Luc Van Tien_ Nguyen Dinh Chieu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

    Lục Vân Tiên        
        Nguyên Tác : Nguyễn Ðình Chiểu
    Câu 1 - 199

Trước đèn xem chuyện Tây Minh
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le
Hỡi ai lẵng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dà thân sau
 Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Có người ở quận Ðông Thành
Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền
Ðặt tên là Lục Vân Tiên
Tuổi vừa hai tám, nghề chuyên học hành
Theo thầy nấu sử sôi kinh
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao
Văn đà khởi phụng đằng giao
Võ thêm ba lược sáu thao ai bì
 Xẩy nghe mở hội khoa thi
Vân Tiên vào tạ tôn sư xin về:
"Bấy lâu cửa Thánh dựa kề
Ðã tươi khí tượng lại xuê tinh thần
Nay đà gặp hội long vân
Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.
Chi lăm bắn nhạn ven mây
Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa
Làm trai trong cõi người ta
Trước lo báo bổ, sau là hiển vang"
  Tôn sư bàn luận tai nàn
Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa
Máy trời chẳng dám nói ra
Xui thầy thương tớ xót xa trong lòng
Sau dầu tỏ nỗi đục trong
Phải toan một phép để phòng hộ thân
Rày con xuống chốn phong trần
Thầy cho hai đạo phù thần đem theo
Chẳng may mà gặp lúc nghèo
Xuống sông cũng vững, lên đèo cũng an
Tôn sư trở lại hậu đàng
Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi
Chẳng hay mình mắc việc chi
Tôn sư người dạy khoa kỳ còn xa
Hay là bối rối việc nhà
Hay là đức bạc hay là tài sơ
Bấy lâu ra sức công thư
Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao
Nên hư chẳng biết làm sao
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh
Ðặng cho rõ nỗi sự tình
Ngõ sau ngàn dặm đăng trình mới an
Tôn sư ngồi hãy thở than
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô
Hỏi rằng: Vạn lý trường đồ
Sao chưa cất gánh trở vô việc gì
Hay là con hãy hồ nghi
Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa
Vân Tiên nghe nói liền thưa
Tiểu sinh chưa biết nắng mưa thế nào
Song đường tuổi hạc đã cao
Xin thầy nói lại âm hao con tường
Tôn sư nghe nói thêm thương
Dắt tay ra chốn tiền đường coi trăng
Nhân cơ tàng sự dặn rằng:  
  Việc người chẳng khác việc trăng lên trời
Tuy là soi khắp nơi nơi
Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy
Sau con cũng tỏ lẽ này
Lựa là trước phải hỏi thầy làm chi
Số con hai chữ khoa kỳ
Khôi tinh đã rạng, tử vi thêm lòa
Hiềm vì ngựa chạy đằng xa
Thỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tan
Bao giờ cho tới bắc phang
Gặp chuột ra đàng, con mới nên danh
Sau dầu đặng chữ hiển vinh
Mấy lời thầy dạy tiền trình chẳng sai
Trong cơ bĩ cực thái lai
Giữ mình cho vẹn việc ai chớ sờn
Vân Tiên vội vã tạ ơn
Trăm năm dốc giữ keo sơn một lời.
Ra đi vừa rạng chân trời
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường
Tiên rằng : Thiên các nhất phương
Thầy đeo đoạn thảm, tớ vương mối sầu
Quản bao thân trẻ dãi dầu
Mang đai Tử Lộ quảy bầu Nhan Uyên
Bao giờ cá nước gặp duyên
Ðặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay
Kể từ tách dặm đến nay
Mỏi mê tính đã mấy ngày xông sương
Ðoái nhìn phong cảnh thêm thương
Vơi vơi dặm cũ, nẻo đường còn xa
Chi bằng kiếm chỗ lân gia
Trước là tìm bạn sau là nghĩ chân
Việc chi than khóc tưng bừng
Ðều đem nhau chạy vào rừng lên non
Tiên rằng : Bớ chú cõng con
Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài
Dân rằng: Tiểu tử là ai
Hay là một lũ sơn đài theo tao
Tiên rằng: cớ sự làm sao
Hãy dừng gót lại mà trao một lời
Dân nghe tiếng nói khoan thai 
Kêu nhau đứng lại vài lời phân qua
Nhân rày có đảng lâu la
Tên là Ðỗ Dự, hiệu là Phong Lai
Nhóm nhau ở chốn sơn đài
Người đều sợ nó có tài khôn đương
Bây giờ xuống cướp thôn hương
Thấy con gái tốt qua đường bắt đi
Xóm làng chẳng dám nói chi
Cảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn.
Con ai vóc ngọc mình vàng
Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng
E khi mắc đảng hành hung
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu
Thôi thôi chẳng dám nói lâu
Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình
Vân Tiên nổi giận lôi đình
Hỏi thăm lũ nó còn đình nơi nao
Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.
Dân rằng: Lũ nó còn đây
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành
E khi họa hổ bất thành
Khi không mình lại xô mình xuống hang.
Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.
Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng
Thằng nào lại dám lẫy lừng vào đây.
Trước gây việc dữ tại mày
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng
Vân Tiên tả đột hữu xung
Khác nào Triệu Tử mở vòng Ðương dang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Ðều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rừng thân vong
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: Ai than khóc ở trong xe này?
Thưa rằng: tôi thiệt người ngay 
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ
Trong xe chật hẹp khôn phô
Cúi đầu tôi lạy cứu cô tôi cùng
Vân Tiên nghe nói động lòng,
Ðáp rằng: Ta đã trừ dòng lâu la
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Tiểu thư con gái nhà ai
Ði đâu đến nỗi mang tai bất kỳ
Chẳng hay tên họ là chi
Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
Trước sau chưa hãn dạ này
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?
Thưa rằng: Tôi Kiều Nguyệt Nga
Còn con tì tất tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây Xuyên
Cha làm tri phủ ngồi miền Hà-khê
Sai quân đem bức thư về
Rước tôi qua đó định bề nghi gia
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành
Chẳng qua là sự bất bình
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi
Trước xe quân tử tạm ngồi
Ngõ chi tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa
Chút tôi liễu yếu đào thơ
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần
Hà khê qua đó cũng gầ
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng
Gặp đây đương lúc giữa đàng
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không
Tương câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến ngãi bất vi 
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
Ðó mà biết chữ thủy chung
Lựa là đây phải theo cùng làm chi
Nguyệt Nga biết ý chẳng đi
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
Thưa rằng: Tiện thiếp đi đường
Chẳng qua quân tử quê hương nơi nào?
Phút nghe lời nói thanh tao
Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha
Ðông Thành vốn thiệt quê ta
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên.
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm
Thưa rằng: Nay gặp tri âm
Xin đưa một vật để cầm làm tin
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn
Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết na
Vật chi một chút gọi là
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ
Của này là của vất vơ

Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành
Vân Tiên khó nỗi làm thinh
Chữ ân đã buộc, chữ tình lây đây
Than rằng: Ðó khéo trêu đây
Ơn kia đã mấy của này rất sang


Gặp nhau đang lúc giữa đàng
Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài
Nào ai chịu lấy của ai làm gì.
Thưa rằng: Chút phận nữ nhi

Vốn chưa biết lẽ, có khi mích lòng
Ai dè những đấng anh hùng
Thấy trâm thôi lại thẹn cùng cây trâm
Riêng than: Trâm hỡi là trâm
Vô duyên chi bấy, ai cầm mà mơ

Ðưa trâm chàng đã làm ngơ
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ.
Vân Tiên ngó lại rằng: ừ
Làm thơ cho kịp chừ chừ chờ lâu
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu

Xuống tay liền tả tám câu năm vần
Thơ rồi này thiếp xin dâng
Ngửa trông lượng rộng văn nhân thể nào.
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào
Ai dè sức gái tài cao bực này


Ðã mau mà lại thêm hay
Chẳng phen Tạ Nữ, cũng tày Từ Phi
Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ
Cho hay tài kém gì tài trai
Như vầy ai nhẫn thua ai

Vân Tiên họa lại một bài trao ra
Xem thơ biết ý xa
Mai hòa vận điệu, điệu hòa vận mai
Có câu xúc cảnh hứng hoài
Ðường xa vòi vọi, dặm dài vơi vơi

Ai ai cũng ở trong trời
Gặp nhau ta đã cạn lời thì thôi.
Vân Tiên từ giã phản hồi
Nguyệt Nga than thở: "Tình ơi là tình!"
Nghĩ mình mà ngán cho mình

Nỗi ân chưa trả, nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương
Dây sầu ai khéo vấn vương vào lòng
Vái cùng Nguyệt Lão hỡi ông
Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.

Hữu tình chi bấy Ngưu Lang
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên
Ðẩy xe cho chị qua miền Hà-Khê
Trải qua dấu thỏ đàng dê


Chim kêu vượn hú, tứ bề nước non
Vái trời cho đặng vuông tròn
Trăm năm cho vẹn lòng son với chàng
Phút đâu đã tới phủ đàng
Kiều công xem thấy lòng càng sinh nghi

Hỏi rằng: Nào trẻ tùy nhi
Cớ sao nên nỗi ra đi một mình?
Nguyệt Nga thưa việc tiền trình
Kiều công tưởng nỗi sự tình chẳng vui.
Nguyệt Nga dạ hãy ngùi ngùi

Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi dòi cơn
Lao đao phận trẻ chi sờn
No nao trả đặng công ơn chi chàng.
Kiều công nghe nói liền can
Dạy rằng: Con hãy nghỉ an mình vàng

Khi nào cha rãnh việc quan
Cho quân quan đó mời chàng sang đây
Sao sao chẳng kíp thi chầy
Cha nguyền trả đặng ơn này thì thôi
Hữu đường con khá tạm lui


Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già.
Tây lầu trống điểm sang ba
Nguyệt Nga còn hãy xót xa phận mình
Dời chân ra chốn hoa đình
Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhơn

Than rằng: Lưu thụy cao sơn
Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm
Chữ tình càng tưởng càng thâm
Muốn pha khó lợt, muốn dầm khôn phai
Vơi vơi đất rộng trời dài

Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền
Trở vào bèn lấy bút nghiên
Ðặt bàn hương án chúc nguyền thần linh
Làu làu một tấm lòng thành
Họa ra một bức tượng hình Vân Tiên.

Than rằng: Ngàn dặm sơn xuyên
Chữ ân để dạ, chữ duyên nhuốm sầu.
Truyện nàng sau hãy còn lâu
Truyện chàng xin kể thứ đầu chép ra
Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga

Giữa đường lại gặp người ra kinh kỳ
Xa xem mặt mũi đen sì
Mình cao đồ sộ dị kỳ rất hung
Nhớ câu bình thủy tương phùng
Anh hùng lại gặp anh hùng một khi.


Chẳng hay danh tính là chi
Một mình mang gói ra đi chuyện gì?
Ðáp rằng ta cũng xuống thi
Hớn Minh tính tự, Ô-mi quê nhà.
Vân Tiên biết lẽ chính tà

Hễ người dị tướng ắt là tài cao
Chữ rằng bằng hữu chi giao
Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây?
Nên rừng há dễ một cây
Muốn cho có đó cùng đây luôn vần.

Kia nơi võ miếu hầu gần
Ðôi ta vào đó nghỉ chân một hồi.
Cùng nhau bày tỏ tên rồi
Hai chàng từ tạ đều lui ra đường
Hớn Minh đi trước tựu trường

Vân Tiên còn hãy hồi hương thăm nhà.
Mừng rằng: Nay con thấy ta
Cha già những tưởng, mẹ già những trông
Bấy lâu đèn sách gia công
Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?

Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng:
Chẳng hơn người cổ cũng bằng người câm (kim)
Dám xin cha mẹ yên tâm
Ðặng con trả nợ thanh khâm cho rồi
Mẹ cha thấy nói thêm vui

Lại lo non nước xa xôi nghìn trùng
Cho theo một gã tiểu đồng
Viết một bức dặn cùng Vân Tiên
Xưa đà định chữ lương duyên
Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang


Con người là Võ Thệ Loan
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà
Chữ rằng Hồ Việt nhất gia
Con đi tới đó trao qua thư này
Con dầu bước đặng thanh mây

Dưới chân đã sẵn một dây tơ hồng
Song thân dạy bảo vừa xong
Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chân
Ra đi tách dặm băng chừng
Gió Nam rày đã đưa xuân qua hè

Lại xem dặm liễu đường hòe
Tin ong ngơ ngác, tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non này
Nước sao sóng dợn, non vầy đà cao
Màn trời gấm trải biết bao

Trên nhành chim nói, dưới ao cá cười
Quận thành nhắm kiểng coi người
Kiểng xinh như vẽ, người tươi như giồi
Hàn-Giang phút đã tới nơi
Vân Tiên ra mắt một hồi trình thư.


Võ công lấy đọc bây giờ
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền
Liếc coi tường mạo Vân Tiên
Khá khen họ Lục phước hiền sinh con
Mày tằm, mắt phụng, môi son,

Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân
Những e kẻ Tấn người Tần
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai
Nhắm đà đẹp đẽ hòa hai
Kìa dâu nam giản, nọ trai đông sàng

Công rằng: Ngãi tế mới sang
Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà.
Tiên rằng: Nhờ lượng nhạc gia
Ðại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo gì
Công rằng: Con dốc xuống thi

Sao không kết bạn mà đi tựu trường
Gần đây có một họ Vương
Tên là Tứ Trực văn chương tốt đời
Cha đà sang trẻ qua mời
Ðặng con cùng gã thử chơi một bài

365. Thấp cao, cao thấp biết tài
Vầy sau trước (trúc) bạn cùng mai mới màu.
Phút đầu Tử Trực tới hầu
Võ công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
Công rằng: Này bớ hai con


Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng liền
Muốn cho Trực sánh cùng Tiên
Lấy câu "bình thủy hữu duyên" làm đề.
Song song hai gã giao kề
Lục, Vương hai họ đua nghề một khi

Cho hay kỳ lại gặp kỳ
Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành
Công rằng: Ðơn quế hai nhành
Bảng vàng, thẻ bạc đã đành làm nêu
Như chuông chẳng đánh sao kêu

Ngọn đèn rạng tỏ trước khêu bởi mình
Thiệt trang lương đống đã đành
Khá khen hai họ tài lành hòa hai.
Trực rằng: Tiên vốn cao tài
Dám đâu én hộc sánh vai một bầy

Tình cờ mà gặp nhau đây
Trực này xin nhượng Tiên rày làm anh
Nay đà nên nghĩa đệ huynh
Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau.
Xảy đâu trăng đã đứng đầu

Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an.
Võ công trở lại hậu đàng
Ðêm khuya dạy bảo Thể Loan mọi lời
Ngày mai vừa rạng chân trời
Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình


Gọi là chút nghĩa tống tình
Phòng sau cho khỏi bất bình cùng nhau,
Bóng trăng vừa lộ nhành dâu
Vân Tiên vào tạ dây lâu xuất hành.
Ra đi từ thuở bình minh

Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung
Thưa rằng: Quân tử phó công
Xin thương bồ liễu chữ tòng ngây thơ
Tấm lòng thương nhớ gió mưa
Ðường xa ngàn dặm xin đưa một lời


Ngày nay thánh chúa trị đời
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng
Quản bao chút phận má hồng
Phòng khuê vò võ đợi trông khôn lường
Chàng dầu cung quế, xuyên dương


Thiếp xin hai chữ tào khương cho bằng
Xin đừng tham đó bỏ đăng
Chơi lê quân lựu, chơi trăng quên đèn.
Tiên rằng: Như lửa mới nhen
Dễ trông một bếp mà chen mấy lò

May duyên rủi nợ dễ phô
Chớ nghi Ngô Khởi, hãy lo Mãi Thần
Thể Loan vội vã lùi chân
Vân Tiên từ biệt trông chừng Trường An
Xa xa vừa mấy dặm đường

Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn đều đi.
Trải qua thủy tú sơn kỳ
Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay
Người hay lại gặp kiểng hay
Khác nào tiên tử chơi rầy Bồng Lai


Cùng nhau tả chút tình hoài
Năm ba chén rượu một vài câu thơ
Công danh ai chẳng ước mơ
Ba tầng cửa Võ một giờ nhảy qua
Cùng nhau bàn bạc gần xa


Chữ tài chữ mệnh xưa hòa ghét nhau
Trực rằng: Rồng xuống vực sâu
Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây
Tiên rằng: Hồng hộc đều bay
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau


Mảng còn trò chuyện với nhau
Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi.
Chênh lệch vừa xé mặt trời
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kỳ
Phút đầy gặp bạn cố tri

Ðều bày tên họ một khi đăng tường.
Một người ở quận Phan-Dương
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn
Một người ở phủ Dương-Xuân
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi.


Hai người kại gặp hai người
Ðều vào một quán vui cười ngả nghiêng,
Kiệm rằng: Nghe tiếng anh Tiên
Nay đà thấy mặt phỉ nguyền ước ao.
Hâm rằng: Chưa biết thấp cao


Làm thơ mới rõ bậc nào tài năng
Bèn kêu ông quán nói rằng:
Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề
Quán rằng: Thịt cá ê hề
Khô lân, chả phụng bộn bề thiếu đâu.


Kìa là thuốc lá ướp ngâu
Trà ve tuyết điểm, rượu bầu cúc hương
Ðể khi đãi khách giàu sang
Ðãi người văn vật, đãi tranh anh hùng.
Bĩ bàng trà rượu đã xong

Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ
Kiệm, Hâm còn hãy ngẩn ngơ
Phút thơ Tiên, Trực, một giờ đều xong.
Kiệm, Hâm xem thấy lạ lùng
Gẫm nghi Tiên, Trực viết tùng cổ thi


Chẳng hay ông quán cười chi
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: Ông quán cười ai?
Quán rằng: Cười kẻ bất tài đồ thơ
Cười người Tôn Tẫn không lừa


Trước đà thấy máy, chẳng ngừa Bàng Quyên.
Trực rằng: Lời nói hữu duyên
Thế trông Kinh sử có tuyền cùng chăng?
Quán rằng: Kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa


Hỏi thời ta phải nói ra
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương
Tiên rằng: Trong đục chưa tường
Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?
Quán rằng: Ghét việc tầm phào

Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Ghét đời Kiệt, Trụ, mê dâm
Ðể dân đến nỗi sa hầm sảy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.


Ghét đời Ngũ Bá phân vân
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn
Ghét đời Thúc Quý phân băc
Sớm đầu, tối đánh, lằng nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân


Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông
Thương thầy Nhan Tử dở dang
Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha


Thương thầy Ðổng Tử cao xa
Chí đà có chí, ngôi mà không ngôi
Thương người Nguyên lượng ngùi ngùi
Lỡ bề giúp nước, lại lui về cày
Thương ông Hàn Dũ chẳng may

Sớm dâng lời biểu tối đầy đi xa
Thương thầy Liêm, Lạc đã ra
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân
Xem qua kinh sử mấy lần
Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương.


Trực rằng: Chùa rách phật vàng
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân
Thương dân sao chẳng lập thân
Ðể khi nắng hạ toan phần làm ma
Quán rằng: Nghiêu Thuấn thủa xưa


Khó khăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do
Di, Tề chẳng khứng giúp Châu
Một mình một núi ai hầu chi ai
Ông Y, ông Phó ôm tài
Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu


Thái Công xưa một cần câu
Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi
Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi
Cày mây cầu nguyệt tả tơi ao cầu
Trần Ðoàn chẳng phút lo âu

Gió trăng một túi, công hầu chiêm bao
Người nay có khác xưa nào
Muốn ra ai cấm, muốn vào ai ngăn
Hâm rằng: Lão quán nói nhăng
Dẫu cho trải việc cũng thằng bán cơm


Gối rơm theo phận gối rơm
Có đâu ở thảo mà chồm lên cao.
Quán rằng: Sấm chớp mưa rào
Ếnh nằm đáy giếng thấy bao năm trời
Sông trong cá lội thảnh thơi


Xem hai con mắt sáng ngời như châu
Uổng thay đàn gảy tai trâu
Nước xao đầu vịt nghĩ lâu nực cười.
Tiên rằng: Ông quán chớ cười
Ðây là nhờ đặng bảy người Trước lâm


Cùng nhau kết bạn đồng tâm
Khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi
Công danh phú quý màng chi
Sao bằng thong thả thả mặc khi vui lòng
Rừng như biển thánh mênh mông

540.Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay
Quán rằng: Ðó biết ý đây
Lời kia đã cạn lời này thưởng cho.
Kiệm, Hân là đứa so đo
Thấy Tiên dường ấy thêm lo trong lòng


Khoa này Tiên ắt đầu công
Hâm dầu có đậu cũng không ra gì.
Mảng còn bàn bạc thị phi
Xảy nghe trống điểm một khi nhập trường
Kẻ hòm, người tráp đầy đường


Lao xao đoàn bảy, chàng ràng lũ ba.
Vân Tiên vừa bước chân ra
Bỗng đâu xẩy gặp tin nhà gửi thư
Khai phong mới tỏ sự cơ
Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.


Hai hàng lụy ngọc nhỏ sa
Trời Nam đất Bắc xót xa đoạn tràng
Anh em ai nấy đều thương
Trời ơi! Há nỡ lấp đường công danh
Những lăm công toại thành danh

 Nào hay từ mẫu u minh sớm rời
Gắng nào trong quán yên nơi
Tớ thầy than thở liệu lời qui lai
Tiểu đồng thở vắn than dài
Trời ơi trời nỡ phụ tài người ngay


Trực rằng: Ðã đến nỗi này
Tiểu đồng bậu hãy làm khuây chớ phiền
Sớm hôm thang thuốc giữ gìn
Chờ ta vài bữa ra tràng sẽ hay
Bây giờ kíp rước thợ may


Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong
Dây rơm mũ bạc áo thùng
Cứ theo trong sách Văn công mà làm.
Tiên rằng; Con Bắc mẹ Nam
Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì


Trong mình không cánh không vi
Lấy chi lướt dặm, lấy chi tách đàng
Nhập tràng phút lại gặp tang
Ngẩn ngơ người ở, ngỡ ngàng kẻ đi.
Việc trong trời đất biết chi

Sao dời, vật đổi còn gì mà trông
Hai hàng lụy ngọc ròng ròng
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu
Cánh buồm bao quản gió xiêu
Ngàn trùng biển rộng, chín chiều ruột đau.


Thương thay chín chữ cù lao
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình
Quán rằng: Trời đất thình lình
Gió mưa đâu phút gãy nhành thiên hương
Ai ai trông thấy cũng thương


Lỡ bề báo hiếu, lỡ đường lập thân
Dẫu cho chước quỷ mưu thần
Phong trần ai cũng phong trần như ai
Éo le ai khéo đặt bày
Chữ tài liền với chữ tai một vần.


Ðường đi một tháng chẳng gần
Khi qua khi lại mấy lần xông pha
Xảy đâu bạn tác vừa ra
Trực cùng Hâm, Kiệm xúm cùng đưa Tiên.
Hâm rằng: Anh chớ ưu phiền

    Câu 600 - 799

Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau
Thấy nhau khó nỗi giúp nhau
Một vừng mây bạc, dàu dàu khá thương
Vân Tiên cất gánh lên đường
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng lụy sa.


Ði vừa một dặm xa xa
Phút đâu ông quán bôn ba theo cùng
Quán rằng: Thương đấng anh hùng
Ðưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân
Chẳng may gặp lúc gian truân

Ðương đi quá đói thuốc thần cũng no
Tiên rằng: Cúi đợi ơn trên
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần
Ta ? ? cũng bâng khuâng
Thấy vầy nên mới tị trần đến đây

Non xanh nước bích vui vầy
Khi đêm rượu cúc, khi ngày trà lan
Dấn thân vào chốn an nhàn
Thoát vòng danh lợi, lánh đàng thị phi
Nói rồi quày quả ra đi

Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng
Trông chừng dặm cũ thẳng xông
Nghĩ đòi cơn lại não nùng đòi cơn
Nên hư chút phận chi sờn
Nhớ câu dưỡng dục, lo ơn sinh thành


Mang câu bất hiếu đã đành
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con
Trọn đời một tấm lòng son
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi
Nào hay nước chảy hoa trôi

Nào hay phận bạc như vôi thế này
Một mình ngơ ngẩn đường mây
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương
Ðến nay lâm việc mới tường
Hèn chi thày dạy khoa trường còn xa

Tiểu đồng thấy vậy thưa qua
Gẫm đây chi đến quê nhà còn lâu
Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu
Mình đã đi mỏi, dòng châu thêm nhuần
E khi mang bệnh nửa chừng


Trong non khó liệu, giữa rừng khôn toan.
Tiên rằng: Khô héo lá gan
Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu
Mịt mù nào thấy chi đâu
Chân đi đã mỏi, mình đau như dần


Có thân phải khổ vì thân
Than ôi! Thân biết mấy lần chẳng may.
Ðồng rằng: Trời đất có hay
Ra đi chưa đặng mấy ngày lại đau
Một mình nhắm trước xem sau

650.Xanh xanh bờ cõi, dàu dàu cỏ cây
Vốn không làng xóm chi đây
Xin lần tới đó tìm thấy thuốc thang.
Vừa may gặp khách qua đàng
Người người đều chỉ vào làng Ðồng Văn

Dắt nhau khi ấy hỏi phăng
Gặp thầy làm thuốc hiệu rằng Thầy Ngang
Ngang rằng: Khá tạm nghỉ an
Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành
Gặp ta bệnh ấy ắt lành

Bạc tiền trong gói sẵn dàng bao nhiêu?
Ðồng rằng: Tiền bạc chẳng nhiều:
Xin thầy nghĩ lượng đặng điều thuốc thang,
May mà bệnh ấy đặng an
Bạc còn hai lượng trao sang cho thày


Ngang rằng: Ta ở chốn này
Ba đời nối nghiệp làm thày vừa ba
Sách chi cũng đũ trong nhà
Nội kinh đã sẵn, ngoại khoa thêm mầu
Trước xem Y học làm đầu

Sau coi Thọ thế, thứ cầu Ðông y
Gẫm trong Ngân hải tinh vi
Cùng là Cang Mục, thua gì Thanh Nang
Gẫm trong Tập nghiệm lương phang
Cùng là Ngự toản trải đàng Hồi xuân

Vị chi sẵn đặt quân thân
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan
Mạch thời đọc phú Lư san
Ðặt vào tay bệnh đàng tử sinh.
Lục quân, tứ vật thanh danh

Thập toàn, bát vị, sẵn dành nội thương
Lại thông bát trận tân phương
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang ngũ sài
Ðồng rằng: Thầy thiệt có tài
Xin vào coi mạch luật bài thuốc chi.


Ngang rằng: Lục bộ đều suy
Bộ quan bên tả, mạch đi phù hồng
Cứ trong Kinh lạc mà thông
Mạng môn tướng hỏa đã xông lên đầu
Tam tiêu, tích nguyệt đã lâu

Muốn cho giáng hỏa phải đầu tư âm
Huỳnh liên, Huỳnh bá, Huỳnh cầm
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình
Ngoài thời cho điểm vạn linh
Trong thời cho uống hoàn tình mới xong



Khá trao hai lượng vàng ròng
Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang
Chẳng qua làm phúc cho chàng
Nào ai đòi cuộc, đòi đàn chi ai
Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài

Vội vàng mở gói, chẳng nài tiền trao
Mười ngày chẳng bớt chút nào
Thêm đau trong dạ như bào như xoi
Ðồng rằng: Vào đó thầy coi
Bệnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm.


Ngang rằng: Nằm thấy khi đêm
Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao
Quỉ thần người ở trên cao
E khi đường sá lẽ nào biết đâu
Tiểu đồng ngươi khá qua cầu

Cùng ông thày bói ở đầu Tây Viên
Tiạu đồng nghe nói đi liền
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi
Bói rằng: Ta bói hẳn hoi
Bói hay đã dậy, ngươi coi đã đầy

Ta đây nào phải các thày
Bá vơ, bá vất, nói nhây không nhằm
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm
Sáu mươi bốn quẻ, ba trăm dư hào
Huỳnh kim, Dã hạc sách cao

Lục nhâm, Lục giáp chỗ nào chẳng hay
Can chi đều ở trong tay
Ðã thông trời đất, lại hay việc người
Ðặt tiền quan mốt bốn mươi
Khay trầu, chén rượu cho tươi mới thành


Thày bèn gieo quẻ đặng linh
Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi
Ứng vào rùa với cỏ thi
Rồi thày coi quẻ một khi mới tường
Ðồng rằng: Người ở Ðông phương

Nhân đi buôn bán giữa đường chẳng an.
Con nhà họ Lục là chàng
Tuổi vừa hai tám, còn đàng thơ ngây.
Bói rằng: Ðinh Mão năm nay
Hàn chi Giáp tí ngày rầy chẳng an

Mạng kim lại ở cung càn
Tuổi này là tuổi giàu sang trên đời
Cầu tài quẻ ấy xa vời
Khen người khéo nói những lời phỉnh ta
Cầm tiền gieo xuống xem qua

Một giao, hai sách, lại ba Hào trùng
Trang thành là quẻ lục xung
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn
Hóa ra làm kẻ du hồn
Lại thêm thế động khắc dồn hào quan


Cứ trông quẻ ấy mà bàn
Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình
Xui nên phát bịnh thình lình
Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng
Muốn cho bệnh ấy đặng yên

Phải tìm thày Pháp chữa chuyên ít ngày
Ðồng rằng: Pháp ở đâu đây
Bói rằng: Cũng ở chốn này bước ra.
Pháp hay dậy tiếng đồn xa
Tên là Ðạo sĩ ở Trà Hương thôn

Tiểu đồng mới chạy bôn bôn
Hỏi thăm đạo sĩ Hương thôn chốn nào
Chợ đông buôn bán lao xao
Người ta chỉ vào nhà ở chẳng xa,
Ðồng đi một buổi tới nhà

Ðạo sĩ xem thấy, lòng mà mừng thay
Ðồng rằng: Nghe tiếng thày đây
Trừ ma, ếm quỉ, phép thày rất hay
Pháp rằng: ấn đã cao tay
Lại thêm phù chú xưa nay ai bì


Qua sông cá thấy xếp vi
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa
Pháp hay gió hú kêu mưa
Sai chim, khiến vượn, đuổi lừa, vật trâu
Pháp hay miệng niệm một câu

Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh
Phép hay sái đậu thành binh
Bện hình làm tướng phá thành Diêm Vương
Phép hay đạo hỏa phó thang
Ngồi gươm , đứng giáo khai đàng thiên hoang

Có ba lượng bạc trao sang
Ðặng thày sắm sửa lập chữa cho
Ðồng rằng: Tôi chẳng so đo
Khuyên thày ra sức chớ lo kho giàu
Bấy lâu thày tớ theo nhau

Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng
Chữa chuyên bệnh ấy đặng an
Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy
Pháp rằng: Về lấy sang đây
Cho thầy toan liệu lập đàn bày ra


Ðồng rằng: Tôi đã lo xa
Cực vì người bệnh ở nhà chẳng yên
Xin thày gắng sức chịu phiền
Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào,
Pháp rằng: Có khó chi sao

Người nằm ta chữa rồi trao phù về
Ðồng rằng: Tôi vốn thằng hề
Bệnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?
Pháp rằng: Ta biết kinh quyền
Ðau Nam chữa Bắc mà thuyên mới tài

Tiểu đồng nghe lọt vào tai
Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên
Pháp bàn cất tiếng hét lên
Mời ông Bàn cổ tọa tiền chứng miêng
Thỉnh ông Ðại thánh Tề thiên


    Câu 800 - 999.

Thỉnh bà Vũ Hậu đều liền đắn đây
Thỉnh ông Nguyên soái Chinh Tây
Cùng bà Vương mẫu sum vầy một khi
Thỉnh ông Phật tổ A Di
Thập phương chư Phật phù trì giúp ông


Lại mời công chúa Ngũ Long
Bình Nam ngũ hổ hội đồng an dinh
Thỉnh trong thiên tướng, thiên binh
Cùng là tam phủ Ðộng-Ðình xích lân
Thỉnh trong khắp hết quỉ thần

Cũng đều xuống chốn dương trần vui chơi
Cho người ba đạo phù trời
Uống vào khoẽ mạnh như lời chẳng sai,
Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời
Lấy phù trợ lại toan bài thuốc thang

Vào nhà thưa với thầy Ngang
Pháp phù đã đũ thày toan phương nào?
Ngang rằng còn bạc trong bao
Thời ngươi khá lấy mà trao cho thày
Ðồng rằng: Tôi hãy ở đây

Bệnh kia dầu khá mình này bán đi
Triệu Ngang biết chẳng còn chi
Kiếm lời tráo chác đuổi đi khỏi vòng
Ở đâu hàng xóm khó lòng
E khi mưa nắng ai phòng đỡ che


Ðồng rằng: Trong gói vắng hoe
Bởi tin nên mắc, bởi lo nên lầm
Những lo chạy hết một trăm
Một ve khô xép, ruột tằm héo don
Thương thay tiền mất tật còn

Bơ vơ đất khách thon von thế này
Thôi thôi gắng gượng khỏi đây
Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu
Tiểu đồng dìu dắt qua cầu Lá Buôn

Ðương khi mưa gió luông tuồng
Người buồn lại gặp cảnh buồn khá thương
Xiết bao ăn tuyết nằm sương
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao
Dẫu cho tài trí bậc nào

Gặp cơn nguy biến biết sao cho thường
Bơ vơ lạ khách tha hương
Nhân tình nào biết ai thương mà nhờ
Tiên rằng: đi đã ngất ngơ
Tìm cây cối bụi bờ nghỉ chân


Ðồng rằng: Chốc nữa khỏi rừng
Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi
Non Tây vừa khuất mặt trời
Tớ thày dìu dắt tới nơi Ðại đề
Trường thi một lũ vừa về

Trịnh Hâm xem lại thấy kề hỏi thăm
Anh về nay đã hai rằm
Cớ sao mang bệnh còn nằm nơi đây
Tiên rằng:Tôi vốn chẳng may
Chẳng hay chư hữu khoa này thể nao?

Hâm rằng: Tử Trực đỗ cao
Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân
Một tôi về trước viếng thân
Hai người trở việc có lần đi sau
Ðương cơn hoạn nạn gặp nhau

Người lành nỡ bỏ người đau sao đành
Từ đây tới quận Ðông thành
Trong mình có bệnh bộ hành sao xong
Lần hồi đến chốn giang trung
Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau


Tiên rằng: Tình trước ngãi sau
Có thương xin khá giúp nhau phen này
Hâm rằng: Anh tạm ngồi đây
Tiểu đồng ngươi tới trước này cùng ta
Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa

Phòng khi sóng biển phong ba bất kỳ
Tiểu đồng vội vã ra đi
Muốn cho đặng việc quản gì lao đao
Trịnh Hâm trong dạ gươm đao
Bắt người đồng tử trói vào gốc cây

Trước cho hùm cọp ăn mày
Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong
Vân Tiên ngồi những đợi trông
Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn
Vân Tiên than khóc nằm lăn

Có đâu điạ hãm thiên băng thình lình
Bấy lâu đất khách lưu linh
Một thày một tớ lộ trình nuôi nhau
Này đà hai ngã phân nhau
Còn ai nâng trước, đỡ sau cho mình


Hâm rằng: Anh chớ ngại tình
Tôi xin đưa tới Ðông thành thời thôi
Vân Tiên chi xiết lụy rơi
Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề
Tiểu đồng bị trói khôn về

Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang
Phần mình còn mất chi màng
Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ
Xiết bao nhưng nỗi vật vờ
Ðò giang nào biết, bụi bờ nào hay

Vân Tiên hồn có linh rày
Ðem tôi theo với đỡ chân tay cùng
Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng
Ðêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quên
Sơn quân ghé lại một bên

Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng
Tiểu đồng thức dậy mơ màng
Xem qua dấu vết ràng ràng mới hay
Nửa mừng nửa lại sợ thay
Chạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân Tiên


Mặt trời vừa khỏi mái hiên
Người buôn kẻ bán chợ phiên rộn ràng
Hỏi thăm bà quán giữa đàng
Bữa qua có mấy người tang chăng là?
Quán rằng: Thôi đã ra ma

Khi mai xóm làng người đà đi chôn
Tiểu đồng nghe nói kinh hồn
Hỏi rằng biết chỗ nào chôn chỉ chừng
Tay lau nước mắt rưng rưng
Xẩy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao

Tiểu đồng vội vã bước vào
Xóm làng mới hỏi: Thằng nào tới đây?
Ðồng rằng tớ tới kiếm thầy
Chẳng hay người thác mả này là ai?
Người rằng: Một gã con trai

Ở đâu khôn biết, lạc loài tới đây
Chân tay, mặt mũi tốt thay
Ðau chi nên nỗi nước này khá thương.
Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han
Nằm lăn bên mả khóc than một hồi


Người người xem thấy thương ôi
Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng
Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang
Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề
Một mình ở đất Ðại Ðề

Sớm đi khuyên giáo, tối về quảy đơm
Dốc lòng trả nợ áo cơm
Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền
Thứ này đến thứ Vân Tiên
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than

Trong khăn lụy nhỏ be thuyền thở than
Cám thương phận tớ mắc nàn khi không
Lênh đênh thuyền giữa biển Ðông
Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ
Ðêm khuya lặng lẽ như tờ

Nghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay
Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha


Trong thuyền ai nấy kêu la
Ðều thương họ Lục, xót xa tấm lòng
Vân Tiên mình lụy giữa dòng
Giao long dìu đỡ vào trong bãi rầy
Vừa may trời đã sáng ngày

Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày
Vân Tiên vừa ấm chân tay
Ngìn ngơ hồn phách như say mới rồi

Ngỡ là mình phải nước trôi
Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian
Ngư ông khi ấy hỏi han
Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa
Ngư rằng: Người ở cùng ta

Hôm mai hẩm hút một nhà cho vui
Tiên rằng: Ông lấy chi nuôi
Thân tôi như thể trái mùi trên cây
May mà trôi nổi đến đây
Không chi báo đáp, mình này trơ trơ


Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa, há chờ trả ơn
Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây
Rày doi mai vịnh vui vầy

Ngày kia hứng gió, đêm này chơi trăng
Một mình thong thả làm ăn
Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm
Nghêu ngao nay chích mai dầm
Một bầu trời đất vui thầm ai hay

Kinh luân đã sẵn trong tay
Thung dung dưới thế, vui say trong trời
Thuyền nan một chiếc ở đời
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang
Tiên rằng: Vậy cũng một làng

Võ công người ở gần đàng đây chăng?
Ngư rằng: Nhà ở cũng gần
Khỏi ba khúc vịnh thời lần đến nơi
Tiên rằng: Xưa đã gá lời
Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương


Vợ chồng là đạo tào khương
Chi bằng tới đó tìm phương gửi mình
Trăm năm muốn trọn ân tình
Ðương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau
Chút nhờ cứu tử ơn sâu

Xin đưa tới đó trước sau cho tròn.
Ngư rằng: Làm đạo rạ con
Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim
Sợ bay mà mỏi cánh chim
Bơ vơ cảnh lạ khôn tìm cây xua

E khi chậm bước tới trưa
Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm
Mấy ai ở đặng hảo tâm
Nắng đun chóp nón mưa dầm áo tơi
Mấy ai hay nghĩ sự đời

    Câu 1000 - 1199.

Nhớ nơi nghèo khổ, quên nơi sang giàu
Ðã ba thứ tóc trên đầu
Gẫm trong sự thể thêm âu cho đời
Vân Tiên thưa đã hết lời
Ngư ông chẳng đã tách rời đưa sang


Dắt Tiên vào trước tiền đàng
Vũ công xem thấy lòng càng hổ ngươi
Chẳng qua sợ thế gian cười
Một lòng gượng gạo chào người ngày xưa
Ngư ông đã có công đưa

Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn
Ngư rằng lòng lão chẳng sờn
Xin tròn nhân ngãi còn hơn bạc vàng
Nhớ xưa trong núi Lư san
Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ viên

Tới sau đình trưởng đỗ thuyền
Giúp ngươi Hạng Võ qua miền Ô-giang
Xưa còn thương kẻ mắc nàn
Huống nay ai đã quên đàng ngãi nhân
Một lời gắng giúp keo sơn

Ngư ông từ giã lui chân xuống thuyền
Võ công không ngớt lòng phiền
Ân tình, thế lợi khó tuyền đặng vay
Dạy Tiên: Ngươi hãy ngồi đây
Cho ta trở lại sau này lo toan


Công rằng: Hỡi mụ Quỳnh Trang
Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào
Mặc bay toan liệu làm sao
Vốn không ép vợ, nỡ nào ép con
Loan rằng: Gót đỏ như son

Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn
Ai cho sen muống một bồn
Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê
Thà không trót chịu một bề
Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu

Dốc lòng chờ đợi danh nhu
Rễ đâu có rễ đui mù thể nay
Ðã nghe người nói hội này
Rằng Vương Tử Trực đậu rày thủ khoa
Ta dầu muốn kết sui gia

Họ Vương, họ Võ một nhà mới xinh
Công rằng: Muốn trọn việc mình
Phải toan một chước dứt tình mới xong
Nghe rằng trong núi Thương tòng
Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra


Ðông thành ngàn dặm còn xa
Ðem chàng bỏ đó ai mà biết đâu
Phút vừa trăng đã đứng đầu
Vân Tiên ngồi trước nhà cầu thở than
Võ công ra đó dỗ chàng

Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Ðông thành
Ra đi đương lúc tam canh
Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên
Bỏ rồi rón rén bước liền
Xuồng gay chèo quế dời thuyền tách xa

Tiên rằng: Các chú đưa ta
Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay
Ghi lòng dốc trọn thảo ngay
Một phen mà khỏi, ngàn ngày chẳng quên
Lặng nghe văng vẳng hai bên

Tay lần hang tối đá trên chập chờn
Vân Tiên khi ấy hãi hùng
Nghĩ ra mới biết Võ công hại mình
Nực cười con tạo trớ trinh
Chữ duyên tráo chác, chữ tình lãng xao


Nghĩ mình tai nạn xiết bao
Mới lên khỏi biển, lại vào trong hang
Dây sầu ai khéo vương mang
Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo
Trong hang sau trước quạnh hiu

Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi
Oan gia nợ đã khéo gây
Ôi thôi thân thể còn gì mà toan
Ðã đành xa cõi nhân gian
Dựa mình vào chồn thạch bàn nằm co

Ðêm khuya ngọn gió thổi lò
Sương sa lác đác, mưa tro lạnh lùng
Năm ngày nhịn đói khát ròng
Nhờ ba hườn thuốc đỡ lòng hôm mai
Du thần xem thấy ai hoài

Xét trong mình gã có bài phù tiên
Mới hay là LụcVân Tiên
Cùng nhau dìu dắt đều liền đem ra
Khỏi hang một dặm vừa xa
Ðến nơi đại lộc trời đà hửng đông


Du thần trở lại sơn trung
Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man
Lão tiều cơm gói sẵn sàng
Sớm mai sách búa đi ngang qua rừng
Tới đường đại lộc là chừng

Xẩy nghe có tiếng trong rừng thở than
Hay là yêu quái tà gian
Rung cây nhát lão làm đường hại nhân
Lão tiều liền bước lại gần
Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn

Chi bằng lên tiếng hỏi han
Nhân sao mắc việc tai nàn thế nay?
Vân Tiên nghe tiếng mừng thay
Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau
Lão tiều nghe nói giờ lâu

Gẫm trong thế sự lắc đầu thở than
ít người trong tuyết đưa than
Khó ngồi giữa chợ, ai màng đoái thương
Vân Tiên nghe nói mới tường
Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay


Ngửa trông lượng cả cao dày
Cứu trong một thuở ơn đầy tái sinh
Mai sau về tới Ðông thành
Ðền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi
Lão tiều mới nói thôi thôi

Làm ơn mà lại trông hồi sao hay
Già hay thương kẻ thảo ngay
Này thôi để lão dắt nay về nhà
Tiên rằng: Trong dạ xót xa
Nay đà sáu bữa không hòa mùi chi

Lại thêm rũ liệt tứ chi
Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi
Lão tiều này ngỡ nực cười
Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên
Gắng mà ăn uống cho yên

Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà
Khỏi ra rừng tới ngã ba
May đâu gặp một chàng là Hớn Minh
Lão tiều lật đật bôn trình
Hớn Minh theo hỏi sự tình một khi


Vân Tiên nghe nói cố tri
Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình
Minh rằng: Dám hỏi nhân huynh
Cớ sao nên nỗi thân hình thế ni?
Tiên rằng: Chẳng xiết nói chi

Thân này nào có khác gì cây trôi
Lênh đênh gió dập sóng giồi
Rồi đây mai đó, khôn rồi gian nan
Minh rằng: Ðây khó hỏi han
Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau

Tiều rằng: Chẳng dám ngồi lâu
Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên
Hớn Minh quỳ gối lạy liều
Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành
Nay hai lạng bạc trong mình

Tôi xin báo đáp chút tình cho ông
Tiều rằng: Lão vốn tay không
Một mình ngẩn ngơ non tòng hôm mai
Tấm lòng chẳng muốn của ai
Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng


Kìa non nọ nước thong dong
Trăng thanh gió mát, bạn cùng hươu nai
Công hầu phú quí mặc ai
Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày
Vân Tiên nghe biết người ngay

Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn
Lão tiều trở lại lâm sơn
Tiên, Minh vội vã phản hoàn am mây
Tiên rằng: Ðã gặp khoa này
Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì?

Minh rằng: Xưa dốc xuống thi
Gặp nơi miếu võ cùng đi một lần
Anh thì trở lại viếng thân
Tôi thì mang gói trước lần xuống kinh
Ði vừa tới phủ Ô Minh

Gặp con quan huyện Ðặng Sinh là chàng
Giàu sang ỷ thế dọc ngang
Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì
Tôi bèn nổi giận một khi
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò


Mình làm nỡ để ai lo
Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng.
Án đày ra quận Sóc phang
Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây
Vừa may lại gặp chùa này

Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương
Vân Tiên nghe nói thảm thương
Lại bày mọi khúc tai ương phận mình
Minh nghe Tiên nói động tình
Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng

Tiên rằng: Thương cội thung huyên
Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao
Trông con như hạn trông dào
Mình này trôi nổi phương nào biết đâu
Vầng mây giăng bạc trên đầu

Ba năm chưa trọn một câu sinh thành
Hữu tam bất hiếu đã đành
Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan
Tưởng thôi như cắt ruột gan
Quặn đau chín khúc, chứa chan mấy lần.


Minh rằng: Người ở trong trần
Có khi phú quí, có lần gian nan
Thấp cao vàng biết tuổi vàng
Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê
Thôi thôi anh chớ vội về

Ở đây nương náu toan bề thuốc thang
Bao giờ hết lúc tai nàn
Ðem nhau ta sẽ lập đàng công danh
Cam La sớm gặp cũng xinh
Muộn mà Khương tử cũng vinh một đời

Nên hư có số ở trời
Bôn chôn sao khỏi, đổi dời sao xong
Vân Tiên khi ấy an lòng
ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh
Võ công làm việc trớ trinh

    Câu 1200 - 1399.

Dứt tình họ Lục, mến tình họ Vương.
Kể từ định chước hại chàng
Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui
Ngày ngày trang điểm phấn giồi
Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê


Xẩy đâu Tử Trực vừa về
Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên
Công rằng: Chớ hỏi thêm phiền
Trước đà lâm bệnh huỳnh tuyền xa chơi
Thương chàng phận bạc ở đời

Cũng vì Nguyệt Lão xe lơi mối hồng
Nghe qua Tử Trực chạnh lòng
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa
Than rằng: Chạnh nhớ linh xưa
Nghĩa đà kết nghĩa, tình chưa phỉ tình

Trời sao nỡ phụ tài lành
Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn
Cùng nhau chưa đặng vuông tròn
Người đà sớm thác ta còn làm chi
Trong đời mấy bậc cố tri

Mấy trang đồng đạo, mấy người đồng tâm
Công rằng: Lão cũng thương thầm
Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang
Thôi thôi khuyên chớ thở than
Lão đà tính đặng một đàng rất hay


Tới đây thì ở lại đây
Cùng con gái lão sum vầy thất gia
Phòng khi hôm sớm vào ra
Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên
Trực rằng: Ngòi viết đĩa nghiên

1230.Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau
Vợ Tiên là Trực chị dâu
Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì
Chẳng hay người học sách chi
Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe

Hay là học thói nước Tề
Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công
Hay là học thói Ðường cung
Vợ người Tiểu Lạc sánh cùng Thế Dân
Người nay nào phải người Tần

Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm
Nói sao chẳng biết hổ thầm
Người ta há phải là cầm thú sao
Võ công hổ thẹn biết bao
Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua


Thể Loan trong trướng bước ra
Miệng cháo: Thày Cử tân khoa mới về
Thiếp đà chẳng trọn lời thề
Lỡ bề sửa tráp lỗi bề nâng khăn
Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng

Ðêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy
Chẳng ưng thì cũng làm khuây
Nỡ buông lời nói chẳng vì, chẳng kiêng
Trực rằng: Ai Lữ Phụng Tiên
Hòng toan đem thói Ðiêu Thuyền trêu ngươi

Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi
Lòng nào mà lỡ buông lời nguyệt hoa
Hổ hang vậy cũng người ta
So loài cầm thú vậy mà khác chi
Vân Tiên anh hỡi cố tri

Suối vàng có biết sự ni chăng là
Tay lau nước mắt trở ra
Về nhà sắm sửa tìm qua Ðông thành
Võ công hổ thẹn trong mình
Năm ngày nhuốm bệnh thất tình chết oan


Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang
Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà
Ðoạn này đến thứ Nguyệt Nga
Hà khê phủ ấy theo cha học hành
Kiều công lên chức Thái khanh

Chỉ sai ra quận Ðông thành chăn dân
Ra tờ khắp hết xa gần
Hỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơi
Khiến quân đem bức thư mời
Lục ông vâng lệnh tới nơi dinh tiền

Kiều công hỏi truyện Vân Tiên
Lục ông nhớ đến bỗng liền khóc than
Thưa rằng: Nghe tiếng đồn vang
Con tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thây
Biệt tin từ ấy nhẫn nay

Phút nghe người hỏi dạ này xốn xang
Kiều công trong dạ bàng hoàng
Trở vào thuật lại cùng nàng Nguyệt Nga
Lục ông người nói cùng cha
Duyên con rày đã trôi hoa dạt bào


Riêng than chút phận tơ điều
Hán giang chưa gặp, Ô kiều lại rơi
Nàng rằng quả thiệt như lời
Xin cha sai kẻ mời người vào trong
Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng

Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa
Công rằng: Nào bức tượng xưa
Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhìn
Lục ông một buổi ngồi nhìn
Tay chân mặt mũi giống y con mình

Nguyệt Nga lạy gửi phân minh
Lục ông khi ấy sự tình mới hay
Thương con phận bạc lắm thay
Nguyền xưa còn đó, con rày đi đâu
Nguyệt Nga chi xiết nỗi sầu

Lục ông thấy vậy càng đau gan vàng
Kiếm lời khuyên giải với nàng
Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu
Người đời như bóng phù du
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng


Cũng như đống tịch đồng sàng
Cũng chưa nên nghĩa tào khang đâu mà
Cũng như cửa sổ ngựa qua
Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền
Nàng rằng: Trước đã trọn nguyền

Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ
Công rằng: Ơn trước ngãi xưa
Liền đem vàng bạc tạ đưa cho người
Lục ông cáo tạ xin lui
Tôi đâu dám chịu của người làm chi

Ngỡ là con trẻ mất đi
Hay đâu cốt cách còn ghi tượng này
Bây giờ con lại thấy đây
Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào?
Ngửa than: Ðất rộng trời cao

Tre còn măng mất, lẽ nào cho cân
Lục ông tạ từ lui chân
Kiều công sai kẻ gia thần đưa sang
Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than
Năm canh lụy ngọc, xốn xang lòng vàng


Nhớ khi thề thốt giữa đàng
Chưa nguôi nỗi thảm, lại vương lấy sầu
Công đà chờ đợi bấy lâu
Thà không cho gặp buổi đầu thì thôi
Biết nhau chưa đặng mấy hồi

Kẻ còn người mất trời ơi là trời
Thề xưa tạc dạ ghi lời
Thương người quân tử biết đời nào phai
Tiếc thay một bậc anh tài
Nghề văn, nghệp võ nào ai dám bì

Thương vì đèn sách lòng ghi
Uổng công nào thấy tiếng là gì đâu
Thương vì hai tám trên đầu
Người đời như bóng phù du lỡ làng
Thương vì chưa đặng hiển vang

Nước trôi sự nghiệp, hoa tàn công danh
Thương vì đôi lứa chẳng thành
Vùa hương, bát nước ai dành ngày sau
Năm canh chẳng ngớt giọt châu
Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần


Dương gian nay chẳng đặng gần
Âm cung biết có thành thân chăng là
Kiều công thức dậy bước ra
Nghe con than khóc, xót xa lòng vàng
Khuyên rằng: Con chớ cưu mang

Gẫm trong còn mất là đường xưa nay
Ðàn cầm ai nỡ dứt dây
Chẳng qua con tạo đổi xây không thường
Nàng rằng: Khôn xiết nỗi thương
Khi không gẫy gánh giữa đường chẳng hay

1Nay đà loan phụng rẽ bầy
Nêm nghiêng, gối chính phận này đã cam
Trăm năm thề chẳng lòng phàm
Sông Ngân đưa bạn, cầu Lam rước người
Thân con còn đứng giữa trời

Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi
Kiều công trong dạ chẳng vui:
"Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?"
Có người sang cả, ngôi cao
Thái sư chức trọng trong trào sắc phong


Nghe đồn con gái Kiều công
Tuổi vừa hai tám, tơ hồng chưa xăng
Thái sư dùng lễ vật sang
Mượn người mai chước kết đàng sui gia
Kiều công khôn ép Nguyệt Nga

Lễ nghi đưa lại về nhà Thái sư
Thái sư chẳng biết rộng suy
Ðem điều oán giận sớm ghi vào lòng
Xẩy đâu giặc mọi làm hung
Ô-qua quốc hiệu, binh nhung dấy loàn

Ðánh vào tới cửa Ðồng-Quan
Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần
Sao cho vững nước an dân
Các quan ai biết mưu thần bày ra
Thái sư sẵn có cừu nhà

Vội vàng quỳ gối tâu qua ngai vàng
Thuở xưa giặc mọi dấy loàn
Cũng vì tham sắc phá tàn Trung Hoa
Muốn cho an giặc Ô-qua
Ðưa con gái tốt giao hòa thì xong


.Nguyệt Nga là gái Kiều công
Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh
Nàng đã sắc khuynh thành
Lại thêm rất bậc tài tình hào hoa
Ðưa nàng về nước Ô-qua

Phiên vương ưng dạ ắt là bãi binh
Sở vương nghe tấu thuận tình
Châu phê khiến sứ ra dinh Ðông-thành
Sắc phong Kiều Lão Thái Khanh
Việc trong nhà nước, trẫm đành cậy ngươi

Nguyệt Nga nàng ấy nên người
Lựa ngày tháng chín, hai mươi cống Hồ
Kiều công vâng lệnh nhà vua
Lẽ nào mà dám nói phô điều nào
Nguyệt Nga trong dạ như bào

    Câu 1400 - 1599.

Canh chày chẳng ngủ những thao thức hoài
Thất tình trâm nọ biếng cài
Dựa mành bỏ xõa tóc dài ngồi lo
Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ
Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên


Hanh Ngươn sau cũng chẳng yên
Vì người Lư Kỷ cựu hiềm còn ghi
Hai nàng chẳng đã phải đi
Một vì ngay chúa, một vì thảo cha
Chiêu Quân nhảy xuống giang hà

Thương vua nhà Hán, nàng đà quyên sinh
Hạnh Ngươn nhảy xuống Trì-linh
Thương người Lương Ngọc duyên lành phôi pha
Ðến nay phận bạc là ta
Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân

1415.Tình phu phụ nghĩa quần thần
Nghĩa xa cũng trọn, ơn gần cũng nên
Nghĩa tình nặng cả hai bên
Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng
Sao sao một thác thời xong

Lấy mình báo chúa, lấy lòng sự phu
Kiều công nương gối đang lo
Nghe con than thở mấy câu thêm phiền
Kêu vào ngồi dựa trướng tiền
Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh


Chẳng qua là việc triều đình
Nào cho có muốn ép tình con chi
Nàng rằng: Con kể chi con
Bơ vơ chút phận, mất còn quản bao
Thương cha tuổi tác đã cao

E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu
Tuổi già bóng xế nhành dâu
Sớm xem tối xét, ai hầu cho cha
Công rằng: Chi xá việc nhà
Hãy an dạ trẻ mà qua nước người

Hôm nay đã tới mồng mười
Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành
Nàng rằng: Việc ấy đã đành
Còn lo hai chữ ân tình chưa xong
Con xin sang lạy Lục ông

Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên
Ngõ cho nhân nghĩa vẹn tuyền
Phòng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhau
Kiều công biết nghĩ trước sau
Dạy đem tiền bạc cấp hầu đưa đi


Lục ông ra rước một khi
Nguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàng
Ngày lành giờ ngọ đăng đàn
Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên
Mở ra bức tượng treo lên

Trong nhà cho tới láng giềng đều thương
Nguyệt Nga cất tiếng khóc than
Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay
Bảy ngày rồi việc làm chay
Bàn đem tiền bạc tạ rày Lục ông

1455.Trông chồng mà chẳng thấy chồng
Ðã đành một chữ má hồng vô duyên
Rày vua gả thiềp về Phiên
Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau
Chẳng chi cũng gọi là dâu

1460.Muốn lo việc nước, phải âu việc nhà
Một ngày một bước một xa
Của này để lại cho cha dưỡng già.
Lạy rồi nước mắt nhỏ sa
Ngùi ngùi từ giã bước ra trở về


Các quan xe giá bộn bề
Năm mươi thể nữ hầu kề chân tay
Hai mươi nay đã đến ngày
Các quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyền
Nguyệt Nga vội khiến Kim Liên

Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua
Công rằng: Dạ đã xót xa
Con đừng dùn thẳng cho cha thảm sầu
Nàng rằng: Nước non cao sâu
Từ đây xa cách khôn hầu thấy cha

Thân con về đất Ô-qua
Ðã đành một nỗi làm ma đất người
Hai phương Nam Bắc cách vời
Con xin gửi lại một lời làm khuây
Hiu hiu gió thổi ngọn cây

Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha
Kiều công lụy ngọc nhỏ sa
Các quan ai nấy đều thương
Chẳng qua việc ở quân vương
Cho nên phụ tử hai đường xa xuôi


Buồm trương thuyền vội tách vời
Các quan đưa đón ngùi ngùi đứng trông
Mười ngày đã tới ải Ðồng
Mênh mông biển rộng đùng đùng sóng xao
Ðêm nay chẳng biết đêm nào

Bóng trăng vặc vặc, bóng sao mờ mờ
Trời trên lặng lẽ như tờ
Nguyệt Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng tròn
Than rằng: Nọ nước kìa non
Cảnh thời thấy đó, người còn về đâu

Quân hầu đều ngủ đã lâu
Lui ra một bức rèm châu một mình
Vắng người có bóng trăng thanh
Trăm năm xin gửi chút tình lại đây
Vân Tiên anh hỡi có hay

Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng
Than rồi lấy tượng vai mang
Nhằm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay
Kim Liên thức dậy hoảng thay
Cùng quân thạ nữ một bầy đều lo


Cùng nhau đều chẳng dám hô
Thầm toan mưu kế chẳng lo lậu tình
Việc này là việc triều đình
Ðốc quan hay đặng ắt mình thác oan
Muốn cho cẩn nhiệm trăm đàng

Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga
Trá hôn về nước Ô qua
Ai mà vạch lá, ai mà tìm sâu
Tính rồi xong xả chước mầu
Phút đâu thuyền đã đến đầu ải quan

Ðốc quan xe giá sửa sang
Kiệu trương long phụng, rước nàng về Phiên
Ai hay tì tất Kim Liên
Ðặng làm hoàng hậu nước Phiên trọn đời
Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời

1Sóng thần đưa đẩy vào nơi bãi rày
Bóng trăng vừa khuất ngọn cây
Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày âm cung
Xiết bao sương tuyết đêm đông
Mình nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay


Quan âm thương gái thảo ngay
Bèn đem làng lại để rày vườn hoa
Dăn rằng: Nàng hỡi Nguyệt Nga
Tìm nơi nương náu cho qua tháng ngày
Ðôi ba năm nữa gần đây

Vợ chồng sau sẽ xum vầy một nơi
Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi
Ðịnh hồn mới nghĩ mấy lời chiêm bao
Thiệt hư chưa biết làm sao
Bây giờ biết kiếm nơi nào gửi thân

Một mình luống những bâng khuâng
Phút đâu trời đã rạng hừng vừng đông
Một mình mang bức tượng chồng
Xẩy đâu lại gặp Bùi ông dạo vườn
Ông rằng: Nàng ở hà phương

Việc chi mà tới trong vườn hoa ta
Nàng rằng: Trận gió hôm qua
Chìm thuyền nên nỗi mình ra thế này
Tối tăm sẩy bước tới đây
Xin soi xét tới thơ ngây lạc đường


Bùi ông đứng ngắm tướng nàng
Chẳng tranh đài các cũng hàng trâm anh
Ðầu đuôi han hỏi sự tình
Nàng bàn lời thiệt việc mình bày qua
Bùi ông mừng rước về nhà

Thay đổi xiêm áo nuôi mà làm con
Rằng: Ta sinh đặng chồi non
Tên là Bùi Kiệm hãy còn ở kinh
Trong nhà không gái hậu sinh
Ngày nay lại gặp minh linh phước trời

Nguyệt Nga ở đã an nơi
Ðêm đêm nghĩ lượng sự đời gần xa
Một lo về nước Ô-qua
E vua bắt tội cha già rất oan
Hai lo phận gái hồng nhan

Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ gì
Nguyệt Nga luống những sầu bi
Xẩy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhà
Từ ngày thấy mặt Nguyệt Nga.
Ðêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần


Thấy nàng thờ bức tượng nhân
Nghiệm trong tình ý dần lân hỏi liền
Tượng này sao giống Vân Tiên
Bấy lâu thờ có linh thiêng điều gì?
Nàng rằng: Làm phận nữ nhi

Một câu chánh tiết phải ghi vào lòng
Trăm năm cho trọn đạo tòng
Sống sao thác vậy, một chồng mà thôi
Kiệm rằng: Nàng nói sai rồi
Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa

Làm người trong cõi gió mưa
Bảy mươi mấy mặt người xưa thấy nào
Chúa xuân còn ở vườn đào
Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần
Chúa xuân ra khỏi vườn xuân

Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang
Ở đời ai cậy sang giàu
Ba xuân dẫu hết ngàn vàng khôn mua
Hay chi như vãi ở chùa
Một căn cửa khép, bốn mùa lạnh tanh


Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước gửi mình vào đâu
Ai từng mặc áo không bâu
Ăn cơm không đũa, ăn trầu không cau
Nàng sao chẳng nghĩ trước sau

Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình,
Nàng rằng: Tằng đọc sử kinh
Làm thân con gái chữ trinh làm đầu
Chẳng phen thói nước Trịnh đâu
Hẹn người tới giữa vườn dâu tự tình

Kiệm rằng: Ðã biết sử kinh
Sao không suy xét để nằm không
Hồ Dương xưa mới góa chồng
Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa
Hạ cơ lớn nhỏ đều ưa

    Câu 1600 - 1799

Sớm đưa Doãn Phủ, tối ngừa Trần Quân
Hán xưa Lữ hậu thanh xuân
Còn vua Cao tổ mấy dừng Dị Ky
Ðường xưa Võ hậu thiệt gì
Di Tông khi trẻ, Tam Tư lúc già

Cứ trong sách vở nói ra
Một đời sung sướng cũng qua một đời
Ai ai cũng ở trong đời
Chính chuyên, trắc nết chết thời cũng ma
Người ta chẳng lấy người ta

Người ta đâu lấy những là tượng nhân
Cho nên tiếc phận hồng nhan
Học đòi Như ý vẽ chàng Văn Quâ
Nguyệt Nga biết đứa tiểu nhân
Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi

Bùi ông ngon ngọt trau dồi
Dỗ nàng cho đặng sánh đôi con mình
Làm người chấp nhất sao đành
Hễ là lịch sự, có kinh có quyền
Tới đây duyên đã bén duyên

Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai
Nhớ câu: Xuân bất tái lai
Ngày nay hoa nở, e mai hoa tàn
Làm chi thiệt phận hồng nhan
Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng


Vọng phu xưa cũng trông chồng
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha
Thôi thôi khuyên chớ thở ra
Vầy cùng con lão một nhà cho xuôi
Nguyệt Nga giả dạng mừng vui

Thưa rằng:Người có công nuôi bấy chầy
Tôi xin dám gửi lời này
Hãy tua chậm chậm sẽ vầy nhân duyên
Tôi xin lạy tạ Vân Tiên
Làm chay bảy bữa cho tuyền thủy chung

Cha con nghe nói mừng thầm
Dọn nhà sửa chỗ động phòng cho xuê
Chiếu hoa gối sách bốn bề
Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra
Xẩy vừa tới lúc canh ba

Nguyệt Nga lấy bút đề vài câu thơ
Dán trên vách phấn một tờ
Vai mang bức tượng kịp giờ ra đi
Hai bên bờ bụi rậm rì
Ðêm khuya vắng vẻ gặp khi trăng lờ


Lạ chừng đường sá bơ vơ
Có bầy đom đóm sáng nhờ đi theo
Qua truông rồi lại lên đèo
Dế kêu giăng giỏi, sương gieo lạnh lùng
Giầy sành đạp sỏi thẳng xông

Vừa may trời đã vừng đông ló đầu
Nguyệt Nga đi đặng hồi lâu
Tìm nơi bàn thạch ngõ hầu nghỉ chân
Người ngay trời phật cũng vưng
Lão bà chống gậy trong rừng bước ra

Hỏi rằng: Nàng phải Nguyệt Nga
Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta
Khi đêm nằm thất Phật bà
Người đà mách bảo nên đà tới đây
Nguyệt Nga bán tín bán nghi

Ðành liều nhắm mắt theo đi về nhà
Bước vào thấy những đàn bà
Làm nghề bô vải lụa là mà thôi
Nguyệt Nga đành dạ ở rồi
Từ đây mới hết nổi trôi chốn nào


Hỏi thăm qua chốn Ô sào
Quan san mấy dặm đi vào tới nơi
Ðoạn này tới thứ ra đời
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền
Nửa đêm nằm thấy ông tiên

Ðem cho linh dược mắt liền sáng ra
Kể từ nhuốm bệnh đường xa
Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm
Tuổi cha rầy đã năm lăm
Chạnh lòng nhớ tới đầm đầm châu sa

Vân Tiên trở lại quê nhà
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường
Tiên rằng: Ta lại hồi hương
Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay
Minh rằng: Em chẳng vốn may

Ngày xưa mắc phải án đày chốn đi
Dám đâu bày mặt ra thi
Ðã đành hai chữ qui y chùa này
Tiên rằng: Phước gặp khoa này
Sao sao cũng tính sum vầy, cùng nhau


Mấy năm hẩm hút tương rau
Khó nghèo nỡ phụ, sang giàu đâu quên
Lúc hư còn có lúc nên
Khuyên người giữ dạ cho bền thảo ngay
Hớn Minh trở lại am mây

Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi
Lục ông nước mắt tuôn rơi
Ai dè con sống trên đời thấy cha
Xóm giềng cô bác gần xa
Ðều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm


Ông rằng: Kể đã mấy năm
Con mang tật bệnh ăn nằm nơi nào
Tiên rằng: Hoạn nạn xiết bao
Mẹ tôi phần mộ, nơi nào viếng an
Ðặt bày lễ vật nghiêm trang

Ðọc bài văn tế trước bàn minh sinh
Suối vàng hồn mẹ có linh
Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay
Tưởng bề nguồn nước cội cây
Công cao ngàn trượng, ngãi dày chín trăng


Suy trang nằm giá khóc măng
Hai mươi bốn thảo chẳng bằng thời xưa
Vân Tiên nước mắt như mưa
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà
Ông rằng: Có nàng Nguyệt Nga

Bạc vàng mang giúp, cửa nhà đặng xuê.
Nhờ nàng nên mới ra bề
Chẳng chi khó đói bỏ quê đi rồi
Vân Tiên nghe nói hỡi ơi
Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu

Hỏi rằng nàng ấy ở đâu
Ðặng con đến đó đáp câu ân tình
Lục ông thuật việc triều đình
Ðầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên
Kiều công rày ở Tây-xuyên

Cũng vì mắc nịnh biếm quyền đuổi ra
Tiên rằng: Cám nghĩa Nguyệt Nga
Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng
Tây-Xuyên ngàn dặm thẳng xông
Ðến nơi ra mắt, Kiều công khóc liền


Nguyệt Nga rày ở Tây phiên
Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng
Mấy thu Hồ Việt đôi phang
Cũng vì máy tạo, én nhàn rẽ nhau
Thấy chàng dạ lại thêm đau

Ðất trời bao nỡ chia bâu cho đành
Hẹp hòi đặng chút nữ sinh
Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn
Nói rồi lụy nhỏ đòi cơn
Cũng vì một sự oán hờn nên gây

Thôi con ở lại bên này
Hôm mai thấy mặt cho khuây lòng già
Vân Tiên từ đấy lân la
Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kỳ
Năm sau lệnh mở khoa thi

Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường
Trở về thưa với xuân đường
Kinh sư ngàn dặm một đường thẳng ra
Vân Tiên dự trúng khôi khoa
Hẳn suy nhâm tí thiệt là năm nay


Nhớ lời thầy nói thật hay
Bắc phương gặp chuột con rày nên danh
Vân Tiên vào tạ triều đình
Lệnh ban y mão hiển vinh về nhà
Xẩy nghe tin giặc Ô-qua

Phủ vây quan ải binh ba bốn ngàn
Sở vương phán trước ngai vàng
Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong
Trạng nguyên tấu trước bệ rồng:
Xin dâng một tướng anh hùng đề binh

Có người họ Hớn tên Minh
Sức đương Hạng Vũ, mạnh kình Trương Phi
Ngàn xưa mắc án trốn đi
Phải về nương náu từ bi ẩn mình

Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về
Sắc phong phó tướng bình di
Tiên, Minh tương hội xiết gì mừng vui
Nhất thinh phấn phát oai lôi
Tiên phong hậu tập trống hồi tấn binh


Quan sơn ngàn dặm đăng trình
Lãnh cờ binh tặc phá thành Ô qua
Làm trai ơn nước nợ nhà
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh
Phút đâu binh đáo quan thành

Ô-qua xem thấy xuất thành cự đang
Tướng phiên hai gã đường đường
Một chàng Hỏa Hổ, một chàng Thần Long
Lại thêm Cốt Ðột nguyên nhung
Mắt hùm râu đỏ tướng hung lạ lùng

Hớn Minh ra sức tiên phong
Ðánh cùng Hỏa Hổ, Thần Long một hồi
Hớn Minh đánh xuống một roi
Hai chàng đều bị một hồi mạng vong
Nguyên nhung Cốt Ðột nổi xung

Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh
Hớn Minh sức chẳng dám kinh
Thấy chàng hóa phép thoát mình trở lui
Vân Tiên đầu đội kim khôi
Tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô


Một mình nhắm trận xông vô
Thấy người Cốt Ðột biến đồ yêu ma
Vội vàng trở ngựa lui ra
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ
Ba quân gươm giáo đẳu giơ

Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan
Sa cơ Cốt Ðột chạy hoang
Vân Tiên giục ngựa băng ngàn đuổi theo
Ðuổi qua khỏi đặng bảy đào
Khá thương Cốt Ðột vận nghèo nài bao

Chạy qua ngang núi Ô-sào
Phút đâu con ngựa sa hào thương ôi
Vân Tiên chém Cốt Ðột rồi
Ðầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân
Ôi thôi bốn phía đều rừng

Câu 1800 - 2080

Trời đà tối mịt, lạc chừng gần xa
Một mình lạc nẻo, vào ra
Lần theo đàng núi, phút đà tam canh
Một mình trong chốn non xanh
Biết ai mà hỏi lộ trình trở ra


Ðoạn này tới thứ Nguyệt Nga
Ở đây tính đã hơn ba năm rồi
Ðêm khuya chong ngọn đèn ngồi
Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi
Quan âm thuở trước nói chi

Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài
Ðã đành đá nát vàng phai
Cũng nguyẳn xuống chốn dạ đài gặp nhau
Khôn trông mồng bảy đêm thâu
Khôn trông bầy quạ đội cầu đưa sao

Phải chi hỏi đặng Nam Tào
Ðêm nay cho đến đêm nào gặp nhau
Nguyệt Nga gượng giãi cơn sầu
Xảy nghe nhạc ngựa ở đâu tới nhà
Kêu rằng: Ai ở trong nhà?

Ðường về quan ải chỉ ra cho cùng
Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào
Lão bà lật đật hỏi chào
Ở đâu mà tới rừng cao một mình?


Vân Tiên mới nói sự tình
Tôi là quốc trạng triều đình sai ra
Ðem binh dẹp giặc Ô-qua
Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây
Lão bà nghe nói sợ thay

Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già
Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga
Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi
Hỏi rằng: Bức ấy tượng chi
Khen ai vẽ dung nghi giống mình

Ðầu đuôi chưa rõ sự tình
Lão bà khá nói tính danh cho tường
Lão bà chẳng dám lời gian
Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây
Tiên rằng: Nàng xách lại đây

Nói trong tên họ tượng này ta nghe
Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè
Mặt thời giống mặt, còn e lạ người
Ngồi che tay áo hổ ngươi
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi


Rằng: Sao nàng chẳng nói đi
Hay là ta hỏi động chi chăng là
Nguyệt Nga khép nép thưa qua:
Người trong bức tượng tên là Vân Tiên
Chàng đà về chốn cửu tuyền

Thiếp làm trọn đạo, lánh miền gió trăng
Vân Tiên nghe nói hỏi phăn
Chồng là tên ấy, vợ rằng tên chi?
Nàng bàn tỏ thiệt một khi
Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay:

Thưa rằng: Nay gặp nàng đây
Xin đền ba lạy, sẽ bày nguồn cơn
Ðể lời thệ hải minh sơn
Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi
Vân Tiên vốn thiệt là tôi

Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ
Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ
Nửa tin rằng bạn, nửa ngờ rằng ai
Thưa rằng: Ðã thiệt là ngài
Khúc nôi xin cứ đầu bài quân ra


Vân Tiên dẫn tích xưa ra
Nguyệt Nga khi ấy khóc òa như mưa
Ân tình càng kể càng ưa
Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay
Xảy nghe quân ó vang vầy

Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua
Vân Tiên lên ngựa trở ra
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh
Hớn Minh khi ấy dừng binh
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau

Minh rằng: Tẩu tẩu ở đâu
Cho em ra mắt chị dâu thế nào
Vân Tiên đem Hớn Minh vào
Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên
Minh rằng: Tưởng chị ở Phiên

Quyết đem binh mã sang miền Ô-qua
Mừng rày sum họp một nhà
Giặc đà an giặc, khải ca hồi trào
Tiên rằng: Nàng tính thế nào?
Nàng rằng: Anh hãy về trào tâu lên


Ngỏ nhờ lượng cả bề trên
Lệnh tha tội trước mới nên về nhà
Trạng nguyên từ giã lão bà
Dặn dò gửi lại Nguyệt Nga ít ngày
Tôi về đem bức tượng này

Tâu cho khỏi tội, rước ngay về nhà
Tiên, Minh lên ngựa trở ra
Ðem binh trở lại trào ca đề huề
Sở vương nghe trạng nguyên về
Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai

Sở vương bước xuống kim giai
Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên
Phán rằng: Trẫm sợ nước Phiên
Có người Cố Ðột phép tiên lạ lùng
Nay đà trừ Cốt Ðột xong

Thật trời sinh trạng giúp trong nước nhà
Phải chi sớm có trạng ra
Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ
Lệnh truyền mở yến trà đô
Rày mừng trừ đặng giặc Ô-qua rồi


Trạng nguyên quỳ tấu trước ngôi
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng
Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng
Phán rằng: Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên
Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên

Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu
Thái sư trước bệ quỳ tâu
Ô-qua dấy động qua mâu cũng vì
Trá hôn oán ấy gây nên
Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân

Trạng Nguyên mặt đỏ phừng phừng
Bèn đem bức tượng quỳ dưng làm bằng
Sở vương xem tượng phán rằng:
Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa
Thái sư trước chẳng lo lừa

Thiếu chưa dân thứ phải đưa tới nàng
Dầu cho nhật nguyệt rõ ràng
Khôn soi chậu úp cũng mang tiếng đời
Ngay gian sao cũng có trời
Việc này vì trẫm nghe lời nên oan


Trạng nguyên tâu trước trào đàng
Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà
Trịnh Hâm là kẻ gian tà
Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen
Sở vương phán trước bệ tiền

Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi
Vậy cũng đạo chúa nghĩa tôi
Thái sư muốn cướp ngôi chín trùng
Hán xưa có gã Ðổng công
Nuôi dòng Lã Bố cướp dòng nhà Lưu

Ðời xưa tôi nịnh biết bao
Thái sư nay cũng khác nào đời xưa
Thấy người trung chính chẳng ưa
Rắp ranh kế độc, lập lừa mưu sâu
Trịnh Hâm tội đáng chém đầu

Ấy là mới hết người sau gian tà
Sở vương phán trước trào ca
Thái sư cách chức về nhà làm dân
Trịnh Hâm là đứa bạo thần
Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình


Nguyệt Nga là gái tiết trinh
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng
Kiều công xưa mắc tội oan
Trẫm cho phục chức làm quan Ðông-thành
Trạng nguyên dẹp giặc đã bình

Kiểu vàng tán bạc hiển vinh về nhà
Bãi chầu chư tướng trở ra
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi
Họ Vương, họ Hớn, họ Bùi
Cùng nhau uống rượu đều vui, đều cười

Trạng nguyên mới hỏi một lời
Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào
Mặt nhìn khắp hết, miệng chào các anh
Minh rằng: Ai mượn kêu anh

Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi
Kéo ra chém quách cho rồi
Ðể chi gai mắt, đứng ngồi căm gan
Trực rằng: Minh nóng nói ngang
Giết ruồi đâu xứng gươm vàng làm chi


Xưa nay mấy đứa vô nghì
Dẫu cho có sống làm gì nên thân
Hâm rằng: Nhờ lượng cố nhân
Vốn tôi mới dại một lần xin dung
Trạng rằng: Hễ đấng anh hùng

Nào ai có giết đứa cùng làm chi
Thôi thôi ta cũng rộng suy
Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi
Hâm mừng khỏi thác rất vui
Vội vàng cúi lạy chân lui ra về

Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê
Ngồi chề bề mặt như sề thịt trâu
Hớn Minh, Tử Trực vào tâu
Xin đưa Quốc trạng kịp chầu vinh qui
Một ngươi Bùi Kiệm chẳng đi

Trong lòng hổ thẹn cũng vì máu dê
Trạng nguyên xe giá chỉnh tề
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga
Bạc vàng đem tạ lão bà
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Ðông-thành


Võng điều, gươm bạc, lọng xanh
Trạng nguyên, Tử Trực, Hớn Minh lên đàng
Trịnh Hâm về tới Hàn Giang
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt vây

Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng
Thấy vầy nên dửng dừng dưng
Làm người ai, nấy thì đừng bất nhân
Tiểu đồng trước giữ mộ phần
Ngày qua tháng lại đã gần ba năm

Của đi khuyến giáo mấy năm
Tính đem hài cốt về thăm quê nhà
Hiềm chưa thuê đặng người ta
Còn đương thơ thẩn vào ra Ðại Ðề
Trạng nguyên khi ấy đi về

Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng
Tiểu đồng hồn bậu có thiêng
Thỏa tình thày tớ lòng thiềng ngày nay
Ðọc văn nhớ tới chau mày
Ðôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng

Người ngay trời phật động lòng
Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi
Trạng nguyên còn hãy sụt sùi
Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền
Tiểu đồng nhắm ngửa, nhìn nghiêng


Ông này sao giống Vân Tiên cũng kỳ
Ông nào mất xuống âm ty
Ông nào còn sống nay thì làm quan?
Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng
Phải người đồng tử mắc nàn chốn ni

Mấy năm tớ mới gặp thầy
Cúng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn
Ai dà còn thấy bổn quan
Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi
Trạng nguyên khi ấy mừng vui

Tớ thầy sum họp tại nơi Ðại Ðề
Ðoạn thôi xe giở ra về
Tuần du phút đã gần kề Hàn Giang
Võ công từ xuống suối vàng
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu

Mẹ con những mảng lo âu
Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh
Cùng ta xưa có ân tình
Phải ra đón rước lộ trình họa may
Loan rằng: Mình ở chẳng hay


E ngưòi còn nhớ những ngày trong hanh
Trang rằng: Con có hồng nhan
Cho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưa
Ví dầu còn nhớ tích xưa
Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công

Cùng nhau bàn luận đã xong
Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên
Nay đà tới thứ Trạng nguyên
Hàn giang đã tới, bỗng liền đóng quân
Bạc vàng châu báu áo quần

Trạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều
Ngư tiều nay đặng danh biêu
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe
Trạng nguyên chưa kịp trở về
Thấy Quỳnh Trang đã đừng kề trong quân

Trang rằng: Tưởng chữ hôn nhân
Mẹ con tôi đến lễ mừng Trạng nguyên
Võ công đã xuống huỳnh tuyền
Xin thương lấy chút thuyền quyên phận này
Trạng rằng: Bưng nước bát đầy


Ðổ ngay xuống đất hớt rày sao xong
Oan gia nợ ấy trả xong
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi
Hớn Minh, Tử Trực đứng coi
Cười rằng: Hoa khéo làm mồi trêu ong

Khen cho lòng chẳng thẹn lòng
Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi
Ca ca sao chẳng chịu đi
Về cho tẩu tẩu để khi xách giày
Mẹ con đương thẹn thùng thay

Vội vàng cúi lạy chân quày bước ra
Trở về chưa kịp tới nhà
Thấy hai ông cọp chạy ra đón đường
Thảy đều bắt mẹ con nàng
Ðem vào lại bỏ trong hang Thương-tòng

Bốn bề đá lấp bịt bùng
Mẹ con than khóc khôn trông ra rồi
Trời kia quả báo mấy hồi
Tiếc công trang điểm phấn giồi bấy lâu
Làm người cho biết ngãi sâu


Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn
Ðừng đừng theo thói mẹ con
Thác đà mất kiếp, tiếng còn bia danh
Trạng nguyên về tới Ðông-thành
Lục ông trước đã xây dinh đầu làng

Bày ra sáu lễ sẵn sàng
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga
Sui gia đã xứng xui gia
Rày mừng hai họ một nhà thành thân
Trăm năm biắt mấy tinh thần

Sinh con sau nối gót lân đời đời

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro