Mảnh đất lắm người nhiều ma 1-15

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Một - VN thu quan

Không dè cái đói giáp hạt này lại có đủ móng vuốt 

nhảy xổ vào cả xóm Giếng Chùa, xóm vẫn quen đứng 

đầu về cái sang cái giàu toàn xã. Nơi đây nếu 

tính từ phía bắc xuống, là địa danh cuối cùng của 

đất trung du. Có đủ sông ngòi đồi sim: ruộng lúa. 

Làng vẫn còn khung cổng tiên cổng hậu như hai ụ 

súng ở đầu bắc và đầu nam. Những phiến đất nung 

màu gan gà vừa to vừa dày ốp khít vào nhau, chắc 

đến đập không vỡ. Con đường chính giữa làng dài 

một cây số được lát bằng gạch vồ mua từ dưới Hương 

Canh - Vĩnh Phúc, mà lát nghiêng, nên bây giờ 

vẫn chắc khừ. Có số gạch lát đường này là bởi ngay 

xưa làng có lệ mỗi đám cưới phái nộp 200 viên. 

Trai làng lấy gái làng nộp 200 thế tức là môi bên 

có một trăm viên thôi. Nhưng nếu trai gái làng 

đi lấy vợ chồng ở đồng đất khác, thì gia đinh cứ 

cũng phải chồng đủ 200 viên. Thế mới biết ngay một 

làng nhỏ như cái mắt muỗi, người ta cũng không 

khuyến khích xuất dương, không thích mở cửa ra 

ngoài! Làng còn quy định những người đỗ đạt từ tú 

tài trở lên được nhận chức từ lý trưởng trở lên, và 

cả thành phân này nữa, ấy là những cô theo cách 

gọi nôm na là hoang thai cũng phải nộp 200 viên 

gạch vồ. Thành thử đường làng được lát bằng những 

niềm vui hạnh phúc, sự kiêu hãnh, chức danh và 

được lát bằng cả nỗi khổ đau ê chề của những mảnh 

đời.

Nếu ví cả xã là cái bánh, là bông hoa, thì Giếng 

Chùa là cái nhân đường cái nhị mật: nghĩa là nơi 

có lề thói nhất, cái sang và cả cái gàn của Giếng 

Chùa cũng là nhất xã, ở đây liên tục có những 

người đỗ đạt và nhưng người có địa vị chức sắc, dù 

chỉ là chức sắc ở xã, nhưng cũng lại thường xuyên 

có một hai anh chàng chày cối, đến mức dù thời 

nào thì những gã xắng cá này cũng như sống ngoài 

vòng pháp luật! Từ lâu số nhà ngói ở đây vẫn đứng 

đầu toàn vùng, mà lại chơi cầu kỳ lợp toàn ngói 

ta, nhỏ và đều tăm tắp như vảy rồng... Trông rêu 

phong và cổ kính.

ấy thế mà vố này cũng đói vàng mắt! Nhiều nhà nấu 

cháo phải độn thêm rau tập tàng. Nhiều nhà luộc 

chuối xanh chấm nuối. Đến cả bà Đồ Ngất, người vẫn 

quen ăn trắng mặc trơn, phiên chợ nào cũng xách 

làn mây đi mua hôm thì chân giò lợn ỉ, hôm thì, 

cá chép cả con còn giãy đành đạch.

Giờ cạn vốn, liền sáng chế ra bánh mạt ngô, thứ 

ngô trước đây chỉ dùng chưn gà, để ăn trừ bữa. Còn 

ông Quản Ngư, người được cả làng khen là chí lớn 

gan to, nước lã mà vã nên hồ. Bởi trong lúc khối 

anh có của nhưng chỉ ru rú bám váy vợ ở xó nhà, 

thì ông Quản với hai bàn tay trắng đã từng chu du 

đến nửa vòng trái đất. Hết Tân đảo, Tân-gia-ba, 

rồi mò mẫm sang đến cả đất tây từ thời còn bóng 

tối.

Khi về ông đã diện oách một bộ đồ dạ màu đất sét 

từ chân tới đầu.Quần dạ, áo dạ đính cúc đồng, mũ 

dạ tròn như cái nồi đồng úp ngược, lại thêm đôi 

giày săng đá, giữa mùa đông mà cũng trông bức 

đến phát sốt? Rồi lại thêm bộ răng vàng sáng choé 

cả mồm! Nói cái gì ông cũng độn thêm tiếng Tây, 

lưỡi cứng đá ngược lên tận mái ngói, đến quăng cả 

mồm miệng! Và mặc dù ông vẫn ở với bà vợ yếm trắng, 

răng đen mỏ quạ và vẫn chẳng có chức sắc, chẳng đỗ 

đạt gì; nhưng ông Quản cũng có quà mừng của kẻ hồi 

hương là biếu làng 200 viên gạch vồ Hưng Ký, viên 

nào viên ấy cứ vuông bằn bặn như những cái gối 

đầu, chín đỏ lìm lìm. Khối người còn rỉ tai là ông 

có của chìm nữa. Hỏi ông chỉ cười tủm tỉm loe loé 

ánh vàng! Bộ dạng rõ là coi tiền bạc chẳng ra gì, 

hãi thế!

Nhưng giờ thì toé loe ra. Đám thanh niên hay 

thóc mách vừa cười sùng sục, vừa kể là có đến gần 

tháng nay bố con Quản Ngư đóng eửa ăn cháo cám, 

rồi làm bánh đồ cách thuỷ cho lạ miệng, nhưng 

nguyên liệu cũng vẫn là cám. Vì là người lịch sự 

ghét kêu rên, nên ông Quản không muốn người khác 

nhìn thấy sự khốn cùng của mình. Tưởng kín, nhưng 

ông quàn lại hớ không biết cám có chất kết dính 

rất cao, ăn mà không độn thêm rau là sẽ táo bón 

kịch liệt. Vì thế thằng con út gần mười tuổi của 

ông đã kêu la oai oái vì răn đến vã mồ hôi hột 

mà vẫn không sao đi được? Bà Quán đã qui tiên 

vài năm nay, nên cuối cùng đích thân ông Quản 

bảo thằng cu ôm vào gốc khế, chổng mông lên để ông 

lấy que... đào

- Có thật không? Hay lại chỉ mách qué, chúng mày 

thì cái gì cũng nhăn nhở cười được.

Mấy người già không tin, mắng l thì anh chàng ở 

cạnh nhà ông Quản liền vừa tả tỷ mỉ cái pha bi hài 

kịch kia, vừa làm cả động tác của bố con ông Quản, 

khiến mấy ông già cũng cười đến trơ cả lợi? Cái 

cười lúc đói cũng không ra tiềng, lại bóp bóp cho 

héo quắt cả mặt, trông mà nẫu ruột! Keo vật giáp 

hạt này sẽ vần cho dân làng đến mê tơi dây!

Những nhà thường xuyên túng bấn thì lây giờ đứt 

bữa hẳn. Nôi niêu lúc nào cũng há miệng rỗng, 

nhãn như đâu bụt!

Nhưng mặt người hao gầy, nhớn nhác hớt hải cứ tường 

như vội vã đi đâu nhưng kỳ thực chẳng có gì hết, 

cứ ra vào quanh quân với cái bụng đói èo èo! 

Đường làng đầy rác rưởi và phân trâu phân hò. 

Toàn nhặng xanh bay đứng yên tại chỗ như những cái 

dấu chấm đen giữa thinh không dọc lối đi.

Nắng đầu hạ đã lên một lúc lâu mà làng xóm còn 

trễ nải như con gà gật. Gió thổi vu vơ trên những 

lùm tre vàng xác, càng khiến nhưng ngõ làng 

trống vắng đến ngẩn ngơ. 

Trong chiếc lều thủng vách nứa ở ngã ba đầu làng, 

nắng chiếu qua lớp cỏ tranh đã ải, thủng lỗ rỗ. 

nắng tưới khắp lên chỗ lão Quềnh nằm. Tren chiếc 

võng tre ọp ẹp không mùng màn, lão Quềnh nằm duỗi 

dài thành một đống. Lão thì không sợ muỗi ruồi, 

vì da lão dày lắm. Người lão to sù sì, tính nết 

ngơ ngơ ngác ngác như ngỗng lạc đàn, đi đứng cứ 

dềnh dàng thồn thộn. Bộ nhớ và trí khôn của lão 

thì dại như thế này: Vắt chiếc áo, vắt khăn mặt 

lên vai, nhưng lại loay hoay cả giờ đi tìm khăn 

tìm áo. Ngày hợp tác còn ăn nên làm ra, nên tình 

thương và sự ưu đãi đã với tới tất cả nhưng hoàn 

cảnh khốn khó; từ bà già cô quả không chồng không 

con, bỗng chốc có một lô cháu chắt, ấy là bà được 

ra làm ở nhà giữ trẻ, nơi đã có mấy cô bảo mẫu óng 

á trông mềm như bún, nhưng đám con trại lại gọi họ 

là các cô nuôi dạy hổ!. Còn lão Quềnh hữu dũng vô 

mưu, chỉ quen làm thuê làm tớ, thì ban chủ nhiệm 

hợp tác xã cho Quềnh được làm chủ, mà làm chủ tập 

thể hẳn hoi. ấy là lão được đưa ra trại trâu, chăn 

dắt một tập thể 50 con trâu. Chiều tối lão cưỡi 

con trâu mộng to nhất lùa cả đàn về. Đếm bày trâu 

đi trước có 49 con, thế là lão hoảng hốt lên. Lùa 

trâu vào chuồng cả con mộng lão cưỡi cũng vào nốt, 

cài toang xong, lão chạy bổ đi tìm con thứ 50! 

Đến đêm người ở trại đốt đuốc đi tìm lão nói rằng 

đủ 50 con trong chuồng rồi. Lão về đếm thấy đủ 

thật, nhưng trong đầu vẫn không hiểu được con thứ 

năm mươi chui ở đâu ra!

Lão Quềnh ra đời như để hứng chịu tất cả những sự 

ngờ nghệch khờ khạo cho dân Giếng Chùa. Đất làng 

này nghe nói từ khi khai thiên lập địa, thầy địa 

lý đă bảo là ở vào cái thế có vượng nhưng nghịch, 

cho nên từ xửa xưa đã có Câu ca: Ai may được ngọc 

Giếng Chùa. rủi ai núi Bụt thả bùa ma trêu

Vậy thì từ thời còn chùa và còn chiếc giếng làng 

to bằng gian nhà kê đá ong trước cửa tam quan đã 

ai bắt được ngọc ở đấy chưa? Chịu! Với lại dù có 

được thì người ta cũng ỉm đi thôi, chứ ai dại gì 

mà khoe mình vớ được của! Bằng mời trộm đến nhà! 

Còn ma núi ông Bụt, vì quả đồi ở đầu làng có dáng 

một ông bụt ngồi, thì nghe đồn thật nhiều chuyện. 

Những người già ở đây kể rằng núi ông Bụt ngày xưa 

rậm um tùm: những cây cột đình chật một vòng tay 

ôm là chặt từ đấy. Trong núi có hố, báo, vượn 

trắng, trăn gió, rắn đầu vuông có mào đỏ chon 

chót như mào gà, và đặc biệt là nhiều ma? Nhiều 

người quả quyết mình đã gặp ma núi ông Bụt. Mấy bà 

hàng xáo hay đi chợ sớm, bảo có lần đến gần núi 

ông Bụt thấy một người đàn ông đi trước mình chỉ 

chừng mươi bước chân dáng đi lại ve vẩy như đàn bà 

trông chậm mà không tài nào theo kịp. Gọi mãi 

người ấy mới quay lại, thì thấy mặt trắng như nặn 

bằng phấn, miệng bỗng nhe ra cười khanh khách, 

cười liền một hơi không dứt, hơi phả ra lạnh toát. 

Chớp mắt một cái, người đàn ông biến mất. Phiên 

chợ ấy mấy bà hàng xáo vốn đành hanh mà thành ra 

lú lẫn cả. Người thì bán một lại cân hai, người 

thì giao gạo mà quên nhận tiền, thật là đổ của 

xuống sông. Ma trêu đấy! Một ông đi đánh trúm 

lươn thì bảo lúc sẩm tối, ông đang thả trúm ở đầm 

dưới chân núi, bỗng nghe tiếng ru con lơ lửng phía 

trên đầu rừng; ngửng lên thì thấy chót vót trên 

cành si một người đàn bà tóc xoã phủ kín mắt, tay 

ôm cái bọc trắng toát vừa nhún cành si rung tít 

như đưa vong, vừa ru nỉ non như than như oán. Hôm 

sau ông đi đổ trúm, thấy trong ống toàn rắn nước!

Ngày ấy có một chàng trai tuổi mới mười bảy, nhưng 

lớn phổng phao như đã thanh niên. Mặt mũi thô 

vụng thật thà. Bỗng một dạo cứ ăn cơm tối xong là 

chú chàng biến đi đâu chừng giã xong một cối gạo 

mới về. Hỏi, cu cậu chỉ ậm ừ con đi đàng này rồi 

lảng ngay. Cha mẹ sinh nghi. Hay thằng này đã tự 

kiếm được món nào? Trò đời trai tơ mới lớn thì 

không say gì bằng say gái. Chỉ có gái thì chú 

mày mới chăm lỉnh như thế. Một tối, khi cậu vừa đi, 

ông bố liền lẳng lặng bám theo, thì thấy chú xăm 

xăm đi tắt qua cánh đồng. Tới gốc gai đầu núi ông 

Bụt, bỗng một tiếng hỏi rất thanh, như reo từ 

trong nhưng chùm rễ rùm roà như một cái ô dưới gốc 

si già. Rồi tiếng một người con gái thì thầm, 

không rõ cô ả nói gì, cứ dấp da dấp dính ra điều 

vui lắm. Phía sau ông bố nén cười, đã bảo mà! Cứ 

tưởng cậu cả khù khờ, thế mà khá? Con hơn cha là 

nhà có phúc! Nhưng con bé nào mà tiếng chua chua 

nghe lạ thế nhỉ? Ông bố còn đang dùng dằng nửa 

muốn tò mò nghe chuyện, nửa muốn bỏ về, thì đôi 

tình nhân dìu nhau từ trong gốc si đi ra. Và, 

tức thì một đàn đom đóm bỗng từ đâu túa dậy con 

nào con ấy to khác thường. Chúng cùng chớp cánh 

một lúc, khiến cả khoảng không sáng rực lên như 

thắp đèn. Trong quầng sáng quái đản đó, ông bố đã 

nhìn thấy một người con gái trắng lôm lốp từ chân 

tới đầu. Tóc rất dài, buông xoã, khiến khuôn mặt 

lấp vào trong mờ ảo không sao nhìn rõ được. Chân 

đi nhẹ như lướt. Ông bố chớp mắt, định thần để nhìn 

cho rõ, thì thấy người con gái kia chỉ là một cái 

bóng trắng, một hình người chứ không phải người. 

Cái hình người ấy đi tựa vào vai con trai ông. 

Đang chập chờn ở bên trái, chớp mắt một cái, lại 

thấy cái bóng đi bên phải cậu cả, và rất nhanh đã 

hiện rõ ìô lộ một người đàn bà đẹp như tiên sa. 

Cậu cả bước thập thỏm như một người mê, mặt mũi 

cũng hoàn toàn như người trong mộng. Bầy đom đóm 

cứ chao lượn theo hai bóng người. Ông bố đứng vùng 

dậy, thét lên: Ma!, thì một tiếng kêu cũng vỡ ra, 

nghe sắc lạnh như đập một cái bình sứ. Trời đất tối 

sầm lại. Ông bố lảo đảo, rồi người cứ mê thiếp đi.

Rồi bố con ông về được tới nhà bằng cách nào? Ông 

không sao hiểu nôi. Vì khi tỉnh dậy ông đã thấy 

mình nằm ở giữa nhà, xung quanh đèn nến hương khói 

nghi ngút. Ông thầy cúng mặc áo đỏ, đội mũ giấy, 

vừa gõ chập cheng, miệng vừa đọc lầm rầm. tay cầm 

roi dâu, đó là roi trị tà của thầy cúng, quất vun 

vút vào không khí. Hôm sau ông dứt cơn, khỏi. 

Còn cậu cả thì vẫn li bì. Đang nằm thiêm thiếp, 

cậu bỗng vùng dậy, tay đưa lên bới tóc, kiểu bới 

tóc của đàn bà, rồi khóc như mưa như gió. Vừa khóc 

vừa kể lể ai oán, rằng người ta cướp chồng của tôi, 

đầy đoạ tôi ở gốc si sương gió một thân một mình. 

Đang lâm li sướt mướt, lại bỗng rú lên cười sằng 

sặc, tiếng cứ lảnh vót lên, sắc như lưới dao cạo 

vào tinh nứa! Cười đến đâu hai bàn tay cứ chéo 

vào nhau đen đét đến đấy. Rầm rĩ một hồi, rồi cậu 

bỗng ngã kềnh ra, mặt quay vào tường, lịm phắc như 

tắt thở!

Thầy phải cúng liên tiếp ba đêm bảy ngày để xin 

lại hồn vía cho cậu cả. Ngày cuối cùng phải thửa 

một hình nhân cao lớn bằng đúng cậu cả, sắp một cỗ 

xôi và một con gà trống chưa đạp mái. Buổi tối 

mang ra gốc si tạ. Hình nhân thì hoá vàng còn 

mâm có thì để lại. Khi ra về thầy cúng còn đóng 

một cái bùa đựng trong ống nứa xuống đất, tức là 

yểm đề ma mất đường theo. Đêm ấy người ta nghe thấy 

tiếng khóc tỉ tê trong những chùm rễ si. Sáng ra 

nhìn cỗ xôi con gà vẫn còn nguyên, nhưng nhớt 

nhát có mùi tanh. Xôi gà mà lại tinh ma vày đấy! 

Còn đom đóm thì chết dày quanh gốc si như một sự 

tuẫn tiết, vun được một đống con nào con nấy to 

bằng đầu đũa.

Cậu cả ốm một trận thập tử nhất sinh rồi khỏi. 

Nhưng từ đấy cậu cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, lúc nhớ lúc 

quên. Hỏi đâu cũng không được vợ. Cả những cô sứt 

môi lồi rốn cũng không dám lấy, vì sợ ma vẫn ám 

trong người cậu. Ông bố nghe có người xui: suốt 

mùa hè năm ấy cứ đi rình để bắt con chim cuốc thất 

tình. Họ bảo có những con chim cuốc bị người ta 

đánh bẫy mất bạn tình, buồn, nó không ăn không 

uống, tìm một chỗ khuất lói đứng kêu xà xã cho đến 

chết. Câu nói ra rả như cuốc kêu chính là chỉ 

những con cuốc đơn côi này. Mà thật kỳ lạ, bao giờ 

nó cũng đứng một cành nhó để những ngón chân quắp 

chặt vào cây. Khi hết hơi chết, nó lộn đầu trở 

xuống, treo lủng lẳng. Mới hay giống sinh vật nào 

đã dám chết vì tình cũng đều chọn một tư thế hiên 

ngang đến rùng rợn! Cũng như ở sông nước có những 

con cá sấu bị lẻ đôi, nó đã tìm nơi có cành cây 

mọc là ra mặt nước, rồi nhảy ngược từ dưới nước lên, 

táp đuôi ngoắc cứng vào cành cây. Cứ thế nó treo 

mình thẳng đứng như một dấu chấm than giữa trời và 

nước cho đến chết! Nhưng trường hợp này hiếm lắm, 

vì cá sấu là giống tham ăn - Đã xấu lại còn tham! 

Mà phàm giống gì cũng vậy, đã tham ăn thì hay sợ 

chết!

Lại nói những con cuốc chết vì tình. Người ta bảo 

xương của nó làm bùa yêu rất nghiệm. Đốt lên thành 

than, nhúng một tí vào nước cho đối tượng uống, 

thế là cứ theo không? Ông bố quyết cứu vớt cái 

cung thê cho cậu cả bằng con đường bùa mê thuốc lú 

này. Tối nào ông cũng lần mò đi nghe cuốc kêu. 

mặt mũi nhớn nhác như người đã hoá dở! Thế rồi chưa 

tìm thấy con cuốc tử vì tình thì chính ông đã tử! 

Ông chết nhẹ như đùa! Đêm nằm ngủ thế rồi ông 

không dậy nữa! Từ đấy gia cảnh sa sút nhanh. Cậu 

cả dùng cái sức cơ bắp của mình đi làm thuê làm 

mướn kiếm ăn. Làm như trâu nhưng chẳng biết mà cả 

vòi vĩnh, vì thế ai có việc gì cũng mướn cậu, và 

ai cũng có quyền đùa bỡn cậu. Ngay cả cái tên 

Quỳnh đẹp đẽ của cậu người ta cũng biến báo đi 

thành Quềnh - Cậu Quềnh, anh Quềnh và bây giờ xế 

bóng là lão Quềnh 

Có thật tiểu sử lão Quềnh như thế không? Hay chỉ 

là giai thoại người ta dựng lên để tăng phần linh 

thiêng cho núi ông Bụt? Nhưng đấy là núi ông Bụt 

ngày xưa. chứ bây giờ núi ông Bụt đã bị phạt trụi 

lấy gỗ làm củi, bị đào bới để tìm đá ong, lấy đất 

sét nung gạch, thì không ai còn gặp ma quỷ đâu 

nữa. Thời buổi táo tợn đến ma quỷ giọi tàng hình 

cũng hết chỗ trú. Thế thì ma quỷ đi đâu? Hay ma 

quỷ đã bị người trần cắt hộ khẩu? Mấy anh trợn trạo 

đã cười cười một cách láu cá hỏi ông thầy cúng mà 

ở đây vẫn gọi là cô thống Biệu như vậy. Biếu là 

tên cúng cơm, còn cô thống là một từ chung để chỉ 

những người làm nghề cúng bái. Mới hay nghề nghiệp 

nào cũng có tướng mạo riêng của nó. Đã là thầy 

cúng, thầy mo, thì cái cần đầu tiên là phải có 

dáng đồng cô bóng cậu. Đi đứng ẽo ợt, nói giọng 

kim râu ria chả có và cái ăn cái uống cũng như 

đàn bà con gái hơn là giống đám mày râu. Nghĩa 

là cô thống Biệu mỗi bữa chỉ uống một chén rượu, sợ 

ớt sợ tỏi, ưa của chua hơn là ưa cay ưa chát. Năm 

nay đã gần chín mươi tuổi, non một thế kỷ đã đi 

qua cái dáng mảnh mai của cô. Với bộ mặt nhọn như 

mặt chim, nước da mai mái, cả mép cả cầm nhẵn thín 

không một sợi râu, nên nhìn cô không thể nào 

đoán được tuổi. Răng cô cũng nhỏ như răng phụ nữ, 

và vẫn chắc. ăn trầu thuốc cứ đen nhức, môi cắn 

chỉ. Cô đi thõng thà thõng thượt, nhưng cô cũng 

có con đàn cháu đống hẳn hoi. Thì ra cô vừa giỏi 

việc âm vừa tài việc dương! Nghe mấy anh chàng mặt 

sùi trứng cá, vừa cười nham nhở, vừa hỏi về ma núi 

ông Bụt bị người trần cắt hộ khẩu. Cô thống Biệu đã 

giương cặp mắt bạc phếch, trông chỉ rặt lòng trắng, 

tưởng như mắt cô đang toả ra một làn sương khói, 

và cô đã nói với cái giọng thanh thảnh thế này:

- Đừng tưởng đất này đã hết ma. Ma còn đang đẻ 

sinh đôi sinh ba nữa cơ đấy! Các vị có nhớ hôm 

trước hợp tác họp để đòi chia ruộng khoán không? 

Cứ như cuộc chọi gà, chọi trâu ngày xưa! Chả ai 

chịu nhả miếng nào. Cả làng có mỗi xứ Đồng Chùa là 

thượng đẳng điền, thì từ ông cán bộ đến bà xã 

viên, ai cũng muốn vơ giật về mình. Có đời thuở 

nào anh em ruột cũng cãi nhau, tranh nhau đất 

hương hoả ngay ở đấy. Vợ chồng ông Tý Hỏi mới kinh, 

bỏ nhau mỗi người một niêu, hợp tác giao ruộng, ai 

cũng tranh thửa tốt. Vợ chồng thách nhau giữa 

làng: mày mà làm ông phá. Mấy là đòi ruộng cũ 

không được thì bù lu bù loa lên, cứ nhao nhao như 

chào mào ăn dom! Xưa nay người ta chỉ sợ người chết 

chứ ai sợ người sống? Có đúng không hở? Chỉ sợ ma 

chứ ai sợ người. có phải không hở? Thế mà hôm ấy 

tôi đi nhận ruộng hộ con cháu, thấy hốt quá Nhìn 

chả thấy người đâu, toàn ma. Những thân người sống 

ngồi đấy mà mà cấm còn nhận ra ai nữa.

Càng nhìn càng thấy đúng là những ụ mối, những 

bao bì dựng ngược, cái cao cái thấp lố nhìn đây 

nhà! Những con ma tham, ma ác từ đấy chui ra, 

con nào cùng lành chanh lành chói mồm năm miệng 

mười, chả còn bùa đâu mà yểm cho xuể! Đấy, các 

người đừng có vội tí toé, ma nó vẫn ngủ gà ngủ gật 

ngay trong lòng các người!

Lão Quềnh bỗng thức giấc. Cái đói thúc lão dậy, 

lão dụi cặp mắt đờ đẫn, dỏng bộ tai to nhưng mong 

dính: mỏng đến độ nhìn thấu qua được. Những người 

sính xem tướng bảo cái tai thỏ ấy dù có cắm vào 

cái đầu con cáo thì cũng vẫn là đồ bỏ, vẫn tứ thời 

kiết xác. Lão lắng nghe. Đúng là có tiếng trống 

phát dẫn từ trong làng. Anh nào lại chết đây! 

giữa lúc này không biết chết no hay chết đói. 

Suốt hai ngày nay lão chỉ độc nắm ngô, rang lên 

nhai, rồi uống thật nhiều nước vào mà vẫn không 

lấp được cái khoảng trống quá lớn trong bụng lão, 

vì sức ăn của lão nói như người ác khẩu là như hùm 

đổ đó!

Lão quay sang khe hở của phên liếp, nhìn về phía 

khu nhà uỷ ban xã. Cả một dãy nhà ngói bên ấy cửa 

đóng im ỉm như mồm thằng câm! Có đến hơn tuần nay 

các ông bên ấy không đánh chén, khiến lão mất chỗ 

dựa! Đã hơn năm nay lão sống dựa vào những bữa 

rượu kia. Đều đặn tuần nào cũng vài ba cuộc. Không 

uỷ ban thi Đảng uỷ, rồi ban quản lý hợp tác xã, 

rồi các đoàn thể. Hội họp lu bù Các ông ấy càng 

hội họp nhiều thì lão Quềnh càng thích! Vì động 

họp là động thớt. Cái mẹo ấy là của tay Tám lé thợ 

cạo, chủ cái quán này. Người ta gọi là Tám lé vì 

mắt hắn hiếng lệch đi như xe sang vành, nhìn cứ 

xiên xiên. Có lần đánh kéo Tám đã xiên cả một 

mảng da đầu của khách. Suốt ngày được sửa gáy vít 

đầu thiên hạ: mà Tám vẫn không đủ vắt mũi đút 

miệng.

Người đã như con hạc thờ, lại một vợ bốn con, quanh 

năm hết giật tạm lại vay nóng. Vì nợ hợp tác xã 

nhiều quá, vợ chồng Tám lại phải xung phong đi 

kinh tế mới trên huyện miền núi để dược xí xoá ( ở 

đây có lệ thế ). Trước hôm đi, đến uỷ ban lấy 

giấy. Vừa ra đến đây thì Tám lé gặp lão Quềnh đi 

đào ao thuê. Tám liền kéo Quềnh vào cái lều này, 

rút trong túi ra mót cút cổ rụt, chuyền tay nhau 

tu. Đang lúc đói, rượu dẫn nhanh như điện. Đến khi 

dốc ngược cái cút, thì cả hội cùng lâng lâng từ 

đầu đến tận gan bàn chân. Tám liền bá vai Quềnh, 

đôi chân cò hương với cái đầu gối củ lạc nhún 

nhảy, cái giọng kim eo éo được tắm rượu đã thành 

nghề ngà: Anh Quềnh rằng này anh Quềnh ơi, ngồi 

nghe ta nói cách ăn chơi.

Tưởng say nhưng hắn xui khôn đáo để. ở người 

nghiện, rượu là một thứ động cơ, phát động được cả 

sức lực và trí tuệ. Tám bảo Quềnh bỏ phứt cái túp 

lều ở trong xóm. Nằm cạnh nhà người em là lão 

Quàng không những chiếm hết cái khôn cái ngoan, 

mà còn chiếm hết cả ao cả vườn, chỉ xí lại cho 

Quềnh một góc ớm nắng ven vẻn chừng dăm cái nong. 

Vợ chồng Quàng trước cũng túng, bóc ngắn cắn dài, 

nhưng dăm bảy năm nay, kể từ ngày Quàng được giữ 

chân quỹ tín dụng của hợp tác xã thì đã nhấm khá 

dần lên. Nhưng có khá mấy thì vợ chồng Quàng vẫn 

tham và kiệt, chỉ khi nào có những việc thổ mộc 

nặng nhọc thì vợ chồng Quàng mới nhớ đến ông anh 

Quềnh. Vậy thì ra đây, cạnh mặt đường này ai có 

công có việc đến nhờ cũng tiện. Tám lé tặng lại cả 

chiếc chõng tre và chiếc ghế bố, dụng cụ giúp Tám 

cạo râu ngoáy tai cho thiên hạ để kiếm gạo. Nhưng 

điều quan trọng là từ đây nhìn xéo sang nhà uỷ 

ban rõ mồn một. Hễ bên ấy động đũa động bát là đây 

biết ngay. Muốn ăn thì lăn vào bếp. Mà có lăn 

vào thì cũng là ăn của dân của xã chứ chẳng phải 

của mấy ông. Nhưng dẫu vậy - Tám dặn Quềnh cũng 

phải biết phận. Thấy động thớt là đi cổng sau, vào 

nhà dưới. Thì đi đường nào mà tới được mâm chả tốt! 

Cái cổng sau ấy, cái bếp ấy nhiều phen đã cứu Tám 

những bàn thua trông thấy! Giờ lão Quềnh tiếp thu 

cái vị trí lợi hại này, đúng là lão bóng được 

nhiều bữa nhờn môi. Có hôm lại thủ được cả lưng 

chai rượu về uống ngâm nga suốt đêm. Thế mà đã hơn 

tuần nay không thấy bên ấy họp hành gì! Hay họ lại 

kéo nhau ra quán bà Lợi béo có cái mông lồng bàn 

ở trên chợ kia. Quán ấy trước chỉ bán thuốc, bán 

nước nhi nhằng. Mới đây đổi sang quán ăn. Trước 

cửa treo lủng lẳng chân giò và những con gà luộc 

tứa mớ vàng nhóng nhánh. Gian bếp đằng sau lúc 

nào cũng khói um tùm, thơm inh. Thôi đúng rồi, 

họ đã dời mâm lên ấy rồi. Để khỏi phái khua dao 

thớt, vừa tiện vừa kín, tránh được mồm được mắt 

thiên hạ. Thế thì nguy cho lão Quềnh này quá! Mấy 

ông đúng là uống nước cả cặn? 

Lão Quềnh vừa quảy người ngồi dậy, lại thêm mấy 

chiếc nan tre gãy roàn roạt, thì bên ngoài bỗng 

có tiếng gọi láo pháo:

- Đi uống rượu đám ma đi ông Quềnh! 

- Bây giờ còn ngủ hả ông Quềnh? Hay đêm qua có bà 

nào trú nhờ trong ấy!

Vừa dứt lời một đám thanh niên tuổi những những đã 

ùa vào đầy căn lều. Đám trai làng đang tuổi ăn 

tuổi lớn như những chú nghé tơ, chân tay khềnh 

khoảng chưa định hình, nhưng da thịt trông óp quá, 

mặt mũi thô gầy góc cạnh. Cái thiếu, cái đói hiện 

lên từ ánh mắt mệt mỏi đến nước da mai mái và cặp 

môi khô tông tốc! Được cái vẫn tếu. Chúng tìm 

điếu, rồi thản nhiên bẻ phệnh vách làm đóm, kéo 

thuốc lào. Cái điếu cạn nước kêu nghìn nghịt như 

người hen tắc cổ. Anh chàng mặt sần sùi trứng cá, 

vô bồm bộp vào miệng điếu, giọng khảo khảo trong 

khói thuốc:

- Điếu điếc gì mà khô rông rốc như hang chuột 

ruộng cạn. Mấy hôm nay bố ngót diều lắm hử? Thì đi 

đào huyệt với cánh này thì sẽ có cơm rượu tử tế. Cụ 

cố nhà họ Vũ đã tịch thì không phải chuyện đùa. 

Ông Phúc đã trữ lợn to hàng năm nay rồi.

Lão Quềnh vớ cái áo bộ đội tàu tàu cứng như mo 

nang vẫn cuộn làm gối, đưa lên lau mặt, rồi vừa 

ngáp vừa nói ề à:

- Thảo nào có tiếng trống phát dẫn từ bảnh mắt. 

Hoá ra ông cố Đại chết à? Sướng thế sao lại chết? 

Mà ông cố vẫn ở bên nhà Quý chứ.

Đám thanh niên cười hô hố:

Đúng là trí nhớ ông Quềnh! Thế hôm trước ông ăn 

xôi ăn chuối mừng thượng thọ cụ cố ở nhà ai? Nhà 

ông Phúc hay nhà Quý?

Lão Quềnh ờ ờ như sực nhớ. Đám thâm niên rít thuốc 

xong lôi kéo lão đi, nhưng lão trằn lại. Đám 

trai tráng này được chủ nhiệm hợp tác xã gọi đến 

để đi đào huyệt cho ông cụ cố họ Vũ mới chết đêm 

qua. Không phải lão Quềnh ngại không ai mời mà 

đến, không mời thì lão cũng đến! Lão vẫn khoe là 

đã từng ở với ông Phúc con cả cụ Cố, trưởng chi họ 

Vũ Đình bây giờ cùng một đội du kích từ thời Tây 

kia (kỳ thực ngày ấy du kích tuyển anh thanh 

niên Quềnh vào để thêm một tay đào hầm. vì Quềnh 

đào khoẻ như một con tê tê dũi đất). Cho nên bố 

ông Phúc chết thì lão phải đến chứ. Nhưng thư thư 

đã. Chứ bây giờ đanh đói run cả gối mà ra đòi đào 

huyệt thì có khi đến ngã ngay xuống đấy! Lão 

Quềnh vục dậy đi ra sau vườn, nơi còn mấy dây 

khoai lang bò nguều ngoài, lão hái tuốt tuột từ 

gốc đến ngọn. ít quá, lão nhổ cả rễ, vặt những củ 

bằng ngón tay, rửa qua quít, rồi cho vào chiếc 

xoong cụt tai đun lên. Một nồi canh nhộn nhạo vừa 

củ vừa lá, rắc thêm tý muối trắng. Lão húp sịt 

soạt, nuốt chửng, như voi uống thuốc gió ăn giở 

miệng, con tì con vị được đánh thức, cái đói càng 

tăng thêm, bụng càng thèm cơm đến cồn cào. ấy thế 

mà có người ăn không hết của lại lăn ra chết. Được 

sướng mà phải chết thì cũng là khổ! Vừa mới hồi 

trong năm, lúc gặt hái xong, cả chi họ Vũ Đình 

làm lễ thượng thọ mừng cụ Cố tròn 90 tuổi thật là 

thịnh soạn. Ông Phúc đứng chân chủ họ cho mời hết 

lượt các chủ hộ xóm Giếng Chùa. Ai đến cũng được 

ăn xôi đậu xanh và chuối trứng cuốc. Lão Quềnh 

cũng đến. Người thì đến vì được ăn. Người thì đến 

vì tò mò. Bởi cụ Cố đã nhất quyết từ mặt ông Phúc 

có đến hơn 30 năm nay rồi. Lâu nay cụ Cố ở với Quý 

là em ông Phúc, mặc dù vợ chồng Quý làm ăn chỉ 

giật gấu vá vai chứ không được dư dật như ông 

Phúc. Nhưng thiếu vay đâu thì vay, chứ cụ Cố nhất 

quyết không cho vợ chồng Quý vác rá đến ông anh 

giàu có. Tết nhất giỗ chạp cũng mặc. Ông Phúc làm 

nhà ngói năm gian, đốt pháo đùng đùng hôm đặt 

cây nóc, cụ Cố cũng bỏ ngoài tai! Mấy đứa con ông 

Quý về khoe là bác Phúc mới mua xe eúp và máy 

nghe nhạc, vặn mở suốt ngày ầm ầm như có đám cưới, 

thế là cụ Cố la toang lên, rằng là chúng mày có 

để cho ông yên không! Hơn ba mươi năm mối hận của 

Cụ như vẫn chưa nguôi. Đại - Sang - Phú - Quý - 

Lộc - Tài, tên bố con cụ Cố như vậy, nhưng cụ bảo 

lại hóa ra là đại vô phúc! Bố con cụ đã làm trò 

cười cho thiên hạ! ấy là hồi cải cách ruộng đất, cụ 

bị quy là địa chủ. Lúc ấy thanh niên Phúc đang làm 

bí thư đoàn thanh niên toàn xã, vì Phúc đã được 

kết nạp Đảng từ mấy năm trước, khi còn ở du kích. 

Để tỏ rõ mình không bị giai cấp địa chủ nhuộm đen, 

mình đã ly khai nguồn gốc xuất thân, không dính 

dáng gì tới kẻ bóc lột, vợ chồng Phúc ra ở riêng. 

Suốt ngày Phúc bám đội trưởng cải cách. Đội trưởng 

tên là Cường. Nhưng không được gọi là Đội Cường. 

Hôm đầu có người gọi thế đã bị triệu lên xã để giáo 

dục quan điểm lập trường, rằng là chỉ có thời phong 

kiến đế quốc mới có Cai có Đội, chứ ở đây gọi như 

vậy là bôi nhọ thanh danh người chiến sĩ cách 

mạng! Phải gọi là đồng chí Hùng Cường. Đồng chí 

Đội trưởng Hùng Cường. Rồi người ta rỉ tai nhau 

rằng đồng chí Hùng Cường không thích xung quanh 

gọi mình là Đội Cường, bởi vì rằng chính ông cụ bà 

cụ có diễm phúc sinh ra đồng chí Hùng Cường là 

người ở xã bên kia sông chứ đâu xa. Hai ông bà từ 

dưới xuôi tản cư lên dạo có nạn đói năm Dậu. Nghe 

nói quê của ông bà ở vùng toàn đội đầu. Từ thúng 

thóc, gánh lúa, đến việc thổ mộc là đào đất từ 

dưới ao lên, không gánh không vác mà cứ đưa cả 

lên đầu trông khiếp lắm, tưởng như gãy cổ đến nơi. 

Hai ông bà đi đội thuê đội mướn kiếm ăn. Vì thế 

bên xã ấy người ta quen gọi là ông Đội, bà Đội. 

Nghe nói đồng chí Hùng Cường ngày ấy gầy yếu lắm, 

nên bố mẹ cứ gọi nôm na là thằng Còm. Thế mới biết 

sông có khúc, người có lúc: từ thằng Còm đã lớn 

bồng lên thành đồng chí Hùng Cường. Vẫn cao, vẫn 

gầy, da vẫn dính sát vào xương, nhưng giọng nói 

thì thật là người có quyền. Nhất thanh nhì sắc, cứ 

choang choang. Nói một câu là quan trọng một 

câu. Đã có người lân la hỏi chuyên gia cảnh, thì 

đồng chí Hùng Cường vắn tắt mình là thành phần cơ 

bản, bố mẹ đều giai cấp cốt cán; rồi đồng chí chấn 

chỉnh ngay là không nên quá nặng nề tư tưởng gia 

đình, mà phải nghỉ đến sự nghiệp cách mạng trên 

hết. Thế là cạch, không ai dám hỏi chuyện gia 

đình đồng chí Hùng Cường nữa.

Phúc cứ bám riết lấy đội trưởng Hùng Cường. Đến nỗi 

có mấy thanh niên hay thóc mách kháo nhau rằng 

đã bắt gặp đồng chí Hùng Cường đi sâu đi sát quần 

chúng, đến bắt rễ với cô Tý con bà Tẹo ở cuối xóm. 

Nhà chỉ có hai mẹ con, bà Tẹo lại vữa hỏng mắt lẫn 

hỏng tai, chỉ có cô Tẹo tuy xấu người, nhưng phốp 

pháp dễ dãi. Họ bảo thấy đồng chí Hùng Cường đến 

bắt rễ cốt cán để tìm hiểu tình hình của làng, đã 

ăn cơm thịt gà rồi ngủ luôn ở đấy đến sáng sớm hôm 

sau đi cổng ngách về trụ sở. Trong lúc đồng chí 

Hùng Cường đang đỏ mặt lên lúng túng, thì Phúc đã 

gọi ngay mấy thanh niên ấy lên làm kiểm điểm vì 

đã ăn phải đũa của bọn bóc lột, tung tin nói xấu 

cán bộ đội. Họp chi bộ đồng chí Hùng Cường tuyên 

dương Phúc là đã có tinh thần kiên quyết dứt bỏ 

được giai cấp phi vô sản, tự nguyện phục vụ sự 

nghiệp cách mạng của giai cấp công nông. Đêm nào 

Phúc cũng tổ chức thanh thiếu niên đi cổ động, 

đèn đuốc cứ rừng rực như đình liệu, hô Đả đảo bọn 

địa chủ cường hào ác bá đến khản đặc cả tiếng. 

Trống đánh đến bỏng dùi. Rồi đoàn cổ động hô vang 

Đả đảo tên địa chủ bóc lột Vũ Đình Đại! Kiên quyết 

đánh đố tên địa chủ Vũ Đình Đại ầm ầm nộ khí.

Sáng hôm sau Đội tổ chức cho dân làng đấu tố Vũ 

Đình Đại, tên địa chủ có 5 màu ruộng, 3 trâu cày, 

ngày mùa, ngày vụ dám thuê gần chục nhân công 

làm cho nhanh. Mặc dù tên Đại cũng hai bữa cơm 

đèn, làm quần quật như trâu nhưng đấy chính là âm 

mưu của nó ta không được mơ hồ lẫn lộn, vì nó làm 

đế ốp những người vô sản không có tư liệu sản xuất 

phải đi làm thuê làm mướn kiếm ăn, nhưng đã bị 

những tên cường hào như những cái vòi cua con bạch 

tuộc bóc lột đến tận xương tủy. Ta phải vạch trần 

tư tưởng đen tối của chúng ra. Đồng chí Hùng Cường 

đã phân tích sâu sắc cho mọi người hiểu như vậy.

Cuộc đấu tố được tổ chức ở ngay giữa sân nhà Vũ 

Đình Đại. Hai vợ chồng Đại cùng mấy người con; tức 

những người em của Phúc chưa vợ chưa chồng, vẫn ở 

với bố mẹ, tất cả được lùa ra giữa sân như một đám 

hành khất, ngồi bệt xuống giữa vòng trong vòng 

ngoài dân làng. Vợ Phúc cầm cái liềm nhảy choi 

choi trước mặt những kẻ bóc lột, cái mỏ liềm cứ mổ 

trước mặt Vũ Đình Đại, vừa mổ chị vừa kể tội bọn 

chúng đã bóc lột, đã đè nén mình ra sao. Chị kể 

dài dòng và hay trùng lặp quá đến nỗi đồng chí 

Hùng Cường phải nói chị tạm nghỉ cho bớt xúc động 

rồi sẽ đấu tiếp. Đến lượt mình, Phúc bước ra, mở 

đầu bằng câu hỏi:

- Địa chủ Đại, mày có biết tao là ai không?

Ông bố đã trả lời thế này:

- Dạ thưa tôi có biết ông, vì tôi đã trót đẻ ra 

ông!

Đồng chí Hùng Cường đang ngồi bàn chủ tọa phủ 

chiếc chăn hoa, liền đập bàn đánh rình, đứng dậy:

- Địa chủ Đại không được ăn nói xỏ xiên! Đây chính 

là bản chất ngoan cố của giai cấp bóc lột.

- Đả đảo tên địa chủ Vũ Đình Đại xỏ xiên! - Một 

thanh niên cốt cán liền hét lên, thế là tất cả ầm 

ầm như vỡ chợ: - Đả đảo! Đả đảo!

Lời nói gió bay, nhưng lại có những lời như đóng 

dấu chính vào in não mọi người. Đến bây giờ những 

người đứng tuổi ở làng Giếng Chùa này vẫn nhớ như 

in những câu đối đáp của bố con ông Đại - Phúc 

trong buổi đấu tố ấy. Vì thế hôm giáp tết mới đây, 

khi vợ chồng con cái ông Phúc đón được cụ Cố về, 

rồi làm lễ thượng thợ mời cả làng đến dự thì ai mà 

không tò mò ai mà không muốn đến xem bố eon ông 

cháu nhà ấy đối đãi với nhau như thế nào. Một sự 

tái hợp hiếm có. Nhưng duyên do để có được bữa tốc 

hỉ ấy, thì không ai biết được, là một tối kia, khi 

thấy ông cụ đã yếu lắm, một ngày khỏe thì năm bảy 

ngày đau. Ông Phúc đến nhà em trai, và vẫn tư thế 

của người quyền biến, với cặp mắt ba góc nhìn cứ 

ngắm ngắm, ông bắt Quý xua hết vợ con xuống bếp, 

để trên nhà ba bố con, ba người đàn ông rường cột 

của chi họ Vũ Đình có cuộc đàm phán mang tầm cỡ 

chấm dứt chiến tranh!

- Năm nay ông đuối sức lắm rồi - ông Phúc bắt đầu 

vào chuyện - ông về bên con tĩnh dường cho tiện, 

chứ bên này chú thím nó vừa túng vừa neo người 

trông nom.

- Tao không đi đâu hết. Tao quen sống nghèo khổ 

rồi? Nghèo khổ còn yên ấm bằng vạn có tiền có của 

mà bị nhục!

Cụ Cố với nước da mồi xam đen, tóc lưa thưa, bạc và 

khô xác, đang nằm thở khò khử trên chiếc giường 

tre, loại giường cổ lỗ cách đây mấy chục năm; lại 

thêm chiếc màn xô màu cháo lòng, vá víu túm tó 

như vó tôm. Đã nhiều lần ông Phúc sai con mang 

bánh giò bánh dầy, mang sữa sang, cụ Cố cứ nằm 

trong chiếc màn ấy, như nằm trong chốn trú ngụ 

cuối cùng của cuộc đời, đầu kê lên chiếc gối mây 

đã ngả màu đen kít, miệng phóng ra những lời cay 

độc, đuổi như đuổi tà: Mang về! Mang về! Để cha mẹ 

con cái chúng mày ăn nhau cho béo rồi lấy sức mà 

đào mồ đào mả ông bà ông vải lên!

Lần này cụ Cố vẫn nằm đấy, mắt không nhìn người con 

trai đã đấu tố mình. Vừa nói, cụ vừa thở khó nhọc, 

nhưng cơn nộ khí trong lòng xem ra vẫn chưa một 

chút hạ hỏa! Ông Phúc cứ để mặc cho cụ via già nói 

thỏa thuê. Ông điềm nhiên kéo thuốc lào xoe xoè. 

Ông Quý thì càng ngồi im như thóc. Quý vốn là 

người chỉ biết bới đất lật cỏ làm ăn, còn nguyên 

vẹn là một nông dân thuần phác, dễ phục tùng. Việc 

gì Quý cũng lấy êm ấm làm đầu. Trong nhà Quý 

nhường nhịn ít lời hơn cả vợ con. Nên trong việc 

giữa bố và anh, Quý mặc? Thế nào cũng được.

- Bố chỉ bực bõ những chuyện vặt! Không nhìn xa 

được khỏi bờ rào! - ông Phúc bắt đầu công bố quan 

diềm của mình - Thời bấy giờ nó nhiễu nhương, trắng 

đen lẫn lộn, cóc ngóe nhảy lên làm người! Muốn còn 

chỗ đứng thì phải biết lựa. Chân dù có nhún nhưng 

lòng vẫn khinh. Nhún với mấy thằng hách xằng để 

giữ cái lớn hơn, cái lâu dài. Bấy giờ không thế 

thì làm gì. còn Đảng! Mà không có chân Đảng viên 

thì cái họ nhà này chúng nó cho ăn bùn! Chân 

trắng thì làm gì chen được cái chức chủ nhiệm hợp 

tác sáu bảy năm trời? Mấy đứa trong họ nhà này 

vào được Đảng là nhờ ai? Tôi không ngồi đấy thì có 

mục thất! Rồi gạch ngói nhà chú Quý này, nhà bá 

Sang kia, không ở đấy mà ra thì ở đâu? Cũng mang 

tiếng mua, nhưng người khác phải trả mười, thì 

mình chỉ bỏ ra một. Không có lời của chủ nhiệm, 

thì mấy thằng lò gạch lò ngói có khối nó chịu nhả 

cho đấy!Tôi vừa mất chân Đảng ủy, nghỉ chủ nhiệm, 

thế là đủ chuyện rắc rối rồi. Phe cánh nhà Trịnh 

Bá đang lăm le chiếm hết quyền hành cái xã này. 

Nó dám nói chi họ Vũ Đình quanh năm lục đục thì 

còn lãnh đạo ai!

Thế là cụ Cố bật ngay dậy như một cái lò xo:

- Nó nói thối mồm thế mà mày chịu nhịn à?

Vậy là xong! Ông Phúc đã đánh trúng huyệt! Câu 

chuyện lập tức xoay ngược sang hướng khác. Chân 

tay cụ Cố vẫn rung lên vì xúc động. Như một con 

chiến mã về già, dù không còn đủ sức để lao vào 

trận mạc, nhưng mùi thuốc súng vẫn đủ kích thích 

nó gầm thét! Mối hiềm khích giữa cụ Cố với cánh 

nhà họ Trịnh Bá kia có từ xa xưa. Không nhắc, quên 

đi thì thôi, chứ nếu chỉ khi khơi dậy thì ngọn lửa 

bùng ngay lên?

Hôn nhân, điền thổ vạn cố chi thừ. Tức hôn nhân và 

đất đai là hai thứ dễ gây cho người ta thù oán 

nhau lâu nhất. Thì giữa hai họ Vũ Đình và Trịnh 

Bá không thể ngồi chung chiếu với nhau là bởi tất 

cả những thứ đó! Ngày xưa có dân hai bên đã túm 

ngực áo nhau giữa sân chùa trong ngày việc làng! 

Đời cụ Cố là chuyện-đất, chuyện chức, cái chức lý 

trưởng dù nhỏ nhưng đấy là danh dự là chuyện được 

thua giữa hai dòng họ, là phần đầu gà má lợn, là 

chỗ ngồi chiếu nhất giữa đình làng. Đôi bên đã 

giành nhau kịch liệt. Đến đời ông Phúc lại là 

chuyện tình. Thật oái oăm, hai dòng họ này cớ 

vờn, cứ lửa miếng nhau không biết mệt!

- Ông về bên này không chỉ là chuyện nghĩ ngơi 

tĩnh dưỡng - Ông Phúc lại lên tiếng, cắt dứt dòng 

nghĩ ngợi lan man của cụ Cố - Mà về bên này còn để 

bịt mồm những đứa nói hỗn lại! Thằng Tùng, con Bá 

Sang, được chúng nó thí cho cái chân xã đội, thế 

là nhảy cỡn lên theo voi ăn bã mía. Nó còn nói 

láo hơn cả anh em chú cháu nhà Trịnh Bá. Dù thế 

nào cũng không thể để họ Vũ này bị nhục trước dân 

làng! Giọng ông Phúc đã như muốn gầm lên. Cụ Cố 

ngồi hẳn dậy chứ không còn nằm nữa. Ông Quý càng 

thuỗn người ra ngơ ngác. Thế là sau hơn ba mươi 

năm quay lưng, cụ Cố đã chịu quy phục hoàn toàn 

trước lý lẽ của người con trai mà cụ đã từng rủa 

không còn thiếu một lời nào! Và đây là lần thứ 

hai cụ lại chịu thua Phúc!

Ngay hôm sau dân Giếng Chùa trố mắt thấy bà con 

dâu đáo để, tức là vợ ông Phúc cùng con trai, 

con gái, có cả dâu lẫn rể, rùng rùng dắt nhau 

sang nhà ông Quý dể đón cụ em về bên này nghỉ ngơi 

tĩnh dưỡng!. Tất cả vui vẻ cứ như đi rước một ông 

quan đại thần! Và ngay tuần ấy, ông Phúc làm lễ 

thượng thọ cho cụ Cố tròn 90. Một sự kiện của làng!

Vậy mà cụ Cố không gắng sống rốn thêm nữa để hưởng 

cho đã cái cảnh điền viên xum họp. Từ hôm cụ Cố về 

bên nhà ông Phúc đến nay đã được mấy nả. Thế mà 

mới ra tết cụ đã chết đi sống lại mấy dân. Tay đã 

bắt chuồn chuồn, miệng đã cấm khẩu, ông Phúc phải 

cạy miệng đổ đến mấy chén sâm cao-ly mới hồi. 

Trong làng người ta bỗng thêu chuyện lên rằng, vì 

làm lễ thượng thọ to quá, nên động tới Thiên đình, 

khiến ông Nam Tào sực nhớ ra xóm Giếng Chùa còn 

để sót người sống quá dai mà chưa gạch tên Lại có 

kẻ ác khẩu bảo ngay việc tổ chức rùm beng cũng là 

một cách giỗ sống rồi! Muốn cha mẹ thọ lâu không 

ai làm thế!

Những chuyện đàm tiếu áy đến tai ông Phúc hết. 

Ông văng tục miệng lẩm bầm: Lại chỉ miệng lưỡi nhà 

Trịnh Bá!

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Hai - VN thu quan

Đúng như nhiều người nghĩ, cả đến lão Quềnh cũng 

dám chắc là đám tang cụ Cố chi họ Vũ Đình sẽ được 

tổ chức rất long trọng, quả là không ngoa. Sáng 

ra, ông Phúc triệu tập tất cả nội ngoại đến nhà 

ông. Trên bộ phản gỗ lim đen mun mà những người 

già vẫn quen gọi là ghế ngựa, chiếc màn tuyn màu 

nước biển phủ kín, thi hài cụ Cố đang ngự trên đó. 

Ngang người phủ một chiếc chăn đơn. Xung quanh con 

cháu nục nở sùi sụt. Người kêu bố người gọi ông, kẻ 

réo bác, réo chú cứ ời ời! Ông Phúc, với dáng cao 

lớn vuông vức, vẫn đi đứng đàng hoàng. Cặp mắt ba 

góc trầm lắng. Đầu ông thít khăn trắng, để hai dải 

thõng xuống gáy, đó là dấu hiệu của đại tang.

- Tất cả lý lặng! - ông Phúc huơ tay. Tiếng khóc, 

tiếng hờ đang ỉ eo bỗng ngừng bặt như những chiếc 

loa bị ngắt điện. Ông Phúc nói, họ nhà ta là họ 

lớn trong làng, nên phải làm tang cho cụ Cố thật 

đàng hoàng, không nề hà tốn kém. áo quan, ông sẽ 

xuất gỗ dồi vẫn trữ sẵn chứ không thể dùng gỗ tạp. 

Rồi nhà ông sẽ ngả một con lợn hơn một tạ, còn anh 

em con cháu có thế nào đóng góp tùy ý. Ông sẽ 

mời đội kèn, mà phải là phường bát âm lớn theo 

đúng nghi thức cổ truyền. Đột kèn sẽ chia làm hai 

nhóm. Một nhóm ngồi trong nhà, gần linh cữu. Còn 

một nhóm ở bên ngoài với nhiệm vụ khi các đoàn thể 

của làng, của xã đến viếng, thì nhóm này ra tận 

cổng nổi kèn, nổi trống đưa đoàn vào để tăng thêm 

phần trọng thể. Phải có người nhà trực bên ngoài 

để hướng dẫn từng đoàn vào thứ tự. Phải có người 

ngồi ghi chép những ai mang đồ phúng viếng đến, để 

sau này nhà người ta có đám, mình còn nhớ phúc 

đáp lại Rồi thì phải dựng rạp, kê bàn ghế, mượn 

thêm mâm bát...

Ông Phúc nói một loạt công việc, rồi phân công 

luôn. Dứt khoác như mệnh lệnh. Đúng là một ông 

trưởng họ quyền biến và thành thạo công việc.

Khi tất cả đã túa đi, ai vào việc nấy, ông Phúc 

mới quay lại hỏi bà Sang, người chị cả, vẫn ngồi 

sụt sịt ở góc giường:

- Thằng Tùng nhà bá đi đâu mà từ hôm qua đến giờ 

không thấy mặt?

Bà Sang ngước nhìn người em trai như có lỗi:

- Đêm qua tận khuya nó mới đi họp về. Sáng sớm 

thấy nó bảo là xã phân công đi mua sắn cứu đói 

cho hợp tác xã, rồi nó đi luôn.

Ông Phúc dằn giọng:

- Khoai sắn gì, nó không đi thì người ta chịu nhịn 

đấy. Nó là nó trốn đám tang này? Đi từ lúc trời 

chưa mở mắt, nhưng sáng bảnh nó với thằng Điểu còn 

ăn phở ở quán bà Lợi. Ngồi ở nhà nhưng tôi biết 

hết?

Bà Sang lại tức tưởi vừa khóc bố vừa kể lể về thân 

phận đàn bà con gái của mình. Chồng bà mất sớm, 

bây giờ con trai là trụ cột gia đình. Hàng ngày 

bà chỉ quanh quẩn việc nhà, cơm nước, cám bã, chu 

còn biết đâu bàn soạn. Bà có nghe người ta bảo 

giữa hai cậu cháu - ông Phúc và thằng Tùng nhà 

bà có chuyện mâu thuẫn mâu thọt gì đấy. Một lần bà 

vừa hỏi, thì Tùng gạt đi U hỏi làm gì những việc 

ấy mặc con! Thôi thì đành con dại cái mang. Một 

bên em ruột, cùng một gốc một cành; một bên con 

đẻ, hạt máu của mình, bà còn biết trọng ai khinh 

ai! Sao mà càng ngày càng lắm chuyện quay quắt 

vậy! Gần hết đời người vẫn chả biết ăn ở thế nào 

cho phải!

Bà Sang cứ tỉ tê ngồi than khóc một mình, mặc xung 

quanh - Hay là xung quanh người ta mặc bà? Mọi 

người tất bật nhốn nháo sai khiến, gọi hỏi nhau ầm 

ầm. Tiếng đóng ván kênh kếch. Rồi một hồi trống 

báo tang, cứ bảy tiếng lại dứt một nhịp - Tùng 

tùng tùng... tùng tùng tùng... tùng! Tiếng nhạc 

của tứ thần như có đôi cánh màu đen bay vờn trên 

những ngọn tre úa lá, lan tỏa khắp đầu làng cuối 

xóm. Chính tiếng trống ấy đã thúc lão Quềnh thức 

giấc. Khi đám thanh niên được chủ nhiệm gọi kéo 

nhau đi rồi, và lão Quềnh đã húp hết cả nồi rau 

khoai mà vẫn đói veo lão ngồi ngẩn ra không biết 

làm gì. Đã hàng tuần không thấy ai cần đến sức 

trâu lăn của lão. Làm mướn lúc này cũng không 

đắt! Lão Quềnh cứ ra ra vào và đi lại ù ì như voi 

nan. Chốc khốc lại liếc sang khu nhà ủy ban, nhưng 

tất cả các cửa bên ấy vẫn đóng chặt. Thế rồi suốt 

cả ngày lão Quềnh cứ thơ thần lờ vờ như vậy. Đến 

tối mịt nghe nhiều người nói đêm nay nhà ông Phúc 

làm lễ cầu hồn vui lắm, có trống có kèn như đêm 

hát đêm nhạc, chứ không giống những đám chết theo 

đời sống mới, cu hấp ha hấp hoảng, vất vả dụi do 

quá? Đám thanh niên kéo nhau đi xem như xem văn 

nghệ!

Khi lão Quềnh vật vờ tới nơi, thì đã thấy đến đóm 

nhà ông Phúc sáng trưng. Ngoài sân dựng rạp, 

căng phông, bàn ghế kê dàn dạt. Trong căn nhà 

ngói năm gian đông chật người, hương khói nghi 

ngút. Chiếc quan tài để mộc không sơn, chỉ bào 

nhẵn, màu gỗ dối vàng ươm trông còn nối hơn cả sơn, 

kê nằm dọc theo chiều nhà. Trên ván thiên, một 

bình hương tơ khói um tùm. Tàn hương rơi lả tả 

xuống quả trưng luộc và bát cơm đóng theo hình oản 

để cạnh. Tiếng ông Phúc cất lên, nói một câu gì 

đó lập tức cả một nhà khăn trắng rùng rùng đứng 

dậy như một đàn cò. Tất cả đến xếp hàng vòng tròn 

quanh linh cữu. Ông trưởng phường bát âm mặt đỏ 

tím rịm. Ông vận bộ quần áo màu vàng, rộng thùng 

thình như quần áo phường tuồng. Đầu ông đội mũ 

giấy xanh đó không chóp, như chít khăn xếp. Trên 

trán và hai bên tai dắt mấy chiếc lông chim sặc 

sỡ ông đến bên linh cữu hắng giọng dặn dò:

- Để cụ đi được thanh thản, trong lúc chào cụ lần 

cuối không ai được khóc.

Rồi ông phẩy tay ra hiệu. Tức thì con trai và con 

rể ông Phúc thận trọng nâng ván thiên lên, rồi 

kéo dịch xuống phía chân để con cháu họ hàng nhìn 

thấy mặt cụ Cố lần cuối cùng. Mọi người đứng lặng 

phắc như nín thở. Ông trưởng phường bát âm đi lại 

phía đậu cụ ông cúi xuống nơi âm bầm như dặn riêng 

cụ Cố điều gì, rồi ông rút trong túi áo ra chiếc 

bùa xoắn bằng giấy bổi, lùa vào miệng cụ Cố. Đó là 

giấy thông hành để cụ Cố đi sang thế giới bên kia. 

Đoạn, ông gật đầu ra hiệu. Ván thiên kéo lên, 

đóng chốt lại. Cụ Cố chính thức đi về nơi vĩnh 

viễn. Lập tức những tiếng khóc lại òa ra như vỡ 

đập. Ông Phúc ra hiệu tất cả đàn ông xúm tay lại, 

xoay quan tài ngang theo chiều nhà, đau cụ Cố 

quay ra ở chính cửa giữa. Một hồi chập choạng vang 

lên.

Đêm cầu hồn bắt đầu.

Trưởng phường bát âm mang ra một chiếc thuyền bằng 

chiếc diều sáo của trẻ con. Đó là thuyền đưa linh 

hồn người mới khuất về nơi chín suối. Tất cả chiến 

thuyền được dán bằng giấy đỏ, đó là màu biểu hiện 

điềm lành, điềm phúc của đạo Phật. Một sợi dây 

buộc vào mũi thuyền, và thằng cu Cần, con trai út 

ông Phúc, cháu đích tôn cụ Cố được cầm dây kéo 

thuyền đi trước. Trưởng phường bát âm cầm một cây 

gậy cuốn giấy đỏ ngang người ông thắt thêm một sợi 

dây cũng màu đỏ. Chiếc gậy ấy là sào chèo thuyền. 

Một đầu sào chống phía sau cạnh thuyền. Trưởng 

phường bát âm hơi cúi người về phía trước, dé chân 

chèo hai tay cầm sào rướn lên giật xuống rất dẻo 

như chèo thuyền thật. Phía trước cu Cán đã được 

hướng dẫn dắt theo thuyền đi thật chậm, rù rì như 

sên bò. Đội kèn trống và nhị không cần ra hiện 

trường, cứ ngồi trên chiếu phía tay trái, nghe 

trưởng phường bát âm xướng lời mà phụ họa nhạc 

theo.

Trưởng phường bát âm đu đưa nửa người trên, hai 

tay làm động tác khoát nước bát thuyền, miệng đọc 

ngân nga kéo dài, bắt dầu là bài dặn dò của những 

người đang sống đối với linh hồn người mới khuất:

ới ơi! Hôm nay ông đã đi rồi

Ông đã khuất núi về nơi suối vàng

Đất dày cách biệt dương gian

Mấy lời nhắc nhủ ông về ngàn thu

ới ơi! Nơi ấy mịt mù

Gặp người chớ hỏi trước

Gặp sông hãy lội sau

Thấy thuyền xanh không xuống

Chờ thuyền đỏ qua mau...

Ông Phúc đang ngồi đứng dậy, đốt một nén hương cắm 

thêm vào bình hương trên ván thiên và bỏ tờ bạc 

một trăm vào chiếc thuyền thúng cu Cần đang kéo, 

rồi ông đứng phía sau trưởng phường bát âm. Thế là 

lần lượt những người ngồi vòng quanh phía ngoài 

đứng lên thi nhau bỏ tiền vào thuyền và xếp hàng 

tiếp phía sau ông Phúc. Hàng nối càng dài, thì 

tiền bỏ ra càng nhiều.Tiền ngân hàng Quốc gia hẳn 

hoi, tiền của người sống đang tiêu chứ không phải 

tiền âm phủ chỉ là thứ tiền giả vờ! Đây chính là 

cách thưởng của tang chủ đối với dội kèn. Trưởng 

phường bát âm càng nhiều bài cầu lâm ly, giọng 

càng hay, sức càng dai để đi được nhiều vòng, thì 

tiền của con cháu tang chủ bỏ vào thuyền càng 

nhiều. Một đêm cầu hồn có đội kèn đã vớ hàng bị 

tiền, tươm bằng mấy cha con ông lại đò chèo thuyền 

thật ở ngoài bến sông kia!

Đêm nay khổ chủ này xem ra cũng có máu mặt. Đầu 

xuôi đuôi lọt Tiền đang bay như bươm bướm vào lòng 

thuyền, và hình như toàn những tờ bạc kha khá cả? 

Trưởng phường bát âm liếc nhìn lòng càng phấn 

chấn. Hai chân ông nhún nhảy càng dẻo để nửa người 

phía trên đung đưa như thuyền đang dập dềnh trôi 

trên sóng. Giọng ông rất vang, trường hơi lắm. Bây 

giờ là bài con đưa tiễn cha:

í ơi!... Bố đã đi rồi 

Lòng con đau thắt nhỏ đôi lệ sầu

Bây giờ cách trở hai nơi

Âm dương xa ngát muôn đời biệt ly

Bố đi con biết dặn gì

Thế là tiếng khóc của mấy bà con gái, con dâu 

đang lắng xuống vì khàn tiếng, nghe lời ca thống 

thiết lại khóc dào lên. Tiếng kèn, tiếng nhị cũng 

nỉ non như cứa vào gan ruột! Khi chiếc thuyền kéo 

được một vòng quanh quan tài, thì tiền đã lùm lùm 

trong lòng thuyền.

Trưởng phường hát ám dừng lại, hai tay chắp vào 

nhau nâng ngang ngực, mắt mơ màng, miệng nói véo 

von có vần có điệu như nói với người ở chốn tuyền 

đài:

- Ba hồn bảy vía, đường đi bảy chặng, con cháu gần 

xa, phúc lộc đầy nhà, tiễn cụ đi xa, đã qua chặng 

nhất. Giờ xin hồn cụ hãy tạm nghỉ chân, lấy sức đi 

tiếp.

Mọi người vừa tản ra ngồi theo hình vòng tròn như 

cũ thì bỗng dưới nhà bếp, tiếng vợ ông Phúc kêu 

thất thanh, rồi cứ ớ ớ như bị chịt cổ, tiếng bát đĩa 

loảng xoảng. Mọi người lao bổ ra, nháo nhác, tán 

loạn. Trưởng phường bát âm thu vội chiếc thuyền 

mang về chỗ phường kèn. Ông Phúc lật bật gờ cây 

đèn măng-sông mang xuống bếp. Mọi người vây quanh 

bà Phúc. Bà đã hoàn hồn. Bà hào hển kể. Bà xuống 

bếp để mang xôi lên cho đội kèn dùng bữa đêm. Bà 

vừa mở cửa thì cha mẹ ơi! Một người đứng sửng sững 

giữa nhà, mặt to bằng đúng cái mâm và trắng bạch 

như sáp. Ma! Ma! Bà định kêu lên như như vậy, 

nhưng lưỡi đã cứng đờ ra, miệng chỉ còn ú ớ mắt tối 

sầm lại, hồn xiêu phách lạc. Nhằng một cái, khi bà 

định thần được thì con ma đã biến mất. Mọi người 

soi đèn đóm xem có mất mát gì không, tất cả vẫn 

nguyên vẹn. Thế thì đúng ma hiện thật rồi!

Trong khi cả nhà ông Phúc đang nhớn nhác lo lắng 

không biết điềm báo này lành dữ thế nào thì con 

ma mặt bằng cái mâm kia đang chân nam đá chân 

chiêu vừa bá vai lão Quềnh bước thập thòm, vừa 

cười hí há!

Chả là khi mọi người nháo nhác chen vai, huých cả 

vào bụng nhau để chạy xuống bếp, thì lão Quềnh 

thủng thẳng ra về. Vừa ra khỏi ngõ thì bỗng một 

bóng người nhỏ loắt choắt từ trong vườn chuối nhà 

ông Phúc chui ra. Thấy người, cái bóng ấy vội thụt 

vào và cái bọc hắn đang ôm lù lù trên tay, đáng 

lẽ phải rơi văng ra vì gặp người đột ngột, nhưng 

hai bàn tay hắn lại ôm chặt lấy ép vào bụng, đồng 

thời rất nhanh một chuỗi cười hí hí rung lên và 

tiếng nói thì lè bè đẫm hơi men:

- Ôi dào tưởng ai, hóa ra lão Quềnh đấy hừ? Người 

ta bảo lão có cái thân bằng con voi, nhưng óc lại 

bằng con kiến, thật không oan! Đến đây mà lại chịu 

về không à?

Lão Quềnh dụi mắt, dù đêm cuối tháng tối mờ mờ 

nhưng lão cũng đã nhận ra cái người đang dở say dở 

tỉnh này là anh chàng Thó ở ngay cạnh nhà chú 

Quàng, em trai lão. Tên hắn chính là Thọ kia, 

nhưng vì cái tính tắt mắt, thấy ai để hở cái gì mà 

hắn không thuổng, không thó thì ngứa ngáy không 

chịu được! Một lần lão Quềnh đang đào ao cho 

Quàng, thì bỗng thấy một sợi cước bay vuốt từ bờ 

rào bên nhà Thó quăng sang. ở đầu sợi cước là một 

cái lưới câu móc vào con nhái. Sợi cước giật giật 

kéo con nhài như đang nhạy Thế thì chú gà trống 

nhanh chân hơn cả đàn đang tha thẩn tìm giun, 

liền lao theo nuốt mồi. Chỉ chờ có thế, sợi cước 

giật tung lên và chú gà trống bốc khỏi mặt đất, 

bay vút qua hàng rào sang nhà Thọ. Lão Quềnh bỏ 

cuốc, chạy sang, thì Thó đã bóp ngoéo con gà vứt 

vào góc bếp.

- Sao lại làm thế? - Lão Quềnh sừng sộ.

Thó vân tỉnh như tiền, nhe răng ra cười hít vào 

điệu cười lúc Thó thèm ăn:

- Sao với giăng cái con khẹc! Im đi! Ngồi đây rồi 

cùng tớ nhắm rượu! Ông làm cả ngày cho tay Quàng 

nhưng nó đãi ông cái gì nào? Mấy lưng cơm với tý 

tương chua như dấm đĩ hả?

Thế rồi Thó và Quàng đã đánh hết cả con gà gáy 

với chai bố rượu. Trong lúc ngà ngà cao hứng, Thó 

túm lấy con chó cốm nhà hắn, bảo Quềnh giữ chân, 

rồi Thó đổ cả một bát rượu vào họng chó làm con 

vện cũng say bò bới ra, miệng cứ tru lên như chó 

sói, rãi sều, mắt long sòng sọc như chó điên, 

trong lúc hai thằng vô dụng cứ xoa bụng cười sằng 

sặc như hóa ngộ.

Tối nay Thó cũng chỉ chủ tâm đến nhà ông Phúc ngó 

đội kèn biểu diễn xem chơi. Nhưng đến khi thấy bà 

Phúc xuống bếp bắc chõ xôi lên bếp lò rồi không 

kịp khóa cửa, bà quay ngay lên nhà nhập vào đoàn 

con cháu đi đưa hồn cụ Cố quanh quan tài, thì cái 

máu nghề nghiệp của Thó nổi lên. Hắn lẻn ngay 

xuống. Xôi thì chưa chín, thịt thà không thấy 

đâu. Lợn thì chắc ngày mai mới mổ. Thế chả nhẽ họ 

lại để phường kèn ăn xôi nhạt? Hóa ra nhà này 

cũng kiết như chẳng phải vừa! Lần mò vào cái xó 

xỉnh thì lập tức hai cánh mũi rất mỏng của Thó 

phập phồng lên. Mùi rượu thơm cay cay thoảng đâu 

đây. Thó nuốt nước bọt. Hai tay rờ rẫm hết chai 

này đến lọ khác. Này. là chai mắm. Này là liễn 

muối. Này là vại dưa khú. Đồ khỉ gió! Đến khi Thó 

sờ vào một cái hũ tay rút nầm lá chuối khô làm 

nút, thì Thó rên lên trong bụng, hai chân chỉ 

muốn nhảy tưng tưng. Cả một hu đầy rượu. Thó lắc 

lắc tiếng rượu reo óc ách mời mọc. Thó kê ngay 

miệng làm một hơi. Rượu mới nấu ngon chí mề! Lúc ấy 

trên nhà tiếng ông trưởng phường bát âm đang cất 

cao giọng: ới ơi! Hôm nay ông đã đi rồi! Thó làm 

một ngụm nữa. ờ rượu ngon thế này mà chết khòng kịp 

uống thì phí của thật!Thấy thuyền xanh không 

xuống, chờ thuyền đỏ qua mau... Ông trưởng phường 

bát âm dặn dò. Thó ngồi bệt xuống làm ngụm nữa. ờ, 

thế mà người ta vẫn nói dương sao âm vậy. Vậy mà 

trên trần đèn xanh thì đi, đèn đỏ thì dừng. Chả 

nhẽ lẽ luật ở dưới ấy lại xoay ngược lại? Thó ngả 

người vào tường, hai tay vẫn ôm cái hũ. Rượu mạnh 

đang quẫy đạp trong ruột Thó. Mấy ngày nay chỉ bữa 

rau bứa cháo nên rượu vào thèm ăn tợn. Đã thấy 

mùi xôi. Thó đến mở vung chõ cào ngay một tảng bỏ 

vào vạt áo. Đang xít xoa vì bỏng rãy, thì chính 

lúc ấy bà Phúc xuống! Vừa nghe tiếng đấy cửa, Thó 

vớ ngay cái chậu nhôm đang dựa cạnh đống bát đĩa, 

đưa lên che lấy mặt, chân đứng lom khom ở tư thế 

vùng chạy. Bà Phúc đang xăm xăm, tý nữa đâm sầm 

vào con ma đúng sừng sững trước mặt. Bà kê u ớ 

lên, hồn xiêu phách lạc. Thó liền vút cái thau 

nhôm, nhưng vẫn nhớ xách hũ rượu luồn ngay ra cửa, 

lủi biến vào vườn chuối.

- Thế ra chú vừa lần vào bếp bà Phúc đấy? - Lão 

Quềnh hỏi lại cho chắc chắn.

- Thì đã sao? Túng nên phải tính! Đừng có be lên 

như bê nghe chửa! Vừa nói Thó vừa ngả miệng hũ vào 

mồm lão Quềnh. Tiếng tu rượu chun chút vang lên.

Cứ thế, hai gã một khôn một dại, một to lớn xù xì 

như con gấu, một bé nhỏ như con cáo, bá vai nhau 

đi ngã nghiêng giữa đường làng trong đêm khuya. 

Cái miệng hũ lúc thì dốc vào mồm người này, lúc 

lại đổ vào mồm người kia, đi trên đất mà cú líu 

ríu dập dờn như đi trên sóng. Không còn biết trời 

đất xung quanh là gì. Chợt một tiếng hỏi làm cả 

hai sững lại:

- Ai thế này? Đi đứng thế nào thế này?

Quềnh và Thó cùng khứng lại. Một người đàn ông 

cao, gầy, đã đứng sát bên cạnh. Người ấy dịu giọng:

- à chú Thó à? Lại bác Quềnh nữa, ôm cái gì thế 

này?

Thó nhìn lên, nhận ra ông Chỉnh, một trung tá về 

hưu, người cả xóm Giếng Chùa đều nể trọng. Ông 

Chỉnh cũng ở ngay gần nhà Thó, nên Thó biết lắm. 

Ông Chỉnh có vợ đi theo trai, nên đã lấy vợ khác. 

Bây giờ ông Chỉnh cha già con cọc, nhà cũng hoàn 

cảnh lắm.

Thó cười, giọng lè nhè:

- A bác Chỉnh đấy ư? Bác đi đâu mà khuya khoắt thế 

này? Hay cũng sang đám nhà ông Phúc? Thi hãy 

làm với em một ngụm!

Nói rồi Thó định bá vai, khiến ông Chỉnh hốt hoảng 

né người ra, rồi bước vội. Ông đi canh lò gạch. 

Thó nhìn theo cười khùng khục, rồi bỗng hát nghề 

ngà;

- Trung tá mà sợ rượu! Trung tá mà cũng tiên có 

khồng là không có tiền! Hí hí! Thế cho nên trẻ 

con nó mới hát láo là Đầu làng đại tá vá xe, cuối 

làng trung tá bán chè đỗ đen, thiếu tá thì buôn 

dầu đèn, để cho đại úy thổi kèn đám ma! A hà ha 

thổi kèn đám ma! Tò te tí te!

Vừa hát Thó vừa nhún nhảy đôi chân chữ bát như 

ông trưởng phường bát âm lúc nãy. Tay giơ cái hũ 

lên như thổi kèn, và rượu lại chảy vào họng Thó 

tuồn tuồn. Rồi miệng hũ lại dốc vào mồm Quềnh. Cả 

hai tựa vào nhau, tay cùng ôm cái hũ. Chân bước 

lạng quạng. Đến chỗ rẽ, Thó lè nhè bảo Quềnh:

- Xin đãi bác chầu nữa! Làm hơi thật dài vào. Rượu 

là cao của gạo. Nữa đi, thế! Thôi té nhá. 

Thó theo lối rẽ về nhà. Nhưng chỉ được vài bước, 

đầu nặng chân nhẹ, Thó chỉ còn lê vào được gốc ổi 

bên cạnh đường là lăn khoèo xuống, rượu từ trong 

hũ xối ra, ướt đẫm cả ngực Thó.

Lão Quềnh còn khiếp hơn! Vì lão uống cấp tập hơn 

Thó, bụng cũng đói hơn Thó, nên rượu càng hành 

lão dữ. Khi lão khật khưỡng về được đến cửa rêu thì 

rượu và sương gió ban đêm đã đánh quỵ lão. Lão 

Quềnh vừa bíu được vào tấm cánh dại che cửa, thì 

miệng đã nôn phóng ra như cái vòi phun. Trong 

bụng lão chỉ có bát rau khoai từ sáng, còn là 

toàn nước và rượu, nên bây giờ lão đáng phun ra 

rượu! Một thứ rượu qua tiêu hoá lợm mùi đến quỷ 

cũng khiếp? Lão Quềnh vừa nôn đến nảy đom đóm mắt, 

tay vừa đẩy cánh dại đề vào nhà, nhưng đẩy không 

nổi. Trong lúc người đang rã rời vì say, lại thêm 

bộ óc vốn ù ì, nên lão không thể nhớ cánh dại lão 

chỉ chống hờ, mà sao bây giờ lại chắc thế này?

Chắc thế là vì bên trong có người. Một người sống 

và một người chết! Cả hai đang nằm trên chiếc 

chõng ọp ẹp của lão Quềnh.

Người chết thì cứ chết, đã đành! Còn người sống 

thì cũng lại ngủ như chết!

Tiếng giật cửa của lão Quềnh làm người sống choàng 

thức. Đó là người đàn bà tuổi dòng dòng. Cao và 

gầy. Hốc hác và lôi thôi. Nhưng chân tay lại rất 

nhanh. Vừa nghe tiếng người đẩy lịch kịch, chị ta 

đã vực ngay dậy, rồi nhảy một bước tới cửa. Mặc dù 

đã chống một cái gậy vào tấm cánh dại, nhưng chị 

ta vội vã đứng áp người vào thêm cho chắc. Nhưng 

đến khi ghé mắt nhìn qua lỗ phên, thì người đàn 

bà bỗng bật ra một tiếng cười khô khốc:

- Ôi dào, lại một lão cám hấp! Đồ phải gió phải 

dây? Nhồi nhét ở đâu về mà khố thế này!

Vừa lẩm bẩm, người đàn bà mở toang cánh dại, rồi 

cầm tay lôi lão Quềnh vào nhà. Tối quá, lão Quềnh 

sờ sẫm đi lại chiếc chõng, thì người đàn bà đã kéo 

giật lão lại:

- Ông không được nằm đấy! Để cho con bé nhà tôi 

nó được ở cõi trần một tý!

Người đàn bà ngả tấm cánh dại xuống góc nhà, rồi 

kéo lão Quềnh đến. Quềnh ngã ngay xuống như một 

bao gạo, miệng hỏi ậm ẹ trong hơi men:

- Thế nhà chị ở đâu mà lại đến đây? Những hai mẹ 

con à? 

Người đàn bà mở hộp dầu cao dúi vào tay lão Quềnh. 

Bằng con mắt trải đời, không cần hỏi, chị ta cũng 

biết đây chính là ông chủ của chiếc lều này, một 

ông chủ ngơ ngơ như bò đội nón! Dạng người này chỉ 

câu trước câu sau là có thể sai phái được rồi! Vì 

thế chị ta hỏi với giọng dấm dẳn:

- Tôi ở đâu đến ấy à? ở chỗ đói đến chứ còn ở đâu 

nữa? Đói thì đầu gối phải bò. Không đói thì hơi 

đâu đi lang thang cho nhọc. Có hai mẹ con, nhưng 

con bé nó chết rồi! Nó nằm kia nhưng nó chết rồi!

- Cái gì? Nhà chị bảo cái gì? - Lão Quềnh nhỏm đầu 

dậy, hỏi giật giọng. Lão trương cặp mắt trong bóng 

tối sờ sẫm nhìn người đàn bà đang ngồi lờ mờ ở mép 

chõng. Lão đã tỉnh cơn say. Thở được ra là nhẹ cả 

người, lại thêm chất nóng của dầu cao, nên sương 

gió định quật lão đã phải lùi biến. Nhưng vì tỉnh 

nên lão biết sợ. Thế cái nhà chị này là thế nào? 

Người hay ma? Chả nhẽ lại có ma thật? Lão đã nghe 

người ta bảo chính lão đã bị ma làm, nhưng lão 

không tin; vì chưa bao giờ lão nhìn thấy ma. Lão 

chỉ tin những gì mắt lão sờ sờ nhìn thấy, chứ 

không thì đến rắn hai đầu, ma bốn mắt cũng chả là 

cái cóc khô gì đối với lão. Đêm hôm lão vẫn đi 

sùng sục mà có thấy gì đâu. Chả nhẽ hôm nay ma 

lại dám xông váo nhà lão thật? Kìa, một ma sống 

và một ma chết! Đói khát đến ma cũng chết!

- Con nhà chị chết thật à? - Lão Quềnh hỏi với 

giọng rụt rè, nhưng thật quái quỷ, người đàn bà 

lại như muốn chồm lên, giọng rít lại:

- Thì tôi đã bảo là nó chết? Chứ con tôi không 

chết mà tôi lại bảo là chết à? Ông có điên không 

đấy? Ông đã nghe thủng tai chưa đấy?

Vừa nói, người đàn bà vừa sấn tới, khiến lão Quềnh 

đang nhổm người hiên nằm ẹp xuống. Người đàn bà 

đứng lại, hai tay chống nạnh, giọng vẫn chao chát 

như đang cãi nhau với ai: Còn tôi ở đâu đến đấy 

à? ở cái nơi vì đói quá mà đã có nhà bỏ thuốc sâu 

vào nồi cháo để ăn rồi cùng chết cho rảnh nợ! Tôi 

cũng bỏ thuốc sâu vào nồi cháo gà để định giết 

chúng nó, cái thằng chồng với con vợ thành đanh 

đỏ mỏ ấy! Chúng nó lấy nhau hàng chục năm mà 

không có con, cứ như nuốt gang nuốt sắt vào người! 

Thế là chúng nó nịnh tôi, hùn mẹ con tôi về ở với 

chúng nó cầu may. Tôi vừa đến tháng trước, thì 

tháng sau con vợ nó chửa. Rồi nó đẻ con trai. Thế 

là nó trở mặt, nó nhiếc móc tôi là đồ không cha 

không bố, là thứ không chồng mà chửa, sai tôi như 

sai con ở. Đêm hôm nó bắt tôi đi giặt tã lót cho 

con nó. Nó thì ăn cháo chân giò, còn mẹ con tôi 

thì cơm độn với sắn khô. Đã thế thì phải cho nó 

biết tay. Bà đã mang lộc đến cho mày, mà mày lại 

vong ơn bạc nghĩa với bà à? Bà phải thả thuốc sâu 

vào nồi cháo chim bồ câu của mày! Cho mày được bô 

béo một thể!

Chị ta bỗng ôm mặt bật khóc! Tiếng ngàn ngạt trong 

lòng bàn tay:

- Nhưng con chó nhà nó đã hại tôi! Cháo nóng thế 

mà con vện đánh sạch cả nồi, rồi giãy chết đành 

đạch. Thế là vợ chồng nó chửi tôi. Thằng chồng đã 

ăn nằm với tôi cũng đánh tôi. Con vợ thì xé cả áo 

quần tôi, đuổi mẹ con tôi, giữa lúc con tôi đang 

sốt, người nóng như hòn than. Chập tối nay dắt díu 

nhau đến đây là nó chết? May mà gặp được cái kêu 

này. Mai tôi bọc con tôi vào cái chăn kia, rồi 

phải về tận nhà vợ chồng chúng nó, tôi sẽ chết 

giữa nhà chúng nó, để cho chúng nó biết tay bà. 

Con ơi, mai mẹ lại đưa con về Mẹ con ta phcli chết 

trước mũi chúng nó? Phải móc mắt chúng nó.

Người đàn bà càng khóc nức lên. Vừa khóc chị vừa 

kể lể đủ thứ chuyện mà chỉ riêng chị biết. Rõ ràng 

không phải chị khóc, chị kể với lão Quềnh mà chị 

đang cần xả ra cho vơi bớt nỗi lòng.

Lão Quềnh cứ nằm co trên tấm cánh dại, giương cặp 

mắt ngơ ngáo nhìn người đàn bà xa lạ trong khoảng 

tối lờ mờ. Chị ta đang kể lể rền rĩ thì chợt có 

tiếng chít chít hốt hoảng phía sau nhà, rồi một 

con chuột cống bằng bắp tay lao thục mạng qua khe 

hở của bức vách, lao chồm qua chiếc chõng, đâm sầm 

vào chân chị, lủi biến vào xó tối. Giáp lá cà 

ngay phía sau, một con mèo hoang bằng con chó 

con, đen trũi như thiên lôi thần sét quả quyết 

phải nuốt tươi con mồi, cũng lao đánh roác qua 

phên nứa miệng kêu ngao một tiếng như kèn trận, 

hai mắt tròn xoe, xanh cháy lên. Con mèo xù 

lông, nhảy quăng mình qua đầu chõng, ngã dúi vào 

bức vách bên này vì quá đà lại gặp người đàn bà 

cuống quít, chân tay cứ khua ngậu xị trước cửa. Bị 

lạc mồi, lại bị chắn, mèo ta ngoão lên cáu sườn, 

nhảy chồm qua mặt chõng quay lại lối cũ, phóng ra 

ngoài. Tức thì một cảnh kinh hoàng diễn ra. Cái 

bọc chăn đang nằm im lìm, tức là đứa trẻ bốn tuổi 

con người đàn bà đã chết từ lúc chập tối, bị luồng 

sóng điện tử mắt con mèo hoang dựng bật dậy? Cả 

người đàn bà và lão Quềnh đứng bật dậy cùng kêu ối 

rụng rời khi thấy cái thi hài kia nhổm hẳn lên, 

gạt cả chiếc vỏ chăn rơi xuống đất. Cái xác không 

hồn dở đứng dở ngồi ở một tư thế rất chân lâng, 

chới với trong một giây, rồi ngã đánh roàng xuống 

mặt chõng. Người đàn bà đổ xuống ngất xỉu. Lão 

Quềnh thì nằm vật ra không động cựa.

Đêm vẫn lặng phắc như tờ.

Chênh chếch trên trời khuya, mảnh trăng khuyết 

hao gầy vàng úa bơi trong sương mù se sẽ nhát một, 

tiếng cú rúc thăm dò trên vòm cây trám tối đen 

phía sau nhà uỷ ban. Có phải sứ giả của tử thần đã 

đánh hơi thấy có mùi khang khác?

Một lúc lâu sau. 

Người đàn bà hôm lồm bò dậy, rên rẩm:

- ối giời cao đất dày ơi? Làm phúc cho con tôi 

được sống khôn thác thiêng. Khổ thân tôi, khổ con 

tôi!

Vừa nói, chị vừa lê tới chiếc chõng, lập cập ôm lấy 

thi thể đứa con lạnh ngắt. Đầu đứa bé ngất ra 

ngoài. Mái tóc râu ngô lơ phơ rã rượi. Chị đắp 

mảnh vỏ chăn nhàu nát lên người con, rồi run rẩy 

nằm xuống bên cạnh, vừa khóc vừa nói liên chi hồ 

điệp, đến chính chị cũng không biết mình nó gì.

Lão Quềnh đã hoàn hồn, nhưng mồ hôi lạnh vẫn ri ra 

ở sống lưng. Lão nằm trên tấm cánh dại, mắt mở 

trong bóng tối nhìn lom lom sang chiếc chõng. 

Trong bộ óc luôn luôn có màn sương bao phủ của 

lão chợt lờ mờ nhớ lại cũng đã có một người đàn bà 

đến ở với lão, và lão đã trở thành người sai kẻ 

khiến ngay trong nhà của mình. Đến bây giờ cả 

làng lão! ấy là ngày còn ở cạnh vợ chồng Quàng 

trong xóm kia. Một hôm vợ Quàng đi chợ trên phố 

huyện về có dắt theo một cô bụng chửa vượt mặt, vợ 

Quàng nói là đưa cô ấy về để làm bạn với bác Quềnh 

nhà em!. Không biết nghe bà em dâu nỉ non thế 

nào, mà Quềnh cứ cười hề hề nói tô tô Tớ tậu bò mà 

được cả bê!. Rồi Quềnh lại đi làm thuê hùng hục để 

nuôi cô vợ hờ suốt ngày ăn xong lại nằm ôm cái 

bụng chình ình như nhện ôm trứng. Rồi chị ta đẻ. 

Rồi chị ta lẻn di biệt sau khi ở cử được hơn một 

tháng. Đêm ấy thấy đứa trẻ khóc thét lên, lão 

Quềnh đang ngáy pho pho ở góc bên này thức giấc, 

gọi sang mẹ thằng cu vẫn ngủ à?. Không thấy tiếng 

trả lời mà thằng cu vẫn khóc ngằn ngặt. Lão Quềnh 

dậy châm đèn. Thì thấy mẹ thằng cu với bọc quần áo 

đã biến mất tăm rồi. Thằng bé đó sau cho gia đình 

không có con trai, và chuyện lão Quềnh lấy vợ 

thành một giai thoại. Đi làm ở đâu, Quềnh cũng bị 

cánh đàn ông xúm vào tra hỏi: Đã biết mùi chưa?. 

Mùi với mẽ gì! Đêm lão còn phải đi đổ cả nước giải 

cho nó, vậy mà không được mó đến người đó. Kể cả 

buổi tối nó tắm ở trong nhà. Cứ đến tối là cái gì 

nó cũng làm ở trong nhà! Nó bảo ra ngoài sợ gió 

máy, nhưng kỳ thực cô ả lười chầy thây. Lão Quềnh 

phải xách nước vào cho ả tắm. Người ả trần như con 

ếch lột. Dọc người ả đến là nhiều chỗ tôi lõm! Lão 

Quềnh vừa mon men như con gấu đến gần con chuột 

bạch, thì ả liền khoăm mặt lại, gắt: Xê ra đằng 

kia! Thế là lão lại chui về ổ nằm. Còn bây giờ, 

với mẹ con nhà chị này, một sống một chết một người 

một ma, rõ khiếp! Lão phải làm gì đây? Lần đầu 

tiên lão Quềnh phải tính xa tính gần, nghĩ tới 

nghĩ lui. Đang lơ mơ thức ngủ, thì bỗng có tiếng 

gọi váng lên ngoài ngã ba:

- Bác Quềnh đã dậy chưa đới? Hôm nay đến giúp em 

nhá.

Quềnh vùng ngay dậy. Thế mà đã sáng bạch. Lão lịch 

bịch chạy ra, nói dòng dả;

- Chu ích đấy hả? Lại đào đá ong hừ? được rồi, về 

đi tớ đến ngay.

Người gọi làm thuê đi rồi, lão Quềnh quay lại. 

Người đàn bà thôi không nói lâm bầm một mình nữa. 

Chị ta nằm nghiêng, thở nặng nhọc. Một bên gò má 

nhô lên, trông gần như nhọn. Cạnh đấy một nốt ruồi 

to như hạt đậu đen làm cho tối cả khuôn mặt gầy. 

Hai bàn chân đen đùa co lên chõng. Bộ quần áo 

trên người còn lành lặn, nhưng nhàu nhỏ. Bên cạnh, 

cái bọc chăn kín mít nằm thẳng cứng. Lão Quềnh 

chờn chợn, sẽ sàng rút cái khăn tổ ong vắt trên 

sợi dây cùng với mấy bộ quần áo bộ đội, cái thì 

tàu tàu, cái đã rách. Tất cả thấm mồ hôi muối của 

lão cứng như mo nang. Lão rửa mặt khan, rồi xách 

chiếc mai, dụng cụ kiếm cơm của lão, đang định đi, 

thì người đàn bà nhổm dậy, giọng tỉnh như sáo 

- Ông đi ngay à? Nấu cơm ăn đã, tôi có gạo.

- Thôi, nhà chị cứ ở đây nấu mà ăn. Bếp đấy, nồi 

đấy. Tôi đi làm rồi ăn ở bên này.

Cơ mà nước nôi ở đâu? Cái vại nhà ông có mà rắn 

ráo nó đẻ trong ấy!

Nhìn lão Quanh nghệt mặt ra, biết là nói khôn mồm 

thế thì lão không hiểu, thế là người đàn bà ngồi 

bật dậy, đã như muốn nỗi đoá lên:

- Rằng là cái vại nước nhà ông cạn nhăn răng ra từ 

tám hoánh kia rồi! Ông đi xách về đây cho tôi 

một thùng! Lão Quềnh nhếch cặp môi dày ra như 

cười, miệng khẽ à một tiếng, rồi quay vào xó nhà 

xách chiếc thùng cùng cục chạy sang giếng nước nhà 

uỷ ban. Lão vẫn ăn nước bên ấy. Khi lão xách 

thùng nước về, thì người đàn bà đang ngồi trên 

chõng rũ tóc chải bằng chiếc lược gỗ trông như lược 

cổ. Cả mặt cả người chị ta chìm trong mớ tóc khô 

cứng vì lâu không gội, nhưng rất dài, rất dày, 

buông lù xù bốn xung quanh, nhìn cứ như bụi cây 

kỳ dị. Chị vẫn cắm cúi chải tóc soạn soạt, nói với 

lão Quềnh bằng cái giọng chùng hẳn lại:

- Ông chờ tôi nấu cơm cho mà ăn, từ hôm qua tới 

giờ tôi cũng chưa có hạt nào trong bụng.

ấy là tâm trạng của người luôn luôn bị hạch sách, 

sai phái, đến khi chính chị bỗng dưng được sai 

phái thì lòng chợt mềm lại. Nhưng lão Quềnh vẫn 

một hai trả lời:

- Thôi chả cần, tớ đi đây. Bên ấy người ta đang 

chờ cơm đấy.

Rồi lão vác mai bình bịch bước đi, mặc những gì 

diễn ra ở nhà lão. Khi người đàn bà rẽ tóc ra 

nhìn, thì chỉ thấy thấp thoáng bên bụi hóp một 

mảng lưng áo trăng khô mồ hôi muối, vài cái áo 

quần bộ đội đã rộng đã dài, mà khoác vào người lão 

vẫn cũn cỡn. Tới lúc người đàn bà rửa chiếc xoong 

cụt tay để nấu cơm, mới thấy mọi đồ đạc của lão đều 

nhẵn như chùi, đến bói một hạt thóc cắn chắt cũng 

không ra. Chị đong hẳn hai bơ gạo trong cái tay 

nải cho vào nồi cơm vo. Rồi chị để lại quá nửa 

xoong cơm trên ba hòn đá chụm làm kiềng. Đó là 

một lời cảm ơn của người khốn khổ dành cho một người 

khốn khổ.

Nhưng lão Quềnh đã không sống được đến chiều mà về 

nhìn thấy phần cơm của người đàn bà xa lạ dành cho 

mình. Có ai ngờ một sức vóc như thế, một người vô 

hại như thế mà bị lưỡi hái của tử thần xén ngọt như 

đùa! ở hiền mà chẳng gặp lành là thế đấy ai ơi!

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Ba - VN thu quan

Đúng ba giờ chiều, thời khắc cô thống Biệu đã bấm 

cho ông Phúc là giờ thanh long, giờ hành trong 

ngày, tang lễ cụ Cố nhà họ Vũ Đình bắt đầu cử 

hành. Ông Phúc đang đứng túc trực bên đầu linh 

cữu luôn luôn đưa mắt nhìn ra ngoài ngõ đầy vẻ sốt 

ruột. Bởi lúc này chưa thấy hai thành phần quan 

trọng nhất của xã tới viếng: Đảng uỷ và uỷ ban. Thế 

là họ cố tình chơi ông đây! Coi thường ông đây. 

Thôi đành. Ông tiến ra giữa thềm, hai tay đưa lên 

chắp trước ngực, rồi hạ giọng trầm trầm cảm ơn 

chính quyền địa phương (thì cứ phải nói thế!) và 

bà con xóm làng đã đến chia buồn với gia đình 

ông, rồi ông mời tất cả sau buổi tang mọi người bớt 

chút thì giờ ở lại dùng bữa cơm rau muối với gia 

đình ông. Thật khéo, ông vừa dứt lời, thì mùi 

xôi, mùi thịt luộc và tiếng dao thớt kênh kếch từ 

dưới bếp đưa lên thơm đến cồn cào các con tì con 

vị!

Ông Phúc nói xong quay vào, ông hội trưởng hội 

bảo thọ với bộ râu ngạnh trê vàng như râu ngô bước 

tới. Bây giờ đến việc của ông. Là người có đầy 

kinh nghiệm về khiêng cáng chôn cất, nên đám 

tang nào cũng mời hội trưởng hội bảo thọ đến điều 

khiển đội đô tuỳ. Ông phẩy tay ra hiệu như một 

nhạc trưởng, tức thì một hồi trống cái thùng thùng 

vang lên, đánh theo nhịp phát dẫn. Hội trưởng hội 

bảo thọ đang định phát lệnh tiếp, thì bỗng ngoài 

sân mọi người đứng dạt ra, rẽ thành một lối, bí thư 

đảng uỷ Trịnh Bá Thủ và chủ tịch xã Trần Văn Sửu 

cùng năm người nữa tiến vào. Một nửa đội kèn làm 

nhiệm vụ dẫn khách tưởng đã hết người viếng, nên đã 

tản mát từ lúc nãy. Người thì đi uống nước người 

thì đi xả nước chuẩn bị tinh thần và sức lực để đưa 

cụ Cố ra đồng. Thành ra đoàn chức sắc quan trọng 

nhất, ông Phúc chờ đợi nhất, lại hoá ra được khổ 

chủ đón tiếp thiếu nghi thức nhất!

Hai anh em Phúc - Quý vội trở lại bên linh cửu để 

đáp lễ. Cặp mắt ba góc của ông Phúc cứng ra vì 

mệt, suốt ngày cứ nhịu nhíu cau cảu, giờ thấy Thủ 

và Sửu loé sáng lên. Mừng nhưng vẫn tức!

Hai cô nhân viên trong uỷ ban bê vòng hoa đi 

trước. Thủ mặc quần ka-ki, áo kẻ cộc tay đi chính 

giữa. Đoàn xếp theo hàng dọc như một tiểu đội lính 

đi sau. Đến trước linh cữu, Thủ đốt ba nén hương 

cắm vào bát hương, vái một vái. Phúc nhìn chằm 

chằm vào từng động tác của Thủ, bụng bảo dạ:Hắn chỉ 

đứng sống lưng và chỉ vái một vái chớ không phải 

ba như mọi người. Đây dứt khoát là sự cố ý. Biết 

thế!

Thủ đến bên Phúc, thay mặt đảng uỷ và uỷ ban nói 

những lời chia buồn rất trôi chảy lưu loát. Phúc 

nghiêng người đáp lại cặp mắt ba góc nhìn Thủ thầm 

bảo: Tôi biết là anh muốn nói những lời chúc mừng 

kia! Và ánh mắt của Thủ cũng đáp lại không vừa: 

Dù thế nào đi nữa lúc này ông vẫn rất cần sự có 

mặt của tôi! Đời là thế mà! Tạm thời thế thì phải 

thế. Phúc lại bụng bảo dạ, rồi quay sang hội trưởng 

hội bảo thọ nói nhỏ. Ông râu ngạnh trê liền huơ 

tay lên như một lão tướng, phát lệnh:

- Thân quyến tang chủ ra làm cầu ngồi xuống! Các 

tay đòn đô tuỳ chuẩn bị!

Ông Phúc bước xuống, đứng sẵn dưới giọt gianh. Hội 

trưởng hội bảo thọ vừa dứt lời, ông liền ngồi thụp 

xuống, quay mặt lên nhà. Tiếp đến là ông Quý, bà 

Sang, bà Lộc, bà Tài. Rồi các cháu chắt dâu rể, 

họ hàng nội ngoại. Người nọ tiếp người kia, thành 

một dãy dài. Tất cả cùng ngồi thụp, nhìn vào lưng 

nhau trên đầu khăn trắng xoá trông như một vạch 

vôi thẳng tắp từ bờ hè ra tận cổng. Theo tập tục, 

đó là chiếc cầu của con cháu đưa tiễn người quá cố 

là bậc trên mình ra đi được xuôi chèo mát mái.

- Chú ý! Sau ba tiếng trống đầu nâng trước, chân 

nâng sau. Đầu xuôi đuôi lọt. Chuẩn bị!- hội trưởng 

hội bảo thọ hô lớn, rồi vung tay đánh ba tiếng 

trống dài. Tám thanh niên trong đội đô tùy chia 

làm hai, đứng hai bên áo quan đã cúi lom khom 

sẵn sàng. Tiếng trống thứ ba vừa dứt, cùng với 

tiếng hô Lên nào!. Chiếc áo quan được nâng bật 

dậy. Đầu nâng cao ra trước. Tám thanh niên trai 

tráng mà phải bặm môi, vì những tấm dổi chắc quá, 

dày quá. Đám này áo nặng hơn người. Theo những 

bước chân sâu đo, chiếc áo quan lừ lừ trôi trên 

những mái đầu quấn khăn trắng xoá, nối nhau ngồi 

phủ phục. Cụ Cố đang đi trên cái cầu cuối cùng của 

tình máu mủ nơi trần thế để sang thế giới bên kia.

Tiếng kèn, tiếng nhị, tiếng trống cùng âm vang, 

rít xé lên nức nở. Khóc như ri. Người vòng trong 

vòng ngoài đầy sân, đầy vườn. Linh cửu đi tới đâu, 

cuốn theo những người chít khăn trắng trôi đi đến 

đấy. ở nhà lúc này chỉ còn những người hàng xóm 

đến giúp việc bếp núc. Đào văn Quàng, em ruột lão 

Quềnh (tức là Đào văn Quang ) người nhỏ thó, 

trông lụt cụt và khôn ngoan như con cò lửa. Quàng 

đi cùng ban quản trị hợp tác xã đến viếng từ trước 

đoàn của Thủ, giờ chưa biết tính nên ở hay nên về. 

Đang đứng lớ xớ bên đầu hồi nhà bếp, bỗng Quàng 

thấy một chiếc còng lợn chưa luộc, trắng hếu, 

không chân không cánh mà từ trong nhà bếp bay 

vọt qua cửa sổ, rơi đánh xàoxuống gốc cây hồng 

xiêm ở sát bờ dậu. Chắc chắn chỉ lát nứa là chiếc 

giò sẽ vượt biên sang nhà chủ bên kia. Và Quàng 

nghe đúng là có tiếng nhai xôi nhí nhóp trong 

bếp. Cái miệng phễu dầu của Quàng đang mủm mỉm cưới 

túm tó, thì bỗng có người kéo tay Quàng, vừa nói 

vừa thở:

- Bác Quàng, bác Quềnh đang gay quá, có khi nguy 

mất! Vâng, bác Quềnh đang ở nhà em, bác về ngay 

đi.

Đó là vợ ích, người đã thuê lão Quềnh đào đá ong 

sáng nay. Vợ chồng ích đang tích cóp chuẩn bị làm 

nhà. Khi phát hiện ra vỉa đá ong ở đồi ông Bụt, 

ích lập tức chiếm giữ khai thác ngay. ở vùng này 

nhiều người đã khui được những mạch đá ong ăn chìm 

dưới đất rất kỳ lạ. Đá ong cấu kiện thành từng 

viên rời, to bằng những viên đá tảng kê cột nhà, 

vuông vắn như đẽo, xếp liền nhau tầng tầng lớp lớp. 

Có người bảo thời nhà Mạc đã có thời kỳ định lập 

căn cứ địa ở đây. Vật liệu đã tập kết kha khá. 

Nhưng rồi đêm nằm chiêm bao thấy động, sáng dậy 

lại thấy gà mái gáy ke ke, thế là cha con bỏ của 

chạy lấy người, kéo nhau lên mãi Cao Bằng. Thành 

ra những vỉa đá ong này bây giờ ai vớ được làm 

móng nhà thì tuyệt vời.

Sáng nay khi lão Quềnh vác mai đến, thì ích đang 

ngồi chờ bên rổ khoai luộc. Tiếng là nhà có đồng 

ra đồng vào, nhưng vợ chồng ích có thói quen 

không bao giờ ăn sáng. Ngủ dậy chỉ có củ khoai củ 

sắn nhì nhằng rồi đi làm. 

- Ta lót dạ tạm, rồi trưa ăn cơm một thể bác ạ! 

ích cười xoa xoa bảo lão Quềnh. Quềnh gật, với lão 

thì thế nào cũng xong. Cả việc trả công thế nào 

cũng được. Vì thế ai cũng thích mướn Quềnh. ăn 

khoai xong, đi làm. Lão Quềnh đánh xà beng chan 

chát như một cái máy đào. Đá toé lửa khét lẹt. Vợ 

chồng ích chỉ lăng xăng chạy ngoài. Đến trưa đá 

ong đã xếp một đống cao ngất. Nghỉ tay đến bữa ích 

với lão Quềnh ngồi riêng. Một cút rượu tăm với nửa 

cân thịt trâu. Đưa cay xong, lão Quềnh diệt gọn 

một nồi ba cơm. Buông đũa, súc miệng xong là lão 

đi làm ngay tắp lự, cần mẫn đến hơn cả chủ nhà. 

Lão lại thủ mai thình thịch như một cái máy khoan, 

rồi lão gánh gấp rưỡi vợ chồng ích, như một con lừa 

thồ. Đến gánh thứ mười thì lão kêu đau bụng. Mồ 

hôi hột vã ra đầm đìa. Hai mắt lão tối lại. Lão 

định gánh một chuyến nữa, thì hai chân lảo đảo, 

rồi ngã vật ra. Vợ chồng ích cuống quít lên, chạy 

gọi thêm một ông hàng xóm nữa. Khi cả ba người 

cõng được Quềnh về nhà ích, thì lão đã mê man gần 

đất xa trời. Trong khi vợ ích đi gọi Quàng, thì 

ích và ông hàng xóm vội vã cõng Quềnh lên trạm 

xá.

Vừa trông thấy Quàng từ xa, ích đã lao bổ ra với 

bộ mặt vô cùng hốt hoảng:

- Chết đứt rồi bác Quàng ơi! Làm thế nào bây giờ? 

Không phải tại em đâu. Em không giục gì bác ấy 

đâu, làm được đến đâu thì làm. Không phải tại 

em... 

Quàng nhịu nhíu bộ mặt nhỏ thó và sắc lạnh, cũ kỹ 

như một đồng xu đã bỏ, gắt lên với ích: 

- Làm gì mà anh cứ rối rít tít mù lên thế! Bác ấy 

thế nào? ích vẫn nói như rên:

- Còn thế nào nữa, chết rồi! Bác ấy chết rồi!

Vừa cáng tới trạm xá, lão Quềnh liền thổ ra một 

đống máu, người nhũn như cây cần héo, hai tay bắt 

chuồn chuồn, hàm cứng lại, đôi vành tai cụp dính 

vào da đầu. Cánh tay gân guốc với những ngón xù 

xì đang chới với, đổ xuống. Lão tắt thở. Hai con 

mắt ngơ ngơ đờ dại mở trừng trừng như kinh ngạc, 

như không tin vào cái chết của chính mình.

ích sợ quá, cứ luôn miệng rên rỉ:

- Nhà tôi không cho bác ấy ăn cái gì độc hại cả. 

Tôi với bác ấy cùng uống rượu, cùng ăn cơm với 

nhau, thế mà sao giời lại bắt tội thế này!

Y sĩ trạm trưởng hỏi nguyên do, rồi kết luận rất 

quả quyết: Quềnh bị vỡ dạ dày vì ăn quá no rồi làm 

việc nặng ngay. Quàng đứng lặng nhìn thi thể thẳng 

cứng của người anh khốn khổ trong bộ quần áo vá. 

Một luồng sóng của tình huyết thống phả vào Quàng. 

Mặt nóng rực. Hai vai nặng trĩu.

Luồng sóng đi dần dần xuống người, xuống chân, rồi 

tan ra theo tứ chi. Quàng quay lại hỏi nhỏ ích:

- Anh lấy đá ở đồi ông Bụt à?

ích gật đầu mà mắt thì bạc ra lo lắng, tưởng mình 

phạm thêm một lỗi gì. Nhưng Quàng lại lẩm bầm như 

nói một mình:

- Có khi ma đồi ông Bụt lại bắt bác ấy như ngày 

xưa. Ma vẫn nhớ mặt bác ấy!

ích cũng như sực nhớ ra, vỗ đét vào đùi:

- Thôi chết, đúng rồi! Em quên mất! Sáng nay bác 

ấy bảo tối hôm qua ma đến chơi nhà bác ấy! Những 

hai mẹ con! Vợ chồng em lại cứ đùa: Ma mồ gì, hay 

bác lại vớ được món nào rồi! Đói vàng mắt ra lại 

còn rừng mỡ! Đúng là các ngài lên gọi bác ấy đi 

rồi!

ích thở phào, lòng trút được gánh nặng.

Quàng quyết định chôn cất ông anh mình thật 

nhanh. Con ma keo kiệt trong người Quàng đã xui 

Quàng làm một việc táng tận: Hắn chôn ông anh 

bằng bó chiếu. Quàng, ích, Thó và một anh hàng 

xóm nữa đào một cái hố ở chính đồi ông Bụt, nơi 

xưa nay không ai đặt mộ, vì ở đây rất nhiều mối. 

Nhưng Quàng bảo, thôi thì chết đâu chôn đấy. Làm 

thế là chiều theo ý các ngài dưới đó, để các ngài 

khỏi quấy quả. Bốn Người khiêng Quềnh bó trong 

chiếc chiếu hoa của Quàng mang đến, đi lặng lẽ 

trong bóng chiều chạng vạng. Tiếng trống đám cụ Cố 

ông Phúc phía cuối làng vẫn thì thùng vọng lên. 

Theo tuổi cụ Cố, lúc này mới được giờ hạ huyệt. Khi 

nấm mộ cụ Cố đã đắp xong, vuông thành sắc cạnh, 

ông trưởng phường bát âm lại chống cây gậy dán 

giấy đỏ, theo động tác chèo thuyền, cùng con cháu 

cụ Cố rồng rắn đi vòng quanh một lượt hát bài tiễn 

biệt cuối cùng: Bây giờ con giã biệt cha. ì ơi... 

đầy nhà cháu chắt cũng là giã ông! Tiếng kèn giật 

lên nức nở. Lại than, lại khóc vang vang cả cánh 

đồng.

Trên này mộ lão Quềnh cũng đã đắp xong. Xong sớm 

nghỉ sớm! ích lấy đòn đập bàm bạp mấy cái vào hai 

bên sườn mộ, rồi cả lũ cùn cụt kéo nhau ra về. Thó 

là người rút sau cùng. Thó vẫn chưa hết bàng 

hoàng về cái chết của lão Quềnh. Mới đêm qua mình 

với lão còn bá vai nhau vừa đi vừa nốc rước. Mùi 

mồ hôi rất nặng, mặn khét của lão vẫn như còn lởn 

vởn bên người Thó. Thế mà nhằng một cái. Mạng người 

thật chẳng là cái thá đếch gì!

Thó đốt cả nắm hương còn lại cắm lên nấm cỏ tròn 

như cái mũ đặt chốc giữa mộ. Chợt nghe tiếng lạo 

xạo, Thó quay lại nhìn thấy một người đàn bà cao, 

gầy, dáng lam lũ, hai gò má nhô lên sạm nắng. Một 

nốt ruồi rất to mọc ngay dưới đuôi con mắt như hạt 

đậu đen. Vai đeo chiếc tay nải màu nước dưa. Người 

đàn bà nhìn Thó, cặp môi khô mấp máy:

- Tôi mới quay lại chiếc lều của ông ấy thì được 

biết...

Thó như bừng tỉnh. Những chuyện ma mồ từ xa xưa lập 

tức sững dậy. Thó hốt hoảng, môi run lên lật bật:

- Chị là... Bà là...

Vừa hỏi, Thó vừa bước giật lùi. Được mấy bước, Thó 

quay cổ vùng chạy. Đúng là chạy như ma đuổi! Lao 

cả vào những bụi gai xấu hổ ngã lăn chiêng, lại 

vùng dậy chạy. Vừa chạy, miệng vừa A...a! A...a! 

như người câm hoảng loạn. 

Người đàn bà đứng sững chẳng hiểu ra làm sao. Chị 

quay lại, cúi xuống đưa bàn tay cóc cáy bóp bóp 

một hòn đất trên mộ lão Quềnh. Một giọt nước mắt 

hiếm hoi chắt ra từ cặp mắt khô của chị rơi xuống. 

Đây là giọt nước mắt duy nhất rỏ trên mộ lão 

Quềnh! Chị khóc cho người mới gặp tình cờ chị khóc 

cho con, chị khóc cho mình!

Sáng nay ăn cơm xong, chị ôm cái xác lạnh cứng của 

đứa con trong bọc chăn lên bến xe phố huyện. Một 

ông lái xe khách phát hiện ra, đã lu loa lên như 

cháy nhà. Người ta xúm đen xúm đỏ lại. Công an đã 

đưa chị vào đồn. Rồi không biết nghe khuyên can 

thế nào mà chị đồng ý cùng các đồng chí công an 

đưa chôn đứa trẻ ở sườn đồi bạch đàn gần đấy. Không 

còn xác đứa con, thế tức là trong tay không còn 

vũ khí, nên chị thôi không về để móc mắt cặp vợ 

chồng phụ bạc kia nữa. Đi lang thang quanh quẩn 

với bộ mặt cô hồn, cuối cùng chị lại quay về chiếc 

têu đã trú tạm đêm qua, thì được nghe đám trẻ 

trâu kể về cái chết của lão Quềnh. Thế là chị lần 

tìm đến nơi, mà chính chị cũng không biết mình đến 

để làm gì.

Đêm ấy bà Đồ Ngật đi ăn cỗ bên kia sông về, khi 

qua ngã ba chợt thấy có ánh lửa lờ mờ trong lều 

lão Quềnh, rồi thấy loáng nhoáng đúng là bóng 

đàn bà, thế là ba Đồ chạy te tái đến thở ra đằng 

tai. Đến mấy ngày sau bà vẫn mắt tròn mắt dẹt kể 

ồn ĩ là bà đã hai năm rõ mười nhìn thấy con ma 

mặc áo cánh quần thâm, đầu tóc rũ rượi hiện lên ở 

lều lão Quềnh. Lại đến lúc các cô các ngài về đấy!

Nhưng lúc này chẳng ai còn hơi đâu nghe chuyện ma 

của bà Đồ. Có người còn nói phũ là cái nhà bà 

quen ăn quà như mỏ khoét này, đến hàng tháng nay 

mồm miệng đến mốc ra như hang cua vì phải nhịn 

thèm, giờ được đánh rượu vào thế là mắt nọ sọ mắt 

kia, nhìn người ra ma, trông gà hóa cuốc! Điều cả 

xóm Giếng Chùa quan tâm, bàn tán ầm lên là cái 

chết trăm phần trăm của lão Quềnh. Người ta cứ túm 

Thó và ích để hỏi Quềnh chết thế nào, chôn cất ra 

sao. Trong lúc Thó kể Quềnh chết không được tắm 

rửa, vẫn mặc bộ quần áo đẫm mồ hôi nằm bó trong 

chiếu rồi buộc túm hai đầu lại; thì ích lại ra sức 

giãi bày về sự vô can của gia đình mình khi thuê 

mướn Quềnh.

Còn Quàng thì lẩn biến như rắn mồng năm.

Hôm sau nữa dân làng lại xôn xao lên về một tin 

sốt dẻo: ông chủ tịch huyện đã đánh xe về gặp bí 

thư Thủ và chủ tịch Sửu. Xong việc, vù ngay, chứ 

không ở lại để nhấc lên đặt xuống như mọi khi. Ông 

về vì có đơn tố cáo từ Giếng Chùa gửi lên. Người đệ 

đơn không ký tên, mà chỉ ghi là Một nhân chứng 

trung thực. Người ấy kể về việc lão Quềnh bị chôn 

bằng bó chiếu và lên án đó là việc làm dã man 

trong thời buổi này, mà lại chôn dấm chôn dúi như 

một việc vụng trộm: Vậy thì Đảng ủy, ủy ban và ban 

quản trị hợp tác xã coi việc nghĩa tử là nghĩa tận 

của nhân dân thế nào? Sự quan tâm đối với những 

người cô quả ra sao? Người viết đơn nói ngân quỹ 

của xã không phải là nghèo. Một bữa cơm thường khi 

họp Đảng ủy, khi họp hội đồng nhân dân, khi tiếp 

mấy anh điện cao thế là có thể chôn được mấy người 

như lão Quềnh một cách tươm tất! (Thật là đồ xỏ 

xiên! Thủ lẩm bẩm, Đầy đủ tiền để chôn cả họ nhà 

hắn nữa đấy!) Cho nên nếu huyện không có biện pháp 

nghiêm khắc với những người chủ chốt ở đây, thì 

người viết đơn nói, sẽ tố cáo lên tỉnh, lên Trung 

ương, lên báo lên đài kể nhiều việc bê bối khác 

nữa. (Đúng là cái thư đâm bị thóc chọc bị gạo! Thủ 

lại lẩm bẩm).

Nhưng rõ là cái kẻ tố cáo kia đã đánh trúng huyệt 

ông chủ tịch huyện. Vốn là ủy viên thư ký, sau một 

thời gian đi học đào tạo giờ trở về với cương vị 

cao nhất về mặt chính quyền, bởi vậy vị tân chủ 

tịch rất không muốn có những việc rối ren trong 

khu vực mình quản lý. Chủ tịch huyện đã chỉ trích 

những người lãnh đạo ở xã quan liêu, tại sao xã ở 

gọn thế này, làng nọ sát làng kia, đầu xã tới cuối 

xã không quá năm cây số mà mấy anh lại không biết 

những gì diễn ra ở dưới dân chúng.

- Việc này sẽ phải kiểm điểm, nếu cần phải kỷ luật 

Đảng tay Quàng, cái thằng keo kiệt uống nước cả 

cắn. Còn y sĩ trạm xá thì càng ngày hắn càng 

đúng là một tên bạch vệ vô chính phủ! Sắp tới cô 

Vi đi học về chúng tôi sẽ thay - Bí thư Trịnh Bá 

Thủ bật y như một cái lò xo. Thủ nói tiếp với 

giọng rin rít:

- Còn giọng điệu cái đơn này thì tôi biết là của 

ai rồi. Họ mượn cái chết của ông Quềnh để đánh 

chúng tôi đây. Trong lúc tất cả đang đói nhao 

lên, thì họ làm ma ông bố đến mấy ngày. Hương 

khói, kèn trống, ăn uống linh đình, tốn kém bạc 

vạn. ý thức đảng vừa kém lại vừa hợm hĩnh khoe 

khoang! Chúng tôi chưa sờ đến đấy!.

- Ai thế?

Chủ tịch huyện hạ giọng khi thấy Thủ nói như muốn 

gây gổ với cái người vắng mặt đó.

- Tay Phúc chứ ai! Cái đơn này đích thị là của Vũ 

Đình Phúc! Từ hôm mất chân đảng ủy đến giờ lão ấy 

cứ lồng lộn lên.

Chủ tịch xã gật gù đồng tình:

- Đúng, đúng là của Vũ Đình Phúc.

Thủ bổng trở nên bình tĩnh đến mát mẻ, bởi Thủ 

chưa biết sự yêu ghét của đồng chí chủ tịch mới ra 

sao. Chỉ nghe nói đồng chí ấy là người mềm mỏng, 

không thích những gì quá khích. Thủ hạ giọng:

- Đấy là những người cùng cánh với Vũ Đình Phúc. 

Hoặc là có họ hàng, hoặc là đã được ông Phúc bao 

che dạo ông ấy làm chủ nhiệm. Sau khi trượt Đảng 

ủy, những người phe cánh của ông Phúc đã đi vận 

động ráo riết để ông ấy trúng hội đông nhân dân. 

Hôm bầu hội đồng, cả họ hàng nhà ông ấy cứ sùng 

sục như muốn ăn tươi nuốt sống ai! Chả là họ nhà 

ông ấy to vẫn quen cái thói lấy thịt đè người! 

Chúng tôi biết một số người trong hội đồng cứ 

khăng khăng bầu ông ấy làm phó chủ tịch là vì đã 

bị họ hàng nhà ông ấy mua chuộc. Vì thế để tránh 

bè phái, tránh mất đoàn kết nội bộ thường vụ chúng 

tôi kiên quyết chỉ để ông ấy làm trưởng ban kiểm 

soát. Các đồng chí ở trên ấy hãy ủng hộ chúng 

tôi. Đồng chí mới về chưa hiểu hết cơ sở, chứ bác 

Luân bí thư và các anh trong thường vụ trên ấy 

chẳng còn lạ gì nhân sự dưới này.

Chủ tịch huyện rít một hơi thuốc, giọng khảo khảo:

- Chúng tôi có nhận được đơn khiếu nại của ông 

Phúc về việc phân công này. Ông ấy có đề nghị được 

gặp anh Luân và tôi, nhưng chúng tôi chưa bố trí 

được. Tôi mới về chưa hiểu hết, nhưng thấy xã này 

từ sau đại hội Đảng bộ và bầu hội đồng nhân dân lại 

đâm ra rắc rối quá. Nhưng thôi, việc ấy bàn sau. 

Giờ phải tìm cách dẹp cho yên cái pha này đã.

Thế rồi sau một hồi bàn bạc. ba người đã đi đến một 

quyết định dữ dội như sau: Xã chi tiền mua một bộ 

áo quan để chôn cất lại cho lão Quềnh? Thủ nói 

phải kiên quyết thế mới bịt được những cái mồm xấu 

hay xúc xiểm. Vậy thì lão Quềnh được ưu đãi hay 

lão phải chết hai lần? Chôn xuống rồi lại moi lên 

là điều xưa nay người ta cấm kỵ. Nhưng lão Quềnh 

ơi! Đã được nằm trong bộ áo quan, nghĩa là được 

chết bình dẳng như những cái chết khác, lão phải 

vui lòng nhận thêm một sự vất vả khi đã nhắm mắt 

xuôi tay. Nghĩa là lão phải hy sinh một lần nữa 

để cứu danh dự cho những người khác đấy! Sứ mệnh 

của lão thế mà to! Thôi thì đại xá cho cái sự 

khôn ngoan của người đời, lão Quềnh à!

Xã đã nói là xã làm. ủy ban thuê mấy anh thợ đấu 

mỗi người ba ngàn, tương đương với bốn cân gạo để 

làm cái việc mà sau này dân làng gọi là đội cảm 

tử: Moi xác lão Quềnh lên rồi chôn lại. Thó cũng 

được cánh thợ đấu vời vào ban tang lễ kỳ dị này.

Đảng viên Đào Văn Quang, tức Quàng hiện giờ bị bí 

thư gọi đến xạc một trận tơi bời về hành động bạc 

đãi người ruột thịt của mình. Quàng sụt sịt nhận 

khuyết điểm và xin được lo an táng lại cho Quềnh, 

nhưng Thủ gạt phắt:

- Thôi thôi xin đủ! Chúng tôi không cần đến cái 

thứ hối hận của anh! Để anh bỏ tiền ra, rồi bọn xấu 

bụng kia lại làm đơn kiện chúng tôi à! Bây giờ 

việc của anh là bàn với mấy ông thợ đấu lo sao cho 

tốt. Đừng để chúng tôi phải gọi anh lên lần nữa 

đấy!

Quàng lủi thủi về, bàn với Thó và cánh thợ đấu 

rằng để tránh ồn ào, tránh sự nhòm ngó bép xép 

của đám trẻ con, tránh phải đèn đóm ban đêm, đội 

cảm tử sẽ thực thi nhiệm vụ vào sáng sớm.

Vì thế bước sang ngày thứ tư kể từ hôm lão Quềnh 

chết, trời còn nhập nhòa tranh tối tranh sáng, 

bốn người đã khiêng chiếc quan tài màu đỏ cùng với 

Quàng đi cun cút như nhạy ra đồi ông Bụt. Rồi 

san, rồi bới. Đến khi hở chiếu bốn người cùng dừng 

tay nhìn nhau. Ông thợ đấu cao tuổi nhất quyết 

định:

- Bác Quàng xuống đi, buộc dây vào hai đầu chiếu, 

chúng tôi ở trên này kéo lên.

Khi cái bọc chiếu từ từ được lôi lên, một luồng 

khí lạnh cùng với một thứ mùi khăm khẳm của tử khí 

mà chỉ cần ngửi thấy một lần cũng đủ kinh sợ hàng 

năm trời, từ dưới lòng hố phả lên, khiến tất cả 

cùng rùng mình ớn lạnh. Ông thợ đấu cao tuổi nói 

lầm bầm như khấn:

- Tạ vong linh bác Quềnh, sinh có nhà, tử có mồ. 

Hôm nay chúng tôi sửa sang lại chỗ ở cho bác đây. 

Bác sống hiền thác lành, phù hộ độ trì cho anh em 

liền khúc ruột, cho hàng xóm láng giềng chúng 

tôi.

Rồi cái bọc chiếu âm ẩm như thấm nước được mở ra, 

một làn hơi mỏng như khói bay lên, mọi người cùng 

kêu ôi trời!. Thó bỗng run bắn lên, chân tay lẩy 

bẩy, hai hàm răng khua vào nhau cầm cập. Mắt Thó 

cứ tối lại trước cảnh toàn thân lão Quềnh trương 

phình lên, nước thấm ra dấp dính như cá ướp; mặt 

như phù thũng, to và phùng phịu như đọng đầy nước. 

Đến khi đặt Quềnh vào áo quan, mấy ông thợ đấu 

phải vừa ấn vừa ép người Quềnh uốn cho vừa, làm bật 

ra những tiếng lóp bọp, thì Thó xây xẩm mặt mày, 

ruột gan cuộn lên thốc tháo. Thó ôm lấy nghe ho 

rũ rượi. 

Hàng tuần sau nghĩ lại việc này, Thó vẫn sởn da 

gà.

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, bốn - VN thu quan

Làng Giếng Chùa lại rộ lên bàn tán về việc chôn 

lại lão Quềnh. Dạo này đói bụng, nhưng đến là 

nhiều chuyện để bàn! Nhiều lúc quên cả những cơn 

réo trong dạ dày! Bà con khen người nào đó đã kịp 

thời tố cáo lên huyện để ngăn chặn những hành động 

bạc đãi với những người cô quả, vì làng này còn 

đến dăm hộ đơn côi không nơi nương tựa. Trong số ấy 

có cả cha mẹ của liệt sĩ sống rất vất vả. Mỗi suất 

liệt sĩ được 632 đồng một tháng, nhưng lại lĩnh 

theo quý. Còn số thóc mua giá điều hòa theo 

chính sách ưu tiên, thì làng này chỉ có nhà ông 

Bỉnh là được mua đầy đủ, vì ông có thế ở anh con cả 

hiện là trưởng ban tổ chức huyện ủy. Mấy dân cán bộ 

cấp trên về thăm những gia đình có con liệt sĩ 

nhân ngày 27 tháng 7, xã cũng chỉ đưa đến nhà ông 

Bỉnh, vì ở đấy nhà cửa khang trang, còn những gia 

đình liệt sĩ khác đã túng bấn quá, lại thóc ưu 

tiên cũng bị cắt đầu cắt đuôi, nên những ông bà ấy 

hay nói ngang cành bứa với xã, bởi vậy chả bao giờ 

được rước chân cán bộ. Thôi thì sạch sẽ khoe ra, 

bươi ba đậy lại cũng phải, chứ xấu mặt xã thì thật 

hổ lòng dân!

ấy thế mà bây giờ huyện lại biết đến cả cái việc 

chết của lão Quềnh, xã cũng cuống lên vì cái chết 

của lão Quềnh, kể cũng khoái đấy chứ! Nghe mọi 

người bình phẩm, cười hí há với nhau như vậy, ông 

Hàm chỉ lẳng lặng tảng lờ vẫn bào soạn soạt trên 

tấm gỗ kháo. Những phoi bào tròn loăn xoăn như 

những cái bánh phồng tôm rán giòn bắn ra lả tả. 

Câu chuyện của mọi người khiến ông Hàm sôi máu 

lên. Ông chính là Trịnh Bá Hàm, trưởng chi họ 

Trịnh Bá, chi họ đang lên ở vùng này. Bí thư Đảng 

ủy Trịnh Bá Thủ là em ruột ông.

Ông Hàm bào, mắt vẫn nhìn chăm chú mà lại không 

thấy gì. Tai nghe, óc nghĩ, tay chỉ miết bào một 

cách bản năng, khiến cái vai giường ông đang bào 

vì ấn mạnh quá, lõm vào một đường mà ông không 

biết. Đến khi sực tỉnh thì đã quá đà. Cái vai 

giường gỗ kháo vàng au như tấm vải tơ tằm bị lẹm 

vào một đường, trông tức mắt như anh thợ vụng ăn 

cắp! 

Ông Hàm vứt bào đứng dậy, tập tễnh đi lên nhà. Vì 

một chân của ông bị co gân từ bé, nên dân làng 

cũng gọi ngay từ nhỏ là Hàm thọt, Hàm chấm phẩy. 

Những kẻ ác ý thì gọi là hùm thọt. Vì giống họ của 

ông Hàm thờ Hổ. Tô tiên của họ Trịnh Bá là một ông 

ba mươi nhe nanh múa vuốt trong những bức vẽ rất tỉ 

mỉ đặt chính giữa bàn thờ. Tại sao gốc đạo Phật, mà 

dòng họ ông lại thờ Hổ? Đó là cả một câu chuyện bi 

tráng mang nhiều chất thần thoại!

Ông Hàm lên nhà trên mở toang cửa, rồi gọi với 

giọng rất sang:

- Nước sôi chưa Hoa?

Một tiếng dạ từ dưới bếp, rồi đứa con gái út hơn 

mười tuổi bỏ dở bài đang học, xách siêu nước lửa 

vẫn còn cháy nhấp nháy quanh ấm nhôm đi lên. Con 

bé tráng ấm, pha trà, khéo léo và thành thạo như 

người lớn, bởi nó đã được huấn luyện để phục vụ ông 

bố ghê gớm. Khác với ông, người lúc nào cũng lừ 

khừ, lúc nào cũng cau cau, mấy đứa con đều giống 

mẹ, mặt mũi tươi bưởi sáng láng. Chả thế mà ngày 

ông mới lấy vợ, những kẻ ghen ăn ghét ở đã xui trẻ 

con hát đố nhau: Vợ thì tươi tắn như hoa, chồng 

thì nhăn nhó chẳng ma nào nhìn! Đó là cái gì? Là 

mặt trăng mặt trời. Không phải! Là anh Hàm chị 

Son!

Cái Hoa rót một chén nước để trước mặt bố, rồi đi 

kiểu nhảy dây xuống nhà dưới. Mùi trà ướp hoa ngâu 

tỏa lên thơm mát. Ông Hàm co hai bàn chân đi đất 

ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế sa lông rất to đóng 

bằng gỗ lát chun bóng nhoáng, vần vũ những đường 

vân như tranh sơn mài. So với những đồ đạc giường 

tủ bàn ghế vàng rực cả bốn gian nhà mái bằng quét 

ve xanh, thì ông chủ với bộ quần áo xanh tàu tàu 

xoàng xĩnh kia chỉ đáng mặt anh ăn đợ ở nhờ. Nhưng 

ông Hàm lại ngầm thích thú về điều ấy. Bởi hãy 

nhìn đồ đạc toàn một thú kiểu mới, chứ tịnh không 

có đồ cổ, thế nghĩa là nhà này mới mọc mũi sủi tăm 

lên thôi, chứ đời ông bà cha mẹ xưa không để lại 

được thứ gì đáng giá. Điều ấy chứng tỏ một tay ông 

Hàm dựng lên tất cả. Nên ông cứ ngồi xếp bằng, 

rung đùi tự thưởng, cứ việc tha cả đất cát lên mặt 

ghế bóng như gương, cứ việc xì bã điếu ra nền gạch 

men, rồi vợ con ông phải quét, phải lau bởi ông 

đã đẻ ra tất cả cái cơ đồ này. Ông tuy xấu mã, 

người lùn và to ngang, đó là dáng điệu của gấu. 

Chân tay ngắn, mặt ngắn, trán cũng ngắn choằn. 

Cái tài ẩn vào trong, khi cần mới ló ra ngoài. 

Như đôi tay ông, với những ngón to đầu tù thô 

tháp, nhưng đấy là đôi tay vàng. Hoa tay là cái 

thần của tứ chi, mắt mũi trần tục đâu dễ nhìn 

thấy. Ông chỉ học nghề mộc qua quít, mà đã tay 

tràng tay đục đi ăn cơm khắp bàn dân thiên hạ từ 

thời trai trẻ. Bây giờ ông chỉ ngồi nhà, nhưng 

quanh năm không hết việc Nào là giường mô-đéc, tủ 

buýp-phê, tủ lệch đến sa-lông chân quỳ. Thời này 

người ta đua nhau sắm đồ đạc như lây lan một cơn 

sốt. Đói cũng vẫn bóp bụng sắm. Đói mà được ngồi 

sa-lông gỗ lát cũng vẫn vênh vang. Khách đến làm 

sao biết được trong bụng chủ nhà chứa những gì. 

Rau lang, sắn mốc hay cơm tám giò chả đã qua khỏi 

cửa miệng thì cũng là nhập khẩu vô tang, có giời 

dân! Con công hơn con quạ cũng là ở bộ lông, chứ 

vặt trụi đi thì ông quyền cao cũng giống ông nhọ 

đít! Có quyền lo ô, lo ghế; dân chạy lo gỗ sắm đồ! 

Càng sắm ông Hàm càng trúng mánh. Cứ nhẩn nha 

túc tắc mà mỗi năm thu ngót tấn thóc, ngon như 

chén óc chó! Bằng mấy anh theo đuôi trâu ngoài 

đồng.

Ông Hàm rít lạch sạch một hơi điếu bát, rồi ngửa 

cổ lim dim nhả khói. Một nửa người ông chìm trong 

màn mây thuốc. Chỉ thấy mái đầu muối tiêu khẽ gật 

gù bập bềnh trong khói mờ. Mồi thuốc làm ông Hàm 

tê mê bần thần cả chân tay đầu óc. Ông ngồi tĩnh 

tâm. Mắt lơ mơ óc lơ mơ. Làn khói bay lởn vởn bỗng 

đưa trí não ông Hàm trôi ngược về buổi tối cách 

đây hơn 30 năm trước khi ông Trịnh Bá Hoành từ giã 

cõi đời. Lúc ấy chỉ duy nhất người con giai trưởng 

Trịnh Bá Hàm được đứng bên cạnh giường để nghe bố 

dặn dò. Bằng một giọng lào phào nhưng rất tỉnh, 

ông Trịnh Bá Hoành dặn Hàm sống ở làng này phải 

biết bố con Đại - Phúc là người không thể di chung 

đường, ngồi chung chiếu. Không bao giờ nó muốn ta 

ngóc đầu lên được.

Ông Hoành nói hồi năm 1949 giặc Pháp định mở một 

cuộc càn mà chúng nói là càn theo chiến thuật 

gọng kìm, chiến thuật càng cua lên đây. Một cánh 

quân sẽ từ Sơn Cốt tràn sang, một cánh sẽ từ Đáp 

cầu đánh lại. Hai gọng kìm, hai càng cua sẽ khép 

lại, hội quân ở quanh vùng này. Thế là cả làng bỏ 

chạy tán loạn như ong vỡ tổ. Nhưng rồi cuộc càn của 

giặc không thành. Ông Trịnh Bá Hoành từ vùng núi 

Phúc Thuận vội vã chạy về, thì đã thấy bố con Đại 

- Phúc ở nhà rồi. Dạo ấy Phúc là du kích xã phải ở 

lại đã dành nhưng còn lão Đại. Ai khiến cái mặt 

lão mà lão đã mò về sớm thế! Thấy cửa nhà mình mất 

dấu ông Hoành mở ra nhìn đồ đạc còn nguyên, nhưng 

nói có vía ngài chứng giám, bức tranh Hổ thần của 

họ nhà Trịnh Bá treo chính giữa bàn thờ không biết 

thằng giời đánh thánh vật nào đã chọc thủng cả hai 

mắt, rồi lấy than vạch chéo một dấu thập đen xì 

giữa đầu ngài. Thế này là nó bôi gio trát trấu 

vào tổ tiên nhà Trịnh Bá đây! Mà không thể là trẻ 

con được. Cách chọc, cách vạch than này, nhìn 

đường nét phũ phàng căm tức lắm. Thì còn ai vào 

đây nữa. Cái kiểu thù để cho động vào tận thủy tổ 

gia tộc thế này, hỏi rằng không phải là nó thì 

còn là ai! Có khi nó còn yểm bùa nữa đây.

Ngay tuần ấy Trịnh Bá Hoành phải đi thửa một bức 

tranh khác, mà họa lên một tấm vải gai cho chắc 

chắn. Ông thợ vẽ truyền thần trên phố huyện không 

lấy tiền, mà đòi đến hai nồi thóc, vị chi là hơn 

nửa tạ. Có tranh rồi, lại lo sửa lễ. Phải có đủ 

xôi nếp, thủ lợn, gà trống luộc cả con không chặt 

và một con cá chép to rán vàng để chờm cả đĩa 

tây, rồi mời cô thống Biệu đến cúng, xin đủ âm 

dương ngũ hành và thưa báo cho ngài biết rõ sự 

tình tại sao phải tái họa lại chân dung ngài, 

xong đâu đấy rồi mới được treo lên. Thành ra tốn 

kém không khác gì giặc càn đến nhà! Thì chính nó 

là giặc, là thù của họ nhà ông chứ còn gì nữa!

- ở đời hòn bấc ném đi, thì hòn chì ném lại - 

Trịnh Bá Hoành nói như thầm thì, nhưng cặp mắt 

quăm quắm nhìn Hàm thì sáng lên lạ thường, thứ 

ánh sáng của ngọn đèn sắp phụt tắt - Có vay phải 

có trả. Nó đã dám bạo nghịch dẫm đạp lên cả gia 

bảo nhà ta, thầy ân hận là chưa đòi cái món nợ ấy 

được vì chưa gặp dịp. Đến đời anh, anh phải nhớ! 

Chuyện thằng Phúc với con Son vợ anh dạo trước, 

thầy biết cả! Tha thứ cho vợ là phải. Đấng nam nhi 

có khi còn lấy đĩ về làm vợ để dạy, nhưng không 

được lấy vợ làm đĩ! Anh chỉ được phép tha riêng vợ 

anh thôi! Làm thằng đàn ông không được hèn! Chấp 

vặt là tiểu nhân, nhưng cái gì cũng bỏ qua thì 

lại là người hèn! Có mấy cách làm thày đã nói kỹ, 

để ở dưới đáy tráp.

Rồi từ đấy cho tới nửa đêm, ông Trịnh Bá Hoành cứ 

nằm quay mặt vào tường không nói lời nào nữa. Ông 

đi, ai cũng bảo là thanh thản. Chỉ riêng Hàm biết 

bố mình vẫn nuốt một cục uất ức trong người! Tiếng 

hót của con chim trước khi chết là tiếng hót hay, 

lời dặn dò của người trước khi chết là lời thiêng, 

lời độc!

Làm ma bố xong, Hàm vào buồng đóng cửa, mở cái 

tráp khóa chuông, cái tráp bằng gỗ nghiến nhỏ như 

cái hòm của ông thợ cạo chỉ có một chìa, và trong 

nhà chỉ có một người được mở. Dưới những tờ văn tự về 

đồng điền và thổ cư từ hai đời nay, là một quyển vở 

giấy giang xếp dưới cùng, loại vở học trò. Với 

những chữ quốc ngữ rất to trông cứ nghều ngoáo run 

rẩy như người vờ đánh vần vừa viết. Nhưng cái điều 

nói qua những nét chữ bấy bớt ấy thì đọc đến đâu, 

Hàm lạnh toát người đến đấy!

Đọc xong, Hàm ngồi lặng người một lúc lâu rồi lại 

run run xếp quyển vở dưới đáy tráp, khóa lại, cất 

vào gốc cái hòm cáng như cất một quả mìn!

Thì bây giờ đến lúc ông dùng quả mìn ấy rồi! Chỉ 

có cách này mới trị được thằng cha Phúc hay hợm 

của hợm người. Hàm biết Phúc vẫn nhìn mình bằng 

con mắt coi thường. Coi thường cả hình dáng lẫn địa 

vị trong thôn, trong xã. Thì phen này ông sẽ cho 

cả họ nhà mày ăn bùn ăn bùn! Quyết thế rồi, ngay 

chập tối ông Hàm đến nhà Thủ. Cũng bốn gian nhà 

mái bằng như nhà Hàm nhưng trên bờ tường trước cửa, 

đồng chí bí thư Đảng ủy cho đắp nổi một cây dừa 

trĩu quả. Trên ngọn chim bay dưới gốc cá lội. Con 

nào con ấy béo nần như đang chửa. Tất cả đêu tô 

đậm sơn màu xanh đỏ tím vàng, rực rỡ như cái phông 

của hiệu ảnh trên phố huyện. Nhà trên ở giữa, nhà 

ngang nhà bếp hai bên lợp ngói ta, trước cửa là 

vườn cây ăn quả xung quanh trồng găng làm bờ rào 

tất cả toát lên ve phồn thực và viên mãn.

Vợ con Thủ đang nấu cơm, thấy Hàm, đều chào lễ 

phép:

- Bác sang chơi ạ

Hàm chỉ khẽ ờ, rồi tập tễnh bước lên nhà trên. Dù 

là anh em ruột, Hàm cũng giữ lề luật không bao 

giờ vào nhà bếp. Không nói giỗ tết, ngay ngày 

thường anh em giúp nhau làm gì, đến bữa cũng chỉ 

có đàn ông ngồi với nhau ở nhà trên. 

- Bác ở đây chơi, em nấu cơm bác - Vợ Thủ người sồ 

sề, mặt rỗ hoa chứ không được mỏng mày hay hạt như 

bà Son, nhưng được cái sởi lởi, lên nhà mời.

Ông Hàm xua tay:

- Thôi tôi gặp chú ấy một tý, rồi về ngay có việc.

Khác với ông Hàm, Thủ là người có mã, cao ráo 

trắng trẻo. Với bộ quần áo pi-gia-ma kẻ sọc như 

công chức. Thủ đang tưới cây ngoài vườn, đã bỏ ô- 

roa đi vào. Thấy Hàm đang giở ngày giở tối thế 

này, Thủ biết là có việc cần. Mặc dù là bí thư 

quyền hành cao nhất xã, lại được học hành khá chu 

đáo từ bé, chứ không bị thiệt thòi như hai ông anh 

là Hàm và Long. Ông Long bây giờ làm công nhân 

trên khu gang thép cũng chỉ học hành chữ tác chữ 

tộ; vì khi Hàm và Long vừa lớn thì gặp ngay cái 

đận ông Trịnh Bá Hoành bán cả ruộng vườn để lao 

vào cuộc đen đỏ tranh giành cái chức lý trưởng với 

Vũ Đình Đại. Thật là một phen liểng xiểng. Vài 

năm sau gia đình mới hồi lực, có bát ăn bát để 

thì vừa lúc Thủ tới tuổi cắp sách đến trường. Thế 

là Thủ cứ đường quang lối rộng mà tiến. Dầu vậy 

chưa bao giờ Thủ dám trái lời ông anh cả. Người 

trưởng họ có một thứ quyền lực riêng. Không chỉ là 

trong gia đình ngay công việc của Thủ, Hàm cũng 

giữ vai trò cố vấn đặc biệt. Hôm đại hội Đảng bộ, 

các chi họ hồi hộp đến thắt tim khi đến mục bầu 

Đảng ủy mới. Rất nhiều không có chức trách gì cũng 

thập thò lảng vảng đến săn tin. Phải bầu đến vòng 

ba, tối mịt mới xong. Thủ vừa về đến nhà đã thấy 

ông Hàm ngồi chờ.

- Chú cao phiếu nhất phải không? 

Ông Hàm hỏi thế, tức là chúc mừng đấy, nhưng mặt 

vẫn lạnh như tiền. 

Ông nói tiếp:

- Lại đúng dịp ông Đáng về hưu đợt này, vậy chú 

phải thay chân ông ấy giữ ngay lấy cái triện đỏ, 

tức rằng là phải làm bí thư. Chứ còn chủ tịch cũng 

chỉ là thứ triện xanh! Thằng Tùng nhà Sang cũng 

trúng hả? Chỉ cho nó chân chạy ngoài, hữu danh vô 

thực thôi!

Lúc ấy Thủ đang đầy phấn chấn vì đắc cử, đến mức 

không còn thấy ai là đối kháng với mình, nên 

lòng dạ bỗng thành dễ dãi. Với lại Thủ vốn thuộc 

dạng người cải lương, dễ bằng lòng và dễ chấp nhận.

- Thực ra thằng Tùng cũng được chứ không đến nỗi 

nào đâu. Nó còn chất lính bộc trực thẳng thắn, với 

công việc thi xốc vác

Ông Hàm nghiêm ngay mặt, kịp thời nhắc nhở Thủ 

đang nói khôn nói dại những gì:

- Được là được thế nào! Rau nào sâu ấy! Hãy giao 

cờ vào tay nó xem, gai ngạnh sẽ mọc ra ngay!

Gáo nước lạnh của Hàm đã làm Thủ tỉnh cơn say, và 

Tùng đã được phê chuẩn làm xã đội trưởng ngày sau 

đấy, chứ không phải chờ đến tuần sau họp Đảng ủy 

mới phân công, để mỗi năm cho nó dẫn đám thanh 

niên ra đôi nằm chổng mông lên mà nheo mắt bóp 

cò khan vào mấy cái bia giấy!

Hôm nay ông cố vấn sẽ chỉ thị gì đây! Thủ rửa chân 

tay đàng hoàng rồi mới vào nhà. Hàm hỏi ngay:

- Chú định thế nào về cái việc ấy?

Vừa hạ giọng vào chuyện, Hàm vừa thu hai bàn chân 

ngắn và to bè lên đi-văng. Thủ tráng ấm pha trà, 

cũng nói nhỏ để hai anh em vừa đủ nghe:

- Em cũng chưa định. Theo bác nên thế nào?

- Chả nhẽ chịu thua nó à?

Hàm tự rót nước ra chiếc chén hạt mít, hỏi thủng 

thẳng. Đó là cách nói chuyện riêng với nhau của 

hai anh em nhà này. Họ thường nói nửa vời, mù mờ 

rời rạc như vậy. Nếu có ai nghe được cũng chịu chết 

không hiểu họ nói gì, ám chỉ ai. Nhưng với Thủ thì 

anh biết ngay cái việc ấy và nó ở đây là chỉ ông 

Phúc và cái việc kiện cáo của ông ta khiến xã 

phải chôn lại lão Quềnh. Phúc đã thắng 1 - 0! Cứ 

đà này Phúc còn dở dói những gì nữa? 

- Tôi đã nghĩ ra cách rồi - Hàm chiêu từng ngụm 

nước nhỏ như nhắp rượu, rồi vẫn với giọng nhát một, 

ông công bố kế hoạch phản công:

- Lấy độc trị độc, mỡ nó rán nó! Lại dùng ngay 

cách lão Phúc đã bắt các chú chôn đi chôn lại 

lão Quềnh - Tức rằng là... đào mộ?

Thủ quay sang sửng sốt. Bởi ở đây dạo đã lâu có 

hai nhà thù nhau, bên nhà yếu lực không đủ sức 

đánh lại đã dùng cách khủng khiếp này.

Hàm vẫn thủng thẳng:

- Có gì mà chú đã tái mào lên như thế! Nó muốn 

cưa đốt đục suốt, thì sẽ được người ta đục thẳng 

vào cây nóc nhà nó! Đây là dịp tốt để lấy âm trị 

dương. Phen này tôi sẽ yểm cho cả họ nhà nó không 

ngóc lên được! Đào lên, lấy ván, lật sấp bố nó 

xuống! Còn cỗ ván dổi tôi sẽ đóng một bộ sa-lông 

thật mốt, rồi tìm cách bán cho chính anh em họ 

hàng nhà nó!

Thủ đã thấy ớn khắp người, ngập ngừng:

- Nhưng mà...

Hàm biết thóp ngay ông em chỉ được cái võ mồm, 

quen phòng xa giữ gìn, mà cũng là phòng cho mỗi 

cái thân hắn thôi! Hàm càng hạ giọng tới mức lào 

thào:

- Ngày thầy mất, chú với chú Long còn chưa nghĩ 

được đến đầu đến đũa, nên thầy chỉ dặn riêng tôi...

Rồi ông Hàm trang nghiêm kể với giọng rin rít về 

bức tranh thờ Hổ thần của nhà ông bị chọc mắt, bị 

bôi bẩn và những lời chỉ dẫn của ông bố trong quyển 

vở giấy giang về cách lấy âm trị dương thế nào, rồi 

để tránh phản hồi trở lại thì trước khi hạ cuốc 

phải đọc bài tạ thần ra sao. Thủ ngồi cứng người, 

tay cầm chén nước mà quên cả uống. 

- Có hai thời điểm để lấy âm trị dương - Hàm vẫn 

nói thầm thì - Lúc vừa chôn xong và lúc được ngày 

cải táng. Nhưng chờ đến cải táng thì lâu quá, với 

lại nghi thức lúc ấy rườm rà lắm, phải lấy đến bảy 

đốt xương mang ra sông tạ thần, rồi đóng bè chuối, 

đưa bảy đốt xương lên đó thả trôi sông. Mất đến cả 

đêm, dễ lộ. Cho nên thời điểm này là tốt nhất. Làm 

xong lại đắp điếm như cũ đố biết! Chú khỏi lo. 

Không ai bắt chú phải mó tay vào. Chỉ cần tôi với 

thằng ưởng, thằng Ngạc, tí nữa chú nhắn thằng Thó 

đến tôi là được. Trong việc này phải có một người ở 

ngoài họ mới đại an. Thì chọn thằng Thó là tốt 

nhất.

Thủ càng bứt rứt không yên:

- Liệu thằng Thó nó có chịu không? Hôm trước đám 

ông Quềnh, nghe nói nó đã mửa ra mật xanh mật 

vàng.

Hàm vẫn cứng như thép:

- Chú cứ nhắn nó đến gặp tôi. Tôi sẽ có cách dọa 

để nó phải nghe. Cái đêm lão Phúc cầu hồn cho bố, 

thằng Thó đã lỉnh vào bếp nẫng cả hủ rượu tăm ra 

đường uống, rồi say bò lê bắt sải ở vườn ổi nhà bà 

Đồ Ngật. Cái hũ ấy đang ở nhà tôi! Tôi chỉ dọa là 

lão Phúc nó sắp trả thù là thằng Thó sợ thọt dái 

lên cổ! Muốn an thân phải có chỗ dựa, thì hỏi còn 

dựa đâu vững bằng dựa vào ta!

Thủ chỉ còn biết ngồi ngay tán tàn nghe ông anh 

giảng giải. Ông ấy suốt ngày đục đẽo ở nhà, mà sao 

chuyện gì cũng biết. Lại đưa được cả cái hũ; tang 

vật ăn vụng không biết chùi miệng của Thó vào tận 

nhà mình, thì thật là chịu ông anh ma xó! Thủ 

cũng muốn trừng phạt Phúc, cũng muốn cho Phúc 

xiêu điêu liểng xiểng, nhưng người ra tay phải là 

ai kia chứ không thể là mình. Mình chỉ đóng vai 

tọa sơn quan hổ đấu mới sướng! Bây giờ ông Hàm xin 

lĩnh trách nhiệm, thực ra cũng chưa phải là hay, 

giá là người không dây mơ rễ má gì với mình thì 

tốt, nhưng kiếm đâu ra. Thôi cũng dược, có gì Thủ 

cũng đủ lý là người tay trắng! Ông Hàm không cần 

biết những nghĩ ngợi vân vi trong óc Thủ, ông 

đứng dậy, coi như việc đã bàn xong, dặn thêm:

- Chú nhắn ngay thằng Thó đến nhà tôi, làm như 

vẫn nhờ nó đi áp tải gỗ chứ mình lại đằng ấy không 

tiện. Để tối mai là làm luôn!

Thủ chỉ còn biết nhắc lại như cái máy:

- Ngay tối mai à?

Hàm buông một câu lạnh gáy:

- Cho nó đỡ nặng mùi!

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Năm - VN thu quan

Nhận được lời nhắn, Thó sắng sẻ đến nhà ông Hàm 

ngay.

Chắc ông lại nhờ đi áp tải gỗ ghiếc gì đây. Ông 

Hàm có cậu con trai thứ khỏe mạnh, không biết bằng 

cách nào mà chưa hết hạn nghĩa vụ đã ra quân, rồi 

nhảy tót đi lao động nước ngoài, thành thử bây giờ 

ở nhà còn rặt đàn bà con gái, nên ông vẫn hay nhờ 

Thó đi áp tải gỗ về đóng đồ. Tiếng là hay ma lem 

ma cuội, nhưng thực tình Thó chỉ thuổng những 

miếng chín, chén ngay; chứ làm ăn lớn thì Thó sợ. 

Với lại được người như ông Hàm tin, trước khi đi 

bao giờ cũng lót miệng vài choạc cho ấm bụng, khi 

về lại cùng ông cuộn chân ngồi xếp bằng trên chiếu 

hoa cơm rượu bí tỉ, thế là Thó khoái. Còn ông Hàm 

thì thật tinh đời, vì ngoài những miếng ăn ngay, 

ông không phải trả một đồng công nào.

Thó đi tắt qua khu đầm nước cho nhanh. Đã tối sò 

sẫm. Xóm làng trở về tịch mịch. Một con bò gọi con, 

tiếng âm ồ của nó vang trong bóng chiều chạng 

vạng. Con bê be lên nũng nịu, rồi tế chạy, nện 

móng lốc cốc ròn rã trên những viên gạch vồ như 

ném một tràng mưa đá. Bầy liếu điếu giật mình, kêu 

thé lên trong bụi tre. ở dưới ấy, chân các rặng 

tre, một dải sương mờ mờ như đùn từ dưới đất lên, 

bay là là phập phồng như giăng một tấm to xanh 

biếc. Tiếng cuốc kêu luốc cuốc cu loa trầm đục như 

thấn ướt hơi sương trong ấy. Khói bếp thở trầm ngâm 

trên mái rạ. Giờ này là giờ nghỉ ngơi, giờ sum 

họp. Dù sung sướng hay đau khổ thì giờ này người 

ta cũng rút về hang ổ cuối cùng của mình là những 

mái nhà. Dù ít dù nhiều, ngay người giàu nơi thôn 

dã cũng chỉ ngày cơm hai bữa, và kẻ khó cũng cứ đỏ 

lửa hai lần. Nơi đây từ bao đời nay cái ăn cái 

uống gần như chỉ là chuyện phụ. Người ta có thể nhịn 

ăn nhịn mặc để xây một căn nhà gạch, sắm một cái 

xe, có khi cả xe máy; mua đài, mua cát- sét rồi 

mở om tỏi suốt ngày để được,mở mày mở mặt với xóm 

làng. Nơi vùng quê bề ngoài rất yên tĩnh này, vừa 

có những người ngơ ngác dại khờ, những người thật 

thà như đếm nhưng cũng lại lắm những kẻ đủ mưu ma 

chước quỷ, không mấy lúc ngồi yên, và cũng không 

để cho người khác ngồi yên. Cũng có đủ cách bon 

chen để giành một cái ghế ngồi không to hơn cái 

vảy ốc, chen một chỗ đứng không caữ hơn cái đế dép 

thường ngày. Cũng có đủ những thì thầm thì thụt, 

cũng xúi bẩy, kích động, cũng ném đá dấu tay, 

cũng cười bả lả chạm cốc nhau lanh canh trong 

những bữa tiệc đồng chí, nhưng trong bụng lại thầm 

rủa sau bữa rượu này mày sa chân lỡ bước chết dấp 

đi cho rảnh! Mặt ao làng tím thẫm những hoa bèo 

giờ đây không còn bình lặng nữa. Những sóng cồn 

của biển rộng sông dài đã vang động đã lôi kéo 

khuấy sục lên, khiến những mảnh ao cung đủ gan 

tùng những cơn sóng bùn tanh tưởi!

Tiếng con cuốc kêu khắc khoải bên bờ đầm. Nó gọi 

gì? Gọi bạn tình, hay gọi cái chết?

Thó bước cắm cúi cũng như một con cuốc. Thấy nhà 

trên ông Hàm ìấp lóa ánh đèn, Thó đi thẳng vào.

Nhà ông Hàm đang chuẩn bị ăn cơm tối. Tiếng mâm 

bát lanh canh dưới nhà bếp. Tiếng hai chị em nhí 

nhắn. Vợ chồng ông Hàm đang ở nhà trên. Nghe 

tiếng Đào, cô con gái lớn chào Thó ngoài sân, 

ông Hàm tập tễnh đi ra niềm nở, đúng là ông đang 

nóng lòng chờ.

- Vào đây chú. Có việc cần đến chú đây. Nhưng ta 

hãy làm vài chén cho ấm bụng đã - Rồi ông Hàm 

quay sang bà vợ dang gấp quần áo trên chiếc giường 

Đức nâu bóng:

- Bà xuống rang cho tôi đĩa lạc.

Bà Hàm vặn to ngọn đèn ba dây treo giữa nhà, rồi 

thu vội đống quần áo, con cón đi xuống bếp. Đã 

ngoài năm mươi đến dăm cái lẻ, nhưng bà vẫn giữ 

được dáng người gọn gàng cân đối. Tóc vẫn dày, nước 

da vẫn trắng. Khuôn mặt trái xoan được điểm thêm 

cặp mắt lá răm và cái miệng tươi, khi cười còn trẻ 

lắm Dân làng bảo bà là người có số sướng, đã được 

cái sắc trời phú, lại từ bé đến giờ chưa đến cái 

đói rách là gì, nên cái duyên càng bền. Bà sẽ 

đẹp đến già, đẹp đến chết!

Ông Hàm mở tủ buýp-phê, bê ra một cái hũ da lươn 

đặt giữa bàn. Thó bỗng giật thót người. Chính cái 

hũ nhà ông Phúc mà Thó đã khoắng đêm hôm trước!

- Chắc chú đã nhận ra cái hũ này - ông Hàm vừa 

róc rượu ra hai chén vại, vừa khề khà - Nhưng tôi 

đưa được về đến đây là đã cứu sống chú rồi. Hôm 

kia lão Phúc có đánh tiếng là đã biết việc làm 

của chú, lại biết cả cái hũ đang ở đây, nhưng đố 

dám hoạnh họe với tôi.

Rồi ông Hàm vươn người trên mặt bàn, nhìn sát vào 

bộ mặt thờ thẫn với cái cằm vốn đã nhọn của Thó, 

giờ cái đói càng vót cho nhọn hoắt như bút chì, 

ông Hàm thì thầm nhỏ tới mức Thó phải dỏng tai, 

nhăn trán lại mà nghe. Vừa lúc bà Hàm xuýt xoa 

với đùm lạc nóng trong tay đi lênl ông Hàm quay 

lại, nói phắt sang chuyện khác:

- Mẹ nó đong cho chú Thó vay nồi thóc, dồn vào 

bao tải để chú vác cho tiện.

Bà Hàm bày lạc ra chiếc đĩa sứ hoa. Bà biết hai 

người đang có câu chuyện gì hệ trọng lắm, và ông 

không muốn cho bà biết. Nếp quen nhà này là ông 

Hàm đã không nói thì không ai được hỏi. Hôm nay 

đích thị không phải chuyện thóc lúa gỗ lạt gì. Bà 

Hàm ân cần hỏi Thó:

- Nghe nói chú cũng bán lúa non à? Bao nhiêu một 

tạ?

Thó đang sững cả người. Đang nói chuyện đi quật mộ 

ông bố Phúc, Thó nghe khiếp quá, vậy mà ngoắc một 

cái, ông Hàm lại sai vợ đi lấy thóc cho vay. Một 

nồi chóe, đó là cách gọi cổ truyền ở đây, là chừng 

ba mươi cân, đến mùa mới trả không lấy lãi, lòng 

tốt ấy bây giờ đến bói không ra. Thó nhìn khuôn 

mặt đầy đặn hồng lên dưới ánh đèn của bà Hàm, kể lể 

ca cẩm:

- Em phải bán non hai tạ cho nhà ông Quàng đấy 

bá ạ. Giá có mười hai. Mấy nhà có tiền định giá 

như thế, chứ thóc bây giờ bỏ rẻ cũng phải năm mươi 

ngàn một tạ. Lượt chợ nữa mới được gặt, đập xong rồi 

cho bá lấy thóc tươi luôn chứ không cần chờ khô. 

Dắng là sợ nhà em ăn quịt.

Bà Hàm khẽ cười, đưa mắt nhanh sang nhìn ông. Thì 

nhà bà cũng mua lúa non với cái giá ấy! Chẳng ai 

bắt, nhưng những nhà thiếu ăn đều phải bán mười 

hai ngàn một tạ lúa chưa gặt ở ngoài đồng. Không 

biết nhờ ai mối lái, mà ông Hàm còn móc nối được 

với ông thợ may và ông hàng phở trên phố nhận mua 

thóc với giá hai mươi. Tiền đã trao cho ông Hàm 

từ tuần trước, còn thóc thì đến gặt chiêm mới lấy.

Vậy là mỗi tạ ông Hàm ngồi không đã được lãi tám 

ngàn. Về mặt tính toán sít sao ở nhà này thì bà 

còn phải chịu ông. Nên cái việc cho Thó vay nồi 

thóc không lấy lãi, bà biết chắc là ông không hớ. 

Thả con săn sắt bắt con cá rô, ông không được lãi 

thóc thì cũng phải lãi cái khác.

Bà Hàm bảo Thó:

- Người ta đòi thóc tươi, tức là muốn nắm đằng 

chuôi đấy chú ạ.

Ông Hàm chép miệng:

- Thôi được, chú cứ trả cho sòng phẳng, rồi có 

thiếu lại sang đây - Đoạn ông quay sang vợ - Mấy 

mẹ con cứ ăn cơm trước đi, rồi rán thêm mấy quả 

trứng để tôi với chú ăn sau.

Bà Hàm vừa đi xuống, ông Hàm lại thì thào:

- Phải từ mười giờ đêm trở đi, lúc ấy thì tất cả đã 

ngủ kỹ rồi. Tôi, chú, thằng ưởng, thằng Ngạo, thế 

là đủ. Rồi bốn người vác bốn tấm ván về đây, thế là 

xong! Chú không lo, đào tới rồi tôi sẽ vẩy cả hũ 

rượu này xuống đó để tẩy mùi. Làm xong lại rửa tay 

bằng rượu, tha hồ sạch!

Thó cũng vươn cổ trên mặt bàn, như mổ cái mũi nhọn 

vào mặt ông Hàm. Đã có mấy chén rượu cất nước đầu 

trợ sức, vậy mà giọng Thó vẫn run:

- Bác dã gọi thì em cũng xin hết lòng, nhưng vía 

em nó yếu lắm. Em chỉ lo rồi thì... 

Ông Hàm xua tay:

- Rồi thì ma nó vật chú chứ gì? Đừng lo, đã có 

tôi. Tôi có bài khấn để yểm rồi. Với lại đây là 

chuyện dòng họ nhà tôi với dòng họ nhà Phúc, chứ 

chú không có dính gì. Còn dòng họ nhà tôi thì 

chú biết rồi chứ? Tôi treo bục tranh kia không 

phải là treo làm cảnh, mà đấy là tranh thờ. Chính 

Ngài đã giữ phần âm cho chúng tôi, hùng mạnh và 

an toàn lắm.

Vừa nói, ông Hàm vừa trỏ lên bàn thờ. Trên ấy đằng 

sau cái lư hương đồng là bức truyền thần họa một 

ông ba mươi trên tấm vải dệt bằng những sợi gai ở 

tư thế chồm lên. Những răng lợi móng vuốt giương 

ra trông đằng đằng lẫm liệt. Nghe nói đời kỵ nhà 

ông Hàm, tức là ông cụ tổ đã cách đây bốn đời của 

dòng họ Trịnh Bá đã giáp mặt một đấng trượng phu hồ 

vằn chân thọt trong tư thế phanh thân xé xác ấy! 

Phúc ân chi sớ họa, trong họa có phúc. Có thể tin 

được chăng? ông ba mươi kia chính là thần sát 

sinh, rồi sau lại trở thành thần phù trợ, thần cứu 

thế của dòng họ Trịnh Bá. Chuyện rằng:

Đời kỵ nhà ông Hàm đến sinh cơ lập nghiệp ở đây 

nghèo lắm. Cả nhà sống dựa vào cái tài kiếm cá của 

ông. Thuở ấy đồi ông Bụt còn là khu rừng già đầy 

bí hiểm. Chưa nói chuyện ma hiện hình, người thấy 

người không, riêng thú dữ thời ấy thì ai cũng gặp. 

Hổ báo, hươu nai, vượn trắng ngồi bế con trên cành 

trông khéo như người. Trăn gió quăng mình từ cây 

nọ sang cây kia ầm ầm như một cơn lốc. 

Trong sách Dư địa chí của cụ Nguyễn Trãi khi nói 

về huyện này có câu: Huyện... có trăn, chim trĩ 

và vượn trắng. Có phải cụ Nguyễn đã viết chính về 

sản vật ở núi ông Bụt này? Ban đêm tiếng hươu tác 

rầm rì, hổ đuổi, hươu lao cả vào nhà người đang ở 

là chuyện thường. Con suối cạn dưới chân đồi ông 

Bụt bây giờ, thuở ấy rộng như một nhánh sông, 

quanh năm đầy nước, tôm cá đánh dễ như ao nhà. 

Ông kỵ của chi họ Trịnh Bá lúc ấy sống nhờ vào con 

suối này. Chỉ với cái đó đón ở hồ nước xiết, vậy mà 

sáng nào là vợ cũng có cá bán. Thế rồi liền trong 

mấy hôm, đó của ông bị xé rách, cá mất. ông đoán 

với cách ăn trộm vụng kiểu này chỉ là một chú rái 

cá hay một con vòi gà nào đó chứ không phải 

người. Vì suối toàn là đá nên con thú ăn vụng 

không để lại một dấu chân. Một hôm ông đi thăm đó 

sớm hơn thường lệ để rình, thì lạy trời! Kẻ ăn trộm 

cá của ông là một bác hổ vằn không biết đi đứng 

hấp hoảng thế nào bị đá kẹp một bên chân hậu, chặt 

tới mức khỏe như hổ mà mà cứ chịu đứng ngay đơ, 

không tài nào rút chân lên được. Trước mặt ông 

mãnh là cái đó đã cào rách, nhưng hình như đau 

quá, nên cá vẫn quẫy phanh phách trong đó mà hổ 

ta bỏ mặc, không ăn. Thấy người ehủ của đó cá, hổ 

ta nhìn bằng con mắt cầu cứu và hối hận vô cùng. 

ông kỵ của chi họ Trịnh Bá liền chắp hai tay trước 

ngực, nói như khấn:

- Lạy thần núi Bụt, lạy chúa sơn lâm, tôi xin cứu 

ông được tai qua nạn khỏi, chỉ mong từ giờ trở đi 

ông đừng lấy cá của tôi, cả vợ chồng con cái tôi 

sống nhờ vào cái đó này.

Rồi ông lấy đòn bẩy đá. Hồ bị giập một bên chân, 

tập tễnh nhảy lên núi Bụt. Từ đấy ông không bị mất 

cá, mà còn được thêm phần. Hôm thì một con cá quả 

bằng bụng chân chửa, hôm thì một con cầy hương còn 

tươi rói để ngay trên bờ, cạnh đó cá. Hổ đền ơn 

đấy. Thế rồi một đêm mưa gió, sấm chớp ầm ầm, ông 

sợ đó bị trôi, liên đội nón, khoác áo tơi ra đi. 

Chính bộ tơi nón lòe xòe ấy đã dẫn đến sự nhầm lẫn 

chết người. Giữa lúc ông đang lúi húi bốc đá chắn 

cơn đập để dòng nước chạy thẳng vào đó, thì hổ vằn 

cầm một con cheo cheo đến tạ ơn như thường nhật. 

Thấy có người, hổ dừng lại. Nhìn bộ tơi áo tùm hụp 

với dáng điệu lom khom lục sục đầy vẻ vụng trộm; 

tin chắc đấy là một kẻ gian đang ăn hớt tay trên. 

Thế là để bảo vệ nguồn sống cho người đã cứu mình, 

không một hai suy tính, ngay tắp lự, hố vằn nhảy 

chồm lên cái bóng tơi nón ấy! Đến khi lật cái xác 

tơi tả, nhìn mặt, ông ba mươi bỗng lăn lộn, đập đầu 

vào đá, rống lên gào thét về sự nhầm lẫn không 

sao cứu vãn được của mình. Thế rồi hổ cõng xác con 

người xấu số đến một gốc cây gạo, dùng móng vuốt 

cào đất thành hố, đặt xác ông đơm cá xuống đó. 

Sáng hôm sau mối đùn lên thành một nấm mộ, vuông 

vức như đắp. Dạo ấy có một người thợ săn được chứng 

kiến, liền ba ngày sau đó, cứ đến nửa đêm hổ thọt 

lại cầm một con cá đến trước mộ, rồi đập đuôi bình 

bịch xuống đất, dựng đứng người đi bằng hai chân 

sau đến phía đầu mộ, miệng tru lên thống thiết về 

lỗi ìâm của mình. Gào thét đến xé họng một hồi, 

rồi hổ ta cúi đầu tập tễnh bước đi rũ rượi đến chán 

ngán cả chính mình. Ngồi bên này, người thợ săn 

tắt đèn ló, buông khẩu súng hai nòng, rồi bỏ con 

mồi như bỏ cục vàng đã nắm trong tầm tay. ông cũng 

thừ người ra trước nỗi lòng của anh thú dữ tưởng chỉ 

biết có cắn xé! Chi họ Trịnh Bá làm lăn phất lên 

như diều từ đấy.

Theo lời thầy tướng, đó là sự đền bù, sự phù trừ 

của Hổ thần. Chi họ Trình Bá thờ loài thú dữ nhất 

nhì của sơn lâm từ đấy.

Đến đời bố ông Hàm đã làm được nhà gỗ, mua được 

ruộng thượng đẳng điền. Trong chuồng rậm rịch lợn 

đàn, trâu nái. Thế rồi tất cả lại gần như về số 

không khi có cuộc tranh đua ném tiền ra mua cái 

chức lý trưởng. Đâm lao theo lao, lợn sề trâu 

nái, ruộng sâu giữa đồng cứ lần lượt chống gậy ra 

đi, mà cái chức lý trưởng lại về tay Vũ Đình Đại. 

Lúc ấy ông Hàm chưa học hết Tam tự kinh đã phải bỏ 

đi cầm tràng đục kiếm ăn. Nhà chỉ còn cái vỏ. Bố 

ông Hàm - Trịnh Bá Hoành lại cày sâu cuốc bẫm để 

dựng lại cơ đồ. Miếng ăn giữa làng hơn sàng xó 

bếp. Những lúc rượu vào, ông trừng trừng cặp mắt 

vằn những tia đỏ, miệng lẩm bẩm: Ta không có vòng 

bạc, xà tích, không đủ bạc trắng để chạy nên thua. 

Rồi ông rít lên, nhưng tao chưa chịu đâu? Chưa 

chịu đâu!

Cũng may thời thế chuyển vần. Lý trưởng Vũ Đình 

Đại chưa kịp ăn lộc thì cách mạng đã đến. Gió nổi 

can qua, Vũ Đình Đại bán vội con ngựa vừa mua, 

mới nhoong nhoong được dăm lần lên phủ, chưa kịp 

ngấm cái sướng của anh đầu gà hơn đít voi, thì đã 

bán ngựa tậu trâu để trở lại làm anh dân thường. 

Trịnh Bá Hoành mổ chó ăn mừng! 

Ngày ấy Hàm chưa đủ tuổi, đủ trí để cảm hết được 

cái cay, cái uất của cha, nên cũng không để tâm 

đến sự tranh giành giữa hai họ. Nhưng vài năm sau 

đến tuổi lấy vợ, thì mối hận của người bố đã trở lại 

nguyên vẹn trong lòng Hàm, mà còn sôi sục hơn! ấy 

là chuyện về cô Son, vợ Hàm. 

Hồi ấy cô Son đẹp nhất làng. Mặt hoa da phấn, thắt 

đáy lưng ong. Đi một bước là có người theo, người 

ghẹo một bước.

Nhưng chưa có anh nào lọt được vào cặp mắt lá răm 

vừa đen vừa sắc của cô. Thế rồi bỗng dưng cả làng 

Giếng Chùa đồn ầm lên là Son phải lòng cậu giáo 

Phúc, con ông lý Đại (người ta vẫn quen mồm gọi 

Đại như thế). Phúc lúc ấy đã học hết sơ học yếu 

lược, nhận một chân gõ đầu trẻ ở trường tư thục 

trên phố huyện. Phúc đã một vợ một con, nhưng vẫn 

phong tình lắm. Vợ Phúc răng đen hạt na, tóc vấn 

trần, người vừa gầy vừa khô. Khô chân gân nhặt, 

đắt tiền cũng mua! Nhưng đây là bố mẹ Phúc mua, 

chứ Phúc không thích. Được cái chị làm ăn giỏi và 

chịu nhịn. Từ nhỏ vợ Phúc đã được bố đẻ răn dạy phận 

nhi nữ là Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, 

phu tử tòng tử. Nên chị nghĩ đàn bà như dây leo 

dây cuốn. Nhỏ ở nhà nghe bố, lớn lấy chồng nghe 

chồng theo chồng, chồng chết theo con. Ai thế nào 

số trời đã định. Vì thế nghe người ta đồn chồng chị 

mua khăn mùi xoa, mua lược sửng có cán, mua gương 

có hình cô đầm để tặng Son. Chị ức, nhưng sợ chồng 

nên lại cười bảo, trò đời đàn ông như cái nơm, 

chòm chóp úp cầu may cũng như thả những lời trăng 

hoa ỡm ờ, nhưng đâu phải cứ úp là được cá, đâu 

phải cứ ghẹo là gái theo! 

Rồi người ta lại kháo nhau là ở bờ tường ngoài điếm 

canh có cái bài ca dao ca thớt thế này:

Chiều tà dao ná bờ sông

Thấy cái nón trắng thà không thấy người

Ngỡ là có đám chết trôi

Hóa ra trong bụi một đôi tinh tình!

Tính tình là tính tình tinh

Chị Son anh Phúc tính tình bên sông!

Người làm vè còn chỉ rõ nơi tính tình của ổ con 

chuồn chuồn là ở chỗ quẹo suối ông Bụt chảy qua 

sông Cầu. Không biết ban đêm vợ Phúc có cào cấu 

làm tình làm tội Phúc không, chứ bề ngoài chị chỉ 

buông một câu: Rõ đồ quạ mổ! Không nhịn được nữa 

hay sao mà đâm đầu đi theo người đã có vợ, cho nó 

chết!

Nhưng cô Son không chết! Son vẫn lấy chồng có 

thách có treo phân miệng tử tế. Hôm cưới cả làng 

Giếng Chùa được ăn cỗ nhờn môi. Son lấy anh Hàm, 

người không được hào hoa phong nhã như cậu giáo 

Phúc. Hàm lại đi tập tễnh, nhưng nhiều hoa tay, 

làm cái gì cũng khéo. Hàm đã mê Son từ lâu Son 

gặp nhiều khi Hàm đón đường chỉ để hỏi một câu giở 

trăng giở đèn vì hai con mắt cứ nhìn Son đờ đẫn 

như người say thuốc thì Son biết, nhưng cô dửng 

dưng tảng lờ.

Son còn không biết là Hàm đã lén ra tận bờ sông, 

chỗ vai cày của suối ông Bụt tiếp giáp với sông 

Cầu như bài ca dao đã chỉ dẫn, để xem binh tình hư 

thực thế nào. Thì Hàm thấy một đệm lá ở dưới gốc 

cây bạc thau rùm ròa như một cái ô che cho hai kẻ 

đi ăn vụng. Hàm đã ngồi xuống đấy ức đến phát 

khóc. Nhưng Hàm vẫn không bỏ ý định lấy Son làm 

vợ. Nghe dân làng đàm tiếu về con gái mình, bố mẹ 

Son vừa mắng mỏ chì chiết, vừa canh chừng riết 

róng, cứ phấp phỏng như giấu trong nhà một thùng 

thuốc súng. Nhằm trúng thời cơ ấy, Hàm giục gia 

đình đến hỏi Son, và cuộc gả bán được ngã ngũ thật 

chóng vánh.

Ngày cưới, cỗ bàn bày dàn dạt từ trong nhà ra tít 

ngoài sân. Người ăn hết lớp này đến lớp khác, rào 

rào từ sáng đến chiều tà như tằm ăn rỗi. Trước giờ 

thành nhân của đôi trẻ, ông Trịnh Bá Hoành khăn 

áo chỉnh tề, thắp ba nén hương trước bàn thờ. Ông 

đứng trước. Vợ chồng Hàm đứng sau. Ông sịt soạt 

khấn lầm rầm. Đó là lễ giới thiệu đôi vợ chồng trẻ 

với gia tiên, giới thiệu một người khác họ về nhập 

tịch làm dâu con chi họ Trình Bá. Vợ chồng Hàm 

quỳ lạy rồi lui. Một bà bác cao tuổi nhất họ đã 

chờ sẵn. Bà là người được tiếng mát vía về đường 

con cái, từng sòn sòn ba năm đôi. Bà eắp chiếc 

chiếu mới xuống gian buồng dưới nhà ngang. Căn nhà 

này chỉ để cối xay, cối giã và đồ lề của Hàm, bây 

giờ dành riêng cho vợ chồng Hàm. Bà phẩy giường, 

giũ chiếu, rồi trải ra lấy khước, đoạn quay lại dắt 

tay đôi vợ chồng trẻ ngượng ngập líu rfu bước vào 

nơi bí ẩn của cõi đời, nơi hứa hẹn những đam mê và 

cũng lắm lắm cái đau khổ của kiếp người! Mà đau 

khổ thật! Hàm thấy ngay mình là kẻ chậm chân!

Cái trái cấm kia đã có kẻ bóc trước!

Hàm vặn to đèn con, rồi kéo miếng vải xô lót dưới 

giường lên, vứt trước mặt Son. Miếng vải còn trắng 

tinh, không một dấu vết của sự trinh tiết. Và cuộc 

hỏi cung bắt đầu. 

Son cuốn chăn quanh người, ngồi co vào góc giường, 

nước mắt chảy ngoằn ngoèo trên má, trên cằm, khiến 

cho khuôn mặt đẹp mang hình một tấm gương vỡ. Cô 

khóc lặng lẽ, không bật ra tiếng, không nói một 

lời, như thể người câm. Hàm cứ bặm môi tra hỏi, như 

thể đối đáp một mình. Nỗi ghen tức thấy mình bị 

Son coi rẻ vẫn âm ỉ lâu nay, giờ càng bùng lên như 

lửa bắt dầu. Những tiếng đồn đại, những câu ca 

tinh quái móc máy về Son và cái kẻ ấy, lại thức 

dậy sôi réo trong người Hàm. Hàm hỏi dồn dập, 

tiếng cứ líu lại vì uất hận: Cô nằm với nó mấy lần? 

Hả, hả? Nằm ở chỗ nào? Hả, hả? Có đúng quãng vai 

cày ở suối ông Bụt không? Hả, hả? Son vẫn lặng 

thinh. Hàm nổi cơn lôi đình, giật tung chiếc chăn 

trên người Son. Cả cái khỏi ngọc ngà như trứng 

bóc, như đá tạc trắng lóa dưới ánh đèn. Nhưng Hàm 

chỉ thấy mình bị khinh khi, bị thua thiệt, bị là 

người đi sau đổ vỏ cho kẻ ăn ốc! Cả cái khối nõn 

nà ấy đã dâng hiến, đã run rẩy mê cuồng trong 

vòng tay của kẻ thập thành quen phỗng tay trên! 

Và anh thợ mộc đã nổi cơn điên, ứng xử theo đúng 

nghề nghiệp; Hàm rút phất tay thước quất hai cái 

như trời giáng xuống cặp đùi tròn mịn như bột lọc, 

và tiếng Hàm rít trong họng phả hơi rượu vào mặt 

Son: Nhìn đường gân ở bụng dưới của mày là tao đã 

biết? Ngày mai tao sẽ trả cho bố mẹ mày? Đến nước 

ấy thì Son chồm dậy. Mái tóc dài đen mun phủ dọc 

tấm thân tràn. Son gạt nước mắt, giọng khô lạnh 

rắn 

- Anh im lặng thì tôi nguyện làm con hầu con hạ 

cho anh suốt đời. Tôi cắn răng là vì thầy u tôi, 

chứ không bao giờ tôi yêu anh? Còn nếu anh chỉ cần 

hé răng với ai việc này, tôi sẽ đâm đầu xuống 

sông tự vẫn. Rồi tôi sẽ báo oán, sẽ vật anh chết 

theo!

Hàm buông rời tay thước, đứng như trồng. Rồi bất 

thần như một kẻ chiếm đoạt man rợ, Hàm nhảy choàng 

tới nằm phủ lên người Son như phủ một con mồi. Tình 

yêu của kẻ ghen tột cùng đến thành rồ dại, bỗng 

chốc biến Hàm thành một tên có máu sa-đích. Đêm 

động phòng có mùi vị địa ngục ấy đã gần bốn mươi 

năm nay. Những gì diễn ra đêm ấy chỉ có vợ chồng 

Hàm và bốn bức tường biết. Sáng hôm sau bà bác 

mát vía dẫn đầu nhà trai đi lại mặt; người ta chỉ 

thấy anh Hàm bước tập tễnh vui vẻ như nhún nhảy, 

còn Son hai má vẫn đỏ au, đôi mắt nhung nhìn rất 

đằm như e lệ. Son cố đi tự nhiên, cố giấu hai con 

trạch vẫn lằn đỏ, bỏng rát, vắt cho trên đùi non. 

Câu chuyện trong đêm hai người chôn chặt vào nơi 

u tối của lòng mình, như cùng giữ lời nguyền sống 

để dạ, chết mang đi.

Bây giờ những chuyện xưa lại sống dậy trong ông 

Hàm. Như lửa vẫn ủ kín trong trấu, im lìm không 

một sợi khói, cứ tưởng đã tắt, nhưng không! Gió đã 

thổi cho than ủ bùng lên thành lửa rồi! Ông Hàm 

thấy đây là thời cơ tốt nhất để ông ra tay theo 

cách riêng của ông. Chỉ ra tay một lần mà đối 

phương phải lụi tàn tử gốc đến ngọn!

Đêm.

Bầu trời bùng bìu vá víu trong những đám mây lờm 

xờm tựa một tấm da thú nham nhở. Hôm nay là ngày 

cùng tháng kiệt, trăng bỏ trốn, chỉ còn những vì 

sao yếu ớt bị nuốt trong mây xám. Đêm càng mung 

lung, vừa bí hiểm, vừa bồi hồi vẫy gọi. Đêm chở 

che và đêm đồng lõa!

Đào đang chạy trong đêm đến chỗ hẹn.

Với Đào, một cô gái hai mươi tuổi, đang được tiếng 

là xinh đẹp nhất nhì trong xóm Giếng Chùa này, 

lại là người mau mắn cả mồm miệng lẫn chân tay; lại 

là cháu bí thư Đảng ủy, lại là con ông Hàm, người 

giàu có tiếng, chỉ quanh năm ngồi nhà mà hái ra 

tiền, nên đi đến đâu Đào cũng được mời chào, được 

nhận những ánh mắt vuốt ve.

Với Đào, không có sự đe dọa nào, kể cả bóng đêm. 

Bóng đêm là tấm màn nhung xanh mượt che chở cho 

Đào. Mà điểm hẹn đâu phải nơi xa lạ bí hiểm gì. Là 

gốc nhãn rùm ra như một cái dù xanh trên con 

đường xép nối giữa xóm Giếng Chùa với xóm Mới. Vì 

là xóm lập sau khi dân cư quá đông, nên mới gọi 

nôm na như vậy. Trên giấy tờ văn bản, người ta gọi 

là xóm Đại Thắng, nhưng xem ra dân lại không 

thích cái tên mĩ miễu ấy Con đường xép chạy giữa 

cánh đồng nối liền hai làng này mới có từ khi hợp 

nhất hợp tác xã toàn xã, nghĩa là mới có gần mười 

năm nay. Những cây xoan, cây nhãn, bạch đàn 

trồng đã cao quá đầu người. Ban ngày chỉ có người 

làm đồng ngồi trú mát khi nắng, chứ trai gái có 

cho ăn kẹo cũng không dám đứng ở giữa nơi đồng 

trống tô hô này mà liếc nhau đầu mày cuối mắt! 

Tình yêu nơi thôn dã vẫn có thói quen thầm lén. 

Yêu thầm lén, và lấy nhau xong rồi cũng vẫn thầm 

lén. Sự say mê của những cặp vợ chồng được gói 

trong những căn buồng tối mò mò, đếm mức dù có mở 

thao láo mắt ra cũng bằng thừa! Thành thứ bóng 

đêm bao giờ cũng là bạn đồng hành của tình yêu.

Bóng đêm đang che chở và khuyến khích Đào. Đào 

đang chạy gần đến gốc nhãn, chạy đến nơi say mê 

của lòng mình. Chập tối nay, lúc Đào đang nấu 

cơm, thì bỗng nghe tiếng Tùng chào ông Hàm rất to 

ngoài cổng:

- Bác tưới cây ạ? Bác Thủ có đây không ạ?

Ông Hàm vẫn tưới ròe ròe vào mấy gốc táo Thiện 

phiến, nói nho nhỏ gì đó, trong khi Tùng vẫn 

oang oang như muốn thông báo cho cả làng biết:

- Vâng, cháu mới đi mua sắn về. Lên Võ Nhai sắn 

nhỏ và đắt, thế là phải ngược tận Định Hóa, Bạch 

Thông. Cháu đi tìm bác Thủ để cùng bảo quản trị 

lên phương án chia cho xã viên.

Đào bỏ cả nồi cơm đang ghế chạy ra sân, và bốn con 

mắt tinh quái đã loáng bắt vào nhau như điện. 

Tùng chỉ muốn gào lên: Đào! Anh đã về! Đào đọc 

được tiếng gọi đó và ánh mắt Đào cũng reo lên trả 

lời: Thôi biết rồi, đi đi ông nỡm! Lộ hết bây giờ! 

Tối gặp nhau ở gốc nhãn!.

Thế là bản thông báo quan trọng của hai người đã 

xong. Cái cớ đi tìm bí thư Đảng ủy của Tùng đã đạt 

kết quả mĩ mãn, và vẫn kín mít, đến mức tinh khôn 

như ông Hàm mà cũng chịu cứng. Thế mới biết tình 

yêu mà đã thông đồng thì chúng có trăm phương 

nghìn kế, trời cũng bó tay! Mặc cho ông Hàm lử 

khừ nói nhát một, Tùng cứ hào hứng kể chuyện giá 

sắn, giá ngô trên mạn ngược thế nào, rồi chào ông 

Hàm rất ngọt ngào lễ phép trước khi đi như bay về 

nhà.

Đào nấu cơm mà hồn vía như bay đi đâu mất. Tay 

đang cầm đũa cả, mà mắt cứ nhớn nhác đi tìm đũa 

ghế cơm. Đáng nhẽ tra mì chính vào canh, thì lại 

cứ tống mãi muối trắng vào! ấy là óc Đào đang 

nghĩ làm cách nào để tý nứa đi vắng có lý do. 

Không họp hành mà đi nửa đêm mới về là không xong 

với cụ via! Và nếu cụ biết lại đi với Tùng thì Đào 

đến gọt đâu bôi vôi! Không biết hai họ nhà này có 

điều gì mà cú nhau đến thế! Đào không biết những 

chuyện sâu xa, cô chỉ nghĩ là Tùng trêu tức vào 

ông via cái hôm Tùng mới ở bộ đội về. Ngày ấy cách 

đây đã hơn một năm, Tùng hết hạn nghĩa vụ trở về. 

Sau mươi hôm thu xếp việc nhà, anh đi tìm Thủ để 

nộp giấy sinh hoạt Đảng. Lúe ấy Thủ đang ở bên nhà 

ông Hàm.

- Đồng chí nhận một công tác gì để xây dựng quê 

hương chứ? - Thủ xem xong giấy giới thiệu, ngửng 

lên hỏi Tùng.

Vừa lúc ấy Đào ở trên phố huyện về. Quần bò, áo 

phông, lại thêm dáng người ong óng giống mẹ, 

trông cô tươi bưởi như vừa ở đám hội bước ra. Vốn 

là học sinh trung cấp nông nghiệp của tỉnh, xã 

định đào tạo để rồi về làm kỹ thuật viên cho hợp 

tác. Nhưng mới học được một năm thì trường giải thể 

vì khó khăn về cơ sở vật chất, đông thời bây giờ 

người ta không mở hệ trung cấp nữa. Về nhà, nhưng 

Đào vẫn có tác phong của một nữ sinh. Nghe tiếng 

chào, Tùng quay khẽ gật, và rõ ràng anh bị sửng 

sốt về vẻ đẹp khoẻ mạnh, mới mẻ của cô gái, nhưng 

Tùng vội quay lại phía Thủ, nói rành rọt:

- Báo cáo đồng chí bí thư, cho tôi nghỉ dăm sáu 

tháng nữa để tôi kiến thiết nhà cửa.

Lúc ấy Thủ mới là phó bí thư thường trực, nhưng 

ông Đáng hen suyễn đã gần như giao hết quyền cho 

Thủ, chắc Tùng đã quen biết, nên cứ một hai gọi 

Thủ là bí thư. Hắn tôn trọng thật, hay hắn móc máy 

đây?

- Mới có vài năm, mà xóm làng đã ngói hóa đỏ cả 

- Tùng tiếp lời: Nhưng mà tôi thì vẫn nhà tranh 

vách đất. An cư mới lạc nghiệp. Không có cái nhà 

hẳn hoi, mưa gió không yên, mà bà con dân làng 

cũng khinh cho!

Lúc ấy ông Hàm mới quay sang bắt chuyện, nhưng mặt 

vẫn lạnh khô:

- Nghe nói anh đang đốt gạch, anh định làm mái 

bằng hay mái chảy?

- Dạ trước mắt cháu làm nhà bếp và nhà ngang mái 

chảy, còn nhà trên hãy thư thư rồi cũng phải cố 

theo gương các bác! Rồi Tùng hỏi ông Hàm về công 

xá của phần mộc. Cũng nói vanh vách những thượng 

thu hạ thách, những kèo kìm chống chéo để bớt được 

trụ ra sao. Và anh đã mặc cả công thợ nếu khoán 

trắng thì thế này, nếu chủ nhà phải chi một bữa ăn 

trưa trong một thời gian thợ làm thì sẽ còn lại 

là...

Ông Hàm gật gù:

- Nghe anh nói tôi thấy anh cũng thạo việc đấy. 

Thế mấy năm ở bộ đội anh làm gì?

- Dạ, cháu ở bộ binh. Nhưng đến hơn năm nay đơn vị 

cháu đi làm kinh tế. Cháu có thẻ ra quân từ năm 

kia, nhưng cháu xin được ở lại để chuyển Đảng 

chính thức cho xong, kẻo về địa phương lại rắc rối! 

Với lại ở đấy học thêm được mấy nghề để về có vốn 

liếng sinh sống.

- Sao đồng chí lại nghĩ chưa chuyển Đảng chính 

thức thì về địa phương sẽ rắc rối? - Thủ hỏi đã có 

ý bực.

Nhưng Tùng vẫn cười cười. Cái cười của hắn như chọc 

vào người nghe! Với hai anh em ông Hàm, Tùng có 

cách xưng hô rất phân biệt. Với ông Hàm thì bác, 

cháu. Còn với Thủ thì cứ đồng chí và tôi. Đào dọn 

dẹp quét sân bên ngoài, cứ tủm cười. Nghe nói lão 

này mới ngót ba mươi tuổi, nhưng nói năng cứ như 

ông cụ non! Ngày ở nhà lão đã học hết phố thông, 

làm thư ký đội, làm bí thư chi đoàn, năng nổ và 

hoạt bát. Nhưng ngày ấy Đào còn nhỏ và lại ở khác 

tổ sản xuất, nên chỉ biết chứ không quen. Nghe 

người ta nói từ hôm về đến nay, lão đào đất, đóng 

gạch huỳnh huỵch cả ngày cả đêm. Định làm giàu 

thành ông địa chủ chắc!

Trong nhà Tùng vẫn vui vẻ trả lời Thủ với giọng 

rành rẽ: 

- Báo cáo đồng chí bí thư, tôi tự thấy tôi rất 

hiểu địa phương ta. Dạo ở nhà tôi đã được thử thách 

đến vài ba năm. Kể cả ông cậu của tôi cũng bảo tôi 

chưa thể là Đảng viên được vì người ta ít nhìn vào 

hiệu suất công việc. Từ ngày tôi đi đến giờ gần 

năm năm, mà cả Đảng bộ chỉ kết nạp được hai đảng 

viên mới.

Ông Hàm như bỏ ngoài tai chuyện công tác, vẫn hỏi 

theo chủ đề của ông:

- Thế anh học được những nghề gì?

- Dạ, đóng gạch và đốt gạch thì cháu đã thạo. Nghề 

mộc mới sơ sơ. Ban đêm cháu đi học võ!

- Lại học cả võ nữa?

- Dạ, đơn vị cháu có mấy anh rất giỏi ka-ra-te.

- Anh khá đấy! - Ông Hàm gật gù, mặt vẫn tỉnh khô, 

không biết ông khen thật hay khen đùa.

Lát sau Tùng về, bấy giờ ông Hàm mới xổ ra:

- Mới nứt mắt đã cốc láo? Không còn coi ai ra gì! 

Thằng này rồi làm loạn ở cái làng này đây!

Ró thật ghét của nào trời trao của ấy! Ông Hàm 

không thể nào ngờ được con gái rượu của ông lại đi 

đầm đầu yêu tháng cốc láo, cái tháng sẽ làm loạn 

ấy! Với Đào, chỉ sau mấy buổi đi họp ở xã đoàn, vì 

xã yêu cầu những Đảng viên trẻ vẫn tiếp tục cùng 

sinh hoạt đoàn, và đi tập dân quân, thì cô chỉ 

thấy Tùng rặt những ưu điểm! Cả gương mặt vuông chữ 

điền với nước da bánh mật của Tùng, Đào cũng thấy 

quanh đây chẳng anh nào ăn đứt? Nếu có cần sửa 

chăng là sửa cái mồm. Cứ gáy lên để làm ngứa gan 

các ông khốt thì ăn bàn ăn giải gì? Đào đã cắn 

vào miệng Tùng, beo vào tai Tùng mà bảo sớm chừa 

cái tính ta đây ấy đi. Còn anh chàng cũng có tý 

máu khoe khoang, khi ngồi bên Đào thì chỉ là một 

chú cừu, cứ rúc mặt vào nách Đào mà nỉ non những 

lời sám hối!

Và bây giờ hai người đã quen hơi bén tiếng nhau 

có đến dăm tháng, nhưng vẫn phải hoạt động trong 

vòng bí mật, chưa thể công khai được! Đào đang 

nghĩ cách, thì vừa lúc cái Hoa đi học về: Đào bảo 

nó như dỗ dành:

- Chị nấu cơm sắp chín rồi, Hoa sang chị Minh bảo 

lúc nữa chị ấy ăn cơm xong, sang đây chị nhắn cái 

này nhá. Đi đi, rồi gọi u ở ngoài bãi chè về ăn 

cơm.

Buồi tối Minh sang, rúc rích một lúc, khi chiếc 

đông hồ Ô-đô gõ bình boong chín tiếng, thì lòng 

Đào nóng như lửa đốt. Việc này thì chưa thể nói 

với cái con ruột ngựa này. Mãi đến chín rưỡi Minh 

mới về. Đào dặn nhỏ bà Son: U cứ để cồng, tý nữa về 

con đóng. Rồi hai cô dắt nhau đi, làm như cùng 

chung một đường. Ra tới cổng, Đào bảo bạn: Mày về 

nhá, tao đến nhà chú Thủ có tý việc.

Rồi Đào đi. Rồi Đào chạy. Một tay giữ vạt áo một 

tay giữ ngực, động tác của người con gái có ý, dù 

đêm khuya không một bóng người. Con đường dẫn ra 

đồng Tròn, nơi có gốc nhãn hẹn hò mấp mô sống 

trâu. Lại tối, Đào cứ như chạy trong mơ. Lúa hai 

bên ruộng ngả sang tê đường, quét rào rào vào ống 

quần. Châu chấu phóng càng bay tanh tách, đạp cả 

những bộ chân ráp như chấu vào má, vào cổ Đào. 

Đào vẫn chạy dần, ngực đập thình thịch. Cây nhãn 

đã hiện ra, mờ mờ rùm ra như một người đứng xõa 

tóc trong đêm. Tới gần, Đào dừng bước, cứ tưởng 

Tùng từ gốc cây sẽ lao bổ ra ôm chầm lấy Đào như 

mọi khi. Nhưng đến tận nơi mà không thấy gì. Chỉ 

có gốc nhãn đứng chơ vơ một mình. Sao thế này? Hay 

là Tùng ra chờ lâu quá đã về rồi? Hay Tùng bận 

phải trông xe sắn nên không đến? Không, chưa bao 

giờ Tùng lỡ hẹn cả. Có hôm mưa Tùng còn khoác áo 

mưa thì không có gì quan trọng bằng gặp Đào. Mà 

lần này đã năm ngày không gặp nhau rồi còn gì. 

Đào ngồi xuống cái rể cây đội gồ lên, thở. Bực, 

Đào đã thấy bực. Để người ta chạy hộc tốc, rồi bây 

giờ đứng ôm gốc cây một mình như con dở thế này 

đây! Phen này thì phải cắt cầu vài ngày nữa mới 

được! Cho chết?

Bỗng có tiếng cú rúc đâu rất gần. Đào rùng mình 

nghiêng ngó, thì ngay trên ngọn cây, tiếng Cú! 

Cú! lại vang lên lẫn tiếng người cười! Đào vừa kêu 

ớ định vùng chạy, thì con cú đã từ trên cành nhảy 

đánh rào như ném mình xuống, và bằng động tác của 

con đại bàng cắp nàng công chúa trong truyện cổ, 

Đào bị hai cánh tay rắn chắc ôm trùm lấy, nhấc 

bổng lên, quay tròn một vòng. Đào nhận ra tiếng 

cười, mùi mồ hôi và những cái xoắn từ những ngón 

tay của người con trai như muốn lặn vào da thịt 

mình. Bởi những động tác ấy đã quen thuộc với Đào 

lắm. Bởi hai người đã qua giai đoạn thả lời ướm ý. 

Đào ngã lịm vào ngực người yêu. Vòng tay lên ôm 

lấy cổ Tùng, miệng cắn vào bả vai Tùng, giọng rên 

lên sung sướng đến nức nở:

- Chết đi! Làm người ta cứ tưởng mình bỏ về rồi!

Tùng áp miệng vào tai Đào gọi liến láu như một gã 

điên:

- Đào ơi em Đào ơi, chị Đào ơi, bà Đào ơi, cụ Đào 

ơi! Có nhớ anh không? 

Vừa liến láu, Tùng vừa xoay người lại, nâng mặt cô 

lên, nhìn sát vào khuôn mặt hình bầu dục với hai 

má tròn đầy, cặp mắt mở lim dim. Đào nằm cuộn 

trong lòng Tùng, hai tay vẫn ôm chặt lấy cổ. Tùng 

cà cà cái cằm ram ráp những chân râu lên khắp 

khuôn mặt Đào, rồi cà xuống cổ, cà xuống bộ ngực 

đã mở cúc căng đầy mịn màng khiến Đào rùng mình 

rướn cong người lên, miệng càng rên se sẽ, đầu óc 

loạn xạ, không còn biết nên chống đỡ hay nên 

buông thả. Tùng thì hoàn toàn mê mẩn, lòng chỉ 

còn sôi réo đòi hỏi. Bàn tay khao khát lần tìm 

những nơi sâu kín trên cơ thể chắc mẩy, nuột nà, 

rừng rực sức trẻ của người yêu. Bỗng Đào kêu giật 

giọng. Không hiểu sao những lúc này người tỉnh 

táo, cảnh giác được xung quanh bao giờ cũng là nữ 

giới, là đàn bà chứ không phải là đàn ông. Đàn 

ông lúc này chỉ còn biết có chết!

- Có người! - Đào kêu hốt hoảng.

Tùng vẫn còn chưa tỉnh cơn mê. Cả mũi, cả miệng vẫn 

đang thở hít hà cái mùi ngầy ngậy hôi hổi của da 

thịt con gái, thì Đào kéo cổ áo, gỡ Tùng ra, ngồi 

vùng dậy cuống quít:

- Họ đi lại đây! Tùng ngẩng lên. Đúng là lờ mờ có 

mấy bóng người đang từ trên đường chính đi xuống, 

và họ sẽ đi qua đây thật!

- Chạy, anh!

- Không, lên cây!

Khi mấy bóng người vừa đi khuất xuống hủm, thì 

Tùng đã đu người chạc lên cây nhãn, rồi kéo tay 

Đào lên. Nhưng Đào lóng ngóng như đã sắp khóc.

- Em không trèo được!

Tùng nhảy xuống, đội Đào ngồi lên cổ. Đào vừa bíu 

được vào cành nhãn, Tùng đã đu người lên, rồi kéo 

Đào ngã ngồi xuống mấy chạc cây xòe ngang như một 

cái sàn. Tùng gỡ lá gài cho kín phía dưới, rồi 

một tay bíu cành, một tay ôm chặt ngang người Đào 

nóng rừng rực và trẹo trọ như muốn ngã. Mấy bóng 

người đã hiện ra ở đầu ruộng. Một, hai, ba, bốn.

Tùng bỗng rùng mình, rồi thì thào rất sẽ:

- ồ, thầy!

Đào nhắm mắt, rúc mặt vào ngực Tùng, người run lẩy 

bẩy, tiếng cũng run lấy bẩy:

- Thầy em?

Tùng bịt miệng Đào. Cả hai cùng run như dẽ. Trống 

ngực người này đập, người kia nghe rõ, cứ thình 

thịch như đập đất bên tai!

Trong ánh sao bạc mờ, trên bờ lúa đã hiện rõ ông 

Hàm tập tễnh đi đâu, vai vác cuốc. Rồi ưởng, rồi 

Ngạc, hai người cháu ông Hàm, hai người anh thúc 

bá bất trị của Đào. Một tay của ưởng xách cái gì 

như là một cái can nhựa. Rồi cuối cùng là ông 

Thó, sao ông Thó lại như con gà lạc đàn vào đây? 

Trên vai, trên tay người nào cũng cuốc và xẻng. 

Tất cả cùng lặng phắc, cắm cúi đi rất nhanh. Rồi 

họ đi sát vào gốc nhãn. Mùi người, mùi mồ hôi 

thoang thoảng tỏa lên. Trên cây, tim hai người 

đến ngừng đập. Khi những bước chân lạt sạt nghe đã 

đuối mờ, Tùng và Đào cùng se sẽ thở hắt ra một hơi 

dài.

Đào hỏi giọng giống như người ốm:

- Có những ai hả anh? Họ đi đâu?

Tùng nhảy xuống, nghểnh eổ nhìn theo hút mấy bóng 

người. Đi đến giữa đông, họ rẽ trái, rồi biến mất 

sau những bụi lau. Thế có nghĩa là họ không sang 

sớm Mới, mà ngược lên đồi Sim. Họ đi đâu? Trên ấy 

không còn nhà ai, chỉ là đồi hoang. Bãi tha ma 

của làng ở đấy! Ông Phúc vừa chôn cụ Cố ở đấy! Đó 

là ông ngoại của Tùng. Một tia lạnh bỗng chạy dọe 

người Tùng. Chả nhẽ lại là... Tùng rùng mình, 

không dám nghĩ nữa. 

Đào bíu vào cổ Tùng đu xuống, rồi theo lệ Tùng 

đưa Đào về. Hai người lại ôm nhau đi tắt qua những 

bờ ruộng mấp mô. Cả hai cùng yên lặng, không vừa 

đi vừa cấu chí cười rúc rích như mọi khi. Đào nói 

thầm thì:

- Thảo nào lúc nãy ra ngõ em gặp ông Thó với anh 

ưởng, anh Ngạc đến tìm bố em. Anh đoán họ rủ bố em 

đi đâu?

Tùng sững người, tý nữa thì kêu a. Thế là vô tình 

Đào đã giao chiếc chìa khóa của sự bí mật cho 

người yêu. Hỡi Mỵ Châu công chúa! Đây là người con 

gái thứ bao nhiêu đã vì con tim yêu bồng bột mà 

đi theo bước sai lầm của Người? Vì yêu nàng đã mở 

hết những bí mật của vua cha cho người tinh của 

mình. Người đời vẫn nói yêu là đui, là mù, thật 

bao giờ cũng đúng vậy thay!

Thế thì đúng rồi, không phải họ rủ, mà chính bố cô 

rủ họ? Tùng thầm kêu lên như vậy. Bàn tay đang ôm 

eo Đào bỗng lỏng rời ra. Nhưng Đào không để ý. Đến 

chỗ rẽ, Tùng chỉ ôm Đào xiết vào ngực chứ không 

cắn cấu cuồng nhiệt như mọi khi.

- Tám giờ tối mai lại ra đây nhé - Tùng dặn. 

Đào đồng ý bằng cách cắn vào ngực Tùng, rồi biến 

vào rặng tre tối thẫm đang kẽo kẹt trong gió, 

miệng lại hát se sẽ nữa. Tùng đứng một mình một 

lúc để ngẫm nghĩ, rồi quay đầu chạy hối hả về xóm 

Mới. Bà Sang đã ngủ được một giấc đầy, bỗng nghe 

Tùng mở cứa ken két, rồi gọi giật giọng:

- U ơi! Dậy ngay có việc cần!

Bà Sang nói giọng khê nặc trong chiếc màn nhuộm 

nâu: 

- Việc gì đêm hôm này? Gọi cái Mai, thằng Tú dậy 

thì sao. 

Tùng vừa xập xèo đánh diêm, vừa nói hào hển như sợ 

ai cướp lời:

- Con đã bảo U dậy có việc. Cái Mai, thằng Tú 

không thể để cho chúng nó biết được.

Bà Sang vừa dụi mắt bước ra, thì Tùng đến gần bà 

nói từng tiếng một đầy hệ trọng:

- U đến nhà cậu Phúc nói cậu ấy phải ra ngay đồi 

Sim, chỗ vừa đặt mộ ông. Ngoài ấy đang có chuyện 

không lành!

Bà Sang tỉnh ngủ hẳn, bủn rủn cả người, dụi mắt 

nhìn Tùng như người bị ma ám đồng nhập.

- Chuyện gì? Thế sao mày không đến nói với cậu? 

Con không đi được. Con đi là hỏng hết việc. U cứ 

nói với cậu là U nằm ngủ được báo mộng ngoài ấy có 

chuyện? Bảo cậu phải gọi thêm người, không được đi 

một mình. Nếu cậu có hỏi thì u bảo con thưa về.

Bà Sang cuống quít tìm cây gậy hèo, lấy đèn pin, 

rồi bước lập cập đến nhà ông Phúc. Ra đến sân bà 

còn ngoái lại nhìn Tùng như nhìn một người lạ vừa 

mang họa đến nhà! Còn lại một mình, Tùng đi đi 

lại lại, suốt hai gian nhà ngoài, vơ vẩn như một 

kẻ mộng du, rồi đến nằm vật xuống giường, miệng 

thầm kêu lên: Thế là lúc chúng ta phải đối đầu với 

họ rồi!.

Chính lúc này, ở đồi Sim.

Ông Hàm đi trước dừng lại. Ba người bước lạt sạt 

qua những bụi mua phía sau dừng theo. Sương thấm 

lạnh vào những ống chân. Ngôi mộ cụ Cố họ Vũ đã ở 

trước mặt. Chiếc nhà táng đặt trên chốc mộ chỉ còn 

lại bộ khung tre. Lớp giấy vang tróc ra, rách lùa 

tủa, gió thổi bay lật phật. Những vòng hoa xếp kín 

xung quanh hôm trước, nay trẻ trâu đã mang nghịch 

vung vãi. Ngôi mộ nằm dài im lìm, đen sẫm trong 

đêm. Trời bận mây, che nốt cả thứ ánh sáng nhợt 

nhòa của những vì sao yếu ớt. Đêm càng tối. Đêm 

giấu trong mình những việc làm của người đời mà 

ban ngày họ không đủ gan làm. Đêm đồng lõa!

Ông Hàm đứng im nhìn ngôi mộ. Nó! Chính nó đây! 

Đối thủ của ông? Một đối thủ tay không vũ khí, vậy 

mà ông bỗng khẽ rùng mình. Thó và hai người cháu 

bất trị của ông Hàm đi nhẹ như nhón gót, sột soạt 

đến sát bên ông. ưởng vuốt lại mái tóc gần chờm 

vai, thở phì phì như con trâu dái sắp sửa lao vào 

cuộc. ưởng và Ngạc từng có nhiều thành tích bất 

hảo, đã đón đường đánh cả thấy giáo vì không cho 

chúng lên lớp vì học quá dốt. Đánh nhau ở bãi 

chiếu bóng, đánh nhau ở giữa chợ. Cũng có nhiều 

phen bò lê bò càng, bố mẹ phải bán cả lợn nái, và 

đàn lợn giống để mua mật gấu bóp mới khỏi, nhưng 

rồi chứng nào tật ấy. ưởng đi lính chưa được một 

năm, thì bị loại ngũ vì quá nhiều vụ vô kỷ luật.

- Tất cả đứng sau tôi - ông Hàm nói khe khẽ - Chú 

Thó chuẩn bị sẵn hương với diêm, lúc nào tôi bảo 

hẵng châm.

- Em cầm sẵn đây rồi - Thó nói run run. 

Bốn người đứng hàng dọc theo mộ, cuốc xẻng chống 

bên người, rất sẵn sàng xông vào trận. Ông Hàm 

bước lên một bước, ngang đầu mộ, đầu khẽ quay về 

sau, bảo Thó: 

- Chú Thó đốt ba nén hương.

Thó lật đật đánh lửa, châm ba nén hương. Ông Hàm 

với tay lại cầm, rồi huơ lên một vòng đỏ. Đoạn ông 

cầm hai tay, đưa thẳng ra phía trước. Chân đứng 

hơi khuỳnh như lên tấn, miệng sịt soạt hít vào dọn 

giọng, rồi bắt đầu đọc bài khấn:

Lạy thần Thành hoàng

Lạy ông Tiên chỉ

Lạy ngài Quan âm chốn niết bàn

Lạy bà Bồ tát nơi âm phủ

Nay con xin tâu rằng :

Dòng họ Vũ nhà này chua cay ác độc, mấy đời nay 

từng thay đen đổi trắng, từng buôn quạ bán diều, 

buôn rết bán rắn, gây nhiều tai oán với họ Trình 

nhà con. Chúng chiếm ruộng nương gia sản, chiếm 

tình chiếm nghĩa, xui khiến họ Trịnh sớm hôm lục 

đục, lửa ít khói nhiều, bức bối toàn gia! Nay đến 

lúc gặp ơn đền ơn, gieo oán trả oán, Ô hô hô! 

Ông Hàm lại huơ ba nén hương thành một vòng tròn. 

Những lời vừa đọc đã kích thích ông. Mối thù được 

khơi lại. Máu bừng sôi. Ông e hèm, rồi cao giọng 

tuyên án:

- Lạy thần Thành hoàng, giờ con xin được cải mả, 

lật sấp thi thể chi họ Vũ Đình xuống, để đưa quả 

báo này tới chốn dương gian, bắt họ Vũ phải chịu:

Ba đời tuyệt tự

Hữu nữ vô nam

Hữu sinh vô dưỡng

Gái thì đẻ ngược

Giai chết không mồ

Đứa ngã xứ Đoài

Đứa vùi xứ Đông

Đứa sống chạy rông

Quanh năng khốn khó

Trồng rau ra cỏ

Cấy lúa ra lau

Trồng trầu hóa tiêu

Gieo cà ra ớt

Long đong lật đật

Hệt đường sinh nhai

Ô hô hô!

Vừa dứt, ông Hàm quay sang tung ba nén hương lên 

mộ, rồi cầm can róc rượu vào chén vẩy xuống theo. 

Ông vẩy ba chén liền xuống mộ, rồi dằn giọng hạ 

lệnh như dao chém đá:

- Đào!

Miệng nói tay làm, Hàm vớ ngay lấy cuốc đẩy chiếc 

khung nhà táng xuống, giận dữ như đẩy nhào một đối 

thủ bằng xương bằng thịt. Rồi Hàm bổ nhát cuốc 

xuống đỉnh mộ như hạ một lời tuyên chiến. ưởng và 

Ngạc nhảy bổ vào như hai thằng thiên lôi lành 

nghề, phóng lưỡi xẻng vào bờ thành ngôi mộ, hất 

đất xuống rào rào, Thó lóng ngóng gạt đất phía 

sau.

Đêm càng đen kịt. Đen như chính lòng người! 

Trong chốc lát phần nổi của ngôi mộ đã bị phá 

tung. Đã có những hơi thở ậm è vì quá hộc tốc, Hàm 

vẫn là người đâu tiên cuốc xuống phần âm của ngôi 

mộ. Hâu như Hàm không biết mệt, cứ lầm lì và quả 

quyết như một gã phá huyệt chuyên nghề! Trong 

lòng Hàm vừa căm giận, vừa hả hê. Lão dồn sức vào 

cán cuốc, hất tung đất lên như hất nỗi u uất bao 

lâu nay từ chính lòng mình.

Thó đang lúi húi cào đất phía trên bờ huyệt, bỗng 

kêu giật giọng kinh hoàng:

- Có người!

Ngay lập tức tiếng Vũ Đình Phúc, trưởng chi họ Vũ 

Đình vang lên phía sau như một tiếng sét:

- Tất cả đứng im! Thằng nào chạy tao bắn!

Rồi để cho lời nói có hiệu lực, Phúc cao giọng ra 

lệnh cho người em rể, chồng bà Lộc, một cán bộ mới 

về hưu, chiều nào cũng khoác súng săn đi bắn gà 

gô, chim gáy:

- Chú Tính lên đạn, thằng nào chạy bắn què!

Cả Hàm, ưởng, Ngạc và Thó cùng đứng cứng người như 

bốn cái cọc cắm xuống đất. Ông Phúc đi lại, cúi 

xuống nhìn mộ bố đã bị phá tan. Phúc gầm lên:

- Quân khốn nạn! Quân tán tận lương tâm. Quân...

Thó bỗng vứt cuốc, chạy lại bên Phúc, nức nở:

- Bác Phúc ơi, bác tha cho em! Em không muốn, 

nhưng bị người ta bắt đi. Bác Phúc ơi, bác hiểu 

cho em!

Phúc định hét lên, nhưng một sự tính toán đã đến 

rất nhanh. Phải biết lôi kéo, phải biết phân hóa, 

phải biết nhằm vào mục tiêu chính. Phúc hắng 

giọng, dõng dạc:

- Chú Thó, tôi biết chú bị mua chuộc, bị ép buộc. 

Tôi không chấp chú. Chú đứng sang bên này. Chú 

sẽ là người làm chứng. Còn ba người nhà này đứng 

yên, động đậy tao bắn! Rồi Phúc quay sang thằng 

cháu con bà Tài cao như một cái sào đứng bên 

cạnh, nói lớn:

- Thằng Quyền về báo động, khua cả làng ra đây! 

Gọi cả thằng Thủ ra đây! Chú Quỳ sang bãi chè nhà 

tôi vơ hết guộc lại để đốt. Phải cho cả làng Giếng 

Chùa thấy việc làm của chúng nó! Phen này cả làng 

sẽ thấy chúng nó quỳ lạy dưới chân tao! Thằng Thủ 

cũng phải quỳ lạy dưới chần tao! Quảng, đốt lửa 

lên!

Tiếng chân chạy rầm ráp, rào rào. Khi ngọn lửa 

bùng vào đống guộc khô; gặp gió, lửa reo ù ù phần 

phật, sáng hửng cả vùng đồi, quét dạt những dải 

sương bay vật vờ, thì Hàm hực lên một tiếng, nhảy 

bổ vào Phúc!

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Sáu - VN thu quan

Tối nay bí thư Đảng uỷ Trình Bá Thủ có cuộc đánh 

chén ở nhà chủ tịch Trần Văn Sửu.

Nhà Sửu ở xóm Trại, khuất lảnh ngoài vùng đồi. Đây 

là xóm của bà con dưới Nam Định, Thái Bình lên 

khai hoang từ những năm sáu mươi. Mặc dù cũng ăn 

nên làm ra, con cái đi bộ đội, đi thoát ly, 

nhiều người trở thành cán bộ đảng viên rất chững 

chạc, nhưng trong thâm tâm của mọi người, xóm trại 

vẫn là xóm của dân ngụ cư, dù thế nào cũng không 

thể là cái xương sống của xã. Hồi chiến tranh phá 

hoại, đã có một dạo bí thư Đảng uỷ xã là người của 

xóm Trại. Dịp ấy có năm thanh niên của Giếng Chùa 

nhập ngũ. Sau ba tháng huấn luyện, đơn vị hành 

quân vào nam. Tới khu 4 thì bị máy bay oanh tạc, 

cả đại đội gần như bị xoá sổ. Năm người Giếng Chùa 

thì chết ba. Hai người còn lại hoảng quá, liền 

đằng sau quay đi nước mã hồi phóng thắng về nhà. 

Ngày ấy chủ tịch và xã đội trưởng đều là người của 

Giọng Chùa, nể nả định lờ đi. Nhưng bí thư Đảng uỷ 

đã chỉ thị cho phó chủ tịch kiêm trưởng ban công an 

phải gọi hai người thanh niên kia lên và đã xử 

trí đúng như xử trí những quân nhân đào ngũ, tức 

là đi làm lao công cho xã. Thôi thì thượng vàng 

hạ cám, từ rẫy cỏ quanh nhà uỷ ban, ngào đất trát 

tường cửa hàng mua bán xã, đến xe gạch xe vôi từ 

trên phố huyện về làm nhà tắm, làm hố tiêu hố tiểu 

công cộng. Xã không thiếu việc. Cứ cơm nhà việc 

xã. Ngày ngày trưởng ban công an đích thị đôn đốc 

kiểm tra, còn việc thì bí thư Đảng uỷ sẽ nghĩ ra, 

vẽ ra, làm đến quanh năm không hết. Lúc ấy có một 

trợ lý quân lực của tỉnh đội là người của Giếng 

Chùa đã ra tay cứu danh dự cho làng mình bằng 

cách khuyên hai chiến sĩ báo cáo xã xin trở lại 

đơn vị. Thế rồi khi lên tỉnh, và không biết bằng 

cách nào, hai anh lính ấy đã biên chế về một đơn 

vị của tỉnh đội. Cuối năm ấy đại hội Đảng bộ, bí thư 

Đảng uỷ mất phiếu tới mức chỉ còn là một đảng viên 

thường. Rồi llên đó có đợt kiểm tra Đảng, đồng chí 

bí thư cũ bị một phen cuống cà kê lên khi bỗng có 

dư luận là chuyện vào Đảng của anh không rõ ràng? 

Lý lịch chưa khai hết những chỗ khúc mắc, còn hai 

người giới thiệu thì đều dinh tê vào Nam năm 

1954! Anh đã phải chạy đi chạy lại về quê gốc ở 

mãi dưới vùng biển mất dăm lượt mới lấy đủ giấy tờ 

chứng thực anh là đảng viên chính hiệu! Thật hú 

vía! Phải chống đỡ lao đao, mà lại không biết ai 

là đối thủ chính. Bởi tất cả đối với anh vẫn rất 

thân tình vui vẻ. Khi họp hành không ai lên 

giọng bới móc chỉ trích gì, mà chỉ nhỏ nhẻ Đề nghị 

đồng chí giải thích cho cái chỗ ông cụ bên vợ có 

đúng là đã tham gia Quốc dân đảng không? Còn hai 

người giới thiệu thì lý do gì lại chạy vào nhà thờ 

để đi Nam với một số giáo dân? Tất nhiên để bảo 

đảm lời nói đông chí là đúng, thì phải có chứng 

thực! Thế là đủ giết nhau không gươm giáo! Mà thái 

độ vẫn cứ ngọt ngào, vẫn êm như ru! Chỉ bên ngoài 

dân chúng mới có lời nhắn tin rằng: Đất có thổ 

công, sông có hà bá, thành hoàng vùng này chưa 

đến nỗi mạt vận phải chuyển bài vị sang dân ngụ cư 

xóm Trại.

Từ đấy dân xóm Trại nhìn những người quê gốc ở đây 

cứ chờn chợn, thấy như họ tiềm ẩn một cái gì thật 

vô hình, mà lại có ma lực biến hoá khôn lường. Tốt 

nhất hãy chăm lo làm giàu. Nếu trong những cuộc 

bầu bán nếu ai có thắng phiếu, thì khôn ngoan chỉ 

xin lận làm cấp phó thôi, chớ dại tranh phần chiếu 

trên của dân bản xứ mà rồi có lúc tự mang dây buộc 

mình! Người xóm trại bảo nhau như vậy. 

Lần này Trần Văn Sửu trúng ghế chủ tịch, mà có 

người đã nói là ông Sửu trúng sổ xổ, là bởi Trịnh 

Bá Thủ thấy cùng một lúc bên cánh nhà ông Phúc 

có đến ba đảng viên nối theo nhau nhảy dù về xã. 

Hai người em rể ông Phúc là chồng bà Lộc, bà Tài. 

Một người làm quản đốc trên Khu gang thép, một là 

cán bộ tuyên huấn lâu năm ở nông trường bò sữa 

cùng về hưu trong một tháng. Rồi Tùng, con bà 

Sang một thượng sĩ như trâu tơ ngứa sửng. Cả ba 

đảng viên đều kết nạp ở nơi khác, thế tức là họ 

không chịu ơn chịu nghĩa gì ở đây. Anh nào cũng có 

sỏi trong đầu! Phải nhanh chóng hùn vào cho Sửu 

người đứng đầu xóm Trại, đang là thường trực uỷ ban 

xưa nay tôn trọng Thủ đến kính nề. Và để không bị 

mang tiếng là hẹp hòi, bè phái, chính Thủ đã đề 

xuất ý kiến khi họp với chi bộ Giếng Chùa nên đề 

cử Tùng vào danh sách bầu Đảng uỷ mới, bởi Thủ 

thấy Tùng dám phê bình ông Phúc cả trong cuộc 

họp. Ngày Tùng chưa đi bộ đội, ông Phúc đã nhận 

xét về Tùng khi duyệt danh sách đối tượng là còn 

thiếu chín chắn, còn lớp cớp! Vậy thì phải triệt 

để lợi dụng ngay mối bất hoà ở trong dòng họ Vũ 

Đình này, chứ không thể trông chờ vào hai đảng 

viên già đời là chồng bà Lộc, bà Tài. Thủ đã giới 

thiệu Tùng khi họp toàn đảng bộ như là một nhân tố 

ga-ne-pho nhiều sức bật. Nhưng tất nhiên khi bỏ 

phiếu thì anh gạch tên Tùng đầu tiên! Tùng sao 

lại có thể ngồi cùng chiếu với mình được! Đến khi 

Tùng trúng cử với số phiếu vừa phải, nhưng đã là 

nỗi sửng sốt đối với Thủ. Còn Trần Văn Sửu thì 

trúng khá cao, bởi hai phe mạnh nhất chống nhau, 

thì người đứng giữa dễ dàng hưởng lộc. Lại phải làm 

cuộc vận động nữa để Sửu trúng cao trong cuộc bầu 

cử hội đông nhân dân. Đến khi Sửu ngồi được vào 

ghế chủ tịch rồi, thì không riêng Sửu mà cả xóm 

trại đều biết công lao to lớn của Trịnh Bá Thủ. Vậy 

là Thủ đã đạt được ý định không để chức chủ tịch rơi 

vào phe cánh chi họ Vũ Đình, đồng thời với Sửu, 

Thủ như người ơn mưa móc, anh có thể hoàn toàn lái 

theo mình. 

Hôm nay vợ chồng Sửu cúng giỗ bố vợ, vì bên nhà vợ 

Sửu không có con trai. Làm từ trưa. Ngả một chú 

vện gần chục ký. Cả ban thường vụ kéo đến chén chú 

chén anh từ mười một giờ cho tới quá ngọ. Thủ cáo 

lỗi trưa này bận, hẹn tối sẽ đến thắp nén hương để 

tưởng nhớ cụ. Đó là ý định của Thủ, chứ thực ra anh 

không bận gì. Vì buổi tối ông Hàm đi làm cái việc 

ấy nên Thủ muốn vắng mặt ở nhà. Đến nơi nào càng 

đông người càng hay. Để nếu có sự cố gì, thì nhiêu 

người chứng giám là Thủ không liên quan, không 

biết tí gì. 

Buổi chiều đạp xe lên xã, Thủ đi qua cổng nhà ông 

Hàm, thấy ông đang kỳ cạch chữa xe cải tiến để vài 

hôm nữa là gạt chiêm. Thủ vẫn ngồi trên xe, chống 

chân xuống hỏi nhỏ:

- Tối nay bát vẫn làm cái ấy chứ?.

- Thì vẫn! - ông Hàm tiếp tục đục canh cách không 

ngửng lên, cũng trả lời vừa đủ nghe. 

Thủ đạp xe đi ngay. Buổi chiều, hết giờ làm việc ở 

trên xã, Thủ còn thong thả chán. Hết sang trạm 

xá, lại sang khu nội trú các giáo viên trường cấp 

I, II. ở đấy có đến ba cô giáo đã ngoài tuổi băm 

mà vẫn chưa chồng. Mỗi ìần gặp đồng chí bí thư cao 

ráo xởi lởi, là đôi bên chuyện trò không dứt. 

Thấy khói từ túp nhà bếp nhỏ như cái quán chợ bốc 

lên nghi ngút. Thủ nói gióng từ ngoài:

- Ba cô đội gạo lên chùa! Cho xin bát cơm bát 

cháo đây! 

Có tiếng bấm nhau, rồi một giọng vóng vót:

- Có gạo mà đội đã tốt! ở đây là ba cô hết gạo lên 

chùa, một cô má thắm bắt đền bí thư!

Những tiếng cười ré như bị cù. Rồi vẫn cô gái mồm 

miệng như tép nhảy gạt khói chui ra. Mặt tròn 

người óng lẳn được lắm! Chỉ phải cái miệng rộng 

quá, cứ như miệng một gã đàn ông phàm tục đặt thâm 

vào. Chắc cánh con trai sợ vía cái miệng áy!

- Bây giờ nói nghiêm chỉnh với bí thư nhé, chúng 

em sắp đội nón chống gậy sang uỷ ban ăn xin đấy? 

Có cái mái nhà bị thủng, đã kêu đến tỉ lần mà xã 

vẫn không dọi cho. Đêm hôm kia mưa dột như sảo, 

chúng em phải dậy ngồi quàng áo mưa. Đấy, xã bảo 

thương mấy cô trưởng ban phòng không, thương thế 

thì cái xương chả còn!

Thủ dừng lại trước cửa, nhe bộ răng trắng bóng ra 

cười, nói ỡm ờ:

- Ai bảo kén cho lắm vào còn kêu!

Thế là nói cười càng ồn ĩ, đối đáp ráo riết. Cứ 

xem cung cách nói năng như chém chả, nhưng lại 

với thái độ vui vẻ, ánh mắt đôi bên ngắm nhìn 

nhau rất bạo dạn thân ái, là đủ biết là đồng chí 

bí thư đảng uỷ và ba cô gái sống độc thân ở đây 

quen biết nhau đến mức nào.

Thủ còn chuyện trò con cà con kê một lúc lâu. 

Mâm cỗ đậy lồng bàn để cạnh. Thủ bước tới bắt tay 

người anh họ vợ Sửu khiến ông nông dân chuyên nghề 

thợ đấu lúng túng với cách chào hỏi mà ông cho là 

phù phiếm này. Vào bàn thờ trong nhà thắp ba nén 

hương trước bức ảnh truyền thần một ông già gân 

guốc cắt đầu móng lừa, vừa quay ra Sửu đã kéo Thủ 

ngồi xuống chiếu. Còn nguyên vẹn một mâm đầy. với 

đủ các món ăn. Thủ gọi với xuống bếp:

- Bà chủ đâu rồi?

Thủ chưa dứt lời, vợ Sửu đã từ nhà dưới cầm cây đèn 

toạ đăng đi lên đon đả, tiếng người đồng bãi trồng 

đay vẫn giữ nguyên pha tạp. Nghĩa là phát âm rất 

ngọng:

- Giờ bác mới sang. Bác Hợi với bố cháu mong bác 

từ trưa. Hôm nay em sắp cơm canh quấy quá nhớ cụ 

cháu. Nuôi được con cày béo quá, mà mấy anh em 

thợ vụng nàm hỏng mất bộ nòng. Bố nó xem có phải 

hâm nại canh không?

Về khuya, gần tàn bữa rượu, mấy ông hàng xóm bên 

cạnh mới lệt sệt kéo những đôi guốc mộc sang. Số 

láng giềng này Sửu đã mời lúc trưa, bây giờ họ tự 

động đến là một cách biểu hiện tình cảm với đông 

chí bí thư Đảng uỷ. Vợ Sửu trải thêm chiếu nữa ra 

hiên. Mấy ông tự tráng ấm pha trà. Chè móc câu 

nhỏ khô săn như gạo rang, bỏ vào xuyến kêu roong 

roong như đông. Chế nước chỉ được qua lưng ấm, đậy 

nắp, rồi dội một chén nước sôi lên bên ngoài để 

xuyến nóng đều khiến chè mau ngấm. Nước róc ra 

xanh ánh trong những chiếc chén hạt mít uống sít 

soạt rất to, chép miệng rất to, nhưngbnước chỉ thấm 

môi. Người sành trà là phải biết tận hưởng, biết 

nhâm nhi ngẫm ngợi từng cái hương cái khói toả ra 

từ những nụ búp căng nhựa rang khô đang nở ra 

trong thủy nhiệt. Đó là phép thưởng trà. Lúc này 

chuyện mới nở như ngô rang. Từ chuyện đảng ủy và uỷ 

ban cho người đi mua sắn, mua khoai về bán chịu 

cho bà con từ mươi hôm trước thật là sáng suốt, 

đúng là một miếng khi đói bằng cả gói khi no (Họ 

khen Thủ đấy!) Rồi nhảy sang chuyện bà con có kêu 

ca về việc hợp tác chia ruộng khoán còn có chỗ 

chưa hợp lý giữa Giếng Chùa với xóm Trại (Họ muốn 

nhắc nhở Thủ đấy!). Rồi sang chuyện nghe đồn lại 

có đơn kiện từ dưới này gửi lên huyện, lên tỉnh tố 

cáo rằng xã tự ý cắt một số đất canh tác cho con 

cháu mấy cán bộ chưa tách hộ làm nhà. Thoắt cái, 

chuyện của mấy ông nông dân vươn tới tầm chiến 

lược, bàn từ ông Goocbachốp dấy lên cái việc cải 

tổ, làm cho một số cán bộ cũ bên ấy về nghỉ như 

sung rụng. Thì ra con người cũng như cái kèo cái 

cột, dùng lâu quá không mối mọt bên ngoài, thì 

cũng ải nát bên trong! Rồi thì từ chuyện ông tai 

to mặt lớn đang khuấy đảo cả gầm trời, đến những 

anh cu chị cún chỉ quen với con cua cái ốc nơi xó 

đồng, các bố đều trộn lẫn với nhau, bàn rôm rả bên 

manh chiếu cùng ly rượu chén trà và những hơi 

khói thuốc lào sòng sọc. 

Thủ giở nằm giở ngồi, tựa người vào tường, làm ra 

vẻ say lừ đừ để đỡ phải nói nhiều, nhưng thực ra 

đâu óc anh rất tỉnh. Chốc chốc Thủ lại kín đáo 

liếc nhìn đồng hồ tay. Anh bỗng thấy nóng ruột bồn 

chồn thế nào. Đã hơn mười giờ, nhưng chưa ai buồn 

ngủ. Sửu lại pha một ấm trà mới. Mọi người quay 

sang bàn tán về chuyện con ma hiện lên ở lêu lão 

Quềnh mà bà Đồ Ngật mắt tròn mắt dẹt kề mấy hôm 

nay. Hoá ra là một người đàn bà thật. Bà cả Lợi 

chủ quán phở ở đâu xã đã thuê chị ta gánh nước và 

rửa bát hai hôm nay. Nhưng hình như ban đêm chị 

ta lại về ngủ ở nhà lão Quềnh. Sao thế nhỉ? Hay 

lão Quềnh đã được tí tá tí mẻ, nên chị ta nhớ hơi 

cái ổ nằm? Hay là ma đội lốt người? Mọi người đang 

cười hinh hích, thì bỗng phía cuối làng có tiếng 

gì ầm ầm và ánh lửa chấp chới. Rất nhanh, cái khối 

ầm ào ấy mỗi lúc một to thêm, sáng thêm, rùng 

rùng chuyển động giữa đường làng, đi ngược lên 

phía uỷ ban xã.

- Cái gì thế nhỉ? Bắt được cướp hay sao?

- Hay đấy chính là một đám cướp?

Mọi người nháo nhác hỏi nhau, rồi bỏ những chén 

trà vừa róc chạy ra cổng. Thủ cũng nhỏm người dậy, 

mắt vẫn nhìn ngơ ngác như chưa hết cơn say. Nhưng 

toàn thân anh bỗng nháy một cái như có tia điện 

chạy lướt từ chân lên đầu. Không nhẽ lại chính là 

chuyện ấy? Thế thi chết cả nút!. Sửu thu vội ấm 

chén, bảo Thủ:

- Ta cũng phải ra xem cái gì anh ạ!

Thủ gật đâu, vùng dậy, châm một điếu thuốc. Không 

có ai bên cạnh để nhìn thấy bàn tay Thủ đang run 

bắn. Một sự thầm mách bảo rằng cái đám ồn ào và 

những ánh lửa nhấp nhoá kia là điều rất gở đối với 

anh! Cái điều anh thắt thỏm lo ngại suốt ngày 

nay, hình như có đến thật rồi! Không khéo ông Hàm 

bị rồi? Thế thì hại tôi, chết tôi rồi? Xoay xở thế 

nào đây?.

Khi Thủ vừa lẹp kẹp đến ngõ, thì thằng con trai 

lớn của Sửu dưới chân đồi chạy bố lên, miệng lấp 

bấp cứ lạc đi:

- Bác Thủ! Bác Thủ! Bác Hàm bị người nhà ông Phúc 

trói! Họ.. Họ đang dong lên xã.

Mắt Thủ tối xầm lại, ngực dội lên một cái Chết đứt 

rồi! Chỉ tí nữa thì Thủ kêu lên như vậy, nhưng anh 

đã lái được sang câu hỏi đến ngớ ngẩn:

- Sao? Hai ông già mà đánh nhau à?

Rồi cả Thủ, Sửu cùng mấy người hàng xóm băng qua 

mặt đồi chạy xuống đường. Mặc dù đã chuẩn bị thần 

kinh và gân cốt để đương đầu với cánh khan tương đổ 

mẻ nhưng người Thủ vẫn rã rời như chỉ muốn đổ sập 

xuống khi đám đông đèn đuốc rừng rực, rùng rùng 

những mặt người phừng phừng vừa đi vừa hô hoán kia 

đã hiện ra ở trước mắt. 

Quang cảnh này y như hồi chiến tranh phá hoại, một 

hôm cũng vào lúc gần sáng có chiếc F4 đến bỏ bom 

trộm trên khu gang thép, bị tên lửa bắn cháy, 

thằng giặc lao quáng quàng xuống đến đây thì vỡ 

tung giữa cánh đồng Cây Quéo ở cuối làng kia. 

Mảnh bắn vung vãi làm vỡ một mái ngói, cháy hai 

túp nhà bếp, nhưng may không ai việc gì, kể cả 

viên đại uý phi công nhảy dù treo lơ lửng trên 

bụi tre gai, dân quân phải bắc thang khều hắn 

xuống, rồi dong tên giặc cao lênh khênh bó người 

trong bộ quần áo kháng áp nhằng nhịt những túi, 

những khoá như dong một con thú mặt người mình 

thuồng luồng lên uỷ ban xã. Người các làng đổ đến 

như đi xem xiếc.

Lần này cũng gần như cả làng Giếng chùa mất cả ngủ 

ngáy, chạy xô vào nhau để nhìn ba bác cháu ông 

Hàm bị dòng họ Vũ Đình bắt làm tù binh.

Khi Hàm nhảy xổ vào Phúc, vung tay đấm vào ngực 

Phúc, thì ưởng và Ngạc cũng hét một tiếng, huơ 

xẻng lên như hai tên hung thần. Rất nhanh một cái 

gậy phanh đánh chát vào chiếc xẻng của ưởng và một 

cây gậy khác phạt phía dưới, ngang gióng chân, 

làm ưởng ối lên một tiếng, ngã sấp vào bụi đồng ré 

lá sắc như cật nứa. Cùng lúc cái xẻng của Ngạc bổ 

bừa xuống những cái bóng nhốn nháo trước mặt. Một 

tiếng kêu á và một phát súng nổ đánh đoàng toé 

lửa ở đầu nòng. Không ai động đến Thó, nhưng anh 

lính đánh thuê đã ngã nhào xuống, rồi cư lăn 

người rào rào trên bãi cỏ như một khúc gỗ tròn, 

miệng khóc hu hu. Viên đạn ghém bay sượt qua tai 

Ngạc. Biết là chưa dính da, nên một bóng người ở 

phía sau kéo giật ngang chân Ngạc, khiến cả cái 

khối thịt bị hẫng, ngã đánh hự. Đám con cháu nhà 

Vũ Đình nhảy phất ngay lên người Ngạc. Con trai 

bà Lộc, một gã thanh niên cao to như cái minh 

tinh, cùng xấp tuổi với Ngạc, từng hục hặc với 

Ngạc, llên mượn gió bẻ măng, gióng lấy súng của 

chồng bà Tài lên đạn lách chách, rồi chọc cái 

nòng lạnh ngắt vào mang tai Ngạc, rống lên đắc 

thắng:

- Đ. Mẹ! Ta phải bắn vỡ sọ thằng này!

Nhưng ông Tính đã vội giật lại khẩu súng. Vừa lúc 

tiếng Vũ Đình Phúc cũng hét lên:

- Không được bắn? Trói tất cả lại!

Thoắt cái, ưởng và Ngạc đã bị trói gô bằng chạc 

trâu. Còn lại vị chủ tướng của chi họ Trịnh Bá, ông 

Hàm đang oằn oại bên bụi sim. Sau khi đấm cả hai 

nắm tay vào ngực Phúc, trút nỗi uất ức rồ dại vào 

đối thủ, thì Hàm bị Phúc đá vào hạ bộ, ngã lăn ra. 

Thực chất là cả hai ông trưởng họ không biết miếng 

mẹo gì cả, đánh nhau như trẻ con, cứ lao bừa, đấm 

đá bừa, được đâu hay đấy! Khi Hàm tỉnh lại, thì bị 

trói cứng cả hai tay.

- Dong chúng nó lên xã! Hô hoán nữa lên cho cả 

làng thấy cái mặt mo mặt mẹt!

- Để nguyên chỗ nó phá, đừng lấp. Sẽ gọi công an 

đến làm chứng.

Anh em nhà Vũ Đình hò hét bảo nhau, rồi đẩy ba 

bác cháu ông Hàm đi. Những bó đuốc được đốt thêm, 

người đổ ra thêm. Vừa đi đám người vừa hò hét khua 

gõ ầm ĩ. Một người cháu họ của ông Phúc bị một lưỡi 

xẻng của Ngạc bổ sượt qua vai, tí nữa cậu ta bị chẻ 

theo chiều dọc! Bây giờ một miếng vải xô trắng 

cuốn trên bả vai, trông mùi mẫn như một nhân chứng 

của sự cảm tử! Cậu ta vác chiếc gậy đi cạnh bó đuốc 

cháy chửng chửng, nhìn dữ dần như một đội nghĩa 

quân thời bộ lạc.

Đám người đi đến đâu, đêm vỡ ra đến đấy trong ánh 

lửa và tiếng hò hét thinh nộ. Đám đông đã hiện ra 

nhỡn tiền trước mắt Thủ.

Đi đầu là con trai bà Tài. Người dài lêu đêu như 

con sếu. Hai tay dơ bó đuốc quá đầu, chốc chống 

lại huơ tròn cho ngọn lửa bốc cao. Tiếp đến là ưởng 

và Ngạc tóc tai bù xù rũ rượi, mặt mũi sây sát, 

tối sầm. Rồi đến ông Hàm, vẫn bộ quần áo xanh tàu 

tàu, mắt gườm gườm nhìn xuống, mái đầu cắt móng 

lừa, tóc dựng lên như bông gáo. Lòng Thủ bỗng quặn 

lại, thương ông anh khốn khổ. Mồ hôi vã ra từ lòng 

bàn tay. Nỗi đau của tình máu mủ dội lên trong 

người Thủ. Uất ức đến nghẹn ứ lên. Trán và sống 

lưng chảy mồ hôi lạnh. Thấy Thủ bỗng run toàn thân 

như dẽ khi cái đám bộ lạc kia chỉ còn cách mươi 

bước chân, Sửu quay sang hỏi nhỏ:

- Anh quay lại vào nhà tôi đã. Coi như anh không 

ở đây. Cứ để tôi lo liệu.

Thấy Thủ vẫn đứng ngây ra bất động, Sửu bảo con 

trai.

- Thằng Mùi đưa bác về nhà.

Sửu lo Thủ không giữ được bình tĩnh, lại giống như 

Nẫm hồi năm ngoái thì hỏng bét. Đang là phố chủ 

tịch kiêm trưởng ban công an, chỉ vì bênh em gái, 

mà em gái Nấm chúa hay cậy thế gào làng ăn vạ. 

Làm thủ kho mà ăn cắp như ranh. Bị Phát giác còn 

lu loa xông vào xé áo người ta. Thế là đánh 

nhau. Được tin, Nẫm lao bế đến bênh em. Khi bị phê 

bình kiểm điềm, Nẫm còn nói chầy bứa: Dù mất chức, 

mất quyền, mất Đảng, chứ tôi không cho ai động đến 

người nhà của tôi! Đã thế thì mất ráo! Anh mất 

chức tháng trước thì em gái mất cái chân thủ kho 

béo bở tháng sau. Cả làng cười cho là dại!

Giờ đây Sửu chỉ lo Thủ cũng không giữ được mình. 

Anh ấy đang run thế kia. Mặt tái đi thế kia! Dân 

gốc vùng này hễ động đến họ hàng ruột thịt của họ, 

là họ dễ nổi máu điên lắm. Thằng Mùi vừa kéo Thủ 

quay lại, thì Sửu nhảy xuống đường vung tay nói 

lớn:

- Có chuyện gì thế này? Tại sao đêm hôm lại khua 

ầm ĩ thế hả? Biểu tình hả? Tất cả giải tán ngay! 

Có việc gì mai lên xã giải quyết!.

Đám người đang hùng hổ, bỗng sững lại. Như dòng 

nước đang sôi sục, bỗng hút vào một con đập chắn 

ngang. Những người không dính dáng gì đến dòng họ 

Vũ Đình, chỉ đóng vai chầu rìa, nếu cần nhảy vào 

đánh hôi dăm ba quả cho sướng tay. Bầy giờ thấy 

mặt chủ tịch xã đàng đằng cương quyết, nên lỉnh 

ngay. Chả dại dây với chính quyền, trứng chọi đá. 

- Báo cáo với ông xã là thế này! Một tiếng nói 

the thé rẽ đám người đi lên. Đấy là bà Lộc, người 

đành hanh nhất họ Vũ Đình, cũng ham hố vào loại 

nhất họ. Khi ông Phúc mất chân chủ nhiệm, bà nói 

toang toang là ông anh bà không cùng a kíp với 

cánh cán bộ xã bây giờ, chứ còn ai thạo việc bằng 

bác Phúc! Thấy chồng về hưu, bà thở dài đánh 

thượt: Ông vội về làm gì? Tôi không cần ông phải 

chân lấm tay bùn, tôi gánh được tất. ở làng này 

mà cả vợ chồng con cái phải bán mặt cho đất, bán 

lưng cho giời mới kiếm được miếng ăn, thì không ai 

người ta trọng - Bà đang ấm ức khi thấy họ Trịnh Bá 

đang lên, họ Vũ Đình nhà bà đang xuống. Cả bên 

nội bên ngoại những một đống đảng viên mà lại chịu 

đi xuống? Đảng viên mà lại chỉ biết cái cày cái 

cuốc người ta bảo quan ba cũng ừ, quan tư cũng 

gật, thì còn đảng làm gì! Bà Lộc thấy nội tộc nhà 

mình như bị vặt lông vặt cánh. Cho nên lúc nãy 

đang ngủ, nghe chồng về báo, bà chồm ngay dậy. Nỗi 

căm tức mộ bố bị phá còn chưa sôi sục bằng thấy họ 

nhà mình bị thua thiệt. Bây giờ có cớ bà lập tức 

như con chim xù lông, thấy đây là lúc tốt nhất để 

bà túm tóc cả nhà Trình Bá mà ấn dúi xuống!

- Báo cáo với xã là chúng tôi không có lật đổ 

ai, chỉ vì mấy người xấu bụng này định hại cả họ nhà 

chúng tôi. Đã đào mộ bố chúng tôi vừa chôn, lại 

định đánh chết người nhà chúng tôi ra ngăn. Lúc 

nãy thằng con tôi không tránh nhanh thì bị bổ 

chết rồi! Hỏi cả cái gầm trời này có còn ai ác độc 

hơn thế nữa không? ối bà con làng nước ơi! 

Bà Lộc oà khóc nức nở. Chủ tịch Sửu lại huơ tay nói 

lớn: 

- Nhưng cứ phải giải tán! Đêm hôm không được làm 

loạn xà ngầu lên. Có gì sáng mai giải quyết. 

Bỗng một tiếng hét cắt ngang từ phía cuối đoàn 

người:

- Tại sao lại giải tán? Định âm mưu đánh tháo 

những tên có tội hả?

Rồi đến năm sáu bóng người lừng lững xừng xổ đi 

lên. Ông Phúc vội kéo tay một người, thì người ấy 

nói rinh rích như nhai chính giọng nói của mình 

Bác mặc chúng em. Đấy là những người họ xa của ông 

Phúc, vừa mắt nhắm mắt mở đến, nhưng đã nghe thủng 

câu chuyện, họ lên gầm lên. Đây cũng là những 

thành phần ghê gớm, thật ra họ chẳng thù hằn gì 

anh em nhà Trịnh Bá, mà lại cay cú với chính Trần 

Văn Sửu về việc Sửu giải quyết đất đai không đúng 

ý họ từ hơn năm nay, nên họ muốn nắn gân Sửu cho 

hả giận. Một người quay sang bà Lộc hét:

- Thím Lộc câm ngay mồm? Việc gì phải khóc? Cái 

lý nắm trong tay mình, sao phải khóc?

Rồi ào một cái, cả sáu người đàn ông đứng vòng 

tròn quanh Sửu. Lô nhô những đầu gậy và cả một cái 

lưỡi thùng lùng nhọn hoắt cứ lấp ló sau lưng Sửu. 

Một bàn tay nặng như cùm ấn vai Sửu xuống. Những 

khuôn mặt gân guốc như đá đeo, những tia mất sóc 

sói như đã nổi cơn điên, cứ xỉa vào người Sửu Một 

giọng nói trầm, nhưng rất sắc chõ vào tai Sửu: 

- Này ông chủ tịch ngụ cư hãy liệu thần hồn! Mở tai 

ra nghe đây: ông định hống hách với ai? ông định 

bao che để trả ơn thằng Thủ hả? Định để sáng mai 

rồi đổi trắng thay đen, cứt trâu hóa bùn hả? Khôn 

hồn phải giải quyết ngay đêm nay, và không được 

động đến mấy thằng này, nếu không phải có người 

phá hết lúa má, sẽ đốt nhà rồi dìm ông xuống 

sông! Những thằng trọc đầu này đã chơi là không 

ngán đâu. 

Sửu đang tái xám cả mặt mũi, thì chính người vừa 

nói những lời dao búa ấy quay ra, đấm tay vào 

thinh không, cao giọng:

- Tất cả im lặng! Chúng tôi đã hội ý với ông chủ 

tịch! Ông chủ tịch đã bằng lòng sẽ giải quyết ngay 

đêm nay. Bây giờ mời ông chủ tịch có vài lời!

Sửu lách người, đứng ra khỏi vòng vây hãm, nhưng 

mắt vẫn liếc dè chừng. Cái giọng quyền biến lúc 

nãy, bây giờ bỗng ngắc ngứ.

- Xin bà con yên tâm. Tôi sẽ không bao che 

khuyết điểm cho ai. Nhưng vì đây là việc phức tạp, 

nên phải có mặt của cả đảng uỷ, uỷ ban và công an, 

rồi nghe đôi bên trình bày. Vì thế tôi không 

muốn gây rối loạn giữa đêm thế này.

Thế là tất cả lại ầm ầm lên:

- Đừng có nói quanh co tù mù thế! Ông có giải 

quyết không?

Ông Phúc bây giờ mới lên tiếng:

- Tất cả im lặng, mọi việc đã có tôi. Từ nãy đến 

giờ tôi chưa nói, là tôi muốn xem xã định giải 

quyết thế nào. Bây giờ chúng tôi yêu cầu: xã phải 

lập biên bản ngay. Phải giam giữ luôn mấy người 

này! Tôi đã cho người đi gọi trưởng ban công an 

và bí thư đảng uỷ tới.

Sửu quay lại Phúc nói thống thiết:

- Đồng chí Phúc, tôi đề nghị chúng ta hãy lấy 

tinh thần đảng viên để giải quyết công việc. Đồng 

chí định khua cả xã dậy hay sao? tôi được biết tối 

nay cả bí thư đảng uỷ và trưởng ban công an đều đi 

vắng không có nhà.

Lại ầm ầm như vỡ chợ:

- Khua cả xã dậy cũng được. Đừng có đánh bài chuồn 

mà không xong đâu? Làm cán bộ thấy việc phải giải 

quyết, chứ không phải chỉ quen nghe người ta mời 

vào mâm!

- Bí thư với công an đi vắng, chúng tôi cũng tìm 

bằng được có lẩn đằng trời!

Đang nhao nhao, thì bỗng một giọng rất đanh, vang 

lên phía trên đồi:

- Tôi đây! việc gì tôi phải lẩn đi đâu!

Rồi Thủ nhảy từ trên thành ta-luy xuống. Đôi mắt 

thường ngày hay nheo cười lấy lòng, bây giờ ánh 

lên sắc lạnh.

Thủ liếc nhanh sang Sửu như muốn nói: Anh chỉ tổ 

gây rối thêm việc! Đáng lẽ phải vờ nhũn để lấy 

lòng họ, để dập tắt đám cháy, rồi sẽ tìm cách phản 

công sau, thì anh lại chọc tức họ, rõ là chọc tổ 

ong, ngốc!..

Sửu đã đọc được những lời chỉ trích ấy và ông chủ 

tịch sổ xổ đứng co người lại.

- Thưa bà con! - Thủ cố hạ giọng, nhưng tiếng vẫn 

run lên - Tôi mới được tin vội đến đây ngay. Nhưng 

tôi đã nghe rõ sự việc. Như vậy là người nhà của 

chúng tôi sai. Mức độ thế nào đã có pháp luật 

phân giải. Tôi đồng ý sẽ giải quyết ngay đêm nay. 

Ngày mai sẽ mời huyện về xem xét. Bây giờ tôi yêu 

cầu đồng chí Phúc, đại diện bên tố cáo, cùng 

chúng tôi lên văn phòng uỷ ban để lập biên bản. 

Còn tất cả xin mời về nghỉ để đảm bảo trật tự an 

ninh. 

Bà Lộc lại the thé: 

- Nhưng giữ ba người phạm pháp này lại không được 

thả. 

Thủ khoá tay dứt khoát:.

- Tôi đồng ý! - Bên chúng tôi không phải chỉ có 

mình ông Phúc, mà phải có cả thằng Quyền con tôi 

bị chém hụt, rồi ông Thó bị mua chuộc cùng lên để 

kể rõ sự việc vào biên bản.

- Tôi đồng ý!

Một tiếng thở phào từ cuối đám đông:

- Có thế chứ!

- Nghe lọt tai đấy!

Sự nhũn nhặn của người có quyền cao nhất xã, cộng 

với sự đầu hàng của người đại diện cho dòng họ 

Trịnh Bá đã làm cho quả bóng đầy hơi của chi họ Vũ 

Đình được mở van. Cả đến những anh chầu rìa sẵn 

sàng nhảy vào đánh hôi tuốt tuột cả hai dòng họ, 

giờ cũng toát ra cười hể hả! Những bộ mặt đang hầm 

hè hến chùng ngay xuống. Duy nhất chỉ có một người 

nghe lời mềm mỏng của Thủ, thấy như mình bị thoi 

từng quả đấm vào tim. Miệng chỉ chực gầm lên chực 

chửi bới tất cả, chân tay đập phá tất cả. Đấy là 

ông Hàm!

Ông trừng trừng cặp mắt cá rói nhìn thẳng vào Thủ, 

người cùng giọt máu với ông. Người xưa nay quen 

gặt hái trên công lao nhọc nhằn của ông. Ông đã 

vì hắn mà nai lưng ra cáng đáng mọi việc như một 

con lừa! vậy mà hắn đã bán phéng ông! Đồ đểu! Mặc 

cho ông Hàm tức giận đến dựng ngược cả mái đầu 

bông gáo, nhưng lên tới văn phòng uỷ ban, ông vẫn 

phải ký vào biên bản rằng: ba bác cháu ông cùng 

một lúc đã phạm vào hai tội: phá mộ người mới chết 

và hành hung thân nhân người chết khi họ ra can 

ngăn.

Cả hai tội đều to kềnh! Đó là hai cánh cửa để đón 

ba bác cháu vào tù! Biên bản được lập trước sự 

chứng giám của những người chủ chốt của chính quyền 

địa phương: bí thư đảng uỷ, chủ tịch xã và phó ban 

công an.

Đồng chí phó ban công an thực sự bị dựng dậy từ 

trong buồng vợ, giữa lúc đồng chí đang lắp ghép 

bức tượng người hai lưng? Phó ban công an là cháu 

bên vợ Thủ, gọi Thủ bằng dượng. Thế nghĩa là ba 

người này: bí thư, chủ tịch xã và phó bạn công an 

rất hợp ý, hợp lòng như ba chân kiềng. Vậy mà vẫn 

thua. Vẫn phải làm theo yêu cầu của Vũ Đình Phúc, 

là xã quyết đinh tạm giam ba bác cháu ông Hàm để 

hôm sau huyện về phân xử. Và ba bác cháu ông làm 

đã nằm chờ sáng trên mấy cái ghế băng ghép lại 

trong căn phòng dùng làm nhà kho ngổn ngang 

những cờ, đèn, kèn, trống, panô, khẩu hiệu của xã. 

Một căn phòng tối tăm đây những mùi mốc, mùi bụi. 

Bên ngoài cửa khoá trái. Đích thị là nhốt những 

thằng tù! Xong việc, Thủ vừa ra đến cổng uỷ ban 

thì gà gáy canh hai. Người mệt như rút tuỷ. Thủ 

cay đắng nhận thấy chính mình, đang có trong tay 

cả một chính quyền, nhưng vừa bị thua một cú nốc 

ao! Chính anh, vừa phải bàn giao cả uy tín và sức 

mạnh của cá nhân mình, của dòng họ mình cho Vũ 

Đình Phúc! Hai tay Thủ bỗng chốc như tuột hẫng, 

không còn biết bấu víu vào đâu. Xung quanh trống 

hoác!

- Anh ạ, ta bàn xem - Sửu bước vội lên gần Thủ, 

rụt rè nói.

- Thôi! - Thủ dằng giọng, bước nhanh. Anh cũng tự 

thấy mình vô lý khi nổi cáu với Sửu, nhưng lại 

không thể ngọt được! Cả Sửu và Cao, phó ban công 

an đều không dám gọi Thủ lại.

Vừa ra đến cổng, Thủ bỗng giật mình khi thấy một 

bóng người quen quen đang đứng tựa vào gốc cây 

bạch đàn phía trước.

- Ai? Cái Đào hả? 

Thủ vừa lên tiếng, thì bóng người con gái đang 

đứng ủ rũ ngửng phắt lên, giọng đanh lại, đúng là 

con gái ông Hàm!

- Phải! Cháu đây! Chú đã cứu một người ruột thịt 

của chú như thế đấy! - rồi Đào khóc hức hức lên, 

chạy xiêu xiêu nhoà vào những bóng cây tối thẫm.

Thủ đứng lặng, lòng tan nát!

Đào vẫn chạy xuôi theo đường, miệng vẫn khóc nức 

lên như bị đòn oan, như bị hắt hủi. Nhưng Đào vốn 

là cô bé không chỉ biết có sướt mướt. Mang hình 

dáng mẹ, một hình dáng thon óng, gợi cảm gợi 

tình, nhưng trong người Đào là dòng máu bố, chất 

máu của sự quyết đoán và bạo liệt. Khóc cho vợi 

lòng, rồi Đào lần lần nhớ lại. Đào thấy mình đã bị 

lừa!

Mà người lừa cô không phải ai xa lạ. Chính cái 

người tối tối Đào vẫn phải tìm mọi cớ cho lọt tai 

hai cụ via, để rồi cô lao bố ra gốc nhãn, ra điểm 

hẹn, điểm say mê của hai người. Đến khi về nhà, 

đêm đã rét se se, nhưng Đào vẫn dội nước lạnh để 

cho dịu người lại. Da thịt cứ hôi hổi, bừng bừng. 

Có hôm cái Hoa sang ngủ chung, đêm nằm mơ, Đào cứ 

ôm ghì lấy đưa em, dụi đầu vào mặt nó, đến khi cái 

Hoa kêu thét lên, Đào mới tỉnh. Sáng dậy, đang 

rửa mặt, cái Hoa bỗng sực nhớ, và ở đứa con gái 

mười hai tuổi, đã có nhạy cảm về giới tính, nó 

nháy mắt quay sang bà Son: U ơi đêm qua chị Đào 

ghê quá? Đào gần như hét lên, lấp liếm cất ngang 

lời nó: Im đi! Đừng có nhí nhố! rồi Đào kèm sát 

nó, thấy nó định mở miệng là chí tay vào sườn, cho 

đến khi nó đi học cô mới thở ra cười thầm. Để rồi 

đến tối, trước sự háo hức của người con trai, Đào 

hãy tay ra, béo vào tai Tùng khoan đã nào, để 

yên người ta kể cho mà nghe chuyện đêm qua người 

ta mơ. Rồi kể, rồi cả hai cười rinh rích rồi ôm 

cuốn lấy nhau. Những vòng tay siết chặt như bện 

thừng!

Đêm nào gặp nhau cũng như men, như lửa. Rồi xa 

nhau chỉ mươi tiếng đồng hồ, và chỉ có cánh nhau 

một cánh đồng, nhưng lúc chia tay cứ bịn rịn nấn 

ná. Người này nhìn như uống lấy người kia. Đang 

đi, lại đứng, lại ngồi dùng dằng nối tiếc. Nhưng 

tối nay rõ ràng là khác lắm. Hắn vội vội vàng 

vàng như người mất của. Vừa đến đầu rặng tre kia là 

hắn quay lại phới ngay. Thế mà lúc ấy mình ngu 

quá, không phát hiện ra. Hắn đã chạy vội về để huy 

động cả họ hàng ra đồi sim bắt mấy người làm bậy. ừ 

thì mấy người này sai rồi, nhưng thiếu gì cách để 

ngăn cản họ. Chỉ cần một mình hắn chạy ra đánh động 

từ xa, thế là đủ để mấy người kia bỏ chạy ré kèn. 

Nhưng hắn đã không làm thế. Chinh hắn đã đầu têu, 

đã tồ chức ra cái việc bắt bớ này. Đào lại khóc 

nức lên uất ức. Cô đang thầm hoạch tội hắn, tức là 

tính sổ Tùng với tất cả sự vứt bỏ và căm thù!

Cả bà Son và cái Hoa cũng đang nằm khóc. Cái Hoa 

cứ ôm lấy bà Son khóc như bị mắng, bị phạt từ lúc 

Đào tất cả chạy theo đám người đèn đuốc rừng rực 

dong ba bác cháu ông Hàm lên xã. Lúc ấy bà Son 

đi như lê từ ngoài cổng vào. Chỉ tới được chiếc 

giường là bà lăn ra như không còn xương cốt. Buổi 

tối thấy Thó đến với bộ mặt thấp thỏm, bà đã nghi 

nghi. Rồi về khuya thấy ưởng và Ngạc, hai ông cháu 

bất hảo đến, thì bà Son thấy rõ mấy người này sắp 

làm cái gì vụng trộm. Chiều ý ông Hàm, bà vào 

buồng nằm, cố lắng tai nghe, nhưng không sao rõ 

được những lời thì thầm của họ. Thôi mặc, lại đến 

đi móc trộm gỗ, trộm phản của ai là cùng chớ gì. 

Cái ông này đến lạ, có thiếu thốn gì cho cam. Hay 

đấy là cái máu của những anh cầm tràng đục? Nhìn 

thấy gỗ đẹp, gỗ tốt là cứ mắt la mày lét như anh 

háu sắc thấy gái!

Khi họ dắt nhau đi, thì bà Son đã thiu thiu ngủ. 

Rồi chó cắn rầm rĩ, rồi người la, rồi những bó đuốc 

đùng đùng cứ huơ lên như phát cuồng. Thấy ông Hàm 

chưa về, linh tính bỗng báo cho bà có cái gì 

không lành. Bà chạy ra đường cái chính. Rồi bà 

dụi mắt mấy lần để nhìn xem có đúng là ba bác 

cháu ông Hàm bị trói và đang bị dong đi kia 

không. Đến khi thấy đúng là thật rồi, chứ không 

còn mộng mi gì nữa, bà đã nhìn thấy ông Phúc và 

cái đám đông kia hầu hết là anh em họ hàng nhà 

Vũ Đình, thì bà Son run hết cả chân tay, ngồi 

khụy xuống, nước mắt chảy ràn rụa. Chắc chắn không 

phải chuyện gỗ lạt rồi, cái gì đó nghiêm trọng hơn 

nhiều. Bà Son chạy tắt về nhà, dựng Đào đang ngủ 

mê mệt dậy. Chưa hết tuổi ăn tuổi ngủ, lại được 

tình yêu đắm say ru vỗ nên đặt mình xuống là Đào 

trôi ngay vào giấc ngủ vừa bềnh bóng vừa thăm 

thẳm.

Đào khoác vội áo, rồi vùng chạy theo đám đèn 

đuốc. Lát sau lại chạy bổ về kể đầu đuôi cho bà 

Son nghe. Bà Son thất kinh, miệng mếu máo kêu: 

Giời ơi! Sao thầy mày dám làm cái việc ác ấy? 

Chân tay bà càng run như eơn kinh giật. Thì ra 

ông ấy thù hằn anh em nhà Vũ Đình ghê gớm quá 

nhưng ông ấy lại chuốc lấy tai hoạ rồi! Một lần nữa 

ông ấy lại thua rồi. Lần trước thua, ông ấy đã 

trút sự uất ức lên đầu bà. thua lần này, ông ấy sẽ 

đổ vào đâu ai? Càng nghĩ, bà Son càng tủi cho 

cái số của mình, chỉ muốn yên phận mà cũng không 

được. tiếng khóc cứ lặng đi. Cái Hoa cũng đã thức. 

Ba mẹ con rặt đàn bà con gái ôm nhau khóc như 

nhà có đám. Đào lại vùng dậy chạy ra đường.

- Mày còn đi.đâu? - Bà Son kéo áo Đào.

- Con phải đi xem người ta làm gì thầy.

- Đừng có lu loa, Đừng có gây sự với họ nữa con 

ơi! Mình sai rồi? - Bà Son nói như van vỉ. Bà biết 

tính con gái. Khi cần nó cũng đanh đá ghê gớm 

lắm, chứ không mềm mỏng như thằng Dương anh nó. Nó 

giống thằng Dinh, tính cục. Ngày mới lớn đi chăn 

trâu, Đào đã thấy lần đánh nhau với con trai, mà 

lại đánh được! Vì lúc tính cục nổi lên, Đào vớ cái 

gì đánh nấy, vớ gì phang nấy. Đám con trai làng 

này vừa thích nó, lại vừa sợ nó!

- U cứ mặc kệ con! - Đào vùng vằng rồi lao ra 

cổng.

Và cô đã đi theo đoàn người đến tận cùng, đến 

phút chót. Đào lùi lại một quãng khuất vào bóng 

tối để không ai nhận thấy mình. Đào cố nhìn nhưng 

không thấy hắn. Thế tức là hắn ném đá giấu tay! 

Hiểm thế! Cụ bô thế mà tinh, ngay từ hôm đầu cụ đã 

bảo hắn không phải tay vừa! Tới uỷ ban, Đào núp 

trong bụi chuối ở góc vườn. Đến khi thấy người ta 

đưa ba bác cháu ông Hàm về gian nhà kho ở cuối 

hội trường, thì Đào định nhảy ra hét lớn. Nhưng rồi 

cô đã kìm được khi quyết định chờ Thủ ra để trút 

hết sự giận dữ lên ông chú đang nắm quyền cao nhất 

xã, vậy mà bây giờ đã hoàn toàn bất lực.

Nhưng rồi Đào chỉ ném được câu trách móc ấy vào 

người Thủ, rồi khóc tứe tưởi chạy về nhà.

Đào đi sầm ầm lên nhà trên. Bà Son văn mở cửa. 

Ngọn đèn con vặn nhỏ đề trên bàn sa-lông giữa 

nhà. Bấc đèn có hoa. Người hay tin điềm, cho đó 

là một báo hiệu xấu.

Cái Hoa nằm ôm lấy bà Son, rúc đầu vào nách mẹ 

như sợ một tai hoạ gì sẽ đến với chính nó.

- Người ta làm những gì với thầy? - Bà Son nhỏm 

lên tiếng đã rè đặc.

Trong ánh sáng vàng mờ của ngọn đèn, khuôn mặt bà 

Son như gầy võ hẳn đi.

- Ông Thủ cũng chẳng được cái tích sự gì! Anh em 

ông Phúc yêu cầu thế nào, mấy ông xã cũng phải 

chịu nghe thế? - Đào vừa nói dằn giọng, vừa róc 

nước như xối ra cốc, uống; rồi vặn to ngọn đèn. Bà 

Son sửng sốt thấy Đào đã có cái giọng đúng là 

người của dòng họ Trịnh Bá khi nói về người dòng họ 

Vũ Đình. Nó nhiễm cái máu ấy từ bao giờ? Sao lại 

nghe phong phanh là nó với thằng Tùng con bà 

Sang phải lòng nhau?

- Lúc đi thầy có nói gì với u không? - Đào vẫn 

ngồi lầm rầm ở ghế, giọng đanh lại chứ không còn 

sùi sụt nữa. 

- Những chuyện riêng của thầy mày có bao giờ tao 

được biết? - Bà Son nói ấm ức - Lúc mấy người kia 

đến, thầy mày còn không cho tao ngồi gần sợ nghe 

thấy. Chả nhẽ việc như thế ông Thủ lại không biết?

Đào buông một câu, càng đúng là cái gien ông 

Hàm:

- Có biết bây giờ cũng chối là không!

Chiếc đông hồ ô-đô trên tường buông năm tiếng. Cả 

bà Son và Đào chợt khẽ rùng mình. Bởi cả hai người 

cùng hiểu sáng ra, giữa thanh thiên bạch nhật, 

chuyện nhà bà sẽ càng ầm ĩ cả làng, cả xã. Rồi 

những người không ưa ông Hàm, không ưa họ mạc nhà 

này sẽ được dịp cười cợt khích bác cho bằng thích 

để hả lòng hả dạ. Kể cả những người không yêu không 

ghét, xưa nay không có xích mích gì, nhưng thấy 

một nhà phong lưu một dòng họ phong lưu bị sa sẩy, 

thì họ cũng vẫn cứ thích? Nhất là lại được nói 

những lời an ủi, được san sẻ nỗi âu lo với các 

người quen đứng ở trên mình, thì sự thích thú 

càng tăng! Bởi lâu nay họ phải nhìn thấy anh em 

nhà Trịnh Bá may mắn nhiều rồi, làm chơi ăn thật 

nhiều rồi, đến bây giờ họ mới được đưa tay ra cảm 

thông cùng những lời trắc ẩn để an ủi anh em nhà 

Trịnh Bá thì còn gì thú vị bằng! Làm thế là chính 

là để tự vuốt ve mình đấy thôi! Được đưa tay cúi 

xuống nâng người khác, bao giờ cũng dễ chịu hơn rất 

nhiều là phải kiễng chân để xin một ân huệ! Bà với 

con Đào cũng sẽ bị họ cười vào mũi! Nhan sắc hơn 

người mà! Nhan sắc luôn là con dao phản chủ!

Mặc nỗi lo của mẹ con bà Son, đêm đông tỏ ra sáng 

dần.

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, bảy - VN thu quan

Đã sáng một lúc lâu nhưng Thủ vẫn chưa muốn dậy. 

Mặc dù từ lúc ở xã về đến giờ anh không hề chợp 

mắt. Người cứ như rỗng không. Đêm qua về đến nhà 

không thiết rửa ráy, Thủ vào ngã người ngay xuống 

giường. Vợ Thủ nằm với đứa con gái nhỏ ở góc bên 

kia, nói với sang:

- Thầy nó có đói đi ăn cơm thêm? Buổi tối cậu Lưu 

cho thịt vịt em vẫn để phần đấy.

Vì nhà Thủ ở khuất, lại xa đường, thêm cái nết ngủ 

của Luyến đến súng bắn bên tai cũng coi khinh, 

nên vợ con Thủ chưa hay biết gì cả. Thủ nói lừng 

khừng: 

- ăn rồi. Sáng mai không được gọi tôi đấy nhá!

Rồi Thủ tắt đèn, mắt mở chong chong nhìn vào đêm 

tối. Đau óc nhức tấy lên. Lần này thì Thủ thật sự 

bị đôn vào chân tường rồi, không còn lượn lờ dựa 

dẫm vào ai được nữa. Về mặt xã và chính quyền, đã 

có Sửu và những người khác, họ cứ dựa vào pháp 

luật mà thi hành, dễ ợt. Nhưng với Thủ là cả dòng 

họ Trịnh Bá trông vào anh. Phải tự xoay xỏa. Lúc 

này một mình một ngựa, một mình một chiến trường! 

Xưa nay Thủ chưa hề thấy sự bức xúc trong việc 

giành chỗ đứng cho dòng họ, bởi Thủ không có những 

uẩn ức riêng tư như Hàm, và mọi việc đối với Thủ 

đều quá thuận lợi, đều ở trong tàm tay. Vậy mà ông 

Hàm chơi cú này đến mất cả chì lẫn chài của dòng 

họ Trịnh Bá đây! Thủ cũng đến chết chìm theo con 

thuyền này! Chịu khoanh tay phó mặc sao? Muốn 

thay đổi thế cờ thì thay cách nào? Đến nước này 

trở tay không được đâu. Cánh lão Phúc nó cúng có 

sừng có mỏ chứ không phải dân ngu cu đen gì mà dễ 

bắt nạt.

Thủ hết nằm ngửa lại nằm nghiêng. Đầu ong ong. 

Sáng ra Thủ nghe thấy tiếng mấy mẹ con thì thào 

rồi đi lên đi xuống đây sốt ruột, nhưng vẫn không 

ai dám đánh thức Thủ. Bây giờ lại nghe tiếng Sửu ở 

ngoài sân, rồi vợ Thủ cứ thế á, thế á đầy hốt 

hoảng.

Dường như không đừng được nữa, vợ Thủ rón rén lại 

bên giường gọi nhỏ:

- Thầy em dậy đi, có chú Sửu đến.

Thủ vừa dụi mắt, chui ra khỏi màn, thì Sửu đã quần 

ống thấp ống cao nét mặt rầu rầu như người có lỗi, 

đến bên Thủ: 

- Gay lắm anh ạ! Cứ ầm ĩ từ sáng đến giờ. Đám trẻ 

con thì bỏ cả học, cứ bâu lấy hội trường. Cánh nhà 

ông Phúc đã cho người lên huyện báo từ sớm, chắc 

lúc nữa họ về. Ta phải làm gì hả anh?

Nhìn Thủ cứ ngồi lựng với bộ mặt mất thần, Sửu càng 

lúng túng. Mới cớ một đêm mà anh ấy hốc hác đi 

khiếp quá. Đúng như người ta nói đa suy tổn tỳ, 

nghĩ nhiều tổn thọ. Sửu lại nói nho nhỏ:

- Cánh nhà ông Phúc cũng đáo để. Đêm hôm qua họ 

bí mật gài hai người ngồi suốt đêm ở nách hội 

trường để nếu xã đánh tháo bác Hàm, thì họ sẽ la 

lối lên.

Vợ Thủ bưng chiếc mâm từ dưới bếp lên. Bên trên là 

tô cơm rang và đĩa thịt vịt xào. Chị vừa dọn bàn, 

vừa nói sẽ sàng:

- Thầy em đi rửa mặt, rồi mời chú Sửu ăn tạm bát 

cơm.

Sửu quay lại lấy làm may mắn đã có cớ rút lui để 

khỏi phải ngồi với Thủ lúc này.

- Thôi tôi ăn rồi. Sáng nay bên tôi vẫn còn nồi 

xáo ăn cố mới hết.

Rồi Sửu quay sang Thủ hỏi nhỏ:

- Tý nữa anh có lên xã không? Tôi thấy lúng túng 

quá.

Thủ đáp sổng:

- Tôi sẽ lên.

Sửu tươi nét mặt.

- Vâng thế tôi lên trước nhé.

Dứt lời, Sửu ra sân dắt xe đi ngay. Sửu còn chưa 

nói với Thủ chuyện này: ấy là hai người của nhà họ 

Vũ Đình gài nằm lại ở nách hội trường đã nghe hết 

chuyện lục đục của bác cháu ông Hàm trong đêm. 

Thằng ưởng nằm trên hai chiếc ghế băng ghép lại, 

thừa cả đầu cả đuôi. Đang nằm thẳng đẵng như khúc 

gỗ bỗng nó co chân đập chan chát xuống ghế, miệng 

chửi rầm lên. ở bên ngoài chỉ nghe nó hét Mẹ kiếp! 

Mẹ kiếp Không biết nó mẹ kiếp với ai! Rồi nó làu 

nhàu những gì, cũng không nghe rõ. ở góc bên 

kia, ông Hàm và thằng Ngạc nằm chung trên mặt 

bàn. Thằng Ngạc nhổm lên văng tục sang thằng ưởng 

Làm đ. gì mà rống lên thế? Ông Hàm nằm im không 

động cựa, miệng chỉ làu bàu im nào! im nào Nhưng 

thằng ưởng không im, chốc chốc nó lại dộng chân 

thình thình, lại văng tục ầm ĩ.

- Thế tức là ông via trưởng họ mất thiêng rồi! Cá 

mè một lứa rồi! - Vừa kể chuyện oang oang trước 

đám đông, hai người của họ nhà Vũ Đình vừa bình, 

vừa đế thêm vào rồi gã con trai nhà bà Lộc cao 

như cái sào chọc mít cứ hoa đôi tay dài ngoằng, 

hét tướng lên khoái trá: Thế là nội bộ họ lục đục 

rồi! Khỉ tự vặt lông khỉ rồi!

Người ta xúm đông xúm đỏ nghe chuyện, cười hấng 

nhấc khoái chí lắm!

Thủ rửa mặt, rồi ngồi nhai cơm trệu trạo như nhai 

rơm. Bốn gian nhà mái bằng rộng huênh. Mấy đứa trẻ 

đã biến hết. Chắc chúng kéo nhau lên xã rồi, bẽ 

bàng chưa! Vợ Thủ sàng gạo ròe ròe dưới nhà. Đoán 

chừng Thủ đã ăn xong, chị đi lên với bộ mặt bồn 

chồn. Những nốt rỗ hoa ửng đỏ lên. Khác với người 

chị dâu sắc nước hương trời là bà Son, vợ Thủ tự 

nhận mình thua kém chồng cả về cái mã bên ngoài 

lẫn sự tài trí bên trong. Hai người lấy nhau hồi 

đoàn thanh niên đi đắp đê Hà Châu để phòng mùa 

mưa nước sông dâu tràn vào. Dạo ấy Thủ làm bí thư 

xã đoàn, một anh bí thư đẹp trai và hào hoa, biết 

hát, biết đóng kịch và phát biểu rất hay khi lên 

diễn đàn. Vậy mà mới giữa chiến dịch, khi bờ đê 

con chạch mới nhu nhú thì những lời đôn thổi đã 

tới tấp bay về xã, về làng là anh Thủ và cô Luyến 

đang say nhau như cóc ngậm thuốc lào! Rằng là tối 

nào bí thư xã đoàn cũng đi hội ý với cô phân 

đoàn trưởng xóm Trại ở mãi ngoài bờ đê. Sở dĩ 

người ta quan tâm, người ta ầm ĩ lên, nhất là cánh 

con gái càng sồn sồn trong việc tuyên truyền, 

chính là vì các cô tức? Ai đời tay Thủ đẹp tông 

lộng thế kia lại đi mê con Luyến mặt rỗ hoa thì 

còn giời đất nào nữa! Các cô thấy như mình bị mất 

mát, bị tước đoạt một cái gì! ừ thì con Luyến được 

tiếng là nết na, thùy mị, khéo tay và chịu khó, ừ 

thì nó có đáng người cá trắm nở nang chắc đậm, 

tươi khỏe cứ giống như khoai tím trồng ở đất cát 

pha, chất đất màu mỡ đã tạo nên những củ khoai mập 

mạp, rắn chắc mà bở tơi! ừ thì nó có hàm rồng hoa 

cau và nước da bánh mật. Nhưng da bánh mật sao bì 

được với da bánh trôi? Cũng là tổ trưởng nuôi ong! 

Cô nào cũng tự cho mình hơn đứt Luyến ở khâu xung 

yếu nhất ấy! Thế mà đùng một cái, con cá to bị mắe 

vào cái lưỡi câu cùn! Đùng một cái sẩm vớ miếng 

gan! Thế là các cô cứ thêu dệt thêm lên. Đồn thổi 

thêm lên với tâm trạng vừa bực bội, vừa nuối tiếc! 

Đến nỗi Đảng ủy phải gọi ngay Thủ về để báo cáo 

tình hình xem hư thực thế nào. Ngày ấy người ta 

coi việc yêu đương thầm lén là một vi phạm đạo đức 

vi phạm phẩm chất cực kỳ to lớn, cực kỳ nghiêm 

trọng. Dù trai chưa vợ gái chưa chồng, nhưng cũng 

cấm chỉ hò hẹn thì thụt. Tiền và gái xem ra ít ai 

chê, nhưng người khôn thì chỉ thích ngầm và dùng 

ngầm thôi, chứ nếu anh dám nói toẹt ra là thích, 

thế là anh toi đời! Huống hồ con Luyến này lại 

không phải là đẹp, mà hai người lại dắt nhau ra 

tận bờ đê, thế là dứt khoát có vấn đề rồi! Trong 

việc này đứa nào lợi dụng đứa nào đây? Đứa nào 

thoái hóa biến chất trước? Thủ bấy giờ đang là đối 

tượng đảng, lớ vớ phen này trắng túi! Nhưng rồi Thủ 

đã làm cả đảng ủy chưng hửng! Sau khi nghe ông bí 

thư già chất vấn một hồi về những dư luận rằng Thủ 

đã có nhiều biểu hiện sa sút trong việc rèn luyện 

tu dưỡng, Thủ điềm tĩnh hỏi lại:

- Thế cô Luyến có phải là người xấu không? Gia 

đình cô ấy xấu không?

Ông bí thư hơi sững ra, rồi quả quyết:

- Nào ai bảo cô ấy xấu. Là phân đoàn trưởng thanh 

niên cả xóm Trại, là thư ký đội sản xuất, người xấu 

ai để ngồi đấy. Còn gia đình thì bần nông, cơ bản 

đến ba đời sao lại xấu được.

- Thế tôi lấy cô ấy có gì sai không?

Không sai - Bí thư giương mắt kính nhìn Thủ.

Thủ hạ câu chắc nịch:

- Thế thi xin báo cáo với đảng ủy là tôi sắp lấy 

cô ấy!

Đơn giản có vậy, mà bấy giờ người ta đã coi như một 

quả bom! Mùa đông nămấ Thủ cưới Luyến. đúng nghi 

thức đời sống mới. Nghĩa là chỉ có mấy cân kẹo cứng 

răng rắc và bọc thuốc lá cuộn. Đơn giản hết cỡ! 

Làm cho bố mẹ Luyến. dù có mừng, đã gả chồng cho 

con được vào nơi mát mặt, nhưng cứ ngơ ngẩn như 

đánh tuột khỏi tay nồi thóc giống! Tưởng thế là 

hết chuyện ngồi lê đôi thách, vậy mà người ta lại 

còn kháo nhau là Thủ phải cưới Luyến vì đã quá mù 

ra mưa chứ thực ra Thủ ta thấy cô nàng cứ lúng 

liếng bày ra trước mắt không nỡ để phí của giời, 

thì chàng facũng léng phéng cải thiện tí cho 

vui, chứ cũng không nghĩ đến chuyện bách niên 

giai lão. Nếu bây giờ Thủ đánh bài chuồn, thì coi 

như cấm cửa vào Đảng. Vậy mà cũng phải ba năm sau 

Thủ mới được kết nạp. Cứ mỗi lần mang ra xét, lại 

có ý kiến cho rằng dù thế nào đi nữa thì Thủ vẫn 

có điều tiếng trong thời gian yêu đương. Đặc biệt 

là thái độ không khiêm tốn, dám vặn vẹo cãi lý 

với đảng ủy. Thực ra Thủ bị om chỉ vì mấy câu vặn 

vẹo ấy. Thái độ, cái điều tưởng đơn giản và nhỏ 

nhặt, nhưng nhiều anh đã bị mờ đời chỉ vì thái độ! 

Thủ đã có một thời thanh niên sống đẹp, sống hào 

hùng và có bản lĩnh. Còn Luyến từ ngày lấy chồng, 

chị sống yên phận làm người vợ, làm người đàn bà. 

Chi đẻ sòn sòn bốn đứa, nuôi con rất khéo. Bây 

giờ mới bốn mươi lăm, nhưng Luyến đã nói năng, 

sinh hoạt đúng cung cách của người chân quê. 

Luyến chỉ còn có nlêm vui chiều chồng, quý con. 

Có mấy bận nghe phong phanh Thủ đi học, đi tập 

huấn cũng có tý táu tí mẻ với cô giáo này, cô hội 

phụ nữ nọ, Luyến chỉ cười ửng đỏ những nốt rỗ hoa mờ 

mờ Ôi dào máu đàn ông ấy mà! Em chỉ quản ông ấy 

khi về nhà. Còn ra ngoài đã có Đảng! Em là cứ 

giao hết ông ấy cho Đảng! Chả ai ăn vụng được với 

Đảng! Và hình như với chiến thuật buông để nắm ấy, 

người đàn bà sởi lởi đến tồ tề này lại giữ được 

chồng. Thỉnh thoảng gặp dịp Thủ cũng chỉ hiu hiu 

gió thoảng chứ không dám quá đà.

- Thày em có lên xã bây giờ không? - Vừa dọn mâm 

bát, Luyến vừa hỏi ngập ngừng.

Thủ rót nước tránh nhìn vợ giọng thẫn thờ cụt lủn: 

- Có

Luyến đã bưng mâm lên, nhưng chưa đi, lại hỏi dẽ 

dàng:

- Thế định giải quyết việc bác Hàm thế nào?

Bỗng nhiên Thử nổi cáu. Lại một lần nữa Thủ nối cáu 

rất vô lý:

- Đi tù chứ còn thế nào! Phen này thì chết cả 

nút! Dọn đi, để cho người ta yên!

Rồi Thủ súc miệng òng ọc, phun nước phì phì. Rồi 

Thủ thay quần áo cho đàng hoàng tươm tất. Quần 

sa-vi-ốt, áo cộc tay màu nước biển. Anh vốn ghét 

sự lúi xùi. Hôm nay cũng không được lúi xùi, 

không được cho ai thương hại. Thủ vứt bừa quần áo 

cú lên đi-văng, rồi không một lời dàn dò, anh hầm 

hầm dắt xe đi.

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Tám - VN thu quan

Đã vào gặt chiêm. Làng xóm rậm rịch từ tinh mơ. 

Bây giờ không ai chờ phải có kẻng, chờ ông đội 

trưởng đi thúc nữa. Khác làm, khác lo. Ngay lông 

bông như anh chàng Thó mà bây giờ cũng tự biết 

mình phải làm gì. Mặc dù hợp tác chưa khoán đất, 

khoán ruộng xong. nhưng vụ chiêm này các hộ đã 

nhận diện tích và sản lượng rồi tự chăm bón và thu 

hoạch. Hợp tác xã đảm nhận khâu đầu và khâu cuối, 

tức là giao khoán cho các hộ sau khi gieo cấy 

xong, cuối vụ hợp tác thu sản phẩm theo diện tích 

và sản lượng đồng điền. 

Mới giao khoán có vậy, mà người ta đã biết cách 

làm ra thóc. Vẫn người ấy, đất ấy mà những vụ trước 

lúa mọc chó chạy hở đuôi, người làm ra gạo mà 

quanh năm thiếu gạo. Bởi eái mẫu hợp tác đánh 

trống rồi ghi tên chấm điểm ngày một tạo nên cảnh 

thằng còng làm thằng khườn ăn. Số người thoát ly 

đồng ruộng ngày một nhiều. Mang tiếng là nông 

dân, mà khối anh lại không phải chân lấm tay bùn. 

ở trên có văn phòng ủy ban, văn phòng đảng ủy, 

thì ở dưới có văn phòng hợp tác xã và ban chỉ huy 

đội sản xuất. Đội cũng có phòng tiếp khách hẳn 

hoi. Rồi các đoàn thể cũng có người thường trực ở 

trên xã. ở đây còn chơi trội hơn các nơi khác, là 

xã có cả một tổ truyền thanh tách khỏi sản xuất để 

phục vụ loa đài cho các buổi họp. Vì không mấy 

ngày ở xã lại không có cuộc họp. Mà bây giờ người 

ta không chơi nói khan, phải có bàn, có bục, có 

micrô để vừa nói vừa được nghe chính giọng nói của 

mình được khuếch đại qua những tiếng lào xào của 

cơ khí, có thế nó mới nổi mùi khoa học kỹ thuật? 

Thành thử hàng ngày ở xã người cứ ràn rát, nhênh 

nhang mà lại làm ra vẻ tất bật. Ai cũng cho là 

mình quan trọng, không thể thiếu được. Tất cả số 

người ấy hàng tháng được mua thóc ưu tiên ở kho 

gọi là thóc điều hòa, chắc ăn bằng mấy những anh 

còng lưng ngoài đồng. Thằng còng lưng làm ra 

thóc, mà lại quanh năm lo méo mặt vì thóc. Thế 

là thằng còng buồn bực, chán làm, chán đất. Nông 

dân mà chán đất thì khác gì người sống bỗng dở 

chứng chán cơm! Khác gì người lính chán vũ khí, 

chán binh nghiệp. Người lính chán binh nghiệp thì 

dễ chiến bại khi xung trận, còn nông dân chán đất 

thì quanh năm có tháng giặc đói ngồi chồm chỗm 

trong nhà!

Mới bắt đầu vào khoán, mà những chức danh tầm gửi 

chuyên sống bằng ăn theo kia, xem ra đã lung 

lay. Chủ tịch Sửu đã mấy lần đặt câu hỏi ra vẻ 

cuống: Bây giờ lấy thóc ở đâu để chi? Các hộ nộp 

sản phẩm là để đóng thuế cho nhà nước, vậy xàng xê 

thế nào bây giờ?

Sang hè, trời cao, nắng no, lúa vàng như duối 

chín. Vụ chiêm này trời đất đã trả công xứng 

đáng. Bỏ rẻ cũng trên hai tạ một sào. Nhiều nhà 

đã gặt non từ phiên chợ trước. Cái đói đã bị tống 

khứ ra khỏi các ngõ. Những anh hay vác rá chạy 

quanh, giờ có chất cơm mới, trông mặt mũi đã tí 

tởn đáo để! Việc nhà nông lúc này ngập đầu ngập 

mặt. Tháng năm chưa nằm đã sáng. Mở mắt ra, quăng 

người xuống đất là tay năm tay mười.. Tất bật, 

nhưng vui. 

Thủ đạp xe thong thả. Đi hết con đường gạch rợp 

bóng tre của làng là những quãng đường đất dẫn lên 

xã. Hai bên lúa chín vàng ưng ửng. Nón mũ lấp 

loáng. Chuyện râm ran. Nhìn thấy Thủ chuyện bỗng 

lắng xuống. Những người đang lượm lúa ở cạnh đường 

bỗng lảng lảng ra xa. Những ánh mắt liếc xéo xéo 

dưới vành nón, nhìn Thủ kín đáo. Chỉ có vài người 

gánh lúa lên tới đường không tránh được, dừng lại 

chào Thủ với vé vừa rụt rè vừa săm soi. Thủ cố làm 

ra tự nhiên như không có chuyện gì, gật đâu trả 

lời, chân vẫn đạp thong thả. Nhưng Thủ biết người 

ta đang bàn về chuyện ấy và ngay lúc này người ta 

đã nhìn bí thư đảng ủy bàng con mắt khang khác 

rồi. 

Thủ cắm cúi đạp, tiếng líp mới kêu tanh tách. Bỗng 

anh giật mình khi thấy xa xa phía trước một đứa bé 

gái đang ôm cặp sách, vừa chạy gần vừa khóc. Nó 

đang chạy ngược về phía Thủ. Thôi chết! Cái Hoa, 

con gái út ông Hàm:

- Chú Thủ! Hư... Hư!...

Cái Hoa cung đã nhìn thấy ông chú qua làn nước 

mắt lòe nhòe. Nó càng kêu nấc lên chạy và lại. 

Nhưng khi còn cách Thủ dăm bước, nó bỗng đứng 

khứng lại, chân dậm bành bạch xuống đất, tiếng 

khóc càng vỡ ra, miệng lắp bắp:

- Chú Thủ! Bố cháu!... Hu hu! Tại chú! Chị Đào bảo 

tại chú?

Rồi nó càng khóc òa lèn như bị đòn oan. Khuôn mặt 

đẹp như vẽ của nó nhăn nhúm chìm đắm trong nước 

mát. Thủ dừng xe, đang đứng như chôn chân, thì 

cái Hoa đã vụt chạy sang lề đường bên này, vừa 

chạy nó vừa gào lên: Tại chú! Tại chú! Rồi cứ tức 

tưởi thế. nó chạy như bị xua đuổi về nhà

Sáng nay khi nó đang thiếp đi nặng nề, thì bà 

Son lay lay người, gọi:

- Dậy ăn cơm còn đi học chứ.

- Hôm nay con vẫn đi học hả u? - Nó ngồi dậy, vừa 

ngáp vừa hỏi. Bởi nó thấy mọi chuyện trong gia 

đình bị đảo lộn lên tất cả rồi. 

- Thế mày không đi học thì đi đâu? - Bà Son súc 

miệng bên bể nước mưa, giọng lầu bầu.

Đào đã sắp liềm hái kéo xe cải tiến từ trong nhà 

ngang ra sân. Theo dự tính, hôm nay hai mẹ con 

sẽ gặt thửa ruộng xa nhất ở cánh đồng Mái Voi. 

Nhưng Đào làm mà cứ như mơ ngủ. Đáng lẽ phải xếp 

liềm hái vào xe cải tiến, thì cô lại ngoắc lên 

mái gianh. Khuôn mặt trái xoan vốn linh lợi, tươi 

rói, giờ nghiêm lạnh. Cặp mắt thiếu ngủ khô và 

dáng như mắt người sốt. Chốc chốc lại nhớn nhác 

nhìn ra cổng. Chỉ cần một tiếng động cũng làm Đào 

giật mình. Bà Son vừa rắc gạo tấm chăn mái gà mới 

nở kêu cục cục trong cái bu nứa. vừa nói với Đào:

- Con cứ ra gặt trước đi, để u lên trên ấy xem 

việc ăn uống của thày thế nào.

Cái Hoa bưng bát cơm ra thềm đứng ăn. Cạnh đấy con 

chó khoang nằm phủ phục, gối mõm lên hai nhân 

trước. Cái mõm vừa tròn vừa ngắn, đó là dấu hiệu 

con chó vừa khôn vừa có nết, chứng tỏ chủ nhân là 

người rất sành chó. Con khoang lử đừ nhìn những 

hạt cơm của cô chù nhỏ làm vãi, không buồn la 

liếm. Cái đuôi xù to như bông lau trắng khẽ ve 

vẩy. Mắt hiu hiu. Hình như nó cũng đang bận nung 

nấu những ý nghĩ khuyển mã trong đâu nên coi 

khinh những hạt cơm thừa! Không khí nhà cửa thật 

trễ nải rêu rã. Ba mẹ con ngại ngùng không muốn 

nhìn nhau cứ nơm nớp thấp thỏm thế nào, thấy như 

mình đã bị gạt ra khỏi không khí đùm bọc của xóm 

làng..

Khi cái Hoa đi học, thì nó càng thấy đứt đuôi là 

nó bị hất ra khỏi cái quần thể tươi vui của chúng 

bạn rồi. Chưa tới lớp, cái Hoa đã thấy đám trẻ con 

chạy tong tả nháo nhác từ khu trường học bang khu 

nhà uỷ ban. Hai bên chỉ cách nhau một mặt sân cỏ 

vẫn dùng làm nơi kéo co cắm trại và đấu bóng 

trong những dịp hội hè.

- Cái Hoa! Chúng mày ơi, ê cái Hoa! 

- Ê cái Hoa!

Đám bạn kin kin chanh non chanh cốm vẫn nhảy dây 

cùng cái Hoa reo lên, la lên và ánh mắt cửa 

chúng bỗng nhìn người bạn vẫn được tiếng là xinh 

đẹp và múa dẻo nhất trong đội văn nghệ của lớp lạ 

hẳn đi. Chúng nhìn cái Hoa như nhìn một con mèo 

lạ. Một đứa thì thầm:

- Thày mày ở bên kia kìa! Bị nhốt ở gian nhà kho 

ấy. Đứng ngoài đếch nhìn thấy! Chỉ nghe tiếng anh 

ưởng chửi om lên trong ấy.

Đám học trò văn theo nhau chạy à à sang khu nhà 

uỷ ban, mặc tiếng trống vào lớp gõ bành bành như 

vỗ mẹt và các cô giáo la gọi eo éo.

- Mày có đi không Hoa?

- Có đi xem thày mày không?

Đứa chạy đi đứa chạy về. Những ánh mắt nhai Hoa 

hau háu giễu cợt, thiêu đốt. Thằng Đãi hếch, một 

thằng nghịch nhất lớp, đen và rắn cấc như củ tam 

thất, từ bên khu nhà ủy ban chạy về. Đến trước mặt 

cái Hoa nó dừng lại, xỉa cái cầm nhọn và mỏng vẹt 

vào sát tận mặt, cái mũi càng hếch ngược lên, hét 

lớn:

- Ê! Con lão đào trộm mả! Ê, ác!

Cái Hoa òa khóc. Hai tay ôm lấy mặt, cặp sách rơi 

xuống đất. Bọn trẻ càng ùa lại như xem xiếc. Đám 

con trai nhảy tưng tưng, cùng bắt chước Đãi hếch 

hô lớn:

- Con ông đào trộm mả! Ê! Có đứa bố đi đào trộm 

mả!

Cái Hoa như cặp sách rồi vùng chạy. Vừa chạy vừa 

khóc như bị đánh. Nó chạy về nhà. Mặc phía sau cô 

giáo gọi ơi ới và tiếng ông hiệu trưởng già quát 

mắng lũ con trai bất trị. Cái Hoa cứ chạy. Vấp 

ngã, vực dậy lại chạy, chạy như bị đuổi bắt. Trước 

mặt nó mọi thứ đều nhòe nhoẹt, ướt đẫm, tối sầm. 

Cái Hoa như con chim non trúng tên, và kẻ gây ra 

không phải là đám trẻ thơ đồng lứa, mà đích thị từ 

chính người đã nâng niu tác thành ra nó!

Sau khi hét lên với ông chú có quyền thế nhất xã, 

cái Hoa lại chạy riu ríu xuôi đường về nhà. Những 

người đang gặt đều quay lên nhìn cảnh hờn dỗi của 

chú cháu ông bí thư. Thủ đúng lặng một lát, rồi 

đạp xe tiếp. Người nổi rôm lên. Thủ biết hàng mấy 

chục con mắt đang ném vào người anh, mà chắc chắn 

phần nhiều là sự hả hê thích thú.

Thủ vừa dắt xe vào cổng ủy ban, thì chủ tịch Sửu và 

ông hiệu trưởng già đã xua được hết đám trẻ con về 

các lớp. Sửu chạy lại phía Thủ:

- Đoàn kiểm tra xét hỏi khiếu tố của huyện về rồi 

anh ạ. Bên nhà ông Phúc đưa họ ra đồi Sim để nhìn 

hiện trường. Tôi đã bảo cậu Cao cùng đi.

Cao là phó ban công an, là cháu bên nhà vợ Thủ. 

Anh chàng đã bị cánh nhà ông Phúc gọi giật ra 

khỏi giường vợ hồi đêm. Vì dạo này ông trưởng ban 

đi mổ dạ dày, nên mọi việc về an ninh Cao thay. 

Đưa Cao cùng đi với đoàn kiểm tra của huyện, là 

Sửu muốn nói anh đã kín cạnh đề phòng nhà ông 

Phúc nói quá sự thực. Nhưng Thủ lại buông một câu 

thờ ơ:

- Việc đã thế này thì ai đi chả được. Trên huyện 

về mấy người?

Sửu vừa nói, vừa sít soa như đau răng:

- Ba người anh ạ. Một công an. Một người của viện 

kiểm sát và một của ban nội chính. Trước khi ra 

đồng, họ đã làm việc với tôi và cậu Cao. Như họ 

nói thì căng đấy anh ạ. Tay công an làm trưởng 

đoàn tôi chưa gặp bao giờ, mặt cứ lạnh như tiền. 

Hắn bảo hồi cuối năm vừa rồi ở xã trên đã có vụ mấy 

thanh niên nghe ai xui rằng ngôi mộ cổ đâu làng 

là ngôi mộ giả của người Tàu họ giấu vàng đấy! 

Người ta bảo trên mạn nhà máy Gò Đầm, đã có người 

đào một ngôi mộ đúng hình dáng như thế đã vớ được 

hàng ki lô gam vàng! Có cả một con vịt to bằng củ 

khoai và bốn quả trứng đúc bằng vàng! Thế là mấy 

thằng hám của bảo nhau thì ra vàng ở ngay trước 

mũi mà không biết! Nửa đêm rủ nhau ra đào, Nhưng 

vừa moi được vài sảo đất thì bị tóm. Thế mà tý nữa 

bị tù ba năm. Vì trong luật hình sự có những việc 

người ta cho phép xử rất co dãn Từ ba tháng đến ba 

năm Vì ngôi mộ kia vô chủ không có chủ nhân đứng 

ra kiện, nên mấy cậu thanh niên chỉ phải vác gạo 

nhà đi lao động xã hội có nửa tháng thôi. Tôi có 

hỏi tay công an trường hợp này nếu hai gia đình tự 

dàn xếp được với nhau không phát đơn kiện thì thế 

nào? Hắn bảo thế thì tốt quá, huyện đỡ mất công 

việc. Cả bí thư và cả chủ tịch huyện rất ghét những 

chuyện lình sình, vì dễ mất uy tín với trên. Nghe 

nói cụ Luân bí thư rất buồn khi biết bác Hàm là 

người nhà của anh.

Có mấy người đang thì thầm to nhỏ trong nhà ủy ban 

vừa thấy Thủ lạch xạch dắt xe đạp đến, liền lảng 

ngay. Cả ông bõ Vòi hôm nay cũng không chào hỏi 

niềm nở như mọi khi, mà gù gù cái lưng trần đen 

cháy đi như úp sấp về phía trước, lẳng lặng rút về 

căn buồng tối như cái hầm của lão ở phía sau nhà 

ủy ban Bõ Vòi là anh em cành trên với ông Đáng, 

bí thư mấy khóa trước ở đây. Ông Vòi đi Nam kiếm 

ăn từ năm 1954. Sau năm 1975 ông tìm về làng, 

không những vẫn trơ trọi trên răng dưới dép một 

mình mà không hiểu ăn chơi mang bệnh thế nào mà 

Cái Vòi lại phải đệm thêm cao su vào! Vì thế người 

mới bỏ tên tục, gọi là ông Vòi, ông sứt vòi! Ngày 

bõ Vòi về làng, ông Đáng đang làm bí. thư vì thế 

ông Vòi mới được ưu tiên nhận chức tạp vụ và ăn ngủ 

luôn tại đây. Ngày ngày đun nước, quét dọn và đi 

mua rượu khi xã động mâm bát. Trong những cuộc 

chè chén người ta thường chuốc rượu ông Vòi để ông 

kể những ngón ăn chơi ở Sài Gòn. Lầy lã, tục tiu 

đến khỉ cũng phải đỏ mặt, nhưng từ bé chí lớn cứ 

sán đến nghe như bỏ bùa, vừa nghe vừa đế thêm để 

cười. Mặc dù là người phục vụ nhưng bõ Vòi hách ra 

phết, không biết có phải lão cậy mình là người 

thâm niên cố đế, hay là anh trưởng họ của cựu bí 

thư mà ở đây chỉ trữ có Thủ và Sửu là lão gọi bằng 

anh, còn lại mày tao tuốt tuột. Ngay Sửu, khi có 

hơi men vào là lão cũng coi nhờn, ra ý không sợ 

anh dân ngụ cư. Chỉ có Thủ là bõ Vòi cúc cung tận 

tụy. ấy vậy mà hôm nay không chào mời, cũng không 

nước nôi. Lão tránh cũng như những người kia tránh 

để Thủ đỡ ngượng, hay họ đã dám lờn mặt Thủ?

Hàng ngày đến đây Thủ có niềm thích thú là được 

nhấm nháp, được ngắm vuốt cái quyền của mình nó 

hiện ra qua những săn đón, cung phụng ở xung 

quanh, chứ Thủ đâu phải là người đam mê ăn nhậu. 

Mà có khi nhấm nháp quyền lực nó còn râm ran thấm 

thía hơn cả ăn nhậu! Có rượu, có chè thì Thủ cũng 

uống chơi chơi cho vui, còn nếu cả tuần không co; 

anh cũng không thấy bị thiếu hụt. Nhưng hôm nay 

cái điều anh cần nhất, cái đã làm nên bầu không 

khí để anh hít thở để tự ve vuốt đã bắt đầu bị 

khiếm khuyết, bị thiếu hụt rồi.

Bước vào nhà, nhìn quanh, Thủ nói cao giọng, 

nhưng vẫn mát mẻ:

- Nhà cửa sao ngập rác thế này? Đến hớp nước cũng 

không có. Đây vô chủ rồi chắc?

Sửu cầm chiếc chổi phất trần quét những bã thuốc 

lào đóm vụn trên mặt bàn. ở dưới kia bõ Vòi xách 

chiếc siêu đi ra giếng. Cái dáng lật khật của lão 

như muốn nói bây giờ tôi mới đun đây! Chẳng việc 

gì phải rối lên! Thật là đã khác xa với tuần 

trước, đảng ủy họp có tổ chức ăn tươi, vì bõ Vòi là 

người điếu đóm, nên cũng hưởng suất ăn theo. Rượu 

xong, lão đánh một giấc bí tỉ đến quá chiều. Đảng 

ủy họp tiếp, không có nước uống, một người xuống 

lay, bõ Vòi vẫn nhấm mắt, nằm đườn trên phản nói 

làu bàu sặc mùi men: Làm thì cũng phải có lúc 

nghỉ chứ ngậu xị cái con tửu gì thế Vậy mà Thủ chỉ 

đứng ngoài sân nói mát vào: Vất vả lắm hả bác 

Vòi? Từ mai chúng tôi thay nhau đun nước vậy nhá! 

Thế là lão choàng ngay dậy như đã dã rượu hoàn 

toàn, đi chui chúi cái đầu dùi đục vào bếp nhóm 

lửa, khiến Sửu và mấy đảng viên khác thèm được có 

cái uy như Thủ. 

Vậy mà hôm nay... Thủ ngồi xuống ghế, nhìn vơ vẩn 

lên những tấm bằng khen và cờ thi đua treo đầy 

trên tường. Thế là chiếc phao anh ném ra để đo 

cái uy của mình, rõ ràng đã tụt xuống quá thấp. 

Mới hay bụng dạ người đời, thấy thịnh thì thờ, thấy 

suy thì phản. Nhưng chả nhẽ ta đã suy? Thủ quay 

sang Sửu đang thông điếu bằng chiếc lông gà, nói: 

- Bây giờ tôi đi có chút việc. Anh ở đây tiếp 

đoàn kiểm tra. Nói với các đồng chí ấy là tôi 

không có đề nghị gì và tôi rất bực với việc làm 

của ông Hàm. Vì tôi không biết, nên mới xảy ta 

như thế. Bây giờ đi theo luật mà xử tội đến đâu 

ông Hàm với thằng ưởng, thằng Ngạc phải chịu đến 

đấy. Giờ tôi xuống dặn họ là không được có hành 

động chống đối.

Rồi Thủ đi về gian sau nhà ủy ban, nơi ba bác 

cháu ông Hàm vẫn nằm ngồi ngả ngốn. Thủm rộng cửa 

sổ. Ông Hàm ngồi thu lu trên mặt bàn, im lặng như 

một con cù rù. Ông ngước lên nhìn Thủ với gương 

mặt hốc hác tối sầm.

- Em dặn bác điều này - Thủ thò hẳn đâu vào trong 

cửa nói giọng trầm như vang- Cả thằng ưởng, thằng 

Ngạc nữa, nhớ là không ai được phá bĩnh, không 

được gây sự họ bảo sao làm vậy. Tất cả mọi việc để 

tôi sẽ liệu.

Dứt lời, Thủ khép cửa, rồi xuống sân dắt xe đi 

ngay. Vừa ra tới ngã ba, chỗ chiếc lều lão Quềnh, 

thì gặp bà Son cắm cúi đi từ phía trên về. Bà 

xách chiếc làn đan lõi guột đã ngả màu đen bóng, 

lấp ló một đùm bún lớn trong ấy.

- Kìa chú Thủ, thế chú định giải quyết việc này 

thế nào? Bà Son đứng sững nhìn Thủ trưng trối. Thủ 

cố làm ra vẻ bình tĩnh:

- Sẽ tìm cách gỡ sau, chứ bây giờ biết làm thế 

nào. em vừa dặn ba bác cháu rồi, nhưng tí nữa bá 

nhớ nói thêm là phải bình tĩnh, không được chống 

đối bậy bạ, rồi em sẽ liệu.

Dứt lời, Thủ đạp xe đi ngay, làm như đang rất vội 

vã. Bà Son đi tắt vào phía sau nhà uỷ ban. Đây 

là bữa tiếp tế đầu tiên của bà cho người tù. Trong 

làn là hai cân bún và cút nước mắm ớt. Lúc nãy ở 

nhà bà Son đang tính không biết nên mang cơm hay 

mang tiền đi lên quán bà Cả Lợi mua quà cho ông 

Hàm, thì mẹ thằng ưởng và thằng Ngạc đến, lu loa 

từ ngoài cổng. Mọi bận hai bà chị họ vốn túng thiếu 

này vẫn thường đến vay mượn vợ chồng ông Hàm, nịnh 

bà Son phải biết. Bây giờ vừa trông thấy bà Son, 

hai người đã nhảy thách lên, rằng là cậu mợ hại 

tôi, chúng nó trẻ người non dạ, có lớn mà chưa có 

khôn, nghe ông Hàm xui dại làm điều sằng bậy, giờ 

biết cậy nhờ ai? Lúc này ngày mùa nhìn đâu cũng 

thấy việc, thế mà người ăn thì có người làm thì 

không. Đào đâu ra tiền ra gạo, lấy người ở đâu để 

đi hầu chúng nó bây giờ? Bà Son biết hai bà chị họ 

đến bắt đền, giao phó mọi chuyện cho bà đây, nên 

bà dễ dàng bảo:

- Thôi việc thế nào đã có xã, có huyện, còn 

chuyện ăn uống hai bác khỏi lo, em sẽ nấu nướng 

cho cả ba bác cháu. 

Sức ăn của hai thằng thiên lôi, thằng ưởng, thằng 

Ngạc ấy, bà Son biết lắm. Mỗi khi có việc nhờ đến 

sức trâu lăn của chúng, thì bà phải chuẩn bị có đủ 

ngọt bùi cay đắng. Thức nhắm phải nhiều, rượu phải 

như sáo tắm. Riêng hai thằng mỗi bữa đánh bảy cân 

rưỡi gạo! Cho nên với hai cân bún này ông Hàm chỉ 

ăn uống cảnh vẻ, còn lại để cho hai thằng ăn lót 

dạ! 

Thấy bóng bà Son, Sửu đi xuống mở cửa. Tay xách 

theo tích nước, miệng nói nhỏ:

- Đoàn kiểm tra của huyện sắp ở đồi Sim về đấy, 

bác giục ăn uống nhanh lên.

Rồi Sửu càng hạ giọng như thì thầm: 

- Tình hình gay lắm bác ạ! có khi cả đồng chí Thủ 

cũng bị liên đới!

Mở khoá xong, Sửu quay lại ngay. Mặt bà Son cứ 

tái bợt. cũng như những người dân quê thuần phác, 

những từ thanh tra, kiểm soát, toà án, đối với Bà 

Son nó gợi cái gì rất dao búa kinh khiếp! Bà Son 

chỉ mở hé một cánh cửa. Bà biết mấy người đang ở xa 

nhìn lên. Đặt làn bún và tích nước lên bàn, bà 

nói sẽ sàng.

- Bác cháu dậy đi, súe miệng rồi ăn tạm bát bún.

Bà quay sang ông Hàm, khi Thủ đi, ông lại nằm 

dài ra.

- Thầy nó dậy súc miệng có nước nóng đây.

Ông Hàm làn như bây giờ mới tỉnh ngủ, vươn vai ngồi 

dậy, bối rối nhìn vợ. Cả hai cùng thầm kinh ngạc 

khi thấy những nét võ vàng trên mặt nhau. Thì ra 

người ta có thề già đi đến mấy tuổi, bạc một nửa 

đầu chỉ trong một đêm là có thật!

- Thày nó này? - Bà Son nói nhỏ - việc đã thế 

rồi, giờ người ta bảo thế nào, thầy nó với cháu 

nghe thế, chứ đừng gây thêm chuyện gì nữa. Rồi chú 

Thủ chú ấy sẽ liệu. 

Ông Hàm ư hàm trong cố, ra vẻ đã nóng mắt. Đây là 

lần đầu ông phải nghe những lời khuyên giải của 

vợ. Ông nói gằn giọng:

- Mẹ nó không phải lo. Cả thằng ưởng, thằng Ngạc 

cũng không phải lo, có gì tao sẽ chịu tất.

- Tôi nói thế là lo cho thầy nó, chứ tôi thì...

Bà Son chưa nói hết câu, thì ngoài cổng có tiếng 

nhốn nháo. Thấp thoáng những gương mặt lạ. Người 

xách cặp, người đeo túi. Nối lên phía sau với 

dáng ông Phúc cao lớn đẫy đà. Ông đội chiếc mũ 

cát có vòng băng đen. Họ từ ngoài Đồi Sim về. 

Đang dở những con bún tay, bà Son chợt run lên. 

Ông Hàm nói gì, thằng ưởng, thằng Ngạc nói gì, bản 

thân mình trả lời ra sao, bà Son hoàn toàn không 

biết, không cảm được gì nữa. Mọi tinh thần của bà 

dồn vào thính giác hướng lên nhà uỷ ban, lòng bồn 

chồn thắc thỏm. Đến khi Sửu cho người xuống gọi ba 

bác cháu ông Hàm lên hội trường, rồi một giọng lạ, 

rất vang dõng dạc đọc những câu lủng xoảng: Theo 

luật hình sự, công dân Trịnh Bá Hàm cùng một thời 

gian đã phạm hai tội...

Bà Son bỏ bát đua đang dọn, bíu tay vào song cửa 

sổ, mắt nhìn dại đi, nhìn mà không thấy gì! Rồi 

những tiếng à à ầm ầm nổi lên? người ở trong thì 

dãn ra ngoài, người ở ngoài thì xô vào. Một lớp 

học đến giờ ra chơi: trẻ con đổ oà sang như ông vỡ 

tổ, la hét ầm ĩ. Bà trông thấy phó ban công an 

vừa xua chỗ này, vừa gạt chỗ kia, miệng là hét dọn 

lối. Rồi người ta dẫn bác cháu ông Hàm đi. Đến khi 

nhìn rõ ông Hàm đi đầu với cái dáng hơi lùn, to 

ngang, mái đầu muối tiêu cúi cúi, rõ là cái dáng 

của kẻ chịu tội, thì bà Son cứ kiễng chân lên để 

nhìn xem ông có bị trói bị còng không, nhưng đám 

trẻ con nhốn nháo xung quanh che lấp cả ba người 

tu. Bà Son tựa vào bờ tường, nhợt nhạt cá chân tay 

mặt mũi. Những giọt nước mắt dài lăn xuống. Đến 

khi nghe tiếng gọi:

- U ơi đi về còn ở đây làm gì.

Đào đã đến từ lúc nào. Quần xắn ngang gót chân, 

chiếc áo với những đóm hoa xanh tươi mát như những 

hạt mưa rắc lên người, nhưng mặt Đào rõ ràng là 

đang có lửa. Cặp mắt rừng rực. nghiêm lạnh. Đào ra 

đồng đã gặt được một lúc. Nhưng thấy khắp nơi người 

ta cứ rì rầm, nhìn mình soi mói, Đào liền bỏ gặt, 

xăm xăm đi về. Tới nhà thấy cái Hoa đang nằm khóc 

rấm rứt, Đào quát ầm lên, rồi đạp xe lên xã với 

đây vẻ thách thức. Nào, ai dám khinh thường, ai 

dám bổ báng thì cứ ra đây Đây chưa chết đâu mà 

vội múa tay trong bị! Đào sẽ lên xã, trước bàn dân 

thiên hạ để nhìn rõ những ai đang hí hửng rậu chưa 

đổ mà bìm đã leo. Đồng thời Đào lên đấy để nhìn 

rõ cái người ném đá dấu tay kia, xem anh ta thoả 

chí đến mức nào! Xem anh ta có dám nhìn thằng 

vào Đào không. Ai chứ với riêng anh ta nếu cần 

Đào sẽ...

Khác với Mỹ Châu xưa, cho tới lúc nhận nhát gươm 

của vua cha, nàng Mỵ Châu hiền vẫn không mảy may 

nghi kỵ người yêu mình lại là tên phản bội. Còn 

các cô gái ngày nay họ đã khôn ngoan lắm rồi! 

Xin đừng thổi vào tai họ những tấm lòng vàng đá 

của các tiên nữ xưa? Này này các chàng trai 

thích mơ mộng! Anh muốn làm Trọng Thuỷ để hưởng cả 

mối tình và niềm tin của người yêu ư? Giàu trí 

tưởng tượng quá đấy? Không khéo chính họ lại dẫn 

anh lên đầu đài!

Với Tùng lúc này, Đào đã quyết? Nhưng Đào lên tới 

nơi, thì người ta đã dẫn bác cháu ông Hàm đi rồi. 

Chỉ còn những tóp túm năm tụm ba rì rầm to nhỏ. 

Trông thấy Cao, phó ban công an, Đào vẫn ngồi 

trên xe, hỏi:

- U em đâu anh Cao?

Cao hất hàm ngoắt tay. Đào mắm môi đạp qua những 

mô đất lởm chởm, ném tia mắt choi chói ra xung 

quanh. Cô nhìn lục lọi nhưng không thấy bóng Tùng 

đâu. Hay hắn không đến? ờ phải, những người quen 

sống bằng những âm mưu, thì không phải họ chỉ hành 

động vụng trộm, mà ngay cả lúc cái mưu thành rồi, 

họ chỉ dám mừng một cách lén lút mà thôi!

- Về đi U - Đào lại giục bà Son - Chưa chết đâu 

mà lo! Giờ u cu về trước, con đạp xe lên huyện để 

xem người ta để thầy ở chỗ nào còn lo cơm nước.

Vừa nói lẩm bẩm, Đào vừa dọn bát đũa, gói chỗ bún 

thừa còn lại. Hôm nay hai ông thần sùng cũng nuốt 

không vào, đùm bún vẫn còn quá nửa.

Đừng có dại mồm dại miệng nữa con - Bà Son đưa ống 

tay lau mặt giọng rầu rĩ. Lên trên ấy xem thế nào 

rồi về ngay Đào nhé.

Bà Son xách làn, đội nón đi cụm cúp ra về. Một 

người đàn ông đạp xe từ trong cửa hàng mua bán đi 

ra. Thấy bà Son, người đàn ông phanh kít xe lại. 

Bốn mắt nhìn nhau sửng sốt. Nhưng rồi rất nhanh 

cặp mắt bà Son đanh lại, và miệng bà bỗng bật ra 

những lời chì chiết:

- Thế là ông đã hại tôi! Đã giết tôi! Bao giờ ông 

cũng là vừa được ăn vừa được nói!

Ông Phúc, phải đấy, chính là Vũ Đình Phúc, người 

tình si mê đầu tiên của bà Son, và bây giờ đang 

là tử thù của vợ chồng con cái, của cả họ hàng nhà 

chồng bà. Sau phút bối rối, ông Phúc dằn giọng:

- Nhưng tại ai? Bà không thấy làm thế là độc ác 

à?

Bà Son nhìn trân trân:

- Nhưng ông ấy là chồng tôi!

- Là gì thì cũng phải có đúng, có sai, ác giả ác 

báo. Bà còn oán cái gì?

Bà Son vẫn chỉ một câu:

- Vì ông ấy là chồng tôi!

- Là chồng bà thì được làm càn à? Được làm việc 

thất đức à?

Cặp mắt lá răm của bà Son ném những tia chói sắc 

vào gương mặt vuông vức với cái cằm rất đầy, lởm 

chởm những râu của ông Phúc:

- Ông không phải bẻ hành bẻ tỏi, ông đi đi!

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Chín - VN thu quan

Khi Đào kéo chiếc xe cải tiến thậm khích đưa 

chuyến lúa cuối cùng về tới nhà, thì trời vừa tắt 

nắng. Đào xếp lúa thành đống giữa sân, quay vào 

hỏi bà Son đang lúi cui trong bếp, mùi cá kho 

với riềng từ trong ấy bay ra thơm đậm: Thím Thủ 

với các cô ấy về rồi hả u?

Bà Son nói vọng ra cụt lủn:

- Về rồi!

Chiều này cả vợ Thủ cùng hai người em gái ông Hàm 

cùng đến gặt cho bà Son. Bình thường những bữa anh 

em giúp nhau như thế này là ông Hàm tổ chúc ăn 

rất sang. Cá kéo dưới ao, gà nhốt sẵn trong 

chuồng, rượu cất từ mấy hôm trước ông Hàm bao giờ 

cũng muốn chứng tỏ cả uy thế và sự sung túc với 

anh em họ hàng.

Nhưng hôm nay mấy người đến gặt giúp đã nói trước 

với bà Son từ chiều là gặt xong về ngay, vì còn 

bận nhiều việc ở nhà. Ai cũng biết đó là lý do vờ 

vịt, cái chính là lúc này còn vui vẻ gì nữa mà ăn 

với uống.

Bà Son về trước nấu cơm, để rồi còn mang lên cho 

bác cháu ông Hàm. Bà sợ để Đào mang đi nó sẽ gây 

nhiều chuyện. Con bé ương như ổi, đúng là giỏ nhà 

ăn quai nhà ấy. Lúc sáng lên huyện, gặp mấy người 

ở xã này làm việc trên ấy, thấy họ nhìn với vẻ 

giễu cợt, Đào đã đớp lại luôn:Thầy tôi sai đã có 

pháp luật phân giải, chứ chưa phải cần đến mấy ông 

bà! Bà Son xếp liễn cơm, âu thức ăn và cà men 

canh vào chiếc làn lõi guột, rồi lấy mảnh áo mưa 

chèn xung quanh cho chắc. Cơm trắng cá trê ướp 

riềng kho khô, canh khế chua, đấy là những thứ 

ông Hàm thích ăn. Mặc dù lòng bà đang tan nát, 

thấy số mình sao mà đen như quạ, quýt làm cam 

chịu. Mang tiếng là chồng con nhà cửa đề huề, cả 

đời chưa biết đến cái đói, cái rét. Nhưng hỏi tó 

bao nhiêu ngay bà thấy mình được sung sướng mãn 

nguyện? Có bao nhiêu phút bà được trôi nổi trong 

ngọt ngào mê đắm? Đã bao giờ bà thấy mình và ông 

Hàm là một đôi cá thờn bơn, mỗi người chỉ có một 

nửa tấm thân, một nửa cặp mắt nhìn, một nửa đôi 

mang thở, nên lúc nào cũng hoà nhập, tuy hai mà 

một, lúc nào cũng quấn quít đắm say? Đã lúc nào 

bà thấy mình như vậy? Chưa! Đã bao giờ bà thấy 

mình là một cành tầm gửi, và ông Hàm là một cái 

cây vững chắc để bị bíu vào, tựa vào? Chưa! Chưa 

bao giờ! Nhưng bà đã làm hết bốn phận của một người 

vợ, tận tâm, tận lực, chứ không một lời thở than 

oán trách. 

Bà Son buộc chiếc làn vào sau xe đạp, quay sang 

bảo Đào:

- Hai chị em có đói cứ ăn trước đi. Từ sáng đến 

giờ em nó ăn ít lắm đấy.

Đào vẫn tiếp tục xếp lúa cao như bức tường thành 

giữa sân, ngửng lên:

- U cứ đi đi con nhớ. Cái Hoa có đói để nó ăn 

trước. 

Xếp xong lúa, Đào kéo chiếc máy tuốt răng khế ở 

dưới nhà ngang ra sân. Cô cuộn tóc lại thành một 

búi tròn sau gáy, trùm lên đâu chiếc khăn hoa để 

khỏi dính thóc dính bụi. Rồi vẫn chiếc áo phông 

màu be rất bén, hai cánh tay cứ để trần tròn lẳn, 

trắng hồng, khoẻ mạnh và rất thành thạo công việc. 

Một tay cầm lượm lúa để sát vào trục máy với những 

hàm răng khế bằng sắt sáng loáng, một chân đặt 

trên bàn dận, ấn mạnh, vòng trục càng quay tít 

mù, phát ra tiếng xình xình dồn dập, khiến những 

hạt thóc bị bứt ra càng nhanh. Không đầy một phút, 

lượm lúa vàng mẩy đã trơ trụi chỉ còn là một bó rơm 

xơ xác, tuốt sạch cả những hạt xanh, hạt lép. Tay 

Đào liên tục ném rơm ra xa, rồi với ra sau rút 

từng lượm lúa áp vào trục tuốt. Tấm thân thon chắc 

mềm dẻo như một cành liễu, như một sợi mây của cô 

nghiêng nghiêng bên máy tuốt, loang loáng giữa 

những màn mưa thóc. Một bức tranh sống động hoà 

mình vào công việc của thiếu nữ đồng quê.

Cái Hoa đuổi trâu vào chuồng, rồi con cón chăn 

lợn, chăn gà, lặng lẽ như bà cụ non, chứ không 

nhảy nhót vòi vĩnh như mọi hôm. Con khoang hình 

như sau những ngẫm nghĩ dông dài quên cả ăn, bây 

giờ đói ngấu, lại trở về đúng bản tính loại 

khuyển, nhảy ra tranh từng hòn cơm nguội với đàn 

gà. Chúng đối thoại với nhau bằng thứ ngôn ngữ bất 

đồng. Mấy chị gà con mọn xòe cánh, mắt long lên, 

xù lông cồ, ném ra những tiếng túc túc chói 

chát, ra điều bực lắm vì bị tranh phần. Còn anh 

chàng khoang đánh bài lì, chỉ gừ gừ cục cằn, nhưng 

vẫn tắc lẻm những hạt cơm rất nhanh. Cả góc sân 

vang động lên. Duy chỉ có hai cô chủ là lặng lẽ, 

chân tay làm thoăn thoắt, nhưng miệng nin thinh. 

Bỗng con khoang sủa lên một tiếng, nhảy chòm ra 

ngỏ, nhưng rồi nó rít lên ư ứ và vẫy đuôi mừng. 

Thủ lạch cạch dắt xe từ ngoài vào.

- Chú đấy ạ? - Đào ngừng tay chào.

Cái Hoa vội thụt vào bếp. Nó sợ ông chú đến là vì 

nó nói hỗn lúc sáng.

- Bá có nhà không? - Thủ hỏi.

- U cháu đi đưa cơm... Đào nói ngập ngừng, nhìn 

một bên má Thủ với lưỡng quyền nhô cao trong bóng 

tối nhá nhem. Đào bỗng bùi ngùi thấy ông chú vốn 

cân đối, dầy dặn của mình giờ chợt gầy đi với dáng 

điệu thật âm thầm.

- Tý nữa bá về bảo sang chú có việc nhá.

Thủ nói nhanh, rồi quay xe. Đào như sực tỉnh:

- Chú vào nhà uống nước đã. U cháu sang có việc 

gì ạ?

Thủ buông sõng:

- Việc thầy mày chứ còn việc gì - Rồi Thủ nhảy lên 

xe mất hút vào bụi hóp đã tối thẫm ngoài đầu ngõ.

Đào tuốt lúa một lúc nữa. Khi thóc đã lùm lùm 

quanh máy tuốt, cô vun đống lên rồi mới nghỉ. Đêm 

xuống. 

Cái Hoa ăn cơm một mình xong, theo nếp quen, đốt 

chiếc đèn con mang lên bàn học ở góc nhà. Nó giở 

sách, nhưng cứ ngồi thừ ra: Những hàng chữ, những 

con số cứ lỏn nhỏn tẻ ngắt trước mắt nó. Trong trí 

nó lại hiển hiện một đám trẻ ầm ầm ào ào đứa thì 

cười cợt, đứa nhìn như xỉa xói. Thằng Đãi cái thằng 

đen như củ tam thất với hai con mắt rô; như mắt 

cua, trợn trửng trợn trạo, hét lên the thé: Con 

lão đào trộm mả! Ê, ác! lại vang lên bên tai. 

Nghĩ đến buổi đi học sớm mai, cái Hoa chợt so vai 

lại, rùng mình.

Thấy Đào đang giũ khăn, giũ áo bờm bợp ngoài sân 

cái Hoa nói với ra:

- Chị ăn cơm chưa? Em nhóm lửa hâm lại canh nhá! 

Canh cá để nguội tanh lắm.

Đào biết đứa em út đang không thể ngồi yên mà học 

được, con bé có nết lắm. Đào nói, cố ra vẻ thản 

nhiên:

- Mày cứ học đi, chị chờ u về cùng ăn một thể.

Rồi cô lấy quần áo, cầm chiếc đèn con đi ra giếng. 

Có một bóng đen đang đứng nép vào bụi hóp ngoài 

ngõ từ lúc nãy. Đứng đấy có thể nhìn rõ cả nhà 

trên nhà dưới ông Hàm, mà trong này không tài 

nào biết được. Đến cả con khoang tinh khôn cũng 

không ngửi thấy có hơi lạ. Thấy Đào đi ra giếng, 

bóng đen lập tức khom người chạy tất qua bãi chè, 

rồi đi thật nhẹ, thật nhanh, rồi men sát vào hàng 

rào cúc tần kề ngay bờ giếng.

Đào kéo nước đổ vào chiếc thau to, rồi quay vào 

buồng tắm quây bằng lá cót sơ sài, tựa vào chính 

hàng rào cúc tần ấy. Cũng giống như nhiều vùng 

nông thôn có cách nghĩ rất cộc lệch trong việc ăn 

ở, sinh hoạt. Nghĩa là nhà thì xây rất to, chuồng 

lợn chuồng gà cũng xây kiên cố, trộm cắp chỉ có 

khóc! Nhưng chủ nhân lại không hề nghĩ phải làm 

cái nhà vệ sinh cho ra hồn, mà chỉ quây mấy cái 

gianh cỏ rất tạm bợ ở góc vườn như kiểu lính đi dã 

ngoại. Nhiều người đến nay vẫn thích hưởng cái thú 

từ cổ xưa nhất quận công, nhì ỉa đồng! Nhà ông Hàm 

đã bỏ cải thú phóng túng ấy rồi! Nhưng ông vẫn 

chưa hề nghĩ đến sự cần thiết phải xây một cái nhà 

tắm cho đàng hoàng. Vì thế nhà trên nhà dưới bề 

bề, giếng xây kiên cố, bể chứa nước mưa bằng cả 

gian nhà có mái che tử tế, nhưng cạnh đấy nhà tắm 

chỉ là một lá cót mỏng manh quây phập phà phập 

phồng, phía sát rặng cúc tần lại thủng lô chỗ, 

nhưng bên ngoài là vườn chè ít người qua lại nên 

cũng không ngại.

Xách thêm một xô nước, rồi Đào kéo ngược chiếc áo 

phông, trút khỏi người. Một nửa tấm thân với lườn 

lưng, lườn bụng thon chắc, trắng hồng, mơn mởn 

trong ánh đèn. Khuôn ngực vun đầy, tròn căng với 

hai núm nhọn cong vểnh lên cứ như cựa quậy trong 

lớp vải mỏng của chiếc áo xu-chiêng cùng màu hoa 

đào nhạt. Khắp nhà tắm ấm sực mùi da thịt con gái 

rừng rực những nhiệt. Đào vừa vòng tay ra sau lưng 

để mở khuy trút nốt vuông vải trên người, thì bỗng 

một tiếng gọi hào hển lẫn trong hơi thở kề sát 

ngay bên ngoài, phía rặng cúc tần:

- Đào! Đào ơi!

- A! - Đào gần như dựng bắn người lên, hét lạc 

giọng, tay cuống quít vơ áo cuốn vào người.

- Kìa đứng sợ! Anh đây! Anh đây! - bên ngoài 

tiếng Tùng lào thào hối hả.

Cái Hoa từ trong nhà lao bổ ra cửa, hỏi hoảng hốt:

- Chị Đào sao thế?

- A không, có con rắn ráo vào nhà tấm, nhưng chi 

đuổi đi rồi!

Ngó ra nhìn thấy cái Hoa đã vào nhà, Đào vẫn hai 

tay cầm áo trùm lấy ngực, quay sang rít giọng:

- Anh cút đi ngay! Còn tới đây làm gì? Anh là 

người lừa lọc! Ném đá giấu tay! Anh còn muốn ám 

hại nhà tôi những gì nữa hả? Hả?.

Tiếng Tùng như rên lên: 

- Kìa Đào! sao em nói thế? Sao nghĩ về anh thế? 

Anh có làm gì...

- Lại còn làm gì à? Anh tưởng tôi ngu tôi không 

biết anh làm gì thầy tôi à? Chính anh đã đi báo 

cả họ hàng nhà anh đến bắt thầy tôi! Anh lại định 

chối bay chối biến hả?

Đào như muốn hét lên. Tùng vẫn kiên nhẫn đến khổ 

sở:

- Em nghĩ sai rồi! Vu oan cho anh rồi! Thế chả 

nhẽ em cho việc làm của thầy là đúng? 

- Sai! thầy tôi sai! Nhưng làm gì anh phải bày 

ra trò bắt bớ đề bêu riếu? Sao anh không ra một 

mình đánh động để họ bỏ chạy? Anh thù ghét thầy 

tôi thế à? Anh muốn gì? Muốn yêu con người ta, mà 

lại bày trò giết bố người ta! Hay anh muốn bố tôi 

phải van xin anh? Còn lâu nhá? Bố con tôi không 

hèn thế đâu? Tôi chưa thừa, chưa ế thế đâu? Anh đi 

đi! Tôi từ anh?

- Kìa em! kìa Đào! Sao anh lại nghĩ xấu về anh 

đến thế? 

- Tôi đã bảo anh đi đi! U tôi về bây giờ thì 

không ra gì đâu.

- Khoan nghe anh nói đã!

- Hết rồi! Không nói niếc gì nữa! Anh đi đi? Nếu 

không tôi sùy chó! 

Vừa lúc đó tiếng cô bạn Minh tồ giọng eo éo ngoài 

ngõ: 

- Đào ơi! giữ chó cho tao! Đã đi ngủ hay sao mà 

tối thế này?

Cái Hoa ở trong nhà chạy ra. Bên ngoài rặng cúc 

tần bỗng phì lên một tiếng thở dài như đồ sụp cả 

người xuống! Rồi tiếng bước chân đi lạt sạt, ngược 

về phía hồi nhà. Đằng ấy ông Hàm có mở một ngõ nhỏ 

thông ra cánh đồng. Tùng đã thuộc tất cả đường 

ngang ngõ tắt nơi đầy. Nhưng bây giờ sự thông 

thuộc ấy còn được cái tích sự gì! 

Tùng đi tắt qua bãi chè nhà ông Hàm với những 

hàng, những lối thẳng tắp như dây căng kẻ chỉ. Ra 

tới đường chính, Tùng không rẽ theo lối về nhà, mà 

lại men theo bờ đi ngang qua những thửa ruộng 

đang gặt. Gió thồi lào sào, những bông lúa chín 

cọ vào nhau ram ráp, nghe khô ấm. Muỗm, cào cào 

bay tanh tách, phóng những đôi càng gai gai hôi 

mùi cỏ vào người Tùng. Mùi lúa chín, mùi chân rạ 

vừa cất thơm ngan ngát khấp cánh đông. Năm nay, 

hiếm mưa. Bây giờ đã sang tháng năm ta, tháng 

bước vào làm vụ mùa, nhưng trời vẫn khô rong róc, 

cao tắt cứ như bị vất kiệt nước. Những mặt ruộng khô 

cứng lại, đi gặt không cần sắn quần. 

Tùng vẫn đi lơ lửng giữa cánh đồng. Phía trước, xa 

hút trên cao, mảnh trăng non trôi bồng bềnh 

trong những dải mây mỏng như những chiếc khăn voan 

vắt tung giữa trời., Trăng trôi hay mây trôi? ở 

dưới này Tùng cũng như đang trôi nối giữa cánh 

đồng đêm. Đi vào nơi vô định? Tùng không biết. 

Anh cứ đi, châng lâng, thập thõm. Lòng rối bời. 

Thế là hỏng hết rồi! Không cứu vãn được nữa rồi! 

Không phải chuyện giận hờn đùa bỡn như những lần 

khác đâu. Tùng biết tính Đào lắm, đấy là người 

nồng nhiệt cứng cỏi đến bướng bỉnh. Hắn đã quyết 

thì khó lay chuyển lắm! Thế là tuột khỏi tay con 

cá to, con chim đẹp nhất vùng này! Buổi trưa nghe 

mấy người nói Đào đạp xe lên xã, rồi lên huyện với 

điệu bộ nghiêm lạnh, bất cần như sẵn sàng to tiếng 

với ai, Tùng đã chột dạ. Tối ăn cơm xong, Tùng lại 

ra gốc nhãn với lòng bồn chồn, lờ mờ thấy có điều 

chẳng lành. Bảy giờ đến bảy giờ rưỡi tối, đấy là 

khoảng thời gian hẹn hò hai người ở gốc nhãn. Đào 

ở xóm Giếng Chùa ra, Tùng ở xóm Mới lại, ùa đến 

nhau, ào đến nhau, rồi chỉ còn là sự mê đắm, không 

còn biết trời đất xung quanh đâu nữa. Tối nay, 

Tùng lại háo hức ra, rồi ngồi trên cái rễ đội gồ 

lên khỏi mặt đất, ngước nhìn ba chạc cây đan vào 

nhau như cái sàn ở trên đầu, lại nghĩ tới buổi tối 

hôm qua ngồi ôm chặt ngang người Đào trên ấy, 

trong lúc toàn thân cô trẹo trọ như muốn ngã. 

Ngồi thẫn thờ một lúc, Tùng choáng người lên khi 

bỗng nhận ra chắc chắn là tối nay Đào không đến. 

Giữa lúc chuyện nhà bối rối thế này, mà ta muốn 

Đào quên hết chỉ nghĩ đến ta, chỉ vì ta, thì thật 

ích kỷ. Tùng đứng dậy, đi theo lối tắt, lối quen 

thuộc vẫn dẫn Đào ra gốc nhãn. Đi, mà lòng Tùng 

vẫn thắc thỏm nghĩ biết đâu lại gặp Đào ở giữa 

đường. Thấy anh, cô sẽ chạy ào đến, ngã vào ngực 

anh mà nghẹn ngào thổn thức:Em buồn quá anh ơi! 

Em xấu hổ quá. Không hiểu sao thầy lại làm như 

thế. Bây giờ thì hai họ lại càng ghét nhau, việc 

của chúng mình rồi sẽ ra sao?

Tùng sẽ ôm vai Đào, vuốt tóc Đào mà thì thầm: Rồi 

sẽ qua! Rồi sẽ đâu vào đấy! Anh cũng buồn nẫu 

người, thấy chúng mình sao mà gặp nhiều chuyện 

trắc trở thế. Nhưng ta không lùi bước? Không đầu 

hàng! Nếu cần ta sẽ dùng tổ chức, dùng luật để ép 

các cụ! Thế đấy! Tùng đã tưởng tượng ra thế đấy! 

Thật là hão huyền cho anh chàng tình si! Cho tới 

lúc nhìn thấy Đào tuốt lúa một mình trong bóng 

tối sờ sẫm, Tùng vẫn nghĩ vì Đào buồn, nên không 

muốn ra chỗ hẹn. Đang tìm cách đánh động để Đào 

biết, thì thật may Đào đã nghỉ. Và khi thấy Đào 

ra giếng tắm, thì Tùng nảy ra một ý định trêu 

chọc. Ta đứng sát vào bờ cúc tần, nhìn qua lỗ 

thủng của phên cót để dành cho em một sự bất ngờ. 

ờ phải, ngày đi học thầy giáo dạy văn còn đọc cho 

cả lớp nghe bài thơ nói về anh con trai rình trộm 

xem người yêu mình tắm kia mà. Khi say nhau thần 

diệu thế đấy! Đến cái việc tắm táp của người yêu 

cũng có thể biến ra thơ, ra nhạc được! Đào ơi! ối! 

Đừng sợ, anh đây! Anh đứng gác cho em đây! Sao 

anh liều thế? Đi đi cái Hoa nó biết bây giờ. Em 

sẽ ra ngay. Không ai biết đâu, anh đặc công vào 

kỳ lưng cho em nhé! Hí, hí! Khi chạy đến bờ cúc 

tần, Tùng đã tướng tượng ra cảnh đối đáp kỳ thú 

như thế! Nhưng rồi Tùng đã nhận được gì? Một thùng 

nước lạnh? Không, hơn thế nhiều! Đào đã tung gio 

ném trấu, đã hắt bùn ném đá tới tấp vào người 

Tùng? Thật là tối tăm mặt mũi?

Những lời nanh nọc của Đào, đấy là cô đã cấm chợ 

ngăn sông, đã rào gai dấp ngõ, đã đào mương đắp 

luỹ giữa hai người. Đào cô gái tươi dòn, mạnh me 

và đam mê, tối tối vẫn run rẩy ấm mềm trong lòng 

Tùng, giờ kiên quyết vạch một đường giới tuyến và 

đẩy phắt Tùng bang bên kia bờ!

- Ai kia? Làm gì mà lục sục dưới ấy? - Bất chợt 

một tiếng hỏi như quát ở phía trước, cách Tùng một 

mặt ruộng. 

Cứ đi lơ lững không chủ định, mà Tùng đã tới chân 

đôi Quả Bầu lúc nào không hay. Đây là quả đồi 

thấp, nhiều đất đỏ, đất sét rất nạc, nên khắp mặt 

đồi nham nhở những hố người ta đào đất, nung gạch. 

Trước mắt Tùng, bên chân đồi, một chiếc lò gạch 

loại nhỏ đang đỏ rực. Lửa phun qua những kẽ nứt 

sáng xanh như những lưỡi kiếm. Lửa nung hồng lớp 

gạch mộc đắp bên ngoài, khiến nhìn ra cả lô gạch 

như một quả gấc chín đỏ treo trong màn đêm.

Đấy là lò gạch của ông Chỉnh, trung tá Chỉnh, người 

có cấp hiệu cao nhất làng, nhưng cũng là người vất 

vả lận đận nhất trong số những người về hưu của 

Giếng Chùa. Thông thường không ai dở dói đất gạch 

vào lúc này, vì sang mùa mưa, và là mùa gặt, mùa 

cày cấy. Nhưng ông Chỉnh đang giở việc. Làm chưa 

xong nhà trên, mà gạch ngói đã thiếu be bét. Làm 

ruộng thì ra, làm nhà thì tốn, vậy mà đồng chí 

trung tá dự trù cái gì cũng sát sao vừa đủ, cứ 

như biên chế quân lính vào các đơn vị, cho nên 

giữa mùa làm, ông chủ vụng vẫn quyết bới đất nung 

gạch. Và đúng là thánh nhân đãi khù khờ sang 

tháng năm tháng mưa ráo trắng ruộng, mà trời cứ 

như văn vắt, đến cầm sào chọc cũng không ra nước.

Chú Chỉnh, cháu đấy, Tùng đáp - Vừa nói, Tùng vừa 

đi tắt qua nữa vạt ruộng đang gặt giở, đi thẳng 

lên lò gạch, cứ như cái khối lửa đỏ rực nầy hút 

anh từ xa bước tới. 

- ờ Tùng đấy à? Đi bắt trộm hay sao mà đi tắt thế? 

Ông Chỉnh từ trong chiếc rêu dựng bằng tấm phệnh 

nứa uốn khum lại như nhà của thuyền chài, quần ống 

cao ống thấp chui ra. Qua ánh than đỏ, Tùng nhìn 

rõ ông Chỉnh gầy rộc đi. Khuôn mặt vốn thon nhỏ 

của ông, giờ càng hóp lại, cái cằm tối đen những 

râu. Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà, đấy là ba việc lớn 

của đời người nông dân. Có người lấy được vợ đảm, 

tậu được trâu khôn thật dễ dàng: nhưng đến khi làm 

được nhà xong thì kềnh! Vì đã vét bằng kiệt cả vốn 

lẫn lực! ấy vậy mà ông Chỉnh lại làm tuốt tuột một 

lèo những việc ấy trong quãng thời gian cuối cùng 

của đời mình? Gan cóc tía chứ chẳng chơi!

- Chú đốt lửa hôm nào nhỉ? Sao không ra gọi cháu? 

Tùng chắp tay đi vòng quanh lò như một ông thợ 

cả. Mà thế thật, hai lò trước ông Chỉnh vẫn nhờ 

Tùng ra chỉ đạo trong việc xếp gạch mò vào lò, đặt 

củi và châm lửa. Ông cứ nắc nỏm khen người con 

trai của bạn mình rất giỏi trong việc thổ mộc này.

Hôm nay đang định ra, thì ông chú của cô ái đến 

chơi. Ông là chủ thầu cả lò gạch lò ngói bên Sông 

Công, thế là ông ấy giúp luôn.

Ông Chỉnh cũng đi vòng quanh lò. vừa kể mình đã 

học thêm kinh nghiệm xếp gạch mộc của ông chú cô, 

tức người vợ mới lấy gần đây của ông, vừa nhìn nét 

mặt âm thầm của Tùng. Bỗng ông kéo áo Tùng, nói 

đúng theo giọng cha chú, giọng lính tráng:

- Mày làm sao mà mặt mũi như bánh đa nhúng nước 

thế? Đi đâu về?

Tùng chui vào lều, nằm dài trên sạp nứa kêu lạo 

xạo. Giọng mềm yếu hẳn lại như cần một ự bảo ban 

che chở:

- Gay quá chú ơi! Đúng là việc này cháu đã xử 

trí rất sai lầm! Nên bây giờ không sữa được nữa. 

Ông Chỉnh đang ngồi tựa vào thành phên nứa, quay 

lại nhìn một nửa người Tùng cứ nhoang nhoáng trong 

ánh lửa lò sửng sốt:

- Có chuyện gì thế? Mới họp đảng uỷ à? Lại có 

chuyện bè cánh à?

- Không, cổ cánh gì đâu. Chuyện con gái! chuyện 

tình yêu của cháu!

- Dà! - ông Chỉnh thở ra một tiếng thật trầm.

Tùng ngồi dậy. Và anh kể. Lần lượt, tỉ mỉ với giọng 

da diết. Đúng như lời Đào nói, Tùng mắc sai lầm 

lớn nhất là đã không chạy thắng ra Đồi Sim đánh 

động để bác cháu ông Hàm bỏ chạy, mà lại về giục 

bà Sang đi báo ông Phúc. Thế là chuyện đã vỡ lở 

quá to để bây giờ không sao cứu vãn được nữa. Thực 

là lúc ấy cháu không nghĩ đến đầu đến đũa, chớ 

không phải muốn gây ra to chuyện. Lúc nãy cháu 

bỗng sực nghĩ hay tại tình máu mủ nên mặc dù 

không có ý thức, nhưng nó cứ tự nhiên sui khiến 

mình như vậy? Phải không chú? Hóa ra con người 

phức tạp quá, phức tạp đến có lúc mình không hiểu 

nổi mình?

- Chà chà! - ông Chỉnh chép miệng, rồi quờ tay 

lên đầu sạp vớ cái cút ông vẫn nói là càng ngày 

mình càng hỏng đi nhiều? Tuổi càng cao thì tính 

xấu càng nhiều. Ngày trước mình có nghiện ngập thế 

này đâu. Ông bảo Tùng:

- Làm một chén cho ấm đã! Vẫn chưa thấy rượu là 

ngon hả? Thế thi mày còn tốt đấy! - ông ực một 

ngụm hết cả chén, khà một tiếng, rồi giọng ông cao 

lên, rượu vào làm tươi hẳn cái thanh đới! 

- Khoan hãy bàn chuyện huyết thống và lòng người 

phức tạp! Nhưng mày bảo là cái Đào nó ghét đến 

căm thù mày à? Lại căm thù như đế quốc nữa! Thế 

tức là nó còn yêu mày đấy! Phải lạnh nhạt như 

không mới là hết, mới là trắng túi thành người 

dưng nước lã. Chứ còn ghét,. còn căm thừ tức là 

còn yêu! Lòng người phức tạp mà! Như trường hợp của 

tao mấy năm trước là đủ biết! Tùng ngồi bật dậy 

giống như người đang chới với nắm được cọc. Mặc dù 

cách nói pha chút bông phèng, nhưng đó là cuộc 

đời thật của ông Chỉnh. Ông bỗng trở nên trầm ngâm 

khi tự nhắc lại chuyện cũ. Tùng cũng im lặng nhìn 

những viên gạch trong lò qua khe nứt, chúng chín 

đỏ đến trong lại. Chuyện riêng tư của ông Chỉnh, 

và bản thân ông Chỉnh lại liên quan nhiều đến gia 

đình Tùng!

Trung tá Chỉnh không phải người làng này. Ông ở 

huyện trên, giáp miền núi. Dạo chiến tranh phá 

hoại, ông Chỉnh và bố Tùng cùng đơn vị pháo cao xạ 

bảo vệ khu gang thép. Bố Tùng hơn ông Chỉnh năm 

tuổi, nhưng cả hai cùng là cán bộ trung đội. Những 

ngày nghỉ hiếm hoi, Thông bố Tùng, dẫn Chỉnh cuốc 

bộ hơn hai mươi cây số về nhà mình chơi. Gần nhà 

Thông có hai mẹ con bà Đỗ: một mẹ một con nhà cửa 

tềnh toàng, chỗ thủng chỗ dột vì thiếu bàn tay của 

người đàn ông. Bà Đỗ cù mì nhỏ thó, nhưng cô Lạc 

con bà lại to béo phây phây. Lạc không đẹp, người 

to, mặt to, mũi to. Chân tay nần nẫn trùng trục. 

Nhưng được cái trắng, trắng như cạo! Và hay cười. 

Cười to. Cười giòn, cứ như cả một chảo ngô rang 

đang nổ tung trên lửa. Mỗi lần Thông đưa Chỉnh về, 

Lạc lại sang chơi. Đến lần thứ ba thì Chỉnh và Lạc 

đã say nhau như bỏ bùa. Lính thời chiến, phát 

hiện được mục tiêu là điểm xạ ngay chứ không 

oong-đơ so đọ. Chỉnh vốn mồ côi cả cha lẫn mẹ từ 

sớm, chuyên sống với bà cô ông chú, giờ gặp hoàn 

cảnh như mẹ con bà Đỗ lạc thì đẹp như trời cho của 

còn gì. Đơn vị và vợ chồng Thông - Sang cùng lo 

liệu tổ chức đám cưới cho Chỉnh và Lạc. Sau những 

ngày tranh thủ ít ỏi, Chỉnh vừa dọi lại nhà, trát 

xong vách, thì cả trung đoàn được lệnh chuyển 

quân vào miền trong. Một tuần hương lửa đang nồng, 

nhưng vui duyên mới, không quên nhiệm vụ là khẩu 

hiệu của các đám cưới ngày ấy, nên Chỉnh ra đi nhẹ 

như lông hồng, và Lạc ở lại vẫn cười đôm đốp như 

tràng pháo chuột hôm cưới.

Vì có chồng đi chiến đấu xa, nên đang từ xã viên 

Lạc được điều ra nhà bảo mẫu. Mưa không đến mặt, 

nắng không đến đầu mà công điểm văn cao. Thế là 

vốn đã béo đã trắng, giờ không phải chân lấm tay 

bùn, Lạc càng phốp pháp, da thịt càng rời rợi, 

chưa mó vào đã thấy mát như thạch đông! Cặp mắt 

hình lá khoai, đuôi kéo dài, nhỏ sắc, cười cứ tít 

như sợi chỉ se nhấp nhánh ướt. Người ta vẫn có câu: 

Những cô con mắt lá khoai, liếc chồng thì ít liếc 

trai thì nhiều! Chả biết có đúng không. Nhưng rồi 

một buổi tối có một ông già đi qua nhà bảo mẫu 

bỗng nghe tiếng lục sục bên trong. Chuột hay 

người? Hay đứa trẻ nào bị bỏ quên thì nguy. Nhìn 

thấy cửa không khóa, ông đẩy sầm vào thì đúng là 

có hai đứa! Trên người cũng chỉ phong phanh như 

trẻ nhỏ chưa biết lẫy, và hai đứa trải chiếu cũng 

đang lẫy ngay trên nền gạch! Lạc kêu rú lên, hất 

anh chàng đội trưởng sản xuất từ trên người cô 

xuống. Anh đội trưởng này chuyên ghi điểm chấm 

công cho Lạc! 

ăn vụng quen mồm. Rồi người ta còn bắt được Lạc với 

anh đội trưởng mấy lần nữa. Cô ả xem ra đã quá 

trớn, ngựa không thể quên đường cũ. Chị hội trưởng 

hội phụ nữ xã xuống khuyên bảo thì Lạc nói đốp 

rằng sướng như nhà chị, ngày nào vợ chồng cũng ra 

động vào chạm như vợ chồng sam thì ai chả nói 

được! Chồng làm việc ở huyện, vợ ở xã, đêm nào 

cũng ôm ấp hú hí no xôi chán chè, tôi mà được 

thế, tôi còn đi khuyên giải hay hơn hát, dẻo hơn 

đàn! Đời người được mấy cái xuân mà hết năm này 

sang năm khác cứ vò võ một mình, nằm quay bên 

nào cũng giá như đông. Các bà không bị ăn nhạt 

đâu có biết thương mèo!

Mấy bà bĩu môi nguýt dài. Lạc đã nhằm đúng vào 

bà dài mỏ vừa nguýt, vừa làm ra ta đây nhất, tức 

là vợ ông phó chủ nhiệm lúc bấy giờ, cô quyết hạ 

mục tiêu! Sau mấy lần mời ông phó chủ nhiệm phụ 

trách ngành nghề và xây dựng đến kiểm tra những 

chỗ cần sửa của nhà mẫu giáo, người ta đã bắt được 

ông phó chủ nhiệm đang hăm hở sửa một chỗ dột trên 

người Lạc giữa buổi trưa hè cũng ở ngay trong nhà 

mẫu giáo! Thế là các bà vợ có những ông chồng quý 

hóa sợ Lạc như sợ một các lò than, một cái vực 

xoáy. Lơ tơ mơ là các ông chồng bị hút vào đấy, bị 

cuốn chìm vào đấy, đến kéo không ra? Mà đám đàn 

ông cũng khỉ gió lắm kia! Toàn những mặt mũi có 

chức có tước cả, nói năng đạo mạo như tiên như 

phật, nhưng hễ đứng riêng với Lạc là đầu mày cuối 

mắt cứ chớp tía lia! Lạc đã làm cho mấy ông trong 

ban quản tri điên đảo cả lên. Đi nói dối con, về 

nói dối vợ điêu như ranh! Mấy bà vợ cứ nhớn nhác, 

táo tác như gà đẻ bị quạ rình!

Sau chiến dịch đường 9 - Nam Lào 1971, Chỉnh được 

về thăm nhà. Gầy xanh vì sốt rét. Ai cũng hồi hộp 

chờ xem những chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng chẳng có 

chuyện gi suất! Lạc đã tưới lên ngực chồng những 

cơn mưa nước mắt nồng ấm và đêm đêm những lời nỉ 

non như chất cường toan làm rạn nứt được cả đá, đã 

làm cho anh lính chiến trường mềm đi như bún! Suốt 

ngày Lạc quấn quít, nấu nướng chăm sóc chồng như 

chăm sóc bố già, như chăm sóc con trẻ. Đôi má 

bánh đúc cứ đỏ rừng rực. Đi lại núng nính, tung 

tẩy. Cô sung sướng. Cô hạnh phúc. Cô yêu chồng. 

Chỉnh bị vợ hút đến kiệt sức. Nhưng anh sung sướng. 

Anh hạnh phúc. Anh yêu Lạc. Rồi Chỉnh lại đi. Lạc 

làm đến ba mâm thịnh soạn. Mời cả ban quản trị đến 

dự. Có đến mấy ông cứ liếc nhìn nhau ngượng ngập! 

Mọi người đã tưởng thế là yên chuyện. Nhưng rồi Lạc 

vẫn chẳng chửa đẻ gì. Người vẫn cứ ngồn ngộn, chắc 

nịch như sồi. Gần một năm sau Lạc lao mình vào một 

mối tình bão lốc khác. Đó là chủ nhiệm cửa hàng 

mua bán xã. Một gã đàn ông bẻm mép và trai lơ. 

Da đen đỏ, cuồn cuộn những cơ bắp như một anh thợ 

đấu chuyên nghề. Anh ta có đến bốn con gái, đang 

ấm ức chưa có người nối cái dõi có nhóm máu D của 

mình. Vợ gầy xanh như cái dải khoai, tuồng như bị 

chồng con hút cho cạn lực. Cánh đàn ông tán rằng 

chị vợ đến phát kinh cái khoản ấy của anh ta.

Chủ nhiệm cửa hàng gặp Lạc, đôi bên đến với nhau 

như nam châm hút sắt. Cuồng nhiệt đến mưa rơi chớp 

giật! Chị Sang vợ anh Thông, người đã góp phần vun 

đắp nên mối tinh của vợ chồng Lạc, đến lấy tình chị 

em khuyên giải Lạc. Vì anh em không có ai, bà mẹ 

già thì lẩm cẩm, nên Lạc chỉ còn nể chị Sang, người 

đoan trang phúc hậu và Lạc chịu được vì chị Sang 

không bao giờ lên mặt dạy đời. Nghe chị Sang nói, 

Lạc khóc nói ngàn ngạt: Nhưng chả nhẽ đêm nào em 

cũng đổ thóc vào xay! Đồ gạo vào giã! Không như 

chị vắng anh ấy còn có ba đứa con để lo ăn, lo 

việc. Em chẳng có gì để mà lo. U em có ăn đến bốn 

bữa một ngày, em cũng chạy thừa gạo. Em biết em có 

lỗi với anh Chỉnh, nhưng em khổ quá chị ơi! .

Chủ nhiệm cửa hàng bị kiểm điểm. Tối tối chị Sang cứ 

gọi Lạc sang chơi cho khuây khỏa. Nhưng Lạc đâu có 

thích kiệu khuây khua suông nhạt như thế! Ngồi ăn 

sắn nướng, văn nói vẫn cười, nhưng mặt Lạc cứ bấn 

thân hẫng hụt như nhớ như quên cái gí. Một buổi 

tối. chị Sang luộc một rá ngô nếp còn non, đang 

đọng sữa, ăn vừa mềm vừa béo vừa ngọt. Chờ mãi 

không thấy Lạc, chị Sang phải chạy đi gọi. Thì 

thấy Lạc đang thay quần áo Lạc nói tối nay cô 

Diễm, y tá ở trạm xá, rủ Lạc lên phố huyện xem 

phim.

- Chị cứ để phần tý nữa về em sang ngay.

Rồi Lạc đi vội vã. Chị Sang bỗng sinh nghi. Lên 

phố huyện những năm cây số sao nó không đi xe? Mà 

xe của Lạc thì tốt nhất làng, việc gì nó phải mượn 

ai. Tính tò mò bỗng nổi lên đến không thề kìm nén 

được, khiến chị Sang không về, mà đi tắt qua mấy bờ 

ao ra cánh bãi Chân Vạc trồng bạch đàn ở cuối 

làng. Vì chị nghe người ta kháo nhau rằng đấy 

chính là cái ổ chuồn chuồn của Lạc và anh chàng 

chủ nhiệm cửa hàng. Anh chủ nhiệm cửa hàng ở ngay 

xóm Trại chứ đâu xa. Nhưng trước đây anh ta làm 

chân chạy vật tư trên huyện, nghe đâu cũng mắc tội 

chấm mút, đã phải kiểm điểm, nên anh đã chạy về xã 

để nấp dưới bóng ông Đáng bí thư Đảng ủy là người 

có họ hàng. Vì thế bây giờ anh với Lạc mới có cơ 

hội để lửa gần rơm!

Chị Sang đi len lén dưới những bụi cây tối thẫm, 

mặt nóng bừng vì tự thấy ngượng như mình đang làm 

một cái gì khuất tất. Nhưng vì chi chưa tin những 

miệng lưỡi đồn đại, cho là họ hay đặt điều. chị còn 

cãi thay cho Lạc nữa. Cái gì cũng phải hai năm 

rõ mười. Trăm nghe không bằng một thấy!

Đang bước sẽ sang, chị Sang bỗng hốt hoảng thụp 

xuống, vì chị đã thấy rõ dưới gốc một bụi bạch đàn 

rùm ra phía trước có hai bóng người đang ôm quấn 

lấy nhau, toàn thân họ cứ vờn qua vờn lại, rồi họ 

lại buông choàng nhau ra. Gã đàn ông bỗng nhảy 

một chân cò cò quanh người tình, y hệt anh gà 

trống xòe một bên cánh như chiếc quạt giấy, rồi 

nghiêng người đạp vòng quanh con mái. Chị chàng 

ngồi xổm xuống, ôm mặt cười rúc như bị cù. Anh 

chàng như càng phởn đến tột cùng, liền nhào người 

cắm đâu xuống trồng cây chuối! Hai chân chĩa ngược 

lên giãy giãy, rồi đỗ đánh uỵch vào vai cô ả! 

Tiếng cười khùng khục.

Chị Sang chợt nhớ tới một lần anh Thông đã nháy chị 

ra nhòm đôi mêo đang vờn nhau trước lúc vào ca. 

Con cái nằm dán xuống đất, miệng rên những tiếng 

ngao ngao đầy nũng nịu mời mọc, trong lúc con đực 

cứ nhảy vòng quanh như đang trố một bài quyền vừa 

mạnh mẽ, vừa duyên dáng, Rồi đến cao trào là 

chàng ta tung mình lên, và như một tay đánh đáo 

thiện nghệ, chàng rơi từ trên cao xuống vừa nhẹ 

nhàng, vừa chính xác, chàng hạ xuống đúng lưng 

nàng trong một tiếng ngào thật hùng hồn đầy sinh 

lực!

Trước mắt chị Sang, đôi mèo ngườicũng đã tới giờ 

cao điểm. Lạc đang rên hức hức đầy mãn nguyện 

trong bụi cây. Chi Sang khom người đi giật lùi, 

rồi vùng chạy về. Người bỗng không lâng nôn nao và 

miệng thì khô khát như vừa vượt dốc giữa trưa hè. 

Sáng hôm sau nhìn Lạc đã rũ hết vẻ ủ ê rầu rĩ, 

hai má lại phừng phừng như ướp lửa, chân đi con 

cón nhún nhảy như trẻ được quà. Chi Sang bỗng nuốt 

một tiếng thở dài, và bỗng dưng chi vừa giận, vừa 

ghét, mà lại vừa như ghen ghen với Lạc! Chị đang 

hồi xuân!

Giữa lúc ấy tại chiến trường Quảng Trị, đại đội 

trưởng Chỉnh cùng đơn vị đang ở sát nách địch bên 

bìa rừng Đồng Lâm. Sau khi giải phóng xong khu 

vực Thành cổ đại đội của Chỉnh và Thông vác súng 

141y5, loạt súng nhỏ của pháo phòng không, cùng 

đơn vị bộ binh đánh thốc vào phía tây giáp Huế.

Đã vào mùa mưa. Nước đổ sầm sập trắng rừng. Địch 

huy động tổng lực mọi thứ quân trên trời, dưới đất 

nống ra quyết liệt. Trận địa của Chỉnh và Thông - 

hai người vẫn được ở bên nhau, Chỉnh đại đội trưởng 

và Thông chính trị viên - ngày nào cũng bị pháo 

địch chà xát, chẻ tướp cây cối cày đất lên như voi 

quần. Nhiều cái chết của đồng đội đến suốt đời 

Chỉnh không thể quên. Chết vì pháo phát ngang 

người. Pháo tiện tứ chi. Chết trong trận đánh giáp 

lá cà không cân sức. Và đói, và mưa làm sập 

đường, nước ngập lút cát ngầm, nên bên ngoài không 

tiếp tế vào được. Gạo của cả đại đội chỉ còn tính 

từng bát. Đến bữa hái từng ôm rau môn thục, rau 

tai voi, và một thứ rau có vị ngọt mà lính ta gọi 

là rau mì chính, rồi độn thêm ít gạo như rắc lá 

phép: nấu cháo húp. Người nào người ấy gầy hóp 

lại, không còn đoán ra tuổi. Ai cũng mắt trắng 

môi thâm vì sốt rét. Hạnh phúc lúc ấy thật đơn 

giản là được ăn một bữa cơm no, ngủ có chiếu và 

buộc màn thật căng bốn góc.

Hàng ngày chính trị viên Thông phải trực tiếp điều 

hành công việc ở khu vực hậu cứ đặt bên bờ suối 

dưới chân đồi. Một buổi sáng địch câu pháo phạt 

sạch cây cối, rồi máy bay lên thẳng đáp xuống đổ 

quân ngay dưới chân đồi bên bờ suối đúng chỗ đại 

đội đặt hậu cứ. Một trận đánh giáp lá cà giữa bọn 

lính dù, lính thủy đánh bộ của địch với những người 

chưa quen đánh bộ binh của ta, gồm tất tật anh 

nuôi, quân khí, y tá và mấy chiến sĩ đang ốm do 

chính trị viên Thông chỉ huy. Biết bên ta không 

cân sức, Chỉnh dẫn một tổ cắp AK từ đỉnh đồi băng 

xuống. Nhưng chưa tới nơi thì chiếc HU-1A đã cất 

mình lên, hối hả bay về Huế. Mắt Chỉnh hoa lên 

choáng váng khi anh nhìn thấy một... hai...ba... 

bốn thi thể chiến sĩ ta nằm ngổn ngang. Nắng sớm 

chiếu trên những vũng máu chảy đẫm bên người. 

Không nhìn thấy chính trị viên, Chỉnh gào lên, 

giọng khản đặc:

- Anh Thông! Anh Thông đâu rồi?

Nghe tiếng Chỉnh, cậu chiến sĩ quân khí bò từ 

trong bụi cây. Một cánh tay bị thương, cậu ta bị 

cuốn bằng cả chiếc áo lót màu đất thó to xù. Cậu 

khóc nức lên:

- Đại đội trưởng ơi, chính trị viên chết rồi! Chính 

trị viên tự sát rồi!

- Cái gì? Mày bảo cái gì? Hả?

Chỉnh nhảy bổ lại, hỏi như quát. Cậu chiến sĩ càng 

khóc rống. Cậu tức tưởi kể:

- Quân địch đông quá. Chính trị viên Thông chưa 

kịp bố trí đội hình, thì chiếc máy bay lên thẳng 

đã hạ xuống như mọt cơn bão. Địch từ trong đó nhảy 

túa ra. Trong khi ấy hai chiếc khác vẫn bay sát 

ngọn cây, thấp và khuất đến mức súng đặt trên đồi 

không hạ nòng bắn được. Cả khu rừng náo loạn như bị 

nhồi vào giữa cơn lốc. Đạn bắn thẳng, cối cá nhân 

của địch từ trên bắn xuống, từ chiếc máy bay vừa hạ 

bắn ra như tung một trận mưa lửa. Ta bị mất chủ 

động ngay từ đầu. Khi phát hiện ra khẩu pháo mới 

chữa đang để trong ụ làm dự phòng, đám lính dù 

llên nhào vào như hổ đói thấy mồi. Chúng hò nhau 

lôi ra đưa lên máy bay. Một tốp khác vội vã 

khiêng hai thằng chết, một thằng bị thương lên 

theo rồi máy bay nổ máy, bộ cánh quạt chém giồ ào 

ào cuốn bụi đất và lá cây mù mịt. Mấy thằng lính 

táo tợn còn định kéo một tử sĩ của ta lên máy bay. 

Chính tri viên Thông từ bên kia bờ suối nhào 

sang xả AK. Anh bắn bị thương một thằng nữa. Chúng 

vừa bắn lại vừa dìu nhau nhảy vội vào khoang eửa 

sắt. Chiếc HU-1A cất mình ngay lên khỏi mặt đất. 

Đạn từ máy bay vẫn vãi ra như trấu. Tất cả những 

việc ấy bọn địch làm rất nhanh. Phải nói là chúng 

khá thành thạo. Đến mức khi cả ba chiếc máy bay 

đã khuất trên đầu rừng, thì một vài người ít ỏi 

sống sót ở hậu cứ mới thấy hết vẻ khốc liệt của trận 

đánh chớp nhoáng.

Chính trị viên Thông người đây bụi đất vàng khè, 

đầu không mũ chân tập tễnh đi quanh khu hậu cứ 

nhàu nát, khét sặc mùi thuốc súng, mùi nhựa cây 

đắng hắc. Vừa đi anh vừa len rẩm: Chết hết rồi! 

Chết hết rồi! Trời ơi!. Anh cúi xuống nắn tay 

chân, vuốt quần áo từng liệt sĩ, miệng nói khảo 

khảo như dặn dò điều gì. Đến khi tới chiếc hầm cất 

khẩu súng dự phòng, Thông mới sững người ra, đứng 

như trời trồng. Vì lúc địch cướp khẩu súng, Thông 

đang cùng hai chiến sĩ nuôi quân chống trả với 

đám lính rằn ri bên bờ suối, cạnh mấy ruột tượng 

gạo. Thế là anh đã để lọt vào tay địch vật quý 

nhất của người lính. Dạo ấy địch ra rả trên đài, 

trên báo về thành tích bắt tù binh, thu vũ khí 

Việt cộng. Từ cái bình tông, cái mũ cối của ta, 

chúng vớ được, cơ quan chiến tranh chính trị của 

chúng cũng mang ra triển lãm, rồi dựng lên những 

trận đánh rùng rợn để khuếch trương chiến quả. Vậy 

thì cả một khẩu súng vừa chữa xong này, chúng sẽ 

ầm ĩ thế nào?

Thông bỗng đưa tay lên bứt tóc, đấm ngực, giọng 

khản đặc đau đớn:

- Chết hết rồi! Mất hết rồi! Thế này thì còn sống 

làm gì! - Và sự khủng khiếp đã đến! Cậu chiến sĩ 

quân khí lúc ấy vừa bò lên khỏi một hố đất, gọi 

líu lưỡi Chính trị viên, em đây!. Nhưng một phát 

súng ngắn đã nổ đánh đoàng!

Chính trị viên Thông đổ người xuống một bờ hào. 

Người chiến sĩ quân khí hét lớn và cũng ngã vật 

ra.

- Phải im ngay! Phải khâu ngay miệng lại! Tuyệt 

đối không được nói chuyện này với ai nghe chưa? - 

Chỉnh nắm áo cậu chiến sĩ quân khí dặn dò mà như 

quát nạt. - Coi như anh Thông hy sinh vì đạn giặc 

nhớ chưa?

Người chiến sĩ thề sẽ ngậm miệng suốt đời! Dù còn 

trẻ, nhưng anh thấy hết sự nghiêm trọng lâu dài 

trong việc tự kết liễu đời mmh của chính trị viên 

Thông.

Chỉnh thay mặt cấp ủy và ban chỉ huy đại đội báo 

cáo sự thiệt hại của bộ phận hậu cứ với các tổ chức 

cấp trên. Tuyệt nhiên không ai nghi ngờ gì về cái 

chết của chính trị viên Thông. Địa phương và gia 

đình nhận được giấy báo cáo vào cuối năm ấy đã làm 

lễ truy điệu trung úy Bùi Đức Thông hy sinh anh 

dũng trong chiến dịch Quảng Trị. Cho đến mái sau 

này Tùng nhập ngũ anh mới hiểu được sự thực về cái 

chết của bố mình trong một dịp tình cờ...

Ngay sau mùa hè đỏ lửa ấy, Chỉnh cùng đơn vị phối 

thuộc vào sâu hơn. Làm một lèo cho tới 1975, anh 

cùng đơn vi đánh thốc từ trên cao nguyên xuống 

Nha Trang. Đến khi đã hoàn toàn im tiếng súng, 

những người lính trận từ khắp các cánh rừng đổ về 

với nước da sốt rét bợt bạt, áo quần cũng bợt bạt. 

Trên người lỉnh kỉnh búp bê, cả những anh lính trẻ, 

chưa biết mùi vợ cũng búp bê vắt vẻo trên chiến ba 

lô? Và khung xe đạp. Chỉ có thế. Những thứ quà 

nghèo nàn, trông vừa thương vừa tội như chính 

những chủ nhân đang vô cùng hăm hở kia.

Trên chốc ba lô của tiểu đoàn trưởng Chỉnh cũng có 

một con búp bê váy áo sặc so và vài tấm vải may 

quần áo phụ nữ. Anh chỉ nhận được thư của Lạc ngày 

mới vào chiến trường Trị Thiên. Một lá thư da diết 

mùi chăn gối vợ chồng. Lạc nói cô nhớ những ngày 

sum họp, những đêm ái ân đến bồn chồn cả người. Đọc 

thư vợ Chỉnh bâng khuâng đến nao cả lòng. Anh 

không dám cho ai đọc, kể cả Thông. Bởi những lời 

lẽ sướt mướt ấy bấy giờ người ta kiêng kỵ lắm. Chỉnh 

không trách, mà chỉ thương Lạc vì quá đậm tính đàn 

bà, thiên về tình cảm, giờ phải xa chồng đằng đẵng 

kể cũng tội.

Chỉnh về tới nhà đã nhập nhoạng tối. Căn nhà trên 

một gian hai chái, kiểu nhà từ cổ xưa, mái lợp lá 

cọ gió khua xào xạo Tối mò và im lìm lim. Dưới 

cái túp dùng nấu bếp, lửa lom đom. Nghe tiếng 

gọi, bà Đỗ còng gập lưng như người đi ngang lập cập 

bước ra. Khi cặp mắt bạc mờ như khói của bà đã nhận 

ra Chỉnh, thì bà ngã xuống òa khóc, nói như lạy 

người con rể có tấm lòng quý hóa hiếm thấy: 

- Tôi có lỗi với anh! Tôi có lỗi với anh? Tôi đã 

không bảo được nó không dạy được nó để nó hư thân 

mất nết, nó không biết tấm lòng vàng của anh.

Lạc đã bỏ đi với chủ nhiệm cửa hàng từ tháng trước. 

Cô nói với bà Đỗ là cô không thể gặp Chỉnh được. 

Anh hãy coi như mình chưa vợ! Chủ nhiệm cửa hàng 

cũng bỏ cả vợ con để ném mình vào gió bụi cùng với 

Lạc. Anh ta đã bị khai trừ đảng và thôi việc khi 

ông Đáng nghỉ bí thư. Lạc cũng không được giữ trẻ 

từ lâu. Nhưng đôi sam ấy vần không ngán, như là 

đến bước ấy thì phải bám vào nhau để sống Họ dắt 

nhau lên tỉnh. Không ai biết họ ở đâu và sống bằng 

gì chỉ đoán chắc chủ nhiệm cửa hàng cũng phải có 

lưng vốn kha khá, nên họ mới dám đánh cuộc với đời 

như thế. Khi bà Đỗ mất được hơn hai tháng, và lúc 

ấy Chỉnh đã lấy cô gái vẫn người Giếng Chùa, một nữ 

quân nhân chuyên nghiệp phục viên, tuổi đã cứng, 

nhưng là người thật tốt, thì Chỉnh lại nhận được 

tin về Lạc? Vì đám ma bà Đỗ, Chỉnh đã cùng dân 

làng lo liệu rất chu tất, bởi lúc này Chỉnh đang 

dự một lớp tập huấn của quân khu rất gần nhà. Sắp 

đến cúng một trăm ngày bà Đỗ, Chỉnh bỗng nhận được 

giấy báo ra bưu điện nhận tiền. Anh đã nhận năm 

trăm ngàn đồng từ Sài Gòn gửi ra. Với số tiền ấy 

bấy giờ có thể dựng được một cơ đồ. Cùng với tiền 

là lá thư của Lạc, có viết mấy dòng ngắn ngủi: Em 

biết anh đã hết lòng với u em. Thời buổi này được 

người như anh chả có nhiều! Với anh, em có tội 

lớn, nên bây giờ em rất mừng cho anh. Em biết cô 

ái là người tốt từ bé. Em gửi ra số tiền mọn này 

cảm phiền anh trang trải hộ em với những ai mà u 

em đã vay, chứ em không dám trả công anh. ở 

trong này em đã có một sạp hàng để sinh sống. En 

không ở với anh Túc, chủ nhiệm cửa hàng trước đây 

nữa, vì anh ấy chỉ muốn có con giai mà em thì hóa 

ra là người vô sinh. Chả lẽ giời phật đã bát tội 

em! Thôi trăm lạy anh! Ngàn lạy anh!

Chỉnh bàng hoàng cả người. Sao cô lại biết rành rẽ 

đến thế? Cứ như ma xó! ồ phải, xã này đã có mấy 

người chuyển vào trong ấy. Họ ra vào buôn bán như 

đi chợ. Chim nhớ tổ, cá nhớ đàn, Cô ấy đâu phải đã 

là người hỏng cả. Chỉnh cứ nghĩ vẩn vi mãi. Đấy là 

lá thư và tin tức cuối về Lạc. Bây giờ đến ngày 

giỗ bà Đỗ, vợ chồng Chỉnh vẫn làm cỗ thắp hương để 

tưởng nhớ bà... 

- Cứ yên tâm, đừng lo lắng quá, tao cam đoan là 

cái Đào nó vẫn yêu cậu! Tính kỹ đi, cậu gặp nó ở 

chỗ nào? Vào lúc nào? Để tao sẽ gập nới chuyện với 

nó. - Trung tá Chỉnh đang đóng vai người hướng dẫn 

viên cho thượng sĩ Tùng. Mặt anh chàng thất tình 

đã tươi lên, lắp ló hy vọng. Nhưng rồi Tùng xua 

tay ngay.

- Nhưng mà chưa thể gặp hắn được chú ạ. Hắn bướng 

bỉnh lắm! Gặp chú hắn sẽ không nói gì, thậm chí 

còn vui vẻ nhận lời gặp cháu. Nhưng thấy mặt cháu 

là hắn sẽ dồn ngay: Anh bỏ ngay cái trò nhờ vả mối 

lái ấy đi! Việc gì anh phải thở than với ai? Anh 

tưởng thày u tôi báu họ hàng nhà anh lắm đấy à! 

Vân vân! Đại khái sẽ thế đấy chú ạ! Tính khí hắn 

cháu biết lắm! Thôi hãy cứ để thư thư! 

Uống một chén nước chè hãm đặc trong bình tông, 

Tùng hẹn hôm nào ông Chỉnh giỡ gạch, anh sẽ giúp 

một tay, đoạn đứng ra về. Nhìn cái dáng đậm chắc 

của Tùng mờ dần dưới chân đôi, ông Chỉnh chợt nhớ 

cái hôm Tùng ở đơn vi về tranh thủ đã sùng sục đến 

tìm ông.

- Chú có nhớ anh Liêm là chiến sĩ của đại đội chú 

không? 

Khi cô ái vừa xuống bếp, Tùng ngửng lên hỏi. Ông 

Chỉnh bỗng chột dạ. Chiến sĩ dưới quyền ông có đến 

hàng trăm, nhớ sao xuể? Nhưng riêng Liêm thì ông 

nhớ. Bởi vì ông đã giao hẹn với Liêm là phải kháu 

mồm lại! Liêm là anh chiến sĩ quân khí ấy? Thế mà 

hắn đã thất hứa rồi! Đã cắt chỉ khâu đi rồi? Màn 

bí mật đã được vén lên!

Ông Chỉnh vờ ngạc nhiên:

- Liêm nào nhỉ? Đã bao nhiêu năm, ai mà nhớ hết 

tên chiến sĩ trong đơn vị mình.

- Anh Liêm trước làm quân khí trong đại đội của 

chú với bố cháu Bây giờ anh áy đang làm chủ nhiệm 

hậu cần của trung đoàn cháu! Tùng hạ giọng, mắt 

chơm chớp nhìn xuống.

Thế là đột ngột ông Chỉnh nổi cáu ông hỏi dồn:

- Thế thằng Liêm nó dọa mày những gì? Nó muốn 

chứng tỏ cái gì? Đến nước này thì tao phải lên tận 

nơi đốp vào mặt nó! Chính nó là thằng sợ lên trận 

địa nhất, cho nên viện mọi lý do là súng hỏng hóc 

phải mang xuống hậu cứ để chữa cho yên tĩnh. Đã 

mấy lần tao với bố mày vặc nhau vì nó. Bố mày thì 

chỉ sợ nó chết vì lúc ấy chỉ còn mình nó là biết 

sửa chữa. Tao thì muốn đưa nó lên chốt để có gì 

sửa chữa ngay trận địa. Nó đã ỷ vào bố mày để nằm ở 

hậu cứ. Thấy mặt tao là nó lảng, nó tránh. Bây giờ 

nó định lên mặt cái gì? Nó muốn đảo ngược cái gì?

Tùng hốt hoảng:

- Không, anh ấy có nói gì đâu. Khi biết cháu anh 

ấy nói chuyện riêng thế thôi.

Ông Chỉnh vẫn giận đến run cả tay.

- Nhưng về cứ nói đại đội trưởng của nó mà lính 

tráng vẫn gọi là Chỉnh húc ấy, vì tao học hành ít, 

đánh nhau cứ lấy cái gan lỳ ra húc, rằng lão 

Chỉnh húc chưa chết đâu! Chớ có vừa khỏi vòng đã 

cong đuôi? Thất hứa với tao là không xong đâu! 

Còn mày không việc gì phải cắn rứt. Lương tâm là 

cái khỉ gió gì? Chả nhẽ người dám nhận cái chết 

giữa trận tiền lại không có lương tâm? Bố mày đã 

hy sinh như những người hy sinh hôm ấy, nghe chưa?

Quả nhiên ông Chỉnh không thấy Tùng nhắc lại 

chuyện đó nữa. Ông Chỉnh lại với cái chai, chiêu 

một ngụm nữa. Người nửa nằm nửa ngồi, mắt lim dim 

gà gà. Chỉnh bỗng nhớ đến Thông, và lại thầm hỏi 

sao anh ấy lại xử sự hấp tấp thế hả? Quá uất ức vì 

tổn thất của mình, hay anh ấy sợ trách nhiệm? Sự 

đời thật tai quái. Nhiều thằng chẳng có trách 

nhiệm gì, chẳng nghĩ đến ai khi giáp mặt cái 

chết, thì bây giờ thì sống quá vung vinh. Đi đâu 

nó cũng trương cái mác đã qua chiến trường để được 

mọi người nể trọng, bắt xung quanh phải có trách 

nhiệm với hắn! Như thằng Quản ấy, cái thằng xạ thủ 

phục phịch đã ba lần đái ra quần khi máy bay lao 

xuống quá thấp. Vì dạo ấy đạn tiếp tế chưa vào 

được, gạo phải ăn dè và đạn cũng phải bắn dè. Chỉnh 

quyết định phải để máy bay xuống thật thấp, rồi 

nghe lệnh anh mới được nổ súng. Thấy máy bay lao 

xuống cứ như cắm vào đầu mình, chưa kịp bắn những 

viên đạn lửa, thì cái súng phun nước của Quản đã 

phóng ra ướt đẫm quần! Những ba lần! ấy vậy mà vài 

năm sau khi về tỉnh đội, Chỉnh đã thấy Quản chẫm 

chệ ngồi ghế phó phòng rồi! Nghe nói Quản luôn 

luôn khoe đã qua chiến dịch đường 9, chiến dịch 

Quảng Tri. Mấy trợ lý lính cậu hốt Quản ra mặt! 

Còn Liêm, khi Chỉnh và Liêm khâm liệm Thông và 

những người hy sinh hôm ấy, Liêm cứ run cầm cập. 

Rồi Liêm cáo ốm nằm bẹp đến hai ngày trong hầm. 

Sang ngày thứ ba, đang đánh nhau thì một khẩu 

súng bị tắc, Chỉnh xuống hầm lôi Liêm ra, chỉ vào 

chỗ súng hóc, bảo: Chữa đi, tao đứng che đạn cho 

mày đây rồi! Giờ Liêm đang là thiếu tá chủ nhiệm 

hậu cần trung đoàn, nghe nói béo tốt lắm và cũng 

hay khoe cái tem đã từng vào sống ra chết với lớp 

đàn em. Liêm có hứa với Tùng là sẽ về thăm Chình, 

nhưng chờ mãi không thấy. Hay Liêm vẫn ngại Chỉnh 

húc?

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Mười - VN thu quan

Tùng ra tới ngã ba, nơi có chiếc lều lão Quềnh, 

thì gặp bà Son dong xe đạp đi trước, đi sau còn 

một người đàn bà nữa. Tùng chào, bà Son vẫn trả 

lời dịu dàng như mọi ngày. Tùng thấy mừng, bởi thế 

có nghĩa là Đào không nói những nghi ngờ của 

mình với bà.

- Bá chờ em một tý, em vào lấy cái này.

Người đàn bà đi sau nói với bà Son, rồi đến bên 

chiếc lều lão Quềnh kéo tấm cánh đại lách vào 

thán thuộc như chủ nhân.

Đó là người đàn bà có đứa con chết hôm trước ở 

đây. Mấy hôm nay chị làm chân rửa bát quét dọn ở 

quán phở bà Lợi béo. Nhưng bà Lợi trông người 

phương trượng thế mà lại kiệt vắt cố chày ra nước, 

cho chị ăn đói quá, mà công việc thì luôn chân 

luôn tay từ sáng tới tối. Buổi chiều chị chủ ý gặp 

bà Son, nói là có cần một chân gặt thuê, chị xin 

giúp. Đúng là hai mẹ con bà lúc này rất cần thêm 

người giúp việc đồng áng.

Khi bà Son và người đàn bà về tới nhà, Đào vẫn chờ 

cơm. Cô và Minh tồ đang rì rầm ngoài thềm. Trong 

nhà cái Hoa ngồi học mà hai mắt cứ ríu lại. Đào 

dọn cơm cho ba người ăn. Người đàn bà nói ăn rồi, 

nhưng bà Son cứ kéo chị ngồi vào mâm, và chị ăn 

llên bốn bát nữa một cách ngon lành. Vừa ăn, chị 

vừa kín đáo quan sát Đào ngồi ở đầu nồi với dáng 

nghiêm nghiêm lạnh lạnh. Nốt ruồi to đậu trên gò 

má chị ta động đậy, như đấy cũng là một con mắt 

đang giương ra nhìn từng cứ động của hai mẹ con bà 

chủ. Hôm nay trông... chị đã hồi người, mặt mũi 

tỉnh táo quần áo sạch sẽ, không còn dáng điệu một 

người hành khất nữa.

Bà Son đứng dậy trước. Bà vào buồng lấy chiếc 

chiếu một mang ra trải lên chiếc chõng tre đặt 

trong góc nhà, rồi quay lại bảo người đàn bà:

- Tý nữa chị nghỉ ở đây. - Rồi bà quay lại hỏi Đào 

- Chú Thủ dặn u sang ngay à?

Trong lúc bà Son mở tủ buýp-phê tìm đèn pin, thì 

người đàn bà cầm tay nải và chiếc nón đến ngồi mớm 

vào bên chõng tre dành cho mình. Chị ta vẫn len 

lén nhìn Đào, cô chủ xinh đẹp nhưng trông sắc 

quá, bụng thầm nghĩ, cô này không phải tay vừa 

đâu! Rồi chị thong thả ngắm bốn gian nhà với những 

giường tủ, bàn ghế vàng lấp loáng trong ánh đèn. 

Trên cao chiếc bàn thờ nhấp nhô những lư đồng, mâm 

quả, cốc chén. Rõ là một dinh cơ phú gia.

ấy vậy mà chẳng ai ngờ, thật quá nằm mơ giữa ban 

ngày, rằng người đàn bà trên bước đường phiêu bạt 

xin được làm thuê làm mướn để sống đắp đổi qua 

ngày đang ngồi còm róm kia, sau đây lại trở 

thành bà chủ của chính dinh cơ bề thế này!

Bà Son đã rước người đàn bà lạ về nhà như rước một 

tai hoạ! Một tiền đinh! 

Nhưng đấy là chuyện của một tháng sau nữa!

Thủ đang nằm trên đi-văng kê cạnh bộ sa lông giữa 

nhà. Bao đầu lọc để trên bàn. Khói thuốc trùm kín 

cả người anh. Buổi sáng Thủ đạp xe đến chỗ người 

bạn kết thân từ thời cùng làm công tác đoàn. Bây 

giờ anh ấy đang làm chánh văn phòng huyện uỷ. Qua 

chuyện trò với người bạn đồng lứa, Thủ được biết cả 

bí thư và chủ tịch huyện đang rất buồn rầu về anh. 

Trong dự kiến huyện uỷ viên ở cơ sở khoá tới, Thủ 

được ban chuẩn bị nhân sự nhất trí đề cử. Thế mà 

đùng một cái. Đành rằng ai làm người nấy chịu. 

Nhưng dù sao cũng không thể đưa một người làm việc 

quá bê bối đến thành tội phạm vào huyện uỷ được. 

Thế thì bằng ngồi xổm trên dư luận còn gì. Ngay 

việc để anh đứng đầu một xã cũng phải tính đấy. 

Hàng ngàn dân sẽ nhìn anh ra sao? Sẽ nghĩ về 

huyện ra sao? Thời buổi lấy dân làm gốc này đừng 

có thách thức! Thí bỏ một con bài dù tốt, nhưng để 

được cả quần chúng, được cả phong trào, huyện chọn 

đằng nào? Thủ nghe mà bồn chồn cả người. Anh hỏi 

nhỏ:

- Nếu bây giờ chúng tôi thu xếp được với bên nhà 

ông Phúc, để họ không kiện cáo, không cần nhờ đến 

pháp luật can thiệp, mà chỉ phạm vi hai gia đình 

tự giải quyết với nhau thì thế nào?

Cặp mắt người bạn đồng tuế vụt sáng lên:

- Nếu được thế thì tuyệt! Xoay chuyển được tình thế 

như vậy thì tôi cam đoan đích thị cụ Luân bí thư 

sẽ mua bia khao tài thuyết giáo Tô Tần của ông. 

Cụ ấy ngại những chuyện lình sình lắm.

Chia tay anh bạn chánh văn phòng, Thủ đạp xe 

lang thang cho đến quá trưa, rồi sang thăm vợ 

chồng Lan là em ruột của Luyến ở bên kia sông 

Đào. Chồng Lan đi lao động ở nước ngoài đã về phép 

hơn chục ngày nay, cứ nhắn Thủ sang chơi, vì anh 

ta đi được cũng có phần của Thủ giúp đỡ.

- Ô kìa anh Thủ! Bác Thủ!

Vợ chồng con cái Lan đang ăn cơm, thấy Thủ vào 

cùng bỏ đũa kêu lên. chồng Lan sai dẹp mâm, mặc 

dù nồi canh cá đang bốc hơi nghi ngút, rồi tự tay 

anh ta đi thịt con gà công nghiệp mới mua vẫn nhốt 

trong lồng.

- Anh Thủ nghe nói bác Hàm bên ấy... Lan đến Thủ 

hỏi nhỏ, giọng lo lắng giống hệt chị Luyến.

- Không sao, rồi đâu sẽ vào đấy - Thủ khẽ cười. 

Nét mặt anh ta bình tĩnh trở lại. ấy là Thủ lờ mờ 

nghĩ ra cách xoay chuyển tình thế, giàn chiến 

thắng ở ngay thời điểm tưởng đã bị đôn vào bước 

đường cùng. 

Vừa chén chú chén anh, Thủ và chồng Lan chuyện 

trò rất vui vẻ. Rồi Thủ nằm dài cho tới ngay 

chiêu, như người vô tư lự đang đánh một giấc say 

sưa. Kỳ thực anh chỉ thiếp đi mươi phút, rồi mặc dù 

hai mắt vẫn nhắm như đang ngủ, nhưng đầu óc cứ 

trong suốt. Thủ đang tính, đang tính...

Khi Thủ về tới văn phòng Đảng uỷ xã, thì đã gần 

hết giờ làm việc buồi chiều. Trần Văn Sửu và mấy 

người nữa vẫn đang ngồi quanh chiếc bàn giữa nhà 

hút thuốc vật, nói chuyện lầm rầm. Nhìn thấy Thủ, 

tất cả cùng im bặt, mặt ai nấy bỗng sường sượng thế 

nào. Thoáng nhìn không thấy có Cao, phó ban công 

an, cháu gọi Luyến bằng cô, cánh tay của Thủ, vậy 

đích thị là họ đang bàn về chuyện gia đình mình, 

đang bàn về chính mình! Thủ nghĩ. Vì trong tình 

thế giằng co thì phải đưa Sửu lên thôi, chú trong 

sâu xa Thủ biết lắm. Anh chàng Sửu này cũng có 

tính hay nhỏ to thì thầm. Nhiều lần họp Đảng uỷ, 

họp thường vụ, Sửu không phát biểu gì khác với 

xung quanh. Nhưng đến tối Sửu lại sang tận nhà Thủ 

kể rỉ róc nhiều chuyện bê bối của bà đảng uỷ viên 

này, ông thường vụ nọ. Phương châm của Thủ là đứng 

xa tạo gió để rung cây, chứ không muốn mình phải 

trực tiếp lay gốc. Chính Cao, chiếc ăng-ten của 

Thủ đã nói nhỏ là Sửu đang tính nhiều cách để củng 

cố uy tín của mình. Lấy lòng người này, thì thầm 

rung cây người kia. Ngay những người Sửu không 

thích, anh cũng vẫn nắm tay rất chặt, hỏi han rất 

vồn vã để thêm bạn bớt thù. Nghe vậy Thủ chỉ cười, 

cho rằng Sửu không bao giờ dám rung vào mình. Thủ 

luôn nghĩ chính mình là gốc, còn Sửu chỉ là lá, 

là cành! Sửu tự tay tráng ấm pha nước sôi, rồi nói 

với Thủ:

- Hôm nay chúng tôi họp với ban quản trì bàn về 

việc thu sản anh ạ. Số người còn khê động từ năm 

tời bảy tạ còn nhiều lắm. Vụ chiêm này cố gắng thu 

được quá nửa, còn lại cho nợ tới mùa.

Ngồi bàn về công việc, nhưng Thủ cứ ngầm thăm dò, 

lắng nghe xem mọi người đối với mình thế nào, có 

còn coi ý kiến của mình là ý kiến cuối cùng nữa 

không. Khi Thủ gật đầu đồng ý đứng dậy coi như 

xong, thì anh thấy mấy người tỏ ra mừng rỡ, như là 

được giải thoát một không khí nặng nề.

Ra cổng, nhìn sang khu trường học, thấy thấp 

thoáng bóng áo trắng của mấy cô giáo, nhưng không 

thấy có những tiếng gọi véo von như mọi hôm. Thủ 

lằng lặng đạp xe về nhà. Thế là rõ rồi, việc xoay 

chuyển thế cờ đối với anh lúc này là việc cốt tử 

mang ý nghĩa tồn tại hay không tồn tại! Uy tín và 

vị trí của chính anh, uy tín của cả dòng họ Trịnh 

Bá lúc đặt hết lên đôi vai Thủ. Tình thế bắt anh 

phải chèo chống, xoay xoả bằng mọi cách để chuyển 

bại thành thắng. Không còn sự lựa chọn nào khác. 

trôn tại hay không tồn tại?

Với tâm trạng ấy, Thủ đáp thẳng đến nhà ông Hàm 

tìm bà Son. Và bây giờ anh đang nằm chờ.

Thấy con ki ki, con chó lai, to như con gấu rừng 

hộc lên rồi lao xồ ra cổng. Liền đó tiếng bà Son 

quở nó, Thủ choàng dậy. Luyến đang nằm ôm thằng cu 

con trong buồng, tất tả nhạy ra, hai bầu vú căng 

sữa không nịt, đội hớt cái áo lên, đánh lúc lắc 

theo mỗi bước đi của Luyến. Bá sang chơi - Luyến 

niềm nở. Từ tối đến giờ không có ai để nói chuyện, 

Luyến buồn đến khô nhạt cả mồm! Nhưng khi Thủ pha 

nước xong, ngồi co chân lên, châm tiếp một điếu 

thuốc nữa với nét nghiêm nghi, thì Luyến biết đã 

đến lúc chị phải rút lui.

- Em đã tính kỹ rồi - Thủ bắt đầu lên tiếng, chỉ 

vừa đủ cho bà Son ngồi đối diện bên kia bàn nghe 

- bây giờ chỉ có bá là dẹp yên vụ này! Bá nghe em 

nói đã. Vụ này không thu xếp được, thì nguy đến cả 

họ nhà ta. Nhiều việc lâu nay họ không dám nói, 

thì nhân dịp này nó sẽ bới tung ra. Ngày thằng 

Dinh nhà bá đi lao động nước ngoài, đã có đơn 

kiện lên huyện là còn ba tháng nữa mới hết hạn 

nghĩa vụ, mà thằng Dinh đã được ra quân để đi. 

Lúc ấy nhà mình mạnh, huyện với xã là một nên dù 

có kiện nữa thì chúng cũng là con kiến kiện củ 

khoai! Chứ nó bới vào lúc này là tướt bơ. Sáng 

nay em đi một vòng từ xã lên huyện càng thấy rõ 

là nhiều người đang muốn lật ta! Họ đang muốn mượn 

gió bẻ măng, nên ta phải thu xếp gấp rút vụ này. 

Trong một tuần các cơ quan trên huyện thụ lý hồ 

sơ, ta phải thu xếp bằng xong, chứ để đến khi ra 

toà thành án thì không thể thay đổi được nữa!

Thủ lại châm điếu thuốc khác. Bà Son cứ thấy lạnh 

cả chân tay. Thủ giảng giải luật hình sự cho bà 

Son nghe, bà càng sợ tái người. Chỉ còn một tuần 

nữa, một tuần để cứu ông Hàm và cứu danh dự cho cả 

một dòng họ! Chân yếu tay mềm như bà khác nào lấy 

đũa chống trời!

- Việc to như thế thì chú bảo tôi làm được gì? 

Bà Son hỏi nhỏ, mặt càng héo đi. Thủ vẫn im lặng 

hút thuốc. Cứ cho cái sợ thấm sâu nữa vào người bà 

chị dâu, để đặt bà ấy vào tình thế không có con 

đường nào khác là phải răm rắp làm theo kế hoạch 

của Thủ.

Anh càng hạ nhỏ giọng nghe càng nghiêm trọng: 

- Bây giờ ta đang ở thế yếu, nên không thể dùng 

đòn rắn, đòn cứng để chọi lại, mà phải dùng đòn 

mềm, lạt mềm buộc chặt! Phải dùng tình cảm để 

thuyết phục. Mà dùng cách này thì em đã tính hết 

nhẽ rồi, chỉ có bá mới xong!

- Tôi á? Bà Son tròn mắt lên.

Thủ càng hạ giọng:

- Phải! Chính bá! Bá sẽ gặp ông Phúc!

Bà Son giật người lên trong ghế ngồi. Mặt hết tái 

lại đỏ rần lên, và đôi mắt thì ngơ ngác đến bạc 

dại đi. Thủ đưa hai tay lên mặt bàn đan vào nhau, 

giọng trang nghiêm: 

- Bây giờ ta phải điều đình với ông Phúc Mà gặp 

ông Phúc để nói chuyện này thì bá là tiện nhất. 

Bá đừng nghĩ quẩn. Tất cả anh em nội ngoại nhà ta 

không ai nghĩ xấu về bá. Không ai nghi ngờ bá có 

chuyện gì với ông Phúc. Với lại lúc ấy bá chưa lấy 

bác Hàm thì ai có quyền gì mà trách. Ngay em với 

nhà em lúc chưa lấy nhau cũng bị đồn thổi khối 

chuyện, miệng lưỡi thiên hạ chín người mười tính, 

biết đâu mà lần. Cái chính là từ khi lấy nhau, ăn 

ở với nhau thế nào? Điều ấy thì mấy chục năm nay 

anh em chú bác nhà ta quý bá. Cả em dâu em rể 

cũng quý bá, tịnh không có lời ra tiếng vào. Bá 

yên tâm. Bây giờ bá gặp ông Phúc, bá đề nghị ông 

ấy rút đơn kiện và nói với huyện là vì tình làng 

nghĩa xóm còn ăn đời ở kiếp với nhau. Không những 

đời ta, mà còn con cái cháu chắt sau này, vẫn sớm 

tối trông thấy nhau, thế thì gây thù chuốc oán 

nhau làm gì. Việc vừa qua chỉ như người say: không 

còn biết khôn dại là gì. Bây giờ đôi bên tự thu 

xếp với nhau ồn thoả, không cần pháp luật can 

thiệp nữa. Việc của bá nói làm sao để ông ấy đồng 

ý rút đơn kiện, còn lại sau đó em sẽ lo hết. Em sẽ 

nói với huyện với xã là chính em đứng ra xin họ 

hàng nhà ông ấy. Có vậy anh em nhà ông ấy mới mát 

mặt. Hãy cứ để cho họ được thắng. Dân làng có bảo 

em là chịu nhún nhường, chịu lép vế phải ngửa tay 

xin cũng khòng sao, em sẽ nhận hết. Sẽ không ai 

biết bị đến gặp ông Phúc. Cả bác Hàm, bác Long và 

nhà em cũng không cho biết. Việc này chỉ riêng bá 

với em. 

Bà Son đưa hai tay ôm lấy má, nước mắt chảy ràn 

rua. Bà lặng lẽ ngồi khóc. Bà đã hiểu. Thủ chưa 

nói hết, nhưng bà biết là Thủ muốn khuyên bà dùng 

hết cái tình xưa nghĩa cũ ra để thuyết phục ông 

Phúc. Cái điều xưa kia là tội lỗi, là tai tiếng để 

dòng họ phải hổ lây, là cái gai trong lòng ông 

Hàm, thì bây giờ lại là lá bùa bảo hộ cho chính 

ông Hàm, cho cả dòng họ Trịnh Bá! Tình thế bắt bà 

không thể chối từ! 

- Thế tôi phải đến tận nhà ông ấy à? Vợ ông ấy lại 

chả làm ầm lên - Bà Son nói nghèn nghẹn.

Thủ kín đáo trút một hơi thở nhẹ nhõm. Điều khó 

trước tiên là bà Son nhận lời, vậy đã xong. Những 

bước tiếp theo Thủ đã thiết kế tiếp, sẽ là đạo diễn 

trong màn kịch mà anh phải dành phần thắng bất ngờ 

này!

- Ai lại dại dột đến nhà ông ấy. Rồi ba gặp ông ấy 

ở đầu vào lúc nào, em sẽ lo. Em dặn bá điều này 

nữa, là khi gặp ông Phúc bá không nói do ai bảo, 

mà tự bá nghĩ ra, thấy cần làm thế.

Bà Son đưa ống tay lao mặt, miệng lẩm bám như nói 

thầm:

- Tôi biết rồi. Tôi nghe chú. Thôi thì tất cả vì 

ông ấy nhà tôi vì họ Trịnh nhà mình!

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Mười một - VN thu quan

Rồi cả đêm Thủ nằm tính, tìm ra cớ để bà Son gặp 

ông Phúc sao cho kín đáo và có vẻ tình cờ nhất. 

Trong màn kịch này, Thủ quyết định phải huy động 

thêm một nhân vật nữa, để trợ sức với anh, đó là 

Cao, phó ban công an, cháu họ Luyến. Năm nay Cao 

bã ba mươi nhăm, nhưng tính nết vẫn bộp chộp, xốc 

nổi, thích làm nhưng cũng hay để hỏng việc. Cao 

ngồi được vào ghế phó ban công an như hiện nay 

cũng nhờ Thủ làm công tác tư tưởng rất khéo với 

một số người có thành kiến nặng với Cao. Vì thế 

ngoài tình cảm gia đình, Cao còn coi Thủ là người 

dìu dắt, một người che chở, cho nên khi cần một 

cánh tay tin cẩn, hết lòng với mình, Thủ nghĩ 

ngay đến Cao.

Tạm yên trí với kế hoạch của mình, Thủ ngủ thiếp 

đi nặng nề, thì vừa lúc gà gáy sáng.

Khi Luyến sẽ sàng gọi chồng dậy ăn cơm, thì bỗng 

có tiếng ông bõ Vòi réo ồm ồm ngoài ngõ. Ông 

mang giấy mời họp gấp đến cho Thủ.

Giấy triệu tập các bí thư đảng uỷ sang ngay xã Tân 

Phú cách đây hơn chục cây số để dự cuộc sơ kết rút 

kinh nghiệm đợt thí điểm đầu tiên huyện triển khai 

nghị quyết 04 của Trung ương về công tác làm trong 

sạch đội ngủ Đảng. Tân Phú là xã được nêu tên có 

nhiều vụ việc bê bối nhất, nên huyện quyết định đưa 

đội công tác về làm đầu tiên. Từ đây rút kinh 

nghiệm để làm tiếp các xã khác.

Thời gian họp rút kinh nghiệm là hai ngày. Trong 

đó có tham quan nhà máy luyện kim màu và nhà máy 

cơ khí nông nghiệp nữa buổi. Thủ vo giấy đút vào 

túi, thở dài. Bình thường đây là những cuộc vui. 

Ngồi nghe chuyện của người khác, những niềm vui 

nỗi buồn của người khác, rồi mời nhau vào bàn 

tiệc. Rồi xem vi-đê-ô có nhiều pha tươi mát đến 

người già cũng nổi cơn hứng tình. Những cuộc rút 

kinh nghiệm như thế là những cuộc thư giãn thần 

kinh. Bây giờ đang búi lên thế này. Nhưng dù sao 

cũng không thể vắng mặt. Ông Luân không thấy mình 

đến sẽ nghĩ gì? 

Đúng là Thủ vừa đạp xe đến đã thấy bí thư huyện uỷ 

ở đấy rồi ông Luân chưa kịp hỏi gì, thì Thủ đã nói 

nhỏ: 

- Tôi đang cố gắng thu xếp chuyện ấy ổn thoả anh 

ạ.

Đang lúc có mấy người chèo kéo tíu tít, nên ông 

Luân cũng chỉ nói vội vã:

- Cố gắng dẹp êm đi chớ không thì phiền lắm đấy. 

Rồi cho đến kết thúc hội nghị không có cuộc nói 

chuyện nào nữa. Cả hai đều cố ý tránh gặp riêng 

nhau. Các bí thư xã khác cũng nhìn Thủ nghi 

ngại. Họ chỉ thì thâm nói nhỏ với nhau chứ không 

dám hỏi Thủ. Lần đầu tiên Thủ biết thế nào là người 

có phốt, quay hướng nào cũng lưỡng vướng như cá mắc 

câu.

Hết hội nghị, Thủ đạp xe về ngay. Tới nhà đã nhập 

nhoạng tối. Luyến vẫn đang lúi húi tưới rau ngoài 

vườn. Chị nói to từ ngoài vào:

- Bác Tươi lúc nãy đến gọi thầy em đi họp đấy. 

Hỏi thêm, Thủ biết đó là họp chi bộ của cụm dưới 

này gồm có Giếng Chùa, Xóm Mới và Xóm Trại. Từ 

trước đến nay ba xóm này là một chi bộ. Thủ sinh 

hoạt Đảng ở đây. Thế này thì cập rập quá, chưa kịp 

nói gì với Cao, Thủ thầm nghĩ. Nhưng đành phải cố. 

Đây là thời cơ. Đã mất hai ngày rồi. Còn lại 

không đầy một tuần nữa. Anh phải xoay sở trong 

quãng thời gian gấp rút ấy.

Thủ sai con đi gọi Cao sang. Còn anh đến ngay 

nhà ông Hàm để trực tiếp dặn bà Son. Từ xa đã 

nhìn thấy nhà bà Son chưa nghỉ việc. Cây đèn toạ 

đăng để trước thềm, soi sáng cả trong nhà ngoài 

sân. Đào và người đàn bà làm thuê vừa tuốt lúa 

xong, bây giờ người cào, người quét rơm trên đống 

thóc ngồn ngộn giữa sân. Cái Hoa ngồi băm rau lợn 

kênh kếch một góc. Tất cả lặng lẽ như một nơi chưa 

biết dùng ngôn ngữ?

- Bá có nhà không? - Thủ vừa bước vào cổng hỏi to.

- A chú - Đào ngửng lên, rồi cô quay lại gọi:

- U ơi, chú Thủ đến.

Tiếng bà Son từ trong bếp vọng ra. Bà đang nấu 

cơm. Thủ đi thẳng vào bếp. Sau mấy lời nói nhỏ chỉ 

đủ bà Son nghe, Thủ quay ra về ngay. Không ai 

nhìn thấy bà Son ngồi thừ ra, mặt tái bợt. Đang mổ 

mẻ cá tươi rói, chúng thi nhau nhảy toanh toách 

trong rổ, tay bà Son cứ run bắn lên. Thế là cái 

việc bà phải làm, nhưng sợ vô cùng đã đến rồi! Thủ 

vừa quay ra khỏi sân, mắt còn đang quáng đèn, 

thì tý nữa đâm sầm vào một người quang gánh kĩu 

kịt cũng đang xăm xăm đi vào.

- Ai gồng gánh gì thế này? - Thủ lùi lại hỏi như 

gắt, thì một giọng phụ nữ lại rất sởi lởi:

- Ôi giời chú Thủ đấy à? Con mẹ Đủ đầy! Cha mẹ đặt 

tên thế, nhưng quanh năm vắt mũi đút miệng! Vay 

nồi thóc cứu đói của bà Son tháng trước, giờ phải 

giả tắp lự ngay đây! Chứ không cái lão nhà tôi nó 

lại cho men vào thì lên chai hết! Đúng là tướng 

đàn ông răng hô mồm cá ngão chỉ siêng ăn nhác 

làm!

Thủ phì cười, cũng nói tếu:

- Ai bảo bà đẻ cho lắm vào? Thóc gạo đã ít, lại đẻ 

gấp đôi gấp ba người ta còn kêu.

- Cơ mà khổ lắm chú ơi! Nhà người ta còn có đài, 

có máy hát để nghe nhạc nghe nhiếc cho dãn xương 

dãn cốt, chứ nhà tôi không có thì đêm hôm còn 

biết làm gì! 

- Rõ khỉ cái bà này!

Thủ né sang bên cho người đàn bà cao lớn như đàn 

ông cười khi khí gánh thóc con cón đi vào. Thủ 

không biết rằng bà ta đang cười thầm và tự đắc về 

cái tài dùng chuyện tếu của mình để đánh lạc sự 

chú ý của người khác. Bà ta không hề vay thóc của 

vợ chồng ông Hàm. Và một số người khác cũng không 

hề vay mượn gì, nhưng mấy tối nay nếu ai tinh ý sẽ 

ngạc nhiên thấy nhiều người gánh thóc đi xuôi đi 

ngược thì thì thầm thầm, kín kín hở hở. ấy là họ 

đang thực hiện một chiến thuật phòng thủ cho cái 

dạ dày rất thần tình! Lúc này ở chính nhà Thủ, 

Luyến hốt hoảng nói như rên với một người đàn bà 

cũng tuổi sồn sồn như Luyến:

- Chết thôi! Em đã bảo em còn nghĩ đã, thế mà bá 

lại gánh ngay đến thế này? Nhà em biết thì chết! 

Thôi để vào trong xó nhà ngang kia. Mau lên, nhà 

em sắp về đấy! 

Người đàn bà hớn hở gánh thóc vào, nói trấn an 

Luyến:

- Cô cứ yên trí, ông ấy có biết khối?

Lẳng bì thóc vào xó tối, rồi chị ta quay ra biến 

ngay. Hỡi những nhà quản lý nông thôn! Những người 

gánh thóc đi ngược đi xuôi chính là những người 

đang thiếu sản! Họ đang nợ hợp tác xã đấy! Chứ 

không nợ cá nhân. Người nào cũng dăm bảy tạ cả. Nợ 

từ mấy vụ trước. Chiêm năm nay khá nhưng họ chỉ 

quyết nộp một ít gọi là, chứ không thể thanh toán 

sòng phẳng ngay được - Nộp hoét để nhe răng ra 

à?. Họ bảo nhau. Quân tử phòng thân, ta là tiểu 

nhân thì cứ phải nắm chắc lấy bị gậy!

Nhưng không nộp thì phải cất giấu ở đâu, chứ để lù 

lù ngay trong nhà, đội thu sản của hợp tác xã đến 

thì bằng lạy ông tôi ở bụi này, còn gì! Thế rồi 

không biết do mưu mẹo của ai, họ bảo nhau chắc 

chân nhất là mang đến gửi ngay ở những nhà không 

có nợ nần gì với hợp tác. Nếu gửi được vào những 

nhà cán bộ thì càng hay! Lấy độc trị độc mà! Khi 

cần đến lấy từng thúng một, nói là đi vay, đố anh 

nào dám bắt thu sản!

Do Luyến là người dễ tính, hay nể nả, nên Thủ 

không ngờ chính nhà mình là nơi tàng trữ, đồng 

loã cho hai nhà trốn thuế. 

Hạt thóc, đồng tiền lên khúc ruột; để giữ nó, thì 

ngay những bà một chứ bẻ đôi không biết cũng nghĩ 

ra được lắm kế tàng hình!

- Chú gọi cháu à? - Cao đang uống nước sịt soạt ở 

bàn, thấy Thủ về ngồi dịch vào.

Với dáng người đậm, đen, mái tóc để chờm tai, lại 

thêm hàng ria mép và quần lúc nào cũng ống bó. 

Rồi lại thích bắn súng! Thỉnh thoảng Cao lại bắn 

chỉ thiên đòm đòm, bảo là xin được đạn, nên muốn 

bắn thử xem còn tốt không! Hễ được tin làng nào có 

chuyện gì liên quan đến nghiệp vụ của mình, là 

Cao lập tức sắn sả đi ngay. Dù vội mấy Cao cũng 

đóng đúng mốt một nhà chức trách rất bảnh: Bộ bò 

mốc mua đến hai nồi thóc, mũ lơ-vít, kính râm mát 

to, giầy cao cổ súng ngắn đeo trễ bên hông. Có 

hôm lại cố ý không cần bao, mà dắt khẩu súng chì 

đen ngòm dưới bụng, rồi nhảy lên chiếc ba-bet-ta 

đã tróc hết cả sơn lẫn mạ, vậy mà phải đổi hết bốn 

tạ thóc giữa lúc gạo đắt như vàng, khiến cả mẹ và 

vợ Cao như bị cắt từng khúc ruột. Cao rồ máy phóng 

đến nơi có chiến sự với cái dáng hiên ngang của 

người cầm pháp luật, mà vẫn đủ dáng dấp một thám tử 

trong những phim phản gián giật gân. Vô số những 

gã trai làng nhìn Cao với con mắt thèm muốn. Còn 

những người lớn tuổi thì bảo Cao vẫn còn tính học 

đòi lấc cấc! Bởi vậy đã có ghế phó ban công an, 

và Thủ ra sức vận động, nhưng Cao chỉ mới trúng 

chân hội đồng nhân dân xã với số phiếu vừa đủ, còn 

bên Đảng thì ngay ở chi bộ nhỏ này đã đề cử nhiều 

lần nhưng Cao không sao len được vào chi uỷ.

- Có việc này phải làm ngay - Thủ nói nho nhỏ. 

Nhưng nhìn nét mặt và cữ chỉ nghiêm trang của Thủ. 

Cao biết là việc rất hệ trọng.

Thủ bắt đầu rầm rì vừa nới, vừa phân tích sự bức 

thiết phải thực hiện bằng được kế hoạch này. Nếu 

không sẽ là chuyện giậu đổ bìm leo, không chỉ uy 

tín dòng họ Trịnh Bá bị chìm, mà cái ghế hiện nay 

có liên quan đến dòng họ này cũng sẽ bị chặt chân, 

rút ván! Cao vừa nghe, vừa gật gù, rồi cũng cố hạ 

cái giọng vốn ồm ồm rất vang của mình:

- Mấy hôm nay bỗng có tiếng đôn là trên huyện 

đang bất bình với chú, đang đặt câu hỏi nghi vế 

là chú có thành kiến với ông Phúc như bác Hàm 

không? Có cùng là người chủ mưu không? Một việc 

như thế, anh làm em không thể không biết. Cháu có 

hỏi thẳng ông Sửu là tin từ đâu tung ra? Ông ấy 

cười cười bảo: Miệng lưỡi thiên hạ có giời lần? 

Nhưng cháu nghĩ là chính ông ấy đang tung hoả 

mù! Vì đây là cơ hội tốt để ông ấy củng cố uy tín.

- Không cần chấp vặt! Cứ yên trí là khi lật ngược 

được thế cờ thì tất cả thòng đong tép mại đang a 

dua nhảy nhởn đớp bóng lại tự khắc im rè! 

Thủ vừa nói vừa đứng dậy, như đó là lời kết luận. 

Chú cháu họ bước ra khỏi nhà.

Trăng đầu tháng uốn một mảnh cong gài trên ngọn 

tre.

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Mười hai - VN thu 

quan

Họp chi bộ vào khoảng tám giờ tối, thì bí thư Xuân 

Tươi (dân làng vẫn gọi đồng chí Tươi bằng cả tên 

con tên bố như vậy để khỏi nhầm) phải đến từ bảy 

giờ. Đi mượn chìa khoá cửa của cô giáo Oanh ở tận 

cuối xóm, rồi tìm dây treo đèn, kê lại bàn ghế, 

tất cả những việc ấy bí thư phải làm tuốt ráo! 

Trước đây vẫn có nếp ai làm bí thư, thì họp chi bộ 

luôn ở nhà người ấy. Gia đình chuẩn bị sẵn nước 

chè, điếu đóm, cứ như nhà có đám. Nhưng rồi thấy 

lợi bất cặp hại, là nhiều việc Đảng viên chưa tỏ, 

mà quần chúng đã tường. Nhiều điều chỉ mới bàn 

riêng trong chi bộ thì ngay hôm sau đâu làng 

cuối xóm đã nói ầm ầm, bởi chính vợ con bí thư đã 

đi phổ biến nghị quyết của đảng một cách đầy sốt 

sắng và kiêu hãnh! Thế là phải dời địa điểm. Cho 

dù làm vậy có hạn chế tính quần chúng, tính thân 

mật, nhưng được cái Đảng ra Đảng, dân ra dân! Đảng 

thì có nhiều việc chỉ được biết trong phạm vi hẹp, 

còn dân thì bao giờ cũng thích chia vui cho cả 

làng cả chợ! Nếu thấy ít chưa đủ vui, thì họ suýt 

ra nhiều cho xôm trò! Bé xé ra to?

Đây là lớp mẫu giáo, nơi trung tâm nhất của cả ba 

xóm. Đây chính là nhà giữ trẻ từ những năm còn 

chiến tranh, nơi cô Lạc vợ trước của trung tá Chỉnh 

đã làm việc và đã gây ra những vụ xì-căng-đan 

khiến nghiêng ngã cả làng Giếng Chùa. Phó chủ 

nhiệm và đội trưởng sản xuất lúc ấy đã bị Lạc bắn 

tỉa vàdiệt gọn ở chính trong nhà này.

Bí thư Xuân Tươi chuẩn bị xong, sang nhà bên lùa 

vừa hút thuốc lào, nghe chừng mọi người đã đến đầy 

đủ, anh mới quay về. Xuân Tươi là cán bộ ở phòng 

văn hoá huyện, chỉ nhinh hơn Thủ vài tuổi, nhưng 

đã hưu non từ năm kia, vì nghe đâu năng lực cũng 

không được dồi dào lắm; cả văn lẫn hoá cũng chỉ tạm 

dùng khi bấn người! Nhưng được cái lúc nào cũng hồ 

hởi lạc quan, cứ vui như Tết! Xuân Tươi được nổi 

tiếng ở đại hội chi bộ năm ngoái. Hôm ấy người ta 

tranh luận khá căng thẳng về vấn đề đoàn kết trong 

chi bộ chưa tốt. Có hiện tượng mâu thuẫn cá nhân 

bắt nguồn từ mâu thuẫn gia đình, dòng bọ. Giữa lúc 

không ai thắng ai, chủ toạ không thể kết luận 

được, thì Xuân Tươi lúc ấy chỉ là một đảng viên 

thường, mới mang giấy sinh hoạt đảng về được vài 

tháng, giơ tay xin nói. Anh lên bục đàng hoàng. 

Xuân Tươi bắt đầu mở máy. Anh nói làu làu tư duy 

mới là thế nào, xu thế thời đại hiện nay là từ đối 

đầu chuyển sang đối thoại ra sao. Chiến tranh giữa 

các vì sao là thế nào! Rồi chương trình SDI của 

Mỹ, rồi đề nghị huỷ bỏ vũ khí tầm trung của Liên 

xô! Rồi giải trừ quân bi, hoà bình là mái nhà 

chung của nhân loại! Những chuyện ngoài lề của 

cuộc gặp gỡ cấp cao Xô-Mỹ mà anh ngồi chầu rìa 

nghe hóng được, Xuân Tươi tung ra như mưa rào. Mọi 

người đang căng thẳng vì những chuyện quá cụ thể, 

giờ được nghe chuyện trời cao đất dày thấy sướng lô 

tai, nên ai cũng há mồm ra nghe. Khi kết thúc 

bài nóiquan trọng, Xuân Tươi đã giơ tay lên quá 

đầu như một chính khách, và anh kêu gọi thống 

thiết: Các đồng chí! Chúng ta hãy nhìn xa trông 

rộng bằng đôi mắt đại bàng, chứ đừng nhìn thế giới 

bằng đồi mắt gà ri! Tiếng vỗ tay rầm rầm. Một tiếng 

hô lớn Xuân Tươi muôn năm!

Đến khi đề cử cấp uỷ mới, Xuân Tươi đã được mấy 

người giới thiệu, và anh đã trúng phiếu cao nhất! 

Một bí thư không có trong dự kiến.

Thực ra Xuân Tươi trúng cử không phải do bài phát 

biểu tịt mù cung thang kia, mà cái chính là Xuân 

Tươi không phải người gốc ở đây. Cả vợ anh cũng 

không dính dáng với dòng họ nào trong làng. Hắn 

là dân ngự cư,và cũng chỉ là anh ba hoa chích 

choè, không lợi không hại. Nhưng thà thế còn hơn 

là để rơi vào tay người đối chọi với mình. Rồi sẽ 

lôi kéo hắn dần dần! Xuân Tươi không thể biết được 

những thủ lĩnh của những dòng họ lớn của ba xóm đã 

dặn dò đàn em của mình như vậy. Nhưng cho đến nay 

Xuân Tươi vẫn chưa bị người của bên nào lôi kéo. Vì 

ham vui, nên có thể la cà say sưa với bất cứ ai, 

làm như mình cũng có thể ban quyền phát lộc cho 

người khác, nhưng rồi Tươi không làm gì cả! Mà sự 

thực là anh có làm được gì! Đến thảo nghi quyết và 

điều hành những cuộc họp có nhiều vấn đề phức tạp 

là Xuân Tươi đã như gà mắc tóc rồi! Anh quen với 

việc kẻ pa-nô, dán ap-phích và chăng cờ kết hoa 

cho các hội nghị hơn là ngồi chủ toạ hội nghị. 

Những người định lôi kéo Xuân Tươi đã thấy anh chỉ 

là người tào lao! Tất cả mọi tinh anh, Tươi đã 

phát tiết luôn ra cửa miệng trong những lúc 

chuyện gẫu rồi! Người ta đồn là sự nghiệp chính trị 

của Xuân Tươi cũng chỉ được hết khoá này là cùng!

- Thôi ta vào đi các vị! - Xuân Tươi vỗ tay bồm 

bộp. Anh mặc chiếc áo trắng đã ngã màu cháo lòng 

nhưng lại dắt vào trong quần cẩn thận. Khuôn mặt 

nhỏ, nhưng mắt và miệng lại to, tiếng cứ vang 

vang.

- Hôm nay nhiều vấn đề lắm. -ông Thủ đi họp về có 

gì mới không? Rút kinh nghiệm thực hiện nghị quyết 

04 à? ông Luân hay ai chủ trì? Ngày mình ở phòng 

văn hoá, thì ông ấy bên tổ chức, cùng cán sự òn 

èng như nhau. Thế mà nhoáy cái tay ấy lên nhanh 

thế.

Đón điếu thuốc từ tay Thủ, rồi Xuân Tươi vừa như 

nói với Thủ, lại vừa như nói với mọi người:

- Hôm nay họp bàn ngoài mấy nội dung đảng uỷ phố 

biến hôm trước, còn có thêm một việc mới đây uỷ 

ban và ban quản trị hợp tác xã có nhận được đơn của 

ba đội sản xuất ở Giếng Chùa xin gặt chiêm xong 

cho họ được tách ra khỏi hợp tác xã lớn, để họ xây 

dựng hợp tác xã nhỏ như hồi chưa sát nhập. Tất 

nhiên chi bộ không giải quyết việc tách hay 

không. Nhưng đồng chí Sửu đề nghị tôi là họp chi 

bộ chúng ta cần tìm xem nguyên nhân từ đâu? Có 

vai trò Đảng viên ta không? Rách việc thế đấy các 

ông ạ! Các bố trên huyện cứ hay kêu cán bộ dưới cơ 

sở không đi sâu đi sát để tìm hiểu nguyện vọng của 

bà con. Thế còn muốn anh em vào sâu đến đâu!

Tiếng cười hí há. Đấy cách làm việc của bí thư 

Xuân Tươi đấy! Cứ chuyện nọ xọ chuyện kia. Đang tư 

nhằng sang công. Đang chuyện ngoài lề bắt cầu 

ngay vào nghị quyết. Giở thật giờ đùa, chớt chớt 

nhả nhả! Thủ đã góp ý mấy lần, những Xuân Tươi vẫn 

như con hổ, chỉ một cái là quệt vào tai là quên 

sạch!

Nào ta bắt đầu! - Xuân Tươi đứng bên chiếc bàn kê 

trên cùng, phía dưới xếp thành hai hàng là bàn 

ghế của lớp vỡ lòng thấp lè tè. Gần hai chục đảng 

viên đứng ngồi lố nhố. Chỉ có hai phụ nữ tuổi đã 

trung niên, áo cánh quần thâm, rụt rè như đi ăn 

cỗ.

- Các đồng chí bầu cho chủ toạ và thư ký - Xuân 

Tươi nói tiếp.

Một người tận dưới cùng nói to:

- Vẫn như mọi bận thôi!

- Đúng đấy! Đồng ý!

Xuân Tươi ngồi xuống ghế vui vẻ, bỏ qua phần biểu 

quyết, gọi ngay người vẫn quen được hội nghị bầu 

làm thư ký vì văn hay chữ tốt:

- Thế thì xin mời đồng chí Tùng lên làm nhiệm vụ! 

Còn chủ toạ chính là anh. Mọi bận vẫn thế!

Tùng ngồi xeo xéo phía bên kia, giáp bờ tường, 

đang đốt thuốc mù mịt. Vận bộ quần áo lính gọn 

gàng sạch sẽ, đầu tóc ngay ngắn. Với tuổi hai tám, 

Tùng là Đảng viên trẻ nhất ở chi bộ này. Đã được 

quân đội rèn luyện, lại có văn hoá, nhiều người 

nói chính Tùng phải là bí thư ở chi bộ này mới 

đúng.

Tùng dụi thuốc, lặng lặng bước lên. Không ai hiểu 

sao hôm nay anh chàng vốn hoạt bát và tươi bưởi 

này lại ỉu sìu sìu thế kia. ông Phúc ngồi mãi dưới 

cùng trong góc mờ tỏ, vẫn đang rì rầm nói gì với 

người bên cạnh. ông mới đến. Khi đã vào họp, nhìn 

quanh không thấy ông, Thủ bồn chồn lên vì lo. Bây 

giờ là anh yên tâm là màn kịch sắp được bắt đầu! 

Nhưng có như mình dự đoán không? Chỉ cần họp xong, 

ông ấy lại đi có việc ở đâu đó, thế là hỏng bét. 

Mấy hôm nay bà Son đã chuẩn bị cho cuộc gặp này 

thế nào? Sao lúc nãy nghe mình dặn xong, mặt bà 

ấy lại thảng thốt đến thế? Còn thằng Cao nữa, vừa 

mới nghe mình nói, mắt mũi đã sáng lên như sắp 

được đóng phim phản gián! Rồi cái thằng lốp bốp 

trâu luộc cả con này sẽ làm ăn ra sao?

Thôi riêng vấn đề tách hợp tác ta sẽ phát biểu 

sau - Xuân Tươi đứng dậy xua xua tay như rung 

chuông, cắt đứt dòng suy nghĩ miên man của Thủ - 

Các đồng chí cứ phát biểu về việc thu sản trước mắt 

đã. Đang có dư luận là những người khê đọng nhiều 

vẫn tiếp tục ì ra không chịu nộp sản trong chiêm 

này. Nghe nói có Đảng viên và anh em họ hàng của 

Đảng viên cũng nghĩ như vậy. Nếu đúng thế thì ta 

còn vận động được ai nữa.

- Dưng mà ta phải xem là tại sao người ta không 

muốn nộp sản - Một trong hai người phụ nữ đang 

phát biểu thì bị Xuân Tươi cắt ngang, nhưng chị vẫn 

đứng đấy chứ không chịu ngồi. Tươi vừa dứt chị lại 

tiếp ngay. Thì ra hai bà này chẳng bẽn lẽn chút 

nào, chẳng chịu để cánh đàn ông áp đảo, nhất là 

động vào bát cơm manh áo của họ thì coi chừng! Chị 

nói tiếp với giọng chao chát:

- Ai chả biết làm ruộng phải đóng thuế. Nhưng tại 

sao làm quần quật mà chúng tôi vẫn không đủ vắt 

mũi đút miệng? Nhà nông cái gì cũng phải trông 

vào hạt thóc. Nào ma chay cưới xin, nào cha già 

mẹ héo; nào sách bút cho con, tiền đóng học cho 

con môi năm một cao, tất cả đều trông vào hạt 

thóc. Gạo không đủ ăn, nhưng vẫn phải thắt bụng 

cho chặt vào để bán thóc thì mới có tiền mà đóng, 

mà nộp. Vậy thế cho nên vụ chiêm này chúng tôi 

cũng không thể nộp sản hết số còn khê đọng lại. 

Nộp hết thì chúng tôi sống bằng gì? Xã cứ bắt 

những người tham ô nộp trước đi đã. Người tham ô 

tiền của đội 202, tức là tiền vét con sông Đào ấy, 

đã nộp chưa? Người ở trại giống lấy thóc thịt đánh 

tráo vào thóc giống, rồi mang thóc giống đi bán 

chênh lệch đã nộp chưa? Rồi đến gạo nếp để ủng hộ 

bộ đội ở biên giới, ở Trường Sa cũng bị tham ô, thế 

thì chúng tôi còn biết tin ai? Ngay cái nhà ta 

đang ngồi họp đây, nếu năm ngoái chúng tôi không 

đấu tranh thì cũng đã bị dỡ đi rồi. Hỏi rằng dỡ 

hai cái nhà kho, ba cái nhà chăn nuôi từ ngày 

hợp tác Giếng Chùa làm, vậy bây giờ ở đâu? Của đau 

con xót, chúng tôi làm chúng tôi phải thế. Tiền 

có còn hay đã chui vào chai, nhảy lên đĩa cả 

rồi?

- Gớm, bà cứ làm tiền cũng biết nhảy như ếch không 

bằng!

- ếch nhảy cũng chẳng bằng người nhảy!

- Bà cứ nói thắt bụng lại cho chặt, nhưng tôi thấy 

mấy bà ở đội 3 xóm Chùa mới năm ngoái nghỉ đẻ, mà 

bây giờ đã lùm lùm đội kênh cả áo lên rồi!

Tiếng đẻ xen ngay vào, rồi cười khùng khục, phá 

tan không khí căng thẳng.

- Thôi trật tự! - Xuân Tươi vỗ tay bôm bốp - Tôi 

đề nghị chúng ta đi vào nội dung chính.

Thấy rõ là Xuân Tươi đang lúng túng. Việc đòi 

tách hợp tác là việc lớn, không thể bàn ghép vào 

cuộc họp này. Thì đã được biết có chuyện đơn xin 

tách hợp tác từ nửa tháng trước. Những người làm 

đơn xin tách hợp tác còn tố cáo một loạt lthững 

việc bê bối của ban quản trị và các đội trưởng sản 

xuất hiện nay. Mà phần đông những người trong số 

này đều có dính dáng đến nhà họ Trịnh Bá. Thủ đã 

nói với Sửu đây là việc hệ trọng: phải xem xét đã, 

chưa nên bàn rộng vội. Vậy tại sao Sửu đề nghị Xuân 

Tươi đưa ra bàn trong cuộc họp này? Có phải Sửu 

đang muốn rung cả một bụi cây?

Thủ giơ tay, rồi đứng dậy với giọng rất nhã nhặn:

- Việc xin tách khỏi hợp tác xã lớn để trở về hợp 

tác xã nhỏ như trước là một vấn đề lớn, nên chúng 

tôi đã có bàn là phải xem xét kỹ rồi chi bộ sẽ 

bàn riêng trong một cuộc họp khác, cứ bàn chung 

với nhiều việc như hôm nay sẽ không đạt được kết 

quả.

Ông Phúc không giơ tay, mà đứng bật dậy, lời lẽ 

khúc chiết:

- Vậy tôi đề nghị ngay tuần tới ta phải họp để xem 

xét yêu cầu của bà con có hợp lý không? Đồng thời 

đây cũng là một việc xem xét chính Đảng viên cán 

bộ mình đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chưa? Tại sao 

không được bà con tin như trước? Đây là cơ sở để 

chúng ta tiến hành theo nghị quyết 04! Bà con 

người ta đề nghị có văn bản giấy tờ, thì chúng ta 

cũng phải xem xét cho nghiêm chỉnh Tránh tình 

trạng để dây dưa. Việc nhà nông có mùa, có vụ. Mất 

một vụ làm ăn ở người dư dật, có chức có quyền thì 

vẫn không sao, nhưng với người giật gấu vá vai mà 

lỡ một vụ là cả nhà treo niêu đến mấy vụ sau. Bây 

giờ trên đã cho phép rồi ở đâu cán bộ yếu kém 

không lãnh đạo nổi cả hợp tác xã lớn thì nên xé 

nhỏ ra cho vừa sức mình. Cho nên bà con người ta 

đòi chia lại hợp tác là có lý do chính đáng của 

họ. Vì mấy hôm nay đã có tiếng xì xầm chê bai 

những người làm đơn xin tách hợp tác là thiếu ý 

thức chính trị, thiếu tinh thân chủ nghĩa xã hội! 

nói vậy chính là không nắm được chính sách! Lại 

muốn quay lại cái thời đánh trống ghi tên để người 

siêng làm cho kẻ lười hưởng!

Có những tiếng cười nho nhỏ đó đây. Thủ thấy da 

mặt mình đã sầm lên? nhưng anh là người biết kìm 

nén, biết lùi một bước để tiến hai bước, nên Thủ 

vẫn ngồi thản nhiên. Anh lại nghĩ đến Sửu. Thế là 

việc châm ngòi của Sửu đã thành công rồi! Biết 

đâu hôm qua hôm kia Sửu đã đến gặp ông Phúc!

Thấy Cao nhấp nhổm có vẻ nóng tiết, Thủ phải đưa 

mắt cho Cao ra hiệu hãy cho qua! Hắn nói lốp bốp 

chỉ có hỏng việc. Rồi Quàng phụ trách quỹ tiết 

kiệm, em ruột Quềnh, ngồi ru rú đằng kia. Rồi anh 

em Thanh, Thánh với chú cháu Đệ, Đạo Rồi Hoạt, 

Đích, ông Na, ông Bùi. Bố con ông Vi - Vu, anh 

em sinh đôi Hảo Hán. Đấy là những người họ hàng xa 

gần, hoặc được liệt vào hàng ngũ thân tín của Thủ 

đều ngồi im nên phát súng khai hoả của ông Phúc 

như đã nổ vào chỗ không người Dù vậy ông Phúc và 

những người ủng hộ ông ra dáng hỉ hả lắm. Hai người 

em rể ông Phúc chồng bà Lộc, bà Tài. hai khẩu đại 

pháo trên nghị trường của chi họ Vũ Đình cứ ngồi 

rít thuốc tràn cung mây, như muốn nói đây chưa 

cần xuất tướng! Cuộc họp suông sẻ cho đến phút 

chót.

Xuân Tươi tuyên bố cuộc họp kết thúc với vẻ mặt 

thật hớn hở vì theo Tươi cuộc họp đã thành công 

tốt đẹp đúng với tinh thần dân chủ, đối mới, mà 

tính chiến dấu nói thẳng, nói thật mỗi Đảng viên 

rất cao!

Mọi người túa ra vê. Thấy ông Phúc lững thững một 

mình theo lối rẽ, Thủ quay lại tìm Cao. Nhưng anh 

chàng thích đóng phim phản gián còn nhanh hơn 

Thủ, đã biến trước rồi!

Thủ nhìn đồng hồ mười giờ đêm.

Ông Phúc bước những bước thon thả. Ông đang rất 

hài lòng với mình. Dân Giếng Chùa đang thì thầm 

là dòng họ Vũ Đình lâu nay chỉ ở mức lập lờ, không 

chìm nhưng cũng chưa nổi lên được, thì phen này 

xem chừng cờ sắp đến tay! Trước đây chỉ có mình 

ông Phúc và hai người bên ngoại là Đảng viên, nên 

cả thế lực còn yếu. Bây giờ cùng lúc thêm đến bốn 

Đảng viên về làng, mà người nào cũng sành sỏi cả. 

Tùng lại được vào tận Đảng uỷ xã. Dù hai cậu cháu 

còn trục trặc, nhưng chẳng bao giờ anh em họ lại 

bỏ nhau. Một giọt máu đào hơn ao nước lã Bên Trịnh 

Bá định lấy âm trị dương cho êm ả sạch sẽ, nhưng 

không ngờ gậy ông lại đập lưng ông rồi! Bây giờ 

thì họ Vũ Đình không cần làm gì hết. Tất cả đã có 

luật pháp. Vố này cả nòi Trịnh Bá cứ là tai tiếng 

để đời!

Ông Phúc đằng hắng một tiếng rất sanh như tự thưởng 

cho sự hiện diện của thình trong cõi đời, rồi dừng 

lại bên bụi duỗi tối đen khum tay che gió bật lửa 

châm điếu Hê-rô của anh em Hảo Hán lại mời thuốc 

ông Phúc! óng ưa thuốc lào kia, nên bây giờ chẳng 

nên câu nệ, lòng ông đang thảnh thơi quá, thuốc 

gì chả ngon?

Ông Phúc vừa xoè lửa, thì bỗng một tiếng gọi rất 

sẽ ngay bên cạnh, trong bụi cây:

- Ông Phúc!

Gần như giật nảy người, ông Phúc lùi lại một bước 

với dáng điệu tự vệ, khiến người gọi cũng cuống lên 

vì sợ ông bỏ chạy!

- Ông Phúc! Tôi đây? Tôi đây mà!

Chưa dứt những lời hào hến, bà Son đã hiện ra ngay 

bên cạnh. Bà mặc quần đen và chiếc áo xanh vốn rất 

đẹp của Đào, giờ đã cũ, nhưng còn rất bén, khiến 

cái dáng đầm đậm tấm thước của bà vẫn gọn gàng mau 

mắn. Bà chỉ mặc quần áo cũ của Đào mà vẫn được 

tiếng là trau chuốt. Trong đêm, ông Phúc thấy bà 

vận toàn đồ đen. Từ người bà toả sực lên mùi quết 

trầu thơm cay, ấm nồng.

- Bà đấy à?... Bà... Bà gọi tôi? ông Phúc ngỡ 

ngàng, hơi bối rối đến ngờ vực.

- Thế ông nghe chưa thủng hay sao? Tôi phải chờ để 

gặp được ông từ tối đến giờ. Sao mà cái thân tôi 

nó tội đến thế! Tôi muốn thưa chuyện này với ông!

Bà Son vừa nhả bã trầu, vừa nói trầm trầm rầu rĩ. 

Bà ăn miếng trầu cũng là để giết thời gian mà 

thôi. Bà đứng, đầu hơi cúi, hai tay vòng trước 

ngực. Mái tóc còn rất dày cuộn một búi tròn sau 

gáy.

Ông Phúc bóp điếu thuốc trong tay, hỏi nhỏ:

- Bà định nói chuyện với tôi? Có chuyện gì nữa mà 

nói? 

Giọng bà Son trở nên tức tưởi:

Ông bây giờ thì còn thiết gì, còn biết gì đến ai! 

Ông chỉ cần được việc của ông. Ngay từ ngày xưa ông 

đã như thế! Có bao giờ ông coi lời tôi làm trọng 

đâu! vậy mà lúc nào ông cũng nắm được đằng chuôi. 

Tôi vẫn nghĩ chả khi nào tôi phải gặp ông để cầu 

cạnh. Thế mà rõ thật cái số tôi!

Ông Phúc giật lùi chân một bước, kêu lên:

- Chết! Chết! bà nói gì thế? Sao lại chuyện nọ sọ 

chuyện kia như thế? Đứng đây nhỡ ai đi qua...

Bà Son cũng giật mình sực tỉnh. Bà đã chuẩn bị sẵn 

từ tối những lời nói với ông Phúc. Vậy mà bây giờ 

bà không kìm nổi sự dồn nén của tiềm thức. Tiếng 

là cùng làng, nhưng từ lâu môi người mỗi cảnh, mỗi 

phận. Làng xóm luôn luôn nhìn vào, họ hàng 

nghiêng ngó, nên không bao giờ hai người còn đứng 

chuyện trò với nhau. Từ ngày có hợp tác, mỗi người 

ở một đội, nên càng xa nhau. Thảng hoặc bất ngờ 

gập nhau ngoài đường chỉ khe gật đầu chào nhau vội 

vã chân vẫn bước. Người này hoàn toàn không biết 

được người kia nghĩ những gì về mình. Yêu hay 

ghét? Trong lòng có còn chút bâng khuâng nào, 

hay đã hoàn toàn giá lạnh? Bấy giờ nghe bà Son 

nói với giọng chì chiết giận hờn, tim ông Phúc 

bỗng nhảylên như bước hụt! Thì ra bà ta văn nhớ 

hết! Cấm bỏ sót tí gì! Ngày ấy khi gia đình nhất 

quyết bắt bà phải lấy chồng. buổi tối gặp nhau ở bờ 

sông, bà ấy đã nói thế nào nhỉ?

- à quên! Tôi xin ông! Bà Son hoảng hốt khi thấy 

mình không kìm nổi những điều âm ỉ vẫn cất kỹ 

trong cõi lòng. Nhưng sao lại nói những chuyện ấy 

vào lúc này?

- Tôi có câu chuyện muốn nói với ông, mà phái 

nói dài dài nó mới ra nhẽ. Đứng đây không tiện. 

Ông vui lòng đứng khuất vào trong này một tí.

Bà Son nói những lời ấy một cách hào hển, rồi bà 

lui vào cánh bãi sau gốc duối, đến ngồi thu mình 

cạnh bụi cây dành dành và bụi dứa dại, với những 

tàu dứa vừa to vừa dày và nhọn hoắt như những 

thanh gươm chĩa lên tua tủa cao quá đầu người, từ 

bụi dứa sang bụi dành dành, dây tơ hồng giăng mắc 

chằng chịt, trong bóng tối, đêm nhạt mờ nhìn như 

một tấm lưới sắt.

Ông Phúc đứng lặng một lúc lâu, lòng ngổn ngang 

rối bời. Ông bỗng thấy như mình vừa như lay lại một 

cái gì, nhưng lại mơ hồ có một điều gì phấp phỏng 

lắm. Ông vừa muốn nghe bà Son giãi bày, lại vừa 

lảng tránh, bởi chắc chắn những điều bà sắp nói 

chẳng vui vẻ gì; thế nào cũng liến quan đến cái 

người mà không bao giờ ông muốn nhìn mặt. Nhưng đã 

đên nước này thì không thể trốn được nữa. Trong 

thâm tâm chưa bao giờ ông ghét bà Son. Chưa bao 

giờ bà ấy là người lừa lọc.

Ông Phúc dắng một tiếng nhỏ trong cổ, rồi lùi vào 

rặng cây bước từng bước rất chậm. Đã về khuya, ánh 

sáng sao nhạt nhoà, hơi sương phơ phất như khói 

nhạt khiến cánh bãi lờ mờ như trong chiêm bao. 

Ông Phúc khẽ khàng đi lại bụi cây dành dành, 

người bỗng châng lâng sợ sợ. Bà Son ngồi xổm, hai 

tay ôm lấy gối, đen sẫm, lặng phắc như bất động.

- Ông ngồi xuống đi! - Bà Son nói trầm trầm, khó 

khăn như rút từng lời từ trong ngực - Hôm nay tôi 

gặp để xin ông một việc. Đúng là cái số tôi chẳng 

ra gì! Muốn sống yên phận cũng chả được! Mang 

tiếng là chồng con nhà cửa dè huề, nhưng có lúc 

nào tôi được vui, được thoa nguyện. Chủ không ra 

chủ, tớ không ra tớ! Ngẫm ra đời tôi lận đận là từ 

cái ngày tôi phải lòng ông! Từ bấy giờ tôi không 

làm chủ được cả thân tôi! Lấy những là để giừ cái 

tiếng cho bố mẹ thế là vì bố mẹ chứ đâu phải vì 

mình! Nếu ngày ông thực lòng vì tôi, cùng ý với 

tôi bỏ đi nơi khác làm ăn, no đói có nhau, thì 

chắc đời tôi không đến nỗi. Có no mà không có 

vui, có lành mà không có ấm như thế này!

Tiếng bà Son tắc lại, ngạt đi. Bà gục mặt xuống 

hai đầu gối, vai run lên từng nhịp. Bà không định 

nói thế. Nhưng vừa cất lời lại không kìm được 

lòng. Những điều u uẩn vẫn cất kỹ từ lâu, mấy hôm 

nay lại bồn chôn bật dậy. Từ tối đến giờ đã chực 

sẵn nơi đầu lưỡi. chỉ cần giáp mặt người vừa yêu vừa 

ghét kia là những lời ấy bật ngay ra.

Ông Phúc hốt hoảng nhìn quanh, rồi tự thấy mình 

đứng lêu đều như thế này thì thật là ngớ ngẩn, dại 

dột nữa. Ông liền lóng ngóng ngồi xuống, và chẳng 

biết nói gì, hỏi gì, cứ nhìn lom lom vào đôi vai 

còn tròn trịa của bà Son đang run lên trong tiếng 

nấc, lòng dạ bồn chồn rối rắm. 

Đã lâu lắm rồi, xa xưa lắm rồi, từ ngày ông còn là 

cậu giáo Phúc trường đồng ấu, đầu xanh mỡ, mặt 

vuông. da trắng. Mặc dù đã yên bề gia thất, nhưng 

ông vẫn đứng núi này trông núi nọ, vì càng gần 

người vợ bố mẹ chọn cho, cái cô Dần khô chân gân 

mặt ấy, thì cậu giáo Phúc càng thấy đời mình trống 

vắng thiếu hụt. Vậy mà khi người con gái đẹp nhất 

làng, đã cuồng nhiệt trao hết tình yêu cho cậu, 

rủ cậu bỏ làng ra đi liều! Tối ấy, khi bố mẹ nhất 

quyết phải bắt Son lấy chồng, Son đã tất tả chạy 

ra gốc cây bạc thau trên quãng vai cày bờ sông, 

áo quần bay lật phật, mái tóc dài cuốn vội vã, 

chiếc lược thưa vẫn cài vắt vẻo đỉnh lọn tóc. Cô ào 

đến Phúc, đổ người vào ngực Phúc. vừa nói vừa thở 

dốc:

- Bỏ đi đi anh! Đi đâu cũng được! Mình có hai 

bàn tay, chịu khó chịu khổ thì ở đâu chả kiếm được 

miếng ăn. Thấy u em nhất định bắt em phải lấy thằng 

thọt ấy rồi! Họ đang bàn với nhau là tuần sau 

cưới! Thế thì em chết còn hơn! Bỏ đi anh! Báu gì ở 

cái đồng đất thóc mách này. Thế nào? Anh nghĩ thế 

nào mà đứng đực ra thế?

Son ngửa khuôn mặt nước mắt chan hoà lên vừa khóc, 

vừa lắc người Phúc như lắc, như run một cái cây 

chết đứng! Đến khi Son xoắn tay vào bả vai Phúc 

hỏi dồn, Phúc mới lâm bẩm như người mất hồn:

- Nhưng biết đi đâu bây giờ? Sểnh nhà ra thất 

nghiệp! Thế là bà Son đấm bình bịch vào ngực Phúc, 

gào lên: Thì ra anh là người hèn nhát! Anh lừa 

tôi? Anh coi tôi là đồ chơi? Anh còn nhớ anh thề 

thốt những gì không? Nói ra anh chỉ gan cái lỗ 

mồm! Anh chỉ biết đến thân anh! Anh tiệc cái nhà 

ngói, cái sân gạch chứ gì? Anh tiếc con vợ mặt 

lưới cày chứ gì? Đã thế thì anh về đi! Bước cho 

khuất mắt tôi đi!

Có tiếng gõ lách cách vào mạn thuyền đuổi cá dưới 

sông, Phúc bịt miệng Son, nhưng cô vằng tay ra như 

một con chim cắt xù lông vẫy cánh, giọng cứ rít 

lên:

- Không việc gì phải sợ! Cả làng, cả tổng người ta 

nói dăng dăng là tôi dan díu với anh, tôi không 

sợ thiệt thì anh lo gì! Giời ơi khổ thân tôi!

Vừa nấc lên trong tiếng khóc, Son vừa chạy vụt đi. 

Lon tóc xổ ra, gió quạt tung toá phủ kín cả lưng.

Đêm ấy - ông Phúc nhớ lắm, cũng sáng lờ mờ lợt 

nhợt như đêm nay. Đấy là đêm gặp gỡ cuối cùng của 

hai người, và khởi đầu của mối tình thù dai dẳng 

đến mấy chục năm!

Sau đêm ấy một tuần Son lấy chồng, lấy anh Hàm 

thọt. Rồi Son vẫn sống như mọi người vợ, mọi người 

đàn bà khác: chẳng việc gì phải chết như cô nói! 

Từ đấy môi người một phận, mỗi người một con đường 

riêng. Vẫn thấp thoáng trông thấy nhau. nhưng 

không còn biết gì về nhau nữa. Vậy đêm nay bà ấn 

định nói chuyện gì? Chả nhẽ gặp dấm dúi thế này chỉ 

xới xảo những chuyện ngày xửa ngày xưa? Bà Son vẫn 

úp mặt vào lòng bàn tay trên đầu gối. Đôi vai đã 

bớt rung. Chỉ còn những tiếng xịt soạt khe khẽ. Ông 

Phúc hỏi rụt rè:

- Bà còn định nói với tôi chuyện gì nữa?

Bà Son như sực tỉnh. Bà ngồi thẳng lên, lấy ống 

tay lau mặt, nói rì rầm: 

Thôi thì dù sao tôi phải lo cái phận tôi. Lo cho 

mấy đứa con tôi. Thôi thì ông ghét tôi. Ông 

khinh ông Hàm nhà tôi, nhưng ông hãy rộng lòng 

với mấy đứa con tôi! Chúng nó chả làm gì nên tội. 

Ông hãy bỏ qua cái vụ này, ông rút đơn kiện về! 

Rồi tôi sẽ nói anh em họ Trịnh có lời xin ông. Thế 

là ông được trả ơn cho cả một chi họ. Còn mẹ con 

tôi đã được ông làm phúc.

Ông Phúc bỗng sững người ra giọng đã tỉnh khô:

- Ai nói với bà đi làm việc nay? Có phải tay Thủ 

không?

Bà Son cuống quít lên. Bà quay sang hốt hoảng nắm 

lấy tay ông Phúc đang chém chém vào không khí 

như sợ ông chạy đi mất. Bà nói vội vã, môi run 

bắn:

- Không! Không! Không ai xui tôi đâu. Đây là tự 

tôi nghĩ ra. Các ông chỉ nghĩ đến kiện nhau, thì 

tôi cũng phải nghĩ ra làm cái gì chứ! Ông hãy vì 

tôi mà làm phúc làm đức. Cả đời tôi chỉ xin ông 

một lần này!

Vừa nói Bà Son vừa nắm chặt tay ông Phúc. Bàn ta 

bà lạnh giá, run lật bật. Đang sắp nổi cáu, ông 

Phúc bỗng chùng hẳn người xuống. Miệng ắng lại. Cơn 

hoả vừa lốc lên, những lời cay nghiệt vừa định cất 

lên bỗng khô cứng lại trong miệng. Toàn thân ông 

như có một luồng điện chạy. Ông ngồi đơ ra. Rồi như 

một bản năng, một tia lửa vẫn tờ mờ le lói tiềm ẩn 

ở mãi nơi thầm sâu, giờ đang lần lần hồi nhiệt.

Ông quay sang se sẽ nắm lấy tay bà Son. Bàn tay 

nhỏ nhắn, vẫn những ngón thon mềm đã một thời siết 

chặt vào da thịt ông, nhưng tuột khỏi ông gần hết 

cả cuộc đời rồi! Bà Son văn để yên tay mình trong 

lòng bàn tay ông Phúc.

Cả hai cùng bàng hoàng nhìn thẳng vào mắt nhau, 

đờ đẫn thẫn thờ! Ông Phúc hỏi lập bập:

- Thế ra bà cũng khổ à? Tôi lại nghĩ là bà sung 

sướng lắm.

Bà Son nói lao hển như hụt hơi:

- Đâu phải có ăn có mặc là sướng. Có khi bữa rau 

bữa cháo vẫn sướng, mà có cơm ăn ba bữa, có quần 

chùng áo dài lại vẫn là khổ.

- Nhưng chả nhẽ bà lại không có quyền gì ở trong 

gia đình? Nghe người ta nói bà muốn may sắm gì, 

mua bán gì, từ bộ quần áo đến việc đi góp giỗ ở 

bên ngoại cũng phải hỏi chồng?

Thế là ông Phúc đã khơi trúng vào chỗ dễ buồn tủi 

nhất của lòng mình, bà Son khóc nức lên. Bà bíu 

chặt vào cánh tay ông Phúc. Một trong những đòng 

tác nhiệt thành của cô Son từ thời xa xưa chợt 

thức dậy, sống dậy với cả hai người. Bà nói thổn 

thức không cần phải giữ gìn nữa:

- Đấy, tôi sướng thế đấy! Sướng đến có tiền có gạo 

trong tay là chi tiêu may sắm gì cũng phái ngửa 

tay xin! Rõ thật cái thân tôi!...

Vừa nói, bà Son vừa xoắn vào cườm tay ông Phúc. 

Chính lúc ấy, lúc hai người xoá đi những e dè 

ngăn cách, đang bộc bạch những nỗi niềm không dễ 

nói với ai, thì đánh rào một cái, như từ trên 

trời rơi xuống, như từ dưới đất mọc lên; một bóng 

người tối thẫm nhảy qua bụi cây từ phía sau lại, 

gằn giọng trong cổ họng, sắc lạnh:

- Ngồi im! Động cựa tôi bắn!

Tiếp lên là ánh đèn pin sáng loè, hoa vào mặt 

hai người rồi chiếu lom lom vào bàn tay bà Son 

đang rụt vội khỏi cánh tay ông Phúc. Phó ban 

công an Cao kéo chiếc mũ lơ-vit sụp xuống mặt cho 

ra dáng thám tử, đứng sững sững trước mặt hai 

người, súng ngắn đeo thây lây giữa bụng. Một bóng 

người nữa từ bụi duối ngoài đường hấp tấp đi lại. 

Bà Son kêu lên kinh hãi khi nhận ra cái người đi 

rình thứ hai là ai: 

- Chú Thủ? Chú định làm cái thế này? Chính chú 

bảo tôi!...

- Bá im ngay! - ông em chồng vội cắt ngang lời bà 

Son, nói lấp ngay đi:

- Bá có thể về được! Rồi anh em tôi sẽ nói chuyện 

với bá? Đồng chí Cao làm nhiệm vụ đi! Bà Son vùng 

đứng dậy, vừa chạy tong tả, vừa oà khóc.

- Bây giờ chúng tôi đề nghị ông làm biên bản! - 

Cao tắt đèn, nhưng vẫn nhìn lầm lầm vào ông Phúc, 

nói gằn từng tiếng.

- Biên bản thế nào?

Ông Phúc hỏi nhỏ ngơ ngác, rõ ràng là giọng của 

người đang chịu nhún. Nhưng Cao đã như muốn nổi 

xung. Anh vô bồm bộp vào bao súng: nói như đọc 

lệnh:

- Còn biên bản gì nữa! Biên bản của hành động vụng 

trộm bất chính! Đêm hôm khuya khoắt dắt nhau vào 

bờ bụi để ôm ấp than thở, vậy là cái gì? Hay ông 

đang thảo luận về việc xin tách khỏi hợp tác xã 

lớn đấy?

Ông Phúc đứng bật dậy, củng đã muốn xô xát lắm 

lắm.

- Chính các anh bày ra cái trò đốn mạt này! Các 

anh bảo bà ấy đến gặp tôi để xin tha tội.

Cao đã nổi cáu, tiếng đã như muốn gầm lên:

- Đứng im! ông có hành động chống đối tôi nổ 

súng. 

Thủ tiến lên một bướcn giọng dẽ dàng, cái dẽ dàng 

của một con mèo vờn chuột, của người đã nắm chắc 

phần thắng, nên không có việc gì phải ồn ĩ:

- Cao thôi, không cân to tiếng. Bây giờ ta bàn 

việc người lớn với nhau.

Thủ quay sang ông Phúc dù đêm nhạt nhoạ dưới ánh 

sao mờ nhạt, nhưng vẫn thấy rõ bốn mắt gườm gườm 

nhìn như xỉa vào nhau. Thủ hạ giọng đến ngọt ngào:

- Bây giờ thế này ông Phúc ạ. ta lấy tinh thần là 

người làng người xóm, lấy tinh thần đảng viên để 

nói chuyện với nhau! Gia đình chúng tôi muốn yên 

chuyện mà ông cũng vậy. Chứ bây giờ làm ầm ĩ cho 

cả làng biết rằng ông với bà Son dắt nhau ra đồng 

giữa đêm khuya thì còn ra thể thống gì! Lại giữa 

lúc ông Hàm đang như thế! Người ta sẽ nghĩ ông đã 

lợi dụng! Rồi về mặt tồ chức, chi bộ có để ông yên 

không? Ông xấu mặt đã đành, mà bên gia đình 

chúng tôi cũng không thơm tho gì! Vậy thì ta cần 

bàn kín với nhau, không để hở cho ai biết, cả ông 

Hàm chúng tôi cũng sẽ không nói. Chúng tôi chỉ 

yêu cầu ông rút ngay đơn kiện về. Chính trên 

huyện đang mong như thế. Các đồng chí đó không 

muốn có rắc rối. Khi ông đi rút đơn, tôi sẽ nói 

với mọi người là hai gia đình đã tự giải quyết được 

với nhau. Cụ thể là nói với ông đã lấy tinh thần 

cán bộ Đảng viên ra thoả thuận,lới nhau, vì nghĩa 

lớn đã bỏ qua những việc vụn vặt. Như thế ông chỉ 

được tiếng tốt chứ không mất mát gì. Ông đồng ý 

chứ?

Ông Phúc nói với giọng của người đã bị mắc câu:

- Sao anh không nói thẳng với tôi như vậy? Việc 

gì phải bày ra cái trò nhí nhố này?

Thủ hình như khẽ cười. Người ta bảo Thủ có tiếng 

cười rít gớm, cái cười của mật ngọt chết ruồi!

- Thôi không nên để ý những chuyện vặt? Ta thống 

nhất với nhau như thế. Nhưng làm gì cũng phải cho 

đàng hoàng, cho nên vẫn phải có một cái giấy cho 

có đầu có đuôi. Ông yên trí, xong xuôi mọi việc, 

tôi sẽ xé tờ biên bản này trước mặt ông. Cao viết 

đi! 

- Giấy gì? Biên bản gì? - ông Phúc hỏi giật 

giọng.

Thủ vẫn ngọt nhạt:

- Cũng vẫn chỉ là chuyện thủ tục bình thường thôi! 

tôi đã hứa danh dự với ông là xong việc sẽ hủy 

ngay.

Rồi như đã chuẩn bị đâu vào đấy, cao cởi dây súng 

đưa cho Thủ, ngồi xuống bật đèn, rút quyển sổ 

trong túi quần, bấm bút bi tanh tách, viết soạn 

soạt rất nhanh. Thủ thắt dây súng vào ngang sườn 

đứng lom lom như canh gác cả hai người.

- Xong rồi, tôi ghi thế này. 

Cao ngẩng lên, dắt bút vào túi đọc:

Chúng tôi là Trịnh Bá Thủ, bí thư đảng uỷ và Trần 

Cao, phó ban công an, trên đường đi làng nhiệm vụ 

về lúc mười giờ đêm, đã bắt được ông Vũ Đình Phúc 

và bà Ngô Thị Son đang làm những việc vụng trộm 

bất chính ở bãi trồng bạch đàn cạnh cánh đồng Ma 

Voi. Để giữ gìn trật tự an ninh và sự trong sáng 

của xóm làng, chúng tôi không hô hoán làm to 

chuyện, mà chỉ góp ý xây dựng và làng biên bản 

này để có chứng cớ là chúng tôi không bịa chuyện. 

Chúng tôi can đoan là nói đúng một trăm phần 

trăm sự thật. Dưới đây là chữ ký của đương sự

Ông Phúc chồm lên:

- Không đúng? Xuyên tạc! Vu cáo? Vụng trộm bất 

chính ở chỗ nào? Tôi không ký liếc gì cả.

Vừa nói ông Phúc vừa vùng vằng định bỏ đi, thì Thủ 

đã buông lời sắc lạnh:

- Ông không thể đi được! Nếu ông bỏ chạy, bắt buộc 

tôi phải nổ súng! Làng xóm sẽ ầm ĩ lên. Còn bà 

Son thì ông nên biết, lúc này tôi bảo gì bà ấy 

phải nghe! Khai thế chứ khai nữa cũng được. Vậy là 

chúng tôi những ba người, ông chỉ có một không, ai 

thắng ai? Nhưng tôi không vu vạ đâu. Cao xoá mấy 

chữ vụng trộm bất chính đi. Vậy là được chứ?

- Phải yêu cầu ghi rõ là chính bà ấy đi tìm gặp 

tôi để yêu cầu tôi rút đơn kiện.

Ông Phúc đáp xẵng, nhưng Thủ vẫn nhẹ nhàng. Con 

mèo đã nắm chắc phân thắng, cần gì phải múa vuốt 

với chuột! 

- Ông có thể ghi thêm tất cả những điều ấy, vì 

chúng tôi có biết bà Son nói những gì với ông 

đâu! Ông cứ viết thêm tất cả ở phía dưới, rồi ký 

tên. Cao đã bấm đèn và đưa sổ, đưa bút cho ông 

Phúc. Và ông Phúc đã gù gù cái lưng, cố giữ cho 

khỏi run tay, viết thêm nửa trang giấy trong 

quyển sổ Mậtcủa Cao, rồi ký tên.

Bút sa gà chết! Con chim đã lao vào bẫy! Con cá 

đã chui vào lờ! Thủ cầm quyển sổ, bấm đèn nhìn 

lướt qua những dòng ngều ngào và chữ ký run run 

của ông Phúc, hài lòng nhét vào túi. Đoạn Thủ 

quay sang ông Phúc nói với giọng gần như thân 

tình:

- Ông Phúc ạ, hai giờ chiều mai tôi chờ ông ở uỷ 

ban xã. Tôi sẽ nói với cả Đảng uỷ và uỷ ban là tôi 

với ông đã giải quyết mọi chuyện với nhau ở phạm 

vi gia đình, đã vì tình nghĩa làng xóm mà xoá 

hết những hiềm khích cá nhân. Vậy là tôi đã làm 

đẹp cho ông! Ông nhớ nhé! Dứt lời. Thủ tắt đèn 

quay gót đi ngay, bóng tối trùm lấy người anh!

Có tiếng cú rúc phía đồi ông Bụt. Mấy hôm nay bà 

Cả Ngật cứ hấp háy cặp mắt lông quặm mà thì thầm 

là tối tối đại bàng bay về đậu đen trên cây si cụt 

ở đồi ông Bụt, tiếng quạt cánh của các ngài cứ vù 

vù như tiếng quạt hòm! Rồi đom đóm lập loè như sao 

sa, rồi cú rúc quanh cây si ấy, nhiều điềm lạ lắm!

Chưa ăn thua! Nào đã thấm tháp gì! Những điều lạ 

ấy còn khướt mới sánh được với điều lạ vào chiều 

ngày hôm sau ở ủy ban xã! Lạ mà lại nhìn thấy nhỡn 

tiền, lạ mà thật như đếm mới càng lạ!

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Mười ba - VN thu quan

Vố này thì không phải chỉ riêng làng Giếng Chùa mà cả xóm Mới, xóm Trại, tính sơ sơ hơn hai ngàn hộ hơn sáu ngàn khẩu cứ chăm chăm xem cánh nhà Vũ Đình sẽ hạ bệ cánh nhà Trịnh Bá thế nào. Tông tộc của Đại - Sang - Phúc - Quý Lộc - Tài sẽ dồn đẩy tông tộc của Hoành - Hàm - Long - Thủ - Ngọc - Báu vào ngõ cụt ra sao thì bỗng chách một cái, tất cả kinh ngạc đến ngã bổ chửng!

Theo lệ thường, hai giờ chiều, văn phòng Đảng ủy và ủy ban - gồm hai gian nhà ở liền nhau, mới lác đác có người đến. Nhưng hôm nay mới hai giờ kém mười lăm, Thủ đã có mặt. Quần màu be, áo cộc tay màu nước biển, tóc chải ngôi, mặt mũi điềm tĩnh. Người ngoài nhin không biết anh vui hay buồn. Thủ dựng xe rồi đứng trên hiên gọi to:

- Bác Vòi đâu? Lên mở cửa nhá

Bõ Vòi đang dội nước tắm uôm uôm, tưởng có khách trên huyện, trên tỉnh về thay xống áo tập tễnh đi lên. Đến khi chỉ thấy một mình Thủ, lão ngạc nhiên. Vừa mở khóa, bõ Vòi vừa thầm hỏi:Quái, sao hôm nay anh cu này lại có vẻ hách thế nhỉ? Giở chứng chắc! Người ta đang đồn là sắp mất chân bí thư đến nơi, chẳng nhẽ khôn róc như anh ta lại không biết?

- Bác để nhà cửa bẩn quá đấy - Thủ vào nhà nhìn quanh, nói nhẹ nhàng nhưng lạnh lùng.

Bõ Vòi vừa đi tìm chổi, vừa nói lầm bầm, trong lòng càng thấy lạ:

- Chiều hôm qua các ống ấy họp về muộn, tôi chưa kịp dọn. Hôm nay có khách ở trên về hả anh?

- Không có trên nào cả, nhưng vẫn phải phải sạch sẽ, có nước có chè.

Nói rồi Thủ bước ra ngoài, đi loanh quanh nhìn ngắm mấy khóm hoa, khóm táo, rồi thủng thẳng sang khu trường học, điệu bộ thật thong dong nhàn tản. Bõ Vòi nhìn theo không còn hiểu ra làm sao. Cứ tưởng ông bí thư đang bí rì rì, cuống cà kiêng lên mới phải, chứ còn lòng dạ nào mà ngắm hoa thưởng nguyệt. Chính Bõ Vòi đã bảo mỗi khi Thủ sang khu trường học để thăm mấy cô giáo viên là anh đi thưởng nguyệt đấy! Những lúc ấy lòng dạ phải phơi phới lắm. Vậy hôm nay trúng quả gì mà anh ta lại túng tắng thế nhỉ?

Vừa thấy chủ tịch Sửu đến, bõ Vòi đã từ dưới bếp chấm phẩy chạy lên, ghé sát vào tai Sửu thì thầm, cặp mắt vần vú những tia đỏ vì ngấm nhiều rượu cứ đảo lên. Nghe xong Sửu chỉ cười khủng khỉnh, rồi xách cặp bước lên nhà với cái dáng của ông chủ số một ở đây: Sửu được biết trên huyện đang rất buồn bực về Thủ. Hôm qua lên trên ấy có việc, cả chủ tịch và trưởng ban kiêm tra cứ hỏi liệu trong vụ đào bới này có vai trò của Thủ không? Sửu đáp lập lờ: Không biết thế nào mà lường! Vì bí thư của chúng tôi có phải là người ruột để ngoài da đâu! Về xã Sửu khuyến khích những người xưa nay vẫn muốn chống Thủ nhưng chưa có dịp, thì bây giờ đã có cớ đẩy Thủ vào thế cô lập rồi. Lâu nay Sửu vẫn phải đưa vào Thủ để củng cố vị trí của mình, nhưng Sửu văn âm thầm ấm ức khi biết mọi người vẫn nhún mình là cái bóng của Thủ, vẫn coi mình là anh ngụ cư phải sống tựa vào Thủ, nên nhìn việc Thủ bao sân sang công việc chính quyền, có những quyết định độc đoán, Sửu vẫn phải vui vẻ, phải lặng thinh. Như hồi trong năm mới đây, xã quyết định mở chợ ở đầu cầu treo bắc qua sông Công phía cuối xã kia. Hôm bàn cụ thể về việc thu thuế cầu, thuế hàng Thủ lại vắng mặt. Hôm sau Sửu nói lại. Thủ bỗng gắt ầm lên và chỉ ra những chỗ hớ đến ngờ nghệch trong những quy định của bọn Sửu.

Lần sau cái gì không biết nhớ hỏi tôi đã, chớ vội vàng như vậy thì đến mấy con mẹ buôn vặt nó cũng vừa dược ăn, vừa được cười cho! Thủ xẵng giọng nói, còn Sửu thì cứ phải ngồi ngay tán tàn. Vì cái thế của Thủ đang mạnh. ở trên huyện Thủ quen thân hơn Sửu nhiều, còn dưới này thì vây cánh đông lắm Sửu cứ phải làm thinh chịu lép. Nhưng bây giờ thì khác rồi! Gió chuyển rồi! Mấy hôm nay đã có người nói vui: Bác Sửu chuẩn bị kiêm luôn chân bí thư đi là vừa! Thì quyền bí thư cũng được. Sang năm đại hội, cờ sẽ vào tay bác chứ ai! ở đâu không biết chứ ở đây bí thư vẫn quan trọng hơn chủ tịch nhiều. Bởi thế nghe câu nịnh mình dù quá sớm, nhưng Sửu cũng thấy sướng tai!

Sửu vừa bày số sách ra bàn thì Thủ về.

Anh đấy à? - Sửu quay ra vồn vã như thường ngày, rồi đứng dậy tráng ấm pha trà. 

Thủ ngồi xuống ghế cũng hỏi với giọng bình thường như mọi khi: 

- Mấy hôm nay có gì không? 

- Không anh ạ! - Sửu rót nước ra chén, mùi chè ướp hoa sói toả thơm ngát- Tối qua bên anh họp chi bộ à? - Thủ nhìn vào mặt Sửu, nói thăm dò

- Họp để triển khai nội dung mấy hôm trước thường vụ ta đã bàn.

Rồi không thấy Sửu nói gì, thế có nghĩa là Sửu chưa biết những chuyện diễn biến sau đó. Tốt lắm. Thủ hỏi sang điều mà anh mới nghe được: 

- Nghe nói anh đã quyết định bỏ tổ truyền thanh?

Sửu vẫn chép chép từng nhụm nước nhỏ qua kẽ răng, và mặc dù giọng vẫn ngọt ngào nhưng rõ ràng đây là lần đầu tiên Sửu vẫn dám tự ý quyết định một công việc, và cũng lần đầu tiên Sửu nói với Thủ bằng gịong của người ngang hàng, cũng là một cách thăm dò sự phản ứng của Thủ ra sao! 

- Thì việc này tôi đã nói mấy lần trước trong các cuộc họp là bây giờ lấy thóc đâu chi cho tổ truyền thanh? Xà xẻo như trước là gay rồi! Tổ những ba người, bây giờ cũng ít việc, mà lại ăn thóc bằng người làm việc cả ngày là không hợp lý. Thêm nữa, dạo này lại nghe người ta xì xào là cậu Hiên với cô Gấm cùng trong tổ truyền thanh nhiều chuyện léng phéng lắm. Vậy thì tốt nhất là giao quách máy cho trưởng ban văn hóa bắt anh cu Đích phải học thêm cách điều khiển máy. Truyền thanh với cờ đèn kèn trống về một mối là gọn. 

Thủ cũng vừa nhấp nước, vừa thủng thẳng hỏi lại: 

- Nhưng lại có ý kiến cho rằng phải bỏ chính cái anh chàng Đích chúa tào lao chúa qua loa đại khái ấy thì sao? Rồi giao luôn những việc cờ đèn kèn trống cho tổ truyền thanh. Sang năm ta thành lập thư viện như kế hoạch đã bàn, thì tổ truyền thanh kiêm luôn cả thư viện, vì cô Gấm trước đây đã học trung cấp thư viện, do phân công đi xa, nên cô ấy bỏ, anh không biết sao?

Mới có thể mà xem chừng Sửu đã bị 1-0! Sửu đang lúng túng chưa biết tự biện hộ cho mình ra sao, thì bỗng có tiếng líp xe tanh tách ngoài sân: rồi phó ban công an Cao bó người trong bộ bò mốc loang lổ, hiện ra ở cửa, Hôm nay có vẻ trọng đại thế này, mà chiếc ba-bét của Cao lại hỏng.

- Báo bí thư và chú tịch, ông Phúc có việc muốn gặp đảng ủy và uỷ ban 

Thấy Sửu sửng sốt, đến không biết làm gì, Thủ đứng dậy vồn vã:

- à mời đồng chí Phúc vào đây - Rồi quay sang Cao - Đồng chí sang gọi anh Bí, rồi cùng đến đây nghe luôn. 

- Rõ! Cao đáp như một người lính, rồi quay gót. 

Lương Văn Bí là phó bị thư thường trực. Vì là người trung dung tốt tính, nên mọi người vẫn gọi là Lưu Bị. Bí cùng ở trong thường vụ với Thủ và Sửu. Nhà Bí ở cạnh khu trường học. Lúc nãy Thủ sang đấy dặn Bí cứ ở nhà để tý nữa có cuộc hội ý thường vụ, chứ đâu phải Thủ đi tán gái như bõ Vòi vội nghĩ hấp hoảng.

Ông Phúc mặc bộ quần áo tàu tàu, bỏ chiếc mũ lá cọ ra, ngồi xuống ghế. Mặc dù miệng khẽ mĩm cười cho có vẻ tự nhiên. Nhưng ngay Sửu là người chưa biết tí gì về màn kịch này, cũng không thấy điệu bộ ông có cái gì gượng gạo. Cập mắt ông khô khô hình như thiếu ngủ. Thủ đứng dậy, tự đi xúc ấm pha trà mới. Sửu không biết làm gì, liền rót nước sôi tráng từng cái chén, bụng càng hồ nghi. Quái quỷ thật, hai ông này như Sơn Tinh - Thủy Tinh, sao bỗng dưng lại thân mật với nhau thế này? Mà sao lại cả thường vụ và công an ngồi nghe cái gì nhỉ? Hòa hay chiến đây? Tay Thủ không nói gì, nên Sửu cũng lặng thinh. Thành ra cả bí thư và cả chủ tịch cùng làm ra vẻ chăm chú vào việc pha trà để phục vụ một đảng viên thường! Và ông Phúc cũng như đang dằng co điều gì trong lòng nên im ốt. Không ai dám nhìn vào mặt ai. May quá Lương Văn Bí và Cao đã tới. Thủ nlồi xuống ghế ở chính giữa: đúng vị trí của người chủ trì. Anh đã quên khuấy ấm nước vừa pha. Giọng mềm mỏng, cân nhắc.

- Đây không phải là họp thường vụ, mà tôi chỉ muốn sự có mặt của thường vụ và công an để chứng kiến sự hòa giải giữa hai gia đình và họ hàng chúng tôi với gia đình và họ hàng đồng chí Phúc. Cũng xin thông báo với thường vụ biết, có cuộc hòa giải này là do tôi đã chủ động gặp đồng chí Phúc tối hôm qua, và chúng tôi đã nhất trí việc làm sai của ông Hàm để hai gia đình chúng tôi tự giải quyết với nhau. Thôi thì chín bỏ làm mười, chứ nhờ đến pháp luật can thiệp thì nó sứt mẻ đến cái tình làng xóm láng giềng! Để cho đàng hoàng ba mặt một lời nên tôi có mời đồng chí Phúc tới đây, coi như chúng tôi thông báo cho cả thường vụ được biết. Về phần tôi, tôi rất cám ơn đồng chí Phúc đã giữ đúng lời hứa. Bây giờ xin nhường lời cho đồng chí Phúc!

Cả Sửu và Bí cứ trố mặt ra hết nhìn Thủ lại nhìn ông Phúc, cứ như mình đang bị cặp đối thủ này cuốn vào một trò chơi ú tim. Ông Phúc vẫn hơi mỉm cười gượnh gạo. Ông hắng giọng, rồi cũng nói như lời gần như Thủ. Cả hai người đại diện cho hai dòng họ ghê gớm, chưa chịu nhường nhau đến một sợi tóc, bây giờ đúng thời điểm tốt nhất để sát phạt, có dịp dồn nhau vào tận chân tường, thì bỗng cả hai bên cùng đề cao chuyện nhân nghĩa! Cũng vì tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, xí xóa hết mọi hiềm khích nhỏ nhen. Đến nước này thì ếch trong mả, cua trong lỗ cũng phải bò ra mà chúc mừng hoà bình vạn tuế!

Ông Phúc nói xong tất cả cùng ngồi lặng phắc, đến nỗi Thủ phải nhắc khéo Anh Sửu anh Bí có ý kiến gì không?.Lúc ấy Sửu mới sực tỉnh và anh lập bập nói: Xin thay mặt chính quyền xã rất hoan nghênh thiện chí của cả đôi bên. Sự kiện này sẽ là tấm gương đáng cho tình đoàn kết không chỉ ở Giếng Chùa mà là tấm gương cho cả xã!

Thủ lại tiếp lời:

- Theo kế hoạch giữa tôi và đồng chí Phúc đã thỏa thuận, ngay sau dây đồng chí Phúc và đồng chí Cao thay mặt trưởng công an sẽ lên huyện làm việc với các cơ quan chức năng nội dung vừa rồi. Theo tôi để cho đàng hoàng, để cho các anh trên huyện thấy đây là sự tự nguyện chứ không phải ai ép buộc ai, ta nên có biên bản về cuộc gặp gỡ này

Cao ngồi một mình giáp phía tường, liền nhau nhảu đứng lên: 

- Tôi ngồi đây nghe đôi bên trình bày đã thảo luôn biên bản rồi.Giờ đây các đồng chí xem, rồi hai đương sự ký trước, dưới là chứng thực của chính quyền địa phương.

Lần này thì không những Sửu Bí mà ông Phúc là người bất ngờ nhất, bị động nhất. Chỉ có Thủ là không một chút ngạc nhiên, vì tất cả đã diễn ra đúng như ý định của anh. Rất đẹp! Thủ xem trước ra vẻ chăm chú rồi ký rất đậm phía dưới. Mấy người tiếp theo cứ như bị thôi miên, cùng ký soạn soạt trên mặt giấy. Thủ tự tay gấp tờ biên bản đưa cho Cao rồi đứng lên như là tuyên bố kết thúc cuộc gặp gỡ. Anh giục Cao và ông Phúc lên huyện ngay kẻo hết giờ làm việc.

- Tôi tưởng chỉ một mình chú Cao lên huyện là đủ - Lương Văn Bí hỏi khẽ Thủ.

Thủ liếc nhanh ông Phúc, giọng đến là thân tình:

- Có mặt bác Phúc càng đẹp! Vì bác là bên nguyên chủ động rút đơn. các anh trên ấy cần hỏi gì càng tiện.

Nhìn hai người dắt xe ra khuất bụi tre. Thủ mới quay lại Sửu giọng vẫn ngọt như không:

- Mấy việc anh quyết định vừa rồi, hôm nào họp thường vụ ta bàn lại. Nếu thấy cần thì anh cứ giải thích với mọi người là những công bố hôm trước mới là dự kiến. Bây giờ tôi phải về có chút việc gia đình. 

Dứt lời, Thủ bước xuống sân dắt xe đi ngay. Nhiều bóng người lố nhố trong nhà bõ Vòi đồ ra, mon men đi lên. Đây là những người đi xin dấu xin giấy và cả những người tò mò đi săn tin về cuộc họp với những thành phần rất lạ mắt này. Bí nhìn theo bóng áo màu ghi rất nhã của Thủ đang mờ dần trong năng quái, rồi quay sang lắc đầu với Sửu:

- Tài thật! Xoay chuyển được đến thế thì tài thật! Đối thủ này cao cường lắm, ông chưa lay được đâu ông Sửu ạ!

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Mười bốn - VN thu quan

Chỉ đến chiều tối là cái tin đích thân ông Phúc cùng với phó ban công an Cao đã lên tận huyện để xin cho bác cháu ông Hàm được về, bác cháu ông Hàm trắng án, đã lan truyền khắp mấy làng, từ Giếng Chùa bắt sang xóm Trại, lây lan sang xóm Mới, nhanh như lửa cháy, gây sự sửng sốt y như năm ngoái thằng cu Biếu con ông phó Biếng hoạn lợn, đi lên tỉnh xem đá bóng, mua chơi cái vé xổ số năm hào, đã trúng thưởng năm triệu! Hôm ấy vợ chồng phó Biếng suýt chết ngất vì sướng! Lần này không ai phải suýt chết, nhưng rõ là mọi người kinh ngạc đến mức cứ há mồm ra mãi lúc sau mới hỏi được: Thế là thế nào? Thì còn ai biết thế nào! Chịu! Chỉ còn bí thư chi bộ Xuân Tươi, ông thần lạc quan, là lớn tiếng khái quát ngay rằng như vậy mới đúng xu thế thời đại đối đầu chuyển sang đối thoại! Rằng lịch sử đã sang trang, vậy chả nhe một phân tử nhỏ là làng Giếng Chùa lại dậm chân tại chỗ!

- Đối đầu mới chả đối đuôi! Nói tù mù như bác rõ chán mớ đời! - Mấy bà thợ gặt nghe Xuân Tươi hùng hồn, chỉ nhe răng hạt na gỉơ đen giở nâu ra cười.

Giữa lúc ấy Thủ đã tắm táp xong. Anh mặc bộ pi-gia-ma màu sáng, ngồi ngả trên ghế sa-lông, lim dim nhả khói thuốc. Anh đang tận hưởng chiến tích của một trận thắng lớn giữa lúc anh đã mười mươi chiến bại. Chuyển bại thành thắng. Anh đã bắt được đối thủ đang ở thế thắng phải hạ vũ khí và tự nguyện làm tù binh? Lúc ra khỏi văn phòng ủy ban, Thủ về thẳng nhà, cũng không cần báo cho mẹ con bà Son biết vội. Từ hôm qua tới giờ anh chưa gặp bà Son. Hãy cứ để cho những âu lo buồn tủi thấm đậm vào người bà ấy! Chiều nay Thủ không muốn tiếp ai, không muốn gặp ai. Sự thỏa mãn làm Thủ đến lặng cả người! Anh cứ ngồi như thế cho đến lúc nghe Luyến nói láo pháo ngoài ngõ, rồi tiếng xe cải tiến chở lúa cót két ngoài sân.

Thày em về rồi đấy à? - Luyến hỏi vọng vào, rõ là tiếng hỏi của người đang sung sướng.

Thủ vừa ngồi thẳng dậy, chưa kịp trả lli, thì Đào với hai tay áo sắn cao tóc búi cao mặt đỏ ửng như cô vừa ngừng tay tuốt lúa, huyện vừa từ trong bếp chui ra, bẽn lẽn đi vào rồi dừng lại trước cửa nói rụt rè lễ phép:

- Thày cháu vừa về mời chú sang chơi. 

Thủ đứng đậy nhin cô cháu gái xinh đẹp và bướng bỉnh, mấy hôm nay có lúc đã dám nói hỗn; ánh mắt của Thủ như muốn nói : mày chỉ là con nhãi nông nổi!. Thủ khẽ ờ mà không cần hỏi thêm một câu. Đào quay ra bảo Luyến: Thím đừng nấu cơm chú đấy nhé, lên cháu đã sắp rồi, có cả anh Cao ở chơi. Rồi cô tong tả đi ngay. Những bước chân cứ như múa.

Lát sau trời tối hắn, Thủ mới thong thả đi tắt qua những bãi chè sang nhà ông Hàm. Từ xa đã thấy nhà ông trưởng họ sáng choang nhờ cây đèn lớn treo ngoài hiên, dấu hiệu lồ lộ là nhà cửa đang vui, đang trà dư tửu hậu. 

Một đống lúa xếp cao ngất giữa son. Chiếc máy tuốt đứng cạnh, nhưng không ai làm. Mẹ con bà Son đang tíu tít dưới bếp. Cả người đàn bà làm thuê hôm nay cũng phụ bếp. Thóc lúa hãy bỏ cả đấy đã. Mùi xào nấu từ bếp bay ra ngào ngạt. Thủ quở con khoang, rồi đi thẳng vào nhà trên. Bộ pi-gia-ma màu sáng bắt ánh đèn trông càng nhã, lại thêm những bước đi khoan thai đường bệ. Bởi chính anh là tác giả cửa chiến thắng này, của cuộc vui này. Vậy thì anh cũng phải được tự ngắm vuốt mình một chút, được kiêu kỳ một chút chứ!.

- Chú đấy à? - ông Hàm đang tìm đồ thay trên cái chạc móc áo dựng ở góc nhà, quay lại hỏi Thủ. Rõ ông trưởng họ lại cháu chào trước những người dưới quyền mình. Chắc ông vừa tắm xong, đang tìm bộ tươm tất để tẩy hết cái lốt thằng tù trên người! Cao đang giở nằm giở ngồi trên đi-văng liền vực dậy, nói nhỏ với Thủ:

- Cháu chưa nói gì với bác Hàm đâu. Trên đường về cậu ưởng với cậu Ngạc cứ hỏi, cháu chỉ nói xoay chuyển được thế này là tất cả do chú, cháu không biết tý gì. 

Thủ khẽ gật đầu, hỏi ngay cái điều anh đang quan tâm:

- Bí thư và chủ tịch đã biết chưa?

- Cả hai cụ đang ở dưới Phú Ngọc dự triền khai nghị quyết 04. Nhưng cháu đã gặp chánh văn phòng bạn chú, ông ấy mừng lắm và phục lắm, hứa là hai cụ về sẽ báo cáo ngay. Mà có khi tin đã bay xuống Phú Ngọc rồi! Các cơ quan huyện bàn tán ầm lên rồi còn gì! Buồn cười, lúc làm các thủ tục xong, cháu quay lại đã không thấy ông Phúc đâu nữa. Chuồn nhanh thế! Hẳn là ông ấy cú lắm! Nhưng như thế cũng là được, đôi bên cũng có lợi, coi như không có chuyện gì đã xảy ra.

Thủ cười nhạt, hỏi nhỏ:

- Thế anh tưởng sự việc dừng lại ở đấy à?

Thấy Cao ngơ ngác một cách thành thực, Thủ càng hạ giọng, nhưng tiếng nào rõ tiếng ấy:

- Tuần sau ta triển khai nghị quyết 04, đấy là thời cơ để ta dứt diềm trường hợp Vũ Đình Phúc! Chứ làm nửa vời rồi có lúc chết! Nhưng làm thế nào thì phải tính kỹ đã!

Ông Hàm đi ra trong bộ quần áo màu gụ, vải mỏng, may rộng cho mát. Thủ quay lại hỏi:

- Thằng ưởng với thằng Ngạc về nhà luôn à?

Ông Hàm cầm thiếc lông gà thông điếu bát mặt ông gầy hẳn đi, nhưng đôi mắt cá rói cứ chơm chớp, biết là ông chưa hết xúc động:

- Thì để nó về cho các bá ấy mừng.

Con khoang bỗng sủa hộc lên. Bà Son từ nhà bếp chạy ra. Một giọng khề khà từ ngoài sân:

- Dì đấy hả? Nghe nói dượng về, tôi sang mừng đây.

Thì ra là ông Khừu anh rể bà Son, một đệ tử của thần ma men. Mới ngoài sáu mươi, nhưng ông đã kheo như cổ xưa như người sống hàng thế kỷ. Cao chạy ra dìu người đàn ông lọng khọng trông như được cấu tạo bằng toàn những gióng những đốt! Ông Khừu thập thỏm bước lên thềm, hấp háy cặp mắt nhìn nào giọng vẫn ề à:

- Chú cứ mặc tôi, trông thế chứ tôi còn trường sức chán! Tôi đã nhẩm tính có dễ đến hơn ba tấn rượu đã đi qua người tôi chứ ít ỏi gì! Lộc trời đấy chú ạ! Không phí đâu! A ông Thủ đây rồi, hay quá! Từ tối đến giờ tôi nghe làng bàn tán là ông đã xoay xoả dẹp yên được cái vụ này thật là giỏi. Tôi phục quá. Ông đúng là người tề gia trị quốc tài nhất cái xã này!

Thủ khẽ cau mà nhưng miệng vẫn cười hỏi ông thần rượu những câu tầm phào cho vui. Vừa lúc Đào lễ mễ bưng chiếc mâm đông lên đặt vào chiếc giường chân quỳ. Thịt gà luộc chặt to, cá trắm cỏ rán vàng, nem cuốn, dứa xào lòng gà, đĩa nào cũng to xếp có ngọn. Ông Hàm bê cả cái hũ da lươn đặt lên giường. Thủ quay ra gọi to:

- Bá lên trên này. 

Bà Son mặc chiếc áo trắng cộc tay thấm đẫm mồ hôi, tất tả chạy lên, vồn vã: 

- Thôi tôi ngồi dưới này, đâu cũng thế. Mời bác, chú với anh Cao xơi rượu với bố cháu. Vừa nói, bà Son vừa km đáo nhìn Thủ để đo chừng thái độ của ông em chồng thế nào. Nhưng bà chỉ đọc được sự tảng lờ trên gương mặt trái xoan rất thanh, rất nhẹ, vậy mà từ đêm qua đến giờ bà luôn nơm nớp lo sợ gương mặt ấy.

Giữa lúc ở đầy mọi người đang nâng chén vại rượu tăm đục lờ đờ gắp vào bát cho nhau những miếng thịt gà vàng ênh, trong nhà ngoài sân đèn sáng rời rợi. Cả đến con khoang hôm nay cũng đi với chú mèo mướp tham lam đang ngàu ngàu trong xó nhà. Đúng là khi chủ nhân vững thế thì cái khí cái thân từ con vật nuôi trong nhà cho lới đầu hè xó bếp cũng có sắc diện, mất tiêu sự lạnh lẽo, yếm thế.

Sự lạnh lẽo hôm nay đã sà đôi cánh xuống nhà ông Phúc. Ông vừa về, đi lặng lẽ lúi súi như bộ dạng một anh mất của. Cả nhà chờ mãi, vừa ăn cơm xong. Hỏi, ông đáp nhát gừng ăn rồi. Rồi đi rửa chân, lên giường nằm ngay. Bà Dần vợ ông định nói là lúc chập tối chú Tính, chú Hảo tức là hai ông em rể chồng bà Lộc bà Tài sồn sồn đến tìm ông. Nhưng thấy ông củ rủ quá, nên bà thôi. Bà Dần sực nhớ là ngay từ đêm qua, lúc ông đi họp về đã có cái gì bồn chồn lắm, cứ lục sục hết nằm lại dậy uống nước, hút thuốc như người có bệnh mất ngủ rồi sáng hôm nay ở nhà tuốt lúc ống ấy cũng bần thần thế nào ấy. Cho đến chiều tối nay người ta bàn ầm lên là ông Phúc bị hớ rồi! Bị mắc quả lừa rồi! Bà túm lấy hỏi, thì người ta trợn mặt lên : Bà về mà khảo ông ấy! Đúng là người ta có lý, là chủ nhaan bắt được trộm giờ bỗng dưng lại đi xin tha cho thằng kẻ trộm. Thế có phái là người dở hơi không? Có phải bị ăn quả đắng không? Hay ông ấy đã nhận cây nhận chỉ của nhà ông Hàm nên mới giải hòa thế. Bà Dân đang muốn hỏi ông cho rõ ngọn ngành đây. Trông thất thần thế kia thì làm gì có cây với chỉ. Có mà chỉ rối! Bà Dân giục thằng Cân đi học bài, rồi bà đổ gạo vào cối giã. Mấy hôm nay cái máy xát nhà ông Quản Ngư bị hỏng, nên cả làng lại phải xay tay, giã chân như thời xửa xưa. Bà Dân nhún từng nhịp cối, óc cũng như để đâu đâu. Cái chầy cứ nhẩn nha nện từng nhát thịch... thịch... nghe buồn rã rời như là cái cối cũng đang ngủ gà ngủ gật!

iReader

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Mười lăm - VN thu quan

Khi khi bà Son đã làm xong hết mọi việc trong ngày từ dọn dẹp ngoài sân, cất con dao cái thớt: rồi soi đèn nhìn lại cửa chuồng gà xem chị em Đào đã đóng chưa. Lúc ấy trên nhà, anh em bác cháu Ông Hàm mới bắt đầu pha tuần trà thứ nhất. Sau cùng, bà Son xách siêu nước lên đổ thêm vào phích, rồi vẫn lặng lẽ bà câm chiếc đền con đi vào buồng.

Cái Hoa chưa kịp dắt màn, đã nằm dang cả hai tay ra ngủ thiêm thiếp. Thật tội con bé mấy hôm nay nó cũng ăn ngủ thất thường, mặt mũi cứ thờ thẫn như người thiếu hồn thiếu vía. Chỉ từ tối đến giờ nghĩa là từ lúc ông Hàm về, nó mới bừng sắc lên. Bây giờ ngủ lăn như một sự đền bù. Bà Son buông màn, nhè nhẹ sửa hai tay con bé cho thẳng thớm, rồi bà nằm xuống bên cạnh, trút ra một hơi thở dài. Nhà năm gian, ngăn hai đầu hai uồng. Đây là nơi ngủ của bà với cái Hoa. Ba gian giữa là bộ mặt chính của gia chủ gồm có bàn thờ tủ buýp- phê, sa -lông và chiếc giường chân quỳ bóng sẫm toàn lát chun, đây là nơi nghỉ của ông Hàm- Gian buồng đầu bên kia đùng cất thóc lúa, dựng xe đạp và kê một chiếc giường nhỏ đấy là chỗ ngủ của Đào. Tối nay Đào sang ngủ với Minh tồ vì bố mẹ Minh về tận Chã ăn giỗ mai mới lên. Mọi hôm người đàn bà làm thuê cũng nghỉ trên này để mẹ con bà Son thêm bóng thêm vía. Từ lúc ông Hàm về, chiếc chõng tre đã được xuống nhà ngang để người khác hộ tịch ngủ dưới đó. Xem ra bà Son và cả cô chủ nhỏ sắc sảo là Đào đều hài lòng với người đàn bà vô gia cư này. Chị ta làm rất khỏe, ăn rất khỏe. Cơn gạo chiêm mà mỗi bữa cứ đánh bay sáu bát, nhưng được cái trả công thế nào cũng được. Nhà còn nhiều việc nên bà Son bảo chị cứ yên tâm ở đây. Bà Son tắt đèn, nằm lắng nghe chuyện của mấy người đàn ông ngoài nhà. Bình thường như mọi hôm, bà cũng ngồi uống nước góp chuyện phiếm, nhiều lúc còn nói át cả ông Hàm. Nhưng hôm nay thì bà không thể ngồi vào đấy được. Bốn người ngồi kia có đến hai đã rình nghe hết những chuyện đêm qua của bà. Bà đang như con cá bơi giữa một chùm lưỡi câu cứ dăng lơ lửng quanh mình. Bà về đi, rồi anh em tôi sẽ nói chuyện với bà Từ đêm qua đến giờ tiếng nói sắc lạnh ấy cứ luôn văng vẳng bên tai bà. Lúc đó bà đã chạy gần về nhà, vừa chạy vừa khóc với nỗi tủi hờn uất ức. Cả đêm cứ giở thức giở ngủ người người mệt như vắt sức đi. Sáng dậy bà vẫn đi làm như thường, trưa vẫn đi đưa cơm cho bác cháu ông ăn như thường, nhưng bụng thì thắc thỏm như có ai sắp túm lấy áo mình. Buổi chiều nghe người ta bàn tán về cuộc họp tay ba tay tư ở trên xã, bà đã bỏ dở buổi gặt về nhà bụng dạ bồn chồn ngong ngóng chờ. Đến khi trông thấy Cao đèo ông Hàm về, bà lao bổ ra, vừa cười vừa khóc:

- Kìa thày nó! Anh Cao đi giúp bá đấy ư? Hoa ơi, thày về!..

- Thôi mẹ nó im đi, tôi về đây rồi! - ông Hàm nhìn bà nói nói trầm trầm. Đó là câu nói yêu thương nhất đời của ông. 

Đào cũng bỏ gặt về. Mấy mẹ con cứ quýnh lên. Nhưng tất cả đều ngai nói ngại cười. Lặng lẽ đi chuẩn bị bữa tối. Bà thở ra âm thâm. Thế là ông ấy đã về. Đã tai qua nạn khỏi. Liệu có chuyện gì nữa không? Người ta vẫn bảo Thủ là đa mưu lắm, làm cái gì là làm đế cùng, có thật không? Thì đã cầu được ước thấy rồi còn mưu với mẹo để làm gì nữa?

Bà Son lắng nghe. Ông anh rể có rượu vào đang nói ầm ầm. Nhưng bây giờ là rượu nói chứ không phải ông Khừu nói, mười câu chẳng được một tiếng cứ chuột đi như người rụt lưỡi. Bà Son mới một nhắm mắt, thấy như có một làn sương tê mê toả xuống người mình. Bà thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn.

Lúc ấy bên ngoài đã tàn đến ấm trà thứ ba. Cao ngáp dài đứng lên. Ông Khừu củng đứng lên. Cao lại phải hộ tống ông tần ma men chân nam đá chân xiêu về nhà. Bây giờ chỉ còn hai anh em ông hàm cùng ngồi duỗi chân, tựa lưng vào thành giường. Vừa ngh Thủ kể sự tình - Thủ thấy cần phải cho ông Hàm biết, bởi còn nhiều việc phải làm tiếp nữa, chứ chưa dừng ở đây, nhưng ông Hàm đã hỏi với giọng hỏi lại:

- Thế chú và thằng Cao có theo sát ngay từ lúc nó gặp nhau không? Chắc chắn là chưa có chuyện gì không?

Thủ vẫn mềm mỏng, vai trò cố vấn, vai trò chỉ huy lúc này là anh chứ không phải là ông Hàm nữa :

- Bác cứ bình tĩnh không được sồn sồn lên. Nào đã có chuyện gì. Khi thấy bà ấy khóc lóc, vừa kể lể, mà lão ta vẫn trơ ra, chỉ lo lão nghe nghe hết chuyện mình rồi đánh bài chuồn thì thật sôi hỏng bỏng không, vì thế em với thằng cao mới nhảy ra. Phải lập được cái biên bản thì mới xoay được theo ý mình. Chứ bác tưởng xỏ mũi hắn dễ lắm đấy. Thế là đã xong bước một. Bây giờ phải tiếp tục tận dụng triệt để thế mạnh ta đang có. Cánh bên ấy thêm mấy đảng viên mới về, rồi ông Chỉnh, ông Kính cùng bộ đội dễ vào hùa với nhau nên họ đã mạnh rồi đấy. Chỉ đến khoá tới này anh chàng Tươi mất chức bí thư với họ. Thế thì ta phải nhằm ngay vào cái gốc chính mà nhổ! Không có anh đầu trò thì rồi sẽ lộn tùng phèo, mỗi người một phách. 

Thủ vẫn đang say sưa với phương án phải bẻ gẫy cây cột cái nhưng ông Hàm đã như không nghe thấy gì hết. Máu ông đã nóng lên rồi! Ông cắt ngang lời Thủ, tròng mắt đã tối lại:

- Thế nhà tôi nó khóc lóc kể lể những gì? Nói xấu tôi những gì? Trong lúc cả làng đói vàng mắt, cháo không có mà húp, thì ở đây ăn vẫn ba bữa no lòi kèn ra, thế thì còn đòi gì nữa?. 

Thủ nhìn bàn tay ông anh với những ngón to ngắn, đầu tù thô nháp cứ rung rung khi cầm chén nước. Thủ biết ông ấy đã nóng mắt lắm, nên anh càng dẽ dàng

- Bác cứ bình tĩnh, em kể cho bác biết là để phải cùng lo việc lớn trước đã, chứ việc nhà như cái trong nơm, làm gì phải vội!

Thủ chưa dứt lời. Ông Hàm đă đập tay xuống chiếu. Thoắt cái, ông lại ngồi vào đúng cái chiếu trưởng họ của mình:

- Chú không phải dạy khôn tôi! Đến lão Khừu say đái ra quần mà còn biết có yên gia mới bình được quốc, nữa là người khôn, người tỉnh! Những việc chú thấy cần làm thì cứ dấn lên, càng nhanh càng tốt! Còn việc trong nhà thi tôi phải lo!.

Hli anh em cùng lắng đi, không ai nói một câu. Lúc sau Thủ đứng đậy hạ giọng rất trầm. dặn dò ông Hàm: 

- Bác đừng làm ầm lên hỏng việc, lúc này đang rất cần đến bác đấy!

Rồi Thủ ra về. Anh em nhà này vốn không quen chào mời đưa tiễn nhau. Ông Hàm cứ ngồi lầm rầm rên giường. Niềm vui được thoát nạn trong ông đã nhẹ vợi hẳn đi. Lúc chiều khi thằng ưởng, thằng Ngạc hỏi: Cao chỉ nói: Tất cả là nhờ chú Thủ. Ông Hàm đã tưởng vì quen thân bí thư và chủ tịch huyện, nên Thủ đã xin được, nào ngờ. Đành rằng lập được cái mẹo này cũng là đáo để, nhưng ông vẫn như bị mất một cái gì. Ông chợt nhớ hồi năm ngoái sang bên sông ăn cỗ, tình cờ ông đã gặp một anh biết xem tử vi cùng ngồi chung một chiếu rượu. Mặt mũi hắn còn non choẹt nhưng sau một lúc tính toán, hắn đã phán câu này nghe ghê cả người: Tuổi ngựa của bác là sáng trí lắm. Tuổi này thuộc cung ly, tính nóng, sách đã có câu cung ly chính hướng nam phương, ai mà cung ấy tính người nóng thay. Bác rất hoa tay. Thích tự làm lấy mọi việc bằng chính đôi tay của mình. Người cung này trông khô, nhưng lại đam mê. Có thể vứt bỏ tất cả vì tình! Thờ ơ với mọi lời khuyên can! Nhưng chính vì thế mà dễ bị lừa vì tình, vì mù quáng quá!.

Có phải ta đã mù thật? Đã bị lừa thêm một lần nữa thật? Ông Hàm nóng nảy thục chân xuống nền nhà, tập tễnh đi đến cửa buồng, kéo tấm màn gió, gọi trống không vào khoảng tối mông lung:

- Ngủ rồi à?.. Hả?

Bà Son cựa mình như là vừa thức vì tiếng gọi, nhưng tiếng bà trả lời lại rất tỉnh:

- Ông gọi gì?

- Ra đây đã!

Thế là đã đến lúc! Bà Son biết ông chồng đã gọi to như vậy tức không phải để làm cái việc ấy. Theo lệ ngầm giữa hai người từ rất lâu rồi, từ ngày con cái đã khôn lớn, vợ chồng bà không ngủ chung giường. Nhưng hễ đang ngủ, bà Son bỗng thấy có bàn tay rờ rờ lần tìm, rồi hai đầu ngón tay thô tháp bấu vào cổ chân mình, lay lay, thế là bà biết cái bóng người lờ mờ đang lẹt sét đi ra giường ngoài kia là ai, và đang cần gì ở bà. Bà se sẽ ngồi dậy, cố không để cái Hoa thức giấc. Bà rút chiếc khăn tắm, và trên người chỉ mặc phong phanh, hai chân bước thật nhẹ đi ra. Rồi khi bà vừa ngả người xuống chiếc giường chân quỳ thoang thoảng mùi rượu và mùi thuốc lào, ông Hàm đã hăm hở mà vẫn lặng lẽ không một lời mơn trớn; tấm thân to ngang, rắn chắc của ông đã trườn phủ lên bà.

Nghe nói những người có khuyết tật từ bẩm sinh, hoặc thọt chân, khoèo tay, hay cận thị, thì bà mụ nặn sẽ đền bù sang cơ quan sinh tồn, họ trở nên mạnh mẽ khác thường. Ông Hàm đúng là người như vậy. Ông tuổi ngựa, chỉ còn hai niên nữa là ông đã lục tuần, nhưng chưa bao giờ Trịnh Bá Hàm chịu bất lực khi làm chức năng của người đàn ông. Hình như cái thân, cái cốt đầy cường tráng của nòi nhà mã mà ông cầm tinh đã thấm sâu vào từng mao mạch cua ông. Dẻo dai. Ông Hàm lúc nào cũng dẻo dai. Những lúc ấy, bà Son cũng không nói không rằng không chểnh mảng và cũng không chờm hợp, bà làm bổn phận của mình, mặc dù bà đang ở giai đoạn cuối của tuổi hồi xuân thời điểm của ánh hồi quang cuối cùng lóe lên trước khi mặt trời tắt lịm. Vâng ánh sáng của tuổi mãn khai dường đánh thức những tế bào và sự khát khao bừng nở một lần chót trong mỗi người đàn bà, họ bỗng trở nên nồng đượm đến cuồng nhiệt, hơn cả tuổi dậy thì rất nhiều. Nhưng với bà Son, trước sự bào trơn đóng bén của ông phó mộc, bà chỉ lẳng lặng làm tròn nghĩa vụ của mình. Rồi cả hai cùng thở dốc. Các khớp xương như lỏng ra, đầu óc trống rỗng bợt bạt. Trong lúc ông Hàm lim dim nằm thở ầm ề như vừa xong một công đoạn, thì bà Son mở cặp mắt thẫn thờ không nhìn ra, mà soi ngược trở vào, thấy rõ một cái gì cứ cạn dần, lịm tắt dân trong người mình.

- Đêm hôm qua bà nói xấu tôi những gì? - ông Hàm ngồi xếp bằng trên giường, hỏi độp một câu như vậy khi bà Son vừa từ trong buồng đi chân đất bước ra.

Chiếc đèn to treo ở cửa lúc nãy đã tắt. Cửa đã đóng. Giờ chỉ còn chiếc đèn con đặt cánh chiếc lư đồng trên bàn thờ, khiến ba gian nhà chỗ mờ chỗ tỏ. Ông Hàm ngồi nghiêng bên ánh đèn, khiến một nửa người và gương mặt gân guốc của ông cũng chỗ tối chỗ sáng. Bà Son lặng thinh như chưa nghe thủng,bà cuốn vội mái tóc còn rất dài, rất dày, chỉ ban ngày mới nhìn thấy loáng thoáng những sợi bạc, còn bây giờ văn đen mun. ánh đèn chiếu sáng một bên gáy còn đầy đặn, khuôn cổ vẫn tròn chắc, bà sẽ sàng ngồi xuống đi-văng, hai tay đặt trên gối, mặt lặng tờ như một con chiên chờ cha phán bảo. Và ông cha cứ ngồi gườm gườm trên giường, cha biết rất rõ mình chỉ làm chủ được phần xác, còn bất lực trước phân hồn. Cha luôn luôn không hiểu được những buồn vui nóng lạnh trong con tim. trong khối óc của đấng chiên tinh rất nhũn nhặn ngay trong vòng tay mình đây.

- Tôi hỏi bà đã nói xấu tôi những gì? Ba nghe rõ chưa? - ông Hàm nhắc lại tiếng đã đanh lắm...

Bà Son nói đều đều trong khi toàn thân vẫn ngồi yên như bất động. Bà không khóc, không kêu xin oán trách. Chỉ những lúc người ta mất hết niềm tin vào những lời khuyên bảo, hứa hẹn, thì mới có dáng điệu và âm sắc vô hồn thế này:

- Chú Thủ bảo tôi, thúc tôi đi gặp người ta, chứ tôi không tự ý.

Ông Hàm đập đánh rầm xuống chiếu, khiến mấy cái chén ngã lăn trong khay, xô vào nhau lanh canh:

- Ai chả biết chú Thủ bảo đi gặp. Nhưng đi gặp là để nói công nói việc chứ không phải đi gặp để khóc lóc, quị lụy, để bêu riếu chồng, bêu riếu họ hàng. Họ nhà này không thèm quỳ gối trước thằng nào nghe không? Từ ngày về đây bà phải khổ sở những gì? Thiếu thốn những gì? Cả đến chị gái anh rể của bà lúc túng, lúc thiếu cũng chạy đến đây!

Cái Hoa bỗng kêu thét trong buồng:

- U ơi! U đâu rồi?

Rồi nó lồm cồm bò dậy, đầu tóc bù xù chạy lao ra ngoài nhà. Ông Hàm đang há miệng định nói nữa thì, bỗng đứt nửa chừng. Bà Son vụt đứng dậy chạy lại như con gà mái dang cánh che chở cho đứa con bé bỏng. Hai mẹ con ôm nhau đứng giữa nhà. Bà Son quay lại, lúc này nước mắt mới tuôn ra lã chã:

- Thôi vì con cái tôi xin ông! Ông đừng để chúng nó phải nghe, phải biết những chuyện chẳng hay hớm gì! Còn số thóc vợ chồng bác Khừu vay, đến lượt chợ sau phơi phóng xong, bác ấy sẽ giả. Chẳng ai ăn không được của ai. Còn cái việc tôi phải đi gặp người ta, đi xin người ta cũng là vì con, vì chồng, chứ riêng thân tôi việc gì tôi phải xin xỏ cầu cạnh ai. Đã xui tôi làm, giờ lại còn bắt tội tôi?

Rồi hai mẹ con dìu nhau, hay chính cái Hoa là điểm tựa dìu bà, bước loạng choạng vào buồng. Ông Hàm ngồi đờ dânn. Được chứng kiến việc này, không phải chỉ có con bé Hoa út ít, mà còn một người nữa, mặc dù chỉ nhìn qua khe hở nhưng cũng thấy được thấp thoáng, và đặc biệt là được nghe rõ từ đầu tới cuối. Đó là người đàn bà làm thuê ngủ dưới nhà ngang. Chị đã dậy ngay từ lúc nghe tiếng òm òm trên nhà. 

Nhưng rồi còn việc này nữa, cũng ngay trong trong đêm thì chỉ có hai người chứng kiến ấy là một hồi lau sau, có dễ đêm đã nghiêng về sáng, bà Son đang lơ mơ chập chờn, thi bỗng thấy có người kéo chân mình! Rồi lay lay? Bà Son rùng mình tỉnh hẳn. Những ngón ta chuối mắn hình như ươn ướt mồ hôi, lại nắm vào cổ chân bà giật giật. Rồi biết chắc bà đã tỉnh, cái người lay chân lại mới lệt sệt lê dép đi. Bà Son thở ra thật to, đưa tay lên xoa mặt. Hai hàng mi thấm ướt nước mắt trong giấc ngủ nặng nề kết dính vào nhau, khiến mặt mũi cứ lưỡng vướng như chăng một tấm mạng nhện, đến mở không được. Bà Son vừa dụi, vừa thở dài. Cài gì? Muốn an ủi con người mà duyên phận đã buộc chặt đời mình, bị đau khổ dằn hắt mấy hôm nay? Hay là vì phận sự? Bà lại se sẽ ngồi dậy, lần vẫn bước ra trong khoảng không tối mờ tắt hết đèn đóm. Rồi vẫn những gì đã quen, đã cũ kỹ đến ghê sợ. Mùi rượu, mùi hành sống, mùi thuốc lào và những động tác rất ít, rất tiết kiệm nhưng dứt khoát, như cưa như đục từ những ngón tay tay đổ mồ hôi trộm, và vẫn không một lời như thế cả hai cùng mắc bệnh câm. Ông Hàm chỉ ậm è trọng cổ họng, rồi ập cả sức nặng của mình trùm kín từ chân đến đầu tấm thân nóng hôi hổi, phập phồng phía dưới. Hai bàn chân ông, ngón cái và ngón chỏ quặp lấy hai ngón chân cái của bà, chắc như ông vẫn bắt vít! Những đợt sóng từ trên cao dội xuống, dội xuống.

Bà Son nằm đờ ra chịu trận, lặng lẽ khóc!

iReader

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro