Ma2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Người đàn bà trong trắng - Phần 1

Trăng lên quá đầu rặng thông, hơi rượu đã thấm lòng, nhà thi sĩ già ngỏ tâm sự với một chàng trẻ tuổi ngồi đối diện:

- Tôi phải nói thật rằng tôi tiếp anh đây không phải vì ngày trước thầy anh là bạn đồng liêu của tôi và tôi coi anh như con cháu đâu. Nhưng mà vì anh cũng theo đuổi văn thơ, muốn làm thi sĩ. Nếu không thì tôi đã mời anh xuống đồi hồi chiều như những người khác đến thăm tôi.

Con người khác với thú vật ở cái chỗ biết làm thơ anh ạ. Tôi còn nhớ mãi câu nói của thầy anh trong một bữa đối ẩm như hôm nay. Nếu không phải là thi sĩ thì có khi người ta có cái cảm giác thình lình trở nên một con vật, vì không có những phương cách để diễn tả lòng mình ra. Cho nên từ buổi từ quan về sống ở đây tôi không muốn đi lại với những con vật câm ấy. Người ta cho tôi là kiêu kỳ và ghét tôi, nhưng ở trên họ, tôi kể gì đến dư luận tuế toái của thiên hạ.

Đôi mắt long lanh của nhà thi sĩ già đã hơi hơi lờ đờ vì hơi men bốc lên. Những lời nói của ông càng thao thao như nguồn thơ tuôn tràn trong cơn cảm hứng:

- Anh có công lần mò lên đây để nói chuyện thơ và hỏi tôi về Lý Bạch? Đời Lý, tôi thích nhất ở chỗ:

Lý Bạch nhất đẩu thi bách thiên,

Tràng An thị thượng tửu gia miên.

Thiên tử hô lai bất thướng thuyền,

Tự xưng thần thị tửu trung tiên.

Uống một đấu rượu, làm trăm bài thơ, say ngủ tại quán rượu, vua đòi không tới và tự xưng rằng mình là một bậc tiên rượu. Sống như thế, coi cuộc đời như giấc chiêm bao, say cả ngày lẫn đêm - xử thế đại nhược mộng, hồ vi lao kỳ sinh, sở dĩ chung nhật túy - cái chết của Lý cũng vì thơ với rượu. Một bậc hào hoa như thế, ôm trăng mà chết là phải lắm.

Bình sinh Lý vẫn cho mình là trích tiên, sau khi chết, những đêm trăng sáng, thi sĩ hiện lên trên một chiếc thuyền nguy nga đề hai chữ "Thi Bá" qua lại ở dòng sông mà Lý đã chìm theo bóng trăng đáy nước. Những nho sĩ quanh vùng đều thất kinh lập ngay đền thờ một bên sông. Một hôm có một văn nhân say rượu đi ngang thấy thuyền Thi Bá hiện lên liền ứng khẩu hỏi:

Hà nhân giang thượng xưng thi bá?

Cẩm tú văn chương tá nhất quan?1

Thì trong thuyền có tiếng trả lời:

Dạ tỉnh bất kham đề tuyệt cú,

Chỉ kinh tinh đẩu lạc giang hàn.

Đêm vắng không ngâm thơ vì sợ sao rơi, cái khẩu khí của Lý Bạch làm cho văn nhân thất kinh tỉnh rượu lủi đi mất.

Nhà thi sĩ già nói chuyện trên đây, ngày xưa là một vị quan thân ở triều đình Huế. Ông đỗ Cử nhân, làm đến chức Tham tri, gần tới Thượng thư, nhưng thình lình, trước sự ngạc nhiên của các bạn đồng liêu, ông từ quan về sống giữa cái đồn điền chè sau núi Thiên Thai với một người vợ bệnh tật sắp chết, một người lão bộc câm và một người đầu bếp đã làm lý thiện nấu ăn trong cung nội.

Linh nhớ lại lúc ban chiều còn bỡ ngỡ lên con đường dốc đưa vào nếp nhà cổ kính, uy nghiêm của ông bạn với thầy mình, và bây giờ chàng đã trở nên thân mật với con người rất khó tính kia.

Tiệc rượu tàn, nhà thi sĩ già vào phòng trong để Linh nằm nghỉ ở liêu trai, giữa một biệt thự nề nếp làm theo kiến trúc ngày xưa. Cách trang hoàng có một vẻ quý phái cổ điển; hình như thuở còn đương chức ở Triều đình ông đã nghĩ đến những ngày sau này, lựa một chốn u nghiêm ở trên một cái đồi gần gũi những lăng tẩm đế vương.

Linh ngủ trên một cái sập gỗ chạm cẩn xa cừ, gần một cái cửa gương lớn trông xuống đồi chè, nương sắn và rừng thông. Hơi rượu thấm đượm, thứ rượu nếp uống mềm môi quên cả say, Linh mê man đi và tỉnh giấc vào quãng khuya. Trăng sáng qua cửa gương tuôn chẩy lên khắp người chàng một sự dịu dàng mơn man. Hương men tan, thấy khát, Linh dậy châm nến, rót nước uống một ly nước lạnh đựng trong một chiếc bình cổ. Nước mát ngọt thấm dịu cả lòng sau cơn say. Chàng phụt tắt nến, nhìn ra vườn trăng, bỗng rợn người lên, vì chợt thấy một người đàn bà ở sau cửa gương đang ngắm mình. Một hình ảnh lãng đãng như làm bằng sương khói, mong manh, huyền ảo dưới trăng xanh.

Linh vụt nghĩ đến chuyện hồ ly tinh hiện thành người để trêu cợt văn nhân. Chàng đứng lặng trong bóng tối nhìn ra. Cái hình ảnh mơ hồ cũng vẫn yên một chỗ, để lộ nửa thân hình trên cửa. Vừa kinh dị và bị kích thích, Linh nhảy đến mở cửa gương ra, nhìn xuống vườn nhưng không thấy bóng một ai. Gió đêm mát rượi rung động những lá cây lấp lánh trăng. Một luồng rờn rợn thấm qua da thịt. Linh vội khép hai cánh cửa gương lớn. Nhưng chàng vừa bước vào sập và nhìn ra lại thấy người đàn bà mơ hồ tinh quái hiện ra sau cửa. ánh trăng phủ lên da thịt nàng một mầu sắc chiêm bao, làn áo trắng choàng lấy thân người mảnh mai càng tăng thêm vẻ gần gũi mà xa xôi của con người lạ lùng. Linh thu hết can đảm, lại mở cửa ra nhưng lần này chàng cũng không thấy hình dạng một ai dưới trăng. Muốn tránh khỏi bị phá rối nữa, chàng đóng ngay cửa gỗ ở phía ngoài lại, rồi khép thêm lần cửa gương. Linh trở vào nằm nghĩ lan man, ngờ vực, băn khoăn. Tuy sợ nhưng chàng thấy một cảm mến thơ mộng đối với người đàn bà kỳ ảo hiện ra dưới trăng để trêu ghẹo mình. Linh muốn mở cửa ra để xem nàng có hiện đến nữa chăng, nhưng lòng ngờ ngợ có nên nằm im rồi ngủ thiếp đi.

Linh tỉnh dậy trong tiếng chim kêu và nắng vàng ban mai nhuộm rực rỡ các đồi cây xanh. Chàng khoan khoái chạy ra khỏi nhà, hít mạnh không khí mát mẻ và, trong một lúc, quên người đàn bà ẩn hiện đêm qua. Trọn buổi sáng, chàng đi thơ thẩn, để tóc bay dưới nắng, qua các đồi, vào rừng thông, nằm nghiêng mình trên một dòng suối con trong suốt đáy. Hình ảnh của chàng hiện trên mặt nước nhắc đến bóng người lãng đãng dưới trăng. Linh đưa hai tay vốc nước uống và hình ảnh chàng biến tan rồi hiện lại như sự ẩn hiện kỳ lạ của người đàn bà tinh quái đến trêu ghẹo chàng giữa đêm khuya. Sự vụt hiện, vụt biến của người sau cửa gương tắm trăng khiến Linh nghĩ lại tưởng chừng như mình đã thấy trong mơ. Có thể có một sự hiện hình của yêu tinh chăng? Nhớ tới đêm qua, lòng chàng ngờ ngợ không nhất quyết tự trả lời minh bạch được. Nếu có một người đàn bà thật tinh nghịch đến trêu mình thì cũng không thể vụt hiện, vụt biến một cách dễ dàng như thế? Linh đi quanh vòng không thấy có nhà cửa ai, ngoài túp lều tranh xa cách của mấy người dân làm việc ở đồn điền và một cái mộ của vợ chủ nhân cái biệt thự.

Truyện ma

Người đàn bà trong trắng - Phần 2

Bóng tối lại trong lớp nhà cổ kính và Linh đã bắt đầu cảm thấy một sự bí mật kỳ ảo bao trùm lấy mình. Nhà thi sĩ già vẫn uống rượu nhiều và nói chuyện thơ cổ điển phương Đông.

- ở một cõi thanh tịnh như đây, tôi chỉ có cái thú độc nhất là rượu với thơ, và cứ trăng sáng như mấy đêm nay thì thắp đèn sáp ong, đốt trầm lên mà đọc "Liêu trai chí dị" của Bồ Tùng Linh.

Lời nói như nhắc nhở Linh nghĩ đến sự trêu ghẹo yên lặng của người đàn bà dưới trăng. Chàng ngập ngừng tính đem việc ấy ra nói cùng chủ nhân nhưng lại thôi, để lắng nghe những lời đang nói say sưa của ông:

- "Liêu trai chí dị" là một áng kỳ thơ độc nhất vô nhị của á Đông. Cái sức mạnh tưởng tượng của tác giả kỳ ảo, quái dị mà thi vị, thâm thúy, trừ phi một hồn thi sĩ lạ lùng như người thì chẳng mấy ai có được. Có người cho rằng bộ "Liêu trai chí dị" là dâm thư nhưng phẩm bình như thế thì hồ đồ và hẹp hòi quá. Phải hiểu cái cốt cách thuần túy, huyền hoặc rồi khi ấy ta mới thấu nhận về đặc sắc, tuyệt diệu của áng kỳ thơ.

Nhà thi sĩ già đem sách ra lựa đọc mấy chuyện ma mà ông thích thú nhất rồi cáo về phòng nghỉ. Linh ngồi một mình yên lặng hút thuốc trong không khí thoang thoảng hương trầm. Chàng chờ đợi người đêm qua hiện tới. Tâm trí chàng đang mơ màng đến những lẽ huyền bí xa xôi, thì cùng một lúc với ánh trăng len lén tràn vào phòng, sau làn khói thuốc mờ Linh thấy hiện ra người đàn bà kỳ ảo, yên lặng sau cửa gương. Linh chợt rợn người lên nhưng bình tĩnh được liền, và ngồi yên để xem sự thể đi đến đâu. Chàng thu hết nhỡn tuyến nhìn hình ảnh vừa hiển hiện. Đó là một người như thực như hư, thanh thoát, tế nhị tắm trong màu trăng xanh huyền hoặc. Đôi mắt sâu xa và buồn rầu trên một khuôn mặt trắng nhợt nhạt như cẩm thạch. Nửa thân hình lộ sau cửa gương vẫn mặc chiếc áo lụa bạch đêm qua. Người đàn bà ấy đẹp một vẻ vừa thiên tiên vừa yêu tinh trong khung cảnh ảo huyền. Và nàng cứ lặng yên như thế, đăm đăm nhìn Linh. Chàng sợ mở cửa ra thì nàng lại biến như lần trước nên cứ ngồi lặng, ngại ngùng, rung động trước nhan sắc.

Một đêm trăng, một người đàn bà đẹp tự đâu hiện đến, tưởng chỉ có ở thời thái bình, cổ sơ, hay trong cảnh tưởng tượng của nhà thơ kỳ lạ mà thôi. Nhưng đây, ở trước mắt Linh, nàng đang lẳng lặng và huyền hồ như trăng xanh. Người đàn bà yêu tinh đã đến với chàng, và chỉ cách nhau có một lần cửa gương thôi. Linh có thể mời nàng vào và cầm lấy đôi tay dịu dàng của con người xinh đẹp, rồi thì việc có thể xảy ra như trong các chuyện lạ lùng, quái ảo Linh đã đọc, người đắm đuối khoái trá trong lòng yêu tinh.

Thế rồi Linh se sẽ nói dịu dàng:

- Em đã có lòng nghĩ đến, xin rước em vào đây trò chuyện.

Nàng vẫn yên lặng nhìn Linh không chớp.

- Hay là em cho phép tôi ra đưa em đi chơi dưới trăng.

Nói xong Linh vừa đứng dậy, đến mở cửa gương, gần như sát vào người nàng ở ngoài. Nhưng chàng rất đỗi kinh ngạc khi hai cánh cửa vừa mở toang thì không tìm thấy nàng đâu nữa. Linh trèo qua cửa sổ nhảy xuống vườn, chạy kiếm chung quanh cũng chẳng thấy tăm dạng. Cảnh đồi rừng trắng xóa dưới trăng tự nhiên đối với chàng nhuốm một vẻ huyền hoặc lạ thường. Tiếng nước suối chảy róc rách ở đồi bên như tiếng cười lanh lảnh của ai. Trăng xanh bát ngát rộng rinh.

Linh trở về phòng, để cửa gương mở rộng chờ người đàn bà kỳ ảo hiện đến là nhảy xổ ra nắm lấy tay. Chàng đã bị khiêu khích đến tức giận. Nhưng mà rồi Linh liệu có thể ôm lấy con người xinh đẹp vụt hiện, vụt biến đi không? Trăng sáng tỏ rõ soi vào chỗ Linh đứng trắng như hơi sương xuống ban mai. Chàng rùng mình, không rõ vì hơi lạnh của đêm khuya hay vì nhớ đến người đàn bà quái dị. Xa xa có tiếng gà gáy, tưởng lầm trăng sáng là vừng đông. Linh nghĩ rằng những cô hồn vất vưởng, những yêu tinh phải trở về cõi âm trước kẻo sợ trời sáng rồi chàng khép cửa ngoài lại, không để cho trăng tràn vào nữa, khiến nao nao trong người.

Sáng ngày ra, trong một lúc dạo chơi ngoài hiên, Linh thấy có một chậu hoa mẫu đơn để ở góc vắng, tự nhiên chàng liên tưởng đến câu chuyện trong "Liêu trai chí dị", linh hồn một cây hoa mẫu đơn lâu năm tu luyện hóa thành người đẹp sống với văn nhân. Linh có ý muốn đưa chậu hoa về phòng mình để thực nghiệm xem sao. Biết đâu người đàn bà trong trăng không phải là hiện thân của thứ hoa kiều diễm ấy. Linh lựa lời thân hỏi chủ nhân:

- Thưa bác, người xưa thường uống rượu ngắm hoa, bác thì chỉ uống rượu mà thôi, còn chậu hoa xinh đẹp kia lại cô độc ở ngoài.

Nhà thi sĩ già sờ lên mái tóc đã bạc lơ thơ trên vầng trán mênh mông, ngậm ngùi nói:

- Tuổi tác như tôi mà còn ngồi uống rượu trước hoa mẫu đơn thì là một sự quá lạm. Như Lưu Vũ Tích đời Đường, tôi chỉ sợ hoa kia biết nói sẽ nói rằng: Hoa mẫu đơn nở có phải vì bậc tuổi cao đâu? Chỉ tuổi trẻ như anh thì nên chơi, anh thích tôi sai mang vào để gần chỗ ngủ cho có bạn.

Đêm đến, sau bữa rượu thường lệ, nhà thi sĩ già sai người lão bộc đốt trầm lên rồi mang cây đàn bầu ra.

- Đã lâu tôi không đàn, hôm nay cao hứng tôi gảy cho anh nghe vài điệu. Cây đàn này làm bằng gỗ quan tài, tiếng kêu rất thanh và ấm, hồi còn làm quan tôi phải nài nỉ mới mua lại được của thầy Tôn út. Lão ta hết sức tiếc, vì theo lời lão thì cây đàn lâu đời bằng thứ gỗ đặc biệt ấy đem ra gảy ở bãi tha ma có thể gọi âm hồn về nghe.

Kể qua lịch sử cây đàn, nhà thi sĩ già bàn đến âm nhạc. Hồi còn đang tuổi phong tình, ông vẫn thường soạn những bài Nam bình, Nam ai cho đám ca nữ đêm đêm với giọng u trầm, đài các của tiếng Huế than vãn trên dòng sông Hương.

Thế rồi điệu Nam bình não nùng, ai oán vang động lên dưới tay nhà nhạc sĩ già rung rinh cả yên lặng. Dây tơ nhấn mạnh nức nở tuôn ra những giọt lệ âm thanh, trong suốt và nong nóng thấm đượm cả lòng người. Linh ngồi nghe sững sờ theo tiếng đàn tưởng có thể làm cho quỷ khóc. Bản Nam ai trổi theo, tha thiết hơn khiến chàng rưng rưng cả toàn thân. Điệu nhạc thổi một luồng ớn lạnh vào trong lòng chàng, nhà thi sĩ già mê man gảy tưởng chừng đứt dây tơ đồng. Và khi ngừng tay, chờ cho những sóng âm thanh bớt run rẩy trong không khí, ông nói:

- Về cây đàn bầu, người sành âm nhạc vẫn có một sự tin tưởng huyền hoặc là ai đã chơi nó hay thì cũng như mang một nghiệp dĩ vào thân. Nó là một thứ âm nhạc di lụy cho người chơi. Tôi không tin nhưng mà hồi mua cây đàn này về ít lâu, gảy đã được nhà danh cầm đế đô khen, thì nhà tôi qua đời, thành thử tôi cũng đâm ra ngờ ngợ.

Trăng lên đã cao, còn lại một mình, Linh lặng nhìn cây hoa mẫu đơn, trầm ngâm lạc lối trong những lẽ u huyền. Kiếp trước hoa là thiếu nữ và thật có một sự phục vãn trong kiếp luân hồi, hồn hoa lại hiện thành thiếu nữ chăng? Nhưng có phải người đàn bà đã hiện ra yên lặng trêu tức mình là hiện thân của hoa mẫu đơn? Trong khi Linh đang mơ màng thì trăng đã chênh chếch dọi vào. Và kỳ diệu thay, cùng với ánh trăng chảy vào phòng, người đàn bà hiện tới, như tượng trưng thuần túy của trăng xanh. Nàng có một thứ nhan sắc huyền ảo mà càng nhìn Linh càng thấy mơ hồ, nét mặt chập chờn như sương, thân hình như khói, hình như kết đọng bằng ánh trăng thủy tinh, có thể nhìn suốt qua người. Linh mải phân tích mê hoặc đắm hồn vào trong cái hình ảnh bích ngọc, xanh xao như trăng chiêm bao. Chàng đã gần như bị quyến rũ, rung rinh trước vẻ đẹp tế nhị có sức mạnh thấm thía như mùi hương bay lẻn vào hồn. Trong giây phút khoái trá, linh hồn bị cám dỗ, Linh cảm thấy chẳng những mình không rùng rợn mà trái lại còn thích thảng, say sưa.

Người đàn bà vẫn lặng yên, không một cử động se sẽ, không một lời nói nhếch đôi môi, không một chớp mắt, và nhìn Linh như thấu suốt tận đáy hồn. Linh bỗng rợn người lên hình như mình đã bắt đầu yêu con tinh. Người đàn bà uyển lãng, kiều lệ ấy chỉ có thể là một con tinh! Nghĩ sực đến những chuyện yêu tinh mê hoặc người để hút hết tinh khí, Linh bàng hoàng, hãi hùng, muốn vụt dậy chạy. Nhưng đôi mắt đen biếc, thăm thẳm vẫn nhìn như dán vào người Linh, giữ chàng ngồi yên một chỗ. Chàng đã trở nên như người bị thôi miên bởi nhan sắc huyền hoặc.

Trăng mỗi lúc càng sáng tỏ thêm lên và xa xa thấp thoáng tiếng gà gáy. Linh mừng thầm sắp thoát khỏi cái nhìn yên lặng ghê gớm của người đàn bà yêu tinh. ánh trăng chảy vào tràn khắp phòng, Linh ngồi như dính chặt trên chiếc ghế bành đối diện với cái hình ảnh kỳ ảo sau cửa gương. Tiếng gà theo nhau gáy từ xa vang lại, nhưng trong trăng sáng người đàn bà vẫn yên lặng, trước mặt Linh, không nhúc nhích, không nói năng, và chỉ nhìn chàng với đôi mắt ghê gớm như đôi mắt rắn thôi miên lấy chàng. Thời gian tưởng chừng như đứng lại, mạch máu trong người Linh băng giá cho đến khi chàng nghẹn ngào, se sẽ nói:

- Tôi xin hỏi nàng, yêu tinh hay là oan hồn, từ đâu lại và muốn điều chi thì hãy nói cho tôi biết.

Nhưng người đàn bà vẫn lạnh lùng như một hình ảnh chết và cứ đăm đăm nhìn Linh.

- Nàng vẫn nhất quyết lặng yên? Thì hãy ở đấy mà đợi mặt trời lên.

Sau câu nói văng vẳng của Linh người đàn bà cũng vẫn im lặng như một cái bóng trong trăng. Linh nhắm mắt lại để tránh khỏi cái nhìn ghê rợn của yêu tinh rồi mệt mỏi ngủ thiếp đi. Khi chàng giật mình mở mắt ra thì ánh trăng đã đi hết khỏi phòng và người đàn bà quái ảo sau cửa gương cũng đã biến đi. Linh ngả mình trên sập mê man.

Chàng thấy người đàn bà trong trăng lại hiện ra mở tung cửa gương vào, thướt tha bước đến ôm ghì lấy mình. Linh sờ vào người nàng thì cảm giác nhẹ mỏng dị thường. Nàng lôi cuốn Linh vào một cuộc ái ân sôi nổi rồi hút cạn tinh túy của chàng.

Linh hoảng hốt tỉnh giấc mơ, thấy mặt trời đã lên cao. Chàng còn bàng hoàng mê tỉnh, và đưa mắt nhìn đến cửa gương thì lại thấy thoáng bóng người đàn bà, nhưng rất mơ hồ, xa xôi. Linh dụi mắt và rất đỗi kinh ngạc khi đến gần nhận thấy rằng người đàn bà hiện ra ở trên mặt thủy tinh.

Trong lúc ấy, nhà thi sĩ già đi đến, nhìn vẻ mặt sửng sốt, bơ phờ của Linh trước cửa gương rồi nói:

- Tôi xin giới thiệu đó là hình ảnh nhà tôi,

Trước sự ngạc nhiên của Linh, ông thong thả kể:

- Trước đây nhà tôi mắc bệnh bại đang thời kỳ còn xinh đẹp, về đây hơn hai mươi năm trời, ngày ngày ngồi trên chiếc ghế bành đặt trước cửa gương, nhìn xuống đồi ngong ngóng chờ tôi về. Thuở ấy tôi mải ham mê theo những người đàn bà khác, ít khi nghĩ đến người vợ cần đến sự thương yêu của mình. Tôi chỉ hối lại khi nhà tôi đã có phần yếu, tôi liền từ chức về đây, nhưng chẳng được bao lâu thì nhà tôi qua đời. Khi đã biết yêu thương thì đã chậm lắm rồi, tôi chỉ còn trong lòng một hình ảnh in trên mặt gương này mà thôi.

Nhà thi sĩ già nói xong rồi ngậm ngùi lui vào phòng trong. Linh bắt đầu hiểu rành mạch những việc đã xảy đến cho mình.

Người vợ kiều diễm của nhà thi sĩ ngồi in bóng vào cửa gương lâu năm, những chất lân tinh trên mặt thủy tinh phản chiếu ánh sáng dần dần thấm in lấy hình ảnh. Trăng xanh huyền hoặc dội qua mặt gương làm nổi cái hình ảnh người thiếu phụ lên. Linh đã ảo tưởng đó là một nàng yêu tinh hiện ra sau cửa. Chàng nhớ lại cứ mỗi lần mở cửa gương ra thì hình ảnh vụt biến mất rồi hiện ra khi đóng lại. Linh không ngờ hình ảnh ở trên mặt thủy tinh trong suốt, trí tưởng tượng mới bị xúc động đến cực điểm và trong trường hợp ấy, chàng đã lầm lạc vì ảo ảnh.

Sau cùng, Linh thấy người đàn bà kỳ ảo hiện ra ân ái với mình trong giấc mơ vì não cân đã bị kích thích dữ dội.

Hóa thân

Vợ chồng anh chị Khảm là người hiền lành hiểu theo ý nghĩa bình thường. Họ làm ăn chăm chỉ chí cốt. Dạo còn ở trong nước, cả hai anh chị đã quyết chí tìm đủ mọi cách để mong sao thoát ly đời nhọc nhằn gian lao nghèo khó.

Vợ chồng anh chị xuất thân từ hai gia đình vừa đủ ăn đủ mặc. Tuy không đến nỗi nghèo khó lắm, nhưng so với những hàng phú gia địch quốc mà anh chị có khi chỉ được nghe đồn mà chưa bao giờ được chính mắt trông thấy, xem ra anh chị rất nôn nã với giấc mộng giàu sang và chưa bao giờ có được một ngày sống trong cảnh phú quí, rạng rỡ vinh hiển như những kẻ lắm bạc nhiều tiền cho nên niềm mơ ước làm cho anh chị luôn luôn nuôi nấng ấp ủ trong tâm tư, bảo nhau quyết thực hiện cho bằng được, bất chấp định luật, đại phú do thiên, tiểu phú do cần... H

ọ lấy nhau vào đúng thời kỳ cả nước đang chìm ngập trong tình trạng kinh tế kiệm ước, việc làm ăn khó khăn, người khôn của khó, không dễ gì kiếm ra được nhiều tiền để cho đời sống anh chị với hai đứa con có được những ngày tháng mát mày nở mặt, khỏi phải thiếu trước hụt sau, làm việc gì cũng không thoát được cảnh giật gấu vá vai, đắp đổi qua ngày đoạn tháng, chật vật quá sức. Anh Khảm lại kẹt cứng với đời sống của một quân nhân, rày đây mai đó. Lúc nào cũng phải lo thủ phận và chu toàn những nghĩa vụ của một thuộc cấp khôn khéo biết an phận thủ thường để khỏi phải ra chiến trường có thể mất chỗ đội nón như chơi, tuy rằng anh không phải ngày đêm tham dự những cuộc hành quân gian khổ chết chóc, nhưng anh vẫn phải chu toàn một lúc hai nhiệm vụ bắt buộc của người quân nhân, một là tiếp tế quân trang quân dụng cho các đơn vị hành quân trực thuộc, hai là phải tự biết cách để thù tạc đãi đằng những cấp chỉ huy quyền thế không chỉ bằng tiền bạc quà cáp hậu hĩnh, có khi còn đi lùng sục tìm những cô gái non dại, con cái của những người nghèo, anh tung tiền ra khuyến dụ mua chuộc để lén lút hưởng thụ hoặc đem dâng hiến cho một thiểu số thượng cấp ngoại hạng, hòng giữ cho được vị trí yên ổn, ở hậu cứ.

Con sâu làm rầu nồi canh, thời nào cũng thế, chỉ một thiểu số ươn hèn đã làm ảnh hưởng cho những chiến sĩ anh dũng. Điều này thì chị Khảm là người biết rõ ràng hơn ai hết, nhưng chị vẫn làm ngơ, để mặc cho chồng tung hoành, tự tung tự tác và tiếp tục ra tay làm hại các cô gái son trẻ con cái nhà nghèo. Chị có những ý nghĩa riêng của chị mà mãi đến sau này, ý đồ riêng tư đó của chị mới bị vỡ lở sau khi chị bị giết chết một cách oan trái.

Vì sống buông thả lả lướt ngấm ngầm như vậy, sau này anh Khảm có nhiều con rơi con rớt bởi kết quả của những cuộc đàn đúm ăn chơi với quan niệm hưởng thụ chẳng bao giờ anh cần lưu ý tới. Đàng khác, để thực hiện được như vậy, anh Khảm chỉ còn cách cắt xén gian lận, hoặc ăn cắp bớt số lượng quân trang quân dụng, những nguồn tiếp liệu then chốt dành cho những đơn vị tác chiến ở trong kho để đem về nhà giao cho chị Khảm tìm manh mối bán tháo ra ngoài, chị mới mong nở mày nở mặt với những người đồng trang lứa và có được một đời sống tàm tạm xa hoa tươm tất và anh cũng được yên ổn vui sống bên vợ con với các cô đào non lúc nào cũng hăm hở sẵn sàng, nhòm ngó túi tiền chi xộp của anh mà tìm đến bán thân, trao đổi.

Anh Khảm vẫn biết làm như vậy là không đúng, là những nguyên nhân gián tiếp đem đến những thất bại ê chề cho những người bạn đồng ngũ ở ngoài tiền tuyến với những cái chết oan khiên tức tưởi của bao nhiêu người ngày đêm phải trực diện trước quân thù vì những nguồn tiếp liệu từ hậu cứ do anh nắm quyền cung ứng đã không được cung ứng đầy đủ. Nhưng anh Khảm không biết và càng cố tình không cần biết đến điều này. Anh thường nhủ để tự trấn an:

- Việc thắng bại chết chóc ngoài trận tuyến đâu phải lỗi tại mình, tại số mạng mà ra. Tụi VC không hề có nguồn tiếp liệu binh đoàn dồi dào như mình, sao chúng vẫn chiến đấu được. Chẳng qua chỉ tại những chiến hữu đòi hỏi quá đáng chứ việc thắng bại nào có ăn thua gì đến ta. Đối với các cô gái nhẹ da, anh đâu có ép buộc các cô phải bán rẻ tấm thân trong trắng. Chẳng qua đó chỉ là sự trao đổi công bằng, ăn cơm trả gạo, ăn cháo trả tiền, sau đó nếu có hậu quả gì, các cô phải tự lo liệu lấy, anh đã giao hẹn trước cả rồi, trách cứ anh sao được.

Tự bào chữa như thế cho nên anh Khảm cảm thấy yên lòng tiếp tục cùng các cô gái son trẻ trao đổi mua bán và ra tay vơ vét, ăn cắp ăn xén tất cả mọi thứ có thể lấy được để chu toàn nhiệm vụ của người sĩ quan tiếp liệu và nhờ đó, anh trở thành một quân nhân khá gương mẫu. Đời binh nghiệp của anh thăng tiến như diều gặp gió với những bằng tưởng lục, ban khen đều đặn và thăng cấp đúng nhiệm kỳ chẳng khác chi mọi người mà trong suốt mười hai năm quân vụ, anh chưa bao giờ phải bắn một viên đạn nào cho đến ngày tan rã hàng ngũ.

Giống như bao nhiêu người, gia đình của anh chị phải bỏ của chạy lấy người, nhờ có sự giao du rộng rãi, lại thường lo lót từ bấy lâu nay cho nên gia đình vợ chồng con cái của anh chị được ưu đãi cho lên tàu di tản trước tất cả mọi người, tránh được bao nhiêu là sự chà đạp hỗn loạn tranh dành trong lúc tranh tối tranh sáng, thập tử nhất sinh, mọi người hối hả đạp lẫn nhau lên xác chết của nhau để đi tìm đường lánh nạn.

Chuyến hải trình chạy giặc cập bến an toàn, anh chị thở phào nhẹ nhõm, mỗi khi nghĩ đến những ưu đãi lúc nào anh chị cũng được hơn người nhờ vào sự lanh lợi khôn khéo. Ra được đến nước ngoài với hai bàn tay trắng sau bao nhiêu năm tận tình vơ vét khi xưa với dụng ý làm giàu, giờ đây, cả gia đình anh chị cũng chẳng đem theo được chút gì để làm lại cuộc đời, còn phải đối diện với một đời sống mới hoàn toàn xa lạ từ ngôn ngữ cho đến những sinh hoạt khác lạ hàng ngày, nhưng nhờ có khả năng khôn ngoan hoạt bát với ý chí phấn đấu hơn người, lại có sẵn quyết tâm làm giàu được nuôi nấng dài lâu trong tâm khảm, nên khi đến được vùng đất được mệnh danh là cơ hội này, chẳng bao lâu đã trở thành những người tỵ nạn giàu có với những mối làm ăn vĩ đại, bất kể công việc chánh tà với những người dị chủng, công việc doanh thương buôn bán lúc đầu còn từ từ hạn chế, sau mỗi lúc một thêm phát triển mạnh mẽ bền vững lạ thường, tiền bạc lợi tức như dòng suối chảy xiết đến với anh chị chẳng có khi nào ngừng nghỉ.

Với gia sản tiền rừng bạc biển, nhà cửa xe cộ tiện nghi văn minh cơ khí, hệ thống làm ăn qui mô đầy đủ, nhân viên thầy thợ phụ tá giúp việc có tới hàng mấy chục người anh chị đều nắm đủ trong tay. Anh chị tỏ ra tự mãn hơn người và lúc nào trong lòng cũng đầy hãnh diện về tài năng thao lược kinh bang tế thế của mình.

Hôm nay, với bề thế cơ ngơi tài sản làm ăn sung túc, chắc chắn sẽ chẳng bao giờ anh chị còn sa sút khánh kiệt được, chắc chắc sẽ chẳng bao giờ anh chị phải sống lại những ngày tháng thanh bần đạm bạc như xưa. Anh chị với hai người con nay đã khôn lớn, nay đã trở thành những người Mỹ mũi tẹt da vàng, đã hóa thân từ mọi cung cách nói năng cư xử, đã thoát xác hoàn toàn, đã biến đổi và tách biệt khá xa với dòng sinh mệnh truân chuyên của nguồn gốc cũ với mọi sinh hoạt cung cách rập theo những tập quán mới mẻ văn minh, gia đình anh chị rất tôn trọng và đề cao tinh thần tự do tuyệt đối cùng những chủ nghĩa phục vụ cá nhân.

Riêng về anh Khảm, anh đã trở thành một ông chủ lớn, anh có những thú vui cao cấp cầu kỳ hơn của một người có nhiều tiền của, chị Khảm cũng vậy, chị cũng có nhân tình để thực hành việc ông ăn chả bà ăn nem. Anh Khảm ăn chơi mèo chuột từ trong nước ra đến xứ người thì tại sao, chị không thể như vậy. Nhân tình của chị chính là anh tài xế lâu năm vai u thịt bắp, ít ăn ít nói, lái xe vận tải giao hàng, anh ta cũng có gia đình vợ con đàng hoàng tử tế và chỉ quan hệ với chị vào những lúc chồng đi vắng hoặc là những khi chị nổi hứng bất chợt, hai người mới lén lút hò hẹn gặp nhau. Sau đó, ai nấy trở về với vai trò cố hữu của mình. Có nhiều lúc anh tài xế cũng nổi chứng ghen tuông này nọ. Nhưng anh ta biết rõ, ngậm miệng chịu đựng là giải pháp thích hợp nhất để cho anh và chị Khảm còn có cơ hội gặp nhau, để cho mối dây gian díu còn tồn tại được đến bây giờ.

Danh lợi bạc tiền con người tạo dựng nên ở xứ này là một công thức biểu thị sự thành công, nó được thừa nhận một cách hùng hồn và trở thành kim chỉ nam bất di bất dịch, nó như một chất men say khó lòng làm cho con người thức tỉnh, khó lòng mà dứt nó ra một cách dễ dàng. Anh chị Khảm giờ đây có muốn cưỡng chống lại những nguồn lợi khổng lồ, có không muốn tiếp tục vui quén tài sản mỗi ngày cứ phát mãi lên trong lúc đã quá dư thừa cũng khó mà thi hành được.

Chính vì vậy, đời sống cá nhân của anh chị trở nên bận rộn và sống rất rời rạc với nhau. Hai người con của anh chị bây giờ đã lớn, họ đã nằm hẳn trong cơn lốc xoáy đến tối tăm mặt mày, không mấy khi có được một ngày giờ an nhàn rảnh rỗi, không mấy khi cả nhà họ có được một bữa cơm xum họp quây quần với những bữa cơm canh rau đạm bạc ngon lành xưa cũ, cũng không mấy đêm họ đi vào giấc ngủ thanh thản nhẹ nhành yên ổn thường bị chi phối bở những sự toan tính làm ăn, hẹn hò thương vụ đình đám xã giao, nói chi đến những vấn đề giải trí giản dị thanh tao, nói chi đến việc vun bồi cho đời sống nội tâm cùng những liên hệ tình cảm trong gia đình hoặc ngay cả với những con người đồng hương thân sơ khác.

Của cải thì mỗi ngày càng trở nên dồi dào phong phú, biến dần thành một thông lệ trói buộc, một thói quen không thể nào gián đoạn hoặc ngưng nghỉ, và thời gian để sống riêng cho nhau cũng theo tỷ lệ thuận mà càng ngày càng trở nên eo hẹp hạn chế hơn, anh sống theo anh, chị sống theo chị chẳng ai bận tâm đến ai cả.

Việc doanh thương đã được hưng thịnh vững bền, chuyện hưởng thụ đã quá nhàm chán đến độ dư thừa trên đất Mỹ, có lần anh chị Khảm rủ nhau trở về thăm lại quê cũ phố cũ phố xưa. Chị Khảm chỉ chờ đợi có được cơ hội này. Chị lấy cớ phải ở lại Hoa Kỳ để thay anh điều hành công việc làm ăn trong khi anh đi vắng. Anh Khảm chẳng chút nghi ngờ. Anh đồng ý nhanh chóng để chị ở lại Hoa Kỳ, một mình anh trở về thăm lại cố hương không có điều gì cần thắc mắc với dự tính về nước để nghiên cứu phát triển chuyện làm ăn nhưng bên cạnh đó, anh cũng háo hức rạo rực trong lòng khi nghe những người đã đi VN trở về đây kể lại những chuyện du dương cụp lạc bên những cô gái son trẻ ở quê nhà với một số tiền chi ra rất ít.

Quả như lời đồn đại của những người đã từng về VN du lịch, khi anh về đến quê nhà nghèo nàn rách rưới, cư trú trong một khách sạn đắt tiền chỉ dành cho những du khách có thế lực, anh đã được người môi giới cho xem hình ảnh những cô gái trẻ đẹp sẵn sàng trao đổi rao bán thân xác và anh Khảm chọn ngay một bức hình của một cô gái khá đẹp trông vẫn còn thơ ngây trong trắng, anh đã bỏ một số tiền nhỏ chẳng đáng là bao ra mua.

Bạn tình hờ của anh là một cô gái đôi mươi, còn nhỏ hơn cả tuổi của hai người con anh đang ở Hoa Kỳ. Cô ta bình thản nhận tiền xong rồi nhờ người trung gian trao ngay lại cho người mẹ của cô đang gặp cơn bệnh hoạn rồi hiến trọn thân xác con gái cho anh. Thời hạn bán thân đã hết, cô gái đáng thương được mẹ của cô lên đến khách sạn chờ để đưa cô về nhà tại văn phòng quản lý.

Anh Khảm kể ra cũng là con người nhân ái, anh đích thân đưa cô ta xuống tận nấc than cuối cùng. Nhưng anh thật không thể ngờ khi nhìn thấy diện mạo của người mẹ cô gái. Làm sao anh có thể quên đi khuôn mặt người đàn bà đang chờ đợi đứa con gái, vốn là một trong số những người đã có quan hệ tình cảm mật thiết với anh khi trước, anh từng đã chiếm đoạt, xong rồi dâng hiến cho cấp trên và sau cùng, tàn nhẫn bỏ rơi trong lúc cô ta đã mang trong thân xác giọt máu của anh, anh không một lần ngó ngàng thăm hỏi. Người thiếu phụ này chính là mẹ ruột của cô gái anh mới vừa chiếm đoạt tiết trinh. Chính là người hơn hai mươi năm trước đây đã từng cùng anh chắp nối ân tình để rồi sau cùng, vì sự ràng buộc của người đã có vợ có con, anh phải truyền tay cô ta cho người khác để dễ dàng nói tiếng chia tay người thiếu phụ này với một số tiền nhỏ để bà ta tự tìm đường sanh nở.

Như vậy, đứa con gái vừa cùng anh trao đổi xác thịt chính là đứa con gái ruột thịt mang chính giọt máu của anh năm nào. Sự việc oan khuất đã diễn ra trong hoàn cảnh hết sức bất ngờ như một định mệnh vừa kinh hoàng vừa oan trái, khiến hai người lớn trong cuộc chỉ còn biết nhìn nhau mà nghe trong lòng quặn đau chua xót, chẳng nói được lời gì.

Người con gái nhỏ tuổi đáng thương vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng của một định mệnh an bài ngang trái, cô cảm thấy quá xấu hổ và đau khổ đến cùng cực, cô vùng khỏi tay người mẹ, thảng thốt phóng thẳng ra đường lộ giữa lúc một chiếc xe vô tình từ đâu chạy tới kết liễu mạng sống của cộ Phần anh Khảm cũng kinh dị không kém, anh ngẩn ngơ đến độ bàng hoàng, cố giữ cho lòng bình tĩnh, nhanh chóng anh bỏ lại cho người tình thiếu phụ lúc xưa một nắm bạc khá lớn để tự lo ma chay cho đứa con gái xấu số rồi anh gấp rút lấy vé máy bay trở về Mỹ sớm hơn dự tính đến cả nửa tháng trời.

Anh về đến nhà trong một đêm hôm khuya khoắt với tâm trí còn chưa vợi đi những cơn xúc cảm bàng hoàng sau chuyến du lịch VN để rồi bất ngờ anh phải chứng kiến thêm một hình ảnh không kém đau lòng khác nữa khi người vợ của anh đang công khai âu yếm nằm trong vòng tay của người tài xế giao hàng trong lúc hai người tin chắc anh còn đi vắng chưa về kịp.

Đúng là họa vô đơn chí, phước bất trùng lai. Anh lầm lũi rút êm ra khỏi nhà để mặc cho đôi gian tình mặc tình tự tung tự tác. Một lần nữa anh lại trốn chạy một thực tế quá đỗi đắng cay. Anh âm thầm bước ra khỏi nhà, đi tìm một khách sạn để lưu ngụ tạm trong một thời gian với dụng tâm đợi chờ cho tất cả những xao động kinh hoàng vừa xảy ra, lắng xuống rồi anh mới lần lượt giải quyết từ từ, nào ngờ bắt đầu từ giây phút ấy, tâm trí anh như kẻ lạc thần, lúc mê lúc tỉnh, lúc giận lúc yên.

Tự nhiên trong anh như có một mãnh lực vô hình đốc thúc anh phải thi hành những công việc rồ dại của một gã điên. Biết bao nhiêu ý tưởng oán hận chập chùng cứ dâng lên ngập đầy trong tâm trí rối bời của anh, bất cứ lúc nào những ý nghĩ này cũng khiến xui anh phải mau trở lại căn nhà của anh để tận diệt đôi gian phu dâm phụ. Anh cố gắng trấn tỉnh để khỏi vướng vào những công việc điên rồ tai hại rồi anh đã thiếp đi từ lúc nào không hay.

Đứa con gái bán trinh cho anh ở Sàifòn hiện ngay ra trong tâm tưởng của anh trong cơn mệt nhoài đồng thiếp. Tấm thân mảnh mai của nó có lúc được che phủ bởi những làn khói sương khi mờ mờ ảo ảo, có lúc hiện ra trần truồng. Anh cố nhắm mắt lại để xua đuổi hình ảnh đó đi, nhưng bên tai anh đã có tiếng nói của nó lanh lảnh cất lên:

- Ông không thể trốn chạy được! Những lầm lạc tội lỗi của ông gây ra từ bao lâu nay thấu động tới tận cõi trời, ông tưởng ngoài ông ra không còn ai hay biết? Bây giờ là lúc bắt đầu ông phải trả những món nợ đời.

- Tôi... Ba.. xin... hãy tha tội chết cho tôi. Tôi vướng mắc chuyện đó với cô bằng tất cả sự vô tình. Tôi không cố ý... Vong linh người con gái bán thân bị xe cán chết bất đắc kỳ tử ở Sàigòn cười rít lên nghe ghê rợn:

- Phải! Ông đã vô tình. Ông đã bao nhiêu lần dùng đến mãnh lực đồng tiền để chiếm đoạt niềm an lành và sự trắng trong của bao nhiêu người đàn bà con gái, vậy mà ông vẫn chưa yên, ông vẫn mải miết thi hành. Tội lỗi của ông không có đất trời nào có thể dung thứ, ông đã tự tạo nên bao nhiêu nghiệp chướng cho mình, nghiệp báo này đã vận ngay tức thời để ông trở về hãm hại tôi, hãm hại chính đứa con mang máu thịt tội lỗi của ông hơn hai mươi năm về trước. Bây giờ đến lượt chính ông phải đền trả những nghiệp báo đớn đau này. Người vợ của ông giờ đã ra sao thì lúc nãy ông trở về nhà chắc ông đã biết. Chắc chắn ông phải giết chết bà ta để rửa hận cho mối đau phản trắc này, vậy ông hãy mau làm điều này trước rồi sau đó mới tới những điều kế tiếp...

Nói xong bóng ma mất hút trong căn phòng khách sạn vắng tanh. Anh chợt tỉnh táo được đôi chút, trời không mấy nóng nực mà mồ hôi của anh vã ra dầm dề. Anh dáo dác nhìn quanh, mọi vật trong phòng vẫn lặng lẽ tứ bề. Hai bên tai anh bỗng nhiên như có những cơn gió cực kỳ thổi mạnh, anh chỉ nghe thấy những tiếng rít gào và chừng như anh đang lạc vào một thế giới hỗn độn nào khác ngoài cõi trần gian, rồi như có một sự thúc đẩy vô hình, anh bật đứng lên khỏi chiếc ghế bành. Anh lái chiếc xe mướn tạm chạy như bay trở về căn nhà, nơi có hai kẻ gian tình đang ngang nhiên tình tự. Anh không còn đủ bình tĩnh đứng chứng kiến hai kẻ gian dâm, từng nhát dao uất hận, anh chém loạn xạ trên thân thể của hai người cho đến khi họ không còn động đậy, anh mới lách mình khóa trái cánh cửa để đi ra.

Ngay bữa sau, báo chí cùng các cơ quan thông tin đã đồng loạt loan tải nguồn tin thiếu phụ chủ nhân một công ty xuất nhập cảng người Á Châu đã bị giết chết bên cạnh tình nhân cũng bị thương tích trầm trọng nhưng thoát chết trong lúc chồng bà ta vắng nhà với lời bình luận: không tìm ra dấu vết hoặc tông tích của kẻ sát nhân, sự việc còn đang được tiếp tục điều tra.

Đợi cho việc mai táng nạn nhân xấu số lắng dịu đôi chút anh Khảm mới thực sự quay trở về nhà với thái độ im lìm khó hiểu trong lúc người tài xế tình nhân còn đang bị câu lưu để nhà chức trách tìm ra manh mối.

Dần dà, sự việc cũng chìm dần vào quên lãng của thời gian, không ai còn dịp để nhắc nhở tới.

Phần anh Khảm thì rất đỗi buồn phiền đến bỏ ăn bỏ ngủ, anh như kẻ mất hồn, không còn chút nghị lực tâm trí nào để dòm ngó đến những công việc kinh doanh thường lệ. Người ta lầm tưởng anh buồn đau u uất bởi cái chết thảm khốc của người vợ ngoại tình. Nhưng không ai biết đích xác được rằng anh đau buồn và tỏ ra dở điên dở dại, bỏ bê tất cả mọi công việc điều hành làm ăn chỉ vì nỗi niềm ăn năn sám hối chính anh đã hãm hại và đưa đến cái chết oan nghiệt của người con gái ruột mà mình đã bị bỏ rơi, rồi ma đưa lối quỉ dẫn đường tìm đến đổi chác ăn nằm với cha ruột của mình cùng với những hiện tượng huyền bí sau này diễn ra bởi vong hồn oan khuất đớn nhục của người con gái không bao giờ có thể siêu thoát.

Hai người con của anh chị Khảm tuy đã khôn lớn nhưng chỉ biết tiêu xài, chưa đủ kinh nghiệm để thay thế người cha đột nhiên dở điên dở dại chẳng còn tha thiết đến bất cứ sự việc gì. Họ không cáng đáng nổi những cơ sở kinh doanh phức tạp đó cho nên chẳng bao lâu trở nên suy sụp và phải lo gấp rút sang nhượng tất cả lại cho những doanh nhân khác cho đến khi cơ ngơi đồ sộ của anh chị Khảm chẳng còn lại được gì. Người ta phải đem anh Khảm ký thác vào trong một y viện tâm thần để mong anh được chữa trị khi bệnh điên đã thực sự hoành hành tâm não của anh.

Hoàn cảnh thương tâm của anh chị Khảm, một người tỵ nạn thành công tột bực trên đất Mỹ bỗng nhiên sụp đổ tan tành khiến cho nhiều người không hiểu rõ ngọn nguồn câu chuyện chỉ biết chép miệng thở dài tiếc nuối.

Mấy ai hiểu ra rằng ông trời là người cực kỳ tinh tai sáng mắt và rất mực nhân ái công bằng. Thượng Đế đã ban cho gia đình anh chị Khảm có một cuộc đời giàu sang thịnh vượng, một mệnh số hanh thông may mắn. Nhưng khi đã đạt được mọi thứ một cách khá dễ dàng, con người ta trở nên hợm mình kiêu ngạo, không biết chế ngự lấy những tham vọng vô độ của chính mình, tự nhiên cho rằng mọi sự thành công và những điều khôn ngoan lanh lợi là do chính mình có được hơn người chứ hoàn toàn không phải là những sự may mắn, những cơ hội thành công, những ưu ái của một đời sống phú quý sang giàu được bắt nguồn từ những phước báu còn lưu lại, còn tích tụ bởi rất nhiều tiền kiếp xa xôi để rồi không còn quan tâm đến phần đạo đức tâm linh, để rồi khinh khi miệt thị tất cả mọi người kém may mắn, mọi điều thuộc về tâm linh huyền nhiệm, để rồi nhắm mắt bước càn, lộ ra cái tâm địa đầy dục vọng tham lam, đầy thói hư tật xấu khinh mạn ngất trời để tự mình rước lấy những hậu quả vô cùng đáng tiếc. Khi hiểu được ra thì mọi sự đã rồi, không bao giờ có cơ cứu vãn, uổng phí cả một kiếp người đáng lẽ là một phần thưởng vô cùng cao quí mà Thượng Đế đã ban cho sau hằng bao nhiêu kiếp tu tập mới được diễm phúc làm người, nhất là làm người của một dân tộc thanh cao như dân tộc VN đang được khắp năm châu ngưỡng phục.

Căn nhà không cửa

Hắn lẩm bẩm một mình:

- Nhờ Trời, cái tên nhà quê đó có vẻ biết đường!

"Trước hết quẹo tay mặt. Rồi tay trái. Ông sẽ thấy cái cổng đen". Không như cái thằng ngu kia chỉ láo chỉ lếu làm mình mất cả nửa tiếng đồng hồ!

Rồi hắn đạp ga cho xe chạy mau hơn. Trời lạnh buốt và xâm xẩm tối. Theo lời người chỉ đường thì chỉ độ năm phút là hắn sẽ tới nơi.

- "Trước hết quẹo tay mặt". Chắc đây rồi! "Rồi tay trái". Xong! "Cái cổng đen". Đây rồi!

Hắn đạp thắng lại, kéo thắng tay, để máy nổ, bước xuống mở rộng hai cánh cổng trước khi leo lên xe, từ từ lái lên đoạn đường dốc ngoằn ngoèo.

Hai ngọn đèn pha rọi sáng những hàng cây khẳng khiu hai bên đường như những bộ xương của một bầy ma đói đang đứng rũ rượi xin ăn. Hắn thầm nghĩ: "Con đường này nhiều ổ gà quá. Chắc cũng phải tốn vài ngàn bạc".

Trên đầu dốc, căn biệt thự hai từng vĩ đại nổi bật trên nền trời đã gần tối hẳn. Hắn ngừng xe, tắt máy, ngồi trong xe ngắm nghía ngôi biệt thự trong mấy phút trước khi bước xuống nhìn quanh. Đúng như nhân viên văn phòng địa ốc nói "Căn biệt thự nhìn xuống một nửa thành phố dưới chân đồi".

Đứng nhìn phong cảnh tuyệt vời ẩn hiện bên dưới thêm vài phút, hắn nghĩ thầm: "Tại sao một căn biệt thự lớn ở một vị trí tốt như thế này mà họ lại chỉ bán có năm trăm ngàn?".

Nhìn lên tầng trên của căn biệt thự, hắn ngạc nhiên tự nhủ: "Tại sao những khung cửa sổ cong cong kia trông như những đôi mắt đang chau mày nhìn mình thế nhỉ?".

Nhìn đồng hồ, thấy đã 7 giờ 15, hắn quyết định vào coi sơ trước khi trở lại vào sáng hôm sau.

Hắn móc túi lấy chìa khóa, bước lên mười hai bực thềm trước khi tra chìa khóa vào ổ khóa trên cánh cửa khổng lồ bằng gỗ sồi, vặn mạnh. Ổ khóa kêu kèn kẹt như tiếng người nghiến răng và cánh cửa bung ra như có người xô mạnh.

Hắn bước vào mấy bước, nhìn vào một khoảng trống đen ngòm đúng lúc cánh cửa tự động đóng sập lại sau lưng.

Hắn nghĩ thầm đây chắc chắn phải là "căn đại sảnh khổng lồ" như lời nhân viên địa ốc đã nói. Muốn coi rõ hắn phải dùng bật lửa để tìm chỗ bật đèn. Mò mò trong túi, không có! Hắn bèn mò tìm thêm một lần nữa. Vô ích! Hắn suy nghĩ trong vài giây trước khi cả quyết "Chắc cái bật lửa rớt trên ghế trong xe rồi. Mình phải ra lấy mới được".

Hắn xoay lưng đi ngược ra phía cửa, nhưng đột nhiên đứng khựng lại khi cảm thấy như có một vật gì vừa lướt qua bên mình hắn. Hắn đưa tay ra phía trước và chạm phải cái lưng ghế. "Ghế nhung", hắn đoán thầm. Nhưng hắn chợt cảm thấy ngạc nhiên vì khi bước vào, hắn không chạm phải cái ghế này! Hắn bèn bước qua bên trái cái ghế, bước tới và đụng phải... bức tường. Hắn bèn đi ngược lại, đi qua cái ghế và lại gặp... bức tường!

Hắn lần mò trở lại phía cái ghế, tìm thấy và ngồi xuống. Hắn mò tất cả túi quần túi áo một lần nữa thật kỹ lưỡng. Vẫn không thấy cái bật lửa! Ồ có gì đâu mà phải thắc mắc, trước sau gì hắn cũng sẽ tìm thấy cái cửa.

Bây giờ thử nghĩ lại xem. Khi hắn bước vào, khoảng hai ba thước, không có gì hết. Khi hắn quay ra, đụng phải lưng ghế. Như thế có nghĩa là cái ghế hướng ra phía cửa. Hắn đang ngồi trên ghế tức là cánh cửa đối diện với hắn.

Suy tính xong, hắn đứng dậy một cách đầy tin tưởng, bước thẳng tới phía trước và đụng phải... bức tường! Không thể được! Hay là khi bước ra hắn không đi thẳng mà lại đi xéo? Như vậy thì cánh cửa phải ở bên trái hoặc bên mặt của hắn. Hắn đi thử về phía trái thì cảm thấy như đang đi xuống giữa một hành lang hẹp. Hẹp vì khi hắn giang tay ra thì hai tay hắn đụng hai vách tường. Như vậy là không phải!

Hắn đi ngược lại để bước về bên phải. Lại đụng phải bức tường! Và hắn lại đứng khựng lại vì hình như có một cái gì vừa lướt qua hắn. "Không lẽ trong này có dơi?" Hắn vừa tự hỏi thì tay hắn lại chạm vào lưng ghế.

Hắn ngồi xuống suy nghĩ. Có lẽ Mộng Điệp sẽ cười khi thấy hắn đang mò mẫm trong cảnh tối thui này. Chắc chắn là hắn không đánh rơi cái bật lửa trên xe. Việc này chưa bao giờ xẩy ra. Hắn đứng lên, lục lại tất cả túi quần túi áo mấy lần. Thật cẩn thận.

Nhưng vẫn không thấy!

Bây giờ hắn phải làm sao? Ừ, thì thử nữa xem sao. Hắn lần mò theo bức tường đi về phía trái và thấy hắn lại đi xuống cái hành lang nhỏ. Đột nhiên hắn vung tay chụp lên mặt vì hắn có cảm tưởng rõ rệt là một vật gì mềm mềm lành lạnh vừa chạm vào mặt hắn. Hắn lắc đầu "Mình bắt đầu cảm thấy chán nản với cái con dơi và cái phòng tối như hũ nút này rồi!. Mình không thể tưởng tượng nổi là có người nào lại có thể cảm thấy nóng nẩy và bực bội hơn mình lúc này. Nhưng đó chính là điều phải tránh. Phải bình tĩnh tìm đường rạ Trước sau gì mình cũng sẽ tìm được cái cửa".

Đột nhiên hắn lại chạm phải cái ghế. "Uả! Tại sao cái ghế lại ở đây? Mình đang đi theo hành lang nhỏ thì cái ghế phải ở phía trên kia chứ!" Nhưng hắn không cảm thấy con đường dưới chân của hắn dốc xuôi xuống nữa. Hắn cảm thấy hơi mắc cỡ "A, không chừng khi vung tay chụp con dơi, mình xoay lại mà không để ý, rồi vì mải suy nghĩ nên khi bước lên mình lại cứ tưởng là đang đi xuống!".

Hắn ngồi xuống ghế một lần nữa. Rồi hắn quyết định đi lần theo bức tường phía bên phải. Bức tường này hình như dẫn hắn đi thật xa tới khi hắn cảm thấy mỏi chân mà vẫn chưa tới đâu hết. Hắn nghĩ thầm "Hay là mình đi vòng quanh căn đại sảnh mà không biết? Vô lý! Vì nếu đi quanh căn đại sảnh mình phải chạm vào cánh cửa! Như vậy thì ... tại sao?" Hắn không biết phải làm gì nên đành quyết định lần theo bức tường đi ngược lại. Khi hắn thở hồng hộc và hai chân như muốn rũ xuống thì tay hắn lại chạm vào lưng ghế! Hắn bèn ngồi xuống nghỉ mệt.

Một lúc sau, hắn thử huýt sáo xem tiếng vang trong căn đại sảnh khổng lồ này ra sao. Tiếng huýt sáo của hắn dội ngược lại nghe inh tai và đầy đe dọa làm như hắn đang ở trong một chỗ nào chật chội lắm. Như trong một cỗ quan tài.

Hắn vội vàng gạt bỏ ngay cái ý nghĩ đó. Quan tài! Không thể được! Quan tài dành cho người chết! Hắn vẫn còn sống nhăn đây mà! Vả lại nếu ở trong quan tài thì phải nằm, còn bây giờ hắn đang ngồi. Mà trong quan tài thì làm gì có dơi.

Hắn cảm thấy nhẹ nhõm hẳn và thầm cám ơn con dơi vì nhờ nó mà hắn biết chắc là hắn còn sống, không phải đang nằm trong quan tài. Thật là một tư tưởng bậy bạ! Rồi hắn đứng dậy. Đột nhiên một luồng hơi lạnh thổi phù vào mặt hắn. Hắn cất tiếng hỏi:

- Ai đó?.

Hắn cố gắng không nói lớn. Đâu có gì mà phải la! Dĩ nhiên không ai trả lời. Làm gì có ai ở đây mà trả lời trong khi căn biệt thự này không người ở, và người trông nom thì ở cách đây ba mươi cây số, "mỗi chủ nhật đưa mấy đứa con tới quét dọn một lần", như lời nhân viên văn phòng địa ốc nói với hắn.

Hắn cố gắng suy nghĩ xem khi bước vào hắn có cảm thấy cái gì dưới chân hay không. Không. Hắn có để ý cửa sổ nằm ở vị trí nào không. Có, mấy cánh cửa sổ bằng kiếng nằm trên bức tường bên trái biệt thự, phiá hắn đậu xe. Nhưng bây giờ từ bên trong, hắn không thấy một chút ánh sáng nào lọt qua bất cứ khung cửa nào, làm như căn nhà này không có cửa sổ! Có thể, nhưng cửa ra vào thì phải có vì chính tay hắn mở cửa, và cái chìa khóa hiện còn nằm trong túi quần của hắn. Hắn móc túi lấy cái chìa khóa ra cầm trên tay như để chứng minh rằng căn nhà này có cửa. Nhưng có ích gì khi không tìm thấy nó!

Đột nhiên hắn nghe tiếng còi xe lửa. Hắn cảm thấy an tâm. Đường xe lửa chạy dọc theo phiá trái biệt thự và hắn nghe tiếng còi xe vọng lại từ phía tay mặt, như vậy có nghĩa là cái cửa ở trước mặt hắn, đối diện với cái ghế như hắn đã suy tính lần trước. Hắn cả quyết bước tới và tin tưởng rằng lần này hắn sẽ tìm được cái cửa. Nhưng hắn lại đi vào hành lang nhỏ dẫn xuống phiá dưới! Dưới nào? Có cái gì ở dưới đó? Hắn muốn đi xuống "dưới đó" xem sao nhưng lại quay ngược lại, tính lần mò về phiá cái ghế. Khi hắn vừa quay lại thì hình như có một cái gì lành lạnh lướt qua sát mặt hắn khiến hắn nổi da gà. Rồi tay hắn chạm vào thành ghế. Hắn tự hỏi nhủ "Hay là mình nằm mở Không, đây là sự thật và mình còn tỉnh táo mà!". Rồi hắn nói nho nhỏ trong hơi thở hổn hển: "Đồ ma quỉ, đừng chọc ghẹo ta nữa". Hắn nghe tiếng nói của hắn dội mạnh vào tai. Hắn chợt cảm thấy ngu xuẩn khi la lớn như vậy. Ai nghe.

Hắn biết chắc là căn nhà này có cửa, nhưng có cũng vô ích vì hắn không tìm thấy, không thể tìm thấy! Có lẽ tốt nhất là hãy ngồi yên trên ghế chờ sáng. Và hắn ngồi xuống.

Tại sao trong này lại yên lặng đến ù tai như thế này nhỉ? Yên lặng như trong nhà mồ. Ấy, không được! Lại một tư tưởng bậy bạ nữa! Ngoại trừ những âm thanh nho nhỏ vọng lại từ phiá trái, căn nhà hoàn toàn yên lặng. Ngoại trừ những âm thanh đó! Âm thanh gì thế nhỉ? Của ai? Đâu có ai ở đây?

Hắn hơi nghiêng đầu lắng tai nghe. Dường như có nhiều người đang thầm thì. Hay những căn nhà cũ thường có những âm thanh lạ lùng như vậy? Tầm bậy! Làm gì có! Chắc chắn cái ghế chỉ nằm cách cánh cửa nhiều lắm là ba thước. Bên trái hoặc bên phải. Hắn quyết định thử một lần chót. Hắn đứng dậy, và một cái gì mềm mềm lành lạnh lại quệt vào mặt hắn.

- Có ai đó không?

Hắn hỏi, lần này hắn biết là hắn la lớn.

- Ai chạm vào tôi đó? Ai xì xào cái gì đó? Cánh cửa ở đâu?.

Thật là điên cuồng khi la lớn như vậy, nhưng nếu có ai ở bên ngoài, người ta sẽ nghe tiếng hắn.

Hắn lại lần mò bước tới. Và lại chạm phải bức tường! Hắn đi dọc theo bức tường, dùng những đầu ngón tay mò mẫm, và đột nhiên những ngón tay của hắn tìm được một khoảng trống. Cái cửa! Chắc chắn phải là cái cửa!

Hắn mò mẫm và tìm được một cái lỗ. Chắc chắn đây là lỗ khóa! Bàn tay run rẩy của hắn mò mò trong túi lấy cái chìa khóa ra đặt vào ổ khóa, nhưng run quá, hắn làm rớt chìa khóa trước khi tra vào ổ. Hắn vội vã ngồi xuống mò mẫm trên mặt đất, trên mặt sàn nhà bằng đá hoa cương thì đúng hơn, mà không kịp nghĩ tại sao cái chìa khóa rơi xuống lại không có một tiếng động. Đột nhiên một cái gì lạnh buốt, như một bàn tay, rờ nhẹ vào gáy hắn. Hắn vung tay chụp lấy, nhưng hụt! Hắn đứng bật dậy xoay mình đấm mạnh về phía trước. Đấm gió! Và bàn tay lạnh ngắt lại rờ vào gáy hắn một lần nữa!

Hắn xoay mình gào lên:

- Ai đó? Cứu tôi! Cứu tôi!

Rồi hắn giang rộng hai tay, chạy vòng vòng trước khi ngã ngồi xuống ghế, cái ghế nhung, đúng lúc một vật gì lạnh buốt lướt ngang, chạm nhẹ vào mặt hắn khiến hắn đứng bật dậy vừa chạy trong bóng tối vừa la hét kinh hoàng, và đột nhiên tiếng hét dội mạnh vào hai tai hắn vì hắn đang chạy giữa một hành lang hẹp. Có lẽ chỉ hẹp bằng bề ngang của một cỗ quan tài.

*

Viên Trung Sĩ Cảnh Sát hỏi:

- Ông nói là ông nghe có tiếng la từ biệt thự này vọng xuống. Tại sao ông không tới xem việc gì xẩy rả

Người đàn ông đáp:

- Không ai dám tới biệt thự này sau khi mặt trời lặn.

- Ồ, tôi biết thiên hạ thường đồn đãi những chuyện ma quỉ về biệt thự này, tuy nhiên ông chưa trả lời câu hỏi của tôi. Có tiếng la tức là có người cần được giúp đỡ. Tại sao ông không tới coi có việc gì xẩy ra hay không mà lại bỏ chạy?

- Không ai dám tới biệt thự này sau khi mặt trời lặn.

Viên Trung Sĩ Cảnh Sát có vẻ bực bội:

- Xin ông đừng né tránh câu hỏi. Chúng tôi đã cho ông hay là bác sĩ nói rằng ông ta bị động kinh, nhưng nếu có người cấp cứu thì ông ta vẫn có thể được cứu sống kịp thời. Ông muốn nói rằng dù ông biết như vậy, ông vẫn hèn nhát bỏ chạy chứ không dám tới cứu một mạng người?

Người đàn ông vẫn nhìn xuống đất, hai tay nắm chặt:

- Không ai dám tới biệt thự này sau khi mặt trời lặn.

Ngôi nhà ma trên vùng biển vắng

Một buổi tối tháng Chín, sau một ngày lang thang, tôi rời bờ biển đi vào đất liền. Xa xa, tôi thấy một ngôi nhà nhỏ nằm sau một cánh đồng hoang vu dưới ánh trăng non. Từ trong ngôi nhà, một ánh đèn hiu hắt tỏa ra và tôi hướng về ngôi nhà rảo bước. Như con thiêu thân bị hút bởi ánh đèn. Tuy nhiên, là nơi lý tưởng cho bất cứ ai vừa đói, vừa mệt lại vừa lạc đường như tôi lúc đó.

Trông thì gần, nhưng thực ra tôi phải đi bộ tới gần mười lăm phút mới đến nơi. Quanh nhà là những bụi cây rậm rạp và cho tới bây giờ tôi cũng không biết làm sao tôi có thể nhìn thấy được ánh đèn. Nhưng lúc đó vừa đói vừa mệt, mệt nhiều hơn đói, tôi không suy nghĩ gì hết mà chỉ đưa tay gõ cửa. Sau khi gõ mấy lần mà không ai ra mở cửa hoặc trả lời, tôi đánh liều xô nhẹ cánh cửa. Cánh cửa cũ kỹ với cái bản lề sét rỉ kêu lên ken két như muốn kháng cự nhưng vẫn từ từ mở ra.

Tôi bước vào một căn phòng thật rộng, dường như chạy dài suốt cả ngôi nhà. Một cây đèn dầu lớn cháy sáng trên một mặt bàn lớn. Trên tường là một cái đồng hồ quả lắc cũ kỹ. Quanh phòng là mấy cái cửa sổ long lanh ánh cỏ. Tôi vừa toan lên tiếng hỏi xem có ai trong nhà hay không thì từ phía cuối phòng, một người đàn bà xuất hiện tiến về phía tôi. Đó là một người đàn bà mập mạp nhưng di chuyển thật lẹ làng và nhất là không gây một tiếng động nào. Trong sự im lặng đó, tôi chỉ nghe những tiếng tích tắc của cái đồng hồ trên tường.

Tôi lên tiếng:

- Chào bà. Tôi là một du khách bị lạc đường. Thấy ánh đèn nhà bà nên tôi tới đây xin bà vui lòng cho ở tạm một đêm. Thưa bà, có phiền gì không ạ?

Người đàn bà không đáp mà chỉ mỉm cười lắc đầu. Tôi hơi rùng mình khi thấy nụ cười của bà ta khiến đôi môi nhỏ xiù như bị chôn vùi trong cái lỗ miệng đen ngòm. Tuy nhiên, điều khiến tôi kinh hoàng hơn là hình như tóc tai bà ta dính đầy đất cát.

Tôi chưa bao giờ thấy một người đàn bà phốp pháp như thế. Bà ta thở phì phò những hơi ngắn và chính tiếng thở của bà khiến tôi cảm thấy an tâm hơn khi biết rằng bà ta là một người bằng xương bằng thịt, nếu không, có lẽ tôi đã bỏ chạy ra ngoài rồi. Lý do đơn giản là căn nhà nhìn từ xa đã có vẻ ma quái, bây giờ ở bên trong, bầu không khí lại lạnh lẽo như một nhà mồ.

Vẫn không nói một lời, người đàn bà to béo mở một cái tủ nhỏ ở góc nhà, lấy ra một khúc bánh mì, một miếng phó mát và một chai nước táo. Đặt tất cả những đồ ăn thức uống đó lên bàn, bà ngồi xuống cái ghế đối diện quan sát trong khi tôi làm công việc phục vụ bao tử.

Tuy ruột gan cồn cào, tôi cảm thấy khúc bánh mì cứng như khúc gỗ, miếng phó mát lụn vụn hình như hơi mốc và hơi chuạ Tôi cố nhai trệu trạo rồi đưa chúng xuống bao tử bằng những ngụm nước táo hình như đã lên men từ lâu rồi. Trong lúc ăn uống, thỉnh thoảng tôi lại liếc nhìn người đối diện, và lần nào cũng thấy bà ta cũng nhìn tôi chăm chăm với ánh mắt thích thú và nụ cười ma quái.

Rồi bà ta đứng lên đi quanh phòng, kéo những tấm màn cửa sổ ra kêu xoèn xoẹt. Xong đâu đấy bà biến mất. Vừa ăn nốt những miếng cuối cùng tôi vừa nghĩ rằng có lẽ bà ta đi chuẩn bị phòng ngủ cho tôi, một người khách bất ngờ và bất đắc dĩ. Tôi không nhớ khi đó tôi có ý nghĩ là bà ta sẽ đòi tiền phòng hay không. Tôi chỉ nhớ là sự tiếp đãi nồng hậu trong im lìm của chủ nhân khiến tôi hơi thắc mắc, có lẽ phải nói là hơi chột dạ mới đúng. Tại sao, tôi không biết. Tôi chỉ nhớ là mình tự hỏi Có nên chạy ra khỏi ngôi nhà này hay không khi còn có thì giờ?".

Nói ra thì có vẻ hơi kỳ cục, nhưng thực ra đó là ý nghĩ của tôi lúc đó, có lẽ bị thúc đẩy một phần sau khi có cảm tưởng là bà ta vừa cho tôi ăn mấy cục đất khộ Nhưng rồi tôi quyết định ở lại. Trong khi chờ đợi, tôi quan sát căn phòng. Đó đây những cây xà ngang xệ xuống thật thấp khiến những ai vô ý có thể bị đụng đầu. Mạng nhện giăng hầu như khắp nơi khiến tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao chủ nhân lại có thể để như vậy được.

Rồi tôi nhìn cái đồng hồ quả lắc trên tường. Đó là loại đồng hồ mà trước đó tôi chưa hề nhìn thấy bao giờ vì là loại đồng hồ rất cổ. Tôi biết nó sẽ đổ chuông bất cứ lúc nào vì lúc đó đã gần mười giờ. Tuy nhiên tôi không được nghe tiếng chuông đồng hồ vì bà ta đã trở lại không lâu sau đó và ra hiệu cho tôi đi theo. Tôi nghe những tiếng tích tắc cuối cùng khi đi qua một khung cửa cuối phòng trước khi theo người đàn bà mập mạp đi quanh co qua không biết bao nhiêu hành lang nhỏ trong căn nhà lạ lùng này. Nhìn bà ta đi phía trước, tôi có cảm tưởng như đó là một khối sương mù dầy đặc tròn trịa đang lăn.

Cuối cùng bà ta đưa tôi vào một căn phòng rộng, bên trong đã có sẵn saù bảy cây nến cháy sáng. Ba cây nến lớn được gắn trên một cái bàn rộng rãi nằm ở giữa phòng. Hai cây nến nhỏ hơn gắn trên một cái tủ nhiều ngăn và một cây nữa được đặt trên một cái ghế ở một góc phòng gần một cái giường đôi bằng gỗ có lẽ còn lớn hơn cả loại giường king size.

Đặc điểm của căn phòng này là tất cả đồ đạc đều lớn một cách bất thường, có lẽ cũng bất thường như người đàn bà to béo. Một điểm lạ lùng khác nữa là cả tường phòng, đồ đạc, chăn mền và màn cửa đều có chung một màu cỏ úa khiến căn phòng coi có vẻ trống trải và đặc biệt là khiến tôi cảm thấy buồn ngủ. Sau khi người đàn bà bước ra, tôi ngồi trên một cạnh giường, cố làm quen với căn phòng lạ và tự nhiên tôi có cảm tưởng rằng đó là một căn phòng dành cho trẻ con.

Không hiểu tại sao tôi biết chắc rằng căn phòng này là nơi từng có rất nhiều trẻ con. Có thể là một trung tâm giữ trẻ. Cũng có thể chúng chỉ là những đứa con của bà tạ Và một cảm giác kinh hoàng đột nhiên kéo đến khiến tôi rùng mình khi nghĩ rằng tất cả những đứa trẻ từng ở đây đã chết từ lâu, lâu lắm. Tại sao tôi có cảm giác đó, tôi không biết.

Rồi tôi cởi đôi giầy nặng nề ra và nằm xuống. Suốt từ sáng đến giờ mới được ngả lưng lần đầu tiên, tôi cảm thấy vô cùng khoan khoái. Một luồng hơi lạnh ở đâu chợt đến khiến tôi vội vàng kéo cái mền dầy lên tận cổ.

Tôi không tắt nến vì không hiểu sao tôi không dám nhắm mắt, sợ mình ngủ thiếp đị Tôi nhìn chòng chọc lên trần nhà, tưởng tượng đó là một bức tranh đồng quệ Không hiểu tại sao tôi có cảm tưởng là tất cả đồ đạc trong căn phòng này đều có những đôi mắt bí mật đang theo dõi nhất cử nhất động của tôi. Ý nghĩ này khiến tôi nổi gai ốc.

Tôi cố lắng tai nghe tiếng sóng biển rì rào từ một nơi thật xa vọng lại, như từ một thế giới khác. Rồi trong sự yên lặng nặng nề đó, tôi chợt nghe những tiếng chuông leng teng nho nhỏ, tiếng kêu của loại chuông được treo trên những cây Giáng Sinh. Tiếng chuông nghe thật rõ, ngay trong phòng. Tôi tung mền ngồi bật dậy, nhảy xuống giường đi quanh phòng lắng nghe xem tiếng chuông phát xuất từ đâu.

Cuối cùng, tôi đứng lại trước một tủ chén cao không khóa, không ngăn và trống rỗng. Dưới đáy tủ, qua ánh nến bập bùng, tôi nhìn thấy một cái chuông nhỏ lấp lánh. Cái chuông nằm yên và những tiếng leng keng không còn nữa. Nhưng rõ rệt trước đó nó đã kêu. Tôi mở tủ lượm cái chuông nhỏ lên, cầm trong tay lắc nhẹ "leng teng leng teng". Đây đúng là một món đồ chơi của trẻ con và căn phòng này đúng là căn phòng của trẻ con như tôi nghĩ.

Tôi cầm cái chuông tới ngồi trên một cái bàn nhỏ, cái bàn của trẻ con, đối diện tủ chén và nhìn vào tủ suy nghĩ. Đột nhiên tôi thấy có hai ánh mắt long lanh của một con chuột lắt xuất hiện từ một cái lỗ nhỏ sau lưng tủ. Tôi thở dài nhẹ nhõm, không ngờ mình có thể tìm ra nguyên nhân của tiếng chuông rung một cách lẹ làng như thế.

Trong khi tôi ngồi yên theo dõi, con chuột nhỏ từ từ bò ra cửa tủ, chạy ra ngoài. Tôi la lên: "Ê, ông bạn, đi đâu vậy?" trước khi đứng lên rượt theo nó. Khi tới một góc phòng, con chuột nhỏ biến mất và tôi thấy mình đang đứng trước một cái cửa mà từ xa tôi không thấy. Hơi ngạc nhiên, tôi đưa tay lên gõ. Từ phiá sau cánh cửa, một giọng nói thật cao, thật mỏng như tiếng gió vang lên "cứ vào tự nhiên".

Tôi đẩy cửa bước vào và dưới ánh trăng lọt qua khung cửa sổ, tôi thấy một người đàn ông đang đứng sững nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi giật mình lui lại. Người đàn ông cũng lui lại cùng một lúc. Tới lúc đó tôi mới biết mình đang nhìn vào một tấm gương lớn. Sau cơn hoảng hốt, tôi quay nhìn cái mà tôi muốn thấy. Đó là người đàn bà to béo. Bà ta đang nằm trên một cái giường rộng, hai bàn tay chuối mắn đang mân mê cái mền. Đôi mắt bà ta nhìn tôi trừng trừng khiến tôi cảm thấy toàn thân lạnh toát. Tôi liếc nhìn sang bên cạnh và thấy một thanh gỗ lớn, dài khoảng hơn một thước, có lẽ là cây chặn cửa. Không hiểu sao, tôi cầm thanh gỗ lên và cảm thấy tự tin hơn. Ít nhất tôi cũng có vũ khí trong tay.

Rồi tôi liếc nhìn lại phía người đàn bà. Bà ta đang chờn vờn ngồi dậy với một khuôn mặt hoàn toàn thay đổi. Mái tóc dính đầy đất cát của bà ta rũ rượi một cách ghê rợn, đôi mắt bà đỏ rực như mắt chó rừng trong đêm tối, đôi môi nhỏ của bà hoàn toàn biến mất trong cái lỗ miệng đen ngòm, thay thế bằng một cái lưỡi đỏ lòm giữa những cái răng nanh nhọn hoắt. Từ cái lỗ miệng khủng khiếp đó, những tiếng cười ằng ặc như người bị bóp cổ vọng ra.

Bây giờ người đàn bà đã ngồi dậy, đôi mắt đỏ ngầu của bà ta nhìn tôi nửa như chế diễu nửa như thèm thuồng. Rồi cái khối thịt khổng lồ và tròn trịa đó bước xuống đất và lần đầu tiên tôi nhận thấy đôi chân bà ta không chạm đất, rồi như một trái banh bằng hơi sương, người đàn bà với khuôn mặt ma quái từ từ lăn tới chỗ tôi đứng trong khi cái lưỡi đỏ hỏn dài chừng hai tấc của bà ta thè ra thụt vào.

Phản ứng của tôi là giơ thanh gỗ lên đập xuống khối sương ma quái đó. Tôi đập liên hồi tới khi người đàn bà gục xuống không cựa quậy. Khi những tiếng động tắt hẳn, dù tôi còn cảm thấy nhịp cổ tay bà ta đập nhẹ khi cúi xuống kiểm soát, tôi bước thẳng tới cánh cửa thứ nhì trong phòng, đối diện với cánh cửa mà tôi bước vào. Một tấm bảng nhỏ "cửa vườn" viết bằng nét chữ trẻ con nguệch ngoạc được dán ở phía trên. Tôi đẩy bung cánh cửa vườn này ra và nhìn vào một khu vườn như bị bỏ hoang từ hàng chục năm qua với những đám cỏ hoang cao bằng đầu người nằm sau một khoảng sân trống chừng mười, mười lăm thước.

Suy nghĩ trong giây lát, tôi quay trở vào nhắc người đàn bà to béo lên, và điều khiến tôi ngạc nhiên là bà ta không nặng hơn một đứa bé. Tuy nhiên vì cái khối lượng thân hình khổng lồ của bà, phải vất vả lắm tôi mới lôi được bà ta qua khỏi những đám cỏ hoang rậm rạp nằm giữa những hàng cây khô tới tận cuối vườn. Trong khoảng hai tiếng đồng hồ sau đó, tôi liên tục ghim mũi cuốc xuống đất để tạo cho bà ta một nấm mồ rộng rãi, ít nhất cũng bằng cái giường của bà ta.

Cuối cùng, tôi xoa hai bàn tay một cách thỏa mãn. Dưới ánh trăng, một cái hố rộng bằng cái giường, sâu khoảng một thước rưỡi đã hoàn tất. Ném cái cuốc và cái xẻng lên mặt đất, tôi leo lên miệng hố, nhưng hai chân tôi như bị gắn chặt xuống nấm mộ mà tôi mới đào. Trong cơn hoảng hốt, tôi liếc nhìn xác người đàn bà to béo và có cảm tưởng như bà ta đang cựa quậy. Nhưng không, đó chỉ là một cơn gió khiến tà áo của bà bay lên nhè nhẹ. Cuối cùng, với một nỗ lực phi thường, có lẽ vì quá mệt mỏi, tôi cũng leo lên được mặt đất và ngồi thở dốc.

Rồi tôi lăn xác người đàn bà to béo đó xuống ngôi mộ mới và lấy xẻng lấp đất lên. Khi công việc kết thúc, dưới ánh trăng vằng vặc, tôi liếc nhìn đồng hồ và thấy mới gần ba giờ sáng.

Đứng nhìn ngôi mộ mới giữa lớp cỏ cao, tôi xoa tay một cách hài lòng trước khi lững thững bước vào nhà. Chui qua cánh cửa với hai chữ "cửa vườn", tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy mình đang đứng giữa một căn phòng với saù ngọn nến còn cháy sáng. Phòng ngủ của tôi chứ không phải căn phòng của người đàn bà to béo!

Tôi lắc đầu mấy cái xem mình mơ hay tỉnh. Không, tôi hoàn toàn tỉnh táo! Tôi bước trở lại trước cánh "cửa vườn" thì không còn thấy tấm bảng "cửa vườn" đâu nữa! Tôi chăm chú nhìn cánh cửa và nhận thấy đó chính là cánh cửa mở vào phòng người đàn bà. Có thể nào sau khi làm việc mệt mỏi, tôi đã mở cánh "cửa vườn" vào phòng bà ta rồi mở cánh cửa thông sang phòng của tôi mà không nhớ? Thật là vô lý vì tôi hoàn toàn tỉnh táo. Không biết vì lý do nào thúc đẩy, tôi đưa tay lên gõ cửa mấy cái và giật bắn mình khi từ phía sau cánh cửa im lìm, một giọng nói thật cao, thật mỏng như tiếng gió vang lên "cứ vào tự nhiên".

Không tin ở tai mình, tôi xô cửa nhìn vào - lần này tôi không bước vào. Căn phòng và cái giường hoàn toàn trống rỗng.

Nhiều khi quá mỏi mệt bạn có thể không kiểm soát được cả thính giác của chính bạn nữa!

Tôi trở lại ngồi trên cái bàn nhỏ đối diện với tủ chén. Tôi không nhớ là đã bỏ cái chuông nhỏ mà tôi lấy ra từ tủ chén ở đâu.

Đột nhiên tôi lại nghe những tiếng leng keng nho nhỏ khiến tôi nổi gai ốc. Nhìn kỹ vào cái tủ chén trống rỗng với hai cánh cửa mở toang, tôi thấy con chuột lắt đang đùa giỡn với cái chuông nhỏ.

Không hiểu sao một cơn giận bất thần chợt đến với tôi. Tôi rút một chiếc giầy liệng vào con chuột nhưng chiếc giầy bị cửa tủ chăn lại, rơi xuống. Tuy nhiên con chuột nhỏ cũng giật mình bỏ cái chuông, chạy tụt vào một cái lỗ sau lưng tủ. Tôi bước tới cửa tủ, cúi xuống lượm cái chuông nhỏ lên bỏ vào túi. Tôi quyết định phải rời khỏi căn nhà ma quái này ngay dù không biết đường và dù trời còn tối.

Sau khi cột giày, tôi cầm theo một cây nến, mở cửa bước ra. Cố nhớ lại những hành lang nhỏ mà người đàn bà to béo đưa tôi đi qua trên đường tới phòng ngủ, tôi đi quanh quất một hồi trong căn nhà lạ và thấy mình trở lại trước căn phòng ngủ với năm ngọn đèn cầy cháy sáng! Một ý nghĩ chợt đến với tôi "hay là mình mở cánh cửa ăn thông sang phòng ngủ của người đàn bà rồi đi ra vườn. Từ ngoài vườn, mình chỉ việc đi quanh nhà là ra tới phía trước. Từ đó mình có thể bước ra đường một cách dễ dàng".

Nghĩ như vậy, tôi bước tới đẩy cánh cửa ăn thông sang căn phòng người đàn bà. Trước sự ngạc nhiên của tôi, trước mắt tôi là cánh vườn hoang mà tôi đã lôi xác người đàn bà ra trước đó. Căn phòng ngủ của bà ta hoàn toàn biến mất như chưa bao giờ hiện diện trên trái đất!

Trong khi tôi còn đang ngỡ ngàng chưa biết có nên bước ra hay không thì từ phía cuối vườn, nơi tôi mới chôn người đàn bà to béo, tôi thấy như có một cái gì lay động giữa đám cỏ cao. Định thần nhìn kỹ, tôi thấy những đầu ngọn cỏ khởi sự chuyển động và tiến lần về phía ngôi nhà như bị một cơn gió thổi thật chậm. Khi những đầu ngọn cỏ ngưng chuyển động, từ trong đám cỏ cao vút, người đàn bà to béo xuất hiện, bước vào khoảng sân trống. Đôi mắt bà ta vẫn đỏ ngầu và bây giờ đầy vẻ giận dữ. Cái miệng bà ta chỉ còn là một hàm răng nhọn hoắt trắng nhởn đang nhe ra. Bà ta lướt về phía tôi như lăn trên bánh xe. Tôi hoảng hốt đóng sập cánh cửa lại, lao mình chạy quanh những hành lang tăm tối, đầu bị những kèo nhà đập trúng bôm bốp. Có lúc tôi ngã xuống nhưng lại cố đứng ngay dậy, tiếp tục trốn chạy. Cuối cùng tôi thấy mình đang chạy trên đường hướng về biển cả.

Tới bờ biển, lúc này không còn một ngọn gió, không còn một lượn sóng, tôi vục hai tay xuống làn nước biển lạnh buốt rồi đổ lên đầu, lên mặt. Chất muối khiến tôi nhăn mặt khi cảm thấy rát ở trên đầu, và hơi nước lạnh khiến tôi như khoẻ lại.

Ngồi thở một lúc trên bãi biển vắng tanh, tôi đứng dậy loạng choạng bước lên mặt đường nhìn về phía ngôi nhà quái gở.

Bây giờ tôi mới nhận ra những nét ma quái dễ sợ của căn nhà, cũng vẫn với ánh đèn hiu hắt tỏa ra. Nếu tôi đã có cảm giác này vào buổi tối, có lẽ tôi đã không tìm đến đó.

Lúc đó tôi nghĩ rằng có thể những gì vừa xẩy ra chỉ là một giấc mơ, một cơn ác mộng, nhưng khi sờ vào những cục u trên đầu, tôi biết rằng mình vẫn tỉnh táo và những gì xẩy ra là sự thật.

Ngay cả bây giờ, nhiều khi tôi muốn nghĩ rằng đó chỉ là một cơn ác mộng, nhưng không, tất cả những gì tôi vừa kể lại hoàn toàn là sự thật, cũng thật như cái chuông nhỏ mà tôi vẫn để trên bàn viết của tôi.

Người chết trở về

Khi Huy tan sở vào ca chiều, lúc ấy đã hơn 11 giờ đêm. Quãng đường từ chỗ làm về đến nhà không bao giờ mất đến quá 15 phút, thế mà đêm nay ngõ đường quẹo vào nhà chàng lại bị kẹt cứng, chắc là có tai nạn hoặc một chuyện gì đó xảy ra khiến cảnh sát phải "lốc" lại nửa con đường làm dòng xe cộ lưu thông bị chậm hẳn lại.

Vừa nghe nhạc, vừa lái xe nhích lên từng bước một, rồi cuối cùng Huy cũng đã về được đến gần nhà. Nhưng khi còn cách nhà vài căn, Huy không thể nào quẹo xe vào vì cảnh sát đã chăng dây quanh khu vực xảy ra tai nạn và không cho ai lai vãng đến gần. Huy đành phải đậu xe cách nhà khá xa, và đi bộ lại chỗ đám đông hiếu kỳ vẫn còn tụ tập bàn tán. Gặp người cảnh sát đang làm nhiệm vụ ngăn chận để có chỗ cho xe cứu thương và xe cảnh sát làm việc, Huy nói:

-Nhà tôi ở gần đây, xin cho tôi vào...

Viên cảnh sát nghiêm nghị xua tay:

-Rất tiếc là ông không thể vào bên trong ấy, vì cảnh sát và nhân viên cứu thương đang làm nhiệm vụ.

Huy móc bằng lái xe đưa cho người cảnh sát:

-Nhà tôi cách đây mấy căn, tôi mới đi làm về mệt quá, chẳng lẽ tôi phải đứng đây mãi sao?

Người cảnh sát cầm bằng lái xe của Huy lên xem, rồi trả lại ngay và nói:

-Nhà ông ở ngay chỗ xảy ra tai nạn, tôi phải dẫn ông vào mới được.

Huy cúi người chui qua vòng dây rào và đi theo người cảnh sát. Khi bước gần đến nhà, Huy mới thấy một chiếc xe hơi nhỏ leo lề đụng vào ngay cây cột điện dựng sát lối vào chỗ đậu xe của nhà chàng. Chắc người lái xe đã phóng với tốc độ cao nên chiếc xe bẹp dúm hết cả phần đầu, và nhân viên cứu hỏa đã phải cắt nát cả xe mới đem được người bị nạn ra ngoài.

Các nhân viên cứu thương lúc đó đang chuẩn bị thu dọn đồ nghề, và khi tiến đến gần Huy mới nhìn được mặt nạn nhân một cách khá rõ ràng, nhờ ánh đèn của cây cột điện tỏa sáng xuống đúng ngay nơi xảy ra tai nạn. Đó là một phụ nữ tóc đen, dù bị máu me bê bết trên người nhưng trên mặt lại không tỏ lộ ra bất cứ một nét đau đớn nào. Nhưng cái nét đẹp như say ngủ ấy hình như đã ngưng thở, bởi cả thân thể người bị nạn đã không còn chút cử động!

Đúng như Huy suy nghĩ, một nhân viên cứu thương đã tiến đến và kéo tấm vải trắng che lên hết khuôn mặt người đàn bà bị nạn, như thế có nghĩa là người này đã chết, sau một hồi cứu chữa tại chỗ. Tất cả mọi người có nhiệm vụ đứng gần đó đều không tỏ một vẻ gì xúc động, họ làm việc như một cái máy - nhưng đối với Huy, lòng dạ chàng nôn nao như người nằm trên cáng băng-ca kia chính là một người thân nào đó của chàng!

Buồn bã tra chìa khóa để mở cửa vào nhà, Huy xuống bếp pha ngay một ly trà nóng để trấn áp những gì đang nổi sóng trong lòng. Hình như người bị nạn trông rất quen, có thể là một người đàn bà nào đó trong cộng đồng tị nạn của chàng, hay người thân của một gia đình mà chàng quen biết. Trong khi hớp vội ngụm trà nóng, trí óc của Huy cũng bắt đầu làm việc để cố tìm xem người đàn bà ấy là ai, để có thể gọi điện thoại thông báo cho gia đình họ, hay tìm cách giúp đỡ nếu gia đình người ấy còn ở lại VN...

Suy nghĩ mãi cũng chẳng đi đến đâu, ngoại trừ hình ảnh của người phụ nữ bị nạn với cái nét "ưa nhìn" ấy vẫn luôn luẩn quẩn và đôi lúc lại vụt hiện lên rõ nét trong đầu, khiến Huy hết hồn tưởng người chết đã hiện về và xuất hiện trước mặt chàng!

Đêm ấy trời rất lạnh, Huy mở lò sưởi hết cỡ mới sưởi ấm được trọn vẹn căn phòng mà chàng đang ở.

Đáng lẽ căn nhà 2 phòng ngủ rộng mênh mông này còn có một người bạn gái ở chung với chàng, nhưng họ đã chia tay nhau cách đây mấy tháng, bởi một lý do rất đơn giản là vì Huy lúc đó chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện "ăn đời ở kiếp" với bất cứ người đàn bà nào!

Nằm cô độc một mình trên giường, nhớ lại lúc mới đến Úc Huy cũng đã chuẩn bị làm đám cưới với một phụ nữ bằng tuổi, nhưng trong một lần thấy mệt trong người và phải bỏ sở lái xe về nhà, Huy mới khám phá ra việc phản bội của người vợ sắp cưới. Thế là từ đó Huy có dị ứng với đàn bà và luôn tự nhủ với lòng rằng sẽ không bao giờ để bị lừa gạt trong tình yêu thêm lần nữa. Và chính vì cái suy nghĩ này, đã khiến Huy trở thành người đàn ông ít nói và cũng là một tay sở khanh có hạng, nhưng những người thân quen lại tưởng lầm rằng chàng là người "kén cá, chọn canh". Cứ mãi suy nghĩ về cuộc đời với những người đàn bà đã đi qua đời, và cái chết bất ngờ của người phụ nữ trước cây cột điện... cộng với cái mệt sau một ngày làm việc, Huy rồi cũng chìm sâu vào giấc ngủ...

Khi chàng giật mình thức giấc nhìn lên kim đồng hồ dạ quang để ở đầu giường thì mới hơn 6 giờ sáng. Đáng lẽ giờ này thì trời đã sáng tỏ, nhưng vì là mùa đông nên khói sương mù trắng đục vẫn còn luẩn quẩn trong khu vườn nhà chàng. Nhổm người dậy vén chiếc màn cửa sổ nhìn ra đường, Huy thấy lờ mờ một đám đông lên tới cả chục người đang loay hoay làm việc gì đó quanh chiếc cột điện đã xảy ra tai nạn chết người đêm qua.

Huy nghĩ, có lẽ gia đình nạn nhân đã được cảnh sát báo tin nên đã kéo nhau đến đây để cầu nguyện cho người xấu số. Và đúng như sự suy đoán của Huy, tiếng đọc kinh dù không lớn lắm nhưng cũng đủ để lọt vào căn phòng nơi chàng đang muốn dỗ lại giấc ngủ, bởi bình thường Huy ngủ vùi đến tận 8 giờ sáng, vì mãi đến 3 giờ chiều chàng mới phải lái xe đến sở làm.

Óc tò mò nổi lên, Huy thay bộ quần áo ngủ, khoác thêm chiếc áo lạnh rồi bước ra khỏi nhà. Đám người thân của nạn nhân hình như chẳng chú ý gì đến sự có mặt của Huy, họ vẫn rỉ rả đọc kinh và có vài người còn cúi đầu sụt sịt khóc lóc. Dưới chân chiếc cột điện bị trầy sướt đã thấy có cắm nhang tỏa khói và ánh nến lung linh, còn chiếc xe bẹp dúm đã được kéo đi đâu mất. Không muốn làm loãng động không khí sầu thảm và u uất đó, Huy thả bộ đến chỗ đậu xe đêm qua và lái xe đến tiệm phở mở cửa sớm trong vùng để làm một tô cho đỡ đói.

Đã từ lâu Huy đã quá quen với cảnh "cơm hàng chợ, vợ nhà thổ", đói bụng thì tạt vào một quán ăn VN hay mua thêm thùng mì vứt vào xó bếp. Thỉnh thoảng cuối tuần thì đến nhà mấy thằng bạn mua đồ nhậu và lai rai cho hết thùng "V.B" cho quên đời... tị nạn. Những lúc cơ thể đòi hỏi thì Huy lại "âm thầm" xuống xóm, tìm một em đồng hương để tâm sự nửa tiếng hay một giờ, chứ nhất định không chịu "ngã gục" vì một người đàn bà nào khác! Nhiều thằng bạn cám cảnh "cơm đường, cháo chợ" của Huy đã gạ "cho không" em gái hay chị gái còn ở quê nhà nhưng chàng vẫn lắc đầu quầy quậy từ chối, và trả lời dấm dẳng là "ở vậy quen rồi"!

Khi Huy lái xe quẹo vào nhà thì cái đám đông tụ tập dưới chân cột điện trước nhà chàng đã giải tán gần hết, nhưng khói nhang vẫn còn nghi ngút quanh mấy nhánh hoa tươi đủ loại cắm chung quanh. Và khi lái xe chậm ngang qua cây cột điện để quẹo vào nhà thì Huy nghe thấy tiếng đập vào thành xe và giọng một người đàn ông trầm ấm hỏi:

-Có phải... Huy không?

Huy ngoái đầu ra khỏi xe và mừng rỡ nhận ra đó là Thành, người bạn mà chàng đã gặp vài lần trong các bữa nhậu cuối tuần tại nhà một người bạn:

-Thành hả... Vô nhà tao uống cà phê chơi...

Đậu xe vào sân nhà xong, Huy vội vã bước trở ra đường hỏi chuyện Thành:

-Mày làm gì ở đây?

Thành ngập ngừng, bối rối:

-Người bị đụng xe tối qua ở đây là... vợ tao...

Huy vò đầu bứt tóc:

-Thảo nào tao nhìn thấy bà ấy có vẻ quen quen, nghĩ mãi mà không biết là ai! Ai ngờ lại là vợ mày! Tao thành thật chia buồn... thôi vào nhà làm ly cà phê cho ấm bụng rồi hãy tính...

Thành thiểu não theo chân Huy vào nhà. Thành kể tối qua hai vợ chồng cãi nhau một trận nát nước, khiến Thủy giận điên phóng xe ra khỏi nhà và Thành cũng lái xe đến nhà một thằng bạn độc thân để làm vài lon giải sầu.

Thành về đến nhà lúc 4 giờ sáng và được đứa em gái của Thủy báo cho biết là có cảnh sát gọi, và Thành gọi lại số cảnh sát đã cho thì được biết Thủy đã chết trong một tai nạn, ai ngờ địa điểm lại là trước nhà của Huỵ Huy nói:

-Giờ này còn sớm, bệnh viện chưa cho ai vào thăm đâu, nhiều khi còn phải chờ các bác sĩ giảo nghiệm xong mới cho thân nhân vào nhận xác...

Thành im lặng không nói gì, và Huy cũng vừa ngăn lại được câu hỏi mà chàng tính nói với Thành, đó là "hai vợ chồng mày cãi nhau vì chuyện gì, đến độ bà ấy phải lái xe... húc vào cột điện?". Nghĩ đó là chuyện riêng tư của Thành nên Huy lảng qua chuyện khác:

-Tao rảnh cả ngày, nếu mày cần việc gì cứ gọi, tao sẵn sàng làm cho đừng ngại gì cả, bạn bè mà...

Đến lúc này Thành mới đưa tay lên quẹt nước mắt:

-Tao hối hận quá! Giá mà tao đừng bỏ đi... giá mà tao giữ bà ấy lại... thì tai nạn này đã không xảy ra...

Huy tiến lại gần vỗ vai an ủi bạn:

-Chuyện gì muốn hay không nó cũng xảy ra rồi... Chuyện bây giờ là mình phải những điều còn lại cho người đã khuất...

Thành đưa hai tay lên ôm lấy mặt, kể lể:

-Tao biết bà ấy rất hận tao... vì những điều tao làm khiến bà ấy đau khổ và lúc xuống tinh thần, bà ấy đã tự kết thúc bằng cái chết...

Huy lờ mờ hiểu được rằng Thành đã là nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của vợ, và vụ lao xe vào cột điện là có chủ tâm của người muốn tìm cái chết.

Nhưng suy nghĩ thêm Huy cũng chẳng tìm được thêm chút chi tiết nào, bởi vợ Thành là một người đàn bà đẹp, thùy mị và rất chiều chồng, và Thành sống cũng rất gương mẫu không rượu chè cờ bạc và chẳng thấy lẹo tẹo với ai!

* * *

Đám ma của vợ Thành diễn ra vào ngày cuối tuần, mọi người thân quen đều coi đó là một tai nạn và chẳng ai biết đến lý do đã khiến Thủy, vợ của Thành phải đi tìm cái chết - ngoại trừ Huy là người đã nghe được ít lời hé lộ của Thành, nhưng vì có tính không ưa xen vào chuyện của người khác nên Huy cũng chẳng hé lộ câu gì với ai. Cây cột điện trước cửa nhà Huy từ hôm xảy ra tai nạn đến nay đã chật đầy các bó hoa và các tấm thiệp thương tiếc của những người quen biết. Không biết ai lại còn đem cả hình của nạn nhân ra gắn lên cây thập giá và quấn băng keo treo lên cây cột điện, khiến ai lái xe ngang qua nhà Huy cũng phải nhìn thấy và biết nơi này mới vừa xảy ra một tai nạn chết người!

Một đêm nọ, khi Huy đi làm về lúc gần nửa khuya và bầu trời tối đen như kịt, cộng thêm những giải sương mù chập chờn hạ thấp trước mặt khiến chàng phải lái xe thật chậm và mở đèn pha để phòng ngừa tai nạn. Khi quẹo xe vào nhà, Huy thấy lờ mờ dáng một người đàn bà mặc áo khoác đang khoanh tay co người trước cây cột điện.

Nghĩ là người thân của nạn nhân nên Huy không để ý, nhưng khi vào đến nhà thì trong đầu Huy lại trỗi lên những câu hỏi mà chàng không thể tự trả lời. Đó là người đàn bà đang đứng một mình ngoài sương gió ấy là ai, và tại sao giờ này lại có mặt ở chỗ xảy ra tai nạn?

Nghĩ vậy, Huy vén màn cửa để nhìn ra đường, và chàng chỉ thấy cây cột điện trơ ra những đóa hoa héo úa rõ nét dưới ánh đèn vàng, và người đàn bà kia đã biến mất!

Thuở nhỏ chàng thường nghe người lớn nói rằng, người chết, và nhất là những người chết oan trong vòng ba ngày thường hay hiện về nơi mà họ đã trút hơi thở cuối cùng. Đêm nay, Huy nhẩm tính thì thấy vợ của Thành cũng đã chết được vài ngày và linh cảm rằng người đàn bà đứng co ro ngoài trời lúc nãy chính là hồn ma của Thủy. Từ lúc nghĩ đó là Thủy, Huy không tài nào dỗ được giấc ngủ và nằm trằn trọc mơ mơ màng màng cho đến sáng.

Hôm sau cũng thế, khi về đến nhà Huy lại thấy bóng người đàn bà dưới chân cột điện, nhưng lần này dáng người có vẻ mệt mỏi nên đã ngồi gục mặt xuống để ôm chặt lấy gốc cây cột điện. Huy không dám dừng xe và cũng không dám bước ra khỏi nhà, chàng tính gọi điện thoại cho cảnh sát hay xe cứu thương đến để coi người đàn bà đó là ai, có cần giúp đỡ gì không, nhưng mấy lần cầm điện thoại lên, Huy lại bỏ xuống, bởi khi nhìn ra ngoài đường thì thấy cái bóng ma ấy thất thểu đứng lên đi qua đi lại, nhưng khi chàng sắp sửa quay số thì bóng người đàn bà ấy lại biến mất trong sương mù...

Qua đêm thứ ba, Huy nhất định làm gan xin sở cho về sớm, vào nhà mặc thêm áo ấm và đứng lảng vảng gần nơi xảy ra tai nạn, để xem cái người đàn bà xuất hiện mấy tối qua là người hay mA. Trời lạnh, chàng phải đốt thuốc và rít liên tục để trấn áp cái sợ đang làm chàng run lên cả người. Thỉnh thoảng một hai chiếc xe hơi lạc lõng đi giữa đêm khuya mù sương cũng mất hút nhanh như sao xẹt. Đường vắng tanh ngoại trừ tiếng gió hú thổi phần phật làm tung bay những cánh hoa héo trên thân cây cột điện, và tiếng dế gáy nỉ non dưới bụi cỏ... làm Huy không còn giữ vững được ý định nữa và đành bỏ cuộc để bước vội vào nhà...

Cửa nhà mở sẵn, nên chàng không phải mò tìm lỗ khóa, nhưng Huy có chút ngạc nghiên khi thấy đèn điện trong nhà đã tắt tối thuI. Chàng nhớ lúc lấy thêm áo ấm và đi ra ngoài, cái đèn ngủ để bên cạnh đầu giường của chàng đã được bật sáng, thế mà bây giờ lại tắt ngấm.

Đưa tay lên công tắc điện định bật, Huy bỗng giật bắn cả người khi thấy một bàn tay ấm áp đè chặn lên tay chàng. Định thần, và nhờ ánh đèn vàng mờ nhạt từ bên ngoài đường hắt vào, Huy thấy người đàn bà đang đứng gần chàng chính là Thủy, vợ Thành, người đã chết vì tai nạn xe hơi cách đây mấy ngày! Khuôn mặt nàng vẫn vậy, dịu dàng y như nét say ngủ mà chàng đã nhìn thấy khi nhân viên cứu thương khiêng xác nàng đặt lên băng ca, nhưng tối nay lại chất chứa thêm vẻ đầy muộn phiền.

Quá hoảng sợ, chàng ú ớ nói không nên lời, và dù không khí trong căn phòng ngủ của chàng ấm áp hơn ngoài trời rất nhiều, nhưng Huy vẫn thấy một luồng khí lạnh chạy rần rật khắp châu thân, khiến chàng run lên từng chặp.

Người đàn bà hình như thấy được nỗi sợ đang ngập tràn trong lòng Huy nên cất tiếng nhỏ nhẹ:

-Em biết anh đang... tìm em... Nên em phải lẩn tránh vào đây...

Huy rút ngay tay lại và nhắm nghiền mắt để khỏi phải nhìn thấy mặt hồn ma, rồi run giọng nói:

-Chị về đây... để làm gì?

Hồn ma lùi lại đứng ẩn mình trong một góc của căn phòng, trong khi Huy chờ đợi mãi mà không nghe thấy tiếng trả lời. Tưởng hồn ma đã biến mất, Huy mở mắt ra nhìn và thấy hồn ma vẫn còn đó nhưng đã cởi bỏ cái áo khoác mặc bên ngoài để trên đầu giường. Dù khép mình trong góc tối, nhưng Huy vẫn nhìn thấy rõ bởi khoảng cách giữa chàng và hồn ma chỉ có mấy bước, trông Thủy gầy gò đến tội nghiệp và mái tóc xõa dài lòa xòa trước mặt cũng không che dấu được hết nét đẹp mà nàng đã có lúc sinh thời.

Bỗng như có một mãnh lực vô hình nào thúc giục, Huy bước tới nắm lấy tay hồn ma, dìu lại ngồi bên giường rồi nói trong nỗi xúc động:

-Tôi biết chị còn nhiều điều khó khăn... không thể nói ra được. Nhưng chị cần gì phải đứng ngoài sương gió như thế... Chuyện ấy dầu sao cũng xảy ra rồi, như chén nước đã hất đổ thì không còn cách nào hốt lại được...

Hồn ma đưa tay lên bụm mặt, khóc lên rưng rức. Không phải Huy muốn lợi dụng thời cơ, nhưng rõ ràng là khi chàng đưa tay lên bờ vai của người đàn bà xuất hiện giữa đêm khuya để an ủi... thì thân hình của nàng đã ngã đổ xuống ngay trên tấm nệm giường của Huỵ.. Bên ngoài trời mỗi lúc một âm u, ánh đèn vàng ngoài đường thêm nhạt nhòe và hình như không còn đủ sức để soi sáng những gì ngoài đường phố. Trong phòng, Huy cũng chẳng còn thấy gì hơn ngoài thân hình người đàn bà tuy yếu đuối nhưng ngập tràn tình dục đang quyện lấy người chàng. Chàng mải mê trong im lặng để tận hưởng mùi hương của nàng khi chàng lần tay cởi bung hết hàng cúc áo để được kề sát mặt lên vùng ngực nhấp nhộ.. Nàng rướn người rên xiết và đưa cả hai tay lên cổ để ghì đầu chàng xuống. Cho tới một lúc chàng không còn kềm hãm được nữa, co chân đạp thoát cả hai chiếc quần ra khỏi người nàng... thì dù gió rít ngoài trời như tăng tốc, cộng thêm tiếng mưa rơi rợn người khi gió quất những làn mưa đập từng chập vào khung cửa kiếng... cũng chẳng thể làm Huy phân tâm để buông lơi nhịp điệu.

Khi lên tới tột đỉnh ái ân, Huy cảm thấy hai bên bờ vai đau rát bởi hai bàn tay "móng vuốt" của hồn ma đã bấu víu thật sâu vào da thịt chàng... Khi Huy tỉnh giấc, xoải tay sang bên cạnh, hồn ma đêm qua đã biến mất. Huy sững sờ với tay bật điện, ánh đèn ngủ chói chang khiến chàng phải nheo mắt lại nhưng cũng đủ để thấy gối chăn xô lệch, và cái lò sưởi điện đã được nàng bật lên khi chàng say giấc điệp. Cho tới giờ này chàng vẫn không hiểu người đàn bà mà chàng đã quay cuồng ân ái đêm qua là người hay là ma, bởi những gì mà chàng có được từ cái thân thể nồng ấm ấy còn đậm đà và đáng nhớ hơn bất cứ người đàn bà nào khác đã đi qua cuộc đời chàng.

Từ sau đêm hôm ấy, hồn ma không còn thấy xuất hiện nơi xảy ra tai nạn. Huy đã nhiều đêm bỏ sở về ngang để mong được gặp lại người đàn bà đã cho chàng một đêm đáng nhớ, nhưng mọi hoài mong của chàng đều rơi vào vô vọng. Chờ đêm không được, nhiều ngày chàng đã đến thăm mộ Thủy. Người ta thấy chàng thắp nhang và lẩm bẩm như đang trò chuyện với người đã khuất, chàng nói gì không ai nghe rõ, nhưng trong lòng, chàng nhất định sẽ đi đến nơi này nhiều lần, cho đến khi gặp lại người đàn bà đã giao hoan với chàng trong một đêm gió lạnh...

Có lần Thành gặp chàng đang thắp nhang cắm lên mộ Thủy, tưởng Huy bị ám ảnh bởi tận mắt chứng kiến cái chết thảm vì tai nạn của vợ mình. Thành cảm động nói:

-Cảm ơn mày đã đến thắp nhang cho bà ấy. Mấy lần ra đây thấy có chân nhang mới... làm tao phải hồ nghi không biết là ai... Bây giờ biết là mày... chứ không phải...

Huy hiểu những điều mà Thành vừa nói, vì chàng cũng thất vọng không kém chi Thành, người có cô em vợ đã bỏ nhà ra đi biệt tăm từ hôm bà chị chết!

Cô gái nghĩa hiệp

Thư sinh họ Cố người Kim Lăng, học rộng tài hoa, nhưng nhà rất nghèo, lại vì có mẹ già không nỡ rời dưới gối, nên hàng ngày chỉ vẽ thuê viết mướn kiếm ăn. Đã hai mươi lăm tuổi mà vẫn phòng không lạnh lẽo.

Trước cửa nhà chàng là một ngôi nhà bỏ hoang từ lâu, một hôm có một bà già cùng một cô gái đến thuê để ở. Vì thấy không có đàn ông, nên chàng cũng chưa tiện thăm hỏi gốc tích của họ. Một hôm tình cờ từ ngoài về, chàng gặp cô gái trong phòng mẹ đi ra, tuổi chừng mười tám mười chín, xinh đẹp, thanh tú, trên đời ít có người sánh kịp. Gặp chàng, cô không tránh mặt nhưng có vẻ nghiêm lạnh. Chàng vào nhà hỏi mẹ, bà bảo:

- Đó là cô gái ở nhà trước cửa, sang mượn thước và kéo may. Cô vừa cho biết nhà cũng chỉ có một con một mẹ. Trông cô có vẻ không phải con nhà nghèo. Hỏi sao không lấy chồng, cô đáp vì còn mẹ già. Để mai mẹ sang chào bà cụ, nhân tiện dò ý xem sao. Nếu ước vọng của họ không cao xa quá thì con có thể phụng dưỡng mẹ già thay nàng.

Hôm sau bà qua nhà cô gái, thấy mẹ nàng là một bà lão điếc. Nhìn trong nhà, tịnh không còn một bữa gạo cho ngày mai; hỏi cách sinh sống thì chỉ trông nhờ vào hai bàn tay cô gái. Dần dà mẹ chàng đem chuyện kết thân giữa hai nhà ra ướm hỏi; bà cụ ý như cũng bằng lòng, nhưng còn quay sang bàn bạc với cô gái; nàng nín lặng, xem chừng không được vui.

Mẹ về, kể lại cho con nghe và tỏ ý ngờ vực nói:

- Hay là cô ấy ngại nhà mình nghèo chăng? Tính tình nghiêm nghị không nói không cười, xinh như đào mận mà lại lạnh lùng như sương tuyết, thật là người kỳ lạ!

Mẹ con than tiếc một lúc rồi cũng bỏ qua.

Một hôm chàng ngồi ở phòng, bỗng có một thiếu niên đến nhờ vẽ tranh. Chàng ta diện mạo đẹp đẽ nhưng ý tứ thì khá buông tuồng. Hỏi ở đâu đến, đáp là ở thôn quệ Sau đó vài ba ngày lại đến một lần. Lâu dần thành quen, cười đùa cợt nhã. Chàng suồng sã ôm choàng lấy, cũng không chống cự gì lắm, liền tư thông với nhau. Từ đấy đi lại rất thân thiết.

Gặp khi cô gái đi ngang, thiếu niên đưa mắt nhìn, hỏi là ai, chàng đáp:

- Cô hàng xóm.

Thiếu niên nói:

- Đẹp thì đẹp thật, mà sao thần sắc đáng sợ thế!

Lát sau chàng vào nhà trong, mẹ bảo:

- Vừa rồi cô gái sang xin gạo, nói đã hai ngày bếp không đỏ lửa. Cô gái thật có hiếu nhưng nhà nghèo quá, kể cũng đáng thương, ta cũng nên chu cấp ít nhiều.

Chàng nghe lời, mang đấu gạo sang, gõ cửa nói lại ý mẹ. Cô gái nhận gạo cũng không cảm tạ.

Hàng ngày nàng sang nhà, thấy mẹ chàng may vá, cũng vá áo xâu kim giúp mẹ. Ra vào trong nhà, làm lụng mọi việc như con dâu. Chàng càng thêm biết ơn nàng, mỗi khi có ai biếu xén thức gì đều chia ra biếu lại mẹ nàng. Cô gái vẫn không hé răng nói một lời cảm tạ. Bỗng nhiên mẹ chàng mọc cái nhọt ở chỗ kín, đêm ngày kêu khóc. Cô gái thường xuyên đến tận giường chăm sóc, rửa mụn bôi thuốc cho bà, ngày ba bốn bận. Mẹ rất áy náy nhưng cô không nề hà chuyện bẩn thỉu. Mẹ nói:

- Ôi, làm sao có một nàng dâu như con trông nom mẹ lúc tuổi già, để chết cho mát mẻ đây!

Nói xong, bà buồn bã nghẹn ngào. Cô gái an ủi bà rằng:

- Anh nhà là người con chí hiếu, còn hơn cảnh nhà cháu mẹ goá con côi gấp trăm lần.

Mẹ nói:

- Tới lui hầu hạ bên giường, nào phải là việc người con trai hiếu làm nổi đâu. Vả lại, thân này cũng đã xế chiều, hôm trái nắng trở trời chẳng biết thế nào nên rất khắc khoải về một người nối dõi.

Đang nói thì chàng vào, mẹ khóc bảo:

- Mẹ mang ơn nương tử nhiều lắm, con chớ quên báo đáp.

Chàng cúi đầu vái tạ. Cô gái nói:

- Chàng kính trọng mẹ tôi, tôi không vái tạ, chàng vái tạ làm gì?

Do đấy chàng càng thêm kính yêu, nhưng cử chỉ nàng rắn rỏi, không đằm thắm, nên mảy may chẳng sàm sỡ được. Một hôm cô gái ra khỏi cửa, chàng đăm đăm nhìn theo. Nàng bỗng quay đầu lại cười tươi tắn. Chàng mừng rỡ vì việc xảy ra đến ngoài ý muốn, bèn chạy theo sang nhà; chọc ghẹo cũng không kháng cự, vui sướng cùng giao hoan.

Xong xuôi, nàng dặn:

- Việc này chỉ một lần, không có lần thứ hai đâu nhé!

Chàng không đáp, ra về. Hôm sau, lại hẹn, thì nàng nghiêm nét mặt, không ngoái nhìn, đi thẳng. Ngày ngày nhiều lần qua lại, thường gặp nhau luôn, nhưng nàng không hề làm bộ tươi cười hay dùng lời đưa đẩy; hơi đùa cợt một chút đã nghe những câu lạnh người. Một hôm, nhân chỗ vắng người, nàng chợt hỏi:

- Chàng thiếu niên hàng ngày vẫn đến là ai thế?

Chàng kể đầu đuôi; nàng bảo:

- Đã nhiều lần y có những cử chỉ, thái độ vô lễ với thiếp rồi. Vì là chỗ thân quen với chàng nên thiếp đành bỏ quạ Nhờ chàng chuyển lời; nếu còn tái phạm tức là không muốn sống nữa đấy! Đến tối, thiếu niên tới, chàng nói lại, rồi dặn thêm:

- Anh phải cẩn thận, người ấy không đụng đến được đâu!

Thiếu niên nói:

- Không đụng đến được, sao anh lại đụng được?

Chàng chối là không có chuyện ấy, thiếu niên nói:

- Nếu không có gì sao những lời thô lỗ cợt nhả kia lọt vào tai anh được?

Chàng không còn biết nói thế nào. Thiếu niên nói:

- Cũng phiền anh chuyển lời hộ: Cô nàng đừng giả vờ nghiêm nghị nữa. Nếu không, tôi nói toạc ra cho mọi người cùng biết.

Chàng rất giận, đỏ mặt tía tai; Thiếu niên bèn bỏ đi.

Một đêm, chàng đang ngồi một mình, bỗng nhiên cô gái tìm đến, cười bảo:

- Em với chàng tình duyên chưa dứt, lẽ nào không phải là số trời?

Chàng mừng cuống lên, ôm nàng vào lòng. Đột nhiên, nghe tiếng giày lộp cộp, hai người giật mình nhổm dậy, thì thiếu niên đã xô cửa bước vào. Chàng kinh hải hỏi:

- Cậu là gì vậy?

Anh ta cười đáp:

- Tôi đến để xem con người trinh trắng đấy thôi.

Rồi ngoái nhìn nàng nói:

- Hôm nay không chê trách người khác nữa ử

Cô gái đỏ bừng gò má, lông mày dựng đứng lên, không nói một lời. Nàng hất mạnh vạt áo, để lộ một chiếc bao da, thuận tay rút phắt ra một con dao găm sáng loáng, dài chừng một thước. Thiếu niên trông thấy, sợ hãi bỏ chạy. Nàng đuổi theo ra đến cửa, nhìn quanh, thì đã mất hút. Nàng cầm dao găm ném vào khoảng không, chỉ nghe một tiếng "rạt" đã thấy hiện ra một luồng sáng rực rỡ như cầu vồng. Lát sau nghe tiếng một con hồ trắng, đầu và mình mỗi thứ văng một nơi, nhìn mà thất kinh.

Cô gái nói:

- Anh bạn đẹp trai của chàng đó. Tôi đã dằn lòng tha thứ, nhưng hắn nhất định không muốn sống thì biết làm thế nào?

Rồi nàng cất dao vào bao. Chàng cố kéo trở vào phòng, nàng bảo:

- Vừa rồi yêu quái làm mất cả hứng, xin để đêm mai.

Nói đoạn ra cửa đi thẳng. Đêm sau, quả nhiên cô gái lại đến, bèn cùng chàng ân ái. Hỏi về kiếm thuật, nàng đáp:

- Đó không phải là điều chàng nên biết. Hãy giữ kín, nếu lộ ra, e tai vạ đến chàng.

Lại bàn chuyện hôn nhân, cô gái nói:

- Đã chung chăn gối, lại lo liệu việc nhà, không phải vợ thì còn là gì? Đã là vợ chồng hà tất phải nói đến cưới hỏi.

Chàng hỏi:

- Hay là chê tôi nghèo?

Nàng đáp:

- Chàng đã đành là nghèo, nhưng thiếp giàu sao? Sum vầy đêm nay, chính là thương chàng nghèo đấy thôi.

Khi chia tay nàng lại dặn:

- Việc làm cẩu thả này không thể thường luôn được. Lúc nên đến, thiếp sẽ tự đến, không nên đến thì ép buộc nhau có ích gì!

Về sau mỗi lần gặp gỡ, hễ chàng nói chuyện riêng tư là cô gái lại tránh đi. Tuy nhiên, việc vá may nấu nướng vẫn một tay nàng quán xuyến, không khác gì người vợ chính thức.

Được mấy tháng, mẹ nàng chết, chàng dốc sức lo việc ma chay. Từ đó, nàng ở nhà một mình. Chàng nghĩ phòng không bóng chiếc có thể tính chuyện chung chạ được, bèn nhảy qua tường mà vào, đến bên cửa sổ gọi mãi, nhưng rốt cuộc chẳng một ai thưa. Bèn lại cửa chính nhìn vào thì nhà trống không mà cửa vẫn cài. Chàng ngờ cô gái có nơi hò hẹn nào khác. Đến đêm, lại tới, vẫn y như vậy, chàng bèn tháo viên ngọc vẫn đeo bên mình để lại trên cửa sổ rồi đi. Hôm sau gặp nhau ở buồng mẹ. Khi chàng đi ra, cô gái theo sau nói:

- Chàng ngờ thiếp ử Mỗi người đều có tâm sự riêng, không thể nói hết với người khác. Nay dẫu muốn chàng hết ngờ cũng đâu có được. Nhưng có một việc phiền chàng lo liệu gấp.

Chàng hỏi việc gì, nàng đáp:

- Thiếp có mang đã tám tháng rồi, e sinh nở nay mai. Nhưng danh phận của thiếp chưa rõ ràng, chỉ có thể sinh con cho chàng chứ không thể nuôi con cho chàng được. Chàng hãy thưa riêng với mẹ lo tìm một người vú nuôi, nói dối là con xin được chứ đừng nói là con do thiếp sinh ra.

Chàng nhận lời, về kể lại với mẹ, bà cười bảo:

- Con bé này kỳ thật! Hỏi cưới thì không chịu, mà lại ăn vụng với con mình.

Bà vui mừng làm theo ý nàng và chờ đợi.

Lại cách hơn một tháng, có đến mấy ngày cô gái không sang. Mẹ lấy làm ngờ, đến cửa nhìn xem thì cửa đóng mà nhà vắng lặng. Gõ cửa hồi lâu mới thấy cô gái đầu bù tóc rối, mặt mũi không rửa, từ trong buồng bước ra, mở cửa cho bà vào xong, đóng lại ngay. Vừa vào trong nhà đã nghe tiếng trẻ khóc oe oe trên giường. Bà kinh ngạc hỏi:

- Con sinh từ bao giờ vậy?

Nàng thưa:

- Đã ba ngày.

Giở tã lót ra xem thì là đứa bé trai, má bụ bẫm trán rộng, bà vui mừng nói:

- Con đã vì già mà nuôi cháu; một mình lênh đênh, rồi sẽ nương tựa vào ai?

Cô gái nói:

- Điều con canh cánh trong lòng, chẳng dám phơi bày cùng mẹ. Đợi lúc đêm hôm vắng vẻ sẽ cho cháu về với bà. Mẹ về nói chuyện với con trai, cũng thầm cho là lạ. Đến đêm, bế đứa trẻ về. Lại mấy đêm sau, vào khoảng nửa đêm, cô gái bỗng gõ cửa, bước vào, tay xách chiếc túi da cười nói:

- Việc lớn của thiếp đã xong rồi. Từ nay xin vĩnh biệt!

Chàng vội hỏi duyên cớ, nàng nói:

- Công ơn nuôi mẹ thiếp vẫn khắc sâu trong dạ. Trước đây thiếp từng nói "Chỉ một lần thôi, không có lần thứ hai" không phải có ý đem việc chung đụng gối chăn ra để báo đáp. Chỉ vì chàng nghèo không thể lấy được vợ nên gắng sinh cho chàng một đứa con để nối dõi. Những mong chỉ một lần là thành, chẳng ngờ lại thấy có kinh nên phải "phá giới" lần thứ hai. Nay ơn chàng đã đền, chí thiếp đã toại, chẳng còn gì ân hận nữa!

Chàng hỏi:

- Trong túi có vật gì đấy?

Nàng đáp:

- Đầu kẻ thù!

Hé ra cho nhìn, thì râu tóc bết vào nhau mà máu loang nhoè nhoẹt. Chàng sợ muốn đứt hơi, lại hỏi kỹ thêm. Nàng nói:

- Trước đây thiếp không dám nói với chàng, vì sợ nếu chuyện không giữ kín được sẽ lộ ra. Nay việc đã xong, kể chàng nghe cũng chẳng hại gì. Thiếp vốn là người Chiết Giang, cha làm quan Tư mã bị kẻ thù hãm hại, nhà cửa bị tịch biên. Thiếp phải cõng mẹ già đi trốn, ẩn giấu họ tên, chôn vùi tung tích đã ba năm rồi. Sở dĩ không báo thù ngay chỉ vì mẹ đang còn. Đến khi mẹ mất, lại vướng "khối thị" đang mang trong bụng. Vì thế cứ nấn ná mà thành lâu. Đêm hôm nọ thiếp đi vắng, chẳng có duyên gì khác, chỉ vì đường sá cổng ngõ chưa thông thuộc, sợ có sự nhầm lẫn mà thôi.

Nói xong nàng ra cửa, lại dặn rằng:

- Đứa con thiếp sinh ra, hãy chăm sóc cẩn thận! Chàng phúc mỏng, chẳng sống lâu được, con rồi sẽ làm rạng rỡ cửa nhà. Đêm khuya đừng làm kinh động đến mẹ, thiếp đi đây!

Chàng đang rầu rĩ, toan hỏi đi đâu thì nàng đã vụt đi nhanh như chớp, chỉ nháy mắt đã không thấy đâu bóng dáng nữa. Chàng than tiếc, đứng sững như kẻ mất hồn. Sáng hôm sau chàng kể lại với mẹ, hai mẹ con cứ tấm tắc là chuyện lạ lùng.

Ba năm sau quả nhiên chàng mất. Đứa con mười tám tuổi đỗ Tiến sĩ, phụng dưỡng bà nội cho đến hết tuổi già.

Ngôi nhà hoang

Ngay khi rời khỏi con đường nhựa chạy vào con đường đất gồ ghề, quanh co khúc khuỷu, thời gian như chạy ngược. Những ngôi nhà cũ kỹ tồi tàn, vây quanh bởi những hàng cây già nua không tuổi, trông như những nơi cư ngụ của thế kỷ trước. Những nghĩa trang cũ với cỏ dại mọc đầy che khuất cả những tấm mộ bia đã hao mòn cùng gió mưa, năm tháng càng tạo thêm vẻ thê lương cho vùng đất bị bỏ hoang đang đi dần vào quên lãng.

Tuy khung cảnh ảm đạm thê lương của vùng đất bị lãng quên này không phải là khung cảnh thích hợp cho những ngày trăng mật, đôi vợ chồng mới cưới không hề để ý khi họ chỉ muốn tới nơi để khởi sự bước vào một cuộc phiêu lưu mới, khởi đầu một cuộc sống bên nhau.

Cả hai vừa rời khỏi mái trường, vừa thành hôn, và tài sản của hai người chỉ vỏn vẹn có khoảng mười ngàn đồng và một chiếc xe hơi cũ. Công việc thật hiếm hoi và họ không đủ khả năng thuê một căn nhà, ngay cả một căn phòng nhỏ, tương đối sạch sẽ tại Sài Gòn, vì thế, họ đã vui vẻ nhận lời tới cư ngụ miễn phí tại một bất động sản trong vùng Bảo Lộc. Đối với họ, sự hoang vu của vùng đồi núi lại vô cùng hấp dẫn.

Theo lời người giới thiệu thì nơi họ sắp tới nguyên là ngôi nhà dành cho người làm vườn trong một cơ sở rộng hàng trăm mẫu tây đã bị bỏ hoang từ mấy chục năm qua. Tòa nhà chính vĩ đại như một tòa lâu đài với ba mươi phòng, được xây bởi một người Âu châu bí mật từ đầu thế kỷ thứ 19. Ông ta là một người rất giàu nhưng lại thích sống đời ẩn dật sau những bức tường cao, sau những hàng rào sắt và những rào cản vô hình trong một thế giới riêng tự Những hòn đá xây nhà được đưa sang từ nước Đức của ông. Ngay cả những người giúp việc trong nhà cũng được gởi tới từ nhiều quốc gia Âu châu, và tòa nhà được điều hành không khác gì một lâu đài thời trung cổ.

Không lâu sau khi ông chết, vợ chồng một đứa cháu trai - người thừa kế - từ Hòa Lan tới ngụ tại đây cho đến khi từ trần nhiều năm sau đó. Người này có nhiều con cháu, và bất động sản được khai phá thành một khu nông trại và lâm sản trù phú với các chủ nhân tốt bụng và hiếu khách. Tuy nhiên cũng như cha ông của họ, họ hoàn toàn giữ im lặng về nguồn gốc gia đình. Những người kế nghiệp bất động sản tiếp tục cư ngụ tại đây, cho tới khi những người cuối cùng bị phá sản vì việc sụp đổ của thị trường chứng khoán quốc tế vào năm 1929. Sau đó, bất động sản bị bỏ hoang và một số người được mướn thay nhau giữ đất.

Tòa nhà vĩ đại đã một thời ngự trị toàn khu vực, bây giờ hoàn toàn đổ nát và hoang phế. Ngôi vườn từng lộng lẫy một thời chỉ còn là một rừng cỏ dại. Và bất động sản đang chờ đợi những phát súng ân huệ cuối cùng.

Tuy nhiên Tân và Thoa không biết gì về quá khứ của bất động sản này. Họ chỉ biết rằng họ có cơ hội hưởng tuần trăng mật bên nhau trong suốt mùa hè mà không tốn một xu tiền mướn. Đổi lại, họ chỉ phải hướng dẫn những ai muốn mua tới xem bất động sản trong thời gian họ ở đây.

Dĩ nhiên nơi cư ngụ này không có những tiện nghi như nơi thành thị, nhất là không có điện tuy có những ngọn đèn dầu lớn và một cái lò sưởi trong ngôi nhà dành cho người làm vườn, nơi họ sẽ cư ngụ. Tuy nhiên Tân và Thoa không để ý tới những tiện nghi vì họ còn trẻ và cùng có maù phiêu lưu. Trên bất động sản vẫn còn một số cây ăn trái, một hồ nước nhỏ và những con đường rừng để họ thám hiểm.

Trước khi rời Sài Gòn, họ đã được ngân hàng dặn dò là phải ghé lại một địa chỉ gần chợ Bảo Lộc, cách bất động sản 25 cây số, tìm gặp một ông già tên Đại, người cuối cùng trông coi bất động sản. Già Đại sẽ đưa họ tới bất động sản, đưa họ đi quanh vùng đất bao la này để họ làm quen.

Già Đại, khoảng gần bẩy mươi, khuôn mặt xương xương với mái tóc bạc phơ, nhìn họ:

- À, thế ra ông bà là người sẽ tới ở tại bất động sản von Niemand đấy à!

Rồi ông theo Tân và Thoa ra xe, leo lên ngồi ghế sau. Khi xe bắt đầu chạy, già Đại bắt đầu chỉ đường:

- Quẹo trái cách đây khoảng hai trăm thước.

Không thấy chỗ quẹo nào hết, nhưng Tân cũng chạy chậm lại, và chỉ khoảng nửa phút sau xe đã tới một con đường nhỏ ở bên trái. Bên lề phải của con đường là một tấm bảng với hàng chữ chỉ còn mờ mờ "Đường riêng - Cấm người lạ". Con đường quanh co đầy những ổ gà nằm giữa hai cánh rừng rậm rạp, thỉnh thoảng lại có những vũng nước tù. Nhiều cây chết vẫn đứng thẳng bên những cây tươi. Một số cây khác, bị mục hoặc đã chết, nằm xiêu vẹo đủ hướng. Thấy Thoa nhăn mặt, già Đại lên tiếng:

- Mấy năm trước, có mấy người ở xưởng cưa lên đây, nhưng họ chê mấy cây này và không trở lại nữa.

Đột nhiên lão nói lớn:

- Chậm lại! Sắp tới nơi rồi.

Liếc nhìn đồng hồ tốc độ thấy kim mới chỉ trên 20 cây số giờ, Tân thầm nghĩ "Chậm như rùa rồi còn chậm gì nữa", nhưng một khúc quanh gắt cho chàng hiểu ngay là già Đại nói đúng. Vừa quẹo xong, Tân và Thoa thấy một cái cổng sắt khổng lồ được khóa bằng một ống khóa lớn bằng bàn tay và một sợi xích sắt lớn bằng cổ tay, hai bên là hai con sư tử đầu chim bằng cẩm thạch đứng trên hai cái bệ lớn như đe dọa kẻ lạ mặt nào mưu toan bước qua cổng sắt.

Xe ngưng lại, già Đại mở cửa bước xuống, nói với Tân:

- Hai ông bà chờ tôi mở cổng.

Già Đại đi rồi, Thoa nói với chồng:

- Em hi vọng bên trong coi mát mắt hơn.

Tân gật gù:

- Anh cũng hi vọng như vậy. Hồi xưa những nhà giầu ngoại quốc ở đây thường xây nhà kiểu này để ngăn chận những người địa phương bất thân thiện.

Thoa chỉ vào bức tường:

- Bức tường này kể ra cũng khó vượt qua đấy chứ. Hai bức tường đá cao khoảng hai thước rưỡi chạy dài từ hai con sư tử đầu chim, ở trên, cứ cách khoảng hai tấc lại có một cây sắt nhọn chĩa lên chứng tỏ rằng chủ nhân von Niemand không phải người hiếu khách. Tuy nhiên hai vợ chồng Tân không còn thì giờ trò chuyện hoặc quan sát thêm vì già Đại, sau khi mở cánh cổng nặng nề, đang vẫy tay ra hiệu cho Tân lái vào.

Sau khi được đưa đi coi quanh tòa lâu đài, nơi họ sẽ cư ngụ cùng những tiện nghi tối thiểu, hai vợ chồng Tân cảm thấy dễ chịu hơn. Ngôi nhà mà họ sẽ ở tốt hơn họ nghĩ, tuy cần mở cửa một lúc cho thoáng khí và bớt mùi ẩm mốc. Một số bình gas nấu ăn vẫn còn đầy, và trong nhà kho nhỏ còn tới năm thùng 200 lít đựng đầy dầu lửa.

Móc chiếc đồng hồ quả quít ra coi giờ, già Đại lên tiếng:

- Thôi, tôi phải về. Hi vọng hai ông bà không gặp khó khăn gì khi lái xe trở lại đây.

Tân hỏi:

- Tôi có phải khóa cổng hay không?

Già Đại nhún vai:

- Tốt nhất là cứ để mở, tiện hơn.

Thoa xen vào:

- Nhân tiện, xin ông cho biết con đường kia dẫn tới đâu? Tại sao ông không hướng dẫn chúng tôi tới khu vực đó?

Vừa nói Thoa vừa chỉ vào những tàng cây rậm rạp ở sau lưng phía trái ngôi nhà. Một con đường nhỏ nằm giữa vòm cây dầy đặc như một cái mái che khiến con đường âm u như một đường hầm.

Già Đại nhăn mặt, quai hàm bạnh ra:

- Nếu tôi là ông bà, không bao giờ tôi đặt chân tới đó. Ông bà sẽ có thể bị lạc. ở đó không có gì hết ngoại trừ... à... ngoại trừ những cái cây mục nát.

Tân nhận xét:

- Nhưng hình như con đường này đã từng được xử dụng thì phải.

Già Đại gằn giọng:

- Không một ai đặt chân tới đó từ năm chục năm qua. Thôi, ông chở tôi về tỉnh đi. Và tôi xin cảnh cáo ông bà là không bao giờ nên đặt chân vào đó. Nếu bị lạc, có lẽ phải mất hàng tuần người ta mới tìm thấy ông bà, và khi đó, không biết... Nhưng thôi, ông bà hãy nhớ kỹ những gì tôi nói.

Trên chuyến trở lại nhà già Đại, cả ba không nói một lời và bầu không khí trong xe có vẻ nặng nề. Tuy nhiên khi tới nhà, già Đại mời vợ chồng Tân vào uống nước. Thoa từ chối:

- Cám ơn ông, để khi khác vì chúng tôi muốn mua một vài món đồ lặt vặt bây giờ.

Tân tiếp lời:

- Còn tôi thì muốn trở lại đó trước khi trời tối.

Già Đại gật đầu:

- Ý kiến hay! Trời tối ông bà sẽ có thể bị lạc. Khi về tới lâu đài von Niemand, ông bà nhớ khóa cửa và ở trong nhà, đừng bao giờ bước ra ngoài sau khi trời tối. Ông bà hãy nhớ kỹ điều đó. Vài bữa nữa, tôi và nhà tôi sẽ tới thăm ông bà.

Rời khỏi nhà già Đại, Thoa hỏi chồng:

- Em không hiểu già Đại muốn gì khi dặn mình phải khóa cửa và đừng bước ra ngoài khi trời tối?

Tân nhếch mép cười:

- Có lẽ ông ta biết điều gì bí mật mà không muốn cho mình biết.

Tại một cửa hàng tạp hóa, người chủ tỏ vẻ thân thiện khi biết vợ chồng Tân tới ở tòa lâu đài von Niemand.

Ông lắc đầu thở dài:

- Tòa nhà von Niemand hồi xưa lộng lẫy lắm. Bây giờ nghe nói là họ sắp phá bỏ. Chỉ tội nghiệp cho những người đã chết! Sang năm họ sẽ san bằng cả những ngôi mộ!

Thoa sửng sốt:

- Những ngôi mộ?

- Thưa bà đúng như vậy. Họ sẽ cho máy cày ủi những ngôi mộ và những mộ bia thành bình địa. Những ngôi mộ cũ sẽ không còn dấu vết gì nữa.

Tân nhìn vợ trước khi nhìn chủ quán:

- Tôi không hiểu ông nói gì. Già Đại không hề nói gì với chúng tôi về việc đó.

Chủ nhân trầm giọng:

- Cũng không có gì đáng ngạc nhiên, có lẽ già Đại không muốn ông bà sợ hãi. Ông ta tin ở những câu chuyện ma quái xẩy ra trong lâu đài mà dân chúng ở đây vẫn đồn đãi từ nhiều năm qua.

Đột nhiên một giọng nói giận dữ vang lên ngoài cửa:

- Ông Sâm! Tôi không biết tới lúc nào ông mới biết câm mồm lại.

Hai vợ chồng Tân sửng sốt nhìn ra cửa và thấy già Đại đang trừng mắt nhìn chủ quán với vẻ giận dữ cực độ.

- Tôi đã nghi là thế nào ông cũng nhét vào tai ông bà này những câu chuyện nhảm nhí của ông. Quả là không sai mà!

- Khoan đã! Đừng quên rằng chính ông mới là người tin những chuyện mà ông gọi là nhảm nhí đó chứ không phải tôi à!

Rồi đôi bên gây gổ om xòm tới khi Thoa lên tiếng can thiệp:

- Xin hai ông ngưng lại. Đâu có gì mà hai ông cãi nhau như mổ bò vậy.

Tân nhìn già Đại:

- Ông Đại, việc hai ông gây lộn có liên hệ gì tới con đường phía sau tòa nhà mà ông không muốn tụi tôi đặt chân tới hay không?

Già Đại mím môi trợn mắt nhìn người chủ quán trước khi quay nhìn Tân:

- Nếu ông muốn biết thì tôi cho ông biết. Con đường mòn đó dẫn tới nghĩa trang của giòng họ von Niemand. Và nếu ông muốn được an toàn, tốt nhất đừng bao giờ đặt chân tới đó, ngày cũng như đêm. Bây giờ, tôi muốn ông bà luôn ghi nhớ một điều quan trọng: Hãy khóa cửa ở yên trong nhà khi trời tối.

Rồi già Đại quay sang chủ quán:

- Ông Sâm, tôi sẽ nói chuyện với ông sau.

Dứt lời, lão quay lưng bước thẳng ra ngoài.

Ba người còn lại đứng yên một lúc không ai nói một lời. Rồi Tân nhìn người chủ quán, lên tiếng với vẻ bồn chồn:

- Ông Sâm, ông làm ơn cho chúng tôi biết tất cả những gì về ngôi nhà đó. Xin đừng giấu giếm điều gì hết.

Chủ quán thở dài nhè nhẹ:

- Ông sẽ không thích lắm đâu!

Tân nhìn thẳng vào mắt người đối diện:

- Tôi chỉ muốn biết chứ không cần thích hay không.

Ông Sâm nhún vai:

- Nếu ông muốn! Như tôi đã nói, tôi không tin những chuyện ma quỉ thiên hạ thường đồn đãi, nhưng hình như có một cái gì bất thường tại bất động sản von Niemand. Có lẽ ông bà không biết vì già Đại không nói, nhưng chưa một người lạ mặt nào ở đó được quá 24 tiếng đồng hồ.

Thoa hỏi:

- Việc gì đã xẩy ra cho họ?

- Không ai biết vì không ai gặp họ để nghe kể lại.

- Ông nghĩ rằng...

- Tôi không nghĩ gì hết vì tôi không biết. Tất cả đều biến mất, có thể vì một cái gì đó khiến họ kinh hoàng trốn chạy trong tình trạng mất trí...

Tân gằn giọng:

- Cái gì là cái gì?

- À... thì thiên hạ đồn rằng von Niemand là một nhà phù thủy, và khi ông ta còn sống, trong vùng này không một ai dám tới gần ông vì sợ gặp những sự xui xẻo. Các bô lão tại đây cũng nói rằng trước khi chết, von Niemand đã có một lời nguyền là không một người lạ mặt nào được phép ở lại bất động sản của ông ta quá một đêm nếu không được phép của những người trong gia đình ông.

- Gia đình ông ta đâu còn ai ở đây nữa. Nếu những người lạ, như chúng tôi chẳng hạn, ở lại qua đêm thì việc gì sẽ xẩy ra ?

- Một cái gì rất khủng khiếp sẽ xẩy ra cho ông bà.

- Như việc gì chẳng hạn?

- Tôi không thể nói được.

Tân cười khẩy:

- Tôi không tin những chuyện nhảm nhí đó.

Chủ quán đập tay xuống quầy hàng:

- Thì đó chính là điều tôi đã nói với già Đại...

Nhưng ánh mắt ông chợt loé lên một tia sáng lạ và ông hắng giọng:

- Dù sao đi nữa, nếu tôi là ông bà, tôi cũng nghe lời ông ta và khóa chặt cửa lúc đêm về.

Đường về tòa nhà có vẻ xa vời vợi, và sau những gì xẩy ra trong quán, hai vợ chồng Tân không muốn thảo luận gì thêm. Duy có một điều họ biết chắc là họ không hề sợ sệt và sẽ thám hiểm con đường mòn dẫn tới nghĩa trang. Việc già Đại không muốn họ léo hánh tới đó càng khiến họ thêm tò mò, muốn tìm hiểu xem khu vực đó có cái gì mà già Đại muốn giấu họ.

Khi vợ chồng Tân về tới tòa nhà thì trời đã hoàng hôn. Mặt trời đỏ chói đã xuống sát chân rừng khiến những bóng cây trải dài trên một vùng hoang phế. Trời hoàn toàn yên tĩnh và hơi lạnh. Thoa và Tân mặc thêm áo lạnh trước khi khởi sự cuộc thám hiểm dưới vòm cây âm u, đi tìm vùng mộ địa.

Hàng cây dầy đặc bên trên khiến vợ chồng Tân có cảm tưởng như đang đi xuyên qua một đường hầm. Trong "đường hầm" này, nhiệt độ còn thấp hơn nữa vì không bị ảnh hưởng bởi ánh nắng. Đi sâu vào đường hầm, hai vợ chồng Tân bị ù tai, không phải vì tiếng động mà vì hoàn toàn không tiếng động. Không tiếng chim, tiếng gió, tiếng côn trùng, chỉ có tiếng bước chân xào xạc trên thảm lá khô dầy đặc nhưng có vẻ hơi ẩm ướt dưới chân. Sự yên lặng nặng nề khiến vợ chồng Tân không ai muốn lên tiếng và không ai bảo ai, tự nhiên hai người nắm chặt tay nhau.

Mãi tới khi ra khỏi "đường hầm", tới một vùng đất quang đãng, vợ chồng Tân mới nhận ra là đoạn đường mà họ vừa đi qua dài gần một cây số. Trước mắt họ bây giờ là khu nghĩa trang của gia đình von Niemand, vây quanh bởi một hàng rào sắt đen xì rỉ sét, bên trong là khoảng hai chục tấm mộ bia cái còn đứng ngay, cái đã ngả nghiêng cùng năm tháng.

Bước tới sát hàng rào, Tân lẩm nhẩm đọc tấm mộ bia gần chàng nhất:

- Thaddeus von Niemand... một ngàn tám trăm bẩy mươi mốt... một ngàn tám trăm chín mươi lăm... bị hạ sát giữa tuổi thanh xuân bởi một người mà Thaddeus tưởng là bạn...

Thoa chợt run rẩy:

- Sao tự nhiên em lạnh quá!

Tân không để ý, chỉ tay về phía trung tâm mộ địa:

- Anh cá với em đó là ngôi mộ của ông von Niemand.

Theo hướng tay chồng, Thoa thấy một nhà mồ bằng đá xám trông giống như một cái lều. Cửa nhà mồ là những song sắt, hai bên là hai con sư tử đầu chim bằng đá hoa cương giống như hai con sư tử ngoài cổng tòa lâu đài, chỉ khác ở chỗ là hai con sư tử này có những cánh tay giống như tay người và trên hai bàn tay phải của chúng là hai lưỡi kiếm nhọn hoắt chỉ thẳng lên trời. Tân nói với vợ:

- Trời chưa tối hẳn, có lẽ mình nên vào tận nơi xem có thấy cỗ quan tài của ông ta hay không.

Thoa chợt nắm tay chồng - và Tân cảm thấy tay nàng run rẩy - hổn hển:

- Anh... anh có nghe thấy tiếng gì không?

- Tiếng gì?

- Tiếng người rên rỉ, khóc than!

Tân lắng tai nghẹ Thoa nép sát vào người chồng, run rẩy:

- Anh nghe thấy rồi phải không?

Xương sống của Tân đột nhiên lạnh buốt khi chàng nghe những tiếng rên hừ hừ pha lẫn những tiếng khóc từ xa vọng lại. Rồi tiếng khóc và tiếng rên như phát ra từ phía nhà mồ khiến Tân và Thoa tự nhiên lui lại. Rồi họ nghe những tiếng động lạ như tiếng búa đập vào đất vang lên từ dưới lòng nghĩa trang, và ngay trước mắt họ, những tấm mộ bia cũ kỹ đột nhiên như từ từ bị đẩy lên, những tiếng khóc than nín bặt và những tiếng rên hừ hừ chợt biến thành những tiếng cười khanh khách và tiếng gầm gừ... Việc kế tiếp mà họ nhận thấy là họ đang nắm tay nhau chạy bán sống bán chết về phía đường hầm. Nhưng chưa vào tới được đường hầm họ thì đã nghe thật rõ những tiếng cười quái gở xen lẫn những tiếng gào thét giận dữ, tiếp theo là những tiếng chân chạy huỳnh huỵch sau lưng.

Quá khiếp đảm, vợ chồng Tân cố gắng chạy thật nhanh, không khác gì các lực sĩ điền kinh đang tham dự cuộc đua nước rút một trăm thước. Những tiếng chân rượt đuổi phía sau hình như mỗi lúc một gần hơn và đúng lúc những tiếng chân này có vẻ sắp bắt kịp vợ chồng Tân thì vợ chồng chàng đã vượt ra ngoài đoạn "đường hầm", lao mình vào nhà, đóng sập cửa lại. Họ ôm nhau run rẩy, chờ đợi những hồn ma phá cửa xông vào... nhưng không, cảnh vật đột nhiên trở lại hoàn toàn yên tĩnh.

Đêm hôm đó, vì quá mỏi mệt, hai vợ chồng Tân ngủ thật say sưa. Khoảng nửa đêm, Thoa chợt thức giấc khi nghe có tiếng động lạ ngoài cửa. Nàng vừa liếc nhìn ra thì cánh cửa bật tung ra, hai con sư tử bằng cẩm thạch đi bằng hai chân sau lừng lững tiến vào nhà, hai cánh tay người của chúng giơ cao hai thanh kiếm nhọn hoắt. Thoa muốn hét lớn đánh thức chồng, nhưng lưỡi nàng hoàn toàn tê liệt, không một âm thanh nào được phát rạ Hai con sư tử cẩm thạch tiến tới sát bên giường và một con giơ cao lưỡi kiếm đâm phập xuống giữa ngực Tân. Một giòng maù đỏ loét phọt ra khiến Thoa hét lên một tiếng hãi hùng...

Nghe tiếng vợ la, Tân choàng tỉnh ngồi bật dậy, bàng hoàng hỏi vợ:

- Cái gì thế? Cái gì thế?

Thoa thở hổn hển:

- Không! Không có gì hết! Em nằm mợ..

... Sáng hôm sau, hai vợ chồng già Đại lái xe tới tòa lâu đài von Niemand, và đúng như dự đoán của họ, hai vợ chồng Tân đã mất tích, không để lại một dấu vết gì dù là một mảnh giấy giã từ nho nhỏ.

Già Đại nhìn vợ lắc đầu:

- Cũng y như những người tới ở trước đây. Chắc họ đã làm kinh động nghĩa trang!

Ma đất đêm giao thừa

Câu chuyện xảy ra vào năm 1978, tại mật khu Dương Minh Châu, một địa danh thuộc ranh giới tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, biên giới Cao Miên. Mật khu này, sau khi CS vào, được cải danh thành công trường Hồ Chứa Nước Dầu Tiếng, dưới quyền điều khiển của một cán bộ đảng viên trung kiên, danh xưng là chủ nhiệm công trường, đám công nhân ngụy chúng tôi thường gọi người cán bộ này là Chú Chín.

Chú Chín, như đã nói, vốn là một cán bộ miền Nam tập kết, có nhiều tuổi đảng, chú là người sinh trưởng ở miền Nam nên dù đã tập kết và trở thành đảng viên trung kiên của CS, Chú Chín vẫn có phong thái chân chất, ngôn ngữ thật thà và duy tâm như hầu hết những người sanh trưởng ở miền Nam nước Việt.

Tánh tình chú Chín nhân ái thâm trầm và, có một điều thật là lạ, cho dù chú đã đi tập kết, chiến đấu và sinh hoạt lâu năm như vậy trong hàng ngũ những người CS, Chú vẫn còn giữ được tánh nết nhu mì, biết thương người và đặc biệt hơn cả, Chú rất thương mến các anh chị em công nhân trong công trường làm việc dưới quyền điều động của chú, bất kể người công nhân đó thuộc thành phần con cái "ngụy quân ngụy quyền" bị trưng dụng đi làm thanh niên xung phong hay là những anh em cựu binh lính chế độ cũ như chúng tôi.

Thái độ của chú Chính khác xa với bản chất kiêu binh hống hách, nói phét như cuội vốn là cá tánh của giai cấp lãnh đạo CS mà chúng tôi thường thấy. Cho nên, đám công nhân chúng tôi bớt cảm thấy mặc cảm và, cũng có khi để tâm tìm hiểu thêm về con người riêng tư của Chú Chín.

Địa thế của công trường vốn dĩ là mật khu Dương Minh Châu trong thời chiến, nên nằm sâu tít trong rừng đèo heo hút gió, cây cối um tùm rậm rạp với rừng cỏ tranh che lấp đầu người. Có hai con đường độc đạo, quanh co nhỏ hẹp, nằm khuất trong đám cỏ tranh dành để đi bộ từ công trường ra tới xóm nhà dân cách khoảng chừng hai cây số với đầy rẫy những lỗ bom đào sâu dưới đất, miệng rộng như những cái ao khổng lồ. Người đi bộ nếu lỡ trượt chân rớt xuống, không có người trông thấy để tìm cách thả dây kéo lên thì xem như chết chắc vì khó lòng một mình người đó co ù thể tìm cách nắm được các nhúm cỏ tranh trơn tuột mà leo lên miệng hố cong vòng như cái lòng chảo sâu hoắm này.

Đã có ít nhất vài ba lần, các công nhân cơ hữu thuộc đội lao động thanh niên xung phong, vào những buổi chiều chán ngán cơm hẩm cá thiu ở công trường, họ chịu khó đi bộ ra xóm nhà dân bỏ tiền túi ra để có những bữa cơm "cải thiện", thay thế cho những bữa ăn quá đỗi đạm bạc, chỉ có vài bát cơm hẩm trong khẩu phần ẩm thực với vài ba con cá khô mục hoặc nhúm rau xanh tự trồng với vài muỗng nước muối mặn chát thay thế cho món ăn mặn hàng ngày.

Các anh chị em công nhân ở đây, phần lớn, là thành phần con cái chế độ cũ được Công Ty Xây Dựng Thủy Lợi 9 tọa lạc ở Thị Nghè điều lên vùng khỉ ho cò gáy này để tham gia lao động công trường. Công việc chung của họ là hàng ngày tiếng quân trên một con đường độc đạo khá rộng lớn, xe cộ có thể chạy qua lại được để tự khiêng những tảng đá khổng lồ do nhóm anh em tài xế chúng tôi lái những chiếc xe Liên Sô hiệu MA, xe ZIN ba số 5 lấy đá từ núi đá Biên Hòa hoặc Châu Thới chở về. Công việc thật là nhàm chán và nặng nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt với từng cơn gió lốc phủ ngập đất đỏ thổi tới, bám lên những thân xác trẻ tuổi đầy hoa mộng còm cõi của họ hàng ngày.

Chúng tôi, tuy cũng là công nhân, nhưng có điều may mắn hơn là được điều động đi làm phụ xế trên những chiếc xe Zin 3 con 5 hoặc những chiếc xe MA của Liên Sô vĩ đại, hàng ngày được đi ra khỏi công trường về Châu Thới lấy đá để chở về đổ trên con đường lớn này để hoàn thành qui hoạch một con lộ tiêu chuẩn nối liền công trường với các thị xã xa xôi lân cận.

Nhờ được lái xe có giấy lệnh công tác của công trường do Chú Chín ký nhận, mỗi xe chúng tôi đều có trang bị súng ống cá nhân, có cán bộ chỉ đạo dẫn đầu mỗi lần đi công tác chở đá, nên nhóm anh em tài xế chúng tôi, từ tài xế chính (thường là những cán bộ, bộ đội) cho đến tài xế phụ là những người thuộc chế độ VNCH có chuyên môn cao như chúng tôi được tuyển dụng. Ngay từ những ngày đầu ra quân đi chở đá trên các tuyến đường thường lệ, tài xế chính, tài xế phụ chúng tôi dù có khác nhau về ý thức hệ hoặc danh xưng trong chế độ mới của VC, cũng đã rất "tâm đầu ý hợp" trên cả hai phương diện "làm tốt" công tác lẫn những "kỳ công" thu hoạch lợi nhuận trên các chuyến xe từ công trường đến nơi lấy đá bằng những chuyến buôn lậu có kế sách hẳn hòi.

Lợi tức thường từ những chuyến xe trống, nhưng với nhiều cách che giấu tinh vi, chúng tôi lùng sục mua rẻ những mặt hàng lấy từ những con buôn từ vùng biên giới gồm nào là thịt, mỡ heo, củi, gạo, đường, sữa, thuốc lá, v.v... Thật là những con số lợi nhuận rất đáng ca ngợi và hoan hỉ đối với cách lái xe lương tháng vài chục bạc èo uột như chúng tôi.

Từng bọc tiền lời kiếm được thường xuyên mỗi ngày đưa địa vị lao động của nhóm anh em tài xế chở đá chúng tôi đến một giai cấp tiền bạc rủng rỉnh đề huề, dù chỉ ngụy trang dưới một hình thức ngấm ngầm, hoàn toàn trái nghịch với bộ dạng lem nhem dầu mỡ, mồ hôi dầm dề trên những bộ quần áo bảo hộ lao động bạc phếch vì nắng cháy của đám lái xe chúng tôi. Lúc đã kiếm chác được khá nhiều tiền, chúng tôi cũng biết cách "xử lý" đúng điệu với Chú Chín chủ nhiệm công trường, anh phó chủ nhiệm, ban an ninh, đội bảo vệ... Tóm lại, kẻ nhiều người ít, tùy theo chức năng, tùy theo tình hình mà chia chác để giữ mối kiếm ăn lâu dài trong khi cả nước đang dần dần kéo nhau đi vào thời kỳ lang thang đói rách. Bọn công nhân chúng tôi thừa đủ kinh nghiệm khôn ngoan nên luôn luôn áp dụng cung cách ăn đồng chia đủ với tất cả mọi thành phần cán bộ viên chức thẩm quyền liên hệ, ngay cả các đội kiểm tra kinh tế trên các tuyến đường chúng tôi qua lại hàng ngày, chúng tôi cũng không quên đáp lại xứng đáng thái độ làm ngơ của "các đồng chí" mỗi lần nhận ra đoàn xe chở đá từ Công Trường Hồ Chứa Nước Dầu Tiếng hàng chục chiếc xe nối đuôi nhau chạy qua.

Từ lúc có tiền rừng bạc bể trong tay, anh em tài xế chánh, tài xế phụ của chúng tôi cũng không quên những đứa em đứa cháu hiện là những công nhân lao động thuộc nhóm thanh niên tiên tiến của công trường. Điều mà chúng tôi không bao giờ xao lãng về đám thanh thiếu nữ trẻ này, là đa số họ thuộc con cái "ngụy quân ngụy quyền", vốn là những chiến hữu ruột thịt trước đây của chúng tôi. Gặp các em thường xuyên, nhìn các em từng ngày đốt tàn tuổi xuân trên từng viên đá thô nhám trĩu nặng, thân thể mỗi ngày thêm khô héo tàn tạ trong những mùa mưa nắng khắc nghiệt của công trường, lòng tự ái ngấm ngầm không thể bộc lộ của đám tàn binh thua cuộc, chúng tôi chỉ biết im lặng thương xót ngậm ngùi cho tuổi trẻ các em. Nên chi, chuyện cho các em quá giang xe ra khu xóm dân thị xã kiếm thêm những bữa cơm "cải thiện", hay dúi cho các em dăm ba trăm bạc tiền Hồ, các em nữ chút tiền mọn để chi tiêu cho những nhu cầu gương lược trang điểm của con gái là chuyện không có gì cần suy nghĩ của đám tài xế đội lốt "giác ngộ tốt" như chúng tôi.

Các em cũng biết thân phận cam chịu những thua thiệt của hàng ngũ con cháu "ngụy quân ngụy quyền" bằng cách ngấm ngầm liên kết với nhau, gắn bó và chia xẻ nhau tất cả những tâm tư tình cảm tự nhiên nhất của tuổi trẻ. Các em âm thầm chịu đựng những tháng ngày lầm than ở công trường, bên ngoài không hé răng tỏ lộ một lời than van thống trách nhưng bên trong thì sùng sục lửa căm hờn. Rất ý hợp tâm đầu, các em tự biết, đám tài xế phụ chúng tôi tự biết. Chúng tôi kín đáo trao đổi và ngấm ngầm bảo vệ và cảm thông lẫn nhau. Trong số các em, có một cặp nam nữ trẻ tuổi mà tôi biết rõ tông tích, lý lịch. Đứa con trai trên Trần Mạnh Hùng, con của một sĩ quan VNCH cao cấp, thân phụ của Hùng, dĩ nhiên đã lên đường đi cải tạo "10 ngày" chưa thấy dạng trở về sau 2 năm 2 tháng. Đứa con gái, chỉ cần nhìn qua dáng dấp đích thị là một tiểu thư với tấm thân mình hạc xương mai, khuôn mặt bầu bĩnh thông minh đôn hậu như ánh trăng rằm. Bảo Quỳnh là tên đứa con gái, cựu nữ sinh Gia Long học giỏi, đàn dương cầm lại rất hay.

Bảo Quỳnh và Mạnh Hùng là cặp thanh niên trẻ tuổi và thầm lặng nhất của công trường. Họ yêu thương nhau, quấn quít bên nhau như bóng với hình đêm ngày sát cạnh, bất chấp những giáo điều lệnh lạc do chỉ thị của Đoàn của Đảng. Họ sống lủi thủi và lao động bên nhau cho đến một hôm công trường rộn rã lao xao về sự vắng mặt trong buổi điểm danh sáng của Bảo Quỳnh. Mạnh Hùng thì thần sắc như kẻ mất hồn. Em không thể trả lời trước ban Chủ Nhiệm về sự vắng mặt của cô bạn gái hiền lành xinh đẹp trong khi mọi người đều xác nhận chiều ngày hôm trước, hai người còn dẫn nhau đi bộ ra quán bà Tư Thái ngoài thị xã ăn cơm với đĩa dưa cải chua và 2 cánh gà rồi cùng dẫn nhau trở về công trường vào lúc trời vừa nhá nhem tối, có cơn mưa lất phất đầu mùa. Đám thanh niên trẻ đều khẳng định chính mắt họ nhìn thấy hai người ra khỏi nhà bà Tư Thái, trở về công trường theo con đường nhỏ quanh co dưới đám cỏ tranh rậm rạp. Lúc bấy giờ, trời còn tranh tối tranh sáng, nhưng đã không nhìn rõ bóng người, nếu người đi sau cách người đi trước chỉ trong dăm mười thước ngắn ngủi.

Vậy, Bảo Quỳnh đã thất lạc ở đâu? Trong khi Mạnh Quỳnh đã trở về được đến công trường đến sáng hôm nay, tự nhiên hóa thành người không còn thần trí?

Đến nước này chú Chín, Chủ nhiệm công trường đã không còn giữ yên lặng, ông ban hành một thông báo, trong đó, chú có lập lại những điều như trước đây chú đã từng căn dặn đám thanh niên:

- Bây đi đâu thì đi tao không ngăn cản. Nhưng phải nhớ trở lại công trường trước khi trời tối. Trong đêm, nếu phải đi vệ sinh thì phải vào nhà xí, không được đi bừa bãi ngoài hàng rào quanh công trường kẻo ma nó dẫn đi trong đêm thì ráng chịu, tao không có cách gỡ. Tưởng chú Chín đem ma ra làm chỉ thị dọa những đứa nhát gan theo lệ thường. Nào dè, cho đến hôm nay, Bảo Quỳnh tư nhiên biến mất, chú Chín mới tiết lộ cho đám tài xế chúng tôi biết như sau:

- Bảo Quỳnh mất tích chắc có lý do. Tao biết rõ lý do đó, nếu tao đoán không sai. Kể từ nay, đội thanh niên phải tuyệt đối chấp hành lệnh công trường, không được đi đứng bậy bạ trong đêm. Vùng đất này, tao đã từng sống trong thời chiến, tao biết quá rõ, ma quỷ lền khên không ngán chi người phàm. Chuyện bắt người trong đêm tối, dẫn sâu vào rừng sâu cho ăn toàn đất đá, vài ngày sau chỉ còn cái xác lạnh là chuyện đã từng xảy ra. Dạo chiến tranh còn, thiếu chi bọn lính cái đã xui xẻo bị ma dẫn đi cho ăn toàn đất đá, lúc tìm được đem về thì đã thành con ma dại, dở tỉnh dở mê không ra cái giống gì! Tao cá với bọn mày con Bảo Quỳnh là một sự tái diễn, nếu mình không phân tán thành nhiều toán đi lùng kiếm thì chỉ nội nhật hôm nay nó sẽ trở thành cái xác không hồn.

Nhìn khuôn mặt khắc khổ đầy trang nghiêm của chú Chín, nhóm tài xế chúng tôi bắt buộc phải tin những điều chú vừa nói là sự thật. Nghĩ đến đây, tóc gáy chúng tôi dựng đứng, mặt mũi người nào cũng thất sắc y như bị gặp ma.

Theo lệnh, chúng tôi đội tài xế gồm mười mấy chiếc xe của công trường chia nhau đi mỗi xe mỗi hướng. Phía sau thùng xe trống là các thanh niên xung phong. Chúng tôi rời công trường trong cái se lạnh của những ngày tháng cuối năm. Mặt trời mới vừa chớm khỏi những ngọn cây cao rải rác đó đây trong rừng, sương đêm còn đọng đầy trên từng cành cây bụi lá.

Sau nửa giờ lái xe len lỏi qua những tàn cây cao, che kín bởi đám cỏ tranh và phải lái thật khéo và tinh tế để tránh xe rơi xuống các hố bom sâu bị che kín bởi lá cây che lấp lâu ngày, xe chúng tôi ra khỏi đám cây cao um tùm ẩm thấp, nhìn thấy cả một cánh đồng cỏ hoang dưới nắng cháy của những ngày cuối năm.

Trước mắt chúng tôi hiện ra một hình ảnh kinh hoàng không phải trong đêm thâu u tối mà ngay giữa thanh niên bạch nhật có hàng chục con mắt chứng kiến: thân xác của Bảo Quỳnh nằm bất động trong một vũng nước lầy, quần áo tả tơi rách nát để lộ ra một thân thể lõa lồ với mảnh lưng trần trắng xanh như màu bạch ngọc đang ngả sang màu tái của xác chết không hồn. Chúng tôi thận trọng cầm súng xuống xe, từng bước tiến đến chỗ Bảo Quỳnh đang nằm bất động. Chú Chín đã đoán không sai.

Bảo Quỳnh đã bị ma đất trong rừng dẫn đi trong đêm tối, nó dẫn cô gái đáng thương này đi ngay trong cơn khiếp sợ mê sảng của Mạnh Hùng nên cho dù hai người có đang cùng đi chung, bị tách ra, Mạnh Hùng vẫn không còn tỉnh táo để chống lại ý muốn của loài ma rừng độc địa hòng cứu lấy cô bạn gái đáng thương. Ma rừng sai khiến bước chân không hồn của cô gái đi càng sâu vào rừng bao nhiều càng tốt, sau đó, ma đất xúi bẩy cô gái tự cào đất nhét kín vào mồm và nuốt vào cổ họng giống như người ăn xôi bắp cho đến khi đất ướt dẻo đọng kín cổ họng, không thở được nữa thì chết luôn. Nhưng sự độc địa của loài ma rừng này không phải chỉ có vậy. Trước cái chết kinh dị của người nữ công nhân vắn số và trẻ tuổi này, nàng sẽ trở thành một loại hồn ma linh thiêng và cực kỳ tàn nhẫn. Có nghĩa là hồn ma Bảo Quỳnh sẽ có ngày hiện về để gieo rắc thêm những cái chết khác nếu hồn ma còn vương vấn duyên nợ với bất cứ ai khi còn sống, hồn ma còn nặng nghĩa ân tình. Vậy ai sẽ là người phải nhận chịu số phận xui rủi này nếu không phải là Mạnh Hùng, vốn là người khi còn sống, Bảo Quỳnh đã tin yêu và vô cùng thương nhớ?

Chú Chín chủ nhiệm công trường, dù là một cán bộ trung kiên vô thần của đảng CS cũng lộ vẻ thất kinh khi nhận báo cáo đầu tiên của nhóm tìm kiếm báo về cái chết hiển nhiên của Bảo Quỳnh. Việc đầu tiên chú quyết định là, ngay lập tức, xin lệnh điều Mạnh Hùng về công tác ở thành phố để hòng cứu lấy sinh mạng của em vì chú dám đoan chắc hồn ma Bảo Quỳnh sẽ có lúc trở về lấy mạng của Mạnh Hùng, phải chết chung như số phận của Bảo Quỳnh.

Hôm đó là ngày 29 tháng Chạp. Những công nhân được hưởng đặc ân về nhà ăn tết đã được cấp giấy phép và được đội vận chuyển chở ra quốc lộ đón xe về vui xuân với gia đình. Công trường chỉ còn lại số ít cán bộ công nhân phải ở lại, chờ đợt đi phép thứ hai, sau tết. Nhưng, chú cũng không thể chờ đợi lâu hơn. Một mặt chú cho báo tin khẩn cấp cho thân nhân Bảo Quỳnh lên công trường nhận xác, mặt khác chú điện khẩn cấp về trung ương để xin quyết định cho Mạnh Hùng được sớm rời khỏi công trường.

Nhưng trời không chiều lòng người. Thủ Trưởng ở trung ương của Công Ty Xây Dựng Thủy Lợi 9 đã về quê tận Quảng Ninh ăn tết, nên đề nghị của Chủ nhiệm công trường Hồ Chứa Nước Dầu Tiếng đành phải đợi đến ngày ông thủ trưởng lớn hơn trở lại nhiệm sở mới có thể giải quyết. Vì vậy, Mạnh Hùng, dù chỉ cần đợi cho qua mấy ngày tết ngắn ngủi, cũng phải ở lại đón xuân hiu quạnh ở công trường với tâm trạng buồn đau thương nhớ cô bạn gái khi xưa.

Buổi chiều cuối năm nơi công trường đèo heo hút gió thật quạnh quẽ thê lương. Chú Chín ở miết trong phòng với vợ con nghe đài phát những bài hát đón xuân buồn thê thiết. Dưới hai dãy nhà ở của công nhân cũng lặng lẽ không một bóng người. Đội vận tải, với những chiếc xe ZIN, xe MA đã được bảo quản, lau chùi sạch sẽ nằm thẳng lớp im lìm, đám công nhân tài xế, phần đi phép, phần lẻn ra xóm nhà dân vui xuân nên công trường cũng chẳng có bóng dáng một ai.

Tôi và xế chính Nguyễn Văn Sinh làm sao chịu thấu cái quạnh quẽ của những giây phút giao mùa, bèn rủ nhau cuốc bộ ra nhà bà Tư Thái làm một bữa chén cuối năm say bí tỉ cần câu.

Hai chúng tôi, một cách mạng trái mùa, một tên lính thua trận, khoác lấy tay nhau, ngả nghiêng bước, chìm khuất trong đám cỏ tranh tối tăm tịch mịch, trở lại công trường với những cảm xúc hư không trống rỗng, không nghĩ gì tới những giờ phút còn lại của lúc giao mùa.

Bỗng nhiên, Sinh nghêu ngao cất cao một bài hát.... "Nếu mai không nở, tao đâu biết xuân về hay chưa..." Phải vậy không mày?. Rồi Sinh phá ra cười trong đêm tối, giữa cái rùng rợn của đêm trừ tịch trong đám cỏ tranh. Quá nửa khuya, tức là qua giao thừa, chúng tôi đang say ngủ, bỗng bàng hoàng thức giấc sau những tiếng la thất thanh vọng đến từ dãy nhà công nhân. Những cái đèn màu vàng ệch được bật sáng khắp nơi. Chúng tôi vội vã chạy về phía có tiếng thét gào ban nãy. Mạnh Hùng nằm chết tự lúc nào, xác vắt ngang ngưỡng cửa, tay chân mồm miệng dính đầy đất cát giống hệt như kiểu chết oan khiên của Bảo Quỳnh.

Thế là những kinh nghiệm ghê gớm về loại ma rừng của Chú Chín cùng những gì chú dự liệu đã xảy ra đúng như lời chú nói. Chỉ có điều là chú không thể chạy kịp được với thời gian để cố cứu mạng cho Mạnh Hùng. Phải chăng, đó là tại số mệnh. Số mệnh oan nghiệt của hai người trẻ tuổi thua cuộc vì trận chiến cha ông, vì họ đã yêu nhau đến chết cũng phải chịu chung nỗi ngậm ngùi?

Chú Chín buồn bã nhìn xác Mạnh Hùng, miệng lẩm bẩm:

- Mẹ! Đã biết mà không làm gì kịp.

Rõ ràng Bảo Quỳnh đã hóa thành loài ma đất, trở về công trường để biến thành con ma nữ đêm giao thừa để bắt hồn Mạnh Hùng phải cùng đi với em sang bên kia thế giới cho trọn nghĩa yêu đương, theo như thói quen của loài ma đất.

Khi ấy là khoảng gần 11 giờ đêm một ngày cuối tháng 12 năm 1972 trên con đường từ Nhổn hướng về phía Hà nội có một người thanh niên trạc ngoài 30 tuổi đang cặm cụi đạp chiếc xe Thống Nhất một mình trong đêm.Cái lạnh của đêm đông miền Bắc làm cho không gian như đặc quánh lại, hơi thơ của người thanh niên như tỏa ra một vầng sáng sóng sánh trước mặt anh. Cái lạnh thấu sương đó được che chở bớt bởi một chiếc áo trấn thủ dầy có trần nhưng đường chỉ hình quả trám đã cũ kỹ và ngả màu xanh bợt bạt.

Chàng thanh niên khẽ huýt sáo mong xua tan cái không gian cô tịch của đoạn đường vắng vẻ.

Mấy quán hàng nước leo lét ngọn đèn dầu mà lúc 7 giờ tối khi chàng đi qua nay đã được che chắn kín mít bằng mấy tấm phiên liếp. Thời kỳ chiến tranh phá hoại ở Miền Bấc hầu như không được sử dụng nhiều ánh sáng, cứ tầm 7 giờ tối là Hà nội đã chìm trong bóng đêm. Xung quanh chàng trai chỉ còn tiếng ếch nhái và côn trùng đều đều.

Đột nhiên ở một ngã ba đường, có một cô gái cầm một chiếc làn khẽ gọi chàng trai cho đi nhờ xe, cô ấy nói vừa từ trong thôn đi ra đường 32 này chờ ai đó cho đi nhờ xe vào Hà nội có việc gấp. Trong lúc này đây có một người bạn đồng hành thì quả là quá tuyệt, chàng trai vui vẻ cho cô gái ngồi sau xe và cố tình đạp thong dong hơn. Hai người bắt đầu câu chuyện, cô gái kể nhà cô ở số ..*. phố Quan Thánh, cả nhà đi sơ tán hết tận Sơn Tây, còn cô vào nhà người thân ở trong thôn này, hôm nay có việc gấp phải về trong phố. Chàng trai kể mình trong đội tự vệ Hà nội chiều nay vừa phải đi vào đây có việc cho tới giờ này mới về được.

Cả hai vui vẻ nói chuyện làm đoạn đường dường như ngắn lại. Đi được một đoạn, chàng linh cảm thấy cô gái khẽ co ro, rum rẩy ở sau xe, chàng mới chợt nhớ ra là cô gái chỉ mặc phong phanh một cái áo trắng xẻ tà cao hai bên. Chàng trai vội vã dừng xe và galant cởi chiếc áo bông trấn thủ ra đưa cô gái mặc và thanh minh rằng mình đạp xe nóng quá! Cô gái e lệ khoác chiếc áo và cả hai tiếp tục cuộc hành trình. Chàng trai hồ hởi kể bao câu chuyện về cuộc đời mình và chỉ nghe thấy những tiếng dạ - vâng nhẹ nhàng từ phia sau. Câu chuyện đang vào mạch, đột nhiên có một câu chàng hỏi mà đã hai lần vẫn không thấy cô gái có trả lời? Chàng trai quay lại mà chợt một cảm giác lạnh buốt dọc sống lưng. Sau xe trông không! Cô gái đã không còn đó từ khi nào !!!Chàng vội và đạp xe nhanh về phía Hà nội, Cầu Diễn đây rồi, đã có leo lét ánh đèn dầu từ phía mấy nhà dân xa xa... Trong đầu chàng ngổn ngang câu hỏi, tại sao cô gái lại nhẩy xuống xe, và cô ấy nhẩy xuống từ khi nào ???

Trong cái bối cảnh Miền Bắc đang xây dựng CNXH và lại vào giai đoạn cam go của những ngày chiến tranh phá hoại, chiếc áo ấm là một tài sản không nhỏ. Dù chưa biết là có tìm lại được cô gái không, nhưng chàng trai ngay sáng hôm sau đã đạp xe tới địa chỉ ..*. phố Quan Thánh. Sau tiếng gọi cửa là một người đàn ông có dáng vẻ ưu phiền xuất hiện. Căn nhà văng tanh vì có lẽ cả gia đình đã đi sơ tán chỉ một mình ông ở lại trông nom nhà cửa.

Thưa bác, đây có phải là nhà ..*. không ạ?

Đúng rồi ! Tôi là Bố ..*. đây !

Bác cho cháu gặp ..*. được không ạ ?

Được rồi, mời anh vào đây!

Bước vào trong nhà, chàng trai như muồn té ngửa, trên bàn thờ ngay trước mặt là tấm hình cô gái ấy, vẫn khuôn mặt ấy, mái tóc ấy, vẫn nụ cười ấy... nhưng khói nhang đã làm hoen ố một góc khung kính của bức hình. Chàng trai đứng như trời trồng, rồi đột ngột ngồi phịch xuống chiếc ghế băng đẻ sát tường gần cửa.

Sau một hồi trấn tĩnh, chàng trai thuật lại câu chuyện hôm qua. Nét mặt người đàn ông trầm hẳn xuống, ông chậm dãi kể : Em..*. nó qua đời vì tai nạn xe khách tại đoạn đường mà anh kể gặp em nó đêm qua ấy cách đây đã hơn 2 năm, vào một buổi chiều hè khi nó lên Sơn Tây thăm bà con. Từ đó tới nay thỉnh thoảng lại có bạn bè nó qua thắp cho nó nén nhang, nên lúc đầu tôi cũng tưởng anh là một người bạn của em nó, còn sự thể như thế này thì...

Chàng trai tiến tới bàn thờ, thắp cho cô gái 3 nén nhang rồi vội vã ra về !:MatCuoi (42):

Câu chuyện với chàng trai như một kỷ niệm ghê rợn đáng nhớ suốt đời . Không biết chàng trai ấy có biết tiếp một chi tiết quan trọng tiếp theo không mà cũng không kém phần ghê rợn hơn !

Đó là vào tháng 4 năm sau, khi ra thăm mộ cô gái, gia đình cô đã thấy 1 tấm áo chấn thủ đã bị mưa nắng làm rách nát nằm ngập dưới gốc cây Dao trên mộ cô !!!

Nhà Bà tôi ở phố Nguyễn Biểu, nên câu chuyện này được các cô, cậu nhà tôi kể cho từ hồi còn rất nhỏ, vì tại đó câu chuyện này một thời làm mọi người đồn đại mãi. Hôm trước, tôi sực nhớ ra và gặp một cô của tôi, yêu cầu cô kể thật chi tiết để ghi lại cho các bạn đọc ở đây như một trong nhưng câu chuyện ly kỳ mà tôi đã từng được nghe và cùng chia sẻ

Yêu Nữ

Hắn đứng chân trần trên cát, dưới ánh nắng nóng bức và mùi tanh nồng của hải cảng, dưới tấm bạt mỏng của một quầy cà phê nhỏ. Chiếc quần màu hung cũ mèm của hắn ngắn tới chỗ mắt cá chân, hai bàn chân hắn dài chai sạm và nứt nẻ, những ngón tay mềm mại trước đây giờ đã thô ráp như đá.

Chiếc sơ-mi hắn mặc có màu xanh nhạt hài hoà với sắc trời bạc phếch trong nắng hè chói chang. Hắn đưa cánh tay phải ra một cách ương ngạnh và khó chụ, như muốn yêu cầu khách tới thăm các viện bảo tàng phải bố thí mới được chiêm ngưỡng. Những tiếng lắp bắp ngô nghê bật ra từ cái miệng mở to, để lộ hai hàm răng trắng loá của hắn.

Gã câm điếc à?

Gã không điếc đâu.

Jean Demetriadis, chủ nhân của các xưởng sản xuất xà phòng lớn trên đảo, lợi dụng lúc hắn đang lơ đãng nhìn về phía biển, thả một đồng drachme (tiền Hi Lạp cổ) xuống nền quán trơn nhẵn. Tiếng leng keng rất khẽ và gần như tắt ngay do lớp cát mịn vương trên nền quán vẫn chui vào đôi tai của gã hành khất. Hắn nhặt vội đồng bạc kim loại trắng rồi lập tức đứng lại như cũ, trầm tư và buồn rầu, như con hải âu đậu trên bến cảng.

Gã không điếc đâu - Jean Demetriadis lập lại rồi đặt xuống trước mặt mình một ly nước bã nhớt và đen đã uống gần một nửa. Gã hành khất Panegyotis này đã bị câm lúc mười tám tuổi vì đã gặp lũ ma Nerayder.

Một nụ cười mỉm hiện trên đôi môi Panegyotis khi hắn nghe nhắc đến tên mình. Hắn tỏ ra không hiểu ý nghĩa lời nói của người kia, người mà hắn lờ mờ nhận là người bảo trợ của mình, nhưng hắn chỉ cảm nhận được qua giọng nói, chứ không phải ngôn từ. Hài lòng vì biết người ta đang nói về mình hắn càng hy vọng được thêm một lần bố thí nữa nên lặng lẽ chìa tay ra phía trước, giống như vẻ sợ sệt của con chó khi nó khẽ chạm chân vào gối ông chủ để nhắc ông ta đừng quên cho nó ăn.

Hắn là con trai của một trong những gia đình nông dân khá giả nhất làng tôi - Jean Demetriadis nói tiếp - họ là những người giàu thực sự. Cha mẹ hắn có những cánh đồng mênh mông, một ngôi nhà lỗng lẫy bằng đá khối, một vườn cây ăn trái xum xuê, một vườn rau xanh tốt, một chiếc đồng hồ báo thức đặt trong bếp, một ngọn đèn cháy sáng suốt ngày đêm trước bức tường treo đầy ảnh thánh, nghĩa là họ có đủ thứ cần thiết. Người ta có thể nói về Panegyotis là, trước mặt hắn lúc nào cũng có ổ bánh mì nóng giòn cho đến trọn đời. Đối với hắn con đường đã mở sẵn ở phía trước dù là con đường Hi Lạp bụi cát, gập gềnh sỏi đá, nhưng vẫn có tiếng chim hót véo von. Hắn đã hứa hôn với con gái của vị bác sĩ thú y, một cô bé ngoan làm việc trong xưởng của tôi; vì hắn rất đẹp trai nên có hàng đống nhân tình ở cái xứ sở đầy những cô gái thèm khát yêu đương này; người ta còn đồn rằng hắn đã vụng trộm với vợ của ông linh mục; mà nếu như điều đó có thật thì ông linh mục cũng chẳng trách hắn vì ông vốn không mấy yêu phụ nữ và cũng chẳng quan tâm gì đến vợ mình, vả lại cô nàng luôn tỏ ra sẵn sàng với bất kỳ ai. Các vị thử hình dung hạnh phúc của thằng Panegyotis xem: nào là tình yêu của những người đẹp, sự ghen tỵ của bọn đàn ông và đôi khi cả sự thèm khát của họ nữa, nào là chiếc đồng hồ bạc và hàng ngày lại thay một chiếc sơ mi trắng tinh, nào là đĩa cơm chiên thịt vào bữa trưa và nước màu xanh lam ngát hương xức trước bữa ăn tối. Nhưng hạnh phúc vốn thật mong manh: khi nó không bị con người hay hoàn cảnh phá huỷ thì lại bị những bóng ma đe doạ. Có thể quý vị còn chưa biết hòn đảo của chúng tôi vốn lắm chuyện bí ẩn. Ma ở đây không giống với lũ ma quỷ phương Bắc của quý vị, nghĩa là chỉ xuất hiện lúc nửa đêm và ban ngày sống ở nghĩa địa đâu. Bọn ma ở đây không thèm khoát tấm choàng trắng và chúng thì có da thịt hẳn hoi. Nhưng chúng nguy hiểm hơn cả những hồn ma người chết, những người ít ra đã từng biết sống, biết đau khổ là thế nào. Những con ma Nereyder ở nơi này vừa trong trắng lại vừa xấu xa, khi thì bảo vệ lúc thì phá huỷ con người. Những vị thần đã chết từ lâu và các bảo tàng chỉ còn giữ lại những cái xác bằng cẩm thạch của họ. Rồi, một buổi sáng tháng Bảy, hai con cừu của cha Panagyotis giở chứng quay cuồng. Nạn dịch lan rất nhanh trong đàn thú và mảnh sân đất nện trước nhà chẳng bao lâu đã biến thành nơi cách ly bầy gia súc bị bệnh. Ngay giữa trưa nóng bỏng Panegyotis một mình đi tìm vị bác sĩ thú y ở bên kia sườn núi Xanh Êli, trong một làng nhỏ cạnh bờ biển. Đến chiều tối hắn vẫn chưa về. Cha Panegyotis rất lo cho hắn; người ta đã sục sạo khắp làng và các thung lũng lân cận, nhưng đều vô ích; suốt đêm đám phụ nữ cầu nguyện tại ngôi nhà thờ trong làng, nơi chỉ là một kho chứa cỏ được thắp sáng bằng vài chục ngọn nến. Tối hôm sau, vào giờ nghỉ, cánh đàn ông ngồi bên bàn ở sân làng trước một ly cà phê, một cốc nước và một thìa mứt, thì thấy hắn, một gã Panegyotis khác lạ, thay đổi tới mức như vừa từ cõi chết trở về. Đôi mắt hắn lấp lánh như chỉ còn tròng trắng, hai tháng sốt rét cũng không thể làm cho hắn vàng khè như thế. Một nụ cười làm méo xệch cặp môi của hắn khiến cho lời nói không thoát ra được. Tuy nhiên, hắn vẫn chưa bị câm hoàn toàn. Những tiếng ngắc ngứ bật ra khỏi miệng hắn như tiếng của một nguồn nước sắp tắt.

Ma Nereyder... Các cô... Nereyder... đẹp lắm... Trần truồng... Người tóc vàng... Tóc vàng.

Đó là những lời duy nhất mà người ta có thể nghe hắn nói. Nhiều lần, trong những ngày tiếp theo, người ta thấy hắn vẫn còn lẩm bẩm một mình: "Tóc vàng... Người tóc vàng..." cứ như hắn đang vuốt ve một tấm lụa. Rồi sau đó lịm tắt. Mắt hắn không còn lấp lánh nữa, cái nhìn trở nên xa vắng và bất động một cách lạ lùng; hắn chiêm ngưỡng mặt trời không chớp mắt; có lẽ hắn đã tìm thấy khoái cảm khi quan sát vầng thái dương vàng chói ấy. Tôi có mặt ở làng trong mấy tuần đầu tiên phát bệnh của hắn: không sốt, cũng chẳng có một triệu chứng gì là cảm nắng hay lên cơn. Cha mẹ hắn đưa hắn đến một tu viện nổi tiếng ở gần đấy để trừ tà; hắn ngoan ngoãn, để mặc người ta muốn làm gì thì làm, nhưng từ lễ tế ở nhà thờ, thuật xông khói hương lẫn những ma thuật của các mụ phù thuỷ trong làng đều không thể tống ra khỏi hắn những nữ thần điên rồ xinh đẹp. Rồi cuộc sống hắn cứ tuần tự trôi đi; hàng ngày hắn vẫn kiên nhẫn tới nơi các nơi ma nữ hiện hình: ở đó có một nguồn nước mà đôi khi những người đánh cá ghé lại lấy nước ngọt, một thung lũng sâu và một nương cây vả, nơi bắt đầu một con đường chạy xuống biển. Người ta nghĩ rằng sẽ thấy trong lớp cỏ gầy những dấu chân phụ nữ, những chỗ cỏ rạp xuống do thân người đè lên. Họ hình dung ra cảnh cậu con trai làng bị tiếng cười nói của phụ nữ đánh động, như người đi săn chợt nghe thấy tiếng vỗ cánh; những cô gái xinh đẹp nâng cánh tay ngà lấm tấm lớp lông tơ vàng ươm chắn ngang ánh mặt trời; bóng lá thấp thoáng trên khuôn ngực trần, cặp vú trắng với đôi núm đỏ hồng chứ không phải màu xanh tím; rồi Panegyotis hôn ngấu nghiến vào tóc họ, hắn có cảm tưởng như đang nhấm nháp mật ong và rạo rực ham muốn khoái lạc. Loài ma Nereyder đã dâng tặng chàng thanh niên cuồng si một thế giới đàn bà khác hẳn với những cô gái trên đảo, và khác biệt với những con vật cái. Các nường đã cho hắn cái mơn man mới lạ, sự mệt mỏi diệu kỳ và lấp lánh hạnh phúc. Người ta đồn rằng hắn vẫn không ngừng gặp các nường vào những trưa nóng nực, lúc những con quỷ đẹp mê hồn ấy lang thang tìm tình yêu: và dường như hắn đã mê tới mức quên cả mặt vị hôn thê, mà mỗi lần gặp nàng hắn đều quay mặt như tránh một con khỉ đột; hắn khạc nhổ khi vợ ông linh mục đi qua khiến bà phải khóc suốt vài tháng mới bình tâm lại. Lũ ma ấy đã làm hắn mụ mẫm đi rồi lôi hắn vào vòng xoáy trò chơi của chúng. Rồi hắn không làm việc nữa; hắn cũng không bận tâm đến thời gian; hắn trở thành kẻ hành khất để có thể ăn bất cứ khi nào hắn đói. Hắn lang thang trên đảo, cố tránh những con đường lớn; hắn chui vào trong nương rẫy và rừng thông ẩm thấp; Người ta bảo rằng một bông hoa nhài cài trên vách đá khô hoặc một viên sỏi trắng đặt dưới gốc cây trắc bá đều là mật hiệu mà hắn có thể giải mã ra thời gian và địa điểm của lần hẹn hò sắp tới với lũ ma xinh đẹp. Những người nông dân cũng kháo nhau rằng hắn không hề già đi; họ khó lòng đoán được hắn đang ở tuổi mười tám hay bốn mươi. Nhưng đầu gối hắn đã run, và hồn phách hắn đã ra đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại và cả tiếng nói nữa, cũng sẽ không bao giờ xuất hiện trên đôi môi hắn.

Nhưng mà này, Jean, vợ Demetriadis nói một cách bực dọc, ông có cho rằng Panegyotis đã thực sự thấy con ma Nereyder không?

Jean Demetriadis không đáp, ông ta đang bận nhổm người trên ghế để đáp lại lời chào kiêu hãnh của ba cô gái nước ngoài đang đi qua. Ba cô gái Mỹ mặc y phục trắng nhún nhẩy đi trên bến cảng ngập nắng, theo sau là một ông phu khuân vác già gập lưng dưới sức nặng của chiếc bao tải thực phẩm mà các nàng vừa mua ở chợ; giống như những cô bé vừa tan trường, họ nắm tay nhau bước đi. Một cô trong số họ để đầu trần, có mấy cành sim nhỏ gài lên mái tóc hung, còn cô thứ hai đội chiếc mũ rơm rộng vành kiểu Mêhicô, và cô thứ ba đội một chiếc khăn bông, đeo kính râm to che gần kín mặt như một chiếc mặt nạ. Ba cô gái trẻ này muốn định cư ở đảo, họ đã mua một ngôi nhà cách xa đường cái: ban đêm họ dùng đinh ba bắt cá ngay trên con thuyền riêng của họ và vào mùa thu họ đi săn chim cút. Họ không giao du với ai và tự lo liệu lấy cuộc sống; họ sống cách biệt hẳn để tránh những lời dèm pha mà có lẽ họ còn khó chịu hơn cả những điều vu khống. Tôi thử quan sát xem Panegyotis có ném cái nhìn theo mấy cô gái không, nhưng vô ích; đôi mắt hắn lơ đãng, trống vắng và không một chút loé sáng: rõ ràng hắn không thừa nhận những con ma Nereyder của hắn mặc quần áo đàn bà. Đột nhiên, hắn cúi xuống nhanh nhẹn nhặt một đồng drachme mà chúng tôi vừa ném xuống, và tôi nhận thấy có một vật duy nhất trên lớp lông thô của chiếc áo thuỷ thủ mà hắn khoác hờ hững trên vai, một bằng chứng không thể chối cãi được: đó là một sợi tơ, một sợi tơ mảnh của mái tóc vàng óng đàn bà.

Chuyện ma ám ở làng Hà Vỹ Hà Tây

Gần tháng nay, người dân làng Hà Vỹ, xã Lê Lợi, Thường Tín, Hà Tây sống trong cảnh hoảng loạn, sợ hãi vì tin đồn trong làng có ma. Hầu hết giả trẻ, trai gái cứ sau 8h tối là đóng chặt cửa không dám ra khỏi nhà. Liên tiếp những vụ việc kì quặc xảy ra chỉ trong vài tuần lễ càng khiến cho những người dân nơi này tin rằng lời đồn đại là có thật

KỲ I: ĐÊM MA QUÁI

10h tối. Đèn đường phụt tắt. Làng Hà Vỹ chìm trong bóng đêm. Cảnh vật tĩnh lặng lạ thường, chỉ có tiếng bìm bịp và bầy chó hoang bất chợt lại tru lên từng hồi. Bỗng “Á á ah..”, giọng một người đàn ông la lên thất thanh từ phía cuối thôn. Sau đó là tiếng chân người nện thình thịch trên mặt đất…

Tất cả những nhà dân quanh khu vực đó đồng loạt tắt điện. Bầu không khí u ám, rờn rợn bao phủ lên toàn bộ ngôi làng. Anh Quách Văn Toàn, một người dân có nhà ở gần chợ gà đầu thôn vác đèn pin bước nhanh ra khỏi cửa. 5 phút sau anh Toàn trở về thì thào: “Bên ngoài có gì đâu. Chắc lại mấy thằng thanh niên làng bên sang đây chơi rồi giở trò dọa dẫm đấy…”.

Nói thế nhưng gương mặt anh Toàn cũng không giấu nổi vẻ sợ hãi. Gần một tháng nay, cả nhà anh không dám đi chợ đêm bán gà như thường lệ nữa mà cứ phải ngồi nhà để chờ người ta đến mua hàng. Lí do nghe có vẻ hơi buồn cười. Vợ chồng anh Toàn… sợ ma.

Tuy nhiên, không chỉ vợ chồng anh Toàn mà hầu hết dân làng Hà Vỹ đều lâm vào hoàn cảnh như vậy. Mọi việc bắt đầu từ lời “tiên đoán” của một vị thầy bói có tên là Liên ở thôn Mỹ Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương.

Thầy Liên bảo, cái làng này có ngôi mộ do một gia đình mang từ nơi khác về chôn trộm cách cửa đền Hà Vỹ khoảng 300m. Hiện tại, ngôi mộ đó đang bị loạn âm dương. Vì thế, trong làng sẽ có nhiều người phải đền mạng. Tuy nhiên, nếu ai cố tình đụng vào ngôi mộ đó hoặc đào xới di chuyển hài cốt đi chỗ khác thì chính bản thân người đó sẽ phải chịu tội đầu tiên.

Những người dân Hà Vỹ lúc đầu còn bán tín bán nghi nhưng càng về sau thì lại càng tin vào lời phán của vị thầy bói. Nguyên nhân vì thầy Liên ở tận Hải Dương nhưng lại nắm chi tiết, rành mạch về mọi vấn đề đang xảy ra trong làng. Đối chiếu lời thầy với thực tế, dân làng Hà Vỹ ngờ vực ngôi mộ mà thầy bói nói chính là mộ phần của gia đình bà Hồ Thị Khuyên, người xóm 1.

Bà Hồ Thị Khuyên quê gốc ở xã Thống Nhất, huyện Thường Tín, Hà Tây. Bà lấy chồng người Hà Vỹ và về làng này sinh sống từ vài chục năm trước. Tuy nhiên, cách đây hơn 10 năm, bà Khuyên có đem hài cốt của bố đẻ về chôn tại quê chồng. Người dân trong làng kháo nhau, cái mả này khi còn chôn bên xã Thống Nhất đã hại chết không biết bao nhiêu là người vì thế, dứt khoát không thể đem mộ phần đó đặt tại Hà Vỹ được.

Chẳng ai biết đích xác vị trí ngôi mộ của gia đình bà Khuyên ở chỗ nào mà chỉ nghe loáng thoáng vợ chồng bà đem chôn trộm vào ban đêm cạnh một con mương dẫn thẳng vào khu đền trong làng. Đã từng có một thời gian, người ta hò nhau đào bới, xới tung những khu vực đáng nghi ngờ nhưng đào mãi cũng chẳng thấy mộ hay hài cốt đâu cả.

Thậm chí, để bảo vệ “nhân mạng” cho làng, có người còn đi khắp nơi rước các vị “pháp sư” cao tay về để trừ ma diệt quỷ. Tuy nhiên, nỗi ám ảnh “cái họa tà ma quấy rối” vẫn cứ khiến người dân Hà Vỹ ăn không ngon ngủ không yên. Đặc biệt, những câu chuyện thần thánh được thêu dệt càng khiến cuộc sống dân làng ngày càng trở nên bất ổn.

Cụ Mơ bán nước gần cửa đền Hà Vỹ tâm sự: “Khoảng 12h đêm mồng 5 Tết, tôi lần mò ra ngoài vườn để đi vệ sinh bỗng nhiên trông thấy một bóng trắng thấp thoáng sau rặng tre đầu ngõ. Lúc đầu tôi cứ tưởng là ai đó mặc áo trắng đi lại ngoài đường. Tuy nhiên, cái bóng đó từ từ tiến dần lại phía tôi và đến khi chỉ cách tôi chừng chục mét thì tự dưng biến mất. Khi ấy, tôi mới hoảng hồn la ầm lên và bỏ chạy vào trong nhà”.

Câu chuyện của cụ Mơ kể ban đầu khiến nhiều người không tin vì một bà cụ gần 70 tuổi mắt mũi kèm nhèm thì rất có thể sẽ nhìn gà hóa cuốc. Nhưng chỉ vài ngày sau, tin đồn lại được thổi bùng lên do có rất nhiều người dân cho rằng chính mắt họ cũng nhìn thấy ma.

Chị Quách Thị Yến, chủ cửa hàng bán gà trong làng kể, đêm mồng 8 Tết, chị đem gà lên Hà Nội để bán tại chợ Long Biên. Tuy nhiên, khi vừa đi khỏi nhà chừng 1km thì xe chị Yến đâm phải ổ gà trên đường làng. Mất tay lái, chị Yến loạng choạng và ngã nhào xuống đất. Vừa lồm cồm bò dậy thì chị trông thấy có bóng người phía trước đang rảo bước rất nhanh. Tưởng là người trong làng chị Yến cất tiếng gọi nhưng người đó chỉ cười và bỏ đi. Lúc đó vào khoảng 3h sáng…

Sau hôm ấy, gia đình chị Yến không dám đi chợ gà ban đêm nữa. Những hộ kinh doanh gà trong làng cũng đóng chặt cửa và chỉ dám mở hàng sau 6h sáng. Thậm chí, có nhiều nhà dân còn sợ hãi đến mức phải mua tỏi về treo trước cửa để đuổi tà ma.

Giáo viên cấp I trong làng phản ánh: Học sinh cấp đi học ngoài cuốn vở cây bút, trong cặp và túi quần túi áo toàn…tỏi. (?!) Vào thời điểm “nóng” nhất, dân trong làng kéo nhau sang chỗ ông Liên xem bói có tới hơn trăm người. Mà phải ăn ở hàng tuần chờ đợi tại đó mới đến lượt được xem”.

Gia đình anh Quách Văn Toàn không dám cho con cái mình đi chơi tối. Ngay cả bản thân anh Toàn từ 10 ngày nay cũng bỏ bê toàn bộ công việc kinh doanh hàng ngày. Anh Toàn than thở: “Làng Hà Vỹ từ xưa đến nay không sợ trộm cắp, không sợ ma túy, không sợ bệnh dịch… thế mà lại sợ ma”. Những tưởng tin đồn ma quỷ chỉ tồn tại một thời gian ngắn nhưng bỗng dưng một loạt cái chết kì lạ xảy ra càng khiến dân Hà Vỹ nhốn nháo và náo loạn hơn…

Hồn Ma Trong Biệt Thự

Tân, một người bạn học cũ của Khôi, mời Khôi tới toà biệt thự tráng lệ của Tân tại Đà Lạt nghỉ ngơi trong dịp cuối tuần. Tại đây, Khôi gặp một số bè bạn của Tân và hình như có một cái gì rất bất thường đang xẩy ra trong ngôi biệt thự khi mọi người thảo luận về hồn ma của một nữ tu.

Trong bữa ăn chiều, Khôi thấy mọi người đặc biệt theo dõi chàng và nói về chàng, hình như cho rằng chàng là đối tượng của một cái gì bí mật.

Và những gì xẩy ra sau đó theo lời kể lại của Khôi....

... Tới mười một giờ thì tất cả khách khứa của Tân đều về phòng hết, chỉ còn lại hai vợ chồng Tân và tôi ngồi trong phòng khách. Vợ Tân nói chuyện về mấy người hàng xóm trước khi che miệng ngáp dài và xin phép về phòng trước. Rõ rệt nàng cảm thấy hài lòng khi rời khỏi phòng khách.

Không hiểu tại sao tôi có ý nghĩ rằng hình như mọi việc tại đây không được bình thường và chợt cảm thấy hối hận khi đã bỏ̉ bao nhiêu công việc tại Sài Gòn, lên đây theo lời mời của vợ chồng Tân để không làm gì hết!

Vợ Tân đi rồi, Tân không nói nhiều lắm mà dường như chỉ cố tìm cách nói về việc căn biệt thự của anh bị ma ám. Bắt mạch được việc này, tôi hỏi ngay:

- Có phải ông muốn nói rằng căn biệt thự của ông có ma phải không?

Vừa dứt lời, tôi nhận thấy ngay một nét kinh hoàng thoáng hiện trên mặt người bạn cũ. Tôi bèn bảo Tân:

- Thôi được! Ông không muốn nói thì thôi, tôi đi ngủ để sáng mai còn dậy sớm.

Không nói một lời, Tân đứng dậy bước lên lầu. Tôi đi theo anh.

Đi hết dẫy hành lang tới trước cửa phòng ngủ của tôi, Tân dừng lại, hỏi tôi bằng một giọng run run:

- Nếu gặp ma ông có dám nói chuyện với nó như ông từng tuyên bố trong bữa ăn chiều hay không?

Trong bữa ăn chiều, khi thảo luận về hồn ma của một nữ tu, một người bạn của Tân hỏi tôi:

- Nghe Tân nói rằng ông là người cứng bóng vía, không tin những chuyện ma quỉ. Nhưng... nếu gặp ma, ông có dám nói chuyện với nó hay không?

Tôi mỉm cười từ tốn đáp lời người bạn mới:

- Nếu đã không có ma thì ma ở đâu cho tôi gặp! Còn chuyện gặp gỡ chuyện trò thì tôi sẵn sàng trò chuyện với bất cứ ai.

Bây giờ nghe câu hỏi của Tân, tôi không trả lời. Tân đứng im khoảng một phút trước khi chúc tôi “bonne nuit” rồi quay đi. Khi tới cửa phòng ngủ của anh, Tân quay lại nhìn tôi:

- Nếu cần gì, ông cứ gọi tôi.

Rồi Tân đóng cửa.

Tôi bước vào phòng, thay đồ ngủ, bật ngọn đèn nhỏ ở đầu giường, đọc một hai tờ báo. Chưa đầy nửa tiếng mắt tôi đã díu lại, tôi tắt đèn và ngủ ngay lập tức.

Khoảng nửa đêm tôi thức giấc. Bên ngoài trời lặng gió. Bên trong căn biệt thự nguy nga của Tân cũng im lìm.

Đột nhiên một tiếng cú gào lên khiến tôi rợn tóc gáy. Tôi không ngủ được nữa và quyết định đọc báo cho tới khi gục.

Tôi mò tìm quả nắm ở đầu giường và nhấn nút. Áng sáng đột ngột tỏa ra khiến tôi chói mắt. Tôi cầm tờ báo lên toan đọc, nhưng không hiểu tại sao tôi lại liếc nhìn xuống phía chân giường.

Tôi không thể nào tả lại được cho bạn nghe những gì xẩy ra cũng như không thể diễn tả được những gì tôi cảm thấy lúc đó. Tôi chỉ nhớ rằng tim tôi như ngưng đập, cổ tôi khô cứng, và bị thúc đẩy bởi sự kinh hoàng, tôi ngồi bật dậy, co rút ở đầu giường.

Có lẽ hành động bất chợt đó khiến tim tôi đập lại và mồ hôi của tôi vã ra như tắm. Tôi không phải là người tin tưởng ở bất kỳ tôn giáo nào và tôi không bao giờ tin là có ma. Nhưng tôi còn nhớ rõ trong giây phút đó, định kiến của tôi hầu như thay đổi hoàn toàn, vì ở phía chân giường, một hình người quấn những mảnh vải liệm tả tơi trắng xóa từ đầu đến chân đang đứng nhìn chòng chọc vào mặt tôi. Cái đầu, chỉ còn cái sọ với hai lỗ mắt đen ngòm, sâu hoắm, đang nhìn thẳng vào mặt tôi. Ngoại trừ hai bàn tay xương xẩu đang chờn vờn, có vẻ như muốn chụp lấy tôi, cái sọ người và toàn thân hồn ma hoàn toàn bất động.

Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt của cái sọ người và đôi mắt sâu hoắm cũng trừng trừng nhìn tôi, hai hàm răng trắng nhởn nhe ra mà tôi không biết là cười hay dọa.

Tôi vẫn cầm quả nắm trong tay. Ý tưởng tắt đèn vụt đến nhưng tôi không dám, sợ trong bóng tối lỡ hồn ma nhào tới vuốt nhẹ vào mặt tôi một cái thì chắc là tôi chết ngay tại chỗ quá. Quá căng thẳng tôi nhắm mắt lại, nhưng lai vội vã mở ra ngay.

Hồn ma vẫn ở đó. Tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực và mồ hôi khiến tôi run lên vì lạnh. Đầu óc tôi hoàn toàn tê liệt trong hai mươi giây hoặc hai mươi phút, tôi không biết.

Đột nhiên tôi nhớ tới cảnh các bạn bè của Tân nói về chuyện hồn ma người nữ tu và những đôi mắt nhìn tôi xoi mói. Tôi cũng nhớ câu nói của Tân “nếu gặp ma ông có dám nói chuyện với nó như ông từng tuyên bố trong bữa ăn chiều hay không?”. Đầu óc tôi chợt loé lên một tia sáng: “Tụi nó dám dàn cảnh phá mình lắm à!”. Chỉ nghĩ tới đó, mặt tôi chợt nóng bừng, tim tôi đập huỳnh hụÿch, không phải vì sợ mà vì giận. Hừ! Nếu tụi nó muốn chọc phá tôi, tôi phải cho bọn chúng một bài học mới được!”.

Vừa nghĩ xong, tôi lao vụt về phía chân giường, thẳng tay đấm thật mạnh vào “hồn ma”. Cú đấm của tôi khiến bộ xương bật ngửa ra đất và tay tôi, không hiểu đấm trúng vào chỗ nào, máu chảy đầm đìa.

Chỗ tay bị cắt khiến tôi giận điên lên, phóng xuống giường, đứng nhìn bộ xương nằm bất động trên mặt đất. Rõ rệt đây là một trò bịp, có thể đã được dàn cảnh và “trình diễn” nhiều lần để Tân và lũ bạn có dịp giải trí hoặc đánh cá với nhau về phản ứng của các “nạn nhân” khi đối diện với hồn ma do chúng dựng lên.

Cơn giận khiến tôi không còn suy nghĩ gì hơn được nữa, Tôi cúi xuống chụp lấy tấm vải liệm giựt mạnh rồi xé tan xé nát khiến bụi bay mù mịt. Rồi tôi giở cái sọ lên giộng mạnh xuống sàn nhà trước khi giựt cái sọ bị nứt nẻ ra khỏi bộ xương, đập mạnh xuống đất mấy cái nữa khiến cái sọ bể thành nhiều mảnh. Chưa đã giận, tôi lượm hai cái xương cánh tay lên phang mạnh vào thành giường khiến chúng gẫy đôi. Liệng mấy khúc xương vụn vào một góc nhà, tôi tiếp tục thanh toán hai cái xương ống quyển. Những cái xương sườn bị tôi lượm từng cái lên, kéo ngăn bàn ra đút vào một nửa, khép ngăn bàn lại và... rắc rắc... Càng “làm việc” tôi càng hăng say và chẳng bao lâu cuộc “tàn phá” của tôi đã hoàn tất. Bây giờ trong phòng ngổn ngang những mả̉nh xương vụn, những khúc xương gẫy và một màn bụi mịt mù.

Lượm một mảnh xương sọ nằm sát chân lên, mảnh xương má bên trái, tôi xô cửa bước ra, huỳnh hụych tiến thẳng tới phòng ngủ của Tân. Tôi còn nhớ rõ như mới ngày hôm qua những giọt mồ hôi của tôi thi nhau rơi lã chã trên mặt hành lang.

Tới trước cửa phòng Tân tôi ngưng lại, giơ chân đá thật mạnh khiến cánh cửa bật tung ra.

Đèn trong phòng vẫn bật sáng tự lúc nào và tôi thấy Tân đang ngồi trên giường co rúm cả người lại, có lẽ vì kinh hoàng. Thấy tôi cầm miếng xương bước vào với vẻ giận dữ, mặt mày Tân tái ngắt, người anh run lẩy bẩy.

Tôi bắt đầu lên tiếng. Tôi không nhớ lúc đó tôi nói những gì mà chỉ biết đại khái là những lời giận dữ, sỉ vả Tân vì cái trò ma quái rẻ̉ tiền của anh, vì việc dàn cảnh để biến tôi thành một trò hề. Tôi không biết tôi đã nói trong bao lâu mà chỉ nhớ rằng lúc đó tôi chợt cảm thấy phục tài hùng biện của chính mình.

Với bàn tay máu còn đang nhỏ giọt, với mái tóc đẫm mồ hôi phủ xuống khuôn mặt giận dữ đến cực độ, lúc đó coi tôi chắc không giống ai. Trong khi đó, Tân thu mình ở đầu giường, có lẽ giống như tôi khi vừa nhìn thấy “hồn ma”. Anh ngồi run rẩy không nói được một lời tuy một hai lần tôi thấy anh liếm môi như toan lên tiếng. Hình như Tân đang bận suy nghĩ cái gì vì hai tay anh đưa lên đưa xuống, đôi môi anh thỉnh thoảng lại mấp máy nhưng không một âm thanh nào thoát ra.

Đột nhiên có tiếng chân chạy huỳnh hụych bên ngoài hành lang, rồi vợ Tân lao vào, mặt mày tái ngắt, run lẩy bẩy:

- Có chuyện gì đó? Trời ơi! Chắc nó lại hiện lên nữa phải không?

Thấy Tân đang ngồi co rúm, run rẩy trên đầu giường, nàng chạy tới ngồi sát bên chồng và cả hai cùng nhìn tôi chờ đợi.

Tôi cho nàng biết những gì xẩy ra trong phòng ngủ của tôi. Tôi nói rằng tôi đã làm hỏng việc dàn cảnh trò ma quái láo lếu của họ để biến tôi thành trò cười...

Trong khi tôi nói, Tân có vẻ ngơ ngác, làm như không hiểu tôi đang nói gì. Thấy thế, tôi bèn gằn giọng:

- Tôi đã đập nát món đồ chơi quái gở của ông bà thành hàng trăm mảnh rồi! Về Sài Gòn tôi sẽ cho tất cả bạn bè hay cái trò chơi hèn hạ này.

Rồi tôi ném miếng xương trên tay xuống sát cái chân giường gần chỗ hai vợ chồng Tân đang ngồi:

- Đó, hãy giữ lại món quà kỷ niệm trò chơi đốn mạt của ông bà đi!

Tân nhìn thấy mả̉nh xương, và trong một thoáng, anh khiến tôi sợ hãi. Anh la hét thất thanh như con heo bị thọc huyết. Anh la hét, la hét tới độ vợ anh, có lẽ vừa sợ hãi vừa kinh ngạc như tôi, ôm lấy anh vỗ về như vỗ về một đứa trẻ.

Rồi Tân xô vợ ra, bước xuống đất, vừa la hét vừa ngồi thụp xuống, run rẩy lượm mảnh xương dính đầy máu lên.

Khi anh đứng lên, tình hình chợt biến đổi, mở đầu cho sự hãi hùng thực sự đêm hôm đó.

Cầm mảnh xương trong tay, Tân đột nhiên nín bặt, có vẻ như đang lắng nghe một cái gì. Rồi anh lẩm bẩm “tới giờ rồi, tới giờ rồi...” trước khi té xuống, đập đầu vào cạnh giường chảy máu. Mảnh xương trong tay anh văng vào một góc phòng.

Không suy nghĩ, tôi bước tới nâng Tân dậy. Mặt mũi anh bơ phờ, hốc hác và đầy máu. Tuy nhiên anh vẫn lẩm bẩm: “Nghe kìa... nghe kìa...”. Vợ Tân và tôi nhìn nhau và lắng tai nghe.

Khoảng mười giây sau, tôi nghĩ rằng tôi nghe thấy một cái gì. Tôi không chắc lắm nhưng tôi không thể lầm được. Hình như có tiếng chân di chuyển thật êm, thật nhẹ ngoài hành lang. Rồi những bước chân nghe rõ hơn trên sàn gỗ, đang tiến về phía chúng tôi.

Tân bước tới chỗ vợ đang ngồi run rẩy trên giường mặt mày tái ngắt, kéo mặt vợ úp vào vai anh. Rồi Tân tắt đèn, kéo vợ xuống và cả hai nằm úp mặt lên một cái gối trên giường như cố tránh né hoặc không muốn nhìn thấy một cái gì.

Bây giờ chỉ còn lại mình tôi đối diện với cánh cửa mở toang và tiếng chân mỗi lúc một gần. Tôi đưa tay vỗ vai vợ Tân để tìm đồng minh nhưng người đàn bà không phản ứng. Sự sợ hãi, sự hèn nhát của họ có lẽ đã kéo tôi về phe với họ. Hai chân tôi tự nhiên khụyu xuống và tôi thấy mình cũng úp mặt xuống giường.

Cả ba chúng tôi nằm yên hầu như nín thở, lắng nghe.

Bây giờ tiếng chân đã dừng lại ngay trước cửa phòng. Tôi cố gắng ngước đầu lên nhưng thần kinh tôi hình như tê liệt khiến tôi không còn điều khiển nổi một phần thân thể của mình nữa!

Rồi chúng tôi nghe như có tiếng áo quần xào xạc, tiếng thở xì xì và biết rõ “nó” đã bước vào phòng. Tôi cố gắng ngóc đầu lên nhưng hình như bị một sức mạnh vô hình đè xuống. Tôi thầm sỉ vả sự hèn nhát của mình trong khi tai vẫn lắng nghe tiếng “nó” di chuyển trong phòng. Rồi những bước chân dừng lại ở góc phòng nơi có mảnh xương sọ mà Tân vừa đánh rơi.

Rồi tôi nghe thấy tiếng bước chân hòa lẫn những tiếng loạt xoạt tiến về phía cửa phòng, bước ra ngoài và từ từ đi xa.

Trong một phút sự can đảm đột nhiên trở lại, tôi đứng bật dậy lao mình ra cửa nhìn theo về cuối hành lang, nơi tôi nghĩ rằng tôi nhìn thấy một cái gì mờ nhạt mỗi lúc một xa. Rồi chỉ một giây sau, tất cả̉ hoàn toàn trống vắng!

Tôi thẫn thờ quay vào phòng nói với Tân:

- Ông bật đèn lên đi.

Ánh đèn vừa bật sáng, tôi nhận thấy ngay mảnh xương ở góc phòng đã biến mất và vợ Tân đang bất tỉnh. Tân hoàn toàn như kẻ mất hồn và phải mất tới gần mười phút tôi mới khiến vợ Tân tỉnh lại.

Trong khi Tân lẩm bẩm, mà tôi không hiểu anh muốn nói gì hoặc đang cầu nguyện, tôi chỉ nghe được một câu đáng nhớ khi Tân nói với tôi bằng giọng của kẻ mơ ngủ “Ông không nói chuyện với cô ta phải không?”.

Sau đó, ba chúng tôi ngồi bên nhau trên giường cho tới sáng. Thực ra vợ Tân đã ngủ̉ gục sau một hai tiếng đồng hồ. Trong giấc ngủ này chắc chắn nàng chỉ nằm mơ toàn ác mộng nên thỉnh thoảng lại run rẩy, giẫy giụa và la ú ớ khiến tôi phải đánh thức nàng dậy mấy lần. Tân thì hoàn toàn không nhờ cậy được gì khi anh ngồi yên lặng như một pho tượng không hồn, tuy có đôi ba lần anh nói với anh những gì tôi không nghe rõ.

Trong đời tôi, chưa bao giờ đêm dài đến thế! Thành thực mà nói, cứ mỗi phút trôi qua tôi lại cảm thấy thêm khổ sở nhưng không dám làm gì khác hơn là tiếp tục ngồi bó gối trên giường.

Hai biến cố khủng khiếp trong cùng một đêm - hồn ma ngồi dưới chân giường và những tiếng chân vô hình tiến vào phòng lượm mảnh xương rơi - khiến quan điểm vô thần của tôi hầu như hoàn toàn xụp đổ.

Trong khi ngồi co rúm trên giường, tôi không biết làm gì khác hơn là lấy khăn tay quấn chặt chỗ máu chảy.

Những tiếng gà gáy đầu tiên vọng lại từ phía xa xa chẳng khác gì những liều thuốc hồi sinh đối với chúng tôi. Và khi những tiếng chim ríu rít trên cành hòa lẫn với giữa những vạt sáng đầu tiên trong ngày, chúng tôi biết ngay sẽ phải làm gì.

Tuy nhiên cả ba chúng tôi vẫn ngồi bất động cho tới khi bác quản gia già bước vào. Tân lên tiếng với giọng khàn khàn mệt mỏi:

- Bác Tư, nói bà bếp chuẩn bị điểm tâm. Sáng nay tôi muốn ăn ở nhà.

Bác Tư là quản gia trung thành của vợ chồng Tân và chắc chắn bác sẽ không hở môi với bất cứ ai về cảnh tượng lạ lùng mà bác nhìn thấy.

Bác Tư đi rồi nhưng sự xuất hiện của bác khiến chúng tôi sực tỉnh. Tôi nói với Tân là tôi phải về phòng.

Tuy nói như vậy nhưng thực ra tôi chỉ muốn bước ra phòng khách ngồi chờ tới khi trời sáng hẳn chứ không đủ can đảm trở về phòng ngủ̉ dù rất muốn biết bộ xương bị tôi đập nát có còn ở đó hay không, vì tôi mường tượng một sự liên hệ nào đó giữa bộ xương bị tôi đập nát và những bước chân vô hình trong phòng ngủ̉ của Tân.

Tưởng tôi nói thật, Tân có vẻ ngại ngùng nhưng cũng bước xuống giường, nói là anh sẽ đi với tôi. Vợ Tân đồng ý ở lại trong phòng sau khi yêu cầu Tân kéo hết màn cửa ra và đừng đóng cửa ra vào.

Khi tôi và Tân bước ra khỏi phòng thì trời đã sáng hẳn khiến chúng tôi thêm hăng hái.

Tới trước cửa phòng ngủ của tôi, hai đứa chúng tôi hơi ngần ngại trước khi bước vào. Trong phòng vẫn hơi mờ mờ vì mành cửa sổ được buông xuống vào buổi tối trước khi tôi đi ngủ.

Không ai bảo ai, tôi và Tân chia nhau bước tới hai cánh cửa sổ, kéo màn cửa lên.

Ánh sáng dịu dàng của buổi ban mai rọi sáng căn phòng. Tôi nhìn quanh phòng nhưng không thấy một mảnh xương nào hết! Căn phòng vẫn ngăn nắp như khi tôi lên giường vào tối hôm trước, ngoại trừ cái mền nằm bừa bãi.

Một điều khác nữa là chúng tôi thấy rất rõ những vết máu nhiểu đầy phía chân giường, nơi tôi tung cú đấm vào hồn ma. Máu cũng dính đầy những ngăn kéo, nơi tôi bẻ gẫy những khúc xương, và trên mặt thảm, nơi tôi xé nát tấm vải liệm ra thành từng mảnh vụn và cũng là nơi tôi hăng say làm công việc tàn phá bộ xương!

Tôi quay nhìn Tân và thấy mặt anh lộ vẻ hãi hùng: Trên tay Tân là một mả̉nh vải trắng nhỏ tả tơi trông như một mảnh vải liệm bị xé nát.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#trananh