chap 2+3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 2

Với Tory, làm một nhiếp ảnh gia cũng giống như làm một nhà ảo thuật, chỉ có điều thú vị hơn. Phòng tối chính là chiếc mũ ảo thuật của cô, nơi phép màu được tạo ra, mặc dù cô không lôi ra thỏ hay chim bồ câu. Phép màu tới từ những bức ảnh cô đã chụp.

Khi quá trình tráng ảnh bắt đầu, những hình ảnh đầu tiên không hơn những bóng ma mờ ảo là mấy. Nhưng càng theo dõi thì chúng càng trở nên sống động đến mức cô gần như nghe được tiếng cười phát ra từ chúng. Đó chính là lúc cô biết được mình đã chộp đúng thời khắc. Nhưng không như các ảo thuật gia, những sáng tạo của cô không phải là ảo ảnh. Khi làm xong, cô sẽ được cầm trên tay một thứ có thật hẳn hoi.

Mỗi lần lấy một bức ảnh hoàn chỉnh ra khỏi chậu tráng rửa, cô sẽ chăm chú quan sát nó rồi treo nó lên một trong những cái dây giăng quanh phòng tối, bổ sung nó vào hàng chục bức ảnh đang được treo khô trên đầu.

Tory mải miết với công việc đến mức không hề nghe thấy tiếng Brett dừng lại bên ngoài phòng tối, và nếu có nghe thì cô cũng không dừng tay để đáp lại. Nếu có người hỏi cảm xúc của cô với Brett Hooker, cô sẽ không ngần ngại mà nói cô yêu anh. Nhưng nếu họ hỏi tại sao cô tiếp tục thoắt ẩn thoắt hiện trong đời anh, bất chấp cảm xúc của anh như thế, cô sẽ không thể cho họ một câu trả lời. Đến chính cô còn không biết tại sao. Tất cả những gì Tory biết là mối quan hệ của họ càng trở nên thân mật thì nỗi sợ hãi trong cô càng tăng lên.

Cô thả một tấm hình mới vào chậu thuốc tráng, nhìn hình ảnh mờ mờ bắt đầu xuất hiện, rồi càng lúc càng thích thú quan sát những cái bóng đậm dần lên cho đến khi tạo thành một bức ảnh hoàn chỉnh. Nó là hình chụp một đám đông trong hội chợ ở đâu đó vùng Midwest. Cô nhìn kỹ hơn nữa, nhận ra một vòng đu quay Ferris cũ trên nền cảnh, và nhận ra đây chính là bức ảnh mình chụp trong lúc đi theo lễ hội hoá trang của hãng giải trí Amherst.

Ánh mắt Tory trở lại với đám đông và những cảm xúc mà cô đã ghi lại được trên khuôn mặt mọi người. Niềm hưng phấn trào lên khi cô thả bức ảnh vào chậu thuốc định phim rồi đến thuốc hãm. Khi lướt nó qua chậu xả thuốc, sự háo hức của cô càng tăng lên. Cô gần như không chờ nổi tới lúc được xem kỹ bức ảnh trong điều kiện ánh sáng tốt hơn. Bản năng mách bảo Tory rằng đây sẽ là bức ảnh tốt nhất cô chụp được từ trước tới nay.

Từng bước một, cô hoàn tất quá trình tráng cuộn phim cuối cùng. Chỉ khi bắt đầu chùi rửa mọi thứ cô mới nhận ra lưng mình đang đau muốn chết và bụng thì réo ầm ĩ phản đối chuyện cô đã không ăn gì từ bốn giờ chiều qua.

Khi chuẩn bị ra ngoài, Tory liếc nhìn lại những bức ảnh đang treo trong phòng tối, chúng chính là bằng chứng cho sáu tuần cô rời khỏi đây. Với một tiếng thở dài mệt mỏi, cô tắt bóng đèn mờ và đóng cửa.

“Brett?”

Không có tiếng trả lời. Cô liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Đã gần trưa. Vai cô trĩu xuống. Anh đã đi hàng tiếng đồng hồ rồi, và cô thậm chí còn không kịp chào buổi sáng, chứ chưa nói đến chuyện tạm biệt anh.

Lang thang vào bếp, những ý nghĩ của Tory trở về với đêm qua, với cuộc làm tình, rồi cô lại nghĩ đến cơn giận bất ngờ của anh. Khi vươn ra lấy cốc, hai bàn tay cô run rẩy một cách kỳ lạ, nhưng cô quy chuyện đó cho cơn đói chứ không phải lo lắng. Thế nhưng, nếu Tory thành thật với chính mình, cô sẽ phải đối diện với một thực tế là lần đầu tiên trong ba năm họ bên nhau, cô thấy lo sợ. Lo sợ đánh mất anh – hay tệ hơn – lo sợ vì cô đã quan tâm đến chuyện ấy.

Tức giận với chính mình và hoàn cảnh hiện tại, cô đặt chiếc cốc trở lại tủ và quyết định đi giặt đồ. Sau khi đã cho mẻ quần áo vào máy, cô bước tới chỗ điện thoại. Cô không có tâm trạng nấu nướng, còn mặc quần áo để ra ngoài thì khỏi cần bàn tới.

Mình biết rồi. Mình sẽ gọi pizza.

Tory bấm số, lơ đãng lắng nghe tiếng chuông. Tối nay cô sẽ đền cho Brett. Cô sẽ nấu mấy món anh thích, rồi sau đó…

Chỉ nghĩ đến những cách làm tình rồ dại, buông thả của họ thôi cũng khiến cô đỏ mặt. Cô nhắm mắt, để cho mình nhớ lại cảm giác miệng anh trên da mình, sự cọ xát ram ráp của lưỡi anh trên bụng mình khi anh di chuyển xuống thấp hơn và…

“Mazzio’s Pizza, tôi giúp gì được cho quí khách?”

Tory giật bắn người, suýt thả rơi điện thoại, vất vả nhớ xem mình đang làm gì.

“À…ừm… vâng.” Cô luồn tay chải tóc một cách vô thức trong lúc gọi món.

Khoảng nửa tiếng sau, chuông cửa reo vang. Nghĩ đó là cậu bé đưa bánh, Tory lao ra cửa, tiền lăm lăm trên tay.

“Tiền của em…”

Cô ngắc ngứ giữa câu nói với tờ hai mươi đô la vẫn cầm trên tay. Trước khi Tory có thể phản ứng, Brett đã ôm lấy cô vào lòng, đá cánh cửa đóng lại sau lưng mình và cười toe toét khi tờ tiền rơi xuống nền nhà.

“Em có thể trả anh sau.” Rồi anh cướp một nụ hôn.

Nỗi bứt rứt trong lòng Tory bắt đầu được nới giãn ra. Brett đang ở đây và anh không còn giận dữ nữa. Mọi chuyện trong thế giới của cô đột nhiên đều ổn cả.

Anh bắt đầu bế cô vào trong phòng ngủ.

“Em vừa gọi pizza,” cô nói.

“Em có thể ăn sau,” anh gầm gừ.

Anh vừa đặt cô xuống giữa giường, chuông cửa lại reo lần nữa. Mắt Brett sáng long lanh. “Đừng cử động,” anh nói, và khi cô mỉm cười, anh nói thêm, “và đừng nghĩ sang chuyện khác nhé.”

Tory lắng nghe cuộc trao đổi lịch sự trong lúc Brett trả tiền pizza cho cô. Rồi đóng cửa lại, và khi nghe thấy âm thanh không thể nhầm lẫn được của tiếng khoá cửa, nhịp tim cô bỗng trở nên dồn dập và cô nhắm mắt lại, tận hưởng cảm giác chờ đợi điều sắp đến. Vài giây sau, chiếc giường sụm xuống khi anh trèo lên người cô.

“Tory?”

Cô mở mắt ra.

“Ai yêu cưng nào?”

Một cảm giác yên bình hiếm hoi đến với Tory khi cô vươn tay tới mặt anh.

“Anh”

Brett gầm gừ trong cổ họng, miệng anh chỉ còn cách môi cô một mili. “Em đừng quên điều đó đấy.”

Tory hiến mình cho những đụng chạm của Brett, say sưa sức nặng của cơ thể anh đang ấn cô xuống đệm, tận hưởng mọi thứ về người đàn ông đang là cả thế giới của mình lúc này.

Anh kéo cạp chiếc quần thun cô đang mặc, mỉm cười với mình khi nó tụt xuống dưới.

“Cái này trông quen quen.” Anh lại cười lần nữa khi ném nó sang bên rồi đưa hai tay xuống bên dưới chiếc aó sơ mi quá khổ của mình. “Cả cái này nữa,” Brett nói thêm, lột chiếc áo qua đầu cô và thêm nó vào cái đống trên sàn nhà.

“Em thích mặc quần áo của anh,” Tory khẽ nói, giãn người ra khi anh xoa một tay lên bụng cô, nhẹ nhàng ôm lấy ngực cô.

“Ừ, vì quần áo của em bẩn hết rồi,” Brett nói rồi dùng lưỡi đưa một vòng trên nhũ hoa của cô cho đến khi nó bắt đầu săn lại và dựng lên.

Tory khoá hai tay sau đầu Brett và kéo anh lại gần hơn, vươn người về phía miệng anh và lập tức tìm kiếm lưỡi anh.

“Không phải. Bởi vì làm thế cũng giống như đang chui vào trong da anh vậy.”

Lời thú nhận của cô làm anh giật mình. Rất hiếm khi Tory thú nhận một điều gì đó riêng tư như vậy. Anh ngẩng đầu, nhìn chăm chú vào mắt cô. Cô nhìn thẳng vào anh mà không hề chớp mắt, và Brett không thể không nhớ tới nỗi hoảng loạn mình đã từng trông thấy ở đó lúc trước.

“Anh biết chính xác ý em là gì,” anh khẽ nói, và chà miệng lên đường cong ở má cô. “Em đã ở dưới da anh hàng năm nay rồi”

Cô khẽ cười.

“Và anh phải thú nhận rằng có em ở đó cũng hay ho lắm.” Anh đưa tay lên chỗ nối giữa hai đùi cô.

Cô hổn hển rồi thở dài: “Ưm…Brett này.”

Anh cười. “Sao cưng?”

“Anh làm thế đi.”

Mùi bánh pizza còn vương trong căn hộ rất lâu sau khi Brett đã trở lại cơ quan. Tory đi lang thang vô định qua các phòng, hờ hững cất những bộ quần áo mới giặt của mình và cố tập trung để viết một danh sách thực phẩm cần mua. Như mọi khi, sau một chuyến đi, cô phát hiện ra Brett hầu như chẳng trữ tí thực phẩm tươi nào. Anh nói là vớ tạm cái gì đó để ăn trước khi về nhà cuối ngày thì tiện hơn, nhưng Tory nghi ngờ lý do thực sự là anh không thích về với một căn hộ vắng tanh rồi lại phải ăn một mình.

Cô thích nấu nướng, và mỗi khi ở đây cô đều làm hư anh bằng một đống những thứ tự nấu. Nhưng chừng nào còn chia sẻ căn hộ với Brett, cô không cho phép mình nghĩ nó là nhà. Cô có phần trong tủ đựng quần áo và ngăn kéo, và Brett đã sẵn lòng nhường phòng làm việc của mình cho cô làm phòng tối, nhưng đây không phải chỗ của cô, nó là chỗ của Brett. Và anh là tình nhân, chứ không phải chồng cô. Thứ duy nhất cố định trong đời Tory Lancaster là những chiếc máy ảnh của cô. Chúng là những bức tường để cô trốn đằng sau, là những vành đai giữ cho cô an toàn. Chúng là đôi mắt cô nhìn ra thế giới, và cô không bao giờ ra khỏi nhà mà thiếu chúng.

Bất chấp một tá việc vặt cần phải làm, cô không thể ngăn mình nghĩ tới những bức ảnh mới trong phòng tối. Cô cứ nhắc mình là phải đi mua đồ, nhưng cánh cửa đóng kín đang mời gọi, và trước khi thuyết phục được bản thân tránh xa nó, cô đã ở trong phòng và lấy mấy bức ảnh xuống.

Vài phút sau, Tory đi ra với một chồng ảnh ở tay này và chiếc kính lúp ở tay kia. Giống như một đứa trẻ với món đồ chơi mới, cô cuộn tròn trong chiếc ghế tựa thoải mái đặt gần cửa sổ và bắt đầu xem các tác phẩm của mình.

Nhiệm vụ cô được giao đơn giản nhưng rất sôi nổi. Đó là một bài về các lễ hội mùa Carnival[1]. Để theo kịp với thời gian biểu gấp gáp, cô đã phải đi đi lại lại trong khu vực năm tiểu bang, chụp ảnh và thu thập những thông tin cần thiết về hai lễ hội song song. Một là của tư nhân và được tổ chức trong ngân sách rất hạn hẹp, một là của tập đoàn lớn, tiêu chuẩn năm sao.

[1] Lễ hội được tổ chức ngay trước mùa ăn chay của Thiên Chúa giaó. Các hoạt động chính thường bao gồm những lễ kỷ niệm ngoài trơì hay diễu hành trong trang phục hoá trang.

Nhưng câu chuyện mà cô được cử tới để ghi lại đã xoay sang một hướng khác so với yêu cầu đặt hàng của toà báo. Tory không chỉ kể về các lễ hội carnival. Hai tuần sau khi bắt đầu dự án, cô đã nhận ra câu chuyện thật sự là ở những con người tới dự lễ hội và số tiền mồ hôi nước mắt mà họ sẵn sàng chi trả cho một vài phút giải trí.

Trong lúc lựa chọn các tấm ảnh, sự háo hức của Tory ngày càng tăng lên. Cô lấy ra sổ ghi chép, liên hệ những cái tên với các gương mặt và địa điểm. Cô làm việc với tài liệu cũng cẩn trọng y như khi chụp ảnh. Cô còn có cả một tập giấy chấp thuận của những người xuất hiện trong các bức ảnh cô chụp, phòng khi cần.

Sau khi đã chọn lần thứ hai, cô cầm chồng ảnh bên tay phải lên và bắt đầu xem lại chúng, nhặt ra những kiểu ưng ý nhất, và tấm ảnh chụp đám đông mà cô đã thực hiện khi đi cùng với công ty giải trí Amherst là một trong những tấm cô thích. Còn một tháng trước hạn chót và cô sẽ cần từng giây phút để làm việc. Với Tory, chụp ảnh chỉ là nghỉ ngơi. Công việc thật sự bắt đầu với việc viết lời bình.

Một lát sau, cô liếc nhìn lên và hất tung mọi thứ trên đùi xuống sàn nhà. Chẳng bao lâu nữa Brett sẽ về, ấy thế mà cô còn chưa đi mua đồ,

“Chán thật,” cô lẩm bẩm. Ngay khi mọi thứ bắt đầu trở nên thú vị, thực tại liền chen vào.

Tory nhẩm lại những thứ cần mua trong khi lái xe, và tới lúc vào được siêu thị, cô đã vạch hết lộ trình trong đầu. Vào và ra. Cô định làm như thế. Đi vào. Mua đồ ăn. Đi ra. Không thể đơn giản hơn.

Nhưng mọi thứ hiếm khi diễn ra như dự định ban đầu.

Tory đang ở giữa dãy thứ năm, cân nhắc giữa dưa chuột muối thái lát mỏng và thái khoanh thì nghe thấy âm thanh không thể nhầm được của da thịt đập vào nhau. Hai. Ba lần. Gáy cô sởn gai ốc. Tiếp theo đó là tiếng một đứa trẻ cầu xin ai đó dừng lại và tiếng khóc to ai oán. Tory không giữ được bình tĩnh nữa. Với kỹ năng bẩm sinh của một người mua hàng dày dạn, cô xoay ngược chiếc xe trên hai bánh và đẩy nó về phía cuối dãy, quyết tâm tìm rõ nguồn cơn.

Việc đó không khó mấy. Những tiếng nức nở nghẹn ngào của đứa trẻ và giọng giận dữ của gã đàn ông tiếp tục vang khắp cửa hàng. Tory không phải là người khách duy nhất nghe thấy, nhưng có vẻ cô là người duy nhất sẵn sàng can dự vào.

Rồi cô trông thấy họ ở giữa dãy thứ tám và lao về phía đó như một người đàn bà bị ma ám. Đứa bé gái mặt mũi nhếch nhác và không đi giày. Mái tóc nó bết bệt như thể đã mấy ngày không chải. Đường cầu vai của chiếc áo sơ mi nó đang mặc thõng xuống đến tận khuỷu tay, và nếu ở bên trong nó có mặc cái gì thì cũng chẳng ai trông thấy vì chiếc áo rộng lùng thùng. Cô bé chắc không quá năm hay sáu tuổi, nhưng với Tory, dù đó có là bà cụ tám mươi thì cũng chẳng thành vấn đề.

Theo đà đấm, gã tiếp tục lao đi, ngã dúi đầu vào một cái giá đựng đầy lọ đồ ăn trẻ em.

Tory túm lấy đứa bé, kéo nó ra vừa kịp để tránh cho nó khỏi bị mấy cái giá rơi vào người. Thủy tinh và thức ăn trẻ em vương vãi khắp nơi. Người quản lý chỉ còn biết rên lên.

“Ôi trời ơi,” anh ta lẩm bẩm rồi lôi máy bộ đàm trong túi áo ra. “Tôi cần mấy cái xô và giẻ lau nhà đến dãy tám… và một người đi báo cảnh sát.”

Anh ta nhìn Tory rồi đến đứa bé và hỏi: “Cô đi cùng họ à?”

“Không.”

“Có chuyện gì đấy?” anh ta hỏi.

“Nhìn con bé xem.” Tory nói, chỉ vào đứa trẻ. “Tôi nghe thấy tiếng gã đánh con bé từ cách đây những hai dãy.”

Gương mặt người quản lý nhợt đi. Vết bàn tay trên má đứa trẻ vẫn còn hiện rõ, và dòng máu chảy ra từ mũi nó là bằng chứng của cú đánh. Anh ta lắc đầu.

“Đời đầy những thằng điên,” anh ta lẩm bẩm.

Đôi mắt Tory đang cháy rực, hai bàn tay cô run lên vì tức giận. “Không may, một vài thằng điên lại làm bố.”

Cô nghĩ về những năm tháng sống trong nhà các bố mẹ nuôi của mình. Vài người đã tử tế với cô, vài người thì không. Và khi cô cần sự giúp đỡ nhiều nhất thì chẳng có ai thèm nghe lời kêu khóc của cô. Tory không thể lờ đi tiếng khóc cầu cứu của đứa trẻ này. Lấy từ trong túi ra một nắm khăn giấy, cô qùy xuống bên cạnh nó.

“Nào, cháu yêu,” Tory khẽ nói. “Chúng ta cần lau sạch máu trên mặt cháu, được không?”

Quá choáng váng nên không tranh cãi gì, cô bé đứng yên để Tory lau mặt cho. Tiếng còi hụ từ xa nhưng đã có thể nghe thấy được, và cô biết trong vòng vài phút nữa đứa bé này sẽ được đưa đi. Tory bỗng thấy hoảng sợ, tự hỏi sự can thiệp của mình sẽ làm cuộc đời nó tốt đẹp hơn... hay là tệ đi?

“Tên cháu là gì?” Tory hỏi.

“Clydene ạ”

“Một cái tên hay.” Và rồi cô thêm, “Cho một cô bé xinh xắn.”

Đứa bé mỉm cười, và Tory chỉ thiếu chút nữa là khóc òa lên. Đến ngày mai nó sẽ có một bên mắt thâm tím cùng với bờ môi và cái mũi sưng vù. Có lẽ nó sẽ nhớ rằng ai đó từng khen nó xinh xắn.

Gã say sắp hồi tỉnh, vì thế Tory kéo đứa bé đi xa hơn một nữa.

“Mình tránh ra xa một tí nữa để họ lau dọn cái đống kia đi nhé?”

Đứa bé gật đầu. “Bố say khướt rồi.” Nó nói một cách điềm tĩnh.

Tory giấu nỗi kinh ngạc. Từ vựng của Clydene có vẻ đã bắt kịp với cuộc sống gia đình nó.

“Cảnh sát sẽ canh chừng để ông ấy không làm đau ai khác nữa.” Tory nói.

Đứa trẻ nhún vai. “Bố sẽ nổi điên lên cho xem.”

“Chắc không đâu. Có thể mẹ cháu sẽ…”

“Không có mẹ,” Clydene tuyên bố.

Một cảm giác quen thuộc làm Tory loạng choạng lùi lại. Cô gần như có thể nghe thấy chính mình nói cùng một điều bằng cùng một giọng vô cảm như thế.

“Cô xin lỗi,” Tory khẽ nói. “Bà ấy chết rồi à?”

Gã say xoay người nằm ngửa, chửi thề ông ổng không dứt. Đứa bé liếc nhìn bố đầy lo lắng.

“Không biết,” nó nói. “Bà ấy đi mất thôi.”

Điều gì đó thúc vào ký ức của Tory. Một điều gì đó đã xảy ra từ lâu. Một điều tồi tệ. Nhưng cô chưa kịp theo đuổi suy nghĩ của mình, người quản lý cửa hàng đã đưa cho cô một tập khăn giấy khác.

“Tạ ơn Chúa,” cô nói. “Cảnh sát tới rồi.”

Tory nhìn ba cảnh sát mặc đồng phục đang tiến vào dãy hàng rồi liếc nhìn đứa bé. Ánh mắt nó làm Tory phát bệnh. Điều gì đó mách bảo cô rằng đây không phải là lần đầu đứa bé trông thấy cảnh sát tới.

Vài phút sau họ đã đi. Tory lấy lại giỏ của mình rồi đứng ở giữa dãy hàng, nhìn chằm chằm vào đống thức ăn và cố nhớ xem mình cần làm gì. Nhưng bụng cô quặn thắt, trái tim cô cũng vậy, và cô không thể ngừng nghĩ về ánh mắt Clydene khi cảnh sát dẫn nó đi. Cô bé không sợ. Nó chỉ cam chịu.

Vì chuyện xảy ra ở cửa hàng mà Tory chắc chắn là Brett sẽ về nhà trước mình. Nhưng khi cô vội vã lao vào căn hộ với lời xin lỗi trên môi, đèn nháy lên tục trên máy trả lời tự động đã cắt ngang sự lo lắng của cô. Nghe xong lời nhắn cô càng nhẹ nhõm hơn nữa. Cô đã được ân xá.

“Tory, Brett đây. Anh sẽ về muộn. Conroy vừa được giao một vụ mà ngày mai đã phải ra tòa rồi. Anh phải đi tìm một nhân chứng giúp anh ấy, nếu không toàn bộ vụ này sẽ bị bác bỏ. Gặp cưng sau nhé. Anh yêu em.”

Conroy là trợ lý công tố viên. Tory hiếm khi biết Brett đang làm gì, nhưng cô nhận ra hầu hết tên người làm việc cùng anh.

“Em cũng yêu anh,” cô khẽ nói rồi đi vào bếp.

Giờ cô có đủ thời gian cần thiết để chuẩn bị món đặc biệt theo như kế hoạch, còn chuyện chừng nào Brett về nhà để ăn nó thì còn phải xem đã. Cô bắt đầu sắp xếp thực phẩm, đầu óc vẫn còn vương vấn về cô bé Clydene và gã say tự gọi mình là bố con bé. Rồi cô cau mày, tự đá mình một cái trong tâm trí. Cô không thể cứu thế giới, nhưng cô đã cứu một đứa trẻ khỏi bị đánh. Ít nhất là trong đêm nay. Và cô phải hài lòng với chừng ấy.

Không cho phép mình tiếp tục đánh giá chuyện đã làm đúng hay sai nữa, cô tập trung vào món ăn sắp nấu.

“Được rồi, Hooker, anh về muộn cũng được, nhưng khi về đây anh phải đói ngấu đấy nhé.” Cô mở tủ và lấy xuống một cái bát. “Đầu tiên là bánh, rồi mới đến thịt.”

Gần mười giờ đêm Brett mới tra chìa khóa vào ổ. Bước chân anh kéo lê mệt mỏi và các khớp trên bàn tay phải đang sưng phồng lên, nhưng anh đã tìm được người mình cần. Chuyện anh đã phải hạ đo ván gã đô vật canh câu lạc bộ ở phía nam thành phố để làm được điều đó chỉ là một phần công việc của anh. Và trong khi biết rõ Conroy sẽ vui, anh tự hỏi tâm trạng Tory sẽ ra sao.

Khi Brett bước vào trong căn hộ, mùi thức ăn mời gọi, nhắc anh nhớ rằng thứ duy nhất anh ăn trong cả ngày hôm nay chỉ là miếng bánh pizza của Tory. Anh liếc đồng hồ rồi nhìn quanh tìm Tory. Thức ăn chỉ là nhu cầu phụ so với thứ đã giúp anh vượt qua ngày hôm nay. Đã chín tiếng từ lúc anh hôn người phụ nữ của mình, và thôi thúc làm lại việc đó đang trở nên rốt ráo. Anh đóng cửa, khoá lại rồi bắt đầu vừa đi vào trong căn hộ, vừa gọi tên cô.

“Tory, anh về rồi.”

Tim anh lỗi một nhịp khi cô không trả lời. Phòng tối hơi hé mở. Điều đó có nghĩa là cô đang không làm việc. Anh liếc vào phòng khách. Ảnh vương vãi khắp nơi trên mặt bàn uống nước, túi đựng máy ảnh thì đang ở góc phòng cạnh chiếc sofa. Anh bắt đầu thả lỏng. Cho dù cô có đi đâu thì cũng không đi xa.

“Tory… cưng ơi, anh xin lỗi đã về muộn. Anh có…”

Anh bước vào phòng ngủ, lời nói tắc lại trong cổ họng. Tory đang ngủ say trên giường, tay ôm cái gối của anh. Có một vệt bột bám mờ mờ trên vai và một cái băng cá nhân trên ngón trỏ bên tay phải. Cảm xúc trào dâng trong lồng ngực anh và hai chân anh muốn khuỵu xuống.

A, Chúa ơi, Victoria, em làm anh nghẹn lời.

Brett tháo súng ra, để nó vào trong ngăn kéo trên cùng, rồi đá giày của mình đi. Anh trèo vào nằm bên cô, khẽ chuồi cánh tay xuống dưới cổ cô rồi đặt đầu cô dựa vào ngực mình, ôm cô vào lòng mình.

“Anh xin lỗi đã về muộn.”

Cô khẽ lẩm nhẩm điều gì đó rồi kéo canh tay anh đắp lên người mình thay chăn.

Một đợt sóng cảm xúc khác tấn công Brett, khiến anh rơm rớm nước mắt.

“Anh yêu em, Victoria,” Brett thì thầm. “Anh yêu em nhiều đến mức thấy đau đớn.”

Tory thở dài và xoay trở, quay người cho đến khi đối mặt với anh. Đôi mắt cô bắt đầu hé mở, và khi trông thấy anh, cô nở nụ cười chậm rãi, ngái ngủ.

“Em đã nướng cho anh một cái bánh.”

Cổ họng anh thít lại với một đợt sóng cảm xúc mới. “Anh biết cưng ạ. Anh đã ngửi thấy nó khi đi vào nhà.” Anh ôm hai má cô và cúi xuống, đặt một nụ hôn lên giữa trán.

Tory thở dài mãn nguyện. Brett đã về nhà, đúng như anh hứa. Nhưng anh nhăn mặt khi cô chạm vào tay. Tory liền ngồi bật dậy.

“Tay anh làm sao thế?”

Brett xoay người lại rồi ngồi lên mép giường, hơi tránh khỏi tầm mắt cô.

“Không sao, chỉ bị xước tí da trên khớp tay trong lúc đi tìm một nhân chứng thiếu nhiệt tình ấy mà.”

Tory bò lại chỗ anh. “Để em xem.” Cô kéoay áo sơ mi của anh cho đến khi anh buộc phải đối mặt với cô.

Anh giơ tay ra. “Thấy chưa, chẳng có gì to tát.”

Cô nhăn mặt. Các khớp ngón bị trầy xước và rớm máu, còn tay anh thì rõ là đang sưng vù.

“Anh đi khám chưa? Nhỡ đâu nó bị gãy.”

Bất chấp cơn đau, đường cong nơi cổ và sự đụng chạm của môi cô lên lòng bàn tay anh khiến cơ thể Brett có những phản ứng mà cả một phòng đầy vũ nữ thoát y cũng không gợi lên nổi.

“Nó không bị gãy, cũng chẳng làm sao cả. Em, lại đây.”

Anh định kéo cô trở lại giường, nhưng Tory không chịu. Cô đứng dậy, đi vào bếp, vừa đi vừa ra lệnh:

“Anh cởi quần áo ra và đi tắm đi. Em sẽ hâm nóng thức ăn và lấy đá cho anh ngâm tay sau khi tắm”

Brett trợn mắt “Làm sao anh ăn được nếu phải thọc tay vào đá?”

Tory không buồn trả lời.

Vài phút sau anh ra khỏi phòng tắm, trên người quấn độc một chiếc khăn. Anh để ý thấy cô đã bày sẵn quần lót sạch cùng một chiếc quần tập cho mình. Sự chu đáo của cô làm anh cảm động. Không cúc, không khoá kéo, không có gì phải cài nên anh sẽ dễ mặc hơn. Và rồi mùi thịt bò nướng quen thuộc tỏa vào trong phòng làm dạ dày anh rộn lên biểu tình. Anh thả chiếc khăn tắm xuống và bắt đầu mặc quần.

Tory đang ở chỗ bồn rửa bát khi anh bước vào nhà bếp.

“Có mùi gì thơm quá!”

Brett ngồi vào chiếc ghế đẩu ở bàn bếp. Cô lau khô tay rồi cầm một bát đá ra khỏi tủ lạnh và đặt nó trước mặt anh, đặt tay anh vào trong đống đá. “Có lẽ thế này sẽ hết sưng”

Những viên đá bị xô đẩy, nhường chỗ cho tay anh, Brett nhăn nhó. “Ôi trời ơi!”

Tory cau mày. Cô vẫn chưa chấp nhận được chuyện công việc của Brett thường đặt anh vào vòng hiểm nguy.

“Đôi khi em cực ghét công việc của anh,” cô lẩm bẩm rồi quay lại lò để chuẩn bị nốt bữa ăn cho anh.

“Ừ, anh cũng chẳng thích thú gì công việc của em, nhưng anh sẵn lòng chấp nhận những gì em lựa chọn.”

Sự giận dữ đột ngột chen vào câu chuyện của họ khiến Tory giật mình, nhưng cô biết anh nói đúng. Cô hít một hơi rồi quay lại.

“Em xin lỗi. Em đã nói mà không suy nghĩ. Em sẽ không bao giờ yêu cầu anh bỏ việc. Em chỉ muốn nói là…”

Brett thở dài. Không phải anh cố ý gây chuyện lần nữa.

“Thôi cưng à. Anh vui vì có em ở đây, thế được chưa?”

Tory bắt đầu thư giãn. “Được rồi.” Cô lấy một lát thịt bò ra khỏi lò vi sóng và thêm vào đó măng tây cùng với cà rốt. “Hình như nó hơi bị khô,” cô nói, xin lỗi trước cả khi anh có cơ hội nếm thử món thịt bò.

“Vậy thì đó là lỗi tại anh chứ không phải tại em,” Brett nói, “Hơn nữa, anh đói đến mức ăn bột yến mạch cũng thấy ngon.”

Tory cười tươi, đặt chiếc đĩa trước mặt anh. Brett ghét cay ghét đắng bột yến mạch.

“Em sẽ cắt thịt cho anh.”

“Cảm ơn em.” Anh cầm lấy đĩa của mình bằng tay trái.

“Anh sẽ không sao chứ?” Tory hỏi.

Brett nhét một miếng thịt bò vào miệng và đảo mắt cảm kích.

“Anh thấy lại người rồi đấy,” anh nói, lúng búng thịt bò trong miệng.

“Vậy thì em sẽ đi tắm trong lúc anh ăn.”

“Rồi cho anh xem ảnh của em nhé?”

Cô rạng rỡ hẳn lên. Cô thích nhất là được chia sẻ phần đời này củả mình cùng với Brett. Thực tế, đó là điều cô có thể chia sẻ mà không cần suy nghĩ gì.

“Vâng,” cô nói, nhưng vẫn đứng đó để xem Brett cố gắng dùng tay trái xiên một cọng măng tây. Khi nó cứ trượt khỏi dĩa, cô dùng tay nhặt nó lên và đưa vào miệng anh.

“Đây. Hãy giả vờ đây là miếng khoai tây chiên.”

Anh cười rồi mở miệng ra cho cô đút nó vào.

“Lát nữa em sẽ trở lại,” cô nói và hướng về phòng ngủ.

Brett nhìn đống thức ăn trên đĩa và đổi tư thế bày tay trong bát đá, “Đừng vội vì anh. Chắc phải một lúc nữa anh mới xong.”

Lát sau, anh bắt đầu thư giãn. Tới lúc ăn xong bỡ, bàn tay anh đã tê dại và bụng anh không còn kêu om sòm nữa.

“Này Tory, cái bánh em nướng đâu ấy nhỉ?”

“Đợi chút” cô kêu. “Em ra đây.”

Brett đứng dậy và mang đĩa của mình tới bồn rửa, tráng qua trước khi đặt nó vào trong máy rửa bát. Sau khi đã kiểm tra tay mình lần nữa, anh vứt bát đá vào trong bồn. Mặc dù ngón tay anh cứng ngắc và trắng bệch vì lạnh, vết sưng đã giảm đi trông thấy.

“Brett?””

Anh quay lại. Tory đang đứng ở ngưỡng cửa. Nụ cười nửa miệng uốn cong khoé miệng anh. Trông cô như mới mười ba tuôỉ. Khuôn mặt để mộc không trang điểm, tóc vẫn còn ướt và rủ xuống quanh mặt thành những lọn xoăn nhẹ. Đôi chân dài để trần, bàn chân cũng thế, và theo anh thấy thì thứ duy nhất cô đang mặc là một cái áo sơ mi khác của anh.

“Em mặc cái đó trông ổn hơn anh tỉ lần.” Brett kéo dài giọng.

Tory nhướng một bên lông mày và tặng anh một nụ hôn gió. “Chỉ là vấn đề góc nhìn thôi. Nào, cứ giữ nguyên ý nghĩ ấy trong lúc em lấy bánh cho anh nhé.” Cô mở tủ lạnh, lấy ra một chiếc hộp có nắp. Khi cô mở nắp ra, Brett hít lấy hít để. Cô đã làm món anh yêu thích, bánh cà rốt phủ rất nhiều kem pho mát.

Cô đang cắt bánh thì dừng tay. “Anh muốn ăn bao nhiêu?”

“Em nghĩ sao?”

Cô cắt mạnh tay hơn. “Một lát như bình thường của anh phải không?”

Brett cười phá lên. “Để khởi động thôi.”

Vài giây sau, cô đẩy chiếc đĩa đến trước mặt anh và định đưa anh một cái đĩa sạch thì phát hiện bát đá không còn đấy nữa.

“Để em xem tay anh,” cô yêu cầu.

Anh đưa tay ra, lòng bàn tay úp xuống rồi với lấy chiếc đĩa cô đang cầm.

“Xin em đấy, Tory. Nó có bị cắt bỏ đâu, chỉ bị giập chút thôi mà. Giờ cho anh miếng bánh được chưa?”

“Em cho là được.”

“Tạ ơn Chúa vì những đặc ân nho nhỏ.” Anh lẩm bẩm trong lúc cô bỏ tay ra khỏi cái đĩa. Miếng bánh đầu tiên ngon y như anh đã trông đợi. Khi xắn miếng thứ hai, anh đưa nó cho cô.

“Há miệng nào.”

Tory vui vẻ chấp nhận miếng bánh. Đây chính là Brett mà cô yêu. Một người đàn ông điềm đạm, dễ tính, bằng lòng chia sẻ mọi thứ với cô, gồm cả thức ăn.

“Anh muốn xem ảnh chưa?”

Anh gật đầu. “Anh rất muốn cưng ạ. Em dẫn đường đi.”

Anh đi theo Tory vào phòng khách rồi ngồi xuống ghế bên cạnh cô, ăn nốt miếng bánh trong lúc cô bắt đầu sắp xếp đống ảnh.

“Đây là những tấm em thích nhất,” cô nói, chỉ vào những cái mà mình đã bày ra. “Nhưng trong đống kia cũng có những tấm khá đẹp. Cho em biết anh nghĩ gì. Có lẽ ý kiến của anh sẽ giúp em quyết định được.”

Brett không thể không nhìn chăm chú. Có quá nhiều sức sống trên những gương mặt mà cô chụp được. Từ một cậu bé vùi mặt trong chiếc kẹo bông đến một người phụ nữ lớn tuổi ngồi trên lưng ngựa ở vòng quay ngựa gỗ, kế bên một cô bé. Bất chấp sự khác biệt tuổi tác, niềm vui trên mặt họ giống hệt nhau. Brett khẽ huýt sáo rồi lắc đầu.

“Năng lượng. Đó là thứ mà em đã chụp được. Năng lượng sống.”

Tory vỗ tay. “Đúng vậy! Anh hiểu rồi đấy! Anh thật sự hiểu!”

Brett cười ranh ma. “Anh hiểu nhiều chuyện hơn em tưởng rất nhiều, Victoria.”

Lờ đi câu nói có phần châm biếm ấy, Tory tiếp tục xem xét đống ảnh. Khi Brett vươn tay qua mặt bàn và cầm một tấm lên, cô đã không giấu nổi sự ngạc nhiên.

“Anh thực sự thích tấm này,” anh nói. “Em chụp ở đâu đấy?”

“Anh biết không, đấy là tấm em thích nhất.”

Brett cảm nhận được sự ngạc nhiên của Tory. Chuyện anh đã chọn trúng một thứ đặc biệt với cô chẳng có gì là to tát, nhưng lúc nào anh cũng kinh ngạc vì cô quá ấu trĩ về mối quan hệ giữa họ. Đôi lúc anh nghĩ anh hiểu người phụ nữ của mình còn nhiều hơn cô hiểu chính cô.

Anh đưa cho cô bức ảnh. “Nói cho anh biết tại sao.” Rồi anh ngồi lại, theo dõi những thay đổi trên mặt cô, khi cô bắt đầu giải thích.

“Em không hoàn toàn chắc chắn, nhưng đây quả là một tập hợp cảm xúc. Thấy không… ở đó. Và ở đó. Và đây nữa. Nhìn vào mặt họ xem. Ông này thì thấy chán, cô kia thì lại đang cười. Hai người này đang hôn nhau. Và nhìn vào đứa bé đứng gần người đàn ông mặc đồ bảo hộ lao động kia xem. Con bé quá nhỏ, và nó đang bám thật chặt vào cái móc treo bùa trên quần của ông ta. Điều đó làm anh phải nhìn thế giới từ điểm nhìn của con bé. Nó chỉ có thể trông thấy chân và mông, vì thế nó phải bám vào thứ thân thuộc duy nhất trong tầm với, và đó là cái móc trên quần bố nó.”

“Tory”

Cô nhìn lên, đôi mắt sáng niềm vui. “Sao?”

“Anh yêu em.”

“Tại sao?”

Câu hỏi của cô làm anh giật mình, “Cái gì tại sao?”

Cô đặt bức ảnh lên bàn rồi nhìn anh thật lâu, thật chăm chú. “Tại sao anh yêu em? Em không đáng tin cậy lắm trong chuyện lưu tâm đến cảm xúc của anh … hay đến bất kỳ điều gì.”

Brett kéo Tory lên đùi, lờ đi sự phản đối của cô vì lo tay anh đau.

“Yên nào,” anh ra lệnh và đặt cô ngay ngắn trên đùi mình. “Em đã hỏi anh một câu. Anh đang cố trả lời em.”

Cô im lặng nhưng Brett có thể trông thấy cảm xúc mạnh mẽ trên mặt cô khi nhìn anh.

“Tại sao anh yêu em? Tory, tại sao mặt trời mọc hàng sáng và lặn hàng tối? Tại sao trẻ con khóc còn chó thì hú lên với mặt trăng? Bởi vì chúng không thể ngăn nổi mình, đó là lý do, và Chúa giúp anh, anh cũng không làm được.”

Brett kéo đầu cô ngả xuống vai và ôm cô chặt hơn, không muốn Victoria Lancaster thoát khỏi mình một giây nào.

“Em có nhớ lần đầu anh trông thấy em không?”

Tory cau mày, nghĩ lại bốn năm trước. Nhưng trước khi cô có thể trả lời, anh đã nói tiếp.

“Để xem, lúc ấy là tháng Tám, vậy đến tháng trước là tròn bốn năm. Ngay sau khi mặt trời lặn, ở cái nhà kho cháy ở Reno ấy. Cảnh sát đã phong tỏa khu vực đó để ngăn những người đứng xem lại. Còi xe cấp cứu hú inh ỏi, xe cảnh sát thì đổ đầy khu vực, đèn vẫn còn loé sáng liên tục. Ngọn lửa đã vượt tầm kiểm soát và xe cứu hoả sắp đến. Cái nóng từ mặt trời, cũng như từ trận hoả hoạn gay gắt không tin nổi. Thay vì dập lửa, nước họ tưới lên chỉ bốc thành hơi.

Tory mỉm cười. “May mắn là em tình cờ có mặt ở hiện trường. Chính những bức ảnh đó sau này đã giúp em kiếm được công việc quan trọng đầu tiên.

“Vâng, và chúng cũng làm em suýt chết đấy.”

Cô cau mày. “Ôi, em có bị nguy lắm đâu…”

“Trời, cưng ơi, em đừng có mà cãi anh. Em có nhìn thấy mình thế nào đâu, bởi em cứ giữ khư khư cái máy ảnh chết tiệt trước mặt mà. Anh mới là người suýt bị đau tim khi trông thấy em hiện ra từ một đống khói bụi và hơi nước. Thậm chí em còn không biết mình đang ở đâu hay đang làm gì. Nếu anh không kéo em ra kịp thì cái xe cứu hoả đó đã cán bẹp em rồi.”

Cô đỏ mặt. Cho đến tận bây giờ cô vẫn nhớ được mình đã kinh ngạc thế nào khi bị kéo giật lại và tức giận ra sao khi bị lỡ mất một bức ảnh đang định chụp. Nhưng khi quay lại. cơn tức giận của cô chẳng là gì so với sự giận dữ cô trông thấy trên mặt Brett.

“Em nhớ anh đã hỏi em có muốn chết không.” Tory nói.

Brett cười. “Ừ, thế rồi chỉ mười phút sau anh đã mời em đi chơi.”

“Và em đã từ chối,” cô nhắc anh nhớ.

Brett dụi vào một điểm sau tai cô, mỉm cười với chính mình khi cô khẽ rên lên, “Ừ, em đã từ chối,” anh nói. “Lần ấy và cả các lần khác trong suốt hai tháng sau đó.”

“Thế tại sao anh không từ bỏ?” Tory hỏi.

Brett nâng cằm cô lên cho đến khi cô buộc phải nhìn vào mắt anh.

“Cũng giống như tại sao anh yêu em. Anh không thể ngăn nổi mình. Anh biết mình sẽ sống trong hối tiếc suốt phần đời còn lại nếu để em ra đi.”

Anh thở dài, rồi cúi xuống cho đến khi môi họ chạm nhau. Khi hai cánh tay cô vòng qua cổ anh và anh có thể thấy ngực cô đang ấn vào ngực mình, anh rên rỉ, tách họ ra.

“Em có thể không muốn nghe điều này, nhưng đã đến lúc nói chuyện rõ ràng. Chúng ta thuộc về nhau, Victoria. Cả trái tim, thân thể và linh hồn, không ai trong hai ta hoàn thiện nếu thiếu nhau. Và nếu điều đó làm em sợ, nếu em cảm thấy cần phải biến mất khỏi đời anh hết lần này đến lần khác thì cứ làm thế đi. Nhưng hãy đối diện với sự thật. Chúng ta không chỉ là tình nhân, em yêu. Chúng ta là của nhau”

Lần đầu tiên, nỗi hoảng loạn mà Tory thường cảm thấy trước bất kỳ một biểu hiện nào của sự bền vững đã không xuất hiện. Cô chỉ có thể ngăn mình òa khóc khi nhìn vào mắt Brett. Lời thì thầm của cô cũng nhẹ như bàn tay cô đang ôm lấy mặt anh.

“Em không xứng đáng với anh.”

Anh lại cười nửa miệng, Và rồi anh cố truyền đạt cảm xúc trong mình đến cô bằng giọng nói đầy xúc động, bằng vòng tay ôm cô chặt cứng.

“Ồ có chứ, em yêu. Và anh sẽ dành vài giờ tới để cho em thấy tại sao lại thế.”

Chương 3

Tory cuộn mình nằm ngủ bên dưới cánh tay che chở của Brett. Hơi thở anh ấm áp và đều đặn phả vào vai cô, cơ thể anh là một bức tường chắn giữa cô và thế giới. Nhưng Tory bị chìm sâu trong giấc ngủ đầy mộng mị đến nỗi không biết mình đang được an toàn. Vào lúc này, tiềm thức đang làm chủ tâm trí cô, và cô đã lún sâu vào ác mộng không tài nào thoát ra được.

Ngọn gió gào rú, nhấn chìm mọi tiếng khóc than của đứa bé. Đêm đã đến và đi những hai lần mà nó vẫn cô đơn một mình. Từ chỗ trốn trong tủ, nó có thể thấy những tia sáng ban mai đầu tiên bắt đầu xuyên qua cánh cửa hé mở. Nó kéo đầu gối lên sát ngực và vùi mặt vào đó. Từ lúc nào nó đã không còn đếm được số giờ nó chui vào trong cái tủ này. Tất cả những gì nó biết là, ở đây nó được an toàn.

Cái gì đó lao vụt qua sàn nhà bên ngoài. Nó quấn hai cánh tay quanh đầu gối chặt hơn nữa và nhắm tịt mắt lại, sợ phải nhìn, sợ phải cử động. Khi bụng nó rộn lên, nó rên rỉ và liếm môi. Đói. Nó đã đói lắm rồi. Nó cứ nghĩ về bữa tiệc của Mary Ellen và những chiếc kẹo dẻo nướng mà chúng đã được ăn. Ôi, nó ước bây giờ có một chiếc kẹo như thế biết mấy. Một nhu cầu khác vượt lên cả cơn đói của nó, nhu cầu cần được giải toả. Mặc dù nó ngọ nguậy một cách khó chịu nhưng vẫn không sẵn lòng rời bỏ chiếc tủ an toàn.

Nỗi sợ hãi quá lớn của nó gom mọi âm thanh trong ngôi nhà trống lại và khuyếch đại chúng lên nhiều lần: tiếng lá khô cọ trên sàn nhà; tiếng gió thổi vù vù qua những cửa sổ mở hé; thậm chí cả tiếng ô tô đi lại trên đường cũng làm con bé sợ chết khiếp. Nó không nhớ rằng mình đã từ bỏ hy vọng, nhưng sự trống rỗng trong lòng nó lúc này không liên quan gì đến cái đói.

Hai chân Tory giật lên khi cô cuộn tròn lại, hơi thở đứt đọan, hổn hển. Một cách vô thức, cô kéo mình ra khỏi Brett trong lúc bị đẩy sâu hơn vào ký ức trẻ thơ trong giấc mơ.

Có một tiếng động! Có thể nào là …? Và rồi cô bé khẽ rên rĩ và cắn chặt mô. Tiếng nó nghe được không phải là tiếng ô tô mà là tiếng xe máy. Nhận ra điều đó, cô bé bắt đầu rùng mình. Nó biết đấy là ai. Hắn đã từng đến đây. Quần áo của hắn đen thui, bóng lộn, thắt lưng, ủng và hai cổ tay của hắn lủng lẳng những sợi xích. Lúc ấy hắn đã chế nhạo nó, và tất cả những gì nó trông thấy là hàm răng vàng xỉn tách đôi bộ râu rậm rạp đen sì của hắn.

Nghe thấy tiếng hắn gọi, nó bắt đầu lùi sâu hơn vào trong góc tủ, chỉ còn thiếu nước nín thở để che giấu bản thân.

“Này, Ollie! Có ai ở nhà không? Tao đến để…”

Có một khoảng ngừng, và nó tưởng hắn đã bỏ đi, nhưng rồi lại có tiếng hắn lẩm bẩm.

“Chó má. Thằng khốn chuồn đi trốn nợ mình. Chắc thế rồi”

Tiếp theo cơn thịnh nộ của hắn là sự im lặng. Ngay khi nó nghĩ hắn sẽ bỏ đi, nó lại nghe thấy hắn vòng lại. Một nỗi khiếp đảm bắt đầu lan ra khắp người nó. Giọng của hắn to và giận dữ - y như nó còn nhớ. Cử động cũng sợ, không cử động cũng sợ, nó từ từ đứng dậy, ấn chặt mình vaò góc xa nhất của tủ quần áo. Đôi mắt nó mở lớn sợ hãi, nhìn đăm đăm qua cánh cửa he hé, lắng nghe tiếng bước chân của hắn lại gần hơn nữa…gần hơn nữa!

Mồ hôi rịn ra dưới tóc nó và bắt đầu chảy xuống gáy. Cô bé có thể nhìn thấy cánh tay, rồi đến vai, và giờ là một bên mặt hắn. Hắn quay sang và nhìn thẳng vào trong tủ, như thể đang nhìn xuyên qua bóng tối tới tận chỗ nó đang trốn.

Lúc hắn với tay cầm nắm đấm cửa tủ, một dòng chất lỏng ấm nóng bắt đầu chảy xuống bên trong đùi cô bé. Khi cái bóng của hắn đã chắn giữa nó và sự tự do, nó bắt đầu khóc. Hắn giơ tay tóm nó, cười toe toét.

Cô bé ngửa đầu ra sau và hét.

Brett bật dậy đúng lúc tiếng hét thoát ra khỏi cổ họng Tory. Cô giật người lại, gần như bật ra khỏi giường. Anh phải tóm lấy cô trước khi cô ngã xuống.

“Tory, em yêu, dậy đi! Dậy đi! Anh đây, Brett đây! Chỉ là mơ thôi, một giấc mơ! Em đang mơ đấy.”

Cô tỉnh lại chỉ sau vài giây nghe tiếng của anh, nhưng không thể ngừng khóc. Tất cả những gì cô còn nhớ được sau giấc mơ là một nút thắt ở đáy bụng và cảm giác cần được ôm dữ dội. Cô lăn tròn vào vòng tay Brett, nức nở nghẹn ngào, không nói được thành lời.

Brett ôm đầu Tory và kéo cô vào gần hơn, đung đưa người cô như thể cô là một đứa bé.

“Thôi nào cưng, không sao đâu. Chỉ là mơ thôi.”

Bám chặt lấy hai cánh tay anh, cô rùng mình và vùi mặt vào ngực anh.

“Brett?”

“Ừ, em yêu, anh đây.”

“Em… em đã gặp ác mộng.”

Anh tiếp tục vuốt tóc và mặt cô một cách chậm rãi, nhẹ nhàng. “Nhưng nó qua rồi, Tory. Giờ đã hết rồi. Anh ở đây và em được an toàn, đúng không?”

Người Tory vẫn còn lẩy bẩy trong lúc thẩm thấu sự hiện diện của anh. Bằng giọng nói run run, cô khẽ thì thầm yêu cầu.

“Đèn… làm ơn bật đèn cho em.”

Brett với tay qua vai cô và kéo sợi dây đèn bàn, lập tức Tory được tắm trong ánh sáng vàng dịu. Khi có thể nhìn thấy mọi thứ xung quanh, cô bắt đầu thả lỏng, và khi những cơn nức nở của cô dịu đi thành những tiếng sụt sịt thưa thớt, Brett cũng bắt đầu thư giãn.

Trong lúc ôm cô, anh không thể không nghĩ chuyện này có vẻ kỳ cục thế nào đó. Tory không phải lọai phụ nữ hay gặp ác mộng. Cô độc lập đến mức anh đã tưởng là cô miễn nhiễm với tất cả mọi thứ, vậy mà lần này đã là lần thứ hai, trong vòng vài ngày từ khi cô trở về, Tory cư xử hoàn toàn không giống mình chút nào.

Nhà thám tử trong anh vô cùng tò mò, nhưng người đàn ông trong anh yêu cô đủ nhiều để chờ cho cô tự nói ra, mặc dù anh đã hiểu cô đến mức biết rằng không nên nín thở chờ đợi. Cô giữ mọi thứ lại cho mình. Nếu có điều gì cô muốn cho anh biết về quá khứ của mình thì anh còn hơn cả sẵn lòng lắng nghe, nhưng điều đó phải được nói ra theo ý cô, chứ không phải ý anh. Và trong lúc anh suy nghĩ, Tory đã bắt đầu nhấp nhổm. Anh vuốt ve lưng cô chầm chậm rồi hôn lên đỉnh đầu cô.

“Cảm thấy khá hơn chưa?”

Tory lăn ra khỏi tay anh. “Em muốn dậy. Đêm nay em không muốn nằm trên cái giường này chút nào nữa.

Brett liếc nhìn đồng hồ. Năm giờ kém mười lăm. Anh ôm má cô.

“Cưng này, hết đêm rồi. Trời đã gần sáng. Em có muốn anh pha ít cà phê còn em thì lôi cái bánh kia ra không?”

Cô gần như nặn ra được một nụ cười. “Anh sẽ tìm được lý do để ăn thêm ít bánh nữa phải không?”

Mừng vì thấy cô đã chuyển hướng suy nghĩ, anh hùa theo trò đùa, ra khỏi giường rồi quay lại để kéo cô dậy.

“Thôi mà, đừng làm anh thấy có tội. Em cũng thích ăn còn gì.”

Cô liếc về phía cánh cửa tủ quần áo khi đứng dậy. Nó cũng đang he hé mở. Một cơn ớn lạnh bất chợt làm gáy cô nổi da gà, không nghĩ ra là tại sao, cô đóng sập tủ lại. Lờ đi thực tế Brett đang theo dõi nhất cử nhất động của mình, cô với tay lấy áo chong.

“Anh pha chocolate nóng thay cà phê được không?”

Brett đang chờ, hy vọng có lời giải thích nào đó cho hành động kỳ quặc của Tory, nhưng khi điều đó một lần nữa không xảy ra, anh bắt kịp sự thay đổi đề tài này.

“Anh sẽ làm bất cứ thứ gì em muốn.” Rồi anh chữa lại, “Chỉ trừ những thứ có từ hai nguyên liệu trở lên.”

Tory cười phá lên và anh bắt đầu thở dễ dàng hơn.

Anh vòng tay quanh eo cô “Em cứ cười thoả thích. Chỉ cần nhớ lại xem lần cuối cùng anh cố gắng nấu nướng đã ra kết quả thế nào. Cái máy nghiền rác đã bị kẹt suốt một tuần.”

Tory mỉm cười khi Brett đưa cô vào trong bếp. Tới lúc chocolate nóng được pha xong và bánh cũng được cắt xong, cô đã quên hẳn cơn ác mộng. Trong vòng một tiếng nữa mặt trời sẽ mọc. Và đó là khởi đầu của một ngày hoàn toàn mới.

Tory đặt các bức ảnh rải rác trên bất cứ chỗ nào để được trong căn hộ, rồi chọn những tấm mà cô sẽ dùng để viết bài báo. Sau khi nói chuyện với biên tập viên của mỉnh ở tờ tạp chí, cô quyết định sẽ đưa câu chuyện đi theo hai hướng khác nhau, và cô có đủ số ảnh để làm được việc đó. Cô có những vẻ mặt chán nản của các công nhân phục vụ lễ hội, lại có cả niềm vui và háo hức hoàn toàn đối lập trên mặt những người tham dự. Đó sẽ là một bài báo có tác động lớn. Nhưng trước hết phải chọn ra được những bức ảnh đi cùng với lời minh hoạ, và đó là việc cô sẽ làm ngày hôm nay.

Chốc chốc cô lại chọn lên một bức và thêm nó vào tập ảnh để trên bàn bếp. Khi các tấm hình đã được kết thành một khối trong đầu, cô bắt đầu thấy phấn khích, tưởng tượng ra câu chuyện đi kèm theo nó sẽ được hé lộ như thế nào. Tấm ảnh đám đông mà cô thích nhất sẽ trở thành điểm then chốt, bởi nó bắt được cả hai mặt của câu chuyện, mô t

hững công nhân phục vụ lễ hội cũng như người tham dự.

Như mọi khi, cứ hễ có một tấm ảnh đặc biệt nào đó lọt vào mắt, Tory đều nghiên cứu kỹ xem tại sao. Khi nhìn vào bức ảnh chụp đám đông, cô nhận ra rằng ngay lần đầu tiên trông thấy nó, ánh mắt mình đã dính chặt vào một khuôn mặt.

Tò mò, cô mang nó vào trong phòng tối rồi bật đèn trần lên. Sau khi lục qua các ngăn kéo, cô tìm được một chiếc kính lúp và đưa nó lên trên bức ảnh.

Tory cau mày thất vọng khi chỉ nhìn thấy khuôn mặt một người đàn ông lớn tuổi, không có gì nổi bật. Ông ta có vẻ mặt nghiêm nghị và trông như đang nhìn vào một điểm nào đó phía trên máy chụp ảnh, nhưng hình ảnh của ông ta rất nhỏ và không thể nào giải thích nổi tại sao cô lại bị hút về phía khuôn mặt ấy.

Chán nản với bản thân, cô trở lại công việc. Ấy vậy mà hơn hai lần cô quay lại với bức ảnh đó và nhìn chăm chăm vào gương mặt ông già. Vậy là cô đành chấp nhận thất bại. Cô quá hiểu bản thân nên biết rằng mình sẽ không thể làm việc cho đến khi giải quyết được tình thế nan giải này. Cô lại cầm bức ảnh lên, nhìn chăm chú vào nó vài giây nữa.

“Có lẽ nếu mình phóng to nó ra…”

Được ý tưởng đó khuyến khích. Tory đặt bức ảnh xuống. Như thế nghĩa là cô sẽ phải đi một chuyến xuống phố để mua thêm dụng cụ, nhưng vậy cũng đáng. Việc này đang khiến cô phát điên.

Vài phút sau, cô đang trên đường ra cửa thì điện thoại reo. Tory đứng đó, tay đặt lên nắm đấm cửa và chờ cho máy trả lời tự bật. Giọng nói này cô nhận ra, nhưng cô để mặc cho người gọi đến nói mà không nhấc máy. Lòng cô lại chất thêm cảm giác tội lỗi.

“Này Brett, mẹ của anh đây. Có nhớ ra là ai không? Người đã sinh ra anh, đã dạy anh rửa con cá đầu tiên ấy. Người mà anh hiếm khi gọi điện ấy.”

Khi lắng nghe giọng của bà Cynthia, một cái gì đó trong lòng Tory bắt đầu đóng lại. Lúc Tory bước ra khỏi căn hộ, lặng lẽ đóng cánh cửa lại sau lưng, bà Cynthia vẫn còn đang nói. Cô không bỏ đi mà cứ đứng bên ngoài, lắng nghe phần còn lại của lời nhắn.

“Thôi đừng để ý đến bài thuyết giảng. Chắc là con cũng muốn biết giờ mình đã lên chức cậu. Em gái con Celia vừa sinh hạ một bé gái xinh xắn – ba cân sáu. Melissa Carol và mẹ bé đều khoẻ. Nói chuyện với con sau nhé! Mẹ yêu con. À…mà gửi tình yêu của chúng ta cho cả Victoria nữa nhé!”

Mắt Tory nheo lại khi cô ra đến cầu thang. Yêu à? Lúc nào họ cũng nói thế. Gửi Victoria tình yêu của chúng ta. Họ thật tử tế vì muốn thêm cả cô vào đời sống gia đình mình, nhưng thứ ấy không dành cho cô. Cô không cần đến người khác để hoàn thiện cuộc sống của mình. Cô học được từ nhiều năm về trước cách sống hạnh phúc mà chẳng cần đến ai khác, và cô đã học rất giỏi. Nếu bạn không phụ thuộc vào bất kỳ ai ngoài chính bản thân, bạn sẽ chỉ phải đổ lỗi cho mình nếu đời làm bạn thất vọng.

Mình không cần ai hết. Và rồi cô nghĩ đến Brett và cái mỏ neo mà anh đã mang đến cho cuộc sống của cô. Có lẽ là trừ Brett ra, nhưng anh ấy thì không tính. Anh ấy sẽ luôn ở đó chờ mình.

Bất chấp sự tự tin Tory dành cho Brett và tình yêu mà họ cùng chia sẻ, trong lòng cô vẫn cộm lên một mối hoài nghi không thể rũ bỏ. Tại sao hả Tory… tại sao mày lại chắc chắn về Brett đến thế?

“Bởi vì anh ấy đã hứa.” cô bảo với giọng nói tọc mạch kia như thế. “Đó là lý do.”

Một con mèo hoang nhảy xuống từ một bậu cửa sổ đã vỡ kính khi Brett đưa xe vào nhà kho Santa Fe và đỗ lại. Vào ngày đẹp trời mà phải xuống đầu này của phố Reno cũng đã đủ tệ rồi, thế mà một giờ trước trời lại bắt đầu mưa, và mọi thành phần cùng khổ sẽ đi tìm chỗ trú ẩn. Anh liếc nhìn đồng hồ. Đã năm giờ kém mười lăm, và trong vòng bốn giờ qua, anh cứ đi từ toà nhà này sang đến toà nhà khác, cố xác định vị trí của một nhân chứng then chốt cho sếp anh.

Với hầu hết người dân có công ăn việc làm của thành phố Oklahoma, bây giờ đã gần đến giờ về, thế nhưng với các điều tra viên của phòng công tố hạt Oklahoma thì không. Giờ làm việc của họ tuỳ thuộc vào nhu cầu của toà nhiều hơn là vào sự thích hợp.

Don Lacey, vị công tố viên của hạt, sếp của Brett, là một người khá quyền thế, và trong khi luôn cố hết sức mình để kết tội những kẻ bị cảnh sát bắt, ông đồng thời cũng phải xoay xở với những điều luật cứng ngắc. Đôi khi, bất kể mọi người có làm việc vất vả thế nào, công lý vẫn không được thực thi. Chính vì những điều thất vọng này mà các điều tra viên như Brett phải lao ra đường, kiểm tra đi kiểm tra lại mọi điều công tố viên cần để xử lý một vụ án. Và trong trường hợp này thì công việc cần thiết là tìm một người đàn ông tên Harold Tribbey.

Tháng ba năm 1995, Harold Tribbey làm việc cho một cửa hàng ở trung tâm thành phố Oklahoma. Ông ta đang ngồi ở bục nhận hàng đằng sau cửa hàng máy móc trong giờ nghỉ trưa, thưởng thức món bánh kẹp thịt gà và salad của mình thì hai người đàn ông bước ra khỏi toà nhà ở bên kia phố. Trước khi ông kịp nuốt xong miếng cuối, một người bất thình lình lôi súng ra và bắn thẳng vào người trước mặt.

Chết đứng vì tội ác mình vừa chứng kiến, Harold nhìn trân trối vào tay súng đang biến mất, vào máu và não bị bắn lên phố của người đàn ông kia rồi nôn ra bằng sạch những thứ vừa ăn vào. Chỉ trong nháy mắt, Harold đã trở thành nhân chứng cho một tội ác.

Một thời gian sau, ông đã chỉ ra một nghi phạm trong số những kẻ đứng xếp hàng mà không biết rằng đó chính là tay chân của Romeo Leeds, trước là trùm xã hội đen của Chicago còn giờ là của Oklahoma.

Việc người của mình bị nhận dạng khiến Romeo Leeds lâm vào tình thế hiểm nghèo. Nếu gã này phải ra toà thì cầm chắc Leeds cũng sẽ bị lôi xuống bùn cùng với gã. Vì thế hắn đã kéo các luật sư của mình vào cuộc, đưa hết kiến nghị này đến kiến nghị khác để cản trở việc đưa vụ án này ra toà. Và trong lúc cỗ xe công lý chậm rãi chuyển động, thế giới mà người dân trung tâm thành phố Oklahoma vẫn quen sống bất ngờ bị thay đổi mãi maĩ.

Ngày 19 tháng Tư, toà nhà Alfred P. Murrah cùng với mọi toà nhà khác trong góc phố ấy, bao gồm cả cửa hàng máy móc mà Harold đang làm việc, đã bị một quả bom tàn phá. Vài tuần sau khi người chủ bị phá sản, Harold mất việc.

Kết quả là ông ta cùng với vài trăm con người khác sống sót sau vụ nổ ấy đã bắt đầu lâm vào tình trạng rối loạn thần kinh do chấn thương sau thảm họa. Nhưng vấn đề của Harold trở nên trầm trọng thêm bởi một quá khứ mà những người sống sót khác không có. Vốn là một cựu chiến binh từ Việt Nam trở về, ông ta đã bị những hồi ức của nhiều năm trước ám ảnh. Bây giờ ông ta không ngủ được, không ăn được, và tính cách thay đổi hoàn toàn. Ông ta trở nên giận dữ, nghi hoặc tất cả mọi người xung quanh và không thể giữ nổi một việc làm.

Sau đó Harold Tribbey mất vợ, mất nhà và xe. Ông ta trở nên ốm yếu, cả tinh thần thể xác, và gần một năm trước đã sống lang thang trên đường phố. Nhưng trong khi tội ác mà Harold đã chứng kiến vài năm trước nhạt nhoà đáng kể với ông ta, nó không hề bị gạt đi khỏi sổ ghi án của Toà án hạt Oklahoma. Các luật sư của Romeo Leeds đã hết thời gian và sự lựa chọn. May cho họ, nhân chứng duy nhất đã biến mất.

Trong lúc Harold dần suy sụp, Leeds đã không hề phí phạm thời gian của mình. Hắn đã lớn mạnh cả về quyền lực lẫn tiền tài, tới mức trở nên gần như bất khả xâm phạm. Công tố viên không mong gì hơn là kết thúc được vụ giết người và lôi Leeds ra khỏi xã hội, nhưng trừ khi tìm được Harold Tribbey, vụ án này sẽ bị ném khỏi toà.

Cả sở cảnh sát lẫn người của văn phòng công tố đều quyết tâm không để chuyện ấy xảy ra. Nhiệm vụ của Brett là hỗ trợ truy tìm Tribbey, và anh đã cày nát khu vực trung tâm thành phố Oklahoma nhiều ngày nay. Khoảng một giờ trước có người đã mách cho anh là Harold thi thoảng đến ngụ ở nhà kho Santa Fe, đặc biệt là khi thời tiết xấu.

Brett quan sát qua làn mưa đang ào ạt đổ xuống kính chắn gió. Anh liếc nhìn toà nhà, cẩn thận ghi chú số cửa sổ và cửa ra vào bị bịt kín, rồi cầm điện thoại lên. Dù chỉ là vấn đề cá nhân, nhưng anh ghét cay ghét đắng việc đi vào một chỗ như thế này mà không biết có đường nào đi ra không. Khi người trực tổng đài của phòng cảnh sát trưởng trả lời cuộc gọi, anh nói rất ngắn gọn:

“Hooker đây. Tôi đang ở nhà kho Santa Fe trên phố Reno. Giờ tôi sẽ đi vào. Nếu đến năm giờ mười lăm anh không nghe tin gì từ tôi thì hãy cử ai đó đến kiểm tra.”

Brett trượt điện thoại vào túi quần lúc ra khỏi xe, rồi đưa một tay sờ áo khoác, đảm bảo là súng và bao súng của mình vẫn còn đó.

Nước mưa quất vào mặt Brett khi anh chạy về phía toà nhà. Áo khoác ngoài của anh không thấm nước, nhưng quần jeans thì có. Trong vòng vài giây, quần và ủng của anh đã ướt nhẹp. Một cơn gió mạnh tạt nước mưa vào mắt làm anh phải chớp mắt lia lịa và quay mặt đi. Khi nhìn trở lại, anh thoáng thấy bóng một người đàn ông ở ngưỡng cửa. Anh chưa kịp phản ứng gì, ông ta đã biến mất.

Brett với tay lấy khẩu súng theo bản năng. Kể cả khi không phải người đàn ông anh đang tìm gặp rắc rối, những kẻ khác tìm nơi tránh mưa ở đây cũng có thể mang một lương tâm tội lỗi.

Anh đứng thủ thế ở bên mé cửa, khẩu Glock nằm gọn trong tay. Nhưng mưa đang đổ ầm ầm, mạnh tới mức anh chẳng phân biệt được âm thanh gì, và chẳng muốn chờ đợi thêm nữa. Anh hít một hơi rồi lẻn vào trong nhà kho, ép sát người vào tường trong lúc để mắt thích nghi với khung cảnh tăm tối.

Từ đâu đó phía trên ngưỡng cửa, một mảnh kim loại rơi xuống sàn nhà xi măng gây nên một tiếng lanh canh lớn, làm gián đoạn sự im ắng do màn mưa tạo ra. Brett giật mình vì tiếng vọng và quay lại đúng lúc ba người đàn ông vừa mới bước ra khỏi một đống kệ gỗ và bắt đầu chạy về cuối toà nhà. Khi một trong số chúng bất ngờ dừng lại và quay đầu về phía anh, tóc gáy Brett dựng đứng, anh lao xuống sàn nhà mà không cần suy nghĩ.

Hành động bốc đồng này đã cứu mạng Brett. Nhiều viên đạn ghim vào bức tường nơi anh vừa mới đứng và hàng tá khác sượt qua những kệ gỗ mà anh đang trốn ở đằng sau, nảy lên trên sàn xi măng cạnh chân anh.

“Ôi,” Brett lẩm bẩm rồi cầm điện thoại của mình và gọi 911. “Tôi là Hooker của phòng Công tố hạt. Tôi đang ở nhà kho Santa Fe cũ phía đông Reno. Có kẻ đã nổ súng. Tôi cần trợ giúp.”

Brett chưa kịp di chuyển, đầu bên kia nhà kho chợt có tiếng ồn ào rồi tiếp đó là im lặng. Anh đổi tư thế, qùy rồi đứng dậy, khom lưng đi dọc theo bức tường, tay lăm lăm cò súng. Trước cả khi nghe thấy tiếng còi cảnh sát đang lại gần, anh đã biết bộ ba kia đã đi mất. Khi nhìn thấy những tấm ván bịt cửa sổ bị cạy ra, anh chửi thề.

Sau khi đã quan sát tỉ mỉ khu vực, anh trở lại mặt trước tòa nhà. Vài phút sau, anh bắt gặp một đống những kệ gỗ và thi thể của một người phụ nữ đang nằm úp mặt xuống vũng máu của chính bà ta. Brett âm thầm nguyền rủa. Giờ anh đã biết đích xác vì sao chúng bỏ chạy.

Tránh không làm xô lệch hiện trường, anh đi trở lại chỗ cửa. Hai chiếc xe tuần tra của cảnh sát vừa thắng lại bên cạnh xe anh. Khi cả hai cảnh sát đều ra khỏi xe với súng lăm lăm trong tay, Brett giơ hai tay lên và hét vang tên mình. Họ thả tay súng rồi chạy lại chỗ anh.

“Trong kia có xác một phụ nữ, nhưng hung thủ đã bỏ chạy qua một cửa sổ ở đằng sau. Làm ơn gọi về báo giùm tôi được không?”

Một trong hai cảnh sát gật đầu và trở lại chỗ xe anh ta, còn người kia đút súng vào bao.

“Này Hooker, anh không biết đã đến giờ về rồi à?”

Brett nheo mắt nhìn qua màn mưa, nhận ra anh cảnh sát kia là người quen từ hồi anh còn trong học viện.

“Thôi đi Ernie, cậu biết Lacey và tôi rồi mà. Việc chưa xong bọn tôi còn chưa từ bỏ.”

Như mọi cảnh sát khác, khi tổng đài báo tin có một vụ nổ súng vào đồng nghiệp, adrenaline trong họ liền trào dâng, nhưng khi nguy hiểm rõ ràng đã qua, họ lại cười đùa để giảm bớt căng thẳng.

“Làm sao mà cậu lại dính vào vụ lùm xùm ở đây thể?” Reynolds hỏi.

“Đi tìm một nhân chứng và bước vào một vụ giết người. Chúng đã bắn vài ổ đạn vào tôi rồi chạy như ma đuổi. Tới lúc tôi đến được đầu kho bên kia thì chỉ thấy mưa ngoài cửa sổ thôi.”

“Cậu không sao đấy chứ?” Reynolds hỏi.

“Tôi đã thụp xuống.”

“Qủy quái, Hooker, lúc nào cậu cũng hơi điên ấy nhỉ?”

Tiếng cười của Brett vẫn còn vang vọng khi họ bước vào trong nhà kho. Ít nhất anh cũng có một chỗ khô ráo để chờ nhân viên pháp y đến.

Sau khi lao ra ngoài cửa sổ nhà kho Santa Fe, Gus Huffman cùng đồng bọn: Tony và Raul Gomez, tạm trú ở gần khu Bricktown, một khu vực nội đô cũ của Oklahoma đã được sửa chữa lại, và giờ trở thành một chỗ “thời thượng”. Bất chấp cuộc chạy xuyên màn mưa, chúng cũng không bị ướt hơn các thực khách đang xếp hàng chờ bàn ở Spaghetti Warehouse là bao.

Gus ghét những chuyện lộn xộn, nhưng hôm nay nhờ sự xuất hiện của một kẻ lạ mặt mà nhiệm vụ lúc đầu vốn đơn giản của hắn đã biến thành một vụ lằng nhằng lớn. Mùi xốt Marinara và mỳ ống thoảng qua mũi làm dạ dày hắn cuộn lên.

“Chết tiệt, Gus, cái hàng người này chả rục rịch gì cả. Đi chỗ khác đi.” Raul phàn nàn.

Gus lắc đầu. “Đã quá bảy giờ rồi. Ở đâu cũng phải xếp hàng thôi, và giờ tao chẳng có tâm trạng để bị ướt thêm trước khi lấp đầy cái bụng.”

Tony Gomez gật đầu đồng tình và tọng thêm một que kẹo cao su vào mồm, “Ừ, đúng đấy Raul, ngoài kia mưa lắm, hay là anh còn chưa biết?” Rồi gã cười rinh rích trước câu đùa của mình và nháy mắt với cô hầu bàn.

Gus lờ hai anh em chúng đi. Bọn chúng là những kẻ đầu óc đần độn chẳng nghĩ được gì mấy ngoài kiếm tiền và kiếm gái, cái nào trước cũng được. Hắn đổi chân ra vẻ sốt ruột khi người bồi bàn đi ngang qua với một khay đầy mỳ. Sau thảm họa vừa rồi, hắn không chắc liệu bọn chúng có được trả tiền không. Romeo sẽ không vui vẻ gì. Chuyện chúng vừa đóng một kẽ hở trong đời ông ta chẳng là gì so với chuyện chúng lại mở ra một kẽ khác. Mặc dù công bằng mà nói thì làm sao chúng biết có người sắp xuất hiện ở nhà kho được chứ, đặc biệt là trong một ngày như hôm nay.

Bên ngoài, mưa vẫn tiếp tục trút xuống và Gus nhìn qua cửa kính một cách vô hồn. Đầu óc hắn bận nghĩ lại cảnh xả súng và cảnh người đàn ông bước vào trước khi chúng có cơ hội tẩu thoát. Có một điều chắc chắn là hắn sẽ nhận ra thằng con hoang đó nếu có cơ hội gặp lại.

Gus liếc nhìn đồng hồ. “Ít nhất phải mười lăm phút nữa bọn ta mới có bàn. Tao đi gọi cho ông chủ đây.”

Hắn lách ra khỏi hàng và hướng về phòng vệ sinh nam. Có hai người ở bên trong và hắn chờ đến khi họ đi khỏi mới lấy điện thoại ra gọi. Điện thoại chỉ đổ một hồi chuông. Khi nghe thấy giọng Romeo Leeds, hắn hít một hơi dài.

“Tôi, Gus đây.”

“Xong chưa?”

“Rồi, không vấn đề gì.”

“Tốt, mai qua văn phòng thanh toán.”

“Vâng, à… thưa ông chủ, nhưng mà…”

Romeo Leeds đã ở thế giới ngầm lâu đến mức có thể đánh hơi được rắc rối trong giọng của Gus.

“Nhưng sao?”

Gus rùng mình. Cái điệu kéo dài giọng của Leeds rất giả tạo, và hắn biết điều đó. Romeo Leeds không phải loại người trịnh trọng.

“Có thằng bước vào trước khi bọn tôi kịp tẩu thoát.”

“Chó má…” Giọng Leeds nhỏ hơn. “Hắn thấy bọn mày không?”

“Có, nhưng trời khá tối. Tôi không nghĩ hắn nhìn kỹ được mặt bọn tôi.”

Giọng Leeds càng dài ra thêm. “Mày không nghĩ… Mày không chắc… Mày không biết…” Rồi hắn bùng nổ. “Chính ba cái mớ thối tha đó có thể lôi mày xuống bùn đấy, mày rõ rồi chứ gì. Tìm xem nó là ai rồi xử lý đi, nghe rõ chưa?”

Gus gật đầu rồi nhận ra Leeds không thể trông thấy mình. “Vâng, thưa ông chủ, tôi nghe rồi, rõ rành rành.”

“Mà này Gus…”

“Vâng ạ?”

“Chưa làm xong việc thì đừng nghĩ tới chuyện đi lấy tiền công nhé. Tao không trả tiền cho bọn nửa mùa, hiểu chưa?”

Anh em nhà Gomez sẽ tức lắm đây, nhưng Gus chẳng thể làm gì được.

“Vâng, thưa ông, tôi hiểu, và tôi sẽ xử lý mọi chuyện, đừng lo gì cả.”

Romeo Leeds dập máy bên tai Gus. Gus không cho đó là một tín hiệu tốt. Hắn trở lại phía trước nhà hàng đúng lúc cả bọn sắp sửa được ngồi.

“Chết tiệt, Gus, mày đúng lúc quá,” Raul nói, cười toe toét và vỗ vào lưng hắn. “Đến đây ăn mừng nào.”

“Ăn thì ăn, chứ không phải là mừng.” Gus nói. “Bọn ta sẽ không được trả tiền cho đến khi dọn sạch cái mớ hổ lốn gây ra ngày hôm nay.”

Raul cau mày. Sau khi cô hầu bàn rời đi, gã vươn người tới với giọng nói hằn thù, “Nghe này Huffman, mày đã hứa chia phần cho bọn tao. Giờ tao muốn phần của mình.”

Giọng Gus nhỏ hơn và đôi mắt hắn loé lên tia cảnh cáo với Raul.

“Mày sẽ được tiền khi nào tao được trả.” Hắn nói khẽ. “Giờ hãy nhớ xem mày đang ở đâu và câm miệng lại đi. Bọn ta đến để ăn, và sẽ ăn. Khi nào ăn xong tao muốn mày cút đi cho khuất mắt tao. Hiểu nhau chưa?”

Gomez gật. Trong khu của mình gã là một tên cộm. Nhưng so với Gus Huffman, gã chỉ là thằng học việc, và gã biết điều đó.

“Không vấn đề gì, người anh em.” Raul nói. “Tao chỉ nói thế thôi. Mày biết rồi đấy. Không có ác ý gì, được chưa?”

Gus đẩy thực đơn về phía gã. “Câm miệng và chọn món đi.”

Raul làm theo lời Gus.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#shara