Mật Mã Maya - Tập 1 - Phần 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẦN II

ĐẢO LỘN

27

Chúng tôi giật sợi dây gai ra khỏi  lưỡi, đốt đi và trườn ra phía cửa, bước năm bước và  đứng ra rìa cái cầu thang chết chóc khổng lồ. Những Người Cười, tức người dân thành Ix, đang rướn cổ nhìn lên chúng tôi và đếm ngược, hay đúng hơn là đếm xuôi, ngực phập phồng run lên theo từng con số, tay xoay xoay những cái khiên dùng trong dịp diễu hành tết bằng lông vũ từ mặt trước ra mặt sau khiến biển người chuyển từ màu đỏ nhờ sang lục lam rồi lại từ lục lam sang đỏ nhờ, cứ thế lặp đi lặp lại.

Chết cha, tôi nghĩ bụng, - chúng ta nhầm lẫn hết cả rồi.

Tôi đã vẽ ra trong đầu một bức tranh khá rõ rệt về bộ mặt của nơi này trong quá khứ… và giờ đây, bức tranh thật khác xa với những gì tôi đã tưởng tượng khiến thoạt tiên, tôi thực sự nghĩ mình bị đưa đến nhầm chỗ, rằng các bước sóng đã bỏ qua Ix và tôi đang ở một thành phố cổ của người Khơ-me, hoặc ở Atlantis, hoặc ở tương lai, hoặc ở một hành tinh khác. Nào, Jed, tự xác định phương hướng đi nào. Kia là đỉnh núi lửa San Enero. Chỉ có điều nó được đẽo khắp thành hình bậc thang và… quỷ tha ma bắt nó đi. Có những thứ gì đó đu đưa giữa các vòng tế lễ bằng lông vũ vàng chóe, hiện ra rồi lại biến khỏi tầm mắt. Có tiếng một tên tù mọi rợ kêu gào đâu đó bên dưới, kéo dài và lịm dần thành tiếng hổn hển đứt quãng.

Lạy quỷ sứ, - tôi nghĩ thâm, - họ làm được điều này thật.

Tôi ngửa đầu ra sau và nuốt vào một ngụm đầy máu của chính mình. Es delicioso (Ngon đấy – tiếng Tây Ban Nha), - tôi nghĩ, - rất nhiều hương vị: nào dầu ngô ngọt, vị thịt, vị nước biển, vị đồng… nó thực là món ngon nhất trên đời, cái thứ máu ấy, nó phun ra từ một mạch máu màu tím xanh, ngay lập tức chuyển thành màu đỏ tươi, rồi từ từ đằm xuống thành màu đỏ sẫm, rồi kết thành lớp màng màu tím đen và cuối cùng cô đặc lại thành một miếng thơm ngon có thể nhai được…

- M’AX ECHE? (Ngươi là ai?) Ngươi có phải một trong bốn bốn – trăm không?

Cái gì cơ?

Hở?

Nó là cái gì thế?

- Hay ngươi là một trong số mười ba? Hay chín?

Đấy là tôi à?

- Biến ra khỏi bộ da của ta.

Ối mẹ ơi. Tôi không làm chủ được cơ thể này. Bộ não chủ chưa được tẩy đi. Tôi chết kẹt mất rồi.

Uuk ahau k’alomte’ yaxoc…

Hỡi Chúa trời, tổ tiên,

Hỡ ông bà…

Mặt trời thứ không, mặt trời đầu tiên được sinh ra…”

Ôi giời ơi.

Hỏng rồi, Jed ơi. Nhầm chỗ rồi, nhầm ngày rồi. Không, phải nói là đúng ngày, gần đúng chỗ và hoàn toàn nhầm người. Chó chết, chó chết, chó chết…

“Căn điện của ahau” phải không? Đúng rồi, nó được gọi là “căn điện của ahau”, vậy đương nhiên người ngồi trong đó phải làahau chứ. Đúng không? Không, sai rồi.

Nhân vật Chacal này chỉ là người đóng thế cho Chim Ruồi Có Nanh 9 thôi. Một lễ tự hiến sinh dưới sự ủy thác của hoàng gia. Họ sắp ném tôi xuống cho bầy cá mập người dưới kia, và vài ngày sau đó, Chim Ruồi Có Nanh 9 sẽ trở về từ nấm mồ, hay nói đúng hơn là từ cái bếp nhà ông ta, và lấy lại ngôi vị. Mẹ kiếp, chúng ta là cả một lũ ngu.

Làm tốt lắm, các bạn. Cả mày nữa, Jed. Đáng đời mày vì đã tin chúng. Đồ ngu, đồ xuẩn, đồ đần độn…

Thôi nào.

Chỉ là vận rủi thôi. Làm gì đó đi. Xem tình hình tai hại đến mức nào mà sửa chữa.

Ôi, Chúa ơi. Lạy đức mẹ đồng trinh, chuyện này không thể xảy ra được, không thể được.

Đốt ngón tay, mí măt, cơ vòng, chỗ nào cũng được, động đậy đi, động đậy đi, động đậy đi.

Giời ơi, không được. Mẹ kiếp.

Kẹt mất rồi. Đông cứng mất rồi.

Tập trung vào nào, - tôi tự nhủ. Cử động đi. Tập trung. Cử động. Mở miệng ra. Nói đi!

Nada (Chẳng được gì hết – tiếng Tây Ban Nha)

Ối giời ơi là giời.

Está chupado (Dễ thôi mà – tiếng Tây Ban Nha), dễ thôi mà. Nào, chúng mình cùng hét lên nhé, được không? Hãy đứng lên và phát biểu đi.

Ai chả làm được việc ấy. Lũ chim cũng làm được, sâu bọ cũng làm được, ngay cả bọ chét được huấn luyện cũng làm được. Làm đi. Giời ơi.

- Hãy cho lũ ngu đần kia một bài thuyết giảng nhớ đời đi. Chúng sẽ xếp hàng lũ lượt để được hôn chân chúng ta. Thế nhé?

Không có tiếng trả lời.

Giời ơi là giời. Đồ chết toi.

- Cơ hội cuối cùng của chúng ta đấy. Nào, Chacal. Chúng ta cùng hội cùng thuyền mà, phải không? Compadre (Anh bạn – tiếng Tây Ban Nha)? Đừng thế này nữa. Nghe này. Ít ra cậu cũng nên cân nhắc. Nghĩ mà xem. Đời người có bao lần được dịp thế này. Không nên rũ xoẹt nó đi như thế. Bất kể đám lừa đảo kia nói gì, nếu cậu thử cơ hội này, họ sẽ lại răm rắp nghe theo cậu hết. Chúng ta có thể cai trị cả thành phố này. Cùng nhau. Tôi và cậu. Như Chang và Eng (Cặp sinh đôi dính liền người Mỹ gốc Thái, tuy cả đời phải sống dính liền nhau nhưng rất thành công trong cuộc sống). Dễ lắm. Cho tôi mười ngày thôi, và chúng ta sẽ khiến lũ đần kia đến đưa ta ra khỏi hầm ngục. Sẽ chẳng ai coi thường ta được nữa. Nào. Nói đi. Nói đi.

Chẳng động tĩnh gì.

- Nghe này, - tôi năn nỉ, - nều cậu khoan thưởng thức cái giây phút phải gió ấy một giây thôi, tôi có thể cứu thoát cậu ra khỏi nó, nhưng cậu phải nghe tôi, phải nghe tôi, phải nghe tôi, nghe tôi một giây thôi, xin cậu đấy.

Im lặng, Hắn không cắn câu rồi. Sự quyết tâm của hắn sặp đưa tôi vào chỗ chết rồi.

- Này, tôi nghĩ trong đầu với Chacal, - suy nghĩ đi. Hãy cố hiểu những gì tôi đang nói với cậu. Chỗ này không phải là trung tâm của vũ trụ đâu, por el amor de Dios (Vì lòng kính chúa – tiếng Tây Ban Nha), chỉ là Trung Mỹ thôi, và nếu cậu để tôi chỉ cho cậu vài điều, cậu sẽ không muốn chết nữa đâu, tôi có thể kéo chúng ta ra khỏi chuyện này, chúng ta có thể thoát khỏi chuyện này… thoát khỏi… thoát khỏi…

“Bốn mặt trời, rồi năm mặt trời…”

Thính giác của Chacal tốt hơn tôi. Dường như anh ta có thể tập trung vào từng giọng nói và đoán được người nói khỏe hay ốm, già hay trẻ, răng đã được mài hay chưa. Và chúng tôi có thể chắc chắn rằng mỗi giọng nói dưới kia đều rất thành kính, nghĩa là mỗi giọng nói đều tin tưởng sự có mặt cảu nó là một phần thiết yếu góp vào lời khẩn cầu của Mèo Rừng 1 giáng trần, từ hang đá trên trời của ông ta.

“Mười tám mặt trời…”

Chúng tôi nhìn xuống. Xuống cái chết. Những lằn khói gỗ cao su đen ngòm từ hai lư hương khổng lồ dưới chân cầu thang cuộn lên người chúng tôi… Dễ thương quá, cái cầu thang! Không để đi lên. Chỉ để lao xuống thôi. Theo tính toán của Michael, khi một người nặng bằng một quý ông Maya có cân nặng trung bình vào thời này – như Chacal chẳng hạn – nhảy xuống, anh ta sẽ mất chừng 2,9 giây để xuống đến nơi, tức bằng khoảng thời gian một quả  bóng bowling chạy hết đường băng và chạm vào các con ky, và thường thì xác anh ta sẽ gãy thành ít nhất hai mảnh lớn. Thế đấy, khoảng một phút nữa, chúng tôi sẽ thành món thịt nhồitamale,đầu sẽ được dùng làm bóng đá, và không chỉ có tôi trở thành dĩ vãng mà tất cả mọi người ở năm 2013, đúng, tất cả, sẽ trở thành dĩ vãng…

Nào, Joaquín, tóm lấy vô-lăng đi. Cậy mồm hắn ra, tìm cái khớp thần kinh ấy đi, nhấn nó đi. Cố lên. Khoan. Chân trái tôi vừa động đậy phải không nhỉ? Tôi nghĩ là thế. Lại nào.

Lại nào.

Không được.

Một đám tro mỏng bay ngang qua trước mặt chúng tôi, và tôi nghĩ tôi nhìn thấy uay của Chacal hiện ngay trước mắt, một con diều hâu. Ngay lập tức, tôi cảm thấy sự thăng bằng hoàn hảo. Toàn bộ 620 cơ trong người tôi căng ra. Tôi tưởng như nhìn thấy cái mà tôi đang hướng đến: cảm giác bản thân không tồn tại, giống như tôi là một con cá chuồn vàng nhảy trên mặt nước biển dát những viền xanh lục ngoằn nghoèo, và tôi không còn là một con cá nữa, mà là cả đàn cá, là toàn bộ cá dưới đại dương, tất cả cùng nhảy lên, lượn trong luồng gió. Chúng tôi hít một hơi cuối cùng.

Quỷ tha ma bắt. Marena sẽ đoán già đoán non đây. Cô ấy sẽ nghĩ mình làm hỏng việc.

Cố lên. Lại đi. CỬ ĐỘNG ĐI!

Không được.

“Wuklahun tun…

“Mười chín mặt trời…”

Cơ hội cuối cùng đã vụt mất rồi. Mọi cơ hội đều hết rồi.

Hừ, ít nhất mình cũng được chứng kiến cảnh này, - tôi nghĩ, - cũng đáng xem lắm.

Sẵn sàng nhé.

Xin đừng. Một giây nữa thôi. Đừng.

Chân tôi nhấc lên để giẫm vào phiến đá bệ phóng. Chúng tìm được chính xác vị trí. Tôi khom cái thân hình cuốn đầy đồ trang sức của mình xuống như con mèo núp rình mồi, háo hức chờ nhảy xuống. Ta sẽ làm được, - tôi nghĩ, - ta sẽ vĩnh viễn không sa vào vòng nô lệ của Quỷ Ăn Đêm, ta sẽ không phải mò mẫm dưới thế giới nước. Ta sẽ được những người khói đối xử như Chim Ruồi Có Nanh 9. Họ sẽ đưa ta lên đỉnh bầu trời, đến tầng thứ mười ba, đến với lửa. Cuối cùng ta cũng được an nghỉ. Ta sẽ được lãng quên.

“… Hai mươi điểm, hai mươi điểm mặt trời,

Đó là con số chúng con cầu xin người,

Mèo Rừng 1 trên trời cao, hãy xuống với chúng con,

Hãy ban ân cho chúng con”

Yên ắng. Tiếng một con bồ câu núi gù gù đâu đó.

Đến lúc rồi, tôi tự nhủ. Mày phải nghĩ ra cách gì đó đi, cách gì đó thật khôn ngoan…

Một giọng nói cất lên, phía sau và trên đầu tôi. Không phải tiếng người. Tiếng một con vẹt thì phải. Không, đó là một con khỉ nhện được huấn luyện, hoặc một loại nhạc cụ nào đó như guira đá(guira: loại nhạc cụ thuộc bộ gõ của Tây Ban Nha), lục lạc xương hoặc bất cứ thứ gì khác, trừ tiếng người… nhưng rồi, từ trong sâu thẳm ký ức của bộ óc mới, tôi biết đây là tiếng người, một người lùn, được khuếch đại bằng một cái loa khổng lồ và méo mó đi sau khi dội qua hàng ngàn bức tường góc cạnh của thành phố. Đó là giọng một người đàn ông, nhưng chói vói hơn giọng nam cao, tựa như giọng của Alessandro Moreschi (Ca sĩ người Ý có được chất giọng cao do bị hoạn từ nhỏ). Giọng nói đó lạnh lùng một cách kỳ di, hoặc tôi nên tả là nó thiếu sự do dự. Dường như nó chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ bị phản đối. Không phải vì nó quen ra lệnh, mà bởi nó chưa từng nói ra điều gì không phải mệnh lệnh và trong suy nghĩ của người làm chủ giọng nói ấy chưa từng có ý nghĩ rằng nó sẽ không được tuân theo. Và từ một ngóc ngách nào đó trong bộ óc mới, tôi có cảm giác lờ mờ rằng Chacal biết giọng nói đó là của ai, và một khoảnh khăc sau, chính tôi cũng biết. Đó là giọng của Chim Ruồi Có Nạnh 9, vị ahau, vịk’alomte (Hoàng đế - chú thích của tác giả) thực sự của thành Ix.

Giọng nói đó ra lệnh:

- Pitzom b’axb; al!

Dịch đại khái ra ngôn ngữ của chúng ta là:

- Chơi bóng đi!

Đến lúc rồi. Phải nhảy thôi.

28

- Ch’oopkintikeen k’in ox utak!

Đó là tôi. Tôi đã gào lên câu đó. LÀM ĐƯỢC RỒI! tôi reo lên trong bụng, TA ĐÃ ĐẨY LÙI ĐƯỢC CHACAL! JED MUÔN NĂM!!

Yên ắng. Tiếng một con chim giẻ cùi xanh kêu lách chách đâu đó.

Tốt rồi. Phun nốt đoạn còn lại đi. Động từ có khác nhau đấy. Nhớ nhấn mạnh vào phụ âm. Ch’opchin, chứ không phảich’oopkin. Nhớ thay vào cái tên mà họ tự đặt cho mình: ajche’ej winik – những Người Cười. Hít một hơi nào. Bắt đầu.

- Ch’oopkintikeen k’in ox utak!, – tôi cất tiếng, cố sao cho thật to mà không bị the thé:

“Ta là người che khuất

Mặt trời thứ ba

Để k’atun mười bốn,

Gió 12, Cóc 1.

Nữ thần phun lửa Bắc

Sẽ reo rắc ung nhọt

Tưới đẫm sự đen tối

Lên núi cao, thung sâu,

Và chỉ mình ta biết

Chỉ lối cho các ngươi,

Những Người Cười phải…

WA’TAL WA’TAL WA’TAL WA’TAL WA’TAL WA’TAL!!! IM ĐI IM ĐI IM ĐI!!! Chacal gầm rít lên với tôi. Thế là họng tôi tắc lại trong khi chỉ còn có sáu mươi mốt chữ nữa là hết. Cố lên. Đồ giời đánh. Đọc nốt đi. Qua bóng tối, qua…

Không được. Mẹ kiếp. Tôi cứ há miệng ra sủa không thành tiếng, hệt như con  chó bị bắn vào phổi. Một cảm giác, một cảm giác đáng sợ, giống như sự hổ thẹn, nhưng cắn rứt hơn, cứ trào lên trong người tôi như một cơn trào a-xít. Nó tràn vào óc tôi với một từ duy nhất:

AJSAT!

Giống như mọi từ cửa miệng thông dụng khác, hơi khó giải thích nó có nghĩa gì. Nhưng nó rất gần với một từ trong tiếng Anh, nhất là khi anh tưởng tượng dùng nó trong hoàn cảnh của một trận bóng căng thẳng:

ĐỒ THUA CUỘC

Mày khiến tao THUA CUỘC, Mày khiến tao THUA CUỘC, THUA CUỘC, THUA CUỘC, TAO THUA CUỘC CHỈ VÌ MÀY, ĐỒ THUA CUỘC, THUUAAA CUUUÔỘC…

Chíngate (mẹ mày – tiếng Tây Ban Nha), - tôi chửi lại, - mẹ mày. Tôi cố lùi khỏi mép cầu thang nhưng người tôi lại kẹt cứng lại. Đám đông dân chúng dưới kia đang đồng loạt thở gấp gáp. Họ đang nghĩ gì? Hình như chúng tôi đã nghiêng người ra đằng trước, nhưng chưa rơi. Đám đông chết lặng quay cuồng trước mắt chúng tôi, những bậc cầu thang như lưỡi dao phay lao về phía tôi, và thời gian thực sự ngừng trôi khi tôi trân trân nhìn xuống những cái răng bằng đá của cầu thang thứ ba, cái cầu thang sẽ bổ vào mặt tôi trong chốc lát nữa.

Toi rồi, - tôi tự nhủ. Đây sẽ là những thứ cuối cùng tôi được trông thấy, và nó sẽ in hằn vào những gì còn lại trong não tôi. Sắp ngỏm từ từ rồi. Na’ na! Mẹ ơi! Xin đừng. Có điều gì đó khác thường đang diễn ra trong tầm mắt tôi. Một quả bóng tết bằng liễu gai bay vèo qua phía bên tay trái và nảy xuống các bậc thang. Đến cú nảy thứ tư, nó vỡ tan ra và phóng ra những mảnh gì đó màu xanh lá cây và đỏ tươi óng ánh. Lông chim à? Không, lông chim không thể văng mạnh thế được. Một trong số đó lao về phía tôi. Chim ruồi. Lạ thật.

Không, đó không phải ảo giác của tôi. Chúng tôi không hề rơi. Chúng tôi đang treo lơ lửng, hay chính xác hơn, ai đó đang túm lấy chúng tôi từ phía sau. Hừm. Một cái bình gốm chưa nung khổng lồ - chí ít cũng phải bằng cái bình đựng dầu ôliu to bằng người thật đặt trong cung điện Knossos ở Hy Lạp thời xưa – lượn vòng qua đầu chúng tôi, từ từ đáp xuống bậc thang thứ bảy và vỡ vụn thành từng mảnh nhỏ li ti màu vàng đen. Đám mảnh vụn ấy tản ra quanh chúng tôi. Những con ong. Vô số thứ khác rơi xuống quanh chúng tôi, những bông cúc vạn thọ, hoa phong lan, những mảy ngọc bích, những vụn bánh ngô khô trắng rắc kín các bậc thang. Chúng tôi đã rút vào bên trong, hay đúng hơn, đã được kéo vào bên trong, lưng quay về phía mặt trời, mặt hướng vào cánh cửa ra vào của căn điện, đối diện với một cái miệng cá mút đá đen ngòm trên khuôn mặt vẽ hình nửa mèo nửa cóc đội một vòng vương miện kết bằng hoa lá.

Đừng để tôi ngã ngửa ra sau nhé, như thế thì mất mặt lắm. Đó là ý nghĩ của tôi à? Hay của Chacal?

Tôi cũng nhận ra mình không thở nữa.

Ta chết rồi. Tan xác rồi.

Hừ, đó là Chacal.

Này, xin lỗi đã phá hỏng…

Ặc. Đừng nín thở, xin cậu đấy, đừng làm chúng ta chết ngạt, thở đi, thở đi. Cậu phải thở. Hít vào đi. Hít đi.

Ặc.

Những bàn tay lôi tôi sang phía bên kia căn phòng và một sinh vật to lớn lừng lững hiện lên trước cửa. Thoạt tiên, cái mà người ta gọi là sự liên tưởng hay tiền chuẩn đoán, hay gì đó trong nhận thức của tôi đã nhận diện đó là một con chim, nhưng không phải một con chim bình thường, mà là một con phororacoid – giống chim ăn thịt khát máu tám chân không biết bay từ thời cổ đại, với những cái vuốt dài chín inch và cái mào to bằng con lợn sữa có những đốm hình con mắt. Nhưng phần Chacal trong tôi - bây giờ nó đã là một phần trong tôi – biết đó là ai. Đó là một “ông lớn”, tức là một nhà quý tộc, trong trang phục đội đầu nhân dịp lễ hội. Mặc dù từ “trang phục đội đầu” không thể mô tả được chính xác thứ mà ông ta đang đội. Đó là một đống chắp vá to xù lên, một khối kiến trúc kết hợp giữa sinh học và cơ khí theo mô hình lập thể nhân tạo, lạ mắt hơn cả chính cái khái niệm ấy. Một trong mấy chùm lông vũ dài cắm trên chỏm quệt vào trán tôi và tôi nhận thấy nó được tết từ hàng trăm cọng lông vẹt đỏ cắm vào một thanh tre. Sinh vật đó chìa một cái móng ra và nâng cằm tôi lên. Dưới cái mỏ làm bằng giấy bồi khảm xương, tôi thấy dường như nó vừa nuốt ai đó vào sâu trong họng, có một cái đầu bé xíu bên trong, hói nhẵn như đầu một con rùa và nhăn nheo như một cây san hô sọ, đỏ lừ, săm soi tôi bằng cặp mắt vàng rực của loài kền kền. Tôi cảm thấy Chacal có quen người này, hơn thế, đối với anh ta, ông ta vừa thân thiết, vừa đáng kính, và tôi chợt nhận ra tôi biết ông ta là ai. Đó là bacab .(Bacab: một trong bốn tiểu vương hay ahau dưới quyền k’lom’te – chú thích của tác giả) đỏ, bacab của miền đông: Sọ Đá Quý 2

- Giết tôi đi, - Chacal nghĩ. – Hãy xá tội cho tôi. Tôi đã làm nhục chúng ta. Tôi đã làm nhục mình, giết tôi đi.

Xấu hổ cơ đây. Quỷ bắt nó đi. Nhưng tôi và Chacal đang chia sẻ cùng mọi cảm giác, hệt như một cặp sinh đôi dính liền chia sẻ dòng máu, và tôi cũng cùng anh ta vẫy vùng trong bể cát lún của sự hổ thẹn. Tôi có biết cảm giác này, nhưng không cảm thấy nữa từ… hừ, tôi cũng chẳng biết từ bao lâu rồi. Song tôi cho rằng ai cũng có thể gợi lại một chút cảm giác ấy khi nhớ về thời thơ ấu, ví như trong giờ nghỉ giải lao giữa hai hiệp của trận bóng đá tồi tệ ấy, những đứa trẻ khác xúm lại quanh anh và quất cho anh một trận bằng những mảnh vỏ cây huyết tùng đỏ, và chắc anh cũng nhớ lại được cảm giác khi tất cả mọi người cười vào mặt mình, khi anh ao ước một cách tuyệt vọng sao cho có thể chui lọt xuống đất, và anh càng ghét những kẻ trêu ghẹo mình bao nhiêu thì lại càng mong được chúng cho nhập hội bấy nhiêu… nhưng anh vẫn còn hy vọng tìm được một nơi ẩn trốn ở cuối sân bóng, còn Chacal thì không. Anh ta không thể chạy về nhà với cha mẹ, không thể trông chờ sự thông cảm của cô y tá trường, thậm chí không thể lớn lên để quên chuyện ấy đi, không gì cả. Chỉ có duy nhất một lối thoát cho anh ta và tôi đã đóng sầm nó lại. Tôi nhìn khắp một lượt cánh tay Sọ Đá Quý 2, từ những mảy ngọc bích trên cổ tay ông ta đến bắp tay để trần với những mảng bám cứng ngoằn ngoèo màu đất son, những chiếc vảy bám trên lần da chảy xệ và một túm lông duy nhất, đen sì mọc ra từ những cái vảy, hệt như một bông hoa xương rồng mọc trên cát sa mạc Mojave, ý tôi là… Oa. Chóng mặt quá. Chúng tôi đã thở được hơn một phút và tôi bắt đầu thấy mọi thứ xung quanh mờ ảo, xám xịt lại, như cái hồi còn nhỏ, tôi cắt vào tay và suýt mất hết máu. Một giọng nói như tiếng chim kền kền mà tôi đoán là của Sọ Đá Quý 2 xuyên qua những tiếng ong ong trong óc tôi, và tôi nghe được loáng thoáng từ luk’kintik,nghĩa là “ô nhục”. Trong ngữ điệu của giọng nói có điều gì đó nghe như… sự ân hận chăng? Hay bào chữa? Những ngón tay nóng hổi luồn vào miệng tôi, và mặc dù cơ thể đã mất cảm giác, tôi vẫn thấy như đang rơi vào một màn tối màu đỏ dịu. Tôi đang lăn xuống ư? Xin hãy để tôi rơi xuống, đừng giữ tôi lại, hãy để tôi lăn xuống, đó là điều tôi muốn.

29

Tôi phát hiện ra mình biết kích thước của chiếc hòm tuy chưa từng nhìn thấy hay chạm vào nó. Nó hơi ngắn quá để có thể duỗi hết người ra và hơi thấp để có thể ngồi dậy. Nó vừa khít với tôi. Tôi sợ hãi co người lại.

Ngứa. Mắt ngứa quá. Gãi cái nào.

Không được. Tay bị trói.

Khát quá.

Tôi cố nuốt nước bọt nhưng không ngậm được miệng vào. Tuy thế, rốt cuộc tôi cũng nuốt được, song chỉ là nuốt khan, chỉ tổ khát thêm. Ực! Mẹ kiếp!

Tôi lờ mờ nhận thức được rằng tôi đang nằm cuộn tròn nghiêng về phía bên trái, không, phía bên phải thì đúng hơn. Một cánh tay biến đâu mất. Hoặc có thể nó chỉ bị kẹt dưới người tôi thôi. Tê từ vai tê xuống. Bàn chân phải cũng không thấy đâu. Hay là chân trái nhỉ? Giá nhìn thấy thì dễ nói hơn. Nói chung, phần lớn nửa dưới cơ thể tôi bị tê dại. Nửa trên thì căng cứng và nhức nhối. Sao cũng được.

Ngứa quá. Tôi nhận thấy mình đang quằn quại, cố gại mắt trái vào thành hòm để gãi cho nó. Được rồi. Aaaa! Thật sung sướng.

Hở.

Tôi tưởng mình đã thôi quằn quại, nhưng vẫn còn tí cảm giác lắc lư. Không, không phải do tôi. Cái hòm đang chuyển động. Đi tới đi lui. Không, nó đang lắc lư chứ. Tôi đang bị treo lên đâu đó. Có cao không nhỉ? Tôi lại gại gại má vào thành hòm. Nó có những nút nhỏ và mềm dẻo. Không phải hòm gỗ. Nó được đan bằng liễu gai. Tôi đang nằm trong một cái giỏ. Một cái rọ.

Hừ, cũng dễ hiểu thôi. Không có góc cạnh nào để tự cứu mình, không có sàn cứng để mà đập đầu vào, y như buồng nhốt những thằng tâm thần (Loại buồng trong bệnh viện tâm thần, được lót đệm mềm tứ phía để tránh bệnh nhân tự tử). Họ muốn giữ cho tôi sống. Thật thô bạo. Thảo nào tôi không sao ngậm mồm lại được. Có một đống nùi nhét trong đó để tôi không cắn được vào lưỡi. Tôi duỗi người ra một tí, rồi xoay người một tí bằng cách tì vào thành rọ. Nó rộng chừng một sải tay và dài gấp đôi – đâu đó trong cái đầu rối như mớ bòng bong của tôi, tôi nhận ra mình đã nghĩ đúng theo kiểu người Maya, đo bằng sải tay (khoảng hai mươi sáu inch) chứ không phải bằng mét hay foot – và tôi áng chừng nó cao khoảng một sải rưỡi... tức là không đủ cao để đứng dậy, không đủ dài để duỗi người, không... Ối giời ơi. Một cơn hoảng hốt của người mắc bệnh sợ bị giam trong chỗ chật hẹp nổi lên và tôi suýt thì để nó bột phát ra, nhưng có lẽ do cơ thể mới của tôi quá mệt nên tôi không phun nó ra được. Bình tĩnh nào, bình tĩnh nào, cálmate, không sao đâu, Jed, mày còn sống, mọi chuyện ổn rồi. Nằm yên, nằm yên. Hoảng lên là mày sẽ chuốc vạ vào thân đấy.

Khát quá.

Có thể do điều gì đó khác lạ trong không khí, hay do những viên đá bị hun nóng toả hơi hầm hập bên dưới tôi, hay do tiếng một con chó con ăng ẳng đâu đó phía sau các bức tường đá, không biết nữa, nhưng tôi gần như chắc chắn mình đang ở trong một khoảnh sân trong nhỏ và lúc này là cuối buổi chiều. Tôi lắng nghe. Có tiếng khụt khịt, tiếng những con gà tây kêu oọc oọc, tiếng một con chó khác, không phải con chó con kia, sủa từ rất xa, và xa hơn tất thảy là những âm thanh lộp bộp nhịp nhàng xa xăm nhưng lan rộng khắp, gợi tôi nhớ nhà và muốn trào nước mắt, đó là tiếng những người phụ nữ đang làm waahob, món bánh ngô, hất những miếng bột nhào từ tay nọ sang tay kia. Âm thanh đó ngàn đời vẫn vậy, không hề thay đổi cho đến tận thời thơ ấu của Jed, ý tôi là thời thơ ấu của tôi. Và xa hơn nữa (ái dà, - tôi nghĩ bụng, - đôi tai mới này ác chiến thật) tôi lờ mờ nghe thấy tiếng hò reo vọng đến từ một trận bóng và tiếng đập bồm bộp đều đều của quả bóng cao su.

Oa.

Hình ảnh của một trận bóng, một trận bóng hông thoáng hiện ra trong óc tôi, và không phải từ kí ức của tôi, mà từ kí ức của Chacal. Một cánh rừng, một bãi đất được dọn quang với một ụ đất xếp lẫn cọc gỗ ở mỗi đầu bãi - một sân bóng hông sơ sài nhất có thể. Hai thằng bé trần trụi đứng đối diện tôi, xa xa, lờ mờ một đám đông đứng vây quanh cuối bãi. Một trong hai thằng bé bị một vết máu trên mặt. Thoạt tiên, tôi ngỡ nó bị phạt. Nhưng rồi tôi nghe thấy, hay đúng hơn là nhớ ra âm thanh gì đó như tiếng hò reo, và tôi hiểu ra rằng đập được quả bóng vào mặt thằng bé đã đem lại cho đối phương rất nhiều điểm. Nhưng tôi chỉ nhìn thấy có vậy trước khi tất cả trở thành một mớ hỗn độn và chuyển sang trận bóng cuối cùng của Chacal, một trận đấu trên vũ đài thực sự, một trận đấu tay đôi với Chim Ruồi Có Nanh 9; vị ahau đóng vai vị anh hùng Hunahpu 7 còn Chacal giả dạng Chúa tể thứ 9 của Đêm Tối. Nghĩa là Chacal đóng vai kẻ xấu. Trận đấu diễn ra vào ban đêm, được soi sáng bởi hàng trăm ngọn đuốc treo cao. Chim Ruồi Có Nanh 9 đứng sẵn ở một đầu sân bóng, mặt che mặt nạ, chân xỏ đôi dép cao như chiếc cà kheo nhưng vẫn rõ ra là một gã lùn do chứng loạn sản sụn (Hội chứng rối loạn khiến người mắc phải chỉ cao chừng 1,3m ở tuổi trưởng thành). Những người đứng sau cánh gà, hay chính xác hơn là "những người vô hình" – như ở rạp hát diễn kịch Noh (Kịch Nô: hình thức sân khấu truyền thống của Nhật Bản) - điều khiển một quả bóng rỗng bằng giấy bằng hai sợi dây mảnh nối với những cây gậy dài, kéo nó đu đưa như một con chim trong vở múa rối. Dĩ nhiên, nó không lừa được mắt khán giả, mà thực ra người ta cũng không định lừa. Đối với tâm linh thì cảm giác nhìn thấy cũng tốt như nhìn thấy thật.

Trong số những khuôn mặt mà tôi gần như chắc chắn là mặt người, có hai người tôi đoán là đồng đội của tôi trong trận này. Một anh chàng mặt còn non bấy tên là Hun Xóc – nghĩa là Cá Mập 1 – và người kia, có bộ mặt bèn bẹt, to bè hơn tên là Tay 2. Nhưng rất khó mà lần mò được trong kí ức của Chacal, cứ như thể...

Hừ, vẫn là một câu hỏi muôn thủa. Cảm giác khi là một phần của ai đó như thế nào? Nó giống như lần mò leo cầu thang trong bóng tối và phát hiện ra mình lọt vào một căn phòng lớn, hoàn toàn xa lạ, chất đầy đồ đạc, vật dụng vướng víu và phải cố mò mẫm mà tìm lối ra. Từ trước đến nay, tôi vẫn nghĩ mình là một người Maya chính cống, nhưng bây giờ tôi mới biết tôi cũng chỉ là một gã Yankee (Yankee: tiếng lóng chỉ người Mỹ ) trưởng giả, thô kệch và ngu dốt, và từ cơ thể này, từ bộ óc này, tôi đang nhìn nhận vũ trụ theo một cách khác hẳn.. Chẳng hạn như, tôi vẫn biết trái đất – hay theo cách gọi của người Maya chúng tôi là mih k'ab', nghĩa là "tầng đất thứ không" hay "tạo vật thứ không" – có hình cầu. Nhưng nếu tôi lãng ý nghĩ đó đi, tôi lập tức có cảm nhận khác hẳn về thế giới xung quanh, nó không tròn, cũng không dẹt, mà giống một chồng bánh ngô. Mỗi lớp, hay mỗi cái vỏ, lại được lồng trong một cái khác, giống như những lớp áo của củ hành bị đập bẹp vậy.

Ngạt thở quá.

Nào. Thở đi. Cái thứ của nợ ở trong mồm. Giẻ rách thì phải. Há ra. Được rồi. Ngậm lại. Không được. Ặc. Cơn đau do trào ngược axit. Tôi cố hớp một ngụm không khí thật lớn vào cái cổ họng khô khốc của mình và cơn đau lập tức dội lên, nhưng tôi lờ nó đi theo cái cách mà tôi không bao giờ làm khi còn là Jed. Thể trạng của Chacal rất khoẻ mạnh, điều đó không có gì phải bàn, nhưng cũng chẳng ích lợi gì mấy nếu tôi không cử động được. Khát quá. Tôi thực sự cần phải nuốt vào. Dùng đến lưỡi đi. Nó đâu rồi? Bị cắt rồi à? Không, chờ đã. Bị tê thôi. Nó vẫn đây. Nào, lưỡi ngoan, động đậy đi.

Tôi rụt cái lưỡi khỏi vòm miệng và cắn được hai hàm răng vào nhau, tuy không khít lắm, tôi nuốt vào nhưng cứ khô khốc, càng đau tợn. Ực, ực. Khoan đã. Chờ tí. Tôi đẩy lưỡi của anh ta... À, của tôi – tôi cứ lẫn lộn cách xưng hô - trở lại vòm miệng, thử ngó ngoáy hòng tìm tí nước bọt và cuối cùng cũng tìm được một ít, rồi bắt đầu sờ lần quanh miếng giẻ, liếm liếm thứ nước chua chua đặc quánh lên những vết rộp và xước trong miệng. Hừ, miếng gá trong miệng tôi đâu rồi nhỉ? À, phải rồi, làm gì còn. Hừ. Có điều gì đó không ổn với bộ răng. Không phải là không ổn. Chỉ là lạ thôi. Hai chiếc răng cửa hàm trên được mài thành hình như chữ L lộn ngược. Tức là khoảng một phần ba của mỗi chiếc răng, ở khoảng tiếp giáp nhau, vẫn mọc bình thường, nhưng hai bên trái của chiếc này và bên phải của chiếc kia khuyết một mảng lớn. Đến bây giờ tôi mới nhận ra là mình thích dùng lưỡi quét vào bộ răng cũ đến mức nào. Nhưng tôi là kẻ hoàn toàn xa lạ với những cái chồi bé tí nhọn hoắt này. Nếu không cẩn thận, tôi sẽ đứt lưỡi với chúng... hơ, cái gì thế này... bên trong, phía bên trái, có một lỗ hổng, hình như mất hai răng hàm. Ồ, phải rồi. Tôi mất mấy cái răng ấy trong trận đấu với Rắn Chuông 22 hôm Sậy 1 ở sân 39, hôm ấy tôi ghi được bốn điểm và giết được...

Không, - tôi tự nhủ, - không phải tôi. Là Chacal chứ. Đó là những trận bóng hông của Chacal. Để ý chứ.

Được rồi. Cố mở mắt ra nào.

Không được.

Sắp hắt hơi.

Mẹ kiếp, - tôi nghĩ, - không ngờ lại khổ sở thế này. Sao lại là tôi phải quay lại đây? Sao tôi không phải là người được ở lại năm 2012? Thằng tôi kia chắc lúc này đang nằm trong túi ngủ với Marena, nếu có thể dùng từ "lúc này". Thằng khốn kiếp. Nó không phải nếm trải tí gì cả. Khoan đã, - tôi nghĩ, - bây giờ mày lại đâm ra tự ghen tức với mình à. Đừng có ám ảnh. Tập trung vào đi.

Nào. Mở mắt ra.

Không được.

Hừ, thế này thì mỹ mãn quá đấy. Một dự án hơn sáu trăm triệu đô la và kết quả là tôi nằm lại trong một cái rọ, không khác gì quả lê mốc meo trong giỏ quà. Tôi nằm trong này bao lâu rồi nhỉ? Vài ngày? Khát quá. Trận núi lửa phun trào thì sao nhỉ? Tôi bỏ qua nó rồi chăng? Không, không thể nào. Tôi ở đây chưa đến ba ngày đâu. Họ đã nói rằng tôi không thể không cảm nhận được trận động đất, ngay cả khi cách xa như thế này, nó vẫn có thể làm tôi nhức màng nhĩ. Và một hai ngày sau, khi những đám mây tro đã tản đủ cao, tôi có thể nhìn thấy những đám lửa rực lên vào ban đêm khi đứng ở bất cứ chỗ nào trong khu vực Mesoamerica.

Hừm, có lẽ người ta đang chờ xem nó có xảy ra như mày nói hay không đấy. Có lẽ mày vẫn còn cơ hội. Ít nhất thì những tính cách thuộc về Chacal trong cơ thể này đã biến mất. Hay nói đúng hơn, tôi không còn nghĩ mình là Chacal nữa. Thể là ổn rồi, phải không? Bản thân là cái mà anh nghĩ đó là mình, chứ không nhất thiết phải là mình thật...

Au. Nhưng cái cặp mắt ngứa này thì thật quá. Gãi cái nào. Rồi. Tôi uốn cong...

RẮC.

OÁI.

Tôi cử động được các ngón ở một bên tay. Mỗi ngón chào đón bằng một tràng kêu răng rắc và những cơn đau nhói. Au! Nào, lôi cánh tay còn lại ra đi. Từ từ đã...

Bỏ mẹ. Bị cắt bỏ rồi! Ối giời ơi.

Tôi dùng tay kia lần lần vào cái mà tôi đoán là gốc tay cụt. Không thấy gì. Mẹ nó chứ. Chờ đã, mày có di chuyển thứ gì đó, chỉ là ngược tay và ngược hướng thôi. Quái thật.

Hừ, có lẽ chiều thuận tay của tôi đã bị đảo ngược. Chắc bây giờ tôi thuận tay phải.

Xem nào.

Phải, đúng rồi. Tôi cố tìm cách dùng bàn tay thuận chà sát vào bên tay bị tê, nhưng nó cứ trượt đi. Chả khác gì tìm cách di chuyển con trỏ trong khi màn hình bất ngờ chuyển từ khổ dọc sang khổ ngang.

Đưa tay lên mắt xem nào. Hừ. Đồ quỷ. Thử lại đi. Tay tôi cứ dừng khựng lại trước khi đến được nơi. À, tôi hiểu rồi. Chúng bị trói lại với nhau ở phía trước mặt và cột lên nóc rọ bằng một sợi thừng dài. Chết tiệt. Tôi ra sức rướn người về phía chúng nhưng không được. Có lẽ phần ngực cũng bị cột vào đáy rọ. Đúng thế. Bực thật. Khát quá.

Tôi hít thêm một hơi dài nữa. Không rõ vì sao, cái mùi ngòn ngọt, nhơn nhớt trong luồng hơi lại gợi tôi nhớ đến con Desert. Trên hai chân trước của nó có những đốm nhỏ. Đó là nhớt hay mủ gì đó rỉ ra từ một vết thương hở. Phải rồi, mùi bệnh ngoài da, chết tiệt, bốc ra từ người tôi cũng nên. Ghê quá.

Yên nào.

Nghe xem.

Tiếng khụt khịt mà tôi nhắc tới ban nãy mỗi lúc một to lên, đến mức không còn là tiếng khụt khịt nữa. Nó giống tiếng ngoào ngoào hơn. Một con mèo chăng? Không, là người. Nó đang rên rỉ.

Tôi tìm cách mở mắt ra nhưng đành bỏ cuộc. Một đứa trẻ ư? Không, không phải, đó là... ôi chao. Đó là một ông già.

Tiếng rền rĩ gợi lại trong ký ức của Chacal một hình ảnh: một dãy chừng tám hoặc mười chiếc rọ đan bằng cành liễu giống hệt cái này treo trên một cành cây trơ trụi đối diện một bức tường. Hình ảnh đó thậm chí còn có màu sắc rất rõ rệt: Hai cái rọ ở đằng xa nhất bên tay phải còn mới và giữ được màu xanh lá cây, nhưng những chiếc bên phải phơi nắng lâu đã bợt thành màu xám. Hình như cũng là cái sân này, nơi tôi đang bị nhốt đây thì phải, hoặc một nơi nào đó tương tự. Qua Chacal, tôi biết rằng mỗi cái rọ nhốt một người tù, rằng tôi đang nằm trong chiếc ở đằng xa phía bên tay phải, rằng tiếng khò khè là tiếng thở của những người tù khác, rằng cái mùi nhơn nhớt ấy là mùi những mảng da thối rữa bong khỏi thịt họ, rằng tiếng rên rỉ phát ra từ một trong mấy cái rọ cũ nhất và rằng người tù ấy đã nằm trong đó năm này qua năm khác.

Mày sẽ còn phải ở trong cái rọ này lâu. Không khéo cảk'atun, nghĩa là hai mươi năm, nếu như đen đủi, cho đến lễ hiến sinh lần sau. Họ sẽ khiến mày thêm đau đớn bằng cách đó.

Ôi quỷ sứ ơi. Là nó đây. Tất cả là thế này đây. Đây là thứ cuối cùng tôi được thấy. Nơi cuối cùng tôi có mặt trên đời. Mãi mãi. Vĩnh viễn. Ôi, Chúa ơi, Chúa ơi, Chúa ơi.

Cơn hoảng hốt ghê gớm tuy không giống như ngủ mê hay bất tỉnh, song cũng khó nhớ lại tương tự. Tôi đoán mình đã vùng vẫy quẫy đạp mất một lúc, có lẽ cả kêu gào nữa, nhưng đó cũng có thể là tiếng kêu gào của những người tù khác, rồi tôi lại cố hé mắt ra nhìn. Nào, mở mắt ra, cố lên, cố lên, mày phải nhìn thấy. Tập trung vào mắt đi.

Tôi hết co rồi lại duỗi. Chẳng ích gì. Có những cơ ở mắt mà thậm chí tôi còn chẳng biết. Tôi tiếp tục co duỗi hết lần này đến lần khác. Vẫn uổng công. Rồi đến một lúc, tôi nhận ra – vừa do cảm giác đau, vừa do cảm giác dính chắc, hoặc vì Chacal đã từng nhìn thấy người ta làm điều này với những người khác – tôi nhận ra hai mí mắt đã bị khâu liền lại. Ôi, trời...

Khoan đã.

Có ai đó ở ngoài kia. Tiến lại gần. Đáng ra mình đừng nên làm cái rọ đu đưa. Họ làm gì thế nhỉ? Xem mình à? Khát quá. Không, không được hỏi xin. Không được để...

Oạch. Tôi nảy tưng lên. Đập phải cái gì đó. Chói quá, ngay cả khi mắt đang nhắm chặt lại. Trận phun trào ư? Khoan đã...

30

Tôi va đập, quăng quật người vào thành rọ. Ai đó tóm lấy tôi, nhưng không phải bằng tay. Mà là tay đeo găng. Tôi cảm thấy những sợi dây thừng bị cắt, nhưng không có nhiều cơ hội để nắm bắt từng chi tiết. Họ làm việc này rất thành thạo, y như những tay cớm có thể lục soát anh, còng tay anh lại và tống vào thùng xe chỉ trong không đến mười giây. Cái rọ khạc tôi ra chỗ có ánh nắng, nóng như đổ dầu sôi lên da. Không khí có mùi ngòn ngọt lạ lùng. Tôi đang nằm úp sấp trên một phiến đá lát. Máu ấm dần len lỏi xuống bên chân còn tê cóng và chảy âm ỉ quanh những vết loét sau lưng tôi. Một đôi vịt nhà kêu quang quác bên tai. Rõ là không phải núi lửa phun trào rồi, - tôi nghĩ. Tay tôi, chính xác là bàn tay phải, sờ thấy một mẩu ðá mảnh và dài trên mặt ðá, tôi ðè ngón tay trỏ lên nó, nhý bám lấy một chỗ dựa tinh thần, nhý cách mà ngýời ta thýờng làm khi có chuyện không may xảy ra. Những lúc nhý thế, anh thýờng chộp lấy bất cứ thứ gì trong tầm tay như thể nó là bằng chứng chứng minh với anh rằng anh còn tồn tại.

Tôi đoán đúng, bây giờ là cuối buổi chiều. Và mặc dù không trông thấy mặt trời, chỉ bằng cảm giác về ánh nắng chiếu xiên bên cạnh người, khả năng phán đoán phương hướng của Chacal cũng giúp tôi xác định được vị trí. Tôi đang quay mặt về hướng nam. Nhưng hướng nam này khác với hướng nam trong nhận thức của Jed. Giống như tất cả những người khác ở thế kỷ 21, tôi có xu hướng coi hướng bắc ở trên, hướng nam ở dưới, hướng đông ở bên phải và hướng tây ở bên trái, chỉ vì trên các bản đồ người ta vẽ như thế. Nhưng trong suy nghĩ của Chacal, hướng đông nam ở trên, hướng tây bắc ở dưới, thế giới nằm hơi nghiêng và dốc về hướng tây, với…

Một giọng yết hầu cao chói vói, nửa ngân nga nửa lầm bầm với tôi:

“Into’on ho tuulo Ta’ănik-eech…”

- Năm người chúng ta

Hỏi kẻ đang nằm dưới chân

Ai là người sinh ra ngươi

Hỡi tên ung nhọt kia?

Người nói đứng cách tôi chừng mười tầm tay. Qua từ ngữ mà lão ta dùng, tôi đoán lão ta là một người đếm mặt trời của thị tộc Đại Bàng, một dạng như thầy mo nuôi trong nhà, và qua giọng nói… phải, một hình ảnh lờ mờ hiện lên qua ký ức của Chacal. Hình thù lão có phần kỳ quái, tuy không phải một người lùn… tôi biết tên lão ta, là… hừm… là gì nhỉ? Tôi biết là tôi biết mà…

- Cho hắn nước vàng,

Dầu đỏ, rượu đỏ,

Nước trắng, dầu xoa,

Và tro xanh trắng …

Trời bắt đầu mưa, một cơn mưa nóng, ập đến từ mọi hướng. Ôi, chết tiệt, là nước đái. Theo bản năng, tôi co tròn người lại, nhưng vẫn không có cảm giác gì về bên chân còn tê cứng trừ một vùng còn buốt nhói.

Có ít nhất bốn gã vây quanh tôi, mỗi gã tự giải thoát cho mình một lượng nước thải kha khá. Mẹ chúng mày, - tôi nghĩ, - đồ chết giẫm. Đây là trò giải trí à? Không, họ không nghĩ vậy đâu. Đây là sự tẩy uế. Phải vậy không? Có thể lắm.

Ai đó hướng tia nước vào mặt tôi. Tôi nghĩ tôi nghe thấy tiếng cười hinh hích, nhưng có thể là do tôi tưởng tượng ra thôi. Đừng tự ái, - tôi thầm nhắc nhở mình. Mày cần quái gì? Họ có biết mày là ai đâu. Nhưng dẫu sao cũng khó mà bình tĩnh được khi… giời ạ, mấy gã này lấy đâu ra lắm nước thế không biết? Dẹp đi, chúng mày, chúng mày thắng rồi. Lũ con hoang. Chờ đấy, đến khi tao lên nắm quyền ở đây. Tao sẽ cho chúng mày đi dọn nhà xí cả đời, chúng mày sẽ thành cái nhà xí.

Theo lẽ tự nhiên, chỗ nước ấy cuối cùng cũng cạn. Một khối nước khác xối vào người tôi, nó lành lạnh, trơn trơn, dính dính: một thứ hỗn hợp nước b’alche’ chua chua - gồm nước ép từ cây tử đinh hương, dầu ăn, nước kiềm, kết hợp với mùi chua như chanh vàng của axit foóc-mic, thứ axit mà trước khi ngành hóa dân dụng ra đời, người ta phải chiết xuất bằng cách nghiền nát những con kiến. Những vết tróc da trên người tôi như phải bỏng. Nếu còn là Jed, hẳn tôi đã gào lên không kém gì nữ thần báo tử bị sa bẫy, nhưng Chacal đã tập cho mình thói quen không bao giờ kêu la, không bao giờ gào thét, thậm chí không bao giờ quằn quại. Một trong những ký ức xa xưa nhất và cũng ám ảnh nhất của Chacal - vì nó đã xuất hiện trong đầu tôi hơn một lần - là hình ảnh anh ta nằm trần truồng, không xoa dầu tránh côn trùng, trên một đám cỏ cao, cho một đàn côn trùng rỉa thức ăn trên da để xem có thể nằm bao lâu mà không động đậy. Tôi lác cả mắt đi và cố cắn chặt miếng giẻ trong mồm, nhưng thứ nước tẩy uế kia đã tràn vào lỗ mũi tôi, và khi tôi hắt hơi thì nó chui vào cổ họng.

- Ku’ti bin oc, - một giọng khác ra lệnh bằng một thứ tiếng khác tiếng Ix nhưng tôi vẫn hiểu. “Lật nó lên”.

Dây thần kinh của Chacal giật nẩy lên, như thể tôi vừa nếm một thứ không hợp với lưỡi anh ta. Trong giọng nói có cái gì đó nhỏ mọn và thấp hèn, chứng tỏ chủ nhân của nó chỉ là hạng tiện dân.

Họ lật ngửa tôi lên và kéo tôi nằm thẳng ra. Chờ đã, tôi cần mẩu đá của tôi. Nó là mẩu đá đặc biệt của tôi. Thêm hai đợt nước nữa dội xuống, và họ để tôi nằm đấy một lúc, quằn quại và nhỏ nước tong tong xuống mặt đá. Ai đó kéo miếng giẻ ra và đổ vào miệng tôi ít nước man mát. Oa. Sướng lịm cả người. Tôi tớp tớp như một con chó hớp nước phun ra từ vòi tưới cỏ. Tôi nhận ra họ đang vần tôi, nhưng vẫn không phải bằng tay trần. Họ đeo những cái găng hở ngón bằng da hươu. Bảo vệ mình khỏi sự ô uế của tôi đây mà. Họ cọ người tôi bằng một thứ mà tôi cho là đá cọ bằng vỏ sò. Họ tẩy rửa mọi khu vực khó-chạm-đến, nếu các bạn hiểu ý tôi muốn nói gì. Họ cậy đi một thứ mà tôi đoán là thuốc nhuộm màu xanh bôi cho vật hiến sinh còn bám trên bảy móng tay còn lại của tôi. Họ xát lên người tôi một loại dầu nào đó. Nó sực mùi vani và mùi hoa phong lữ, nhưng hơi tanh, chắc được lấy từ xác cá heo. Họ vuốt dầu lên mớ tóc, hay đúng hơn là những gì còn lại của mớ tóc, rồi chải. Và khi họ rờ đến cái mà trước vụ hiến sinh hụt còn là bím tóc hay đuôi sam gì đó của tôi, thì một cơn tự ái lại đầy ứ lên trong cổ họng tôi. Lũ con hoang! Cuối cùng, tôi được xoa một lớp bụi gì đó, chắc chắn là cái thứ “tro xanh trắng” mà lão kia đã nhắc tới. Tôi cứ nằm yên và mặc cho mọi chuyện diễn ra, như một cái bánh hạt dẻ nằm cho người ta rắc đường. Tôi cố tưởng tượng như đang được mát-xa toàn thân ở tiệm Georgette Klinger trên đường Madison nhưng không sao làm được.

Họ trói tay tôi ra đằng trước bằng một sợi thừng mềm, để chừa một đoạn dài ở mỗi đầu, sau đó dùng một sợi khác thắt hai cái thòng lọng quanh ngực và cổ tôi, như thắt đai cương cho chó. Cuối cùng, họ xốc nách lôi tôi đứng dậy. Như tôi đã nói, cơ thể của Chacal vốn quen bị bạc đãi. Tôi cảm nhận được sự khỏe mạnh của nó khác với cơ thể vận động viên ở thời hiện đại chúng ta, nó không nổi đầy cơ bắp hay nở nang ra nhờ vận động mà thon lẳn và săn chắc lại, tưởng như xe đâm vào cũng không ngã. Mặc dù mất khá nhiều máu và nhịn ăn mấy ngày liền trước lễ hiến sinh hụt vừa rồi, nhưng tôi, hay đúng hơn là nó, vẫn không lả hẳn đi. Họ cố dìu tôi đi và tôi cũng cố hợp tác, nhưng một chân tôi vẫn chưa nhấc lên được nên rốt cuộc, họ đành cắp tôi trong tư thế dựng đứng, chân kéo lê trên mặt đường.

Từ những cái bóng lướt qua trên đầu mà tôi cảm nhận được, tôi có ấn tượng rằng chúng tôi đi qua một ngách nhỏ trên bức tường trong sân, và qua cách di chuyển, tôi đoán chúng tôi đang đi lên một con đường dốc. Một luồng gió nhẹ và cảm giác về khoảng không. Có lẽ chúng tôi đang đứng ở sườn tây của một quả đồi. Sau sáu mươi bước, chúng tôi rẽ phải, đi vào bóng râm, đi lên mười tám bậc thang, đến một hành lang tối. Chúng tôi đi vòng vèo trong một lối đi hẹp hình chữ chi. Có mùi thuốc lá ngon rất đậm đặc, như thể chúng tôi đang ở trong một cái hộp chống ẩm cho xì gà khổng lồ, và thoáng có mùi vani. Chúng tôi dừng lại. Tiếng ai đó vén tấm rèm chuỗi hạt và chúng tôi bước tiếp vào một căn phòng mát hơi đá.

Ánh sáng màu hồng đào len vào cặp mắt bị bít chặt của tôi. Họ đặt tôi xuống tấm gì đó mỏng và mềm mềm trải trên sàn đá. Ai đó kéo chân tôi quỳ xuống và nắn tôi ngồi đúng theo tư thế lom khom của một tên tù. Tất cả dừng lại trong chốc lát.

- Thủ lĩnh, ở trên chúng ta, đòi ngươi đến dưới chân ngài, - cái giọng cao chói vói cất lên với nhịp đều đều bên trái tôi. Căn phòng này không gây tiếng vang, chẳng kém gì một phòng thu âm.

Thêm một khoảng im lặng dài dằng dặc nữa. Rồi chắc có người đưa ra mệnh lệnh gì đó vì tôi thấy có hai bàn tay chộp lấy đầu tôi và hai bàn tay khác… Ối giời ơi… chọc mù mắt tôi… ôi, Chúa ơi… không, chờ đã… không phải… họ đang cắt các vết khâu trên mắt tôi bằng một lưỡi dao rất nhỏ. Nếu là tôi thì đương nhiên tôi đã vùng vẫy, nhưng cơ thể của Chacal không hề động tĩnh. Cuối cùng, tôi nhận thấy không còn ai giữ mình nữa, tôi nặng nhọc hé một mắt ra. Thứ đầu tiên tôi trông thấy là cái của quý trụi thùi lụi, trông lạ lẫm vì còn nguyên bao quy đầu, nằm vắt vẻo giữa hai đùi.

Hừm, tôi nghĩ, cái này mới đây. Phần lớn người Maya ở thế kỷ 21 không cắt bao quy đầu, nhưng tôi được sinh ra trong bệnh viện và ở đấy người ta có quan điểm riêng của người ta. Thứ tiếp theo tôi nhìn thấy là những cục chai sần của dân chơi bóng trên đầu gối, chúng phồng lên như cái súp lơ, nhìn phát ghê. Và tiếp nữa là những giọt nước mắt lẫn máu nhỏ lên hai bên đùi màu xanh lá cây… màu xanh lá cây à? … rồi đến một vết sẹo lõm trên khung xương chậu, chắc do quả bóng đập vào, rồi một ký tự màu xanh tím sẫm to bằng cái bật lửa Zippo xăm trên ngực. Từ ký ức của Chacal, tôi biết hình xăm đó tượng trưng cho đẳng cấp “chín sọ” trong môn bóng hông. Khắp sàn nhà được phủ một lượt màu đo đỏ, cánh của một loài hoa nào đó. Là hoa phong lữ. Nhưng hoa phong lữ không hẳn màu đỏ. Màu đỏ là do thứ gì khác kìa. Còn da tôi đúng là có màu xanh lá cây thật, và không phải do lớp dầu họ đã xoa lên. Màu sắc khác quá. Và không phải do thuốc thang hay do màng máu đọng lại từ những vết khâu. Nếu là khi khác, tôi đã ngờ vực lắm, nhưng lúc này, tôi còn phải bận tâm chuyện khác nên nhún vai cho qua.

Cặp mắt của Chacal rất khác lạ. Màu sắc không như cặp mắt của Jed thường thấy. Da tôi cũng không hẳn màu xanh lá cây. Nó giống màu xanh giả tạo anh có được khi lấy sơn vàng trộn với sơn đen hơn. Nhưng cũng không hẳn thế. Màu của tấm thảm rắc cánh hoa phong lữ dại trên sàn nhà nhẽ ra phải là màu da cam trong suốt thì lại đỏ óng lên. Nhưng vẫn không hẳn, màu sắc mà tôi đang nhìn thấy vẫn hơi… khác đi, hay Chacal bị mù màu, theo một kiểu khác thường nào đó? Song tôi lại thấy nhiều màu hơn bình thường. Chắc anh ta có cặp mắt tứ sắc, tức là có thể nhìn thấy bốn màu cơ bản thay vì ba. Đúng thế rồi. Chỉ có điều, các trường hợp mắt tứ sắc được ghi nhận từ trước đến nay đều là phụ nữ. Hừ…

Khoan đã. Tập trung vào việc chính đi. Để chuyện đó đấy, nghĩ sau.

- Sọ Đá Quý 2

Muốn ngươi

Tên tù dưới chân ngài kia

Ngẩng đầu lên

Nghe lời phán bảo của ngài.

Đó là tiếng phát ra từ cái giọng cao chói vói kia. Tôi ngẩng đầu lên và hướng mặt về cái bóng mờ mờ đo đỏ.

Tôi đang quỳ giữa một căn phòng trần cao, vuông vắn, mỗi cạnh chừng mười lăm sải tay. Bức tường hình như có màu đỏ sẫm, sáng bóng, hay đúng hơn là màu mà trong mắt của Jed là đỏ sẫm. Nhưng trong mắt của Chacal, nó lại nửa xanh lam nửa đỏ, loang loáng kỳ cục. Hai bức tường hai bên hơi nghiêng vào trong chừng ba mươi độ, vì thế, bức tường trước mặt tạo thành một hình tam giác cân khá cao, đỉnh cách sàn độ ba mươi sải. Xem ra không còn cánh cửa nào khác ngoài lối chúng tôi vừa vào, nằm ngay sau lưng tôi. Khi mọi thứ trở nên sáng sủa hơn, tôi thấy các bức tường như được soi sáng từ phía sau. Thực ra, chúng được phủ những tấm thảm thêu, hoặc giả là những tấm kết từ sợi gì đó nhìn như lông ức chim đuôi seo đỏ gắn trên phên sậy, chúng phản chiếu ánh sáng gián tiếp chiếu xuống từ một cửa sổ tròn trên đỉnh tường hình thang phía sau lưng tôi.

Có cả thảy sáu người trong phòng. Ba trong số đó là vệ sĩ, những gã đưa tôi vào đây lúc nãy. Hai người gã quỳ khom lưng ở hai bên cạnh tôi, và tôi cảm thấy hơi gã thứ ba đằng sau lưng. Mỗi gã đều cầm một cây gậy hay chùy gì đó, tôi đoán là để khống chế tôi ở khoảng cách ngoài một tầm tay. Đầu của một cây chùy dứ dứ ngay sát mặt tôi nên tôi nhận ra nó không phải bằng đá mà là một thứ có đinh nhọn tua tủa như cái gối giắt kim. Còn một người nữa đứng trước mặt tôi, cách chừng ba sải tay và hơi chếch về phía bên trái. Một tên gù! Tầm vóc gần bằng người bình thường song cái đầu to phểnh ra, rộng bẹt và rối bù, bộ mặt lệch vẹo vọ bôi những vệt màu xanh lam, trên chụp cái mũ túm lại hình nón khiến hắn nom không khác gì một con vẹt xanh đuôi dài. Tôi chắc các bạn nghĩ một bộ mặt như vậy thì thật ngớ ngẩn, nhưng ở đây, hoặc trong bộ óc mới này của tôi, nó hoàn toàn không ngớ ngẩn chút nào, trái lại, tôi thấy nó nghiêm nghị đến phát sợ.

Tiếp nữa, cách tôi bốn sải tay, dần hiện ra trong bóng tối lờ mờ, Sọ Đá Quý 2 ngồi khoanh tròn trên một tấm da báo hai đầu trải rộng, hít một điếu xì gà dài màu xanh lá cây qua lỗ mũi bên trái.

Ông ta ngồi quay một góc bốn mươi nhăm độ so với hướng chính diện của tôi, và thay vì nhìn tôi, ông ta nhìn xuống một cặp vỏ bầu hay bình gỗ gì đó, sẫm màu, to bằng cái hộp đựng bánh mì, đặt dưới sàn trước mặt ông ta, mỗi chiếc đều được khảm đá màu xanh trắng, xếp thành hình kí tự đọc là awal, nghĩa là “kẻ thù”. Ông ta mặc một cái khố hình chân váy, quấn chiếc thắt lưng to bản, gần chạm đến xương ức, và tôi chỉ nhìn thấy những đường nét lờ mờ của một cái đầu bé quắt queo, được nối liền với mảnh khăn sau gáy bằng mớ tóc, vì thế, nhìn nó như ngật ra sau, nhòm xuống lưng với vẻ sưng sỉa. Ngoài đôi dép xăng-đan bằng da sống cùng mấy cái vòng đeo tay và đeo cổ chân bằng ngọc bích ra, trên người ông ta chỉ còn chiếc khăn xếp không chỏm, rất cầu kỳ với một bông lan vani - tôi đoán là làm giả từ lông đại bàng tẩy trắng đi - gài trước trán. Một con chim ruồi ức xanh lục - một con chim thật, được nhồi rơm, với cặp mắt loang loáng sống động - treo lơ lửng phía trước bông hoa bằng một cuống dây gần như vô hình, trông thật như thể thời gian đã ngừng lại đúng lúc nó chuẩn bị châm vòi vào mật hoa. Nó khiến tôi bối rối mất một lúc, vì suốt thời gian huấn luyện, người ta cứ chăm chăm làm sao để tôi hình dung ra được Chim Ruồi Có Nanh 9, người mà chắc các bạn cũng còn nhớ, là ahau của dân tộc cai trị vùng đất này, thị tộc Mèo Rừng, là k’alomte’. Nhưng ở đây, mọi thứ phức tạp hơn một chút. Chim Ruồi Có Nanh 9 chỉ là một cái tên, cái tên như trăm ngàn cái tên của các k’alom’te’ khác, và nó cũng chẳng dính líu gì đến tô-tem hay uay của ông ta, cũng như một người có tên là “Cá Tháng Tư” thì hoàn toàn không có nghĩa anh ta sinh ra vào tháng tư hay là một con cá. Vì vậy, con chim ruồi gắn trên khăn xếp của Sọ Đá Quý 2 không biểu thị sự liên quan của ông ta và con chim ruồi - tuy nhiên, nó có thể có ẩn ý rằng thời này người ta thích vani. Tôi nhớ láng máng rằng hạt vani có vai trò rất quan trọng đối với thị tộc Đại Bàng, hình như là một trong những nguồn lợi chính của họ thì phải.

Dưới bông hoa phong lan, cái trán xuôi xuống theo một góc hẹp, nối với sống mũi nhỏ, cứng đơ, chính cái sống mũi này giúp trán ông ta bớt lõm và hài hòa với chỏm mũi khoằm như mỏ chim kền kền. Những chấm xanh lam xăm theo hình xoắn ốc chạy từ hai khóe miệng lên tận mí mắt được bôi đen. Bất chấp làn da nhăn nheo và cháy nắng, ông ta vẫn không có vẻ gì là già nua… tuy ông ta già thật, tôi biết điều đó qua ký ức của Chacal, ông ta chí ít đã tái sinh đến lần thứ hai, tức là qua tuổi năm mươi hai, và tôi nghĩ tôi biết ông ta còn già hơn thế một chút.

Cặp mắt ông ta liếc sang bên và hướng thẳng vào mắt tôi. Người ta thường nói rằng trong mắt của một kẻ từng giết rất nhiều người luôn có sự trống rỗng nhất định. Tôi không nghĩ vậy. Không ít những con hùm khát máu nhất hành tinh có cặp mắt hết sức biểu cảm. Nhưng quả là vẫn có sự lạnh lùng trong đó, một sự khinh bỉ cố hữu mà những con lợn có thể bắt gặp trong ánh mắt tên đồ tể, và tôi thực sự cảm thấy run sợ. Mắt tôi dao động, tôi chớp mắt và nhìn xuống những quả bầu dưới sàn. Chúng đang chuyển động, lê từ chỗ này sang chỗ khác trên những bàn tay nhỏ, vài giây sau tôi mới nhận ra đó là những con tatu, trên mai mỗi con đều được gắn những mẩu a-zu-rít (Loại khoáng vật có màu xanh lam sẫm óng ánh ) và được xích xuống sàn bằng một dải băng xâu qua tai.

- Chuột Mickey là ai? - Sọ Đá Quý 2 hỏi.

Tim tôi không hẳn ngừng đập, nhưng dường như nó co thắt lại chỉ còn bằng một quả bóng bé xíu. Ông ta nói bằng tiếng Anh.

31

Ông ta phát âm các nguyên âm không chuẩn hoàn toàn, vì thế nó thành ra “Choặt Méc-kây”. Nhưng tôi không nghe nhầm. Phải không nhỉ. Không, không, không thể nào. Đầu tôi bỗng dưng nhẹ bẫng, rồi lại nặng như chì.

- Kẻ dưới chân ngài, xin trả lời ngài cao quý, - tôi tự động trả lời. Tôi nói câu ấy bằng tiếng Ch’olan hay tiếng Anh nhỉ? Tôi nghĩ là Ch’olan… chết mẹ, mình sắp điên mất rồi. Thôi được. Mình sẽ nói tiếp bằng tiếng Anh. Nào.

- Chuột Mickey không phải sinh vật sống, - tôi nói bằng tiếng Anh, - Nó là một nhân vật hoạt hình. Một hình vẽ.

Im lặng.

Ahau Ditz’ ni là ai?

Cái gì cơ? – tôi phân vân. Ô, phải rồi.

Ahau Disney chết trước thời của tôi hai k’atun, - tôi đáp, - ông ta là người lồng tiếng Chuột Mickey. – Không dễ nói chuyện với người này mà không run, vì thế tôi chêm vào đuôi: - kẻ  dưới chân ngài xin thưa.

- Chuột Mickey có phải uay của ông ta không?

- Không, Chuột Mickey chỉ là một hình vẽ thôi. Nó là… nó là một hình nộm. Một b’axäl.

Uay của ngươi có phải là Jed-has không? -  Sọ Đá Quý 2 hỏi. Không thể tưởng tượng được một thứ giọng cao, gần như the thé như vậy lại có thể đầy uy quyền đến thế. Nhưng từ uy quyềncũng chưa thể diễn tả được hết. – Hay là Mickey?

Thế này thì không hay rồi, tôi nghĩ bụng. Cái đuôi –kas mà ông ta thêm vào tên tôi có ý đại loại là “ngươi thấp hơn ta mười ba bậc”, tức là bậc thấp tột cùng trong hình tháp vị trí xã hội. Nó là một biến cách mà các ahau thường dùng để chỉ một kẻ mọi rợ, thậm chí chưa xứng làm kẻ thù của người Maya mà chỉ là thứ súc vật hạ đẳng.

- Không cả hai đều không phải, - tôi đáp.

Lại im lặng. Sao có thể xảy ra chuyện quái quỷ thế này được? – tôi hoang mang.

Ông ta không thể học được tức thì…

Ôi trời, gượm hẵng, - tôi nghĩ, - mình biết tại sao rồi.

Ông ta chắc hẳng cũng đã ở đó.

Sọ Đá Quý 2 đã ở trong căn điện của ahau cùng tôi, trên đỉnh kim tự tháp, chí ít là một phần thời gian, tức là một phần của tám phút mà họ thực hiện việc chuyển thông tin. Và khi ý thức của tôi truyền vào óc Chacal thì nó cũng ăn luôn vào đầu Sọ Đá Quý 2. Quỷ Sa Tăng ơi!

- Ngươi đến đây để lấy cắp thứ gì? – ông ta hỏi.

- Chúng tôi không định lấy cắp gì cả.

Im lặng. Ông ta muốn tôi nhìn ông ta – tôi nhận thấy thế. Tôi ngẩng đầu lên, nhưng cơ thể mới của tôi nhất quyết lảng tránh việc nhìn vào mắt - ở đây, người ta không được giương mắt nhìn thẳng vào những bậc bề trên – và thay vào đó, tôi dán mắt vào những chữ xăm trên ngực ông ta. Chúng đều là những chữ tôi chưa từng trông thấy. Một thứ ngôn ngữ bí mật nào đấy. Ông ta dùng ngón cái và ngón trỏ cầm lấy điếu xì gà, đặt nó xuống cái giá đỡ nhỏ, hơi nghiêng về phía bên trái một cách duyên dáng, nó gợi tôi nhớ đến thứ gì đó… thứ chết toi gì nhỉ… À, phải rồi, bộ ấm pha trà kiều Nhật Bản – chắc là ở quán Naoe, nơi tôi đã đến cùng Sylvana – ông già ở đó đã pha trà cho chúng tôi bằng một cái muỗng gỗ đổ xuống miệng bình trà theo đúng tác phong như vậy. Tuy nhiên, Sọ Đá Quý 2 làm động tác đó với vẻ hơi lơ đễnh, trầm ngâm và ngạo mạn. không hề  giống người Nhật Bản hay người Châu Á, hay người Navajo (Một tộc người bản xứ ở Bắc Mỹ), hay bất cứ giống người nào khác. Nói chung là đặc Maya. Tôi tưởng cặp mắt ông ta là hai mảnh đá sắc rạch vào ngực tôi, vạch dọc theo các mạch máu trên cánh tay tôi, xuống mười ngón tay run rẩy của tôi, và quay trở lên mặt, tìm kiếm trên đó những biểu hiện nhỏ nhất có thể cho ông ta biết tôi đang nghĩ gì. Song nếu ông ta có ký ức của tôi trong đầu, sao ông ta không nắm bắt được những gì tôi đang nghĩ? – tôi thầm thắc mắc. Có lẽ ông ta đã nhận được phần ít hơn so với Chacal. Hoặc có thể ý chí ông ta mạnh hơn Chacal nên ông ta kiềm chế được nó. Nào. Nghĩ đi. Chuyện loằng ngoằng gì đang diễn ra ở đây? ừm…Sọ Đá Quý 2 đã dâng Chacal làm người thế chân cho Chim Ruồi Có Nanh 9. Phải không? Như vậy, vào một lúc nào đó giữa buổi lễ, có lẽ là để chào tạm biệt. Sọ Đá Quý 2 đã vào căn điện của ahau với Chacal. Vì thế, ông ta nhận được một lượng kha khá ý thức của tôi. Nhưng có vẻ như ông ta vẫn giữ được đầu óc của mình trong tình trạng tốt. Ít nhất thì ông ta vẫn kiểm soát được cơ thể mình. Có vẻ thế.

Chúa ơi, thật là một lũ phải gió. Nghĩ đến chuyện này, quả là Taro có từng nói rằng có thể xảy ra sự “phát tán”. Đấy là cách nói của ông ta.. Và dĩ nhiên, tôi đã không để tâm. Thực tế, ông ta nói họ đã nghĩ phương án thay thế là mã hóa ý thức của tôi bằng một chùm tia rộng hơn và chuyển nó vào bộ óc của nhiều người hơn. Nhưng căn điện trên đỉnh kim tự tháp là nơi duy nhất trong vùng mà họ xác định được chính xác ngày tháng của sự kiện, và các bức tường đá sẽ giúp hạn chế sự “phát tán”. Có giời mà biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ rải tung tóe ý thức của tôi ra khắp vùng này. Một đống Jed và nửa-Jed chạy loăng quăng sẽ là công thức nấu món rắc rối ngay cả đối với những người thế kỷ 21.

- Ngươi đến đây để học cách đấu với những người khói chứ gì, - ông ta lên tiếng. Qua Chacal, tôi hiểu được từ “người khói” mà ông ta dùng có nghĩa là “các vị thần”, theo cách gọi sau này của người phương Tây. Ông ta đang nói đến cờ Hiến Tế phải không? Chắc là vậy. Có thể nào ông ta biết cách chơi không? Ông ta có thể là một người đếm mặt trời lắm chứ. Có thể mọi thành viên hoàng tộc đều là người đếm mặt trời ở một đẳng cấp nào đấy. Ít nhất, thì tôi cũng đã đến đúng chỗ. Tôi có nên đề nghị ông ta chơi một ván không nhỉ?

- Có thể có những người như ngươi đến nữa không? – ông ta hỏi bằng tiếng Ix Ch’olan.

- Không, có thể là mãi mãi không bao giờ có nữa.

Đừng có văn hoa quá, - tôi tự nhủ.

- Ngươi nghĩ ngươi có thể

Tự chôn sống mình

Và giữ cái xác

Qua mười ba lần

Mười ba mùa mưa?

- Không, không hẳn thế… - tôi đáp.

- Ngươi định đem xác đứng thẳng

Quay trở về bộ da cũ

Ở b’ak’tun của ngươi, k’atun của ngươi?

Ông ta nói “đứng thẳng” đại để có nghĩa là “còn sống”. Ở đây, người ta quan niệm rằng người chết thì đi lộn ngược, giống như bóng phản chiếu dưới nước.

- Ngài, ở trên tôi,

Đã nhìn thấu.

Tôi cố thốt ra được câu ấy.

Sọ Đá Quý 2 hỏi tiếp:

- Vậy khi ta giết ngươi

Phần bẩn thỉu của ngươi trong ta

Sẽ chết theo chứ?

Sao cơ? – tôi nghĩ. Ôi, bỏ mẹ. Có lẽ không nên trả lời thẳng câu này.

Im lặng.

Đột nhiên, tôi nảy ra một ý.

- Này Jed, tôi gọi, - tôi cũng là Jed DeLanda đây, anh biết mà. Tôi với anh là hai anh em sinh đôi mà.

Ta không phải là Jed.

U… Ờ…, không xong rồi, tôi nghĩ.

- Như ngài, ở trên tôi…, - tôi mở mồm nói, nhưng bàn tay phải của Sọ Đá Quý 2 đã xòe ra và kẽ xoay sang trái; qua Chacal, tôi hiểu đó là dấu hiệu “im lặng”, tôi lập tức ngậm miệng lại, Sọ Đá Quý 2 nhìn qua đầu tôi về phía tên gù.

Mấy tên vệ sĩ quỳ quanh tôi nhổm lên và ngồi lùi về phía sau. Tên gù lật đật đi tới và dừng lại cách tôi chừng ba sải tay. Hắn săm soi tôi. Tôi cố không chùn lại. Tôi chắc chắn Chacal biết tên hắn. Hai cánh tay hắn quắt queo và móng vuốt như chân trước của loài khủng long bạo chúa với các ngón tay phải dính liền nhau, cái miệng lúc nào cũng nhe ra, hàm răng trên thòi ra ngoài, mỗi chiếc cách nhau một khoảng đúng bằng chính nó. Chắc là hội chứng Morquio rồi. Hắn bao nhiêu tuổi nhỉ? Nhìn già lắm, nhưng những người mắc chứng này thường sống không quá được bốn mươi tuổi. Phải không nhỉ? Khỉ thật, tên hắn là cái quái gì nhỉ? Là Sâu Bướm Khói 10, hay Rùa Giả ½, hay gì đó. Ô, đúng rồi, nhớ ra rồi, Sên Xanh 3. Hắn là một ajway, một dạng như đức cha trong gia đình, chỉ có điều từ đức cha nghe hơi oai quá, mà hắn chỉ là loại được nuôi ăn trong nhà. Có lẽ gọi là pháp sư thì đúng hơn, nhưng pháp sư lại dễ khiến người ta tưởng tượng đến một gã ở Xi-be-ri với cái sừng hươu trên đầu. Hay gọi là thầy mo? Nghe có quá lạ tai không nhỉ? Thôi, cứ gọi thế đi. Được. Tóm lại, tôi khá chắc tên hắn là… Sên Xanh 3, một thầy mo của thị tộc Đại Bàng, chủ nhân của cái giọng cao the thé kia. Đúng thế. Chác chắn đấy. Tôi thậm chí còn lôi ra được hình ảnh hắn nhảy múa trong lễ “đốt lửa đầu tiên”. Cuối cùng tôi cũng học được cách tiếp cận với ký ức của Chacal. Khổ nỗi là phải nghĩ bằng tiếng Ch’olan, không phải phiên bản thế kỷ 21 mà là tiếng địa phương Ix của thời này.

Sên Xanh 3 đặt một chùm lá cây thuốc lá xuống một cái đĩa, nhặt thứ gì đó lên và vươn người hết cỡ, đứng thẳng, bất động trong vòng một phút. Hình như tất cả đều nín thở, đặc biệt là tôi, tôi có thể nghe thấy tiếng máu chảy trong tai mình. Tôi nhận ra hắn đang đánh hơi.

Ở đây đang có chuyện gì đó khác thường, - tôi nghĩ. Nói thế không có nghĩa là tôi biết bình thường những người ở đây cư xử như thế nào. Nhưng tôi có cảm giác rõ ràng là họ đang cảnh giác điều gì đó, điều gì đó ngoài tôi ra. Như thể chúng tôi đang ở trong một căn nhà lạ và không muốn bị phát giác. Nhưng đây làaudiencia, là hoàng cung của Sọ Đá Quý 2 cơ mà? Phải không. Cũng có thể không phải, có thể chúng tôi đang ở một nơi dừng chân tạm thời nào đó thôi… và dù sao, sự xuất hiện của tôi cũng khiến họ hơi bất ngờ.

Theo những gì tôi được biết từ bộ óc của Chacal… hừ, rắc rối lắm. Nhưng nói đơn giản là thế này: nếu Ix là nước Anh những năm 1450 thì thị tộc Mèo Rừng sẽ giống như dòng họ Lancaster. Họ vẫn cai trị nhưng không được lòng dân chúng và đang kiệt quệ dần. Thị tộc Đại Bàng của Sọ Đá Quý 2 thì giống như họ York, nhưng kẻ thấp hèn hơn từ nhiều đời nay, nhưng lại đang mạnh dần lên và đã đánh tiếng về việc tiếp quản quyền lực. Ở Ix còn có ba dòng họ quý tộc khác nữa. hai trong số đó ủng hộ Đại Bàng, nhưng thị tộc thứ ba, Dơi Quỷ, thì liên minh chặt chẽ với Mèo Rừng.

Vì thế, có thể những người thuộc hoàng tộc Mèo Rừng đang muốn lợi dụng vụ hỏng việc trên kim tự tháp kia làm cái cớ để hạ bệ phe Đại Bàng. Được. Hãy lợi dụng lại điều đó.

Sên Xanh 3 xoay người tại chỗ, hết vòng này đến vòng khác, nhưng chậm rãi, chậm hơn một thầy tế Hồi giáo nhảy lên đồng, nghĩa là khá chậm. Mỗi lần qua một trong bốn điểm mốc của bốn hướng đông bắc, tây nam, vân vân – hắn lại dùng một cái như cái đê đeo ở ngón tay trỏ gõ một cái vào chiếc trống đất bên tay trái. Tôi đoán là hắn đang thử tiếng vang, hay đúng hơn là thử nghe xem có uay – đại loại như hồn vía, mắt vô hình hay thần lùn gì đó – của kẻ thù địch rình mò chúng tôi hay không. Cặp mắt hắn sục sạo khắp mười hai góc của căn phòng, mỗi mắt đảo theo một chiều khác nhau, nhìn như ma làm, nhưng lại không có vẻ gì là lạc thần cả. Trái lại, dường như hắn kiểm soát được nó và có thể nhìn tập trung vào hai vật ở cách xa nhau cùng một lúc, giống như con tắc kè hoa vậy. Cuối cùng, hắn dừng lại, cúi xuống, nhặt một chiếc lá thuốc lá tươi lên, dùng nó làm muỗng để xúc thứ bột hay tro gì đấy trong đĩa. Hắn hất một muỗng đầy qua vai phải, một muỗng qua đầu, một muỗng qua vai trái và một muỗng ra trước mặt. Hắn ngừng lại một lát rồi vỗ vào cạnh trống, tạo ra một tiếng động lớn và đanh. Có thể qua Chacal, có thể do dấu hiệu đó khá hiển nhiên, tôi hiểu rằng chúng tôi an toàn và hắn muốn tôi ngước nhìn lên Sọ Đá Quý 2. Tôi gắng hết sức để tuân theo. Cứ nhìn vào sống mũi ông ta vậy, - tôi tự nhủ, - chứ đừng nhìn vào mắt.

- Sao ngươi lại chọn ta, chứ không phải đức k’alomte’được sinh ra trên trời? - Sọ Đá Quý 2 hỏi bằng tiếng Ix. Ý ông ta ám chỉ Chim Ruồi Có Nanh 9, Sọ Đá Quý 2 và những người đồng cấp của ông ta là ahau popo, tức là “vương của chiếu dưới”, còn như tôi đã nói, k’alomte’ là “hoàng đế”.

- Chúng tôi không chọn ngài, - tôi đáp bằng tiếng Ix, - chúng tôi muốn… chúng tôi tìm Chim Ruồi Có Nanh 9. Việc này là… là một tai nạn. Tôi nói hai từ cuối bằng tiếng Anh vì trong tiếng Ix không có từ nào diễn tả “tai nạn”, “tình cờ” hay những từ đại loại như vậy.

- Sao ngươi lại chọn mặt trời này? – ông ta hỏi, ý nói ngày này.

- Sao chúng tôi chon thời điểm này vì tìm thấy nó trong một cuốn thư tịch… là bản ghi lại kết quả một ván cờ Hiến tế trong một cuốn sách gấp ruột mèo.

Im lặng. Ông ta không nói là không hiểu, nhưng tôi có cảm giác rằng tiếng Anh của ông ta không đủ để hiểu hết. Phần tôi trong ông ta ít hơn phần tôi đang có (nếu các bạn hiểu tôi nói gì). Có lẽ ông ta không nhận được sóng tẩy não như Chacal. Ông ta vẫn là ông ta nhiều hơn. Mặc dù chính Chacal cũng chưa bị tẩy hết. Và có lẽ ông ta chỉ nhận được một phần rất nhỏ của tôi mà thôi. Mặc dù, với hầu hết mọi người, như thế cũng đã là quá đủ. Tôi nhắc lại câu vừa rồi bằng tiếng Ix.

- Người đã cúi mình dưới chân công nương Khôngh chưa? – Ông ta hỏi.

- Gì cơ? Nghĩa là tôi đã gặp hay chưa á? – tôi hỏi lại. – Chưa, chưa, chúng tôi chỉ đọc về bà ta trong cuốn Thư tịch thôi.

Im lặng. Tôi nghĩ câu tiếp theo ông ta hỏi sẽ là: tại sao chúng tôi chọn đúng thành phố này chứ không phải nơi nào khác. Nhưng ông ta không hỏi. Có lẽ theo ông ta, Ix là trung tâm của vũ trụ và chẳng ai lại muốn đến nơi nào khác. Điều kỳ quặc là, tôi nghĩ, ông ta không hề ngạc nhiên về tất cả những chuyện này. Nói cho đúng, ông ta có vẻ bồn chồn lo ngại… nhưng hình như ông ta không bận tâm lắm đến chuyện tôi đến từ nơi mà chúng ta gọi là tương lai. Tôi đoán rằng ở đây, tương lai cũng chỉ là một địa điểm nào đó thôi. Có lẽ các uay và các linh hồn từ quá khứ và tương lai vẫn qua lại đây thường xuyên…

- Ngươi sẽ đền bù cho ta như thế nào về con trai lớn của ta? – ông ta hỏi.

Nghĩa là sao? – tôi hoang mang. Tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết của con trai ông ta?

Mẹ ơi, không hay rồi.

Họ đã bắt con trai ta của Sọ Đá Quý 2 thế chân tôi trên đỉnh kim tự tháp sao? Chác thế rồi. Quỷ tha ma bắt mày đi. Giỏi lắm, Jed. Mày đang khiến những gã này thêm phần quý hóa mày đấy. Những ông to thường rất coi trọng đứa con trai đầu. Nên xin lỗi chăng? Xin lỗi thế nào đây?

- Kẻ dưới chân ngài chưa hiểu. – tôi đáp.

- Ngươi không tôn trọng ta, ở trên ngươi.

- Không, tôi vô cùng tôn trọng ngài. – tôi lắp bắp. – tôi xin lỗi, nhưng tôi không hiểu. – Mà tôi không hiểu thật. – tôi nghĩ. Chết tiệt.

- Tôi biết những điều có thể giúp ngài, - tôi nói tiếp. – Sau hai lần ánh sáng nữa, sẽ có một cơn bão lửa  đến từ Tây Bắc. – Tôi lại chuyển sang tiếng anh. – một trận núi lửa phun trào…

- Chúng ta, ở trên ngươi, đã biết điều này. – ông ta đáp. – Những người đếm mặt trời của hoàng tộc Mèo Rừng đã cảnh báo từ hai mươi lần ánh sáng trước. Ngươi, dưới chân ta, chẳng dâng tặng được gì cả.

Ôi trời, - tôi nghĩ bụng. Được thôi. Tuyệt quá đấy. Con đường tiên tri vĩ đại của tôi chạy như thế đấy. Thật là một vố cho nhóm Connecticut Yankee. Rồi, tốt thôi, me caigo en la mar (tôi đâm đầu xuống biển đây – tiếng Tây Ban Nha). Chúng ta còn gì để đặt lên bàn không nhỉ? À, đây. Thử một bài diễn văn phòng ngừa đột xuất khác vậy. Tôi nói:

- Kẻ dưới chân ngài

Xin đền lại món nợ

Tôi sẽ làm cho ngài

Một con rối

Phóng những cây lao khổng lồ

Những trái bóng hồng

Nổ tung thành lửa

Hoặc những bình tròn…

Sọ Đá Quý 2 ngắt lời:

- Chúng ta, ở trên ngươi,

Không cần đến sự giúp đỡ

Của một loài hôi thối.

Rõ ra là tôi ô uế đến mức không thể bàn chuyện làm ăn được.

Tôi chuyển sang nói tiếng Anh:

- Tôi có thể giúp chúng ta tự vệ trước Mèo Rừng. Ngài có thể trở thành k’alomte’. Hãy tìm trong ký ức của tôi mà xem. Hãy tìm thuốc súng. Chúng ta có thể pha trộn một ít trong vòng vài ngày, chỉ cần cạo lấy một ít phân chim trong hang đá ở phía bắc, lọc lấy ni-trát…

Ông ta ngoảnh đầu theo cách khiến tôi ngậm ngay miệng lại trước khi kịp hiểu hành động đó có nghĩa là “ngươi được ta cho phép im lặng”.

- Ngươi đang nói với rác rưởi trong miệng. – ông ta nói. – các vị chúa tể của b’ak’tun này không cho phép điều đó.

Gì cơ? – tôi nghĩ. Sự cảnh giác ngu muội.

X’imaleech t’ul k’ooch mix-b’a’al, ông ta nói tiếp. – ngươi đang đi như thể trong tay nải chẳng có thứ gì hết.

Đó là một câu thành ngữ mà ai cũng có thể hiểu ngay lập tức. Nó có nghĩa là: “hình như ngươi chẳng có gì để dâng tặng”.

- Đúng như ngài, ở trên tôi, nói, - tôi trả lời một cách máy móc, - nhưng…

- Vậy ta cho phép ngươi lấy lại Jed của ngươi.

U… ồ.

Ông ta phải biết là tôi không làm được điều ấy chứ. Phải không? Hoặc đúng là ông ta chỉ nhận được vài phần không đáng kể của tôi. Hoặc nhận thức bản thân của ông ta quá mạnh để chấp nhận nó. Ông ta có thực sự biết tôi là thứ gì không? Hay ông ta nghĩ tôi chỉ là một thứ yêu quái nào đó đã lẻn vào tai ông ta. Hừm…

- Nhưng ngài, ở trên tôi, có thể biết được nhiều điều từ nó. – tôi đáp.

- Hãy gọi bóng của ngươi ra khỏi bộ da của ta ngay. - Sọ Đá Quý 2 ra lệnh. Ẩn sâu trong giọng nói điềm tĩnh của ông ta là cảm giác rùng mình ngột ngạt. Ông ta thấy ghê tởm đây mà, – tôi nghĩ. Ông ta thấy dơ bẩn. Việc có tôi trong người làm giảm danh giá củaông ta. Ông ta sợ mình sẽ không được vào cái “khu VIP” chết tiệc ở trên trời ấy. Tôi có nên bịa ra rằng ông ta bị dính chặt với tôi không nhỉ? Đừng, ông ta sẽ càng phát rồ lên đấy. Lúc này đừng nên nói gì cả.

- Tôi sẽ làm nhưng tôi cần thời gian, - tôi đáp.

Một cơn đau nhói như chuỗi đạn banjo ( Một loại vũ khí gồm hai viên đá buộc ở hai đầu sợi dây dùng để quăng) bắn từ dạ dày lên mắt trái tôi. Hình như thứ gì đó trong hệ thần kinh của Chacal vừa nhảy dựng lên trước ý nghĩ rằng nó đang giấu giếm quanh co trước “bề trên”. Ý nghĩ nói dối lão già kia không có chỗ trong đầu Chacal. Yên nào, vì chúa, đừng nhảy dựng lên, nhưng cũng đừng nín thở, thở đi, thở đi….

- Sẽ hoàn thành trong bao lâu? Sọ Đá Quý 2 hỏi.

- Việc sẽ không thể hoàn thành nếu không có sự chuẩn bị đúng cách. – tôi đáp, nửa bằng tiếng Ix, nửa bằng tiếng Anh. – Chúng ta cần làm lễ cúng đúng… tôi cần tìm một số loại thảo mộc.

Đúng rồi, mười một loại thảo mộc và gia vị bí quyết, - tôi nghĩ, - lão ta sẽ tin thôi.

Tôi cảm thấy ánh mắt ông ta thăm dò trên người mình, hòng tìm một cái run rẩy, một cái rùng mình…

- Ngươi cần những gì? – ông ta hỏi.

Tôi trả lời rằng nếu ông ta đưa tôi một tờ giấy và một cái bút lông, tôi sẽ phác nó ra cho ông ta. Phải làm mọi cách để lảng tránh, – tôi nghĩ, - kể cả phải vẽ ra cái súng cao su. Hoặc cây cung cũng được. Những khí cụ chiến tranh lạ mắt. Phải khiến lão ta thích thú với chúng, và lão sẽ quên chuyện…

- Hãy lôi con uay sâu bọ của ngươi ra khỏi bụng ta ngay lập tức. Kết thúc.

“Kết thúc” là từ người ta thường nói khi đã hoàn thành một công việc. Nó giống như “chấm hết”.

Tôi ngần ngừ. Tôi nhắc lại câu dối trá của mình. Ông ta nhìn tôi.

Khi còn nhỏ, Chacal từng tin rằng Sọ Đá Quý 2 có thể ngửi thấy ý nghĩ của anh ta qua các bức tường đất, rằng vào những đêm không trăng, dưới hình dạng của một con yêu quái đại bàng harpy. Sọ Đá Quý 2 lượn lờ phía trên các ngôi làng và quan sát những cái xác đang ngủ của bầy nô lệ của ông ta qua các lỗ thông khói trên mái nhà, để bảo vệ họ, nhưng cũng sẵn sàng lao xuống qua mái nhà và móc lòi mắt những kẻ phản bội. Và ngay cả bây giờ, đầu óc của Chacal vẫn chưa hết tin điều ấy. Tôi có cảm giác mình như một tên hạ sĩ đang dối trá trước một viên đại tướng.

Chắc Sọ Đá Quý 2 vừa ra một hiệu lệnh nào đó vì bất thình lình, trong phòng xuất hiện một người nữa, một gã đàn ông tuổi tầm trung niên có bộ dạng rất khó tả, đội chiếc khăn xếp màu xám trơn và chẳng có đặc điểm gì nổi bật để tôi có thể kể ra đây. Bộ mặt hắn mỏng, có nét gì đó giống một tay giáo viên dạy thể dục ở trường cấp hai, nhìn như một phiên bản Maya của George Bush cha. Hắn lù lù hiện ra từ bức tường bên tay trái. Tôi đoán rằng hắn chui vào qua một cánh cửa bí mật giấu sau một kẻ hở giữa các tấm thảm lông chim. Hắn cúi mình và đặt xuống sàn trước mặt tôi một chiếc khay tròn ba chân, cách chừng một sải tay. Trên khay có một vật gì đó. Hắn ra quay về phía Sọ Đá Quý 2, đặt cổ tay phải lên ngực trái, cánh tay song song mặt đất. Nó gần giống như cách chào của người La Mã cổ hoặc trong quân đội Pháp trước đây. Có lẽ đây là một cử chỉ văn hóa phổ biến ở mọi nơi. Tôi nhìn chăm chăm vào vật đặt trong khay. Nó có hình củ hành, màu đen, lắc lư và bốc khói, nom như quả cà tím luộc.

- Ôi, cái gì thế này, - tôi nói bằng tiếng Anh, - bào thai Cajun à?

Không ai trả lời. Một vài gã làm ra bộ mặt hết sức nghiêm trọng.

Gã mới vào dùng vàn tay còn lại cầm “thứ kia” lên. Nó có cái gì đó như ống và vòi cắm bên trên. Tôi hơi loạng choạng, và trước khi kịp nhận ra bọn lính gác vừa tóm lấy tôi và ấn nằm sấp xuống thì một luồng như điện giật đã ngoáy vào hậu môn tôi.EEEOOOWUUGHFFFFF!!!

Ui da. Bị cưỡng bức ngay trong lần hẹn đầu tiên thế đấy.

Tôi nhìn thấy cả bầu trời sao, thậm chí thấy vị trí chính xác của từng chòm sao. Đây là chòm Thiên Long, chòm Thiên Hạt, tinh vân Dumbbell ở ngay kia… và cuối cùng cũng dừng lại, chỉ còn những giọt âm ấm chảy tong tong giữa hai chân và cảm giác bỏng rát ngấm từ ruột ra tận ngoài da.

Ui da. Một đòn như thế có thể làm con ngươi anh mọc lông đấy.

Bọn lính gác vứt tôi nằm bẹp dưới sàn.

- Cảm ơn, thêm lần nữa được không? – tôi lầm bầm, hơi thở làm tốc lên một đám cánh hoa.

Họ chờ đợi. Tôi chờ đợi. Chúng tôi không phải chờ lâu. Thứ thuốc thụt qua hậu môn kia phát huy tác dụng hầu như ngay tức thì. Vào những năm 90, tại các câu lạc bộ của dân đồng tính có mốt dùng K – một loại thuốc an thần tổng hợp rất phổ biến trong giới cựu chiến binh, có tác dụng giúp sảng khoái tinh thần. Tôi chỉ dùng thử có vài lần thôi – được rồi, mười sáu lần – nhưng nó quả thật khá hay, anh sẽ phấn chấn lên chỉ sau không đầy hai mươi giây. Còn bây giờ, tôi bắt đầu cảm thấy người nhẹ lâng lâng đi.

- Khi ngươi lấy ixnok’ol mak sinh đôi của ngươi ra khỏi người ta rồi, - Sọ Đá Quý 2, - liệu cái thối rữa của ngươi còn thiêu đốt đầu ta không?

Tôi phải mất một phút mới hiểu được ông ta nói gì,Ixnok’ol mak đại để nghĩa là “uay xấu xa” hoặc “ký sinh trùng biết suy nghĩ”. Có lẽ quan niệm về quỷ ám có mặt ở mọi nền văn hóa nên chẳng ai lấy làm ngạc nhiên. Nhưng cách nói “cái thối rữa trong đầu”… hừ, chính xác ông ta muốn chỉ khối u.

Chết tiệt. Nếu ông ta không nhận được toàn bộ ý thức của Jed thì sao ông ta lại biết điều đó?

Chuyện là thế này, như tôi đã từng nói qua, quá trình chuyển tải thông tin không tuyệt đối an toàn. Về cơ bản, các chùm tia sẽ bắn vào mục tiêu – tức là bộ não của Chacal – khoảng bốn mươi ngàn mrad, tương đương với ba trăm ngàn lần chụp phổi bằng tia X-quang. Vì bước sóng được chỉnh sao cho hướng thẳng vào các mô thần kinh nên chúng sẽ không gây ung thư da hay máu trắng. Nhưng các khối u não, và có thể là trong tủy sống nữa, sẽ lập tức hình thành. Bác sĩ Lisuarte nói trong vòng bảy hoặc tám tháng, nếu mục tiêu chưa phát bệnh ung thư thì khối u cũng đủ lớn để “kìm hãm chức năng bình thường”. Khả năng tôi sống được hơn một năm là không đến một phần năm mươi. Vì vậy, thời gian của tôi khá hạn hẹp. Và Sọ Đá Quý 2… Ừm… ông ta chắc không nhận được liều nặng đến thế, nhưng cũng có thể gặp rắc rối. Ông ta chưa chắc đã chết, hoặc có chết thì cũng chưa chắc là trong vòng chín tháng, nhưng chắc chắn không  thọ được. Tôi đoán ông ta còn không đến năm năm nữa. Được rồi, thế mình nên làm gì bây giờ? Nói dối à? Không. Cứ lập lờ thôi.

Uay của Jed đã được trao cho cả hai chúng ta. Cho cả hai chúng ta. Như một kẻ bầy tôi. Nó sẽ đem đến cho chúng ta rất nhiều lợi ích, Jed đến đây là để bảo vệ chúng ta và con cháu của chúng ta.

Im lặng.

Bỏ mẹ, mấy câu ấy không đủ thuyết phục rồi, - tôi nghĩ bụng. Tôi cảm giác người mình như một cái chân lớn bị quấn gạc, sưng phồng và đau đớn. Tôi cứ ngỡ thứ mà họ đưa vào người tôi sẽ làm tôi tê dại và đờ đẫn đi, nhưng thực ra nó làm điều ngược lại. Nó là chất làm cho con người ta mẫn cảm hơn. Những cánh hoa dưới đùi tôi cứng lại như dăm đá và không khí chuyển động quanh tôi như những tấm da cá mập quất lên người.

- Hãy ra lệnh xcarec-uay của ngươi ngừng quấy rầy ta.

- Tôi sẽ làm, nhưng tôi không thể làm ngay bây giờ, ngay tại đây. Tôi không có những dụng cụ thích hợp.

Nói đơn giản thôi, - tôi tự nhắc mình. Bàn tay thuận của tôi bất giác xoa lên những cánh hoa trên sân và tôi tưởng như có cả một đàn gián khổng lồ đang chạy toán loạn dưới lòng bàn tay.

- Dụng cụ như thế nào?

- Nó là một nghi lễ tinh thần, có những quy cách nhất định, nhưng phải mất thời gian tập.

Chúa ơi, - tôi nghĩ, - bây giờ mình lại cố thuyết phục lão này bằng liệu pháp tâm lý nữa cơ đấy.

- Và nếu không làm sao? – ông ta hỏi. Ý ông ta là nếu không làm theo cách đó thì sao.

- À, nếu thế, nếu tôi đưa được ký ức của mình về năm 2012 thì tôi có thể thực hiện việc này từ đó.

Tôi nhắc lại bằng tiếng Ix. Ông ta không đáp. Tôi bèn liến láu tiếp:

-  Như ngài, ở trên tôi, chắc cũng nhìn thấy qua uay của Jed, tôi cần phải được bảo quản trong gel, tức là một loại keo, một loại chất lỏng sẽ cứng lại, giống như nhựa cô-pan đông cứng lại thành các tinh thể ấy.

Im lặng. Mẹ kiếp.

- Chất lỏng dạng hạt đó… sẽ bảo quản các kết nối trong óc tôi, đủ để chúng được chép lại, - tôi trích dẫn bằng tiếng Anh câu này từ bản tóm tắt dự án của Taro. – Nghĩa là, - tôi nói tiếp bằng tiếng Ix, - nó sẽ giữ cho các vía không thoát khỏi người tôi. Cácb’olan ấy mà.

B’olan là một trong ba hay bốn thứ của người ở đây mà các bạn có thể gọi là vía. Nó là thứ mà người ta nhìn thấy trên bóng hoặc hình ảnh phản chiếu của mình, thứ sẽ đi xuống Xib’alb’a(âm phủ, được cai quản bởi chín vị thần của đêm tối – chú thích của tác giả) để phục vụ các chúa tể cai quản dưới đó vài ngày trước khi được tan biến thành hư vô. Những vía còn lại bao gồm uay, tức là phần động vật của con người và p’al, thứ sẽ nằm lại với cái xác. Ngoài ra còn có một thứ gọi là ch’al – “hơi thở” – mặc dù sẽ là hơi suy diễn quá nếu coi nó là vía.

- Và sau đó, các vía của tôi sẽ giúp ngài… Ở trên tôi… chúng sẽ… sau khi…

Tôi buông lửng, không nói được tiếp nữa. Đống cơ phải gió của tôi bị chẹn cứng lại. Không phải vì tôi cảm thấy cơ thể của Chacal rằng anh ta sùng kính Sọ Đá Quý 2 đến mức nào, rằng anh ta tin ông ta là một vị nửa thánh nửa người như thế nào – mặc dù, nói cho đúng ra, trong bộ óc kia chẳng có gì là thần thánh hết, nó chỉ là… hơi khác thường một chút thôi – mà chủ yếu là vì từ người ông ta toát ra một vẻ uy quyền mà người ta có thể cảm nhận được ngay cả khi chưa biết ông ta là ai. Phía sau ông ta, các bức tường dường như bập bềnh, như thể chúng tôi đang ở trong một cái hộp thủy tinh chìm trong dung nham.

- Đó là việc phải làm trong lúc ta, ở trên ngươi, chờ ngươi quay trở lại? – ông ta hỏi. – Và hy vọng ngươi, dưới chân ta, đến và gọi kẻ sinh đôi với ngươi đi ư?

- Ngài, ở trên tôi, sẽ không phải chờ đợi, – tôi nói láo, - chúng tôi căn được thời gian đúng đến từng phút.

- Ngươi sẽ gửi đến thứ gì để lấy uay của ngươi đi?

- Nó giống như một mũi lao của mặt trời, một thứ ánh sáng.

Không có tiếng đáp. Có lẽ vì ông ta không trả lời những gì ông ta không hiểu. Tôi chuyển sang nói tiếng Ix:

- Từ k’atun của tôi, tôi sẽ gửi một thông điệp qua con đường mà tôi đã đến, nó sẽ tới được chỗ ngài ở đây và xóa tôi đi, đẩy tôi ra khỏi ngài.

Im lặng.

Chắc lão ta sẽ mắc lừa quả này đây, - tôi nghĩ. Gượm hẵng, đừng có nghĩ thế. Đấy không phải cách nói dối đâu. Mày cũng phải tin vào những gì mày nói chứ. Đừng thay đổi câu chuyện nữa nhé. Nhớ bình tĩnh.

Sọ Đá Quý 2 nhìn sang kẻ có bộ mặt khó tả vừa bước vào khi nãy. Tôi có cảm giác mình chưa được cho qua.

Đột nhiên, tôi nảy ra một sáng kiến.

- Hoặc chúng ta có thể đi cùng nhau, - tôi nói, - có thể mai táng cả hai chúng ta cùng nhau, sau đó… sau đó, vía của ngài sẽ được gửi trở lại.

Ông ta nhìn tôi. Cặp mắt tôi vội lảng đi chỗ khác và nhìn vào cái đầu người teo quắt đeo trên thắt lưng ông ta. Nó sáng lóe lên với những sợi lông tơ màu vàng. Mọi khuôn mặt, ngay cả khuôn mặt của người châu Mỹ bản xứ, đều có một lớp lông mịn như vậy phủ khắp, và anh phải để ý kỹ mới nhìn thấy, nhưng khi đã quắt lại bằng một quả đào thì nó sẽ có những đám lông cứng ngắn ngủn và đáng yêu như thế đấy…

- Ngươi, dưới chân ta, ngươi muốn lừa bịp ta, - ông ta nói gần như thì thầm.

- Không, - tôi đáp, - tôi không lừa ngài.

Nỗi khiếp đảm, như một hộp nước ngọt tự làm lạnh, bật mở ra trong ruột tôi. Ôi, mẹ nó chứ. Thần kinh của Chacal có thể giúp tôi khỏi giật mình, nhưng trí óc của tôi vẫn là của Jed, và Jed là một thằng hèn, và tôi sợ.

- KÉO CON SÂU BỌ CỦA NGƯƠI RA, HOẶC NGƯƠI SẼ SỐNG TRONG ĐAU ĐỚN!

Tôi muốn nói câu gì đó nhưng không thể.

Ôi, tôi sẽ toi ngay hôm nay mất. Tôi đã làm diễn viên bao giờ đâu, và bây giờ với cái cơ thể này, với cái đầu đần độn này và với cái loại khán giả khó tính kia…

Gã có bộ dạng như Bush, người mà tôi nhận ra là một b□et-yaj, một “kẻ hành hạ” – tức là một người tra khảo – ngồi xuống bên trái tôi và lần ngón tay lên má tôi. Chúng được đeo một loại bao ngón tay mà tôi đoán là làm từ ruột động vật. Khi sờ đến mắt trái tôi, hắn vạch mí mắt, khá nhẹ tay, và dùng tay kia mở nắp một lư xông hơi nhỏ.

Hun tzunumtub tz-ik-een yai, - hắn ngân nga đều đều. Hắn nói thứ ngôn ngữ của đàn bà và giọng cũng thanh thanh như giọng đàn bà. Hắn kề cái lư vào dưới mắt tôi. Tôi lơ mơ nhìn thấy những hòn than hồng và một cuộn khói nâu.

Tôi nhìn chung là thích ớt, ớt xanh, ớt đỏ, ớt ngọt, ớt cà chua, anh cứ chọn mua, trả tiền, băm thái ra, nấu lên, dọn ra bàn đi, tôi sẽ ngốn hết.

Ban đầu cũng không đến nỗi tệ lắm. Có lẽ họ dùng một loại ớt đặc biệt nào đó, hoặc do phản ứng của tôi bị ì lại do cái thứ thuốc thụt phải gió lúc nãy đang lan khắp người, mà thoạt tiên, tôi chỉ cảm thấy hơi cay cay, như thể ai đó đang thái hành trong phòng. Tên lính tra khảo đặt cái lư xuống và đậy lại. Trong động tác của hắn có điều gì đó khiến tôi nhớ lại cái cách cha tôi đặt chai nước xuống, tôi cắn môi để kiềm chế cảm giác nhớ nhà. Hắn lấy ra một lá thuốc lá và phe phẩy xua khói đi. Tôi có cảm giác một trong mấy tên lính giữ người tôi đang cố nén một cái hắt hơi, vì nếu hắt ra thì sẽ bị giáng xuống thành loại gần bằng tôi. Cảm giác khô cong lan ra từ bờ mi xuống quanh nhãn cầu, lan sâu vào tận gốc dây thần kinh thị giác của tôi, nhưng tôi, hay đúng hơn là cơ thể của một chiến binh của Chacal không muốn cho những gã kia sự thỏa mãn được thấy nó chớp mắt.

- Hãy lấy lại uay của ngươi, - Sọ Đá Quý 2 nói.

- Tôi sẽ làm, - tôi mở miệng một cách khó khăn, - nhưng ngài phải để tôi bắt đầu chứ.

Nước mọng lên trong mũi tôi và thứ bụi li ti quỷ quái cuộn lên dưới mi mắt tôi. Nếu bạn là người không thuộc nền văn hóa ớt và đã từng biết cái cảm giác nhá một miếng bánh pizza và cắn phải một mẩu ớt xanh cay xè thì bạn sẽ hiểu cảm giác đau này. Chỉ có điều thay vì tập trung ở miệng, nó lan khắp người tôi. Như tôi đã nói, cơ thể của Chacal có một thứ khả năng kỳ lạ và quý giá, đó là trơ lì với cảm giác đau. Nhưng tôi vẫn thấy ánh sáng khép dần lại, chậm rãi như cánh cửa thang máy đang đóng lại. Các cơ ổ mắt của tôi co lại. Tôi ráng sức giữ cho mắt mở và không vặn vẹo đầu, nhưng tôi đã chớp mắt trước khi kịp kìm lại. Tên lính tra khảo vừa dùng ngón tay vạch mi mắt tôi mở rộng ra, vừa quay về phía Sọ Đá Quý 2 và nhăn răng cười, Sọ Đá Quý 2 nhìn hắn và hình như tôi nghe tiếng ông ta khẽ cười, mặc dù khuôn mặt vẫn lạnh tanh không đổi và không hề phát ra bất cứ tiếng động nào. Con ngươi tôi đảo tròng vì hơi hành cay xè và tôi càng nhắm chặt hai mi mắt thì nó càng sưng mọng và đỏ rực lên như mặt trời, nước mắt chảy ra càng nhiều thì cảm giác khô càng tăng, và rồi tất cả bùng lên cùng một lúc khi chất cay vào đến bên trong các tế bào quanh nhãn cầu và đạp vào dây thần kinh tủy sống. Sự trơ lì vô giá tan biến mất, tôi kêu lên, gần như kêu thầm, chỉ là một tràng xuýt xoa như tiếng nước nhỏ xèo xèo xuống vỉ nướng nóng. Mặc dù lúc đó tôi đã gần như phát điên, nhưng tôi vẫn cảm thấy một cơn nhục nhã trào lên trong đầu Chacal. Nó tràn ngập như cơn lũ của hội chứng chây ì đang quét qua thế kỷ 21. Dường như cơ thể anh ta biết rằng sự yếu đuối của tôi đã hủy hoại danh dự của nó.

- Ngươi sẽ lấy nó ra bằng cách nào?

- Tôi phải giải thích cho ngài trước đã. – tôi đáp.

- Lấy con sâu bọ của ngươi ra ngay lập tức.

Được thôi, - tôi nghĩ. Tốt thôi. Hãy chấp nhận rằng chúng ta không thể lòe được thằng cha này. Nói thật đi. Làm một người trung thực đáng quý vậy.

- Tôi không làm được điều đó, - tôi há miệng hổn hển, - hãy tìm trong ký ức của Jed, hãy tìm Taro Mora. Ngài sẽ thấy tôi không có khả năng làm việc đó, tôi không làm được, tôi không…

- Lấy nó ra, - Sọ Đá Quý 2 nhắc lại.

- Kẻ dưới chân ngài không có khả năng làm việc đó, - tôi đáp, cố không gào lên. – Tôi không thể đưa mình ra khỏi đầu ngài được, cũng như tôi không thể ra khỏi cái đầu này.

Im lặng.

- Nhưng ngài, ở trên tôi, và tôi có thể phối hợp cùng nhau, - tôi đáp, - Jed ở trong ngài và tôi có thể xử lý nhà Mèo Rừng một cách chóng vánh, chúng ta sẽ thắng, sẽ đánh bại họ… đánh bại họ…

Mày đang lảm nhảm rồi đấy, - tôi tự nhủ, - ngậm mồm lại đi. Nhưng tôi không thể. Tôi nghe thấy tiếng mình huyên thuyên về pháo hoa và chu kỳ mùa vụ, nhưng chúng được phun ra lắp ba lắp bắp. Hừ, hay quá đấy, phải không?

- Chuột Mickey sẽ đến với ngài, - tiếng tôi vẳng đến từ đâu đó, - đó là một vị á thần hùng mạnh, ông ta cũng là bạn của tôi, ui da, ông ta là bạn của tôi và ngài… YYYAAAHHH

Chắc ông ta vừa ra hiệu vì tên lính tra khảo lại bắt đầu lầm bầm “Hun Tzunumtub tz-ik-een yaj” và các cơ ổ mắt của tôi xiết cứng lại đến mức tôi tưởng con ngươi minh sắp bật ra. Tôi nhận ra câu nói đó là một cách thử phản xạ có điều kiện, một câu khấn mà họ đọc trước mỗi nhát roi, nếu có thể gọi thế. Hắn vừa cho tôi một liều khói nữa. Con ngươi tôi xèo xèo như quả trứng trên chảo rán. Món bánh mì kẹp mắt rán của ngài đây!

Đừng xin chúng dừng lại, - tôi tự nhủ, - nếu không mày chắc chắn toi, làm thế chỉ khiến mọi việc tồi tệ hơn thôi. Nhưng còn tồi hơn thế nào được nữa? Hừm… hỏi hay đấy. Nhưng những gã này xem ra chuyên nghiệp lắm. Chúng có thể làm nhiều trò tồi tệ hơn nữa cũng nên. Chẳng hạn, chúng có thể đặt một an-bum của Alicia Keys…

- Vậy hãy nói cho ta biết làm thế nào để buộc uay của ngươi bỏ đi.

- Tôi đã buộc Chacal phải đi. Ngài cũng có thể buộc Jed phải đi, nhưng tôi không biết phải bảo ngài làm thế nào. Ngài cứ làm thôi.

Tôi suýt đế thêm từ Nike (Nữ thần Chiến thắng trong thần thoại Hy Lạp, ý nói “hãy chiến thắng nó”), nhưng vì chúng tôi đang nói bằng tiếng Ix nên nó không ăn nhập. Một khoảng im lặng dài dằng dặc. Một sự im lặng khó chịu, mặc dù trong hoàn cảnh này, từ “khó chịu” nghe vẫn nhẹ nhàng quá. Đột nhiên, tên lính tra khảo bỏ tay ra. Hai mí mắt tôi sập xuống. Nước mắt phun ra từ tuyến lệ và tôi có thể nghe thấy tiếng chúng bắn vào ngực tên lính. Thứ ǵ đó mềm mềm luồn vào mắt tôi và cơn đau từ từ dịu xuống, cho đến khi chỉ còn là một cảm giác râm ran nhẹ nhõm, như thể ai đó vừa chạm ngón tay có phép lạ vào hốc mắt trống rỗng của tôi. Mặc dù nó không trống rỗng thật, nó vẫn còn con ngươi bên trong, sưng to phải bằng quả bóng rổ. Tên lính tra khảo vẫn tiếp tục rì rầm với cái giọng đàn bà nhỏ nhẻ của mình. Một ngón tay xoa xoa vào mắt tôi, bôi lên nó một loại sáp nào đó ngửi như mùi tinh dầu cỏ ba lá, mặc dù ở Tân Thế Giới lúc này chưa hề có cỏ ba lá. Phải không nhỉ? Tôi đoán họ không muốn mắt tôi hỏng hẳn, họ muốn giữ nó lành lặn để có thể tiếp tục hành hạ thêm nhiều lần nữa. Nước muối được phun vào mắt tôi từ miệng kẻ nào đó. Các bàn tay buông đầu tôi ra, để nó tự động lắc lắc như một con chó rũ lông rồi vuốt xuôi nó bằng những cái găng ướt. Dễ chịu đến mức tôi suýt thì cảm động và biết ơn một cách ngu xuẩn.

- Vậy là ngươi đã giết ta, - Sọ Đá Quý 2 nói.

Tôi giải thích rằng ông ta nhận được một lượng tia thấp hơn.

B’aax ka? – ông ta hỏi. – Trong vòng bao lâu?

- Nhiều hơn hai và ít hơn bảy vòng của một tzolkin.

- Chính xác là bao lâu?

- Tôi chỉ có thể án chừng được thế thôi. Nhìn vào ký ức của tôi mà xem, nó không…

Hun Tzunumtub tz-ik-een yaj, - tên lính tra khảo lại lầm rầm. Nó giống như loạt dạo đầu mà anh biết chắc sẽ lớn dần thành một âm thanh đinh tai nhức óc, tựa như trong bản giao hưởng “Những người lính thập tự chinh ở Pskov”, và anh sẵn sàng làm bất cứ thứ gì để ngăn nó lại. Tôi quằn quại trong sợi dây trói, cố đưa một bàn tay, hoặc một ngón chân cũng được, lên mắt, nhưng tất cả đều bị ghìm chặt lại, và tôi rơi vào một cơn đau không thể chịu đựng nổi, cảm giác ngứa điên dại cần được gãi, khẩn thiết hơn cả nhu cầu cần không khí. Trước đây tôi, khi còn Jed, cứ tưởng bị các mụ y tá có bàn tay vụng về xiên vào người để lấy máu xét nghiệm đã là đau lắm rồi. Và tôi luôn nghĩ thà thế còn hơn là chết. Nhưng đó là sự ngu xuẩn. So với sự đau đớn thực sự, cái chết còn dễ chịu hơn cả ngàn lần. Sau một lúc, không rõ là bao lâu, mắt tôi, hay đúng hơn là các tế bào trong lớp mô mỡ quanh mắt tôi, lại cảm thấy dịu xuống, rất dễ chịu, tôi nhìn thấy bàn tay mình, thấy những cánh hoa đỏ tươi trên sàn… và tôi còn nhìn được xa hơn thế. Tôi ngước mắt lên.

Sọ Đá Quý 2 đang cúi xuống gần tôi. Nhứng giọt mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt ông ta nom như vẩy trên da con quái vật Gila. Hai tay ông ta đeo găng làm từ da cá mập, to, dài, trông lố bịch như cái găng mà Williams Sonoma (một hãng chuyên sản xuất dụng cụ nhà bếp) bán cho những tay đầu bếp nhà quê chuyên quay thịt. Hai ngón tay cái phủ đầy ớt bột. Ông ta nắm lấy đầu tôi và lắc lắc, như con chó đang kết liễu đời con chuột sóc.

- LẤY CON SÂU BỌ CỦA NGƯƠI RA!!! – ông ta nói, - CHẤM HẾT!

Tôi thậm chí không có cơ hội trả lời trước khi ngón tay ông ta dí vào mắt tôi. Lần này, tôi gào lên thật. Tôi gào rất lâu, và khi hít hơi vào, tôi nhận thấy mình đang hít hơi ớt, họ vừ kề cái lư xông vào dưới miệng tôi. Tôi cảm thấy – hay đúng hơn, tôi cho rằng – người tôi đã bị lộn trái ra và nhúng vào axit sunfuric.

Tôi lại không thấy đau nữa. Một làn gió mát dễ chịu, ngọt mùi mật ong lướt qua mặt tôi. Tôi thấy mình đang nằm sấp dưới sàn, đầu quay nghiêng. Tôi mở cặp mắt đáng yêu của mình ra và nhìn thấy một thứ kỳ quái: một cặp mắt đen nhánh như hạt xoàn của một con chuột khổng lồ có cái mõm dài đầy lông dựng đứng nhìn chằm chằm vào mắt tôi. Đó là một con tatu, nó đang liếm mắt tôi. Tôi giật nảy người, muốn lùi lại vì nỗi khiếp sợ hoàn toàn bản năng, nhưng người tôi vẫn bị ghìm chặt xuống, và tôi chỉ có thể rùng mình.

Hun Tzunumtub tz-ik-een yaj, - tên lính tra khảo lầm rầm.

Cơn đau khiến thời gian kéo dài ra, vì thế tôi không biết Sọ Đá Quý 2 nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần câu: “Lấy lại uay của người ngay”. Có lẽ là mười, hoặc một trăm lần. Cuối cùng, tiếng ông ta chìm đi và đến lượt giọng tên lính tra khảo cất lên, hét vào tai tôi những lời lẽ xua đuổi và tôi nhận ra rằng họ không chỉ đơn thuần tra tấn tôi vì giận dữ mà còn muốn xua Jed ra khỏi Chacal, tôi đoán họ cho rằng nếu tôi đi, tôi sẽ mang cả con sâu bọ sinh đôi của tôi, con đang nằm trong đầu của Sọ Đá Quý 2 theo. Chốc chốc, tên lính tra khảo lại rì rầm câu khấn của hắn “Ukumul can…” và tôi lại trải qua cái cảm giác hồi hộp chờ đợi dễ chịu, như thể tay bồi bàn ở quán mà tôi vừa thưởng thức món ớt xanh kia đang tiến về phía tôi với một cốc sinh tố xoài trên tay, dứ dứ nó trước mũi tôi… nhưng rồi hắn dừng lại mà chẳng cho tôi cái gì hết và lại lôi đống ớt ra. Rốt cuộc, tôi sợ đau thì ít mà sợ cái câu khấn vái kia thì nhiều. Ba tỉ năm nữa, khi chẳng còn vết tích nào của tôi trên đời thì chắc sự sợ hãi vẫn còn. Nhưng đến một lúc, tôi có cảm giác mơ hồ rằng họ đã bỏ cuộc, và một lát sau, tôi nghe tiếng Sọ Đá Quý 2 ra lệnh: “Ch’an” – “Đủ rồi”.

Xa’ nanb’al-een ek chak’an, tiếng Sên Xanh 3 nói. (Chúng tôi sẽ áp giải hắn ra sân đấu).

Có thể là do đầu óc tôi bị xáo trộn, nhưng tôi nghĩ giọng nói của họ có phần cuống quýt hơn cả khi nãy, một sự căng thẳng của những kẻ đang làm chuyện lén lút. Hừmm…

Mấy tên lính gác xốc tôi dậy và đưa tôi ra ngoài. Bên ngoài, trời ẩm ướt. Dĩ nhiên lúc này chúng chẳng cần phải bịt mắt tôi. Nhưng tôi vẫn biết đêm đã ập xuống trong lúc tôi vắng mặt. Chúng đưa tôi xuống một cầu thang có bốn mươi bậc lởm chởm, vào một ngôi nhà tròn bằng gỗ khá lớn, trói tôi vào một tấm ván gỗ dưới ánh sáng của hai ngọn đuốc cháy bập bùng. Tôi cố thả lỏng cơ để sẵn sàng chịu bất kỳ cơn đau nào sắp trút xuống. Một cảm giác buồn buồn, nhoi nhói lan khắp hai cẳng chân tôi, rồi lên đến tay và ngực.

Lại đến trò quái quỷ gì nữa đây, - tôi phân vân, tuy chẳng phải lần đầu. Chúng đang buộc một đôi xăng-đan đế mỏng vào chân tôi, quấn một dải thắt lưng thật chặt quanh hông, rồi đến một thứ xiết chặt quanh đầu, hình như là một cái mũ da với những miếng gá bằng gỗ mà chúng dán dính vào sọ tôi bằng nhựa cây và dây cước xoắn lại, y như lắp mũi giáo vậy. Tôi tự giả vờ như đang nằm để Lisuarte gắn các điện cực lên đầu và làm như chẳng có chuyện gì xảy ra hết, nhưng rồi một thứ buồn buồn, lành lạnh cứ tiến dần lên cổ, tôi bất giác cười khúc khích, vặn vẹo người, và mở mắt ra. Trong tích tắc, tôi nhìn thấy một cái bút vẽ bằng lông dài, giống như bút lông viết thư pháp của người Trung Quốc. Chúng đang chấm những chấm trắng lên vùng da cháy nắng của tôi. Tôi nhìn những hình xăm chạy dài theo đường zích zắc dọc theo cánh tay đang cầm chiếc bút vẽ và lập tức nhận ra – giống như anh nhận ra một người mặc áo đen sọc trắng trên sân bóng đích thị là trọng tài – đó là một ajo’umsaj ,tức là người “chuẩn bị”, người thay trang phục, người hầu phòng, hay chính xác nhất có lẽ là “người hầu trang phục”. Và căn cứ vào việc các hình xăm có màu nâu chứ không phải xanh lam, tôi biết hắn chỉ là emsa’ajo’omsa, tức là người hầu trang phục “phụ”, một thứ người hạ đẳng chỉ chuyên làm những việc nguy hiểm và không sạch sẽ. Tôi cố quay đầu sang phía bên kia để xem những tên khác đang làm gì nhưng không quay được, có thứ gì đó rất cồng kềnh ngáng đầu tôi lại, một cái mũ đội đầu to ngang với hai cặp ống dài chĩa ra… hình như là những cái sừng… không, không phải sừng, tôi nhận ra rồi, chúng là những cái gạc. Chúng đang hóa trang tôi thành một con hươu.

32

Tôi cảm thấy những chuyển động chen lấn nhau. Không khí thì nóng nực đầy mùi ôi thiu. Tôi cố gồng mình để đưa tay lên mặt nhưng hai cánh tay đã bị chói chặt vào sườn. Tôi được vấn lên một tấm chăn tết bằng cỏ, quấn lại. Hai gã khiêng tôi đi. Hình như chúng tôi đang lên dốc. Tôi lắng tai nghe.

     Chuyển động dừng lại. Chúng đặt tôi xuống mặt đất mọc rậm cỏ. Tôi nghe lỏm được vài từ: Sọ Đá Quý 2 đang nói gì đó về việc ông mời những người đang có mặt ở đây đến để thể hiện sự hối hận, rằng ông ta sẽ ban một con hươu cho người nào nhanh nhất, với những món quà hào phóng hơn để tạ lỗi và những kế hoạch tổ chức một lễ hội chu đáo hơn trong thời gian gần nhất. Ngớ ngẩn làm sao, tôi lại thấy xấu hổ thay cho Sọ Đá Quý 2 và cả họ hàng nhà Đại Bàng, ngay cả khi họ sắp lấy mạng tôi. Tôi cựa mình bốn cái khi tấm chăn được giở ra. Không khí! Cứ như được ngụp xuống cồn mát lạnh vậy. Tôi nằm ngửa trên một tấm bạt trải dưới đất, dưới ánh đuốc sáng rực. Một loạt tiếng hoan hô, chúc mừng dậy lên từ bốn phía và ngừng bặt lại cùng một lúc như thể ai đó ra hiệu lệnh. Bốn giây không động tĩnh, rồi có tiếng đồng thanh bằng chất giọng cao kiểu cách của ba hoặc bốn mươi k'iik trẻ: “Chúng tôi, dưới chân ngài, xin cảm tạ”. K'iik nghĩa đen là “máu”, tức là những người đàn ông được kết nạp vào đội chiến binh. Trên thực tế, từ này còn có thể suy rộng ra hai nghĩa nữa là “dòng dõi cao quý” và “tráng kiện”, dùng để chỉ những người được sinh ra hoặc được thu nhận vào một trong các dòng họ quý tộc, và thường là dưới mười tám tuổi. Ai đó cậy miệng tôi ra và trút vào một ngụm nóng hổi, ngọt và đặc như xi-rô, pha từ nước b'alche mật ong, máu và một thứ lá lẩu bịp bợm nào đó khiến nó có vị lờ lợ khó chịu. Nhưng cổ họng tôi khát khô đến mức tôi nuốt trôi tuồn tuột mội cách ngon lành. Hai bàn tay khác – vẫn đeo những cái găng chết tiệt ấy – giúp tôi mở mắt. Mắt trái vẫn còn sưng to nên không thấy gì nhiều, nhưng mắt phải khá ổn. Ái dà.

      Ba tên đầy tớ và tôi đang ở giữa một vòng tròn, chính xác hơn là một hình cửu giác, rộng chừng hai mươi sải tay, mỗi góc được đánh dấu bằng một ngọn đuốc cắm dưới đất mới được đốt sạch cỏ. Chúng tôi đang đứng trên đỉnh trơ trụi của một quả núi rộng, và nơi này không có nhà dân. Như thế nghĩa là chúng tôi đang ở cách nơi tổ chức lễ hội của thành Ix ít nhất vài dặm. Còn một vòng tròn khác rộng hơn, được đánh dấu bằng khoảng năm mươi bó đuốc, nhưng trời không trăng nên tôi không nhìn thấy gì ở khoảng cách xa hơn.

     Các k'iik đứng vây kín mít vòng tròn. Tôi đếm được ba mươi mốt người - cái đầu mới này không đếm nhanh được như Jed, nhưng tôi vẫn đếm khá nhanh – nhưng lát sau, tôi đoán ra số người hẳn phải là bốn mươi, vì ở đây, người ta thích làm việc theo bội số hai mươi. Mỗi k'iik cầm lấy một ngọn lao hơi cao hơn thân mình một chút. Giống như phần lớn các loại vũ khí ném khác, những cây lao này gồm hai phần, một cán dài và một đầu nhọn dài chừng hai feet được gắn hơi lỏng, đủ để tuột ra khỏi cán sau khi đâm trúng mục tiêu, nhưng thay vì làm bằng đá sắc, chúng lại là những mẩu gỗ hơi tù. Các cây lao được quấn một vành lông thú ngay sát đầu nhọn, lông báo đốm dành cho người thị tộc Mèo Rừng và lông khỉ cho người thuộc các thị tộc khác. Các k'iik quấn khố may bằng da hươu sống và những dải dây lưng bằng vải bông to bản, hai đầu dây thắt lại đằng sau lưng. Họ đi những đôi săng-đan đế cao su giống như tôi, da họ được thoa mỡ chó nhuộm đỏ, dùng cho các chuyến săn đêm. Những mớ tóc được bện thành nhiều đuôi sam thật chặt, cột lại với nhau, xòe đều, hất ngược ra phía trước trán. Hơn một nửa trong đám này béo tốt đẫy đà. Cũng giống như ở ấn Độ, nếu anh kiếm được đủ thức ăn, anh sẽ có vẻ ngoài như thế. Ký ức của Chacal hẳn đang được khơi dậy mạnh mẽ, vì chỉ qua những người này đều thuộc năm dòng họ quý phái ở Ix. Các k'iik  của thị tộc cai trị, Mèo Rừng, vẽ những chấm ngọc lam trên bắp chân. Các k'iik của nhà Dơi Quỷ, thị tộc khá thân thiết với Mèo Rừng và được giao coi sóc vùng đất phía tây bắc, thì có những vạch đen và da cam chạy dọc ống chân. Rồi đến thị tộc Itz'un, tức là thị tộc Hắt Hơi, cũng đến từ tây bắc, với vạch trắng khắp người. Thị tộc Vẹt Đuôi Dài, đại diện cho vùng tây nam và là phe ủng hộ nhà Đại Bàng mạnh mẽ nhất, thì có những chấm vàng. Các k'iik  khác đến từ thị tộc Đại Bàng, với những vạch đen và đỏ trên người, đang vươn chân vươn tay, quất vun vút những cây lao, xem ra đã sẵn sàng không kém những kẻ khác. Thế đấy, - tôi nghĩ, - ngay người nhà mình cũng thi đua để hành hạ mình. Tôi không ngóc đầu dậy được để nhìn vào tận mặt họ, nhưng qua giọng nói, tôi biết Chacal quen vài người trong số đó. Họ đùa cợt và diễu võ giương oai, đánh giá tôi với vẻ quá ư thành thạo cứ như tôi là một con ngựa đua trong bãi vậy. “Ymiltik ub'ạj b'ak ij koh'ob, impek' ya'la”, tôi nghe tiếng ai đó nói, “Tớ sẽ giữ bộ gạc và răng hàm, còn đàn chó của tớ sẽ được phần còn lại”. Nhiều tiếng cười ồ lên. Các cậu chàng này vui nhộn quá nhỉ, - tôi nghĩ, - danh gia vọng tộc mà.

     - Không, tớ sẽ lấy bộ gạc, cậu có thể lấy cái chim, và bầy chó của tớ hưởng chỗ còn lại, - một giọng khác nói.

     Hay thật đấy, - tôi nghĩ, - cứ như quay lại thời cấp hai vậy. Tôi nhìn lên những bộ mặt đó, cố nặn óc để tìm một câu đáp trả thật cay độc. Gã k'iik  vừa nói câu lúc này, một Itz'un trẻ tuổi, cúi xuống sát mặt tôi, phùng má và lác mắt, làm ra bộ mặt giống hệt thằng hề. Chẳng hiểu sao tôi cũng cười cùng cả đám. Phản ứng như vậy thật quái đản khi mà chính anh là nạn nhân, nhưng cũng chẳng sao. Điều đó có nghĩa là anh vẫn còn sống. Tôi cũng làm bộ mặt sưng sỉa chế giễu và nhận được tiếng cười hưởng ứng còn to hơn. Ai quan tâm anh ở phe nào chứ, cứ cười thêm một chút có hơn không? Tôi đưa mắt đảo qua một lượt đám đông vây quanh. Một vài khuôn mặt có vẻ như bạn cũ. Vài chàng trai cười với tôi, tán thưởng một cách chân thành. Tôi mỉm cười đáp lại. Chúng tôi thấu hiểu nhau, nhưng không phải sự thấu hiểu có thể ngăn những gì họ sắp làm với tôi, vì nếu là họ, họ cũng sẽ không đòi hỏi được đối xử theo cách khác.

     Mấy tên đầy tớ dựng tôi đứng dậy, nắm lấy bộ gạc để giữ tôi đứng vững. Tên đứng đầu cầm lấy một lưỡi dao bằng vỏ sò và quỳ xuống cạnh tôi. Tôi sợ khiếp vía - tôi tưởng hắn sắp lột da mình - nhưng hắn quỳ xuống chỉ rạch nhẹ vào người tôi bằng đầu có răng cưa, những vết cắt chạy song song dọc cẳng chân tôi. Nhìn quanh, tôi thấy các thợ săn cũng làm tương tự như thế với chân họ. Sau đó, họ thọc bàn tay đeo găng vào một chiếc đĩa đựng thứ bột nom như phấn hoa và đập đập nó vào các vết cắt. Ui da. Những lằn bỏng rát lan khắp chân. Bàn chân tôi co giật, đúng hơn là nhảy tưng tưng lên. Thứ bột đó thực chất là một loại cây tầm ma nghiền thành bột. Nó khiến tôi nóng rát và tê dại. Đại loại thế. Bên ngoài vòng tròn, các k'iik  cũng đang xoa thứ bột đó lên chân họ, nhảy cẫng lên và chòng ghẹo nhau. Cuối cùng, mấy tên hầu cởi dây trói cho tôi và lui ra khỏi vòng tròn, đứng lẫn vào đám k'iik . Những tràng huýt sáo – kiểu vỗ tay hoan hô ở Mesoamerican – rít lên về phía tôi trong không khí hội hè rạo rực.

     Các tay thợ săn bỗng im bặt, giống y sì lũ học sinh lớp ba khi cô giáo bước vào, họ rẽ ra, nhường lối cho một nhân vật cao lớn, có tuổi, dáng vẻ quyền cao chức trọng, bước vào trong vòng tròn. Lão ta tiến về phía tôi với một nắm gì đó trong tay. Tôi bất giác thu mình lại theo kiểu “ông muốn làm gì tôi thì làm”. Lão ngồi xổm xuống trước mặt tôi, cách chừng hai sải tay, giở ra một cuộn da hươu trắng. Bên trong có bốn lưỡi rìu tượng trưng bằng ngọc bích được mài sắc ngọt, bé xíu nhưng hoàn hảo, thứ này còn được giới nhân chủng học gọi là "lưỡi rìu tiền" (Ở một số nền văn hóa cổ, người ta dùng các phiến hình lưỡi rìu (bằng đá hoặc kim loại) như một loại tiền tệ)Lão ta cuộn chúng lại và thắt chặt hai đầu cuộn da. Tiếp đó, lão đổ ra một đống hạt ca cao màu nâu đỏ chảy từ chiếc giỏ hình nón, và với vẻ thành thạo như một tay cầm cái già đời ở sòng bạc đang chia bài, lão nhặt ra tám mươi hạt, bỏ vào một chiếc túi dái dê và buộc kín lại. Theo thói quen, tôi không thể kìm được việc lục lại kí ức của Chacal để tính xem cái cuộn da dê kia đáng giá bao nhiêu. Dĩ nhiên, kinh tế thời này khác quá xa nên không thể quy đổi chính xác ra tiền của nnăm 2012 được. Ý tôi là ở đây, một cái lông đuôi chim đuôi seo đẹp đáng giá bằng cả hai tên nô lệ khỏe mạnh. Nhưng tôi áng chừng mình sắp được đeo lên người khoảng tám ngàn đô la Mỹ, vừa đả để bắt đầu một cuộc sống mới tại một nơi ở mới với bốn mươi mẫu đất và một ngôi nhà. Thật rẻ mạt. Lão già quấn cả cuộn da hươu và cái túi vào một tấm vải lớn hơn, đưa nó cho mấy tên đầy tớ để chúng buộc vào sau thắt lưng tôi. Xong việc, lão ta quay lại và vẫy cây gậy chống nhọn đầu về phía đám k'iik . Họ rẽ ra, để hở một lối cho tôi ở cạnh tây bắc của hình cửu giác.

     - Ch'een b'o'ol, - lão già hét bằng thứ giọng rền và ngắn dài như giọng một tay rao bán đấu giá ở nhà quê thời xưa. - Ném tiền cược của các người vào đi.

     Câu ấy cũng giống như "Faites vos jeux", nghĩa là "hãy đặt cược".

Xa xa, phía ngoài lối mà họ chừa cho tôi chạy, dãy núi nom giống hệt cảnh tượng ở một khu quầy bán hàng di động ban tối ở Bảo tàng Lịch sử tự nhiên. Có ít nhất bốn trăm người tụ tập trên đó, tất cả đều cố rướn cổ qua hàng rào thợ săn để nhòm tôi một cái. Bao nhiêu là bọc, gói, võng cáng và một tá chiếu bán hàng bằng cói xanh tươi chất đủ những thứ lỉnh kỉnh: những cuộn bông trắng, những bó vỏ cây thơm, những chiếc túi mà tôi đoán là đựng hạt ca cao, những túm lông chim mỏ thìa, những viên đá mỏ chai màu lục, những lưỡi rìu tiền, những con kutz – một loại gà tây bản địa Trung và Nam Mĩ – buộc chằng lại với nhau, những cái thẻ đếm bằng gỗ và đất sét, tôi đoán chúng cũng như thẻ ở sòng bạc, tượng trưng cho cái gì thì có giời mới biết. Những gã – có lẽ là chịu trách nhiệm giám sát việc cá cược – vận áo choàng đen trắng và đội mũ đầu khỉ, đi thành từng đôi giữa đống đồ, đeo những cái giỏ đựng những mẩu giấy biên nhận nho nhỏ để theo dõi việc đặt cược. Ở rìa ngoài đám đông, tôi chỉ thấy lờ mờ hai hình dạng khả nghi, hình như hai người này có nước da bóng nhẫy bị treo cùng nhau trên một cái giá ba chân cao giống như chiếc khung dựng lều của người da đỏ. Những con mồi để khởi động đây, chắc thế. Thôi, đừng nghĩ đến chuyện đó. Tôi lắng nghe đám đông, cố tìm hiểu xem họ cá cược cái gì. Theo những gì tôi nghe thấy lúc đầu, hình như tất cả đều cá xem thợ săn nào sẽ bắt được tôi. Nhưng cuối cùng, tôi cũng nghe được vài người đánh cuộc là tôi sẽ chạy thoát. Nó khiến cho tôi khá hài lòng, cho đến khi tôi phát hiện ra họ nhận được tỉ lệ những một ăn tám. Có tiếng cãi cọ phản đối nổi lên đâu đó bên trái tôi, mỗi lúc một ồn ào hơn. Phút đầu tiên, tôi cứ tưởng tất cả sẽ lao vào choảng nhau và tôi sẽ lỉnh được đi như trong phim găng-xtơ, nhưng họ đã giải quyết vấn đề bằng cách cử một người vào giữa vòng để kiểm tra tôi. Đó là một gã thấp bé, lôi thôi lếch thếch, trăm phần trăm là hạng dân đen nhưng chắc phải là một chuyên gia quy định tỉ lệ tiền cược có tiếng. Hắn đeo găng vào, nhấc cánh tay tôi lên, kéo dạng hai chân tôi ra và sờ thử cơ bắp. Thật là giảm giá trị con người, nhưng tôi chịu đựng được. Hắn tuyên bố câu gì đó, đại khái khẳng định rằng tôi khá to khỏe, thế là tỉ lệ đặt cược cho tôi giảm xuống còn một ăn năm.

    Không hay rồi, Jed ơi, - tôi nghĩ. Gần như vô vọng. Thế là không công bằng. Ý tôi là như vậy vẫn còn có một khả năng tôi chạy thoát, dĩ nhiên, nhưng chả ai lại đi đặt cược với một tỉ lệ chênh lệch như vậy, trừ khi trong các màn biểu diễn nguy hiểm.

     - Tz'o'kal, tz'o'ka, (cược xong) - người đếm mặt trời hô to.

     Câu ấy tương tự như câu “Les jeux sont faitas (Một khẩu hiệu ở các casino, nghĩa là "tiền cược đã đặt xong").

     Đám đông trật tự dần. Một vài k'iik tháo đồ trang sức ra, đưa cho lính hầu hay tùy tùng gì đó. Có tiếng người thổi tù vang sau lưng tôi, nghe như tiếng kèn shofar (Một loại tù và dùng trong các nghi lễ tôn giáo của người Do Thái) của người Do Thái. Tất cả liền quay người, nhìn về phía tây bắc. Tôi cũng nhìn. Từ trong bóng tối, nơi những ngôi sao bị mây che khuất, vô số đống lửa lễ hội lần lượt được nhen lên, dọc theo những cái sống nhấp nhô của dãy núi trước mặt, giống như những chuỗi đèn màu chăng trên hàng rào nhân dịp giáng sinh. Nó ở cách bao xa nhỉ? Có vẻ như chừng nửa dặm. Tôi không nhìn thấy dưới thung lũng nơi tôi phải chạy qua có những gì. Chết tiệt.

     Qua Chacal, tôi biết rằng nếu tôi vượt qua được ranh giới đánh dấu bằng những đống lửa kia, tôi sẽ ra khỏi thực đơn và được tự do đi đến bất cứ đâu tôi muốn - mặc dù điều này thì ai cũng có thể đoán được. Dĩ nhiên, tôi phải tránh xuất đầu lộ diện và không bao giờ trở thành k'iik  được nữa, chỉ có thể làm một kẻ lang thang, hay, nói theo ngôn ngữ Ix, làm một kẻ lẩn lút vô giá trị, không nhà cửa, trôi dạt từ thành phố này đến thành phố khác. Tôi cố vạch ra một kế hoạch dựa theo hình dung mơ hồ của Chacal về địa hình vùng này, nhưng tất cả những gì tôi nghĩ ra được chỉ là: tôi phải đến được sacbe (Nghĩa đen là "con đường trắng" – chú thích của tác giả) - tức là con đường lớn linh thiêng - Ở phía nam, chạy men theo nó cho đến khi gặp vùng biên giới giữa hai vùng đất, một bên dưới quyền kiểm soát của thành phố Yaxchilán và bên kia thuộc lãnh địa của kẻ thù truyền kiếp của họ là thành phố Tiak'al mà lúc này nền cai trị đã gần sụp đổ. Tôi có thể bị tóm và ăn thịt ngay trong đêm đầu tiên. Và ngay cả khi chuyện đó không xảy ra thì với tôi cũng chẳng có gì khác. Đằng nào thì tôi cũng chết sau không đầy một năm nữa. Hay cứ ngồi ỳ ra? Tôi không thích chơi trò này bây giờ đấy. Họ có bao giờ nghĩ đến điều ấy không? Cái trò săn hươu này mệt mỏi chết đi được. Nhưng nếu tôi cứ ngồi ì ra đây, họ sẽ thực hiện thêm vài trò của môn nghệ thuật tra tấn lên người tôi. Hay tốt nhất là giật lấy một trong những mũi lao kia mà nuốt. Mặc xác cho trái đất đi xuống địa ngục sau một nghìn ba trăm năm nữa. Còn xa lắm, chẳng nên lo vội làm gì. Kệ mẹ nó.

     Bốn giây im lặng chờ đợi, và rồi có tiếng của Sọ Đá Quý 2:

     - Tz'on-keej b'axb'al!

     Tôi bước ra ngoài vòng tròn, và với vẻ đường hoàng nhất có thể, đi qua những tay thợ săn và đám dân đen, ra tới vòng tròn bên ngoài. Tôi không nhìn bất cứ ai trong số họ. Tất cả đều lùi lại và nhường chỗ thật rộng cho tôi đi, nhưng khi tôi vừa bước qua những ngọn đuốc đánh dấu vòng tròn, các k'iik lập tức đồng thanh:

“Chín anh chàng chạy về phía con hươu to béo;

 Hươu ơi, đầu mày nhẹ, mông mày nặng.

 Hai tai mày sẽ thành hai chiếc thìa cho người thứ chín... ”

    Đó là một bài hát đếm giống như khi chơi trò trốn tìm mà Chacal và tất cả những đứa trẻ Ix khác đã lớn lên cùng nó. Chẳng cần ai giải thích luật chơi tôi cũng biết ngay khi họ đọc đến từ cuối cùng "ts'ipit" – nghĩ là "chiếc nhẫn" – họ sẽ được phép chạy ra khỏi vòng ngoài và sẽ trở thành con mồi của tất cả.

“Hai gạc mày sẽ thành gậy cho người thứ tám... ”

Tôi lao bổ xuống con đường dốc đắp nổi.

“Móng guốc mày sẽ thành bốn cây búa cho người thứ bảy

Da lưng mày sẽ thành túi tiền cho người thứ sáu... ”

Chạy, chạy, chạy, chạy, chạy. Rãnh nước. Nhảy qua. Cây, chạy vòng qua. Chacal không phải thợ săn, nhưng bàn chân anh ta vẫn biết tìm những chỗ an toàn trên đám cây bụi dưới mặt đất để đặt lên. Tiếng rên rĩ nhức óc của những con ve sầu vẳng qua tai tôi. Tôi ngửi thấy mùi gỗ thông và bạc hà lá dài. Thế này thì hàng đống rắc rối có là gì, - tôi nghĩ, - mình vẫn thấy thật đễ chịu. Tôi nghĩ tôi vừa nhảy qua một bụi cây thay vì vòng qua nó.

          “Ruột mày sẽ thành vòng cổ cho người thứ năm... ”

Chưa sao đâu. Họ vẫn chưa bắt đầu chạy. Tôi nhảy vọt qua rìa của con đường thứ nhất, lộn cổ vì nhảy trượt vào khoảng không. Sao dưới đất còn nhiều hơn cả sao trên đầu... nhưng chúng lập lòe và chạy lung tung, tạo thành những chòm sao không có hình dạng cố định. Hai giây sau, tôi nghĩ mình đang lăn xuống một cái hồ; và khi lăn qua ngôi sao đầu tiên, tôi nhận ra những đốm sáng gợn lăn tăn bên dưới tôi ấy là những con đom đóm, hàng ngàn những con bọ sáng trắng xanh nhảy múa quay cuồng trên các bụi dương xỉ và dạ lan hương. Chắc chúng mình đang ở phía đông thành phố, - tôi nghĩ, - có thể là trên lãnh địa của nhà Đại Bàng, đâu đó giữa dãy núi đá vôi chạy từ đông sang tây, vượt cả ra ngoài phạm vi của dãy Sierra de Chamá rồi dần thấp xuống về phía hồ Loga de Izabal. Rồi. Thử áng chừng xem khoảng cách xem nào. Từ đỉnh núi đến vành đai lửa kia khoảng một dặm rưỡi theo đường chim bay. Vậy khoảng cách thực tế mình phải chạy là bao nhiêu? Hai dặm chăng? Có khi phải hơn ba dặm. Trong đó một dặm là leo ngược lên núi. Không sao, mình sẽ xử lý được. Oái. Cây bụi. Đất ở đây lâu rồi chưa được phát quang. Tôi gần như trượt xuống chân núi, lăn lông lốc vào đám cỏ ba lá và cúc vạn thọ. Đứng lên. Đứng lên. Nhanh. Không nhìn thấy Đường Lửa đâu nữa. Tiến lên nào. Nhìn kĩ vào. Được rồi, thấy đường rồi. Ở Căn Cứ, tiết mục ca hát vẫn tiếp tục và tôi nhận ra từng bước chạy của mình rất ăn nhập với bài hát. Dốc núi ở đây có nhiều cây bông và khuynh diệp mọc thành từng khóm, một vài cây nom giống như những chiếc ô khổng lồ, những cây khác chỉ là cây non, có cây trụi lá, có cây đổ, có cây chỉ còn là cái hốc mục ruỗng. Nhưng chúng mọc quá đều và quá thưa nên khó thể coi là rừng tự nhiên được. Có thể chúng được trồng hoặc được xén tỉa theo kiểu cách nhất định. Thực ra, nếu không để ý đến những chùm lá thuốc lá được thắt ruy-băng nhiều màu, treo trang trí trên các thân cây – đó là đồ dâng cúng tổ tiên trong dòng họ, uay  của mỗi người trú trong một thân cây – và không để ý rằng cây sống ít hơn cây chết, anh sẽ tưởng mình đang đi giữa một công viên ở Anh bài trí theo phong cách Capability Brown (Một nghệ nhân làm vườn nổi tiếng người Anh). Sau lưng tôi, giọng của các k’iik mỗi lúc một cao lên khi họ hát gần đến cuối bài:

“Xương hàm mày sẽ thành nĩa cho người thứ tư...”

     Nhanh lên. Nhanh chân lên. Chạy giỏi thật. Bản năng của Chacal đã được đánh thức, một cái máy lái tự động đầy phấn khích. Tôi chỉ việc điều khiển lớp vỏ não ngoài cùng. Rẽ trái đi.

     Huỵch, huỵch, huỵch, huỵch, huỵch. Nhảy qua. Cây. Chạy vòng qua. Lại nhảy qua. Mặt đất ở đây mấp mô hơn. Đầy chướng ngại vật. Không khác gì chạy vượt rào. Tôi thấy nhẹ nhõm lạ thường. Không thể chỉ vì cơ thể Chacal còn trẻ trung, hay vì nó khỏe mạnh hơn cơ thể cũ của tôi, bất kể đã bị vắt kiệt sau nhiều ngày nhịn ăn trước lễ hiến sinh. Chắc chắn là do cơ thể nhỏ bé hơn. Đó cũng là lý do vì sao bọn trẻ con lại lắm năng lượng thế, không phải vì chúng chưa biết gì, mà vì chúng không phải vác nhiều trọng lượng trong cơ thể. Mình cao khoảng bao nhiêu nhỉ? Nếu không bận rộn thế này, tôi đã thử đo mình với cái rầm trong căn điện của ahau mà tôi biết chắc là cao bốn feet hai inch. Nhưng chiều cao trung bình của một quý ông thuộc tầng lớp thượng lưu Maya thời này vào khoảng năm feet hai, và tôi chỉ cao hơn trung bình một chút thôi. Vậy cứ cho tôi cao năm feet tư. Nếu sức mạnh ấy tăng bằng bình phương mức tăng của chiều cao và cân nặng tăng bằng lập phương mức tăng của chiều cao thì thể trạng của tôi...

     Oái. Gai nhọn. Để ý vào chứ. Được rồi. Huỵch, huỵch. Huỵch, huỵch. Đừng mất tập trung. Mày vẫn chưa về đến nhà đâu...

 “Mũi mày sẽ làm ống điếu cho người thứ ba

Ba mươi chiếc răng mày sẽ thành súc sắc của người thứ hai...”

     Mình sẽ làm được, làm được, làm được. Loạng choạng. Tôi đưa tay sờ lên bộ gạc lố bịch, có lẽ tôi có thể cởi nó ra, không, để đấy thì hơn, giật ra thì chắc sẽ lột cả da đầu vì thứ này bám chắc như mọc từ sọ tôi ra vậy. Quên chuyện này đi. Tập trung vào.

 “Cơ vòng mày sẽ cho người thứ nhất chiếc nhẫn!”

  Từ ts'ipit – chiếc nhẫn – được kéo dài thành tiếng reo hò rít lên và tiếng những bàn chân chết tiệt dậm thình thình. Và họ xuất phát, đuổi theo. Đừng nhìn lại. Chạy đi. Chạy đi.

    Những thân cây. Một cuộc đua hình chữ chi giữa các thân cây. Sang trái. Sang phải. Không, trái chứ. Bây giờ thì phải. Lại sang trái. Gần được nửa đường rồi. Làm tốt lắm.

     Tiếng những bước chân chạy xuống núi rượt theo tôi lộp bộp như tiếng mưa mau.

      Mẹ chúng nó chứ. Sang trái. Vào bụi rậm rồi. Đừng để bộ gạc vướng phải cái gì. Nhìn xuống chân đi. Tay trái che mắt, tay phải sờ soạn đằng trước và xung quanh. Xem có cành cây không. Chạy tiếp đi.

      Vẫn chạy trước chúng. Đừng lo. Khi tôi vào đến thung lũng nằm giữa hai dãy núi, mặt đất dưới chân bằng phẳng hơn, nhưng lại lổn nhổn và đầy rãnh nước. Coi chừng đấy. Lổn nhổn và rãnh nước cũng đồng nghĩa với tiếng động. Tiếng động cũng đồng nghĩa với cái chết. Lặng lẽ, mày sẽ sống. Tôi nhón chân chạy tiếp. Vẫn còn một dặm nữa. Và phần lớn là leo dốc.

      Ui da. Đặt chân xuống. Ui da. Cây tầm ma. Hai chân tôi buốt nhói. Đường như cắm chông vậy. Hừ, nếu nó cản đường tôi, nó cũng sẽ cản đường chúng.

      Dừng lại. Nghe xem.

      Có một nhóm đang áp sát. Bao nhiêu người? Bốn chăng? Hình như lại tách ra. Chúng theo dấu giỏi thật đấy. Chớ có để lại dấu vết. Làm thế nào? Chạy giật lùi rồi đổi hướng à? Không, như thế quá khó. Không ăn thua đâu. Chỉ có cáo mới làm được.

     Chạy đi. Nhẹ nhàng thôi. Trò này khá hay đấy. Rốt cuộc, con người chỉ có nghĩa là nạn nhân mà anh có thể ăn...

     - Unf.

     Chacal biết đó là gì, đó là tiếng hét của một người khi anh ta phóng lao, theo phản xạ, chúng tôi cúi đầu và né sang một bên. Mũi lao rít lên cách đầu khoảng ba feet . Nó rít thực sự, với một hợp âm quãng năm cao nhất, vì đầu mũi lao có buộc những ống sáo nhỏ xíu làm bằng thân cây sậy.

     Phập. Mũi lao cắm xuống đâu đó khá gần, cắm vào một thân cây hay thứ gì đó tương tự. Tìm nhặt nó đi. Không , không có thì giờ đâu. Tôi trượt nốt quãng đường còn lại xuống một con lạch cạn nằm ngay giữa hai dãy núi. Sau lưng và trên đầu tôi, các k'iikđang huýt còi ra hiệu cho nhau bằng những ám hiệu đi săn của riêng từng nhà. Chắc chắn họ đã chia nhau tỏa ra và chạy xuống núi thành từng cặp, vây kín cả sườn núi. Một mánh đi săn kinh điển và không bao giờ lỗi thời.

     Tôi dừng lại. Leo thẳng lên ư? Phải, đi thôi. Leo lên. Nào. Tôi cúi khom người leo lên dốc.

     V...è...èo.

     Một ngọn lao nữa. Cúi đầu xuống!

     Phập.

     Đồ chết dẫm. Chúng làm sao có thể nhìn thấy tôi được qua rừng cây, phải không? Chúng chỉ ném dựa vào tiếng động thôi mà. Đừng lo. Cứ ở ngoài tầm sát thương và mày sẽ không sao hết. Tôi chạy vòng sang trái. Chết thật. Bộ gạc vướng rồi. Tôi nghe thấy tiếng một cặp thợ săn nhanh chân nhất đang thở hổn hển leo dốc ngay phía sau tôi. Tôi cảm thấy những vết thương, tuy chưa có, nhưng đã ran lên trên lưng. Kéo đi. Mấy cái cành chết tiệt này. Kéo ra. Lại còn dây leo nữa. Oái. Cổ tôi. Tiên sư nó.

     ZZZZZ. Phựt!

     Được rồi. Giải thoát được bộ gạc rồi. Rẽ trái. Tôi cong đít chạy lên dốc và rẽ trái. Lên dốc. Rẽ trái. Rẽ trái. Ôi trời...

     V...é...é...o...

      Trên đầu. Cúi xuống. Cúi người xuống. Đừng để chúng ngắm được. Hãy để cây cối chắn giữa chúng mình, để tớ leo lên chỗ những đống lửa trên kia và tìm một cái hố nhé. Mẹ kiếp. Ở đây không có chỗ núp như rừng rậm tự nhiên. Nấp ở đây chỉ như nấp sau cái cột. Cứ phải chạy từ cái cây này sang cái cây khác. Được rồi. Leo lên đi. Bộ gạc làm tôi mất thăng bằng. Đầu nặng chình chịch. Đếch gì. Tôi hình dung ra mình như một con hai sừng tấm ở Ai-len thời tiền sử với những cái gạc vừa xòe rộng vừa nặng như hai cái xe mô-kích. Chả trách chẳng còn con nào sống được cho đến ngày nay. Phải tháo cái thứ của nợ này ra mới được. Tôi dùng đầu ngón tay lách thử vào dưới những sợi dây da quấn quanh đầu, hình như có thứ gôm hay nhựa cây nào đó dán chặt vào da tôi. Thôi kệ nó.

     Khẽ thôi. Chạy thật khẽ khàng, thật lặng lẽ. Đám thợ săn đuổi theo cũng nhanh quá.

     Sắp nôn mất. Chuyện là thế này, nếu anh chạy nhanh quá sức mình, anh sẽ bị xóc bụng. Phải nôn ra thôi. ọc. ọe. Phù. Tôi nghĩ tôi đã xoay xở làm việc đó khá lặng lẽ. Dù sao trong ấy cũng chả có gì nhiều. Đi tiếp nào. Tiến lên. Không cần bận tâm năng lượng đến từ đâu, chỉ cần bận tâm ta sẽ dùng nó vào việc gì. Tiến lên. Tiến lên.

     Tôi rẽ sang hướng nam. Không thể lạm dụng sức lực thế này lâu hơn được nữa. Tim tôi đau nhói lên. Cũng có thể là phổi. Gì cũng được.

     Tất cả lại im lặng. Không còn tiếng hét nào nữa. Nhưng chúng vẫn đang tiến đến sau lưng tôi. Nghe ngóng đi. Chạy chậm lại. Mày gây ra nhiều tiếng động quá đấy.

     Rón rén thôi. Hãy khôn ngoan.

A. Những đống lửa. Chỉ còn cách một quãng nữa thôi. Chạy đến đi. Không, gượm hẵng.

     Tôi đứng lại.

     Ôi, quỷ tha ma bắt. Ngay sát cạnh tôi, phía bên trái. Tiếng cành cây gẫy răng rắc. Tốt hơn hết là...

      Từ từ. Không ổn. Hắn tạo tiếng động lộ liễu quá. Hắn muốn lùa tôi chạy về phía những kẻ khác đang chờ sẵn đây mà.

Nghĩ xem. Chúng đang làm gì?

 Chúng đang ở trên kia. Chờ sẵn mày. Số còn lại tỏa đi khắp các hướng. Chỉ có một vài tên lần theo dấu vết của mày thôi, còn lại đã tản ra chặn ở phía trước rồi. Và chúng sẽ áp sát.

Những tay thợ săn chặn phía trước đang tiến lại gần. Tôi nghe ngóng.

Cứ đứng yên. Chạy là mày sẽ chết.

Phải chạy đến vành đai lửa bằng khối khác vậy. Từ bên trái.

Được rồi.

Tôi lùi xuống.

Tôi khẽ khàng lao ngược xuống thung lũng, nhẹ nhàng nhất trong khả năng bàn chân tôi cho phép. Mặt đất ở đây trống trải, nhưng nhiều cành khuynh diệp lại sà xuống  ngang tầm ngực. Để ý nhé. Tôi quay người lại và loạng choạng chạy xuống dốc. Bây giờ là lần đầu tiên tôi quay mặt về hướng tây nam, tôi nhìn thấy một quầng sáng lớn mờ ảo phía sau đỉnh núi tiếp theo của dãy Sierra da Chamá, quầng sáng mà bộ óc của Chacal biết rất rõ: những đống lửa canh đền của thành Ix.

     Được rồi, hãy chạy vòng sang hướng tây và thử leo lên lần nữa. Chắc chúng đoán mày sẽ chạy ngược chiều kim đồng hồ. Vậy hãy chạy xuôi.

     Tôi không nhìn thấy đỉnh núi, nhưng đã có những ngôi sao, chúng chẳng kém gì hệ thống định vị toàn cầu. Hãy đoán phương hướng dựa vào Đầu Thần Chết 9, tức là chòm Regulus, ở ngay trên đầu kia.

     Tôi đoán từ bãi đất được đốt sạch cỏ này lên đến vành đai lửa còn bảy mươi bước chông gai nữa.

     Tốt thôi.

     Đi nào.

     Tôi leo lên dốc theo hình một vòng cung rộng, cố sao ra khỏi rừng cây ở điểm càng xa về phía tây càng tốt...

     Sát bên cạnh. Có thứ gì đó. Tôi quăng người xuống đất mà chính tôi cũng chẳng hiểu vì sao.

     Uỵch.

     Chết cha, tôi bật dậy nhưng bị kéo trở lại. Cổ tôi! Hỏng bét! Một bàn tay đang nắm lấy cái gạc khốn khổ. Tôi giật mạnh đầu nhưng hắn đã túm được nhánh gốc của cái gạc bên phải. Tôi giằng sang trái, không, quá muộn rồi, hắn đã tóm được tôi, và không suy nghĩ gì, tôi cong lưng và thúc mạnh những cái gạc nhọn vào hắn. Hắn khựng lại và thở gấp một hơi. Khi tôi giằng đầu ra lần nữa, bàn tay thợ săn đã buông ra. Tôi quay lại nhìn hắn. Hai cẳng chân cho biết hắn là người nhà Mèo Rừng, một thằng oắt mới khoảng mười hai hoặc mười bốn tuổi là cùng với mớ tóc dài ngổ ngáo như muốn khiêu khích: “đây, vào mà túm lấy này”. Bàn tay trái hắn đè lên xương đòn phải, nơi đầu gạc nhọn của tôi đã đâm vào. Tôi định thần lại và nhảy chồm như một con ếch xuống sát mặt hắn. Một cú choáng váng từ đầu hắn đập sang đầu tôi, y như hai quả bóng bi-a. Tiên sư nó chứ. Tôi húc đầu như một con hà mã. Hắn tóm lấy cái gạc trên đầu tôi mà vặn, không khác gì Theseus (Vị anh hùng trong truyền thuyết của người Hy Lạp, bị vua Minos đưa vào mê cung cho quái vật Minotaur nửa người nửa trâu ăn thịt. Chàng đã giết chết con quái vật và thoát khỏi mê cung nhờ sự giúp đỡ của Ariadne, con gái của vua Minos) vật lộn với quái vật Minotaur. Tôi thả lỏng người xoay theo chiều vặn và ngã ngửa xuống. Một bàn tay túm lấy cái nút lớn ở trước thắt lưng và húc gạc vào cổ hắn thêm lần nữa. Lần này, hắn lảo đảo ngã ra sau, tôi nhổm dậy, và tay hắn đã buông ra.

     Ui da. Cổ mình gẫy á? Không, nếu thế thì mình đã không nhổm dậy được. Tôi bước lùi lại và nhìn sang thằng nhãi nhà Mèo Rừng. Mé đầu bên phải hắn đen bóng lên trong ánh sáng lờ mờ, máu tuôn ra từ vết thủng dưới mắt hắn. Hắn loạng choạng lần về phía tôi.

     Đừng lo, hắn bị thương quá nặng rồi. Tôi  quay lưng đi.

     Hắn đang mất máu, hắn đang yếu dần. Cứ đứng xa cho đến khi hắn gục xuống rồi đập cho hắn một nhát.

    Hay có khi nên chạy đi.

     Hay nhân cơ hội này giết hắn khỏi đánh động cho những tên khác? Vớ vẩn quá. Chạy đi. Có khi chúng đã nghe thấy mình ở đâu rồi.

     Tăng tốc. Tôi chạy.

     Chỉ cần đến được đó thôi, mày sẽ được tự do. Tự do như một con ong, muốn làm gì thì làm, anh và em...

     Hử. Cái gì thế này?

     Tôi lại ngã sấp mặt xuống đất. Tôi xoay người lên và ngồi dậy. Chân phải bỏng rát lên. Hừ. Một mũi lao đã đâm trúng sau đùi tôi, cách đầu gối chừng hai inch. Ôi thôi, chết rồi, mình bị thương rồi. Đồ chó má khốn nạn. Tuy cùn nhưng thứ vũ khí này vẫn gây được thương tích. May không sâu lắm. Chảy nhiều máu quá. Bực thật. Trong lúc kiểm tra vết thương, tôi nhận ra mũi lao vẫn chưa gẫy và đang nằm trên mặt đất. Khi tôi đang nhìn nó, nó bỗng chạy lùi ra xa tôi, luồn qua đám cỏ như một con rắn. Tôi dùng bằng bàn tay quấn da lông giả trang chộp lấy nó, ngay dưới mối nối giữa mũi lao có thể tháo lắp và cán lao. Ai đó cố giật lại. Tôi cũng giật và nhìn lên. Vẫn là thằng k'iik nhà Mèo Rừng ấy. Ôi lạy chúa. Chấp nhận đi. Mày kiệt sức rồi. Chúng tôi trừng mắt nhìn nhau nhưng không thực sự hiểu nhau có ý gì. Tốt thôi, - tôi nghĩ, - miễn đừng kêu gọi người đến giúp sức là được. Cứ giữ tao cho mình mày thôi. Tôi vặn cây lao cho tuột khỏi tay hắn, nhưng hắn không buông. Tôi cúi bộ gạc xuống chắn giữa hắn và tôi, ngồi xổm lên và cố đứng dậy, tay vẫn nắm đầu nhọn của cây lao. Tốt rồi, Jed, đừng thả tay ra. Tôi xoay người nép vào sau một thân cây, tay vẫn giữ chắc mũi lao, tôi chạy ngược chiều kim đồng hồ quanh thân cây đường kính xấp xỉ tám inch chắn giữa chúng tôi, dùng nó làm điểm tựa và chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tôi buông tay phải ra, giật cây lao vòng qua thân cây. Tôi dùng một tay chộp lấy sợi dây da nạm ngọc bích quấn trên bắp tay trái hắn, hắn lúng túng mất một lúc, hai bàn chân hắn vẫn đặt trên mặt đất trong khi chân tôi đã tì lên thân cây. Tôi xiết chặt hơn bàn tay nắm sợi dây da, giật người ra sau rồi vươn thẳng lên. Một tiếng uỵch đáng yêu khi ngực hắn đập sầm vào thân cây. Cơ trên cổ tay hắn chùng xuống mất một lúc, nhưng hắn vẫn không buông cây lao. Tôi dịch dần bàn tay trái trên cây lao và cuối cùng đến được sát cổ tay hắn, tôi tóm vào và giật tiếp lần nữa. Lần này, ngay cả qua gỗ cây, chân tôi vẫn cảm nhận được hàm dưới của hắn đạp bốp lên hàm trên. Chén cây đi nhé, đồ mặt hề! Lũ chiến binh bẩn thỉu! Hắn gào lên câu gì đó, líu ra líu ríu, rồi chuyển sang một tràng ăng ẳng để giúp những tên khác định hướng được tiếng động phát ra từ đâu. Mẹ nó. Chắc hắn nghĩ mình sắp chết nên muốn giao nộp tôi lại cho bọn kia. Im ngay, im ngay, im ngay, tôi nghĩ thầm, - mày làm tao thất vọng đấy, và mày toi rồi. Tôi dịch người sang bên phải, đủ để tay phải sờ được vai áo hắn, lần tiếp ra sau gáy, túm lấy một nắm kha khá của mớ tóc được đính hạt, đập mặt hắn vào thân cây lần nữa, cảm thấy sọ hắn rạn cả ra, và qua cách nó lả xuống, tôi biết nó đã mềm nhũn, như quả trứng bị nứt vỏ nhưng chưa thủng màng. Tiếng ăng ẳng tắt lịm. Xong mày nhé, - tôi nghĩ. Thấy chưa? Tao mới là người cừ nhất. Dĩ nhiên, tôi cũng hơi chóng mặt, nhưng vẫn còn khỏe. Tôi có thể thắng trò chơi này. Dù gì tôi cũng có vũ khí rồi, phải không? Mình có một cây lao, - tôi ngân nga trong đầu như vậy, - mình có vũ khí. Leo lên thôi. Ánh lửa ngay trên kia. Không xa. Đi nào.

  Có những tiếng động kỳ quặc sau lưng tôi. Ghê quá.

     Đánh hơi.

     Chúng đang đánh hơi mùi mồ hôi của tôi. Và mùi máu nữa. Chết tiệt. Chết tiệt.

     Im lặng.

     Hít vào. Nín lại. Thở ra. Nhẹ hơn nữa đi. Hít vào. Tôi cố sao bước chân của mình hòa vào nhịp gáy của một con dế đậu gần đó. Thật nhịp nhàng. Hãy tưởng tượng như mình là nó vậy.

     Nhưng dù thế chúng sẽ vẫn ngửi thấy mùi tôi. Tốt hơn hết là biến nhanh.

     Không. Không, chờ đã.

     Cơn hoảng hốt, hoặc đơn giản là tình huống hiện tại, lóe lên nhiều hình ảnh trong bộ óc của Chacla, một mẩu ký ức về buổi tập luyện đầu tiên, có thể gọi là bài kiểm tra tính cách. Các thầy mo bóng hông đưa anh ta xuống hang động hồn ma của Những Người Chơi Bóng Hông. Họ đi qua các hang động lớn với bó đuốc trên tay, lần đường đi nhờ những cái rãnh dưới chân. Họ đặt anh ta nằm trần trụi trong một cái quách bằng đá rồi bỏ đi. Đến lúc anh ta tin mình đã nằm đó được vài ngày thì bất thần nhiều giọng nói vang lên. Ban đầu là những tiếng rì rầm xa xa. “Kẻ nào đây, ta ngửi thấy mùi của một kẻ không nên ở đây, hãy ăn thịt hắn, hãy nhai hắn”. Đó là uay của những người chơi bóng hông bị trục xuất từ thời xa xưa đến để đưa anh ta đến Xib'alb'a. Họ tiến dần lại, đòi anh ta đọc những cái tên thần bí mà anh ta đã thề không bao giờ được nói lộ ra, buộc anh ta rời cái quách để đi cùng họ. Và đến khi những giọng nói đó đến sát tai, anh ta mới biết mình đã không bỏ chạy, không nói ra những cái tên, thậm chí không hề nhúc nhích. Khi được khiêng ra ngoài vào ngày hôm sau, thằng nhóc tám tuổi sau này trở thành Chacal đã vượt qua được giới hạn đỉnh điểm của nỗi sợ hãi đến mất trí để trở thành một con người khác. Đến khi anh ta biết rằng những giọng nói kia chỉ là tiếng các thầy mo gọi vọng qua những cái ống đặt xuyên qua lỗ thông hơi của cái quách thì chuyện ấy cũng chẳng còn gì quan trọng nữa. Nếu đứa trẻ vượt qua được thử thách đó hoặc những thử thách khác thì có nghĩa rằng nó được sinh ra với trái tim rắn như đá, hoặc nó đã trưởng thành. Chúng đã trai lỳ với đau đớn. Nếu là ở thế kỉ 21, người ta sẽ nói rằng, những chấn thương gây ra bởi thử thách sẽ làm chai sạn các cảm xúc thường ngày và gieo mầm cho một cảm xúc mãnh liệt có thể bột phát mà chẳng cần mấy sự khiêu khích. Còn ở đây, điều đó chỉ đồng nghĩa với việc chúng trở thành mộtk'iik

     Một chiếc lá bị giẫm gãy cách chân tôi hai mươi feet về phía sau. Không có gì thêm. Đi thôi. Đi thôi.

     Tội chạy.

     Ôi, không. Vội quá.

     Một mũi lao rít lên ngay bên trái tôi. Tôi nhảy sang phải, lăn về phía trước và dùng cây lao chống để đứng lên. Trong một giây, tôi ngỡ mình đã làm đúng, nhưng chân trái của tôi bỗng trượt đi. Nó bị đâm trúng rồi sao, tôi phân vân. Nếu vậy, sao tôi chẳng có cảm giác gì hết? Nhiều adrenaline (Một loại hoocmon gây hưng phấn) quá hay sao? Tôi giữ thăng bằng đủ để chỉ ngã quỳ xuống và xoay người trong tư thế thu mình lại. Một k'iik của nhà Itz'un đang tấn công tôi, tay cầm cái cán không đầu nhọn của cây lao như cầm một cây chùy. Tôi dậm mạnh cán chân cây lao của tôi xuống đất và đứng vững để chờ cuộc đụng độ. Phía bên trái còn có hai tên thợ săn nữa, cách chừng ba trăm sải tay, đang chạy đến với ngọn lao giơ cao, sẵn sàng ném. Một là người nhà Mèo Rừng và một là thằng bé nhà Đại Bàng có gương mặt tròn xinh xắn. Mình biết tên nó. Chacal đã chơi bóng với nó, nó mới gia nhập nhà bóng hông của nhà Đại Bàng, mình biết tên nó... A, đó là Hun Xoc. Cá Mập 1.

     Được rồi, tôi nghĩ, hãy vượt qua ba thằng nhãi lóng ngóng này và mày sẽ đến đích. Tôi chấm dứt suy nghĩ để tập trung và đâm mũi lao về phía tên thợ săn nhà Itz'un. Hắn né mũi lao và chạy vòng ra sau lưng tôi, giơ cây gậy lên định đập vào đầu. Tôi quay người lại để gạt. Trong một tích tắc, vì một lý do gì đó mà tôi không rõ, hắn lưỡng lự, lùi nửa bước và đứng im. Ồ, mình biết tại sao rồi, - tôi nghĩ. Tôi ô uế mà. Thằng chó mê tín. Tôi dang hai tay, cúi bộ gạc xuống và bất thần lao vào hắn. Cây gậy trên tay hắn giáng xuống, đập gãy hai nhánh của gạc bên phải, nhưng chỉ làm trán tôi hơi xước. Thằng kia, mày làm hỏng chiếc cúp của mình rồi đấy. Tôi lắc đầu cho hết choáng, lấy đà cho chiếc lao và đâm nó xuống theo một hình vòng cung rộng cách mặt đất tám inch. Tên thợ săn nhà Itz'un nhảy lùi lại và cứu được bàn chân trái, nhưng mũi lao đã cắm xuống bàn chân phải và tuột ra khỏi cán. Hắn ngã ngửa ra sau, đập xuống đất. Hắn ngồi lên. Không mất thời giờ nghĩ ngợi, tôi giật lấy cây lao để đập cho hắn một nhát nhưng trong chốc lát, dưới ánh sao mờ ảo, da hắn dường như mỏng và căng đến mức tôi có thể nhìn xuyên qua. Tôi nhắm vào chỗ động mạch ngoài của xương chậu đang phập phồng, ngay giữa đũng, thọc mạnh cái đầu lởm chởm của cây lao mất mũi xuống mà ngoáy. Hắn kháng cự yếu ớt trong vài tích tắc và buông xuôi khi thanh gỗ xuyên được qua da và cắt đứt một dây chằng, tôi chạm đến lớp mỡ, đến động mạch và máu phun ra. Đúng rồi, phun ra, phun ra, PHUN RA ĐI! Hà! Mình đúng là ác chiến thật, - tôi nghĩ. Gã k'iiknhà Ttz'un nằm đờ ra, cử động duy nhất trên mặt hắn có lẽ là một ánh thất vọng trong mắt. Tôi lảo đảo lùi khỏi người hắn, bám chắc vào cây lao và đứng phắt dậy.

     Tôi hơi run run. Không rõ vì sao tôi lại nghĩ đến số tám.

     Bộ óc thường không mất nhiều thời gian để ghi nhận nhiều thứ cùng một lúc, miễn sao anh không cố liệt kê chúng ra miệng. Trong thời gian chưa đến một giây, tôi nhận ra hắn đã chết, và cũng nhận ra đây là lần đầu tiên tôi giết người. Người ta nói rằng lần đầu tiên sẽ đem đến cho anh cảm giác tội lỗi và kích động, rằng anh sẽ thấy thương xót, rằng anh sẽ nghe thấy tiếng máu chảy rần rật trong tai, sẽ choáng váng và ngất đi, hoặc adrenalinecó thể tăng lên đỉnh điểm và đạt đến cực khoái, hoặc sự thương cảm sẽ làm anh ngất đi và sau đó cảm thấy tội lỗi, vân vân và vân vân. Và bất chấp hoàn cảnh hiện thời, tôi vẫn chờ đợi một trong những điều ấy xảy ra. Nhưng thay vào đó, tôi lại có cảm giác quen thuộc lạ lùng. Y như tôi đang đi dạo cửa hàng và vừa mua một món thật đắt tiền, chẳng hạn như chiếc Plymouth Barracuda vừa sắm. Hoặc thậm chí giống như tôi vừa chọn đặt một giá rất cao trong cuộc đấu giá mới đây trên eBay trong năm giây cuối cùng. Cũng căng thẳng tột độ như thế, và rồi dãn ra và nhẹ nhõm, rồi tiếp đến là một dư vị nhàn nhạt kết hợp giữa cảm giác tiếc rẻ phải bỏ tiền ra mua và sự thoả mãn của kẻ được sở hữu. Cứ như thể tôi đã sở hữu được gã k’iik này. Hay đúng hơn, tôi đã chia cắt được cơ thể và uay của hắn, và lúc này, uay của hắn đang lảng vảng và hít hửi quanh tôi, sẵn sàng bám theo tôi đi bất cứ nơi đâu. Và nếu tôi làm những điều đúng đắn, tôi có thể ngăn nó trả thù và biến nó trở thành một thứ như thú cưng của mình, hoặc chính xác hơn, thành nô lệ của mình. Và rồi cảm giác ấy lẫn lộn với một thứ mà tôi cảm tưởng như tội lỗi. Nó vật chất hơn, cảm giác bân bẩn như vừa giẫm phải bãi nôn của một con chó, hoặc như tôi vừa nghịch một chất phóng xạ, làm bỏng tay và phải đi khử nhiễm. Tôi không thấy có vấn đề gì với lương tâm mình. Chỉ là tôi suýt chết nhưng cái chết đã lây sang kẻ khác. Và rốt cuộc, tôi nhận ra mình có cảm giác này, không như mong đợi, là bởi thực ra đây không phải lần đầu tiên tôi giết người. Tôi đã từng giết người. Tức là Chacal đã từng giết người, bảy người cả thảy, trên sân bóng hông.

     Tôi không cảm thấy cái mà tôi đáng ra phải cảm thấy. Ý tôi là Jed đáng ra phải cảm thấy. Tôi có cảm giác của Chacal. Đúng là tôi điều khiển cơ thể này, nhưng cảm xúc lại là của anh ta. Chỉ có một lượt nếp gấp nhỏ xíu, mỏng tang bao phủ vỏ não trước cho anh ta biết anh ta là tôi mà thôi. Cái tôi chẳng phải một sức mạnh gì khổng lồ lắm. Nó mỏng manh thôi.

     Gã Mèo Rừng lùn tịt đã tiến sát đến bên phải tôi, hét lên một tiếng như khi chộp được con mồi. Tôi đã đứng dậy nhưng không thể bỏ chạy xa hắn, vì thế, tôi quay lại. Hắn nâng cây lao đến như một cây thương, chuẩn bị xiên vào người tôi. Tôi chúi đầu lao xuống đất và lăn lông lốc. Hắn phản ứng nhanh như chớp, chuẩn bị lao theo, nhưng hắn đã đứng đủ gần để tôi khạc một bãi đờm máu lên người hắn. Nó bắn ngay lên ngực, một vết tướng, đỏ lầy nhầy. Nhận lấy này – tôi thầm nghĩ. Chấy rận đấy!!!

     Hắn giật bắn mình lùi lại. Phía sau hắn, tôi thấy thằngk’iik nhà Đại Bàng đang lùi lại. Sao thế? Hắn cũng sợ lây bẩn à? Hay hắn vẫn còn đứng về phía tôi? Không, chỉ là chúng thật sự sợ chạm phải người tôi thôi. Tôi không sạch sẽ mà. Tôi hơi tự ái. Thôi, vì chúa, cứ lợi dụng nó đi.

Tên lùn Mèo Rừng đã tiến lại. Ánh đuốc từ trên cao rọi xuống phản chiếu trong mắt hắn, và đâu đó trong đầu Chacal biết rằng nếu hắn đang nhìn lên ánh sáng thì có nghĩ là hắn không trông thấy tôi rõ như tôi nhìn thấy hắn. Tôi cúi thấp xuống và giật cây lao của hắn bằng tay trái, và thúc cán cây lao của tôi lên phía miệng hắn. Nó đâm trúng và tôi cảm thấy thứ gì đó mềm mềm. Cắt amiđan đi, thằng du côn. Tôi nhảy lùi ra sau và rút cây lao ra qua má hắn. Hắn không kêu, cũng không lùi lại, rất ra dáng nam nhi, hắn chỉ lấy lại thăng bằng và lại tiến lên. Tôi lấy đà và đâm một nhát, nó đập vào cây lao của hắn và trượt vào các ngón tay. Có tiếng răng rắc khe khẽ và bàn tay hắn buông cây lao ra. Có nên chiếm lấy nó không nhỉ? Không, quá muộn. Đến lúc phải chuồn rồi. Bịch. Bịch. Chạy được tám bước lên dốc, tôi nghe thấy tiếng lanh canh của đống trang sức bằng vỏ sò trên người thằng k’iiknhà Đại Bàng khi nó chuẩn bị tư thế ném. Một cú ném dễ dàng đây.

Mẹ kiếp, - tôi nghĩ, - đáng ra mày có thể thoát rồi. Tôi dốc hết can đảm để chờ một mũi đá nhọn cắm vào xương sống, nhưng cây lao rít lên trong không trung, bay chệch sang bên trái tôi với âm thanh của một cú ném trượt đáng yêu. Thêm hai bước chạy nữa. Tôi nghe thấy tiếng nó trượt chân và ngã quay ra. Quái thật. Cái xác bất tài. Có khi nó cố tình thả tôi cũng nên. Quên chuyện ấy đi. Cứ đến được cái vành đai lửa phải gió kia đã. Chi tiết tính sau.

Đi tiếp. Lắng nghe.

Chúng có cái mánh thở rất khẽ, chạy rón rén như những con cáo nên thường nạn nhân sẽ không nghe thấy tiếng bước chân, nhưng những chuỗi hạt đeo quanh mắt cá chân va vào nhau lanh canh, gió rít qua những chiếc hoa tai lòe loẹt, và khi chúng đến sát sau lưng, tôi thậm chí còn nghĩ mình cảm thấy hơi nóng tỏa ra từ người chúng. Có bao nhiêu thằng? Tôi không muốn kìm những bước chạy khập khiễng lại, dù chỉ đủ để quay đầu lại. Cứ nghe ngóng thôi. Nghe ngóng giữa các bước chân.

Ba. Ba tên đang ở đủ gần để chặn tôi lại. Một ở sát bên tay trái. Hai ở cách xa hơn bên tay phải. Những tên khác đang chạy phía sau. Đừng bận tâm đến chúng. Hãy tập trung một giây rồi lao đi thật nhanh.

     Hãy sẵn sàng lao thật nhanh. Sau đùi tôi vẫn nhỏ máu tong tong, không khác gì một cái vòi vặn gần chặt, đủ để dòng nước chảy xuống gần tách thành từng giọt. Tôi cảm thấy một cơn hoảng sợ xuyên thẳng qua người, nỗi sợ chảy máu quen thuộc. Tôi bốc một nắm đất và ấn nó vào lỗ thủng trên đùi. Ngay lúc này mày còn đang cần đến máu - tôi nghĩ, - vi trùng tính sau. Không, chẳng còn “sau” nữa đâu. Mày không còn “sau” nữa.

     Tôi cảm thấy có nhiều hơn một vài thợ săn, bên phải, và có khi là cả bên trái nữa, trên các cành cây, đang canh chừng đỉnh núi. Khi tôi chạy vào đấy, ít nhất một vài tên cũng lọt vào vành đai lửa.

     Tôi nhận thấy mình đang cười, gần như lặng lẽ, nhưng không hẳn không gây tiếng động. Im đi, thằng ngu. Hoặc cũng có khi tôi đang sụt sịt. Như vậy là không gan lỳ. Chacal sẽ không sử xự như vậy…

     Chờ đã. Ai đấy?

     Không có ai ở đây. Nhưng…

     Hừm…

     Tôi chắc chắn có ai đó đang ở đây, ai đó ngay cạnh tôi… nhưng chẳng có ai hết. Vậy là ai đó bên trong tôi.

     Chacal?

     Cậu đấy à?

     Ôi, đồ quỷ tha ma bắt, anh ta đang ở đó, anh ta đang theo dõi tôi, thưởng thức cảnh này, mẹ kiếp… Suỵt. Chúng đang đến. Tôi ngồi thụp xuống, co người lùi một bụi sim non. Nào, cứ đến gần đi, lũ đồng tính. Tao sẽ cắn đứt chân chúng mày. Tôi cười khúc khích. Câm đi.

     Tôi thu mình ngồi chồm chỗm. Như một hòn sỏi.

     Đến lúc phải lên kế hoạch rồi. Đúng đấy. Hè hè. Suỵt, suỵt. Đâu đó giữa tôi và vành đai lửa, có tiếng người hát:

        “Hươu ơi, đầu mày nhẹ, mông mày nặng…”

     Bàn chân, bàn tay tôi cóng đi vì mất máu, hàm tôi va lập cập. Dừng lại. Dừng lại ngay. Đừng để răng va vào nhau. Im lặng. Im lặng nào.

“Hai tai mày sẽ thành chiếc thìa cho người thứ chín…”

  Mẹ kiếp, chuyện này sẽ chẳng đi đến đâu. Không xong rồi. Mình toi rồi. Thành thịt giăm bông rồi. Tôi nghe thấy tiếng bước chân xung quanh mình. Bốn người. Không, năm. Tám. Mẹ ơi. Được rồi, tốt thôi. Tôi sẽ chui ra. Tôi trườn về phía ánh sáng. Thực ra, không hẳn là trườn, bò thì đúng hơn. Chính xác thì là bò lồm cồm, như một con cua móng ngựa. Một con cua móng ngựa liệt chân.

   Chấp nhận đi, mày sẽ chẳng chạy được đi đâu hết.

   Chậm quá. Chậm quá.

            “Hai gạc mày sẽ thành gậy cho người thứ tám,

Móng guốc mày sẽ trở thành bốn cây búa cho người thứ bảy…”

   Mẹ kiếp, có mà chạy xuống đất. Chắc chết rồi. Chắc chết rồi. Chắc chết rồi.

            “Da lưng mày sẽ thành túi tiền cho người thứ sáu,

Ruột mày sẽ thành vòng cổ cho người thứ năm…”

  Dù gì cũng còn một bản sao nữa của mình ở đâu đó mà, phải không? Có điều chẳng dễ chịu gì cho lắm khi ý thức duy nhất mà mày đang nằm trong đang chết dần. Mình toi rồi, thế đấy, nó thực sự như thế đấy, sẽ như thế đấy…

        Hừ, chờ đợi để làm gì? Nó chỉ…

33

Có điều gì đó không ổn. Và không phải chỉ với mình tôi.

Sự tĩnh lặng.

Tôi chưa từng để ý đến điều này – vì tôi hơi bận – nhưng dĩ nhiên suốt thời gian tôi chạy đua để cứu lấy cái mạng mình, đêm tối ồn ào đến mức nghe tiếng bước chân của những kẻ săn đuổi không khó bằng phân biệt chúng với cả một đại dương gầm gào của tiếng động ban đêm. Còn lúc này đây, không khí dậy lên âm thanh ù ù và rung bần bật như thể hai mươi ngàn cỗ bài đang vèo vèo bay ra từ bàn tay của mười ngàn gã chia bài trong sòng bạc thích phô trương sự khéo léo. Bộ óc tôi, hay đúng hơn là của Chacal, tách được vài tiếng phần phật ở gần ra khỏi đống tạp âm và nhận ra đó là gì: Đó là tiếng vỗ ào ạt của vô vàn chiếc cánh, không thể đếm được là bao nhiêu, nhưng chắc chắn là số chẵn. Tất cả lũ dơi và chim chóc trên trái đất đã cất cánh bay lên cùng một lúc. Tiếng ồn đó quá lớn, rất không ổn, và điều không ổn nhất là lũ chim không hề kêu. Gần như cũng một lúc, các ngôi sao biến mất. Bầu trời tối đen sôi lên và rạn nứt, nhưng trong toàn bộ cảnh hỗn loạn ấy, âm thanh duy nhất vang lên thành tiếng động chỉ là tiếng rít siêu âm của lũ dơi.

A…a…u!

Áp lực đè lên màng tai…

rrrrRRRRZZglglglglglDDDDDDDDDDDDDDDDDD!!!

Những con quái thú sống trong hang hốc ấy gào vào tai tôi và cơn hoảng hốt hụt hẫng như khi rơi thang máy, rơi máy bay hay bước hụt cầu thang ập dến khi mặt đất như tan dần đi. Tôi bám lấy mặt cỏ như thể nếu quả cầu trái đất nổ tung, tôi sẽ có một khoảng đất để bám vào khi trôi ra ngoài khoảng không. Một lát sau, tôi nhận ra những cơn rung chuyển đã lắng xuống và bóng của một tên thợ săn dang đứng ở đoạn dốc phía trên quan sát tôi, tay trái cầm một cây gậy hay chùy gì đó.

Nó xảy ra rồi, - tôi nghĩ. Đó là núi lửa San Martín.

Quỷ tha ma bắt, họ đã đúng. Taro, Marena, nhóm Connecticut Yankee và cả Michael nữa, lần đầu tiên họ biết mình đang làm gì. Trước đây, tôi đã từng ở gần những trận núi lửa phun trào nhỏ ở Guatemala, và cũng từng cảm nhận dược một cơn động đất khá lớn ở San Pablo Villa de Mitla vào tháng 2 năm 2008. Nhưng lần này thì như mặt dưới của chiếc trống có căng dây. Núi lửa cách đây những bốn trăm dặm mà cứ như là ở ngay trên đỉnh núi kia. Hừ, các đợt phun trào giống như…

Ặc.

34

Trong khoảng hai mươi nhăm giây, lần đầu tiên trong đời tôi tin có cuộc sống sau cái chết.

Tôi cố gào lên, nhưng cái đầu cùn và nặng của cây chùy trên tay gã k’iik đã thúc vào bụng dưới tôi và đánh bật hết không khí ra ngoài. Tôi cố tóm lấy chân hắn, nhưng một tên nữa đã áp sát tôi từ phía sau và giữ chặt tay tôi. Tôi ra sức đá nhưng tên thứ nhất đã ngồi lên chân tôi. Tôi nhổ nước bọt, Hắn không phản ứng. Tôi giãy giụa. Không ăn thua. Tôi hoảng loạn. Chúng sắp lột da mình, - tôi nghĩ, - núi lửa cũng không cản được. Chúng cóc cần, chẳng can hệ gì sất, núi lửa hay không núi lửa chúng cũng sẽ lột da tôi. Ối giời ơi. Ối giời ơi. Gã k’iik – là Hun Xoc, k’iik của nhà Đại Bàng – đặt cây chùy xuống và ấn đầu tôi xuống đất. Nhưng thật kỳ quặc, tôi chẳng cảm thấy gì cả. Không thể thế được, chắc phải có thêm gì nữa chứ. Nào, thêm tí gì đi. Không thể này là hết được, không thể được. Nó cậy miệng tôi mở ra và kẹp chặt lấy hàm dưới, ngón cái đặt dưới lưỡi, trên mấy cái răng cửa. Tôi vẫn không cảm thấy gì. Nó giật sang trái, rồi sang phải, một chiếc ra khỏi ổ chân răng, rồi chiếc thứ hai. Hàm dưới tôi tuôn ra hàng đống máu và nước bọt. Lưỡi tôi thè ra và đu đưa một cách khôi hài trong không khí. Kỳ cục thật, - tôi nghĩ, - đáng ra phải đau lắm chứ. Phải đau đến cùng cực…song dường như tôi đang nằm cạnh chính mình, chứng kiến cảnh này từ bên ngoài. Giờ đã có bốn gãk’iik vây quanh tôi, tất cả đều thuộc nhà Đại Bàng. Một trong số đó, một thằng béo lùn với bộ mặt to ngang, cầm cây đuốc nhỏ xíu giống như cây nến sinh nhật, dùng bàn tay khum khum che ngọn lửa. Một thằng khác rạnh mé dưới hai bên cánh tay tôi, cắt khớp cổ tay, rất tẩn mẩn sao cho khỏi rách nát da, như thế bàn tay mới dính nguyên vẹn vào tấm da được. Đây có lẽ là giây phút hay ho nhất trong tất cả những giây phút mà tôi đã từng, và có thể là sẽ, trải qua. Tôi tưởng như mình là linh hồn vừa được giải phóng, đang nán lại một lúc để quan sát xem cái xác của mình được xử lý như thế nào trước khi lên đường đến những nơi không ai biết tôi.

Nhưng tôi nhanh chóng nhận ra chuyện đó quá dớ dẩn, không thể tin được. Vì một lý do: tôi vẫn đau kinh khủng. Tôi vẫn cảm thấy tất cả những vết thương khác trên người, sức nặng của hai thằng k’iik đang đè chặt lấy tôi và thậm chí cả một con kiến hay con gì đó đang bò trên thân cây kế xuống, cắm ngòi vào lưng tôi. Và quan trọng hơn, mặc dù cái xác mà chúng đang lột da cũng có lọn đuôi sam cụt như của tôi, và khuôn mặt, nhưng những thứ còn lại của khuôn mặt, có vẻ như giống tôi, nhưng không hẳn là tôi. Cẳng tay người đó rắn lại vì va đập với bóng hông, nhưng không nhiều như tay tôi, nhưng vết sẹo trên đầu gối anh ta cũng không to và đáng sợ như sẹo của tôi. Hơn nữa, cái cách tôi chứng kiến cảnh này cũng không giống một hồn ma. Tôi không lơ lửng bên trên, như các hồn ma đáng ra phải thế. Tôi vẫn bị đè chặt xuống đất, vẫn chớp mắt cho bụi và máu trôi ra khỏi hai mí.

Đó không phải là mày đâu, - tôi nghĩ, - chấp nhận đi. Đấy là một người khác. Mặc dù anh ta cao lớn gần bằng mày, xấp xỉ tuổi mày, cũng dáng người như mày, thậm chí cũng có những đốm lông hươu như mày, nhưng anh ta không phải là mày…

Au! Mẹ kiếp? Ngực tôi làm sao thế này? Tôi liếc mắt xuống đủ xa để nhìn thấy. Một trong hai gã k’iik đang giữ tôi kẹp một lưỡi đao bằng đá vỏ chai bé xíu giữa hai ngón tay. Hắn cắm nó vào ngực tôi, ngay dưới dãy xương ức, rạch lên trên theo một đường vòng cung lồi lên phần chữ U của xương đòn rồi rạch xuống theo đường đối xứng với đường rạch trước, tạo thành một hình quả trám thon. Tiện thể cũng xin nói là, hắn làm điều với tôi, chứ không phải với “tôi thay thế” kia. Hắn kẹp lấy một đầu của mảng da và lột ngược lên trên. Ối giời ơi. Ối giời ơi. Đau quá. Những cú nện, những miếng ớt, chất thụt vào hậu môn, tất cả đều khiến tôi vô cùng đau đớn, nhưng trò này thì thực sự U…U…U…A…AAAAAA.

Miếng da rộng khoảng nửa inch và dài bốn inch được giật ra với một tiếng phựt nhỏ. Hắn giơ nó lên trước mặt tôi một lúc, mặt trong quay ra, nó sáng óng ánh nhờ những tế bào mở hình cầu nhỏ xíu và ánh sáng mờ mờ chiếu xiên qua nó rất đúng chiều, giúp tôi nhìn thấy những cột ký tự màu xanh lam chạy dọc ở chính giữa, những vết xăm xác nhận đẳng cấp chín sọ môn bóng hông của tôi.

Tôi bị xóa sổ rồi ư? Tôi cũng không biết nữa. Vả chăng “xóa sổ” là một thứ gì đó anh chỉ có thể luận ra từ hậu quả tiếp theo của nó, như năng lượng tối vậy. (Năng lượng tối: dạng năng lượng được giả thiết là lắp đầy vũ trụ và là nguyên nhân gây ra sự dãn nở của vũ trụ.) Lát sau, bông – hình như là những tấm chăn – được quấn quanh người tôi và siết chặt lại. Bốn bàn tay lật ngửa tôi lên và tôi lại thấy ngột ngạt khi chúng cuộn kín mít tôi lại. Mấy cái cán lao cũng được cuộn vào cùng, tôi đoán là để ngụy trang. Đến lúc này, bất kể Chacal đã được rèn luyện, tôi vẫn bật khóc, rên rỉ những tiếng kêu ai oán như Nancy Kerrigan(Nancy Kerrigan: Nữ vận động viên trượt băng nghệ thuật của Mỹ, bị hành hung khi tham gia giải vô địch Detroit. Đoạn băng ghi hình cảnh cô ta hét lên “Vì sao lại là tôi?” đã được đưa vào một trong những hình ảnh đáng nhớ nhất của thể thao thế kỷ 20): “Vì sao? Vì sao? Vì SAAAOOO?”, thảm hại làm sao, tôi không chết, tôi không phải một con ma, tôi vẫn mắc kẹt ở đây, và đây không phải là tôi.

35

Một hương vị, ký ức về một hương vị mà tôi nhận ra là mùi sữa mẹ, nó xuất hiện đầu tiên, rồi đến những ký ức lơ mơ khác mà phải mất một lúc sau tôi mới nhận ra chúng không phải của tôi, mà là của Chacal. Tôi biết tôi có một cơ thể, bởi từng mi-li-mét vuông trên da nó đều ngứa ran, ngứa như dưới da có rắc vụn bánhparsee vậy, và tôi không gãi được, tôi chỉ có thể vặn vẹo người dưới lớp chăn quấn được tẩm mỡ. Phải gãi mới được, phải gãi... cơn ngứa ngoài da lan vào trong ngực, nơi tôi cảm tưởng như mất đến nửa feet vuông da, rồi nó dịu đi, và trong một lúc lâu, toàn bộ đầu óc tôi nằm trong cổ họng, một sa mạc Nazca mặn chát với những đường rãnh khổng lồ. Cơn khát. Cơn khát. Hàng thế kỷ không mưa. Mãi cho đến lúc rốt cuộc có ai đó mở lớp phủ trên mặt cho tôi thấy ánh sáng mặt trời rực rỡ, đổ vào miệng tôi một hớp cháo ngô mằn mặn rồi lại đậy lại. Trong lúc từ từ dễ chịu dần, tôi nhận ra mình vẫn còn lưỡi, nó sưng phù lên như một quả dưa chuột muối to tướng bị khô đi, nhưng nó vẫn nằm đấy, nguyên vẹn, mặt tôi bị phủ một lớp mỏng giống như vải thưa bọc pho mát và tôi vẫn thở được gần như bình thường. Có vẻ đang là buổi chiều, một toán phu khuân vác đang khiêng cái bọc dài, hẹp, có tôi ở bên trong, men theo một con dốc ngoằn ngoèo bên sườn đồi, lên trên và về hướng đông, vào vùng đất cao, qua những cây cầu bện bằng thừng, dọc những con suối chảy cuồn cuộn.

Sao họ nhọc công cứu tôi làm gì?

Chắc nhà Đại Bàng muốn đánh lừa các dòng họ quý tộc khác. Chắc thế rồi. Họ muốn tất cả thành Ix tưởng rằng tôi đã chết. Ái dà, thế thì hay quá, nhỉ? Sọ Đá Quý 2 đã mềm lòng. Ông ta đã quyết định mày rằng mày có thể có tí ích lợi gì đấy. Ông ta muốn mày được sống.

Hừm. Có thể Sọ Đá Quý 2 đã căn thời gian sao cho cuộc rượt đuổi tàn vào đúng khoảng thời gian tôi đã dự đoán đợt phun trào.

Phải rồi. Các bạn biết đấy, bây giờ tôi đã có thời gian để suy nghĩ việc này, đúng là không hợp lý nếu những người này thực sự đoán trước được rằng trời sắp sập xuống đầu, thế mà vẫn cứ lao hết cả ra ngoài để chơi trò săn đuổi. Nếu biết, họ phải trốn tịt trong nhà, quỳ sụp trước các bức tượng và khẩn khoản van xin các vị thần dớ dẩn của họ chứ.

Vậy chắc chắn là lão già Sọ Đá Quý 2 ấy đã nghĩ rằng dự đoán của tôi về trận phun trào chính xác hơn những gì các tay thầy bói ở đây đã tiên đoán. Nếu đúng là họ có tiên đoán. Có khi ông ta chỉ bịa ra chuyện đó với tôi thôi. Hừm. Dù sao, chắc ông ta đã đoán vụ chấn động sẽ xảy ra sớm hơn dự kiến – và có thể người dân ở đây không nghĩ nó sẽ lớn đến thế, họ chỉ nghĩ sẽ có vài tiếng nổ và chớp sáng ở đường chân trời thôi – và ông ta đã áng chừng thời gian sao cho cuộc săn đuổi đi đến hồi kết thúc đúng vào khoảng thời gian đó. Như vậy lúc đó là khoảng bốn giờ sáng ngày 27. Khi nó xảy ra, tất cả đám thợ săn k'iik đều phát hoảng. Trừ những người nhà Đại Bàng, họ được biết trước, và trong lúc lộn xộn, họ đã đánh tráo một người vào để chịu lột da thay cho tôi. Đó là lý do vì sao họ lấy miếng da trên ngực tôi, vết xăm của người chơi bóng bông... một thứ mà họ không làm giả được. Họ sẽ khâu nó vào da người kia và tìm cách giấu các đường chỉ.

Phải. Đúng đấy. Nghe hợp lý đấy. Cho nên tôi đoán thằngk'iik nhà Đại Bàng, thằng bé có khuôn mặt tròn dễ thương, Hun Xoc, nó thực sự cố tình đâm chệch đi khi ném mũi lao chỉ cách có bốn bước chân. Đó cũng là lý do vì sao các Đại Bàng luôn ở sát ngay sau đuôi tôi mà không tóm lấy tôi. Họ bám theo tôi suốt cuộc săn đuổi, canh chừng cho tôi... tuy thế, nếu một người thuộc thị tộc khác tóm được tôi thì sao nhỉ? Chắc họ đã có kế hoạch giải thoát tôi bằng cách nào đấy... hoặc có thể không... Có khi nếu chuyện ấy xảy ra, họ sẽ phẩy tay bỏ mặc tôi.

Lũ con hoang. Ờ, nhưng dù sao, họ cũng không làm thế.

Vậy tôi đã làm đúng, phải vậy không? Tôi đã tiên đoán vụ phun trào đúng hơn nhiều so với lũ người chết mẹ của họ đoán. Điều ấy có giúp tôi giành được tí địa vị nào ở đây không nhỉ?

Con đường đầy người qua lại, những đoàn dài lữ hành cuốc bộ với lũ chó sủa ăng ẳng chạy đằng trước, những người đưa tin lao vụt qua, tay lắc chiếc trống lục lạc báo hiệu cho người qua đường. Các giác quan của Chacal nhận ra sự ảm đạm trong âm thanh đó, như thể tất cả đều đang vội vã trở về nhà. Về chỗ lánh nạn thì đúng hơn. Chim én và jacana (Jacana: Một giống chim lội nước ở vùng nhiệt đới) lại cất tiếng kêu, hơi dè dặt, có lẽ còn bối rối về cơn chấn động, nhưng chỉ cần bấy nhiêu, trí óc của Chacal đã có thể đoan chắc trời sắp nhá nhem.. Đến đây, đoàn người đi chậm lại. Một đôi lần, cái bọc chứa tôi được chuyển từ tay này sang tay khác, giống như chuyển một chiếc xuồng. Lát sau, họ quay sang khiêng tôi ở tư thế thẳng đứng, buộc vào một tấm ván, đi dưới bóng râm, thỉnh thoảng mới có một chút ánh sáng mặt trời. Chặng này xem ra có phần hẻo lánh, những người phu hát lên một bài như bài cầu kinh, điểm những cái tên khiêm nhường của tổ tiên họ. Nhưng đó không phải khúc hát thảnh thơi trong lúc lao động. Nó hơi có vẻ e sợ, giống như một bài yểm bùa để tránh lũ yêu tinh. Chốc chốc, họ lại nắn nắn người tôi, nghe ngóng hơi thở để chắc chắn là tôi vẫn còn thở. Thỉnh thoảng, chúng tôi dừng lại và một tên hầu lại giở tấm vải thưa trên đầu tôi, cậy miệng, rút cái bùi nhùi bông ra. Và tôi thậm chí chưa kịp ú ớ thì hắn đã đổ vào một ít cái món đậm vị mà từ đầu tới giờ họ vẫn cho tôi ăn – nó có vị như nước b'alche ủ kỹ nhưng tác dụng thì như Dilaudid (Một loại thuốc giảm đau) – lau mũi cho tôi rồi nhét lại nùi bông và phủ tấm mạng lên. Cuối cùng, chắc cái bọc quá vướng víu, khó đi trên đường đắp nổi - hoặc giả chúng tôi đã đến một nơi kín đáo - họ đặt tôi xuống và giở tôi ra ngoài không khí mát lạnh. Tấm che mặt được bóc ra, tôi ngửa mặt lên trời, thở hổn hển.

Đó là một buổi chạng vạng xanh trong. Trời không mây, phía ngoài vịnh cũng không còn dấu hiệu nào rõ rệt của trận phun trào, ngoại trừ một chút lo lắng trong tiếng hót của những con chim. Hun Xoc cúi xuống nhìn tôi, và trước khi tôi kịp có thái độ gì, bốn cánh tay đã dựng tôi đứng thẳng dậy và giúp tôi đứng cho thăng bằng. Không ai nói câu gì. Tôi cũng không thấy mình có thể nói câu gì. Tôi chỉ thở gấp. Vết thương trên ngực tôi được phủ một miếng xơ bông lớn rắc tro. Ai đó, có lẽ là một trong những tên hầu, đổ ít nước mật ong vào miệng tôi và tôi cố nuốt được vài giọt. Tôi nheo mắt nhìn quanh. Chúng tôi đang ở sườn nam của một dãy núi, trên một con đường hẹp cắt ngang gần đỉnh một con dốc rộng chạy uốn cong. Bên tay trái, con dốc dựng đứng lên một góc bốn mươi nhăm độ, với những khối đá xéc-pe-tin đen sì bị rịt chặt trong tấm lưới tự nhiên dệt bằng dây leo úa vàng. Bên tay phải, con dốc đổ xuống, dài chừng ba đến bốn trăm feet, dưới chân viền một hàng thông Montezuma. Xa hơn nữa, thấp thoáng một ngôi làng, những căn nhà nhỏ, vựa lúa, xưởng thợ nằm san sát thành từng cụm, tất thảy đều được cất bằng đá thô lấy từ trên núi, trát một thứ vữa đỏ xỉn và lợp bằng lá cọ xít. Những vạch đen và đỏ trên tường cho biết đó là một ngôi làng Đại Bàng, nhưng mái hiên lầu của một vài khu nhà lớn ở trung tâm lại điểm những chấm đen và ngọc lam, bộ óc của Chacal hiểu như thế có nghĩa rằng người của thị tộc Mèo Rừng cũng sinh sống tại đây. Tôi không nhìn thấy nhiều mul hoặc các công trình tín ngưỡng. Có lẽ đây là một đô thị dân sinh, còn người anh em tín ngưỡng của nó ở một nơi khác. Tuy nhiên, chính giữa làng, trên một bệ đá có bậc thềm dẫn lên cũng có một chiếc vạc hứng nước mưa lớn và tinh xảo, một bầy nô lệ với mớ tóc ngắn cụt, dải vải xám xâu qua dái tai và những vết sọc xám trên người, chậm chạp lê đến rồi đi với những cái thúng được tráng cao su trắng đựng nước trên lưng, giống hệt những con kiến thợ tha nhộng. Phía sau ngôi làng là một dãy núi y hệt dãy núi này, rồi xa nữa, chỉ thoáng hiện ra lờ mờ, lại là núi. Không có đám khói nào phủ mờ thung lũng, nghĩa là mùa đốt nương chưa bắt đầu. Có lẽ nó bị hoãn lại vì vụ núi lửa phun trào. Trước mặt chúng tôi là những bậc thang được đẽo vào đá, dốc đứng, dài ít nhất bảy mươi feet, dẫn xuống một khe nứt rộng trên vách đá xám. Hình như họ chuẩn bị buộc một sợi dây an toàn vào người tôi để xem tôi có giúp gì được họ trong việc đưa chính tôi xuống hay không.

Hừm.

Bầu đoàn có cả thảy hai mươi người. Bốn k'iik nhà Đại Bàng. Sáu liksajob, tức là vệ sĩ. Họ là chiến binh đến từ một trong các thị tộc dưới quyền nhà Đại Bàng, những người không bao giờ có thể trở thành k'iik thực thụ, bất kể dũng mãnh đến đâu. Số còn lại xem ra là phu phen và kẻ hầu người hạ. Tôi nhìn hết khuôn mặt này đến khuôn mặt khác. Họ cũng giương mắt lên nhìn tôi cứ như tôi là một bài đố ô chữ vậy. Không ai nói gì, ánh mắt tôi phanh lại trên người Hun Xoc. Nó nhìn lại với ánh mắt tò mò không kém gì những người khác nhưng có phần trìu mến hơn. Tôi dần nhớ ra. Hun Xoc. Phải rồi. Chacal đã góp phần huấn luyện thằng bé này ở cái mà các bạn có thể gọi là "đội trẻ" của Hội Bóng Hông. Nó có nước da sẫm màu và mảnh dẻ khác thường so với con nhà dòng dõi quý tộc. Lạ nữa là tên nó khi chuyển sang tiếng Anh nghe hầu như không thay đổi: Cá Mập 1 (Trong tiếng Anh, từ Cá Mập 1 là "One Shark", đọc gần giống Hun Xoc). Hai con chó săn màu nâu sô-cô-la trụi lông khệnh khạng tiến về phía tôi hít hửi. Nom chúng từa tựa giống chó Xolos Mexico, nhưng to hơn, xấp xỉ con chó đốm. Một đàn vịt trời Canada nhỏ kêu quang quác trên đầu, thẳng hướng đông nam mặc dù chưa đến mùa di cư. Chúng đang tháo chạy khỏi núi lửa.

Hun Xoc đi ra chỗ những người còn lại, sắp xếp hàng ngũ để chuẩn bị leo xuống. Tôi nhận ra chỉ có duy nhất hai bàn tay đeo găng giữ lấy hai cổ tay tôi.

Sau lưng tôi là một tên hầu. Phía trước tôi chỉ có một tên đi tiền trạm. Rồi đến lũ chó. Rồi đến những bậc thang.

Đàn ngỗng lượn sang trái, rẽ về hướng nam. Không còn thời cơ nào tốt hơn.

Tôi giằng khỏi tay gã hầu, chạy đâm sầm qua tên lính tiền trạm đang sững sờ, nhảy xuống bậc thang đầu tiên và lộn nhào xuống qua mép bậc thang. Cảm giác hổ thẹn nặng như tấm áo chì trút khỏi người tôi ngay trước khi tiếng ào ào kịp rít lên bên tai và tôi thả người rơi tự do. Tôi cười khơ khơ khi ở trên không và đó là tiếng cười của Jed, tiếng cười của kẻ cảm thấy hoàn toàn tự do, gần như lần đầu tiên trong đời, và mặc dù sau đó tôi nhận ra đấy không phải là tôi, mà là Chacal đã trỗi dậy, tôi vẫn thấy phấn chấn như vừa phê một liều ma túy...

Vai phải tôi đau điếng vì va phải một bậc đá. Tôi nhảy lên, xoay người từ từ trong không trung. Hông bên trái tôi đập bốp xuống bậc tiếp theo, nhưng vì một lý do nào đó cú va đập khá êm ái, không đau lắm. Nhẽ ra tôi phải tăng tốc, nhưng thay vào đó, tôi lại bị chậm lại. Những bàn tay bám khắp người tôi. Họ đã nhảy xuống theo tôi, ôm chặt lấy người để che cho tôi, thúc đầu gối và khuỷu tay vào đá. Vài người rên rỉ, nhưng không ai kêu. Tôi lăn thêm bốn vòng nữa, giữa một quả bóng tuyết khổng lồ, âm ấm vì là thịt người rách nát thay vì tuyết. Tôi đẩy nốt chỗ hơi còn lại ra khỏi hai lá phổi. Phải tự làm mình chết ngạt mới được. Không. Không phải tôi. Là Chacal. Chacal đang nín thở. Quỷ tha ma bắt mày đi. Mày có nhịn thở được đến chết không?

Dường như Chacal trả lời anh ta có thể làm được bất cứ việc gì.

Tôi bắt đầu mềm nhũn đi như khi người ta bất tỉnh, và rồi đống chân tay ghì lấy người tôi được nhấc lên. Ai đó túm tóc kéo ngật đầu tôi ra sau còn tôi thì nghĩ: "Cuối cùng, mình cũng bị chặt đầu. Kẻ dưới chân các người xin cảm ơn, các bố các mẹ, hãy chặt đầu con đi, đó là..."

36

- Hóa ra cậu thu mình chờ đợi à? - tôi nghĩ trong đầu với Chacal. - Cậu chờ đến lúc người ta không để mắt đến là nhảy tưng lên và giết cả hai chúng ta à? Thật không ra đâu vào đâu cả.

Chacal không trả lời. Nhưng tôi chắc chắn anh ta đang ở đó. Tôi có thể cảm thấy anh ta đang sưng sỉa ngồi thu lu trong một nếp gấp nào đó trên vỏ não, thu mình lại, bó gối lại, cuộn tròn lại…

- Tôi biết cậu nghe thấy tôi mà, - tôi nghĩ. Cậu đã thưởng thức cảnh tôi sợ phát cuồng lên khi bị tóm trong cuộc săn. Thật vui vẻ, nhỉ? Cảm nhận sự sợ hãi của tôi. Cậu thật đáng khinh. Nhưng nếu muốn tự sát, sao cậu không chiếm lấy quyền kiểm soát bộ óc này trong cuộc săn?

Lặng thinh.

- Cậu đã có thể đập đầu chúng ta vào đá. Nhưng cậu không làm vậy. Cậu muốn bị bắt, phải không? Phải thế không? Cậu muốn tự sát, nhưng không muốn bị một thằng Mèo Rừng nào đó sỉ nhục. Phải không?

Nín thinh.

Hừm. Được thôi, nếu mày muốn hờn thì mặc xác mày.

Lần này thì tôi đang ở đâu đây?

Ờ… trước hết, lần này tôi thực sự bị đánh bả. Hình như là một loại thuốc mê đơn thuần, chiết xuất từ cây bìm bìm hoặc một vài giống cây nào đó cùng họ. Vì vậy tôi không biết gì nhiều lắm để nhớ lại. Tôi biết mình đã bị khiêng đi hồi lâu, đầu tiên là ở tư thế nằm ngang, sau đó là đựng đứng. Còn bây giờ, tôi được đặt nằm trên manh chiếu trong một cái túp sậy, ngửi mùi thì biết là mới cất, hay nói theo cách của người Maya chúng tôi là “mới bó”. Tôi vẫn còn miếng giẻ trong miệng và thứ gì đó dinh dính trên mắt. Hai tay tôi bị trói đằng trước bụng - so với bị trói quặt ra đằng sau thì đây coi như là một sự hưởng thụ - và hai bàn chân hình như cũng bị trói lại với nhau, mặc dù dưới đó tê và nhói đến mức khó có thể nói chắc được. Bộ gạc hươu cùng các bộ phận khác của bộ trang phục hóa trang, theo như tôi thấy, đã biến mất. Có tiếng ào ào đâu đó, chắc là gió thổi qua cành cây trụi lá, và cảm giác có nước chảy. Cả chim nữa, vì tôi khá chắc chắn là trời vừa mới rạng thôi.

Phải chắc chắn là mình đang kiểm soát cơ thể này, - tôi nghĩ. Tôi ngó ngoáy cựa mình một tẹo. Rồi, tôi nghĩ tôi đang kiểm soát tốt, ít ra là lúc này. Khi ý thức của Chacal chỉ huy thì cảm giác…

Hừm… cảm giác thế nào nhỉ? Câu hỏi khó đấy. Về mặt bằng chung, tôi đoán rằng nó giống như… tôi cũng không biết nữa. Nó giống như vị muối. Nó giống như tiếng đàn vi-ô-la. Nó giống như một cầu não bốn chiều.

Có gì đó khác thường.

Bước chân của những người khiêng chúng tôi chậm lại và không còn đều đặn nữa, như thể họ sắp đến đích. Không khí rất khác thường.

- Ta biết nơi này, - Chacal bất thình lình lên tiếng. - Trong anh ta có một cảm giác mà tôi chưa từng cảm thấy, không phải giận dữ, không phải hoảng hốt, mà là sự bất an mỗi lúc một tăng thêm. - Giàn cây của bọn ta, nơi có thứ đất sét của thị tộc ta.

Chúng tôi đang ở gần Bolocac, ngôi làng của Chacal. Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh một hẻm núi rậm rạp cây cối, tiếng ào ào lúc trước tôi nghe thấy chuyển thành tiếng rãnh nước chảy róc rách, và xa hơn nữa là tiếng ồn đều đều của một con thác.

- Này… cậu có vẻ hơi lo lắng, - tôi bảo với Chacal.

Anh ta không thèm trả lời, nói thẳng ra là vậy.

- Cậu biết đấy, - tôi nghĩ, - tôi chắc chúng ta có thể tìm ra cách chia nhau thời gian chiếm giữ cơ thể này. Cậu xem thế này được không, cậu giữ nó khi chúng ta ăn hoặc ngủ với đàn bà, thời gian còn lại tôi sẽ…

Không khí. Tôi nhận ra mình không thở nữa. Tôi hít một hơi. Không được. Ối giời ơi. Tôi tìm lại được liên lạc với cơ thể mình và hít vào. Lấp đầy vào đi. Nào…

Được rồi. Tôi khịt thông mũi. Không khí ùa ào mang theo mùi đất sét ngọt dịu và nhiều mùi khác từ xa thoảng đến: mùi ngô bị hun nóng, mùi gì đó giống chất crê-ô-zốt và mùi thum thủm của mỡ cháy ôi thiu. Có mùi bạch đậu khấu ở đâu đó, hay đúng hơn là mùi gần như mùi bạch đậu khấu. Hoa phong lan chăng?

- Đó là ta ngửi thấy, - Chacal nghĩ, - là ta.

Ặc. Tôi lại ngạt thở. Nào. Hãy giành lấy quyền kiểm soát. Hãy giành lấy hệ thần kinh. Tôi cảm tưởng như chúng tôi là hai đứa trẻ mẫu giáo to con bằng nhau ngồi trên bập bênh, đứa nào cũng muốn ghì bên mình xuống đất. Chỉ cần một cái ngã nhẹ ra sau hay chuyển trọng tâm một chút thôi cũng đủ làm thay đổi tình thế, quyết định ai ở lại dưới đất và ai bị nhấc bổng lên cao. Cả hai đều vô cùng nhạy cảm trước sức nặng và vị trí của đối thủ, đến mức như hai đứa trẻ sinh đôi dính liền nhau.

Grrrr. Hít vào đi. Nào.

Dù thiên hạ có nói gì đi chăng nữa thì sự thực vẫn là anh không thể tự tử bằng cách nuốt lưỡi mình. Cùng lắm anh chỉ có thể cắn vào đầu lưỡi hoặc môi để máu phun ra và hy vọng trong lúc xỉu đi, anh sẽ mất đủ máu để chết. Nhưng ngay cả cách ấy cũng không đảm bảo. Thực tế, tại Iraq năm 2004, một viên trung úy hải quân đã thử chết theo cách này, ngay sau Salat-al-Isha (Giờ cầu kinh đêm của người Hồi giáo, kết thúc khi trời rạng sáng), nhưng đến sáng hôm sau, quân phiến loạn vẫn tìm thấy và cứu sống được anh ta. Dù sao, cho đến lúc này, miếng giẻ trong miệng tôi/chúng tôi đã ngăn không cho Chacal làm việc đó. Nhưng đã có - hoặc sẽ có - những vụ nạn nhân bị bắt cóc bị nhét giẻ và chết ngạt vì mớ giẻ đó, và đó là điều anh ta đang cố làm.

Tôi nuốt một hớp không khí. Tao sẽ không để mày làm chúng ta chết ngạt đâu. Tôi tìm được liên lạc với hai lá phổi và lên gân, xiết chặt chân tay như nghiến răng. Tao cũng mạnh mẽ như mày và tao đang làm chủ…

Sang phía đông, hơi thở của chúng ta bị chặn lại,

Sang phía nam, nó ngừng lại,

Hơi thở của chúng ta đã chết,

Nó ngừng, nó chết, nó ngừng…

Hơi thở của ta, - tôi nghĩ. Nhưng chẳng có hơi thở nào hết. Tôi gồng mình và lăn lộn nhưng chẳng có gì vào hết. Anh ta đang điều khiển hai lá phổi. Ối, quỷ thần ơi, tôi chỉ đang khò khè, khục khặc, hai tai tôi ù lên như cái đĩa hát bị nấc ở đúng đoạn chuyển bài của một đĩa nhạc rock. Tim thì như đang chạy lên thang gác. Mười ba nhịp cầu thang. Lưỡi tôi phồng lên thành một tảng tướng, to phải bằng quả bóng tennis. Tôi tái xanh đi…

Nó ngừng rồi, nó dừng lại rồi…

Thở ra đi. Thở ra. Ôi trời ơi. Không hay rồi. Những người suýt chết đuối kể rằng sẽ đến lúc anh buộc phải thở cho dù biết rằng nước sẽ tràn vào và giết chết anh. Nhưng Chacal lại có thứ sức mạnh tinh thần này, anh ta sẽ làm được điều này, sẽ dìm chết cả hai chúng tôi trong thán khí, và trong một giây, tôi cảm giác như đang chìm xuống đáy biển đang cuộn xoáy với san hô màu đỏ ngọc và những con sên biển Phyllidia varicosa xanh biếc. Cứ để nó đến đi. Cứ để mình chìm xuống tiếp đi…

Ọc. Khặc. Dội thẳng vào.

H…i…í…t. Vào thẳng đến dạ dày.

Oa. Aha! Không khí. Phản ứng vô thức.

Những ngón tay đeo găng cậy hàm tôi mở ra, thọc vào miệng tôi, rút miếng giẻ ra, khác nào tháo cái nút chặn cống. Không khí ào vào và ngực tôi căng phồng lên. Thật ngọt ngào. Oái. Hàm sái cả đi. Có sao? Đội ơn giời. Tao cứ tưởng chúng mày bỏ bê công việc rồi chứ. Lũ đần độn. May vừa đúng lúc. Có người tọng một thanh gì đó vào miệng tôi, chống cho nó mở ra, được được… không, không, không, k…h…ô…ô…n…g…

- Im đi, - tôi nghĩ, - họ muốn tao sống. Mày hiểu không?

Chết đi, ta cùng chết đi,

Có vậy thôi, chúng ta chết, chúng ta chết…

Họ đang dựng tôi lên và ai đó ấn mạnh vào bụng tôi như lối thủ thuật Heimlich (Thủ thuật sơ cứu cho những người bị hóc vật gì đó trong họng), nhưng tôi vẫn ngạt tái người đi. Chacal không thể giết chết tôi chỉ bằng ý chí, phải vậy không? Điều đó đơn giản là không thể được. Họ đang cố giữ cho tôi sống, cho tôi sống, cho tôi sống…

Huỵch. Một quả thụi. Tôi thở được liền. H…í…t… h…à. Mấy bàn tay đeo găng lại dựng tôi ngồi dậy. Tôi đang thở, bằng bộ phận nào đó. Tốt quá. Can thiệp thật đúng lúc.

Hoảng sợ, ngươi hoảng sợ,

Ngươi ô uế, dơ bẩn,

Ngươi hoảng sợ, hoảng sợ.

- Ừ đấy, thì sao nào, - tôi đáp trả. Nhưng, thật ngớ ngẩn… tôi cũng cảm thấy… Ờ… thấy xấu hổ. Dĩ nhiên là tôi sợ, và dĩ nhiên Chacal biết tôi sợ, và anh ta biết là tôi biết anh ta biết. Bực một nỗi là chẳng có mấy sự riêng tư trong cái mối quan hệ phải gió này. Nghĩ đi nghĩ lại, quả thực cảm xúc mạnh mẽ và dai dẳng nhất trong tôi từ trước tới giờ luôn là sự xấu hổ.

- Cậu quá lãnh đạm để biết thế nào là sợ, - tôi bảo anh ta. - Cậu cũng như tất cả mọi người thôi. Cậu tin vào mọi thứ người ta nói với cậu lúc cậu còn…

- Ngươi không phải đến từ b’ak’tun mười ba, - Chacal đáp, - ngươi chỉ bịa ra thôi. Ngươi bịa ra toàn bộ câu chuyện về cuộc đời mình. Nghĩ mà xem, những bức tranh phóng đi trong không khí, xuồng bơi trên mặt trăng, chiếc hộp chỉ to bằng cái lưỡi ngươi mà biết nhiều hơn cả ngươi, trò dối trá thật nực cười.

- Ừ, những chuyện đó nghe có vẻ hơi hoang đường, - tôi nghĩ, - nhưng không, tôi không bịa. Tôi không thể bịa ra những chuyện ấy được. Không ai có thể bịa ra cấu trúc dạng xoắn của ADN, hay Trung Quốc, hay Anna Nicole Smith (diễn viên người Mỹ) được. Chúng đều có thật.

- B’aax? Vậy sao? Bên nào hợp lý hơn: những thứ đó có thật hay ngươi là con ác quỷ lừa bịp?

- Cậu chẳng có tí hiếu kỳ nào cả, - tôi nghĩ, - nếu cậu quan tâm đến bản thân nhiều hơn một chút thì chắc cậu đã tò mò về nơi mà từ đó tôi đến. Cậu buồn chán như tỉnh lẻ vậy.

Tôi vừa nghĩ với Chacal câu ấy vừa thấy mình vô duyên, không khác gì ngồi trong phòng thẩm vấn với một tay sheriff (cảnh sát trưởng) người Texas mà giải thích về sự khác nhau giữa Baroque (Phong cách nghệ thuật khởi nguồn từ Rome đầu thế kỷ 17) và Rococo (Phong cách nghệ thuật thịnh hành ở Pháp thế kỷ 18). Hơn nữa, tôi thấy bực mình. Một trong những điều làm tôi thất vọng là Chacal chẳng hề ấn tượng gì trước những điều mà ký ức của tôi đem lại. Tôi những tưởng ngay giây đầu tiên gặp tôi - nếu có thể nói thế - anh ta sẽ tròn mắt ngạc nhiên mà xuýt xoa như kiểu: “Ôi, thần Jed, ôi”. Nhưng anh ta hoàn toàn chẳng có một chút ấn tượng. Hoàn toàn khinh rẻ, ý tôi là, tôi cũng luôn bực bội, khinh ghét và có những cảm giác đại loại như vậy, nhưng ở Chacal là sự khinh miệt thực sự, không gì lay chuyển nổi và không lẫn bất cứ cảm giác nào khác. Sự khinh miệt giai cấp, chủng tộc và tất cả những sự khác biệt khác. Nếu ngươi không phải một Đại Bàng hay một Mèo Rừng thì ngươi thậm chí thích hợp để ăn, ý tôi là để ăn thịt.

Đúng là một thằng khốn nạn, - tôi tự nhủ. Hiểu nhưng không có nghĩa là có thể tha thứ. Mình những muốn giết chết hắn. Nhưng làm thế sẽ chẳng đi đến đâu cả. Nếu tôi có nện vào đầu mình thì đó cũng là điều Chacal muốn. Phải vậy không?

Mặc khác, anh ta cũng có lý của mình… cứ theo cái cách mà tôi đang giẫy giụa ở đây thì thế kỷ 21 đúng là hơi khó tin. Hãy công bằng. Hừ, ngay cả khi tôi có phịa ra một ít…

Ấy. Khoan. Dừng lại đã. Mày lảm nhảm như một thằng điên ấy.

Lúc này, những bàn tay đeo găng đã nhúng vào dầu cọ và họ đang xoa, đang cạo người chúng tôi…

- Ah cantzuc che - Chacal đang gào lên trong đầu (Ngươi có bệnh trong mắt - nghĩa là ngươi điên rồi) - Ah cantzuc che!!!

- Tôi hiểu cậu đang lúng túng, - tôi nghĩ, - thế giới quan bỗng đảo lộn, việc đó không phải ngày nào cũng xảy ra. Những ngày khác, chắc thế. Nhưng…

- B’ukumil bin cu…

- Chết tiệt, - tôi nghĩ, - cậu là thằng chẳng ai cần đến hết. Sọ Đá Quý 2 không quan tâm đến cậu. Ông ta muốn giữ tôi ở lại.

- Không phải.

- Đúng thế đấy, cậu biết thế mà.

- Ông ta giữ ngươi ở lại chỉ để hành hạ ngươi thôi.

- Không, ông ta giữ tôi lại vì tôi có thể có ích. Cậu là kẻ ngoài cuộc rồi, đồ thất bại.

- Ah cantzuc che, ah cantzuc che…

Oái. Mẹ kiếp. Họ đang khâu ngực tôi. Mặc dù nói là “khâu” thì to tát quá, vì cứ như họ đang dùng kim đan và dây loa vậy. Sau một triệu mũi khâu, họ lại xoa dầu, lật lên lật xuống người tôi hệt như đang thay tã cho trẻ con. Chúng tôi thấy họ quấn cho mình một chiếc khố thêu quanh hông và xâu những sợi chỉ màu sắc rực rỡ qua hai cái dái tai sưng phồng. Họ chải và tết lại mớ tóc cụt lủn của chúng tôi. Chắc họ đang nối dài nó ra. Tôi thấy mình chẳng khác gì con chó Nhật trong cuộc thi hoa khôi chó. Họ đeo những chiếc vòng bằng đá xếp vảy quanh hai cổ tay, dùng dây da buộc một miếng đá trang sức hình lưỡi rìu của người chơi bóng hông quanh lòng bàn tay phải. Chúng tôi được phục sức bộ trang phục đội đầu khá nặng và đeo một sợi xích bằng đá quanh hông, chắc nó được dùng trong dịp lễ hội bóng thôi chứ thế này thì quá nặng để đeo khi chơi thật. Cuối cùng, họ thoa lên người chúng tôi một thứ bột mà ngửi mùi, Chacal biết đó là tro xương trộn chu sa. Đương nhiên có cả mùi vani thoang thoảng nữa. Tôi quả quyết rằng chúng tôi đủ thơm tho và ngon mắt để làm thức ăn, thậm chí cho một vị thần. Thế nhưng, chúng tôi được đưa đến đây không phải để dùng vào việc đó.

Mấy gã hầu trang phục xốc chúng tôi đứng dậy, giúp Chacal lấy thăng bằng - anh ta đã lấy lại kiểm soát cơ thể, nhưng ngay lúc này chưa gây chuyện gì. Họ dẫn chúng tôi đi qua một cánh cửa thấp, bước chín bước ra ngoài ánh sáng. Họ đặt chúng tôi xuống một chiếc chiếu cứng, mặt trơn. Tên cầm đầu - tôi nhận ra hắn không dùng găng tay - lột những dải băng dinh dính hay cái của nợ gì đó ra khỏi mắt tôi và chùi hết những vết dính còn bám lại. Mắt tôi mở được ra.

Chúng tôi đang ở sâu trong một hẻm núi cây cối rậm rạp, mặt quay về hướng đông, cách bờ một con lạch nhỏ chừng hai mươi bước chân. Chúng tôi không nhìn thấy nhưng nghe thấy tiếng thác nước đổ xuống qua nhiều tầng từ đỉnh một vách đá cao chừng một trăm feet - “tuy bây giờ đã là cuối mùa khô” - tôi, hoặc Chacal, nghĩ.

Quanh chiếc chiếu, một vạt cỏ vuông vắn rộng chừng mười lăm sải tay đã được đốt quang và rắc đầy cánh hoa mộc lan dại như muốn giả làm tuyết. Những chiếc giỏ nông nhiều kích cỡ khác nhau được đặt rải rác, chiếc nào chiếc nấy đựng đầy hạt san hô, “lưỡi rìu tiền” bằng đá xanh, xì gà, hạt vani, hạt ca cao và những cuộn vải bông chưa nhuộm; quả là một kho của ra trò đối với một anh chàng như Chacal, người rốt cuộc cũng chỉ là một tay nhà quê kiết xác mới kiếm được chút thành đạt. Năm người đàn ông ngồi ở cạnh phía đông vạt cỏ, Sọ Đá Quý 2 ngồi chính giữa, trên chiếc chiếu dày bện hình da rắn dành cho dịp lễ, đeo mặt nạ và trang phục đội đầu hình con yêu quái đại bang harpy. Ông ta giữ một con diều hâu đuôi đỏ trên cổ tay trái, nó không bị bịt mắt như những con chim được thuần dưỡng ở cựu thế giới (Tức là châu Âu, châu Á và châu Phi) mà bị xích chân vào một chiếc vòng tay bằng gỗ dày. Chỉ có thể thoáng nhìn thấy tí da dưới những chuỗi ngọc bích quấn kín mít, và giữa ngực ông ta đeo một mảnh gương lớn hình bầu dục, tựa như gương Claude (Loại gương hơi lồi, bề mặt nhuộm đen), gắn trên một khối quặng sắt.

Ái chà, nhìn đẹp ra trò.

Hai đại diện của Hội Bóng Hông nhà Đại Bàng ngồi bên phải ông ta. Người thứ nhất là Hun Xoe với khuôn mặt đẹp giai và tươi tỉnh. Nó từng là người chơi chính ở vị trí cuối sân, tức hậu vệ, của Chacal. Rồi đến một k’iik lớn tuổi hơn rất nhiều, nom giống phiên bản thu nhỏ và lôi thôi của Người Đá trong phim Bộ tứ siêu nhân. Một luồng thiện cảm từ Chacal chạy sang tôi, bất chấp, hoặc có thể chính vì, ông ta đã nhiều lần đánh bại Chacal, chỉ cách cái chết có vài inch. Tên và danh hiệu của ông ta thình lình hiện lên trong óc tôi: Sấm Rền 3, người quản lý vòng hông của đội bóng nhà Đại Bàng. Chức danh ấy có nghĩa ông ta là huấn luyện viên. Đó là người chú thứ hai của Chacal và là em họ nuôi của Sọ Đá Quý 2. Ông ta có biệt hiệu là Tinh hoàn 3, đơn giản vì ông ta có nhiều chất đàn ông hơn bất cứ ai. Trước khi trở thành thầy dạy kiêm cha nuôi thứ nhất của Chacal, ông ta từng là một hậu vệ huyền thoại, chưa từng bị đánh bại nhưng đã bị thương nặng trong trận đấu cuối cùng, cách đây mười chín mùa chiến tranh. Trong trận đấu đó, ông ta bị tơi tả chưa từng thấy, nên bây giờ cánh tay trái của ông ta vẫn tê liệt thành một cái vuốt không cử động được nữa. Nhưng nhìn ông ta vẫn như thể nếu anh lại quá gần, ông ta có thể bóp nát cổ anh bằng bàn tay lành lặn và dùng lợi cắn đứt đầu anh. Hai người dân địa phương ngồi bên tay trái Sọ Đá Quý 2. Đầu tiên là một ông già nhà quê trong chiếc mũ ống chóp cao màu xanh nước biển, vị chức sắc đương nhiệm của ngôi làng nhỏ này. Ông ta là một “người ở nhà tròn” - tức là người thuộc tầng lớp phải ở trong những túp lều tròn thay vì những ngôi nhà xây vuông vắn của tầng lớp quý tộc - và ông ta thuộc tầng lớp kém xa trong nhóm người này, nhưng vẫn có vẻ được kính trọng. Chacal dĩ nhiên biết ông ta, nhưng cả tôi (tức là tôi, Jed ấy) cũng cảm thấy khắc khoải nhớ nhà - cảm giác khắc khoải nhất kể từ lúc đến đây - khi nhìn ông ta bởi ông ta gần như giống hệt Diego Xola, một bô lão ở Tozal, ngôi làng nơi tôi lớn lên. Các bô lão qua bao đời vẫn chẳng thay đổi gì mấy. Bên cạnh ông ta-ngồi bệt dưới đất vì không xứng ngồi chiếu-là người sinh ra tôi, tức sinh ra Chacal. Nom ông ta thô kệch, một nông dân trồng ngô, còn trẻ tới mức không ngờ, với hàm răng lởm chởm và cái trán nhăn lại vì thường xuyên phải vác thúng nặng. Chiếc mũ rơm rộng vành của ông ta nhìn như mũ đội khi đi chơi ngoài bãi biển và mốt chẳng kém gì mũ của những năm 1960. Tên của ông ta là Wak Ch’o, tức là Chuột 6, một cái tên điển hình của nông dân ở nhà tròn. Tôi biết mẹ Chacal đã mất, nếu không bà đã được phép có mặt tại đây và đã khiến Chacal có đôi chút ấn tượng gì đó. Nhưng Chacal còn có anh em, và họ cũng không đến. Hừm. Chắc các bạn nghĩ việc gặp lại người cha sẽ khiến những cảm xúc như thương yêu, đau buồn, vân vân, trỗi dậy trong Chacal. Phải không? Không biết có hay không, nhưng tôi không hề cảm thấy. Tất cả những gì tôi cảm thấy qua Chacal ngay lúc này là sự xấu hổ. Hay nó đặc biệt hơn thế một chút, giống như… hừm… Ồ, tôi biết rồi. Nó giống sự hồi hộp của một diễn viên trước khi ra sân khấu.

Từ vị trí này, tôi chỉ thấy thêm hai người nữa. Sên Xanh 3 - tên gù với giọng nói cao the thé phát ra từ cổ họng - đứng một mình ở góc xa bên phải. Lão khoác một chiếc áo choàng lông màu xanh da trời, chụp một thứ trang phục đội đầu hình xoắn ốc khiến đầu to xù ra như một con cá đại dương thân có thể co dãn. Và bên kia suối, cách chừng năm mươi sải tay, một k’iik Đại Bàng cao lớn đang đứng dưới một bụi ổi gai.

Có ba tên hầu trang phục đứng sau chúng tôi (tôi đếm tất cả mọi người theo thói quen), và tôi nghĩ còn ai đó nữa đang ngồi gần bên tay phải chúng tôi, người mà tôi không được phép nhìn. Nếu còn các vệ sĩ hay phu khuân vác ở quanh đây thì họ đã ở ngoài tầm mắt của chúng tôi.

- Te’ex!

Sên Xanh 3 gào lên, gần như thẳng vào tai tôi bằng cái giọng cao chói vói của lão: “Ngươi!”

Chacal giật mình, chú tâm. Anh ta có cái cảm giác như tôi từng được thưởng thức một lần hồi mười lăm tuổi, khi một tay cớm bất thình lình hướng loa vào tôi, quát: “Này, THẰNG KIA! Đứng im! Thằng đội cái mũ rách ấy! Đứng im!”

Te’ex m’a’ ka’te!!

- Ngươi, tên nhãi có bộ da bẩn thỉu kia

Ai là mẹ ngươi? Ai là cha ngươi?

Ngươi không biết? Cái bào thai thối rữa không biết?

Sọ Đá Quý 2 chìa tay về phía chúng tôi và ngửa lòng bàn tay lên. Nó có nghĩa rằng nếu tôi, hay đúng hơn là Chacal - vì bây giờ anh ta đang điều khiển cơ thể này - có gì muốn nói thì nên nói ngay bây giờ.

Tôi hét to:

-Cal tumen hum pic hun, pic ti ku ti bin oc!

Nghĩa là:

- Bề trên, xin hãy cho con trở lại trong sạch

Hãy ban cho con cái chết!

Chính ra là Chacal hét câu ấy. Hoặc tôi nên nói rằng anh ta bắt chúng tôi hét lên câu ấy. Anh ta không cử động được, dĩ nhiên, không phải vì tiếng nói của tên gù có ma thuật gì, mà vì nếu anh là một Đại Bàng, anh phải tuân theo tiếng nói đó. Nhưng anh ta biết họ sắp làm gì, và anh ta không muốn điều đó. Anh ta muốn họ giết anh ta, giết chúng tôi, giết cơ thể này, cơ thể trước đây thuộc về anh ta. Anh ta không thấy cái chết có vấn đề gì, dĩ nhiên, nhưng anh ta muốn mang tôi và cả cơ thể của anh ta theo.

Sọ Đá Quý 2 xoay lòng bàn tay xuống. Yêu cầu bị từ chối. Sên Xanh 3 nhận ám hiệu và bắt đầu dỗ dành chúng tôi bằng giọng ngân nga hiền lành:

- Ngươi, Chacal 1,

Người chơi bóng hông vĩ đại,

Người làm gãy xương kẻ khác,

Ngươi khỏe mạnh, ngươi dũng mãnh,

Chiến thắng Rắn Chuông 22,

Ở Ix,

Chiến thắng các Mèo Rừng,

Ở sân 20,

Thắng Chúa Tể Mưa Chết 18,

Của các Mèo Rừng,

Sao ngươi lại ngồi ở đây,

Khoác lên mình bộ da xấu xí?

Đây mới là ngươi thật sự.

Cả ba linh hồn của ngươi đều ở đây,

Đây là gốc cây của ngươi,

Đây là bộ da của ngươi,

Đây là uay diều hâu của ngươi,

Tất cả đều chờ đón ngươi,

Tất cả đều ở đây,

Cha ngươi,

Các anh ngươi,

Các em ngươi,

Những người đồng đội của ngươi…

Khi nghe đến từ “gốc cây”, cặp mắt chúng tôi hướng sang bờ suối bên kia, chỗ bụi ổi gai. Trên mỗi thân cây đều treo một vài thứ đồ cúng đã cũ, nhưng riêng một cây được trang hoàng những dải vải mới, những chuỗi vỏ ốc gai màu da cam và những cuộn vàng mã nhỏ đầy máu. Ngay cả khi ký ức của Chacal chưa kịp kéo về, tôi đã đoán ra đó là motz của anh ta, gốc cây của anh ta, tức là đã được trồng, hay chí ít là được chọn, khi Chacal ra đời.

Và Sọ Đá Quý 2 có con diều hâu. Còn bộ da thì sao?

Chacal phá luật, liếc mắt dòm sang bên phải. Cách chúng tôi bốn sải tay, một thằng bé trần truồng quỳ khom mình trên những cánh hoa với tư thế của kẻ cầu xin, miệng nhoẻn nụ cười sung sướng nhưng hơi đờ đẫn, tôi đoán là do tác dụng của các loại ma túy dùng trước lúc hiến sinh. Thằng bé ít tuổi hơn Chacal, mặc dù bộ tóc cho thấy nó đã qua giai đoạn vỡ lòng cuối cùng, nghĩa là chính thức ở cùng tầm tuổi với anh ta. Có lẽ nó có cùng ngày sinh hoặc cùng ngày đặt tên, tuổi tính theo ngày này còn quan trọng hơn tuổi thật. Khuôn mặt nó chỉ hơi giống tôi, tức là giống nét mặt mà tôi nhớ là của Chacal qua những gì đã thấm vào ký ức tôi. Tôi thậm chí hình dung không được rõ lắm vì ở đây gương soi rất hiếm, nước thì được coi là thế giới của người chết nên nhìn chằm chặp vào là rất nguy hiểm, và Chacal cũng chỉ nhìn thấy bóng mình có vài lần. Tuy nhiên, những hình xăm trên mặt thằng bé giống chúng tôi, cũng những chấm nhỏ xíu tạo thành hai đường xoắn ốc chạy từ khóe miệng lên má, và nó cũng có một vết sẹo mới ngay phía trên hông, đúng chỗ Chacal có một vết sẹo lớn do bóng hông đập vào.

Đúng cái mình cần - tôi nghĩ - một bộ óc để cấy ghép mới. Tôi đoán đây là một người thế mạng khác. Người đã chết thay cho tôi trong cuộc săn hươu chỉ là người thế mạng giả. Đây mới là người thế mạng thật. Sao cũng được.

- Đây là khu vườn của ngươi,

Sân trước của ngươi,

Bếp lò của ngươi,

Cái võng của ngươi,

Đây!

Tất cả chúng ta đều không kính trọng ngươi, ruồng bỏ ngươi…

- Ờ… này, Chacal này? - tôi nghĩ, - tôi thấy sự lựa chọn khá rõ ràng. Nào, họ đã đóng gói hết đồ cho cậu rồi đấy. Nghe theo đi, anh bạn.

Anh ta không trả lời, nhưng dường như anh ta phập phồng xúc động, như cái lỗ hổng được bịt tạm trên chiếc máy bay đang giảm dần áp suất. Sên Xanh 3 rập rình tiến lại và quỳ xuống bên tay trái tôi, nom y như một đứa trẻ sơ sinh nặng cả trăm pound. Lão đưa một chiếc bình thuôn thuôn hình ống đựng thứ gì đó kề vào miệng chúng tôi, hoặc vì chúng tôi còn khát khô, hoặc vì Chacal không thể không tuân theo, chúng tôi uống cạn cái bình. ụa. Tôi đã được thưởng thức vài loại cốc-tai khó nuốt ở đây, nhưng cái này mới thực sự tởm lợm. Lúc đầu, nó chỉ nhàn nhạt thôi, như nước luộc thịt có vị sắt gỉ nhẹ, thêm một ít vẩn giống như lá lách bê xay nhỏ, nhưng khi nó trôi qua cổ họng, tôi lại thấy dư vị khe khé, ngầy ngậy. Nó gợi tôi nhớ đến thứ gì đó… ô, phải rồi, tôi nhớ ra rồi. Nó giống thứ nước mà hồi còn đi học, chúng tôi pha để lỡm thằng khác uống, gọi là nước “tua vít”, trộn rượu vốt-ca với dung dịch ma-giê hy-đrô-xít. Và lúc này tôi cảm tưởng như trong dạ dày có một miếng bọt biển khô đang thấm nước và phình to lên bằng quả bóng đá… không… quả bóng rổ… không, quả bóng bãi biển. Tôi nhớ chỗ cặn trong bình có màu xanh tím ngắt. Nước mạch nha lấy từ ngô chăng? Tiếp đó, Sên Xanh 3, một tay cầm một mẩu xương sống cá đuối, tay kia cầm hai chiếc chén nhỏ bằng đất sét, cúi về phía trước. Tôi cảm thấy những ngón tay mỏng mọng của lão véo vào dái tai tôi. Lão xiên mẩu xương vào dái tai tôi và rút ra đánh xoẹt một cái.

Hai tai chảy rất nhiều máu, chưa đầy một phút sau, hai chiếc chén đã đầy. Hai gã hầu trang phục quỳ xuống, mỗi tên cầm lấy một chiếc chén, dùng những miếng giẻ để tô, hay đúng hơn là bôi lem nhem người thằng bé thế mạng bằng máu của tôi. Khi nó đã được bôi đỏ khắp người và máu bắt đầu khô, chuyển sang màu nâu, họ quay sang tôi. Chacal kêu lên không thành tiếng trong đầu tôi: “không, không, không, không”. Mày xong rồi, - tôi nghĩ, - mày thành dĩ vãng rồi, bước đi thôi.

Trong lúc đó, hai gã hầu trang phục vẫn bận rộn với tôi. Họ đắp bột cầm máu lên dái tai tôi, lau chỗ máu dây trên ngực. Họ tháo phiến đá trang sức và sợi xích đá bóng hông, tháo những cái vòng tay mà họ vừa mới đeo vào, cởi bỏ bộ trang phục đội đầu, lột cái khố, tháo những chiếc nhẫn đeo ngón chân, tất tần tật. Khi tôi đã trần trụi, họ đeo tất cả những thứ ấy lên người thằng bé bất hạnh. Nó lảo đảo dưới ngần ấy sức nặng. Họ quay lại và dùng da cá mập tẩy những vết xăm hình xoắn ốc tượng trưng cho gia tộc trên má tôi. Họ giũa sạch những vết chai nổi cục của dân chơi bóng hông trên đầu gối và khuỷu tay tôi. Tôi xin đánh cuộc rằng nếu mắt tôi có màu sắc khác lạ hay có bất kỳ đặc điểm nào nổi bật chứng tỏ tôi là Chacal thì họ cũng sẽ móc nó ra. Đau quá. Bề ngoài tôi đã đổi khác.

Lúc này, Sên Xanh 3 đang nói chuyện với người thế mạng, giả giọng cha mẹ, ông bà, cụ kỵ và cả tổ tiên sáng lập ra họ nhà Chacal, tất cả những người mà anh ta mang họ, tất cả những người được cho là đang trú ngụ đâu đó trong khóm ổi gai hoặc trong dãy núi phía sau. Cứ mỗi lần đóng vai một người, lão ta lại kêu gọi Chacal về với họ.

- Đổi chác thế này có vẻ hợp lý đấy, - tôi nghĩ với Chacal, - nếu là tôi, tôi sẽ biến khỏi cái xác cũ này và chui vào thằng bé kia ngay.

Tôi liếc mắt theo dõi những tên hầu trang phục lột một mảng da khỏi ngực thằng bé thế mạng, giống hệt mảng da họ đã khâu lên ngực tôi. Sên Xanh 3 đưa họ vật gì đó, miệng vẫn không ngừng bài khấn. Đó là mảng da có xăm chữ mà họ đã lột khỏi ngực tôi trong buổi chơi trò săn hươu. Nó đã được thuộc nên dẻo và trong suốt. Tôi hơi bối rối vì tôi tưởng họ đã dùng mảng da ấy cho người thế mạng thứ nhất. Có lẽ họ đã làm giả được một cái để thay thế và đánh tráo. Hoặc có thể miếng da đó không còn được treo lên để trưng bày nữa. Họ đã mang nó về. Sao cũng được. Nói tóm lại, họ bắt đầu khâu nó lên ngực của thằng bé thế mạng, dùng một sợi chỉ bằng ruột súc vật nối vào đầu một chiếc gai dùng làm kim.

- K’aanic teech chaban, - Sên Xanh 3 nói. Đại khái là: “Đây là cơ hội cuối cùng của ngươi. Lão đặt một chiếc bát miệng loe rộng xuống chiếu, giữa hai đầu gối tôi và cầm lên một cái que chọc nôn - hay nói cho khoa học một tí là dụng cụ gây nôn - bằng ngọc bích chạm khắc tinh vi. Hay quá đấy, - tôi nghĩ. Xin mời ngài Chacal thật nôn ra nào. Lão kéo hàm dưới của tôi xuống - tôi hơi giật mình hoảng sợ vì nghĩ lão sẽ xé toác nó ra - và dùng tay kia của mình thọc cái que vào họng tôi.

Ặc…

Khoang họng mở, áp suất được giải phóng và tôi phun ra. Ba bãi nôn lỏng màu vàng chua lòm ọc ra qua cổ họng và trút xuống cái bát. Tôi tưởng mình bị lộn trái. Tôi đổ gục xuống chiếu. Mình toi rồi, - tôi nghĩ, - chúng giết cả mình nữa. Tôi liếc qua khóe mắt, thấy thằng bé thế mạng cầm cái bát và tu một hơi. Khi nó uống xong, họ đổ thêm một chén nước b’lache’ vào bát, khuấy đều và bắt nó uống tiếp. Bên kia suối, gã k’iik cao lớn đứng ở bìa rừng giơ một lưỡi rìu lớn đen sì bằng đá stê-a-tít, dọa chặt đổ gốc cây chứng sinh của Chacal.

- Tôi, Chacal dưới chân ngài, đang hạnh phúc trong dòng máu này, - thằng bé cất tiếng nghèn nghẹn ngay khi có thể nói được. Dĩ nhiên, nó đã được gà trước câu ấy, nhưng rõ ràng chính nó cũng rất tin tưởng. Đối với nó, đây là một vinh dự. Nói thế vẫn chưa thỏa đáng. Với nó, đây giống một lễ cưới hoàng gia và nó là công nương Diana Spencer.

Ừ, phải rồi, mày thật may mắn…

Khoan hẵng.

Chacal biến mất rồi.

Sự thực là thế. Tôi chỉ kịp nhận ra, anh ta đã biến mất.

Gã k’iik hạ lưỡi rìu xuống.

Tôi cảm thấy trống rỗng và trì độn, như thể, cùng với những thứ khác, tôi đã nôn ra vài mét ruột và hai phần ba số tế bào thần kinh trong não. Nhưng ít ra bây giờ nó cũng là cảm giác của chính tôi. Một tên hầu trang phục - bây giờ là một tên mới, không phải hạng tiện dân - thò tay vào một chiếc túi và bốc một nắm đầy lông trắng, tôi đoán là lông tơ đại bàng, rắc lên khắp cái xác ướt đẫm của tôi.

Năm vị khách danh dự, lần lượt từng người một tiến về phía Chacal mới, chào mừng anh ta rồi quay về chỗ. Sọ Đá Quý 2 là người cuối cùng. Ông ta chìa một bàn chân ra và Chacal mới chạm nhẹ vào phía dưới. Đó là một vinh dự đặc biệt. Sau khi quay về chiếu của mình, Sọ Đá Quý 2 cầm một chiếc vỏ ốc xà cừ chạm vân đỏ biểu tượng của thị tộc, đưa lên miệng thổi, dáng điệu hệt như Triton (vị thần sứ giả của đại dương trong thần thoại Hy Lạp). Âm thanh phát ra khe khẽ, ngập ngừng. Chúng tôi chờ đợi.

Có tiếng leng keng của những chiếc chuông đất nhỏ, tựa như lục lạc của thánh Lazarus (vị thánh bảo trợ cho những kẻ ăn mày. Họ thường dùng lục lạc để báo hiệu cho người đi đường về sự xuất hiện của mình, vì vậy “lục lạc của thánh Lazarus” là cách dùng để ám chỉ “lục lạc của ăn mày”), phía sau chúng tôi. Tôi không quay lại nhìn, nhưng gần như lập tức, một nacom Đại Bàng, tức là thầy tế chuyên lo việc dâng cúng của Sọ Đá Quý 2, xuất hiện, bước chân chậm rãi như thể hắn có toàn bộ thời gian trên đời. Da hắn bôi than đen nhẻm, hắn đội một vành khăn xếp đen, cắm mấy chiếc lông chim mèo (giống chim thuộc họ sẻ, gọi là chim mèo vì có tiếng kêu như mèo kêu) đen và chiếc mặt nạ hình mỏ chim khổng lồ cũng màu đen, tất cả khiến hắn nom như phiên bản độc ác của con vịt Daffy (nhân vật con vịt màu đen trong phim hoạt hình). Các tế bào thần kinh của Chacal không hề muốn nhìn thấy hay nghĩ đến hắn, nhưng tôi vẫn tìm được tên hắn: Kỳ Nhông 18. Hai thằng bé theo sau hắn - một cặp sinh đôi xấp xỉ tám hoặc chín tuổi, da cũng bôi than đen nhẻm như hắn.

- Bề trên, xin hãy cho con trở lại trong sạch, hãy ban cho con cái chết, - người thế mạng, hay tôi nên gọi là Chacal mới lầm rầm. Hai đứa trẻ phụ lễ đỡ thằng bé nằm duỗi dài xuống chiếu, giữ lấy hai tay, hai chân trong lúc tên thầy tế rạch một đường ngang bụng nó. Bàn tay cầm dao của hắn thọc qua vết cắt vào dưới khung xương, luồn lên trên, cắt đứt các cơ hoành và tách quả tim ra khỏi động mạch và tĩnh mạch chủ. Hắn loay hoay mất gần hai mươi giây, nhưng cuối cùng cũng kéo được quả tim ra - để con dao lại thay thế vị trí của nó - và đặt nó vào một đĩa cháo ngô. Đáng ra tôi không được nhìn, nhưng vì mọi người hình như đều quên bẵng mất tôi nên tôi cứ vừa nằm trên chiếu vừa hé một mắt quan sát. Hóa ra tim có thể tiếp tục đập thêm một lúc sau khi bị cắt rời khỏi cơ thể, và quả tim này thậm chí còn phun ra những bọt máu đỏ thêm những mười lăm nhịp nữa, sau đó thì chỉ phụt ra hơi, phát ra những tiếng phì phì và lặng dần. Tôi quan sát hai đứa trẻ phụ lễ khiêng Chacal mới đặt vào một cái sọt lớn, để nó nằm cuộn tròn trong tư thế của một con chó đang ngủ, buộc lại bằng bốn nút thòng lọng thắt rất phức tạp, tạo thành hình ký tự đọc là “bốn trăm lần của bốn trăm”, tượng trưng cho sự vĩnh hằng. Rõ ràng họ không muốn nó quay về. Trước khi hai đứa trẻ xong việc, Sên Xanh 3 đã đứng sẵn cạnh tôi, mắt nheo lại vì mặt trời chiếu vào, những vệt đất sét xanh lam tô trên người chảy ra vì nóng. Lão yêu cầu tôi hứa không cho ai biết cái tên bí mật mới của tôi, tức là tên của uay mới của tôi. Tôi hứa. Nếu có ai đó biết được tên thật bí mật của anh, hắn có thể dùng nó để nguyền rủa và anh sẽ trở thành mục tiêu dễ dàng của bất cứ con quỷ nào mà hắn dùng để săn đuổi anh. Lão cuối xuống, thì thầm cái tên vào tai tôi - nó hãy còn đang chảy máu - và bảo tôi nhắc lại. Tôi ráng sức tuân theo nhưng thật khó mà nói được với cái miệng đầy không biết là máu hay bãi nôn, vì thế, tôi cố nuốt đi một phần và tên hầu trang phục mới lau nốt chỗ bị tràn ra cằm. Chắc Sên Xanh 3 nghĩ tôi đang cố trì hoãn nên lão bèn dùng khớp ngón tay cốc một phát vào cạnh đầu tôi và đẩy tên hầu lui lại. Tôi thì thầm cái tên. Lão bắt tôi nhắc lại hai lần nữa rồi đứng dậy, thông báo tên gọi công khai, tức tên thường gọi của tôi. Giống như hầu hết những cái tên liên quan đến súc vật khác, nó chẳng dính dáng gì đến uay của tôi:

- Thằn Lằn Chân Lùn 10, - lão ta tuyên bố. - Kết thúc.

Đồ ăn mày, - tôi nghĩ bụng. Tôi lúc nào cũng nhận được những cái tên củ chuối nhất. Mẹ nó chứ.

Sau lưng tôi, ai đó châm lửa đốt cái túp sậy. Tôi đoán là nó chỉ là thứ đồ dùng một lần. Tôi nhấc đầu lên và nhìn thấy hai thằng bé phụ lễ nhấc cái sọt lên vai và lên đường, theo sau là tốp phu vác trên vai tất cả những thứ lỉnh kỉnh khác. Cha của Chacal và vị bô lão cũng theo họ đi xuôi con đường về làng, tay rung lục lạc để đuổi tà ma. Tôi thấy lạc lõng. Sọ Đá Quý 2 cởi xích cho con diều hâu. Ban đầu, nó cứ đứng yên, vì vậy, ông ta xùy nó cho đến khi nó bực bội đập cánh bay lên, rúc vào đám cây.

37

Họ lôi tôi đi một chặng đường dài, lên dốc xuống đèo. Tôi vẫn còn yếu vì… hừ, vì tất cả mọi sự. Khi tôi ngủ thì họ khiêng tôi. Họ cho tôi uống nước ấm. Hun Xoc, người chỉ huy việc này, lấy từ tay nải riêng ra một tảng muối và cho tôi liếm. Lát sau, tôi nhận thấy người mình đang chuyển động theo lối hết sức kỳ cục. Mình đang đu đưa, - tôi nghĩ, - ở đầu một sợi dây, ý tôi là theo nghĩa đen ấy (Vì “ở đầu một sợi dây” còn có nghĩa bóng là “không thể chịu đựng được nữa”). Họ đang dòng dây thả tôi xuống ở tư thế nằm ngang như cái xà nhà, ra khỏi vùng ánh sáng, vào một khoảng không đầy những tiếng rì rầm và lách cách vang vọng, sực mùi sô-cô-la, mùi nước tiểu, mùi nhựa thông và mùi đá ẩm. Tối om. Những bàn tay đón lấy cái bọc, tháo sợi thừng ra, vác nó đi chừng bốn mươi bước, đặt xuống, lôi tôi từ trong đó ra và đặt nằm lên một đống vỏ bao ngô. Khi mắt đã quen với bóng tối, tôi phát hiện mình đang ở trong một cái hang rộng, sau tất cả những sự trói, buộc và nhốt mà tôi đã trải qua thì cái hang này lớn chẳng kém gì sân vận động Hyperbowl. Đống vỏ bao ngô nằm cạnh một cái hốc dùng làm nhà kho được chống bằng những cây gỗ tuyết tùng, bên trong chất hàng núi hạt ca-cao chưa tách vỏ, da hươu thuộc bốc mùi a-mô-ni-ắc tự nhiên, phía đối diện, cách rất xa, là một khoảng ánh sáng mặt trời màu xanh lục rọi xuống từ một khuôn cửa nham nhở rộng chừng ba mươi sải, dài năm mươi sải, chơm chởm những thứ mà thoạt nhiên tôi đoán là rễ cây trồi lên, nhưng sau mới biết là nhũ đá. Khoảng không trong hang chăng kín mít giàn giáo, cột chống, dây thừng, trụ tường và giá để phơi khô, nhưng đập vào mắt nhất là một cái thang dây, hẳn phải thuộc loại lớn nhất thế giới: khoảng sáu mươi súc gỗ, một chiều mười, một chiều hai mươi sải tay, được thắt chặt vào những sợi thừng bện dày. Cái thang được treo dựng đứng, nối từ phía bên này hang, nơi tôi đang nằm, lên mép xa của khuôn cửa. Năm người thợ gần như trần trụi leo trèo trên cái thang như thủy thủ trên dây cột buồm của một chiếc thuyền buồm thẳng đứng, chuyển xuống một cuộn da hươu chưa thuộc. Trong hang còn ít nhất ba mươi thợ khác, một vài người chắc đã nhìn tôi hết sức tò mò vì Hun Xoc - người vừa mới xuống tới nơi - quát họ quay trở lại làm việc. Họ xốc tôi đứng dậy, nhưng tôi vẫn phải cần hai người đỡ mới đi được, không phải vì tôi vẫn còn lẩy bẩy sau ngần ấy sự hành hạ vô ích, mà vì ý thức của Chacal đã biến mất nên tôi phải học lại cách điều khiển cơ thể mới này. Tệ hại nhất là tôi cứ quay sang phải mỗi lần muốn quay sang trái. Chúng tôi đi vòng qua một cái hõm hứng nước mưa tự nhiên dưới lòng hang, qua chỗ một tên đầu bếp vận quần áo đàn bà đang quăng bèn bẹt những chiếc bánh ngô dành cho bữa sáng lên ba phiến đá nhỏ trong bếp lò. Tôi đoán hắn là loại người mà các nhà nhân chủng học gọi là “berdache” (Thuật ngữ vay mược từ một từ trong tiếng Pháp có nghĩa là “đĩ đực”, mặc dù nó không được dùng với đúng nghĩa ấy.), một kẻ đồng tính có thể làm công việc của phụ nữ ở chỗ dành cho đàn ông. Một cái ống khói bằng đất sét nặn vươn lên từ nóc lò, chạy ngoằn nghoèo theo cạnh chiếc thang, dẫn ra ngoài khuôn cửa. Chúng tôi phải cúi khom người chui qua một cái giá trên phơi một đôi cò nhiệt đới mới làm thịt bị buộc túm cổ lại với nhau, cùng một xâu ngan Muscovy (Loài ngan có bướu ở mũi.) mới làm lông - bất chấp cái tên, chúng không hề đến từ Muscovy (Tức công quốc Muscovy, một công quốc thời trung cổ, đặt trung tâm tại Moscow, thủ đô nước Nga ngày nay.). Tôi nhớ ra là mình vẫn đang rất đói. Qua khu nhà bếp, đến một bục gỗ xây cao, nơi hai lão kế toán Đại Bàng già khọm, đầu quấn dải băng, đang ngồi đếm những hạt giống ngô và chuyển chúng cho mấy gã phụ việc, những người này bỏ chúng vào những chiếc túi làm bằng vỏ bao ngô và thắt chặt lại bằng chỉ màu. Những cuộn vải tráng cao su, những điếu xì gà to như quả thủy lôi năm mươi li được bó lại thành từng bó nằm chất đống trên các giá đựng hàng đan bằng liễu gai, cách xa các bức tường nhưng được cái ngoài tầm mưa hắt. Chả trách nhà Đại Bàng đã cai trị đô thị này được đến ba trăm năm, - tôi nghĩ, - những kẻ suốt ngày lo tích cóp và dự phòng.

Họ dẫn tôi ra khỏi phòng lớn, vào một con hẻm tối tăm, chạy chéo dẫn tới một hành lang phụ, nửa tự nhiên, nửa được đẽo gọt, với những cây nhũ đá nhọn hoắt được mài bớt sao cho vừa cách đầu người một khoảng và con đường dưới chân mấp mô, dốc lên chừng ba mươi độ. Trước khi ánh sáng hoàn toàn biến mất, những người dẫn đường cho tôi dừng lại giữa một căn phòng dạng như phòng chờ và gọi người hầu mang trang phục đến. Chúng tôi chờ đợi. Những gã hầu trang phục trình diện và chỉnh trang lại cho tôi. Ở đây, ít nhất anh cũng không phải tự làm vệ sinh. Hồi còn đi học, tôi đã từng hẹn hò một thời gian với một người phụ nữ Ấn Độ - cô ta từng là hoa hậu Ấn Độ, mặc dù tôi không mong các bạn tin điều này - và tôi hết sức kinh ngạc khi phát hiện ra cô ta chưa từng tự gội đầu lấy một lần trong đời. Và té ra, ở Ấn Độ, việc những người hầu có người hầu, và người hầu của người hầu cũng có người hầu không phải là chuyện gì hiếm gặp. Vì thế, ở đây, ngay cả một kẻ ra tù vào tội như tôi cũng có người phục sức riêng. Xong xuôi, họ xốc tôi đứng dậy và chúng tôi bước vào bóng tối hoàn toàn, mò đường đi nhờ một cái rãnh đục vào sàn đá vôi. Chúng tôi đi vòng vèo vào sâu trong núi. Quãng này kém thoáng khí hơn và mùi cũng khó chịu hơn. Tôi cảm giác bằng bàn chân rằng lối đi được đắp đất sét cho bằng phẳng. Con đường mở rộng ra thành một căn phòng hình chữ “L”, ánh sáng mặt trời chiếu vào nhờ nhờ. Bốn vách tường được đẽo thành các ngăn kệ, xếp kín những chiếc bình mộc, phía trên là hàng dãy tượng tổ tiên bằng đất sét, nom xấu xí và có vẻ như được nặn tùy hứng. Trên một ngăn kệ bày một dãy tượng phồn thực đẽo bằng gỗ, mô tả những lão già đầu thú sờ soạng các cô gái trẻ. Hình sau dâm dục hơn hình trước. Ái dà, ra là ở đây các vị cũng hư hỏng gớm nhỉ. Không phải mọi thứ thuộc về quá khứ đều vĩ đại. Người ta nghĩ thế chẳng qua vì hầu như chỉ có những điều tốt đẹp được lưu truyền lại, và chỉ khi có dịp tình cờ tất cả được “đóng gói” lại cùng một lúc, như ở Pompeii chẳng hạn, thì người ta mới nhận ra rằng gần như toàn bộ những gì thuộc về quá khứ đều rặt là một đống đồng nát. Và đâyđúng là một thành phố dung tục. Một câu lạc bộ ban đêm của thời cổ…

Oái. Họ khom lưng và đẩy tôi qua một tấm da hươu che cửa mà tôi chưa kịp nhận thấy, dẫn tôi đi ba mươi bước lên một đường dốc sáng ánh đuốc, tới tấm da che cửa thứ hai được nạm những chuỗi vỏ sò. Một k’iik Đại Bàng đứng tuổi ngồi chắn bên ngoài. Hắn và tên đứng đầu nhóm phu khuân vác trao đổi vài cử chỉ chào hỏi vô nghĩa. Trong này có mùi cay cay như mùi hạt tiêu Jamaicadại. Hun Xoc và tôi khom lưng chui vào một khoang đệm bé xíu, kích thước chỉ bằng cái tủ lạnh, chui tiếp qua một cánh cửa nhỏ đến một căn phòng hình tròn như quả bong bóng, rộng không hơn chiếc ga-ra chứa một xe. Không có ánh sáng trời, nhưng có hai cây nến lõi bấc - làm từ thân sậy bọc mỡ - đang cháy ở góc phòng, thay vì làm căn phòng khói mù, toàn bộ khói bị hút lên qua một khe hở trên bức tường phía trong nhờ một luồng gió mát thổi đều đều. Chỉ dựa vào không khí, tôi cũng có thể đoán chắc được rằng đây là nơi mà dân thích khảo sát hang động gọi là khoang khô, tức là khoang không bị mưa hắt, nằm trên mực nước của bất cứ dòng chảy nào và vách khoang không bị đóng rêu. Bức tường phía trong do tay người xây nên, nó được dựng bằng những khối đá đã qua đẽo gọt, còn các bức tường xung quanh thì được đẽo thô vào vách hang; bên tay phải chúng tôi, hai cây măng đá xam xám được để tự nhiên, gần như không mài dũa. Trên cây lớn hơn khắc tượng bán thân theo lối cũ của một vị lãnh chúa Đại Bàng. Dòng chữ ghi ngày ông ta bắt đầu trị vì vẫn còn khá rõ, đó là Chúa tể 9, Ngụm rượu 3 của ngày đầu tiên của b’ak’tun thứ tám - tức là ngày mùng 7 tháng 9 năm 41 Công nguyên, tròn 244 ngày sau vụ ám sát Caligula (Tức Gaius Julius Caesar Augustus Germanicus, vị hoàng đế thứ ba của đế chế La Mã, bị ám sát ngày 24 tháng 1 năm 41 Công nguyên.). Quanh chân cây măng đá vẫn còn những cái bình thờ cũ, có nắp đậy, phần lớn đã nứt vỡ. Phần còn lại của thư viện - hay tôi nên gọi là phòng lưu trữ hoặc genizah (Căn phòng lưu trữ trong giáo đường Do Thái, dùng để chứa những thư tịch, giấy mà không dùng đến nữa nhưng cũng không được phép vứt bỏ.) - chất đầy những chồng rương hòm được sắp xếp gọn ghẽ. Bốn trong số đó đang để mở và tôi nhòm thấy trong một chiếc có một cuốn sách gấp ruột mèo được vùi lửng lơ trong muối mỏ.

Tính cả tôi và Hun Xoc, trong phòng có cả thảy chín người. Sọ Đá Quý 2 ngồi trên một tấm đệm ở cuối phòng, chân phủ một tấm chăn bông may chần. Một vệ sĩ to lớn quỳ bên phải ông ta, mặt cắm xuống đất. Hắn ngồi thẳng người lên khi thấy chúng tôi bước vào, nhưng vẫn không ngước lên. So với người bình thường, hắn cao hơn một cái đầu và nặng khoảng gấp đôi, hắn cũng lớn tuổi hơn tất cả những tên vệ sĩ khác tôi từng trông thấy, điều đó có thể có nghĩa rằng hắn được tin cậy nhất. Quanh vai và hông hắn quấn miếng đệm bằng bông chần nhẹ, và những hình xăm trên hai bắp chân cho biết trong suốt cuộc đời tham gia chiến trận, hắn đã nộp cho Đại Bàng 1 cả thảy tám tù binh. Có hai người quỳ bên trái căn phòng, giữa tôi và tên vệ sĩ. Người thứ nhất là một lão già gầy nhẳng, vai khoác chiếc áo choàng tối màu, đầu trùm một thứ như cái mũ chụp lên trên chàng mạng, gần giống chiếc mũ cối có mạng che muỗi. Tôi nhìn lão không rõ lắm, nhưng hình như quen quen. Hai cẳng tay lão có điều gì đó là lạ nhưng tôi không nhớ ra là điều gì. Người thứ hai, gần tôi hơn, là gã chép sử trong bộ trang phục khỉ mà tôi đã từng nhìn thấy trong căn phòng phủ lông chim đỏ. Ngón tay trỏ hắn buộc một chiếc bút lông dài, mảnh, và hắn cứ cặm cụi việc mình, chẳng buồn ngẩng đầu lên nhìn chúng tôi. Hắn đang ghi những chấm và gạch cẩu thả, viết thành hàng dọc lên các mảnh lá cọ khô. Thực ra, từ “người chép sử” hơi sang trọng và to tát quá so với hắn. Có lẽ gọi là thầy tốc ký kiêm kế toán thì đỡ sai hơn. Hay chúng ta nên dịch chức danh của hắn một cách nôm na theo nghĩa đen là “người ghi nhớ”.

Ba người nữa ngồi dựa vào bức tường bên tay phải. Ông bác của Sọ Đá Quý 2, Nhàn Nhã 12, là người gần tôi nhất, tiếp đến là kị của Sọ Đá Quý 2: Chồn 40, và cuối cùng là một người nào đó với lớp vải quấn bên ngoài quá cũ và nát đến mức tôi không đọc được, ngồi sát bên tay trái Sọ Đá Quý 2. Họ đã chết, dĩ nhiên, và được bán ướp xác - tức là về căn bản, họ chỉ là những cái đầu bị tóp lại, có lẽ được nhồi hạt tiêu Ja-mai-ca, đặt trên một nắm xương sống, xương trụ, xương mác, vân vân. Mỗi người được đặt ngồi trên một cái bục giống bàn uống trà của người Ấn Độ, xếp dọc theo cạnh tường bên phải. Còn xương sọ có lẽ đã được chôn cất ở đâu đó cho an toàn, cùng với số xương còn lại, những người vợ được sủng ái nhất và nhiều thứ khác nữa. Họ có mặt ở đây nhưng không tham gia bàn việc.

Sọ Đá Quý 2 đưa hai bàn tay sang hai bên, với người Maya, làm thế cũng như chúng ta nhún vai.

Hun Xoc đặt tôi ngồi xuống một cái chiếu dành cho kẻ dưới. Tôi cúi mắt xuống và tay phải tự động đưa lên vai trái. Tôi nghe thấy tiếng Hun Xoc khom lưng bước ra khỏi cánh cửa phía sau tôi. Sọ Đá Quý 2 nói:

- Ta nhắc lại lần nữa, hãy lấy con giòi bọ của ngươi ra ngay.

Thế là thế quái nào? - tôi phân vân. Tôi tưởng chúng ta đã xong việc này rồi.

Bây giờ, tôi đã học được cách cư xử ở đây đủ để biết rằng nếu không có gì để nói thì cứ ngậm miệng lại. Tôi nhìn xuống đất. Chết rồi, - tôi nghĩ, - lão vẫn sẽ lấy mạng mình. Ôi trời ơi.

- Ta đã gõ quả bóng hông thứ chín của ngươi rồi đấy, - ông ta nói. Câu đó có nghĩa rằng: “Đây là cơ hội cuối cùng của ngươi rồi đấy”.

Tôi nhìn lên.

- Jed? - tôi khẩn khoản. - Ra khỏi đó đi, nhé? Hoặc nếu không cứ nằm yên. Xin mày đấy. Vì đồng đội một lần đi.

Đương nhiên, im ắng chờ đợi một lát, đương nhiên, chẳng có gì xảy ra hết. Nếu thằng Jed ở trong đầu Sọ Đá Quý 2 từng có bất cứ phản ứng gì đặc biệt khi nghe thấy tôi thì ông ta đã chẳng nói thế.

- Liệu hắn có nghe ngươi không? - rốt cuộc Sọ Đá Quý 2 hỏi.

Tôi thưa là tôi không biết.

Tôi lờ mờ đoán rằng Sọ Đá Quý 2 có thể sẽ gột rửa tôi ra khỏi người ông ta như ông ta đã đẩy Chacal ra khỏi người tôi.

- Jed trong đầu ngài đang nói gì? - tôi hỏi.

- Hắn đang kêu gào, - Sọ Đá Quý 2 đáp.

Tôi run lên. Chết tiệt. Tôi tưởng tượng cảnh con ấu trùng chưa phát triển thành tôi hoàn chỉnh đang quằn quại dưới lằn roi của ý chí kiên cường của Sọ Đá Quý 2. Eo ơi. Chắc kinh khủng lắm…

- Ta thấy hắn,

Nhưng không biết tên hắn,

Trong ta,

Cuộc sống của ngươi,

Tựa như một đống bình vỡ.

Ông ta nói, lần đầu tiên có vẻ gần như không dứt khoát.

Hừm, - tôi nghĩ, - ừ, chí ít thì bây giờ ta cũng nói chuyện được với nhau.

Tôi đã bắt đầu học được cách tin tưởng vào những phản ứng tự nhiên của Chacal, tôi vẫn lo phần cân nhắc những quyết định quan trọng nhưng để cơ thể anh ta làm theo bản năng. Và lần này, nó biết là không nên trả lời, vì thế, không bỏ lỡ một giây, tôi tặc lưỡi và ra ý: “Như ngài, ở trên tôi, nói”.

Đừng tự nguyện cho ông ta biết bất cứ điều gì hết, - tôi tự nhủ, - mày càng nói nhiều thì càng dễ toi, hiểu chưa? Ông ta cần mày ở lại để giúp ông ta hiểu được mớ lộn xộn xa lạ trong đầuông ta. Không phải ông ta không thể tra tấn mày. Nhưng có lẽ ông ta không thực sự muốn tra tấn mày. Có lẽ ông ta không ác đến thế, chỉ là ông ta nổi khùng vì cảm thấy bị xâm phạm thôi. Ở tình thế đó, ai cũng làm vậy thôi. Phải không?

Phải gió, bây giờ tôi lại cảm thấy tội lỗi một cách phi lý. Hoặc có khi cũng chẳng phi lý. Rốt cuộc, tôi đích thị là một tên đồng lõa chiếm đoạt bộ óc ông ta. Thôi quên đi, - tôi tự nhủ, - đừng có thương hại lão. Lão có thể giết mày bất cứ lúc nào đấy.

- Ngươi, kẻ dưới chân ta

Đã làm ta mất một đứa con trai

Và phá hoại gia đình ta

Sao cơ? - tôi nghĩ, - con trai à? Ồ, phải rồi.

Tôi quên tôi đã kể chuyện này rồi. Tôi từng đoán rằng con trai của Sọ Đá Quý 2 đã bị hiến sinh thay tôi sau khi tôi phá hỏng lễ hiến tế trên kim tự tháp. Tôi không biết có nên vờ không biết gì hay không, vì thế tôi hỏi thêm:

- Kẻ dưới chân ngài

Xin được xá tội.

Nhưng kẻ dưới chân ngài

Chưa rõ vì sao

Mình lại gây ra

Tai họa như thế.

Đó là câu gần nhất với một câu hỏi mà tôi nghĩ ra, bởi trong thứ ngôn ngữ này không có cách nào để một tên hèn hạ đặt câu hỏi với người bề trên. Và ngay cả câu ấy cũng chưa được lễ phép cho lắm. Song Sọ Đá Quý 2 vẫn trả lời. Ông ta bảo tôi - một cách hết sức trịnh trọng và đối cách - rằng hai năm mặt trời trước, gia tộc cai trị là nhà Mèo Rừng đã đòi ông ta dâng một món quà để kỷ niệm lễ đặt tên mới và tái đăng quang của tộc trưởng nhà họ. Chim Ruồi Có Nanh 9, với tư cách là Chúa Tể của Những Dòng Nước Màu Mỡ và k’alomte’ - chiến binh đứng đầu - của thành Ix. Món quà đó phải một trong hai thứ sau: hoặc xóa hết nợ - điều này tôi kết luận là ông ta không muốn chút nào - hoặc là một đứa con trai dùng làm người thế mạng trong lễ hiến sinh giả của Chim Ruồi Có Nanh 9. Nhưng vì Sọ Đá Quý 2 chỉ có hai đứa con trai ruột nên ông ta đã dàn xếp được một sự thỏa hiệp: một trong những đứa con nuôi của ông ta - nhà vô địch môn bóng hông của thị tộc Đại Bàng: Chacal - sẽ đấu một trận bóng hông có tính chất nghi lễ với Chim Ruồi Có Nanh 9 và sau đó, với tư cách là kẻ thua cuộc, phải lao đầu từ trên kim tự tháp xuống thay cho ông ta.

Và khi Chacal làm hỏng lễ hiến tế vì tỏ ra sợ hãi, Sọ Đá Quý 2 đã cho trói Chacal lại để dành (cho “cái chết bẩn thỉu” theo cách nói của ông ta), rồi cho người đưa tin xuống gặp hai đứa con trai đang đứng trong hàng ngũ của nhà Đại Bàng trên quảng trường dưới chân kim tự tháp. Và đứa lớn, Tro 23, đã ngay lập tức leo lên cầu thang. Đám người hầu trang phục vội vã tô xanh người anh ta và anh ta nhảy xuống.

Sọ Đá Quý 2 dừng lời.

Mẹ kiếp - tôi nghĩ - bất kể ông ta máu lạnh đến đâu thì mất một đứa con hẳn vẫn đau đớn lắm. Bếp lò và củi đây, nhưng con cừu để thiêu hiến tế đâu? Tôi phải xin lỗi thế nào bây giờ? Xin lỗi thì có vẻ không ổn thế nào ấy. Tôi bèn thưa rằng tôi sẽ làm bất kỳ điều gì có thể bù đắp cho ông ta.

Ông ta đáp:

- Nếu thế, ngươi, kẻ dưới chân ta

Sẽ phải nộp nhiều hơn cái đầu của ngươi,

Nhiều hơn hai mươi tun đau đớn,

Nhiều hơn tất cả những đứa con của tổ tiên ngươi.

Tôi xin lỗi, - tôi nghĩ trong đầu.

Ông ta nói tiếp:

- Các con trai của Hơi Nước 18 phải tự lột hàm

Và con trai của Xa 3 cũng đi theo mặt trời

Trong cuộc săn hươu.

Câu ấy có nghĩa là - tôi phải mất một phút mới đoán ra - ba gã k’iik bị tôi đánh bại trong cuộc săn đã nhục nhã đến mức tự chọc thủng một lỗ trên cơ da cổ - ngay sau cằm - xuyên một sợi thừng từ đó sang miệng, thắt nút lại rồi treo lên cành cây hay bất cứ thứ gì khác và ngã đổ người ra sau để giật tung xương hàm.

Và như thể ngần ấy vẫn chưa đủ tệ hại, ông ta còn thêm rằng một k’iik nhà Đại Bàng đã thiệt mạng và bốn người khác bị thương khi tôi cố tự tử trên dốc. Một trong số những người đó bị thương bị tàn tật vĩnh viễn và đang cầu xin được chết.

Chắc cũng có nhiều người phu bị thương nữa, - tôi nghĩ. Nhưng dĩ nhiên ông ta chẳng bận tâm gì chuyện ấy. Tôi định phân bua rằng người cố nhảy xuống không phải tôi mà là Chacal nhưng lại thôi. Sọ Đá Quý 2 biết và điều đó với ông ta không quan trọng. Tôi vẫn có trách nhiệm trong toàn bộ sự việc.

Và toàn bộ chuyện ấy cũng chưa là gì, ông ta nói, so với cái gọi là sự hủy hoại chính trị tôn giáo. Người ta đang xì xào rằng vụ rút lui đầy tai tiếng của Chacal trên đỉnh kim tự tháp đã khiến nữ thần Cóc Đất ngã bệnh và đáng nhẽ chỉ hắt hơi sổ mũi qua loa thôi thì bà ta dám nôn ra mật xanh mật vàng. Hôm nay, những người đưa tin đã từ bờ biển trở về với bản tường trình chi tiết về đợt phun trào khủng khiếp của núi lửa San Martín. Và, như mọi khi, những kẻ đầu óc tiêu cực lại đồn rằng sắp đến ngày tận thế.

Hừ, thế đấy - tôi nghĩ - nhắc đến trận phun trào trong bài diễn văn trên đỉnh kim tự tháp khéo lại chẳng phải ý hay, ừ thì… chẳng phải chuyện gì cũng mỹ mãn được, phải không?

- Vậy, - Sọ Đá Quý 2 nói, kết thúc bài kinh nguyện tai ương của ông ta, - ngươi muốn dâng tặng gì để bù đắp?

- Tôi còn biết một số sự việc nữa sắp xảy ra…

- Giống như trận nôn vừa rồi của nữ thần Cóc Đất ư?

Tôi đáp rằng vâng.

- Chim Ruồi Có Nanh 9 đã biết ngày đó từ cách đây hai tunrồi.

Mẹ kiếp.

Tôi hỏi rằng chẳng phải dự đoán của tôi chính xác hơn sao.

Ông ta trả lời rằng đúng thế, và rằng ông ta đã dùng nó để căn cho chuyến săn hươu đi đến hồi kết đúng lúc. Ông ta hỏi tôi còn biết thêm gì nữa không, tôi có biết chuyện gì sẽ xảy đến với nhà Đại Bàng sau khi ông ta chết không.

Tôi buộc phải nói thật rằng chúng tôi không biết, và chúng tôi chỉ có thể nói rằng thành Ix sẽ bị bỏ hoang sau khoảng hai mươi nhăm năm nữa. Hay chí ít, một phần lớn đất đai hiện đang được tưới tiêu của vùng này sẽ không canh tác được nữa, dấu tích nhà ở và các “đống phân” (một thuật ngữ trong khảo cổ học, ám chỉ những đống đồ phế thải mà người xưa vứt bỏ.) gần như biến mất hoàn toàn và sẽ không thêm bất kỳ công trình nhà cửa hay tượng đài nào được xây dựng nữa.

- Và điều gì sẽ xảy ra với ta sau khi ta chết, vào k’atun sau?

Gì cơ?

À, ý ông ta là cái đầu và bộ xương của ông ta. Tôi đáp rằng tôi không biết. Ông ta không động đậy, giọng ông ta cũng không biến đổi, nhưng tôi vẫn biết ông ta đang mất kiên nhẫn. Chẳng phải ông ta đã biết những chuyện này rồi sao? - tôi phân vân. Tôi lén liếc nhìn ông ta một cái và hơi ngạc nhiên trước điều mà tôi nghĩ là tôi nhìn thấy. Có vẻ gì đó sau cặp mắt rắn đanh kia, vẻ gì đó gần như yếu đuối, hay đúng hơn là đau khổ, thậm chí tuyệt vọng. Ông ta hỏi tiếp về người thừa kế dự định của ông ta. Chạy Bộ 17. Và hóa ra đó không phải đứa con còn lại mà là đứa cháu ông ta yêu quý nhất. Ông ta đã gửi nó đến Oxwitzá, là một vùng ở Belizemà ngày nay - thế kỷ 21 - được gọi là Caracol.

Tôi đáp rằng tôi không biết, nhưng tôi không nhớ là có cái tên nào như thế xuất hiện trên bất cứ tượng đài nào.

Thế này thì không xong rồi, - tôi nghĩ bụng.

- Vậy có còn hậu duệ nào của chúng ta cho chúng ta ánh sáng nữa không? - ông ta hỏi. Ý ông ta là họ có đốt đồ cúng tế cho ông ta và gia đình của ông ta trong những dịp lễ nữa không.

Tôi bèn kể rằng trong những cộng đồng mà chúng tôi gọi là cộng đồng Maya truyền thống, người ta vẫn còn lưu giữ tập quán thờ kính tổ tiên nói chung, rằng họ vẫn đốt đồ cúng tế trong một vài dịp lễ, vân vân và vân vân, nhưng tôi càng nói thì lời lẽ của tôi càng kém thuyết phục hơn. Còn về các chi tiết, tôi nói, như tên tuổi… Ừm, nói thẳng là đến cuối b’ak’tun sau, tên tuổi của ngài có thể sẽ bị quên lãng bởi chính con cháu ngài, và những dòng chữ khắc trên bia của ngài sẽ chẳng được ai biết đến trong sáu mươik’atun, cho đến khi chúng bị bụi xóa mờ hết và bị hàng tá những kẻ đào trộm mộ có bằng tiến sĩ diễn dịch sai. “Nghĩa là, nếu như tôi không quay trở lại”, tôi nói, cố tìm ra một câu dẫn dắt thật thông minh. Tôi nói với ông ta rằng chúng tôi thậm chí có thể viết lại tất cả những công trạng của ông ta, cũng như lịch sử của cả triều đại, tôi sẽ đem nó về cùng tôi và đảm bảo sao cho người ta thật chú ý đến ông ta…

Ông ta hít thở vào một hơi thành tiếng. Dấu hiệu đó có nghĩa là: “ngươi được ta cho phép câm miệng lại”.

Tôi câm miệng.

Ông ta hỏi điều gì sẽ xảy ra trong 256 ánh sáng còn lại củatun này.

- Khói Ngọc Bích 10 của xứ K’an Ex sẽ lên ngôi vào ngày Mưa 4, Kết thúc 17, - tôi đáp, - 23 ánh sáng sau đó, ông ta sẽ bắt sống Đánh Lửa 2 của thành Lakamba. (Nhắn nhủ bản thân: nhiều cái tên rối rắm quá. Quay lại câu chuyện và giải thích xem cái chết tiệt gì đang diễn ra đi - Jed DeLanda).

- Vậy có bao nhiêu khói dẫn đường của ta? - Sọ Đá Quý 2 hỏi. Nghĩa là sao ta phải quan tâm đến chuyện ấy.

- Có lẽ là chẳng có khói nào hết, - tôi đáp. Mẹ kiếp, hết chuyện để kể rồi. Có lẽ tôi nên hỏi phắt ông ta về trò chơi thì hơn. Không, đừng. Mày vẫn đang đứng trên cát lún đấy.

- Còn gì nữa?

Quái thai thật. Nào, Jed DeLanda, nghĩ ra chuyện gì đi. Hoặc bịa ra cũng được, ít ra chuyện bịa thì lão ta sẽ không biết trước. Trừ phi… không, lão này là tay ghê gớm đấy. Đừng tìm cách lừa người đã chứng minh được rằng ông ta sắc sảo hơn mày. Cứ để ông ta quyết định xem mày có ích lợi gì ở đây không. Thế nhé.

- Tôi có thể giúp nhà Đại Bàng chiếm ưu thế trong mọi trận đánh, - tôi nói. Tiếng Ix của tôi nghe không được tự nhiên, nhưng chí ít tôi cũng có thể ba hoa mà không phải nghĩa ngợi nhiều như lúc đầu. - Ông hãy tìm “vũ khí” trong ký ức của Jed mà xem.

- Vũ khí gì? - ông ta hỏi.

Tôi mô tả thuốc nổ và nói trong ký ức của tôi chắc chắn phải có vài loại. Ông ta xem ra cũng hiểu. Tôi giải thích rằng tôi có thể pha chế ra thuốc súng trong chưa đến hai mươi ngày.

Thay vì trả lời, Sọ Đá Quý 2 châm một điếu xì gà xanh dài trên ngọn nến bấc. Ông ta dùng một ngón tay bịt một bên lỗ mũi và phì khói qua lỗ mũi bên kia.

- Nếu ai đó nhìn thấy thứ vũ khí ấy, - ông ta nói, - thậm chí nếu có ai đó nghe đến nó thôi, chúng sẽ cho rằng ta mua nó từ một kẻ reo rắc ghẻ.

Kẻ reo rắc ghẻ là kẻ có thể gây cho anh bệnh ngoài da bằng cách thổi vào anh từ xa. Nói rộng ra, nó có nghĩa là bất cứ kẻ nào gây ra những trò tai quái bí ẩn, tức là bọn yêu thuật hoặc phù thủy. Kẻ reo rắc ghẻ có thể là người hoặc không phải người hoàn toàn, lão ấy hoặc mụ ấy có thể còn sống, đã chết hoặc lửng lơ, không sống cũng chưa chết. Nhưng dù thế nào chăng nữa, nếu anh là một cột trụ của cộng đồng như Sọ Đá Quý 2, anh sẽ không bao giờ dính dáng đến loại người ấy.

Tôi nói rằng ban đầu, chúng tôi - tôi thầm in nghiêng từchúng tôi trong đầu - có thể chế ra vài chiếc cung tên và huấn luyện một đội k’iik sử dụng chúng. Cung tên có thể là vũ khí mới lạ ở đây (chuyện này kể cũng hơi kỳ quặc - tôi nghĩ) nhưng sẽ không ai coi chúng là siêu nhiên cả.

- Ta biết cung tên là gì, - ông ta nói, - những tên trán cong trong rừng sâu dùng chúng để bắn chim. Nhưng những người trán phẳng không thể chạm vào chúng được.

Ông ta nói “những người trán phẳng” tức là muốn chỉ tộc người Maya thanh lịch chúng tôi, những người có vầng trán rất phẳng. Vầng trán đó được tạo ra bằng cách bọc đứa trẻ sơ sinh vào một cái khuôn gắn mảnh ván đặt nghiêng ép vào trán, và nó được coi là thanh nhã và hợp thời trang. Còn những tên trán congcó thể coi là bất cứ ai không có được cái trán phẳng như thế: những tên nô lệ trong nhà, những kẻ ngoại bang, hay trong trường hợp này là những tộc người man mọi.

- Nhưng kể cả không có những loại vũ khí mới, tôi vẫn có thể giúp thị tộc của chúng ta trở nên vững mạnh, - tôi nói. - Những việc tôi có thể làm… (tôi cố tìm một từ tương ứng với công nghệ) … những tay nghề không chỉ để làm ra đồ vật mà tôi biết. Chúng còn là vô số cách chiến thuật hóa.

- Ý ngươi là cách tốt hơn? - Sọ Đá Quý 2 hỏi.

- Không hẳn, - tôi đáp.

Có khi tệ hơn ấy chứ. Đồ con hoang nhấm nhẳn, - tôi nghĩ, - ừ thôi, chí ít mình cũng khiến được lão ta nói chuyện với mình. Tốt rồi. Bây giờ việc mình cần làm là khiến lão nghĩ mình là tay mafia cừ khôi nhất sau Karl Rove.

- Giả sử các k’iik của chúng ta bị đột kích, - tôi nói, - nếu chúng quyết định giết hết thay vì bắt làm tù binh. Họ…

Ông ta ngắt lời tôi bằng một tiếng “Zzzz!”, nghĩa là “suỵt!”

- Bọn Búa Lớn đang ở gần đây, - ông ta hơi thì thào, - trong nhà chúng ta, quanh bếp lò của chúng ta.

Búa Lớn à? - tôi ngẫm nghĩ. Tôi không hiểu chúng là thứ gì, nhưng qua Chacal, tôi có cảm giác rằng chúng là người, còn sống và quyền lực hơn chúng tôi.

- Ngài, ở trên tôi, nói Búa Lớn là muốn chỉ các Mèo…

- ZZZZZZ!!

Tôi ngậm miệng lại. Mắt cắm xuống đất. Tất cả im lìm, trừ tiếng bút lông của người ghi nhớ sột soạt trên tấm lá khô. Tôi lén liếc nhìn hắn qua khóe mắt. Hắn quyệt thêm vài nhát nữa rồi dừng lại. Tôi đoán ra là hắn đang ghi lại cuộc nói chuyện của chúng tôi bằng một loại tốc ký nào đó. Hừmm.

Tôi đếm đến mười rồi ngẩng lên nhìn Sọ Đá Quý 2. Nét mặt ông ta như tượng gỗ sau làn khói thuốc lá. Cặp mắt đanh lại. Đồ ngu, Jed, - tôi tự rủa, - mày là đồ ngu, đồ ngu, đồ ngu.

- Chúng ta đã nhìn thấy Chúa tể của các Búa Lớn lảng vảng quanh đây, trong bộ da đi săn, - Sọ Đá Quý 2 nói. Chắc ông ta muốn ám chỉ Chim Ruồi Có Nanh 9, - tôi nghĩ. Họ cho rằng Chim Ruồi Có Nanh 9 có thể biến hình thành một con báo đốm và bí mật tuần tra quanh các làng của bốn tiểu ahau dưới quyền ông ta, nghe lỏm chuyện của họ qua các bức tường đá với thích giác siêu việt của họ nhà mèo. Và nếu tôi nhỡ quên mà nhắc đến tên của bất kỳ ai, uay của ông ta sẽ biết ngay. Và tôi sẽ gặp rắc rối. Rồi. Hiểu rồi.

Nhưng…

- Ngài không thể vẫn còn tin vào chuyện ấy được, - tôi nói, - hãy nhìn vào ký ức của tôi mà xem, ngài biết rằng không ai làm được điều ấy.

Sọ Đá Quý 2 không trả lời. Thay vào đó, ông ta dùng lỗ mũi hít một hơi thuốc dài và phà vào mặt tôi. Thoạt tiên, tôi hết sức khó chịu, nhưng rồi tôi nhận ra hành động đó không có ý xúc phạm. Ông ta đang cố xua tan nốt sự ô uế của Jed còn rơi rớt lại. Kể cả khi đã trải qua tất cả mọi nghi lễ gột rửa mà người ta có thể nghĩ ra, tôi vẫn là một con bệnh ghê tởm. Thứ khói thuốc này nặng hơn nhiều so với thuốc của thế kỷ hai một. Thuốc lá dại. ọe. Như tôi đã kể với các bạn, tôi nhai thuốc lá, nhưng không hút, trừ khi làm lễ cúng, như cúng thánh Maximôn chẳng hạn. Nhưng lúc này… hừm. Lạ sao, tôi nhận ra mình muốn làm một điếu xì gà. Tôi đoán đó là thói quen của Chacal. ọe. ực. Buồn nôn và tứa nước dãi thèm thuồng cùng một lúc.

Tôi ngồi xuống. Được rồi, - tôi nghĩ, - lần này nhường ông ta vậy. Và đừng cố thuyết phục những thứ mà ông ta chẳng đời nào hiểu. Đừng cố dẫn ông ta vào thế giới quan điểm khoa học làm gì. Nếu ông ta tin vào phù thủy và người báo thì cứ mặc xác ông ta.

Và tôi cũng bắt đầu hiểu ra rằng trong xã hội này, người ta không bao giờ chỉ có một mình. Ngay cả lúc này, khi chúng tôi đang nói một câu chuyện mà Sọ Đá Quý 2 muốn giữ bí mật thì bên cạnh ông ta vẫn có đống người - hừ, với ông ta, như thế này cũng đã là riêng tư lắm rồi. Ở đây, ngay cả khi anh không tình cờ bị ý thức của người khác ám trong đầu thì anh cũng chẳng bao giờ được ở yên. Không ai ngủ một mình, thậm chí không ai ngủ chỉ với một người khác, họ ngủ chung cả gia đình trong một căn phòng nhỏ, còn nếu là giới thượng lưu, họ ngủ cùng với người hầu và vệ sĩ túc trực bên cạnh. Không ai ăn một mình. Không ai đi lại một mình. Không ai làm việc trên cánh đồng một mình. Và không ai sống một mình. Khi vô tình bị tách khỏi bầy đàn dù chỉ một phút thôi, người ta sẽ vô cùng bất an. Vì thế, ngay cả trong cuộc sống thường nhật, dù chỉ là một người bình thường, anh cũng không có cơ hội có bí mật.

- Vậy ta, ở trên ngươi, sẽ làm gì với ngươi bây giờ? - Sọ Đá Quý 2 hỏi.

Tôi quyết định rắn mặt một chút.

- Ngài, ở trên tôi, hẳn phải có sẵn ý định với tôi rồi, - tôi đáp, - vậy việc gì phải lòng vòng tốn công thế?

Sau ba giây, tôi nghĩ ông ta mỉm cười, không phải do cử động trên miệng mà vì má ông ta hơi nhăn lại. Chí ít thì lão già này cũng có tí tẹo máu cười.

- Điều gì khiến ngươi, dưới chân ta, nghĩ rằng ta cho ngươi sống để làm chuyện gì hay ho? - ông ta hỏi.

Ú… ù… tôi chả biết trả lời thế nào.

- Ta vẫn muốn ngươi trong bóng tối, - ông ta đáp. Câu ấy nghĩa là: “Ta vẫn còn điên tiết với ngươi lắm”.

Tôi nhìn lên, và trái với ý mình, tôi nhìn vào mắt ông ta. Một cái nhìn rụt rè, nhưng dai dẳng. Việc nhìn thẳng vào mắt nhau ở đây nếu có cũng rất hiếm. Nhưng tôi không dứt được mắt ra.

Cặp mắt ông ta chẳng thân thiện chút nào.

- Nào, kẻ ở dưới chân ta, - ông ta nói, - ta còn cơn giận chưa trút hết với ngươi. - Ông ta ngừng lại một lát. - Ta sẽ làm nhiều trò với ngươi đấy.

Ôi, mẹ nó chứ, - tôi nghĩ, - nặn óc ra cái gì đi.

Tôi cuống quýt nhìn quanh. Tôi nhìn tên vệ sĩ. Hắn vẫn đang quỳ gập người bên phải Sọ Đá Quý 2, không động đậy, cách ông ta chừng hai sải tay, mặt ngoảnh về hướng khác, mắt chăm chăm nhìn xuống một điểm trống không trên tấm vải trải sàn màu đỏ. Tôi nhìn gã “ghi nhớ”. Hắn đã ngừng viết, đang rửa bút trong một cốc nước. Tôi nhìn các đống rổ rá hòm xiểng. Tôi nhìn lão già che tấm mạng.

A, Tôi phát hiện ra tay lão có gì lạ rồi. Chúng đầy lông.

Hẳn các bạn cũng biết, cơ thể người châu Mỹ bản xứ không nhiều lông lắm. Tôi - ý tôi là cơ thể của Jed, kẻ lúc này chắc đang thảnh thơi uống một ly cốc-tai dứa - có chính xác năm sợi lông ngực. Mà đấy là nó có hơn một phần ba dòng máu Tây Ban Nha trong mình đấy. Ở đây, vào thời xa xưa này… hừ… tôi chưa hề nhìn thấy một cái râu hay lông nào. Nhưng tôi biết nó không phải thứ chưa ai từng nghe đến, vì ở thế kỷ 21, tôi đã từng nhìn thấy vài bức tượng người Maya cổ có râu cằm. Có lẽ chỉ những người thuộc một vài gia đình đặc biệt mới được để râu và lông, hoặc phải hơn bảy mươi tuổi, hay thế nào đó. Tôi nhìn lão kỹ hơn. Bàn tay lão cầm một viên sỏi. Và cái cách mà lão ta cầm nó...

Đó là một người đếm mặt trời, - tôi nhủ thầm.

Chả trách lão được phép có mặt ở đây lúc này, được nghe hết câu chuyện này… vì người đếm mặt trời của anh càng biết nhiều chuyện của anh càng tốt. Như thế, lão mới tiên đoán mọi việc cho anh chính xác hơn. Dĩ nhiên, lão ta phải là người được tin cẩn, một kẻ thực sự thân tín. Như linh mục nghe xưng tội vậy. Lão chắc chỉ làm việc riêng cho gia đình Sọ Đá Quý 2. Thậm chí có thể bị giam hãm, vì lão biết mọi bí mật.

Tôi hướng về phía người đếm mặt trời.

- Ta, ở bên cạnh ông, muốn xin một ván cờ, - tôi nói.

38

Người đếm mặt trời hơi nghiêng đầu dưới tấm mạng.

- Ta hiện không có bất cứ thứ gì, - tôi tiếp tục, - nhưng mọi thứ ta có thể tìm được trong ánh sáng này, ánh sau hay ánh sáng sau nữa, ta sẽ tặng cho ông, cho Nữ thần Phân Chuồng, người đưa nôi đêm nay, Bóng tối 9, ếch mưa 11 (tức là Thứ 2,  28 tháng 3 năm 664 Công nguyên), cho Mam và Bà Đợi, những người khói của môn cờ Hiến tế.

Lặng thinh.

Chiếc mạng che động đậy. Tôi hiểu như thế có nghĩa là cái đầu bên dưới đang ngước lên Sọ Đá Quý 2. Ông ta cũng nhìn xuống. Một cái nhìn trao đổi chớp nhoáng, và trước khi tôi cuối đầu xuống, tôi nghĩ tôi đã nhìn thấy sự cảnh giác dịu xuống sau cặp mắt vàng của ông ta, không phải sự thờ ơ hay điềm tĩnh mà là sự thích thú khi nhận biết được điều có thể và không thể.

Sọ Đá Quý 2 nói:

-                Người đếm mặt trời, dưới chân ta,

Răng Ngạnh 7,

Chỉ tiên đoán cho chủ nhân của mình,

Nhưng hẳn có thể,

Đấu một ván tay đôi với ngươi.

Oa, mẹ ơi, - tôi nghĩ. Đấu tay đôi. Hay quá. Răng Ngạnh 7 à? Đáng yêu đấy. Không biết họ có giết mình nếu mình thua hay không. Có lẽ…

Đột nhiên, tên vệ sĩ lặng lẽ quay người lại và đối diện chúng tôi, nhìn như sẵn sàng lao vào bóp cổ tôi. Hẳn Sọ Đá Quý 2 đã ra hiệu do hắn. Ông ta dùng một kí hiệu mà Chacal không biết. Tôi nhận ra tên vệ sĩ bị điếc. Hoặc người ta cố ý làm hắn điếc. Và nãy giờ hắn phải quay mặt đi hướng khác để không nhìn thấy miệng chúng tôi. Tôi cứ tưởng Sọ Đá Quý 2 bảo hắn đưa tôi đi và vứt lũ Ta-tu ăn thịt (hay bất cứ con gì khác mà họ ném người xuống cho ăn), nhưng tên vệ sĩ chỉ lui về phía cuối phòng, leo lên đống rổ rá hòm xiểng, gây ta những tiếng răng rắc và kẽo kẹt. Tôi quay sang nhìn Sọ Đá Quý 2, rồi nhìn Răng Ngạnh 7. Lão ta đã giở tấm mạng che mặt và bỏ mũ xuống. Lão già hơi Sọ Đá Quý 2, trên bím đuôi sam dài đã có những sợi bạc, khuôn mặt lão chắc chẳng có nét gì đặc sắc nếu không có bộ râu. Nhưng may là có. Và đây, thật ấn tượng. Nó không dày lắm, chỉ dài chừng bốn inch, nhưng rất đáng kính, được bao một cái ống bên ngoài như bộ râu của các pha-ra-ông Ai Cập, và tôi không thể không nhìn chằm chặp vào nó. Thân hình lão già nua và gầy gò, không có mấy hình xăm, trừ bốn chấm xanh lam to bằng đồng xu sắp thành chuỗi trên vai trái, nhưng đầy lông lá. Cặp mắt mờ đục nhưng thân thiện. Lão đặt tay lên khuỷu tay trái, một cử chỉ gần với bắt tay, hay gật đầu, hay bất cứ phép lịch sự nào khác mà người ta phải thực hiện trong những dịp như thế này. Tôi cũng làm tương tự. nhưng vì ông ta lớn tuổi hơn nên tôi đặt tay lên trên khuỷu một chút. Xin chào, - tôi nghĩ trong bụng. Người đếm mặt trời xin gửi lời chào đến đồng môn. Người anh em cùng hội.

Vẫn trong tự thế ngồi, Răng Ngạnh 7 xoay người ngồi đối diện tôi. Tôi cũng xoay người để chúng tôi đối diện nhau. Lão lấy ra một túi thuốc lá, dốc ra vài lá và bỏ một nửa vào miệng. Tôi lấy chỗ còn lại. Chúng tôi nhai. Mẹ, cái thứ thuốc này nặng quá, - tôi nghĩ. Lão đặt một bát đựng cát vào giữa hai chúng tôi. Tôi xát một ít nước thuốc lá lên đùi – trên đùi Chacal chưa có vết nước thuốc nào, đây là lần đầu tiên của anh ta – và nhổ bã vào bát cát. Một phút sau, lão cũng nhổ bã và đẩy cái bát ra chỗ khác. Vừa lúc đó, tên vệ sĩ quay trở lại với một cuộn vải dày, dài chừng hai sải tay. Hắn đặt nó xuống giữa hai chúng tôi và giở ra. Tôi cảm giác như nhìn thấy một cây thông Nô-en khổng lồ, thắp sáng chưng, bất thình lình mọc lên trong căn phòng nhỏ tối tăm.

Đó là một bàn cờ được đan bằng lông chim. Bốn góc tượng trưng cho thời gian sáng lên màu đỏ son và hổ phách óng ánh, ngay cả góc màu đen cũng bóng lộn và trong đến mức tôi tưởng có thể  rơi xuống đấy. Đó là một trong những chế tác thủ công kỳ diệu đến mức người ta không thể tin nó được làm ra từ bàn tay con người, giống như những tấm thảm thêu Gobelin, hay lụa thêu kim tuyến Rajshahi, hay tấm lưới bao tóc xâu bằng hạt pha lê hiệu Romeo Gigli mà Kristin MacMenamy đã đội khi xuất hiện trên bìa tạp chí Vogue tháng 9 năm 1993. Nó có hình bát giác chứ không phải hình vuông hay khung tròn như chúng tôi đã làm theo thiết kế của Taro, và chỉ có một túm lông cổ chim đuôi sẹo màu ngọc lục bảo đặt ở mỗi điểm đánh dấu một góc 260 độ. Nhưng tôi vẫn hơi thất vọng. Tôi đã hy vọng cách bố trí có gì đó khác lạ, điều gì đó có thể giúp tôi giải đáp câu hỏi tôi mang theo đến đây…nhưng không, dù nó lộng lẫy đến mức nào chăng nữa, nó vẫn tương đối giống cách bố trí mà Taro đã sắp đặt theo tấm hình trong cuốn Thư tịch.

Mẹ kiếp.

Sọ Đá Quý 2 chuồi ra khỏi tấm đệm, quỳ nghiêng người về phía chúng tôi và xoay cái chiếu ngược chiều kim đồng hồ một chút sao chọ các màu sắc quay đúng hướng. Và hoá ra – hoặc tôi tự giả định – Răng Ngạnh 7 ở hướng đông nam, hướng của nhà Đại Bàng còn tôi chơi cho hướng tây bắc, hướng của màu đen.

Sọ Đá Quý 2 đọc qua một lượt luật chơi như một tay trọng tài thành thạo. Phiên bản này hơi giống ván chơi một người mà tôi đã chơi cùng Tony Sic, nhưng nó giống cách mà mẹ tôi đã chơi với tôi hơn. Mặc dù chúng tôi không có bàn cờ lới thế này, dĩ nhiên. Nói chung, nó hơi giống trò bắn tàu chiến, vì mỗi người có năm con số tương ứng với năm điểm trên bàn cờ tuỳ theo bắt thăm, và anh vừa phải đoán con số của đối phương, vừa phải giữ sao cho anh ta không đoán được con số của mình. Nhưng để “đoán” được, anh phải đi chuyển viên đá của mình đến điểm đó và chặn đối phương lại bằng các hạt của mình. Sau đó, cố lừa anh ta bằng cách chặn các điểm nguỵ trang hoặc bất cứ cách nào khác. Anh không thể ăn gian - nhất là khi Sọ Đá Quý 2 biết những điểm đó – nhưng anh có thể che dấu hoặc đánh lạc hướng. Tôi đoán các bạn nghĩ nó cũng hơi giống cờ quân sự - đấy cũng là trò ưa thích của tôi – vì gần như không có sự ngẫu nhiên nhưng cũng không phải thông tin chính xác hoàn toàn. Dĩ nhiên, nó khác với ván cờ Hiến tế thật mà người ta dùng để dự báo những ngày tháng đặc biệt cho ai đó, nhưng cũng không khác hẳn. Có lẽ, sự khác biệt chỉ như bàirummy và bài poker.

Tên vệ sĩ bưng ra một chiếc bình có lỗ hổng ở bên cạnh. Răng Ngạnh 7 – người nãy giờ chưa hề nói năng gì ngoài ra hiệu – nhìn đi chỗ khác. Tôi thò tay qua cái lỗ. Sọ Đá Quý 2 nhìn xuống qua miệng bình. Tôi phải chọn bất cứ số nào từ 0 đến 260. Tôi cố chọn càng ngẫu nhiên càng tốt – điều này không dễ chút nào – và ra hiệu cho Sọ Đá Quý 2. Tôi rút tay ra khỏi bình. Sọ Đá Quý 2 thò tay vào, giữ cái bình sao cho tôi nhìn thấy và ra dấu nhắc lại những con số mà tôi đã chọn. Ông ta hiểu đúng hết. Sau đó, tôi quay đi và ông ta làm tương tự với Răng Ngạnh 7. Khi họ xong xuôi, tôi quay lại. Sọ Đá Quý 2 cho tôi mượn một viên đá thạch anh và chín hạt cây tz’ite. Răng Ngạnh 7 lớn tuổi hơn tôi nên ông ta đi trước. Lão rải các hạt và di chuyển viên đá thạch anh đến ngày Chúa tể 11.

De todos modos. Tôi rải các hạt của mình. Tôi di chuyển viên đá. Lão di chuyển viên đá.

Hừm. Được rồi. Tôi nghĩ nó sẽ đi theo hướng này. Không, chờ đã…nó sẽ đi hướng này. Đây rồi. Trước tiên điều này xảy ra, sau đó họ phản ứng lại bằng cái này, được rồi…

Khỉ thật. Tôi không sao nghĩ được như khi ở trong cơ thể Jed. Nhưng tôi vẫn chuyển quân. Răng Ngạnh 7 chuyển quân.

Nào. Cố lên, Jed. Cố lên, cái đầu của Chacal. Tập trung vào.

Tôi suy nghĩ. Tôi bắt đầu vã mồ hôi. Vì chúng tôi không có đồng hồ nên tôi đoán. Sọ Đá Quý 2 sẽ cắt ngang và ra lệnh cho tôi di chuyển viên đá nếu tôi nghĩ lâu quá.

Nào, cố lên. Đường này. Đường kia. Ở đây. Ở kia. Cũng may là chỉ số IQ của Chacal khá cao, - tôi nghĩ bụng. Thử tưởng tượng xem một bộ não khác có thể tồi tệ đến mức nào. Tôi có thể bị mắc kẹt trong một thằng đần độn nào đó. Hơn nữa, trò chơi này chỉ là biến những suy luận lô-gic thành sự tiên liệu mà thôi. Anh không cần phải là thiên tài về số má mới có thể chơi được. Nhưng có thể cũng chẳng hại gì.

Tôi chuyển quân. Lão ta chuyển quân. Tôi chuyển quân. Lão ta chuyển quân.

Hừm.

Tôi chuyển quân.

Trúng phóc. Răng Ngạnh 7 thờ dài. A ha! Tôi đoán được một số của lão rồi.

Tôi đã bắt đầu nắm được cách sử dụng bộ óc của Chacal, ít nhất thì những kỹ năng vốn có của tôi cũng không đọng lại ở bộ óc cũ. Dù gì chúng cũng đã theo Jed đến đây. Taro đã đúng, như thường lệ.

Răng Ngạnh 7 cũng đoán được một số của tôi. Tôi đoán được thêm một số nữa của lão, rồi một số nữa. Đến nước đi thứ một trăm chín mươi hai, Răng Ngạnh 7 xoè cả hai bàn tay chống xuống chiếu, ra ý rằng lão bỏ cuộc.

Mẹ kiếp, - tôi nghĩ, - chỉ thế thôi ư?

Lúc nãy tôi đã thất vọng lắm rồi, nhưng bây giờ tôi mới thực sự vỡ mộng tan tành – mặc dù nhẽ ra tôi phải vui vì đã qua được bài thử thách mới phải. Mierda (Tệ thật – tiếng Tây Ban Nha), - tôi nghĩ, - lão này chẳng biết gì hết. Hay lão chỉ là một kẻ bất tài mà Sọ Đá Quý 2 đưa đến để đánh lạc hướng tôi? Hay ở đây họ cũng chẳng giỏi môn này hơn chúng tôi ở tương lai? Toàn bộ truyện này có lẽ chỉ là phí công vô ích. Hay là tôi đến nhầm chỗ? Hay quá đấy, mình đang ở cái chỗ xó xỉnh này với cả một lũ vô dụng mạt hạng.

Răng Ngạnh 7 ra hiệu. Sọ Đá Quý 2 ra hiệu đáp lại. Tôi không hiểu họ đang nói gì. Răng Ngạnh 7 ra dấu: “đồng ý”. Lão bốc một nhúm đầy thuốc lá, bỏ vào mồm.

Taac a’an, - Sọ Đá Quý 2 nói, - chơi lại.

- Đồng ý, - tôi đáp.

Tên vệ sĩ đưa cho Sọ Đá Quý 2 một cái bát to bằng đất sét. Nó đựng đầy muối. Sọ Đá Quý 2 thọc tay vào, lục lọi một lúc và rút lên hai cái chai nhỏ xíu, cũng bằng đất sét, được gắn kín bằng sáp ong. Ông ta đặt một chai xuống một miếng vài bông nhỏ trải trên tấm chiếu trước mặt và quấn miếng vải phủ lên. Tên vệ sĩ đưa tiếp cho ông ta một viên đá đầu búa. Sọ Đá Quý 2 thận trọng dùng viên đá đè nát cái chai. Ông ta giở mảnh vải ra. Một mùi nằng nặng, là lạ mà cả tôi lẫn Chacal đều chưa từng ngửi thấy lan ra khắp phòng. Sọ Đá Quý 2 dùng cái móng tay dài ngoẵng được bôi đen và nạm hồng ngọc của mình đảo đảo các mảnh vỡ. Ông ta nhặt ra một mẩu gì đó bé xíu, răn reo, nhìn như sáp ông nâu – xấp xỉ bằng một viên thuốc – và đặt lên góc màu đỏ trước mặt Răng Ngạnh 7. Người đếm mặt trời móc chỗ thuốc lá đã nhai nhão nhoét trong mồm ra, nhào nó với cái hạt nhỏ kia và bỏ tất cả vào mồm, nhét giữa hàm răng và môi trên. Lão không nhai. Sọ Đá Quý 2 đập vỡ miệng cái chai còn lại. Bên trong có một nhúm bột thô màu vàng, nom giống pho mát pác-ma nạo bị thiu. Sọ Đá Quý 2 dùng móng tay út xúc lên một tẹo và thận trọng chìa nó ra. Rất chậm rãi, Răng Ngạnh 7 vươn người ra, dí lỗ mũi vào và hít. Lão ngồi lại chỗ, Sọ Đá Quý 2 đậy chỗ thuốc còn lại bằng hai cái bát vỏ bầu.

- Người đếm mặt trời, dưới chân ta, Răng Ngạnh 7, cầu đến sự giúp đỡ của Muối Mặn Già, - Sọ Đá Quý 2 nói.

Tôi phải mất một phút mới hiểu ra ông ta nói gì. Muối Mặn Già là một trong các vị thần bảo trợ trò chơi, và Muối Mặn Già, hoặc Bụi của Muối Mặn Già, đồng thời là tên của loại thuốc kia. Cẩn phải nhớ rằng, ở đây, tất cả mọi thứ đều được nhân cách hoá. Người ta không nói “ mưa đang đến từ đằng nam”, mà nói “Ông Chac Vàng đang đến”. Ngõ được gọi là Cha Mẹ 8 Xương còn sô-cô-la thì là Chúa tể Kakaw. Lốc bụi là Huruka Nhỏ và sương mù là Bà Mũ Trùm. Họ còn gọi gió là Mariah. Là gì thì là, tôi vẫn gật đầu “đồng ý”. Chúng tôi chọn lại số. Lần này đến lượt tôi đi trước. Tôi rải hạt và di chuyển quân.

Răng Ngạnh 7 lưỡng lự một chút trước khi đi nước đầu tiên. Nom lão có vẻ bình thường, trừ cặp mắt không được tập trung lắm, hoặc tôi nghĩ sẽ chính xác hơn khi nói rằng chúng tập trung về một nơi xa xăm.

Lão chuyển quân. Tôi chuyển quân. Lão chuyển quân. Tôi chuyển quân. Lão ngần ngừ rồi đi tiếp. Mẹ kiếp. Lão đoán được số đầu tiên của tôi. Tôi chuyển quân. Lão chuyển quân. Tôi chuyển quân. Lão chuyển quân. Tôi nhận thấy có nước nhẩy chảy ra từ hai lỗ mũi Răng Ngạnh 7 và chảy xuống má. Chảy nước mũi là phản ứng phụ của hầu hết các trạng thái lên đồng. Lão chẳng buồn chùi chúng đi, và lạ sao, tôi cũng chẳng thấy ghê khi nhìn thấy. Đến nước thứ bốn mươi, tôi chỉ còn có một số, trong khi lão còn những bốn. Chẳng nước non gì nữa. Tôi xin thua.

Chết tiệt. Cái thứ ấy gọi là gì nhỉ? Muối Mặn Già à?

Tên vệ sĩ thắp một đôi nến bấc mới. Tôi ngồi lại một chút và khoanh lại chân, mặc dù biết làm thế là không lịch sự. Họ ngồi yên, nhưng họ đã quen ngồi khoanh chân suốt ngày và họ biết cách làm sao để không tê chân. Có lẽ do nhiệt độ không khí không thay đổi và gần như không có mốc để xác định thời gian nên tôi không thấy mệt, không thấy đói, thậm chí không thấy khát, mặc dù chúng tôi ngồi đây tối thiểu phải được ba tiếng.

Nào, - tôi nghĩ, - ván phân định thắng thua đây.

Tôi ra hiệu muốn chơi một ván nữa.

Sọ Đá Quý 2 ra hiệu rằng ông ta thì không có vấn đề gì. Răng Ngạnh 7 ra hiệu: “thách thức được chấp thuận”.

Tôi nhìn hai cái bát úp. Tôi nhìn Sọ Đá Quý 2.

Ông ta nhìn lại, hiểu tôi đang nghĩ gì.

Nói đi, - ông ta ra hiệu cho tôi. Tôi đoán là tôi phải mở mồm hỏi xin.

- Tôi, kẻ dưới chân ngài, xin được chơi với sự phù trợ cảu Muối Mặn Già, - tôi nói.

Sọ Đá Quý 2 vèo một tí thứ màu nâu ra và vứt xuống bàn cờ trước mặt tôi. Nó chưa bằng một nửa chỗ mà Răng Ngạnh 7 nhận được. Tôi lấy ít thuốc lá, nhai nát, lấy ra khỏi miệng và vo viên nó với mẩu thuốc. Tôi vừa định bỏ vào miệng thì Sọ Đá Quý 2 giữ tay tôi lại.

Xát nó lên đùi ngươi, - ông ta ra hiệu.

Sao lại thế? – tôi phân vân, - Răng Ngạnh 7 cho vào miệng cơ mà. Sao tôi không được làm thế? Chắc họ muốn thây kệ tôi. Không sao, cứ làm theo đi.

Tôi xát lên đùi.

- Muối Mặn Già là một ông già áo xanh, tóc hoa râm, - Sọ Đá Quý 2 nói, - ngươi có thể nhận ra ông ta qua những vết đồi mồi trên mặt và cái tay nải đeo sau lưng. Ông ta sẽ đến trên một chiếc xuồng và ngồi ở chính giữa.

- À, vâng, - tôi đáp, - tôi sẽ chú ý.

Sọ Đá Quý 2 úp cái bát rỗng xuống và nhấc chiếc kia lên. Không hiểu sao tôi thoáng rùng mình. Mặc dù thứ đó chưa đi vào miệng tôi nhưng tôi đã nếm thấy vị gì đó, như vị của một loài hoa, không tự nhiên và rất gắt mà các bạn hẳng còn nhớ khi nhai kẹo cao su vị nho, hay uống nước ngọt Shasta, hay ăn ngũ cốc Froot Loops, hay thứ gì đó đại loại vậy. Sọ Đá Quý 2 lấy móng tay xúc một tẹo thứ ấy lên – chỉ chừng bốn đến năm hạt, theo như tôi nhìn thấy dưới ánh nến bấc, chưa bằng một phần mười chỗ mà Răng Ngạnh 7 đã hít – và giơ nó ra cho tôi. Ồ, được thôi. Tôi hít nó lên – tôi từng là một chuyên gia về ngón nghề này – và ngồi lại chỗ cũ.

Chẳng có gì xảy ra hết. Tôi nghĩ Sọ Đá Quý chắc sẽ cho Răng Ngạnh 7 thêm một liều nữa, nhưng hình như lão vẫn đang lâng lâng như liều cũ, ừ, sao cũng được.

Lần này đến lượt Răng Ngạnh 7 đi trước. Lão rải hạt và chuyển quân. Tôi rải hạt. Tôi chuyển quân. Lão chuyển quân. Tôi chuyển quân. Lão chuyển quân.

Hừm.

Trong các góc miệng tôi có vị muối, và tôi nhận ra nước mũi bắt đầu chảy xuống hai bên má. Chảy nước mũi là tác dụng phụ của đa số các chất ma tuý gây ảo giác, nhưng dù thứ thuốc này là gì đi nữa, nó cũng không phải ma tuý gây ảo giác. Thực ra, tôi chưa thấy nó giống cái gì cả.

Ghê quá, - tôi nghĩ. Nhưng tôi vẫn không đưa tay lên mặt. Tôi có cảm giác chỗ nước mũi ấy là sự hiển linh của những người khói của trò chơi. Có lẽ đó là một phần ý nghĩa của những đường xăm xoắn ốc trên má. Nước mũi, chứ không phải máu. Hừm.

Tôi nhận ra Răng Ngạnh 7 đã chuyển quân xong được một lúc. Tôi nhìn xuống bàn cờ. Vị trí hai trong số ba điểm còn lại của lão đã khá rõ. Có thứ gì đó trong khoảng không giữa tôi và bàn cờ, thoạt tiên, tôi nghĩ là mạng nhện, nhưng khi tập trung nhìn kĩ hơn, tôi phát hiện ra đó là khói từ điếu xì gà của Sọ Đá Quý 2, lơ lửng bất động trong không khí. Đi thôi, - tôi tự nhủ. Tôi cầm viên đá lên…nhưng…không…bàn tay tôi vẫn đặt nguyên trên đầu gối. Tôi cố cử động nhưng nó cứ ì ra, cảm giác kinh hãi cồn lên trong dạ dày, tôi phát hoảng vì sợ bị liệt, nhưng rồi tôi nhận ra nó vừa nhấc lên, rất khẽ khàng, đã cách đầu gối khoảng một phần tám inch, và từ từ với ra chỗ viên đá đang nằm cách mép lên bên phải của tôi chừng mười lăm inch. Tôi cố cử động nó nhanh hơn, ra sức cưỡng lại lớp không khí đặc quánh như keo, nhưng nó không tuân theo, cứ chậm chạp di chuyển sang bên tay phải chừng một inch và mất phải đến một phút rưỡi.

Hừ.

Thường thường, khi chơi trò chơi, thời gian của chính người chơi dường như trôi chậm lại, vì thế, anh ta không nhận ra mình đã chơi bao lâu cho đến khi thấy trời tối, chẳng hạn thế. Nhưng lúc nạy, ngay cả thời gian xung quanh tôi cũng trôi chậm lại. Hay đúng hơn, Bụi của Muối Mặn Già là một chất ma tuý gây xáo trộn thời gian, một thứ giúp đẩy nhanh hoạt động của các khớp thần kinh trong não mà không làm anh bị sốc, bị rối trí hay hoảng loạn. Tôi chớp mắt, cái bóng mờ mờ của hai mí mắt tôi kéo xuống chậm chạp như một đám mây dày đặc lờ đờ trôi qua trên đầu. Nhưng mặt khác, suy nghĩ của tôi lại không hề chậm đi, thậm chí còn sáng suốt hơn. Tôi thử làm vài phép tính trong đầu để kiểm tra và gần như ngay lập tức, khẳng định điều đó. Không những thế, tôi chắc chắn rằng bộ nhớ của tôi phình ra rất nhiều, nhiều hơn cả khi còn là Jed, nghĩa là rất nhiều. Khi nhìn xuống bàn cờ và suy nghĩ về tất cả các ngày tháng cũng như sự kiện trải dài đến tương lai, tôi thấy như đang đứng dưới một dòng thác của những con súc sắc đổ xuống, còn mình thì có vô khối thời gian để xem xét, nhặt từng con lên để đọc; thực tế, tôi có thể nhìn kỹ từng con, nhớ vị trí của tất cả khi chúng rơi xuống quanh mình và tính toán được từng con sẽ chạm đất như thế nào.

Có lẽ bí quyết chính là nó đây, - tôi nghĩ. Phải mang thứ này về mới được. Mặc dù Taro có thể thất vọng khi biết điều này. Ông ta chắc sẽ thích một lời giải có tính chất toán học hơn, thứ gì đó mà ông ta có thể dạy cho LEON.

Rốt cuộc, tôi cũng đi xong nước đó. Đến lược Răng Ngạnh 7 chuyển quân – tôi quan sát một cái móng tay của lão và thấy chẳng khác gì đang ngắm mặt trăng trôi qua bầu trời. Tôi đi chuyển một nước nữa. Lão di chuyển một nước nữa. Nhưng tôi đã biết trước lão sắp làm gì nên thấy hơi chán, bèn quay ra nhìn quanh, chậm chạp đảo con ngươi trong hốc mắt. Tôi dõi theo một làn khói phun ra từ lỗ mũi Sọ Đá Quý 2, nom hệt như một con sao biển cần mẫn nhích từng li ra khỏi kẽ san hô. Tôi dõi theo một làn khói phun ra từ lỗ mũi Sọ Đá Quý 2, nom hệt như một con sao biển cần mẫn nhích từng li ra khỏi kẽ san hô. Tôi dõi theo những sợi tóc xoã dần  xuống mặt Răng Ngạnh 7, không khác gì những búp lá đâm chồi trên cây. Tôi dõi theo một ngọn lửa trên cây nến bấc đu đưa chập rãi như một người phụ nữ Rasta (Một công đồng tôn giáo của những người gốc Phi sinh sống tại Jamaica)trong lễ thánh hiện thân. Đến nước thứ mười chín, tôi đặt viên đá của mình xuống điểm cuối cùng của Răng Ngạnh 7. Lão thậm chí chẳng kịp rút lui.

Hết xảy. Cứ cho tớ vài túi be bé cái thứ này để tớ quay về thế kỷ 21, và tớ sẽ không chỉ lần ra thằng doomster kia, tớ sẽ giải cả bài toán giả thuyết Hodge (Một trong những bài toán đến nay vẫn chưa có lời giải của toán học hiện đại) trong hình học, phát minh ra hình cuboid (Hình đa diện lồi sáu mặt) hoàn hảo, tìm ra cách duy trì định dạng cho các phiên bản Microsoft Word khác nhau. Dễ như trở bàn tay thôi.

Răng Ngạnh 7 ra hiệu bó tay – ý nói: “Chúc mừng anh, chơi tốt lắm”, rồi lờ đờ đứng lên. Hai đầu gối lão kêu răng rắc như hai hạt quả phỉ. Lão chuyện choạng đi qua tôi và ra khỏi phòng. Tấm da hươu che cửa kêu sột soạt sau lưng tôi. Tôi đã bắt đầu có cảm giác ăn năn của kẻ chiến thắng, thứ cảm giác mà người ta thường thấy sau khi giã tơi bời đối thủ. Tôi nhận ra chân tôi chẳng còn cảm giác gì. Tôi thử tự đứng lên, nhưng tai tôi ù đi như có vòi phun chữa cháy phụt máu vào hai bên sọ, và một cơn buồn nôn như quả bóng đắng ngắt trào lên trong ruột non. Tôi ngã ngửa ra và lả đi. Ai đó vẩy nước lên mặt tôi, khi mở mắt ra, tôi nhìn thấy một tên vệ sĩ. Tên khác, không phải tên điếc kia. Tôi xoay đầu để nhìn quanh, nhưng cổ đau nhói nên đành thôi. Tôi cử động một bàn tay. Oái. Tôi hoàn toàn cứng đơ, như khi dùng cô-đê-in quá liều và ngủ nhiều giờ liền không động cựa. Tôi nhận ra ba điều: tôi vừa bị ngất; rất nhiều thời gian đã trôi qua, và có lẽ…có lẽ…nếu tôi mang được thứ Bụi của Muối Mặn Già này về b’ak’tun cuối cùng, chúng tôi sẽ có cơ hội thực sự.

39

Tên vệ sĩ cho tôi uống ít nước. Hắn đấm bóp cho tôi một cách thô bạo – cơ thể Chacal lại quen với cái kiểu này – và đỡ tôi ngồi thẳng lên. Cuối cùng hắn cho tôi ít bột sô-cô-la nhão không đường đựng trong cái cốc nhỏ và chắc tôi phải liếm dần. Tôi liếm. Tôi đoán trong đó có một lượng ca-phê-in bằng năm tách cà phêespresso. Sọ Đá Quý 2 khom người bước qua cánh cửa và đến ngồi bên kia bàn thờ, chỗ Răng Ngạnh 7 đã ngồi. Ông ta vẫn ăn vận như lúc trước, vẫn đeo những chuỗi ngọc bích và vỏ ốc xà cừ, nhưng hình như vừa tắm gội xong. Có thể là tắm hơi. Tôi nghe thấy tiếng ai đó, có lẽ là một tên vệ sĩ khác, đến ngồi bên cạnh tôi, nhưng phép lịch sự của tôi đã tiến bộ và tôi không ngoái ra nhìn.

- Vậy đây là lần đầu tiên Muối Mặn Già đến với ngươi, - Sọ Đá Quý 2 nói.

Tôi ra hiệu “vâng”.

- Dấu hiệu tốt đấy.

Ông ta nói thêm rằng đa phần những người khác không tận dụng được sự giúp đỡ của Muối Mặn Già tốt đến thế trong lần đầu. Cũng như hầu hết các loại ma túy khác thôi – tôi nghĩ – nếu không, khi quen mui sẽ còn đến mức nào? Tôi cược rằng nếu được chơi cùng LEON với thứ thuốc này, chẳng mấy chốc tôi sẽ tìm ra được tên doomster. Mà đấy là tôi mới dùng nhiều lắm một phần tư liều thôi đấy. Không phải là nó không suýt giết chết tôi, nhưng vẫn còn tốt chán.

Sọ Đá Quý 2 lấy ra một điếu xì gà mới, châm nó vào một hòn than và rít.Tôi ngồi nhìn. Đột nhiên, và rất ngạc nhiên, ông ta mời tôi một điếu. Tôi lịch sự nói mấy câu cảm ơn. Ông ta cũng lịch sự đáp “không có gì”. Ông ta châm nó vào hòn than và đưa cho tôi.

Tôi khó khăn lắm mới đưa được tay lên nhận. Rõ ràng dư chấn đặc trưng của Bụi của Muối Mặn Già chính là cảm giác như vừa rơi bộp từ trên cao xuống, hay như vừa bị tiêm vào máu sáu mươi pound chì nén nhỏ lại. Tuy nhiên, tôi vẫn xoay xở tìm được điếu xì gà và đưa vào miệng- tôi biết nên nhập gia tùy tục, nhưng tôi không thích hít bằng mũi – và hít vào một hơi khói. Nó có hương vị tự nhiên rất đậm, thêm vị sô-cô-la và thoảng mùi bạc hà, mùi đá lửa khen khét và cuối cùng là mùi xơ vải. Mẹ kiếp, ngon thật. Cơ thể của Chacal nghiện thứ này điên cuồng.

Ừ thế có nghĩa là lão già Sọ Đá Quý 2 này cũng có tí ấn tượng với mình, - tôi nghĩ. Tôi đã hạ gục cái người tên là Răng Ngạnh 7 kia khá ngoạn mục, phải không? Có điều đừng mở mồm nhắc đến chuyện ấy, - tôi tự nhủ. Đừng xúc phạm người đếm mặt trời của ông ta, dù lão có kém cỏi thật.

- Chúng ta từng có một người đếm mặt trời “tám sọ” nhưng hắn chết rồi, - Sọ Đá Quý 2 nói, rõ ràng ông ta đọc được ý nghĩ của tôi.

Tôi không hiểu như thế nghĩa là gì hay nên đáp thế nào. Có lẽ ông ta muốn nói đến người đếm mặt trời cũ của ông ta có thể chơi với tám viên đá. Nếu thế thật, người đó hẳn phải khá thông minh. Tôi ra hiệu “tôi hiểu”, mặc dù chả hiểu gì.

- Răng Ngạnh 7 chỉ là người đếm mặt trời ba sọ, - Sọ Đá Quý 2 nói, - chúng ta đang tìm cách có được một người đếm mặt trời bảy sọ: Đổ Trời. Nhưng hình như nhà Vẹt Đuôi Dài cũng đã mời hắn.

Tôi gật đầu. Vậy là giữa hai nhà đang diễn ra một cuộc ganh đua để có một người đếm mặt trời giỏi nhất. Cũng như hồi tôi còn nhỏ, ở Alta Verapaz, các làng tranh nhau để mời được ông thầy lang mát tay nhất.

Một kẻ hèn hạ không được phép đặt câu hỏi với bề trên, nhưng có lẽ tôi nên thử liều xem sao. Ông ta đang cởi mở với mình mà, - tôi nghĩ. Chúng tôi có một mối liên hệ đặc biệt mà, phải không?

- Vậy theo ngài, ở trên tôi, ai là người đếm mặt trời giỏi nhất? – tôi hỏi.

- Gió Lốc 11 là người đếm mặt trời chín sọ duy nhất ở Ix, - ông ta đáp, - ngoài ra chỉ còn ba mươi mốt người đếm mặt trời chín sọ mà thôi.

Qu sự tiu ngỉu trong giọng nói, rõ ràng ý ông ta là cả thế giới chỉ có ngần ấy mà thôi. Ông ta nói Gió Lốc 11 đã được thu nhận vào nhà Mèo Rừng từ khi còn nhỏ, cách đây hơn sáu mươi năm, và bây giờ quyền năng của lão ta đã như huyền thoại. Thực tế, trong lúc chúng ta đang nói chuyện đây, lão có thể đã nhắm vào tôi. Và chả mấy chốc nữa, lão sẽ đoán ra được cuộc săn hươu chỉ là làm trò. Lão sẽ xác định được tôi ở đâu bằng một ván cờ Hiến tế và nhà Mèo Rừng sẽ cử một đội quân đến túm cổ tôi.

Tôi hỏi vì sao nhà Ocleot vẫn còn tức giận với chúng ta – tôi lại thầm nhấn mạnh từ chúng ta trong đầu – nếu chúng ta đã đền bù cho họ bằng chuyến săn hươu. Vừa hỏi dứt mồm, tôi đã thấy hối tiếc. Câu hỏi vừa khó chịu vừa ngu xuẩn. Ăn nói cẩn thận đấy, - tôi nhắc nhở mình.

Nhưng nếu câu hỏi đó có làm Sọ Đá Quý 2 bực mình thì ông ta cũng chả tỏ thái độ gì. Ông ta trả lời rằng vì một lý do: có thể hầu hết người thị tộc Mèo Rừng ngờ rằng chúng tôi cố gắng phá họa lễ hiến sinh trên đỉnh kim tự tháp. Nhưng căn nguyên sâu xa thì bắt nguồn từ rất lâu rồi. Mèo Rừng đã đóng vai trò thị tộc đứng đầu thành Ix kể từ khi nó mới ra đời, được cho là ngày Chúa tể 9, Ngụm rượu 3, 8.0.0.0.0.0. Ngày hôm đó, Mèo Rừng 1 đã tuyên bố giữ lại cho mình các hang nước trong núi của ông ta và chia những vùng đất đai xung quanh ngọn núi đó cho các thành viên trong gia đình và bốn ahau cho bốn thị tộc cao quý khác, trong đó có Đại Bàng 1.

Hiển nhiên, nếu Mèo Rừng 1 đã từng tồn tại thật đi chăng nữa thì Chim Ruồi Có Nanh 9, ahau của các ahau  đang trị vì hiện nay, cũng không phải hậu duệ chính tông của ông ta như mọi người vẫn tin. Tuy nhiên, không ai định phản đối quyền chiếm giữ các nguồn nước ngọt (tức là hệ thống tưới tiêu, nắm giữ nó cũng có nghĩa là kiểm soát gần hết nông nghiệp của Ix) mà ông ta được thừa hưởng, hay độc quyền của ông ta đối với nô lệ, nó đến từ thực tế rằng ông ta là người Ix duy nhất được phát động chiến tranh. Nhà Mèo Rừng cũng quản lý các phận sự của toàn bộ thành Ix, tức là các nghi lễ, và các bạn có thể gọi nó là quyền giáo hội. Họ còn có độc quyền săn bắn một số loài động vật nhất định ở hầu hết mọi nơi, quyền đòi lữ khách dâng tặng lễ vật – tức là thu thuế cầu đường – quyền phân chia chiến lợi phẩm thắng trận, độc quyền mua bán ngọc bích, vân vân và vân vân. Cứ một unial (tháng gồm 20 ngày) họ lại sở hữu một ngày, thêm năm ngày mỗi tun (năm dương lịch 360 ngày). Và quan trọng nhất, họ có độc quyền đối với các loại ma túy của cờ Hiến tế, một loại hàng hóa không thể thiếu, được những người đưa tin Hậu Duệ Bướm Đuôi Nhạn mang về từ Mexico.

Ái dà, - tôi nghĩ – vậy ra đây là chuyện buôn bán ma túy.

Sọ Đá Quý 2 nói còn có một loại ma túy thứ hai của trò chơi mà Răng Ngạnh 7 chưa bao giờ được thử, gọi là Bụi của Người Chèo Xuồng Già.

- Nếu ngươi gặp Người Chèo Xuồng Già, ngươi sẽ thấy ông ta thậm chí còn già hơn cả Muối Mặn Già, - ông ta nói, - ông ta già đến mức da chuyển sang màu xám đen. Ông ta đứng phía sau xuồng, với mái chèo dài trên tay.

Theo tôi hiểu thì Muối Mặn Già là tên nhân cách hóa của một loại ma túy gây xáo trộn không gian – tức là nó làm anh mất cảm giác về không gian. Và có lẽ, việc kết hợp hai loại này sẽ cho hiệu quả tương hỗ.

- Những người đếm mặt trời nói nếu ngươi có cả hai, họ sẽ ban cho máu ngươi nhiều chớp đến mức ngươi sẽ nhìn vào được cả lòng đá, như thời tổ tiên, cụ kị chúng ta.

Tuy nhiên, Sọ Đá Quý nói, ngay cả với độc quyền mua bán ma túy của trò chơi, nhà Mèo Rừng vẫn không phải bất khả xâm phạm. Thị tộc đó đã lung lay từ vài k’atun  trở lại đây. Quá nhiềuk’iik nhà Mèo Rừng có lối sống xa xỉ mà chả có mấy tí việc để làm. Họ ngày một nghèo túng đi. “Các uay của họ còi cọc đi”, đó là cách nói của Sọ Đá Quý 2. Nó tương tự như ở Châu Âu thời xưa người ta nói máu của họ loãng dần đi. Vì một số lý do nào đó, những thế hệ gần đây của hoàng tộc Mèo Rừng có xu hướng không bình thường, bị đẻ non hoặc gặp trục trặc tương tự. Chim Ruồi Có Nanh 9 là một thằng lùn bẩm sinh, và chưa ai ngoài người thân trong gia đình được nhìn thấy bộ mặt ông ta lúc không đeo mặt nạ. Nguyên nhân chắc chắn không phải vì họ ăn bằng đĩa đúc từ chì của người La Mã cổ, nhưng chắc chắn họ đang làm gì đó không phải lối. Và thời gian gần đây, họ quản lý đất đai rất tồi, tiêu phí tiền của vào hội hè và xây dựng. Trong lễ hội vừa rồi, để ăn mừng “chiến thắng”  trong trận bóng hông được dàn dựng trước, họ đã dùng rồi đốt bỏ lông của bốn mươi ngàn tám trăm con chim ruồi xanh tai tím, mỗi chiếc trị giá hơn một tháng công lao động của một tên nô lệ. Mà đó mới chỉ là một trong số hai mươi loại lông họ đã sử dụng.

Trong khi đó, thị tộc Đại Bàng và thị tộc Vẹt Đuôi Dài lại giàu lên, cả thị tộc Itz’un nữa, tuy có kém hơn một chút. Họ đã tổ chức những chuyến đường thông thương ngày một dài, chạy suốt từSonora đến tận Panama. Sọ Đá Quý 2 điều hành việc buôn bán sô-cô-la của đất nước này chẳng kém gì một tơ-rớt. Các nông dân trồng và thu hoạch ca-cao là nông nô nhà tròn thuộc quyền cai quản của ông ta. Hàng chục người làm nghề xát vỏ, lên men, phơi khô và rang hạt ca-cao – chế biến sô-cô-la cần rất nhiều công đoạn – đều được cai quản bởi những thành viên thuộc gia đình lớn của ông ta. Các thương nhân đường dài đều ít nhiều có quan hệ máu mủ với ông ta. Và ngay cả những hàng hóa  trao đổi được đem về từ nước ngoài, như muối và đồ dùng bằng đá vỏ chai, cũng được cất trữ tại một trong những khu làng của Sọ Đá Quý 2 trong khi chờ ông ta quyết định nên bán ở đâu và bán vào lúc nào.

Gần đây, nhà Đại Bàng đã trở thành chủ nợ lớn nhất của nhà Mèo Rừng, và cũng như tất cả mọi hoàng tộc trên thế giới, các Mèo Rừng liên tục vỡ nợ. Mặc dù Sọ Đá Quý 2 không dùng khái niệm ấy, dĩ nhiên. Cách gần nhất để thể hiện nó trong tiếng Ix là nhà Mèo Rừng đã trở nên “không được chào đón”. Tức là họ không được dâng tặng lại quà cáp nữa. Thay vì nhượng lại một phần tài sản gốc, như một vài quyền lợi đối với nguồn nước chẳng hạn, họ lại càng ngoan cố giữ rịt lấy, Chim Ruồi Có nanh 9 đã bắt đầu yêu sách “lễ mừng”, tức là thuế bổ sung đối với các loại hàng hóa thậm chí chỉ đi qua đường của nhà Mèo Rừng.

Tôi hỏi về ba dòng họ quý tộc khác của Ix, Sọ Đá Quý 2 cho biết hai trong số đó, nhà Vẹt Đuôi Dài và nhà Itz’un,  cũng ghét nhà mèo Rừng không kém gì nhà Đại bàng. Nhưng cũng như nhà Đại Bàng, họ có quan hệ họ hàng với nhà Mèo Rừng thông qua gả bán và nhận nuôi. Ông nội của Sọ Đá Quý 2 là anh rể của ông chú của Chim Ruồi Có Nanh 9. Chị gái của Chim Ruồi Có Nanh 9 là cô của tộc trưởng nhà Vẹt Đuôi Dài. Tộc trưởng của nhà Itz’un đã nhận nuôi hai đứa con trai của cháu gái của Chim Ruồi Có Nanh 9.Cứ thế, vân vân và vân vân. Và các dòng họ này đang hưởng rất nhiều quyền lợi xuất phát từ quan hệ họ hàng với thị tộc cai trị. Tấn công nhà Mèo Rừng cũng có nghĩa là đi ngược lại với lề lối xã hội, cũng như giết người trong gia đình thì tội lỗi hơn so với giết người lạ. Nó sẽ làm mọi thứ rối tung lên đến mức các gia đình khác cũng quay sang hận thù nhau. Và dĩ nhiên, anh không thể đụng vào bất cứ thứ gì thuộc về những người họ hàng đang “ở trong” họ Mèo Rừng.

Ngay cả khi, bằng cách nào đó, những điều khó xử trên tan biến thì Chim Ruồi Có Nanh 9 vẫn là một vị thần sống. Là tộc trưởng của thị tộc mèo cũng như làm giáo hoàng ở Ý vào thời phục hưng. Bất kể giáo hoàng là một thằng thộn đến mức nào, người ta vẫn tin là lão có đôi tai của Chúa. Ngay cả những tên lính đánh thuê dám nhúng tay vào bất cứ việc gì cũng sẽ không tấn công ông ta. Nếu anh muốn hạ bệ ông ta, tốt nhất anh nên đảm bảo rằng chính anh sẽ trở thành giáo hoàng, và phải thật nhanh chân vào. Nếu Sọ Đá Quý 2 tiến tới quyền lực ngày một vững chắc, nhà Mèo Rừng sẽ bị buộc phải đưa ông ta lên đỉnh núi của họ và thừa nhận ông ta là người thừa kế hợp pháp. Họ sẽ dựng lên một phả hệ nào đó “chứng minh” Sọ Đá Quý 2 là hậu duệ trực hệ của Mèo Rừng 1, rồi tổ chức một cuộc bầu chọn vờ vịt tại popol na, tức là nhà hội đồng, để “chọn ông ta làm ahau. Nhưng theo lời Sọ Đá Quý 2, chuyện đó không có cơ xảy ra.

Hiển nhiên, ngay cả trong một xã hội chưa xuất hiện tiền tệ, của cải vẫn làm nên quyền lực, và có lẽ, nếu mọi chuyện được tiếp tục diễn biến theo đà này thêm vài k’atun nữa, nhà Đại Bàng sẽ giàu đến mức thuê lính đánh thuê để chọi lại nhà Mèo Rừng, hoặc có thể chiếm đoạt dần qua hôn nhân, hoặc có thể lôi kéo tất cả các thị tộc khác về phe của họ, hay gì đó. Nhưng  nhà Mèo Rừng sẽ không để mọi chuyện đi theo đà như thế. Họ muốn sửa sai ngay lập tức, trước khi nhà Đại Bàng mạnh thêm, và họ đang soi mói hòng moi ra được một sự phạm thượng để gây hấn. Họ đã suýt moi được khi tôi phá hỏng lễ tái đăng quang của Chim Ruồi Có Nanh 9. Sau hôm đó, họ đã nghĩ ra một trò còn đáng sợ hơn.

- Nhà Mèo Rừng đã thách chúng ta có một trận bóng hông lớn, và ta đã chọn mặt trời này: Chảy Xiết 1, Sum Họp 0.

Tức là còn một trăm lẻ sáu ngày nữa. Theo Sọ Đá Quý 2, những trận bóng hông lớn chỉ diễn ra vào dịp “năm mới lớn”, tức là bốn năm một lần. Lần cuối cùng đội nhà Mèo Rừng đấu với nhà Đại Bàng cách đây đã tám năm. Thời xưa, nhiều k’atun trước, những trận bóng hông lớn nhất thường được tổ chức giữa 1 ahauvĩ đại và tù binh quý tộc bị bắt từ những thành phố khác. Đó là cơ hội để vị ahau chứng tỏ mình còn đủ sức trị vì. Các trận đấu khác thường là đấu tay đôi giữa các anh em, các con trai hoặc con rể của ahau để giải quyết những mâu thuẫn có thể dẫn đến nội chiến. “Nhưng đến cái b’ak’tun suy đồi này của chúng ta”, theo cách nói của Sọ Đá Quý 2, các chúa tể thường để những người chơi bóng hông chuyên nghiệp của nhà, như tôi – Chacal, thay mặt cho họ. Đôi khi thị tộc bị thách thức có thể tập hợp cả một đội toàn ngôi sao mượn hoặc thuê từ các thành phố khác. Nhưng lần này, nhà Đại Bàng không thể làm như vậy mà không mất mặt với người đời. Vì đội Mèo Rừng sẽ toàn người trong nhà họ nên đội đối phương cũng buộc phải gồm toàn k’iik Đại Bàng.

Thường thì thế cũng chẳng sao. Đội bóng của nhà Đại Bàng đã chơi tốt trong suốt ba mùa chiến tranh gần đây. Họ cũng là nguồn thu lợi lớn cho Sọ Đá Quý 2 bằng cách mang về tiền thắng cá độ và khuếch trương các thương vụ. Nhưng mùa này, đội nhà Mèo Rừng sẽ chơi tốt ngang ngửa hoặc hơn. Và, Sọ Đá Quý 2 nói, việc Chacal ra khỏi hàng ngũ chẳng phải điều có lợi gì.

Xin lỗi, - tôi nghĩ thầm.

Sọ Đá Quý 2 kể tôi hay – ông ta dùng rất ít lời nhưng nhiều ẩn ý – rằng trên danh nghĩa, được mời tham dự một trận đấu với hoàng tộc là một vinh dự lớn, nhưng thực chất đó thường là tai họa. Theo thông lệ, đa số thành viên của mỗi thị tộc đều muốn đặt cược một phần lớn tiền bạc của mình vào trận đấu. Sọ Đá Quý 2 sẽ phải chịu sức ép mang hơn nửa tài sản ra đánh cược cho đội nhà. Tổng cộng số tiền đặt cược của các đồng minh, phe cánh dưới trướng và những người ủng hộ thậm chí còn nhiều hơn thế. Nếu đội nhà Đại Bàng thua cuộc, họ sẽ mất mát một lượng tiền của khổng lồ, nhưng bù lại được sống sót và không phải chịu cảnh nô lệ, ít nhất là trong một thời gian. Còn nếu nhà Đại Bàng thắng ở phút cuối, nhà Mèo Rừng sẽ đổ cho họ ăn gian. Nhà Đại Bàng sẽ phản đối, và ngay tức thì, nội chiến sẽ nổ ra. Hoặc cũng có khả năng nhà Mèo Rừng dàn xếp được một trận đấu ngay từ đầu bằng cách chỉ định trọng tài hoặc vài mánh khóe nào đó khác. Như thế họ hoặc sẽ chiếm đoạt được tài sản, hoặc sẽ gây chiến ngay nếu nhà Đại Bàng phản đối. Dù theo cách này hay cách khác, nhà Đại Bàng vẫn chết kẹt. Đây là một trò lừa đảo lộ liễu, nhưng cũng chẳng làm thế nào được. Anh không thể từ chối lời thách thức. Ở đây, mất mặt là mất hết.

Khốn kiếp thật, - tôi nghĩ. Thôi, chí ít tôi cũng hiểu ra được một điều mà lúc trước tôi chưa hay, đó là nhà Đại Bàng đang phải chịu áp lực ghê gớm. Nếu là thời điểm khác, tôi đã có thể thực hiện dự án “bàn xoay thợ gốm” hay gì gì đó. Nhưng ở đâu cũng vậy, các bố già mafia như Sọ Đá Quý 2 và Chim Ruồi Có Nanh 9 luôn sẵn sàng tư thế cho cuộc chiến tranh giành tiền bạc. Và sau vụ thất bại trên đỉnh kim tự tháp của tôi, Chim Ruồi Có Nanh 9 đang tìm cớ để ra tay. Và ông ta sắp sửa thành công.

Thật vô phương cứu chữa, - tôi thầm nghĩ, - mình về nhầm phe rồi. Tôi nên chuồn khỏi đây và chạy sang nhà Mèo Rừng thì hơn. Chỉ có điều, một: tôi không thể qua được cái cửa này chứ đừng nói đến những cánh cửa khác; và hai: họ sẽ không hiểu được tôi như Sọ Đá Quý 2. Nếu họ tha không tra tấn trước khi ăn thịt đã là may cho tôi lắm rồi…

U…ồ…

Tôi có cảm giác rợn tóc gáy là Sọ Đá Quý 2 đang dò xét ý nghĩ của tôi, ý tôi là về chuyện chạy sang hàng ngũ bên kia.

Thoạt đầu, tôi nghĩ mình đang chờ ông ta ra lệnh giết tôi. Nhưng càng nhìn, tôi càng nhận ra mình cảm thấy gần như thân thiết với ông ta. Có lẽ đó chỉ là hội chứng Stockholm (Hội chứngStockholm: Hiện tượng tâm lý đôi khi xảy ra với con tin bị bắt cóc, theo đó nạn nhân tỏ dấu hiệu đồng cảm với kẻ bắt cóc mà không tính đến hoàn cảnh nguy hiểm hay rủi ro của mình)thôi.

Hoặc chỉ là, khi anh ở vào một hoàn cảnh đáng sợ, anh thường bám lấy người nào đó ưa mình nhất, kể cả khi người đó muốn bắt giam anh.

Biết đâu ông ta cũng không đến nỗi tệ. Biết đâu ông ta có quá nhiều tôi trong đầu đến mức cảm thấy gần gũi với tôi…

Ấy, từ từ đã. Dừng cái sự dễ chịu ấy lại. Ông ta đã đãi mày những giờ phút khốn khổ nhất trong đời đấy. Nhớ không?

- Hãy nhốt uay của ngươi trong chuồng vào ban đêm, - Sọ Đá Quý 2 nói. Câu ấy có nghĩa là: “Đừng có giở trò gì đấy”. Nhưng ông ta nói với giọng có tí xíu đùa cợt.

Phù. Được thôi. Đổi đề tài vậy.

- Tôi muốn chơi một ván nữa, - tôi đề nghị. Tôi nói tôi muốn thử lại Bụi của Muối Mặn Già thêm một lần nữa, muốn tìm hiểu xem có thực là Gió Lố 11 đang sắp lần ra tôi hay không, nhà Đại bàng nên làm gì tiếp theo và nên làm gì với trận đấu bóng hông. Tôi không nói là tôi giỏi hơn Răng Ngạnh 7, nhưng hiển nhiên là tôi nghĩ thế.

Sọ Đá Quý 2 nói tôi chưa nên thử liều thứ hai trong vòng vài ngày tới. Ngươi phải “Đánh bóng mình” với nó, - ông ta nói. Nghĩa là ngươi phải tăng dần liều lượng qua nhiều năm. Nhưng ngay cả khi tôi tăng được sức chịu đựng thuốc,  tôi cũng sẽ không thể bằng Gió Lốc 11. Có những điều bí ẩn liên quan đến trò chơi mà những người đếm mặt trời sọ thấp không được phép biết và những người sọ cao thường không truyền đạt lại. Các vị ahaukhông muốn người đếm mặt trời nhà mình đào tạo quá nhiều người học nghề vì một trong số đó có thể rơi vào tay kẻ thù. Phần lớn những người đếm mặt trời, ngay cả những người xuất xứ từ các thành phố Maya, đều được huấn luyện tại Tamoan, và mỗi k’atun chỉ có một vài người rời khỏi thành phố đó.

Tamoan à? – tôi thắc mắc. Tôi không biết cái tên này, nhưng nó gợi cho Chacal một sự liên tưởng, một bộ ba kim tự tháp khổng lồ.

Sọ Đá Quý 2 nói trong số ba mơi hai người đạt đẳng cấp chín sọ hiện còn sống mà ông biết, mười tám người đang ở Tamoan. Mười bốn người còn lại sống rải rác tại nhiều thủ phủ khác nhau của Mesoamerica, mỗi nơi chỉ có một, hoặc tối đa hai người. Và trừ phi tôi được học một người trong số đó, tôi sẽ không bao giờ lên được đẳng cấp chín sọ. Mà đằng nào tôi cũng chẳng lên được trình ấy vì tôi lớn quá tuổi rồi.

Tôi thở dài tỏ ý rằng tôi hiểu. Mẹ kiếp.

- Và ngay cả khi ngươi thuyết phục được một người trong số họ dạy ngươi, ngươi cũng chưa chắc học được gì – ông ta nói. Vì cứ một người đạt được chín sọ thì có đến bốn trăm kẻ khác không tiến xa được đến thế.

Nhảm nhí, - tôi nghĩ, - tôi sẽ làm được . Nhưng tôi không nói ra.

Và ngay cả khi ngươi té ra là một thằng sáng dạ - ông ta nói tiếp – thì tôi cũng chưa thể chơi được một ván với chín viên đá nếu chưa qua nhiều năm luyện tập. Trong ba mươi mốt người chín sọ, rất ít người dưới bốn mươi tuổi. Tuy nhiên – ông ta nói thêm – cũng có những người đếm mặt trời nữ giới ít tuổi hơn.

Tôi hỏi vì sao.

- Vì Muối Mặn Già thân thiện hơn với phụ nữ, - ông ta đáp, - đấy là người ta nói thế.

Phải, - tôi nghĩ, - hoặc thế, hoặc đơn giản là phụ nữ giỏi trò đó hơn.

Ngoài ra, - ông ta nói – ông ta cũng chỉ còn lại có một ít, và chúng sắp hỏng rồi. Dùng nhiều hay ít chưa hẳn quan trọng, quan trọng là thuốc còn tốt hay không. Và thứ thuốc này không tốt dần lên theo thời gian. Trong khi đó, nhà Ocelot sẽ không để ông ta có được thêm tý nào nữa. Có vẻ như chính họ cũng không còn đủ dùng.

- Ngoài tất cả những điều đó ra, - ông ta nói, - Gió Lốc 11 sẽ tìm thấy ngươi trước. Ngươi phải là một chín sọ mới hòng lừa được một chín sọ.

Nghe thật muốn nản lòng, nhưng tôi phải công nhận rằng những lời ấy ít nhiều có lý. Cũng giống như trong môn cờ vua hay cờ vây, việc xếp hạng phản ánh trình độ chính xác đến mức hiếm khi gây được đảo lộn bất ngờ. Thí dụ, trong cờ vây, anh mới đạt một đẳng thì xác suất anh đánh bại được một kỳ thủ chín đẳng chỉ là một phần ba mươi. Và dù tôi có cảm giác phi thường trong ván cờ tay đôi vừa rồi thì đó cũng chỉ là chơi với một viên đá. Tôi chưa tưởng tượng ra được chơi với bốn viên đá sẽ thế nào, chứ đừng nói đến chín viên.

Hừm. Nói đến đây mới nhớ, tôi định hỏi chuyển gì đó… À phải rồi.

- Thưa, Gió Lốc 11 co thực sự là người đếm mặt trời chín sọ duy nhất ở Ix không? – tôi hỏi. – Còn người phụ nữ được nhắc đến trong cuốn Thư tịch, ahau-na Koh thì sao?

- Ta đã nhìn thấy bà ta trong cuốn sách trong con sâu bọ của ngươi, - Sọ Đá Quý 2 đáp, - k’aana’obol – tức là ông chú lớn nhất đằng ngoại – của công nương Koh là e’ta’taxoco’ obo l’ta’taxoco của ta.

Có nghĩa là ông ta là anh em cùng cha khác mẹ với ông ngoại của người anh họ thứ hai của Sọ Đá Quý 2. Rất mừng là ta đã làm sáng tỏ được điều này, - tôi nghĩ.

Ông ta nói thêm công nương Koh ra đời cách đây hai mươi tám năm tại một ngôi làng cách Ix hai ngày đường về phía bắc. Gia đình bà ta là một nhánh của hoàng tộc ở Lakamha, tứcPalenque(Palenque: Một khu di tích của người Maya thuộc bang Chiapas của Mexico) ngày nay, và họ có quan hệ máu mủ với cả nhà Mèo Rừng lẫn nhà Đại Bàng ở Ix. Bà ta có những đặc điểm dị hình của người đếm mặt trời bẩm sinh. Một trong số đó là bàn tay của bà ta có mười một đứa con, tức là mười một ngón. Khi bà ta lên bảy, nhà Ocelot đã sắp xếp gửi bà ta cùng một vài đứa trẻ khác thuộc gia đình Maya quý tộc tới đền Rắn Chuông Sao ở Tamoan. Đồng thời, cũng ngần ấy đứa trẻ thuộc các gia đìnhtu’nikob’ – nghĩa là thầy tư tế - có đẳng cấp của đền Rắn Chuông Sao được đưa đến các thành phố Maya. Tôi đoán đó là một dạng trao đổi con tin, hay trong trường hợp này, nghe có vẻ giống chương trình trao đổi sinh viên. Hầu hết những đứa trẻ Maya đến Tamoan đều không đạt yêu cầu và phải quay về sau vài năm, nhưng riêng Koh lại trở thành một trong bốn mươi người đếm mặt trời nữ giới thuộc Giáo Hội Rắn Chuông Sao. Cùng thời điểm đó, ngôi làng của bà ta bị những người Ti’kal chiếm đóng và gia đình bà ta bị bắt đi. Sọ Đá Quý 2 không biết liệu họ đã bị hành hình chưa, hay vẫn làm con tin.

- Cuốn Thư tịch nói bà ta đang ở tại Ix, - tôi nói.

Sọ Đá Quý 2 nói điều đó không đúng. Ông ta đã đọc cuốn Thư tịch trong ký ức của tôi, và nó chỉ nói rằng bà ta đến từ Ix.

Tiên sư nó, - tôi nghĩ. Ừ, xét cho cùng, những ký tự đó cũng hơi mơ hồ thật. Chết tiệt, lại thêm một thất bại nữa sau cả một chuỗi liểng xiểng. Vậy mà Michael Weiner cho rằng bà ta chỉ ở quanh đây. Đúng là thằng xuẩn.

- Thưa, vậy còn ván chơi trong cuốn sách đó thì sao? – tôi hỏi.

- Ta có một bản sao, - Sọ Đá Quý 2 nói Mặc dù ván đó bà ta chơi cho nhà Mèo Rừng.

Hay nhỉ, - tôi nghĩ bụng, - thì ra đây là một cuốn sách bán chạy à?

Tuy thế, tôi nghĩ chuyện này cũng có thể hiểu được. Ý tôi là, nếu một ngày nào đó trong tương lai, anh dạo quanh đống đổ nát của thành phố Orlando và bới từ đống rác lên được một cuốn sách cổ nhàu nát, liệu đó sẽ là một cuốn sách như thế nào? Một bí ẩn phi thường, đặc biệt chăng? Hay chỉ là một cuốn sách tầm thường dớ dẩn nào đó?

Tôi hỏi ông ta rằng ván cờ đó đã diễn ra ở đâu. Ông ta trả lời rằng Koh đã chơi nó ở Tamoan để làm quà dành tặng cho những người thân ở phía đông nam.

- Thưa ngài, ở dưới chân tôi, - tôi hỏi, - Tamoan có phải là tên gọi của Teotihuacán không?

- Ta không biết cái tên đó, - ông ta đáp.

Tôi giải thích rằng đó là một thành phố vô cùng lớn, với ba kim tự tháp khổng lồ và hàng trăm ngôi khác nhỏ hơn. Tôi nói nó nằm cách đây khoảng ba mươi nhăm k’in – tức là ba mươi nhăm ngày đường, nếu mỗi ngày đi bộ khoảng ba mươi dặm – về phía tây – tây bắc.

Sọ Đá Quý 2 tặc lưỡi, cử chỉ đó có nghĩa là “Đúng rồi”.

Hừm, - tôi thầm nghĩ.

Teotihuacán là cái tên theo tiếng của người Aztec. Nhưng người Aztec, những người nhìn thấy thành phố ấy lần đầu vào thế kỷ mười bốn, chỉ biết nó là một đống đổ nát khổng lồ; họ không biết, và cũng không ai biết tên thật của thành phố đó vào thời xa xưa. Người ta nói đó là nơi Mặt Trời Thứ Tư và Mặt Trăng Thứ Ba ra đời. Như tôi đã nói, nó từng là thành phố lớn nhất tây bán cầu, với tối thiểu hai trăm ngàn dân, khoảng bằng dân số thànhLondon năm 1750.

Sọ Đá Quý 2 nói rằng Teotihuacán – chúng ta cứ gọi thế cho thống nhất – chỉ cách nơi thời gian bắt đầu, tức là ngày Chúa tể 4, Bóng tối 8, 0.0.0.0.0 hay ngày 11 tháng 8 năm 3113 trước Công nguyên, có một ngày đường. Vào ngày hôm đó, hai thủy tổ là Đầm Lầy Xanh và Cuồng Phong đã xây dựng một thành phố tên gọi là Tola, với những thác nước đẹp mê hồn chảy xuống từ các ngọn tháp san hô đỏ và những quảng trường lát thạch anh tím và ngọc bích. Những người dân đầu tiên đã sống ở đó cho đến ngày Chúa tể 4, Rừng 18, .0.0.1.0 – tức là ngày 25 tháng 6 năm 353 trước Công nguyên. Ngày hôm đó, Prank – Người Nuốt Mặt Trời đã phá hủy thành phố bằng một cơn lốc xoáy mang theo những lưỡi dao nóng bỏng. Một trăm tám mươi người sống sót ẩn nấp trong một hang động, sau đó theo dấu một con kền kền tới vùng đất của dòng sông huyền bí cách đó có ba mươi dặm về hướng đông. Sau hai mươi ngày không có mặt trời, vào ngày Chúa tể 11, Thu mình 18, họ tìm thấy một thành phố mới, thành phố Teotihuacán. Toàn bộ những người sống sót tự cắt máu – nghĩa là họ thề - rằng tại thành phố mới này, không kẻ nào được phép làm điều tự đắc, tức là những việc có thể khiến Prank và bất cứ người khói nào khác nổi giận. Không ai được tự phong mình làm ahau. Thay vào đó, thành phố thuộc quyền quản lý của một hội đồng tộc trưởng đại diện cho hai nửa của thành phố. Toàn bộ người dân đều thuộc một trong hai nửa: nửa đỏ - lo các sự vụ chiến tranh – hoặc nửa trắng – lo các công việc hòa bình. Không ai trong số các tộc trưởng được tự đề cao tên tuổi mình, kể cả trong diễn văn trước công chúng hay trong các văn tự ghi chép, thực tế, thời đó, chữ viết vẫn là một nghệ thuật không được phổ biến. Vào mỗi buổi sáng sớm hay giữa trưa, tất cả người dân sinh sống trong thung lũng sẽ ra ngoài trời và dâng khói cho những người khói. Người ta không bao giờ phá bỏ cái lệ đó, bất kể vì chiến tranh, thời tiết, bệnh tật hay lý do nào khác, cứ thế liền một ngàn không trăm mười bảy năm nay.

Đế chế ở Teotihuacán có ảnh hưởng rộng khắp. Họ sở hữu thứ gần nhất với quân đội chính quy ở tây bán cầu, với bộ binh hành quân theo đội hình và dùng atlatl (Một dụng cụ dùng lực đòn bẩy để tăng tốc lực cho mũi tên hoặc lao, mác) bắn hàng loạt tên. Các thủ lĩnh của Teotihucán đã chiếm nhiều thành phố Maya như Ti’kal và Kaminaljuyú rồi thành lập vương triều của mình tại đó. Mỗi năm, hàng trăm thành phố và hàng ngàn đô thị phải gửi tới thành phố này những “quà tặng” theo thỏa thuận trước. Teotihuacán cái quản việc buôn bán đá vỏ chai khai thác từ các mỏ gần đó, chính vì vậy, trong một số phương ngữ, đế chế này còn được gọi là K’Kaalom K’sic – Vùng Đất Của Những Lưỡi Dao. Ngoài ra nó còn bán quặng sắt đỏ, muối mỏ, nô lệ bắt được từ miền bắc và hàng tá những thứ khác. Và nó độc quyền đối với Bụi của Người Chèo Xuồng Già.

Tuy nhiên, trong hai thế kỷ trở lại đây, biên giới của đế chế này có phần suy yếu. Mỗi năm một nhiều những kẻ - tôi nghĩ chúng ta có thể gọi là những kẻ mọi rợ - ở phía bên kia biên giới lăm le hòng xâu xé một phần. Bất chấp lính bộ binh, hầu như mỗi ngày đều có một tiền đồn bị đột kích. Tệ hơn nữa, các đô thị mới phất thuộc đế chế lại không chịu cống nạp, lờ tịt những người thu thuế và hạ bệ  tầm ảnh hưởng của hội đồng giám sát việc buôn bán. Chẳng hạn như lẽ ra Teotihuacán cai quản toàn bộ việc mua bán muối, nhưng gần đây, người Ix và dân các thành phố khác đã mua muối biển trực tiếp từ các làng ven biển. Và chính thành phố Teotihuacán đang ngập chìm trong cái mà ở thế kỷ 21 người ta gọi là “những vấn đề đô thị” như quá đông đúc, bệnh lao, kinh tế sa sút, sự bất mãn của những người ở nông thôn, và gần đây là vấn đề tôn giáo, hay theo cách diễn đạt của Sọ Đá Quý 2 là “những tiếng la ó và ném đá quanh đền Rắn Chuông Sao”.

Nó sẽ không tồn tại lâu nữa. Hình như tôi đã đề cập điều này đâu đó ở đoạn trước, các nhà khảo cổ học đã xác định thời điểm chết của thành phố vào khoảng từ năm 650 đến 700 Công nguyên. Nhưng bất chấp những tiến bộ trong ngành khảo cổ đã xác định niên đại, nào xác định ADN phấn hoa, nào xác định đồng vị phóng xạ và hàng tá kỹ thuật xác định khác, đến năm 2012, người ta vẫn chưa thu hẹp được khoảng cách ước đoán trên.

Nhưng thành phố đó không hẳn đã rơi thẳng vào lãng quên.Khoảng năm 1000 Công nguyên, xã hội của người Toltec trở thành nền văn minh lớn nhất cao nguyên Mexico, và tuy chưa rõ liệu họ có quan hệ gàn gũi với những người ở thành phố Teotihuacán hay không, nhưng có lẽ cũng công bằng khi nói rằng phần lớn tập tục của họ có nguồn gốc từ Teotihuacán. Và ba trăm năm sau nữa, tộc người được gọi là Aztec tiếp quản những gì còn lại của hệ văn minh Toltec và phát triển nó thành một đế chế mà đến năm 1518 đã lớn mạnh gần bằng đế chế Teotihuacán vào thời điểm này.

Tóm lại, điểm chính yếu ở đây là rõ ràng đế chế đó lúc này chưa sụp đổ. Sọ Đá Quý 2 nói ông ta cho rằng nguyên nhân chính là vì hai Popol của Teotihuacán - ừm, có lẽ trong trường hợp này, chúng ta nên dịch Popol là “hội đồng tôn giáo” vì vai trò của họ lớn không kém gì vai trò phi tôn giáo – có thể ngừng bán Bụi của Muối Mặn Già và Bụi của Người Chèo Xuồng Già cho bất cứ khách hàng nào không ủng hộ nó. Mạng lưới những người đếm mặt trời, giống như một tổ chức xuyên quốc gia, có thể hoạt động cầm chừng một chút, nhưng đến một lúc nào đó, họ sẽ hết thuốc và lại cần đến nguồn cung cấp. Ông ta ngờ rằng “giáo hội” mới đây đã cắt giảm lượng bán vì họ muốn gây những cuộc chiến nho nhỏ giữa các thành phố Maya nhằm làm chúng suy yếu đi. Hơn hết thảy những vai trò khác, cờ Hiến tế là cá nhân gìn giữ hòa bình. Khi một chính quyền không đoán trước được điều gì sắp xảy ra, họ sẽ trở nên hoang tưởng và đó là lúc chiến tranh lan ra.

Và dĩ nhiên – Sọ Đá Quý 2 nói – cứ sau một mùa hòa bình, những người đếm mặt trời lại có bụi mới, đó là lý do vì sao họ bảo vệ được thành phố an toàn lâu đến thế. Họ có thể nhìn thấy những mối đe dọa sắp đến khi chúng còn ở rất xa, về cả thời gian lẫn không gian. Nhưng điều đó sẽ không kéo dài bao lâu nữa.

Sọ Đá Quý 2 ngừng lời. Và khi ngừng lời, ông ta im lặng hoàn toàn. Dù bộ ngực ông ta bị lấp kín dưới đống trang sức phô trương, tôi vẫn nhìn thấy hơi thở ông ta phập phồng.

Tôi ngồi yên. Tôi hít một hơi dài. Khiếp thật, nó nặng thật đấy. Phù. Hừ, nó có thể khiến anh làm khối việc điên rồ đây.

- Tôi, kẻ dưới chân ngài, có một thắc mắc, - tôi nói, - có đúng là người ta chưa đoán được mặt trời cuối cùng của Teotihuacán?

Sọ Đá Quý đáp rằng theo ông ta biết thì chưa.

- Nhưng ta có thể nhìn thấy trong con sâu bọ của người, rằng thành phố đó sẽ không tồn tại thêm quá hai k’atun nữa.

Tôi tặc lưỡi.

- Khi đế chế đó biến mất, nhà Mèo Rừng sẽ khốn đốn, - Sọ Đá Quý 2 nói, - nhưng vẫn là quá muộn đối với chúng ta.

Thật ấy chứ, - tôi nghĩ. Tôi chỉ còn khoảng bảy tháng trước khi bộ óc tôi nát nhoét như kem bơ lạc.

Lại một sự im lặng khó chịu nữa. Hai chân tôi tê cứng đi cho dù đã được rèn luyện. Có lẽ tôi nên hỏi thêm câu nữa.

- Thưa ngài, ở trên tôi, vì sao lại có việc ném đá quanh đền Rắn Chuông Sao?

Sọ Đá Quý 2 trả lời rằng ông ta không biết chính xác. Nhưng chuyện bắt đầu từ lâu rồi. Rắn Chuông Sao thuộc một tầng lớp không phải người thường, thậm chí không bắt nguồn từ một tổ tiên nào cả. Tôi nghĩ ta có thể gọi họ là thần thánh, nhưng cũng không hẳn. Tổ tiên cũng là thần thánh, những người có quyền lực còn sống cũng vậy. Thực tế, tôi đã có lần nghe ai đó nói rằng trong mọi thứ quanh ta đều có thần linh. Có lẽ, cái tên chính xác hơn dành cho Rắn Chuông – cho cả nữ thần Cóc Đất, bốn thần mưa Chac và một loạt thần núi non, sông hồ khác – là “linh thần”. Mỗi vị đều có một đền thờ, các thầy tế và những người sùng bái mình ở mọi thành phố lớn. Nhưng vào thời điểm này, năm 664, hệ thống đền thờ Rắn Chuông đang mở rộng nhanh hơn đền thờ của bất cứ linh thần nào khác.

Và, hẳn các bạn cũng biết, sau này, nó vẫn tiếp tục mở rộng. Von Humboldt đã gọi Rắn Chuông là Rồng Maya. Morley gọi nó là Rắn Lông Chim và Salman Rushdie (Tiểu thuyết gia người Anh gốc Ấn) gọi nó là Chim Rắn. Kukulkan, cái tên theo tiếng Yucatec của Rắng Chuông đã trở nên khá quen thuộc còn Quezflcoat, tên tiếng Nahuatl, thì nổi tiếng đến mức được dựng thành nhân vật trong Warcraft. (Warcraft: Loạt sách và trò chơi điện tử nổi tiếng của Mỹ)

Bởi mình Rắn Chuông chính là dải ngân hà nên giáo hội thờ cúng nó không bị ràng buộc với bất cứ thị tộc hay màu sắc nào. Về mặt lý thuyết, nó đeo dính lấy tất cả. Vì vậy, hệ thống sùng bái này có tính quốc tế hóa khiến nó phần nào hơi phá cách. Nhưng nó vẫn được ngưỡng mộ nhiệt thành. Ở Ix, và tôi cho là ở mọi thành phố Maya khác, bất cứ người có của nào cũng đều là thành viên của một vài giáo hội thờ cúng khác ngoài giáo hội của tổ tiên họ. Và hiển nhiên, toàn bộ năm dòng họ quý tộc của thành Ix đều thờ cúng Rắn Chuông. Kim tự tháp của Rắn Chuông Sao ở Ix tuy nhỏ nhưng cổ kính, đỏm dáng và giàu có.

Nhưng ở Teotihuacán, Rắn Chuông là cả một vấn đề lớn. Nó ngày một trở nên chướng mắt đối với những cộng đồng đã bám rễ lâu đời hơn. Hai hội đồng tôn giáo của Teotihuacán, sở hữu hai kim tự tháp khổng lồ mà những người Aztec sau này gọi là Kim Tự Tháp Mặt Trời và Kim Tự tháp Mặt Trăng, vẫn cho phép hệ thống thờ cúng Rắn Chuông hoạt động, nhưng đặt ra nhiều ngăn cấm, hạn chế. Vậy mà hình như mỗi ngày, những đứa con của Rắn Chuông lại dâng cúng thêm nhiều đồ lễ, tức là hoa – và tin tức này đã bị bưng bít khoảng hai mươi ngày. Chắc đó chính là nguyên nhân dẫn đến xô xát. Sau vụ việc đó, bốn mươi người đếm mặt trời nữ giới của Rắn Chuông đã trở thành tù nhân chính trị, vĩnh viễn bị giam cầm trong đền thờ của họ ở đầu phía nam thành phố.

Hừm, - tôi ngẫm nghĩ.

- Thưa, công nương Koh có trung thành với nhà Mèo Rừng không? – tôi hỏi.

Lại im lặng. Nó cứ kéo dài mãi như sợi pho mát kéo ra từ miếng pizza nóng. Đột nhiên, ông ta cười to lên. Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy ông ta cười, tiếng cười thực sự dễ thương, như tiếng ông già Nô-en vậy. Và tôi cũng cười.

- Bà ta gần gũi hơn với nhà Mèo Rừng, - ông ta đáp, - Thế nhưng, họ đã đưa bà ta đến Teotihuacán trong khi bà ta không muốn.

Ừ, có lẽ điều ông ta muốn chính là thử một cách tiếp cận gián tiếp, tấn công nhà Mèo Rừng từ bên ngoài.

Nào, Jed. Cố lên. Ông ta hẳn cũng cảm thấy mày có thể làm nên trò trống gì đó, một điều gì đó hết sức quan trọng, điều gì đó có thể cứu thoát tất cả chúng ta. Nếu không, ôn ta giữ lại cái mạng mày làm gì? Ông ta không thể đi, nhưng mày có thể.

Tôi liền đề nghị với Ahau Sọ Đá Quý 2 rằng tôi, kẻ dưới chân ông ta, có thể đến Teotihuacán.

40

Vào giờ phong lan thứ chín – tức là phiên gác đầu tiên, ngay sau khi mặt trời lặn – Sọ Đá Quý 2 đưa tôi tới trình diện trước Đoàn Lữ Hành Rắn Vipe 11 của nhà Đại Bàng. Đó là một tổ chức – hay các bạn có thể gọi nó là hội ái hữu hoặc thậm chí tập đoàn – mới thành lập, trên danh nghĩa là để thực hiện một thương vụ đột xuất, nhưng mục đích thực sự là đưa tôi đến Teotihuacán.

Chúng tôi ngồi trên những tấm thảm lông chim, trên đỉnh một quả đồi tròn, thấp, được đốt quang, nằm khuất giữa hai vách cao hơn của dãy núi. Chúng tôi vẫn đang ở khá gần làng Cacao – đó là tên họ đặt cho thủ phủ của Sọ Đá Quý 2 – đủ để thoáng ngửi thấy mùi sô-cô-la trong không khí. Tôi ngồi hướng mặt về phía đông nam. Mười chín k’iik khác các đoàn – các k’iik thường đi thành từng k’at, nghĩa là một nhóm hai mươi người – ngồi quây thành hình bán nguyệt đối diện tôi, hai chân, hai tay khoanh lại. Rất lâu sau này, những người thổ dân Oglala Sioux trong vở kịch “Miền Tây hoang dã” của Buffalo Bill cũng ngồi theo lối tương tự và nó được gọi là “ kiểu ngồi thổ dân”. Nhưng khi những người này ngồi, đó không chỉ là tư thế ngồi, mà là tư thế sẵn sàng bật dậy, như một cái lò xo trong trạng thái nén. Sọ Đá Quý 2, Bacab của miền Đông, tộc trưởng của thị tộc Harpy, tên đao phủ của thằng đần Jed DeLanda, cái bánh mì thịt toàn thiện toàn mỹ, ngồi bên tay “đàn ông”, nghĩa là tay phải tôi. Sên Xanh 3, lão thầy tế lùn, lật đật đi qua đi lại trước mặt ông ta, sắp xếp gói này bọc nọ trên chiếc thảm cúng. Lão nói bằng cái giọng không ra già không ra trẻ của mình:

-                      Như chúng ta, những kẻ dưới chân ngài,

Được biết:

Thủ lĩnh của chúng ta,

Tấm gương của chúng ta,

Người xua tan mây mù,

Sọ Đá Quý 2

Sẽ ban cho chúng ra đôi lời.

Chúng ta lắng nghe

Dưới chân ngài,

Chúng ta

Cúi mình chờ đợi.

Sọ Đá Quý 2 nói: - Ta, ở trên các ngươi, muốn hỏi.

Tất cả, trừ tôi, đồng thanh trả lời: - Chúng tôi, ở dưới chân ngài, xin trả lời

-                      Các ngươi có nhận món quà này?”

Gánh vác trách nhiệm này?

Sọ Đá Quý 2 hỏi. Giọng ông ta không to hơn những người khác, nhưng dường như nó vang xa hơn và vọng lại từ một vách đá xa tít ngoài tầm mắt. Tôi vẫn biết ông ta nổi tiếng về tài hùng biện, nhưng đến giờ tôi mới hiểu tại sao.

Các k’iik yên lặng một chốc để quan sát tôi. Tôi cũng giương mắt nhìn họ. Trao đổi ánh mắt là một kiểu thách thức ở đây. Nếu anh làm thế, hãy sẵn sàng mà oánh nhau. Họ chằm chằm nhìn tôi. Hun Xoc và thằng em trai, Tay 2, ngồi cạnh nhau, phía ngoài cùng bên tay phải. Đó từng là hai hậu vệ số một và số hai của Chacal, cũng là hai người đã để mắt canh chừng cho tôi trong chuyến săn hươu. Hun Xoc và Tay 2 là hai trong bốn người duy nhất trong đoàn biết láng máng chuyện gì đã xảy ra, nghĩa là biết tôi từng là Chacal nhưng bây giờ tôi đã là người khác. Các k’iikkhác cũng từng xem Chacal chơi bóng, nhưng chưa từng thấy anh ta ở khoảng cách gần, và đến lúc này, chưa ai có ý nghi ngờ gì. Người đứng tuổi ngồi cạnh họ tên là Mưa Chết 18, là Người Quản Lý Nợ của chúng tôi, chức danh này từa tựa như giám đốc tài chính vậy. Lão tròn trĩnh, da dẻ hãy còn căng và xem ra tốt tính. Gã dần dần ngồi bên trái ông ta là một người ghi nhớ, nhưng không phải gã trong hang của Sọ Đá Quý 2. Hắn thấp bé, mảnh khảnh, với cặp mắt lồi và hoá trang kiểu con khỉ. Và phía ngoài cùng bên tay trái là một lão già người dong dỏng, đôi mắt sâu đỏ rựng và làn da săn chắc  vì dai nắng, tên là Cá Sấu 12. Lão là anh chồng của cháu gái Sọ Đá Quý 2 và chức danh chính của hắn là Người Quản Lý Tay Dài. Căn bản, nó có nghĩa là “chủ nhân của những cánh tay”, thủ lĩnh trong chiến trận. Lão cũng đồng thời lànojuchil, người dẫn đầu đoàn. Lão có bộ răng khấp khểnh chẳng mấy ưa nhìn, hai cục u lồi lên hai bên vai nơi những mảnh sót lại của mũi lao đá hẵng còn cắm sâu trong thịt. Hai bên mình lão lấm chấm những hình xăm tưởng niệm một người anh có vị trí tồn quý đã chết trong một trận đột kích ở Motul. Người ta đồn rằng lão có thể nhìn thấy trong bóng tối đen như mực bởi ông nội lão là một con lửng. Lão là người già nhất trong đoàn. Tiếp đến, bên phải lão, là một k’iik ít tuổi hơn, khắp mình tô vẽ những màu sắc dành cho thầy mo, tên là Hun Aat, hoặc ngắn gọn là Aat, nghĩa là “Dái”. Hắn là phụ lễ cho Sên Xanh 3, cũng là người thứ tư biết chuyện về Chacal. Hắn sẽ giữ vai trò thầy hành lễ kiêm người đếm mặt trời chính thức của đoàn chúng tôi. Hắn thạo cờ Hiến tế đến mức nào nhỉ? – tôi ngẫm nghĩ. Có khi chưa chắc đã bằng Răng Ngạnh 7. Giời ạ, cả một lũ kém cỏi. Rồi, còn ai…mẹ kiếp, cái phút im lặng này kéo dài hơi lâu đấy. Có lẽ họ sắp lại gần, chọc ngoáy tôi, tìm ra yếu điểm nào đấy để từ chối tôi. Tất cả những trò này sẽ chẳng đi đến đâu. Đếch gì…

Đột nhiên, các k’iik đặt tay phải lên vai trái, tỏ ý chào mừng và nói, gần như đồng thanh:

-                      Chúng tôi, những kẻ dưới chân ngài,

Không xứng với một món quà như vậy,

Nhưng chúng tôi sẽ giữ gìn,

Sẽ bảo vệ anh ta.

Phù, - tôi nghĩ, - rất mừng là chúng ta làm rõ được điều đó.

Sọ Đá Quý 2 quay sang nói với tôi:

-          Vậy từ nay,

Đây là những người anh của ngươi,

Những người em của ngươi,

Hãy đi theo họ,

Nghe lời họ,

Đừng hèn nhát,

Đừng làm ta hổ thẹn,

           Tôi đáp:

-                      Tôi, kẻ dưới chân ngài

-                      Sẽ vượt qua thử thách.

          - Ngươi được chấp nhận, chúng ta đã quyết định xong, - Sọ Đá Quý 2 tuyên bố.

          Tôi đứng lên và xoay một vòng ngược chiều kim đồng hồ, trình diện với năm phương rồi quỳ xuống, cúi đầu chạm đất, hai tay đặt dưới trán, ra mắt gia đình mới. Cá Sấu 12 bước lên trước tiên và đưa tặng tôi một chiếc ống xì đồng. Cảm ơn, đúng cỡ của tôi. Tiếp đến, tôi nhận được một wi’kal, một loại áo khoác lửng may bằng vải bông chần, rất oai vệ, mới tinh và được ướp hương bạc hà. Người ta mặc nó khi trời lạnh. Gọi là áo choàngponcho (Loại áo choàng khoét lỗ ở giữa để chui vào) thì không chính xác lắm, vì loại áo này hoặc tròn, hoặc có hình bát giác, có đường xẻ chạy dọc từ cổ xuống chân áo. Gọi là áo choàng không tay thì nghe kiểu cách quá mà người ta lại tưởng nó có mũ chum. Thôi, tôi cứ gọi nó là áo choàng manta (Loại áo choàng của phụ nữ Hopi (một dân tộc bản xứ châu Mỹ), chỉ là một mảnh vải khoác lên người) vậy. Chiếc của tôi được viền những đường trang trí hình móng vuốt lồng vào nhau, màu đỏ và đen, giống áo của tất cả các k’iik khác nhà Đại Bàng. Cái khung bên trong làm bằng một loại tre nào đó, nhưng bên ngoài thì được quấn một lớp sợi da hươu dệt thành chữ tên tôi và các ký hiệu phả hệ. Bác thợ cả của Cá Sấu 12 đã phải thức trắng hai đêm để làm khâu ấy. Sau đó, cáck’iik còn lại, mỗi người đều đứng lên tặng tôi một thứ gì đó: một đôi dép đế cao su tinh xảo, một đôi khuyên tai hình ống, một bộ dây đai bằng da hươu, một chiếc vòng tay phải màu đen, một bộ hai mươi mũi tiêu dùng cho ống xì đồng, đầu gắn những quả thông non nhỏ xíu để tránh tai nạn, một chiếc mặt nạ đi đường, một lọ thuốc độc ngoài da, một lọ thuốc độc nữa – loại này phải uống, một cái túi để tôi đựng những vật dụng cá nhân lặt vặt, một tấm chăn trơn, nói chung là tất tần tật đủ thứ, chỉ thiếu có con chim đuôi seo đậu trên cành lê gai nữa thôi. Cuối cùng, Sọ Đá Quý 2 trao cho tôi một cây lao có gắn lông đại bàng ở mối nối mũi lao, điều đó có nghĩa rằng tôi không chỉ là một lính thổi ống xì đồng, tôi còn là thành viên đội vệ sĩ của gia tộc. Hai người phu kiệu bước vào giữa vòng tròn, nâng Sọ Đá Quý 2 lên vai, quay khắp bốn hướng rồi khởi hành theo hướng đông, xuống đồi. Ngay khi họ đi khuất tầm mắt, chúng tôi sẽ được tuỳ ý giải tán. Các k’iik đứng dậy và chỉnh trang lại. Thằng đầy tớ riêng của tôi tiến lại chỗ tôi và cúi gập người như một quả bóng, quỳ lạy. Đây là lần đầu tiên tôi gặp nó, nhưng tôi biết cái tên tạm thời trước khi chính thức trở thành k’ikk của nó là Cứt Ta-tu. Nó mười ba tuổi. Có lẽ tôi nên gọi nó là cận vệ thay vì đầy tớ - chỉ có điều gọi thế nghe cứ như tôi đã được phong tước tương tự hiệp sĩ hay samurai rồi, mà có phải đâu. Chưa thôi. Có lẽ tôi nên gọi nó là phụ tá riêng, nhưng gọi như thế lại không thể hiện được phận sự mua vui của nó. Ừm… thực ra, tôi thấy hơi ngại nên không muốn dùng cái tên mà ở đây người ta gọi nó và những thằng đầy tớ khác. Nhưng vì chúng ta đã đi được cùng nhau đến đoạn này của câu chuyện rồi nên tôi nghĩ tôi có thể huỵch toẹt ra. Chúng được gọi là các a’anat – “bọn liếm dương vật”. Nguyên nhân là khi tham gia một trận đánh, hay một chuyến đi săn, hay  những sự kiện tương tự, anh không được phép quan hệ tình dục với bất cứ ai hay bất cứ thứ gì vì chuyện đó có thể làm xẹp mất sự đàn ông của anh, và tệ hơn, mùi của nó có thể dẫn đường cho các uay đi thám thính của kẻ thù, và tệ hơn nữa, nếu anh để lại tinh dịch quanh “lỗ” của một người lạ, kẻ thù của anh có thể vớ được và dùng nó để reo rắc ghẻ lên người anh. Thế nhưng, hầu hết các k’iik tham gia đánh trận, hay đi săn, hay theo đoàn lữ hành thường là đàn ông, tuổi từ mười bốn đến hai mươi. Cho nên các bạn có thể hình dung được cái luật lệ kia đối với họ thật hà khắc. V́ vậy, thỉnh thoảng, những thằng bé tập sự này phải chăm sóc thú vui xác thịt cho chúng tôi. Bằng cách đó, chúng tôi giữ được những thứ không nên dây ra ngoài. Và đó là một trong những cái gọi là bí mật của Hội Chiến Binh.

Phù, tôi nhẹ cả người khi trút được cái bí mật ấy khỏi ngực.

Cứt Ta-tu thu vào túi tất cả số của cải mới kiếm được của tôi, cả đến đôi khuyên tai cũng không bỏ sót. Cá Sấu 12 ra hiệu cho tất cả đứng lên. Các k’iik hướng về phía ngôi làng của tổ tiên họ để chào tạm biệt và tôi cũng bắt chước họ, cảm giác ngượng ngập cứ như ngày đầu tiên đến trường, rồi theo họ bước qua cổng lễ dựng tạm.

Không trao đổi với nhau lời nào, chúng tôi kéo nhau rời đỉnh đồi xuống sườn phía đông bằng phẳng. Một hàng dài lính hầu – hay có thể gọi là người giúp việc – hành lý gọn ghê, đứng chờ sẵn sàng trên con đường mòn mới tưới nước, theo đội hình hành quân:

- Sáu trinh sát tiền trạm

- Bốn người canh chừng rắn, xách theo bầu tưới nước, lục lạc và những cây chổi lớn giống như chổi cời lá

- Hai người đưa tin với cây sáo gỗ dài buộc vắt qua vai

- Bốn trinh sát cánh.

- Mười phu kiệu vác sau lưng những cái giá lớn đan bằng liễu gai, nhìn như những cái địu trẻ con to tướng

- Chín phu khuân vác phụ trách ba chiếc xe cáng

- Năm phu khuân vác đi riêng lẻ, mỗi gã đeo trên lưng một cái thúng lớn hình trụ tròn, được giữ bằng một sợi dây quàng qua trước trán. Họ vác những đồ dự trữ khẩn cấp, phòng khi chúng tôi mất những chiếc xe cáng

- Hai gã – hai anh em – đến từ một thị tộc nhỏ, nói một thứ tiếng xa lạ khó hiểu, có nghề cha truyền con nối là mua, mang vác, làm sạch và phân phát nước uống

- Một “hàm nhai”, tức người kiêm công việc nấu nước, nếm đồ ăn và bào chế thuốc

- Hai tên dắt chó, mỗi tên phụ trách mười lăm con chó thịt và mười con chó săn

- Bốn tên tiện dân cực kỳ thấp hèn mà tôi xin gọi là “bồi”, hay “bồi xua rận” thì chính xác hơn, vì công việc chính của chúng là xua rận rệp.

- Một thợ may, hoặc gọi là hầu phòng cũng được

- Một thợ làm dép

- Một thợ làm mặt nạ. Hắn phụ trách toàn bộ y phục chứ không chỉ là mặt nạ

- Hai thợ làm vũ khí, hoặc có thể gọi là thợ rèn lao, phục vụ cho Cá Sấu 12

- Một tên hầu nhóm lửa, mang theo những viên đá lửa, dũa và một giỏ than hồng ủ sẵn

- Một thợ làm dép riêng cho bọn người dưới

- Một đầu bếp riêng cho bọn người dưới

- Bốn tên tiện dân hạ đẳng. Hai tên dắt theo hai mươi con chó, chuyên hót phân. Nhiệm vụ duy nhất của những con chó này là ăn hết phân chúng tôi thải ra để kẻ thù không thể vớ được và dùng nó để nguyền rủa chúng tôi. Hai tên còn lại là nacam – một dạng thầy tế - chúng đứng tách riêng sang bên cạnh, như hai con quạ đứng chờ đàn kền kền bỏ đi để ăn nốt cái xác thối. Chúng sẽ làm mọi công việc giết chóc cần thiết, kiêm dọn dẹp xác chết. Bốn tên này, và phu khuân vác của chúng nếu có, sẽ phải ngồi riêng thuyền khi qua sông hoặc đi cách chúng tôi bốn mươi bước, hơi dẹp sang một bên để khỏi làm ô uế đường đi

- Chín tên lính lưu tinh. Bốn trong số đó là lính hầu chạy việc vặt. Năm tên còn lại là “người đưa tin bốn ngày”, tức là những người đưa tin bí mật, đặc biệt giỏi, có nhiệm vụ mang tin tức và Bụi của cờ Hiến tế từ Teotihuacan về cho Sọ Đá Quý 2. Họ nói năm gã đó có thể chạy liền bốn ngày bốn đêm, cứ hai người ngủ thì được những người còn lại thay phiên cõng trên lưng. Tuy nhiên, tôi chắc chắn đấy chỉ là sự phóng đại.

- Cuối cùng là một toán vệ sĩ gồm bốn người. Ba người sẽ đi lùi hẳn phía sau để canh chừng những cái đuôi bám theo. Người còn lại đi áp sát đoàn hơn để đảm bảo rằng không ai đánh rơi thứ gì, dù chỉ là một hạt cườm gài tóc. Hắn cũng sẽ rải ớt bột sau lưng chúng tôi để xoá dấu vết, việc này có tính chất nghi lễ, nhưng cũng phần nào xoá bớt mùi khiến kẻ thù không thể đánh hơi.

Tổng cộng một trăm hai mươi cái đầu, không kể chó. Tính ra, mỗi k’iik có tới năm mươi người giúp việc, mà họ thực ra cũng chưa phải quý tộc hạng nhất gì. Nhưng Sọ Đá Quý 2 muốn phải đi một đoàn đủ đông để chặn kẻ địch từ xa cho tôi có cơ hội chạy thoát nếu bị tấn công, nhưng cũng không quá đông như một đội quân kẻo nhìn chết khiếp.

Tất cả im bặt. Hàng ngũ như xiết chặt lại.

Mưa Chết 18 ra hiệu. Mười chín k’iik và tôi – hay tôi nghĩ tôi có thể hãnh diện mà nói rằng “hai mươi k’iik chúng tôi” – lặng lẽ vào vị trí của mình ở giữa hàng, đi đầu là Cá Sấu 12 và đi cuối là k’iik cấp thấp thứ 2 từ dưới đếm lên. Tôi là k’iik cấp thấp nhất nhưng được phá lệ đứng giữa, sau Hun Xoc và cạnh Tay 2. Hai mươi mốt thằng đầy tớ riêng xếp hàng sau chúng tôi.

Được rồi, - tôi nghĩ bụng, - biến khỏi chỗ này và bắt tay vào chiến dịch thôi. Ta cùng đi trên con đường vàng đến Tamoan nào.

Cá Sấu 12 ra hiệu cho một tên lính lưu tinh. Hắn chạy lên phía trước. Rất lặng lẽ, không một tiếng xôn xao, đoàn người chuyển động và tiến lên phía trước êm như một con tàu điện từ lướt ra khỏi ga, đến một tiếng hơi nước phun xì xì cũng không có. Đàn chó chạy lon ton bên cạnh cũng không một tiếng ủng oẳng. Ngay cả lũ chó non cũng không nghĩ đến chuyện sủa trừ khi được lệnh canh gác. Chỉ có vài tiếng kẽo kẹt của những chiếc xe cáng và một hai tiếng cót két phát ra từ một trong hai trăm bốn mươi chiếc dép xăng đan đã được tra dầu. Chúng tôi đi xuống một loạt dốc núi được đẽo bậc thang, thẳng hướng đông bắc tới một thung lũng được cấy cầy. Nhịp chân nhanh gần như chạy bộ. Thực ra, chúng tôi còn có thể đi nhanh hơn, nhưng cần phải tỏ ra bình thường.

Con đường chạy men theo bờ phải của một lòng suối cạn gần đến đáy, cứ đi được bốn mươi sải tay, chúng tôi lại phải nhảy qua một rãnh nước tưới tiêu dẫn vào một cánh đồng ngô mới đốt, thửa đất cháy đang há cái miệng khát khô chờ mưa. Hai thửa ruộng bị bỏ hoang từ những vụ trước, rồi lại một thửa được đốt. Thỉnh thoảng, trên các cánh đồng, cũng bắt gặp những kho chứa thóc tạm mới dựng dở được cái khung. Một vài thửa vẫn còn đang cháy âm ỉ, nhưng cây cối trong những dải vườn nuôi tằm xen giữa các cánh đồng ngô vẫn được giữ nguyên bộ lá, không có dấu hiệu nào chứng tỏ ngọn lửa vượt quá tầm kiểm soát. Việc đốt ruộng đã xong xuôi mà không gây tai nạn đáng kể nào cho các khu làng Đại Bàng. Đó là một điềm, một dấu hiệu tốt đẹp cho thấy, bất chấp những rắc rối đang gặp phải, Sọ Đá Quý 2 vẫn điều hành công việc hết sức trôi chảy.

Hình như chúng tôi đang đi xa dần khỏi thành phố. Tôi thấy thoải mái. Có lẽ mọi chuyện đang ổn thoả dần. Dù sao chúng tôi cũng có trong tay một kế hoạch, hay ít ra cũng là mấy cái gạch đầu dòng của một thứ gọi là kế hoạch. Ngay khi thu xếp ổn định ở Teotihuacan, tôi sẽ tìm cách diện kiến với công nương Koh. Sọ Đá Quý 2 và tôi đã nhất trí rằng tôi sẽ không nói thật với bà ta tôi là ai – tức là không tiết lộ về Jed (chuyện ấy thì đằng nào bà ta cũng không tin), thậm chí không nhắc gì đến Chacal, nếu tôi có thể kìm được. Thay vào đó, tôi sẽ cố giản lược câu chuyện nhưng vẫn phải được thu hút được sự chú ý của bà ta. Tiếp đến, tôi sẽ thuyết phục bà ta rằng tôi biết Teotihuacan chẳng mất chốc nữa sẽ sụp đổ và bà ta nên để chúng tôi đưa đi khỏi thành phố. Hoặc nói theo ngôn ngữ của ngành hành pháp và nghề gián điệp, tôi sẽ phải khiến bà ta quay sang phe mình. Ngay khi bà ta cho chúng tôi biết các thành phần của chất ma tuý dùng trong trò chơi, và ngay khi tôi ghi lại được cách pha chế, tôi sẽ phải đội đưa tin bốn ngày gửi về cho Sọ Đá Quý 2. Đổi lại, ông ta sẽ chôn giúp tôi một chiếc hộp đá niêm phong kín, đựng một mẩu ma tuý và những ghi chép của tôi về cờ Hiến tế. Chiếc hộp sẽ nằm chính tâm một hình chữ thập bằng sắt từ để đội của Marenac có thể tìm thấy. Đến lúc đó, tôi có thể coi nhiệm vụ của mình đã căn bản hoàn thành. Các dữ liệu sẽ được chuyển về năm 2012 và nhóm Chocula sẽ nâng cấp trò chơi, xác định tên doomster và thế giới sẽ quay về nhịp sống bình thường và thiên hạ sẽ được sống cho đến ngày cuối đời.

Tất cả mọi người, trừ tôi, vì tôi sẽ vẫn kẹt lại ở đây. Tuy nhiên, đó chính là lý do vì sao có giai đoạn 2. Khi tôi trở về Ix, Sọ Đá Quý 2 sẽ dùng việc sản xuất ma tuý dùng cho trò chơi làm con bài để mặc cả. Nếu ông ta kiểm soát được nguồn cung cấp thứ thuốc này, tất cả những người đếm mặt trời chín sọ sẽ phải đến với ông ta. Và nếu ông ta chế được một mẻ thuốc hiệu nghiệm hơn. Răng Ngạnh 7 sẽ có thể đấu lại được Gió Lốc 11 của nhà Mèo Rừng. Mặc dù tôi không chắc lắm chuyện đó, vì tôi cho rằng Răng Ngạnh 7 chẳng tài giỏi đến mức ấy. Có lẽ ý của Sọ Đá Quý 2 là “ngay cả Răng Ngạnh 7 cũng có thể đấu lại được”. Dù sao, nếu Sọ Đá Quý 2 có thể tự đưa mình lên ngôi K’alomte’, hay chí ít là xua tan mối đe doạ từ phía nhà Mèo Rừng, và nếu tôi kịp trở về, chúng tôi sẽ thực hiện lại một việc, có điều phải dùng một cái hộp đá lớn hơn và tinh xảo hơn, vì cái xác tôi cũng sẽ nằm trong đó.

Đương nhiên, tôi không rõ vì sao Sọ Đá Quý 2 nghĩ tôi có thể làm nổi việc này. Có lẽ một khi rời khỏi Ix, không bị kìm kẹp nữa, tôi có thể phát huy tốt nửa kia của mình. Chắc Sọ Đá Quý 2 cho rằng nếu tôi đã làm được đến thế - đến được đây, thậm chí chui được cả vào đầu ông ra – thì ông ra cũng nên cho tôi một cơ hội. Và ông ra biết tôi có động cơ trong sáng. Ngoài việc gửi những thứ cần thiết về năm 2012, tôi không hề có tham vọng cá nhân nào khác ở đây, vì tôi cũng không còn sống được bao lâu nữa. Và cũng chẳng còn nơi nào khác để đi. Tôi nằm trong tay ông ta. Hơn nữa…

…cái gì thế kia?

Cặp mắt tôi tự động đảo quanh, như tai loài hươu, để rà soát động tĩnh. Chỉ là mấy con sóc trên cành cây. Tiếng chim bắt muỗi kêu o o. Con đường thu hẹp lại thành một vệt đường mòn. Lúc này, chúng tôi đã cách xa khu làng mạc, nhưng vẫn còn trong khu vực săn bắn dành riêng cho các k’iik của thị tộc Đại Bàng. Lối mòn mỗi lúc một ngoằn nghoèo hơn, uốn vòng quanh những thân cây khổng lồ. Ngay cả cặp mắt của Chacal cũng chẳng nhìn được mấy tí dưới ánh sao lờ mờ này, nhưng hai bàn chân tôi vẫn tự tìm được đúng vết mà chân người đi trước đã dẫm lên. Bất cứ kẻ nào bám theo chúng tôi cũng sẽ không xác định nổi chúng tôi có bao nhiêu người qua những vết chân. Và bất cứ ai trong khu rừng này – thợ đặt bẫy thú, tên buôn lậu hay gián điệp, ví dụ thế - nếu không tình cờ đi thật gần con đường thì sẽ không nghe thấy một tiếng động nào hết. Hấp. Hấp. Qua lần da hươu, cói đan rồi đến cao su của đôi dép săng-đan mới hãy còn cứng đơ, tôi có thể cảm thấy cỏ lau bị xéo nát dưới chân. Chúng tôi đi qua ba ngôi làng nhỏ xíu, tất cả đều nằm dưới sự cai quản của thị tộc tôi. Sau khi qua ngôi làng thứ ba, Hun Xoc đi tuột lại phía sau và kéo tôi ra khỏi hàng. Hai trong năm k’iik vóc người bằng tôi và ăn mặc giống tôi để đảm bảo an toàn (ý tôi là an toàn cho tôi) cũng đi chậm lại. Hun Xoc thì thào với tôi rằng đầu gối tôi vẫn cần thời gian để lành lại sau khi tải các mép trai. Tôi đáp rằng chúng ổn rồi. Nó sờ thử đầu gối phải. Máu đang rỉ ra. Nó bèn ra hiệu cho mấy tên phu khiêng kiệu. Bốn tên bước ra khỏi hàng và quỳ xuống. Bốn người chúng tôi leo lên ngồi trên những chiếc ghế nhỏ, chân quặp quanh hông tên phu kiệu. Tên khiêng tôi đứng lên, đưa tay giữ lấy đầu gối tôi, ép nó chặt vào hai bên lườn hắn và chạy nhanh lên phía trước, tìm lại vị trí của tôi trong hàng và hoà cùng nhịp bước của cả đoàn.

Sau mười tám dặm tính từ điểm xuất phát, con đường rẽ về hướng bắc, ra khỏi vùng cao nguyên, xuống bãi cây bụi hoang vu và chạy thẳng vào một bức tường cây lá tối om. Có tiếng ầm ì phía trước, tiếng ngáy của Ông Bác Đường Vàng, dòng sông chảy về hướng bắc, tới sa mạc mặn mặn và rìa trắng của thế giới.

41

Chúng tôi nối đuôi nhau xuống đồi, lọt vào một thung lũng tối đen nơi con sông cuộn chảy ào ào. Đoàn người đi chậm dần và tập họp lại gần nhau. Tôi là một “gói ngọc bích”, nghĩa là “người cần bảo vệ”, cho nên có tới năm k’iik vây kín lấy tôi, nhưng qua khe hở giữa họ, tôi vẫn còn thoáng thấy những căn lều của người chèo đò in bóng xuống một dải nước xám đục. Con sông này về sau sẽ có tên là Río Sebol, còn bây giờ, nó được gọi là Ka’nbe – Đường Vàng. Ở quãng này, sông rộng chưa đầy ba mươi sải tay, và chỉ cao hơn mức nước cạn vào mùa đông một chút, xem ra chỉ đủ cho rất ít thuyền bè qua lại, thế nhưng, bờ bên này neo tới gần bốn mươi chiếc thuyền mười người. Trong vòng chưa tới ba mươi phút, đám người hầu đã tháo dỡ xong đồ đạc trên xe cáng, bọc chúng vào những tấm vải tráng cao su và theo chỉ dẫn của những người lái đò, chất chúng xuống lòng thuyền. Không có lấy một ánh đuốc. Nhưng tôi đoán họ có thể làm xong việc này ngay cả khi mắt mũi bị bịt kín.

Đám phu khuân vác đập nát những chiếc xe cáng. Chúng tôi tháo dép xăng đan. Cá Sấu 12 dâng cúng một gói lễ vật cho một tảng đá lớn được coi là nơi trú ngụ của uay của con sông. Những người chèo đò đỡ chúng tôi xuống thuyền. Các k’iik ngồi trên năm chiếc đi gần cuối, cách hai chiếc chặn hậu khoảng mười thân thuyền. Mỗi chiếc chở tám người, bốn k’iik và đầy tớ riêng của họ ngồi giữa chủ thuyền – hắn đứng trên một mảnh ván chìa ra trước mũi thuyền với một cây sào dài trong tay – và người đứng lái ở cuối thuyền. Họ xếp tôi ngồi trên chiếc thuyền áp chót, là vị trí an toàn nhất. Khi tôi bước vào, lòng thuyền lún xuống dưới chân tôi. Nó không được đóng bằng gỗ mà được đan, hay đúng hơn, được bó bằng thân sậy. Rất nhiều cảm giác thay đổi trạng thái khi bước xuống một không gian nổi bập bềnh với những định luật cơ học riêng. Chúng tôi tách bến bơi xuôi dòng. Những ngôi sao mờ dần khi mây kéo tới, và chúng tôi chìm trong bóng tối mờ ảo, có phần đáng sợ hơn. Tuy thế, những người lái đò vẫn không thắp ngọn đuốc mà họ thường cắm ở mũi thuyền, cứ dựa vào cảm giác và ánh le lói thi thoảng lóe lên từ những đám nấm gỗ phát sáng và những con đom đóm để chống thuyền lướt đi. Những cặp mắt sáng lóe chớp chớp giữa những thân cây vô hình, mắt khỉ, mắt gấu trúc, mắt cú, và người ta có thể tưởng tượng ra cả mắt báo nữa. Thuyền chúng tôi bơi qua những tiếng rột roạt khe khẽ nhưng râm ran, và tôi nhận ra đó là tiếng lũ sâu bướm đang nhai lá cây, qua những quãng phát ra âm thanh ken két chói tai của hàng trăm loài bọ cánh thẳng, át hết những tiếng động khác, rồi qua nơi bầy ễch ương nghiến răng, hệt như những chiếc máy kéo cổ lỗ sĩ chạy bằng dầu đi-ê-zen rít lên ầm ầm mà vẫn không khởi động được, thứ âm thanh này, trong ký ức thời thơ ấu của tôi, tức là của Jed, mang một thông điệp vô cùng hân hoan rằng “SẮP MƯA RỒI”, và nhắc đến chuyện này…

Chính nó rồi. Nó chính là thứ mà tôi cảm thấy thiêu thiếu khi ở đây cùng Marena vào năm 2012.

Chúng tôi không thể tuyệt chủng được, - tôi nghĩ thầm, - phải vậy không?

Cũng có thể đấy. Cái thứ PAH (Một nhóm chất độc gây ô nhiễm môi trường) ấy cũng độc lắm chứ chẳng phải vừa. Mẹ kiếp.

Ngay cả giữa những tiếng ồn này, đôi tai của Chacal vẫn nghe thấy điều gì đó không ổn. Có lẽ nó hơi quá ầm ĩ. Hoặc âm sắc không đúng. Hoặc do thiếu tiếng cú kêu. Loài cú khá tinh khôn. Chúng rất nhạy cảm với thời tiết, chúng biết vụ phun trào đã làm đảo lộn điều gì đó.

Các k’iik chắc cũng cảm nhận được điều ấy. Trong bước chân của họ có sự căng thẳng bất thường… và không chỉ với tôi. Cũng không chỉ vì căng thẳng chính trị. Ai nấy đều thực sự âu lo hơn bình thường. Vụ động đất khiến mọi sinh vật cũng lo lắng. Những cơn địa chấn! Vào thời này, chúng được coi là những con quái vật khổng lồ dưới lòng đất.

Khi dòng sông mở rộng hơn, chúng tôi gặp các đoàn thuyền khác, vài thuyền có thắp nến bấc ở đằng mũi, và trước lúc trời hửng sáng, chúng tôi đã hòa vào một dòng thuyền buôn tấp nập ngược xuôi. Chúng tôi bơi nhanh hơn và vượt vài tá thuyền khác. Thỉnh thoảng, tôi lại nghe tiếng Cá Sấu 12, ngồi trên chiếc thuyền gần đầu, quát những người đánh cá thu lưới ở giữa dòng lại. Trời vừa rạng là lúc Đường Vàng gặp Đường Xám – dòng sông sau này được gọi là Río San Diego – tại thành phố Quảng Trường Luôn ồn ã mà tàn tích của nó được biết đến với cái tên Tres Islas. Cũng như Tyre(Một thành phố của Libăng), đô thị nhỏ này phát triển quá mức, tràn ra cả ngoài bán đảo, những ngôi nhà mới xây vươn thẳng lên từ dưới mặt nước. Tôi mường tượng ra những đốm lửa không bao giờ tắt trên ô cửa cao của các kim tự tháp nhỏ và cảnh những người quét rác lui cui trên quảng trường chợ không một bóng cây, được thắp sáng bởi những ngọn đuốc treo cao hệt như đèn đường. Dưới ánh nắng ban ngày, nước có màu sắc và vẻ thô ráp như tấm vải lót sàn tã nát trên con tàu chiến, hai bên bờ nối tiếp những vườn cây ăn quả sapote (Từ trong tiếng Nahuatl dùng để chỉ chung các loài hoa quả như trứng gà, hồng xiêm và một số loài cây ăn trái bản địa Trung và Nam Mỹ khác)xanh non đơn điệu, xen lẫn các halach yotlel – những vựa thóc kê cao và giá phơi – nửa đóng nửa đan bằng cành cây. Đến giờ một-phần-mười-ba thứ hai trong ngày. Đường Vàng hòa vào một con sông rộng và chảy xiết hơn, sông Ayn Be – Đường Cá Sấu – sau này là sông Río Paisión. Xa xa thấp thoáng mộtt thành phố có tên Chakha’, nghĩa là “Nước Đỏ”, tức El Ceibal ngày nay. Vô số lâu đài và nhà kho một màu trắng xóa, nằm chen chúc trên một quả đồi hình khom khom, chẳng khác gì một đống đường thỏi chồng chất hỗn độn khiến người ta khó mà phân biệt được ngôi nào là xây, ngôi nào là đẽo thẳng vào đá nguyên khối. Thành phố biến mất khi con sông uốn khúc chạy về nam. Khi bắt đầu nghe thấy tiếng nước xiết sủi bọt phía trước, những người lái đò cho thuyền dừng lại bên một bờ sông được lát đá, một tốp phu dỡ đồ xuống, nâng những chiếc thuyền lên quá đầu và chạy theo con đường dọc bờ sông. Khi các phu kiệu nâng tôi lên và chạy theo họ, tôi thoáng nhìn thấy một thác nước giữa những túp lều và những ngôi nhà lớn có hàng cột, nó chảy thành từng dòng đều đặn một cách kỳ lạ trên những nề đá vôi được chạm khảm. Hun Xoc nói đó là tháp hiến tế mà những người bùn đã xây dựng vào mặt trời thứ ba. Chúng tôi lao nhanh qua một quãng nước xiết, đến khúc sông mà chúng tôi gọi là Đường Trắng Của Khỉ Rú Lớn, chính là Río Usumacinta ngày nay.

Người ta gọi Río Usumacinta là sông Nile của người Maya. Nhưng sông Nile chảy tương đối thẳng, qua những vùng sa mạc phẳng phiu và dâng lũ theo chu kỳ khá đều đặn. Trong khi đó, Usumacinta chảy vòng vèo quanh núi non, qua nhiều hang hẻm, sau đó mới mở rộng ra và chảy chậm lại khi băng qua vùng đất thấp, uốn thành những khúc dài. Dù vậy, ở một vùng đất không bánh xe, không ngựa, thậm chí không lạc đà như thế này, nó vẫn là lựa chọn duy nhất để chuyên chở.

Bình minh lại lên, chậm chạp ì ạch mãi với một màu tím hoa cà thẫm đục. Màu sắc đó có nghĩa rằng những đám mây trên đầu chúng tôi không phải là mây như ngày thường. Đó là tro từ núi lửa San Martín. Một-phần-mười-ba thứ hai, Pa’Chan – “Đổ Trời” – tức Yaxchilán, xuất hiện bên tay trái chúng tôi. Thành phố trải rộng trên một triền dốc nằm chính giữa điểm uốn khúc của con sông, vì vậy, giống như Constantinople, nó được nước vây kín ba mặt, mặt thư tư được củng cố vững chãi. Mặt tiền của các tòa lâu đài hướng ra sông để trưng ra sự giàu có của các thị tộc. Năm dãy bậc thang rộng chạy theo hình zích-zắc lên một vệ thành gồm năm kim tự tháp nằm trên đỉnh quả đồi lớn nhất. Vị trí này thật hoàn hảo bởi người lạ có thể lại gần, có thể đi thăm quan một vòng men theo khúc quanh nhưng không thể dễ dàng tấn công từ trên mặt nước. Nước ở quãng này chảy quá xiết để cập bờ. Ngay cả khi có chỗ cập bờ thuận tiện và nếu có người dám thử, họ vẫn có thể quăng lưới xuống nước, chặn hai đầu và nhốt những kẻ xâm nhập ở giữa.

Thuyền chúng tôi men theo đường cong cuối cùng của dãy đồi và trôi vào gầm halach be, cây cầu treo lớn dài sáu trăm feet, riêng nhịp ở giữa dài hai trăm lẻ ba feet, với hai trụ cầu hình vuông khổng lồ cao sáu mươi feet, bề ngang chân trụ rộng ba mươi sáu feet. Vào năm 664 này, nó là cây cầu treo dài nhất thế giới; và ở châu Âu không hề có một công trình nào dài đến vậy cho mãi đến năm 1377 khi người ta xây xong cây cầu Charles ởPrague. Ngay phía trước cầu, dọc bờ sông được lát đá, có một dãy bốn mươi tên tù trần trụi, vàng ệch, bị treo trên những cây sào dài nom hệt như bù nhìn giữ dưa. Khi đến gần, tôi mới nhìn rõ đó chỉ là những bộ da được nhồi căng lên, vẫn còn đầy đủ chân tay, nhưng đầu được làm giả, có lẽ bằng vỏ bầu, và chúng có màu vàng như vậy là do được tẩm nhựa cây. Chân tay của những cái xác căng mọng lên và mất hết đường nét, nhìn không khác gì cây xúc xích. Tôi đoán chúng được nhồi bằng phấn hoa ngô, Hun Xoc nói bốn trong số đó là các k’iik của thị tộc Dơi Quỷ ở Ix bị bắt sau một cuộc đột kích bất thành cách đây sáu năm. Trong lúc đó, chiếc thuyền dẫn đầu đoàn chúng tôi đã rẽ vào bờ, và một trong số các k’iik của Cá Sấu 12 nhảy lên. Hắn lội đến chỗ bờ đắp đất cao, leo ba bậc thang xếp bằng thân cây, chạy tới chỗ bốn anh bạn nhà Dơi Quỷ, thêm một gói đồ lễ của chúng tôi vào đống đồ lễ vật chất cao như núi dưới chân họ rồi quay lại, nhảy lên chiếc thuyền cuối cùng đúng lúc nó sắp bỏ lại hắn. Các k’iik khác huýt gió thật to để hoan hô tán thưởng. Cái đồ phô trương.

Khi chiếc thuyền chở tôi đi vào dưới gầm cầu, tôi thấy như có tuyết rơi xung quanh. Tôi ngẩng đầu lên. Quãng này, lòng cầu cao hơn đầu chúng tôi mười lăm feet và rộng mười feet, được giữ bởi một sợi chão đôi dày phải đến sáu inch. Một dãy đàn ông và một nhóm thiếu nữ quý tộc – điều này rất khác thường – đang đứng trên đó quan sát thuyền bè qua lại. Một cô gái khác lắc lắc chiếc giỏ trong tay, rải xuống những chiếc thuyền bơi qua bên dưới một thứ màu trắng cuốn theo gió thành một đường xoáy dài. Hun Xoc liều lĩnh nhoài người ra khỏi mép thuyền, bắt được một bông và ăn lấy may. Đó là bỏng ngô.

Bên tay phải chúng tôi, những tòa nhà lớn dần lên và rốt cuộc, tôi nhận ra chúng tôi đang nhìn thấy kẻ kình địch lớn nhất của Yaxchilán, thành phố Yokib’. Người ta còn gọi bằng cái tên “công chúa của các thành phố châu báu”, và rất lâu sau này, nó sẽ được gọi là Piedras Negras, Yokib’ có nghĩa là “Lối vào” hoặc “Ngưỡng cửa”, nơi được cho là có lối hang dẫn xuống thẳng sân bóng hông lớn của thế giới âm phủ Xib’alb’a. Màu của Yaxchilán là màu hồng đào, Ix – màu xanh ngọc bích, còn Yokib’ là màu vàng. Thực tế, cả thành phố này là một màu vàng rực gay gắt, gần giống hệt màu vàng cam Bloxx, lại được viền những dải màu đen khiến nó rất khó nhìn, ngay cả ở dưới ánh sáng nhợt màu tro, có độ khuyếch tán rộng như thế này; một thung lũng được họa theo hình khối với những ánh sáng bóng và nhoáng ướt như được họa bởi bàn tay của Bridget Riley (Họa sĩ người Anh, một trong những người đi tiên phong trong nghệ thuật ảo thị). Kim tự tháp lớn nhất tuyền một màu vàng, một bề mặt dốc nhô ra giữa khoảng sáng lập lòe, trên đó, những người thợ lui cui bò toài, dùng những mảnh giấy sáp ong dính như vữa xi măng để trát lại các bức tường. Tôi phỏng chừng lớp tường ngoài cùng của kim tự tháp được xây cách đây một k’atun, bằng vôi nghiền từ xương của hàng ngàn tù nhân họ bắt được khi làm cỏ tận gốc hai thành phố thù địch, tương tự Lâu Đài Máu Và Bùn ở Dahomey (Tức cộng hòa Benin, một nước thuộc châu Phi ngày nay). Tôi đếm được năm mươi tư cái đầu lâu bày ở cửa sông. Con số đó không nhiều nhặn gì, vả lại nhìn còn mới đến mức tôi đoán chúng được làm giả bằng gỗ. Nhưng, khi đi ngang qua, tôi mới thấy những cái cũ hơn, đặt trên các ngăn giá thấp hơn, đã nhăn nhúm lại. Như thế có nghĩa chúng là thật, nhưng đã được làm sạch, ngâm muối, căng trên khung bằng đất sét, phết dầu, trang điểm và thậm chí được che đậy khi trời mưa. Tên tuổi và ngày bị bắt của từng người được xăm trước trán, có lẽ từ lúc còn sống; chỗ miệng bị khâu kín được làm phồng lên sao cho giống với người sống thật; con ngươi được thay thế bằng đá trắng tinh, vì vậy, nom cứ như chúng đang nhìn trừng trừng vào anh vậy. Có lẽ óc, lưỡi và các bộ phận khác đã bị rút ra ngoài qua đỉnh đầu, để chúng khỏi thối rữa, ít ra nhìn chúng cũng không rúm ró như cái đầu ở Yaxchilán, hay như những cái họ vứt cho giòi bọ ăn ở Temple Bar (Khu vực được bảo tồn từ thời trung cổ ở thành Dublin, Ireland) và cứ nằm phơi ở đấy cho tới tận năm 1746.

Ngoài những lúc lên bờ đi bộ qua những đoạn không bơi được, chúng tôi không hề rời thuyền nghỉ đỗ, dù chỉ lấy nước uống. Các thuyền bán hàng rong bơi lại gần, chúng tôi mua những thứ cần thiết và lại đi. Nước tiểu được bọn hầu hót phân đổ ra ngoài thuyền còn phân thì cho lũ chó ăn. Chúng có vẻ thích món ăn này. Có lẽ chúng thuộc một loài đặc biệt, có thói quen lạ bẩm sinh. Tiếp đó, cứt chó lại được bọc vào lá tai voi và chuyển sang thuyền của những gã làm nghề hót phân trên sông, chúng luôn được họ tống bởi hàng đám mây ruồi. Mấy tên lính lưu tinh cứ phải chạy hộc tốc lên bờ, trước đoàn thuyền, để đảm bảo luôn có một tốp phu trực sẵn ở đoạn nước xiết tiếp theo. Ở thế kỷ hai mốt, người ta lúc nào cũng ca cẩm, nào là “ôi chao, chẳng còn lấy một tí thì giờ”, nào là “cuộc sống hiện đại nhanh đến chóng cả mặt”, nào là “không như những ngày xưa, khi chưa có điện thoại di động, chưa có TV”, vân vân và vân vân. Nhưng nếu tôi có học được điều gì ở quá khứ thì đó là ở đây người ta cũng không thư thả gì hơn. Kể cả anh có là cô tiểu thư quý tộc hoang tưởng, anh cũng luôn phải vội vã chuẩn bị để sẵn sàng trước khi ai đó đưa anh đi chơi. Hạn chót luôn là hạn chót. Như tôi nghĩ tôi đã nhắc đến một đoạn nào đó, rằng vào ngày mồng 1 tháng 5 theo cách tính của chúng ta sẽ có hiện tượng nhật thực. Sọ Đá Quý 2 nói những người Teotihuacán có thể sẽ phong tỏa biên giới từ trước đó năm ngày, vào ngày Chết 6, Nai đực 14, tức là chỉ còn hai mươi ngày tính từ hôm nay. Vào ngày đó, toàn thể dân chúng của Teotihuacán Lớn sẽ bắt đầu cử hành việc “im lặng”, không ai được vào hoặc ra khỏi thung lũng cho đến khi mặt trời quay trở lại chu kỳ bình thường của nó. Hóa ra, trái với quan niệm thông thường, nhật thực không phải hiện tượng chỉ có giới quý tộc được biết. Mệnh lệnh được ban ra, và khi ngày đó tới gần, mọi người dân cùng tổ tiên của mình đều sẵn sàng thực hiện nghi lễ. Thành phố sẽ đóng băng. Dịp này giống một lễ vọng hoặc nghi thức canh đêm hơn là lễ hội.

Nói tóm lại, vấn đề là Sọ Đá Quý 2 nói chúng tôi sẽ đến được Teotihuacán trong vòng hai mươi bảy ngày, còn tôi thì cho đó là một kế hoạch hão huyền, ý tôi là, chặng đường dài những 658 dặm. Vì chúa! Mà đấy là nếu anh bay được theo đường thẳng như chim đây. Chứ nếu đi bằng ôtô, quãng đường sẽ là 1250 dặm, chỉ tính trên đường cao tốc. Và vào thời này, chúng tôi không có ôtô, đến cái bánh xe cũng chẳng có. Con ngựa gần nhất thì tậnIreland. Tôi nhớ mang máng một chuyện rằng quân đội của Napoleon từng hành quân được 275 dặm trong vòng hai mươi ba ngày trên đất Áo và đó đã được coi là kỳ tích. Tuy nhiên, quan đội thì không có phu khuân vác tiếp sức. Những tay lính bộ binh Pháp đáng thương đó phải tự lo lấy từng inch đường đi bằng hai bàn chân của chính mình. Và bất kể vị hoàng đế kia lùa họ đi gấp đến mức nào thì mỗi đêm họ vẫn phải cắm trại nghỉ, chí ít là một chốc. Còn chúng tôi chắc sẽ đi ngày đi đêm, ngủ nghê, ăn uống (chủ yếu là sên sống, thịt gà tây khô và ch’anac, một loại bột ngô trộn với máu chó đóng lại thành bánh), bắt rận, đi vệ sinh và những gỉ những gì nữa có trời biết ngay trên lưng lũ phu khiêng kiệu. Người ta đồn rằng những người đưa tin Inca có thể chạy tiếp sức để đưa thông điệp từ Cuzco (Thủ phủ của đế chế Inca, nằm tại Peru ngày nay) đến Quito ở Ecuado trong vòng chưa đến năm ngày, và quãng đường đó khoảng một ngàn dặm. Phải không nhỉ? Nhưng họ thì nhanh hơn chúng tôi nhiều. Tuy nhiên, nếu một người đi bộ giỏi, mang theo hành lý nhẹ có thể đi được hai mươi dặm một ngày thì chắc chắn chúng tôi sẽ đi được năm mươi nếu đổi được phu khuân vác liên tục. Rồi đến đường thủy… Ờ… đi thuyền hai mươi dặm một ngày là xuất sắc lắm rồi. Nhưng đó là với loại thuyền hai người. Thuyền càng dài đi càng nhanh. Vì vậy, nếu đổi được người chèo thuyền mới từ bờ vào chúng tôi sẽ đi được gần năm mươi dặm một giờ, ngay cả đi trên biển. Cứ tính dư cho chắc, quãng đường chúng tôi phải đi là 1600 dặm. Nếu vậy, lịch trình trên không hẳn đã là không thể, nếu không có trở ngại gì về thời tiết hay những trục trặc khác. Tuy cũng có vẻ hơi vội. Nhưng những anh chàng này quá quen với việc ấy rồi, – tôi nghĩ. Phải vậy không? Và dù sao, Sọ Đá Quý 2 cũng chẳng có lý do gì để lòe tôi chuyện này. Có lẽ chúng tôi sẽ làm được.

Tại một thành phố tên là Nơi Luộc Rùa Cạn 3 – sau này là phế tích Aguas Calientes – chúng tôi bắt gặp đoàn lữ hành đầu tiên của một thị tộc kình địch. Đô thị này dày đặc những công trình đa tầng nằm san sát hai bên bờ sông, với hai cây cầu treo bắc ngang qua đầu chúng tôi và một kim tự tháp của thị tộc cai trị nằm phía bên tay trái, hình dáng kỳ cục, được phủ kín những con búp bê bằng gỗ cao bằng nửa người thường. Tôi đoán chúng là đồ lễ được dâng trong một dịp đặc biệt nào đó. Tất cả đều được chạm khắc rất công phu và mặc đồ sặc sỡ đến mức khiến người ta nhìn rối cả mắt. Một đoàn thuyền lớn và lộng lẫy đang đậu bên một bậc cầu thang dẫn xuống sông ngay dưới kim tự tháp. Hun Xoc nói màu vàng và xanh lục trên cờ hiệu cho biết chúng là tàu của các cháu trai của K’ak Ujol K’inich, ahau của thị tộc Báo Đốm ở Oxwitzá, tức Caracol ngày nay, những kẻ nuôi mối thù truyền kiếp với năm thị tộc lớn của Ix từ hơn bốn k’atun nay.

Mệnh lệnh được truyền khắp cả đoàn rằng các lái thuyền cứ tiếp tục chèo và tất cả phải vờ như không nhìn thấy các Oxwitzá, trừ khi họ hỏi han chúng tôi trước.

Cho đến lúc này, không ít thì nhiều, chúng tôi chào hỏi tất cả các đoàn thuyền đi ngang qua. Những người chèo thuyền vẫy người quen của họ, khi thì rối rít vui vẻ, cũng có khi chỉ là một cái nhún vai phải khe khẽ, tương tự một cái gật đầu. Rõ ràng đoàn buôn của chúng tôi là khách thường xuyên của tuyến đường này, chỉ là lần này hơi vội vã bất thường và trái mùa một chút.

Nhưng thuyền của nhà Báo Đốm lại vẫy chúng tôi nên chúng tôi đành đi chậm lại và lượn đến gần để làm như cũng định chào hỏi họ từ trước. Đến chỗ nước nông, những người chèo thuyền quay đầu mái chèo và biến chúng thành cây sào. Tôi có thể cảm thấy các k’iik trong đoàn đang gồng hết cả người lên, bàn tay của Hun Xoc dịch thêm một inch  tới gần những chiếc ống xì đồng và chùy mà nó đã treo dưới mép thuyền. Có gì đâu nhỉ, - tôi nghĩ, - họ bốc mùi thân thiện và chúng ta cũng vậy mà. Nghĩa là thế này, mỗi con thuyền đều có một bức phù điêu hình đầu thú vật gắn ở đầu mũi néo buồm, đó là vị thần bảo trợ cho con thuyền, và từ lỗ mũi của nó thường tỏa ra khói thơm. Mùi nhựa cây keo hoặc bột thuốc lá cháy mang thông điệp rằng “chúng tớ không hề có ý định ẩu đả”. Khi chúng tôi lại gần, tôi nhận ra thủ lĩnh của họ đứng trên chiếc thuyền cuối cùng. Hắn đội trang phục hình đầu mèo cao ngất ngưởng, thân mình tô đen, mặt vẽ trắng xóa. Hắn quan sát chúng tôi một lượt bằng cặp mắt sâu hoắm. Tôi và năm k’iik đóng giả tôi cùng đội mũ rơm hình tròn, rộng vành, giống chiếc nón lá của người Việt Nam. Tôi nghiêng đầu xuống, cố giữ sao cho tư thế không bị dịch chuyển. Chacal từng chơi một trận với đội bóng hông Chuột Lang của Oxwitzá và đánh bại họ. Thể nào chả có một vài trong số những con mèo này xem trận đấu ấy.

Sẽ ổn thôi, - tôi tự nhủ, - không ai để ý đến mày giữa đám này đâu. Giống như mọi cầu thủ bóng hông khác, cả khi chơi bóng lẫn khi lên nhận giải thưởng. Chacal đều đội một cái mũ hình đầu thú che khuất đến hơn nửa khuôn mặt. Ngoài ra, ngay cả trên bức tượng tạc hình anh ta giống nhất, nét mặt nhìn cũng mơ hồ. Với mớ tóc nuôi dài, kiểu ăn vận khác, đầu gối không vết chai sần và sụt cân đến gầy nhom như thế này, không ai có thể nghĩ tôi từng là một người chơi bóng hông, và hy vọng không người ngoài nào nhìn tôi mà liên tưởng ra được Chacal. Sọ Đá Quý 2 muốn tôi tỏ ra ốm yếu và lờ đờ đến mức không ai dám bắt chuyện nhiều. Và dĩ nhiên, tôi không nên nhìn vào mắt ai cả.

Thầy hành lễ của Cá Sấu 12 hát một bài chào mừng. Một người đưa tin nhảy xuống nước, đến trao cho cận vệ của gã mặt trắng một cái gói đỏ đựng thuốc lá, ngọc bích và món bột sô-cô-la đặc sản của chúng tôi.

Im lặng. Nhiều năm qua, Ix đã mất hàng trăm k’iik dưới tay của những gã này trong chiến tranh, một cuộc chiến chỉ như sợi tơ nhỏ trong cái mạng nhện vĩnh cửu của sự trả thù báo oán tồn tại để làm cho thế giới này cứ ì trệ mãi không khá lên được. May thay, nó chỉ là một cuộc chiến giới hạn giữa các cá nhân với nhau chứ chưa lôi kéo tất cả vào cuộc. Chỉ là anh phải để ý đề phòng nếu có kẻ thề sẽ tóm cổ anh, hoặc nếu anh nhỡ giẫm chân lên đất của bọn kẻ cướp. Hay giống như hai băng đảng đi trên phố giữa ban ngày, khi gặp nhau thì một phe tự rẽ sang lề đường bên kia để tránh đụng nhau. Hay có thể nói ở đây giống như Trung Đông, nơi có thể, hay nói đúng hơn là lúc nào cũng có một cuộc chiến tiếp diễn nhưng đồng thời vẫn có những chuyến bay thương mại liên tục cất cánh và hạ cánh, những hàng dài xe du lịch xếp hàng gần biên giới và những người dân đi lại nhộn nhịp ngay giữa vùng tranh chấp.

Nhưng đường đi lại trên sông cũng là một kiểu nhà thờ, bãi chợ hay sàn giao dịch chứng khoán. Chúng là thứ tài sản trung thực sự duy nhất từ một ngàn năm nay. Khi ở trên mặt nước, anh nằm dưới sự bảo trợ của Phù Thủy Ngọc Bích, người đã đào con sông từ những ngày của mặt trời thứ ba, trước cả khi Vẹt Đuôi Dài 7 xuất hiện. Rất hiếm khi xảy ra những cuộc tấn công trên mặt nước và chúng bị coi là vô cùng hèn hạ, không kém ǵ chúng ta khinh vụ gia đình Pazzi (Một gia đình quý tộc ở Florence, đã ám sát Giuliano de’ Medici, ngươi cai trị xứ này vào thế kỷ 15 và được coi là người bảo trợ nghệ thuật) tấn công Giuliano de’ Medici ở Duomo. Bất cứ kẻ nào có hành vi bạo lực cũng có thể bị xé xác, không chỉ bởi những người dân địa phương luôn để mắt canh chừng, mà còn bởi chính những người đồng hành của anh ta. Ngoài ra câu nói khách sáo rằng “bước vào một ngôi làng giàu truyền thống cũng như bước vào phòng khách riêng của một nhà” hoàn toàn đúng ở xứ này. Bất kể anh đang ở đâu, anh cũng là khách của một ai đó, anh và họ bị rằng buộc bởi sự hiếu khách với nhau. Thay vì xuất trình hộ chiếu, tiền vé hay quà hối lộ, anh phải tặng quà và nhận lại những món quà rẻ tiền hơn. Nếu quà của anh không đủ hậu hĩnh, hoặc nếu như anh gây ra bất cứ rắc rối gì, người ta sẽ nhớ cái bản mặt anh và anh sẽ nhận lại đủ, có khi còn tồi tệ hơn.

Cuối cùng, ai đó trên một trong những chiếc thuyền của phe Báo Đốm cũng hát đáp lại hồi khúc của bài hát chào mừng, một người khác đưa cho chúng tôi một gói đựng thứ khỉ gió gì chả biết và chúng tôi lên đường.

- Hắn nhìn anh đấy, - Hun Xoc nói với tôi qua bờ môi khít rịt hầu như không động đậy. Khi chúng tôi ra khỏi tầm mắt họ, thằng bé giúp tôi đeo một chiếc mặt nạ mỏng, năm người đóng giả tôi cũng làm tương tự. Tôi thấy đeo mặt nạ như thế này cứ kỳ cục làm sao ấy. Nhưng thực tế, ở châu Âu, cho đến tận thế kỷ mười chín, người ta vẫn còn đeo mặt nạ. Cả đàn ông lẫn đàn bà cũng đeo mặt nạ khi đi đường, một phần để tránh bụi trên đường, một phần để tránh nhiễm bệnh tật, như mặt nạ phòng độc thời nay, nhưng chủ yếu là để tránh phiền nhiễu. Ngay cả ở Mỹ vào những năm 50 của thế kỷ trước, rất nhiều phụ nữ thường dân vẫn còn đội mũ mạng che mặt. Phải vậy không? Việc này chẳng có gì quá đáng. Vả lại, khái niệm về sự cải trang không phổ biến ở đây. Nếu anh đeo một cái mặt nạ, điều ấy không có có nghĩa là anh đang muốn che giấu chuyện gì mà chỉ là anh muốn bày tỏ lòng kính trọng hoặc muốn làm hiện thân của hình thù trên chiếc mặt nạ. Mặt nạ làm nên con người anh hơn cả chính bản thân anh.

Bị phát hiện chưa phải nguy hiểm lớn nhất, nguy hiểm lớn nhất là một phần của đoàn lữ hành bị chia tách, bị phục kích, bị lợi dụng hoặc cả ba, khi ấy, ai đó sẽ trao thứ gì đó cho kẻ thù và thứ đó cuối cùng sẽ rơi vào tay nhà Mèo Rừng. Hiển nhiên, tất cả các k’iik trong đoàn và một vài người hầu cận của họ biết Chacal không bị giết trong cuộc đi săn hươu. Nhưng họ biết hai trong số cái gọi là vía của Chacal, tức uay và tên bí mật của anh ta, đã rời khỏi cơ thể sau buổi làm phép. Bây giờ, chỉ còn hơi thở của Chacal ở lại, hai vía kia đã được thay bằng vía của tôi.

Sọ Đá Quý 2 đã xoay phắt câu chuyện sang chiều hướng tốt đẹp, đúng kiểu của ông ta, rằng Thằn Lằn Chân Lùn 10 từ đỉnh núi của nhà Đại Bàng đã đến trước khi được hạ sinh để cảnh báo cho thị tộc rằng họ đang bị nguy hiểm rình rập và giúp họ vượt qua.

Gã chỉ huy toán vệ sĩ chờ sẵn chúng tôi ở chặng đi bộ tránh nước xiết tiếp theo. Cá Sấu 12, Mưa Chết 18 và Hun Xoc tách ra để gặp riêng hắn. Họ không cho tôi tham gia và thì thầm với nhau bằng ngôn ngữ đi săn mà tôi không hiểu. Nhưng khi chúng tôi quay xuống thuyền, Hun Xoc kể cho tôi nghe rằng toán vệ sĩ thông báo có một tốp khoảng hai mươi người đang bám theo chúng tôi, đi bằng thuyền và có lẽ có cả phu khuân vác đi theo bằng đường dọc bờ sông nữa. Họ không biết những kẻ này từ đâu tới, và qua vài lời nghe được, chỉ biết chúng nói thứ tiếng Ix dùng trong mua bán. Gã chỉ huy nói hắn nghĩ trang phục đội đầu của chúng cho thấy chúng là người của thị tộc Cá Trê ở Xalancab, gần Kaminaljuyu, một thị tộc trung lập, không đứng về phe Đại Bàng, cũng chẳng đứng về phía Mèo Rừng. Tuy nhiên toán vệ sĩ không nhận ra bất cứ ai quen mặt trong đám đó nên rất có thể đó chỉ là giả trang. Thị tộc Cá Trê chẳng được mấy ai biết đến nên là đối tượng dễ bị đóng giả.

Hun Xoc kể thêm rằng Cá Sấu 12 đã hỏi chúng có đi lại hay ra hiệu giống bọn săn khỉ hay không. “Bọn săn khỉ” ở đây nghĩa là “bọn săn người” hoặc “bọn ám sát”. Tên vệ sĩ trả lời rằng hắn không chắc, nhưng chắc chắn chúng muốn đi sau chúng tôi một đoạn. Cá Sấu 12 hỏi liệu chúng có biết chúng tôi đang đi đâu không, hay chỉ bám theo thôi, nhưng tên vệ sĩ cũng không biết.

- Nếu tôi phải đặt cược vụ này, tôi xin cá một ăn hai rằng chúng là bọn Búa Lớn, - Hun Xoc nói. Tôi nghĩ là tôi đã nói rồi, Búa Lớn tức là người nhà Mèo Rừng. Họ có biệt hiệu này bởi họ được quyền dùng một loại búa lớn đặc biệt trong chiến trận.

Hun Xoc nói rất có thể Chim Ruồi Có Nanh 9 đã phát hiện ra chúng tôi khi ông ta lảng vảng rình mò quanh trong lốt uay ban đêm của mình. Có lẽ ông ta đã ngờ rằng Chacal vẫn còn sống. Nếu nhà Mèo Rừng bắt được chúng tôi, điều đó sẽ chứng tỏ nhà Đại Bàng phạm tội lừa dối báng bổ, và Chim Ruồi Có Nanh 9 sẽ thâu tóm được toàn bộ những gì thuộc về thị tộc Đại Bàng như người, hàng hóa, quyền lợi đối với đất đai và nguồn nước mà không thị tộc nào dám phản đối.

Tôi không biết nói gì. Đừng có đổ lỗi cho tôi nếu các người không chắc – tôi nghĩ. Tôi suýt định hỏi liệu những kẻ đang bám theo chúng tôi có phải do chính Sọ Đá Quý 2 phái đi hay không, nhưng may sao kịp ngậm miệng đúng lúc. Nếu có thế thật thì Hun Xoc hoặc không biết, hoặc sẽ nói dối tôi.

Vả lại, cũng tốt nếu những gã này tưởng tôi thân cận với Sọ Đá Quý 2. Họ đang cho tôi tham gia một số việc, cho tôi ngồi cùng bàn với những anh chàng có máu mặt trong bữa trưa, nhưng tôi vẫn có cảm giác… hừ, thôi cứ nói toẹt ra rằng họ nhận được lệnh để mắt canh chừng tôi mọi lúc. Tôi chưa lần nào tỉnh giấc mà không thấy một gã đang ngồi nhìn tôi. Tôi chưa từng bước được một bước khỏi toán k’iik mà không có Tay 2 hoặc Cứt Ta Tu chạy vượt lên trước để kèm tôi. Và tôi cũng nhận thấy họ không bao giờ để tôi gần nước, thức ăn và dép xăng-đan dự trữ.

Thực ra, Sọ Đá Quý 2 lo đề phòng là đúng. Dĩ nhiên, tôi phải tin ông ta. Tôi tham gia vào vụ thỏa thuận này vì nó là thỏa thuận duy nhất. Có điều, sự thực là ông ta đã tra tấn tôi cứ khiến tôi mơ hồ ám ảnh. Và bất chấp việc tôi được ông ta nhận làm con nuôi một cách long trọng, bất chấp mối liên hệ giữa chúng tôi, bất chấp việc một kẻ xa lạ trên một vùng đất xa lạ như tôi muốn có một gia đình đến mức nào, tôi vẫn phải thành thật thú nhận rằng tôi không có bất cứ lý do gì để tin những việc ông ta làm cũng vì lợi ích của tôi. Mục đích của ông ta khác tôi. Ông ta chỉ cần cái công thức bí mật của món thuốc đặc biệt kia. Nếu ông ta có thể phá bỏ được thế độc quyền của những người Teotihuacán về món thuốc ấy, ông ta sẽ có thể tự tung tự tác. Nhưng, nói đến viễn cảnh của riêng tôi… nếu tôi nghĩ tôi có thể chạy khỏi những gã k’iik này, tìm đến một ngôi làng hẻo lánh, dùng vài mánh gì đó để lôi kéo người dân về phía mình, thành lập một đội quân chuyên đánh phục kích, tóm lấy vài người đếm mặt trời của một thành phố nhỏ nào đấy – hình như có ít nhất bốn mươi nhăm người đếm mặt trời chín sọ trên khắp vùng Mesoamerica, ngoài khoảng bảy mươi người gì đó ở Teotihuacán – lấy vài mẫu thuốc, chôn xuống đất cho nhóm Chocula (họ chẳng cần nhiều hơn một hoặc hai miligam mỗi loại để xét nghiệm) và thế là tôi… hừ, nghĩ đến đây mà muốn nản. Nhưng vấn đề là chuyện ấy hoàn toàn có thể, và Sọ Đá Quý 2 hẳn cũng lo tôi sẽ thử làm điều đó.

Vì vậy, tôi đoán rằng, nếu tôi bỏ chạy, hay thậm chí tỏ ra có ý định bỏ chạy thôi, tôi sẽ thấy mình bị trói gô lại như con ngỗng Giáng sinh chỉ trong vòng một giây.

Tuy nhiên, - tôi nghĩ, - có lẽ mình làm việc này là đúng. Đừng quên rằng công nương Koh chính là tác giả của ván chơi được ghi lại trong cuốn Thư tịch. Đúng không nào? Ngay cả khi bà ta không phải là người đếm mặt trời có tiếng tăm nhất ở đây – theo Sọ Đá Quý 2, người giỏi nhất là Gió Lốc 11 của thị tộc Ocelot ở Ix, hoặc Heo Vòi Luộc, người đang phụng sự Pacal vĩ đại ở Palenque – nhưng bà ta vẫn là người thích hợp nhất để chúng tôi lôi kéo về phe mình. Có lẽ bà ta thực sự đặc biệt, một trong những người đếm mặt trời vĩ đại mà theo tôi lời Sọ Đá Quý 2, cả một b’akt’un mới xuất hiện một người. Có lẽ, nếu tôi gặp được bà ta, mọi việc sau đó sẽ xuôi chèo mát mái. Có lẽ bà ta biết mọi chuyện và sẽ giúp chúng tôi giải quyết ổn thỏa. Có lẽ bà ta sẽ chỉ ngay ra được tên doomster. Tôi chỉ việc gửi cái tên đó về cho nhóm Chocula và thế kỷ 21 sẽ yên lành. Có khi bà ta còn mách nước cho tôi vài món chứng khoán nên mua nữa, và khi hoặc nếu trở về được, tôi sẽ giàu hơn cả hoàng tử Alwaleed Bin Talal Bin Abdulaziz (Một hoàng tử của hoàng tộc A-rập Xê-út).

Vì thế, cứ tiếp tục theo họ đi, Jed, ít nhất là lúc này. Đừng có nghĩ ngợi quá.

Tôi liền hỏi liệu có phải những kẻ đang bám theo chúng tôi đến từ Teotihuacán chăng. Hun Xoc trả lời rằng có thể ai đó ở đó đã thuê chúng, nhưng làm thế để làm gì. Và công nương Koh, hay theo cái cách gọi của Hun Xoc là Con Gái Thứ Hai Mươi Hai Của Nhện Dệt Cầu Vàng – nó gọi thế để tránh nhắc đến tên thật có thể khiến uay của bà ta bị đánh động – cũng sẽ không thuê chúng vì bà ta là một người đếm mặt trời chín sọ, bà ta có thể đã thấy chúng tôi đang đến qua một ván cờ.

Tôi đáp rằng phải. Nhưng trong bụng thì nghĩ khác. Dù bà ta có vĩ đại đến đâu chăng nữa thì cờ Hiến tế cũng không phải là một quả cầu pha lê…

Biển.

Đó là cái mùi cổ xưa của muối biển, hay đúng hơn, mùi của những sinh vât ưa mặn. Tôi quay sang nhìn những người xung quanh. Qua cách họ rảo bước, tôi có thể chắc chắn họ cũng ngửi thấy. Chúng tôi đang đi gần tới rìa của thế giới cạn. Ngày mai, chúng tôi sẽ lênh đênh trên mặt biển, trên tuyến đường dẫn đến Vương Quốc Của Những Lưỡi Dao và Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh.

42

Hai chiếc thuyền đi biển, đội phu chèo và những người đi tiền trạm của chúng tôi đã chờ sẵn tại địa điểm hẹn trước trên bờ biển, một bãi cát kín đáo nằm cách cửa sông ba dặm về hướng bắc. Chắc nó cũng chẳng lấy gì làm bí mật vì có phải đến ba trăm người lôi thôi lốc thốc đứng vây quanh trên một dải cát vàng mịn như bơ, lốm đốm những mỏm dung nham đen sì và xác một con cá mập chanh lềnh phềnh trong vũng nước nông. Chuyến hành trình của chúng tôi bị trì hoãn đôi chút khi các chủ thuyền nói sau vụ núi lửa phun trào, những người chèo thuyền của họ sợ bị nữ thần Cóc Đất luộc chín và ăn thịt nên chúng tôi sẽ phải bơi ở khoảng cách xa bờ hơn bình thường. Và vì thế, họ bắt chẹt chúng tôi số tiền cao hơn mức họ vừa đồng ý trước đó có vài giờ. Ngoài ra, chúng tôi còn phải thuê thêm một k’al maac có tiếng ở vùng này. Hắn từa tựa như người mà ở châu Phi họ gọi là inyanga, thầy lang nước; hắn sẽ giữ cho thuyền chúng tôi khỏi chìm bằng cách liên tục khấn vái, đổ dầu xuống nước khi biển động và những trò tương tự. Lúc đầu tôi nghĩ hắn chẳng qua chỉ là một loại bịp bợm, nhưng sau này, có lần tôi thấy hắn chơi một ván cờ Hiến tế kỳ quặc và hết sức giản lược để xem thời tiết biển. Mưa Chết 18 lo việc mặc cả và rốt cuộc chúng tôi cũng được lên thuyền. Toán vệ sĩ của chúng tôi ở lại trên bờ. Họ canh chừng xem chúng tôi còn bị bám đuôi hay không và sẽ đuổi theo sau. Chúng tôi cúng máu cho Người Đưa Nôi của hướng Tây Bắc rồi khởi hành.

Tôi nghĩ việc nhét hơn hai trăm người lên hai chiếc thuyền có vẻ không khả dĩ lắm, nhưng hai chiếc thuyền này không phải loại nhỏ. Tôi áng chừng mỗi chiếc dài khoảng chín mươi nhămfeet. Đây là loại thuyền được đẽo, hay đúng hơn, được đốt từ thân cây gỗ gụ, to phải bằng cây Luna (Một cây tùng già gần nghìn tuổi ở bang California), nữ hoàng của những cây tùng. Chiếc đi đầu có cái cổ dài vươn ra ở mũi thuyền với cái đầu bé tí khiến nó giống hệt một con khủng long cổ dài, còn chiếc thứ hai, có tôi ngồi trên đó, được gắn cái đầu như đầu tôm hùm với hai sợi râu. Thân thuyền màu đen khắc những ký tự màu trắng và da cam, được đánh bóng bằng mỡ lợn biển. Chúng còn có cả mái vòm nên nhìn không khác gì thuyền rồng của nữ hoàng Cleopatra, nhưng Cá Sấu 12 đã bắt phu chèo thuyền dỡ chúng xuống để chạy cho nhanh. Không hề có lá buồm nào. Hay mình dạy họ làm một cái nhỉ, - tôi nghĩ bụng. Thôi đừng. Đừng gây sự chú ý.

Sau khi qua khỏi vùng sóng mạnh gần bờ một cách an toàn, các k’iik có vẻ nhẹ nhõm. Cuối cùng họ cũng có thể tán gẫu một chút, lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi rời làng Cacao.

- Ac than a puch tun y an I pa oc’ in cabal payee tz’oc t pitzom?- giọng một ai đó hỏi. (Anh có nhớ cái lần chúng ta chơi ở đây và anh đánh lòi cả mắt một tên tiền đạo không?)

Phải mất một giây tôi mới nhận ra câu ấy là dành cho tôi.

B’aax? - người đó hỏi tiếp. Nó đại để giống câu: “Này, Thằn Lằn Chân Lùn 10, tỉnh mộng đi nào”.

Đó là Tay 2, em trai Hun Xoc. Nó ngồi phía sau tôi, còn Hun Xoc ngồi đằng trước. Hai nhân vật quan trọng khác ngồi cùng trên chiếc thuyền này là Bướm Đêm 3 – người ghi nhớ – và Lưỡi Cưa 4, một trong năm người giả dạng tôi. Đầy tớ của ai ngồi bên trái người ấy. Tôi quay lưng lại.

Ma’ax ca’an, - tôi đáp. (Đó không phải là tôi).

- Hắn ngã xuống và anh đánh quả bóng đập vào sau đầu hắn mà. Cái khăn giữ cho hắn khỏi vỡ đầu nhưng một bên mắt hắn bật ra. Tay 2 to béo và vuông chành chạnh với khuôn mặt hăm hở, nó kéo mí mắt phải lên và cố làm cho con ngươi lồi ra hết mức. - Hắn vẫn nhìn được bằng con mắt bên kia nên cố thử nhét con mắt bị lòi vào hốc mắt nhưng không được, thế là, chẳng biết làm gì nữa, hắn biết mình sắp ngỏm và không muốn chúng ta lấy được nó, hắn liền ăn nó.

- Tôi không nhớ chuyện đó, - tôi đáp.

- Mày nên ăn một bát bột sắn thật to đấy. – Hun Xoc bảoTay 2. Đó là một câu thành ngữ, ý nói: “thôi ngay”. Chacal đang trải qua quá trình giống như “cắt đứt” với cuộc sống, và việc hỏi han về những chuyện xảy ra với anh ta trước khi cái xác được chuyển sang cho tôi rất dễ dẫn đến việc vi phạm điều cấm kỵ: đó là cái tên cũ của tôi không được phép nhắc đến nữa. Nhưng Tay 2 không để tâm đến những chuyện như vậy.

Tôi nghe thấy Lưỡi Cưa 4 cố nén một tiếng rúc rích.

- Chuyện xảy ra như thế thật à? – tôi hỏi.

- Không hẳn thế đâu, - Hun Xoc nói.

- Chính xác là như thế đấy, - Tay 2 cãi. – Anh còn nhớ Vảy Ghẻ 22 không? – nó hỏi tôi.

Tôi lắc đầu.

- Hắn là một trong những tên làm vườn của Bóng 3, - Hun Xoc chen ngang, - mặt hắn đầy mụn cơm và rất khó coi. Hắn luôn đi tắm hơi một mình. Nhưng có một lần, Rắn Chuông 22 bất chợt bước vào và nhìn thấy đầu chim hắn bị cắt cụt. Và hắn không chịu kể cho chúng ta chuyện ấy xảy ra như thế nào.

- Anh có nhớ chúng ta đã phát hiện ra chuyện đó như thế nào không? Với Tóc Cứt ấy? – Tay 2 hỏi.

- Cậu hỏi tôi à? – tôi hỏi lại.

Nó gật đầu.

Tôi lắc đầu. Tôi quan sát Tay 2 qua tấm mặt nạ. Nó tin câu chuyện đó đến mức nào nhỉ? – tôi nghĩ ngợi, - chuyện tôi quên mình là ai ấy mà. Rõ là nó không nghĩ tôi đã thành một người hoàn toàn khác, tuy nó vẫn hơi e dè. Và tất cả những người ngồi trên con thuyền này, tất cả những người tham gia chuyến hành trình này nữa, họ tin câu chuyện đó đến mức nào? Liệu họ có tin tất cả những gì Sọ Đá Quý 2 nói, hay chỉ chấp nhận thế thôi? Họ có phải lũ đần đâu. Nhưng mặt khác, ở đây người ta cũng không có nhiều ý niệm về sự nghi ngờ tôn giáo. Có lẽ mỗi người trong số họ suy nghĩ một khác. Người thì tin, người thì nghĩ các vị thủ lĩnh của mình đang phóng đại mọi chuyện.

Và đương nhiên, ngay cả khi họ có tin đi chăng nữa, họ cũng vẫn tức giận tôi vì đã làm hỏng việc của Chacal. Hẳn là Sọ Đá Quý 2 có giải thích với họ chuyện này, ông ta nói tôi đến cũng là để cứu Chacal nữa… song thể nào cũng còn chút oán giận. Và có lẽ cả sợ sệt nữa. Họ không chắc tôi có phải là người hay không.

Thôi, đừng có hoang tưởng nữa. Mọi chuyện có phải chỉ xoay quanh mày đâu.

Tay 2 nói tiếp:

- Ờ, trên đường thi đấu ở đây về, chúng ta đã nghĩ lại ở cái làng mọi này. Có một k’aak – tức là một con bé mọi – nó muốn ngủ với tất cả chúng ta, tất cả những người chơi bóng hông. Nó có mớ tóc dài với những vệt màu nâu. Lúc nào nó cũng luẩn quẩn xung quanh và họ gọi nó là Tóc Cứt. Anh nhớ không?

- Không, - tôi đáp. Thực ra tôi cũng thấy gợi gợi lên chút gì đó trong đầu, nhưng phải cần thêm gợi ý thì mới nhớ ra được.

- Thế anh cũng không nhớ lúc anh đang ngủ thì Bướm Đen 1 xát c’an aak’ot vào chim anh à?

Tôi lại ra hiệu “không”.

- Thế chuyện gì xảy ra? - Lưỡi Cưa 4 hỏi.

- À, Cha… À… anh này tỉnh dậy, - Tay 2 nói, - anh ta nhảy dựng lên, nắm cái ấy, nhảy tưng tưng và gào lên: “Nó căng quá! CĂNG QUÁ!!!” - Chắc c’an aak’ot là một loại ma tuý nào đấy gây ảo giác kích thích dương vật – Anh ta chạy cuồng lên quanh sân và nhìn thấy Tóc Cứt. Anh ta kêu lên: “a ha!”, tóm lấy con bé và “ấy” vào lỗ đít nó. Thế là, một lúc sau, anh ta thấy thoải mái, ngồi lau sạch cái của quý của mình, nhưng lại đến lượt Tóc Cứt nhảy tưng tưng lên. Nó gào: “Ui, ui, ui, ui, ui, ui!”.

Chắc các bạn cũng hình dung ra Tay 2 vừa bắt chước các giọng kêu, vừa đùng đùng diễn lại động tác đó làm chuyển cả con thuyền.

- Thế là nó ngồi xổm xuống và ị. Cứt tuôn ra và tất cả chúng tớ đứng nhìn. Lát sau, con bé ỉa ra cả ruột. Và cứ thế lòng ruột tuôn ra từ đít nó, cuộn thành một đống dưới đất, một con chó chạy đến, đớp lấy một đầu và chạy đi, làm chỗ lòng bị lôi tuồn tuột tiếp ra. Nó bắt đầu ăn, lòng ruột cứ thế bị lôi ra, Tóc Cứt mặt nhăn nhúm lại như thế này này, và một đoạn lòng có một cục lồi lên. Thế là anh này - ý nó nói tôi - giật chỗ lòng ra khỏi miệng con chó, đẩy cái cục kia ra đằng đầu ruột đã bị nhai nát. Nó rơi xuống đất. Một thứ khẳng khiu, nhăm nhúm và đầy mụn cơm. Đó là cái đầu chim của Vảy Ghẻ 22! Thế là anh này hét lên: “Cái chim này có ở đâu thì tao cũng nhận ra! Nó là của Vảy Ghẻ 22! Thằng nào đi tìm nó về đây đi! Chúng ta tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi!”.

Mấy thằng đầy tớ phải cắn chặt môi để nén tiếng rúc rích. Bướm Đêm 3 và Lưỡi Cưa 4 thì cười rũ ra. May mà những người chèo thuyền không hiểu thứ tiếng riêng của nhà chúng tôi.

- Tôi không biết chuyện này đấy, - tôi nói. Và tôi cũng lăn ra cười. Có lẽ nó cố tình làm thế. Các bạn mà được ở đó thì…

- Đủ rồi, - Hun Xoc nói, - thôi đi. Bọn Búa Lớn có thể ngửi thấy mùi chúng mày đang căng cứng lên đấy.

Không biết tôi đã nhắc tới chuyện này chưa, nhưng chúng tôi không được phép sa đà vào bất cứ thể loại nào liên quan đến tình dục trong chuyến đi này. Một chuyến đi dài cũng được coi giống như một chuyến đi săn thiêng liêng. Anh thậm chí không nên “dựng lều” nếu có thể nén được, bởi, như Hun Xoc nói, nó sẽ khiến kẻ thù ngửi thấy mùi chúng tôi, giống như đánh động con mồi trong chuyến đi săn. Nhưng dĩ nhiên, đám k’iik này phần lớn vẫn còn là trẻ con, và dĩ nhiên, là giống đực.

- Chúng ta phải là sac kanob, - Hun Xoc nói tiếp. Sac kanob nghĩa là rắn mũi thương. Câu đó ý nói rằng hơn tất cả các loài rắn khác, rắn mũi thương nhanh, khó phát hiện, và đặc biệt là lặng lẽ.

Tay 2 bèn ngồi yên.

- Hơn nữa, - Hun Xoc nói, - mày thêm thắt cũng quá đấy. Có một đoạn ngắn tí bị lòi ra thôi.

Nó ngả người ra và nhét một nhúm thuốc lá nhai vào miệng. Trời đã sập tối. Không còn chút ánh le lói nào. Sau khi đi qua một đống lửa hội mừng ở Comalcalco, chúng tôi rẽ về hướng tây bắc – hướng của thần chết – lái thuyền chạy vuông góc với hai ngôi sao của Teotihuacán, ngôi Kền Kền Cái và Vết Thương Của Kền Kền Cái; đó chính là ngôi sao mà ngày nay chúng ta gọi là Thuban và vệ tinh màu đỏ của nó: Alpha Draconis. Vào năm 3113 trước công nguyên, năm bắt đầu của hệ thống lịch Long Court, Thuban chính là ngôi sao nằm ở vị trí sao bắc đẩu. Tôi chưa từng nhìn thấy màu đỏ của nó rõ đến thế, kể cả qua kính viễn vọng. Hun Xoc nói chúng tôi đang tiến đến gần hai ngôi sao đó, gần đến mức có thể nghe thấy tiếng chúng kêu xèo xèo khi chạm vào mặt nước. Tôi có thể nghe thấy âm thanh mà thằng bé ám chỉ. Tiếng động đó nghe như tiếng xèo xèo của đầu mẩu thuốc lá rơi xuống vũng nước mưa, nhưng dĩ nhiên đó chỉ là tiếng sóng biển. Đám vi khuẩn phát sáng lập lòe theo mỗi nhịp mái chèo nhúng xuống nước, hệt như tia sáng bắn ra theo nhịp đập đá lửa. Trước lúc bình minh, thời khắc thích hợp nhất để tập trung, tôi ngả người qua mạn thuyền – cố tránh nhìn vào cái bóng của khuôn mặt mới vì nó luôn làm tôi hoảng hồn – và thử điểm danh các loài lưỡng tính. Có tôm bạc hà, những con nhuyễn thể bơi thành từng dải dài đỏ quạch, những con sứa khổng lồ và một loài có hình phiến lá oải hương nhìn như sứa răng lược nhưng tôi không nhận ra là loài nào. Có lần, tôi nhìn thấy một con mà tôi biết chắc chắn chưa từng được mô tả, nhưng khi tôi thò tay xuống định tóm lấy nó thì trong nước đầy nọc sứa làm tay tôi ngứa ran, thế là hụt.

Toán vệ sĩ bắt kịp chúng tôi vào buổi trưa. Họ đi trên một chiếc thuyền thân hẹp giống thuyền đua với mười người chèo và mười người nghỉ chờ tiếp sức. Hun Xoc và các k’iik khác đã đặt tay lên cây lao, nhưng chiếc thuyền được quấn những tràng hoa giấy mang màu sắc của thị tộc Đại Bàng, và khi đó đến gần thì họ nhận ra. Thuyền chúng tôi đi sát vào bờ và đậu vào chỗ khuất gió của một bãi cát nổi.

Gã chỉ huy leo lên thuyền của tôi và đi ra phía cuối thuyền. Người ngồi lái rời khỏi vị trí, hắn cùng những người khác đi ra mũi thuyền để năm chúng tôi, lần này có cả tôi, bàn chuyện.

Có một toán đông đang bám theo chúng tôi, gã vệ sĩ nói, ít nhất là mười hoặc mười lăm người, chính là những kẻ đã theo chúng tôi trên sông.

Chúng tôi không cưỡng được cái quay đầu nhìn về hướng đông. Trên mặt nước có vô số thuyền bè, nhưng hắn nói chúng còn cách quá xa nên chưa thể nhìn thấy.

Cá Sấu 12 ra lệnh cho lính trinh sát lên bờ, thuê hai chiếc thuyền nhỏ hơn và theo dõi những kẻ đang theo dõi chúng tôi. Trong lúc đó, chúng tôi sẽ vượt thật xa chúng. Nếu chúng biết chúng tôi đang đi đâu, chúng sẽ không rời khỏi mặt nước, bằng không, chúng sẽ đỗ lại ở tất cả các cảng để kiểm tra xem chúng tôi có đi qua đấy không.

- Và đừng quay về đoàn khi chưa phát hiện chắc chắn chúng là ai – ông ta dặn.

Kết cục là, thay vì lên bờ hôm nay, chúng tôi lại tiếp tục lên đường, ra xa ngoài khơi, đi chếch về hướng bắc thay vì tây bắc và thưởng cho những người chèo thuyền món đầu tiên để họ tăng tốc. Đêm nay, chúng tôi sẽ đổi hướng một lần nữa về phía tây để cắt cái đuôi lẵng nhẵng đằng sau. Đội lính gác quan sát chân trời phía sau chúng tôi, dùng những tấm da cuộn lại như ống nhòm, nhưng sương mù mỗi lúc một dày, hay đúng hơn là mờ mịt nên họ không phát hiện được điều gì khả nghi.

Sáng ra, mặt nước gợn vết mỡ loang óng ả từ xác cá voi và lều phều những con cá chép trương phềnh. Chúng tôi không nhìn thấy, cũng không cảm thấy bụi rơi xuống người, nhưng ai nấy đều xám đen đi, và nếu có người quết một miếng giẻ ướt lên mặt chúng tôi thì nó sẽ đen sì đi lập tức. Xác cá chết thu hút những con mòng biển từ khắp nơi trên thế giới đổ về. Tôi không nói quá đâu. Chắc chắn thế đấy. Có những con chỉ nhỏ bằng con quạ, nhưng cũng có những con to phải bằng loài khủng long có cánh. Khi chúng tôi đi qua cái xác trắng bị rỉa nham nhở của một con cá heo – tôi đoán thế - thì vô số mòng biển cất cánh bay lên, nhiều đến mức những người chèo thuyền tưởng chúng được ấp nở ra từ trong xác con cá. Ruồi nhặng nữa, đông đặc, đến gió biển cũng chẳng đủ để xua bớt đi, thế nhưng Cứt Ta Tu rất chịu khó, nó liên tục dùng túm phất trần tết bằng tóc phủi người cho tôi, vài giờ mới đổi tay một lần cho đỡ mỏi. Khổ thân thằng bé.

Đêm thứ chín kể từ khi rời Ix, biển bắt đầu trở gió. Họ dùng những tấm ván dài nối hai chiếc thuyền lại với nhau để tạo thành một kiểu thuyền đôi. Chúng tôi buộc phải bơi xa bờ hơn nữa để đề phòng gió mạnh có thể đẩy chúng tôi về phía vách đá. Bão rồi, - tôi nghĩ, - chúng ta thành mồi cá mú mất. Thôi rồi lũ chim biển. Chúng tôi sẽ đâm phải chúng trước tiên. Nhưng cái cơn phải gió ấy cũng qua đi và áng chừng khoảng ba giờ sáng, mặt trăng to lớn, đỏ quạnh hiện ra từ sau những đám mây, nhìn hệt như nửa viên thuốc Valium 5 miligam, rơi tõm xuống mặt nước. Hôm sau, chúng tôi cập cảng một thành phố tiền đồn của người Teotihuacán có tên là Nơi Chúng Bị Mù Mắt, nằm bên bờ bắc của một hồ nước sau này được gọi là Laguna de Alvarado. Nó thực ra chỉ gồm những con đường đắp bằng bùn dẫn xuống một cửa sông nước nông, đậu chật kín nào thuyền, nào xà lan với những đội chèo thuyền nói năm mươi thứ tiếng khác nhau. Có cả một khu trại lớn nơi những người thợ ướp muối ướp thịt chuột đầm lầy và cá phèn, dù đã có gió xua bớt nhưng ở đây vẫn ám mùi thối của cá ươn và không khí nói chung có mùi khó chịu.

Trong khi các ông lớn mặc cả, Tay 2 và Cứt Ta Tu đặt tôi ngồi vào một thứ dạng như cái lều di động đan bằng cành liễu, tựa như cái xe tắm (Một loại xe dành cho người đi tắm biển, thịnh hành vào thế kỷ 19. Chiếc xe chở người tắm ra đến mép nước và người tắm từ trên xe lội thẳng xuống nước để tránh phải đi một quãng đường dài trước mắt thiên hạ trong bộ đồ tắm).Tôi lấy ra một tập giấy gấp mới với cái bìa còn trắng tinh. Tôi định dùng một mẩu than chì nhưng Bướm Đêm 3 đã kiếm được cho tôi vài mảnh quặng sắt đỏ có thể vạch nét khá rõ trên nền đá phấn, không kém gì trâm bạc. Thế là sẵn sàng.

Tôi viết thêm một bức thư gửi về nhà dưới dạng mã hoá như sau:

(đã giải mã)

TỪ KHÓA MỚI: AWHNNBAGHSDDLPFSETQHYTAHBDSZ

Jed DeLanda

Viết tại: Tacoanacal Pana’ Tonat (Alvarado)

Gửi: Nhóm Chocula

Tại: Phế tích Ix, Alta Verapaz, Guatemala.

Khoảng 11 giờ sáng, thứ Tư, ngày 31 tháng 3 năm 664 Công nguyên.

Marena, Taro, Jed và mọi người thân mến,

Chắc mọi người cũng nhận thấy, trong bức thư đầu tiên, tôi đã định thử mô tả một số nét đặc trưng của địa phương nhưng lại thôi. Trong phần này, tôi sẽ chỉ tập trung vào vấn đề chính. Như tôi đã nói, nhiệm vụ đầu tiên của tôi khi đến Teotohuacán là tìm cách diện kiến người phụ nữ được nhắc đến trong cuốn Thư tịchNurnberg, Ahau-na Kor. Sau đây là những gì tôi tìm hiểu được về bà ta, cho đến lúc này:

Bà ta sinh, hay chính xác hơn, được đặt tên vào ngày Đỉnh núi 1, Ngỗng trắng 1. 9.10.13.13.13, tại một thành phố nhỏ ở B’aakal tên là Mía ủng, thuộc quần thể bao quanh Lakama, Palenque. Bà ta là người thuộc gia tộc cai trị thành phố đó, những người được coi là hậu duệ của loài chim chứ không phải loài mèo, và là con cháu của bà ngoại Sọ Đá Quý 2. Từ khi lên năm tuổi, bà ta đã bộc lộ năng khiếu và một người đếm mặt trời ở Hội Rắn Chuông Lakamha đã dạy bà ta chơi cờ Hiến tế. Bà ta chơi xuất sắc một cách khác thường, và sáu năm sau, Hội Rắn Chuông đã gửi bà ta đến Teotihuacán để học tiếp với Nhện Dệt Cầu Vàng, một dạng giống như nhà tu kín dành cho nữ giới phụng sự trong dòng tu thờ Rắn Chuông ở đó.

Tôi nghĩ tôi nên nhắc tới điểm này, ngay cả khi nó làm câu chuyện trở nên rối rắm: Nhện Dệt Cầu Vàng – nó được lấy theo tên loài nhện dệt cầu vàng có tên khoa học là nephila clavipes – là một bộ phận thuộc cái gọi là Kền Kền, hay Trắng, hay Thời Bình, chính là một nửa Giáo hội của Teotihuacán.

Mục đích của việc này có lẽ là để củng cố mối quan hệ giữa Lakamha và Teotihuacán. Mặc dù Kor phải chính thức tuyên bố từ bỏ quan hệ với gia đình để gia nhập dòng tu thờ phụng Rắn Chuông, nhưng mối liên hệ đó vẫn có lợi ích chính trị đối với gia đình bà ta, nhất là nếu như sau này bà ta quay về. Sọ Đá Quý 2 có nói rằng khi công nương Kor rời nhà, thủ lĩnh của tất cả các thị tộc họ chim trong vùng đã gửi quà biếu. Sọ Đá Quý 2 tặng bà ta một người làm trò uốn dẻo rất giỏi tên là Nhím 0, và hình như đến giờ hắn vẫn là tên hề được bà ta sủng ái nhất. Ở Teotihuacán, bà ta là một trong số rất ít phụ nữ trở thành người đếm mặt trời chín sọ, một trong những người biết cách sử dụng, và có thể biết cách pha chế các loại ma tuý của trò chơi. Người ta đồn rằng bà ta có thể nói chuyện với ruồi và sau mỗi mùa hòa bình lại thay da một lần. Giống như một vài thành viên Maya khác trong dòng tu, Kor hoặc đã quyết định không trở về vùng đất của người Maya, hoặc đã bị ngăn trở bởi những khúc mắc căng thẳng giữa đạo thờ Rắn Chuông  và các thị tộc cai trị. Người ta còn đồn đại nhiều chuyện khác nữa, nào là áo quần bà ta mặc được dệt bởi những con nhện, nào là bà ta nhớ được cả lúc nằm trong bụng mẹ, nào là bà ta có thể tự lột bỏ da. Hội Rắn Chuông Sao của Teotihuacán được sáng lập bởi một ahau lai dòng máu Maya tên là Xc’ux Tsuc 11(nghĩa là Rắn San Hô 11), người đã đưa gia tộc của mình đến định cư tại thành phố này vào ngày mùng 9 tháng 8 năm 106 Công nguyên. Nó lớn mạnh một cách vững chắc qua nhiều thế kỷ. Trong khi đó, hội đồng của thành phố vẫn bị chi phối bởi hai thị tộc Kền Kền và Bướm Đuôi Nhạn. Nhưng từ tám năm trước, hai thị tộc lớn này và các dòng tộc chi nhánh của họ lên tiếng đòi lại vị trí thống trị tôn giáo cho các vị thần bảo trợ của họ là Bão Lốc, hay còn gọi là Ông Già Nhăn Nheo, và Koatalatcacalanako, nữ thần nước có nanh mà họ gọi là Phù Thủy Ngọc Bích. Hội Rắn Chuông bị hạ bệ và bị buộc phải xây một bức tường chắn tầm nhìn của Kim Tự Tháp Rắn Chuông xuống quảng trường chợ thiêng liêng của Teotihuacán, nơi trước đó do họ cai quản. Do vậy, Nhện Dệt Cầu Vàng có thể đang bị chèn ép và có lẽ họ sẽ sẵn sàng thỏa hiệp với tôi để thoát khỏi tình thế đó. Chúng ta sẽ chờ xem.

Tôi vẫn chưa có kế hoạch nào khả dĩ hơn. Phải thú nhận rằng tôi đã tính đến chuyện chuồn đi và dựng lên một nhân vật tựa như Jim – Chúa tể rừng xanh. Biết đâu tôi có thể chiếm được cho mình một cái làng hẻo lánh chết toi nào đó, huấn luyện họ bắn cung rồi dẫn quân về Ix và lật đổ cái thành phố ấy. Nhưng để làm được việc ấy, phải cần đến rất nhiều thời gian mà tôi không có.

Tôi cũng tự hỏi liệu còn cách nào khác để giải quyết chuyện này. Chẳng lẽ không có người đếm mặt trời chín sọ nào ở gần Ix hơn để chúng tôi có thể bắt giữ và ép khai ra cái bí mật kia?

Nhưng khi tôi đề xuất việc này với Sọ Đá Quý 2, ông ta đưa ra ba lý do phản đối rất hợp lý.Thứ nhất, những người đếm mặt trời của thị tộc mèo kia thà chết chứ không bao giờ để bị bắt. Cái chết đối với họ chẳng là gì sất, anh chỉ cần nhìn họ với ánh mắt hơi là lạ thôi là họ sẽ tự vẫn ngay. Và ngay cả khi anh bắt được một người và giữ hắn không tự tử được đi chăng nữa thì cũng chẳng có cách nào khiến hắn nói thật cho anh bất cứ điều gì. Người ta luôn cho rằng chẳng ai có thể chịu đựng được mãi dưới những ngón tra tấn lành nghề, nhưng điều đó không đúng, chí ít là ở đây. Theo lời Sọ Đá Quý 2, anh có thể khiến một người kêu gào suốt hai mươi tư giờ một ngày, bảy ngày một tuần trong hai mươi năm liền nhưng cũng đừng hòng hắn cho anh biết bây giờ là mấy giờ. Thứ hai, những người đếm mặt trời ở vùng này chỉ có một lượng nhỏ thuốc đã pha chế sẵn. Còn thứ mà Sọ Đá Quý 2 muốn là công thức chế biến trọn vẹn, cây cỏ hoặc bất cứ thứ gì nằm trong thành phần thuốc nếu tôi có thể mang chúng về nguyên vẹn.

Nhân tiện, Sọ Đá Quý 2 cũng nói luôn vì sao chúng tôi không thể đánh cắp thuốc của nhà Mèo Rừng. Như chúng ta đã thấy qua ra-đa, có cả một mạng lưới hang động ăn sâu vào dãy núi phía sau kim tự tháp của nhà Mèo Rừng. Vào lúc này, hình như họ đang đào hầm mộ cho Chim Ruồi Có Nanh 9 trong một trong những cái hang đó. Người ta đồn dưới ấy có cả một làng thầy tế chẳng bao giờ ló mặt ra ngoài, chỉ ở đó để giữ chặt số thuốc. Thậm chí nếu chúng tôi có tìm ra số thuốc nằm ở đâu, họ cũng sẽ nuốt chửng hết và tự tử trước khi chúng tôi lấy được. Cũng phải công nhận rằng việc hối lộ thường không có tác dụng đối với những người thuộc giới quý tộc. Không tài nào mua chuộc được họ.

Bốn mươi năm trước, nhà Mèo Rừng đã ám sát toàn bộ những người đếm mặt trời giỏi nhất của các thị tộc khác. Sọ Đá Quý 2 mới chỉ đạt bốn sọ, vậy mà ông ta đã là người đếm mặt trời cấp cao kiêm ahau của nhà Đại Bàng. Người đếm mặt trời tám sọ của ông ta đã chết nhiều năm trước, và hiện nay, người duy nhất đạt trên đẳng cấp bốn sọ còn lại ở Ix là Gió Lốc 11 của nhà Mèo Rừng. Nói đến đây, như mọi người đều biết, tất cả những người đếm mặt trời chín sọ ở ngoài Teotihuacán điều phục vụ cho các thị tộc báo đốm.

Giữa những người đếm mặt trời nam và nữ cũng có một vài mâu thuẫn. Chuyện kể rằng, vào thời xa xưa, hầu hết người đếm mặt trời là nữ giới và những người đếm mặt trời nam giới phải tự thiến mình để chơi tốt hơn. Có người nói người đếm mặt trời nữ giới dự đoán chính xác hơn nhưng họ đã bị phe nam giới hất cẳng. Hình như hội của Koh đã phải biến mình thành nam giới để tránh rắc rối. Nghe đâu Koh và  những người đếm mặt trời nữ giới khác của Hội Rắn Chuông có cả vợ, những người vợ, hay nàng hầu gì đó. Nhưng đó cũng có thể chỉ là những lời đồn tục tĩu.

Sọ Đá Quý 2 nói nếu tôi đem về được những thứ như dự tính, ông ta sẽ biếu một lượng lớn thuốc cho thủ lĩnh của các thị tộc không thuộc dòng dõi Mèo Rừng ở Ix và tuyên bố rằng việc ông ta chế ra được thứ thuốc này chứng tỏ ông ta, chứ không phải Chim Ruồi Có Nanh 9, mới là người được Mèo Rừng 1, người sáng lập ra thành Ix theo truyền thuyết, lựa chọn để cai trị thành phố. Việc này sẽ khiến nhà Mèo Rừng mất uy thế, đủ để Sọ Đá Quý 2 nhận được sự ủng hộ của các dòng họ quý tộc khác ở Ix. Khi họ đã hoàn toàn đứng về phe ông ta, ông ta sẽ tìm một cái cớ nào đó để hủy trận đấu bóng hông. Lý tưởng hơn, các thị tộc lớn sẽ phế truất nhà Mèo Rừng và tôn Sọ Đá Quý 2 làm ahau. Sau đó, nếu sống được đủ lâu, ông ta sẽ rời Ix, lập nên một thành phố riêng ở đâu đó về phía đông. Bởi theo các chứng cứ khảo cổ, dòng tộc của Sọ Đá Quý 2 có thể duy trì quyền lực tại một thành phố khác thêm ít nhất hai trăm năm nữa.

Sọ Đá Quý 2 hứa với tôi rằng nếu tôi đưa được Koh hay một người đếm mặt trời chín sọ nào đó về, cùng với phương thức pha chế các món thuốc, ông ta sẽ đảm bảo sao cho tôi được táng cùng với toàn bộ số thuốc và thông tin ghi chép được trong một hầm mộ không bị ai để ý, với những viên đá nam châm sắp xếp theo đúng cách. Dĩ nhiên, tôi cũng nhận thức được rằng những điều này đa phần chỉ là dự tính. Ông ta liệu có thực lòng với chúng ta không? Hừ, đương nhiên tôi sẽ ngầm để ý theo dõi ông ta. Nhưng tôi nghĩ, bất chấp mọi chuyện đã xảy ra, sau những cuộc luận bàn bí mật giữa hai chúng tôi, tôi và Sọ Đá Quý đã trở nên khá thân thiết. Chúng tôi hiểu nhau. Và theo như tôi thấy, đến giờ, ông ta chưa hề nói dối tôi.

Tôi gửi kèm theo sau đây năm mươi sáu trang giấy ghi chép những điều tôi mới tìm hiểu thêm về cờ Hiến tế. Các vị sẽ thấy trong một thời gian ngắn trước khi tôi rời Ix, Sọ Đá Quý 2 đã dạy tôi vô khối những chiến thuật và quy tắc chơi mới (đối với chúng ta thôi). Ông ta cũng huấn luyện tôi các nghi thức mà, theo lời ông ta, sẽ khiến tôi đủ tư cách đấu với bất cứ người đếm mặt trời Maya nào.

Chắc các vị cũng thắc mắc liệu Sọ Đá Quý 2 có dạy hết cho tôi những gì ông ta biết về trò chơi không. Chính tôi cũng băn khoăn điều này. Bởi một lẽ, tôi hiểu về trò chơi đủ để khẳng định rằng ngay cả khi học đến mười năm với Sọ Đá Quý 2, may mắn tôi cũng chỉ chơi được với sáu viên đá. Và như thế hiển nhiên còn xa mới so được với chín viên. Tôi có bỏ ra hàng năm luyện tập cũng không thể nhìn xa được quá một k’atun, chứ đừng nói gì đến tám mươi. Vì thế, hoặc tôi phải tìm được một ông thầy chín sọ, hoặc LEON phải được cải tiến thật nhanh, hoặc món thuốc phải vô cùng hiệu nghiệm, nếu không chúng ta sẽ xôi hỏng bỏng không. Còn về chuyện Sọ Đá Quý 2 có giấu nghề với tôi hay không, hoặc ông ta có sai người đếm mặt trời của mình làm xáo trộn ván chơi một cách cố ý hay không thì …hừ, tôi không dám nói chắc. Tôi không nghĩ ông ta làm thế. Nhưng các vị cũng biết đấy, tôi có bao giờ giỏi xét đoán người khác đâu.

Sọ Đá Quý 2 đã hứa nếu tôi không thể đích thân đưa những mẫu ghi chép này về, ông ta sẽ chôn nó trong hầm mộ cùng mọi thứ liên quan đến trò chơi mà ông ta có thể kiếm được và đặt những viên đá nam châm theo đúng cách chúng ta đã bàn, sát vị trí định trước hết mức có thể. Mặc dù tôi không quá lạc quan về số phận của Sọ Đá Quý 2 sau trận bóng hông… nhưng tôi vẫn có dự cảm tốt lành về việc sẽ đến Teotihuacán kịp lúc và bắt đầu một giai đoạn thành công hơn trong chuyến hành trình lần này.

Một lần nữa, xin cảm ơn sự tin tưởng của các vị.

Xin chúc mọi điều tốt lành,

JDL,

Xin xem tài liệu đính kèm.

43

Người ta gọi thác nước Nacouintan là "Xcaracanat" - "Nơi Khai Thiên Lập Địa" - bởi nữ thần Cóc Đất đã bị xẻ xác ở đây sau khi sáng tạo ra thế giới, mắt thần hoá thành các hồ nước, sông suối, hang động, và đại dương trở thành vũng máu nơi thần hấp hối. Mưa Chết 18 nói thần có miệng ở cả khoeo chân, khoeo tay, cổ tay và vô số các khớp khác, và những cơn núi lửa phun trào chính là tiếng kêu đòi máu và thịt để có thể tiếp tục sống với những vết thương. Lão trao cho các thầy tế ở đó một tên phu nô lệ mà chúng tôi không hài lòng. Các k'iik ngồi chờ dưới một mái che dành cho khách qua đường và mặc cả mua bán với bọn hàng rong. Hun Xoc từ ngoài đường quay về, ngồi xệp xuống cạnh tôi.

- Chúng ta vừa phải nhận thêm mười tám con rùa đất hai chân - nó bảo tôi. Nghĩa là chúng tôi vừa phải mua thêm nô lệ và chúng có vẻ không thạo khuân vác cho lắm.

Tôi ra hiệu "ừ".

- Không phải là tiếc tiền, - thằng bé nói tiếp, - nhưng có quá ít phu khuân vác chuyên nghiệp. Thà rằng cứ dùng một toán nô lệ chưa biết gì, khi nào chúng kiệt sức thì bán đi hoặc cứ vứt lại bên lề đường rồi thuê người thay thế trên đường còn hơn.

Tôi ra hiệu "chí phải", tức là ra hiệu "ừ" hai lần để nhấn mạnh. Từ đây đến Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh vẫn còn tới hai trăm bốn mươi dặm nữa, gần như thẳng hướng táy. Nếu đi liền hai mươi tiếng một ngày, chúng tôi có thể đến nơi vừa hay trước lúc đóng cổng giới nghiêm. Nhưng đường xá cứ mỗi lúc một đông.

Hun Xoc nhìn tôi. Tôi cũng nhìn lại.

- Tôi đang nói chuyện với Chacal hay Thần Lằn Chân Lùn 10 thế? - Nó hỏi. Một câu hỏi vu vơ, nhưng nó biết cách tóm được anh lúc không đề phòng.

- Chacal đi rồi, - tôi đáp, - tên thật của tôi là Jed DeLanda.

- Jed DeLanda? - Nó lặp lại.

- Đúng thế, - tôi đáp. Thằng bé phát âm từ đó rất chuẩn xác. Nó vốn là thợ săn và thường xuyên luyện tập cách bắt chước tiếng kêu của động vật.

- Vậy thì Jed, bên cạnh tôi, anh từ đâu đến?

- Tôi đến từ một nơi gần Ix, - tôi đáp.

- Anh đến từ thời gian nào?

- Từ b'ak'tun thứ mười ba.

- Tôi chắc Sọ Đá Quý 2, ở trên chúng ta, không nghĩ chúng tôi cũng biết điều đó.

- Phải.

- Ờ... - nó nhìn nhanh vào mắt tôi rồi lại quay nhìn phía trước, - ở đó như thế nào?

- À, chúng tôi biết rất nhiều thứ, - tôi đáp, - và người ta xây dựng rất nhiều thứ, các thành phố lớn hơn cả Teotihuacăn... Ởb'ak'tun thứ mười ba, chúng tôi không đi bộ như ở đây, chúng tôi lướt đi trên những cái xe cáng lớn đặt trên bánh lăn, chỉ có điều, những cái bánh lăn chạy theo cùng xe nên không phải chuyển sang bánh lăn khác. Và chúng tôi đi nhanh hơn thế này rất nhiều.

- Ờ. Thế anh đã tới thành phố Lưỡi Dao rồi à?

- Rồi, nhưng ở b'ak'tun thứ mười ba, nó chỉ là những khối đá rỗng thôi.

- Thế anh, ngồi gần tôi, biết xa hơn về phía tây bắc của Teotihuacán có gì à?

- Phải.

- Ở đó có gì?

Tôi trả lời rằng ở đó còn rất nhiều đất đai nữa, rồi đến biển, rồi lại thêm đất đai ở nửa kia của trái đất hình tròn như quả bóng. Tôi nói rằng chúng ta không văng khỏi mắt đất là nhờ quả bóng đó giữ chúng ta lại, giống như hai viên đá nam châm hút nhau. Tôi nói rằng trái đất quay quanh mặt trời, là một quả bóng to hơn nhiều, cháy sáng.

- Nhưng lớp vở thứ không cũng có lửa cháy mà.

Tôi đáp rằng đúng, trái đất cũng nóng ở phần giữa.

- Nó nằm dưới Xib'alb'a à?

- Không có Xib'alb'a nào cả, - tôi đáp. Hình như tôi hơi cáu kỉnh thì phải.

- Tôi biết là có mà, - Hun Xoc nói, - tôi nhìn thấy nó rồi.

Richard Halliburton, người từng đi khắp thế giới và quay trở về hai lần, kể rằng người ta đã rất ngạc nhiên khi hỏi ông đất nước nào đẹp nhất và nhận được câu trả lời "đó là Mexico". Nhưng đối với người dân Mexico và những vùng lân cận thì điều đó hoàn toàn chẳng có gì đáng ngạc nhiên, dù từ bấy đến nay, nó đã bị xén tỉa đi rất nhiều, theo đúng nghĩa đen. Và rất nhiều người sẽ khẳng định rằng con đường cổ xưa dẫn từ Veracruz đếnPuebla(Veracruz và Puebla là hai bang của Mexicolà con đường đẹp huy hoàng nhất Mexico. Song nếu ai đó muốn lập một kỷ lục đi bộ ở đây thì người ấy chắc chẳng còn hứng thú đâu mà ngắm cảnh. Chúng tôi đi chen lấn và khó nhọc.

Đường luôn có xu hướng dốc lên. Chúng tôi đi qua nhiều làng mạc vô danh tới mức đếm đến 455 thì tôi bị lẫn. Các bạn chỉ cần hình dung ra cụm từ hết làng nọ đến làng kia với một cái gạch ngang trên đầu để thể hiện rằng nó lặp đi lặp lại không bao giờ dứt. Mỗi ngôi làng đều có một hoặc hai kim tự tháp nhỏ xoàng xĩnh nằm chính giữa những túp lều quây thành một vòng tròn. Hàng bầy trẻ con còi cọc và những đám hạ lưu chăm chăm xoáy đồ của khách bộ hành, nhất là những người có vẻ đơn độc, không ai giúp đỡ. Chiều tối, khi chúng tôi đang chạy - nói cho đúng thì những người khiêng kiệu của chúng tôi chạy còn chúng tôi thì chen lấn nhau - giữa hai dãy núi thấp, không có đoàn khách bộ hành nào khác trong tầm nhìn, tôi nghe thấy tiếng một đàn chim từ hướng bắc bay về phía chúng tôi. Điều kỳ cục là xét qua tiếng kêu, đàn chim này dường như bao gồm tất cả các loài khác nhau, mòng két, sáo đá, cú quạ, tất tần tật bay chung một đàn, mà điều này thì không thê. Khi chúng bay ngang qua đầu, tôi nhận ra đó là một đàn gồm hàng trăm con vẹt đuôi dài, giống chim to cồ cộ, pha đủ màu sắc xanh,đỏ,đen, trắng, vàng, không khác gì những con tinh tinh đu bay trong bộ trang phục hề nhưng lại có cái đuôi dài to tướng. Hun Xoc, người đi trước tôi có vài bước chân, nhảy xuống khỏi lưng gã phu khiêng kiệu, bước ra ngoài, khum tay lên miệng và hát to lên với đàn chim:

"Ah yan, yan tepalob' ah ten Ix tz'am!

Ah ten popop u me'enob nojol...

Hỡi đàn vẹt đuôi dài kiêu hãnh

Hãy đến Ix của chúng ta ở phương nam,

Nói với người già và người trẻ,

Đàn ông và đàn bà,

Hãy hát trong vườn,

Hát trước ngưỡng cửa,

Rằng hãy đợi chúng ta trở về,

Kiên nhẫn và can đảm,

Đợi chúng ta trở về, trở về, trở về...

Đàn chim bay tản ra rồi xúm lại gần nhau, lượng vòng hình bán nguyệt trên đầu chúng tôi, cánh vỗ san sát. Cơn lốc màu sắc khiến màu trắng của trời như bị xé nhỏ ra thành từng mảnh. Vài cục phân chim rơi xuống, suýt chúng người tôi, nhưng rơi thẳng vào ngực Cứt Ta Tu, ừ thì nó ở đó để làm việc ấy mà, - tôi nghĩ. Lũ chim nghe lời bài hát của Hun Xoc và nhai lại với cái giọng khàn khàn nhưng nghe khá rõ, láy đi láy lại và nhỏ dần khi chúng bay khuất về phương nam: "Tu men, t'u men, đợi chúng ta trở về, trở về, trở về..."

Tối hôm đó, Cá Sấu 12 cho đoàn giảm tốc độ, chúng tôi đi bộ thong thả cho thư giãn chân cẳng. Cách đi này giống cách đi trước đây của các hướng đạo sinh, cứ đi bộ ba mươi bước lại chạy ba mươi bước, chỉ có điều, số bước của chúng tôi là suýt soát mười ngàn. Khi đến Những Bàn Tay 31, một nơi gần Córdoba (Một thành phố thuộc bang Veracruz của Mexico ngày nay), chúng tôi thấy Chtlatépetl hiện ra trước mắt . Đó là ngọn núi lửa lớn nhất ở Mexico. Sau này, nó được đặt tên theo tiếng Tây Ban Nha là Orizaba, còn Cá Sấu 12 thì gọi nó là "Nơi Lão Ghẻ Nhảy Vào Lò Bếp". Một làn hơi mờ mờ bốc lên từ đỉnh núi, nhưng tôi đoán đó chỉ là mây. Theo những gì tôi nhớ được thì lần phun trào cuối cùng của nó cách thời điểm này đã hai ngàn năm và không còn lần phun trào nào đáng kể nữa cho đến tận năm 1687.

Một cái bóng sẫm đổ xuống ngang đường; giây đầu tiên, tôi nghĩ đó là cơn bão sắp ập tới, hoặc một cuộn khói nham thạch đến từ đỉnh núi lửa nào đó đang phun trào quanh đây, nhưng sau tôi nhìn rõ đó là những con chim, chính xác là chim bồ câu; một vài con sà xuống gần chúng tôi, tôi phân vân không biết chúng là giống bồ câu gì bởi chúng có cái ức sáng bóng như thiếc với thiếc màu đỏ nóng lạ lùng, rồi tôi nhận ra đó là bồ câu di cư. Bầy chim nhất loạt đổi hướng và cả bầu trời như biến thành một rừng cây dương hoặc dương lá rung khi có gió bất ngờ thổi tới, những phiến là ngửa cái mặt dưới bàng bạc của mình lên, và đợt sóng sống khổng lồ ấy cuốn thẳng về hướng tây, về phía Nacananomacob, Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh. Một giờ đồng hồ sau, vẫn còn những con tụt lại cuối đàn bay qua. Thật khó tin là chúng lại có thể tuyệt chủng, nhưng khó tin hơn là sẽ đến một ngày, chỉ còn lại duy nhất một con và nó sẽ chết vào lúc 12 giờ 30 phút trưa ngày mùng 1 tháng 9 năm 1914. Đến giữa trưa, chúng tôi buộc phải đột ngột dừng lại ở Topacanoc, tức "Đồi Mũi", vì một sự kiêng kỵ "lối đi". Hay tôi nên nói là kiêng kỵ "hướng đi". Sự tình thế này, khi anh đi theo một hướng nhất định nào đó tức là anh đang đặt mình dưới sự bảo trợ của một vị thần nào đó, ngụ trong một quả núi nào đó và anh phải tôn kính vị thần ấy. Trong trường hợp này, Hun Zotz, nghĩa là Dơi 1, vị thần của hướng tây, sẽ khó ở cho đến khi trời tối. Họ không muốn nói cho tôi biết có chuyện gì, nhưng tôi có cảm giác rằng ông ta là một nữ thần và vừa mới đi qua bầu trời. Thật điên ruột. Đừng nổi nóng, - tôi tự nhủ, - không quan trọng đích đến cách bao xa, miễn là luôn hướng đến nó. Và chính granola sẽ đưa ta đến đích.

Giờ một-phần-chín thứ năm của đêm, Người Nuốt ánh Sáng Đỏ xuất hiện. Đó là hiện tượng nguyệt thực một phần. Người ta cho rằng mắt của Người Nuốt ánh Sáng Đỏ tựa như mắt cú, có thể phát hiện ra chuyển động trong bóng tôi. Và ông ta yêu quý nhà Ocelot. Vì thế, chúng tôi phải dừng chân hạ trại tại chỗ, trên một đồng cỏ hoang um tùm ngay sát đường cái. Những tiếng la hét dậy lên, hầu hết từ phía xa vọng lại, nhưng cũng có những tiếng gần hơn so với mong muốn của chúng tôi. Người ta đang ra sức doạ cho cái bóng biến đi. Những giọng nói già nua nhai nhải một thứ tiếng ngọng theo lối cổ nào đó của người vùng này, những từ ngữ địa phương xa lạ của khách bộ hành và người chạy lánh nạn tạm trú ở Choula, thậm chí cả chó, khỉ sóc nuôi trong nhà và mèo rừng cũng hùa theo, chúng sủa, rú, rít và phun phì phì. Tôi trèo lên vài Cứt Ta Tu và nhìn qua đám cỏ cao về hướng thành phố đang chết dần đó. Năm mươi hai vòm cửa trên mặt tường quay về phía tôi của toà kim tự tháp cổ đắp bằng đất sáng rực lên bởi những đống lửa mà các thầy tế vừa nhóm.

Cái bóng màu gỉ sắt đã chạm tới vùng tối Vaporum (Một vùng tối rộng 55.000 km2 trên mặt trăng, có thể quan sát khá rõ từ trái đất) của mặt trăng. Một chuỗi hợp âm bảy rờn rợn mà đôi tai của Chacal nhận ra là tiếng những cây kèn dài và mảnh, dùng để cầu hồn ở Mexico. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc hành trình chúng tôi nghe thấy âm thanh này, nó khiến chúng tôi bất giác rùng mình. Tám trăm năm mươi tư năm sau, những người Aztec đã dùng chính nó để doạ đuổi đội quân của Cortés. Toà kim tự tháp cháy sáng và toả khói như một quả núi lửa. Rốt cuộc, cái bóng đỏ của Người Nuốt ánh Sáng cũng biến đi - theo đúng lịch trình quỹ đạo của nó, tôi đã định bảo cho họ biết điều này, nhưng lại thôi vì muốn tỏ ra khiêm nhường. Những tiếng hò hét reo mừng cuối cùng cũng lắng xuống, chỉ còn bốn hoặc năm tiếng kèn toe toe nhức óc, hỗn độn chen lấn nhau trong một bản hoà tấu nhai đi nhai lại không biết mệt. Thần Thỏ Cái (Tức là mặt trăng) lại toả sáng trên đỉnh kim tự tháp đỏ xám, hơi lưỡng lự một chút, như thể phân vân chưa biết chọn bên nào để hạ xuống. Tôi không ngủ được nữa, nhưng cũng chợp mắt lơ mơ.

Rạng sáng, tốp trinh sát của chúng tôi quay trở về và thông báo có bạo loạn ở Nơi Tổ Tiên Trú Ngụ - đâu đó quanh San Martín Texmelucan (Một thành phố thuộc bang Pueblu, Mexico) ngày nay - ngay trên con đường phía nam gần nhất dẫn lên cao nguyên, qua đèo Cortéz. Con đường leo hết dốc này đến dốc khác, hệt như những bậc cầu thang của người khổng lồ bị mài mòn. Chúng tôi đi qua hàng trăm mẫu đất rừng mới được đốt quang, lác đác những lò nung vội toả khói nom như cái tổ ong khổng lồ. Một quãng sau, ngay cả những thân cây lá rộng mà ở quãng trước được giữ lại vài cây vì lý do tín ngưỡng cũng không còn. Những bụi thông pifion (Một loại thông ở Mexico, cho quả ăn được) và cỏ hoang mạc chiếm hết các dốc núiDân vùng này sống trong những ngôi nhà xây bằng đá sỏi cuộn và trồng một loại ngô đen bắp nhỏ xíu. Hàng đống mảnh đá vỏ chai lóng lánh giữa các tảng đá cuội. Đá vỏ chai đối với Teotihuacán cũng như thép đối với nước Anh hay Đức trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Ở đâu người ta cũng có nhu cầu vô hạn về nó, và cũng như thép, nó chính là vật truyền bệnh quân phiệt hoá. Hết lối mòn này đến lối mòn khác hoà vào con đường lớn. Bốn bề ngợp mùi cây tuyết tùng, nhưng không phải từ cây sống, mà từ những đoàn chở gỗ về từ các cánh rừng miền đông bắc. Ban đêm, nhiệt độ hạ xuống còn bốn mươi độ (Tức 400F, tương đương gần 50C), và với chúng tôi, nó chẳng khác nào bắc cực. Bầy chó xua gà gô trắng và giẽ giun bay nháo nhác khỏi những bụi cây bách xù, và thật tài tình. Tay 2 hạ được một con gà gô bằng một mũi lao phóng bằng tay. Để phạt thằng nhãi vì tội phá hàng, Cá Sấu 12 bắt nó đem con gà cho mọt người dân địa phương. Hai đầu gối tôi đã đỡ nhiều nên tôi thử chạy, nhưng khi các đỉnh núi hiện ra trước mắt, tôi cũng đứt hơi như những người khác và phải ngồi phịch xuống một cái ghế kiệu. Cứ để bọn vô sản lo việc này. Tôi mệt đến nỗi chẳng còn hơi sức đâu mà tìm từ lịch sự nữa.

Các đỉnh núi mà tôi nói đến ở đây là Itzaccihuatl và Popocatépetl bên tay trái và núi lửa Volcán Tláloc ở phía xa bên tay phải. Tên người ta gọi chúng vào thời này là Nhà Của Hunahpu 1, Nhà của Hunahpu 7 và Anh Bạn Sôi Sùng Sục. Hầu hết các miệng núi lửa quanh đây đều đã tắt từ kỷ Băng Hà, chỉ có Popo là còn chút dấu hiệu hoạt động với những đám bụi lơ lửng bên sườn phía đông, có lẽ để ủng hộ San Martín. Song tôi nghĩ trận phun trào này nhỏ thôi, chắc chỉ khoảng 1,5 độ VEI (Viết tắt của Volcanic Explosivity Index - chỉ số hoạt động núi lửa, được chia làm 7 cấp độ). Nếu đây là năm 1345, 1945 hay 1996 thì chắc chúng tôi sẽ gặp rắc rối lớn.

Ngày thứ hai mươi của cuộc hành trình, trời nắng, mây rải rác bay về phía đông. Đến giữa trưa, chúng tôi vượt qua đỉnh cao nhất của con đèo, Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh, chính là Vùng hồ Mexico sau này, trải rộng dưới chân chúng tôi, cách 4,770 feettheo đường thẳng đứng, được bao bọc trong một địa thế hình hạt hạnh nhân nằm giữa hai dãy núi chạy theo đường vòng cung. Từ đây, có thể thấy nó rộng và tính lặng, xung quanh bờ được viền những ụ đất và miệng núi lửa nhỏ khum khum như hình vỏ sò, sát mép nước xanh thẫm một màu cói và bèo tấm, màu xanh càng lan xa càng nhạt dần thành mặt nước phẳng lặng và lóng lánh như hồ thuỷ ngân. Điểm xa nhất của bờ hồ bên kia cách khoảng bốn mươi dặm. Thung lũng này có người ở, quanh các bờ hồ rải rác làng mạc, chằng chịt những con đường đất đắp nổi; xuồng, thuyền mui và những chiếc bè mảng tròn khổng lồ đông san sát.

Ờ, - tôi nghĩ bụng, - ít ra thì bây giờ mình cũng hết băn khoăn tại sao nơi này lại được gọi là Nacananomcob, Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh. Hàng bầy bach haob' và halach bach haob, tức diệc bạch và cò quăm trắng, hàng đàn kuba'ob', hay diệc cọp, lội bì bõm sát bờ, xa hơn ngoài mặt nước là những conbich ha, sếu đồi cát, lượn vòng quanh với cái dáng cứng đơ theo hàng lối chỉnh tề như đoàn lính bộ binh bị sương giá làm cho tê cứng của Napoleon. Một bầy két cánh đỏ hoảng hốt cất cánh bay lên với tiếng kêu nghe như tất cả các cánh cửa nhà kho ở Old Midwest (Khu vực bao gồm các bang Illinois, Indiana, Michigan, Ohio và Wisconsin của Mỹ) cùng rít lên một lúc trên bản lề han gỉ, và trong vài giây, người ta chỉ có thể thoáng thấy một vài vệt xanh xanh của bầu trời qua khe hở giữa những con chim lúc nào cũng căng thẳng ấy, trước khi chúng cùng đồng loạt đổi ý và lại hạ cánh xuốngĐúng là Nacaranomacob - tôi nghĩ.Nephelococcygia.  Thật là thiên đường.

Chúng tôi xuống đèo, đi vào một vùng không khí mà người ta thường thấy ở những vùng hồ trên cao, nó ẩm ướt đến mức tối đa có thẻ, nhưng không khí lại quá loãng nên chẳng tích được bao nhiêu nước. Khi xuống thấp hơn, tôi bắt đầu thấy nơi đây sầm uất đến mức nào. Trên những hòn đảo đẹp hơn, nhà cửa được xây dựng nhiều đến mức kín đặc không khác gì đảo Mont Saint Michel. Người ta buộc phải xây lều ra xa ngoài mặt nước, trên các đống đá, trên các cột chống, thậm chí nhìn như trên không-gì-cả. Nhân tiện nhắc đến chuyện này, Teotihuacán Lớn, cũng như mọi thành phố lớn khác, có đến 95 phần trăm là ổ chuột. Cá Sấu 12 kể rằng rất nhiều người hoặc các hội cứu tế. Hình như Hội cứu tế Rắn Chuông là lớn nhất. Họ phát chuẩn những chiếc bánh vặn thừng dài bằng bột sắn, tựa như bánh bột rán churro ngày nay, mua bằng tiền đóng góp của người đi lễ và tiền thu được qua việc hành nghề xem bói. Khi còn cách khu hồ khoảng hai trăm feet tính theo chiều cao, chúng tôi lọt vào một vùng đẳng áp và quang cảnh bỗng sinh động hẳn. Một con chim cắt mà ở đây gọi là kos lao bổ vào ba con mòng két xanh đứng túm tụm gần nhau, nhưng chúng đập cánh, rẽ lên và bay mất. Một bầy bói cá xanh nhặng xị nhiếc móc con non. Một con chim ưng biển đâm nhào xuống, lùng sục sủi tăm dưới mặt nước hồi lâu rồi ngoi lên với cái mỏ rỗng không. Một đôi cò nhiệt đới halach pocob đầu đen, thân trắng với cái cổ đỏ loè, nom hệt như hai bà xơ dòng thánh Dominic bị cắt họng, sục sạo trong đám cói sậy với vẻ bình thản như thể chúng biết hình phạt dành cho kẻ nào dám sát hại chúng là thiến đến chết. Những con bồ câu Inca lù khù; những con chim cu lười lẫm gấp ba. Ở đây có nhiều thứ nằm trong danh mục những thứ tôi chưa từng nhìn thấy, và đó không phải là trại cải tạo thanh thiếu niên hay bộ lông chim vào mùa sinh sản, hay những thứ vớ vẩn đại loại như thế. Nói chung, nó đủ khiến David Allen Sibley (Nhà điều cầm học người Mỹ) lên một cơn đau tim. Chắc không thể đưa tất cả những thứ này vào danh mục được, - tôi thầm nghĩ, - bộ nhớ không đủ chứa mất. Một đám đông đang hò hét bên dưới, khi đi ngang qua, chúng tôi mới biết rằng người ta đang chơi một trận bóng giải trí, bất chấp bầu không khí lo âu căng thẳng. Họ dùng một loại gậy cong như gậy chơi bóng của người Ai-len để đánh những quả bóng gỗ lớn. Chúng tôi bỏ đám chơi bóng lại phía sau và chạy xuống theo những con dốc thoai thoải, giữa một biển người che mặt, vừa đi vừa lầm rầm cầu khẩn, hầu hết đều xách theo một cái giỏ đựng xương. Đó là những người đang đưa hài cốt cha mẹ đến đặt trong hầm mộ ở thành phố vĩnh cửu để họ được hầu hạ tổ tiên cao quý của dòng tộc mình. Chim chóc thì vẫn nhan nhản xung quanh. Dân ở đây chắc chẳng bao giờ bị đói. Anh chỉ cần chìa tay ra bất cứ chỗ nào mà tóm lấy bữa tối từ trong không khí. Và cứ lấy đi một ngàn của bất cứ thứ gì thì sẽ có mười ngàn khác đến bù lại, ít nhất thì đấy cũng là ý nghĩ của các cư dân thuộc giống người.

Chúng tôi đi qua hàng trăm xưởng thợ ngoài trời, nằm trong sân trước những căn nhà kho mái thấp, trát thạch cao trắng, và cứ ba xưởng thì hai xưởng là xưởng làm lông chim. Thợ đánh bẫy dốc những con chim sống ra khỏi lưới, vặn cổ chúng rồi phân loại thành từng đống, cứ mỗi con, viên kế toán lại thả một cái thẻ đếm vào một trong mấy cái bình và theo dõi tổng số bằng các nút thắt trên một sợi dây. Một người phụ nữ moi ruột và lột da, rồi một người khác vặt lấy lông, gột rửa và phân loại. Hệt như dây chuyền sản xuất tiền công nghiệp, trong đó mỗi người chỉ thực hiện một vài công đoạn nhất định. Một vài gia đình chuyên vặt lông sống những loài không được phép giết, và tất cả những gì anh nghe thấy khi đi qua chỗ họ là tiếng kêu rít đau đớn tột độ của chim diệc và gà chachalaca. Chúng tôi trông thấy hàng ngàn con trụi thùi lụi, loạng choạng đi trong sân, rỉa cá chết, ngô vụn và đập đập đôi cánh nhìn như những cánh tay dị tật vì chẳng còn lấy một sợi lông. Đây là một nền văn minh dựa vào lông chim, không khác gì nước Anh dựa vào gỗ. Thế mà chúng tôi còn mang thêm đến cho họ hai xe cáng đầy lông. Nhưng lông chim của chúng tôi có màu mà ở đây họ không có. Họ có rất nhiều lông màu đen, trắng, xám, đủ sắc độ nâu, vàng nâu, xanh da trời sáng, hồng và đỏ. Còn chúng tôi mang đến màu của rừng sương mù, xanh tím, đỏ tươi, xanh da trời thắm, xanh ngọc lam và xanh lục vàng.

Những toán dân đen lân la lại gần chúng tôi. Phần lớn trong số đó là loại người mà tôi cho là ma'ala'ba'ob, hạng thấp kém hơn cả cái lòng bàn chân của anh. Tôi tuy cố tỏ ra bình đẳng, nhưng phân biệt đẳng cấp lại là một phẩm chất tốt ở đây.

Chúng tôi tiếp tục tiến lên. Đôi lúc, qua dãy đầu người phía trước, tôi chỉ trông thấy những tấm lưới đánh cá chăng phơi trên những cây sào cao có chạc, kéo dài đến hàng dặm. Hun Xoc thì thầm với tôi rằng Bị Thương 14 sẽ ra đón chúng tôi ở bên kia hồ. Họ mới biết tin chúng tôi đến cách đây bốn ngày qua những người đưa tin - chúng tôi không có bồ câu đưa thư, và mặc dù dọc đường từ bờ biển đến đây cũng có hệ thống báo tin bằng lửa báo hiệu nhưng chúng tôi không muốn dùng - song chừng ấy thời gian cũng đủ để họ chuẩn bị sẵn sàng.

- 14 làm như mình là Vẹt Đuôi Dài 7 ấy, - Hun Xoc nói. Câu ấy có nghĩa là "Hắn tinh tường lắm".

- Ừ, - tôi ra hiệu. Tôi nheo mắt nhìn về phía trước. Có một dãy thứ gì đó nom như những cái cổng chào lễ hội chắn ngang lối dẫn lên một con đường rộng màu trắng đắp cao, dài chừng hai dặm, chạy cắt ngang qua một đoạn hồ hẹp, gần giống như cửa sông đổ vào hồ nước lớn. Khi nhìn gần hơn, cái mà tôi tưởng là cầu tàu té ra là những cái giá bày sọ người. Mẹ kiếp, - tôi nghĩ, - thứ này khiến chúng tôi thành ra như những kẻ đê tiện. Chúng tôi, tức là người Maya chúng tôi ấy mà. Ở nhà, chúng tôi chỉ trưng bày đầu của vài nhân vật đình đám và thi thoảng là đầu của những thằng vô lại. Còn ở đây, hình như họ choảng tất cả những kẻ nào nhìn mình với vẻ là lạ rồi giữ gìn từng cái đầu một như của quý. Những chiếc nằm cuối dãy về phía tây biến dạng đến mức khó mà tin được đó là đầu người. Những gã này chẳng có tí tao nhã nào cả, - tôi nghĩ bụng.

Chúng tôi tặng quà, hoặc có thể gọi là biếu xén, để được đi qua con đường đắp nổi. Ở bán đảo tiếp theo,đám dân đen lao dịch trên bờ hồ đưa chúng tôi xuống hai chiếc bè mảng lớn, mỗi bè có bốn mươi người chèo, đưa chúng tôi sang bờ đông bắc, đến Tamoanatowacanac, nghĩa là Cảng Hồ Của Teotihuacán. Chúng tôi bơi ngang qua một hòn đảo được trưng dụng làm một cánh đồng sản xuất muối khổng lồ. Nhưng tên nô lệ tóc ngắn cụt kéo nước từ dưới hồ lên bằng những cái cần trục đối trọng giống cần kéo nước của người Ai Cập và đổ vào các khuôn ruộng bám mảng trắng rộng hàng mẫu. Một con cò quăm đỏ nhìn tôi như thể nó biết nhiều thứ hơn cả tôi. Thoth (Vị thần tượng trưng cho nghệ thuật và sự thông thái của người Ai Cập, được khắc hoạ với cái đầu của loài cò quăm) cơ đấy, - tôi nghĩ bụng, - Thế ở mày là thứ thần thánh gì?

Bờ hồ được đắp đê và bao một bước tường tạm thời màu xanh lá cây và xám, xếp bằng hàng ngàn thân cây bị đốn hạ, cành lá quay ra phía hồ để những kẻ muốn tấn công phải vướng víu vì nó. Chúng tôi cập bờ tại một khoảng trống giữa bức tường và lấy đi dáng điệu hiên ngang hết mức có thể - điều này không dễ khi bước ra khỏi thuyền - đặt chân lên thành Babel (Ý nói một thành phố huyền thoại).

44

Các bạn có biết những thành phố như Marrakesh(Thành phố từng là thủ phủ của nhiều đế chế tại Ma-rốc) hayBenares(Thành phố thánh của đạo Hinđu ở Ấn Độ) duyên dáng đến mức nào khi xem qua kênh truyền hình du lịch? Nhưng khi ta thực sự đặt chân đến, cái mùi hôi hám và sự bẩn thỉu của nó khiến ta chỉ ước được quay ngay về Tenafly hay bất cứ nơi nào mà ta từ đó tới, bất kể là nơi nào? Tamoanatawacana giống hệt nhưBenares, chỉ không có tiếng nhạc filmi (Thể loại nhạc thình hành trong phim ảnh Ấn Độ). Đứng đây thôi, tôi đã trông thấy phải đến tám ngàn người lăng xăng chạy đi chạy lại trên bờ hồ để đến đâu đó. Tôi sai phu kiệu nhấc bổng tôi lên để có thể quan sát đám đông từ trên cao. Chúng tôi đang đứng trong một nơi giống như khu thành khép kín, rộng chừng một ngàn sải tay, nằm giữa những bức tường ven bờ hồ sau lưng chúng tôi và một hàng rào chắn cao ở phía đông với những tháp canh xiêu vẹo. Mọi thứ ở đây đều mang một không khí chung của sự chuyên biệt hoá khiến người ta có cảm giác đây là một công viên từng rất đẹp bị cải tạo thành khu căn cứ quân sự, những đám người rách mướp trú tạm trong lều, trong lán, dưới chăn, dưới người nhau và dưới không-gì-cả. Từng tốp hai mươi lính vệ sĩ của nhà Bướm Đuôi Nhạn chậm chạp rẽ lối đi giữa đám đông dân thường, tay giơ những cái néo làm bằng xơ cọ lên đe nẹt những kẻ tỏ vẻ quá hung hăng. Cuối mỗi tốp có một k'iik cầm cây sào dài chừng ba mươi feet với một cái khiên tròn lớn tết bằng lông chim treo cách đỉnh sảo khoảng năm sải tay. Mỗi chiếc khiên mang một hoạ tiết khác nhau mà theo tôi đoán là dấu hiệu nhận biết riêng của từng tốp. Thêm nữa, trên đỉnh sào còn treo bộ da đã thuộc kỹ của một kẻ nào đấy hẳn đã bước chân vào nơi mà hắn không nên vào, hoặc làm điều gì đó mà hắn không nên làm, nó phất phơ lờ đờ như một tấm băng-rôn ướt trước cửa viện bảo tàng.

Trong thế giới này, trang phục chính là giấy thông hành, và một toán vệ sĩ giúp rẽ lối cho chúng tôi đi qua đám dân thường. Đặc quyền đấy, - tôi nghĩ. Chúng tôi lách qua vô số đám động tụ tập xúm xít. Đến lúc này, tôi đã có thể phân biệt được các thị tộc và sắc tộc qua cách ăn vận và dáng vẻ; thêm vào đó, coi như điểm thưởng, là sự liên tưởng đầy vẻ miệt thị của Chacal cũng vào cuộc. Chẳng hạn, cái thứ như váy đàn bà màu da cam mà đám người lùn tít, bẩn thỉu kia đang mặc chứng tỏ chúng là người Cacaxtlan, và đằng kia, một lũ mọi tong teo, dài thườn với...chết mẹ, tôi đang dùng từ ngữ thật xúc xiểm, ở đây, nó là cách xử sự được đánh giá cao, nhưng ở thế kỷ 21, như thế là rất, rất, rất, tệ... những gã tong teo, da dẻ nứt nẻ vì nằng, báo trước bệnh ung thư kia là người Chanacu, thuỷ tổ của người Mixtec sau này, đến từ vùng núi quanh Zempoaltépetl. Mấy gã cao nhẳng, còm nhom, bị trói chẳng lại với nhau, với những mụn ghẻ mới nổi và túi cát đeo vào mắt cá chân để tự hành xác sám hối này không phải là nô lệ mà chỉ là người Yaxacan, đến từ nơi xa xôi nhất về phía tây bắc của thung lũng để chuộc lại một món nợ ô nhục nào đó. Còn một lô trắng nhởn, bé xíu, lấm lét, gần như trần trụi với những cái khuyên môi to tướng và mớ tóc xén hình bát úp trát bùn kia đến từ phương nam rất, rất xa, có khi từ tần Costa Rica để bán những con ếch và côn trùng bé xíu rên bằng vàng, một thứ kim loại còn rất mới lạ ở đây. Một tiểu vương người Zapotec, khắp mình lanh canh những mảnh vỏ sò màu vàng, đi ngang qua chúng tôi, cưỡi trên vai một tên khổng lồ mắc hội chứng hypertelorism (Một hội chứng làm dãn khoảng cách giữa hai bộ phận của cơ thể một cách dị dạng, thường là giữa hai mắt), cao phải đến bảy feet. Có hai tộc người với vẻ ngoài giống người phương tây, đó là người Taxcan đến từ ven biển Thái Bình Dương và một tộc người nữa mà tôi không nhớ ra được là người gì, một kiểu dân chài vận đồ da lươn và đeo răng cá mập; bốn gã đang ngồi chồm chỗm trên một hình chữ thập vạch xuống mặt đường, chơi một ván cờ Hiến tế đơn giản có tính chất cờ bạc, những gã còn lại đứng vây xung quanh, bàn tán xôn xao. Trò chơi thật ngu xuẩn, - tôi nghĩ thầm trong bụng. Sự khác biệt giữ cờ Hiến tế và thứ mà họ đang chơi cũng tương tự như khác biệt giữ bài bơ-rít chuyên nghiệp và trò "đi đêm", nhân thêm một trăm lần. Hun Xoc chỉ cho chúng tôi một toán người phương bắc cao lớn, quê mùa, mặc đồ da hươu, được cho là đã đi mất nhiều năm qua những vùng sa mạc phía bắc để đến đây từ một trong những đế quốc mới hình thành dọc bờ sông Mississippi, đoạn chảy qua Ohio - điều này khó tin, nhưng cũng có thể. Họ bán một loại đá xanh lam mới có, đắt vô cùng và chưa từng được biết đến ở những vùng đất của người Maya: ngọc lam. Phía trước chúng tôi, có tiếng ai đó đang bị đánh đập. Bên trái thì có một gã "chiếu rong", hạng người chuyên đứng ra bán đấu giá con cái của những người từ xa đến để chao mẹ chúng có tiền vào thành. Hắn xách một thằng bé bốn tuổi trần truồng, giơ lên cao quá đầu để rao hàng, thằng bé bị xách bằng một sợi thừng buộc vào bàn chân, đầu kia buộc vào cổ tay gã bán hàng, vì thế, nó cứ chúc đầu xuống, ré lên ầm ĩ. Một nhóm k'iik Maya đứng cạnh chúng tôi; những gã vận quần áo bằng thứ vài tồi tự dệt lấy ở nhà nhưng lại để kiểu tóc chơi trèo quá lố này là người Yucatecan; còn mấy anh chàng có vết khắc nung hình hoa lá trên nửa trái cơ thể thì là người Coliman, họ đến đây để bán đồ gốm cho từng nhà, người ta cấn chúng để thay thế cho những đồ gốm sẽ bị đập nát trong thời gian "Im lặng". Hình như - tôi chưa chắc điều này lắm - họ cho rằng bất cứ thứ gì không có linh hồn, tức là những vật dụng như vũ khí, dụng cụ hay thậm chí làm mâm bát, đều có thể bị ma ám vào lễ vọng và quay ra tấn công chủ nó. Tôi liền hình dung ra cảnh một bà nội trợ to béo xua tay loạn xạ trong bóng tối, kháng cự lại một đoàn quân nồi niêu bát đĩa bằng đât nung hung hãn. Nói tóm lại, anh phải đập vỡ hết những thứ đó và mua đồ mới. Có khi đây chỉ là một mánh khoé kinh doanh để người ta bán được nhiều hàng hơn cho nhau. Thay vì chiến lược xoá xổ những cái lỗi thời, tức là phải thường xuyên đưa ra mẫu mã mới, thì người ta chỉ việc xoá xổ tất tần tật.

Chúng tôi chen lấn để đi về phía hàng rào chắn. Dẹp ra nào. Các VIP đây. Có vẻ không dễ mà vào được. Một dãy k'iik của thị tộc Bướm Đuôi Nhạn với dáng điệu uể oải nhất có thể của lính thời bình đứng chắn lỗ hổng duy nhất trên bức rào. Phía sau họ, qua đám mây hơi nước bốc lên từ hàng trăm thùng tắm hơi, có thể trông thấy một con dốc đắp cao, san sát những căn nhà kho mới lợp cùng hàng đống cây gỗ đã chặt bỏ cành lá và đẽo nhọn. Tôi đang lan man nghĩ đến chuyện có khi chúng tôi đi cả chặng đường đến đây mà chả được việc gì thì chợt nhận thấy mọi người rục rịch sắp hàng để đón nhận sự hiếu khách của chủ nhà, và Cá Sấu 12 đang được chào mừng bởi năm k'iik Maya chẳng biết từ đâu thình lình xuất hiện. Hun Xoc chỉ cho tôi một người: Bị Thương 14 lừng danh, cháu nuôi của Sọ Đá Quý 2.

Hắn ăn vận xem ra hơi đẹp quá mức cần thiết cho một dịp như thế này, nhưng người thì lùn hơn so với chiều cao trung bình của quý tộc Maya và bộ mặt bên dưới chiếc mặt nạ che mũi thì hoàn toàn nhạt nhẽo. Hắn là người đứng đầu cái mà các bạn có thể gọi là phái bộ thương mại của thị tộc Đại Bàng ở Teotihuacán. Thực ra, nó hơi phức tạp hơn như thế một chút vì nhà Đại Bàng là thành viên của tổ chức tựa như liên minh các thị tộc hậu duệ chim ưng, và gã này có quan hệ làm ăn với rất nhiều vụ làm ăn ở vùng đồng bằng và mặc dù không phải công dân của thành Teotihuacán - bản thân định nghĩa này khá dễ thay đổi - hắn vẫn có rất nhiều mối quen thân quyền cao chức trọng ở đây.

Bị Thương 14 đứng giữa bốn k'iik vây bốn góc quanh hắn. Đó là mấy thằng nhà quê ở Ix lang bạt, có thể là chạy tị nạn đến đấy, và bằng cách nào đó được thu nhận vào thị tộc này. Tuy khuôn mặt là của người Maya nhưng ở họ vẫn toát ra vẻ gì đó của bọn ngoại tộc, vói cái áo choàng xếp nếp cứng đờ và bộ da bóng loáng mỡ chó nhuộm đó. Cả bốn cùng đeo tanasac, một loại khuyên hình mào gà xâu qua cái lỗ giữa vách ngăn mũi, đu đưa phía trên miệng. Chúng tôi gợi nhớ đến những bộ ria mép hình móng ngựa thời Victoria, nghiêm trang thì có nghiêm trang, nhưng cũng đầy hăm doạ. Chúng khiến khuôn mặt trở nên khó xét đoán một cách đáng kinh ngạc. Lý do người ta đeo chúng có lẽ là vì ở một thành phố bề ngoài phi bạo lực thì việc nhe răng doạ nạt bị coi là quá hung hãn. Người ta cho rằng miệng người phả ra những cơn gió thổi mang theo ghẻ lở. Xét ra thì điều đó cũng chẳng cách xa sự thật là bao. Nó cũng tựa như bùa mê từ cặp mắt quỷ, chỉ khác rằng ở đây là miệng quỷ. Và nếu tanasac của anh bị tuột ra, anh phải đưa tay lên che miệng như phụ nữ Nhật Bản khi họ cười khúc khích vậy.

Không dễ dàng gì, nhưng cuối cùng người dẫn đầu đoàn chúng tôi cũng nắm được quyền chỉ huy và dẹp được một khoảng trống nhỏ giữa đám đông.

- Hãy để chúng tôi thiết tiệc các vị, đừng từ chối miếng bánh của chúng tôi, - 14 nói bằng cái giọng của người hút thuốc lâu năm nhưng hãy còn ngọt. Tôi không quan sát được nhiều khuôn mặt hắn, nhưng cặp mắt hắn có vẻ gì đó như thằng hề.

- Đa tạ các ngài đã cho phép chúng tôi nương nhờ, - Cá Sấu 12 kính cẩn đáp. Hun Xoc trải ra một tấm chiếu lễ vật và Cá Sấu 12 đặt lên đó một bó xì gà hảo hạng nhất vùng cao nguyên chúng tôi.

Chúng tôi nhảy một điệu chào mừng ngắn. Bị Thương 14 đặt tay lên vai hắn, chào tôi lịch thiệp nhưng cũng không kém phần trịnh thượng, kiểu như "Ê, chào thằng em". Hắn đã từng tiếp đón Cá Sấu 12 và hai k'iik khác trong đoàn. Nhưng hơn hai mươi năm rồi hắn chưa về Ix, và phúc tổ, hắn cũng như gia quyến của hắn chưa từng nhìn thấy Chacal. Tôi cũng chào lại, coi như hắn là người bề trên. Đây không phải lúc để tự ái về chuyện tôn ty trật tự. Trong lúc đó, bọn phu khuân vác lọ mọ đi đằng sau đã bắt kịp chúng tôi, lục tục trình diện, quây quanh vòng tròn k'iik như sợi thừng quấn quanh cái xô. 14 nói hắn rất nóng lòng muốn chia sẻ khó khăn với chúng tôi và rằng nhà Bướm Đuôi Nhạn đã quyết định chặn các ngả đường sớm hơn dự định nên chúng tôi phải nhấc chân lên thôi. Phải rồi, - tôi nghĩ, - thế suốt bao nhiêu ngày nay chúng tao làm gì? Nằm ườn ra ăn kẹo bon bon à? Thằng xuẩn.

Thành thạo không kém gì một đội nghi thức, chúng tôi xếp lại hàng ngũ theo đội hình "họp mặt với khách lạ mặt khá quan trọng". Nói đơn giản là các k'iik xếp thành hình nửa vòng tròn. Cá Sấu 12 đứng chính giữa, những người tham dự đứng thành ba hàng phía sau, theo thứ thự giảm dần theo phẩm cấp. Họ đặt tôi ở cuối hàng, gần vị trí thấp kém nhất để tôi khỏi phải mở miệng câu nào.

Ở đây, mọi thứ dường như đếu có tính hậu trường. Anh buộc phải có một vài mối quan hệ nào đó. 14 đã dàn xếp trước với nhà Bướm Đuôi Nhạn. Bức tường rào k'iik từ từ tách ra rồi lại khép lại sau lưng người cuối cùng, như một con trùng a-mip nuốt trùng bánh xe. Nếu đây chỉ là bức rào bình thường chứ không phải hàng rào người thì đã có vài tên du côn lẻn được vào. Lúc này, chúng tôi đã đứng trong một khu đất thô kệch nằm giữa bức tường rào và một con đèo dẫn lên đồi, dài chừng một sải tay. Củi đun chất thành từng đống cao ngất và áo choàng bông chăng đầy trên dây phơi, không khác gì cái sân chung sau khu nhà tạm của dân da trắng. Trong này trống trải hơn bên ngoài và chúng tôi tìm được một khoảnh đất sạch. Đám phu khuân vác lúc nào cũng kè kè cái giá chở hàng cao quá đầu, cuối cùng cũng được cởi bỏ và đặt sang một bên. Họ có vẻ lo lắng khi phải xa người đồng hành thân thiết của mình. Xiềng xích của ta và ta đã trở nên gắn bó (Một câu trong bài thơ "Người tù ở Chillon" của thi hào Byroe)Một đoàn những nhân vật có vẻ ngoài kì dị, đến từ một trong các thị tộc của Teotihuacán, gọi là thị tộc Sếu, giữ chức vụ tựa như thanh tra thuế, lôi hàng ra kiểm tra. Cá Sấu 12 và người đứng đầu đám người của thị tộc Sếu chọn ra một món làm quà cho quả đồi, một kiểu thuế qua cửa. Viên kế toán đi quanh, thắt những cái nút hình nơ bướm trên sợi dây thành một bản kê dài. Chúng tôi tháo bỏ vũ khí và một vài loại vật dụng bị cấm như bất cứ thứ gì màu xanh lá cây, bất cứ thứ gì làm từ da rắn và bất cứ đồ lề bóng hông nào. Những trận bóng hông với bóng lớn được coi là một cuộc chiến, hoặc có thể gọi là thi đấu võ thuật, vì thế, chúng bị cấm ở đây. Thực tế, môn bóng duy nhất hợp pháp ở đây là trò đánh bóng bằng gậy mà chúng tôi thấy lúc trước, và không có cá cược công khai. Tôi nhận thấy Hun Xoc và những người chơi bóng hông khác lấy các mảnh vài đính hạt quấn kín các vết chai trên cánh tay và đầu gối. Ở xứ này, dân chơi bóng chuyên nghiệp bị coi là hạng người bất hảo.

- Tôi có được mang theo cứt trong bụng không? - Tay 2 hỏi viên kế toán bằng tiếng lóng của nhà chúng tôi. - Hay tôi phải để nó lại đây?

Viên kế toán trả lời rằng hắn không hiểu sao lại thế.

- Vì tôi muốn lấy lại nó khi quay về - Tay 2 đáp.

Chúng tôi phải khoác lên người những chiếc áo choàng màu xám đen, xỏ khuyên mũi và đeo khuyên môi. Tôi cũng được thửa riêng một cái - anh không bao giờ được đeo đồ của người khác - nhưng nó không vừa. Cái đồ chết toi. Người ta không được để mặt trơ khấc ra khi bước vào thung lũng thiêng này. Ngay cả bọn đầy tớ cũng phải buộc một miếng giẻ quanh miệng, nhìn  như lũ ăn cướp Miền Tây. Gì thì gì, anh không bao giờ có thể tưởng tượng ra thứ đồ trang sức đàn ông nào khó chịu hơn thứ này. Tôi đã từng nhìn thấy những cái khuyên xỏ âm vật chu vi bốn inch dễ chịu hơn nhiều. Chắc thế.

Tên hầu lo khoản mặt nạ chạy tíu tít để giúp chúng tôi chỉnh trang, hệt như người làm tóc trước buổi trình diễn mốt. Trong khi đó, những tên đầy tớ riêng ngắm nghía và chỉnh đốn điệu bộ cho chúng tôi. Chúng rất cung kính, nhưng chúng tôi vẫn phải làm theo lời chúng. Tôi đoán cảnh này cũng giống như viên thị thần chỉ bảo cho chúng. Tôi đoán cảnh này cũng giống như viên thị thần chỉ bảo cho Hoàng tử xứ Wales phải đi đứng theo cách này cách nọ. Từng người trong chúng tôi - kể cả nô lệ - đều phải nhắc lại một câu thề thốt hoà bình ngăn ngắn, bằng tiếng của chúng tôi lẫn tiếng Teotihuacán, gồm những chuỗi từ dính liền nhau dài bất tận, đầy những nguyên âm kéo cà kẽo kẹt một cách dị hợm và hầu hết chúng tôi dều không hiểu chúng có nghĩa là gì. Lời thề đại ý rằng chúng tôi không bao giờ được phép giơ vũ khí về phía bất kỳ, luôn phải che miệng và có mặt để cúng tế vào buổi sáng và buổi trưa. Tiếp đó, mỗi người chúng tôi phải ném một món đồ phục sức vào đống lửa. Hoá ra bọn hầu trang phục buộc vào cổ chân chúng tôi một sợi ruy băng là vì việc này. Ghi được điểm rồi đấy, các cậu, - tôi nghĩ. Tôi suýt thì định vứt cái thắt lưng vào. Và rồi, tất cả chúng tôi phải bước qua một bụi dây bìm bìm - uay của đường biên giới mà những thứ vô hình không thích hợp không vượt qua được. Cuối cùng, những người dâng hương tẩy uế cho chúng tôi lần nữa bằng khói bốc ra từ một cái tẩu khổng lồ và đưa cho mỗi người một vật nhỏ bằng đất sét.

Tôi nhìn cái của tôi với ý nghĩ rằng "cảm ơn, nhưng tôi biết làm gì với nó bây giờ?", giống như nếu người ta phát ống píp và thuốc lá trong lễ tốt nghiệp của trường đại học Yale vậy. Nó là một cục đất sét trơn, thô, hình thuôn thuôn, vừa mới ra khỏi lò nung, có hai cái lỗ, hai chỗ trũng hay chỗ lõm gì đấy. À, đây rồi. Hai cái lỗ được nhét đầy bột than chì nghiền lẫn với nhựa cô-pan và ướp tinh dầu bạc hà. Nó là một cái lư hương.

Chúng tôi ra hiệu chào tạm biệt, rẽ sang hướng đông và đi lên con đường rộng, để lại khu hồ phía sau lưng. Tôi nhận thấy bốn gã cao lớn, ăn vận như đầy tớ nhà Bướm Đuôi Nhạn đã gia nhập đoàn chúng tôi từ lúc nào. Ra là người giám sát, - tôi nghĩ. Lũ mật thám. Cá Sấu 12 đã thông báo từ trước là sẽ có cáctsazcalaman, những "người dẫn đường" hay "người tiếp đón", và dặn chúng tôi đừng để ý đến họ trừ khi họ nói điều gì đó. Tốt thôi. Hãy cứ coi chúng như những người trực tầng khách sạn. Vì lợi ích của chính mày.

Không như đa số các thành phố khác thuộc Mesoamerica, Teotihuacán có rất ít công trình củng cố quân sự, chỉ độc mấy bức tường đá thấp tè dựng ở vài nơi trọng yếu. Tôi có cảm giác rằng thành phố này từ lâu đã hoang tưởng rằng mình không thể bị tấn công. Gần đây, họ bắt đầu dựng chướng ngại vật bằng gỗ có thể di chuyển được, hay gọi theo lối thời kỵ binh xưa là chướng ngại chặn ngựa, tức là những thân cây được chặt bỏ cành lá đặt nằm ngang, trên cắm những cái cọc ngắn hơn, vót nhọn, cứ ba cái một, cách nhau vài sải tay, tạo thành mọt dãy chông chĩa ba dựng đứng. Chúng tôi đi ngang qua bốn tốp nô lệ đang kéo những cây chông đó đến nơi mà ngày mai họ sẽ đặt chúng ngang đường. Ngoài ra, còn thêm ba đường hào khô mới đào, bên dưới cắm chông mà chúng tôi phải vượt qua trên những cây cầu bện. Một cái nhìn chông chênh đến mức tôi tụt ngay khỏi lưng tên phu kiệu để tự đi. Cá Sấu 12 trừng cặp mắt sâu hoắm nhìn tôi, nhưng phô trương mẽ ngoài thế là đủ. Tôi lại trèo lên lưng con chiến mã người của mình.

Chim chóc lác đác dần. Những đám chơi bóng mà chúng tôi bỏ lại phía sau cũng ỉu xìu và nhạt nhẽo hẳn. Tiếng sấm bắt đầu dậy lên. Không, không phải sấm... mà là tiếng trống, - tôi tự nhủ, - những chiếc trống đá lớn, nghe đầm và hay lạ, hệt như tiếng trống định âm trầm, rền lên từng hồi với quãng nghỉ dài:bombombombombom, bom...bombombombombom, bombombom... bombombombombombom... và tôi phát hiện ra nhịp trống tương ứng với các con số của ngày hôm nay: Wak Kimi, Kanlahun Sip - Hấp hối 6, Nai đực 14, nó lặp đi lặp lại với nhịp điệu rất đặc biệt, không ai có thể bắt chước được 6 . . . 14 . . . 9 . . . . 11 . . . . . 12 . . . . 6 . . . . bombombombom, bombombombom . . .bombombombom . . . bombombombombombom . . . Đó là tiếng trống cầu nguyện vào lễ trưa. Đoàn chúng tôi đi chậm dần rồi dừng lại. Tôi nhận được tín hiẹu xuống "ngựa". Chết tiệt. Từ quãng này trở đi, chúng tôi sẽ đi bộ. Xe kiệu là thứ không được phép ở thành phố thiêng liêng này, và anh không được phép cưỡi trên lưng người khác trừ phi anh là thằng liệt.

Cả đoàn đã dừng lại. Tất cả hướng mặt về phía trước, hướng đông bắc. Lũ chim đậu xuống. Chúng tôi lấy lư hương của mình ra. Một hồi boom boom vọng đến từ sườn núi phía trước, từ thành phố linh thiêng. Có tiếng trống đáp lại từ xa tít bên kia hồ, chậm nửa nhịp để hoà vào với tiếng vọng. Tiếp đi nào, - tôi nghĩ, - Rock the Casbah (Một bản nhạc rock của ban nhạc The Clash). Tiếng trống ầm ầm vang khắp các thung lũng và vạn vật dường như co rúm lại. Những tiếng trống nhỏ hơn của nhà dân cũng hoà vào nhịp điệu cho đến khi chúng chuệch choạc rời xa thành hàng trăm, rồi hàng ngàn âm thanh nhỏ hơn, lạc điệu đi và cuối cùng chỉ còn là những tiếng lạch cạch không phân biệt được nữa. Những người châm lửa đi khắp đoàn với những bó đuốc thông cháy dở, một người châm lư hương cho tôi. Hắn lầm rầm câu gì đó về việc đây là lửa tinh khiết lấy từ kim tự tháp Bão Lốc. Mình có nên boa cho hắn không nhỉ? - tôi bất giác nghĩ, nhưng hắn đã biến mất. Ah, mùi nhựa thông thật tinh khiết. Mùi của sự trong lành. Oái. Tôi làm bỏng ngón tay cái. Quỷ bắt mày đi. Tôi xoay xoay cái lư và giơ nó lên ngang chân để chỗ khói chưa bị hít có thể bay lên. Hai bên đường, đàn bà, trẻ con và người già tụ tập trên các mái nhà kho, tay nâng lư hương. Không kẻ nào đứng trong phạm vi của thành phố này có thể tránh được nhiệm vụ trình diện trước mặt trời vào mỗi sáng và mỗi trưa. Kể cả anh đã một trăm tuổi đi chăng nữa, kể cả liệt hết chân tay đi chăng nữa, kể cả trời đang mưa như trút nước đi chăng nữa, anh cũng phải đứng ra ngoài trời, mà nhất là khi trời mưa, thật đội ơn cái cơn mưa chết tiệt ấy. Và nếu họ không kéo được anh ra ngoài thì họ sẽ treo cổ anh lên. Vì thế, ra hít thở tí không khí trong lành là điều bắt buộc.

Tiếng trống lắng xuống, nhường chỗ cho tiếng khấn râm ran, rền rĩ, phát ra từ sâu trong cổ họng bằng một thứ tiếng xem ra ít phụ âm hơn cả tiếng Hawaii. Tôi chỉ lầm bầm theo dưới cái khuyên môi. Về sau, tôi nghe nói rằng thực ra chẳng ai nhớ được đống từ ngữ ấy có nghĩa là gì. Có lẽ tất cả cũng đều lầm bầm theo mà thôi. Ê...a...ê....a... Đừng để ý tôi. Tôi cũng chỉ là một con trong đàn cừu thôi mà.

Tiếng cầu  khấn dừng lại. Như mọi người xung quanh, tôi bốc ít cát dưới mặt đường để dập tắt lư hương. Chúng tôi leo lên những bậc thang cuối cùng, bước vào một bầu không khí mát mẻ hơn, qua một cổng chào lễ hội lớn, nhìn giông giống cổngKaramon (Kiểu kiến trúc cổng theo lối cổ ở Nhật Bản)qua đỉnh một...

- B/aax ka mulac t'een? - Tay 2 thắc mắc. "Thế thành phố đâu?".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#ntadltbn