Câu 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

SỰ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

I. Kinh tế thị trường và sự cần thiết phát triển ở Việt Nam

1. Khái niệm

Kinh tế thị trường là sự phát triển cao hơn của kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà hình thái phổ biến là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi trên thị trường. Kinh tế thị trường là một nền kinh tế khách quan do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, trong đó toàn bộ quá trình từ sản xuất tới trao đổi, phân phối và tiêu dùng đều thực hiện thông qua thị trường.

Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường là các chủ thể tự do lựa chọn các hình thức sở hữu, phương thức sản xuất kinh doanh, ngành nghề mà luật pháp không cấm. Mọi hoạt động kinh tế đều diễn ra theo quy luật của nó, sản xuất và bán hàng hóa theo yêu cầu của thị trường, bán cái gì mà thị trường cần chứ không phải bán cái mà mình có, tiền tệ hóa các quan hệ kinh tế, các chủ thể được theo đuổi lợi ích chính đáng của mình.

2.Sự cần thiết của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường

Để tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó thì hệ thống kinh tế đều được tổ chức một cách hợp lí bằng nhiều cách khác nhau nhằm sản xuất ra hàng hóa. Việc sản xuất hàng hóa phải được tiến hành theo những phương pháp tốt nhất, phân phối hàng hóa sản xuất được sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội. Đó là vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế chỉ huy thì những vấn đề cơ bản đều do cơ quan Nhà nước quyết định, còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường.

Phát triển kinh tế thị trường là xu thế tất yếu của quá trình đổi mới kinh tế xã hội. Thực tế cho thấy, không có quốc gia nào trên thế giới có nền kinh tế thị trường phát triển lại không có sự điều hành của Nhà nước. Mỗi quốc gia có một chính sách quản lí và phát triển kinh tế đặc thù của quốc gia đó, nhưng xét đến cùng thì cũng không thoát khỏi quy luật chung là áp dụng các quy luật kinh tế và vận hành chúng một cách có hiệu quả vào sự phát triển của xã hội. Nó có vai trò điều tiết nền sản xuất hàng hóa một cách hợp lí rồi từ đó gây ảnh hưởng tới nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy, quy luật giá trị có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế thị trường của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc dân thông qua sự điều tiết đối với nền sản xuất hàng hóa.

II. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường

Tại Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4 năm 2001), lần đầu tiên mô hình Kinh tế thị trường định hướng XHCN được chính thức đưa vào văn kiện của Đảng: "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận dụng theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của nhà nước theo địnhhướng XHCN; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN" (3) .

Sự khẳng định mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN xác định rõ tính chất thị trường, tính chất nhiều thành phần, trong đó Nhà nước không những thực thi vai trò chính trị mang bản chất của XHCN mà còn là một thành phần kinh tế cùng với thành phần kinh tế tập thể tạo nền tảng của chế độ kinh tế mới. Đồng thời, cũng phân định kinh tế Nhà nước có nội hàm rộng lớn hơn so với doanh nghiệp nhà nước, phân định sở hữu, thành phần và hình thức tổ chức kinh doanh, phân định quyền sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước.

Với việc chính thức hóa các đặc điểm nêu trên đại hội đã đưa ra quan điểm mới về thành phần kinh tế Nhà nước: thứ nhất, dựa trên chế độ sở hữu của Nhà nước, thứ hai sở hữu Nhà nước có thể nằm trong tài sản của doanh nghiệp, có thể nằm dưới hình thức khác nhau như ngân sách Nhà nước, tài sản công... thứ ba, chỉ với toàn bộ sức mạnh của sở hữu Nhà nước hậu thuẫn cho chính sách kinh tế của Nhà nước, cho quản lí của Nhà nước, cho doanh nghiệp thì Nhà nước mới có thể định hướng và điểu tiết vĩ mô nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tức thực thi vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.

Áp dụng với nền kinh tế Việt Nam hiện nay Đảng và Nhà nước khẳng định. Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường vì vậy tồn tại quy luật giá trị là tất yếu và chỉ có học thuyết Mác mới đặt đúng địa vị quy luật giá trị trong cơ chế thị trường (chủ nghĩa Mac vạch rõ thực chất cơ chế thị trường là cơ chế phân phối tư bản, phân phối lợi nhuận để tìm kiếm lợi nhuận tối đa cho giai cấp tư bản).

Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa thế giới lớn mạnh, sự phân công quốc tế xã hội chủ nghĩa là điều kiện kinh tế quan trọng để phát triển kinh tế mỗi nước, chúng ta cần biết và có đầy đủ khả năng tham gia vào sự phân công quốc tế đó. Yêu cầu của sự tham gia này là phát huy thế mạnh của mỗi nước, bổ sung vào sự phát triển toàn diện của tất cả các nước.

Với nền kinh tế sản xuất nhỏ là chủ yếu, khi tham gia vào sự phân công quốc tế này những mâu thuẫn của sản xuất hàng hóa thêm gay gắt. Trong điều kiện hàng hóa có hạn chúng ta phải phân phối sao cho hợp lí nhu cầu hàng hóa tiêu dùng trong nước với nhu cầu hàng hóa xuất khẩu theo sự phân công quốc tế để đạt được cân đối tối ưu là một đòi hỏi khó khăn. Mặt khác, sự giao lưu tăng tiến do phân công quốc tế mà có, tạo ra những nhu cầu ngày càng đổi mới và đa dạng, vượt quá khả năng đáp ứng được của nền sản xuất trong nước về mặt giá trị phát sinh mâu thuẫn giá cả hàng hóa trong nước với hàng hóa các nước thành viên. Vấn đề cần giải quyết để phát triển sản xuất hàng hóa nước ta nhằm đáp ứng quan hệ phân công hợp tác quốc tế này là phải quy hoạch lại, sản xuất kế hoạch hóa chặt chẽ, tập trung những trọng điểm để tạo nguồn hàng tham gia vào sự phân công và giải quyết nhu cầu trong nước. Sự hợp tác về mặt kế hoạch do vậy có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển kinh tế ở nước ta: "Phát huy tác dụng của quy luật giá trị trong kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế tác động của các quy luật giá trị trong kinh tế không xã hội chủ nghĩa là yêu cầu của chính sách giá cả và quản lí thị trường ở nước ta trong thời kì quá độ".

III. Thực trạng vận dụng cũng như tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

Nền kinh tế nước ta đang từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn Xã hội chủ nghĩa, từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hóa. Quy luật giá trị gắn liền nền sản xuất hàng hóa đó còn hoạt động trên một phạm vi khá rộng và trong một thời gian dài. Vai trò và phạm vi hoạt động của nó biến đổi từng thời kì cùng với sự chuyển biến của quan hệ sản xuất, của lực lượng sản xuất với sự phát triển của phân công lao động xã hội. Vì vậy, trong khi xác nhận vai trò chủ đạo quy luật kinh tế XHCN, chúng ta cần nhận thức đúng quy luật giá trị, tự giác vận dụng quy luật giá trị và những phạm trù kinh tế gắn liền với quy luật đó như tiền tệ, giá cả, tín dụng, tài chính... để kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển, thúc đẩy nền kinh tế nước ta tiến nhanh trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Với quan điểm của Đảng và Nhà nước, thì các quy luật kinh tế được phép phát huy tác dụng của nó trong đó quy luật giá trị đóng vai trò quy luật kinh tế căn bản chi phối toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế. Vậy, quy luật giá trị có ảnh hưởng như thế nào đối với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, chúng ta đã vận dụng ra sao? Tìm hiều vềcác lĩnh vực sau sẽ hiểu rõ hơn.

1. Trong lĩnh vực sản xuất

Nền sản xuất Xã hội chủ nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà chịu sự chi phối của quy luật kinh tế cơ bản của Chủ nghĩa xã hội và quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, quy luật giá trị không phải không ảnh hưởng đến sản xuất. Những vật phẩm tiêu dùng cần thiết để bù vào sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất đều được sản xuất và tiêu thụ dưới hình thức hàng hóa và chịu sự tác động của quy luật giá trị. Trong những thành phần kinh tế khác nhau, tác động của quy luật giá trị có những điểm không giống nhau. Nhà nước ta đã chủ động vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực sản xuất. Vì thế các xí nghiệp của chúng ta không thể và không được bỏ qua quy luật giá trị..

Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là thực hiện sự trao đổi hàng hóa thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hóa. Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị - sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Cụ thể:

+ Xét ở tầm vi mô: mỗi cá nhân khi sản xuất các sản phẩm đều cố gắng làm cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội.

+ Xét ở tầm vĩ mô: mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết.

Do vậy, Nhà nước đưa ra các chính sách kinh tế để khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn. Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến máy móc, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai trò đào thải nó: loại bỏ những cái kém hiệu quả, kích thích các cá nhân, ngành doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả. Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trong đó đội ngũ lao động có tay nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Và cùng với nó, sự xã hội hóa, chuyên môn hóa lực lượng sản xuất cũng được phát triển. Đây là những vận dụng đúng đắn của Nhà nước ta.

Theo yêu cầu của quy luật giá trị thì trong sản xuất giá trị cá biệt của từng xí nghiệp phải phù hợp hoặc thấp hơn giá trị xã hội, do đó quy luật giá trị dùng làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong sản xuất kinh doanh. Các cấp quản lí kinh tế cũng như các ngành sản xuất, các đơn vị sản xuất ở cơ sở, khi đặt kế hoạch hay thực hiện kế hoạch kinh tế đều phải tính đến giá thành, quan hệ cung cầu đểđịnh khối lượng, kết cấu hàng hóa....

1.1.Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế

Việc chuyển từ chế độ tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì cùng với nó là việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát, bảo hộ trọng hoạt động sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp phải tự hạch toán, không bị ràng buộc quá đáng bởi các chỉ tiêu sản xuất mà Nhà nước đưa ra và phải tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với sản phẩm của mình, thực hiện sự phân đoạn thị trường đểxác định tấn công vào đâu? bằng những sản phẩm gì?

Mặt khác, cùng với xu hướng công khai tài chính doanh nghiệp để giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán, thúc đẩy hơn nữa tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của mình để có thể đứng vững khi bão táp của quá trình hội nhập. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là nói đến sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp trong nước, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa cá nhân trong nước với cá nhân trong nước, giữa cá nhân trong nước với cá nhân nước ngoài (cũng có thể coi đây là hệ quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất).

1.2. Sự bắt nhịp của Việt Nam trong nền kinh tế thị trường

Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến một hệ quả tất yếu là làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn. Vì trong cạnh tranh, mỗi người sẽ tìm được cho mình một con đường đi mới trong một lĩnh vực sản xuất, kinh doanh tạo nên sự sản xuất hiệu quả nhất. Các con đường đó sẽ vô vàn khác nhau, luôn tạo ra những lĩnh vực sản xuất mới. Và hơn nữa, cạnh tranh năng động sẽ làm cho sản phẩm hàng hóa đa dạng về mẫu mã, nhiều về số lượng, cao về chất lượng. Bởi vì, sự đào thải của quy luật giá trị sẽ ngày càng làm cho sản phẩm hoàn thiện hơn, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.

Sự năng động còn thể hiện ở sự phát triển nhiều thành phần kinh tế. Vì việc phát triển nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các thành phần kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng nội lực để sản xuất ra nhiều hàng hóa thu lợi nhuận cao (lợi nhuận siêu ngạch, lợi nhuận độc quyền) hay nâng cao trình độ sản xuất trong một ngành, một lĩnh vực nhất định.

1.3. Hội nhập quốc tế

Mục đích tìm kiếm lợi nhuận và siêu lợi nhuận được đặt lên hàng đầu trong quá trình kinh doanh.

Sự đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của nước ta.

Mỗi nước đều có những ưu thế, lợi thế riêng. Do thời gian và trình độ xuất phát điểm của nền kinh tế khác nhau nên khi nước này cần vốn thì nước kia lại thừa. Do tốc độ phát triển khác nhau nên khi nước này phát triển thì nước kia lại quá lạc hậu; do sự phân bố tài nguyên khác nhau nên nước này có điều kiện sản xuất cái này, nước kia có điều kiện sản xuất cái kia và tạo ra một lợi thế so sánh trên thương trường. Điều này thúc đẩy sự chuyên môn hóa, hợp tác hóa sản xuất để có thể chi phí sản xuất thấp và tuân theo sự điều tiết của quy luật giá trị, chi phí sản xuất thấp sẽ làm cho giá cả thấp, và do đó thắng trên thương trường.

Ngoài ra, khi quy luật giá trị tác động như vậy, sẽ có tác dụng giáo dục những cán bộ lãnh đạo kinh tế tiến hành sản xuất một cách hợp lí, và khiến họ tôn trọng kỉ luật. Nhờ đó mà học hỏi tính toán tiềm lực của sản xuất, tính toán một cách chính xác đến tình hình thực hiện của sản xuất, biết tìm ra những lực lượng dự trữ tiềm tàng giấu kín trong sản xuất.

Tuy nhiên, điều tai hại là các cán bộ lãnh đạo, các nhà chuyên môn về công tác kế hoạch, trừ số ít đều hiểu không thấu đáo tác dụng của quy luật giá trị, không nghiên cứu và không biết chú ý đến tác dụng của nó trong khi tính toán. Đó là nguyên nhân vì sao chính sách nước ta còn hay mơ hồ.

2. Trong lĩnh vực lưu thông

Phân phối và lưu thông trong xã hội chủ nghĩa có sự tác động khách quan của quy luật giá trị. Việc vận dụng quy luật trong lưu thông, phân phối được thể hiện ở những mặt sau:

2.1. Tạo lập giá cả

Hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung nhất là khâu hình thành giá cả. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị, cho nên khi xác định giá cả phải đảm bảo yêu cầu khách quan là lấy giá trị làm cơ sở, phản ánh đầy đủ những hao phí về vật tư và lao động để sản xuất hàng hóa. Giá cả phải bù đắp chi phí sản xuất hợp lí, tức là bù đắp giá thành sản xuất, đồng thời phải bảo đảm một mức lãi thích đáng để tái sản xuất mở rộng. Đó là nguyên tắc chung áp dụng phổ biến cho mọi quan hệ trao đổi, quan hệ giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau, cũng như Nhà nước với nông dân.

Giá cả là một phạm trù phức tạp, sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị là một tất yếu khách quan của nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta đã vận dụng quy luật giá trị vào những mục đích nhất định, đã phải tính đến những nhiệm vụ kinh tế, chính trị trước mắt và lâu dài, căn cứ vào nhiều quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.

2.2.Nguồn hàng trong lưu thông

Trong nền kinh tế XHCN, việc cung cấp hàng hóa cho thị trường được thực hiện một cách có kế hoạch. Đối với những mặt hàng có quan hệ lớn đến quốc kế dân sinh, nếu cung cầu không cân đối thì Nhà nước dùng biện pháp đẩy mạnh sản xuất, tăng cường thu mua, cung cấp theo định lượng, theo tiêu chuẩn mà không thay đổi giá cả. Chính thông qua hệ thống giá cả quy luật có ảnh hưởng nhất định đến việc lưu thông của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán sẽ hạ đẩy mạnh việc tiêu thụ và ngược lại. Do đó, mà Nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát giá trị, xoay quay giá trị để kích thích cải tiến kĩ thuật, tăng cường quản lí. Không những thế mà Nhà nước ta còn chủ động tách cả giá cả khỏi giá trị đối với từng loại hàng hóa trong từng thời kì nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh cung cầu và phân phối. Giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu dùng của xã hội.

Ví dụ, như là giá cả của sản phẩm công nghiệp nặng lại đặt thấp hơn giá trị để khuyến khích sự đầu tư phát triển áp dụng kĩ thuật vào sản xuất. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này ở nước ta không phải bao giờ cũng phát huy tác dụng tích cực, nhiều khi những chính sách này lại làm cho giá cả bất ổn, tạo điều kiện cho hàng hóa nước ngoài tràn vào nước ta do giá cảhợp lí hơn. Kinh tế thị trường tuân thủ nguyên tắc trao đổi ngang giá hàng hóa, theo đuổi hiệu quả phân phối tối ưu của các nguồn. Thước đo giá trị chú trọng hiệu quả kinh tế hình thành trongđiều kiện kinh tế thị trường, một khi được mở rộng, vận dụng vào lĩnh vực đời sống xã hội và quan hệ con người, không tránh khỏi sản sinh những quan niệm khác nhau gắn bó với đạo đức con người đó là chuẩn mực giá trị "coi trọng tình nghĩa, xem thường lợi ích" hay " coi trọng lợi ích, xem thường tình nghĩa". Do vậy, ở nước ta, phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN, phải chú ý đến sự chuyển đổi quan niệm giá trị xã hội sao cho phù hợp với đạo đức dân tộc truyền thống và hiện đại.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro