lythuyet tcttqt thanhhuongd91

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 1

Câu 8:

Liên hệ thực tế điều hành hệ thống tài chính ở Vn:

Hệ thống luật pháp và quản lý của nhà nước: Tính đến thời điểm hiện tại, với bối cảnh và điều kiện thực tiễn ở Việt Nam thì hệ thống luật pháp được đánh giá là tương đối đầy đủ để hệ thống tài chính hoạt động. Hiện đã có Luật Ngân sách nhà nước, Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật bảo hiểm. Dự kiến năm 2006 Luật chứng khoán sẽ ra đời (hiện tại văn bản cao nhất quy định về tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán là Nghị định của chính phủ). Tuy nhiên vấn đề quản lý nhà nước chưa thực sự đồng bộ và thống nhất. Một số tổ chức có quy mô hoạt động tín dụng rất lớn nhưng không chịu sự chi phối của Luật các tổ chức tín dụng và chịu sự giám sát của Ngân hàng nhà nước như Quỹ Hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển địa phương. Tổng tài sản của Quỹ hỗ trợ phát triển có thể lớn hơn tổng tài sản của ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

 Nguồn lực và thông lệ giám sát: Theo đánh giá thì nguồn lực và các thông lệ giám sát chưa đáp ứng nhu cầu cho hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Cung cấp thông tin: Hiện nay các ngân hàng nói riêng, các tổ chức tài chính nói chung đang từng bước áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế. Các quy định về kiểm toán vẫn chưa thực sự đầy đủ và được tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Hiện vẫn chưa có hệ thống lưu trữ thông tin tín dụng và tổ chức xếp loại tín dụng đủ độ tín cậy. Hiện trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang đảm nhận nhiệm vụ này. Tuy nhiên để trở thành một tổ chức có độ tin cậy cao thì CIC còn rất nhiều việc phải làm.

Hệ thống thanh toán: Trước năm 2000, hầu hết các tổ chức tài chính ở Việt Nam sử dụng hệ thống thanh toán phân tán. Nhưng từ năm 2000 đến nay, các tổ chức tài chính, nhất là các ngân hàng thương mại đã xây dựng hệ thống thanh toán tập trung. Từ năm 2002, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Đây là một bước tiến trong việc áp dụng công nghệ thanh toán của hệ thống tài chính Việt Nam. Khi tất cả các ngân hàng xây dựng xong hệ thống này thì công nghệ thanh toán của hệ thống tài chính Việt Nam là đảm bảo.

Chương 2

Câu 2:

Liên hệ tình hình cán cân vãng lai của Vn:

Việt Nam là nước duy nhất trong khối ASEAN có thâm hụt tài khoản vãng lai. Theo số liệu báo cáo của Meril Lynch (2007), tính theo tỷ lệ phần trăm của GDP, thì các nước đều có tỷ lệ thặng dư trên GDP khá lớn, như Thái Lan là hơn 5% và Malaysia là hơn 10%. Trong khi đó, thâm hụt tài khoản vãng lai của Việt Nam lên tới gần 10% GDP.

Cán cân vãng lai của Việt Nam đã chuyển từ thặng dư nhỏ ở mức 1,2 tỷ đôla Mỹ trong năm 2000 sang thâm hụt đến 9,2 tỷ đôla Mỹ trong năm 2008. Tính chất biến động lớn của cán cân vãng lai ở Việt Nam về cơ bản giống các nước ASEAN trước khủng hoảng châu Á, tuy nhiên ASEAN 5đã giải quyết được vấn đề này kể từ khủng hoảng tài chính châu Á và duy trì thặng dư. Việc chuyển từ thâm hụt sang thặng dư thực ra là kết quả của quá trình các nước này dịch chuyển dần lên mức giá trị gia tăng cao hơn trong công nghiệp sản xuất chế tạo và đạt được cải thiện đáng kể về năng suất lao động. Trong khi đó, Việt Nam thì hầu như năm nào cũng thâm hụt kể từ thập kỷ 1980, chỉ trừ 3 năm nền kinh tế Đông Nam Á đi xuống nghiêm trọng (1999-2001).

Bản thân việc nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai về nguyên tắc là không tốt cũng không xấu. Nó chỉ xấu khi thâm hụt quá lớn và dẫn tới khủng hoảng cán cân thanh toán, mất giá đồng tiền. Trong nhiều trường hợp, thì thâm hụt cán cân thương mại là thể hiện một nền kinh tế đang tăng trưởng tốt, có nhiều cơ hội đầu tư với lợi nhuận cao, nhu cầu đầu tư cao hơn khả năng tiết kiệm trong nước, điều này sẽ làm cho các dòng vốn nước ngoài chảy vào quốc gia đó để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Tức là quốc gia đó có thể sử dụng nguồn lực của nước khác để phát triển kinh tế trong nước.

Với Việt Nam là một nước có tốc độ tăng trưởng cao và đang ở giai đoạn đầu phát triển, thâm hụt tài khoản vãng lai là điều hết sức bình thường, và đôi khi là cần thiết để có thể tận dụng được nguồn vốn từ bên ngoài để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, nếu con số thâm hụt chỉ ở mức vừa phải thì không đáng lo ngại. Nhưng khi thâm hụt tài khoản vãng lai vượt ngưỡng này sẽ gây ra rủi ro cho nền kinh tế. Theo kinh nghiệm quốc tế cũng như lý thuyết kinh tế, khi thâm hụt tài khoản vãng lai lớn và kéo dài mà không có các biện pháp cần thiết thì nền kinh tế sẽ gặp phải nguy cơ khủng hoảng tiền tệ.

Câu 3:

Nhận xét thực trạng cán cân thương mại VN trong những năm gần đây:

trạng thái cán cân vãng lai của Việt Nam chịu tác động chủ yếu từ trạng thái cán cân thương mại do các giao dịch về hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu và chi của tài khoản vãng lai (chiếm khoảng 70% - 85%).

Trong những năm gần đây, diễn biến xuất nhập khẩu của Việt Nam chịu tác động quá nhanh và mạnh mẽ từ việc gia nhập WTO. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu có mức tăng trưởng khá nhanh nhưng vẫn không bì kịp với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu khi rào cản thuế quan dần dần được xóa bỏ, đã làm hàng hóa nước ngoài tràn vào Việt Nam trong khi để tăng tốc độ xuất khẩu không phải là việc đơn giản mà đòi hỏi phải có thời gian lâu dài. Sự gia tăng nhập khẩu tác nhân của nhiều nguyên nhân khác, như nhu cầu của kinh tế,... Chính hoàn cảnh này đã đẩy cán cân thương mại Việt Nam vào tình thế ngày càng thâm hụt, lên tới 13,67% so với GDP vào năm 2008.

cán cân thương mại Việt Nam trong thời gian qua cũng ở mức 14-15% so với GDP trong khi mức chuẩn mực quốc tế là 10%.

Câu 4:

Tại sao các quốc gia mong muốn nâng cao hàm lượng dịch vụ trong giá trị xuất khẩu?

Xuất khẩu dịch vụ có vai trò quan trọng trong khả năng cạnh tranh và phát triển của các quốc gia

Câu 7:

Tình hình cán cân vốn của Việt Nam hiện nay:

Về vốn FDI, trong 7 tháng đầu năm 2011, vốn FDI thực hiện của phía nước ngoài đạt 4,7 tỷ USD. Nếu trừ đi 530 triệu vốn FDI của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, lượng vốn FDI vào ròng trong 7 tháng đầu năm 2011 đạt 4,17 tỷ USD. Trong 9 tháng đầu năm 2011, FDI ước tính đạt 6,1 tỷ USD, tương đương mức cùng kỳ năm 2010.

          Về vốn đầu tư gián tiếp, mặc dù thị trường chứng khoán liên tục giảm điểm nhưng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục mua ròng trên thị trường chứng khoán và tăng cường góp vốn, mua cổ phần tại các doanh nghiệp chưa niêm yết.          Tính chung 7 tháng đầu năm 2011, vốn đầu gián tiếp vào Việt Nam ước đạt 700 tỷ USD, tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2010 và trong 9 tháng đầu năm 2011, ước đạt 1 tỷ USD, tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2010 (9 tháng đầu năm 2010, nếu không tính việc phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu chính phủ trên thị trường quốc tế, vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam đạt 940 triệu USD).

          Ngoài ra, hệ thống ngân hàng tích cực rút tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài và huy động vốn trên thị trường quốc tế để đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng ngoại tệ trong nước trong 7 tháng đầu năm 2011 trở thành nguyên nhân quan trọng góp phần cải thiện cán cân vốn và tài chính.

          Nhờ nguồn vốn vào khá ổn định và theo xu hướng cải thiện trong 9 tháng đầu năm. Chỉ tính riêng trong 7 tháng đầu năm 2011 cán cân vốn và tài chính thặng dư 9,8 tỷ USD, tăng hơn gấp 2 lần mức thặng dư 4,57 tỷ USD của cùng kỳ năm 2010.

Câu 8:

Tình hình cán cân thanh toán của VN now:

thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam năm 2010 ước tính là 12,4 tỷ USD thấp hơn nhiều so với mức thâm hụt thương mại hơn 14 tỷ USD của năm 2007 và 2008, tốc độ tăng trưởng giải ngân vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài giảm mạnh dưới tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc suy giảm và thâm hụt cán cân tổng thể trong giai đoạn từ 2008 - 2010. Dự trữ ngoại hối chính thức giảm mạnh dưới tác động của thâm hụt cán cân tổng thể gây áp lực trực tiếp lên phá giá tiền đồng và gây nên tác động tăng giá kép ở Việt Nam

trong năm 2011 này, lần đầu tiên cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam sẽ thặng dư trên 3 tỷ USD sau nhiều năm liên tục bị thâm hụt.

nhờ năm nay nhập siêu hàng hóa đã giảm cả về kim ngạch tuyệt đối lẫn tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu. Cụ thể, nhập siêu năm năm nay ở mức thấp nhất trong 5 năm qua và giảm trên 2,6 tỷ USD so với năm ngoái. Tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu của năm 2011 cũng ở mức thấp nhất trong 10 năm qua và thấp hơn nhiều mục tiêu theo Nghị quyết của Quốc hội đề ra là 18%.

Ngoài ra, việc cán cân thanh toán được cải thiện còn là do lượng ngoại tệ vào Việt Nam và lượng ngoại tệ thu hút được từ doanh nghiệp và người dân đều đạt khá. Chẳng hạn, nguồn ngoại tệ thu được từ khách quốc tế có thể đạt khoảng 5,2 tỷ USD, cao hơn kỷ lục 4,45 tỷ USD của năm 2010. Lượng kiều hối ước đạt khoảng 9 tỷ USD, vượt kỷ lục 8,26 tỷ USD của năm ngoái.

cán cân thanh toán được cải thiện, dự trữ ngoại hối tăng là những yếu tố quan trọng trong việc củng cố nguồn lực của quốc gia, qua đó tạo lòng tin mạnh mẽ cho người dân trong nước và cộng đồng quốc tế.

Câu 13:

Thói thường, tìm mọi cách bảo hộ sản xuất trong nước luôn là ý nghĩ thường trực và tự nhiên của bất kỳ quốc gia nào, dù là nước phát triển hay đang phát triển, đặc biệt trong bối cảnh thị trường tiêu thụ gặp nhiều khó khăn do suy giảm kinh tế toàn cầu và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm trong nước còn chưa đủ mạnh.

Các lý do tốt đẹp nhất để biện minh cho bảo hộ thường được đưa ra là nhằm tạo bà đỡ cho các doanh nghiệp và ngành kinh doanh mới còn nhiều non trẻ trong nước, tạo công ăn việc làm, duy trì động lực phát triển và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tạo thêm giá trị gia tăng và bền vững, cải thiện cơ cấu thương mại và tăng thu NSNN, cũng như để tìm kiếm chỗ đứng và vị thế cao hơn của nền kinh tế và doanh nghiệp đất nước trong tổng sắp chuỗi giá trị toàn cầu.

Hơn nữa, bảo hộ còn cần thiết theo nghĩa để bảo đảm cạnh tranh công bằng và lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, giữa các sản phẩm sản xuất trong nước với các sản phẩm ngoại nhập; bảo vệ người tiêu dùng, giảm thiểu các chiêu lách luật và gian lận thương mại “đẳng cấp” quốc gia và quốc tế, trong đó có hoạt động chuyển giá nội bộ và nhập nhèm mã thuế nhập khẩu.

Ngoài việc bảo hộ bằng các công cụ thuế, thủ tục hải quan, còn có thể và ngày càng cần tăng cường các hàng rào kỹ thuật và tiêu chuẩn địa phương khác phù hợp với quyền tự vệ, thông lệ và cam kết hội nhập quốc tế.

Bảo hộ sẽ không có ý nghĩa kinh tế-xã hội nếu không thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, chuyển giao công nghệ và giảm giá thành vì quyền lợi của người tiêu dùng và lợi ích chung của đất nước. Đặc biệt, sẽ là cực đoan nếu để doanh nghiệp núp kỹ trong cái ô bảo hộ và lạm dụng độc quyền để “ăn sổi ở thì”, khai thác lợi nhuận độc quyền dựa trên giá cả độc quyền, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và doanh nghiệp khác, và biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp, củng cố nhóm lợi ích; kéo dài cơ chế “xin-chia” và làm gia tăng nạn vận động chính sách và hối lộ, tham nhũng, tăng thất thu NSNN. 

Bảo hộ sai sẽ khiến tạo ra những méo mó giá cả và thị trường, làm chậm quá trình tái cấu trúc kinh tế, giảm hiệu quả đầu tư xã hội, doanh nghiệp. Thậm chí, bảo hộ bằng mọi giá sẽ có thể gây những đổ vỡ cân đối vĩ mô và nhiều quy hoạch ngành khác nhau.

Bảo hộ đúng là Nhà nước chỉ có thể tăng thuế nhập khẩu lên một mức nào đó, trong một thời gian nhất định để tránh bán phá giá và cạnh tranh không lành mạnh, chứ không phải để giữ ổn định giá có lợi kéo dài cho các công ty thép nội địa và cứu các doanh nghiệp này tránh khỏi phá sản, bất chấp năng lực cạnh tranh và hiệu quả thực tế của chúng.

Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng?

Tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế là những nhân tố được nhiều nghiên cứu ghi nhận là nguyên nhân tác động gây nên thâm hụt thương mại.

Tình hình thâm hụt thương mại những năm gần đây

Qua số liệu thống kê cho thấy từ năm 1999 đến năm 2002, cán cân thương mại Việt Nam ở trạng thái cân bằng hoặc thặng dư, nhưng từ năm 2003 đến nay cán cân thương mại liên tục ở trạng thái thâm hụt và giá trị thâm hụt ngày càng lớn.

Nếu trong năm 2003 thâm hụt thương mại vào khoảng 2,581 tỷ USD thì đến năm 2008 mức thâm hụt lên đến 12,782 tỷ USD, gấp 5 lần so với năm 2003. Năm 2009 mức thâm hụt là 15,412 tỷ USD, gấp 5,9 lần so với năm 2003.

Trong năm 2010, cán cân thương mại tiếp tục nghiêng về nhập siêu với mức thâm hụt vào khoảng trên 12 tỷ USD.

Nếu so sánh giá trị thâm hụt thương mại với giá trị GDP qua các năm thì từ năm 2002 (năm bắt đầu có thâm hụt thương mại) tỷ lệ thâm hụt thương mại so với GDP ngày càng gia tăng và trở nên đáng báo động trong những năm gần đây (2007-2010), khi tỷ lệ này vượt trên 10%GDP.

Theo IMF, mức độ thâm hụt tài khoản vãng lai so với GDP nếu vượt quá 5% thì được xem là nghiêm trọng, vì vậy vấn đề thâm hụt thương mại của Việt Nam cần phải được xem xét thấu đáo.

Nguyên nhân thâm hụt thương mại

Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu

Hơn một thập niên qua, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng nông lâm sản, công nghiệp nặng và khoáng sản, công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (TTCN).

Theo thống kê của GSO, trung bình giai đoạn 1999 - 2010F, hàng nông lâm sản chiếm khoảng 15%, trong đó chủ yếu là hàng nông sản với các sản phẩm chính như gạo, hồ tiêu, cao su; hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm khoảng 34% mà chủ yếu là khoáng sản với mặt hàng chính là than đá và dầu thô; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 40% với sản phẩm chủ yếu là hàng dệt may và giầy da

Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu cho thấy hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam không có gì nổi trội so với các quốc gia trong khu vực, cơ cấu mặt hàng của Việt Nam giống với các nước khác trong ASEAN. Có rất nhiều mặt hàng trong nhóm hàng công nghiêp nhẹ tiểu thủ công nghiệp phải nhập khẩu nguyên liệu, nhập khẩu dây chuyền sản xuất. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều ngành nghề sản xuất trong nước.

Không chỉ vậy, nhiều mặt hàng xuất khẩu khả năng gia tăng sản lượng khi giá cả có lợi, chẳng hạn như tỷ giá hối đoái tăng thì nhiều mặt hàng xuất khẩu không thể tăng sản lượng vì hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đã phát huy hết công suất sản xuất và không thể khai thác tiếp nhằm đảm bảo tính bền vững dài hạn (như dầu thô, than đá,...) hay một số nhóm hàng phụ bị tác động quá nhiều của thời tiết (như nông sản, thủy sản,...).

Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu

Từ số liệu thống kê của GSO, dễ dàng nhận thấy suốt giai đoạn 1999 - 2010, tổng giá trị nhập khẩu ngày càng gia tăng và nhập khẩu thuộc nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm tỷ trọng rất lớn, trung bình khoảng 92% tổng giá trị nhập khẩu, 8% còn lại chủ yếu là hàng tiêu dùng.

Trong nhóm hàng tư liệu sản xuất thì nhóm hàng máy móc thiết bị chiếm khoảng 29% tổng giá trị nhập khẩu; nhóm hàng nguyên nhiên, vật liệu chiếm khoảng 63,5% tổng giá trị nhập khẩu .

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất cao. Như đã đề cập trong phần trên, nhiều mặt hàng sản xuất trong nước phải nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu, cùng với đó là quá trình công nghiệp hoá đang diễn ra mạnh mẽ nên nhu cầu thay thế thiết bị lạc hậu bằng cách nhập khẩu công nghệ từ các nước phát triển góp phần làm gia tăng nhu cầu nhập khẩu chung.

Ngoài ra, lộ trình tự do hoá thương mại của Việt Nam nhất là kể từ năm 2007 - năm Việt Nam trở thành thành viên WTO đã thu hút một nguồn vốn FDI khá lớn hàng năm và kèm theo đó là nhu cầu nhập khẩu trang thiết bị, dây chuyền sản xuất phục vụ đầu tư. Ngoài những nguyên nhân làm gia tăng việc nhập khẩu như đã nêu trên, nguyên nhân nhập khẩu tăng cao còn phải kể đến:

- Tỷ lệ nhập khẩu trong sản phẩm xuất khẩu ở mức khá cao dẫn tới thực tế là nếu xuất khẩu muốn tăng lên thì nhất thiết nhập khẩu sẽ tăng;

- Thu nhập ở Việt Nam tăng lên sẽ tạo thêm nhu cầu đối với hàng tiêu dùng và xa xỉ phẩm;

- Đầu cơ bất động sản và các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn cũng là lý do dẫn tới nhập khẩu gia tăng trong những năm gần đây;

- Sự biến động trong giá hàng hoá thế giới dẫn tới hoạt động đầu cơ hàng hoá, nên nhiều hàng hoá được nhập khẩu để tích trữ trước khi giá tăng.

Các nhân tố vĩ mô tác động đến cán cân thương mại Việt Nam

Dưới góc độ thương mại quốc tế, có nhiều nhân tố vĩ mô tác động gây ra thâm hụt hoặc thặng dư thương mại. Trong nghiên cứu này tác giả chỉ xem xét hai nhân tố là tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế (GDP), đây là những nhân tố được nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước ghi nhận là nguyên nhân tác động gây nên thâm hụt thương mại.

Tỷ giá hối đoái

Ngày nay, quan hệ thương mại là đa phương, một nước có quan hệ buôn bán với rất nhiều nước trên thế giới, để có cái nhìn toàn diện hơn về vị thế cạnh tranh của hàng hóa trong nước với các đối tác thương mại khác người ta dùng tỷ giá thực đa phương (tỷ giá trung bình), tỷ giá thực đa phương là một chỉ số phản ánh mức độ cạnh tranh về giá cả của quốc gia và là cơ sở để đánh giá đồng nội tệ bị định giá cao hay thấp.

Khi VND giảm giá sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá Việt Nam được cải thiện, xuất khẩu có lợi thế hơn nhập khẩu nên cán cân thương mại thời kỳ này sẽ được cải thiện.Ngược lại, khi VND tăng giá thực sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá Việt Nam sẽ bị hạn chế, nhập khẩu sẽ có lợi thế hơn xuất khẩu vì vậy cán cân thương mại thời kỳ này sẽ nghiêng về nhập siêu.

Tăng trưởng kinh tế

Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển nhanh với mức tăng trưởng trung bình hằng năm khoảng 7%. Công nghiệp hóa đặt ra yêu cầu về trang bị cơ sở vật chất hiện đại nên việc nhập khẩu máy móc thiết bị từ bên ngoài là khó tránh khỏi, chưa kể một số ngành nguyên liệu sản xuất phải nhập khẩu vì nguồn trong nước không đủ đáp ứng như sản xuất thép, phân bón.  

Bên cạnh đó, chính sách mở cửa hội nhập trong những năm gần đây đã tạo nhiều cơ hội cho xuất khẩu trong nước nhưng cũng làm gia tăng nhập khẩu, nhất là từ khi Việt Nam ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương như với các nước ASEAN, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),...

Ngoài việc gia tăng nhập khẩu đối với máy móc thiết bị, nguyên vật liệu khi thu nhập gia tăng, những sản phẩm tiêu dùng xa xỉ cũng có xu hướng gia tăng.

Kết luận

Dưới góc độ xuất nhập khẩu hàng hóa cho thấy có rất nhiều yếu tố tác động đến cán cân thương mại của Việt Nam, từ các yếu tố nội tại như mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu đến tác động của các yếu tố vĩ mô như tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế, lạm phát,…

Trong nhiều yếu tố kể trên, theo tác giả nguyên nhân chính gây nên tình trạng thâm hụt thương mại kéo dài là do mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Khả năng sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu mà chủ yếu là các nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu gần như không đáp ứng được nhu cầu thị trường.

Xuất khẩu phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu đã làm hạn chế nhiều giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, như chính sách tỷ giá, chính sách tự do thương mại,…

Để giảm thâm hụt thương mại Việt Nam bên cạnh việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý, thì cần thực hiện nhiều biện pháp như chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu, cải thiện hiệu quả đầu tư, thu hút có chọn lọc các dự án FDI, khuyến khích tiết kiệm, giảm bội chi ngân sách nhà nước,….

Trong đó việc chuyển đổi cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu là hết sức quan trọng, việc chuyển đổi cần thực hiện theo hướng gia tăng khả năng sản xuất nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu.

Để chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu trong những năm sắp tới Việt Nam cần  tập trung đầu tư cho các ngành xuất khẩu chủ lực với các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao cấp độ chế biến hàng tinh chế, tạo nguồn nguyên phụ liệu cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, từ đó nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động cạnh tranh.

Để làm được điều này, theo tác giả cần thực hiện một số giải pháp như quy hoạch, phát triển các cụm, khu công nghiệp phụ trợ bên cạnh các khu công nghiệp chuyên ngành chuyên sản xuất nguyên phụ liệu, vật tư sản xuất để cung ứng cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu; Chuyển hướng sản xuất và hình thành vùng nguyên liệu cho các ngành đang có thế mạnh như dệt may, xuất khẩu gỗ,…

Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu công là hoàn toàn đúng đắn, song hiệu lực của những biện pháp cụ thể đến đâu thì còn chưa chắc chắn vì ít nhất có bốn lý do. Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng, nhất là khi những dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp quyết định; đã được đưa vào quy hoạch của các bộ, ngành, địa phương; đã được triển khai; và nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết thân của những cơ quan liên quan đến dự án.

Thứ hai, Nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư của các DNNN, một mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu tư, và mặt khác là do một số tập đoàn lớn đã tự thành lập ngân hàng riêng. Thứ ba, với tốc độ lạm phát như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng mức đầu tư công theo đúng dự toán cũng đã được coi là một thành tích đáng kể.

Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng vì việc giảm chi thường xuyên rất khó khăn nên đây thường là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm. Hơn thế, với thực tế ở Việt Nam thì phạm vi chi thường xuyên có thể cắt giảm không nhiều. Đầu tiên là phải trừ đi quỹ lương (chiếm khoảng 2/3 tổng chi thường xuyên), sau đó phải trừ đi các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi chính sách chế độ, tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức quốc tế, các khoản chi thường xuyên đã được thực hiện…

Theo ước lượng của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì nếu làm thật quyết liệt thì sẽ giảm được khoảng 3.000 tỉ đồng chi hội họp và mua sắm xe - tức là giảm được khoảng 0,8% tổng chi ngân sách.

câu 1: khái niệm và đặc điểm của thị trường hối đoái, các chủ thể tham gia. liện hệ Việt Nam

Tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay - những vấn đề đặt ra

PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi

Trường Đào tạo PTNNL VietinBank

Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng  của mỗi quốc gia. Diễn biến của TGHĐ giữa USD với Euro, giữa USD/JPY cũng như sự biến động tỷ giá giữa USD/VND trong thời gian  qua cho thấy, tỷ giá luôn là vấn đề thời sự, rất nhạy cảm. Ở Việt Nam, TGHĐ không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng. Khi TGHĐ biến động theo chiều hướng không thuận, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện nhiều giải pháp như: nới rộng biên độ +/-5% (3/2009); hạ biên độ xuống +/- 3% (2/2010), đồng thời với việc điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng 3,36% ; 4/2010 NHNN yêu cầu các Tổng công ty, Tập đoàn có thu ngoại tệ phải bán cho ngân hàng và kiểm kiểm soát chặt chẽ các giao dịch mua bán ngoại tệ tại các địa điểm mua bán ngoại tệ. Gần đây nhất vào ngày 18/8/2010, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng lên hơn 2% (từ 18.544VND/USD lên 18.932 VND/USD) và giữa nguyên biên độ. Với những giải pháp này, thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã từng bước bình ổn, tỷ giá chính thức so với tỷ giá trên thị trường tự do được thu hẹp, từng bước lành mạnh hóa các giao dịch vốn trong xã hội.

Trong thời gian tới, TGHĐ biến động theo hướng nào, quả thật không dễ dự đoán. Sự biến động của tỷ giá sẽ khó lường, bởi nhiều nhân tố tác động như: nhập siêu còn lớn không chỉ trong ngắn hạn mà cả trong trung hạn; thâm hụt ngân sách vẫn ở mức cao (trên dưới 6%/GDP); giá vàng trong nước và thế giới luôn tăng mạnh (do khủng hoảng chi tiêu công tại một số quốc gia Châu Âu, châu Mỹ); nhu cầu ngoại tệ nói chung, USD nói riêng vào những tháng cuối năm sẽ tăng cao do khách hàng vay vốn đến hạn trả nợ ngân hàng; do nhu cầu chuyển lợi nhuận về nước của các nhà đầu tư nước ngoài; do kinh tế ngầm vẫn phát triển rất mạnh, khó có khả năng ngăn chặn, nên đôla hóa nền kinh tế còn ở mức cao; do thực hiện chính sách đồng tiền mạnh/ hay yếu của một số quốc gia trong khu vực… Như vậy sẽ có vài vấn đề đặt ra đối với TGHĐ:

Một là, có thể điều chỉnh TGHĐ theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trong bối cảnh một số nước Châu Âu đang rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công, còn Trung quốc lại nâng giá đồng nhân dân tệ?

Trong bối cảnh khủng hoảng nợ công từ một số nước Châu Âu đang có chiều hướng lan rộng.Trong 7 tháng đầu năm 2010, Euro đã giảm giá 15,7% so với USD, giảm 8,5% so với đồng GBP và thậm chí giảm 20% so với đồng JPY.i  Trung quốc nâng giá Nhân dân tệ, ít nhiều tác động đến quan hệ ngoại thương giữa hai nuớc, tuy không lớn.

Tỷ giá USD/EUR từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2010

Như vậy TGHĐ sẽ phải điều chỉnh thế nào và khi nào để không gây ra những cú sốc và không tạo kỳ vọng mất giá đồng Việt Nam. TGHĐ là giá cả đối ngoại của đồng tiền, theo tín hiệu thị trường tỷ giá lúc lên, lúc xuống phải được xem là việc bình thường của nền kinh tế. Còn khi tỷ giá diễn biến theo chiều hướng bất lợi, thì bất cứ Quốc gia nào cũng cần can thiệp tỷ giá. Điểm khác nhau ở chỗ: thời điểm can thiệp; công cụ can thiệp, mức độ can thiệp và sự giám sát của quá trình can thiệp. Kinh nghiệm của nhiều Quốc gia trong điều hành chính sách tỷ giá cho thấy, việc chọn thời điểm điều chỉnh với “liều lượng” hợp lý là yếu tố quan trọng, thậm chí quyết định cho việc ổn định tỷ giá và khắc phục áp lực cộng hưởng lên tỷ giá và thị trường. Với kinh nghiệm này, khi tỷ giá đang dần ở thế ổn định, NHTW sẽ chủ động (tính toán một cách cụ thể) điều chỉnh tăng/giảm nếu dự báo trong thời gian tới là cần thiết, không nên để diễn biến tỷ giá ở mức “nóng” mới điều chỉnh, bởi điều chỉnh thời điểm này dễ gây hiệu ứng bất ổn từ tỷ giá sang các chỉ tiêu vĩ mô khác.

Hai là, Để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, thì xử lý TGHĐ có phải là biện pháp hữu hiệu? 

Ở Việt Nam, một số công trình nghiên cứu ii đã cho rằng: các đợt phá giá tiền vừa qua, không có tác dụng cải thiện cán cân thương mại”,  vì thế nếu cứ coi TGHĐ là một trong những rào cản cho xuất khẩu, để “lập luận” cần phải giảm giá VND, để cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam sẽ là chưa ổn? Do cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có nhiều bất cập, 70 -80% đầu vào của mặt hàng xuất khẩu là nhập khẩu, trong khi xuất khẩu lại lệ thuộc vào biến động trên thị trường quốc tế về điều kiện thương mại cũng như biến động giá cả. Ở khía cạnh nhập khẩu, TGHĐ có thực sự hạn hạn chế nhập khẩu, để thông qua đó hạn chế nhập siêu? Điều này cũng không hẳn như vậy. Do xuất khẩu nhiều, nhưng hầu hết ở dạng thô, giá trị gia tăng trên từng đơn vị xuất khẩu không cao, trong khi nhập siêu rất lớn, chủ yếu từ Trung Quốc (chiếm đến 80-90%/tổng kim ngạch nhập khẩu). Như vậy sự phụ thuộc của giá cả trong nước vào giá cả thị trường quốc tế khá lớn. Do đó, các ý kiến cho rằng cần xử lý tỷ giá theo hướng tăng để khuyến khích xuất khẩu, chủ động nhập khẩu là trực tiếp hoặc gián tiếp thu hẹp vai trò của tỷ giá iii, trong khi TGHĐ còn liên quan đến hàng loạt vấn đề như cán cân thanh toán, nợ quốc gia, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và bất động sản. Chỉ xét riêng mối quan hệ giữa tỷ giá với nợ quốc gia cũng cho thấy cần rất thận trọng trong việc nâng hay giảm giá của tiền đồng. Nợ quốc gia của Việt Nam chủ yếu là nợ nước ngoài (khoảng 40% GDP), nếu giảm giá tiền tệ thì ảnh hưởng không nhỏ đến nợ quốc gia. Với cơ cấu nợ công iv của Việt Nam nghiêng về nợ nước ngoài, thì khi tỷ giá điều chỉnh tăng lên, sẽ dẫn đến rủi ro nợ công do lãi suất biến động theo xu hướng tăng. Như vậy sẽ dẫn đến chênh lệch lãi suất quá lớn giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế, sẽ làm gia tăng mức độ đôla hóa và tiếp tục tạo áp lực lên TGHĐ. Vì vậy, khi cần điều chỉnh tỷ giá không chỉ đặt nó trong mối quan hệ với xuất, nhập khẩu, mà còn phải xem nó trong mối quan hệ với đầu tư, lãi suất và vay nợ  nước ngoài v.v… trong  chiến lược chung là nâng cao uy tín và vị thế của VND, hướng đến một đồng tiền tự do chuyển đổi trong khu vực.

Ba là, có khắc phục được yếu tố kỳ vọng VND mất giá?

 Khi người dân và doanh nghiệp luôn kỳ vọng VND mất giá, sẽ làm giảm niềm tin của người dân vào điều hành chính sách tài chính – tiền tệ của Chính phủ, NHNN, tiếp tục gây ra những bất ổn trên thị trường. Điều này đã và đang xảy ra trong dân chúng. Khi tỷ giá trên thị trường tự do biến động tăng, người dân nghĩ ngay đến việc NHNN sẽ điều chỉnh tỷ giá theo hướng VND giảm giá. Khi giảm giá VND thì giá một số hàng hóa dịch vụ tăng, lãi suất cho vay và huy động cũng bị đẩy lên cao, các giao dịch ngắn hạn trở lên phổ biến hơn lúc nào hết (gửi tiền cũng chỉ chấp nhận kỳ hạn ngắn từ tuần, đến tháng; nếu có gửi kỳ hạn 6 tháng hay 1 năm thì các NHTM lại phải áp dụng theo kiểu “rút ra trước hạn ở thời điểm nào sẽ được hưởng lãi suất ở kỳ hạn đó”. Nếu vẫn cứ tiếp cách hành xử này, VND luôn đặt trong  xu thế điều chỉnh giảm. Điều này là rất bất ổn trong trung hạn. Vậy có khắc phục được vấn đề này không? Theo chúng tôi có thể khắc phục được bằng cách trong ngắn hạn cần chấp nhận một tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn hiện tại (trên dưới 5%),  duy trì một tỷ lệ lạm phát thấp (trên dưới 6%), đồng thời với nó là dùng các biện pháp để nâng giá tiền đồng, tạo một sự thay đổi từ nhận thức của người dân. Việc làm này sẽ tạo yếu tố tâm lý rất quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh niềm tin của người dân bị suy giảm về sự không ổn định sức mua của tiền đồng, họ có tiền nhàn rỗi sẽ nhanh chóng chuyển sang vàng và ngoại tệ nắm giữ v.

Khi VND lên giá, có thể sẽ làm tăng thêm tình trạng nhập siêu, xuất khẩu có thể giảm đi. Nhưng như đã phân tích trên, yếu tố tỷ giá có tác động đến xuất nhập khẩu nhưng không hẳn là yếu tố quyết định. Vì vậy hướng đến sự ổn định tỷ giá trong trung hạn, rất cần thiết có cách nhìn mới về vấn đề này./.

câu 2: hãy sử dụng các điều kiện ngang giá trong tài chính quốc tể để phân tích mối quan hệ giữa tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay trong tương lai? có thể sử dụng tỷ giá kỳ hạn như 1 dự báo không chệch của tỷ giá giao ngay trong tương lai hay không? tại sao?

http://muare.vn/DienThoai/4455705

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro