ma truyen

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thay Lời Tựa,

Thưa bạn đọc,

Tác giả đã thu góp, viết lại và đem đến bạn đọc một số câu chuyện huyền bí có thật đã từng sảy ra trong đời sống chung quanh, không chỉ với những nhân chứng Việt Nam, mà ngay cả với các cộng đồng bạn cũng rất thường chứng kiến những hiện tượng vô hình tương tự.

Những câu chuyện trong cuốn sách nhỏ bé này, tác giả đã quan tâm gạn lọc, loại bỏ những quan niệm sai lệch về những điều thuộc về thế giới vô hình, chẳng hạn như sự rùn rợn, ma quái hiện hình, nhập xác để Quấy nhiễu những dương nhân vô tội một cách hoàn toàn không hợp lý, hoặc cố tình thêu dệt thêm những tình tiết huyển hoặc tà dâm phi đạo đức mà, từ rất lâu, người ta quen áp đặt lên những dữ kiện, mỗi lần nghĩ hay nhắc đến thế giới tâm linh vô hình.

Những Chuyện Huyền Bí Có Thật này được thành hình và gởi đến quí đọc giả trong mọi nỗ lực hạn hẹp của tác giả, từ phương tiện cho đến những kiến thức siêu hình, để Sách được đến tay độc giả như một đóng góp khiêm nhượng tạo lập một cái nhìn mới, hợp lý và chính xác hơn về những sinh hoạt của thế giới siêu linh, không hề mang ước định chú trọng vào mục đích thương mại, chỉ với một nguyện vọng chân thành, là muốn được chia xẻ Với người đọc một quan niệm chân xác mới, và hoàn thiện về tất cả những hiện tượng thuộc về thế giới của siêu linh. và, quan trọng hơn cả, nhờ vào những yếu tố đó, may ra quyển sách sẽ đóng góp được chút ít thành quả, dù nhỏ nhoi khiêm nhượng trong tâm nguyện duy trì mối quan hệ các nhân dựa trên tinh thần đạo hạnh và tình thương yêu. Người viết ước mong nhận được những chỉ giáo quý báo của các vị cao minh giàu kinh nghiệm chuyên môn thuộc thế giới vô minh linh hiển và những ủng hộ cần thiết của mọi giới bạn đọc.

Trân trọng

Tác giả

Ma Nhập

Jessica Tâm Giao đang cùng gia đình ăn sáng, bỗng chuông điện thoại trong nhà nàng reo vang. Cuộc điện đàm ngắn ngủi chưa đầy một phút, nàng đã hoảng hốt buông máy xuống bằng một dáng điệu thẫn thờ lẫn kinh ngạc tột độ.

Bỏ ngang bữa ăn sáng, Jessica Tâm Giao hối hả đi vào trong phòng riêng. Chưa đầy ba phút sau, Tâm Giao trở ra với xâu chìa khóa xe trên tay như sắp sửa phải đi đến nơi nào một cách vội vã khiến cho thân mẫu của nàng phải lên tiếng:

- Chuyện gì vậy con?

Vừa bước tới thềm cửa, nàng trả lời mẹ bằng một giọng nói đứt quãng trong khi bàn tay run run đặt lên cái nắm cửa:

- Nhỏ Julianne Tuyết Phương đã chết! Xác của nó đã đưa về nhà quàn hồi sáng sớm nay. Con phải đến đó ngay lập tức! Tội nghiệp quá mẹ ơi!

Nghe tin chẳng lành, mẹ nàng sửng sốt đến muốn sụm cả đôi chân, không kịp hỏi thêm con điều gì, đưa nhanh tay vịn lấy cái tựa ghế gần đó cho khỏi ngã, trong khi Tâm Giao đi như bay như biến ra chiếc xe của nàng đậu trên driveway ở sân nhà. Những người còn lại, không ai giữ được bình tĩnh để tiếp tục bữa ăn sáng thường lệ cuối tuần.

Nắng đã lên cao, bầu trời xanh trong vắt, đó đây điểm lưa thưa dăm ba cụm mây trắng xóa của những ngày bắt đầu một mùa hè hứa hẹn nhiều oi ức.

Chưa đầy nửa tiếng đồng hồ sau, Tâm Giao đã có mặt tại nhà quàn giữa bầu không khí tĩnh lặng u buồn, đèn nến khói nhang nghi ngút trước một cỗ quan tài nằm lặng lẽ chơ vơ dọc theo sát vách tường với những tràng hoa phúng điếu đầy màu sắc, trong khi hầu hết mọi người thuộc gia đình thân tộc của Julianne Tuyết Phương đã có mặt đầy đủ. Ðôi mắt mọi người đỏ hoe còn đọng đầy ngấn lệ. Kể cả Ðoàn Hùng, vị hôn phu của Tuyết Phương cũng đã được cấp báo, phải bỏ ngang việc trong sở làm. Nhìn dáng điệu thiểu não khổ sở, quần áo xốc xếch với cái nút thắt cà vạt trên cổ áo sơ mi có những lằn sọc đen thưa của Ðoàn Hùng trễ xuống, Tâm Giao cũng đoán biết được nội tâm của người thanh niên đang ấp yêu nhiều mộng đẹp tương lai này sầu khổ đến độ nào trước di ảnh của người tình vừa quá cố.

Tâm Giao nhẹ gật đầu đáp lại từng đôi mắt hoen lệ chào hỏi của những người trong gia đình Tuyết Phương. Nàng bước lại bàn thờ, nơi đang đặt di ảnh của người bạn gái chí cốt đột nhiên hóa ra người thiên cổ, đốt nhanh cho nàng một nén hương rồi lâm râm cầu nguyện và thì thầm với người đang yên nghỉ trong cỗ quan tài trùm phủ màu lụa trắng như nàng đang tâm sự với chính mình:

Hãy yên nghỉ nhé, Tuyết Phương! Dù sao chuyện cũng đã xảy ra rồi. Kể từ nay, tao với mày là hai miền âm dương cách biệt, còn đâu tìm lại được những năm tháng tụi mình vui sống chơi đùa học hành thi cử, dệt mộng đời bên nhau với biết bao kỷ niệm đẹp đẽ trong đời. Ðâu nào ngờ, chỉ còn hơn một năm ngắn ngủi nữa, chúng mình sẽ thi ra trường. Chừng đó, mày với anh Ðoàn Hùng sẽ trở thành đôi vợ chồng đẹp duyên nhất. Còn tao sẽ thực hiện được giấc mộng đã ôm ấp và tâm sự cùng mày suốt mấy năm qua. Giờ đây, mày sống khôn chết thiêng, hãy yên tâm an nghỉ. Chuyện thế gian tục lụy đầy khổ lụy, chúng tao sẽ gánh hết cho mày. Chỉ có những người còn sống như tao, như anh Ðoàn Hùng của mày và những người thân yêu là vẫn còn phải cưu mang gánh vác mọi chuyện trên đời chẳng biết đến bao giờ...

Nói với người bạn gái quá cố đến đây, như không thể cầm giữ được tấm lòng xót thương nhớ bạn, Tâm Giao òa lên khóc một cách tức tưởi nghẹn ngào. Khóc như chưa bao giờ Tâm Giao có cơ hội được khóc, nàng để tự nhiên cho những giọt nước mắt dàn dụa tràn ra trên khuôn mặt sầu héo tả tơi tiếc thương cho người bạn gái vắn số, bất hạnh của mình cho đến khi Tâm Giao không còn tự chủ thêm được, nàng rũ xuống đúng vào lúc Ðoàn Hùng liếc sang, nhác thấy, vội đưa hai tay đỡ lấy tấm thân mềm nhũn của Tâm Giao. Hai người em trong gia đình của Julianne Tuyết Phương cũng vội chạy đến phụ với Ðoàn Hùng, dìu Tâm Giao ra dãy ghế ngoài hành lang để cho nàng ngồi xuống hồi tỉnh.

Cuối ngày, Tâm Giao cùng với Ðoàn Hùng và một người em trai của người quá vãng tự ý nán lại nhà quàn để canh xác và thay phiên nhau thắp nhang nến cho Tuyết Phương cho đến giờ gần khuya nhà quàn đóng cửa, họ mới lầm lũi rủ nhau ra về, trong lòng người nào cũng đầy phiền muộn và lưu luyến thương xót cho một người rất thương yêu đang giữa tuổi xuân thì đầy hoa mộng, mà giờ đây, phải một mình ở lại trong căn phòng nhà quàn lạnh lẽo hoang vắng. Họ nhìn lại di ảnh của Tuyết Phương với khuôn mặt tròn đầy, nụ cười nhẹ nở trên môi và đôi mắt tinh anh nghịch ngợm giữa bờ tóc đen huyền phủ trên đôi vai tròn lẳn, như nàng muốn nhắn gởi đến họ một điều gì mà lúc sinh thời trong cuộc đời đầy hối hả, Tuyết Phương chưa một lần kịp ngỏ.

Ngày kế tiếp sang đến ngày thứ ba thì Tâm Giao, sau khi liên tiếp dành hết thời giờ đến chăm lo quanh quẩn bên quan tài của bạn, lại thêm tâm tư buồn phiền đến biếng ăn mất ngủ, sức khỏe và tinh thần đã có vẻ sa sút.

Thân mẫu của Tâm Giao vốn là người tu tịnh lâu năm, bản chất bà phúc hậu hiền hòa, giữ giới chay trường từ sau khi cha của nàng tạ thế đã nhiều năm. Bà ở vậy sống bên cạnh bốn người con đã đến thời khôn lớn và thành đạt ở xứ người, trong đó có Tâm Giao, là con gái út trong nhà. Không có ai hơn bà, hiểu rõ quan hệ bạn hữu đằm thắm giữa Jessica Tâm Giao và Julianne Tuyết Phương, nay đột nhiên cô hóa ra người thiên cổ sau cái chết thê thảm nhất của một đời người con gái đầy hứa hẹn ở tương lai theo lời thuật lại của gia đình Tuyết Phương đã kể cho bà nghe về cái chết đau thương của nàng. Trong tâm tư của người mẹ dày công tu tịnh, thân tâm trong sáng như bà bắt đầu dấy lên niềm lo âu khi bà cảm nghiệm được đôi điều khác lạ sau ngày thứ ba, khi Tâm Giao lặng lẽ mở cửa bước vào nhà sau trọn một ngày lưu lại nhà quàn để kề cận bên xác người bạn gái đã chết.

Tuyết Phương là một cô gái Việt Nam trẻ đẹp, thông minh vui tính, bản chất sinh động vô tư yêu đời. Chàng trai nào giáp mặt nàng một lần cũng khó tránh được niềm rung động mang mang vương vấn trước dung mạo tươi trẻ hồn nhiên, nhất là đôi mắt đen tròn tinh anh minh mẫn đầy sức cuốn hút của nàng. Vừa cần mẫn đi học vừa chăm chỉ đi làm cho đến khi trở thành một sinh viên ưu hạng, được cấp học bổng, vào nội trú và sắp tốt nghiệp ra trường.

Từ mấy năm nay kể từ khi Tuyết Phương chọn thi tuyển vào phân khoa thần kinh làm môn học chính. Nàng đã dọn vào trọ học hẳn trong (Dome), buộc phải xa cách gia đình và quan hệ tình yêu khắng khít với Ðoàn Hùng, mối tình bạn bè mật thiết với Tâm Giao đến hơn 5 giờ bay ở một tiểu bang phía Ðông nước Mỹ. Hai người bạn gái thân thương nhau hơn mười mấy năm dài, nay chỉ còn giữ mối thâm tình liên lạc qua đường dây điện thoại hay vào những dịp lễ cuối tuần, Tuyết Phương nôn nả bay trở về nhà, sống những ngày nghỉ tràn đầy yên vui hạnh phúc gia đình, bạn bè cùng người tình bền tâm chờ đợi đến kỳ cưới hỏi là Ðoàn Hùng, cũng là một thanh niên khỏe mạnh tuấn tú, lại đã thành danh và có đời sống phong lưu mãn nguyện hơn người.

Không một ai có chút ngờ vực về mệnh số ngắn ngủi và cái chết bạc phước của Tuyết Phương, người con gái mơn mởn tràn trề hứa hẹn ở tương lai. Không một ai biết được sẽ có dấu hiệu cho thấy nàng sẽ phải tiếp nhận một cái chết tức tưởi oan khiên giữa một xã hội từng mệnh danh là văn minh tân tiến, tự do an toàn mà lại thường sảy ra hằng hà sa số những chuyện man ri mọi rợ hơn bất cứ một quốc gia chậm tiến, ăn lông ở lỗ nào khác. Ðiển hình là cái chết quái đản của Tuyết Phương, một cô gái Á Ðông hiền thục dịu dàng, lương thiện và tiềm tàng nhiều hứa hẹn sẽ dâng hiến tài năng cho con người, cho đời sống văn minh khoa học như cô, nào cô đã gây ra công tội gì để nảy sinh ra lòng thù hận ác tâm từ một người bạn học dị chủng lưu trú cùng phòng, đến nỗi phải xuống tay tàn sát dã man Tuyết Phương như một kẻ thù chỉ với một chút lòng đố kỵ nhỏ nhen?

Dù sao, thảm cảnh thương tâm cũng đã xảy ra rồi! Người con gái đang yêu đã không còn hiện tiền để cùng với người yêu thề non hẹn biển, họ cùng vui sống bên nhau, cùng hưởng trọn với nhau niềm hạnh phúc vô biên mà tình yêu đã dành sẵn cho hai người. Ðể bây giờ nàng đang nằm bất động trong cỗ quan tài buồn cùng với tấc lòng tiếc thương đìu hiu cô quạnh của một cái xác cứng lạnh vô tri không kém những người còn sống đang hết dạ thương tiếc Tuyết Phương.

Có còn chăng chỉ là mỗi xác thân khô lạnh đang nằm bất động trong cỗ áo quan tài với khuôn mặt đầy đặn, đẹp tựa trăng rằm đang nhắm nghiền đôi mắt bồ câu không bao giờ còn hé mở như trong cơn mơ say ngủ thiên thu. Có còn chăng chỉ là mối thương tâm chất ngất đành đoạn của một oan hồn uổng tử vẫn còn đang nặng lòng tiếc nuối, luyến ái tấm thân xác phàm trần, rồi sẽ vất vưởng lang bạt đó đây. Có còn chăng là lòng yêu thương vời vợi của Ðoàn Hùng, của người bạn gái sinh thời Tâm Giao, của những người thân yêu trong gia đình đã hai mươi mấy năm qua thương yêu chiều chuộng Tuyết Phương như một bảo vật trân quý nhất trong cuộc đời.

Nàng đã tức tưởi cùng với nỗi kinh hoàng dị ngộ trút linh hồn ra ngoài thân xác đang độ mãn khai giữa lúc ngủ say, trong cơn điên cuồng bất loạn tâm thần vì lòng đố kỵ nhỏ nhen của một con hoang thú dã man sống giữa thời kỳ khoa học tiến bộ. Tuyết Phương tới tấp nhận chịu những mũi dao oán hận oan nghiệt đâm nát thân thể của nàng để rồi lìa đời không kịp một lời trăn trối, để rồi hồn phách của Tuyết Phương cùng tận ngỡ ngàng thoát bay ra ngoài thân xác đầy tiếc nuối mà chưa kịp hiểu được vì sao, để rồi hồn thiêng cô gái trẻ phải chết bất đắc kỳ tử chưa biết sẽ phải tiêu diêu nương tựa ở cõi nào.

Tâm Giao bước vào nhà mang theo cả một luồng tử khí lạnh buốt tỏa ra sau mỗi bước đi của nàng. Nhìn thấy bóng mẹ thấp thoáng dưới ánh điện mờ mờ ngoài phòng khách, nhưng Tâm Giao lặng im không thốt nửa lời, lầm lũi bước vào phòng riêng. Mẹ nàng có hơi chột dạ.

Bà cụ liên tưởng tức khắc đến những diễn biến huyền bí của thế giới vô hình có thể xảy đến với Tuyết Phương. Tất cả những kiến thức siêu linh mà bà ta chuyên tâm đọc và chiêm nghiệm từ nhiều pho sách tân, cựu thuật lại những tiến trình của thế giới siêu linh, về những cái chết bất đắc kỳ tử của những người còn trẻ tuổi bị những tai biến hàm oan, bất ngờ phải chết một cách đột ngột đến không thể trút được một lời trăn trối giữa lúc còn nặng nợ trần gian, còn nặng lòng với những qua hệ yêu thương tình cảm với những người thân thuộc, còn luyến lưu và khao khát sự sống trong chính thân xác cố hữu của mình. Linh hồn của họ tùy vào nghiệp lực lúc sinh thời mà sẵn lòng ra đi hay còn cố luyến lưu tìm đủ mọi phương cách để mong được tiếp tục cuộc sống phàm trần.

Ðây chính là hoàn cảnh hết sức bi thương khốn khổ của Tuyết Phương! Nàng sẽ muốn thổ lộ bao điều với song thân, với bè bạn trong đó có Tâm Giao, có Ðoàn Hùng là người cô yêu thương bằng tất cả trái tim nồng nàn tha thiết nhất, mà tuyệt nhiên nàng không nhận được một câu trả lời. Lúc này, Tuyết Phương tuy đã chết nhưng nàng đang nhìn thấy rất rõ mọi người quây quần bên cạnh thân xác của nàng mà tiếc thương đau khổ, mà khóc sướt mướt nhói lạnh cả tim gan. Chắc chắn sẽ có đôi lần Tuyết Phương tự hỏi:

Tôi chết rồi sao? Làm thế nào bây giờ? Và nàng cảm thấy đau xót y hệt như một con cá bị ném ra khỏi nước, nằm trên một bãi cát nóng khô. Tự trong thâm tâm của một hồn ma hoang dại, Tuyết Phương cảm thấy đau khổ tột cùng. Rất nhiều lần, nàng đã hét to lên trước mặt những người thân yêu đang khóc:

- Tôi đang ở đây! Tôi đang ở đây! Xin đừng khóc!!!

Nhưng tiếng nói của nàng chỉ vang động cho nàng nghe. Không một ai có phản ứng gì khác. Tới chừng đó, Tuyết Phương mới tự cảm thấy vô vàn đau khổ, nàng thầm nghĩ:

- Tôi chết thật rồi! Than ôi! Tôi chết thật rồi!!!

Bà cụ thân mẫu của Tâm Giao không có mặt tại nhà quàn, nhưng nhìn dáng con gái của bà u buồn ủ rũ cùng với luồng khí lạnh ùa đến khi Tâm Giao vừa đẩy cửa bước vào nhà, bà đã có thể kết luận về những gì bà đang suy tưởng về linh hồn của Tuyết Phương giờ đây đang cố gắng khước từ một cách sống lang thang bất chợt và vất vưởng trong cõi u minh.

Cô đã chiếm hữu ngay cơ hội gần gũi nhất để trú hồn trong thân xác con gái của bà, của Tâm Giao. Bà cụ hoảng hốt khi nhận thức ra điều này.

Vì đó chính là những thói quen của thần thức trong tình trạng quá độ lúc Tuyết Phương cố gắng đi tìm sự tái sinh. Nhưng khổ thay! Vào lúc này, mọi sự vui buồn sướng khổ của một linh hồn đều tùy thuộc vào nghiệp lực khi nàng còn tại thế. Tuyết Phương sẽ thấy rõ rệt mọi vật mọi người, từ nhà cửa xe pháo, phố phường đến Ðoàn Hùng, đến những người trong gia đình thân tộc, đến cô bạn gái thân thiết Tâm Giao, đến ngay cả thân xác của mình. Sau cùng thì Tuyết Phương phải hiểu:

Bây giờ tôi đã chết thật rồi! Biết làm sao đây?

Nàng sẽ bị sức nặng của bao ưu phiền áp chế đến nỗi nẩy sinh ra tư tưởng:

- Ôi! Sao không cho tôi một tấm thân xác?

Và trong lúc nghĩ như vậy thì linh hồn của Tuyết Phương cứ lang thang đây đó chỉ với một dụng ý duy nhất là để đi tìm một xác thân để cho linh hồn có một nơi trú ngụ ấm áp và có dương lực để biểu thị những điều cần phải nói hay làm với những người thân yêu.

Nhưng than ôi! Tuyết Phương không biết được rằng nàng đang ở trong tình trạng quá độ của kinh nghiệm thực tại kéo dài, cho nên đã gần một chục lần, nàng tìm đủ mọi cách để trở vào chính thân xác của nàng. Nhưng bây giờ thì tấm thân ngà ngọc tràn đầy nhựa sống của nàng khi xưa đã bị cứng lạnh, còn sắp sửa đến thời kỳ băng hoại hư thúi thì nàng phải làm sao?

Do vậy, nhưng Tuyết Phương chẳng thể tìm được một chỗ để nhập vào. Nàng có cảm tưởng như bị chèn ép trong những kẽ nứt của hố sâu, giữa những khối đá tảng khổng lồ nặng nề. Nàng đang trải qua một tiến trình thực nghiệm về sự thống khổ của một kiếp sống mà cái chết đến một cách cực kỳ đột ngột và thương tâm. Nàng tha thiết tìm cách để có thể tái sanh. Tuy nhiên, cho dù ước vọng đó của Tuyết Phương có thành tựu, nàng cũng sẽ chỉ gặp những muộn phiền. Nhưng Tuyết Phương chưa hoàn toàn thông hiểu điều đó. Nàng chỉ mong thực hiện ý muốn theo bản ngã riêng tư, cho đến khi những người thân của nàng tim gặp các vị giáo chủ cao minh để mời các vị này đến tận chỗ để cử hành cùng một lúc những nghi thức chỉ đạo, dẫn giải cho linh hồn của Tuyết Phương hiểu biết phải hành xử như thế nào để giúp cho hồn nàng không bị đọa vào các cõi dưới (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh), để thu nhập những điều ích lợi vĩnh cửu cho một người đã chết.

Trong khi thân mẫu của Tâm Giao chưa kịp thông báo cho tang gia biết những nghi thức tôn giáo cần được tiến hành thì đã sẵn sàng có một xác thân thật dễ dàng và thích hợp nhất để linh hồn Tuyết Phương có thể nhập vào để mưu tìm một hình thức kéo dài nghiệp lực... Ðó là người bạn gái Tâm Giao thân mến của nàng. Tuyết Phương đã lưu trú linh hồn của nàng trong bối cảnh mượn xác của Tâm Giao kể từ giây phút ấy. Nhưng khi đã hoàn thành được ý nguyện của mình, Tuyết Phương vẫn không thể tránh được mọi điều buồn khổ. Nàng vẫn cảm thấy bơ vơ lạc lõng rồi đột nhiên nảy sinh ra những tư tưởng luyến thương hoặc nổi loạn, quấy phá tất cả mọi người. Linh hồn của Tuyết Phương đã chính thức lưu ngụ vào một phần trong thân xác của Tâm Giao kể từ giây phút vọng tưởng đó!

Thân mẫu của Tâm Giao thử lại lần cuối ý nghĩ của bà bằng cách giữ sự thầm lặng quan sát dáng điệu đi đứng, ngôn từ, thói quen cùng những sở thích thường lệ của Tâm Giao. Và, bà đã có câu trả lời rõ rệt. Nhất là, ở những nơi những lúc nửa sáng nửa tối, bà tập trung sự chú ý nhìn vào một nửa khuôn mặt của con gái bà. Bà nhận diện thực rõ ràng khuôn mặt của Tâm Giao một nửa thấy bên ngoài có phần ánh sáng. Còn một nửa bên kia, chìm khuất vào phần bóng tối mờ mờ phảng phất dáng dấp nhân diện của Tuyết Phương, tuy không được rõ nét, nhưng khi cần, bà xử dụng một nhãn thức xuất thế phi thường đã giúp cho bà hiểu một nửa sự sống là của Tâm Giao, một nửa trú thân giờ đây đã do Tuyết Phương ngấm ngầm biểu thị và đốc thúc những quyết định thầm kín của Tâm Giao.

Bà biết ngay phải làm gì để sớm chấm dứt tình trạng nhất sinh lưỡng hồn, có thể khiến cho Tâm Giao, con gái của bà trở thành người thất tán hồn phách, sống ngơ ngơ ngẩn ngẩn như kẻ không còn tự chủ để tự quyết định đúng đắn tất cả những ý nghĩ của nàng. Bà vội rút vào phòng riêng, nhấc điện thoại gọi đến trình bày tự sự cho một vị giáo chủ cao minh hành đạo ở trong vùng. Ðồng thời, bà cũng gọi cho song thân của Tuyết Phương vốn là chỗ rất thâm tình để trình bày tất cả những điều bà đã phát hiện cùng với những dự định để tìm cách cầu siêu tịnh độ cho Tuyết Phương. Cũng là cách tìm lại quân bình tâm thức cho Tâm Giao, người con gái út yêu thương của bà.

Ðiện thoại xong, trước tất cả mọi việc cần phải gấp rút thi hành ngay sau đó, bà tiến sang cửa phòng đang đóng im lìm của Tâm Giao, từ tốn gõ nhẹ mấy tiếng. Không thấy Tâm Giao lên tiếng trả lời. Bà đẩy cánh cửa ghé nhìn vào. Tâm Giao nằm say ngủ bình thường. Nhìn nét mặt của cô con gái, một nửa chìm xuống phần vải gối êm, phần còn lại bình dị như mọi lúc thường. Bà cụ yên lòng để lại cho con một mảnh giấy dặn dò theo lệ:

Ðêm nay con đừng về khuya quá kẻo bị lạnh, cảm thì khổ nghe con!

Tâm Giao thức dậy sau một giấc ngủ dài. Dù là đêm mùa hè, theo thói quen, mẹ nàng vẫn cài kín các cánh cửa kính để đảm bảo cho mọi sự an toàn, nhưng Tâm Giao vẫn cảm thấy trong người nàng lạnh buốt khác thường. Nàng mặc thêm một cái áo len dày và đi ra ngoài nhà bếp để tìm một vài món ăn. Lục lọi một lúc, Tâm Giao ngồi xuống ăn hết 3 cái trứng (ốp-la), nửa ổ bánh mì và một ly cao sữa lạnh. Nàng nhắc điện thoại và không cần coi phone book, nàng gọi đúng số phone của Ðoàn Hùng, nói với chàng rằng nàng đang rất muốn gặp anh lắm. Bên đầu dây bên kia, Ðoàn Hùng trả lời với giọng còn ngái ngủ:

Có chuyện gì cần lắm không vậy Tâm Giao? Sáng sớm ngày mai chúng ta còn phải đến nhà quàn sớm với Tuyết Phương để cùng dự lễ đọc kinh cho nàng. Chắc em đã biết?

Tâm Giao vờ như không nghe. Nàng khẩn khoản yêu cầu:

Em muốn gặp anh ngay bây giờ. Có việc cần lắm. Anh đến quán "Bờ Hồ" gặp em.

Nói xong nàng cúp máy, không kịp để cho Ðoàn Hùng nói thêm nửa lời.

Phần Tâm Giao, nàng trở vào phòng ngủ lấy cái ví tay, nhẹ nhàng không gây một tiếng động nhỏ, rồi nàng lách cửa ra xe rồ máy chạy thẳng đến nơi đã hẹn với Ðoàn Hùng.

Hai người chạm mặt nhau trong khu parking lot, bên ngoài quán cà phê Mễ mở sớm giữa bầu không khí tinh khôi của buổi đầu ngày, ánh đèn điện mù mờ chiếu lại từ những hộp đèn còn sáng bên ngoài các căn tiệm chung quanh. Tâm Giao mở bật cửa nhưng ngồi lại ngay xe như có ý chờ đợi Ðoàn Hùng đi tới. Nàng thản nhiên không để lộ một chút khác thường nào cho đến khi người thanh niên mà lúc thường Tâm Giao xem như một người anh trai khả kính, bỗng nhiên nàng bước hẳn ra ngoài xe, chồm tới ôm chặt lấy Ðoàn Hùng, níu đầu chàng xuống đặt một cái hôn nồng cháy trên môi chàng khiến cho Ðoàn Hùng quá đỗi bỡ ngỡ, không kịp phản ứng đành đứng chết trân nhận lấy nụ hôn cuồng dại của Tâm Giao. Nàng nói trong hơi thở dồn dập:

Em nhớ anh! Em nhớ anh! Nhớ anh lắm, biết không?

Ðoàn Hùng không tránh khỏi kinh ngạc trước cử chỉ quá thân mật và bất ngờ của Tâm Giao. Chàng vội vã khoác tay:

Tâm Giao! Em làm gì kỳ vậy? Em không nhớ chúng ta sắp sửa phải đến với Tuyết Phương?

- Nhớ! Em nhớ rõ lắm. Nhưng bây giờ còn sớm, chưa tới giờ mà. Anh hãy chiều em một chút rồi em sẽ nói hết mọi việc cho anh nghe! Chịu chưa?

Ðoàn Hùng lùi lại nửa bước như cố gắng giữ lấy khoảng cách bình thường trong khi Tâm Giao cứ lù lù sấn tới. Những nụ hôn cuồn loạn nàng tiếp tục đặt lên môi lên má của người thanh niên đang bối rối vô cùng.

Rồi thay vì đưa nhau vào bên trong quán cà phê "Bờ Hồ" như đã hẹn trước, Tâm Giao níu lấy tay Ðoàn Hùng kéo chàng lên xe, rồ máy, chạy thẳng về phía Nam trên một xa lộ đã bắt đầu có nhiều hơn ánh đèn xe lao đi vun vút trong lúc ánh bình minh bắt đầu ló dạng phía chân đồi.

Xe chạy một lúc thì Tâm Giao lái rẽ vào một lối đi tương đối nhỏ hẹp, dẫn đến một khu motel tọa lạc sát cạnh một eo biển nhỏ có nhiều hàng cây xanh mát, không khí thật tĩnh lặng bình yên. Tâm Giao tự động mở ví lấy ra một tấm thẻ tín dụng đưa cho viên quản lý motel, nói với ông ta rằng nàng cần một căn phòng thoáng mát cho hai người trong nhiều ngày và căn phòng trọ này có thể nhìn được ra mặt biển. Nhất là nàng không muốn bất cứ một ai quấy rầy. Cần điều gì thì nàng sẽ gọi. Viên quản lý vâng dạ rối rít rồi trao cho Tâm Giao hai tấm thẻ nhựa có từ tính, chính là hai cái "chìa khóa" cửa phòng.

Cùng với Ðoàn Hùng ngơ ngơ ngáo ngáo không biết người bạn gái vốn rất thùy mị của người mình yêu thường ngày hôm nay đang làm những việc khác thường gì. Ðoàn Hùng chỉ có một cách làm theo những yêu cầu của Tâm Giao.

Hai người bước vào phòng sau cánh cửa đã khóa cẩn thận cả hai chốt trên và dưới, Tâm Giao nắm sợi dây kéo mạnh để cho tấm màn vải che khung cửa sổ dạt về một phía cho ánh sáng ban mai ùa vào làm rực rỡ căn phòng. Phía bên ngoài cửa sổ là một khu đất trống hoang vu, hoa và cỏ dại mọc đầy, phe phẩy phất phơ đong đưa trong nắng sớm. Xa hơn một chút nữa dưới kia là mặt biển vắng lặng mênh mông, chưa thoáng một bóng người. Tất cả những ngọn đèn trang bị trong phòng đều được Tâm Giao mở lên sáng chói. Ðoàn Hùng thờ thẫn đứng trông, chưa biết phải phản ứng như thế nào thì Tâm Giao lên tiếng:

Anh lạ lắm phải không, Ðoàn Hùng? Anh không tin rằng em là Julianne Tuyết Phương của anh ngày nào? Hôm nay em phải mượn tạm thân xác của Tâm Giao, bạn em để cùng anh trò chuyện, ân ái cho thỏa biết bao nhiêu mong nhớ đã qua kể từ mùa lễ Easter năm rồi?

Ðoàn Hùng nghe Tâm Giao nói như vậy, chàng cũng thấy niềm sợ hãi gợn lên từ các lỗ chân lông. Tuy nhiên, chàng cũng đánh bạo hỏi chuyện Tuyết Phương, giờ đây đang trú hồn trong thân xác của Tâm Giao. Những câu hỏi Ðoàn Hùng gặn hỏi người yêu là những câu chỉ liên quan đến những điều thật riêng tư giữa chàng với Tuyết Phương mà không một ai biết, kể cả Tâm Giao, trong đó có những con số bí mật thuộc trương mục cá nhân của hai người. Tuyết Phương, qua hình dạng của Tâm Giao bằng xương bằng thịt, đã trả lời Ðoàn Hùng thật rõ ràng chính xác. Tuyết Phương còn như thấu hiểu tâm trạng đầy ngờ vực của người yêu, nhưng nàng cũng chẳng tỏ ra điều gì bất bình.

Như thói quen giữa hai người mỗi khi hẹn hò ân ái, nàng sà vào vòng tay Ðoàn Hùng, tựa đầu lên vai người yêu như muốn tìm lại nơi chàng một sự che chở bình yên. Nàng nói trong hơi thở nhỏ nhẹ:

Ðoàn Hùng Anh hãy ôm chặt người em. Em cảm thấy lạnh lắm! Rồi hãy hôn em như mọi khi anh vẫn làm. Ði anh! Ði anh! ...

... Chàng chợt tỉnh thức như vừa trải qua một cơn mê tội tình, đúng vào lúc Tâm Giao (hay là Tuyết Phương, Ðoàn Hùng cũng không biết rõ!) hé cặp mắt mãn nguyện nhìn chàng. Tâm Giao choàng bật dậy như vừa trải qua một giấc chiêm bao. Có lẽ Tâm Giao đã hoàn hồn nhận chân ra sự thật. Nàng bẽn lẽn dấu mặt đi ...

- Anh...! Anh đã phạm một tội lỗi tày trời mà anh... Chính anh không thể tự chủ được... Anh đã phá hoại... Phá hoại Tâm Giao. Anh biết phải làm sao bây giờ?

Gương mặt thành khẩn của người thanh niên nói lên tất cả nỗi niềm ái ngại ăn năn. Chàng không hề có chút chủ tâm cố ý dụ dỗ và phá hại đời con gái của Tâm Giao. Nhưng mọi việc đã diễn ra trong khoảng thời gian rất mực bình thường.

Phần Tâm Giao như đang phải sống lẫn lộn trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Nửa cũng ái ngại muộn phiền, nửa còn lại thì tỏ ra hoàn toàn hưng phấn, khiến khuôn mặt của Tâm Giao có lúc rạng rỡ vô bờ, khi thì trĩu nặng mối ưu tư da diết.

... Hai người bình thản rời khỏi phòng trọ, không quên máng tấm bảng có đề chữ "Do not disturb" lên cái nắm cửa. Họ lấy xe quay ngược hướng cũ trở về. Không quên dặn dò viên quản lý:

Chúng tôi đi ra ngoài một lát và sẽ trở lại. Không cần thiết phải làm sạch sẽ căn phòng!

Họ trở lại quán "Bờ Hồ" để cho Ðoàn Hùng lấy xe của chàng rồi hai người nối gót lái xe trở về khu nhà quàn mà mọi người đang thắc mắc không biết vì sao bỗng nhiên hôm nay cả hai người, Tâm Giao và Ðoàn Hùng đều cùng một lúc vắng mặt, cũng cùng một lượt trở lại nơi đây.

Hai người rất tâm đầu ý hợp khi phải trả lời các câu hỏi của mọi người chung quanh:

- Anh Ðoàn Hùng đi đâu mà giờ này mới đến...?

- Chị Tâm Giao chắc phải giải quyết một số công việc phải làm...?

- Bộ hai người đi chung với nhau sao vậy?

Ðoàn Hùng mau mắn trả lời:

- Không phải! Chúng tôi đến đây vừa đúng lúc mà thôi!

Nhà xác hôm nay có thêm sự hiện diện của nhiều người. Bên trong căn phòng để thi hài Tuyết Phương có nhiều Phật tử tăng ni cùng với ba vị cao tăng được thỉnh đến đây để liên tục cử hành các tang nghi tế tụng cầu siêu và "trò chuyện" với người đã chết đang nằm trong cỗ quan tài. Lễ tất của một ngày có lẽ đã vãn. Các vị cao tăng cùng các tăng ni Phật tử lục đục kéo nhau ra về.

Một người trong tang quyến ghé tai Tâm Giao nói nhỏ:

- Bác gái có gọi sang nhà chúng em sáng nay khi chị đã đi, dặn rằng hôm nay chị Tâm Giao về nhà sớm. Hình như bác có chuyện gì cần nói với chị.

Tâm Giao tỏ ra tỉnh táo. Nàng đảo mắt nhìn mọi người và liếc thật nhanh về cỗ quan tài rồi ra xe chạy thẳng về nhà trong khi Ðoàn Hùng còn đang lặng lẽ đứng chú mục nhìn vào một khoảng không bất định.

Chiều đã xuống hẳn không còn vương bóng nắng. Không gian mang một màu xám đục đìu hiu. Trời không có gió nhưng Tâm Giao cảm thấy cơ thể của nàng lạnh khác thường. Những cảm giác bải hoải ê ẩm khắp chỗ và nơi hạ thân con gái lần đầu tiên va chạm xác thịt mật thiết với người khác phái khiến Tâm Giao cảm thấy mệt mỏi rã rời. Nàng bước vào nhà trong khi mẹ nàng vừa quay lưng lại trước bàn thờ Phật. Bà cụ kín đáo nhìn con rồi lên tiếng, ánh mắt cụ phảng phất nỗi lo âu:

- Con đã về?

Tâm Giao đáp trong khi không nhìn thẳng vào khuôn mặt hiền từ của mẹ:

- Dạ!

- Chắc con đã mệt, hãy tắm gội rồi ra ăn chút gì kẻo đói. Thức ăn mẹ đã dọn sẵn để cả ở trên bàn.

- Cám ơn mẹ!

Nói xong, nàng bước về phòng riêng, tắm rửa qua loa rồi trở ra phòng ăn. Nàng hỏi mẹ:

- Con nghe người nhà Tuyết Phương nói mẹ dặn con về sớm. Có chuyện gì cần nói với con vậy mẹ?

- Không! Mẹ sợ khi con về thì mẹ đã đi ngủ, không kịp cho con biết rằng hôm nay trở đi sẽ có các Thầy cùng với ban tụng niệm của chùa mỗi ngày sẽ đến tụng kinh siêu độ cho Tuyết Phương cho đến ngày an táng.

Tâm Giao thản nhiên nghe mẹ nói như vậy, không chút thắc mắc. Tang lễ nào cũng đều tiến hành đầy đủ các nghi thức tôn giáo để cầu nguyện siêu thăng tịnh độ cho hương hồn người chết. Nàng đáp lời mẹ:

- Vậy hả mẹ! Con đã thấy các Thầy cùng các Phật tử đến tụng kinh hôm nay.

- Phải rồi! Ngày mai cũng sẽ như thế cho đến khi lễ an táng hoàn tất, vẫn còn phải tụng niệm mãi cho Tuyết Phương. Con quên Tuyết Phương đã chết bất đắc kỳ tử trong một hoàn cảnh quá bi thương hay sao?

Gương mặt Tâm Giao tự nhiên tối sầm lại như chính nàng đang mang nặng một nỗi buồn. Mẹ nàng nhìn dáng con với vẻ ái ngại, tiếp tục nói như cố tình giải thích cho một người khác:

- Con cũng biết Tuyết Phương đã vô tình gánh lấy một cái chết đầy oan khiên và bất ngờ. Tội nghiệp cho cô ấy biết là chừng nào. Ai mà giữ được cho lòng khỏi vương mang thương xót. Ngay chính Tuyết Phương cũng không thể đành đoạn lìa đời giữa thời kỳ tuổi xuân đầy hoa mộng với những ước vọng của tương lai, của tình yêu với Ðoàn Hùng, và của những người thân yêu ruột thịt.

Lại với một cái chết đột ngột không thể ngờ như vậy nên hương hồn của Tuyết Phương chắc chắn còn nhiều tiếc thương lưu luyến, chưa đành tâm xa lìa thân xác, xa lìa cuộc sống với những liên hệ tình cảm luyến ái thường tình. Một cái chết như vậy, nếu không liên tục lễ tụng và các vị cao tăng chủ lễ không kiên nhẫn ôn tồn và thương yêu giải thích cặn kẽ mọi đều thì Tuyết Phương sẽ khó lòng an tâm ra đi lắm!

Bà cụ kịp ngừng lại ở đó. Bà nhìn con như đang dò xét thêm một đệ tam nhân vô hình đang ẩn dật trong chính xác thân con gái bà. Bà cố tình không nói rõ hơn với "họ" về những điều linh thiêng huyền diệu của một oan hồn vừa mới trải qua cái chết cực kỳ kinh hoàng và bất chợt, trong khi tâm tư còn đầy nghiệp lực luyến ái thì nhất định không thể tự yên ổn chấp nhận lấy những thương đau để an lòng ra đi trong thanh thản nhẹ nhàng...

Nhờ bà cụ đã thâm niên chay tịnh đạt đến một trừng giới thanh lọc cả thân cả tâm nhiều phần sáng suốt, lại kiên tâm trau dồi đạo pháp, tìm tòi, nghiên cứu uyên bác về những tri kiến siêu hình với các vị cao minh tu giới, và các bộ sách siêu linh khoa học nên bà hiểu rõ rệt những trạng thức siêu nhiên đang tuần tự diễn ra trong cái chết của Tuyết Phương. Và "cảm, nhận" ở hình hài, nhân dáng của con, bà hiểu và biết rõ phải gấp rút tiến hành đầy đủ và thật đúng các nghi thức tôn giáo dành cho một người chết trong những giai đoạn chuyển tiếp sinh hóa kéo dài trong suốt 49 ngày.

Bà đã điện thoại để trình bày, bàn bạc sắp đặt các nghi thức tịnh độ cho linh hồn của Tuyết Phương. Mặt khác, đích thân bà gọi mời và xin các vị cao tăng cùng hàng tăng ni phật tử, những người trong ban lễ tụng của chùa từ hôm nay liên tục cử hành các buổi lễ tụng tại nhà quàn bên cạnh quan tài của Tuyết Phương cho đến ngày chôn táng cho nàng.

Trò chuyện bên con gái một lát, bà mẹ của Tâm Giao chậm rãi đứng lên đi vào phòng, không quên dặn lại con gái:

- Con cũng vậy đó Tâm Giao! Hãy tạm gác những công việc riêng tư lại. Cố gắng đến tham dự các buổi lễ tụng tại nhà quàn để giúp cho linh hồn của Tuyết Phương sớm được siêu thăng tịnh độ, con ạ!

Nói với con nhưng chừng như bà đang nhắn gửi tâm từ cùng hương hồn người đã chết - Tuyết Phương - mà đoán chắc, đang hòa nhập lẫn lộn vào trong thân xác và thần trí người con gái thân yêu của bà. Bà thoáng "nhìn" ra khuôn mặt trĩu sầu của Tuyết Phương đang ẩn hiện phảng phất trên khuôn mặt mệt mỏi tái lạnh của Tâm Giao cho dù bà thật lòng không biết ngày hôm nay Tâm Giao - qua trung gian của kẻ vô hình - đã tự đem trong trắng hiến dâng để thất tiết với người bạn trai của người đã chết, nhưng bà vẫn không thể tránh hẳn nổi lo âu buồn phiền.

Giữa khuya đêm đó, bà cụ thức giấc sau một lúc chợp mắt ngắn ngủi, bà nhẹ nhàng xỏ chân vào đôi dép bông rón rén bước sang phòng của Tâm Giao khi nàng đang say sưa trong giấc ngủ miệt mài. Bà trở ra phòng khách thắp một nén nhang rồi quay lại phòng ngủ của con gái. Bà nhẹ nhàng ngồi xuống một cái ghế sau khi kéo tấm chăn mềm lên che kín sát cổ của Tâm Giao. Bà bắt đầu to nhỏ thì thầm y như một người đang thành tâm cầu nguyện:

- Này Tuyết Phương! Con hãy an lòng nghe ta nói chuyện. Ðây là tất cả những gì cần thiết ta muốn chân tình bày tỏ cùng con với tất cả lòng thương yêu của một người mẹ. Con cũng là một người mà ta rất thương yêu sau Tâm Giao mà thôi. Ta biết con rất đỗi đau buồn trước cái chết đau thương mà con vừa trải qua một cách đột ngột. Nhưng con phải hiểu, đó chỉ là nghiệp báo mà thôi, không có chi con phải lẩn quẩn mãi trong sắc giới muộn phiền. Con hãy yên vui đón nhận và nên quên bỏ đi tất cả mọi vướng mắc hữu hình. Ðiều này thực sẽ có lợi rất nhiều cho con.

Ta thực không đủ công năng để biết rõ nghiệp lực của con rồi sẽ ra sao sau khi con đã qua đời, con sẽ được siêu thăng viên mãn thoát khỏi sự tái sinh hay còn phải tái sinh để trả nghiệp làm người, làm súc sanh hay làm ngạ quỷ để trả dứt nghiệp lực của tiền kiếp đã qua. Nhưng ta muốn con hãy cùng ta hiểu rõ một điều, tất cả những gì con để lại trần thế như những tình cảm quyến luyến thân thương giữa con với thân tộc gia đình, giữa con với người thanh niên con sẽ dự định kết hôn, giữa con với các bạn hữu xa gần, trong đó có Tâm Giao, hay là những gì con hằng tư hữu về vật chất lẫn tinh thần, những thiếu đủ đói no, hạnh phúc buồn phiền, những của cải bạc tiền cùng những tương lai con từng hoạch định, ấp ủ.

Tất cả là những tạm bợ phù du. Tất cả là những giả cảnh vô thường, chúng không hề còn liên hệ và góp phần ích lợi cho con sau khi con đã chết. Ðó chẳng qua chính là nghiệp lực mà con phải gánh chịu. Chớ có luyến ái, oán hận, tiếc thương. Tất cả mọi nỗ lực của con để níu kéo lại những gì mà tâm linh con hiện thời còn đang vọng tưởng cũng đều bất lợi cho con. Tuyết Phương rất yêu quý! Bác nói thật cùng con, kinh nghiệm tức khắc của con sẽ chỉ là những niềm vui trong chốc lát, nó sẽ kéo theo những phiền muộn nhất thời có cường độ mạnh hơn, như sự căng thẳng và dùn lại của một sợi cao su. Con hãy nghe lời ta phủ dụ, chớ nên luyến tiếc cái vui, cũng chớ nên thù hận, chán nản vì cái buồn. Rồi mai đây, nhờ những nghi thức ân cần và đầy lòng tâm từ của các vị cao tăng, các tăng ni Phật Tử sẽ tụng niệm và dìu dắt con, các mối quan hệ từ thân tộc cho đến người yêu bạn bè, tất cả, họ sẽ cùng một chí tâm cao cả, sẽ đỡ con, sẽ giải thích, nhắc nhở và dẫn dắt con trở về đúng chỗ của con trong cõi vô hình để con được an bài theo nghiệp lực mà con đã có.

Biết đây con sẽ được tái sinh trên bình diện cao hơn.

Còn một điều này, cha mẹ con cùng những thân nhân đang còn sống, có thể vì muốn làm những điều ích lợi cho con theo cách họ nghĩ, sẽ hy sinh nhiều súc vật, tiến hành các cuộc tế lễ linh đình hoặc bố thí của cải, trong khi con, vì chưa nhận thấy lợi ích của các hành động ấy nên con có thể nổi giận khi nhận biết các việc kia vào lúc này sẽ đưa con tái sanh vào cửa địa ngục thì con nên giữ để khống chế các tư tưởng nóng giận, chúng sẽ khởi lên và làm hại tâm linh con rất nhiều.

Con hãy nghĩ đến mọi người mọi việc dù phải quấy ra sao bằng tất cả tấm lòng thương cảm. Hơn nữa, nếu con tự cảm thấy luyến tiếc tình cảm yêu thương, của cải còn để lại trên đời và giả như tất cả những thứ đó rơi vào tay người khác đến nỗi sẽ làm cho con uất hận thì điều này sẽ làm hoen ố toàn bộ tâm trí của con, nó sẽ đưa con đến trạng thái, thay vì con sẽ được tái sinh trong một bình diện cao hơn, sung sướng hơn, con sẽ bị tái sinh và thế giới của địa ngục hoặc ngạ quỷ.

Ta thí dụ với con thêm điều này, con và bạn trai của con, cháu Ðoàn Hùng từ nay sẽ vĩnh viễn thành hai miền âm dương cách biệt, ta hiểu được làm sao con chịu nổi khi mai đây, Ðoàn Hùng sẽ phải tự quên con đi, phải thương yêu và san sẻ tình cảm và thể xác với bất kỳ người con gái nào khác. Nhưng con cũng cần phải bình tâm nghĩ rằng vì tình con yêu Ðoàn Hùng sâu đậm hơn tất cả, con sẽ dốc toàn tâm lực để phù hộ và thu xếp hoàn bị cho cuộc đời tiếp tục của người thanh niên mà con không bao giờ còn có cơ hội để san sẻ cho nhau những hạnh phúc buồn vui cuộc đời.

Ðiều đó, mới chính là con yêu thương anh ta bằng một tình yêu cao cả. Vả lại, cũng chính như vậy, con sẽ cảm nhận được sức dẫn dắt mãnh liệt hơn. Vậy con đừng nghĩ làm gì đến những cái xấu xa ganh tỵ nữa mà hãy nhớ đến bất cứ tình trạng tín ngưỡng nào hoặc là con hãy bày tỏ một tình thương trong trắng và một đức tin khiêm nhường. Con hãy khấn cầu đấng đại từ đại bi và thiên thể hộ mệnh của con. Lời cầu nguyện chân thành theo hình thức ấy sẽ là một sự dẫn dắt vững chắc đối với con. Con có thể được bảo đảm không vị thất vọng. Ðiều này rất là quan trọng. Nhờ khẩn cầu như thế, một lần nữa trí nhớ sẽ đến, sự nhận biết với sự giải thoát sẽ được thành tựu cho con.

Những ngày sắp tới đây, các vị cao tăng minh mẫn, các tăng ni nhân hòa cùng tất cả mọi người thân thuộc sẽ dốc nhiều tâm lực để trì chú, lễ tụng, nhắc nhở và dẫn dắt con. Trừ phi là con không muốn, mọi điều tốt đẹp sẽ đến với con bằng sự siêu thăng tịnh độ. Con sẽ được nhận lãnh tất cả những ơn phước thiêng liêng này. Lúc bấy giờ, con sẽ nhận ra ngay rằng lòng vị kỷ, tiếc nuối, tham sanh, tham lợi, vọng tưởng... Thảy đều là những sức cản ghê hồn làm trở ngại con đường tiến hóa của con.

Con có nghe ta nói không? Một tương lai vĩnh cửu đang đón đợi con ở trước mặt. Con hãy bằng lòng từ bỏ tất cả để yên ổn quay về. Tâm Giao là người bạn thương yêu của con chí cốt cũng chỉ có thể đóng góp vào sự nguyện cầu ráo riết trong việc dẫn lộ đi đến chỗ đại định cho con mà thôi. Nó không thể làm hơn bất cứ điều gì. Con nên đi ra ngoài nó! Con nên đi ra ngoài nó! Con nên đi ra ngoài nó, Tuyết Phương! Rồi hãy trở lại vị trí hiện hữu của con.

Bà cụ ngừng bặt lời thì thầm vào đúng lúc Tâm Giao cựa mình thức giấc. Nàng nhận biết ngay có mẹ ở bên mình. Nàng nhỏm dậy dáo dác nhìn quanh như có ý tìm kiếm một hình bóng người nào. Mẹ nàng nói trong hơi thở:

Bác cám ơn con! Tuyết Phương. Con đã nhận ra những lời ta vừa cùng con tâm sự. Ta mong rằng con sẽ trở về, trả lại sự bình yên cho người bạn gái con hằng thương mến!

Tâm Giao gục đầu vào lòng mẹ như đứa trẻ còn thơ:

- Mẹ! Mẹ đang nói chuyện với ai vậy?

Tránh cho con nỗi sợ sệt, bà cụ cầm lấy hai bàn tay lạnh giá của con:

- Không! Mẹ đang cầu nguyện như mọi khi thôi. Con cố ngủ tiếp đi cho khỏe.

Nàng hỏi mẹ trong khi nhìn sang chiếc đồng hồ điện tử để trên bàn bên cạnh:

- Mấy giờ rồi mẹ nhỉ?

- Khoảng ba bốn giờ sáng thôi con ạ! Con còn có thể ngủ thêm mấy giờ đồng hồ nữa.

Bà cụ điềm đạm nhìn kỹ lại nhân diện của con. Cụ lơ đãng mỉm cười trong khi Tâm Giao nói với mẹ:

- Con ngủ thêm chút nữa rồi sẽ sửa soạn đến nhà quàn với Tuyết Phương. Hôm nay mẹ có đến cầu kinh cho nó không mẹ?

- Có! Mẹ sẽ đến cùng với các Thầy thêm lời cầu nguyện cho Tuyết Phương. Nếu bận con cứ đi trước, mẹ có thể nhờ anh con đưa mẹ đi.

Bà cụ chợt ngưng lại. Bà tự hiểu bà vừa nói lỡ một lời. Ðúng ra bà nên cùng với Tâm Giao đến nơi tang chế, như vậy, có thể bà sẽ có lý do hiện diện bên cạnh Tâm Giao cả ngày, tránh cho nàng khỏi bị Tuyết Phương điều khiển đi "lang thang" giống như ngày hôm trước.

Cũng may khả năng siêu linh của bà cụ chỉ có thể đạt được điều mà bà ta đã "nhận" ra được linh hồn của Tuyết Phương tạm lưu ngụ trong thân xác của con gái. Nếu bà biết được tường tận mọi điều đã xảy ra ngay thanh niên bạch nhật giữa Ðoàn Hùng với Tâm Giao, có lẽ bà sẽ lo ngại và buồn phiền cùng cực. Cũng may, cụ không biết rõ việc này, ngoại trừ sự kiện duy nhất nhìn thấy người con gái trở về nhà với dáng điệu mệt mỏi tả tơi...

Cả ngày hôm đó và tiếp theo ngày sau, Tâm Giao đều có mặt thường xuyên tại nhà quàn trong những giờ diễn ra các nghi thức lễ tụng dành cho hương hồn của Tuyết Phương. Có lẽ, những buổi cầu kinh và nhiều tiếng đồng hồ liên tiếp, các vị cao tăng đức độ đã thành khẩn khấn nguyện và ủi an, linh hồn của Tuyết Phương đã thức tỉnh và lấy lại được sự yên bình như những người chết bình thường. Chính nhờ như vậy mà linh hồn của Tuyết Phương đã có cơ may giác ngộ, an phận trở về bên cạnh thân xác cũ của nàng để lãnh hội những ân phước thiêng liêng mang lại từ các buổi lễ tụng.

Cũng chính nhờ vậy mà hồn phách của Tuyết Phương đã tự nguyện lìa bỏ thân xác dương lực của Tâm Giao nên Tâm Giao đã hoàn toàn trở lại trạng thái bình thường để bình tâm tiếp nhận thông báo của viên quản lý motel về căn phòng mà nàng đã thuê không ấn định thời gian. Trong một hai ngày liền, họ không thấy hai người trở lại như đã dặn, bắt buộc họ phải tìm cách xác nhận qua số điện thoại mà Tâm Giao đã viết xuống trong khi làm thủ tục check-in.

Nhưng trước ngày lễ động quan một ngày thì Tâm Giao thoắt nhiên trở lại trạng thái bồng bềnh ngẩn ngơ mơ mơ tỉnh tỉnh như ngày nàng đã cùng với Ðoàn Hùng đi mướn motel để vui vầy ái ân. Hồn Tuyết Phương lại tái nhập trong thân xác của Tâm Giao, nàng lại cùng với Ðoàn Hùng tái diễn cảnh ái ân cuồng vội miệt mài đến nỗi không thể nào che dấu được toàn vẹn những dấu vết khác lạ qua các hành động nhân dáng của Tâm Giao khiến bà mẹ của Tâm Giao lo đứng lo ngồi. Bà cụ tiết lộ khẩn cấp sự việc này với các vị cao tăng chủ lễ với mục đích cứu vớt người con gái thân yêu. Công năng tu tập cao dày của vị cao tăng đức độ thừa đủ nhận rõ sự việc khác thường này cùng với các diễn tiến huyền bí khác, nên ông từ tốn trấn an người mẹ đang rất bối rối vì hoàn cảnh của con:

- Bà cụ an lòng! Với những công đức hồi hướng cùng với các lễ nghi cử hành liên tục và hoàn bị trong chu kỳ 49 ngày, hương hồn cô gái trẻ này chắc chắn sẽ gặt hái niềm siêu thăng tịnh độ. Cô ta sẽ nhận được niềm giải thoát vô biên và không có lý do để lưu luyến cõi trần. Tôi cho rằng thời gian còn lại quá cấp bách và cảm huống của cô ta cũng đang bị thức bách liên hồi cho nên cô ta "nhập" lại vào thân xác con bà chỉ là những vớt vát thường tình trước khi vĩnh viễn ra đi.

Quả nhiên gần 15 ngày sau tính từ lần đầu vong hồn của Tuyết Phương lưu trú trong thân xác Tâm Giao với những diễn biến ái ân thầm kín cùng một người ở trong vị thế bị thụ động là Ðoàn Hùng.

Hôm nay, vào giữa xế trưa của một ngày oi bức mà Tâm Giao, như những ngày vừa qua nàng đã nếm trải, nàng vẫn cảm thấy buốt lạnh vô cùng. Nàng đang lái xe trên một lộ trình quen thuộc để trở về nhà trong tâm trạng lơ lửng từng bị vong linh chiếm hữu trong hơn mười ngày qua, khiến Tâm Giao sinh hoạt trong trạng huống một nửa tâm trí của nàng, một nửa thần trí và thói quen của người bạn gái đã chết.

Bỗng hai tai của Tâm Giao nghe như có một tiếng nổ nhẹ nhưng thật rõ rật ở trong đầu giống như một tiếng bật phá của cái nút chai bị bịt kín lại rồi được kéo mạnh ra. Nàng sực tỉnh sau cơn đồng thiếp kéo dài nhiều ngày, cùng một lượt với tiếng nổ nhẹ vừa nói, nhãn lực của nàng bỗng sáng lên, tia nhìn bỗng trong trẻo khác thường trong khi toàn thân nàng rực lên trong một nhiệt độ oi nồng bên trong chiếc xe nàng đã vô tình lên kính kín mít mà không hề mở máy lạnh. Mồ hôi Tâm Giao rịn ra khắp người. Nàng có cảm giác như toàn thân nhẹ nhõm, không vướng víu luộm thuộm như mấy ngày vừa qua. Bỗng nhiên, nàng như vừa "ngộ" ra một điều gì mà cho đến giây phút này, nàng mới thật sự tỉnh táo để nhận biết và cảm xúc tường tận chúng đang ngấm ngầm diễn tiến trong thân thể của Tâm Giao.

Tâm Giao vừa cảm thấy thanh thoát nhẹ nhàng vừa như có cảm tưởng như có điều gì bất thường đang diễn tiến, đang tuần tự âm thầm xảy ra bên trong châu thân người con gái. Những cảm giác mà chưa bao giờ trong đời, nàng cảm thấy tương tự. Bất giác, Tâm Giao lắc đầu như cố xua tan những ý nghĩ thật xa lạ và kỳ quái mà nàng chưa thể tự giải thích.

Chỉ có một điều Tâm Giao cảm nhận một cách khá rõ ràng là nàng đột nhiên thoát khỏi hẳn tình trạng giá lạnh triền miên. Còn nữa, nàng thật sợ hãi mỗi khi nghĩ đế việc sẽ trở lại khu nghĩa trang, nơi đã an táng Julianne Tuyết Phương, người bạn gái lâu năm thân thiết của nàng, mặc dù lúc nào nàng vẫn một lòng thương xót Tuyết Phương một cách sâu sắc và khó quên được những kỷ niệm của hai người khi xưa.

Ít tháng sau tính từ ngày an táng Tuyết Phương thì cái bụng của Tâm Giao mỗi ngày một lớn dần và sẽ khó có cách gì để che dấu nếu không có một lần gặp lại, Ðoàn Hùng đã thố lộ cùng Tâm Giao:

- Kết quả đó do chính anh tạo ra, anh đoan quyết với em như vậy Tâm Giao à! Nhưng xin em hiểu và tha thứ cho anh vì không làm sao anh thoát ra khỏi những phút mê lầm trong thời gian Tuyết Phương đột nhiên hóa ra người thiên cổ. Anh thường bị mê hoặc và lẫn lộn khi ôm em trong tay rồi cùng em ân ái. Dường như có một sức mạnh ngấm ngầm nào cứ bảo với anh, đó chính là thân xác của Tuyết Phương và anh không có gì để ngờ vực, nên đã qua nhiều lần cùng em trao đổi những công việc chồng vợ. Anh biết em oán hận anh vô cùng. Anh thành khẩn xin em cho anh một cơ hội để chuộc lại mọi lỗi lầm. Chúng mình sẽ làm đám cưới, thai nhi em đang cưu mang trong bụng chính là giọt máu đích thực của hai chúng ta.

Ðám cưới giữa Tâm Giao và Ðoàn Hùng đã diễn ra trong không khí vui vẻ, thân ái bình thường với hầu hết những người thân thuộc của cả gia quyến của Tuyết Phương đến tham dự góp vui trong ngày hợp cẩn của chú rể Ðoàn Hùng với cô dâu Tâm Giao thật đẹp duyên cầm sắc.

Sau ngày đó, đôi vợ chồng trẻ với học vấn đều thành đạt và có địa vị vững vàng trên đất Mỹ. Họ tận hưởng những năm tháng vui tươi trong cuộc sống tràn trề hạnh phúc bên nhau. Ðứa con gái đầu lòng chào đời bình thường, khỏe mạnh, thật khôi ngô đĩnh ngộ và có một dung mạo phảng phất nét đẹp kiêu kỳ của Tuyết Phương lúc nàng còn sinh thời.

Hóa Thân (Hiện Hồn)

Vợ chồng anh chị Khảm là người hiền lành hiểu theo ý nghĩa bình thường. Họ làm ăn chăm chỉ chí cốt. Dạo còn ở trong nước, cả hai anh chị đã quyết chí tìm đủ mọi cách để mong sao thoát ly đời nhọc nhằn gian lao nghèo khó. Vợ chồng anh chị xuất thân từ hai gia đình vừa đủ ăn đủ mặc. Tuy không đến nỗi nghèo khó lắm, nhưng so với những hàng phú gia địch quốc mà anh chị có khi chỉ được nghe đồn mà chưa bao giờ được chính mắt trông thấy, xem ra anh chị rất nôn nã với giấc mộng giàu sang và chưa bao giờ có được một ngày sống trong cảnh phú quí, rạng rỡ vinh hiển như những kẻ lắm bạc nhiều tiền cho nên niềm mơ ước làm cho anh chị luôn luôn nuôi nấng ấp ủ trong tâm tư, bảo nhau quyết thực hiện cho bằng được, bất chấp định luật "đại phú do thiên, tiểu phú do cần".

Họ lấy nhau vào đúng thời kỳ cả nước đang chìm ngập trong tình trạng kinh tế kiệm ước, việc làm ăn khó khăn, người khôn của khó, không dễ gì kiếm ra được nhiều tiền để cho đời sống anh chị với hai đứa con có được những ngày tháng mát mày nở mặt, khỏi phải thiếu trước hụt sau, làm việc gì cũng không thoát được cảnh giật gấu vá vai, đắp đổi qua ngày đoạn tháng, chật vật quá sức.

Anh Khảm lại kẹt cứng với đời sống của một quân nhân sĩ quan cấp nhỏ, rày đây mai đó, trên búa dưới đe. Lúc nào cũng phải lo thủ phận và chu toàn những nghĩa vụ của một thuộc cấp khôn khéo biết an phận thủ thường để khỏi phải ra chiến trường có thể mất chỗ đội nón như chơi, tuy rằng anh không phải ngày đêm tham dự những cuộc hành quân gian khổ chết chóc, nhưng anh vẫn phải chu toàn một lúc hai nhiệm vụ bắt buộc của người quân nhân, một là tiếp tế quân trang quân dụng cho các đơn vị hành quân trực thuộc, hai là phải tự biết cách để thù tạc đãi đằng những cấp chỉ huy quyền thế không chỉ bằng tiền bạc quà cáp hậu hĩnh, có khi còn đi lùng sục tìm những cô gái non dại, con cái của những người nghèo, anh tung tiền ra khuyến dụ mua chuộc để lén lút hưởng thụ hoặc đem dâng hiến cho thượng cấp, hòng giữ cho được vị trí yên ổn, ngồi mát ăn bát vàng ở hậu cứ, và điều này thì chị Khảm là người biết rõ ràng hơn ai hết, nhưng chị vẫn làm ngơ, để mặc cho chồng tung hoành, tự tung tự tác và tiếp tục ra tay làm hại các cô gái son trẻ con cái nhà nghèo. Chị có những ý nghĩa riêng của chị mà mãi đến sau này, ý đồ riêng tư đó của chị mới bị vỡ lở sau khi chị bị ám sát chết một cách oan trái.

Vì sống buông thả lả lướt ngấm ngầm như vậy, sau này anh Khảm có nhiều con rơi con rớt bởi kết quả của những cuộc đàn đúm ăn chơi với quan niệm hưởng thụ chẳng bao giờ anh cần lưu ý tới. Ðàng khác, để thực hiện được như vậy, anh Khảm chỉ còn cách cắt xén gian lận, hoặc ăn cắp bớt số lượng quân trang quân dụng, những nguồn tiếp liệu then chốt dành cho những đơn vị tác chiến ở trong kho để đem về nhà giao cho chị Khảm tìm manh mối bán tháo ra ngoài, chị mới mong nở mày nở mặt với những người đồng trang lứa và có được một đời sống tàm tạm xa hoa tươm tất và anh cũng được yên ổn vui sống bên vợ con với các cô đào non lúc nào cũng hăm hở sẵn sàng, nhòm ngó túi tiền chi xộp của anh mà tìm đến bán thân, trao đổi.

Anh Khảm vẫn biết làm như vậy là không đúng, là những nguyên nhân gián tiếp đem đến những thất bại ê chề cho những người bạn đồng ngũ ở ngoài tiền tuyến với những cái chết oan khiên tức tưởi của bao nhiêu người ngày đêm phải trực diện trước quân thù vì những nguồn tiếp liệu từ hậu cứ do anh nắm quyền cung ứng đã không được cung ứng đầy đủ. Nhưng anh Khảm không biết và càng cố tình không cần biết đến điều này. Anh thường nhủ để tự trấn an :

- Việc thắng bại chết chóc ngoài trận tuyến đâu phải lỗi tại mình, tại "số mạng" mà ra. Tụi Việt Cộng không hề có nguồn tiếp liệu binh đoàn dồi dào như mình, sao chúng vẫn chiến đấu được. Chẳng qua chỉ tại những chiến hữu đòi hỏi quá đáng chứ việc thắng bại nào có ăn thua gì đến ta. Ðối với các cô gái nhẹ dạ, anh đâu có ép buộc các cô phải bán rẻ tấm thân trong trắng. Chẳng qua đó chỉ là sự trao đổi công bằng, ăn cơm trả gạo, ăn cháo trả tiền, sau đó nếu có hậu quả gì, các cô phải tự lo liệu lấy, anh đã giao hẹn trước cả rồi, trách cứ anh sao được.

Tự bào chữa như thế cho nên anh Khảm cảm thấy yên lòng tiếp tục cùng các cô gái son trẻ trao đổi mua bán và ra tay vơ vét, ăn cắp ăn xén tất cả mọi thứ có thể lấy được để chu toàn nhiệm vụ của người sĩ quan tiếp liệu và nhờ đó, anh trở thành một quân nhân khá gương mẫu. Ðời binh nghiệp của anh thăng tiến như diều gặp gió với những bằng tưởng lục, ban khen đều đặn và thăng cấp đúng nhiệm kỳ chẳng khác chi mọi người mà trong suốt mười hai năm quân vụ, anh chưa bao giờ phải bắn một viên đạn nào cho đến ngày tan rã hàng ngũ, giống như bao nhiêu người, gia đình của anh chị phải bỏ của chạy lấy người, nhờ có sự giao du rộng rãi, lại thường lo lót từ bấy lâu nay cho nên gia đình vợ chồng con cái của anh chị được ưu đãi cho lên tàu di tản trước tất cả mọi người, tránh được bao nhiêu là sự chà đạp hỗn loạn tranh dành trong lúc tranh tối tranh sáng, thập tử nhất sinh, mọi người hối hả đạp lẫn nhau lên xác chết của nhau để đi tìm đường lánh nạn.

Chuyến hải trình chạy giặc cập bến an toàn, anh chị thở phào ra nhẹ nhõm, mỗi khi nghĩ đến những ưu đãi lúc nào anh chị cũng được hơn người nhờ vào sự lanh lợi khôn khéo. Ra được đến nước ngoài với hai bàn tay trắng sau bao nhiêu năm tận tình vơ vét khi xưa với dụng ý làm giàu, giờ đây, cả gia đình anh chị cũng chẳng đem theo được chút gì để làm lại cuộc đời, còn phải đối diện với một đời sống mới hoàn toàn xa lạ từ ngôn ngữ cho đến những sinh hoạt khác lạ hàng ngày, nhưng nhờ có khả năng khôn ngoan hoạt bát với ý chí phấn đấu hơn người, lại có sẵn quyết tâm làm giàu được nuôi nấng dài lâu trong tâm khảm, nên khi đến được vùng đất được mệnh danh là cơ hội này, chẳng bao lâu đã trở thành những người tỵ nạn giàu có với những mối làm ăn vĩ đại, bất kể công việc chánh tà với những người dị chủng, công việc doanh thương buôn bán lúc đầu còn từ từ hạn chế, sau mỗi lúc một thêm phát triển mạnh mẽ bền vững lạ thường, tiền bạc lợi tức như dòng suối chảy xiết đến với anh chị chẳng có khi nào ngừng nghỉ.

Với gia sản tiền rừng bạc biển, nhà cửa xe pháo tiện nghi văn minh cơ khí, hệ thống làm ăn qui mô đầy đủ, nhân viên thầy thợ phụ tá giúp việc có tới hàng mấy chục người anh chị đều nắm đủ trong tay. Anh chị tỏ ra tự mãn hơn người và lúc nào trong lòng cũng đầy hãnh diện về tài năng thao lược kinh bang tế thế của mình...

... Hôm nay, với bề thế cơ ngơi tài sản làm ăn sung túc, chắc chắn sẽ chẳng bao giờ anh chị còn sa sút khánh kiệt được, chắc chắn sẽ chẳng bao giờ anh chị phải sống lại những ngày tháng thanh bần đạm bạc như xưa. Anh chị với hai người con nay đã khôn lớn, nay đã trở thành những người Mỹ mũi tẹt da vàng, đã hóa thân từ mọi cung cách nói năng cư xử, đã thoát xác hoàn toàn, đã biến đổi và tách biệt khá xa với dòng sinh mệnh truân chuyên của nguồn gốc cũ với mọi sinh hoạt cung cách rập theo những tập quán mới mẻ văn minh, gia đình anh chị rất biết tôn trọng và đề cao tinh thần tự do tuyệt đối cùng những chủ nghĩa phục vụ cá nhân. Riêng về anh Khảm, anh đã trở thành một ông chủ lớn, anh có những thú vui cao cấp cầu kỳ hơn của một người có nhiề tiền của, chị Khảm thì cũng vậy... Chị cũng có nhân tình để thực hành việc "ông ăn chả bà ăn nem". Anh Khảm ăn chơi mèo chuột từ trong nước ra đến xứ người thì tại sao, chị không thể như vậy. Nhân tình của chị chính là anh tài xế lâu năm vai u thịt bắp, ít ăn ít nói, lái xe vận tải giao hàng, anh ta cũng có gia đình vợ con đàng hoàng tử tế và chỉ quan hệ với chị Khảm vào những lúc anh Khảm phải đi vắng nhà hoặc là những khi chị Khảm nổi hứng bất chợt, hai người mới lén lút hò hẹn gặp nhau. Sau đó, ai nấy trở về với vai trò cố hữu của mình. Có nhiều lúc anh tài xế cũng nổi chứng ghen tuông này nọ. Nhưng anh ta biết rõ, ngậm miệng chịu đựng là giải pháp thích hợp nhất để cho anh và chị Khảm còn có cơ hội gặp nhau, để cho mối dây gian díu còn tồn tại được đến bây giờ.

Danh lợi bạc tiền con người tạo dựng nên ở xứ này là một công thức biểu thị sự thành công, nó được thừa nhận một cách hùng hồn và trở thành cây kim chỉ nam bất di bất dịch, nó như một chất men say khó lòng làm cho con người thức tỉnh, khó lòng mà dứt nó ra một cách dễ dàng. Anh chị Khảm giờ đây có muốn cưỡng chống lại những nguồn lợi tức khổng lồ, có không muốn tiếp tục vun quén tài sản mỗi ngày cứ phát mãi lên trong lúc đã quá dư thừa cũng khó mà thi hành được.

Chính vì vậy, đời sống cá nhân của anh chị trở nên bận rộn và sống rất rời rạc với nhau. Hai người con của anh chị bây giờ đã lớn, họ đã nằm hẳn trong cơn lốc xoáy đến tối tăm mặt mày, không mấy khi có được một ngày giờ an nhàn rảnh rỗi, không mấy khi cả nhà họ có được một bữa cơm xum họp quây quần với những bữa cơm canh rau đạm bạc ngon lành xưa cũ, cũng không mấy đêm họ đi vào giấc ngủ thanh thản nhẹ nhành yên ổn thường bị chi phối bở những sự toan tính làm ăn, hẹn hò thương vụ đình đám xã giao, nói chi đến những vấn đề giải trí giản dị thanh tao, nói chi đến việc vun bồi cho đời sống nội tâm cùng những liên hệ tình cảm trong gia đình hoặc ngay cả với những con người đồng hương thân sơ khác.

Của cải thì mỗi ngày càng trở nên dồi dào phong phú, biến dần thành một thông lệ trói buộc, một thói quen không thể nào gián đoạn hoặc ngưng nghỉ, và thời gian để sống riêng cho nhau cũng theo tỷ lệ thuận mà càng ngày càng trở nên eo hẹp hạn chế hơn, anh sống theo anh, chị sống theo chị chẳng ai bận tâm đến ai cả...

Việc doanh thương đã được hương thịnh vững bền, chuyện hưởng thụ đã quá nhàm chán đến độ dư thừa trên đất Mỹ, có lần anh chị Khảm rủ nhau trở về thăm lại quê cũ phố cũ phố xưa. Chị Khảm chỉ chờ đợi có được cơ hội này. Chị lấy cớ phải ở lại Hoa Kỳ để thay anh điều hành công việc làm ăn trong khi anh đi vắng. Anh Khảm chẳng chút nghi ngờ. Anh đồng ý nhanh chóng để chị ở lại Hoa Kỳ, một mình anh trở về thăm lại cố hương không có điều gì cần thắc mắc với dự tính về nước để nghiên cứu phát triển chuyện làm ăn nhưng bên cạnh đó, anh cũng háo hức rạo rực trong lòng khi nghe những người đã đi VN trở về đây kể lại những chuyện du dương cụp lạc bên những cô gái son trẻ ở quê nhà với một số tiền chi ra rất ít.

Quả như lời đồn đại của những người đã từng về Việt Nam du lịch, khi anh về đến quê nhà nghèo nàn rách rưới, cư trú trong một khách sạn đắt tiền chỉ dành cho những du khách có thế lực, anh đã được người môi giới cho xem hình ảnh những cô gái trẻ đẹp sẵn sàng trao đổi rao bán thân xác và anh Khảm chọn ngay một bức hình của một cô gái khá đẹp trông vẫn còn thơ ngây trong trắng, anh đã bỏ một số tiền nhỏ chẳng đáng là bao ra mua.

Bạn tình hờ của anh là một cô gái đôi mươi, còn nhỏ hơn cả tuổi của hai người con anh đang ở Hoa Kỳ. Cô ta bình thản nhận tiền xong rồi nhờ người trung gian trao ngay lại cho người mẹ của cô đang gặp cơn bệnh hoạn rồi hiến trọn thân xác con gái cho anh. Thời hạn bán thân đã hết, cô gái đáng thương được mẹ của cô lên đến khách sạn chờ để đưa cô về nhà tại văn phòng quản lý. Anh Khảm kể ra cũng là con người nhân ái, anh đích thân đưa cô ta xuống tận nấc thang cuối cùng. Nhưng anh thật không thể ngờ khi anh nhìn thấy diện mạo của người mẹ cô gái. Làm sao anh có thể quên đi khuôn mặt người đàn bà đang chờ đợi đứa con gái, vốn là một trong số những người đã có quan hệ tình cảm mật thiết với anh khi trước, anh từng đã chiếm đoạt, xong rồi dâng hiến cho cấp trên và sau cùng, tàn nhẫn bỏ rơi trong lúc cô ta đã mang trong thân xác giọt máu của anh, anh không một lần ngó ngàng thăm hỏi. Người thiếu phụ này chính là mẹ ruột của cô gái anh mới vừa chiếm đoạt tiết trinh. Chính là người hơn hai mươi năm trước đây đã từng cùng anh chắp nối ân tình để rồi sau cùng, vì sự ràng buộc của người đã có vợ có con, anh phải truyền tay cô ta cho người khác để dễ dàng nói tiếng chia tay người thiếu phụ này với một số tiền nhỏ để bà ta tự tìm đường sanh nở.

Như vậy, đứa con gái vừa cùng anh trao đổi xác thịt chính là đứa con gái ruột thịt mang chính giọt máu của anh năm nào. Sự việc oan khuất đã diễn ra trong hoàn cảnh hết sức bất ngờ như một định mệnh vừa kinh hoàng vừa oan trái, khiến hai người lớn trong cuộc chỉ còn biết nhìn nhau mà nghe trong lòng quặn đau chua xót, chẳng nói được lời gì.

Người con gái nhỏ tuổi đáng thương vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng của một định mệnh an bài ngang trái, cô cảm thấy quá xấu hổ và đau khổ đến cùng cực, cô vùng khỏi tay người mẹ, thảng thốt phóng thẳng ra đường lộ giữa lúc một chiếc xe vô tình từ đâu chạy tới kết liễu mạng sống của cô. Phần anh Khảm cũng kinh dị không kém, anh ngẩn ngơ đến độ bàng hoàng, cố giữ cho lòng bình tĩnh, nhanh chóng anh bỏ lại cho người tình thiếu phụ lúc xưa một nắm bạc khá lớn để tự lo ma chay cho đứa con gái xấu số rồi anh gấp rút lấy vé máy bay trở về Mỹ sớm hơn dự tính đến cả nửa tháng trời.

Anh về đến nhà trong một đêm hôm khuya khoắt với tâm trí còn chưa vợi đi những cơn xúc cảm bàng hoàng sau chuyến du lịch Việt Nam để rồi bất ngờ anh phải chứng kiến thêm một hình ảnh không kém đau lòng khác nữa khi người vợ của anh đang công khai âu yếm nằm trong vòng tay của người tài xế giao hàng trong lúc hai người tin chắc anh còn đi vắng chưa về kịp.

Ðúng là "họa vô đơn chí, phước bất trùng lai". Anh Khảm lầm lũi rút êm ra khỏi nhà để mặc cho đôi gian tình mặc tình tự tung tự tác. Một lần nữa anh lại trốn chạy một thực tế quá đỗi đắng cay. Anh âm thầm bước ra khỏi nhà, đi tìm một khách sạn để lưu ngụ tạm trong một thời gian với dụng tâm đợi chờ cho tất cả những xao động kinh hoàng vừa xảy ra, lắng xuống rồi anh mới lần lượt giải quyết từ từ, nào ngờ băt đầu từ giây phút ấy, tâm trí anh như kẻ lạc thần, lúc mê lúc tỉnh, lúc giận lúc yên. Tự nhiên trong anh như có một mãnh lực vô hình đốc thúc anh phải thi hành những công việc rồ dại của một gã điên. Biết bao nhiêu ý tưởng oán hận chập chùng cứ dâng lên ngập đầy trong tâm trí rối bời của anh, bất cứ lúc nào những ý nghĩ này cũng khiến xui anh phải mau trở lại căn nhà của anh để tận diệt đôi gian phu dâm phụ. Anh cố gắng trấn tĩnh để khỏi vướng vào những công việc điên rồ tai hại rồi anh đã thiếp đi từ lúc nào.

Ðứa con gái bán trinh cho anh ở Sài Gòn hiện ngay ra trong tâm tưởng của anh trong cơn mệt nhoài đồng thiếp. Tấm thân mảnh mai của nó có lúc được che phủ bởi những làn khói sương khi mờ mờ ảo ảo, có lúc hiện ra trần truồng. Anh cố nhắm mắt lại để xua đuổi hình ảnh đó đi, nhưng bên tai anh đã có tiếng nói của nó lanh lảnh cất lên:

- Ông không thể trốn chạy được! Những lầm lạc tội lỗi của ông gây ra từ bao lâu nay thấu động tới tận cõi trời, ông tưởng ngoài ông ra không còn ai hay biết? Bây giờ là lúc bắt đầu ông phải trả những món nợ đời.

- Tôi... Ba... xin... hãy tha tội chết cho tôi. Tôi vướng mắc chuyện đó với cô bằng tất cả sự vô tình. Tôi không cố ý...

Vong linh người con gái bán thân bị xe cán chết bất đắc kỳ tử ở Sài Gòn cười rít lên nghe ghê rợn:

- Phải! Ông đã vô tình. Ông đã bao nhiêu lần dùng đến mãnh lực đồng tiền để chiếm đoạt niềm an lành và sự trắng trong của bao nhiêu người đàn bà con gái, vậy mà ông vẫn chưa yên, ông vẫn mải miết thi hành. Tội lỗi của ông không có đất trời nào có thể dung thứ, ông đã tự tạo nên bao nhiêu nghiệp chướng cho mình, nghiệp báo này đã vận ngay tức thời để ông trở về hãm hại tôi, hãm hại chính đứa con mang máu thịt tội lỗi của ông hơn hai mươi năm về trước. Bây giờ đến lượt chính ông phải đền trả những nghiệp báo đớn đau này. Người vợ của ông giờ đã ra sao thì lúc nãy ông trở về nhà chắc ông đã biết. Chắc chắn ông phải giết chết bà ta để rửa hận cho mối đau phản trắc này, vậy ông hãy mau làm điều này trước rồi sau đó mới tới những điều kế tiếp...

Nói xong bóng ma mất hút trong căn phòng khách sạn vắng tanh. Anh Khảm chợt tỉnh táo được đôi chút, trời không mấy nóng nực mà mồ hôi của anh vã ra dầm dề. Anh dáo dác nhìn quanh, mọi vật trong phòng vẫn lặng lẽ tứ bề. Hai bên tai anh bỗng nhiên như có những cơn gió cực kỳ thổi mạnh, anh chỉ nghe thấy những tiếng rít gào và chừng như anh đang lạc vào một thế giới hỗn độn nào khác ngoài cõi trần gian, rồi như có một sự thúc đẩy vô hình, anh bật đứng lên khỏi chiếc ghế bành. Anh lái chiếc xe mướn tạm chạy như bay trở về căn nhà, nơi có hai kẻ gian tình đang ngang nhiên tình tự. Anh không còn đủ bình tĩnh đứng chứng kiến hai kẻ gian dâm, từng nhát dao uất hận, anh chém loạn đả trên thân thể của hai người cho đến khi họ không còn động đậy, anh mới lách mình khóa trái cánh cửa để đi ra.

Ngay bữa sau, báo chí cùng các cơ quan thông tin đã đồng loạt loan tải nguồn tin thiếu phụ chủ nhân một công ty xuất nhập cảng người Á Châu đã bị giết chết bên cạnh tình nhân cũng bị thương tích trầm trọng nhưng thoát chết trong lúc chồng bà ta vắng nhà với lời bình luận: không tìm ra dấu vết hoặc tông tích của kẻ sát nhân, sự việc còn đang được tiếp tục điều tra.

Ðợi cho việc mai táng nạn nhân xấu số lắng dịu đôi chút anh Khảm mới thực sự quay trở về nhà với thái độ im lìm khó hiểu trong lúc người tài xế tình nhân còn đang bị câu lưu để nhà chức trách tìm ra manh mối. Dần dà, sự việc cũng chìm dần vào quên lãng của thời gian, không ai còn dịp để nhắc nhở tới.

Phần anh Khảm thì rất đỗi buồn phiền đến bỏ ăn bỏ ngủ, anh như kẻ mất hồn, không còn chút nghị lực tâm trí nào để dòm ngó đến những công việc kinh doanh thường lệ. Người ta lầm tưởng anh buồn đau u uất bởi cái chết thảm khốc của người vợ ngoại tình. Nhưng không ai biết đích xác được rằng anh đau buồn và tỏ ra dở điên dở dại, bỏ bê tất cả mọi công việc điều hành làm ăn chỉ vì nỗi niềm ăn năn sám hối chính anh đã hãm hại và đưa đến cái chết oan nghiệt của người con gái ruột của anh đã bị bỏ rơi, rồi ma đưa lối quỉ dẫn đường tìm đến đổi chác ăn nằm với cha ruột của mình cùng với những hiện tượng huyền bí sau này diễn ra bởi vong hồn oan khuất đớn nhục của người con gái không bao giờ có thể siêu thoát.

Hai người con của anh chị Khảm tuy đã khôn lớn nhưng chỉ biết tiêu xài, chưa đủ kinh nghiệm để thay thế người cha đột nhiên dở điên dở dại chẳng còn tha thiết đến bất cứ sự việc gì. Họ không cáng đáng nổi những cơ sở kinh doanh phức tạp đó cho nên chẳng bao lâu trở nên suy sụp và phải lo gấp rút sang nhượng tất cả lại cho những doanh nhân khác cho đến khi cơ ngơi đồ sộ của anh chị Khảm chẳng còn lại được gì. Người ta phải đem anh Khảm ký thác vào trong một y viện tâm thần để mong anh được chữa trị khi bệnh điên đã thực sự hoành hành tâm não của anh.

Hoàn cảnh thương tâm của anh chị Khảm, một người tỵ nạn thành công tột bực trên đất Mỹ bỗng nhiên sụp đổ tan tành khiến cho nhiều người không hiểu rõ ngọn nguồn câu chuyện chỉ biết chép miệng thở dài tiếc nuối. Mấy ai hiểu ra rằng ông trời là người cực kỳ tinh tai sáng mắt và rất mực nhân ái công bằng. Thượng Ðế đã ban cho gia đình anh chị Khảm có một cuộc đời giàu sang thịnh vượng, một mệnh số hanh thông may mắn. Nhưng khi đã đạt được mọi thứ một cách khá dễ dàng, con người ta trở nên hợm mình kiêu ngạo, không biết chế ngự lấy những tham vọng vô độ của chính mình, tự nhiên cho rằng mọi sự thành công và những điều khôn ngoan lanh lợi là do chính mình có được hơn người chứ hoàn toàn không phải là những sự may mắn, những cơ hội thành công, những ưu ái của một đời sống phú quý sang giàu được bắt nguồn từ những phước báu còn lưu lại, còn tích tụ bởi rất nhiều tiền kiếp xa xôi để rồi không còn quan tâm đến phần đạo đức tâm linh, để rồi khinh khi miệt thị tất cả mọi người kém may mắn, mọi điều thuộc về tâm linh huyền nhiệm, để rồi nhắm mắt bước càn, lộ ra cái tâm địa đầy dục vọng tham lam, đầy thói hư tật xấu khinh mạn ngất trời để tự mình rước lấy những hậu quả vô cùng đáng tiếc. Còn khi hiểu được ra thì mọi sự đã rồi, không bao giờ có cơ cứu vãn, uổng phí cả một kiếp người đáng lẽ là một phần thưởng vô cùng cao quí mà Thượng Ðế đã ban cho sau hằng bao nhiêu kiếp tu tập mới được diễm phúc làm người, nhất là làm người của một dân tộc thanh cao như dân tộc Việt Nam đang được khắp năm châu ngưỡng phục.

Tình Oan Nghiệp Báo

(Phần 1)

Người Việt ở ngoại quốc nói chung, ở Hoa Kỳ nói riêng, sau hơn mấy mươi năm lưu lạc đã trở thành một biểu tượng sâu sắc và gương mẫu khiến cho đa số người dị chủng dành cho sự thán phục xen lẫn cảm tình và quan tâm, đến nỗi họ xem những tập quán cố hữu của tiền nhân chúng ta để lại được lưu truyền tại đất này đúng như những tấm gương trong sáng, họ cần tìm hiểu và học hỏi về những đặc tính thông minh đạo hạnh, cầu tiến, cần cù nhẫn nại từ từng cá nhân, gia đình cho đến cộng đồng xã hội.

Tuy vậy, thỉnh thoảng hoặc đôi khi trong cuộc diện sinh hoạt thường hằng của người Việt tỵ nạn, vẫn thường xảy ra những tệ đoan xã hội thật đáng tiếc khiến báo chí hay các cơ quan truyền thông phải đề cập tới bằng những lời lẽ hằn học hoặc công kích phê bình thiếu vô tư dành cho cộng đồng người Việt, mà thực ra, khó có cộng đồng nào có thể tránh khỏi giữa một quốc gia tạp chủng và lại tự do đến độ gần như mù quáng này. Nhưng nếu tỉ mỉ đem so sánh bằng sự công tâm qua mật độ dân số giữa các nước đang cùng sinh sống trên vùng đất này, người ta sẽ nhận ra rằng, những dữ kiện xấu do thiểu số thanh thiếu niên Việt Nam gây ra bởi sự nông cạn nhất htời vẫn chỉ là một tỷ lệ nhỏ. Tuy nhiên, cho dù nhỏ đến thế nào đi nữa, thì thường khi phải chứng kiến một sự kiện không tốt đột ngột xảy ra ở bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào, nếu thấy có tính cách xúc phạm đến thanh danh của dân tộc, thì có thể nói, hầu như mọi người Việt Nam ở đây đều sẵn sàng can thiệp hoặc trợ giúp tức thời những người gặp nạn với một tinh thần hăng hái hoặc bằng những giải pháp hoàn toàn thích hợp và đầy ắp tình người.

Trường hợp của người thanh niên tên Ðức bị một vong hồn thiếu nữ nhập xác, biến anh thành một người dở khùng dở dại, bỏ phế đời sống tươm tất cùng công ăn việc làm ổn định, đêm ngày đi lang thang nơi đầu đường xó chợ, chuyên tìm kiếm bươi móc, ăn uống các loại uế tạp cặn bã dư thừa hư thúi ở các thùng chứa rác rưởi là một thí dụ điển hình về tinh thần đạo hạnh và tình nghĩa nhân ái thâm sâu của các đồng bào ruột thịt.

Là một thanh niên chăm chỉ, có học vấn lại hiền lành khỏe mạnh, nhân dáng chững chạc dễ coi. Nhưng câu chuyện của người thanh niên một thân một mình tên Ðức này vượt biên chung trên một chiếc thuyền nhỏ bé mỏng manh cùng với mấy chục người khác thuộc đủ mọi thành phần nam nữ tuổi tác rồi đã phải nếm trải qua những phút giây cực kỳ kinh hoàng man rợ, diễn ra bởi bọn cướp biển không còn một chút tính người. Chúng hung hăng lục soát chiếc thuyền không chừa một ly tấc, để vơ vét tiền bạc nữ trang của tất cả những người đi trên tàu. Dã man và đau lòng nhất là thủ đoạn lang thú hoang dâm của chúng dành cho những thuyền nhân đàn bà con gái. Chúng thay phiên nhau hành hạ thân xác những cô gái trẻ tuổi có chút ít nhan sắc đến nỗi, trong số những phụ nữ kém may mắn này có một thiếu nữ tuổi ngoài hai mươi với khuôn mặt đẹp như trăng rằm, khiến cho Ðức không thể giữ cho lòng không rung động và thầm yêu cô ngay từ phút đầu tiên khi anh vừa chạm mặt trên con thuyền định mệnh. Sau này, Ðức được biết tên cô gái vượt biên mang dáng dấp quý phái và sắc đẹp tuyệt trần đó là Trâm, con gái của một nhân vật dân sự nổi tiếng thuộc chế độ cộng hòa.

Mười sáu năm về trước, chiếc thuyền nhỏ bé có sự hiện diện của Ðức và cô gái đẹp tên Trâm đã thoát được mạng lưới canh gác nghiêm ngặt của công an ven biển, ra được đến hải phận quốc tế sau ba ngày rời khỏi "bãi đáp" từ một eo biển hoang vắng thuộc thị xã Vũng Tàu. Lúc bấy giờ, thời tiết đang vào giữa tháng tư trời êm sóng lặng mà bỗng nhiên biển cả hậm hực chuyển mình. Từng đám mây nặng nề đột nhiên phủ kín bầu trời không còn vương một tia nắng nhẹ. Mặt biển và không gian mênh mông thoáng chốc chìm đắm trong một thế giới tăm tối mịt mù. Những cơn sóng dữ bắt đầu chuyển động rung chuyển cuồng nộ, thét gào và xô đẩy con thuyền xấu số, có lúc nằm lơ lửng chênh vênh trên đầu ngọn sóng, có lúc bị vùi dập chìm sâu giữa hai vách tường nước đen ngòm. Gió phũ phàng thổi tới từng chập lắc lư, tạt từng đợt nước mưa xối xả lạnh căm lên thân xác những con người vượt chết đi tìm tự do.

Cơn giông bão thịnh nộ đến xế trưa mới chịu nhẹ dần. Biển bắt đầu dịu lại, hiện ra dưới bầu trời loang loáng ánh tà dương, cũng là lúc động cơ ba ngựa của con thuyền nhỏ không còn có thể hoạt động thêm được nữa vì số lượng dầu chứa trong gần hai chục chiếc bình bằng nylon đã bị sóng đánh văng ra trên mặt biển từ lúc nào. Những "can" đựng nước ngọt dự trữ cũng cùng chung một số phận. Con thuyền nhỏ bé bấy giờ chỉ còn có cách để cho thả trôi lênh đênh trên triền sóng, không biết số phận rồi sẽ ra sao. Thời gian kéo dài đến gần giữa khuya thì đột nhiên, trong đêm đen mênh mông u tối, gió rít lạnh người, bỗng hiện ra những ánh neon dập dềnh khi mờ khi tỏ bồng bềnh ẩn hiện theo từng đợt sóng nhẹ lắc lư.

Thoáng chốc những ánh đèn đó từ từ tiến lại thật gần, thật gần cho đến khi mọi người trên chiếc thuyền tỵ nạn khốn khổ nghe thật rõ những âm thanh man rợ của những tên quỷ dữ đội lốt người đang đắc chí nhảy múa reo hò. Mọi người nhận ra được, đó chính là chiếc tàu sắt dềnh dàng to lớn của bọn thảo khấu đại dương (cướp biển). Chúng chiếu ngọn đèn sáng rực xuống chiếc thuyền tỵ nạn, nơi đang lố nhố những con người thất thế tội tình, tự biết rằng đã sa vào tay của bọn quỉ dữ. Họ vừa la vừa khóc kêu gào thảm thiết, vừa đọc kinh vừa niệm Phật và xúm nhau cúi lạy bọn thảo khấu như tế sao. Nhưng chúng dửng dưng chẳng chút quan tâm, đâu cần lưu ý tới những hành động vô tích sự này. Chiếc tàu sắt ngụy trang dưới dạng tàu săn lưới từ từ cập sát vào main chiếc thuyền nhỏ mong manh.

Chúng đứng lố nhố quan sát chiếc thuyền tỵ nạn kỹ càng rồi quăng xuống một chiếc thang dây và bi bô bằng một thứ ngôn ngữ lạ lẫm không ai trên thuyền có thể hiểu được. Chúng ra hiệu bằng tay cho biết, tất cả phải rời bỏ chiếc thuyền để leo lean con tàu của chúng cho đến khi thực sự không còn lại một người nào, chúng mới hạ lệnh cho mọi người tự động chia thành hai nhóm, một nhóm đàn ông bị đẩy tới đứng ngồi riêng biệt ở một góc sàn tàu, nhóm còn lại gồm trẻ em, đàn bà con gái bị xô lùa tới một bên, với từng tràng âm thanh dọa nạt quát tháo đinh tai nhức óc nghe đến rợn người.

Bất thình lình một người đàn ông tỵ nạn dáng người trông khá vạm vỡ chợt nhìn thấy hành động quá tục tằn bỉ ỏi của một tên hải tặc diễn ra với một phụ nữ, có lẽ chính là vợ của ông ta, nên ngay tức thời, ông ta liều lĩnh xấn tới, lao mình vào tên hải tặc, bèn bị ngay tên này dùng chiếc búa đẽo hắn đang cầm sẵn trên tay bổ ngay một phát lên chính giữa đỉnh đầu giống như hắn bổ một trái dừa, khiến cho người đàn ông gục xuống chết tốt không kịp một lời kêu la trăn trối, chiếc đầu của ông ta bị chẻ làm đôi, máu và óc phun ra tung tóe khắp nơi trông đến rợn người.

Thảm cảnh đó diễn ra chưa đầy một phút cũng đủ khiến cho tất cả mọi người bỗng nhiên biến thành những xác thân co rúm tê liệt, không ai còn giữ được chút khả năng chống đối, ngoài những tia mắt cực độ bàng hoàng cùng những tiếng la hét thất thanh hỗ độn. Chúng bắt đầu bộc lộ trắng trợn thú tánh của lũ người súc sanh tội lỗi, ngang nhiên biểu diễn những hình ảnh hành hạ thân xác của những thiếu nữ, đàn bà. Lẽ tự nhiên, người con gái đẹp tên Trâm mà Ðức đã thầm đem lòng yêu thương ước vọng từ mấy ngày qua cũng không thoát khỏi bọn hải tặc dã man khát tình. Nhất là cô lại là một người nhan sắc có sức thu hút mãnh liệt nhất trong số những nữ thuyền nhân này, cho nên cô thật khó tránh khỏi gánh chịu một hậu quả thê thảm hơn tất cả mọi người.

Phần Trâm, ngay từ phút giây thứ nhất khi cô nhận biết đã lọt vào tay của lũ cướp biển man rợ, đến khi bị tên hải tặc biểu lộ nhiều quyền uy nhất, dáng chừng hắn là kẻ chỉ huy, tiến đến lôi phắt cô ra một chỗ trống trên sàn tàu để bắt đầu dở trò tồi bại, cô đã tự biết mình sẽ bị tên lang sói mọi rợ này sẽ dập dùi thân xác của mình. Cô bàng hoàng kinh sợ, miệng khấn nguyện liên hồi, trong khi đôi cánh tay yếu đuối cố sức vùng vẫy chống cự nhưng không đưa đến một kết quả nào, đôi mắt của cô hướng về phía đám đàn ông tỵ nạn, giờ như một đám người vô dụng như van nài một sự ra tay cứu vớt, nhất là nơi đám người đó, có một chàng thanh niêng mà cô cũng rất có cảm tình. Trong giây phút tuyệt vọng tận cùng không còn có thể trông cậy vào phép lạ nào có thể cứu độ cho cô thoát khỏi nhục hình trước tên hải tặc, cùng với giác quan bén nhạy của một người con gái, một mặt cô thành tâm khấn nguyện, sám hối và tụng niệm các bài kinh cứu khổ cứu nạn, khẩn cầu đức Quan Thế Âm Bồ Tát nhủ lòng từ bi hỉ xả ra tay cứu vớt, một mặt cô đã nhận thức được cảm tình của người thanh niên đi chung thuyền mà cô mường tượng được rằng người thanh niên này đã dành cho cô những tình cảm rất chân thành sâu đậm giữa hai người khác phái. Cô hướng tầm mắt van nài về phía người thanh niên tên Ðức, lúc bấy giờ cũng chỉ biết lặng yên thúc thủ, ngồi co ro khúm núm như một con chuột nhắt trước đám mèo rừng đầy nanh vuốt, anh ta trố mắt ra nhìn mà không dám chứng tỏ thái độ phản kháng nào dù thật nhỏ nhoi khiêm tốn. Còn về những ý nghĩ ăn năn sám hối, cầu trời khẩn Phật của Trâm, tuyệt nhiên chỉ như những lời kinh tan vào thinh không vô vọng.

Cuối cùng, việc đen tối phải đến đã đến, cô bị tên hải tặc vật ra hành hạ một cách tàn bạo không chút gượng nhẹ xót thương. Sau khi thỏa mãn thú tính chán chê, một tên khác tiếp tục lao vào, rồi lại một tên khác nữa cũng hăm hở dày vò thân xác của cô lúc bấy giờ đã trở nên quá đỗi bầm dập và đau đớn cho đến khi, cô không còn sức chịu đựng thêm những cực hình nhục thể, thì linh hồn cô đành lìa khỏi xác, trút hơi thở cuối cùng trong màn đêm đen hoang lạnh, văng vẳng bao nhiêu tiếng người gào thét khóc than.

Trước khi vĩnh viễn lìa trần, Trâm - tên người con gái vắn số - không quên để lại một tia nhìn tuy yếu ớt song tràn đầy oán hận về phía người thanh niên tên Ðức khiến cho anh ta luôn luôn bị ám ảnh triền miên mãi cho đến suốt những năm tháng sau này.

Sau khi hả hê cướp bóc, giết chóc dã man và hãm hại những người tỵ nạn xa cơ vô tội, bọn cướp biển xua đuổi những người còn sống sót sau cơn kinh hoàng trở lại con thuyền nhỏ của họ và ném theo cho vài "can" dầu cùng một ít lương khô vặt vãnh, chúng quay mũi tàu phóng đi mất hút trong lòng biển đêm đầy gió lộng.

Ít ngày sau, chiếc thuyền nhỏ bé như chiếc lá lênh đênh của đám người vượt chết ra đi tìm tự do may mắn trôi dạt đến được một dàn khoan dầu, họ được tiếp cứu và được đưa tới một trạm tiếp nhận thuộc phía bắc quần đảo Mã Lai. Khoảng một năm sau, đám người này được phân tán nhận cho đi định cư tại các quốc gia đệ tam. Riêng người thanh niên tên Ðức được một cơ sở thiện nguyện Hoa Kỳ nhận cho anh vào Mỹ.

Bước chân lưu lạc của Ðức nổi trôi theo dòng đời. Anh sớm ý thức được thân phận đơn lẻ của mình nơi xứ lạ quê người, tứ cố vô thân, không một ai là bà con ruột thịt. Ðức vùi đầu vào việc trau dồi Anh ngữ cho đến khi chấm dứt thời hạn thụ hưởng trợ cấp xã hội thì anh cũng vừa vặn học xong nghề điện tử, kiếm được công ăn việc làm với đồng lương khiêm tốn, thăng tiến dần theo năm tháng. Nhờ vậy, Ðức đã sớm ổn định được cuộc sống cá nhân, lại có dư điều kiện để viện trợ kinh tế đều đặn cho gia đình còn ở lại quê nhà.

Những tưởng cuộc đời thường nhật của một thanh niên tỵ nạn mẫu mực như Ðức được vậy kể cũng đã tạm yên nếu thỉnh thoảng anh không bị nỗi ám ảnh kinh hoàng về tấn bi kịch hải tặc diễn ra trên biển đông năm nào với đôi mắt lạc thần van lơn của người con gái tên Trâm cùng cái chết thảm thiết đau lòng, khiến anh không thể nào nguôi ngoai quên lãng. Luôn luôn Ðức cảm thấy vô cùng khiếp sợ bối rối cộng thêm niềm tiếc hận mỗi khi mường tượng lại từng chi tiết trong thảm kịch này. Nhất là ánh mắt đáng thương đầy tuyệt vọng van nài của cô gái đẹp đẽ năm xưa, dường như có một ma lực huyền bí nào đó vẫn cố tình đeo đuổi, ám ảnh và trách cứ trong tâm tư hằng ngày.

Ðã bao đêm từ khi được rời đảo định cư tại xứ này, Ðức chập chờn thao thức hoặc choàng tỉnh giấc sau những cơn ác mộng nặng nề với hình ảnh bi thương quằn quại của người con gái khốn khổ trong đôi tay hoang dại của bầy cướp biển hung bạo cùng với ánh mắt kinh hoàng lạc thần của Trâm đến nỗi, anh có cảm tưởng nàng đang lẩn khuất đâu đây, và chừng như nàng vẫn bám sát theo anh đêm ngày và thường xuất hiện trong anh với những giấc mơ đầy kinh dị, không thể nào tẩy xóa và có thể quên đi trong đời, cho đến một ngày, giống như một người thua cuộc, Ðức không còn đủ nghị lực để duy trì sự bình yên sáng suốt trong tâm não. Anh cảm nhận như thấy có niềm hối hận vô bờ, tâm tư anh mỗi ngày một thêm hoang mang ray rứt và ý thức rõ ràng anh thật đáng tội ươn hèn trước khổ nạn của những đồng bào ruột thịt và của người con gái tên Trâm. Nhưng giờ đây, anh không biết phải làm gì để xua tan nỗi niềm ăn năn tiếc hận của một người thanh niên không chu toàn nghĩa khí đàn ông trước thảm cảnh bi thương.

Ðức hay ngao ngán thở dài, anh lắc đầu xua đuổi những ý nghĩ đen tối quấy nhiễu tâm thức của anh và thường đổ vấy cho số phận đã an bài, rồi âm thầm cầu nguyện cho oan hồn người con gái đẹp mà anh vẫn còn thầm yêu trộm nhớ đã bị uổng tử năm xưa để nàng được sớm siêu thăng tịnh độ trong cõi ta bà.

Nhưng sau cùng, tự nhiên Ðức trở nên một người không còn lý trí. Mọi sinh hoạt của anh trở nên xáo trộn bê trễ rồi anh tự ý bỏ ngang công việc đang làm, đi lang thang như người hành khất, miệng lảm nhảm những lời lẽ vô nghĩa không đâu. Tia mắt của anh dại đi như kẻ mất hồn. Khốn thay! Anh lại không có lấy một người thân thiết để mà nhắc nhở hoặc chạy thày chạy thuốc cho anh, săn sóc giúp đỡ anh có được những bữa cơm độ nhật qua ngày. Tình trạng đó diễn tiễn mỗi ngày một thêm trầm trọng, Ðức đói khát triền miên rồi dần dần mất hết trí khôn. Thân thể của anh sa sút não nề, không còn giữ được chút phong độ khi xưa, sắc khí anh trở nên xanh xao ốm yếu lạ thường. Quần áo tóc tai anh bờm sờm rách rưới tả tơi và hôi hám đến lợm người, không ai chịu nổi mùi xú uế thoát ra từ áo quần thân thể của anh. Ðức thường lom khom lầm lũi bước những bước chân chuệnh choạng yếu ớt lê lết đến những ngõ ngách vắng người và tìm đến nơi có những thùng chứa rác để bươi móc tìm tòi miếng ăn. Gặp được bất cứ cái gì có thể nhai được trong miệng là anh vơ lấy ăn nghiến ngấu không còn biết phân biệt được sạch dơ hay thúi rữa ghê hồn.

Nhiều người cảm thấy rất bất nhẫn khi tình cờ chứng kiến một kẻ đồng hương dở ngây dở dại, lem luốc dơ bẩn, đáng thương như Ðức lê la lam lũ ở lề đường khiến họ động mối từ tâm, cố gắng bịt mũi nín thở tiến lại bên anh để ủy lạo, cho tiền hoặc cho phẩm vật thức ăn và ân cần hỏi han tương trợ. Nhưng đối với Ðức, anh đâu còn lý trí sáng suốt để phân biệt phải quấy ra sao, tâm thức anh dường như đang chịu sự chi phối nặng nề của một kẻ vô hình nào đó chứ không còn thật tính người, anh cũng chẳng còn có thể nhận biết được điều gì, chẳng còn nghe và hiểu được những lời chuyện trò mọi người thăm hỏi. Ngày lại ngày, anh vẫn lầm lũi chân thấp chân cao bước tới những chỗ có rác rến để tìm ăn uống những phế vật hôi hám dư thừa.

May sao có người đồng hương nhận ra được tình trạng đáng thương và khác lạ nơi anh. Ông ta vội vã đưa Ðức đến một ngôi đền, nơi đang có các vị pháp sư cao minh hành đạo, các vị này trong bao nhiêu năm tạm dung trên đất Mỹ, từng khiển dụng âm lực cao cường để làm việc phước đức hoặc thực hành các bí pháp chân truyền nhằm hòa giải những xung đột, bất mãn, nợ nần oan khiên giữa hai miền âm dương cách biệt và chế ngự các tà ma hung hăng ác nghiệt để cứu nhân độ thế.

Ðến ngôi đền, mặc cho người đồng hương xô đẩy trì kéo, oan hồn cô Trâm trong Ðức khăng khăng không chịu bước vào, cho đến khi nhiều người hợp sức lại khiêng anh vào nội thất tôn nghiêm trước bàn thờ khói hương nghi ngút thì bỗng nhiên, Ðức tỉnh táo được phần nào. Tuy vậy, anh trừng mắt láo liên nhìn ngó quanh quẩn, thái độ đầy cao ngạo ngang bướng. Họ cố đẩy anh đến trước bàn thờ, thay vì cung kính nghiêm trang đảnh lễ, trái lại, bằng một thái độ cố tình ngang nhiên trịch thượng, Ðức ngã vật ra giữa nền nhà, tay chân quơ cào loạn đả, miệng lảm nhảm la lối huyên thuyên.

Thốt nhiên, các vị đạo gia thuộc đủ mọi cấp độ hành đạo ở ngôi đền này, thần nhãn cao thâm, đạt tới mức công năng chuyên cần tu tập, nhận biết ngay Ðức mắc phải tình trạng nan giải do một vong hồn nào đó đang hoành hành, lưu trú. Vị pháp sư chủ trì ban rải tâm từ bi đưa mắt hướng nhìn về nơi Ðức đang ngạo nghễ nằm với thái độ bất mãn đầy gây hấn.

Tình Oan Nghiệp Báo

(Phần 2)

Không cần tìm hiểu sâu xa, thoạt trông thấy dáng điệu và khí sắc bất thường của người thanh niên, ông đã thừa kinh nghiệm để thấu suốt anh ta đang mắc phải căn bệnh tà, ông dụng thần lực bắt ấn, chuyển đạt sức mạnh vô hình nhằm trói thúc tứ chi của hồn ma trong thân xác của Ðức, mục đích chỉ để chế ngự thái độ hung hăng, khiến cho anh phải nằm co quắt rên la và như không thể tiếp tục chịu đựng thêm sự đau đớn càng lúc càng xiết lại như một cực hình, Ðức vật vã gào lên như đang chịu một hình phạt kinh hồn, anh van xin cởi trói. Lúc bấy giờ vị pháp sư chủ trì mới ôn tồn nói chuyện với anh:

- Thì ra... "cô" cũng biết đau đớn như mọi người! Tại sao đứng trước bàn thờ tôn nghiêm mà "cô" không chịu cúi đầu đảnh lễ? Vì sao "cô" tỏ ra quá hỗn hào? "Cô" có biết đó là hành động vô phép và rất thất lễ đối với các đấng bề trên đã khiến cô phải chịu sự trừng phạt? Sự trói buộc và nỗi đau đớn nãy giờ thật ra chưa phải là hình phạt duy nhất, thiêng liêng mới chỉ tạm chế ngự thái độ hung hăng vô lễ để giúp cho "cô" lấy lại tâm trí tỉnh táo yên bình...

Lúc đó, những tín hữu thường đến ngôi đền này để đọc kinh lễ Phật, hiện diện khá đông đảo, nghe vị pháp sư soi rõ tường tận và nói đúng chân tướng hồn ma đang trú ngụ trong thân xác và đang khống chế tinh thần của người thanh niên tên Ðức, họ cảm thấy thất kinh hồn vía, vội đứng nhích ra xa quan sát.

Ngừng nói trong giây lát như có ý dành thời gian để cho "cô" ma nữ lấy lại bình tĩnh cố hữu, vị pháp sư mới ôn tồn đưa ra một đề nghị:

- Bây giờ nếu "cô chịu hứa lễ Phật và nghiêm trang nói chuyện, ta sẽ thỉnh ý chư thần xin mở trói cho cô, để cô được thoải mái tự do như lúc thường! Cô bằng lòng chứ?

Vong linh người con gái tên Trâm chiếm ngụ trong thân xác của Ðức bấy giờ mới chịu nhìn nhận chân tướng và khuất phục trước oai lực vô biên của thiêng liêng qua trung gian huyền bí của vị pháp sư. Chân tay của cô ta vừa thoát khỏi những dây nhợ trói buộc đớn đau, quấn quít vô hình. Cô đã nhận được huyền lực, lấy lại tự do cho thân thể. Cô đứng dậy nghiêm trang lễ Phật, thái độ tỏ ra từ tốn khoan hòa. Ðợi cho hồn ma nữ thi hành xong mọi nghi thức, vị pháp sư bắt đầu hỏi chuyện:

- "Cô" cho ta biết, vì lẽ gì cô không chịu lễ Phật, còn tỏ ra thái độ hung hăng quá khích? Hồn ma nữ (ngụ trong xác thân của Ðức) ngước đôi mắt đáng thương chứa đựng giận hờn nhìn pháp sư. Cô nghiện ngào cho biết:

- Ông không hiểu tại sao tôi tỏ ra như vậy cũng đúng! Tôi vốn là một Phật tử thuần thành biết lễ trên kính dưới chứ đâu phải hạng vô thần ngỗ nghịch như bây giờ, nhưng từ lâu lắm rồi, kể từ sau khi tôi bị hải tặc hãm hại, mặc dù đã chí thiết khấn xin cứu độ mà vẫn bị làm ngơ, trong tâm tư tôi tuyệt nhiên không còn chỗ cho thần linh ngự trị, tiêu tán tất cả mọi niềm tin. Ông biết được tại sao rồi chứ?

Nhìn thái độ còn chất chứa bao nhiêu thống trách dỗi hờn sâu kín tiềm ẩn trong lòng ma nữ, vị pháp sư chậm rãi nói một cách hiền hòa:

- Ðó! Nếu cô không chịu bày tỏ thì không ai có dư thời giờ để có thể biết cô đã phải trải qua những hoàn cảnh rủi ro như thế nào. Hôm nay, chắc chắn nhờ có duyên cơ phước đức, cô đã đến được nơi đây, xem như những tâm sự uẩn khúc của cô sẽ được mọi người chia xẻ và hóa giải hoàn toàn. Trong cương vị của kẻ làm việc đạo, nếu muốn, chúng tôi có thể dễ dàng tìm hiểu được ngọn nguồn câu chuyện cùng những tai nạn hạn họa đã xảy ra trong quá trình bức tử của cô.

Nhưng trước khi chúng tôi thỉnh nguyện ơn trên từ bi cứu độ cho cô trở về với sự bình an nguyên thủy, chúng tôi muốn chính cô nói ra lý do tại sao không giữ lấy đức tin tối cần thiết và sự sùng kính của con người dương thế lẫn những hồn oan đối với các đấng hiển linh?

Giọng nói của pháp sư hàm xúc âm điệu dịu ngọt như an ủi dỗ dành, đã tác động xâu xa trong tâm hồn ma nữ, "cô" bắt đầu kể lại nguồn cơn mất hẳn đức tin, đôi khi cô tinh nghịch biến hóa hiền tượng Phật Bà Thánh Nữ, hiện ra để trêu ghẹo đánh đập phá phách người thanh niên, để cho anh ta cũng nóng giận, mất hẳn đức tin, đâm ra ngang ngược vô lễ với các vị thánh thần. Cô tự chối bỏ đức tin, đồng thời đem thái độ ngang nhiên vô phép ra hành xử trước dung nhan Thượng Ðế. Cô kể bằng giọng nức nở nghẹn ngào:

- ... Lúc bấy giờ chỉ còn hoàn toàn trông cậy vào đức Quan Thế Âm Bồ Tát và niệm bài kinh cứu khổ cứu nạn như thời thơ ấu mẹ tôi thường dạy tôi nên làm như vậy mỗi khi đối diện với những nguy nan, cũng như trước ngày vượt biên, nhiều người thân nhắc nhở cho tôi biết quyền năng linh hiển thường hay ra tay cứu vớt những người vượt biển gặp khổ nạn của Phật Bà và chí thành tụng niệm khi giáp mặt với những nan nguy sẽ được tai qua nạn khỏi.

Tôi giữ nhân đức tin và tha thiết kêu xin với lòng thành tâm khấn nguyện cho tai họa xảy đến cho tôi lúc ở trên tàu sớm chấm dứt để khỏi phải chịu thêm những đau đớn khổ hình trước sức dày vò điên loạn của những tên hải tặc man ri đầy thú tính. Nhưng Phật Trời yên lặng làm ngơ không ra tay cứu vớt để cho tôi, sau đó tôi phải chết thảm, linh hồn tôi bị sa vào thế giới hoang vu đói khổ trăm bề, không trông đợi được bất cứ sự lợi ích nào và mãi kéo dài kiếp đọa đày của loài hồn lang thang đói lạnh. Thử hỏi, tôi còn điều gì để tin tưởng được nữa? Như ông đã biết đó! Trong lúc quá đau đớn kinh hoàng, cầu xin thiêng liêng, thiêng liêng không đoái tưởng linh ứng, tôi quay lại cầu cứu với cả "thằng này".

Cô ta hằn hộc đưa tay chỉ vào ngực của người thanh niên đang bị hồn cô chiếm ngự hoành hành, hậm hực nói tiếp:

- Phải! Chính "thằng này". Tôi biết nó yêu tôi tha thiết. Bù lại, tôi cũng có cảm tình với nó từ khi mới chạm mặt nhau lần đầu. Có lúc tôi đã mơ mộng sẽ có một lần nào đó sau khi đến được bến bờ tự do, tôi sẽ ngỏ cho "nó" biết rằng tôi sẵn sàng đón nhận tình yêu, nếu "nó" dám mở lời tỏ tình.

Lúc gặp nạn ở trên tàu, sau những khẩn cầu tha thiết, đọc những bài kinh vô vọng, tôi nhìn về phía "nó" gào thét lên để mong đợi nó có chút động tâm, hay là can đảm đứng lên cứu tôi ra khỏi những tên hải tặc điên cuồng rồi nếu chẳng may có chết, hai đứa cũng được chết chung cho trọn chữ tình. Ngờ đâu nó còn hèn hạ hơn tất cả những kẻ hèn hạ nhất! Nó co rúm người lại, thu mình ngồi khúm núm dương mắt ra nhìn. Thử hỏi, có ai hiểu được cực hình và niềm tuyệt vọng của tôi đang trông chờ nơi "nó". "Nó" vẫn lặng thinh cho đến khi tôi lịm đi và khốn khổ trút linh hồn ra khỏi xác thân cực kỳ đau đớn trong lúc thằng hải tặc vẫn chưa muốn buông tha.

Vì thế, sau khi trút linh hồn, tôi có ngay quyết định nhất định phải trừng trị "thằng này" và những đứa đã khiến cho đời tôi trở nên bẽ bàng tan nát. Thật ra, sau khi tôi chết thảm, tôi cũng đã trả thù được hai trong ba thằng hải tặc đã thay phiên nhau cưỡng bức tôi đến chết. Một đứa tôi đã "khiến" nó chết thảm khốc vì đụng xe, một đứa làm ăn khánh kiệt thua lỗ đến phải thắt cổ tự vận, còn lại một thằng cũng sắp sửa đền tội. Riêng "thằng này" - cô ta chỉ vào Ðức - tôi cũng sẽ hành hạ nó cho đến ngày thân tàn ma dại chứ lẽ đâu lại để cho nó được an nhiên vui sống, lấy vợ đẹp đẻ con ngoan, hưởng thụ một đời hạnh phúc chẳng chút công bằng, trong khi tôi vẫn phải kéo lê bước phiêu bạt của một hồn mà oan trái vất vưởng đói rách lam lũ khắp nơi trong cõi vô hình...

Vị pháp sư và những người hiện diện chung quanh tỏ ra rất cảm thương cho số phận không may của hồn ma nữ tên Trâm đang rành mạch kể ra hết tâm sự u uẩn của mình. Ðợi cho nỗi ngậm ngùi trong lòng cô gái đầy tội nghiệp lắng xuống, vị pháp sư nhìn cô thương xót, và bày tỏ những cảm nghĩ của ông vừa thoáng hiện trong đầu:

- Cô trả thù và hành hạ người ta như vậy đã quá đủ rồi! Thôi, cô hãy tha cho người ta, nên đem ân báo oán để hồi hướng công đức cho chính mệnh nghiệp của mình.

Ngừng lại trong giây lát như để cho vong hồn ma nữ có đủ thời giờ nhận rõ phải quấy, thực hư. Vị pháp sư nhân ái tiếp lời:

- Ta cần cho cô biết rõ thêm về những điều siêu linh huyền nhiệm để giúp cho cô dễ dàng xóa tan đi những ý định oán thù còn chất đầy một lòng sân hận! Ta chắc cô chưa biết được những tên hải tặc đó là ai? Tại sao chúng trút hết những thảm thương cho cô đến nỗi cô phải chết một cách quá ư là tội nghiệp oan khiên!

Thật ra, chúng là những tiền thân đã bị chính cô từ kiếp trước vốn là một phú hộ giàu có, thường hay ỷ thế hiếp cô, dùng quyền lực bạc tiền mua chuộc và hưởng thụ xác thân trinh tiết những người con gái trẻ tuổi con nhà nghèo rồi nhẫn tâm bỏ rơi để họ phải gánh chịu một đời lầm thanh khốn khổ, có người còn bị chết oan uổng vì đã dám cả gan cưỡng chống lại những dục vọng đen tối của tay phú hộ kiếp xưa.

Nay theo định luật quả báo luân hồi, chúng được cho tái sinh làm lại kiếp người để đòi các món nợ cũ theo ý chỉ của đấng toàn năng, chúng được phép thi hành nghiệp nhân quả, đợi chờ cơ hội để bắt cô phải đền trả nghiệp ác đã gây ra lúc sinh thời. Chúng ra tay tàn nhẫn hãm hại cô trên biển đông chẳng qua là những tiền nghiệp vướng mắc nợ nần mà cô đã tạo ra từ kiếp trước.

Và trong lúc thập tử nhất sinh đó, cô cũng đã khẩn khoản van xin ơn cứu độ của bề trên, nhưng vì hạnh nghiệp của cô xấu xa phải trả, đấng toàn năng đã làm ngơ cho đám quỷ dữ hoành hành, ra tay hãm hại để đòi cô trả nợ cũ thì lẽ đương nhiên, sự van xin khẩn thiết của cô không được thiêng liêng đoái nhậm là đúng lắm rồi, còn kêu ca thống trách vào đâu cho được.

Thật ra, đối với qui luật thuộc thế giới vô hình rất minh bạch và vô cùng chặt chẽ, chứ không mơ hồ hoặc giống như con người thường quan niệm sai lạc về những vong hồn thuộc thế giới siêu linh được tự do hiện ra quấy phá. Nếu không có đấng toàn năng cho phép phù trợ thì không thể có bất kỳ hồn ma ngạ quỷ nào có thể khuấy động được con người, nhất là những người đạo cao đức trọng và sự bình yên trên dương thế. Cô không nên nhân cớ đó mà tạo thêm vô vàn những khổ nghiệp chập chùng, e mãi mãi chìm đắm trong vòng quay của bánh xe luân hồi quả báo. Chỉ nên đem ân đền oán thì nghiệp lực mới mong được giải trừ an nhiên, cứu rỗi.

Giờ đây, nếu cô muốn, ta có thể giúp cô soi tìm lại căn nghiệp xa xưa để cho cô thấu rõ được mọi điều, không còn có sự bán tín bán nghi. Và khi cô đã hiểu tường tận sự huyền nhiệm siêu linh trong tiến trình nhân quả, cô sẽ không còn lý do mang nặng lòng thù hận, đồng thời, chúng tôi sẽ cấp phát cho cô một phiếu công đức (công đức có được nhờ vào kết quả của các công việc hành thiện, tu tập của một hoặc nhiều người trong một nhóm đạo gia) và sẽ cầu xin ơn cao cả giúp cho cô có thể chọn lựa một trong hai con đường, hoặc là được nương náu tu tập trong chùa để tái tạo nghiệp tốt, hoặc là cô sẽ được tái sanh nhận lại kiếp người qua hình thức đầu thai...

Lắng nghe vị pháp sư ôn tồn giải thích, hồn ma người con gái tỏ ra hiền dịu tin tấn hơn nhiều. Tia nhìn của cô bắt đầu nhuộm vẻ từ ái, cử chỉ của cô biến đổi trở thành lễ độ khiêm cung. Cô ngồi đó, lặng yên như đang đắm hồn trong nỗi chiêm nghiệm thâm sâu về những lời nói nhân ái của vị pháp sư chân chất giải bày.

Sau cùng, cô ngước lên nhìn vị pháp sư thay đổi cách xưng hô:

- Con không dám ao ước chọn lựa nghiệp tu. Xin cho con được sớm trở lại đầu thai kiếp người để cho con có cơ hội tìm lại đời sống an vui trên dương gian hạnh phúc như bao nhiêu người khác!

Vị pháp sư hoan hỉ gật đầu:

- Mặc dù nghiệp lực của cô còn trùng điệp chất chồng, oan oan tương báo, rất khó mà đạt được sở nguyện tái sanh. Nhưng với lòng từ bi vô lượng của bề trên, nếu cô thành tâm ăn năn sám hối và hứa sẽ không bao giờ tái phạm những điều chẳng lành, chúng tôi sẽ cấp tặng cho cô một phiếu công đức- giống như việc góp vốn đầu tư - để cho sở nguyện của cô sớm được viên thành. Nếu cô bằng lòng với những điều như vậy và mau mau thoát ra khỏi thân xác của người thanh niên tội nghiệp này để cho anh ta trở lại đời sống bình an vô sự, thì mọi việc sẽ được nghiêm chỉnh tiến hành. Cô nghĩ sao?

Vong linh cô gái tên Trâm sung sướng gật đầu. Cô cúi đầu tiếp nhận phiếu công đức. Sau đó không lâu, cô trả lại trạng thái bình thường cho người thanh niên tên Ðức. Tất cả mọi người chứng kiến đều cảm thấy nhẹ nhõm hân hoan vì biết rằng, kể từ giây phút này, hồn oan cô gái đã không nhập xác để tiếp tục hành hạ người thanh niên tên Ðức, khiến cho thân xác anh ta héo mòn, khiến anh ta hàng ngày phải tìm kiếm ăn uống những đồ dư thừa phế thải ở các thùng rác. Nhất là, đối với vong linh cô gái, từ nay sẽ được đền bù và chờ ngày tái sanh đầu thai kiếp khác.

Về phần Ðức, người thanh niên bị ma nhập, ngay khi đó bỗng tỉnh táo hoàn toàn. Anh có thái độ ngẩn ngơ như vừa trải qua một giấc chiêm bao đầy mộng dữ với vóc dáng, thân thể gầy còm hôi hám đến lợm người.

Chờ cho Ðức thật sự hoàn hồn, những người có mặt ở ngôi đền đem cho anh thức ăn, hoa quả và nước uống. Ðức ăn ngấu nghiến ngon lành và ra chiều muốn lạy Phật để tạ lễ. Mọi người như đoán biết Ðức muốn gì, một người lên tiếng:

- Anh nên tự ý sắm sửa hoa quả nhang đèn cho việc cử hành lễ tạ để biểu lộ tấm lòng thành kính tri ân. Thật ra, chúng tôi có thể giúp anh có thêm tiền bạc để thực hiện lễ tạ ơn tươm tất, nhưng điều đó không thực sự tối cần. Ðiều cần thiết chính là tấm lòng thành khẩn do chính anh tỏ bày. Vậy anh hãy thực hành ngay đi.

Vốn bị mất việc làm đã lâu, lại sống lang thang đầu đừng xó chợ, ăn uống dơ bẩn khác thường, tuy thỉnh thoảng vẫn có người động tâm cho tiền bố thí. Ðức lục hết túi quần áo, gom góp khắp nơi cũng chỉ vỏn vẹn có mười đồng bạc. Anh định tâm dùng hết chẳng ngại ngùng gì, nhưng sau khi mua sắm đầy đủ nào hoa quả nào nhang đèn cũng chỉ tốn vỏn vẹn chín đồng bạc. Không biết do động cơ nào thúc đẩy, Ðức đem một đô la còn lại để mua một tấm vé số, cạo ra anh lại trúng được đúng $10.00, xem như anh đã chẳng mất đồng nào cho việc mua hoa quả nhang đèn tạ lễ vốn chỉ thuần túy mang ý nghĩa của sự bày tỏ chân tâm.

Vài tháng trời sau đó, nhờ lòng tốt bụng của những người đồng hương, có người đưa hẳn anh về nhà, giúp cho anh hàng ngày có miếng ăn chỗ ở tươm tất, Ðức dần dần bình phục, sức khỏe cùng sắc diện của anh ngày thêm hồng hào mạnh mẽ. Nhưng để giải quyết đời sống hàng ngày trước khi xin được việc làm mới, anh làm đơn xin hưởng tiền trợ cấp tàn phế về bệnh thần kinh...

Thời gian sau này, anh đã tìm lại được đầy đủ phong độ năm xưa, lại còn may mắn kiếm được công ăn việc làm với tiền lương vừa khấm khá vừa nhàn hạ, rồi tự mình ổn định được cuộc sống với miếng ăn chỗ ở riêng tư sung túc, xem ra rất khá giả bình thường. Rồi nhờ có diện mạo nhân dáng dễ coi, lại thêm phong cách chân chất thật thà. Chẳng bao lâu, một cô gái trẻ tuổi xinh đẹp mặn mà có đôi mắt long lanh to tròn với dung nhan nhân hậu, làm việc cùng sở với anh, đem lòng yêu thương Ðức, anh đón nhận tình yêu bằng tất cả chân tình của trái tim ngập tràn rung động và cuồng nhiệt ở một thanh niên tươi trẻ yêu đời. Một năm sau, Ðức cùng người con gái yêu anh cử hành hôn lễ trong bối cảnh vui vẻ với rất đông bạn bè quen biết cùng với tất cả những ân nhân cả đạo cả đời, những người đã từng có một tấm lòng đầy bao dung thân ái, đạo hạnh vị tha, đã từng quan tâm săn sóc, giúp đỡ anh trở lại ánh sáng hạnh phúc của một đời sống đầy ắp niềm tin với sắc hồng.

Ma Ðất Ðêm Giao Thừa

Câu chuyện xảy ra vào năm 1978, tại mật khu Dương Minh Châu, một địa danh thuộc ranh giới tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, biên giới Cao Miên. Mật khu này, sau khi Cộng Sản vào, được cải danh thành công trường Hồ Chứa Nước Dầu Tiếng, dưới quyền điều khiển của một cán bộ đảng viên trung kiên, danh xưng là chủ nhiệm công trường, đám công nhân ngụy chúng tôi thường gọi người cán bộ này là Chú Chín. Chú Chín, như đã nói, vốn là một cán bộ miền Nam tập kết, có nhiều tuổi đảng, chú là người sinh trưởng ở miền Nam nên dù đã tập kết và trở thành đảng viên trung kiên của CS, Chú Chín vẫn có phong thái chân chất, ngôn ngữ thật thà và duy tâm như hầu hết những người sanh trưởng ở miền Nam nước Việt. Tánh tình chú Chín nhân ái thâm trầm và, có một điều thật là lạ, cho dù chú đã đi tập kết, chiến đấu và sinh hoạt lâu năm như vậy trong hàng ngũ những người CS, Chú vẫn còn giữ được tánh nết nhu mì, biết thương người và đặc biệt hơn cả, Chú rất thương mến các anh chị em công nhân trong công trường làm việc dưới quyền điều động của chú, bất kể người công nhân đó thuộc thành phần con cái ngụy quân ngụy quyền bị trưng dụng đi làm thanh niên xung phong hay là những anh em cựu binh lính chế độ cũ như chúng tôi. Thái độ của chú Chín khác xa với bản chất kiêu binh hống hách, nói phét như cuội vốn là cá tánh chung của giai cấp lãnh đạo CS mà chúng tôi thường thấy như vậy cho nên, đám công nhân ngụy chúng tôi bớt cảm thấy mặc cảm và, cũng có khi để tâm tìm hiểu thêm về con người riêng tư của Chú Chín.

Ðịa thế của công trường vốn dĩ là mật khu Dương Minh Châu trong thời chiến, nên nằm sâu tít trong rừng đèo heo hút gió, cây cối um tùm rậm rạp với rừng cỏ tranh che lấp đầu người. Có hai con đường độc đạo, quanh co nhỏ hẹp, nằm khuất trong đám cỏ tranh dành để đi bộ từ công trường ra tới xóm nhà dân cách khoảng chừng hai cây số với đầy rẫy những lỗ bom đào sâu dưới đất, miệng rộng như những cái ao khổng lồ. Người đi bộ nếu lỡ trượt chân rớt xuống, không có người trông thấy để rồi tìm cách thả dây kéo lên thì xem như chết chắc vì khó lòng một mình người đó có thể tìm cách nắm được các nhúm cỏ tranh trơn tuột mà leo lên miệng hố cong vòng như cái lòng chảo sâu hoắm này. Ðã có ít nhất vài ba lần, các công nhân cơ hữu thuộc đội lao động thanh niên xung phong, vào những buổi chiều chán ngán cơm hẩm cá thiu ở công trường, họ chịu khó đi bộ ra xóm nhà dân bỏ tiền túi ra để có những bữa cơm "cải thiện", thay thế cho những bữa ăn quá đỗi đạm bạc, chỉ có vài bát cơm hẩm trong khẩu phần ẩm thực với vài ba con cá khô mục hoặc nhúm rau xanh tự trồng với vài muỗng nước muối mặn chát thay thế cho món ăn mặn hàng ngày.

Các anh chị em công nhân ở đây, phần lớn, là thành phần con cái ngụy được Công Ty Xây Dựng Thủy Lợi 9 tọa lạc ở Thị Nghè điều lên vùng khỉ ho cò gáy này để tham gia lao động công trường. Công việc chung của họ là hàng ngày tiến quân trên một con đường độc đạo khá rộng lớn, xe cộ có thể chạy qua lại được để tự khiêng những tảng đá khổng lồ do nhóm anh em tài xế chúng tôi lái những chiếc xe Liên Sô hiệu MA, xe ZIN ba số 5 lấy đá từ núi đá Biên Hòa hoặc Châu Thới chở về. Công việc thật là nhàm chán và nặng nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt với từng cơn gió lốc phủ ngập đất đỏ thổi tới, bám lên những thân xác trẻ tuổi đầy hoa mộng còm cõi của họ hàng ngày.

Chúng tôi, tuy cũng là công nhân, nhưng có điều may mắn hơn là được điều động đi làm phụ xế trên những chiếc xe Zin 3 con 5 hoặc những chiếc xe MA của Liên Sô vĩ đại, hàng ngày được đi ra khỏi công trường về Châu Thới lấy đá để chở về đổ trên con đường lớn này để hoàn thành qui hoạch một con lộ tiêu chuẩn nối liền công trường với các thị xã xa xôi lân cận.

Nhờ được lái xe có giấy lệnh công tác của công trường do Chú Chín ký nhận, mỗi xe chúng tôi đều có trang bị súng ống cá nhân, có cán bộ chỉ đạo dẫn đầu mỗi lần đi công tác chở đá, nên nhóm anh em tài xế chúng tôi, từ xế chính (thường là những cán bộ, bộ đội) cho đến xế phụ là những ngụy quân ngụy quyền có chuyên môn cao như chúng tôi được tuyển dụng vì có "tay trong" lo lót. Ngay từ những ngày đầu ra quân đi chở đá trên các tuyến đường thường lệ, xế chính, xế phụ chúng tôi dù có khác nhau về ý thức hệ hoặc danh xưng trong chế độ mới của Việt Cộng, cũng đã rất "tâm đầu ý hợp" trên cả hai phương diện "làm tốt" công tác do đảng, nhà nước giao phó lẫn những "kỳ công" thu hoạch lợi nhuận trên các chuyến xe từ công trường đến nơi lấy đá bằng những chuyến buôn lậu có kế sách hẳn hòi.

Lợi tức thường từ những chuyến xe trống, nhưng với nhiều cách che dấu tinh vi, chúng tôi lùng sục mua rẻ những mặt hàng lấy từ những con buôn từ vùng biên giới gồm nào là thịt, mỡ heo, củi, gạo, đường, sữa, thuốc lá, v.v... Thật là những con số lợi nhuận rất đáng ca ngợi và hoan hỉ đối với cách lái xe lương tháng vài chục bạc èo uột như chúng tôi.

Từng bọc tiền lời kiếm được thường xuyên mỗi ngày đưa địa vị lao động của nhóm anh em tài xế chở đá chúng tôi đến một giai cấp tiền bạc rủng rỉnh đề huề, dù chỉ ngụy trang dưới một hình thức ngấm ngầm, hoàn toàn trái nghịch với bộ dạng lem nhem dầu mỡ, mồ hôi dầm dề trên những bộ quần áo bảo hộ lao động bạc phếch vì nắng cháy của đám lái xe chúng tôi. Lúc đã kiếm chác được khá nhiều tiền, chúng tôi cũng biết cách "xử lý" đúng điệu giang hồ với Chú Chín chủ nhiệm công trường, anh phó chủ nhiệm, ban an ninh, đội bảo vệ... Tóm lại, kẻ nhiều người ít, tùy theo chức năng, tùy theo tình hình mà chia chác để giữ mối kiếm ăn lâu dài trong khi cả nước đang dần dần kéo nhau đi vào thời kỳ lang thang đói rách. Bọn công nhân Ngụy chúng tôi thừa đủ kinh nghiệm khôn ngoan nên luôn luôn áp dụng cung cách ăn đồng chia đủ với tất cả mọi thành phần cán bộ viên chức thẩm quyền liên hệ, ngay cả các đội kiểm tra kinh tế trên các tuyến đường chúng tôi qua lại hàng ngày, chúng tôi cũng không quên đáp lại xứng đáng thái độ làm ngơ của "các đồng chí" mỗi lần nhận ra đoàn xe chở đá từ Công Trường Hồ Chứa Nước Dầu Tiếng hàng chục chiếc xe nối đuôi nhau chạy qua...

... Từ lúc có tiền rừng bạc bể trong tay, anh em xế chánh, xế phụ của chúng tôi cũng không quên những đứa em đứa cháu hiện là những công nhân lao động thuộc nhóm thanh niên tiên tiến của công trường.

Ðiều mà chúng tôi không bao giờ xao lãng về đám thanh thiếu nữ trẻ này là họ, đa số thuộc con cái ngụy quân ngụy quyền, vốn là những chiến hữu ruột thịt trước đây của chúng tôi. Gặp các em thường xuyên, nhìn các em từng ngày đốt tàn tuổi xuân trên từng viên đá thô nhám trĩu nặng, thân thể mỗi ngày thêm khô héo tàn tạ trong những mùa mưa nắng khắc nghiệt của công trường, lòng tự ái ngấm ngầm không thể bộc lộ của đám tàn binh thua cuộc chúng tôi chỉ biết im lặng thương xót ngậm ngùi cho tuổi trẻ các em. Nên chi, chuyện cho các em quá giang xe ra khu xóm dân thị xã kiếm thêm những bữa cơm "cải thiện", hay dúi cho các em dăm ba trăm bạc tiền Hồ, các em nữ chút tiền mọn để chi tiêu cho những nhu cầu gương lược trang điểm của con gái là chuyện không có gì cần suy nghĩ của đám tài xế ngụy quân đội lốt "giác ngộ tốt" như chúng tôi.

Các em cũng biết thân phận cam chịu những thua thiệt của hàng ngũ con cháu ngụy quân ngụy quyền bằng cách ngấm ngầm liên kết với nhau, gắn bó và chia xẻ nhau tất cả những tâm tư tình cảm tự nhiên nhất của tuổi trẻ. Các em âm thầm chịu đựng những tháng ngày lầm than ở công trường, bên ngoài không hé răng tỏ lộ một lời than van thống trách nhưng bên trong thì sùng sục lửa căm hờn.

Rất ý hợp tâm đầu, các em tự biết, đám xế phụ chúng tôi tự biết. Chúng tôi kín đáo trao đổi và ngấm ngầm bảo vệ và cảm thông lẫn nhau. Trong số các em, có một cặp nam nữ trẻ tuổi mà tôi biết rõ tông tích, lý lịch. Ðứa con trai trên Trần Mạnh Hùng, con của một sĩ quan ngụy cao cấp, thân phụ của Hùng, dĩ nhiên đã lên đường đi cải tạo "10 ngày" chưa thấy dạng trở về sau 2 năm 2 tháng. Ðứa con gái, chỉ cần nhìn qua dáng dấp đích thị là một tiểu thư với tấm thân mình hạc xương mai, khuôn mặt bầu bĩnh thông minh đôn hậu như ánh trăng rằm. Bảo Quỳnh là tên đứa con gái, cựu nữ sinh Gia Long học giỏi, đàn dương cầm lại rất hay.

Bảo Quỳnh và Mạnh Hùng là cặp thanh niên trẻ tuổi và thầm lặng nhất của công trường. Họ yêu thương nhau, quấn quít bên nhau như bóng với hình đêm ngày sát cạnh, bất chấp những giáo điều lệnh lạc do chỉ thị của Ðoàn của Ðảng. Họ sống lủi thủi và lao động bên nhau cho đến một hôm công trường rộn rã lao xao về sự vắng mặt trong buổi điểm danh sáng của Bảo Quỳnh. Mạnh Hùng thì thần sắc như kẻ mất hồn. Em không thể trả lời trước ban Chủ Nhiệm về sự vắng mặt của cô bạn gái hiền lành xinh đẹp trong khi mọi người đều xác nhận chiều ngày hôm trước, hai người còn dẫn nhau đi bộ ra quán bà Tư Thái ngoài thị xã ăn cơm với đĩa dưa cải chua với 2 cánh gà rồi cùng dẫn nhau trở về công trường vào lúc trời vừa nhá nhem tối, có cơn mưa lất phất đầu mùa. Ðám thanh niên trẻ đều khẳng định chính mắt họ nhìn thấy hai người ra khỏi nhà bà Tư Thái, trở về công trường theo con đường nhỏ quanh co dưới đám cỏ tranh rậm rạp. Lúc bấy giờ, trời còn tranh tối tranh sáng, nhưng đã không nhìn rõ bóng người, nếu người đi sau cách người đi trước chỉ trong dăm mười thước ngắn ngủi.

Vậy, Bảo Quỳnh đã thất lạc ở đâu? Trong khi Mạnh Quỳnh đã trở về được đến công trường đến sáng hôm nay, tự nhiên hóa thành người không còn thần trí?

Ðến nước này chú Chín, Chủ nhiệm công trường đã không còn giữ yên lặng, ông ban hành chung một thông báo, trong đó chú có lập lại những điều như trước đây chú đã từng căn dặn đám thanh niên:

- Bây đi đâu thì đi tao không ngăn cản. Nhưng phải nhớ trở lại công trường trước khi trời tối. Trong đêm, nếu phải đi vệ sinh thì phải vào nhà xí, không được đi bừa bãi ngoài hàng rào quanh công trường kẻo ma nó dẫn đi trong đêm thì ráng chịu, tao không có cách gỡ.

Tưởng chú Chín đem ma ra làm chỉ thị dọa những đứa nhát gan theo lệ thường. Nào dè, cho đến hôm nay, Bảo Quỳnh tự nhiên biến mất, chú Chín mới tiết lộ cho đám tài xế chúng tôi biết như sau:

- Bảo Quỳnh mất tích chắc có lý do. Tao biết rõ lý do đó, nếu tao đoán không sai. Kể từ nay, đội thanh niên phải tuyệt đối chấp hành lệnh công trường, không được đi đứng bậy bạ trong đêm. Vùng đất này, tao đã từng sống trong thời chiến, tao biết quá rõ, ma quỷ lền khên không ngán chi người phàm. Chuyện bắt người trong đêm tối, dẫn sâu vào rừng sâu cho ăn toàn đất đá, vài ngày sau chỉ còn cái xác lạnh là chuyện đã từng xảy ra. Dạo chiến tranh còn, thiếu chi bọn lính cái đã xui xẻo bị ma dẫn đi cho ăn toàn đất đá, lúc tìm được đem về thì đã thành con ma dại, dở tỉnh dở mê không ra cái giống gì! Tao cá với bọn mày con Bảo Quỳnh là một sự tái diễn, nếu mình không phân tán thành nhiều toán đi lùng kiếm thì chỉ nội nhật hôm nay nó sẽ trở thành cái xác không hồn.

Nhìn khuôn mặt khắc khổ đầy trang nghiêm của chú Chín, nhóm tài xế chúng tôi bắt buộc phải tin những điều chú vừa nói là sự thật. Nghĩ đến đây, tóc gáy chúng tôi dựng đứng, mặt mũi người nào cũng thất sắc y như bị gặp ma.

Theo lệnh, chúng tôi, đội tài xế gồm mười mấy chiếc xe của công trường chia nhau đi mỗi xe mỗi hướng. Phía sau thùng xe trống là các thanh niên xung phong . Chúng tôi rời công trường trong cái se lạnh của những ngày tháng cuối năm. Mặt trời mới vừa chớm khỏi những ngọn cây cao rải rác đó đây trong rừng, sương đêm còn đọng đầy trên từng cành cây bụi lá.

Sau nửa giờ lái xe len lỏi qua những tàn cây cao, che kín bởi đám cỏ tranh và phải lái thật khéo và tinh tế để tránh xe rơi xuống các hố bom sâu bị che kín bởi lá cây che lấp lâu ngày, xe chúng tôi ra khỏi đám cây cao um tùm ẩm thấp, nhìn thấy cả một cánh đồng cỏ hoang dưới nắng cháy của những ngày cuối năm. Trước mắt chúng tôi hiện ra một hình ảnh kinh hoàng không phải trong đêm thâu u tối mà ngay giữa thanh niên bạch nhật có hàng chục con mắt chứng kiến: thân xác của Bảo Quỳnh nằm bất động trong một vũng nước lầy, quần áo tả tơi rách nát để lộ ra một thân thể lõa lồ với mảnh lưng trần trắng xanh như màu bạch ngọc đang ngả sang màu tái của xác chết không hồn. Chúng tôi thận trọng cầm súng xuống xe, từng bước tiến đến chỗ Bảo Quỳnh đang nằm bất động. Chú Chín đã đoán không sai. Bảo Quỳnh đã bị ma đất trong rừng dẫn đi trong đêm tối, nó dẫn cô gái đáng thương này đi ngay trong cơn khiếp sợ mê sảng của Mạnh Hùng nên cho dù hai người có đang cùng đi chung, bị tách ra, Mạnh Hùng vẫn không còn tỉnh táo để chống lại ý muốn của loài ma rừng độc địa hòng cứu lấy cô bạn gái đáng thương. Ma rừng sai khiến bước chân không hồn của cô gái đi càng sâu vào rừng bao nhiêu càng tốt, sau đó, ma đất xúi bẩy cô gái tự cào đất nhét kín vào mồm và nuốt vào cổ họng giống như người ăn xôi bắp cho đến khi đất ướt dẻo đọng kín cổ họng, không thở được nữa thì tự ngừng thở, chết luôn.

Nhưng sự độc địa của loài ma rừng này không phải chỉ có vậy. Trước cái chết kinh dị của người nữ công nhân vắn số và trẻ tuổi này, nàng sẽ trở thành một loại hồn ma linh thiêng và cực kỳ tàn nhẫn. Có nghĩa là hồn ma Bảo Quỳnh sẽ có ngày hiện về để gieo rắc thêm những cái chết khác nếu hồn ma còn vương vấn duyên nợ ân tình với bất cứ ai khi còn sống, hồn ma còn nặng nghĩa ân tình. Vậy ai sẽ là người phải nhận chịu số phận xui rủi này nếu không phải là Mạnh Hùng, vốn là người khi còn sống, Bảo Quỳnh đã tin yêu và vô cùng thương nhớ?

Chú Chín chủ nhiệm công trường, dù là một cán bộ trung kiên vô thần của đảng CS cũng lộ vẻ thất kinh khi nhận báo cáo đầu tiên của nhóm tìm kiếm báo về cái chết hiển hiến của Bảo Quỳnh. Việc đầu tiên chú quyết định là, ngay lập tức, xin lệnh để điều Mạnh Hùng về công tác ở thành phố để hòng cứu lấy sinh mạng của em vì chú dám đoan chắc hồn ma Bảo Quỳnh sẽ có lúc trở về để lấy mạng của Mạnh Hùng phải chết chung như số phận của Bảo Quỳnh.

Hôm đó là ngày 29 tháng chạp. Những công nhân được hưởng đặc ân về nhà ăn tết đã được cấp giấy phép và được đội vận chuyển chở ra quốc lộ đón xe về vui xuân với gia đình. Công trường chỉ còn lại số ít cán bộ công nhân phải ở lại, chờ đợt đi phép thứ hai, sau tết. Nhưng, chú cũng không thể chờ đợi lâu hơn. Một mặt chú cho báo tin khẩn cấp cho thân nhân Bảo Quỳnh lên công trường nhận xác, mặt khác chú điện khẩn cấp về trung ương để xin quyết định cho Mạnh Hùng được sớm rời khỏi công trường.

Nhưng trời không chiều lòng người. Thủ Trưởng ở trung ương của Công Ty Xây Dựng Thủy Lợi 9 đã về quê tận Quảng Ninh ăn tết, nên đề nghị của Chủ nhiệm công trường Hồ Chứa Nước Dầu Tiếng đành phải đợi đến ngày ông thủ trưởng lớn hơn trở lại nhiệm sở mới có thể giải quyết. Vì vậy, Mạnh Hùng, dù chỉ cần đợi cho qua mấy ngày tết ngắn ngủi, cũng phải ở lại đón xuân hiu quạnh ở công trường với tâm trạng buồn đau thương nhớ cô bạn gái khi xưa.

Buổi chiều cuối năm nơi công trường đèo heo hút gió thật quạnh quẽ thê lương. Chú Chín ở miết trong phòng với vợ con nghe đài phát những bài hát đón xuân buồn thê thiết. Dưới hai dãy nhà ở của công nhân cũng lặng lẽ không một bóng người. Ðội vận tải, với những chiếc xe ZIN, xe MA đã được bảo quản, lau chùi sạch sẽ nằm thẳng lớp im lìm, đám công nhân tài xế, phần đi phép, phần lẻn ra xóm nhà dân vui xuân nên công trường cũng chẳng có bóng dáng một ai.

Tôi và xế chính Nguyễn Văn Sinh làm sao chịu thấu cái quạnh quẽ của những giây phút giao mùa, bèn rủ nhau cuốc bộ ra nhà bà Tư Thái làm một bữa chén cuối năm say bí tỉ cần câu.

Hai chúng tôi, một cách mạng trái mùa, một tên ngụy thua trận, khoác lấy tay nhau, ngả nghiêng bước, chìm khuất trong đám cỏ tranh tối tăm tịch mịch, trở lại công trường với những cảm xúc hư không trống rỗng, không nghĩ gì tới những giờ phút còn lại của lúc giao mùa. Bỗng nhiên, Sinh nghêu ngao cất cao một bài hát ngụy ....Nếu mai không nở, tao đâu biết xuân về hay chưa... Phải vậy không mày? Rồi Sinh phá ra cười trong đêm tối, giữa cái rùng rợn của đêm trừ tịch giữa đám cỏ tranh.

Quá nửa khuya, tức đã quá giao thừa, chúng tôi đang say ngủ, bỗng bàng hoàng thức giấc sau những tiếng la thất thanh vọng đến từ dãy nhà công nhân. Những cái đèn màu vàng ệch được bật sáng khắp nơi. Chúng tôi vội vã chạy về phía có tiếng thét gào ban nãy. Mạnh Hùng nằm chết tự lúc nào, xác vắt ngang ngưỡng cửa, tay chân mồm miệng dính đầy đất cát giống hệt như kiểu chết oan khiên của Bảo Quỳnh.

Thế là những kinh nghiệm ghê gớm về loại ma rừng của Chú Chín cùng những gì chú dự liệu đã xảy ra đúng như lời chú nói. Chỉ có điều là chú không thể chạy kịp được với thời gian để cố cứu mạng cho Mạnh Hùng. Phải chăng, đó là tại số mệnh. Số mệnh oan nghiệt của hai người trẻ tuổi thua cuộc vì trận chiến cha ông, vì họ đã yêu nhau đến chết cũng phải chịu chung nỗi ngậm ngùi?

Chú Chín buồn bã nhìn xác Mạnh Hùng, miệng lẩm bẩm: - Mẹ! Ðã biết mà không làm gì kịp.

Rõ ràng Bảo Quỳnh đã hóa thành loại ma đất, trở về công trường để biến thành con ma nữ đêm giao thừa để bắt hồn Mạnh Hùng phải cùng đi với em sang bên kia thế giới cho trọn nghĩa yêu đương, theo như thói quen của loài ma đất.

Âm Giới

(Phần 1)

Tôi là đàn bà thật, nhưng không phải là người có tính dễ tin vào những chuyện hoang đường không tưởng, lại càng không tin rằng đời sống của một con người còn có thể được tiếp tục sau khi người đó đã chết, đã tắt thở qua đời, thêm nữa, lại còn có thể quay về, quay trở lại dương trần dưới trạng thái một linh hồn, hay dù chỉ bằng cái thể vía để trú nhập vào xác của người sống mà đòi lại những thiệt thòi oan khuất khi xưa. Lẽ dĩ nhiên, tôi cũng mong đó là những điều có thật. Nhưng tôi thật tình không thể tin một sự kiện phản khoa học đến không thể nào giải thích một cách tường tận như vậy.

Tôi rất thường xao lãng hoặc cùng lắm thì cũng chỉ mỉm cười cho qua chuyện mỗi khi có dịp tình cờ nghe những người chung quanh kể lại hoặc bàn tán về những hiện tượng vô hình giống như là điều chỉ có thể xảy ra do các bộ óc nhiều tưởng tượng của những người mê tín có thói quen "ăn cơm dương gian bàn chuyện âm phủ". Tuy tôi không có ý phản bác lại bằng lời nói nhưng lúc nào, tự trong tâm tôi cũng chỉ cho đó là những câu chuyện trong các cuộc trà dư tửu hậu, những câu chuyện huyển hoặc nhảm nhí.

Nhưng sự thật, vẫn là sự thật. Và, sự thật đó lại đã xảy đến cho chính tôi mới là điều thật lạ...

Vào thời gian vợ chồng chúng tôi sắp sửa cử hành hôn lễ cách đây bảy, tám năm, và tôi đã phải đối diện với một vấn đề hơi nan giải với một cô gái sấp sỉ tuổi tác với tôi, bởi vì cô ta có liên hệ quan trọng đến quyết định thành hôn của hai đứa chúng tôi. Trước khi chúng tôi gặp nhau rồi quyết định lấy nhau, tôi và anh Bích, người chồng tương lai của tôi đã có thời kỳ quen biết và giao du thân mật với Duyên - tên của cô gái này. Ðiều này thì tôi đã từng được anh Bích kể cho tôi biết một cách tường tận. Bích nói với tôi:

- Duyên với anh quen biết nhau trong một buổi sinh nhật tại nhà của một người bạn học. Sau lần đó, chỉ là những liên lạc nằm trong tình bạn bình thường. Một đôi lần anh với Duyên cũng có gặp lại nhau trong một vài buổi họp mặt thân hữu khác rồi đến ngày sinh nhật của cô ấy, theo phép xã giao, anh cũng nhận lời mời của cô ấy đến nhà cô ta tham dự sinh nhật với một món quà mang theo cho đúng lệ xã giao. Mối quan hệ chỉ có vậy thôi. Nhưng anh không dè, đến khi Duyên biết tin chúng mình sắp sửa thành hôn, thì cô ta lại làm dữ, cãi cọ cắng đắng rất lôi thôi. Anh cũng chẳng biết phải làm sao hơn là tìm gặp cô ta xác định lại vấn đề để cho cô ta hiểu rõ ràng rằng, giữa anh và cô ta chỉ là hai người bạn thuần túy.

Qua mối giao hảo giữa những bạn hữu của cả tôi lẫn anh Bích, tôi biết rằng những lời anh nói đều là sự thật và tôi rất cảm thông với anh. Chính vì vậy mà có lần tôi đã thẳng thắn đề nghị với Bích:

- Hay là anh để cho em gặp cô ta một lần. Em sẽ trình bày cùng cô ta rõ mọi việc, chắc cô ấy sẽ hiểu được lý lẽ thôi.

Bích sẵn sàng gật đầu:

- Ừ! Em nghĩ vậy cũng phải. Nhưng có cần sự hiện diện của anh trong lần gặp gỡ này không?

Tôi nhìn Bích từ chối:

- Chắc không cần đâu anh ạ! Con gái chúng em gặp nhau chắc chắn là dễ dàng chuyện vãn hơn là có một người khác phái xen vào, cho dù người đó là anh đi nữa, nhiều khi chỉ làm cho cô ta và em thêm bối rối...

Bích vui vẻ gật đầu.

Và tôi đã tìm gặp mặt Duyên đúng như tôi đã dự định. Câu chuyện giữa chúng tôi cũng chẳng có điều gì gọi là gay cấn, sau khi Duyên nghe tôi nói với nàng rằng, quan hệ tình cảm giữa tôi với anh Bích, rất thật dạ thương nhau và hai chúng tôi đã có chung một quyết định đi đến hôn nhân, nếu có bất cứ sự việc uẩn khúc nào đó xảy ra giữa anh Bích với Duyên mà tôi chưa được hay biết thì tôi mong cô ta cứ thổ lộ cho tôi biết, tôi sẵn sàng đón nhận. Nhưng cô ta chỉ nhìn tôi bằng đôi mắt rất buồn, chậm rãi nói:

- Không có gì đâu chị Phượng ạ! Giữa tôi và anh Bích thật ra, chỉ là một tình yêu đơn phương. Trong lòng tôi đã thầm yêu anh ấy nhưng tôi lại chưa bao giờ dám tỏ tình cùng anh ấy và ngược lại, anh Bích đối lại với tôi cũng rất mực thước đàng hoàng. Tôi cảm thấy có điều mất mát và buồn phiền khi nghe tin anh ấy sẽ lập gia đình cùng cô nên tôi có đôi lần chuyện trò than vãn tâm sự của mình với một vài người bạn thân thiết mà thôi! Cô đừng giận tôi làm gì. Thật ra, lỗi lầm này là do tôi tự tạo ra để rồi tự mình buồn khổ. Cô với anh Bích chẳng có lỗi gì đâu. Nhưng, tôi phải thú nhận với cô một điều là, có lẽ suốt cuộc đời, tôi không thể nào quên được hình ảnh anh Bích. Nhưng tôi hứa với cô sẽ hết sức tự chế và không để điều gì phiền toái cho hai người đâu.

Tôi chào tạm biệt Duyên trong niềm cảm xúc và thân tình. Tôi không quên nói với Duyên:

- Chị cũng thừa biết, duyên tình vốn là số mệnh. Ðừng muộn phiền và nhớ đến góp vui với vợ chồng chúng tôi trong ngày cưới.

Duyên cúi xuống nhè nhẹ gật đầu. Dường như nàng cố tình không để cho tôi nhìn thấy hai dòng lệ nóng vừa từ từ lăn trên đôi má, mắt đượm buồn da diết.

Ðám cưới của chúng tôi được diễn ra náo nhiệt và bình thường như trăm ngàn cuộc hôn lễ khác. Trong ngày cưới, cả tôi và anh Bích chồng tôi đều để tâm tìm kiếm sự hiện diện của Duyên trong đám đông bạn bè thân thuộc. Nhưng tuyệt nhiên, không một ai trông thấy bóng dáng của nàng. Vậy là Duyên đã không đến góp vui với chúng tôi.

Cưới nhau xong, vợ chồng chúng tôi dẫn nhau lên nhà dì Oanh ở thành phố Ðà Lạt để hưởng tuần trăng mật như đã định trước.

Một buổi chiều, sau một ngày tôi với Bích đưa nhau đi ngoạn cảnh núi đồi hùng vĩ khắp chốn khắp nơi, lên chơi cả trò rượt bắt trên đồi Cù rồi trở về nhà dì Oanh đúng vào giờ cơm tối. Tự nhiên, tôi cảm thấy trong lòng như có điều gì đó bất an nên không tham dự với cả nhà trong bữa ăn tối, nên xin phép lên lầu nằm nghỉ sớm. Một lát sau thì chồng của tôi cũng lững thững lên theo. Chúng tôi cùng nằm ngay ngắn đắp tấm chăn mỏng trong căn phòng vắng lặng nhìn ngó bâng quơ khung cảnh mờ sương ẩn hiện qua khung cửa sổ bên ngoài, thì bỗng nhiên, cả hai chúng tôi đều nghe như có một luồng gió lạnh thổi vào căn phòng. Sợ tôi cả trọn một ngày đã thấm mệt có thể bị nhiễm cảm nên chồng tôi vội đứng dậy kiểm soát lại cánh cửa sổ. Cửa vẫn đóng kín và cái màn treo không hề động đậy. Chàng trở lại giường nằm, ôm chặt lấy tôi như muốn biểu lộ tình thương yêu che chở và chúng tôi nằm đó chưa lâu, chưa có thể nói là cả hai đang chìm dần vào trạng thái mơ màng. Bỗng nhiên, cả hai chúng tôi cùng sửng sốt, cùng chỉ cho nhau thấy trên vách tường gạch sơn màu hồng lợt hiện ra một khung hình có lồng chân dung của một thiếu nữ.

Không đầy một phút đồng hồ sau, hình ảnh người thiếu nữ trong khung hình từ từ sắc nét lại giống như khi chúng ta bắt đầu mở màn ảnh TV lên, hình ảnh hiện lên từ mờ nhạt cho đến khi sắc nét lại để cho cả hai chúng tôi cùng nhận biết một cách rõ ràng đó là khuôn mặt của Duyên với làn tóc đen huyền phủ dài trên làn vải áo lụa trắng của đôi bờ vai tròn lẳn.

Ðiều đáng nhấn mạnh đây là một khung hình có màu sắc rực rỡ và còn có làn ánh sáng mát dịu từ đó tỏa ra y như màn ảnh của một chiếc máy TV đang hoạt động, chỉ khác là phần màu sắc rất là sống động và đậm nét. Cả tôi lẫn Bích đều nhận thức được rõ ràng là chúng tôi không thể nằm mơ. Chúng tôi đều nhớ rất rõ ràng tại chỗ đó trên vách tường đã không có treo bất cứ vật gì cả một tuần lễ nay và ngay cả trước ngày chúng tôi xin phép dì Oanh để lên đây tá túc trong tuần trăng mật. Sự kiện bất thường này khiến cho hai vợ chồng chúng tôi kinh ngạc tột độ, riêng tôi cảm thấy khiếp sợ vô cùng. Ngay khi nhìn thấy hình ảnh của Duyên, tôi vừa bàng hoàng tưởng như mình đang lạc vào giấc chiêm bao, vừa bối rối khiếp sợ. Tôi choàng tay ôm cứng lấy người chồng mà mắt không rời khung hình vẫn còn hiện hữu. Khuôn mặt của Duyên trong khung hình rất hiền lành và không biểu lộ ý gì như muốn làm hại chúng tôi. Cho dù là vậy, tôi vẫn cảm thấy sợ hãi đến nỗi không thể dằn được kêu lên. Tôi hét to lên để dì tôi có thể nghe thấy. Nhưng tuyệt nhiên, trong nhà từ trên lầu xuống dưới vẫn hoàn toàn im vắng. Từ dưới lầu không có ai chạy lên chỗ phòng của chúng tôi. Bích thấy tôi sợ hãi quá, chàng quơ tay kéo kín mép chăn phủ kín qua đầu cho tôi, đồng thời chàng ôm chặt lấy tôi cho tôi bớt sợ hãi.

Khung hình của Duyên bỗng đột nhiên mờ nhạt dần, giống như khi nó đã hiện ra, tất cả chìm biến đi đâu mất và không khí trong căn phòng ngủ cũng trở lại ấm cúng như lúc thường. Chúng tôi nằm đó một hồi lâu mà chẳng ai thốt với ai nửa lời cho đến khi chúng tôi thiếp vào trong giấc ngủ đầy mộng mị. Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mơ của giấc ngủ kéo đến nhanh chóng bất ngờ, tôi lại thấy, tôi không còn ở trong căn phòng của nhà dì Oanh với chồng tôi nữa, mà tôi đang nằm ở một chốn nào đó mà tôi không cảm thấy gì là lạ lẫm, nhưng nhìn kỹ chung quanh, tôi cũng chẳng nhận ra được sự vật gì quen thuộc, nhưng chắc chắn không phải tôi đang nằm bên cạnh chồng trong căn phòng ngủ của nhà dì Oanh ở Ðà Lạt.

Tôi nhìn thấy tỏ tường hình ảnh của Duyên như trước đây tôi đã chạm mặt. Bất chợt, Duyên thản nhiên bước qua người tôi. Nàng cầm một vật gì đó ở trên tay giống như một cái bì thư và tiến ra phía bên ngoài cửa ra vào như cố ý bỏ lá thư ở ngoài đó để đợi người lấy thư đến lấy đi. Tôi nghe thấy tiếng nói của Duyên văng vẳng thoảng trong không khí:

- Không khéo anh ấy lại trách cứ là mình không chịu báo hung tin...

Tôi chẳng hiểu Duyên đang nói điều đó với ai, trong khi tôi ú ớ muốn bắt chuyện với nàng để bày tỏ tình thân thiện hay ít ra cũng cố hỏi Duyên xem tôi đang ở nơi nào hoặc có vài lời thăm hỏi. Nhưng tôi không thể nào nói lên được thành lời. Chắc hẳn, sự kiện này chỉ là một giấc mộng mà thôi.

Nhưng đến sáng hôm sau, hai vợ chồng chúng tôi tỉnh giấc thật sớm, vào lúc trời ngoài kia còn dầy đặc sương mù. Tôi cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh và tỉnh táo lạ thường bên tách cà phê đậm đà do chính dì Oanh đã pha sẵn còn đang nghi ngút khói. Bích, chồng của tôi với khuôn mặt rạng rỡ vui tươi đang hân hoan thả những hơi thuốc lá của buổi đầu ngày.

Ðến xế trưa, thừa lúc cả nhà đi vắng, kể cả anh Bích, chồng của tôi, cũng có chút việc phải đi ra ngoài thị xã mua sắm ít đồ dùng, tôi đem chuyện thấy khung hình hiện ra đêm qua ra kể với dì Oanh. Nghe chuyện xong, dì như có điều gì khác lạ, dì bảo tôi đợi một chút, rồi quày quả đi vào phòng riêng, dì trở ra với một tấm ảnh nhỏ trên tay. Tấm hình đó đúng là tấm ảnh của Duyên, đúng là khuôn mặt buồn vời vợi mà Duyên đã hiện ra trên tường nhìn hai vợ chồng tôi bằng tia mắt hiền lành với nụ cười buồn da diết. Dì Oanh nói nhỏ vào tai tôi:

- Con bé này tên Duyên. Nó cũng là cháu họ của dì, còn Bích, chồng của cháu bây giờ vốn là cháu trai của chú Phúc, tên người chồng của dì đã khuất núi. Ngày trước, cách đây ít lâu, Bích cũng lên đây thăm dì và tình cờ gặp Duyên trong một buổi tiệc tất niên. Hai người họ có quen biết nhau, nhưng Bích không có chút tình ý gì với Duyên cả. Trái lại, dì nhận thấy Duyên đã có cảm tình sâu đậm với Bích. Dì biết Bích ra vẻ dửng dưng...

Nói chuyện đến đây, đúng vào lúc đó có người đưa thư ngừng xe lại trước sân nhà. Ông ta trao cho dì Oanh một xấp thư mới gởi tới. Dì Oanh đứng dậy đón lấy mớ thư. Dì vừa đi vừa lật lật từng lá thư xem của những ai đã gởi. Bỗng dì bặm lấy môi, nhìn tôi trợn tròn đôi mắt:

- Duyên nó đã qua đời thật rồi Phượng ạ! Ðây là điện tín từ Sài Gòn vừa mới gởi lên. Cháu xem này.

Tôi đưa tay đỡ lấy điện tín từ bàn tay run rẩy của dì Oanh. Cái chết đột ngột của Duyên đã khiến dì Oanh thật sự xúc động bàng hoàng. Chồng tôi, ngay phút đó cũng đã về tới, chàng thong thả bước vào nhà, và tỏ ra hơi ngạc nhiên khi nhìn thấy thần sắc của dì Oanh có hơi khác lạ, trong khi trên tay của tôi còn đang cầm tờ điện tín. Tôi trao ngay tờ giấy điện tín cho Bích. Chàng đọc xong, bất giác buông tiếng thở dài:

- Cô ta chết rồi Phượng ạ! Nhưng chết trong hoàn cảnh nào thì tờ điện tín này không thấy nói.

Chúng tôi hốt hoảng cùng nhớ lại hình ảnh của Duyên chiều tối hôm qua trong căn phòng ngủ ở trên lầu. Không hiểu Duyên bị chết bởi nguyên do nào, vào lúc nào mà vong linh của nàng hiển linh như vậy. Duyên còn cẩn thận hiện về báo riêng cho tôi biết trong giấc ngủ chập chờn, sẽ có người gởi bức điện tín lên thông báo cho cả hai vợ chồng chúng tôi được biết để mà đón nhận.

Tôi với chồng tôi quyết định chấm dứt tuần trăng mật sớm hơn dự định. Chúng tôi vội vàng từ giã dì Oanh với ý định trở về Sài Gòn cho kịp ngày chôn táng của Duyên. Nhưng khi về đến nơi thì mọi chuyện chôn cất ma chay cho Duyên cũng đã xong xuôi cả rồi. Vợ chồng chúng tôi chỉ còn có thể đưa nhau tới nấm mộ còn xanh cỏ của Duyên để thắp cho nàng một nén hương tưởng niệm rồi sau đó, chúng tôi lại bị cuốn hút vào những công việc bận rộn hằng ngày...

Một thời gian sau đó, thỉnh thoảng vợ chồng tôi vẫn giữ mối dây liên lạc với gia đình của Duyên bằng cách lâu lâu hai chúng tôi cùng đưa nhau đến thăm viếng bà mẹ già của Duyên nơi căn nhà cũ tọa lạc ở khu ngoại ô Gò Vấp, gần tổng y viện Cộng Hòa. Căn nhà giờ đây nhuốm vẻ tiêu điều hơn cả lúc Duyên còn sống. Cảnh nhà đơn chiếc với thân mẫu và cậu em trai khoảng mười mấy tuổi của nàng. Ðời sống thường nhật của bà cụ vốn đã thu gọn lại, khép kín từ lúc chồng bà qua đời, giờ đây lại càng khép kín hơn nữa. Nhìn bà cụ với cảnh nhà đơn chiếc, lòng tôi càng thêm thấy áy náy và chợt nảy ra ý định mời bà cụ đến nhà của tôi để cho hai bà cụ gì có cơ hội thay đổi không khí sinh hoạt, gặp nhau chuyện vãn cho vui. Tôi đem chuyện này ra nói với Bích, anh tán đồng ngay. Anh Bích nói:

- Chúng mình chở bà mẹ của Duyên đến nhà mẹ em là được rồi, phải không?

Nghĩ xong là làm, chúng tôi đến thăm mẹ Duyên, nói với cụ rằng chính thân mẫu của tôi, cũng cần có người bầu bạn chuyện vãn cho vui nhà. Nhưng bà mẹ của Duyên đã mấy lần từ chối, viện cớ cụ đã già và sức khỏe không cho phép bà di chuyển đó đây nhiều. Sau cùng vì tôi năn nỉ mãi, bà cụ nhận lời để cho chúng tôi gọi một chiếc xe taxi chở cụ xuống nhà để chuyện vãn với mẹ tôi.

Có một điều khác lạ là nhà tôi có nuôi một con chó mực vạm vỡ nhưng nó lại rất hiền lành dễ thương. Không hiểu vì sao vừa thấy chiếc taxi chở mẹ của Duyên ngừng lại trước cửa nhà, con mực đã cụp đuôi lủi mất cho đến xế chiều, khi bà mẹ của Duyên đã ra về, con mực mới xuất hiện trở lại, nó rên lên ư ử và cứ chúi mũi mò mẫm đánh hơi khắp nhà.

Ít lâu sau, như để trả lễ, bà mẹ của Duyên ngỏ ý cũng muốn mời mẹ của tôi đến nhà chơi. Mẹ tôi có tâm tính vốn rất tươi vui và dễ tính, cụ nhận lời ngay:

- Phải đó con! Chúng ta cũng nên thỉnh thoảng ghé đến thăm để bà cụ được vui. Ðời sống của bà cụ xem ra, kể từ ngày đột nhiên mất đi đứa con gái yêu quý vì cô ta tự vận bởi thất tình, bà cụ trở nên trầm mặc, cảnh nhà tẻ lạnh quá...

Tôi ở nán lại với mẹ tôi trò chuyện với bà cụ mẹ của người đã khuất trong căn nhà giờ đây rất hoang tàn lạnh lẽo. Chúng tôi cảm thấy rờn rợn ngay giữa ban ngày, nhưng không biết đích xác là tại sao cả hai mẹ con lại cùng mang chung một cảm giác. Chúng tôi muốn sặc lên khi tấm thảm lau chân đã củ kỹ để trước ngưỡng cửa ra vào bỗng nhiên tung lên y như có một bàn tay nào đó tự cầm lên giũ giũ thật mạnh khiến bụi đất bám đầy ở đó tung bay lên khắp cả nhà, bụi bậm bay ngang cả nơi chúng tôi đang ngồi. Bà cụ thì dường như đã quá quen thuộc với những hiện tượng lạ lùng như thế này. Bà bình tĩnh nói:

- Không có gì đâu. Lại là con Duyên đó mà.

Nghe bà nói vậy, tôi bỗng nhiên cảm thấy rất ghê sợ. Chẳng lẽ, những chuyện phản khoa học như chuyện này lại có thể xảy ra giữa ban ngày và còn được mặc nhiên thừa nhận. Bà cụ thân mẫu của Duyên lẩm bẩm như phân trần:

- Không phải lúc nào hồn ma của con Duyên cũng hiện về làm dấy động như vậy đâu. Chắc nó có điều gì còn oan khuất chưa giải tỏa được đó mà!

Tôi liên tưởng ngay tức thời ra nỗi niềm oan uất của Duyên vì mối tình đơn phương của nàng đã dành cho chồng của tôi - anh Bích - đã không được toại nguyện cho nàng khiến nàng trở nên thất vọng rồi tự đi tìm cái chết.

Hai mẹ con tôi thật tình không còn muốn nán lại trong căn nhà lạnh lẽo này nên vội vã cáo biệt bà cụ để ra về. Vài ngày sau lần viếng thăm bà mẹ của Duyên, dường như chính linh hồn của duyên đã đi theo mẹ con chúng tôi về nhà bởi vì, sau này, không cần phải có sự hiện diện của bà mẹ Duyên thì con chó mực trong nhà chúng tôi vẫn thỉnh thoảng rú lên từng hồi, nó còn rên rỉ y như nó có điều chi đang hậm hực. Rồi những hiện tượng vô hình bắt đầu nổi lên rõ rệt hơn từ ngày đó. Trong căn nhà bếp của chúng tôi, chén đĩa tự nhiên bay khỏi kệ và rớt bể lung tung. Bàn ghế thì cứ di động quanh phòng luôn luôn như có bàn tay người xô đẩy. Những bức hình treo trên tường từ bao lâu nay, tự nhiên bị tháo gỡ rơi xuống sàn gạch.

Tôi bắt đầu nghĩ ngợi nhiều hơn đến những vấn đề huyền bí và những quan niệm đánh thép của tôi xưa nay đối với những chuyện hoang đường đang bị giao động ghê gớm. Tôi cảm thấy sợ sệt vô cùng vì chợt nhận ra cảm giác như lúc nào cũng có tia nhìn của một người nào đó đang bám sát vào từng hành động đi đứng của tôi. Ðôi mắt đó cứ nhìn tôi chằm chặp chẳng rời, nó theo dõi tôi sát nút cả ngày cũng như đêm.

Âm Giới

(Phần 2)

Một hôm, ngay giữa ban ngày lúc tôi đang đứng lom khom, trên tay có cầm một cây kéo nhỏ để cắt tỉa một vài nhánh cây bonsai mọc ra dư thừa, thình lình tai tôi nghe một luồng gió khá lạnh thổi tạt qua sau gáy. Tôi chưa kịp định thần, đã nghe một tiếng đổ vỡ từ trong phòng khách vọng tới. Theo phản ứng tự nhiên tôi quay đầu nhìn vào thì rõ ràng, tấm màn ren đang treo trên khung cửa sổ đã bị tháo bung ra và rơi ngay xuống đất cùng một lúc với cái độc bình sành đặt trên kệ sách cũng bị rơi và bị vỡ toang trên nền gạch bông. Mẹ tôi lúc đó lại không có mặt ở nhà, càng khiến cho nỗi sợ hãi của tôi dâng lên cao độ.

Tôi hoảng hốt sập mạnh cánh cửa nhà lại rồi kêu một chiếc xe xích lô hối người đánh xe đạp thật nhanh đến sở làm của chồng để báo tin cho anh ấy. Nghe tôi hớt hải kể ra tự sự, Bích không nói không rằng, bảo tôi chờ anh ở đó để anh vội vàng xuống chỗ đậu xe, lái đưa tôi về nhà. Lúc vợ chồng tôi về đến nhà, các hiện tượng lạ lùng đã ngưng, nhưng những dấu tích rơi vãi, đổ vỡ thì vẫn còn sờ sờ. Có lẽ, lúc đầu khi nghe tôi nói, chồng tôi chỉ cho rằng tôi bị ám ảnh hoặc nói vậy để đùa nghịch, nhưng khi chính mắt anh chứng kiến những cảnh tượng như căn phòng đã bị phá thì Bích không còn có gì để nghĩ rằng tôi nghịch ngợm một cách kỳ quái như vậy nữa. Bích có vẻ mất bình tĩnh và chàng đổ lỗi ngay cho bà mẹ Duyên. Bích nói bằng giọng hằn học:

- Ðích thị những hiện tượng này khởi sự từ lúc mẹ của Duyên đã đến thăm viếng vào lần trước. Chẳng lẽ bà ta là ma.

Nhưng chồng tôi vội chặc lưỡi, chàng nói như phân trần:

- Không phải vậy đâu! Chính bà cụ cũng từng chịu đựng cảnh phá phách này y như chúng ta kia mà. Vong hồn của Duyên có thể chưa được siêu thoát và có điều chi oan khuất chưa được giải tỏa cho nên nàng đã trở về, đã cố tình nhắc nhở chúng ta rằng quanh đây, có sự hiện diện của cô ta.

Những hiện tượng tương tự còn được tiếp diễn cả tuần lễ sau đó. Không những đồ vật tự chuyển động, mà tất cả những người trong gia đình của chúng tôi đều nghe thấy có tiếng thú vật gầm rú ngầm ngừ phát ra từ dưới gầm giường hay dưới gầm bàn, ban đêm còn thấy có những con mắt đỏ rực lửa nhìn dán vào trong nhà từ bên ngoài cửa sổ, cùng với tiếng đập cửa vang lên cả ngày lẫn đêm, như tuyệt nhiên, không có ai bên ngoài cả.

Ðối với riêng bản thân tôi, sự cứng cỏi và quan niệm không mấy tin vào những hiện tượng huyền bí phản khoa học đang bắt đầu bị lung lay. Dù không thể nào chấp nhận, nhưng tôi vẫn phải chính mắt cùng với những người trong gia đình chứng kiến liên tiếp những hiện tượng kỳ bí và không thể nào giải thích này. Có những lần, sự việc diễn ra ngay cả ban ngày khiến cho tôi nghe rùng rợn đến nổi cả da gà.

Có nhiều hôm, chịu đựng một mình không thấu tôi quyết định lấy chiếc xe gắn máy của riêng tôi để chạy trốn khỏi căn nhà mà từ bao năm nay tôi đã được sống qua những năm tháng thật êm đềm hạnh phúc. Tôi leo lên, định đạp cho xe nổ máy, bỗng dưng tôi cảm nhận được cái lực từ trường ngay trên chiếc xe bé nhỏ của tôi. Dù tôi đã tận sức cũng không thể nào đạp cho cái pê-đan xe quay được lấy nửa vòng, do vậy chiếc xe không thể nào nổ máy được. Tôi cố gắng thêm nhiều lần, nhưng chỉ vô ích mà thôi. Tôi vừa nơm nớp lo sợ vừa cảm thấy rời rã cả hai chân, đành bỏ chiếc xe lại đó, tìm đến một chỗ có nhiều ánh nắng chiếu xuống sáng trưng và ấm áp, bó gối ngồi đó kiên nhẫn chờ đợi cho đến giờ chồng tôi hết giờ làm việc từ sở quay về nhà.

Sự việc như vậy cứ thế mà tiếp diễn đến nỗi về sau, cả nhà chúng tôi, ai nấy đã gần như quen thuộc lắm với những hiện tượng vô hình hiện lên phá phách một cách vô tích sự này, cho đến gần ngày tôi tôi sanh nở đứa con đầu lòng, khi tôi bắt đầu đau đớn chuyển bụng đến ngất đi tự lúc nào tôi cũng không hề hay biết. Chỉ có về sau này, sau khi qua hết mọi chuyện, tôi được mẹ tôi và chồng tôi kể lại cho tôi nghe đầu đuôi diễn tiến mọi sự việc.

Cái thai trong bụng của tôi thì quá lớn, trong khi tôi lại là một sản phụ mới sanh con so lần đầu. Sau hơn mười mấy tiếng đồng hồ đau đớn, tôi bị ngất đi và đã được chuyển ngay vào phòng giải phẩu sau cái quặn đau cuối cùng đến độ tôi phải tắt thở để rồi tim tôi ngừng đập. Tất cả mọi người đã tận lực áp dụng hầu hết các phương pháp khoa học hiện đại để hồi sinh cho tôi, nhưng thần thức của tôi vẫn không chịu trở lại. Vào lúc các vị bác sĩ sản khoa muốn buông suôi bỏ cuộc...

Từ lúc bấy giờ, tôi thấy tôi bị bao trùm bởi một loại ánh sáng vàng xanh lẫn lộn, di chuyển quanh tôi theo nhịp độ vòng tròn, đem lại cho tôi một cảm giác hết sức bình an và vô cùng thoải mái. Tôi cố định thần mà tai cũng không nghe thấy một tiếng động khá lạ nào và mắt cũng không nhìn thấy gì khác, ngoài hai luồng ánh sáng lạ lùng đó. Tôi cảm nhận rõ ràng và chính xác rằng, tôi vẫn còn ở bên trong thân xác, nhưng đang bước vào một thế giới khác lạ của tương lai, một giai đoạn hoàn toàn mới mẻ. Tôi lại còn nhận ra thêm rằng cái trí thức, thần thức của tôi đang mãnh liệt dồn lên trên phía đỉnh đầu và yên trí rằng nó sẽ thoát ra từ đó khi tôi đã tắt thở.

Nhưng thần thức của tôi dù chuyện động có mãnh liệt, ước muốn của tôi dù có cấp thiết đến mấy đi nữa cũng không thể nào thoát ra được bằng cái cửa ngõ ấy. Và bỗng nhiên tôi thấy có sự hiện diện của một người đàn ông to lớn dềnh dàng đang uy nghiêm đứng trước mặt và dường như ông ta đang trực tiếp tham dự và cản trở và diễn tiến thoát xác của tôi, và cái chết đang diễn ra thật từ từ. Tôi cố gắng để nhìn cho rõ khuôn mặt của ông ta, nhưng tôi đã chẳng trông thấy được vì dường như có một làn mây nhẹ bao phủ chung quanh tầm nhìn của tôi. Qua làn mây đó, tôi nhìn thấy một cánh đồng thênh thang xanh mát những cây và cỏ.

Tôi cảm thấy yêu mến ngay cảnh giới thanh thoát nhẹ nhàng này rồi tôi tự nhủ lòng sẽ cố đi đến đó và ở đó luôn không muốn đi bất cứ nơi đâu nữa. Nhưng người đàn ông to lớn đó lại nhất định ngăn cản, không để cho tôi qua. Tôi với ông ta không cần trao đổi với nhau lời nào mà lại cảm thông được nhau tất cả mọi ý tưởng cả hai đang muốn biểu lộ:

- Tại sao tôi chết? Và nếu tôi đã chết, tôi đã rất yêu mến cảnh giới này, tại sao không cho tôi đến và ở lại đây?

- Chưa được đâu! Bà đến đây là do một sự tình cờ bất đắc dĩ, không nên đỗ lỗi cho ai...

Tôi thẳng thắn bày tỏ ý định cùng sự thèm thuồng được lưu ngụ nơi đây và yêu cầu ông ta giúp tôi thực hiện ước muốn đó. Ông ta mặc khải tư tưởng ngay lập tức để cho tôi có thể hiểu được rằng:

- Chưa phải lúc bà được đến nơi đây. Bà còn cả một đời sống thật dài ở phía trước. Tôi có cho bà ở lại không những tôi hủy hoại kiếp sống của bà mà còn gây ra sự liên can đến rất nhiều người khác. Bà không nhớ bà đang có thai hay sao? Ðịnh mệnh của thai nhi này cần được thực nghiệm ở thế gian. Tôi không phải là người có uy quyền để cho đứa bé mất đi cơ hội chào đời của nó, lại càng không thể giúp bà chấm dứt mọi nghiệp nợ với thế gian, với chồng con cùng với những người thân yêu của bà. Bà hiểu chứ?

Nghe ông ta giải thích hợp tình hợp lẽ, tôi đã thấy xiêu lòng. Tôi với chồng tôi đã chẳng từng mong ước có một đứa con cho mình và cho mẹ tôi bồng ẵm là gì. Tôi bỗng nhớ đến những hiển hiện vô hình đã xảy ra liên tục ở thời gian gần đây làm cho chúng tôi rất đỗi bực mình và sợ hãi. Tôi liên tưởng đến vong linh của người con gái tên Duyên. Tôi muốn được nhân cơ hội chạm mặt với người đàn ông to lớn mà tôi cho rằng ông ta có thể hiểu biết thấu đáo mọi điều huyền nhiệm này xin cho ông ta ban cho tôi một cơ hội để tìm hiểu rõ ràng mọi nguồn cơn đưa đến những hiện tượng đó.

Thoáng chốc, người đàn ông hiểu ngay tôi đang muốn gì. Ông ta mỉm cười vẫy nhẹ tay áo, Duyên đã đứng trước mặt của tôi từ lúc nào. Khuôn mặt của Duyên vẫn không có gì thay đổi. Duy chỉ có đôi mắt của nàng là mang mang một nỗi buồn xa vắng. Duyên đứng đó bình lặng nhìn tôi, tôi nói với nàng:

- Tại sao chị lại chọn lấy cái chết đột ngột và thê thảm như vậy?

Duyên nhanh chóng trả lời:

- Cho đến bây giờ, tôi mới biết rằng hành động như vậy là một quyết định hết sức sai lầm. Tôi đã tự ý chấm dứt cuộc đời của mình mà chưa có lệnh của bề trên cho phép. Vì vậy, tôi còn đang bị câu lưu để được xét sử trong nay mai. Nhưng chắc chắn tôi không thể được cho đi đầu thai giống như cái chết của mọi người vì qui luật âm giới đã ấn định rõ ràng chỉ đến khi ngày tận số trên dương gian, mọi người mới được "gọi về" dưới hình thức lìa trần bằng một chung cuộc hợp lý tùy theo nghiệp lực thiện ác riêng tư để rồi họ sẽ được tái sinh theo vòng chuyển hóa luân hồi.

Bản thân của tôi thì lại khác. Tôi đã tự ý đình chỉ vận số của mình nên bây giờ, theo nghiệp lực đó, tôi bị cầm giữ ở một nơi chốn riêng biệt, đợi cho đến đúng ngày tháng như đã định trước thuộc về số mệnh của tôi ở dương trần, lúc bấy giờ tôi mới được đem ra tái xét để cho đi đầu thai vào cảnh giới nào thì thật tình tôi cũng không thể biết trước được.

Tôi chuyển ý lực như muốn gạn hỏi cô ta về những hiện tượng vô hình xảy ra trong sinh hoạt gia đình của chúng tôi. Cô ta giải thích như sau:

- Ðó cũng là những việc do chính tôi tạo ra, mục đích chỉ để lưu ý mọi người đừng sớm quên lãng tôi đi mà thôi. Tôi vẫn còn thương yêu anh Bích - chồng của chị - rất nhiều. Khi tôi còn sống, tôi cứ tưởng điều gì mình muốn là phải thực hiện cho bằng được. Tôi không hiểu chút gì về định luật nhân duyên. Cho đến hôm nay thì chị cũng đã biết được điều đó rồi. Tôi với anh Bích quen nhau trước khi anh ấy gặp và quen chị. Tôi thì yêu thương anh ấy vô cùng. Nhưng nhân duyên của chúng tôi không hề sắp đặt để cho tôi với anh ấy nên bề gia thất, thành vợ thành chồng. Cho nên, cho dù lòng tôi có tha thiết ước ao như vậy, có tìm đủ mọi cách để thực hiện ước muốn của mình thì vì không có với nhau duyên nợ xe kết từ bao nhiêu tiền kiếp nợ nần, tất cả những mưu định của tôi đều chỉ dẫn đến con số không, đều chỉ có một mình tôi cảm động và yêu thương anh ấy. Ðối lại tình cảm của tôi, anh ấy vẫn vô tình, vẫn không chút động tâm nào để nghĩ rằng anh ấy có thể đáp lại tình tôi. Cho đến khi tôi tự ý kết liễu đời mình, trở về với cõi âm sâu lắng, tôi mới hiểu ra thì mọi sự đã rồi. Và mọi sự đã rồi, đã được an bài và diễn ra đúng như những quy định của căn phần duyên số chị phải là vợ của anh ấy và anh ấy phải là chồng của chị, rồi đến đứa con trong bụng mà chị sắp sửa sanh ra cũng bị chi phối chung trong một định luật. Số phần của cháu bé phải có mẹ có cha, chị còn phải trở về để thi hành cho xong vai trò nhiệm vụ của một người vợ, một người mẹ nuôi nấng dạy dỗ cho con.

Từ đây, tôi đã hiểu ra tất cả mọi điều rồi. Tôi hỏi Duyên vì sao cô ta cứ hiện về để cho chúng tôi phải bao phen khiếp sợ? Cô ta cho biết như sau:

- Những lúc tôi không kềm hãm được bản ngã của mình rồi hiện về bày tỏ lòng giận hờn ghen tức, tôi không có làm cho ai khiếp sợ. Sự khiếp sợ là của người chứng kiến. Tôi làm ra sự khiếp sợ đó để làm gì trong khi tôi vẫn còn yêu thương anh Bích và chỉ muốn anh ấy nghĩ đến tôi.

Tôi yêu cầu Duyên cũng như tôi, từ nay đã hiểu rõ tường tận được định luật nhân duyên, mỗi người có muốn hay không cũng điều phải chấp hành căn mệnh thì đừng có hiện về quấy phá nữa để cho tôi được yên lòng lo lắng cho đứa bé sắp sửa chào đời. Duyên gật đầu, vẻ cam tâm chịu đựng. Tôi thật lòng cảm động trước thái độ nhẫn nhịn của cô ta, tôi nói bằng tất cả sự chân thành:

- Mọi việc đã xảy ra rồi, tôi không biết chúng ta bây giờ là hai miền âm dương cách biệt, tôi có thể làm được điều gì tốt đẹp cho chị thì xin chị cứ nói đi, tôi xin hứa sẽ làm với tất cả sức mình. Duyên nhìn tôi ra chiều cảm kích:

- Cám ơn chị đã nghĩ đến những điều tốt đẹp cho tôi. Thật ra vong linh tôi cũng chẳng cần thiết bất cứ điều gì ngoài sự cầu nguyện cùng những lời kinh sớm đem lại việc hóa giải tình oan nghiệp chướng. Chị và những người còn nghĩ đến tôi hãy cho tôi những lời cầu nguyện là đủ rồi. Từ nay, tôi sẽ tự hãm mình, sẽ không hiện về để cho chị phải sợ sệt nữa.

Nói rồi, hồn phách của Duyên từ từ tan biến mất. Tôi không thể nào quên được ánh mắt u buồn vời vợi thật đáng tội nghiệp của cô ta.

Người đàn ông to lớn dềng dàng lại hiện ra trước mặt tôi từ lúc nào tôi cũng không biết. Ông ta bảo tôi:

- Tôi chỉ ban cho bà một ân huệ sau cùng để cho bà có thể nhìn thấy những gì sẽ xảy ra sau này và rồi bà sẽ tự hiểu được tại sao bà chưa được ra đi như bà đòi hỏi.

Tức thì, cuốn phim của tương lai bắt đầu được hiện ra để cho tôi thấy được rằng tôi và con gái của tôi đã cùng nhau đi vào tuổi trưởng thành. Con gái của tôi lúc này thật rất xinh đẹp và dễ thương. Từ giai đoạn này, khúc phim tương lai được diễn tiến chậm chạp hơn cho đến lúc tôi chứng kiến rõ ràng một bà lão trông rất từng trải đang nằm trên giường và chắc chắn là bà ta đang sắp sửa đón nhận cái chết đã cận kề. Có một người thiếu phụ khác tuổi trạc ngoài 40 đứng ở bên cạnh giường bà lão mà tôi không thể biết người thiếu phụ này là ai. Bà ta đứng đó với rất đông con nít trông rất thân tình như trong một gia tộc mà tôi cũng không hề biết được chúng là ai.

Tôi hỏi người đàn ông to lớn:

- Bà lão đó là ai? Sao có vẻ giống tôi quá vậy?

- Chính là bà đó! Người thiếu phụ lạ mặt kia là cháu ngoại của bà và đám con nít nhỏ chúng chính là cháu chắt của bà đó!

Tôi hỏi lại:

- Vậy chồng và con gái của tôi đâu sao không thấy đứng đó?

- Tới thời gian đó họ đã đến đây với tôi trước bà rồi. Bà sẽ gặp lại họ ở chốn này. Tôi hứa chắc chắn như vậy.

Ðến khúc phim này, đột nhiên tất cả hình ảnh của tương lai đều biến mất. Người đàn ông to lớn bảo tôi:

- Bây giờ thì bà đã hiểu, tại sao bà phải ở lại trên trần thế chứ gì? Tất cả những người hiện diện trong khúc phim mà bà vừa nhìn thấy sẽ học hỏi với những kinh nghiệm trần gian của chính bà và chỉ có bà mới có thể ảnh hưởng họ được. Bà sắp sửa phải trở lại đời sống bên kia để tiếp tục cho xong những bổn phận riêng tư mà bà chưa thi hành xong.

Nhớ tới sự đau đớn cùng cực vào lúc lâm bồn, những lo âu khổ sở tràn ngập mỗi ngày trong đời sống trước kia, tôi lắc đầu phản đối mãnh liệt:

- Không tôi không kham nổi sự đau đớn thể xác này vào lúc tôi phải sinh con. Tôi không muốn chịu đựng thêm sức nặng nề như đã trì kéo thân xác của tôi trong mấy chục năm đã qua. Tôi thực tâm muốn thoát khỏi mọi ưu tư phiền bận nặng nề và tôi muốn được ở lại nơi chốn bình an thanh nhẹ viên mãn này...

- Không còn cách nào khác nữa. Người ta sẽ có cách giải phẫu để đem được đứa bé bình yên ra chào đời. Bà sẽ không hay biết gì về điều đó đâu và cũng không hề đau đớn giống như bà vẫn thường sợ sệt lo âu. Bà sẽ ngủ một giấc thật say mê cho đến khi tỉnh dậy thì đứa con gái sơ sinh đã được chào đời, các bác sĩ sản khoa đã dùng một loại y dược giống như thuốc mê (local anesthetic) để tránh sự đau đớn cho bà...

Ông ta nói xong thì tự nhiên biến mất trong khi bên tai tôi văng vẳng có những tiếng gọi tên tôi cấp bách và ồn ào trộn lẫn với những tiếng gió rít mạnh bên tai như thể tôi đang một mình bay vùn vụt trong không gian.

Thoạt nhiên, tôi cảm nhận một cảm giác trì kép nặng nề trong khi tôi mở bừng mắt ra trông thấy tất cả mọi người đang đứng vây chung quanh chỗ tôi đang nằm. Chồng tôi cũng đang hiện diện, chàng còn đang đeo một cái mask của nhà thương để ngăn cản sự nhiễm trùng. Gương mặt chàng đổ mồ hôi mồ kê vã ra từng giọt có lẽ vì phải trải qua những giây phút cực kỳ lo âu trong lúc tim tôi ngừng đập.

Một bà bác sĩ vốn là chỗ bạn bè thân quen còn đứng ở đó ra hiệu cho cô y tá bồng đứa con gái mới được giải phẫu để lấy ra một cách an toàn:

- Vậy là chị Phượng có thể an tâm rồi nhé! Bà quay lại nhìn về phía chồng tôi:

- Mừng anh chị đã có con gái đầu lòng. Cháu khỏe mạnh và thật xinh đẹp như chị đây này.

Bà kéo nhẹ cánh tay tôi ra tạo một chỗ trống bên cạnh rồi nhẹ nhàng đặt đứa con gái khuôn mặt còn đỏ hỏn được cuốn gọn gàng trong một tấm khăn trinh trắng, bà ta nói bằng một giọng nói thật thân thương:

- Nào! Mẹ cho bé nằm cạnh với nào. Bé đang cần hơi mẹ đó...

Nói xong bà mỉm cười nhân hậu, chúc tôi vài câu khỏe mạnh rồi bà ta bước ra khỏi phòng sanh để trở lại với các sản phụ khác đang chờ.

Vợ chồng chúng tôi nhìn nhau trong tia mắt tràn trề an lạc, chàng nói:

- Em làm cho anh và các bác sĩ ở đây hết cả hồn vía. Tim em đã ngưng đập khá lâu, tưởng anh đã thật sự mất em rồi.

Tôi nheo mắt nhìn chồng đầy thương yêu trong khi thân thể còn mệt mỏi đến rã rời, tôi nói:

- Em vừa trải qua một giấc mơ đẹp lắm, mai mốt trở về nhà của chúng mình, em sẽ nói cho anh nghe về giấc mơ bên âm giới dịu dàng mà em mới vừa trải qua. Kể từ nay, chúng ta không có điều gì phải lo sợ nữa. Em rất tin vào những hiện tượng huyền bí mà khoa học chưa có thể chứng minh.

Chồng tôi đưa cả hai bàn tay âu yếm nắm lấy tay tôi với nụ cười rạng rỡ trên môi trong khi ngoài kia sau khung cửa sổ, màu nắng vẫn rực rỡ, chói chang...

Cõi Chết Không Buồn

(Phần 1)

Xin thưa ngay cùng các bạn, tôi là một người đàn ông có một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc, từ lúc thiếu thời cho đến khi kể cho các bạn nghe câu tự chuyện có vẻ huyền bí này. Nhưng thực sự, tất cả đã xảy ra mà diễn tiến đúng như những gì tôi sắp kể, không hề có ý thêm bớt, đặt điều.

Các bạn tin hay không tin, cũng không phải là điều thật sự cần thiết, vì ý của tôi là chỉ muốn được có cơ hội nói ra tất cả những cảm giác khác thường của một người đã chết đi sống lại trong một khoảng thời gian khá dài ngay tại xứ sở được tiếng là văn minh tiến bộ nhất này, mà đối với lý luận khoa học, chưa bao giờ có sự thừa nhận chính thức, cho dù chính mắt họ là những người đã có mặt bên cạnh tôi từ khi tôi được đưa vào bệnh viện cho đến khi tôi được các bác sĩ khám nghiệm chứng nhận đã sống lại và đã trở về sinh hoạt như bao nhiêu người bình thường...

Chưa hết, còn chính mắt bè bạn, thân nhân vợ con tôi là những nhân chứng sống nữa cơ mà. Tất cả, họ đã chứng kiến tận mắt và vẫn đang hiện diện nơi đây. Tôi chắc họ cũng chẳng ngại ngùng gì để sẵn sàng làm chứng cho điều tôi tự thuật về "một lần ra đi và một lần trở lại" của một xác chết hồi sinh, trở lại sống kiếp người bình thường...

Sáng hôm ấy là ngày sinh nhật thằng con út của tôi. Mẹ nó và con chị, cùng với cả các bác các anh chị cô chú trong gia đình nội ngoại của chúng tôi ở đây, từ cả tháng trước đã sắp đặt một chương trình vui chơi cho nó. Xem vậy mà tôi chỉ là một nhân vật phụ trong những dịp tổ chức như thế này trong gia đình cho nên tôi chỉ cần thi hành đầy đủ những gì mà vợ con tôi đề nghị. Quan trọng nhất là việc làm tài xế lái xe cho mẹ nó và hai cháu. Muốn đi đâu họ cứ việc nói, tôi chở đi ngay, còn bao nhiêu chuyện khác, mọi người đã sắp đặt toan tính đâu vào đó cả.

Nhiệm vụ "then chốt" của tôi chỉ có vậy, cho nên, cá nhân tôi, tự nhiên được nhờ ơn vợ con họ hàng, các anh các chị thương yêu "kẻ sĩ", đâm ra sung sướng, chẳng phải quán xuyến chuyện gì. Mỗi khi có hội hè đình đám trong gia tộc là tôi cứ lè phè, không bị mệt đầu óc tính toán này kia. Muốn đi đâu làm gì tùy ý với cái máy gọi (pager) phải luôn luôn mở (turn-on). Và như thế, bổn phận tài xế của tôi, nhất thiết, không thể lơ là. Lý do cũng dễ hiểu vì các con còn bé, vợ tôi thì suốt gần 20 năm làm bạn với màn ảnh computer ở sở cũng như ở nhà nên đôi mắt nàng có đẹp và quyến rũ thật nhưng lại bị cận thị quá nặng nề nên thời tiết và ban đêm mà bảo nàng lái xe đi đâu, kể như ... xúi trẻ con đi ăn cướp nhà băng ở đất Mỹ.

Lễ sinh nhật của thằng con tôi được mẹ nó, các bác các cô, các anh chị nó ấn định vào cuối tuần để cho mọi người trong nhà có thời giờ đến tham dự vui chơi ăn uống, đánh bài "mà chược", "xì phé", ca hát "karaôkê". Buổi sáng thứ bảy đó, giống như bao nhiêu vụ hội hè đình đám gia tộc chúng tôi đã làm như một thói quen không bao giờ thiếu ở xứ Mỹ này, điện thoại trong nhà gọi đi order thức ăn ở nơi chuyên làm thức ăn đãi tiệc, có lúc chuông reo inh ỏi của các chị em bạn gái trong nhà gọi đến từ những vùng lân cận, chẳng có lúc nào ngưng, đường dây cứ thế mà bận liên tục...

Dù tôi không có nhiệm vụ phải dậy sớm cũng không thể nào ngủ nướng thêm được với một buổi sáng rộn rịp như thế này, đành phải ra khỏi cái giường êm ấm. Định gọi một anh bạn thân, xuống cái quán quen ở khu Bolsa uống cà phê tán láo, cũng không thể xen vào "đường dây điện thoại đỏ" đang được vợ tôi và các cô em xử dụng liên hồi.

Tôi chẳng lấy thế làm phiền não về chuyện này giống như tôi đã từng không phiền não trước hàng trăm thứ chuyện xảy ra hàng ngày trên đất Mỹ, bèn ra phòng ăn cầm ly cà phê sữa còn ấm vợ tôi đã pha sẵn, rồi tôi lững thững với gói thuốc lá bước ra sân sau, chỗ cái bàn bằng nhựa trắng ngồi uống cà phê một mình, ngắm khung cảnh ẩn hiện qua làn sương mai ở dưới cuối chân đồi đang được ánh nắng đầu ngày điểm cho một màu vàng trác tuyệt.

Trước khi tới cái bàn nhựa kê ở góc sân, tôi đảo bước chân theo thói quen dọc theo con suối nhân tạo mà tôi đã mất nhiều tốn kém và công phu thuê mấy người "Landscaper" (thợ làm cây cảnh cho tư gia) đến xây dựng cho, từ ngay khi chúng tôi mua căn nhà giá cả khá cao nằm trên đỉnh đồi này, nên trong khuôn viên sau căn nhà chúng tôi có một khung cảnh tương đối sang trọng nên thơ và đẹp mắt với một hòn non bộ đầy màu sắc, các loại cây cảnh Trung Quốc xỏa tàng lá đó đây bên dòng suối quanh co nước chảy róc rách với lũ cá cảnh xanh trắng đỏ vàng, chung quanh khu vườn đầy hoa tươi rực rỡ.

Tôi bước trên những phiến đá gập ghềnh còn đọng ướt, trơn trợt sương đêm. Bỗng nhiên bàn chân trái của tôi vô ý bước lọt vào giữa hai cục đá, ly cà phê bên tay trái, gói thuốc lá và cái bật lửa bên tay phải của tôi bất ngờ bị hất tung lên trời, cả người tôi mất thăng bằng ngã ngang trên con suối nhỏ mà bờ suối không quá rộng, ở bên kia cũng có những cục đá xếp lô nhô lên như chờ đợi đón lấy các đầu của tôi sẽ đập xuống một cách vô tình chưa đầy một phút đồng hồ.

Tôi nghe một tiếng rầm thật to, thật vang động trong đầu tôi rồi không còn biết gì ở thực tại mà tôi vừa hiện diện nữa.

HỒN LÌA THÂN XÁC LẨN QUẨN BÊN VỢ CON

Người tôi ngay sau phút ấy không còn trọng lực nữa, tôi nghe nhẹ hẩng trong không gian, việc xê dịch, đi đứng khoan thai thật thảnh thơi dễ dàng, không còn chút trở ngại nặng nề cùng với một cảm giác lâng lâng hạnh phúc. Từ một khoảng 180 độ đằng trước mặt, tôi có thể nhìn rõ tất cả những gì hiện ra trước mắt.

Nhưng 180 độ phía sau lưng, mỗi khi ngoái đầu nhìn lại, tôi chỉ thấy một vùng sương trắng dày đặc, không có bất cứ vật thể gì. Tôi còn nghe được rõ ràng mọi người đang nói chuyện với nhau lao nhao láo nháo hết sức ồn ào. Vợ tôi đang cuống cuồng trả lời những gì các ông bà Mỹ đến lập thủ tục, điều tra. Thường nhật nàng vốn là một phụ nữ có đầy nghị lực, không khóc lóc dễ dàng, nhưng giọng nói và tia mắt lúc này thì quá đỗi phiền muộn, trông thật là tội nghiệp. Hai đứa con của tôi thì vô cùng thê thảm, chúng quấn quít bên cạnh cái xác của tôi giống như lúc thường có tôi nằm ngủ và chúng thì luẩn quẩn ở bên hoặc xem video con nít, hoặc xoay quanh những món đồ chơi điện tử trong nhà. Giờ đây chúng im lìm không nói gì cả. Chúng cứ dán mắt vào thân thể nằm thẳng đơ của tôi đặt nằm trên một chiếc băng ca, sắp sửa được chuyển ra chiếc xe cấp cứu đang cùng đậu chung với xe cứu hỏa, xe cảnh xát, đèn chớp loang loáng trước sân nhà.

Tôi được chuyển vào một bệnh viện lớn, qui mô nhất ở gần nhà một cách khẩn cấp sau khi vợ tôi ký tên trên những văn kiện hành chánh theo đúng thủ tục bình thường. Rồi bốn năm vị bác sĩ nam nữ người Mỹ cùng với một nữ bác sĩ giải phẫu người Việt Nam bu lại chung quanh xác tôi. Tùy theo phương vị của từng người, họ đang làm những thủ tục khảo nghiệm. Sau cùng, trên tờ báo cáo y khoa sơ khởi, họ giải thích cho vợ con cùng các anh chị họ hàng trong thân quyến tôi nghe:

- Ông ta bị té đập mạnh đầu vào một viên đá nhọn. Tình trạng hôn mê tê liệt nặng nề nhưng chưa chết vì thân nhiệt vẫn còn, cho nên chúng tôi sẽ cho áp dụng những phương pháp cấp cứu hiện đại nhất để hy vọng giữ được mạng sống của ông ta.

Một hai ngày sau, hồn của tôi cũng chẳng cần ngó ngàng gì tới thân xác cũ của tôi vẫn còn nằm cứng đơ trong phòng hồi sinh với cả chục y sĩ, y tá suốt ngày đêm khám nghiệm, theo dõi hết sức khẩn trương, tận tình. Nhìn thấy vợ con tôi hằng ngày buồn phiền ủ rũ sa sút bên cạnh xác tôi, tôi cảm thấy ái ngại và thương xót họ tận cùng nhưng không thể làm hay nói gì hơn được.

Đã mấy lần tôi đến đứng trước mặt vợ và ôm lấy hai đứa con đầy yêu dấu của tôi để nói với nàng rằng tôi không có sao cả, tôi lúc nào cũng ở cạnh họ và có lẽ chỉ ít hôm nữa là tôi có thể trở về, nhưng thật là oái oăm, họ không hề nghe được những gì tôi đã nói, cảm được những gì tôi đã làm như là tôi đã ôm từng đứa con, xoa đầu, nắm tay và hôn chúng, giúp cho vợ tôi tránh suýt đi đụng phải một cái cột đèn trong khu parking lot của bệnh viện và giúp mở khóa phòng ngủ cho họ lúc trở về đến nhà. Có lẽ vì quá xúc động và còn đang bị ám ảnh về tai nạn chết chóc của tôi nên họ không hề để ý. Thậm chí, hai đứa nhỏ nhà tôi, khi vắng tôi trong những đêm đi ngủ, chúng cứ trằn trọc lăn qua xoay lại trên giường và không ngủ được, tôi đã ôm lấy chúng thì thầm với chúng bên tai như thường lệ thì dường như chúng chỉ cảm được ở trong lòng mà không hề biết tại sao mình đang được an ủi vỗ về, chừng đó mới chịu nằm im rồi chìm dần vào giấc ngủ cho đến sáng hôm sau, nhỏm dậy ngó quanh quất trong phòng, câu đầu tiên chúng hỏi mẹ là:

- Bố đâu?

Mẹ nó, lệ ướt lưng tròng trên đôi mắt mất ngủ, sưng vù và đỏ hoe vì thầm khóc đã mấy đêm, chỉ nhỏ nhẹ nói:

- Các con dậy sửa soạn tắm rửa ăn uống rồi vào với bố ở nhà thương, nhanh lên, mẹ đã hẹn với bác sĩ ở đó rồi!

Hai đứa con tôi lầm lũi rủ nhau đi vào phòng tắm. Thằng út còn bé, không thể với tay lấy được cái bàn chải đánh răng riêng biệt mẹ nó để ở trên cao nên đang cố gắng nhón gót lên lấy, nhưng bàn tay bé nhỏ của nó vẫn không thể nào với tới được. Cố nhưng lấy không được, cu cậu tức quá cằn nhằn. Tôi đứng nhìn nó mà phát phì cười, vội lấy cái bàn chải đưa dùm cho nó, nhưng hỡi ôi! Bàn tay tôi chỉ đặt vào không mà thôi, chiếc bàn chải bé nhỏ lọt qua bàn tay tôi như lọt vào khoảng không vô ảnh, tôi cũng chẳng giúp gì được cho con trai tôi dù chỉ là một việc hết sức bình thường như vậy.

Tuy thật gần gũi vợ con cùng tất cả mọi người thân thiết, chia xẻ với họ tất cả mọi điều, nhưng tôi không có cách nào tham dự và làm cho họ nghe, họ thấy được ý mình muốn gì. Tôi nản chí rời khỏi họ và bắt đầu một mình đi phiêu bạt khắp nơi với ý nghĩ tại sao hồn tôi không lợi dụng hoàn cảnh này để chu du mọi nơi, mọi chốn mà lúc sinh thời, mình từng mong ước được đặt chân đến hoặc trở lại những vùng đất cố hương mà đã gần 20 năm qua, vì lưu lạc và sinh kế, tôi đã chưa thể trở về thăm viếng lại. Nhất là cái làng Cồn Tròn hiền hòa bé nhỏ nằm cạnh ven biển thuộc Tỉnh Nam Định miền Bắc nước Việt Nam, nơi mà cho đến bây giờ bao nhiêu hình ảnh cùng kỷ niệm thời thơ ấu thần tiên vẫn còn in dấu trong tâm khảm của tôi.

Những kỷ niệm đẹp đẽ và êm đềm đến độ xót xa mỗi khi tôi hồi tưởng lại hoặc tiếc thầm cho quãng đời thơ dại của các con, các cháu của tôi ở nơi xứ lạ quê người, chúng đã đánh mất hẳn đi nhiều cơ hội được sống và trải qua những ngày tháng bé thơ, những hình ảnh thiên nhiên chân chất vẹn toàn, không hề vương vấn chút gì về những tiến bộ văn minh cơ khí, cho dù so với thời đại của tôi, đời sống vật chất của chúng tôi đầy đủ hơn rất nhiều. Nghĩ xong là tôi quyết định làm theo ước muốn.

ĐI VÀO CÕI CHẾT

Nhưng tôi quên chưa kể cho các bạn nghe về những giây phút đầu tiên khi hồn tôi rời khỏi thân xác. Nó thật là hữu ích và mang tính chất khác thường. Hữu ích, theo ý tôi suy luận, là để cho chính tôi hoặc các bạn, sau này nếu có một lần nào đó, trong giờ phút lâm chung hồn phải lìa khỏi xác, thì mình đã biết trước để không bị bỡ ngỡ và làm theo một số qui cách, hoặc chuẩn bị cho một chuyến đi vĩnh cửu, không vướng những phiền bận sau này về một chuyển nghiệp tái sinh.

Như đã kể cho các bạn nghe ở phần mở đầu câu chuyện có vẻ huyển hoặc này. Tôi bị mất trọng lực một cách tự nhiên, rồi gần như không còn cảm thấy bất cứ điều gì nữa. Nhưng thực sự không hẳn là như vậy. Có nghĩa là tôi vẫn còn có riêng ý thức của tôi, vẫn còn biết thật rõ rệt tôi là một thực thể đang bị một sức hút vô hình cuốn đi thật nhanh và thật mạnh, mạnh đến đỗi tôi tưởng không có gì có thể cản lại được. Trong tia nhìn mọi người mọi vật, tôi có thể thấy thấu suốt tất cả mọi thứ được che dấu bằng gỗ, bằng xi măng hay bằng các loại vải vóc y phục trên thân thể mọi người.

Ngay lúc bấy giờ, có khoảng 5 vùng hào quang màu sắc khác nhau với các luồng ánh sáng từ sáu cõi cùng phóng hiện ra ở quanh tôi và dường như vùng ánh sáng nào cũng có một sức hút riêng rẽ, như sẵn sàng để hút lấy tôi và cuốn vào, sau đó sẽ ra sao thì tôi không được biết. Tôi tự hỏi: "đây là những vùng hào quang và ánh sáng gì? Có nên hòa nhập vào nó?" Mãi về sau khi được sống lại, tìm đọc các loại sách thông thiên huyền bí, tôi mới có cơ hội hiểu được ý nghĩa của các hào quang và ánh sáng đó như sau:

-Luồng ánh sáng mờ là của Chư Thiên.

-Luồng ánh sáng màu lục mờ là của A-Tu-La.

-Luồng ánh sáng màu vàng mờ là của loài người.

-Luồng ánh sáng xanh mờ là của loài xúc sanh.

-Luồng ánh sáng đỏ mờ là của loài quỷ.

-Luồng ánh sáng xám mờ khói là của địa ngục.

Riêng tôi lại bay bổng, lửng lơ và thoát đi bằng một tốc độ siêu phàm, trôi ra một không gian biệt lập, chỉ có một bên là bóng tối mênh mông và một bên là dày đặc sương mù, cũng mênh mông không kém. Tôi chới với trong cõi không vô tận. Tuy không cảm thấy gì đáng lo sợ, nhưng cũng có hơi chút quản ngại về những giây phút sắp tới của mình.

Bất đồ, tôi như được một sức mạnh đẩy tới vòng bên ngoài chung quanh các vị Trì minh với vô số các nhóm Không Tiến Nữ (tiên giới). Nào là các vị Không Tiến Nữ của tám chỗ hỏa táng, Không Tiến Nữ của bốn giai cấp ta bà, Không Tiến Nữ của 3 nơi tạm trú, Không Tiến Nữ của 30 vị chí thánh cùng của 80 chỗ hành hương, rồi đến các vị anh hùng, nữ anh hùng, các thiên tướng, các thiên thần bảo vệ đức tin nam nữ, mỗi vị được trang sức với sáu món mang trên người: một tấm phướn to lớn hình như làm bằng da người, tàn che và cờ hiệu cũng làm bằng da người. Những vị này vừa đốt mỡ người cho khói bay lên vi vút, vừa mang vô số nhạc cụ và làm cho vang động thiên giới bằng cách khua, đập hay rung các loại nhạc cụ ấy cho chúng phát ra những âm thanh huyên náo, mạnh mẽ đến nhức óc đinh tai. Các vị này cũng nhảy múa theo các nhịp điệu khác nhau. Họ xuất hiện, dường như để nghênh đón những người vừa mới lìa đời, hiền lương hoặc tội lỗi.

Tôi nhìn thấy vô số con người đã có mặt ở nơi tụ hội này. Họ tuần tự đến đây trước tôi, sau tôi liên tục thật đông đảo, đủ mọi màu da sắc tộc, đủ cả giai cấp lớn bé già trẻ giống như một ngày hội cực kỳ lớn ở trên dương trần. Lần lượt, tất cả mọi người được các vị Thiên tướng nêu trên đón và đưa vào hai ngõ chính: cuốn hút lên không gian chín tầng hoặc lao sâu xuống 7 tầng địa ngục, để rồi sau đó sẽ như thế nào thì tôi không có cơ hội được biết.

Các luồng hào quang, ánh sáng vẫn liên tục chiếu sáng, nhã nhạc, âm thanh vang động cùng khắp cõi trời. Từng làn gió mát mẻ quyện theo hương thơm ngào ngạt tỏa rộng cùng khắp mọi nơi. Tôi đứng nhìn mãi, chẳng thấy ai ngó ngàng chi đến mình, cũng không hề bị cuốn hút vào các luồng ánh sáng ngũ sắc để đi sâu xuống hoặc đi lên một cõi nào đó của tầng trời, tôi đang ở cõi an nhiên tự tại vô cùng, bèn lang thang bồng bềnh xoay chuyển tâm thức về miền tục giới.

Bạn không thể nào tin được hiện tượng hết sức lạ lùng xảy đến cho tôi trong tâm thức như thế này. Đó là, mỗi khi tôi nghĩ đến bất cứ nơi nào, người nào dù còn sống hay đã chết, ở trần gian hay âm giới với ước muốn chân thành tôi muốn được giáp mặt hoặc được hiện diện nơi đó, thì chỉ trong vòng một "séc-na" ngắn ngủi là tôi đã được toại nguyện tức thì, có nghĩa là, nghĩ đến ai, nơi nào hoặc những ao ước về cảm xúc, ngay lập tức, tôi cảm nhận được liền một cách rõ ràng đầy đủ và trọn vẹn hơn cả lúc thường.

Như tôi đã kể cùng các bạn rằng lúc còn bình thường ở dương trần, tôi vẫn nuôi một ước vọng là được trở về thăm lại làng Cồn Tròn của tôi ở tận Bắc Việt, nơi chôn rau cắt rốn cùng những kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi ấu thơ. Tôi cũng đã được về, chỉ trong khoảnh khắc. Nhưng tôi đã thất vọng não nề vì làng cũ còn, nhưng cảnh làng sau hơn bốn mươi năm dâu biển, chẳng còn chút gì là dấu tích năm xưa. Tôi đã cố gắng vận dụng tất cả tiềm thức để cố tìm lại một vài di tích, địa thế trong làng thì tôi đã làm được điều đó. Như con sông nhỏ chảy quanh trong làng ra một cái lạch lớn thì đã bị lấp bằng từ thuở nào.

Bên cạnh con sông nhỏ về hướng tây bắc, có cây đa gốc bự cả chục người ôm là cơ ngơi gia phả của cha mẹ tôi hồi trước với một ngôi nhà chính năm gian, có bàn thờ Thiên Chúa ngự trị trang trọng ở giữa nhà, hai bên là những phòng ngủ có cửa sổ nhìn ra cái sân lót gạch màu đỏ khang trang, gồm một cái bể lớn chứa nước mưa mát lịm dùng để ăn uống cho cả nhà quanh năm không bao giờ cạn, có những cây cau già cao ngất ngưởng, cạnh đó, là một dãy nhà ngang nối liền nhà trên với nhà dưới gồm có bếp, nhà kho, nhà cho các anh chị gia đinh cư trú, ở trong nhà và bên ngoài khu vực đó là chuồng nuôi heo thành giống như một cái hình chữ U. Sau dãy nhà bếp là một vườn cây xum xuê hoa trái quanh năm với một hàng rào tre trúc ngập lá vàng.

Chính ở hàng rào tre trúc này là thiên đường thơ ấu của anh chị em chúng tôi suốt thời kỳ thơ ấu với những giấc ngủ trưa hè êm đềm thơ mộng hoặc là chỗ trốn bắt chơi đùa, nghịch ngợm. Cũng là lối đi riêng biệt kín đáo để chốn tránh cha mẹ, do anh chị em chúng tôi tự làm lấy để có chỗ đi về nhà mỗi khi phạm lỗi, chúng tôi bị la mắng, có khi ôn bài học hay cùng ăn và ngủ chung nhau cũng chính ở nơi đây, dưới gốc cây sung thật sai trái năm nào.

Phía sau nhà là cái ao mênh mông của cha tôi nuôi và dụ bắt cá vào ao trong những mùa nước lũ hàng năm từ một cánh đồng ngay đó chảy vào. Đến thời kỳ di cư vội vã, cha tôi đã thả xuống ao biết bao nhiêu lư đỉnh thau đồng mâm bạc quí giá, là những tài sản mồ hôi nước mắt của gia đình và tài kinh thương của ông thì nay cũng chẳng còn, giờ chỉ là bình địa với một nhà máy chế tạo muối từ nguồn nước biển ở cạnh trong làng mọc lên.

Thậm chí đến ngôi giáo đường cổ kính với tháp cao, ngạo nghễ giữa bầu trời, nơi anh em chúng tôi và lũ trẻ trong làng leo lên đó đánh đáo bắt chim, nghe tiếng sáo diều, nay cũng đã thay đổi. Gác chuông đã bị sập từ năm nào và giáo đường thì tiêu điều hoang phế. Dân trong làng, cố nhiên, tôi không thể nào biết được một ai, thành ra xa lạ hết, chẳng bù với bốn chục năm xưa, niềm thân ái với tất cả mọi người trong làng đã trở thành một sợi dây thân tình gắn bó, không chuyện gì vui buồn sướng khổ xảy ra mà ở nhà này mà nhà kia không biết, để chia xẻ, ủi an. Bờ biển năm xưa bằng phẳng với những hàng thông chạy dài trên bãi cát trắng phau trải ngập lá thông khô sù sì, giờ bỗng mọc lên những cây cầu tân lập chạy xa ra ngoài biển dùng để tiếp nhận và chuyên chở hải sản...

Cõi Chết Không Buồn

(Phần 2)

HỒN VỀ THĂM SÀI GÒN

Ngao ngán trong lòng với giấc mộng về thăm quê cũ, tôi bèn nghĩ đến một quê hương thứ hai "Sài Gòn" thì ngay lập tức tôi đã đứng giữa bùng binh của chợ Sài Gòn có công trường Quách Thị Trang. Tượng Quách Thị Trang cũ nay không còn, thay vào đó là một cái "kiosque" với đầy khẩu hiệu mang những ý nghĩ kỳ cục ở chung quanh. Không khí bụi bậm, ồn ào và ngộp thở giữa ánh nắng chói chang của mùa hạ với những cơn mưa bóng mây ào xuống bất chợt... Đường phố nhà cửa cũ kỹ tiêu điều với phần lớn là xe đạp, xe gắn máy dầu, xe hơi chen chúc nhau bò qua lấn lại, nhớp nhúa ghê hồn.

Ngắm làm gì cái phố xá hỗn tạp và nghèo nàn tả tơi này. Tôi nghĩ đến con đường Trương Minh Giản khi xưa. Tìm mãi mà cũng không thấy tên đường nào như vậy, dù chính đây là cây cầu bắt ngang con lạch nước đen ao tù, nối liền Trương Minh Giản với đường Trương Minh Ký về hướng nhà thờ thánh Thomas, nhà thờ Tân Sa Châu, Lăng Gia Cả rồi đến khu phi trường. Tôi không thể nào lầm lẫn hay quên những địa điểm này được. Nhưng tên các con đường nay đã được đổi thành tên các chiến sĩ anh hùng của chế độ mới. Chính vậy mà tôi ngỡ đã bị lầm.

Căn nhà lầu của gia đình tôi xưa kia nay vẫn còn đó, nhưng kiểu cách, màu sơn căn nhà cũ nay đã thay đổi hoàn toàn. Nơi đây, cha mẹ tôi đã, cách nhau khoảng 3-4 năm thở hơi cuối cùng với một nguyện vọng được trông thấy mặt tôi lần cuối, nhưng tôi đã không về trong giờ các cụ lâm chung. Cha mẹ tôi, dù đã được ơn chết lành giống như người say ngủ theo như thư từ hình ảnh mà các em tôi gởi sang Mỹ cho tôi trước đây, dù sao, lúc về trời, các cụ cũng không khỏi ngậm ngùi vì không được thấy mặt tôi lần cuối, đứa con trai mà hai cụ thương yêu và đặt nhiều kỳ vọng nhất trong gia đình.

Ngay tức khắc, tôi đảo mắt đi tìm hình bóng hai cụ trong âm giới, nhưng nào thấy đâu. Tôi định bụng sẽ đi kiếm vị phán quan giữ sổ thiên tào để tìm ra cha mẹ sau khi thăm viếng gia đình các em các cháu của tôi.

Tôi liên tưởng ngay đến phía trong căn nhà thì thấy cô em gái của tôi, nay đã là một bà già thật sự với số tuổi trên 40 một vài năm gì đó, đang ngồi trên võng với một đứa trẻ còn phải ẵm trên tay. Tôi biết đứa trẻ này là cháu nội của Thư, cô em gái ngang ngược của chúng tôi ngày nào...

Cô Thư với đứa cháu nội, con của thằng cháu Thăng (con trai trưởng vợ chồng Thư) kháu khỉnh và đẹp như thiên thần đang đong đưa à ơi trên võng. Còn chồng của Thư, chú Thịnh thì đang mải miết với cái tiệm làm xe đạp ở gần khu Lữ Gia Phú Thọ. Chú Thịnh, lúc này trông cũng tươi tốt với cái hàm râu quai nón, đang "điều binh khiển tướng" trong phân xưởng chế tạo của mình. Thằng cháu Thăng thì giờ đây đã là một ông kỹ sư chuyên môn về trồng trọt. Vợ nó, một cô gái tuổi ngoài hai mươi cũng khá xinh đẹp và trẻ trung, cũng đang tíu tít bận rộn trong một ngân hàng.

Còn chú Khoa, em trai kế của tôi, có vợ đã sang Mỹ với tôi, đi cùng tàu với hai đứa cháu trai là con chung của Khoa, nhưng nay vợ Khoa đã bỏ nó đi lấy chồng khác người Hawaii, bỏ Khoa ở lại Việt Nam. Khoa cũng đã lấy một cô gái trẻ đẹp từ Hànội vào Nam. Hai vợ chồng Khoa xem ra cũng hạnh phúc, công việc làm ăn có vẻ là một anh nhà giàu với hai ba cửa hàng bán đồ điện tử, máy hát.

Tôi nhìn thấy vợ chồng chú ấy, nhưng cả hai lại rất vô tình, không đếm xỉa gì đến tôi lúc đó với tâm trạng thật nôn nao khó tả vì được gặp lại những người thân yêu.

Tôi liên tưởng đến người bạn thân, anh Nguyễn Đình Kính nhà ở số - đường Hai Bà Trưng - Tân Định. Giờ đây Kính đã nghiễm nhiên là một ông trung niên râu tóc bạc phơ um tùm, trông y như một ông tây mũi tẹt, anh đã lấy lại phong độ của một ông công tử khi xưa với cửa hàng gia truyền chuyên làm nệm da ghế cho xe hơi các loại.

Tôi nhớ lại tất cả kỷ niệm năm xưa với gia đình người bạn chí cốt này cùng hai cô em gái tên Hồng và Hạnh. Hồng thì đã đi tu ngay từ năm học xong đại học. Còn Hạnh thì nay cũng đã hết giận tôi, nàng vẫn giữ nguyên nhân dáng của một cô chủ nhà, tiểu thư và đài các, trên đôi mắt long lanh ngấn lệ thuở nào nay còn vương in nỗi buồn vạn cổ, thân thể của Hạnh chỉ hơi đẫy đà và vết sẹo trên lưng vì đạn pháo kích hồi Tết Mậu Thân nay chỉ còn lại một vết mờ trên tấm lưng tròn trịa, trắng mềm như tuyết, khiến tôi không dám để mãi tầm mắt âm lực có thể trông thấy thấu suốt mọi loại y phục che thân của con người trên thân thể lồ lộ của Hạnh.

Tôi nhìn Hạnh mà nghe tâm tư xao động với những kỷ niệm tình ái hiện về. Thôi, Hạnh ạ! Âu cũng là duyên mệnh phù du. Dạo ấy, tôi vừa mới ra trường quân sự, người ngợm đen như hòn than, đầu tóc nhẵn thín như vị sư, hướng đời chưa biết dọc ngang may rủi bởi chiến tranh sẽ như thế nào. Chỉ vì tội nghiệp Hạnh nên tôi làm tuồng, giả vờ cứng cỏi, từ chối hôn nhân với nàng theo lời đề nghị của cha mẹ tôi và gia đình của Hạnh. Nàng giận tôi, buồn riêng suốt nhiều năm tháng cho đến lúc tôi đến được Mỹ đã gần bốn năm. Kính báo tin cho tôi biết Hạnh đã lấy thằng Hoàng, con trai cụ Cử Phán, hắn là một luật sư, nay đang là cố vấn pháp luật cho nhà nước đương thời, nhưng hai vợ chồng Hạnh, Hoàng không sanh được đứa con nào hết.

Tôi và Kính đều hiểu rõ lý do tuyệt tự này từ lúc thằng Hoàng còn đi học. Nó ỷ nhà giàu, ăn chơi hoang đàng chi địa, bị bịnh và sẽ không thể có con. Nhưng nó dấu Hạnh, không cho Hạnh biết lý do này cho nên Hạnh chỉ buồn vì không có con mà không hề biết tại sao vợ chồng nàng lại hiếm muộn như vậy, suốt đời nàng cứ đi hì hục khấn vái, mà trời đất lại chẳng động tâm. Tôi nhìn thằng Hoàng dâm tặc đang ngồi trong văn phòng riêng tại tòa án với đám nữ thư ký xoắn xuýt hai bên, đã biết hắn từng làm cho Hạnh khổ sở thật nhiều. Tôi trừng mắt nhìn hắn, tiến lại định cho hắn cái tát nên thân, song khổ nỗi, tôi vốn chỉ là một hồn ma vô hình, tôi không thể nào làm được bất cứ chuyện gì cần đến dương lực của một con người trên trần thế.

Tôi tiến lại chỗ Hạnh đang ngồi hong nắng. Tấm thân Hạnh trắng ngần, gương mặt êm đềm với đôi mắt đen đậm buồn suốt kiếp. Cô người ở từ trong bưng ra một tách trà nghi ngút khói, đặt trên chiếc bàn lim bên cạnh cây đàn dương cầm của Hạnh, rồi khép nép bước vào nhà trong. Tôi đứng trước mặt nàng, lòng rộn lên bao nhiêu là xúc động. Bỗng Hạnh có ý đứng lên. Tôi tự chế không dám động tĩnh gì, bèn đến bên Hạnh thì thầm nho nhỏ:

- Chào Hạnh anh đi. Rồi tôi hôn nhẹ lên mái tóc Hạnh ướp đẫm hương trầm của tôi ngày nào.

PHÁN QUAN CÕI ÂM NÓI CHUYỆN QUẢ BÁO

Rồi tôi nghĩ đến việc phải đi tìm cha mẹ.

Bỗng một vị phán quan hiện ra trước mặt, sửng sốt ngó tôi:

- Tại sao anh còn ở lại chốn này? Số của anh chưa đến ngày đến tháng, chỉ là một sự lầm lẫn của người giữ sổ thiên tào mà thôi. Hãy mau trở về, vợ con anh và mọi người đang bấn loạn vì không biết phải xử trí ra sao với cái xác của anh vẫn còn hơi nóng.

Tôi khúm núm trình rõ sự tình cùng ước nguyện truy tìm tông tích của cha mẹ. Vị phán quan già chậm rãi nói với tôi:

- Người cha già mà anh đang đi tìm đó chính là thằng con út của anh bây giờ. Ông già của anh trong giờ chết, vẫn còn quá nhiều luyến ái vì chưa được gặp anh. Sau khi cứ lần lữa mãi không chịu đi, thiên tào đã cho ông ta đầu thai làm con trai của anh để cho thỏa lòng thương nhớ.

Tôi ra vẻ không tin. Vị phán quan ôn tồn:

- Anh hãy trở về nhập lại thân xác rồi xem kỹ trên cánh tay phải và chỗ thiên căn trên đỉnh đầu của con anh, sẽ có in những dấu tích của cha anh khi còn sinh tiền. Còn bà mẹ anh, nhờ hiện nghiệp suốt đời khổ hạnh và chay tịnh, bố thí làm phúc nên bà ta đã thoát ra khỏi vòng luân hồi tử sanh, hiện bà ta là tiên nữ ở cõi thứ sáu của tầng trời. Anh không còn cơ duyên gặp lại nữa.

Tôi muốn nhân cơ hội hi hữu này nấn ná trò chuyện với vị phán quan để tìm biết thêm về một số điều bí ẩn của con người còn tồn tại ở trên dương thế. Vị phán quan bắt tôi phải hứa không được tiết lộ qui luật nhà trời và ông đã cho tôi được biết riêng rất nhiều điều hết sức quý báu. Những điều đó thật ra, khi còn tại thế, không những tôi mà muôn triệu người khác đã thấy, đã đọc nhan nhãn trong các bộ kinh Phật, kinh Chúa cả rồi. Chỉ có điều là con người quá ư là ngạo mạn, miệt thị cả thánh thư cho nên rất nhiều người có đời sống mà xem như đã chết, có đọc đó mà chẳng hiểu biết, mở mang được điều gì cho phần tư duy thánh thiện rồi cứ như một dòng sông chảy xiết chẳng có lúc ngừng để gạn lọc cho đến ngày tận số về trời, lãnh lấy những nghiệp báo của đời sau.

Chỉ sang những cửa ngục đọa hình, vị phán quan phân giải cho tôi thấu hiểu từng loại tội phạm với những khổ hình đau khổ, kể sao cho xiết. Tôi nhận được nhiều khuôn mặt nhân dáng thân sơ. Tôi nhớ ra được rõ rệt từng thành quả của họ đã tạo nghiệp ở đời. Có người tôi ngỡ ăn ngay ở lành, thì tại nơi đây, họ đang cam tâm thọ án. Chả là vì khi còn sống, những người này quá khôn khéo che đậy những tội ác của họ mà thôi.

Lại có những người trước đây tôi có định kiến, xem họ là những người xấu, ở nơi đây họ lại là những hồn lành, hưởng phước đời đời nếu họ không còn trong vòng tử sinh tái kiếp, chỉ vì họ là những người trung trực không hề gian dối che lấp những ý nghĩ và hành động thật sự trong lòng.

Nhưng đa số những vong hồn khi còn sống là những kẻ thất thế nghèo nàn, sa cơ lỡ vận, thường bị những hàm oan thống khổ, khi về trời, họ lại được đền bù và an ủi bằng tất cả ân phước của đấng tối cao.

Vị phán quan nhìn tôi chằm chằm:

- Thấy rồi thì nên sám hối, không được tự dối chính bản thân ngươi. Nếu không ngục tối cực hình dành cho nhà ngươi không phải là điều không thể có. Hãy mau quay gót trở về.

Lòng tôi cảm động bồi hồi. Hứa với phán quan sẽ quay về nhập xác, trở lại dương trần cam tâm đền trả cho hết kiếp phàm nhân sau khi cố nài nỉ xin được ít phút giây tìm lại những người quen biết đã lìa đời. Phán quan vui lòng chấp thuận. Tôi cúi đầu lạy tạ để đi ra.

Hồn phách tôi siêu thăng đến khắp cõi ta bà, lâng lâng thanh thản, nhẹ nhàng tựa như sương khói không chút vướng bận suy tư. Trong suốt khoảng thời gian này, tôi không hề còn lại chút gì thuộc trạng thái vui buồn khổ ải, ưu tư của suốt bằng ấy năm tháng đằng đẵng với kiếp làm người, cũng không hề bận tâm về con đường sinh, lão, bệnh. Chỉ có mỗi một niềm thanh nhẹ hân hoan vui vẻ tận cùng. Liên tưởng đến đâu, nơi đó đã hiện ngay ở trước mặt rồi. Ao ước điều gì hạnh phước gì nó đã xảy đến ngay trong tiềm thức hư vô. Ngôn ngữ và cảm giác nơi đây là ngôn ngữ và cảm giác được kinh qua bằng một cách thức vô hình. Chỉ cần có sự ước ao đã hẳn nhiên biến thành sự thật tức thì.

Tôi đã gặp được hầu hết những người quen biết thân sơ, cả những cá nhân tôi chỉ nghe tăm tiếng của họ lúc sanh tiền mà chưa bao giờ có cơ hội thân thiết. Tất cả đều có mặt nơi đây.

Nhưng tùy theo mệnh nghiệp của từng người. Ở chốn này, có người thì quằn quại thọ phạt khổ hình. Sau đó, sẽ bị đọa làm kiếp tái sinh, tùy theo phước báu, công tội lúc sinh thời.

Có rất nhiều người khi sống, phải cam chịu nghèo khổ lam lũ nhọc nhằn, hoặc từng bị những hàm oan đố kỵ, nhưng vẫn nhất mực cam tâm, không kình chống lại hiện nghiệp mệnh trời. Nay họ là những chư liệt vị thuộc giới chư thiên cao cả, hạnh phúc tột cùng, bay bổng nhẹ nhàng với thiên đường trăm hồng nghìn tía, nhởn nhơ nhàn nhã ung dung, đàn ca múa hát đúng thật là cảnh giới viên mãn siêu thăng tịnh độ của cõi Thiên Đường.

Có những vong hồn nam nữ dung mạo no đầy rượu thịt, thú tính dâm ô, mưu thần chước quỷ, hãm hại đồng loại chúng sanh để thu tóm bổng lộc uy quyền, vơ vét cái ăn cái mặc, cùng bao nhiêu danh lợi vốn là của chung đem về cho riêng mình, cùng những tật xấu xa đê tiện, ngôn khẩu giết người, dèm pha đố kỵ, lợi dụng trí lực, hành hạ đồng loại, họ đang bị quằn quại bi thương, bị banh da lóc thịt, rên xiết kêu khóc đêm ngày, ăn uống thì được cho ăn như loài ngạ quỷ, toàn là thịt hôi thúi máu thiu, diện mạo kinh khiếp khác hẳn lúc thường...Thân thể thì lõa lồ ngày đêm dòi bọ đục rữa, nhất là với những vong hồn có tiền kiếp dâm ô, đĩ điếm, dối gạt quanh co.

Phán quan cho biết, của cải thực phẩm cùng hạnh phúc là của chung nhân loại. Tại sao xảy ra cảnh kẻ giàu người nghèo? Tại sao có nạn người uy quyền kẻ nô lệ. Những người này đã dùng mưu thần chước quỷ, phế bỏ luật trời, nên bây giờ sau khi chết, họ phải trả quả và sẽ bị đọa vào hậu kiếp tái sinh, họ sẽ phải làm loại súc sanh đê tiện, làm thân trâu ngựa hùm beo rắn rít vì những tội lỗi tham dục tàn nhẫn tạo nghiệp trên đời.

TRỞ VỀ NHẬP XÁC

Trước bối cảnh kinh hoàng như vậy, hồn tôi bỗng lạc vào một vầng sáng màu vàng nhạt mênh mông lai láng. Tai thoáng nghe những âm thanh quen thuộc của mấy chục năm làm người. Tôi lại nhìn thấy xác của tôi trong một căn phòng hồi dưỡng với năm sáu người mà tôi đã trông thấy họ ở thế giới bên kia. Họ đã chết thật rồi vì tôi đã thoáng nhìn thấy họ bị cuốn sâu vào từng luồng ánh sáng vô biên, đi mãi ngàn năm và không thể trở lại được nơi này, còn tôi thì tự nhiên bị đẩy bật ra khỏi sức hút của những luồng ánh sáng đó, đi phiêu bạt đó đây rồi được phán quan khuyến cáo phải trở lại gấp nơi này để nhập xác.

Nhưng tôi tự tìm mãi mà không thấy được cửa sinh tử môn nằm giữa đỉnh đầu thì làm sao tôi có thể nhập vào thân xác? Đợi mãi cũng chẳng làm được gì vì cửa sinh môn đang bị bịt kín bởi một cái nón có trang bị những dụng cụ duy trì sự sống cho cái xác của tôi. Tôi nhìn thấy một cái cửa phụ nằm ở kẽ xương quai hàm bên vai trái, tuy nhỏ và rất đau đớn khi hồn tôi nhập vào, nhưng còn cách nào hơn cơ chứ!

Nắng ngoài sân bệnh viện đã lên cao. Hàng ngàn tiếng lao xao báo hiệu một ngày làm việc tất bật của khu bệnh viện lớn lao này. Vợ và hai đứa con của tôi thì đang ngồi đợi chờ ở "front-desk" trong bệnh viện, họ đến để tiếp tục kiên nhẫn ngồi canh bên cạnh cái xác còn nóng hổi của tôi.

Dường như hôm nay là thời hạn chót để các vị bác sĩ chuyên khoa về tử thi họp bàn quyết định về số phận của cái xác không hồn này. Chính nhờ vào những tiến bộ của khoa học mà ngoài nhiệt độ duy trì cho cái xác thoi thóp sống, nó còn không bị thối rữa như những xác chết bình thường sau chừng 5 ngày cho đến hơn một tuần lễ.

Xem lại lối vào chỗ khớp xương quai xanh một lần nữa rồi tôi vận hết sức, dùng nội lực để len vào. Một cảm giác đau đớn tận cùng tỏa khắp hồn tôi trong một khoảnh khắc nhanh chóng. Thoát nhiên, cảm giác đau đớn đó chuyển động và chạy ran khắp cái thân xác đang nằm bất động ở trên giường.

Trạng thái đầu tiên tôi ghi nhận được khi hồn tôi trở về với thân xác cũ đã nằm bất động gần trọn một tuần là cơn buồn phiền ngột ngạt và còn có một sức nặng nề ghê hồn trì kéo nặng nề trên toàn thân thể. Tôi như bị kềm hãm trong một cái khuôn không cách thoát ra được. Sau đó là xúc giác đau đớn trĩu nặng ở trên đầu, phía sau ót. Tôi nhớ lại rồi. Điều này không có gì là khó hiểu. Đó chính là vết thương sau sọ chưa thực sự lành lại sau khi được các vị tây y chữa trị và khâu lại vết nứt bên ngoài.

Sức trì kéo nặng nề tôi vừa kể vẫn bao phủ trong toàn thân tôi. Ngoài sự đau đớn ở vết thương tên đầu, tôi cảm thấy toàn thân như rũ liệt, rồi cơn đói bổ đến cồn cào. Bao tử của tôi hoàn toàn trống rỗng sau nhiều ngày được các y sĩ tẩy uế. Thân thể của tôi chỉ được dinh dưỡng bằng những phương thức vật lý y khoa trị liệu cho nên giờ đây nó bắt đầu làm việc với những đòi hỏi cấp bách nêu trên.

Ngước đôi mắt mệt mỏi nhưng vô cùng tỉnh táo nhìn lên trần phòng với những hộp đèn néon trắng dịu, tôi vẫn nhớ như in chuyến hành trình thần tiên vừa qua từ cõi âm đầy khác lạ trở về. Linh hồn tôi không có dấu hiệu hoặc dư vị nào của thương tích, vẫn mạnh mẽ bình thường. Nhưng cái xác của tôi thì thật sự yếu đuối, bởi nó bị thương và bất động đã mấy ngày qua. Vận dụng nghị lực, tôi cố nhổm người lên, đảo mắt nhìn chung quanh căn phòng hồi dưỡng im lìm với những thân người nằm ngay đơ bên trong làn vải trắng. Hình ảnh này tôi đã thấy ban nãy khi tôi trở về, nên không lấy gì làm lạ.

Tôi còn có thể đoán chắc, có hai cái xác, một ở cuối phòng là một cô gái người Mỹ và một là người đàn ông gốc Do Thái đang nằm cách tôi hai xác nữa. Cô gái Mỹ bị lăn té trên thang lầu và người đàn ông Do Thái thì bị nghẽn mạch máu. Họ bị "chết giả", bị hôn mê, và họ cũng sắp sửa "trở về", sắp sửa hồi tỉnh giống y như tôi vừa mới hồi tỉnh. Tôi từng nhìn thấy họ ở thế giới bên kia. Cơn đói trần gian khiến tôi vô cùng khổ sở và liên tưởng ngay đến thói quen bó buộc phải ăn uống của người trần. Tôi mong vợ con tôi thật chóng trở vào để giúp tôi trở về nhà cũ. Mùi nhà thương khiến tôi ngộp thở lắm rồi, lại còn bị hành hạ bởi những cơn đau đớn và cái đói kỳ khôi.

Ngay lúc đó, ổ khóa lách cách kêu lên. Cánh cửa phòng hồi dưỡng mở ra. Tôi thấy bóng dáng vợ tôi ủ rũ và rất mệt mỏi bước vào, đi cùng với người gác nhà thương và một hai gia đình người Mỹ khác. Tôi cố gắng nhúc nhích để cho vợ tôi biết rằng tôi đã hồi tỉnh, đã "trở về" mới đúng. Quả nhiên, nàng nhận ra ngay và òa lên khóc um sùm vì quá mừng rỡ khiến người gác phòng hồi dưỡng hiểu ra ngay rằng có một xác chết đã năm sáu ngày nay bỗng hồi sinh.

Ông ta chụp lấy cái điện thoại ở trên tường và thông báo ngay lập tức cho vị y sĩ trực hôm đó là một nữ bác sĩ người Trung Hoa. Bà ta cùng bốn năm vị bác sĩ đàn ông khác xuống tận chỗ, khảo nghiệm lại "tử thi" hồi sinh của tôi rồi ra lệnh cho y tá đẩy chiếc giường của tôi trở lại phòng cấp cứu hôm nào để làm không biết bao nhiêu là thử nghiệm khác để xác nhận rằng thể xác của tôi đã hoạt động lại hết sức bình thường, ngoại trừ vết thương trên đầu cần được tái khám đúng hẹn và phải uống thêm thuốc trong một vài ngày nữa ở nhà thương.

Đợi đến lúc không còn ai hiện diện, tôi nói quả quyết với vợ tôi:

- Anh không có sao cả. Chỉ hơi nhức đầu và mệt mỏi mà thôi. Em cố gắng tìm đủ mọi cách đưa anh về nhà, khung cảnh và mùi vị nhà thương làm cho anh sợ lắm. Đi đi em! Đi tìm bà bác sĩ người Tàu năn nỉ bà ta chắc sẽ có kết quả.

Cuối cùng vợ tôi đã đạt được sự thành công với điều kiện nàng phải ký giấy cam kết, chịu hoàn toàn trách nhiệm trong việc này. Tôi gật đầu ra dấu cho nàng cứ ký giấy cam kết. Sau đó, vợ tôi dìu tôi đứng dậy khoác hai tay tôi lên vai hai cô y tá đỡ tôi ngồi lên chiếc xe lăn, rồi đẩy tôi ra xe đã được nàng lái đến đậu sẵn tại cửa chánh bệnh viện để trở về nhà.

- Thật là một phép lạ vô thường vì lời khấn nguyện van vái thần linh Chúa Phật liên tiếp nhiều ngày đêm của em và hai con cho anh được thoát khỏi tai nạn ngặt nghèo và quả là linh hiển. Em đã được các vị thần linh nhận lời, anh đã hồi tỉnh.

Tôi im lặng nhìn dáng vẻ của vợ tôi nghiêm trang thành khẩn kể lại những gì mà nàng đã tận sức để níu kéo lại đời sống của người chồng đầu ấp tay gối. những ý nghĩ của tôi thì giữ kín trong lòng không nói gì với nàng cả. Tôi không nỡ làm tiêu tán đức tin thánh thiện của nàng đối với các đấng bề trên. Bởi tôi đã bị chết đi và sống lại một cách tình cờ, không phải vì thượng đế không linh hiển mà chỉ vì định mệnh cuộc đời của tôi chưa đến lúc phải ra đi. Thần linh không hề can dự vào số phận của một đơn vị quá bé nhỏ là tôi.

Đó chỉ là một tai nạn bất ngờ để cho tôi có một cơ hội bằng vàng đi về bên kia thế giới, thăm thú, và tìm hiểu xong rồi lại được trở lại trần gian để đi hết kiếp người.

Tôi thầm cảm tạ ơn trời ở điểm, số tôi chưa đến, còn được sum vầy đoàn tụ với vợ con để mà kiểm chứng thêm những hiểu biết về cõi âm luôn luôn mang tính cách bí mật muôn đời. Ngoài điều này ra, cõi phàm trần thực chẳng có gì đáng để cho tôi cần phải luyến tiếc đến nỗi chuốc lấy ngàn vạn khổ đau. Vì có mấy ai chịu chấp nhận một sự thật là cuộc sống chính là con đường đang được rút ngắn để trở về, trở về chốn quê hương vĩnh cửu, xóa sạch những vướng vít, nợ nần với thế gian.

Xem tiếp>

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truyen