đây tính nết nàng đã khá nhiều, có lẽ vì mình đã hết lòng chăm nom săn sóc nàng, giết cọp săn gấu để chữa bệnh đồng thời làm cho tính khí ngang chướng của nàng tiêu tan đi nhiều.

Ông sắp sửa xe ngựa và đồ dùng rồi cùng A Tử đi về hướng Tây. Đi được mấy dặm A Tử bỗng hỏi Tiêu Phong:

- Tỉ phu đã đoán ra chưa?

Tiêu Phong nói:

- Đoán cái gì?

A Tử nói:

- Hôm ấy vì lý do gì em dùng độc châm để ám hại tỉ phu?

Tiêu Phong lắc đầu đáp:

- Ý nghĩ của cô trời không biết, quỉ không hay, làm sao ta đoán trúng được?

A Tử thở dài nói:

- Tỉ phu không đoán ra thì thôi, bỏ đi chẳng nghĩ đến làm chi nữa. Tỉ phu! Kìa! Kìa! Đoàn chim nhạn kia tại sao đang bay thành hàng xuống phương Nam?

Tiêu Phong ngẩng đầu lên thấy trên trời quả có hai đàn nhạn xếp thành hình chữ nhân bay xuống phương Nam liền đáp:

- Trời rét đến nơi! Nhạn là giống chim sợ rét, nên bay xuống phương Nam để tránh mùa giá lạnh.

A Tử lại hỏi:

- Đến sang xuân, sao chúng lại trở về xứ Bắc? Nếu chúng sợ rét lạnh sao không ở luôn miền Nam có hơn không? Mỗi năm một chuyến bay về chẳng vất vả lắm ư?

Tiêu Phong từ thuở nhỏ chỉ chuyên tâm học võ công, còn về đặc tính các loài cầm thú chẳng bao giờ ông khảo sát đến, giờ bị A Tử bất chợt hỏi tới ông không biết trả lời ra sao, chỉ lắc đầu cười nói:

- Ta chẳng hiểu lẽ gì mà loài nhạn không quản ngại khó nhọc vất vả, có lẽ vì chúng sinh trưởng ở xứ Bắc, nên không bỏ được tấm lòng lưu luyến cố hương.

A Tử gật đầu nói:

- Nhất định là vì thế rồi. Tỉ phu coi đó mà coi. Loài nhạn dù bé nhỏ như vậy, thế mà bay xuống miền Nam rồi, sau gia gia, má má, tỷ nương rồi tỉ phu chúng nó bay trở về miền Bắc dĩ nhiên chúng cũng theo về.

Tiêu Phong nghe A Tử nói đến bốn chữ "Tỉ nương", "Tỉ phu" không khỏi động lòng, quay lại nhìn nàng, thấy nàng đang ngơ ngẩn trông đàn nhạn bên trời, tỏ ra câu nàng vừa nói đó là sự ngẫu nhiên, chứ không phải đã nghĩ từ trước bất giác ông động lòng, nghĩ thầm:

- Nàng buột miệng nói câu này thì ra buộc cả ta cùng gia nương nàng vào một chỗ, đủ tỏ trong thâm tâm nàng đã coi ta là người rất thân tình trong nhà, thế thì ta không nên rời nàng nữa. Ta đành chờ cho nàng khỏi bệnh rồi đưa về Đại Lý để giao trả tận tay cha mẹ nàng mới xong trách nhiệm.

Hai người vừa đi đường vừa chuyện trò vui vẻ. Lúc nào A Tử mỏi mệt, Tiêu Phong lại ẵm nàng từ trên ngựa xuống đặt vào trong xe để nàng ngũ yên. Ban ngày đi, tối lại vào rừng ngũ đỡ. Tiêu Phong cùng A Tử đi vài ngày thì đến cánh đồng cỏ. A Tử nhìn cánh đồng cỏ bát ngát không biết đến đâu là hết thì khoan khoái vô cùng.

Nàng nói với Tiêu Phong:

- Tỉ phu ơi! Nếu mình cứ nhắm hướng Tây đi nữa, thì thật chẳng khác gì lạc vào giữa biển cả bao la bát ngát, nhìn ra bốn phía chẳng còn biết đâu là bờ nữa có lẽ càng thú.

Tiêu Phong biết ý A Tử muốn vào sâu đến khu rừng trung tâm cánh đồng này, ông không nỡ trái ý, gia roi cho ngựa chạy vào.

Hồi Thứ 46

Cuộc phiếm du đưa đến gặp Hoàng Gia

Kiều Phong cùng A Tử đi sâu vào trong cánh đồng cỏ mấy ngày liền. Nhằm gặp tiết thu, vòm trời quang đãng khí trời mát mẻ. Mùi cỏ êm dịu thoảng đưa hương man mát, khiến du khách cảm thấy tinh thần khoan khoái. Trong đồng cỏ rậm thiếu gì dã thú. Kiều Phong săn lấy nướng ăn, tâm hồn lâng lâng, chẳng bận một điều lo nghĩ chi hết.

Kiều Phong đi luôn mấy ngày nữa. Hôm ấy vào khoảng giờ ngọ ông nhìn phía trước mặt, ở tận đằng xa thấy vô số doanh trại, không hiểu là nơi đồn trú quân binh hay là nhà ở một bộ lạc nào đó.

Kiều Phong bảo A Tử:

- Phía trước kia là chỗ đông người trú ngụ, chúng ta quay về thôi để tránh mọi sự phiền lụy có thể xảy ra.

A Tử nói:

- Đừng! Đừng quay về vội. Em muốn lại đó chơi. Tỉ phu ơi Em mới cất nhắc được hai tay, còn hai chân vẫn thuỗn ra. Em làm gì được mà tỉ phu e chuyện rắc rối?

Kiều Phong cười nói:

- Những chuyện rắc rối đâu có phải do một mình cô gây ra, có khi từ người khác đưa đến cho mình, muốn tránh cũng không được.

A Tử cười nói:

- Nếu vậy thì ta cứ lại xem, không hề gì đâu?

Kiều Phong biết nàng còn tánh trẻ con, thích coi những nơi náo nhiệt liền buông cương cho ngựa đi từ từ về phía doanh trại. Cánh đồng cỏ mặt bằng phẳng, tuy trông thấy doanh trại rồi mà hãy còn xa. Kiều Phong cùng A Tử đi chừng được bảy tám dặm bỗng nghe tiếng hiệu tù và nổi lên inh ỏi, rồi thấy cát bụi mịt mù. Một đội kỵ mã chia làm hai cánh một toán chạy lên phía Bắc, một đội quay xuống phía Nam.

Kiều Phong kinh ngạc nói:

- Hỏng rồi! Lại bọn kỵ mã Khất Đan.

A Tử nói:

- Họ là đồng hương với tỉ phu, thế là hay tuyệt. Sao tỉ phu còn kinh hãi?

Kiều Phong đáp:

- Nhưng mình đã quen biết họ đâu? Thôi ta về quách chẳng ở lại lôi thôi.

Dứt lời ông bắt ngựa quay về lối cũ. Mới đi được mấy bước bỗng nghe trống thúc vang lên, tiếp theo lại thêm mấy đội kỵ mã Khất Đan xông tới.

Kiều Phong tự hỏi:

- Sao bốn mặt không thấy địch quân? Chắc là họ tập trận hay săn dã thú chi đây?

Bỗng nghe tiếng reo hò vang dội:

- Bắn đi! Bắn hươu đi!

Cả ba mặt Tây, Nam, Bắc đều thấy tiếng hô bắn hươu.

Kiều Phong nói:

- Té ra họ săn hươu, binh sĩ Khất Đan thanh thế lớn lắm.

Ông ôm A Tử ngồi trên lưng ngựa dừng lại ở mặt Đông để coi. Bọn kỵ mã Khất Đan đều trong mặc thiết giáp, ngoài khoát cẩm bào. Cách ăn mặc không khác gì lúc ra trận. Cẩm bào có nhiều màu sắc: một đội hồng bào, một đội thanh bào, một đội hoàng bào và một đội tử bào. Cờ hiệu đội nào cũng cùng màu sắc với cẩm bào đội ấy. Binh cường mã tráng, lui tới rong rủi, trông rất oai hùng.

Kiều Phong cùng A Tử trầm trồ khen ngợi.

Quân kỵ Khất Đan tung hoành tiến thoái theo đúng quân lệnh. Tên nào cũng cầm trường mâu đuổi hươu nai. Họ thấy Tiều Phong cùng A Tử cũng chỉ ngó qua, chứ không hỏi han chi hết. Ba cánh quân kỵ từ ba mặt dồn lại vây mấy chục con hươu vào giữa. Ngẫu nhiên một con chạy lọt qua chỗ trống ra ngoài vòng vây.

Kiều Phong đang đứng xem chợt có tiếng la to:

- Có phải Kiều đại gia đó không?

Kiều Phong tự hỏi:

- Không biết ai đã nhận ra mình?

Ông ngoảnh đầu nhìn ra thì thấy một người trong đội thanh bào chạy lại, chính là gã đội trưởng trước đây mấy tháng đã được Gia Luật Cơ phái mang đồ lễ đến Kiều Phong.

Gã còn cách Kiều Phong chừng mười trượng đã xuống ngựa lật đật đi bộ đến trước mặt ông, quỳ phục xuống đất, nói:

- Chủ nhân tiểu tốt hiện ở phía trước kia, cách đây không xa mấy. Người thường nhắc đến Kiều đại gia luôn, dường như nhớ mong đại gia lắm. Bữa nay cơn gió nào thổi đại gia đến đây? Xin kính thỉnh đại gia qua hội diện với chủ nhân tiểu tốt.

Kiều Phong nghe tin Gia Luật Cơ cũng ở gần đây thì vui mừng khôn xiết nói:

- Ta cũng đi chơi phiếm thôi, chả có việc gì cả, không ngờ nghĩa huynh ta cũng ở gần đây, thế thì may mắn biết chừng nào! Ngươi dẫn ta đến hội ngộ.

Gã đội trưởng vừa chủm môi huýt lên một tiếng sáo, đã thấy hai tên quân kỵ cưỡi ngựa chạy lại. Gã đội trưởng nói:

- Các ngươi lập tức về bẩm chủ nhân có Kiều đại gia bên núi Trường Bạch qua chơi nghe!

Hai tên kỵ binh nghiêng mình nhận lệnh rồi chạy như bay. Các đội khác vẫn tiếp tục săn hươu, gã đội trưởng đốc xuất đội kỵ binh áo xanh hộ vệ phía sau Kiều Phong và A Tử đi về hướng Tây.

Kiều Phong nghĩ thầm:

- Nghĩa huynh ta không phải tướng chắc cũng là một vị đại thần tại triều đình Khất Đan, nên mới có thanh thế lớn như vầy được. Bọn kỵ binh chạy lui chạy tới trong cánh đồng cỏ liên miên không ngớt. Tên nào bào giáp cũng mới tinh, đầy vẻ hùng tráng.

Gã đội trưởng nói:

- Bữa nay đại gia đến thật vừa khéo. Sáng mai ở đây có mở hội tưng bừng náo nhiệt.

Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử Thấy nàng lộ vẻ vui mừng, liền hỏi:

- Có cuộc chi mà tưng bừng náo nhiệt?

Đội trưởng đáp:

- Mai mở cuộc diễn võ. Số là có Khuyết Chân chỉ huy đội thị vệ trong cung Vĩnh Xương và cung Thái Hoà. Bọn quân Khất Đan chúng tôi đều thi đua võ công, chưa hiểu ai là người tốt phước tranh đoạt được chân chỉ huy này.

Kiều Phong nghe đến cuộc tỉ võ, tự nhiên thấy trong lòng hứng khởi, nở mặt nở mày, cười nói:

- Thế thì hay thật! Ta đang muốn hiểu biết võ công người Khất Đan.

A Tử cười nói:

- Anh đội trưởng ơi! Sáng mai anh trổ tài võ nghệ, tôi chúc cho anh được chức chỉ huy đội thị vệ.

Gã đội trưởng thè lưỡi ra rồi nói:

- Tiểu nhân đâu dám có gan dạ đó?

A Tử cười nói:

- Giành giựt chức chỉ huy có gì là khó. Anh đội trưởng ơi! Tên anh là gì?

Ðội trưởng đáp:

- Tiểu nhân tên gọi Thất Lý.

A Tử nói:

- Anh nhờ tỉ phu dậy mấy đường quyền thì lo gì không giành được chức chỉ huy?

Thất Lý mừng rỡ nói:

- Nếu được Tiêu đại gia chỉ giáo cho, tiểu nhân đã thấy làm tốt phước lắm rồi còn chức chỉ huy đó tiểu nhân không dám nghĩ đến.

Đoàn người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ. Đi chừng được một dặm bỗng có một đội kỵ binh chạy lại.

Thất Lý nói:

- Đây là đội Phi Hùng trong "Bì Thất Đại Trướng"

Đội quân này quân trang bằng da gấu. Áo bào khoác ngoài bằng da gấu đen, mũ cao bằng da gấu trắng, trông khí thế thật hùng dũng. Đội quân lại gần đến nơi. Tiếng hô dõng dạt vừa dứt, cả đội đều xuống ngựa, đứng sau hai bên đường đồng thanh nói:

- Xin kính cẩn nghênh tiếp Kiều đại gia!

Kiều Phong giơ tay đáp lễ:

- Không dám!

Rồi phóng ngựa đi trước, đội phi hùng phóng ngựa theo sau. Đi được vài dặm lại thấy đội Phi Hổ, mũ áo đều bằng da hổ đến đón tiếp.

Kiều Phong tự hỏi:

- Không hiểu Gia Luật Cơ ca làm quan đến chức gì mà dưới trướng có những đội quân oai phong như vậy?

Gã Thất Lý không nói ra, mà lúc Kiều Phong gặp Gia Luật Cơ cũng kiên quyết không chịu thố lộ địa vị của mình, nên ông cũng không muốn hỏi. Đi đến lúc xế chiều thì gặp một trướng lớn. Tại đây, một đội Phi Báo đội mũ mặc áo da báo ra nghinh tiếp Kiều Phong cùng A Tử vào trong trướng. Kiều Phong chắc mẫm vào đây là gặp Gia Luật Cơ ngay. Nào ngờ trong trướng chỉ thấy trên kỷ bày sẵn vô số món ăn và trái cây mà chẳng thấy chủ nhân đâu.

Gã đội trưởng Phi Báo vào nói:

- Chủ nhân tiểu tử xin Kiều đại gia hãy nghỉ tạm ở đây một đêm sáng mai hãy ra mắt chủ nhân tiểu tử.

Kiều Phong đã vào rồi cũng không hỏi gì nữa, ngồi xuống bên kỷ tự do ăn uống. Bốn tên tiểu đồng đứng rót rượu, thái thịt, hầu hạ một cách rất chu đáo.

Sáng hôm sau thức dậy lại đi một ngày nữa. Đội kỵ mã dẫn đường trông thẳng về phía Tây mà đi một mạch chừng hai trăm dặm. Xế chiều lại đến một trướng lớn vào ngủ tại đó thêm đêm nữa.

Vào khoảng giữa giờ Ngọ ngày thứ ba, đoàn người ngựa đang đi bỗng thấy Thất Lý nói:

- Đi quanh hết sườn núi này nữa là tới nơi.

Kiều Phong ngẩng đầu nhìn hình thế trái núi rất là hùng vĩ. Dưới chân núi một con sông lớn nước chảy cuồn cuộn xuốmg phía nam. Đoàn người đi quanh hết sườn núi quả thất cờ xí rợp trời tung bay phất phới. Cả bốn mặt Đông, Tây, Nam, Bắc đều có doanh trướng dày như bát úp. Hàng ngàn, hàng vạn kỵ binh, bộ binh đứng vây quanh một khu đất trống. Các đội kỵ mã Phi Hùng, Phi Hổ, Phi Báo đi hộ vệ Kiều Phong, tù và thổi lên inh ỏi. Đột nhiên hiệu trống thùng thùng lẫn tiếng pháo nổ rầm trời vang động cả khe núi. Quan binh giàn hàng tại khu đất trống rẽ ra hai bên. Một Đại Hán râu quăn quắt ngất ngưởng ngồi trên lưng con tuấn mã cao lớn sắc vàng đi ra.

Chính là Gia Luật Cơ.

Gia Luật Cơ cho ngựa chạy về phía Kiều Phong cất tiềng gọi:

- Kiều hiền đệ! Ca ca mong hiền đệ chết đi được!

Kiều Phong phóng ngựa lên đón. Hai người đồng thời xuống ngựa, tay cầm tay, mặt mày hớn hở, trong tâm xiết đỗi vui mừng!

Bốn mặt tướng sĩ hoan hô vang dội:

- Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Kiều Phong giật mình nghĩ thầm tự hỏi:

- Tại sao nơi đây lại nhiều tướng lãnh quan binh thế này. Người nào cũng khom lưng hoan hô "vạn tuế" là nghĩa làm sao?

Gia Luật Cơ dắt tay Kiều Phong đứng giữa trung quân, nhìn Đông ngó Tây ra chiều đắc ý. Kiều Phong ngơ ngác hỏi:

- Ca ca ơi! Phải chăng ca ca... ca ca là...

Gia Luật Cơ cười ha hả nói:

- Giả tỉ hiền đệ biết ta là đương kim Hoàng đế nước Đại Liêu thì ta e rằng hiền đệ không chịu kết nghĩa anh em với ta. Chính tên ta là Gia Luật Hồng Cơ. Hiền đệ đã có ơn cứu mạng ta, vĩnh viễn ta không quên được.

Kiều Phong tuy là người hiên ngang khí khái, nhưng trước nay chưa biết Hoàng đế bao giờ. Bữa nay ông thấy nghi thức phô trương cực kỳ long trọng thì không khỏi luống cuống.

Ông hoang mang nói:

- Tiểu nhân chưa được biết bệ hạ nên mới mạo phạm rất nhiều tội đáng muôn thác!

Nói xong toan quỳ xuống.

Nguyên ông là thần dân Khất Đan gặp Hoàng đế trong nước đương nhiên phải quỳ lạy.

Gia Luật Hồng Cơ vội nâng dạy cười nói:

- Không biết là không có lỗi. Hiền đệ đã cùng ta kết nghĩa Kim bằng. Bữa nay hai ta chỉ nói đến chuyện nghĩa khí mà thôi. Sáng mai hãy dùng nghi lễ của chúa tôi cũng chưa muộn.

Đoạn nhà vua vẫy tay một cái, ban cổ nhạc nổi chiêng trống hoan nghinh tân khách. Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Kiều Phong đi vào trướng lớn. Doanh trướng của hoàng đế nước Liêu mấy tầng lợp da trâu vẽ rồng vẽ phượng đủ màu sắc trông trông huy hoàng rực rỡ. Doanh trướng này gọi là "Bì thất đại trướng."

Gia Luật Hồng Cơ ngồi chính giữa mời Kiều Phong ngồi ghế bên. Văn võ bá quan nhất nhất tiến lên lạy mừng.

Những tước phẩm triều đình Khất Đan chia như sau:

Bắc Viện Đại Vương, Bắc Viện Khu Mật Sứ, Nam Viện Đại Vương, Nam Viện Khu Mật Sứ rồi đến đại soái, Thái Phó, Thái Bảo, bì Thất Đại Tướng Quân, Tiểu Tướng Quân, Mã Quân chỉ huy sứ...

Kiều Phong được nghe giới thiệu các quan tướng nhưng nhiều quá không nhớ xiết được. Đêm hôm ấy trong trướng mở tiệc lớn, người Khất Đan rất tôn trọng nữ giới, A Tử cũng được mời vào dự yến trong "Bì thất đại trướng." Thật là một tiệc yến, rượu như ao, thịt như núi không thiếu thứ gì, bất tất phải tường thuật.

Tiệc rượu đã nửa vời, hơn mười tên võ sĩ Khất Đan ra trổ tài trước mắt vua để giúp vui, người nào chân tay mau lẹ, khí lực hùng hậu, mỗi khi cử động đều theo một lối võ công siêu việt. Cách biến hóa tuy không xảo diệu bằng võ sĩ ở Trung Nguyên, song lối tiến ngay đánh thẳng của bọn này lúc lâm địch rất công hiệu.

Các quan chức văn ban võ phái người nào cũng đều mừng rượu Kiều Phong. Ông không cự tuyệt với một ai, có rượu đưa đến mừng là cạn chén. Ông uống có đến ngoài ba trăm chén rượu mà sắc mặt vẫn không thay đổi khiến cử tọa đều kinh hãi.

Gia Luật Hồng Cơ trước nay vẫn tự phụ mình võ công quán thế mà phen này bị Kiều Phong bắt cả nước đều biết tiếng. Y có ý muốn Kiều Phong trổ tài võ nghệ siêu quần để che lấp cái nhục ông bị bắt. Nhà vua không ngờ nguyên về tửu lượng Kiều Phong đã ghê gớm hơn người. Gia Luật Hồng Cơ đã có ý định ngày hôm sau nhân cuộc hội tỉ võ, yêu cầu Kiều Phong thi triển tuyệt kỹ cho quốc dân lác mắt. Nhưng bây giờ tửu lượng của ông đủ áp đảo quần hùng, người nguời đều đem lòng kính phục.

Gia Luật Hồng Cơ cả mừng nói:

- Kiều hiền đệ. Hiền đệ là một vị anh hùng hảo hán đệ nhất trong nước Đại Liêu ta.

Thốt nhiên một giọng nói trong trẻo vang lên:

- Không phải! Y mới là đệ nhị anh hùng!

Mọi người nge tiếng quay lại nhìn xem ai thì té ra là A Tử. Gia Luật Hồng Cơ hớn hở tươi cười hỏi:

- Tiểu cô nương! Y mới là đệ nhị vậy chớ đệ nhất anh hùng là ai?

A Tử đáp:

- Đệ nhất anh hùng hảo hán chính là bệ hạ. Tỉ phu tôi tuy bản lãnh nghiêng trời nhưng vẫn phải tuân theo bệ hạ không dám trái lệnh. Vậy bệ hạ là đệ nhất anh hùng chớ còn ai?

Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói:

- Cô nương nói phải! Cô nương nói phải!

Rồi Gia Luật quay lại nói với Kiều Phong:

- Kiều hiền đệ! Ta muốn phong cho hiền đệ một tước vị xứng đáng. Để ta nghĩ xem phong chức gì cho phải?

Lúc này nhà vua tửu lượng mười phần đã uống hết tám chín, đưa ngón tay lên gõ trán mấy cái ra chiều suy nghĩ.

Kiều Phong nói:

- Bệ hạ bất tất phải nhọc lòng, tiểu nhân tính tình thô lỗ, khó lòng hưởng thụ giàu sang. Trước nay quen thói hạc nội mây ngàn, tấm thân vô định, thực tâm không muốn làm quan.

Gia Luật Hồng Cơ nói:

- Không được! Để ta phong cho hiền đệ một chức quan lớn chỉ cần uống rượu mà không cần làm việc.

Chưa dứt lời bất thình lình có hiệu tù và inh ỏi từ xa đưa đến, tiếng tù và gay gắt dường như có việc gì khẩn cấp. Người nước Liêu đều ngồi trên chiếc chiếu trải dưới đất để dự tiệc vừa nghe tiếng tù và ai nấy đứng phắt dậy lộ vẻ kinh hoàng. Tiếng tù và đi rất mau. Hồi đầu tiên còn xa ngoài mười dặm, hồi thứ hai đã lại gần thêm mấy dặm. Đến hồi thứ ba chỉ còn mấy dặm mà thôi.

Kiều Phong nghĩ thầm:

- Con tuấn mã lẹ nhất đời hay khinh công tuyệt đỉnh của một nhân vật nào thì dù tìm khắp thiên hạ cũng không ai nhanh được như thế. Đây chắc là người Liêu đã dự bị cách truyền tin nhanh chóng để cáo cấp quân tình. Hiệu tù và ở trạm đầu nổi lên truyền đến trạm hai rồi cứ thế truyền đi.

Hiệu tù và mỗi lúc gần lại, đến phía ngoài ngoài "bì thất đại trướng" thì đột nhiên im bặt. Mấy trăm doanh trại đang mừng tiệc, hoan hô rầm rĩ rất là huyên náo, đột nhiên trở lại yên tĩnh không một tiếng động.

Gia Luật Hồng Cơ vẫn hớn hở tươi cười, từ từ nâng chén ngọc lên uống cạn rồi nói:

- Thượng kinh có kẻ phản loạn. Bây giờ chúng ta phải nhổ trại.

Hai tiếng "nhổ trại" nhà vua vừa nói ra, Quan Hành Quân Đại tướng quân lập tức chuyển mình ra khỏi doanh trại phát lệnh. Hiệu lệnh ban ra đến mười người rồi từ mười truyền đến trăm người từ trăm người ra đến ngàn người. Lát sau khẩu hiệu vang động cả một góc trời nhưng quân sĩ vốn rất nghiêm chỉnh và có thứ tự, tuyệt không nhốn nháo chút nào.

Kiều Phong nghĩ thầm:

- Nước Đại Liêu ta từ ngày lập quốc đến giờ đã hai trăm năm, oai phong lẫy lừng thiên hạ. Tuy có nội loạn mà quân tình vẫn nghiêm minh. Thế nên mấy triều Liêu chúa thống suất quân cơ rất có phương pháp.

Bỗng lại nghe tiếng vó ngựa dồn dập. Đội quân tiên phong đi trước. Tiếp theo là hai đội tả, hữu tiên phong. Tiền quân, tả quan, hữu quân, đã nhổ trại khởi hành.

Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Kiều Phong nói:

- Chúng ta cùng đi xem.

Hai người ra khỏi đại trướng. Tuy đêm tối nhưng mỗi mắt cờ hiệu đều có thắp đèn lồng xanh, đỏ, vàng, trắng, đủ màu sắc soi sáng. Mười mấy vạn đại quân nhằm phía đông nam tiến phát. Chỉ nghe tiếng vó ngựa hí và tiếng vó ngựa lộp cộp, không một tiếng người.

Kiều Phong tự nghĩ: "Phép trị quân nghiêm minh thế này có thể bách chiến bách thắng".

- Bữa trước, hoàng thượng cậy tài một mình đi săn mới bị ta bắt. Giả tỉ đại quân kéo đến thì Nữ Chân tuy kiêu dũng cũng không tài nào địch nổi với quân quá chênh lệch.

- Ta cũng mong thế...

Mọi người ăn cơm xong thì có thám tử thứ hai về bẩm báo:

- Nam Viện đại vương lập hoàng thái thúc lên kế vị và đã ban chiếu xuống nhân dân.

Gã không dám nói thêm nữa, hai tay nâng chiếu chỉ của hoàng đế dâng lên. Gia Luật Hồng Cơ đón lấy chiếu coi. Tờ chiếu đại khái tố cáo Gia Luật Hồng Cơ hoán đoạt ngôi vua. Trong chiếu nói rõ cả đến việc đức tiên đế đã lập Gia Luật Hồng Cơ Trọng Nguyên làm hoàng thái đệ hai mươi bốn năm trời, nhân dân điều biết. Tiên đế băng hà, Gia Luật Hồng Cơ cướp ngôi đoạt bảo, khiến cho trong triều ngoài nội đều nổi lòng căm phẫn. Hiện nay Hoàng thái đệ lên ngôi chính thống, đốc xuất binh mã trong nước đi dẹp kẻ hoán đoạt v. v... Tờ chiếu này có nhiều lời xách động quần chúng. Quân dân nước Liêu xem tất phải hoang mang.

Gia Luật Hồng Cơ cả giận, cầm chiếu thư ném vào đống lửa cho cháy thành tro bụi.

Nhà vua trong lòng nóng nảy lo phiền nghĩ bụng:

- Hoàng thái thúc giữ chức vụ thiên hạ binh mã đại nguyên soái, có thể điều động hơn tám mươi vạn binh mã. Huống chi con y là Sở Vương lại điều động thêm binh mã dưới trướng nữa, thì khí thế lợi hại vô cùng. Đây mình chỉ đem theo hơn mười vạn nhân mã đi hộ giá. Số quân quá chênh lệch quyết không địch nổi. biết làm thế nào?

Suốt đêm nhà vua trằn trọc ngủ không được. Kiều Phong nghe Liêu đế muốn phong quan tước cho mình, ông toan dẫn A Tử đang đêm bỏ đi ngay không từ biệt nữa. Nhưng lúc này ông thấy nghĩa huynh gặp bước hoạn nạn không tiện đi ngay.

Ông nghĩ rằng:

- Dù sao mình cũng phải ra sức giúp y một phen mới khỏi uổng tấm lòng tri ngộ.

Đêm hôm đó ông rảo bước đi chơi ngoài doanh trại, vẳng nghe có tiếng binh bàn tán, đều lo lắng cha mẹ vợ con đang ở Thượng Kinh nhất luật đều bị Hoàng thái thúc câu lưu hết e rằng tính mệnh không toàn.

Có lẽ nhớ đến người nhà đột nhiên buông tiếng khóc. Tiếng khóc này dường như tính cách truyền nhiễm. Một người vừa khóc lên hết thảy quan binh trong trại cũng khóc theo. Chỉ trong khoảnh khắc tiếng khóc vang trời náo động cả một vùng hoang dã. Tướng lãnh thống lĩnh ba quân bù cực lực cản trở hò hét khan cổ, mà cũng không ngăn nổi. Gia Luật Hồng Cơ nghe tiếng than khóc biết là điềm quân tâm tan vỡ thì trong lòng phiền não vô cùng.

Sáng hôm sau, lại có thám tử đến báo hoàng thái thúc cùng Sở vương thống lĩnh hơn ba mươi vạn binh mã đến đây phạm giá.

Hồng Cơ nghĩ bụng:

- Hôm nay, chỉ tiến chứ không thoái, dù sao cũng quyết một trận tử chiến.

Nghĩ vậy nhà vua liền triệu tập bá quan thương nghị. Quần thần đối với Hồng Cơ đều một dạ trung thành, nguyện hết sức quyết một trận tử chiến, nhưng ai cũng lo quân tâm nghiêng ngã.

Hồng Cơ truyền lệnh:

- Các quan binh phải ra sức dẹp kẻ phản loạn. Sau khi bình xong ngoài việc thăng quân còn được trọng thưởng.

Đoạn nhà vua mặc áo giáp vàng, đầu đội mũ trĩ thân hành thống lĩnh ba quân tiến về phía Hoàng thái thúc. Các quan quân thấy hoàng thượng thân hành cự địch đều phấn chấn hô vang:

- Vạn tuế!

Và thề liều chết cho vẹn lòng trung. Kiều Phong đeo cung cầm mâu theo sau Hồng Cơ để hộ vệ nhà vua. Hơn mươi vạn binh mã nhằm phía đông nam ào ào thẳng tiến. Thất Lý cầm đầu một đội Phi Hùng để hộ vệ A Tử đi theo toán hậu quân. Kiều Phong cưỡi ngựa theo sát Hồng Cơ, thấy ông tay phải cầm cương ngựa hơi run thì biết rằng nhà vua không nắm vững phần nào trong cuộc chiến tranh này.

Trong cánh đồng cỏ trừ tiếng vó ngựa dồn dập, không còn một thứ âm thanh nào khác. Đi đến giữa giờ ngọ, thốt nhiên nghe thấy tiếng tù và nổi lên inh ỏi, ai cũng hiểu là quân địch sắp đến nơi.

Tướng lệnh trung quân truyền ra:

- Xuống ngựa!

Bao nhiêu quân sĩ đều xuống ngựa hết, cầm cương dắt ngựa đi chỉ có Gia Luật Hồng Cơ cùng các đại thần là được ngồi nguyên trên lưng ngựa. Kiều Phong không hiểu sao kỵ binh phải xuống ngựa, ông lộ vẻ nghi ngờ.

Gia Luật Hồng Cơ thấy vậy cười hỏi:

- Hiền đệ ở Trung Nguyên đã lâu, chưa hiểu cách hành quân của người Khất Đan phải không?

Kiều Phong đáp:

- Tiểu nhân đang định xin bệ hạ chỉ giáo cho.

Gia Luật Hồng Cơ cười đáp:

- Các tiếng xưng hô: "bệ hạ" đó không biết có còn được hết ngày nay nữa không? Hiền đệ cùng ta nên kêu nhau bằng anh em. Song hiền đệ cứ gọi ta là bệ hạ hoài.

Kiều Phong nghe tiếng cười của nghĩa huynh có đượm vẻ chua cay liền nói:

- Vâng, vâng xin đại ca chỉ giáo cho.

Hồng Cơ nói:

- Cuộc giao phong ngoài bình nguyên điều cần nhất là phải dè dụm mã lực, thứ hai mới đến nhân lực.

Kiều Phong bấy giờ phải tỉnh ngộ nói:

- À, phải rồi! Sở dĩ kỵ binh phải xuống ngựa là để dưỡng sức cho ngựa đỡ mệt.

Hồng Cơ gật gầu nói:

- Dành sức ngựa để đến lúc lâm trận xung phong cho mạnh không sức nào ngăn trở được. Người Khất Đan đánh Đông dẹp Bắc bách chiến bách thắng phần lớn là nhờ ở bí quyết này.

Nhà vua nói đến đây, thanh âm trầm xuống vì thấy trước mặt cát bụi tung trời, chưa thấy người mà bụi đã bốc lên cao đến hơn mười trượng.

Hồng Cơ cầm roi ngựa trỏ về phía trước hỏi:

- Hoàng thái Thúc cùng Sở Vương đã lâu ngày từng trải chiến trận, đều là những kiện tướng của nước ta. Họ vẫn cho binh sĩ cưỡi ngựa phóng tới rất gấp sao không dè dặt mã lực? Chắc là họ nắm vững phần thắng, không còn e dè chi nữa.

Chưa dứt lời bỗng thấy tả quân và hữu quân đồng thời hiệu tù và. Kiều Phong dùng hết nhãn lực để nhìn ra xa thì thấy về phía Đông có hai cánh quân mã, phía tây có hai cánh, kể cả toán chính diện nữa là năm toán đánh ập vào một toán.

Gia Luật Hồng Cơ biến sắc, ra lệnh cho tướng chỉ huy trung quân:

- Ngươi cho hạ trại đi!

Tướng chỉ huy trung quân dạ một tiếng rồi phóng ngựa chạy ra truyền lệnh cho ba quân hạ trại. Lập tức các đội tiền quân và hữu quân đều quay lại. Bao nhiêu quân sĩ trồng cột dựng nên một tòa doanh trại rất lớn. Cả bốn mặt trước sau, tả hữu đều có kỵ binh đóng giữ. Mấy vạn quân cung nỏ nấp vào phía sau những cột lớn và dương cung sẵn sàng chỉ còn chờ lệnh là bắn ra.

Kiều Phong nhíu cặp lông mày nghĩ thầm:

- Cuộc đại chiến này chưa biết ai thắng ai bại, thì người cùng dòng giống Khất Đan cũng lâm vào thảm cảnh thây phơi đầy nội máu chảy thành sông. Nếu may mà nghĩa huynh thắng trận chẳng nói làm chi. Giả tỷ mà người bị hại, thì ta phải nghĩ kế cứu người cùng A Tử được an toàn và đưa đi ẩn lánh một nơi, còn cái ngôi hoàng đế chẳng làm thì thôi cũng chẳng cần gì.

Doanh trại của Liêu vừa mới dựng xong thì đội tiền phong bên phản loạn đã đến nơi. Đội tiền phong này không xông vào khiêu chiến, dừng ngựa ở đằng xa vừa tầm cung cứng tên mạnh bắn tới. Đồng thời hiệu trống và hiệu tù và liên thanh bất tuyệt. Các đội ngũ bên địch bao vây khắp bốn mặt, trận thế rất chỉnh tề không hỗn độn chút nào.

Kiều Phong đưa mắt nhìn ra thấy quân địch không biết cơ man nào mà kể, ông trông không rõ hết được, nghĩ bụng:

- Trận đánh này e rằng nghĩa huynh mình tất bị thất bại. Ban ngày khó lòng phá vòng vây để trốn thoát phải cần chống đỡ cho được đến đêm, trời tối mình sẽ tìm cách cứu nguy rồi chạy trốn.

Ông nhìn bóng nắng chiếu xuống những cây cột bóng hãy còn ngắn chủn, mặt trời mới qua ngọ chưa được mấy tý. Thốt nhiên không gian nổi lên mấy tiếng le te. Mọi người ngẩn nhìn lên thì ra một đàn nhạn đang bay lưng trời.

Gia Luật Hồng Cơ cũng ngẩng đầu lên nhìn đàn nhạn giây lát rồi gượng cười nói:

- Giả tỷ lúc này ta có hóa làm giống chim nhạn kia cũng khó lòng bay ra thoát khỏi vòng vây này.

Bắc Viện Đại Vương cùng viên tướng chỉ huy trung quân nhìn nhau thất sắc vì biết nhà vua thấy quân tình chênh lệch quá nhiều đâm ra khiếp sợ. Đột nhiên quân địch nổi trống trận vang trời.

Tướng chỉ huy trung quân bên Liêu chúa cũng lớn tiếng ra lệnh:

- Thúc trống!

Mấy trăm cái trống khua lên ầm ầm. Tiếng trống bên địch vừa dứt, mấy vạn kỵ binh reo hò vang động ca góc trời, cầm trường mâu xông lại. Đội tiền phong bên địch đa lại tới vừa tầm tên bắn. Tướng chỉ huy trung quân phất cờ một cái, tiếng trống im bật. Mấy vạn mũi tên đuôi có tra lộng bắn ra vun vút. Đội tiền phong bên địch tới tấp ngã ngựa.

Song hàng trước ngã thì hàng sau lại xô lên ào ạt. Những người ngựa phía trước ngã ra biến thành những ụ thịt đỡ tên cho những đội sau tiến lên. Quân cung nỏ bên địch dùng mộc che mình để tiến lên nhằm ngự doanh bắn vào.

Gia Luật Hồng Cơ lúc ban đầu rất là khiếp sợ, nhưng đã đến lúc tiếp chiến thì nhà vua lại hăng hái bội phần, tay phải cầm một thanh trường đao ra hiệu lệnh chỉ huy ba quân.

Hồi Thứ 47

Cuộc nội chiến rùng rợn giữa hai phe Khất Đan

Các tướng sĩ thấy Hoàng thượng thân hành đi trước nghênh địch liền cả tiếng hoan hô:

- Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Quân địch nghe thấy tiếng hô vạn tuế, ngoảnh đầu lên coi thấy Gia Luật Hồng Cơ mặc bào vàng giáp vàng đứng ở phía trước doanh trại. Nhà vua oai phong lẫm liệt khiến cho quân địch bỗng nhiên chùn lại không dám tiến nữa.

Gia Luật Hồng Cơ thấy cơ hội thuận lợi liền hô lớn:

- Đội tả quân kỵ binh xông trận!

Tướng chỉ huy cánh tả quân là Bắc Viện Khu Mật Sứ vừa nghe Hoàng thượng ra lệnh dẫn ba vạn kỵ binh quanh lại bao vây cạnh sườn mé hữu nghịch quân. Bên địch sau khi trông thấy Gia Luật Hồng Cơ, lòng quân đã nao núng, không đề phòng cánh quân tinh nhuệ trong ngự doanh hùng dũng xông ra.

Bắc Viện Khu Mật Sứ lại là một danh tướng nước Liêu. Quân hai bên giao chiến được hay thua là do khí thế mạnh hay yếu. Địch quân đang lúc do dự thì đội kỵ binh bên ngự doanh đã xông đến. Nghịch quân lập tức rối loạn hấp tấp lùi lại. Bên ngự doanh lại thúc trống trận, cho cánh hữu quân xông ra nữa. Nghịch quân vừa giao chiến mấy hợp bị thua phải rút lui. Ngự quân ào ạt đuổi theo như vũ bão.

Kiều Phong cả mừng la lên:

- Cung hỉ đại ca! Trận nầy bên ta toàn thắng rồi.

Gia Luật Hồng Cơ hạ trại xong, nhảy lên lưng chiến mã dẫn quân ra tiếp ứng. Bỗng nghe hiệu tù và nổi lên, cánh quân sinh lực bên địch xông ra. Chớp mắt, tên bắn dao đâm vèo vèo, cuộc tranh đấu kịch liệt vô cùng.

Kiều Phong kinh hãi nghĩ thầm:

- Bình sinh ta chưa từng thấy cuộc giao phong nào khốc liệt như bữa nay. Một người dù có bản lãnh thiên hạ vô địch ở giữa đám thiên binh vạn mã này, cũng hết đất dụng võ. Có giỏi chăng nữa cũng chỉ giữ mình cho khỏi mất mạng là may. Cuộc giao chiến giữa những toán quân khổng lồ này so với những cuộc tỉ võ một người hay nhiều người trong võ lâm thật khác nhau một trời một vực.

Bất thình lình phía sau mặt trận, nghịch quân nổi hiệu thanh la lui binh. Đội kỵ binh nghịch quân rút lui thì đội cung nỏ bắn tên ra như mưa để yểm hộ cuộc rút lui. Tướng chỉ huy trung quân cùng Bắc Viện Khu Mật Sứ dẫn quân xông trận ba lần đều không làm cho trận thế đối phương rối loạn được, mà bên ngự quân có đến vài ngàn binh sĩ bị bắn chết.

Gia Luật Hồng Cơ ra lệnh:

- Sĩ tốt tử thương quá nhiều rồi, hãy tạm lui quân!

Lập tức ngự doanh nổi hiệu thanh la lui binh. Bên nghịch quân phái hai đội xông ra tập kích song ngự quân đã chuẩn bị trước tránh bại rút lui rồi bổ vây hai bên. Hai đội nghịch quân độ ba ngàn người bị quân binh vây hãm, ngoài ra còn mấy trăm tên xuống ngựa đầu hàng. Gia Luật Hồng Cơ vẫy tay một cái, quân sĩ trong trại doanh cầm trường mâu ra đâm chết hết ba trăm tên quân địch này.

Hai bên đánh nhau trong vòng một giờ mà cuộc thảm sát tàn khốc dị thường, rồi cả hai bên cùng rút lui chủ lực cách xa nhau tầm tên bắn không tới được. Khu đất trống ở giữa hai mặt trận, thây phơi máu chảy ghê hồn những kẻ bị thương kêu gào thật thê thảm. Hai bên cùng cho đội quân áo đen ba trăm người chạy ra kiểm điểm những người bị thương. Kiều Phong tưởng họ ra khiêng thương binh về cứu chữa. Không ngờ đội áo đen này ra đến nơi rút đao chém hết những thương binh đối phương. Sau khi chém chết hết rồi, quân áo đen hai bên la hét om sòm quay ra đánh nhau.

Kiều Phong thấy hai đội quân áo đen này tuy nhân số chẳng có là bao nhưng đều là những tay võ giỏi. Ánh đao lấp lánh hai bên chiến đấu cực kỳ kịch liệt. Chỉ trong khoảnh khắc đã có đến hai trăm tên bị chém chết ngã lăn xuống đất. Đội quân áo đen bên ngự doanh mạnh hơn, mới bị chết có mấy chục người, thành ra số còn lại hai ba người hợp lại chọi một và thế được thua đã hiển nhiên.

Đánh thêm một lúc nữa số người nhiều ít càng chênh lệch nhau ba bốn gã quân binh một tên nghịch quân. Lạ thay quân hai bên chỉ reo hò trợ oai, mấy chục vạn nghịch quân cũng thỏng tay bàng quang chứ không thêm binh tiếp viện. Sau cùng ba trăm nghịch quân áo đen đều bị giết hết. Đội ngự quân áo đen còn trở về được hơn một trăm ba mươi tên.

Kiều Phong nghĩ thầm:

- Đây hẳn là thể lệ tranh đấu của người Liêu như vậy?

Nhìn vào cuộc chiến tranh khốc liệt này, tuy lề lối đã kém xưa nhiều nhưng chí phấn đấu kinh hồn động phách của hai bên hãy còn thấy rõ.

Gia Luật Hồng Cơ giơ cây trường đao lên, lớn tiếng truyền lệnh:

- Nghịch quân tuy nhiều nhưng tướng sĩ không có lòng chiến đấụ Bên ta lại tiếp tục một trận nữa chắc phải thua.

Ngự quân nhất tề hoan hô:

- Vạn tuế! Vạn vạn tuế!

Tiếng hoan hô vừa dứt bỗng nghe bên địch quân nổi hiệu tù và. Ba người cưỡi ngựa từ từ đi đến. Người đi giữa hai tay cầm một mảnh da dê giương ra cất tiếng dõng dạc đọc, thì ra đây là chiếu thư của Hoàng thái Thúc. Tờ chiếu như sau: "Gia Luật Hồng Cơ cướp ngôi, y chỉ là ngụy quân. Hiện nay Hoàng thái Thúc lên ngôi chính thống. Vậy đã là quan binh trung thành của nước Đại Liêu, phải lập tức về triều quy thuận. Tân hoàng đế nhất lượt gia phong tam cấp."

Mười mấy tay cung nỏ bên ngự quân phóng tên ra veo véo nhằm bắn vào người đọc chiếu thư. Người này được hai gã đi hai bên giơ mộc lên che đỡ phía trước. Người đứng giữa toan tiếp tục đọc nữa thì đột nhiên ba con ngựa đều bị bắn trúng ngã khuỵu xuống. Ba gã ẩn mình vào phía sau những lá mộc và một gã tiếp tục đọc xong chiếu thư của Hoàng thái Thúc rồi lui về bản trận.

Bắc Viện Đại Vương thấy quan binh dưới trướng mình khi nghe xong ngụy chiếu thư có ý ngã nghiêng, liền hạ lệnh:

- Các ngươi ra thóa mạ lại đi!

Ba chục tên quan binh liền ra đứng trước trại. Hai mươi tên giơ mộc lên che đỡ cho mười tay mạ thủ già giọng lớn tiếng thóa mạ.

Gã mạ thủ đầu tiên lớn tiếng mắng:

- Những tên phản quốc gian tặc kia! Chúng bay chết không có đất mà chôn đến nơi rồi!

Sau gã thứ nhứt, gã mạ thủ thứ hai nhiếc mắng còn tệ hại hơn. Những tên về sau càng buông những lời tục tĩu ra chửi rủa. Kiều Phong chưa biết tiếng Khất Đan mấy, nên ông không hiểu những câu chửi rủa này, chỉ thấy Gia Luật Hồng Cơ gật đầu lia lịa ra chiều đắc ý thì chắc rằng những tay "mạ thủ" này đã chửi bới một cách hay ho.

Kiều Phong lại đưa mắt nhìn sang bên trận địch thì thấy xa xa có chỗ che tàn che tán, ánh vàng rực rỡ và có hai người cưỡi tuấn mã đứng tay cầm roi ngựa chỉ trỏ. Một người đầu đội mũ bình thiên, mình mặc áo hoàng bàọ Dưới cằm chòm râu dài đã lốm đốm bạc. Còn một người mặc áo giáp vàng lấp lánh dưới bóng dương quang. Người này mặt mũi gầy nhom nhưng có vẻ tinh thần tráng kiện.

Kiều Phong nghĩ thầm:

- Coi điệu bộ này thì hai người đó chắc là cha con Hoàng thái Thúc và Sở Vương.

Thốt nhiên mười gã mạ thủ ngừng lại thầm thì bàn nhau một hồi lại ngoạc mồm gân cổ bới móc những việc thầm kín của Hoàng thái Thúc cùng Sở Vương ra mà chửi rủa. Hoàng thái Thúc dường như là người chính trực xuất thân, không chửi mắng vào chỗ nào được, mười gã mạ thủ chỉ xỉa xói vào Sở Vương. Họ kể tội y nào: "Gian dâm phi tần của phụ thân, nào cậy thế cha làm càn."

Những câu chửi bới này để ly gián cảm tình giữa hai cha con. Cả mười tên đồng thanh chửi bới rất to và rất nhịp nhàng, thanh âm vọng ra xa đến mấy dặm. Mấy chục vạn quân sĩ bên địch đến quá nửa nghe được rõ ràng. Sở Vương cầm roi ngựa vẫy một cái nghịch quân la lối om xòm. Tiếng la vang dội cả góc trời làm át mất hẳn tiếng chửi bới của mười tay mạ thủ.

Sau một hồi náo loạn bỗng thấy quân địch rẽ ra hai bên để đẩy mười chiếc xe ra đến trước ngự doanh. Xe dừng lại, những tên quân theo xe lôi mấy chục đàn bà con gái ở trong xe xuống. Có bà già tóc bạc phơ. Có cô trạc tuổi đang xuân. Người nào cũng ăn mặc cực kỳ lịch sự. Bọn đàn bà vừa ra khỏi xe thì tiếng chửi mắng đôi bên đều im bặt.

Gia Luật Hồng Cơ kêu thét lên:

- Mẫu thân ơi! Mẫu thân! Hài nhi phải bắt quân nghịch phân thây muôn đoạn để báo thù cho mẫu thân.

Nguyên bà già tóc bạc này là đương kim Hoàng thái hậu, tức Tiêu thái hậu, mẫu thân Gia Luật Hồng Cơ, còn ngoài ra là Tiêu hoàng hậu, các vị phi tần, Công chúa vân vân...

Hoàng thái thúc cùng Sở Vương thừa dịp Hồng Cơ ra ngoài săn bắn nổi loạn bao vây cung cấm, bắt Hoàng thái hậu cùng hết thảy gia quyến nhà vua.

Hoàng thái hậu lớn tiếng nói:

- Xin bệ hạ đừng lấy thân già này cùng vợ con làm trọng, phải hết sức giết giặc!

Mấy chục tên quân rút đao ra kề vào cổ đám hậu phi. Bọn phi tần nhỏ tuổi khóc lóc kêu gào. Hồng Cơ cả giận quát to:

- Bắn chết hết những kẻ kêu gào khóc lóc kia đi!

Tên bay lách cách bắn ra hơn mười mũi, bao nhiêu phi tần công chúa đều bị chết hết dưới mũi tên tàn bạo.

Hoàng hậu reo lên:

- Bệ hạ bắn là phải lắm! Cơ nghiệp của tổ tông truyền lại không thể để rơi vào tay bọn gian thần tặc tử!

Sở Vương thấy Hoàng thái hậu cùng hoàng hậu đều quật cường chẳng những không uy hiếp được Hồng Cơ mà lại làm cho lòng quân bên mình nghiêng ngửa, liền hạ lệnh:

- Bắt những người đàn bà đó bỏ lên xe đẩy lùi lại.

Bọn quân sĩ bắt Hoàng thái hậu bỏ lên xe rồi đẩy lùi lại phía sau trận tuyến. Sở Vương lại hạ lệnh:

- Đẩy xe chứa gia đình quan quân bên địch vào trong trận.

Chợt nghe thấy tiếng sáo trúc nổi lên, thanh âm rất thê thảm. Quân mã rẽ sang hai bên, tiếng lọc cọc đẩy ra. Một dãy dài già trẻ trai gái từ phía sau đưa ra mặt trận, tiếng khóc vang trời. Đây là gia quyến của các tướng sĩ trong ngự doanh.

Đám quan binh trong ngự doanh là những thân quân kề cận Liêu đế nên Gia Luật Hồng Cơ ưu đãi họ đặc biệt cho gia quyến được vào ở thượng kinh. Một là khiến họ đem lòng cảm kích, lúc có việc sẽ liều mình chết, hai là để giám thị toán quân tinh nhuệ này không dám đem lòng phản trắc. Ngờ đâu chuyến này đi săn biến loạn xảy ra từ trong nhà người thân tín của nhà vua là Hoàng thái thúc làm phản.

Gia thuộc bọn quan binh ngự doanh này có đến trên hai mươi vạn người. Trong đó có nhiều người vì lúc rối loạn mà bắt lầm. Trong lúc nhốn nháo không xét rõ được ai thuộc vào hạng gia quyến bên địch. Chỉ thấy một đoàn trai gái dắt díu nhau đều bị giải ra trước trận. Bất quá độ hai vạn người đáng bị bắt. Còn ngoài ra đều là những người khác ở thượng kinh cũng bị bắt trong lúc nhốn nháo và đưa cả đến đây.

Sở Vương sai một tướng dưới cờ tung ngựa ra trận lớn tiếng gọi:

- Các quan binh ngự doanh nghe đây! Gia quyến các ngươi đều bị bắt. Hễ ai đầu hàng sẽ được thăng quan và trọng thưởng. Còn kẻ nào không đầu hàng thì tân Hoàng đế ra lệnh đem gia quyến ra chém hết.

Người Khất Đan vốn tính tàn nhẫn hiếu sát đã nói chém giết là chém giết thật sự chứ không phải chỉ hăm dọa mà thôi.

Các quan binh trong ngự doanh có một số nhận ra người nhà lên tiếng gọi nhau:

- Gia gia! Má má! Hài tử! Phu quân! Hiền thê!

Tiếng gọi nhau náo loạn lên. Bỗng nghe trống bên địch thúc vang, hai nghìn tên đao phủ đi bộ xông ra tay cầm đại đao sáng loáng. Tiếng trống vừa dứt, hai nghìn thanh đại đao giơ lên nhằm vào đầu bọn gia quyến quan binh.

Viên tướng vừa rồi lại gọi to:

- Ai về đầu hàng tân Hoàng đế sẽ được trọng thưởng. Còn ai không hàng thì gia đình sẽ bị giết hết.

Gã vẫy tay một cái trống lại nổi lên...

Tướng sĩ bên ngự doanh biết rằng hồi trống dứt, viên tướng kia vẫy tay ra hiệu là hai ngàn thanh đao chém xuống.

Nguyên quan quân này trước đây vẫn một lòng trung với Hồng Cơ, Hoàng thái thúc cùng Sở Vương biết rằng đem mồi thăng quan ra nhử không lôi kéo được họ, nên phải đem cha mẹ vợ con cho họ mắt thấy cảnh gia đình bị tàn sát tất phải khiếp sợ.

Trống thúc liên hồi không ngớt. Thân quân trống ngực đánh thình thình. Đột nhiên, trong ngự doanh có một người chạy ra kêu òm lên:

- Má má ơi! Má má! Đừng giết má tôi!

Gã quăng mâu xuống, hộc tốc chạy về phía bà lão trong trận bên địch. Trong ngự doanh bắn tên ra véo một cái trúng vào lưng gã, nhưng gã chưa chết cứ chạy băng băng về phía mẫu thân. Những tiếng gọi nhau ơi ới. Con gọi cha, anh gọi em, vợ gọi chồng, nhốn nháo cả lên. Liền một lúc mấy trăm người trong ngự doanh ùa chạy sang trận địch. Những quan chức thân tín của Gia Luật Hồng Cơ rút kiếm chém lia mà không ngăn lại nổi.

Trước còn mấy trăm người sau đến hàng ngàn người chạy đi. Thật là một cuộc đại loạn. Trong số mười lăm vạn quân dã chạy đi mất tám, chín vạn. Gia Luật Hồng Cơ thở dài sườn sượt.

Nhà vua biết rằng đại cuộc hỏng mất rồi, liền nhân lúc bọn thân quân bỏ trại chạy đi nhận gia quyến, hạ lệnh:

- Nhổ trại rút lui về phía núi Thương Mang ngã Tây Bắc.

Tướng chỉ huy trung quân mật truyền hiệu lệnh cho số quân còn lại chưa đầu hàng chừng độ năm sáu vạn người. Tiến đội đổi làm hậu quân, hậu quân đổi làm tiền đội nhổ trại về phía Tây Bắc. Sở Vương vội truyền lệnh cho quân kỵ đuổi theo, song trên bãi chiến trường gia đình binh sĩ già trẻ lớn bé đày dẫy làm nghẽn cả lối đi. Khi dẹp được đường cho quân kỵ rượt theo thì ngự quân đã chạy xa rồi.

Trên năm vạn thân quân chạy đến chân núi Thương Mang thì trời dã hoàng hôn. Quân sĩ vừa đói vừa mệt nhọc, lập doanh trại trên sườn núi đẻ tiện việc phòng thủ ở trên đánh xuống. Thân quân lập trại vừa xong chưa kịp nấu cơm thì Sở Vương đã tự mình thống lĩnh toán quân tinh nhuệ đuổi đến chân núi. Sở Vương lập tức hạ lệnh xung phong đánh lên sơn trại.

Nhưng thân quân ở trên núi bắn xuống như mưa. Nghịch quân vừa bị chết vừa bị thương có đến trên ba ngàn người. Sở Vương thấy thế trận bất lợi liền hạ lệnh thu binh, đóng trại dưới chân núi. Tối hôm ấy, Gia Luật Hồng Cơ đang đứng bên sườn núi nhìn ra xa thấy doanh trại nghịch quân đèn đuốc như sao sa. Từ phía xa cũng thấy ánh lửa chập chờn, đó là hậu đội nghịch quân cũng kéo đến tham chiến.

Nhà vua lòng buồn rười rượi muốn vào trướng yên nghỉ, đột nhiên Bắc Viện Khu Mật Sứ chạy đến báo cáo:

- Một vạn năm ngàn quân mã dưới trướng hạ thần bỏ chạy xuống núi đầu hàng nghịch tặc. Hạ thần trị quân không nghiêm, tội đáng muôn thác.

Gia Luật Hồng Cơ vẫy tay nói:

- Cái đó không thể trách ngươi được. Thôi vào nghỉ đi.

Nhà vua quay lại nhìn thấy Kiều Phong đứng bên cạnh đang ngớ ngẩn xuất thần, liền bảo:

- Đến sáng mai, nghịch quân sẽ kéo đại binh đến vây đánh, chúng ta sẽ bị bắt hết. Ta là một vị Quốc quân không thể chịu nhục với bọn nghịch tặc, sẽ tự vẫn để báo đền xã tắc, hiền đệ ơi! Hiền đệ đưa cô em trong lúc đem tối trốn đi! Võ công hiền đệ rất mực cao cường, nghịch quân không ngăn trở được đâu.

Nhà vua nói đến đây, vẻ mặt thê lương nói tiếp:

- Ta những tưởng ban cho hiền đệ quyền cao chức trọng, hưởng thụ phú quý. Ngờ đâu đến tính mệnh ca ca không giữ được, còn làm liên lụy đến cả hiền đệ.

Kiều Phong nói:

- Bậc đại trượng phu phải biết đường lui tới. Hôm nay bại trận tiểu đệ bảo hộ đại ca trốn đi chiêu tập những người trung nghĩa mưu đường phục quốc.

Hồng Cơ lắc đầu nói:

- Nay ta không giữ được tính mệnh cho lão mẫu cùng thê tử, sao còn được gọi là bậc Đại trượng phu? Dưới con mắt người Khất Đan, kẻ thắng là anh hùng, người thua thành phản nghịch. Ta bị một trận tan tành, còn mong gì trung hưng cơ nghiệp. Hiền đệ trốn đi thôi!

Kiều Phong biết Hồng Cơ đã nói thực tình, ông khẳng khái đáp:

- Đã thế thì sáng mai tiểu đệ cùng đại ca ra quyết một trận sống mái với quân địch. Chúng ta đan kết nghĩa kim lan thì đại ca làm hoàng đế hay thường dân cũng vậy thôi. Kiều Phong này lúc nào cũng coi đại ca là nghĩa huynh. Huynh trưởng gặp nạn kẻ làm em phải liều cùng sống chết, có lý đâu chạy trốn lấy một mình?

Gia Luật Hồng Cơ hai hàng nhiệt lệ tuôn rơi, cầm tay Kiều Phong nói:

- Hiền đệ ơi! Hiền đệ thật là người có nghĩa khí ta rất cảm tạ.

Kiều Phong về trướng mình thấy A Tử nằm trong góc, hai mắt mở thao láo, thì ra nàng vẫn chưa ngủ. Nàng hỏi:

- Tỷ phu có giận em không?

Kiều Phong lấy làm lạ hỏi lại:

- Giận cô điều chi?

A Tử nói:

- Chúng ta gặp tai nạn này là tự em gây ra. Nếu em không đòi ra du ngoạn ngoài cánh đồng cỏ thì đâu đến nỗi bị khốn ở đây. Tỷ phu ơi! Chúng ta đành chịu chết tại chốn này rồi phải không?

Ánh lửa đỏ ngoài trướng soi vào bộ mặt lợt lạt của nàng thoáng hiện nét ửng hồng, trông càng thêm vẻ non nớt. Kiều Phong cảm thấy xót thương nói:

- Tôi giận cô thế nào được? Nếu tôi không đánh cô đến bị thương thì đã không tìm đến chốn này.

A Tử tủm tỉm cười nói:

- Nếu em không phóng độc châm thì việc gì tỷ phu đánh em đến bị thương?

Kiều Phong đưa tay ra vuốt ve mái tóc A Tử. Nhưng từ khi nàng bị thương, tóc rụng mất quá nửa. Mớ tóc còn lại đã ít lại vàng khè.

Kiều Phong khẽ thở dài một tiếng nói:

- Cô còn bé bỏng thế này mà đã chịu khổ sở vì tôi.

A Tử nói:

- Tỷ phu ơi! Trước em không biết làm sao tỷ nương lại ưa tỷ phu? Nhưng về sau em hiểu ra rồi.

Kiều Phong nghĩ bụng:

- Tỷ nương cô thâm tình biết là chừng nào. Cô còn nhỏ đã biết gì. Thực ra vì sao mà A Châu lại thương yêu một kẻ thô lỗ như mình. Chính mình cũng còn chẳng hiểu thì cô này biết thế nào được?

A Tử nghoảnh đầu lại, nét mặt lộ vẻ kỳ dị nói:

- Tỷ phu! Tỷ phu có biết tại sao hôm ấy em bắn độc châm vào tỷ phu? Em không muốn bắn chết tỷ phu, mà chỉ chủ tâm bắn cho tỷ phu không nhúc nhích được, để em được kề cận luôn bên mình.

Kiều Phong hỏi:

- Thế thì có chi là thú?

A Tử mỉm cười nói:

- Khi tỷ phu không cử động được thì vĩnh viễn không thể xa em. Nếu không thì lúc nào tỷ phu ghét em lại bỏ đi, không thèm nhìn gì đến nữa.

Kiều Phong nghe nàng nói tuy ra vẻ con nít nhưng không khỏi hãi hùng. Ông biết rằng không phải buột miệng nói hồ đồ, nên lại càng thương xót và nghĩ thầm: "Sáng mai chắc là phải chết. Thôi ta an ủi cô này mấy câu."

Nghĩ vậy ông nói:

- Cô nghĩ như vậy thực trẻ con quá. Nếu cô thực tình ưa tôi, sao không nói thật ra thử xem tôi có chịu không nào?

Cặp mắt A Tử đột nhiên sáng ngời, lộ vẻ vui mừng nói:

- Tỷ phu ơi! Sau khi thương thế em khỏi rồi, em vẫn đi theo tỷ phu, vĩnh viễn không trở về nơi sư phụ phái Tinh Tú nữa. Tỷ phu đừng bỏ em nhé!

Kiều Phong biết A Tử đã gây nên vạ lớn với phái Tinh Tú, đúng là nàng không dám về đó nữa. Sáng mai đây, đội quân của Hoàng Thái Thúc đánh lên sơn trại, ngọc đá đều ra tro hết, khó lòng có cơ trốn thoát được.

Nghĩ vậy ông liền cười nói:

- Cô làm Đại sư tỷ phái Tinh Tú mà không trở về thì khác gì để họ như rắn mất đàu, làm sao tiện?

A Tử cười đáp:

- Để cho bọn họ rối loạn với nhau một mẻ, em không bận tâm gì đến bọn họ nữa.

Kiều Phong kéo chăn đắp cho nàng rồi cũng giải tấm chiên ra nằm xuống một góc trường. Ánh lửa ngoài trương chập chờn lúc tắt lúc sáng, vẳng nghe tiếng khóc ầm ĩ bên tai. Kiều Phong biết đó là bọn ngự quân nghĩ đến gia đình. Chúng cũng tự hiểu sáng mai khôn toàn tính mệnh, nhưng vì tấc dạ trung trinh với Hoàng thượng mà không chịu phản bội.

Sáng sớm hôm sau, Kiều Phong tỉnh dậy bảo gã đội trưởng Thất Lý chuẩn bị ngựa tốt, trông nom cho A Tử, ông mặc quần áo gọn ghẽ ăn hết hai cân thịt dê, uống một cân rượu rồi chạy ra sườn núi.

Lúc này trời còn tối om. Nhưng chẳng bao lâu thì trời rạng đông. Trong trại địch, hiệu tù và nổi lên vang động, rồi tiếng khí giới va chạm chan chát. Bên ngự doanh một đội binh mã kéo ra phòng vệ các nơi hiểm yếu. Tiêu Phong ở trên cao nhìn xuống thấy ba mặt Đông Nam và Tây đầu người lố nhố toàn là địch quân. Một màn sương trắng bao phủ ngoài xa nên không trông rõ. Lát sau vừng thái dương đã nhô lên đầu ngọn cỏ, muôn đạo hào quang chiếu ra bắn tan chỗ sương mù dày đặc. Kiều Phong trông rõ toàn là quân mã bên địch. Đột nhiên trống trận nổi lên, hai đội quân địch mang hiệu cờ vàng tiến ra theo sau Hoàng Thái Thúc cùng Sở Vương.

Hai vị này cưỡi ngựa đến chân núi, giơ tay chỉ trỏ lên trên núi ra chiều đắc ý. Gia Luật Hồng Cơ xuất lĩmh đội thị vệ đứng trên sườn núi thấy vậy, lửa giận bốc lên ngùn ngụt, nhắc lấy cây cung của một tên quân trong đội thị vệ. Đứng trên núi nhòm xuống tựa hồ địch đã gần kềmà thật ra hãy còn cách xa. Tên bắn rà mới đến nửa vời đã rơi xuống đất.

Sở Vương cười ha hả nói:

- Hồng Cơ! Ngươi cướp ngôi của gia gia ta làm ngụy quân đã bấy nhiêu lâu nên nhường ngôi lại đi. Ngươi mau mau đầu hàng, gia gia sẽ tha chết cho và cũng gia nhân nghĩa phong cho ngươi làm chức Hoàng thái điệt.

Nói xong y lại cười ha hả.

Mấy câu này rõ ràng Sở Vương có ý châm chọc Hồng Cơ đã giả nhân nghĩa phong cho Gia Luật Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc.

Hồng Cơ cả giận mắng lại:

- Quân phản tặc vô liêm sĩ kia! Sao còn dám mở miệng nói càn.

Bắc Viện Khu Mật Sứ nói:

- Vua nhục thì bầy tôi phải chết. Chúa thượng đối với hạ thần ơn nặng tày non. Hôm nay chính là lúc hạ thần báo ơn chúa thượng.

Nói xong Khu Mật Sư lãnh ba ngàn thân binh reo hò xuống núi. Ba ngàn người này là những tay dũng sĩ Khất Đan. Chuyến này họ biết mình thế nào cũng chết, nên ai nấy cũng liều mình, một người đánh lại mười, reo hò xông trận, chiến đấu một cách cực kì anh dũng, khiến cho địch quân lập tức phải lùi lại hơn một dặm.

Sở Vương phất cờ hiệu. Mấy vạn quân mã lại tiến lên. Tiếng đao thương va chạm nhau lẫn tiếng người huyên náo vang động cả một góc trờị Máu thịt bắn lên tung tóe. Ba ngàn quân mỗi lúc một mòn đi rồi sau cùng bị chết hết. Bắc Viện Khu Mật Sứ ra sức chém giết thêm mấy người nữa rồi tự đâm cổ mà chết. Hồng Cơ cùng Kiều Phong ở trên núi trông xuống rất rõ nhưng không có cách nào cứu được. Trong lòng hai vị xiết bao cảm kích tấc dạ trung thành của con người liệt sĩ đều phải sa nước mắt.

Sở vương lại ruổi ngựa đến chân núi cười nói:

- Hồng Cơ! Bây giờ ngươi đã chịu đầu hàng chưa? Ngươi chỉ còn chút ít quân mã thì làm gì được? Bọn thủ hạ ngươi đều là dũng sĩ nước Đại Liêu. Sao ngươi nỡ để họ chết uổng theo ngươi. Đã là một đấng nam nhi, một bậc đại trượng phu thì phải cả quyết mau lẹ. Hàng thì hàng lẹ, đánh cũng đánh ngay. Nếu đã biết mình sức cùng lực kiệt thì nên tự vận mà chết để tạ tội với thiên hạ, khỏi làm uổng mạng sĩ tốt.

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, hai mắt đẫm lệ, tay cầm thanh đao nói:

- Giang sơn cẩm tú nhường cho cha con nhà ngươi. Thế là giữa tình chú cháu, anh em đã cốt nhục tương tàn. Sao còn giết hại dũng sĩ Khất Đan.

Nói xong giơ đao lên toan đâm cổ. Kiều Phong giơ bàn tay dài như tay vượn ra thi triển Cẩm nã thủ pháp cướp lấy thanh đao trong tay Gia Luật Hồng Cơ nói:

- Đại ca là bậc anh hùng hảo hán, có chết thì chết ở chiến trường, cớ sao lại tự vẫn?

Hồng Cơ thở dài nói:

- Hiền đệ ơi! Ở đây có bao nhiêu tướng sĩ theo ta đã lâu ngày ta không nỡ ra nơi trận địa, để bọn họ phải hộ vệ ta mà uổng mạng.

Bỗng nghe Sở Vương lớn tiếng gọi:

- Hồng Cơ! Ngươi chưa tự vẫn đi còn đợi đến bao giờ?

Tay gã cầm roi chỉ trỏ ra chiều đắc ý vô cùng. Kiều Phong thấy Sở Vương mỗi lúc một đến gần thì nghĩ ra một kế, khẽ nói với Hồng Cơ:

- Đại ca đối thoại với y để kéo dài câu chuyện, tiểu đệ lần mò đến gần y để bắn một phát.

Hồng Cơ vốn biết Kiều Phong bản lãnh phi thường mừng thầm nói:

- Kế ấy hay lắm! Nếu bắn chết được y thì dù ta có mất mạng cũng nhắm mắt được.

Nhà vua liền cất cao giọng nói:

- Sở Vương kia! Ta đối đãi với cha con ngươi có điều chi tệ bạc? Phụ thân ngươi muốn làm Hoàng đế thì làm chứ sao? Hà tất phải sát hại bao nhiêu tướng sĩ cùng trăm họ, làm tổn thương đến nguyên khí nước Đại Liêu ta?

Kiều Phong cầm một cây cung cứng, mười mũi tên lang nha, dắt một con tuấn mã từ từ ra sườn núi. Ông né người xuống chui xuống vào gầm bụng ngựa, hai chân móc lên lưng ngựa thích mạnh một cái cho ngựa chạy xuống.

Bọn nghịch quân dưới chân núi thấy con ngựa không có người cưỡi chạy xuống đều cho là ngựa đứt dây cương chạy rông, chẳng lấy chi làm lạ, không ai buồn để ý. Ngựa chạy xuống mỗi lúc một gần, một tên quân trông thấy dưới gầm bụng ngựa có người ẩn nấp, lập tức hô hoán lên.

Kiều Phong lấy chân thích mạnh vào lưng ngựa cho ngựa xông thẳng đến phía Sở Vương. Ông thấy chỉ còn cách chừng hai trăm bộ, liền bám sát bụng ngựa giương cung nhắm Sở Vương bắn tới. Bọn vệ sĩ đứng bên Sở Vương rất lanh lợi, giơ mộc lên để tránh tên. Kiều Phong bắn nỏ liên châu, một gã vệ sĩ bị trúng tên ngã ra. Phát tên thứ hai bắn tới ngực Sở Vương. Sở Vương nhanh mắt lẹ tay vung roi ngựa lên gạt.

Nguyên cách dùng roi gạt tên là một tuyệt kỹ của Sở Vương. Song y có ngờ đâu người bắn cung sức cánh tay mãnh liệt phi thường, nội kinh dồn cả vào mũi tên. Roi ngựa chỉ gạt được mũi tên trệch đi một chút.

Véo một tiếng, mũi tên đã cắm vào vai bên tả, Sở Vương trúng tên rú lên:

- Ái chao!

Rồi đau quá phải nằm phục xuống yên ngựa. Những tên Kiều Phong bắn, chuôi có lông phóng ra rất mạnh và trúng đích. Lúc phát tên thứ hai bắn ra thì ông đã đến gần Sở Vương hơn, mũi tên xuyên qua lưng y đến trước ngực. Sở Vương lảo đảo rồi từ trên lưng ngựa ngã lăn xuống đất. Kiều Phong vừa ra trận đã thành công, bắn chết được Sở Vương thì nghĩ thầm: "Chi bằng ta thừa cơ, bắn chết luôn Hoàng thái thúc."

Địch quân thấy Sở Vương chết rồi ngã lăn xuống ngựa đều hô hoán ầm lên. Mấy trăm quân cung nỏ nhắm bắn vào con ngựa có Kiều Phong ẩn mình. Chỉ trong chớp mắt con ngựa này đã bị trúng đến dư hai trăm mũi tên. Kiều Phong nằm dưới đất lăn đi mấy vòng đến gần một con ngựa khác do một tên địch quân cưỡi.

Chỗ này quân địch toàn là kỵ binh, Kiều Phong thi triển thuật nhỏ mọn từ gầm bụng nhoài sang gầm bụng ngựa kia. Địch quân ở vào tình thế ném chuột sợ bể đồ không dám bắn tên nữa, vì sợ bắn nhằm người phe mình. Chúng liền rút trường mâu ra đâm tới tấp, song Kiều Phong chuồn dưới gầm bụng ngựa thoắt sang bên tả, thoắt qua mé hữu.

Địch quân nhốn nháo cả lên xô đẩy nhau, chen chúc nhau, chỉ tổ xéo lên nhau, mà không đâm trúng được Kiều Phong. Nguyên Kiều Phong thi triển cách lẩn mình đó chỉ là một xảo thuật rất tầm thường của giới võ lâm ở Trung Nguyên gọi là "địa đường công phu". Tất cả những thế địa đường quyền, địa đường đao, địa đường kiếm, đều nằm lăn lộn dưới đất để tùy cơ nhằm đánh vào hạ bộ bên địch.

Kiều Phong là người mắt nhanh tay lẹ, thân pháp tuyệt diệu, dùng cách này chuồn qua hàng ngàn bụng ngựa để đến gần Hoàng thái thúc.

Vút! Vút! Vút! Ba mũi tên nhằm Hoàng thái thúc bắn ra.

Bọn vệ sĩ hộ vệ Hoàng thái thúc thấy Sở Vương bị bắn chết, dĩ nhiên là đã phòng cẩn mật. Hơn ba chục tên giơ mộc lên che kín mấy tầng cho Hoàng thái thúc. Ba mũi tên chạm vào mộc vang lên những tiếng leng keng rồi rớt xuống. Trong tay Kiều Phong có mười mũi tên mà đã bắn ra hết bảy mũi, chỉ còn có ba.

Ông nhìn thấy bên địch có đến dư ba chục lá mộc che đỡ cho Hoàng thái thúc thì tính rằng ba mũi tên này có giỏi cũng chỉ bắn chết được ba tên vệ sĩ là cùng, còn nói chi đến chuyên bắn Hoàng thái thúc. Lúc này Kiều Phong đã vào sâu trong trận địch. Phía sau hàng ngàn quân khinh kỵ cầm trường mâu đuổi theo, trước mặt lại có thiên binh vạn mã, ông đã bị hãm vào nơi tuyệt địa.

Ngày nọ một mình ông, tiếng gọi là độc đấu quần hùng ở đất Trung Nguyên, song đối phương bất quá chỉ vài trăm người cũng đã nguy hiểm lắm rồi, may có người đến tiếp cứu mới thoát chết. Bữa nay Kiều Phong bị hãm vào giữa chốn trùng vi mấy vạn người thì làm cách nào để thoát thân được. Kiều Phong lâm vào tình trạng con dã thú đến bước đường cùng. Bất thình lình ông gầm lên một tiếng thật to, tung người nhảy vọt lên qua ba chục lá mộc rồi hạ mình xuống trước ngựa Hoàng thái thúc.

Hoàng thái thúc giật mình khinh sợ vội giơ roi lên quất vào mặt đối phương. Kiều Phong né người đi tránh ra, đồng thời nhảy phốc lên yên ngựa Hoàng thái thúc, tay trái nắm lấy sau lưng lão, giơ cao người lão lên quát hỏi:

- Ngươi muốn sống hay là muốn chết? Muốn sống thì bảo ba quân hạ binh khí xuống ngay!

Hoàng thái thúc hồn vía lên mây thộn mặt ra dường như không nghe rõ lời Kiều Phong. Lúc đó quân địch la rầm lên nghe muốn đứt cả màng tai. Hàng ngàn hàng vạn quân giương tên nhắm bắn Kiều Phong. Song chúng thấy Hoàng thái thúc bị ông bắt giữ trong tay nên không dám bắn nữa.

Kiều Phong vận khí từ huyệt đan điền lên, dõng dạc tuyên bố:

- Hoàng thái thúc hạ lệnh cho tam quân phải bỏ binh khí để nghe tuyên đọc thánh chỉ: "Hoàng đế đại xá cho tam quân đều được vô tội bỏ đi không cứu xét."

Tuy ông chỉ nói mấy câu đơn giản mà khiến được mấy chục vạn quân xôn xao cả lên. Tiếng ông hô rất lớn, vang động cả một khu vực rộng đến vài dặm. Có đến quá nửa số quân nghe rất rõ ràng, công lực Kiều Phong quả nhiên phi thường. Bọn nghịch quân vốn chỉ là một phong trào ồ ạt. Chúng đều muốn bắt Gia Luật Hồng Cơ để được công lớn. Bây giờ thốt nhiên thấy Sở Vương chết ở trận tiền, lòng quân đã lung lay. Kế tiếp lại thấy Hoàng thái thúc bị bắt, ai nấy đều nhốn nháo cả lên, không biết làm thế nào.

Kiều Phong đã rút kinh nhgiệm về vụ Bang chúng Cái Bang phản nghịch thâm hiểu lòng người. Đứng trước hoàn cảnh phản nghịch mà bị thất bại, người nào cũng chỉ cầu được miễn tội. Vậy điều cần nhất là mình tỏ ra bỏ hết thù cũ quyết không cứu xét, thì quân phản nghịch tự nhiên mất hết chí chiến đấu.

Lúc này nghịch quân thế lớn, Bên Gia Luật Hồng Cơ bất quá còn hơn hai vạn người ngựa. Nếu còn tiếp tục chiến đấu thì quyết nhhiên không địch lại với số quân địch quá chênh lệch. Vì thế ông không chờ Gia Luật Hồng Cơ xuống mà chỉ tuyên bố mấy câu để yên lòng quân nghịch. Mấy câu nói dõng dạc của Kiều Phong vừa truyền ra, nghịch quân đang nhốn nháo, lập tức im lặng phăng phắc ngơ ngác nhìn nhau, trong lòng hoang mang không có chủ đích gì cả.

Kiều Phong biết là cục diện lúc này hãy còn rất nguy hiểm. Chỉ một người đứng bên hô hào là mười mấy vạn quân vô chủ này sẽ nghe theo ngay gây đại biến. Ông không dám trì hoãn giây phút nào, lập tức hô lớn:

- Hoàng đế xuống chỉ, tướng sĩ nghịch quân bất luận lớn nhỏ, nhất luận đều được tha hết. Hoàng đế đặc biệt rộng ơn, quyết không tra xét, quan quân đều được giữ nguyên chức vụ. Vậy các người mau mau bỏ khí giới đi.

Bỗng thấy tiếng loảng xoảng vang lên, một số người quẳng trường mâu trong tay xuống. Tiếng hạ khí giới truyền nhiễm rất mau. Chỉ trong chớp mắt có đến phân nửa quẳng khí giới theo, còn phân nửa phân vân chưa quyết. Kiều Phong giơ cao người Hoàng thái thúc lên, phóng ngựa từ từ lên núi. Bọn nghịch quân không ai dám cản trở.

Đầu ngựa ông đi tới đâu là phía trước lại tránh ra để nhường lối đi. Kiều Phong cưỡi ngựa lên đến lưng chừng sườn núi thì có hai đội ngự doanh quân cưỡi ngựa đón lên sơn trại. Trên đỉnh núi vang lừng chiên trống nhộn lên một bầu không khí tưng bừng.

Kiều Phong lại nói:

- Hoàng thái thúc! Hoàng thái thúc mau mau hạ lệnh cho bọn thuộc hạ bỏ khí giới đầu hàng thì sẽ được toàn tính mạng.

Hoàng thái thúc nói:

- Ngươi dám bảo đảm cho ta ư?

Kiều Phong quay đầu nhìn xuống thấy còn vô số nghịch quân trong tay vẫn cầm lăm lăm cung tên và trường mâu thì biết rằng lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa qua.

Ông nghĩ thầm:

- Hiện giờ việc trấn tỉnh quân tâm là cần nhất. Một mạng Hoàng thái thúc giết đi hay để sống có chi là đáng kể, chỉ cần phái người canh giữ giám sát, quyết từ đây về sau y không dám phản bội nữa.

Kiều Phong nghĩ vậy liền nói:

- Bây giờ chỉ còn một đường lối hay nhất là Hoàng thái thúc đoái tội lập công. Hoàng đế biết rõ việc này đều do Sở Vương gây ra nhất định sẽ tha chết cho Hoàng thái thúc.

Nguyên Hoàng thái thúc vốn không nghĩ đến tranh đoạt đế vị. Chỉ vì con lão là Sở Vương có dã tâm thoát đoạt mà gây nên vạ lớn. Lúc này lão đã bị bắt, chỉ còn mong được toàn mạng, liền đáp:

- Thôi ta cũng đành theo lời ngươi!

Kiều Phong đặt Hoàng thái thúc ngồi xuống yên ngựa, dõng dạc lên tiếng:

- Tam quân hãy nghe đây! Hoàng thái thúc có chỉ thị cho các người.

Hoàng thái thúc lớn tiếng hô:

- Người gây nên bạo loạn là Sở Vương hiện đã bị chết rồi. Đức Hoàng thượng khoan hồng đại lượng tha tội hết thảy cho các ngươi. Các ngươi mau mau hạ khí giới rồi đến trước Hoàng thượng thỉnh tội.

Hoàng thái thúc vừa nói xong, bọn nghịch quân khác nào như rắn không đầu, dù có kẻ hung hăng quật cường, cũng không dám trái lệnh. Rồi những tiếng loảng xoảng vang lên, hết thảy nghịch quân đều hạ khí giới.

Kiều Phong áp giải Hoàng thái thúc lên núi Thương Mang. Gia Luật Hồng Cơ nỗi mừng biết lấy chi cân, khác nào như người trong mộng choàng tỉnh giấc.

Nhà vua chạy đến bên Kiều Phong, nắm chặt hai tay nói:

- Hiền đệ ơi! Hiền đệ ơi! Giang sơn này của ca ca, từ đây anh em ta cùng hưởng.

Nói tới đây nhà vua cảm động quá, bất giác sa lệ.

Hoàng thái thúc quỳ phục xuống đất nói:

- Kẻ loạn thần là Trọng Nguyên cam chịu tử tội trước bệ hạ cầu mong bệ hạ khoan ơn.

Gia Luật Hồng Cơ lúc này vui vẻ quá, quay lại hỏi Kiều Phong:

- Hiền đệ tính thế nào đây?

Kiều Phong đáp:

- Nghịch quân người nhiều thế mạnh, điều cần nhất hiện giờ là phải chấn tỉnh quân tâm. Xin bệ hạ giáng chỉ tha tử tội cho Hoàng thái thúc để tránh lòng quân phản trắc.

Hồng Cơ cười nói:

- Hay lắm, hay lắm! Nhất thiết việc gì ta cũng nghe hiền đệ.

Nhà vua quay lại bảo Bắc Viện Đại Vường:

- Khanh truyền chỉ ra phong cho Kiều Phong tước Sở Vương giữ chức vụ Nam Viện Đại Vương, và thống lĩnh nghịch quân rút về thượng kinh.

Kiều Phong nghe nói giật mình. Ông giết Sở Vương, bắt Hoàng thái thúc chỉ vì muốn cứu mạng cho nghĩa huynh, tuyệt không có ý mưu đồ tước lộc. Bây giờ thấy Gia Luật Hồng Cơ đột nhiên phong quyền tước lớn cho mình thì chân tay luống cuống không biết nói thế nào.

Bắc Viện Đại Vương nhìn Kiều Phong, chắp tay nói:

- Xin kính mừng Kiều huynh! Tước Sở Vương trước nay chưa phong cho ai người họ khác. Kiều Phong tạ ơn Hoàng thượng đi!

Kiều Phong tiến về phía Gia Luật Hồng Cơ nói:

- Thưa dại ca! Công cuộc hôm nay mà vãn hồi được là nhờ hồng phúc tày trời của đại ca khiến cho quan binh chịu thúc lòng qui thuận, mà bình định xong công cuộc phản loạn này, tiểu đệ bất quá đem chút sức mọn ra góp vào mà thôi có chi là đáng kể công lao. Huống chi tiểu đệ không biết làm quan mà cũng không muốn làm quan. Xin đại ca thu hồi sắc mạng cho.

Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả đưa tay phải ra nắm lấy vai Kiều Phong nói:

- Tước vị Sở Vương, quan hàm Nam Viện Đại Vương là chức quyền tối cao của Triều Đình Đại Liêu, nếu hiền đệ còn chê nhỏ không chịu thần phục ta, thì ca ca đây đành nhường luôn cả ngôi hoàng đế cho hiền đệ, ngoài ra không còn cách nào nữa.

Kiều Phong giật mình lẩm bẩm:

- Chết chưa! Ca ca ta vì mừng vui quá mà quyên cả hình thức mất rồi, không còn nhớ gì cả. Nếu mình do dự có thể gây nên biến cố.

Nghĩ vậy, Kiều Phong đành quì xuống bẩm:

- Thần là Kiều Phong xin lãnh chỉ. Đa tạ hoàng ân.

Gia luật Hồng Cơ tươi cười giơ tay ra nâng Kiều Phong dậy. Kiều Phong nói:

- Hạ thần không dám nghịch chỉ, vâng mệnh lãnh quan tước. Song hạ thần là kẻ thảo dã tính tình lỗ mãng không hiểu pháp độ triều đình. Nếu có phạm lỗi, mong được bệ hạ khoan hồng.

Gia Luật Hồng Cơ vỗ vai Kiều Phong nói:

- Không hề chi mà ngại.

Nhà vua quay sang nhìn một người đứng tuổi trạc ngoài bốn mươi nói:

- Gia Luật Mạc Ca! Ta cho ngươi lãnh chức Nam Viện Khu Mật Sứ phò tá Kiều Phong đại vương, phụ trách quân vụ trong nước.

Gia Luật Mạc Ca cả mừng vội quỳ xuống tạ ơn Hoàng thượng, rồi khom lưng làm lễ tham bái Kiều Phong, nói:

- Thuộc hạ xin tham kiến đại vương.

Hồng Cơ nói:

- Mạc Ca! Ngươi bẩm với đại vương truyền lệnh cho, đặng thống lĩnh nghịch quân quay về Thượng kinh. Chúng ta lại vấn an Thái hậu.

Lúc đó trên núi chiên trống tưng bừng. Gia Luật Hồng Cơ cùng bá quan xuống núi. Các loạn tướng đã dẫn quân vào thỉnh Hoàng thái hậu, Hoàng hậu ra ngoài tù xa và cung kính mời ngồi chờ trong doanh trại.

Gia Luật Hồng Cơ tiến vào trong trướng. Mẹ con, vợ chồng làm lễ tương kiến. Trải qua một cuôc cải tử hồi sinh, mọi người đều hoan hỉ tán dương công lớn của Kiều Phong, bất tất phải thuật kĩ cho rườm lời. Gia Luật Mạc Ca đi trước dẫn đường và giới thiệu Kiều Phong cùng các bộ thuộc Nam Viện để cùng nhau làm lễ tương kiến.

Vừa rồi Kiều Phong xông vào chỗ thiên binh vạn mã, anh dũng tuyệt luân, mọi người đều mắt thấy. Các thuộc viên dưới trướng Sở Vương cũ thấy Kiều Phong thần oai lẫm liệt liền đem lòng khiếp sợ, không ai dám tỏ ý bất phục. Chẳng những Kiều Phong anh hùng làm họ kính sợ, mà Sở Vương trước tính nết nóng nảy chẳng được ai ưa.

Chúng vừa thấy Kiều Phong vào đến quân trung hết thảy đều nghe lệnh răm rắp. Kiều Phong nói:

- Đức Hoàng thượng đã miễn tội cho các ngươi đi theo kẻ phản thần làm loạn. Từ đây sắp tới, các ngươi phải biết hối cải ăn năn, đừng ăn ở hai lòng mà gây nên tội đại nghịch.

Một tướng râu bạc tiến ra nói:

- Bẩm Đại Vương! Hoàng thái thúc cùng Thế tử bắt hết gia thuộc chúng tôi, bức bách chúng tôi phải theo hai người làm loạn. Nếu chúng tôi không theo họ, Thế tử sẽ chém hết cả nhà, chúng tôi lâm vào tình trạng bất đắc dĩ mà gây nên tội lỗi, mong rằng Đại Vương tâu rõ lên thánh thượng cho.

Kiều Phong gật đầu nói:

- Các ngươi đã biết thế thì chúa thượng sẽ khoan dung không hỏi gì đến tội trước nữa.

Nói xong, Kiều Phong quay sang bảo Gia Luật Mạc Ca:

- Bây giờ cho tam quân nghỉ ngơi, ăn uống xong, lập tức nhổ trại về kinh.

Các quan viên dưới trướng Nam Viện Đại Vương đều được giữ nguyên chức vào lạy mừng Kiều Phong. Kiều Phong tuy trước kia chưa làm quan, nhưng ông đã từng làm Bang chúa Cái Bang lâu ngày, cầm đầu bao nhiêu anh hùng hảo hán một cách rất oai nghiêm. Nay ông thống lĩnh bọn hào kiệt Khất Đan cũng chẳng khác gì mấy với qui cựu hào kiệt đất Trung Nguyên. Dù trong việc cầm quân nước Liêu có lề luật riêng, Kiều Phong cũng chỉ để ý một chút là hiểu hết. Hơn nữa ông lại được tay phò tá Gia Luật Mạc Ca phân phái các bộ thuộc cùng thu xếp mọi việc rất đúng phép tắc.

Kiều Phong thống lĩnh đại quân sắp lên đường thì Hoàng thái hậu cùng Hoàng hậu phái sứ giả đưa mũ áo tiền bạc đến ban cho.

Kiều Phong tạ ơn xong, Thất Lý hộ vệ A Tử cũng vừa tới nơi. Nàng mặc áo gấm cưỡi tuấn mã đều do Hoàng thái hậu ban cho. Kiều Phong thấy A Tử thân hình loắt choắt, mặc bộ áo rộng thùng thình. Bộ mặt nàng bé nhỏ, bị cổ áo che lấp quá nửa.

A Tử chưa được mắt thấy Kiều Phong bắn chết Sở Vương, bắt sống Hoàng thái thúc, nhưng nàng được nghe bọn Thất Lý thuật chuyện lại. Khi người ta thuật lại chuyện gì, thế nào cũng thêm thắt vào cho câu chuyện thêm đậm đà, để công cuộc oai hùng của Kiều Phong càng thêm vẻ li kỳ.

A Tử vừa nhìn thấy Kiều Phong đã trách ngay:

- Tỷ phu ơi, tỷ phu lập nên công trạng lớn lao mà không nói trước cho em hay, để em như người ngồi trong ống chẳng biết chi hết.

Kiều Phong cười nói:

- Đó chẳng qua là vận hên lập được chút công nhỏ mọn, trước đã biết đâu mà nói? Cô vừa thấy tôi lại nói chuyện trẻ nít rồi.

A Tử nói:

- Tỷ phu ơi! Tỷ phu lại gần đây!

Kiều Phong liền đến bên nàng, ông thấy bộ mặt gầy ốm xanh xao vì hân hoan quá đỗi mà thoáng hiện ánh hồng. Khi trông đến áo xiêm nàng bận, thấy nàng buồn cười lại vừa khả ái. Kiều Phong không nhịn được phá lên cười ha hả.

A Tử làm mặt giận nói:

- Em nói chuyện đứng đắn sao tỷ phu lại cười hô hố thật là kỳ quá.

Kiều Phong cười nói:

- Tôi trông cô mặc áo chẳng khác gì người đóng trò, coi rất thú vị.

A Tử hậm hực nói:

- Tỷ phu coi em là tuồng con nít để làm trò cười cho tỷ phu chắc?

Kiều Phong nói:

- Không phải thế! A Tử cô nương! Lần này tôi tưởng cả hai người chúng ta cùng chết mất mạng, ngờ đâu lại được thoát chết. Tôi lấy làm khoan khoái quá, còn những chức tước Nam Viện Đại Vương chi chi đó, tôi thật không màng. Mình được sống sót đã là may mắn lắm rồi.

A Tử hỏi:

- Tỷ phu sợ chết lắm hay sao?

Kiều Phong ngẩn ngơ giây lát rồi gật đầu đáp:

- Phải rồi! Gặp lúc nguy hiểm, dĩ nhiên tôi sợ chết.

A Tử nói:

- Em thì cho tỷ phu là bậc anh hùng hảo hán không sợ chết. Nếu tỷ phu sợ chết thì sao dám xông vào chỗ thiên binh vạn mã?

Kiều Phong đáp:

- Cái đó kêu bằng: tìm sự sống trong đất chết. Giả tỷ không liều lĩnh xông pha thì chết còn gì. Thế đâu có phải là dũng cảm với anh hùng? Chẳng qua mình chỉ như con dã thú đến bước đường cùng thì phải liều mạng mà thôi. Tỷ như chúng ta bao vây con gấu hay con cọp, nó không có đường chạy thoát thì nó phải nhảy xổ vào cắn xé ta may ra thoát chết.

A Tử mỉm cười nói:

- Tỷ phu lại đem ví mình với giống súc sinh rồi.

Lúc đó hai người đều cưỡi trên lưng ngựa sánh vai mà đi. Kiều Phong đưa mắt nhìn ra xa, trên cánh đồng cỏ bát ngát cờ xí tung bay, đội ngũ tề chỉnh kéo một hàng dài không biết đến đâu là cùng. Chung quanh hai người vô số sĩ tốt hộ vệ.

A Tử khoan khoái vô cùng, nàng nói:

- Ngày nọ em đoạt được chân thừa kế phái Tinh Tú. Hai ba đời phái này mới được vài trăm đệ tử. Trừ sư phụ ra thì em là người có quyền lớn hơn cả, trong lòng đã lấy làm hí hửng. Nhưng bây giờ so với tỷ phu thống lĩnh dư hai mươi vạn nhân mã thì chẳng ăn thua vào đâu. Tỷ phu! Em nghe nói Cái Bang không cho tỷ phu làm Bang chúa. Chà! Chà! Một Cái Bang nhỏ xíu lấy gì làm quí. Bây giờ tỷ phu đem binh mã đến giết sạch họ đi!

Kiều Phong lắc đầu lia lịa nói:

- Cô nương lại nói chuyện trẻ con rồi! Tôi là người Khất Đan, Cái Bang không cho làm Bang chúa là hợp lý hợp tình. Vả lại, người Cái Bang đều là bạn cũ của tôi sao lại giết họ?

A Tử nói:

- Bọn chúng đuổi tỷ phu ra khỏi Bang, đối xử bất nhân với tỷ phu, thì nên giết sạch đi chớ để làm gì? Sao tỷ phu còn bảo họ là bạn?

Kiều Phong chưa biết trả lời ra sao, chỉ lắc đầu quầy quậy. Ông nhớ lại khi ở Tụ Hiền Trang đã tuyệt giao và chặt đứt mối tình cũ với bạn bè thì không khỏi bùi ngùi trong dạ.

A Tử hỏi:

- Giả tỷ bọn họ biết tin tỷ phu làm đến Nam Viện Đại Vương nước Đại Liêu, chắc là họ hối hận lắm, nhưng họ có muốn rước tỷ phu về làm Bang chúa Cái Bang, chắc tỷ phu cũng không chịu làm nữa.

Kiều Phong tủm tỉm cười nói:

- Đâu lại có lý thế được? Các bậc anh hùng hảo hán ở nhà Tống đều coi người Khất Đan là phường tội ác ngập đầu. Tôi ở nước Liêu càng làm quan to bao nhiêu, họ càng căm hận tôi bấy nhiêu.

A Tử nói:

- Úi chà! Họ căm hận tỷ phu thì làm cóc gì? Mình tha căm hận cho họ là tốt.

Kiều Phong buông luồng nhỡn tuyến nhìn ra chân trời xa trong rừng núi chập chùng lẩm bẩm:

- Qua dãy núi bên kia là đến Trung Nguyên rồi đó.

Tuy ông là người Khất Đan, nhưng ở Trung Nguyên từ thuở nhỏ nên trong thâm tâm ông thích nhà Đại Tống hơn nước Đại Liêu nhiều. Giả tỷ người Cái Bang bao dung cho ông làm một tên tiểu tốt vô danh, một gã đệ tử hạng bét chưa được đeo túi, có lẽ ông còn khoái hơn làm tới chức Nam Viện Đại Vương tại nước Đại Liêu.

A Tử lại nói:

- Tỷ phu ơi! Em cho rằng đức Hoàng thượng thật là thông minh. Người phong cho tỷ phu làm Nam Viên Đại Vương để ngày sau nước Đại Liêu có giao tranh với nước ngoài tỷ phu sẽ lãnh binh đi chinh phạt, tất là đánh đâu được đấy. Tỷ phu chỉ có việc xông vào trận địch bắn chết chủ tướng, tất nhiên địch quân phải quì xuống xin hàng, như thế là toàn thắng.

Kiều Phong mỉm cười nói:

- Bộ hạ Hoàng thái thúc đều là quan binh nước Liêu trước nay vẫn nghe mạng lệnh Hoàng thái thúc. Hôm nay sở dĩ họ phải đầu hàng là vì Sở Vương bị chết, Hoàng thái thúc bị bắt. Còn trường hợp hai nước giao tranh thì tình hình lại khác hơn. Mình có giết được quan nguyên soái thì họ còn phó soái cầm đầu, Giết được Đại tướng quân thì còn thiên tướng hay phó tướng. Họ chiến đấu đến cùng, mình đơn thương độc mã thì làm gì được.

A Tử gật đầu nói:

- À ra thế đấy! Tỷ phu ơi! Tỷ phu biểu rằng xông vào trận địch giết chết Sở Vương chả có chi là dũng cảm. Vậy thì trong đời tỷ phu còn việc nào mới chân chinh là dũng cảm, tỷ phu nói cho em nghe có được không.

Hồi 48

Kiều anh hùng phụng mạng xuất chinh

Kiều Phong xưa nay không ưa kể những trận đắc thắng hay những võ công oanh liệt của mình. Hồi ông còn ở Cái Bang, ra trận giết được bao nhiêu kẻ gian ác cực kỳ lợi hại, nhưng bất luận cuộc ác đấu kịch liệt đến thế nào, khi về tới bản Bang, ông cũng chỉ nói sơ qua là đã giết được người này người nọ. Còn những việc từng trải gian nan thì bất cứ người nào hỏi ông cũng không chịu nói ra.

Lúc này nghe A Tử hỏi đến, nhớ lại đời mình từng đánh quen trăm trận, lâm địch thế nào rút lui ra sao, kể về lòng dũng cảm của ông không bao giờ nói hết được.

Tuy nhiên, ông cũng chỉ trả lời một cách lờ mờ:

- Tôi đánh nhau với ai, đều là chuyện bất đắc dĩ. Đã bất đắc dĩ mà phải chiến đấu thì làm gì còn có chuyện dũng cảm nữa.

A Tử nói:

- Em biết rồi! Chuyện dũng cảm nhất của tỷ phu là cuộc ác đấu ở Tụ Hiền Trang.

Phong rùng mình hỏi:

- Sao cô biết việc ấy?

A Tử đáp:

- Hôm đó ở hồ Tiểu Kính, sau khi tỷ phu đi rồi, gia gia, má má cùng bọn thuộc hạ gia gia em có nói chuyện đến tỷ phu và xem chừng ai nấy đều bội phục võ công tỷ phu. Họ kể rằng tỷ phu đến Tụ Hiền Trang dự cuộc anh hùng đại hội rồi một mình đấu với quần hùng chỉ vì câu chuyện đến chữa nội thương cho một thiếu nữ lại chính là tỷ nương em. Lúc đó gia gia cùng má má em chưa biết A Châu tỷ nương là ái nữ của mình. Họ còn biểu tỷ phu đối xử với nghĩa phụ, nghĩa mẫu cùng ân sư cực kỳ độc ác tàn nhẫn, nhưng đối với đàn bà con gái rất đa tình. Họ kết luận tỷ phu vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn cùng hiếu sắc, là con người bất cận nhân tình..

Nói tới đó nàng cười lên khanh khách. Kiều Phong lẩm bẩm:

- Vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc! Hỡi ơi! Trách nào những bậc anh hùng hảo hán Trung Nguyên chẳng nghiến răng căm giận Kiều Phong này!

Đại quân đi liền trong mấy ngày về đến Thượng Kinh. Trăm quan ở lại giữ kinh thành cùng trăm họ đã được tin, ra tận ngoài xa để đón tiếp. Lá cờ soái của Kiều Phong đi đến đâu cũng được trăm họ thắp hương quỳ lạy, hoan hô ca tụng công đức của Kiều Phong vì họ biết rằng nếu ông không dẹp xong cuộc biến loạn này thì không biết còn bao nhiêu quân sĩ nước Liêu phải uổng mạng. Nhân dân ở Thượng kinh đại đa số là gia quyến ngự doanh quân, cố nhiên cảm kích ơn đức ông vô cùng!

Kiều Phong lỏng buông tay khấu cho ngựa đi bước một. Trăm họ reo hò vang dội:

- Đội ơn Nam Viện Đại Vương đã cứu mạng!

Chỗ thì reo:

- Xin hoàng thiên bảo hộ Nam Viện Đại Vương sống lâu trăm tuổi.

Kiều Phong nghe những lời chúc tụng cùng thấy trăm họ nước mắt chạy quanh vì cảm động thì biết là họ chí thành. Ông nghĩ: "Một người ở ngôi cao, nhất cử nhất động có quan hệ đến họa phúc của muôn dân. Khi ta bắn chết Sở Vương, chỉ nhân một lúc sinh cường muốn cứu nghĩa huynh và tự cứu mình, không ngờ lại là một việc làm ơn cho bá tính. Than ôi! Lúc ta còn Ở Trung Nguyên cố ý tâm thành hảo sự cho mọi người, mà lại bị bao nhiêu điều chê trách, trở nên một tên gian ác trong chốn giang hồ. Ta vừa đến Đại Liêu tự nhiên lại thành ra cứu tinh cho trăm họ. Thế thì biết đâu là thiện là ác, thực khó mà phân biệt được."

Thượng kinh là thủ đô của nước Đại Liêu. Thời bấy giờ Đại Liêu là nước lớn thứ nhất sau nhà Đại Tống. Nhưng lực lượng nước Liêu còn cường thịnh hơn nhà Đại Tống nhiều. Người Khất Đan sinh nhai bằng nghề súc mục không có chỗ ở nhất định. Những cung điện ở thành thượng kinh thô bỉ hủ lậu, so với Trung Nguyên thật khác nhau một trời một cực.

Ðại quân về thượng kinh, đội quân nào về doanh ấy, những quan tướng thuộc quyền Nam Viện Đại Vương được Kiều Phong đón vào vương phủ.

Vương phủ này là chỗ ở của Sở Vương. Sở Vương trước cực kỳ xa xỉ, dinh thự rất là rộng lớn. Trong nhà trần thiết kế cực kỳ xa hoa. Kiều Phong suốt đời yên phận nghèo nàn, ông vào vương phủ đi coi các phòng viện một lượt. Ông không quen những cảnh giàu sang phú quý liền sai thuộc hạ dựng hai nơi doanh trướng để mình cùng A Tử mỗi người ở một cái. Cách khải cư của ông giản dị chất phác như xưa.

Đến ngày thứ ba, xa giá Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, Hoàng hậu, Công chúa về đến thượng kinh. Kiều Phong dẫn bách quan ra tiếp giá. Trong triều tấp nập bận rộn luôn mấy ngày. Đầu tiên là tiệc khánh hạ bình xong cuộc đại loạn luận công ban thưởng, kế đến việc vỗ về gia đình Bắc Viện Khu Mật Sứ cùng các quan binh đã tử nạn.

Hoàng thái thúc tự biết mình không còn mặt mũi nào về đến triều đình nên tự vẫn ngay ở dọc đường. Hồng Cơ là người thủ tín, những quan binh về phe đảng phản nghịch đều không bị xét hỏi gì cả. Trong hoàng cung mở yến tiệc khao thưởng công lao tướng sĩ luôn ba ngày. Kiều Phong là bậc anh hùng đệ nhất trên chiếu tiệc. Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, Hoàng hậu, các phi tần cùng công chúa ban thưởng rất nhiều. Các quan văn võ cũng đưa đồ lễ đến tặng, chất như núi.

Yến tiệc khao thưởng xong xuôi, Kiều Phong đến Nam Viện phục vụ. Tộc trưởng mười mấy bộ lạc trong nước Đại Liêu lục tục kéo đến bái kiến, những bộ lạc đó là: Ô Ngổi bộ, Bắc Khắc bộ, Nam Khắc bộ, Thất Vi bộ, Mai Cổ Tất bộ, Ngũ Quốc bộ, Ô Cổ Lạc bộ rồi còn gì nữa ông không nhớ hết.

Tiếp theo đến các quan quân trong "đại trướng Bì Thất" của Hoàng đế, quan quân thuộc sau doanh của Hoàng hậu, những quan quân, những đội thị vệ trong Hoàng Ninh cung, Trường Ninh cung, Vĩnh Hưng cung, Tích Khánh cung, Diêm Xương cung tấp nập vàp làm lễ bái kiến.

Những thuộc quốc của Đại Liêu cộng năm mươi chín nước là Thổ Cốt Hồn, Đột Quyết, Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Thục, Tân Giới, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương, Cao Ly, Tây Hạ, Vu Điền, Đôn Hoàng v. v.. Các nước đều cho sứ thần đưa lễ vật đến Thượng kinh. Họ biết rằng Kiều Phong nắm giữ binh quyền nên đưa tặng đồ trân bảo để cầu thân. Kiều Phong hàng ngày phải tiếp khách hay đón tiếp các bộ thuộc. Trước mắt ông toàn thị vàng bạc, châu báu, bên tai ông toàn những lời ca tụng, nịnh hót. Ông lấy làm phiền phức và chán ngán.

Hơn một tháng trời, Kiều Phong bận bịu vào việc tiếp khách mới hết người đến chúc mừng.

Một hôm Gia Luật Hồng Cơ vời ông vào triều bệ kiến. Nhà vua nói:

- Hiền đệ lãnh chức Nam Viện Đại Vương ngồi trấn giữ Nam Kinh để chờ cơ hội đánh xuống Trung Nguyên. Tuy ca ca không muốn xa rời hiền đệ. Nhưng vì muốn lập kì công để lại nghìn thu, vậy hiền đệ sớm chọn ngày thống lĩnh ba quân tiến xuống cõi Nam nghe!

Kiều Phong nghe Hoàng thượng sai mình lĩnh Nam Chính, trong lòng kinh hãi hỏi:

- Nam Chính là việc trọng đại, đâu phải chuyện tầm thường. Kiều Phong này là một kẻ dũng phu sợ không đương nổi việc đó.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Nước nhà mới trải qua cơn biến loạn cần cho sĩ tốt nghĩ ngơi. Nhà Đại Tống hiện Thái hậu đang cầm quyền, trọng dụng Tư Mã Quan sửa sang việc triều chính không có chổ nào sơ hở. Chúng ta không nên khởi binh Nam chinh lúc này. Hiền đệ ơi! Hiền đệ xuống Nam Kinh rồi nên luôn luôn để tâm đến việc thôn tính Nam triều. Bên ta chờ khi nào Tống triều xảy ra cuộc nội biến là lập tức ra quân. Họ ở trong thời kì nội bộ vững vàng mà Liêu quốc ta cử binh đi xâm lược sẽ phải tổn nhiều lực lượng mà thu lượm được ít hiệu quả.

Kiều Phong đáp:

- Vâng! Như thế là phải.

Hồng Cơ nói:

- Có điều ta phải theo dõi việc chính trị Nam triều có thực sự chỉnh đốn, cùng là trăm họ có một lòng qui phục triều đình họ hay không?

Kiều Phong nói:

- Thần xin bệ hạ chỉ thị đường lối cho.

Hồng Cơ cười ha hả nói:

- Đường lối xưa nay vẫn thế, cứ việc xuất vàng bạc châu báu cho nhiều để mua lòng những kẻ gian tế làm nội công cho mình. Người phương Nam thiếu gì kẻ tham tài, hèn hạ, vô liêm sỉ. Hiền đệ ra lệnh cho Nam Viện Khu Mật Sứ đừng tiếc tiền của, phải vung nhiều ra để mua chuộc bọn này.

Kiều Phong vâng lệnh cáo từ lui ra, trong lòng rất là phiền não, vì ông là một hảo hán hiên ngang trước nay chỉ kết giao cùng những bậc anh hùng hào kiệt. Trên chốn giang hồ, ông từng thấy những vụ hãm hại ngấm ngầm, lén lút hạ độc thủ, hoặc mưu thần chước quỷ chẳng thiếu thứ gì, dù là việc giết người phóng hỏa, cũng chưa từng đem tiền bạc ra thuê ai bao giờ. Huống chi ông tuy là người nước Liêu nhưng được nuôi dưỡng ở Trung Nguyên từ ngày còn thơ ấu cho đến lúc trưởng thành. Thế mà Gia Luật Hồng Cơ giao phó cho ông việc trừ diệt Tống triều, tất nhiên ông rất đổi phiền lòng.

Kiều Phong nghĩ thầm: "Ca ca ta phân cho ta làm chức Nam Viện Đại Vương là người rất có thành ý, nếu ta từ quan ngay thì không khỏi cô phụ tấm thịnh tình của người và có thể sức mẻ đến nghĩa anh em. Âu là ta hãy xuống Nam Kinh nhận chức trong vòng năm, bảy tháng hay một năm rồi xin cáo là xong. Bấy giờ nếu ca ca ta không chuẩn cho ta từ chức, ta sẽ treo ấn bỏ quan rồi chuồn đi thì ca ca cũng phải đành chịu chứ làm gì được."

Chủ ý đã định, Kiều Phong thống lãnh thuộc hạ đem cả A Tử xuống Nam Kinh.

Thời bấy giờ Nam Kinh của nước Đại Liêu tức là Bắc Kinh ngày nay, hồi đó còn gọi là Yên Kinh hay U Đô (kinh đô Châu U). Nguyên về triều nhà Tấn, Trạch Kính Đường làm Hoàng đế, nước Liêu hết sức giúp đỡ, Trạch Kính Đường liền cắt mười sáu châu đất Yên Vân để đền đáp.

Mười sáu châu hồi đó là địa hạt: A Châu, Thuận Châu, Đàn Châu, Trác Châu, Dịch Châu, Kế Châu, Bình Châu, Thước Châu, Doãn Châu v. v. và toàn là những khu vực trọng yếu về phía Bắc Ký Châu. Sau khi mười sáu châu này được cắt cho nước Liêu rồi, ba triều đại Tấn, Tống, Chu đã phải nhiều phen chinh phạt, mà thủy chung vẫn không lấy lại được.

Địa thế mười sáu châu Yên Vân này rất thuận lợi cho nước Liêu đóng quân. Mỗi lần nước này có cuộc động binh lại xua quân qua một cánh đồng bát ngát, Đại Tống không có địa thế hiểm yếu để phòng thủ. Hai nước Tống, Liêu thường xảy ra cuộc giao binh đến hơn năm trăm năm mà Tống triều chưa được phen nào thắng trận, cố nhiên không phải kếm về lực lượng mà tại Liêu quốc ở trên cao đánh xuống kiềm chế đươc chiến trận và chiếm được tiện nghi nhiều hơn.

Kiều Phong vào thành rồi, thấy Nam kinh phố xá rộng rãi bá tính Nam triều qua lại rất đông. Bên tai ông toàn nghe tiếng nói Trung Nguyên, chẳng khác gì mình đã vào Trung Nguyên vậy. Về phần phồn hoa đô hội, nơi đây hơn thượng kinh rất nhiều.

Kiều Phong cùng A Tử thấy phố xá phồn thịnh rất lấy làm vui thích, hôm sau hai người dùng xe nhẹ đi dong chơi phố phường. Thành Yên Kinh rộng ba mươi sáu dặm vuông chia làm tám cửa. Mặt Đông có cửa An Đông và cửa Nghình Xuân. Mặt Nam có cửa Khai Dương và Đan Phụng. Mặt Tây là cửa Hiền Tây và Thanh Tấn. Mặt Bắc là cửa Thôn đại và củng Thần. Tên hai cửa mặt Bắc có ngụ ý thần phục phương Bắc, tuân theo thánh chỉ của Hoàng đế Bắc quốc.

Vương phủ Nam Viện Đại Vương ở về mé Tây Nam trong nội thành. Tiêu Phong và A Tử đi chơi được nửa ngày thấy chợ búa, phố xá, chùa chiền rất là trù mật, không phải đi coi một lúc mà hết được.

Kiều Phong đã làm Nam Viện Đại Vương, không phải quản hạt mười sáu châu Yên Vân mà thôi đến cả một giải phủ Đại Đồng thuộc đạo Tây Kinh và phủ Đại Định thuộc đạo Trung Kinh cũng phải tuân theo lệnh ông. Vì oai quyền quá lớn, ông không thể ở trong doanh trại lụp xụp được đành dọn vào vương phủ.

Kiều Phong trông coi được mấy ngày cảm thấy đầu óc tối tăm, không được phóng khoáng như ở chốn giang hồ, nên rất lấy làm khó chịu. Ông thấy Nam Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Mạc Ca rất tinh minh mẫn cán, thành thuộc về chính trị, liền giao hết cho y.

Làm quan to kể ra cũng có chỗ hay là trong vương phủ không thiếu gì đồ quý trọng cùng dược liệu hiếm có. A Tử tha hồ mà ăn cao hổ cốt cùng mật gấu, nàng dùng như cơm bữa. Nội thương của nàng mỗi ngày một đỡ. Sang đến mùa đông, nàng đã đi lại được và cử động tự do. Trước hết nàng đi chơi trong nội thành Yên kinh, sau nàng ra chơi cả ngoài thành trong phạm vi mười dặm.

Một hôm trời vừa tạnh mưa tuyết, A Tử mặc áo cừu vào điện Tuyên Giáo của Kiều Phong nói:

- Tỷ phu ơi! Tiểu Muội ở mãi trong thành buồn quá, tỷ phu đưa em đi săn.

Kiều Phong ở trong cung điện lâu ngày cũng phát ngán, nghe A Tử nói vậy thì cả mừng, liền sai thuộc hạ sắp ngựa đi săn. Ông không thích lối săn đem nhiều người đi để bao vây dã thú mà chỉ dẫn mấy tên tùy tùng để phục dịch cho A Tử. Ông lại e làm kinh động đến dân gian, nên chỉ mặc bộ áo da dê như quân sĩ, rồi đeo cung dắt tên cưỡi tuấn mã cùng A Tử ra cửa Củng Thần đi về phía Bắc.

Đoàn người ra khỏi cửa Củng thần hơn mười dặm, chỉ săn được mấy con thỏ nhỏ.

Kiều Phong nói:

- Chúng ta thử qua mặt Nam coi.

Nói xong bắt ngựa rẽ ra ngã Tây rồi quay xuống phía Nam. Lại đi được hai mươi dặm thì gặp được một con hươu sao chạy xéo qua mặt. A Tử liền nhắc lấy cung của tên tùy tùng, lắp tên toan bắn. Ngờ đâu cánh tay nàng còn yếu quá không dương cung nổi.

Kiều Phong tay trái quàng sau lưng A Tử nắm lấy cây cung, tay phải kéo dây cung rồi buông tay ra đánh tách một tiếng, mũi tên vừa bay ra, con hươu sao đã ngã lăn xuống đất. Bọn tùy tùng hoan hô rầm lên.

Kiều Phong buông tay A Tử tủm tỉm cười, bỗng thấy mắt nàng ngấn lệ chạy quanh thì lấy làm kỳ hỏi:

- Sao vậy? Cô không muốn ta giúp cô bắn dã thú ư?

A Tử nghe Kiều Phong hỏi nước mắt tràn xuống, nàng nói:

- Tiểu Muội... Tiểu Muội thành người vô dụng mất rồi, dương cái cung tầm thường còn không nổi thì làm được cái gì?

Kiều Phong an ủi nàng:

- Cô đừng nóng nảy, khí lực sẽ dần hồi phục. Nếu sau này không khôi phục lại được nguyên khí thì tôi sẽ rèn luyện phép tập nội công cho, nhất định khí lực sẽ tăng gia.

A Tử đang khóc phá lên cười hỏi:

- Tỷ phu nói thật không? Có nhất quyết rèn tiểu Muội tập nội công không?

Kiều Phong đáp:

- Cô hãy yên lòng! Ta nhất định dạy cho cô.

Đang lúc nói chuyện, bỗng nghe mé Nam có tiếng vó ngựa dồn dập. Kiều Phong nhìn ra thì thấy một đại đội nhân mã đang rong ruổi trên mặt đất đầy tuyết đọng. Ông nhìn phía trước bọn này không thấy cờ hiệu chi hết. Họ toàn là quan binh nước Liêu, chúng đang ca hát vang lừng vui nhộn. Phía sau bọn quan binh có nhiều người bị bắt cột vào khấu đuôi ngựa, tựa hồ đi trận mạc đắc thắng trở về.

Kiều Phong tự hỏi:

- Bên ta có đánh nhau với ai đâu? Vậy chắc đã xảy ra cuộc giao phong ở đâu trở về?

Ông thấy đội quan lính rẽ ra ngã Đông rồi đi vào thành Nam Kinh, liền quay lại bảo một tên tùy tùng:

- Ngươi lại hỏi bọn kia xem chúng đi đâu về?

Tên tùy tùng đáp:

- Vâng!

Rồi nói tiếp:

- Đây là bọn anh em thuộc hạ đi kiếm lương về.

Nói xong gã phóng ngựa chạy tới chỗ bọn quan binh. Chạy gần đến nơi, gã lớn tiếng nói mấy câu. Bọn quan binh nghe Nam Viện Đại Vương ở đây liền hoan hô ầm ĩ, rồi nhất tề nhảy xuống ngựa tay cầm dây cương dắt ngựa rảo bước đến trước Kiều Phong cúi đầu thi lễ và hô to:

- Đại Vương thiên tuế!

Kiều Phong giơ tay lên nói:

- Thôi, các ngươi đứng dậy đi!

Ông thấy đội quan binh ước chừng dư tám trăm người, trên lưng ngựa chất đầy vải lụa cùng đồ vật và số người bị bắt cũng đến dư tám trăm, phần đông là con gái ít tuổi và một số trai tráng. Họ đều mặc y phục người Tống, ai nấy khóc lóc kêu gào, vẻ mặt cực kỳ buồn thảm. Gã đội trưởng nói:

- Bữa nay đến phiên đội binh của tiểu nhân đi kiếm lương thảo may nhờ phúc lớn của Đại Vương thu lượm được kết quả mỹ mãn.

Đoạn gã quay bảo binh sĩ:

- Các ngươi lựa chọn lấy những cô gái xinh đẹp cùng những đồ vàng bạc quý giá để dâng Đại Vương xin Đại Vương thiên tuế thâu dụng.

Các quân sĩ dạ ran.

Chúng đưa hơn hai chục mỹ nữ đến trước ngựa Kiều Phong, và gói nhiều đồ trang sức vàng bạc, vải vóc vào trong một tấm vải gai. Bọn quan binh Khất Đan rất tôn kính những bậc anh hùng. Nếu Kiều Phong chịu thu dụng những con gái, lụa là cùng châu báu đi cướp về được thì chúng lấy làm vinh dự lắm.

Ngày trrước, Kiều Phong đến ngoài Ải Nhạn Môn Quan, chính bắt ông đã thấy bọn quan binh nhà Đại Tống hiếp đáp nhân dân Khất Đan, lần này ông lại thấy quân binh Khất Đan đi bắt con dân Đại Tống. Vẻ mặt những nhười bị bắt bữa nay cũng sầu hổ chẳng khác gì những người Khất Đan bị bắt ngày nọ.

Kiều Phong ở nước Liêu ít lâu, ông đã biết đại khái về chế độ quân binh trong nước. Nước Liêu đã không phát lương thảo cho quân đội mà cũng không trả tiền lương. Những thức nhu dụng của quan binh đều trông vào các đồ cướp được bên địch. Hàng ngày phái bộ đội qua các nước lân bang như Đại Tống, Tây Hà, Nữ chân, Cao Ly để cướp bắt dân lành. Công việc này họ gọi là "kiếm lương thảo" mà thực ra là hành động của quân cường đạo.

Quan binh triều Tống cũng đi "kiếm lương thảo" bên nước Liêu để báo thù. Vì thế mà nhân dân ở vùng biên giới hai nước cực kì khổ sở, lúc nào cũng nơm nớm lo sợ, sớm lo hôm, tối lo mai.

Kiều Phong trông thấy những hành động cực kì tàn nhẫn vô đạo này nên không muốn làm quan lâu bền. Ông chỉ muốn kéo dài thời gian để vẹn nghĩa với Gia Luật Hồng Cơ rồi cáo quan về ở ẩn. Chủ ý đã định như vậy, nên bất luận với những việc cơ binh trọng đại gì trong nước, ông cũng không phát biểu chủ trương chi hết. Bây giờ trước mắt ông xảy ra thảm trạng ông không khỏi đau thương.

Ông hỏi lại đội trưởng:

- Ngươi đi kiếm lương thảo ở đâu về?

Đội trưởng kính cẩn đáp:

- Bẩm đại vương! Bọn tiểu nhân di kiếm lương thảo ở ngoài địa hạt Trai Châu nhà Đại Tống. Từ khi đại vương về đây, thuộc hạ không dám lấy lương thảo trông phạm vi Châu quận nhà.

Kiều Phong nghĩ thầm:

- Nghe lời gã này, thì ra trước nay chúng vẫn cướp bóc của người Tống trong Châu quận này.

Kiều Phong quay lại dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ điệu đến trước ngựa:

- Ngươi ở đâu?

Thiếu nữ quỳ xuống khóc lóc đáp:

- Tiểu nữ người ở Trương Gia thôn, xin đại nhân mở lòng nhân đức tha cho tiểu nữ về nhà để được đoàn tụ cùng cha mẹ.

Kiều Phong lại ngẩng đầu trông sang bên, thì mấy trăm người bị bắt đều quỳ hết một lượt. Trong đám này chỉ có một chàng thiếu niên vẫn hiên ngang đứng sững. Trong số mấy trăm người vừa trai vừa gái bị bắt đều quỳ mọp dưới đất mà một thiếu niên dám hiên ngang đứng sững tỏ rõ thái độ quật cường của gã. Kiều Phong thấy thiếu niên chừng mười sáu mười bảy tuổi mặt dài, cặp mắt loang loáng, tuyệt không có chút gì khiếp sợ, liền hỏi:

- Chú nhỏ kia! Nhà chú ở đâu?

Thiếu niên đáp:

- Tôi có việc cơ mật cần được bẩm đại vương.

Kiều Phong nói:

- Chú lại đây nói ta nghe!

Gã thiếu niên giơ hai tay bị cột bằng sợi dây thừng rất lớn lên nói:

- Xin đại vương dời ra xa bọn thuộc hạ, việc này không thể để người ngoài nghe thấy được.

Kiều Phong động tính hiếu kỳ, tự hỏi:

- Thằng nhỏ này đã biết gì mà bảo là có việc cơ mật? Gã ở dưới Nam lên hoặc gã có điều chi báo cáo quân tình nhà Đại Tống? Nhưng ông lại nghĩ rằng: "Gã đã là người Đại Tống mà đến báo cáo việc cơ mật trong nước cùng người Khất Đan thì cũng chỉ là một tên Hán gian hèn hạ, đáng khinh. Dù sao gã đã bảo có việc cơ mật trọng đại, âu là ta cũng thử nghe coi cũng chẳng hề chi"

Nghĩ vậy Kiều Phong tung ngựa chạy ra xa mười mấy trượng vẫy tay bảo:

- Chú theo ta lại đây!

Thiếu niên chạy lại giơ hai tay lên nói:

- Xin đại vương hãy cắt dây trói cho tôi đã, tôi sẽ lấy một vật trong bọc để trình đại vương.

Kiều Phong rút đơn đao ở sau lưng ra.

Soạt một tiếng, lưỡi dao bổ xuống, đường đao trông như để bổ dọc gã thiếu niên, nhưng rất đúng vị trí lưỡi dao chỉ chặt đứt dây trói mà không động chạm gì đến tay gã. Thiếu niên giựt mình chú ý nhìn Kiều Phong hồi lâu.

Kiều Phong tủm tỉm cười tra đao vào vỏ rồi hỏi:

- Nào! Chú có gì đâu đưa ta coi.

Thiếu niên thò tay vào bọc móc ra một vật cầm trong tay nói:

- Đại vương coi đây sẽ rõ.

Nói xong chạy lại trước ngựa Kiều Phong. Kiều Phong vừa giơ tay ra đón lấy vừa để mắt trông thì thấy đồ vật cầm trong tay thiếu niên cựa quậy, ông rất lấy làm lạ bảo:

- Chú ruỗi bàn tay ra cho ta coi.

Rồi không đón lấy nữa.

Thiếu niên biết âm mưu mình đã bại lộ, sắc mặt tái mét. Đột nhiên gã cầm vật trong tay liệng vào mặt Kiều Phong. Kiều Phong vung roi ngựa lên hất vật đó xuống đất. Ông chú ý nhìn thì té ra là một con rắn nhỏ xíu đen sì.

Ông nhíu cặp lông mày rồi không để ý gì đến nữa, chỉ nghĩ thầm:

- Thằng nhỏ này tinh nghịch thật. Dám bắt rắn đem cho mình chơi chắc?

Ông lại để ý nhìn con rắn rớt xuống đất, nó lầp tức nhảy lên há miệng cắn vào đùi ông. Kiều Phong không ngờ đến con rắn nhỏ xíu này lại tung bay lên được, bất giác giật mình đánh thót một cái, rút chân về. Con rắn cắn hụt ông, liền đớp ngay vào chân trước con ngựa ông đang cưỡi. Ngựa bị rắn cắn mình mềm nhũn ra, ngã vật xuống đất. Kiều Phong đang ngồi trên ngựa nhảy xuống kịp. Ông thấy con ngựa không hí lên được một tiếng chỉ giãy giụa mấy cái rồi chết ngoẻo.

Thiếu niên xông vào phía trước nhặt lấy con rắn nhỏ trên mình ngựa ra rồi liệng vào người Kiều Phong. Kiều Phong thấy con rắn nhỏ này nọc độc ghê gớm. Còn đang lơ lửng trên không, nó đã lè lưỡi lắc lư cái đầu nhảy vào mình, ông không dám chần chừ, vận nội kình vào roi ngựa quất mạnh một cái hất ra xa.

Con rắn bị roi quất mà nó vẫn chưa chết, nó tung bay ra xa ngòi mấy một trượng rơi xuống đống tuyết, quằn quại một chút rồi quay đi mất hút.

Kiều Phong tuy đã trải qua nhiều phen nguy hiểm bất ngờ, thế mà nghĩ đến lần này ông không khỏi ớn da gà. Trâu ngựa là những súc vật to lớn, khi mắc bệnh người ta phải dùng liều thuốc hàng nửa cân hay một cân trở lên mới thấu bệnh, chứ không phải chỉ mấy đồng cân hay mấy lạng là đủ như trị bệnh cho người. Cứ suy đó mà ra thì đủ biết rằng muốn dùng chất độc để đánh chết trâu ngựa, số lượng cũng phải nhiều hơn mới có công hiệu. Con rắn nhỏ xíu này chỉ đớp một cái mà làm chết được ngựa, thì nọc độc của nó mãnh liệt biết đến đâu mà kể?

Gã thiếu niên đã cầm rắn trong tay được để liệng vào Kiều Phong thì cũng phải là một nhân vật rất lợi hại về cách dùng độc, trị độc. Kiều Phong từng làm Bang chá Cái Bang. Những bạn bè trong Bang trị độc kể có đến hàng ngàn hàng vạn. Chức Tư Không cũng là một tay giỏi về nghề này, nhưng chưa có gì đáng gọi là kỳ lạ. Đến con rắn đen sì nhỏ xíu này mới thật là hạn hữu. Những nhà trị rắn độc ở Cái Bang đều là những người đứng tuổi hoặc người già, trải qua bao lâu năm kinh nghiệm mới lành nghề. Gã thiếu niên này mới mười sáu mười bảy tuổi mà đã có một bản lãnh tinh vi đến thế thì thật là trên đời này hiếm có.

Kiều Phong nghĩ lại bấy nhiêu điều rồi lẩm bẩm: "Nếu mình không có tâm linh mau lẹ, lại đưa tay ra đón lấy thì uổng mạng rồi còn gì?"

Quan binh Khất Đan thấy con ngựa của Kiều Đại Vương ngã ra chết, tới tấp chạy lại. Kiều Phong xua tay nói:

- Các ngươi đừng lại đây!

Quan binh nghe ông ra lệnh đều dừng bước. Kiều Phong nhìn xuống con ngựa bạch nằm chết trong đống tuyết bây giờ toàn thân biến ra sắc đen, chẳng khác gì một con hắc mã thì trong lòng kinh hãi vô cùng.

Ông lẩm nhẩm gật đầu, nói:

- Giỏi lắm! Giỏi lắm! Tên chú là gì? Cớ sao lại đến nhằm ta hạ độc thủ?

Thiếu niên mím chặt môi không trả lời. Kiều Phong nói:

- Ngươi cứ nói đi ta sẽ tha mạng cho.

Thiếu niên nói:

- Ta đến báo thù cho cha mẹ ta không xong, còn nói gì được?

Kiều Phong hỏi:

- Cha mẹ chú là ai? Chẳng lẽ ta giết chết cha mẹ chú ư?

Thiếu niên tiến lên hai bước, giơ tay trỏ vào mặt Kiều Phong vẻ mặt cực kỳ căm phẫn nói:

- Kiều Phong kia! Mi đã giết hại bá phụ lại giết luôn cả gia gia cùng má má ta. Ta căm hận không ăn tươi nuốt sống mi được và xé xác mi ra làm muôn mảnh.

Kiều Phong nghe gã nói đến tên của mình là Kiều Phong lại biểu mình giết hại bá phụ cùng song thân gã thì biết ngay chắc là ngày trước mình đã gây thù oán ở Trung Nguyên.

Ông hỏi:

- Bá phụ và song thân chú là ai?

Thiếu niên đáp:

- Ta không muốn sống nữa nên ta bảo cho ngươi biết làm trai họ Du ở Tụ Hiền Trang chúng ta không phải là phường tham sanh úy tử.

Kiều Phong nghe nói đến họ Du ở Tụ Hiền Trang liền nói:

- Ủa! Ngươi là con cháu song hùng họ Du. Vậy hiền tôn là Du Câu hay Du Nhị Gia rồi.

Ngừng một lát ông nói tiếp:

- Ngày đó ta ở Quí trang bị quần hùng Trung Nguyên vây đánh và bức bách ta phải ứng chiến. Đó là việc bất đắc dĩ, lệnh tôn cùng lệnh bá phủ đều tự vẫn chết đấy chứ!

Tới đây ông lắc đầu nói tiếp:

- Hỡi ôi! Dù người tự vẫn hay người bị giết cũng chẳng khác gì nhau, vì ngày đó ta cướp mất binh khí của bá phụ cùng gia gia chú đến nỗi các người phải tự vẫn. Chú em ơi! Tên chú là gì?

Thiếu niên đứng phưỡn ngực ra đáp:

- Ta là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi hạ sát, ta học lối bá phụ cùng gia gia ta.

Nói xong gã thò tay vào ống bít tất rút ra một lưỡi đoản đao rồi cầm đao đâm ngực. Kiều Phong vội lấy roi ngựa vung ra quấn lấy lưỡi đoản đao kéo về.

Du Thản Chi cả giận nói:

- Ta muốn tự vẫn, ngươi cũng không cho ư? Quân Liêu tội ác ngập đầu kia! Mi thật lòng lang dạ thú!

Lúc này A Tử đã tung ngựa đến bên Kiều Phong quát lên:

- Thằng quỷ con chưa ráo máu đầu kia! sao dám mở miệng mắng người? Mi muốn chết phải không? Ha! Ha! Muốn chết cũng không dễ đâu!

Du Thản Chi Đột nhiên thấy một vị tiểu cô nương kiều diễm, gã đứng ngây người ra mà nhìn không nói nên lời.

A Tử nói:

- Tỷ phu ơi! Thằng lỏi này hiểm độc gớm lắm. Gã toan dùng rắn độc để hại tỷ phu. Bây giờ tiểu Muội cũng dùng rắn độc để cắn cho y biết mùi.

Nàng là môn đệ phái Tinh Tú, về môn tà độc thì hiện nay không đâu bằng phái này. Kiều Phong quay lại bảo tên đội trưởng:

- Bữa nay đi kiếm lương được những thứ gì của người Tống ta cho các ngươi tất, nghe chưa!

Đọi trưởng mừng quá đáp:

- Đại Vương có lòng thương thuộc hạ xin đa tạ.

Kiều Phong nói:

- Những quân binh bắt được người Tống đem về cho ta thì sẽ về Vương phủ để lãnh thưởng.

Bọn quan binh mừng rỡ vô cùng đồng thanh nói:

- Bọn tiểu nhân xin thành tâm dâng Đại Vương hết đâu dám mong lãnh thưởng.

Kiều Phong nói:

- Các ngươi để những kẻ bị bắt lại đây rồi đưa nhau về thành trước đi, và nhớ đến lãnh thưởng.

Đám quân binh cúi đầu tạ ơn. Gã đội trưởng nói:

- Bữa nay không được nhiều dã thú, Đại Vương bắt lấy đám Tống chư(*) này làm "bia thịt." Trước kia Sở Vương ưa món đó lắm. Có điều đáng tiếc là món hôm nay bọn tiểu nhân bắt được phần nhiều đàn bà. Lần sau sẽ bắt những hạng trai tráng nhiều hơn về để Đại Vương dùng làm bia thịt.

(*)Tống chư là lợn Tống. Tiếng nói để tỏ ý khinh bỉ cũng như Liêu cẩu (chó Liêu).

Nói xong thi lễ, kéo quân về.

Câu chúng vừa nói: "Bắt đám lợn Tống làm bia thịt" vừa lọt tai Kiều Phong, khiến ông rùng mình. Tước mắt ông hiện ra cảnh tượng thê thảm. Sở Vương ngày trước từng bắt người Tống làm "bia thịt" khủng khiếp vô nhân đạo biết chừng nào!

Hàng trăm người Tống chẳng khác gì loài dã thú hoặc ngồi trên đống tuyết kêu gào hoặc chạy trốn. Những bậc quý nhân Khất Đan cười ha hả dương cung lắp tên để bắn chết chơi. Còn người nào chạy được xa rồi thì người Khất đan reo hò đuổi theo tựa như cuộc săn đuổi chồn thỏ vậy. Rút cuộc đều bị bắn chết hết. Các trò bắn người này họ gọi là bia thịt. Cảnh tượng thảm khốc này không chỉ một lần mà thôi, người Khất Ðan coi những vụ đó là thường, họ bàn tán đến luôn, tựa hồ câu chuyện bình thường không có chi lạ.

Kiều Phong đưa mắt nhìn những người bị bắt thì thấy sắc mặt của người nào cũng tái mét, run cầm cập trước ngọn gió heo lạnh buốt. Trong bọn dân miền biên giới này có nhiều người hiểu tiếng Khất Đan từng nghe đến chuyện bia thịt lại càng khủng khiếp.

Kiều Phong thở dài sườn sượt, ngó về phía nam rừng núi trùng điệp, bỗng nhớ lại: "Nếu không có người phát giác ra thân thế mình thì đến ngày nay ta vẫn tưởng mình là người nhà Đại Tống. Ta với bọn người đó cùng nói một thứ tiếng cùng ăn một thứ cơm, có khác chỗ nào đâu? Làm sao đã là người cả lại còn phân chia làm người Khất Đan, người Đại Tống, rồi người Nữ Chân, người Cao Ly... Bọn người bên này sang bờ cõi nước kia để kiếm lương rồi bọn người kia lại qua đất bên này để giết người đốt nhà? Người này mắng người kia là "Liêu cẩu" người kia lại mắng người này là "Tống chư".

Trong một lúc không biết bao nhiêu là sóng tư tưởng cuồn cuộn tràn ngập đầu óc ông.

A Tử vẫn nhìn chằm chặp vào Du Thản Chi đang tính toán xem hành hạ gã cách nào đừng để gã chết ngay tức khắc.

Nàng lẩm bẩm:

- Mấy bữa nay mình đang buồn đây. Tuy bắt được tên này về nhác bằng bắt được con hươu con hoẳng chơi cho thích?

Rồi nàng reo thầm:

- À phải rồi! Ta hãy đem thử uy lực chiếc Bích Ngọc Vưởng Đỉnh xem thế nào cũng hay! Trước hết ta bắt mấy con rắn độc cho cắn tay phải gã chờ cho chất độc chạy vào trái tim rồi hãy chém tay gã đi. Đoạn lại cho rắn cắn tay trái và cũng làm theo cách đó có thể tiêu khiển cho mình được bốn năm ngày.

Kiều Phong thấy lũ quan binh nước Liêu đi xa rồi không còn ai nữa liền bảo đám nạn nhân:

- Hôm nay ta tha các người về, vậy các ngươi chạy ngay đi!

Bọn người bị bắt vẫn tưởng Kiều Phong tha cho họ chạy đi rồi lại bắn bia thịt như những lần trước, thành ra họ vẫn thất vọng ngồi yên.

Kiều Phong lại giục:

- Các ngươi về rồi nên rời xa biên giới để khỏi bị chúng đi càn quét về. Ta có cứu các ngươi cũng chỉ được một lần mà thôi, chứ không được lần thứ hai đâu.

Bây giờ bọn nạn nhân mới tin là Kiều Phong nói thật reo hò mừng rỡ quỳ mọp cả xuống đập đầu lạy, đồng thanh nói:

- Ơn đức Đại Vương ơn nặng tày non. Bọn tiểu nhân trở về nhà sẽ cầu trời khấn phật cho Đại Vương được sống lâu hưởng phúc.

Nên biết rằng bọn dân Tống bị người Liêu càn quét bắt về rồi trừ khi là nhà đại phú có vàng bạc đem đến chuộc về thì không kể còn ngoài ra bị chết trên đất Liêu, thảm cảnh xương trắng quê người đã diễn ra nhiều lần.

Luôn mấy năm Tống cùng Liêu đánh nhau liên miên nên người giàu có đều di cư vào nội địa cả rồi. Bọn dân bị bắt này đều là hạng cùng khổ, làm gì có tiền bạc lụa là để đem chuộc. Họ biết rằng thân phận họ không bằng trâu ngựa, nay được Kiều Phong buông tha cho họ trở về với gia đình thì nỗi vui mừng biết lấy chi cân?

Kiều Phong nhìn thấy bọn nạn nhân vui mừng dắt giúm nhau đi về phía nam, nghĩ thầm:

- Người Khất Đan mình bắt họ về đây, rồi lại tha họ khiến bọn họ phải nhọc nhằn khiếp sợ một phen thì làm gì còn có ơn đức với ai.

Ông thấy bọn nạn nhân kéo nhau đi mỗi lúc một xa, chỉ còn mình gã Du Thản Chi vẫn phưỡn ngực đứng đó liền hỏi:

- Sao chú không chạy đi? Bây giờ chú về Trung Nguyên đã có lộ phí chưa?

Nói xong ông thò tay vào bọc toan lấy tiền bạc cho gã nhưng bên mình lại không đem theo đồng tiền nào. Lúc móc túi định lấy tiền tiện tay ông móc cái gói nhỏ bằng giấy dầu ra, ông bỗng chua xót trong lòng thấy gói giấy dầu này bọc cuốn Dịch Cân Kinh bằng tiếng Phạn.

Nguyên ngày trước A Châu vào chùa Thiếu Lâm lấy cắp được pho sách này, nàng bắt buộc ông phải nhận lấy cất đi. Nay người mất mà kinh còn, trách nào trông thấy di vật ông chẳng đau thương?

Kiều Phong lại cất gói nhỏ vào bọc buồn rầu nói:

- Bữa nay ta đi săn không mang tiền theo. Nếu chú không có tiền xài đi theo ta về thành mà lấy.

Cặp mắt Du Thản Chi giận như muốn tóe lửa, lớn tiếng quát:

- Gã họ Kiều kia! Mi muốn giết thì giết, muốn mổ thì mổ, hà tất còn dùng ngụy kế để trêu cợt và làm nhục ta. Họ Du này nghèo khổ chết thôi, chứ không thèm nhận một đồng một chữ của mi.

Kiều Phong cho gã nói thế là phải. Mình là kẻ thù giết cha gã mối thù không đội trời chung, dù nói lắm cũng vô ích, liền bảo:

- Ta không giết chú. Chú muốn báo thù thì lúc nào muốn đến tìm ta cũng được.

A Tử vội nói:

- Tỷ phu ơi! Không thể tha gã được! Thằng lõi này độc ác lắm, gã có báo thù cũng không dùng võ công đàng hoàng, mà chỉ dùng thuốc độc hoặc rắn độc. Vô luận là thủ đoạn hèn mạt nào gã cũng dám làm, khiến cho mình biết đâu mà đề phòng. Đã nhổ cỏ phải nhổ tận gốc mới khỏi lo về sau.

Kiều Phong lắc đầu nói:

- Bước đường giang hồ chỗ nào cũng đầy gai chông nguy hiểm, mình đều bước qua cả rồi. Xem chừng gã thiếu niên này không hạ nổi ta đâu. Ngày trước vì ta nói khích mà bá phụ cùng thân phụ gã tự vẫn chết! Đó cũng là chuyện vô tình. Nhưng món nợ máu đó ta hãy còn chịu đó chưa trả, có lý nào lại giết cả con cháu họ Du nữa.

Du Thản Chi nghe Kiều Phong muốn tha mình mà vị tiểu cô nương cứ khuyên y giết mình. Tuy chàng cũng muốn đi luôn để khỏi sợ Kiều Phong biến đổi lòng dạ. Nhưng mình chạy đi ngay thì làm hại đến uy danh của phụ thân mình. Gã miễn cưỡng tỏ vẻ gan dạ lạnh lùng đứng nhìn hai người.

Kiều Phong nói:

- A Tử! Chúng ta về thôi. Bữa nay chả còn gì mà săn bắn nữa.

A Tử bĩu môi nói:

- Tiểu Muội đã nghĩ cách an bài gã kia đâu vào đấy rồi mà tỷ phu cứ đòi tha gã. Thế rồi tiểu Muội về thành lấy gì mà chơi?

Nói vậy thì nói chứ nàng không dám trái ý Kiều Phong, bắt ngựa quay đầu cùng Kiều Phong dong cương về thành. Đi được mấy trượng, nàng còn quay đầu lại bảo:

- Thằng lỏi kia! Mi về luyện lấy sáu chục năm võ công nữa rồi hãy tìm đến tỷ phu ta để báo thù!

Nói xong nàng mỉm cười, gia roi cho ngựa chạy nhanh.

Du Thản Chi thấy bọn Kiều Phong đi về phía tây thủy chung vẫn không quay đầu lại mới biết là mình đã thoát chết. Gã lẩm bẩm một mình: "Tên gian tặc này, sao lại không giết ta? Chắc y coi ta chẳng vào đâu, không thèm giết ta cho bẩn tay. Nay y đã làm chức đại vương chi chi đó ở nước Liêu. Từ đây về sau việc báo thù của ta khó lắm rồi. Nhưng rồi cũng có ngày ta phải tìm đến chỗ y."

Gã cắm đầu vừa đi trên đất đầy tuyết phủ vừa tìm con rắn đen nhỏ xíu để bắt nó đem về. Gã đang tìm kiếm bỗng thấy trên bụi cỏ mé tả một gói nhỏ bọc giấy dầu chính là của Kiều Phong vừa đánh rớt. Gã liền nhặt lên mở ra xem, thì ra là một cuốn sách. Gã giở luôn mấy trang, nhưng trang nào cũng chỉ thấy chi chít những chữ ngoằn ngoèo hoặc khuyên hoặc điểm. Gã chẳng hiểu gì hết.

Nguyên Kiều Phong nhìn thấy vật lại nhớ đến ngườị Lúc ông đút "Dịch cân Kinh" vào bọc, lòng dạ thẩn thờ, không bỏ kinh vào trong túi lại bỏ ra ngoài, rồi lúc ngựa chạy xốc nên giấy dầu rớt xuống bụi cỏ, mà ông không hay biết, nên Du Thản Chi bắt được.

Gã xem từ đầu đến cuối, mù mịt chẳng hiểu một chữ nào thì nghĩ thầm: "Đây chắc là chữ Khất Đan, cuốn sách này hẳn là vật rất hữu dụng của tên gian tặc. Ta không trả lại y, để y khổ sở cho bỏ ghét!"

Du Thản Chi nghĩ mình lấy được cuốn sách của Kiều Phong tất làm khó cho ông, gã cảm thấy có điều khoan khoái trong lòng vì gã cho là thế cũng gỡ gạc được tí chút trong việc báo thù cha gã.

Cố nhiên, mối thâm thù giết cha mẹ, sâu tấy biển cả, không phải vì cái việc cỏn con đó mà Kiều tan, nhưng nó làm phiền cho kẻ thù phải rầy rà bực bội, cũng là hay rồi. Gã gói cuốn sách lại trong tờ giấy dầu, cất kỹ vào trong túi áo lót mình rồi trông về phía nam mà đi.

Từ ngày còn nhỏ, Du Thản Chi đã theo phụ thân học võ, nhưng tư chất kém cỏi lại thân thể gày yếu nên sức lực cánh tay không sao mạnh lên được. Bá phụ cùng phụ thân gã đều nổi tiếng anh hùng trong giới võ lâm ở Trung Nguyên, mà gã học võ ba năm chưa ăn thua gì, thật không xứng đáng là con cái nhà danh gia.

Du Thản Chi học võ cho đến ngày mười hai tuổi, phụ thân gã là Du Câu phát ngán, bàn cùng bá phụ gã:

- Không ngờ nhà họ Du ta lại sanh ra con mẻ mọt chẳng bõ để người ta cười cho thúi óc. Hơn nữa khi người ngoài nghe tiếng là con cháu Du Tị Song Hùng ở Tụ Hiền Trang, thì lúc ra tay họ sẽ dùng hết sức và chỉ một chiêu là y tất uổng mạng. Âu là mình cho y học nghề văn để bảo toàn lấy mạng sống hay hơn.

Thế là từ năm mười hai tuổi, Du Thản Chi thôi không học võ nữa theo thầy đồ đọc sách. Song gã đọc sách cũng lại chểnh mảng vì gã còn để tâm nghĩ đến chuyện đâu đâu, Thản sự học hành luôn luôn bị gián đoạn.

Một hôm sư phụ nhắc lại cho Du Thản Chi câu nói của Đức Khổng Tử:

- Việc học có siêng năng và nhuyên cần thì mới tìm thấy sự hứng thú.

Gã nói:

- Ngài nói như vậy; nhưng đệ tử chưa hiểu là nói về môn gì. Gia gia dạy đệ tử tập quyền, đệ tử rất siêng năng và chuyên cần mà tuyệt chẳng thấy hứng thú chi hết.

Sư phụ gã tức mình nói:

- Đức Khổng Tử nói đó là một học thuyết của thánh hiền để dựng nghiệp lớn trên đời, chứ ngài nói đến cái nghề đánh quyền múa thương làm gì?

Du Thản Chi liền nói:

- Được lắm! Sư phụ bảo bá phụ cùng gia gia đệ tử đánh qu yền múa thương là chẳng ra gì. Đệ tử phải đem chuyện này tố với gia gia.

Đại khái là gã chọc tức để thầy đồ tức mình phải bỏ đi. Du Câu đã đánh y không biết bao nhiêu lần, song con người như gã càng đánh càng quật cường bướng bỉnh. Du Câu thấy con hư cứng đầu khó dạy cũng chẳng biết làm thế nào được, chỉ thở dài rồi bỏ mặc gã muốn làm gì thì làm không nói đến nữa. Vì thế nên Du Thản Chi đã mười bảy tuổi lại con nhà danh giá mà vẫn văn dốt võ nát; chỉ đi theo một người khách trong nhà đi học nghề bắt rắn, suốt ngày chạy lăng xăng trên núi hay dưới đồng.

Từ khi bá phụ cùng phụ thân gã tự vẫn chết, rồi mẫu thân cũng đật đầu vào cột tử tiết theo cha, thì gã lênh đênh cơ khổ, du đảng khắp nơi. Trong tâm gã chỉ muốn đi tìm Kiều Phong để báo thù. Hôm xảy ra cuộc đại chiến ở Tụ Hiền Trang, gã nấp ở sau nhà để xem đánh nhau nên gã đã nhớ rõ mặt ông. Gã nghe nói ông là mgười Khất Đan, thế là cứ ngây ngô đi về hướng Bắc. Tuy gã chủ tâm đi báo thù mà rút cục trong bụng chẳng biết làm thế nào để báo thù.

Một hôm gã đang chạy lăng băng ở miền biên giới rồi gặp bọn kỵ binh Khất Đan đến bắt đi và tự nhiên gặp Kiều Phong. Âu đó cũng là một chuyện khuôn thiên lừa lọc, không hẹn mà nên.

Gã được Kiều Phong tha rồi, vừa đi vừa nghĩ bụng: Hiện bây giờ mình chạy xa được chừng nào hay chừng nấy để khỏi bị quân Khất Đan bắt trở lại. Rồi mình sẽ đi bắt rắn độc tìm cách lẻn vào giường Kiều Phong, bỏ rắn vào chăn mền để nó cắn chết kẻ thù. Còn vị tiểu cô nương kia! Trời ơi! Sao mà người nàng đẹp thế!

Gã nhớ đến hình dung A Tử, bất giác luồng nhiệt huyết nổi lên bừng bừng. Từ nhỏ đến giờ, năm nay gã mười bảy tuổi và đây là lần đầu tiên trong tâm gã nảy ra cảm giác quỷ quái này... Gã nhớ đến bộ mặt xanh lướt nhưng thanh nhã mĩ miều của cô bé kia, trong lòng gã lại cảm thấy vui sướng vô cùng!

Du Thản Chi cắm đầu đi mau. Một loáng gã đã qua mặt bọn nạn nhân. Vì gã ở dưới nam nên không quen biết ai trong bọn này. Có người kêu gã kết bạn đồng hành nhưng gã cũng mặc, chỉ lủi thủi đi một mình. Du Thản Chi đi được mười mấy dặm đường thì bụng đói như cào, nhìn đông ngó tây để kiếm xem có thứ gì ăn được không. Nhưng ở giữa cánh đồng bát ngát ngoài cỏ khô cùng tuyết trắng, chẳng có thứ gì nữa.

Gã lẩm bẩm: "Giả tỷ mình là con trâu hay con dê có lẽ lại thú hơn" vì nó gặm cỏ uống tuyết cũng khoan khoái rồi. Hừ! Nhưng nếu mình làm con dê nhiều người ta giêt gia gia, má má là hai con dê già để ăn thịt thì mình có báo thù không? Nhưng báo thù bằng cách nào? Mình lấy sừng húc kẻ đã giết cha mình ư? Cũng vô lý, người ta nuôi trâu nuôi dê là để ăn thịt, làm sao mình lại tính đến chuyện báo thù với chẳng báo thù?

Du Thản Chi vừa nghĩ vơ nghĩ vẩn, bỗng lại nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập. Ba tên kỵ binh Khất Đan đang ruổi ngựa trên đất đầy tuyết phủ rầm rập đi đến, chúng vừa thấy gã thì reo hò mừng rỡ. Một tên quân Khất Đan vung cái thòng lọng ra chụp vào cổ gã rồi giật mạnh một cái. Du Thản Chi thấy nghẹt cổ khó thở, vội giơ tay lên đằng ra. Không ngờ tên quân Khất Đan huýt lên một tiếng còi rồi giựt cương cho ngựa chạy nhanh. Du Thản Chi chân đứng không vững, té lăn xuống đất rồi bị tên quân Khất Đan kéo tuột đi. Du Thản Chi kêu lên được mấy tiếng thật to, nhưng rồi cổ họng bị rít chặt lại, không kêu được nữa. Tên quân Khất Đan sợ cứ kéo như vậy sẽ làm chết Du Thản Chi liền dừng ngựa lại.

Du Thản Chi lóp ngóp bò dậy, vừa nới dây thòng lọng ra một chút thì tên quân Khất Đan lại giật mạnh một cái khiến cho gã lảo đảo chúi về phía đằng trước hai bước suýt ngã vật xuống. Ba tên quân Khất Đan thấy vậy lại cười ồ. Rồi một tên lớn tiếng nói bi bô với Du Thản Chi mấy câu, nhưng gã không hiểu tiếng Khất Đan chỉ lắc đầu quày quạy.

Tên quân Khất Đan lại quất ngựa chạy, lần này ngựa chạy nhanh hơn trước. Du Thản Chi sợ nghẹt cổ họng không thở được phải hấp tấp chạy theo. Ba tên kỵ binh Khất Đan trông về hướng tây mà đi. Tuy chúng không cho ngựa phóng nước đại, nhưng so với người đi chân cũng nhanh hơn nhiều.

Du Thản Chi muốn giữ cho khỏi té nhào cứ phải chạy gần. Gã thấy ba tên kỵ binh nhắm về phía Kiều Phong cho ngựa chạy, thì không khỏi hoảng hồn rủa thầm: "Thằng cha Kiều Phong này miệng thơn thớt da ớt ngâm. Y bảo tha mình rồi lại cho quân đuổi theo bắt lại. Phen này bị y bắt nữa chắc khó lòng thoát chết!"

Từ ngày Du Thản Chi lìa cửa lìa nhà đi về phương Bắc, lúc nào cũng nghĩ đến việc báo thù, chứ có biết trời cao đất rộng là gì. Gã gặp Kiều Phong một cách đột ngột, cảnh cha mẹ gã bị thảm tử hiển hiện ra trước mắt, máu nóng gã sôi lên sùng sục. Gã tưởng liệng rắn độc ra cắn chết được kẻ thù ngay. Song gã liệng không trúng thế là bao nhiêu chí khí lại tiêu tan. Gã tưởng thoát chết là may ngờ đâu lại bị quân Khất Đan bắt trở lại.

Lần trước bọn Khất Đan đi kiếm lương bắt được gã cho gã đi theo bọn đàn bà con gái. Dĩ nhiên bọn này đi thong thả thôi, nên gã theo không khó nhọc gì. Chỉ có lúc gã bị bắt, gã bị đánh một sống đao vào sau lưng là hơi đau ê ẩm mà thôi. Lần này gã bị bắt khác hẳn lần trước, gã đã bị ngựa kéo xềnh xệch một lúc, bây giờ lại phải gần theo kịp ngựa cho khỏi ngã lăn ra. Gã vừa chạy vừa thở hồng hộc trông rất thiểu não.

Mặt đường đầy tuyết rất trơn. Du Thản Chi chỉ chạy được vài chục bước lại trượt chân té nhào xuống. Mỗi lần té là đây thòng lọng lại xiết chặt sau cổ đến trầy da chảy máu. Tên kỵ binh Khất Đan vẫn cho ngựa chạy đều đều, không dừng lại lúc nào, và cũng chẳng thèm để ý đến gã sống hay gã chết nữa, cứ thế kéo gã vào thành Nam Kinh. Lúc vào thành Du Thản Chi mình đầy những máu, trông không còn ra hình người nữa. Gã chỉ mong được chóng chết cho khỏi đau đớn.

Vào thành rồi, ba tên kỵ binh Khất đan còn cho ngựa chạy mấy dặm đường nữa mới kéo gã đến một tòa cung điện. Du Thản Chi thấy đường lót đá tảng màu xanh, cổng cao cột lớn chẳng biết đó là cung điện nào.

Dừng lại trong thời gian chừng uống cạn tuần trà, tên quân Khất Đan lại kéo Du Thản Chi đến một khu sân rộng rồi đột nhiên huýt lên một tiếng sáo, thích cặp giò vào sườn ngựa phóng rất nhanh. Du Thản Chi không ngờ tên quân phóng ngựa một cách đột ngột chỉ chạy được ba bước rồi té nhào.

Tên kỵ binh Khất Đan miệng huýt sáo liên hồi, kéo Du Thản Chi chuyển qua ba khúc quanh trong sân. Vó ngựa chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Mười mấy tên quan binh đứng ngoài xem, reo hò trợ oai. Du Thản Chi nghĩ thầm: À ra bọn chúng lôi ta cách này đến chết đây.

Từ đầu cho đến giờ chân tay gã va vào đá xanh lát dưới đất khiến gã đau đớn khắp mình mẩy. Bọn quan binh Khất Đan đang cười rộ, đột nhiên nổi lên một giọng cười trong trẻo của một thiếu nữ. Du Thản Chi giữa lúc hôn mê vẳng tiếng cô gái vừa cười vừa nói:

- Ha ha! Cái diều giấy bằng người này, e rằng khó lòng thả lên được.

Du Thản Chi tự hỏi: Diều giấy người là ai vậy? Gã còn đang nghĩ ngợi, bỗng thấy sau cổ bị rít chặt lại rồi người gã tung lên trên không. Nguyên tên kỵ mã Khất Đan phóng ngựa cho chạy thật nhanh, lôi gã tung bay lên tựa như cái diều giấy để làm trò chơi. Du Thản Chi người tung bay vì ngựa chạy nhanh, cổ gã bị xiết chặt đau điếng người, không còn biết gì nữa. Mồm miệng và lỗ mũi gã bị gió tràn vào đầy rất khó thở.

Bỗng nghe tiếng cô gái vỗ tay cười:

- Hay quá! Hay quá! Quả nhiên chẳng khác gì thả diều giấy.

Du Thản Chi ngoảnh mặt về phía phát ra tiếng cười nói, thì thấy người vỗ tay tươi cười chính là thiếu nữ chim sa cá lặn mình mặc áo tía. Du Thản Chi nhìn thấy nàng không biết gã vui mừng hay đau thương. Người gã đang bay trên không trung nên không hiểu gã tư tưởng thế nào. Thiếu nữ kiều diễm này chính là A Tử.

Nguyên nàng thấy Kiều Phong buông tha Du Thản Chi, trong bụng không vui. Nàng cưỡi ngựa theo ông đi một lúc rồi cố ý lùi lại sau để bảo bọn tùy tùng đi bắt gã trở lại và dặn chúng không được cho Kiều đại vương hay biết. Bọn tùy tùng biết Kiều đại vương nuông chiều cô bé này, việc gì cũng theo lời cô, dĩ nhiên là chúng không dám trái lệnh. Nhân lúc Kiều Phong không để ý, chúng dừng lại trên sườn núi chờ cho đòan người đi xa rồi, bấy giờ mới quay lại đuổi theo bắt Du Thản Chi.

A Tử về thành rồi vào cung Hựu tránh xa chỗ ở Kiều Phong để ngồi chờ.

Lúc bắt được Du Thản Chi đem về, nàng gạn hỏi bọn Khất Đan có cách nào đánh đập hành hạ tội nhân mới mẻ đặc biệt không? thì có gã đưa ra ý kiến: "thả diều người"

Trò này làm cho A Tử Thích quá, nàng hạ lệnh lập tức thi hành. Thế la "cái diều" Du Thản Chi được tung lên. A Tử xem cách thả diều người rất lấy làm thích thú, liền gọi bảo:

- Ngươi để ta thả một chút!

Rồi nàng lẹ làng tung mình nhảy lên lưng ngựa để tên Khất Đan đang cưỡi cầm lấy dây thòng lọng giựt tên quân:

- Thôi, ngươi xuống đi.

Hồi Thứ 49

Du Thản Chi mê mẫn tâm thần

Tên quân Khất Đan nhảy xuống ngựa để cho A Tử thả "diều người".

A Tử cầm đầu dây rồi phóng ngựa để cho chạy đường vòng tròn. Nàng sung sương hở tươi cười miệng hô:

- Thú quá! Thú quá!

Nhưng nàng bị thương mới khỏi mà chưa được bình phục bàn tay vẫn còn yếu sức rồi mềm nhũn ra tuột mất đầu dây. Du Thản Chi rớt xuống đất đánh cái "huỵch" một tiếng, trán gã đụng vào cạnh phiến đá sắc nhọn, bị thương một lỗ, máu chảy ra như suối.

A Tử cụt hứng tức mình la mắng:

- Thằng khốn nạn này sao nặng thế!

Du Thản Chi đã đau xuýt ngất người lại nghe nàng quát mắng vì thân thể vì quá nặng, những muốn quay lại cãi lộn, nhưng không nói nên lời. Một tên quân Khất Đan chạy nới lại dây lọng tròng cổ gã, một tên khác xé vạt áo buộc vết thương, nhưng máu tươi vẫn tuôn ra ướt hết không thể cầm được.

A Tử nói:

- Các ngươi lại thả diều đi cho ta coi, liệu có thả lên cao bàng nóc nhà được không?

Du Thản Chi không hiểu tiếng Khất Đan chỉ thấy họ vừa nói vừa giơ tay chỉ chỏ lên nóc nhà cũng đoán là chuyện không hay cho mình.

Quả nhiên một tên quân Khất Đan nhắc đầu dây lên luồn qua nách rồi bước lên lưng để khởi làm ngẹn cổ gã rồi quát lên một tiếng:

- Lên đi!

Đoạn phóng ngựa chạy nhanh. Du Thản Chi trước còn chạy lệt sệt dưới đất mấy vòng rồi tung lên cao dần dần. Tên quân Khất Đan thả dây mọt lúc lại dài ra. Người Du Thản Chi dần lên cao. Tên Khất Đan đột nhiên hô lên một tiếng rồi buông đầu dây ra. Du Thản Chi tựa hồ như mũi tên bật khỏi dây cung bắn tung lên.

A Tử cùng các quan binh reo ầm lên. Du Thản Chi không gượng được đành để cho người tung mạnh lên trên không, gã nghĩ bụng: "Phen này chắc chết!."

Khi người gã tung lên hết đà, gã chúc đầu xuống chân ngược lên tưởng chừng như đầu đổ xuống phiến đá xanh đến vỡ óc. Bốn tên quân Khất Đan vội tung giây thòng lọng ra tròng lấy lưng gã rồi giật mạnh ra bốn phía. Du Thản Chi ngất xỉu, bốn luồng sức mạnh giữ gã cứng đơ lơ lửng trên không, đầu gã chỏ xuống chỉ còn cách mặt đất chừng ba thước. Trước tình trạng cực kỳ nguy hiểm nếu chỉ một trong bốn tên quân Khất Đan chậm giật dây một chút, khiến cho sức mạnh bốn bên không cân nhau thì Du Thàn Chi sẽ đụng đầu xuống đá vỡ óc ra mà chết.

Bọn Khất Đan thường ngày vẫn đem người Tống ra làm trò chơi như vậy, trong mười người bị chết hết chín. Dù là ở trong cánh đồng cỏ mặt đất mềm dẻo hơn nhưng từ trên cao rớt xuống cũng vỡ óc gãy cổ chết nhiều rồi.

Giữa lúc tiếng hô vang dội bốn tên quân Khất Đan hạ Du Thản Chi xuống. A Tử lấy tiền ra thưởng cho đám quan binh mỗi tên mươi lượng. Bọn quan binh sung sướng tạ ơn rồi hỏi:

- Cô nương còn muốn coi trò gì nữa không?

A Tử thấy Du Thản Chi ngất đi không biết còn sống hay đã chết rồi. Hơn nữa cô vừa thả "diều người" đã dùng sức quá nhiều trước ngực, không đủ sức để xem nữa liền đáp:

- Ta xem đủ rồi. Thằng lỏi này nếu không chết thì sáng mai đem gã vào yết kiến ta để ta nghĩ cách têu khiển khác. Gã đã toan ám toán sát Đại Vương thì không thể để nó chết một cách dễ dàng được.

Đám quan binh dạ vang.

Lúc Du Thản Chi tỉnh lại thì mũi ngửi thấy mùi khê nằng nặc. Gã bừng mắt ra nhìn mà chẳng thấy gì, câu đầu tiên gã tự hỏi: "Ta còn sống hay chết rồi?"

Gã cảm thấy khắp mình đau đớn, miệng khát nước phi thường. Gã cất tiếng gọi:

- Nước! Nước!

Nhưng nào có ai thèm thưa.

Gã gọi luôn mấy tiếng rồi ngất đi. Gã mơ thấy bá phụ, phụ thân giao đấu với Tiêu Phong, máu chảy lênh láng lại nhìn thấy người mẹ rất thân yêu dắt gã ngồi vào lòng dỗ dành và bảo gã đừng sợ. Gã lại thấy cả A Tử xuất hiện ra trước mắt với vẻ đẹp nồng nàn dưới cặp mắt hồ thu và sắc sảo dị thường. Bộ mặt nàng đột nhiên co rúm lại biến thành cái đầu rắn hổ mang bành hai má phùng phình, mình sặc sỡ lại cắn gã.

Du Thản Chi sợ quá muốn trốn chạy, nhưng đến ngón tay còn không nhúc nhích được. Gã gắng gượng né tránh nhưng người vẫn cứng đờ. Rồi gã bị con rắn độc cắn lôi từng miếng thịt ở trên cánh tay, dưới đùi, sau lưng, trước cổ, khắp mọi chỗ trong người, nhất là ở trên trán rắn cắn còn mạnh hơn. Gã thấy những miếng thịt rớt ra thì hết hồn toan kêu lên mà không ra tiếng.

Du Thản Chi người nóng bừng thần trí mê man suốt đêm. Lúc gã tỉnh lại thì người ê ẩm cũng khổ sở như lúc nằm mơ.

Hôm sau hai tên quân Khất Đan áp giải gã đến yết kiến A Tử, người gã hãy còn nóng ran. Gã vừa bước đi một bước thì người lại ngã lăn ra. Hai tên quân Khất Đan vội cắp gã lên rồi vừa mắng vừa dìu đến một căn nhà bằng đá rất lớn. Du Thản Chi tự hỏi: Bọn này đem ta đi đâu? Phải chăng lôi mình ra giết?

Đầu óc gã vẫn hôn mê, không nghĩ nhiều được. Gã chỉ biết chúng đưa mình qua hai dãy hành lang đến ngoài một tòa sảnh đường. Hai tên quân Khất Đan ở ngoài cửa tòa sảnh rồi bẩm báo mấy câu. Phía trong có tiếng cô gái đáp lại, cửa nhà sảnh đường mở ra. Hai tên quân Khất Đan liền đẩy gã vào. Du Thán Chi ngửng đầu nhìn lên thì thấy nền nhà trải một tấm thảm sặc sỡ. Một thiếu nữ xinh đẹp ngồi trên cẩm đôn tận phía trong chính là A Tử.

Nàng để bàn chân trần đặt xuống tấm thảm. Du Thản Chi thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn như tuyết, trong như ngọc, mềm như đoạn thì trái tim gã đập mạnh, lòng gã rạo rực, hai mắt gã nhìn choằm chặp vào hai bàn chân xinh đẹp kia. Gã tưởng chừng như da thịt bàn chân nàng trong bóng tối có thể soi gương được. Bàn chân có ẩn hiện mấy đường gân xanh, gã muốn vươn tay ra vuốt ve lưng bàn chân A Tử.

Hai tên quân Khất Đan buông tay ra để Du Thản Chi đứng một mình. Du Thản Chi loạng choạng xuýt ngã, nhưng rồi cố gượng đứng vững được. Cặp mắt Du Thản Chi vẫn không rời bàn chân A Tử. Gã thấy mười ngón chân nàng đều một màu hồng phớt tựa như những canh hoa nhỏ bé.

A Tử đưa mắt nhìn Du Thản Chi thấy gã đầy như những máu me dơ bẩn mặt mũi xưng vếu. Hàm dưới đưa ra, hai mắt đỏ ngầu ham muốn như tóe lửa.

A Tử chợt nhớ lại một con chó sói đói bị thương. Hôm ấy nàng cùng Tiêu Phong đi săn, nàng bắn một phát trúng đầu con chó, nhưng vì không đủ sực mạnh nên không bắn chết được nó. Con sói bị thương cũng dương đôi mắt tóe lửa ra nhìn mình, khác nào cặp mắt Du Thản Chi lúc này đang nhìn nàng. Nàng tưởng gã muốn nhảy chồm lại cắn mình. Nhưng gã đang bị thương trong miệng lại học máu ra như suối không còn đủ sức. A Tử thích trông cặp mắt hằm hằm như con dã thú, nàng còn muốn con dã thú gầm lên những tiếng thê thảm. Nhưng gã Du Thản Chi bạc nhược quá rồi không còn chút sức nào để phản kháng dù kích thích đến đâu cũng không có phản ứng.

Hôm trước gã toan dùng rắn cho cắn Tiêu Phong, mà không chịu quỳ lạy ăn nói quật cường không thèm lấy tiền của ông. A Tử rất vui mừng và coi gã như một loài dã thú rất lợi hại. A Tử còn muốn hành hạ đâm cho gã bị thương khắp người. Nàng còn muốn mỗi lần bị thương gã lại chồm lên cắn mình một miếng và đương nhiên không để gã cắn trúng. Đằng này đi bắt gã đem về để thả diều người thì cái loài dã thú không phản này có dùng làm trò chơi cũng không thú.

A Tử khẽ chau mày tự hỏi: "Bây giờ tìm cách gì mới lạ hành hạ gã này cho vui".

Đột chiên Du Thản Chi kêu lên mấy tiếng "Hà hà" rồi không biết một luồng khí lực ở đâu đưa đến, khiến gã đủ sức nhảy đến gần A Tử khác nào con beo vồ mồi. Gã ôm chặt lấy chiếc đùi bé nhỏ của nàng lên, cúi rập đầu xuống để hôn hít hai bàn chân nàng.

A Tử cả kinh kêu thét lên. Hai tên quân Khất Đan cùng bốn ả nữ tỳ hầu cận nàng đều la ầm lên, chạy vào cố gỡ nàng ra. Du Thản Chi vẫn bám chặt lấy chân nàng dai như đỉa đói, dù chết cũng không chịu buông tay. Tên quân Khất Đan vì dằng mạnh khiến cho A Tử đang ngồi trên cẩm đôn tuột xuống tấm thảm trãi dưới đất. Hai tên quân Khất Đan vừa sợ vừa tức không dám dằn ra nữa. Một tên đạp mạnh vào sau lưng Du Thản Chi còn một tên tát vào mặt gã.

Những vết thương của Du Than Chi vẫn nóng ran, thần trí gã vẫn như người điên chưa tỉnh. Bất luận tình cảnh gì trước mắt gã cũng chỉ thấy lờ mờ. Gã hết sức ôm chặt lấy chân A Tử và vẫn đặt môi xuống hôn bàn chân nàng. A Tử thấy môi gã khô và nóng bỏng vào chân mình thì trong lòng sợ hãi, nhưng trái lại nàng thấy có cảm giác kỳ dị tê tê buồn buồn rồi đột nhiên nàng thét lên lanh lảnh:

- Ôi chao! Thằng lõi này cắn đầu ngón chân ta.

Rồi nàng vội bảo:

- Các ngươi mau ra xa! Gã này phát điên rồi đừng để gã nổi khùng cắn đứt ngón chân ta.

Du Thản Chi cắn mơn man ngón chân A Tử. Tuy nàng không thấy đau nhưng nàng sợ đột nhiên gã cắn mạnh. Vì nàng e tên quân Khất Đan đánh đập gã làm cho gã cáu lên liều chết cắn bậy, nên phái bảo chúng xa ra.

Hai tên quân Khất Đan không biết làm thế nào đành buông tay ra. A Tử dỗ ngọt:

- Mi buông ra đừng cắn ta, ta sẽ tha chết cho.

Lúc này tâm thần Du Thản Chi đã mê loạn không hiểu nàng nói gì. Một tên quân Khất Đan cầm đao rút ra khỏi vỏ toan chặt vào cổ gã cho đứt rơi đầu ra, nhưng lại sợ nhát dao chém xuống làm bị thương đến A Tử nên dùng dằn chưa dám hạ thủ.

A Tử lại nhủ:

- Chao ôi! Mi không phải dã thú, cắn người làm gì? Mau nhả ra ta sẽ kêu người đến chữ vết thương cho ngươi và tha ngươi về Trung Nguyên.

Du Thản Chi vẫn mặc kệ. Răng lưỡi gã vẫn nhẹ nhàng đưa qua đưa lại trên bàn chân A Tử chứ không cắn cho nàng đau, rồi hai bàn tay gã mân mê vuốt ve lưng bàn chân nàng một cách âu yếm. Tâm hồn gã thấy phiêu diêu tựa như lúc làm diều người bay bỗng lên mây.

Một tên quân Khất Đan mau trí đột nhiên thò tay ra bóp cổ Du Thản Chị gã bị nghẹt cổ không tự do mở ra được. A Tử vội co đùi lên rút ngón chân trong miệng gã ra. Nàng sợ gã phát điên lại cắn nữa, liền đứng dậy rút hai chân để về phía sau cẩm đôn. Hai tên quân Khất Đan nắm chặt lấy Du Thản Chi rồi nắm tay đấm vào miệng gã hơn mười quyền. Gã hộc lên mấy tiếng rồi ọc máu tuơi ra làm dơ bẩn cả tấm thảm trải dưới đất.

A Tử nói:

- Các ngươi dùng tay đừng đánh gã nữa.

Trải qua cơn nguy hiểm vừa rồi, nàng thấy gã còn có chỗ để làm trò chơi được, chưa đến nỗi vô vị, nên không muốn cho gã chết ngay. Hai tên quân Khất Đan dừng tay không đánh nữa. A Tử ngồi xếp bằng trên ghế để hai bàn chân xuống dưới mông, rồi tính toán: "Bây giờ hành hạ gã bằng cách nào đây?"

Nàng ngẩng đầu lân thấy Du Thản Chi cặp mắt vẫn nhìn mình trừng trừng, liền hỏi:

- Mi nhìn ta gì mà dữ vậy?

Du Thản Chi chẳng quan tâm gì đến sự sống chết nữa, không cần nghĩ ngợi gì đáp liền:

- Cô nương đẹp quá! Nên tôi muốn nhìn mãi.

A Tử đỏ mặt lên nghĩ bụng: "Thằng lõi này thật là gan liền, dám buông lời xúc phạm."

Có điều trước nay nàng chưa từng thấy một chàng trai nào mở miệng khen nàng đẹp trước mặt. Lúc nàng còn học võ phái Tinh Tú, bọn sư huynh đều coi nàng là một đứa trẻ ranh mãnh tinh nghịch. Từ khi nàng theo Tiêu Phong, không phải ông sợ nàng tinh ngịch mà chỉ lo nàng chết. Ông chưa từng để ý đến đẹp hay xấu. Bây giờ nàng thấy Du Thản Chi khen mình thì trong bụng không khỏi mừng thầm rồi định bụng: "Ta lưu gã ở bên mình để lúc nào ngồi buồn lại đem gã ra tiêu khiển, như vậy cũng hay! Có điều tỉ phu ta bảo tha gã, nếu biết ta bắt gã về tát nhiên cáu giận. Dù ta có dối được bữa nay thì bữa mai tất cũng bị lộ. Muốn cho tỉ phu ta thủy chung không hay biết được thì phải dùng cách gì đây? Cấm mọi người xung quanh không được tố cáo với tỉ phu thì ta có thể làm được. Xong lỡ tỉ phu đột ngột đến đây trông thấy gã thì sao?"

Nàng trầm ngâm một lát rồi chợt nghĩ ra điều gì nàng lẩm bẩm: "A Châu tỉ nương rất giỏi cải trang. Tỉ nương giả là gia gia mà tỉ phu không nhận ra. Ta đem gã này thay hình đổi dạng, tất tỉ phu không thể biết được, chỉ còn e gã nếu không tự nguyện thì dù là cải trang cho gã cũng chỉ được một lúc rồi gã vội rửa đi, khôi phục lại chân tướng cũng bằng vô dụng."

Cặp lông mày cong cong của A Tử nhíu lại. Nàng nghĩ ra được mưu kế, vỗ tay cười ha hả reo lên:

- Hay lắm, hay lắm! Ta cứ làm thế là được.

Nàng nói tiếng Khất Đan bảo hai tên quân một hồi. Chỗ nào chúng nghe chưa hiểu hỏi lại thì nàng giải thích rõ ràng. Nàng lại sai thị nữ lấy ra ba chục lạng bạc giáo cho chúng.

Hai tên Khất Đan cầm tiền rồi cúi mình thi lễ, kéo Du Thản chi ra ngoài phòng. Du Thản Chi la lên:

- Ta muốn ở đây nhìn nàng! Ta muốn nhìn cô bé xinh đẹp mà độc ác kia.

Mấy tên quân Khất Đan cùng bọn thị nữ không hiểu tiếng Hán chẳng hiểu gã kêu la chuyện chi. A Tử cười hì hì nhìn sau lưng gã lại tưởng đến sáng kiến thông minh của mình, càng nghĩ càng đắc chí. Du Thản Chi bị lôi về chỗ cầm tù và quẳng xuống đống cỏ khô.

Đến chiều có người mang lại cho Du Thản Chi một dĩa thịt cừu và mấy cái bánh bao. Người gã vẫn còn nóng ran miệng nói lảm nhảm. Người đưa bánh đưa thịt đến sợ quá vội đặt nhanh xuống rồi chạy đi.

Du Thản Chi đói quá, đói đến nỗi không biết gì nữa. Thức ăn để đó thủy chung gã vẫn không đụng đến. Chiều hôm ấy, thốt nhiên có ba người Khất Đan đến, Du Thản Chi tuy thần trí mê man, nhưng gã cũng biết lờ mờ, tưởng là những chuyện không hay sắp đến cho mình. Gã gượng gạo đứng lên.

Du Thản Chi vẫn già giọng mắng nhiếc:

- Mấy con chó Khất Đan này muốn chết phải không? Đại gia sẽ băm bọn bay ra làm muôn đoạn!

Đột nhiên tên Khất Đan thứ ba, hai tay bưng một vật gì trắng toát trông giống như gạo hay làn tuyết. Chúng giữ chặt lấy mặt gã. Du Thản Chi thấy mặt mình vừa ướt vừa mát lạnh. Đầu óc gã tỉnh lại nhưng hơi thở không thông. Gã nghĩ thầm: "Bọn này bít kín thất khiếu cho ta chết ngay đây!" Nhưng gã lại biết ngay là mình đoán sai, mồm miệng và mũi gã có người chọc ra mấy lần gã lại thở hít được như thường, chỉ còn cặp mắt là không mở ra được. Gã cảm giác mặt mình ướt đẫm và đang có người xoa nắn tựa hồ như trát bột hay trát bột vào.

Du Thản Chi bị hành hạ hai ngày liền, đau khổ đủ điều. Bây giờ trong lòng gã mê man tự hỏi: "Bọn ác tặc này không biết đang dùng phương pháp cổ quái nào để giết ta đây?"

Sau một lúc gã thấy họ khẽ nậy chất bột trên mặt mình ra. Gã mở mắt nhìn thì thấy một chiếc mặt nạ bằng bột mì vừa tháo ra. Tên quân Khất Đan hai tay cầm rất cẩn thạn cái mặt nạ bằng bột còn đang ướt này chỉ sợ vỡ nát.

Du Thản Chi lớn tiếng mắng:

- Quân Liêu cẩu hèn mạt này! Ta sẽ cho bọn mi chết không có đầu mà chôn.

Ba tên quân Khất Đan để mặc Du Thản Chi tha hồ chửi bới kêu gào, chúng mang cái mặt nạ đắp bằng bột đi. Du Thản Chi sực nhớ ra lẩm bẩm: "Phải rồi! Chúng bôi thuốc độc vào mặt mình, chắc chẳng bao lâu mặt mình sẽ nát rửa da thịt, biến thành quỷ sứ..."

Gã càng nghĩ càng sợ hãi rồi định bụng:

- Nếu để chúng hành hạ cho đến chết thì thà rằng tự tử đi còn hơn.

Gã chủ ý rồi liên tiếp đập đầu vào tường "binh binh" luôn mấy cái. Nhưng tên ngục tốt nghe tiếng chạy vào trói chặt tay chân gã lại. Du Thản Chi đã đập đầu đến choáng óc, sắp ngất đi, để mặc bọn ngục tốt muốn làm gì thì làm.

Qua được mấy ngày, gã thấy mặt mình chẳng đau đớn gì mà cũng không nát rữa song gã quyết lòng chết cho rồi. Gã tuy bụng đói mà ngục tốt đưa cơm vào không ăn nữa.

Đến ngày thứ tư, ba tên quân Khất Đan lại chạy đến chỗ Du Thản Chi xiềng gã đem đi. Trong lúc đau khổ vô cùng gã chỉ còn xót lại một chút hy vọng là được đưa đến chỗ A Tử để nàng hành hạ khảo đã, thì dù có đau khổ đến đâu chăng nữa cũng còn được thấy dung nhan người đẹp để mà an ủi. Hoài bão hy vọng đó, trên nét mặt đau khổ thoáng một nụ cười chua chát.

Ba tên quân Khất Đan đem gã qua mấy đường hẻm nhỏ rồi đưa vào một gian phòng tối đen. Bước qua một cái bệ đá chừng mười bậc thì đến một nơi than hồng bốc lên ngùn ngụt soi sáng nửa căn nhà đá. Một bên thợ rèn vai u thịt bắp mình trùng trục đứng bên lò lửa. Gã chăm chú nhìn một vật đen sì mà gã đang cầm trên tay.

Ba tên quân Khất Đan đẩy Du Thản Chi đến trước mặt gã thợ rèn. Hai tên chia nhau giữ chặt hai tay gã, còn một tên nắm lấy sau lưng. Người thợ rèn ngẹo đầu ngắm nhìn đồ vật cầm trong tay tựa hồ như để so sánh. Du Thản Chi đưa mắt nhìn đồ vật trong tay người thợ rèn thì thấy một cái mặt nạ đúc bằng thép, có dùi thủng miệng, lỗ mũi và hai mắt. Gã tự hỏi: "Cái mặt nạ bằng thép này để làm gì?"

Bỗng người thợ rèn cầm chiếc mặt nạ lên úp vào mặt gã. Du Thản Chi bất giác ngẩng đầu về phía sau để tránh nhưng rút cục người thợ vẫn lồng vào được. Gã thấy mặt mình giá lạnh vì da thịt chạm vào gang thép. Gã rất làm kỳ ở chỗ chiếc mặt nạ này lồng vào mặt mình vừa khẳm vừa khăm, mồm miệng mặt mũi chỗ nào cũng ăn khớp, dường như cái mặt này họ làm để cho đeo.

Du Thản Chi không phải hạng ngu ngốc cho lắm, gã chỉ nghi ngờ một lúc rồi biết ngay cứu cánh về vụ này. Đột nhiên gã cảm thấy lạnh đến xương sống, than thầm: "Trời ơi! Đúng là chúng làm cái mặt này để cho mình đeorồi. Bữa trước bọn chúng đã lấy bột ướt để nhồi vào mặt mình thì ra là chúng làm khuôn mặt. Không biết bọn chúng làm cái mặt nạ này là có dụng ý gì? Hay là..."

Dường như Du Thản Chi đã đoán ra cái trò độc ác của bọn Khất Đan đúc mặt nạ để làm gì, gã không dám nghĩ thêm nữa, chỉ cố cựu quay lùi lại.

Người thợ rèn lại tháo mặt nạ ra gật lia lịa ra vẻ vừa lòng. Y lấy ra một cái kiềm to tướng cặp lấy mặt nạ đặt vào lò lửa nung cho đỏ lên. Tay phải cầm một cái dùi sắt đánh vào mặt nạ beng beng một hồi rồi lại đưa tay sờ đầu sờ gáy Du Thản Chi để sữa lại những chỗ không ăn khớp.

Du Thản Chi quát mắng:

- Mấy thằng Liêu cẩu trời đánh này! Tụi bây định làm việc thương thiên nghịch lý gì đây? Tụi bây là những con quỷ hung tàn, hoàng thiên sẽ giáng họa để tụi bay không được chết yên lành đâu! Nhà trời sẽ ra tay sát hại cả đến lục súc cùng con cái của tụi bâỵy.

Gã lớn tiếng chửi mắng ầm ầm, nhưng bọn Khất Đan chẳng hiểu gì hết. Người thợ rèn đột nhiên quay đầu lại nhìn Du Thản Chi bằng đôi mắt hung dữ, giơ cái đầu kim sắt nung đỏ lên như muốn chỉ vào mặt gã. DuThản Chi khiếp quá mắt trợn lên miệng há hốc ra.

Người thợ rèn chỉ hăm dọa thế thôi rồi cười ha hả rút kiềm về. Đoạn y lấy một cái khuôn sắt như hình nửa quả dưa, ướm vào sau gáy Du Thản Chi bằng đôi mắt hung dữ, giơ cái đầu kim sắt nung đỏ lên. Đoạn y lớn tiếng nói mấy câu. Ba tên quân Khất Đan dằn ngửa Du Thản Chi trên mặt bàn đầu thò ra ngoài. Lại thêm hai người Khất Đan nữa lại tiếp tay giữ đầu gã không cho gã động đậy. Cả thảy năm người giữ cả chân tay mình mẩy Du Thản Chi. Khói trắng bốc lên hơi mùi thịt khét lẹt bay ra.

Du Thản Chi rú lên một tiếng ngất đi.

Người thợ rèn lấy kiềm gắp nốt miếng mô hình nữa lắp vào sau gáy gã. Cả hai nửa úp vào nhau thành ra cái hình tròn chụp cả lấy đầu Du Thản Chi. Cái lồng sắt hãy còn nóng bỏng chạm vào da thịt cháy lên xèo xèo, thịt cũng mềm nhũn ra. Người thợ rèn này là tay khéo nhất trong thành Yên Kinh. Hai nửa đầu ráp vào nhau trông liền như một không hở sợi tóc.

Du Thản Chi khác nào kẻ vào địa ngục, trải qua muôn trượng lửa nóng. Gã ngất đi không biết bao lâu dần dần hồi tỉnh, cảm thấy trước mặt sau gáy đau rát không chịu được gã lại ngất đi. Nên biết rằng người ta lúc thần trí mê man mà ngất đi được cũng là một việc trời sanh ra để hộ vệ cho tâm trí. Nếu không có lúc ngất đi đó thì sẽ đau khổ cho đến chết.

Du Thản Chi ba lần ngất đi, ba lần hồi tỉnh. Gã lớn tiếng kêu gào mà bên tai vẫn chẳng nghe thấy tiếng mình. Lúc đầu gã tưởng tại mình điếc, nhưng rồi kêu to lên một lần nữa mới phát giác ra mình kêu không thành tiếng. Gã nằm thẳng người muốn cử động cũng không được. Gã không nghĩ ngợi gì chỉ cắn răng để cố nhịn đau đớn từ trước mặt đến sau gáy.

Gã giữ nguyên tình trạng như vậy hồi lâu rồi gắng gượng giơ tay lên sờ mặt lạnh cứng ngắt và như thế đã đủ chứng minh gã đoán không lầm là cái mặt nạ chụp vào đầu gã.

Du Thản Chi căm hận vô cùng cố gắng kéo mặt nạ ra, nhưng dường như đã gắn chặt vào mặt gã, kéo thế nào cũng không nhúc nhích được. Gã vừa căm phẫn vừa tuyệt vọng, không nhẫn nại được, khóc òa lên. Nước mắt gã tuôn ra như suối mà tiếng khóc cũng chỉ ấm ức, không phát ra thanh âm.

Gã đang độ thiếu niên nên dù đau đớn đến đâu cũng vẫn đủ sức chịu đựng, không đến nỗi chết.

Mấy hôm sau những vết thương và những chỗ đau đớn dần dần giảm bớt đi, gã đã cảm thấy đói bụng, ngửi mùi bánh mùi thịt thèm quá không nhịn được, liền bốc ăn. Ăn vào thấy người càng dễ chịu hơn. Bây giờ Du Thản Chi đưa tay lên sờ khắp trên đầu, trên mặt biết rằng cái lồng sắt đã úp chụp kín cả đầu, mặt mình không còn cách nào tháo ra được.

Mấy hôm đó gã tức giận như điên cuồng, nhưng sau ba ngày dần dần gã bình tĩnh trở lại. Rồi tự hỏi: Quân Liêu cẩu này dùng lồng sắt chụp lấy đầu mình là có dụng ý gì? Gã cho đây chỉ là mệnh lệnh của Tiêu Phong, còn dụng ý gì thì gã nghĩ mãi cũng không đoán ra.

Sở dĩ A Tử sai đắp lồng sắt chụp vào đầu vào mặt gã là để bịp Tiêu Phong. Vụ này nhất thiết do gã đội trưởng Thất Lý chiều ý A Yử mà làm ra. Hằng ngày A Tử vẫn hỏi dò Thất Lý về mọi tình hình Du Thản Chi sau khi đầu gã đã chụp lồng sắt vào rồi. Ban đầu nàng vẫn lo rằng nhân vụ này mà Du Thản Chi sẽ chết mất, nhưng về sau nàng biết gã đã dần dần khỏe lại như cũ thì rất mừng lòng.

Mới đây A Tử được tin Tiêu Phong ra duyệt binh ngoài cõi Nam Giao, liền truyền cho Thất Lý đem Du Thản Chi vào để nhìn hình thù gã sau khi đầu bịt lồng sắt và mặt nạ ra sao? Nàng ngồi trong cung Đoan Phúc để chờ cho đến khi ba quân Khất Đan bộ hạ của Thất Lý dẫn Du Thản Chi vào.

A Tử vừa trông thấy hình thù Du Thản Chi trong lòng xiết bao nỗi mừng vui về cách giả tạo này. Nàng lẩm bẩm:

- Phương pháp này thật là tuyệt diệu! Bây giờ thằng lỏi đeo bộ mặt này vào thì dù gã có đứng đối diện, tỷ phu ta cũng không thể nhận ra được.

Du Thản Chi tiến lên mấy bước. A Tử vỗ tay khen hay rồi bảo Thất Lý:

- Ngươi lấy năm chục lạng bạc để thưởng cho tên thợ rèn đã làm việc chu đáo!

Thất Lý nói:

- Xin vâng. Đa tạ Quận chúa.

Nguyên Gia Luật Hồng Cơ muốn chiều lòng Tiêu Phong đã đặc biệt giáng chỉ phong A Tử làm Đoan Phúc quận chúa. Cung Đoan Phúc này cấp riêng cho nàng làm nơi cư trú.

Du Thản Chi nhìn qua lỗ mắt trên mặt nạ thấy A Tử tươi cười xinh đẹp vô cùng, thì trong lòng không khỏi rung động. Gã thấy nàng cười nói tuy chẳng hiểu gì, nhưng cũng thấy khoan khoái trong lòng bất giác nhìn nàng chằm chặp không chớp mắt. A Tử thấy Du Thản Chi đeo mặt nạ coi rất kỳ dị, song nhận ra gã vẫn nhìn mình không chớp mắt, liền hỏi:

- Thằng lỏi ngu ngốc kia! Mi nhìn ta làm chi vậy?

Du Thản Chi ấp úng:

- Tôi... tôi không biết!

A Tử hỏi lại:

- Mi đeo mặt nạ có dễ chịu không?

Du Thản Chi lại hỏi:

- Cô nương thử đoán xem có dễ chịu không?

A Tử cười khanh khách đáp:

- Ta nghĩ không ra.

Nàng thấy cửa miệng Du Thản Chi rất hẹp chỉ đủ để ăn cơm húp canh. Còn muốn ăn thịt phải phải nghiền nát ra mới đưa vào được. Như vậy dù gã muốn cắn ngón chân mình cũng không thể được, liền cười hỏi:

- Sỡ dĩ ta bắt mi phải đeo mặt nạ để vĩnh viễn mi không cắn ta được.

Du Thản Chi mừng thầm, nói:

- Phải chăng cô nương muốn tôi... tôi ở luôn bên mình để hầu hạ?

A Tử đáp:

- Chà! Mi là một đứa khốn nạn, để mi ở bên mình đặng mi nghĩ cách hại ta phải không?

Du Thản Chi nói:

- Tôi quyết không để ý hại cô nương. Tôi chỉ thù một mình Tiêu Phong mà thôi.

A Tử nói:

- Mi muốn hại tỷ phu ta, phỏng có khác gì hại ta?

Du Thản Chi nghe A Tử nói vậy trong lòng chua xót, không biết trả lời thế nào. A Tử cười nói:

- Mi muốn hại tỷ phu ta, ta tưởng lên trời cũng không khó bằng. Thằng ngốc kia! Mi có muốn chết không?

Du Thản Chi đáp:

- Dĩ nhiên là tôi không muốn chết. Có điều hiện giờ trên đầu tôi chụp một cái lồng sắt thành thử người chả ra người, quỷ chả ra quỷ thì dù chết cũng vậy thôi, chả khác gì.

A Tử nói:

- Nếu quả mi muốn chết thì ta cho mi được toại nguyện, có điều không phải được chết một cách dễ dàng đâu.

Nàng quay sang bảo gã Thất Lý đứng bên cạnh:

- Thất Lý! Ngươi lôi nó ra chặt cánh tay trái đi!

Thất Lý dạ một tiếng rồi lôi Du Thản Chi đi. Du Thản Chi cả kinh la lên:

- Không! Không! Tôi không muốn chết! Cô nương... Cô nương đừng sai chặt cánh tay tôi.

A Tử cười lạt nói:

- Lời ta đã nói ra lẽ nào không thi hành, trừ phi... mi chịu quỳ xuống khấu đầu!

Du Thản Chi còn đang ngần ngừ, Thất Lý đã lôi gã ra hai bước. Du Thản Chi không dám chần chừ nữa, quỳ mọp ngay xuống dập đầu lạy, đầu gã chụp lồng sắt chạm xuống đá xanh kêu "boong boong".

A Tử cười khanh khách đáp:

- Từ thuở nhỏ ta chưa được nghe ai dập đầu lại có âm thanh dễ nghe như vậy. Mi lạy thật lâu cho ta nghe.

Du Thản Chi là một vị Tiểu trang chúa ở Tụ Hiền trang, dù gã văn dốt võ dát mọi người trong trang đều biết gã là một thiếu niên đốn mạt, nhưng con Du Ký chết rồi, Du Câu chỉ có mình gã, quý gã như hòn ngọc báu. Tiểu Trang chúa gọi một tiếng người nhà đã răm rắp. Từ thuở nhỏ gã đã được nuông chiều, ăn sung mặc sướng, có bao giờ chịu khổ nhục như ngày nay?

Lúc Du Thản Chi mới thấy Tiêu Phong gã còn có khí phách quật cường, thà chết chứ không chịu quỳ lạy. Nhưng mấy bữa nay từ tâm hồn cho đến thể xác, gã chịu không biết bao nhiêu là đau đớn cực nhục cho nên mất hết chí khí của trang thiếu niên. Gã vừa nghe A Tử muốn chặt tay mình, bắt gã quỳ xuống, gã cũng phải quỳ rồi bắt gã lạy gã cũng phải lạy. A Tử bảo gã dập đầu nghe hay, gã cũng dập đầu lia lịa kêu "boong boong".

A Tử tủm tỉm cười nói:

- Hay lắm! Từ đây trở đi, ta sai bảo ngươi điều gì, ngươi không kháng cự thì thôi. Nếu còn trái lệnh, lập tức ta sai chặt tay, mi đã nhớ chưa?

Du Thản Chi nói:

- Vâng, vâng.

A Tử nói:

- Ta cho ngươi đội cái lồng sắt, ngươi có hiểu tại sao không?

Du Thản Chi nói:

- Thực tình tôi không biết.

A Tử nói:

- Đáng lẽ mi chết rồi, ta cứu mạng mi mà mi không biết cám ơn ta. Tiêu đại vương muốn bằm mi nát ra như cám, mi có biết không?

Du Thản Chi đáp:

- Y là kẻ thù giết cha tôi, cố nhiên không chịu buông tha.

A Tử nói:

- Y giả vờ tha mi, rồi lại sai người đi bắt ngươi về để băm vằm mi ra. Ta thấy mi là một đứa nhỏ không đến nỗi hèn hạ lắm, nên sai người bắt mi về đây, giết mi đi nghĩ cũng tội nghiệp, nên ta phải nghĩ cách giấu mi. Nếu Tiêu đại vương lại gặp mi thì mi tất phải chết mà rầy rà đến cả ta nữa.

Du Thản Chi chợt tỉnh ngộ nói:

- À! Thế ra cô nương đúc cái lồng sắt này bịt đầu tôi là để cứu mạng cho tôi. Tôi cảm kích vô cùng!

Chính A Tử đã làm cho gã đau đớn ê chề, lại bịp gã khiến gã đem lòng cảm kích. Nàng thấy gã tin lời mình mà khoan khoái vô cùng, mỉm cười nói:

- Vì thế mà rồi đây mi có gặp Tiêu đại vương thì đừng nói năng chi hết để y không nghe được thanh âm mà nhận ra mi nữa. Nếu mi lên tiếng, y nhận ra mi, tất đem chặt một cánh tay mi đi. Rồi đi một thời gian ngắn lại chặt nốt một cánh tay thứ hai.

A Tử quay sang bảo tên đội trưởng:

- Thất Lý! Ngươi đi thay quần áo Khất Đan cho gã mặc, tắm rửa cho sạch những vết máu mủ tanh hôi trong người gã đi!

Thất Lý vâng lệnh lôi Du Thản Chi ra ngoài. Chẳng mấy chốc tên đội trưởng lại đưa gã vào. A Tử thấy gã đã thay mặc quần áo Khất Đan. Thất Lý muốn lấy lòng A Tử, cho gã mặc quần áo sặc sỡ, giống một tên tiểu sửu (thằng hề trong tuồng tàu).

A Tử cả cười nói:

- Ta đặt tên cho mi là Thiết Sửu. Từ đây nếu ta kêu Thiết Sửu thì mi phải thưa ngay.

Rồi nàng cát tiếng gọi to:

- Thiết Sửu!

Du Thản Chi vội đáp:

- Dạ, dạ!

A Tử thích lắm đột nhiên nàng nhớ ra điều gì hỏi:

- Thất Lý! Có phải nước Đại Tự bên Tây Vực đem đến biếu một con sư tử không? Ngươi kêu quản sư đem nó vào đây, đồng thời gọi mấy tên vệ sĩ đến nữa.

Thất Lý vâng lệnh chạy đi. Mười sáu tên vệ sĩ tay cầm trường mâu chạy vào điện, khom lưng thi lễ trước A Tử. Đoạn đứng ngay người lên, chỉa mười sáu mũi trường mâu ra phía ngoài để bảo vệ cho A Tử. Chỉ trong khoảnh khắc ngoài điện có tiếng sư tử gầm thét. Tám Đại Hán khiên một chiếc củi sắt đi vào. Trong cũi có một con sư tử đực chạy quanh. Con sư tử này lông vàng bờm dài nanh vuốt rất nhọn trông rất hung dữ. Gã quản sư tay cầm roi da đi trước.

A Tử thấy con sư tử hung mãnh mà phát khiếp. Nàng hớn hở nói:

- Thiết Sửu! Ta bảo ngươi làm một việc, thử coi ngươi có chịu nghe lời ta không?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Gã trông thấy con sư tử thì trong lòng hồi hộp tự hỏi: "Không biết A Tử có dụng ý gì đây?" nghe nàng nói trống ngực đánh hơn trống làng.

A Tử nói:

- Ta không hiểu cái lồng sắt bịt đầu ngươi có được kiên cố không? Vậy ngươi thử dò đầu sắt vào cho con sư tử cắn mấy miếng thử xem có vỡ được không?

Du Thản Chi nghe nói cả kinh ấp úng:

- Cái đó... Cái đó... Không nên thử làm chi. Giả tỷ nó cắn vỡ thì đầu tôi...

A Tử gắt gỏng:

- Mi thật là đồ vô dụng! Có việc cỏn con thế mà đã khiếp sợ. Kẻ là đại trượng phu thì coi cái chết như không mới phải. Và ta chắc rằng nó cắn không vỡ được đâu.

Du Thản Chi nói:

- Cô nương! Chuyện này há phải trò đùa. Giả tỉ nó cắn không vỡ thì cái lồng sắt cũng bị móp méo, và đầu tôi...

A Tử cười khanh khách nói:

- Thì đầu ngươi có méo xệch đi cũng chẳng sao. Thằng lỏi này thật khó chịu quá! Cái đầu mi cũng chẳng còn đẹp đẽ gì nữa. Dù cái lồng có méo mó thì cái đầu ngươi ở bên trong cũng chẳng ai trông thấy. Hà tất ngươi phải quan tâm nó đẹp hay xấu?

Du Thản Chi vội nói:

- Có phải tôi còn có tham vọng cho cái đầu dễ coi đâu?

A Tử sa sần nét mặt gạt phắt đi:

- Mi không nghe lời ta ư? Được lắm!

Đoạn nàng quay ra bảo gã đội trưởng:

- Thất Lý! Ngươi quẳng cả người nó vào trong củi cho sư tử ăn thịt đi!...

Thất Lý "dạ" một tiếng rồi chạy lại nắm lấy Du Thản Chi.

Du Thản Chi nghĩ thầm: "Nếu quẳng cả người mình vào cũi cho sư tử cắn thì còn chi là tính mạng. Thôi ta đành nghe lời cô này thò cái đầu sắt vào củi, còn sống hay chết đành phó mặc số phận"

Nghĩ vậy gã la lên:

- Thôi đừng! Tôi xin vâng lời cô nương!

A Tử cười nói:

- Có thế chứ! Ta bảo cho ngươi biết: từ đây trở đi ta biểu ngươi làm sao thì lập tức ngươi phải làm ngay! Nếu còn bướng bỉnh để bản cô nương nổi nóng thì không hay đâu.

Đoạn nàng thét gã đội trưởng:

- Thất Lý! Ngươi nọc cổ gã ra đánh ba chục roi để từ đây cho gã biết phép.

Thất Lý vâng lệnh lập tức rút lấy cây bì tiêu trong tay gã quả sư quất vào lưng Du Thản Chi. Du Thản chi đau quá không chịu được, rú lên một tiếng:

- Úi chao!

A Tử nói:

- Thiết Sửu kia! Ta cho mi hay: ta sai người đánh mi tức là ta tử tế với mo lắm đó. Thế mà mi lại la làng. Phải chăng mi không muốn ta sai người đánh mi?

Du Thản Chi vội nói:

- Không! Không! Tôi vui lòng lắm. Xin đa tạ cô nương có lòng hạ cố đã cho tôi được ăn đòn.

A Tử thét:

- Đánh đi!

Thất Lý quất veo véo liền một lúc đến mười roi.

Du Thản Chi nghiến chặt hai hàm răng chịu đựng không dám hé miệng. Bởi vì gã đã đội lồng sắt những ngọn roi chừa đầu gã ra, chỉ vụt vào lưng, nên gã có thể nhẫn nại được.

A Tử thấy gã chịu đựng không rên rỉ gì, lại cảm thấy trò này vô vị hỏi:

- Thiết Sửu! Ta lại hỏi ngươi, có phải ngươi nói vui lòng để ta sai người đánh mi không?

Du Thản Chi đáp ngay:

- Vâng!

A Tử lại hỏi:

- Ngươi nói thực hay nói dối? Ta nghĩ rằng ngươi buột miệng nói để bịp ta.

Du Thản Chi nói:

- Thực tình như vậy, đâu dám lừa bịp cô nương.

A Tử nói:

- Mi đã vui lòng, sao lại không cười, và không reo lên "Thú quá! Thú quá!"

Du Thản Chi bị nàng hành hạ đến ruột, tan hồn, quên cả mối căm thù. Nàng nói làm sao cũng bào hao làm vậy. Gã miễn cưỡng lên tiếng:

- Cô nương đối với tôi thật là phúc đức. Tôi dược ăn đòn khoan khoái vô cùng!

A Tử nói:

- Thế mới phải chứ! Nào ta thử xem.

Nàng nói xong đập bàn một cái, Thất Lý giơ roi lên vụt tới tấp. Du Thản Chi cười ha hả nói:

- Sướng quá! Sướng quá! Đa tạ cô nương đã ban ơn cho.

A Tử lại đập bàn ra hiệu roi lại quất xuống, Du Thản Chi vẫn bám gan chịu đòn reo lên:

- Đa tạ cô nương đã cứu mạng cho, Roi đòn này thật là sung sướng.

Chỉ trong khoảnh khắc đã đánh đến hai chục roi, kể cả đòn đánh trước tổng cộng đến ba mươi roi. Du Thản Chi bị đau ê ẩm cả người loạng choạng bước đến bên cũi sắt. Gã nghiến răng thò đầu vào trong cũi.

A Tử bảo gã quản sư:

- Ngươi cho sư tử cắn gã đi. Sao mãi nó không vồ?

Gã quản sư quát lên mấy tiếng. Con sư tử nghe hiệu lệnh chồm lại há miệng thật to cắn vào đầu Du Thản Chi. Bỗng nghe tiếng xào xạo, hàm răng sư tử nhá chiếc lồng sắt. Du Thản Chi sợ quá nhắm mắt lại. Gã cảm thấy một luồng nhiệt khí qua những lỗ hỗng lồng sắt chui vào thì biết rằng cả cái đầu mình đã lọt vào hàm sư tử. Tiếp theo gã cảm thấy trước trán và sau gáy đau đớn kịch liệt.

Nguyên người thợ rèn lúc chụp cái lồng sắt vào đầu gã, đầu và mặt mũi bị lồng sắt còng nóng bỏng làm cho gã xém da cháy thịt. Sau mấy bữa những vết thương mới đong vẩy. Bây giờ sư tử cắn vào, những vết thương lại toét ra. Sư tử cố sức gặm mà cắn không vào, lại thấy đau răng. Nó nổi hung giơ vuốt lên cào vai Du Thản Chi.

Du Thản Chi bị sư tử cào vai bị thương đau tới xương tủy hét lên một tiếng "Úi chao!" rùng rợn. Con sư tử thấy trong miệng mình tự nhiên bật lên tiếng thét thì không khỏi giật mình, há miệng ra lùi lại phía sau cũi sắt.

Nên biết rằng sư tử hay hùm beo tuy đều là loài thú dữ nhưng không phải nó chỉ một mực liều lĩnh vồ càn không suy xét. Lúc gặp điều gì khác lạ là nó lại thụt về để coi cho rõ xem có nên vồ nữa hay không, nhất là con sư tử này sau khi bị bắt, tính hung hăn giảm đi rất nhiều. Du Thản Chi vừa la lên một tiếng, sư tử sợ quá lùi lại.

Gã quản sư coi đó là một việc mất thể diện cho mình, gã lại lớn tiếng quát tháo giục sư tử vồ Du Thản Chi cắn nữa. Du Thản Chi cả giận, đột nhiên vươn tay nắm lấy cổ áo gã quản sư gắng sức kéo mạnh, lôi đầu gã đứt vào cũi sắt. Gã quản sư rú lên.

A Tử thích quá vỗ tay cười ha hả:

- Hay quá! Hay quá! Ta được coi hai người đánh nhau trí mạng thật là tuyệt!

Mấy tên quân Khất Đan toan chạy ra gỡ gã quản sư ra khỏi tay Du Thản Chi, nhưng nghe A Tử nói vậy lại thôi. Gã quản sư hết sức cựa quậy, nhưng lúc này Du Thản Chi đã nổi tinh, cố giữ chằng chằng gã quản sư, nhất quyết không chịu buông tha.

Gã quản sư chỉ còn trông con sư tử lại cứu mình, gã thét lên:

- Cắn! Cắn chết đi!

Con sư tử lại nghe gã giục rối rít, gầm lên một tiếng đau tai nhức óc, nhảy chồm lại. Nó chỉ thấy chủ nhân giục cắn chết đi mà không biết cắn ai? Nó nhe hàm răng sắc nhọn, trắng ởn ngoạm rau ráu cắn đứt một bên đầu gã quản sư, óc và máu tươi vọt ra tung tóe nhầy nhụa trên mặt đất!

A Tử hớn hở tươi cười reo ầm lên:

- Ha ha! Thiết Sửu đại thắng! Thiết Sửu đại thắng!

Nàng vẫy tay ra lệnh cho mấy tên quân Khất Đan khiêng cũi sư tử đi và đem tử thi gã quản sư ra ngoài. Đoạn nàng bảo Du Thản Chi:

- Thế là được rồi! Mi đã làm cho ta được vừa lòng trong chốc lát. Ta muốn thưởng mi mà chưa biết thưởng gì đây?

Nàng chống tay lên cằm ra chiều suy nghĩ.

- Rồi! Mi toan ở chờ Tiêu đại vương đến thăm ta, mi thừa cơ hạ thủ để sát hại đại vương, báo thù cho cha mẹ mi phải không?

Du Thản Chi nói:

- Tiểu nhân đến đây cốt để báo thù cho song thân nhưng không ngờ vụ này lại dính líu đến cô nương.

A Tử nói:

- Tại sao mi lại thích làm nô lệ cho ta?

Du Thản Chi đáp:

- Cô nương là người đẹp nhất trên trần gian. Tiểu nhân... Tiểu nhân tưởng tìm khắp thiên hạ cũng không tìm được người thứ hai nào như cô nương!

Gã nói câu này thật là hỗn xược vô cùng! Giả tỉ A Tử là một cô gái tầm thường mà thấy kẻ đê hèn dám ra điều trêu cợt thì đã giết rồi. Nhưng A Tử lại ưa nghe người ta tán tụng mình đẹp. A Tử là một cô gái nhỏ tuổi tuy nhan sắc mỹ miều song chưa hết độ trưởng thành, hơn nữa nàng bị trọng thương chưa khỏi hoàn toàn, người vẫn gầy nhom vàng ửng, mà biểu đẹp nhất trần gian thì thật là quá đáng. Nhưng nàng thấy ở đời có kẻ khen mình nhan sắc khuynh thành cũng nức lòng hả dạ.

A Tử toan ưng thuận lời khẩn cầu của Du Thản Chi, bỗng có thị vệ báo:

- Đại vương đã đến!

A Tử đưa mắt nhìn Du Thản Chi khẽ hỏi:

- Ngươi có sợ không?

Du Thản Chi run run đáp:

- Không sợ.

Thực ra gã nghe Tiêu Phong đến hồn vía đã rụng rời. Nếu quả gã không sợ thật thì việc gì vừa nói vừa run?

Bỗng thấy cửa điện mở rộng. Tiêu Phong mình mặc áo cừu nho, lưng thắt đai lụa đi đến. Tiêu Phong vừa bước vào cửa điện đã nhìn thấy ngay vũng máu tươi lại thấy một người đầu chụp lồng sắt, trông điệu bộ rất kỳ dị, ông nhìn A Tử cười hỏi:

- Bữa nay coi khí sắc cô có vẻ tươi cười, chắc lại có trò chơi gì mới lạ?

A Tử cười đáp:

- Nước Cao Xương bên Tây Vực mới đem cống gã này tên gọi Thiết Sửu. Đầu gã sư tử cắn cũng không vỡ được. Tỷ phu coi đầu gã còn in vết sư tử cắn đây nè!

Tiêu Phong nhìn kỹ cái lồng sắt quả nhiên vết răng sư tử hãy còn rõ mồn một. A Tử lại nói tiếp:

- Tỷ phu ơi! Tỷ phu có cách nào tháo cái lồng sắt đầu gã ra coi được không?

Du Thản Chi nghe A Tử nói vậy thì hồn vía lên mây. Gã đã được mục kích Tiêu Phong trổ oai thần đánh nhau với quần hùng Trung Nguyên ở Tụ Hiền Trang. Ông vung song chưởng đánh bá phụ cùng phụ thân gã khiến cho lá mộc bằng sắt trên tay phải văng mất thì bây giờ ông muốn tháo cái lồng sắt đầu gã phỏng có khó gì?

Lúc thợ rèn lắp lồng sắt vào đầu gã thì gã muốn ngất đi, song bây giờ trái lại, gã chỉ mong cái lồng này vĩnh viễn lấy đầu mình, không muốn Tiêu Phong nhìn rõ bản tướng.

Tiêu Phong đưa ngón tay ra khẽ gõ vào cái lồng sắt nghe "coong coong" thì bật cười nói:

- Cái lồng này bền chặt gớm! Người thợ chế ra nó lại rất tinh vi, phá hủy đi há chẳng đáng tiếc ư?

A Tử nói:

- Sử giả nước Cao Sương cho tiểu Muội hay rằng: gã này mặt tinh răng lồi, ba phần giống người bảy phần giống quỷ. Ai trông thấy cũng phải tránh xa, nên cha mẹ gã mướn thợ rèn đúc cái lồng sắt này chụp vào đầu gã để người ngoài trông thấy khỏi khiếp sợ! Tỷ phu ơi! Tiểu Muội muốn coi chân tướng gã thế nào mà thiên hạ phải khủng khiếp?

Du Thản Chi lại càng run sợ, hai hàm răng đập nhau cầm cập. Tiêu Phong thấy gã kinh sợ lạ thường, liền nói:

- Gã này sợ quá rồi! Mở mặt gã làm cóc gì? Gã đã chụp lồng sắt từ thuở nhỏ, nếu mình miễn cưỡng lấy ra, e gã khó lòng sống được...

A Tử vỗ tay cười nói:

- Nếu vậy càng hay! Tiểu Muội đã thấy con rùa, đầu nó thò ra thụt vào trong cái mai cứng rắn, tiểu Muội muốn bắt lột bỏ cái mai kiên cố đi, thử coi nó có sống được không?

Tiêu Phong nghe A Tử nói vậy, bất giác chau mày, cho là một câu vô cùng khinh bạc, tâm địa cực kỳ tàn nhẫn! Ông nói:

- A Tử! Em là cô bé nhỏ tuổi ngoan ngoãn sao lại ưa chơi những trò độc ác làm cho người ta phải sống dở chết dỡ như vậy?

A Tử mồm năm miệng mười, chu chéo lên:

- Trời ơi! Tỷ phu không thương tiểu Muội phải không? Tiểu Muội đâu có hay được bằng chị A Châu? Nếu tỷ phu coi tiểu Muội cũng như chị A Châu thì sao mấy ngày liền không lại thăm tiểu Muội lấy một lần?

Tiêu Phong nói:

- Làm cái chức Nam Viện Đại Vương chi chi đó thật là ngán quá! Ngày nào cũng như ngày nấy, công kia việc nọ bận tíu tít chẳng có lúc nào mở mắt ra được. Tuy bận là thế mà mỗi ngày tôi chả đến thăm cô một lần là gì?

A Tử cướp lời:

- Mỗi ngày một lần! Mỗi ngày một lần! Tiểu Muội không muốn tỷ phu diễn cái trò mỗi ngày đến thăm một lần lấy lệ ấy. Giá mà có chị A Châu thì nhất định tỷ phu ở luôn bên cạnh không dời nữa bước chứ chẳng "một lần" gì ráo!

Tiêu Phong nghe nhắc đến A Châu, cảm thấy đau lòng, xong thực tình như vậy, không biết trả lời sao chỉ cười khà khà nói:

- Tỷ phu là người lớn, không biết chơi những trò cho hợp cỡ trẻ con như cô. Vậy cô kiếm mấy cô bé cùng một cỡ với cô để trò chuyện cho vui có hơn không?

A Tử lại xoen xoét nói:

- Cái gì mà trẻ con chớ chẳng trẻ con. Tiểu Muội có phải trẻ con đâu? Nếu tỷ phu không muốn chơi với tiểu Muội thì còn đến đây làm gì?

Tiêu Phong nói:

- Tôi đến đây xem cô có mạnh hơn chút nào không? Bữa này cô đã uống mật gấu chưa?

A Tử nhấc chiếc cẩm đôn lên, hùng hổ quẳng xuống đất nói:

- Trong lòng tiểu Muội đã phiền muộn thì dù mỗi ngày có uống đến hàng trăm cái mật gấu cũng chẳng ăn thua gì?

Tiêu Phong thấy A Tử vẫn giữ thói con nít thường làm mình làm mẩy. Giả tỷ nàng là A Châu, thì ông cam tâm nghĩ cách khiến cho nàng đổi giận làm lành, nhưng đối với con người điêu ngoa độc ác như A Tử, thì ông không thể nhịn nổi sự chán ghét, chỉ buông thỏng một câu:

- Cô hãy nằm nghĩ một lát cho đỡ mệt.

Rồi đứng dậy đi ra.

A Tử trông sau lưng Tiêu Phong, người nàng run run muốn khóc òa lên. Nàng chợt nhìn thấy Du Thản Chi đứng đó. Bao nhiêu lửa giận đầy ruột liền chi trút lên đầu gã. Thật là giận cá chém thớt.

Nàng quát lên:

- Thất Lý! Quất cho gã ba mươi roi.

Thất Lý "dạ" rồi rút lấy roi da. Du Thản Chi vội kêu lên:

- Cô nương! Tiểu nhân có điều gì lầm lỗi đâu?

A Tử chẳng thèm trả lời gã, chỉ quát Thất Lý:

- Đánh đòn mau!

Thất Lý được lệnh càm roi quất "véo" vào lưng Du Thản Chi. Du Thản Chi không ngớt kêu la van vỉ:

- Cô nương! Xin cô cho biết tiểu nhân đã phạm tội gì để sau này khỏi tái phạm.

Thất Lý lại quất mạnh luôn mấy roi. Du Thản Chi kêu giãy lên, A Tử nói:

- Ta muốn đánh là đánh! Mi không có quyền được chất vấn ta. Chẳng lẽ mi vô tội mà ta sai đánh oan mi hay sao? Mi muốn biết phạm tội gì ư? Ta cho mi hay: mi dám chất vấn ta, cũng là một tội rồi đó! Cần phải đánh đau!

Du Thản Chi cãi:

- Vì cô nương đánh trước tiểu nhân mới hỏi. Lúc tiểu nhân chưa hỏi cô nương đã sai đánh rồi kia mà.

Roi lại quất "Đét, đét, đét" luôn ba ngọn. A Tử cười nói:

- Ta biết trước là mi vẫn chưa chịu một phép, nên ta sai gã đánh mi, quả nhiên mi chất vấn ta thật! Thế có phải là ta đoán việc như thần không? Và ta biết rõ lòng dạ mi vẫn bướng bĩnh quật cường. Nếu mi đúng là kẻ tận trung thì thốt nhiên có bị ta đánh, tất đã cố sức chịu đựng, hơn nữa mi vui vẻ tự động hiến thân để hứng lấy những roi đòn mới phải. Mi đã la làng là trong lòng mi không phục ta rồi. Thôi! Mi không muốn để ta đánh chẳng thèm sai người đánh cho bẩn tay.

Du Thản Chi nghe A Tử nói vậy lại càng sợ hãi, người gã run lên mình sởn gai ốc. Gã biết rằng nếu A Tử không đánh gã nữa thì nhất định nàng sẽ nghĩ ra thứ hình phạt còn thảm khốc gấp mười thà rằng chịu mấy chục roi đòn đi còn hơn.

Nghĩ vậy gã vội kêu van:

- Tiểu nhân thực có lỗi! Tiểu nhân thực có lỗi. Xin cô nương cứ đánh, đánh nữa cho! Tiểu nhân được đội ơn đức rất nhiều! Cô nương đánh nhiều chừng nào có bổ ích cho tiểu nhân chừng ấy.

A Tử mỉm cười hỏi:

- Mi cũng khá thông minh đấy, nhưng ta chả mắc mưu mi đâu. Phải chăng mi nói đãi lòng xin ta càng đánh hay là để ta hả dạ và sẽ tha cho mi.

- Tiểu nhân không dám nói đãi lòng cô nương.

A Tử lại hỏi:

- Mi chân tâm muốn ta đánh thật nhiều ư?

Du Thản Chi đáp:

- Đúng là tâm nguyện của tiểu nhân như vậy.

A Tử nói:

- Nếu vậy được lắm! Ta sẽ cho mi được toại nguyện.

Đoạn nàng quay sang bảo gã đội trưởng:

- Thất Lý! Ngươi đánh gã đủ một trăm roi cho gã tâm nguyện được ăn nhiều đòn.

Hồi Thứ 50

Một lối luyện công kỳ dị

Du thản Chi giật mình nghĩ thầm:

- Nếu cô này sai người đánh mình một trăm roi thì còn chi là tánh mạng, nhưng việc đã đến thế này nếu mình kiên quyết không chịu, người ta vẫn cứ đánh mình. Vậy mình có chống cự cũng chẳng ăn thua gì.

Gã nghĩ vậy nên không nói gì nữa. A Tử hỏi:

- Làm sao mi lại lầm lì không nói? Phải chăng trong lòng mi còn có chỗ ấm ức? Ta kêu người đánh mi chắc mi cho ta là bất công phải không?

Du Thản Chi nói:

- Tiểu nhân chân tâm kính phục cô nương, biết rõ cô nương sai đánh tiểu nhân tức là có hảo tâm muốn thành toàn cho tiểu nhân vậy.

A Tử hỏi:

- Thế sao mà rồi mi chẳng nói năng gì?

Du Thản Chi không biết trả lời ra sao, gã ấp úng:

- Cái đó... cái đó... tiểu nhân lúc nào cũng nghĩ đến ơn đức cô nương thâm trọng tày non, tiểu nhân vô cùng cảm kích, không lời nào giải tỏa cho xiết được! Tiểu nhân chỉ nghĩ cách sau này không biết lấy chi đền đáp cô nương cho phải đạo?

A Tử nói:

- Chà mi bảo đền đáp ta? Ðền đáp cách nào? Ta sai người đánh mi một roi mi ghi vào góc lòng để căm thù ta chứ gì?

Du Thản Chi khoát tay lia lịa đáp:

- Không không! Không phải! Tiểu nhân nói đền đáp là đúng chân tình. Tiểu nhân đã nhất quyết dù có phải nhảy vào đống lửa hay phải tan xương nát thịt vì cô nương cũng cam lòng.

A Tử nói:

- Nếu vậy thì hay lắm! Thất Lý đâu? Ngươi đánh gã đi!

Thất Lý "dạ" một tiếng rồi rút bì tiên ra quất Du Thản Chi. Lúc đánh được hơn năm chục roi. Du Thản Chi đau tê dại cả người và đầu óc tối tăm không còn biết gì nữa. Hai đầu gối gã nhũn ra từ từ ngã xuống. A Tử thấy vậy cười hì hì. Nàng chờ cho gã cất tiếng van xin và định bụng hễ gã cất lời năn nỉ thì lại tăng gia năm mươi roi nữa. Ngờ đâu lúc này Du Thản Chi đã mê man bất tỉnh. Thỉnh thoảng gã khẽ rên ư ử trong miệng chứ không van vỉ chi hết.

Đánh được hơn bảy mươi roi thì gã ngất lịm đi. Thất Lý vẫn chẳng dung tình, đánh đủ trăm roi mới buông tay ra. A Tử thấy Du Thản Chi chỉ còn thoi thóp thở. Tình trạng thập tử nhất sinh của gã làm cho nàng cụt hứng. Nàng nói:

- Các ngươi đem gã ra ngoài thôi! Thằng lỏi con này chả còn gì đáng coi nữa.

Rồi nàng quay ra hỏi tên đội trưởng:

- Thất Lý! Ngươi còn có trò gì mới mẻ nữa không?

Thất Lý dường như không nghe rõ, sai mấy tên thuộc hạ khiêng Du Thản Chi đi. Du Thản Chi bị trận đòn này phải dưỡng thương đến hơn một tháng mới khỏi.

Những tên quân Khất Đan thấy A Tử dường như lãng quên Du Thản Chi rồi, đã lâu nàng không kêu đem gã lại để hành hạ nữa, chúng liền ghi tên vào danh sách những người Tống mới bị bắt và cho bọn này đi làm những công việc đê tiện, như: hốt phân, kì cọ chuồng dê, nhặt phân trâu, lột da cừu, gặp việc gì làm việc ấy.

Trên đầu Du Thản Chi lại chụp chiếc lồng sắt, mọi người nhằm vào đó mà chế nhạo, khinh mạn gã. Cả đến người Hán đồng bào với gã cũng coi như một con quái vật. Du Thản Chi ráng sức chịu đựng, ai nói ngược nói xuôi cũng mặc không bao giờ đối đáp, cơ hồ gã biến thành kẻ câm điếc. Có ai đánh mắng gã, gã cũng không hề chống cự. Chỉ trừ phi có người cưỡi ngựa đi ngang qua là gã mới ngẩng đầu lên nhìn một cái.

Du Thản Chi chỉ còn một điều tâm nguyện là mong có ngày được "cô nương" gọi gã đến để đánh cho một chặp. Gã coi việc mình không được gặp A Tử là một cực hình còn đau khổ hơn việc bị đánh đòn.

Thời gian lặng lẽ trôi hơn hai tháng nữa, tiết trời đã đỡ lạnh. Một hôm Du Thản Chi đang theo mọi người ra ngoài thành Nam kinh vác đất, khuân gạch để bồi đắp cho tường thành dầy thêm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập.

Mấy người cưỡi ngựa từ cửa nam ra, một âm thanh trong trẻo cười nói:

- A ha! Gã Thiết Sửu chưa chết ư? Ta tưởng gã bỏ mạng từ lâu rồi.

Đoạn nàng gọi:

- Thiết Sửu! Mi lại đây!

Ðó chính là A Tử.

Du Thản Chi mơ tưởng ngày đêm chỉ mong đến lúc được nghe người sang sảng tiếng vàng. Vừa nghe gọi, gã cuống cả lên hai chân dường như đóng chặt xuống đất không sao cất bước nổi nữa. Trái tim gã rạo rực dường như muốn nhảy ra ngoài lồng ngực. Lòng bàn tay gỉ mò hôi ra ướt đẫm.

A Tử gắt lên:

- Thiết sửu! Thằng chết kia! Ta kêu mi lại đây mi không nghe thấy hay sao?

Du Thản Chi vội đáp:

- Dạ! Cô nương!...

Gã xoay mình chạy lại trước ngựa A Tử. Đang chạy, gã không nhìn được ngẩng đầu lên nhìn nàng.

Thấm thoát đã bốn tháng, bây giờ Du Thản Chi mới lại được thấy mặt người tiên. Nàng da dẻ thêm phần hồng hào, vẻ đẹp lại càng tăng lên gấp bội. Du Thản Chi trong lòng xiết bao hồi hộp, gã vừa đi vừa nghếch mặt lên, vấp chân một cái ngã lăn ra. Mọi người thấy vậy đều cười rộ. Gã lổm ngổm đứng dậy và không dám nghếch mặt lên nhìn A Tử nữa.

A Tử trong lòng hớn hở, cười hỏi:

- Thiết Sửu! Sao mi lại chưa chết?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân đã có lời nói: Phải tìm cách để báo đáp ơn đức cô nương, khi nào đã chết được?

A Tử lại càng khoan khoái cười khanh khách nói:

- Ta đang tìm một tên nô bộc hết dạ trung thành để làm một việc trọng đại. Ta e rằng người Khất Đan tay chân cục mịch làm hỏng việc của ta. Nay mi chưa chết thì hay lắm. Mi theo ta đi!

Du Thản Chi đáp:

- Xin vâng.

Rồi đi theo sau ngựa A Tử. A Tử vẫy tay ra hiệu cho Thất Lý cùng ba tên vệ sĩ Khất Đan trở lại, không phải đi theo nàng nữa. Thất Lý đã biết A Tử nói đâu là đúng thế, không ai khuyên can được. Vả lại thằng lõi mặt sắt, con người hèn hạ nhu nhược dù có theo nàng quyết cũng không xảy ra biến cố gì. Y chỉ dặn một câu:

- Xin cô nương về sớm cho.

Đoạn cả bốn tên nhảy xuống ngựa đón chờ ở ngoài cổng thành. A Tử lỏng buông tay khấu cho ngựa đi thong thả. Đi chừng được bảy tám dặm thì đường lối càng hoang vu tịch mịch. Sau đến một nơi khe núi âm u rậm rạp. Du Thản Chi chân dẫm xuống đất lõm bõm, vì những lá rụng và cỏ thối lâu năm nhão ra thành bùn. Lại đi chừng hơn một dặm, đường núi cũng gập ghềnh. A Tử phải xuống ngựa, tay cầm dây cương dắt ngựa đi một quãng nữa. Nàng đưa mắt nhìn ra bốn mặt thấy chỗ này âm u mờ mịt. Gió lạnh rít từng cơn theo khe núi thổi vèo vèo, khiến cho người rét buốt thấu xương.

Nàng nói:

- Hay lắm! Chỗ này được đây!

Nàng buột ngựa vào gốc cây rồi dặn Du Thản Chi:

- Những việc gì mi trông thấy bữa nay phải nhớ kỹ rằng không được tiết lộ với một ai và ngay với chính ta mi cũng không được đề cập đến nữa. Mi nghe rõ chưa?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng vâng!

Lúc này gã mừng như điên. Dù A Tử gọi gã đi theo ra nơi hẻo lánh này để đánh gã một trận nhừ xương, gã cũng vui vẻ can tâm.

A Tử thò tay vào bọc lấy chiếc đỉnh ngọc màu xanh biếc đặt xuống đất nói:

- Lúc mi thấy những loài sâu bọ cổ quái xuất hiện, ta cấm mi không được sợ sệt và nhất là không được lên tiếng.

Du Thản Chi lại đáp gọn:

- Vâng.

A Tử lại lấy trong bọc một cái túi vải nhỏ xíu mở ra thì bên trong có mấy viên sắc vàng, sắc đen, sắc tía, sắc đỏ. Nàng véo lấy mỗi thứ một chút bỏ vào trong đỉnh ngọc quẹt lửa đốt lên, rồi đậy nắp đỉnh lại. Nàng nói:

- Chúng ta ngồi gốc cây này để coi chừng.

A Tử ngồi xuống gốc cây. Du Thản Chi không dám ngồi bên nàng, chạy lại ngồi trên một tảng đá, cách chỗ nàng chừng hơn một trượng. Gió lạnh căm căm vẫn thổi đều, quyện mùi thơm ngát từ quần áo A Tử tiết ra đưa vào mũi Du Thản Chi, khiến cho gã ngây ngất đê mê. Gã nghĩ rằng cuộc đời gã mà còn được giây phút như lúc này thì bấy nhiêu lâu gã có chịu cực nhọc đau đớn ê chề cũng là được trả một cách quá hậu rồi! Gã chỉ mong A Tử vĩnh viễn ngồi dưới gốc cây, để cho gã đứng xa xa hầu tiếp nàng là mãn nguyện lắm rồi.

Tâm hồn Du Thản Chi đang bay bỗng lên chín tầng mây thì bỗng nghe dưới bụi rậm có tiếng sột soạt, một giống rắn rết gì đang bò lại. Du Thản Chi tuy không có tài cán gì, nhưng gã sở trường về nghề bắt rắn rết... Gã vừa nghe tiếng động đã biết ngay có vật kì dị.

Quả nhiên trong đám cỏ xanh rậm rạp có vật gì đang động đậy nhìn kỹ thì là một con rết toàn thân nó lấp lánh. Ánh sáng đầu nó đỏ như máu khác hẳn với giống rết thường. Con rết này ngửi mùi hương từ trong đỉnh ngọc bay ra liền tìm đến ngay. Nó thấy đỉnh ngọc có lỗ thủng nên chui vào không ra nữa.

Du Thản Chi sắp la lên:

- Con rết này độc ghê gớm!

Thì phía sau lại thấy tiếng "xì xì", một con bò cạp sắc vàng ở trong bụi cỏ đang bò rất nhanh. Du Thản Chi vừa toan đưa chân ra giẫm chết, thì A Tử vội quát lên:

- Ô kìa! Không được giẫm chết nó. Mi thật là ngu ngốc!

Du Thản Chi còn đang giơ chân phải lên chưa giẫm xuống, gã nghe A Tử la, liền dừng lại. Con bò cạp cũng chạy mau lại phía đỉnh ngọc rồi chui vào. Chỉ trong chớp mắt, trong đỉnh ngọc nổi lên những tiếng "chí chí". Con rết cùng bò cạp đánh nhau.

Du Thản Chi vốn ưa coi loài côn trùng đấu chơi. Từ thuở nhỏ gã vẫn nuôi dế để xem chúng chọi chơi. Lúc này gã muốn mở nắp đỉnh để coi rết và bò cạp chọi nhau, xem con nào thắng con nào bại. Nhưng gã khiếp oai A Tử không dám cử động hấp tấp.

Lúc con rết và con bò cạp đang chọi nhau trong đỉnh ngọc thì từ góc Tây Bắc một con thạch thùng chạy lại, từ góc Tây Nam cũng có một giống côn trùng chạy ra không biết là giống gì. Con này tròn như quả cầu toàn thân lấp lánh. Hai giống côn trùng này đều chạy về phía đỉnh ngọc. Lập tức có những tiếng kỳ dị phát ra loạn cả lên.

Du Thản Chi đưa mắt nhìn về phía A Tử thì thấy nàng lộ vẻ vui mừng. Nàng xoa hai bàn tay nhỏ nhắn vào nhau khẽ nói:

- Bốn con đến rồi quả nhiên hương liệu mình rất linh nghiệm!

Nàng chưa dứt lời, thì lại thêm một con nhện chạy vào trong đỉnh ngọc. Bấy giờ Du Thản Chi mới hiểu là cô này tìm đến đây vì chỗ này rậm rạp ẩm thấp có nhiều trùng độc. Nhưng gã chưa hiểu cô dẫn dụ những trùng độc đến để làm gì. Nếu muốn xem chúng chọi nhau thì sao lại không mở nắp đỉnh?

Bỗng nghe một tiếng "tạch" con bò cạp từ trong đỉnh ngọc bị hất ra, không nhúc nhích, vì nó đã chết rồi. Một lát sau, lần lượt đến con nhện, con thạch thùng và con vật mình tròn không biết tên đều bị đẩy ra ngoài và đều chết cả rồi.

A Tử vỗ tay cười nói:

- A ha! Con rết đầu đỏ lợi hại hơn hết.

Du Thản Chi hỏi:

- Cô nương! Cô đốt hương liệu gì mà dẫn dụ bao nhiêu thứ côn trùng độc bò đến?

A Tử sa sầm nét mặt nói:

- Ta đã bảo mi không được hỏi lôi thôi. Mi quên rồi hay sao? Nếu lần sau mi còn lắm miệng thì ta cho ăn trăm roi đòn đó!

Du Thản Chi cúi đầu nói:

- Vâng! Tiểu nhân cao hứng, không kịp suy nghĩ buột miệng nói ra, xin cô nương lượng thứ cho...

A Tử không thèm nói gì với gã nữa. Nàng móc trong bọc lấy một cái túi vải ra. Trong túi có một mảnh đoạn rất dày. Miếng đoạn này có hào quang lóng lánh, hình như những ánh ngũ sắc không nhất định. Mỗi khi tay nàng cử động một chút thì màu sắc rực rỡ lại biến ảo ly kỳ.

A Tử tiến lại gần cái đỉnh ngọc phủ tấm đoạn lên gói cái đỉnh lại. Du Thản Chi nhìn xuống con bò cạp cùng mấy con vật bị chết nằm dưới đất thì thấy bốn con này đều xác xơ. Bao nhiêu chất nước trong mình chúng đều bị hút khô kiệt.

A Tử lấy mảnh đoạn gói chặt đỉnh ngọc, dường như sợ con rết ở trong bò ra mất, rồi nàng bỏ vào trong một cái túi da treo ở cổ ngựa.

Nàng cười nói:

- Chúng ta về thôi!

Đoạn giục ngựa cho đi! Du Thản Chi theo sau A Tử, nghĩ thầm: Cái đỉnh ngọc này đã cổ quái. Nhưng chất hương liệu lại càng kì dị hơn. Chỉ thắp lên là dẫn dụ được bọn côn trùng tìm đến.

A Tử về đến điện Đoan Phúc dặn bọn thị vệ trong điện dọn một buồng xép bên cạnh cho Du Thản Chi ở. Du Thản Chi cả mừng, gã biết rằng từ nay thường được thấy mặt A Tử luôn. Quả nhiên sáng hôm sau A Tử cho gọi Du Thản Chi đến tòa điện phụ. Chính nàng đóng cửa điện lại. Trong điện chỉ có hai người.

A Tử chạy lại đầu phía Tây điện, mở một cái lọ sành ra cười nói:

- Ngươi coi đây có hùng vĩ không?

Du Thản Chi nhìn vào thì thấy con rết bắt được hôm qua đang chạy rất nhanh trong lọ. A Tử nói:

- Bữa nay chúng ta lại đi bắt một con trùng độc khác đem về...

Du Thản Chi xiết đỗi hoài nghi, nghĩ bụng: Một cô gái xinh đẹp như thế kia, thiếu gì trò chơi mà phải đi tìm những trùng độc dơ dáy mà nguy hiểm về chơi." Nhưng gã không dám hỏi nhiều, chỉ đáp gọn một tiếng:

- Vâng!

A Tử dẫn Du Thản Chi đến một khe núi khác. Nàng cũng đốt hương liệu bỏ vào ngọc đỉnh như hôm trước và cũng dẫn về được năm thứ trùng độc. Sau một phen tranh đấu, lần này còn lại được con nhện đen. A Tử lại mang về bỏ vào lọ khác nuôi.

Nàng gọi Du Thản Chi đem chăn chiếu vào căn điện phụ để tối ngủ tại đó canh chừng mấy con trùng độc. Du Thản Chi xem qua đã biết những loại côn trùng này có thể đục lỗ vì chúng ở trong chỗ kín mít không có kẽ hở, có khi lại tự khoét vết nứt để trốn ra.

Gã nghĩ thầm:

- Bất luận là để con rết hay con nhện chạy mất mình cũng phải tội trước tiên. Huống chi A Tử đã tổn hao bao nhiêu tinh thần mới bắt được chúng về. Nếu mình để chạy mất một con, có khi nàng nổi hung giết mình đi thế là uổng mạng.

Vì vậy, nên lúc nào gã cũng nơm nớp để ý trông coi hai cái lọ này. Gã chợp ngủ chốc lát, lúc chợt tỉnh dậy lại quẹt lửa soi xem ngay.

Chiều hôm sau, A Tử lại dùng phương pháp đó đi bắt được một con cóc. Ngày thứ tư đi bắt thì dẫn dụ toàn những giống côn trùng rất nhỏ, rõ ràng chất độc không được mạnh lắm, A Tử chưa vừa lòng lại đi thêm hơn mười dặm mới bắt được con bò cạp xanh biếc. Suốt ngày thứ năm không bắt được thứ gì, cả ngày thứ sáu cũng vậy.

Đến ngày thứ bảy mới bắt được con rắn xanh nhỏ. A Tử ra chiều vui thích, sai Du Thản Chi mỗi ngày phải giết một con gà trống lấy tiết để nuôi những con trùng độc này.

Nuôi được hơn mười ngày, một buổi sáng kia, A Tử lại vào tòa điện nhỏ để xem năm thứ trùng độc rồi nói:

- Được rồi!

Nàng lại lấy đỉnh ngọc và hương liệu thắp lên rồi bảo Du Thản Chi:

- Mi mở nắp năm cái lọ sành ra.

Du Thản Chi tuân mệnh mở hết các lọ rồi đứng sang một bên. Bỗng nghe thấy tiếng sột soạt, năm con trùng độc ngửi thấy mùi hương tranh nhau chui vào đỉnh ngọc. Tiếp theo là tiếng chọi nhau chí chí. Năm con trùng độc này con nào cũng hút hết những chất độc của bốn con khác nên trong mình chúng đều có chất độc kịch liệt. Chúng lại ăn tiết gà lâu ngày, dương khí rất vượng, vừa gặp những loại khác, chúng cắn xé nhau đến chết ngay lập tức.

Đầu tiên là con cóc bị chết trước, thứ hai là con rắn xanh bị chết theo. Còn ba con nữa đấu nhau một lúc thì con nhện và con bò cạp đều nhảy ra ngoài đỉnh ngọc, trong đỉnh chỉ còn con rết bắt được hôm đầu tiên là lợi hại hơn cả.

Con rết toàn thắng rồi bò ra ngoài đỉnh ngọc đi hút những chất độc ở mấy con kia. Rồi mình nó cũng sưng vù lên. Cái đầu đỏ biến sang sắc tía, rồi từ sắc tía biến sang sắc biếc, sau cùng biến ra màu đục.

A Tử rất lấy làm mừng khẽ nói:

- Xong rồi! Thế là môn phái ta lại có thể luyện được môn tuyệt kỹ này!

Du Thản Chi lẩm bẩm:

- Té ra cô này đi bắt những con trùng độc để luyện một môn tuyệt nghệ gì đây.

Con rết ăn những chất độc no rồi lại quay về đỉnh ngọc. A Tử hỏi Du Thản Chi:

- Thiết Sửu! Ta đối với mi thế nào?

Du Thản Chi đáp:

- Cô nương đối với tiểu nhân ơn nặng tày non.

A Tử hỏi:

- Mi biểu rằng dù có phải vì ta mà tan xương nát thịt hoặc nhảy vào đống lửa mi cũng can tâm. Câu đó là ngươi nói thực hay nói dối?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân không dám dối cô nương. Cô nương có việc gì xin cứ sai bảo, tiểu nhân quyết không từ chối.

A Tử nói:

- Nếu vậy thì hay lắm! Ta cho mi hay ta muốn luyện một môn tuyệt kỹ cần có người trợ giúp mới xong. Mi có ưng giúp ta không? Giả tỷ luyện được thành công, nhất định ta sẽ trọng thưởng cho mi.

Du Thản Chi nói:

- Lý đơn nhiên là tiểu nhân phải tuân theo lời cô nương sai bảo, cô nương bất tất phải quan tâm đến chuyện ban thưởng.

A Tử nói:

- Thế thì lại càng tuyệt nữa! Vậy chúng ta bắt đầu luyện thôi.

Nói xong nàng ngồi xếp bằng, hai tay sát vào nhau, nhắm mắt vận khí một hồi rồi nói:

- Mi đưa tay ra bắt lấy con rết đó lại đây. Thế nào con rết cũng cắn mi, nhưng mi đừng có nhúc nhích, để yên cho nó hút khí huyết của mi, càng hút được càng hay.

Du Thản Chi từ thuở nhỏ đã quen chơi rắn rết, biết rằng những loài này tuy hình thù nhỏ xíu mà chất độc lợi hại vô cùng. Nếu người sơ ý để nó đớp một miếng, vết thương cũng sưng vù hàng mấy ngày chưa khỏi. Con rết này hình thù quái dị, mấy con rắn con nhện... không nọc độc bằng, nó cắn chết thì đủ biết nó độc cỡ chừng nào! Du Thản Chi nghe A Tử bảo mình để cho con rết hút máu, gã rùng mình ghê sợ hơn là bị đánh trăm roi, vẻ băn khoăn lộ hẳn ra ngoài mặt.

A Tử sa sầm nét mặt hỏi:

- Sao? Mi không muốn thế ư?

Du Thản Chi ấp úng:

- Không phải là tiểu nhân không muốn. Có điều... có điều...

A Tử nói:

- Có điều con rết này độc quá, mi sợ chết chứ gì?

Du Thản Chi không biết nói thế nào. Gã nhớ lại lời hứa tự nguyện vì nàng dù tan xương nát thịt, vì nàng nhảy vào đống lửa... Nhưng giờ gặp cảnh nguy nan gã lại sợ co vòi.

Du Thản Chi ngẩng đầu lên nhìn A Tử, thấy mặt nàng đỏ nhừ, môi chúm lại ra chiều khinh miệt gã vô cùng! Gã mê hoảng như người bị ma ám, nói:

- Hay lắm! Tiểu nhân xin vâng mệnh cô nương.

Đoạn gã nghiến răng nhắm mắt lại, tay trái mở nắp đỉnh ngọc, tay phải thò vào trong đỉnh.

Vừa thò vào đầu ngón tay giữa đau nhói như bị kim đâm. Du Thản Chi cố nhịn đau, gã mở bừng mắt ra, nhìn thấy con rết đang cắn ngón tay giữa mình, quả nhiên để hút máu. Gã khiếp quá khắp người sởn gai ốc. Gã toan vẫy tay cho con rết rơi ra, chân gã đạp mạnh xuống đất, nhưng dù gã không nhìn cũng biết cặp mắt sắc như dao của A Tử đang nhìn chòng chọc vào lưng mình nên gã lại không dám nhúc nhích.

Thực ra thì lúc con rết hút máu gã không đau lắm, nhưng gã nhìn con rết thấy mỗi lúc một phồng lên mà ngón tay gã tím bầm lại. Quầng máu tím trước lợt sau dần dần thẫm lại. Sau một lúc vết thâm từ ngón tay loang ra bàn tay rồi từ bàn tay lên các ngón tay.

Đến lúc này thì Du Thản Chi không còn nghĩ gì đến tính mạng mình nữa, gã trở lại bình tĩnh, miệng lộ vẻ tươi cười, nhưng vì mặt gã chụp lồng nên A Tử trông không được rõ. Con rết này từ khi hút nhiều chất độc, cái đầu đỏ biến thành màu lục, bây giờ lại từ màu lục trở lại màu hồng.

Du Thản Chi lẩm bẩm:

- Bao nhiêu chất độc ngươi đã truyền vào người ta. Hay lắm. Ta là Thiết Sửu thì bây giờ lại biến thành Độc Sửu.

A Tử cười khanh khách nói:

- Mi hãy còn cười nói được kia ư?

Miệng nàng nói vậy hai mắt chú ý nhìn con rết, để hết cả tâm thần vào đó. Đột nhiên, con rết buông ngón tay Du Thản Chi, nằm phục xuống trong lòng đỉnh ngọc. Một lát sau lỗ đỉnh có máu rươm rướm chảy ra.

A Tử lộ vẻ vui mừng đưa ngón tay đón lấy huyết dịch, nàng ngồi xếp bằng vận nội công cho huyết dịch thấm vào trong da bàn tay.

Du Thản Chi nghĩ thầm:

- Thế là huyết dịch ta thấm vào trong người nàng. Xem chừng nàng đang luyện môn "ngũ độc chưởng" chi đây.

Gã là người hủ lậu hẹp hòi, nên không biết cái đỉnh ngọc này là vật chi bảo của phái Tinh Tú, mang danh là "Bích Ngọc Vương Đỉnh" và môn tuyệt nghệ của A Tử luyện kêu bằng: "Hóa công đại pháp", một môn tuyệt học của tà phái đã làm cho các tay hào kiệt võ lâm phải kinh hồn táng đởm. Con rết tiết hết huyết độc xong lăn ra chết liền.

Hồi Thứ 51

Đòi Báo Vật, Nhà Sư Động Thủ

A Tử xoa tay mạnh vào nhau rồi nhìn vào lòng bàn tay thì thấy hai bàn tay vẫn đẹp như ngọc không có chút vết tích gì, mà cũng không có dấu máu dơ bẩn chi hết. Nàng biết những gì mình nghe trộm ở nơi sư phụ về phép luyện công quả đúng rồi bất giác cả mừng. Nàng cầm đỉnh ngọc lên đổ xác con rết xuống đất rồi bon bon chạy ra ngoài điện không thèm để mắt ngó Du Thản Chi nữa, tựa hồ như người đó đã thành vật vô dụng như con rết vậy.

Du Thản Chi nhìn sau lưng A Tử đi khỏi rồi cởi áo ra, thì thấy quầng đen đã chạy tới nách đồng thời một cánh tay bị ngứa ngáy khó chịu. Bệnh ngứa lan ra mau chóng chỉ trong chớp mắt, gã cảm thấy tựa hồ có đến hàng ngàn hàng vạn con kiến đang cắn rứt. Du Thản Chi nhảy lên chồm chồm, đưa tay lên gãi. Nhưng không gãi còn khá, vì càng gãi bao nhiêu thì càng ngứa dữ dội thêm bấy nhiêu, dường như trong xương tủy và trong ruột gan đều có sâu bọ bò qua bò lại lúc nhúc.

Người bị đau còn chịu được chứ bị ngứa ngáy thì không thể nào chịu được, Du Thản Chi nhảy lên nhảy xuống la hét om sòm rồi rồi đập cái đầu sắt vào tường kêu binh binh. Gã chỉ mong sao cho mình ngất đi không còn biết gì nữa để khỏi chịu đựng những cơn ngứa ngáy kì dị. Du Thản Chi đập đầu một lúc nghe đánh tạch một tiếng, một vật trong bọc rơi xuống.

Đó là gói giấy dầu tuột ra để lộ một cuốn sách giấy vàng, chính là cuốn sách chữ Phạn mà gã lượm được của Kiều Phong. Du Thản Chi bị cơn ngứa ngáy hành hạ chẳng buồn lượm lên nữa. Trong lúc vô tình gã trông thấy bìa sách lật ra trang đầu có vẽ một nhà sư người gầy như que củi. Hình vẽ nhà sư này rất là kì dị, đầu luồn xuống dưới hai chân quặp lại, hai bàn tay thì nắm lấy hai chân.

Du Thản Chi đang ngứa ngáy khó chịu, chẳng còn lòng dạ nào để ý đến hình vẽ kì dị này. Gã chồm lên nhảy xuống một hồi nữa thì cảm thấy cơn ngứa ngáy làm cho khó thở. Gã nằm xuống đất xé hết quần áo rách tươm rồi lăn mình cho da thịt sát xuống mặt đất. Gã gãi một hồi nữa đến trầy da chảy máu.

Trong lúc Du Thản Chi vừa lăn lộn vừa gãi tự nhiên đầu gã luồn vào giữa hai chân quặp lấy. Vì đầu gã có chụp lồng sắt thành lớn quá không ra được. Gã đưa hai tay nắm chân định kéo rộng ra rồi hất đầu lên, song lúc này gã kiệt sức quá rồi, không nhúc nhích được nữa tạm dừng tay thở lên hồng hộc.

Ngẫu nhiên cuốn sách bày ra trước mắt kiểu hình vẽ nhà sư gầy trong cuốn sách giống như kiểu gã đang ngồi. Trong lòng gã vừa kinh ngạc lại vừa buồn cười. Kì dị ở chỗ gã ngồi kiểu này tuy vẫn ngứa như cũ nhưng hơi thở nhẹ nhàng hơn. Vì vậy nên gã không muốn rút đầu ra khỏi chân mà cứ để nguyên vậy gục xuống đất.

Gã gục đầu như vậy thì hai mắt càng gần sách hơn. Gã nhìn lại ảnh nhà sư đột nhiên thấy người trong tranh vẽ có những sợi dây rất nhỏ. Vì sách cũ quá, màu giấy đã vàng khè và xám xịt, nên chẳng thấy gì.

Du Thản Chi cảm thấy tay mặt ngứa một cách kì lạ, mắt gã cũng ngẫu nhiên nhìn vào cánh tay phải nhà sư trong đồ hình, bỗng thấy từ cánh tay này có sợi dây nhỏ thông lên đến cổ họng rồi chuyền xuống trước ngực đi vòng vèo đưa ra hai vai rồi lên đến đỉnh đầu.

Du Thản Chi nhìn sợi dây nhỏ đó thì trong lòng tự nhiên cảm thấy tựa hồ như tay phải ngứa ghê gớm, có một luồng hơi ấm áp đi theo những đường như sợi dây, từ cổ họng xuống trước ngực rồi từ hai vai đến đỉnh đầu, dần dần biến mất. Gã tiếp tục đưa luồng tư tưởng theo những đường chỉ trong đồ hình mấy lần và mỗi lần đều thấy một luồn khí ấm thông vào đầu óc, rồi cánh tay đang ngứa cũng bớt dần đi.

Du Thản Chi cảm thấy rất là kì lạ, gã chẳng hoài công suy xét nguyên do tại sao? Chỉ cho luồng tư tưởng tiếp diễn như vậy đến ba mươi mấy lượt. Cánh tay chỉ còn hơi ngứa gã làm thêm mười lần nữa thì từ cánh tay cho đến bàn tay không còn thấy gì nữa. Bấy giờ gã mới rút đầu ra khỏi đôi chân. Gã giơ bàn tay lên xem thì những quầng đen trên tay cũng đều biến mất.

Du Thản Chi đang mừng rỡ bỗng la lên:

- Chao ôi! Thôi hỏng rồi! Nọc rết kịch độc đã chuyền vào mình cả rồi.

Nhưng dù sau gã hết được cơn ngứa kì dị đã thấy đỡ khổ, còn những mối lo gì hãy bỏ đó. Gã lẩm bẩm:

- Việc đời kể ra cũng lạ, mình ngẫu nhiên đưa đến kiểu ngồi như hòa thượng này là nghĩa làm sao? Phải chăng đó là ý trời?

Thật ra hình vẽ trong sách là một diệu pháp để trút bỏ những mối ưu phiền trong lúc luyện công. Du Thản Chi đang rất khổ sở đến cực độ biến diễn ra cách đó chứ không phải do sự ngẫu nhiên mà gặp.

Nên biết rằng "Vướng cổ thì ho, ăn no quá thì mửa." Đó là tính cách tự nhiên của con người. Du Thản Chi đang lúc ngứa ngáy khổ sở thì gục đầu xuống cũng chỉ là một tập quán tự nhiên chẳng có gì lạ. Có điều cuốn sách rớt xuống lại tự nhiên mở ra đúng trang đó thì quả là một sự ngẫu hợp... Còn bao là ý trời ban phước hay gieo họa thì còn khó mà biết được.

Du Thản Chi ngơ ngẩn một lúc, gã mệt quá lăn ra ngủ.

*

Sáng sớm hôm sau, gã vừa thức giấc mở chăn ra đã thấy A Tử lật đật đi vào điện. Nàng thấy Du Thản Chi thân thể lõa lồ bộ dạng kì quái thì la lên một tiếng kinh ngạc rồi hỏi:

- Mi vẫn chưa chết ư?

Du Thản Chi giật mình rồi vội kéo chăn trùm lên che mình rồi đáp:

- Tiểu nhân chưa chết.

Rồi gã lẩm bẩm:

- Té ra nàng tưởng mình chết rồi!

A Tử nói:

- Mi chưa chết thì hay lắm! Mau mặc quần áo rồi theo ta đi bắt trùng độc.

Du Thản Chi vâng lời ngay. A Tử ra ngoài rồi nói với tên quân Khất Đan lấy cho một bộ áo. Tên quân Khất Đan này thấy gã hàng ngày đi theo A Tử, nghĩ rằng gã được quận chúa thương yêu, liền kiếm một bộ y phục lành lặn sạch sẽ cho gã thay.

Du Thản Chi theo A Tử ra khỏi cung như mấy hôm. Nàng đem đỉnh ngọc đốt hương dẫn dụ trùng độc bắt về. Sau cùng cũng chọn một con độc nhất cho ăn tiết gà, rồi cho hút máu Du Thản Chi để đem ra luyện công. Du Thản Chi lại chiếu theo đồ hình trong sách để hóa giải độc.

Lần thứ hai là con nhện xanh hút máu gã. Lần thứ ba là con bò cạp lớn. Lần nào A Tử cũng chắc là gã cũng phải chết, thế mà gã vẫn không sao, nàng không khỏi đem lòng ngờ vực.

Cuộc bắt những trùng độc của A Tử tiếp diễn sau ba tháng thì bên ngoài thành Nam kinh trong vòng mười dặm, rắn rết độc mỗi ngày một ít đi, rồi chỉ còn những con không độc mấy, không hợp ý A Tử. Càng về sau hai người càng phải đi xa thêm.

Một hôm hai người ra ngoài thành phía tây hơn ba mươi dặm. A Tử thắp hương liệu lên chờ hồi lâu mới thấy trong đám cỏ rậm có tiếng sột soạt.

A Tử hô lên:

- Cúi thấp xuống!

Du Thản Chi vội phục xuống, thoáng nghe những tiếng phì phì. Trong tiếng kì dị này có lẫn mùi tanh hôi, khiến người phải buồn nôn. Du Thản Chi nín thở không nhúc nhích, bỗng thấy trong đám cỏ dại rẽ ra hai bên, một con trăn lớn, mình trắng chấm đen từ phía Tây đi qua phía Đông. Đầu con trăn này hai mang bành ra hình tam giác. Trên đầu nhô lên một miếng thịt sù sì.

Ở phương Bắc vốn rất ít rắn rết. Du Thản chi chưa thấy con trăn hình thù quái dị này bao giờ. Con trăn chạy đến bên đỉnh ngọc, rồi đi vòng quanh chiếc đỉnh. Nhưng thân nó dài hơn trượng, mình to bằng cánh tay thì làm thế nào chui vào trong đỉnh được? Nó ngửi thấy mùi thơm rồi nó cứ đập cái đầu vào đỉnh "cốp cốp."

A Tử không ngờ mùi hương lại dẫn dụ cả con vật lớn đến thế. Nàng kinh dị vô cùng chưa có ý định ra sao. Nàng khẽ bò đến bên Du Thản Chi hỏi nhỏ vào tai gã:

- Làm thế nào bây giờ? Nếu để con trăn đập vỡ đỉnh ngọc thì hỏng bét!

Du Thản Chi vừa nghe tiếng oanh thỏ thẻ lại hơi ấm lọt vào tai là một chuyện suốt đời gã chưa được thấy bao giờ. Gã lấy làm vinh hạnh vô cùng liền đáp:

- Không hề chi! Tiểu nhân ra đuổi nó đi!

Nói xong gã đứng dậy rào bước đến gần con trăn. Con trăn vừa nghe thấy tiếng động, lập tức ngẩn đầu lên, thè lưỡi đỏ hỏn ra phun phè phè, sắp nhảy chồm lại. Du Thản chi thấy vậy sợ hãi chưa dám tiến lên, gã toan nhặt viên đá để toan ném nó, nhưng lại sợ làm vỡ đỉnh ngọc.

Gã còn đang phân vân chưa biết làm thế nào, bỗng thấy một luồng gió lạnh thổi vào mặt, khiến gã kinh hãi rùng mình cúi đầu xuống xem thì thấy từ góc Tây Bắc có một dây lửa cháy đi tới. Chỉ trong khoảnh khắc dây lửa cháy đến trước mặt.

Lúc gần đến thì nhìn rõ không phải là dây lửa mà trong bụi cỏ có vật gì bò lại. Làn cỏ xanh gặp phải vật đó trở thành cỏ khô vàng úa trông xa như lửa cháy. Khí lạnh ở dưới chân gã mỗi lúc một lạnh buốt thêm. Gã lùi lại mấy bước thì thấy vết cỏ khô vàng đi dần dần về phía đỉnh ngọc. Con vật đó là một con tằm.

Con tằm này trắng như ngọc có ẩn hiện sắc xanh khác với con tằm thường. Nó lớn hơn con tằm thường nhiều và giống như con giun. Mình nó trong suốt như thủy tinh. Con trăn khí thế hung hãn ngẩng đầu lên vừa thấy con tằm này thì tựa hồ như sợ lắm. Nó rút đầu lại để dấu dưới mình.

Con tằm trong suốt bò mau lạ thường qua mình con trăn chẳng khác nào cục than hồng. Nó bò đến đâu xương sống con trăn cháy thành tro đến đó. Lúc bò lên đến đầu, con trăn bị xẻ đôi tựa như một lưỡi dao rạch dọc. Con tằm chui vào túi nọc độc bên mang con trăn để hút nọc một lát là hết ráo. Mình con tằm chướng lớn lên gấp đôi. Đứng xa trông chẳng khác một bình thủy tinh bên trong đựng một thứ nước xanh xanh.

A Tử vừa mừng vừa sợ khẽ nói:

- Con tằm này ghê gớm quá. Quả là ông vua trong các loại nọc độc.

Du Thản Chi trong lòng hồi hộp nghĩ thầm: Giả tỷ con tằm này mà hút máu mình thì còn chi là tánh mạng.

Con tằm đi một vòng quanh cái đỉnh ngọc, bò qua bò lại, nó đi tới đâu thành chết đến đấy. Nhưng tựa hồ như nó biết rằng nếu chui vào trong đỉnh tất là phải chết nên chỉ quyện vòng ngoài mà thôi. Nó quyện đi quyện lại một lúc thì bỏ đi về hướng Tây Bắc.

A Tử la lên:

- Ta phải rượt theo nó cho mau!

Nàng lấy tấm khăn đoạn ra bọc đỉnh lại rồi lên ngựa chạy theo con tằm. Du Thản Chi lết thếch chạy theo A Tử. Con tằm tuy nhỏ, mà nó chạy rất lẹ, cũng may là nó để vết đen lại mới biết đường mà đuổi theo, nếu không thì đã mất hút ngay từ lúc đầu.

Hai người chạy theo một mạch chừng ba bốn dặm bỗng nghe phía trước có tiếng nước chảy róc rách, thì ra đã đến bờ suối, và không thấy dấu vết đâu nữa.

A Tử nhìn sang bờ suối bên kia, cũng không thấy vết con tằm bò lên, dĩ nhiên là nó lặn xuống suối rồi. Nàng bực mình dặm chân oán trách Du Thản Chi:

- Mi phải tìm kiếm kì được bắt nó đem về cho ta, không thì đừng vác mặt về ra mắt ta nữa.

Nói xong nàng xoay mình nhảy tót lên ngựa về thành. Du Thản Chi rất đỗi hoang mang, đành theo dọc bờ suối đi về phía hạ lưu để tìm. Gã đi đến bảy tám dặm đường.

Lúc trời đã hoàng hôn, đột nhiên gã thấy giữa đám bụi rậm bờ bên kia có một vệt đen thì mừng rỡ vô cùng, gọi ầm lên:

- Cô nương! Cô nương! Tiểu nhân kiếm thấy nó rồi!

Nhưng A Tử đi xa từ lâu rồi. Du Thản chi lội xuống suối qua bờ bên kia, cứ theo vệt đen mà đi. Vệt đen này theo sườn núi đến khu thung lũng trước mắt. Du Thản chi trong lòng phấn khởi nên chạy rất nhanh. Gã ngẩng mặt nhìn lên đầu núi có một ngôi chùa, cách kiến trúc cực kì hùng vĩ. Du Thản chi ngẩng đầu lên trông, trước cổng chùa có tấm biển đề năm chữ lớn "sắc kiến Mẫn Trung Tự" Gã chẳng còn lòng nào mà ngắm phong cảnh miếu điện, chỉ lủi thủi theo vệt đen bên sườn núi mà đi quanh co mấy chỗ ở phía sau.

Bỗng trong chùa có tiếng chuông, tiếng khánh, tiếng mõ và tiếng tụng kinh. Chư tăng đang bận khóa lễ, thanh âm nhộn nhịp dường như khá đông người.

Du Thản Chi từ khi trên đầu chụp lồng sắt, đã tự thẹn với hình thù kì dị của mình, không dám xuất hiện trước mặt mọi người. Gã sợ chư tăng trông thấy, liền men theo chân tường lầm lũi mà đi. Gã thấy vệt đen đi qua một khu bùn lầy rộng lớn rồi ra đến khu vườn rau.

Du Thản Chi mừng thầm chắc trong vườn không có người, gã chỉ cần con tằm đang ăn rau tại đó, thì bắt được ngay. Gã rảo bước đi về phía vườn rau.

Đến chân dậu lập tức dừng bước, vì nghe trong vườn có tiếng người đang mắng nhiếc. Gã nghe rõ:

- Mi không giữ kỉ luật, một mình bỏ đi rong chơi khiến cho lão sợ hết hồn nửa ngày trời chỉ lo mi đi rồi mất biền biệt không về nữa. Lão đem mi từ đỉnh núi Côn Luân đường xa muôn dặm tới đây, mà mi chẳng biết cái công trình khổ nhọc của lão đối với mi. Mi như vậy là mi tự hại bước tiến trình của mi đó, không còn ai thương mi nữa.

Nghe giọng người này ra chiều căm hận nhưng vẫn đầy vẻ thương yêu và kì vọng rất nhiều, chẳng khác gì lời cha mẹ dạy một đứa con bướng bỉnh hư đốn.

Du Thản Chi lẩm bẩm:

- Lão nói cái gì đem từ núi Côn Luân, đường xa muôn dặm tới đây xem chừng như lão là sư phụ hay là bộc tiền bối người nào đó, chứ không phải là phụ thân.

Du Thản Chi vừa nghĩ, vừa nép mình vào bên dậu để ngó trộm thì thấy lão đó là một vị hòa thượng.

Nhà sư này thấp lủn thủn mà béo chùn béo chụt, người tròn ủng như trái bóng. Chính ra đã là người tu hành tất nhiên đầu trọc, nhưng đặc biệt nhà sư vẫn để tóc dài, tay chân mặt mũi cũng đầy lông lá. Nhưng quần áo nhà sư mặc trên người rất là sạch sẽ, thật là chẳng nhuốm bụi trần.

Bỗng nhà sư trỏ tay xuống đất, vẻ mặt căm tức mắng nhiếc không ngớt miệng. Du Thản chi nhìn theo tay nhà sư chỉ thì vừa kinh dị vừa mừng thầm. Té ra nhà sư kia nào phải đang trách mắng ai đâu, mà chính đang thống mạ con tằm kì dị. Tưởng nhà sư lùn cổ quái nhất là lão cất tiếng mắng nhiếc con tằm thì lại là một điều không thể tưởng tượng nổi.

Du Thản Chi thấy ở dưới đất con tằm đang chạy tới chạy lui dường như muốn tìm đường chạy thoát, nhưng tựa hồ như nó đụng đầu vào bức tường vô hình và lập tức rụt lại chuyển hướng. Du Thản Chi chú ý nhìn thấy dưới đất có vạch một vòng tròn sắc vàng. Con tằm tả xung hữu đột mà thủy chung không sao vượt khỏi cái vòng.

Bấy giờ gã mới tỉnh ngộ, lẩm bẩm một mình:

- À phải rồi! Nhà sư đã dùng một thứ thuốc để vẽ vòng tròn kia mà thuốc này lại kị với con tằm đó, khác nào rắn sợ hồng hoàng.

Nhà sư lùn nhiếc mắng một hồi rồi lấy trong bọc ra một vật gì cắn ăn ngấu nghiến, nhìn kĩ thì thấy cái đầu dê nướng chín rồi. Lão ăn một cách ngon lành. Lão móc trên đầu cột một bầu cũ kĩ và rách nhiều chỗ, mở nút ra, rồi ngửa cổ dốc bình vào miệng nuốt ừng ực một hồi.

Du Thản Chi ngửi thấy mùi thơm biết ngay bầu này đựng rượu ngon. Gã lẩm bẩm:

- Té ra nhà sư này uống rượu ăn thịt. Xem chừng lão nuôi con tằm này và quý báu vô cùng! Mình biết làm thế nào để lấy cắp đây?

Du Thản Chi còn đang ngẫm nghĩ, chợt góc vườn bên kia có tiếng người gọi:

- Tam Tĩnh! Tam Tĩnh!

Nhà sư lùn nghe thấy giật mình hoảng hốt giấu vội cái đầu dê cùng bầu rượu vào đống rơm. Bên ngoài tiếng người kia lại gọi dồn:

- Tam Tĩnh! Tam Tĩnh! Ngươi ẩn vào đâu mà kín thế? Sao không lên cúng phật?

Nhà sư lùn vội nhắc cái cuốc chạy ra luống rau vừa cuốc vừa nói:

- Tôi còn xới rau mà! Phương trượng bảo phải ráng sức trồng rau, có được rảnh đâu mà cúng Phật?

Người kia đi lại gần.

Du Thản Chi ngó trộm thấy một nhà sư đứng tuổi vẻ mặt nghiêm trang tựa hồ như bao phủ một làn sương mờ lạnh lùng nói:

- Một ngày hai khóa cúng: sáng và chiều, ai cũng phải đông đủ. Ngươi lên dự khóa cúng xong rồi xuống xới rau.

Nhà sư thấp lùn pháp danh là Tam Tĩnh nói:

- Vâng.

Rồi bỏ cuốc theo nhà sư đứng tuổi đi ngay. Lão không dám ngoái đầu nhìn lại con tằm, tựa hồ như sợ nhà sư đứng tuổi kia phát giác. Du Thản Chi chờ cho hai người kia đi ra rồi lắng tay nghe bốn bề vẳng lặng như tờ, gã lẩm bẩm:

- Trên chùa đang khóa cúng Phật, các nhà sư đều trên Tam Bảo, mình không đánh cắp con tằm thì biết đợi đến khi nào?

Gã liền từ chân giậu chui ra, thấy con tằm vẫn chạy lăng xăng không ngớt, bụng bảo dạ:

- Làm thế nào bắt được nó bây giờ?

Gã ngây người ra một lúc ngẫm nghĩ cách bắt con tằm, rồi chạy lại đống rơm, móc cái bầu ra, giơ lên lắc lắc, Gã thấy hãy còn đến nửa bầu rượu, gã uống liền mấy hơi, còn thừa đổ xuống vườn rau, gã từ từ để miệng bầu quay vào phía trong vòng tròn vẽ dưới đất. Con tằm bò một lát đến miệng bầu quả nhiên chui lọt vào trong. Du Thản Chi cả mừng bịt nút miệng bầu lại hai tay bưng bầu chui qua dậu ba chân bốn cẳng theo đường cũ chạy về.

Du Thản chi ra khỏi chùa Mẫn Trung mới được vài chục trượng thì cái bầu tiết ra khí lạnh tê người chẳng khác gì cầm một tảng băng. Gã hết đổi bầu từ tay phải sang tay trái, rồi lại từ tay trái sang tay phải. Nhưng cái bầu lạnh thấu xương không thể nào cầm được.

Du Thản Chi để lên đầu đội thì càng lại không xong vì khí lạnh truyền qua cái lồng sắt thấu vào óc buốt không chịu nổi các mạch máu trong cơ thể hồ như đông lại không lưu thông được. Du Thản Chi gặp tình trạng cấp bách nghĩ ra được một kế.

Gã cởi dây lưng ra buộc vào cổ bình rồi xách đi. Dây lưng không truyền khí lạnh mới cầm đi nhanh được. Hơi lạnh trong bầu chỉ tiết ra trong khoảnh khắc phía ngoài bầu một tầng sương lạnh đóng váng. Du Thản Chi rảo nhanh về đến ngoại thành Nam Kinh thì trời đã khuya. Cổng thành đã đóng rồi gã đành phải ngủ ngoài một đêm.

Sáng sớm hôm sau gã mới vào cung Đoan Phúc, trình A Tử là đã bắt được con tằm mang về. A Tử nghe nói cả mừng, bỏ tằm vào trong lọ sành để nuôi.

Hồi đó đã sang tháng năm vào tiết đầu hạ khí trời ấm áp. Thế mà nuôi một con tằm bên trong điện phủ, khí lạnh trong điện mỗi lúc một lên cao chẳng mấy chốc mà bình trà chén nước đều đóng băng. Đêm hôm ấy Du Thản Chi ngủ tại đó, rét run lên bần bật suốt đêm không sao ngủ được.

Gã nghĩ lẩn thẩn: "Con tằm này thật là kì dị thiên hạ hiếm có. Giả tỷ cô nương cho nó hút máu mình dù chẳng bị nọc độc làm cho uổng mạng thì cũng chết cóng."

A Tử thấy con tằm phát ra khí lạnh kì dị thì biết con vật hạn hữu. Nàng tiếp tục đi bắt những rắn độc, trùng độc đem về cho đấu với con tằm. Con tằm chỉ quanh một vòng đi đủ làm cho con vật kia lạnh cóng rồi nó hút lấy chất nước trong mình con vật bị chết.

A Tử thử luôn mười mấy ngày như vậy, không còn giống trùng nào có thể chống cự được với con tằm nữa.

Một hôm A tử vào Thiên điện bảo Du Thản Chi:

- Bữa nay ta giết con tằm bóng rọng (trong suốt) kia. Mi thò tay vào trong lọ để cho nó hút máu!

Du Thản chi mấy hôm nay ban ngày lo sốt vó, ban đêm nằm mơ thấy toàn chuyện hãi hùng. Bây giờ gã thấy nàng chẳng chút rộng tình bắt mình phải hy sinh cho con tằm. Trong lòng gã siết nỗi thê lương! Cặp mắt đăm đăm nhìn A Tử nhưng gã không nói gì cũng không nhúc nhích.

A Tử ngồi xếp bằng tĩnh tâm vận nội công, hí hửng mừng thầm bụng bảo dạ:

- Ngẫu nhiên ta được vật dị bảo này về luyện Hoa Công Đại Pháp. Sự thành tựu của ta biết đâu chẳng lợi hại hơn sư phụ ta?

Nàng giục Du Thản Chi:

- Mi thò tay vào trong lọ đi!

Du Thản Chi nước mắt tuôn rơi, quỳ xuống lạy A Tử nói:

- Cô nương ơi! Khi cô nương luyện xong độc chưởng thần công rồi, đừng quên kẻ tiểu nhân này đã chết vì cô nương. Tiểu nhân họ Du tên Thản Chi, chứ không phải là Thiết Sửu, Đồng Sửu gì ráo!

A Tử tủm tỉm cười nói:

- Được rồi ngươi tên Du Thản Chi! Ta nhớ kĩ lắm! Mi đối với ta một dạ trung thành, ta coi ngươi là một đứa nô bộc trung nghĩa.

Du Thản Chi nghe A Tử khen mình, gã cảm thấy cõi thấy cõi lòng được an ủi rất nhiều trước khi nhắm mắt, gã dập đầu lạy hai lạy rồi nói:

- Đa tạ cô nương!

Nhưng ai mà chả có lòng ham sống sợ chết.

Du Thản Chi không muốn bó tay chịu chết, gã nghĩ đến bữa trước bị rắn rết cắn, nhờ phép vận công của nhà sư trong đồ hình mà thoát chết, bữa nay gã lại đem cách đó ra thử. Gã đứng vững hai chân, cuối mình luồn đầu qua hai chân rồi thò tay phải vào trong lọ, đồng thời tâm niệm một sợi chỉ vàng xâu trong người nhà sư vẽ trên hình đồ.

Đột nhiên ngón trỏ thấy hơi ngứa ngáy, một luồn khí lạnh chui vào trong tâm. Gã đã chuẩn bị từ trước, tâm tâm niệm niệm vào đường chỉ vàng, quả nhiên thấy luồng khí lạnh đi theo mạch lạc hẳn hòi, đúng như luồng sợi chỉ vàng mà hắn đang để tâm suy nghĩ. Luồng khí lạnh từ trong tâm ra ngón tay rồi lại về cánh tay... Sau cùng chuyền lên đỉnh đầu... Luồng khí lạnh này nhỏ xíu nhưng lạnh vô cùng, Du Thản Chi phải nhẫn nại lắm mới chịu nổi!

A Tử thấy kiểu cách của Du Thản Chi vừa lấy làm lạ vừa buồn cười, nàng động tính hiếu kì lại gần coi thì thấy con tằm kia đang cắn chặt đầu ngón tay trỏ Du Thản Chi. Mình con tằm trong suốt như thủy tinh, nàng trông thấy rõ một dây máu do miệng tằm hút vào, chạy qua mé tả, sang mé hữu, đưa ra miệng rồi trở về người Du Thản Chi.

Từ đầu sắt cho đến quần áo cùng chân tay gã đều bao phủ một màn sương bạc. A Tử lẩm bẩm gã này chết rồi! Trong mình người sống có một luồng nhiệt khi phát ra thì khi nào sương đóng thành băng thì được. Nàng lại thấy trong mình con tằm vẫn có máu chuyển động rõ ràng đó là chưa hút hết sức. Nàng định chờ cho nó no lăn rồi mới đập chết lấy huyết luyện công. Nàng để hết tâm trí chăm chú theo dõi cuộc diễn biến.

Đột nhiên trên mình con tằm có một luồng nhiệt khí toát ra. A Tử còn đang kinh hãi bỗng nghe "tạch" một tiếng, con tằm từ ngón tay Du Thản Chi rớt xuống. Trong tay A Tử đã cầm sẵn một cây côn gỗ, liền đập xuống. Con tằm này bản tính rất linh mẫn, chính ra khó lòng đánh trúng nó. Dè đâu nó rơi xuống đáy lọ rồi ngửa bụng lên, cựa quậy một lúc mà không sao trở mình lên được nên cây côn của A Tử vừa đánh xuống con vật đã nát nhừ.

A Tử cả mừng, A Tử vội vàng thò tay vào lọ lấy nước trấp dịch trong mình con tằm xoa vào hai bàn tay, rồi nhắm mắt vận công cho huyết dịch thấm vào tay. Nàng biết rằng con tằm này là vật chi bảo không phải một lúc mà tìm được ngay, nên nàng lấy nước đó sát hết lần này đến lần khác để luyện công, kì cho đến lúc khô kiệt mới thôi.

A Tử vất vả nửa ngày trời, bây giờ nàng mới duỗi chân đứng dậy, vẫn thấy Du Thản Chi đứng kiểu đó, và khắp người chỗ nào cũng phủ một làn sương đóng lại trắng xóa. Nàng lấy làm kinh dị, đưa tay sờ vào người gã thì thấy giá buốt vô cùng, phải co lại ngay. Quần áo gã cũng đều đóng băng cứng nhắc. A Tử chẳng hiểu ra sao, ngơ ngác đứng nhìn gã hồi lâu mới bỏ đi.

Hôm sau A Tử đến thiên điện xem thấy Du Thản Chi vẫn đứng nguyên như cũ, băng giá đóng lại trên người gã dày thêm một lớp nữa. Nàng vừa kinh hãi vừa buồn cười cho gọi Thất Lý đến, sai y đem xác Du Thản Chi đem chôn.

Thất Lý dẫn mấy tên quân Khất Đan khiêng xác Du Thản Chi bỏ vào xe ngựa. A Tử dặn Thất Lý chôn cất cẩn thận. Nhưng gã Thất Lý chẳng buồn cất công đào lỗ chôn táng, ném xác Du Thản Chi xuống khe nước rồi trở về thành. Không ngờ cái tính lười nhác của Thất Lý lại cứu được mạng sống của Du Thản Chi.

Nguyên ngón tay gã bị con tằm cắn, đáng lí ra phải dùng phép vận công trong Dịch cân kinh để giải độc. Pho dịch cân kinh do thủ bút của Đạt ma lão tổ để lại. Trong kinh này truyền cho những người có nội công tối cao theo phép mà làm.

Du Thản Chi sau khi bị con tằm hút máu, máu lại nhập về ngón tay vào huyết quản, đồng thời đem những tinh hoa của con vật độc nhất thiên hạ là con tằm giá lạnh kia đưa vào thân thể. Giả tỷ gã đã luyện hết toàn bộ pháp quyết trong Dịch Cân Kinh thì gã có thể đẩy chất độc ra ngoài. Nhưng gã chỉ nhìn theo tranh vẽ rồi theo phép hàng công, chất độc vào rồi không biết cách trụt ra nên chứa chất độc con tằm vào trong người. Chất kịch độc này thuộc loại âm hàn, thêm vào đó những chất độc khác của con rết, nhện, rắn... đã chứa sẵn trong người gã. Mấy chất độc chồng chất lên làm cho gã chết cứng.

Giả tỷ, Thất Lý đem xác gã chôn xuống đất thì mấy trăm năm sau xác lão vẫn cứng đơ, chưa chắc đã tiêu hóa được. Đằng này xác gã hất xuống suối, từ từ chảy xuôi, chảy được chừng hai mươi dặm thì dòng nước đến chỗ quanh co và chật hẹp xác gã bị vướng đám lau sậy. Chẳng bao lâu nước quanh chỗ gã đóng lại thành băng trông tựa hồ xác gã đã đưa vào quan tài bằng thủy tinh.

Nước suối tiếp tục cọ sát không ngớt, làm cho khí lạnh trong người Du Thản Chi giảm xuống dần dần rồi sau cùng khối băng quanh người lão từ từ tan ra. May mà đầu gã chụp lồng sắt, chất sắt mau nóng mà cũng mau lạnh. Vì thế nước bọc trong ngoài lồng sắt tan trước. Du Thản Chi bị nước tràn vào miệng ho một lúc, đầu óc tỉnh táo lại. Gã từ lòng suối bò lên, toàn thân còn lại những mảnh băng chạm vào nhau lách cách.

Gã mơ màng như người đang nằm mộng tỉnh giấc. Lúc người bắt đầu lạnh cứng, không phải gã chết tri giác. Có điều bị băng đóng chặt chung quanh không sao nhúc nhích được. Du Thản Chi ngồi bờ suối nhớ lại, mình đối với A Tử hết dạ trung thành, nguyện đem thân nuôi trùng độc cho nàng luyện công. Thế mà mình chết rồi, A Tử tuyệt không một tiếng thở dài.

Gã bị băng đóng chung quanh người trông ra rất rõ. Gã thấy A Tử hớn hở tươi cười lấy huyết con tằm ra đổ trên bàn tay luyện công. Gã nhìn thấy A Tử ngoẹo cổ, nhìn xác mình, dường như cái chết của mình khiến nàng thú vị tuyệt không có chút gì là thương tiếc mình.

Gã tự nhủ: "con tằm kia đủ chất độc, nó đánh ngã bao nhiêu loại trùng độckhác. Cô nương lấy huyết dịch nó luyện vào bàn tay chắc là môn độc chưởng luyện xong rồi. Nếu mình về xem nàng...

Đột nhiên người gã run bắn lên, gã lẩm bẩm:

- Cô nương mà thấy mặt mình, chắc đem mình ra thử độc chưởng, nếu độc chưởng luyện xong thì chỉ một chưởng thì mình toi mạng. Nếu chưa thành thì nàng bắt mình đi bắt trùng độc cho đến khi nào luyện xong độc chưởng, rồi bấy giờ lại thử chưởng thì mình cũng hết sống. Đằng nào cũng chết, mình trở về đó làm cóc gì.

Gã đứng dậy nhảy lên mấy bước cho những hòn băng còn đọng ttrên người hay trong quần áo rơi hết ra rồi tự hỏi:

- Ta biết đi đâu bây giờ?

Còn đang phân vân bỗng nghe tiếng cười khanh khách như tiếng nhạc vàng thuận theo chiều gió đưa lại rồi thanh âm một thiếu nữ thỏ thẻ nó:

- Tỉ phu ơi! Lâu nay tỉ phu không đi chơi với tiểu Muội, bây giờ du ngoạn lâu thêm một chút không được sao?

Giọng nói trong trẻo ỏn thót này có lẫn cả phần cám dỗ không phải A Tử thì còn ai vào đây? Du Thản Chi cả kinh nghĩ:

- Làm sao cô nương ấy đến được đây? Dường như nàng đi với Kiều Đại vương?

Tiếp theo là tiếng vó ngựa dồn dập, hai con ngựa từ đàng xa phóng tới. Du Thản Chi nhìn bốn phía không thấy chỗ nào ẩn lánh được, gã đành co rúm người lại, nằm phục đám cỏ rậm sau gốc cây, gã vừa cử động một cái thì Kiều Phong trông thấy ngọc cỏ phất phơ đằng xa, liền nói:

- A Tử trong đám cỏ rậm sau cây kia có con dã thú, chưa hiểu là chó sói hay hươu nai.

A Tử cười nói:

- Mắt tỉ phu tinh thật! Còn ở xa thế mà đã trông rõ.

Nói xong phóng ngựa lại gần, vẫn còn e con thú chạy trốn mất, khi hai người cách bụi cỏ vừa tầm mũi tên, bỗng nghe: "vèo" một mũi tên bắn ra, Du Thản Chi không dám nhúc nhích, đành gửi tính mạng cho số trời, may mà Kiều Phong cùng A Tử không trông thấy rõ, mũi tên bay xít qua đầu, cắm vào gốc cây. Giả tỉ tên trúng vào lồng sắt thì dù gã không đến nỗi bị thương nhưng tên chạm vào bật ra tiếng vang, tất Du Thản Chi bị lộ tung tích.

Lại khéo làm sao trong đám cỏ này có hai con thỏ rừng. Phát tên A Tử bắn tới, chúng kinh hãi phải chạy ra bon bon chạy trốn về phía trước.

A Tử cười nói:

- Chà chà! Phen này tỉ phu trông sai rồi! Chỉ có hai con thỏ làm gì có chó sói, với hươu nai?

Nói xong giục ngựa tiến lên. Véo véo! Hai mũi tên bay ra, cặp thỏ trúng tên ngã quay. A Tử ngồi trên ngựa nhặt lấy hai con thỏ thì bất thình lình bên kia bờ suối có tiếng người hỏi:

- Tiểu cô nương! Cô nương có thấy con hàn độc trùng của tôi đâu không?

A Tử ngẩn đầu lên thì thấy người gọi mình là một nhà sư hình dong cổ quái. Nhà sư này thấp lủn thủn mà béo chùn béo chụt, người tròn ủng chẳng khác nào một quả bóng khổng lồ.

Du Thản Chi nấp trong đám cỏ rậm cũng trông rõ thì đúng là Tam Tĩnh hòa thượng ở sau vườn rau chùa Mẫn Trung. Con tằm kia được nhà sư này nuôi. Y gọi là Hàn Ngọc trùng thì đúng là tên thực của con tằm.

Gã lẩm bẩm:

- Con tằm đó đã bị cô nương đập chết rồi. Nhà sư này hỏi lại đúng cô ta!

Bỗng thấy A Tử ngẩn người ra rồi cười khanh khách nằm phục xuống lưng ngựa không ngẩng lên nữa.

Tam Tĩnh nổi giận nói:

- Ta có con tằm trắng, hễ nó đi đến đâu là cây cỏ cháy đến đó. Mi có trông thấy không? Cớ sao lại cười?

A Tử nhìn Kiều Phong nói:

- Tỉ phu coi kìa! Quả bóng khổng lồ tròn ủng kia có đáng buồn cười không?

Kiều Phong nghiêm mặt nói:

- Tuồng con nít nói năng chẳng biết điều kính trọng, không được vô lễ với đại sư phụ.

Ông thấy Tam Tĩnh tướng mạo kì dị, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông đồng, rõ ràng là một tay bản lãnh cao cường, lại nghe nhà sư đi tìm con Hàn Ngọc trùng chi chi thì biết ngay là không phải vật tầm thường.

A Tử nói:

- Đại hòa thượng ơi! Hòa thượng nuôi con tằm đó ư?

Tam Tĩnh vội nói:

- Phải rồi! Phải rồi! Tôi đem nó từ núi Côn Luân đường xa muôn dặm tới đây. Cô nương đã nhìn thấy nó, xin làm ơn trỏ đường cho.

A Tử nói:

- Con tằm đó đi qua đâu thì có một vệt đen kéo theo phải không? Mình nó lạnh vô cùng nên bất luận cái gì xung quanh đều đóng lại thành băng, có đúng không?

Tam Tĩnh nói:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Không sai một li nào hết.

Tử cười nói:

- Hôm qua tôi thấy con tằm đó đánh nhau với con rết, và bị rết cắn chết rồi.

Tam Tĩnh tức giận nói:

- Thúi lắm quân chó đẻ! Con Hàn Ngọc Trùng của ta là vua độc trong thiên hạ. Bất luận rắn độc hay trùng độc nào thấy nó cũng đều sỡ hãi không dám nhúc nhích, có lí đâu bị rắn cắn được?

A Tử thấy lão nói thô tục thì càng chọc tức thêm:

- Thầy chùa không tin thì thôi. Hôm qua tôi cũng thấy một con tằm lớn trong suốt như thủy tinh, thấy hình dạng cổ quái nên giẫm chết rồi!

Tam Tĩnh nhảy chồm lên một cái đã xa hơn trượng trông chẳng khác chi quả bóng bật lên trên không. Lão cất tiếng chửi:

- Tổ mẹ mười tám đời nhà ngươi! Con Hàn Trùng Ngọc của ta linh hoạt như gió, nếu mi không có thuốc kị thì làm sao chế phục được nó. Mi chưa dẫm vào nó thì nó đã cắn ngươi toi mạng rồi.

A Tử thò tay vào bọc, lấy ra gói nhỏ. Nàng mở gói ra thì đúng là xác con tằm kì dị đó. Con tằm này bị côn gỗ đập chế huyết dịch phọt ra còn đọng đóng lại thành băng cứng đờ.

Nguyên A Tử biết xác con tằm này chắc còn có chỗ dùng được việc, nên gói lại đem theo. Tam Tĩnh thấy con tằm quí của mình quả nhiên đã chết rồi. Sắc mặt lão nhợt nhạt như xác chết trôi. Người lảo đảo, đột nhiên lão nằm phục xuống đất khóc rống lên một hồi rồi bất thình lình đưa tay ra cướp lấy xác con tằm ôm vào lòng vừa khóc vừa nói:

- Con ơi! Ta trăm cay nghìn đắng đưa con từ núi Côn Luân đến đây. Con không nghe lời ta, một mình đi du ngoạn để con tiện tì kia dẫm chết!

Lão càng khóc càng thê thảm, sau nghẹn ngào khóc không ra tiếng nữa. A Tử vỗ tay cả nói:

- Hay quá! Hay quá!

Kiều Phong là người hiểu rộng biết nhiều, ông chắc chắn nhà sư không để yên, ông cầm cương ngựa toan đứng chắn trước người A Tử để hộ vệ cho nàng rồi hãy kiếm lời từ tạ nhà sư. Nào ngờ Tam Tĩnh đại sư chưa dứt tiếng khóc đã nhảy vọt lên như quả bóng nhằm lao xuống A Tử. Nhà sư nhảy cực kì mau lẹ, nhưng Kiều Phong ngồi trên ngựa chưa chạy được đến A Tử thì lão đã nhảy bổ tới nơi.

Kiều Phong nghe tiếng gió cấp bách, vội la lên:

- Chớ đánh chết người!

Tay trái ông nắm lấy sau lưng A Tử nhấc bổng nàng lên ngồi trước mình. Bỗng nghe tiếng binh một cái. Trái bóng thịt Tam Tĩnh đụng vào con ngựa của A Tử. Con ngựa bị hất ra xa ngã kềnh xuống đất chết ngay lập tức. A Tử sợ tái mặt không ngờ lão hòa thượng hình thù cổ quái mà uy mãnh đến thế. Tam Tĩnh đụng vào làm chết con ngựa của A Tử rồi người bật lên như cái lò xo xoay sang A Tử.

Kiều Phong hích vào hai bên vế đùi cho ngựa nhảy tung lên để tránh nhưng Tam Tĩnh vọt lại quá nhanh mà ngựa nhảy chậm hơn. Kiều Phong xem chừng nguy hiểm đến nơi. Nhà sư chồm tới uy lực dũng mãnh ghê gớm. Nếu muốn chống lại phải phóng chưởng ra. Song ông lại nghĩ: Rõ ràng A Tử có lỗi đạp chết con tằm quý của người ta. Bên mình đuối lí, chẳng lẽ cậy mạnh hiếp người.

Ông liền tay trái ôm lấy A Tử phi thân nhảy ra ngoài yên ngựa một quãng xa chừng hai trượng." Binh" một cái Tam Tĩnh đã nhảy xổ xuống con ngựa Kiều Phong. Lần này lão nhảy mạnh hơn, con ngựa bật văng đi đúng vào cây xuyên qua bụng, ruột gan cùng máu tươi chảy ra lênh láng. Tam Tĩnh thản nhiên nhằm Kiều Phong cùng A Tử xông tới.

Kiều Phong rất lấy làm kinh dị, ông lẩm bẩm:

- Thế võ của nhà sư đem thân mình để choảng vào người quả là ít thấy. Nhưng lão cứ dùng tấm thân bằng da bằng thịt để nhảy xổ vào, gặp người cầm khí giới há chẳng uổng mạng?

Ông thấy nhà sư vẫn tiếp tục nhảy xổ vào mình. Lần này ông không tránh nữa cất tiếng nói:

- Xin hòa thượng đừng bức bách tôi nữa, để tôi có lời nói lại với hòa thượng.

Tam Tĩnh chỉ cách ông không quá ba thước. Nhà sư nghe ông nói câu này đột ngột tung mình lên trên ba trượng xoay lốc ba vòng. Kiều Phong ôm lấy A Tử lùi sau hai bước. Tam Tĩnh lẹ làng hạ mình xuống. Vai lão vừa chạm đất, lập tức lão trào mình tiến đến chân Kiều Phong la lớn:

- Trả con tằm ta đây! Trả con tằm ta đây!

Thân pháp này so với địa đường quyền thường thấy trong các phái võ thật khác xạ hai chân lão co lên như quả bóng khổng lồ lăn tròng trọc đến nơi.

Kiều Phong nghĩ thầm:

- Nhà sư này thật là kì cục. Đánh nhau với người mà dùng thế này sao được.

Ông nhảy sang bên hai bước. Vừa nhảy vừa liếc mắt xuống thấy phấn vàng rơi rụng đầy mặt đất. Ông là người linh cơ mau lẹ, tuy chưa biết thứ phấn vàng này có điều chi lạ, nhưng rõ ràng không phải có từ trước, mà đúng là nhà sư trong lúc cử động tay chân đã rắc ra. Nếu mình dẫm vào e mắc bẫy. Ông quát ra một tiếng phóng chân đá ra, người nhảy vọt lên ôm A Tử nhảy theo, không chịu dẫm chân xuống phấn vàng.

Nguyên thứ phấn này là thứ phấn độc của Tam Tĩnh rắc ra. Nếu Kiều Phong dẫm phải, phấn bay tung lên thì ông cùng A Tử sẽ hít phải và lập tức toàn thân nhũn ra rồi để cho kẻ địch muốn băm vằm thế nào cũng được.

Tam Tĩnh ghê cho Kiều Phong rất linh cơ, lão thấy ông sắp mắc vào bẫy, thế mà đang lúc nguy nan ông lại nhảy vọt lên tránh khỏi. Lão đã nhảy bật lên như cái lò so nhằm Kiều Phong bổ tới. Lão chắc mẫm dù võ công Kiều Phong cao cường đến đâu nhưng tay ẵm một người nhảy lên một lần rồi, hẳn không thể nhảy lên cái thứ hai. Chỉ cốt sao cho hai người ngã lăn ra là xong. Trong mồm miệng lão đã để thuốc độc sẵn, còn đối phương nhất địng trúng độc.

Kiều Phong thấy nhà sư lại nhảy tới không tránh được nữa liền khẽ đưa chân trái đập vào trái bóng thịt, để mượn đà nhảy ra chỗ khác. Tam Tĩnh dùng hết sức bình sinh nhảy lại, mà Kiều Phong đã hất trở về. Lúc toàn thân lão bị đá hất lên, khác nào như gốc cây từ trên không rớt xuống, lão không tự chủ được duỗi hai chân ra. Chân rớt xuống đất đá "binh" một tiếng, chẳng khác nào đóng cọc xuống đất. Đầu gối không co lại được, sức nặng toàn thân đè xuống cái ống chân nhỏ bé kêu rắc rắc, hai ống chân đã bị gãy rồi.

Kiều Phong đạp vào người nhà sư, bản ý chỉ cốt lấy đà nhảy ra chỗ khác tránh chất độc. Ông không ngờ đến cách luyện nội công kì dị của nhà sư này. Nội lực không ăn ý với kinh mạch. Thân thể lúc ở trên không, lại không thành ý định của người.

Kiều Phong thấy hòa thượng gãy hai chân trong lòng rất ân hận, ông nói với nhà sư:

- Đại sư đừng có nhúc nhích. Nằm yên đấy chờ tôi gọi người đến đưa đại sư về quý tự. Đại sư ở chùa nào?

Tam Tĩnh nhịn đau hồi lâu rồi mới nói:

- Cha mi khắp thiên hạ đâu chả là nhà? Việc gì mi phải hỏi cha mi trụ trì chùa nào? Ta gãy chân thì tự biết điều trị. Mi còn giả vờ nói đãi lòng làm chi?

Kiều Phong nói:

- Nếu đại sư đã tự chữa được lấy cho mình thì còn gì hay bằng! Tại hạ họ Kiều tên Phong, đại sư muốn báo thù thì đến Nam Kinh tìm tại hạ.

Đoạn ông quay sang A Tử:

- Chúng ta về thôi!

A Tử cũng nhìn Tam Tĩnh thè đầu lưỡi ra, lấy ngón tay chỉ vào má mà nói:

- Tại hạ họ Đoàn tên Tử, đại sư muốn báo thù thì đến thành Nam Kinh tìm tại hạ!

Nói xong cầm tay Kiều Phong dắt đi.

Du Thản Chi nấp trong bụi rậm, ngó trộm tấn kịch vừa rồi, trong lòng kinh hãi. Gã thấy A Tử đi khỏi tuy cũng hơi yên tâm nhưng bâng khuân ngơ ngẩn như người mất hồn. Nhất là gã thấy A Tử nắm tay Kiều Phong ra chiều thân thiết thì trong lòng càng uất hận buồn rầu.

Bỗng gã nghe Tam Tĩnh kêu:

- Nước! Nước! Ta khát nước quá!

Du Thản Chi nghĩ thầm: "Con tằm đó là do ta bắt cắp về cho cô nương làm lụy đến nhà sư này, nay y lại gãy chân, mình thật áy náy quá."

Gã nghe lời nhà sư đòi uống nước liền từ trong bụi chui ra nói:

- Đại sư chờ một chút tôi lấy nước cho.

Tam Tĩnh quay lại coi thấy gã mặt sắt hình thù quái dị thì giật nảy mình lên hỏi:

- Mi là người hay là quỷ sứ?

Du Thản Chi nhăn nhó cười không trả lời, gã nói:

- Tôi đi lấy nước đây!

Gã chạy ra suối gần đấy, hai tay vốc nước từ từ để vào miệng nhà sư. Nhà sư uống nước rồi nói:

- Chưa đủ, còn khát lắm!

Du Thản Chi nói:

- Được rồi!

Đoạn lại vốc nước nữa cho đại sư uống. Nhà sư hết khát rồi, gã nói:

- Đại sư không đi được, từ đây về chùa Mẫn Trung cũng không bao xa, ta cõng đại sư đi!

Tam Tĩnh trố mắt nhìn Du Thản Chi xem cử động, còn thì gã đã chụp cái lồng sắt không trông thấy rõ chân tướng.

- Sao mi biết ta là hòa thượng chùa Mẫn trung?

Du Thản Chi chột dạ nghĩ thầm: "Hỏng bét! Mình thò đuôi ra mất rồi!" Gã đành hàm hồ nói:

- Gần đây chỉ có một chùa Mẫn Trung là ngôi chùa lớn. Tại hạ nghĩ đại sư ở chùa đó.

Tam Tĩnh nói:

- À! Thằng này thông minh đấy! Ta không cần mi cõng. Ở vườn sau chùa Mẫn Trung ta có cái bầu đựng rượu thuốc trị thương rất linh nghiệm. Ta phiền mi tới đó đem ra đây cho ta.

Du Thản Chi lấy làm kì hỏi:

- Trong vườn rau còn có cái bầu nữa ư? Thế cái bầu kia...

Ba tiếng "cái bầu kia" vừa ra khỏi miệng, gã biết mình dại rồi nên im bặt không nói sao nữa. Tam Tĩnh cũng nói:

- Ủa! Ta hồ đồ mất rồi! Cái bầu ấy không thấy nữa. Ta nhờ mi cõng ta về vậy.

Du Thản Chi nói:

- Được!

Từ chỗ bờ suối đã trông thấy mái chùa Mấn Trung, bất quá cũng chừng hơn một dặm, Du Thản Chi cúi xuống cõng nhà sư rồi cất bước. Gã mới đi được bảy tám bước, bỗng thấy mười đầu ngón tay nhà sư cứng như sắt chạm vào cổ mình mỗi lúc một nghẹt thở. Du Thản Chi cả kinh, gã cố hết sức hất Tam Tĩnh xuống đất. Nào ngờ hai chân nhà sư quặp lấy lưng gã. Lúc hất nhà sư ra thì thấy lưng mình đau đớn kịch liệt.

Bỗng nghe Tam Tĩnh hỏi:

- Cái bầu rượu ta có phải thằng lõi này đánh cắp không? Thằng giặc non! Mi đã lấy trộm uống lại ăn cắp luôn cả bầu rượu nữa nghĩa làm sao?

Du Thản Chi đang bị nhà sư nắm giữ, đành cãi liều:

- Không phải! Tôi không lấy bầu rượu của đại sư đâu.

Tam Tĩnh nói:

- Mi vừa nghe ta nói trong vườn rau còn cái bầu rượu đã tỏ ra sửng sốt. Mi có tật giật mình. Cái bầu của ta không phải mi lấy cắp thì ai vào đây?

Du Thản Chi không thấy nhà sư đề cập đến con tằm thì nghĩ bụng:

- Lấy cắp cái bầu thì chẳng chi quan hệ. Hơn nữa cũng không còn cách nào cãi được.

Gã đáp:

- Thôi được rồi! Nếu tại hạ có ăn cắp cái bầu của nhà sư thì để tại hạ về lấy trả là xong.

Tam Tĩnh cười ha hả rồi đột nhiên khóc rống lên, nghẹn ngào hỏi:

- Thằng giặc con này! Lúc mi ăn cắp cái bầu rượu của ta ngươi có thấy đứa con quý báu của ta là "Hàn Ngọc Trùng" không?

Du Thản Chi đáp:

- Không thấy! Tại hạ chỉ thấy ở dưới đất có vẽ một vòng tròn chứ không thấy gì hết.

Tam Tĩnh nói:

- Hỡi ôi! Nó không giữ bổn phận bỏ trốn đi bị người ta đánh chết rồi! Thằng giặc này đi về phía Đông?

Du Thản Chi hỏi:

- Sao lại đi về phía Đông?

Nhà sư hai tay bóp chặt cổ gã nói:

- Ta bảo ngươi đi về phía Đông thì ngươi đi về phía đó. Sao còn hỏi lôi thôi.

Du Thản Chi bị Tam Tĩnh bóp cổ đau quá đành đi về hướng Đông. Nhà sư này tuy thấp lùn nhưng béo chụt nên người y nặng quá, Du Thản Chi chỉ đi được vài dặm là thở hồng hộc, gã phều phào nói:

- Tại hạ mệt quá không đi được nữa rồi, ngồi nghĩ chút xíu đi.

Tam Tĩnh tức mình nói:

- Ta bảo ngươi nghỉ đâu mà ngươi dám nghỉ? Đi mau! Đi mau!

Nhà sư vừa nói vừa kẹp hai chân vào người, tựa như người thúc vế vào lưng ngựa. Du Thản Chi bị nhà sư thôi thúc không làm thế nào được, đành miễn cưỡng bước đi. Lại đi thêm năm sáu dặm nữa, gã cất chân không nổi, người gã té nhào về phía trước, miệng sùi bọt giãi hồng hộc.

Tam Tĩnh hét:

- Đi mau! Đi mau!

Y vừa giục vừa đánh Du Thản Chi. Du Thản Chi nói:

- Đại sư có đánh chết tôi cũng không đi nổi nữa.

Tam Tĩnh nói:

- Ngươi không đi ta sẽ giết mi.

Vừa dứt lời thì phía sau có tiếng người gọi:

- Tam Tĩnh! Ngươi to gan thật! Dám trốn ra đây! Phương trượng truyền pháp chỉ sai chúng ta đi bắt ngươi về.

Du Thản Chi quay đầu nhìn lại thì thấy phía sau, trên đường lớn có hai nhà sư mặc áo bào xám chạuy như bay đến. Người đi trước chính là nhà sư lớn tuổi mà gã đã gặp trong vườn rau lúc trước.

Tam Tĩnh kêu vang:

- Sư huynh ơi! Hai chân tiểu đệ bị kẻ địch đánh gãy rồi bây giờ không thể nào nhúc nhích được. Chờ cho tiểu đệ chữa xong rồi sẽ về chùa chịu tội với phương trượng.

Nhà sư đứng tuổi quát lên:

- Có người cõng ngươi trốn đến đây, thì có người cõng ngươi về chùa. Trời ơi! Người ngợm gì... mà kì quái như vậy?

Nhà sư thấy Du Thản Chi đội lồng sắt, bất giác la lên những tiếng kinh ngạc. Còn nhà sư kia ít tuổi hơn, nói:

- Bắt luôn cả tên tà ma quỷ quái này về chùa.

Tam Tĩnh nói:

- Nếu hai vị sư huynh bắt buộc phải đưa tiểu đệ về chùa thì tiểu đệ xin tuân mệnh.

Rồi lão quát Du Thản Chi:

- Thằng giặc con này! Cõng ta theo hai vị sư huynh.

Du Thản Chi nói:

- Tôi đi không nổi nữa rồi, cần nghĩ một lúc đã.

Tam Tĩnh nói:

- Không được! Chúng ta cần phải về chùa Mẫn Trung trước trời tối.

Nhà sư đứng tuổi cũng nói:

- Phải rồi! Mau lên! Còn nghĩ gì nữa.

Nói xong liền tiện tay nhặt lấy một cành cây bên đường quật vào vai Du Thản Chi. Du Thản Chi đau quá nghĩ thầm:

- Sao những nhà tu hành lại nóng nảy thế mà không nghe lời nói thật?

Gã đành gượng gạo đứng dậy cõng Tam Tĩnh, chân ngang đá chân xiêu, đi về lối cũ. Hai nhà sư đi sau Du Thản Chi để canh chừng, thấy ống chân Tam Tĩnh quả bị gãy rồi, hai bàn chân lủng lẳng đưa qua đưa lại, nên chẳng cần quan tâm đề phòng. Ngờ đâu bốn người đi đến khe núi, Tam Tĩnh đột nhiên ấn tay trái vào lưng Du Thản Chi, người y nhảy tung lên, nhắm nhà sư đứng tuổi xô lại!

Nhà sư này quát mắng:

- Mi muốn chết đó chăng?

Nhà sư không kịp rút giới đao phóng chưởng ra đánh, Tam Tĩnh cũng phóng chưởng đánh trúng vào hậu tâm nhà sư kia. Hai chưởng giao nhau nổi lên một tiếng vang ghê rợn. Nhà sư trẻ tuổi lùi lại một bước dùng cả song quyền đánh vào trước mặt Tam Tĩnh. Tam Tĩnh để cánh tay trái lên cánh tay nhà sư để mượn đà người y tung lên cao tay phải phóng chưởng đánh trúng đầu nhà sư đứng tuổi. Tiếp theo Tam Tĩnh lộn mình một vòng đã về đến trên lưng Du Thản Chi.

Du Thản Chi thấy trên lưng bỗng nhiên nhẹ bổng, thì ra Tam Tĩnh phi thân ra ngoài cự địch. Gã toan chạy trốn, nhưng chưa kịp rời khỏi chỗ cũ thì Tam Tĩnh đã bay trở về. Tay trái y nắm lấy cổ gã. Du Thản Chi nhìn ra thấy hai nhà sư kia đầu gối nhũn ra, từ từ ngồi phệt xuống mặt nhăn nhó ra chiều đau đớn vô cùng!

Gã vừa sợ hãi vừa ngạc nhiên tự hỏi:

- Tam Tĩnh hòa thượng đánh đòn gì mà ghê gớm thế? Y mới phóng ra một chưởng mà xem chừng đối phương bị thương rất nặng!

Bỗng nghe hai nhà sư mới đến miệng thở hộc lên, mình co rúm lại mình giãy dụa mấy cái rồi chết liền. Tam Tĩnh giơ tay phải ra trước mặt Du Thản Chi ra chiều đắc ý nói:

- Mi trông rõ rồi chứ!

Du Thản Chi ngó bàn tay y thấy một ngón tay giữa đeo nhẫn. Trên mặt nhẫn chìa ra một mũi kim châm nhỏ xíu. Đầu mũi kim châm hãy còn dính máu tươi.

Gã nghĩ một lúc rồi tỉnh ngộ ra lẩm bẩm:

- Té ra trong tay y có giấu ngầm một mũi kim châm. Mũi kim này bôi thuốc kịch độc nên hai chưởng phóng ra đánh chết luôn hai người.

Tam Tĩnh giơ mũi kim châm vào lỗ mắt Du Thản Chi hăm dọa nói:

- Mi mà không nghe lời ta, ta sẽ cho mi ăn một mũi.

Nói xong đưa hai tay trái ra nắm lấy hai xác chết nhấc bổng lên rồi quăng xuống khe núi. Y bảo Du Thản Chi:

- Đi về hướng Đông.

Du Thản Chi không dám cãi lời gã, nghĩ đến thủ đoạn độc ác của nhà sư hổ mang vừa giết hai nhà sư kia, gã không khỏi sởn gai rùng mình.

Một luồng khí lực không biết từ đâu nhập vào chân gã làm cho gã run lẩy bẩy, nhưng bước chân rất mau, hết cả mệt nhọc trông về hướng Đông mà đi.

Lúc đó trờ xẩm tối, Du Thản Chi nghĩ bụng:

- Hai chân thằng cha này chưa nối được, chờ cho hắn ngủ say rồi mình sẽ có cơ hội chạy thoát.

Nào ngờ lúc trời tối, Tam Tĩnh bắt Du Thàn Chi đi vào bụi cỏ rồi bắt nằm xuống, y co người lại như trái bóng thịt ngồi chồm chồm lên cái lồng sắt đầu Du Thản Chi. Một lúc sau thấy Tam Tĩnh ngáy pho pho thì ra y đã ngủ say. Du Thản Chi nghẹt thở muốn chết, nhưng biết rằng mình chỉ khẽ động đậy một chút là Tam Tĩnh dậy ngay và mình sẽ ăn đòn.

Du Thản Chi bị "trái bóng thịt" đè lên cổ khổ sở vô cùng. Nguyên cái lồng sắt này chụp vào đầu gã lúc còn nóng hổi, nên da đầu, da mặt gã đã dính vào lồng, không có cách nào gỡ ra được. Tam Tĩnh ngồi trên cái lồng sắt, chỉ khẽ động đậy một cái là Du Thản Chi đau đớn vô cùng.

Sáng sớm hôm sau Tam Tĩnh lại giục Du Thản Chi cõng mình ra đi. Tam Tĩnh xem chừng chân mình bị gãy chấp nối rồi thì năm sáu chục ngày mới đi lại bình thường. Du Thản Chi cũng biết thế, gã nghĩ đến cơ cực này càng rùng mình lẩm bẩm:

- Nếu suốt ngày, suốt đêm trong hai tháng trời mà lưng mình phải chịu đựng trái bóng thịt dư hai trăm cân đè lên thì chịu sao nổi?

Giữa giờ ngọ hôm ấy hai người đến một thị trấn liền vào tiệm nghỉ chân ăn uống. Du Thản Chi thấy có người đánh một đàn lừa ngựa đi qua liền nói:

- Sư phụ thuê một con lừa cưỡi há, chẳng hay hơn và đi mau hơn là ngồi trên lưng tôi.

Tam Tĩnh quát mắng:

- Mi nói năng gì thế? Cưỡi ngựa cưỡi lừa làm sao tiện bằng ngồi trên lưng người? Con ngựa có đưa ta vào giường được không? Có cõng ta đi Kiều được không?

Du Thản Chi ngẫm nghĩ lời lão nói quả đúng nên không nói năng gì nữa. Tam Tĩnh muốn gã có sức lực đi nhanh hơn, liền mua bánh cho gã ăn thật no.

Chiều hôm ấy đi về hướng Nam.

Hồi Thứ 52

Vu Oan Giá Họa Cho Người

Chiều hôm ấy đi rẽ về hướng Nam.

Trong khi đi đường, Tam Tĩnh thốt nhiên nói đến giáo lý nhà Phật, y bảo:

- Trời đất sinh ra muôn vật. Sang, hèn, họa, phúc đều do kiếp trước mà ra. Một người hai đời gây nên nghiệp chướng thì kiếp này phải hóa làm trâu ngựa để cho người cưỡi.

Tỉ như Du Thản Chi dù chưa hóa làm trâu ngựa, nhưng cũng phải làm nô lệ cho người. Đó cũng là kiếp trước nặng nợ, nên kiếp này phải trả. Nếu kiếp này có tích nhiều âm đức thì kiếp sau mới được hưởng phúc.

Du Thản Chi nghe y nói vậy nửa tin nửa ngờ, rồi gã tự hỏi:

- Thằng cha này vừa ra tay đã giết hai nhà sư, tàn nhẫn đến thế là cùng. Trong đời mi chắc đã giết bao nhiêu người nữa. Vậy mà mi còn dám mở miệng nói đến tích đức tu nhơn ư?

Nhưng gã đang bị trong vòng kiềm tỏa của Tam Tĩnh, nên trong bụng nghĩ như vậy mà không dám nói ra. Hai người trông thấy về hướng Đông Nam mà đi luôn mấy ngày. Tiết trời đã ấm áp dần dần. Du Thản Chi nghe Tam Tinh vừa đi đường vừa hỏi lối về Hà Tân thì trong bụng mừng thầm. Gã nghĩ bụng:

- Xuống bể càng hay, được ngồi thuyền, mình không phải làm trâu ngựa cho hắn nữa.

*

- Tên tiểu tặc họ Du phải vào bón phân trong vườn rau để tư tâm hỏi đã làm gì nên tội lỗi.

Du Thản Chi ngơ ngác theo mấy nhà sư vào vườn rau bái kiến kiếm một nhà sư quản lý vườn này. Nhà sư quản lý vườn pháp hiệu Duyên Căn hình thù bé nhỏ mà gầy khẳng gầy kheo, đã rụng mất hai chiếc răng cửa. Lúc y nói miệng để trống hốc. Y thấy Du Thản Chi đầu bịt lồng sắt hình thù quái gở lấy làm thích thú.

Lão ngồi trên ghế dài, nghếch chân lên, hỏi lai lịch Du Thản Chi. Du Thản Chi nghĩ:

- Cha bác mình là những nhân vật có tên tuổi trong võ lâm, nếu bữa nay mình nói thật ra há chẳng làm nhục đến oai danh Du thị Song hùng và Tụ Hiền Trang ư?

Nghĩ vậy, gã chỉ khai mình là người tầm thường quê kệch, chẳng may bị quan binh Khất Đan bắt đem đi, rồi bị hành hạ khổ sở.

Nhà sư này rất ưa chuyện trò, những chi tiết nhỏ nhặt lão cũng muốn hỏi chân tơ kẻ tóc quyết không để cho Du Thản Chi ăn nói hàm hồ. Nhưng Du Thản Chi quyết ý dấu nhẹm thân thế mình. Ngoài điều gã kể mình là thiếu niên nhà nông, gã không nói thêm gì nữa.

Nhà sư tra ngọn hỏi ngành mãi đến tối mịt mới xong, tính vừa ba giờ đồng hồ. Nhà sư Duyên Căn hỏi đi hỏi lại hết lần này đến lần khác để kiếm lấy một chỗ sơ hở mà vặn Du Thản Chi. Du Thản Chi tuy không phải là một gã thông minh lanh lợi, nếu gã nói dối bị lòi đuôi. Nhưng gã đem thân thế mình nói rút lại một cách vắn tắt.

ại khái những câu hỏi và câu trả lời như sau:

- Phụ thân ngươi làm gì?

- Chết rồi!

- Tại sao mà chết?

- Ốm!

- Ốm bệnh gì?

- Tôi không biết!

- Sao ngươi giúp đỡ Tam Tĩnh?

- Y bắt được tôi.

- Sao mi không trốn đi?

- Tôi không trốn thoát.

Đến bữa cơm tối Duyên Căn bưng bát cơm lớn đến bên Du Thản Chi ngồi ăn để tiện vặn hỏi. Sau khi không hỏi thêm được điều gì nữa, Duyên Căn mới bảo:

- Ngươi múc ra hai thùng nước phân bón rau. Chúng ta ở đây không thể lười nhác được đâu. Vừa rồi hhỏi chuyện mi mất hàng nửa ngày công việc đều bỏ bê.

Du Thản Chi đáp ngay:

- Vâng!

Gã không màng phân trần về vụ mất thì giờ này là do nhà sư hỏi vặn mà gã phải trả lời chứ đâu phải gã bày chuyện. Du Thản Chi trong bụng đói meo, mình đầy thương tích, mà vẫn đi múc phân tưới rau ngay chứ không dám kêu ca gì hết.

Vườn rau chùa Thiếu Lâm rất rộng diện tích có đến hai trăm mẫu. Trong vườn này kể cả hạng thợ thường xuyên lẫn thợ làm xắp có đến ba bốn chục người và đều là tăng sĩ trong chùa. Du Thản Chi mới đến, đầu lại đội cái lồng sắt, hình thù cổ quái, mọi người đều khinh miệt và thường đem gã ra làm trò cười. Những công việc nặng nhọc dơ dáy đều đổ lên đầu gã. Du Thản Chi càng ngày càng suy nghĩ ít đi, quan niệm và phải trái về mừng giận thương vui. Gã cũmg mơ hồ không phân biệt được rõ ràng. Ai bảo gì gã cũng chịu. Suốt ngày gã chỉ ngơ ngác bần thần. Họa hoằn trong lúc ngủ mê, gã mới mơ thấy A Tử.

Một hôm vào lúc hoàng hôn, Du Thản Chi bón tưới vườn rau xong thì thân thể mệt nhoài, chân tay ê nhức, gã chợt nge thấy tiếng đũa lách cách, gã liền đứng dậy xuống nhà ăn cơm, bỗng thấy tiếng Duyên Căn gọi:

- A Du! Mi cầm bát cơm này đưa sang căn phòng nhỏ bên rừng trúc cho một vị sư phụ ở đó dùng, vì y bịnh không qua đây được.

Thản Chi đáp:

- Vâng!

Đoạn đón lấy bát cơm sang rừng trúc. Rừng trúc này lớn lắm, gã đi một lúc mà vẫn chưa hết. Gã nhìn vào trong đám lá cây rậm rạp thấy một căn nhà đá nhỏ, liền chạy đến trước cửa cất tiếng gọi:

- Sư phụ! Sư phụ! Cơm của sư phụ đây!

Trong nhà có giọng khàn khàn đáp lại. Du Thản Chi đưa tay ra đẩy cửa. Cánh cửa mở ra, gã bưng bát cơm lớn đi vào.

Gã thấy trên chiếc chiếu trải dưới đất có một người nằm quay mặt vào trong. Trong nhà không có giường phản, bàn ghế chi hết. Một cái bát sành đựng lưng bát nước lã đặt ngay trong một góc chiếu.

Du Thản Chi lại nói:

- Sư phụ! Tôi mang cơm lại cho sư phụ đây!

Người kia nói:

- Ta không đói, không ăn cơm được ngươi bưng về đi!

Tiếng nói phều phào không được rõ ràng và thủy chung vẫn không quay đầu ra. Du Thản Chi vừa nghe y biểu không đói, không ăn cơm, liền bưng bát cơm về nhà ngay, báo cho Duyên Căn biết.

Trưa hôm sau, Duyên Căn lại kêu Du Thản Chi mang cơm đi, người kia vẫn không ăn. Bốn ngày liền, Du Thản Chi mỗi ngày đưa cơm hai lần. Người đó không lúc nào quay mình ra và thủy chung vẫn không ăn cơm. Gã cũng mất tính hiếu kỳ nữa, mặc dù thấy việc khác thường, gã cũng chẳng buồn quan tâm.

Đến trưa hôm thứ năm, Du Thản Chi theo thường lệ lại bưng cơm sang, người kia vẫn nhắc lại câu trước:

- Ta không đói, không ăn cơm, ngươi mang về đi.

Du Thản Chi vẫn bình thản lạt lẽo như thường đáp:

- Được rồi!

Đoạn trở gót đi luôn. Người này đột nhiên vùng dậy nắm lấy tay Du Thản Chi mắng:

- Mi là người không có lòng dạ chi hết...

Vừa nói mấy tiếng người đó la lên:

- Úi chao!

Vì thấy đầu gã đội cái lồng sắt, nên không khỏi giật mình kinh ngạc. Du Thản Chi thấy nhà sư vừa gầy gò vừa đen đúa, mắt sâu mũi cao, không ra dáng một nhà sư Trung Nguyên. Trên mặt nhiều vết nhăn nheo mà không biết đã bao nhiêu tuổi.

Nhà sư hỏi:

- Đầu ngươi chụp cái chi?

Du Thản Chi đáp:

- Cái lồng sắt.

Nhà sư lại hỏi:

- Ai chụp vào đầu ngươi?

Du Thản Chi đáp:

- Người Khất Đan.

Nhà sư hỏi:

- Sao mi không bỏ đi?

Du Thản Chi đáp:

- Bỏ không được.

Nhà sư nói:

- Bốn ngày liền ta không ăn cơm, ngươi chẳng hỏi gì đến đã đành sao cũng không kêu ai lại thăm ta một lần. Hoặc kêu thầy đến chữa bịnh cho ta, là nghĩa làm sao?

Nhà sư này tuy người Hồ bên Tây Vực song nói tiếng Hán rất lưu loát. Du Thản Chi nói:

- Ông sống cũng thế chết cũng vậy, có liên quan gì đến tôi?

Nhà sư cả giận vươn tay ra nắm lấy vai Du Thản Chi. Du Thản Chi thấy vai bị đau tựa hồ dao cắt, nhưng gã nhịn đau quen, chẳng cậy cựa mà cũng chẳng rên la, cứ thản nhiên như không.

Nhà sư rất lấy làm kỳ hỏi:

- Mi có thấy đau không?

Du Thản Chi lạnh lùng đáp:

- Đau cũng thế mà không đau cũng vậỵ Chả can hệ gì!

Nhà sư lại càng ngạc nhiên hỏi lại:

- Mi bảo không can hệ gì. Chẳng lẽ cái vai này không phải là vai mi? Ta vận thêm kình lực bóp nát vai mi ra nhé?

Nhà sư vừa nói vừa vặn kình lực mạnh bóp mạnh. Du Thản Chi thấy đau vào đến tận tâm can, vai gã quả nhiên bị bóp nát. Song người gã tuy đau mà tâm thần gã trơ như gỗ đá chẳng tranh biện mà cũng chẳng van xin. Gã yên trí rằng trong lá số gã, thiên đình đã định sẵn xương vai gã bị bẻ nát, đành phải chịu.

Nhà sư thấy sức chịu đựng gã cương cường như vậy đâm ra bội phục nói:

- Giỏi lắm! Trong chùa Thiếu Lâm cả đến tên đầu bếp cũng tu luyện được đến mức độ này thì ghê thật! Thôi ngươi đi đi!

Du Thản Chi bưng bát cơm về, chưa ra khỏi rừng trúc thốt nhiên va phải nhà sư Duyên Căn đứng ở bên đường. Duyên Căn âm thầm chạy đến bên gã cười lạt nói:

- A Du! Việc chùa Mẫn Trung nước Liêu đã phát giác ra rồi, ngươi đến viện Giới Luật đi!

Du Thản Chi nghe nói việc chùa Mẫn Trung bị phát giác thì nghĩ thầm:

- Đây chắc là Tam Tĩnh đã điều tra ra vụ ta ăn cắp con tằm kỳ dị. Vụ này rắc rối ta. Thôi ta đành phó mặc trời.

Gã lẽo đẽo theo Duyên Căn về viện Giới Luật đã gặp nhà sư già. Lúc này lại thấy nhà sư đó đứng trước cửa viện lạnh lùng nói:

- Du Thản Chi! Tam Tĩnh biểu những tội đại ác tại chùa Mẫn Trung đều do ngươi gây ra, có đúng thế không?

Du Thản Chi đáp:

- Đúng thế! Chính tôi gây ra!

Nhà sư già nghe Du Thản Chi nhận tội, không chối cải một câu nào thì lấy làm lạ hỏi, nói:

- Mi đã nhận tội, ta không làm khó dễ với người làm chi nữa mà năm trăm roi đòn thị uy cũng miễn cho mi. Mi vào phòng sám hối để nghĩ kỹ lại coi, nếu còn điều gì không thật nói với ta.

Duyên Căn dẫn Du Thản Chi tới phía sau viện Giới Luật. Nơi đây là một khoảng đất trống, đã bày sẵn bốn cái "cột đá" hình vuông. Duyên Căn kéo một chiếc cột đá một cái cửa mở ra. Chính mỗi một cột này là một căn nhà nhỏ xíu. Duyên Căn đẩy cửa vào, bảo Du Thản Chi vào trong xong rồi đóng lại. Tuy gọi là phòng sám hối nhưng thực ra không phải là một căn phòng mà chỉ một "chiếc quan tài" bằng đá để dựng lên.

Du Thản Chi vào rồi, đừng nói không thể ngồi xuống được, mà xoay mình cũng đã khó khăn. Trên nóc nhà đã có đục hai lỗ thông hơi. Bốn mặt vách đá gần khít chạm vào người.

Du Thản Chi lẩm bẩm:

- Mình có việc gì suy nghĩ, làm tổ gì mà phải sám hối ?

Giữa lúc ấy, bỗng nghe tiếng người kêu thất thanh như lợn bò chọc tiết. Tiếng kêu la do những lỗ nhỏ trên đỉnh thạch thất vọng ra và rõ ràng là tiếng Tam Tĩnh.

Du Thản Chi nghe lão thét lên:

- Không được! Không được! Người tôi làm sao vào lọt nhà sám hối.

Vị lão tăng Giới Luật nói:

- Lề luật của bản trì từ ngàn xưa lưu lại, sư sãi phạm tội nặng đều được vào nhà sám hối để xét mình cũng ăn năn. Người vào đi!

Tam Tĩnh vội nói:

- Người tôi to béo thế này làm sao vào lọt được?

Du Thản Chi tuy đang trong lúc hoạn nạn, nghe lão nói mấy câu này, mới nhớ ra Tam Tĩnh người béo chùn béo chụt mà tròn ủm như trái bóng thì không khỏi phì cười.

Bỗng nghe nhà sư già lạnh lùng giục:

- Các ngươi bỏ lão vào đi rồi đóng cửa lại!

Kế tiếp lại vẳng nghe mấy tiếng cựa quậy. Tam Tĩnh kêu gọi ầm lên nhưng nhà sư già không khoan dung cho bạn đồng môn chút nào nhất định thi hành luật pháp một cách nghiêm chỉnh.

Tam Tĩnh kêu lên:

- Tôi sẽ bẩm bạch phương trượng. Đại sư ngược đãi đồng môn một cách gắt gao. Người tôi to béo thế này làm sao nhét vào được phòng nhỏ này... Trời ơi! Không được!

Lão tăng giục ban chấp sự:

- Các ngươi ấn mạnh y vào! Gắng sức ấn thật mạnh!

Một nhà sư khác bỗng kêu lên:

- Thúi quá! Y vọt cả... ra rồi!

Lão tăng vẫn giục:

- Đã nhét được quá nửa rồi, còn non nửa thôi mà! Đẩy mạnh vào!

Vất vả hồi lâu rồi sau cùng cũng nhét được hết người nhà sư Tam Tĩnh béo chùn béo chụt tròn ủm như quả bóng vào căn nhà nhỏ hẹp. Tam Tĩnh mất hết khí lực không còn hơi sức đâu tranh luận nữa. Lão nghẹn ngào trong khổ và khóc thút thít.

Du Thản Chi nghĩ thầm:

- Căn nhà đá chật hẹp này đến mình gầy nhỏm gầy nhom còn chẳng đủ chỗ xoay mình. Thế mà họ nhét đưọc "trái bóng thịt" vào kể cũng là kỳ công hạn hữu.

Đột nhiên Tam Tĩnh la lên:

- Thả tôi ra! Thả tôi ra! Tôi xin nói hết không dám nói sai câu nào.

Nhà sư già nói:

- Người hãy nói trước đi rồi ta sẽ thả ra.

Tam Tĩnh nói:

- Tôi... Tôi ở chùa Mẫn Trung nước Liêu, ăn trộm ba mươi ba lạng bạc, mua rượu uống. Tôi mổ ba con chó và giam cầm nhà sư. Tôi đã... có người bạn gái ở nước Liêu... với đã đánh bạc...

Nhà sư già nói:

- Mi biểu những việc này đều do gã mặt sắt làm trò à?

Tam Tĩnh nói:

- Vâng! Vâng. Đúng là gã làm cả. Tôi quên đó.

Nhà sư già nói :

- Người chưa suy nghĩ được kỹ càng. Người hãy ở lại trong buồng sám hối một ngày một đêm cho tâm hồn tỉnh táo để suy nghĩ lại.

Tam Tĩnh kêu to hơn nữa:

- Chỉ trong một giờ nữa là tôi đã bị chết ngộp rồi. Tôi xin thú nhận hết. Những vụ đó đều chính tay tôi làm cả.

Nhà sư già nói:

- Thế còn gã mặt sắt làm điều chi sai quấy?

Tam Tĩnh đáp:

- Gã... gã ăn cắp cái bầu của tôi rồi gã uống trộm rượu nữa.

Nhà sư già hỏi:

- Còn gì nữa không?

Tam Tĩnh nói:

- Tôi... Tôi không biết. Mau... mau thả tôi ra.

Nhà sư cười lạt nói:

- Ngươi vu oan giá họa cho người.

Rồi quay sang bảo mấy nhà sư chấp sự:

- Các vị thả gã mặt sắt ra!

Mấy vị chấp sự vâng lời mở cửa thạch thất kéo Du Thản Chi ra. Du Thản Chi nhìn ra căn thạch thất ở bên cạnh thì thấy da thịt Tam Tĩnh lòi ra những kẻ hở nhà đá. Giả tỷ phòng sám hối này là căn nhà vách gỗ thì đến bật tung.

Nhà sư nhìn Du Thản Chi hỏi:

- Những việc xảy ra ở nhà Mẫn Trung, Tam Tĩnh đã thú nhận cả rồi. Sao mi còn chưa nói rõ tâm tình.

Du Thản Chi đáp:

- Tôi không biết.

Nhà sư nói:

- Rút cuộc mi chưa làm việc gì sai quấy phải không?

Du Thản Chi đáp:

- Kiếp này tôi nhiều tai nạn, chắc là do kiếp trước gây nên tội nghiệp rất nhiều. Kiếp này tuy chưa làm điều sai quấy, nhưng kiếp trước phạm nhiều tội nặng.

Nhà sư nghe gã nói vậy rất vui lòng. Lão nghĩ lại vừa rồi nghi oan cho gã, bây giờ lão rất hối hận. Nhà sư quay lại bảo Duyên Căn:

- Gã mặt sắt này bản tính thuần hậu, nhà sư người Hồ kia mắc bệnh triền miên, ngươi bảo gã sang đó hầu hạ, đừng bắt gã làm việc trong vườn rau.

Duyên Căn nói:

- Vâng!

Tam Tĩnh kêu rầm lên:

- Không xong rồi! Mau buông thả tôi ra! Tiếp theo là những tiếng "rắc rắc" không ngớt, tựa hồ như tiếng bắp rang. Nguyên Tam Tĩnh bị nhét chặt quá, xương cốt cọ xát vào nhau phát ra tiếng.

Du Thản Chi nghĩ bụng:

- Xem chừng trong người Tam Tĩnh đã gẫy mất mấy dẻ xương sườn.

Bỗng thấy Tam Tĩnh lại kêu ầm lên:

- Tôi đã cung xưng hết rồi, sao còn chưa thả tôi ra? Đại sư... nói vậy thì ra đại sư lừa gạt tôi hay sao?

Duyên Căn quay lại bảo Du Thản Chi:

- Mi mau lạy tạ tấm lòng từ bi của chấp pháp đại sư đã cho mi tới làm tại một nơi công việc nhẹ nhàng.

Du Thản Chi từ khi đến nước Liêu bị bao nhiêu nỗi khổ hành hạ, đâm ra mất hết thiện cảm với người ngoại quốc, bất luận là ai. Gã chẳng lấy việc để hầu hạ nhà sư người Hồ kia tên gọi là Ba La Tĩnh làm dễ chịu. Nhưng Duyên Căn đã bảo vậy thì gã cũng quỳ xuống đất lạy tạ.

Duyên Căn lại dẫn Du Thản Chi đến rừng trúc đưa vào phòng Ba La Tĩnh để giới thiệu. Ba La Tinh vẫn nằm quay mặt vào tường. Hai người vào phòng lão cũng mặc kệ, không quay ra mà cũng không hỏi han gì.

Đến bữa ăn, Du Thản Chi lấy cơm đưa vào, thì Ba La Tinh cũng chỉ nói một câu cộc lốc:

- Không ăn cơm!

Lão cũng không thèm nhìn gã.

Sau hai ngày nữa, giọng nói Ba La Tinh tỏ ra rất suy yếu, tân khách trong chùa có người hay tin đến trước hỏi thăm. Sau khi người khách này về, đưa hơn mười vị lão tăng cùng đến thăm hỏi.

Du Thản Chi đứng bên thấy người khách giới thiệu với Ba La Tinh chức vị các lão tăng, nào Thủ Tòa La Hán Đường, nào Phó tòa Viện Đạt Ma, nào Thủ tòa Viện Giới Luật, toàn là những vị cao cả.

Gã nghĩ bụng:

- Lão sư người Hồ này chắc cũng là một nhân vật ghê gớm nên lão vừa thọ bệnh đã bao nhiêu nhân vật đầu nảo đến hỏi thăm.

Ba La Tinh bệnh luôn mấy ngày vẫn chưa bớt. Ngẫu nhiên lão ăn được chút cháo nhưng vẫn chưa dậy được. Suốt ngày nằm quay mặt vào tường. May mà tính lão ôn hòa không cáu kỉnh gì với Du Thản Chi cả. Gã ở đây cũng chẳng có việc gì làm, nên suốt ngày nhàn rỗi, tịnh mịch. Qua hai hôm nữa, vào khoảng nửa đêm, Ba La Tinh đột nhiên rên la ầm ĩ rồi la hét:

- Trời ơi! Nhức đầu! Tôi nhức đầu quá!

Du Thản Chi thắp đèn lên, thấy mặt lão đỏ bừng, gã đưa tay sờ vào trán lão thấy nóng bỏng. Ba La Tinh vừa nhảy lên nhảy xuống vừa kêu:

- Chết! Ta chết đến nơi rồi! Đi kêu thầy đến chửa cho ta.

Du Thản Chi kinh hãi đáp:

- Vâng! Vâng!

Rồi không biết đi kiếm ai được, gã đành chạy vào vườn rau gọi Duyên Căn.

Duyên Căn đến viện Thanh Kiên mời một nhà sư biết thuốc sang chẩn mạch, vừa cho thuốc uống vừa làm phép châm cứu, vất vả đến nửa đêm, mãi đến lúc trời sáng mớ yên lại.

Mấy lần lão lên cơn như vậy, các nhà sư chữa thuốc lắc đầu bảo nhau:

- Vị Hồ tăng này mắc phải thứ bệnh kỳ lạ bên Thiên Trúc, đất Trung Nguyên chưa gặp bao giờ, mình khó lòng chữa khỏi được.

Ba La Tinh càng ngày càng suy nhược.

Một hôm lão dậy đi tiểu, chân nhũn ra té nhào xuống đất. Ngã chúi về đằng trước đầu đập vào viên đá, trán thủng ra một lỗ, máu chảy ra rất nhiều.

Các lão tăng được tin đều đến hỏi thăm. Bệnh tình nhà sư họ Hồ kéo dài hơn một tháng, mỗi ngày một trầm trọng thêm.

Một hôm Du Thản Chi bị cảm hàn, nửa đêm đau bụng, gã chạy ra rừng đi tiêu. Lúc đang buộc giải quần, dưới ánh trăng sáng, bất thình lình gã thấy một người từ dưới đất nhô lên cách chỗ gã đứng hơn một trượng. Du Thản Chi hồn vía lên mây, suýt nữa gã thất thanh la lên. Nhưng bóng đen này chìa lên nửa người sau cùng toàn thân xuất hiện.

Rõ ràng là Ba La Tinh!

Ban ngày gã thấy Ba La Tinh thở hổn hển, muốn ngồi dậy uống chút nước thì xem ra cũng rất khó khăn. Thế mà lúc này lão biến thành con rồng thiêng cọp dữ, từ lòng đất chui lên được. " Cách" một tiếng lão nhảy lên ngọn cây trúc nhanh như mèo!

Du Thản Chi rất lấy làm kỳ lẩm bẩm:

- Té ra bấy lâu lão này giả vờ mắc bệnh. Lão ở dưới đất chui lên làm gì và bây giờ lão đi đâu?

Bỗng thấy ngọn trúc khẽ lung lay, Ba La Tinh từ cây trúc này nhảy sang cây trúc khác cách đó chừng ba trượng. Ngọn trúc bật lên tiếng rất mạnh. Theo đà của nó Ba La Tinh nhảy được rất xa. Lão nhảy đã lẹ làng lại nhanh như chớp, nếu Du Thản Chi chưa nhìn thấy lão từ trước thì nhất định không thể biết trên cây trúc có người mà chỉ cho là ngọn gió đêm lay động cành trúc dưới báng trăng tỏ mà thôi.

Du Thản Chi tiếp tục ngó những cành trúc lay động chao thẳng đường tiến về hướng tây bắc. Tuy gã đã lạnh nhạt thế sự, chẳng quan tâm một việc gì nữa. Nhưng dù sao gã cũng còn trẻ người non dạ thì làm gì đã mất hết tính hiếu kỳ. Gã chạy lại chỗ Ba La Tinh ở dưới đất chui lên để ngó xem thì thấy dưới đất có một lỗ tròn bên cạnh đặt một tấm ván. Trên mặt tấm ván có đất bùn và lá trúc, rõ ràng là lúc Ba La Tinh chui vào lỗ rồi sẽ kéo tấm ván đậy lên.

Rừng trúc này vốn ít người qua lại. Dù có người vào rừng mà dẫm chân lên tấm ván thì cũng lấy làm chi lạ.

Du Thản Chi tự hỏi:

- Đường hầm này đi về đâu? Ta thử xuống xem sao?

Gã thò chân xuống đất chui vào trong hầm. Không ngờ đường hầm rất ngắn, gã lần mò đi chưa được vài trượng, lại thấy đường đi dốc ngược lên. Du Thản Chi đi đến cuối đường chui ra thì không nhịn được phải phì cười, vì miệng hầm đằng này chính là chỗ Ba La Tinh trải chiếu lên. Suốt ngày Ba La Tinh nằm trên chiếu này, nên không ai phát giác ra được.

Du Thản Chi tự hỏi:

- Thằng cha Ba La Tinh này thật là kỳ dị, không biết lão đi đâu?

Gã không nén nổi tính hiếu kỳ, lại chạy vào rừng trúc, theo đường Ba La Tinh chạy đi. Gã biết mong manh rằng lão sư họ Hồ này khéo giả vờ giả vịt ốm đâu bệnh hoạn, tất cả là có cuộc âm mưu rất lớn. Nếu mình đi theo dõi để phát giác ra việc bí mật của lão. Lão mà biết ra thì tính mạng của mình đi đời.

Nghĩ vậy gã len lỏi cẩn thận và ở tận đằng xa nhìn thấy Ba La Tinh đang đứng trên một cây trúc, gã liền nằm rạp xuống bụi cỏ rậm, bò đi từng bước. Gã bò còn cách cây trúc đó còn hơn một trượng thì dừng lại không dám tiến bước. Du Thản Chi đứng chờ hồi lâu, đưa mắt nhìn ra phía trời Tây một áng mây trôi lảng bảng bay lại, che ánh trăng tỏ, bốn bề tối đen và phẳng lặng như tờ.

Bỗng nghe tiếng gió thổi rào rạt, cánh trúc kia hạ xuống rồi lại bật lên. Ba La Tinh lượn đà bay vọt ra, nhảy vào giữa đám cây rậm rạp phía trước. Du Thản Chi thấy lão khinh công cao cường như vậy phải lắc đầu lè lưỡi. Gã đâm ra sợ quá không dám đi nữa, quay về phòng mình nghỉ.

Trong khoảng thời gian uống cạn tuần trà, Du Thản Chi nghe trong phòng Ba La Tinh có tiếng sột soạt, lão biết rằng lão đã về thì lẩm bẩm:

- Thật là một phen hú hồn! May mà mình về ngay, nếu mình chần chờ thêm một lát nữa tất bị lão khám phá ra.

Sáng hôm sau, Du Thản Chi dậy sớm thấy Ba La Tinh nằm quay mặt vào vách giả vờ bệnh thế cực kỳ nghiêm trọng. Gã không nói gì cầm cây cuốc ra rừng đào măng. Gã đi thẳng vào chỗ đám cây rậm rạp mà Ba La Tinh đêm qua đã nhảy vào đó.

Du Thản Chi vừa đi được vài trượng, bỗng thấy sau vòm cây một nhà sư đi ra, lớn tiếng hỏi:

- Mi đến Tàng Kinh Lâu làm gì?

Du Thản Chi đáp:

- Tôi... Tôi đào măng trúc.

Nhà sư vẩy tay nói:

- Đi, đi mau! Mi không có pháp điệp của phương trượng, không được tới gần Tàng Kinh Lâu.

Du Thản Chi nói:

- Vâng, vâng!

Rồi quay vào rừng trúc đào măng. Gã nghĩ bụng:

- Té ra trong bụi rậm này là Tàng Kinh Lâu, nếu không có pháp điệp của phương trượng thì không thể đến gần. Đêm qua Ba La Tinh lẻn vào Tàng Kinh Lâu, chẳng lẽ lão đến đây lấy trộm kinh sách về coi? Nhưng lão đã là hoà thượng thì xem kinh sách là việc rất hợp lý. Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà Phật không biết phật có gì mà cất kỹ thế?

Du Thản Chi đã điều tra ra việc Ba La Tinh giả vờ lâm trọng bệnh đào đường hầm để đi lén vào Tàng Kinh Lâu mà thôi. Gã chẳng buồn để tâm đên việc đó nữa, gã đào được một đống măng thật to đem về vườn rau giao cho Duyên Căn.

Duyên Căn Khen rằng:

- Thằng nhỏ này giỏi lắm, làm việc gì cũng chăm chỉ tận tâm. Thật không uổng công ta đề bạt mi lên với đại sư chấp pháp. Mi đem măng xuống giao cho nhà bếp.

Du Thản Chi vâng lời khuân măng xuống bếp. Trong bếp một nồi canh rau bốc hơi ngùn ngụt, chú tiểu múc một bát canh cho gã ăn, rồi lại múc thêm bát nữa đem về cho Ba La Tinh.

Du Thản Chi bưng bát canh rau về phòng Ba La Tinh vẫn một giọng cộc lốc:

- Không ăn!

Nhưng rồi ngửi thấy mùi bát canh thơm ngon, lão thèm quá bảo:

- Được lắm! Ngươi đưa ta thử một miếng xem.

Lão xoay tay ra đón lấy bát canh giả vờ không ngồi dậy được, mặt vẫn quay vào tường nằm húp canh. Du Thản Chi để ý trông thấy có bóng cuốn sách ánh vào trong bát nước canh. Trong sách toàn chữ ngọng ngoẹo rất kỳ dị.

Gã sực nhớ ra điều gì liền lẩm bẩm:

- Đây là thứ văn tự ngoại quốc giống kiểu chữ ở trong cuốn sách ta lượm được. Thì ra Ba La Tinh hằng ngày quay mặt vào tường là để xem lén những sách cổ quái này! Chà chà! Nửa đêm lão lén vào Tàng Kinh Lâu cốt là lấy những thứ sách nước ngoài này về coi.

Trước kia Du Thản Chi đã bị hành hạ, nên gã không quan tâm đến sự vật bên ngoài nữa. Mấy bữa nay gã ở chùa Thiếu Lâm không bị ngược đãi, nên gã thấy Ba La Tinh có những hành động kỳ bí mới lại nổi tánh hiếu kỳ.

Nhưng bây gờ thấy Ba La Tinh có những hành động đó, bất quá là để kiếm sách ngoại quốc về đọc, thì nghĩ bụng:

- Làm hòa thượng đương nhiên phải xem kinh. Lão hòa thượng nước ngoài thì phải đọc kinh nước ngoài, cái đó chẳng có chi lạ. Có điều người ngoại quốc tính ưa làm những sự kỳ bí không muốn hỏi mượn mà thờ.

Nghĩ vậy từ đó gã không để ý đến hành động của Ba La Tinh nữa. Lại hơn một tháng nữa trôi qua. Một hôm vào khoảng nửa đêm Du Thản Chi đang ngủ say, đột nhiêu thấy ánh đèn sáng trưng. Gã mở bừng mắt ra thì ánh sáng này từ phòng Ba La Tinh phát ra rồi lọt qua khe vách ván lọt ra ngoài. Ánh sáng bữa nay so với những ngày trước sáng chói gấp mười.

Du Thản Chi lấy làm kỳ dị, gã nghiêng người nhòm qua khe cửa vào trong. Vừa nhòm vào, gã giật mình kinh hãi vì trong phòng này có năm nhà sư già đang ngồi xếp bằng. Vị nào cũng mặc áo cà sa đai hồng nhắm mắt nhập định. Trong năm vị lão tăng này thì có ba vị bữa trước đến hỏi thăm bịnh tình Ba La Tinh, gã biết mặt rồi. Ba nhà sư này đều là những vị cao tăng bản tự giữ chức phận rất trọng đại.

Năm vị cao tăng ngồi xung quanh chiếu. Chiếu đã lật lên thì cái hầm lộ ra Ba La Tinh hiện không ở đây. Du Thản Chi biết chắc là hiện giờ lão đang đi lấy trộm sách. Đây là lần đầu hành vi của lão bị phát giác, rồi bị bắt nữa cũng chưa biết chừng.

Lúc Du Thản Chi để ý nhìn lại năm vị lão tăng thì ai cũng để tay phải lên trước ngực nhưng không phải để lần tràng hạt, mà xoay lòng bàn tay hướng vào đúng cửa hầm do Ba La Tinh đã đào ra.

Gã đối với vị Hồ tăng này tuy không có tình nghĩa gì nhưng từ lúc được phái đến hầu hạ lão, gã không bị hành hạ đánh đập nữa, nên chỉ mong được hầu lão lâu dài cho đỡ thân mà thôi. Bây giờ gã thấy xảy ra vụ này, trong lòng không khỏi băn khoăn và ngấm ngầm lo cho lão. Đột nhiên năm vị lão tăng đồng thời phất tay áo một cái đèn đuốc trong nhà bị luồng chưởng phong thổi tắt đi, tối sầm lại, nhưng rồi ngọn lửa lại bùng sáng lên ngay.

Du Thản Chi hoa mắt lên, nhìn lại thì thấy trong nhà thêm một người nữa chính là Ba La Tinh ở dưới đường hầm chui lên. Vị Hồ tăng tay cầm ba quyển sách vừa nhìn thấy năm vị lão tăng ngồi giữ canh miệng hầm bất giác giật mình đánh thót một cái.

Năm lão tăng đồng thanh cất tiếng niệm:

- A Di Đà Phật!

Tay phải từ từ vươn ra, năm tay áo nhà tu mầu đỏ phồng lên khác nào năm cái buồm nhỏ. Ba La Tinh nhào đi một cái, lộn đầu xuống giơ chân lên. Hai chân nhà sư ngoáy tít mỗi lúc một nhanh trông thành hình tròn như một trái banh.

Năm vị lão hòa thượng đồng thanh quát lên:

- Ái chà!

Năm chưởng nhất tề phóng ra đánh "binh" một tiếng vang lên, không khí bị đè ép quá nặng khiến cho Du Thản Chi không thở được phải ngất đi. Gã mê man hồi lâu, rồi bên tai văng vẳng nghe tiếng niệm phật. Gã lần lần tỉnh lại định thần, mở mắt nhìn qua khe vách ván thì thấy Ba La Tinh cũng ngồi xếp bằng tuớng mạo rất nghiêm trang.

Năm vị lão hòa thượng ngồi xung quanh nhà sư người Hồ. Cả sáu vị đang niệm kinh. Du Thản Chi nghe không hiểu câu nào, song tựa hồ hai bên đã hòa giải xong. Sáu vị sư tụng kinh hồi lâu rồi năm vị lão tăng đứng dậy chắp tay.

Nhà sư già nhỏ bé gầy gò lên tiếng:

- Ba La Tinh sư huynh! Từ đây sắp tới sư huynh cứ việc đi vào Tàng Kinh Lâu và muốn đọc sách gì tùy ý, bất tất phải lén vào trộm nữa.

Ba La Tinh ngẩng đầu lên, vẻ mặt nghi ngờ, ngây ngây người ra một lúc rồi hỏi:

- Trong một thời gian bao nhiêu?

Nhà sư gầy đáp:

- Vĩnh viễn không kỳ hạn nào, tức là cho đến ngày sư huynh viên tịch thì thôi.

Ba La Tinh hỏi:

- Ý các vị muốn bức bách ta phải tự thiêu chăng?

Nhà sư già đáp:

- A Di Đà Phật! Sao sư huynh lại nói thế? Sư huynh từ bên Thiên Trúc là một thượng quốc đến đây chiếu cố tới Trung Thổ chúng tôi. Chúng tôi một lòng thành kính còn chưa đủ, khi nào dám vô lễ?

Ba La Tinh hỏi:

- Chúng ta đều là đệ tử nhà Phật, bất luận việc gì xin nói rõ ra. Trong Tàng Kinh quí tự đây có đầy đủ cả kinh bên tệ quốc. Mấy trăm năm nay, tệ quốc trải qua bao nhiêu cuộc chiến tranh loạn lạc, kinh sách mất mát rất nhiều, vì thế mà phải qua bên quý quốc để tìm kiếm. Cửa Phật là cửa từ bi quảng đại, cớ sao tự lại hẹp hòi như vậy?

Nhà sư gầy đáp:

- A Di Đà Phật! Nếu sư huynh tìm những loại kinh điển cứu nhân độ thế của nhà Phật thì tệ tự quyết không dám giữ làm bí mật. Trước kia tệ tự đã lấy ờ bên Thượng quốc, bây giờ trả về Thượng quốc thì đó là một việc hợp tình hợp lý. Có điều sư huynh lại muốn lấy coi những sách bí mật về võ học của riêng bản tự nên chúng tôi không dám để sư huynh tự tiện mà thôi. Những kinh sách về võ học tuy nguồn gốc cũng xuất phát từ thượng quốc, song mấy trăm năm nay những bậc cao tăng bên tệ tự đã chỉnh đốn lại và tăng bổ rất nhiều. Vậy đúng lý ra sư huynh chẳng nên lấy xem.

Ba La Tinh nói:

- Đại sư vừa biểu từ nay sắp tới cho bần tăng được tự do ra vào Tàng Kinh lâu và tự ý muốn xem kinh sách gì cũng được sao bây giờ lại đổi giọng?

Nhà sư gầy nói:

- Không dám! Đó là bản ý của tệ tự.

Ba La Tinh nói:

- Các vị đừng nói quanh quẩn nữa, muốn xử trí với bần tăng cách nào xin nói toạc ra.

Nhà sư gầy nói:

- Bên tệ tự suốt từ trên xuống đều kính ngưỡng Phật pháp cao thâm của sư huynh, có ý muốn mời sư huynh ở lại Trung Nguyên giúp tệ tự phổ biến nghĩa Phật, tế độ chúng sinh.

Ba La Tinh run người lên, mặt xám ngắt:

- Đại sư... Đại sư nói vậy là có ý... định giữ luôn bản tăng ở đây, vĩnh viễn không cho cho trở về cố hương nữa phải không?

Nhà sư gầy nói:

- Đối với các vị đại đức bên thượng quốc, tệ tự đâu dám vô lễ? Chỉ thành khẩn xin người lưu lại mong rằng sư huynh ưng thuận lời thỉnh cầu đó.

Nói xong cúi đầu chắp tay thi lễ rồi đi ra. Bốn nhà sư kia cũng theo gót ra luôn. Ba La Tinh dàu dàu nét mặt. Biết rằng mấy nhà sư nọ nói vậy là cố ý giam giữ mình suốt đời ở Thiếu Lâm, rồi tha hồ muốn xem bao nhiêu kinh sách thì xem, nhưng không được về Thiên Trúc. Thế thì dù có đọc hết kinh sách trong Tàng Kinh Lâu chùa Thiếu lâm, bao nhiêu bí lục có đọc trơn làu làu, cũng chẳng ích gì.

Lão nghĩ vậy tức mình lẩm bẩm luôn mồm:

- Giả dối! Thật là quân giả dối! Rõ ràng giam cầm mình ở đây mà mở miệng vẫn nói nhân nghĩa là khẩn cầu mình lưu lại và xin mình đừng phụ lời khẩn cầu đó. Thế là họ đẩy mình vào đất không có lối thoát.

Lão càng nghĩ càng bực tức khó chịu, bất giác vung tay lên đánh đầu cồm cộp.

Sở dĩ Ba La Tinh giả vờ mắc trọng bệnh là để đánh lừa các sãi chùa Thiếu Lâm không để ý đề phòng lão cho tiện việc lão lén vào tàng kinh xem sách trộm. Lão vốn là người có trí nhớ khác thường nên vâng lệnh sư phụ đến chùa Thiếu Lâm để xem kinh sách. Theo mệnh lệnh của sư phụ thì lão phải học thuộc kỹ rồi về Thiên Trúc đọc lại cho người ghi chép. Không ngờ lúc lão lấy trộm kinh sách để lộ hành tích thành hỏng việc.

Ít lâu nay Ba La Tinh suốt ngày quay mặt vào tường đọc kinh khổ công ghi nhớ đã thuộc được hơn ba mươi bộ, nào ngờ sơ hở một chút đến nỗi cơ mưu bại lộ, bị các nhà sư chùa Thiếu Lâm khám phá ra. Mấy nhà sư này không làm khó dễ gì cho lão, dò xét biết được dụng ý của lão thì không cho lão về nước mà thôi.

Ba La Tinh buồn rầu vô hạn. Suốt đêm hôm ấy từ chập tối cho đến sáng lão hết thở ngắn than dài thở ngắn lại gắt gỏng Du Thản Chi khiến gã băn khoăn lo lắng. Qua mấy ngày như vậy, Ba La Tinh quả nhiên phát bệnh thực sự thỉnh thoảng mắt lão trợn ngược lên đăm đăm nhìn về phí trời Tây. Du Thản Chi trông thấy mà phát khiếp.

Một hôm Du Thản Chi đưa cơm cho Ba La Tinh. Lão giơ tay ra cầm lấy nắm cơm toan bỏ vào miệng ăn. Đột nhiên mặt lão thoáng lộ vẻ vui tươi lẩm bẩm một mình:

- Được rồi! Được rồi!

Lão ăn vội ăn vàng cho xong rồi nắm lấy tay Du Thản Chi nói:

- Ta dạy ngươi một đoạn sách, rồi ngươi nhớ đọc lại nhé. Nhưng ngươi phải nhớ kỹ rằng đừng tiết lộ cho những nhà sư trong chùa này biết, ngươi làm được chứ?

Du Thản Chi không hiểu ý lão hỏi lại:

- Đoạn sách gì?

Ba La Tinh nói:

- Ngươi phải hứa hẹn với ta là quyết giữ kín không nói với ai.

Du Thản Chi từ khi ở nước Liêu bị hành hạ cực kỳ khổ sở, sau ai bảo làm sao, y nghe vậy, không hề dám trái ý ai cả. Bây giờ La Tinh nói vậy, gã gật đầu đáp ngay:

- Sư phụ đã dặn thế, tiểu nhân quyết không dám nói với ai.

Ba La Tinh trầm ngâm một lát rồi nói:

- Còn môt việc nữa là mỗi ngày ta đánh ngươi một trận, đánh cho thịt đổ máu rơi. Đó là khổ nhục kế khiến người ngoài trông thấy khỏi nghi ngờ ta đồng tình với ngươi. Ngươi đừng tiết lộ với ai nghe.

Du Thản Chi ngần ngừ một lát rồi hỏi lại:

- Tiểu nhân không làm điều gì lầm lỡ sao sư phụ lại đánh đòn?

Ba La Tinh mắt toé hào quang hung dữ nói:

- Mi không nghe ta thì liệu hồn đó!

Lão giơ bàn tay đập xuống đánh "binh" một cái, những mảnh gạch run bắn lên tung toé, vết bàn tay lão in sâu vào viên gạch.

Lão nói:

- Mi quay đầu lại đây cho ta đánh chưởng!

Du Thản Chi cả kinh nói:

- Đầu tiểu nhân không chịu nổi ba chưởng. Sư phu.... sư phụ có đánh tiểu nhân thì đánh vào mé bên môi.

Ba La Tinh bật cười nói:

- Thôi! Đây mi nên nhớ lấy! "Hi la cáp tát đắc, ngỏa tư nặc đặc lãng ba, khứ thần, ấn địa, thản lập thốc Tây loại Tư loại Tư nặc sám mả mi phi sâm, đáo ni sơn phu nhi..."

Lão đọc một đoạn dài rồi giục:

- Nào! Mi đọc thử lại ta nghe!

Du Thản Chi nghe tiếng ngoại quốc chẳng hiểu câu gì, không nhớ được nửa chữ. Gã há hốc miệng ra đọc:

- Hi... Hi... Hi...

Gã chỉ đọc được chữ "hi" rồi không đọc xuống dưới được nữa. Ba La Tinh cả giận đưa tay đẩy ngực gã một cái. Du Thản Chi ngã ngửa người ra va vào tường đánh "binh" một cái. Gã đau quá suýt ngất đi.

Ba La Tinh vừa giận vừa càu nhàu:

- Thằng lỏi con! Ta dạy mi chẳng nhớ được chữ gì, mi không chịu để ý mà nghe phải không?

Du Thản Chi xoa lưng nói:

- Tiểu nhân... Tiểu nhân không hiểu sư phụ nói gì , chỉ thấy lí la lí lô con sao hiểu được?

Ba La Tinh suy nghĩ rồi nói:

- Ừ mi nói cũng có lý! Mi không hiểu ta nói gì tất nhiên mi không thể nhớ được, vậy bây giờ ta dạy mi.

Nói xong lão đập tan đống đất khô rãi lên lên mặt đất, rồi lão lấy ngón tay vạch ba chữ ngòng ngoào, nói:

- A Bối nhỉ! Mi đọc đi! A Bối nhỉ, A Bối nhỉ...

Du Thản Chi đọc theo lão:

- A Bối nhỉ! A Bối nhỉ.

Ba La Tinh cả mừng lại dạy gã thêm ba chữ nữa. Du Thản Chi đọc xong hỏi:

- Thế thì nghĩa gì?

Ba La Tinh nói:

- Đó là những chữ cái không có nghĩa gì hết. Mi đọc nữa đi.

Lão lại dạy ba chữ cái khác. Nhưng lúc quay lại hỏi ba chữ đầu "a Bối nhỉ" thì Du Thản Chi quên sạch mất rồi. Ba La Tinh tức quá lão xách ngược Du Thản chi lắc đi lắc lại, thiếu điều gã phải hộc cơm ra, lão càu nhàu nói:

- Ta gặp phải thằng ngu xuẩn này thật là vô phước mất rồi. Mi dốt nát thế này ba mươi sáu bộ kinh sách thì đến đời kiếp nào cho xong?

"Uỳnh" một tiếng, lão xách Du Thản Chi liệng ra ngoài cửa. Du Thản Chi nằm sóng sượt dưới đất thi gan không dậy nữa. Ba La Tinh tưởng mình liệng gã chết rồi, sợ quá bồng y vào trong nhà, tìm lời ngon ngọt dỗ dành gã hồi lâu, rồi lại bắt đầu dạy gã nhận mặt chữ.

Du Thản Chi sợ Ba La Tinh đánh đập phải cố công ghi nhớ. Nhưng chữ Phạn nước Thiên Trúc có chữ như con nòng nọc, có chữ giống con giun. Tóm lại chẳng có lề lối văn tự nào hết. Du Thản Chi học chữ trên lại quên chữ dưới, chữ cuối lại quên chữ đầu.

Thành ra một thầy trò hai người cùng kêu khổ om sòm.

Hồi Thứ 53

Phép Luyện Dịch Chân Kinh

Ba La Tinh điên tiết lên là đánh Du Thản Chi liền. Lão có nghĩ đâu rằng việc nhận chữ đọc sách có liên quan đến tính tình và khiếu thông minh thiên phó của con người, há phải cứ ép uổng mà làm được. Ba La Tinh tuy dữ đòn đánh Du Thản Chi, song gã càng mê muội lại càng không nhớ những chữ cái Phạn văn mà lão đang dạy gã.

Việc đời hễ có chí là thành tựu, tuy Du Thản Chi dốt nát tối tăm, song gã cố gắng hơn nữa tháng liền cũng thuộc được hết những mẫu tự Phạn văn. Ba La Tinh tiếp tục dạy Du Thản Chí đọc từng chữ từng câu.

Phạn văn là một thứ văn tự khó học vào bậc nhất trên thế gian. Văn tự Tây phương phần nhiều chia thành chữ đơn chữ kép. Về Phạn văn ngoài chữ đơn chữ kép ra lại còn song số. Cứ xem một điểm này, đại khái sẽ suy luận ra nhiều điểm khó khăn khác, bao nhiêu chỗ quanh cọ biến hóa, cực kỳ phức tạp. Đến ngay những bậc thông minh tài trí phi thường phải ít ra là một năm hay nữa năm mới phân biệt rành rẽ được cách đọc chữ Phạn.

Du Thản Chi tư chất đã tầm thường lại bị Ba La Tinh thôi thúc cho mau thành tựu. Đúng là "Dục tốc bất đạt". Thầy không biết cách dạy trò, trò không biết cách học, thành ra việc học chỉ lờ mờ không thấu đáo. Du Thản Chi suốt ngày bị thành sầu vây hãm, ngoài cái đau đớn về xác thịt, thêm vào tinh thần bị khủng bố. Gã khổ sở về việc học kinh sách Phạn văn.

Nửa đêm nhiều lúc gã tỉnh giấc, gã nghĩ lại thời kỳ còn ở nước Liêu, bất quá chỉ phải ăn đòn, chịu thảm hình về xác thịt mà thôi. Trong đầu óc còn được tự do hơn nhiều. Huống chi thỉnh thoảng lại được thấy mặt A Tử. Cái tươi cười hay cái cáu giận của nàng cũng khiến cho bao nhiêu cái khổ não cả thiên hạ đổ xuống sông xuống biển hết. Gã thấy hiện giờ đầu óc mình bị lão Ba La Tinh nhét đầy những ma kha bắt la nhược "rồi" ban nhược ba yết đề gì vào, so với thân thể bị khổ hình còn tệ hại hơn nhiều. Lắm lúc gã toan xuống than thở với Duyên Căn, nhưng gã chưa nói câu gì, y thấy gã mình đầy thương tích dường như cũng ra chiều đắc ý.

Du Thản Chi có lần ấp úng kể lể sự tình, nhưng Duyên Căn chẳng thèm để ý hỏi rõ đầu đuôi đã mắng át đi:

- Thằng giặc non! Mi sợ đánh ư? Mi nên nhớ rằng người trên mi bảo mình làm gì thì dù khổ sở đến đâu cũng ráng mà chịu. Đức Phật Tổ đã dạy rằng: "Ta không vào địa ngục thì còn ai chịu vào?" Đức Phật vào địa ngục còn không lùi bước mi mới bị đánh một đập mà đã không chịu được ư? Ngày trước Đức Phật Tổ xả thân để nuôi chim ưng, xả thân cho cọp cắn. Ngài có tinh thần đại nhân đại nghĩa như vậy, sao mi không học lấy?

Du Thản Chi mỗi lần mở miệng than phiền với Duyên Căn là lại được nghe lão thống mạ thêm một hồi. Sau gã không dám nói gì với lão nữa. Gã đành để cho số phận mình phải học chữ Phạn. Người ta thường nói: "Phúc đáo tâm linh." Có lẽ gã đến thời vận khá!

Tối hôm đó gã cởi áo đi ngủ, sờ vào bọc thấy cuốn sách của mình bọc giấy dầu. Đột nhiên gã nghĩ bụng:

- Văn tự trong sách này dường như cũng giống thứ văn tự mà sư phụ đương dạy mình.

Nghĩ vậy gã liền giở sách ra coi, nhận được hai chữ nhất cũng đọc là nhất, và một chữ tam cũng đọc là tam. Thế rồi bắt đầu gả thấy hứng thú trong việc tìm hiểu sách của mình. Gã tự nhủ: Trong sách nói gì mình không hiểu, nhưng nếu mình biết Phạn văn thì sẽ đọc được hết. Dù sao cuốn sách này cũng là bậc cao nhân cứu mạng cho mình. Ngày nọ trong thành Nam Kinh, A Tử cô nương bắt mình đem huyết nuôi trùng độc, nhờ sách này mà biết phép hóa nạn. Như vậy thì phương pháp trong này rất hữu dụng.

Từ lúc Du Thản Chi phát giác ra chuyện này gã không lấy việc học tập Phạn văn là một cực hình nữa, gã cố ghi câu sách cùng những lời thầy dạy, bởi gã cũng hy vọng một ngày kia sẽ đọc được cuốn sách trong bọc mình. Gã có linh cảm rằng cuốn sách đó ghi chép những đặc biệt, không thể cho Ba La Tinh hay biết được. Chỉ những lúc gã đi ngủ mới trùm chăn rồi hé ra xem lén một chút.

Những lúc gã coi văn tự trong sách, đồng thời gã coi cả hình người vẽ bên cạnh và dĩ nhiên gã không quên soi kỹ những đường chỉ vàng trong đồ hình, rồi gã dùng ý tưởng bắt đầu luyện công.

Du Thản Chi có ngờ đâu cuốn sách kinh này là Dịch Cân Kinh của Đạt Ma Lão Tổ, vị thủy tổ chùa Thiếu Lâm viết ra. Cuốn kinh này là một bảo điển tối cao về võ học. Gã vô tình gã theo kinh sách mà tu luyện.

Kể ra thì tại chùa Thiếu Lâm từ mấy trăm năm nay không thiếu gì các vị cao tăng tu luyện Dịch Cân Linh, song tổn phí bao nhiêu ngày hằng mệt nhọc mà vẫn không được việc gì đặc sắc, nên các nhà sư cho là kinh này không linh nghiệm. Đến ngày bị A châu lấy cắp đi, các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm tuy có đem lòng căm giận, nhưng vẫn không cho là môt việc quan hệ. Họ có biết đâu rằng sở dĩ những bậc cao tăng tu luyện không thành hiệu quả là vì chưa khám phá ra được hai chữ trước ý. Nếu càng để ý mong mỏi cho công lực chóng tiến bộ thì lại càng không thu lượm được kết quả cao.

Các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm cố tình luyện Dịch Cân Kinh mà chẳng ăn thua gì, còn Du Thản Chi thì trong lúc vô tình gặp nạn mà tu luyện thành hiệu quả.

Thật là:

Cố ý hoa hoa ủ rũ,

Vô tình tiếp liễu, liễu xanh om.

*

Trong đám tăng lữ chùa Thiếu Lâm hơn một trăm năm trước đây có vị thần tăng. Vị này xuất gia từ thuở nhỏ. Người có tính điên khùng. sư phụ nhà sư này cố tâm luyện Dịch Cân Kinh mà không thành giận quá ngồi viên tịch. Nhà sư vô tình lượm được cuốn kinh ở bên mình sư phụ mình, cười ha hả rồi bắt đầu luyện và sau thành một tay cao thủ phi thường. Nhưng cũng chỉ được một đời, võ công nhà sư đến cao cường thế mà đến lúc ngưồi viên tịch, thủy chung vẫn không nói ra được vì lẽ gì mà thành công. Mọi người chẳng ai hiểu đó là hiệu quả "Dịch Cân Kinh."

Du Thản Chi vô tình luyện, gã không biết công lực mình mỗi ngày một tiến bộ, thì ra gã đi đúng con đường của nhà sư điên ngày trước. Phạn văn rất khó học vì cách biến hóa phức tạp vô cùng.

Một hôm Ba La Tinh dạy Du Thản Chi đọc câu: "Na la phạt đại đề" rồi lão cắt nghĩa:

- Có một cô gái tên là Na Phạt. Còn chữ "phạt đại đề" nghĩa là đang nói. Thế là chữ "Lạp" biến thành chữ "La".

Du Thản Chi nhớ kỹ rồi, một lúc sau, Ba La Tinh lại dạy câu: "Na Lạp Hách ba da đề" nghĩa là cô Na Lạp đang nấu cơm. Trong từ ngữ "ba da đề" có thanh âm Ba đứng trước nên chữ na Lạp đổi thành Na Lạp Hách.

Tiếp theo lão dạy đến câu: "Na Lạp Tự đế tư đặc cáp đề" nghĩa là cô Na Lạp đứng đó. Từ ngữ "Đế tư đặc cáp đề", đứng đầu có âm "đế" nên chữ "Na Lạp" biến thành "Na Lạp Tư".

Du Thản Chi dương đôi mắt thao láo ra mà nghe đến co gân đút thịt vẫn ù ù cạc cạc. Gã lẩm bẩm:

- Người Trung quốc nói vắn tắt và rõ ràng bằng một chữ "tram" (nghĩa là đúng) là đủ mà người Hồ bên Tâu Vực lại đọc thôi một tràng dài: "Đề tư mạc cáp đề" gì gì không biết. Thế rồi một cô gái tên là "Na Lạp." Lúc cổ nói ra lại phải đổi thành "Na La", lúc cổ nấu cơm lại thành "Na Lạp Tư".

Chà chà! Có cát tên cổ mà lúc nói lúc thổi cơm, lúc đứng lên đều biến đi. Không biết lúc cô ăn, đi ngủ, cô đi đường, cô mắng người, thì danh tự của cô còn biến ra gì gì nữa... Phạn văn đã khó nhọc như vậy thì tài trí Du Thản Chi không có cách nào hiểu được văn tự Dịch Cân Kinh?

Gã đành cứ đến tối luyện công theo sợi chỉ vàng xây trên hình người trong bản đồ. Ban đầu gã chỉ là chơi, nhưng gã luyện được hơn nửa tháng, bất giác gã thấy luồng hơi mát mẻ theo lõi sợi chỉ vàng trong đồ hình mà đi vào thân thể gã. Luồng hơi này đi đến đâu thì các cơ thể trong người gã cực kỳ khoan khoái dễ chịu. Gã chẳng cần hiểu luồng hơi mát chu du lưu trong thân thể có lợi hại gì cho mình. Gã chỉ thấy khoan khoái dễ chịu là gã cứ luyện đều. Luồng hơi mát mẻ về sau đi quen đường, gã không cần xem sách, có cũng tự nhiên đi đúng đường không lầm lỡ.

Từ đó cả những lúc ăn cơm, lúc đi đường, lúc làm công việc hay đọc sách gã cũng vận động luồng hơi không ngớt.

Giả tỉ Du Thản Chi có tài thông minh để đọc sách như Đoàn Dự, như Vương Ngọc Yến thì pho Dịch Cân Kinh này gã lại không luyện được đến chỗ thành tựu. Vì khi hiểu được ý nghĩa Phạn văn biết cách tu luyện tâm pháp vào hạng võ công cùng thượng thặng, điểm nào cũng để ý cũng cố gắng học đến chỗ tinh vi thì không khỏi phạm vào hai chữ trước ý. Môn này tuy làm cho thân thể người thêm phần cường kiện đẩy lùi được bệnh hoạn, song đối với những người đã có cõ công hạng thượng thặng thì không bổ ích gì.

Cuốn Dịch Cân Kinh này Kiều Phong đánh rớt. Du Thản Chi lượm được. Nhưng nếu Kiều Phong không để thất lạc, rồi ông học thêm chữ Phạn, luyện tập theo đúng phương pháp thì ông có là người khoáng đạt sáng suốt đến đâu, cũng không khỏi đem lòng mong mỏi cho công lực mình một ngày tinh tiến. Nếu luyện Dịch Cân Kinh theo lối đó thì chỉ tốn công vô ích mà thôi. Xem thế đủ biết lẽ cùng thông, họa, phúc, đều do cơ duyên quyết định, chớ không phải cưỡng cầu mà được.

Có luồng hơi mát không vận hành trong người Du Thản Chi theo đường lối trong đồ hình, thế là gã bỏ không luyện nữa. Mà thật là kỳ quái! Có khi gã để cách mươi ngày hay nửa tháng mới luyện lại luồng hơi vẫn chạy thông đông không vấp váp.

Trong các môn võ học, bất luận môn gì cũng theo đà luyện tập mà tiến bộ thêm. Dù người cần mẩn đến đâu cũng khó có thể luyện qua sáu giờ trong một ngày, chỉ có môn "Dịch Cân Kinh" là không phải vận nội công, cũng không cần chú ý mà có thể vận hành không ngớt được. Nên dù lúc đang ngủ, công lực cũng tăng tiến.

Đông tàn, Xuân lại Hạ qua, Thu tới, được hơn một năm.

Du Thản Chi ban đầu môn học Phạn văn cho hiểu nghĩa sách, nhưng càng học càng thấy khó. Gã muốn xem chừng muốn học cho thông nghĩa sách thì dù cặm cụi suốt đời cũng không thành công, nên gã bỏ ý niệm đó. Ba La Tinh, cũng đâm ra chán nản, sau tức mình quá lão đánh đập Du Thản Chi luôn mấy ngày chứ không dạy chữ.

Du Thản Chi lặng lẽ chịu đòn, nhưng gã cảm thấy lão càng đánh nhiều cũng chẳng thấy gì, chỉ thấy hơi ngứa mà không đau đớn. Gã cho là Ba La Tinh đánh chịu đòn, chứ có hiểu đâu rằng công lực mình mỗi ngày mỗi tiến bộ và đã đến lúc tự bảo vệ được cho mình.

Một hôm xế chiều, Ba La Tinh dạy kinh sách một lúc, nhưng Du Thản Chi chẳng hiểu gì ráo. Lão tức quá phóng cả quyền cước hầm hầm đánh gã một hồi.

Nhưng lúc gã chạy rồi thì lão lại tự thương thân mình nét mặt buồn rầu vô hạn. Lão nghĩ mình bị quần tăng chùa Thiếu Lâm giam cầm không cho về cố hương. Lão toan dạy Phạn văn, Du Thản Chi để gã học thuộc kinh sách rồi cho gã về Thiên Trúc đọc lại thế thì mình dù có phải vì theo mệnh lệnh sư phụ mà xương táng quê người cũng đã góp được phần công đức với bản phái, là làm cho những kinh sách bị thất lạc trở về đất cũ. Song gã mặt sắt ngu như trâu dốt như bò, cố dạy hơn một năm mà chưa thuộc nổi mười trang. Thế thì đến đời kiếp nào thì gã mới thuộc hết được ba mươi mấy pho kinh, chắc là đến lúc mình chết cũng chưa xong.

Lão bị thương rồi khóc rống lên một hồi thì đột nhiên tự đằng xa có khúc tiêu vọng lại thoang thoảng lọt vào tai lão.

Hiện nay nội công Du Thản Chi đã tiến đến mực mắt tinh, tai thính nên gã thoáng nghe tiếng sáo lọt vào tai. Chùa Thiếu Lâm phòng viện rộng lớn, sư sãi tu hành thanh tĩnh, cấm tiệt tiếng tơ tiếng trúc. Trong vòng mấy dặm, trước nay không nghe thấy tiếng âm nhạc bao giờ, vậy thì tiếng sáo này ở đâu mà ra?

Du Thản Chi không hiểu nhạc luật, song gã nghe rõ tiếng sáo lúc nhát gừng, lúc liên tục khi lên bổng khi xuống trầm, thanh âm cực kì quái dị. Gã còn đang ngơ ngẩn kinh ngạc, bỗng nghe bên kia vách ngăn trong phòng Ba La Tinh, cũng nổi lên ba hồi sáo lanh lảnh. Gã liền ghé mắt vào kẽ vách để nhìn sang thì thấy Ba La Tinh tay cầm ống sáo ngắn để lên môi đang thổi. Nhưng lão chỉ thổi ba hồi rồi hạ xuống đút vào bọc vẻ mặt tươi cười hớn hở, vùi đầu vào xuống ngủ.

Từ ngày Du Thản Chi đến ở với Ba La Tinh, chưa bao giờ lão thấy gã hí hửng như bữa nay thì tự hỏi:

- Mấy tiếng sáo vừa rồi hẳn là điều gì quan trọng? Phải chăng lão có đồng bạn ở bên Thiên Trúc qua đây đã tiếp ứng cho lão? Mấy tiếng sáo này Ba La Tinh và Du Thản Chi dĩ nhiên đã nghe thấy rồi, vậy chắc trong chùa Thiếu Lâm cũng có mấy vị cao tăng nghe rõ.

Quả nhiên chưởng môn phương trượng truyền pháp dụ ra cho các nơi phải gia tâm phòng bị để cản trở địch nhân xông vào chùa Thiếu Lâm đồng thời phải coi chừng Ba La Tinh, đừng để cho lão trốn thoát. Ngờ đâu nửa tháng trời, tuyệt không có sự gì xảy ra, mà cũng không có động tĩnh nào khác lạ. Việc đề phòng tại chùa Thiếu Lâm dần dần trở lại sơ thoáng trễ tràng.

Một đêm kia, giữa lúc canh khuya Du Thản Chi đang ngủ say bất thình lình bỗng nghe có tiếng "chí chí" rất khẽ. Một là hiện nay nội công gã tinh tiến, hai là gã thích chơi rắn rết từ thuở nhỏ, nên vừa nge tiếng rắn độc phì phì là gã biết ngay. Gã ngồi nhỏm dậy lắng tai nghe thì phát giác ra rằng "chí chí" đó ngay ở phòng bên. Du Thản Chi toan lên tiếng đánh thức Ba La Tinh phải đề phòng có rắn độc bò đến. Gã chưa kịp mở miệng thì lại nghe mấy tiếng sáo vu vi giống hệt những tiếng mà Ba La Tinh đã thổi trước đây trên nửa tháng.

Du Thản Chi động tánh hiếu kì, lại ghé mắt qua khe vách ván. Thì eo ôi! Đầy phòng Ba La Tinh toàn là rắn độc cỡ có đến mấy ngàn con. Con nào cũng cất đầu lên ngất ngưỡng nhìn Ba La Tinh, dường như muốn nhảy xổ vào.

Du Thản Chi lẩm bẩm:

- Chí nguy! Thật là chí nguy! Tìm cách nào mà cứu được lão bây giờ?

Gã định thần nhìn thì thấy đàn rắn dừng lại xung quanh Ba La Tinh còn cách ngoài ba thước, mặc dầu những con bên ngoài bò đẩy những con trong cũng chỉ đứng lại trước cái vòng tròn vô hình không xê xịch tiến thêm một tấc nào nữa.

Du Thản Chi nhớ lại bữa trước nhà sư Tam Tĩnh dùng thuốc kỵ vạch vòng tròn để ngăn ngừa con tằm kỳ dị không dám tiến qua, gã chắc rằng Ba La Tinh cũng dùng được vật gì khắc chế các loài rắn độc như Tam Tĩnh đã kiềm chế con tằm kỳ dị kia.

Nghĩ vậy, Du Thản Chi cảm thấy trong lòng ổn định được một chút. Gã chỉ còn chưa hiểu rõ một vấn đề:

- Tại sao bao nhiêu rắn độc ùn ùn kéo về đây?

Bỗng thấy Ba La Tinh cầm ống sáo đưa lên miệng thổi. Nhưng lần này lão thổi một khúc nhạc rất du dương rất êm ái lọt tai. Trong mấy ngàn con rắn độc này, bỗng có hai con sắc vàng lắc lư theo nhịp của tiếng sáo. Còn ngoài ra cả đàn rắn: xanh có, đen có, sặc sở có, thì chỉ ngếch đầu lên mà nhìn, chứ không nhúc nhích, nên hai con sắc vàng lắc lư cái đầu theo nhịp nhạc trông càng rõ rệt.

Tiếng sáo của Ba La Tinh mỗi lúc một lên cao, mấy con rắn đi lượn vòng vèo ra ngoài nhà chơi, rồi hơn chục con khác cũng theo ra.

Bất thình lình ngoài cửa có tiếng người kinh hãi, la lên:

- Rắn độc! Trời ơi! Rắn độc kéo đến đông quá!

Lại có tiếng người khác nói tiếp:

- Vị Hồ tăng bên Thiên Trúc không chừng bị rắn độc cắn chết rồi? Không hiểu tại sao rắn về nhiều thế?

Một người nữa lại nói:

- Hãy khoan đừng nhhốn nháo! Để coi cho rõ rồi sẽ báo.

Du Thản Chi biết ngay đây là những nhà sư chùa Thiếu Lâm đến để canh chừng Ba La Tinh. Ba la Tinh thổi sáo mỗi lúc một lên cao. Đàn rắn độc trong phòng mỗi lúc ra ngoài một đông, dường như lũ rắn không chịu nổi tiếng sáo bổng và réo rắt, chúng tới tấp chạy đi. Số đông cất đầu lên rất cao, chỉ còn khúc đuôi ở dưới đất chống lấy cái mình ngất ngểu múa lên.

Ba La Tinh thổi sáo một hồi nữa thì dường như hết hơi. Đàn rắn độc trong nhà tranh nhau chạy ra. Bốn nhà sư đứng ngoài cửa la lối om sòm.

- Lạ quá! Suốt đời tôi chưa bao giờ thấy nhiều rắn như bữa nay!

Có vị nói:

- Phải chăng vị hòa thượng Thiên Trúc này nguyên là xà linh xuất thế?

Có vị nói:

- Ta phải mau mau về bảo với Huyền Nạn sư bá!

Hai con rắn vàng sau bò lại rất nhanh khiến cho Du Thản Chi trông thấy phải hoa mắt. Đột nhiên đánh "bịch" một tiếng, một con rắn vàng không chống nỗi nữa, ngã lăn ra nằm dãy. Tiếp theo con rắn vàng kia cũng ngã xuống.

Ba La Tinh vương tay ra nắm lấy một con. Lão lấy một miếng vải dày phủ lên đầu nó lật ngửa con rắn lên sờ soạn một lúc rồi lấy lưỡi dao con rạch vào dụng rắn một đường dài chừng nửa tấc. Đoạn lão nắn đi nắn lại mấy cái rút ra một cái ống dài chừng ba tấc tựa hồ như một khúc ruột non.

Ba La Tinh người run run bốc ra. Bên ngoài có một cuộn tròn nhỏ xíu. Lão mở ra thì là một mảnh giấy rất mỏng có viết chữ nhỏ dày chi chít. Du Thản Chi rất lấy làm kỳ, tự hỏi:

- Tại sao trong bụng rắn lại có chữ?

Gã ngưng thần coi kỹ lại thì thấy trên chữ trên mảnh giấy này ngoằn ngoèo theo lối chữ Phạn nước Thiên Trúc. Bấy giờ gã mới tỉnh ngộ, lẩm bẩm một mình:

- Phải rồi! Con rắn này là của đồng bọn lão ta cho đến để đưa tin.

Du Thản Chi còn đang ngẫm nghĩ thì thấy Ba La Tinh lại theo cách trước mổ bụng con rắn vàng thứ hai và lấy ra khúc nữa trong cũng có một mảnh giấy. Lão mở mảnh giấy ra xem. Du Thản Chi chú ý nhìn trộm thì văn tự trong mảnh giấy này giống hệt mảnh giấy trước. Ba La Tinh đưa mắt đọc chữ trên mảnh giấy một lượt rồi để sang một bên.

Du Thản Chi lẩm bẩm:

- Đối phương hành động cực kỳ chu đáo, họ sợ một con rắn độc dọc đường có thể xảy ra chuyện bất ngờ nên dùng hai con rắn đem tin. Thư tín trong bụng hai con rắn cũng chỉ coi là một.

Bỗng thấy Ba La Tinh lật dưới chiếu lên lấy ra một mảnh giấy mỏng dùng hòn than nhỏ viết mấy hàng chữ rất nhanh rồi cũng cuốn lại cho vào khúc ruột giả ấy nhét vào bụng rắn. Lão lại xé một mảnh áo buộc vết thương lại cho hai con rắn. Đoạn lão mở cửa liệng một con vào đống cỏ rậm. lão toan thả nốt con rắn thứ hai thì đột nhiên đánh "binh" một tiếng ván cửa bị chưởng phong đánh bật ra.

Đèn lửa trong nhà bị luồng gió tạt đi. Giữa lúc này trong phòng xuất hiện thêm bốn vị lão tăng. Nhà sư đứng đầu bên tả phóng chưởng ra trên không vù vù mấy tiếng nhằm đánh vào tay phải Ba La Tinh. Ba La Tinh cảm thấy tay phải bị tê nhức. Con rắn cầm trong tay này đánh rơi xuống đất. Nhà sư đầu mé hữu đưa ngón tay ra lách cách mấy tiếng con rắn nhảy lên một cái. Sau mấy tiếng bật ngón tay, đầu rắn sưng húp lên huyết nhục nhão ra, liền chết tại chỗ.

Du Thản Chi cả kinh nghĩ thầm:

- Thần công vị lão hòa thượng này đến thế là cùng! Bật tay trên không mà đánh chết được con rắn.

Bỗng thấy nhà sư vừa đánh chết con rắn lên tiếng:

- Vị thần phải nể cây da. Tệ tự kính ngưỡng Đức Phật Tổ nên sư huynh phạm lỗi lớn là lén vào Tàng Kinh Lâu lấy trộm sách cũng bỏ đi không cứu xét. Tệ tự chỉ lưu sư huynh lại để trọn kiếp tu hành. Thế mà sư huynh gọi rắn rết về nơi cửa Phật là chỗ thanh tịnh làm gì? Như vậy há phải hành động của bậc chân tu!

Ba La Tinh chỉ nhắm mắt chắp tay nhưng không nói gì. Một vị lão tăng khác nói:

- Con rắn này tất có điều chi kỳ lạ. Tam Thông! Ngươi lượm con rắn đó đem ra ngoài xem xét lại coi. Tại sao mình nó lại quấn băng vải.

Ba La Tinh nghe nói vậy biết rằng cơ mưu của mình đã bị bại lộ, liền phóng chưởng ra nhằm đánh vào con rắn. Một vị lão tăng đứng ngoài cửa, phất tay áo thầy tu một cái, một luồng kình phong phát ra vù vù cản luồng chưởng phong của Ba La Tinh lại. Ðồng thời đèn lửa trong phòng tắt phụt. Bụi bặm cùng vôi vữa trên nóc nhà rơi xuống lả tả. Một nhà sư đứng tuổi ở ngoài cửa chính là Tam Thông cúi xuống lượm con rắn chết lên rồi lui ra ngoài.

Bốn vị lão tăng đồng thời cất tiếng niện:

- Nam mô Phật tổ cứu độ chúng sinh!

Đồng thời phất tay áo một cái, luồng chưởng phong nổi lên cực mạnh, tấm ván cửa bật ra rồi bay đi rất xa lâu lắm mới rớt xuống.

Bốn nhà sư cũng băng mình ra cửa cùng môt lúc, không có kẻ trước người sau. Kể ra khuôn cửa này chỉ rộng đủ chỗ cho hai nhà sư sóng vai bay ra. Ấy thế mà cả bốn vị vừa né lách coi như một phiến liền bay ra lọt mới kỳ.

Du Thản Chi đứng ở phòng bên thấy thế không khỏi sinh hồn động phách, lẩm bẩm:

- Trên thế gian sao lại có hạng võ công ghê gớm đến thế? Kẻ đại cừu của ta là Kiều Phong tự xưng "Thiên hạ vô địch" nhưng đem so với mấy vị cao tăng này chưa chắc thấm vào đâu?

Thật ra bốn vị lão tăng này tuy công lực thâm hậu nhưng so với Kiều Phong một tay thần võ, hãy còn kém xa. Kể về võ công thì hiện giờ Du Thản Chi cũng đã hơn bốn vị lão tăng nầy rồi. Có điều gã không tự biết mà thôi.

Ba La Tinh thấy bốn nhà sư ra khỏi rồi, ván cửa cũng rời ra. Những trận gió thu thổi ào ào vào phòng càng tăng thêm vẻ tiêu điều. Lão nghĩ tới con hoàng xà đã vào tay đối phương, lại chùa Thiếu Lâm thế nào chả có người hiểu Phạn văn và những điều bí mật của mình tất bị họ khám phá. Thế là giấc mộng trở về Thiên Trúc lại tan ra bọt nước. Lão càng nghĩ càng buồn rầu, rồi đột nhiên nằm phục xuống khóc rống lên.

Du Thản Chi thấy Ba La Tinh khóc lóc cực kỳ thống thiết, trong lòng bất nhẫn lên tiếng an ủi lão:

- Sư phụ! Mới có một con rắn bị họ đánh chết, còn con kia trốn thoát rồi cũng đủ đưa tin đi, hà tất sư phụ phải đau lòng như vậy?

Ba La Tinh nghe lão nói thế, ngừng bật tiếng khóc, bảo:

- Ngươi... Ngươi ra đây!

Du Thản Chi đứng dậy chạy ra phòng lão nói:

- Tiểu nhân đi tìm những tấm ván cửa lấp lại đã!

Ba La Tinh nói:

- Khoan đã! Sao ngươi biết ta còn một con rắn nữa trốn thoát?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân nhìn rõ cả sư phụ nhét một miếng giấy vào bụng nó.

Ba La Tinh đáp:

- Hừ! Không phải tâm ta độc ác với ngươi, nhưng ngươi đã phát giác ra điều bí mật của ta. Vậy ta dung ngươi thế nào được?

Nói xong đột nhiên lão đứng phắt dậy nhảy xổ tới sau lưng Du Thản Chi, giơ hai tay ra bóp chặt cổ gã. Du Thản Chi bị Ba La Tinh nghẹn cổ muốn hô hoán lên, nhưng không kêu ra tiếng được. Gã thấy bốn ngón tay lão cứng như sắt mội lúc một ghịt chặt thêm. Gã bị người đè nén ngược đãi quen rồi, không nghĩ gì đến ra tay kháng cự.

Trong lòng gã những muốn năn nỉ:

- Sư phụ ơi! Xin sư phụ nới tay! Tiểu nhân không dám đưa việc hoàng xà đó nói với ai đâu?

Mà không sao nói ra được. Ba La Tinh không sao nghe tiếng gã lầm bầm mà dù cho lão có nghe thấy chăng nữa, cũng không chịu dung tha. Du Thản Chi vừa đau đớn vừa sợ hãi quá, quỳ mọp ngay xuống nhưng Ba La Tinh chỉ mỗi lúc một rít chặt tay thêm. Du Thản Chi thấy tối tăm mặt mũi, nghĩ thầm:

- Phen này ta đành chịu chết rồi!

Bỗng nghe phía sau có người hắng giọng rồi lên tiếng nói. Ba La Tinh thấy có hai nhà sư Thiếu lâm đến nơi, đành phải buông Du Thản Chi, giọng xẵng hỏi:

- Các ngươi đến đây có việc chi?

Một nhà sư Thiếu Lâm lùi lại một bước, nấp vào sau nhà sư kia rồi mở mảnh giấy đọc mấy câu li la li lô, đoạn nói tiếp:

- Bức thư gởi cho đại sư đại ý nói: đến đêm trăng tròn sau người sẽ đến chùa để đón đại sư. Ha ha! Đáng tiếc, thật là đáng tiếc.

Ba La Tinh hỏi:

- Tiếc cái gì?

Nhà sư kia nói:

- Đáng tiếc không giữ được kín đáo. Phong bì này bị bần tăng khám phá ra được.

Ba La Tinh cáu tiết nói:

- Bọn Hòa Thượng Trung Nguyên các ngươi đều là phường vong ân bội nghĩa. Các ngươi đã qua bên Thiên Trúc lấy kinh về rồi giữ làm của mình. Ta đây bất quá mượn xem lại chỉ vì các kinh này cũng chỉ của Thiên Trúc mà ra. Các ngươi uống nước mà không biết nhớ nguồn. Sao không nghĩ đến chỗ những king sách vì đâu mà có?

Nhà sư kia đáp:

- Nếu sư huynh chỉ coi kinh cũ của Thiên Trúc thì chúng tôi quyết không ngăn trở làm gì. Đừng nói sư huynh lấy ra đọc, mà có bản sao lại thì chùa Thiếu Lâm chúng tôi cũng xin làm giúp để hoàn thành công đức là đã giữ được những pho kinh cũ quy hoàn bên Thiên Trúc. Nhưng sư huynh lại xem trộm những bí lục về võ học của các vị cao tăng bao nhiêu đời của chùa Thiếu Lâm soạn rạ Như thế thì không thể được.

Ba La Tinh tức giận nói:

- Ta đọc là đọc những kinh sách bằng chữ Phạn của nước Thiên Trúc bọn sư sãi Trung Nguyên các ngươi làm gì có kinh sách bằng chữ Phạn?

Nhà sư kia đáp:

- Ấy chính chỗ đó mới là kỳ dị...

Du Thản Chi nghe hai bên tranh biện, cũng đem lòng suy luận xem ai phải ai trái. Gã lẩm bẩm:

- Kể ra thì chùa Thiếu Lâm đối xử với nhà sư Thiên Trúc không có gì quá đáng, chỉ giữ lão không cho rời khỏi chùa này mà thôi. Nhưng biết đâu canh khuya tịch mịch, lão không giết mình. Nếu bây giờ không trốn đi, e rằng khó lòng toàn mạng.

Nghĩ vậy gã rảo bước ra khỏi rừng trúc, quanh qua vườn rau, gã nhìn không thấy ai liền co giò chạy tuốt. Gã chạy mỗi lúc một mau thoáng cái đã qua hai ngọn núi. Gã cảm thấy nhẹ nhàng gặp những tảng đá lớn, gã chỉ khoa chân một cái nhảy qua, hay gặp khe lạch, gã chỉ đề thí là nhảy sang bờ bên kia như không?

Du Thản Chi cắm cổ chạy một lèo. Khi ngoảng đầu lại coi thấy chùa Thiếu Lâm ẩn hiện trong đám rừng cây và cách đã xa rồi.

Gã dừng bước lại, trong lòng rất lấy làm quái dị tự hỏi:

- Sao mình chạy được nhiều đường đất đến thế mà không chút mệt nhọc? Sao mình chạy bước lại mau lẹ khác thường? Hay là... có ma đưa lối quỷ đưa đường?

Du Thản Chi đang ngẫm nghĩ, bỗng thấy những ngọn khói cuồn cuộn bốc lên trên không ở phía sau chùa, thì khinh sợ lẩm bẩm:

- Chà chà! Trong chùa đang nấu cơm. Lát nữa Ba La Tinh bảo mình đi lấy cơm, lão không thấy tất lên tiếng gọi và bọn thầy chùa tất đuổi theo mình.

Nghĩ tình cảnh bị bắt về chùa, chắc chết mất mạng, gã lại co dò chạy tuốt. Lần này gã hoang mang quá không phân biệt đường lối cứ nhằm vào đám rừng hoang rậm rạp mà chạy dài, với ý nghĩ xa chùa Thiếu Lâm được chừng nào hay chừng nấy.

Du Thản Chi chạy hồi lâu, quay đầu nhìn lại phía chùa Thiếu Lâm thì thấy rừng núi trùng điệp, không còn thấy mái chùa đâu nữa, gã đã hơi yên dạ. Nhưng gã vẫn chưa hết băn khoăn, lủi vào trong bụi cỏ rậm để nghe ngóng bốn mặt xem có động tịnh gì không.

Trong hang động chim hót líu lo, trùng kêu rộn rã. Giữa cảnh hoang vu u tịch, về góc Tây bắc, đột nhiên có hồi sáo thổi vọng lại. Du Thản Chi giật mình đánh thót một cái, vì tiếng sáo này giống hệt tiếng sáo Ba La Tinh thổi hôm trước để gọi rắn độc về. Gã toan đứng dậy chạy trốn mà không hiểu tại sao chân mình tựa hồ đóng đinh xuống đất không sao nhúc nhích được. Gã lại càng hoảng hốt la thêm "Có ma! Có ma!."

Thực ra chỉ vì gã khiếp sợ quá và cặp giò nhủn ra. Tiếng sáo mỗi lúc một gần, Du Thản Chi ngồi trong cỏ rậm dương mắt lên nhìn thì thấy trên sườn núi mé Tây Bắc có hơn mười nhà sư người Hồ, mình mặc áo vàng để lộ tay trái ra ngoài.

Người nào mặt cũng đen thui, rõ ràng cùng một chủng tộc với Ba La Tinh. Bọn Hồ tăng này chạy đến đầu mé núi tả thì xếp bằng ngồi xuống, cứ bốn người một chỗ, cả thảy mười sáu người.

Hồi Thứ 54

Cuộc tỉ thí nội công giữa hai phái Tinh Tú và Hồ tăng

Du Thản Chi rất lấy làm kỳ nghĩ thầm:

- Chốn này hoang sơn tịch mịch, tứ phía không người, mười sáu nhà sư người Hồ giở trò yêu ngoa quỷ quái gì đây? Chẳng lẽ họ đến tìm mình?

Sự thực tuy không phải thế, nhưng gã như con chim phải tên sợ cây cung, gã nấp vào trong bụi cỏ rậm, không dám nhúc nhích. Bỗng thấy mười sáu vị Hồ tăng ngồi xuống rồi miệng đọc lâm râm. Lúc đầu thanh âm nhỏ như tiếng muỗi vo ve, rồi dần dần một lúc một cao giọng. Du Thản Chi thấy họ niệm những gì "Mầu ni ha ma hống" dường như là những câu thần chú tiếng Phạn. Mỗi khi gã nghe những từ ngữ đoạn văn là y như nhức đầu, bọn Hồ tăng này lại tụng niệm thanh âm vang dội, cả mười sáu người cùng một giọng giống nhau lúc khoan lúc nhặt, khi ngắn khi dài.

Cả mười sáu người tụng niệm rất đều nhau, khác nào do miệng một người phát ra thanh âm. Lúc tiếng tụng niệm lên cao đến cùng cực thì góc Đông Bắc vọng lại mấy tiếng u ú khác nào tiếng quỷ hú lúc canh ba, thanh âm này tuy nhỏ bé mà người nghe không khỏi ớn da gà. Thanh âm vừa vọng đến thì tiếng tụng niệm mười sáu gã Hồ tăng lập tức rối loạn, song chỉ một lát lại đồng đều như trước.

Tiếng u ú như quỷ hồn vang lên hai lượt thì thanh âm tụng niệm Phạn ngữ của Hồ tăng cũng bị nhốn nháo hai lần. Du Thản Chi để ý nhìn vẻ mặt mười sáu vị Hồ tăng thì thấy có người ra chiều phẫn nộ, có người lộ vẻ kinh hoàng. Bây giờ mười sáu người này chia làm chia làm hai toán: một toán tám người tụng niệm tiếng Phạn, còn một toán nữa lại tụng niệm lối khác. Đồng thời thanh âm bên kia cũng phân làm hai loại rú lên hai thứ tiếng "ú ú" "toe toe" khác nhau.

Thanh âm bọn Hồ tăng lại hỗn loạn rồi chia làm bốn tốp, tụng niệm bốn loại thần chú khác nhau.

Du Thản Chi dường như đã đoán ra bảy tám phần. gã tự hỏi:

- Bọn chống đối đám Hồ tăng là ai?

Rồi gã tự trả lời:

- Đương nhiên là các nhà sư chùa Thiếu Lâm. Chắc hẳn bọn Hồ tăng này đến tiếp viện đón Ba La Tinh về nước và một đằng các nhà ư chùa Thiếu Lâm nhất định giữ lại không buông tha.

Gã suy nghĩ một lát rồi biết mình đoán lầm một phần.

Từ góc Đông Bắc một toán người từ từ đi đến. Giữa đám người này có một lão già thân thể cao to lớn vạm vỡ, so với người xung quanh cao hơn nửa cái đầu. Lão này chúm môi huýt sáo. Mỗi lần huýt sáo lạ in phát ra tiếng "vú" như quỷ gào. Tám người này đều mặc áo đơm bằng vải gai màu vàng và mỗi người đều cầm một cây cương trượng vừa dài vừa lớn. Đặc biệt là trong tay lão già cầm một cây quạt lông. Sắc mặt hồng hào tươi đẹp như người còn ít tuổi. Đầu tóc lão bạc phơ. Dưới cằm ba thước râu bạc. Trông lão khác nào như một vị tiên đồng nhan hạt phát trong tranh vẽ.

Toán người này đi lại còn cách bọn Hồ tăng vài trượng thì dừng bước. Lão già chúm môi huýt sáo phát ra mấy tiếng rùng rợn. Bọn Hồ tăng không chống nổi, ba người công lực kém nhất ngã lăn ra trước. Lão già khẽ phe phẩy quạt lông lại huýt sáo mấy hồi nữa, lão dùng quạt lông quạt một cái tiếng sáo phóng ra xa. Bốn Hồ tăng khác ngồi đối diện với lão lại ngã lăn ra.

Tình trạng này khiến cho các nhà sư người Hồ tụng niệm Phạn chú hoảng loạn cả lên. Còn chín lão Hồ tăng gắng gượng chống chọi, đồng thời lộn đầu xuống giơ chân lên, xoay tít người.

Du Thản Chi đã nhìn thấy Ba La Tinh hôm trước đây dùng thân pháp này để kháng cự các nhà sư chùa Thiếu Lâm. Gã biết rằng đây là một thế võ oai lực rất mạnh của bọn Hồ tăng. Lão già phe kia lộ vẻ mỉm cười nhằm đúng chỗ sơ hở của đối phương lại huýt sáo "toe toe" lên một tiếng. Bên Hồ tăng có người té theo, có người nghiêng mình đi tránh được, chỉ lảo đảo mấy cái rồi đứng vững lại.

Tiếng huýt sáo của lão già chẳng khác gì một thứ ám khí hũu chất vô hình lợi hại. Trong khoảng thời gian chừng hơn cháy hết tuần hương, chín lão Hồ tăng lại có bốn lão ngã xuống. Bọn người tùy tùng lão già phe kia thi nhau tán tụng lão.

Nào là:

- Công lực sư phụ thật chấn động cổ kim. Bọn Hồ tăng kia chống đối với phái ta phỏng khác gì lùa đom đóm tranh sáng với ánh mặt trời.

Nào là:

- Đối phương tựa hồ châu chấu đá voi, không biết tự lượng sức mình. Buồn cười quá!

Nào là:

- Sư phụ giỡn chơi mà đẩy được bọn yêu ma quỷ quái vào đất chết, khác nào nhổ cỏ khô bẻ cành mục.

Bọn đồ nhi chẳng những chưa từng mắt thấy mà cũng chưa từng được nghe ai nói đến bao giờ. Nào là:

- Đây là một kỳ công vỉ tích không tiền khoáng hậu. Nếu không có sư phụ thì bọn Hồ tăng bên Thiên Trúc này coi Đông thổ không còn có ai, mà bọn họ hoành hành không còn úy kỵ gì nữa.

Nào là:

- Có điều đáng tiếc là những nhân sĩ của các phái võ Trung Nguyên chưa được chứng kiến cuộc này, nên dù có kể lại họ nghe thì những người hũ hậu đó chưa chắc đã tin là sự thực.

Bọn đồ đệ xúm vào tán tụng sư phụ chẳng hiểu câu gì. Nhưng lão già vẫn chúm môi huýt sáo. Tiếng sáo nhọn như mũi tên bắn ra tuyệt không để làm cho lời ca tụng làm trở ngại. Tình thế đã rõ rệt! Lão già chỉ thổi mấy hơi nữa là mười sáu lão Hồ Tăng đều bị chế phục.

Thốt nhiên đến nỗi lên mấy tiếng sáo lanh lảnh do một người trong đám Hồ Tăng thổi lên. Du Thản Chi chú ý nhìn ra thấy một người trong năm vị Hồ Tăng đứng lộn ngược, đưa ống sáo lên miệng gắng sức thổi. Còn bốn nhà sư kia bày thành hàng chữ nhất xoay chuyển rất mau như đèn kéo quân để hộ vệ cho lão đứng giữa thổi sáo và ngăn ngừa cho tiếng sáo huýt bên địch không xâm nhập.

Du Thản Chi hỏi:

- Y thổi ống sáo làm chi vậy?

Bỗng thấy trong đám cỏ rậm bên cạnh mình có tiếng phì phì. Một con rắn ngũ sắc chiếu ra, Du Thản Chi biết con rắn này cực độc. Gã còn biết rõ rằng dù người có sợ rắn, mà thực ra thì bất luận là rắn độc, hay ác thú vẫn sợ người hơn là người sợ chúng. Miễn là người đừng trêu cho nó tức giận thì không bao giờ nó nhảy vào cắn người.

Nghĩ vậy gã nằm im thin thít trong đống cỏ không dám nhút nhích. Gã nhìn thấy con rắn độc này đứng thẳng đầu lên ngất ngưởng đi về phía lão già.

Trước khi con rắn chưa ra khỏi bụi rậm, bọn đệ tử đứng bên lão già đã sợ hãi, có kẻ la:

- Rắn độc! Rắn độc!

Tên khác la:

- Chao ôi! Nguy rồi!

Tên khác gọi:

- Sư phụ ơi! Bọn rắn độc dường như xông lại phía chúng ta.

Du Thản Chi ngước mắt nhìn ra ngoài thì thấy mười mấy con rắn đủ cỡ bốn mặt xông vào lão già cùng bọn đệ tử. Bọn này lại kêu loạn lên. Nào là:

- Đáng tiếc là chiếc Bích Ngọc Vương Đỉnh kỵ rắn lại không có ở đây!

Nào là:

- Con tiện tỳ A Tử! Phen này bắt được nó thì phải phanh thây làm muôn đoạn!

Nào là:

- Nói lắm vô ích, đánh mau đi, đánh mau đi?

Nào là:

- A Tử không ăn cắp đỉnh ngọc đem đi thì... chao ôi! Nguy rồi!

Du Thản Chi nghe bọn này đề cập đến A Tử, ban đầu gã còn cho là người khác. Sau gã nghe thấy một người nói đến A Tử và đề cập đến đỉnh ngọc là vật chi bảo để chế khắc rắn độc thì trống ngực gã đánh thình thình.

Gã lẩm bẩm:

- Đúng là bọn chúng nói tới cô nương rồi. Chẳng lẽ cái đỉnh ngọc đó cô nương đã lấy trộm của bọn chúng đem đi.

Bọn đệ tử giơ cương trượng lên nhắm vào chỗ lũ rắn độc bò đến đập xuống. Chỉ có lão già thần sắc vẫn thản nhiên và chúm chím môi huýt sáo nhắm đối phương tấn công. Bọn Hồ Tăng đứng đối diện thấy tiếng sáo huýt không ngớt, bốn lão Hồ tăng kia lại càng hồi hộp.

Du Thản Chi nghĩ bụng:

- Khu vực này bát ngát thì mấy con rắn độc kia chỉ một lúc là bị bọn họ dùng cương trượng đánh chết hết, chứ làm cóc gì được?

Nhưng đàn rắn đến mỗi lúc mỗi nhiều. Chỉ trong khoảnh khắc xung quanh bọn người này đã có đến hàng mấy trăm con tụ tập. Trong đám này lại có đến ba bốn con trăn lớn. Mấy con rắn lại gần đến nơi hất khúc đuôi lên trước quấn chặt lấy hai tên đồ đệ tiếp theo lại hai tên nữa bị trăn quấn. Kể ra thì khi bọn này vừa thấy rắn mà co giò trốn chạy thì đàn rắn thế nào đuổi kịp được. Nhưng khốn nổi sư phụ còn đang nghinh địch, khi nào đồ đệ dám bỏ đi. Chúng đánh múa tít binh khi đập xuống ầm ầm. Họ đập một lúc chết được tám chín chục con, nhưng cũng đến bảy tám tên phải bị rắn cắn bị thương.

Mấy con trăn thực là lợi hại, da to thịt dầy, bị cương trượng đánh mà nó vẫn còn đi được như không việc gì. Khi nó đã quấn được thì mỗi lúc một chặt thêm không không chịu buông tha. Tiếng sáo thổi mỗi lúc một gay gắt thêm thì đồng thời giống trăn lớn cũng đến nhiều. Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm đã thấy gần hai mươi con bò lại. Lão già thấy tình thế nguy cấp toan bỏ chạy, không ngờ bị hai con rắn nhỏ bất thình lình nhảy chồm lên cắn vào mặt.

Lão giận quá quát lên một tiếng:

- Gớm thật! Rồi vung quạt lông đánh mạnh rạ hai con rắn nhỏ bị đánh rớt xuống, đột nhiên lão lại thấy một vật nhũn ở gót chân. Lão biết là nguy rồi, liền nhảy vọt lên cao. Bỗng nghe mấy tiếng sáo lanh lảnh, bốn con trăn đồng thời tung khẩu đuôi lên quấn đuôi vào người lão.

Lão già còn đang lơ lửng trên không phóng hai chưởng ra đánh "binh binh." Lập tức hai con trăn ở trước mặt và bên tả bị hất ra, chúng loạng choạng rồi bắn ra hai trượng. Giữa lúc ấy hai con trăn lớn khác lại tung khấu đuôi đánh tới. Trong lúc nguy cấp lão vận kinh lực đoạn đánh ra một chưởng. Chưởng phong cực kỳ mãnh liệt đánh đập nát đầu con trăn. Lúc này lão mãi vận kình lực để chống cự với những con trăn lớn, miệng không huýt sáo được.

Bốn vị Hồ Tăng nhân lúc rãnh tay đều lấy ống sáo ngắn ra thổi lên. Lúc năm ống sáo cùng lên tiếng thì đàn rắn độc ào ào kéo đến như nước thủy triều. Tuy lão già đã đánh chết được ba bốn con trăn lớn. Nhưng sau lưng cùng trên đùi lại bị hai con khác quấn chặt. Lão già hết sức bình sinh quát lên một tiếng khiến cho con trăn trên lưng lão bị đứt làm hai đoạn. Máu tươi đã chảy đỏ lòm khắp mình mẩy.

Giống trăn thực là dai sức, tuy nó bị đứt rồi mà không chết ngay. Nó nhịn đau vặn thật mạnh khiến cho xương cốt lão cơ hồ muốn gãy. Lão già hết sức kháng cự thì lại có hai con trăn lớn khác nhảy lại quấn lấy lão, đồng thời quấn cả hai tay, khiến cho lão không còn cách nào kháng cự được.

Du Thản Chi ở trong đám cỏ rậm ngó thấy tình cảnh kinh hồn động phách này, cũng sợ tán hồn, dường như nghẹt thở. Bọn Hồ Tăng thấy mọi người bên địch bị rắn trăn cuốn chặt chỉ còn tiếng rên rĩ nhiếc mắng mà không còn kháng cự được, nên hô không thổi sáo nữa. Bọn họ lại cất đầu lên hạ chân xuống đứng dậy.

Lão Hồ tăng thổi sáo trước tiên, đầy mặt râu quặp, rõ ràng là thủ lĩnh bọn họ, lão tiến lại mấy bước dõng dạc hỏi:

- Tinh Tú Lão Quái! Bọn ngươi và bọn ta đều đến Trung Nguyên, hai bên không can thiệp gì đến nhau, sao ngươi lại bắt con rắn lớn của ta nuôi đem mổ bụng?

Nguyên lão già mặt mũi hồng hào đầu tóc bạc phơ phảng phất như tiên ông kia chính là Tinh Tú Lão Quái tên gọi Đinh Xuân Thu mà các nhân sĩ trong võ lâm ở Trung Nguyên đều biết tiếng và ghét cay ghét đắng vì môn phái lão chuyên về tà thuật.

Nhân vì chiếc Bích Ngọc Vương Đỉnh một trong ba vật lớn của phái Tinh Tú, bị nữ đệ tử là A Tử ăn cắp đem đi mất. Đinh Xuân thu đã phái bọn đệ tử chu du lùng bắt. Thậm chí cả đại đệ tử phái này là Trích Tinh Tử cũng ra đi tầm nã, song lần nào cũng đưa tin về toàn những điều bất lợi cho bản phái mà vẫn chưa lấy lại được Đỉnh Ngọc. Sau cùng nghe tin A Tử nương tựa vào thế lực bang chúa Cái Bang là Kiều Phong che chở cho. Trích Tinh Tử bị đánh đập thảm thương thập tử nhất sinh.

Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu được tin này vừa kinh hãi vừa căm hận. Lão biết Cái Bang là một Bang lớn nhất trong các phái võ Trung Nguyên, khó mà đối chọi được nên lão phải thân hành Đông du một chuyến. Chuyến đi này của lão mục đích thứ nhất là giật lại chiếc Bích Ngọc Vương Đỉnh. Còn việc tìm Kiều Phong để trả hận và bắt A Tử trị tội thì lão chỉ liệt vào hạng quan hệ tầm thường.

Dọc đường, lão muốn yên phận giữ mình, không có ý gây sự với ai. Việc luyện "Hoá công đại pháp" của phái này là thời thượng phải kiếm chất độc ở các giống rắn rết tẩm lòng bàn tay cho thấm vào cơ thể. Chỉ trong vòng bảy ngày mà không có chất độc mới tẩm vào thì chẳng nhhững công lực bị giảm sút mà những chất độc tích trữ mấy chục năm trời, không được chất độc mới thấm vào khắc chế bớt đi, lại bắt đầu bộc phát dần dần sinh ra tai họa ghê gớm không biết đâu mà lường.

Năm nay một vị trưởng lão trong bản phái đã luyện xong Hóa công đại pháp rồi phạm tội bị sư phụ bắt không cần hành tội chỉ đem giam vào nhà thạch thất, khiến cho trưởng lão đó không có cách nào bắt được trùng độc để tiếp tục lấy nọc độc mới tẩm vào mình. Kết quả lão này bị chất độc trong mình lên cơn cực kỳ khổ sở vì da thịt trong toàn thân bị nát nhừ. Lão không thể nào chịu lâu được, rên rĩ kêu gào hơn bốn mươi ngày mới chết. Tinh Tú Lão Quái tuy đã là một tay độc ác vô cùng nhưng nghĩ tới thảm cảnh này không khỏi phát ớn và hổ thẹn.

Bích Ngọc Vương Đỉnh có tính chất thiên nhiên tiết ra một luồng hơi đặc biệt, mỗi khi đốt hương liệu lên thì chỉ trong khoảnh khắc là dẫn dư rắn rết độc bò về. Trong phạm vi mười dặm, không còn thứ trùng độc nào đã ngửi thấy mùi hương mà chống lại nổi, không tìm đến. Đinh Xuân Thu có chiếc Đỉnh Ngọc trong tay nên việc bắt trùng độc không tốn một chút hơi sức nào mà phép Hóa công đại pháp càng luyện càng thâm. Luyện phép "Hóa công đại pháp" khác gì người tập uống rượu. Đã uống được rồi thì mỗi ngày uống nhiều thêm không thể nào bớt đi được.

Chất độc trong người càng ngày càng đầy dẩy có đụng độ với kẻ địch bên ngoài, chất độc trong mình mới bài tiết ra được chút ít vào người bên địch. Nhưng phái Tinh Tú ở vào một khu đảo hẻo lánh bờ biển tinh Tú. Trong phạm vi mấy dặm bất luận người phái võ nào cũng không dám bén mảng đến để cho người phái Tinh Tú có chỗ tiết độc.

Cứ trong bảy ngày lại phải một lần bôi chất độc mới vào. Chất độc chỉ có phần mỗi ngày một tăng gia chứ không bao giờ giảm sút. Hết ngày này sang ngày khác năm này qua năm khác, thì chất độc chứa chất trong cgười phải đấn mức độ ghê hồn.

A Tử mưu mô ghê gớm. Một hôm nàng chờ sư phụ bắt trùng độc xong rồi, liền từ giã đi Đông du. Đến lúc Tinh Tú Lão Quái phát giác ra nàng ăn cắp chiếc đỉnh ngọc mang theo thì đã qua bảy ngày và A Tử đã trốn đi xa rồi. Nàng theo những con đường nhỏ hẹp mà đi, nên biệc truy nã rất khó. Bọn sư huynh nàng tuy võ công hơn nàng, nhưng mưu cơ đều kém xa nàng. Nàng dùng cách hư trương thanh thế dương Đông kích Tây (nhắm bên đông mà đánh bên tây) liên tiếp bày ra bao nhiêu ngụy kế để trốn tránh.

Tinh Tú Lão Quái ở vào khu đất ẩm thấp trong hang núi tối tăm rất có nhiều rắn độc và trùng độc. Tuy lão mất đỉnh ngọc, nhưng việc bắt trùng độc rắn độc để tiếp tục luyện công cũng không khó khăn gì. Có điều sẵn đỉnh ngọc trong mình thì việc bắt rắn dễ hơn và mỗi lần bắt được những thứ trùng độc ghê gớm hơn, hiếm có hơn, kỳ dị hơn. Bây giờ thì bắt được thứ nào dùng thứ ấy không được như ý mình.

Lại còn một điều nữa khiến cho lão quan tâm hơn là lỡ ra bọn cao thủ Trung Nguyên khám phá ra lai lịch chiếc đỉnh ngọc thì bất luận là ai họ cũng đập tan đỉnh ngọc tức khắc. Vì thế ngày nào chưa lấy đỉnh ngọc về là lão chưa yên tâm ngày ấy. Thực ra lão chẳng muốn xuống Trung Nguyên chút nào song biết bao nhiêu đệ tử đi tìm mà vẫn không được việc. Cân nhắc đường lợi hại lão đành mạo hiểm một phen.

Đinh Xuân Thu đi đến giới tỉnh Thiểm Tây thì gặp bọn đồ đệ trong môn phái. Đại đệ tử là Trích Tinh Tử bị mất hết võ công và đã bị bọn sư đệ đánh đập nhừ tử rồi ngược đãi đến nổi không còn hình người nữa. Nhị đệ tử là gã mũi sư tử chiếm chức vị đại sư huynh.

Bọn đệ tử thấy sư phụ thân hành ra đi thì vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Bọn chúng đều nghĩ rằng vì không hoàn thành được sứ mệnh của sư phụ giao phó và sẽ bị một phen trách phạt cực kỳ thảm khốc khó lòng chịu nổi. May mà Tinh Tú Lão Quái đang gặp lúc cần người, tạm gác chuyện trách phạt lại, cho chúng đối tội lập công.

Mọi người lên đường nghe ngóng tin tức Cái Bang. Một là bọn chúng bộ dạng kỳ dị cách nói năng và hành động lại càng làm cho người ta ghê tởm chán ghét, không ai muốn nói rõ cho biết. Hai là Kiều Phong đã sang nước Liêu làm đến Nam Viện Đại Vương trong võ lâm ít người biết đến, nên khó lòng dò được tin xác thực. Ngay đến việc tổng đà Cái Bang dời đi đâu chúng cũng không điều tra được.

Đinh Xuân Thu trong lòng nóng nảy, nghĩ thầm:

- Phái Thiếu Lâm được các phái võ Trung Nguyên rất trọng vọng. Bất luận một cử động nào trong võ lâm Trung Nguyên đều không thể qua mắt các vị cao tăng chùa Thiếu lâm được. Chi bằng mình đến chùa Thiếu lâm không gây thù oán với phái này, mình không đến đấy để họ dọ thám mà xin vào ra mắt đàng hoàng để hỏi thăm tin tức thì hẳn Huyền Từ phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng nể mặt mình đôi chút.

Nghĩ vậy lão dẫn bọn đệ tử đi về phía núi Thiết Thất Tỉnh Hà Nam. Trong khi đi đường đoàn người này đã thấy chất độc trong mình rục rịch lên cơn. Họ liền bắt rắn độc để lấy nọc bôi vào. Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu dẫn đoàn đệ tử vào địa giới tỉnh Hà Nam.

Một hôm đang đi đường, đột nhiên thấy hằng hà sa số rắn độc bò ra, lão mừng quá, lập tức sai đồ đệ bắt thật nhiều để lấy nọc độc đổ gan bàn tay. Việc này rất bổ ích và rất cần thiết cho phép "Hóa công đại pháp" của lão. Tuy lão biết rằng rắn độc kéo thành đoàn thế này là một điều kỳ lạ không phải tầm thường, nhưng lão đã là người tài nghệ cao siêu lại gan dạ hơn đời. Lão làm một vị chưởng môn trên bờ biển Tinh Tú chẳng khác gì ông vua con. Quyền sinh sát trong tay tha hồ mà làm mưa làm gió, nên lão chẳng thèm quan tâm điều gì. Dè đâu đàn rắn này lại có chủ.

Nguyên phái Hồ Tăng bên nước Thiên Trúc sai Ba La Tinh đến chùa Thiếu Lâm để lấy trộm kinh sách, lâu ngày không thấy tin tức gì nên cho mười sáu nhà sư đến tiếp ứng. Kể ra thì những vị Hồ Tăng Thiên Trúc này võ công chẳng cao cường gì lắm, nhưng họ có một tuyệt kỳ bí mật là dùng tiếng sáo để sai khiến rắn rết.

Bọn Hồ Tăng từ nước Thiên Trúc trèo đèo lội suối, vừa đi vừa thổi sáo dẫn dắt rắn độc xuống Trung Nguyên. Đường sá xa xôi diệu vợi, hãy tính trong mười dặm mới có một con rắn độc theo ra cũng đã nhiều lắm rồi. Đương nhiên là dọc đường chẳng may cũng có một số lớn không chịu nổi đường xa hoặc khơng chống lại được thủy thổ nóng lạnh từng nơi, đã chết đến quá nửa. Thế mà khi tới địa giới tỉnh Hà Nam hãy còn lại một con số ghê người, nhất là mấy chục con trăn lớn dài đến mấy trượng. Những con số này đã từ mấy khu rừng rậm bên nước Thiên Trúc dẫn đến thật là giống vật hiếm thấy ở Trung Nguyên.

Bọn Hồ Tăng này tự biết rằng nếu trông cậy vào nhân số cùng võ công thì quyết không tài nào địch nổi bọn tăng sĩ chùa Thiếu lâm vừa mạnh vừa đông. Huống chi phái Thiếu Lâm lại là lãnh tựu phái võ Trung Nguyên, chẳng chống thì chầy, những tay hào kiệt các phái sẽ kéo đến viện trợ. Nếu tranh đấu đường hoàng thì nhất định sẽ bị đại bại. Nhưng đột nhiên đuổi hàng vạn con rắn độc ồ ạt kéo vào chùa Thiếu Lâm đánh một cách chớp nhoáng khiến họ trở tay không kịp thì tuy chẳng đánh đổ được môn phái này, nhưng việc cứu Ba La Tinh và cướp ít kinh sách đem về cũng không thể làm được.

Bọn Hồ Tăng ngày nghĩ đêm đi để dân cư dọc đường khỏi kinh hãi khi thấy rắn rết. Vào đến địa giới tỉnh Hà Nam chưa bao lâu thì phát giác ra rằng có nhiều rắn độc bị giết. Sau cuộc điều tra cặn kẽ, bọn Hồ Tăng biết là Tinh Tú Lão Quái đã hạ thủ giết rắn của mình. Tinh Tú Hải cũng cách Thiên Trúc không xa mấy oai danh cũng hành vi độc ác của Tinh Tú Lão Quái, bọn nhân sĩ võ lâm nước Thiên Trúc đều biết tiếng.

Bọn Hồ Tăng bản tâm không muốn sinh sự với bọn Tinh Tú làm gì. Nhưng Lão Quái càng ngày càng tệ hại, chuyên tìm những con rắn kịch độc để giết khiến cho uy lực của đàn rắn giảm đi rất nhiều. Bọn Hồ Tăng không nhẫn nại được nữa, rồi hai bên đi đến chỗ căm thù nhau gây nên một trường kịch đấu.

Bọn Hồ Tăng dĩ nhiên trông cậy vào đàn rắn độc để thủ thắng Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu tiếng tăm lừng lẫy bị trăn quấn chặt không nhúc nhích được.

Bọn Hồ Tăng hỏi Đinh Xuân Thu vì lẽ gì giết rắn thì lão trả lời:

- Rắn độc chuyên hại người và súc vật, bất luận là ai trông thấy cũng có quyền tiêu diệt. Ta biết đâu được là những rắn đó của các ngươi nuôi dưỡng.

Một nhà sư Thiên Trúc nói:

- Bần tăng đã từng đưa thư đến xin các hạ đừng giết những con rắn gia súc này của bần tăng nữa, thế mà các hạ không đếm xỉa đến là nghĩa làm sao?

Đinh Xuân Thu nói:

- Đinh mỗ từ thuở nhỏ đến giờ chỉ có hỏi vặn người thì được chứ chưa từng thấy ai dám chất vấn người bao giờ. Ngay chính sư phụ ta ngày nọ buông lời trách mắng ta, ta cũng hạ thủ giết ngay. Bọn ngươi là mấy tên thầy chùa thối tha từ nước ngoài đến đây mà dám giở lý với ta.

Nhà sư Thiên Trúc thấy con trăn to quấn chặt khiến cho Tinh Tú Lão Quái không còn sức kháng cự mà lão nói năng vẫn giữ thói ngạo mạn thì biết rằng phen nầy kết oán đã sâu. Nếu còn tha mạng là để một mối đại họa vô cùng trọng đại, liền tìm lời mạt sát:

- Đai danh Tinh Tú Lão Quái khét tiếng gầm trời ai ngờ chỉ có danh hão mà thôi, không đối phó nổi với vài con rắn nhỏ xíu.

Đinh Xuân Thu tủm tỉm cười nói:

- Vì lão phu sơ ý một chút mà bị khốn vào tay mấy đứa súc sinh. Nếu bữa nay ta có hồn về chín suối cũng chẳng qua là số mệnh mà thôi.

Lão chưa dứt lời, thốt nhiên một tên đồ đệ phái Tinh Tú cũng bị trăn quấn kêu lên:

- Đại sư phụ ơi! Nếu đại sư phụ buông tha tiểu nhân ra thì có nhiều điều rât bổ ích cho đại sư phụ: Tiểu nhân rất nhiều ngụy kế đại sư phụ dù đề phòng đến đâu cũng không siết được. Đại sư phụ chỉ sơ tâm một chút là mắc vào cạm bẫy ngay lập tức.

Nhà sư Thiên Trúc lạnh lùng hỏi:

- Tha mi ra thì được lời gì?

Gã kia đáp:

- Phái Tinh Tú có ba báu vật gọi là Tinh Tú tam bảo. Tiểu nhân sẽ lấy ra dâng cho đại sư phụ. Nếu đại sư phụ đem tiểu nhân cùng tất cả bạn đồng môn đây giết hết vĩnh viễn không bao giờ đại sư phụ lấy được Tinh Tú bảo nữa.

Du Thản Chi núp trong đám có rậm ngoảnh đầu nhìn ra thì thấy người nói câu vừa rồi là một Đại Hán thân hính cao lớn tuy hắn con trăn to lớn quấn chặt ma thân hình vẫn tráng kiện, khí vũ vẫn hiên ngang. Gì không ngờ con người như vậy lại hèn mạt đến thế chỉ vì ham sống sợ chết mà muối mặt đi bán đứng sư phụ bao giờ?

Lại một tê đệ tử khác la lên:

- Đại sư phụ! Đại sư phụ! Trong tam bảo thì một vật đã bị người lấy cắp đi mất rồi. Đại sư phụ buông tha tiểu nhân ra hay hơn và chỉ có mình tiểu nhân là kẻ hết dạ trung thành với đại sư phụ. Tiểu nhân quyết không lừa dối.

Một lát sau bọn đệ tử phái Tinh Tú thi nhau kêu lên. Có kẻ nói:

- Đại sư phụ! Đại sư phụ tha mạng cho tiểu nhân là hay hơn hết, bọn chúng không hết lòng trung thành với đại sư phụ đâu. Chỉ mình tiểu nhân là đến chết cũng không thay đổi lòng dạ quyết vì đại sư phụ ra sức.

Có kẻ nói:

- Tiểu nhân biết rất nhiều tuyệt kỹ bí truyền của phái Tinh Tú sẽ nói cho đại sư phụ biết, không dấu một tí gì.

Có kẻ nói:

- Người bản phái đến Trung Nguyên là có cuộc mưu đồ lớn lao và liên quan không ít đến nước Thiên Trúc. Các đại sư phụ có muốn biết không?

Có kẻ nói:

- Trên bờ biển Tinh Tú có chôn dấu rất nhiều vàng bạc châu báu tiểu nhân biết hết mọi chỗ.

Bọn này vì cầu may để tránh cái chết mà nịnh hót đủ điều. Kẻ thì đem lọi nhử mồi, kẻ thì lay chuyển tính hiếu kỳ của đối phương. Có kẻ lại công nhiên nói nhũng chuyện hoang đường. Mấy tên đệ tử bị rắn độc cắn bị thương, hoặc trăn quấn chặt chỉ còn hơi thở phập phù. Gã nào cũng chỉ sợ mình bị bỏ rơi, nên liên tiếp tranh nhau năn nỉ van lơn.

Bọn nhà sư nước Thiên Trúc không ngờ những đệ tử phái Tinh Tú lại khốn nạn đến thế được nên đem lòng khinh bỉ. Có lão động tính hiếu kỳ lại gần để nghe ngóng.

Lão Hồ tăng trưởng toán lạnh lùng hỏi:

- Bọn mi đối với sư phụ chẳng còn hết dạ trung thành, thì nói chi đến chuyện trung thành với người chưa quen biết nữa? các ngươi nói vậy chỉ tổ làm trò cười cho bọn ta mà thôi.

Tên đệ tử phái Tinh Tú nói:

- Không phải thế! Tinh Tú Lão Quái võ công kém cõi. Tiểu nhân theo lão chẳng ăn thua gì, vậy giữ lòng với lão cũng vô ích. Còn đại sư phụ võ công lùng lẫy khắp thiên hạ, đạo đức văn chương cũng khiến cho ai nấy đều phải kính ngưỡng. Tinh Tú Lão Quái bì với đại sư phụ thế nào được?

Một tên nói:

- Phải rồi! đại sư phụ mà thu dụng bọn đệ tử phái Tinh Tú là khiến cho các phái võ Tây Vực cũng như ở Trung Nguyên đều chấn động. Họ sẽ khâm phục các vị cao tăng nước Thiên Trúc không biết đến đâu mà nói.

Một tên nói:

- Cao tăng thôi ư? Sao người còn gọi cao tăng? Hai chữ "cao tăng" không đủ để ca tụng các vị đại sư phụ đây, mà phải kêu bằng "Thánh tăng", "Thân tăng" mới đúng! Giả tỉ tiểu nhân là người đi chu du liệt quốc thì sẽ hết sức tuyên dương đức oai của đại sư phụ để danh vọng của các vị "Thánh tăng" nước Thiên Trúc khét tiếng khắp thiên hạ.

Một tên nói:

- Chà! Tiếng tăm các vị "Thánh tăng" nước Tây Trúc đã lẫy lừng khắp thiên hạ ai là không biết? Hà tất phải đến ngươi đi khua chuông gõ trống.

Một tên nói:

- Đại sư phụ! Đại sư phụ là "Thánh tăng" là "Phật sống" tiểu nhân lả kẻ tuyên bố trước tiên. Còn những gã kia chỉ biết bắt chước chứ ăn thua gì?

Nhà sư trưởng toán chau đôi mày nói:

- Bọn mi toàn là hạng hèn hạ, tiểu nhân, ton hót lắm làm cho người ta rác hại.

Rồi quay sang hỏi Đinh Xuân Thu:

- Tinh Tú Lão Quái! Tư cách bọn này đê hèn đến thế sao mà ngươi cũng thu dụng được? Thật toàn đồ vô liêm sỉ thì chúng còn làm nên trò trống gì? Thôi ta hóa kiếp cho ngươi trước rồi cho bọn chúng đi theo luôn. Hỡi ơi! Bần tăng lại phạm sát giới rồi đây!

Nói xong phất tay áo một cái phóng chưởng lực ra đánh Đinh Xuân Thu. Nhà sư thấy Đinh Xuân Thu đang phải gắng gượng chống với rắn quấn vào mình chân tay không cử động được thì chưởng thế mãnh liệt của mình chẳng đánh chết cũng làm cho lão bị thương. Ngờ đâu lúc chưởng lực đánh ra, Đinh Xuân Thu vẫn thản nhiên như không, mà hai chân nhà sư này lại nhũn ra, ngã lăn xuống đất co rúm lại thành một đống lù lù, lăn lộn mấy cái rồi không nhúc nhích được nữa.

Bọn Hồ tăng cả kinh kêu gọi:

- Sư huynh! Sư huynh!

Hai lão giơ tay ra nâng dậy, nhưng vừa sờ vào mình nhà sư kia thì mặt mũi tối tăm, không đứng vững, cũng té xuống luôn. Ba nhà sư khác đứng bên vội đưa tay ra nâng dậy. Nhưng vừa chạm vào áo cà sa thì cả ba người lại lăn ra. Mới trong chốc lát đã có sáu nhà sư té xỉu.

Các Hồ tăng khác thấy tình thế bất lợi đều hồn vía lên mây đứng thộn mặt ra, không dám thò tay nâng đỡ nữa, sợ cũng bị ngã như đồng bọn.

Một nhà sư nổi giận quát lên:

- Tinh Tú Lão Quái kia! Ngươi lộng hành tà phát, hãy nếm chưởng lực của ta đây!

Nói xong đánh ra một chưởng. Đinh Xuân Thu cười ha hả, dường như chưởng lực chạm vào người lão lại bật trở ra, khiến nhà sư này há hốc miệng ra rồi lập tức ngã lăn đùng. Còn chín Hồ tăng nữa cũng bị tiếng quát của Đinh Xuân Thu làm chấn động. Bọn này dùng tiếng Thiên Trúc lí lố bàn với nhau một hồi rồi đồng thanh quát lên một tiếng thật to phất tay áo một cái. Chín ngọn phi đao đồng thời phát ra ánh sáng xanh lè nhằm Đinh Xuân Thu phóng tới.

Đinh Xuân Thu lại quát một tiếng thật to, lắc đầu ba cái, tóc bạc phất phơ bay ra, tựa những cây nhuyễn tiên ngắn chạm vào phi đào kêu lên leng keng mấy tiếng. Chín ngọn phi đao đều bị đánh rớt xuống. Chín vị Hồ tăng chân tay co quắp không kịp kêu lên một tiếng lăn ra chết liền.

Du Thản Chi nấp trong đám cỏ rậm, mũi ngửi thấy một luồng hơi tanh tưởi vô cùng xông vào mặt đau quá, nước mắt giàn giụa. Bốn bề trở lại yên tĩnh. Mười sáu vị Hồ tăng đều co rúm lại trông chẳng khác gì những trái bóng tròn và rõ ràng chết hết cả. Gã hoảng hồn không biết Đinh Xuân Thu dùng thứ võ công gì mà chỉ một cử động đã đánh chết được hết địch.

Những con trăn lớn cùng rắn độc sau khi quấn chặt mọi người phái Tinh Tú rồi không nghe thấy các nhà sư thổi sáo thôi thúc nên chưa cắn chết người. Mười sáu nhà sư Tây Vực lăn ra chết rồi, những con trăn không biết báo thù cho chủ, chúng chỉ quấn chặt thầy trò Đinh Xuân Thu, chờ lệnh một lúc. Một lúc lâu không thấy có tiếng động song những con rắn này là vật vô tri vô giác, vẫn giữ nguyên trạng thái chờ đợi.

Qua một thời gian khá lâu, rắn không công kích người, mà người bị rắn quấn chặt cũng không dám nhúc nhích, sợ chúng nổi hung lên cắn cho thì mất mạng. Yên lặng hồi lâu, bọn đệ tử Tinh Tú thấy các nhà sư Thiên Trúc chắc chắn chết cả rồi đã hết nỗi lo về bọn này.

Một tên cất tiếng nói trước:

- Sư phụ ôi! Thần công sư phụ đã đến mức thiên hạ vô địch. Giữa lúc cười nói chỉ giơ tay một cái mà mười sáu tên thầy chùa độc ác man rợ đều bị giết sạch...

Tên này chưa dứt lời tên khác đã nói ngay:

- Sư phụ! Sư phụ đừng nghe giọng lưỡi thối tha của hắn. Chính hắn vừa ca tụng bọn sư mô rợ Hồ nào "Thánh tăng" nào "thần tăng" nào "Phật sống."

Lại một tên đệ tử khác nói:

- Bọn đệ tử theo đòi sư phụ đã bấy nhiêu năm, còn lạ gì tài năng nghiêng trời lệch đất của sư phụ. Vừa rồi mấy tên thầy chùa man rợ Hồ nói nhăng nói cuội, toàn những lời bịp bợm.

Bỗng có tiếng khóc rống lên:

- Sư phụ hỡi! Sư phụ ơi! đệ tử thật là ngu ngốc. Chỉ vì tham sống sợ chết mà đầu hàng kẻ thù. Bây giờ hối cũng chẳng kịp nữa. Đệ tử đành chịu để rắn độc cắn chết, không dám xin sư phụ tha mạng nữa!

Gã này chỉ nói mấy câu đó, bọn đệ tử lập tức tỉnh ngộ. Tinh Tú Lão Quái rất ghét những kẻ nào lẻo mép mồm miệng, để che lấp tội lỗi. Chỉ những kẻ tự thố trách mình lầm lỡ đánh chết, đem hết bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu mình thì họa may sư phụ nhhiêu dung cho chăng. Nghĩ vậy chúng lại tranh nhau kể tội bất lương của mình. Dù phải phân thây muôn đoạn cũng không oán hối; khiến cho Du Thản Chi nằm trong đám cõ cũng phải nhức đầu chói tai.

Bọn đệ tử lãi nhãi, thủy chung Đinh Xuân Thu vẫn không đếm xỉa đến. Lão ngấm ngầm vặn kình lực ba lần, định làm cho những con trăn quấn mình phải đứt tung. Đinh Xuân Thu vận hết nội lực phóng ra mà chúng chỉ duỗi mình đi một chút chứ không sao cả. Lão biết rằng muốn thoát tai ách này thật khó vô cùng. Người lão bị con trăn lớn quấn chặt. Những con trăn này trong rừng rậm khí hậu viêm nhiệt nước Tây Trúc. Mình nó cứng rắn vô cùng, thứ gì đập cũng phải bật trở lại.

Đinh Xuân Thu trải qua mấy chục năm tu luyện, chất độc trong người lão không biết đâu mà kể. Vì thế mà lão Hồ tăng trưởng toán, vừa phóng chưởng đánh lão đã thúc đẩy chất độc ra ngoài da. Chưởng đối phương đánh tới, lão vận động thần công đem chất độc phóng theo chưởng lực đối phương. Bọn Hồ tăng sỡ dĩ chết ngay lập tức là do chất độc truyền nhiễm vào người chứ không phải do tà thuật gì hết.

Da trăn đã dày cứng lại trơn tuột, chất độc trong mình Đinh Xuân Thu khhông thể thấm vào cơ thể chúng được, lão đành chịu thua.

Lão đang bực mình chưa thoát khỏi mấy con trăn. Bên tai nghe những lời khả ố của bọn đệ tử gã liền nói móc:

- Chúng ta bị rắn độc làm cho khốn đốn. Ai nghĩ ra cách lừa bịp được đàn rắn thì ta sẽ tha mạng cho. Các ngươi còn lạ gì tính khí ta nữa? Kẻ nào được việc cho ta, ta mới không giết. Còn các ngươi chỉ trẻm mép tìm lời xảo trá nói nhăng nói cuội phỏng có ích gì!

Lão vừa dứt lời, bọn đệ tử lâp tức câm mồm. Hồi lâu mới có một tên lên tiếng:

- Bây giờ chỉ còn cách dùng lửa nóng đốt mình những con trăn lớn này lập tức chúng phải bỏ chạy.

Đinh Xuân Thu mắng:

- Mẹ kiếp! Thằng này nói thúi lắm! Chỗ này là nơi hoang dã tịch mịch làm gì có thôn trang có nhà ở, làm gì có ai đi lại? Dù có người phải đi qua quãng đường này, nhưng họ thấy nhiều rắn độc thế này tất nhiên hốt hoảng chạy trốn, lấy đâu ra lửa để đốt rắn?

Sau đó những tên đệ tử khác lại đua nhau đứ ra ý kiến, song đều không thể thực hiện được. Bọn này sỡ dĩ nhao lên, chẳng qua tất để lấy lòng sư phụ ra chuyện ta đây thực lòng thực dạ với thầy, và cố gắng bày mưu tính kế. Lại một giờ trôi qua, một tên đệ tử bị rắn xiết chặt quá nghẹt thở. Trong lúc mê man, gã thò miệng cắn con trăn một miếng. Trăn bị đau quay lại cắn vào cổ gã, gã chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi chết ngay tức khắc.

Đinh Xuân Thu trong lòng nóng nảy vô cùng, giả tỉ lão bị địch thân vây hãm khốn đốn thì chỉ trong vài giờ là lão nghĩ được mưu kế xảo nguyệt để lừa bịp đối phương đặng thoát thân, nhưng đối với đàn rắn vô tri vô thức này thì dù có mưu kế tuyệt diệu đến đâu cũng chẳng thua gì. Lão sợ những con trăn đến lúc đói quá sẽ đớp thịt mình mà nuốt.

Điều lão lo âu quả nhiên xuất hiện một con trăn lớn đã lâu không nghe thấy tiếng sáo, bụng đói như bào, nó hà miệng to tướng hớp vào người tên đệ tử mà nó đang quấn chặt.

Gã này la hoảng:

- Sư phụ cứu đệ tử với! Sư phụ cứu đệ tử với!

Vừa dứt lời thì cặp giò gã đã bị con trăn nuốt vào miệng rồi. Tấm thân gã không còn tự chủ được nữa, rồi từng khúc một bị nuốt vào bụng trăn. Miệng gã hét cho đến phút cuối cùng. Hàm răng giống rắn trăn đều bình móc câu. Bất luận giống động vật nào bị nó cắn cũng chỉ dần dần đẩy vào bụng chứ không thể nào thoát ra được. Gã đệ tử phái Tinh Tú bị trăn ngoạm chân nuốt vào bụng rồi dần dần nó nuốt đến lưng, đến ngực. Lúc hắn chưa chết, hắn lớn tiếng kêu rú lên cực kỳ thãm thiết, làm chất động cả một vùng bao la bát ngàn.

Một tên đệ tử thấy Tinh Tú Lão Quái cũng đành chịu bó tay, bất giác lửa giận bốc lên ngùn ngụt, mở miệng thống mạ sư phụ, đổ cho lão làm liên lụy mình. Vì trước kia, hắn đang chăn cừu ở bờ biển Tinh Tú làm kế sinh nhai thị bị lão kiếm lời đường mật, dụ gã vào làm môn hạ phái Tinh Tú. Bữa nay hắn bị chết thảm dưới miệng rắn độc, hắn quyết định chết xuống âm ty sẽ làm cáo trạng kiện thầy trước Diêm Vương.

Một tên bắt đầu mở miệng chửi, những tên kia lập tức không chịu kém nhao nhao cả lên thhống mạ sư phụ theo. Bọn đồ đệ ngày thường bị Tinh Tú Lão Quái độc ác ngược đãi cực kỳ tàn nhẫn, ai nấy đều căm hận trong lòng mà không dám nói ra miệng. Bữa nay thầy trò đều chết đến nơi chúng đều thóa mạ cho sướng miệng để hả tấm lòng căm tức bấy lâu nay.

Hai tên đệ tử vì lớn tiếng thoáng mạ, mình hắn cử động mạnh khiến cho con trăn đang quấn hắn một miếng. Hắn lớn tiếng kêu la:

- Úi chao ôi! ai cứu tôi với! Ai cứu tôi với!

Du Thản Chi nghe tiếng kêu cứu, không nhẫn nại được nữa, đang nằm trong bụi cỏ, đứng phắt dậy nói:

- Ta đi phóng hỏa đốt rắn để cứu các ngươi đây!

Gã ôm cỏ khô chất vào thành đống. Bọn người phái Tinh Tú bất thình lình thấy gã bịt mặt xuất hiện hình thù cổ quái, đều sợ hãi giật nẩy mình lên. Nhưng nghe hắn nói tự nguyện phóng hỏa đốt rắn cứu mình thì khác nào đã xuống đến quỷ môn quan còn được nhìn thấy đường về, liền nhao nhao lên thi nhau ngỏ lời cảm tạ. Bọn người này có bản lĩnh cao siêu về thóa mạ người, thì tài tán tụng nịnh hót cũng phi thường.

Suốt đời Du Thản Chi chưa từng được ai kêu mình nào là "Đại anh hùng" "Đại hào kiệt" nào là "Nhân Nghĩa sỉ" nào là "Hảo hán nhất đời" chẳng thiếu chi danh từ cao đẹp. Đại phàm con người ai nghe người tán tụng mình mà không nức lòng hả dạ.

Du Thản Chi thấy bọn này nâng mình lên mây xanh thì trong lòng cũng cảm thấy khoan khoái vô cùng, nếu hắn chẳng quản gì mạo hiểm, cố chi cứu mạng cho chúng.

Gã lấy đá lửa bên mình ra, quẹt lửa lên châm vào đống cỏ khô. Nhưng lúc nhìn thấy những con trăn dữ tợn, nhiều không biết đến đâu mà kể, cũng đâm ra sợ hãi vô cùng. Gã chớ câu chọc ong, ong đốt mình trêu chọc đám rắn này thì liên lụy ngay đến mình.

Gã suy nghĩ một lát rồi lượm cành cây khô chất đống lên đốt một đống lửa thật to để ngăn trở cho rắn khỏi đến cắn mình trước, rồi mới nhặt một cành cây đang cháy sắn liệng vào con trăn gần nhất, đoạn chạy mau về phía đống lửa ẩn nấp để chờ. hễ thấy rắn bò lại phía mình là lập tức xa chạy cao bay, chẳng thèm làm "đại anh hùng", "đại hiệp sĩ" gì nữa.

Dè đâu giống trăn quả nhiên rất sợ lửa. Lửa mới nóng đến bên mình, lập tức nó buông ngay tên đệ tử phái Tinh Tú ra rồi chui vào đống cỏ rậm. Du Thản Chi thấy phép hỏa công của mình rất hiệu nghiệm. Giữa những tiếng hoan hô nhiệt liệt của bọn đệ tử phái Tinh Tú, gã chặt từng cành cây đang cháy liệng vào đống rắn. Đàn rắn tới tấp bò cả. Cả đến những con trăn dài hàng mấy trượng cũng không chịu nổi lửa nóng bỏ chạy ào ào.

Chỉ trong khoảnh khắc, hàng mấy trăm con trăn lớn cùng rắn độc chạy tản đi hết sạch sành sanh, gã lại nghe bọn đệ tử phái Tinh Tú đổi giọng nịnh thầy.

Có kẻ nói:

- Sư phụ mắt thấy xa hàng muôn dặm, thần cơ diệu đoán khôn lường. Quả nhiên phép hỏa công của sư phụ vô cùng linh nghiệm.

Có kẻ nói:

- Sư phụ hồng phúc tày trời, gặp dữ hóa lành. Đây toàn là trông cậy vào lối chỉ huy của sư phụ mới thoát nạn. Sư phụ thay người phóng hỏa cứu mạng kiến ruồi cho bọn đệ tử chúng tôi.

Bao nhiêu lời tán tụng hoàn toàn hướng về Tinh Tú Lão Quái, còn công lao đốt lửa đuổi rắn của Du Thản Chi thì chẳng ai thèm đếm xỉa đến nửa.

- Bọn mi vừa thóa mạ sư phụ xong, bây giờ lại hết lời tán tụng là nghĩa làm sao?

Du Thản Chi nghe bọn chúng nói vừa ngơ ngác vừa lấy làm lạ rủa thầm. Gã có biết đâu rằng bọn này sau khi thoát nạn rắn, thì tính mạng chúng lại ở trong tay Tinh Tú Lão Quái. Nếu không nịnh hót cho lão vừa lòng thì lão chỉ giơ tay lên một cái là rồi đời. Còn công cứu mạng Du Thản Chi đến đây là sổ toẹt, chúng coi gã như người đi đường mà thôi.

Đinh Xuân Thu vẫy tay gọi Du Thản Chi, bảo:

- Thiết đầu tiểu tử! Ngươi lại đây! Tên ngươi là gì?

Du Thản Chi bị người khinh rẽ lấn át quen rồi nên dù thấy đối phương vô lễ cũng không cho là kẻ ngỗ ngược. Gã đáp:

- Tôi là Du Thản Chi.

Nói xong tiến lại mấy bước.

Hồi Thứ 55

Tầm A Tử Quái Kiệt đưa đường

Ðinh Xuân Thu hỏi:

- Đám Hồ tăng này chết cả chưa? Ngươi lại sờ mũi chúng xem còn thở không?

Du Thản Chi dạ một tiếng rồi cuối xuống để tay lên mũi một nhà sư thì chỉ thấy lạnh ngắt. Nhà sư này đã chết tự bao giờ.

Gã lại xem nhà sư khác thì cũng tắt hơi rồi. Gã nói:

- Họ chết hết cả rồi không còn ai thở nữa.

Gã vừa nói vừa đứng thẳng người lên nhìn vẻ mặt mọi người nhâng nhâng nhao nháo, ra chiều giễu mình. Gã chẳng hiểu ra sao lại nhắc câu vừa nói:

- Họ chết cả rồi không còn thở nữa.

Du Thản Chi thấy bộ mặt nữa ra khinh khỉnh, nữa ra giễu cợt bọn đồ đệ phái Tinh Tú mỗi lúc một tiêu tan để thay dần dần vào những nét mặt kinh dị.

Đinh Xuân Thu nói:

- Ngươi coi lại lần nữa xem các nhà sư này còn có thể cứu vãn được nữa không?

Du Thản Chi đáp:

- Vâng.

Rồi gã đi xem xét cẩn thận hết cả mười sáu vị Hồ tăng lại một lần nữa. Đoạn gã lắc đầu nói:

- Bọn họ chết hết rồi không còn thể nào cứu vãn được nữa. Công lực của lão tiên sinh thật là ghê gớm!

Đinh Xuân Thu cười lạt nói:

- Bản lãnh chống chất độc của ngươi mới là lợi hại.

Du Thản Chi lấy làm kỳ hỏi:

- Lão tiên sinh bảo... tôi có bản lãnh... tôi có bản lãnh... gì để chống lại chất độc?

Đinh Xuân Thu ngửa mặt lên trời cả cười nói:

- Giỏi! Giỏi! Giỏi lắm! Ta xem da dẻ và thanh âm ngươi nói thì biết ngươi còn nhỏ tuổi lắm. Thế mà đã có bản lãnh đến như vậy. Thật là hậu sinh khả úy!

Du Thản Chi chẳng hiểu ra sao, không biết lão nói vậy là ý gì? Gã có biết đâu rằng mỗi lần gã sờ vào mũi những nhà sư kia là một lần xuống Quỹ Môn Quan. Gã thử xong mười sáu nhà sư người Hồ tức là đã trải qua mười sáu lần nguy hiểm rất lớn có quan hệ đến mạng sống của gã.

Nguyên Tinh Tú Lão Quái tuy được Du Thản Chi cứu cho thoát chết, song lão đứng địa vị tôn sư một phái võ bị trăn quấn mình không có cách nào gỡ ra cho khỏi chết mà phải nhờ đến một đứa trẻ nít nhỏ tuổi đến cứu cho. Vụ này mà đồn đại ra chốn giang hồ thì còn chi là thể diện. Vì thế mà sau khi thoát nạn, đàn trăn bỏ đi xa rồi lão nghĩ ngay đến cách giết Du Thản Chi để bịt miệng. Những nhà sư Thiên Trúc bị lão phóng chưởng có chất kịch độc, chỉ trong chốc lát đều bỏ mạng. Lão sai Du Thản Chi sờ mũi họ sự đó là có dụng ý cho tay gã nhiễm phải độc mà chết.

Dè đâu Du Thản Chi bản chất âm dương sai lệch đã nhờ phép luyện Dịch Cân Kinh thành ra nội công ghê gớm. Gã lại trải qua mấy tháng trời tập luyện không ngớt đồng thời hút cả chất dịch con Băng Tằm là một loại trùng độc nhất thiên hạ. Chất độc con Băng Tằm rất dung hợp với thể chất Du Thản Chi. Trong mình gã đã chứa chất độc này thì bất cứ chất độc nào cũng không làm gì được. Dĩ nhiên là chất độc tự phát ra trong mình Đinh Xuân Thu đã thấm vào đâu mà làm cho gã chết được?

Thật ra gã không cần đốt lửa để đuổi trăn, chỉ đàng hoàng đi vào giữa đàn trăn là bất cứ giống trăn độc đến đâu cũng không gia hại gì được. Trái lại nếu có con rắn độc nào cắn gã, bị huyết dịch của gã thắm vào mình là nó chết ngay tức khắc. Có điều Du Thản Chi không biết như vậy mà Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu cũng không bao giờ nghĩ đến điều đó.

Đinh Xuân Thu cùng bọn đệ tử thấy Du Thản Chi sờ mũi các vị Hồ tăng lần đầu đã chắc mẩm rằng gã sẽ co rúm lại mà chết như những nhà sư kia. Ngờ đâu gã mò mẫm hết cả thân thể mười sáu nhà sư vẫn không sao. Thầy trò phái Tinh Tú thấy vậy không khỏi nao núng.

Đinh Xuân Thu lẩm bẩm:

- Thằng nhãi này không hiểu bản lãnh chân chính của hắn ra sao? Đây chắc là trong mình hắn có để sẵn chất kịch độc như Hùng Hoàng Châu, Tịch Tà Bích chẳng hạn, hay là hắn uống thứ thuốc giải độc rất linh nghiệm gì từ trước nên mới chịu đựng nổi chất kì độc của ta nhiễm vào mình.

Nghĩ vậy lão bảo:

- Du huynh đệ! Ngươi lại đây! Ta có chuyện muốn nói.

Du Thản Chi tuy thấy lão nói có vẻ thành khẩn, nhưng chính mắt gã trông thấy liền một lúc giết luôn mười sáu nhà sư một cách tàn nhẫn, lại nghe thấy giữa tình thầy trò với nhau mà bọn đồ đệ ba hồi thống mạ, ba hồi siểm nịnh thì biết rằng: hạng người này rất khó đối phó, chỉ có cách kính nhi viễn chi là hơn.

Nghĩ vậy gã đáp:

- Tiểu nhân có việc gấp không thể trùng trình được. Xin cáo từ lão tiên, tiểu nhân phải đi ngay bây giờ.

Nói xong gã chấp tay vái chào, rồi trông về ngã đường phía Đông Bắc dông tuốt. Gã vừa đi được hai bước, đột nhiên thấy bên mình có luồn gió mát lướt qua. Hai cổ tay gã bỗng nhiên bị nắm chặt. Người nắm tay Du Thản Chi lướt tới nhanh quá khiến cho gã chưa kịp phản kháng thì đã bị nắm tay rồi.

Du Thản Chi quay đầu nhìn lại thì thấy người nắm tay mình chính là một tên đệ tử phái Tinh Tú. Tên này người cao lớn đẫy đà. Gã không hiểu chúng có dụng ý gì, nhưng trông mặt hắn cười một cách hung dữ, rõ ràng không phải chuyện tử tế, thì gã không khỏi giật mình la lên:

- Buông tay tôi ra!

Rồi cựa mạnh một cái. Bỗng nghe trên đầu có tiếng gió vù vù, một bóng người to lớn ở phía sau lưng vút qua đầu gã rồi đánh huỵt một tiếng. Bóng người này đã đập vào vách núi trước mặt, đập mạnh đến nỗi xương thịt tan nát, đầu nhão ra như đất bùn. Du Thản Chi thấy tên đồ đệ này va vào vách núi mãnh liệt quá chừng, gã không tin tưởng mình lóa mắt. Gã còn đang kinh ngạc, khi định thần nhìn lại thì Đại Hán đập vào vách núi mà chết chính là tên đệ tử phái Tinh Tú vừa nắm chặt tay mình.

Gã lại càng kinh ngạc hơn nữa, tự hỏi:

- Thằng cha này rõ ràng vừa nắm tay mình sao hắn lại đâm đầu vào núi mà tự tử một cách bất thình lình?

Gã có biết đâu Đại Hán này không phải đập đầu vào núi tự tử mà chỉ vì ngã cựa mình một cái, luồng kinh lực của gã tung Đại Hán lên qua đầu rồi hất mạnh vào núi đến nỗi toi mạng.

Ta nên biết rằng Du Thản Chi tập luyện Dịch Cân Kinh rồi, nội lực gã suốt ngày đêm tăng lên rất nhiều mà gã không hay. Hơn nữa gã chưa từng động thủ với ai, nên không biết công lực của mình đã ghê gớm lắm rồi.

Ngày nọ Ba La Tinh, bóp cổ gã cơ hồ nghẹt thở, gã sợ quá chỉ thộn mặt ra, tuyệt không kháng cự. Thật ra nếu gã cố sức cựa quậy là Ba La Tinh không còn cách nào kiềm chế được gã.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy Du Thản Chi chỉ nhất tay một cái đã giết chết bọn đồng môn đều cả kinh thất sắc la lên một tiếng:

- Ối chao!

Tinh Tú Lão Quái đã giàu kinh nghiệm, lịch duyệt gian hồ vừa thấy gã hất chết đệ tử mình, đã nhìn thủ pháp của gã và cách cử động này không phải người có võ công thượng thặng mà chỉ có sức mạnh dị thường ở nơi cánh tay. Lão cho đó là thần lực thiên nhiên còn về võ công thì gã vào hạng tầm thường. Lão băng mình đi một cái đưa tay nắm lấy cái đầu sắt Du Thản Chi.

Du Thản Chi bị chụp một cách đột ngột, không kịp đề phòng, sức mạnh lão không kém gì một trọng lượng ngàn cân đè xuống, gã ngã qụy xuống đất. Gã thẳng người lên toan đứng dậy thì trên đỉnh đầu dường như có một trái núi vạn cân đè xuống, gã không cử động được nữa mở miệng van lớn:

- Xin lão tiên sinh tha mạng cho.

Đinh Xuân Thu thấy gã năn nỉ tha mạng mới yên lòng hỏi lại:

- Sư phụ mi là ai! Mi to gan thật! Sao dám đánh chết đồ đệ ta.

Du Thản Chi ấp úng:

- Tiểu nhân không có sư phụ. Tiểu nhân cũng... chẳng giết đồ đệ của lão tiên sinh.

Đinh Xuân Thu nghĩ bụng: Mình đã kiềm chế được gã, chi bằng đánh chết gã để bịt miệng là xong. Nghĩ vậy, lão buông tay ra, cho Du Thản Chi đứng dậy, liền phóng chưởng đánh vào ngực gã. Du Thản Chi thấy vậy cả kinh, bất giác đưa tay lên gạt chưởng của lão quái. Đinh Xuân Thu phóng chưởng này rất chậm, lúc Du Thản Chi giơ tay lên gạt thì hai bàn tay vừa chạm nhau.

Chính Đinh Xuân Thu có dụng ý như vậy, lão để chất độc đã chứa sẵn trong bàn tay theo một luồng nội lực hùng mạnh đẩy ra. Đó chính là phép "Hóa công đại pháp" của lão từng nổi danh mấy chục năm trời và giết hại không biết bao nhiêu là tay cao thủ võ lâm không ngờ hôm nay lão phải bị một lần thất bại.

Thật ra đối với Du Thản Chi, một đứa hậu sinh nhỏ tuổi, lão không muốn vận dụng "Hóa công đại pháp" vì mỗi lần vận dụng đến nó là một lần tổn hao nguyên khí và giảm bớt chất kịch độc trong mình nhưng vì lão thấy Du Thản Chi đã sờ vào mười sáu vị Hồ tăng mà vẫn không trúng độc nên bất đắc dĩ phải dùng đến tuyệt kĩ này.

Hai chưởng gặp nhau, Du Thản Chi lảo đảo người đi lùi lại đến mấy bước. Gã toan đứng dậy nhưng lại trượt đi ngồi phệt xuống. Gã ngồi xuống toan chống hai tay ra đằng sau để ngồi cho vững nhưng dư lực đòn chưởng đối phương vẫn còn mãnh liệt. Du Thản Chi mông vừa tới đất rồi đến lưng đến đầu cũng hạ xuống theo, lộn đi ba vòng mới thôi.

Còn Đinh Xuân Thu sau khi hai chưởng gặp nhau bỗng thấy trước ngực mát lạnh rồi từ trong lòng bàn tay một luồng nội lực tiết ra ngoài thân thể một cách nhanh chóng dị thường. Lão vội cố sức dừng lại nhưng không tự chủ được, nội lực vẫn thoát ra ngoài. Lão vội đảo ngược đầu xuống giơ chân lên, chuyển vận luôn mấy lần. Nhờ phép "Có cơ vận kinh" này của phái Tinh Tú, lão mới ngăn nội lực lại.

Lão nhảy lộn người đứng dậy râu tóc dựng ngược lên, sắc mặt lợt lạt, trong rất đáng sợ. Lão lại xòe hai bàn tay to tướng như cái quạt toan đánh xuống Du Thản Chi nữa.

Du Thản Chi đập đầu lia lịa kêu van:

- Xin lão tiên sinh tha mạng, xin lão tiên sinh tha mạng!

Đinh Xuân Thu gặp chưởng Du Thản Chi, lão biết rằng "Hóa công đại pháp" của mình tu luyện đã mấy chục năm nên nội lực còn mạnh hơn đối phương, nhưng về chất độc so với đối phương mình còn kém xa. Nếu hai người tỷ thí tất lão còn thua một bậc.

Giữa thầy trò phái Tinh Tú trước đây thì ai mạnh nấy được, ai yếu nấy thua, không có chút tình nghĩa gì hết. Chẳng những thế, giữa đồng môn với nhau, cách tàn sát càng tệ hại hơn. Vì bị bại về người khác phái thì đối phương còn có phần nhân nhượng, chớ giữa phái Tinh Tú với nhau thì chẳng ai chịu thua ai bao giờ.

Đinh Xuân Thu tự hỏi:

- Cuộc tỷ thí vừa rồi rõ ràng là Du Thản Chi đã thắng mình mà sao gã vẫn năn nỉ xin tha mạng? Chẳng lẽ gã cố ý trêu cợt mình? Phép "Hóa công đại pháp" này gã đã học ở đâu?

Đinh Xuân Thu vừa kinh dị vừa bẽn lẽn, nhưng lão vốn là người xảo quyệt, ngoài mặt vẫn thản nhiên. Lão đặt chân trái xuống tung mìh nhảy lại Du Thản Chi rồi hỏi gã:

- Mi thực tình xin tha mạng hay mi giả vờ?

Du Thản Chi dập đầu lia lịa nói:

- Tiểu nhân một tấm lòng xin lão tiên sinh tha cho cái mạng kiến ruồi này.

Đinh Xuân Thu nói:

- Mi... mi... mi...

Lão nói luôn ba tiếng "mi" rồi thốt nhiên làm mặt giận nói:

- Mi ăn cướp Bích Ngọc Vương Đỉnh của ta đem giấu đâu?

Lão nghĩ rằng phàm ai học Hóa công đại pháp thì không có Bích Ngọc Vương Đỉnh là không được và cứ tra hỏi cho ra đỉnh ngọc hoặc giả có thể điều tra được lai lịch của gã cũng nên.

Du Thản Chi nói:

- Tiểu... Tiểu nhân không lấy cắp Đỉnh Ngọc của lão tiên sinh, mỗi lần cô nương dùng xong lại đem cất đi chưa bao giờ cho tiểu nhân mó tay vào...

Đinh Xuân Thu mới hỏi một câu mà đã lòi ra đầu mối Đỉnh Ngọc của mình thì mở cờ trong bụng. Lão hỏi tiếp:

- Chà! Mi còn cãi nữa ư? Rõ ràng cô nương bảo mi ăn cắp kia mà!

Du Thản Chi la lên:

- Trời ơi! Thật là oan uổng cho tiểu nhân quá! Từ khi cô nương luyện Băng Tằm rồi tiểu nhân không thấy Đỉnh Ngọc đâu cả. Sao cô nương lại bảo tiểu nhân ăn cắp? Lão tiên sinh không tin thì xin đi tìm cô nương để đối chất ba mặt một lời.

Đinh Xuân Thu nói:

- Được lắm! Đã vậy thì mi đưa ta đi gặp cô nương để hai người đối chất với nhau một phen.

Du Thản Chi nói:

- Vâng! Xin lão tiên sinh đi ngay để gặp cô nương.

Đinh Xuân Thu nói:

- Phải rồi! Ta đi ngay bây giờ để tìm thấy mặt nó đặng hỏi cho ra. Mi còn sống được hay phải chịu chết hôm nay sẽ rõ.

Du Thản Chi nói:

- Cô nương ở tận bên thành nước Liêu, đường đi diệu vợi, phải đi hàng nửa tháng hay ít ra là mười ngày mới tới nơi. Hôm nay làm sao đối chất được? Có điều... Có điều...

Đinh Xuân Thu vô tình mà biết được nơi ở của A Tử thì mừng rỡ vô cùng, lão hỏi ngay:

- Có điều... là sao?

Du Thản Chi nói:

- Nếu lão tiên sinh muốn sang kinh thành nước Liêu, tiểu nhân xin dẫn đường.

Đinh Xuân Thu là con người hiểu đời, tuy Du Thản Chi đã chụp lồng sắt lão không trông thấy mặt gã, song chỉ nghe tiếng nói lão cũng biết rằng chính gã này cũng muốn gặp A Tử.

Hiếu sắc là thường tình của con người. A Tử là một cô gái dung nhan mỹ lệ, lão chắc Du Thản Chi cũng đem lòng say mê nàng. Muốn thử lòng gã, lão giả vờ đánh trống lảng:

- Đàng xa hàng ngàn dặm kinh thành nước nước Liêu làm cóc gì? Để ta phái mấy tên đệ tử đắc lực qua đó giết quách con tiện tỳ ấy đi, lấy ngọc đỉnh đem về là xong.

Quả nhiên Du Thản Chi thấy lão có ý định giết A Tử thì bồn chồn trong dạ nói ngay:

- Không không! không được! Làm thế không xong...

Đinh Xuân Thu càng trông rõ ruột gan gã, giả tảng hỏi:

- Làm thế sao lại không được?

Du Thản Chi đỏ mặt nhưng vì gã đeo mặt sắt, nênkhông ai thấy rõ, gã ấp úng:

- Cái đó... cái đó...

Đinh Xuân thu cười ha hả nói:

- Phải chăng mi muốn che chở cho con tiện tỳ A Tử đó, để rồi lấy nó làm vợ?

Ý nghĩ "lấy A Tử làm vợ", Du Thản Chi đã âm thầm chôn sâu xuống tận đáy lòng. Cả những giấc ngủ ban đêm gã còn chả bao giờ dám mơ ước, huống chi là giữa thanh thiên bạch nhật. Du Thản chi kính ngưỡng bái thờ A Tử như một vị thần tiên. Hy vọng cao xa tuyệt đích của gã là được hóa thành kiếp trâu ngựa để làm nô lệ cho nàng. Ngẫu nhiên được thấy mặt nàng một lần hay được nghe lời nàng nói là gã đủ mãn nguyện rồi. Khi nào dám để những ý tưởng được yêu ấp con người thần tiên đó vào đầu óc?

Du Thản Chi nghe Đinh Xuân Thu nói câu này gã thộn mặt ra đầu váng mắt hoa, đứng không vững, người lảo đảo luôn mấy cái gã hấp tấp đáp:

- Không, không phải...

Đinh Xuân Thu coi bộ dạng gã càng hiểu, quyết định không nghi ngờ gì nữa. Lão lẩm bẩm toan tính:

- Thằng lõi này không hiểu nó luyện theo phương pháp nào hay gặp cơ duyên gì, mà chất độc chứa trong người gã còn nhiều hơn ta. Ta phải thu nạp gã để dò la gã luyện công theo môn phái nào, đoạn rút hết chất độc trong người gã vào mình rồi khi đó hãy đem gã xử cũng chưa muộn. Giờ mình giết gã ngay, há chẳng đáng tiếc lắm ư?

Dưới mắt Tinh Tú lão quái thì mạng con người hay mạng con rắn con rết cũng thế thôi, không hơn không kém. Trong người Du Thản Chi đã chứa chất độc thì gã cũng là vật chí bảo trên thế gian, lão tính cách khai thác lấy chất độc làm của mình, còn cái xác không thì giết bỏ.

Đinh Xuân Thu nghĩ rằng: bắt rắn rết độc thì dùng Bích Ngọc Vương Đỉnh, còn thu dụng "con người độc" Du Thản Chi thì phải dùng cái mồi khác, có thế thôi. Cái mồi tốt nhất đủ làm điên đảo thần hồn Du Thản Chi là A Tử. Cái mồi này nhử được "Con người độc" đồng thời có thể lấy lại được Đỉnh ngọc về, sau cùng là giết được A Tử nữa. Vậy chuyến đi này được cả ba việc. Thật là tuyệt diệu!

Tính toán đâu đấy rồi lão nói:

- Này này, ta hỏi ngươi: giả tỉ ta đem A Tử gả cho ngươi làm vợ, ngươi có bằng lòng không?

Du Thản Chi đáp:

- Cái đó... cái đó không thể nào thành được. Tiểu nhân chỉ là nô bộc của cô nương mà thôi. Tiểu nhân được cô nương sai khiến, đánh mắng cũng là quá phận rồi. Cô nương là một bậc thần tiên, tiểu nhân suốt đời không dám có ý nghĩ càn rỡ đó. Vậy xin lão tiên đừng nói thế lỡ ra mà... mà đến tai cô nương... thì nguy cho tiểu nhân lắm đó!

Đinh Xuân Thu nói:

- Việc gì mà nguy? A Tử là đồ đệ của ta. Đã là đồ đệ thì phải nghe lời sư phụ truyền dạy. Ta biểu gả nó cho ngươi, khi nào nó dám chống cự. Nó lấy cắp Bích Vương đỉnh Ngọc ta không giết nó phải mang ơn sâu tày trời biển, khi nào còn dám cãi lời ta.

Du Thản Chi hỏi:

- Cô nương... cô nương là môn đồ của lão tiên sinh ư?

Đinh Xuân Thu nói:

- Ngươi không tin ta ư?

Lúc trước Du Thản Chi nấp trong bụi cỏ đã nghe lần thầy trò đối đáp với nhau, biết rằng A Tử là đồ đệ của lão rồi, có điều gã lại không hiểu tại sao con người ngọc nhan sắc nguyệt thẹn hoa nhường, phong tư cao nhã, lại cùng bọn đê tiện bỉ ổi này là bạn đồng môn, chẳng hóa ra cá mè một lứa, mà do đó nàng mất cả phẩm cách con người.

Đinh Xuân Thu trỏ gã đồ đệ mũi sư tử hỏi:

- Tiểu sư Muội ngươi hình dung như thế nào?

Gã mũi sư tử đáp:

- Năm nay A Tử mười sáu tuổi. Nàng mặt trái xoan, cằm thon, má lúm đồng tiền, thân hình tha thướt, da trắng nõn nà, môi trên hơi cong, mắt đen láy và rất tinh nhanh. Tính nàng ưa mặc áo tía lưng thắt đai vàng.

Du Thản Chi nghe tên đồ đệ mũi sư tử tả đúng hình dáng A Tử Mỗi câu hắn nói ra là mỗi lần trái tim gã đập thình thịch. Khi gã nghe hắn nói hết lời, thì không còn nghi ngờ gì nữa. Gã khẽ nói:

- Hình dáng cô nương quả đúng như thế.

Đinh Xuân Thu nói tiếp:

- Nếu ngươi muốn lấy A Tử làm vợ cũng dễ dàng thôi. Có điều môn phái ta có những lề luật nhất định là nữ đệ tử, không gả cho người ngoài mà chỉ gả cho đồng môn bản phái. Ngươi tuy hình thù cổ quái nhưng ta cũng đặc biệt thu nhận ngươi làm đồ đệ, nếu ngươi chịu bái ta làm sư phụ.

Du Thản Chi nghe lão nói câu lấy A Tử làm vợ tuy gã không dám mơ tưởng hão huyền. Nhưng gã vẫn hỏi lại:

- Nếu tiểu nhân lạy lão tiên sinh làm sư phụ thì tiểu nhân cũng là đồng môn của cô nương phải không?

Đinh Xuân thu vẫn thấy Du Thản Chi có ý trì nghi, chưa tỏ rõ thái độ liền nói:

- Con nhỏ A Tử dễ thương thật đấy, chả trách bao nhiêu gã nam đệ tử đồng môn cứ lăm le chực lấy nó làm vợ. Ta nhớ đến công lao ngươi bữa nay, mà ngươi bái ta làm sư phụ thì ta phải lấy ân tình đặc biệt đối đãi với ngươi cũng là lẽ thường.

Du Thản Chi nghe lão nói vậy, bất giác lòng nóng như lửa, gã lẩm bẩm: Nếu ta để mất cơ hội này thì sẽ phải ân hận suốt đời. Kể ra thì không bao giờ ta tính lớn chuyện lấy cô nương làm vợ. Nhưng mà... Nhưng mà... ta không thể để cô nương lọt vào tay phường chó má, những quân súc sinh đê tiện kia được.

Chớp mắt, bầu máu nóng trào lên trên ngựa gã, gã quỳ xuống lạy nói:

- Sư phụ! Đệ Tử là Du Thản Chi xin bái kiến sư phụ làm lễ nhập môn, xin sư phụ thu nạp.

Đinh Xuân Thu nói:

- Ngươi đã nguyện ý lạy ta là thầy thì được rồi. Nhưng lệ luật của bản môn rất nhiều, ngươi có giữ đúng được không? Sư phụ đã sai bảo việc gì, ngươi phải gắng sức hết lòng tuân theo mệnh lệnh, không được phản kháng nghe chưa?

Du Thản Chi nói:

- Đệ tử xin tuân theo lề luật, phục tùng sư mệnh.

- Nếu sư phụ bảo ngươi chết, ngươi có cam tâm chịu chết không?

Du Thản Chi ấp úng:

- Cái đó... Cái đó...

Đinh Xuân Thu nói:

- Ngươi suy nghĩ rồi trả lời cho rõ ràng. Cam tâm thì bảo cam tâm, mà không cam tâm thì bảo rõ không cam tâm.

Du Thản Chi lẩm bẩm:

- Lão muốn giết mình dĩ nhiên mình không cam tâm chút nào. Nhưng nếu xảy ra như vậy thật, lúc đó mình trốn được thì trốn, mà không trốn được thì chịu. Dù chẳng cam tâm cũng chẳng làm gì.

Nghĩ vậy liền đáp:

- Sư phụ đối với đệ tử ơn sâu nghĩa trọng. Sư phụ bắt chết đệ tử cũng cam tâm.

Đinh Xuân Thu cười ha hả đáp:

- Hay lắm! hay lắm! ngươi thề độc đi. Nếu ngày sau ngươi chẳng chịu tuân lời thì chịu thế nào?

Du Thản Chi nghĩ ngay rồi đáp:

- Đệ tử Du Thản Chi nếu sau này không tuân lời, xin chịu thảm hình của sư phụ phân thây muôn đoạn, chẳng được chết toàn thi thể.

Đinh Xuân Thu ngẩn người rồi cười nói:

- Anh chàng đầu sắt này xảo quyệt gớm! Ngươi không tuân theo mệnh lệnh sư phụ, dĩ nhiên là ta sẽ xử tử. Vậy lời thề độc của ngươi chỉ bằng thừa. Nhưng thôi được, ngươi nhớ lấy lời thề đó nghe.

Rồi lão gọi:

- Lại đây lai lịch ngươi thế nào thuật kĩ cho ta nghe!

Du Thản Chi không thể làm thế nào được, đành đem những ngày hoạn nạn, những nỗi cơ cực, thuật lại sơ qua một lượt, có điều gã không muốn kể hết gốc gác làm nhơ nhuốc thanh danh họ Du ở Tụ Hiền Trang, gã chỉ nói mình là con một nông dân bị người Liêu tìm lương thảo bắt đi. Gã được gặp A Tử rồi cùng nàng đi bắt rắn độc, trúng độc.

Lúc Du Thản Chi kể đến chuyện bắt con Băng Tằm, Đinh Xuân Thu càng để ý nghe một cách rất chăm chú. Lão hỏi kỹ về hình thù con Băng Tằm. Có điều lão vẫn giữ một khuôn mặt thản nhiên tuyệt không lộ vẻ gì khác lạ.

Du Thản Chi nghĩ thầm:

- Vị sư phụ này không phải người tốt, nếu mình nói rõ cho hắn biết cuốn kinh chữ Phạn tất lão đoạt mất.

Gã nghĩ vậy, nên Đinh xuân Thu có hỏi lại phép luyện công cổ quái này, gã cũng không chịu thố lộ hết sự thật. Đinh Xuân Thu không biết là công lực mà "Dịch Cân Kinh" mà tưởng đó chỉ là công hiệu con tằm kì diệu. Lão rủa thầm trong bụng: "Thần lực quí báu như vậy mà lọt vào tay thằng quỉ con mặt sắt này để hút lấy chất độc vào trong người thật là đáng tiếc!"

Lúc Du Thản Chi kể đến đoạn con Băng Tằm do nhà sư Tam Tĩnh đem về chùa Thiếu Lâm, Đinh Xuân Thu vỗ đùi đánh đét một cái rồi nói:

- Nhà sư Tam Tĩnh biết bắt con Hán độc trùng từ núi Côn Luân thì hay lắm. Ở đó đã bắt được một con thì chắc còn hai ba con nữa chứ đâu có một. Có điều là núi Côn Luân rộng kể hàng ngàn dặm, nếu không có người thuộc đường lối chỉ dẫn thì khó lòng mà bắt được Hàn độc trung này.

Chính lão đã nhìn thấy chỗ linh diệu của Hàn trùng độc thì ắt rằng nó còn quí hơn Bích Vương Ngọc Đỉnh nhiều. Vậy việc giết A tử để đoạt lại đỉnh ngọc hãy tạm gác lạị Lão hỏi tiếp:

- Nhà sư Tam Tĩnh còn ở chùa Thiếu Lâm chứ? Hay lắm, hay lắm, chúng ta đến bảo ông ta dẫn đến núi Côn Luân để bắt Băng Tằm đi!

Du Thản Chi lắc đầu nói:

- Không được! không được! Nhà sư Tam Tĩnh hung dữ vô cùng, chưa chắc lão đã đưa đi. Hơn nữa y đã vi phạm luật lệ bản môn nên bị đại hòa thượng chùa Thiếu Lâm giam vào nhà đá rồi, có được tự tiện ra đâu.

Du Thản Chi nghĩ bụng:

- Tại chùa Thiếu lâm có biết bao nhiêu hòa thượng võ nghệ cao cường. Lão này muốn đến đó bắt người không phải là chuyện dễ.

Vì lão quá nóng lòng đi bắt Băng Tằm, lão nghĩ bụng:

- Ta không cần động thủ với các tên sư mõ chùa Thiếu lâm, chỉ cốt sao lén lút bắt được Tam Tĩnh ra là xong. Họ ở ngoài ánh sáng, mình trong bóng tối. Chẳng lẽ Tinh Tú Lão Quái mà làm cái việc bắt nhà sư béo chùn béo chụt ấy đó không xong?

Nghĩ vậy lão nói:

- Ngươi cứ dẫn đường đến chùa Thiếu Lâm là được.

Du Thản Chi vãn ra chiều sợ sệt. Đinh Xuân Thu hỏi:

- Đã có sư phụ đi kèm ngươi còn sợ gì?

Du Thản Chi đáp:

- Tại chùa Thiếu lâm còn có vị sư ở Tây vực. Lão muốn... sát hại đệ tử.

Đinh Xuân thu hỏi:

- Hồ tăng ở Tây vực ử Võ công lão như thế nào? Chắc còn cao hơn mười sáu vị sư chứ?

Du Thản Chi đáp:

- Đệ tử không hiểu, chỉ thấy các vị chùa Thiếu Lâm cầm không cho lão về thôi. Chắc là võ công ghê gớm lắm.

Đinh Xuân thu cười ha hả nói:

- Ta chỉ mới có giơ tay một cái mà cả mười sáu tên Hồ tăng đã chết nhăn răng ra rồi, thì dù có thêm một tên nữa thì phỏng có ích gì? Lại đây mau! Bữa nay ngươi đã bái ta làm sư phụ và ta đã thu nạp ngươi làm đồ đệ rồi. Ngươi ghé tai vào đây cho ta dặn.

Du Thản Chi từ từ lại gần bên đinh Xuân Thu, trong lòng ngấm ngầm sợ hãi. Đinh Xuân Thu nói nhỏ vào tai gã:

- Khi ngươi thấy lão Hồ tăng đó thì Khấn thầm trong bụng "Tinh Tú lão tiên! Tinh tú lão tiên, bảo vệ đệ tử. Đàn áp kẻ địch. Một, ba, năm, bảy, chín!" Rồi giơ tay lên vỗ vào tai trái một cái. Ngươi cứ làm thế thì dù ở bất cứ nơi đâu sư phụ cũng tâm linh cảm ứng được, thì vẫn thần thông để cứu ngươi. Và từ đó trở đi, lão thấy ngươi sẽ đem lòng kính sợ chứ không dám hại ngươi nữa. Đây là sư phụ mới dạy cho ngươi pháp luật đầu tiên. Ngươi phải học thuộc kĩ nghe!

Du Thản Chi giơ tay lên sờ tai bên trái mình rồi hỏi:

- Có phải chỗ này không?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Đúng rồi! Nhưng ngươi không được tiết lộ cho ai biết cả. Đấy là một môn pháp thuật thàn diệu của bản phái. Ngươi đã thuộc những câu khẩu quyết chưa?

Du Thản Chi vâng lời đọc khẽ một lượt. Đinh Xuân Thu gật đầu nói:

- Hay lắm! Ngươi thuộc lòng thế là được rồi. Ta đi thôi!

Du Thản Chi vâng lời không dám chống đối mệnh lệnh sư phụ, đành dẫn đoàn người đi về phía chùa Thiếu Lâm. Đoàn người đi một mạch cho đến lúc hoàng hôn thì đã thấy chùa Thiếu lâm xuất hiện ở đàng xa, mái chùa liên tiếp không biết bao nhiêu là phòng ốc.

Đinh Xuân Thu quay lại bảo bọn đồ đệ:

- Các ngươi vào cũng không được việc gì. Nhiều người chỉ tổ vướng chân ta. Vậy các ngươi vào bụi cây trong rừng mà ẩn nấp. Chỉ một mình A Du (tức là Du Thản chi) vào chùa với ta là đủ.

Bọn đệ tử vâng lời, chỉ có gã mũi sư tử nói:

- Khi nào giết xong bọn đầu trọc trong Thiếu Lâm, thì sư phụ báo tín hiệu ra ngoài, để bọn đệ tử hoan hô sư phụ.

Đinh Xuân Thu trợn mắt lên nói:

- Các sư phụ chùa Thiếu Lâm có ai đụng đến phái Tinh Tú mình đâu? Sao ngươi muốn giết người ta?

Gã mũi sư tử bẽn lẽn nói:

- Vâng! Vâng!

Du Thản Chi theo sư phụ vào chùa Thiếu Lâm, gã đi sau thấy lão tay áo phất phơ, chân bước nhẹ nhàng, chẳng khác nào tiên ông trong tranh vẽ, thì sinh lòng kính cẩn nhủ thầm:

- Mình gặp vị sư phụ như vị này chắc kiếp trước đã đầy kiếp tu. Phen này đến chỗ A Tử cô nương chưa biết ra sao, nhưng có sư phụ che chở, binh vực thì ít ra đi đâu cũng khỏi bị người ức hiếp.

Hai người theo đường lớn lên núi, gần đến quán Lương Đình ngoài cổng chùa Thiếu Lâm, bỗng nghe có tiếng vó câu lộp độp, rồi thấy hai con ngựa chạy như bay sắp tới nơi.

Du Thản Chi bị người hành hạ đã nhiều, nên vừa thấy ngựa đã kêu lên:

- Sư phụ ơi! Cô nương tới!

Rồi gã đứng nép sang một bên đường. Đinh Xuân Thu vẫn nghiễm nhiên như không có chuyện gì. Lão cứ ung dung giữa đường mà đi, chẳng đẫn đờ mà cũng không hấp tấp. Hai con ngựa một đen một vàng đi song đôi chỉ còn cách Đinh Xuân Thu một trượng thì rẽ sang hai ben mé đường để lướt qua lão.

Hai người cưỡi ngựa ngoảnh đầu lại nhìn Đinh, Du một cái. Người cưỡi ngựa đen bé nhỏ và gầy nhom, mình mặc áo đen, hai mắt loang loáng vẻ mặt tinh lanh. Người cưỡi ngựa vàng mặc áo hòang bào, thân hình không gầy lắm, nhưng cao lênh nghênh, lông mày chênh chếch rủ xuống, vẻ mặt bướng bỉnh, nhiều tuổi hơn người áo đen.

Hai người thấy Du Thản Chi đầu bịt thì ra chiều kinh dị nhưng cũng quay đi ngay thẳng tới quán Lương Đình, xuống ngựa buộc vào cột quen. Người mặc áo hoàng bào móc trong bọc ra một cái hộp đồ lễ cầm trong tay, lớn tiếng hỏi:

- Chúng tôi đến bái sơn.

Vô hình chung, chùa Thiếu Lâm là đầu não các phái võ Trung Nguyên những giang hồ hiệp khách quanh năm đến bái sơn không ngớt. Sau quán Lương Đình có một căn phòng nhỏ. Trong phòng có tăng nhân chuyên đón khách.

Nhà sư nghe tiếng có khách đến bái sơn vội chạy đến chắp tay nói:

- Khách quan từ phương xa đến chắc đi đường mệt mỏi lắm. Tiểu tăng là Hư Phong xin bái kiến.

Người mặc hoàng bào khoanh tay đáp lễ nói:

- Không dám! Tại hạ xin ra mắt đại sư.

Lúc này Đinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi cũng đã vào tới quán Lương Đình. Nhà sư Hư Phong hỏi:

- Xin khách quan cho biết cao tính đại danh?

Người mặc hoàng bào đáp:

- Mộ Dung Phục ở núi Giang Nam xin bái sơn.

Tiếng "Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung" khách võ lâm không ai không biết. Đinh Xuân Thu vừa nghe nói "Mộ Dung Phục ở Giang Nam xin bái sơn" trong lòng rung động, nheo mắt nhìn người mặc áo vàng thì thấy nét mặt vàng ửng, thân hình ốm o, bộ dạng không xứng đáng với tên "Giang Nam Mộ Dung" tiếng tăm lừng lẫy khắp thiên hạ chút nào. Lão còn đang ngơ ngẩn ngẫm nghĩ, thì Hư Phong cũng giật mình hỏi lại:

- Các... Các hạ là... Mộ Dung công tử?

Người mặc hoàng bào tủm tỉm cười đáp:

- Tại hạ họ Bao, tên gọi Bao Bất Đồng.

Y trỏ người áo đen giới thiệu:

- Vị này là anh em tại hạ tên gọi Nhất Trận Phong...

Chưa dứt lời thì Trì khách tăng Hư Phong đã nói:

- Tiểu tăng nghe danh đã lâu. Người là Phong Bá Ác. Phong tứ gia?

Phong Bá Ác nhanh nhẹn cười hỏi luôn:

- Tuệ Thu sư thúc trong quý tự vẫn mạnh giỏi?

Hư Phong trả lời:

- Tuệ Thu sư thúc vẫn bình thường. Người hay nhắc và khen ngợi Phong tứ gia là một tay hảo hán, nóng nảy, gan dạ, võ công cao cường! Người nhớ tứ gia lắm.

Phong Bá Ác cười ha hả:

- Tại hạ bị Tuệ Thu sư phụ đánh cho một quyền đau đến ba tháng mới hết.

Rồi cả ba cùng cười ồ.

Nguyên Lão Phong Bá Ác là người ưa tranh đấu gặp ai cũng muốn giành sự đánh nhau chơi. Mấy năm trước đây, chẳng có chuyện gì cũng vào chùa Thiếu Lâm rồi xảy ra cuộc ác đấu với Tuệ Thu thiền sư. Hai bên kẻ nửa cân, người tám lạng, chẳng ai thua ai.

Hư Phong liếc mắt nhìn Đinh Xuân thu hỏi:

- Cao tính lão sinh là gì?

Đinh Xuân Thu đáp:

- Tại hạ họ Đinh.

Giữa lúc ấy lại có hai người cưỡi ngựa đi lên núi. Hư Phong vừa nghe có tiếng vó ngựa đưa mắt nhìn ra thấy một con ngựa màu hồng thậm. Lại còn một con ngựa nữa sắc xanh xám, người cưỡi gnựa mặc trường bào màu xanh xám. Tới nơi hai người xuống ngựa, mọi người nhìn rõ mặt lão mặc áo hồng bào tuổi ngoài năm mươi, mặt vuông tai lớn trông đường vệ như một ông quan. Người mặc áo bào xanh xám có vẻ mặt thầy đồ, tuổi chừng ngót năm chục, cặp mắt đã lờ mờ dường như vì đọc sách nhiều quá nên thị lực kém đi.

Phong Ác Bá giới thiệu:

- Thưa đại ca cùng nhị ca! Vị này là trì khách tăng Hư Phong sư phụ.

Rồi quay sang Hư Phong giới thiệu:

- Đây là Đặng đại ca của tại hạ tên là Đặng Bách Xuyên.

Lại trỏ vào lão thầy đồ nói:

- Vị này là nhị đại ca, tên gọi là Công Dã Càn.

Hư Phong chắp tay thi lễ nói:

- Tiểu tăng từng được nghe các danh Đặng đại ca cùng Công Dã nhị gia. Bữa nay được hai vị giá lâm thật là vinh hạnh cho tệ tự.

Đặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn lên tiếng đáp:

- Không dám, sư phụ dạy quá lời.

Hai người mới nói bấy nhiêu tiếng, mà hai người nghe đã chói tai vì thanh âm Đặng Bách Xuyên xoang xoảng như tiếng chuông đồng. Đây là lão mới buột miệng nói tự nhiên, chưa dùng sức chút nào, mà đã làm rung động lá nhĩ mọi người.

Công Dã Càn nói tiếp:

- Công tử tôi sắp đến bây giờ, cảm phiền sư phụ báo cho một tiếng.

Hư Phong nói:

- Vâng, xin năm vị ở trong quán chờ một chút, tiểu tăng vào chùa thông báo, mời các sư bá, sư thúc ra nghênh tiếp liệt vị.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Không dám!

Lão quay lại, ngó thấy Đinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi, không biết là hạng người thế nào.

Hư Phong trở gót lật đật đi vào chùa. Y nhớ lại lần trước quần hào Trung Nguyên đã tụ tập chùa Thiếu Lâm để thương nghị cách đối phó với Mộ Dung công tử, một tay thông suốt hết những tuyệt kĩ của tất cả phái võ khắp thiên hạ.

Sau cuộc hội đàm chưa bao lâu thì phát sinh vụ Kiều Phong lẻn vào chùa Thiếu Lâm, kế tiếp đến cuộc đại hội quần hùng ở Tụ Hiền Trang, các vị anh hùng Trung Nguyên đổ dồn cặp mắt vào "Kiều Phong" còn vụ "Nam Mộ Dung" tự nhiên lắng xuống. Trước kia bao nhiêu tội ác khách giang hồ đổ cả lên đầu "Cô Tô Mộ Dung" nhưng từ đó lại được san sả bớt đi phân nửa cho Kiều Phong gánh đỡ. Không ngờ bữa nay "Mộ Dung công tử" lại xuất hiện một cách đột ngột.

Huyền Từ đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm được tin báo một cách bất ngờ, liền phái viện trưởng viện Đạt Ma là Huyền Nạn đại sư thống lảnh mười lăm vị cao tăng xuống núi nghênh tiếp. Mọi người hỏi Hư Phong biết rằng Mộ Dung công tử phái bốn tay thuộc hạ theo đúng phép lễ nghi, xem ra không có ác ý gì cả. Tuệ Thu Hiền Sư lại hết sức khen ngợi Phong Bá Ác là người bạn tốt. Mọi người đều chân tay không, không cầm binh khí. Vì ai nấy đều biết tiếng tăm Mộ Dung Phục lừng lẫy thiên hạ, dù chàng có ý đến chùa Thiếu Lâm để gây hấn, cũng không đến nỗi vừa gặp nhau đã động thủ ngay.

Lúc Hư Phong trở gót vào chùa thì cặp mắt láo lia của Phong Bá Ác ngó chầm chập vào bộ mặt sắt Du Thản Chi không ngớt. Y càng ngó càng lâu càng thấy hay hay. Phong Bá Ác lại đi vòng quanh Du Thản Chi ngắm ngía cái đầu kỳ lạ, thấy cái đầu này đúc rất tinh xảo, hàn gắn rất kỹ càng. Gã muốn đưa tay ra gõ vào cái đầu này mấy cái.

Bọn Đặng bách Xuyên biết tính gã hay rắc rối dễ xảy ra chuyện lôi thôi, liền ngăn trở y tránh mọi chuyện xích mích nhỏ mọn có thể gây thành đại sự.

Phong Bá Ác xem ngắm hồi lâu gợi chuyện:

- Này anh bạn! Anh mạnh giỏi chứ?

Du Thản Chi đáp:

- Dạ, tôi... tôi thường. Còn ông bạn thế nào?

Gã thấy Phong Bá Ác hình như ngứa chân ngứa tay, vung quyền múa chưởng, càng ngấm ngầm sợ hãi. Phong Bá Ác nói:

- Cái lồng sắt của anh bạn ai làm khéo thế? Phong mỗ đi khắp thiên hạ mà chưa thấy ai có cái mặc nạ này.

Du Thản Chi bẽn lẽn, cúi đầu xuống nói khẽ:

- Vì tôi... không có quyền tự chủ được thân mình, nên họ... muốn làm thế nào thì làm. Tôi không có cách nào...

Phong Bá Ác vốn là người đầy lòng nghĩa hiệp, nghe Du Thản Chi nói vậy, cũng thương tình liền hỏi:

- Kẻ nào mà ác ôn ghê gớm đến thế? Phong Mỗ muốn thử coi xem cái mặc nó thế nào?

Phong Bá Ác vừa nói vừa nói vừa nheo mắt nhìn vào mặt Đinh xuân Thu vì tưởng lão này đã ức hiếp và chụp lòng sắt vào đầu Du Thản Chi. Đinh Xuân Thu, trên mặt thoáng qua nụ cười, dường như có để ý cho Phong Bá Ác trông thấy.

Du Thản Chi vội nói:

- Không... không phải sư phụ tôi đâu.

Phong Bá Ác nói:

- Vậy thì ai? Họ chụp lồng sắt vào đầu anh để làm gì? Tôi phải tháo bỏ đi cho anh.

Y nói xong thò tay vào bọc móc lưỡi dao trủy thủy sáng loáng ra. Mới trông cũng biết ngay là một lưỡi dao cực kỳ sắc bén. Phong Bá Ác định dùng lưỡi dao này để tháo cái lồng sắt cho Du Thản Chi.

Du Thản Chi biết cái lồng sắt này đã dính liền mặt mũi và đầu óc mình, nếu tháo nó ra thì đồng thời rứt cả da thịt mình và có thể nguy đến tính mạng. Gã vội ngăn lại:

- Không! Không thể tháo ra được đâu!

Phong Bá Ác nói:

- Anh đừng sợ gì hết. Anh cứ để tôi tháo ra cho, quyết không tổn thương gì đến da thịt anh đâu.

Du Thản Chi vẫn nằng nặc không chịu, nói:

- Không! Không được mà!

Phong Bá Ác hỏi:

- Phải chăng anh sợ hãi cái con người đã chụp mũ sắt lên đầu anh nên anh không dám để tôi tháo ra cho anh chứ gì? Lần sau anh có gặp hắn hành hạ về tội mất mặt sắt, anh cứ biểu hắn rằng: "Nhất trận Phong này đè anh để tháo ra đó" anh không tự chủ được thì biểu hắn đến tìm tôi mà trả đũa.

Phong Bá Ác nói xong nắm chặt cổ tay trái Du Thản Chi. Du Thản Chi nhìn thấy lưỡi dao truỷ thủ sáng loáng thì kinh hãi vô cùng, vội la lên:

- Sư phụ! Sư phụ!

Gã vừa gọi vừa quay lại Đinh Xuân Thu cầu cứu, nhưng thấy lão cứ thản nhiên hai tay chấp để sau lưng đủng đỉnh đi ra phía ngoài quán Lương Đình để ngắm phong cảnh, vờ như không nghe tiếng Du Thản Chi kêu gọi. Du Thản Chi trong lúc hoang mang, nhớ đến phương pháp sư phụ đã truyền thụ để cự địch. Gã ngầm ngầm niệm khẩu quyết: "TinhTú lão tiên! Bảo vệ đệ tử! Đánh bại kẻ địch. Một, ba, năm, bảy, chín." Đoạn gã giơ tay mặt vỗ vào bả vai bên trái Phong Bá Ác. Dè đâu chổ gã đập lại đúng vào huyệt thiên tông một huyệt đạo trọng yếu nơi sau lưng.

Phong Bá Ác lúc đó để hết tinh thần vào việc tháo lồng sắt cho Du Thản Chi, y sợ chỉ trệch mũi dao một chút là có thể làm gã phải sứt mặt vỡ đầu, y còn có đề phòng đâu đến chỗ bị Du Thản Chi tập kích ngấm ngầm một cách bất thình lình.

Hơn nữa kình lực chưởng thế này rất mạnh không phải tầm thường lại đập vào chỗ hiểm yếu trong người, Phong Bá Ác chỉ kịp rú lên một tiếng rồi ngã chúi về đằng trước. Ấy là Phong Bá Ác đã nhanh chân lẹ tay, nên bị đòn rồi còn gắng gượng chống đỡ được. Tay trái y vừa chống xuống đất, y liền nhảy phắt đứng thẳng người lên được. Ụa một cái, miệng Phong Bá Ác hộc ra máu tươi.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, ba người thấy Du Thản Chi bất thình lình hạ độc thủ, khiến người anh em bị một đòn nặng thì đều giật mình kinh hãi. Đinh Xuân Thu biết Du Thản Chi trong người chứa đầy nọc độc, lão giả vờ bảo Du Thản Chi niệm khẩu quyết rồi vỗ vào bả vai đối phương. Bởi nơi đó là chỗ yếu huyệt của con người, Du Thản Chi chỉ khẽ vỗ là đối phương phải bị trong thương ngay chẳng phải do phù chú pháp thuật gì cả.

Công Dã Càn bắt mạch Phong Bá Ác, thấy mặt cấp xốc, dồn dập dường như bị trúng độc, lão nghĩ ngay ra rồi trỏ vào mặt Du Thản Chi quát mắng:

- Thằng lõi con kia! Té ra mi là môn hạ Tinh Tú Lão Quái, vừa ra tay là dùng đến thủ đoạn thâm độc hại người.

Lão móc trong bọc ra một cái bình nhỏ, mở nắp lấy một viên thuốc giải độc nhét vào mồm Phong Bá Ác. Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng, lạng người đi một cái đứng chặn trước mặt Đinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi. Bao Bất Đồng tính tình nóng nảy chẳng kém gì Phong Bá Ác, còn có phần nham hiểm hơn. Ngoài ra, y lại có tính câu chấp. Y ngầm vận tiềm lực vào tay trái, năm ngón tay giơ ra như móng vuốt toan chụp xuống ngực Du Thản Chi.

Đặng Bách Xuyên vội can ngăn:

- Bao tam đệ hãy dừng tay!

Bao Bất Đồng chuẩn bị chụp xuống nghe Bách Xuyên nói liền quay trở nhìn.

Hồi Thứ 56

Chùa Thiếu Lâm xảy chuyện bất ngờ

Ðặng Bách Xuyên nói tiếp:

- Chốn này ở ngay bên ngoài cổng lớn Thiếu Lâm. Những chuyện thị phi, những điều khúc triết xảy ra tại đây, đã có phương trượng cùng các vị cao tăng chùa này phán xét. Nếu chúng ta thiện tiện động thủ thì tỏ ra mình không biết tôn trọng phái Thiếu Lâm.

Bao Bất Đồng thấy Đặng đại ca nói đúng lý, nghĩ thầm:

- Mình mà ra tay đánh người ngay ở cổng chùa Thiếu Lâm hòng có khác gì: "Múa rìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm" và không khỏi có sự hiềm nghi là đã coi thường phái Thiếu Lâm, hơn nữa phái này có sẵn thành kiến coi "Cô Tô Mộ Dung" mình vào hạng tàn ác lại hay sanh sự. Xem chừng tên đệ tử yêu nghiệt phái Tinh Tú kia cũng chẳng có bản lĩnh gì đáng kể mà phải lo hắn trốn thoát. Hơn nữa Đinh Xuân Thu mặt mũi hồng hào như trẻ nít, mà tóc bạc phơ khác nào một vị thần tiên. Lão có khí độ dung nhan, rõ ra một vị cao nhân đắc đạo. Tuy thấy Du Thản Chi gọi mà lão vẫn thản nhiên như không, mặt mày chính khí. Cứ trông nét mặt cùng cử chỉ kiên quyết của lão không phải là nhân vật phái Tinh Tú. Mặc khác Mộ Dung Công Tử đến đâu là muốn mưu đồ công chuyện lớn lao, mình cũng nên chắc nhặt những chi tiết nhỏ nhen.

Bao Bất Đồng nghĩ đến đại sự, đành nén giận cho khỏi lỡ việc, rồi từ từ hạ tay xuống. Lúc đó Công Dã Càn đã đỡ Phong Bá Ác ngồi dậy và thấy gã toàn thân run bắn lên hai hàm răng dập vào nhau cầm cập, tựa hồ như người ngã vào biển tuyết.

Phong Bá Ác vốn là người hiếu thắng, từng trải bách chiến, bị thương không biết bao nhiêu lần, gã vẫn mạnh dạn chịu đựng.

Huyền Nạn Đại sư giữ địa vị cao cả tại chùa Thiếu Lâm. Trong chùa có rất nhiều hạng người thì biết hết thế nào được. Đặc biệt Du Thản Chi hình thù cổ quái nên đại sư mới nhớ mà thôi, nhưng cũng không nhớ rõ gã có phận sự gì trong chùa.

Đang lúc hỗn loạn bỗng nghe có tiếng vó ngựa "lộp cộp" đang lên núi. Công Dã Càn lộ vẻ mừng rỡ la lên:

- Chắc công tử đến rồi?

Y ngó thấy con ngựa màu xanh phớt thì lại xịu mặt xuống. Các nhà sư Thiếu Lâm nghe tiếng y la "chắc là công tủ" đều tưởng Mộ Dung Phục nên đưa mắt nhìn ra. Khi ngựa gần đến nơi thì người cỡi lại là một nữ lang. Nữ lang này người mảnh dẽ phong tư yểu điệu mặc áo lụa màu lục.

Nàng vừa trông thấy mọi người đã vội vàng xuống ngựa hất hàm hỏi ngay:

- Tam ca ơi! A Châu tỉ nương có ở đây không?

Nữ lang này là thị tỳ của Mộ Dung Phục tên gọi A Bích, chủ nhân toà nhà Cầm Vân Tiểu Trúc. Ngày nọ A Châu cải trang vào chùa Thiếu Lâm lấy kinh sách, đã lâu không về. A Bích rất nóng lòng hàng ngày thôi thúc Mộ Dung Phục đi tìm. Song chàng mắc nhiều việc trọng yếu, không muốn vì một gã thị tỳ điều động binh tướng đến chùa Thiếu Lâm tra xét.

Vụ này Mộ Dung Phục lần chần mãi cho đến ngày nay, và bây giờ một là chính chàng cũng lo đến sự an nguy của A Châu, hai là chàng bị A Bích thúc giục không thể khất lần mãi được, đành phải dẫn bọn thuộc hạ lên chùa Thiếu Lâm "bái sơn."

Công Dã Càn không trả lời về việc A Châu, y hỏi lại bằng một giọng hốt hoảng:

- Công tử đâu? Công tử đâu?

A Bích dắt ngựa rảo bước đến trước quán Lương Đình nói:

- Dọc đường công tử gặp một nhà sư đang đuổi theo một cô gái để hà hiếp. Công tử lấy làm bất bình muốn ra tay cứu vớt, liền sai tiểu Muội đến trước đây. Chắc công tử cũng sắp tới nơi.

Rồi nàng nhìn Phong Bá Ác:

- Ủa! Tứ ca! Tứ ca làm sao vậy?

Nàng buông dây cương trong tay xuống chạy đến bên Phong Bá Ác. Tóc nàng phủ một lớp sương trắng mỏng. Mớ tóc đen láy đột nhiên biến thành đầu bạc.

Nàng chìa tay ra muốn nắm lấy cổ tay Phong Bá Ác, Công Dã Càn vội giật tay nàng ra nói:

- Tứ đệ trúng chất kịch độc đừng chạm vào người y.

Bọn thủ hạ Mộ Dung Phục là Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Bá Ác, A Châu, A Bích. Sáu người này vẫn coi nhau như tình anh em. A Bích nghe nói tứ ca bị trúng độc vừa khinh hãi vừa tức giận. Nàng trừng mắt nhìn các nhà sư Thiếu Lâm hỏi:

- Phải chăng các vị đại hòa thượng đã hại tứ gia! Mau lấy thuốc giải độc để cứu cho tứ ca tôi.

Công Dã Càn lắc đầu nói:

- Không phải mấy vị đây.

Bất thình lình tiếng chuông chùa boong boong khua nhộn lên. Các nhà sư cả kinh thất sắc. Tiếng chuông đổ liên hồi ra chiều cấp bách. Công Dã Càn cùng A Bích tuy không hiểu chuyện gì nhưng cũng đoán là trong chùa đã xảy ra cuộc diễn biến khẩn cấp. Bỗng thấy hai nhà sư mặc áo tro từ cửa ngách trong chùa hốt hoảng chạy ra. Khinh công hai nhà sư này vào hạng rầt thuần thục chớp mắt trước quán Lương Đình.

Nhà sư chạy trước vừa trông thấy Huyền Nạn đại sư đã khom lưng bẩm:

- Bạch sư bá! Sau núi có kẻ địch lẻn vào. Huyền Thống sư bá bị thương rất nặng.

Huyền Nạn gật đầu hỏi:

- Chúng đến mấy người? Hình dạng thế nào?

Huyền Nạn đại sư lúc nào vẻ mặt cũng rất bình tĩnh mà nghe tin Huyền Thống bị thương không khỏi ngạc nhiên. Nguyên Huyền Thống về đường quyền chưởng đã đến mức siêu quần, là một trong những tay cao thủ vào bậc nhất chùa Thiếu Lâm. Kẻ địch dù có võ nghệ cao cường tới đâu cũng phải chiến đấu dai dẳng mới có thể đánh y bị thương được. Thế mà các sư vừa mới ra khỏi cửa chùa, ông đã bị thương ngay là nghĩa làm sao?

Nhà sư báo tin đáp:

- Tiểu điệt không hiểu bên địch có bao nhiêu người và chúng là ai?

Huyền Nạn nhíu cặp lông mày lại liếc mắt nhìn Công Dã Càn. Trong bụng đại sư yên trí là Mộ Dung ở Cô Tô dã sui người đến đột kích, mới đánh Huyền Thống được mau lẹ đến thế, và có lẻ chính Mộ Dung Phục đã ra tay.

Đại sư lạnh lùng nói móc:

- Cái kế dương Đông kích Tây gớm thật!

Công Dã Càn để hết tâm trí trông nom Phong Bá Ác, chẳng để ý gì câu nói xói của Huyển Nạn. Nhiều vị cao tăng chùa Thiếu Lâm ra quán Lương Đình để nghênh tiếp Mộ Phục mà không thấy chàng đâu, đã sinh lòng ngờ vực. Khi nghe chuông chùa báo động, rồi được tin Huyền Thống bị trọng thương, mọi người từ từ dời chỗ bao vây bọn Công Dã Càn vào giữa.

Trong chùa Thiếu Lâm có biết bao nhiêu tay cao thủ, nên những nhà sư đã ra quán Lương Đình không còn vội vã quay về cứu ứng.

Lát sau dứt tiếng chuông báo động, lại có một nhà sư trong chùa chạy ra bảo:

- Sau chùa có hai người lạ mặt xuất hiện. Một người tự xưng là họ Đặng thủ hạ của nhà Mộ Dung ở Cô Tô, còn một người nữa cũng bị thương ngã lăn ra đất. Kẻ địch đã tẩu thoát không biết đi về phương nào.

Công Dã càn bực mình vội hỏi:

- Người bị thương là ai? Phải chăng là một hán tử gầy nhom mặc áo hoàng bào không?

Nhà sư kia không trả lời câu Dã Càn hỏi, mắt lộ vẻ băn khoăn và lưu ý đề phòng coi y như là kẻ địch. Trông vẻ mặt nhà sư, Công Dã Càn cũng biết rõ người bị thương chính là Bao Bất Đồng. Công Dã Càn tuy rất nóng lòng, nhưng nghĩ đến tứ đệ bị thương nằm đây, không dám bỏ đi, y đành để tam đệ cho đại ca trông nom, chắc cũng không có điều gì đáng ngạc lắm.

Huyền Nạn thấy Công Dã Càn tuyệt không để ý gì đến chuyện kháng cự, còn A Bích chỉ là một thiếu nữ xinh đẹp yếu đuối, nước mắt ngắn nước mắt dài chẳng làm gì được ai, nhà sư chậm rãi hỏi:

- Mộ Dung Công Tử có đến không? Để chúng tôi chờ đây nghênh tiếp đại giá?

A Bích khép nép đáp:

- Công tử tiểu nữ giữa đường gặp một gã ác tăng hiếp đáp một cô gái yếu đuối, người còn đuổi theo gã để giải cứu cho nàng, không dám phiền các đại sư chờ lâu...

Huyền Nạn lộ vẻ không bằng lòng, nói:

- Các tăng sĩ bản tự vốn giữ thanh quy, có lý đâu lại đi hiếp tróc đàn bà con gái? Cô nương ăn nói hồ đồ. Có điều lão tăng thấy cô nương trẻ người non dạ, chẳng thèm chấp trách làm gì.

A Bích vội cãi:

- Đúng là một nhà sư... có điều nhà sư này chưa chắc đã phải ở chùa Thiếu Lâm.

Huyền Nạn nói:

- Trong phạm vi mấy chục dặm núi Thiếu Thất, tất cả các tăng sĩ khu vực này đều có mối quan hệ với bổn tự, nếu không xuống tóc ở đây thì cũng thời thường trú ngụ. Hừ! Cô nương... Cô nương...

Huyền Nạn vốn nóng tính, toan cho nàng một bài học, nhưng thấy vẻ mặt A Bích khổ sở đáng thương không nỡ nặng lời, nên nói dỡ câu rồi ngưng bặt.

Trầm ngâm một lúc, đại sư ngờ Mộ Phục chẳng có ý gì tử tế với mình, liền nói:

- Xin mời ba vị cùng vào tệ tự nghỉ ngơi để chờ Mộ Dung Công Tử đến đây.

Câu này nhà sư có ý nói muốn giam giữ bọn Công Dã Càn. Nếu Dã Càn không nghe, thì phải đi đến cưỡng ép, còn A Bích cô nương thì chùa không tiên lưu giữ, để tùy ý cô đi đâu thì đi.

Không ngờ Công Dã Càn lại chịu ngay. Y nói:

- Chúng tôi chỉ e quấy nhiễu quý tự nhiều quá!

Rồi cuối xuống ẵm Phong Bá Ác vào lòng rảo bước đi vào phía cửa chùa. A Bích vừa đi vừa hỏi dò nhà sư ra báo tin sau cùng:

- Đại sư phụ ơi! Tam ca tiểu nữ bị thương có nặng lắm không? Người mặc áo hoàng bào chính là tam ca tiểu nữ đó. Y... y... bị thương thế nào? Có phải y bị các vị hòa thượng trong qúy tự đánh bị thương không?

Các nhà sư rảo bước về chùa rồi, còn nhà sư này thấy có Huyền Nạn đi lên cũng không dám nói nhiều. Nhưng nghe A Bích ăn nói dịu dàng uyển chuyển y không nỡ bỏ qua, khẽ đáp:

- Thằng... Thí Chủ... vị thí chủ đó...

Y toan biểu "Thằng cha đó" nhưng nể mặt A Bích nên nói đổi lại "Vị thí chủ." Ngừng một lát lại nói tiếp:

- Vị thí chủ đó không hiểu bị ai đánh, chứ không phải nhà chùa chúng tôi và cũng bị thương hệt như thí chủ này!

Y vừa nói vừa trỏ vào Phong Bá Ác. Huyền Nạn rùng mình hỏi:

- Cả Huyền Thống sư đệ cũng bị rét run lên cầm cập phải không?

Nhà sư kia nói:

- Đúng vậỵ

Huyền Nạn đại sư rất lấy làm kỳ, trầm ngâm một lúc rồi lẩm bẩm:

- Tại sao lại cả ba người cùng bị thương giống nhau?

Nhà sư kia đáp:

- Huyền Thống sư bá da thịt lạnh toát, phương trượng đã đem kim cương chưởng lực để giúp dương khí cho người mà vẫn chưa khỏi.

Huyền Nạn nghe nhà sư nói đến bốn chữ "mà vẫn chưa khỏi" thật là một lối mập mờ, tỏ ra không muốn nói rõ chỗ một mình kém cõi trước mặt người ngoài. Đáng lý ra phải nói là chẳng ăn thua gì thì mới đúng sự thật. Huyền Nạn lại nhìn thấy tình trạng Phong Bá Ác ra chiều khổ cực, càng lo cho Huyền Thống sư đệ. Đại sư đột nhiên chì bàn chân xuống đất, băng người ra cửa trông tựa hồ một bóng dây đỏ bay qua.

Công Dã Càn rùng mình khen thầm:

- Thân pháp tuyệt dịêu.

Cả đoàn người vào đến phòng tiếp khác bên Đại Hùng Bảo Điện. Các nhà sư vẫn nhìn nhận bọn Công Dã Càn ba người đều là cừu địch, nên không ai tỏ vẻ niềm nở nhã nhặn, mà chỉ giữ thái độ quảng đại của môn phái lớn, cũng mời ngồi uống trà nhưng ra chiều lạnh nhạt.

Công Dã Càn hỏi ngay:

- Người anh em tại hạ bị thương hiện giờ ở đâu?

Bỗng thấy phía sau nhà có tiếng oang oang như tiếng chuông đồng của Đặng Bách Xuyên đáp lại:

- Nhị đệ ta ở đây.

Công Dã Càn hỏi ngay:

- Nhị đệ cũng bị người ta hạ độc thủ rồi ư?

Đặng Bách Xuyên ẵm Bao Bất Đồng chạy vào với vẻ mặt lo âu. Bách Xuyên đặt Bao Bất Đồng xuống ghế. Công Dã Càn móc ba viên thuốc giải độc nhét vào miệng Bao Bất Đồng.

Bao Bất Đồng run như cầy sấy, hai hàm răng đập vào nhau lập cập, nói:

- Gã tiểu tử mặt sắt đó là thuộc hạ một phái tà đạo ghê gớm. Tiểu đệ... tiểu đệ...

Gã nói luôn ba tiếng "Tiểu đệ" rồi hàm răng đập lập cập không nói thêm được nữa. A Bích lấy tấm khăn lau của mình ra lau mồ hôi trán cho vị nghĩa huynh. Nàng thấy những giọt mồ hôi chớt mắt đã đọng lại thành những hạt sương. Giữa lúc A Bích đang hoảng hốt thì có bốn vị cao tăng ở hậu đường đi ra.

Vị đi đầu nhìn Đặng Bách Xuyên nói:

- Đặng thí chủ. Huyền Thống sư huynh ở tệ tự cũng bị gã đầu sắt đánh trọng thương. Tà thuật gã ghê gớm lắm.

Huyền Tử phương trượng nói:

- Xin hai vị thí chủ bị thương hãy uống trước mấy viên chính khí lục dương đan của bảo tự rồi lão tăng sẽ dùng thuần dương la hán công để trợ lực cho hai vị.

Đặng Bách Xuyên nghe nói cả mừng, y biết rằng chính khí lục dương đan là một thứ linh đan hạng nhất, rất nổi tiếng khắp thiên hạ của chùa Thiếu Lâm chữa hàn độc hiệu nghiệm như thần. Y lại biết "Thuần dương la hán công" là một tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Người ta tu luyện môn này phải khởi đầu từ thuở nhỏ và phải cố công rèn luyện ít ra là từ bốn mươi năm trở lên mới hy vọng thành đạt đến mức thượng thặng. Nếu không phải là một vị cao tăng giữ luật thanh tu từ lúc xuất gia và tuyệt đối không gần nữ sắc bốn năm chục năm, thí không tài nào giữ được thân thể tráng kiện của tuổi trẻ cho đến lúc già. Y liền cùng Công Dã Càn khoanh tay tạ ơn.

Vị tăng này lấy ra hai viên thuốc lớn bằng mắt rồng và đỏ tươi như máu nhét vào miệng Bao Bất Đồng và Phong Bá Ác. Bốn vị lão tăng lại cha làm hai chỗ, hai vị phục thị cho một người đặt bàn tay vào ngực và bụng Bao bất Đồng cùng Phong Bá Ác rồi vận nội lực thúc đẩy khí thuần dương trong mình vào người hai gã.

Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bửa cơm. Bao Bất Đồng cùng Phong Bá Ác mới hết run, nét mặt xám xanh đã biến chuyển dần lại Huyền Tự kéo tay lại không biết nàng là con gái thì còn biết A Châu là gì nữa?

Sau khi Kiều Phong đưa A Châu đến Tụ hiền trang nhờ Tiết Thần Y điều trị. A Châu lại nói dối là nàng gặp một chàng thanh niên đánh bị thương. Lúc đó các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Tịch, Huyền Nạn đều được mắt thấy. Nhưng không ai biết đến chỗ nàng đã trá hình Trí Thanh hòa thượng để lấy cắp kinh sách của chùa. Vì thế mà A Bích xin phương trượng tha A Châu, mọi người không còn ai biết việc đó. Thực ra trên cõi đời này chỉ có một người biết rõ đầu đuôi vụ ấy là Kiều Phong mà thôi.

Huyền Từ tức mình nói:

- Cô này nói chuyện gì tệ tự giữ người không tha, tất cô nghe lầm rồi. Chùa Thiếu Lâm là nơi thanh tu của những người xuất gia, giới luật cực kỳ nghiêm mật, quyết chẳng ai dám làm điều càn rỡ.

A Bích vội nói:

- Tiểu nữ có dám bảo các vì làm điều càn rỡ đâu. Tiểu nữ biết rằng chị A Châu vốn tính ngang ngạnh và tinh nghịch và nhất định đã gây nên tội lỗi với nhà chùa. Vì vậy mà công tử tiểu nữ bữa nay phải đến đây bồi tội bằng những lời lẽ phải chăng để khẩn cầu các vị, xin các vị phóng xá chị A Châu, tiểu nữ lại xin dập đầu bái tạ.

Nàng thấy vẻ mặt Huyền Từ phương trượng rất hiền lành mà Huyền Nạn đại sư ra chiều nghiêm khắc. Nàng chắc vụ này các vị lão hòa thượng Huyền Nạn, Huyền Tịch có ý làm khó dễ nên nàng bước lại toan lạy lục. Huyền Nạn phất tay áo một cái để khẽ đẩy nàng lại khiến cho nàng không thể quỳ xuống được.

Thế "Tụ Lý Càn Khô" của Huyền Nạn đại sư là một trong những tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. A Bích thấy một luồng khí lực ngăn cản mình không cho quỳ lạy xuống thì trong lòng lấy làm quái dị.

Huyền Nạn nói:

- Lề luật chùa Thiếu Lâm từ mấy trăm năm nay không đón tiếp nữ thí chủ, tỉ nương cô đừng nói nhà chùa có dám lưu lại, mà dù cô ta có muốn vào đây, chùa Thiếu Lâm cũng khước từ không dám để cô vào. Chỗ ta đang ngồi đâu đã ra ngoài phạm vi bổn tự và phương trượng đặt biệt nể cô nương mới mời vào đây để tương hội.

A Bích rung rinh hàng lệ muốn khóc hỏi:

- Các vị không lừa gạt tiểu nữ đấy chứ? Vậy thì chị A Châu tiểu nữ đi đâu. Hôm đó rõ ràng tỉ nương bảo tiểu nữ là lên chùa Thiếu Lâm mà.

A Bích người đã xinh đẹp, lại nói năng cử chỉ rất ôn hoà khả ái. Nàng không linh lợi hoạt bát như A Châu mà cũng không điêu xảo cổ quái như A Tử. Các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm đã tu hành đắc đạo mấy chục năn trời, không ai còn nhớ đến dáng điệu nồng nàn của nữ nhi nữa. Thế mà lúc này lời A Bích tha thiết khẩn cầu khiến các vị không khỏi động tâm. Các vị coi nàng chẳng khác gì con cháu mình vẻ mặt lộ ra những nét từ ái vô bờ bến.

Huyền Tịch đại sư nói:

- Hư Phong! Ngươi đi kêu Ẩn Nguyệt sư bá ở Thiện Duyên Đường mở cuộc điều tra xem vị cô nương chị cô này lạc vào nơi nào? Khi điều tra được rồi thì lập tức đưa tin xuống nhà Mộ Dung Công Tử ở Cô Tô.

Bọn Đặng Bách Xuyên, A Bích đều biết Thiện Duyên Đường là một cơ quan của Thiếu Lâm chuyên việc liên lạc với các bậc anh hùng trên chốn giang hồ, Huyền Tịch đại sư đã giao phó công việc này cho họ thì rõ ràng đúng là A Châu chưa từng đến đây. Hơn nữa chúa Thiếu Lâm đã phụ trách giúp việc tra xét mà những vị này giao thiệp khắp chốn giang hồ, chắc rằng chẳn bao lâu nữa sẽ biết tin.

Mọi người nghĩ vậy đều ngỏ lời cảm tạ. Huyền Tịch lại hỏi đến trường hợp Bao Bất Đồng bị thương ra sao?

Bao Bất Đồng ngước mắt lên trời nói:

- Tại hạ gặp phải trường hợp đúng hệt như Huyền Thống đại sư.

Người nhà Mộ Dung ở Cô Tô bị bẻ mặt, thì vị cao tăng chùa Thiếu Lâm cũng chẳng vẻ vang gì hơn. Thật khó mà phân biệt ai thua ai kém. Ông anh hết tị với ông em. Rúc cuộc cái hạn năm nay đều bất lợi cho cả hai nhà nên xảy đến tai nạn này.

Phong Bá Ác nghiến răng nghiến lợi nói:

- Vụ này không đánh nhau mà bị thương mới tức chứ! Giả tỉ như trận ác đấu ba trăm hiệp mà mình bị thua để gã đầu sắt đánh ngã thì mình cam tâm chẳng chút ân hận.

Mọi người lặng lẽ ngẫm nghĩ về thân thế Du Thản Chi và đều nhận thấy nội lực gã thuộc phái nội gia chân chính song trong bàn tay gã lại khó khí hàn độc tàn nhẫn vô cùng. Cứ thế mà suy thì trong phái tà còn có điểm chính và không thể là đệ tử phái Tinh Tú mới phải.

Bao Bất Đồng bỗng nhiên lạnh lùng nói:

- Chưởng lực gã tương tự như Đạt Ma thần chưởng trong quí phái.

Huyền Thống đưa mắt nhìn ba vị Huyền Từ, Huyền Tịch và Huyền Nạn lẳng lặng không nói gì. Mấy vị này đã ngấm ngầm nghĩ trong bụng về vụ này. Gã đầu sắt kia chẳng những đòn chưởng giống như Đạt Ma thần chưởng mà thôi, có thể chính là Đạt ma thần chưởng không sai. Có điều trước mặt người ngoài các vị không tiện nói. Bây giờ Bao Bất Đồng nói ra, các vị cao tăng không tiện phủ nhận, nghĩ thầm trong bụng: "Việc này nội tình còn có nhiều điều rắc rối chứ không phải chỉ có mình yêu nhân phái Tinh Tú đến tập kích mà thôi."

Huyền Nạn không muốn cho Bao Bất Đồng hỏi vặn thêm về vụ này nữa, đánh trống lãng quay lại hỏi Đặng Bách Xuyên:

- Đặng thí chủ! Mộ Dung công tử liệu có đến đây không? Bên quí vị cũng như bên bần tăng đều bị kẻ địch ám toán, ta nên hiệp lực đối phó. Công tử mà đến đây tất có cao kiến để giải quyết những mối nghi ngờ này.

Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn A Bích. A Bích nói:

- Tiểu nữ đã bạch cùng các vị sư phụ: Công tử tiểu nữ chủ tâm lên đây, nhưng dọc đường người chạy theo để cứu một vị cô nương. Cô nương này mặt mày che tấm mạng đen, thân hình tha thướt mà võ công không phải tầm thường. Nhưng nàng bị một nhà sư bản lĩnh cao rượt theo. Tiểu nữ chỉ trông thấy sau lưng nhà sư này hao hao giống vị Hộ Quốc Pháp Vương nước Thổ Phồn tên gọi Luân Minh Vương Cưu Ma Trí chi chi đó...

Huyền Tịch, Huyền Nạn đều kinh ngạc buột miệng hỏi:

- Đại Luân Minh Vương nước Thổ Phồn xuống Trung Nguyên?

A Bích đáp:

- Lão tự xưng như vậy chẳng hiểu có đúng hay không? Thân pháp lão mau lẹ quá chừng! Loáng một cái lão đã lướt qua tiểu nữ không kịp nhìn thấy rõ mặt. Công tử quay lại bảo tiểu nữ: "ngươi hãy đến chùa Thiếu Lâm trước chờ ta" rồi người đuổi theo nhà sư.

Huyền Tịch cùng Huyền Từ phương trượng đưa mắt nhìn nhau và đều nghĩ thầm: "nếu Đại Luân Minh Vương nước Thổ phôn Cưu Ma Trí lại xuống Trung Nguyên thì trong võ lâm còn nổi nhiều cơn sóng gió dữ dội. Hay là gã đầu sắt kia có dính líu đến Cưu Ma Trí? Võ công nhà Phật nước Thổ Phôn bắt nguồn ở Thiên Trúc thì bọn họ có hiểu môn "Đạt ma thần chưởng" cũng chẳng lấy chi làm lạ."

Mấy nhà sư chùa Thiếu Lâm tuy đoán không trúng, nhưng dù sao cũng có chút lý lẽ để tạm thời giải quyết những mối nghi ngờ cho đỡ bận tâm.

Huyền Từ nói:

- Các vị đường xá xa xôi nhọc mệt đến đây. Huyền Tịch sư đệ thay mặt ta khoản đãi các vị. Chờ Mộ công tử đến đây, mới có thể tìm ra kế hoạch lâu dài.

Nói xong đứng dậy. Trong thâm tâm các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm thực ra úy kỵ nhất là anh chàng Mộ Dung công tử, chuyên môn dùng lõi "gậy ông đập lưng ông". Năm ngoái đã tập họp những vị anh hùng trong thiên hạ để bàn kế đối phó với Mộ Dung Cô Tô, rồi xảy ra cuộc đại chiến với Kiều Phong ở Tụ Hiền Trang, nên cuộc đại hội anh hùng ở chùa Thiếu Lâm chưa tổ chức xong. Bây giờ các vị thấy bọn Đặng Bách Xuyên đến tuy cũng giảm đôi phần hằn học nhưng chưa phải đã cởi hẳn được mối lo này.

Ta nên biết vị cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Bi đại sư bị chết ở chân núi Trung Sơn vì vết thương của môn "kim cương chưởng". Môn này chính là tuyệt kỹ của Huyền Bi. Các vị cao tăng trong chùa vẫn cho cái lối "gậy ông đập lưng ông" ngoài họ Mộ Dung ở Cô Tô không còn ai có thể dùng tuyệt chiêu của Huyền Bi để giết ông được.

Bữa nay nghe nói Mộ Dung công tử dẫn thuộc hạ đấn bái sơn, các nhà sư đã cầm chắt sẽ có một cuộc tử chiến để báo thùcho Huyền Bi. Ngờ đâu xảy tai bay, Mộ Dung công tử chưa xuất hiện thì hai tên thủ hạ của chàng cùng Huyền Thống chùa Thiếu Lâm đồng thời bị võ công phái tà đánh bị trọng thương.

Huyền Từ thấy Đặng Bách Xuyên phong độ ung dung. Công Dã Càn nho nhã thanh kỳ, A Bích mỹ miều khả ái, toàn là những người rất chính đính. Dù Bao Bất Đồng ương ngạnh nóng nảy, Phong Bá Ác hiếu dũng ưa đánh nhau, nhưng xem ra cũng không phải là hạng gian tà. Theo lẽ thường thì cha nào con nấy, thầy nào trò ấy. Bọn thuộc hạ đã thế chắc chủ nhân cũng không đến nỗi là phường đại gian ác. Nhưng chân tướng ra sao thì phải chờ thấy mặt Mộ Dung công tử mới biết rõ lập trường để định kế hoạch.

Đặng Bách Xuyên nghe Huyền Từ biểu Huyền Tịch khoản đãi bọn mình để chờ Mộ Dung công tử tới nơi, liền chắp tay nói:

- Như vậy thì bọn tại hạ quấy nhiễu các vị đại sư nhiều quá!

Huyền Từ đại sư chắp tay để trước ngực đáp lễ xong, vừa toan bước ra khỏi nhà đại sảnh thì đột nhiên đánh "huỵch" một tiếng, Phong Bá Ác ngã lăn ra. Công Dã Càn vội vàng đỡ dậy. Bên kia Huyền Thống cùng Bao Bất Đồng cũng té theo.

Nguyên ba người này đã bị trúng độc giờ lại lên cơn. Trong chùa Thiếu lâm thuốc chũa thương rất nhiều song "chính khí lục dương đan" là thứ thần hiệu hơn hết đã không linh nghiệm, cả môn "Thuần dương La Hán Công" cũng không công hiệu, thì chẳng còn thuốc nào để trị nữa.

Bọn Huyền Thống ba người cứ sau một lát lên cơn. mấy vị cao tăng hết sức cứu chữa cực kỳ khổ sở mà chẳng được bao lâu thương thế lại tái phát. Mọi người vất vả suốt đêm rồi đành chịu bó tay chờ đến khi trời sáng.

Mộ Dung công tử vẫn chưa đến, ba người bị thương về hàn độc tuy không thấy biến chứng gì nguy hiểm hơn, nhưng rõ ràng là chưa bớt được chút nào. Mỗi người đã uống đến ba viên "chính khí lục dương đơn" rồi, dù có uống thêm nữa chưa chắc đã ăn thua gì và chất thuốc này quá mạnh uống nhiều rất có hại.

Tình trạng này kéo dài thêm một ngày nữa, ba người liên tiếp bị hàn độc hành hạ rất là khổ sở. Ai cũng biết rằng nếu cứ để nguyên tình trạng này thì rồi họ chịu đựng không nổi nữa.

Đặng Bách Xuyên nhìn Huyền Nạn cáo từ nói:

- Hai người anh em tại hạ bị thương nặng quá các vị đại sư đã cố gắng hết lòng cứu chữa mà thủy chung chưa khử trừ được hàn độc. Theo ý tại hạ thì cần phải tìm đến Tiết Thần Y để xin điều trị.

Huyền Nạn cũng đồng ý nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Tiết Thần Y cùng lão tăng cũng có cơ duyên gặp mặt mấy lần. Nếu đến cầu, chắc ông không nỡ từ chối. Nhà ông ở thị trấn Liễu Nguyên về phía tây thành Lạc Dương. Từ đây đến đó cũng không xa mấy. Chúng ta nên thượng lộ ngay.

Đặng Bách Xuyên cả mừng nói:

- Nếu được đại sư hết lòng thì mấy vị hiền đệ của tại hạ có cơ cứu được.

Đặng Bách Xuyên nói xong lấy bút thảo mấy dòng lưu lại để trao cho Mộ Dung công tử. Nhà chùa chuẩn bị ba cỗ xe lón. Huyền Nạn đại sư thân hành dẫn sáu tay đệ tử, pháp hiệu chữ "Tuệ" đi theo.

Sáu nhà sư sắp hàng chữ "tuệ" tuy tuổi già, song đều tu luyện môn "Thuần dương la hán công" vào hạng cao thủ, được đi theo để tiện dọc đường phục thị cho bệnh nhân. A Bích toan ở ngụ lại trong một ngôi chùa gần để chờ Mộ công tử đến, song nàng thấy vẻ mặt tiền tụy của Bao Bất Đồng cùng Phong Bá Ác lại không đành lòng, nên cũng theo đi.

Từ chùa Thiếu Lâm đến trấn Liễu Nguyên cách nhau chỉ chừng vài tăm dặm. Tuy đường núi gập ghềnh mà đến trưa hôm thứ ba đã đến nơi. Nhà Diêm Dương Địch Tiết Thần Y ở chốn thâm sơn cách trấn Liễu Nguyên hơn ba mươi dặm về phía Bắc. May mà ngày nọ khi ở Tụ Hiền Trang lão đã nói rõ đường lối với Huyền Nạn đại sư nên đoàn người không mất công dò hỏi, đi một mạch đến cửa nhà Tiết Thần Y.

Huyền Nạn cưỡi ngựa đi trước, thấy bên sông có mấy tòa nhà đổ tường trắng ngói đen. Trước nhà có một vườn thuốc. Nhà sư biết là chỗ ở của Tiết Thần Y liền giục ngựa đến nơi.

Trước cửa nhà treo hai chiếc đèn lồng phất giấy trắng rất lớn, Huyền Nạn giật mình tự hỏi:

- Trong nhà Tiết Thần Y chẳng lẽ có người chữa bệnh không khỏi?

Hồi 57

Những tấn bi hài kịch tại Tiết Gia Trang

Bên cửa cấm một lá cờ chiêu hồn. Quả trong nhà có đám tang không còn nghi ngờ gì nữa.

Lúc này nhà sư đã nhìn rõ trên đèn lồng có viết hai hàng chữ:

"Tiết Công Mộ Hoa chi tang".

" Hưởng niên lục thập ngũ tế".

(Đám tang Tiết Công Mộ Hoa, hưởng thọ sáu mươi lăm tuổi).

- Không hiểu Tiết Mộ Hoa có phải là Tiết Thần Y không? Nhưng trạc tuổi y đúng rồi. Nếu quả Tiết Thần Y không chữa được cho mình mà chết đi thì hỏng bét!

Lúc nhà sư dừng ngựa trầm ngâm thì Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn cũng thúc ngựa đến nơi. Ba người ngơ ngác nhìn nhau đều lộ vẻ hoài nghi không nhất quyết.

Bỗng thấy phía trong cửa có tiếng khóc vang lên, tiếng khóc của một người đàn bà:

- Lão gia ơi! Lão gia y thuật như thần, ngờ đâu lại bị cấp chứng bỏ chúng tôi mà đi. Tuy lão gia ngoại hiệu là "Diêm Vương Địch" mà rốt cuộc cũng bị tay Diêm Vương lôi đi. Bây giờ xuống Diêm cung chắc bị Diêm Vương hành hạ khổ sở!

Ba cổ xe lớn cùng A Bích và sáu nhà sư chùa Thiếu Lâm pháp hiệu có chữ "Tuệ" cũng đến nơi. A Bích nghe tiếng người khóc để viếng Tiết Thần Y thì cả kinh thất sắc nói:

- Đại ca ơi! Chúng mình thật xui quá rồi!

Đặng Bách Xuyên không trả lời nàng, nhảy xuống ngựa cất tiếng nói to:

- Huyền Nạn đại sư chùa Thiếu Lâm dẫn mấy người bạn đến có việc khẩn cầu Tiết Thần Y.

Tiếng y nói bình thường cũng oang oang như tiếng chuông đồng, lúc này y còn lấy hơi nói to hơn một chút nên vọng đi rất xa. Tiếng khóc trong nhà bỗng im bặt. Một lúc sau mới thấy một người đàn ông và một người đàn bà già ăn mặc như kẻ nô bộc trong nhà chạy ra nước mắt nước mũi nhể nhãi. Hai người nghẹn ngào trông rất thương tâm.

Lão bộc đấm ngực nói:

- Lão gia chúng tôi mất từ chiều hôm qua. Các vị... các vị không gặp được nữa rồi.

Huyền Nạn chấp tay để trước ngực hỏi:

- Tiên sinh mắc bịnh gì mà tạ thế?

Lão bộc đáp:

- Không hiểu là bệnh gì. Đột nhiên lão gia nấc lên mấy cái rồi nghẹt thở. Lão gia chúng tôi vốn thân thể tráng liện, tuổi cũng chưa già mấy. Thật là một sự không ngờ! Thật là một sự không ngờ!

Huyền Nạn lại hỏi:

- Trong nhà Tiết Thần Y còn ai không?

Lão bộc đáp:

- Không có ai. Không còn một người nào hết.

Công Dã Càn cùng Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau cả hai người cùng nhận ra rằng khi lão bộc nói mấy câu này giọng nói không có vẻ tự nhiên và thiếu thành thật.

Huyền Nạn thở dài nói:

- Con người ta sống chết có số mạng đã vậy thì cho chúng tôi vào trước linh vị ông bạn già để lạy một lạy.

Lão bộc áp úng:

- Cái đó... Cái đó... Vâng, vâng.

Rồi dẫn mọi người tiến qua cổng lớn vào nhà. Công Dã Càn lùi lại sau một bước, khẽ bảo Đặng Bách Xuyên:

- Đại ca! Tiểu đệ coi điều này dường như có điều gì khuất khúc. Lão bộc này ra chiều lúng túng và có ý mập mờ năm nắm nơm nớp.

Đặng Bách Xuyên gật đầu, theo lão bộc này vào linh đường thì thấy cách trần thiết rất đơn giản quê mùa, thiếu thốn đủ thứ, rõ ra cách bày trí trong lúc thảng thốt. Trên bài vị có dòng chữ: "Tiết Công Mộ Hoa chi linh vị." Mấy chữ này nét bút sắc sảo gân guốc đúng là của một người có học rộng quyết không phải lão bộc kia viết được thế này.

Công Dã Càn đã để ý đến điều này, nhưng không nói gì. Mọi người theo thứ tự vào trước linh vị làm lễ điếu tang. Công Dã Càn ngoảnh đầu nhìn ra ngoài sân thấy trên hai cây sào tre có phơi đến mười mấy bộ quần áo đàn bà có, đàn ông có. Trẻ con có, thì tự hỏi:

- Trong nhà Tiết Thần Y rõ ràng có đông đủ gia quyến sao vừa rồi lão bộc nói không còn ai.

Huyền Nạn nói:

- Chúng tôi từ chùa Thiếu Lâm trên núi Trung Sơn tới đây cầu Tiết tiên sinh chữa bệnh cho. Không ngờ đến nơi thì Tiết tiên sinh lại quy tiên rồi. Bây giờ trời đã xế chiều, đêm nay chúng tôi xin được ngủ trọ tại quý phủ một đêm.

Lão bộc vẻ ngại ngùng áp úng:

- Cái đó... Cái đó... dạ... được... được. Xin chư vị hãy ngồi chơi, trong nhà khách chờ một chút tiểu nhân đi làm cơm.

Huyền Nạn nói:

- Quản gia bất tất phải bận lòng. Cơm hẩm dưa muối cũng được mà.

Lão bộc nói:

- Dạ dạ! Xin các vị ngồi chơi một chút.

Nói xong lão dẫn mọi người ra sảnh đường rồi xoay mình đi vào trong nhà.

Qua một lúc lâu mà chẳng thấy lão bộc mang trà nước ra mời khách chi hết. Huyền Nạn lẩm bẩm:

- Lão bộc này gặp buổi ông chủ qua đời một cách đột ngột thì không khỏi thần hồn điên đảo. Hỡi ơi! Huyền Thống sư đệ bị trúng hàn độc, biết làm thế nào bây giờ?

Mọi người chờ đến nửa giờ vẫn chẳng thấy lão bộc ra nữa. Bao Bất Đồng đã bắt đầu nóng nảy nói:

- Tôi đi tìm ngụm nước uống khát quá rồi!

A Bích nói:

- Đừng! Tam ca hãy ngồi yên nghĩ một chút. Tiểu Muội xuống nhà đun nước giúp lão bộc.

Nói xong nàng đứng dậy đi vào nhà hậu đường. Công Dã Càn sợ nàng bị người ám toán:

- Để ta đi cùng với hiền Muội.

Hai người thẳng vào phía saa. Nhà họ Tiết rất nhiều phòng ốc. Cả trước sau có đến năm dãy, mà khắo trong ngoài tuyệt không một bóng người. Hai người lầm mò xuống đến nhà bếp thì cả đôi nam nữ lão bộc vừa rồi cũng chẳng thấy đâu nữa.

Công Dã Càn biết là có chuyện khác thường, hấp tấp trở ra nhà sảnh đường nói:

- Tình hình trong nhà này rất dị thường. Không chừng Tiết Thần Y giả chết cũng nên.

Huyền Nạn cũng lấy làm kì đứng bật dậy hỏi:

- Sao?

Công Dã Càn đáp:

- Tại hạ tưởng nên vào xem quan tài ra sao?

Y Lang người đi vào trước linh vị, đưa tay ra toan nhấc quan tài, rồi đột nhiên y nghĩ sao rồi rút tay về, chạy ra ngoài sân lấy một cái áo dài phơi trên sào quấn vào tay.

A Bích hỏi:

- Phải chăng nhị ca sợ trên áo quần có chất độc?

Công Dã Càn đáp:

- Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường, không thể không đề phòng được.

Y vận kinh lực nâng quan tài nhấc xem thì thấy quan tài rất là trầm trọng quyết bên trong không phải đặt xác chết, liền nói:

- Tiết Thần Y quả nhiên trá tử!

Phong Bá Ác rút đơn đao dánh soạt một tiếng nói:

- Cứ mở nắp quan tài ra xem sẽ rõ?

Công Dã Càn nói:

- Lão này ngoại hiệu xưng là Thần Y tất nhiên chuyên dùng thuốc độc. Tứ đệ phải cẩn thận đấy!

Phong Bá Ác nói:

- Tiểu đệ biết rồi.

Y lừa mũi đơn đao vào quan tài nậy lên. Lách cách mấy tiếng nắp quan tài hé mở. Phong Bá Ác bít kín các đường hô hấp vì sợ phấn độc trong quan tài bay ra. Nhà sư chùa Thiếu Lâm pháp danh là Tuệ Đề thấy Phong Bá Ác chú ý phòng bị, ra chiều sợ sệt cái thây ma thì trong bụng không khỏi có ý nghĩ hoạt kê. Lão không nhịn được phải phì cười.

Bao Bất Đồng xẵng giọng hỏi:

- Có chuyện chi mà cười?

Rồi lạng người đi một cái, tung mình nhảy vào trong sân, vươn tay ra chụp lấy hai con gà mái đang bắt sâu bọ trên cây quế ăn. Y nhắc tay một cái liệng hai con gà mái qua miệng quan tài.

Hai con gà kêu quang quác mấy tiếng rớt ngay xuống bên quan tài rồi chạy vội ra, nhưng chỉ chạy được mấy bước là ngã lăn ra. Hai con gà dẫy đành đạch mấy cái rồi nằm chết ngay đứ đừ. Lúc này dưới hành lang một cơn gió lạnh buốt thổi qua. Hai con gà chết lông rụng tứ tung bay theo chiều gió.

Mọi người thấy tình trạng này không khỏi khiếp sợ. Ta nên biết rằng những nhà sư chùa Thiếu Lâm pháp hiệu có chữ Tuệ đều đã tiềm tâm tu luyện mấy chục năm trời, ít khi bước chân ra khỏi chùa. Nội công các vị tuy rất thâm hậu, nhưng phần kiến văn và lịch duyệt bì thế nào được với Bao Bất Đồng, Phong Bá Ác, là những người lăn lộn giang hồ biết nhiều hiểu rộng và thường gặp sự bất trắc.

Trước tình trạng này các nhà sư Tuệ Đề mới biết trong quan tài có chất kịch độc, nhưng không mùi không sắc, giết người một cách vô sinh. Hai con gà mái vừa mới trúng độc chết mà đã rụng lông lá đủ biết chết độc mãnh liệt là chừng nào, nên chưa ai dám đến bên quan tài.

Huyền Nạn hỏi Đặng Bách Xuyên:

- Đặng huynh! Vụ này là thế nào đây? Chẳng lẽ Tiết Thần Y trá tử thật sao?

Đại Sư vừa nói vừa tung mình nhảy lên tay trái bá lấy xà nhà ngó vào trong quan tài thì thấy trong đựng đầy đá hòn. Giữa có đặt một cái bát lớn chứa đầy nước trong. Dĩ nhiên bát nước này là thuốc độc rồi.

Huyền Nạn lắc đầu nhảy xuống nói:

- Nếu Tiết huynh chẳng chịu chữa thuốc cho chúng ta thì thôi việc cóc gì phải bố trí cơ quan hiểm độc hại người. Chùa Thiếu Lâm không thù không oán với y. Hành động này thật là vô lí. Hay là... hay là...

Nhà sư nói câu "Hay là" rồi dừng lại không nói nữa. Trong bụng nhà sư định nói:

- Hay là có thâm thù với Mộ Dung ở Cô Tô?

Bao Bất Đồng nói:

- Đại sư bất tất phải đón non đón già. Mộ Dung Công Tử cùng Tiết Thần Y chưa biết nhau bao giờ, lại không thù oán, mà có ra chăng nữa thì dù chúng tôi có đau khổ đến đâu cũng cố mà chịu đựng, chứ chẳng thèm quì lụy kẻ cừu thù để xin chữa thuốc.

Đại sư đừng tưởng Bao Bất Đồng này là hạng vá áo túi cơm. Huyền Nạn nói:

- Bao huynh nói thế là phải. Lão tăng đoán sai rồi.

Huyền Nạn là một vị cao tăng đắc đạo, trong lòng cũng nghĩ như vậy, nhưng không muốn nói ra, chỉ nhận lỗi mình mà thôi.

Đặng bách Xuyên nói:

- Nơi đây khí độc rất mạnh không nên đứng lâu, chúng ta ra ngoài sảnh đường ngồi thôi.

Mọi người ra nhà sảnh đường ai cũng bày tỏ ý kiến mà chẳng ai biết rõ Tiết Thần Y giả chết lại còn bố trí cơ quan hãm hại người là vì lẽ gì?

Bao Bất Đồng nói:

- Lão Tiết quỉ y này thật là khả ố. Chúng ta đem mớ lửa đốt quách cái tổ quỷ này đi!

Đặng Bách Xuyên nói:

- Không được! Dù sao thì Tiết tiên sinh cũng là một người bạn tốt của chùa Thiếu Lâm. Chúng ta phải biết nể mặt Huyền nạn đại sư mà đừng hành động lỗ mãng.

Lúc này trời đã tối mịt. Trong nhà chẳng có đèn lửa chi hết, mọi người đều bụng đói, miệng khát mà không ai dám uống chén nước trong nhà này.

Huyền Nạn nói:

- Hay là chúng ta ra ngoài tìm một nông gia gần đây để kiếm lưng cơm chén nước.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Phải đó! Chúng ta ra khỏi đây mười dặm đường, rồi hãy tìm ăn uống gì cho đỡ khát. Tiên sinh là người rất tâm cơ, chẳng những chỉ bố trí một cái quan tài thế này mà thôi đâu. Nếu xảy ra chuyện gì để liên lụy đến cả các vị đại sư thì trong lòng bọn tại hạ áy náy vô cùng!

Y cùng Công Dã Càn tuy không hiểu rõ nguyên nhân, nhưng cũng nghĩ rằng cái lối "Gậy ông đập lưng ông" của nhà Mộ Dung đã đồn đại khắp nơi và bị khách gian hồ kết oán một cách vu vơ đã nhiều. Y chắc rằng Tiết Thần Y có thân hữu gì đã bị hại rồi đem thù oán đổ lên đầu Cô Tô Mộ để đòi nợ máu.

Mọi người đứng dậy đi ra phía cửa chính thì đột nhiên ở góc Tây Nam trên trời sáng rực lên, tiếp theo là một vùng những tia lửa phun lên trước đỏ sau biến thành màu xanh biếc, khác nào một đám mưa hoa, lưng trời biến ảo bao nhiêu màu sắc huy hoàng trông rất đẹp mắt.

A Bích vỗ tay nói:

- Đẹp quá! đẹp quá không hiểu ai đốt pháo bông mà đẹp thế?

Lúc này mới vào cạnh một sơ thu, chẳng phải là tiết Nguyên Tiêu hay tiết Trung Thu, sao lại có người đốt pháo bông? Chẳng bao lâu lại có một thứ hoa vàng chói bay vút lên không gian khác nào trăm ngàn vì sao đổi ngôi va chạm vào nhau.

Đốt pháo bông là một trò vui lúc thiên hạ thái bình. Nhưng hiện giờ mọi người đang ở vào trường hợp nguy hiểm, lại đem theo ba bệnh nhân trúng độc dị thường khó chữa, thì ai còn lòng nào mà ngắm cảnh pháo bông.

A Bích tuy còn nhỏ tuổi, nhưng nàng cũng quan tâm đến bệnh tình tam ca, tứ ca hơn là tấm lòng ngây thơ của trẻ nít thích coi pháo bông.

Nàng buồn rầu nói:

- Đừng coi nữa! Chúng ta đi thôi!

Công Dã Càn nói:

- Đây không phải là pháo bông đâu, mà chỉ là tín hiệu để bọn đại địch kéo đến bao vây.

Phong Bá Ác la lớn:

- Thế thì tuyệt! Tuyệt diệu! Mình lại được một phen đâm chép cho sướng tay!

Rồi quay trở lại nhà đại sảnh. Phong Bá Ác vừa trở gót quay lại thì Đặng Bách Xuyên bảo:

- Tam đệ cùng lục Muội! Các người vào trong đại sảnh để ngăn trở phía trước, nhị đệ chống đỡ phía sau cho...

Đoạn y quay lại nói với Huyền Nạn đại sư:

- Việc này không liên quan đến chùa Thiếu Lâm xin các vị đừng bàng quang, đừng bênh vực bên nào là nhà Mộ Dung cám ơn đại đức nhiều lắm!

Trong khi Đặng Bách Xuyên đang nói thì Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, A Bích đều tuân theo phân phối của y, lùi lại phía sau.

Lúc này phe nhà Mộ Dung tuy có năm người, thì hai người đã bị trọng thương lại một cô gái nhỏ tuổi. Trông địch nhân đốt lửa hiệu ngất trời sắp có một số đông người đến công kích, uy thế mãnh liệt ghê gớm không phải tầm thường. Thế mà Đặng Bách Xuyên tuyệt không sợ hãi gì, cũng không cầu phái Thiếu Lâm giúp sức.

Huyền Nạn nói:

- Sao Đặng huynh lại nói thế? Dù địch nhân có thù riêng với chư vị mà kéo đến vây đánh, trung gian có điều gì phải trái khuất khúc, bọn bần tăng cũng phải xét đoán theo lẽ công bằng không thể để cho họ nhân lúc người ta đang gặp cơn nguy cấp, cậy nhiều người để thủ thắng được. Giả tỷ họ là đồng đảng của Tiết Thần Y bố trí cơ qua độc địa để hãm hại người một cách vô lí thì các vị cùng chúng tôi đều coi họ là kẻ thù chung có lí đâu lại thõng thõng tay đứng nhìn?

Đoạn Huyền Nạn quay lại hô các nhà sư:

- Các vị sư đệ! Hãy chuẩn bị đối địch!

Bọn đại tăng vào hàng chữ Tuệ đồng thanh vâng lời. Huyền Thống nói với Đặng Bách Xuyên:

- Đặng huynh! Bần tăng cùng hai vị sư đệ đã vào cánh đồng bệnh tương liên thì tự nhiên phải dắt tay nhau cùng ra sức chống địch.

Đang lúc nói chuyện lại có hai bông hoa vọt lên trời và lần này càng đến gần hơn. Rồi cứ cách một lúc, lại hai bông hoa xuất hiện cả trước sau có đến sáu lần. Hình dáng cùng màu sắc bông hoa đều khác nhau. Có bông tựa như một nhát búa hoành tạo thiên quân có bông giống như hoa mẫu đơn. Sau khi sáu bông hoa phóng lên hết rồi, bầu trời đen nghịt không còn tín hiệu gì nữa. Huyền Nạn hạ lệnh cho các đệ tử Thiếu Lâm lo phòng giữ chung quanh nhà đại sảnh để chờ địch nhân đến đánh. Nhưng chờ hồi lâu vẫn chẳng thấy động tĩnh gì.

Mọi người vẫn nín thở chú ý trong một khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, bỗng nghe mé Đông có thanh âm một cô gái ngâm thơ:

- Mày liều kìa ai biếng điểm trang,

Khăn hồng ố lệ những mơ màng,

Phòng the khắc khoải hồn cô tịch,

Châu ngọc khôn khuây nỗi đoạn trường.

Giọng hát thê lương đầy vẻ thê lương não ruột. Huyền Nạn cùng Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau trong lòng rất là nghi hoặc. Thanh âm thán giọng đào xong liền đổi sang vai kép:

- Cha chả! Lâu ngày không thấy mặt, lòng trẫm những thương tình. Hộp trân châu ban tặng cho khanh, chẳng biết có vui lòng bạn ngọc?

Lại chuyển sang vai đào:

- Chao ôi! Bệ hạ có Dương phi kề cận, mãi say mê trong cuộc truy hoan. Châu ban mai phi bỏ cho cam, đâu có lí thương người mệnh bạc.

Nói xong lại lên tiếng khóc thút thít.

Các nhà sư chùa Thiếu Lâm đứng chữ "Tuệ" ít ra ngoài nên chưa hiểu nhân tình thế cô, chẳng biết người kia lúc nói tiếng đàn ông, lúc giọng đàn bà đang làm trò quỉ quái gì, nhưng nghe trong lòng cũng xiết nỗi thê lương! Bọn Đặng Bách Xuyên đều biết người này đương diễn tuồng Đường Minh Hoàng cùng Mai Phi là một tấn tuồng cổ. Y đóng vai Mai phi lại đóng luôn cả vai Đường Minh Hoàng nữa. Từ thanh âm cho đến kiểu cách tuy hay đến đâu nhưng mọi người đang lúc khẩn trương hồi hợp trông chờ biến chuyển thấy chuyện này trong lòng ai cũng nao núng không hiểu người này có dụng ý gì.

Bỗng nghe người đó lại lên tiếng:

- Thôi khanh khóc lóc làm chi cho phiền lòng trẫm. Mau bày tiệc yến, rồi khanh thổi sáo cho trẫm hát một khúc để giải buồn cho ái khanh. Người đó lại chuyển giọng đào lại nói:

- Dùng nước mắt để rửa mặt những mong được thấy quân vương. Bửa nay đã giáp mặt long nhan, thì tiện thiếp can lòng nhắm mắt.

Nói xong lại khóc ấm ức. Bao Bất Đồng lớn tiếng nói:

- Cơ gia An Lộc Sơn chính thị. Bớ Đường Vương Lý thì hồ đồ. Dương ngọc hoàn trao lại cho cô. Thời tránh khỏi sinh linh đồ thán.

Đặng Bích Xuyên muốn lên tiếng ngăn trở nhưng đã không kịp nữa. Tiếng người khóc giả vờ bên ngoài đã bặt tựa như giật mình hoảng sợ. Chỉ trong khoảng khắc, bốn bề im lặng như tờ. Sau một lúc nữa mọi người đều ngửi thấy mùi hương thơm ngát.

Huyền Nạn la lên:

- Địch nhân thả hơi độc! Mau mau phong bế nguyệt đạo và ngửi thuốc giải đi.

Phía ngoài lại có người nói:

- Thất tỷ! Thất tỷ đã đến đấy ư? Trong nhà ngũ ca có một quái nhân tự xưng là An Lộc Sơn!

Mọi người nghe tiếng y nói chuyện thường thì mới biết rõ là đàn ông. Ai nấy thử hít một hơi không có gì khác lạ, trái lại còn thấy đầu óc sáng suốt, dường trong mùi hương không có chất độc.

Bỗng nghe thanh âm một phụ nữ nói:

- Chỉ có mình đại ca là chưa đến. Vậy nhị ca, tam ca, tứ ca, lục ca, bát đệ nên ra mặt đi thôi.

Câu nói vừa dứt bọn Đặng Bách Xuyên đột nhiên thấy phía trước mặt sáng rực lên mọi người lóa mắt không mở ra được ngay. Bỗng thấy cổng lớn có một làn sáng kỳ dị trông rõ có năm trai một gái.

Một người già mặc áo ngắn, râu đen lớn tiếng nói:

- Lão ngũ! Ngươi còn chưa ra ư?

Tay lão cầm tấm ván vuông trông tựa như chiếc bàn cờ. Người đàn bà là một thiếu phụ đứng tuổi rất xinh đẹp. Bốn người kia thì hai người ra dáng học trò, một người là thợ mộc, trong tay cầm một cây búa, còn người sau cùng mặt xanh, răng lồi, tóc đỏ, râu xanh trông rất khủng khiếp chẳng khác một con yêu quái.

Huyền Nạn chú ý nhìn xem thì mặt người này nhồi son thoa phấn như kiểu những người đóng trò sân khấu không phải y có chân tướng kì dị. Gã vừa đóng vai Đường Minh Hoàng và vừa giả làm Mai phi.

Đặng Bách Xuyên hỏi bọn người mới đến:

- Tôn tính đại danh các vị là gì? Tại hạ tên gọi Đặng Bách Xuyên.

Đối phương chưa kịp trả lời thì trong nhà đại sảnh một bóng đên lù lù nhảy ra, ánh đao lấp loáng, nhằm gã kép hát chém luôn bảy tám đao. Người này chính là Nhất Trận Phong Phong Bá Ác.

Phong Bá Ác tấn công rất mãnh liệt, gã kép hát lại không kịp đề phòng, tránh tả né hữu, tình thế rất nguy cấp, thế mà gã vẫn lên giọng khôi hài:

- Lúc bạt sơn hề khí cái thế thời bất lợi hề truy bất thề. Truy bất thệ hề...

Gã đang hát dỡ câu thứ ba thì bị Phong Bá Ác đánh rát quá không hát thêm được nữa. Sức mạnh nhổ núi anh hùng quán thế nhưng gặp thời bất lợi thành ra ngựa ô truy cũng nản chân bon ngựa ô truy...

Lão già râu đen đứng bên quát mắng Phong Bá Ác:

- Ngươi thật là vô lí, chưa hỏi đầu đuôi đã đánh ngay. Hãy nếm một chiếc "Đại thiết cương" của ta đây!

Lão cần trong tay một tấm vuông vắn vun lên nhắm đầu Phong Bá Ác đập xuống. Phong Bá Ác lẩm bẩm:

- Một đời ta bôn tẩu gian hồ, kể cả lớn nhỏ đã giao phong đến mấy trăm trận mà chưa thấy ai dùng thứ binh khí bằng tấm ván gỗ thế này.

Y giơ đòn đao lên chém thẳng vào tấm ván, mà không sứt mẻ chút nào. Nguyên tấm ván này trông như ván gỗ nhưng thật ra đúc bằng gang thép mà mặt ngoài chỉ phủ nước sơn ván gỗ mà thôi. Phong Bá Ác cả kinh vận hết kình lực giật thật mạnh một cái, mới rút được ra khỏi tấm ván.

Y quát lên:

- Bọn mi là quân tà đạo dùng thép có chất hút sắt để hút khí giới phải không?

Người kia cười nói:

- Không dám! Đó là cái mâm để sắp cơm của lão phu.

Phong Bá Ác để ý nhìn thì trên tấm ván có vạch những đường ngang dọc thẳng tấp rõ ra là một bàn cờ vi kì (cờ vây). Phong Bá Ác vốn hay đánh nhau, nhất là với những người kì dị liền nói:

- Thật là một khí giới cổ quái. Ta đấu với ngươi một lúc nữa chơi.

Dứt lời y múa đao như gió cuộn càng đánh càng lẹ. Có điều không dám để lưỡi đao chạm vào bàn cờ hút sắt của đối phương. Gã kép hát thở hồng hộc tiếp tục câu hát.

- Truy bất thệ hề khả nại hà Ngu hề. Ngu hề nại nhược hà.

Rồi gã lại đổi sang giọng đào:

- Xin đại vương bất tất phải phiền não. Trận đánh cai hạ bữa nay tuy bất lợi, thiếp xin theo đại vương phá trùng vây ra khỏi nơi này.

Bao Bất Đồng quát lên:

- Mẹ kiếp! Cả Sở Bá Vương lẫn Ngu Cơ nhà mi! Mau mau tự vẫn đi cho rồi! Mỗ danh xưng Hán Tín. (Hàn Tín là tướng giỏi của Hán Cao Tổ, đánh bại Sở Hán Vương (tức Hạng Võ))

Y vừa rồi sấn lại đưa hai tay theo thế "Cầm long thủ" chụp xuống vai gã kép hát. Gã kép hát hạ vai xuống tránh khỏi rồi hát thật to:

- Đại Phong khởi hề vân phi dương (gió to thổi lên là mây bay hết...) Trời ơi ta đây Hán Cao Tổ bắt giết Hán Tín.

Nói xong tay trái gã đưa về sau lưng rút cây nhuyễn tiên đánh soạt một tiếng nhằm Bao Bất Đồng vụt tới. Huyền Nạn thấy mấy gã làm trò hề mà võ công rất lợi hại lại không biết đối phương thì nhíu cặp lông mày lên tiếng:

- Các vị hãy dừng tay, bày tỏ rõ đầu đuôi rồi hãy đánh nhau còn chưa muộn.

Nhà sư muốn Phong Bá Ác dừng tay không đấu nữa nhưng đâu có được? Phong Bá Ác sau khi biết mình nhiễm hàn độc, khí lực kém xa lúc bình thời. Vả lại chất độc bộc phát thất thường không biết lúc nà, rất nguy hiểm. Vì thế múc cây đơn đao như gió táp mưa sa, mong hạ đối phương một cách chóng vánh. Bốn người đang ham đánh thì trong nhà đại sảnh thêm một người nhảy ra nữa. Hai tay cầm hai lưỡi giới đao đập vào nhau loảng xoảng. Người mới ra, oai phong lẫm liệt chính là Huyền Thống đại sư.

- Ngựa ô truy không chạy nữa biết tính sao? Ngu Cơ nàng ơi! Bây giờ biết tính thế nào đây?

Nhà sư lớn tiếng nói:

- Các người là bọn giang hồ dùng thuốc độc hại người. Bữa nay lão hòa thượng phải mở sát giới mới được.

Luôn mấy ngày nhà sư bị chất độc hành hạ cực kì đau khổ không có chỗ nào để tiết hận. Nhà sư không hỏi han gì nữa, sầm song công vào hai gă đứng tuổi ra vẻ nhà nho chém tớịi.

Một gã nho sinh tò tay vào bọc móc ra một thứ khí giới giống cây quán quan bút đấu với Huyền thống. Còn một gã nho sinh nữa lắc đầu lia lịa nói:

- Lạ thật! Người tu hành lại nổi nóng bao giờ? Không biết lão xuất thân theo kinh điển nào?

Gã đưa tay vào bọc vừa sờ vừa nói:

- Ủa đâu mất?

Rồi gã hết lục túi bên này lại nắn túi bên kia. Lúc nắn lúc vỗ, lẩm bẩm luôn trong miệng:

- Ô hay! Sao kiếm mãi không được?

A Bích tính hiếu kì liền hỏi:

- Tiên sinh tìm chi vậy?

Gã nho sinh đáp:

- Vị hòa thượng kia võ công rất cao cường. Người anh em tôi địch không lại y. Tôi muốn tìm binh khí để giúp cho bạn đồng hành thành thế "Hai người chọi một chẳng chột thì què." Nhưng lạ quá lạ quá! Binh khí của tôi biến đi mất đâu mất.

Gã vỗ đầu vỗ trán ra chiều suy nghĩ. A Bích không nhịn được phải phì cười, nghĩ bụng ra trận mà quên không biết khí giới để đâu mãi không tìm thấy! Thằng cha này thật là buồn cười! Mình chưa từng thấy ai như vậy bao giờ. Coi bộ gã ngớ ngẩn độ gàn thật chứ không phải giả vờ.

Rồi nàng hỏi:

- Tiên sinh dùng thứ khí giới gì?

Gã nho sinh đáp:

- Phàm đã là người dã là người quân tử phải tiên lễ hậu binh tức là dùng lễ nghi giảng giải trước không xong mới đi đến chỗ giao tranh, khí giới đầu tiên của tại hạ là một pho sách.

A Bích cố nhịn cười hỏi:

- Tiên sinh dùng loại sách gì làm binh khí! Phải chăng là sách võ công bí quyết, binh thư đồ trận?

Gã nho sinh đáp:

- Không phải! Không phải! Pho sách luận ngữ. Tại hạ muốn đem lời lẽ thánh hiền để cảm hóa đối phương.

A Bích cười mũi hỏi:

- Tiên sinh đã là người làu thông kinh sử mà sách luẫn ngữ còn chưa thuộc, thế thì tiên sinh đọc những sách gì?

Gã nho sinh đáp:

- Cô nương chỉ biết một điều chứ chưa biết hai. Bất luận là Luận ngữ, Mạnh ngữ, Xuân Thu hay Thi, Thư gì gi đi nữa, tại hạ đều phải thuộc lòng. Nhưng đối phương vị tất đã đọc qua nên cần mở sách đưa cho họ coi thì mới hết đường chối cãi. Không có sách họ cho là mình bịa đặt ra, làm sao thuyết phục được? Nên người ta thường nói rằng: "Nói có sách mách có chứng."

Gã vừa nói vừa lục tìm, sờ soạn khắp người loạn cả lên...

Người ăn mặc theo lối thợ thuyền, thấy Huyền Thống xử cặp với đao như gió táp mưa sa chiêu thức cực kì lợi hại. Nếu tiếp tục đánh thêm mấy chiêu nữa thì lo cho gã thư sinh xử cây phán quan bút khó toàn tánh mạng. Gã liền vung búa xông vào trận chiến.

Công Dã Càn liền phóng chưởng ra nhằm đánh gã. Công Dã Càn coi bộ ốm o chẳng khác gì thầy đồ vậy mà chưởng lực rất hậu. Ngày nọ ở trong một tửu lâu tại Giang Nam y đã thi uống rượu và đánh chưởng với Kiều Phong. Tuy y bị thua mà Kiều Phong cũng đem lòng kính trọng y về nội lực, y không phải hạng tầm thường. Gã thợ mộc né người tránh khỏi chưởng lực của Công Dã Càn rồi vung búa chém tạt ngang.

Gã nho sinh vẫn không tìm ra pho luận ngữ, thấy đồng bọn xử cây phán quan bút chân tay đã luống cuống, địch không nổi cặp đới đao của Huyền Thống đại sư, gã liền nhìn Huyền Thống hỏi móc:

- Đại hòa thượng! Đức Khổng Tử đã nói: "Người quân tử không làm điều bất nhân." Đại sư động thủ toan giết tứ đệ tại hạ. Thế là nhân hay bất nhân!

A Bích khẽ hỏi Đặng Bách Xuyên:

- Thằng cha này đồ gàn thật hay là giả vờ?

Đặng Bách Xuyên:

- Trên chốn giang hồ lòng người giả trá rất nhiều. Bất luận lỗi nào họ cũng làm được. Thật là muôn mặt, ta nên phải cẩn thận.

Bỗng nghe Thầy đồ gàn lại nói với Huyền Thống:

- Thưa đại hòa thượng! Đức Khổng Tử đã nói: "Bậc nhân giả tất là người có dũng, mà bậc dũng giả tất có lòng nhân." Đại sư vì dũng thì có thừa, nhưng về nhân thì chưa đủ. Như vậy chưa phải là bậc quân tử chân chính. Đức thánh lại dạy rằng: "Điều gì mình đi không muốn thì đừng làm cho ai." Chắc đại hòa thượng chẳng muốn ai đến giết mình thì tại sao lại đánh giết người?

Tuy anh đồ đem lời vớ vẩn khuyên cáo Huyền thống mà lạ thay võ công gã cũng không kém cỏi. Huyền Thống đâm trước chém sau đánh tới tấp, mà gã né tả tránh hữu rất tài tình thủy chung vẫn ở cách Huyền Thống ba thước. Huyền Thống không khỏi e dè nhủ thầm: "Thằng cha này nói trăng nói cuội cốt cho mình phân tâm mà đánh vào. Gã này võ công còn giỏi hơn gã xử phán quan bút nhiềụ Mình phải đề phòng mới được."

Nhà sư nghĩ vậy nên sáu phần để ý đề phòng gã "Đồ gàn" giả vờ mà chỉ dùng bốn phần công phu để đánh với gã thư sinh xử cây phán bút quan. Gã thư sinh kia bị tấn công nhẹ hơn nên tình hình cuộc chiến cũng biến chuyển.

Hai bên lại đánh thêm mươi chiêu nữa, Huyền Thống nổi nóng quát lên:

- Nếu người không tránh ra thì lão tăng không nể đâu!

Nói xong chuyển mạnh thanh giới đao nhằm chém trước ngực tên "Đồ gàn."

Gã "Đồ gàn" né mình tránh khỏi nói:

- Đức thánh đã dạy: "Những kẻ ngang ngược chết đừng hối hận." Tại hạ thấy đại sư võ công cao cường, phải cùng tứ đệ hợp lực hai người chọi một chưa chắc đã địch nổi đại sư, nên lấy lời lẽ khuyên can đại sư để hai bên bãi chiến là hơn.

Huyền thống cả giận vừa vung đao chém tạt ngang vừa mắng:

- Thôi ngươi câm họng đi, đừng nói đạo đức nhân nghĩa nữa! Các ngươi sao lại dấu thuốc độc trong quan tài để hại người? Nếu bên ta không cẩn thận một chút thì bây giờ đã về thế giới bên kia rồi. Ngươi bảo "Điều gì mình đã không muốn thì đừng làm cho người" vậy ngươi có muốn trúng độc để chịu chết không?

Gã đồ gàn lùi lại hai bước nói:

- Lạ nhỉ! Quan tài là đồ dùng để đựng xác chết. Ai lại đem thuốc độc bỏ vào bao giờ? Nếu trong quan tài mà có thuốc độc thì cả thây ma cũng bị thuốc độc hại chết sao? Thế thì không đúng!

A Bích nghe gã khá khôi hài, cũng cười nói xen vào:

- Thây ma đặt trong quan tài dĩ nhiên là chết từ lúc trước rồi. Nhưng các vị lại lắm mưu thần chước quỷ: Trong quan tài không có thây ma mà chỉ có thuốc độc thôi để đánh bẫy chúng ta là những người còn sống nhăn răng ra đây.

Gã "đồ gàn" lắc đầu nói:

- Không phải thế! Không phải thế! Chỉ có đàn bà, trẻ con là khó chịu mà thôi. Cô đã là phận nữ nhi lại còn nhỏ tuổi, không tránh hay mồm năm miệng mười.

A Bích trỏ thiếu phụ đứng tuổi xinh đẹp hỏi:

- Vị này cũng là đàn bà, vậy tiên sinh bảo y là người hay, hay người dở?

Gã"đồ gàn"ngẩn người ra lắc đầu đáp:

- Cô đánh trống lảng rồi! Tôi không cần trả lời câu đó nữa.

Gã Đồ gàn cùng A Bích đối đáp với nhau khiến Huyền Thống không cần để ý mấy vế gã múa tít song đao đánh gã thư sinh kia rất gấp. Gã thư sinh xử cây phán quan bút lập tức lâm vào tình thế nguy cấp. Gã Đồ gàn liền xoay sát lại phía sau Huyền Thống cất tiếng hỏi:

- Con người mà bất nhân thì lễ nhạc ra sao? Đại hòa thượng là người bất nhân dù có dũng mãnh cũng chẳng ra gì.

Huyền Thống tức giận:

- Ta là người nhà Phật thì bọn nho gia có nói quanh nói quẩn, bất nhân gì gì đi nữa cũng không làm cho ta phải bận tâm.

Gã Đồ gàn đưa tay lên gõ trán mấy cái nói:

- Phải rồi! Phải rồi! Có thể là người đọc sách thành ra ương dở, không trách bị người ta tặng cho hai chữ "Đồ gàn" đại hòa thượng rõ ràng là đệ tử nhà Phật. Vậy thì tại hạ có đem nhân, nghĩa, đạo, đức của Khổng Mạnh nói với hòa thượng cũng như nước xao đầu vịt mà thôi!

Phong Bá Ác chiến đấu đã lâu với lão sử dụng chiếc bàn cờ bằng thép mà sao chưa thủ thắng được. Y đánh thêm một chút nữa thì bụng dưới ngầm ngầm đau dường như chất độc lại bắt đầu lên cơn.

Bao Bất Đồng tỷ thí với gã "kép hát." Y phát giác ra rằng võ công đối phương không lấy gì làm cao cường lắm, có điều chiêu thức biến hóa luôn. Lúc y đóng vai Tây thi, miệng thốt ra những lời ỏn thót, tiếng oanh thỏ thẻ, khiến người nghe phải nao nao lòng dạ. Chân gã di chuyển thướt tha, điệu bộ chẳng khác một giai nhân tuyệt mỹ trên đời. Thế rồi có lúc gã giả làm Lý Thái Bạch, một nhân vật cực phong về thơ, về rượu, với những điệu bộ say sưa túy lúy càn khôn, chân ngang đá chân xiêu.

Gã diễn những điệu bộ này tuyệt diệu ở chỗ là đem áp dụng vào đường lối võ công để chiến đấu. Tay gã cầm cây nhuyễn tiên có khi mềm mại như tay áo mỹ nhân, có khi văn vẻ như chàng văn sĩ múa bút, khiến cho Bao Bất Đồng vừa tức lại vừa buồn cười không biết làm thế nào.

Gã đồ gàn oán trách mình một lúc rồi đột nhiên cất tiếng ngân vang câu:

- Có phế bỏ thất tình,

Mới mong tròn quả phúc.

Tâm thần tân tu hoài,

Chưa thoát vòng trần tục.

Huyền Nạn cùng Huyền Thống thấy gã ngâm vang bốn câu thơ đều giật mình lẩm bẩm:

- Thằng cha đồ gàn này kiến thức rất uyên thông. Gã thuộc cả mấy câu kệ của một vị cao tăng đời Đông Tấn là Cưu Ma La.

Bỗng gã đồ gàn lãi ngâm tiếp:

- Thế sự thành không tưởng,

Còn vui thứ nỗi gì?

Ngâm xong gã hỏi:

- Đại hòa thượng! Dưới cùng còn hai câu gì nữa? Tại hạ quên mất rồi.

Huyền Thống đọc tiếp:

- Hỏi ai người đắc pháp,

Nhân giả phải tinh vi.

Gã đồ gàn cười ha hả nói:

- Đúng rồi! Đúng rồi! Đại sư lo đệ tử nhà Phật chẳng vừa nói đến "Bậc nhân giả" là gì đó? Vậy thì đạo lí khắp thiên hạ đều giống nhau hết. Tại hạ khuyên đại sư nên ra khỏi bến mê quay đầu trở lại, buông lưỡi đao đồ tể.

Huyền Thống trong lòng kinh hãi, đột nhiên thấu triệt lẽ huyền vi và tỉnh ngộ ra nói:

- Nhật pháp vô biên! Cho tròn thiện quả!

Nhà sư niệm hai câu rồi quả nhiên quăng cặp giới đao xuống đất trên mặt thoáng qua một nụ cười nhấm mắt lại không nói gì nữa. Gã thư sinh kia cùng Huyền Thống đang ham chiến, bỗng thấy đối phương thay đổi trạng thái một cách đột ngột không khỏi giật mình, cây bút phán quan trong tay cũng dừng lại không đánh nữa.

Hai nhà sư pháp hiệu có chữ "Tuệ" tưởng Huyền Thống lên cơn đau vội la gọi:

- Sư thúc! Chất hàn độc lại lên cơn rồi sao?

Đoạn giơ tay ra định vực Huyền Thống dậy thì Huyền Nạn vội quát lên:

- Đứng yên không được động đậy!

Rồi để tay lên mũi nghe hơi thở của Huyền Thống thì quả nhiên nhà sư này đã tắt thở rồi. Té ra người viên tịch một cách đột ngột. Huyền Nạn hai tay chấp để trước ngực niệm mấy câu chú vãng sinh. Mấy nhà sư về hàng chữ "Tuệ" thấy sư thúc viên tịch thì khóc rống lên, rồi rút giới đao cùng thuyền trượng để toan liều chết đánh với hai gã thư sinh.

Huyền Nạn nói:

- Không được đông thủ! Sư thúc các ngươi giác ngộ chân lí, về nơi cực lạc, đặng thành chính quả. Các ngươi nên mừng cho sư thúc mới phải.

Mọi người đang chiến đấu kịch liệt đột nhiên thấy cuộc biến diễn li kỳ đều dừng tay nhả ra ngoài vòng chiến. Anh đồ gàn cất tiếng gọi to:

- Lão ngũ! Tiết ngũ đệ! Mau ra đây mà coi! Có người bị ta nói khích một câu đang chết giấc. Lão ngũ mau ra cứu mạng! Mẹ kiếp! Sau mãi không thấy lão Tiết Thần Y ra đây cứu người? Thế này thì tức thật!

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tiết Thần Y không có trong nhà, tiên sinh đây...

Anh đồ gàn trong lúc cấp bách quá lại gân cổ lên gọi thật to:

- Tiết Mộ Hoa! Tiết ngũ lão! Diêm Vương Địch! Tiết thần Y! Có mau ra cứu người không? Tam ca ngươi nói khích để người ta chết rồi. Người ta không để yên đâu?

Bao Bất Đồng tức giận nói:

- Ngươi giết người lại còn giả vờ giả vịt nữa hả?

Nói xong vung chưởng ra đánh, tay trái y luồn qua tay phải ra điệu "Ảo long thảm châu" nắm lấy chòm râu đối phương. Phong Bá Ác cùng Công Dã Càn đang chiến đấu cao hứng không chịu dừng tay, đều chạy đi tìm đối thủ để đối chiến.

Đặng Bách Xuyên quát lên:

- Nằm rạp xuống.

Rồi vươn tay trái ra chụp vào lưng gã "kép hát." Đặng Bách Xuyên ở Tham Hợp Trang trong khu Yến Tử ở tại Cô Tộ Y là tay thuộc hạ đứng đầu của nhà Mộ Dung. Đặng Bách Xuyên võ công tinh thục, nội lực thâm hậu, tuy không lừng lẫy tiếng tâm trong chốn giang hồ nhưng ai đã biết y đều đem lòng kính phục.

Y nắm được gã kép hát rồi thuận tay ném gã xuống đất. Gã này thân pháp rất mau lẹ. Vai bên tả vừa chấm đất, người y liền xoay đi nửa vòng, đưa chân phải ra quyết ngang nhằm đá vào đùi Đặng Bách Xuyên người lại to béo, chuyển động không được linh hoạt. Y thấy khó lòng tránh khỏi cái đá. Bèn trầm khí xuống hạ bàn cho chân cứng đơ đỡ đòn ấy.

Bỗng nghe đánh rắc một tieếng, rõ ràng trong hai chân chạm nhau có một chiếc bị gãy. Gã kép hát liên tiếp trằn mình đi mấy vòng ra xa ngoài mấy trượng rồi quát mắng:

- Mi đúng là tên giang tặc Mao Diên Thọ ngầm hại kẻ trung lưu. Chao ôi! Chân ta làm sao rồi đây?

Nguyên lúc hai chân chạm vào nhau, thì chân gã kép hát không chống lại được sức mạnh ở chân Đạnh Bách Xuyên nên bị gãy xương. Thiếu phụ đứng tuổi người xinh đẹp, mình mặc áo màu hường, từ nãy giờ vẫn nghiêm trang đứng một bên, chưa nói câu gì mà cũng không cử động.

Bây giờ mụ thấy gã kép hát gãy chân, còn ngoài ra đồng bọn đánh nhau đều bị dồn vào thế hiểm nghèo, nên cất tiếng nói:

- Bọn ngươi hành động thế này là nghĩa lý gì? Các ngươi đã chiếm nhà ngũ ca ta, lại chẳng hỏi đầu đuôi câu chuyện đã ra tay đánh người bị thương liền mới thật là kì!

Mụ tuy ra chiều chất vấn đối phương, song lời nói vẫn êm ả dịu dàng. Gã kép hát nằm lăn xuống đất, ngẩng mặt lên thấy hai đèn lồng treo trên cửa chính, bất giác giật mình la lên:

- Ô hay! Sao trên lồng đen lại viết: "Tiết Mộ Hoa chi tang" Trời ơi! Tiết ngũ ca hồn xuống suối vàng rồi ư?

Gã xử khí giới như cái bàn cờ, hai gã thư sinh và cả tên thợ mộc xử búa cùng thiếu phụ đứng tuổi đều ngó về tay gã kép hát trỏ, có thấy đèn lồng nhưng dĩa đèn bên trong đều tắt hết nên không rõ. Những người này vừa đến đã đánh nhau ngay nên không ai để ý mãi đến lúc gã kép hát nằm lăn xuống đất ngửa mặt lên mới chợt thấy đèn lồng.

Gã kép hát rống lên rồi hát:

- Ối ca ca ơi! Chúng ta đã đào viên kết nghĩa, bên cổ thành hò hẹn cùng nhau, qua năm ải, sáu tướng bay đầu, đà xiết nổi oai phong lẫm liệt!

Đây là mấy câu văn khóc Quan Võ. Lúc bắt câu hát, gã tưởng hát chơi rồi sao gã bị xúc động mạnh, hát không đúng điệu được. Năm người nhao nhao cả lên. Có người quát hỏi:

- Ai đã giết ngũ đệ?

Người thì hỏi:

- Ai giết ngũ ca?

Lại có người khóc:

- Ngũ ca ơi! Kẻ nào là hung thủ giết ngũ ca?

Một người mặt giận hầm hầm lớn tiếng quát:

- Bữa nay thế nào cũng phải liều mạng với các ngươi mới được!

Huyền Nạn cùng Đặng Bách Xuyên nhìn cảnh nhốn nháo này đều nghĩ thầm trong bụng: Trong bọn này trừ mụ đàn bà thì gã nào cũng có vẻ điên khùng, tinh thần không tỉnh táọ Nghe giọng nói thì dường như họ là anh em kết nghĩa với Tiết Thần Y.

Đặng Bách Xuyên lên tiếng giải thích:

- Bọn ta có anh em bị thương đến đây cầu Tiết Thần Y cứu chữa ngờ đâu...

Y chưa dứt lời thì thiếu phụ đứng tuổi đã phất tay áo một cái. Đột nhiên mọi người ngửi thấy một mùi thơm ngát xông và mũi rồi lập tức đầu váng mắt hoa, chân đứng không vững.

Thiếu phụ hô lên:

- Này té này!

Đặng Bách Xuyên cả giận quát mắng:

- Mi là một đứa yêu phụ!

Y vừa nói vừa vận kình lực phóng chưởng ra đánh. Thứ hương "Bách ma hoa tiên" của thiếu phụ sức mạnh kinh người. Đối phương dù công lực thâm hậu đến đâu hễ trúng phải là lập tức ngã liền.

Mụ thấy Đặng Bách Xuyên người lảo đảo, tưởng y té xuống ngay không ngờ y còn đủ sức đánh ra một chưởng. Mụ toan né tránh đi nhưng không kịp nữa. Một luồng kinh lực thế dường nghiêng non bốc biển xô đến khiến cho mụ nghẹt thở. Mụ không tự chủ được ngả xuống đất. Lại nghe tiếng rắc rắc mụ đã mất mấy cái xương sườn. Người mụ chưa ngã lăn xuống đất thì mụ đã chết giấc.

Đặng Bách Xuyên cũng thấy mặt mày xây xẩm rồi ngã lăn ra. Mỗi bên đều bị một người ngã, còn ngoài ra lại động thủ đánh nhau.

Huyền Nạn nghĩ thầm:

- Trong vụ này còn nhiều chuyện rắc rối. Bây giờ chỉ có cách bắt hết đối phương thì hai bên mới khỏi có người mất mạng.

Nhà sư nghĩ vậy liền gọi đồ đệ phái Thiếu Lâm:

- Lấy cây thiền trượng cho ta!

Một nhà sư vào hàng chữ Tuệ vội lại bên cửa cầm cây thiền trượng đưa cho Huyền Nạn. Gã thư sinh xử phán quan bút tung người lên nhảy xổ đến phóng bút đâm vào ngực nhà sư Thiếu Lâm. Huyền Nạn đánh chưởng bên trái đánh ra. Tay chưa đến nơi thì nhưỡng lực đã tới sau lưng gã, gã thư sinh té ngay xuống đất.

Huyền Nạn buông một tràng cười lớn, cầm trượng trong tay, bước tạt ngang sang mé bên hai bước, đánh vào gã dùng bàn cờ làm khí giới. Gã này thấy thế đánh mãnh liệt, thiền trượng chưa đến mà chưởng phong đã chụp đến người mình, liền vận kình lực ra cánh tay rồi cả hai tay giơ bàn cờ lên đỡ.

Một tiếng choảng vang lên, bàn cờ tóe lửa ra bốn mặt. Gã thấy cánh tay tê nhức, hổ khẩu bị toạc ra. Huyền Nạn đại sư nhấc mạnh cây thiền trượng lên đồng thời lôi theo cả cái bàn cờ. Nguyên cái bàn cờ này có chất nam châm rất mạnh. Trước nay người sử dụng chuyên dùng nó để hút khí giới bên địch. Bữa nay gặp phải tay kình địch mạnh hơn mình nhiều, nên cái bàn cờ của gã bị cây thiền trượng của Huyền Nạn đại sư hút chặt rồi đoạt mất. Huyền Nạn dùng thiền trượng hút được bàn cờ lên rồi nhắm đầu gã kia chụp xuống.

Gã vội kêu:

- Đại sư đánh xuống thì tôi không đỡ nổi đâu.

Gã vội nói vứa chuồn nhanh về phía trước. Huyền Nạn trở cây thiền trượng quét lên:

- Gã đồ gàn kia chịu nằm xuống đi thôi!

Nói xong cầm thiền trượng quét ngay, thấy mạnh vô cùng! Gả đồ gàn nói:

- Đức phu tử sở dĩ thành thánh là vì người hiểu thời cơ. Gió thổi tất cả phải lướt theo chiều. Nằm xuống thì nằm chứ sao?

Gã chưa dứt lời, người đã nằm phục xuống đất. Sáu nhà sư chùa Thiếu Lâm vào hàng chữ "Tuệ" nhảy xổ lên nhanh tay bắt lại. Viện trưởng viện Đạt Ma chùa Thiếu Lâm võ công dĩ nhiên phi thường! Nhà sư vừa động thủ đã hại luôn ba tên cao thủ đối phương thế thì được toàn thắng. Bọn A Bích vì lo thương thế Đặng Bách Xuyên, còn các nhà sư chùa Thiếu lâm lại đem lòng xót thương Huyền Thống viên tịch nên tuy được toàn thắng mà chẳng ai vui mừng. Gã xử búa đấu với hai người Bao Bất Đồng và Phong Bá Ác chống tả đỡ hữu cũng sắp bại trận đến nơi.

Gã xử bàn cờ nói:

- Hỏng rồi! Hỏng rồi! Lục đệ ơi! Chúng ta chịu thua đi thôi đừng đánh nữa!

Rồi gã quay sang hỏi Huyền Nạn:

- Đại hòa thượng! Tôi xin lỗi: Ngũ đệ tôi đã phạm lỗi gì, với các vị mà các vị giết chết? Tại sao các vị còn lấy lửa hiệu để lừa chúng tôi đến đây?

Huyền nạn đáp:

- Đâu có việc ấy...

Chưa dứt lời, bỗng nghe tiếng dạo đàn tình tang từ đằng xa vọng lại. Hai tiếng đàn này vừa nổi lên, mọi người cảm thấy trái tim bị xúc động nhảy theo hai cái. Phong Bá Ác cảm thấy nhức đầu khó chịu, tay phải nới ra rồi đánh "Kẻng" một tiếng thanh đơn đao của y rớt xuống đất. Nếu không được Bao Bất Đồng vội vàng ra tay hộ vệ thì đã bị đối phương chém trúng bả vai rồi.

Gã đồ gàn hô lớn:

- Đại ca đến mau lên! Một lũ gian tặc đến giết chết ngũ đệ, rồi lại bắt hết chúng tôi. Thất Muội cũng bị chúng đánh chết. Tình thế thật nguy hiểm vô cùng!

Tiếng đàn trong rừng cây nổi lên liên hồi, mọi người ttrong lòng phiền muộn khó chịu. Trái tim theo nhịp tiếng đàn nhảy lên binh binh.

Huyền Nạn lại càng kinh dị, lẩm bẩm:

- Không hiểu đây là thứ võ công gì của tà phái? Ta đã dùng thử tâm pháp của bổn phái để trấn tĩnh tâm thần mà sao trái tim vẫn đập binh binh theo tiếng đàn vu này thật nguy ngập vô cùng.

Bỗng lại nghe tiếng đàn vang dội mỗi lúc một mau hơn. Trái tim mọi người cũng theo nhịp nhảy rất gấp. Huyền Nạn, Công Dã Càn, Phong Bá Ác, Bao Bất Đồng cùng mọi người đều ngồi xuống đất, vận động nội lực thâm hậu để chống lại. Chỉ có hai người là Huyền Nạn và Công Dã Càn là còn gắng gượng, kiềm chế được trái tim đôi chút, còn sáu nhà sư vào hàng chữ "Tuệ" đã la ầm lên, đau khổ vô cùng!

Sáu nhà sư đưa tay lên bịt tai để khỏi phải nghe tiếng đàn ác nghiệt. Nhưng lạ thay! Bất luận hai tay bịt mạnh đến thế nào, tiếng đàn cũng len lõi vào được lá nhĩ và tâm trạng không tự chủ được, vẫn phải chịu sự cảm ứng của tiếng đàn. Một lúc sau tiếng đàn càng cấp bách, thật là tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. Trái tim mọi người cũng nhảy theo lộn nhào. Chỉ trong chốc lát nữa là mọi người khó lòng thoát chết.

Huyền Nạn đại sư biết rằng không thể ngôi đây giữ thế thủ để bên địch muốn làm mưa làm gió gì thì làm mà phải sang thế công. Nhà sư liền cầm cây thiền trượng xung về phía có tiếng đàn này tựa hồ như ở dưới đất đưa lên, Huyền Nạn chuyển mình trong rừng cây xục xạo tìm mãi chẳng thấy ai. Nhà sư vừa quay lại thì tiếng đàn lại nổi lên boong boong.

Phong Bá Ác la làng, hai tay cào trước ngực loạn lên rách cả áo. Y vừa cào mạnh vừa kêu gào:

- Trời ới! Dễ phải móc thủng ngực ra để giữ lấy trái tim không cho nó nhảy loạn lên!

Mới trong khoảnh khắc y đã cào rách cả da trước ngực, máu tươi chảy đầm đìa. Công Dã Càn ôm lấy Phong Bá Ác nói:

- Tứ đệ chớ nóng nảy phải cố gắng sức lờ đi như không nghe thấy tiếng đàn.

Nhưng chính Công Dã Càn chỉ vì phân tâm một chút để chiếu cố Phong Bá Ác thành ra tâm thần mình cũng bị dao động thêm không trấn tĩnh được. Trái tim cũng đập loạn lên.

Gã đồ gàn, gã xử bàn cờ, gã xử búa, gã xử phán quan bút và gã kép hát cũng đều nghe thấy tiếng đàn cả, nhưng tuyệt không ra chiều thống khổ. Hiển nhiên bọn chúng có biện pháp riêng để kháng cự, nên không bị tiếng đàn kiềm chế.

Bao Bất Đồng bảo A Bích:

- Lục Muội! Lục Muội còn chịu đựng được không? Ngồi lại gần bên tiều huynh này!

Bỗng thấy nhà sư hàng chữ "Tuệ" chùa Thiếu Lâm cũng hai tay ôm chặt lấy ngực, nằm lăn lộn dưới đất, miệng không ngớt la lối.

Bao Bất Đồng nghĩ rằng:

- A Bích nhỏ tuổi lại kém công lực, nhất định đau khổ hơn mình nên nghĩ tội nghiệp cho nàng, muốn đem sức giúp nàng một chút.

Y cất tiếng hỏi. A Bích vẫn xếp hàng ngồi im miệng vẫn nở một nụ cười, tựa hồ như không việc gì.

- Trời! Hay là lục Muội đã bị tiếng đàn làm cho chết rồi! Trước nay lục Muội thích âm nhạc lắm đàn ngọt hát hay nghề cũng giỏi. Lục Muội càng tinh thông âm luật thì đối với tiếng đàn này chắc còn bị cảm xúc mạnh hơn!

Bao Bất Đồng tuy không nhịn được chính trái tim y đang đập mạnh kịch liệt mà y cũng cố gắng lạng người đến bên A Bích để toan sờ lên mũi nàng coi còn thở không. Y chợt thấy A Bích từ từ cử động thì giật nẩy mình lên tự hỏi:

- Sao người chết lại còn cử động được?

Rồi y thấy A Bích đưa tay phải vào trong bọc lấy ra một vật, trời tối mò nên không rõ nàng lấy vật gì. Bao Bất Đồng đang kinh ngạc thốt nhiên phải phì cười, y vừa kinh hãi vừa mừng thầm lẩm bẩm:

- Mình rõ thật lẫn thẫn! Lục Muội đã chết đâu mà nàng không cử động!

Tiếp theo lại nghe hai tiếng tình tang từ trước mặt A Bích phát ra.

Hai tiếng đàn này nghe rất ôn hòa, rõ ràng do một thứ nhạc khí bé nhỏ nảy ra. Hai tiếng đàn này vang lên rồi, tiếng đàn ở trong rừng vọng ra đang sôi nổi bỗng từ từ chậm lại... Nhạc khí trong lòng A Bích lại gãy lên hai hồi nữa thì tiếng đàn ở phía đối diện lại càng chậm thêm.

Từ Huyền Nạn trở xuống chẳng ai là không vui mừng và đều lẩm bẩm:

- Không ai ngờ một vị cô nương bé nhỏ là A Bích lại có bản lãnh đem âm nhạc, để đối phó với ca nhạc đem thanh âm nhẹ nhàng chống với tiếng đàn gay gắt mà kiềm chế bớt được đối phương.

Đột nhiên tiếng đàn trong rừng biến chế lại lên cao, chợt xuống thấp mấy hồi. A Bích cũng đáp lại đối phương bằng những khúc lên bổng xuống trầm một cách đột ngột. Sáu nhà sư hàng chữ Tuệ cùng Phong Bá Ác đang ở trong vòng lẩn quẩn đã được giải thoát, lục đục đứng lên.

Phong Bá Ác thở phào một cái la lên:

- Bọn ác tặc này làm chúng ta phải đau đớn vô cùng. Bây giờ giết chúng hết đi thôi.

Nói xong y cầm đao vào trong rừng.

Công Dã Càn bồng Đặng Bách Xuyên lên thấy hơi thở y có hòa hoãn, tuy Bách Xuyên bị trúng hơi độc của thiếu phụ xinh đẹp, nhưng tính mạng y chưa có gì đáng lo trong chốc lát. Công Dã Càn sợ bọn địch nhân quá mạnh, mà Phong Bá Ác lại trúng hàn độc bị trọng thương, liền đặt Đặng Bách Xuyên xuống rồi cùng Bao Bất Đồng chạy theo Phong Bá Ác.

Sáu nhà sư hàng chữ Tuệ vừa bị tiếng đàn hành hạ khổ sở nỗi lòng căm phẫn vô cùng kẻ xách đao, người cầm trượng chạy vào rừng. Nhưng lạ thay trong rừng chẳng có một ai!

Tiếng đàn lúc nghe thấy mé tả chợt lại sang mé hữu, có lúc như ở đằng trước, có lúc lại tựa hồ ở phía sau không biết đâu mà mò. Ai nấy đều cảm tưởng là đối phương có bảy tám người nấp ở trên cây, thay phiên nhau mỗi người gãy một lúc. Có điều lúc này đàn lại du dương êm ả nghe rất lọt tai, không làm cho người nghe phải khó chịu, bực dọc, tim đập loạn lên. Trái lại nó khiến cho mọi người thư thái, dễ chịu.

Phong Bá Ác bật ngón tay vừa nhảy loạn lên, vừa lớn tiếng mắng chửi một hồi rồi đành lại trở ra. Tiếng đàn của A Bích phối hợp với tiếng đàn của đối phương thành một khúc nhạc hài hòa. Huyền Nạn cùng Công Dã Càn đều hiểu rằng: Bọn võ lâm Trung Nguyên có người nột công thâm hậu biết dùng thanh âm để áp bức tâm hồn kẻ khác hoặc để giết người.

Nếu hai bên đối lập đều dùng kĩ thuật này và cùng tấu nhạc cũng chỉ là cách tranh đấu nội lực. Khi cuộc tranh đấu đến chỗ kịch liệt thì sự nguy hiểm thì chẳng kém gì khí giới quyền cước. Bên nào sơ sót hoặc công lực kém sức tất bị bên mạnh đàn áp, tâm trí mê man đối phương muốn làm gì thì làm có khi phải thế ngay lập tức. Song mọi người nhìn nét mặt A Bích và nghe tiếng đàn hai bên thì rõ ra không phải cuộc tranh đấu kịch liệt. Có điều trên chốn giang hồ chẳng thiếu chi trò quỷ quái bí mật, nên mọi người vẫn chẳng được yên tâm. Bao Bất Đồng cùng Phong Bá Ác đứng trước mặt A Bích đề phòng địch nhân đến tập kích.

Huyền Nạn dứng phía sau lưng nàng ngầm vận nội công vào trong tay chỉ chờ hễ thấy có điều gì khác lạ là lập tức dùng nội lực hùng mạnh của mình truyền vào lưng cho nàng để chống với cường địch. Sau một khoảng thời gian khá lâu, tiếng đàn trong rừng dần dần mỗi lúc một nhanh. Ban đầu A Bích còn gắng gượng theo kịp, nhưng chỉ trong khoảnh khắc là không đuổi được đối phương.

Gã đồ gàn cười ha hả nói:

- Tiểu cô nương! Cô nương đấu cành với đại ca ta là một bậc cầm tiên là không khác gì múa rìu qua mắt thợ sớm chuốc lấy cái khổ vào mình. Cô mau mau quảng đàn hàng đi thôi. Đại ca ta thấy ngươi nhỏ tuổi có khi cũng buông tha cho mạng nhỏ bé của cô.

Bọn Công Dã Càn nhận ra tiếng đàn A Bích đã không mau lẹ bằng đối phương lại còn kém cả về thanh âm rắn rỏi, rõ rệt nữa. Đối phương gảy đàn càng mau, tiết tấu càng phân minh. Cuộc đấu đàn thắng bại đã rõ rệt, không còn cách nào vãn hồi được nữa, mọi người ngơ ngác nhìn nhau cả kinh hết sức.

Huyền Nạn thấy rõ cái thất bại của A Bích là do kĩ thuật.

Hồi Thứ 58

Lo vạ lớn Quần Hùng táng đảm

Mọi người vừa kinh ngạc vừa mừng thầm. Nghe hai bên đối đáp thì dường như người gãy đàn trong rừng là sư phụ A Bích. Chẳng những Huyền Nạn, bọn Công Dã Càn kinh ngạc mà cả bọn đồ gàn bên đối phương lại càng kinh ngạc hơn. Bỗng thấy một lão già tay áo thùng thình phất phới ở trong rừng bước ra. Ông trán cao hầu lộ, tướng mạo kỳ dị nét mặt tươi cười hì hì, ra vẻ hòa nhã. Con người cốt cách thanh kỳ vừa xuất hiện.

A Bích vui mừng hớn hở reo lên:

- A ha! Sư phụ! Sư phụ mạnh đấy ạ?

Gã "đồ gàn" cùng cả bọn đồng thanh hô:

- Đại ca!

A Bích chạy lẹ đi truớc bọn này, lão già mới đến giang hai tay ra nắm lấy bàn tay A Bích tươi cười nói:

- A Bích hả! A Bích! Ngươi càng lớn càng xinh đẹp!

A Bích đôi má ửng hồng chưa kịp trả lời thì lão đã quay về phía Huyền Nạn đại sư chắp tay thi lễ hỏi:

- Đại hòa thượng đây là một vị cao tănh chùa Thiếu Lâm? Tiểu lão thật là vô lễ!

Huyền Nạn chắp tay để trước ngực đáp:

- Bần tăng là Huyền Nạn!

Lão mới đến reo lên:

- Trơi ơi! Thế ra đây là Huyền Nạn sư huynh! Huyền Khổ đại sư là sư huynh hay sư sư đệ với Đại hòa thượng? Tiểu lão cùng người đã được có duyên hội ngộ mấy lần, thật là ý hiệp tâm đầu. Lâu nay người vẫn mạnh giỏi chứ?

Huyền Nạn buồn rầu nói:

- Huyền Khổ sư huynh bần tăng chẳng may gặp phải tên nghịch đồ ám toán nên đã viên tịch rồi.

Lão kia nghe tin thộn mặt ra một lúc. Đột nhiên lão nhảy vọt lên cao hơn một trượng. Lúc người lão chưa hạ xuống đất còn đang lơ lửng trên không đà cả tiếng khóc rống lên một cách rất bi ai. Huyền Nạn cùng bọn Công Dã Càn đều giật mình, không ai ngờ đến con người già nua tuổi tác ấy lại khóc lóc thảm thiết như tuồng trẻ nít. Hai chân vừa chấm đất, lão ngồi phệt xuống. Tay nắm lấy từng chòm râu mà giựt thật mạnh. Hai chân lão nện xuống đất thình thịch như người rung trống.

Lão vừa khóc vừa kể lể:

- Huyền Khổ lão huynh ơi! Sao lão huynh chẳng dặn dò tiểu đệ một câu nào đã bỏ đi ngay? Lão huynh ơi! Lão huynh làm thế sao cho hợp lý? Khúc "Phạn âm phổ tấu" kia của tiểu đệ đã biết bao nhiêu người nghe rồi mà chẳng ai hiểu gì ráo. Chỉ mình lão huynh biết trong khúc đó bao hàm lý tưởng nhà Phật và có thể khiến cho công lực lão huynh tinh tiến thêm lên. Lão huynh nghe đi nghe lại hết lần này sang lần khác mà không biết chán. Cái ông Huyền Nạn sư đệ của lão huynh đây vị tất đã có tính tình giác ngộ được như huynh. Tiểu đệ e rằng tấu khúc này cho ông ta nghe, không khác gì đàn gãy tai trâu! Trời ơi! Trâu thì biết nghe đàn làm sao được mà gãy? Hỡi ơi! Số mệnh tiểu đệ sao mà đau khổ đến nổi nước này?

Ban đầu Huyền Nạn nghe lão khóc lóc cũng tưởng lão là người chí tình với Huyền Khổ, vì xót thương cái chết của một vị sư huynh không cầm lòng được, mà bật tiếng kêu gào khóc lóc. Nhưng nhà sư nghe lâu mới rõ là không phải thế. Lão khóc đây là khóc trên đời không tìm ra bạn tri âm. Sau cùng nhà sư nghe lão lại bảo đánh đàn cho mình nghe chẳng khác gì đàn gãy tai trâu.

Huyền Nạn vốn là một bậc cao tăng đắc đạo, tuy nghe trong tiếng khóc lão già có ý châm chọc mình, nhưng vẫn không tức giận, mà chỉ tủm tỉm cười nghĩ thầm:

- Bọn này ai cũng có tính dở điên dở khùng, chẳng nên lý luận với họ làm gì. Tuy nội lực lão thâm hậu hơn người, song tính khí gàn dở chẳng khác gì mấy người đàn em mà có lẽ lão còn dở hơi hơn cả, không trách người ta thường nói rằng: "Ngưu tầm ngưu mã tầm mã" là phải lắm.

Bỗng thấy lão kia lại vừa khóc vừa nói:

- Huyền Khổ sư huynh ơi! Để đền ơn tri ngộ, tiểu đệ đã khổ tâm sáng chế ra khúc nhạc mới là "Nhất vi ngâm" tặng lão huynh. Khúc nhạc này tuyên dương công đức Đạt Ma lão tổ là đức thủy tổ chùa Thiếu Lâm đã thả bè lau qua sông. Sao sư huynh chẳng sống mà nghe!

Đột nhiên lão quay lại nhìn Huyền Nạn hỏi:

- Mộ phần Huyền Khổ sư huynh an táng ở đâu? Đại sư mau dẫn tiểu đệ đến đó. Lẹ lên! Lẹ lên! Càng lẹ càng tốt! Tiểu đệ sẽ gãy khúc đàn này cho y nghe. Biết đâu y nghe rồi chẳng khích động tâm thần mà sống lại!

Huyền Nạn đáp:

- Thí chủ sao lại hồ đồ đến thế? Sau khi sư huynh bần tăng viên tịch đã đem di thể người hỏa táng đốt thành nắm tro tàn, làm gì có mộ phần?

Lão kia nghe nói vậy đứng thộn mặt ra một lúc rồi đột nhiên nhảy nhót reo mừng, la lên:

- Hay lắm! Như thế càng hay! Đại sư đưa tại hạ đi lấy một nắm tro này. Tại hạ sẽ dùng keo hỏa để dán vào dây cây đàn Dao cầm. Rồi từ đây trở đi mỗi khi tại hạ tấu khúc nhạc là y lại được nghe. Đại sư tính thế có tuyệt diệu không? Ha ha! Cái sáng kiến của tại hạ thật là tuyệt vời!

Lão càng nói càng cao hứng rồi vỗ tay cười rộ như người điên. Đột nhiên Lão trông thấy thiếu nữ xinh đẹp nằm lăn một bên thì thất kinh hỏi:

- Ồ! Lục Muội làm sao thế. Ai đã đánh Lục Muội bị thương?

A Bích nói:

- Sư phụ! Vụ này bên trong có chỗ hiểu lầm. Có sư phụ đến đây thật là khéo quá!

Lão kia hỏi:

- Hiểu lầm cái gì? Ai hiểu lầm? Dù sao kẻ đánh Lục Muội bị thương vẫn là kẻ chẳng ra gì. Chao ôi! Bát đệ cũng bị thương ư? Kẻ đánh Bát đệ bị thương tất không phải là người tốt. Nào ai là thủ phạm hãy báo danh đi! Công nghị phân xử thì không kêu ca vào đâu được nữa! A Bích! Ngươi ra ngoài kia lấy cây đàn về đây cho ta.

A Bích "dạ" một tiếng rồi nàng không nghe sư phụ nói ba hoa nữa, nàng băng mình chạy ra gốc cây.

Mọi người nhìn xa xa thấy bóng xanh nhảy lên cây tay cầm vật gì rồi nhảy xuống đất. Nàng lại qua gốc khác nhảy vọt lên: Huyền Nạn cùng Công Dã Càn bây giờ mới biết rõ thì ra lão già kia đã để mấy cây đàn trên ngọn cây, và dùng nội lực rất thâm hậu để đánh đàn. Vì thế mà tiếng đàn khi ở mé tả lúc qua mé hữu không biết đâu mà mò. Lúc trước bao nhiêu người chạy xục tìm trong rừng mấy lần mà thủy chung vẫn không tìm thấy người đánh đàn ở chỗ nào, là vì lẽ này.

Mọi người lại nhìn thấy A Bích hết chạy ở mé Đông lại nhảy sang mé Tây mà cách xa nhau đến hơn mười trượng, thì nghĩ bụng chẳng lẽ lão già kia nội công thâm hậu chuyển từ cây nọ sang cây kia cách nhau có đến hơn mười trượng. Tiếng đàn của lão cực kỳ thần diệu không ai đến mức độ đó được.

Mọi người còn đang ngẫm nghĩ thì thấy A Bích ôm bảy tám cây Dao Cầm từ trong rừng chạy về. Nàng chạy được nửa đường, thốt nhiên người nàng lạng đi một cái rồi té lăn xuống đất. Cái ngã của A Bích khiến cho lão gãy đàn cùng cả bọn Công Dã Càn đều thất kinh.

Công Dã Càn hốt hoảng chạy ra bỗng cảm thấy mé tả có một cơn gió nhẹ nhàng vừa lướt qua mà lão gia đã bồng A Bích trên tay rồi. Công Dã Càn lẩm bẩm:

- Lão tiên sinh này khinh công ghê thật!

Gã nhô lên thụt xuống ba cái, nhảy đến trước mặt hai người. Công Dã Càn vừa ngó vào mặt A Bích thì lòng đã hết lo ngay, vì mặt nàng tươi như ánh nắng ban mai, tinh thần rất mạnh mẽ bên môi hé một nụ cười.

Công Dã Càn liền cười hỏi:

- Lục Muội! Lục Muội muốn làm nũng với sư phụ chăng? Lục Muội làm cho ta sợ muốn chết.

A Bích không đáp. Đột nhiên mấy hạt nước mắt rớt xuống khuôn mặt tươi như hoa đào của nàng. Công Dã Càn giật mình liếc mắt ra nhìn thấy mặt lão gia xám ngắt nước mắt đang tong tong nhỏ xuống.

Công Dã Càn rất lấy làm kỳ tự hỏi:

- Lão già này điên rồi sao?

Lão kia nhìn Công Dã Càn đưa mắt ra hiệu khẽ hỏi:

- Đừng có lên tiếng.

Lão ôm A Bích hấp tấp chạy về trước mặt mọi người. Phong Bá Ác hỏi:

- Lục Muội! Lục Muội làm sao vậy?

Gã chưa dứt lời thì lão nói ngay:

- Vạ lớn đến nơi rồi! Vạ lớn đến nơi rồi!

Lão hốt hoảng nhìn tả ngó hữu vẻ mặt cực kỳ sợ hãy, hoang mang giục luôn miệng:

- Phải trốn mau kẻo không kịp mất rồi! Xin toàn thể quý vị vào nhà đi! Lẹ lên! Lẹ lên!

Bao Bất Đồng vốn tính ưa phản đối người. Gã thấy lão già hoảng sợ giọng nói run, gã liền lớn tiếng hỏi:

- Cái gì mà vạ lớn đến nơi? Trời sập hay sao?

Lão già vẫn hối hả giục:

- Lẹ lên! Lẹ lên! Vào nhà đi!

Bao Bất Đồng nói:

- Xin lão tiên sinh tùy tiện. Bao Bất Đồng này không vào đâu. Lục muội!...

Lão già tay trái ẵm A Bích, tay phải đột nhiên vươn ra phía trước nắm trúng huyệt đạo trước ngực Bao Bất Đồng. Lão ra tay mau lẹ vô cùng. Bao Bất Đồng không kịp đề phòng nên bị lão kiềm chế được ngay. Lão nhắc bỗng người Bao Bất Đồng lên. Hai chân gã lên khỏi mặt đất gã không tự chủ được, lão kia liền cứ nắm lấy như vậy chạy qua cổng lớn vào nhà.

Huyền Nạn cùng Công Dã Càn đều rất lấy làm kinh ngạc toan lên tiếng hỏi, thì gã đứng tuổi làm bàn cờ khẽ nói:

- Đại sư phụ cùng mọi người vào nhà lẹ lên có lão đại ma đầu cực kỳ lợi hại chớp mắt sẽ đến đây.

Huyền Nạn là một nhà sư nổi tiếng về thần công, khắp võ lâm ít có đối thủ được thì còn sợ gì đại ma với tiểu ma đầu. Nhà sư liền hỏi lại:

- Đại ma đầu nào vậy? Kiều Phong phải không?

Gã này lắc đầu đáp:

- Không phải! Không phải! Lão này còn lợi hại gấp mấy Kiều Phong chính là Tinh Tú Lão Quái đó!

Huyền Nạn ngừng một lát rồi hỏi:

- Tưởng ai chứ Tinh Tú Lão Quái thì hay quá rồi. Lão tăng đang muốn tìm y đây!

Gã nói:

- Thần công của đại sư tuy cao cường, dĩ nhiên chẳng có sợ y nhưng mấy người ở đây nếu bị y ám toán là chết hết có chăng chỉ một mình đại sư là sống được thôi. Như vậy mới thật từ bi!

Gã nói mấy câu móc họng này quả nhiên rất công hiệu. Huyền Nạn vừa nghe vừa rùng mình nghĩ bụng. Gã này nói có lý lắm, liền gật đầu:

- Được rồi! Vậy thì chúng ta vào nhà hết.

Lúc này sư phụ A Bích đã đem nàng cùng Bao Bất Đồng đặt xuống rồi chạy ra. Lão gịuc luôn miệng:

- Lẹ lên! Lẹ lên! Còn đợi gì nữa?

Lão đưa mắt nhìn thấy trong đám người này có Phong Bá Ác ra chiều bướng bỉnh, liền xoay tay trái qua mé hữu quét ngang cổ gã. Phong Bá Ác tuy là tay háo chiến, nhưng lão không ngờ đến lão sư phụ của Lục Muội nói đánh là đánh luôn. Lúc này khí hàn độc trong người gã lại bắt đầu lên cơn, nên lại càng khó chống. Gã vừa trông thấy tay lão đánh lại vội vàng cúi đầu xuống né tránh. không ngơi tay tráo lão không phóng chưởng ra, đột nhhiên vòng về bên hữu rồi chụp xuống nắm được sau gáy Phong Bá Ác, miệng lão vẫn giục:

- Lẹ lên! Lẹ lên vào nhà đi! Lão xách Phong Bá Ác chẳng khác xách con gà chạy ngay vào nhà.

Công Dã Càn trong lòng rất khó chịu vì hai người anh em mình bị lão già chỉ ra một chiêu đã tóm cổ xách đi. Tuy lão là sư phụ A Bích chứ không phải người dưng, nhưng tiếng tăm Mộ Dung Cô Tô bấy lâu lừng lẫy giang hồ. Thanh danh Mộ Dung công tử là thế mà bọn thuộc hạ lại kém cỏi như vậy, nhất là ở trước mặt chư tăng chùa Thiếu Lâm thì thật là mất thể diện rất nhiều.

Huyền Nạn nhìn vẻ mặt Công Dã Càn liền đoán biết ngay tâm sự gã. Chính nhà sư thấy lão kia liên tiếp chế phục Bao Bất Đồng bằng một thủ pháp mau lẹ vô cùng thì biết rằng bản lãnh lão này chẳng kém gì mình. Thế mà lão phải sợ Tinh Tú lão quái như vậy, chắc là lão quái kia phải là tay ghê gớm vô cùng, mình không thể coi thường được.

Nhà sư liền bảo Công Dã Càn:

- Công Dã Càn thí chủ! Chúng ta hãy vào nhà rồi sẽ bàn định kế hoạch lâu dài.

Sáu nhà sư hàng chữ Tuệ khiêng thi thể Huyền Thống lên, Công Dã Càn thì ẵm Đặng Bách Xuyên chạy lẹ vào nhà. Sư phụ A Bích lại chạy ra lần nữa để túc giục ngưng thấy mọi người đã chạy vào nhà cả rồi vội đóng sập cửa lại, và toan đóng cổng cài then, thì gã sử bàn cờ nói:

- Đại ca! Ta cứ để ngỏ cổng hay hơn. Đó là kế: "Thực giả tư chi, hư giả thực chi." Chắc địch không biết thực hư ra sao không dám hiên ngang sấn vào. Lão kia đáp thế cũng phải. Ta nghe lời ngươi. Tuy lão nói vậy nhưng giọng nói không có vẻ gì tự tin ở mình.

Huyền Nạn cùng Công Dã Càn đưa mắt nhìn nhau và đều tự hỏi:

- Lão này võ công cao cường đến thế sao lúc lâm sự lại hoang mang cuống quýt lên như vậy? Lão không còn chút chi bình tĩnh để xét đoán. Cái cửa mỏng manh này đối với quân đạo tặc tầm thường còn chưa giữ nổi, huống chi đối với Tinh Tú Lão Quái, một lão ma đầu khét tiếng, thì dù cửa có đóng hay không phỏng ăn thua gì? Xem thế đủ biết lão này đã bị Tinh Tú Lão Quái làm nhiều phen thất điên bác đảo, chẳng khác gì con chim phải tên sợ làn cây cung, nên lão mới được tin Tinh Tú Lão Quái đến gần đã kinh hồn táng đởm.

Hai người còn đanh ngẫm nghĩ bỗng nghe lão gãy đàn giục luôn miệng:

- Lục đệ! lục đệ tính sao đây?

Huyền Nạn tuy là một vị cao tăng đăc đạo đã tu tâm dưỡng tính cực kỳ trầm tĩnh, nhưng thấy lão này hoảng sợ cuống cuồng thì không khỏi nổi nóng lên tiếng hỏi:

- Lão trượng ơi! Người ta thường nói: nước chảy ùa vào thì lấy đất đắp ngăn lại mà quân giặc đến thì tướng ra kháng cự. Dù Tinh Tú Lão Quái độc ác lợi hại đến đâu, tất cả mọi người chúng ta hợp sức lại cự địch vị tất thua hắn cả. Sao lão trượng phải... hoang mang và... quá lo xa đến thế?

Nên biết rằng trên chốn giang hồ, người ngoài dùng đến chữ sợ hãi nhát gan là một điều tối kỵ. vì vậy mà nhà sư phải đổi lại là quá lo xa. Lúc này trên nhà khách sảnh đã thắp đèn sáng. Huyền Nạn đưa mắt nhìn mọi người thì chẳng những lão gãy đàn là tỏ vẻ sợ sệt mà cả đến gã bàn cờ, gã đồ gàn, gã phan quan bút ai nấy đều run lên bần bật.

Huyền Nạn đã được mục kích bọn người này động thủ và biết bản lãnh không phải tầm thường, Hơn nữa bọn này ai cũng giở điên giở khùng, bất luận việc gì cũng cho là thường, họ nhìn tấn tuồng đó như những trò chơi tiêu khiển. Thế mà đột nhiên biến thành những con người hoang mang, lo lắng khác nào những kẻ hèn nhát vô dụng tầm thường không biết đâu mà nói.

Bỗng thấy gã thợ mộc xử búa gật đầu, lấy trong bọc ra một cái thước gấp cầm tay đo góc nhà đại sảnh, mọi người cũng theo sau để coi gã làm gì, thì thấy gã để ý nhìn bốn góc. Đột nhiên gã tung người nhảy lên đo hoành nhà xong rồi lại lắc đầu nhảy xuống.

Gã chạy vào nhà trong đến trước cổ quan tài hờ của Tiết Thần Y. Gã đưa mắt nhìn mấy lần rồi nói:

- Đáng tiếc! Thực là đáng tiếc!

Lão gãy đàn hỏi:

- Không... không dùng được việc gì ư?

Gã sử búa đáp:

- Không được rồi, nhất định sư thúc sẽ nhận ra.

Lão gãy đàn tức mình nói:

- Ngươi... Ngươi còn gọi y là sư thúc ư?

Lão sử búa lắc đầu rồi không nói nữa. Đoạn đi sâu mãi phía sau nhà. Công Dã Càn lẩm bẩm:

- Thằng cha này ngoài cái nghề lắc đầu ra tựa hồ như hắn không còn làm được trò trống gì nữa?

Gã xử búa lại đo goác tường phía sau rồi vừa đi vừa đếm bước chân, trông chẳng khác gì người thợ đang tính toán để xay nhà cửa phòng ốc. Gã vào vườn sau tay cầm cây đèn nến, ngưng thần suy nghĩ hồi lâu rồi đi vào dãy hành lang có đặt năm cái cối đá. Gã trầm ngâm một lúc đặt cây đèn cầy xuống đất, đến bên cái cối thứ hai ở mé tả. Gã lấy một ít trầu và mấy nắm đất bỏ vào trong cối đá. gã cầm một cái chày đá lớn ở bên cạnh để giã vào lòng cối boong boong. Cái chày đá này rất nặng, mỗi lần giáng xuống sức mạnh vô cùng.

Công Dã Càn khẽ thở dài một tếng lẩm bẩm:

- Chuyến này mình thật xúi quẩy gặp phải bọn điên rồ. Lúc này chúng còn đi giã gạo được mới kỳ. Nếu quả trong cối có gạo thì chẳng nói làm chi nhưng mình thấy rõ ràng họ bỏ trấu cùng đất vào cối giả chơi! Hỡi ơi may mà Đặng Bách Xuyên sau khi trúng độc mạch vẫn điều hòa chỉ tựa như người say rượu ngủ li bì, không có gì là nguy hiểm.

Boong! Boong! Boong tiếng giã gạo vang lên đều đặn và không ngớt.

Giả chừng mấy chục chày thì đột nhiền về góc Đông nam trong vườn hoa cách độ bảy tám trượng bỗng phát ra tiếng lách cách. Tiếng này rất nhỏ nhẹ song Huuyền Nạn và Công Dã Càn tai thính vô cùng hơi có tiếng gì lạ là nghe thấy ngay. Mọi người đảo mắt nhìn ra thì thanh âm này từ bốn gốc quế vọng lại.

Boong! Boong! Gã xử búa vẫn liên tiếp giã gạo.

Một điều kỳ dị xảy ra:

Gốc quế thứ nhì ở mé đông tựa hồ như chuyển động nhích ra dần. Một lúc nữa mọi người đều nhìn rõ, thì ra gã xử búa cứ mỗi chày nện xuống cối thì một lần cây quế lại chuyển động nhích đi một tấc hay nửa tấc.

Lão gãy đàn khẽ cất tiếng hoan hô rồi trông về phía cây quế đó chạy ra. Lão khẽ nói:

- Đúng rồi! Đúng rồi!

Mọi người cũng theo đi, thì thấy chỗ gốc quế dời đi, lộ ra một phiến đá lớn. Trên phiến đá này có một cái vòng sắt để cầm.

Công Dã Càn xiết bao kinh ngạc, bội phục gã xử búa và tự lấy làm xấu hổ, Y tự nhủ:

- Cơ quan ở dưới đất này an bài một cách tuyệt diệu, thật là mình không ngờ họ tinh vi đến thế gã xử búa mới trong khoảnh khắc mà đã phát giác ra được chỗ then chốt cơ quan. Thế thì gã thông minh tài trí chẳng kém gì cái người đã bố trí ra cơ quan này.

Gã xử búa lại giã mười mấy chày nữa thì cả phiến đá hoàn toàn lộ ra.

Lão gãy đàn nắm lấy vòng sắt kéo mạnh lên, nhưng không nhúc nhích được tí nào. Lão toan vận động hết nội lực để kéo lần thứ hai tì gã xử búa la lên:

- Đại ca! Hãy dừng tay!

Gã tung người, mình nhảy đến bên một chiếc cối đá khác, vạch quần ra tiểu vào trong cối nàỵ Đồng thời gã hô lớn:

- Xin các vị mau lại đi tiểu vào đây!

Lão gãy đàn kinh ngạc, vội bỏ ngay vòng sắt ra chạy đến. Chớp mắt gã xử bàn cờ, gã đồ hàn gã xử phán quan bút và lão gãy đàn cùng lão xử búa nhất tề đi tiểu vào trong cối đá. Giả tỷ ở vào hoàn cảnh khác mà bọn Công Dã Càn thấy năm người này đi tiểu vào cối như lũ điên rồ thì không thể nhịn được phải cười đến nẻ ruột. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, mọi người đều ngửi thấy có mùi thuốc súng xông lên.

Gã xử búa mừng rỡ nói:

- Hay lắm không còn gì nguy hiểm nữa rồi!

Riêng mình lão gãy đàn là bọng đái lớn hơn cả. Lão đi tiểu mãi không hết nước, miệng lão nói lảm nhảm:

- Chết chưa! Chết chưa! Thế thì phá xong một cơ quan. Lục đệ! Nếu không có lục đệ điều tra ra cơ quan một cách nhanh chóng thì hết thảy chúng ta đều bị nổ nát như cám.

Bọn Công Dã Càn cũng bất giác sợ run. Sau ngửi thấy mùi thuốc súng khét lẹt ai cũng hiểu rằng trong giây phút vừa rồi, mọi người đã trải qua cơn đại nạn. Hiển nhiên dưới vòng sắt họ đã để thuốc nổ và tra ngòi sẵn. Chỉ cần châm cái ngòi cháy lên, thuốc súng sẽ nổ tung. Thật là một thủ đoạn cực kỳ lợi hại do đối phương bố trí để hại người. May mà gã xử búa mau trí khôn kêu mọi người đi tiểu làm ướt nhòi súng nên mới thoát khỏi tai nạn.

Lại thấy gã xử búa đi tới cái cối đá đầu tiên ở bên hữu... Gã vận nội lực vần cái cối đá chuyển về mé hữu ba vòng. Gã ngẩng mặt trông trời, miệng lẩm bẩm khẩu quyết, lặng lẽ tính toán một lúc. Đoạn gã lùi dần cái cối đá này về mé tả chuyển đi sái nửa vòng, thì bỗng nghe thấy những tiếng lách cách. Tảng đá lớn trụt xuống để hở ra một cửa động. Lần này lão gãy đàn không dám hấp tấp chui vào ngay. Lão nhìn gã xử búa vẫy tay ra hiệu nhờ dẫn đường.

Gã xử búa quỳ xuống đất để ý nhìn cái cối đá ở mé tả thì đột nhiên trong lòng đất có thanh âm phát ra và rõ ràng là lời thóa mạ:

- Tinh Tú Lão Quái! Mẹ nó đồ con chó! Nếu mi mà tìm thấy thì ta cho mi là giỏi! Mi quen làm những trò độc ác, tất nhiên sẽ có ngày chịu quả báo. Vào đây! Vào đây mà giết ta đi!

Huyền Nạn nghe rõ là thanh âm Tiết Thần Y thì mững thầm trong bụng. Bỗng nghe Lão gãy đàn gọi:

- Ngũ đệ! Chúng ta đến cả rồi!

Thanh âm trong lòng đất ngưng một lát hỏi lại:

- Có thật đại ca đó chăng?

Lão gãy đàn đáp:

- Nếu không có Lục đệ thì không tài nào mở được cơ quan này.

Bỗng nghe vèo một tiếng. Từ trong thach động một người nhảy vọt ra chính là Diêm Dương Địch Tiết Thần Y! Tiết Thần Y không ngờ ngoài lão gãy đàn cùng mấy người anh em kết nghĩa, lại còn có vô số người ngoài, thì không khỏi giật mình.

Lão gãy đàn nói:

- Bây giờ không nói nhiều lời nữa. Ngươi đem ngay thất Muội cùng đồ đệ ta vào hầm để chữa cho chúng. Trong đó có đủ chỗ không?

Lão vừa nói vừa đưa tay trỏ vào cửa động. Tiết Thần Y nhìn Huyền Nạn hỏi:

- Đại sư! Đại sư đã đến đây ư? Mấy vị này là ban hữu cả đấy chứ?

Huyền Nạn ngần ngừ một lát rồi đáp:

- Phải rồi cùng bạn bè cả đấy mà.

Nguyên là chùa Thiếu Lâm đã nhận định rằng là Huyền Bi đại sư chết về tay họ Mộ Dung ở Cô Tô. Như vậy thì bè lũ Mộ Dung đều là những kẻ cừu địch. Nhưng lần này nhà sư đi với bọn Đặng Bách Xuyên đến đây để xin chữa thuốc, dọc đường Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn đã hết sức trần tình Huyền Bi đại sư quyết không phải bị Mộ Dung công tử hạ sát. Vì thế mà Huyền Nạn đại sư đã tin họ đến sáu bảy phần. Hơn nữa, chuyến này bọn họ cũng gặp tai nạn như bọn mình thì cũng là cùng hội cùng thuyền với nhau, nên nhà sư nhìn nhận bọn Đặng Bách Xuyên cũng là bạn bè với mình. Công Dã Càn nghe Huyền Nạn nói vậy thì nhìn nhà sư gật đầu tỏ ý đồng tình chứ không nói gì.

Tiết Thần Y nói:

- Dưới này có chỗ rộng, xin các vị xuống cả đây. Nào mời Huyền Nạn đại sư đi trước cho!

Tuy y nói vậy nhưng y tiến vào trong hầm trước tiên. Nên biết rằng đường hầm tối mò này rõ là một nơi nguy hiểm vô cùng mà người trên chốn giang hồ thường xảo trá khôn lường, chẳng ai tin được ai. Chính mình vào trước mới đúng lề đón khách.

Tiết Thần Y vào rồi, Huyền Nạn không tỏ vẻ gì ngần ngại, theo sau đi xuống luôn. Mọi người lục tục theo sau Huyền Nạn đại sư. Cả thi hài Huyền Thống đại sư cũng khiêng xuống hầm. Tiết Thần Y bấm nút cơ quan, phiến đá tự nhiên đóng lại. Y còn chuyển động cơ quan cho các cây quế đã di chuyển ra chỗ khác lại chuyển về chỗ cũ ngay trên phiến đá.

Bên trong là một đường hầm đá mới khoét ra, mọi người phải cúi lom khom đi mới khỏi đụng đầu. Đoàn người đi trong khoảnh khắc thì đường hầm cao lên dần dần và đi tới quãng đường địa đạo thiên nhiên. Đi chừng được hai mươi trượng thì đến một thạch động rộng rãi. Trong góc thạch động gần ánh lửa sáng đã có đến hơn hai mươi người ngồi đó, đủ cả trai gái già trẻ. Những người này nghe có tiếng bước chân đi vào đều ngoảnh đầu nhìn ra.

Tiết Thần Y giới thiệu:

- Đây là những người nhà tại hạ. Gặp lúc nguy nan không ai dám ra ngoài làm lễ bái kiến. Đại ca! Nhị ca! Hai vị đến có việc chi?

Y vẫn giữ bản sắc thầy lang không chờ lão gãy đàn đã lại coi thương thế mọi người ngay. Tiết Thần Y coi người đầu tiên là Huyền Thống đại sư rồi nói:

- Vị đại sư này giác ngộ mà viên tịch. Thật là một việc đáng cung hỉ!

Y tới xem Đặng Bách Xuyên rồi mỉm cười:

- Thất Muội tại hạ có thứ phấn hương khiến cho người hít phải say rồi ngã lăn ra. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc là tỉnh lại chứ không có chất độc gì cả.

Thiếu phụ đứng tuổi xinh đẹp cùng gã kép hát đều bị ngoại thương. Tuy thương thế trầm trọng nhưng Tiết Thần Y côi rồi cho là tầm thường.

Khi xem đến A Bích thì la hoảng:

- Quả nhiên Tinh Tú Lão Quái... đã đến đây! Chất độc này của lão... lợi hại vô cùng! Tại hạ không thể chữa được rồi!

Công Dã Càn la lên một tiếng ủa rồi nói:

- Dù sao cũng xin Tiết Thần Y cứu giùm cho!

Bỗng nghe tiếng lão gảy đàn tru lên khóc nức nở, Gã đồ gàn nói:

- Đại ca! Thầy Trang Tử có câu: "Những bậc chân nhân đời xưa không ưa sống mà cũng không ghét chết." Đồ đệ đại ca trúng phải chất độc của sư thúc. Nếu quả nhiên không thể chữa cho y khỏi được thì cũng là tới số. Can chi đại ca phải khóc ròng?

Lão gãy đàn tức giận nói:

- Tên đồ đệ ngoan ngoãn của ta đã cách biệt ta trong tám năm trời, bữa nay mới đưọc trùng phùng. Nếu nó chết đi lẽ nào ta lại không đau xót? A Bích con ơi! Con đừng chết, muôn ngàn lần con không nên chết!

Công Dã Càn cùng Bao Bất Đồng nhìn A Bích thì chỉ thấy sắc mặt nàng đỏ hồng song vẻ hồng hào trông rất đáng buồn vì da thịt dường như rướm máu tươi.

Công Dã Càn hỏi:

- Tiết thần Y! Người nghĩa Muội của tại hạ đây bị trúng chất độc gì vậy?

Gã đồ gàn tiếp lời:

- Tiểu cô nương đây là đồ đệ đại ca ta. Ta là sư thúc nàng. Người mới là nghĩa huynh nàng kể về tình nghĩa kết giao thì người còn là vai dưới chúng ta một bậc. Đức Khổng Tử đã nói: "Danh có chính thì ngôn mới thuận" ngươi phải kêu ta là sư thúc mới hợp lý. Thế mà mi đem gọi xách mé một điều Tiết Thần Y hai điều Tiết Thần Y như người ngang hàng. Sao không biết kêu bằng Tiết sư thúc?

Lúc này Tiết Thần Y đã coi mạch cho Bao Bất Đồng cùng Phong Bá Ác. Lão nhắm mắt ngoẹo cổ, suy nghĩ mong lung. Người ngoài không ai dám kinh động luồng tư tưởng của y. Nên gã gãy đàn muốn khóc thế nào thì khóc, gã đồ gàn muốn nói ba hoa thế nào thì ba hoa chẳng ai thèm đếm xỉa gì đến.

Tiết Thần Y ngẫm nghĩ hồi lâu rồi lắc đầu nói:

- Lạ thật! Lạ thật! không hiểu kẻ nào đã đánh hai vị huynh đài đến nổi bị thương thế này?

Công Dã Càn đáp:

- Đó là một gã thiếu niên đầu chụp lồng sắt.

Tiết Thần Y lắc đầu nói:

- Thiếu niên cóc gì? Có lý nào lại là thiếu niên được? Người này võ công gồm đủ những sở trường của hai phe chính tà. Nội lực y mới lại càng thâm hậu? Ít ra là phải rèn luyện ba mươi năm trở lên. Thế thì sao gọi là thiếu niên được?

Huyền Nạn nói:

- Gã này đã từng đến nằm vùng trong chùa Thiếu Lâm, thế mà bọn bần tăng chưa phát giác ra, nên hễ ngĩ đến là mắc cỡ chết đi được!

Tiết thần Y nói:

- Mắc cỡ ư? Các vị thì việc móc gì mà mắc cỡ? Hai vị huynh đài đây mắc phải chất hàn độc, lão phu không chữa được mới tức chứ? Hai chữ "Thần Y" từ nay không dám dương danh với thiên hạ nữa!

Thốt nhiên một thanh âm oang oang như tiếng chuông đồng nói:

- Tiết tiên sinh! Nếu vậy thì chúng tôi xin cáo từ thôi!

Người nói đó chính là Đặng Bách Xuyên. Y bị trúng phấn hương chỉ ngã ra rồi mê man bất tỉnh. Nhưng nội lực rất thâm hậu, bây giờ y đã tỉnh lại rồi.

Bao Bất Đồng tiếp theo:

- Phải rồi! Phải bậc đại trượng phu coi cái sống chết là do mệnh trời. Chui rúc ở dưới hầm này làm cóc gì? Chẳng lẽ làm người cũng học thói con rùa đen hay con chuột đồng, ẩn nấp vào trong hang trong hốc?

Tiết Thần Y nghe Bao Bất Đồng nói móc, cười lạt hỏi:

- Coi bộ thí chủ ăn nói trường ba khoát bảy ra vẻ anh hùng lắm. Thí chủ có biết ai ngoài kia không?

Phong Bá Ác đáp thay:

- Các vị sợ Tinh Tú Lão Quái, chớ tại hạ sợ cóc gì lão? Các vị bản lĩnh cao cường thật là uổng quá! Mới nghe cái tên Tinh Tú Lão Quái đã kinh hồn tán đởm!

Lão gãy đàn khẽ vỗ vai A Bích vừa khóc vừa nói:

- A Bích con ơi! Có ngờ đâu người sát hại con chính là sư thúc con? Sư phụ con không đủ bản lãnh để báo thù cho con rồi!

Công Dã Càn nghe bọn này đều kêu Tinh Tú Lão Quái là sư thúc thì lấy làm quái dị, nghĩ thầm: Trước khi rời khỏi nơi đây cần phải điều tra cho biết rõ lai lịch bọn này. Có thế mới mong tìm cách cứu chữa được Lục Muội.

Công Dã Càn nghị vậy liền hỏi:

- Các vị ai cũng xưng hô Tinh Tú lão Quái bằng sư thúc. Vậy các vị đây là những nhân vật thế nào?

Nguyên A Bích tuy ở trong phủ Mộ Dung lâu năm cùng Công Dã Càn kết nghĩa anh em, nhưng y chưa từng hỏi đến lai lịch sư môn nàng bao giờ. Nàng không nói ra nên y cũng không biết.

Huyền Nạn nói vào:

- Những điều lão tăng mắt thấy tai nghe bữa nay thật là nhiều chỗ không hiểu, lão tăng cũng đang muốn thỉnh giáo.

Tiết Thần Y nói:

- Bọn sư huynh, sư đệ chúng tôi có tám người gọi đùa là "Hàm Cốc Bát Hữu"

Y trỏ lão gảy đàn nói tiếp:

- Vị này là sư huynh chúng tôi. Tại hạ đứng hàng thứ năm nên gọi là lão Ngũ, còn những điều khkác thì câu chuyện quá dài lại không tiện nói với người ngoàị Mong rằng cac vị...

Y nói tơi đây thì đột nhiên có thanh âm rất nhỏ gọi:

- Tiết Mộ Hoa! Sao ngươi không ra yết kiến ta? Khang Quảng Lăng! Ngươi đang làm gì mà không gảy đàn cho ta nghe?

Tiếng nói rất nhỏ thấp thoáng như có như không. Nhưng những người trong động đều nghe rõ mồn một. Người ta cảm giác tưởng chừng thanh âm này như một sợi dây vàng nhỏ li ti xỏ qua lớp đất dày đến hơn mười trượng, hoặc như dây kim tuyến luồn theo những khúc đường hầm quanh co để chui vào lỗ tai mọi người.

Lão gảy đàn la lên một tiếng:

- Ui da!

Rồi nhảy lên chồm chồm nói:

- Đúng Tinh Tú Lão Quái rồi.

Phong Bá Ác cũng đứng phắt dậy lớn tiếng nói:

- Đại ca! Nhị ca! Tam ca! Chúng ta quyết một trận tử chiến với hắn đi!

Lão gãy đàn vội can:

- Không được đâu! Không được đâu! Các ngươi mà ra bây giờ là uổng mạng đó! Các ngươi chết toi chẳng đáng kể gì nhưng làm tiếc lộ nhà thạch thất bí mật nàt thì tính mạng mấy chục người đây cũng bị giết lây vì tay một đứa thất phu như ngươi hay sao?

Bao Bất Đồng nói xỏ lại:

- Tiếng hắn nói đã lọt vào được. Có lý đâu hắn lại không biết chỗ mình ngồi đây hay sao? Ngươi đúng là "Con rùa" chỉ quen lẫn lút. Nhưng thế nào hắn chẳng tìm vào tới nơi dù muốn ẩn lánh cũng không được đâu!

Lão gãy đàn nói:

- Y có tìm ra ít nhất cũng mất ba khắc hay một giờ chưa chắc đã vào được. Mình lợi dụng thời gian để lo liệu kế phải hơn.

Gã xử búa vẫn nín thinh từ nảy, bây giờ mới lên tiếng mới xen vào:

- Tuy sư thúc bản lĩnh cao cường, nhưng muốn khám cơ quan dưới hầm này, ít ra cũng mất hai giờ, lại phải tìm cách tậân thiện cũng mất hai giờ nữa.

Lão gãy đàn hỏi:

- Cứ như lời hiền điệt nói thì chúng ta còn được những bốn giờ để tìm ra kế hoạch vững chảy phải không?

Gã xử búa đáp:

- Còn được bốn giờ rưỡi nữa.

Lão gãy đàn lại hỏi:

- Sao giờ lại thêm nửa giờ nữa!

Gã xử búa đáp:

- Trong vòng bốn giờ ta bố trí được thêm ba cơ quan và còn ngăn trở đối phương thêm nửa giờ nữa.

Gã gãy đàn nói:

- Vậy thì hay lắm! Huyền Nạn đại sư! Khi lão đại ma đầu mà tới đây, bọn sư huynh, sư đệ tại hạ quyết nhiên khó lòng trốn thoát độc thủ của lão. Còn các vị là người ngoài thì không lo lắm, vì lão đại ma đầu tới đây sẽ chuyên tâm để ý đối phó với bọn tôi mà thôi. Các vị có rất nhiều hy vọng trố ra được. Có điều tôi dặn các vị nên nhớ là đừng có giở trò anh hùng hảo hán tranh đấu với lão. Ai đã gặp tay Tinh Tú Lão Quái mà còn trốn tránh được toàn mạng là anh hùng hảo hán lắm rồi!

Bao Bất Đồng tự nhiên kêu lên:

- Thúi quá! Thúi quá!

Nghe y la hoảng như vậy mọi người hít hơi mạnh để ngửi xem mà chẳng thấy mùi chi hôi thối, đều có vẻ nghi ngờ, nhìn Bao Bất Đồng chòng chọc.

Bao Bất Đồng trỏ lão gãy đàn nói:

- Lão này thúi quá không ngửi được.

Y vừa bị lão gãy đàn ra một chiêu đã kiềm chế được mình, trong lòng rất căm phẫn. Bản tính y là con người quật cường không biết sợ trời sợ đất là gì. Nhưng y biết rõ bản lĩnh lão này giỏi hơn mình nhiều không thể địch lại. Bây giờ y vớ được cơ hội liền buông lời chửi đỏng.

Gã xử bàn cờ lườm Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi đã không thoát khỏi bàn tay đại sư huynh ta thì còn nói gì đến chuyện đối phó với sư thúc ta. Bản lĩnh lão còn hơn gấp mười đại sư huynh ta. Vậy thì đứa nào thúi miệng?

Đặng Bách Xuyên nghĩ thầm: Ngươì này nói rất có lý mà Bao tam đệ nhà mình chuyên nói bướng hoài làm mất cả thời giờ quý báu:

- Lai lịch các vị tại hạ chưa được nghe qua nên vừa rồi có sự hiểu lầm làm bị thương nương tử đây. Tại hạ rất lấy làm ái náy. Bây giờ như người một nhà. Có điều lúc nữa cường địch vào đây thì bọn thủ hạ dưới trướng Cô Tô Mộ Dung chúng tôi đây quyết không chịu trốn tránh. Nếu cường địch ghê gớm quá mình không chống lại được thì chịu chết cả với nhau là xong.

Huyền Nạn gọi:

- Tuệ Kinh! Tuệ Thụ! Khinh công hai người đã khá. Nếu có cơ hội thì các ngươi phải ráng tìm cách trốn thoát chạy về chùa Thiếu Lâm báo tin lên phương trượng sư bá hay, đừng để cho loài yêu quái giết một mẻ hết sạch, thậm chí đến nỗi không có người đưa tin về chùa.

Hai nhà sư Tuệ Kinh Tuệ Thụ chắp tay bẩm:

- Bọn tiểu đệ xin tuân pháp chỉ của sư bá.

Lão gãy đàn cùng bọn Đặng Bách Xuyên nghe Huyền Nạn nói phải biết rằng nhà sư đã quyết liều chết chống đối với Tinh Tú lão ma. Sở dĩ nhà sư sai Tuệ Kinh Tuệ Thụ đi báo tin là để cho chùa Thiếu Lâm biết kẻ thù là ai đặng sau này có ngày báo thù rửa hận.

Lão gãy đàn ngẩn ngơ một hồi đột nhiên vỗ tay cười nói:

- Hết thảy mọi người đều muốn chết, thì A Bích có trúng độc cũng đến chết là cùng. Ta còn thương tâm nổi gì? Hỡi ôi! Ở đời có người bảo Khang Quảng Lăng này là một lão gan toẹt. Trước nay ta vẫn tức mãi, nhưng giờ xem ra thì dẫu mình chẳng gan toẹt cũng là hạng dỡ hơi.

Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi đúng là đồ tồi, đồ gàn toẹt, đồ ngu xuẩn!

Lão gãy đàn tức Khang Quảng Lăng cả giận nói:

- Ta gan cũng chưa bằng ngươi.

Bao Bất Đồng cãi:

- Ngươi gàn gấp mười ta.

Khang Quẳng Lăng quắc mắt lên nói:

- Mi còn gàn bằng vạn ta.

Bao Bất Đồng không chịu thua cũng lớn tiếng:

- Ngươi gàn gấp mười vạn lần, trăm vạn lần, ngàn vạn lần, vạn vạn lần...!

Thần Y Tiết Mộ Hoa nói:

- Thôi hai vị đừng tranh hơi cãi nhau một cách vô vị nữa. Tuệ Kinh, Tuệ Thụ hai vị sư huynh về chùa Thiếu Lâm, nếu phương trượng đại sư có hỏi đến tiền nhân hậu quả, tại hạ e rằng hai vị không biết đường mà trả lời. Việc này chẳng qua là một điều bỉ ổi trong bản phái chúng tôi, lẽ ra không nên nói với người ngoài. Nhưng nói về việc trừ diệt mối đại họa cho các bạn võ lâm mà không được những vị cao tăng chùa Thiếu Lâm chủ trương đại cuộc thì khó bề thành công được. Tại hạ xin nói rõ là rất mong hai vị chỉ bẩm vụ này riêng với một mình phương trượng quý tự mà thôi, đừng tiết lộ cho người khác biết.

Tiết Mộ Hoa quay lại bảo Khang Quảng Lăng:

- Đại sư huynh! Tiểu đệ muốn đem đầu đuôi vụ này nói rõ cho các đại sư hay.

Khang Quảng Lăng tuy bậc huynh trưởng mấy người kia, bản lãnh cũng là hay hơn hết, nhưng lại kém về quyết đáp mọi việc. Sở dĩ Tiết Mộ Hoa hỏi qua một tiếng như vậy là cốt giữ thể diện cho y trước mặt người ngoài.

Khang Quảng Lăng không hiểu ý Tiết Mộ Hoa, nói ngay:

- Lão ngũ nói gì mà kỳ vậy? Ngươi có miệng lưỡi muốn nói gì thì nói, hà tất phải hỏi ta?

Tiết Mộ Hoa nói:

- Huyền Nạn đại sư! Đặng sư phụ! Vị ân sư mà chúng tôi theo nghiệp, anh em võ lâm kêu bằng Thông Biện tiên sinh!...

Huyền Nạn cùng Đặng Bách Xuyên sửng sốt đồng thanh hỏi:

- Sao?

Hồi Thứ 59

Tiết Thần Y kể chuyện đồng môn

Nguyên Thông Biện tiên sinh tức là Lung Ác lão nhân (ông già câm điếc) tai lão điếc lòi, miệng lão câm đặc, lão lấy danh hiệu là Thông Biện tiên sinh. Bọn đồ đệ trong môn phái lão đều bị lão chọc thủng lá nhỉ cho điếc, cắt đầu lưỡi cho câm. Chuyện này trên chốn giang hồ ai cũng biết rõ. Đã là đệ tử lão quyết không có một người nào là không câm điếc. Thế mà bọn Khang Quảng Lăng ai cũng tinh mắt tai thính nói năng hoạt bát hơn cả người thường nhiều nên mọi người rất lấy làm kỳ!

Tiết Mộ Hoa nói:

- Các đệ tử dưới trướng gia sư thảy đều câm điếc nhưng chỉ những người nhập môn sau trong vòng ba mươi năm nay mà thôi, còn trước kia gia sư không điếc mà cũng không câm. Số là gia sư bị sư đệ người là Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu khiêu khích mà biến thành câm điếc.

Bọn Huyền Nạn bấy giờ mới vỡ lẽ đồng thanh nói:

- À ra thế đấy.

Tiết Mộ Hoa lại nói:

- Tổ sư tại hạ thu nạp hai vị đồ đệ: Đại đệ tử họ Tô tên gọi Tinh Hà. Vị này là gia sư. Nhị đệ là Đinh Xuân Thu. Ban đầu võ công cả hai vị xuýt soát nhau. Nhưng về sau thì có kẻ hơn người kém.

Bao Bất Đồng nói xen vào:

- Hà hà! Nhất định sư thúc tiên sinh là Đinh Xuân Thu bản lãnh giỏi hơn sư phụ tiên sinh rồi. Điều đó tiên sinh chả cần nói chúng tôi cũng đã biết.

Tiết Mộ Hoa nói:

- Nói đúng ra thì không phải vậy. Nguyên tổ sư tại hạ học hỏi cả về trên trời cho đến nhân gian. Sở học của người thật là bao la bát ngát...

Bao Bất Đồng nói:

- Tiên sinh nói thì chúng tôi cũng biết vậy thôi, chứ chẳng lấy gì làm tang chứng là lão học rộng.

Tiết Mộ Hoa biết tính Bao Bất Đồng là hay bắt bẽ bài báo nên lão không cãi lẽ với y, lão liền kể tiếp:

- Ban đầu sư phụ tại hạ cùng Đinh Xuân Thu đều học chuyên về võ công. Nhưng về sau sư phụ tại hạ phân tâm học thêm ngón đàn của tổ sư nữa.

Bao Bất Đồng nhìn Khang Quảng Lăng nói:

- Ha ha! Té ra tiếng đàn của Khang tiên sinh học được ở quỷ môn tà đạo.

Tiết Mộ Hoa nói:

- Giả tỉ sư phụ tại hạ chỉ học thêm ngón đàn nữa thì cũng không có gì đáng ngại lắm. Nhưng tổ sư tại hạ học rộng đủ thứ cầm kỳ thi họa, bốc tướng số cùng các công nghệ tạp nhạp, chẳng món gì là không biết, chẳng nghề nào là không tinh. Sư phụ tại hạ bắt đầu học đánh đàn chẳng bao lâu lại học đến đánh cờ, rồi quay ra học thủ pháp (phép viết chữ) cùng hội họa. Các vị thử tưởng xem: Những môn học này môn nào chả tốn phí rất nhiều tâm lực cùng ngày giờ?

Ngừng một lát Tiết Mộ Hoa lại kể tiếp: Lúc ban đầu Đinh Xuân Thu cũng giả vờ học tập môn ngoại lệ đó, nhưng môn nào y cũng chỉ học mười ngày hoặc nửa tháng rồi nói thoái thát là ngu độn không thể học được và bảo chỉ chuyên tâm về võ công mà thôi. Tình trạng này kéo dài mãi đến tám năm, mười năm rốt cuộc thời gian càng lâu thì võ công hai vị sư huynh, sư đệ càng phân rõ cao thấp.

Huyền Nạn đại sư gật đầu nói:

- Nguyên một môn đàn cùng đánh cờ cũng đã hao tổn đến nửa phần tĩnh lực của con người rồi còn gì. Thế mà Thông Biện tiên sinh kiêm thông được bấy nhiêu thứ thì quả là hiếm có. Còn Đinh Xuân Thu chỉ nhất tâm chuyên về võ công nên lão có bản lãnh trội hơn sư huynh cũng chẳng lấy chi làm kỳ.

Khang Quảng Lăng nói:

- Lão ngũ! Còn có một điều rất khẩn yếu, sao không nói ra? Kể nốt đi! Mau lên!

Tiết Mộ Hoa nói:

- Đinh Xuân Thu chỉ chuyên vào môn võ học cũng là một chuyện hay. Nhưng mà... Hỡi ôi! Chuyện này nói ra là vạch áo cho người xem lưng chẳng tốt đẹp gì cho sư môn. Tóm tắt là Đinh Xuân Thu còn chuyên đi học những thủ đoạn đê hèn của mấy môn tà phép cực kỳ lợi hại của mấy phái bỉ ổi. Thế rồi đột nhiên lão quay về đánh tổ sư tại hạ đến bị trọng thương. Lão cố ý muốn giết tổ sư song tổ sư tại hạ là một bậc kỳ nhân, bản lãnh hơn người dù người không kịp đề phòng, bị đệ tử đánh bất ngờ cướp mất thượng phong song Đinh Xuân Thu muốn hạ sát không phải chuyện dễ.

Ngừng một lát Tiết Mộ Hoa kể tiếp:

- Đinh Xuân Thu đánh tổ sư bị trọng thương rồi. Tổ sư phải vất vả lắm mới chống đỡ được. Cũng may là sư phụ tại hạ đến cứu kịp thời.

Nhưng lúc Đinh Xuân Thu khởi sự, lão đã bố trí rất cẩn mật huống chi sư phụ tại hạ bản lãnh không bằng lão. Sau một lúc ác chiến sư phụ tại hạ cũng bị thương còn tổ sư lăn xuống vượt thẳm không hiểu sống chết thế nào?

Ngừng một lát như nén xúc động Tiết Mộ Hoa lại nói:

- Sư phụ tại hạ vì tham học nhiều môn quá mà chểnh mãng võ công. Nhưng những môn khác kể ra cũng không hoàn toàn vô dụng. Gặp lúc nguy nan đó, sư phụ tại hạ lại giở thuật ngũ hành bát quái cùng kỳ môn độn giác dùng cát đá làm loạn tai mắt Đinh Xuân Thu rồi trốn thoát được.

Tiết Mộ Hoa ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp:

- Đinh Xuân Thu lại lừa bịp sư phụ tại hạ: Nếu đừng mở miệng nói một câu gì nữa thì về sau lão không tìm đến rửa hận nữa. Hồi đó dưới trướng sư phụ tại hạ có thảy tám người chúng tôi là đệ tử chưa thành tài. Gia sư viết giấy giải tán chúng tôi không nhận làm độ đệ nữa. Từ đó quả nhiên người giả vờ làm câm làm điếc không nói gì nữa và ai nói gì cũng không nghe. Về sau gia sư có thu nạp đệ tử nhưng đều chọc tai cắt lưỡi hết để lập ra một môn phái riêng là tên là "Lung Á Môn." Chắc sư phụ chúng tôi cũng hối hận về chuyện mình đã phân tâm đi học những nghề tạp nhạp khác để đến nỗi võ công không bằng Đinh Xuân Thu. Sau khi câm điếc dĩ nhiên bao nhiêu môn tạp nhạp đều bỏ hết.

Tiết Mộ Hoa thở dài rồi kể tiếp:

- Bọn sư huynh, sư đệ chúng tôi tám người khi còn thụ nghiệp ân sư thì ngoài việc luyện võ, mỗi người đều học thêm một môn khác nữa. Đây là nói về trước khi Đinh Xuân Thu phản thầy, gia sư chưa trông rõ cái hại lớn về chuyện phân tâm đi học những môn khác. Chẳng những người không ngăn cấm lại còn khuyến khích võ gia công chỉ điểm cho Khang Quảng Lăng là đại sư huynh bắt đầu học ngón đàn.

Tiết Mộ Hoa lại trỏ gã sử dụng bàn cờ nói:

- Nhị sư huynh là Phạm Bách Linh đây thì học đánh cờ vây, và đã trở thành một tay quốc thủ vô địch. Hiện nay y là tay kỳ thủ giỏi nhất thiên hạ.

Bao Bất Đồng đảo mắt ngó Phạm Bách Linh rồi nói:

- Không trách tiên sinh dùng bàn cờ làm binh khí. Có điều bàn cờ của tiên sinh lại đúc bằng thứ thép có chất nam châm chuyên môn dùng để hút binh khí của người ta. Như vậy tưởng cũng chỉ là thứ khôn vặt, không phải hành vi của bậc chính nhân quân tử.

Phạm Bách Linh cãi:

- Về thuật đánh cờ có thế trân đường hoàng, có binh tướng hẳn hoi, nó chỉ diệu ở chỗ kỳ bí, nên không cấm kỳ những cơ mưu thần bí giả tà như phép dùng binh vậy...

Tiết Mộ Hoa cũng nói hùa theo:

- Cái bàn cờ của Phạm nhị ca sở dĩ đúc bằng thép có nam châm, nguyên là để áp dụng vào thuật đánh cờ. Sau một thời gian nguyên cứu rồi là bất luận là đang đi đường hay nằm ngồi, đột nhiên y tưởng đến một thế cờ, là bày quân đen, quân trắng ra bàn cờ có chất nam châm. Con cờ đúc bằng sắt thì dù là đang xe hay đi ngựa, chuyển động mạnh cũng không rơi mất quân cờ vì đá nam châm hút sắt chặt vào đấy. Tiến thêm một bước nữa, y thấy dùng bàn cờ làm binh khí lại càng thuận tiện. Lúc mãi nghĩ nước cờ để làm ám khí thì thật tiện cả mọi bề. Thực ra không phải bản tâm đúc bàn cờ để chiếm đoạt tiện nghi của người khác.

Bao Bất Đồng là người có tư tưởng kỳ khôi. Y nghe câu chuyện này lấy làm thú vị và trong lòng cũng rất đồng tình nhưng ngoài miệng vẫn bài bác y nói:

- Về vụ này lý lẽ vẫn chua xuôi thật là lời biện bác miễn cưỡng Phạm lão nhị bản lãnh đã cao cường lại như vậy. Nếu lão nhị dùng bàn cờ gỗ rồi lấy quân cờ sắt chỉ sâu xuống khác nào người khảm quân vào bàn cờ thì quân cờ còn rớt ra thế nào được.

Tiết Mộ Hoa nói:

- Làm như vậy không tiện bằng bàn sắt quân sắt.

Rồi lão lại kể tiếp:

- Tam sư huynh! Tại hạ là Tuân Tản Tinh thích đọc sách. Bách gia chu tử không sách nào là không qua mắt thật là một vị túc nho học vấn rất uyên thâm, tưởng các vị cũng đã biết rồi.

Bao Bất Đồng nhớ đến câu chuyện Gia Cát thiện chiến quần nho ở Đông Ngô, liền nói móc:

- Cái nho của kẻ tiểu có chi là đáng kể.

Tuân Tản tức giận hỏi:

- Sao? Ngươi bảo ta hạng nho sinh tiểu nhân. Chẳng lẽ ngươi tự nhận là nho quân tử ư?

Bao Bất Đồng nói:

- Tại hạ không dám đâu, không dám đâu?

Tiết Mộ Hoa sợ hai người đi đến chỗ cải lý thì e rằng đến ba ngày ba đêm cũng không xong, liền cắt ngang câu chuyện. Lão trỏ gã xử phán quan bút nói:

- Vị này là tứ sư huynh tại hạ, một tay nho nhã ung dung, chuyên về hội họa, thích du sơn ngoạn thủy, nghiên cứu rất tinh vi các thứ hoa cỏ. Y họ Ngô, trước khi nhập môn đã làm đến chức tướng quân tại triều đình nhà Đại Tống. Vì vậy mà mọi người kêu y bằng Ngô Lãnh Quân.

Bao Bất Đồng nói:

- Chỉ sợ lãnh quân là đánh đâu thua đấy. Còn môn hội họa của y thì e rằng vẽ người chẳng ra người, quỷ chẳng ra quỷ!

Tiết Mộ Hoa nói:

- Bao tiên sinh lại nói giỡn rồi! Tại hạ đứng hàng thứ năm học về nghề thuốc, kể cũng có chút hư danh trên chốn giang hồ nên không bao giờ quên được ơn nghĩa sư phụ truyền dạy cho mình.

Bao Bất Đồng liền chặn họng ngay:

- Cảm mạo phong hàn mà bị ho hắng thì tiên sinh còn gắng gượng chữa được. Tại hạ vừa trúng phải chứng hàn độc đã đành chịu bó tay. Thế tiên sinh chỉ xứng với câu: "Bệnh nặng chữa không nổi, bệnh nhẹ chữa không chết!" Ha há! Cái ngoại hiệu "Thần Y" quả nhiên danh bất hư truyền.

Khang Quảng Lăng vuốt chòm râu dài, ngước mắt lên nhìn rồi nói:

- Lão huynh đây có tính kỳ cục, quả nhiên đặc biệt khác người.

Bao Bất Đồng cười ha hả nói:

- Tại hạ họ Bao tên gọi Bất Đồng, dĩ nhiên không giống người ta được.

Khang Quảng Lăng cười ha hả nói:

- Có phải tiên sinh đúng họ Bao và thực tên là Bất Đồng không?

Bao Bất Đồng đáp:

- Chẳng lẽ cái đó giả được nữa sao? Chà cha! Lão huynh này chuyên về chế tạo các cơ quan. Đại khái lão huynh tinh thông về cái học công nghệ cùng thổ mộc và hẳn là đồ đệ Lỗ Ban tiên sư?

Tiết Mộ Hoa:

- Chính thị! Lục sư đệ tại hạ là Trương A Tam nguyên là tay thợ thuyền xuất thân. Trước khi nhập môn học võ đã là một tay thợ khéo tuyệt. Sau đến thụ nghiệp gia sư, nghề thợ đã khéo lại càng khéo thêm. Thất sư Muội tai hạ họ Thạch. Nàng rất tinh về các hoa cỏ. Bao nhiêu kỳ hoa dị thảo trong thiên hạ nàng đều trồng qua, mà thứ gì nàng trồng tỉa cũng tốt tươi...

Đặng Bách Xuyên nói:

- Thạch cô nương dùng dược vật làm cho tại hạ mê đi té xỉu, chắc dược vật đó cô nương chỉ lấy ở phấn hoa mà thôi, chứ không có chất độc?

Cô họ Thạch tên gọi Thanh Lộ người rất xinh đẹp, tủm tỉm cười nói:

- Mới rồi tôi có đắc tội với Đặng lão gia, mong được lão gia tha thứ cho.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Tại hạ là người lỗ mãng, cũng xin cô nương lượng cả bao dung.

Tiết Mộ Hoa lại trỏ đến anh hề, hễ mở miệng là lớn tiếng hát, nói:

- Bát đệ tại hạ đây là Lý Quỷ Lổi suốt đời thíùch nghề vẻ mặt diễn trò, dở điên dở dại, về đường võ học y không khỏi chểnh mảng.

Lý Quỷ Lổi đang nằm lăn dưới đất đột nhiên lên tiếng:

- Tài kiêu dũng quần hùng khiếp vía. Tôn Úc chính thị cô vương. Chẳng thích giang sơn thích điên cuồng cho phỉ chí con người tuấn kiệt...

Tiết Mộ Hoa nói:

- Bọn sư huynh đệ chúng tôi tám người tuy bị ra khỏi cửa nhưng đâu dám quên công sư phụ đã rèn luyện bấy lâu. Chúng tôi tự mệnh danh "Hàm cốc bát bửu" để kỷ niệm ơn đức ngày trước sư phụ truyền nghệ cho mình tại ải Hàm Cốc. Người ngoài chỉ cho rằng chúng tôi thanh khí tương cầu, chứ có biết đâu rằng chúng tôi quả là sư huynh sư đệ. Chúng tôi vì phải đề phòng Tinh Tú Lão Quái trở lại Trung Nguyên chăng lưới một mẻ quét hết, nên năm năm mới hội họp một lần, còn bình thời tản đi mỗi người ở mỗi nơi. Vì thế mà A Bích cô nương đây đã được sư huynh tại hạ thu làm đồ đệ, mà mấy anh em chúng tôi chẳng ai biết gì. Không thì làm gì xảy ra sự hiểu lầm quý vị rồi, tranh đấu như bữa nay.

Bọn Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên nghe Tiết Mộ Hoa thuật chuyện lai lịch tám anh em xong, thì tấm lòng ngờ vực đã bớt đi một nửa.

Công Dã Càn nói:

- Tiết tiên sinh trá tử rồi bố trí thuốc độc bên trong quan tài phài chăng là đối phó Tinh Tú Lão Quái? Sao Tiết tiên sinh biết lão sắp đến đây?

- Về vụ này kể ra cũng kỳ! Trước hai hôm, tại hạ đang ngồi rỗi. Trong nhà đóng cửa thì đột nhiên bốn người cưỡi ngựa đến xin chữa thuốc. Chữa bệnh cứu người nguyên là phận sự của thầy lang chứ chẳng có chi khác thường. Nhưng lạ chỗ một bệnh nhân là một vị hòa thường béo chùn béo chụt, xương trước ngực cũng như gân cốt sau lưng bị gãy nát. cái thân thể tròn trặn biến thành con người vuông, tựa hồ như nhà sư này bị nhét vào trong quan tài đã chật cứng rồi bị gò ép theo cái khuôn vuông vặn của nó.

Huyền Nạn nói:

- Thật là mắc cỡ! Thật là mắc cỡ! Đó chính là Tam Tĩnh hòa thượng chùa Thiếu Lâm. Nhà sư này không giữ quy luật tu hành bị giam vào viện gới luật để sám hối. Người y to béo quá nên tòa thạch đình gò ép y biến thành hình thù như vậy. Ai đã đứa y đến đây để xin chữa thuốc?

Tiết Thần Y đáp:

- Y cùng đi với một bệnh nhân này càng kỳ dị hơn nữa. Đầu gã đội một cái lồng sắt...

Nghe tới đây Bao Bất Đồng cùng Phong Bá Ác đồng thời nhảy lên lớn tiếng chửi mắng:

- Mẹ nó! Đúng thằng lỏi đó rồi! Trời xuôi đất khiến cho gã mắc bệnh. Nhưng hiểu gã bị bệnh gì?

Tiết Thần Y đáp:

- Gã muốn tháo cái đầu sắt ra, nhưng tại hạ xem kỹ cái lồng này gã gắn liền vào đầu gã không thể lấy ra được.

Bao Bất Đồng vỗ tay nói:

- Ký tuyệt! Kỳ tuyệt! Chẳng lẽ cái đầu sắt đã có sẵn từ lúc gã còn là cái bào thai mới sinh ra đã như vậy rồi phải không?

Tiết Thần Y lắc đầu đáp:

- Không phải thế! Cái lồng sắt lúc chụp vào đầu gã hãy còn nung lên nóng bỏng làm cho da thịt gã nhũn ra. Đến khi huyết ngưng lại và những vết thương đóng thành sẹo, thì cái lồng dính liền vào đầu ót cùng mặt mũi gã, nên không tài nào tháo ra được nữa. Nếu cứ miễn cưỡng giật mạnh cái lồng sắt thì đờng thời lột luôn cả da mặt gã và mặt mũi không còn ra hình thù gì nữa.

Bao Bất Đồng lạnh lùng hỏi:

- Gã đã cầu tiên sinh tháo lồng sắt, sao tiên sinh không tháo ra cho gã. Dù ngũ quan cùng mặt mũi gã có bi lột đi hết, gã cũng không trách được tiên sinh kia mà?

Tiết Thần Y nói:

- Về cái bệnh co gân gãy xương của Tam Tĩnh hòa thượng thì chữa chẳng khó khăn gì. Nhưng chắc chùa Thiếu Lâm khi đã trừng phạt nhà sư, hẳn có phương pháp để chữa thương thế cho y, bất tất phải cần đến Tiết mổ ra tay. Nhưng còn gã đầu sắt kia thì không phải dễ dàng gì mà tháo ra được. Lúc tại hạ còn đang ngẫm nghĩ thì hai người bạn đưa gã đến phát cáu, lớn tiếng quát tháo, giục tại hạ phải ra tay lập tức. Tiết mổ bình sinh phải cái tật khó chịu la hễ ai muốn đến chữa thuốc trị bệnh phải có lời nói cử chỉ tử tế khẩn cầu, tại hạ mới chịu chữa. Bằng ai cậy thế áp bức thì tại hạ thà chịu chết dưới mũi đao lưỡi kiếm, quyết không khi nào chịu chữa. Tại hạ nhớ lại ngày ở Tụ Hiền Trang có cuộc anh hùng đại hội, gã Kiều Phong liều mình xông pha nơi hiểm nguy vạn tử nhất sinh đưa một vị tiểu cô nương đến cầu tại hạ chữa thuốc. Con người đó thật là dã man hung hăng đến cực điểm, nhưng y đã đến khẩn cầu tại hạ và nói năng rất mực lễ độ, tuyệt không dám hỗn xược chút nào.

Lão nói tới đây nhớ lại về sau bị mắc lừa A Châu để nàng điểm trúng huyệt đạo cắt mất cả râu ria, thật là một cái nhục lớn trong đời lão, nên lão im không nói nữa. Lúc này A Bích trúng độc mê man, tâm thần bất tỉnh. Nếu không thì khi nàng nghe nói tới Kiều Phong đưa một thiếu nữ tới cầu Tiết ThầnY chữa thuốc, nàng đã truy vấn rối rít để dò la tông tích A Châu rồi.

Bao Bất Đồng nói:

- Tiên sinh nói gì làm phách vậy? Bao mỗ trái lại có cái tính rất kỳ khôi là kẻ nào muốn được chữa bệnh cho Bao mỗ thì phải van xin nói ngọt, Bao mỗ mới để cho mà chữa. Bằng đối phương cậy thế áp chế thì thà rằng Bao mỗ đeo bệnh suốt đời hay chết đi còn hơn chứ quyết không để cho họ chữa.

Khang Quảng lăng cười ha hả nói:

- Bao tiên sinh làm như mình là một thứ bảo bối, người ta mất công trị bệnh cho tiên sinh mà lại phải hết lời năn nỉ, thì trừ khi là...

Bao Bất Đồng nói tiếp:

- Trừ khi người đó là con ta!

Khang Quảng Lăng tức quá ngẩn người ra nhưng trong lòng y lại nghĩ rằng:

- Gã nói thế cũng phải. Giả tỉ phụ thân mình mắc bệnh mà gàn dở không chịu uống thuốc thì mình chỉ còn cách năn nỉ ông già mà thôi.

Khang Quảng Lăng là người ưa lý luận, không ngờ lại bị Bao Bất Đồng nói xỏ liền đáp:

- Phải rồi! Nhưng ta không phải con ngươi.

Bao Bất Đồng nói:

- Ngươi có phải là con ta hay không điều đó chỉ có má ngươi mới biết rõ mà thôi, chứ ngươi biết thế nào được?

Khang Quảng lăng nghe Bao Bất Đồng nói xỏ tức quá run lên, nhưng rồi gật đầu nói:

- Quả đúng thế thật!

Bao Bất Đồng vổ tay cười ha hả, nghĩ thầm:

- Sư phụ lục Muội thật ngốc quá xá!

Công Dã Càn khỏi Tiết Thần Y:

- Tiết tiên sinh! Có phải hai người đó ăn nói vô lễ rồi bị tiên sinh cự tuyệt không chữa nữa chăng?

Tiết Thần Y gật đầu nói:

- Đúng thế! Lúc mỗ trả lời họ rằng: Tại hạ y thuật kém cỏi không chữa nổi, xin các vị đi kiếm người nào cao minh hơn mới xong. Gã đầu sắt thì đối với tại hạ thì rất mực khiêm cung! Gã nói: "Tiết tiên sinh! Y đạo của tiên sinh đã đến mức tuyệt vời khắp chốn giang hồ đã tặng tiên sinh cái ngoại hiệu Diêm Vương Địch. Biết bao nhiêu phải nhờ tiên sinh mới thoát chết. Người trong võ lâm ai mà chẳng kính phục? Gia phụ lại cùng tiên sinh có một mối liên kết sâu xa. Tiểu tử khẩn cầu tiên sinh mở lượng từ bi ra tay cứu vớt cho đứa con của người bạn cũ."

Mọi người chăm chú nghe muốn hiểu lai lịch gã đầu sắt Du Thản Chi, khi thấy Tiết Thần Y biểu gã tự xưng là con người bạn cũ lão nên đồng thanh hỏi:

- Phụ thân gã là ai?

Lý Quỷ Lổi thốt nhiên nói vào:

- Gã là con ai chỉ mình má gã là hiểu rõ mà thôi, chứ gã biết thế nào được?

Anh kép hát đã học lóm câu Bao Bất Đồng vừa nói để trả lời lại một cách rất buồn cười và đúng lúc. Bao Bất Đồng cười nói:

- Giỏi lắm! ngươi họa lóm lời ta mà giống như hệt. Ta e rằng người ngoài không thể học được mà phải kẻ thừa kế chân truyền của ta.

Tiết Thần Y tủm tỉm cười nói:

- Bát đệ! Bao tiên sinh đây ưa tính nói giỡn, bát đệ chẳng nên để vào lòng.

Lý Quỷ Lổi lại lên điệu hát võ:

- Trăm hiệu xưng Hoàng Đế,

Quyền hoa hạ vào taỵ

Muôn dân đội nước cao dày,

Trăm họ là con là cháu.

Gã đã tra đóng vai cố nhân, nên khi trong bụng nghĩ đến nhân vật nào là thốt ra lời đúng điệu nhân vật đó ngay lập tức. Bao Bất Đồng muốn nói xỏ gã là hàng đệ tử mình, gã liền đóng đức Hoàng đế là một vị vua tổ nước Trung Nguyên để xỏ lại.

Tiết Thần Y tiếp tục kể:

- Tại hạ nghe gã đầu sắt tự giới thiệu mình là con cố nhân, liền hỏi phụ thân gã là ai thì gã đáp: "Tiểu nhân gặp chuyện không may làm nhục đến tiền nhân, nên không dám nêu tên tuổi phụ thân ra. Có điều chắc chắn là tiên phụ ngày trước có mối thâm giao với tiên sinh. Việc này đúng cả trăm phần trăm. Tiểu nhân không bao giờ dám đem tiên phụ ra để gạt." Tại hạ nghe gã nói rất thành khẩn, quyết không phải chuyện bịa. Có điều tại hạ giao du rất rộng, bạn bè không biết bao nhiêu mà kể. Nghe gã nói thân phụ đã qua đời rồi, trong lúc bất ngờ tại hạ chưa đoán được thân phụ gã là ai.

Tiết Thần Y ngẫm nghĩ một lúc rồi kể tiếp:

- Lúc tại hạ còn đang trầm ngâm thì người cùng đi với gã nói ngay: "Theo pháp chỉ của sư phụ việc khẩn yếu đầu tiên phải chữa thương cho Tam Tinh hòa thượng. Còn gã đầu sắt này tháo lồng sắt ra hay không cũng chẳng can hệ gì." Tại hạ vừa nghe liền lộn ruột, liền hỏi lại: "Tôn sư là ai? Pháp chỉ của ngươi chỉ ràng buộc người chứ ràng buộc ta thế nào được?" Bộ mặt gã này rất hung dữ gã nói: "Nếu ta nói tên ra thì lại e rằng ngươi phải sợ vỡ mật. Người dặn ta bảo ngươi phải chữa thương cho vị hòa thượng này ngay lập tức. Nếu ngươi cố ý trùng trình làm lỡ việc của người thì lập tức cho ngươi xuống chầu Diêm Vương."

Ngừng một lão tiếp:

- Ban đầu tại nghe y nói hổn xược thì căm giận vô cùng. Nhưng sau thấy thanh âm gã quen tai, dường như giọng nói của người Hồ cõi Tây Vực. Tại hạ coi kỹ lại tướng mạo gã thấy tóc quăn, mắt sâu hoẵm không giống người Trung Nguyên ta. Tại hạ chợt nhớ ra một người, liền hỏi: "Phải chăng ngươi ở Tinh Tú Hải đến đây?" Người đó lập tức biến sắc nói: Hừ! Nhãn quang ngươi thật nhìn nhận không lầm. Đúng ta ở Tinh Tú Hải đến đây. Ngươi đã đoán trúng vậy phải tận tâm kiệt lực chữa mau đi!"

Lão ngẩng mặt nhìn lên rồi kể tiếp:

- Tại hạ thấy gã tự nhận là Tinh Tú Lão Quái thì nghĩ thầm: "Mối thù sâu cay môn phái lẽ nào không báo." Tại hạ liền giả bộ khiếp sợ hỏi lại gã: "Lâu nay tại hạ vẫn ngưỡng mộ thần thông quảng đại của Đinh lão tiên ở Tinh Tú Hải, đem lòng kính ngưỡng vô cùng. Tại hạ giận mình vô duyên không được bái kiến, chẳng hiểu lão tiên có đến Trung Nguyên không?"

Bao Bất Đồng ngắt lời:

- Lêu Lêu! Tiên sinh kêu lão bằng Tinh Tú Lão Quái hay Tinh Tú Lão Ma thì phải hơn. Sao lại cam chịu hạ mình kêu lão bằng "lão tiên." Nhục nhã ôi nhục nhã!

Đặng Bách Xuyên vội giảng hòa:

- Tam đệ! Đây là Tiết tiên sinh cố ý trịnh trọng để dọ thám mà thôi. Khi người ta cân dò la cho hiểu rõ những điều mình chưa biết thì tất nhiên phải xưng hô cho họ vừa lòng, nên tiên sinh kêu bằng "lão tiên" là phải.

Bao Bất Đồng cãi:

- Cái đó tiểu đệ đã biết rồi! Nhưng nếu tiểu đệ có dò la thì lại kêu lão bằng "lão yêu" hay "lão tặc" để khiêu khích cho gã nổi hung gầm thét lên như sấm. Tất rồi lòi đuôi.

Tiết Thần Y nói:

- Lão tiên sinh nói rất có lý. Tại hạ không quen lừa bịp, miệng kêu bằng "Lão tiên" mà không dấu được vẻ bất bình. Gã yêu nhân kia là tay giảo quyệt, vừa thấy thế gã đã đem lòng ngờ vực vươn tay ra nắm lấy huyệt mạch môn của tại hạ rồi quát hỏi: "Ngươi dò la hành tung sư phụ ta là có ý gì?" Tại hạ thấy sự tình bại lộ, liền xoay tay phóng chỉ điểm vào tử huyệt là gã chết ngay.

Ngừng một lát Tiết Thần Y kể tiếp:

- Gã yêu nhân thứ hai móc trong bọc ra một lưỡi đao trủy thủy đâm tại hạ. Trong tay tại hạ đã không có khí giới mà võ công gã yêu nhân lại không vừa. Lúc đó tại hạ bị nguy cấp thì gã đầu sắt đột nhiên vươn tay ra đoạt lấy lưỡi đao trủy thủy nói: "Sư phụ biểu chúng ta đến đây để xin chữa thuốc chứ có biểu đến đây giết người đâu?" Gã yêu nhân tức mình nói: "Thập nhị sư đệ bị y giết chết đó ngươi không thấy hay sao? Ngươi... ngươi... là con cố nhân của y, nên bây giờ về hùa với ngươi ngoài." Gã đầu sắt lại nói: "Ngươi giết chết Thần Y đây thì mặc kệ ngươi. Nhưng còn nhà sư béo chùn béo chụt này không chữa được khỏi để lão chết thì lấy ai dẫn đường đi tìm băng tằm? Bấy giờ sư phụ sẽ hỏi tội ngươi đó!"

Bao Bất Đồng hỏi xen vào:

- Gã đầu sắt cũng là đệ tử Tinh Tú Lão Quái. Bọn chúng yêu cầu Tam Tĩnh hòa thượng dẫn đường đi tìm băng tằm là cái khỉ gì vậy?

Tiết Thần Y đáp:

- Tại hạ cũng nghe nói vậy thôi, còn cứu cánh ra sao cũng không biết. Tại hạ thừa cơ lúc hai gã cãi nhau, liền lấy khí giới cầm tay. Gã yêu nhân kia nhận thấy giết tại hạ cũng chẳng dễ dàng gì, lại nghĩ tới gã đầu sắt nói cũng không phải là vô lý. Gã liền bảo gã đầu sắt: "Đã thế thì ngươi bắt lão y sinh quỷ quái này dẫn đi yết kiến sư phụ."

Tiết Thần Y hăng giọng kể tiếp:

- Gã đầu sắt nói: "Được lắm!" Rồi gã xoay tay phóng chưởng ra trúng ngực gã kia chết ngay lập tức!

Mọi người nghe Tiết Thần Y kể đến đây sửng sốt la lên một tiếng:

- Ủa!

Bao Bất Đồng nói:

- Cái đó có chi là lạ? Gã đầu sắt có việc cần đến tiên sinh nên gã đánh bạn đồng môn để tâng công tiên sinh chớ có gì đâu?

Tiết Mộ Hoa thở dài nói:

- Trong lúc thảng thốt tại hạ cũng không hiểu rõ chân tâm gã vì tình nghĩa tại hạ là chỗ chí thân với tiên phụ gã, hay vì muốn làm công làm cán với tại hạ. Tại hạ đang định hỏi lại cho biết, bất thình lình xa xa có tiếng hú vọng lại. Gã đầu sắt nhớn nhác nói: "Sư phụ tiểu nhân thúc giục tiểu nhân phải về ngay. Tiết bá phụ nên đem chữa thương cho nhà sư béo này khỏi đi. Sư phụ tại hạ vui lòng may ra người bỏ qua việc giết đến hai tên đồ đệ không nghĩ đến chuyện báo thù nữa." Nói xong gã lật đật đi ngay, để nhà sư béo ở lại.

Huyền Nạn đại sư nói:

- Hiện giờ để ngịch đồ Tam Tĩnh ở đâu?

Tiết Mộ Hoa trỏ vào gốc động đáp:

- Y nằm điều dưỡng trong đó. Chỉ chừng nửa tháng nữa là khỏi hẳn.

Huyền Nạn nói:

- Tiết tiên sinh bố trí cái quan tài để đó, phải chăng là để đối phó với lệnh sư thúc?

Tiết Mộ Hoa nói:

- Đúng thế! Tinh Tú lão tặc đã đến Trung Nguyên. Lão lại có hai tên đệ tử bị chết trong nhà tại hạ. Sớm muộn thế nào gã cũng tìm đến đây. Gã đầu sắt dù có muốn dối trá tử và vấn thuốc độc trong quan tài với hy vọng lừa lão vào bẫy. Cả già trẻ lớn bé trong nhà tại hạ ẩn nấp trong huyệt động này vừa được hai ngày thì ngẫu nhiên gặp kỳ họp mặt trong hạn năm năm của tám anh em đồng môn chúng tôi. Mọi người còn tụ tập khu phu cận ải Hàm Cốc thì liệt vị vừa kéo đến nhà. Người lão bộc tại hạ tuy tính nết rất trung thành, nhưng rất đỗi ngu ngốc. Lão tưởng lầm các vị là bọn đối đầu ghê gớm kia tới...

Bao Bất Đồng cười khanh khách ngắt lời:

- Ha ha! Chắc lão bộc tưởng Huyền Nạn đại sư là Tinh Tú Lão Quái! Còn chúng tôi là đồ tử đồ tôn lão. Bạn đồng hành với lão mỗ người ngợm và tính nết đều kỳ dị, bảo là bọn tiểu yêu phái Tinh Tú còn có lý giống được phần nào, chứ Huyền Nạn đại sư là một nhân vật thanh nhã hiền hòa, đạo khí lồ lộ mà nhận lầm là Tinh Tú Lão Quái hóa chẳng ra hỗn xược quá ư?

Mọi người nghe nói đều cười ồ. Tiết Thần Y cũng cười nói:

- Cái lầm đó quả đáng đánh đòn. Lão bộc lúc nào cũng nơm nớp lo sợ toàn gia tại hạ mắc phải độc thủ Tinh Tú Lão Quái, lão hốt hoảng quá quên cả lời tại hạ dặn dò cặn kẻ, đốt ngay lưu tinh hỏa pháo liền để báo tin cho các bạn đồng môn.

Ngừng một lát Tiết Thần Y lại kể tiếp:

- Thứ lưu tinh hỏa pháo này do lục sư đệ tại hạ chế ra một cách rất khôn khéo. Hễ đốt hỏa pháo lên, ánh sáng tỏa ra đến mấy dặm. Bọn anh em đồng môn chúng tôi tám người, mỗi người dùng một thứ Lưu tinh hỏa pháo khác nhau đôi chút để dễ phân biệt, cứ trông thấy hiệu hỏa pháo là biết ngay người nào đã đến. Kể ra thứ lưu tinh hỏa pháo này có lợi mà cũng có hại. Lợi ở chỗ bọn "Hàm cốc bát hữu" chúng tôi mỗi khi gặp cơn nguy biến có thể báo tin cho nhau đến tụ hội một chỗ đồng tâm hiệp lực kháng địch. Nhưng trong trường hợp này chẳng hạn, lại khiến cho Tinh Tú Lão Quái biết mà quét sạch thì đó lại là một điều rất tai hại.

Bao Bất Đồng nói:

- Bản lãnh Tinh Tú lão quái dù lợi hại đến đâu vị tất đã hơn được Huyền Nạn đại sư, một vị cao tăng chùa Thiếu Lâm, hơn nữa còn bọn ta là một đám quân "tôm, cua" khá đông đứng ngoài reo hò trợ giúp, nếu muốn sống mái một trận, hồ dễ đã biết ai thắng ai bạỉ Sao phải... phải...

Gã chưa nói hết thì hai hàm răng run cầm cập chạm vào nhau canh cách. Chừng độc trong người gã đã lên cơn không nói hết được nữa. Lý Quỷ Lổi lại cất giọng làm tuồng:

- Mỗ Kinh Kha chính thị,

Sang thích khách Tần Hoàng.

Ngọn gió heo thổi buốt can trường,

Khiến tráng sĩ khôn đường mở miệng.

Bất thình lình một bóng người từ dưới đất bật tung lên hất đầu vào ngự Lý Quỷ Lổi. Lý Quỷ Lổi rú lên một tiếng.

- Ui chao!

Rồi ngã ngửa về sau. Người kia tóm lấy gã đánh đấm túi bụi. Mọi người nhìn lại chính là Nhất trận Phong Bá Ác. Đặng Bách Xuyên vội chạy lại can:

- Tứ đệ không được lỗ mãng!

Rồi vươn tay kéo Phong Bá Ác ra. Giữa lúc ấy một âm thanh nhỏ li ti truyền vào trong sơn động:

- Bọn đồ tử đồ tôn Tô Tinh Hà! Mau mau ra đầu hàng hoặc giả còn có thể bảo toàn tính mạng! Nến còn trùng trình không chịu ra ngay thì đừng trách lão gia không đếm xỉa đến tình nghĩa đồng môn nữa!

Khang Quảng Lăng nói:

- Chà chà! Lão mặt dày còn nói đến tình nghĩa đồng môn nữa ư?

Lão nhị Phạm Bách Linh là kẻ thâm mưu nói:

- Lục đệ! Nếu chúng ta cứ mặc kệ lão liệu lão có đánh vào đây được không?

Trương A Tam không đáp lời Phạm Bách Linh quay sang hỏi Tiết Mộ Hoa:

- Ngũ ca! Những phiến đá vân gỗ trong động này dường như biến trúc đã ba năm nay, không biết do tay thợ nào mà khéo thế?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Đây là cơ nghiệp tổ tiên truyền lại cho để xây sơn động này để làm nơi lánh nạn khi cần. Không hiểu ai đã xây nên?

Khang Quảng Lăng nói:

- Hay lắm! Lão ngũ đã có cá i"động rùa" này mà vẫn giữ được bí mật, không ai thông tỏ ngõ đàng thì tuyệt quá!

Tiết Mộ Hoa ra chiều bẽn lẽn nói:

- Đại ca lượng cho! Cái hầm này chẳng vẻ vang gì xin miễn nói đến nữa...!

Chưa dứt lời bỗng nghe đánh sầm một tiếng rung chiếm cả nhà hầm. Dưới chân mọi người đều cảm thấy mặt đất rung động không ngừng.

Trương A Tam cả kinh thất sắc nói:

- Nguy đến nơi rồi! Đinh lão quái dùng thuốc nổ phá hầm thì chỉ trong chốc lát là tấn công vào đây.

Khang Quảng Lăng tức mình nói:

- Thực là quân hèn hạ quân vô sỉ đến cùng cực! Tổ sư cùng sư phụ tại hạ chuyên về môn học thổ mộc. Những cơ quan biến hóa này là bản lãnh của bản môn thế mà Tinh Tú Lão Quái khhông thay đổi lòng dạ đem chất nổ đem phá vỡ cơ quan. Vậy thì còn xứng đáng bản môn thế nào được?

Bao Bất Đồng nói:

- Lão đã giết sư phụ, đánh sư phụ bị thương chẳng lẽ tiên sinh còn nhìn nhận lão làm sư thúc nữa hay saọa.

Khang Quảng Lăng chưa kịp trả lời đột nhiên lại nghe một tiếng nổ vang trời. Trong động cát bụi bay mịt mù khiến cho mọi người không mở mắt ra được. Sơn động cửa đóng kín không có lối thông hơi. Sức rung động quá mạnh không khí dạt dào mọi người cảm thấy lá nhĩ đau nhói lên.

Huyền Nạn nói:

- Nếu để Lão dùng chất nổ phá hầm đánh ùa vào thì thà rằng chúng ta ra đi còn hơn.

Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Bá Ác bốn người đều khen phải. Bọn Tiết Mộ Hoa biết Huyền Nạn là một vị cao tăng nhà chùa Thiếu Lâm mà phải chui rúc ở trong địa huyệt để trốn tránh địch nhân là một việc rất tổn thương đến oai danh tông phái. Nhưng cuộc chiến đấu một sống một chết này, xét cho cùng thì ẩn nấp trong hầm cũng không yên được liền nói:

- Phải đó! Chúng ta ra hết để cùng lão quái quyết một trận sống mất.

Phạm Bách Linh lại nói:

- Huyền Nạn đại sư cùng Lão quái kia vốn không thù oán mà bị lôi cuốn vào trận hổn độn này chắc là các vị đại sư phái Thiếu Lâm không chịu thõng tay đứng nhìn.

Huyền Nạn nói:

- Mọi việc liên quan đến các phái võ Trung Nguyên phái Thiếu Lâm đều nhúng tay vào. Xin các hạ miển trách cho tệ phái hay can thiệp vào việc ngoài.

Trương A Tam nói:

- Đại sư đã có lòng nghĩa hiệp giúp cho, anh em tôi cảm kích muôn phần! Chúng ta cứ theo đường cũ tiến ra để cho lão quái một phen khiếp vía.

Mọi ngườu gật đầu khen phải. Trương A Tam nói:

- Gia quyến Tiết ngũ ca cùng hai vị Bao, Phong trưởng cứ nén ở lại đây, chắc là lão quái không tìm thấy đâu.

Bao Bất Đồng mắt hoằm hoằm nhìn A Lục nói:

- Ngươi ở lại phải hơn.

Trương A Tam vội nói:

- Thực tình tại hạ không dám coi thường nhị vị. Nhưng nhị vị đang bị thương mà cũng phải ra tay e có điều bất tiện.

Trương A Tam phát động cơ quan nhảy lẹ ra ngoài. Hánh động của gã cực kỳ mau lẹ. Vừa nghe tiếng lách cách vai tiếng cửa động đã hở ra một lỗ nhỏ. Trương A Tam ném ba quả pháo.

- Đùng! Đùng! Đùng!

Ba tiếng nổ vang lên, khói trắng mù mịt. Gã ném trước hỏa pháo ra là để ngăn ngừa bọn Tinh Tú Lão Quái đến gần. Gã sợ bên địch đứng rình ngoài cửa động thì người nào chuồn ra ngoài là bị bắt mất người ấy. Ba tiếng pháo vừa nổ, phiến đá đóng cử động mở ra một đường đủ lọt một người đi. Trương A Tam lại ném luôn ba quả pháo nữa, đồng thời nhảy ra theo.

Chân gã chưa chấm đất thì trong làn khói trắng mờ mịt đã thấy bóng người đã nhảy đến bên mình. Chân trái người này vừa chí xuống đất đã nhảy phóc ra ngoài giữa đám đông la lên:

- Ai là Tinh Tú Lão Quái! Phong mổ muốn gặp lão.

Người đó chính là Phong Bá Ác. Gã thấy trước mặt đứng sững một Đại Hán mặc áo vải liền quát ta:

- Ngươi tuy không là Tinh Tú Lão Quái nhưng hãy nếm một liền của ta đây.

"Bịch" một tiếng. gã ra tay rất nhanh đánh trúng vào ngực Đại Hán.

Đại Hán là đệ tử thứ chín phái Tinh Tú Lão Quái, bị đánh bất thình lình không kịp đề phòng nên trúng một quyền khá nặng. Nhưng công lực Đại Hán rất thâm hậu, chỉ lạng người đi một cái rồi lại vung quyền đánh trả luôn. Thoi quyền này trúng Phong Bá Ác "chát" một tiếng. Thế rồi quyền qua chưởng lại va chạm nhau "binh, binh" dường như quyền chưởng đều đánh trúng vào người đối phương, nhưng không trầm trọng lắm nên không ai đến nỗi chí mạng. Bỗng nghe những tiếng vù vù lên nhanh bất tuyệt, Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng, mọi người trong động liền tiếp nhảy ra.

Trong đám cây rậm giữa làn khói trắng mờ mịt, về góc Tây Nam nhìn rõ một lão già thân thể to lớn. Xung quanh lão lũ hán tử đứng thành hàng có kẻ cao người thấp không đều nhau. Khang Quảng Lăng la lên:

- Đinh lão tặc! Ngươi vẫn chưa chết ư? Có nhận được ta không?

Lão già này chính là Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu! Lão thoáng nhhìn một lượt đã nhần rõ mọi người đối phương. Đinh Xuân Thu không trả lời Khang Quảng Lăng lại hỏi Tiết Thần Y:

- Tiết Mộ Hoa hiền điệt! Ngươi đã chữa khỏi nhà sư béo chùn béo chụt phái Thiếu Lâm chưa? Ta đã tha chết cho ngươi với điều kiện là ngươi phải nhập môn phái Tinh Tú ta.

Tinh Tú Lão Quái chỉ nhất tâm mong Tiết Mộ Hoa chữa khõi nhà sư Tam Tĩnh đặng dẫn lão lên đỉnh núi Côn Lôn tìm kiếm băng tằm.

Tiết Mộ Hoa nghe giọng lưỡi lão này dường như không để ý gì đến người khác. Sự sống chết của những người này lá tùy ý lão muốn xử trí ra sao sẽ được như vậy.

Tiết Mộ Hoa đã biết rõ vị sư thúc ghê gớm này, trong lòng sợ hãi vô cùng nhưng ngoài miệng vẫn nói cứng:

- Đinh lão tặc. Trên cõi đời này ta chỉ nghe theo mệnh lệnh một người mà thôi. Ngươi có bảo ta chữa cho oai là ta cứ ngay. Ngươi muốn giết ta thật dễ như trở bàn tay, nhưng muốn ta trị bệnh cứu người ngươi phải đến cầu người ta bảo ta mới được.

Đinh Xuân Thu nói:

- Chắc mi chỉ nghe lịnh Tô Tinh Hà mà thôi! Có phải thế không.

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Chỉ có hạng ác ôn không bằng loài cầm thú mới sinh lòng phản thầy diệt tổ.

Mộ Hoa dứt lời thì bọn Khang Quảng Lăng, Phạm Bách Linh cho đến Lý Quỷ Lổi, mọi người lớn tiếng hoan hô rầm rĩ. Đinh Xuân Thu nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Bọn mi đều là đồ đệ Tô Tinh Hà. Xong lão Tô phái người đến báo tin cho ta hay là đã trục xuất bọn mi ra khỏi môn phái rồi, không kể là đệ tử lão nữa. Chẳng lẽ lời nói của lão Tôn lại không đáng đếm xỉa? Chẳng lẽ lão còn ngấm ngầm lưu bọn mi vào hàng đồ đệ hay sao?

Phạm Bách Linh đáp:

- Một ngày là thầy suốt đời phải gọi bằng cha. Sư phụ bọn ta quả đã đuổi chúng ra khỏi môn phái. Trong bấy nhiêu năm chưa được gặp lão sư, bọn ta có đến nhà bái yết mà cũng không được gặp người. Tuy nhiên tấm lòng kính yêu sư phụ của chúng ta quyết không giảm sút mảy may. Lão tặc họ Đinh kia! Ta nói thiệt cho ngươi hay. Sở dĩ bọn ta biến thành cô hồn dã quỷ không có sư môn nào để nương tựa hoàn toàn là do ngươi mà ra cả.

Đinh Xuân Thu mỉm cười đáp:

- Mi nói thế là đúng sự thật. Tô Tinh Hà sợ ta ra tay tiêu diệt bọn mi, nên mới đuổi bọn mi ra khỏi môn phái là có ý bảo tồn những cái mạng kiến ruồi của bọn mi đó! Ha ha! Hay lắm! Hay lắm! Chính miệng các ngươi hãy nói đi! Hiện nay bọn mi còn là đồ đệ Tô Tinh Hà và Tô Tinh Hà còn là sư phụ bọn mi nữa không?

Bọn Khang Quảng Lăng vừa nghe lão nói vậy đã biết ngay nếu bọn mình tự thừa nhận là đệ tử Tô Tinh Hà là lập tức Đinh Xuân Thu ra tay sát hại. Nhưng một là không thể vì lúc lâm nguy mà bỏ nghĩa thầy trò, hai là lão quái này tàn ác không lường! Bữa nay mình đã đối đầu với lão thì cũng chẳng còn mong lão tha thứ nữa.

Bọn tám người "Hàm Cốt Bát Hữu". Trừ thiếu phụ bị trọng thương nằm lại trong động, còn bảy người đồng thanh la lên:

- Bọn ta tuy bị sư phụ trục xuất ra khỏi môn phái, song tình nghĩa thầy trò không mảy may sức mẻ.

Lý Quỷ Lôi lớn tiếng nói:

- Ta là "Thiên Tiên Đồng Mỗ" ngươi là một dòng súc sinh nhỏ xíu. Ta chỉ đánh một trượng là cái đùi con chó của ngươi sẽ gãy ngay lập tức.

Gã học tiếng nói của một bà già, giọng khàn khàn nhưng rất vang dội.

Bọn Khang Quảng Lăng nghe đến bốn chữ "Thiên Tiên Đồng Mỗ" đều giật mình đánh thót một cái, Đinh Xuân Thu vốn là bình tĩnh ung dung, mà nghe đến tên đó không khỏi biến sắc mặt, hai mắt chiếu ra những ta sáng kì dị. Lão phất tay áo bên trái một cái đột nhiên một tia lửa xanh lè vọt ra lẹ hơn sao đôi ngôi bắn vào mình Lý Quỷ Lôi.

Lý Quỷ Lôi né tránh nhưng không kịp. "Xèo" một tiếng quần áo gã bốc cháy. Gã vội nằm lăn xuống đất nhưng càng lăn người đi bao nhiêu lửa càng bốc lên to bấy nhiêu. Phạm Bách Linh hai tay hốt đất cát hất lên mình gã. Giữa lúc ấy Đinh Xuân Thu phất tay áo luôn năm cái, năm tia lửa bắn về phía năm người bọn Khang Quảng Lăng, chỉ còn Tiết Mộ Hoa là không bị bắn vào.

Khang Quảng Lăng phóng hai chưởng ra định đẩy ngọn lửa trở lại. Nhưng chưởng lực phóng ra chỉ làm cho ngọn lửa lung lay một chút. Huyền Nạn đại sư cũng phóng chưởng ra để hất cả hai ngọn lửa tạt ra chỗ khác. Còn Trương A Tam và Phạm Bách Linh thì đã bị lửa bám vào mình. Tinh Tú Lão Quái phát động long Hoa còn lợi hại hơn đệ tử lão là Trích Tinh Tử nhiều. Chỉ trong khoảnh khắc, trong vườn sau đầy mùi khét lẹt. Bọn Trương A Tam ba gã kêu la ầm ĩ!

Bọn đệ tử Đinh Xuân Thu thấy vậy thi nhau tâng bốc sư phụ. Có kẻ nói:

- Sư phụ ra một kỹ thuật nhỏ mọn đã đốt bọn chúng như heo quay mà sao chúng chưa chịu quỳ xuống xin đầu hàng?

Có gã bảo:

- Sư phụ có tài nghiêng trời lệch đất, đời trước chưa có ai bằng mà sau này cũng không ai bì kịp. Thật là thần thông quảng đại xuất quỷ nhập thần, không tiền khoáng hậụ Nay ta cho bọn chó lợn Trung Nguyên biết thủ đoạn phái Tinh Tú ta.

Có gã nói với Đinh Xuân Thu:

- Sư phụ lão gia đã thần thông quảng đại như thế thì đánh đâu mà chẳng được. Các bậc anh hùng hảo hán bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc ai mà không phải quy thuận như gió theo chiều?

Bao Bất Đồng hét lên:

- Thúi lắm! Thúi lắm! Chao ôi! Da thịt ta tê rồi. Đinh lão tặc kia! Ngươi là một đứa mặt dày!

Đặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn đã vận kình lực vào bàn tay. Bao Bất Đồng chưa dứt lời thì thấy hai tia lửa đã bắn tới rất lẹ. Đặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn đều phóng chưởng ra. Cả hai luồng chưởng đều đánh vào một chỗ, bật hai tia lửa đi. Nhưng hai người ruột đau như dùi đâm, rú lên hai tiếng thất thanh rồi lùi lại ba bước.

Nguyên Đinh Xuân Thu dùng nội lực rất thâm hậu để phóng hỏa tinh, có nội lực của Huyền Nạn đại sư là chống lại được, đánh bật hỏa tinh ra ngoài và không bị tổn thương gì cả. Còn Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn thì nội lực hãy còn kém xa Tinh Tú Lão Quái nên hai người bị nội lực đối phương đàn áp, cảm thấy đau đớn không chịu nổi.

Huyền Nán đại sư tiến đến trước Lý Quỳ Lôi phóng ra một chưởng. Chưởng lực này đi thấp là là lướt qua mình Lý Quỷ Lôi, vang lên những tiếng xì xì xé rách áo gã ra. Đồng thời vùng lửa xanh lè cũng bị chưởng phong quạt tắt ngấm.

Một tên đệ tử Tinh Tú Lão Quái nói:

- Chưởng lực lão trọc kia khá đấy có thể bằng một phần mười chưởng lực sư phụ ta.

Một tên khác nói:

- Chà! Có chăng chỉ bằng một phần trăm chưởng lực sư phụ ta là cùng.

Huyền Nạn dùng chưởng lực quạt tắt làn hỏa trên mình Lý Quỷ Lổi, rồi trở tay quạt tiếp hai cái để dập tắt luôn cả lửa đang đốt Phạm Bách Linh và Trương A Tam.

Đinh Xuân Thu vuốt chòm râu dài nói:

- Vị cao tăng chùa Thiếu Lâm quả nhiên công lực phi thường bữa nay lão phu xin đến lãnh giáo đâỵy.

Nói xong lão bước tới rồi lẹ làng phóng chưởng ra đánh Huyền Nạn. Huyền Nạn đại sư tuy chưa từng giao đấu với phái Tinh Tú nhưng nhà sư cũng biết phép "Hóa công đại pháp" của Đinh Xuân Thu lợi hại vô cùng! Nhà sư còn nghe người đồn từ lâu Tinh Tú Lão Quái có thể dùng tà thuật làm cho đối phương tiêu tan một cách vô hình, nên rất thận trọng không dám sơ hở chút nào.

Huyền Nạn để tụ chân khí phóng song chưởng ra đánh tới tấp vào Đinh Xuân Thu liền một lúc mười tám chiêu theo thế liên hoàn, tay trái chưa thu về, tay phải đã phóng ra đột ngột mau lẹ dị thường. Đinh Xuân Thu thấy chưởng lực đối phương liên tiếp đánh tới, dù muốn dùng tà pháp để phá công lực đối phương cũng không có lúc nào rãnh tay.

Quả nhiên phép khoái chưởng của phái Thiếu Lâm cực kỳ lợi hại, dồn Đinh Xuân Thu phải lùi lại. Huyền Nạn phóng ra mười tám chưởng liên hoàn. Đinh Xuân Thu phải lùi lại mười tám bước để tránh. Huyền Nạn đánh xong mười tám chưởng liền rồi phóng Uyên Ương cước đá nhanh như gió liền một lúc ba mươi sáu cước. Bóng chân đá mịt mờ người ngoài không phân biệt rõ được phát đá nào chân phải hay chân trái.

Đinh Xuân Thu thi triển thân pháp, né tránh cực kỳ mau lẹ. Lão vừa tránh xong ba mươi sáu cước, bỗng nghe hai tiếng chát chát, thì ra bả vai lão đã bị Huyền Nạn đánh trúng hai quyền.

Nguyên trong phép liên hoàn tam thập lục cước, Huyền Nạn đá hai cước sau cùng đồng thời vung quyền đánh ra. Đinh Xuân Thu chỉ tránh được cước mà không tránh được quyền.

Đinh Xuân Thu bị trúng hai quyền la lên:

- Thật là lợi hại!

Người lão lạng đi hai cái. Nhưng Huyền Nạn cũng cảm thấy trong ngực hồi hộp, dường như người bị mất thứ gì thì biết ngay rằng có điều khác lạ. Nhà sư hít mạnh một hơi dài rồi phóng quyền ra đánh Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu xoay người lại đưa lưng ra đỡ lấy quyền. Lão giơ năm ngón tay như lưỡi câu chụp vào sau gáy Huyền Nạn đại sư.

Cuộc chiến đấu lúc này, hai tay cao thủ đã đén chỗ tỉ thí nội lực. Huyền Nạn cả kinh lẩm bẩm: "Ta quyết không thể tỉ thí chân lực với gã được!"

Tuy nhà sư tính như thế nhưng không vận động chân lực để phóng quyền ra đỡ thì chân lực đối phương đánh tới phủ tạng mình sẽ bị tan nát. Thế là đại sư biết rõ không nên thi đua chân lực với đối phương mà không vận động chân lực cũng không được.

Huyền Nạn vận động nội kình, cảm thấy chân khí cuồn cuộn tuôn ra ngoài khônh ngớt, muốn ngưng tụ lại cũng không được nữa. Sau khoảng thời gian uống cạn tuần trà, Đinh Xuân Thu cười hà hà, nhún vai đập mạnh một cái, Huyền Nạn lập tức ngã ra. Chân khí trong người thoát đi hết nhà sư cố gượng ngồi dậy cũng không được nữa.

Đinh Xuân Thu đánh ngã Huyền Nạn rồi đảo mắt nhìn chung quanh chỉ thấy Công Dã Can nằm dưới đất run lên bần bật vì trúng phải hàn độc chưởng của Du Thản Chi. Ngoài ra Đặng Bách Xuyên, Tiết Mộ Hoa đang chiến đấu ác liệt với bọn đồ đệ mình.

Bên phái Tinh Tú cũng có người bị thương nằm lăn ra đó, Đinh Xuân Thu nổi lên một tràng cười phất tay áo một cái nhảy sổ tới sau lưng Đặng Bách Xuyên phóng chưởng đánh ra, rồi thuận lại đá Bao Bất Đồng một cước. Đặng Bách Xuyên cũng phóng chưởng ra đánh Đinh Xuân Thu, nhưng người y tựa hồ đã mắc trọng bệnh, toan hô hấp chân khí ngưng thần điều dưỡng thì Đinh Xuân Thu lại phóng ra một chưởng nữa.

Đặng Bách Xuyên bất đắc dĩ phải phóng chưởng ra nghinh địch. Bàn tay y cảm thấy mát lạnh rồi lập tức sinh lực trong người tiêu tan. Trước mắt chỉ thấy một vùng lờ mờ như sương trắng. Một tên đệ tử phái Tinh Tú chạy tới giơ tay ra gạt. Đặng Bách Xuyên ngã lăn ra.

Mới trong khoảnh khắc bọn thủ hạ Mộ Dung, những nhà sư chùa Thiếu Lâm do Huyền Nạn thống lĩnh cùng bọn thủ hạ hàm cốc bát hữu do Khang Quảng Lăng dẫn dạy đều bị Đinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi chia nhau đánh ngã. Du Thản Chi nội lực rất thâm hậu nhưng võ nghệ hãy còn tầm thường.

Mấy bữa nay gã được Đinh Xuân Thu chỉ điểm cách vận chưởng phóng quyền đã tiến bộ rất nhiều. Nhưng dù sao vẫn chưa được thuần thục tinh diệu. Có điều gã phát huy chất hàn độc băng tằm thì có thừa. Bọn Công Dã Càn đối chưởng với gã, kể ra thì chưởng lực của bọn này hơn gã nhiều, song chỉ chiến đấu một lúc là đều bị thương ngã lăn ra.

Bên này chỉ còn một mình Tiết Mộ Hoa chưa bị thương. Tiên sinh cũng có xung kích, nhưng bọn đệ tử phái Tinh Tú đều mỉm cười né tránh chứ không trả đòn.

Đinh Xuân Thu cười nói:

- Tiết hiền điệt! Trong bọn đồng môn chỉ có mình ngươi là võ công cao hon cả. Ngươi có muốn cùng sư thúc tỉ thí một phen không?

Tiết Mộ Hoa thấy bọn sư huynh sư đệ đồng môn đều nằm lăn dưới đất chỉ có mỗi mình là chưa việc gì. Thì việc rằng bọn thủ hạ Đinh Xuân Thu không có ý hại mình là để mình chữa thuốc cho nhà sư béo kia.

Tiên sinh thở dài đáp:

- Đinh lão tặc! Ngươi toan dùng lối đem mỡ dử mèo để bức ta trì bệnh cứu người. Nhưng ngươi nghĩ thế là lầm, không ăn thua gì đâu.

Hồi Thứ 60

Sợ oai thần Hộ Hoa đành khuất phục

Ðinh Xuân Thu vẩy tay nói:

- Tiết hiền điệt! Lại đây!

Tiết Mộ Hoa muốn bướng không lại, song tiên sinh lại nghĩ rằng nếu lão muốn giết cũng như trở bàn tay, đành phải tiến đến còn chừng ba bước thì đứng lại.

Đinh Xuân Thu vươn tay trái ra vịn vào Tiết Thần Y tủm tỉm cười hỏi:

- Tiết hiền điệt! Hiền điệt tập luyện võ công đã bao lâu?

Tiết Mộ Hoa đáp buông thỏng:

- Ba mươi lăm năm.

Đinh Xuân Thu thở dài nói:

- Công trình vất vả ba mươi lăn năm trời không phải là ít! Ta nghe hiền điệt dùng y thuật chữa bệnh cho người để đổi lấy võ công. Bao nhiêu môn phái đem những tuyệt nghệ truyền lại cho hiền điệt nên hiền điệt biết rất nhiều chiêu thức tinh diệu, có đúng thế không?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Những cái vật đó phỏng có chi đáng kể, nhất là đối với con mắt ngươi lại càng không ăn thua gì.

Đinh Xuân Thu lắc đầu nói:

- Không phải thế! Không phải thế! Có điều con người ta phải lấy nội lực làm căn bản, chiêu thức làm ngọn ngành. Nhưng nói thế không phải là chiêu thức kém bề quan trọng. Tỉ như gã đệ tử ta đây...

Lão trò Du Thản Chi nói tiếp:

- Nội lực gã thật là hùng hậu, nếu gã lại biết đủ những chiêu thức như Tiết hiền điệt thì chẳng khác gì hổ thêm cánh tha hồ tung hoành ở đất Trung Nguyên. Thành thực mà nói về nội lực tiết hiền điệt hơi kém môt chút, cho nên chiêu thức dù tinh diệu đến đâu cũng không bổ túc được. Giả tỉ nội lực Tiết hiền điệt bị tiêu tan hết không còn được chút nào trong mình thì dù có chiêu thức tuyệt diệu cũng thành phế nhân. Khi đó chẳng những mất hết võ công mà đến trí não cũng bị tổn thương rất nhiều, dù hiền điệt có muốn làm nghề trị bệnh cho người cũng không thể được nữa.

Tiết Mộ Hoa nghe nói toát mồ hôi trán ra. Tiên sinh hiểu rằng mỗi câu nói lão quái đều nhằm mục đích uy hiếp mình. Tiết Mộ Hoa lại thấy bàn tay lão đặt trên vai mình từ từ phát ra luồng nhiệt khí, nếu mình chỉ phân tâm nghĩ sang chuyện khác, sơ hở một chút không đề phòng mà lão đem "Hóa công đại pháp" để hại mình thì công trình rèn luyện vất vả ba mươi lăm năm trời bị tan ra mây khói.

Đinh Xuân Thu lại hỏi:

- Ta nói vậy hiền điệt có tin chăng?

Bao Bất Đồng đang nằm dưới đất lơn tiếng mắng:

- Ngươi nói thúi lắm ai mà tin được?

Đinh Xuân Thu cặp mắt loang loáng vẫn nhìn Tiết Mộ Hoa chòng chọc để chờ tiên sinh trả lời. Tiết Mộ Hoa nghiến răng đáp:

- Ngươi đã là kẻ mặt người dạ thú, hạ sát cả sư huynh thì bây giờ ngươi hạ sát bọn anh em ta tám người có chi là đáng kể? Công trình ba mươi lăm năm tu luyện vất vả bị tiêu tan dĩ nhiên đáng tiếc. Nhưng tính mạng còn chẳng giữ được thì kể gì đến công trình vất vả?

Bao Bất Đồng reo lên khen ngợi:

- Mẹ nó! Tiết tiên sinh nói mấy câu này thật đáng mặt con người có khí phách.

Đinh Xuân Thu nói:

- Tiết hiền điệt! Ta hãy tạm tha mạng cho hiền điệt và chỉ hỏi hiền điệt tám câu: Hiền điệt có chữa cho nhà sư béo kia không?

Ngừng một lát lão nói tiếp:

- Câu thứ nhất hiền điệt trả lời không chịu thì ta lập tức hạ sát đại sư huynh của hiền điệt là Khang Quảng Lăng. Câu thứ hai hiền điệt lại trả lời không chữa thì ta giết nhị sư huynh hiền điệt là Phạm Bách Linh. Rồi tuần tự như thế cho đến câu thứ bảy ta giết bát sư đệ hiền điệt là Lý Quỷ Lổi.

Lão tủm tỉm cười hỏi tiếp:

- Đến câu thứ tám hiền điệt vẫn không chịu chữa thì đoán thử coi ta sẽ làm gì nào?

Tiết Mộ Hoa nghe lão nói dùng đến cách thảm khốc như vậy thì sắc mặt xám ngắt đáp:

- Bấy giờ ngươi sẽ giết ta chứ có chi quan trọng.

Đinh Xuân Thu cười hề hề nói:

- Ta đâu giết đâu giết hiền điệt một cách vội vàng như vậy. Nếu tới câu thứ tám mà hiền điệt vẫn trả lời không chữa thì ta sẽ hạ sát một người tự xưng là Thông Biện tiên sinh tên gọi Tô Tinh Hà!

Tiết Mộ Hoa gầm lên:

- Đinh lão tặc! Ngươi cả gan dám động đến chân lông của sư phụ ta ư?

Ðinh Xuân Thu lạnh lùng đáp:

- Có gì không dám? Trước nay Tinh Tú tiên sinh đã làm việc gì cũng tự ý mình, không biết sợ ai. Lời ta nói bữa nay, sáng mai ta lại quên cũng không sao. Tuy ta đã hứa với Tô Tinh Hà là nếu y ngậm miệng lại không nói gì nữa ta tha chết cho. Nhưng nếu hiền điệt chọc giận ta thì đồ đệ phạm lỗi ta đổ lên đầu sư phụ chứ sao? Ta muốn giết y là ta giết thiên hạ còn ai làm gì nổi ta?

Tiết Mộ Hoa ruột như mớ bòng bong, tiên sinh biết rõ lão sư thúc này bất luận việc gì tàn ác đến đâu cũng làm được. Nếu mình nhất định không chữa cho nhà sư Tam Tĩnh thì sư phụ mình là Thông Biện tiên sinh cũng chết về tay lão. Nhưng tiên sinh lại e rằng, nếu chữa cho nhà sư kia thì biết đâu cái dụng ý của lão còn hiểm độc gấp mười, mình chữa cho nhà sư là giúp cho kẻ ác làm điều tàn bạo.

Tiết Mộ Hoa trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Thôi được! Ta đành chịu khuất phục ngươi. Với điều kiện là sau khi ta chữa cho vị hòa thượng đó rồi, ngươi không được làm khó dễ các bạn bè của ta đây cũng như sư phụ, sư huynh và sư đệ ta.

Đinh Xuân Thu cả mừng đáp:

- Được lắm! Ta tha cái mạng kiến ruồi cho họ.

Đặng Bách Xuyên nói:

- Ai cần ngươi tha mạng. Bậc đại trương phu bữa nay chẳng may trúng phải gian kế của ngươi chết thì đành chết chứ sao? Nhưng ta chắc rằng đời ngươi sẽ gặp kết quả tàn khốc hơn.

Nguyên thanh âm Đặng Bách Xuyên oang oang như tiếng chuông đồng, song lúc này chân khí bị tiêu tan nên tuy lời nói khẳng khái mà thanh âm chỉ phều phào không có khí lực như trước.

Bao Bất Đồng nói:

- Mẹ kiếp! Tiết Mộ Hoa đừng mắc vào cạm bẫy của nó. Thằng chó chết này vừa mới biểu lời nói của nó không có gì đáng tin cậy mà!

Đinh Xuân Thu nói:

- Tiết hiền điệt! Đây ta bắt đầu hỏi câu thứ nhất: Hiền điệt có chịu chữa cho nhà sư béo không?

Lão vừa nói vừa đưa chân phải ra. Đầu bàn chân nhằm huyệt thái dương Khang Quảng Lăng tựa hồ như để chờ Tiết Mộ Hoa đáp lại câu không chữa là lão phóng chân đánh chết Khang Quảng Lăng lập tức.

Ai nấy trống ngực đánh thình thịch thì nghe có tiếng la lớn:

- Không chữa!

Người thốt ra hai tiếng không chữa không phải là Tiết Mộ Hoa mà lại là Khang Quảng Lăng. Đinh Xuân Thu cười lạt nói:

- Mi tưởng chỉ nói vậy là ta đá chết ngươi ngay ư? Sự việc không phải dễ dàng thế đâu.

Lão quay lại nhìn Tiết Mộ Hoa hỏi tiếp:

- Phải chăng hiền điệt muốn mượn ta để giết chết đại sư huynh?

Tiết Mộ Hoa thở dài nói:

- Thôi ta đành ưng thuận lời ngươi, chữa cho nhà sư kia là xong!

Khang Quảng Lăng liền mắng Tiết Thần Y:

- Tiết ngũ lão! Ngươi thật chẳng ra trò gì cả. Đinh lão tặc là đại thù của sư môn ta mà ngươi chịu khuất phục dưới sự uy hiếp của lão ư?

Tiết Mộ Hoa đáp:

- Lão giết bọn sư huynh, sư đệ chúng ta chẳng có chi quan hệ. Nhưng đại ca không nghe thấy lão biểu là xúc phạm sư phụ hay sao? Bọn Khang Quảng Lăng nghĩ đến mối an nguy của sư phụ không dám nói gì nữa.

Bao Bất Đồng lên tiếng:

- Bọn ngươi toàn là...

Gã định mắng: "Toàn là đồ hèn nhát."

Nhưng đang nói dở câu thì Đặng Bách Xuyên đã đưa tay ra bịt miệng gã lại. Bao Bất Đồng bình sinh vẫn đem lòng kính nể đại sư huynh nên đành nuốt giận không mắng nữa.

Tiết Mộ Hoa nói:

- Lão họ Đinh kia! Ta đã phải chịu khuất theo lời ngươi chữa cho nhà sư béo. Vậy ngươi phải đối đãi với bạn hữu ta cho lịch sự.

Đinh Xuân Thu nói:

- Nhất quyết ta theo lời ngươi.

Thế rồi Tiết Mộ Hoa vào nhà hầm sai gia nhân khiêng những người bị thương ra. Nhà sư Tam Tĩnh co rúm lại thành đống thịt lù lù tựa hồ quả bóng khổng lồ. Lão vừa trông thấy Huyền Nạn thì hồn vía lên mây. Tiết Mộ Hoa không nhiều lời nữa bắt tay vào việc cứu chữa bệnh nhân: nào tiếp xương, nào chữa thương, bận rộn cho đên lúc trời sáng tỏ mới xong việc.

Những người bị thương đều có chỗ riêng biệt. Người nằm giường, kẻ nằm trên cánh cửa nghĩ ngơi điều dưỡng. Gia nhân nhà họ Tiết làm thức ăn cho mọi người điểm tâm.

Đinh Xuân Thu ăn hai bát miến rồi quay lại cười hỉ hả với Tiết Thần Y:

- Hiền điệt quả là người biết thời vụ không bỏ thuốc độc vào thức ăn.

Tiết Mộ Hoa nói:

- Về cách dùng thuốc độc thì khắp thiên hạ có ai bằng ngươi. Dù ta có muốn vậy nhưng e câu: "Múa rìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm."

Đinh Xuân Thu cười ha hả nói:

- Hiền điệt kêu giai nhân đi thuê cho ta mười cổ xe lừa về đây.

Tiết Mộ Hoa nói:

- Ngươi dùng mười cổ xe lừa làm gì?

Đinh Xuân Thu trợn mắt lên nói:

- Việc của ta sao hiền điệt được hỏi? Hiền điệt có quen với nhiều người tưởng thuê mười cổ xe lừa cũng chẳng khó khăn gì?

Tiết Mộ Hoa không nói sao được, đành kêu người nhà đi thuê xe. Vào giờ ngọ, mười cổ xe lừa lục tục kéo đến.

Đinh Xuân Thu nói:

- Bao nhiêu phu xe giết hết đi!

Tiết Mộ Hoa cả kinh hỏi:

- Sao?

Bỗng thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú phóng chưởng ra một loạt. Cả mười tên phu xe ngã chết nằm ngổn ngang dưới đất. Tiết Mộ Hoa cả giận nói:

- Đinh lão tặc! Bọn phu xe có thù oán gì với ngươi mà ngươi giết họ? Ngươi... ngươi... thật là độc ác!

Đinh Xuân Thu nói:

- Phái Tinh Tú muốn giết mấy mạng người chẳng lẽ còn tính đến chuyện phải quấy, bàn đến lý lẽ nữa hay sao? Bọn ngươi bấy nhiêu người ai nấy lên xe hết cả đi, không lưu lại một người nào!

Lão lại giục Tiết Thần Y:

- Tiết hiền điệt! Hiền điệt có bao nhiêu sách vở cùng thuốc men và những đồ tùy thân lấy hết đem đi! Ta đốt nhà này bây giờ!

Tiết Thần Y lại càng kinh hãi. Nhưng tiên sinh biết lão này nói chẳng có điều gì tàn ác nào là lão không dám làm, nói lắm cũng chẳng vô ích. Bao nhiêu sách thuốc tiên sinh đã thuộc lòng cả rồi không cần đem đi nữa. Nhưng bao nhiêu thứ cao đơn hoàn tán, tiên sinh đã mất bao nhiêu tâm lực đều là những vật hiếm có đều gói ghém lạị Tiên sinh tức quá không làm sao được chỉ rủa thầm con người độc ác.

Tiết Thần Y thu nhặt hết dược liệu ra rồi thì bọn đệ tử phái Tinh Tú phóng hỏa đốt nhà! Bọn Huyền Nạn, Khang Quảng Lăng, Đặng Bách Xuyên đều là những tay bản lĩnh không vừa, song người thì bị "Hóa công đại pháp" của Đinh Xuân Thu làm cho biến thành phế nhân, kẻ thì trúng phải chất hàn độc con Băng Tằm trong người Du Thản Chi.

Trong sáu nhà sư phái Thiếu Lâm vào hành chữ Tuệ có hai người là Tuệ Kinh, Tuệ Thu đã vâng lệnh Huyền Nạn đại sư muốn trốn về chùa Thiếu Lâm báo tin. Nhưng có ngờ đâu Đinh Xuân Thu bố trí cực kỳ nghiêm mật, hai nhà sư đã chia nhau hai ngã mà đều bị đối phương túm được bắt trở lại.

Bọn Huyền Nạn phái Thiếu Lâm cả thảy bảy nhà sư, bọn Đặng Bách Xuyên thủ hạ Mộ Dung công tử có năm người, bọn "Hàm Cốc bát Hữu" là sư huynh, sư đệ Khang Quảng Lăng cả thảy tám người. Tất cả cộng được hai mươi người thì chỉ có mình Tiết Mộ Hoa là chưa tổn thương chút nào, còn ngoài ra mười chín người bị trọng thương, không sao tự chủ được. Trong đám này có A Bích trúng độc nặng hơn cả. Đinh Xuân Thu không muốn để nàng chết ngay liền cho nàng uống một viên thuốc giải khiến cho chất độc trong người nàng giảm bớt đi và lâm vào hoàn cảnh sống dở chết dở.

Cả đoàn hai mươi người thêm vào đó người nhà Tiết Mộ Hoa cũng đến mấy chục người đều bị bọn đệ tử phái Tinh Tú quẳng lên mười cổ xe lừạ Bọn đệ tử này tự đánh xe lấy còn ngoài ra đều cỡi ngựa áp giải đi.

Bọn Huyền Nạn trong lòng nảy ra không biết bao nhiêu nghi vấn và đều tự hỏi:

- Tên lão tặc này dẫn bọn ta đi đâu?

Nhưng ai cũng hiểu rằng mình có dò hỏi chỉ tổ lão mắng cho nhục nhã chứ quyết lão không trả lời.

Rồi ai nấy đều kết luận:

- Mình đành tạm nhẩn nại chờ đến nơi sẽ biết.

Mọi người lên xe cả rồi, bọn đệ tử phái Tinh Tú liền buông rèm xuống dùng dây thừng buộc chặt rèm lại để những người ngồi trong xe không nhìm thấy cảnh vật bên ngoài. Xe đi lộc cộc suốt ngày đêm, bọn Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng đều là những tay hào kiệt võ lâm hiện thời, nhưng bây giờ võ công mất hết biến thành những tù nhân mặc người bố trí.

Ban đầu mọi người còn theo dõi phương hướng xe đi, hoặc theo dõi ánh mặt trời để tìm hiểu phương vị hầu suy đoán xem bọn họ đưa mình đi đâu. Nhưng mỗi khi trời tối Đinh Xuân Thu liền chỉ huy đoàn xe đi vòng vèo lúc Nam lúc Bắc, thoắt Đông thoát Tây. Người trong xe không còn cách nào tìm hiểu được hiện mình ở khu vực nào và đi về phương hướng nào.

Mỗi khi đi qua một thị trấn, phái Tinh Tú lại mua lừa, ngựa để đổi những con nào yếu quá và mệt nhọc. Mọi người chỉ phỏng đoán được là mình đang đi về phía Đông Nam. Đoàn xe đi như vậy đã được tám ngày, đến ngày thứ chín, đoàn xe chạy lẹn đèo núi, đường xá ghập ghềnh. Người trong xe bị tung lên hất xuống, xương cốt mỏi nhừ, đau nhức, cực kỳ khó chịu.

Bọn Huyền Nạn chỉ mới một nội lực thì còn khá, còn Bao Bất Đồng, Phong Bá Ác, những người bị chất độc của con Băng Tầm hành hạ thì những lúc này, thật khốn khổ vô cùng, cơ hồ chịu không nỗi. Đến giờ ngọ đường lên núi mội lúc một dốc thêm. Sau cùng đến một nơi cao quá, đoàn xe không tài nào đi lên được. Bọn đồ đệ phái Tinh Tú đành gọi bọn Huyền Nạn xuống xe.

Nơi này toàn rừng trúc âm u, phong cảnh rất là u nhã tịch mịch. Bên đường người ta đã chặt những cây trúc lớn, dựng lên một cái trạm này rất tinh xảo bằng những tay thợ tuyệt khéo. Trương A Tam nhìn thấy cách kiến trúc, trong lòng thán phục vô cùng. Gã nhìn kỹ xung quanh hồi lâu trong lòng nảy ra nhiều mối nghi ngờ.

Mọi người vào quán Lương Đình ngồi ngó ra thì thấy bốn người ở trên đỉnh núi chạy xuống dốc, mọi người nhìn kỹ lại thì hai người đi đầu chính là đệ tử Đinh Xuân Thu. Trước khi đoàn xe dừng lại, chúng đã chạy lên núi hoặc để dò đường hoặc để báo tin. Hai người đi sau là hai thanh niên ăn mặc theo kiểu nông thôn, chạy đến trước mặt Đinh Xuân Thu thi lễ rồi cầm phong thơ đưa lên.

Ðinh Xuân Thu mở thơ xem rồi cười lạt nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi chưa chịu thua còn muốn quyết một trận sinh tử thì lý đương nhiên ta phải bồi tiếp.

Chàng thanh niên hán tử hơi biến sắc lấy trong bọc ra một cái pháo ống lệnh, quệt lửa lên đốt. Đùng một tiếng. Ống lệnh vọt lên không trung. Những ống pháo lệnh thôg thường chỉ nổ đùng một tiếng bắn lên không trung nổ đoàng một tiếng nữa rồi vỡ tan tành. Nhưng pháo ống lên này bắn lên không rồi còn nổ lên ba tiếng "đoàng, đoàng, đoàng." Tiếng sau càng nở lớn hơn.

Trương A Tam nghe tiếng pháo ống lệnh này có vẻ khác thường gã không nghi ngờ gì nữa, nhìn Khang Quảng Lăng khẽ nói:

- Đại ca! Thứ pháo này chính là của bản môn chế ra.

Pháo nổ xong, chẳng mấy chốc, bỗng thấy xuất hiện hơn ba mươi người đều ăn mặc theo kiểu nông thôn từ trên đỉnh núi đi xuống. Những người này đều cầm những binh khí dài. Khi bọn họ xuống gần tới nơi, mọi người mới nhìn rõ thì những thứ họ cầm tay không phải là binh khí mà những đon khiêng bằng tre trúc. Cứ hai cái đòn trúc thì quãng giữa lại buộc dây lướị người có thể ngồi vào đó được.

Đinh Xuân Thu mỉm cười nói:

- Chủ nhân mời quý vị chẳng nên khách khí, xin ngồi vào võng đi!

Bọn Huyền Nạn nhất nhất lên võng ngồi. Cứ hai Đại Hán thanh niên lại khiêng một người rồi chạy nhanh như bay theo dốc lên núi. Đinh Xuân Thu tay áo rộng thùng thình bay phất phới đi trước để hướng dẫn. Lão không ra vẻ gì hấp tấp. Nhưng lão vượt dốc núi như cơn gió. Chân lão tựa hồ không chấm đất và chỉ trong khoảng khắc lão đã biến hút vào trong khu rừng trúc ở trước mặt.

Bọn Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên trúng phải hóa công đại pháp mấy bữa nay trong lòng vẫn ân hận tự cho mình lầm mắt tay yêu tà đến nỗi bị thương, chứ không phải mình kém sức chiến đấu. Đến bây giờ thấy khinh công của lão phi thường như vậy, mới biết rằng bản lãnh lão lại càng khủng khiếp, bất giác khâm phục vô cùng lẩm bẩm một mình:

- Giả tỉ lão không dùng yêu thuật mình cũng không địch nỗi lão.

Phong Bá Ác dạ thẳng lòng ngay buột miệng khen luôn:

- Khinh công lão yêu này thật là tuyệt dịu, ta bội phục vô cùng!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hiep#kiem