Lý Thường Kiệt

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


PhầnI - Bại Chiêm Phá Tống

CHƯƠNG NHẤT - GỐC TÍCH

1. Gốc tích
2. Vào cấm đình
3. Kinh phỏng Thanh Nghệ
Chú thích

1.Gốc tíchLý Thường-Kiệtquê phường Thái-hòa, ở trong thành Thăng-long, phía hữu (VĐUL)nghĩa là phía tây (HVDĐ). Thái-hòa cũng là tên một núi nhỏở phía tây trong thành Thăng-long, bây giờ, ở phía nam đêBách-thảo, gần chỗ rẽ xuống trường đua ngựa. Lý Thường-Kiệtcó nhà ở gần núi ấy.

Tuy là họ Lý, nhưng ông không phải là người hoàng tộc. Theo bia NBS, có chỗ chép tên húy ông là Tuấn, và nói Thường-Kiệt chỉ là tự mà thôi. Nhữ Bá-Sĩ bàn rằng có lẽ ngày xuất thân mới dùng tự làm tên.

Cha, tên An-Ngữ, sung chức Sùng-ban-lang-tướng (1) ở triều Lý. (VĐUL)

Mẹ, họ Hàn. Năm 20 tuổi sinh Thường-Kiệt. Ấy vào năm Thuận-thiên thứ 10 (1019) đời Lý Thái-Tổ. Sau lại sinh Lý Thường-Hiến, mà có chỗ cũng gọi là Thường-Hiển. (NBS)

Khoảng niên hiệu Thiên-thành, đời Lý Thái-Tông, cha đi tuần biên địa, ở Tượng-châu, thuộc Thanh-hoá, bị bệnh rồi mất vào năm Tân-mùi (1031). Thường-Kiệt bấy giờ mười ba tuổi, đêm ngày thương khóc không dứt. (NBS)

Chồng cô, là Tạ Đức thấy thế, đem lòng thương và dỗ dành. Nhân đó hỏi ông về chí hướng. Ông trả lời : " Về văn học, biết chữ để ký tên là đủ. Về vũ học, muốn theo Vệ Thanh, Hoắc Khứ (2), lo đi xa vạn dặm để lập công, lấy được ấn phong hầu, để làm vẻ vang cho cha mẹ. Đó là sở nguyện ". Tạ Đức khen là có chí khí, bèn gả cháu gái tên là Thuần Khanh cho ông, và dạy cho học các sách binh thư họ Tôn, họ Ngô.

Thường-Kiệt đêm ngày học tập. Đêm đọc sách, ngày tập bắn cung, cưỡi ngựa, lập doanh, bày trận. Các phép binh thư đều thông hiểu cả. Tạ Đức lại khuyên đọc sách nho. Thường-Kiệt rất chịu gắng công học tập, nên chóng thành tài.

Đoạn trên này, chép theo bia NBS, là một bia mới dựng đời Tự-Đức. Chắc rằng Nhữ Bá-Sĩ chép theo thần phổ. Thần phổ phần nhiều là lời chép tục truyền hay lời bịa đặt, ta không thể hoàn toàn tin những chi tiết quá rõ ràng chép trong thần phổ. Nhưng sự giáo dục Thường-Kiệt kể trên đây là hợp với những điều ta còn biết về đời nhà Lý.

Từ lúc nhà Đinh mở nước, các vua đều lấy vũ công mà gây dựng cơ đồ. Đến Lý Công-Uẩn, xuất thân cũng là tay vũ tướng. Cho nên triều đình và xã hội bấy giờ chuộng vũ. Thanh niên thì lấy nghề làm tướng là vinh. Hễ mỗi khi có giặc dã nổi lên, tuy tại nơi rất xa lánh, vua cũng thân chinh, hoặc sai hoàng tử đi cầm quân. Lý Thường-Kiệt con một vũ tướng, được dạy nghề vũ, thích nghề vũ ; sự ấy là lẽ dĩ nhiên.

Còn về nho học, bấy giờ chưa thịnh. Phần vì óc thượng vũ, phần vì tục mộ Phật và dị đoan rất mạnh ở dân gian cũng như trong cung điện, cho nên nho học, từ đời Hán đưa vào, tuy bấy giờ vẫn được duy trì, nhưng phải đợi đến năm 1070 mới dựng Văn-miếu, và năm 1075 mới có khoa thi nho (3). Trước năm 1040, Lý Thường-Kiệt học sách nho, là một việc đáng được chú ý và ghi chép.

Năm ông 18 tuổi (1036), mẹ mất. Hai anh em lo đủ mọi lễ tống táng. Trong khi cúng tế, hễ có việc gì, cũng tự tay mình làm. (NBS)

Lúc hết tang, nhờ phụ ấm, Thường-Kiệt được bổ chức Kỵ mã hiệu-úy, tức là một sĩ quan nhỏ về đội quân cưỡi ngựa.

2.Vào cấm đìnhNăm lên 23 tuổi,là năm Tân-tị (1041), niên hiệu Càn-phù hữu-đạo đời LýThái-Tông, ông được bổ vào ngạch thị vệ để hầu vua,và sung chứcHoàng-môn chỉ-hậu. Chức này là một chứchoạn quan.

Như trên đã nói, ông cưới vợ mấy năm về trước. Thế thì, vì lẽ gì ông lại tĩnh thân để làm hoạn quan ? Về việc này có nhiều thuyết.

Bia LX, dựng đời Lý, chỉ nói tóm tắt rằng : " Lúc ông còn nhược quán, được cử vào cấm thát hầu vua Thái-Tông hoàng đế ". Hai chữ nhược quán nghĩa là tuổi vào khoảng hai mươi, gần đúng như lời bia NBS. Sách VĐUL, đời Trần, chép rằng : " Vì ông có dáng mặt đẹp, nên mới tĩnh thân mà sung vào chức Hoàng-môn chỉ-hậu ". Theo hai sử liệu xưa trên, thì ông tự yếm mà làm hoạn quan.

Nhưng bia NBS có kể lại rằng : " Về việc này, có hai thuyết. Một thuyết : lúc vua Lý Thái-Tông đánh bắt được Nùng Trí-Cao rồi lại thả ra (1041), ông nhất thiết can ; vua cho là thất lễ, bèn phạt bắt tĩnh thân. Sau khi ông trở về nhà, vua lại triệu vào hầu cận. " Thuyết thứ hai là thuyết đã thấy ở sách VĐUL ; rằng : Vua thấy mặt mũi đẹp đẽ, cho ông tiền ba vạn, bảo tự yếm.

Lý Thường-Kiệt đã tự yếm ; đó là một sự thật, vì tuy thần tích có nói ông đã lấy vợ, mà sau, sử ta cũng như sách Mộng-khê-bút-đàm của người Tống đều nói ông là một hoạn quan. Thuyết nói ông vì can vua mà bị nhục hình, thì chắc sai. Việc bắt tha Nùng Trí-Cao là vào tháng 11 năm Tân-tị, 1041.Và cũng năm ấy ông được vào cấm thát. Không lẽ trong hai tháng cuối năm, mà ông bị phạt nặng rồi được cất lên cao như thế. Vả không lẽ vua vừa tha và phong hầu cho một nghịch thần, mà lại bắt tự yếm một người tôi trung, trẻ tuổi.

Thuyết sau có lý hơn. Hoạn quan xưa nay nhiều quyền thế, vì thường ngày ở cạnh vua. Nhất là từ đời Đường, hoạn quan lại càng được thế. Khi trước, tuy được vua tin nghe, nhưng hoạn quan cũng thường chỉ hành động trong cung thất. Từ đời Đường, thì được công nhiên cầm chính quyền hay làm đại tướng. Vì những lẽ ấy, đời sau lắm kẻ tự tĩnh thân để được chọn. Đối với Lý Thường-Kiệt, có đặc biệt hơn là được vua ban tiền và sai làm. Ông nghe lời. Bấy giờ ông 23 tuổi. Không biết bà vợ ra sao, hay là lúc ấy đã mất rồi. Không sách nào nói đến.

Ông vào cấm thát. " Chưa được một kỷ (12 năm), tiếng nổi nội đình " (Bia LX). Được thăng nhiều lần, lên đến chức Đô-tri, ông coi tất cả mọi việc trong cung. (VĐUL và bia NBS)

Năm Lý Thánh-Tông lên ngôi (1054, ông 36 tuổi), vì đã có công phù dực, ông được thăng chức Bổng-hành-quân-hiệu-úy, tức là một chức vũ quan cao cấp. " Hàng ngày, ông hầu cận bên vua, hiến việc tốt, can việc xấu, giúp vua hết mọi cách. Vì cần lao giúp rập, nên được cất lên chức Kiểm-hiệu-thái-bảo (Bia LX), tức là một chức tại triều rất cao (4).

3.-Kinh phỏng Thanh nghệSách VĐUL (NBS cũngchép) chép rằng : " gặp lúc trong nước, ở cõi tây nam, dânnổi lên chống các thuộc lại, dân Man Lào lại hay tới quấyrối. Vua thấy ông siêng năng, cẩn thận, khoan hồng bèn saiông làm Kinh-phỏng-sứvào thanh tra vùng Thanh-hoá, Nghệ-an,và trao quyền tiện nghi hành sự. Ông phủ dụ dân khôn khéo,nên tất cả năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốnđộng đều qui phục và được yên ổn ".

Ấy là lần thứ nhất ông lập vũ công.

Về việc loạn này, trong sách TT không thấy chép. Duy chỉ sách VSL có biên rằng : " năm 1061, Ngũ-huyện-giang ở Ái-châu (5) nổi loạn ". Ngũ-huyện-giang là tên một vùng thuộc lộ Thanh-hoá. Đời Tiền-Lê và đời Lý thường dùng tên sông mà gọi đất có sông ấy, ví dụ Bắc-giang-lộ, Đà-giang-lộ. Theo hai bia đời Lý, bia HN và mộ chí Lưu Khánh-Đàm (6), Ngũ-huyện-giang chắc ở Thanh-hoá, là sông Mã ngày nay. Vả TT chép đời Lê và Lý dân Lữ-long nổi loạn, tức là dân Mường vùng Cẩm-thủy ngày nay. YÙ chừng Lý Thường-Kiệt vào kinh phỏng Ái-châu là để dẹp loạn Mường và đúng năm 1061 ấy. Bấy giờ ông 43 tuổi.

CHÚTHÍCH(1) - Theo (ANCL),trong quan chế đời Lý có hai tên Sùng-ban và Lang-tướng, nhưngsách ANCL chép hai tên ấy rời nhau. Sùng-ban lang-tướng làhàm lang-tướng thuộc ban Sùng-ban chăng ? ANCL có chép hàm Vũ-nộilang-tướng, thì chắc rằng hàm Sùng-ban lang-tướng có thật.1.

(2) - Vệ Thanh là một danh đời Hán, bảy lần đánh Hung-nô. Hoắc Khứ tức là Hoắc Khứ-Bệnh, con em gái Vệ Thanh, cũng là một tướng tài đời nhà Hán, đánh Hung-nô nhiều lần.1.

(3) - Trước đó tuy chưa có đặt khoa cử, nhưng nho giả đã được trọng dụng. Trong việc bang giao với Tống phải cần đến nho thần biết ứng đối, biết làm thơ. Năm 1043 vua Lý Thái-Tông du ngoạn ở núi Vũ-ninh, có nho thần đi theo làm thơ (TT).1.

(4) - Sách VĐUL cũng chép như vậy. Kiểm-hiệu nguyên là một chức giám sát. Đến đời Tống, chỉ là một hàm, dùng để ban gia cho các quan vào hàng cao nhất. Những hàm ấy, ở đời Lý, kể từ cao xuống thấp, có : Thái-sư, Thái-úy, Thái-phó, Thái-bảo, Phụ-quốc, Thiếu-sư, Thiếu-uý, Thiếu-phó, Thiếu-bảo. (ANCL).2.

(5) - Sách VĐUL nói " Năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốn động ". Có lẽ muốn nói vùng thượng du Thanh Nghệ .3.

(6) - Bia HN chép : " vua Lê Đại-Hành đi tuần du Ngũ-huyện-giang, nhân tới thăm chùa Hương-nghiêm ". Chùa này ở huyện Đông-sơn, tỉnh Thanh-hoá (NV1).

(7) - Bia LKĐ chép : Lưu Khánh-Đàm người thôn Yên-lang, thuộc Ngũ-huyện-giang, quận Cửu-chân (NV1).3.

CHÚ Ý : Con số cuối mỗi chú thích là số mục của đoạn cần chú thích trong chương này. Ví dụ (5)...3. Nghĩa là chú thích (5) ở đoạn 3 trên.

CHƯƠNG II - ĐÁNH CHIÊM THÀNH

1. Duyên cớ
2. Sửa soạn
3. Xuất quân : trận Nhật-lệ
4. Trận Tu-mao
5. Bắt vua Chiêm
6. Khải Hoàn. Tha vua Chiêm
7. Kết quả
Chú thích.

1.Duyên cớĐầu đời Lý,Chiêm-thành là một nước phồn thịnh, địa giới từ vùngBình-thuận đến vùng Quảng-bình ngày nay. Ở cực bắc cóchâu Bố-chánh, ở phía nam núi Hoành-sơn, giáp địa phậnHoan-châu thuộc nước ta.

Vùng biên giới ấy không khi nào được yên hẳn. Châu Hoan và châu Ái bị quân Chiêm quấy nhiễu luôn. Các vua ta thường thường phải sai quân đi chinh phạt.

Ngay sau khi Đinh Tiên-Hoàng mới nhất thống sơn hà, mà nước đã bị quấy. Nguyên là, Đinh Bộ-Lĩnh đã diệt mười hai sứ quân, mà trong số ấy có Ngô Nhật-Khánh. Nhật-Khánh là dòng dõi Ngô Quyền. Bấy giờ y còn trẻ. Vua Đinh lấy mẹ y làm hậu, đem em gái y gả cho con giai mình là Liễn, và gả con gái mình cho Nhật-Khánh. Tuy nhiên, Nhật-Khánh vẫn oán ; bèn chạy vào Chiêm-thành. Cuối năm Kỷ-mão (979), Nhật-Khánh đưa hơn nghìn thuyền Chiêm về đánh kinh đô Hoa-lư. Chẳng may, khi vào cửa bể Đại-ác và Tiểu-khang (thuộc hải phận Ninh-bình Nam-định ngày nay. Đại-ác nay là Đại-an, tức là cửa Đáy, Tiểu-khang thuộc huyện Yên-mô), thuyền bị bão chìm. Quân Chiêm tan và Nhật-Khánh cũng bị chết. (TT)

Sau khi Lê Hoàn lên ngôi, sai sứ sang giao hiếu với Chiêm-thành (982). Hai sứ là Từ Mục và Ngô Tử-Canh đều bị Chiêm giữ lại. Vua Lê mang quân vào đánh, phá thành trì, hủy tông miếu, giết chúa và bắt vô số dân đưa về. (TT)

Đó là cuộc nam phạt đầu tiên trong lịch sử độc lập của các vua ta. Chiêm-thành, vì đó, phải kinh sợ, nhún nhường. Có lúc vua Lê không chịu nhận sứ Chiêm, chúa Chiêm phải sai cháu là Chế Cai sang cống để tạ tội (994). Tuy vậy, năm 997 Chiêm lại ngấp nghé ở biên thùy. (TT)

Sau khi Lý Công-Uẩn lên ngôi, Chiêm-thành chịu cống. Năm 1011, có cống sư tử (có lẽ là tên cá sấu, xem II/4), nhưng năm 1020, vua Lý Thái-Tổ đã phải sai con là Khai-thiên-vương và tướng Đào Thạc phụ vào đánh đất Bố-chánh. (TT)

Chiêm-thành qua một hồi nội loạn ; các con cháu hoàng tộc tranh ngôi nhau. Cho nên nam thùy ta cũng được tạm yên. Thỉnh thoảng phái nào thua lại còn đem đồ đảng sang nước ta xin phụ, nhu con vua Chiêm sang năm 1039, và năm 1040 dân Bố-chánh kéo nhau hàng trăm tới ở nước ta. (TS 489)

Trong khoảng 16 năm, Chiêm-thành không hề cống hiến gì ta nữa. Mùa hè năm 1043, lại còn tới quấy ở ven bể. Vì thế, năm 1044, vua Lý Thái-Tông mới có cuộc thân chinh. Chuyến ấy, quân ta vào sâu trong nước, giết chúa là Sạ Đẩu, bắt 30 voi, 5000 nguời, và chém giết đến ba vạn người. Tháng bảy năm ấy, vua Lý kéo vào kinh đô, bắt cung nhân, nhạc nữ rất nhiều. (TT)

Sau cuộc đại bại này, Chiêm-thành rất kính nể ta ; và theo lệ cống hiến đều đều. Lúc hiến voi trắng, lúc hiến tê trắng, lúc sang mừng vua Thánh-Tông mới lên ngôi. Sách TT và nhất là sách VSL chép rất rõ ràng (1).

Sau khi cống vua ta một con tê trắng vào năm 1065 (VSL), Chiêm-thành không sai sứ sang ta nữa. Thật ra, sách TT có chép rằng " năm 1068, Chiêm-thành hiến voi trắng, nhưng sau lại nhiễu biên giới ". Nhưng chắc TT lầm, vì một lẽ việc ấy không thấy chép ở VSL là sách chép rất đầy đủ về các việc Chiêm-thành cống vua ta, và lẽ nữa là còn có nhiều chứng cớ khác tỏ rằng từ năm 1065, Chiêm-thành tuyệt giao với ta (2). Những chứng ấy, sau sẽ rõ.

Chứng đầu là lời bia LX nói rõ rằng : " kịp đến khi nước Phật-thệ (tức là Chiêm-thành) hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ kéo sang đánh ". Chứng thứ hai là sau khi khải hoàn, vua Lý dâng biểu sang vua Tống nói rằng : " Chiêm-thành đã lâu không tới cống, tôi tự đem quân sang đánh, bắt được chúa nó về " (TS 488). Hai tài liệu xưa ấy chứng rằng trong bốn năm (1065-1069) Chiêm-thành không tới cống vua Lý, và ta vin vào cớ này để đánh nước ấy.

Nguyên nhân sự chiến tranh Chiêm-Việt là sâu xa hơn, chứ không phải vì cớ trên mà thôi.

Một mặt, Lý Thánh-Tông là vua ta đầu tiên có óc lập một đế quốc, có danh ngang với một nước thiên tử. Vua đặt quốc hiệu Đại-Việt (1054), tôn các vua trước là Thái-Tổ, Thái-Tông, (TS 488 và LNDV 2), coi các nước nhỏ là chư hầu, và muốn ngăn cấm Chiêm-thành thần phục Tống.

Một mặt, Chiêm-thành trước bị Lý Thái-Tông đánh phá kinh đô, giết chúa, bắt dân, tự nhiên đã trở nên thâm thù với ta. Chiêm-thành lẩn lút sang thần phục Tống và tìm cách dựa thế Tống để trả thù ta. Năm Tống Hoàng-Hựu thứ 7 (1035), Quảng-tây an-vũ-sứ tâu rằng : " Chiêm-thành vốn không hay tập binh. Ở gần Giao-chỉ, thường hay bị lấn. Nay Chiêm-thành soạn sửa quân bị đe åchống Giao-chỉ " (TS 489)

Từ lúc Rudravarman III, mà sử ta gọi Chế-Củ, (TT) hay là Đệ-Củ (VSL), lên ngôi vào khoảng cuối năm 1061, chí báo thù của Chiêm lại càng mạnh. TS 489 chép rằng " vừa mới lên ngôi, Dang-pu-sơ-li Lu-đa-ban-ma-đê-ba (Yan Pu Cri Rudravarmandra, theo Le Royaume du Champa của Maspéro) tổ chức vũ bị, luyện tập binh lính. Lại sai sứ sang Tống cống phương vật và xin mua ngựa. Vua Tống ban cho một con ngựa bạch và cho phép mua lừa ở Quảng-châu ".

Xem thế thì ta cũng không lấy gì làm lạ rằng Rudravarman III không chịu cống vua Lý nữa, và vua Lý Thánh-Tông nhân đó đánh Chiêm-thành. Xét chính sách triều Lý, sau này, ta sẽ thấy rằng các vua Lý có định tâm lấn nước Tống để mở bờ cõi miền bắc. Đối với Chiêm-thành hèn yếu hơn Tống vạn bội, chắc rằng vua Lý Thánh-Tông cũng muốn xâm chiếm đất đai.

2.Sửa soạnĐối với mộtcuộc hành binh vĩ đại như cuộc này, sử ta chép rất sơlược. Hình như đời Lê Thánh-Tông, đoạn sử này, của LêVăn-Hưu để lại, đã bị thiếu sót, hay là Ngô Sĩ-Liên biênĐại-Việt Sử-ký Toàn-thư tự ý ước lược đi ? Sách TTchỉ nói qua một vài câu, không ghi chi tiết gì cả. May còncó sách Việt-sử-lượctừ đời Trần y nguyên cònlại, chép khá rõ ràng.

Theo TT, quân ta có 5 vạn. Quân ấy không phải có sẵn cả. Phần lớn huy động dân thường.

Theo Chu Khứ-Phi (LNĐĐ 2) và Ngô Thì-Sĩ (SK3), khoảng đầu đời Lý, binh chế theo phép quân phủ vệ đời Đường và quân cấm sương đời Tống. Mục đích đầu là bảo vệ nhà vua ở kinh đô, chống những việc đảo chính cướp ngôi. Binh dùng về việc này là hạng binh tốt nhất, gọi là thân quân ; tên riêng là thắng quân hoặc cấm quân. Cấm quân họp thành một vệ, gọi là cấm vệ, Cấm-vệ chia ra 10 quân, mỗi quân gồm 200 người. Cả thẩy gồm 2.000 người, đóng chung quanh kinh thành, thường ngày túc trực. Lúc vua đi đâu xa, thì đi theo. Theo lệ nhà Lê, cấm quân đều có khắc ba chữ Thiên-tử-binh trên trán. Năm 1028, đời Lý Thái-Tông, có 10 quân cấm vệ, đặt tên là Quảng-thánh, Quảng-vũ, Ngự-long, Bổng-nhật, Đằng-hải, mỗi hiệu đều có tả quân, hữu quân. Đời Lý Thánh-Tông, lại thêm lên 6 quân nữa. Cấm-vệ bấy giờ gồm có 16 quân, cộng 3.200 tên. Tên quân cũng đặt lại như sau (1059) : Ngự-long, Vũ-thắng, Long-dực, Thần-điện, Bổng-thánh, Bảo-thắng, Hùng-lược, Vạn-tiếp ; Mỗi hiệu cũng chia làm tả hữu.

Vì lần này, vua Thánh-Tông thân chinh, nên 3.200 cấm binh này chắc ở trong số 5 vạn nói trên.

Mục đích thứ hai của lính là giữ cuộc trị an trong nước và chống cuộc ngoại xâm. Về việc này, dùng lính hạng nhì như loại sương quân ở Tống. Quân này không có số nhất định (ANCL). Người dân nào đến tuổi cũng phải đăng lính, nhưng vẫn được ỏ nhà cày bừa, mỗi tháng mới phải đi phen một kỳ ngắn. " Lúc chinh phạt, thì cất quân ấy giao cho các tướng. Nếu quân không đủ thì lấy dân đinh mà dùng. Việc xong rồi lại trở về cầy ruộng " (SK). Trong khi phải đi phen, sương quân đóng ở các châu, huyện, để phòng bị khi có dụng binh. Hạng lính này, ngày thường, ít tập tành. Nhưng được số đông. Chắc trong số 5 vạn quân kia, sương quân chiếm phần lớn.

Số 5 vạn chép ở TT có thật hay không ? Nước ta dân số bấy giờ bao nhiêu, không thể biết được. Nhưng theo sự ta có thể chống lại 10 vạn quân Tống mấy năm về sau, thì chắc ta có hơn 5 vạn quân. Và phép kiểm điểm dân đinh bấy giờ rất ngặt, cách nuôi lính bấy giờ rất kiệm. Dân không trốn được, nuôi lính không tốn ; cho nên cất một đạo quân năm vạn chắc là dễ dàng (3).

Đường giao thông bằng bộ vào Chiêm-thành gặp trở ngại. Theo lời sứ Chiêm tâu với vua Tống (1074), thì từ kinh đô Chiêm đến kinh đô Giao-chỉ phải đi 40 ngày và toàn đường núi (TS 489). Cho nên cuộc hành quân này chắc chắn chỉ dùng đường thủy. Mà thủy quân ta, từ trận Bạch-đằng đời Ngô Quyền, đã lập được nhiều chiến công.

Bắt đầu từ tháng năm năm trước, Mậu-thìn (1068), vua Lý sai sửa chữa và đóng thêm chiến hạm (VSL).

Tục ta đời xưa rất tin về điềm lành dư, nhận đó là ý trời tỏ cho biết trước sự thắng lợi hay thất bại của một việc mình dự bị làm ; hay nó tỏ ý trời muốn xui hay ngăn mình làm một việc gì. Nhất về đời Lý, óc dị đoan lại càng mạnh. Sử gia để ý đến tất cả những sự vụn vặt, nhưng khác thường. Sử nhà Lý trong VSL, sách khôngbị đời Lê sửa bỏ bằng cách nho hoá theo Khổng-giáo, còn chép rất nhiều những việc như voi trắng, sẻ trắng, rùa sáu chân, cau chín buồng. Chuyện rồng hiện thì nhiều lắm. Không biết bấy giờ có con vật gì (kỳ đà chăng ?) người ta cho là rồng, mà sử chép rồng hiện khắp nơi.

Tháng tám năm Mậu-thìn (1068), long chu (thuyền vua), đậu ở bến, vô cố dời đi ba thước (VSL). Đó là điềm vua sắp đi đánh xa, và là điềm hay. Tháng chín, rồng vàng hiện ở hai chiếc thuyền bể lớn là Vĩnh-xuân và Thanh-lãn. (VSL)

3.Xuất quân. Trận Nhật-lệCuối năm Mậu-thìn(1068), thủy quân đã dự bị sẵn sàng. Đợi ra giêng, thuậngió bắc, sẽ xuất quân. Đến tháng hè, thuận gió nồm, quânsẽ trở về. Vua thân chinh sẽ chừng trong năm tháng.

Ngày Mậu-tuất tháng hai năm Kỷ-dậu là ngày dương lịch 24 tháng hai 1069 (4) vua Lý Thánh-Tông hạ chiếu thân chinh Chiêm-thành (VSL). Quân có 5 vạn (TT). Lý Thường-Kiệt được chọn làm đại tướng quân và đi tiền phong (VĐUL và bia NBS), kiêm chức nguyên soái (VSL). Ông xin cho em, là Thường-Hiến đi theo ; Hiến được trao chức tán kỵ vũ uý (bia NBS).

Số quân năm vạn kia chắc hoàn toàn đi đường thủy. Nếu mỗi mành chở được 250 quân và lương thực, thì phải chừng 200 chiếc. Lúc Lý Thái-Tông đánh Chiêm-thành (1044), đã sai đóng vài trăm chiến thuyền. Vậy, chuyến này chắc cũng có số thuyền ấy.

Từ đời Lý Thái-Tông, có đặt lệ tuyên thệ. Mỗi đầu năm, hay mỗi lúc có việc quan hệ, các triều thần hội lại, hoặc ở đền thờ vọng thần Đồng-cổ, hoặc ở sân Long-trì, rồi cùng phát lời thề : " Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh giết chết " (3) Lần này, vua sắp đi vắng kinh đô lâu. Sự biến rất có thể xẩy ra trong nước. Kẻ có lòng tranh ngôi, sẽ có cơ hội rất thuận tiện. Vì vậy, ngày Đinh-mùi (DL 5-3) quần thần phải hội tại Long-trì để tuyên thệ.

Ba ngày sau, ngày Canh-tuất (DL 8-3 VSL chép Canh-dần, chắc lầm), vua xuống thuyền xuất quân, giao quyền bính lại cho Ỷ-Lan nguyên phi (TT) và thái sư Lý Đạo-Thành (6).

Thuyền xuôi dòng sông Lô (Nhị-hà), qua Lý-nhân-hành-cung (vùng Nam-xương), rẽ xuống phía Nam, rồi ra cửa Đại-an. Cửa Đại-an nay trên sông Đáy, cách bể chừng 20 cây số, thuộc địa phận làng Quần-liêu, huyện Đại-an, tỉnh Nam-định. Cửa ấy hồi cận đại cũng có tên cửa Liêu-hải. Từ Lý về trước, cửa này là chỗ các thuyền mành qua lại để đi từ các sông nước ta ra bể vào Nam (7).

Bảy ngày sau khi dời khỏi Thăng-long, thuyền đến Nghệ-an ; vào ngày Đinh-tị (DL 15-3). Từ đó đến cửa Nam-giới, thuyền đi mất ba ngày. Cửa Nam-giới, nay gọi là cửa Sót, ở phía Nam núi Hồng-lĩnh, thuộc phủ Thạch-ha, tỉnh Hà-tĩnh. Bờ Nam cửa có núi, nay còn tên núi Nam-giới. từ Lý về trước, cửa này là cửa bể lớn cuối cùng ở vùng nam nước ta, trước các cửa nước Chiêm-thành. Có lẽ tên Nam-giới (bờ cõi phía Nam) lấy nghĩa ở sự ấy. Cửa này can hệ, vì lẽ, lúc bấy giờ quân Chiêm thường vào nước ta bằng chỗ đó, và từ Nghệ-an đi vào có con sông nhỏ dọc theo phía núi Hồng-lĩnh rồi ra cửa ấy. Đời sau lúc Lê Thánh-Tông đi đánh Chiêm-thành cũng qua sông ấy (8). Có lẽ Lý Thánh-Tông cũng dùng đường này. Thật ra thuyền thường đi khoảng này, dài chừng 50 cây số, chỉ mất một ngày. Nhưng sông hẹp, chiến thuyền lớn, đi chậm hơn. Vả chắc quân có đóng nghỉ lại Nghệ-an. Sách VSL chép : " lúc tới Nghệ-an, rồng vàng hiện ở thuyền Kim-phượng, " một thuyền riêng của Lý Thánh-Tông. Ngày Canh-thân (DL 18-3), tới Nam-giới, " rồng " lại hiện ở thuyền ấy.

Năm ngày sau (A. Su, DL 23-3), quân đến cửa Nhật-lệ là cửa Đông-hải ngày nay. Đây là cửa bể thứ ba của Chiêm-thành, kể từ núi Hoành-sơn vào. Cửa đầu nhỏ, là cửa Di-luân hay cửa Ròn. Cửa thứ hai rộng nhưng cạn, là cửa Bố-chánh hay cửa Gianh. Hai cửa này không quan hệ lắm về việc phòng thủ.

Địa thế nuớc Chiêm-thành rất đặc biệt : một giải đất hẹp và dài, chẹt giữa bể đại dương và núi cao ngất. Phía bắc, có núi Hoành-sơn và sông Bố-chánh (sông Gianh) ngăn cản đường từ Giao-chỉ vào. Giải đất hẹp ấy lại bị nhiều dãy núi chắn ngang đến bờ bể. Ngoài núi Hoành-sơn ở cực bắc, có núi Hải-vân ở phía nam Thuận-hoá, núi Thạch-tân ở phía nam Quảng-ngãi, núi Đại-lãnh ở phía nam Phù-yên. Các dãy núi " xương sườn " ấy ngăn thành mấy cánh đồng : Bình-Trị-Huế, Nam-Ngãi, Bình-Phú, Khánh-Thuận. Dân Chàm chỉ ở các đồng bằng ấy, và hình như giao thông với nhau chỉ toàn đường bể. Đường Thiên-lý bấy giờ chưa có. Vì thế, vua Chiêm chỉ để ít quân phòng thủ ở Bố-chánh, và thủy quân tập trung ở cửa Nhật-lệ. Đại quân đóng giữ Kinh-đô và cánh đồng Bình-định ngày nay.

Lúc thuyền quân ta tới Nhật-lệ, thủy quân Chàm chặn đánh. Lý Thánh-Tông sai tướng đại-liêu-ban Hoàng Kiện tiến đánh. Quân Chiêm thua. Sách VSL chép việc ấy, không nói gì thêm. Nhưng thấy sau này, quân ta tiến xuống miền nam không bị ai ngăn cản, thì ta đoán rằng thủy quân Chiêm bị tan vỡ ở đây.

Quân ta không đổ bộ ở Nhật-lệ, vì mục đích vua Lý là phá Kinh-thành và bắt chúa. Cho nên thuyền quân lại thẳng xuống phương nam. Thuyền dọc theo bờ bể, vượt khỏi những đồi cát trắng mà ta còn thấy ngày nay. Bốn ngày sau qua khỏi khoảng cát Đại-tràng-sa (9). Ấy vào ngày Kỷ-tị tháng hai (DL 27-3).

Ngày hôm sau (C.Ng, DL 28-3), thuyền đến cửa Tư-dung. Cửa này nay gọi là Tư-hiền. Xưa cửa rất sâu (ĐNNTC), thông với phá Hà-trung (Cầu Hải ở địa đồ Đông-Dương), và là cửa vào các phá và sông thuộc xứ Ô Lý (Thuận-hoá), vì bấy giờ chưa có cửa Thuận-an. Phá Hà-trung sâu và kín (10)

Thủy quân Chiêm đã bị phá. Cho nên thuyền ta vào nghỉ ở Tư-dung không bị cản trở gì. Rồi Thánh-Tông lại theo bờ bể xuống miền nam.

Thuyền đi được ba ngày, có " rồng " hiện ở ngự chu là thuyền Cảnh-thắng. Sáu ngày khi dời bỏ cửa Tư-dung, quân ta tới cửa çri Bonei (Sơ-li-po-nai) nhằm vào ngày Bính-tý (11) đầu tháng ba (DL 3-4). Cửa Sơ-li-po-nai ở đâu ? Maspéro Le Royaume du champa) diễn ra çri Bonei, nhưng không nói địa điểm nào. VSL chép bằng hán tự đọc theo tiếng ta là Thi-lị-bì-nại. Ta biết rằng cửa bể lớn Qui-nhân tên xưa là Thi-nại. Lấy nghĩa, thì tên ấy không có nghĩa. Chắclà phiên âm tiếng Chàm. So sánh tên ấy với tên Thi-lị-bì-nại, thì ta có thể chắc rằng hai tên chỉ là một. Chỉ vì theo thói ta hay rút ngắn các tiếng dài để gọi cho tiện, cho nên cửa Thi-lị-bì-nại thành ra cửa Thi-nại. Và tính ngày đường thì từ Tư-dung đi sáu ngày đến Qui-nhân là phải. Từ Thăng-long đến çri Bonei, đã đi hết 26 ngày (12).

VSL chép rằng lúc ngự thuyền tới đó, có hai con chim cùng bay theo, trông như muốn dẫn đường. Những điềm dọc đường đều là điềm tốt.

4.Trận Tu-maoThành Phật-thệ,kinh đô Chiêm-thành đời bấy giờ, ở vào địa phận tỉnhBình-định ngày nay. Tên Chàm là Vijaya ; sau có tên Chà-bànta thường chép lầm ra Đồ-bàn (13). Vijaya ở phía bắc thànhBình-định bây giờ, bên nam sông Khu-cương hay Hà-giao (Bảnđồ họa-đồ-vụ Đông-dương), ở chính giữa một cánh đồngphì nhiêu hình thoi mỗi đường nối góc dài chừng 30 câysố. Ba phía, bắc, tây, nam, đều có núi cao che chở. Chỉmiền Đông là trực tiếp với nước, tại vũng Nước-mặn(vịnh Qui-nhân ngày nay).Vũng chạy dài từ bắc chí nam dài20 cây số và thông với bể bằng cửa Thi-nại, hẹp và sâu.Muốn tới thành Vijaya, chỉ có do phía đông là dễ dàng. SôngKhu-cương chảy vào vũng Nước-mặn, góc cực bắc. Nhưng sôngcạn, thuyền lớn khó vào. Vì thế mỗi lúc quân ta tới đánhVijaya, đều đưa thuyền vào cửa Thi-nại rồi đổ bộ ởven bờ vũng Nước-mặn.

VSL chép rằng quân ta đổ bộ, tiến lên đóng ở bờ sông Tu-mao, thấy tướng Chàm là Bố-bì-đà-la bày trận trên bờ sông. Quân ta xông tới đánh, giết tướng Bố-bì-đà-la. " Quân Chàm chết nhiều không kể xiết ". Sông Tu-mao nói trên đây là sông nào ? Theo địa thế mà đoán, ta có thể ngờ là nhánh cực nam của hạ lưu sông Tam-huyện, mà sách ĐKĐD gọi là sông Tân-an. Có ba dòng sông chắn ngang đường tới Đồ-bàn ; sông này ở trước nhất. Theo bia NBS, khi gặp quân Chiêm, hai anh em Thường-Kiệt và Thường-Hiến chia quân làm hai cánh, đánh tạt ngang, chém được ba vạn người. Có lẽ đó cũng là trận sông Tu-mao, mà công trong trận đầu tiên này thật về Thường-Kiệt.

Trong Ức-trai dư-địa-chí, có kể chuyện rằng : " Lý Thường-Kiệt kéo đại quân tới sông Phan-định. Sông Phan-định tiếp với phủ Hoài-nhân (gồm địa hạt thuộc tỉnh Bình-định từ Quảng-ngãi đến sông Khu-cương). Sông có nhiều sư tử (tức là cá sấu). " Sư tử " khuất phục được các thú khác ; tê, tượng đều phải sợ. Sông Phan-định có ba đoàn sư tử. Nó ở dưới nước, vẫy đuôi làm dợn sóng đổ thuyền. Lúc Lý Thường-Kiệt đánh Chiêm, đại quân kéo đến sông ấy, vì sợ " sư tử ", quân không qua sông dễ dàng được ". Theo đó, sông Phan-định có thể cũng là sông Tu-mao (14).

Qua khỏi sông Tu-mao, còn phải vượt hai sông khác mới tới Vijaya.

Nghe tin quân mình thua ở sông Tu-mao, Rudravarman III, đang đêm, đem vợ con bỏ thành chạy trốn về phía nam (VSL). Cũng đêm ấy quân ta kéo tới gần thành Vijaya. Lúc quân ta đến bến Đồng-la, (có lẽ trên sông Thạch-yển là sông chắn thứ ba, gần phía nam thành), người trong thành ra hàng. (VSL)

Vua Lý Thánh-Tông vào thành. Nhưng vua Chiêm đã trốn thoát.

5.Bắt vua ChiêmLý Thường-Kiệtđem quân đuổi theo xuống miền nam. Tháng tư quân ta đuổiđến biên giới nước Chân-Lạp (VSL). Bấy giờ Chiêm-thànhgồm có vùng Phan-rang, Phan-thiết ngày nay. Phan-rang, tên Chàmlà Pandurango lại là một thành phố lớn. Có lẽ vua Chiêmđã chạy đến đó. Chân-lạp vốn là một cừu quốc vớiChiêm (LNĐV). Vua Chiêm không giám chạy qua đó ; cùng thế phảira đầu hàng. " Lý Thường-Kiệt bắt được Đệ-Củ ở biêngiới Chân-Lạp " (VSL) và cầm tù cả thảy 5 vạn quân (NBS).

Cuộc đuổi bắt vua Chiêm kéo dài ngót một tháng, từ đầu tháng ba đến tháng tư.

Thế là Chiêm-thành bị đại bại. Tuy Lý Thánh-Tông tự cầm quân, nhưng công chiến thắng hoàn toàn về Lý Thường-Kiệt, từ trận đầu đến trận cuối. Việc hành quân kể lại trên đây, phần lớn lấy ở sách VSL. Còn sách chính sử ta là Đại-Việt sử ký toàn thư thì không những không chép những chi tiết trên, mà lại chép chuyện hoàn toàn khác. Sách ấy nói rằng : " Vua đánh Chiêm lâu không thắng, bèn quay trở về. Về tới châu Cư-liên, nghe nói ở trong nước, bà Nguyên-phi (Ỷ-Lan) coi nội trị giỏi, khiến dân tâm hoà hiệp, cõi nước yên lặng. Vua tự than rằng : " Kẻ kia là đàn bà, còn giỏi như vậy. Ta là đàn ông, há lại vụng về sao ? " Rồi vua quay trở lại đánh ; bèn thắng ". Trong đoạn trên, có hai việc : một là thất lợi đầu tiên của quân ta, hai là vua Lý Thánh-Tông rút quân về rồi trở lại.

Về việc đầu, hình như có sự thiệt. Hoặc đó là vì tướng Chiêm, Bố-bì-đà-la, cản quân ta trên sông Tu-mao, hoặc là vì sông nhiều cá sấu mà quân ta không giám qua. Lẽ hợp hơn cả là vì vua Chiêm trốn thoát, chạy xa vào miền nam hiểm trở, quân ta khó lòng đuổi kịp và bắt được ; vua ta cho là chưa đạt được chủ đích. Rồi sử gia cho là " đánh lâu không thắng ". Còn việc thứ hai cũng có thể xẩy ra. Nhưng không rõ châu Cư-liên ở đâu, thuộc nước ta hay nước Chiêm ? Và nếu vua Lý có trở về thật, thì chắc về đường thủy. Sử nói vua về đến châu Cư-liên, ấy muốn nói về đến hải phận châu ấy. Hiểu như thế, ta có thể nghĩ rằng hoặc giả sau khi lấy được Vijaya, vua Lý Thánh-Tông sai Lý Thường-Kiệt đem quân đuổi bắt vua Chiêm. Vua đợi mãi thấy chưa bắt được. Sợ vắng mặt lâu, trong nước nhà, dân sự không yên, nên đưa một phần quân về trước. Nhưng về dọc đường, được tin bà Nguyên-phi trị dân yên ổn, vua lại trở lại, đợi bắt được vua Chiêm. Nếu sự có thật, thì ta không hiểu vì lẽ gì VSL, là sách chép kỹ về việc đánh Chiêm-thành lần này lại không chép chuyện ấy.

6.Khải hoàn. Tha vua ChiêmSau khi bắt đượcRudravarman III, vua Lý đãi yến quần thần tại điện vua Chiêm.Bấy giờ là tháng năm. Muốn tỏ sự hân hoan " vua thân hànhmúa khiên và đánh cầu (15) trước bệ ". (VSL)

Vua lại sai kiểm số tất cả các nhà trong và ngoài thành. Cả thẩy có hơn 2 560 khu. Đều sai đốt hết. (VSL)

Tháng ấy (tháng năm), vua kéo quân về, đem theo Rudravarman III. Ngày Quí-tị (DL 19-6), thuyền về đến cửa Tư-minh (16). VSL chép rằng đêm ấy " rồng " hiện ở ngự thuyền. Bấy giờ là mùa hè, gió nồm thổi mạnh, thuyền về rất thuận. Ngày Kỷ-tị tháng sáu (có lẽ là Kỷ-hợi, DL 25-6), quân vượt bể, " rồng vàng hiện ở thuyền Kim-phượng ". Ngày Mậu-thân (DL 4-7) qua các núi Lỗi-lỗi lớn và bé ở ngoài cửa bể Bố-chánh (Cửa bể sông Gianh, ở phía bắc Quảng Bình) thuyền vua đụng phải đá bị vỡ. (17)

Ngày Tân-dậu (DL 17-7) vua về đến Thăng-long, dừng thuyền ở bến Triều-đông, trên sông Lô (Nhị-hà).

Cuộc rước vua về cung rất là long trọng. VSL còn ghi những chi tiết nhắc cho ta biết sự huy hoàng xán lạn của cuộc tiếp rước một vị vua viễn chinh khải hoàn. Các quan hữu tư sắp đặt binh lính nghiêm trang, nghi vệ rực rỡ. Vua lên bờ, ngự trên chiếc báu xa (xe nạm ngọc). Quần thần đều cỡi ngựa. Dắt vua Chiêm-thành theo sau. Vua Chiêm-thành mình mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai. Tay trói sau lưng, có giây vải quyến buộc. Năm tên lính hiệu Vũ-đô dắt đi. Các đảng thuộc cũng bị trói dắt theo sau.

Tháng bảy, vua làm lễ tâu việc thắng trận ở Thái-miếu (VSL).

Cuối năm, sai Quách Sĩ-An Đào Tông-Nguyên sang sứ Tống, để báo tin thắng trận. Lời biểu có câu : " Nước Chiêm-thành đã lâu không tới cống. Tôi tự đem quân đánh, đã bắt được chúa nó về ". Vua Tống tuy không bằng lòng, nhưng cũng phải nhận sự Chiêm-thành là một phiên quốc của ta. Bèn ban cho chánh sứ Sĩ-An chức lục trạch và phó sứ Tông-Nguyên chức nội điện sùng ban. (TS 488)

Thế là vua Lý Thánh-Tông đã thỏa lòng tự lập : sau khi xưng Đế, lập được vũ công xứng đáng với danh hiệu ấy. Vua bèn đổi niên hiệu Thiên-huống báu-tượng (trời cho voi quí) ra Thần-vũ để ghi vũ công lớn lao ấy.

Rudravarman III xin dâng đất chuộc tội. Vua Lý bằng lòng. Ba châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh thuộc Chiêm-thành từ đó nhập về nước ta. Nay là địa phận Quảng-bình và phía bắc Quảng-trị (18).

Rudravarman III được tha về nước.

Vua Lý bèn thưởng quân công cho tướng sĩ. Ban cho Lý Thường-Kiệt chức tước sau này : Phụ-quốc Thái phó, dao-thụ Nam-bình tiết-độ-sứ, Phụ-quốc thượng-tướng-quân, Thượng-trụ-quốc, Khai-quốc-công, Thiên-tử nghĩa nam (bia NBS và VĐUL). Chức thái phó là thứ ba trong hàng tể chấp (I, cth 4) ; Tiết độ sứ là thứ hai trong hàng tướng ; tước là Thượng-trụ-quốc Khai-quốc-công. Đặc biệt là vua nhận ông làm con nuôi, tức là vào hàng vương ; và tuy ông ở triều, nhưng được giao cho coi binh lính ở vùng Nam-bình, có lẽ là ba châu mới giành được. Ông bấy giờ 51 tuổi.

Chẳng bao lâu vua lại trao ông chức Thái-úy, Đồng trung-thư môn-hạ bình-chương-sự (19) là chức thứ hai trong triều. Ông giúp vua trông nom quốc chính. " Dân sự vì đó được nhờ ". (bia LX)

Đứng đầu triều có Thái sư Lý Đạo-Thành, đã giữ chức ấy từ năm Thánh-Tông lên ngôi (1054). Đạo-Thành và Thường-Kiệt giúp vua trong hai năm. Trong nước rất được yên ổn. Mùa hè năm Canh-tuất (1070) gặp trời đại hạn, lấy lúa, tiền, vải ở kho phát chẩn cho dân nghèo. Về hình luật, định số tiền cho tội nhân có thể nạp để chuộc tội (năm Tân-hợi 1071). Về tạo tác, mùa xuân năm Canh-tuất (1070), dựng điện Tử-thần. Về tôn giáo và giáo dục, bấy giờ là lúc Nho-giáo được chính thức tôn sùng : tháng tám năm ấy, vua sai dựng Văn-miếu, tô tượng Khổng-tử. Chu-công và Tứ-phối, vẽ tượng 72 hiền để thờ trong miếu ; lại cho Hoàng Thái-tử tới đó học tập (TT). Có lẽ, ấy cũng có ảnh hưởng ít nhiều của sự Thường-Kiệt khi bé có đọc sách nho.

Tuy vậy, Phật-giáo cũng không bị sao lãng. Tháng chín năm ấy, dựng chùa Nhị-thiên-vương ở góc đông nam thành, vua viết bia chữ Phật (20) cao một trượng sáu thước, để lại tại chùa Tiên-du (Phật-tích, Bắc-ninh ngày nay).

Thanh thế nước ta bấy giờ rất lớn. Tống phải kiêng nể. Vua Tống luôn luôn dặn biên thần đừng gây sự với ta. Còn Chiêm-thành, thì kính sợ và thần phục, năm Tân-hợi (1071), sư Chiêm tới cống (TT).

7.Kết quảVề việc đánhChiêm-thành, bia chùa Linh-xứngchỉ chép rằng : " Kịpđến lúc Phật-thệ (21) hỗn phép không tới chầu, quân nhàvua rầm rộ sang đánh. Ông có tài thao lược hơn người đời,vào trong cung giúp vua lo toan mưu kế, đặt binh luật để điđánh dẹp. Hoàn-vương (tức vua Chiêm) bỏ thành chạy trốn,nhưng lại tự mình hiến thân chịu chém. Ông bèn bắt lấy,rồi đem quân khải hoàn. Vua luận công, gia thưởng và bantrật cho ông ".

Tuy tóm tắt nhưng đó cũng đủ chứng rằng trong cuộc nam phạt, Lý Thường-Kiệt vừa làm tham mưu, vừa làm thống soái. Ông đã có công lấy thành, bắt chúa Chiêm, cho nên nước ta mới được nhường khoảnh đất ba châu phía nam dãy Hoành-sơn. Trong cuộc nam tiến của dân tộc Việt-Nam, Lý Thường-Kiệt có công đệ nhất, vì đã mở đường cho các đời Trần, Hồ, Lê, Nguyễn sau. Trước đó, tuy Lê Đại-Hành, Lý Thái-Tông cũng có đánh Chiêm-thành, nhưng mỗi lúc chỉ bắt người, lấy của rồi về, chứ không hề nghĩ tới mở mang bờ cõi. (22)

CHÚTHÍCH(1) - Chiêm-thànhtới cống những năm : 1057, 1059, 1060, 1063 (VSL).1.

(2) - TT chép : năm ấy, châu Chân-đằng hiến hai voi trắng ; cho nên vua đổi niên hiệu ra Thiên-huống-báu-tượng, nghĩa là trời cho voi quí. TT lại chép thêm : " Chiêm-thành hiến voi trắng, nhưng sau lại nhiễu biên giới ". VSL cũng chép rằng : " Tháng giêng châu Chân-đằng hiến hai voi trắng. Châu Kỷ-lang (chắc là Quang-lang, VSL lầm chữ quang là sáng ra chữ kỷ là ghế, vì hai chữ tự dạng gần nhau) cũng hiến hai voi trắng. Tháng hai, huyện Đô-lạp hiến voi trắng và công trắng ". Xem vậy, VSL không hề chép việc Chiêm-thành hiến voi trắng năm ấy. 1.

(3) - LNĐĐ, quyển 2, chép rõ về binh chế đời Lý, như sau. Binh lính một tháng đi phen một kỳ. Lúc rỗi thì cầy cấy để tự cấp. Mỗi năm, ngày mồng 7 tháng giêng, mỗi tên lính được phát 300 đồng tiền và một tấm vải quyến. Mỗi tháng, mỗi người lính được cấp 10 bó lúa. Ngày đầu năm lại phát cơm nếp và cá mắm để khao quân.

Trong sách SK, Ngô Thi-Sĩ cũng chép tương tự như trên.

ANCL chép : quân số không định trước.Tuyển dân tráng mà dùng. Lúc vội thì ra lính, lúc rỗi thì về cày ruộng.

Về việc tuyển binh, đời Lý kiểm điểm rất cẩn thận. Phan Huy-Chú trong LTHC viết : Dân-đinh lên 18 tuổi, phải đăng tên vào sổ. Sổ đóng bìa vàng. Cho nên hạng đinh này gọi là hoàng-nam. Đinh trên 20 tuổi gọi là đại-nam. Các đại nam đều có thể sung vào lính. Các nhà quan chức chỉ có quyền nuôi một đại nam mà thôi để hầu hạ. Mỗi quan có ba người bảo lĩnh ; nếu ai dấu đại nam, thì cả bốn người đều phải tội. 2.

(4) - TT và VSL đều chép lầm chữ Kỷ ra chữ Ất vì tự dạng gần nhau. Sự lầm như nhau chứng rằng hai sách đều bởi một gốc mà ra : Đại-Việt sử-ký của Lê Văn-Hưu. VSL chép ngày bằng lối can chi, chứ không nói rõ số mục ngày trong tháng. Vì không biết phép lịch dùng đời Lý, nên tôi không đổi ra ngày ta, mà chỉ dùng phép đổi ra ngày dương lịch mà thôi (Xem phép đổi trong báo Khoa-học số 19 và 20). Nhờ sự đổi ấy, tôi đã thấy rằng bản in VSL lầm ngày một vài chỗ, như ta sẽ thấy.3.

(5) - Lời thề : Vi tử bất hiếu, vi thần bất trung, thần minh cực chi (TT 2 15a). 3.

(6) - Lý Đạo-Thành làm Thái-sư, tức là tể tướng, từ năm 1054 (VSL). Theo TT, bà Nguyên-phi coi chính quyền. Nguyên-phi tức là Ỷ-Lan. Ỷ-Lan chỉ là phi. Bấy giờ còn có hoàng hậu Thượng-Dương. Vả sau khi Thánh-Tông mất, quyền về tay hoàng hậu. Cho nên có thể nghi rằng trong khi vua vắng mặt, quyền cũng giao cho Dương-hậu. Vua Tự-Đức đã phê và trong sách CM, đại ý cũng như thế. Nhưng bấy giờ Ỷ-Lan mới sinh hoàng tử, được vua rất yêu dấu. Nên có thể được vua giao tạm quyền. Còn sau này, hình như Thánh-Tông chết một cách đột ngột, không kịp dặn dò, cho nên theo lẽ thường, Lý Đạo-Thành đã cử Dương-hậu chấp chính. Xem vậy, sự Thánh-Tông giao quyền cho Ỷ-Lan trong lúc đi đánh Chiêm-thành, không phải là vô lý. 3.

(7) - Tuy các sách không chép rõ đoạn đường này, nhưng đó là đường Thái-Tông theo 25 năm về trước, và sau này cũng thường theo. Cửa Đại-an trước có tên là Đại-ác hay Đại-á. Lúc Thái-Tông qua đó, bể không sóng, cho nên mới đổi tên Đại-ác ra Đại-an (TT). Nay huyện sở tại còn tên Đại-an. 3.

(8) - Xem thơ Lê Thánh-Tông trong Thiên-nam dư-hạ-tập. Đoạn sông này có tên Sông Nghèn. 3.

(9) - Theo Lê Quí-Đôn trong sách Phủ-biên tạp-lục : từ cửa Nhật-lệ đến cửa Minh-linh (cửa Tùng) có bãi Đại-tràng-sa ; từ cửa Việt đến cửa Tư-dung (Tư-hiền ngày nay) có bãi Tiểu-tràng-sa. Bấy giờ cửa Thuận-an chưa có. 3.

(10) - Cửa Tư-dung hẹp và sâu, là một cửa rất can hệ trong sự hàng hải ngày xưa. Trong các đời Lý, Trần, Lê, mỗi lúc thủy quân xuống đánh Chiêm-thành, đều nghỉ ở đó. Chữ Dung húy đời Mạc, đã bị đổi ra chữ Khách, tự dạng gần nhau. Vào khỏi cửa, có một vũng rất lớn, nay gọi là phá Hà-trung, thông với sông Hương, và phá Tam-giang. 3.

(11) - VSL chép B. Ng. Nhưng tháng ba năm K.Zu không có ngày ấy. Chữ Ngọ và chữ Tý gần giống nhau ; vả tháng ba lại có ngày B. Ty, mà ngày B. Ty nầy lại cách ngày tới cửa Tư-dung (C.Ng) sáu ngày. Vậy theo lịch, cũng như theo hành trình, ta có thể chữa chữ Ngọ ra chữ Tý một cách hợp lý. 3.

(12) - Nay còn một vài sách chép nhật trình đi từ Thăng-long đến các cửa bể miền nam. Góp nhặt lại, ta có thể kê ra như sau :

Từ Thăng-long đến cửa Đại-an : 1 ngày (Lý Thái-Tông đánh Chiêm, TT).

Từ cửa Đại-an đến cửa Hội ở Nghệ-an : 3 ngày (Lê Cảnh-Hưng. PBTL)

Từ cửa Hội đến Nam-giới (cửa Sót) : 1 ngày nếu đi đường bể (PBTL)

Từ cửa Sót đến cửa Nhật-lệ : 3 ngày (PBTL)

Từ cửa Nhật-lệ đến cửa Tư-dung : 3 ngày. (PBTL. Sách này chỉ chép hải trình đến cửa Châu-ổ, chỗ giáp giới hai tỉnh Quảng-nam và Quảng-nghĩa).

Từ cửa Tư-dung đến cửa Châu-ổ : 4 ngày.

Từ cửa Châu-ổ đến cửa Nước-mặn (cửa Thị-nại) : 3 ngày. (Theo sách Càn-khôn Nhất-lãm của Phạm Đình-Hổ chép hải trình năm M. Tu, 1778, của quan đốc thị Nguyễn Thưởng). Cộng hai đoạn sau, để so sánh với hải trình đời Lý Thánh-Tông, ta thấy : từ cửa Tư-dung đến cửa Thi-nại mất 7 ngày.

Hải trình trên chỉ hợp với khi thuận gió, thuyền đi ban ngày theo ven bể mà thôi.

Sách Thiên-nam Tứ chí lộ-đồ, đời Lê, chép rằng : thuyền vượt qua bể, đi cả đêm ngày, nếu thuận gió bắc (mùa đông và mùa xuân), thì hành trình như sau : từ cửa Lạc (phía bắc cửa Đại-an, đi nửa ngày đến Biện-sơn (một đảo gần chỗ giáp giới Thanh và Nghệ, rồi đi nửa ngày đến cửa Hội-thống (cửa Hội ở Nghệ-an) ; rồi đi 1 ngày đến cửa Bố-chánh (sông Gianh) ; rồi đi 1 ngày đến cửa Tư-khách (Tư-dung, phía nam Thuận-hoá) ; rồi đi 1 ngày đến cửa Đại-chiêm (phía đông thành Quảng-nam) ; rồi đi 1 ngày đến cửa Ô-lộ ( ?) ; rồi đến cửa Phố-đại ( ?) thuộc Chiêm.

So sánh hành trình này với hành trình Lý Thánh-Tông, ta thấy rằng Lý Thánh-Tông đã đi theo ven bể. Dọc đường chắc có dừng nghỉ nhiều.

Sách TS (quyển 489) nói : thuyền thuận gió, đi từ Chiêm-thành đến Giao-châu mất 2 ngày. Chắc là nói đi từ hải phận Chiêrm đến cửa cực nam của Giao-chỉ, tức là cửa Nam-giới. 3.

(13) - Dấu tích thành Vijaya, nay còn, và chắc chắn là nhận được.

Ấy là thành Trà-bàn trong sử chiến tranh giữa hai họ Nguyễn : Thuận-hoá và Tây-sơn. Trà-bàn là kinh đô của vua Thái-Đức, tức Nguyễn Nhạc. Võ Tánh tự thiêu trong thành. Nay có mộ và đền trong thành.

Sách TNTCĐ có vẽ bản đồ thành, và chú thích : " Xã Phú-đa xưa có thành xây bằng gạch, tên là Trà-bàn (Sách ta đều chép lầm ra Đồ-bàn, vì hai chữ Trà là chè và Đồ là một thứ rau đắng rất giống nhau). Thành vuông, mỗi bề dài một dặm. Có bốn cửa. Trong có điện, có tháp. Nay điện đã bị đổ. Tháp còn 12 toà. Tục gọi là tháp Con Gái hay tháp Cánh-tiên. " Trên đây là tả thành Trà-bàn đời cuối Lê.

Sách HVDĐC chép : " Thành Trà-bàn ở trên sông Phú-gia-đa. Hai tên Phú-đa và Phú-gia-đa chắc là một. Có lẽ là tên Chàm phiên âm ra Phú-gia-đa. Sau rút ngắn tên mà gọi tên làng. Bản đồ trong TNDĐC vẽ sông ấy chảy qua phía bắc thành.

Sách ĐNNTC chép : " Thành Trà-bàn ở chỗ giáp giới hai huyện Tuy-viễn và Phù-cát. Chu vi dài hơn 60 dặm. Trước là kinh thành của chúa Chàm. Nguyễn Nhạc chiếm và lấy đá ong xây thành. Trong thành có tháp xưa, có tượng nghê đá, voi đá ; đều là của người Chàm xưa. Sau đại binh thu phục, đổi tên ra thành Bình-định, và đặt tỉnh lị ở đấy. Sau (1808) dời tỉnh lị đến chỗ ngày nay. "

Ngày nay, cách phía bắc thành Bình-định 10 cây số, trên đường thiên lý, còn di tích một thành cổ ở địa phận ba làng An-nghĩa, Nam-an và Thuận-chánh. Thành đất, bọc bằng đá ong. Hình chữ nhật, các mặt gióng đúng hướng. Mặt Đông và Tây rộng 1.400 mét, mặt Nam và Bắc rộng 1.100 mét. Phía bắc thành có sông Khu-cương Đường quan lộ xiên qua góc đông bắc thành. Trong thành còn nhiều cồn đất, hình như ngày xưa có những lâu đài hay tháp dựng trên. Thành nay đã đổ hết. Trong thành là ruộng. Còn vết một đường đi ttừ cửa đông sang cửa tây. Chính giữa, còn có một tháp lớn, tức là tháp Con-gái, hay là tháp Cánh-tiên, đã nói trên. Ở phần phía tây thành có mộ và đền thờ Võ Tánh. Trong thành còn có nhiều đá chạm, như hai con sư tử (nghê) trước mộ Võ Tánh, hai con voi đá lớn ở trong vườn đền. (Phỏng theo Parmentier ; inventaire descriptif des Monuments Čams de l'Annam). Xung quanh thành đá ấy còn nhiều tháp. Các tạo tác ấy chắc là thuộc thành Vijaya. Thành chu vi hơn 60 dặm, nói trong ĐNNTC, chắc là một thứ la thành, bọc chung quanh các tháp nói trên. Thành vuông mỗi bề một dặm nói trong TNTCĐ là thành đá ở trong. 4.

(14) - Sách ƯTDĐC chép thêm rằng : " Lý Thường-Kiệt phong cho ba đoàn sư tử ấy chức Hiệu-thuận tam thần-bá. Ngày tuyên sắc, sư tử nổi lên mặt sông để nghe. Nhờ đó, quân ta qua sông không bị trở ngại ".

Ở Phan Rang (tên Chàm là Panduranga), có sông tên là Kron-Biyuh nghĩa là sông Cá-sấu (theo Cabaton). Chắc rằng xưa sông này có nhiều cá sấu hơn các sông khác. Hoặc giả, sông Phan-định của ƯTDĐC là sông này. Nếu thật vậy, thì sự Lý Thường-Kiệt bị cá sấu trở ngại là vào lúc ông đuổi vua Chàm tới biên giới Chân-lạp. 4.

(15) - Múa khiên đánh cầu là hai quân lễ để ăn mừng trong các hội lớn. Môn múa khiên có lẽ đời sau còn hình dung trong các bài " đi võ ". Còn môn đánh cầu là thế nào ?

Chữ hán chép " kích cầu ". Cầu là một đồ chơi làm bằng da, hình tròn, trong nén đầy lông. Nói tóm lại, tức là quả bóng ngày nay, nhưng ruột đặc và đầy lông để cho nhẹ. Tuy về đời sau, như đời Lê có chuyện một viên quan " đá cầu chúc thọ " chúa Trịnh ; nhưng trò chơi này là lấy chân đá cái cầu làm bằng một vật có chắp đuôi, như cầu trẻ con chơi ngày nay bằng đồng tiền có đuôi giấy.

Môn đánh cầu trong quân khác hẳn thế. Đó là trò chơi mà Âu Mỹ gọi là Polo. Ở Ấn-độ cũng có từ đời xưa.

Tống-sử, (Q. 121, Lễ chi, chép Đả cầu) còn chép rõ cách thức chơi của nhà vua. Sân chơi là sân chính điện, dưới thềm ngai vua, ở phía Nam ngai. Hai bên tả hữu (đông và tây) dựng hai cửa bằng gỗ, gọi là cầu môn cao hơn một trượng, trên chạm rồng, dưới đặt tòa sen bằng đá dùng vải vóc trải trên. Chỉ có các bực vương và dại thần được dự chơi ở trước bệ ; họ chia ra làm hai phe. Ở hai cầu môn có treo cờ nhậtnguyệt, dưới cờ đặt nhạc. Hai phe mặc áo vóc, mầu khác nhau : bên tả (đông) mầu vàng, bên hữu mầu tía. Trước thềm cũng bày hai giá cờ ; hễ bên nào được, thì cắm vào giá bên ấy một lá cờ.

Lúc bắt đầu đánh, sở tầu ngựa vua đem ngựa và yên cương ra. Vua lên ngựa. Ban nhạc gẩy khúc Lương-châu. Vua gọi từng người lần lượt lên ngựa. Đuôi ngựa gióc thắt theo mầu phe vàng hay tía. Các quan bắt đầu sắp hàng phía tây ; vua đứng ở góc tây nam.

Quan nội thị mở một hộp vàng, lấy quả cầu sơn đỏ, ném xuống trước điện, viên thông-sự-xá-nhân tâu : " phe vua đánh vào cửa đông ". Vua tiến ngựa đánh. Nhạc nổi. Lúc cầu vào cửa, thì cờ phất, chiêng rền, trống dóng. Vua quay ngựa trở về chỗ. Các quan chúc mừng, rồi vua ban rượu. Xong vua lại lên ngựa, lại đánh. Bấy giờ mới sai các quan ruổi ngựa tranh cầu. Trống đánh rậy. Khi cầu gần tới cửa, trống giục càng mau. Lúc cầu qua cửa thì trống dóng ba hồi. Rút cờ để sẵn bên cửa phe được, rồi cắm vào giá phe mình để trước bệ. Như thế gọi là được một thẻ. Khi nào vua được thẻ, thì nhạc đánh nhẹ bớt, để các quan hô " Vạn tuế " ; khi nào một quan được thẻ, thì hô " hảo ". Kẻ được thẻ, xuống ngựa để tạ. Xong ba thẻ, vua lại mời các quan uống. Mỗi phe có 24 cờ. Có lẽ bên nào được 24 thẻ trước thì được.

Trên đây là cuộc đánh cầu bằng ngựa. Cũng có lúc đánh cầu không cỡi ngựa.

Tuy TS không nói rõ, nhưng ta cũng hiểu rằng, người ngồi trên ngựa, cầm cương một tay ; tay kia cầm cái trượng dài, mà đưa đẩy quả cầu, hoặc đánh mạnh vào cầu để chuyền cho kẻ đồng phe, hay để cho vào cửa. Hình dạng cái trượng ấy chắc như còn thấy ở bảo tàng Đà Nẵng. Bức chạm nổi ấy gồm hai người Chàm cỡi ngựa, tay phải cầm cương tay trái cầm trượng dài mà đầu cuối cong và bẹt. Ngựa đeo đạc, mang yên, đuôi gióc như trong TS tả. Bức chạm này rất linh động, người sau vừa đánh vào cầu, người trước kéo gò ngựa quay đầu lại rồi vắt tay ra sau mà chặn cầu. Dáng điệu ngựa và người làm ta tưởng tượng như còn thấy cuộc đánh cầu của vua Lý Thánh-Tông còn diễn trước mắt ta. Biết đâu trong cuộc đánh cầu này, vua Lý lại không bắt các quan Chàm bị cầm tù ra đánh làm trò vui ? Nếu có vậy thì bức chạm này lại nhắc được một hình ảnh của sự huy hoàng của tiệc mừng thắng trận (xem ảnh ngoài bìa).

Trò chơi ấy ở triều Lý có. TT chép : " Năm B. Ng (1126), mồng một tháng hai, vua Lý Nhân-Tông tới điện Thiên-an xem các vương hầu chạy theo cầu mà đánh (ở đây TT chép : xúc cầu, xúc là chạy theo, xúc cầu nghĩa là chạy theo cầu mà đánh). Năm C. Tu (1139) tháng chạp, vua Lý Thần-Tông đánh cầu (chép Kích-cầu) ở sân Long-trì ; vua bảo sứ Chiêm vào xem. " 6.

(16) - Cửa Tư-minh có phải là cửa Tư-dung không ? Trong sử đời Lý, sách VSL có chép Tư-minh hai lần : lần này (Thánh-Tông trở về) và lần trước, khi Lý Thái-Tông đi đánh Chiêm-thành (1044). Nay so với TT, thấy cũng chép viêïc Thái-Tông, TT có nói : " Vua tới cửa Tư-khách, cá trắng nhảy vào thuyền ", mà VSL lại chép : " Vua tới cửa Tư-minh, cá trắng nhảy vào thuyền ". Vậy Tu-minh tức là Tư-khách hay Tư-dung. Nhưng không hiểu vì cớ gì, mà lúc Thánh-Tông đi, và lúc về, cách nhau có bốn tháng mà VSL lại gọi, một chỗ đất, bằng hai tên khác nhau : Tư-dung và Tư-minh ? 6.

(17) - Sách Ô-châu cận-lục (đời Mạc) chép tên núi Lỗi-lôi. Núi ở châu Bố-chánh, gần cửa bể Di-luân (cửa Ròn). Núi Hoành-sơn chạy ra bể đến đó là hết.

Sách VSL chép : ở gần cửa Bố-chánh, tức là cửa sông Gianh. Cửa Gianh và cửa Ròn cũng cách nhau không bao nhiêu. Huống chi sông Gianh là sông lớn, cho nên VSL chép như vậy. 6.

(18) - Theo HVDĐC, và các sách địa chí khác : Các châu ấy chiếm địa phận theo như sau. 1/ Địa-lý : đời Lý đổi ra Lâm-bình. Trần đổi ra Tân-bình. Lê Trung-hưng đổi ra Tiên-bình. Nay thuộc Quảng-bình, gồm các huyện Lệ-thủy, Phong-phú, Phong-lộc. 2/ Ma-linh : Lý đổi ra Minh-linh. Minh đổi ra Nam-linh. Lê lập lại Minh-linh. Nay thuộc Quảng-trị, gồm hai huyện Minh-linh và Do-linh. 3/ Bố-chánh : Minh đổi ra Trấn-bình. Lê đổi lại Bố-chánh. Nay thuộc Quảng-bình, gồm các Bình-chánh, Bố-trạch và Tuyên-chánh. 6.

(19) - Vũ chức đời Lý có : Đô-nguyên-soái, Tiết-độ-sứ, Đại-tướng-quân, Phó-nguyên-soái, Phó-tiết-độ, Phó-tướng-quân. Nội-điện chỉ-huy-sứ, Chiêu-thảo-sứ, Thiên-tướng, Thần-tướng. Sáu chức đầu, chọn kẻ tông-thất bổ nhậm. (ANCL).

Sách LNĐ chép : " binh quan, thì đứng đầu có Khu-mật-sứ, Kim-ngô Thái-úy đô-lĩnh-binh. " Đại loại các chức cũng theo Đường-chế. 3.

(20) - Nay ở trước cửa chùa làng Bạch-á, huyện Nga-sơn, còn có một tấm bia lớn, rộng 1,2m và cao 1,67m. Trên khắc chữ Phật rất lớn. Chung quanh chạm rồng và hoa cỏ rất tỉ mỉ và đẹp. Bia không còn chữ gì khác nữa, ngoài bi ngạch " TRÙNG TU DIÊN LINH CHÂN BÁO TỰ BI ". Lê Quí-Đôn có nói đó là bia khắc chữ Phật của Lý Thánh-Tông viết. Tuy theo cách chạm trổ, thì biết là bia rất xưa, có lẽ đời Lý, nhưng không biết Lê Quí-Đôn có l ầm bia này với bia chùa Tiên-du chăng ?

(21) - Phật-thệ là tên Chiêm-thành, Hoàn-vương là tên Chiêm-thành mà người đời Đường đặt ra khoảng năm 756-757 (Tân Đường-thư và LNĐĐ). Các tên chỉ nước này là : Lâm-ấp, Phật-thệ, Hoàn-vương, Chiêm-thành. Ở nước ta còn có tên Lồi (như nói thành Lồi, chúa Lồi) và tên Chàm. 7.

(22) - Trong lúc Lý Thánh-Tông vượt bể, hình như có gặp sóng gió to. Sách VĐUL có chép chuyện thần Hậu-thổ địa-kỳ giúp vua qua bể. Chuyện như sau. Khi Lý Thánh-Tông đến cửa bể Hoàn ( ?), thình lình bảo to mưa lớn, sóng nổi ngùn ngụt. Thuyền vua không tiến được. Đêm đến, vua mộng thấy một đàn bà, áo trắng, quần lục, nói với vua : " Tôi là tinh đất nước Nam, giả làm một cây gỗ đã lâu năm để đợi thời. Nay thời đã đến. Giúp vua không chỉ đánh được giặc, mà nước nhà còn có chỗ nhờ ". Nói xong, biến mất. Tỉnh dậy, vua sợ. Đem việc hỏi chung quanh. Có sư Huệ Sinh nói nên tìm cây gỗ có thần ẩn. Quân lên núi, thấy một cây gỗ hình người. Đem xuống thuyền. Vua sai đem làm tượng, mặc áo quần như thấy trong mộng và ban hiệu Hậu-thổ phu-nhân, và đặt ở thuyền vua. Thuyền bèn êm không lắc nữa. Lúc được trận về chỗ cũ, vua sai lập đền thờ. Nhưng tối đến, mưa gió lại nổi lên. Sư Huệ Sinh xin đem tượng về kinh. Sóng gió bèn êm. Về đến kinh vua sai lập đền thờ ở làng Yên-lãng.

Chuyện trên này đời sau viết, cho nên có sự lầm. Ví như : vị sư Huệ Sinh, thì các bản sao viết Huệ-lâm-sinh hay là Huệ-lâm. Sách TUTA/57b có chép chuyện tăng thống Huệ Sinh họ Lâm, chắc là vị ấy. Nhưng Huệ Sinh mất năm 1064, trước năm Thánh-Tông đánh Chiêm-thành. 7.

CHƯƠNG III - CẦM QUYỀN BÍNH

1. Văn võ phân tranh
2. Liên kết nhân tâm
Chú thích

1.Văn võ phân tranhTháng giêng nămNhâm-tý, Thần-vũ thứ tư, vua Lý Thánh-tông mất. Ấy vàongày Canh-dần (DL 1-2-1072), thọ 50 tuổi. Hoàng thái tử Càn-đứclênngôi ; Tức là Lý Nhân-tông.

Càn-đức là con Ỷ-lan nguyên phi. Sinh năm Bính-ngọ vào tháng giêng (1066). Bấy giờ mới bảy tuổi. Quyền bính ở trong tay Lý Đạo-Thành và Hoàng thái hậu Thượng-Dương họ Dương.

Mẹ Càn-đức, tuy được phong làm Hoàng thái phi, nhưng không được tham dự chính quyền. Thái phi nguyên là Ỷ-lan phu nhân, một cô gái nhà quê. Nhân khi vua Thánh-tông hiếm con, đi cầu tự ở chùa làng Siêu-loại, gặp Ỷ-lan trong vườn dâu ; vua để ý tới, đem về cung (1). Vì sau sinh con trai, nên được tôn làm nguyên phi. Khi Thánh-tông vắng mặt ở kinh (1069), Thái phi đã được thay vua cầm quyền. Thái tử còn trẻ; lẽ ra trước khi mất, vua cha phải phó thác cho một đại thần. Nhưng sử không chép vua Thánh-tông ủy quyền phụ chánh cho ai. Ta xem đó, nghi rằng vua mất một cách nhanh chóng, không kịp di chúc điều đó. Cho nên trong cung cấm có chuyện cạnh tranh. TT còn chép rằng : tháng chạp năm trước, vua mệt. Chiếu cho quan hữu ti rằng có ai vào lầm nhà dành cho quan chức đô tả hữu, thì sẽ phạt 80 trượng. Ý chừng là để đề phòng sự cướp quyền.

Phe Thượng-Dương thái hậu được Lý Đạo-Thành ủng hộ, nên Thái hậu được cầm quyền và Lý Đạo-Thành làm phụ chánh. (TT và VSL)

Lý Đạo-Thành là một bậc lão thần. Vua Thánh-tông lúc mới lên ngôi, đã chọn ông làm thái sư (1054, VSL). Ông ở ngôi tể tướng trong 18 năm. Nay vua còn trẻ, chức phụ chánh về ông là phải. Ông lại là một nhà nho học ; ông theo lẽ thường, tôn Thượng-Dương thái hậu lên chấp chính. Đó là một cớ xung đột giữa ông và Ỷ-lan thái phi. Là một văn quan, mộ nho, mộ phật, chắc ông chuộng hoà bình, trái với Lý Thường-Kiệt là một vũ tướng đương tuổi còn hăng hái (54 tuổi).

Thường-Kiệt vẫn giữ chức thái uý, cầm binh quyền, nhưng đứng sau thái sư Đạo-Thành. Đã có xung đột giữa hai người, thì chẳng bao lâu ắt có cuộc biến.

VSL chép rằng : " ngày mồng 8 tháng tư năm ấy, (TT chép năm ấy là năm Thái-ninh năm đầu, còn VSL chép năm ấy vẫn để niên hiệu Thần-vũ) sau khi làm lễ tắm tượng Phật, nhân ngày Phật đản, vua Nhân-tông chọn quan đại liêu Nguyễn Thường-Kiệt làm kiểm hiệu thái úy, và Nguyễn Nhật-Thành làm binh bộ thị lang ". Họ Nguyễn đây là họ Lý mà đời Trần kiêng húy (tổ nhà vua là Trần Lý) mà đổi ra. Nhật-Thành chắc là Đạo-Thành. Chữ Đạo hình như vì húy nên đời Trần cũng hay đổi (XV/1).

Theo đó, bốn tháng sau khi Nhân-tông lên ngôi, phe Thường-Kiệt đắc thắng. Thường-Kiệt được cất lên làm tể chấp, còn Lý Đạo-Thành bị giáng xuống chức thị lang.

Đó là kết quả của sự Nguyên-thái-phi vận động ở trong. Cho nên ta không lấy làm lạ rằng năm sau, có cuộc Thái-phi ép Thái-hậu tự tử, để giành lấy chính quyền.

TT và VSL đều chép rằng : Thái-phi tính hay ghen, thấy mình là sinh mẫu mà không được dự chính, bèn nói với vua rằng : " Mẹ già đã khó nhọc nuôi nấng con, mới có ngày nay. Bây giờ được phú quí, thì người khác giành mất chỗ. Họ sẽ đặt mẹ già vào chỗ nào ? " Vua bèn giam Thái-hậu và 72 thị nữ vào cung Thượng-dương (cung riêng của Thái-hậu), rồi ép phải chết theo vua Lý Thánh-tông. (VSL chép 72 người, TT chép 76. Tục truyền cũng 72, và nói vì vậy, sau này Ỷ-Lan dựng 72 ngôi chùa để chuộc tội).

Còn Lý Đạo-Thành phải giáng chức, làm tả gián nghị đại phu, ra coi châu Nghệ-an (TT). Đạo-Thành ra đó lập viện Địa-tạng, trong ấy để tượng Phật và vị hiệu vua Lý Thánh-tông để thờ. Lý Thường-Kiệt chuyên cầm quyền bính cùng Thái-phi, mà bấy giờ cũng tôn lên làm Linh-nhân Hoàng thái hậu. (TT)

Tuy các sử không đâu chép, nhưng trong việc khuynh đảo Thượng-dương thái hậu, chắc Thường-Kiệt có một phần trách nhiệm. Sử chỉ đổ lỗi cho Ỷ-Lan xui con, và cho Nhân-tông, vì nhỏ tuổi, nghe lời mẹ. Nhưng thật ra, vua mới tám tuổi ; Thượng-dương lại cầm quyền. Nếu không có một đại thần, cầm quân đội trong tay, giúp, thì làm sao ép được Thái-hậu tự tử ? Còn Lý Đạo-Thành, theo như lời bàn của Ngô Sĩ-Liên (TT), chắc đã phản kháng việc ấy, nên mới bị biếm ra Nghệ-an, và mới ôm hận, mang theo thần vị vua Thánh-tông để thờ. Đạo-Thành làm thế để tỏ lòng uất ức.

Một sự đáng làm ta chú ý đến, là trong TT không hề nói đến Thường-Kiệt trong khoảng đầu đời Nhân-tông. Nhưng nhiều sách khác của người Tống nói rõ địa vị của ông ; và, như ta đã thấy trên, VSL, là sách viết tự đời Trần, và chưa từng bị sửa chữa lại, cũng nói rõ ông được làm thủ tướng. Chính bia LX cũng nói rõ rằng : " Lúc đầu thời Thái-ninh, vua ta nay là Minh-hiếu Hoàng-đế, cầm vận nước lên ngôi. Vì ông (Thường-Kiệt) có tài, văn ngang Y-Doãn, vũ sánh Hoắc-Quang, nên vua giao coi việc dại chính và phó xã tắc cho ông " (2). VĐUL cũng nói : " Lúc Nhân-tông lên ngôi, trao cho ông chức Phụ-quốc thái úy ", ấy cũng hợp với VSL. Các sách Tống nói rõ ràng hơn. Sách MKBĐ (Quyển 2) rằng : " Nhật-tôn (Thánh-tông) mất. Càn-đức lên, lấy hoạn quan Lý Thượng-Cát và mẹ Lê thị Yến-loan thái phi cùng coi việc nước ".Người Tống chép theo âm, nhưng ta cũng nhận thấy tên Lý Thường-Kiệt và Ỷ-lan thái hậu. Sách LNĐĐ cũng nói : " Nhật-tôn mất, con là Càn-đức lên, tự gọi là Minh-vương. Quyền về tay bầy tôi. Đại thần Thượng-Cát cầm đầu ". Sách TB (279/11a) cũng chép tên Lý Thượng-Cát ấy. Cho đến bia NBS, của Nhữ Bá-Sĩ dựng đời Tự-đức, mà cũng chép : " Lúc Nhân-tông lên ngôi, Lý Thượng-Cát dự chính ". NBS tưởng Thượng-Cát và Thường-Kiệt là hai người.

Những chứng cớ trên làm ta không thể nghi ngờ rằng, hoặc trước, hoặc sau khi Thượng-dương Thái-hậu mất, Thường-Kiệt cầm hết quyền bính trong tay : văn và vũ. Vả, vì đó, Thường-Kiệt đã a phụ Ỷ-lan trong việc tranh giành ngôi thứ với Hoàng Thái-hậu, và trong việc bức tử 72 nhân mạng.

Đó là một vết đen trong sử xán lạn của Lý Thường-Kiệt. Nhưng ông là võ tướng ; trong trận đánh Chiêm, cũng như sau này, trong các trận đánh Tống, ông còn hi sinh biết bao là nhân mạng nữa, gấp trăm ngàn lần sự bức sát này.

Muốn gỡ tội ít nhiều cho Ỷ-lan, và có lẽ cho ông, ta nhận đời Lý còn giữ tục bắt các cung nhân chết theo vua. Xem như sau khi Ỷ-lan mất (1117), có ba thị nữ chết theo, (TT và VSL) và sau khi vua Lý Nhân-tông mất (1127) cũng có cung nữ lên đàn lửa để chết theo vua. (TT)

Trên kia đã nói, sách TT không hề nói đến chuyện Lý Thường-Kiệt cầm quyền tể tướng. Chắc rằng, đời sau, khi Lê Văn-Hưu, hay Ngô Sĩ-Liên viết sử, Khổng học đã thịnh, kẻ học giả đã dùng sử học làm một khoa luân lý ; cho nên tự sửa chữa các việc cũ theo ý ấy. Thường-Kiệt là một hoạn thần, mà hoạn thần xưa nay không được nho thần trọng. Nho thần lấy khoa cử xuất thân, coi hoạn thần như là đầy tớ trong cung. Vả từ cuối đời Hán về sau, các hoạn thần đã lạm dụng sự gần gũi cung cấm mà tiếm quyền, cho nên đời sau rất ghét hoạn quan cầm quyền bính . Có lẽ Lý Thường-Kiệt cũng bị ghét lây. Sử gia cho ông không đáng chức tể tướng, cho nên tước khử sự ấy trong sử cũ mà không chép lại.

2.Liên kết nhân tâmVua gia phong choông chứcĐôn-quốc thái-úy, Đại-tướng-quân, Đại-tư-đồvà ban cho hiệuThượng-phụ-công. Thế là ông coi việcvăn, việc vũ, và kiêm cả chức cấm quan. " Ông bấy giờ,trong thì cầm đại chính, ngoài thì coi sư lữ. Dốc một lònglấy sự yên xã tắc làm vui. Trong ngoài đều được yên ổn" (NBS). Bấy giờ ông 55 tuổi (năm 1073).

Sự yên ổn ấy chỉ có bề ngoài. Thật ra, ở biên thùy có nhiều triệu chứng chiến tranh. Năm sau (Giáp dần 1074) Chiêm-thành lại bắt đầu quấy biên cảnh (TT) và dọc biên giới miền bắc, Tống cũng sửa soạn việc động binh.

Có lẽ, vì thế, Lý Thường-Kiệt lo toan đoàn kết trong nước để kết thúc nhân tâm. Việc đầu tiên là xóa sự hiềm khích gây ra vì chuyện Thượng-dương thái hậu. Năm ấy (Giáp-dần 1074), mời Lý Đạo-Thành từ Nghệ-an trở về, giữ chức Thái-phó, bình-chương quân quốc trọng sự, hiệp tác với Thuờng-Kiệt coi việc dân và quân trong nước, để cho Thường-Kiệt rảnh tay sắp đặt việc chống Tống, và thay ông trong khi phải xuất ngoại cầm quân.

Lý Đạo-Thànhlà một bậc lão thành, được sĩ phu ngưỡng vọng. Việc ông bị biếm vào Nghệ-an chắc đã gây mầm chia rẽ lớn ở triều.

Bấy giờ, bên triều Tống, cũng có việc hai phái tân cựu cạnh tranh. Tân và cựu, không phải chỉ trong phương pháp (VI/3), nhưng ở cả cá nhân. Phái tân có thủ lĩnh Vương An-Thạch ; trong phái ấy, người đều còn trẻ. Phái cựu gồm hầu hết các lão thần. Thấy Vương An-Thạch và đồng phái đều còn ít tuổi mà lên cầm quyền, phái cũ không bằng lòng, cho nên sự xung đột về chủ nghĩa lại tăng kịch liệt.

Chắc rằng, ở nước ta cũng chịu ảnh hưởng của cuộc xung đột ấy. Vua còn trẻ, đáng lẽ các lão thần phụ chính. Mà bây giờ, quyền lại vào tay một vũ tướng mới hơn 50, thêm là một hoạn quan. Phái già chắc bất mãn. Muốn lấy lòng phái ấy, Thường-Kiệt tất phải hậu đãi các lão thần. Vì vậy mới có việc mời Lý Đạo-Thành trở về dự chính, và việc vua hạ chiếu cho phép những công thần 80 tuổi, mỗi khi vào chầu, được chống gậy và ngồi ghế. (TT)

Việc thứ hai, là tôn kẻ học giả, để chiêu dụ hiền tài. Từ trước, tuy có lập Văn-miếu (1071), tuy có dùng nho quan, nhưng chưa hề có mở khoa thi để khuyến khích và tuyển nhân tài. Năm Ất-mão (1075), vào tháng hai, vua hạ chiếu tuyển các nhà minh-kinh bác- học, chọn kẻ hiểu sách Kinh, học rộng, và mở khoa thi Nho đầu tiên ở nước ta. Lê Văn-Thịnh đậu khoa ấy, và được vào dạy vua Nhân-tông bấy giờ lên 10 tuổi. Trong các việc này, chắc Lý Đạo-Thành có ảnh hưởng lớn. Thế cũng đủ tỏ rằng hai nhà họ Lý kia đã thành thật đồng tâm cộng sự. Nhờ sự hoà hảo trong triều, mà sau này, tuy Tống tìm phương chia rẽ các đại thần để dễ bại quân ta, nhưng Tống sẽ hoàn toàn thất bại.

Ta sẽ thấy vũ công của Lý Thường-Kiệt trong năm sắp tới rất to. Mà xem việc trên đây, ta cũng thấy về chính trị, ông cũng là tay rất giỏi.

CHÚTHÍCH(1) Làng làbởi chữ hương mà dịch ra. Nhưng hương không phảilà một làng nhỏ như bây giờ. Từ đời Tần, nước Trung-quốcchia ra từng quận. Quận chia thành huyện. Huyện chia thànhhương. Hương chia thành đình. Đình chia thành lý. Tuy đờisau có đổi chế độ ít nhiều. Nhung hương vẫn là phầncủa huyện. Lúc nước ta thuộc Bắc, nước thành quận, cũngbị chia ra châu hay huyện. Vậy chế độ hươngcó từđời ấy. Mà hương là lớn như một tổng lớn đời sau.

Về chuyện Ỷ-lan, xem lời dẫn tường tận ở sách Chuyên Ỷ-lan, (nhà xuất bản Sông Nhị).1.

(2) Y-doãn làm quan đời Thương. Trước ở ẩn, vua Thang ba lần đến mời, mới chịu ra. Ông có công giúp vua Thang đánh vua Hạ Kiệt. Sau vua Thang mất, có phó thác cháu là Thái-Giáp cho ông. Thái-Giáp còn trẻ, tính hư. Y-doãn truất đi, bèn hối quá.

Hoắc-Quang, tướng đời Hán, là em Hoắc Khứ-Bệnh (I, Cth 2). Quang giúp vua Hán Vũ-đế rất có công. Vua mất, giao cho ông phò vua Chiêu-đế. Quyền hoàn toàn trong tay ông. Chiêu-đế chết, ông lập Xương ấp-vương tên Hạ. Vì Hạ dâm loạn, ông lại bỏ đi, lập vua Tuyên-đế. Nói tóm lại Y-doãn và Hoắc-quan là hai bầy tôi, được vua phó thác hoàng tử còn bé. Tuy cầm hết quyền bính trong tay, hai người đều trung thành với chúa, và không nhân cơ hội đoạt ngôi vua. Lời bia so sách Lý Thường-Kiệt với Y-doãn, Hoắc-quang, đủ tỏ rằng Lý Thường-Kiệt đã làm tể tướng cầm hết quyền trong nước, trong khi Lý Nhân-tông còn nhỏ.

Bia BA có câu :"Vua nhỏ có thể phó thác cho ông." Đó là thêm một chứng nữa rằng Thường-Kiệt được sung chức phụ chính.1.

CHƯƠNG IV : CHÍNH-SÁCH BẮC-CƯƠNG TRIỀU LÝ

1. Cương-vực Đại-Việt
2. Dân vùng biên giới
3. Họ Nùng và châu Quảng-nguyên
4. Phủ-dụ
5. Chinh phạt
Chú thích

1.Cương-vực Đại-ViệtĐời Lý ở nướcta là đồng thời với nhà Tống bên Trung-quốc.

Nhân bên Trung-quốc, có cuộc phân tranh đời Ngũ-đại, cho nên ở miền Nam, dân Giao-chỉ đã có cơ tự lập. Từ khi Khúc Thừa-Mỹ (919), Ngô-Quyền (939) chiếm cứ được đất, đánh lui quân Nam-Hán, thì trung nguyên xứ Bắc-kỳ bây giờ, đã do tay người Giao-chỉ tự quản trị. Nhưng công ấy không bởi một người, cho nên quyền chưa được tập trung. Kịp khi Ngô Xương-Văn mất, các tướng tá tranh giành nhau. Nhưng sự tranh giành ấy cũng không ra ngoài trung nguyên.

Đến khi nhà Đinh nhất thống sơn hà (968), thì bên bắc, nhà Tống cũng vừa mới lâïp (963). Hai nước còn bận việc trị an những nơi gần căn cứ mình, cho nên chưa nghĩ đến việc biên thùy. Nhưng khi nghe tướng Tống đã vượt xuống Lĩnh-nam, vào vùng Lưỡng-Quảng (970), thì Đinh liền sai sứ sang Tống xin giao hiếu (973, TB 14/6a), và Tống cũng nhận cho ta tự trị và phong cho Đinh Bộ-Lĩnh làm An-nam quận-vương.

Tiếng rằng tự trị, thật ra thì Tống chẳng có quyền thực tế gì ở nước ta. Chỉ có điều là ta thỉnh thoảng phải sang cống phương vật và chịu Tống phong cho chức tước theo lệ chư hầu.

Sở dĩ Tống chưa muốn chiếm lại nước ta như đời Đường là vì còn bận việc nơi khác (VI/1). Cuối đời Đinh, cha con vua Đinh bị nạn (979), tướng là Lê Hoàn có ý chiếm ngôi. Tống, bấy giờ trong nước đã gần yên, nhân cơ hội định chiếm lại Giao-chỉ. Lấy cớ đánh Hoàn, Tống sai quân sang xâm lấn nước ta. Đó là mở cuộc bang giao khó khăn ở hai nước (980). Nhờ Hoàn đánh bại thủy quân Tống ở sông Bạch-đằng, giết đại tướng Hầu Nhân-Bảo ở Chi-lăng (giáp giới Bắc-giang và Lạng-sơn) và phá tan lục quân của Thẩm Khâm-Tộ ở Tây-Kết (tháng ba năm Tân-tị 981), nước ta tránh khỏi ách Tống. Vua Tống phải nhận Lê Hoàn làm chủ ở nước ta (986).

Phía bắc, Lê Hoàn đánh lui quân Tống, phía nam đại phá quân Chiêm. Nước ta nhờ đó thành có cơ đồ khá vững vàng. Nhưng khoảng đất Hoàn cai trị không quá vùng trung nguyên (1). Còn miền thượng du thì hình như chưa ràng buộc gì cả. Tuy nhiên, biên giới miền đông bắc đã rõ ràng; và trên hai đường thông lộ lớn, từ châu Vĩnh-an ở vùng Hải-ninh, Mông-cái, đến Khâm-châu (Kintcheou) và từ huyện Quang-lang, là Ôn-châu, ở phía nam Lạng-sơn, đến Ung-châu (Nanning), thì hai nước kiểm soát cẩn thận (2). Biên thần Tống thường thám thính tình hình nước ta, nhưng Tống còn bận việc bắc cương đối với Liêu (vùng Bắc-bình và Mãn-châu), Hạ (vùng Thiểm-tây), cho nên chưa muốn gây hấn với ta. Dẫu có khi dân ta sang quấy (995) mà Tống cũng làm ngơ (3). Đến lúc Lê Hoàn mất, các con tranh nhau ngôi, quan Tống xin đem quân sang đánh ta (1006). Nhưng vua Chân-tông vẫn không bằng lòng. Vua nói rằng :"Hoàn đã trung thành, ta không nên nhân y chết mà đánh. Vả núi sông Giao-chỉ hiểm trở, thủy thổ độc dữ. Có lấy được cũng vô ích" (4) (TS.488 và TB 63/8b)

Sau đó, vua Tống lại bằng lòng cho Lý Công-Uẩn nối nhà Lê. Tính rộng rãi của Tống Chân-tông đã tỏ rõ trong câu trả lời cho tả hữu về việc Công-Uẩn tranh ngôi Lê :"Lê Hoàn bất nghĩa mà được nước. Lý Công-Uẩn bắt chước, rất là đáng ghét; Nhưng man tục như thế, không nên trách." (TS 488)

Từ lúc Lý lập nước (1009), ngoài việc các vương toan cướp ngôi Thái-tông, bên trong không có sự cạnh tranh khác. Cho nên các vua Lý rất chú ý đến việc biên cương phương nam và phương bắc.

Về phương nam, biên giới đã rõ ràng, vì có dãy núi Hoành-sơn ngăn đôi hai nước Chiêm và Việt. Dân Chàm cũng như dân ta, sinh nhai về cày cấy. Gần biên giới chung, dân ta và dân Chàm sống trên h ai đồng bằng châu Hoan và Bố-chánh cách nhau xa, nên ít sinh sự xâm lấn lẫn nhau, trừ phi những vụ giặc bể Chàm vào cướp ven bể rồi bỏ đi mà thôi.

Còn về phương bắc, ngoài hai dân tộc Hoa và Việt, có nhiều dân tộc khác mà cả hai nước đều gọi là Man (Thổ, Nùng, Mán�), chiếm miền rừng núi rất rộng ở giữa hai bình nguyên lớn : triền sông Lô (Nhị-hà) ở ta và triền sông Uất (Nanning) ở Tống. Từ miền Cao-bằng bây giờ sang đông, biên giới đã khá rõ ràng. Theo LNĐĐ và các sử, thì đến vùng Đông-khê, không khác lắm. Từ đó ra biển, bắc ngạn sông Kỳ-cùng thuộc về Tống, gồm có châu Tây-bình, Lộc-châu và huyện Thanh-Viễn. Rồi tới chỗ gần bể, phần đất nước ta còn ăn vào tỉnh Quảng-đông đến gần vịnh châu Khâm (5). Còn về phía tây Cao-bằng, dân Man ở thành từng động, không hẳn thuộc về ai; cho nên biên giới có thể nói là chưa có. Nhưng ảnh hưởng Lý cũng tới vùng Bảo-lạc và miền Yên-bái ngày nay.

Biên-hạt Tống giáp nước ta gồm có các đất sau :

Đất KHÂM-CHÂU giáp với châu Vĩnh-an (tên cũ là Triều-dương, năm 1023 mới đổi), tức là vùng Hải-ninh, Mông-cái bây giờ.

Từ đó sang phía tây, hai nước cách nhau bằng một con sông nhỏ, là sông Kỳ-cùng ngày nay. Các đất, kể từ đông sang tây, gồm năm trại : Thiên-long, Cổ-vạn, Vĩnh-bình, Thái-bình, Hoành-sơn. Năm trại ấy đều thuộc Ung-châu.

Trại THIÊN-LONG giáp giới Khâm-châu, và có lẽvới phần tây châu Vĩnh-an. Trại CỔ-VẠN gồm đất TƯ-LĂNG và giáp châu Tô-mậu ở nước ta.

Trại VĨNH-BÌNH gồm phần đất các châu TƯ-MINH, BẰNG-TƯỜNG, một phần TƯ-LĂNG và phần đất ở bắc ngạn sông Ô-bì (Kỳ-cùng thuộc Lạng-sơn). Đất gần sông có châu TÂY-BÌNH (vùng Đồng-đăng và phố Lạng-sơn) và châu Lộc (vùng Lộc-bình ngày nay). Trại Vĩnh-bình tiếp đất với các châu sau này ở nước ta : Tô-mậu (vùng Na-dương, Đình-lập, An-châu), huyện Quang-lang (vùng Ôn-châu ngày nay), và châu Văn (vùng nam châu Văn-uyên và châu Văn-quang, tức Phố Bình-gia trong địa đồ Đông-dương). Huyện Quang-lang và châu Văn thuộc châu Lạng.

Trại THÁI-BÌNH, địa phận rộng, gồm có đất châu An-bình, châu Đống (Thượng-đống và Hạ-đống), châu Long, đều ở phía đông những đất châu Thất-nguyên, châu Môn (Đông-khê), châu Tư-lang (Thượng và Hạ-lang) và châu Quảng-nguyên (Quảng-uyên) thuộc nước ta. Đến đời Lý Nhân-tông, châu Thất-nguyên (Thất-khê ngày nay) tuy thuộc quyền Lý, nhưng thỉnh thoảng cũng còn theo Tống (VII/3).

Trại HOÀNH-SƠN gồm phần đất giữa biên thùy Cao-bằng ngày nay và Hữu-giang. Những động giáp châu Quảng-nguyên ở đất ta là Hạ-lôi, Ôn-nhuận (bay giờ là Hồ-nhuận).

Nhìn biên giới Tống-Việt trên bản đồ, ta sẽ thấy chỉ chừng một phần tư biên giới Trung-Việt ngày nay là khá định; nghĩa là ảnh hưởng Lý và Tống tiếp xúc thực sự. Còn dư, về phía tây, đều thuộc những bộ lạc hầu như độc lập. Ai mạnh, kẻ nấy cai quản.

Đường biên giới hình một đường cung, một phần tư vòng tròn, tâm ở Ung-châu, một bán kính chỉ xuống phía nam, một bán kính chỉ sang phía tây. Cái địa thế đất ta ôm đất Ung-châu là cái cớ quan trọng trong việc biên dân thuộc ta hay quấy Ung-châu, và giúp thắng lợi cho cuộc tấn công vào thành Ung-châu của Lý Thường-Kiệt sau này.

2.Dân vùng biên-giớiHai bên biên giới,từ Bảo-lạc đến châu Vĩnh-an, giáp Khâm-châu, sinhtụ nhiều dân tộc riêng biệt, không phải Việt mà cũng khôngphải Trung-hoa. Cả hai nước Tầu và ta đều gọi chúng bằngtên chung : Man-dân.

Thật ra, Man-dân gồm nhiều giống khác nhau, có lẽ từ đời Tống, Lý, đến nay không thay đổi mấy. Theo các sách và sử, ta sẽ phân biệt các dân ấy bằng họ.

Ở cực đông, có họ Hoàng ở hai mé biên giới, tại động Như-tích và châu Vĩnh-an. Họ Hoàng nhỏ nhưng đã từng làm châu-mục ở Vĩnh-an.

Họ Vi là một họ lớn, chiếm vùng Tư-lăng, Lộc-châu, Tây-bình ở Tống và châu Tô-mậu ở ta. Các động trưởng ở vùng này đều họ Vi. Họ Vi và ba họ khác, Nùng, Hoàng, Chu, là bốn họ mà Tống sử (TS 495), nhận là dân khê động vùng Tả-giang và Hữu-giang.

Tả-giang và Hữu-giang là hai nguồn sông Tây-giang ở Lưỡng-Quảng. Hữu-giang phát nguyên từ Vân-nam, chảy xuống qua Quảng-tây, theo hướng đông nam. Tả-giang phát nguyên từ chỗ giáp giới tỉnh Cao-bằng và Vân-nam, chảy qua Cao-bằng, rồi theo chiều đông bắc, qua Quảng-tây và hợp với Hữu-giang ở phía tây thành Ung-châu. Sông Ô-bì (Kỳ-cùng) là một nhánh của Tả-giang.

Các họ Nùng, Hoàng, Chu, vân vân, ở trong triền hai sông ấy. Họ Nùng phần lớn ở bốn châu : An-bình, Vũ-lặc, Tư-lãng, Thất-nguyên thuộc Tả-giang và ở Quảng-nguyên, tức là trên đất Cao-bằng và đất phía đông biên giới Cao-bằng ngày nay. Họ Hoàng ở về phía tây, thuộc Hữu-giang, nhất là ở bốn châu An-đức, Qui-lạc, Lộ-thành, Điền-châu, tức là phía bắc và tây bắc biên giới Cao-bằng. (LNĐĐ và QHNHC)

Sự phân biệt bằng địa điểm như thếkhông tuyệt đối đúng. Thật ra, các họ ở lẫn nhau. Họ Nùng ở các châu phía tây đạo Đặc-ma (thuộc Vân-nam), và họ Hoàng cũng ở phía đông đất Quảng-nguyên.

Hai đạo Tả và Hữu-giang gồm từ 50 đến 60 động (TS, QHNHC). Tù trưởng các động ấy khi trước đều tự lập. Đời Đường có viên kinh lược Ung-châu, là Từ Thân-Hậu, chiêu dụ; nên mới theo Đường.

Từ khi Tống lập nước, quan Tống coi Quế-châu, hay là coi Ung-châu, đã tìm cách thu phục các khê động ấy. Nhưng thật ra cũng chỉ có các động, gần các đồn binh Tống, theo. Còn các động ở xa, thì hoặc tự lập, hoặc chỉ nộp cống ít nhiều lấy lệ, hoặc đã theo Lý. Các châu Vạn-nhai (Vũ-nhai ở Thái-nguyên ngày nay) Vũ-lặc, (ở Cao-bằng) Quảng-nguyên, đều nộp cống cho vua Lý.

Nước ta nhỏ, nên đường đất từ kinh đô đến các khê động ấy không xa. Lý kiểm soát vùng tây Tả-giang dễ dàng hơn quan Tống đóng ở Ung-châu. Sử ta còn chép rõ các việc vua Lý hay các hoàng tử dẹp loạn ở vùng ấy (9). Nhưng cũng có bộ lạc, thỉnh thoảng bất bình vì một việc gì, đều bỏ đất này qua đất khác. Vì thế, cuơng giới ở vùng này còn lưu động. Vua Lý rất quan tâm mở cõi về vùng ấy.

Còn quan Tống, thì giữ thế thủ. Ấy bởi vì đối với Tống, đất nào cũng đã cho là thuộc mình rồi. Cho nên, quí hồ dân khê động không quấy rối vùng đồng ruộng dọc sông, quan Tống không cần hỏi đến. Muốn gìn giữ đất vùng xuôi, quan Tống đã đặt ra những trại, tức là đồn ở biên giới chia dân khê động với Hán-dân. Đối với Tả, Hữu-giang và nước ta, Tống đã đặt năm trại thuộc Ung-châu : Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Cổ-vạn, Thiên-long, và hai trại thuộc Khâm-châu : Như-tích và Để-trạo.

Sau này ta sẽ thấy rằng, tất cả các việc lôi thôi giữa Lý và Tống đều bởi những cuộc xung đột giữa các dân khê động, hoặc tự ý tranh giành , hoặc tự triều đình Lý xui giục.

Nội trong các dân khê động trên đất Lý, họ Thân chiếm một địa vị đặc biệt. Mục sau (IV/4) sẽ nói rõ. Ấy là dân động Giáp, thuộc Lạng-châu.

Họ Thân ba đời làm phò mã dưới triều Lý. Nguyên họ Giáp, sau đổi ra Thân; chữ thân khác chữ giáp chỉ có thêm dài nét sổ lên phía trên.

Động Giáp chắc ở phần bắc tỉnh Bắc-giang ngày nay và phía nam ải Chi-lăng (6). Đất này là chỗ rất quan yếu. Nó chặn con đường lớn nhất từ Ung đến nước ta. Mà đối với trại Vĩnh-bình của Tống thì có các đèo ải rất hiểm thuộc huyện Quang-lang che chở. Muốn qua huyện ấy phải qua hai ải rất hiểm : ải Quyết-lý kề phía bắc Ôn-châu ngày nay và ải Giáp-khẩu, tức Chi-lăng ở phía nam Ôn-châu. Trong cuộc Lý Tống chiến tranh sau này, hai ải ấy sẽ có công dụng rất lớn.

3.Họ Nùng và châu Quảng-nguyênQuảng-nguyên làđịa phận Cao-bằng bây giờ. Nay châu Quảng-uyên là tên cũđổi ra (theo ĐNNTC, cuối đời Hồng-đức đổi; nhưng cólẽ đời Mạc tránh tên húy Mạc Phúc-Nguyên). Tuy châu ởcách xa Thăng-long, ít ruộng, rừng núi hầu khắp, nhiều thúdữ, khí độc, nhưng sản vàng bạc. Vùng Ngân-sơn (nghĩa lànúi bạc), NNNTC), xưa có lò vàng bạc. Phía tây, thông vớivùng Tuyên-quang, Hà-giang ngày nay; chính đó có nhiều mỏ vàng,mỏ bạc, mỏ đồng, mỏ chì và thiếc (nhất là vùng Tụ-long,bị mất vào Trung-quốc từ hồi thuộc Pháp, nay ở vào hơn20 cây số trong tỉnh Quảng-tây về phía tây bắc Hà-giang).Vùng này có giống Nùng (lấy họ Nùng), là một dân tộc đôngvà mạnh, ở rải rác từ Hữu-giang và Tả-giang thuộc Quảng-tâycho đến châu Quảng-nguyên.

Trước khi Tống lập quốc, họ Nùng đã mạnh. Có Nùng Dân-Phú được vua Nam-Hán phong làm thủ lĩnh mười châu ở Quảng-nguyên. Sau khi Tống Thái-tông lên ngôi, Dân-Phú lại xin qui phụ (977) và được phong chức kiểm-hiệu tư-không. (TB 18/4a và TS 495)

Đầu đời Lý, có Nùng Tồn-Phúc (theo TT, còn TS chép Toàn-Phúc) quê ở động Tượng-cần, châu Thạch-an thuộc Cao-bằng bây giờ (CM), làm thủ lĩnh châu Thảng-do (có lẽ ở miền Trung-thảng thuộc Cao-bằng). Tồn-Phúc giết em là Tồn-Lộc thủ lĩnh châu Vạn-nhai (Vũ-nhai ở Thái-nguyên bây giờ, CM) và em vợ là Đương-Đạo thủ lĩnh châu Vũ-lặc (ở Cao-bằng), thuộc Tả-giang (TS 495 và TTh 13). Tồn-Phúc nhờ các lò vàng, trở nên giàu có, chiêu tập dân các động chung quanh: tụ xưng đế, và không chịu cống vua Lý. Y bèn dời nhà ra chỗ đất gọi là nước Trường-sinh, xây thành, luyện binh; quyết chí độc lập. Theo ĐNNTC, thành Na-lữ, phía tây thành Cao-bằng, chính là kinh thành của họ Nùng ngày xưa. Có lẽ kinh đô nước Trường-sinh là ở đó.

Tháng hai năm Mậu-dần (1038), Lý Thái-tông tự cầm quân tới đánh, bắt được Tồn-Phúc và con cả là Trí-Thông; vợ là Ả-Nùng và con thứ là Trí-Cao chạy thoát qua động Lôi-hỏa. Trí-Cao bấy giờ mới 14 tuổi (theo Tiêu-Chú, lời dẫn của Tư Mã-Quang trong sách TTh 13)

Năm Tân-tị (1041), Ả-Nùng và Trí-Cao trở về chiếm lại châu Thảng-do, rồi đổi ra nước Đại-lịch. Lý Thái-tông sai quân đánh, bắt được Trí-Cao; nhưng thương tình cha và anh đã bị giết, cho nên tha cho về, và cấp thêm đâÙt ở vùng châu Tư-lang (TT). Theo một thoại, Lý Thường-Kiệt (23 tuổi) cố can vua đừng tha vì sợ có hậu hoạn. Nhưng vua không nghe. (I/2)

Rồi hai năm sau (1043) vua lại sai sứ đến tận nơi phong hàm thái-bảo. (TT)
Thế mà năm Mậu-tý (1048), Trí-Cao lại làm phản. Tiêu-chú (TTh 13) nói Trí-Cao thông với người xung quanh vua Lý, định cướp nước (có lẽ cướp vùng Quảng-nguyên). Vua sai tướng đánh. Trí-Cao thua chạy sang đất Tống; cướp châu An-đức ở phía bắc vùng Bảo-lạc ngày nay. Trí-Cao lại lập nước, đặt tên Nam-thiên-quốc, lấy hiệu Cảnh-thụy, và xin phục dịch Tống (TB, TT, TTh, TS). Nhưng Tống sợ mất lòng vua Lý, nên khước từ. Trí-Cao chạy tới Văn-thôn thuộc Hữu-giang (TT 13), ở đó do thám tình hình Ung-châu. Bấy giờ có Ky-Mân làm quan Tống bị biếm, phải đi tuần thú ở Ung. Mân muốn lập công, bèn đưa quân đi tuần sâu vào man địa gần nơi Trí-Cao đóng. Bị Trí-Cao bắt, Mân nói dối rằng được triều mệnh sai tới chiêu dụ. Trí-Cao mừng, sai bộ hạ đi theo Mân về Ung, dâng biểu cầu phong. Lại dâng vật báu : ngà voi, vàng, bạc. Vua Tống lại từ khước, viện lẽ Trí-Cao thuộc nước ta.

Trí-Cao rất tức giận. Trong bị ta đánh, ngoài bị Tống từ. Mới định tâm nổi loạn. Lại có tiến sĩ Hoàng Sư-Mật thường qua lại Quảng-nguyên buôn vàng, trở nên quen thuộc. Sư-Mật vốn người Quảng-châu. Y tỏ bày tình hình trong hạt mình cho Trí-Cao nghe và nhận làm mưu chủ. Sauk khi kết đảng với bộ hạ của viên coi châu Ung, Trí-Cao ngầm đốt sào huyệt mình, rồi hội quân mà nói rằng : "Của cải chúng ta, tích trữ cả đời, nay bị thiên tai, đã hoá ra tro. Chúng ta không còn kế gì sinh sống nữa. Chỉ có cách đánh lấy Ung-châu để tự lập". Quân chúng đều nghe theo. (TS 495)

Tháng tư năm Hoàng-hữu thứ tư (Nhâm-thìn, 1052), Trí-Cao đem 5000 quân, dọc sông Hữu-giang mà xuống miền đông, lấy trại Hoành-sơn (Điền-châu bây giờ) vào tháng tư; rồi xuôi sông Uất, xuống đánh thành Ung. Vì có nội công, Ung mất ngày mồng một tháng năm (A-Tị, DL 31-5-1052, TB 172/12a).

Trí-Cao đặt quốc hiệu Đại-nam Tự xưng Nhân-huệ hoàng đế, cải nguyên Khải-lịch, rồi dọc theo sông Tầm, xuống sông Tây mà tiến tới Quảng-châu. Các châu lị không có thành trì; quân Tống lại hèn nhát. Còn quân Cao-Trí là quân vong mạng, cho nên đến đâu được đó. Các châu dọc sông đều lần lượt mất. Trong khoảng mười ngày, Trí-Cao phá các châu Hoành (9-5), Quí (12-5), Củng (16-5, nay là Bình-nam), Tầm, Đằng (17-5), Ngô (17-5, nay là Thương-ngô), Phong (17-5), Khang (18-5, nay là Đức-khánh), Đoan (19-5, nay là Triệu-khánh). Vừa trong hai tuần, mà từ Ung-châu, quân Cao-Trí đã đến Quảng-châu (22-5). Quân và tướng Tống đều sợ hãi. May có Vương-Hãn đóng thành chống lại. Trí-Cao đánh suốt ngày đêm, trong 57 ngày, không hạ được (TS 495); bèn rút quân lui. Ấy là ngày 18 tháng bảy (N. Tu, DL 16-8-1052; TB 173/1b).

Trong các trận, Trí-Cao giết hơn 3000 tướng tá Tống, bắt hàng vạn người. Qua đâu đốt phá đó. Vua Tống rất lo. Bèn sai các quan sở tại là bọn nho thần Dư Tĩnh, Dương Điền, Tôn Miễn ra dẹp, nhưng không ngăn nổi thế giặc.

Vua Lý Thái-tông rất quan tâm đến việc Trí-Cao đánh bại Tống. Thấy quân Tống bị đại bại, biết binh lực Tống ở miền nam rất kém, vua muốn nhân cơ hội, thử thách. Bèn xin đem hai vạn quân đi đường bể tới Khâm-châu tiếp viện (TT). Vua Tống chưa giám bằng lòng. Dư Tĩnh nói rằng :"Trí-Cao là nghịch thần của Giao-chỉ. Ta nên nhận lời cho Giao-chỉ xuất quân; chớ trái ý tốt của nó". Rồi nhiều lần, Tĩnh dâng sớ về bàn. Cuối, Tĩnh tâu :"Ung-châu và Giao-chỉ tiếp đất. Nay nếu ta không nhận lời, Giao-chỉ giận, sẽ giúp Trí-Cao". Vua Tống bèn ưng thuận cho phép Tĩnh tự liệu. (ĐĐSL 75)

Nhưng ngày Canh-ngọ tháng 9 (DL 23-10), tướng Tống là Địch Thanh được chuẩn lời tình nguyện đi đánh Trí-Cao (TB 173/11b). Địch Thanh là một vũ tướng có nhiều mưu kế. Thanh sợ trúng mưu ta, nên tâu cùng vua Tống rằng :"Mượn binh ngài dẹp giặc trong, không lợi cho ta đâu. Chỉ vì một Trí-Cao mà sức Lưỡng-châu không chống chế nổi, đến phải mượn quân ngoài; thì hoặc giả quân ấy nhân đó làm loạn, ta lấy gì để ngăn ?". Vua Tống bèn hạ chiếu ngăn không cho quân Lý vào cõi; (Đ. Vi tháng giêng năm Quí-tị, DL 28-1-1053; TB 174/1a)

Sau khi rút khỏi Quảng-châu, Trí-Cao tới dánh Hạ-châu, nhưng cũng không phá được, bèn rút về phía tây. Dọc đường, Trí-Cao đánh bại nhiều tướng Tống, rồi kéo đánh Tân-châu. Dư Tĩnh bỏ chạy về Ung. Lần lượt Tân (DL 30-10-1052) và Ung (DL 6-11-1052) đều mất. Tĩnh sai tướng Trần Thự đem một vạn quân đón giặc. Thự chù chừ, nên bị thua to ở trạm Kim-thành, trên đường Tân tới Ung. Ấy là ngày mồng một tháng chạp (N. Ta; DL 24-12-1052; TB 173/18a).

Tháng giêng năm Quí-tị (1053), Địch Thanh đến Tân-châu, hội chư tướng. Vì các tướng đều có ý khinh Thanh, nên Thanh ra lệnh chém Trần Thự. Ai nay đều khiếp. Trước đó, Thanh cầm quân ở vùng Diên-Phu chống Hạ (vùng Thiểm-tây). Thanh đem nhiều quân kỵ ở vùng ấy theo xuống. Có kẻ bảo Trí-Cao phải chặn ải Côn-lôn, trong núi trên đường Tân-Ung, đừng để Thanh xuống đồng bằng, vì ở đồng bằng dùng kỵ binh rất lợi. Nhưng Địch Thanh muốn hành quân gấp, nên không đợi lương thực tới, ra lệnh biện tại chỗ lương thực ăn mười ngày. Trí-Cao tưởng là Thanh còn đóng quân lại nghỉ, nên không nghe lời bày mưu; lại còn nhân ngày thượng nguyên (rằm tháng giêng) trương đèn đặt hội. Thanh cho quân tiến gấp qua ải Côn-lôn, thẳng tới thành Ung. Đang đêm, Địch Thanh mặc áo thường, lẩn vào tiền quân mà vượt ải. (TB 174/2b)

Trí-Cao được tin báo, lật đật đem quân chặn lại. Hai quân gặp nhau ở phố Qui-nhân. Ấy là ngày 17 tháng giêng (M.Ng, DL 8-2-1053). Thanh cho bộ binh ra trước, dấu kỵ binh ở sau. Còn Trí-Cao thì, trái lại, cho quân kiêu dũng cầm trường thương ra trước, để quân hèn ốm ở sau. Lúc giáp trận, quân tiền phong Tống thua. Nhưng Thanh nghiêm hiệu lệnh; các tướng sĩ không dám lùi. Rồi Thanh trèo lên cồn cao, cầm cờ ngũ sắc, ra hiệu cho kỵ binh hai cánh đổ ra, đánh vào sau quân kiêu dũng của Trí-Cao. Quân tả tiến sang hữu, quân hữu tiến sang tả. Rồi tả lại về tả, hữu lại về hữu (TS, TB), cắt quân địch làm hai đoạn. Quân Trí-Cao tan vỡ, chết mất hơn ba nghìn.

Trí-Cao rút quân về thành. Đang đêm, đốt thành bỏ chạy. Quân Thanh đuổi đến Điền-châu, nhưng không kịp nữa. (TTh)

Trí-Cao đem tàn quân về đóng ở trại Đặc-ma (phủ Quảng-nam, miền đông Vân-nam) đồ tâm trở lại Ung-châu. Một mặt, Trí-Cao kết thân với thủ lĩnh trại ấy là Nùng Hạ-Thành để mua ngựa và mộ quân, vì Đặc-ma là nơi sản xuất rất nhiều ngựa tốt. Một mặt sai Lương Châu tới nước ta xin quân giúp. (VSL)

Ý chừng vua Lý Thái-tông cũng muốn tiếp tục thử thách sức Tống, và muốn trả thù sự vua Tống đã không giữ lời hứa cho quân mình tới Khâm-châu (TT). Bèn sai viên chỉ huy Vũ Nhĩ đem quân đi giúp (VSL và TT). Nhưng sau khi thấy Trí-Cao đã thua và thế Địch Thanh mạnh, Lý lại thôi không phái quân đi nữa.

Hai năm sau, Dư Tĩnh cho quân vào Đặc-ma, bắt được mẹ, em và con Trí-Cao. Còn Trí-Cao, thì chạy vào nước Đại-lý (thuộc Vân-nam ngày nay, phía tây Côn-minh); rồi chết ở đó.

4.Phủ-dụTrên đây lượckể lại chuyện Nùng Trí-Cao. Ta thấy rõ rằng hồi bấy giờ,biên giới miền bắc nước ta thật là chưa định, mà Tốngcũng thường bỏ không phòng bị. Vua Lý, trái lại rất cóchủ kiến muốn nhân sự bất định ấy mà bành trướng lãnhthổ về phía Bắc. Muốn vậy, hoặc chỉ cần phủ dụ mandân, hoặc uy hiếp chúng để chúng theo mình; vì hễ chúngtheo tức thì lãnh thổ chúng cũng sáp nhập về mình. Đếnlúc người Tống biết ra, thì thường đã chậm rồi. Nếukhông muốn sinh sự, Tống ắt phải nhận. Nói tóm lại, đốivới man dân ở bắc thùy, Lý đã dùng chính sách chiêu dụhoặc uy hiếp để đi đến chính sách "làm trước cãi sau"đối với Tống.

Mà thật vậy, khác những triều khác, các vua Lý đã không chia rẽ hoa, di, và đã lợi dụng sự hôn nhân để kết thúc các dân tộc biên thùy. Các sách sử VSL và TT còn chép nhiều việc vua gả công chúa cho châu mục, nghĩa là người miền núi cầm đầu một châu.

Trong các châu ở biên giới, Lạng-châu là quan trọng hơn cả, vì ở gần kinh kỳ, vừa ở trên đường bộ từ Tống sang ta. Lạng-châu tức là nay thuộc vùng Bắc-giang và phần nam Lạng-sơn. Lạng-châu có động Giáp, rất to; chúa động thuộc họ Giáp , sau đổi ra họ Thân, đã nhiều đời làm phò mã. Động Giáp ở phía nam ải Chi-lăng (6). Sách MKBD chép rõ rằng :"Giáp động là một bộ lạc lớn. Chủ động tên Giáp Thừa-Quí, lấy con Lý Công-Uẩn rồi đổi ra họ Thân. Con Thừa-Quí là Thiệu-thái lại lấy con gái Đức-chính (Thái-tông). Con Thiệu-thái là Cảnh-long lại lấy con Nhật-tôn (Thánh-tông)"

Tống sử cũng chép Giáp Thừa-Quí lấy con gái Lý Công-Uẩn (TS 488). Xem như vậy, đủ biết họ Giáp này đã có thanh thế từ trước. Chắc từ đời Lê, đã mạnh, mới có sự Lý Thái-tổ kén phò mã trong họ như vậy. Có lẽ muốn xóa vết tích man động nên đã đổi họ ra Thân.

Con Thừa-Quí là Thiệu-Thái, nối cha làm châu mục Lạng-châu. Năm Kỷ-tị (1029), vua Lý Thái-tông gả công chúa Bình-dương cho Thân Thiệu-Thái (TT và VSL).

Con Thiệu-Thái và công chúa Bình-dương là Thân Cảnh-Nguyên (VSL 1059), hay Đạo-Nguyên (VSL 1066), hay Cảnh-Long ( MKBD 2), hay Cảnh-Phúc (TB 279/11a), cũng được kén lấy công chúa Thiên-thành năm Bính-ngọ, 1066, đời Lý Thánh-tông.

Nhờ vậy họ Thân đã rất trung thành với nhà Lý, và là một phên giậu rất kiên cố ở trên đường sang Tống. Trong những cuộc dụng binh đối Tống, họ Thân sẽ có công nhiều.

Năm Bính-tý (1036), vua Thái-tông lại gả công chúa Kim-thành (theo TT; VSL chép Khánh-thành) cho châu mục Phong-châu (vùng Sơn-tây, Phú-thọ bây giờ) tên là Lê Thuận-tông, và công chúa Trường-Ninh cho châu mục Thượng-oai (có lẽ vùng Hòa-bình ngày nay) là Hà Thiện-Lãm.

Vua Thái-tông lại chọn con gái Đào Đại-Di ở châu Chân-đăng (vùng Hưng-hóa) đưa về cung làm hoàng phi (1033, TT). Vua Thánh-tông gả con nuôi là công chúa Ngọc-Kiều (7) cho châu mục Chân-đăng họ Lê (TUTA và TT).

Nhờ chính sách ấy, lòng dân miền trung du tây và bắc đều qui hướng về nhà vua.

Cho đến Nùng Trí-Cao, tuy cha con đã phản lại ta, mà vua Thánh-tông không những tha cho, lại còn hậu đãi nữa (8).

5.Chinh phạtTuy vậy, ở vùngthượng du, uy quyền trung ương có khi bị các tù trưởng khinhmiệt. Hoặc chúng không nạp thuế, hoặc chúng tự lập mộtnước nhỏ, hoặc chúng theo lời dụ dỗ của quan Tống, màbỏ ta theo Tống.

Các vua quan triều Lý, tuy chịu ảnh hưởng đạo Phật, thường tỏ thái độ khoan hồng; nhưng về chính trị , họ rất tin rằng muốn ràng buộc các phiên thần, phải dùng cả uy lẫn đức. Xem như việc đời Lý Thái-tông, khi Chiêm-thành không tới cống, vua hỏi quần thần :"Tiên đế mất đã mười sáu năm, mà không có một sứ Chiêm-thành nào tới cả, vì sao vậy ? Ấy vì Trẫm không gia uy đức sao, hay vì nó cậy có sông núi hiêm trở ?" Các quan trả lời :"Chúng tôi cho rằng tuy Bệ-hạ có gia đức, nhưng uy chưa trương rộng. Ấy vì cớ đó. Từ khi Bệ-hạ lên ngôi, nó trái mệnh không tới chầu. Tuy Bệ-hạ thi bố đức huệ để tỏ lòng yêu, nhưng chưa từng trương vũ uy mà đánh nó. Không phải làm như vậy mà kẻ ở xa sợ". (TT)

Cũng vì lẽ ấy, mỗi khi có biên biến, các vua thường sai đại tướng, hoặc các hoàng tử đánh dẹp. Nhiều lần vua tự thân chinh (9). Chuyện họ Nùng vừa kể trên là một bằng chứng. Vùng thường hay có biến nhiều nhất là vùng Tuyên-quang, Thái-nguyên, Bắc-cạn, Cao-bằng ngày nay. Nhưng các châu ở vùng Đà-giang và Thao-giang cũng có lần phải dẹp.

Với hai chính sách đức và uy, nhà Lý đã kết thúc được dân vùng bắc thùy. Nhờ vậy, cương vực được mở mang dần dần sang địa phận Tả và Hữu-giang; và lúc Tống định tiêu diệt nước ta, quân các phiên trấn đã giúp ta được phần lớn.

CHÚTHÍCH(1) Lê-Hoàn chiađất cho các con cai trị như sau : 1/ Khai-minh-vương LONG ĐĨNHcoi Đằng-châu(vùng Kim-động). 2/ Ngự-man-vương LONGĐINH coi Phong-châu (vùng Sơn-tây, Phú-thọ). 3/ Ngự-bắc-vươngLONG Cân coi Phù-lan (vùng Văn-lâm, Mỹ-hào). 4/ Định-phiên-vươngLONG TÚNG coi Ngũ-huyện-giang (Thanh-hóa). 5/ Tư-doanh-thànhphó-vương LONG TƯƠNG coi Đỗ-động (vùng Thanh-oai, Thượng-phúc).6/ Trung-quốc-vương LONG CÁNH coi Mạt-tiên (Tiên-lữ).7/ Nam-quốc-vương LONG MANG coi Vũ-long (Thanh-hoá). 8/ Hành-quân-vươngLONG ĐẾ coi Cổ-lãm (Quế-dương, Đông-ngạn). 9/ Phù-đái-vương(?) coi Phù-đái (vùng Vĩnh-bảo,Vĩnh-lại)
Trên đây, phầnlớn theo CM mà nhận định, trừ Ngũ-huyện-giang mà CM cho làsông Cà-lồ ngày nay. Xét các đất trên ta thấy các vươngchỉ cai quản vùng đồng bằng mà thôi. Có lẽ các vùng kháccó tù trưởng coi, nhưng các sách không thấy nói.1.

(2) Sách sử ta chép sơ lược đến nỗi bây giờ ta không biết hết tên các thành phần nước ta đời Lý. Sách LNĐĐ (Tống) chép : Giao-chỉ chia làm 4 phủ, 13 châu, 3 trại. Phủ có Đô-hộ, Đại-thông, Thanh-hóa, Phú-lương. Châu có Vĩnh-an, Vĩnh-thái, Vạn-xuân, Phong-đạo, Thái-bình, Thanh-hóa, Nghệ-an, Già-phong, Trà-lô, Yên-phong, Tô-châu, Mậu-châu (sách TB chép châu Tô-mậu), Lạng-châu. Trại có Hòa-ninh, Đại-bàn, Tân-yên. Đại để thì Thanh-hóa, Gìa-phong, Ngệ-an,Vĩnh-an đều kề bể. Mà Vĩnh-an giáp Khâm-châu, Trà-lô giáp Chiêm-thành, Tô-châu, Mộ-châu giáp Ung-châu. Phía đông Giao-chỉ có sông nhỏ, vượt qua đến Khâm, Liêm. Phía tây có lục lộ đi nước Mán-áo-trắng (Thái, Sơn-la, Lai-châu). Lục-lộ đi về nam đến Chiêm-thành, đi về bắc đến Ung-châu.

Tuy LNĐĐ chép sơ sài, và chưa chắc đã đúng hết, nhưng những tài liệu ấy cũng khiến ta biết ít nhiều về sự phân hạt ở nước ta hồi Lý.1.

(3) Năm 995, viên coi trấn Như-hồng, phía tây Khâm-châu, là Trương Quan, tâu với vua Tống rằng : Giao-chỉ cướp châu Như-hồng và biên giới Ung-châu. Y lại nói Lê Hoàn đã bị họ Đinh đuổi ra ở ngoài hải đảo và đã chết rồi. Vua Tống sai xét lại, thấy lời tâu ấy sai; bèn đem giả cho ta những dân đã trốn sang đất Tống (TS 488).1.

(4) Ngày mồng 1 tháng 3 năm Q. Ma (1003), viên coi Khâm-châu nói có bọn Hoàng Khánh-Tập đem hơn 450 người vào xin phụ. Hoàng Khánh-Tập là một viên chức ở Vĩnh-an. Vua Tống bảo ủy dụ chúng và bảo chúng trở về nước (TB 54/7a). Viên chuyển- vận-sứ Quảng-tây tuân mệnh, bảo Hoàng Khánh-Tập trở về Vĩnh-an (TB 54/15b). Năm sau, Lê Hoàn sai con là Minh-Đề vào nước Tống cống. Minh-Đề chưa về, Lê Hoàn đã mất (1005). Các con tranh giành ngôi thứ. Trong nước loạn. Minh-Đề phải lưu lại ở Quảng-châu (TB 62/7b).

Vua Tống giao cho viên coi Quảng-châu là Lăng Sách, và viên an-phủ-sứ dọc bể là Thiệu Dục xét về việc Giao-chỉ. Tháng 6 năm B. Ng (1006), Lăng Sách tâu :"Các con Lê Hoàn tranh nhau ngôi. Đều nhóm đồ đảng ở các trại. Việc công bỏ bễ, dân tình lo sợ. Tụi Hoàng Khánh-Tập, Hoàng Tú-Man với hơn nghìn người không chịu theo, nên bị đe dọa. Chúng đưa thân thuộc chạy tới Liêm-châu, xin tính việc đem binh mã đánh Giao-chỉ. Tụi Khánh-Tập tình nguyện đi tiên phong. Chắc thế nào cũng lấy được. Chúng tôi đã hội bàn. Nếu triều đình nhận lời xin, chỉ đem quân ở đạo chúng tôi và thêm vài ba nghìn quân vùng Kinh-hồ (Hồ-nam), theo hai đường thủy bộ cùng tiến. Lập tức bình định được". Vua nói :"Lê Hoàn tiếp tục cống hiến, lại từng sai con sang chầu. Khiến cho góc bể miền Nam yên ổn, chưa hề trái đạo làm tôi. Nay nghe Hoàn chết. Chưa điếu-tuất nó mà đã nhân tang nó để vội đánh. Kẻ vương giả há lại làm việc ấy ư ?". Vua Tống ban chiếu :"Sai Lăng Sách an ủi tụi Khánh-Tập, cấp cho ăn mặc, cho ruộng, ban chức một cách ưu hậu." Thiệu Dục vâng chiếu, viết thư cho Giao-chỉ, dụ rằng :"Nếu anh em còn giết hại lẫn nhau, quân nhà vua sẽ trị tội; thì họ Lê không còn dòng giống nữa đâu", Lê Minh-Hộ sợ, lập tức tôn Lê Long-Đĩnh làm chúa. Rồi, vua Tống sai Dục lấy lễ vật trước định cho Lê Hoàn, đem cho Long-Đĩnh. Nhưng Dục tâu :"Vỗ về dân ngoài, cốt nêu lòng thành tín của nó. Chi bằng đợi Long-Đĩnh tới cống rồi sẽ phong tước, để hậu đãi nó". Vua Tống khen là phải. (TB 63/8b) 1.

(5) Nay ở gần phía đông thành Lạng-sơn có trang Bình-tây (ĐKĐD), có lẽ là Tây-bình mà đổi ra.Vả theo TS quyển 488, châu Tây-bình có huyện Như-ngao. Nay còn làng Như-ngao ở phía tây Lộc-bình. Suy đó mà đoán, Tây-bình là vùng gồm tỉnh lị Lạng-sơn và Lộc-châu là vùng gồm Lộc-bình ngày nay.

Lại theo Quảng-đông-chí, ở biên giới Khâm-Việt có sông tên An-nam. Xét bản đồ, thấy sông ấy nay ở địa phận Khâm-châu. Vả trong sách địa chí ta, Bạch-long-vĩ thuộc nước ta. Nay thuộc Trung-quốc. Sử lại ghi rằng đời Mạc, Mạc Đăng-Dung đem các động Tư-lẫm, Cổ-sum, Liễu-cát, La-phù, Kim-lặc, thuộc hai đô (như tổng) Như-tích và Chiêm-lãng, hiến cho vua Minh. Sách Khâm-châu-chí chép rõ ràng hơn : mấy châu ấy đời Tống là đất riêng của họ Hoàng coi; gần như độc lập, tuy rằng vua Tống ban chức trại chúa. Đầu đời Minh, Trung-quốc thu ấn của các trại chúa. Rồi chỉ coi các đất ấy như những động, và cho họ Hoàng làm động trưởng. Đời Minh Tuyên-đức, tức là lúc Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, các động ấy về Lê. Đến đời Minh Gia-Tĩnh, Mạc Đăng-Dung đem biếu vua Minh để cầu phong.1.

(6) Các sách TS và TB chép nhiều lần họ Thân kéo quân vào đánh trại Vĩnh-bình ở Tống. Vậy động Giáp, tức là quê họ Thân không xa biên giới Vĩnh-bình. Ta lại biết rằng họ Thân từng làm châu mục Lạng-sơn (VSL : Thân Thiệu-Thái làm châu mục Lạng-châu năm 1060). Động Giáp thuộc Lạng-châu. Lạng-châu gồm tỉnh Bắc-giang (Phủ-lạng-thương ngày nay) và phần nam tỉnh Lạng-sơn. Động Giáp ở về phần nào ?

Sách VSL có chép : năm 1059, vua Lý Thánh-tông đi săn vùng sông Nam-bình, thuộc Lạng-châu; nhân đó tới chơi nhà phò mã Thân Cảnh-Nguyên. Ta biết rằng Cảnh-Nguyên là con Thiệu-Thái và công chúa Bình-dương, lấy công chúa Thiên-thành năm 1066 (VSL). Vả lại, nhờ chuyện Trương Hống, Trương Hát chép ở sách VĐUL, ta cũng biết rằng sông Nam-bình là sông Thương ngày nay (xem phụ lục ở cuối). Với những điều tham khảo trên, ta thấy rằng : năm 1059, Lý Thánh-tông đi săn ở vùng Bắc-giang, gần sông Thương, và nhân đó vua tới nhà Thân Cảnh-Nguyên ở động Giáp. Ta có thể kết luận rằng động Giáp không xa sông Thương lắm, và chắc ở trong hạt tỉnh Bắc-giang ngày nay. Vả ở phía bắc ải Chi-lăng, có huyện Quang-lang, đất đai rất hiểm trở, và ít ruộng đất cày cấy được; một cự tộc như họ Thân chắc cai quản địa hạt giàu có hơn.

Ngày nay, trong vùng Lạng-giang, còn có nhiều làng có tên Kép, như phố Kép trên đường xe lửa Phủ-lạng-thương đi Lạng-sơn là một. Kép chắc bởi chữ Giáp mà ra và đó là những làng họ Giáp ở ngày xưa. Theo TB, ta có thể đoán (XI/1) rằng ải Chi-lăng có tên là Giáp-khẩu. Tuy chữ giáp đây là gần nhau, khác chữ giáp là họ Giáp, nhưng ta cũng có thể ngờ rằng động Giáp ở kề phía nam ải ấy.

Về đời sau, còn có họ Giáp, như Giáp Hải đậu trạng nguyên đời Mạc. Họ Giáp này người huyện Phượng-nhãn, cũng ở Bắc-giang. Cho đến các họ Thân hiển đạt đời Lê Thánh-tông (Thân Nhân-Trung cũng vậy).

Phụ-lục. - VĐUL chép chuyện Trương Hống và Trương Hát hiện lên giúp vua Ngô Nam-Tấn. "Hai thần hội quân ở cửa Phù-lan (Lục-đầu). Anh (Hống) đóng binh trên sông Vũ-bình, kéo tới sông Như-nguyệt, rồi lên nguồn sông Phú-lương (mấy khúc sông Cầu). Em (Hát) đóng binh ở sông Lạng, kéo vào sông Nam-bình�"

Nay Hát có đền thờ ở "cửa sông Như-nguyệt" tại làng Như-nguyệt ở nam ngạn sông Cầu; và Hống có đền thờ ở "cửa sông Nam-bình", ở làng Phượng-nhãn ở bắc ngạn sông Thương. 2 và 4.

(7) Ngày nay ở làng Hương-nộn, kề tỉnh lị Hưng-hóa, còn có một chùa bên cạnh đền thờ "Lê phu-nhân". Trước đền có tấm bia rất cũ, dựng đời nhà Lý, vì còn chữ niên hiệu Chính-long-bảo-ứng, là khoảng 1163-1174 đời Lý Anh-tông. (theo Hưng-hóa phong-thổ-phú của Vũ Phạm-Hàm) sách TUTA (59b) và TT (3/16a) chép : Ngọc-Kiều hóa chồng, bèn đi tu. Vua ban hiệu ni sư, và mất năm 1113, chắc Lê phu-nhân" này là công chúa Ngọc-Kiều ấy, tuy rằng cũng có thể là công chúa Kim-thành vợ Lê Thuận-Tông, người Phong-châu. 4.

(8) Năm 1041, Lý Thái-tông tha cho Nùng Trí-Cao và ban cho các động Lôi-hỏa, Bình, Bà, Tần và châu Tư-lang. Năm 1043, vua Lý sai Ngụy Trưng đến tận Quảng-nguyên ban cho Trí-Cao ấn thái bảo. Đời sau, sử gia không hiểu thâm ý vua Lý Thái-tông. Lê Văn-Hưu cho rằng vua nhu nhược, bị đạp Phật mê hoặc, cho nên "thiên về việc nhỏ mà quên nghĩa lớn của nước" (TT 2/33a). 4.

(9) Sau đây, kê những việc dẹp loạn can hệ trong đời Lý Thái-tổ, Thái-tông và Thánh-tông :

Năm 1013, Lý Thái-tổ thân chinh giặc Hạc-xác (Vân-nam) ở Kim-hoa Vĩ-long (huyện Kim-anh và châu Chiêm-hóa ngày nay).

Năm 1014, Dực-thánh-vương đánh Dương Trường-Huệ cũng ở vùng ấy.

Năm 1015, Dực-thánh-vương và Vũ-đức-vương đánh Hà Trắc-Tuân ở các châu Đô-kim (Huyện Hàm-yên), Vĩ-long (châu Chiêm-hóa), Thường-tân (?), Bình-nguyên (châu Vĩ-xuyên), thuộc vùng Tuyên-quang, Hà-giang bây giờ.

Năm 1022, Dực-thánh-vương đánh Đại-quang-lịch, đốt kho tàng ở trại Như-hồng (khoảng giữa Mông-cái và Khâm-châu).

Năm 1024, Thái-tử (sau là Lý Thái-tông) đánh châu Phong-tuân (?) và Khai-quốc-vương đánh châu Đô-kim (xem trên, 1015)

Năm 1029, Thái-tử (sau là Lý Thánh-tông) đánh châu Thất-nguyên (châu Thất-khê), Đông-chinh-vương đánh châu Văn (châu Văn-uyên, Văn-quan vùng tây nam Lạng-sơn).

Năm 1033, Lý Thái-tông thân chinh châu Định-nguyên (có lẽ vùng Yên-bái) rồi thân chinh châu Trễ-nguyên (?)

Năm 1036, Khai-hoàng-vương đánh dẹp các châu Đô-kim, Thường-tân, Bình-nguyên (xem trên 1015), Quảng-nguyên (Cao-bằng), Lạng (nam Lạng-sơn và bắc Bắc-giang), Tô-mậu (phía đông Bắc-giang), vì dân các châu này đánh Tống. Về việc này, chắc là chính vua Lý sai các châu ấy đánh Tống. Vì Tống trách, nên giả vờ sai quân dẹp.

Cũng năm ấy, Thái-tông thân chinh Lâm-lây (vùng Hưng-hóa, Thanh-sơn).

Năm 1039, Thái-tông thân chinh Nùng Tồn-Phúc ở Quảng-nguyên (Cao-bằng).

Năm 1041, vua sai tướng đánh Nùng Cao-Trí cũng ở đó.

Năm 1042, Khai-hoàng-vương đánh châu Văn (xem 1029)

Năm 1048, Vũ-uy-hầu và Quách Thịnh-Di đánh Nùng Trí-Cao ở Quảng-nguyên (Cao-bằng).

Năm 1061, Thánh-tông thân chinh động Sa-đảng (?)

Năm 1064, Thánh-tông thân chinh động Ma-sa (Đà-bắc, Hòa-bình).

Năm 1065, Thánh-tông thân chinh châu Mường-quán (Sơn-la). 2 và 5.

CHƯƠNG V : BANG GIAO LÝ TỐNG

1. Giao-thông
2. Giao-dịch
3. Tu-cống
4. Biên-sự buổi đầu
5. Can-thiệp trực-tiếp
6. Việc động Tư-lẫm
7. Việc châu Tây-bình. Thân Thiệu-Thái
8. Việc động Lôi-hỏa. Nùng Tôn-Đán
9. Kết-luận
Chú thích

1.Giao-thôngGiao-chỉ tiếp đấtvới Tống, dọc theo biên thùy đầy núi rừng hiểm trở. Đườnggiao thông bằng bộ khó khăn. Đường bể dễ dàng hơn nhiều,vì các cửa bể Khâm, Liêm cách biên giới chung chỉ một vàingày. Vả từ cửa sông Bạch-đằng đến châu Vĩnh-an giáphải phận Khâm-châu, có rất nhiều đảo (ở vùng Hạ-longvà vịnh Đàm-hà ngày nay). Những đảo lớn, như đảo Cát-bà,Vân-hải, Kế-bào (tên ở địa đồ Đông-dương ngày nay)và vô số đảo nhỏ ngăn một giải nước khá yên lặng trướcbờ bể; người ta và Trung-hoa vẫn coi giải nước ấy làmột con sông, nối Bạch-đằng với Khâm-châu (Thủy-kinhchú). Sách TB (288/13b) có nói đến sông Đông-kênh (kênhở phía đông), có lẽ chỉ giải nước này (XI/5).

Theo sách LNĐĐ đời Tống, đường thủy từ Khâm-châu vào nước ta như sau : từ Khâm-châu, thuyền đi hướng tây-nam, một ngày đến châu Vĩnh-an; theo trại Đại-bàn (đảo Kế-bào ngày nay) thuộc Ngọc-sơn tới Vĩnh-thái, Vạn-xuân (vùng Vạn-kiếp, sông Lục-đầu), liền tới Thăng-long, thuyền đi mất năm ngày.

Còn đường bộ từ Ung-châu tới Thăng-long, thì đường tiện nhất là đường ngày nay còn dùng : đường qua Ninh-minh, Bằng-tường, Lạng-sơn, Bắc-giang và Bắc-ninh (tên ngày nay). Theo LNĐĐ, đời Tống, đường ấy từ trại Vĩnh-bình thẳng xuống phía nam, vào huyện Quang-lang thuộc Giao-chỉ. Đường qua hai con sông nhỏ Ô-bì và Đào-hoa, đến sông Nam-định, tức là sông Phú-lương. Theo địa thế thì ba sông ấy tức là sông Kỳ-cùng, sông Thương và sông Cầu ngày nay . Đường đi bốn ngày đến Thăng-long. Đó là đường Quách-Quì đem quân Tống xâm ta.

Ở phía tây đường chính lộ ấy, còn có hai đường. Một đường từ trại Thái-bình vào, qua sông La thuộc động Đan-đặc thì tới Lạng-châu. Đường ấy đi mất sáu ngày mới tới Thăng-long. Một đường từ trại Ôn-nhuận thuộc đạo Hữu-giang vào địa phận Cao-bằng ngày nay. Tức là đường Cao-bằng, Bắc-cạn, Thái-nguyên. LNĐĐ chỉ nói rằng đường ấy quanh co, chứ không nói đi mất mấy ngày. Nhưng theo lời Triệu Tiết (TB 279/21b), từ Cao-bằng đến Thăng-long có mười hai trạm, tức là đi mất mười hai ngày.

Các đường giao thông này từ đời Đường đã từng dùng. Đến đời Tống, đã có lúc sao lục lại. Năm 1046, khu-mật-viện kiểm các đường thủy lục dùng từ đời Đường vào Giao-chỉ. Cả thảy có mười sáu chỗ. (TB 158). Mười sáu chỗ ấy gồm phần lớn những ải khó đi. Chỉ có bốn đường kể trên là quan hệ. Từ năm 1006, Thiệu Dục sau khi đi sứ Giao-chỉ về đã hiến các bản đồ vẽ bốn đường thủy lục từ Ung vào Giao-chỉ (ĐĐSL 112 và TB 63). Chắc là bốn đường kể trên.

2.Giao-dịchNgoài sự bang giao chínhthức bằng các sứ bộ, hai nước Tống Lý có sự giao dịchhằng ngày ở biên thùy. Trên những chỗ đường thông lộlớn, qua biên giới, sự buôn bán khá thịnh, và có tổ chức.

Tống, cũng như Lý, sợ người ngoài giả mạo vào buôn bán để do thám. Cho nên lúc thường, tuy cho đi lại thông thương, nhưng chỉ được tụ họp tại một nơi nhất định, gọi là bạc-dịch-trưởng (chợ quốc tế).

Một nơi quan trọng thuộc trại Vĩnh-bình. Sách LNĐĐ chép :"trại Vĩnh-bình kề Giao-chỉ, chỉ cách bằng một sông con mà thôi. Phía bắc sông có trạm Giao-chỉ (ở đất Tống). Phía nam sông có đình Nghi-hòa. Đều là chỗ buôn bán trao đổi, do chúa trại Vĩnh-bình cai quản. Người Giao-chỉ đem các vật quí (vì đường bộ khó chở) như các thứ hương, ngà, sừng tê, vàng, bạc, tiền, đến đổi lấy các thứ vải, vóc. Chỉ có muối là hàng nặng. Muối chỉ dùng đổi lấy vải thường mà thôi. Muối đóng thành sọt, mỗi sọt 25 cân. Vải dệt ở huyện Vũ-duyên, khổ hẹp". Có lẽ trạm này là chợ Kỳ-lừa ngày nay.

Trên biên giới Sác-nam-giang (thuộc trại Cổ-vạn) và châu Tô-mậu, cũng có một "bạc-dịch-trường" nhỏ. Thường, thổ dân hai bên tới buôn bán ở đó.

Một "bạc-dịch-trường" quan trọng khác ở trại Hoành-sơn, vì đó là chỗ tụ tập các nhà buôn ở xa đến, từ Quảng-nguyên (Cao-bằng) và từ các đạo Đặc-ma, nước Đại-lý (Vân-nam). Châu Quảng-nguyên sản xuất nhiều vàng, bạc, đồng, chu-sa, diêm-tiêu. Ấy là những hóa vật rất được chuộng. Các nhà lái buôn lớn, quê ở Quảng-châu, cũng tới đó cất hàng Quảng-nguyên. (Xem chuyện Nùng Trí-Cao, IV/3).

Bạc-dịnh-trường lớn nhất gần biên thùy ta là ở Khâm-châu. Trường ấy ở ngoài thành, tại trạm Giang-đông. Người nước ta đi thuyền đến đó buôn bán. Lái buôn hạng nhỏ có các phường chài, đem cá, sò đến đổi lấy vải; có hàng xén tới mua giấy bút, gạo vải. Sự buôn nhỏ ấy, hằng ngày vẫn có, không cần xin phép riêng.

Đến như việc buôn to, thì phải có viên coi châu Vĩnh-an ở nước ta thông điệp cho viên coi Khâm-châu trước, rồi kẻ phú thương mới được đem hàng hóa vào. Cũng có lúc, chính phủ ta sai sứ tới Khâm-châu buôn bán. Các hàng của ta có : vàng, bạc, tiền đồng, trầm hương, thục hương, sinh hương, trân châu, ngà voi, sừng tê. Về mặt Tống, các đại thương ở vùng Thục (Tứ-xuyên) một năm tới một lần, đem gấm Thục tới đổi lấy hương chở về Thục. Buôn như vậy rất to, mỗi lần trao đổi có hàng nghìn quan tiền.

Trên đây chép theo Chu Khứ-Phi (LNĐĐ) là người đã chứng kiến những sự giao dịch ấy (Sách chép xong năm 1188). Khứ-Phi còn nói rõ cách buôn bán bấy giờ, chẳng khác ngày nay bao nhiêu. Hai bên đem hàng mà cả cùng nhau. Hồi lâu mới định giá. Lúc định giá rồi, thì không được thương nghị với ai nữa. Đó là một lệ ai cũng theo. Lời Khứ-Phi nói :"giá người mà cả đầu đã định, thì trời đất cũng không bằng", nghĩa là ai trả cao bao nhiêu, cũng không được bán; vì lúc ngả giá, phải nhờ quan cân hương và giao gấm. Hình như các hàng ấy phải để sẵn ở công sở. Quan thuế đánh hàng Tống mà thôi, cứ một quan tiền thu ba mươi đồng.

Lúc hai nhà buôn gặp nhau, mời nhau uống rượu làm vui; lâu rồi mới nói đến buôn bán. Trong lúc mà cả, những tùy tùng trả thêm dần dần đến lúc giá gần bằng nhau, rồi đến ngang nhau. Người Tống thường găng giá. Họ sai người nhà làm nhà ở, buôn bán lặt vặt để cấp; rồi họ ở đó mãi, cứ ngâm giá cho người ta mỏi mệt, phải bán rẻ. LNĐĐ chép tiếp : "Nhưng phú thương kia (Việt) ngoan cố, nó không nhúc nhích, cầm vững giá lâu, làm cho ta khốn đốn".

Theo Khứ-Phi, người Giao vốn thực thà. Chắc vì vậy, người Tống cân hàng một cách gian trá, tuy rằng Khứ-Phi chép trái lại. Cho nên Lý đã ba lần sai sứ sang Khâm-châu để thử lại cân. Vì hay bị lừa, nên người nước ta cũng trở nên dối trá. Khứ-Phi nói tiếp : "Gần đây, người Vĩnh-an rất gian giả. Vì nhà buôn ta (Tống) bán cho chúng thuốc giả, chúng đúc lẫn đồng vào vàng bạc; hương thì tẩm muối cho nó chìm (để giả trầm hương) hoặc đổ chì vào những lổ hổng trong hương. Nhà buôn ta đều bị lừa".

Nói tóm lại, đời Tống Lý, hai nước giao dịch nhiều; không những chỉ giữa dân biên thùy mà thôi, mà cả đến những cự phú từ phương xa cũng dự. Hàng hoá như ngà, hương, đạt tới miền kinh đô và Thục; và hàng tơ, vải, gấm, giấy của Tống được dùng ở xứ ta.

Chắc từ đời bắc thuộc đến Đinh, Lê, sự buôn bán ở biên thùy đã có rồi. Sử chép rằng : năm 1009 Lê Chí-Trung (Ngọa-triều) xin buôn bán với Ung-châu (TB 72/19b). Lại chép : năm 1012, Lý Công-Uẩn xin cho thuyền tới Ung-châu buôn bán. Vua Tống Chân-Tông chỉ bằng lòng, theo lệ cũ, cho tới buôn bán ở Quảng-châu và ở trại Như-Hồng (Khâm-châu) mà thôi.

Sự giao dịch với Tống có lợi nhiều cho nước ta, về nhu cầu của dân cũng như về quốc dụng. Vả đó cũng tiện cho việc do thám tình hình trong nước Tống. Sau này quan Tống cấm ta sang buôn bán, và vì đó ít nhiều mà đã có cuộc Lý Tống chiến tranh.

Còn ở nước ta, ngoài những trạm biên thùy như trạm Nghi-hòa ở huyện Quang-lang đã nói trên, có một trường bạc-dịch lớn lập ở Vân-đồn. Đảo Vân-đồn ở trong nhóm đảo mà bản đồ Đông-dương đề : đảo "De la Table". Ấy là đảo lớn ở ngoài hết nhóm ấy. Hình dài, hướng đông bắc tây nam. Phía nam đảo ấy có một đảo nhỏ ngăn thành một lối vào, gọi là cửa Vân-đồn. Đời xưa, đó là một căn cứ hải quân quan trọng, và cũng là một hải cảng duy nhất mở cho thuyền ngoại quốc đến buôn bán. Sách TT chép rằng : năm Kỷ-tị 1149, có thuyền ba ngoại quốc Qua-oa (Java), Lô-lạc (?) và Tiêm-la tới Hải-đông (miền Quảng-yên) xin ở lại buôn bán. Vua Lý Anh-tông bèn lập những trang ở trên các đảo, đặt tên là Vân-đồn, để mua bán châu, báu, hàng hóa và dâng phương vật".

Tuy năm 1149 mới đặt lệ, nhưng trước đó đã có ngoại quốc đến buôn bán rồi. Có lẽ Vân-đồn là nơi thuyền từng ghé mà LNĐĐ đã gọi là Đồn-sơn. Ngày nay, một nhà khảo cổ Nhật-bản có tìm thấy ở đó nhiều tiền đời Tống và các mảnh sứ đời Tống. Xem vậy thì các thuyền Tống cũng từng ghé buôn ở đó. (Sách An-nam mậu-dịch-cảng Vân-đồn).

Địa vị Vân-đồn rất lợi. Người ngoại quốc ở trên đảo ấy không thể thám thính trong nước ta một cách dễ dàng. Mà ở đó bể lặng, nước sâu, thông với Khâm, Liêm, Quảng ở Tống, và với các nước miền đông và nam, rất tiện.

3.Tu-cốngTừ khi quân Tống bịthất bại bởi tay Lê-Hoàn, nước ta được nhận là phiênquốc. Lại nhờ các vua Tống trước đời Thần-tông khá hiềntừ nhu nhược, cho nên dẫu trong nước ta có lúc biến, màquân Tống cũng không lợi dụng thời cơ.

Từ lúc Lý lên ngôi, ta cố giữ lễ phiên thần để kết tình hòa hảo. Hơn hết các triều đại khác, đời Lý đã luôn luôn sai phái bộ đi cống. Không quản đường sá khó khăn, nhiều lần ta đem cả đàn voi, tê, đến tận kinh đô Tống, gần Khai-phong, ở sát sông Hoàng-hà. Mỗi lúc ở triều Tống có việc vua thăng hà hay đăng cực, ta có sứ sang điếu hay sang mừng. Mỗi lúc ở triều ta có việc tang hay hỉ, cũng có sứ ta sang Tống báo tin, hay cầu phong. Mỗi lúc được phong, vua ta lại sai sứ sang tạ ơn.

Ngoài sự bang giao theo điển nghi một phiên thần đối với nước thiên tử, vua Lý thường sai sứ sang xin kinh Phật. Bấy giờ đạo Phật rất thịnh ở nước ta, mà các tàng viện, tự quán, chắc vì loạn lạc, không còn đủ kinh dùng. Sự đồng tông giáo là một cớ đểâ gây tình hòa hảo.

Sau đây, sẽ kê các phái bộ cống sứ của triều Lý sang Tống, trước khi có việc Lý Tống chiến tranh. Bản kê lập theo TT, VSL, TB và TS. Khi nào sử ta và sử Tàu chép tên và năm hơi khác nhau, tôi theo sử ta. (Một phái bộ thường gồm hai sứ : tên đầu là chánh, tên sau là phó).


Xét qua bản thống kê trên, ta thấy trong khoảng 63 năm, các vua Lý đã sai hơn 23 bộ sang cống vua Tống. Mỗi lúc sứ ta tới, vua Tống rất ưu đãi, ban chức tước cho sứ, và nhân đó gia phong cho vua Lý, từ tước quận vương đến tước vương, và tăng lệ thực-ấp và mỹ tự công thần.

Sứ ta vào nước Tống hoặc bằng đường Khâm-châu, hoặc bằng đường Vĩnh-bình. Mỗi lúc đem voi cống thì đi đường Vĩnh-bình. Quan Tống, Chu Khứ-Phi, còn cho ta biết một vài chi tiết về việc cống.

Trước lúc sứ ta tới biên giới, có phái bộ tới trước xin phép cho sứ tới kinh (ở gần Khai-phong ngày nay). Phải có trả lời của triều đình Tống ưng thuận mới được đi. Mỗi phái bộ ta gồm có đến năm mươi người, có lúc đến trăm người. Nhưng số người được đến kinh cũng phải tùy Tống chấp nhận.

Ngoài các tê, tượng, những cống vật thường rất quí. Sau lúc Tống đã phải dời kinh xuống phía nam, vua Lý vẫn cống hiến rất hậu. Năm 1156, Lý Quốc đem cống đồ kim khí nặng hơn 1200 cân, nạm châu báu nặng phần nửa. Lại thêm hạt trân châu đựng trong bình vàng (3 hạt lớn như quả cà, 6 hạt lớn như hạt mít và 50 hạt lớn như hạt táo). Lại thêm 1000 cân hương trầm, 50 đôi lông thúy, 850 tấm đoạn mầu vàng thắm, hoa rồng cuốn, 6 ngựa vua cỡi đủ cả yên cương, 8 ngựa thường, 5 voi. Phái bộ gồm 100 người. (LNĐĐ 2)

Xem đó biết đời Lý, nước ta giàu biết là bao nhiêu. Những lần khác, tuy cống lễ không hậu như trên, nhưng các đồ vàng, bạc, ngà và hương trầm, cũng trị giá đến vài ba vạn quan. Muốn biết giá trị một lễ như vậy, ta có thể so sánh với tiền ban cho các nhân viên phái bộ dọc đường, mỗi ngày 10 đồng tiền ngoài gạo !

Sứ bộ được ưu đãi dọc đường và lúc tới kinh, vua Tống ân cần phủ dụ.

Sứ thần được chọn trong các hàng quan cao cấp biết ứng đối, biết làm thơ. Khứ-Phi còn ghi một câu thơ của Lý Bang-Chính. Sau khi vua Tống đổi tên nước Giao-chỉ ra nước An-nam (1164), Bang-Chính về; dọc đường có đề thơ ở một bưu-đình. Trong thơ có câu "Thử khứ ưu thành tứ quốc-danh" (Đi lần này thành công lớn là được ban tên nước).

Đáp lễ lại, vua Tống ít sai sứ đến Thăng-long. Chỉ lúc ở nước ta, có quốc tang và tự quân lên ngôi, vua Tống thường sai một viên quan ở Quảng-tây tới điếu-ai và phong vua mới : như năm 1029, viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây Vương Duy-Chính (TS và TB 107) tới tế Lý Thái-tổ và phong Lý Đức-Chính (Thái-tông); năm 1055, viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây Khang-Vệ (TB 231) tới điếu Lý Thánh-tông và phong Lý Càn-Đức (Nhân-tông).

4.Biên-sựbuổi đầuTuy giữ đạo phiên-thầntu-cống, nhưng các vua Lý gìn giữ cẩn thận bắc thùy. Mỗilúc các biên-lại Tống dụ thổ dân, lấn đất đai, vua Lýliền phản kháng. Khi thì sai quan sang biện bác, khi thì saitướng sang chống cự. Có lúc tướng ta giết quan Tống, đốtđồn trại Tống, mà chung qui, Tống cũng phải làm ngơ.

Sau này, ta sẽ kể những chuyện lớn đã xảy ra trên biên thùy, trong 40 năm đầu triều Lý, nó tỏ rõ những mối bất hòa giữa Lý và Tống,và nó chứng tỏ rõ tính cách hoạt động của chính sách bắc thùy của các vua Lý.

Năm 1022, đời Lý Thái-tổ, các dân Đại-nguyên-lịch thuộc Khâm-châu, và châu Như-hồng tới quấy trấn Triều-dương (Hải-ninh, Quảng-yên). Vua sai Dực-thánh-vương đi đánh. Vương đem quân vào sâu trong đất Khâm-châu, đốt phá trại Như-hồng, rồi mới trở về (TT). Trại Như-hồng ở liền phía đông biên giới ta, và bên cạnh có động Như-tích. Ngày nay dộng Như-tích còn ở khoảng giữa Tonghing (Đông-hưng) và Kintcheou (Khâm-châu). Năm1028, có việc gì bất bình ở biên giới, phò mã Thân Thừa-Quí đem quân vào đất Tống. Trại chúa châu Thất-nguyên (Thất-khê) Lý-Tự bị chết. Thừa Quí bắt dân Tống đem về. Viên coi Ung-châu bàn hòa. Lý Thái-tổ ưng thuận. (TB 106)

Năm 1034, đời Lý Thái-tông, có dân ta là bọn Trần Công-Vĩnh đưa hơn 600 người vào theo Tống. Thái-tông sai hơn 1000 quân tới biên giới đuổi bắt. Vua Tống Nhân-tông sợ sinh sự, hạ chiếu trả bọn đào vong ấy cho ta, nhưng dặn đừng giết chúng. (TS 488 và TB 114/16b)

Hai năm sau (1036), lại xẩy ra một việc lôi thôi rất lớn. Số là dân ở các châu giáp đất Tống như Lạng, Môn, Tô-mậu, Quảng-nguyên, động Đại-phát, huyện Đan-ba (TS 488), và các châu Đô-kim,Thường-tân, Bình-nguyên (TT) đều nổi lên đánh Tống, quấy các châu Tư-lăng, Tây-bình,Thạch-tây thuộc Ung-châu. Chúng cướp dân gian, gia súc và đốt nhà cửa, rồi rút lui (TS 488 và 495). Cầm đầu là họ Thân ở động Giáp. Dân động ấy kéo cướp châu Tư-lăng và động Bằng-tường, và giết tướng coi trấn Đăng-uyển (TB 118/4b theo Thực-lục). Về việc này, vua Tống cũng chỉ bàn hòa. Hai bên cho rằng duyên cớ bởi man dân có đứa sinh sự mà thôi. Thật ra đó là triệu chứng cuộc họ Nùng nổi loạn sau này.

Năm 1050, viên coi Ung-châu lại dụ hơn 3000 dân cùng các tù trưởng Vi Thiệu-Tự, Vi Thiệu-Khâm ở châu Tô-mậu. Lý Thái-tông đòi lại, vua Tống liền trả và dặn ta phải ước-thúc biên-dân, kẻo chúng xâm phạm nhau. (TS 488)

Sau cuộc loạn Nùng Trí-Cao (1052-1053), Tống mới quan tâm đến biên-cảnh phía nam; cắt quan canh phòng cẩn mật, và có ý dòm ngó nước ta. Vì vậy, sự xích mích ở biên giới càng sinh nhiều và mạnh.

5.Can-thiệptrực-tiếpChính sách bắc thùytriều Lý trong 40 năm bắt đầu có kết quả. Tuy Tống vẫncoi châu Quảng-nguyên, như thuộc châu Ung của mình, nhưng thậtđã hoàn toàn theo vua Lý. (TS 495)

Viên coi Ung-châu là Tiêu Chú cũng phải tâu về triều rằng :"Giao-chỉ tuy có triều cống, thật thì ngầm ngấm họa tâm, thường dùng cách tâm-thực mà lấn vương thổ. Ví dụ, về đời Thiên-thành (1023-1031), quan ta là Trịnh Thiên-Ích có trách Giao-chỉ tự tiện thu thuế ở động Vân-hà (vậy khi ấy Vân-hà thuộc Tống, có lẽ ở vùng Lạng-sơn, hoặc là sau đổi ra Vân-mịch, tức phố Van-mit trên địa đồ Đông-dương); thế mà nay động Vân-hà đã ở sâu vào đất Giao-chỉ vài trăm dặm. Ấy thật vì, năm này qua năm khác, nó lấn dần cho đến ngày nay..." (TS 334 và TB 150/15b)

Tiêu Chú là một viên biên-quan đời Tống, am hiểu tình hình nước ta vào bực nhất. Chú là một nhà nho học có tiếng, xuất thân tiến sĩ, mà lại rất thích việc binh. Coi huyện Phiên-ngu (Quảng-châu ngày nay) lúc Trí-Cao tới đánh. Trong lúc các quan to đều hoang mang sơ hãi, Chú đã lập kế hoạch du kích quân Nùng. Chú lại vào các man động kết thúc dân chúng. Sau khi Trí-Cao thua chạy về đạo Đặc-ma, Chú đã thân hành đem quân đến nơi do thám và bắt được mẹ và con Trí-Cao. Chú lại sai người vào tận nước Đại-lý tìm Trí-Cao nữa. (TS 334)

Đối với Giao-chỉ, không những mục đích Chú lấy lợi thu phục lại Quảng-nguyên (TS 334 và TB 150), mà Chú còn tham vọng đánh lấy đất Lý nữa. Nối lời tâu trên, Chú nói :"Tôi nay đã rõ chỗ quan yếu, thấu chỗ lợi hại. Nếu không đánh bây giờ mà lấy Giao-chỉ đi, thì sau sẽ có điều lo cho Trung-quốc".

Lời tâu ấy thật là xác đáng và tiên tri. Từ năm Trí-Cao bị thua (1053), Tiêu Chú được coi Ung-châu, tức là chỗ cuống họng vào đất nước ta. Một mặt, Chú xin về triều để bày tỏ phương lược; một mặt, ngầm thi hành ý định; lấy lợi nhử dân Quảng-nguyên, bảo ngầm chúng soạn binh giáp, trữ lương tiền, tuyển lính mán, dạy cỡi ngựa, bắn cung; dung nạp dư đảng của Nùng Trí-Cao và chiêu tập các du sĩ. (TS 334 và TB 150)

Nhưng những quan trên Chú, như Lý Sư-Trung, Tiêu Cố, coi giữ Quảng-tây, cho Chú hay sinh chuyện, nên thường gạt bỏ lời trình của Chú.

Với chính sách mưu chiến của Tiêu Chú, sự xích mích giữa Tống và Lý ngày càng nhiều. Cho nên những biên sự, ngày trước chỉ vì biên lại gây nên, sắp trở thành việc xung đột lớn giữa hai nước.

6.Việcđộng Tư-lẫmLý Thánh-tông biếtrõ ý định của Chú, đã phản ứng lại một cách mạnh bạohơn. Nhiều việc bất hòa xẩy ra ở vùng biên thùy, có tínhcách quyết liệt hơn trước. Sau đây sẽ kể vài ba.

Năm 1057, sứ ta là Mai Nguyên-Thanh (VSL) đem hai "kỳ lân" qua Quảng-châu, định cống vua Tống. Nói đến kỳ lân, đời xưa ở Á-đông, là một việc rất quan hệ. Người Trung-quốc tin rằng chỉ khi có thánh nhân ra đời và gặp vận thì kỳ lân mới hiện. Đến như Khổng-tử ra đời không gặp vận, kỳ lân có hiện cũng chỉ là kỳ lân què ! Vì lẽ ấy, các quan Tống cãi nhau sôi nổi về việc kỳ lân của Giao-chỉ cống. Sách TB còn chép rõ hình dáng con vật ấy :"Hình như trâu, mình có da dày từng mảnh như giáp, đầu mũi có sừng; hay ăn cỏ, quả, dưa. Cho ăn thì phải lấy gậy đánh nó mới ăn". Ta đoán đó là con tê giác. Nhưng triều đình Tống bàn cãi nhau mãi. Sau Tư Mã-Quang phải nói nửa chừng rằng :"Giả sử đó là kỳ lân thật, thì hiện không gặp thời là điềm dở; mà nếu đó không phải là lân mà ta nhận, thì các nước phương xa sẽ cười ta" (TT và TTh). Vua Tống bèn bảo gọi vật ấy là "thú lạ" mà thôi (TB 187) và để lại Quảng-châu.

Chắc rằng việc Tống từ khước "kỳ lân" này không làm cho vua Lý hài lòng. Vả Tiêu Chú đem quân đi tuần các khê động gần biên giới ta, có ý đe dọa. Vua Tống phải hạ chiếu răn cấm (tháng 7 năm M.Tu 1058). Lý Sư-Trung, làm đề điểm hình ngục Quảng-tây cũng lo toan chỉnh đốn hành chính, binh lương và giao thông ở miền Ung-châu. Sư-Trung nói :"Vùng Lĩnh-nam không tiện phái lính thú đến đó. Xin mộ thổ đinh, nhà nào bốn năm đinh thì chọn một, mà cắt phiên nhau, tới lúc ngoài mùa làm ruộng, họp lại tập tành". Trong vùng Quảng-tây mộ được hơn bốn vạn người. Sư-Trung lại cho thông thương buôn bán, lập lại các chợ Ung-châu, đào sâu kênh Linh-cừ nối Hồ-nam với Quảng-tây.

Được những tin ấy, tháng hai năm sau (K.Zu 1059, theo TS và TB 188; TT chép tháng ba) vua Lý Thánh-tông sai quân đóng miền đông bắc, từ châu Vĩnh-an vào địa phận Khâm-châu, và từ châu Tô-mậu vào trại Cổ-vạn (TB 188/4b và 190/1a). Sử ta chỉ nói qua rằng : " Ta diễu quân rồi rút về. Làm thế vì người Tống tráo trở " (TT). Các sách Tống chép rõ quân ta đánh Cổ-vạn, giết viên quản-câu Lý Duy-Tân (TB 190/1a), và đánh động Tư-lẫm ở phía tây thành Khâm-châu. (TB 188/4b)

Ngày G.Tu, Tiêu Chú trình :"Giao-chỉ cướp các động Tư-lẫm, Cổ-vạn, Chiêm-lãng, bắt dân và gia súc mười bảy thôn, nhiều không kể xiết. Tôi muốn hạ lệnh cho Quảng-châu giữ sứ giả Giao-chỉ, không cho nó đem tiến thú lạ, đợi đòi chúng trả người và vật bị cướp đã. Nếu chúng không nghe, tôi muốn lập tức đưa quân đánh sâu vào đất chúng."

Vua Tống sai Tiêu Cố, Tống Hàm và Lý Sư-Trung, là ba quan coi lộ Quảng-tây, cùng Tiêu Chú xét việc mà xử trí (TB 189/5b). Tháng 9 năm ấy, Sư-Trung tâu :"Viên coi Ung-châu là Tiêu Chú muốn đánh Giao-chỉ. Sợ người nước ấy nghe mà không yên. Xin cấm Chú không được sinh biên sự". Vua Tống nghe lời tâu, nên chuyện ta đánh Tư-lẫm không thành chuyện to.

7.Việcchâu Tây-bình. Thân Thiệu-TháiTrong lúc ấy, lại xẩyra một việc khác ở châu Tây-bình, giáp Lạng-châu. Nguyêncó dân ta chạy trốn đến đó. Viên coi quân ở đó, làViHuệ-Chính, dấu đi. Vua Lý Thánh-tông sai quân vào đòilại. Quân ta do châu mục Lạng-châu phò mã Thân Thiệu-Thái,dẫn từ động Giáp kéo vào huyện Như-ngao, thuộc châu Tây-bình(TS). Vua Tống hạ lệnh cho Ung-châu đem quân dẹp (TB 191/16a).Viên đô giám tuần kiểm Tống Sĩ-Nghiêu đem quân cựlại. Quân ta rút lui. Sĩ-Nghiêu đem quân vượt biên giới độngGiáp, bị quân ta đánh, giết và bắt được nhiều tên. Việcnày xẩy ra năm 1059, có lẽ đồng thời với việc Tư-lẫmnói trên. Sang năm sau (1060, TB 192/16a) Thân Thiệu-Thái lạikéo quân vào đánh, giết Tống Sĩ-Nghiêu và vài tướng nhỏ: Lý Đức-Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Bật (TB 194/10a).Việc tâu về triều, vua Tống hạ chiếu sai Tiêu Cố đem quântới Ung-châu, hợp cùng Tống Hàm, Lý Sư-Trung ngăn đánh.

Quân Thiệu-Thái đã qua châu Tây-bình và đánh vào trại Vĩnh-bình (TB 192/2b); làm chấn động cả Ung-châu (theo lời Dư Tĩnh). Ti chuyển vận Quảng-tây xin đem các quân lộ Kinh-Hồ-bắc, chừng 3000 tên, giỏi nghề thương và mộc, đến đánh. Vua Tống lại bảo phải kiểm điểm quân mà thay kẻ già yếu; ý chừng muốn đánh to.

Quân ta vẫn tiến, bắt chỉ huy sứ Dương Lữ-Tài (VSL, còn TT chép Dương Bảo-Tài), dân đinh và gia súc nhiều vô kể.

Viên coi Quế-châu là Tiêu Cố, và viên coi Ung-châu, là Tiêu Chú, đều bị cách chức, vì đình thần kết tội "đã không xét công việc các biên lại, để chúng gây sự, làm hại cho quan quân." (Tháng 11, TB 192/12b)

Tháng chạp năm ấy (1060) quân Lý cũng chưa lui. Lại thêm quân vùng châu Tô-mậu cũng kéo vào Ung-châu họp cùng quân động Giáp. (TB 192/17b, 18b)

Tống liền sai viên lại bộ thị lang Dư Tĩnh làm an phủ-sứ, xuống họp cùng Lý Sư-Trung mà bàn việc đánh dẹp. (TS 320)

Dư Tĩnh muốn xui Chiêm-thành họp sức, rồi đem quân Quảng-nam-tây-lộ tấn công (TS 488). Nhưng có lẽ chưa thi hành được. Sử ta chép : Dư Tĩnh đánh không được, bèn dùng phép ôn hoà mà điều đình. (TT)

Một mặt, Lý Sư-Trung tâu về triều kể tội Tiêu Chú đã hà hiếp man dân, bắt dân tìm vàng riêng cho mình, để đến nổi mất lòng dân. Một mặt, Dư Tĩnh nhận rằng lỗi bởi các viên coi biên trại tham công, sinh sự, và hẹn với quan ta họp nhau để thương nghị. Trong Tống-sử (TS 320 và ĐĐSL 75) nói Dư Tĩnh đến nơi, gọi viên dụng sự Giao-chỉ, Phi Gia-Hữu, mà trách hỏi. Nhưng theo lời Dư Tĩnh tâu vua Tống, thì chính Tĩnh đã dùng chước bàn hoà trước. (TB 193/7a)

Vua Lý Thánh-tông sai Phi Gia-Hữu (TS và TT; còn VSL chép lầm ra họ Bùi) tới thương nghị. Tĩnh yêu cầu trả lại Dương Lữ-Tài và dân đinh mà Thân Thiệu-Thái đã bắt. Gia-Hữu cũng bàn hòa, và trả lời :"Việc này xẩy ra là vì dân gần biên giới cướp nhau, rồi vô ý phạm đến quan quân. Tôi sẽ đòi chúng để tra hỏi, và sẽ trừng trị. Còn những kẻ chúng bắt, tôi sẽ trả lại" (TS). Sách ĐĐSL quyển 75 chép Gia Hữu nói :"Tội chúng đáng chết, tôi xin về bắt những đứa thủ phạm đến nộp".

Được lời, Tĩnh rất mừng, bèn hậu tạ Gia-Hữu (TS). Sử ta nói Dư Tĩnh hối lộ Gia-Hữu rất nhiều để xin lại tướng Lữ-Tài. Cuối cùng, vua Lý không bằng lòng trả (TT, VSL). Nhưng cũng bắt năm người giải tới biên giới Khâm-châu mà chém. (ĐĐSL 75)


8.Việcđộng Lôi-hỏa. Nùng Tông-ĐánSau khi Nùng Trí-Cao bịbại trận. Họ Nùng còn có bọn Nùng Tôn-Đán là kiệt hiệuhơn cả. Tông-Đán coi vùng động Lôi-hỏa về phía tâybắc Cao-bằng ngày nay (TB 185/8b chép Hỏa-động), Tông-Đántụ họp con là Nhật-Tân và dư đảng của Nùng Trí-Cao, căncứ vào chỗ hiểm mà chống với quân Tống. Đối với vuaLý, Tông-Đán vẫn được coi như là phiên thần nối dòngTrí-Cao.

Trong đời Lý Thánh-tông, vào năm 1057, Tông-Đán đem quân vào đánh đất Tống thuộc Ung-châu. Tiêu Chú, coi Ung-châu, muốn đưa quân động-đinh đánh. Nhưng quan trên là Tiêu Cố, coi Quế-châu, không ưng và muốn chiêu hàng. Viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Vương Hãn cũng bàn rằng :"Tông-Đán giữ vùng núi rậm, nếu nó đặt phục binh đón quân ta, thì quân ta chưa chắc dã thắng nổi. Đánh sẽ chỉ làm tăng biên hoạn mà thôi". Hãn bèn một mình đem quân tới gần động Lôi-hỏa; sai người triệu con Tông-Đán là Nhật-Tân mà khuyên rằng :"Cha mày, trong thì bị Giao-chỉ thù, ngoài thì bị cácquan biên thần ít thưởng cho. Mày về bảo cha mày nên chọn đường có lợi mà đi". Sách TB (185/8b) chép luôn :"Sau đó, hai cha con Tông-Đán hàng. Việc ở miền nam mới yên." Tông-Đán được ban chức trung-vũ tướng-quân, Nhật-Tân chức tam-ban tá-chức và được coi châu Ôn-nhuận (TB ở đây chép Ôn-mẫn, vì tự dạng hai chữ, nhuận, mẫn, gần nhau). Tuy sách Thần-tông Thực-lục cho công chiêu dụ Tông-Đán là của Vương Hãn, nhưng Tống-sử mộ-chí Tiêu Cố (do Vương An-Thạch viết) thì nói đó là công của Tiêu Cố.

Tuy vậy, Tông-Đán vẫn không theo Tống. Cho nên, năm 1060, lúc quân ta do Thân Thiệu-Thái lĩnh, kéo vào châu Tây-bình đánh quân Tống, Vương Hãn bấy giờ coi Đàm-châu, lại khuyên nên dè Nùng Tông-Đán và nên chiêu dụ nó. (TB 192/12b)

Năm 1062, Tông-Đán và con đem các động thuộc mình, là Lôi-hỏa và Kế-thành, nộp cho Tống, và xin tới ở Lạc-châu. Tống nhận đất, bổ Tông-Đán coi châu Thuận-an (là vùng Lôi-hỏa, Kế-thành mới được đổi ra tên ấy) và bổ Nhật-Tân coi việc thuế ở Ung-châu. (TS 495)

Như vậy, cha con Tông-Đán vẫn giữ đất cũ, là đất mà ta vẫn coi thuộc ta. Cho nên chúng không lấy làm yên tâm, vì sợ vua Lý Thánh-tông đánh. Vả chăng động Lôi-hỏa bên cạnh Quảng-nguyên, mà bấy giờ Lưu Kỷ quản. Lưu Kỷ cũng làmột tướng kiệt-hiệt, lại làm chức quan sát cho vua Lý. Tông-Đán lại càng lo.

"Năm Trị-bình (1064), Tông-Đán có sự hiềm khích với Lý Nhật-Tôn (Thánh-tông) và Lưu Kỷ, nên sợ chúng đe dọa. Viên coi Quế-châu là Lục Sằn biết vâïy, sai người đến dụ. Tông-Đán bèn bỏ châu mình vào nội địa, và được ban chức hữu-thiên-ngưu-vệ-tướng-quân". (TS 495)

Sự phản bội của tụi Nùng Tông-Đán lần này làm Lý mất một vùng đất khá lớn ở phía tây bắc châu Quảng-nguyên. Những tên đất mà Tông-Đán nộp Tống, mỗi sách chép một khác: vả trong một sách, cũng mỗi nơi chép một khác. Nhưng có lẽ đất ấy gồm nhiều động. Vả lúc nhận đất rồi, Tống lại đặt tên mới. Những động hay châu ấy có thể tóm tắt như sau; động Lôi-hỏa (hay Hỏa), động Kế-thành, châu Ôn-nhuận. Có lẽ các đất này thành châu Thuận-an. Về sau, lúc vua Lý xin Tống trả đất đã bị thổ tù nộp Tống, lại nói đến các động Vật-ác, mà TB (349/7b) nói là Tông-Đán đã nộp và Tống đổi ra làm châu Thuận-an.

Vua Lý Thánh-tông sai sứ sang đòi đất và dân (TS 488). Sứ giả là Lê Thuận-Tông (TS 332), nguyên châu mục Phong-châu, được kén phò mã đời Lý Thái-tông (1036, IV/4) lấy công chúa Kim-Thành. Sứ tới Quế-châu, gặp Lục Sằn. Tỏ thái độ quả quyết, Thuận-Tông đòi Sằn trả Tông-Đán và các động.

Lục Sằn cũng là một viên xuất thân tiến sĩ như Tiêu Chú, và cũng am hiểu việc biên giới giữa Tống và ta. Trước đó Sằn coi Quí-châu, đã tình nguyện xin tới Quế, vì nhận thấy rằng Ung chỉ cách Quế có 18 trạm, mà vũ bị ở đó không sẵn sàng. Vua Tống bằng lòng. Tống-sử (TS 332) chép nối :"Từ khi giặc Nùng yên, người Giao-chỉ càng kiêu căng, các thú thần thường chịu nhịn cho qua. Sằn tới Ung, họp động trưởng ở bốn mươi lăm động thuộc Tả và Hữu-giang, biên tên được năm vạn thổ đinh, đặt các tướng lại, cấp cho ấn. Thanh thế Tống nổi lại trong vùng khê-động. Sứ Giao là Lê Thuận-Tông tới, kiêu ngạo như cũ. Sằn nhún nhường mời tới, giảng dụ phải kính lẽ phải, làm sứ phải sợ mà trở về".

Sự thật thì Sằn tâu về triều việc sứ ta tới. Vua Tống Anh-tông mới lên ngôi, hỏi ý kiến các đình thần. Tể tướng Hàn Kỳ bàn rằng :"Xứ Giao-châu, rừng núi hiểm trở, khí hậu ẩm độc. Nếu có lấy cũng không giữ được, chỉ nên vỗ về chúng mà thôi" (TS và TB 203/12a). Vua Tống Anh-tông bèn trả hai châu (Lôi-hỏa và Ôn-nhuận ?) lại cho vua Lý. (TS 332)

Nhưng cha con Tống-Đán vẫn theo Tống. Mười lăm năm sau (1073), viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Ôn Cảo xin gia hàm cho chúng. Tống Thần-tông ban cho hàm cung-bị-khố phó-sứ. Tông-Đán được làm đô-giám Quế-châu. (TB 244/3b)

Về đại thể, Tống Lý vẫ giao hiếu cùng nhau. Lý vẫn cống hiến, Tống vẫn gia phong. Sứ Lý sang mừng Anh-tông lên ngôi (1064). Anh-tông sai sứ đem các di vật của Tống Nhân-tông sang tặng vua Lý, và gia phong chức đồng-trung-thư môn-hạ bình-chương-sự. (TS hình-pháp chí). Trong mười năm liền, không hề xẩy ra biên sự.

9.KếtluậnỞ triều Tống, trongđời Chân-tông, Nhân-tông, và Anh-tông, có nhiều người chủviệc đánh ta. Nhưng bấy giờ, vua Tống thích hòa bình, cácđại thần đều là người nho học, không ham gây họa chiếntranh. Vả việc bắc thùy Tống cũng đã khó khăn lắm. Chonên, với việc quân Tống bị nhục bởi tay Thân Thiệu-Tháimà Tống cũng không gây sự; và đến việc Nùng Tông-Đán,Tống cũng không làm già. Sau đó ta lấn dần đất Tống. Năm1074 Thẩm Khỉ tâu rằng năm trước ta đã chiếm mất châuThất-nguyên. (VI/7)

Tuy nhiên, phái chủ chiến vẫn không thôi. Năm 1064, khi sứ ta tới kinh đô Tống, có nội thị là Lý Kế-Hòa đe dọa sứ ta rằng :"Lúc Thân Thiệu-Thái vào cướp Quảng-nam Tây-lộ, ta đã nhiều lần xin đánh xứ ngươi. Nhưng triều đình cho rằng Thiệu-Thái là đứa ngông cuồng. Vả nước ngươi đã sai sứ tạ tội. Cho nên triều đình chưa cất quân mà thôi". (TS 488)

Những người chủ chiến ấy sắp có cơ hội sau này. Chính là sau lúc Tống Thần-tông lên ngôi (1067), và Vương An-Thạnh được chấp chính (1069).

CHÚTHÍCHVề sông Phú-lương, sẽ có nhiều chứng cớ ở chương X.Về sông Đào-hoa, có những chứng sau này : Trong sứ bộ vuaThanh phái sang nước ta năm N.Tu 1682, có một người quản giatên Lư Anh-Nhân để lại mười bài thơ tả cảnh từ Lạng-sơnđến Thăng-long. Bài tả sông Thương có những câu (Theo sáchNhâm-tuấtThanh-sứ) :

"Xôn xao ngựa vá qua sông Thương,
Áp nước hoa đào ánh bóng gương."

Thơ vịnh sông Thương của Nhan Nhữ-Tu, sứ Thanh làm năm Tân-tị (1761) cũng có câu :"Nhị hoa nở rực đỏ như son"(Kiến-văn-tiểu-lục của Lê Quí-Đôn).

Chắc rằng từ xưa, ở bờ sông Thương có nhiều hoa đào, cho nên đã gọi tên sông là Đào-hoa. Sử ta đời Lý chép tên Sông Nam-bình (IV/cth 6). 1 .

Đời Minh, các đường từ Trung-quốc vào nước ta còn đượcghi một cách rõ ràng. Đại loại cũng có bốn đường nóitrong LNĐĐ, nhưng còn thêm đường qua Lộc-bình, đường quaTuyên-quang, đường theo sông Thao. Các đường ấy có thểchia ra ba loại : từ Quảng-tây, từ Quảng-đông, và từ Vân-nam.

A) Từ QUẢNG-TÂY có 3 lối, đều đi đến phía bắc sông Thị-cầu :

a/ Từ BẰNG-TƯỜNG khởi hành qua cửa Nam-quan, 1 ngày đến trạm Pha-lũy (Đồng-đăng); qua châu Văn-uyên và phía bắc châu Thoát-lang, 1 ngày đến Lạng-sơn-vệ; 1 ngày đến hẻm ở phía bắc Ôn-châu (đèo Kháo-mẹ và Kháo-con, tức là ải Quyết-lý); nửa ngày đến Quỉ-môn-quan (bầu Chi-lăng, tức là ải Giáp-khẩu); 1 ngày đến thôn Tán-lệ (Tiên-lệ) ở phía nam Ôn-châu; 1 ngày đến huyện Bảo-lộc; nửa ngày đến sông Xương-giang (sông Thương); 1 ngày đến bắc ngạn sông Thị-cầu (sông Cầu). Cộng 7 ngày.

b/ Từ TƯ MINH khởi hành qua núi Ma-thiên 1 ngày đến châu Tư-lăng; qua ải Biện-cường châu Lộc-bình (có thể đi về tây đến Lạng-sơn), 1 ngày đến sông Xa-lý (sông Lục-nam); 1 ngày rưỡi đến châu An-bạc (An-châu); 1 ngày rưỡi đến động Hao-quân; 1 ngày đến huyện Phượng-nhãn; 1 ngày đến huyện Bảo-lộc; qua đò Xương-giang 1 ngày đến phủ Lạng-giang; 1 ngày đến bắc ngạn sông Thị-cầu. Cộng 9 ngày.

c/ Từ LONG-CHÂU khởi hành 1 ngày đến ải Bình-nhí; 1 ngày đến châu Thất-nguyên; 2 ngày qua xã Bình-gia. Từ đây có thể đi hai ngả :

1°/ đến châu Văn-lan (Văn-quan) ; theo đường núi phía bắc châu Hữu-lũng, ra đồng bằng cách Quỉ-môn-quan 40 dặm, 1 ngày đến thượng lưu sông Thương, qua sông rồi theo nam ngạn đến đồng bằng huyện Yên-thế; nửa ngày đến huyện Yên-dũng, 1 ngày đến giữa huyện Yên-việt, ở bắc ngạn sông Thị-cầu.

2°/ đến phía tây xã Bình-gia, 1 ngày rưỡi đến đường núi châu Vũ-nhai; 2 ngày đến đất bằng huyện Tư-nông, 1 ngày rưỡi đến phía bắc huyện Yên-việt, và bắc ngạn thượng lưu sông Thị-cầu.

Cả bốn đường trên đều đến Thị-cầu. Từ đó đi Giao-châu (Thăng-long) mất 1 ngày, phải qua phủ Từ-sơn, huyện Đông-ngạn, huyện Gia-lâm, sông Phú-lương (muốn nói sông Nhị-hà).

B) Từ VÂN-NAM có hai lối, một lối dọc sông Lô, một lối dọc sông Thao.

a/ Từ MÔNG-TỰ qua thác Liên-hoa, Thạch-lung-quan, động Trình-lan đến hữu ngạn nguồn sông Thao, 4 ngày đến châu Thủy-vĩ; 8 ngày đến châu Văn-bàn; 5 ngày đến huyện Trấn-yên; 5 ngày đến huyện Hạ-hoa; 3 ngày đến huyện Thanh-ba; 3 ngày đến phủ Lâm-thao; 3 ngày đến huyện Sơn-vi;2 ngày đến phủ Hưng-hóa, 1 ngày đến ngã ba miếu Bạch-hạc; 4 ngày đến huyện Bạch-hạc, qua sông và đến Giao-châu.

b/ Từ ải HÀ-DƯƠNG (Hà-giang) khởi hành 10 ngày đến Bình-nguyên; 5 ngày đến huyện Phúc-yên (Hàm-yên); 1 ngày đến phủ Tuyên-quang; 2 ngày đến phủ Đoan-hùng; 5 ngày đến ngã ba Bạch-hạc.

C) Từ QUẢNG-ĐÔNG thuyền khởi hành từ núi Ô-lôi, theo bờ bể, đi 1 ngày đến núi Bạch-long-vĩ thuộc châu Vĩnh-an; 2 ngày đến cửa Ngọc-sơn; 1 ngày đến châu Vạn-ninh; 1 ngày đến Miếu-sơn, 1 ngày đến tuần-ti Đồn-tốt; 2 ngày đến phủ Hải-đông; 2 ngày đến xã Kinh-thục; 1 ngày đến cửa Bạch-đằng, tuần Thiên-lâu.

Vào nội địa có thể qua những cửa Bạch-đằng, An-dương, Đồ-sơn, Đa-ngư, hay Thái-bình. Cái lối vào, kê như sau :

a) Cửa Bạch-đằng, huyện Thủy-đường (Thủy-nguyên), huyện Đông-triều, phủ Hải-dương, huyện Chí-linh, sông Hoàng-kênh, sông Bình-than, phía bắc Nam-sách, phía bắc Thượng-hồng, Giao-châu.

b) Cửa An-dương (Cửa Cấm), huyện An-dương, phủ Kinh-môn, sông Hoàng-kênh, sông Bình-than, phía bắc Nam-sách, phía bắc Thương-hồng, Giao-châu.

c) Cửa Đồ-sơn, Cổ-trai, phía bắc huyện Nghi-dương, phía bắc huyện An-lão, huyện Bình-hà, phía nam huyện Nam-sách, phía nam Thượng-hồng, Giao-châu.

d) Cửa Đa-ngư (cửa Văn-úc), huyện An-lão, huyện Tân-minh (Tiên-lãng), sông Sóc-hồng thuộc huyện Tứ-kỳ, Hàm-tử-quan thuộc Khoái-châu, Giao-châu.

e) Cửa Thái-bình, phủ Thái-bình, phủ Tân-hưng (Tiên-hưng), phủ Khoái-châu, sông Phú-lương (muốn nói sông Nhị-hà trước thành Thăng-long).

Tài liệu trên chắc về đời Mạc, vì cớ các tỉnh đều gọi là phủ, và nói đến làng Cổ-trai, tức là quê họ Mạc, mà Mạc đã tôn thành một kinh đô.

Tuy đời Mạc cách đời Lý hơn bốn trăm năm, các đường thông lộ Trung Việt qua bể và qua rừng núi chắc không thay đổi. Trước khi có những máy móc và tổ chức vĩ đại, thì các đường sá, nhất là qua những vùng khó khăn, chỉ theo đường thuộc, nghĩa là đường mòn đã có người dùng trước. Cho nên ta có thể tin rằng đời Tống Lý, đường qua lại giữa hai nước cũng như trên, chỉ có những đường Vân-nam thì Lý chưa dùng mà thôi. Còn như những tên đất thì tự nhiên phần nhiều đổi khác.

Các vua Lý chịu Tống phong, thường theo lệ sau :

Sau khi vua cha mất, Thái-tử lên ngôi vua và tự xưng hoàng đế. Nhưng đối với Tống chỉ nói là quyền tri lưu hậu, nghĩa là tạm coi những việc dở dang. Rồi sai sứ sang Tống báo tin : gọi là cáo-ai. Tống sai sứ (viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây sang làm hai việc : điếu-tặng nghĩa là điếu vua mất và tặng tước cao nhất, THỊ-TRUNG NAM-VIỆT-VƯƠNG; và tấn phong cho vua mới.

Bắt đầu, chỉ phong chức KIỂM-HIỆU THÁI-ÚY, tước GIAO-CHỈ QUẬN-VƯƠNG. (Chức tước hoàn toàn là : Kiểm-hiệu thái-úy, Tĩnh-hải tiết-độ-sứ, An-nam đô-hộ Giao-chỉ quân-vương)

Sau phong thêm mỹ-tự công-thần, nghĩa là ban cho những chữ tán tụng những đức tính tốt trong khi giúp vua vì Thiên-tử. Những mỹ-tự ấy gồm hai chữ liền. Ban nhiều cặp chữ như vậy bao nhiêu là hậu đãi bấy nhiêu : ví dụ như dực-đái, bảo-tiết, thủ-chính công-thần.

Lại phong THỰC-ẤP bao nhiêu hộ, nghĩa là cho ăn lộc của bao nhiêu họ phải nộp. Nhưng đó chỉ là hư hàm. Cho nên, còn ban THẬT PHONG hay THẬT THỰC-ẤP bao nhiêu hộ.

Mỗi lúc sứ ta sang Tống, hay ở Tống có việc khánh-hỉ gì, thì vua Tống gia phong cho vua Lý, gia phong hoặcbằng thêm mỹ tự, hoặc thêm thực-ấp. Còn gia phong chức tước thì thường theo thứ tự sau :

ĐỒNG BÌNH-CHƯƠNG-SỰ, nghĩa là cùng bàn việc nước.

ĐỒNG TRUNG-THƯ MÔN-HẠ BÌNH-CHƯƠNG-SỰ (Trung-thư là một ti thảo các chiếu-chỉ cho vua; môn-hạ bình-chương-sự là bàn việc nước với vua).

KHAI PHỦ NGHỊ ĐỒNG TAM-TI (được quyền mở phủ ở riêng, cùng tam-ti tức là ti-chánh bàn việc nước).

KIỂM-HIỆU THÁI-SƯ

NAM-BÌNH-VƯƠNG

Tước Nam-bình-vương là tột bậc khi vua Lý còn sống. Nếu muốn gia phong, vua Tống chỉ ban thêm mỹ tự hay là thực ấp.

Chỉ sau khi mất, mới tặng chức tước cao nhất; THỊ-TRUNG NAM-VIỆT-VƯƠNG.

Thứ tự trên này phần lớn đúng như vậy, và tuần tự theo. Nhưng cũng có đời vua Tống phong vượt thứ tự. Cũng có lúc bắt đầu chỉ cho chức THÁI-PHÓ, nhỏ hơn Thái-úy, như đời Lý Thái-tổ. Ấy vì bấy giờ, Lý mới cướp ngôi Lê.

Riêng từng triều đại một, sử ta không chép sự phong và gia phong tường tận; vì vua ta không lấy sự được phong làm hân hạnh, nhưng phải nhận, để ngoại giao với Tống cho yên ổn mà thôi. Còn Tống sử (Lễ-chí, Giao-chỉ truyện) chép rất rõ ràng.

Ví dụ :

LÝ THÁI-TỔ

1010.- Kiểm-hiệu thái-phó, Tĩnh-hải tiết-độ-sứ, quan-sát-sứ, xử-tri-sứ, An-nam đô-hộ, Ngự-sử đại-phu, Thượng-trụ-quốc Giao-chỉ Quận-vương, thực-ấp tam thiên (3 000) hộ, thật phong nhất thiên (1 000) hộ, suy-thành thuận-hoa công-thần.

1010.- thêm : Đồng binh-chương-sự, thực ấp 1 000 hộ, thật phong 400 hộ.

1012.- thêm : Khai phủ nghị đồng tam-ti, thực ấp 700 hộ, thật phong 300 hộ, dực-đái công-thần.

1014.- thêm : Bảo-tiết thủ-chính công-thần, thủ ấp 1 000 hộ, thập phong 400 hộ.

1017.- tiến : Nam-bình-vương; thêm : thực ấp 1 000 hộ, thật phong 400 hộ.

1018.- thêm : Kiểm-hiệu thái-úy, thực ấp 1 000 hộ, thật phong 400 hộ.

1022.- thêm : Kiểm-hiệu thái-sư.

1028.- tặng : Thị-trung Nam-việt-vương.

LÝ THÁi-TÔNG

1028.- tự xưng : quyền tri lưu-hậu-sự.

1028.- ban : Kiểm-hiệu thái-úy, Tĩnh-hải-quân tiết-độ-sứ, An-nam đô-hộ Giao-chỉ quận-vương.

1032.- thêm : Đồng trung-thư môn-hạ bình-chương-sự.

1034.- thêm : Kiểm-hiệu thái-sư.

1038.- tiến : Nam-bình-vương.

1055.- tặng : Thị-trung Nam-việt-vương.

LÝ THÁNH-TÔNG

1055.- ban : Kiểm-hiệu thái-úy, Tĩnh-hải-quân tiết-độ-sứ, An-nam đô-hộ Giao-chỉ quận-vương.

1064.- gia : Đồng trung-thư môn-hạ bình-chương-sự.

1068.- tiến : Nam-bình-vương.

1072.- tặng (?) TS không chép, nhưng chắc là Thị-trung Nam-việt-vương. 3.



CHƯƠNG VI : VƯƠNG AN-THẠCH VỚI ĐẠI-VIỆT

1. Chính-sách tân-pháp
2. Phòng-thủ nam-thùy
3. Chính-sách kiềm-chế
4. Chính-sách hòa-hoãn. Tiêu Chú
5. Chính-sách khiêu-khích. Thẩm Khỉ
6. Chính-sách do-dự
7. Tình-hình nghiêm-trọng. An-Thạch trở lại
Chú-thích

1.Chính-sáchtân-pháp Tống là một nướctừ địa vị nhỏ ở trung tâm nước Trung-hoa, đã trở nênmột đế quốc, bằng cách dùng vũ lực thôn tính các nướcbày-vai. Cuộc bành trướng bắt đầu năm 963. Hướng về phươngnam và tây, đánh lấy Kinh-nam (vùng Hồ-nam), Vũ-bình, Hậu-thục(Tứ-xuyên), Nam-hán (Quảng-đông); dụ hàng Nam-Đường (Giang-tây),Ngô, Việt (Chiết-giang) và Mân (Phúc-kiến). Còn về mặt bắc,Tống gặp nhiều khó khăn, vì ở kề Vạn-lý trường thànhcó những nước Liêu và Hạ rất mạnh không muốn để Tống lấn lên cạnh nước mình. Cho nên TốngThái-tổ đã thất bại trong việc đánh Bắc-Hán (vùng Hà-bắc).Phải đợi đến khi Thái-tông lên ngôi, nước này mới bịnhập vào đất Tống (979).

Nước Tống gồm địa giới Trung-quốc bây giờ, trừ vùng Bắc-bình, Sơn-tây, Cam-túc, Tây-cương, Quí-châu, tây phần Quảng-tây và Vân-nam.

Thấy tiến về nam dễ, Thái-tông đã quyết đánh ta, và đã bị thất bại hoàn toàn năm 981 (IV/1) vì tay Lê Hoàn. Từ đó về sau, tâm trí vua Tống phải luôn luôn quay về hai nước Liêu, Hạ ở miền bắc. Trong khoảng gần trăm năm, nước ta được khỏi họa xâm lăng.

Năm 1068, một vua trẻ lên ngôi nhà Tống. Ấy là Tống Thần-tông. Thấy các triều trước, Chân-tông, Nhân-tông và Anh-tông nhu nhược, chỉ bo bo giữ chốn kinh kỳ yên ổn, chứ không quản gì đến quốc nhục ở các biên thùy; trong triều, các nho thần chỉ chăm về từ chương và chỉ bàn suông về đạo đức, lấy sự dân yên làm quí. Cho nên Thần-tông có chí quật cường.

Bấy giờ có một nho thần là Vương An-Thạch cao tài kinh tế. Tuy chức còn nhỏ, nhưng Thần-tông gọi về gần kinh để hỏi ý kiến (tháng 9 năm Đ.Vi 1067) rồi cất lên làm tể tướng (1069). An-Thạch lập kế hoạch làm dân bớt bị quấy, thêm giàu; làm quốc quỹ dồi dào, làm binh lực nước mạnh. Các phương sách y đề cử và ban ra để thi hành, đối với đương thời, đều có tính cách đại-cách-mạng. Cho nên bấy giờ gọi các phép ấy là tân-pháp.

Làm tiện và lợi cho dân thì có phép mộ-dịch, quân-thâu, nông-điền, thủy-lợi. Mộ-dịch là bỏ lệ bắt làm xâu, mà tùy theo nghèo giàu nạp tiền để thuê người làm thay. Quân-thâu là trong việc thuế-cống, có thể lấy chỗ gần thay chỗ xa, lấy cái đắt thay cái rẻ, để thâu cho đều. Nông-điền, thủy-lợi là phép mở mang ruộng cày, lấy nước vào ruộng. Phép mộ-dịch, cũng chép là miễn-dịch, hay trợ-dịch.

Làm lợi cho dân và cho công quỹ thì có các phép : thanh-miêu, thị-dịch, phương-quân-điền. Thanh-miêu là lúc còn xanh, nhà nước cho dân vay tiền trước; đến lúc gặt phải trả vốn và lời 2 hoặc 3 phân (phần mười). Thị-dịch là lập công vụ mua hàng khi rẻ, rồi phát cho các nhà buôn, bán lấy lãi, hoặc để cho dân gian lúc cần tiền có thể tới cầm-cố đồ vật với một lợi tức phải chăng. Phương-quân-điền, hay phương-điền là đạc-điền theo từng khoảnh vuông để định thuế-lệ.

Làm mạnh cho nước thì có phép bảo-giáp và bảo-mã. Bảo-giáp là bỏ bớt cấm binh, tức là lính mộ phải trả tiền tốn, mà dùng dân-binh. Họp mười nhà thành một bảo, có bảo-trưởng coi; mười đại-bảo thành một đô-bảo có đô-bảo-trưởng coi. Nhà nào hai đinh, thì bắt một để vào bảo. Không cấm khí giới như trước; trái lại sai các bảo tập vũ-nghệ. Phép bảo-mã là phát ngựa cho các bảo và tư gia tình nguyện nuôi, hoặc nhận cấp tiền để tự mua lấy. Mỗi nhà được một hay hai con. Hàng năm có quan khám nghiệm. Lúc hữu sự thì bảo-đinh phải ra lính và các ngựa phải nộp quan.

Đại để các phép ấy rất tài tình và cũng gần như các phép mà ngày nay cả thế giới dùng. Bấy giờ thì rất mới. Tuy bị phái cũ bài xích, các phép đều được thi hành, và chẳng bao lâu có ảnh hưởng rất khả quan.

2.Phòng-thủnam-thùy Quảng-nam là vùngở cực nam nước Tống; gồm hai lộ : Quảng-nam-tây-lộ vàQuảng-nam-đông-lộ. Gọi tắt là Quảng-tây và Quảng-đông.Quảng-tây bấy giờ ra tận bờ biển : Liêm-châu và Khâm-châuđều thuộc Quảng-tây. Cho nên nước Đại-Việt đời Lýhoàn toàn tiếp đất Quảng-tây.

Sau khi Nùng Trí-Cao đánh phá Quảng-nam, Tống đã chia tây-lộ làm ba : Ung, Nghi, Dung. Được ít lâu lại trở lại chế độ cũ (LNĐĐ/1).

Chức quan cai quản việc quân ở lộ là kinh-lược an-phủ-sứ, đóng ở Quế-châu. Lệ thường là viên coi Quế-châu kiêm chức ấy : người ta gọi bằng quan tri Quế-châu, hay quan kinh-lược-sứ. Về việc lương thực, tài chính, có chức chuyển-vận-sứ. Hai chức trên, không bên nào phụ thuộc bên nào, và đều theo mệnh lệnh trung ương.

Danh hiệu châu rất phức tạp. Vì từ đời Hán đặt ra danh hiệu ấy. Đời sau, lúc thì đổi ra quận, lúc lại đặt lại. Cho nên đời Tống, tiếng châu chỉ một khu vực hoặc to hoặc nhỏ; ví dụ : Quế-châu quản Liêm-châu mà Liêm-châu lại có lúc quản Khâm-châu.

UNG-CHÂUlà châu thuộc Quảng-tây và tiếp đất nước ta. Viên coi Ung-châu thuộc viên coi Quế-châu. Viên ấy kiêm chức an-phủ đô-giám, coi tất cả việc binh lương, luyện tập, phòng ngự ở biên thùy. Dọc theo các trại giữ những khê-động, như năm trại giáp Đại-Việt (IV/1), các chủ trại đều kiêm chức tuần-kiểm để huấn luyện giáp-đinh và bắt trộm cướp (LNĐĐ/1). Những chủ trại có chức tuần-phòng-sứ hoặc là đô-giám (LNĐĐ/3).

Về quân, thì Ung-châu gồm hai đoàn, gọi là hai "tướng". Mỗi tướng có 5 000 quân. Giữ biên thùy Đại-Việt, có một tướng, chia làm hai phần : 2 000 đóng ở thành Ung, 3 000 chia đóng năm trại : Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Cổ-vạn, Thiên-long.

Về mặt KHÂM-CHÂU, có đặt viên phòng-biên-tuần-sứ cai quản đoàn quân gọi là Đằng-hải, hợp với quân của hai viên tuần-kiểm, không quá 500 người, đóng ở hai trại : Như-tích giáp biên thùy châu Vĩnh-an và Để-trạo ở cửa sông Khâm-châu.

Trên đây chỉ nói đến "quan quân" nghĩa là quân chính qui thuộc triều đình tuyển. Ngoài ra, còn có nhiều thứ quân địa phương, tức là dân quân : thổ-đinh (dân các châu), động-đinh (dân các động). Theo thời, ở các trại, khi thì có quan quân, khi thì hoàn toàn để động-đinh phòng thủ.

Dân các động thường hay cướp nhau. Vậy nên, chúng đã tự tập vũ nghệ để tự vệ : hạng trai tráng tự vệ ấy gọi là điền-tử-giáp, nghĩa là vừa cày vừa làm lính (LĐĐ/3)

Tất nhiên rằng khi các viên chức Tống không biết cai quản khê động, thì động đinh ấy trở thành những mối lo cho Tống ở biên thùy. Trái lại, lúc các viên coi Quế-châu, hay Ung-châu quan tâm đến sự kết thúc chúng, thì chúng lại trở nên những quân lính, không những giữ biên thùy có công hiệu, mà chúng có thể thành quân tiền phong uy hiếp nước ta.

Từ khi Nùng Trí-Cao đã phá Quảng-nam, quân Tống đặt ra lệ cứ năm đinh bắt một, để làm thổ đinh, và cứ hai đinh bắt một để làm bảo-đinh.

Đến đời Hi-ninh thứ 6 (1073), Vương An-Thạch tổ chức lại, muốn theo lệ quân nghĩa-dũng ở Hà-bắc; đặt cấm binh giao cho viên kinh-lược hoàn toàn điều phát, và chỉ dành bảo đinh cho các châu huyện trông coi. (LNĐĐ/3)

Tống tổ chức quân khê động để toan vào đánh đất ta. Ta sẽ thấy rằng Tống sẽ thất bại trong các cuộc hành quân; mà lẽ chính cũng là vì do dự không lợi dụng triệt để các quân khê động ấy.

3.Chính-sáchkiềm-chế Lúc Thần-tôngmới lên ngôi và lúc Vương An-Thạch mới chấp chính, ý tưởngđối với ta thế nào ? Sách TB nay đã mất khoảng ba năm đầuđời Hi-ninh (từ tháng 4 năm Đ.Zu 1067 đến tháng ba năm C.Ty1070), làm ta không thể biết rõ. Nhưng đoạn sau còn nhắclại đoạn mất, khiến ta đoán rằng vua Tống và An-Thạchđã bàn đến việc Giao-chỉ. (TB 216/6a)

Lúc quốc-dụng được dồi dào, binh lực khá mạnh, vua Tống Thần-tống bèn nghĩ đến việcbiên cương.

Ở phía bắc, hai nước Liêu, Hạ vẫn mạnh và thường thường uy hiếp biên giới. Quân và tướng giỏi phần lớn đóng ở bắc thùy.

Tháng 11 năm M.Ta (1068), Vương Thiều hiến kế đánh nước Thổ-phồn ở phía tây nước Hạ, để cắt "cánh tay phải của nước này". Vương An-Thạch khen là kỳ mưu. Vua cũng bằng lòng. Cho nên việc binh bắt đầu phát ở đó. Tuy lấy được Hi-hà và Thần-tông khen An-Thạch, nhưng sau này cũng là mối lo cho Tống, dai dẳng đến năm 1073.

An-Thạch làm nội chính cách-mạnh, nên bị lắm kẻ thù oán, nhất là các lão thần. Cho nên kẻ đương thời cũng như các sử gia đời sau đều qui các tội thất bại nội chính cũng như ngoại giao cho An-Thạch. Vì thế xét đoán cho đích xác trách nhiệm vua Tống Thần-tông và Vương An-Thạch trong việc đánh nhau với nước ta, không phải dễ. Sự chắc chắn là cả hai người đều để ý đến các man dân miền khê động châu Ung và trong trí người Trung-quốc ở trung nguyên, thì dân ta cũng chỉ là một man dân mạnh mà thôi. Cả hai đều nghĩ sớm chầy gì cũng sẽ mở man bờ cõi miền Nam; vì "nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, và các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiêng nể".

Nhưng trong khi bàn bạc về thời cơ thuận tiện, có chỗ dị đồng : lúc vua muốn gây sự thì An-Thạch lại can, lúc An-Thạch muốn khởi binh thì vua lại dè dặt. Trong lúc ấy, các biên thần đều lo liệu sự kết thúc các man dân và tăng binh lực.

Tháng 7 năm C.Tu (1070), An-Thạch bàn với vua việc lấy dân binh thay mộ binh, có nói :"Ở Quảng-Nam thú binh chết nhiều, cần phải dùng gấp dân quân" (TB 213/6b)

Bấy giờ ý Tống Thần-tông đã quyết. Nhưng binh lực chưa sẵn. Vả An-Thạch cũng mới bắt đầu thí nghiệm các tân pháp, còn phải đối chọi với biết bao là kẻ ghen ghét oán thù. Cho nên triều đình Tống chỉ tìm cách kiềm chế phương nam. Tống sợ thất bại, chưa giám gây sự. Tháng 10 năm ấy, viên coi Quế-châu là Phan Bội tâu : "Tưởng Thánh-Du, coi việc văn tự về khê động Ung-châu, vừa tới nhậm chức mà đã lập tức nói muốn đánh lấy Giao-chỉ. Sợ sẽ sinh sự, xin đổi y". Vua nghe theo. (TB 216/a)

Nhưng vua Tống vẫn muốn dời kinh lược từ Quế-châu xuống Ung-châu, để phòng bị sự "Giao-chỉ phản trắc". Sau lại bảo đợi sứ vua Lý sang đến nơi sẽ hay (TB 216/6b). Tô Giám, một viên có công trong cuộc chống Nùng Trí-Cao và ở lâu vùng Lưỡng-Quảng, rất am hiểu tình thế nước ta, được bổ coi Ung-châu (tháng 10 năm C.Tu 1070, TB 216/6b). Tháng chạp, sứ ta là Lý Kế-Nguyên tới, quan Tống ngăn không cho tới Biện-kinh (kinh đô ở gần Khai-phong, tỉnh Hà-nam) và đòi ta phải trả trước dân Tống, mà ta đã bắt. (TB 218/12b)

Đồng thời, Tống tăng số quân ở Quảng-đông và Quảng-tây thêm 1200 tên.

Cuối năm C.Tu (1070) tình thế giữa Tống với Lý coi chừng đã quá găng. Viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Đỗ Kỷ dâng sớ nói rất rõ ràng về nội tình nước ta, kể rõ núi sông, đường sá, binh dân. Vua đưa cho Vương An-Thạch xem, và định giao cho viện khu mật giữ làm tài liệu. An-Thạch hiểu ý Thần-tông muốn đánh Giao-chỉ, liền can. An-Thạch nói :"...Vua đã ngỏ ý từ trước là phải làm nước giàu, dân yên. Đó là phúc cho dân. Còn việc ngoài vạn dặm, trước đã bàn rằng không thể không xét tới, như đã xét đến sự bọn Ôn Cảo lấy làm lo cho các châu Khâm, Liêm. Nhưng đến như sai biên thần đi dỗ Giao-chỉ, thì không nên. Làm như vậy, trước là sẽ trái với lời dặn của Bệ-hạ từ trước, sau lại làm Giao-chỉ sinh nghi".

Chữ dỗ mà An-Thạch dùng đây nghĩa là đem binh tới ép. Rồi An-Thạch dẫn tích nhà Tần dỗ Nghĩa-Cừ mà thành ra Nghĩa-Cừ biết mà làm phản. Y nói tiếp :"Tôi sợ nếu dùng kế Ôn Cảo, thì chẳng may Giao-chỉ biết ra, dự bị trước; sẽ có sự khó khăn ở biên". An-Thạch khuyên Thần-tông theo vua Anh-tông, lấy trí, dũng, nhân, nghĩa mà trị dân, thì không cần đánh cũng phục được.

Đọc qua lời tâu dài này, ta thấy An-Thạch còn bị các triều thần khác bài xích. An-Thạch sợ thất bại trong việc mở biên cương, nên can vua :"Như vậy, việc chưa bắt đầu mà kẻ trí giả đã biết trước sẽ không thành". Y nhân đó ám chỉ những triều thần khác. Trong kết luận, có câu :" Sự đáng lo trong nước, không phải ở biên thùy, mà ở triều đình; không ở triều đình, mà ở lòng vua..."(tháng 11 năm C.Tu, 1070; TB 217/13b).

4.Chính-sáchhòa-hoãn. Tiêu ChúTuy vậy, kẻ hiếnkế đánh ta vẫn dâng thư về triều. Có kẻ nói rằng :"Giao-chỉbị thua ở Chiêm-thàng (muốn nói việc năm 1069, II), quân khôngcòn nổi một vạn. Có thể tính ngày đánh lấy được". SáchTB đoán rằng đó là lời Phan Bội, coi Quế-châu bấy giờ,vì tuy Bội đã hặc người khác về việc muốn đánh nướcta, nhưng cũng đã bày tỏ ý kiến là có thể lấy nước tađược. (TB 219/4b)

Vả chăng, từ khi bị truất chức coi Ung-châu (tháng 11 năm C.Ta 1060; V/5) vì đã khiêu khích nước ta, Tiêu Chú vẫn muốn lăm le phục chức. Theo lời Ngụy Thái, lúc Thần-tông lên ngôi và Vương An-Thạch chấp chính, Chú đoán rằng triều đình vừa có ý mở biên cương; bèn đánh tiếng rằng:"Trước đây tôi đã ở Ung-châu lâu, tôi biết rằng Giao-chỉ có thể lấy được". Triều đình lật đật gọi Chú, cho phục chức và bổ coi Quế-châu, lại sai kiêm các chức kinh-lược, an-phủ-sứ Quảng-tây (ĐHBL 8)

Thật ra, tháng giêng năm T.Ho (1071), Tiêu Chú có chỉ bổ coi việc quân mã ở vùng Hà-đông, là vùng còn đánh nhau với Hạ. Chú không muốn đi, bèn nói : "Tôi vốn là thư sinh, thạo nghề phủ dụ, nhưng kém nghề chiến đấu; sợ không cán nổi việc ở đó". Lại nhân có kẻ nói Giao-chỉ có thể lấy được, vua Tống sai Chú coi Quế-châu (TB 219/4b). Xem đó ta thấy rằng triều đình Tống càng ngày càng quan tâm đến nước ta.

Vùng nam Ngũ-lĩnh có tiếng là khí nóng, nước độc. Cácquan lại bị chết nhiều, và ít kẻ bằng lòng nhậm chức ở đó. Cho nên viện khu mật tâu xin hậu đãi những người đi Quảng-nam, "như thế thì người ta mới vui đi, và chốn xa không thiếu chính quan" (tháng 10 năm T.Ho 1071. TB 227/6b). Trái lại,Chú thích đi.

Lúc Chú tới Quế-châu, các tù trưởng xa gần, từ đạo Đặc-ma tới châu Điền-đống đều kéo nhau tới yết kiến. Chú đều mời mọc ân cần, hỏi han hình thế sông núi, tình trạng nhân dân mà Chú đã từng quen biết mười năm trước. Ai nấy đều bằng lòng. "Cho nên Lý Càn-Đức (Nhân-tông) động tĩnh thế nào, Chú đều biết rõ" (TB 242/13b và TS 334). Chú thấy trong khoảng mười năm, nước ta đã giàu mạnh lên nhiều; ta đã đại thắng Chiêm-thành và đã mở mang bờ cõi nam và bắc. Chú là một người rất thức thời, nên đã hiểu rằng phải kiêng dè kính nễ nước ta, và sợ ta đánh lại. Cho nên "khi có kẻ hiến kế đánh Giao-châu, Chú đốt thư đi". (TB 242/14a)

Trong lúc ấy, quân ta cũng không ở yên. Lưu Kỷ ở Quảng-nguyên đem hơn 200 quân thổ đinh dẫn quân Lý vào châu Qui-hóa, tức là đất Nùng Tông-Đán và con mới nộp Tống (V/6). Ti kinh-lược Quảng-tây tâu về triều. Tống Thần-tông phê rằng :"Gần đây, đã nhiều lần thám báo rằng giặc Quảng-nguyên tụ tập. Cuối cùng tin không đúng. Khiến dân khê động ở không yên. Sợ tin đó là giặc giảo-hoạt cố ý hư truyền ra, để làm náo động nhân tình, rồi nhân đó, hiếp bức dân chúng theo nó. Đó là việc mà bọn Hoàng Trọng-Khanh, Lư Báo đã làm. Nếu để lâu không xử trí, thì sự lý không tiện. Vậy, kíp sai Tiêu Chú tới đó mà xử trí, chớ để thành chuyện to lớn." (tháng 11 T.Ho 1071;TB 288/1a).

Thánh 5 năm sau (N.Ty, 1072), Tiêu Chú xin ước-thúc dân các khê động, và nói :"Mỗi khi nghe báo có giặc qua địa hạt mình, mà các tri châu không lập tức tới đánh bắt, thì xin đem quân pháp trị tội". Ý Tiêu Chú là cốt bắt buộc các quan địa phương canh phòng cẩn mật. Nhưng vua Tống nói với các phụ thần rằng :"Khi báo có giặc, chưa biết thật hay không, lại không biết giặc nhiều hay ít. Nếu thế lực các châu không đủ, thì đánh bắt làm sao được, mà lấy quân pháp trị tội người ta. Nên sai ti kinh-lược xét kỹ và giảm tội." (TB 233/21b)

Tiêu Chú ở Quế-châu hai năm, lăng nhăng không được việc gì. (ĐHBL 8)

5.Chính-sáchkhiêu-khích. Thẩm Khỉ Sự thật là TiêuChú hiểu rõ thế lực nước ta bấy giờ rất thịnh, nênmới chù chừ, không muốn mưu sự đánh ta. Triều đình Tốngcũng chưa giám quyết

Nhưng sang năm N.Ty (1072), tình thế biến chuyển. Tháng giêng, vua Lý Thánh-tông mất. Vua Nhân-tông còn bé. Thái hậu Thượng-dương và thái phi Ỷ-lan tranh quyền nhau. Phe Lý Thường-Kiệt và Lý Đạo-Thành hiềm kỵ nhau (III/1)

Tống Thần-tông và nhất là Vương An-Thạch bắt đầu quyết tâm sửa soạn cuộc nam chinh.

Tháng 8, có lệnh chung bãi bỏ các viên câu-đương công-sự ở các ti kinh-lược và an-phủ, nhưng trừ tỉnh Quảng-tây; "vì Ôn Cảo bấy giờ giữ chức ấy, vả lại vừa có ý đánh Giao-chỉ" (TB 237/23b). Lệnh đặt bảo-giáp ở các lộ đã ban ra. Tháng giêng năm Q.Su (1073), Hứa Ngạn-Tiên là viên coi việc ấy ở Lưỡng-Quảng tâu :"Đã sai các huyện-lệnh lập bảo-giáp để thay các thứ lính đã đặt từ trước." (TB 242/3b)

Tống Thần-tông triệu Tiêu Chú về hỏi tình hình Giao-chỉ và sách-lược chinh phạt (ĐHBL). Chú cho việc ấy khó. Vua ngạc nhiên, nhắc lại câu người ta nói : Giao-chỉ bị thua ở Chiêm-thành, quân không còn nổi một vạn; có thể tính ngày lấy được (VI/). Chú tâu :"Xưa, tôi cũng có ý ấy. Bấy giờ quân khê động một người có thể địch mười; khí giới sắc và cứng; người thân tín thì tay chỉ, miệng bảo, là điều khiển được. Nay, hai điều ấy không như trước : binh giáp không sẵn sàng, người tin chết quá nửa. Mà người Giao-chỉ lại sinh-tụ, giáo-hối đã mười lăm năm rồi. Bây giờ, nói quân Giao không đầy một vạn thì sợ sai". TB (219/4b) chép câu trả lời vào lúc ban đầu, khi Chú mới tới Quế-châu, chắc là lầm. (TS 334)

Vua và Vương An-Thạch không bằng lòng. Có viên hình-bộ lang-trung, là Thẩm Khỉ, nói quả quyết rằng :"Giao-chỉ là đồ hèn mọn, không lý gì không lấy được". Vì thế vua chọn Khỉ thay Chú coi Quế-châu và kiêm chức Quảng-tây kinh-lược-sứ (tháng 2 năm Q.Su 1073; TB 242/14a).

Khỉ liền xin :"Từ nay nếu ở Quảng-tây có biên sự, sẽ theo lệ Thiểm-tây, để ti kinh-lược được xử trí rồi tâu sau". Vua bằng lòng. Khỉ lại sai người ra ngoài biên giới để lo liệu công việc. Vua hỏi An-Thạch :"trả lời làm sao ?". An-Thạch xin y lời. Vua cũng bằng lòng (tháng 4 Q.Su, 1073; TB 244/3b). Ít ngày sau, lại giao thêm cho Khỉ công việc lương thảo (TB 244/7b).

Thoạt tiên, Khỉ muốn tổ chức tây bắc Quảng-tây, để cho yên đường tiếp tế hạt mình. Cho nên, đặt các doanh trại ở các châu Dung, Nghi. Đem quân đánh trại Vương-khẩu, binh lính bị chết nhiều (ĐHBL 8).

Thế mà Khỉ tâu dối về triều rằng các man dân theo mình. Rồi tự xây thành, đắp lũy. Làm dân vùng Nghi, Dung oán. Dân các động nổi lên, chém giết quan quân (theo lời Tống Thần-tông, TB 272/2a)

Tháng 4 (Q.Su, 1073), Khỉ xin lấy động-đinh trong năm mươi mốt động thuộc Ung-châu để kết thành bảo giáp, và sai quan dạy và kiểm tra. Vua Tống không những bằng lòng, mà còn cấp tiền cho để thi hành (TB 244/8b). Khỉ sai người vào các khê động, kiểm điểm dân đinh, lập thành bảo-ngũ, phát các trận đồ dạy chúng tập. Sau đó lại bắt các thuyền dọc bờ biển, thường dùng chở muối, để tập thủy chiến. Sợ người nước ta biết những hành động ấy, Khỉ ra lệnh cấm ta không được sang buôn bán ở đất Tống. (TS 334)

Quan Tống hết sức dụ dỗ các tù trưởng. Tháng 4 năm Quí Sửu 1073, Ôn Cảo xin tăng hàm cho tụi Nùng Tôn-Đán (V/8) và Nùng Trí-Hội (VI/7) là tụi đã bỏ Lý theo Tống. Tông Đán được chức đô-giám Quế-châu, Trí-Hội coi châu Quí-hóa; và cả hai được thăng hàm cung-bị-khố phó-sứ (TB 244/3b). Thẩm Khỉ lại sai người dụ Lưu Kỷ ở Quảng-nguyên. Ngày 15 tháng 10 năm Q.Su (1073), Khỉ tâu :"Lưu Kỷ ở Giao-chỉ muốn theo ta. Nếu không nhận, sợ nó làm loạn như Nùng Trí-Cao". (TB 247/22a)

Cũng vào khoảng cuối năm ấy (Q.Su 1073), có bọn Nùng Thiện-Mỹ ở châu Ân-tình (vùng châu Cảm-hóa thuộc Bắc-Kạn, giáp châu Thất-khê, còn có làng Ân-tình, chính là đó, xem ĐKĐD), nghe lời Thẩm Khỉ dỗ, đưa bảy trăm bộ hạ vào xin theo Tống (TB 259/13b). Viên đô-tuần-kiểm là Tiết Cử nhận (TB 251/1a). Thẩm Khỉ tâu rằng :"Viên coi châu Ân-tình là Nùng Thiện-Mỹ và hơn 600 gia thuộc xin quy phục Trung-quốc. Tôi xét thấy Thiện-Mỹ vốn người Trung-quốc, quản động Hạ-thôn thuộc châu Thất-nguyên. Năm trước, động ấy bị Giao-chỉ chiếm mất, và đổi tên ra Ân-tình. Nay vì Giao-chỉ bắt thuế nặng nề, nên tụi Thiện-Mỹ xin quy phục ta, kẻo nếu chúng không nộp thuế cho Giao-chỉ, thì e bị giết". (TB 259/13b)

Tháng ba năm G.Dn (1074), viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây tố cáo việc ấy (TB 251/1a). Vua Tống bảo xét, và dặn rằng :"Chúng nó đã quy-ninh, thì nên cứu giúp". (TB 259/13b)

6.Chính-sách do-dự Tuy Tống Thần-tôngđã quyết ý đánh ta, nhưng biên thùy miền bắc còn lôi thôi.Việc đánh Thổ-phồn (Hi-hà, vùng Cam-túc) còn dai dẳng, nướcLiêu còn đòi nhường đất. Cho nên bề ngoài, đối với ta,Tống còn dè dặt.

Sau khi Lý Thánh-tông mất, Tống đã sai viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Khang Vệ sang điếu (tháng 3, N.Tý 1072, TB 231/4a). Tháng ba năm sau (Q.Su 1073), sứ ta là Lý Hoài-Tố tới cống, vua Tống phong vua Lý Nhân-tông tước Giao-chỉ quận-vương.

Khi Khỉ xin nhận Lưu Kỷ hàng (tháng 10, Q.Su 1073, VI/5), vua Tống hỏi ý Vương An-Thạch rằng :"Ta nghỉ rằng chưa có thể nhận Lưu Kỷ được. Nhận Lưu Kỷ, chắc rằng Giao-chỉ giành lại". An-Thạch nói :"Nghe nói Ôn Cảo từ Quảng-tây đã về. Xin đợi Cảo đến nơi, sẽ thương lượng". (TB 247/22a)

Thẩm Khỉ tới coi Quế-châu được một năm rồi, mà trong hạt Quảng-tây xẩy nhiều vụ lôi thôi. Triều đình Tống sợ Khỉ gây chuyện với ta không đúng cơ hội. Vua Tống và An-Thạch đã trở nên không thích Khỉ. Nhân bàn chuyện Lưu Kỷ, vua Tống nói :"Việc Giao-chỉ có thể làm xong được. Nhưng sợ Khỉ không làm nổi". An-Thạch trả lời :"Khỉ tự cho dễ làm xong. Nhưng việc binh rất khó. Sợ Khỉ chưa dễ đã làm xong" (tháng 10, Q.Su 1073, TS 247/22a). Lúc ti chuyển-vận tâu hặc Khỉ không ngăn kẻ dưới nhận Nùng Thiện-Mỹ, vua Tống phê :" Ở Hi-hà còn đương đụng binh chưa xong, mà phương nam Thẩm Khỉ đã làm xằng, dấu việc gây sự với man dân. Nếu không xử trí cho êm, thì có thể gây nên họa lớn cho Trung-quốc. Thật là không được. Phải lập tức bãi Khỉ, trị Khỉ tội đã tự tiện chiêu nạp man dân. Thế để cho trong ngoài được yên". Rồi ngày mồng một tháng ba năm Giáp-dần (1074), lấy Lưu Di thay Thẩm Khỉ. Giao cho Lưu Di công việc ước-thúc man dân, như đã giao cho Khỉ trước,và sai Di xét việc Khỉ nhận Nùng Thiện-Mỹ nữa. (TB 251/1a).

Xem vậy, đủ rõ rằng chính sách dè dặt của Tống Thần-tông và Vương An-Thạch đối với ta, trong năm Quí Sửu (1073), chỉ bởi thời cơ chưa thuận mà thôi. Chứ ý định đánh ta đã quyết, và vua tôi Tống đều đồng lòng. Sự bãi Khỉ không chứng sự bỏ ý định ấy. Trái lại, theo lời Ngụy Thái trong ĐHBL, "tuy Khỉ tìm gây trăm mối chiến tranh, nhưng không trùng cơ hội. Triều đình nghĩ rằng Khỉ có ý chù chừ, cho nên đổi đi coi Đàm-châu".

Kỳ thật thì cả Tống Thần-tông và Vương An-Thạch đều điều khiển Khỉ soạn sửa đánh ta. Và cả hai người, lúc đầu, đều ưa Khỉ. Khi chọn Khỉ thay Tiêu Chú, có viên khu-mật nói :"Lúc Khỉ làm chuyển-vận-sứ Thiểm-tây, lính Khánh-châu nổi loạn kéo tới thành Tràng-an, Khỉ đóng cửa thành không giám ra ; người ta nghi Khỉ dát". Vua Tống bênh Khỉ, nói :"Giặc tới dưới thành, mà trong thành khôngcó người giữ, sao lại không đóng thành ? Đó không phải là lỗi". An-Thạchcũng nói Khỉ không có lỗi đáng kể, và vì Khỉ tính trực, nên nhiều người ghét mà thôi (TB 242/14a). Sau này khi Tống bị thua, đáng lẽ Khỉ bị tội chết. May sẽ có An-Thạch cứu cho (theo lời Trần Quán, ở đồng thời. TB 244/4b).

Tóm lại, Thẩm Khỉ được lệnh Tống Thần-tông và Vương An-Thạch dự bị đánh nước ta. Nhưng Khỉ đã hành động vụng về. Vua và An-Thạch cho là bất lực, cho nên mới bãiKhỉ (tháng 3 năm Giáp-dần 1074).

Vả ở triều Tống, thế An-Thạch cũng đã bị lung lay gần đỗ. Chích sách cách mạng của An-Thạch tuy được vua thích, và đã có hiệu quả hay, nhưngvây cánh An-Thạch là tụi còn trẻ, thừa hành có kẻ lạm quyền; cho nên các đại thần phe cũ và dân gian rất oán. Bắc thùy nước Tống lại đang lâm vào cảnh khốn đốn.Không những Thổ-phồn quấy nhiễu, mà thế lực nước Liêu càng tăng, ép Tống phải nhiều lần nhượng bộ. Bấy giờ Liêu lại sai sứ sang yêu cầu Tống nhượng thêm đất ở vùng Phần-thủy-lĩnh. Vì vậy tuy được vua che chở, An-Thạch cũng tự ý rút lui, để cho người đồng đảng cầm quyền. Ấy là vào tháng tư năm Giáp-dần 1074.

7.Tình-hình nghiêm-trọng.An-Thạch trở lạiỞ nước ta, LýThường-Kiệt lên cầm quyền đã được hai năm. Ông cũngrất lo lắng vì chính sách khiêu khích của Vương An-Thạch.Lại thêm năm Tống Hi-ninh thứ 6 (1073), có người Tống quêchâu Bạch (LNĐĐ), tên Từ Bá-Tường, viết thư báo tin Tốngsoạn sửa đánh ta, và xui ta nên đánh Tống trước (TB 288/7a).Thường-Kiệt đã tụ tập nhiều quân ở biên giới, và lộvẻ muốn vào đánh đất Tống.

Tháng ba năm ấy (Giáp-dần 1074), vua Tống hạ chiếu nói rằng :"Quảng-tây nhiều lần nói tin thám tử báo rằng Giao-chỉ tụ binh, muốn phạm vào đất ta. Sợ rằng biên thần không biết lường sức chúng, mà đưa quân xa thành trại, để đánh lại. Vậy nên, phải gấp báo cho viên coi Ung-châu là Tô Giàm, dặn nếu quân man giám phạm đến Ung-châu, thì phải kiềm quân cố thủ; chớ có tham lập công mà khinh địch" (TB 251/6a).

Lúc ấy, Lưu Di đến thay Thẩm Khỉ. Triều đình ra lệnh phải chiêu tập phủ dụ cho yên lòng dân. Di xin hoãn thuế cho khê động vì hạn hán (TB 257/10a) và mộ quân cày đồn điền (TB 256/2a).

Nhưng, ở Biện-kinh, sau mười tháng vắng mặt, Vương An-Thạch lại được triệu về chấp chính. Bấy giờ là tháng hai năm Ất-mão 1075. Việc bắc thùy rất bối rối. An-Thạch chủ trương nhượng đất cho Liêu. An-Thạch nói :"Muốn lấy thì phải cho đi đã". Tống Thần-tông nghe lời, và cắt 700 dặm đất Hà-đông biếu nước Liêu. Bắc thùy tạm yên, vua tôi Tống lại quay về biên thùy Đại-Việt.

Ý Vương An-Thạch vẫn là đánh lấy nước yếu để dọa nước mạnh. Lưu Di được lệng tăng cường binh lực. Tháng 6 năm ấy (1074), có chiếu cho Quảng-tây chỉ dụng thổ đinh, thay lính thương-thủ : cứ ba đinh bắt một và nếu chỗ nào từ trước chưa có thương thủ, thổ đinh hay châu quân, thì đừng đặt thêm. Lưu Di tâu rằng. " Nay tiếp tin từ xứ man báo về, tôi sợ chúng sắp vào cướp, thủ-ngự ứng-viện sẽ không kịp. Nếu theo lệ mới, thì chỉ mộ được bảy phần mười số cũ. Vậy xin theo lệ cũ." (TB 254/10a).

Rồi Di theo chính sách Thẩm Khỉ, sai các quan lại vào các khê động kiểm điểm thổ dân, bắt chúng tập trận. Di đóng chiến hạm, dùng thuyền muối để tập thủy binh, y như Khỉ trước. Di cũng cấm người nước ta sang buôn bán để tránh sự thám thính (TS 334 và TB 271/7a). Những thuế má vùng Tả và Hữu giang thì thu bằng thóc gạo, để tích trữ quân lương (TB 253/4a).

Tố Giàm coi Ung-châu, thấy quân ta tụ tập ở biên giới, rất lo. Bèn viết thư báo với Di rằng :"Phải bỏ ba việc đang làm : tập lính, đóng tàu và cấm chợ, để cho người Giao-chỉ, nếu có cất quân, không còn có danh nghĩa nữa". Di không nghe, viết thư hặc Giàm, trách Giàm bàn nhảm, và cấm không được nói đến biên sự nữa . (TB 271/7a).

Tình thế càng ngày càng găng. Trước đó vài tháng, vào tháng giêng năm Ất-mão (1075), Lý Thường-Kiệt xui vua Nhân-Tông gửi biểu tới triều Tống đòi lại tụi Thiện-Mỹ. Lời biểu rằng :"Thủ lĩnh châu Ân-tình, tên Ma Thái-Dật là người châu Định-biên ở đất tôi (Bắc-cạn ngày nay). Nó đã dời sang châu Ân-tình và nay đổi tên Nùng Thiện-Mỹ. Nó và 700 bộ thuộc đã trốn sang Trung-thổ. Vậy xin xét rõ căn do". Vua Tống bảo xét (TB 259/13a). Không thấy Tống trả lời, ta dâng biểu đòi trả tụi dân ấy. Lưu Di không chịu chuyển biểu (TB 272/2a). Cuối cùng, vua Tống không bằng lòng trả Nùng Thiện-Mỹ (TB 259/13a). Ta cũng đành tạm chịu, nhưng chỉ đợi cơ hội phục thù .

Ý định chiến tranh bên Tống đã rỏ ràng. Quân giữ biên thùy ta cũng sẵn sàng chống lại.

Châu Quảng-nguyên là một yếu địa. Tướng cầm quân ở đó là Lưu Kỷ. Lưu Kỷ nối Nùng Trí-Cao. Sau khi Trí-Cao thất bại, bộ hạ y là tụi Hoàng Trọng-Khanh, Lư Báo, về theo Kỷ (MKBD). Ta đã thấy Kỷ có lần vào châu Quí-Hóa và Thẩm Khỉ đã có lần muốn dụ y (VI, 4). Kỷ làm quan-sát-viên ở Quảng-nguyên (TB 279/11a), thường qua các khê động mua ngựa. Có con Nùng Trí-Cao là Trí-Hội ở châu Quí-hóa, cản đường. Trí-Hội bấy giờ đã qui phụ Tống. Kỷ đem 3.000 quân sang đánh đất châu Ung. Trí-Hội và con là Tiến-An chống lại. Kỷ lui quân về (TB 263/7a).

Việc này chỉ là một cuộc xung đột địa phương, giữa hai biên tướng. Nhưng Tống muốn nhân cơ hội, gây thanh thế ở nam thùy một cách khôn ngoan. Lưu Di được tin Kỷ và Trí-Hội đánh nhau, tâu về triều. Di nói :"Thật ra Trí-Hội chưa theo ta hẳn. Nên để hai bên đánh nhau như thế, thua được đều có lợi cho triều đình." Vua Tống Thần-tông không bằng lòng, trả lời :"Sao lại nói như thế ? Nếu ta không dung kẻ theo ta, thì kẻ theo ta đắc chí. Bày phương kế như vậy là bậy !" An-Thạch cũng đồng ý, nói :"Quả thực như lời Hoàng-thượng ! Nếu thật Trí-Hội chưa theo hẳn ta như lời Di nói, thì nên nhân cơ hội này mà mua chuộc nó. Vả nay, Càn-Đức còn bé; nếu Lưu Kỷ đánh được Trí-Hội, rồi quay lấy Giao-chỉ, thì đó sẽ là cái họa cho ta. Ta nên giúp Trí-Hội để chế lại Lưu Kỷ, làm cho nó không rỗi tay mưu đánh Giao-chỉ. Thế thì mới lợi cho ta"(TB 263/7b).

Theo ý Vương An-Thạch, cũng như ý của người Tống đương thời, Lưu Kỷ là một tướng độc lập ở Quảng-nguyên, thanh thế không kém gì vua Lý. Cho nên mới có lý luận trên. Nhưng dựa vào lý luận của An-Thạch, thì tại sao Tống không dùng Kỷ đánh Lý Nhân-tông ? Ấy vì An-Thạch sợ Kỷ lấy được nước ta, rồi sẽ trở nên rất mạnh. Vua Tống cho lời An-Thạch là phải; hạ chiếu cấp bổng tiền cho Trí-Hội và ban cho con là Tiến-An chức tây-đầu cung-phụng (chiếu ngày A.Vi, 4-4n-AMa. DL 21-5-1075; TB 263/7a).

Vua Tống lại chiếu cho ti kinh lược Quảng-tây sai sứ thần vào các khê động mộ đinh tráng để làm thanh viện cho Trí-Hội. Vua hẹn rằng hễ ai bắt hay giết được giặc, thì theo lệ thường thưởng cho mười tấm vải (TB 265/7b).

Lưu Di càng được nhịp sửa soạn chiến tranh. Chẳng bao lâu nữa, bức thế, Lý Thường-Kiệt phải tấn công trước.

CHÚTHÍCHLiêulà một nước ở vùng Mãn-châu, Hà-bắc bây

Giờ. Nguyên trước là Khiết-đan. Chúa nước ấy xưng vương năm 916. Đến năm 937, đổi tên ra Liêu. Rồi chiếm phần đất Hà-bắc, Sơn-tây và Chahar. Lúc Tống lên ngôi, hai nước Liêu Tống thành liên bang. Tống Thái-tông đánh Liêu, nhưng thất bại ở Cao-lương (979). Năm 982, Thái-tông lại nhân Liêu có tang, kéo quân tới đánh, nhưng bị đại bại. Năm 1004, Liêu tới đánh Tống, nhưng Liêu bị bại. Hai bên sức ngang nhau, nên định hòa hiếu với nhau và lập đàn thề thân thiện ở Đàn-uyên. Đến lúc nước Hạ, ở phía tây Liêu, trở nên một nước mạnh và bắt đầu quấy Tống, Liêu thừa cơ, yêu sách Tống nhiều điều : như đòi đất và tiền (1042 và 1074). Tống đều phải nhún.

Hạ là một nước có từ đời nhà Đường; chiếm vùng Cam-túc, Ninh-hạ ngày nay. Ban đầu, giúp Tống đánh Bắc-Hán, nhưng sau lại theo Liêu chống Tống, và được Liêu phong cho chúa làm Hạ-quốc-vương (986). Hạ bắt đầu bức hiếp biên thùy tây bắc của Tống. Nhưng năm 1003, Hạ-chúa lại cầu phong với Tống, và vua Tống phong cho tước Tây-bình-vương (đối với Nam-bình-vương phong cho vua Lý). Từ năm 1032, Hạ trở nên một nước mạnh, mở mang bờ cõi miền tây, lấn nước Thổ-phồn và tự xưng đế (1038). Từ đó đe dọa Tống luôn luôn. Các danh tướng đời Bắc-Tống đều có cầm quân chống Hạ.1.

Tiêu Chú xuất thân tiến sĩ. Có đại chí, thích bàn việc quân. Lúc làm tri huyện Phiên-ngu (cạnh Quảng-châu), bị Nùng Trí-Cao vây thành (1053). Chú thoát ra ngoài thành, kết thúc man động. Sau đem thổ đinh vào tận sào huyệt Trí-Cao. (TS 334).4.

Sách TB (271/6b) chép lời chiếu kể tội Thẩm Khỉ và Lưu Di, như sau :"Ngày trước Thẩm Khỉ nói dối rằng nhận lệnh triều đình mật sai lo việc đánh Giao-chỉ. Sau lại không đợi chiếu chỉ, tự tiện sai người nhận tụi Nùng Thiện-Mỹ ở châu Ân-tình, và ép man dân đặt doanh trại ở châu Dung và Nghi. Khỉ lại tâu dối rằng man dân chịu theo ; rồi xây thành, đắp lũy, làm cho man dân nổi loạn, giết thổ binh, tướng hiệu, quan lại, kể đến hàng nghìn. Nay Giao-chỉ phạm biên giới, dân Lèo ở châu Thuận, châu Nghi lại xâm nội địa. Dân và quân khổ sở. Tội thật tại Khỉ. Trẫm đã cách chức y và tống đày chỗ Viễn-ác-châu.

Lưu Di lại xin bãi hạng lính trát binh, đóng chiến thuyền cấm người Giao-chỉ tới buôn bán ; Di không chịu bàn nghị với Tô Giàm và không nhận thư tố cáo của Giao-chỉ. Vì thế mới sinh ra biến. Vậy tội cũng không riêng ở Khỉ... "

Sách ĐĐSL cũng nói chuyện Tô Giàm viết thư cho Khỉ can những việc đang làm, nhưng Khỉ không chịu nghe, và còn hặc Giàm. (ĐĐSL 86).6.

Sách TB (271/15a) chép : Vua Tống nghe chuyện Nùng Thiện-Mỹ hàng là bởi Thẩm Khỉ sai người dỗ, và nay Lưu Di cũng làm xằng, đến nổi Giao-chỉ vào cướp, vua bèn chiếu cho viên coi Quế-châu là Thạch Giám và viên phán quan là Chu Thái-Dục xét thật (Tháng chạp năm A.Ma 1075).7.

Sách TS (quyển 334, Thẩm Khỉ truyện) chép việc này thuộc Thẩm Khỉ cũng như sách ĐSL (quyển 86). Nhưng sách TB (271/6b) cho việc ấy về Lưu Di, chắc là đúng hơn, vì hợp với lời chiếu đã dẫn trong chú thích (3). Vả chăng sự bất đồng giữa các sách có nguyên từ gốc. TB chú thích rõ ràng rằng thực lục có hai bản, bản mực (Mặc-bản) chép Khỉ hặc Giàm, bản son (Chu-bản) chép Di hặc Giàm.7.

Cuối cùng Nùng Thiện-Mỹ theo Tống. Sách TB (280/21a) chép : Thiện-Mỹ và con là Thiện-Minh qua châu Tây-nùng chiêu dụ dân, nên bị dân giết. Ngày 28 tháng 2 năm Đ.Ti (1077), cháu Thiện-Mỹ là Huệ-Đàm được bổ chức Tam-ban tá-chức để thưởng công.

Châu Định, thuộc tỉnh Bắc-cạn ngày nay, còn có xã Định-biên ở phía tây chợ Chu. Họ Ma đến ngày nay vẫn còn ở vùng Thái-nguyên, Bắc-cạn. (ĐĐNTC và ĐKĐD).7.

CHƯƠNG VII : LÝ THƯỜNG-KIỆT TẤN-CÔNG TỐNG

1. Dự-bị tấn-công
2. Binh tướng
3. Khởi công. Trận Khâm, Liêm
4. Tiến vào nội-địa.
5. Phản-động của Vương An-Thạch
6. Vây Ung-châu
7. Diệt viện binh Trận Côn-lôn-quan
8. Phá Ung-châu
9. Lui quân và đề-phòng
10. Ảnh-hưởng
Chú-thích

1.Dự-bị tấn-côngNhững việc xẩyra đầu năm Ất-mão (1075) làm cho Lý Thường-Kiệt không cònnghi ngờ ý định của Vương An-Thạch đối với ta.

Vả hai năm trước, có người Tống tên Từ Bá-Tường, quê châu Bạch thuộc Quảng-tây, đã cho người thầm thông với vua Lý. Bá-Tường nguyên đậu tiến sĩ, nhưng không được bổ làm quan. Y viết thư cho vua Lý (1073) nói rằng : " Tiên-thế Đại-vương vốn người đất Mân . Tôi nghe nói công khanh ở Giao-chỉ cũng nhiều người đất Mân. Bá-Tường này, tài lược không kém người, nhưng không được trọng dụng ở Trung-quốc. Vậy xin giúp Đại-vương. Bá-Tường nghe rằng hiện nay Trung-quốc muốn cử binh đi diệt Giao-chỉ. Theo binh pháp dạy : Trước khi người có bụng cướp mình, thì chi bằng mình đánh trước. Lúc nào quân Đại-vương vào đánh, Bá-Tường này xin làm nội ứng ". (TB 273/17a và TTh 13).

Sách VĐUL cũng chép rằng Lý Thường-Kiệt nghe tin người Tống muốn đem quân xuống rình nước ta, để gây việc binh. Ông lập tức tâu vua : " Ngồi im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc ".

Vì lẽ ấy, Lý Thường-Kiệt lại quyết tâm tấn công trước để phá tan mưu mô của Tống. Quân Tống vào đánh nước ta có thể đi theo hai đường chính : đường bộ lấy Ung-châu làm cứ điểm và đường thủy lấy các cửa bể Khâm và Liêm làm cứ điểm (V/1). Vậy nên Thường-Kiệt nhằm mục đích phá các thành ấy.

Khâm-châu chỉ cách châu Vĩnh-an ta chừng nửa ngày đến một hai ngày (LNĐĐ 1 và 2). Thủy quân ta tập trung rất dễ dàng ở cửa Đồn-sơn tại vịnh Hạ-long ngày nay, rồi len lỏi theo bờ biển sau núi đá, mà thình lình vào vịnh Khâm-châu.

Ung-châu, nay là Nam-ninh, ở trên sông Uất-giang, sau chỗ hai dòng Tả-giang và Hữu-giang họp lại. Những đường từ đất ta tới đó có nhiều : từ châu Quảng-nguyên vào, thì theo bờ sông Tả mà qua trại Thái-bình ; từ châu Tô-mậu vào, thì phải vượt núi, qua các đất Lộc-châu, Cổ-vạn, Tư-lăng và Thượng-tư ; đường chính từ châu Quang-lang vào, thì qua các đất Tây-bình, Bằng-tường, Tư-minh và trại Vĩnh-bình. Các đường này đều khá gồ ghề và phải qua những đồn trại Tống. Nếu quân ta lấy được Khâm-châu, thì theo đường Khâm-châu thẳng lên Ung-châu là gần hơn cả (V/1).

Lý Thường-Kiệt tập trung quân hạ du ở Vĩnh-an và quân thượng du ở dọc biên thùy tại các châu Quảng-nguyên, Môn, Quang-lang và Tô-mậu.

2.Binh tướngNhư trên đã nói,đời Lý dùng dân quân ; khi hữu sự mới gọi dân ra lính(II/2). Trong trận đánh Tống, chắc rằng cấm binh phần lớnở nhà, vì vua còn nhỏ tuổi, không xuất chinh. Quân tinh nhuệlà quân hạ du, tập trung ở miền đông, do Thường-Kiệt điềukhiển. Còn miền bắc thì đã có thổ quân, do thủ lĩnh cácchâu đốc suất. Các thổ dân đi đường bộ, đưa cả vợcon đi theo. Sau trận, Vương An-Thạch có gọi kẻ lái buôntừ nước ta về, để dò hỏi ; người ấy trả lời rằng: " Khi Giao-chỉ vào cướp, quân có sáu vạn, trong đó nhiềuđàn bà, trẻ con. Man-dân kéo hết cả nhà theo, chỉ để mộtvài người ốm yếu ở nhà " (TB 275/13b). Lời ấy chắc là nói các dân man động mà thôi.Còn quan quân, đã có qui củ.Vả đi đường thủy, chắc khôngthể đem người nhà đi theo nhiều được.

Hai đạo quân ấy có từ sáu vạn đến mười vạn .

Lý Thường-Kiệt lĩnh thủy quân, từ Vĩnh-an đánh vào ven bể Quảng-đông (VSL). Đó là đại quân.

Còn các quân từ biên giới miền tây Quảng-tây kéo vào, có Tông Đản quản lĩnh (TT). Tông Đản là ai ? Sử ta không hề nói đến, ngoài việc cầm quân đánh thành Ung lần này. Tống-sử và Tống-thư cũng không đâu nói đến. Nhưng sách TB và các sách Tống, như TS 488 TS 495, có chép tên Nùng Tông-Đán, người châu Quảng-nguyên. Ta đã thấy Nùng Tông-Đán đã theo Tống rồi bỏ Tống nhiều lần (xem V/8).Tháng 6 năm Bính-thìn (1076), ti An-nam tuyên-phủ tâu rằng : " Đã sai đô-giám Quế-châu là Nùng Tông-Đán kiểm điểm đinh tráng Hữu-giang, để đánh Lưu Kỷ ". Vua bảo : " Tuy Tông-Đán đã hiệu-thuận và là kẻ dũng mạnh, nhưng các con còn theo Lưu Kỷ. Ta sợ Tông-Đán cũng theo nốt. Vậy nên chọn các viên có mưu lược đi theo Tông-Đán ". (TB 276/1b).

Có lẽ Tông Đản ở sử ta là Nùng Tông-Đán ấy, hoặc là một con y. Chữ Nùng dùng đầu tiên có thể chỉ giống người Nùng mà thôi, chứ không phải hẳn là chỉ họ. Vì sự hai âm Đán và Đản rất gần, hai tên có thể là một chăng ?

Các quân man động ấy đóng từ Quảng-nguyên đến châu Tô-mậu, trước các trại Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Cổ-vạn, Thiên-long. Lưu Kỷ cầm quân vùng Quảng-nguyên. Có lẽ Tông Đản chỉ là một bộ tướng. Vùng Môn-châu có Hoàng Kim-Mãn, vùng Lạng-châu có phò mã Thân Cảnh-Phúc (IV/4) và vùng Tô-Mậu có Vi Thủ-An cầm quân.

Khí giới thì ngoài cung nỏ, trường thương mà hai bên đều dùng, ta có tên tẩm thuốc độc, và máy bắn đá.

Ta lại dùng nhiều voi để xung phong. Voi có thể do cả đường thủy và đường bộ tiến vào.

3.Khởi-công. Trận Khâm LiêmPhần Lý Kỷcòn lại chép rất sơ sài về việc hành binh này. Ta khôngthể biết chi tiết cuộc tấn công của Lý Thường-Kiệt.Tống-sửvàcác Tống-thư chỉ chép rõ việc người Tống làm. Còn việcngười ta, họa hoằn có một vài chi tiết. Sách TB cho ta biếtthêm một vài việc. Nhờ những lời tâu của biên lại Tống,có ghi ngày tháng, nên ta có thể căn cứ vào đó mà đoánmột cách khá tường tận những hồi biến chuyển của cuộctấn công do Lý Thường-Kiệt chỉ huy.

Như đã nói trên, biên thùy ta giáp địa hạt Ung-châu có hình một góc tư vòng tròn, đường bán kính trung bình dài 150 cây số, mà trung tâm là thành Ung (IV/1). Ba đường chính đi tới Ung, đường Quảng-nguyên, đường Quang-lang và đường Tô-mậu đều xấp xỉ như nhau. Về phía đông, góc tư đường vòng tròn kia tiếp với bờ bể châu Khâm và châu Liêm. Đường từ Khâm đến Ung lại ngắn hơn cả, dài chừng 120 cây số ; quân đi mất độ năm ngày đường.

Lý Thường-Kiệt đã mưu tính chiến lược rõ ràng. Thổ binh đóng ngoài vòng biên giới sẽ lần lượt kéo vào chiếm đất Tống và, trong lúc đầu, quấy rối gần biên thùy mà thôi. Chủ ý là làm cho Tống lầm tưởng rằng quân ta sẽ do các đường bộ kéo vào đánh Ung. Thổ-binh ta sẽ phá những trại Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Cổ-vạn, là những đồn che đỡ cho Ung. Trong lúc ấy, quân Tống ắt sẽ kéo xuống miền tây và tây-nam để cứu các trại ấy. Mặt đông nam châu Ung sẽ bỏ ngỏ, vì từ Ung đến Khâm là hoàn toàn đất Tống.

Lúc quân Tống trong hạt Ung-châu đã đổ xô vào phía tây và tây nam, Lý Thường-Kiệt liền đưa đại quân đi đường thủy, từ ch âu Vĩnh-an tới Khâm-châu và Liêm-châu. Đường đi đến Khâm chỉ mất chừng vài ngày. Đại quân đổ bộ ở Khâm, rồi tiến thẳng tới Ung. Như vậy, đại quân ta chỉ chừng bảy ngày đã từ đất nhà đến thẳng căn-cứ-địa Ung-châu.

Nếu quân Tống bỏ thành Ung để dời xuống cứu các trại biên thùy, thì thành Ung có thể mất liền. Nếu Tống để nhiều quân giữ thành Ung, thì các thổ binh ta sẽ tiến dễ dàng. Từ mọi bề, quân ta cùng kéo tới thành Ung, và thành này sẽ bị vây mấy mặt.

Chiến sách ấy đã thấy rõ ràng trong cuộc chuyển binh của ta vào cuối năm Ất-mão (1075).

Ta đã thấy rằng vào tháng tư nhuận, Lưu Kỷ ở Quảng-nguyên dã đem 3.000 quân đánh nhau châu Qui-hóa làm Tống phải động tâm và phải phái quân giúp viên coi châu ấy là Nùng Trí-Hội (VI/7)

Nhưng cuộc tấn công thật bắt đầu vào tháng chín. Ngày G.Tu, 15 tháng 9, 700 quân tới đánh trại Cổ-vạn (DL 27-10-1075, TB 268/10b). Chắc là quân ấy từ châu Tô-mậu kéo vào. Tin này đến ngày 28 tháng 10 mới về đến kinh (B.Th, DL 8-12-1075 ; TB 269/23b), và đến ngày 11 tháng 11, triều đình Tống mới hay rằng Cổ-vạn đã mất, và " Quảng-nguyên có nhiều hương binh họp và soạn sửa vào cướp ". (K.Ti, DL 21-12-1075 ; TB 270/2b).

Tin từ biên giới về đến Biện-kinh mất một tháng rưỡi, cho nên các biến cố ở biên đang dồn dập, mà triều đình Tống vẫn tưởng rằng chỉ có những việc cướp nhỏ mà thôi. Vua Tống dặn Lưu Di phải sai các tuần kiểm đề phòng cho nghiêm, không được khinh chiến (TB 269/23b). Khi nghe tin trại Cổ-vạn mất, vua lại bảo Lưu Di kê tên những người có chiến công và giúp đỡ những người có nhà bị cướp và bị đốt. (TB 270/2b)

Trong lúcấy thì có sao chổi hiện ; làm cho vua Tống càng lo. Ngàymồng 7 tháng 10 năm Ất-mão (DL 17-11-1075 ; TB 269/13a), sao chổi hiện ở chòm sao Chẩn. Ngày 8, đuôi dài ba thước (có lẽ cầm thước dơ thẳng tay, nhắm mà đo). Ngày 9, dài 5 thước. Ngày 10, dài 7 thước, trỏ xiên về sao Thái-hạt. Đêm 19 mới tắt (TB 269/18). Theo phép đối chiếu trên trời dưới đất, sao Chẩn là tinh phận phương nam. Theo sự tin của Á-đông, sao chổi là điềm sắp có binh đao, tật dịch. Theo các nhà chiêm tinh bấy giờ đoán, thì sắp có binh đao trên đất Giao-chỉ.

Riêng Vương An-Thạch là một nhà học giả rất có óc thực tế và không tin dị đoan (T Th13). Sử Tống còn trách An-Thạch để việc sao chổi hiện ba ngày không tâu vua (TB 271/15b). Ở nước ta, Thường-Kiệt có tin điềm lành dữ hay không ? Ta không biết. Nhưng theo óc dị đoan đương thời, thì sao chổi hiện lần này , chắc làm cho người nước ta càng tin rằng quân Tống sắp kéo vào đánh nước ta.

Trong khi bang giao Tống Lý đang gay go, sự sao chổi hiện, làm tăng lòng lo âu và nghi kị. Có lẽ vì đó, Lý Thường-Kiệt càng quyết tâm phát quân tấn công vào đất Tống.

Bộ binh ở tả-dực được lịnh xuất quân trước, tràn qua Vĩnh-bình để đến Ung-châu (VSL). Quân các châu dọc biên giới kéo vào chiếm các trại Vĩnh-bình ; quân từ Lạng-châu vào lấy những châu Tây-bình, châu Lộc. Quân Quảng-nguyên và châu Môn chiếm trại Hoành-sơn. Các tướng Tống chống cự rất hăng hái, nhưng đều bị bại. Chúa trại Hoành-sơn là Lâm Mậu-Thăng, viên quản-hạt Vĩnh-bình là Tô Tá, viên quản hạt Thái-bình là Ngũ Cử, và viên giám-áp trại Thái-bình là Quách Vĩnh-Nguyên đều tử trận. (TB 273/4b)

Lưu Di chưa biết nguy cơ đã đến, còn xin bốn vạn quan tiền để mua lương trữ ở Ung-châu. (23-10, T.Ho ; DL 3-12-1075, TB 269/21b)

Bấy giờ, biên giới Ung-châu rất bỏ ngỏ. Man dân sẵn oán quân Tống, quân lính ít được tập tành. Lưu Di đương thay lính, bỏ trát binh mà dùng quân thương trượng. Các tướng trễ nải. Quân ta tới đâu như là vào chỗ không người (VSL).

Trong khi ấy, đại quân Lý Thường-Kiệt đã cưỡi thuyền theo bờ bể, từ châu Vĩnh-an vào cửa bể Khâm-châu và Liêm-châu (TB 271/1b). Bộ binh đóng gần biên giới Khâm-châu cũng kéo vào các trại Như-hồng, Như-tích và Để-trạo.

Quân Tống bị đánh bất ngờ, không chống cự. Ngày M.Dn, 20 tháng 11, Khâm-châu bị chiếm (DL 30-12-1075 ; TB 270/5a). Ba ngày sau, Liêm-châu cũng bị mất luôn (2-1-1076 ; TB 270/8a)

Những chúa trại chung quanh Khâm-châu đều bị giết : Ngũ Hoàn chúa trại Như-tích và Trương Thủ chúa trại Để-trạo đều chết. (TB 273/4b)

Viên coi Khâm-châu là Trần Vĩnh-Thái (theo LNĐĐ 10, còn TB 273/4b chép Trần Vĩnh-Linh). Truớc lúc quân ta tới, đã có kẻ nói hở chuyện cho người Tống biết rằng : Giao-chỉ sắp vào đánh úp Khâm-châu. Người Khâm mách với Vĩnh-Thái, nhưng y không tin. Chiến thuyền Lý thình lình vào bến rất gấp. Vĩnh-Thái vừa bày rượu uống. Có người báo tin quân Lý đã tới, nhưng Vĩnh-Thái vẫn không để ý đến.

Quân Lý đột nhập vào thành, bắt được Vĩnh-Thái và tất cả bộ hạ, không phải giao phong một hợp nào. Sách LNĐĐ chép chuyện trên, kể nối rằng : "Quân Giao-chỉ nói với Vĩnh-Thái : " Chúng ta chỉ lấy của cải mà thôi, chứ không giết chúng mày đâu !". Song khi lấy sạch của, lại đem giết hết. Sau đó, người Khâm-châu tô tượng thờ Vĩnh-Thái ở miếu Thành-hoàng, và tôn làm thần Chuyển-trí đại vương. Nhưng người đời sau vẫn cuời chê Vĩnh-Thái là ngu muội. Khi muốn chế nhạo ai là không thông tuệ, thì gọi nguời ấy là Trần Thừa-Chỉ ! " Thừa Chỉ là hàm của Vĩnh-Thái, theo LNĐĐ 10 ; còn TB chép thừa chế.

Cùng với Vĩnh-Thái, còn có các viên giám-áp Văn Luơng, Ngô Phúc, viên tuần-kiểm Tưởng Cẩn, các viên chỉ-sứ Tống Đạo, Đinh Toại, viên giám-thuế Âu Duơng-Dẫn đều bị hại. (TB 273/4b)

Ở Liêm-châu quân Tống cũng thua rất nặng. Hình như ở đây, các quan Tống đuợc tin Khâm-châu mất, có phòng bị và chống cự ít nhiều. Tám nghìn thổ đinh bị ta bắt làm phu khiêng xuống thuyền đồ vật cướp đuợc, xong rồi đều bị giết (Thần-tông TL VKT). Lỗ Khánh-Tôn coi Liêm-châu bị chết cùng nhiều bộ hạ : tri huyện Hợp-phố Lương Sở, giám-áp Chu Tông-Thích, chỉ-sứ Ngô Tông-Lập. (TB 273/4b)

Nói tóm lại, trong các trận mở đầu, Lý Thường-Kiệt đã lợi dụng được hai điều cốt yếu trong chiến lược xưa nay : triệt để dùng sở trường của mình là thủy quân, và rình chỗ bất ngờ mà đánh úp. Thắng lợi hoàn toàn đã về quân Lý, cũng là phải lẽ.

4.Tiến vào nội-địaChiếm xong hai hảicảng Khâm, Liêm, Thường-Kiệt liền đưa quân tiến vào nộiđịa.

Bấy giờ, Tống không còn quân để cản quân ta. Nhưng Thường-Kiệt sợ dân Tống oán thù và quấy đường tiếp tế ở hậu phương, cho nên ông phải tìm danh nghĩa cho cuộc hành quân.

Muốn phô trương danh nghĩa, Thường-Kiệt sai yết bảng dọc đường kể tội quan Tống. Lời lộ-bố nói rằng : " Có những dân Giao-chỉ làm phản rồi trốn sang Trung-quốc. Các quan lại dung nạp và dấu đi. Ta đã khiến sứ sang tố giác các việc ấy, quan coi Quế-châu (Lưu Di) không chịu trả lời. Ta lại sai sứ vượt bể sang tố cáo với Quảng-châu, quan coi Quảng-châu cũng không chịu báo. Vì vậy, quân ta tới đuổi bắt dân trốn ấy... ". Ông lại biện luận rằng mình chỉ tự thủ. Ông tuyên bố : " Quan coi Quế-châu đã kiểm điểm dân các động và đã tuyên bố rõ rằng muốn sang đánh Giao-chỉ ".

Thường-Kiệt lại lợi dụng sự phân tranh trong triều đình Tống giữa hai phe tân và cựu, để chia rẽ quân dân địch. Trong các lộ-bố, có nói : " Trung-quốc dùng các phép thanh-miêu, trợ-dịch, làm dân khốn khổ. Nay ta đây đem quân tới cứu ". (TTh 13 và TB 271/15b).

Người đời sau kể lại rằng " dân Tống thấy lời tuyên cáo, đều vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường-Kiệt đàng xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam ; rồi cùng nhau bày hương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh quân ta lan khắp " (NBS). Bởi vậy, tiến quân vào nội địa càng thêm dễ dàng.

Trong lúc ấy, đạo quân Tông-Đản kéo tràn qua các trại ở phía tây. Trong tháng 11, Vĩnh-bình, Thái-bình, Thiên-long, Cổ-vạn đều mất (TB 271/7a). Ngày 10 tháng chạp, quân Tông-Đản kéo thẳng đến Ung-châu. Thành Ung bắt đầu bị vây. (Đ.Zu, DL 18-1-1076 ; TB 271/6b).

Đại quân ở Khâm và Liêm cũng tiến lên phía bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm-châu kéo thẳng lên Ung-châu, như ta sẽ thấy sau. Còn đạo đổ bộ ở Liêm-châu tiến sang phía đông bắc, chiếm châu Bạch (ĐSL 8). Viên tuần-kiểm Thẩm Tông-Cổ bị chết (TB273/5a). Đạo quân ấy lại tiến lên Dung-châu.Viên đô-tuần-kiểm các châu Bạch, Dung là Phan Nhược-Cóc và chỉ-sứ châu Dung là Vương Đạt và Tào Quăng cũng đều tử trận (TB 274/3b). Hình như đạo quân ấy dừng ở khoảng này, để chặn quân từ phương đông tới cứu Ung-châu.

5.Phản-động của Vuơng An-ThạchTin tức bấy giờchuyển chậm, vì dịch-trạm ở miền nam chưa tổ chức. TuyKhâm-châu bị chiếm ngày 20 tháng 11, mà đến mồng 6 thángsau, ti kinh-lược Quảng-tây đóng ở Quế-châu mới đượctin và tâu : " Người Giao-chỉ họp quân thủy ở Triều-dương(tức là Vĩnh-an châu, hay làHải-ninh bây giờ. Sách TB 271/5bchép Hồ-dương, sai vì tự-dạng), sắp sửa đi hai đườngvào cướp ". Đúng một tháng sau khi Khâm-châu bị mất, tinmới tới triều đình Tống (20 tháng chạp, Đ.Vi, DL 28-1-1076; TB 270/5a).

Ba ngày sau lại tiếp tin Liêm-châu cũng mất luôn.

Các tướng ở địa phương bối rối đã đành ; mà vua tôi Tống cũng rất đỗi hoang mang. Triều đình náo động.

Báo tin mất Khâm-châu, ti kinh-lược Quảng-nam tây-lộ xin viện binh : 20.000 quân, 3.000 ngựa và một tháng lương, tất cả lấy dọc đường từ kinh đến Quảng-tây. Lại xin chừng mười sứ thần theo quân, xin thêm khí giới, đồ dùng, và xin điều động các dân khê-động. Muốn điều khiển quân mau chóng, ti ấy cũng xin dời đến thành Tượng, gần phía bắc Ung-châu (TB 271/12a).

Ngày 20 tháng 12, được tin báo Khâm-châu mất, vua Tống Thần-tông liền hạ lệnh chuẩn bị các trạm, cấp đủ người và ngựa, để đem tin cho chóng. Lại sai Trương Thuật, Tạ Quí-Thành tới ti kinh-lược Quảng-tây để chuẩn bị tướng-lệnh (TB 271/12a). Sợ quân ta thừa thế đi thuyền đến Quảng-châu, vua Tống ra lệnh cho quan coi Quảng-châu phòng bị cẩn mật. Về mặt trận Quảng-tây, dặn các tướng phải cố thủ ở các thành và nơi hiểm yếu và chớ khinh địch. Lời chiếu nói rằng : " Giao-chỉ chiếm Khâm-châu chưa lui. Sợ nó theo bờ bể dòm ngó Quảng-châu, nên phải lo giữ. Nay xét thấy quân các đồn ở Quảng-tây yếu và ít, mà lại phân tán ra. Nếu không cố thủ các thành, thì quân ta sẽ tan rã, và tiếng tăm giặc sẽ lan ra, làm tăng thế nó. Vậy chiếu cho Quảng-tây, hãy bảo các tướng phải giữ thành, chớ có khinh-địch " (TB 271/12a).

Hai ngày sau, lại có tin báo Liêm-châu cũng mất. Triều đình Tống càng thêm lo, hoang mang rất mực. Vua Tống liền hạ chiếu cho ti kinh-lược Quảng-tây, dặn rằng : " Nếu xem chừng quân Giao-chỉ tới đâu mà không đủ quân giữ, thì chỉ giữ mấy chỗ hiểm mà thôi. Chỗ nào có tiền, vải, luơng thực, thì phải chở tháo đi, đừng để lọt vào tay giặc " (TB 271/12b). Sau đó lại ra một lệnh trái ngược, nói rằng : " Nếu quân bỏ thành đi chỗ khác, thì lo rằng dân rối sợ. Hãy bảo các quan ti đều phải trở lại thành mình " (TB 271/13a).

Cũng ngày ấy (22 thánh chạp), vua Tống cách chức Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế-châu và làm kinh-lược-sứ Quảng-tây. Cấp cho Quảng-tây 50.000 quan tiền và sai cáclộ chung quanh trữ lương thực để mộ quân . Sai mộ 3.200 đinh tráng ở các châu Thú, Ung, Tân, và dặn nếu không đủ thì mộ thêm thổ dân để dùng. Vua Tống lại sai chọn trong các châu quận những người dân trai trẻ, khỏe mạnh, đảm dũng, đem tới Quế-châu ; cứ 500 người lập một chỉ huy, rồi dạy vũ nghệ, và đặt tên là quân Tân-đằng-hải (TB 271/13b). Vua Tống lại định đem quân Hà-bắc xuống miền nam để ti kinh-lược Quảng-tây dùng : đạo quân thứ 35 xuống Quế-châu, đạo quân thứ 19 xuống Đàm-châu (Tràng-sa bây giờ). Sai hai lộ Kinh, Hồ sắm 7.000 cung nỏ bằng gỗ để cấp cho Quảng-tây (TB 271/14a).

Ý vua Tống là vận động cấp tốc binh sĩ để ngăn quân ta tiến lên phía bắc. Đối với dân gian, vua Tống sai tồn-tuất cho nhà có người chết trận. Nếu có ai muốn chạy lánh nạn lên Lĩnh-bắc (vùng Hồ-nam), thì cũng dưa lên. (TB 271/13b).

Vương An-Thạch rất tức giận, khi được tin Lý Thường-Kiệt chỉ trích chính sách tân-pháp trong lời lộ-bố yết dọc đường. Bèn định sai tướng dem đại quân đi đánh đất ta. Ngày 25 tháng chạp (T. Ho, DL 2-2-1076 ; TB 271/15a), vua Tống Thần-tông chọn viên-ngoại-lang lại-bộ, hiện coi Diên-châu (Thiểm-tây), là Triệu Tiết, làm An-nam-đạo-hành-doanh-mã-bộ-quân đô-tổng-quản, kinh-lược chiêu-thảo-sứ kiêm chức Quảng-nam-tây-lộan-phủ-sứ. Vua lại sai hoạn quan Lý Hiến làm phó-an-phủ-sứ, và Yên Đạt (TS chép lầm ra Yên Quì vì tự dạng) làm phó-đô-tổng-quản, Ôn Cảo làm quản-câu, coi việc kê-cứu thư từ. Rồi sai thảo một tờ chiếu đặc biệt, gọi là Thảo Giao-chỉ chiếu để ban ra một cách long trọng. Theo lời Tư-mã Quang, thì chính tay Vương An-Thạch thảo lời chiếu ấy, để trả thù lời lộ-bố của Lý Thường-Kiệt chỉ trích các tân pháp của y. Lời chiếu rằng :

" Chúa nước An-nam đời đời được phong tước vương, cho nên con cháu được ta thừa nhận và vỗ về. Tiên triều đã từng tha lỗi cướp họ Lê. Nay lại phạm vào nội địa, giết hại lại dân. Can tội với nước Thiên-tử, như thế không thể tha thứ được !

" Quân Trời tới đánh, thật có danh nghĩa !

" Nay Trẫm sai Triệu Tiết làm An-nam-đạo-hành-doanh mã-bộ-quân đô-tổng-quản, kinh-lược chiêu-thảo-sứ ; Lý Hiến làm phó-an-phủ-sứ và Yên Đạt làm phó-đô-tổng-quản.

" Các ngươi hãy cất quân thủy, lục, tiến chóng đi !

" Trời tỏ muốn giúp, nên đã có điềm sao chổi tốt, người rõ lòng gian, nên đều căm giận quân địch ác !

" Chiếu cho quân Giao-chỉ hay : khi thấy quan quân đến thì đừng chạy. Dân chúng đã chịu khổ sở lâu ngày. Nếu dỗ được chúa mày vào nội phụ, Trẫm sẽ ban tước lộc cho. Càn-đức còn trẻ, việc làm loạn không phải tự ngươi gây ra. Ngày nào ngươi tới chầu, Trẫm sẽ tha thứ cho... (TTh 13).

Ta nên để ý tới sự vua Tống quan tâm đến danh nghĩa của cuộc chinh phạt này. Trước đó, vua và An-Thạch bàn chuyện đánh Giao-chỉ. Vua do dự và cho rằng chưa phải lúc dụng binh. An-Thạch đáp : " Binh, không có lúc nào là không dùng được. " Vua nói : " Dụng binh bây giờ không có danh nghĩa gì cả. "An-Thạch sỗ sàng trả lời : " Nếu Bệ-hạ quả muốn dụng binh, sao lại không có danh nghĩa ? " (Theo lời Trần Quán, TB 244/4a).

Lần này danh nghĩa rõ ràng. Tự nhiên An-Thạch vịn lấy cớ.

6.Vây Ung-châuTrong khi triềuđình Tống vội vã đối phó, quân Lý Thường-Kiệt đã lụctục kéo trên đường Khâm-Ung, để họp cùng quân Tông Đảnđến đó trước (TT và VSL).

Ta đã thấy rằng sau khi lấy được Khâm, Liêm, Lý Thường-Kiệt chia quân làm hai đạo : một mặt, từ Liêm-châu kéo lên lấy châu Bạch, hình như để chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới; một mặt, đại quân rời Khâm-châu kéo thẳng lên Ung-châu. Đường thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng phải qua dãy núi Thập-vạn. Sau ngày 10 tháng chạp (Đ. Zu, DL 18/1/1076) đại quân mới đến thành Ung (TB 271/6b).

Hai đạo quân ta kẹp lại, bắt đầu vây chặt Ung-châu.

Thành Ung có tiếng rất chắc. Chính Vương An-Thạch cũng đinh ninh rằng quân ta không thể phá nổi (TB 272/10a). Quân Tống giữ thành Ung lại là một người kỳ cựu, lão luyện, thông minh và rất cương quyết; ấy là Tô Giàm. Trận Ung-châu, bởi thế, sẽ rất khốc liệt, và sẽ là một trường tranh đấu giữa mưu trí của Lý Thường-Kiệt và lòng dũng cảm của Tô Giàm.

Giàm là một văn quan. giữ những chức nhỏ ở Quảng-nam từ lâu và được cử coi Ung-châu đã năm năm. Giàm đã biết chính sách của quan trên là Thẩm Khỉ, Lưu Di, thế nào cũng gây ra họa chiến tranh. Nhiều lần can Khỉ rồi Di, mà không được (VI/5,6,7).

Lúc nghe quân ta gần tới Ung, Giàm nghĩ rằng Ung cách Quế không xa, viện binh chỉ 14 ngày đường đã đến nơi, cho nên quyết tâm đóng thành cố thủ.

Giàm liền kiểm điểm binh lính trong quận. Kể cả cấm binh, sương binh và quân già yếu, chỉ có cả thảy2.800 người. Giàm bèn hô hào người trong quận, bảo người nào có tài dũng thì bày tỏ phương-lược, rồi chia nhau phòng thủ (TB 271/7a).

Dân nghe tin, rất sợ hãi; đạp nhau chạy, đông không biết bao nhiêu mà kể. Thấy quân dân nao núng, Giàm đem hết của công và tư bày ra cho quân xem, rồi nói :"Khí giới ta đã dự bị đủ, lương thực trữ cũng không thiếu. Bây giờ giặc đã đến dưới thành. Chỉ còn cách cố thủ lấy thành để đợi ngoại viện. Ắt là ta sẽ thắng. Nếu có một ai chạy, thì lòng dân sẽ náo động, và đại sự sẽ hỏng. Nếu chúng ngươi nghe ta, thì sẽ được hậu thưởng. Nếu có ai không nghe mà bỏ chạy, thì ta sẽ chém "(TS 446 và TB 271/7b).

Trước đó, con Giàm là Tử-Nguyên, vốn làm quan ở Quế-châu, đưa vợ con tới thăm Giàm. Lúc sắp trở về, thì thành Ung bị vây. Tuy vậy, Tử-Nguyên muốn đưa vợ con đi, Giàm không cho, và chỉ để Tử-Nguyên một mình đi thôi. Ấy vì sợ nếu bà con mình chạy, thì dân gian sẽ chạy hỗn loạn. (TS 446; TB 272/7b).

Có một viên đại-hiệu, tên Địch Tích, muốn trốn. Giàm sai người nấp ngoài cửa, bắt được quả tang, đem chém và bêu đầu để làm gương. Vì thế, trên dưới ai cũng nín hơi mà nghe theo. (TB 271/7b và TS 446).

Giàm lại mộ được hơn một trăm quân cảm tử, chèo thuyền trên sông Ung-giang, đón đánh quân ta. Chúng chém được mười voi lớn (TB 271/6b) và hai tướng (TS 446).

Quân Lý vây thành càng ngày càng riết. Giàm đốc thúc quân cố thủ. Muốn an ủi nhân tâm, Giàm phao tin rằng viện binh sắp tới. Giàm lại dùng thứcung thần-tí bắn một phát được nhiều tên. Bắn ra giết nhiều lính và voi. Quân Lý dùng công cụ (một thứ máy bắn đá ?) tứ bề trèo lên cao nhắm bắn vào trong thành, giết nhiều quân phòng thủ.

7.Diệt viện-binh. Trận Côn-lôn-quanLúc thành Ung sắpbị vây, Giàm đã sai sứ về Quế-châu, ở cách phía bắcchừng 400 cây số, để cầu viện. Quan coi Quế-châu là LưuDi sai viên đô-giámTrương Thủ-Tiếtđem quân đi cứu.Nhưng Thủ-Tiết nghe báo rằng quân ta đông gấp mười, nêndùng dằng không chịu đi liền. Trái lại Thủ-Tiết đem binhđi vòng theo đường Quí-châu để tới Tân-châu. Y trú binhlại ở trại Khang-hòa để chờ xem sức Giàm chống lại vớita thắng bại thế nào đã. Không thấy viện binh đến, màvòng vây đã thắt chặt, Giàm phải cho người mang lạp-thư,nghĩa là thư viết vào giấy rồi vò vào trong sáp mà ngậmtrong miệng, lọt ra vòng vây để cấp-cáo với viên đề-điểmhình-ngục Tống Cầu. Lúc nhận được thư, Cầu khóc và giụcThủ-Tiết tiến binh. Thủ-Tiết hốt hoảng không biết làmthế nào; bèn đem quân đóng ở núi Hỏa-giáp (TS chép Đại-giáp),rồi kéo tới giữ ải Côn-lôn giữa đường Ung-tân, cáchUng chừng 40 cây số. (TB 272/1a và TS 446).

Thường-Kiệt được tin, đưa quân đến đón đánh. Thình lình quân ta tiến tới, quân Tống chưa đánh đã chạy. Thủ-Tiết nhu nhược không điều khiển nổi binh sĩ, liền bị thua. Nhiều tên quân hàng theo ta (TB 277/17a). Thủ-Tiết bị giết . Ấy vào ngày 4 tháng giêng năm Bính-thìn (T. Zu, DL 11-2-1076; TB 272/1b). Các viên đề-cử Tả-giang Ôn Nguyên-Dụ, đô-giám Hồ-nam Trương Biện, tuần-kiểm các châu Ung Tân Hứa Dự, tuần-kiểm các châu Liễu, Tân, Tượng Vương Trấn đều bị chết. (TB 273/4b).

8.Phá Ung-châuThành Ung bị vâytừ mồng mười tháng chạp năm trước, đến bấy giờ gầnmột tháng. Nhưng thành cao và chắc. Giàm lại giỏi điềukhiển binh lính. Quân Lý không sao vào lọt. Muốn dòm vào trongthành, ta dùngvân-thê, là một thứ thang bắc chuyềnnối nhau rất cao, rồi sai các tù binh trèo lên mà trông vàothành. Bốn bề dựng thang.Thang vừa dựng, Giàm sai bắn hỏatiễn, tức là một thứ pháo thăng thiên, đốt cháy thang.(TS 446 và TB 272/7b).

Cầm cự nhau mãi. Bên ta, quân và voi chết mất nhiều. Quân mất một vạn rưởi (TB 271/7b). Quân ta dùng tên độc bắn lên thành. Trên thành người và ngựa chết rất nhiều.

Ta lại đào đường hầm lót da cho kín nước, định chui vào thành. Giàm để ta tiến tới gần, rồi phóng hỏa đốt các huyệt (TB 272/7b). Có tù binh bắt được ở Côn-lôn, tên Triệu Tú, bày cho ta dùng hỏa-công, nghĩa là bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành (TB 281/13b). Trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy (TB 273/15a).

Ta vây thành đã 42 ngày, mà không sao phá được. Thường-Kiệt sắp kéo quân lui. Lại có tù binh xui ta dùng phép thổ-công : quân ta lấy đất bỏ vào bì, xếp chồng vào nhau, thành bực thềm để lên thành.

Bao đất chất hàng vạn, dần dần cao như núi. Chốc lát đã cao đến vài trượng. Quân Lý nối tiếp nhau như kiến mà trèo lên, rồi lọt vào trong thành. Ấy là ngày Canh-thìn 23 tháng giêng (DL 1-3-1076 ; TL và TB 272/7b).

Trong khi thành bị vây, lương hết, giếng cạn. Người Ung phải vốc nước bẩn mà uống. Nhiều người mắc bệnh lị, chết chất trồng đống. Nhưng không ai phản chí và phản lại. Giàm biết thế nguy, nhưng vẫn chống rất hăng. Giận tụi Thẩm Khỉ, Lưu Di đã gây việc binh đao mà không lại không chịu tới cứu, Giàm muốn dâng sớ kêu kiện, nhưng đã tiệt đường. Giàm bèn yết bảng ở chợ kể tội Khỉ, Di, mong lời đạt đến vua Tống (TS 446 và TB 272/8a).

Lúc quân ta lọt vào trong thành Ung, Giàm còn đem lính bị thương ra chống lại, ruổi ngựa đánh rất hăng. Nhưng thấy mình không còn đủ sức chống nữa, bèn nói với bộ hạ rằng : " Ta quyết không chịu chết về tay giặc ". Giàm bèn trở về dinh, tự giết 36 người nhà, kể cả hai con và hai cháu (theo TS, còn TB nói Giàm bảo 36 người nhà chết trước). Giàm dấu thây người nhà vào một cái hầm, rồi tự thiêu mà chết (TB 272/8a và TS 446).

Quân dân thấy Giàm nghĩa khí như vậy, không ai chịu hàng. Vì Giàm kháng cự lâu, quân Lý tức giận. Lúc vào thành, quyết tìm bắt Giàm cho được. Khi biết Giàm đã chết, chúng tìm xác cũng không thấy. Tức giận, chúng giết sạch dân thành ; kể cả quan lại, lính tráng, thổ đinh, cư dân, cả thảy hơn năm vạn người. Các sách TB 272/8a và TS 446 còn chép rằng quân Lý sắp đầu người thành đống ; mỗi đống 100 đầu mà có tới 580 đống.

Thường-Kiệt sai phá thành Ung, lấy đá lấp sông để ngăn quân cứu viện.

Lấy xong Ung-châu, Thường-Kiệt kéo quân lên phía bắc, ý muốn lấy Tân-châu. Viên coi Tân-châu, là Cổ Cắng-Lặc, nghe quân ta kéo gần đến thành, bỏ thành chạy trốn(TB 280/2b).

9.Lui quân và đề phòngBấy giờ đạiquân Tống từ bắc đã kéo xuống. Mà quân Lý đánh Ung tronghơn một tháng, coi chừng cũng mỏi mệt. Vả mục đích chínhcủa ta là phá các cứ điểm của Tống có thể dùng đểđánh ta. Nay các thành Ung, Khâm, Liêm đã bị phá, các trạiVĩnh-bình, Thái-bình, Thiên-long, Cổ-vạn đã bị đốt. Nhưthế, ta xuất quân cũng thắng lợi rồi.

Vả chăng nếu quân Tống tiến gấp, chúng có thể qua vùng khê động vào thẳng các châu Quảng-nguyên, Môn, Lạng và Tô-mậu, trong khi quân ta bị kẹt ở vùng Ung. Vì cớ ấy, sự rút quân ta về là cần kíp (VII/10).

Thường-Kiệt hạ lệnh lui quân. Tháng ba năm Bính-thìn (1076), quân ta ra khỏi đất Tống. Tư-mã Quang (TTh 13) nói ngày 21-1 Ung-châu mất, ngày 23-1 Lý rút quân về, không hợp với sách TB. Nhưng không sách nào khác nói rõ ngày Lý rút khỏi Ung.

Biết Tống sắp sửa kéo quân tới trả thù, Lý Thường-Kiệt gia sức đề phòng trước. " Ngày ngày ông sai tụ tập binh lính để tập trận ; nhóm họp voi ngựa, tập duyệt phép chạy, phép xung phong " (theo lời chiếu cho Quách Quì 20-7 năm B.Th ; TB 277/4b).

Một mặt khác, Lý hết sức do thám hành động của quân Tống. Lúc hạ Ung-châu, có bắt được 200 nhà sư. Ta thu lấy bằng-sắc. Rồi sai thám tử cạo đầu, mặc áo cà sa, mang bằng sắc ấy, giả làm sư Tống, vào đất Tống dò xét (TB 277/12a). Ta lại dùng dân thuyền chài ở ven bể, cho lẫn vào đất Tống để thám thính (TB 276/6b).

Dân và quân Tống bị ta bắt đem về, được đưa tới ở Nghệ-an, Thanh-hoá, xa biên thùy Tống, kẻo khi quân Tống vào, các tù nhân ấy có thể trốn theo quân Tống. Hạng trên 20 tuổi, phải khắc trên trán ba chữ Đầu nam triều nghĩa là hàng nam-triều. Hạng dưới 20 tuổi và trên 15 tuổi, phải sung làm lính, và theo tục bấy giờ, phải khắc trên trán ba chữ Thiên-tử-binh. Còn đàn bà, con gái, thì phải khắc vào cánh tay hai chữ Quan khách nghĩa là khác của nhà nước (TS 488).

Các tù ấy hình như cũng không bị giam cầm nghiêm ngặt. Trong bọn tù có Triệu Tú, là người thuộc đội quân Trương Thủ-Tiết, bị Thường-Kiệt bắt ở ải Côn-lôn, và đã bày cho ta dùng hỏa công ở Ung-châu. Tháng 10 năm Bính -thìn (1076), bọn Triệu Tú, tất cả ba mươi người, từ trại Nghệ-an, cưỡi thuyền vượt bể để về bắc ; nhưng gặp gió, bị giạt vào Lê-động ở đảo Hải-nam ngày nay (TB 276/3b).

Thường-Kiệt lại dò biết Tống dụ Chiêm-thànhvà Chân-lạp họp lực để đánh nam-thùy ta. Tháng tám năm ấy (Bính-thìn 1076), Thường-Kiệt đem quân vào tuần-du ở các châu Bố-chánh, Địa-lý, Ma-linh mà Chiêm-thành mới nhường cho ta bảy năm trước. Ông vẽ địa đồ các châu ấy để tiện việc phòng thủ. Muốn củng cố địa vịcủa ta ở những châu mới ấy, ông chiêu dân tới ở, và tổ chức cai trị lại. Đổi tên Địa-lý ra Lâm-bình và Ma-linh ra Minh-linh (TT).

Về việc này, sử ta (TT) chép rằng " vua sai Lý Thường-Kiệt đánh Chiêm-thành , nhưng đánh không thắng bèn vẽ bản đồ... " Nhưng chắc rằng mục đích cuộc xuất quân này không phải là dể xâm chiếm Chiêm-thành. Bấy giờ quân Tống đã tụ tập nhiều ở Ung-châu. Thường-Kiệt chỉ đi tuần tra kiểm soát sự phòng thủ, để ngừa sự bất trắc ở miền nam thôi. Sự họa bản đồvà di dân tới ở các châu mới kia đủ tỏ ý định ấy.

Tâm trí Thường-Kiệt bấy giờ phải chuyên chú về sự Tống đương soạn sửa uy hiếp miền bắc.

Sau trận Lý tấn công, vùng Tả-giang trên đất Tống bị tàn phá. Muốn ngăn Tống kéo quân xuống, quân ta đã dùng phép thanh-dã. Các kho tàng, tiền bạc, lương thực đều bị đốt cháy. Quân Lý, nhất là thổ binh, lại mang cả nhà đi theo, cho nên đã cướp của cải, bắt đàn bà, con gái Tống rất nhiều. (Theo lời tâu Trương Phương-Bình, TB 276/18b). Dân gian chạy tán loạn vào rừng núi. Nhiều khê động quay theo Lý. Người Tống dẫu muốn phục thù, trước hết cũng mất nhiều thì giờ để khôi phục và sắp đặt vùng ấy đã. (TB 275/12b và TB 276/19b).

10.Ảnh-hưởngTrên đây, tôiđã nhờ một ít chi tiết ghi trong các sách Tống, để kểlại cuộc tấn công của Lý Thường-Kiệt vào đất Tống.Tự nhiên, sách Tống đã tìm mọi cách để giảm vũ côngta, như nói có người Tống bày mưu kế hay chiến thuật. Nhưngthế cũng không che nổi sự thất bại lớn lao và chua cay củaTống. Ta hãy xem những ảnh hưởng của nó, sẽ hiểu rõ.

Sau khi Tống bị đại bại, tại triều Tống, vua và tể thần không ai chịu nhận lỗi mình. Người này đổ lỗi cho người kia. An-Thạch viết trong tư-kỷ của mình rằng : " Vua sai Khỉ kinh-chế kín việc Giao-chỉ, các đại thần không hay. Phàm Khỉ tâu xin gì, vua cũng nghe " (TB 244/3b). Thần-tông thì chối không hề sai Khỉ làm bậy ; tự tay viết chiếu kể tội Khỉ, có nói : " Trước đây Thẩm Khỉ ở Quảng-tây nói dối là nhận được mật-truyền của triều đình bảo soạn đánh Giao-chỉ " (TB 272/2a). Người đương thời cũng kết tội Khỉ như thế ấy (TB 272/2a), và nhiều kẻ buộc hẳn lỗi tại An-Thạch tham lập công (Trần Quán, TB 244/4a).

Sau ngày Khâm và Liêm mất, Lưu Di bị cách chức và Thạch Giám được bổ thay (tháng 12 năm Ất-Mão 1075).

Ngày mồng 9 tháng giêng (B. Da, DL 16-2-1076; TB 272/2a), vua Tống sai Thạch Giám và Chu Ốc xét tội Thẫm Khỉ và Lưu Di, tuy rằng trước đó vua có hạ chiếu kể tội hai viên coi Quế-châu ấy (VI/cth3).

Thất trận, An-Thạch đổ hết tội cho các thuộc-hạ. Kỳ thật, ai cũng biết chính y là chủ mưu và hoàn toàn phải mang trách nhiệm. Sau khi nghe quân mình thua trận liên tiếp ở Quảng-tây,Vương An-Thạch muốn bưng bít, kẻo sợ dư luận bài xích. Lúc được tin Ung-châu bị vây, An-Thạch nói : " Thành Ung rất chắc, quyết là không phá nổi ". Vua cho là đúng. Đến khi Ung-châu mất, vua muốn triệu hai ti trung-thư và khu-mật tới hội nghị ở các Thiên-chương, An-Thạch canrằng : " Hội ở đó thì việc thất lợi này thành ra việc to. Bất-nhược hội ở Đông-phủ ". Tư-mã Quang (TTh 13) chép lời ấy và thêm rằng : Vương An-Thạch lo, tỏ vẻ ra lời nói và sắc mặt, đến nỗi Vương Thiều phải bảo : " Ông ở đây còn lo như thế, huống chi kẻ ở ngoài biên-khích ! Xin ông án-trọng, để trấn-tĩnh vật-tình " (TB 273/10a).

An-Thạch lo sợ như vậy, là vì y để hoàn toàn hy vọng vào việc lập biên-công, để gây thanh thế cho mình ở trong triều và ngoài nước. Y lại rất tin rằng thành Ung vững chắc. Khi biết Ung-châu bị vây, y đã lập tâm cho Triệu Tiết đem dại-quân, thừa-hư đánh thẳng vào đất Lý (TB 276/2b). Đến khi thấy mưu mình thất bại, y hoang mang, bối rối.

Ngày 24 tháng 5 năm Bính-thìn 1076, vua Tống Thần-tông phàn nàn với An-Thạch rằng : " Đời vua Chân-tông lúc Lê Hoàn chết, có thể lấy được Giao-chỉ ; thế mà bỏ mất cơ hội ". An-Thạch nói : " Khi Nùng Thiện-Mỹ nội-phụ (1074), Giao-chỉ không giám cố-nài (VI/5). Bấy giờ Càn-Đức mới lên ngôi. Trong ngoài, dân chưa theo. Trong nước ai cũng sợ Trung-quốc tới đánh...Nay có người buôn bán ở Giao-chỉ, nhân theo giặc tới Ung, rồi trốn thoát. Đã gọi nó tới và hỏi rằng : " ngày trước Giao-chỉ vào cướp có 6 vạn người, mà trong đó nhiều đàn bà, con gái, ông già, kẻ ốm, có phải thế không ? " Kẻ kia trả lời : " Nhà có sáu người thì năm người đi theo quân, còn một người nữa không đi được, nên ở lại ". Xem vậy, cả nước Giao-chỉ đã vào cướp. Trong nước chúng đã không còn ai. Ta bỏ mất cơ hội, thật là đáng tiếc ! " (K.Vi, DL 28-6-1076 ; TB 276/13b).

Trên đây là một chứng, tỏ rằng An-Thạch và vua Tống lăm le muốn thừa cơ lấy nước ta. Sau đây còn có một chứng khác, tỏ rõ rằng An-Thạch trước khi Ung-châu mất, muốn thừa-hư đánh úp ta, và sau khi ấy, lại bối rối và hối hận. Ngày mồng 6 tháng 6, vua Tống và An-Thạch cãi nhau về việc dùng người đi phủ-dụ các khê động đã theo ta, lúc quân ta tới Tả-giang. Vương Thiều nói : " Trước, định cuối xuân đầu hạ đánh Giao-chỉ. Sau, ti tuyên-phủ lại đổi ý. " Vua hỏi : " Sao lại thế ? " An-Thạch trả lời : " Tôi khi trước thấy Giao-chỉ đánh Ung-châu chưa hạ được, trong nước chúng bỏ không ; nên tính có thể hành động chóng mà đánh úp ở hậu phương nó. Làm như thế, thì ta không cần đánh quân nó đương cướp ở đất ta, mà chúng cũng bị tan. Sau khi Ung mất, sự đánh úp chúng không thể bàn đến nữa". An-Thạch lại nói thêm :"Đáng lẽ, ta phải đánh khi Càn-Đức mới lập. Bấy giờ, các khê động đều muôÙn nội-phụ. Nếu lúc ấy ta muốn đánh Giao-chỉ, thì chỉ cần mộ 2 vạn tinh binh, chọn 5, 6 tướng vừa vừa, là có thể làm xong chuyện. Tôi trộm nghĩ rằng nếu bấy giờ ta đoán được sự ngày nay chúng không tuân lệnh, thì ta đã có tiếc gì mà không cử binh. Thế mới biết rằng : việc bốn cõi biên thùy, nếu không lo sự lớn hơn sự bé, làm việc khó trước việc dễ, thì đến nhọc quân tốn của" (DL 9-7-1076; TB 276/2b và 3a).

Vua tôi Tống tiếc rẻ không đánh ta trước, nhưng lại không biết rằng sở dĩ Tống bị đánh trước, là vì Tống dự bị đánh ta. Trong cuộc xung đột nam bắc, hai bên rất rõ ý nhau. Chỉ có bên khéo tính toan, hành động nhanh chóng, là bên thắng. Chuyến nầy, nhờ Lý Thường-Kiệt, nước ta đã đi nước trước, cho nên mới thắng một cách hoàn toàn và khỏi thua về sau.

Nhưng Vương An-Thạch cũng không phải kẻ tầm thường. Y tính toan rất đúng lẽ. Khốn nỗi, trên vì vua còn do dự, dưới vì tướng vụng về, cho nên gây thành thất bại ấy. Hãy nghe tiếp câu chuyện của vua tôi Tống còn kể dở trên kia.

Vua Tống nói :"Ngày trước, nếu ta muốn hưng-binh cho lợi, thì trước phải luyện binh đã". An-Thạch trả lời :"Cứ bắt đầu làm đi, thì kẻ có tài tự nó luyện lấy. Nếu không bắt đầu, thì binh khó lòng mà luyện được; nếu ta đêm ngày tập mà không biết địch-khí ra sao, thì lúc cử-sự, sẽ bất lợi. Nếu ta cứ cử-sự đi, thì kẻ có tài và kẻ bất tài sẽ phân biệt. Ta sẽ thưởng bạt kẻ có tài, kẻ bất tài cũng phấn khởi". An-Thạch thích hoạt động, nên hay bênh thuyết "phải hoạt động mới thấy tài, và chỉ có kẻ bất tài mới không hiếu sự". Vua Tống nói :"Cũng phải dùng đến quân có sẵn, rồi mới có thể cử sự được; và ta cũng phải xét sức có thể thắng hay không, mới nên cử sự". An-Thạch trả lời :"Lúc Càn-Đức mới lập, ta chỉ cần hai vạn tinh binh là xong việc. Ở Trung-quốc, há lại không thể mộ được hai vạn quân giỏi, năm bảy tướng vừa hay sao? Lúc quân ta diệt được Giao-chỉ, uy ta sẽ có. Rồi ta bá-cáo cho Thiểm-tây biết, quân dân Thiểm-tây sẽ thắng khí. Với thắng khí ấy, ta sẽ nuốt tươi nước Hạ. Mà nếu nuốt được Hạ, thì ai dám quấy nhiễu Trung-quốc nữa" (Nhật-lục, TB 276/2a, 2b và 3a).

Mộng Vương An-Thạch đã tan. Vương An-Thạch hối cũng không kịp. Tuy y đã dự bị việc phục thù, nhưng dư luận xôn xao; các triều thần nhao nhao chỉ trích. Trong các thư tịch đời Tống còn lại, các danh nhân như Tư-mã Quang, Trình Hạo, Phương Chinh-Bình, vân vân, còn chép một vài mẩu chuyện về việc xuất quân bất lợi của An-Thạch. An-Thạch hoàn toàn cô lập, trở nên chán nản. Không đợi kết quả của cuộc phát quân phục thù mà mình đã chủ mưu, An-Thạch phải xin từ chức. Ấy vào tháng 10 năm Bính-thìn (1076).

Một ảnh hưởng bất ngờ của cuộc thắng trận của Lý Thường-Kiệt là : không những nó đánh đổ âm mưu xâm lược của Tống, không những nó đánh đổ kẻ chủ mưu cuộc xâm lược ấy, mà nó còn là cớ cuối cùng đánh đổ một cuộc cách mạng về tư tưởng, về chính trị, về kinh tế, vĩ đại nhất ở thế giới trong đời trung cổ.

CHÚTHÍCHTheo sử ta, Lý Công-Uẩn là con vô thừa nhận. Bố nuôi làLý Tự-Khanh, cho nên lấy họ là Lý. TT còn chép chuyện hoangđường mẹ có mang với thần nhân. Sự thật, chắc rằngthuyết ấy là bịa đặt ra, hoặc để che đậy một gốctích không được đẹp đẽ, hoặc để cho dân sự đươngthời theo về. Sách VSL chép : khi lên ngôi, Lý Công Uẩn phongbố làm Hiển-khánh-vương, anh làm Vũ-uy-vương, em làm Dực-thánh-vương.Xem vậy, Công-Uẩn biết cha là ai và có đủ họ hàng, chứkhông phải là một đứa con vô thừa nhận. Tuy ta có thểnghĩ rằng bố đây là bố nuôi, Nhưng VSL chép rõ những chữ: phụ, huynh, đệ.

Vì thế, thuyết nói Công-Uẩn gốc người Mân có thể là thật. Vả chăng nước ta bắc buộc trong nghìn năm, người Trung-quốc hoặc sang buôn bán, hoặc sang làm việc quan, rồi sinh con cái ở đất ta rất nhiều. Có lẽ hầu hết dân miền trung châu gốc ở Trung-hoa. Cho nên Lý Công-Uẩn rất có thể là con cháu một người Mân. Tổ tiên sang nước ta lúc nào ? Dựa vào sự họ Lý dấu gốc tích, tôi nghĩ rằng gốc ấy mới. Có lẽ bố Lý Công-Uẩn người Mân, có chức vị quan trọng ở đó. Khi Tống lấy nước Mân (971), họ Lý chạy sang ta ẩn tích. Sau Công-Uẩn làm vua nước ta, không muốn nói mình là người Bắc; lại nhân muốn tăng lòng dân tin cậy, nên mới bịa ra thuyết con thần. Không biết giả thuyết này đúng hay không. Một điều chắc chắn là đời Tống, người Tống đều nhận Lý gốc ở Mân; không những Từ Bá-Tường nói mà thôi, mà sách Mộng khê bút đàm cũng nói thế. 1.

Có lẽ Bá-Tường sau này không giúp Lý Thường-Kiệt. Sau khi quân Lý rút lui, viên coi Quế-châu là Thạch Giám có khai công trạng Từ Bá-Tường, đã mộ 700 quân che chở cho nạn nhân chạy giặc xuống Quảng-châu. Ngày 22 tháng 3 năm B. Th (1076), Bá-Tường được bổ làm tuần-kiểm các châu Khâm, Liêm và Bạch (TB 273/17b).

Nhưng sau, vua Lý tố giác sự Bá-Tường xui ta đánh Tống. Ngày 26 tháng 2 năm M.Ng (1078), có chiếu cách chức anh em Bá-Tường, ép Bá-Tường tự thắt cổ chết, và phát phối cho con cái (TB 288/7a). 1.

Xem câu chuyện giữa vua Tống và Vương An-Thạch (VII/10). Tô Tử-Nguyên cũng có nói với An-Thạch rằng : quân Giao-chỉ, một nhà tám người thì bảy người đi, còn một người ốm yếu ở nhà (TB 276/13b). 2.

Sử ta, như TT và VSL, chép mười vạn. Sách TB có lúc chép 6 vạn (276/13b), có lúc chép 8 vạn (271/6b). Những số ấy cũng đều có lý. Dân các châu kéo vào Ung-châu, thì khó lòng đếm được, nhất là phu-phen đi theo không có định số. Còn số quân chắc có thể đến 6 vạn. 2.

TS quyển 495 chép :"Họ Nùng có Tông-Đán, coi động Lôi-hỏa, cũng là khá hiệt-liệt. Đời Gia-hữu thứ 2 (1057) đã từng vào cướp đất Tống. Viên coi Quế-châu là Tiêu Cố chiêu dụ Tống-Đán, y bèn theo, được trao chức trung-vũ tướng-quân; Con Tông-Đán là Nhật-Tân, nguyên coi động Ôn-mẫn, được trao chức tam-ban chức-phụng. Năm Gia-hữu thứ 7 (1062) cha con Tông-Đán đem các động Lôi-hỏa, Kế-thành nộp cho huyện quan, và xin vào ở Lạc-châu, để đời đời làm dân Tống. Vua Tống ban cho mỗi người họ Nùng một chức. Tông-Đán được coi châu Thuận-an, và được ban trâu, muối, vóc...Sau đó, Nhật-tân từng coi thuế ở Ung-châu.

"Đời Trị-bình (1064-1067), Tông-Đán có hiềm khích với tụi Lý Nhật-Tôn (Thánh-tông) và Lưu Kỷ, nên sợ chúng ép bức. Viên coi Quế-châu là Lục Sằn sai người đến dỗ. Tông-Đán bèn bỏ châu mình mà dời nhà vào nội địa. Vua Tống ban cho chức hữu-thiên-ngưu-vê tướng-quân".

TS quyển 488 (Giao-chỉ truyện) chép lược hơn, nhưng cũng phù hợp với trên : Năm đầu niên-hiệu Trị-bình (1064), Giao-chỉ đòi lại Nùng Tôn-Đán và con là Nhật-Tân, với đất hai động Ôn-mẫn. Hàn Kỳ bàn với vua Tống nên trả lại (V/8).

TB 349/6a chép : Tông-Đán nộp đất Vật-ác; Tống đổi ra châu Thuận-an.

Trong trận Ung-châu, Nùng Nhật-Tân bị chết, nên được vua Tống tặng cho chức giám-áp Ung-châu (thánh hai năm B.Th 1076, TB 273/3a). Còn Tông-Đán vẫn theo Tống. Nhưng vua Tống cũng không tin lắm. (V/8)

Những việc trên, tuy làm cho ta không tin chắc rằng Nùng Tông-Đán đã theo Lý đánh Ung-châu, nhưng cũng không đủ để bác thuyết ấy. Sau khi quân Thường-Kiệt rút về và đại quân Tống tới, có nhiều tù trưởng trước là tướng theo Lý, bấy giờ lại theo Tống, như Lưu Kỷ, Hoàng Kim-Mãn, vân vân. 2.

Các sử ta không còn thấy chép việc sao chổi hiện. 3.

Quảng-tây biện 57 vạn thạch gạo, Quảng-đông biện 57 vạn thạch gạo và 10 vạn thạch đậu, Kinh-nam biện 3 vạn thạch gạo, Phúc-kiến biện 3 vạn thạch gạo (TB 271/12a). 5.

Lúc luận công, đáng lẽ năm con Thủ-Tiết được bổ làm quan, nhưng ngày 27 tháng 7 năm B.Th (1076), viện khu mật tâu : "...Nhưng xét ra, thì Thủ-Tiết nhu-nhược, không điều khiển được quân. Quân lính nhiều người hàng giặc, và bày cho giặc làm súng pháo để đánh thành Ung. Nay xin chỉ bổ cho hai con y mà thôi" (TB 277/17a). 7.

Về ngày Ung-châu mất, mỗi sách chép một khác. TTh chép ngày 21 tháng giêng. ĐĐSL cũng chép ngày ấy. BM chép ngày A.Ma, nhưng tháng giêng không có ngày ấy. Trên đây, theo Thần-tông thực-lục mà TB chép. 8.

Vua Tống Thần-tông được tin Tô Giàm chết, rất thương tiếc. Ngày 15 tháng 2, vua nhịn ăn để tỏ lòng xót thương. Bèn tặng Giàm chức Phục-quốc-công, tiết-độ-sứ, và ban tên thụy Trung-dũng. Vua Tống lại cấp mười khoảnh ruộng hạng nhất ở khu đệ nhất trong kinh thành. Ban chức cho những người thân thuộc, và thăng chức cho con là Tử-Nguyên, duy nhất sống sót vì Giàm đã để cho rời khỏi Ung trước khi Ung mất, làm tây-đầu cung-phụng hạp-môn chỉ-hậu. Tử-Nguyên được bổ làm phó-tướng, đi mộ thủy-quân. Vua Thần-tông đặc-biệt mời Tử-Nguyên đến mà an ủi. Vua nói :"Nếu không có cha ngươi giữ Ung-châu, thì thành ấy cũng như Khâm và Liêm, giặc vừa đến đã mất. Như thế thì giặc thừa thế đánh tràn, và các châu Tân, Tượng, Quế cũng không giữ nổi. Đời Đường, Trương Tuần, Hứa Viễn giữ Mục-dương để che cho Giang Hoài, công so với cha ngươi không hơn gì xa."

Vua Tống lại thăng cho Tử-Nguyên chức điện-trung-thừa, thông-phán Ung-châu. Còn các con khác, như Tử-Minh, Tử-Chinh, các cháu như Quảng-Uyên, Trực-Ôn, chết ở Ung với Giàm, đều được ưu tặng (TB 273/9b, TS 446).

Vua Tống lại sai lập đền thờ Tô Giàm ở Ung-châu (TS 446).

Việc Ung-châu mất, làm náo động nhân tâm ở Tống. Trước vì Ung là cửa vào phương nam nước Tống. Sau vì Giàm tử tiết ở đó. Sự tử tiết, trong thời đại trọng nho, có tiếng dội rất to. Người đương thời ngợi ca khí tiết của Tô Giàm. Ngô Xử-Hậu, trong sách Thanh-sương tạp-ký có kể chuyện sau này : trước đó, Xử-Hậu là đồng liêu với Giàm ở Việt-châu, y có làm thơ khen Giàm có công chống với Nùng Trí-Cao ở Anh-châu. Trong thơ có câu:"Yến hàm tướng quân dục bạch đầu, tích niên trung-dũng động nam-châu...". Sau đó vua Tống ban tên thụy cho Giàm là Trung-dũng. Xử-Hậu cho thơ y là câu sấm.

Chữ Giàm cũng có âm Giam hay Cảm. 8.

TT chép việc đánh Chiêm-thành vào tháng 8 năm trước (A. Ma 1075). VSL không chép việc ấy. SK cho ta biết rằng sách Việt-sử bi-lãm của Nguyễn Nghiễm chép chuyện ấy vào năm B. Th 1076. Chép như thế mới đúng lý. Nhưng ta không biết Nguyễn Nghiễm dựa vào đâu mà chép khác TT.

Trong khoảng sử về Lý, TT còn chép lầm một vài chỗ khác.

Còn như VSL, thì không nói đến việc nầy. Ấy tỏ rằng việc tuần-du nầy không quan hệ lắm. Vậy chắc không phải để đánh Chiêm. 9.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro