MAT MA TAY TANG 10 Chuong 41 - 56 (end)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 78

BÁU VẬT CỦA NHÀ PHẬT

Chương 41

CON RỐI THÚ

    

ai cánh tay Trác Mộc Cường Ba dang rộng, bàn tay vặn ngược bám vào mép lỗ hổng trên tường, Merkin bám vào vạt áo Trác Mộc Cường Ba, cả người lơ lửng giữa không trung. Bên ngoài lỗ hổng do lựu đạn phá ấy không phải là đất bằng, mà là vách núi cheo leo, chẳng những vậy… bên dưới vách núi đó còn là dung nham đang sôi sùng sục!

Nham thạch nóng trông như chất keo chảy chầm chậm, ánh lửa đỏ rực cả không gian xung quanh, những tiếng “ùng ục ùng ục” vang lên liên hồi kỳ trận, thoạt nhìn như thể chỉ cách trong gang tấc, cũng không biết khoảng cách thực sự giữa hố lửa và chỗ bọn họ là bao nhiêu nữa, Merkin có cảm giác như mình bị ném vào một lò lửa rực cháy.

Trác Mộc Cường Ba vừa trụ vững được thân hình, còn chưa kịp kéo Merkin lên, thì bộ giáp phía sau gã dường như đã lấy được đà, hùng hục lao thẳng tới. Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị dồn sức ngả về phía sau, chợt liếc thấy bộ áo giáp đó, gã liền vội vàng buông một tay ra, lách người né tránh.

Bộ giáp đó không hãm được đà lao, cứ thế húc thẳng vào tường, làm sụt ra một mảng lớn nữa rồi rơi thẳng xuống dưới, một lúc lâu sau mới hóa thành một chấm nhỏ, chìm trong dòng dung nham nóng bỏng, không còn tăm tích. Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới nhận ra, hố dung nham bên dưới kỳ thực còn cách họ rất xa, chỉ là nhiệt độ ở trên này thôi cũng đã vượt quá sức chịu đựng của da người rồi.

Không để Trác Mộc Cường Ba thêm nhiều thời gian để suy tính ba bộ giáp ở mé bên trái đều lần lượt chạy tới. Gã đã buông một tay ra, mà bờ tường chỗ tay còn lại đang bám vào cũng bắt đầu lung lay, có thể sập xuống bất cứ lúc nào, trước ngực lại đeo thêm Merkin, khiến gã phải hơi khom người ra phía trước. Gã có thể tránh được bộ giáp thứ nhất, nhưng hai bộ phía sau e rằng khó lòng thoát nổi.

Cũng may, đúng lúc này Merkin chợt buông tay thả mình rơi xuống, kế đó bám chặt vào mép vách đá cheo leo. Y đeo mình phía ngoài, nhìn rõ được tình huống xung quanh hơn Trác Mộc Cường Ba. Vách đá này hình dạng như cái lưỡi, đỉnh vòm phía trên cách bọn họ chừng bốn năm mét, cao bằng gian phòng kia. Vách núi đen đúa lơ lửng phía trên đỉnh đầu như thể Thái Sơn áp đỉnh, khiến người ta có cảm giác nặng nề khó tả. Ở vị trí này, Merkin có thể nhìn rõ bốn mặt của gian phòng kia kỳ thực đều chỉ có một lớp tường mỏng. Cả gian phòng này giống như được đẽo từ khối đá buông phía trên xuống, vừa khéo nằm ngay mép bình đài hình dạng như cái lưỡi thè ra này. Bọn họ đã nổ nhầm bức tường, nếu cho nổ bức tường phía sau, hai người có thể trực tiếp ra ngoài bề mặt bình đài rồi. Lúc này, họ chỉ có thể bám vào mép bình đài, vòng qua vị trí của gian phòng đá.

Bên trong gian phòng, Trác Mộc Cường Ba thấy trước ngực nhẹ bẫng, áp lực giảm đi đáng kể, lập tức lộn người sang một bên, tránh được bộ giáp nặng nề ục ịch. Bộ giáp kia chừng như cũng muốn giành lại, nhưng cơ hồ không thể vặn người, đành cứ thế bật người lên đè vào Trác Mộc Cường Ba dưới đất. Đã thấy bộ giáp đầu tiên tông đổ tường lao ra vách đá bên ngoài, Trác Mộc Cường Ba cũng biết thứ này cực kỳ nặng nề, liền lăn một vòng dưới đất tránh né, bộ giáp đập thẳng xuống, mặt đất rung lên bần bật.

Merkin ở bên ngoài hét lên: “Nhanh lên, xuống đây, vòng qua chỗ này là có thể leo lên được!”

Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đang đối mặt với bộ giáp thứ ba. Gã cũng là kẻ tài cao gan lớn, bật người lên theo thế “Lý Ngư đả đỉnh”, kế đó chống tay lấy đà nhảy qua đầu bộ giáp thứ ba, lúc ở trên không lại xoay người mượn lực, đạp một cái lên vai bộ giáp, rồi thả người trầm xuống, bám vào mép bình đài.

Những bộ giáp kia hình như rất sợ ánh lửa, không dám đến gần miệng lỗ, cứ chạy vòng vòng lung tung trong gian phòng như lũ nhặng cụt đầu. Trác Mộc Cường Ba và Merkin cẩn thận treo mình bên ngoài vách đá, từ từ dịch chuyển vào mé bên trong của bình đài hình cái lưỡi.

Bên dưới chính là hố dung nham nóng chảy hai người không dám lơ là.

Nhìn từ dưới lên, Trác Mộc Cường Ba phát hiện, ở mé bên ngoài bức tường có mấy lỗ hình vuông nhỏ, mỗi bề chừng mười xăng ti mét. Vị trí của mấy lỗ vuông này hình như chính là chỗ các bộ giáp ngồi lúc đầu. Chẳng lẽ những lỗ hình vuông này và mấy bộ giáp trên kia có mối liên hệ gì đó?

Gã cũng không có thời gian nghĩ ngợi nhiều, hai người vòng qua gian phòng đá, leo lên bề mặt bình đài. Merkin chỉ vào bức tường trước mặt, nói: “Nếu chúng ta cho nổ bức tường này thì có thể thoát ra luôn rồi. Nếu anh không đoán sai số, bức tường này chắc cũng đã mở ra rồi.” Y ngẩng ngẩng đầu lên nhìn khe hở giữa bức tường và tầng nham thạch phía trên, hiển nhiên, bức tường này cũng giống như hàng rào sắt kia, có thể nâng lên trên.

Trác Mộc Cường Ba lại ngoảnh đầu nhìn ra sau lưng, rốt cuộc bọn họ cũng thoát khỏi Cửu Cung biến, ở đầu kia của bình đài hình chiếc lưỡi này là một hang động, dưới ánh lửa hắt lên, chỉ thấy hai bên đều có một bức tượng, trông cổ phác mà trang nghiêm. Trác Mộc Cường Ba thoạt nhìn đã nhận ra, hai bức tượng này chính là Diệu thần giám thị công đức và tội ác trên thế gian, cùng với Trát Lạp, Thần bảo vệ của các chiến sĩ. Sâu bên trong hang động, thấp thoáng ánh lên những tia sáng màu vàng kim.

Trác Mộc Cường Ba chỉ mới nhìn lướt qua, Merkin đã ở đằng sau huých nhẹ vào cánh tay gã. Gã ngoảnh đầu lại, chỉ thấy y nói nhanh: “Này, không ổn lắm, đi thôi.”

“Ầm!” một tiếng, bức tường sau lưng hai người rung lên, bột phấn rơi lả tả, hiển nhiên là năm bộ giáp bên trong đang húc vào. Gã và Merkin đều cho rằng những bộ giáp ấy chỉ là cỗ máy vô tri, chẳng ngờ bọn chúng lại có thể khóa được vị trí của hai người ở cách một bức tường, còn biết phá tường xông ra. Cả hai tròn mắt ngạc nhiên nhìn nhau, không hẹn mà cùng quay người, chạy về phía hang động ở đầu bên kia bình đài hình cái lưỡi.

Vừa vào trong hang, hai người cùng lúc hít sâu một hơi, bầu không khí bên ngoài kia nóng bỏng mà vào đến trong này thì lạnh toát. Chỉ thấy đại điện điển nhã không màu mè này trông giống như La Hán đường ở những ngôi chùa bình thường vậy, trên bệ đá dài cao chừng một mét có vô số tượng kim thân La Hán ngồi dựa lưng vào nhau. Những vị La Hán này lớn hơn người thường một chút, dáng ngồi ngay ngắn, hai mắt khép hờ, dung mạo hoàn toàn không khác gì người thật, đồng thời tướng mạo mỗi bức mỗi khác nhau.

Cổ nhân đã dùng cách tương tự trên hành lang có các cột sáng ở tầng trên cùng để lấy ánh sáng. Họ dựng vô số tấm gương đồng trong đại điện, ánh sáng đỏ rực của nham thạch nóng chảy được gương đồng phản xạ, biến thành những tia sáng vàng kim chói lọi. Những cột sáng đan nhau tạo thành một tấm lưới, bao phủ lên vô số tượng Phật tựa như một chiếc lồng chụp khổng lồ. Những bức tượng kia vốn đã dát vàng dát bạc, được ánh sáng chiếu vào lại càng toát lên thần thái trang nghiêm, sống động như thật, tựa hồ như La Hán hạ phàm, Tôn Giả giáng thế.

Merkin ngước mắt quan sát, thấy những bệ đá dài ấy nối tiếp nhau san sát, bên trên toàn là tượng kim thân La Hán, số lượng phải lên đến hàng vạn, không khỏi tắc lưỡi nói: “Đây toàn là vàng ròng sao? Nhiều như vậy! Haha… chúng ta tìm được rồi! Chúng ta đến trước! Chúng ta đến trước rồi!”

Trước khi Merkin kịp hưng phấn đến nỗi ôm chầm lấy Trác Mộc Cường Ba nhảy cẫng lên, gã đã dội cho y một chậu nước lạnh vào đầu: “Sợ là ông phải thất vọng rồi, đây không phải tượng Phật bằng vàng ròng, mà chỉ là tượng dát vàng thôi, xem đi…” Gã chỉ mấy pho tượng La Hán ở đằng xa, lớp vàng trên bề mặt đã bong tróc, lộ ra mầu nâu của bùn đất bên trong.

Trác Mộc Cường Ba bước lại gần, trên bức tượng ấy, không ngờ lại phát hiện đồ dệt may. Một ý nghĩ đáng kinh ngạc lóe lên trong đầu, gã vội vàng dùng ngón tay nhè nhẹ phẩy lên lướp bùn đất, quả nhiên, bên dưới lớp vải dệt đó, là một tầng vật chất dạng sừng khô cứng. Có thể khẳng định, đây là da người đã khô kiệt. Nhìn xa hơn một chút nữa, không sai, cả vạn pho tượng La Hán ở đây, kích cỡ tương đương nhau, đều chỉ lớn hơn người thật một chút. Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng khẳng định lại ý nghĩ trong đầu mình, gã kính cẩn đứng lên, nói với Merkin: “Tuy không phải tượng Phật bằng vàng ròng, nhưng còn quý giá gấp bội phần, những La Hán này, toàn bộ đều là nhục thân kim tượng đó!”

“Nhục thân kim tượng?” Merkin cũng chạy tới.

“Đúng thế,” Trác Mộc Cường Ba nhìn những bức tượng dát vàng đang ngồi xếp bằng trên bệ đá, thần thái nghiêm trang kính cẩn, chậm rãi tiếp lời, “không chỉ trong Mật giáo có ghi chép lại, mà cả Đại Thừa Hiển giáo cũng có cách làm tương tự. Một số vị cao tăng đại đức có tu vị Phật học đạt đến cảnh giới Đại Trí Tuệ, sau khi tọa hóa, nhục thân không bị thối rữa. Người đời sau kính ngưỡng, liền mang thân thể không thối rữa ấy làm phôi, bên ngoài trét thêm bùn đất, rồi sơn son thếp vàng để cúng tế.”

Merkin biến sắc thốt lên: “Ý anh là, mỗi bức tượng ở đây …”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đúng, mỗi bức tượng La Hán kim thân ở đây, đều là nhục thân của một vị tiền bối đại sư sau khi tọa hóa.” Gã chợt nhớ lại những tượng nhục thân trong tư thế đứng ở Đảo Huyền Không tự, hiển nhiên, đây là mật pháp truyền thừa của các Mật tu giả.

Hai người xuyên qua đại điện xếp đầy kim thân La Hán, đi thẳng về phía trước, thấy một cánh cửa đá chặn ngang đường. Trên cửa có vẽ một con rắn được trừu tượng hóa, Merkin bảo nó giống rồng, còn Trác Mộc Cường Ba lại cho rằng đây là Na Tháp, con rắn vô biên, Đa Cát ở thôn Công Bố cũng từng nhắc đến một truyền thuyết tương tự. Merkin lại bảo chưa chắc, đây đã là con rắn vô biên gì đó, cũng có thể là rắn thần trong tín ngưỡng của bộ tộc Qua Ba. Gần như trong tất cả mọi tôn giáo, hình tượng rắn đều có địa vị rất quan trọng. Trong tín ngưỡng cổ, rắn tượng trưng cho tính dục, vương quyền, trường sinh và những mối nguy không thể dự báo.

Cho dù thế nào, khi đối diện với cánh cửa đá cong tựa như màn hình chiếu phim cỡ lớn này, hai người cũng hiểu rõ, chỉ dựa vào sức trâu hoặc chất nổ thì không thể nào mở nó ra được, cần phải xem cơ quan chốt lẫy ở đâu.

“Này, Cường Ba, lại đây mà xem!” Merkin chỉ vào miệng rắn đang ngoác rộng, ở chỗ chiếc răng sắc nhọn có một vết máu lờ mờ, lan dần lên phía trên rồi biến mất. Ở chỗ mắt rắn, những sợi tơ máu mờ mờ lại tản ra theo hình mắt lưới, khiến con mắt tròn ấy trở nên hung hăn dữ tợn lạ thường.

Trác Mộc Cường Ba đưa tay sờ vào mắt rắn, ở trung tâm nhãn cầu, một hình thoi dài hẹp có khe hở rất nhỏ với những bộ phận xung quanh. Những khe hở này khớp với đường nét trên bức phù điêu, không rờ tay vào thì khó lòng nhận ra được.

Merkin dùng ngón tay phác một nét trên vị trí của mắt rắn, đoạn nói: “Anh xem, cấu tạo này có giống một cái huyết trì cỡ nhỏ không?”

Nét mặt Trác Mộc Cường Ba đổi sắc, gã khe khẽ gật đầu. Merkin nói đúng, hút máu ở chỗ răng rắn, lan dần đến mắt rắn, đích thực rất giống một huyết trì. Bên này, Merkin bắt đầu hành động, ý rút dao ra, nhấn đầu mũi dao lên ngón tay mình, lẩm bẩm nói: “Có khi máu của tôi lại dùng được.”

Mũi dao đâm nhẹ vào, một giọt máu nhểu ra, Merkin đặt ngón tay vào chỗ răng rắn. Giọt máu chảy ra khỏi đầu ngón tay liền bị ống hút bên trong răn rắn chầm chậm hút vào. Huyết trì cỡ nhỏ này không cần nhiều máu lắm, Merkin chỉ khẽ nhấn ngón tay một cái, răn rắn đã không hút thêm máu nữa. Không lâu sau, từng sợi từng sợi tơ máu bắt đầu lan đến gần mắt rắn, rồi men theo vòng ngoài vươn dần vào bên trong, khi những sợi tơ máu rẽ nhánh chạm vào con ngươi hình thoi bên trong nhãn cầu, chỉ nghe “tách” một tiếng rất nhẹ, con ngươi ấy liền thụt vào bên trong. Đồng thời, dường như một lớp màng được mở ra, chính giữa con mắt lộ ra một cái lỗ nhỏ hình thoi màu đen, chỉ lớn hơn đầu ngón tay một chút, ngoài ra, toàn bộ đại điện đều không có gì thay đổi.

“Đây là cái gì vậy?” Nhìn cái lỗ nhỏ hình thoi ấy, hai chân mày Trác Mộc Cường Ba nhíu lại, hiển nhiên tác dụng của huyết trì này chỉ là mở ra một cái lỗ nhỏ. Từ độ sâu của cái lỗ nhỏ này, có thể thấy cần phải cắm thứ gì đó vào, họa may mới khởi động được cơ quan.

Merkin thấy cái lỗ nhỏ hình thoi ấy thì mừng ra mặt, cười cười nói: “Đây là lỗ khóa, cần có khìa khóa mới mở được, chúng ta có chìa khóa!” Y thấy Trác Mộc Cường Ba đần mặt ra, hoang mang không hiểu gì, liền lặp lại lần nữa: “Chỉ chúng ta mới có chìa khóa.”

“Chìa khóa?” Trác Mộc Cường Ba càng thêm ngờ vực, gã chưa bao giờ nhớ là mình có chìa khóa gì, rốt cuộc Merkin đang nói đến thứ gì vậy?

Ngay sau đó, Merkin liền giải đáp mối nghi hoặc của gã. Y thò tay vào sâu trong áo, lấy ra một thanh kiếm đồng nhỏ, gần như giống hệt với thanh kiếm gia truyền của Trác Mộc Cường Ba.

Vừa nhìn thấy kiểu dáng và hoa văn khắc trên thanh kiếm, Trác Mộc Cường Ba cả kinh thốt lên: “Đây là…” Đồng thời, phản ứng đầu tiên của gã cũng chính là lần tìm thanh kiếm đồng trên người mình.

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 78

BÁU VẬT CỦA NHÀ PHẬT

Chương 42

BÍ MẬT CỦA CHÌA KHÒÁ

    

erkin cầm thanh kiếm đồng nhỏ trông như chiếc thập tự giá sáng lấp loáng, nhìn thẳng vào mắt Trác Mộc Cường Ba nói: “Đây chính là chìa khóa! Đây là thứ gia tộc nhà anh truyền qua không biết bao nhiêu đời, thứ mà dù trong trường hợp nguy hiểm nhất cũng tuyệt đối không thể đánh rơi, vậy mà anh lại không biết nó dùng để làm gì ư?”

Trác Mộc Cường Ba cũng lấy ra thanh kiếm đồng nhỏ giấu ở túi áo trong của gã ra. Hai thanh kiếm gần như giống hệt nhau, chỉ khác ở chỗ, chuôi kiếm của Trác Mộc Cường Ba là con Tỳ hưu ba sừng, bên dưới là bốn con thú sư tử, rồng, hổ, đại bàng, còn chuôi kiếm của Merkin lại khắc thành hình Kỳ lân, bên dưới là bốn con quỷ Si, Mị, Võng, Lượng.

Hai thanh kiếm đồng đặt cạnh nhau, kích cỡ giống hệt, chất liệu giống hệt, công nghệ giống hệt, chỉ cần nhìn lướt qua, bất cứ ai cũng có thể khẳng định hai thanh kiếm đồng này được làm ra ở cùng một nơi, cùng một thời điểm, thậm chí là bởi cùng một người thợ. Trác Mộc Cường Ba nhìn chằm chằm vào chúng, cơ hồ vẫn không dám tin vào mắt mình: “Đây là chìa khóa ư? Ông lấy ở đâu ra vậy?”

Merkin nghi hoặc nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Giống anh thôi, đều là các tiền bối trong gia tộc truyền thừa xuống, chẳng lẽ anh thật sự không biết? Mặc dù anh không nói gì với những người trong nhóm của mình, nhưng tôi thấy anh coi trọng nó như vậy, cứ tưởng anh đã biết thanh kiếm đồng này là gì rồi chứ.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi coi trọng nó, chỉ vì nó là vật truyền thừa của gia tộc thôi. Trước nay tôi vẫn luôn nghĩ rằng, nó chỉ là một vật có ý nghĩa lịch sử đối với gia tộc mình.”

Merkin nghiêm nét mặt lại nói: “Đã vậy thì để tôi nói cho anh biết, chiếc chìa khóa này không chỉ là tượng trưng cho truyền thừa lịch sử, quan trọng hơn, nó là một sự chứng nhận đối với huyết thống và thân phận, mà quan trọng nhất, nó là một chiếc chìa khóa! Bao đời nay, gia tộc chúng tôi vẫn truyền lại cho đời sau rằng, không có chìa khóa này, cho dù có tìm được thần miếu cũng không thể mở được kho báu cuối cùng. Có điều, theo như truyền thừa của gia tộc chúng tôi, lẽ ra chỉ có một chiếc chìa khóa mới đúng. Tôi cũng lấy làm lạ, không hiểu tại sao anh cũng có một chiếc? Vả lại, hai chiếc chìa khóa này tuy rằng hình dạng tương tự, kỹ thuật chế tác cũng giống nhau, nhưng vẫn có những điểm khác biệt rõ rệt.”

Tâm tư Trác Mộc Cường Ba lúc này đang cuộn lên những đợt sóng lớn, vô số ý nghĩ cũng dâng trào lên trong óc gã. Trong gia tộc không hề lưu lại bất cứ ghi chép nào liên quan đến chiếc chìa khóa này, cha gã cũng không nhắc nhở gì đặc biệt, nhưng các trưởng lão thôn Công Bố lại nhận định gã là Thánh Sứ… Merkin là hậu nhân của Tây Thánh Sứ, vậy còn bản thân gã…? Rốt cuộc chuyện này ẩn chứa bí mật gì? Truyền thừa nghìn năm, rốt cuộc bị đứt đoạn từ khi nào? Đoạn lịch sử thất lạc ấy sao lại bị vùi chôn trong dòng chảy hỗn loạn của thời không? Thân phận của gã rốt cuộc là gì? Gia tộc của gã khởi nguồn từ đâu? Gã và Bạc Ba La thần miếu này có quan hệ như thế nào? Các trưởng lão thôn Công Bố nói gã sẽ thức tỉnh? Gã vốn chỉ muốn tìm Tử Kỳ Lân thôi mà, sau lại biến thành như vậy?

Merkin không phát hiện ra tâm trí Trác Mộc Cường Ba lúc này đang rối tơ vò, chỉ thấy ánh mắt gã hơi đờ đẫn, liền khẳng định: “Nếu vậy, chắc chắn anh cũng không biết phải mở cái chìa khóa này ra như thế nào rồi, đúng không?” Dứt lời, y liền ở trước mặt Trác Mộc Cường Ba, cầm chuôi thanh kiếm đồng ấy vặn vẹo mấy cái, cũng không biết là ấn vào những chỗ nào, thoắt cái chuôi kiếm đã mở ra. Bên trong chuôi kiếm là một ống kim loại, miệng ống xòe rộng ra như cái bát. Chỗ miệng bát tuy đã được chà xát cho sạch, nhưng vẫn còn vương lại vết máu, một hai vệt đã chuyển thành màu xanh lục, không biết đã có từ mấy trăm năm trước. Nhìn chuôi kiếm đã mở hẳn ra, Merkin mới nói: “Tôi có thể khẳng định với anh, đây là một chiếc chìa khóa không thể phục chế, anh nhìn những ký hiệu totem chạm trổ trên thân kiếm đi, chúng không chỉ là những biểu tượng, mà thực ra là lò xo có thể co duỗi được. Bên trong chiếc chìa khóa này, cũng là một huyết trì cỡ nhỏ, chỉ cần một giọt máu… một giọt thuần huyết!”

Trước cặp mắt chăm chú của Trác Mộc Cường Ba, Merkin bóp nhẹ vết thương vẫn chưa khép miệng trên đầu ngón tay, lại một giọt máu nữa nhỏ vào cái lỗ nhỏ hình miệng bát. Một loạt tiếng “tách tách tách” rất nhẹ như sâu phá kén vang lên. Cùng với những âm thanh ấy, những hình chạm nổi trên thân kiếm lại bật ra những hình trụ tròn, to thì bằng đầu đũa, nhỏ thì như tăm xỉa răng. Không chỉ thế, xung quanh những hình trụ tròn ấy, lại bật ra những mũi gai nhọn li ti, trên thân mũi gai lại bật ra tiếp rất nhiều những răng nhọn nhỏ như sợi lông, hai bên răng nhọn ấy dường như cũng bật ra những sợi nhỏ hơn nữa, mắt thường không thể nào phân biệt nổi, đại khái chỉ có thể trông thấy trên bề mặt răng nhọn phủ một lớp màng như tơ nấm mốc mà thôi.

Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt, kinh ngạc thốt lên: “Đây là…?”

Merkin nói: “Không cần nhìn kỹ thế đâu, chỗ nhỏ nhất phải dùng đến kính hiển vi phóng đại một trăm lần mới phân biệt được cơ. Chúng tôi có lý do để tin rằng, những sợi lông nhỏ li ti này đều là răng cưa của chìa khóa, nó là chìa khóa duy nhất ứng với những lỗ nhỏ ở vách bên trong cái lỗ hình thoi này.”

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát, đoạn nói: “Cho dù là vậy, với công nghệ ngày nay, muốn phục chế một chiếc chìa khóa như vậy chắc cũng không phải quá khó chứ?”

Merkin cười khẩy, nói: “Anh nghĩ đơn giản quá rồi, đầu tiên phải dồn nén vô số răng chìa khóa thành một vật thể hình thoi, đồng thời lợi dụng một lực nào đó để khiến những răng chìa khóa này hoàn toàn bật ra. Chẳng những vậy, còn giữ được cả nghìn năm không hề hư hao tổn hại chút nào. Theo tôi được biết, trình độ khoa học công nghệ hiện nay vẫn chưa làm được điều đó đâu. Gia tộc chúng tôi đã làm thống kê, phần bật ra này chiếm một nửa thể tích chiếc chìa khóa, nhưng diện tích bề mặt lại bằng một trăm ba mươi lần diện tích bề mặt chiếc chìa khóa ban đầu.”

Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên hỏi: “Bọn họ làm cách nào vậy?”

Merkin đáp: “Sinh vật, giống như huyết trì vậy. Chúng ta có thể nói thế này, toàn bộ chiếc chìa khóa giống như một thể sống có vỏ ngoài bằng kim loại. Bên trong chìa khóa này có dấu vết của sự sống, tổ tiên của tôi đoán đó là một loại khuẩn niêm hợp hoặc chân khuẩn gì đó, phạm vi sinh tồn của chúng giới hạn ở bên trong chiếc chìa khóa này. Quan hệ của chúng và chìa khóa, cũng giống như san hô với rặng đá san hô vậy. Đồng thời, khi được máu tươi kích hoạt, chúng sẽ sinh ra lực hướng ngoại rất mạnh, làm các răng chìa khóa bật ra ngoài.”

Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của Trác Mộc Cường Ba, Merkin lại mỉm cười nói tiếp: “Không chỉ có vậy, loại sinh vật này kén chọn máu nữa, cũng giống như bộ phận kết hợp của thụ thể(38)trong hệ thống miễn dịch ở cơ thể người vậy. Tôi đoán, có lẽ đã đi sâu vào phạm trù gene rồi.”

Trác Mộc Cường Ba không hiểu đống thuật ngữ chuyên ngành Merkin vừa xổ ra, lại thắc mắc: “Thế nghĩa là sao?”

Merkin giải thích: “Tức là, ngoại trừ tôi và những người mang huyết thống trực hệ trong gia tộc, máu của người khác hoàn toàn không có tác dụng gì với nó.”

Thấy hai mắt Trác Mộc Cường Ba lại trợn tròn lên, Merkin nghiêm túc nói: “Chúng tôi đã thực nghiệm rất nhiều lần, sự thực chứng minh, ngoài máu của những thành viên nam còn sống trong gia tộc, máu hay chất lỏng nào khác trên cơ thể của bất cứ ai cũng hoàn toàn không có chút hiệu quả nào.” Y thoáng ngập ngừng một chút, rồi tiếp tục giải thích: “Sở dĩ tôi nói đã liên quan đến phạm trù gene, là vì cho dù thành viên nam giới trực hệ trong gia tộc chúng tôi, không phải người nào cũng có thể làm chiếc chìa khóa này bật ra được. Cha tôi là một ví dụ, ông ấy không thể làm chìa khóa bật ra, đến đời tôi, máu của tôi lại làm được, vì vậy…”

“Di truyền cách đời!” Trác Mộc Cường Ba lại biến sắc mặt.

“Đúng vậy,” Merkin gật đầu nói: “Chúng tôi cũng nghĩ thế, thông qua việc kết hợp với cá thể khác giới, một số gene di truyền có thể lặn hoặc trội, khiến cho trong gia tộc tôi cũng có người này người nọ, nhiều trường hợp dù là huyết thống trực hệ cũng không thể làm chìa khóa này bật mở ra được.”

Trác Mộc Cường Ba nén cảm giác ớn lạnh trong lòng xuống, lẩm bẩm: “Di truyền, cổ độc, Đông Tây y kết hợp…”

Merkin gật đầu lia lịa nói: “Đúng, đúng, tôi cũng cho rằng đây là một phương thức vận dụng cổ độc của người Qua Ba. Thật khó tin là trình độ sử dụng cổ độc của họ đã đến giai đoạn nghiên cứu lợi dụng gene di truyền rồi.” Y vừa dứt lời, chợt vang lên tiếng “xẹt xẹt xẹt xẹt”, sau đó những răng chìa khóa bật ra lại rụt trở về, tốc độ cực nhanh, chỉ chớp mắt vài cái chìa khóa đã trở lại hình dạng thanh kiếm đồng như lúc ban đầu.

Trác Mộc Cường Ba không kìm được, đưa mắt liếc nhìn y. Merkin lại nói: “Chúng tôi cho rằng, trong máu của những thành viên nam có gene trội trong gia tộc mình có một loại hoạt chất đặc biệt. Đối với thứ sinh vật bên trong chìa khóa, loại hoạt chất này giống như thuốc kích thích vậy. Hoạt chất trong máu có thể khiến sức lực của chúng tăng lên gấp bội, đủ để làm bật ra các răng chìa khóa. Sau khi hoạt chất này tiêu hao hết, chúng sẽ tự động rút trở về.” Không lâu sau đó, lại nghe “tách” một tiếng, lỗ nhỏ hình thoi bên trong mắt rắn lại đóng lại, con ngươi cũng bật trở ra, mọi thứ đều khôi phục trạng thái ban đầu.

“Hả?” Merkin quay sang chỗ mắt rắn, hân hoan kêu lên: “Xem ra nguyên lý của lỗ khóa này cũng giống như chìa khóa, lợi dụng hoạt chất trong máu của tôi làm nguồn động lực.”

Trác Mộc Cường Ba bắt đầu nôn nóng, gã giục giã: “Đừng nói nhiều nữa, cho chìa khóa vào rồi thử xem sao, để xem sau cánh cửa này rốt cuộc có thứ gì?”

Máu ở đầu ngón tay Merkin đã khô, y bèn chọn một ngón khác, luôn miệng nói: “Được rồi, được rồi.” Răng rắn hút máu, mắt rắn mở ra lỗ nhỏ hình thoi, Merkin cắm thanh kiếm đồng vào trong. Trác Mộc Cường Ba bây giờ mới phát hiện, lỗ mở hình miệng bát ở chuôi kiếm có thể uốn cong. Merkin hướng miệng bát lên phía trên, nhểu vào một giọt máu, sau đó chăm chú lắng nghe động tĩnh bên trong lỗ khóa. Sau một loạt tiếng “tách tách”, y cho rằng đã được rồi, liền bắt đầu chuyển động phần chuôi của chiếc chìa khóa hình thập tự giá.

Dần dần, sắc mặt Merkin bắt đầu biến đổi, từ hân hoan trở nên nghiêm trọng, từ nghiêm trọng trở nên nặng nề, cuối cùng thì nhăn mặt cười khổ với Trác Mộc Cường Ba: “Không đúng, không xoay được.”

Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở: “Liệu có phải cắm ngược không?” Dù sao thì cả bốn mặt của chiếc chìa khóa đều có thể hướng lên trên.

Merkin khẳng định: “Không đâu, anh xem…” Y chỉ vào thanh ngang trên chuôi kiếm, nói: “Theo như tổ tiên tôi truyền lại, chỗ này hướng lên trên là đúng rồi.”

Trác Mộc Cường Ba lẳng lặng gật đầu, thanh ngang đúng là đã hạn chế chìa khóa chỉ có thể cắm vào theo hướng này. Gã lại nói: “Hay là, để tôi thử xem?”

Merkin đành ủ rũ gật đầu: “Cũng được.”

Trác Mộc Cường Ba cầm thanh kiếm đồng gia truyền trên tay, nghĩ mãi không hiểu nổi, tại sao thứ này lại thành ra một chiếc chìa khóa? Gã cẩn thận quan sát vị trí Merkin vặn ra ở chuôi kiếm, rồi lại nhìn thanh kiếm trên tay mình, chẳng thấy kẽ hở nào, căn bản không nhìn ra chỗ nào có thể vặn mở được. Gã thử vặn qua vặn lại một hồi, song đều vô hiệu. Merkin đứng bên cạnh thấy vậy liền lên tiếng: “Không đúng, không phải làm vậy.” Nói đoạn, y giật lấy thanh kiếm nhỏ trên tay Trác Mộc Cường Ba, bảo gã: “Có mấy chỗ này, yêu cầu thủ pháp phải khéo léo.” Chỉ thấy y ấn ấn, xoay xoay lên đầu, mình và chân con Tỳ hưu, không hiểu làm cách nào mà đã mở ra được. Cũng giống như chìa khóa của Merkin, chuôi kiếm mở ra xong, bên trong là một ống kim loại, miệng ống loe ra như miệng bát, cũng có vết máu, đã chuyển sang sắc xanh lục.

Nhìn những vết máu ấy, ánh mắt Merkin nhìn Trác Mộc Cường Ba càng thêm nghi hoặc, ý tứ rất rõ ràng, rành rành tổ tiên nhà anh cũng biết cách sử dụng chiếc chìa khóa này, tại sao đến đời anh lại quên hoàn toàn như vậy? Trác Mộc Cường Ba cũng chỉ biết lắc đầu, tỏ ý mình chẳng biết gì cả. Merkin kéo kéo chiếc chìa khóa của y, thời gian chưa hết nên vẫn chưa rút ra được. Y đưa con dao cho Trác Mộc Cường Ba, ý bảo gã thử xem máu gã có thể làm chìa khóa bật ra hay không.

Trác Mộc Cường Ba có chút thấp thỏm bất an, lúc mũi dao rạch vào đầu ngón tay, tay gã hơi run lên, một giọt máu nhểu xuống. Gã cơ hồ không dám tin vào mắt mình, chiếc chìa khóa trong tay gã cũng “tách tách tách” biến đổi, thân kiếm bật ra những gai nhọn tua tủa, trên những gai nhọn ấy lại bật ra những mũi gai nhỏ hơn, hình dạng cuối cùng trông như một cây thông Noel.

Merkin mỉm cười quan sát quá trình biến đổi, lẩm bẩm nói: “Tôi bảo rồi mà.”

Trác Mộc Cường Ba chỉ khe khẽ lắc đầu, sao lại thế này nhỉ? Cha có biết hay không? Ông biết nhưng không nói với mình, hay là bản thân ông cũng không biết? Không, cha cũng không biết, từ thái độ của ông lúc giao chiếc chìa khóa này cho mình chắc chắn là cha không biết gì cả. Gia tộc nhà mình, đã để sự việc này chìm vào quên lãng từ khi nào vậy? Hậu nhân của Thánh sứ, không ngờ mình cũng là hậu nhận của Thánh sứ!

Một lát sau, Merkin rút chiếc chìa khóa của y ra, trong khi hai người chờ chiếc chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba hoàn nguyên trạng thái ban đầu, mắt rắn cũng đã đóng lại.

Cuối cùng, chìa khóa trong tay Trác Mộc Cường Ba cũng đã thu vào, gã thầm hít sâu một hơi, dùng máu mình mở mắt rắn ra, rồi cắm chìa khóa vào, nhỏ một giọt máu, sau đó chầm chậm xoay chuyển chuôi kiếm trong ánh mắt chăm chú và đầy kỳ vọng của Merkin. Một lần, hai lần… ánh mắt nóng bỏng của Merkin từ từ trở nên ảm đạm, Trác Mộc Cường Ba ủ rũ ngoảnh lại, lắc đầu, tỏ ý vẫn không xoay được. “Không thể nào!” Merkin cuống lên. “Không thể nào! Sao cả hai chiếc chìa khóa đều không mở ra được?”

So với Merkin, Trác Mộc Cường Ba còn bình tĩnh hơn, gã giải thích: “Nếu tôi không lầm, chắc hẳn còn một chiếc chìa khóa nữa, đừng quên, bấy giờ sứ giả đã mang ra ba món tín vật, chia ra đưa cho ba người khác nhau. Nếu tôi và ông mỗi người đều có một chiếc chìa khóa, vậy hẳn phải còn một chiếc chìa khóa thứ ba nữa.”

Merkin thất vọng nói: “Ý anh là… chỉ có chiếc chìa khóa thứ ba kia mới mở được cánh cửa này?”

Merkin không cam tâm chút nào, nghe thấy chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba thu trở về trạng thái ban đầu, y lại nói: “Thử lại lần nữa, thử lại lần nữa xem sao!”

Đáp ứng yêu cầu của Merkin, Trác Mộc Cường Ba lại thử thêm lần nữa, sau đó Merkin cũng thử lại một lần, nhưng rất rõ ràng, chìa khóa của họ đều không mở được cánh cửa đá dày nặng này. Merkin lại rút chìa khóa ra, nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt gần như tuyệt vọng, nói bằng giọng van lơn: “Anh thử lại lần nữa xem sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Có lẽ số mệnh đã định sẵn chúng ta không thể đến được nơi sâu nhất của Bạc Ba La thần miếu, ông hà tất phải cưỡng cầu làm gì?”

“Vậy bây giờ tính sao đây? Chúng ta bị kẹt ở đây rồi? Không thấy gì cả, không tìm được gì cả, chỉ bị kẹt cứng ở đây chờ chết? Không! Tôi tuyệt đối không chấp nhận!” Merkin vung tay giằng lấy chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba, nhét vào lỗ khóa rồi tóm ngón tay gã nặn máu ra, hai người nhìn giọt máu từ từ biến mất trong miệng ống loe ra.

Vốn dĩ hai người cũng không ôm nhiều hy vọng lắm, nhưng đúng lần này, giọt máu vừa nhểu xuống, sau một loạt tiếng “tách tách tách”, đột nhiên có thêm một âm thanh khác, nghe như tiếng đàn đứt dây hay bảo kiếm rời vỏ, nhẹ mà rất rõ. Liền ngay sau đó, lại vang lên tiếng vật nặng rơi xuống đất, tiếng bánh răng, tiếng trục quay, tiếng ma sát kèn kẹt hòa trộn vào nhau. Không cần chuyển động gì thêm, mắt rắn đã tự xoay tròn, lỗ khóa xoay cùng với chìa khóa, cả con rắn khổng lồ chạm trổ trên cánh cửa như thể sắp sống dậy, một vài đường vân thụt vào, một số đường vân khác lại nổi gồ lên. Tiếp đó, cả gian đại điện bắt đầu thay đổi, bệ đá bên dưới kim thân của các vị tiền bối bắt đầu chuyển dịch vị trí, tiến trước lùi sau, hoặc sang trái hoặc sang phải, tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp. Trong đại điện này, duy chỉ có hai người đàn ông đang trợn tròn mắt há hốc miệng trước cánh cửa đá là không phát ra bất cứ âm thanh nào.

Chú thích

(38) Thụ thể: là những protein biệt hóa để tiếp nhận các phân tử hóa học nội sinh (ligands) hay ngoại sinh (thuốc, độc chất).

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 78

BÁU VẬT CỦA NHÀ PHẬT

Chương 43

BÁU VẬT NHÀ PHẬT

    

rong đầu hai người đều đang thắc mắc cùng một vấn đề, tại sao hai lần trước không được, mà lần này lại thành công như thế? Ngay sau đó, cả hai đều hiểu ra. Hai lần trước, họ dùng máu của một người để mở lỗ khóa và nhỏ vào chìa khóa, còn lần này, lại dùng máu của Merkin khiến mắt rắn mở ra, sau đó cắm chìa khóa của Trác Mộc Cường Ba vào, trong chìa khóa lại nhỏ máu của Trác Mộc Cường Ba. Phỏng chừng, phải đồng thời sử dụng máu của cả hai người, mới có thể phát huy được tác dụng thực sự.

Trác Mộc Cường Ba còn nghĩ xa hơn, mấu chốt không phải ở chìa khóa, cả hai chiếc chìa khóa ấy chỉ là vật dẫn, máu của hai người mới là thứ có tác dụng thực sự. Hai dòng máu thuần chủng đã truyền thừa hơn nghìn năm của các vị Thánh sứ. Bấy giờ, họ mới ngộ ra được ý nghĩa thực sự của hàng chữ “một người có huyết thống thuần chủng” được khắc nổi bật trên cánh cửa lớn Bạc Ba La thần miếu.

Chỉ thoáng sau, bố cục của gian đại điện đã hoàn toàn biến đổi, đồng thời thân rắn trên cánh cửa cũng gồ lên vô số vảy, dưới bụng mọc thêm chân có móng vuốt, trông không còn giống rắn nữa … mà hơi giống … một con rồng?

Chỉ có điều, sau màn chấn động ấy, cánh cửa trước mặt họ vẫn đóng chặt. Trác Mộc Cường Ba khẽ lay nhẹ, rút chìa khóa ra. Vẫn là Merkin nhanh mắt hơn, y chỉ tay vào cây cột mới xuất hiện ở chính giữa đại điện, hỏi: “Đó là cái gì vậy?”

Hai người đến gần cây cột, chỉ thấy bốn mặt cây cột hình vuông mỗi cạnh dài chừng hai mét này đều có bậc thang, trên đỉnh hình như khoét rỗng, không gian có thể chứa được người. Hai người quyết định leo lên xem sao.

Cây cột đá này được thả từ đỉnh vòm của đại điện xuống, Merkin lên trước, phát hiện ở giữa cây cột là một trụ kim loại đường kính khoảng nửa mét. Một vòng xung quanh trụ kim loại ấy có thể đứng được năm sáu người. Sau đấy, Trác Mộc Cường Ba cũng leo lên, Merkin cười lớn nói: “Ha ha, thì ra cánh cửa kia chỉ là vật che mắt, ai mà ngờ được lối vào thực sự lại ở chính giữa đại điện chứ, nếu không rõ chân tướng, cứ cố cho nổ hoặc phá hoại cánh cửa đá kia, nói không chừng phía sau chỉ là toàn là đá núi mà thôi.”

Trác Mộc Cường Ba vừa đứng vững, chưa kịp nói gì, cột đá đã được trụ kim loại ở giữa dẫn động, chầm chậm dâng lên. Thấy cột đá vẫn tiếp tục dâng cao, Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ, chỉ sợ khi cột đá này trở lại vị trí ban đầu, dù là ai đến được đây, cũng sẽ chỉ nghĩ cách phá hoại cánh cửa kia hoặc đào sâu xuống dưới mà thôi. Có kẻ nào nghĩ ra được việc đào lên phía trên mấy chục mét chứ?

Dọc đường, có một quãng hoàn toàn tối đen, tuy rằng khoảng cách rất ngắn, nhưng trong không gian tối đen kín mít ấy, Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm thấy ngạt thở. Không gian nhỏ hẹp này rõ ràng không đủ dưỡng khí cho hai người, đúng vào lúc cảm giác hoảng loạn manh nha xuất hiện, thì bọn họ đến được tầng trên. Thứ đầu tiên đập vào mắt hai người, là ánh sáng!

Ánh sáng này khác với thứ ánh sáng ở bên dưới, không phải sắc đỏ của dung nham và màu vàng cam của những pho tượng dát vàng, mà là một thứ ánh sáng mạnh đến chói mắt. Ánh sáng xuất hiện quá bất ngờ, quá mạnh mẽ, đến nỗi Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa ra khỏi vùng tối tăm không thể không giơ tay chắn trước mắt, quan sát hoàn cảnh xung quanh qua những kẽ ngón tay.

Qua kẽ ngón tay, tròng mắt họ dần dần mở to, không phải vì bị ánh sáng mạnh kích thích như lẽ thường… Trước mắt họ lúc này đây, toàn là những thứ đủ khiến những người bình thường phát điên phát rồ… Báu vật!

Cột đá càng lúc càng dâng cao, số lượng báu vật đập vào mắt họ cũng tăng lên theo cấp số nhân, không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ thấy vô số quầng sáng rực rỡ chói mắt, tựa như cầu vồng tan vào dòng nước cuồn cuộn, cơ hồ muốn vươn mình thoát ra khỏi những báu vật kia, chảy tràn đi khắp chốn.

Không gian rộng mở, lượng ôxy trong không khí cũng tăng lên, Trác Mộc Cường Ba hít vào một hơi, cả người liền nhẹ bẫng như thể muốn bay lên. Gã cũng từng nghe truyền thuyết về châu quang bảo khí, tương truyền trên bền mặt những món châu báu thực sự quý hiếm đều có một tầng linh khí, dù bị chôn vùi dưới lòng đất sâu, những món báu vật ấy vẫn phát ra ánh sáng rực rỡ, nhưng gã chưa từng gặp báu vật nào như thế. Cho dù trước đây, cũng từng có người nhờ gã cầm hộ những viên bảo thạch trị giá hàng chục triệu, nhưng trong mắt gã, đó chẳng qua cũng chỉ là mấy viên đá có màu sắc đặc biệt một chút mà thôi. Nhưng mỗi một món báu vật ở đây đều tỏa ra thứ ánh sáng lóa mắt, khiến Trác Mộc Cường Ba thậm chí không biết nên hình dung những gì gã đã nhìn thấy như thế nào nữa, cảm tưởng như trên bề mặt mỗi món phẩm vật ở nơi này đều phủ một lớp chân khuẩn có thể phát ra ánh sáng huỳnh quang, hoặc trên bề mặt kim loại mọc chi chít những sợi lông mao phát quang vậy. Thứ ánh sáng đó mới đầu thì hơi chói mắt, nhưng chỉ thoáng sau gã đã phát hiện ra nó rất dịu dàng, chập chờn rung động, khiến ánh mắt người ta bất giác bị hút chặt không rời.

Merkin há miệng, hít thở từng ngụm không khí lớn. Đứng trước cả một kho báu mênh mông, y đột nhiên không biết mình nên cười hay nên rơi nước mắt, chỉ đờ người ra, cặp mắt đã bị ánh sáng các loại báu vật chiếm giữ, đầu óc hoàn toàn rỗng không. Đây mới thực sự là một gian đại điện huy hoàng rực rỡ. Ở nơi này, mặt sàn không biết được dát lên một lớp vàng mỏng, hay là những viên gạch bằng vàng ròng dày nặng nữa. Mỗi cây cột trong đại điện đều bọc một lớp áo vàng, điêu khắc hình trồng hình phượng giữa mây lành, ngay cả bốn bức tường và đỉnh vòm, cũng được bao phủ trong sắc vàng kim chói lóa.

Trước mắt hai người, là một hàng Phật tháp được xây bằng gạch xương, rất đậm đà bàn sắc dân tộc Tạng, mỗi tháp cao chừng một mét, bệ tháp và đỉnh tháp đều đúc bằng vàng ròng, thân tháp còn có một vành đai bằng vàng, đỉnh tháp khảm các loại bảo thạch, mỗi viên to như mắt rồng. Gạch xương màu trắng điểm xuyết trên ánh sáng màu vàng, trông như một hàng vệ binh hiên ngang chỉnh tề. Thân tháp đều mở ra, tạo thành một am thờ nhỏ, bên trong đặt các tượng Phật vàng lớn nhỏ, tạo hình khác nhau. Đằng sau nhưng Phật pháp này là một số đồ trang trí bằng vàng. Họ có thể thấy tượng vàng của thập đại niên thần, một thứ trông như cái giường lớn kiểu cổ của Trung Quốc, cũng bằng vàng ròng, chất đầy ngọc ngà châu báu. Ngoài ra, còn một cái tủ bằng vàng trông như quan tài, điêu khắc thành hình một động vật họ chó. Xa hơn chút nữa, là những tượng Phật kích cỡ lớn hơn. Đáng chú ý nhất, phải kể đến hai bức tượng cỡ đại cao ít nhất cũng tầm bốn mét ở chính giữa đại điện, thoạt nhìn không giống tượng Phật, mà là một nam một nữ. Người nam tướng mạo trang nghiêm oai vệ, toát lên khí thế của kẻ ngạo thị thiên hạ, còn người nữ lại đoan trang từ ái, bờ môi hơi nhếch lên tựa như nụ cười của nàng Monalisa.

Trác Mộc Cường Ba lập tức bị hai pho tượng vàng lớn nhất này thu hút, đây nhất định là tượng vàng cao ba trượng của Tạng vương Tùng Tán Can Bố và công chúa Văn Thành mà sách sử ghi chép. Đơn vị đo lường thời đó và ngày nay có sự sai biệt nhất định, nhưng hai bức tượng này cũng xứng danh là những bức tượng vàng ròng lớn nhất thế giới rồi.

Ánh mắt Merkin lại hoàn toàn bị hút vào đống báu vật đặt trên thứ vật dụng giống như chiếc giường. Y thậm chí còn không dám chắc rốt cuộc nên gọi thứ đó là gì nữa, chỉ biết nó được chạm trổ bằng kỹ thuật chạm rỗng, bên trên có hình mây trôi và hoa lá, toàn bộ những viên bảo thạch đính xung quanh đều không tầm thường. Có điều, những thứ bày trên giường kia mới thực sự khiến tâm thần Merkin đắm say ngây ngất. Báu vật vô giá, mỗi một món trên giường đều là báu vật vô giá.

Không biết bao lâu sau, tâm trí hai người mới bình tĩnh trở lại. Họ chầm chậm đặt chân lên sàn đại điện màu vàng kim, men theo hàng Phật tháp tiến về phía trước.

Dọc đường, bất giác Merkin cứ không ngừng so sánh những thứ ở trước mắt với những thứ y lưu trữ trong ký ức, những món báu vật được phát hiện từ thuở nhân loại bắt đầu có lịch sử.

Chế phẩm bằng vàng ròng lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Kia là kim cương lam, không ngờ… không ngờ lại có viên kim cương màu lam lớn đến vậy!

Viên kim cương lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Viên hồng ngọc lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Viên ngọc mắt mèo lớn nhất thế giới, cũng phải đổi lại…

Kia là phỉ thúy sao? Sao lại có thứ phỉ thúy xanh mướt đẹp đến thế…

Viên phỉ thúy đẹp nhất lớn nhất thế giới, phải đổi lại…

Vương tọa, vương trượng, mũ miện khảm nạm nhiều châu báu nhất thế giới, đều phải đổi lại…

Sau mỗi bước chân, hơi thở của Merkin càng lúc càng thêm gấp gáp. Y đã không kiểm soát nổi cơ thể mình nữa, toàn thân run lên bần bật. Dọc đường bước tới, y gần như tuyệt vọng nhận ra, phàm là những món châu báu thiên nhiên hoặc nhân tạo được cho là nhất trong lịch sử mà y nhớ được, chỉ trong một chớp mắt, toàn bộ đều đã bị soán ngôi! Liếc mắt nhìn ngang, bên trái có một cái cây bằng vàng ròng, cao chừng mét bảy mét tám, cành cây chĩa nhánh, buông xuống những chuỗi bảo thạch long lanh như giọt lệ, không có gió cũng tự đung đưa. Không phải những chuỗi bảo thạch ấy đung đưa, mà là ánh sáng tỏa ra từ chúng.

Hơi dịch ánh mắt đi một chút, lại sẽ thấy một chiếc kim luân lớn, ở đầu mỗi tia hào quang chiếu ra đều gắn một viên bảo thạch tròn nhẵn trong nhờ nhờ giống như ngọc trai, nhìn kỹ hơn sẽ kinh ngạc phát hiện ra, những viên bảo thạch ấy, hóa ra chính là Ngọc thời gian trong truyền thuyết. Cứ cách một quảng thời gian nhất định, một trong các hạt châu này sẽ phát ra ánh sáng, kéo dài đến khi hạt châu tiếp theo sáng lên, lặp đi lặp lại như vậy, nghìn năm cũng không sai lệch.

Không cần dịch chuyển ánh mắt, chỉ cần nhìn xa hơn chút nữa, phía sau kim pháp luân ấy là một khay Mantra(39) cao hơn một mét rưỡi, do những viên trân châu to tướng ghép lại mà thành, từ trên xuống dưới tổng cộng có năm tầng, không biết rốt cuộc phải dùng đến mấy nghìn mấy vạn viên. Đặc biệt nhất là, mỗi viên đều to nhỏ bằng nhau, trắng ngần không tỳ vết.

Phóng tầm mắt ra chút nữa, trên bức tường màu vàng phía xa sừng sững một tấm vách màu ngọc bích, còn cao hơn cả Merkin, trông như một vầng trăng tròn màu xanh ngọc. Nhìn sắc xanh biêng biếc đặc biệt ấy, lẽ nào, đó lại là phỉ thúy? Một miếng phỉ thúy đường kính hơn hai mét, hoàn toàn không tỳ vết? Miếng phỉ thúy ấy có màu xanh như lá cỏ mới nhú lúc đầu xuân, lại thấp thoáng có thể nhìn xuyên qua, trông thấy phù điêu chạm nổi trên bức tường vàng phía sau nó. Phẩm chất của miếng phỉ thúy này thế nào, thiết tưởng không cần phải nói nữa. Thứ này còn thuộc về nhân gian nữa hay sao? Miếng phỉ thúy lớn thế, rõ ràng có thể dùng làm bình phong, thậm chí làm tường ngăn cũng được, đúng là lấy ngọc làm tường, lấy ngọc làm tường!

Cuối cùng, hai chân Merkin cũng không đỡ nổi trọng lượng của cơ thể nữa, y ngã nhào lên một bức tượng Phật vàng ròng ngồi trên đài sen. Bức tượng này kể cả đài sen bên dưới thì cao gần hai mét, gần bằng người thật, một chân khoanh lại, một chân hơi duỗi ra, bốn tay đều cầm pháp khí. Bộ cà sa khoác trên thân tượng Phật không phải được chạm nổi, mà đúng là một bộ áo Phật dệt bằng tơ vàng. Những sợ tơ vàng được se ra còn mảnh hơn sợi tóc, chạm tay vào, cảm giác mềm mại trơn bóng như lụa. Cả tấm áo cà sa lớn như vậy mà cầm trên tay cảm giác nhẹ như lông hồng, áng chừng tổng trọng lượng cũng không quá một trăm gam, thực xứng là một tác phẩm thần kỳ. Những bảo thạch khảm nạm trên các pháp khí óng ánh rực rỡ, ánh sáng xuyên thấu, chiết xạ qua các pháp khí, Trác Mộc Cường Ba còn nhìn rõ được sự biến ảo của màu sắc và quỹ tích của chùm sáng. Bảo thạch trên các pháp khí kết hợp với những viên bảo thạch ở trán, ngực và bụng tượng phật, lợi dụng chùm sáng bảy màu, vạch ra trên không trung một ký hiệu tựa như hình Lục Mang tinh(40).

Merkin ngã bổ nhào lên tượng Phật, không nhúc nhích nữa, cục yết hầu không ngừng cuộn lên cuộn xuống, hít hà một cách tham lam, tựa như hít được mùi tỏa ra từ những món báu vật này có thể khiến y thư thái, sảng khoái lâng lâng toàn thân vậy. Cuối cùng, Merkin cũng hít đủ linh khí của báu vật, trông y lúc này như thể tên nghiện vừa được thỏa mãn, người mềm nhũn, mặt ngửa tựa vào lòng pho tượng, tay chân dang rộng, tạo thành một chữ “đại” lớn, cơ hồ bao nhiêu sức lực đã bị rút kiệt, chỉ còn lồng ngực phập phồng lên xuống không dứt. Hai mắt trợn trừng nhìn lên trần, thân thể như đang đắm chìm ngụp lặn trong ảo giác, miệng y lẩm bẩm nói mớ: “Ha ha… ta phát hiện ra rồi… toàn bộ đều của ta… báu vật vô giá… toàn bộ đều là báu vật vô giá… ông nội, cháu tìm được rồi! Ha ha ha… khục khục…”

Không biết bao lâu sau, Merkin mới sực nhớ ra vẫn còn một kẻ tên Trác Mộc Cường Ba ở bên cạnh mình, lý trí rốt cuộc cũng hồi phục phần nào, y khó nhọc ngẩng đầu lên, lập tức trông thấy Cường Ba thiếu gia. Trác Mộc Cường Ba đang đứng cách đài sen nơi Merkin ngả ngốn chừng năm mét, lạnh lùng nhìn y chằm chằm. Merkin lại nằm xuống, cười lớn nói: “Anh đã thấy chưa, Cường Ba, tất cả những thứ này, đều là của tôi!”

“Không!” Trác Mộc Cường Ba hờ hững trả lời, “Những thứ này, không phải của ông.”

“Cái gì!” Merkin giật bắn mình, nhảy dựng lên như một con báo hung hãn, trừng mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba quát: “Ngươi … Nói cái gì?”

Sát khí! Trác Mộc Cường Ba lập tức cảm nhận được sát khí ngùn ngụt tỏa ra từ Merkin, trông y lúc này chẳng khác nào một con dã thú đang liều mạng bảo vệ lãnh địa, trợn mắt nhìn kẻ ngoại lai xâm nhập, sát khí cuộn trào mãnh liệt.

Trác Mộc Cường Ba cảm thấy khó hiểu, cùng một con người, tại sao chỉ trong nháy mắt có thể thay đổi nhiều đến vậy. Những thứ châu báu này, thực sự có thể thay đổi linh hồn của một con người hay sao? Hay đây mới là bộ mặt thật của Merkin?

Nếu là trước khi vào thần miếu, Trác Mộc Cường Ba hẳn còn e dè khi đối mặt với sát khí ngùn ngụt ấy, có điều lúc này, gã thấy rất rõ, tâm lý của Merkin vừa trải qua một trận đại chiến dữ dội, cho dù về mặt thể lực y vẫn còn sung sức, nhưng tinh thần của y lại đang ở trong trạng thái cực độ yếu ớt. Bởi vậy, trước câu hỏi của Merkin, gã vẫn chậm rãi trả lời, nhấn từng chữ một: “Tôi nói, những thứ này, không thuộc về… ông…”

Chữ cuối cùng vừa thoát ra khỏi miệng gã, Merkin đã hung hăng nhào tới, cặp mắt trần trụi hệt như dã thú săn mồi, thậm chí vẻ giảo hoạt như rắn vốn luôn thấp thoáng ẩn hiện trong đôi mắt ấy cũng biến mất. Trác Mộc Cường Ba không nhân nhượng, ngược lại còn xông thẳng tới nghênh đón…

Trước những cú đấm như trời giáng của Cường Ba thiếu gia, lí trí của Merkin dần dần hồi phục, y đau đớn phát hiện ra, gã đàn ông này đã mạnh lên rất nhiều so với lúc mới tiến vào Bạc Ba La thần miếu… Merkin vùng vẫy, y không can tâm. Y không hiểu nổi, suốt mấy tháng lang thang trong thần miếu, y và Trác Mộc Cường Ba ăn cùng một thứ, làm những việc giống nhau, nhưng tại sao đối phương dường như mỗi ngày một mạnh lên, càng lúc càng mạnh. Bản thân y lúc này đã không thể duy trì được cục diện cân bằng với gã nữa rồi! Đương nhiên, Merkin cũng hiểu, y đã phải gắng hết sức trong trận chiến với Khafu, thương thế vẫn chưa hoàn toàn hồi phục, thêm nữa, lúc này y không thể điều chỉnh để tinh thần có trạng thái tốt nhất. Nhưng cho dù là vậy, y cũng không thể kém cỏi tới mức này chứ! Mỗi chiêu thức của Trác Mộc Cường Ba đều có xu thế chèn ép y, khiến y không thở nổi. Đối với sự thay đổi này, Trác Mộc Cường Ba cũng không hiểu rõ lắm, gã chỉ lờ mờ cảm thấy giữa hai chân mình có một vật thể hình bánh xe đang chầm chậm chuyển động, thân thể mình dường như mỗi ngày đều có biến hóa. Gã không biết dùng ngôn từ như thế nào để hình dung sự biến hóa này, chỉ khi đang quan sát, tiếp xúc, cảm tri môi trường xung quanh, gã mới phát hiện ra những điểm khác biệt rất nhỏ.

Merkin lại dính thêm mấy đòn nặng, bắt đầu không giữ vững được trọng tâm, y vẫn còn vũ khí, nhưng một thứ bản năng nguyên thủy lại ghìm y lại, không cho y sử dụng, một tiếng nói cứ liên tục lặp đi lặp lại trong tiềm thức: “Đừng rút súng, rút súng là ngươi sẽ chết chắc!”

Cuối cùng, khi Merkin bị đánh cho ngã nhào vào một bức tượng Phật, loạng choạng mấy bước liền vẫn chưa đứng vững, y mới tỉnh hẳn, cuống quýt nói: “Đừng… đừng đánh nữa, Cường Ba… Cường Ba thiếu gia… tôi, tôi là Merkin đây!”

“Hả? Ông tỉnh lại rồi hả?” Trác Mộc Cường Ba bước lên trước, tước vũ khí của Merkin. Lúc này, Merkin vẫn đang ở trong trạng thái cuồng bạo, có trời mới biết y sẽ làm ra những chuyện gì. Merkin không phản kháng, chỉ gật đầu lia lịa nói: “Tôi, tôi tỉnh lại rồi. Vừa nãy, vừa nãy không hiểu làm sao… giống như bị ma ám vậy. Ừm, chết tiệt, thậm chí tôi còn không biết rốt cuộc mình đã làm những gì nữa!”

Nghe câu trả lời của Merkin, Trác Mộc Cường Ba chỉ cười nhạt. “Đừng tin bất cứ chữ nào, câu nào của y,” gã vẫn còn nhớ rõ lời cảnh cáo cuối cùng của Nhạc Dương. Merkin chậm rãi bước đến, y đã sáng tỏ tình huống lúc này, chỉ cần y không ra tay, Trác Mộc Cường Ba cũng sẽ không tấn công. Y ngập ngừng giây lát, rồi mở miệng: “Nhìn đi, Cường Ba thiếu gia, đây mới là kho báu thật sự, mỗi một món đồ ở đây, chỉ cần mang ra ngoài kia, chắc chắn sẽ làm cả thế giới chấn động. Những thứ này do chúng ta phát hiện, chúng là của chúng ta đấy!”

“Chúng ta?” Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn Merkin.

“Đúng vậy.” Ánh mắt Merkin đầy kích động. “Chúng ta, mỗi người một nửa…” y vừa nói, vừa nhìn Trác Mộc Cường Ba. Thoáng sau, y chợt biến sắc mặt: “Chẳng lẽ.. chẳng lẽ anh muốn… một mình… độc chiếm!” Mấy chữ cuối cùng, Merkin nói có vẻ rất khó nhọc, giờ đây vũ khí cũng bị đối phương đoạt mất rồi, sắc mặt y trở nên hết sức khó coi. “Anh… anh không thể mang hết đi được! Những thứ này, một mình anh, liệu, liệu có thể mang đi được bao nhiêu? Những món châu báu này, chỉ cần tiện tay vơ một nắm, cũng đủ khiến chúng ta trở thành người giàu nhất thế giới rồi, không phải anh muốn độc chiếm tất cả đấy chứ?”

“Không.” Nghe thấy câu nói này, Merkin mới thở phào nhẹ nhõm. Nhưng tiếp đó, Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Những thứ này không thuộc về chúng ta, chúng thuộc về nhà nước.” (Ôi! mẹ ơi! Cường Bà ơi là Cường Ba!!!)

Chú thích

(39) Khay Mantra: hay còn gọi là Man Trát, là một loại pháp khí thường gặp trong Trạng truyền Phật giáo, tượng trưng cho toàn bộ vũ trụ thu nhỏ vào trong.

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 79

SỰ THẬT ĐÁNG SỢ

Chương 44

CÁNH CỬA THỨ HAI

    

hà nước!” Giọng Merkin lạc đi, y nhìn Trác Mộc Cường Ba như nhìn một tên ngốc, rồi lập tức hỏi vặn lại: “Chúng thuộc về nhà nước nào chứ? Trung Quốc? Ấn Độ? Nepal? Buhtan? Chính chúng ta còn không biết mình đang đứng trên lãnh thổ đất nước nào, vậy anh định giao trả những thứ này cho chính phủ nước nào đây?”

Trác Mộc Cường Ba không trả lời câu hỏi của Merkin, gã đang nghĩ đến một vấn đề khác, liền hỏi: “Vừa nãy ông nói gì? Ông cũng không biết mình đang ở địa giới của nước nào? Nhưng hẳn ông phải rõ, các ông từ đâu tiến vào đây chứ?”

Merkin nói: “Phải, chúng tôi từ nước N, băng qua biên giới, sau đó tiến vào khu vực không người, xuyên qua hành lang gió Tây. Suốt dọc đường, chúng tôi cũng không thấy cột mốc biên giới nào của Trung Quốc, cũng không phát hiện cột mốc hay bộ đội biên phòng của bất cứ quốc gia nào. Toàn bộ tuyến đường của chúng tôi đều là khu vực không người, đi suốt mười lăm ngày trong vùng bị sương mù dày đặc bao phủ. Vì vậy, tôi cũng không biết chúng ta đang ở trong địa giới của nước nào nữa. Những thứ này, kỳ thực đều là vật vô chủ, không thuộc về quốc gia nào cả, theo công ước và quán lệ quốc tế, những thứ này, toàn bộ đều thuộc về người phát hiện ra chúng.”

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát, vẫn lắc đầu nói: “Không được, đây không phải vật tàng trữ tư nhân, mà là tài sản thuộc về toàn bộ nhân loại. Năm đó, tổ tiên người Tạng chúng tôi vì không muốn những báu vật này bị hủy hoại trong khói lửa chiến tranh, đã trải qua không biết bao nhiêu khó khăn giản khổ mới đưa được chúng đến nơi này, bảo tồn hoàn hảo cho đến hôm nay. Những báu vật này phải thuộc về đất nước chúng tôi, phải trả về cho toàn nhân loại…”

“Trả về cho toàn nhân loại?” Merkin cười khinh bỉ, “Cũng được, vậy ai sẽ quản lý chúng? Ai sẽ đứng ra phân phối chúng? Ai cho ai cái quyền đó? Tổ tiên người Tạng… tôi hỏi anh, đây là cái gì, đây là cái gì?” Merkin xắn tay áo lên, cầm chặt chiếc chìa khóa tổ truyền trong tay, bức vấn Trác Mộc Cường Ba: “Tại sao Bạc Ba La thần miếu này lại bí mật như thế? Tại sao hơn nghìn năm nay không ai tìm được nơi này? Tại sao không phải ai cũng có thể tiến vào, ai cũng có thể mang những thứ ở đây đi? Tại sao chìa khóa lại ở trong tay tôi? Tại sao chỉ có máu của tôi mới có thể khiến chìa khóa phát huy được tác dụng thực sự? Tổ tiên người Tạng! Đây là tài sản tổ tiên của gia tộc tôi, còn cả tổ tiên gia tộc anh nữa, để lại cho chúng ta! Đây là tài sản của chúng ta, của gia tộc chúng ta!”

Không đợi Trác Mộc Cường Ba kịp phản bác, Merkin lại vội vã bổ sung: “Anh nghĩ thế nào thì mặc kệ anh, nhưng phần của tôi, phải để lại đấy. Hãy nhìn xem, nhìn những thứ ở đây mà xem, chưa nói gì khác, chỉ tính riêng vàng thôi, chỉ cần anh thích, muốn tổng trữ lượng vàng của Trung Quốc tăng gấp đôi, gấp ba, cũng không phải chuyện khó khăn gì, chỉ cần anh thích là được. Nhưng cũng đừng quên, gia tộc chúng tôi cũng đã khổ sở tìm kiếm những thứ này suốt một nghìn năm nay, anh không thể gạt bỏ sạch trơn nỗ lực của chúng tôi được. Tôi cần phải nhận được phần thuộc về gia tộc mình, trừ phi anh giết tôi. Anh muốn giết tôi sao? Muốn giết một người tay không tấc sắt, lại từng nhiều lần cứu mạng anh hay sao? Đến đi, tôi không còn sức phản kháng, tôi là kẻ yếu, anh giết tôi đi.” Nói đoạn, Merkin liền trưng ra bộ mặt lợn chết không sợ nước sôi.

Trác Mộc Cường Ba nhìn bộ dạng ấy của Merkin, cũng cảm thấy không nhẫn nhịn được nữa, phỏng chừng, cả đời Merkin chắc chưa từng biểu lộ ra vẻ mặt này trước bất cứ ai. Những thứ báu vật ở đây, rõ ràng đã khiến chỉ số thông minh của y hạ xuống chỉ còn ngang với một đứa bé. Trác Mộc Cường Ba nhất thời không kìm được, bật cười thành tiếng, sau đó nói: “Xin lỗi, tôi nghĩ, ông và cả gia tộc của ông, hiển nhiên đều đã hiểu lầm rồi. Tôi không biết gia tộc của ông nhận được truyền thừa như thế nào. Tuy rằng vị tiền bối trong gia tộc tôi đã hoàn toàn không còn nhớ gì về sự kiện này nữa, nhưng tôi nghĩ, chúng ta có chìa khóa mở kho tàng, không có nghĩa ta là người sở hữu những thứ báu vật này, chúng ta chẳng qua chỉ là người canh giữ chúng mà thôi. Đây không phải thứ một hai vương triều có thể sở hữu, càng không thể thuộc về một hai gia tộc nào đó, ông có hiểu không? Ông hiểu được đạo lý này, phải không?”

Merkin nhảy dựng lên như mèo bị giẫm phải đuôi: “Anh cũng biết… anh cũng biết đây không phải những thứ một hai vương triều có thể sở hữu, hãy nhìn mà xem…”

Ngón tay y chỉ về phía một tác phẩm điều khắc từ ngà voi. Ngà voi trắng ngần như ngọc, mỗi chiếc dài hơn hai mét, bức điêu khắc ghép từ mấy trăm chiếc như vậy. Những người thợ khéo léo thời xưa đã dùng thứ ngà voi quý giá này để chạm trổ ra nhà cửa cung điện, đình đài lầu các, sau đó dùng kết cấu mộng để ghép thành một vương đô mang phong cách Ấn Độ cổ đại. Thậm chí, trong tác phẩm điêu khắc này còn có cả hồ nước và sông ngòi, có điều hiện giờ đều đã khô cạn. Phỏng chừng, người xưa đã dùng ngà voi để phỏng chế lại kinh đô của một vương triều Ấn Độ cổ đại nào đó. Trong những nhà cửa thuyền xe kia, còn có vô số người vàng lớn bằng ngón tay cái, cửa sổ và cửa ra vào có thể đóng mở, xe ngựa có thể chuyển động, thậm chí cuốn sách vàng đặt trên án thư của những người vàng tí hon kia cũng khắc chi chít chữ.

“Hãy nhìn những thứ này xem…” Merkin lại chỉ sang một chỗ khác, thứ ấy trông giống như một tòa cung điện bằng vàng cao chừng hơn một mét, chia làm hai tầng. Trước cửa tầng dưới của cung điện có hai vật trông như cái bàn đạp bằng vàng. Tầng trên có cửa mở ra ở cả bốn mặt, nhỏ hơn tầng dưới một vòng, dường như còn có thể độc lập chuyển động. Thứ này thì Trác Mộc Cường Ba biết, gã từng đọc trong các thư tịch cổ, tương truyền món đồ này do xảo tượng thời Đường tên là Mã Thị Phon chế tác, khi có người đặt hai chân lên bàn đạp, tầng dưới sẽ có người tí hon cầm dùi trống đi ra, xoa bóp các huyệt vị ở gan bàn chân và mu bàn chân người đó. Đồng thời, bốn cánh cửa trên tầng hai cũng mở ra. Cánh cửa thứ nhất, sẽ có người tí hon mang gương, mang lược, mang trâm cài tóc ra giúp người chỉnh trang; cánh cửa thứ hai mở ra, sẽ có người tí hon mang bầu rượu, tự động rót đầy ly; cánh cửa thứ ba mở ra, sẽ có người tí hon bước ra nhẹ nhàng ca múa, kèm theo tiếng đàn ca sênh sáo; cánh cửa thứ tư mở ra, sẽ có thần quan báo giờ, đến tối lại có người tí hon cầm đèn bước ra. Đây có thể nói là món đồ tự động hóa phức tạp nhất, tiên tiến nhất của Trung Quốc cổ đại, về sau đã được Đường Huyền Tông đem tặng cho Thổ Phồn như một món quốc lễ, rồi biến mất trong giai đoạn Lãng Đạt diệt Phật.

Merkin vung hai tay, lớn tiếng nói: “Đây là những gì? Là tích lũy tài sản gần ba trăm năm của hai vương triều mạnh nhất thời bấy giờ, không chỉ do họ tự sản xuất được, mà còn có cả tài sản cướp đoạt từ các quốc gia xung quanh, và cả những đồ tiến cống của các quốc gia xa xôi khác nữa. Tất cả mọi thứ ở đây, phần của Đông Thổ Đại Đường, chỉ chiếm một phần năm, của Thổ Phồn, cũng không thể nhiều hơn một phần năm, mười tám nước Tây Vực cộng thêm Ấn Độ, đại khái cũng chiếm một phần năm, ngoài ra còn có tài sản của những nước nhỏ ở Nam Dương, hay xa hơn nữa, đến tận Tây Âu, anh có thể đại diện cho ai, anh có thể giao hoàn những báu vật ở đây cho ai? Anh chỉ có thể đại diện cho chính mình, anh không thể đem ý chí của mình áp đặt cho tôi được. Nếu những báu vật này thuộc về toàn nhân loại, vậy thì phải đưa chúng đến đâu? Liên Hợp Quốc à? Thật đúng là thứ logic nực cười. Nếu nói, tổ tiên tôi đã đảm nhận trách nhiệm bảo vệ báu vật, vậy thì, tôi sẽ tiếp tục bảo vệ những của báu này theo cách của mình. Vào lúc cần thiết, bán đi một số báu vật, dùng để làm chi phí duy trì việc bảo vệ cũng như khai thác kho tàng, như vậy mới là cách bảo vệ phù hợp với quy luật kinh tế.”

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên không kìm được cảm giác tức cười, những điều Merkin vừa nói, cũng là logic điển hình của một tên cường đạo. Gã cười khẩy, đặt ra cho đối phương một câu hỏi: “Ông cho rằng, chúng ta có thể sống sót rời khỏi nơi này sao?”

Merkin lập tức ngẩn người, từ lúc đặt chân vào kho báu này, đầu óc y chỉ còn một vùng trống rỗng, sau đó y mới nhớ ra sự tồn tại của mình cũng như sứ mệnh của gia tộc, sau nữa, mới nhớ ra còn có sự tồn tại của Trác Mộc Cường Ba, về sau vì không đánh lại gã, mới chuyển sang tranh chấp lý lẽ, còn những vấn đề khác, nhất thời y chưa hề nghĩ đến. Nếu như hai người không thể sống sót rời khỏi đây, vậy thì vừa nãy chuyện bọn họ cãi nhau đỏ mặt tía tai thật đúng là vừa hoang đường vừa tức cười. Mà ngay cả khi họ có thể may mắn rời khỏi chốn này, rốt cuộc y có thể mang theo bao nhiêu báu vật chứ?

Đây cũng là điểm Trác Mộc Cường Ba cảm thấy tức cười nhất. Gã nhớ lại một câu chuyện rất nổi tiếng, ba thanh niên nhàn rỗi đi lang thang trên phố, vừa đi vừa bàn xem nếu một ngày nào đó, một trong ba người nhặt được một triệu đồng thì sẽ chia chác thế nào. Hai người còn lại yêu cầu chia đều, còn người nhặt được tiền trong giả thiết ngay từ đầu đã nhất quyết không chịu. Vì chuyện này mà ba người bắt đầu cãi nhau to, cuối cùng còn lao vào ẩu đả. Đến khi cảnh sát đến kéo họ ra, hỏi xem chuyện gì, hai người trong bọn mới chỉ kẻ thứ ba kia nói: “Hắn nhặt được một triệu, nhưng nhất quyết không chịu chia cho chúng tôi!”

Cảnh sát giật mình, lại đòi người thứ ba mang tiền ra nộp, người thứ ba kia đần thối mặt một lúc lâu, rồi mới lầm bầm nói: “Chúng tôi giả sử như vậy thôi, đã nhặt được tiền đâu.”

Lúc này, tình cảnh của hai người rất giống ba thanh niên kia, bọn họ cùng lắm chỉ có thể tuyên bố, họ đã tới đích, họ đã trông thấy, những báu vật trong truyền thuyết kia đều thực sự tồn tại, kho báu này đích thực có thể thay đổi diện mạo của một hoặc thậm chí là mấy quốc gia lớn thuộc vào hàng siêu cấp.

Nhưng liệu bọn họ mang đi được bao nhiêu trong số những pho tượng Phật vàng nặng đến mấy tấn này? Rồi ở chốn cơ quan cạm bẫy trùng trùng điệp điệp, nguy cơ ẩn hiện khắp nơi này, liệu họ có thể sống sót trở ra thế giới bên ngoài hay không? Nếu không thể sống rời khỏi đây, thảo luận những chuyện ấy phỏng còn ý nghĩa gì nữa? Giả như có thể thoát ra ngoài, Trác Mộc Cường Ba nhất định sẽ báo cáo cụ thể tình hình lên trên, còn việc các quốc gia tranh giành hay hợp tác khai thác khối tài sản khổng lồ này thì không phải là chuyện bọn họ có thể chõ miệng vào thảo luận nữa.

Bấy giờ, Trác Mộc Cường Ba mới lên tiếng khuyên bảo Merkin: “Ông đã hiểu chưa? Chúng ta nãy giờ đang tranh luận những vấn đề vô nghĩa.”

Merkin bị đả kích nặng nề, sắc mặt tái nhợt đi, chỉ nghe y lẩm bẩm nói một mình: “Không… không phải vậy… không phải vậy!” Lúc này những trải nghiệm trong Bạc Ba La thần miếu lần lượt hiện lên trong tâm trí y, những cơ quan cạm bẫy, những loài sinh vật quái dị hung tàn đều hiện lên một cách rõ nét, mà đường lui của họ đã bị cắt đứt, thậm chí còn không thể trở về trong Cửu Cung biến, bốn bề chỉ có dung nham sôi trào nóng bỏng. Trong hoàn cảnh này, hai người muốn sống rời khỏi Bạc Ba La thần miếu, có thể nói là cơ hội gần như bằng không. Trong lòng Merkin đầy những tạp niệm rối bời: “Lẽ nào tôi phát hiện ra kho báu chỉ để chết ở đây?” “Không! Không!” Y gầm liên điên loạn: “Nhất định là có lối thoát, vẫn còn lối thoát khác!” Vừa gào thét, y vừa guồng chân chạy giữa những đống vàng bạc châu báu chất cao ngút. Trác Mộc Cường Ba không yên tâm, vội chạy theo sau y, hét gọi: “Này, ông chạy đâu đấy?” Gã loáng thoáng cảm thấy dường như mình đã để sót điều gì đó, nhưng Merkin khiến gã lòng dạ rối bời, đống châu báu lấp lánh lại làm gã hoa mắt chóng mặt, nhất thời không có cách nào tập trung suy nghĩ được.

Sau khi hai người dời đi, ở một góc bọn họ không thể phát giác, bên trong một bức tường vàng, cách mặt đất chừng năm sáu mét có một lỗ rất nhỏ, mắt thường gần như không nhận ra nổi. Trong lỗ nhỏ ấy, có một đầu dò đang chầm chậm rụt về.

Phía bên kia bức tường, không ngờ lại là một đường hầm nhân tạo được khoét ra bằng chất nổ, cao khoảng một mét, bên trong có hai hàng lính đánh thuê nửa ngồi nửa quỳ. Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La, Mẫn Mẫn bị trói gô lại, miệng nhét đầy chặt thứ gì đó, khiến ba người không thể phát ra bất cứ âm thanh nào. Bọn họ đã đến đây trước cả Trác Mộc Cường Ba và Merkin, chỉ là người trẻ tuổi không cho phép họ tiến vào gian đại điện bày kim thân của các vị đại sư tiền bối, ngược lại còn bắt leo vách đá lên phía trên, khoét ra một đường hầm như vậy. Không ai biết ý đồ của y rốt cuộc là gì.

Người trẻ tuổi thu đầu dò hình mắt rắn đó lại, khẽ nói: “Chúng giữ được lý tính hơn là tao dự đoán, người không bị châu báu làm cho dao động như vậy trên đời này thực sự rất ít, chạy đi, chạy đi, chạy nhanh thêm chút nữa, tao đang đợi chúng mày đây.”

Hai người một trước một sau, chạy hùng hục giữa những tia sáng đủ sắc màu, đập vào mắt họ là từng đống từng đống ngọc ngà châu báu. Đống bên này là kim cương chử, nhân hình chử, tháp chử, bảo chử, yết ma chử, kim cương quyết, kim cương bàn, kim liên hoa, kim pháp luân, dù vàng, trướng vàng, bình vàng, chén vàng, roi vàng, áo trân châu, niệm châu mắt mèo, ngọc như ý, cây như ý, sa châu, chuột vàng phun báu, bát cáp ba la(41) … mang đậm phong cách dân tộc Tạng.

Đống bên này, là dây lưng khảm đầy bảo ngọc, dây đeo kiếm, vòng cổ, vòng tay, vòng cánh tay, xuyến tay, nhẫn, hoa tai, vòng tay hình rắn hổ mang thần, vòng chân, linga, tượng thần Brahma, Shiva, Visnu bằng vàng … theo phong cách Ấn Độ cổ.

Giữa những đống châu báu này, là các pho tượng Phật đúc bằng vàng ròng. Có trời mới biết ở đây rốt cuộc có bao nhiêu pho tượng Phật vàng như thế, lớn có, nhỏ có, cộng thêm sàn nhà và các bức tường, rồi cả cột trụ … nơi đây đã gần như một mỏ vàng khổng lồ rồi. Trong đại điện này rốt cuộc chứa bao nhiêu vàng? Mười nghìn tấn? Một trăm nghìn tấn? Hay còn nhiều hơn nữa? Merkin nói có thể khiến tổng trữ lượng vàng của Trung Quốc tăng lên gấp đôi, hoàn toàn không phải chỉ thuận miệng nói bừa, nếu thực sự có cách vận chuyển số vàng ở đây ra, giá vàng trên thế giới ít nhất cũng phải giảm đi một nửa chứ chẳng chơi. Đặc biệt khi chạy đến gần những pho tượng lớn cao đến bốn năm mét, Trác Mộc Cường Ba cũng xây xẩm mặt mày. Thật không ngờ, lại có người dùng vàng ròng đúc thành pho tượng lớn như vậy. Trước đây gã vốn tưởng rằng, vàng mà cổ nhân nói đến, kỳ thực chính là đồng vàng, nhưng lúc này, nhìn màu sắc, nhìn chất liệu, đây rõ rành rành là vàng ròng trăm phần trăm! Trác Mộc Cường Ba còn để ý thấy, trên bề mặt bức tượng có vết tích nung chảy. Rõ ràng người xưa cũng không thể nào vận chuyển được pho tượng lớn như vậy đến đây, họ phải cắt ra thành các mảnh nhỏ, sau đó mới nung chảy rồi ghép lại.

Không lâu sau, họ đã chạy từ đầu bên này tới đầu bên kia đại điện, Merkin ở phía trước gào rú lên như kẻ điên dại: “Này! Ở đây có một cánh cửa! Mau lên! Ở đây có cửa! Cường Ba!”

Chạy đến gần, Merkin mới thất vọng nhận ra, đây không phải một cánh cửa, mà chỉ là một bức tường chắn, có điều, trên bức tường màu vàng kim này có chữ, những hàng chữ dọc đặt bên cạnh nhau, rất giống với mấy hàng chữ ở cửa lớn Bạc Ba La thần miếu.

Chỉ có điều, bây giờ Merkin không có hứng thú với mấy thứ cổ văn loằng ngoằng này. Hùng hục chạy một mạch từ nãy đến giờ, y đã bắt đầu thở không ra hơi, hai tay chống xuống đầu gối, oằn mình thở dốc: “Tại sao, tại sao không phải là cửa chứ?”

Trác Mộc Cường Ba cũng dừng lại nghỉ chân bên dưới mấy hàng chữ lớn đó, một lúc sau, gã mới cất tiếng nói: “Tôi nghĩ, đây là một cánh cửa.”

“Cái gì?” Merkin lập tức phấn chấn tinh thần, truy vấn gã: “Bên trên đó viết gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba lần lượt dịch từng chữ một: “ Nơi tập trung của cải chân chính, phải dùng trí tuệ mới mở ra được, cánh cửa … dẫn đến … tự do…”

Merkin bổ nhào lại gần bức tường, lần mò khắp một lượt từ trên xuống dưới: “Là cửa hả? Cửa ở đâu? Cửa ở đâu?” Hai mắt y đột nhiên sáng bừng, nét mặt lỗ rõ vẻ hân hoan: “Không sai, đúng là cửa rồi, tôi thấy khe cửa rồi!”

Giữa bức tường và sàn nhà có khe hở, Merkin lần tìm men theo khe hẹp ấy, rốt cuộc cũng thấy được đường nét của một cánh cửa trên bức tường màu vàng kim. Khe hở giữa cửa và bức tường được giấu rất kỹ, Merkin nhíu mày, bởi chỉ có loại cửa thụt vào mới không lộ ra dấu vết thế này. Y và Trác Mộc Cường Ba không trông thấy quá trình cửa lớn Bạc Ba La thần miếu mở ra, vì vậy cũng không biết người xưa có thể chế tạo ra những cánh cửa dày tới chừng nào, nhưng y biết, loại cửa này là khó phá hoại nhất. Sau đó, y lại lần mò tìm kiếm trên mặt tường một hồi: “Làm sao mở ra được? Phải có cơ quan để mở cửa ra mới đúng.”

Trác Mộc Cường Ba vẫn đang tiếp tục đọc: “Cái… vỏ kiên cố nhất? Bảo vệ tất thảy mọi thứ ở đây? Gã gõ gõ mấy cái lên chỗ cánh cửa, rồi lại gõ gõ vào cạnh đó, cũng không biết kiên cố đến mức nào. Trác Mộc Cường Ba lùi lại hai bước, ngẩng đầu lên đọc hàng cuối cùng: “Máu của Bản Ba, là chìa khóa duy nhất để mở cửa.” Phía sau lại có thêm một câu nữa: “Các ngươi, thật sự đã quyết định rồi chứ? Phá hoại, hay là gìn giữ?”

“Thế là ý gì nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm, dường như gã dịch vẫn chưa được chuẩn xác lắm, ừm, nếu có giáo sư Phương Tân ở đây, hoặc giả máy tính chưa hỏng thì tốt rồi.

Đang nghĩ ngợi, gã chợt nghe Merkin reo lên mừng rỡ: “Tìm thấy rồi, ở chỗ này!”

Trác Mộc Cường Ba bước tới, chỉ thấy Merkin đang đứng cách cánh cửa chừng hơn chục mét, chăm chăm nhìn vào một cái bồn kim loại, cao khoảng ngang lưng người, hơi giống như một cái đỉnh thời xưa.

Thấy Trác Mộc Cường Ba đi tới, Merkin hân hoan nói: “Tôi biết ngay mà, cơ quan để mở cánh cửa này chẳng ở đâu xa, bọn họ phải chôn dây ngầm, phải dùng huyết trì, khoảng cách xa quá sẽ tiêu hao rất lớn. Anh xem, đây là huyết trì, đây là hố trữ máu, đây là hố rửa máu, đây là rãnh chia, đây là bồn hoạt hóa, đây… đây là lỗ khóa!”

Trác Mộc Cường Ba bước đến gần quan sát kỹ hơn, cái đỉnh này giống như một cái chậu lớn mỏng dẹt đặt trên giá đỡ ba chân, đáy chậu chia làm ba khu vực, có những đường vân xoắn phức tạp, hoặc có thể nói đó là các ống dẫn, cuối cùng thông qua lỗ nhỏ ở rìa chậu dẫn xuống chân đỡ bên dưới. Thứ này rõ ràng được gắn liền với sàn đại điện, cũng may Merkin tinh mắt, chứ nếu không để ý sẽ rất dễ lầm tưởng nó là một món báu vật gì đó. Thân chậu có chạm trổ ba loại thú được trừu tượng hóa. Trác Mộc Cường Ba loáng thoáng nhận ra, một trong ba loại thú đó rất giống con thú lành khắc trên thanh kiếm đồng của gã, Tỳ hưu.

Merkin không chờ nổi nữa, bèn cắm chìa khóa của y vào khu vực có totem Kỳ lân, nhỏ máu vào, rồi vòng tay đo thử kích cỡ của hố trữ máu, lẩm bẩm nói: “Chắc cần khoảng mười mi li lít máu.” Y nghiến răng, tay cầm lưỡi dao rạch nhẹ, máu liền đổ tràn vào trong huyết trì.

Không ai biết chìa khóa của y và máu trong huyết trì đã xảy ra phản ứng như thế nào, chỉ thấy máu trong chậu chảy theo các đường ống chầm chậm lan đi, rồi một tách thành hai, hay hai hợp làm một, cuối cùng biến mất ở chỗ mở chảy xuống chân đỡ bên dưới, trong bồn vàng không còn lại chút dấu vết nào của máu tươi. Một lúc sau, đột nhiên cả đại điện rung chuyển, mặt đất dường như có thứ gì đó to lớn bị kéo đi, tiếng chuyển động của những bánh răng khổng lồ vang lên. Những bánh răng chỉ “cách cách cách” được mấy tiếng, rồi như bị thứ gì đó làm kẹt lại, phát ra một loạt tiếng “két két két” đay đi đay lại.

Chú thích

(40) Lục Mang tinh: Ngôi sao sáu cánh, còn gọi là ngôi sao David, hay ngôi sao Do Thái.

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 79

SỰ THẬT ĐÁNG SỢ

Chương 45

HIỆN THÂN

    

áu của một mình tôi không đủ.” Merkin lập tức có phản ứng, y nói với Trác Mộc Cường Ba: “Còn cần cả máu của anh nữa.”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Vô dụng thôi, anh không thấy hả? Tuy là một bồn chứa, nhưng đây là tổ hợp của ba huyết trì, cần có ba chiếc chìa khóa. Chỉ với hai người chúng ta, không thể mở được cánh cửa này đâu.” Gã ngoảnh đầu nhìn hàng chữ trên cửa “Các người, thật sự đã quyết định rồi chứ? Phá hoại, hay là gìn giữ?” Gã có cảm giác câu này như một sự cảnh báo, hoặc một lời nhắc nhở, để người có năng lực mở cánh cửa này phải suy nghĩ cho kỹ càng, chớ nên đưa ra quyết định một cách mù quáng.

Merkin nói: “Anh không thử thì làm sao biết được? Cánh cửa đầu tiên đó, không phải cũng dùng máu của hai chúng ta mà mở ra được đó sao? Nói không chừng, có hai trong ba là đã đủ chiếm đa số phiếu, xin anh đấy, thử một lần xem sao.” Ánh mắt y nhìn chằm chằm vào hàng chữ thứ nhất và thứ hai: “Cánh cửa dẫn đến tự do, rất có thể, đây chính là lối ra duy nhất dành cho chúng ta, anh không nghĩ đến chuyện… ra khỏi đây sao?” Kỳ thực, Merkin muốn nói: “Anh không nghĩ đến việc mang những thứ ở đây ra ngoài hay sao?” Có điều, khi cất tiếng y đã kịp thời ghìm lại, y thực không muốn nhắc đến chủ đề nhạy cảm này trước mặt Trác Mộc Cường Ba vào thời điểm hiện tại.

“Cánh cửa dẫn đến tự do”, cụm từ này là do Trác Mộc Cường Ba dịch ra, gã cũng biết mình dịch không chuẩn xác, nhưng sâu trong tiềm thức, gã vẫn hi vọng ý của cụm từ đó đúng là như vậy. Nhìn huyết trì ở trước mắt, Trác Mộc Cường Ba cũng hơi động tâm, gã không phải chiến sĩ vệ đạo một lòng kiền thành, đồng thời cũng âm thầm ôm mối hi vọng có thể mang những thứ báu vật ở đây ra thế giới bên ngoài. Tuy mục đích của gã khác với Merkin, gã không muốn chiếm làm của riêng, nhưng nếu để những kết tinh của trí tuệ nhân loại này phải vùi chôn trong lòng núi thì cũng thật là đáng tiếc.

“Được rồi, để tôi thử xem.” Trác Mộc Cường Ba cũng cắm chìa khóa của gã vào, cắt tay nhỏ máu, hỗ trữ máu trong huyết trì dần dần đầy lên. Nhìn từng giọt máu nhỏ xuống, trong đầu Trác Mộc Cường Ba không ngừng xuất hiện đi xuất hiện lại một câu hỏi: “Đã quyết định chưa? Các người đã quyết định chưa? Các người… đã quyết định chưa?” Có gì đó không ổn, nhất định có gì đó không ổn, nhưng theo lý mà nói, thì chẳng có gì không ổn cả. Ở đây chỉ có gã và Merkin, những người khác căn bản không thể mở được cánh cửa bên ngoài kia, phải chăng gã vẫn chưa yên tâm về Merkin? Tại sao cảm giác bất an trong lòng mỗi lúc một mạnh mẽ hơn vậy?

Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cũng đè được cảm giác thấp thỏm không yên đó xuống. Gã ngẫm nghĩ lại một lượt, rồi dễ dàng nhận ra, cảm giác bất an này không phải là biểu hiện của sự nghi hoặc đối với hoàn cảnh xung quanh, mà dường như phát xuất tự bản năng của gã, giống như khi thỏ nhìn thấy chim ưng, chuột gặp phải rắn vậy. Nỗi bất an ấy đã khắc sâu vào trong gene di truyền. Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Merkin, sắc mặt y cũng rất căng thẳng, gã liền hỏi: “Có phải anh cũng cảm thấy điều gì đó không ổn? Lo lắng nhiều hơn là hưng phấn?”

“Không có gì!” Merkin dối dòng phủ định: “Tôi muốn ra ngoài đến sắp phát điên lên được ấy chứ, có gì không ổn đâu!” Trong lúc nói, y lại dùng một tay nắm chặt lấy tay kia, gắng sức che giấu những run rẩy rất khẽ. Trác Mộc Cường Ba gần như có thể khẳng định, cảm giác bất an của Merkin thậm chí còn mạnh mẽ hơn gã. Gã lập tức ngừng nhỏ máu, băng ngón tay lại.

Có điều, máu trong huyết trì đã bắt đầu phản ứng với chìa khóa, chảy tràn qua các ống dẫn với tốc độ kinh người, một phần đã biến mất ở lỗ mở chỗ chân đế. Hai người mang theo tâm trạng thấp thỏm, kính sợ nhìn cánh cửa màu vàng kim phía trước. Không ai biết đằng sau cánh cửa đó là gì, cũng không biết tới đây sẽ xảy ra chuyện gì. Gần như giống hệt quá trình sau khi Merkin nhỏ máu, đại điện cũng chấn động, như thể có vật thể khổng lồ gì đó bị hút đi, sau đó bánh răng khổng lồ bắt đầu chuyển động, lần này thì được lâu hơn, nhưng rốt cuộc vẫn bị kẹt lại. Cánh cửa lớn chừng như có dấu hiệu được nâng lên, có điều mỗi lần chỉ nhích động được chưa đầy một xăng ti mét lại đã nặng nề rơi xuống.

Không hiểu tại sao, nhìn thấy cánh cửa đó không thể mở ra, Trác Mộc Cường Ba lại có cảm giác nhẹ nhõm, tảng đá lớn đè nặng trong tim rơi xuống, nỗi căng thẳng và lo âu cũng biến mất.

“Vẫn không được, cần thêm chiếc chìa khóa thứ ba nữa.” Trác Mộc Cường Ba nói như thể vừa trút được gánh nặng.

“Chiếc chìa khóa thứ ba! Sao có thể được? Hơn một nghìn năm rồi, có trời mới biết Thánh sứ năm đó chết toi ở xó xỉnh nào! Hai người chúng ta gặp nhau, đã là kỳ tích trong kỳ tích rồi! Tôi không dám mơ có kỳ tích lớn hơn nữa xuất hiện đâu!” Merkin hằn học nhìn chằm chằm vào huyết trì, cơ hồ muốn phá tung vật thể bằng kim loại này ra.

Câu nói của Merkin chợt gợi lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba một ý nghĩ, tại sao hai người đều là hậu nhân của Thánh sứ, đều có chìa khóa, vừa khéo lại có thể mở được cánh cửa đầu tiên, thế này chẳng phải quá trùng hợp hay sao? Không, không thể dùng “trùng hợp” để giải thích được. Nhất thời, vô số suy nghĩ dội lên trong tâm trí gã.

Thoạt đầu, giáo sư Phương Tân nói gã có thể tham gia đoàn khảo sát của nhà nước, vì nơi gã muốn đến, vừa khéo cũng là nơi đoàn khảo sát muốn đến; sau đó, ở thành bang Maya, trong cả một khu vực rộng lớn, bọn gã lại tìm được đúng Bạch thành; càng trùng hợp hơn nữa là bọn gã lại có trong tay chìa khóa cuối cùng của địa cung Ahezt; rồi qua Merkin gã biết được, Soares phát hiện ra bản đồ trong địa cung, bản thân Soares cũng nói, y tìm thấy tấm bản đồ đó bên trong cánh cửa cuối cùng của địa cung; lần theo dấu vết tấm bản đồ đó, bọn họ lại bất ngờ phát hiện được một tấm bản đồ khác ở Đảo Huyền Không tự, đó là lúc gã lần đầu biết được thân phận Thánh sứ của mình, gã còn tưởng ông trời muốn trêu cợt mình một phen nữa; rồi khi bọn họ gặp khó khăn trên núi tuyết, cuối cùng không tìm được đường đi tiếp, Vương Hựu lại mang theo Hương Ba La mật quang bảo giám anh ta tìm được trong địa cung Maya xuất hiện…. Trùng hợp, trùng hợp, trùng hợp, toàn bộ đều là trùng hợp sao? Trác Mộc Cường Ba bắt đầu cảm thấy nghi ngờ, sao mình lại có những trải nghiệm như một nhân vật trong tiểu thuyết truyền kỳ vậy chứ? Tất cả mọi thứ, đều giống như một vở kịch, mọi người cầm kịch bản diễn theo vậy. Vấn đề là, ai đang đạo diễn tất cả? Trong vở kịch này, gã đóng vai gì? Còn Merkin, y được phân cho vai gì?

Nghĩ tới đây, Trác Mộc Cường Ba lại không khỏi nhớ đến những gì xảy ra trong thần miếu, Merkin bị Max và Khafu bắt tay bán đứng. Hai kẻ này nghe lệnh ai? Tại sao Max đột nhiên mất mạng? Rốt cuộc đối phương muốn làm gì?

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên buột miệng thốt lên: “Không ổn! không thể mở cánh cửa đó ra được!” Gã muốn phá hủy huyết trì bằng kim loại này đi, hiềm nỗi vật này lại quá kiên cố.

Trác Mộc Cường Ba kéo ba lô, định lấy ra tất cả mọi thứ có thể nổ được, đúng lúc này, chợt nghe ‘oành’ một tiếng lớn, bức tường màu vàng kim sau lưng vỡ một lỗ toang hoác. Mười mấy tên lính đánh thuê tay cầm sung lần lượt bước ra, mấy người cuối cùng là Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Mẫn Mẫn đang bị khống chế.

Merkin còn đang kinh ngạc trước hành vi khác thường và đột ngột của Trác Mộc Cường Ba, chợt tiếng nổ lớn vang lên khiến y giật bắn mình kinh hãi thêm một phen nữa. Trác Mộc Cường Ba vừa nghe thấy tiếng nổ, đã gắng sức rút chìa khóa ra. Không ngờ, chìa khóa cắm vào huyết trì lại bị ghim chặt, Trác Mộc Cường Ba làm biến dạng cả chuôi chìa khóa mà vẫn không sao rút ra được.

Bọn lính đánh thuê vừa tiến vào đại điện lập tức khống chế Trác Mộc Cường Ba và Merkin. Trác Mộc Cường Ba vốn định phản kháng, nhưng khi thấy pháp sư Á La, Lữ Cánh Nam, gã liền bỏ cuộc. Merkin không có vũ khí trong tay, nên cũng không phản kháng, đồng thời y cũng muốn xem kẻ đứng sau lưng Max và Khafu rốt cuộc là người như thế nào.

Quả nhiên, một người thân hình không nổi bật lắm bước ra khỏi đám lính đánh thuê, y dường như đang mỉm cười, nói: “Merkin, Cường Ba thiếu gia, chúng ta lại gặp nhau rồi.” Y nói bằng một thứ tiếng Trung chuẩn mực.

Merkin nhíu mày, giọng nói này nghe sao mà quen vậy? Ngón tay út của y khẽ giật một cái, thế là phản ứng gì?

Trác Mộc Cường Ba chăm chú quan sát dáng điệu và đặc trưng hình thể của người này, cuối cùng nhìn chằm chằm vào gương mặt y, nhưng dưới lớp màu ngụy trang, không thể nhìn rõ được mặt mũi ra sao. Ánh mắt gã chầm chậm lướt qua Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Mẫn Mẫn, trong lòng dường như đã đưa ra phán đoán.

Thomas không để bọn họ đợi lâu, y đón lấy một chiếc khăn bông đã thấm cồn từ tay lính đánh thuê đứng cạnh, nhẹ nhàng lau chùi. Một gương mặt trẻ tuổi góc cạnh xuất hiện trước mặt chúng nhân.

Đến thời điểm này, cuối cùng y cũng có thể xuất hiện với gương mặt thật của mình rồi. Toàn thân Merkin bất giác run rẩy cả lên, y sợ hãi nhìn chằm chằm vào người trẻ tuổi ấy: “Người … quyết sách!”

Trác Mộc Cường Ba cũng lạnh lùng nói: “Quả nhiên là anh, Đường Thọ!”

Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đưa mắt nhìn nhau, quả nhiên đúng như họ nghĩ, làm gì có ngài Thomas nào? Phải là ngài Đường(42) mới đúng.

Merkin vô cùng chấn động, y trố mắt lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, hoàn toàn không thể ngờ đội trưởng của bọn y, kẻ được gọi là Người quyết sách, lại chính là Đường Thọ, anh trai của Đường Mẫn, đồng thời cũng là tên điên mà y ra lệnh bắt cóc.

Đường Thọ nhe răng cười, dường như có vẻ ngượng ngùng. Y đảo mắt nhìn bọn lính đánh thuê, mấy tên này sớm đã đỏ mắt thèm thuồng, hết nghiêng bên này lai ngó bên kia, khẩu súng cầm trong tay cũng đang run lên nhè nhẹ, cơ hồ có thể nhả đạn bất cứ lúc nào. Đường Thọ điềm đạm nói: “Này, tao biết chúng mày rất kích động, nhưng cần phải kiềm chế. Những thứ đã hứa với chúng mày, tao nhất định sẽ trả đủ, chỉ là lúc này vẫn chưa được. Ít nhất, chúng ta cũng phải mở cánh cửa sau cùng này ra đã, chúng mày biết trên kia viết gì không? Bên trong cánh cửa này mới là báu vật thực sự, những thứ bên ngoài không thể so sánh được. Huống hồ, muốn sở hữu những báu vật này, điều kiện tiên quyết là phải sống sót rời khỏi đây mới được.” Câu nói cuối cùng dường như có chút tác dụng, một vài tên đã lấy lại bình tĩnh, nhiều báu vật đến mấy thì cũng phải còn mạng, sống sót mới có thể hưởng thụ được; có điều, vẫn còn một vài tên không nghe lọt được chữ nào vào đầu.

“Bây giờ là lúc ta hoàn thành sứ mạng rồi.” Dứt lời, Đường Thọ để mặc đám lính đánh thuê ấy, chầm chậm lại gần huyết trì, lấy trong vạt áo ra một thanh kiếm đồng nhỏ, lại là một thanh kiếm đồng cùng chất liệu, cùng kiểu dáng với hai thanh của Trác Mộc Cường Ba và Merkin.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều kinh ngạc ngẩn người.

Trác Mộc Cường Ba ở gần hơn, loáng thoáng trông thấy trên chuôi kiếm là hình một con chim được trừu tượng hóa, thân kiếm có chạm khắc bốn hình thú kỳ quái, một cái giống con tằm, một cái nữa giống như cá, nhưng vây cá lại giống như tay chân của trẻ con chưa hoàn toàn phát triển thành hình, hai hình còn lại thì Trác Mộc Cường Ba không thể hiểu nổi.

Pháp sư Á La đứng sau lưng Đường Thọ, nhưng vẫn nhìn được thanh kiếm đồng qua khe hở, ông biết đó là Lục đạo tứ sinh, tượng trưng cho luân hồi, còn thanh kiếm đồng của Trác Mộc Cường Ba thì chạm khắc hình Tứ phương thụy thú, tượng trưng cho sự bảo vệ, nhưng ông không hề biết mấy thanh kiếm đồng này còn là chìa khóa, nên cũng hết sức chấn động.

Lữ Cánh Nam lại lấy làm kinh ngạc trước sự ung dung điềm tĩnh của Đường Thọ. Ở giữa đại điện vàng rực này, trước mặt là vô số châu báu lấp lánh hào quang, ngay cả pháp sư Á La và bản thân cô cũng không khỏi rung động, càng không cần phải nói đến những kẻ bị tài vật làm mê đắm đánh mất chính mình kia. Nhưng riêng Đường Thọ, vẫn giữ nguyên bộ dạng hờ hững như không đó, dường như tất cả mọi thứ ở đây đều chẳng liên quan gì đến y, ánh mắt y nhìn những người khác vẫn u uất như thế, tựa hồ đang trách trời thương dân vậy. Đường Thọ vừa cắm chìa khóa vào, vừa nói: “Như các ngươi đã thấy, chiếc chìa khóa thứ ba nằm trong tay ta, vì vậy cũng đừng kinh ngạc làm gì.”

Merkin không dám tin vào sự thực hiển nhiên trước mắt: “Anh… anh cũng là Thánh sứ?”

“Thánh sứ? Ừm, coi là vậy đi,” Đường Thọ khinh khỉnh trả lời: “Ta và ngươi giống nhau, đều là hậu duệ của Vu vương.”

Merkin bị câu trả lời này làm cho chấn động, loạng choạng lùi lại một bước, trong lòng thầm nhủ: “Hắn biết, hắn biết tất cả!”

Đường Thọ bắt đầu trích máu, mỉm cười nói: “Nói ra thì còn phải cảm ơn các ngươi nữa, không có hai người tương trợ, ta cũng không nghĩ được cách nào mở cánh cửa này ra.” Nói tới đây, y liếc thấy chiếc chìa khóa đã biến dạng của Trác Mộc Cường ba, liền quay sang nhìn gã nói: “Ngươi thông minh hơn ta nghĩ đấy.”

“Bên trong cánh cửa ấy rốt cuộc có gì?” Trác Mộc Cường Ba một mặt cố gắng chấn tĩnh, mặt khác bắt đầu xâu chuỗi toàn bộ các sự kiện lại với nhau.

“Kho báu!” Đường Thọ khẳng định chắc nịch. “Ta đảm bảo với các ngươi, bên trong nhất định là kho báu thực sự, chắc chắn có thứ các ngươi muốn.” Lúc nói câu này, ánh mắt y chầm chậm chuyển sang phía pháp sư Á La: “Trên cửa này viết gì, pháp sư đại nhân hẳn là hiểu rất rõ.”

Pháp sư Á La bấy giờ mới chú ý và bắt đầu xem xét mấy hàng chữ trên cửa, đồng thời dịch lại: “Kho báu đầy ắp trí tuệ, con đường mở ra bí ẩn của đại tự nhiên bên trong tòa tháp hình trứng kiên cố nhất này, hủy diệt hay tồn tại là do các ngươi quyết định.” Trác Mộc Cường Ba nghe ông dịch mà thẹn mướt mồ hôi, tuy chỉ sai có mấy chữ, nhưng ý nghĩa dịch ra lại thay đổi rất lớn.

“Câu này dành cho ba người chúng ta đấy.” Đường Thọ cười cười với Trác Mộc Cường Ba, bộ dạng có vẻ rất thân thiện. Y trích máu xong , băng bó qua loa lại vết thương, rồi nhìn phản ứng máu của mình bên trong huyết trì. Đường Thọ chợt hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Tranh thủ còn chút thời gian, sao không nói cho mọi người biết vì cớ gì mà ngươi lại nghĩ ta là kẻ đứng sau mọi người mọi việc vậy Cường Ba thiếu gia?”

Trác Mộc Cường Ba không đáp mà hỏi ngược lại: “Tại sao anh không nói cho chúng tôi nghe trước, anh đã sắp đặt mọi thứ như thế nào, để tôi và Merkin biến thành quân cờ của anh?”

Merkin lại trợn tròn mắt lên, đến thời điểm này, y vẫn không dám tin mình lại trở thành quân cờ của kẻ khác. Đường Thọ đánh mắt ra phía sau một cái, lập tức có hai tên lính đánh thuê dùng mũi súng thúc mạnh vào Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn. Bấy giờ, Đường Thọ mới chậm rãi quay người lại, nở một nụ cười hết sức thân thiện: “Tình thế nghiêng về phía ta mà, Cường Ba thiếu gia.”

“Được rồi,” Trác Mộc Cường Ba để tâm trạng mình lắng xuống, liếc nhìn Mẫn Mẫn đang bị áp giải, Mẫn Mẫn cũng hướng ánh mắt đau khổ nhìn về phía gã. Trác Mộc Cường Ba cố dằn lòng, chầm chậm nói: “Là vì Mẫn Mẫn.” Sắc mặt Đường Mẫn lập tức tái mét.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Toàn bộ sự việc này, bắt đầu từ khi tôi tìm kiếm Tử kỳ lân cho tới lúc đặt chân đến Shangri-la, mỗi một sự việc xảy ra trong quá trình này dường như đều có một lời giải thích có vẻ rất hợp lý, nhưng trong đó lại nảy ra mấy vấn đề mà tôi thủy chung vẫn không sao hiểu nổi. Một trong số đó là Nhạc Dương.” Đường Thọ lộ vẻ mặt trầm ngâm, cơ hồ đã sắp nghĩ thông, nhưng những người còn lại phỏng chừng vẫn chưa thể hiểu được.

Trác Mộc Cường Ba nhìn Merkin, rồi lại nhìn Lữ Cánh Nam, nói: “Lúc đó, chúng tôi mới chỉ đề phòng Merkin và những thế lực khác đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, căn bản không hề nghĩ tới anh, mà uy hiếp lớn nhất đối với chúng tôi, lại chính là Merkin. Những trải nghiệm trước đó của chúng tôi, khiến pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đều tin chắc rằng, trong đội ngũ của chúng tôi có kẻ nằm vùng của Merkin. Đối tượng bị nghi ngờ nhiều nhất chính là Ba Tang, đồng thời sự thực cũng đã chứng minh nghi ngờ của họ là chuẩn xác.”

Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đều ngầm gật đầu, Trác Mộc Cường Ba lại nói tiếp: “Để moi ra được kẻ nằm vùng của Merkin, đồng thời cũng để thăm dò xem Merkin rốt cuột nắm được bao nhiêu tư liệu, Cánh Nam đã quyết định dùng kế phản gián. Người được chọn cho vai trò gián điệp hai mang này chính là Nhạc Dương. Nhạc Dương là lính trinh sát xuất sắc do một tay Cánh Nam huấn luyện, hơn nữa cậu ta từng có kinh nghiệm làm gián điệp. Cậu ta cũng là một trong số ít người mà Cánh Nam có thể tin tưởng được. Nhưng khi thực hiện kế hoạch, Cánh Nam và pháp sư sợ tôi hành sự theo cảm tính hoặc quá manh động, không thể phối hợp tốt với Nhạc Dương, thậm chí còn làm lộ thân phận của cậu ấy. Vì vậy, họ đã giấu không cho tôi biết hành động này. Có lẽ, Cánh Nam và Nhạc Dương cũng chỉ giữ liên hệ một chiều.”

Lữ Cánh Nam gật đầu, rồi lại lập tức khe khẽ lắc đầu, vẫn còn một người nữa biết chuyện này.

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam, nhanh chóng hiểu ra người còn lại kia là ai, gã lại tiếp tục nói: “Quá trình Nhạc Dương xâm nhập vào nội bộ tổ chức của Merkin như thế nào, Merkin đã nói với tôi rồi. Tôi có thể lý giải được. Nhưng có một điểm duy nhất mà tôi không sao hiểu nổi, đó là khi chúng tôi trải qua muôn vàn gian khổ, khó khăn lắm mới đến được Shangri-la, chỉ cần Nhạc Dương không kích hoạt thiết bị phát xạ tín hiệu bằng tia laser, thì dù Merkin có nắm được bao nhiêu tư liệu chăng nữa cũng chẳng ích gì. Nếu Nhạc Dương là một gián điệp phản gián, tại sao cậu ta lại hành động như vậy?”

Nói tới đây, Trác Mộc Cường Ba ngưng lại giây lát, đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam. Cô hẳn cũng biết nguyên ủy của sự việc này, chỉ thấy trong mắt cô thoáng lộ ra vẻ hân hoan, cổ vũ Trác Mộc Cường Ba nói tiếp.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có một khả năng, đó là trước lúc Nhạc Dương kích hoạt thiết bị phát tín hiệu laser thì đã có người khác phát tín hiệu đi rồi. Nhóm người nhảy dù đầu tiên không phải do Nhạc Dương dẫn đến. Merkin không chỉ có một kẻ nằm vùng trong đội ngũ của chúng tôi, mà Nhạc Dương lại không thể phát hiện kẻ này là ai, vì vậy, cậu ta mới thay đổi sách lược. Nếu đã có người phát tín hiệu trước rồi, vậy thì tại sao cậu ta không làm, như vậy có thể tranh thủ tín nhiệm của Merkin, đồng thời cũng có thể kéo được nhóm người của Merkin vào khu vực chúng tôi đã thăm dò khảo sát. Đây chính là suy tính của Nhạc Dương.”

Lúc này, máu của Đường Thọ đã phát huy tác dụng, mặt sàn dưới chân rung lên nhè nhẹ, rồi mạnh dần lên, vật chặn cuối cùng đã bị rút ra, không còn gì ngăn cản bánh răng khổng lồ chuyển động nữa, trung tâm thần miếu say ngủ nghìn năm bắt đầu sống dậy, phát ra những âm thanh như núi long đất lở.

Chú thích

(41) Tất cả đều là pháp khí của phật giáo Tây Tạng.

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 79

SỰ THẬT ĐÁNG SỢ

Chương 46

SỰ THẬT ĐÁNG SỢ

    

ường Thọ cảnh cáo tất cả mọi người có mặt trong đại điện: “Đứng xa cánh cửa ra một chút, tốt nhất nên tìm một vật nặng để bám vào, cần thận kẻo bị hút vào trong đó đấy.”

Cánh cửa khổng lồ chầm chậm nâng lên, đại điện rung lắc, vô số hạt bụi vàng nhỏ li ti rải xuống từ trần điện khiến toàn bộ đại điện đều ánh lên sắc vàng lấp lánh. Gương mặt u uất của Đường Thọ rốt cuộc cũng thoáng hiện lên vẻ hân hoan. Merkin vẫn nhìn chằm chằm vào Đường Thọ không chớp mắt, không hiểu đang nghĩ điều gì. Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn pháp sư Á La, hai người khẽ gật đầu, gã lại ngoảnh sang phía Lữ Cánh Nam, nhoẻn miệng mỉm cười. Ánh mắt Mẫn Mẫn từ đầu đến giờ vẫn không rời khỏi Trác Mộc Cường Ba.

Merkin rốt cuộc cũng quay đầu lại, nhìn về phía cánh cửa, bấy giờ mới phát hiện ra, cánh cửa này không thể dùng tính từ “dày nặng” để hình dung được. Lực kéo khổng lồ từ bánh răng kéo cánh cửa lên phía trên, ít nhất cũng đã nâng được mười mét rồi, vậy mà cánh cửa vẫn kẹt bên trong khung cửa. Đến khi giữa cửa và khung cửa hé ra một khe hở, đột nhiên xuất hiện một lực hút khổng lồ. Tất cả mọi người đều thấy rõ, lớp bụi vàng đang lơ lửng trên không trung chẳng khác nào một màn sương mù mịt phảng phất như bị một cái miệng khổng lồ há ra hút sạch. Gần như một nửa không khí trong đại điện cũng bị hút vào trong, đồng thời cánh cửa phát ra một tiếng “ầm” lớn. Không biết là cánh cửa đang chuyển động, hay cả bốn bức tường của đại điện này đều đang bị nâng lên nữa. Lực hút mạnh mẽ quấn lấy chân mỗi người, nếu Đường Thọ không nhắc nhở, chắc hẳn phần lớn đã đứng không vững mà bị hút vào trong đó rồi. May mà, bọn họ đều ôm chặt một bức tượng vàng lớn, mặc dù vậy, cả người lẫn tượng Phật cũng bị kéo trượt đi một quãng. May thay, lực hút này xuất hiện bất ngờ, biến mất cũng rất đột ngột, chỉ sau khoảng thời gian chừng một hơi thở là tan biến, cả bọn đều cảm thấy áp lực nhẽ bẫng, hai chân lại hạ xuống mặt sàn.

Cánh cửa khổng lồ rốt cuộc cũng được mở ra, bên dưới là một rãnh dài chừng hai chục mét, sâu bảy tám mét, Merkin thầm tính toán, cánh cửa này có lẽ là một khối lập phương khổng lồ mỗi bề dài khoảng hai chục mét, nhưng phần lộ ra phía ngoài mỗi bề chỉ chưa đến năm mét mà thôi, cũng không biết được làm từ chất liệu gì nữa.

Trác Mộc Cường Ba lại đang nhìn bức tường ở mé bên, giờ đây kim loại đã bị hút hết, để lộ ra vách đá. Ở chính giữa hai bức tường đá hai mé bên cánh cửa, đều có một cầu thang dẫn lên trên, ở cuối cầu thang, dường như lại có một gian phòng khác. Sau lưng gã là vô số những lỗ thông khí to bằng đầu ngón tay, phía trước là bức tường có cánh cửa khổng lồ, vạch ra một đường ranh giới rất rõ ràng với vách đá ở hai bên, hiển nhiên là một kiến trúc khổng lồ khác, do một loại chất liệu khác xây nên.

Pháp sư Á La lại tập trung chú ý vào phía sau rãnh sâu, bên trong cánh cửa khổng lồ kia. Phỏng chừng ông muốn nhìn rõ xem bên trong đó rốt cuộc có thứ gì. Lúc này, cánh cửa đã được nâng lên, ánh sáng hắt ra từ mấy tấm gương đồng vốn dùng để thu sáng cho đại điện liền chiếu thẳng vào bên trong đó. Phía trong đã có sẵn những tấm gương khác, bột vàng vẫn lơ lửng trên không trung, khiến người ở bên ngoài có thể nhìn rõ được quỹ tích phản chiếu của những cột sáng ấy.

“Tháp hình trứng!” pháp sư Á La khẽ thốt lên. Pháp sư Á La biết rõ kết cấu của tháp hình trứng. Đó là một dạng Phật tháp không có đường nối, hình dạng giống như quả trứng chim vậy. Lúc này, dưới ánh sáng hắt vào từ các tấm gương đồng, kết cấu ttrong tháp hiện lên rõ mồn một trước mắt. Bán kính của tòa tháp này khoảng hai mươi mét, chính giữa có một cây trụ đặc đường kính khoảng ba mét, thân trụ có đường rãnh hình xoắn ốc, dường như có thể đưa thứ gì đó trong tháp nâng lên hoặc hạ xuống. Trong tháp vẳng ra tiếng bánh răng và băng chuyền chuyển động, kèm theo tiếng “u u u” , tựa như có vật thể khổng lồ nào đó đang khuấy động không khí. Những hạt bụi vàng li ti xoay chuyển trong quầng sáng, như ngàn vạn ngôi sao trong dải Ngân hà. Đường Thọ đưa mắt nhìn đám người vẫn đang ngây ngẩn chưa biết phải làm gì tiếp theo, giải thích: “Vừa nãy là áp suất âm, người Qua Ba cổ đại đã biết, vật phẩm có thể bảo tồn lâu hơn trong môi trường chân không, vì vậy, bên trong tòa tháp hình trứng này đã bị hút sạch không khí.”

Sau đó, y lại lệnh cho bọn lính đánh thuê áp giải mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba xuống cái rãnh sâu mà cánh cửa nâng lên để lại. Hai bên rãnh sâu này có cầu thang xoắn ốc, sau khi cả bọn chầm chậm leo xuống, Đường Thọ nói: “Đây không phải đá, tuy nhìn giống đá, nhưng thực ra lại là một thứ có thể gọi là kim loại do cổ nhân nung luyện ra. Cụ thể nó là thứ gì thì đến giờ vẫn chưa phân tích ra được, nhưng thứ này chính là vật liệu xây dựng tuyệt hảo mà các nhà khoa học hiện đại bấy lâu nay vẫn không ngừng tìm kiếm. Nó nhẹ hơn nhôm, nhưng lại kiên cố hơn thép tinh luyện, dùng thuốc nổ mạnh cũng hầu như không bị ảnh hưởng gì, ngay cả nhiệt độ cao mấy nghìn độ cũng không có hiệu quả. Tốc độ dẫn nhiệt của loại chất liệu này nhanh nhất trong các loại kim loại đã được biết đến ngày nay. Trừ phi nung chảy toàn bộ tòa tháp hình trứng này, bằng không cách duy nhất để gây phá hoại cho nó là dùng nhiệt độ siêu đẳng, chẳng hạn như tia laser. Chỉ có điều, các loại máy bắn tia laser hiện giờ đều quá lớn, ta vẫn chưa đủ năng lực để mang loại máy móc cỡ lớn ấy đến đây.”

“Vì vậy, anh lợi dụng tôi và Merkin mở cánh cửa này, phải không?” Trác Mộc Cường Ba thẫn thờ hỏi.

“À, không.” Đường Thọ cố tình làm ra vẻ kinh ngạc: “Cánh cửa này chỉ mở ra khi ý chí các ngươi mong muốn một cách mãnh liệt.” Y liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba và Merkin, rồi lại tiếp lời: “Chẳng nhẽ các ngươi không biết? Cho dù là máu của các ngươi, nhưng nếu khi nhỏ máu các ngươi có tâm trạng sợ hãi, co rút, đau đớn, thì cũng không thể khiến chìa khóa nảy sinh phản ứng được. Cơ thể con người là thứ hết sức kỳ quái, các ngươi bị tình cảm chi phối. Vui vẻ, kích động, sợ hãi, hoảng loạn, hân hoan… mỗi loại tình cảm đều sẽ khiến cơ thể sản sinh ra những vật chất khác nhau, được gọi là hormone. Những hormone này có thể nhanh chóng lan tỏa đi khắp toàn thân, khiến máu của các ngươi có những thay đổi hết sức lạ lùng. Ta thực sự khâm phục những người Qua Ba đó, không biết bọn họ đã nghiên cứu về cơ thể người đến trình độ nào mới có thể tạo ra được chìa khóa thần kỳ như vậy.”

Lúc này, bọn họ đã đi qua được rãnh sâu, leo lên rìa bên kia. Ở đây có một bình đài rộng khoảng năm mét, dài mười mét. Đứng bên trong toà tháp hình trứng này, cả bọn chỉ biết trợn tròn mắt lên nhìn.

Tháp hình trứng là một tòa tháp, cũng có thể nói là hình dạng tương đối giống một tòa tháp, trên nhỏ dưới to. Phía trên còn chừng mười mét nữa là đến trần, bên dưới e rằng phải sâu đến cả trăm mét, bọn họ đang đứng ở phần đỉnh tháp, phía dưới là một bệ hình chữ T. Một đầu hình chữ T gắn với trục ở chính giữa, còn nét ngang trên đầu chữ T thì hơi cong cong, vừa khéo ăn khớp với thân tháp. Cả bệ này đang quay xung quanh những đường rãnh xoắn ốc trên thân trục, từ từ nâng lên. Kết cấu chỗ tiếp giáp giữa cái bệ hình chữ T và trục giữa giống như kết cấu của thang cứu hỏa, mấy tầng chồng lên nhau, có thể kéo dài hoặc thu gọn lại, như vậy có thể đảm bảo dù là ở phần đáy đường kính lớn nhất hay ở phần đỉnh tháp đường kính nhỏ nhất, đoạn cong trên đầu vẫn bám sát vào thân tháp.

Trác Mộc Cường Ba vốn tưởng rằng, tòa tháp mà Đường Thọ tốn bao công sức sắp đặt mới mở được này, hẳn phải có thứ gì đó đặc biệt dị thường, nhưng trước mắt gã đây, bên trong tòa tháp lại hoàn toàn trống rỗng. Chẳng lẽ, người xưa đã chuyển hết những thứ bên trong tháp đi rồi hay sao? Suy nghĩ của những người còn lại phỏng chừng cũng không khác Trác Mộc Cường Ba là mấy, bên trong tòa tháp này ngoại trừ bệ hình chữ “T” có thể chuyển động ra, chẳng còn gì khác nữa, làm sao hấp dẫn bằng đại điện lấp lánh ánh vàng bạc châu báu ngoài kia! Duy chỉ có pháp sư Á La là nhìn ra được manh mối gì đó. Thị lực của ông vốn tốt hơn những người khác một bậc. Ông nhận ra, mặt tường đằng sau những cột sáng đan xen kia không hề trơn nhẵn, mà có những đường nét do khe hở hình thành, chia thân tháp thành những ô nhỏ, trông giống như tủ đựng thuốc trong hiệu thuốc Bắc vậy. Toàn bộ đều là những ngăn kéo, tòa tháp này không ngờ lại do hàng nghìn hàng vạn cái ngăn kéo như vậy hợp thành, mà chiếc bệ hình chữ “T” có thể xoay chuyển này, chính là để những người đứng trên đó có thể dễ dàng tiện lợi đến bên cạnh và mở ra bất cứ ngăn kéo nào. Bên trong những ngăn kéo ấy rốt cuộc có thứ gì? Đường Thọ nói, vách tường của tòa tháp này dày đến hai mươi mét, vậy thì mỗi ngăn kéo phải lớn chừng nào? Có thể chứa được bao nhiêu thứ?

Đường Thọ cũng nhìn ra vẻ nghi hoặc trong ánh mắt những người còn lại, nhưng y không giải thích, mà lại quay về chủ đề lúc nãy: “Cường Ba thiếu gia, ngươi xem, chúng ta vẫn còn rất nhiều thời gian, tại sao không tiếp tục câu chuyện lúc nãy nhỉ? Ngươi nghi ngờ Merkin gài thêm một tên nằm vùng khác vào đội ngũ của mình, nhưng trong đội các ngươi còn rất nhiều người kia mà? Tại sao chỉ nghi ngờ có mình Mẫn Mẫn thôi?”

Trác Mộc Cường Ba nhìn Đường Thọ bằng ánh mắt chán ghét, tên này không ngờ lại bảo em gái ruột của mình làm ra những chuyện như vậy, so với Đường Mẫn, y càng không thể tha thứ hơn. Đường Thọ vẫn trưng ra bộ mặt hờ hững thản nhiên, giống như một thanh niên hiếu học khát cầu tri thức, khiến người khác không thể nào biết được trong lòng y rốt cuộc đang nghĩ điều gì?

“Đúng vậy, thoạt đầu tôi cũng không nghĩ đó là Mẫn Mẫn.” Trác Mộc Cường Ba phẫn nộ nói: “Nhưng khi mạng của tôi và Nhạc Dương như ngàn cân treo sợi tóc, cậu ta đã nói với tôi rất nhiều vấn đề cần chú ý, chẳng hạn như quan hệ giữa Merkin và Soares sẽ xấu đi, trong bộ quần áo liền thân của Merkin chế tạo có thuốc nổ, Cánh Nam vẫn còn sống,… nhưng cậu ta lại không hề nhắc đến sự việc trong đội ngũ của chúng tôi còn một tên nội gián khác. Như vậy, chỉ có hai trường hợp, một là tên nội gián này đã chết, tất nhiên không cần phải nói ra nữa, trường… trường… trường hợp thứ hai, tên nội gián này có quan hệ đặc biệt với tôi, cậu ta không nỡ nhắc đến mà hi vọng tôi có thể tự phát hiện.” Nói tới đây, giọng Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thấp xuống, Mẫn Mẫn cúi gằm mặt, nước mắt chảy dọc theo gò má, rơi xuống bình đài dưới chân.

“Dù vậy, đó cũng chỉ là nghi ngờ của ngươi thôi, không có chứng cứ nào, đúng không?” Đường Thọ truy vấn.

Trác Mộc Cường Ba im lặng không đáp, hồi lâu sau mới cất tiếng: “Nghi ngờ, chỉ là bước khởi đầu. Một khi đã xé rách lớp màng bọc đầu tiên, rất nhiều vấn đề anh không muốn nghĩ, không muốn đối diện đều bày ra trước mặt. Vả lại, tất cả những vấn đề không thể giải thích được, đều chỉ về cùng một hướng. Nói thực, tự trong đáy lòng tôi không hề muốn nghi ngờ Mẫn Mẫn, cô ấy là một cô bé thuần khiết nhường ấy, nếu đúng cô ấy đã làm ra những chuyện thế này, thì tôi quả thực quá thất vọng với nhân tính của con người rồi.”

“Ừm, nói cho ta nghe xem, có những vấn đề nào không thể giải thích được?” Đường Thọ lại hỏi.

“Vẫn bắt đầu từ tên nội gián mà Merkin cài cắm kia, sau này tôi gặp Merkin, có hỏi y rốt cuộc y đã gài những người nào vào đội ngũ của tôi. Merkin thừa nhận, có Ba Tang, và cả một người khác nữa, chỉ là người này đã chết trong quá trình vượt Minh hà. Mà trước lúc chết, Ba Tang đã nói với tôi, Merkin có tìm đến anh ta, nhưng sau lần từ rừng rậm châu Mỹ trở về, anh ta không giúp Merkin làm bất cứ việc gì nữa. Tôi tin Ba Tang, trong tình cảnh đó, anh ta không cần phải giấu giếm tôi điều gì nữa cả. Tên nội gián còn lại kia, đã chết trước khi đến Shangri-la, vì vậy kẻ phát tín hiệu nhất định là người khác. Thêm nữa, Lữ Cánh Nam đã ra lệnh cho Nhạc Dương phụ trách giám sát tất cả mọi người, khi không thể tìm ra người phát tín hiệu là ai, cậu ta mới tự mình phát tín hiệu. Tôi biết rõ năng lực của Nhạc Dương, vì vậy sau này lại rà soát thêm một lượt toàn bộ quá trình cho đến khi nhóm người nhảy dù đầu tiên xuất hiện. Thu nhận tín hiệu, leo lên đỉnh núi tuyết đều cần thời gian, theo suy đoán của tôi, có lẽ người đó đã phát tín hiệu lúc chúng tôi leo từ tầng bình đài thứ nhất lên tầng bình đài thứ hai. Nhưng lúc ấy, toàn bộ nhóm chúng tôi đều đang ở trên một khung treo lắp tạm lơ lửng giữa lưng chừng vách núi, muốn lắp đặt thiết bị phát tín hiệu trong hoàn cảnh đó mà không bị phát hiện là một việc rất khó khăn.”

Trác Mộc Cường Ba hít sâu một hơi, nhìn thẳng vào Mẫn Mẫn, chậm rãi tiếp lời: “Thế nhưng, tôi vẫn còn nhớ, hôm chúng tôi leo vách đá ấy, Mẫn Mẫn có đánh rơi một món đồ, đánh rơi trước mặt tất cả mọi người, vì vậy không ai sinh lòng ngờ vực gì cả. Dù là vô tình hay cố ý, đó cơ hồ là cơ hội duy nhất, đồng thời cũng nhạy bén nắm bắt được khoảng trống trong suy nghĩ của chúng tôi, ai bảo rằng kích hoạt thiết bị phát tín hiệu nhất định phải lén lén lút lút mới làm được chứ?” Mẫn Mẫn nãy giờ vẫn cúi gằm mặt, nước mắt lã chã tuôn rơi, không dám ngước lên nhìn Trác Mộc Cường Ba.

Âm mũi của Trác Mộc Cường Ba trở nên nghèn nghẹt, giọng gã hơi run run: “Đây chỉ là một trong số các vấn đề. Ngoài ra còn một việc mà tôi mãi không hiểu được, đó chính là lúc trước khi chúng tôi tiến vào địa cung Ahezt ở Maya. Giếng tế ở đó là một cái hang lớn đồ sộ trên mặt đất, lúc đó chỉ có Mẫn Mẫn và giáo sư Phương Tân ở đấy. Tôi được kể lại rằng, Mẫn Mẫn nghe thấy tiếng của tôi, liên đến đó tìm kiếm, bất cẩn rơi vào trong hang, nhưng cái hang đó lớn như vậy, nổi bật như vậy, thậm chí tôi còn nghi ngờ thầy giáo của mình, có điều về sau khi bắt đầu nghi ngờ Mẫn Mẫn, tôi đột nhiên nghĩ đến một kết quả đáng sợ… nếu Mẫn Mẫn không rơi xuống cái hang đó, tôi cũng sẽ không nhảy xuống. Nếu chúng tôi không xuống, tất cả những gì đã diễn ra trong địa cung cũng sẽ không xảy ra, chúng tôi sẽ không mở cửa đá cứu được Vương Hựu, Soases cũng sẽ không phát hiện được tấm bản đồ bên trong cánh cửa đá ấy! Nếu tất cả mọi chuyện ấy đều do Mẫn Mẫn gây ra…”

Tới đây, Trác Mộc Cường Ba không thể nói tiếp được nữa, Đường Thọ liền trả lời giúp gã: “Không sai, là nó cố ý ngã xuống.”

Mẫn Mẫn càng cúi đầu thấp hơn nữa.

Trác Mộc Cường Ba, tiếp tục nói nhanh hơn: “Còn nữa, khi chúng tôi ở Đảo Huyền Không tự, trong tế đàn Mạn Đà La cuối cùng, Merkin đã phát hiện ra một tấm bản đồ đó dưới đất. Đồng thời, Merkin cũng chính miệng chứng thực, tấm bản đồ ấy do y phát hiện ra trong lúc chiến đấu. Thế nhưng điều này hoàn toàn không phù hợp với những gì pháp sư Á La nói, bọn họ đến tế đàn Mạn Đà La đó trước, vả lại mục đích chính cũng là để tìm kiếm, đương nhiên đã lật tung từng tấc đất trong tế đàn lên rồi mới phải. Vậy mà họ lại không tìm được gì, đây cũng là một điểm khiến tôi nghi hoặc, tấm bản đồ ấy rốt cuộc ở đâu ra?”

Đường Thọ trả lời: “Đúng thế, bản đồ là do Mẫn Mẫn mang theo, bỏ dưới đất.” Y vẫn giữ nguyên nét mặt cười cười ấy, nhưng hoàn toàn không nhìn ra được dù chỉ một chút vẻ đắc ý nào cả. Lúc này, y lại giống như một vị giáo sư trẻ đang giải đáp các thắc mắc cho sinh viên. Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La, Merkin nghe Trác Mộc Cường Ba và Đường Thọ một hỏi một đáp, đều không khỏi ngấm ngầm kinh ngạc, có một số vấn đề ngay chính bản thân họ cũng chưa từng nghĩ đến. Mấy câu hỏi đơn giản này, không ngờ đã phủ định toàn bộ những giả thiết của họ trước đây.

Đúng lúc này, “đang…” một tiếng, sau đó là một tràng những tiếng “cách cách cách, cách cách…” cái bệ hình chữ T bên dưới rốt cuộc cũng xoay tới trước mặt cả bọn, chầm chậm dừng lại. Khi nó đến gần, họ mới nhận ra cái bệ này rộng hơn lúc nhìn từ xa khá nhiều, ở hai bên còn có lan can chắn. Hơn chục người lần lượt bước lên trên, cái bệ phát ra tiếng ma sát nặng nề, bắt đầu chầm chậm chuyển động xuống phía dưới.

Đứng ở một đầu bệ hình chữ T, Đường Thọ lại gần Trác Mộc Cường Ba nói: “Tiếp tục chủ đề câu chuyện nào, đúng thế, ngươi phát hiện được rất nhiều điểm nghi vấn ở Mẫn Mẫn, có điều từ những điểm đáng ngờ này đâu thể trực tiếp xâu chuỗi đến ta? Ngươi không nghi ngờ Merkin sao?”

Trác Mộc Cường Ba cười gằn nói: “Như anh nói, thoạt đầu, quả thực tôi nghi ngờ Merkin, bởi vì anh đã bố trí một màn kịch: hình như anh trai của Mẫn Mẫn, Đường Thọ, đã bị Merkin bắt cóc khỏi bệnh viện. Mà trước sự kiện này, Merkin từng bắt cóc người điên ở Mông Hà, đã có tiền lệ, y có bắt thêm anh nữa cũng không có gì là lạ. Merkin làm vậy, một là có thể moi từ miệng anh một số thông tin về Shangri-la, hai là có thể lợi dụng anh để uy hiếp Mẫn Mẫn, buộc cô ấy phải làm việc cho y. Chuyện này dường như rất hợp tình hợp lý. Thế nhưng, sau khi tôi bắt đầu nghi ngờ Mẫn Mẫn, màn kịch mà anh bố trí, lại khiến tôi phát hiện rất nhiều điểm bất hợp lý khác.”

Đường Thọ lấy làm hứng thú: “Ừm, nói nghe xem nào.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ba người, người điên ở Mông Hà, Ba Tang, còn cả anh nữa, ba người các anh đã đến nơi này, nếu như chân tướng sự thực chỉ có một, vậy thì lời nói của ba người phải khớp nhau mới đúng. Nhưng vấn đề ở chỗ, trải nghiệm của anh, Ba Tang, và người điên ở Mông Hà kia lại không giống nhau. Về sau chúng tôi biết được, người điên ở Mông Hà có lẽ ra khỏi đây theo đường sông ngầm, vậy thì chỉ còn anh và Ba Tang, hai người chắc hẳn đều đi đường núi tuyết. Nhưng như những gì Ba Tang nói và những gì chúng tôi đã trải qua, con đường ấy cực kỳ khó khăn, muốn tiến lên một bước cũng gian nan vô cùng, dù đầy đủ dưỡng khí thì cũng cần phải có thể năng vượt trên mức cực hạn của người bình thường. Nhưng lúc đó, Mẫn Mẫn lại kể với chúng tôi là, anh lái xe việt dã phóng từ trong này ra! Vả lại, còn chạy một mạch đến Khả Khả Tây Lý, chuyện này thật khó tin! Trước đây tôi luôn nghĩ rằng, cách giải thích duy nhất chính là, vùng đất anh và Ba Tang nói đến, không phải là một. Nhưng nếu thế, thì những sự việc khác lại không thể giải thích nổi. Hai đội viên đội khảo sát khoa học Khả Khả Tây Lý nhặt được cuốn nhật ký của anh, cuối cùng thi thể lại xuất hiện trên núi tuyết mà chúng tôi đi qua; còn ở Khả Khả Tây Lý nơi anh bị lật xe, chúng tôi gặp phải ba anh em sói xám, chúng chính là lũ sói sinh sống ở đây, chuyện này không phải trùng hợp. Như vậy thì không thể giải thích được làm cách nào anh lái xe từ đây đến tận Khả Khả Tây Lý được.”

Nét mặt Đường Thọ dãn ra, chỉ nghe y nói: “Chuyện này xảy ra cũng hai ba năm rồi, người vẫn còn nhớ sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu cách giải thích duy nhất không chính xác, vậy thì nhất định còn cách giải thích khác. Tôi nhớ trước đây, có người từng hỏi tôi một vấn đề thế này: ba con sâu róm, đầu đuôi nối nhau xếp thành hàng một bò về phía trước. Một con nói: ‘Trước mặt tôi chẳng có con sâu róm nào hết’, một con khác lại nói, ‘Trước mặt tôi có hai con sâu róm’, con cuối cùng cũng nói, ‘trước mặt tôi có hai con sâu róm’, hỏi thế là như thế nào? Đáp án của câu hỏi này là, trong ba con sâu róm có một con nói dối! Tương tự như vậy, trong ba người điên thoát ra khỏi Shangri-la, có một người nói không khớp với những gì hai người còn lại nói, ngoại trừ lý do nơi anh ta đi không phải là nơi hai người kia nói đến, thì còn một cách giải thích khác, đó chính là trong ba người điên ấy, có một người … đang giả điên!”

Gương mặt Đường Thọ cuối cùng cũng hiện lên vẻ khen ngợi.

Trác Mộc Cường Ba nói tiếp: “Tôi lại nghĩ đến một chuyện nữa, chính là khi tôi và Mẫn Mẫn đến bệnh viện tìm anh lần thứ hai, bác sĩ chủ trị của anh nói với chúng tôi, bệnh tình của anh rất nặng, thuốc bình thường gần như không có tác dụng. Thực ra, nếu nghĩ theo một hướng khác, giả sử anh không bị điên mà là một người khỏe mạnh, vậy thì những thứ thuốc kia cũng chẳng có tác dụng gì với anh cả, thậm chí anh có uống thuốc hay không cũng rất đáng nghi. Tôi không biết anh có mục đích và ý đồ gì, tóm lại, tất cả mọi chuyện xảy ra ở Khả Khả Tây Lý, chẳng qua chỉ là một vở kịch mà anh tự đạo diễn, tự diễn xuất mà thôi…”

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 79

SỰ THẬT ĐÁNG SỢ

Chương 46

SỰ THẬT ĐÁNG SỢ

    

ường Thọ cảnh cáo tất cả mọi người có mặt trong đại điện: “Đứng xa cánh cửa ra một chút, tốt nhất nên tìm một vật nặng để bám vào, cần thận kẻo bị hút vào trong đó đấy.”

Cánh cửa khổng lồ chầm chậm nâng lên, đại điện rung lắc, vô số hạt bụi vàng nhỏ li ti rải xuống từ trần điện khiến toàn bộ đại điện đều ánh lên sắc vàng lấp lánh. Gương mặt u uất của Đường Thọ rốt cuộc cũng thoáng hiện lên vẻ hân hoan. Merkin vẫn nhìn chằm chằm vào Đường Thọ không chớp mắt, không hiểu đang nghĩ điều gì. Trác Mộc Cường Ba liếc mắt nhìn pháp sư Á La, hai người khẽ gật đầu, gã lại ngoảnh sang phía Lữ Cánh Nam, nhoẻn miệng mỉm cười. Ánh mắt Mẫn Mẫn từ đầu đến giờ vẫn không rời khỏi Trác Mộc Cường Ba.

Merkin rốt cuộc cũng quay đầu lại, nhìn về phía cánh cửa, bấy giờ mới phát hiện ra, cánh cửa này không thể dùng tính từ “dày nặng” để hình dung được. Lực kéo khổng lồ từ bánh răng kéo cánh cửa lên phía trên, ít nhất cũng đã nâng được mười mét rồi, vậy mà cánh cửa vẫn kẹt bên trong khung cửa. Đến khi giữa cửa và khung cửa hé ra một khe hở, đột nhiên xuất hiện một lực hút khổng lồ. Tất cả mọi người đều thấy rõ, lớp bụi vàng đang lơ lửng trên không trung chẳng khác nào một màn sương mù mịt phảng phất như bị một cái miệng khổng lồ há ra hút sạch. Gần như một nửa không khí trong đại điện cũng bị hút vào trong, đồng thời cánh cửa phát ra một tiếng “ầm” lớn. Không biết là cánh cửa đang chuyển động, hay cả bốn bức tường của đại điện này đều đang bị nâng lên nữa. Lực hút mạnh mẽ quấn lấy chân mỗi người, nếu Đường Thọ không nhắc nhở, chắc hẳn phần lớn đã đứng không vững mà bị hút vào trong đó rồi. May mà, bọn họ đều ôm chặt một bức tượng vàng lớn, mặc dù vậy, cả người lẫn tượng Phật cũng bị kéo trượt đi một quãng. May thay, lực hút này xuất hiện bất ngờ, biến mất cũng rất đột ngột, chỉ sau khoảng thời gian chừng một hơi thở là tan biến, cả bọn đều cảm thấy áp lực nhẽ bẫng, hai chân lại hạ xuống mặt sàn.

Cánh cửa khổng lồ rốt cuộc cũng được mở ra, bên dưới là một rãnh dài chừng hai chục mét, sâu bảy tám mét, Merkin thầm tính toán, cánh cửa này có lẽ là một khối lập phương khổng lồ mỗi bề dài khoảng hai chục mét, nhưng phần lộ ra phía ngoài mỗi bề chỉ chưa đến năm mét mà thôi, cũng không biết được làm từ chất liệu gì nữa.

Trác Mộc Cường Ba lại đang nhìn bức tường ở mé bên, giờ đây kim loại đã bị hút hết, để lộ ra vách đá. Ở chính giữa hai bức tường đá hai mé bên cánh cửa, đều có một cầu thang dẫn lên trên, ở cuối cầu thang, dường như lại có một gian phòng khác. Sau lưng gã là vô số những lỗ thông khí to bằng đầu ngón tay, phía trước là bức tường có cánh cửa khổng lồ, vạch ra một đường ranh giới rất rõ ràng với vách đá ở hai bên, hiển nhiên là một kiến trúc khổng lồ khác, do một loại chất liệu khác xây nên.

Pháp sư Á La lại tập trung chú ý vào phía sau rãnh sâu, bên trong cánh cửa khổng lồ kia. Phỏng chừng ông muốn nhìn rõ xem bên trong đó rốt cuộc có thứ gì. Lúc này, cánh cửa đã được nâng lên, ánh sáng hắt ra từ mấy tấm gương đồng vốn dùng để thu sáng cho đại điện liền chiếu thẳng vào bên trong đó. Phía trong đã có sẵn những tấm gương khác, bột vàng vẫn lơ lửng trên không trung, khiến người ở bên ngoài có thể nhìn rõ được quỹ tích phản chiếu của những cột sáng ấy.

“Tháp hình trứng!” pháp sư Á La khẽ thốt lên. Pháp sư Á La biết rõ kết cấu của tháp hình trứng. Đó là một dạng Phật tháp không có đường nối, hình dạng giống như quả trứng chim vậy. Lúc này, dưới ánh sáng hắt vào từ các tấm gương đồng, kết cấu ttrong tháp hiện lên rõ mồn một trước mắt. Bán kính của tòa tháp này khoảng hai mươi mét, chính giữa có một cây trụ đặc đường kính khoảng ba mét, thân trụ có đường rãnh hình xoắn ốc, dường như có thể đưa thứ gì đó trong tháp nâng lên hoặc hạ xuống. Trong tháp vẳng ra tiếng bánh răng và băng chuyền chuyển động, kèm theo tiếng “u u u” , tựa như có vật thể khổng lồ nào đó đang khuấy động không khí. Những hạt bụi vàng li ti xoay chuyển trong quầng sáng, như ngàn vạn ngôi sao trong dải Ngân hà. Đường Thọ đưa mắt nhìn đám người vẫn đang ngây ngẩn chưa biết phải làm gì tiếp theo, giải thích: “Vừa nãy là áp suất âm, người Qua Ba cổ đại đã biết, vật phẩm có thể bảo tồn lâu hơn trong môi trường chân không, vì vậy, bên trong tòa tháp hình trứng này đã bị hút sạch không khí.”

Sau đó, y lại lệnh cho bọn lính đánh thuê áp giải mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba xuống cái rãnh sâu mà cánh cửa nâng lên để lại. Hai bên rãnh sâu này có cầu thang xoắn ốc, sau khi cả bọn chầm chậm leo xuống, Đường Thọ nói: “Đây không phải đá, tuy nhìn giống đá, nhưng thực ra lại là một thứ có thể gọi là kim loại do cổ nhân nung luyện ra. Cụ thể nó là thứ gì thì đến giờ vẫn chưa phân tích ra được, nhưng thứ này chính là vật liệu xây dựng tuyệt hảo mà các nhà khoa học hiện đại bấy lâu nay vẫn không ngừng tìm kiếm. Nó nhẹ hơn nhôm, nhưng lại kiên cố hơn thép tinh luyện, dùng thuốc nổ mạnh cũng hầu như không bị ảnh hưởng gì, ngay cả nhiệt độ cao mấy nghìn độ cũng không có hiệu quả. Tốc độ dẫn nhiệt của loại chất liệu này nhanh nhất trong các loại kim loại đã được biết đến ngày nay. Trừ phi nung chảy toàn bộ tòa tháp hình trứng này, bằng không cách duy nhất để gây phá hoại cho nó là dùng nhiệt độ siêu đẳng, chẳng hạn như tia laser. Chỉ có điều, các loại máy bắn tia laser hiện giờ đều quá lớn, ta vẫn chưa đủ năng lực để mang loại máy móc cỡ lớn ấy đến đây.”

“Vì vậy, anh lợi dụng tôi và Merkin mở cánh cửa này, phải không?” Trác Mộc Cường Ba thẫn thờ hỏi.

“À, không.” Đường Thọ cố tình làm ra vẻ kinh ngạc: “Cánh cửa này chỉ mở ra khi ý chí các ngươi mong muốn một cách mãnh liệt.” Y liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba và Merkin, rồi lại tiếp lời: “Chẳng nhẽ các ngươi không biết? Cho dù là máu của các ngươi, nhưng nếu khi nhỏ máu các ngươi có tâm trạng sợ hãi, co rút, đau đớn, thì cũng không thể khiến chìa khóa nảy sinh phản ứng được. Cơ thể con người là thứ hết sức kỳ quái, các ngươi bị tình cảm chi phối. Vui vẻ, kích động, sợ hãi, hoảng loạn, hân hoan… mỗi loại tình cảm đều sẽ khiến cơ thể sản sinh ra những vật chất khác nhau, được gọi là hormone. Những hormone này có thể nhanh chóng lan tỏa đi khắp toàn thân, khiến máu của các ngươi có những thay đổi hết sức lạ lùng. Ta thực sự khâm phục những người Qua Ba đó, không biết bọn họ đã nghiên cứu về cơ thể người đến trình độ nào mới có thể tạo ra được chìa khóa thần kỳ như vậy.”

Lúc này, bọn họ đã đi qua được rãnh sâu, leo lên rìa bên kia. Ở đây có một bình đài rộng khoảng năm mét, dài mười mét. Đứng bên trong toà tháp hình trứng này, cả bọn chỉ biết trợn tròn mắt lên nhìn.

Tháp hình trứng là một tòa tháp, cũng có thể nói là hình dạng tương đối giống một tòa tháp, trên nhỏ dưới to. Phía trên còn chừng mười mét nữa là đến trần, bên dưới e rằng phải sâu đến cả trăm mét, bọn họ đang đứng ở phần đỉnh tháp, phía dưới là một bệ hình chữ T. Một đầu hình chữ T gắn với trục ở chính giữa, còn nét ngang trên đầu chữ T thì hơi cong cong, vừa khéo ăn khớp với thân tháp. Cả bệ này đang quay xung quanh những đường rãnh xoắn ốc trên thân trục, từ từ nâng lên. Kết cấu chỗ tiếp giáp giữa cái bệ hình chữ T và trục giữa giống như kết cấu của thang cứu hỏa, mấy tầng chồng lên nhau, có thể kéo dài hoặc thu gọn lại, như vậy có thể đảm bảo dù là ở phần đáy đường kính lớn nhất hay ở phần đỉnh tháp đường kính nhỏ nhất, đoạn cong trên đầu vẫn bám sát vào thân tháp.

Trác Mộc Cường Ba vốn tưởng rằng, tòa tháp mà Đường Thọ tốn bao công sức sắp đặt mới mở được này, hẳn phải có thứ gì đó đặc biệt dị thường, nhưng trước mắt gã đây, bên trong tòa tháp lại hoàn toàn trống rỗng. Chẳng lẽ, người xưa đã chuyển hết những thứ bên trong tháp đi rồi hay sao? Suy nghĩ của những người còn lại phỏng chừng cũng không khác Trác Mộc Cường Ba là mấy, bên trong tòa tháp này ngoại trừ bệ hình chữ “T” có thể chuyển động ra, chẳng còn gì khác nữa, làm sao hấp dẫn bằng đại điện lấp lánh ánh vàng bạc châu báu ngoài kia! Duy chỉ có pháp sư Á La là nhìn ra được manh mối gì đó. Thị lực của ông vốn tốt hơn những người khác một bậc. Ông nhận ra, mặt tường đằng sau những cột sáng đan xen kia không hề trơn nhẵn, mà có những đường nét do khe hở hình thành, chia thân tháp thành những ô nhỏ, trông giống như tủ đựng thuốc trong hiệu thuốc Bắc vậy. Toàn bộ đều là những ngăn kéo, tòa tháp này không ngờ lại do hàng nghìn hàng vạn cái ngăn kéo như vậy hợp thành, mà chiếc bệ hình chữ “T” có thể xoay chuyển này, chính là để những người đứng trên đó có thể dễ dàng tiện lợi đến bên cạnh và mở ra bất cứ ngăn kéo nào. Bên trong những ngăn kéo ấy rốt cuộc có thứ gì? Đường Thọ nói, vách tường của tòa tháp này dày đến hai mươi mét, vậy thì mỗi ngăn kéo phải lớn chừng nào? Có thể chứa được bao nhiêu thứ?

Đường Thọ cũng nhìn ra vẻ nghi hoặc trong ánh mắt những người còn lại, nhưng y không giải thích, mà lại quay về chủ đề lúc nãy: “Cường Ba thiếu gia, ngươi xem, chúng ta vẫn còn rất nhiều thời gian, tại sao không tiếp tục câu chuyện lúc nãy nhỉ? Ngươi nghi ngờ Merkin gài thêm một tên nằm vùng khác vào đội ngũ của mình, nhưng trong đội các ngươi còn rất nhiều người kia mà? Tại sao chỉ nghi ngờ có mình Mẫn Mẫn thôi?”

Trác Mộc Cường Ba nhìn Đường Thọ bằng ánh mắt chán ghét, tên này không ngờ lại bảo em gái ruột của mình làm ra những chuyện như vậy, so với Đường Mẫn, y càng không thể tha thứ hơn. Đường Thọ vẫn trưng ra bộ mặt hờ hững thản nhiên, giống như một thanh niên hiếu học khát cầu tri thức, khiến người khác không thể nào biết được trong lòng y rốt cuộc đang nghĩ điều gì?

“Đúng vậy, thoạt đầu tôi cũng không nghĩ đó là Mẫn Mẫn.” Trác Mộc Cường Ba phẫn nộ nói: “Nhưng khi mạng của tôi và Nhạc Dương như ngàn cân treo sợi tóc, cậu ta đã nói với tôi rất nhiều vấn đề cần chú ý, chẳng hạn như quan hệ giữa Merkin và Soares sẽ xấu đi, trong bộ quần áo liền thân của Merkin chế tạo có thuốc nổ, Cánh Nam vẫn còn sống,… nhưng cậu ta lại không hề nhắc đến sự việc trong đội ngũ của chúng tôi còn một tên nội gián khác. Như vậy, chỉ có hai trường hợp, một là tên nội gián này đã chết, tất nhiên không cần phải nói ra nữa, trường… trường… trường hợp thứ hai, tên nội gián này có quan hệ đặc biệt với tôi, cậu ta không nỡ nhắc đến mà hi vọng tôi có thể tự phát hiện.” Nói tới đây, giọng Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thấp xuống, Mẫn Mẫn cúi gằm mặt, nước mắt chảy dọc theo gò má, rơi xuống bình đài dưới chân.

“Dù vậy, đó cũng chỉ là nghi ngờ của ngươi thôi, không có chứng cứ nào, đúng không?” Đường Thọ truy vấn.

Trác Mộc Cường Ba im lặng không đáp, hồi lâu sau mới cất tiếng: “Nghi ngờ, chỉ là bước khởi đầu. Một khi đã xé rách lớp màng bọc đầu tiên, rất nhiều vấn đề anh không muốn nghĩ, không muốn đối diện đều bày ra trước mặt. Vả lại, tất cả những vấn đề không thể giải thích được, đều chỉ về cùng một hướng. Nói thực, tự trong đáy lòng tôi không hề muốn nghi ngờ Mẫn Mẫn, cô ấy là một cô bé thuần khiết nhường ấy, nếu đúng cô ấy đã làm ra những chuyện thế này, thì tôi quả thực quá thất vọng với nhân tính của con người rồi.”

“Ừm, nói cho ta nghe xem, có những vấn đề nào không thể giải thích được?” Đường Thọ lại hỏi.

“Vẫn bắt đầu từ tên nội gián mà Merkin cài cắm kia, sau này tôi gặp Merkin, có hỏi y rốt cuộc y đã gài những người nào vào đội ngũ của tôi. Merkin thừa nhận, có Ba Tang, và cả một người khác nữa, chỉ là người này đã chết trong quá trình vượt Minh hà. Mà trước lúc chết, Ba Tang đã nói với tôi, Merkin có tìm đến anh ta, nhưng sau lần từ rừng rậm châu Mỹ trở về, anh ta không giúp Merkin làm bất cứ việc gì nữa. Tôi tin Ba Tang, trong tình cảnh đó, anh ta không cần phải giấu giếm tôi điều gì nữa cả. Tên nội gián còn lại kia, đã chết trước khi đến Shangri-la, vì vậy kẻ phát tín hiệu nhất định là người khác. Thêm nữa, Lữ Cánh Nam đã ra lệnh cho Nhạc Dương phụ trách giám sát tất cả mọi người, khi không thể tìm ra người phát tín hiệu là ai, cậu ta mới tự mình phát tín hiệu. Tôi biết rõ năng lực của Nhạc Dương, vì vậy sau này lại rà soát thêm một lượt toàn bộ quá trình cho đến khi nhóm người nhảy dù đầu tiên xuất hiện. Thu nhận tín hiệu, leo lên đỉnh núi tuyết đều cần thời gian, theo suy đoán của tôi, có lẽ người đó đã phát tín hiệu lúc chúng tôi leo từ tầng bình đài thứ nhất lên tầng bình đài thứ hai. Nhưng lúc ấy, toàn bộ nhóm chúng tôi đều đang ở trên một khung treo lắp tạm lơ lửng giữa lưng chừng vách núi, muốn lắp đặt thiết bị phát tín hiệu trong hoàn cảnh đó mà không bị phát hiện là một việc rất khó khăn.”

Trác Mộc Cường Ba hít sâu một hơi, nhìn thẳng vào Mẫn Mẫn, chậm rãi tiếp lời: “Thế nhưng, tôi vẫn còn nhớ, hôm chúng tôi leo vách đá ấy, Mẫn Mẫn có đánh rơi một món đồ, đánh rơi trước mặt tất cả mọi người, vì vậy không ai sinh lòng ngờ vực gì cả. Dù là vô tình hay cố ý, đó cơ hồ là cơ hội duy nhất, đồng thời cũng nhạy bén nắm bắt được khoảng trống trong suy nghĩ của chúng tôi, ai bảo rằng kích hoạt thiết bị phát tín hiệu nhất định phải lén lén lút lút mới làm được chứ?” Mẫn Mẫn nãy giờ vẫn cúi gằm mặt, nước mắt lã chã tuôn rơi, không dám ngước lên nhìn Trác Mộc Cường Ba.

Âm mũi của Trác Mộc Cường Ba trở nên nghèn nghẹt, giọng gã hơi run run: “Đây chỉ là một trong số các vấn đề. Ngoài ra còn một việc mà tôi mãi không hiểu được, đó chính là lúc trước khi chúng tôi tiến vào địa cung Ahezt ở Maya. Giếng tế ở đó là một cái hang lớn đồ sộ trên mặt đất, lúc đó chỉ có Mẫn Mẫn và giáo sư Phương Tân ở đấy. Tôi được kể lại rằng, Mẫn Mẫn nghe thấy tiếng của tôi, liên đến đó tìm kiếm, bất cẩn rơi vào trong hang, nhưng cái hang đó lớn như vậy, nổi bật như vậy, thậm chí tôi còn nghi ngờ thầy giáo của mình, có điều về sau khi bắt đầu nghi ngờ Mẫn Mẫn, tôi đột nhiên nghĩ đến một kết quả đáng sợ… nếu Mẫn Mẫn không rơi xuống cái hang đó, tôi cũng sẽ không nhảy xuống. Nếu chúng tôi không xuống, tất cả những gì đã diễn ra trong địa cung cũng sẽ không xảy ra, chúng tôi sẽ không mở cửa đá cứu được Vương Hựu, Soases cũng sẽ không phát hiện được tấm bản đồ bên trong cánh cửa đá ấy! Nếu tất cả mọi chuyện ấy đều do Mẫn Mẫn gây ra…”

Tới đây, Trác Mộc Cường Ba không thể nói tiếp được nữa, Đường Thọ liền trả lời giúp gã: “Không sai, là nó cố ý ngã xuống.”

Mẫn Mẫn càng cúi đầu thấp hơn nữa.

Trác Mộc Cường Ba, tiếp tục nói nhanh hơn: “Còn nữa, khi chúng tôi ở Đảo Huyền Không tự, trong tế đàn Mạn Đà La cuối cùng, Merkin đã phát hiện ra một tấm bản đồ đó dưới đất. Đồng thời, Merkin cũng chính miệng chứng thực, tấm bản đồ ấy do y phát hiện ra trong lúc chiến đấu. Thế nhưng điều này hoàn toàn không phù hợp với những gì pháp sư Á La nói, bọn họ đến tế đàn Mạn Đà La đó trước, vả lại mục đích chính cũng là để tìm kiếm, đương nhiên đã lật tung từng tấc đất trong tế đàn lên rồi mới phải. Vậy mà họ lại không tìm được gì, đây cũng là một điểm khiến tôi nghi hoặc, tấm bản đồ ấy rốt cuộc ở đâu ra?”

Đường Thọ trả lời: “Đúng thế, bản đồ là do Mẫn Mẫn mang theo, bỏ dưới đất.” Y vẫn giữ nguyên nét mặt cười cười ấy, nhưng hoàn toàn không nhìn ra được dù chỉ một chút vẻ đắc ý nào cả. Lúc này, y lại giống như một vị giáo sư trẻ đang giải đáp các thắc mắc cho sinh viên. Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La, Merkin nghe Trác Mộc Cường Ba và Đường Thọ một hỏi một đáp, đều không khỏi ngấm ngầm kinh ngạc, có một số vấn đề ngay chính bản thân họ cũng chưa từng nghĩ đến. Mấy câu hỏi đơn giản này, không ngờ đã phủ định toàn bộ những giả thiết của họ trước đây.

Đúng lúc này, “đang…” một tiếng, sau đó là một tràng những tiếng “cách cách cách, cách cách…” cái bệ hình chữ T bên dưới rốt cuộc cũng xoay tới trước mặt cả bọn, chầm chậm dừng lại. Khi nó đến gần, họ mới nhận ra cái bệ này rộng hơn lúc nhìn từ xa khá nhiều, ở hai bên còn có lan can chắn. Hơn chục người lần lượt bước lên trên, cái bệ phát ra tiếng ma sát nặng nề, bắt đầu chầm chậm chuyển động xuống phía dưới.

Đứng ở một đầu bệ hình chữ T, Đường Thọ lại gần Trác Mộc Cường Ba nói: “Tiếp tục chủ đề câu chuyện nào, đúng thế, ngươi phát hiện được rất nhiều điểm nghi vấn ở Mẫn Mẫn, có điều từ những điểm đáng ngờ này đâu thể trực tiếp xâu chuỗi đến ta? Ngươi không nghi ngờ Merkin sao?”

Trác Mộc Cường Ba cười gằn nói: “Như anh nói, thoạt đầu, quả thực tôi nghi ngờ Merkin, bởi vì anh đã bố trí một màn kịch: hình như anh trai của Mẫn Mẫn, Đường Thọ, đã bị Merkin bắt cóc khỏi bệnh viện. Mà trước sự kiện này, Merkin từng bắt cóc người điên ở Mông Hà, đã có tiền lệ, y có bắt thêm anh nữa cũng không có gì là lạ. Merkin làm vậy, một là có thể moi từ miệng anh một số thông tin về Shangri-la, hai là có thể lợi dụng anh để uy hiếp Mẫn Mẫn, buộc cô ấy phải làm việc cho y. Chuyện này dường như rất hợp tình hợp lý. Thế nhưng, sau khi tôi bắt đầu nghi ngờ Mẫn Mẫn, màn kịch mà anh bố trí, lại khiến tôi phát hiện rất nhiều điểm bất hợp lý khác.”

Đường Thọ lấy làm hứng thú: “Ừm, nói nghe xem nào.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ba người, người điên ở Mông Hà, Ba Tang, còn cả anh nữa, ba người các anh đã đến nơi này, nếu như chân tướng sự thực chỉ có một, vậy thì lời nói của ba người phải khớp nhau mới đúng. Nhưng vấn đề ở chỗ, trải nghiệm của anh, Ba Tang, và người điên ở Mông Hà kia lại không giống nhau. Về sau chúng tôi biết được, người điên ở Mông Hà có lẽ ra khỏi đây theo đường sông ngầm, vậy thì chỉ còn anh và Ba Tang, hai người chắc hẳn đều đi đường núi tuyết. Nhưng như những gì Ba Tang nói và những gì chúng tôi đã trải qua, con đường ấy cực kỳ khó khăn, muốn tiến lên một bước cũng gian nan vô cùng, dù đầy đủ dưỡng khí thì cũng cần phải có thể năng vượt trên mức cực hạn của người bình thường. Nhưng lúc đó, Mẫn Mẫn lại kể với chúng tôi là, anh lái xe việt dã phóng từ trong này ra! Vả lại, còn chạy một mạch đến Khả Khả Tây Lý, chuyện này thật khó tin! Trước đây tôi luôn nghĩ rằng, cách giải thích duy nhất chính là, vùng đất anh và Ba Tang nói đến, không phải là một. Nhưng nếu thế, thì những sự việc khác lại không thể giải thích nổi. Hai đội viên đội khảo sát khoa học Khả Khả Tây Lý nhặt được cuốn nhật ký của anh, cuối cùng thi thể lại xuất hiện trên núi tuyết mà chúng tôi đi qua; còn ở Khả Khả Tây Lý nơi anh bị lật xe, chúng tôi gặp phải ba anh em sói xám, chúng chính là lũ sói sinh sống ở đây, chuyện này không phải trùng hợp. Như vậy thì không thể giải thích được làm cách nào anh lái xe từ đây đến tận Khả Khả Tây Lý được.”

Nét mặt Đường Thọ dãn ra, chỉ nghe y nói: “Chuyện này xảy ra cũng hai ba năm rồi, người vẫn còn nhớ sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu cách giải thích duy nhất không chính xác, vậy thì nhất định còn cách giải thích khác. Tôi nhớ trước đây, có người từng hỏi tôi một vấn đề thế này: ba con sâu róm, đầu đuôi nối nhau xếp thành hàng một bò về phía trước. Một con nói: ‘Trước mặt tôi chẳng có con sâu róm nào hết’, một con khác lại nói, ‘Trước mặt tôi có hai con sâu róm’, con cuối cùng cũng nói, ‘trước mặt tôi có hai con sâu róm’, hỏi thế là như thế nào? Đáp án của câu hỏi này là, trong ba con sâu róm có một con nói dối! Tương tự như vậy, trong ba người điên thoát ra khỏi Shangri-la, có một người nói không khớp với những gì hai người còn lại nói, ngoại trừ lý do nơi anh ta đi không phải là nơi hai người kia nói đến, thì còn một cách giải thích khác, đó chính là trong ba người điên ấy, có một người … đang giả điên!”

Gương mặt Đường Thọ cuối cùng cũng hiện lên vẻ khen ngợi.

Trác Mộc Cường Ba nói tiếp: “Tôi lại nghĩ đến một chuyện nữa, chính là khi tôi và Mẫn Mẫn đến bệnh viện tìm anh lần thứ hai, bác sĩ chủ trị của anh nói với chúng tôi, bệnh tình của anh rất nặng, thuốc bình thường gần như không có tác dụng. Thực ra, nếu nghĩ theo một hướng khác, giả sử anh không bị điên mà là một người khỏe mạnh, vậy thì những thứ thuốc kia cũng chẳng có tác dụng gì với anh cả, thậm chí anh có uống thuốc hay không cũng rất đáng nghi. Tôi không biết anh có mục đích và ý đồ gì, tóm lại, tất cả mọi chuyện xảy ra ở Khả Khả Tây Lý, chẳng qua chỉ là một vở kịch mà anh tự đạo diễn, tự diễn xuất mà thôi…”

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 80

CÂU CHUYỆN NGHÌN NĂM TRƯỚC

Chương 48

VỊ TÁNG(45)

    

ường Thọ nở một nụ cười nhiều ý nghĩa, nói: “Đương nhiên, ta đã nói rồi, cuộc chiến giữa hai thế lực lớn này bắt đầu từ rất lâu trước khi ngươi ra đời. Vả lại, ta nghĩ ngươi cũng phát hiện ra rồi, cặp mắt của nó, đặc biệt là ánh mắt ấy rất giống với một người nào đó, phải vậy không? Ở trên ta vừa mới nói xong, khi đi khắp thế giới tìm chìa khóa của địa cung Ahezt, ta đã phát hiện được một thứ không ngờ đến, thứ ấy, chính là con bé này. Ánh mắt của nó rất giống với người ấy, thoạt nhìn hết sức thuần khiết vô tội, tuyệt đối là dạng ai ai nhìn cũng thấy đáng thương hại hết.”

Trác Mộc Cường Ba không sao kìm nén nổi nữa, gã bật người lao vút tới như mũi tên, gầm lên quát hỏi: “Mày biết em gái tao? Nó ở đâu?” Lần này gã phóng tới rất nhanh, Merkin cũng không kịp ngăn cản, chỉ thấy thân hình Trác Mộc Cường Ba loáng lên một cái, đã tới trước mặt Đường Thọ.

Chẳng ngờ, gã nhanh, Đường Thọ còn nhanh hơn. Trác Mộc Cường Ba vươn tay phải ra, vốn định tóm lấy Đường Thọ, hoặc trực tiếp ra đòn tấn công, nhưng Đường Thọ chỉ khẽ nhấc tay trái lên, mu bàn tay hất nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba lên cao, kế đó cổ tay trầm xuống, trước khi Trác Mộc Cường Ba kịp áp sát người vào, y đã tóm lấy cổ áo gã với tốc độ nhanh khó bề tưởng tượng, rồi thuận đà nhấc lên, giơ cả người gã cao quá đỉnh đầu. Trác Mộc Cường Ba cao hơn Đường Thọ cả một cái đầu, vậy mà y bảo nhấc gã lên là nhấc bổng lên luôn, nhẹ như không vậy.

“Vấn đề cuối cùng!” Đúng lúc Đường Thọ vừa nhấc Trác Mộc Cường Ba lên, pháp sư Á La liền mở miệng. Từ khoảng khắc khi Trác Mộc Cường Ba xông về phía Đường Thọ, pháp sư và Lữ Cánh Nam đã kinh ngạc nhận ra, Đường Thọ ra tay rõ ràng còn nhanh hơn lúc y tấn công pháp sư Á La nữa. Mà y mới chỉ dùng tay trái, rốt cuộc tốc độ cực hạn của y có thể nhanh đến chừng nào? Lúc này, bọn họ đều đã đứng trên bậc thang xoáy ốc men theo bức tường, nhưng vẫn còn cách mặt đất khoảng hai ba chục mét, nếu Đường Thọ thực sự ném Trác Mộc Cường Ba xuống dưới, chắc chắn gã không chết cũng trọng thương. Vì vậy, trong khoảng khắc ngắn ngủi chỉ bằng một tia chớp lóe lên ấy, pháp sư Á La đã thốt lên một câu nói như thế, ông đã nắm được phần nào tính cánh của tên Đường Thọ này, y thuộc loại người lúc nào cũng mang tâm thái mình là kẻ cao cao tại thượng, ngạo nghễ nhìn xuống tất thảy mọi thứ trên đời. Y cho rằng mình đã giành được thắng lợi cuối cùng, nên lúc này y đang nôn nóng giải thích cho tất cả mọi người ở đây biết toàn bộ quá trình diễn ra như thế nào, nhằm thể hiện với người khác trí tuệ cũng như sức mạnh không thể kháng cự của mình. Với thân phận của pháp sư, nếu ông biểu thị vẫn còn việc mình chưa thể hiểu nổi, nhất định sẽ thỏa mãn được lòng ưa hư vinh của y.

Quả nhiên, pháp sư Á La vừa cất tiếng, cánh tay đang tóm Trác Mộc Cường Ba nhấc lên cao của Đường Thọ liền dừng lại, kế đó, y đặt Trác Mộc Cường Ba xuống mé bên kia cầu thang, bàn tay đặt lên ngực gã, nắm tay xòe rộng, đẩy một cái. Trác Mộc Cường Ba loạng choạng, lùi lại mấy bước mới đứng vững.

Không biết vì nguyên nhân gì, có lẽ Đường Thọ tạm thời không muốn giết Cường Ba thiếu gia lúc này, nhìn thấy cảnh tượng đó, tảng đá đè nặng trong lòng pháp sư Á La cững rơi xuống. Ông thở ra nhè nhẹ, hỏi: "Ta muốn biết tại sao? Ngươi tốn bao nhiêu công sức bố trí ra một kế hoạch lớn như vậy, rốt cuộc muốn có được thứ gì? Ta, chúng ta, mỗi một người đến nơi này đều có mục đích riêng. Ta và Lữ Cánh Nam là vì Thánh điển của Thánh giáo, Cường Ba thiếu gia vì tìm kiếm Tử kỳ lân, Merkin muốn tìm thấy nơi gia tộc y canh giữ, cỏn những thế lực khác đều bị báu vật trong Bạc Ba La thần miếu thu hút. Nhưng vừa nãy ta quan sát ngươi, thấy ngươi không giống bất cứ người nào ở đây. Nói thực lòng, khi lần đầu tiên nhìn thấy những món châu báu tuyệt thế này, ngay cả ta và Cánh Nam cũng không khỏi thoáng động lòng, nhưng ngươi từ đầu chí cuối, thậm chí còn không thèm để mắt đến chúng lấy một lần. mà để bố trí được cục diện này, ngươi cũng đã bỏ ra không ít, vừa nãy chính ngươi cũng nói rồi, để làm hai món đồ ngụy tác, ngươi có thể tùy tiện bỏ ra mấy chục triệu, có thể khẳng định, ngươi không đến đây vì vàng bạc châu báu. Ta nghĩ, ngươi cũng không phải đến vì Thánh điển của giáo phái chúng ta, vậy... ngươi... rốt cuộc có mục đích gì?”

Lúc này, Đường Thọ vẫn mặt đối mặt với Trác Mộc Cường Ba. Y dịu giọng nhẹ nhàng khuyên giải Trác Mộc Cường Ba: “Đừng xung động, chúng ta làm việc bao giờ cũng phải nghĩ ngợi cho kỹ, phải có phong độ, phải đường hoàng quân tử, chớ nên động một chút là dùng bạo lực bừa bãi, Cường Ba thiếu gia, ta khuyên ngươi nên bình tĩnh, những kẻ xung động xưa nay đều phải chết trước, vả lại còn liên lụy đến đồng bạn của hắn nữa kìa.”

Trác Mộc Cường Ba đã bình tĩnh lại, từ giây phút bị Đường Thọ một tay nhấc bổng lên quá đầu, gã đã bắt đầu bình tĩnh lại. Bởi gã đột nhiên nhận ra, khi mình đối mặt với Đường Thọ, cảm giác cũng hệt như khi đối mặt với Lữ Cánh Nam lần đầu tiên lúc vừa gia nhập trại huấn luyện vậy, đó là một thứ cảm giác bất lực, mỗi động tác của gã, mỗi suy nghĩ của gã, dường như đều bị đối phương biết trước cả rồi.

Thấy Trác Mộc Cường Ba không có dấu hiệu cuồng nộ tiếp tục tấn công, Đường Thọ mới quay sang phía pháp sư Á La gật nhẹ đầu, lớn tiếng nói: “Hỏi hay lắm!”

Hành động tấn công của Trác Mộc Cường Ba khiến cả đội ngũ phải dừng lại, lúc này gã đã bị Đường Thọ đi trước đích thân áp giải, đoàn người lại tiếp tục đi xuống các bậc thang. Tranh thủ lúc pháp sư Á La hỏi Đường Thọ, Lữ Cánh Nam khẽ nhúc nhích bàn tau đặt sau lưng, từ chỗ eo hông ló ra ba ngón tay, đồng thời liếc mắt nhìn sang phía Merkin một cái, dùng ngón tay thể hiện loại mật mã mà chỉ có lính đặc chủng mới hiểu được: "Lúc này, chúng ta cần bắt tay chống lại kẻ địch chung."

Merkin thấy bọn lính đánh thuê không chú ý đếi y và Lữ Cánh Nam, mới đáp lại: "Hắn rất mạnh, chúng ta không phải là đối thủ." Đồng thời, khóe mắt y lại liếc về phía Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La, ngầm ám thị: "Nếu không có bọn lính đánh thuê này, bốn chúng ta liên thủ, may ra có thể liều với hắn một phen."

Lữ Cánh Nam nhíu mày, chìa ra ba ngón tay, ý bảo. "Chỉ có ba người, pháp sư Á La đã bị thương nặng."

Sắc mặt Merkin trở nên khó coi, y ngoảnh đầu thầm nhủ: "Người mạnh nhất đã bị thương nặng, vậy thì hết trò rồi. Tên Đường Thọ này đâu có cùng một bậc vớichúng ta."

Lữ Cánh Nam cũng đang nghĩ: "Hắn vừa ra tay liền làm pháp sư Á La trọng thương, chắc chắn từ đã cps tính toán từ trước, mưu kế của tên Đường Thọ này quả thực rất đáng sợ."

Đường Thọ đi trước nói: “Những thứ vàng bạc, châu báu, ngọc ngà ấy, giá trị của chúng, thực ra là do nhân loại các ngươi ban cho mà thôi..."

Pháp sư Á La nhíu mày không nói gì, tên Đường Thọ này, lại nói với cái giọng đó, mở mồm ra là: “Nhân loại các ngươi, nhân loại các ngươi... “, nói như thể hắn không phải 1à con người vậy.

Đường Thọ không biết tâm tư của pháp sư Á La, 1ại tiếp tục dương dương tự đắc nói: “Rốt cuộc giá trị của chúng như thế nào chứ? Giả sử trên thế giới này không có người, giá trị của mấy cục đá vụn ấy trong mắt một con mèo, một con lợn rừng thậm chí còn không bằng một con chuột đồng hay một củ khoai tây. Tại sao phải để mắt đến chúng? Lại còn phải tỏ ra hân hoan sung sướng nữa chứ? Ngay cả trong gỉá trị quan của con người các ngươi, khi tiền tài tích lũy đến một mức độ nhất định, cũng sẽ biến thành một đống chữ số chẳng có ý nghãi gì cả, không phải vậy sao? Vả lại, lựa chọn giá trị của vật phẩm thực chất hay hư ảo, luôn luôn chỉ là tương đối, nếu nói bảo thạch có màu sắc đẹp mê hồn người, thủy tinh cũng thế, ta thậm chí có thể dùng thủy tinh tạo ra những màu sắc rực rỡ lung linh hơn nữa, vậy tại sao thủy tinh lại rẻ như thế? Vì nó nhiều. Thế nên, phán đoán giá trị vật chất của con người, nhân tố quyết định đầu tiên chính là số lượng, kế đó mới là sự kích thích nó mang lại cho các giác quan. Còn về chuyện lấy vật đổi vật và nguyên lý đồng giá, là chuyện sau khi con người có được thể chế văn minh rồi. Giá trị quan của ta, chính là hình thái nguyên thủy nhất của sinh vật. Thứ này, có thể nhét đầy bụng hay không, có thể khiến ta ngủ ngon giấc hay không, có thể làm vũ khí, săn bắt mồi được hay không... những thứ ấy, mới có giá trị. Ừm, ta nói xa quá rồi...”

Đường Thọ nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, đột nhiên hỏi: “Các có biết, trên thế giới này có một loại bệnh dịch, tỷ lệ tử vong là một trăm phần trăm, đáng sợ hơn nữa là, nó không thể dự phòng, càng không có vác xin gì cả, đến nỗi khi nhắc đến loại bệnh dịch này, người người đều phải biến sắc không?”

Nói tới đây, y nheo nheo mắt ngoái đầu lại, ánh mắt lướt qua tất cả mọi người, quan sát bộ dạng trầm ngâm suy nghĩ của họ. Trác Mộc Cường Ba, Lữ Cánh Nam mấy người đều không hiểu Đường Thọ tự dưng hỏi câu này là có ý gì, cả Merkin và Đường Mẫn cũng ngây người ra, không biết Đường Thọ rốt cuộc định nói gì.

Đường Thọ dường như đọc được suy nghĩ của mỗi người bọn họ, lần lượt phủ định: “Không phải bệnh AIDS, bệnh AIDS có thể dùng liệu pháp cocktail(46) để kéo dài sinh mạng; không phải bệnh chó dại, bệnh chó dại trong một khoảng thời gian nhất định vẫn có thể trị liệu, vả lại vắc xin bệnh này đã rất hoàn thiện rồi; bệnh dịch hạch cũng thế, Cái Chết Đen từng uy hiếp cả châu Âu giờ đây đã không thể gây sóng gió được nữa; cũng không phải bệnh ung thư, bệnh ung thư có quá nhiều loại, vả lại tỷ lệ sống sót của người bệnh cũng phụ thuộc vào chủng loại ung thu khác nhau. Để ta gợi ý cho các ngươi một chút vậy, thứ bệnh này bắt nguồn từ châu Âu, nổi danh là nước Anh, la do con người tạo ra.”

Thấy Merkin thoáng biến sắc mặt. Đường Thọ lập tức chỉ vào y, gật đầu nói: "Đúng rồi, chính là thứ mà ngươi vừa nghĩ đến đấy, bệnh bò điên. Nghiên cứu y học hiện nay đã chứng thực, đó là một loại bệnh gây ra bởi prion(47). Prion thực ra không phải là virus gây bệnh, nó còn nhỏ hơn cả virus, đơn giản hơn, khó đề phòng và phát hiện hơn, nguyên lý hoạt động của nó lại càng phức tạp và khó lý giải hơn gấp bội. Các học giả nước ngoài phân nó vào 1oại hình á virus, còn học giả trong nước thì cho rằng gọi là virus cũng không chuẩn xác, nên gọi là hạt protein mang tính truyền nhiễm mới đúng. Kích thước của prion chỉ khoảng từ ba mươi đến năm mươi nanomet. không có axit nucleic, không có màng tế bào, thậm chí dùng kính hiển vi điện tử cũng không thể nhìn rõ kết cấu của nó. Nhưng nó có thể khiến protein biến đổi về chất, lại mang tính truyền nhiễm và di truyền. Cùng với việc đi sâu nghiên cứu, người ta phát hiện ra, loại vi sinh vật còn nhỏ hơn cả virus này có sức đề kháng kinh người đối với các nhân tố vật lý và hóa học, đồng thời cũng có sức chịu đựng rất cao đối với tia tử ngoại chiếu xạ, sóng siêu âm, bức xạ điện ly hay nhiệt độ trên một trăm độ C. Ngoài ra, nó cũng gần như vô hình trước các loại thuốc thử hóa học hay thuốc thử sinh hóa hiện nay. Còn về mặt miễn dịch học, tuy rằng đại thực bào(48) cũng có tác dụng phòng ngừa nhất định, nhưng trong prion lại không thể phát hiện được sự tồn tại của kháng thể dị tính, nó sẽ không kích hoạt các Interferon(49), và cũng không bị ảnh hưởng bởi chúng. Điểm mấu chốt nhất là, vị trí mà chúng ảnh hưởng trên cơ thể sinh vật tương đối đặc thù, nó chủ yếu xâm chiếm, chỗ này!”

Đường Thọ co ngón tay lại thành hình khẩu súng lục, đầu ngón tay chỉ vào huyệt thái dương của mình, sau đó nói: “Nó ảnh hưởng đến não bộ và hệ thống thần kinh, sinh vật nào mắc phải loại bệnh này trước tiên sẽ biểu hiện qua trạng thái thần kinh, sợ hãi, dễ nổi giận, căng thẳng, điên loạn... Kế đó bắt đầu xuất hiện những động tác dị thường, mất thăng bằng, ăn uống bài tiết thất thường, cơ bắp run rẩy, cuối cùng là suy giảm chức năng của các giác quan, vị giác, khứu giắc, rồi thị giác, thính giác, xúc giác đều biến mất. Khi phát bênh, con bò vốn ngoan ngoãn hiền lành sẽ trở nên điên loạn, tấn công bừa bãi, nên mới gọi là bệnh bò điên. Danh pháp y học của nóm gọi là bệnh viêm não thể bọt biển ở bò. Đáng sợ nhất là, trước khi phát bệnh, còn có một thời kỳ ủ bệnh, vói trình độ khoa học kỹ thuật và y học hiện nay, gần như không thể phát hiện ra prion gây bệnh trong thời kỳ ủ bệnh này. Mà một khi đã xuất hiện triệu chứng của bệnh, đa số sinh vật sẽ tử vong trong vòng ba tháng, không thể chữa trị."

Sắc mặt mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đều sầm xuống, mặc dù họ vẫn chưa hiểu rốt cuộc Đường Thọ muốn nói điều gì, nhưng thứ mà y học và khoa học kỹ thuật hiện đại không thể phát hiện ra, ngoài prion gây bệnh kia ra, cổ độc không phải cũng vậy ư? Liệu hai thứ này có gì liên quan hay không?

Đường Thọ lại đổi chủ đè câu chuyện, hỏi: “Các ngươi có biết, bệnh bỏ điên bắt nguồn từ đâu hay không? Vào thế kỷ trước, kinh tế đang trong giai đoạn hồi phục, các chủ nông trường châu Âu vì muốn được lợi nhiều nhất, đã đem xương và nội tạng của những con bò bị giết lấy thịt nghiền thành bột, rồi dùng để làm thức ăn cho những con khác trong đàn. Đột nhiên người ta phát hiện, ở những con bò ấy xuất hiện các triệu chứng kỳ quái, đồng thời bắt đầu lây lan trên diện rộng, đây chính là căn nguyên của bệnh bò điên mấy năm trước. Thực ra, trước khi có bệnh bò điên, còn có bệnh dê điên, bệnh ngựa điên, bệnh hươu điên, chỉ là người ta không thể phát hiện ra cơ chế phát bệnh mà thôi. Đối với cơ chế phát bệnh cửa bệnh bò điên nảy, cũng có rất nhiều suy đoán và cách giải thích khác nhau. Có người nói, con người cưỡng chế thay đổi tập tính của động vật ăn cỏ, cuối cùng dẫn đến protein trong tế bào của loài động vật này bị biến dị, hình thành bệnh dịch truyền nhiễm; cũng có người nói, trong tủy và não bộ, có chứa vật chất gây thay đổi trật tự mã gene; ngoài ra, còn rất nhiều giả thuyết kỳ quái khác nữa. Nhưng nói thế nào, về cơ bản mọi người vẫn công nhận rắng, lũ bò phát bệnh là do ăn nội tạng và xương cốt của đồng loại. Nếu như, chủ thể của bệnh bò điên này đổi lại thành con người, người cảm thấy sẽ như thế nào?”

"Con người?" Lữ Cánh Nam thấy sống lưng lạnh toát, lẩm bẩm nói: “Ý ngươi là... người ăn thịt... người... “

Đường Thọ nói với giọng hơi bất mãn: “Đừng làm ra vẻ kinh hoàng như vậy chứ, ăn thịt người cũng đâu phải chuyện gì đáng sợ. Từ mấy vạn năm trước, khi tổ tiên loài người vẫn chưa đứng trên đỉnh của chuỗi sinh vật, con người thường xuyên trở thành thức ăn của các loài động vật ăn thịt khác. Khi thức ăn trở nên thiếu thốn, lại không thể săn bắt được các loại động vật khổng lồ, thứ bọn họ ăn nhiều nhất, chính là đồng loại của mình. Về sau, xã hội loài người trở nên văn minh hơn, nhưng trong những năm đói kém nhất, hoặc khi bị vây khốn bởi ngọn lửa chiến tranh, người ăn thịt người cũng là chuyện thường thấy. Vả lại, trong Trung y có một vị thuốc gọi là Tử hà xa(21), chẳng phải đến bây giờ người ta vẫn ăn đều đều đấy sao?” Nói tới đây, y đột nhiên bật cười: "Có điều, trong quá trình truyền thừa và phát triển cửa loài người, cũng xuát hiện vài nhánh rẽ, phát triển ra một số dân tộc đặc biệt. Trên thế giới, đến giờ vẫn còn một số chủng tộc coi việc ăn thịt người như một tập tục, hình thành nên một văn hóa ăn thịt người độc đáo. Những dân tộc này, có một danh xưng thống nhất, được gọi là... những kẻ ăn thịt người'"

Đường Thọ lạnh lùng nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba đang thẫn thờ kinh ngạc, dí dỏm nói: “Kinh ngạc lắm sao? Bộ tộc Qua Ba mà các người trước nay vẫn nghiên cứu và kiếm tìm, chính là một bộ tộc ăn thịt người. Có điều, không giống với các bộ tộc ăn thịt người ở châu Mỹ, châu Phi, châu Đại Dương, họ không phải loại bắt được người liền giết mổ ăn thịt, ngược lại, họ chỉ ăn một loại ngươi, chính là thân nhân của mình. Sau khi người Qua Ba chết già hoặc chết bệnh, con cái họ sẽ chia thi thể ra ăn hết, ăn càng sạch sẽ thì càng tỏ được lòng hiếu thuận với cha mẹ. Giống như một nghi thức mai táng long trọng bây giờ, bọn họ cũng phải cử hành một nghi thức, đây chính là tập tục mai táng được tranh cái nhiều nhất trong truyền thuyết... vị táng. Trong tín ngưỡng của người Qua Ba, linh hồn và nhục thể của con người gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời, khi người thân qua đời, nhục thể sẽ từ từ thối rữa, một phần linh hồn của người chết bám trên nhục thể thối rữa ấy cũng sẽ bị cầm cố và giày vò, vì vậy, bọn họ liền xẻ thịt người thân ra ăn vào trong bụng. Như thế, linh hồn của người thân sẽ vính viễn ở bên linh hồn của họ, mà trên cơ thể những người thân đã qua đời ấy, lại cũng có linh hồn của tổ tiên họ. Vì lẽ đó, trên thân thể mỗi người trong bộ tộc Qua Ba đều có linh hồn của toàn bộ tổ tiên họ. Họ mang theo linh hồn của tổ tiên đi khắp thế gian, dù làm việc gì cũng đều có tổ tiên coi sóc, chúc phúc. Còn một phần linh hồn của người chết ở trên xương cốt, vì vậy họ đem xương cốt của người thân làm các dụng cụ, như bát, hộp đựng thức ăn, đồ trang sức đeo bên người, hoặc cácloại nhạc khí... Như vậy. linh hồn của tổ tiên luôn luôn ở bên cạnh họ. Còn chuyện tập tục này sinh ra từ đâu, truyền thừa xuống như thế nào thì không ai biết được nữa...”

Trong đầu Trác Mộc Cường Ba chợt lóe lên một ý nghĩ, gã lập tức nói: “Sống chung với sói! Đây là tập tính của loài sói! Có lẽ tập tục này bắt nguồn từ lũ sói, còn về tín ngưỡng tinh thần kia... người Kukuer!” Gã nhớ đến bộ tộc Kukuer trong rừng rậm Nam Mỹ, nhớ đến những bộ lạc ăn thịt người ở đó, họ cũng có tín niệm tương tự như vậy, lẽ nào là sự trùng hợp? Hay chính vị sứ giả đến Cổ Cánh kia mang tín ngưỡng và quan niệm này đến châu Mỹ? Điều này phải chăng có liên hệ nào đó với sự suy tàn của nền văn minh Maya?

Đường Thọ vỗ vỗ tay nói: "Được rồi, lại nói lan man đi xa quá, thực ra điều ta muốn nói la, trước khi bệnh bò điên nổi tiếng toàn thế giới, loại bệnh này được phát hiện sớm nhất là ở một bộ lạc ăn thịt người trên một quẩn đảo ở châu Đại Dương. Bộ lạc này cũng có tập tục tương tự tập tục vị táng của người Qua Ba, nội tạng và thịt củn người chết đều bị họ hàng thân thích chia nhau ăn sạch. Trong bộ lạc ăn thịt người này, đôi lúc xuất hiện những người có bệnh trạng tương tự như bệnh bò điên, tinh thần căng thẳng cực độ, dễ nổi giận, cứ ham muốn tấn công rất mạnh, cơ bắp co giật, run rẩy, hành vi và ngôn ngữ dần trở nên thất thường, kế đó là đi lại không vững, phát âm kỳ dù ăn bao nhiêu cũng vẫn luôn cảm thấy đói khát, thân thể ngày một gầy guộc, dần dần không còn cám giác, cuối cùng thì tử vong. Khi có người mắc phảỉ bệnh này, những thổ dân ấy cho rằng kẻ đó đã bị thần Kuru bám vào, đồng thời họ cũng biết, một khi thần Kuru xuất hiện, thần sẽ hút đi linh hồn của kẻ xấu số, con người không thể nào kháng cự nổi. Về sau, loại bệnh này được liệt vào danh sách các bệnh con người có thể mắc phải, và được đặt tên theo cách phát âm của người địa phương, gọi là bệnh Kuru."

Pháp sư Á La điềm tĩnh cất tiếng: “Ý của ngươi là,, người Qua Ba cũng mắc bệnh Kuru?”

“Ừm, không phải,” ĐườngThọ nói: “Bệnh Kuru thực ra không đáng sợ, tuy không thuốc nào chữa được nhưng tính truyền nhiễm của nó rất thấp, ngay cả trong bộ tộc ăn thịt người, số người mắc bệnh này cũng chiếm số lượng rất nhỏ. Vả lại, chỉ cần không ăn thịt người mắc bệnh, không truyền máu hoặc cấy ghép cơ quan thì gần như không bị truyền nhiễm. Vả lại, ta cũng không có chứng cứ nào chứng minh rằng trong bộ tộc Qua Ba nhất định có người mắc bệnh Kuru. Ta chỉ nói rằng, bọn họ và bộ tộc ăn thịt người mắc phải bệnh Kuru kia có tập tục gần giống nhau, vì vậy có khả năng sẽ có người mắc chứng bệnh tương tự như vậy, chỉ thế mà thôi.”

Bọn Trác Mộc Cường Ba lấy làm nghi hoặc, nếu đã không thể khẳng định người Qua Ba có mắc bệnh Kuru hay không, vậy ngươi nói ra làm cái quái gì? Chợt nghe Đường Thọ đổi giọng, nói: “Nhưng các ngươi đừng quên rằng, người Qua Ba còn một thân phận khác, bọn họ chính là... đạo quân Ánh sáng!”

Gương mặt Đường Thọ lộ vẻ khao khát: “Chắc hản các ngươi đã tìm hiểu được phần nào về Đạo quân Ánh sáng rồi. Bọn họ chính là một dạng bộ đội đặc chủng trong quân đội thời xưa. Thực ra, gọi như vậy cũng không hoàn toàn chính xác. Đọa quân Ánh sáng là một đơn vị lớn, có lẽ gần tương đương với cơ quan chuyên nghiên cứu phát triển trong quân đội ngày nay hơn. Một loạt các kỹ thuật như cổ độc, kỹ thuật điều khiển và khống chế thú vật, thuật cơ quan, thuật sử dụng hóa dược và việc nghiên cứu chế tạo vũ khí nóng, thuật dự báo, điều khiển thời tiết, phẫu thuật ngoại khoa, thuật chiến đấu cận thân... đều là để phục vụ cho chiến tranh. Mục đích tồn tại của họ chính là để phục vụ mục tiêu thống nhất thiên hạ của quân vương. Năm đó, họ nắm trong tay tư liệu sản xuất cũng như các lý luận học thuật tiên tiến nhất thế giới thời bấy giờ, thậm chí một số kỹ thuật cổ xưa đã thất truyền cũng được Đạo quân Ánh sáng tìm lại nghiên cứu một cách thấu triệt. Trình độ khoa học kỹ thuật và các thủ đoạn phục vụ chiến tranh của họ đã vượt lên trên thời đại đó, nhiều lúc ta thử nghĩ...” Đường Thọ đột nhiên nở một nụ cười thần bí, nói: “Nếu như, chỉ là nếu như thôi, năm đó trong bộ tộc Qua Ba, vừa khéo cũng có người mắc phải bệnh Kuru. Vậy thì, Đạo quân Ánh sáng đầy tinh thần nghiên cứu kia, sẽ có thái độ như thế nào với căn bệnh này nhỉ?”

Bọn Trác Mộc Cường Ba thảy đều biến sắc, nói theo cách của Đường Thọ, Đạo quân Ánh sáng được lập nên vì mục đích thống nhất thiên hạ của quân vương. Vậy thì, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, điều đầu tiên bọn họ nghĩ đến sẽ là làm sao để lợi dụng được căn bệnh không thuốc nào chữa nổi này trong chiến trang. Lúc này, họ đã đi được hai phần ba cầu thang hình xoáy ốc, Đường Thọ nhìn xuống dưới, mỉm cười nói: “Để ta kể cho ngươi nghe một câu chuyện, nghe xong câu chuyện này, các ngươi sẽ hiểu được tất cả.”

Chú thích

(45) Vị táng: Một hình thức chôn người chết, tương tự hỏa táng, thủy táng... Trong trường hợp này, vị táng là chôn trong dạ dày (ăn thịt).

(46) Liệu pháp cocktail: Tên chính thức của liệu pháp này là HAART, viết tắt của Highly Active Anti-Retroviral Therapy (Liệu pháp kháng retrovirus cực mạnh). Đây là liệu pháp sử dụng kết hợp nhiều loại thuốc với nhau đã làm giảm mạnh số bệnh nhân chết vì AIDS ở các nước phương Tây. Các chuyên gia coi liệu pháp HAART là một trong số nhiều yếu tố làm tỷ lệ tử vong do AIDS ở Mỹ năm 1997 giảm 47%. Năm 1997, lần đầu tiên kể từ năm 1990, AIDS rời khỏi danh sách 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Mỹ, từ thứ 8 tụt xuống thứ 14. Đặc tính quan trọng nhất của HARRT là khả năng phá vỡ HIV tại những giai đoạn khác nhau trong quá trình sao chép của virus.

(47) Prion (viết tắt của proteinaceous infectious particie) là phân tử protein và không chứa một loại axit nucleic nào hoặc nếu có thì cũng quá ngắn để mã hóa bất kỳ một protein nào mà prion có. Trong cơ thể bình thường có thể có sẵn prion nhưng chúng không gây bệnh. Trong một điều kiện nào đó prion có thể thay đổi cấu trúc và gây bệnh. Prion gây nhiều bệnh nguy hiểm ở động vật và người, gây thoái hóa hệ thần kinh trung ương và giảm sút trí tuệ như bệnh bò điên, bệnh kuru ở người.

(48) Đại thực bào (tiếng Anh: “macrophage”) là những tế bào bạch cầu, phân nhóm thực bào, có vai trò quan trọng trong hệ miễn dịch không đặc hiệu cũng như hệ miễn dịch đặc hiệu ở động vật có xương sống. vai trò chính của chúng là loại bỏ các thành phần cặn bã của tế bào và tác nhân gây bệnh. Đại thực bào có thể lưu hành tự do trong máu hay cố định tại các tổ chức, tại đây chúng có tên gọi khác nhau. (Theo Wikipedia)

(49) Interferon là một nhóm các protein tự nhiên được sản xuất bởi các tế bào của hệ miễn dịch ở hầu hết các động vật nhằm chống lại các tác nhân ngoại lai như virus, vi khuẩn, kí sinh trùng và tế bào ung thư. Nó chỉ được tổng hợp khi có mặt các chất sinh interferon (còn gọi là interferonogen). Interferon thuộc một lớp lớn của glycoprotein được biết đến dưới cái tên cytokine (chất hoạt hoá tế bào). Interferon đóng vai trò quan trọng trong cửa ngõ miễn dịch, nó là hàng rào bảo vệ đầu tiên của cơ thể chống lại virus và sự phát triển bất thường của tế bào. Nó là một phần của hệ thống miễn dịch không đặc hiệu (non-specific immune system) và được kích hoạt bởi giai đoạn đầu của quá trình cảm nhiễm trước khi hệ miễn dịch đặc hiệu (specific immune system) có thời gian để phản ứng. Cần phân biệt interferon nội sinh được sinh ra trong cơ thể và interferon ngoại sinh do nuôi cấy tế bào ngoài cơ thể. (Theo Wikipedia)

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 80

CÂU CHUYỆN NGHÌN NĂM TRƯỚC

Chương 49

HẬU DUỆ VU VƯƠNG(50)

    

ói tới đây, Đường Thọ ngừng lại một chút như thể đang sắp xếp lại ý tứ trong đầu, rồi chầm chậm tiếp lời: "Từ rất lâu, rất lâu trước đây, có một bộ lạc nhỏ, bọn bọ sống chung với bầy sói, kế thừa sự hung hãn và đoàn kết của loài sói. Họ có tín ngưỡng của mình, họ sùng bái bốn vị Vu vương, họ cho rằng, toàn bộ người trên cao nguyên này đều là hậu duệ của bốn vị Vu vương đó. Bốn vị Vu vương, chính là thủy tổ của người cao nguyên. Vì vậy, hậu duệ trực hệ của bốn vị Vu vương ấy ở trong bộ lạc này luôn được hưởng đãi ngộ giống như Vu vương vậy. Vả lại, thủ lĩnh và lãnh tụ tinh thần của bộ lạc này cũng đều do bốn vị Vu vương luân lưu đảm nhận. Ban đầu, họ chỉ là một bộ lạc nhỏ ở vương triều Tượng Hùng, cũng không biết họ kiếm đâu ra bốn vị được gọi là hậu duệ trực hệ của Tứ đại Vu vương kia nữa, hoặc có thể đây chỉ là câu chuyện do bốn kẻ muốn làm thủ lĩnh bịa ra không chừng. Chuyện này dẫu sao cũng không còn quan trọng nữa. Tóm lại, có một bộ lạc như thế, thủ lĩnh của họ được gọi là Tứ đại Vu vương, các ngươi chỉ cần nhớ như vậy là đủ.”

“Vốn dĩ, nếu không có đại sự gì xảy ra, bộ lạc nhỏ này sẽ cùng với những người bạn sói của họ tiếp tục sống một cách bình lặng, đi săn bắn, trồng trọt, sinh con đẻ cái, hoặc giả đến một ngày nào đó, họ sẽ bị bộ lạc khác thôn tính, hay vì nhân khẩu mỗi ngày một ít đi mà tự biến mất khỏi thế gian. Thế nhưng, đúng vào lúc này, trên cao nguyên lại xuất hiện một người trẻ tuổi kiệt xuất, lập chí trong những năm tháng mình sống trên đời phải thống nhất toàn bộ cao nguyên về tay. kẻ địch lớn nhất của y chính là vương triều lớn mạnh nhất trên cao nguyên thuở bấy giờ, vương triều Tượng Hùng. Muốn đánh bại Tượng Hùng, y phải sở hữu một đội quân có thể đánh bại quân đội của Tượng Hùng. Khi ấy, một quý tộc phản loạn trốn chạy từ Tượng Hùng đã tiến cử bộ lạc nhỏ này với vị quân vương trẻ tuổi, nói với y rằng bọn họ sống chung với sói, thiên tính hung hãn, không sợ chết, lại không được vương triều Tượng Hùng coi trọng, nếu có thể khéo léo lợi dụng bộ lạc này một cách hiệu quả, ắt sẽ lập được một cánh quân mạnh mẽ nhất.”

“Nhất định các ngươi sẽ thấy rất kỳ quái, tại sao lại không phát hiện sự tồn tại của một đạo quân mạnh mẽ như vậy trong bất cứ ghi chép lịch sử nào? Có rất nhiều nguyên nhân, thứ nhất, đạo quân này được thành lập dựa trên kiến nghị của hai dòng họ quý tộc đã phản bội vương triều Tượng Hùng là Nương thị và Vi thị, sau này việc xây dựng đội ngũ, huấn luyện, thống lĩnh cũng do hau gia tộc này chia nhau đảm nhận. Vị quân vương của cao nguyên kia hiểu rất rõ, Nương thị và Vi thị trung thành với mình, khi mình còn sống, bọn họ tuyệt đối không dám có những hành vi bội phản, nhưng vạn nhất đến một ngày, mình không còn nữa thì sao? Đạo quân Ánh sáng là một thanh kiếm sắc bén tột cùng, dùng để dối phó kẻ địch thời đánh đâu thắng đó, nhưng nếu kẻ nào có dụng tâm chĩa con dao đồ tể này về phía hậu duệ của mình, hậu quả thật khó bề tưởng tượng. Lúc đó, cao nguyên vừa được bình định, việc kiến lập vương triều mới phải dựa rất nhiều vào hai thế lực lớn Nương thị và Vi thị, muốn xóa sổ hai gia tộc lớn này ngay thời điểm đó, dù là thời gian hay quân bị đều không cho phép. Vì vậy, khi thành lập Đạo quân Ánh sáng, vị quân vương trí tuệ siêu quần ấy đã đưa ra một quyết định cực kỳ sáng suốt: người ra lệnh là quân vương, thống lĩnh quân đội do người của hai nhà Nương thị và Vi thị thay nhau đảm nhận, tín ngưỡng và lãnh tụ tinh thần của bộ tộc Qua ba đều bảo lưu lại. Như thế, quân quyền, vương quyền và thần quyền hình thành cơ chế tam quyền phân lập, ước thúc lẫn nhau, đạt được một trạng thái cân bằng nhất định. Có lẽ, tính toán của vị quân vương kia là, sau khi hoàn toàn bình định cao nguyên, nghỉ ngơi dưỡng sức dần, đợi vương triều lớn mạnh, mới bắt tay triệt để giải quyết vấn đề quy thuộc của Đạo quân Ánh sáng, nắm lấy thanh kiếm sắc bén nhất này về tay vương tộc. Đáng tiếc, trời cao không cho ông ta nhiều thời gian như thế, vì vậy cơ chế tam quyền phân lập độc đáo của Đạo quân Ánh sáng vẫn được bảo tồn mãi. Đồng thời, hai gia tộc Nương thị và Vi thị cũng dần dần sinh sôi nảy nở, liên hôn với vương thất Thổ Phồn, cuối cùng bén rẽ gắn chặt với cây đại thụ lớn nhất của vương triều Thổ Phồn, đến mức không thể tách rời. hai đại gia tộc này vẫn luôn là hai gia tộc lớn mạnh nhất vương triều Thổ Phồn, cho đến khi vương triều này bị diệt vong.”

“Chính vì cơ chế tam quyền phân lập này, dưới dụng tâm và tính toán của các bên khác nhau, Đọa quân Ánh sáng dần dần thoát ly khỏi chiến tranh chính quy, chuyển hướng thành một đội quân chuyên thực hiện nhiệm vụ ám sát. Hai đại gia tộc họ Nương và họ Vi đã nhiều lần dùng Đạo quân Ánh sáng như một con dao găm sắc bén để tiêu trừ vây cánh của các thế lực đối địch trên chính trường, thậm chí còn chĩa mũi dao vào nhau. Trong cuộc đấu tranh giữa Phật giáo và Bản giáo ở Thổ Phồn, việc thuyết giảng đạo lý là của các vị đại đức cao tăng Phật giáo và Bản giáo, còn ra tay lại là chức trách của Đạo quân Ánh sáng. Sau này, vô số cuộc khởi nghĩa của nông nô cũng do hai bàn tay nhuốm đầymáu tanh của Đạo quân Ánh sáng đi giải quyết. Lúc này, lãnh tụ tinh thần của Đạo quân Ánh sáng, Tứ đại Vu vương bắt đầu nghĩ lại về ý nghĩa tồn tại của cánh quân này? Lẽ nào Đạo quân Ánh sáng tồn tại để hủy diệt tất cả? Sinh ra vì chiến tranh, tồn tại vì chiến tranh, điều này thực ra lại mẫu thuẫn với tín ngưỡng nguyên bản của họ. Bọn họ theo đuổi đạo tự nhiên, sống chung vơi sói là vì họ coi sói như bạn, họ cho rằng, sói và người nên có địa vị ngang hàng, cả hai loài đều là những thợ săn ưu tú nhất, đều là những đoàn thể xã hội đoàn kết và hài hòa nhất. Mặt khác, quân vương và các thống lĩnh quân đội lại yêu cầu Đạo quân Ánh sáng phải không ngừng mạnh lên, những kỹ thuật tiên tiến nhất, những cổ thuật đã thất truyền của các nước đều tập trung về chỗ Đọa quân Ánh sáng, các phương pháp huấn luyện vô nhân đạo nhất đều được áp dụng lên bọn họ, thậm chí trẻ sơ sinh vừa ra đời cũng phải tiến hành những khảo nghiệm nghiêm khắc về thể chất, vừa mới học đứng đã phải ở giữa trời đất băng giá tiếp nhận khiêu chiến cực hạn sức chịu đựng của con người. Chẳng những vậy, họ còn được yêu cầu chế tạo ta các loại thuốc khác nhau, có thể biến cơ thể người trở nên mạnh mẽ hơn,cũng có thể khiến người ta biến thành kẻ điên cuồng. Do yêu cầu của các đời quân vương, Đạo quân Ánh sáng không ngừng nghiên cứu một loại vũ khí siêu mạnh, loại vũ khí này chỉ cần một người điều khiển, một khi ra tay liền gay ra cái chết của hàng nghìn hàng vạn người, thậm chí nhiều hơn nữa, tốt nhất là chỉ có ảnh hưởng đến cơ thể người, còn kiến trúc và vũ khí đều có thể giữ lại hoàn hảo. Đạo quân Ánh sáng từng nghiên cứu ra vũ khí nóng có thể gây sát thương trên diện rộng, nhưng vẫn không đạt yêu cầu của quân vương, bọn họ liền chuyển hướng sang những sinh vật nhỏ mà mắt thường không thể nhìn thấy, đó chính là: cổ độc.”

“Không ai biết được rốt cuộc họ đã tiến hành nghiên cứu như thế nào, nhưng ta có thể khẳng định một điểm, cuối cùng họ đã thành công. Dựa theo miêu tả trong thư tịch cổ, đó là một thứ vật chất dạng bột phấn, có thể lan truyền qua không khí, dòng nước, thức ăn... Nước sôi, cường toan, chất kiềm mạnh đều không thể hủy diệt, cũng không có bất cứ phương pháp nào có thể trị liệu chứng bệnh do nó gây ra. Đặc biệt nhất là, nó là vật sống, khi xuất hiện một loại vật chất nào đó có thể gây hại với nó, nó sẽ tự thay đổi và điều chỉnh bộ máy phòng ngự, nếu sử dụng laoij vật chất kia với nó lần thứ hai, sẽ hoàn toàn vô hiệu. Chẳng những vậy, nhờ nỗ lực không ngừng nghỉ của Đạo quân Ánh sáng, loại vật chất này đã được chứng thực chỉ có hiệu quả với cơ thể người, hoàn toàn không gây hại với bất kỳ giống loài nào khác. Nhưng các loài động vật có vú sẽ trở thành kẻ mang mầm bệnh, có thể tiến hành lây lan truyền nhiễm trên diện rộng. Khi loại vật chất này xâm nhập vào cơ thể người, chúng sẽ lập tức biến cơ thể ấy thành môi trường để sinh sôi nảy nở. Sau vô số lần thực nghiệm và điều chỉnh, Đạo quân Ánh sáng đã khiến loại vật chất ấy trước tiên xâm nhập vào phổi và đường hô hấp của con người, như bậy, khi người nhiễm bệnh nói chuyện hay hít thở, đều có thể lây lan chúng sang cơ thể khác. Đồng thời, bài tiết, giao hợp, truyền máu... đều là những con đường lây nhiễm của loại vật chất này; sau khi xâm nhập, chúng sẽ tiến vào hệ thống thần kinh và sinh sôi nảy nở trong tế bào thần kinh, khiến các cảm quan của người mắc bệnh dần biến mất, cuối cùng xâm nhập đại não, khiến người đó trở nên điên loạn và chết trong đau đớn. Chẳng những vậy, dù kẻ mắc bệnh không chết ngay, thì đại não cũng bị tổn thương nghiêm trọng, biến kẻ đó thành một sinh vật hình người không còn chút trí tuệ nào. Tuy rằng, trong cơ thể loại sinh vật hình người này, vật chất kia đã mất đi đặc tính truyền nhiễm qua đường hô hấp và các con đường khác, nhưng nó vẫn có thể thông qua di truyền, khiến đời sau, đời sau nữa, thậm chí là sau sau nữa của người mắc bệnh cũng bị khiếm khuyết về trí lực.”

“Có điều, thành công này đã khiến họ phải trả một cái giá cực kỳ nặng nề. Vào thời điểm Đạo quân Ánh sáng thí nghiệm thành công, bọn họ cũng phát hiện ra khuyết điểm của loại vật chất này. Nó không phân biệt địch hay ta, cũng không thể đề phòng, chỉ cần là người là sẽ bị nó ảnh hưởng. Vì vậy, khi người đầu tiên nghiên cứu loại vật chất này xuất hiện triệu chứng căng thẳng thần kinh, dễ nổi giận, bắt đầu tấn công người khác... thảm kịch liền xảy ra. Một phần tư Đạo quân Ánh sáng đã bị xóa sổ trên thế gian này chỉ trong chớp mắt. Các ngươi phải biết rằng, với tư cách là một cá thể chiến đãu, mỗi một người trong Đạo quân Ánh sáng đều cực kỳ mạnh mẽ, ngay cả những người làm công tác nghiên cứu cũng không ngoại lệ."

“À, phải rồi,” Đường Thọ dường như đột nhiên nhớ ra điều gì đó, giọng nói cũng phảng phất chút hoài niệm: “Không phải các ngươi từng đến Đảo Huyền Không tự đó sao? Ta thì không dám đến chỗ đó, vì theo ghi chép trong thư tịch cổ, đó là nơi Đạo quân Ánh sáng tiến hành huấn luyện và nghiên cứu. Khi tin tức có người xuất hiện triệu chứng của căn bệnh truyền đến tai Tứ đại Vu vương, bọn họ liền quyết đoán hạ lệnh cách ly toàn bộ Đảo Huyền Không tự khỏi thế gian. Nghĩ lại, cảnh tượng năm xưa chắc hẳn là thảm liệt lắm.”

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba sau cùng đã hiểu ra, tại sao lối vào Đảo Huyền Không tự lạỉ bị chôn lấp dưới mấy chục mét đất sâu, dây xích vắt qua khe sâu dưới lòng đất cũng bị chặt đứt. Những bộ xương khô chất đầy như núi sau cánh cửa, những vết máu vương vãi, tất cả đều lặng lẽ lẽ thuật lại một đoạn lịch sử bị lãng quên. Nghĩ tới đây, cả mấy người đều cảm thấy không rét mà run.

Đường Thọ lại tiếp tục nói; ''Sau khi rút kinh nghiệm xương máu, các Vu vương của bộ tộc Qua Ba bắt đầu nghĩ lại, rốt cuộc vận mệnh của bộ tộc họ sẽ như thế nào? Vả lại, họ cũng cho rằng, những thành viên chưa xuất hiện triệu chứng trong Đạo quân Ánh sáng cũng nhất định đã bị truyền nhiễm, việc xuất hiện chứng trạng chỉ là vấn đề sớm muộn mà thôi. Vì vậy, bọn họ đã quyết định cách ly toàn bộ Đạo quân Ánh sáng, chuyển dời đến một nơi hoàn toàn cách biệt với thế gian mà họ tìm ra. Nơi ấy, chính là... Shangri-la trong truyền thuyết. Đồng thời, Tạng vương đời cuối Lãng Đạt Ma khi ấy cũng đang mài dao mài kiếm, chuẩn bị triển khai một cuộc đại đồ sát với Phật giáo, các vị Vu vương nhìn xa trông rộng sớm đã dự liệu được hậu quả của hành động này. Đồng thời, bọn họ cũng hiểu rõ, không có chỗ dựa cuối cùng là Đạo quân Ánh sáng, vương triều Thổ Phồn rốt cuộc có thể kiên trì được bao lâu trong cuộc đại biến động và xung đột sắp sửa bùng lên này. Một khi loạn lạc nổi lên, toàn bộ trí tuệ và văn minh từng tồn tại trên cao nguyên này nói không chừng sẽ bị hủy diệt trong lửa chiến tranh, tan thành tro bụi như vương triều Tượng Hùng thuở xưa vậy. Vì thế, thân làm người bảo hộ cho Tứ Phương miếu, các Vu vương đã đưa ra một quyết định khác, khi Đạo quân Ánh sáng rời khỏi thế gian này, họ cũng mang theo toàn bộ báu vật và các điển tịch văn hóa trong Tứ Phương miếu. Đây, chính là nguyên nhân Bạc Ba La thần miếu xuất hiện."

“Tứ đại Vu vương không chỉ tượng trưng cho trí tuệ của bộ tộc Qua Ba, mà còn là những cá thể mạnh mẽ nhất trong Đạo quân Ánh sáng, và trong toàn bộ tộc. Bấy giờ, họ đã ước định rằng, vị Vu vương đang đảm nhiệm vị trí lãnh tụ tinh thần tối cao sẽ dẫn theo toàn bộ Đạo quân Ánh sáng tiến vào Shangri-la. Ba vị còn lại, sẽ chia nhau trấn giữ ba phương hướng của vương triều, bảo vệ những phụ nữ, trẻ em và người già không rời đi cùng Đạo quân Ánh sáng trong bộ tộc. Họ không ở lại trong bộ tộc mà tránh xa tộc nhân, bởi xét cho cùng, bấy giờ có rất nhiều nhân vật cấp cao trong vương thất đều biết rằng Đạo quân Ánh sáng nắm trong tay bí mật bất bại, bảo vệ tài sản và tri thức tích lũy nhiều năm của vương triều. Vì những thứ này, những kẻ kiêu hùng thời loạn sẽ bất chấp sử dụng mọi thủ đoạn. Nếu họ ở cùng tộc nhân, lại không có Đạo quân Ánh sáng bên mình, cá nhân dù mạnh đến mấy cũng chỉ thu hút đại quân đến vây giết mà thôi. Còn khi họ phân tán đi, trở thánh cá thể độc lập, họ sẽ hòa mình vào bóng tối, trở thành vua ám sát, ắt hẳn không một vị thủ lĩnh nào không sợ hãi bọn họ. Mà khi đó, Đạo quân Ánh sáng ra đi một cách hết sức bí mật, cũng hết sức quyết đoán, ngay cả người trong bộ tộc, cha mẹ vợ con họ cũng hoàn toàn không hay biết. Sau đấy, chiến tranh quả nhiên đã bùng nổ, tuy rằng những vị Vu vương ở lại cho rằng bọn họ đủ sức uy hiếp những thế lực lớn mạnh kia, nhưng khi chiến loạn cập kề, tất cả đều trở nên rối ren hỗn loạn, bộ tộc Qua Ba không còn thanh niên trai tráng cũng không tránh khỏi bị chà đạp. Mà sự thật là, quân phiến loạn trước đây gần như đều đã bị Đạo quân Ánh sáng đuổi tận giết tuyệt, vì vậy dân chúng bình thường gần như không ai biết đến sự tồn tại của họ. Những người không biết Đạo quân Ánh sáng mạnh mẽ và đáng sợ nhường nào, dĩ nhiên cũng không biết Vu vương là ai. Ta đoán rằng, những đứa trẻ đã trải qua chiến loạn cửa bộ tộc Qua Ba kia ít nhiều cũng từng nghe nói đến sự vĩ đại của Đạo quân Ánh sáng, sau khi bị lăng nhục ức hiếp, tự nhiên chúng sẽ không ngừng phấn đấu. Không biết bọn chúng kiếm đâu ra một phần không đầy đủ phương pháp huấn luyện của Đạo quân Ánh sáng, liền bước theo dấu chân tiền nhân, bắt đầu hành trình khổ luyện vượt lên cực hạn. Đám người này, về sau phát triển thành một quần thể đặc dị, chính là... Mật tu giả!”

Đường Thọ chỉ vào pháp sư Á La nói: “Các ngươi chỉ biết tổ tiên mình rất mạnh mẽ, không ngừng khiêu chiến cực hạn, vượt qua cực hạn nên, các ngươi cũng không ngừng lặp đi lặp lại những bài huấn luyện mà người thường không thể chịu đựng ấy, nhưng các ngươi đều không biết, tổ tiên của các ngươi năm xưa cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. E rằng bọn họ cũng không hề muốn dùng những cách thức phi nhân ấy để giày vò bản thân mình đâu. Giữa trời băng đất tuyết, để mình trần đi trên dây thép, ngồi xếp bằng trên ván đóng đầy đinh nhọn, mấy tháng liền không ăn không uống, đấy đâu phải là huấn luyện? Phải nói là đang tự dùng cực hình với bản thân thì đúng hơn.” Đường Thọ cảm khái một hồi, lại nói tiếp: “Thôi, không nói chuyện này nữa, chúng ta tiếp tục câu chuyện đang kể nhé. Ba vị Vu vương ở lại thế gian, một người lưu thủ phương Tây, bảo vệ Đảo Huyền Không tự đã bị phong tỏa, chắc là đề phòng bấy giờ có người tình cờ phát hiện ra đầu mối gì đó, không cẩn thận lại mở cửa Đảo Huyền Không tự; một vị khác ở phương Nam, đó vốn là nơi gần khu vực quần cư của người Qua Ba nhất, ông ta có thể cảnh cáo và áp chế một số thế lực tà ác có ý đồ với bộ tộc Qua Ba; vị Vu vương cuối cùng lại đến Trung Nguyên. Trong bốn vị Vu vương, ông ta là người duy nhất hu vọng có thể tiếp tục nghiên cứu loại vật chất đó, để có thể ứng dụng nó trong thực tiễn. Bởi vì, ông ta chính là người chỉ huy nghiên cứu và chế tạo ra loại vật chất kinh khủng ấy.”

Merkin và Trác Mộc Cường Ba giật mình chấn động, câu chuyện của Đường Thọ kể đã càng lúc càng gần với những gì họ biết rồi. Quả nhiên, Đường Thọ lại nói tiếp: “Vị Vu vương ở lại phía Tây, là Mạc Bản Ba; con cháu ông ta sau này đổi thành họ Mạc, khi Cổ Cách bị tiêu diệt, hậu nhân của họ Mạc đã theo giáo sĩ truyền giáo người Bồ Đào Nha di cư sang phương Tây, đổi thành họ Merkin. Đó chính là tổ tiên của ngươi, Merkin. Vị Vu vương lưu thủ tại phía Nam, là Trại Bản Ba; con cháu ông ta sau này đổi thành họ Trại, đó chính là tổ tiên của ngươi, Cường Ba thiếu gia, vì vậy, tên đầy đủ của ngươi lẽ ra phải là Trại Trác Mộc Cường Ba; còn vị Vu vương tiến vào Trung Nguyên kia, là Đảng Bản Ba. Ông ta đến Trung Nguyên, nhập gia tùy tục, liền đổi chữ Đảng thành chữ Đường, đó chính là tổ tiên của ta. Ba người chúng ta, đều là hậu duệ của Vu vương.”

“Còn vị Vu vương dẫn đạo quân Ánh sáng đến Shangri-la kia, là Đông Bản Ba. Bấy giờ, ông ta đã để lại một vị sứ giả ở Tam Giang Nguyên(51). phụ trách truyền đạt tin tức giữa Shangri-la với thế giới bên ngoài. không cần phải nhìn ta với ánh mắt ngạc nhiên đó, đúng thế, bấy giờ bọn họ biết cách liên lạc với vùng đất cách biệt thế gian ấy. Thứ họ dùng để truyền tin, là loài hạc cổ đen, loài chim duy nhất có thể bay vượt đỉnh Chomolungma. Chúng có thể vận chuyển thư từ hoặc những món đồ không nặng lắm. Tổ tiên của chúng ta có trí tuệ vô biên, phàm nhân tầm thường sao có thể hiểu được chứ? Vị sứ giả ấy chính là tổ tiên của vị sứ giả sau này xuất hiện trong lịch sử. Khi đó, vị sứ giả ấy đã truyền đi một tin tức, nội dung thế nào thì ta không biết, tóm lại sau khi nhận được tin tức ấy, ba vị Vu vương còn lại đều nhất loạt lên đường đến đây. Vào thời điểm ấy, con cái họ đều đã thành niên, vì vậy, họ liền đem bí mật của gia tộc truyền lại cho con trưởng dòng chính. Vì những thông tin này được coi là tuyệt mật, bao giờ cũng chỉ truyền đạt miệng cho một người trước lúc lâm chung. Cứ truyền thừa như vậy, không biết đến thời điểm nào, liền thất truyền. Trên thực tế, bản thân việc ba gia tộc chúng ta trải qua nghìn năm vẫn duy trì được huyết mạch đã có thể coi là một kỳ tích rồi, còn chuyện bí mật của gia tộc bị thất truyền, lại là chuyện hết sức bình thường. Được ghi lại rõ nét nhất trong các ghi chép lịch sử là tổ tiên của Merkin. Năm đó, khi sứ giả xuất hiện ở vương triều Cổ Cách, vị tổ tiên đó của ngươi hiển nhiên đã hoàn toàn không nhớ gì về nguồn gốc của mình nữa, ông ta chẳng những không bảo vệ bí mật gia tộc, ngược lại còn dẫn tiến sứ giả đến gặp Cổ Cách vương. Vì vậy, ông ta không hề biết trước đó đã xảy ra chuyện gì, nhưng lại nhớ kỹ những thông tin mà sứ giả mang đến, đồng thời truyền lại cho con cháu đời sau các ngươi. Ông ta chỉ biết trên thế gian này có một nơi như thế, ở đó vàng bạc châu báu nhiều vô cùng vô tận, và ông ta có dòng máu của một nhân vật quan trọng ở nơi ấy. Còn tổ tiên của Cường Ba thiếu gia, cũng không ai biết họ đánh mất bí mật ấy từ bao giờ. Có điều, các tổ tiên của ngươi rõ ràng còn lãng quên triệt để hơn cả tiên tổ nhà Merkin, ngay cả bí mật mà sứ giả mang ra cũng không bảo tồn được. Tổ tiên của ta có thời gian truyền thừa dài nhất, tối thiểu khi vị sứ giả kia xuất hiện, bọn họ vẫn nhớ được bí mật ấy, còn chuyện khi nào bị thất truyền thì ta cũng không biết. Những bí mật hôm nay nói với các ngươi, đều là do ta đích thân tìm kiếm phát hiện ra, đời cha ta, ông nội ta, cụ nội ta, đều hoàn toàn không hay biết chút gì cả.”

“Còn các ngươi!” Đường Thọ ngoảnh đầu về phía pháp sư Á La vfa Lữ Cánh Nam nói, “những Mật tu giả các ngươi, cũng chỉ biết gia tộc nhà Trác Mộc Cường Ba có thân phận rất cao quý, người trong gia tộc này đời đời đều phải được các ngươi âm thầm bảo vệ một cách nghiêm mật, nhưng các ngươi lại không biết, thân phận cao quý này đối với các ngươi rốt cuộc có ý nghĩa gì? Bọn người các ngươi vốn là những nô bộc của Vu vương, không ngờ lại hoàn toàn quên lãng ta và Merkin, gia tộc chúng ta cũng là chủ nhân của các ngươi.”

Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam nhất thời cũng không biết phản ứng thế nào, chuyện Đường Thọ vừa nói, họ hoàn toàn không hay biết.

Đương nhiên, cả pháp sư và Lữ Cánh Nam đều biết thân phận của Cường Ba thiếu gia. Đúng như Đường Thọ đã nói, họ chỉ biết Cường Ba thiếu gia có thân phận cao quý, nhiệm vụ của các Mật tu giả là bí mật tu hành, bí mật bảo vệ, nhưng họ chưa bao giờ biết, thân phận của gã rốt cuộc cao quý như thế nào.

“A ha!” Đường Thọ hình như sực nhớ ra một chuyện thú vị, quay đầu lại nói với Trác Mộc Cường Ba, “Ngươi vẫn không biết, đúng không? Trong các Mật tu giả có thuyết về ký chủ (vật chủ) và kẻ sống gửi. Bọn họ tự ví mình như một loại sinh vật ký sinh, ý ta, linh hồn của họ nương nhờ vào ký chủ để tồn tại, bọn họ sinh ra để bảo vệ ký chủ, ý nghĩa tồn tại của họ chính là bảo vệ ký chủ không bị tử vong bởi những lực lượng ngoài nhân tố tự nhiên.” Nói tới đây, Đường Thọ đột nhiên hạ thấp giọng xuống, ra vẻ thần bí: “Ta nghĩ, chắc chắn ngươi không thể biết, Lữ Cánh Nam, cô ta, chính là một trong những kẻ sống gửi vào ngươi.”

Trác Mộc Cường Ba giật nẩy mình, kinh ngạc hướng ánh mắt sang nhìn Lữ Cánh Nam. Lữ Cánh Nam mím chặt môi, nhìn thẳng về phía trước, không nói một lời. Đường Thọ vẫn khe khẽ thì thầm bên tai Trác Mộc Cường Ba: “Có lẽ, vào lúc ngươi khoảng bốn năm tuổi gì đó, cô ta đã biết sứ mệnh cả đời này của mình là gì, cô ta khắc khổ rèn luyện, chịu đựng những bài huấn luyện phi nhân tính là vì ai, cô ta sống vì ai, ý nghĩa tồn tại của cô ta là gì ? Mật tu giả, đúng là một quần thể kỳ quái, bọn họ... “

Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn không còn biết Đường Thọ nói gì sau đấy nữa, trong đầu gã, mọi sự việc từ lúc gặp gỡ, quen biết Lữ Cánh Nam trong khoảnh khắc bỗng hiện lên một cách rõ nét. Người phụ nữ mạnh mẽ như loài chim ưng ấy, lần đầu tiên xuất hiện trước mắt Trác Mộc Cường Ba đã toát lên khí chất đặc biệt chỉ quân nhân mới có; lần đầu tiên tranh đấu vì một chiếc vòng cổ, khí thế cô hùng hổ chẳng kém gì đấng tu mi; trong phòng làm việc, thái độ nghiêm túc và cố chấp lúc cô vùi đầu vào đống hồ sơ; hết lần này đến lần khác, trong ánh hoàng hôn, cô đứng phía xa nhìn bóng gã và Mẫn Mẫn bên nhau, còn mình thì cô đơn lẻ bóng; để tìm kiếm đám người bị lạc lối trong rừng, cô đã một thân một mình xuyên qua rừng rậm Amazon, trên tay chỉ có một con dao săn; trong động băng trên núi tuyết, người phụ nữ kiên cường ấy dù bị đông thành đá cũng quyết không chịu mở miệng nhận thua, cô... cô ấy là kẻ sống gửi vào gã u? Còn gã, gã là ký chủ của cô sao?

Nhìn Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra, Đường Thọ sốt ruột đẩy gã một cái, cưỡng ép gã rảo chân đi nhanh hơn. kế đó lại nói: "Sự việc đến đây vẫn chưa kết thúc. Loại vật chất mà Đạo quân Ánh sáng nghiên cứu ra ấy, về sau từng xuất hiện hai lần, mà hai lần này, đều liên quan đến vị sứ giả đã đến Cổ Cách kia. Dẫu sao thì lúc bấy giờ, tất cả đạo quân Ánh sáng đều đã bị cảm nhiễm, nhưng không phải tất cả bọn họ đều phát bệnh, chỉ có khoảng năm phần trăm số người xuất hiện triệu chứng rõ rệt thôi.”

Mấy người bọn Merkin đều thầm nhủ, vừa nãy chẳng phải ngươi nói một phần tư Đạo quân Ánh sáng đã biến mất rồi còn gì?

Chú thích

(50) Vu vương: Vua phù thủy.

(51) Tam Giang Nguyên: Nằm ở tỉnh Thanh Hải trên cao nguyên Thanh Tạng. Vùng này là khỏi nguồn cảu ba con sông lớn Trường Giang, Hoàng Hà, Mê Kông, nên được đặt tên là Tam Giang Nguyên.

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 80

CÂU CHUYỆN NGHÌN NĂM TRƯỚC

Chương 50

CÂU CHUYỆN NGHÌN NĂM TRƯỚC

    

ường Thọ dường như lại đọc được những gì bọn họ đang nghĩ trong đầu, bèn giải thích: “Ta biết các ngươi đang nghĩ gì, chuyện này có gì kỳ lạ đâu, chỉ có năm phần trăm Đạo quân Ánh sáng xuất hiện triệu chứng của bệnh, nhưng vì hệ thần kinh và cơ thể bọn họ đã bị vật chất đó biến đổi, để ngăn ngừa những người này, không thể không điều động hai mươi phần trăm nhân lực của Đạo quân Ánh sáng cùng chết với họ. Có điều, nhóm người di cư đến Shangri-la kia, sau khi đến nơi liền bắt đầu một đợt nghiên cứu mới. Xét cho cùng, đó cũng không phải là một nhóm người nhỏ, bọn họ đều có bản năng và khát vọng cầu sinh, vả lại, muốn khống chế được loại vật chất này, cũng cần phải nghiên cứu thấu triệt hơn về đặc tính sinh học của nó. Kết quả nghiên cứu đợt sau này cho thấy, quả nhiên những người ở Shangri-la cũng đã bị cảm nhiễm. Loại vật chất này đang ký sinh trong cơ thể họ, không phải họ không phát bệnh, mà là đang ở trong thời kỳ ủ bệnh. Khoa học ngày nay tuy đã chứng thực, dù là bệnh bò điên hay bệnh Kuru. cũng đều có thời kỳ ủ bệnh, thậm chí ở một số trường hợp thời kỳ này có thể kéo dài đến hơn 30 năm, có điều, một khi phát bệnh thì tỷ lệ tử vong sẽ là 100%, không thể cứu chữa. Sau khi nghiên cứu vô số lần, cuối cùng Đạo quân Ánh sáng đã có hiểu được thêm về loại vật chất ấy. Trong đợt tác dụng đầu tiên của nó, số lượng những người đột nhiên phát bệnh thực ra rất nhỏ, chỉ có một số người thể chất đặc biệt mẫn cảm mới xuất hiện các triệu chứng của bệnh thần kinh; còn đại đa số những người còn lại chỉ xuất hiện triệu chứng tương tự như bị viêm đường hô hấp, ho, hắt xì, sốt... ngắn thì năm bảy ngày, dài cũng không quá hai tháng, sau đó triệu chứng sẽ biến mất, mọi người có thể trở lại cuộc sống bình thường. Chỉ có điều, trong thời gian người nhiễm bệnh bị cảm mạo, loại vật chất kia sẽ sinh sôi một cách bùng nổ, đồng thời lan tỏa trên diện rộng. Con người gần như sẽ bị lây nhiễm 100%, nếu tiếp xúc với chúng. Sau đó, loại vật chất ấy sẽ tiềm phục trong cơ thể người nhiễm bệnh, bắt đầu dịch chuyển đến hệ thần kinh theo một phương thức mà hệ miễn dịch không thể nào phát giác được, cho đến khi phát bệnh lần thứ hai, thời gian kéo dài khoảng từ hai đến năm năm. Cũng có nghĩa là, từ lần đầu tiên xuất hiện triệu chứng cảm mạo, tùy theo từng cá thể mà thời gian ủ bệnh khác nhau, nhưng thời gian còn lại lâu nhất cũng không quá năm năm. Lần phát bệnh thứ hai này rất đáng sợ. Nghiên cứu của Đạo quân Ánh sáng cho thấy, người bệnh đầu tiên là nguồn bùng phát lây lan loại vật chất đó, có thể truyền nhiễm cho người khác thông qua hô hấp, bài tiết và máu. Kinh khủng hơn nữa là, qua thời kỳ ủ bệnh kéo dài mấy năm, loại vật chất ấy gần như đã chiếm cứ hoàn toàn não bộ của người bệnh, vì vậy lần phát bệnh thứ hai này, người bệnh sẽ trở nên điên cuồng hung bạo, tấn công tất cả mọi sinh vật có thể chuyển động một cách vô ý thức. Vì cảm quan của những người này đã bị tổn thương nghiêm trọng, hệ thần kinh và cơ bắp không còn phối hợp hài hòa, nên động tác của họ cũng không được linh hoạt như trước. Nhưng cũng vì sự tổn thương của cảm quan và hệ thần kinh, bọn họ hoàn toàn không cảm thấy đau đớn, vì vậy... cảnh tượng khi ấy, thực sự cũng hơi tanh máu và đáng sợ. Mà lần phát bệnh thứ hai này sẽ có hai kết quả hoàn toàn khác nhau. Thứ nhất, chính là như ta vừa nói, đau đớn cực độ, điên cuồng cực độ, cuối cùng nếu không kiệt lực mà chết giữa lúc điên cuồng tấn công bất cứ sinh vật nào trong tầm mắt thì cũng vì đau đớn mà mất dần các dấu hiệu của sự sống; ngoài ra, còn một trường hợp khác, chính là đại não bị tổn thương hoàn toàn, nhưng lại không ảnh hưởng đến công năng vận động của họ. Những người này có thể đi lại, ăn uống, sinh đẻ, sinh hoạt như người bình thường, điểm khác biệt duy nhất là không còn trí tuệ. Bọn họ chỉ còn giữ lại được những bản năng sinh tồn cơ bản nhất nguyên thủy nhất của động vật, đồng thời tiếp tục di truyền loại bệnh này đến đời sau, về thời gian di truyền kéo dài bao lâu, theo tính toán sơ bộ của ta, có lẽ vào khoảng... 300 năm.”

“Còn về khả năng truyền nhiễm, Đạo quân Ánh sáng cũng đã đi đến một kết luận tương đối, đại khái trong khoảng 1000 người, chỉ có một người không bị cảm nhiễm. Những người này có sức đề kháng tự nhiên, nhưng khả năng đề kháng này từ đâu mà có thì họ cũng không nói rõ được. Nhưng theo ta thì, có lẽ là do tổ tiên của người này từ thuở ở vùng man hoang đã ăn rất nhiều thịt người, vì vậy liền sinh ra kháng thể. Bằng cớ lớn nhất, chính là, Tứ đại Vu vương đều có khả năng đề kháng tự nhiên trước loại vật chất kia. Nói cách khác, ba người chúng ta, cùng với các thành viên trong gia tộc, đều có khả năng đề kháng trước loại vật chất ấy. Nó không có tác dụng gì với chúng ta. Đương nhiên, đây chỉ là suy đoán của ta thôi, rốt cuộc có chính xác hay không, chưa thử qua thì không ai dám đảm bảo cả.”

Đường Thọ dừng lại. Trác Mộc Cường Ba lạnh lùng hỏi: "Câu chuyện của mày hết chưa?"

Đường Thọ cườỉ cười đáp: "Tất nhiên là chưa, ta vừa nói đấy, loại vật chất này về sau lại xuất hiện thêm hai lần nữa, vả lại cả hai lần này đều liên quan đến vị sứ giả truyền tống tin tức kia. Tình hình cụ thể thế này, năm ấy, sau khi Đạo quân Ánh sáng đến Shangri-la, liền bắt đầu xây dựng lãnh thổ của riêng họ ở đây. Phải biết rằng, đại đa số cư dân sống ở Shangri-la này thời bấy giờ đều là các bộ 1ạc đã chiến bại trên cao nguyên, hoặc vô tình hoặc dựa vào truyền thuyết của tiền nhân mà tìm đến đây. Đối mặt với Đạo quân Ánh sáng vô địch, bọn họ hoàn toàn không có năng lực phản kháng. Đạo quân Ánh sáng đã trưng tập toàn bộ thanh niên trai tráng ở Shangri-la này đi xây dựng Bạc Ba La thần miếu, tốn hơn trăm năm mới hoàn thành. Đồng thời, họ cũng không ngừng cố gắng tìm cách khống chế loại vật chất kia, làm cách nào để phát hiện người sắp phát bệnh từ sớm, làm cách nào để khiến người đã xuất hiện triệu chứng của bệnh duy trì được lý tính, làm cách nào để kéo dài khoảng thời gian trước khi xuất hiện triệu chứng hoặc thời gian sinh tồn sau khi triệu chứng cảm nhiễm lần đầu xuất hiện... vân vân. Đông Bản Ba và hậu nhân của ông ta 1à lãnh tụ của toàn bộ nơi này. Đến khi Bạc Ba La thần miếu hoàn thành, hậu duệ của Đông Bản Ba cho rằng, trải qua trăm năm phân tranh, chiến loạn ở thế giới bên ngoài hẳn cũng đã kết thúc, vả lại, ông ta cảm thấy mình đã tìm được cách thức khống chế loại vật chất kia rồi. Nói theo cách của chúng ta ngày nay, thì họ đã phát hiện vắc xin sống giảm độc lực(52) hoặc vắc xin chết(53). Vì vậy, ông ta quyết định thông báo cho sứ giả ở thế giới bên ngoài, mời hậu nhân của ba vị Vu vương còn lại đến Shangri-la, mở cửa Bạc Ba La thần miếu để lấy các báu vật và kinh văn của Tứ Phương miếu được Đạo quân Ánh sáng mang theo đến nơi này."

"Các ngươi nhất định lấy làm lạ, tại sao hậu nhân của Đông Bản Ba không thể trực tiếp lấy những món châu báu đó ra cho xong, mà nhất định phải mời hậu nhân của ba vị Vu vương còn lại. Chuyện này phải bắt đầu nói từ lúc xây dựng Bạc Ba La thần miếu. Năm đó, sau khi Đạo quân Ánh sáng tiến vào Shangri-la, liên tiếp có người phát bệnh, phá hoại rất nhiều. Đông Bản Ba lo lắng những người còn lại có thể phát bệnh bất cứ lúc nào, nói không chừng lại hủy hoại hết những đồ vật trân quý mà họ bảo vệ, vì vậy ông ta bắt đầu nghĩ đến việc xây dựng một kho tồn trữ bảo mật tuyệt đối để cất giấu báu vật. Cái kho ấy, chính là nơi này và tầng phía bên ngoài mà các ngươi vừa trông thấy. Lúc đó, Tứ đại Vu vương đã tề tựu về đây, vì vậy cơ quan huyết trì ở đây chẳng những yêu cầu có chài khóa, mà còn đòi hỏi phải dùng huyết mạch của ba vị Vu vương để khởi động. Đến khi cái kho tồn trữ này được xây dựng xong, Tứ đại Vu Vương mới lần lượt qua đời. Có lẽ, trước khi vị Bản Ba cuối cùng rời khỏi thế gian, ông ta đã nhắc nhở hậu nhân của Đông Bản Ba, phải xây dựng một thần miếu khổng lồ để bảo vệ kho tàng này, chớ nên để một kẻ tùy tiện cũng có thể dếnđược đây, dùng sức trâu phá hoại. Những thành viên còn lại trong Đạo quân Ánh sáng và những lao động bị họ trưng dụng đều có tín ngưỡng của riêng mình, bọn họ sinh con đẻ cái ở đây, không ngừng làm việc, từ đó Bạc Ba La thần miếu mới lấy kho tàng này làm trung tâm, bắt đầu mở rộng ra phía ngoài, quy mô càng lúc càng lớn, cuối cùng hình thành nên một tòa thần miếu như các ngươi thấy bây giờ.”

“Ta lại nói đi xa quá rồi, thời đó, các vị Vu vương đều là những người có đại trí tuệ và pháp lực vô biên, bọn họ lại đem phần lớn những trí thức mình sở hữu truyền thụ cho con cái. Lẽ đương nhiên, họ cho rằng, tất cả hậu duệ của mình cũng sẽ trở thành những người sở hữu đại trí tuệ và pháp lực vô biên. trong tín ngưỡng của người Qua Ba, chỉ cần ba vị Vu vương tề tựu là có thể quyết định bất cứ việc gì trên thế gian này. Có điều, e rằng các vị Vu vương cũng không ngờ được, một nghìn năm sau, đám hậu duệ chúng ta đây không còn tin vào điều đó nữa. Bởi vậy, năm đó, hậu nhân của Đông Bản Ba phái người mang chìa khóa và bản đồ chỉ đường đến Shangri~la ra ngoài, đồng thời mang theo một bản sao lục của bản tổng cương ghi lại toàn bộ kinh sách cũng như châu báu được tàng trữ trong Bạc Ba La thần miếu mà Tứ đại Vu vương lưu lại. Bản tổng cương đó, chính là thứ được các ngươi gọi là Đại Thiên Luân Kinh. Đại Thiên Luân Kinh bao la vạn tượng, không gì là không có, nhưng kỳ thực nó chỉ là một bản tổng cương, một vạn hai nghìn bài tụng, lần lượt bao hàm một vạn hai nghìn phân mục, tỷ như Phật học, Đạo học, Nho học, Nông nghiệp, Sinh vật, Thủy lợi, Luyện kim, Chế tạo vũ khí... đều chỉ có thể coi như một phân mục đơn lẻ mà thôi. Các ngươi hãy nhìn những ngăn kéo này xem, nhìn những thư tịch kinh sách chất đầy bên trong đó mà xem, một vạn hai nghìn phần mục đấy. Nơi đây gần như đã thu thập kết tinh toàn bộ trí tuệ từ thời Đường trở về trước trên toàn thế giới, có cả những thứ kỹ thuật cố xưa mà khoa học hiện đại ngày nay cũng chưa thể giải thích. Có câu, châu báu có giá, trí tuệ vô giá, vì vậy các kinh thư điển tịch ghi chép lại những kỹ thuật tiên tiến nhất của thời đại đó, đều được để ở tòa tháp trung tâm này, đại điện ngoài kia chỉ cất giữ một số vàng bạc châu báu quý giá mà thôi.”

“Còn về ba chiếc chài khóa, chính là thứ để mở cánh cửa ngoài kia ra, nói ra cũng thật kỳ quái, tổ tiên chúng ta đều đã quên hết bí mật kia rồi, vậy mà vẫn giữ được ba chiếc chìa khóa này, truyền thừa đến tận ngày nay. Ta nghĩ, có lẽ là vì bản thân tạo hình của ba thanh kiếm đồng này tượng trưng cho sinh thực và truyền thừa cũng nên. Lại nói về bản đồ, bản đồ được chia làm ba phần, cũng chính là ba món tín vật mà các ngươi khổ công tìm kiếm. Món tín vật đầu tiên là hai tấm bản đồ da sói, lần lượt vẽ hai con đường thông qua sông ngầm dưới đất, và thông qua núi tuyết để đến Shangri-la. Tín vật thứ hai là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, nó chính là bản đồ địa hình của toàn bộ vùng đất Shangri-la này đồng thời cũng ghi chú tuyến đường dẫn đến Bạc Ba La thần miếu sau khi từ thế giới bên ngoài tiến vào Shangri-la này. Còn món tín vật thứ ba bấy lâu nay vẫn luôn ở trong tay gia tộc chúng ta, các ngươi chưa từng thấy, ta gọi nó là Ngọc Xích. Thứ này ghi lại các cơ quan và tuyến đường bên trong Bạc Ba La thần miếu. Ba chiếc chìa khóa và ba món tín vật này được mang ra trong hai lần. Lần đầu tiên, sứ giả đưa chìa khóa đến tay tổ tiên của ba người chúng ta, nói thực lòng, ta cũng có chút khâm phục ý chí của người này. Tuy nói, ông ta biết được phương vị đại khái của hậu duệ ba vị Vu vương, nhưng phàm là con người, ắt sẽ có lúc phải di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, vả lại, tổ tiên của Merkin và ngươi bấy giờ chắc cũng đã quên hết bí mật và thân thế của gia tộc mình rồi, muốn tìm được tổ tiên các ngươi tuyệt đối không phải là chuyện dễ. Manh mối ta tìm được cho thấy, để đưa ba chiếc chìa khóa này đến tay tổ tiên của chúng ta, vị sứ giả kia ít nhất cũng tốn mười năm trời. Có điều, đến lần thứ hai khi mang bản đồ ra thì dễ dáng hơn nhiều, nhưng khi ấy lại nảy sinh một tình huống ngoài dự kiến. Khi đó, chắc hẳn tổ tiên của Merkin đã chẳng hứng thú gì với sứ mệnh của gia tộc nữa, ông ta đang lo bợ đít lấy lòng Cổ Cách vương, hy vọng có thể trở thành một vị quan quyền cao chức trọng. Bởi vậy, sau khi có được chìa khóa, ông ta đã nôn nóng đem đi tiến cống cho Cổ Cách vương. Một giọt máu có thể làm chiếc chìa khóa trông như thanh kiếm đồng hoàn toàn biến hình, đừng nói là Cổ Cách thời bấy giờ, cho dù nước Mỹ ngày nay cũng không thể tạo ra được sản phẩm công nghệ độc đáo như thế. Cổ Cách vương dĩ nhiên hết sức kinh ngạc, đồng thời, thân là hậu duệ của vương thất, Cổ Cách vương cũng biết bí mật về Đạo quân Ánh sáng, thế nên, khi sứ giả đến tìm tổ tiên của Merkin lần thứ hai... ông ta đã bị giữ lại Cổ Cách.”

Đường Thọ nheo nheo mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Đại Thiên Luân Kinh và hai tấm bản đồ da sói lẽ ra phải được giao vào tay tổ tiên ngươi cũng bị giữ lại Cổ Cách. Đương nhiên, Cổ Cách vương chỉ lấy lý do muốn chiêm ngưỡng thần tích để giữ sứ giả lại, chứ không hề cưỡng chế câu lưu. Nguyên nhân thực sự khiến sự việc xoay chuyển hoàn toàn như vậy, bắt nguồn từ bên trong Shangri-la. Vốn dĩ, hậu nhân của Đông Bản Ba cho rằng, ông ta đã sáng tạo ra thứ tương tự như vắc xin sống giảm độc lực, có thể chữa trị được thứ quái bệnh kia rồi. Nhưng ông ta đâu biết, tri thức của ông ta so với Tứ đại Vu Vương quả thực cách biệt quá xa. Năm xưa, tổ tiên ta đã dốc hết tâ, lực nghiên cứu chế tạo ra loại vật chất này, loại vật chất mà ngay cả tổ tiên ta cũng không nghĩ được cách tiêu diệt, làm sao lại để bị chinh phục như thế? Chắc chắn tình huống mới mà họ phát hiện ra khi ấy là loại vật chất kia đã biến dị, khả năng tấn công mạnh mẽ hơn, càng dễ lây lan hơn. Hậu nhân của Đông Bản Ba cũng là một người thông minh, ông ta lập tức nhận ra rằng vẫn chưa đến lúc mở cửa Bạc Ba La thần miếu. Bởi lẽ, trước lúc làm chung, Tứ đại Vu vương từng cảnh cáo hậu nhân rằng, bên trong kho tồn trữ này không chỉ có toàn bộ châu báu của Tứ Phương miếu và thư tịch bao hàm văn minh cổ đại của toàn bộ thế giới, mà còn tồn lưu tất cả thành quả nghiên cứu của Đạo quân Ánh sáng, trong đó bao gồm cả thành tựu cao nhất, một mẫu nguyên thủy của loại vật chất kia. Vì vậy, ông ta liền truyền tin cho sứ giả, hy vọng sứ giả có thể thu hồi chìa khóa và bản đồ lại. Ta cũng không rõ thông tin này được truyền đến tay sứ giả bằng cách nào, có lẽ ở Tam Giang Nguyên vẫn còn người lưu thủ, từ Tam Giang Nguyên dùng các loài chim như bồ câu đưa thư hoặc chim ưng để truyền tin. Nhưng ông ta đã bỏ qua mất một vấn đề, sứ giả chỉ có thân phận người truyền tin, làm sao có thể đòi lại thứ đã giao vào tay chủ nhân được. Vị sứ giả ấy từng đến tìm tổ tiên của ta, phỏng chừng tổ tiên ta cũng không khác tổ tiên của Merkin là mấy, sau nhiều năm sống giữa những người bình thường, bọn họ sớm đã không còn nhớ gì về chức trách của mình nữa. Sau khi biết được trên đời này có một nơi như Bạc Ba La thần miếu, họ lại chẳng nôn nóng muốn đến đó xem sao, làm gì có chuyện giao trả tín vật trở lại chứ? Sứ giả không còn cách nào khác, đành giữ lại Đại Thiên Luân Kinh và tấm gương đồng chưa giao đi, đợi chờ mệnh lệnh tiếp theo của hậu duệ Đông Bản Ba.

"Ông ta không hề biết, vị hậu duệ của Đông Bản Ba ấy cũng đang lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nam, hậu quả của lần biến dị đó hết sức kinh khủng, vị hậu duệ đó đã gần như tuyệt vọng. Ông ta bắt đầu tin chắc rằng, từ khoảnh khắc loại vật chất ấy được sinh ra, số mệnh đã định sẵn con người không thể chiến thắng nổi nó. Thế nhưng, trong Bạc Ba La thần miếu là kết tinh của trí tuệ nhân loại suốt bao đời, nếu thu hồi bản đồ trở về, sợ rằng người ở thế giới bên ngoài sẽ không bao giờ tìm được nơi này nữa, vậy thì ngọn lửa trí tuệ của tổ tiên loài người sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi trong thần miếu. Song mặt khác, nếu người không biết chuyện lại mở chiếc hộp ma quỷ chứa đựng loại vật chất kia ra, thì cả nhân loại này, sợ rằng không cần phải nói đến trí tuệ làm gì nữa. Tồn tại hay la hủy diệt, đây có lẽ là vấn đề năm xưa vị hậu duệ của Đông Bản Ba suy nghĩ nhiều nhất. Nếu nhân lực đã không thể quyết định được, thì đành giao cho ông trời quyết định vậy, cuối cùng, ông ta hạ quyết định, phân tán bản đồ đến chân trời góc biển. Giả sử ý trời muốn loại vật chất kia được trở lại thế gian, vậy chứng tỏ rằng trời muốn tiêu diệt loài người, không ai có thể thoát được, còn trong trường hợp bản đồ và chìa khóa bị hủy hoại vì nguyên nhân nào đó, tức là ông trời muốn xóa sổ Bạc Ba La thần miếu, vậy thì cứ coi như nơi này chưa từng tồn tại là được. Đây chính là quyết định cuối cùng của vị hậu duệ Đông Bản Ba đó, đồng thời, ông ta còn làm ra một chuyện điên cuồng khác nữa. Ông ta giao một phần loại vắc xin sống giảm độc lực kia cho sứ giả, nói cho sứ giả biết toàn bộ nguyên ủy sự tình, sau đó yêu cầu sứ giả tìm một hòn đảo nhỏ cách ly với thế giới bên ngoài, tốt nhất chỉ có một hai bộ tộc lạc hậu trên đảo, khoảng chừng trăm người để thử nghiệm loại vắc xin này một lần nữa. Ông ta vẫn không cam tâm, khi đó, nhân khẩu trên tầng bình đài thứ ba đã điêu linh đến mức không thế tiến hành thử nghiệm một lần nữa rồi."

"Những chuyện sau này, chắc hẳn các ngươi ít nhiều cũng điều tra được một chút rồi, sứ giả không biết đã dùng cách gì thuyết phục được Cổ Cách vương để ông ta mang theo tấm gương đồng đến tận châu Mỹ xa xôi, đồng thời phái 21 đệ tử, chia tách Đại Thiên Luân Kinh ra, phân tán đi khắp thế giới. Nhưng Cổ Cách vương này cũng rất giảo hoạt, ông ta chia tách Đại Thiên Luân Kinh, nhưng giữ hai tấm bản đồ da sói lại, hơn nữa còn phục chế cả Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, hẳn là bấy giờ Cổ Cách vương đã có ý đồ với Bạc Ba La thần miếu rồi. Còn vị sứ giả kia, đã thực hiện đúng theo yêu cầu của hậu duệ Đông Bản ba, làm một cuộc thí nghiệm nhỏ ở châu Mỹ. Quá trình thí nghiệm thế nào ta không biết, chỉ biết kết quả của lần thí nghiệm đó đã làm vị sứ giả kia hoàn toàn suy sụp, đồng thời một nền văn minh gọi là Maya cũng từ đó biến mất khỏi địa cầu. Ta đoan chắc, vị sứ giả ấy đã được tận mắt chứng kiến cái gì gọi là địa ngục trần gian rồi. Sau khi sứ giả trở về Cổ Cách, không hiểu đã xảy ra chuyện gì mà Cổ Cách vương lại sở hữu được chiếc hộp đựng phần vật chất còn sót lại. Về sau, khi Cổ Cách gặp phải họa diệt quốc, vị vương cuối cùng của Cổ Cách một lòng quyết tử, đã mở chiếc hộp đó ra, vậy là Cổ Cách cũng biến mất trong lịch sử. Trong các văn thư chính thức của Lạp Đạt Khắc có ghi lại, bọn họ đã phát động chiến tranh chinh phạt Cổ Cách, đồng thời giành thắng lợi trong cuộc chiến đó, nhưng lại không hề thống kê đại quân của họ đoạt được bao nhiêu châu báu, nô lệ ở Cổ Cách. Bọn họ chiến thắng, song không hề thu được chiến lợi phẩm nào. Thành thị của Cổ Cách thảy đều biến thành những tòa thành chết, cảnh phồn hoa hóa thành hoang phế đổ nát, xác người ở khắp mọi nơi, cũng còn một ít người sống, nhưng bọn họ không biết mình là ai, từ đâu đến, có thể làm gì.”

“Michael Young(54), người nước ngoài đầu tiên đặt chân đến vùng đất phía Tây Tây Tạng đã rất kinh ngạc trước mức độ lạc hậu và nguyên thủy của văn minh bộ lạc ở nơi này. Ông ta đã cảm khái thốt lên, tôi thật không ngờ, ở vùng đất cổ xưa thần bí phương Đông này vẫn còn lưu tồn một chủng tộc nguyên thủy như thế, bọn họ giống như đang sống trong thời kỳ Đồ đá cũ vậy, người người khoác da thú, sử dụng dụng cụ bằng xương, thậm chí còn không thể tự mình tạo ra một rnón binh khí bằng đá tử tế nữa. Thế nhưng, ông ta còn chưa biết, đây còn là kết quả sau khi bị văn minh ngoại lai can thiệp vào. Nghiên cứu của Đạo quân Ánh sáng cho thấy, trước khi tác dụng di truyền của căn bệnh quái ác kia biến mất, có thể tiến hành can thiệp một cách thích đáng đối với những con người vô trí lực ấy. Nhưng kết quả của việc can thiệp là, những người đó chỉ có thể mô phỏng lại những hành vi đơn giản nhất, họ không thể phát âm, cũng không có ý thức tự ngã, huấn luyện họ đến mức độ cao nhất cũng không vượt qua được nhân loại ở thời kỳ Đồ đá cũ. Những người này chỉ mạnh hơn lũ khỉ một chút, thậm chí còn không so được với tinh tinh, sau này giải phẫu phát hiện, kết cấu đại não của những người bị di truyền căn bệnh kia khác với người bình thường. Đại não của họ hơi nhỏ hơn người thường, vả lại ở một số phần, tổ chức não đã bị suy thoái. Kỳ thực, ngày nay triệu chứng này cũng không phải hiếm gặp, chỉ có điều, không phải tầm tuổi nào cũng bị, mà thường chỉ có ở người già... chúng ta gọi là... bệnh Parkinson. Nói tóm lại, đây là một thứ vô cùng hay ho. Được rồi, chuyện đã kể xong, chắc hẳn các ngươi cũng biết ta đến đây vì thứ gì rồi phải không?"

Cuối cùng, Đường Thọ thở hắt ra một hơi dài, nhếch mép lên, nở một nụ cười thỏa mãn.

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba không ai không tái mặt, nếu trên đời này có một thứ như vậy, nếu để thứ này lưu lạc ra bên ngoài thì hậu quả thực vô cùng đáng sợ. Hậu quả ấy, không phải một khu vực, hay một quốc gia nào có thể hứng chịu, nó sẽ làm thay đổi tương lai của toàn thể nhân loại. Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ lại bài thơ lưu truyền trong bộ tộc Kukuer và thôn Công Bố: “Một khi máu tanh làm vấy bẩn bậc thang Thánh miếu, vô số tai họa sẽ liên tiếp giáng xuống khắp mọi nơi như cơn mưa đá khủng khiếp, thành thị sẽ trở thành tòa thành chết, không người sống sót...” Đây há chẳng phải chính là hậu quả đáng sợ trong lời tiên tri đó hay sao?

Pháp sư Á La lên tiếng chất vấn: "Làm như vậy, rốt cuộc ngươi có lợi ích gì?"

“Lợi ích,” Đường Thọ nhếch mép lên cười khinh khỉnh: “Không, các ngươi căn bản không thể hiểu được ta, các ngươi không biết ta tồn tại vì cái gì. Ngươi thấy ta giống như kẻ tìm đến nơi này vì lợi ích sao? Ta chỉ muốn hủy diệt toàn nhân loại, nếu có thể khiến toàn nhân loại bồi táng cùng ta, cho dù ta chết đi, cũng coi như không tệ lắm.”

Bọn Trác Mộc Cường Ba lại thêm một phen giật mình kinh hãi, Merkin lắp ba lắp bắp hỏi: “Tại... tại sao?”

Chú thích

(52) Vắc xin sống giảm độc lực: là loại vắc xin được điều chế từ virút hoặc vi khuẩn còn sống nhưng đã qua nhiều công đoạn nuôi cấy làm giảm độc lực của tác nhân gây bệnh này. Về lý thuyết, khi vắc-xin được sản xuất đúng quy trình chuẩn, thì các virút hoặc vi khuẩn dù còn sống nhưng đã được làm giảm độc lực rồi, sẽ không gây bệnh khi đưa vào cơ thể con người.

(53) Vắc xin chết: là loại vắc xin mà thành phần của chúng có chứa toàn bộ hoặc một phần xác chết của virus hoặc vi khuẩn nào đó. Khi tiêm vào cơ thể, những thành phần này không gây bệnh cho con người mà chỉ có vai trò kích thích cơ thể sản xuất kháng thể chống loại mầm bệnh.

(54) Michael Young: Không thể chứng thực được thông tin này, có thể đây là thông tin mà tác giả hư cấu.

PHẦN 80

CÂU CHUYỆN NGHÌN NĂM TRƯỚC

Chương 51

KẺ TỰ XƯNG LÀ THẦN

    

ường Thọ cất tiếng, giọng đanh thép như một viên thảm phán đang tuyên án: "Loài người là kẻ thủ của toàn thế giới, mỗi một người các ngươi đều có tội! Những kẻ đang sống đều có tội, thế giới này vốn là một thế giới tự nhiên và hài hòa, mỗi loại sinh vật đều có đạo sinh tồn của riêng chúng, các chuỗi thức ăn xoắn bện lại với nhau, tạo thành một vẻ đẹp hòa hợp. Thế nhưng, kể từ khi sinh vật gọi là con người các ngươi xuất hiện, sự hài hòa ấy đã bị phá vỡ. Loài người là thiên địch của tất cả giống loài trên thế giới, còn bản thân các ngươi lại không có thiên địch. Các ngươi ngang nhiên chiếm cứ mắt xích cuối cùng của chuỗi thức ăn, cái gì các ngươi cũng ăn được, chuyện xấu xa gì các ngươi cũng làm được. Từ khi loài người xuất hiện, các giống loài trên thế giới biến mất nhiều hơn bất cứ giai đoạn nào trước đây. Lũ các ngươi lại không ngừng mở rộng lãnh địa, không ngừng cướp đoạt nguồn tài nguyên, thành thị của loài người càng lúc càng lớn, mà thành thị của các ngươi, ngoại trừ đối với bản thân con người và những loài sing vật do các ngưoi nuôi dưỡng, gần như không thích hợp cho bất cứ loại sinh vật hoang dã nào sinh tồn. Bản năng của các ngươi là tách mình ra khỏi thế giới tự nhiên. Các ngươi tự cho mình có địa vị cao vời, có quyền đinh đoạt hết thảy. Đứng trước thiên nhiên, há chẳng phải các ngươi đã đặt mình vào vị trí của thần thánh rồi sao? Tài nguyên thiên nhiên phải trải qua mấy chục triệu thậm chí mấy trăm triệu năm mới hình thành, loài người chỉ cần máy năm là có thể vơ vét sạch trơn. Kỳ quan thiên nhiên mất hàng triệu năm mới thành hình, con người có thể san phẳng thành bình địa chỉ trong mấy phút đồng hồ ngắn ngủi. Vì loài người chia thành nhiều quốc gia và sắc tộc khác nhau, nên mỗi một quốc gia đều ra sức đề cao việc sinh sôi nảy nở, dân số càng lúc càng nhiều, nhưng họ vẫn lo lắng người nước mình chưa đủ đông, khiến dân sô thế giới bùng nổ. Mỗi một người sinh ra đều có ý thức xâm chiếm rất mạnh mẽ. Từ khi còn là đứa trẻ ẵm ngửa, các ngươi đã biết nắm chặt lấy thứ ở trong tay mình. Mỗi một con người đều phải ăn rất nhiều sinh vật khác mỗi một con người, đều muốn mở rộng không gian sống thuộc về riêng mình, những thứ này từ đâu ra chứ? Không tên nào là không vươn bàn tay về phía thiên nhiên Nhu cầu của các ngươi càng lúc càng lớn, đối với bất cứ nguồn tài nguyên nào, loài người cũng chỉ biết cướp đoạt mà không cần nghĩ đến hậu quả về sau. Cũng có một nhóm nhỏ ăn no rửng mỡ mới nhảy ra nói phải bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái, thế nhưng thử hỏi, những lời bọn chúng nói, có tác dụng gì hay không? Loài nguời là loài sinh vật duy nhất không vì nhu cầu sinh tồn và bảo vệ lãnh địa cũng tàn sát lẫn nhau; loài người, là loài sinh vật duy nhất không vì sự tiếp diễn của chủng tộc mà điên cuồng sinh sản; loài người là loài sinh vật duy nhất chỉ biết lấy của thiên nhiên; mà không biết hồi báo lại thiên nhiên; loài người, là tồn tại quái dị duy nhất trên thế giới này."

Đường Thọ chợt đổi giọng châm biếm: "Loài người sánh được với châu cháu không? Những nơi đàn châu chấu bay qua, cọng cỏ cũng không mọc được, nhưng chỉ sau dăm ba năm, thiên nhiên sẽ hồi phục lại như xưa. Còn những nơi loài người các ngươi đi qua, thậm chí cả lớp đất bề mặt cũng biến mất, tất cả trở thành xi măng cốt thép, dù loài người có rời bỏ nơi đó mà đi, thì cả nghìn năm sau cũng không thể khôi phục.”

“Ta thường nghe các ngươi nói, trái đất là mẹ hiền, nếu trái đất cũng là bà mẹ hiền thật, vậy thì loài người các ngươi, chính là một thứ virus ký sinh trong thân thể bà mẹ ấy. Loài người là tế bào ung thư, các ngươi không ngừng tự nhân bản chính mình, không ngừng xâm chiếm những lãnh địa khác, đồng thời phá hoại vùng đất đó, cải tạo thành nơi chỉ thích hợp cho giống loài các ngươi sinh tồn."

“Tất cả các ngươi, đều lấy mình làm trung tâm, tỏa bức xạ độc hại của mình ra xung quanh; gần như mọi quốc gia đều đề cao nhân trị, không ngừng cải thiện phúc lợi của con người, tỷ lệ sinh đẻ hơi giảm xuống một chút là ra sức khuyến khích sinh đẻ. Nhu cầu của con người được thỏa mãn đến cực độ, vậy toàn thế giới thì sao! Nếu uy hiếp đến sự tồn tại của con người, thì dù có tiêu diệt toàn bộ sinh vật hữu cơ trên trái đất cũng không đáng tiếc chứ gì?”

“Thế giới này không phải thuộc về con người, mà hoàn toàn ngược lại, con người thuộc về thế giớỉ này. Con người các ngươi, luôn lấy mình làm trung tâm, mọi chuyện thị phi đúng sai, mọi tiêu chuẩn đạo đức, cũng đều xây dựng trên cơ sở lấy con người làm trung tâm. Vì nhu cầu của con người nên các ngươi có thể thỏa sức chém giết các giống loài khác, thậm chí còn tiến hành đánh bắt bằng những phương thức mang tính hủy diệt cả giống loài, vì nhu cầu của con người, các ngươi có thể vơ vét bóc lột tài nguyên thiên nhiên, hút máu địa cầu một cách vô độ, khiến sông hồ khô cạn, dầu mỏ kiệt cùng, rừng cây cháy trụi, mạch khoáng bị khoét rỗng; vì nhu cầu cảu con người, cần quái gì quan tâm đến trời long đất lở, hay giống loài khác bị hủy diệt. Khoa học kỹ thuật của con người càng phát triển, sức phá hoại của các ngươi càng lớn. Con người càng ngày càng thêm đông đúc, dục vọng của các ngươi sẽ vĩnh viễn không bao giờ ngừng lại. Mọi hành vi của loài người các ngươi đều đang hủy diệt thế giới này, vì vậy, muốn cứu toàn thế giới, nhất thiết phải tiêu diệt loài người trước tiên."

Đường Thọ nhắm hờ hai mắt, dang rộng cánh tay, cảm khái nói: “Ta thường nghĩ, tổ tiên chúng ta thực sự đã phát minh ra một thứ rất hay, với trình độ khoa học ngày nay, đừng nói là hai tháng, chỉ cần hai tuàn thôi, với tốc độ lây lan của loại vật chất này, chỉ cần hai tuần là đủ để nó lan truyền đến bất cứ nơi nào loài người có thể đặt chân đến trên thế giới. Sẽ chỉ còn một phần nghìn dân số đại cầu sống sót, trí thông minh nhất loạt đều trở về thời Đồ đá cũ, vậy là thế giới này sẽ trở nên hài hòa.”

Trác Mộc Cường Ba, Merkin, pháp sư Á La, Lữ Cánh Nam, Đường Mẫn, thảy đều ngây người ra. Con người trước mắt họ đây, những chuyện y thừa nhận mình đã làm thoạt nghe đều hết sức tà ác xấu xa, khiến người ta rởn cả gai ốc. Nhưng giờ y lại đột nhiên nói, đó chỉ là đánh giá dựa trên tiêu chuẩn đạo đức của loài người, đồng thời y còn đề ra một tiêu chuẩn đạo đức cao hơn, vượt qua phạm trù nhân loại, phóng tầm mắt nhìn rộng hơn, trên thế giới này con người mới là một loại động vật tà ác và đáng bị tiêu diệt.

Những mạch suy nghĩ trong đầu Trác Mộc Cường Ba trở nên hỗn loạn, gã biết rất rõ, những gì kẻ này nói là sai, chắc chắn có điểm nào đó không ổn, nhưng nhất thời gã lại không nghĩ ra điều gì để phản bác lại y. Dục vọng của loài người vĩnh viễn không có điểm dừng, tồn tại của loài người là một sự hủy hoại với toàn thế giới này, vì vậy... y... y... muốn hủy diệt loài người, để cứu lấy thế giới? Y nói, thế giới này không thuộc về loài người, loài người mới thuộc về thế giới này... rốt cuộc có gì không đúng nhỉ, nhất định phải có điểm nào đó không đúng! Đây, đây là tư tưởng kiểu gì vậy chứ? Cho dù là chủ nghĩa khủng bố cực đoan cũng không đến mức muốn hủy diệt toàn bộ nhân loại kia mà? Chỉ có những tà giáo theo thuyết Ngày tận thế trong truyền thuyết, mới tuyên truyền loại lý luận diệt tuyệt nhân loại này? Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, rốt cuộc là một tổ chức như thế nào, rốt cuộc bọn họ truyền bá loại tư tưởng gì cho các thành viên của mình vậy? Không, sợ rằng ngay cả các tà giáo theo thuyết Ngày tận thế cũng không đáng sợ bằng bọn họ, mỗi một câu một chữ đều điểm thảng vào nhược điểm của nhân tính. Loài người không cần thiết phải tồn tại? Sự tồn tại của loài người, chỉ mang đếi hủy diệt và phá hoại, không có bất cứ ý nghĩa gì sao? Không, nhất định là có gì đó không đúng ở đây.

Lúc này, Đường Thọ chợt vẫy tay với Trác Mộc Cường Ba, nhẹ nhàng dụ hoặc: "Gia nhập với ta đi, Cường Ba thiếu gia, ta và ngươi giống nhau, chúng ta đều có thân phận Vu vương, chúng ta mới là lực lượng đại diện cho chính nghĩa. Đương nhiên, chính nghĩa này không chỉ đối với loài người, mà ở phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều, là chính nghĩa của toàn thế giới Chúng ta có thể cùng nhau khai sáng một thế giới hoàn toàn mới, thế giới này không do ý chí của con người dẫn dắt nữa, tất cả đều phù hợp và thuận theo quy luật của đại tự nhiên. Mỗi một giống loài, đều có đạo sinh tồn của riêng chúng. Mỗi một giống loài đều có giá trị hợp lý của chúng, đến nơi cần đến, đi nơi cần đi, đó mới là một thế giới hài hòa và hoàn mỹ chứ. Đến đây, ngươi có muốn biết chân lý của vũ trụ hay không? Ánh sáng chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi, bóng đêm mới là vĩnh hằng."

Trác Mộc Cường Ba lại giật thót mình, câu nói cuối cùng của y, cha gã cũng từng nói qua, "Ánh sáng chỉ là một khoảng khắc ngắn ngủi, bóng đêm mới là vĩnh hằng.” gã còn nhớ rất rõ, nhưng bấy giờ. cha gã còn nói thêm một câu nữa, khiến cho ý nghĩa của câu nói khác hẳn với ý tứ mà Đường Thọ muốn biểu đạt, thậm chí trái ngược. Nhưng lúc đó cha gã nói gì nhỉ? Trác Mộc Cường Ba không sao nhớ lại nổi.

Lúc này, pháp sư Á La là người đầu tiên tỉnh trí lại, ông hỏi ngược lại Đường Thọ: "Ngươi... ngươi... sao lại có suy nghĩ như vậy, chẳng lẽ, ngươi... ngươi không phải là người sao?"

“Người?” Đường Thọ đùng đùng nổỉ giận, hệt như con mèo bị giẫm phải đuôi, "Đừng đem ta ra so sánh với những sinh vật đê tiện các ngươi." Y nắm chặt bàn tay trái lại: “Ta mạnh mẽ hơn các ngươi,” rồi y chỉ tay vào đầu mình: “Ta có trí tuệ hơn các ngươi! Năm mười tám tuổi, ta đã dùng ba thân phận khác nhau lấy được ba học vị tiến sĩ thuộc ba lĩnh vực khác nhau ở ba trường đại học khác nhau!” Rồi y lại chỉ vào những người trước mặt và sau lưng mình: “Ta có thể thao túng vận mệnh của các ngươi, mọi hành trình và kế hoạch của các ngươi đều được tiến hành theo sắp xếp của ta. Chỉ có Thượng đế mới có năng lực như vậy, phải không hả? Nếu ở thời cổ, ta, chính là Thần, ta là vị thần độc nhất vô nhị! Ta không phải là người!”

Merkin chửi thầm trong bụng: “Thần? Thần cái cục cứt ấy, trong tổ chức Mười ba kỵ sĩ bàn tròn tùy tiện chọn ra đây một trung đội trưởng, đại đội trưởng, sợ rằng mày còn chẳng dám đánh rắm ấy chứ, chẳng qua chỉ ra vẻ trước mặt bọn ta mà thôi.”

Một luồng điện chạy dọc thân thể Trác Mộc Cường Ba, gã đột nhiên tỉnh táo nhận ra, kẻ đứng trước mặt mình là một tên điên hoàn toàn, một tên điên thực sự. Đây là một dạng điên cuồng khởi nguyên từ tín ngưỡng, đáng sợ hơn là, tên điên này lại giữ được lý trí tỉnh táo hơn bất cứ người bình thường nào khác, chẳng những vậy, trí thức của y cũng phong phú hơn người thường gấp bội... đây mới là điều đáng sợ nhất...

Đồng thời, Trác Mộc Cường Ba cũng hiểu rõ, ánh mắt đầy vẻ u uất, lại thoáng chút thương hại của Đường Thọ có ý nghĩa gì. Y nhìn người ta, chẳng khác nào nhìn một con kiến đã chết. Y tự nhận mình là Thần cao cao tại thượng, y nhìn con người cũng giống như con người đang quan sát một loài thực vật nguyên thủy bậc thấp nhất vậy. Cho dù trước mặt y có chết bao nhiêu người, xảy ra sự việc tàn nhẫn đến chừng nào, y cũng chỉ hờ hững quan sát, chẳng khác nào con người nhìn hai đàn kiến đánh nhau vạy thôi. Đây chính là ánh mắt của Đường Thọ, coi mạng người như mạng kiến, như cỏ rác. Không, sợ rằng trong mắt y, người thậm chí còn không bằng mạng kiến hay cỏ rác. Trên đời này sao lại có một kẻ như vậy chứ? Chẳng lẽ y không phải do cha sinh mẹ dưỡng hay sao?

Nghĩ đến cha mẹ Đường Thọ, trong óc Trác Mộc Cường Ba đột nhiên lóe lên một ý nghĩ, gã loáng thoáng nhớ mẹ Đường Thọ chết trong một vụ tai nạn xe cộ. Lúc mới biết thông tin này, gã cũng không cảm thấy gì, nhưng giờ đây liên tưởng đến thân phận Vu vương của Đường Thọ, rồi việc em gái mình bị bắt cóc, và cả cuộc chiến mấy chục năm giữa Mười ba kỵ sĩ bàn tròn và Mật tu giả... Vậy thì, vụ tai nạn xe cộ kia, sợ rằng cũng không phải là tai nạn. Nghĩ tới đây, Trác Mộc Cường Ba không kìm được buột miệng hỏi: “Cha mẹ mày, vụ tai nạn xe cộ đó.”

Đường Thọ đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, như thể vừa phát hiện ra một đại lục mới. Y cảm thấy rất bất ngờ, trong tình huống này, không ngờ gã vẫn duy trì được tư duy cẩn mật đến thế, lại còn liên tưởng được đến cái chết của cha mẹ y. "Năng lực tư duy này cơ hồ sắp sánh được với ta rồi. Tên Trác Mộc Cường Ba, khoảng thời gian hắn một mình ở tầng bình đài thứ ba rốt cuộc đã xảy ra biến dị gì nhỉ? Chỉ mới vài tháng ngắn ngủi thôi mà." Nghĩ đoạn, Đường Thọ trả lời: “Đúng, vụ đó không phải là tai nạn, là do người của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn gây ra.”

Trác Mộc Cường Ba lại càng không thể hiểu nổi, gã hỏi tiếp: "Vậy mày... vẫn còn bán mạng cho bọn chúng sao?" Đường Thọ ngược lại cũng lộ ra nét mặt như thể chính y cũng thấy khó hiểu trước câu hỏi của Trác Mộc Cường Ba: "Cha mẹ ta và ta, có quan hệ tất yếu gì chứ? Chẳng lẽ ngươi chưa từng nghe nói, mẹ và con, chẳng qua chỉ là quan hệ giữa túi đựng thóc và hạt thóc, còn cha và con, cũng chỉ là quan hệ giữa máy gieo hạt và hạt giống thôi sao. Thóc có thể đựng trong bất cứ cái túi nào, hạt giống cũng có thể tùy tiện bỏ vào cỗ máy gieo hạt nào cũng được, ta chẳng qua chỉ mượn thân thể họ để đến với thế giới này mà thôi, từ khi cuống rốn đứt đoạn, ta đã là một tồn tại độc lập, trên trời dưới đất, duy ngã độc tôn, dù cha mẹ ta là ai, ta cũng là vị Thần độc nhất vô nhị."

Trác Mộc Cường Ba lại thêm một lần chấn động, gã không thể ngờ Đường Thọ lại điên đến mức độ này. Sau vụ tai nạn xe cộ năm đó, Mười ba kỵ sĩ bàn tròn rốt cuộc đã làm gì với đứa bé trai mười một tuổi ấy nhỉ? Rốt cuộc phải trải qua những điều gì, mới khiến một người trở thành điên cuồng đến vậy? Đáng sợ nhất là, bọn họ lại có thể khiến kẻ ấy liều mạng học tập, không ngừng làm bản thân mạnh mẽ lên, mà tất cả mọi việc kẻ ấy làm, không ngờ lại chỉ vì... hủy diệt toàn bộ loài người!

Trác Mộc Cường Ba ném ánh mắt về phía Mẫn Mẫn, nếu Đường Mẫn này chỉ là một thế thân được Đường Thọ tuyển lựa để làm mê hoặc gã, vậy thì em gái của y đâu rồi? Đường Thọ đúng là có một cô em gái kia mà, nếu y đối với cha mẹ sinh thành ra mình còn có thái độ như thế, vậy thì em gái y... gã lại hỏi tiếp: "Vậy còn em gái mày..."

Đường Thọ mỉm cười, để lộ hàm răng trắng bóng ưa nhìn, nhẹ nhàng nói: "Em gái ta à, hồi nó mười sáu tuổi, ta đã luộc nó lên ăn hết rồi."

Trong ánh mắt kinh khủng của đám người Trác Mộc Cường Ba, Đường Thọ hờ hững nói như thể đó là một chuyện hết sức bình thường: "Bản thân là vị chân thần duy nhất, số mệnh đã định sẵn ta là tồn tại cô độc và không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Ta chỉ tuân theo truyền thống của tổ tiên, để linh hồn của em gái vĩnh viễn ở bên ta mà thôi, thế chẳng phải tốt lắm sao?"

Trác Mộc Cường Ba không tài nào hiểu nổi nữa, có thể khẳng định một điều, cái thứ đang đứng trước mặt gã đây, tuyệt đối không phải là người, mà là ma quỷ. Không. nó còn khủng khiếp hơn cả ma vương trong truyền thuyết, đáng sợ nhất là, nó luôn khoác lên 1ớp vỏ ngoài của con người, khi nó nói chuyện, không bao giờ để lộ ra nét mặt hưng phấn hay rồ dại. Ngay cả lúc pháp sư Á La nói nó cũng là người, chẳng qua nó cũng chỉ hơi nổi giận mà thôi. Từ đầu chí cuối, nó luôn giữ cho mình bộ dạng khiêm hòa nhã nhặn như một bậc quân tử đường hoàng. Thoạt nhìn bề ngoài, nó còn văn minh, còn lịch sự hơn hai kẻ quần áo rách rưới bẩn thỉu như Trác Mộc Cường Ba và Merkin. Thậm chí mỗi lời nó nói ra, còn toát lên khí chất của trí giả hay quý tộc, rốt cuộc kẻ này là con quái vật như thế nào đây? Rốt cuộc nó là dạng tồn tại kiểu gì?

Lúc này, Đường Thọ đã lại nói tiếp bằng ngữ điệu trầm bổng du dương của y: "Nhìn đi, chúng ta đến rồi, di sản của tổ tiên để lại cho chúng ta, lễ vật cuối cùng hiến tặng cho toàn nhân loại, đẹp biết bao!"

Lúc này, họ vừa xuống đến vòng cuối cùng của cầu thang xoáy ốc, phần đáy tòa tháp hình trứng đã hiện lên trước mắt. Ở chính giữa đáy tháp, có một Mạn Đà La nhỏ, tổng cộng có chín tầng, bốn tầng dưới hình vuông, tầng trên nhỏ hơn tầng dưới, trông như kim tự tháp. Bốn tầng trên nữa hình tròn, cũng tầng trên nhỏ hơn tầng dưới, giống như Thiên Đàn ở Bắc Kinh. Tầng trên cùng là một tòa sen lớn, trên tòa sen đặt ba bức tượng Phật vàng, mặt hướng vào trong. Ba bức tượng này tạo thành một hình chữ phẩm(55), chính giữa là mộtt quả trứng lớn bằng vàng, cao đến hai ba mét, nhìn xa trông như một quả trứng gà màu vàng dựng đứng. Nếu nhìn kỹ hơn sẽ phát hiện, bề mặt quả trứng vàng ấy toàn bộ đều do những bức tượng Phật nhỏ xíu ghép lại mà thành, khoảng hai phần ba bên dưới quả trứng bị khoét rỗng, điêu khắc thành hình lầu các, bên trong đặt ngay ngắn một cái hộp. Cái hộp đó rất giống với cái hộp dài mà bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy trong tấm ảnh thời Thế chiến thứ Hai. Ngoài Mạn Đà La ở trung tâm, xung quanh còn có vô số kinh quyển chất chồng như những ngọn núi nhỏ, mỗi đống cao từ ba đến năm mét, tổng cộng áng chừng không dưới một trăm đống như thế, có lẽ vì những ngăn kéo trên thân tháp đều đã đầy chặt nên không nhét đống kinh sách này vào được.

Mấy chục bậc thang cuối cùng này, ngoài Đường Thọ và đám lính đánh đánh thuê kia, bọn Trác Mộc Cường Ba ai nấy đều như đội cả trái núi lên lưng mà đi trên mặt băng mỏng. Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam ra sức đưa mắt ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba và Merkin, bất kể dùng cách gì, cũng nhất định phải ngăn cản tên điên này lại. Nhưng muốn ngăn Đường Thọ đâu có dễ, pháp sư Á La và Lữ Cánh nam vẫn đang bị trói tay, ở giữa còn bị mấy tên lính đánh thuê ngăn cách. Từ đầu đến giờ, Đường Thọ chỉ dùng tiếng Trung, bọn lính đánh thuê kia nghe chẳng hiểu gì, cho dù bây giờ Merkin nhảy ra hét lên bằng tiếng Nga rằng thằng này bị điên rồi, hắn muốn giết tất cả chúng mày đấy, e rằng chỉ đổi được một trận cười chế giễu của bọn chúng mà thôi, Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam không ngừng ngọ nguậy cổ tay hòng cởi dây trói, đồng thời, ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba, bảo gã dùng lời nói kéo dài thêm chút thời gian nữa.

Tâm tư Trác Mộc Cường Ba rối bời, vô số suy nghĩ chạy tán loạn trong đầu, biết nói gì mới có thể làm chậm lại hành động của tên này đây? "Ha ha!" Gã đột nhiên bật cười hai tiếng: “Tao thừa nhận, câu chuyện của mày rất đặc sắc, suýt chút nữa tao cũng bị gạt rồi. Trên đời làm gì có thứ gì như vậy chứ? Nếu nó thật sự đáng sợ nhường ấy, sao nơi này, lại vẫn có người sinh sống? Chẳng những vậy, họ cũng đâu có biến thành những kẻ si đần. Nếu thứ vật chất ấy tồn tại thật, hậu duệ của Đông Bản Ba sao còn có thể tiếp tục nghiên cứu thêm cả trăm năm nữa?”

Đường Thọ không hề dao dộng, hờ hững đáp: “Ta kể câu chuyện này cũng chẳng phải để các ngươi tin ta. Có điều, ta vẫn có thể giải đáp thăc mắc này của ngươi. Đầu tiên, ta đã nói, loại vật chất này sau khi rơi vào trạng thái ủ bệnh, trước khi phát bệnh lần thứ hai sẽ không còn tính truyền nhiễm nữa, vì vậy, mặc dù Đạo quân Ánh sang đi từ tầng bình đài thứ nhất lên đến tầng bình đài thứ ba, qua lãnh thổ của tất cả các bộ lạc, còn xây dựng cho những bộ lạc này khá nhiều cơ sở hạ tầng, song họ không hề truyền nhiễm thứ cật chất kia cho các cư dân bộ lạc. Còn việc tại sao họ có thể duy trì nghiên cứu hơn một trăm năm, ngươi dừng quên, việc xây dựng Bạc Ba La thần miếu cần chiêu mộ một lượng lớn dân công. Ta không rõ Đạo quân Ánh sáng đã tìm ra cách gì, nhưng hiển nhiên họ có thể biết trước người nào sắp sửa phát bệnh, nên đã xây dựng khu vực riêng dành cho những người này sử dụng. Mặt khác, trong đám dân công được chiêu mộ đó, tuyển lựa ra những kẻ cường tráng nhất, huấn luyện thành lực lượng cốt cán mới cũng là bản lĩnh sở trường của Đạo quân Ánh sáng, vì vậy, bọn họ vẫn được tiếp thêm dòng máu mới thay thế những người chết đi, chỉ cần làm tốt công tác cách ly những người sắp sửa phát bệnh là được. Còn về hậu duệ của Đông Bản Ba... điểm này ta cũng rất nghi hoặc, không biết có phải trời cao chiếu cố hay không, Tứ đại Vu vuong năm đó cơ hò đều tiếp xúc rất mật thiết với những người cảm nhiễm, nhưng họ không sao cà. Dưởng như trong cơ thể họ đều có sức đề kháng tự nhiên với loại vật chất này. Nói không chừng, đây chính là sức mạnh của Vu vương cũng nên. Vì vậy, trên lý thuyết, ba người chúng ta cũng không phát bệnh, đây là một trong những nguyên nhân ta mời ngươi gia nhập, bằng không, với trí tuệ và thực lực của ngươi, dựa vào cái gì mà được hưởng địa vị ngang hàng với ta chứ."

Đường Thọ đã bước xuống cầu thang, đi thằng về phía Mạn Đà La. Trác Mộc Cường Ba ngấm ngầm bước chậm lại, đi song song với Merkin, kẹp Đường Thọ vào giữa. Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam cũng bị bọn lính đánh thuê áp giải đi xuống, bọn họ hơi rao rchaan bước nhanh, từ từ áp sát Đường Thọ. Còn Mẫn Mẫn, lúc này tạm thời không ai rảnh trí để không cho cô, bị lọt lại phía sau cùng.

Đường Thọ giơ ngón tay trỏ lên, khẽ đung đưa trước mặt, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Phải rồi, cái hộp này, chắc các ngươi đã từng thấy trong quá trình tìm kiếm tư liệu rồi, Ở Cổ Cách, có một cái hộp giống hệt như vậy, sau này bị Morgan Stanley lấy đi. Thời Thế chiến thứ Hai, nó rơi vào tay quân Đức, Hitler còn tưởng vớ được của báu, chỉ đáng tiếc, bên trong lại chẳng có gì cả...”

Đường Thọ đã bước lên bậc thang cảa tầng Mạn Đà La thứ nhất, đúng lúc này, pháp sư Á La hét lớn: “Ra tay!”

Trác Mộc Cường Ba và Merkin cùng lúc giáp công Đường Thọ, pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam cũng giằng dây trói trên tay ra. Lữ Cánh Nam vừa ra tay liền nhằm vào hai tên lính đánh thuê ở bên cạnh, cồn pháp sư Á La lách người lao lên, vòng qua tên lính đánh thuê trước mặt bằng một loại bộ pháp kỳ dị, tấn công váo lưng Đường Thọ

PHẦN 80

CÂU CHUYỆN NGHÌN NĂM TRƯỚC

Chương 52

LIỀU MẠNG

    

ường Thọ trông có vẻ ung dung hờ hững, nhưng Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa hành động, y lập tức có phản ứng ngay, hai cánh tay dang rộng. Y thấp người, cánh tay ngắn, song lại xuất phát sau mà đến trước. Đây là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba lĩnh ngộ được, thế nào gọi là tốc độ.

Sải tay Đường Thọ vốn không dài bằng bằng Trác Mộc Cường Ba và Merkin, nhưng tốc độ của y quả thực nhanh đến khó bề tưởng tượng. Nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba còn chưa đến nơi, tay Đường Thọ đã liên tiếp vỗ ba cái trên cánh tay gã, buộc Trác Mộc Cường Ba không thể không lui lại phòng ngự.

Đối với tốc độ của Đường Thọ, Merkin cũng có nhận thức nhất định, vì vậy, y không dùng nắm đấm, mà hai tay cùng vươn ra định chộp lấy đối phương như chim ưng bắt rắn. Vốn dĩ tưởng rằng đã chụp trúng đến nơi, nhưng cánh tay kia của Đường Thọ quả thực quá quái dị, khớp xương vai xoay chuyển đúng ba trăm sáu mươi độ, khớp cùi chỏ xoay ba trăm sáu mươi độ, khớp cổ tay cũng xoay ba trăm sáu mươi độ, con rắn độc thoắt cái đã nhẹ nhàng thoát ra vươn lên, nhằm vào cằm Merkin mổ một cái. Merkin vội ngửa đầu rụt tay về.

Lúc này, pháp sư Á La đã vọt ra phía sau lưng Đường Thọ. Lữ Cánh Nam cũng lật cổ tay, dùng thuật Cầm nã thủ đoạt lấy khẩu súng trên tay tên lính đánh thuê gần cô nhất. Hai tay Đường Thọ đang vướng víu với Trác Mộc Cường Ba và Merkin, tư tưởng vốn đã bị phân tán, nhưng đối với đòn tấn công của pháp sư Á La, dường như cũng đã có đề phòng từ trước. Chỉ thấy y không chút hoảng hốt, đợi pháp sư Á La lao đến một khoảng cách nhất định, chân phải liền bật tung lên như đuôi bò cạp, khớp gối, và mắt cá chân cũng cực kỳ linh hoạt, nào móc, nào đỡ, nào chặn, nào đạp, nào quấn... chẳng khác nào cánh tay người thường. Chẳng những vậy, gót chân và mũi chân y luôn nhằm vào vết thương trước ngực của pháp sư Á La để công kích. Pháp sư không thể không dùng hai tay phòng thủ vết thương, không sao áp sát lại gần được.

Đường Thọ đồng thời ứng phó với ba hướng tấn công, song lại vẫn có thể gây áp lực lên cả ba, khiến mỗi người bọn Trác Mộc Cường Ba đều cảm thấy mình đang toàn lực chiến đấu với một kẻ địch đơn độc. Chẳng những vậy, thứ tự xuất chiêu, tốc độ, động tác của đối phưong cũng hoàn toàn khác nhau, tên Đường Thọ này, không ngờ lại có thể phân tâm làm ba việc cùng một lúc như vậy. Trác Mộc Cường Ba phải dồn hết sức vào hai tay, mới miễn cưỡng theo được tốc độ tay trái của Đường Thọ. Tốc độ của Merkin, có vẻ nhanh hơn tay phải của Đường Thọ một chút, nhưng sức mạnh của cánh tay này lại cực lớn, Merkin đã hai lần khóa được cánh tay đối thủ, song lần nào cũng như chụp phải cây cột sắt, thoáng cái đã bị đối phương giằng ra. Thậm chí còn sém chút nữa bị Đường Thọ lợi dụng thời cơ phản công lại. Còn pháp sư Á La cũng bị cẳng chân như đuôi bọ cạp kia của y phong tỏa, bàn chân không ngừng nhằm vào vết thương của pháp sư mà tấn công liên tiếp, khiến ông nhất thời không thể thi triển quyền cước. Chẳng những vậy, Đường Thọ còn dồn ép khiến cho thân hình pháp sư Á La luôn ở trên cùng một đường thẳng với họng súng của Lữ Cánh Nam, làm cô không tìm được khe hở nào để xạ kích.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin triển khai giáp công từ hai bên trái phải, pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam giằng thoát dây trói, pháp sư Á La lao lên trước, Lữ Cánh Nam đoạt súng, rồi Lữ Cánh Nam giành được khẩu súng về tay thì pháp sư đã bị áp chế, toàn bộ quá trình ấy chỉ diễn ra trong khoảng hai giây đồng hồ. Trong hai giây ngắn ngủi này, Đường Thọ đã thể hiện thực lực kinh người của y, đứng trên một chân, thân thể vươn ra trước, hai tay và một chân lần lượt tấn công ba người khác nhau. Chẳng những vậy, còn ung dung lấn lướt cả ba người đó. Hai giây trôi qua, bọn lính đánh thuê xung quanh đã có phản ứng, vội vàng giương súng lên ngắm. Trong hai giây đó, Lữ Cánh Nam không sao tìm được cơ hội nổ súng, giờ đây thời cơ đã mất, có thể đảm bảo sự an toàn của pháp sư và Trác Mộc Cường Ba hay không chỉ còn dựa vào mình cô. Bất đắc dĩ, cô đành xoay chuyển họng súng, nhắm vào bọn lính đánh thuê điểm xạ.

Bon linh đánh thuẻ này mặc dù phản ứng không nhanh bằng những người đã được huấn luyện đặc biệt như Lữ Cánh Nam và Trác Mộc Cường Ba, nhưng tên nào tên nấy cũng đều là những kẻ dạn dày kinh nghiệm sống sót trên những chiến trường khốc liệt nhất, bản thân đã có một thứ khí thế bá đạo không biết sợ chết. trong không gian chật hẹp như vậy, chúng cũng không chút e dè mà giương súng lên bắn tán loạn.

Trác Mộc Cường Ba dáng người cao lớn là mục tiêu rất nổi bật, bọn lính đánh thuê sớm đã ôm hận trong lòng với gã, cả mấy khẩu súng cùng lúc chĩa về phía gã. Trác Mộc Cường Ba ít nhiều cũng được Lữ Cánh Nam huấn luyện chiến đấu cận thân dùng súng, biết rằng tốc độ con người thế nào cũng không thể nhanh hơn đạn bắn, bới vậy, yếu lĩnh của thuật chiến đấu cận thân chính là, tránh họng súng của kẻ địch vào khoảnh khắc trước khi hắn lẩy cò. Nhưng khi gã né tránh, muốn tiếp cận Đường Thọ còn khó hơn lên trời nữa.

Trác Mộc Cường Ba quên mất gã đang chiến đấu với ai, chỉ một thoáng do dự ấy, lập tức đã bị Đường Thọ nắm bắt cơ hội. Cánh tay Đường Thọ vươn ra, chộp tới, định níu vào bả vai Trác Mộc Cường Ba. Chiêu này của y, chính là để thân thể Trác Mộc Cường Ba hướng đúng về phía họng súng của bọn lính đánh thuê. Trác Mộc Cường Ba phản ứng theo bản năng, xoay hông lùi về hòng chống lại sức mạnh của Đường Thọ, đồng thời vung tay định đánh vào cánh tay và mặt đối phương. Không ngờ, cú chộp vào bả vai ấy của Đường Thọ chỉ là hư chiêu, Trác Mộc Cường Ba vừa lùi lại, y đã lập tức tức rút súng cầm trên tay. Vì cả người giật lùi về phía sau, nắm đấm của gã cũng không thể đánh trúng mục tiêu. Khi nhận ra ĐườngThọ giở trò, thân thể gã lại hơi vươn ra phía trước. Chẳng ngờ, Đường Thọ chính là đang đợi gã làm vậy. y vừa nổ súng nhắm vào vai Trác Mộc Cường Ba, đồng thời, nắm chặt tay, cánh tay rung lên phát ra tiếng “u u” như ong đập cánh. Trác Mộc Cường Ba nghiêng người ra trước, chẳng khác nào giơ thân thể ra cho Đường Thọ đánh, cả mấy cú đấm đều nhằm vào một vị trí trên trán. Bản thân Trác Mộc Cường Ba cũng không biết mình trúng phải năm hay bảy hay chín cú đấm nữa, cùng lúc mấy chỗ khác trên người gã cũng tê rần rần, hằn là đã trúng đạn.

Nắm đấm của Đường Thợ giật đi giật 1ại trong khoảng cách chưa đầy mười xăng ti mét, phát lực chỉ trong chớp mắt, dùng tốc độ kinh người đó để bù đắp lại khoảng cách. Người đứng bên cạnh quan sát, chỉ thấy nắm đấm Đường Thọ kêu lên "u u" chạm vào trán Trác Mộc Cường Ba một cái, gã đã loạng choạng bật ngửa người ra rồi.

Đồng thời, chân kia của Đường Thọ cũng tăng thêm sức ép lên pháp sư Á La. Lữ Cánh Nam phải dè chừng bọn lính đánh thuê, không thể tạo nên uy hiếp gì với y được nữa, vì vậy y cũng không cần mất công áp chế pháp sư Á La phải luôn ở trên cùng một đường thẳng với nòng súng của cô nữa. Xương lồng ngực của pháp sư Á La đã gãy lìa, mặc dù ông đã dùng sức mạnh của cơ bắp gượng ép lại, nhưng mỗi lần hô hấp, mỗi lần tim đập, ít nhiều đêu có ảnh hưởng. Đối với một Mật tu giả, không thể hít thở bình thường chẳng khác nào bị phế đi một nửa võ công. Sau mấy lần giao phong, Đường Thọ đột nhiên dồn sức vào chân, khiến pháp sư Á La tuy đã dùng hai cánh tay chặn được cú đá của y, song vẫn phải loạng choạng lùi lại mấy bước vì lực đạo quá mạnh.

Phía bên này, chỉ có Merkin đang quần thảo với tay phải của Đường Thọ là giành được ưu thế nhất định. Mặc dù hết lần này đến lần khác khóa chặt được cánh tay đó nhưng Merkin cũng không dám dốc hết toàn lực, bởi trong ký ức của y, tốc độ và sức mạnh của tay phải Đường Thọ ít nhất cũng gấp đôi tay trái! Làm sao y có thể dễ dàng khóa chặt được nó như vậy chứ? Chắc chắn có gì gian trá ở đây!

Merkin chỉ thoáng do dự một khoảnh khắc, Đường thọ đã nắm bắt cơ hội, cùng lúc tăng cường thế công vào hai phía còn lại, đẩy lùi Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La.

Đến khi Merkin tỉnh ngộ ra rằng cánh tay này của Đường Thọ rất có thể đã gặp phải vấn đề gì thì Đường Thọ đã ra tay với y. Chỉ thấy thân thể Đường Thọ tiếp tục chúc xuống, trán gần chạm vào đùi non, kế đó cẳng chân vừa tấn công pháp sư Á La liền bật lên như đuôi bò cạp, đá thảng vào mặt Merkin. Đồng thời, tay phải đang bị Merkin khóa chặt cũng lật ngược lại tóm lấy cánh tay y.

Chiêu này Merkin nhận ra được, gọi là "Bọ cạp bật đuôi", sức lực toàn thân dồn cả vào một điểm, chỉ công không thủ, lực bạo phát cực kỳ đáng sợ. vả lại, chân hất lên từ phía sau, góc độ so với chân trụ còn lại phải lớn hơn một trăm tám mươi độ mới tấn công được kẻ địch ở trước mặt, người bình thường căn bản không thể làm ra động tác kiểu ấy. Trước thế tấn công quái dị, Merkin nào dám lấy cứng chọi cứng, vội vàng buông tay lui về. Nhưng góc độ ngửa ra sau của Merkin không lớn lắm, bởi y biết chiêu này có một nhược điểm, vì cú đá dồn hết sức lực toàn thân, có ông không thủ, nên một khi không trúng mục tiêu, người xuất chiêu chắc chắn sẽ lộ ra khoảng trống, đây chính là thời cơ phản kích tốt nhất dành cho y.

Đầu Merkin hơi ngả ra sau, vừa khéo tránh được cú đá chết người ấy, gió rít qua mặt u thậm chí còn hơi ran rát. Nhưng từ làn gió rát rạt ấy, Merkin chỉ đoán được Đường Thọ không kịp thu chân về phòng thủ, vì vậy, y chỉ hơi ngửa đầu ra sau một chút, rồi lập tức bật người lao lên.

Không ngờ, Merkin lại phạm phải cùng một sai lầm với Trác Mộc Cường, cú đá ấy của Đường Thọ tốc độ hung mãnh, nhưng y căn bản không hề có ý định thu chân về. Y sớm đã tính toán được Merkin sẽ phản ứng thế nào trước đòn tấn công này, vì khi cao thủ đối đầu, tốc độ quá nhanh, thường thường không kịp suy nghĩ quá nhiều, đa phần đều phản ứng và phán đoán dựa trên trực giác. Nhưng trước khi xuất chiêu, Đường Thọ đã tính toán đến mọi phản ứng của đối thủ rồi, “đuôi bà cạp” của y đâm ra, thoạt nhìn có vẻ hung mãnh, nhưng lại chỉ là giả bộ, sau khi đá trượt, gót chân của Đường Thọ đã hơi xoay chuyển, eo hông phát lực, thân trên nhấc lên, rồi trầm xuống, thân thể đột nhiên tăng tốc xoay một vòng ba trăm sáu mươi độ. Cẳng chân đá ra lúc này vạch một quỹ tích hình tròn trên không trung. Lần này, cộng với lực xoay của thân trên, tốc độ cú đá lại càng nhanh hơn, lực đạo càng mạnh hơn nữa. Đầu Merkin vừa ngửa ra sau lại vừa khéo vươn ra trước, rõ ràng nhìn thấy bàn chân Đường Thọ lấy bản thân y làm trung tâm, vạch một vòng tròn quật tới, song không kịp rút đầu né tránh, liền trúng ngay một cước vào giữa mặt.

Lực đạo của cú đá này rất mạnh, Merkin thân hình to lớn vậy mà cũng như bị người khổng lồ xòe tay tát cho một cú, ngã vật ra đất. Đường Thọ thu chân lại, hai chân đứng thảng trên bậc thang Mạn Đà La. Trong cả đám người, lúc này, y đang ở vị trí cao nhất. Y khinh khỉnh cúi xuống nhìn những kẻ bên dưới, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều đã ngã gục, pháp sư Á La bị đẩy lùi vào giữa một đám lính đánh thuê, còn Lữ Cánh Nam vẫn đang lượn lờ du đấu với bọn lính đánh thuê. Đường Thọ bộ dạng hào khí can vân, hừ lạnh nói: "Châu chấu đá xe, không biết tự lượng sức, hừ, trong đám người các ngươi, cũng chỉ có lão già tên Tháp Tây kia là có thể khiến ta e ngại phần nào, tiếc rằng, lão ta thậm chí còn chẳng lên được tầng bình đài thứ ba này. Còn các ngươi, nói khó nghe một chút, ta đấu với các ngươi, đấy gọi là bắt nạt các ngươi thôi."

Lời vừa dứt, Đường Thọ nhìn pháp sư Á La tả xung hữu đột giữa làn mưa đạn, đánh ngã hai tên lính đánh thuê, cơ hồ lại muốn lao tới. Y cười khẩy: "Giờ đã không cần đến các ngươi nữa rồi." Chỉ thấy y xoay người, tay phải vung lên "vù" một tiếng, một bức tượng Phật cao ngang người ở tầng thứ nhất của Mạn Đà La đã bay bổng lên, bắn thẳng về phía pháp sư Á La.

Pháp sư Á La vừa đẩy lùi hai tên lính đánh thuê cầm súng, chỉ thấy một vật thể đen to tướng lù lù bay vút tới, vội vàng giơ cánh tay lên cản lại. Nhưng đà lao của bức tượng quá lơn, không ngờ lại hất văng cả pháp sư Á La, cả người lẫn tượng cùng đập vào một đống kinh sách, bấy giờ mới dừng lại. Bức tượng nặng nề đè lên cơ thể pháp sư, không chỉ khiến xương lồng ngực ông gãy ra lần nữ, mà ngay cả mấy cọng xương sườn ở hai bên cũng bị đè gãy nốt. Pháp sư Á La gắng sức đẩy bức tượng đè trên người mình ra, ngây ngươi nhìn kẻ đáng sợ đang đứng trên Mạn Đà La. Bức tượng vàng này ít nhất cũng phải năm trăm cân, vậy mà y chỉ hất tay một cái đã khiến nó bay xa như thế, lại còn kèm theo lực đạo lớn chừng ấy nữa. Không, đó tuyệt đối không phải sức mạnh của con người, tên này sao có thể làm được điều ấy chứ?

Pháp sư Á La khó nhọc nhổm dậy, đột nhiên toàn thân ông giật nẩy như bị chích điện. Ông cảm nhận rõ ràng, máu trong cơ thể mình không chảy theo các mạch máu nữa mà ào ào tuôn ra ngoài. Pháp sư Á La ấn tay lên chỗ xương lồng ngực bị gãy, lập tức hiểu ra, trái tim... đã vỡ rồi!

“Pháp sư, pháp sư...” lúc này, một người khóc lóc chạy đến. Pháp sư Á La nhìn gương mặt đầm đìa nước mắt của Mẫn Mẫn, khẽ mỉm cười, giúp cô cởi dây trói, rồi chỉ về phía bậc thang, thều thào nói: “Đi, giúp Cường Ba thiếu gia!”

Trác Mộc Cường Ba đã đứng dậy được, nhưng vẫn còn choáng váng. Gã giống như kẻ vừa bị một võ sĩ quyền Anh hạng nặng đánh ngã vậy, nhìn thứ gì cũng nhập nhòa mờ ảo, hai chân nhẹ bẫng bay bổng, chỉ lờ mờ trông thấy một bóng người đang chầm chậm bước về phía mình.

Đường Thọ đi tới trước mặt Trác Mộc Cường Ba lạnh lùng nói: "Ta đã cho ngươi cơ hội, nhưng ngươi lại dùng hành động này để trả lời ta. Ngươi đã lựa chọn như vậy, thì ta cũng giúp ngươi hoàn thành tâm nguyện, kẻ nào chắn đường ta, đều không cần phải tồn tại trên đời này nữa!" Dứt lời, Đường Thọ hít sâu một hơi, khoang ngực phồng lên như trống, kế đó, những khớp xương trên tay phải, từ bả vai cho đến các khớp ngón tay cùng lúc phát ra một tràng tiếng răng rắc rợn người, hai bàn tay nắm lại, cùng lúc đấm ra!

"Đừng!"

"Đừng!"

Trác Mộc Cường Ba vẫn đang choáng váng, căn bản không kịp né tránh. Đường Thọ toàn lực tung ra hai cú đấm, chợt nghe có hai tiếng hét kinh hoảng, rồi hai bóng người lao đến chắn trước mặt Trác Mộc Cường Ba. Thế công của Đường Thọ không hề ngừng lại, hai nắm đấm thụi mạnh vào hai bóng người kia, hất bọn họ văng lên ra xa. "Phì, chỉ biết nhờ đàn bà bảo vệ mình thôi à?" Đường Thọ lại xoay người quét ngang một đòn, Trác Mộc Cường Ba liền bị y đá bay lên không trung như một bao cát.

Merkin cũng đã đứng dậy, hat tay nắm chặt, đứng cách Đường Thọ chừng bốn năm bước, hoảng sợ nhìn sự việc vừa phát sinh. Đường Thọ chợt quay phắt đầu lại, trợn mắt quát: "Ngươi còn dám động thủ vớí ta à!" Ảnh hưởng của một màn kinh thế hãi tục vừa rồi vẫn chưa hết, Merkin sững người, không dám nhao lên nữa. Đường Thọ ngửa đầu, cười lớn, sải chân bước lên đỉnh Mạn Đà La.

Trác Mộc Cường Ba rơi xuống một đống kinh sách, lực va đập giảm đi một phần đáng kể. Đầu óc của gã cũng tỉnh táo lại phần nào, gã vừa ngẩng đầu lên. liền trông thấy pháp sư Á La.

Một con người, trong mấy phút cuối cùng của cuộc đời, sẽ làm điều gì? Pháp sư Á La nằm giữa đống kinh sách, bình tĩnh cầm từng quyển từng quyển bên cạnh lên, rnở ra, nhìn những hàng chữ ngưng kết trí tuệ của người xưa, mỉm cười thỏa mãn, rồi lại cẩn trọng gấp lại, đặt sang phía bên kia. Tim ông đã ngừng đập, nhưng pháp sư lại dùng ý chí của mình khống chế cơ bắp và nội tạng, để máu vẫn có thể tuần hoàn một cách yếu ớt. Chỉ có điều, loại bí pháp duy trì sinh mạng của Mật tu giả này cũng không giúp ông cầm cự được mấy thời gian. Khi Trác Mộc Cường Ba rơi xuống bên cạnh, pháp sư Á La đã chẳng còn hơi sức để ngẩng đầu lên nữa rồi.

Trác Mộc Cường Ba quơ cả tay lẫn chân, bò lên trên đống kinh sách chất cao như trái núi nhỏ, đến trước mặt pháp sư Á La gào lên: "Pháp sư, pháp sư Á La!"

Pháp sư Á La rời ánh mắt khỏi cuốn kinh trong tay nhìn Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên hết sức trịnh trọng lần tìm một quyển trong đống kinh đã xem qua ở phía bên người, run run giơ lên, đến khi Trác Mộc Cường Ba nắm chặt quyển kinh đó trong tay, pháp sư Á La mới nở một nụ cười, nói lời trăng trối cuối cùng: “Cường Ba thiếu gia, sống... phải nỗ lực...”

Vừa cất tiếng, hơi thở pháp sư liền bị phân tán, một hơi thở ra, không sao hít vào được nữa. Trác Mộc Cường Ba vẫn nắm chặt quyển kinh trong tay, nhìn ông già gầy guộc đó mỉm cười hiền hòa nằm lặng trong đống kinh sách, đột nhiên gầm lên một tiếng chấn động cả tòa tháp: “Pháp ư Á La!”

Trước khi Trác Mộc Cường Ba hét lên, Đường Thọ đã đứng trên đỉnh Mạn Đà La, cái hộp hình chữ nhật bên trong quả trứng vàng đã nằm trong tầm với của y, cho dù Đường Thọ giỏi kiềm chế mấy chăng nữa, đến thời khắc này, y cũng không sao nhịn nổi tiếng cười đắc ý.

Đứng trên điểm cao nhất, y ngoảng xuống nhìn một đám người bé nhỏ, cảm giác hào hùng “trời cao đất rộng, ta đây lớn nhất”, y vươn tay ra, chạm vào chiếc hộp nhỏ, khoái cảm “hộp báu về tay, đất trời là của ta” dào dạt dâng lên. Đường Thọ không chút do dự, cầm chiếc hộp lên.

“Tách tách...” Cả quả trứng vàng bốc lên một lớp sương mỏng mảnh. Ở chỗ Đường Thọ vừa nhấc cái hộp đi, một thứ trông như tim đèn bằng đồng bật lên. Đường Thọ thoạt đầu ngạc nhiên, sau đó cười khổ, thật không ngờ người xưa lại thiết đặt cơ quan cả ở chỗ này, vả lại còn là loại chốt đè đơn giản nhất, càng không thể ngờ, bản thân y lại không thể tính trước được điều này. Xem ra, những người Qua Ba cổ đại kia mới gọi là thực sự nhìn thấu bản tính của con người! Đường Thọ cũng muốn xem rõ cơ quan này rốt cuộc để làm gì, nhưng y không dám mạo hiểm ghé mắt nhìn vào cái lỗ đó, đang ngẫm nghĩ, chợt nghe “xì...” một tiếng dài, dường như có khí thể từ bên dưới chốt đè phun lên, nhưng không thấy khói. Đúng lúc này, tiếng hét của Trác Mộc Cường Ba vang lên khắp tòa tháp hình trứng.

Đường Thọ mặc kệ Trác Mộc Cường Ba gào hét, chun mũi hít hít, thấy có mùi lưu huỳnh rất nặng, trong lòng thầm nhủ: “Lẽ nào là... “ Y hiểu rất rõ, khí thể phun lên không có khói kia là hơi nước ở nhiệt độ rất cao. Vì nhiệt độ quá cao, nên mới không nhìn thấy, cộng với mùi lưu huỳnh xộc mũi nữa, khá giống những dấu hiệu trước khi núi lửa bùng phát, mà vị trí của bọn họ lúc này, có lẽ cách dòng sông dung nham kia không xa lắm. Chẳng lẽ, cái hộp nhỏ này lại có thể áo chế núi lửa bùng phát sao? Quả trứng vàng bị khí thể vô hình kia liên tục phun vào, phần phía trên bắt đầu từ từ tan chảy. Đường Thọ lúc này đã lùi ra xa bốn năm bước, hơi nóng hừng hực thốc vào mặt. Đã đến nước này, y nào dám tìm hiểu xem rốt cuộc đây là cơ quan gì nữa. Người Qua Ba cổ đại không hiểu đã dùng cách thức gì áp chế núi lửa suốt hơn nghìn năm, giờ đây cơ quan đã bị phá, xem ra núi lửa lại sắp phun trào, toàn bộ Bạc Ba La thần miếu này, sẽ bị nhấn chìm trong nham thạch nóng chảy!

Đường Thọ ngoảng đầu lại. Trác Mộc Cường Ba cũng đang quay sang phía y, cặp mắt bùng lên ngọn lửa phẫn nộ.

Đường Thọ nhếch mép cười nhạt, lại đưa mắt nhìn quả trứng vàng có thể phun trào dung nham bất cứ lúc nào kia, lớn tiếng nói: “Các ngươi cứ chơi từ từ, ta đi trước một bước đây!” Dứt lời, tay phải vung lên, một sợi dây kim loại vọt ra khỏi ống tay áo, bắn về phía vách tường tòa tháo. Sợi dây này, không ngờ lại vươn xa đến bốn năm chục mét. Đây chính là nguyên mẫu của dây móc mà bọn Trác Mộc Cường Ba phỏng chế sử dụng, nhưng thứ này lớn hơn, xạ trình xa hơn, tốc độ leo trèo cũng nhanh hơn gấp bội.

Dây kim loại căng ra, Đường Thọ tung mình nhảy lên, một tay cầm hộp, tay kia như thể bám vào dây cáp của thang máy, cả người lao vút lên không, thoắt cái đã lên cao bốn năm chục mét, y vung tay, lại vọt lên thêm bốn năm chục mét nữa, chỉ trong chớp mắt đã biến thành một chấm nhỏ rồi biến mất.

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 81

KẾT THÚC BẰNG MỘT TẤM ẢNH

Chương 52

NHÌN EM MỘT LẦN ĐI

    

ọn lính đánh thuê vẫn lăm lăm tay súng, bấy giờ mới phát hiện kẻ chủ sự của mình đã chạy mất, còn đang dáo dác nhìn quanh không biết phải làm sao, cả tòa tháp hình trứng đã rung lên bần bật, mặt đất chấn động càng lúc càng mạnh. Chợt có tên hét lớn: "Xem kìa!" Chỉ thấy ở trung tâm Mạn Đà La, quả trứng vàng đã tan chảy, đài sen bên dưới đang phun một thứ vật chất đỏ rực, hệt như pháo hoa ngày Tết nhưng lại có nhiệt độ cực cao. Không ai là không nhận ra, đó chính là dung nham núi lửa đang phun trào.

Lấy hố phun trào đó làm trung tâm, Mạn Đà La đang từ từ tan chảy. Cái hố càng lúc càng lớn, dung nham phun lên càng lúc càng nhiều, bọn lính đánh thuê đến thời điểm này mới trở nên hoảng loạn, chẳng còn để ý gì đến mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba nữa, nháo nhác chạy ùa lên bậc thang xoắn ốc.

Trác Mộc Cường Ba bước xuống khỏi đống kinh sách, gã nhớ rất rõ ràng, vừa nãy khi Đường Thọ tung ra hai cú đấm chí mạng đó, đã có hai bóng người đỡ đòn thay cho gã. Gã vòng sang phía bên kia Mạn Đà La, chỉ thấy Đường Mẫn, à không, phải nói là Fusaki và Lữ Cánh Nam, một người nằm ở góc tường, một người gục xuống đống kinh sách, cách nhau khoảng bốn năm chục mét, đều không gượng dậy nổi.

Một cảm giác lạnh lẽo chảy tràn trong lòng Trác Mộc Cường Ba, không, không thể nào! Gã đột nhiên tăng tốc, chạy tới chỗ Lữ Cánh Nam. Muốn tới chỗ cô, gã nhất thiết phải chạy qua bên cạnh Fusaki. Trác Mộc Cường Ba dằn lòng, nghiến răng, lặng lẽ bước qua người Fusaki, đang định đi tiếp, chợt bị Fusaki tóm lấy một ống quần. Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại, thở dài nói: "Cô Fusaki…"

"Không…" Giọng nói yếu ớt của Đường Mẫn vang lên, "gọi em… gọi em là Mẫn Mẫn!"

Âm thanh ấy thật thân thuộc biết bao, Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng không ghìm lòng được, mở mắt ra nhìn Mẫn Mẫn. Gã vừa ngoảnh đầu lại liền trông thấy đôi mắt trong veo ấy, nước mắt lấp lánh, thực sự đáng thương vô cùng. Vốn dĩ, ánh mắt ấy sao mà giống đến thế, sao mà khiến gã hoài niệm đến thế, nhưng lúc này, tự sâu trong đáy lòng Trác Mộc Cường Ba chợt trào lên một thứ cảm giác chán ghét! Ngụy trang, giả dối, đều là giả dối!

"Cường Ba… " Trác Mộc Cường Ba định hất tay Mẫn Mẫn ra, sải chân bước tiếp, nhưng Mẫn Mẫn lại kêu lên một tiếng. Lúc này, cô thậm chí còn không đủ sức ngẩng mặt lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, đầu cô ngoẹo xuống trước ngực, hai mắt mở to, lệ nóng tuôn tràn chảy dọc xuống theo gò má. Trác Mộc Cường Ba thầm run lên, không phải Mẫn Mẫn đang ngụy trang, cô bẩm sinh đã có đôi mắt ấy. Có lẽ, nếu không sở hữu đôi mắt ấy, cô cũng không ở nơi này, không phải trải qua tất cả những chuyện này. "Tha thứ cho em…" Đây là câu nói cuối cùng của cô.

Trác Mộc Cường Ba lại nhắm mắt lại. Vừa nhắm mắt, gã liền nhìn thấy Trương lập đang nằm bẹp trên giường bệnh, nhìn thấy Nhạc Dương chao đảo rơi xuống như cánh bướm tả tơi, nhìn thấy Đường Thọ đứng sững dưới ánh chiều tà, thấy pháp sư Tháp Tây đang nhoẻn cười hiền hậu, thậm chí cả Sean…, chỉ một chữ "được" mà gã không sao thốt thành lời.

Khi Trác Mộc Cường Ba mở mắt ra lần nữa, gã phát hiện bàn tay tóm lấy ống quần mình của Mẫn Mẫn đã ẻo lả rũ xuống, cô dựa người vào góc tường, đầu gục xuống trước ngực, hai mắt mở to, trên gương mặt, lệ vẫn chưa khô.

Trác Mộc Cường Ba nấc nghẹn nơi cổ họng, gã vuốt mắt cho Mẫn Mẫn, đặt cô nằm thẳng, rồi không chần chừ thêm nữa, chạy vội tới bên cạnh Lữ Cánh Nam. Lữ Cánh Nam cũng nghiêng người dựa vào đống kinh sách, không cử động được, tư thế cô lúc này rất giống với pháp sư Á La lúc trút hơi thở cuối cùng. Thấy Trác Mộc Cường Ba chạy tới, cô khẽ mỉm cười. Khóe miệng Trác Mộc Cường Ba nhích động, cũng rặn ra một nụ cười. Đứng trước mặt Lữ Cánh Nam, gã đột nhiên không biết nên nói gì nữa, gã không biết Mật tu giả là một nhóm người như thế nào, gã không biết giữa gia tộc mình và Mật tu giả có quan hệ gì, gã cũng không biết cái gì gọi là ký chủ, cái gì gọi là kẻ sống gửi, gã không biết gì cả! Cho đến hôm nay, có người đột nhiên nói với gã, Lữ Cánh Nam, là người bảo vệ gã, là người khi gã gặp nguy hiểm đến tính mạng, có thể sẵn sàng hy sinh mình để bảo đảm an toàn cho gã. Cô, chẳng lẽ, người phụ nữ này vẫn luôn ngấm ngầm ở trong bóng tối trông chừng cho gã hay sao? Rốt cuộc đã bao nhiêu năm rồi? Ba mươi năm? Bốn mươi năm?

Gã đột nhiên thấy mình trở lại đêm lạnh lẽo ấy, hoa tuyết bay đầy trời, chỉ có hai người, một cô gái đang thấp giọng khe khẽ hát: "Nhìn em một lần đi, chớ để hồng nhan ôm gối chiếc, tuổi xuân không hối tiếc, người yêu suốt đời ơi…"

Cô không phải đang hát, cô đang thổ lộ tiếng lòng!

Dưới ánh chiều tà, bóng hình yểu điệu chỉ ở phía xa ngước lên nhìn, từ từ trùng lắp với hình ảnh Lữ Cánh Nam. Trác Mộc Cường Ba bất giác hồi tưởng lại, ba năm nay, Lữ Cánh Nam đã làm gì cho gã? Còn bản thân gã thì sao, đã làm những gì cho cô! Yêu cầu duy nhất của cô, chỉ là hy vọng gã có thể nhìn thẳng cô một lần, không còn né tránh ánh mắt cô nữa…

Đã nói sẽ không bao giờ rơi lệ nữa, tại sao, chất lỏng nóng hổi ấy vẫn tràn ra khỏi khóe mắt, chảy qua cánh môi run run đưa đến cảm giác ẩm ướt mặn đắng. Trái tim gã chua xót, trái tim ấy cũng đang rơi lệ!

Đàn ông chỉ đổ máu chứ không rơi lệ, Trác Mộc Cường Ba ngước đôi mắt đẫm nước lên, cuối cùng cũng dám nhìn thẳng vào Lữ Cánh Nam. Cô đang lặng lẽ nằm giữa đống kinh sách, hai tay úp trên bụng, mái tóc dài xõa tung ra như nàng công chúa trong truyện cổ tích. Lữ Cánh Nam thật sự rất xinh đẹp.

Lữ Cánh Nam im lặng ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba, cô đã chăm chú nhìn gã như vậy không biết bao nhiêu năm rồi, từ khi gã còn là một cậu bé, chỉ là chưa bao giờ cô được nhìn người đàn ông này khi ở khoảng cách gần đến thế, trực tiếp đến thế. Khi thấy ánh lệ lấp lóa trong đôi mắt Trác Mộc Cường Ba, khóe mắt của vị nữ giáo quan tâm trí tưởng như đã được rèn đúc thành sắt thép ấy cũng lập tức ướt đẫm.

Hai người không nói với nhau câu nào, cứ lẳng lặng nhìn nhau chăm chú như thế, mỉm cười, rơi lệ. Nhưng rất rõ ràng, sắc mặt Lữ Cánh Nam đang mỗi lúc một tái nhợt đi, tâm trí cô lững lờ phiêu bồng, hồ như đã trở lại thời điểm nhiều năm về trước.

Băng qua núi tuyết mênh mông, ở đó có tòa đại điện mái vàng nguy nga hùng vĩ. Những pho tượng Kim Cương uy nghiêm trong chính điện đối với một cô bé năm sáu tuổi trông thật to lớn, ánh đèn đung đưa khiến những cái bóng hắt lên tường uốn éo chuyển động. Vị lạt ma áo vàng bước vào, vị lạt ma áo đỏ đi ra.

Một tấm ảnh xuất hiện trước mặt cô bé. Cậu bé trong tấm ảnh phỏng chừng lớn hơn cô độ một hai tuổi, gương mặt nhem nhuốc bẩn thỉu đầy mồ hôi, tóc tai quần áo đều dơ dáy, trông như một đứa trẻ hoang ở trong núi chạy ra vậy, duy chỉ có đôi mắt ấy, tròng đen tròng trắng phân biệt rõ ràng, ánh mắt ngông nghênh bướng bỉnh hết sức. Dường như cậu ta vừa đánh nhau với ai, nét mặt toát lên bộ dạng của kẻ nhất quyết không chịu nhận thua. Nhìn cậu bé trong ảnh, cô bé chợt nhoẻn miệng tươi cười, lộ ra hai hàng răng sữa xinh xắn.

"Đây là Cường Ba thiếu gia, nếu con muốn trở thành Mật tu giả, cậu ấy sẽ là ký chủ của con."

"Ký chủ là gì ạ?"

"Ký chủ, chính là chủ nhân của linh hồn ta và con, phải dùng sinh mạng của chúng ta để bảo vệ an toàn cho họ. Bọn họ chính là ý nghĩa và giá trị tồn tại của chúng ta. Có điều, con là ngoại môn đệ tử, sau này vẫn có thể sống như người bình thường, chỉ khi ký chủ của con có khả năng gặp nguy hiểm, cần đến con, chúng ta mới triệu hồi con về bên cạnh cậu ấy."

"Có thể cùng chơi với cậu ấy không?"

"Không thể, chúng ta có thể nhìn thấy cậu ấy, nhưng cậu ấy sẽ không thấy chúng ta. Chúng ta chỉ có thể ngầm bảo vệ trong bóng tối, con phải nghĩ cho kỹ. Trở thành Mật tu giả phải trải qua tu luyện rất khắc nghiệt, con không thể chơi với người khác, không có búp bê xinh, không có quần áo đẹp. Ngày ngày, con sẽ phải không ngừng chịu đựng đau đớn để sinh tồn. Mà sau khi thành tài, ngoại trừ thân thể mạnh hơn người khác một chút, con cũng không có gì khác với người bình thường cả."

Cô bé nhìn ra ngoài cửa, cha cô đang đứng ở đó, cô ngoảnh lại nhìn vị lạt ma, kiên định nói: "Con chấp nhận."

"Được rồi, chúng ta cùng thề nào. Con phải nhớ kỹ, lời thề ngày hôm nay sẽ đi theo con suốt cả cuộc đời. Con đã lựa chọn con đường này, thì không thể quay đầu được nữa."

"Cô bé ngoan, kết thủ ấn đi, giống như ta đây này, ta sẽ hỏi, con sẽ trả lời. Phải nhớ kỹ, không được trả lời trái với ý nguyện của mình đâu nhé."

"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Trí Tuệ chi vương Đông, con có tự nguyện gia nhập vào Thánh giáo quang minh, tuân theo pháp chỉ của Thánh giáo, nghiêm cẩn giữ gìn bí mật của Thánh giáo, trung thành với Thánh giáo.. vĩnh viễn không bao giờ phải bội không?"

"Vâng, con nguyện ý."

"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."

"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."

"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Quang Minh chi vương Mạc, con có tự nguyện tu hành Mật pháp của Thánh giáo, kính thầy như cha mẹ, thầy có việc cần, một lòng nghe lệnh, con cái của thầy, coi như anh em… phàm những gì con biết, dù truyền miệng hay chép ra thành sách cũng chỉ truyền cho con của con hoặc con của thầy con và những đồ đệ có lời thề này, ngoài ra không truyền cho ai khác?"

"Vâng, con nguyện ý."

"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."

"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."

"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Vạn Thú chi vương Trại, con có tự nguyện dùng những thứ mình học được, với năng lực và khả năng phán đoán của mình, coi việc làm lợi cho thiên hạ chúng sinh làm tín điều, trừng trị mọi hành vi đọa lạc và hại người… dù đi tới đâu, gặp nam hay gặp nữ, quý nhân hay nô tỳ, mục đích duy nhất của con cũng là mưu cầu hạnh phúc cho người khổ nạn, tận hết sức mình cho người cần giúp, đồng thời tự mình kiểm điểm, tiêu trừ ác niệm…"

"Vâng, con nguyện ý."

"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."

"Nếu trái lời thề, trời đất quỷ thần đều bỏ rơi, luân lạc vào Lục đạo địa ngục, mãi mãi cũng không được chuyển thế."

"Lữ Tiểu Hồng, trước sự chứng kiến của Thủ Hộ chi vương Đảng, con có tự nguyện tôn Trác Mộc Cường Ba làm ký chủ suốt đời này, tuân theo ý chỉ của Thánh giáo ở bên cậu ấy, tôn trọng cậu ấy, bảo vệ cậu ấy như con ngươi của mắt mình, từ giờ cho tới vĩnh viễn về sau, bất luận cậu ấy phú quý hay bần hàn, khỏe mạnh hay ốm đau, một lòng trung thành với cậu ấy, cho tới khi cậu ấy rời khỏi thế gian này?"

"Vâng, con nguyện ý…"

"Lữ Tiểu Hồng, kể từ giây phút này, con đã là Mật tu giả, sẽ đoạn tuyệt mọi phàm niệm của thế tục, sẽ không sử dụng tên thế tục của con nữa, trưởng lão Trát Can ban cho con pháp danh Cánh Nam."

Thời không dường như tạm thời dừng lại, bọn lính đánh thuê sớm đã ào ào bỏ chạy như ong vỡ tổ, tòa tháp hình trứng trở nên yên lặng như tờ, duy chỉ còn đóa hoa lửa đang phun trào lên như suối vẫn lập lòe hắt sáng đỏ bừng cả gương mặt hai người.

Một tiếng hét vang phá vỡ bầu không khí tĩnh mịch ấy: "Này, chết tiệt thật, chỗ này sắp bị phá hủy rồi, mau đi khỏi đây thôi, bọn lính đánh thuê kia cũng chạy hết rồi!"

Merkin không ngờ vẫn chưa bỏ đi, nếu không có tiếng hét không đúng lúc này của y, Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam thậm chí đã quên mất sự tồn tại của con người này. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại, thấy đài sen trên đỉnh Mạn Đà La đã hoàn toàn tan chảy, dung nham chảy thành dòng đỏ rực như lửa men theo tám tầng Mạn Đà La tuôn xuống, một dòng nhỏ đã chảy vào đầy tháp đến chỗ những đống sách chất cao như núi. Đám kinh sách liền bốc cháy ngùn ngụt.

"Anh đưa em cùng đi, chúng ta trở về thôi," Trác Mộc Cường Ba định ôm Lữ Cánh Nam dậy, nhưng cô khẽ lắc đầu, nhẹ nhàng nói: "Những gì có thể dạy, em đều đã dạy anh cả rồi, sau này… sợ rằng em không thể bảo vệ anh được nữa, Cường Ba thiếu gia, anh phải chăm sóc tốt cho mình, để em và pháp sư Á La ở lại đây được rồi, đây là Thánh điển mà chúng em vẫn luôn tìm kiếm…"

Dung nham chảy tràn ra càng lúc càng nhiều hơn, Merkin ở bên cạnh rối rít thúc giục: "Còn không mau lên thì không đi được đâu."

Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng gầm lên: "Mặc xác tôi!"

Đột nhiên, trước mặt gã tối đen, tựa như nhìn thấy Lữ Cánh Nam đang gắng gượng mỉm cười, bàn tay tạo thành một dấu hiệu chỉ có lính đặc chủng chính quy mới hiểu được. "Merkin đánh lén!" Ý niệm ấy lóe lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba, thân thể gã đã nặng nề gục xuống.

Ba năm thời gian, từng chút từng chút hiện lên trong tâm trí gã như một đoạn phim tua ngược, bắt đầu từ khi nhìn thấy tấm ảnh đó: Mẫn Mẫn mặc váy dài trắng toát tha thướt đến bên cạnh gã, nụ cười tươi như hoa; thầy giáo gã miệng ngậm điếu thuốc, Trương Lập lái xe Jeep giới thiệu Tây Tạng với bọn họ; ánh mắt hung hãn của Ba Tang trong nhà giam; rồi vùng Khả Khả Tây Lý băng tuyết mù mịt, ba anh em nhà sói xám ung dung lùa con gấu khổng lồ; gương mặt râu ria của đội trưởng Hồ Dương, không giận mà tự có uy; Nhạc Dương ung dung bắt được tên trộm, nở một nụ cười rực rỡ như ánh ban mai; ánh mắt sắc bén như chim ưng của Lữ Cánh Nam, thấp thoáng nét yêu kiều; nét mặt nghiêm túc của pháp sư Á La; rừng rậm Amazon nóng ẩm bức bối; hàm răng trắng bóc của Babatou; mái tóc trắng bạc của Sean; Bạch Thành ở Maya; núi tuyết nguy nga hùng vĩ; Đảo Huyền Không tự tăm tối mờ mịt; dòng U Minh hà cuồn cuộn dưới lòng đất… phảng phất như một giấc mộng, một giấc mộng quá dài, quá khổ sở… nụ cười thân sĩ khiêm nhường nhã nhặn của Đường Thọ lại xuất hiện trong giấc mộng ấy, đột nhiên gương mặt đó được phóng to ra vô hạn, cái cằm kéo dài, miệng to ngoác, tai dài và sừng nhọn cũng mọc ra, cả gương mặt đều chìm trong ngọn lửa hừng hực… không, đây không phải là sự thực…

Trác Mộc Cường Ba mở bừng mắt ra, liền trông thấy trời xanh mây trắng, gã hơi nghiêng người, bên cạnh là thảm cỏ xanh mơn mởn như ngọc bích, thế này là thế nào? Không phải là gã đang ở trong khu vực trung tâm của Bạc Ba La thần miếu hay sao? Dung nham núi lửa trào lên, lẽ nào thật sự đó chỉ là một giấc mộng?

Trác Mộc Cường Ba nhổm người ngồi dậy, bốn phía xung quanh đều là thảm cỏ, Merkin đang ủ rũ ngồi bên cạnh, nét mặt đầy vẻ lo âu, không biết đang nghĩ gì. Trác Mộc Cường Ba lập tức hiểu ra, đây không phải là một giấc mộng, bọn họ đã ra khỏi địa cung trong Bạc Ba La thần miếu, rốt cuộc gã đã hôn mê bao lâu? Làm sao mà ra được ngoài này? Còn Lữ Cánh Nam? Đây là chỗ nào?

Trác Mộc Cường Ba nhảy bật lên, đảo mắt quan sát hoàn cảnh xung quanh, một bên là núi tuyết, hồ tế khổng lồ ở phía sau không xa, giữa hồ ùng ục nổi lên vô số bọt khí, mấy cái hòm lớn trông như cỗ quan tài dập dềnh va đập vào bờ nước, còn quảng trường nơi có lối vào thần miếu thì đã ở quá xa ngoài tầm mắt.

"Tôi hôn mê bao nhiêu lâu rồi? Chúng ta ra đây bằng cách nào? Lữ Cánh Nam đâu?" Trác Mộc Cường Ba tóm lấy vai Merkin, hỏi một mạch mấy câu liền.

Merkin mấp máy miệng, cơ hồ không biết nên trả lời câu nào trước, cuối cùng ý nói: "Cũng không lâu lắm, tôi vừa kéo anh lên bờ. Những người cổ đại kia đã chuẩn bị hết cả rồi, còn nhớ gian đại điện bên ngoài tòa tháp không?

Khi máu chúng ta mở cánh cửa tòa tháp hình trứng ra, hai bên tường còn lại cũng mở ra theo, đó là lối thoát duy nhất. Bọn họ đã xây dựng một đường hầm thông thẳng xuống đáy hồ, giống như nòng pháo vậy. Những cái hòm lớn kia chính là công cụ duy nhất để thoát ra. Chúng vốn được trữ trong đường hầm, khi cơ quan khởi động liền có nước hồ tràn vào trong. Bên dưới là dung nham nóng chảy, nước gặp dung nham bốc hơi sinh ra một lượng khí lớn, khí áp khổng lồ đó sẽ đẩy cả người lẫn cái hòm bắn lên mặt hồ như một viên đạn."

"Lữ Cánh Nam đâu?" Trác Mộc Cường Ba lắc vai Merkin hỏi, "Tôi hỏi ông Lữ Cánh Nam đâu?"

Merkin vẫn không nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt hướng về phía xa xăm: "Tôi chỉ có thể mang theo một mình anh ra thôi."

Trác Mộc Cường Ba buông tay, loạng choạng lùi lại một bước, rồi nhanh chóng xông tới, nhấc cổ áo Merkin lên gằn giọng quát: "Tôi không tin! Đây là cái gì, kia là cái gì chứ…" Gã chỉ vào những cái hòm lớn nổi dập dềnh trên mặt nước.

Merkin cười khổ nói: "Đừng quên, kẻ đầu tiên chạy thoát ra là Đường Thọ, một vài tên lính đánh thuê cũng chạy ra trước chúng ta, một số khác… có lẽ không thoát được." Merkin nhớ lại cảnh tượng trong gian đại điện ấy, bọn lính đánh thuê lăn lộn trong đống vàng bạc châu báu, trên người đeo, trên tay cầm, trong miệng ngậm, toàn là trân châu bảo ngọc, lại còn một vài tên khác tranh giành nhau một món gì đó, lao vào cào cấu cắn xé như lũ thú hoang.

Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: "Không thể nào, Lữ Cánh Nam sẽ không có chuyện gì đâu, cô ấy giỏi như vậy, làm sao lại có chuyện gì được chứ? Đưa tôi quay lại, tôi muốn quay lại tìm cô ấy!"

"Đừng ngu ngốc nữa!" Merkin gầm lên, "tòa tháp ấy đã không còn tồn tại nữa, đại điện ấy cũng không còn tồn tại nữa! Anh có biết không!" Y vùng lên, tóm chặt Trác Mộc Cường Ba vừa lắc vừa giật, cuối cùng đẩy mạnh gã một cái, chỉ tay về phía quảng trường đằng xa: "Rất nhanh thôi, tòa Bạc Ba La thần miếu này cũng sẽ không tồn tại nữa!" Hai người ngồi phịch xuống đất, cơ hồ cuộc cãi vã vừa rồi đã khiến cả hai tiêu hao hết sức lực, đầu cúi gục, ai nấy đều có tâm sự riêng.

"Ủa, sao vậy? Mâu thuẫn rồi à?"

Vừa nghe giọng nói ấy, cả hai đều giật nẩy mình, bật tung người lên theo phản xạ. Chỉ thấy ở phía xa, Đường Thọ đang chậm rãi bước tới từ phía bên kia trảng cỏ, trên mặt vẫn nở nụ cười ấy, bộ dạng hết sức ung dung. Trên người y, nhuốm đầy vết máu. "Ta đã nói rồi, chuyện đau khổ nhất trên đời này, không gì hơn kiên trì không được mà vẫn phải kiên trì, buông bỏ không được mà vẫn phải buông bỏ, đến khi tỉnh ngộ, tất cả đều đã muộn, không còn cách nào quay đầu lại nữa. Cường Ba thiếu gia, có phải ngươi đã thể nghiệm rồi chăng?"

"Đường… Thọ…" Đó là tiếng gầm phẫn nộ của Trác Mộc Cường Ba.

"Người quyết sách!" Đó là giọng run run của Merkin.

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 81

KẾT THÚC BẰNG MỘT TẤM ẢNH

Chương 53

TỬ ĐẤU (1)

    

à ta đây, ta lại quay lại rồi." Đường Thọ giơ tay trái lên, lè lưỡi liếm vết máu dính trên mu bàn tay, dường như rất thỏa mãn. Y nói với Trác Mộc Cường Ba và Merkin: "Sao chỉ có hai người các ngươi sống sót trở ra thôi à? Ta còn tưởng ít nhất phải có ba người chứ. Có điều, bớt một người cũng tốt, ta đỡ phải tốn sức."

Bàn tay Trác Mộc Cường Ba nắm lại kêu lên răng rắc: "Mày còn dám quay lại đây à!"

Sắc mặt Merkin lại trở nên tái nhợt: "Mày…mày muốn…"

Đường Thọ mỉm cười: "Đúng thế, có lẽ nơi này sẽ bị hủy diệt, cũng có thể vẫn còn giữ được chút gì đó cũng không chừng, ai mà biết được. Ta không hy vọng, ngoại trừ ta ra trên đời này còn có người khác biết đến sự tồn tại của nơi này."

Merkin kéo kéo vạt áo Trác Mộc Cường Ba, thấp giọng nói: "Hắn quay lại để diệt khẩu, bọn lính đánh thuê kia, chỉ sợ đã chết hết rồi."

Đường Thọ gật đầu: "Đúng vậy, đám công cụ đó dùng xong rồi, cũng không cần thiết phải giữ lại làm gì nữa. Các ngươi cũng thế, ta không định buông tha cho bất cứ người hiện đại nào đã đặt chân đến nơi này."

Trác Mộc Cường Ba nghiến răng kèn kẹt: "Vừa khéo, chúng ta cũng có ý định đó!"

Merkin đột nhiên hỏi: "Cái hộp kia đâu rồi?" Y để ý thấy, chiếc hộp nhỏ Đường Thọ mang theo kia, đã không còn ở trên tay y nữa.

Đường Thọ vui vẻ nói: "Ta đã đưa nó ra ngoài rồi, bằng cách thức của riêng ta, chỉ cần giải quyết xong các ngươi, ta sẽ trở lại thế giới đó, toàn tâm toàn ý với sứ mệnh vĩ đại hủy diệt toàn bộ loài người của mình."

Ánh mắt Merkin lại hướng về phía xa, một đàn chim lớn đang đập cánh bay lên.

"Phì!" Trác Mộc Cường Ba nhổ nước bọt mắng, "Ngươi bớt giở cái giọng tử tế ấy để biện minh cho ý đồ ghê tởm của mình đi, cởi bỏ mặt nạ ra, đừng tưởng ta không biết mục đích thực sự của các ngươi là gì!"

"Gì hả?" Đường Thọ và Merkin đều thoáng ngẩn người.

Trác Mộc Cường Ba gằn giọng nói: "Ta từng nghe nói, có người cho rằng thế giới này nên do một nhóm nhỏ người nắm giữ, đại đa số còn lại chỉ cần làm việc như lũ súc sinh là được rồi. Với trình độ tự động hóa ngày nay, đích thực chỉ cần ấn vài cái nút là có thể chế tạo ra đại bộ phận các thứ đáp ứng với nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Vì vậy, các ngươi chẳng qua muốn lợi dụng loại sinh vật kia làm vũ khí nhằm phá bỏ rào cản biên giới giữa các quốc gia, từ đó thống trị toàn bộ thế giới này. Các ngươi không cần quá nhiều người thông minh, chỉ cần khoảng sáu mươi triệu nô lệ có trí tuệ ngang với loài người thời Đồ đá cũ để các ngươi mặc tình sai sử, mặc tình điều khiển, mà không đủ sức phản kháng, thậm chí còn không biết thế nào là phản kháng nữa. Những kẻ nắm giữ tri thức hiện đại còn sót lại, sẽ được coi như Thượng đế, đây mới là dã tâm thực sự của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn các ngươi!"

"Chà chà chà, mục tiêu vĩ đại cao quý của chúng ta, lại bị ngươi nói thành ra thấp kém đến vậy ư?" Đường Thọ làm như vẻ rất đau lòng.

"Đừng diễn kịch nữa, cũng đừng làm ra cái bộ dạng trách trời thương dân đó làm gì, ta đã nhìn thấu mọi lớp vỏ ngụy trang của ngươi rồi. Ngươi mở mồm ra là nói loài người đáng chết, toàn bộ đều đáng chết, vậy thì ngươi không nên thoát bỏ lớp vỏ ngoài con người của mình, tự xưng là thần. Ngươi đừng quên, ngươi cũng là xác thịt phàm tục do cha mẹ sinh ra, có giảo biện thế nào cũng không thể phủ định, ngươi là con người! Chính là một thành viên trong giống loài mà ngươi đã vô số lần nói phải tuyệt diệt ấy! Ngươi có thể bất chấp tất cả những ước thúc về đạo đức mà nhân loại đã tạo lập lên trong suốt nghìn vạn năm qua, ngươi có thể từ bỏ thất tình lục dục của con người, dù hành vi của ngươi không bằng loài súc sinh, nhưng ngươi rốt cuộc vẫn là con người, dù tu luyện mạnh đến mấy ngươi cũng không thoát khỏi sinh lão bệnh tử. Ngươi có giết sạch thân nhân của mình, cũng không thể xóa bỏ mọi dấu vết chứng tỏ ngươi là một con người, ngươi… không phải là Thần! Cùng lắm, chỉ có thể coi ngươi là một tên điên cô độc. Ngươi là một tên điên, một tên điên thực sự."

Sắc mặt Đường Thọ trầm xuống, tóc dựng đứng lên, nhưng chỉ thoáng sau y lại bật cười: "Đúng thế, ta điên rồi, nhưng Cường Ba thiếu gia ngươi cũng không phải đến hôm nay mới biết ta là tên điên mà, từ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau, chẳng phải ngươi đã biết rồi hay sao?"

"Ta thừa nhận, con người ai cũng có tính xấu." Ngữ khí của Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thêm kiên định, đối mặt với Đường Thọ, gã không còn chút do dự và sợ hãi nào nữa: "Khi sức mạnh khoa học kỹ thuật của chúng ta đã vượt xa các giống loài khác, những tính xấu này sẽ càng bộc lộ một cách rõ rệt hơn. Sinh tồn và sinh sôi, là ý thức bản năng gắn với mỗi giống loài từ khi sinh ra trên đời, đại đa số loài người, kỳ thực yêu cầu không nhiều lắm, chúng ta chẳng qua chỉ muốn điều kiện sống tốt hơn một chút, sinh sôi nhiều thêm một chút, chỉ vậy mà thôi. Có điều, không gian là cố định, con người muốn sống tốt hơn, tất nhiên điều kiện sống của các giống loài khác phải kém đi, con người sinh sôi nhiều hơn, sự phá hoại đối với môi trường xung quanh đích thực cũng sẽ lớn hơn. Có điều, tất cả những điều này, ngươi có tư cách gì để phán xét? Ngươi là cái thứ gì? Ngươi có tư cách gì để phán xét vận mệnh của toàn bộ loài người?"

"Ta tồn tại, ta mạnh mẽ, ta có trí tuệ." Đường Thọ thong thả nói, "mấu chốt là, ta nắm trong tay vũ khí có thể thay đổi vận mệnh của toàn bộ loài người, ta có tư cách để quyết định vận mệnh của loài người, ngươi không phục sao? Ngươi có tức giận cũng vô dụng thôi, hắc hắc, cho dù ngươi nói hay hơn ta đấy thì sao chứ? Đừng quên, chân lý của vũ trụ là ánh sáng chỉ tồn tại trong khoảnh khắc ngắn ngủi, bóng đêm mới vĩnh hằng bất diệt!"

Đường Thọ vừa mở miệng nói ánh sáng chỉ tồn tại trong khoảnh khác ngắn ngủi, Trác Mộc Cường Ba đã tiếp lời ngay: "Ánh sáng chỉ tồn tại trong khoảnh khắc ngắn ngủi, bóng đêm mới là vĩnh hằng, nhưng chính thứ ánh sáng chỉ lóe lên trong chớp mắt ấy lại diễn sinh ra sự sống và hy vọng. Vì vậy, tuy chúng ta đều bước ra từ trong bóng đêm, nhưng vận mệnh đã định sẵn, chúng ta sẽ dùng cả đời mình để theo đuổi ánh sáng." Gã đã nhớ lại toàn bộ câu nói của cha mình lúc đó.

Đường Thọ biến sắc: "Kẻ nào nói vậy?"

Trác Mộc Cường Ba đáp: "Ngươi cần gì phải biết, chẳng phải ngươi muốn chân lý sao? Đây, chính là chân lý!"

Đường Thọ lại cười cười: "Cường Ba thiếu gia, quả không hổ xuất thân trong nhà thế gia Phật môn, nói khéo lắm, nhưng rất đáng tiếc, các ngươi đều phải chết ở đây cả rồi!"

Trác Mộc Cường Ba và Merkin đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều hiểu rất rõ, vừa nãy bốn người cùng ra tay cũng không làm gì được Đường Thọ, giờ đây chỉ còn hai người bọn họ, muốn giành phần thắng là tương đối khó khăn, nhưng kể cả chia nhau bỏ chạy, dường như cũng không phải chuyện dễ dàng chút nào. Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh phân tích, lúc này họ không phải lo lắng bọn lính đánh thuê bắn lén, vả lại cũng đã có kinh nghiệm chiến đấu với Đường Thọ, ít nhiều cũng biết được tốc độ và sức mạnh của y thế nào, đồng thời gã và Merkin còn được nghỉ ngơi một lát bên bờ hồ, Đường Thọ vừa giết một đám lính đánh thuê mới quay trở lại, tình thế nghiêng về bên nào giờ này vẫn chưa nói được.

Nhưng Merkin lại thấp giọng nói với Trác Mộc Cường Ba một tin tức không tốt lắm, y khẽ thở hắt ra: "Vừa nãy khi đấu với ba người chúng ta, Đường Thọ chưa giở hết toàn lực."

"Hả?" Trác Mộc Cường Ba trợn trừng hai mắt lên, không biết có phải Merkin đang gạt gã không, đấu với ba người như vậy mà còn nói y chưa giở hết toàn lực hay sao?

Merkin bấy giờ mới nói ra thân phận thực sự của Đường Thọ: "Lấy năng lực công kích của cá nhân để bình phẩm, thực lực của Đường Thọ nằm ở giữa cấp hai và cấp ba trong xếp hạng của Mười kỵ sĩ bàn tròn, tôi chỉ là lính đặc chủng cấp một thấp nhất, hắn cao hơn tôi một bậc, giống như sự khác biệt giữa Cách Tây và Cách Quả trong đám Mật tu giả vậy. Nhưng chỗ đáng sợ nhất của hắn là, hắn cũng giống như Soares, là một Thao thú sư, đồng thời thực lực còn cao hơn Soares một bậc. Thực lực chân chính của hắn, có lẽ nằm khoảng giữa Thao trùng sư và Thao cổ sư rồi."

"Đúng vậy, thực lực của Soares, chỉ khoảng giữa Thao thú sư và Thao trùng sư, còn Đường Thọ đã lĩnh ngộ được cốt tủy của cảnh giới Thao trùng sư rồi, hắn gần như có thể khống chế được tuyệt đại đa số các loài côn trùng đã được biết đến hiện nay, trên người bao giờ cũng mang theo một loại côn trùng nào đó. Chúng ta không biết hắn để lũ côn trùng ấy ở chỗ nào, khi tấn công, rất có thể sẽ bị bọn chúng cắn trả. Một khi bị bọn đó cắn phải…" Merkin khẽ lắc đầu.

Trác Mộc Cường Ba không thể không xem xét lại phương án chiến đấu, Đường Thọ dường như rất nhàn nhã, rất độ lượng, ung dung đứng đó không chủ động tấn công, mà để cho Trác Mộc Cường Ba và Merkin đủ thời gian bàn bạc như con mèo đang vờn hai con chuột…

Trác Mộc Cường Ba nhìn về phía xa, mé bên kia thảm cỏ là rừng rậm, nếu đàn sói có thể chạy đến đây… Đường Thọ cười khì khì nói: “Không cần nghĩ đến lũ sói của ngươi làm gì. Cường Ba thiếu gia, đừng quên lúc ngươi truy đuổi Merkin đã xảy ra chuyện gì chứ? Ta đã khảo sát kỹ lưỡng rồi, đây là khu cấm đối với loài sói, bọn chũng tuyệt đối không tiến vào dù chỉ một bước đâu.”

Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba chầm chậm thu về, nhìn bộ mặt khiêm hòa nhã nhặn mà thực chất lại hết sức kiêu căng ngạo mạn của Đường Thọ, trong lòng gã chợt dâng trào một ngọn lửa vô hình. Gã giơ nắm đấm to như cái bát lên, cứ vậy lao thẳng về phía Đường Thọ, nếu mọi tính toán đều không thể thay đổi được cục diện, vậy thì, cứ trực tiếp xông lên là xong, cần quái gì phải nghĩ nữa.

“Này, vậy có được không?” Merkin không đừng được đánh phải chạy theo bên Trác Mộc Cường Ba , hai người song song lao về phía Đường Thọ.

“Hắn không coi mạng người ra cái gì đâu, hắn sẽ không tha cho chúng ta, mà tôi cũng không định tha cho hắn, đã thế thì cần gì phải nghĩ ngợi nhiều cho mệt óc? Cứ oanh liệt đánh một trận đi, giống như thời trẻ vậy!”

“Giống như thời trẻ vậy!” Merkin cảm thấy máu trong cơ thể mình bắt đầu sôi trào nóng bỏng, cảm giác nhiệt huyết bừng bừng đã lâu lắm rồi không có lại ào ạt trồi lên trong y, bước chân hai người mỗi lúc một nhanh, họ guồng chân, tăng tốc, gia tốc, chỉ trong chớp mắt đã vượt qua khoảng cách năm mươi bước chân.

Nhìn hai người dũng mãnh xông về phía mình, Đường Thọ nhoẻn miệng mỉm cười, cũng lao về phía họ, bắt đầu tăng tốc, hai mươi mét, mười mét, năm mét, khoảng cách giữa song phương không ngừng rút ngắn lại. Khi hai bên gần chạm vào nhau, Đường Thọ đột nhiên chồm người ra trước, hai tay chống xuống đất lộn nhào một vòng, nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba và Merkin song song rơi vào khoảng không. Trong khi ấy, hai chân đạp ra phía trước của Đường Thọ ép hai người họ phải thu tay chống đỡ. Cả hai cùng cảm nhận được lực xung kích mạnh mẽ ập tới, đành cực lực chuyển từ thế công sang tư thế phòng ngự, giật lùi về phía sau.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin vừa lùi lại, hai chân Đường Thọ đang đá vào mặt hai người lập tức chuyển sang đạp vào ngực. Hai người lại lùi tiếp, hai cẳng chân lại nhằm vào phần hông, hai tay Đường Thọ đã rời khỏi mặt đất, cả người lúc này nằm ngang trên không trung. Vốn dĩ, đây là thời cơ tốt nhất để tấn công y, nhưng hai chân y lại dài hơn sải tay Trác Mộc Cường Ba và Merkin, hai người không đánh trúng Đường Thọ, ngược lại mỗi người còn bị đá cho một cước. Hai người chỉ có thể tiếp tục lùi lại, họ vẫn còn một cơ hội, chính lúc Đường Thọ vừa kết thúc vòng nhào lộn, hai chân còn chưa đứng vững vàng. Lúc đó y không thể phát lực, hai người sẽ chuyển lùi thành tiến, tức khắc sẽ khiến Đường Thọ trở tay không kịp.

Nhưng thân thể Đường Thọ ở trên không trung lại nghiêng đi một cách kỳ dị, chân trái chạm đất trước chân phải, vả lại, chân trái còn vươn lên trước chân phải chừng ba mươi xăng ti mét. Chính khoảng cách ba mươi xăng ti mét này, khiến Đường Thọ giẫm lên mu bàn chân Merkin một cách chuẩn xác. Khi áp lực từ mu bàn chân truyền lên não, Merkin chuẩn bị rút chân lùi lại, thì Đường Thọ đã đứng lù lù trước mặt y rồi. Đồng thời, chính cú vặn người trên không kì dị đó, cũng khiến cú đấm dồn lực của Trác Mộc Cường Ba lướt sạt qua đầu vai Đường Thọ rơi vào khoảng không.

Merkin thấy Đường Thọ đứng trước mặt mình, hai mắt trợn lên, kế đó là cảm giác đau đớn dữ dội bùng lên ở nội tạng, truyền đến trung khu thần kinh. Đường Thọ vừa chạm đến đất liền tung ra một cú đấm vào bụng dưới Merkin nắm đấm vẫn không dừng lại, thuận đà móc lên quá đầu, tương thẳng vào cằm, khiến Merkin bật ngửa ra sau. Lẽ ra, trúng phải hai đòn nặng như vậy, Merkin phải văng lên không trung, nhưng Đường Thọ lại đang giẫm lên mu bàn chân y. Merkin sau khi cảm thấy đau đớn dữ dội bật ngửa người ra, lại cảm thấy một luồng sức lại kéo y bật ngược lại phía nắm đấm của đối phương.

Đường Thọ sớm đã chuẩn bị cho Merkin một cùi chỏ, còn tay kia của y lại đang đối phó với Trác Mộc Cường Ba. Đúng như Pháp Sư Á La phán đoán, tay phải của Đường Thọ rõ ràng không nhanh bằng tay trái, nhưng lại cực kỳ mạnh mẽ, Trác Mộc Cường Ba luôn phải dồn sức vào cả hai tay mới gạt đỡ được nắm đấm của y.

Còn Merkin lúc này, lại như con lật đật, bị Đường Thọ đánh ngả ra sau rồi bật lại, ngả ra sau, rồi lại bật lại, tuy y vẫn có thể cản đỡ được một phần thế công của Đường Thọ, nhưng cũng không có cách nào chuyển từ thế thủ sang tấn công. Phía bên kia, Trác Mộc Cường Ba một mực tấn công dữ dội, song cũng không thể đột phá được thế phòng ngự một tay của Đường Thọ, có điều Đường Thọ đang giẫm lên chân Merkin, nên chỉ cần gã duy trì khoảng cách, Đường Thọ cũng không đánh trúng gã được.

Đường Thọ đánh cho Merkin bật đi bật lại như vậy khoảng ba bốn lần, đột nhiên nhấc chân lên, xoay sang tấn công Trác Mộc Cường Ba. Thân thể Merkin vừa thoát khỏi áp chế, không lùi lại mà xông thẳng tới, ngọn lửa bị đè nén trong lòng bùng lên dữ dội. Chỉ thấy Đường Thọ chuyển hướng, xoay hông, tránh khỏi nắm đấm mạnh mẽ của Trác Mộc Cường Ba, cẳng chân vừa giẫm chân Merkin từ từ nhấc lên. Y mỉm cười lùi lại, như thể dây cung kéo căng ra để tích tụ sức mạnh, kế đó bất ngờ phát lực, bắn vọt về phía Trác Mộc Cường Ba. Toàn bộ quá trình ấy, Trác Mộc Cường Ba vẫn đang trong tư thế giơ nắm đấm xông tới, không kịp biến chiêu, chỉ biết mở mắt trân trân nhìn đầu gối Đường Thọ “tiếp xúc thân mật” với bụng mình. Một đòn này, khiến thân thể Trác Mộc Cường Ba bay bổng lên khỏi mặt đất. Vẫn chưa kết thúc, Đường Thọ còn mượn lực phản chấn khi chạm với Trác Mộc Cường Ba, đạp mạnh chân về phía sau, nhằm thẳng vào lồng ngực Merkin đang bổ tới. Đối mặt với cú đã bất thình lình này, Merkin định thu tay lại chống đỡ, nhưng tay chưa kịp thu về thì chân đối phương đã trúng đích, y chỉ thấy lồng ngực nhộn nhạo, cảm giác như thể phải ọe hết cả lục phủ ngũ tạng ra mới dễ chịu được phần nào. Đường Thọ tung chân bật về phía sau một cước, trúng vào phần phía trước ngực Merkin, kế đó lại giơ đùi lên, gót chân quét mạnh vào trán y, vẫn chưa hết đà, cẳng chân giương cao quá đầu. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đang cong người lại như con tôm, thân hình vươn ra phía trước. Thân trên của Đường Thọ thụp xuống, cẳng chân đá Merkin bật ra, liền vòng ra từ sau lưng như đuôi bọ cạp, bồi vào trán Trác Mộc Cường Ba một cước. Cả Trác Mộc Cường Ba lẫn Merkin đều bị hất văng ra xa.

Lên gối, đá hậu, hất chân, móc ngược, một loạt các động tác liền mạch như nước đại khái chỉ diễn ra trong khoảng nửa giây, không phải Trác Mộc Cường Ba và Merkin không muốn né tránh, mà chỉ vì Đường Thọ quá nhanh. Sau khi đánh bật, hai người mới nhớ ra, chân tên Đường Thọ này còn linh hoạt hơn tay của người bình thường gấp bội.

Đường Thọ một chiêu đắc thủ, đương nhiên không cho hai người có cơ hội lấy hơi, lập tức dồn lực vào gót chân, phi thân lao tới, nắm đấm kéo về phía sau, mục tiêu là… Trác Mộc Cường Ba!

Nắm tay Đường Thọ còn chưa tới, quyền phong đã tới trước. Trác Mộc Cường Ba vừa trúng một cú lên gối bồi thêm một cước vào trán, cơ bắp co giật, cảm giác đau đớn còn chưa dứt, lưng vẫn chưa vươn thẳng ra được, tưởng chừng như không thể nào tránh được. Nhưng dưới áp lực của cú đấm đáng sợ ấy, bản năng sinh tồn của gã bỗng bùng lên. Trác Mộc Cường Ba thả lỏng hai tay đang ôm bụng, chống xuống đất, cả tứ chi đồng thời phát lực. Tư thế đó hết sức kỳ dị, giống như con dế đang phục dưới đất đột nhiên nhảy bật lên tránh khỏi bàn tay ụp xuống bắt nó vậy. Trác Mộc Cường Ba không ngờ lại né được cú đấm chí mạng ấy! Tứ chi cùng lúc phát lực, cùng lúc chạm đất, Trác Mộc Cường Ba nhảy sang một bên, vẫn giữ nguyên tư thế nằm rạp xuống đó nhìn lom lom vào Đường Thọ. Đồng thời, gã cũng cảm nhận được, khi thực hiện động tác này, hơi thở và các mạch máu đều trở nên thông thuận, cảm giác đau đớn dữ dội cũng lập tức thuyên giảm đáng kể.

Cú đấm của Đường Thọ đã hoàn toàn ngập vào vị trí Trác Mộc Cường Ba vừa đứng, giống như dao cắt đậu phụ, gần nửa cánh tay chìm vào trong đất. Hai mắt Đường Thọ đảo một vòng, rõ ràng chính y cũng kinh ngạc khi thấy Trác Mộc Cường Ba tránh được cú đấm này, nhưng y không hề do dự, tức khắc xoay người rút nắm đấm ra, tung chân chạy ngược lại, mục tiêu là, Merkin! Tốc độ của y cực nhanh, thân thể gần như song song với mặt đất. Trác Mộc Cường Ba không ngờ Đường Thọ lại thay đổi hướng trong chớp mắt, không dám chần chừ, vội vàng truy theo. Lần này, gã dùng cả chân lẫn tay, lập tức cảm thấy máu và hơi thở càng thêm thông suốt dễ dàng, tốc độ chạy cũng tăng lên đáng kể, gần như theo kịp được Đường Thọ.

“Bước chạy kiểu sói à!” Đường Thọ thoáng lộ vẻ bực tức, nhưng y không có thời gian lo chuyện ấy, dù sao y vẫn dẫn trước Trác Mộc Cường Ba nửa thân người, nửa thân người ấy, đủ để đối phó với Merkin rồi!

Merkin không học được theo Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên giở ra một chiêu thức quái dị chẳng ai nghĩ tới. Y cảm nhận được áp lực cuồn cuộn ập đến từ phía Đường Thọ, đành nắm chặt hai bàn tay lại, liều mạng!

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 81

KẾT THÚC BẰNG MỘT TẤM ẢNH

Chương 54

TỬ ĐẤU (2)

    

ường Thọ tiếp cận với Merkin lại ngả người thụp hẳn xuống. Lại muốn lộn nhào nữa sao? Nhưng Merkin lần này không mắc bẫy, hai cánh tay giương lên bảo vệ những chỗ yếu hại, kế đó đạp ra một cước nhằm vào chỗ eo mông, vị trí không linh hoạt nhất khi lộn nhào trên không của Đường Thọ. Không ngờ, lần này Đường Thọ không dùng chân tấn công vào mặt Merkin, chỉ thấy y nghiêng người đi, hai chân trầm hẳn xuống, kẹp vào cẳng chân đá về phía mình của Merkin. Liền sau đó, hai tay y chống xuống đất, thân thể xoay ba trăm sáu mươi độ trên không trung.

“Vặn chân!” Merkin hết sức quen thuộc với chiêu này, đây là một chiêu tấn công rất thường dùng trong môn võ tự do, tục gọi là “đá cắt kéo”, lợi dụng thế gọng kiềm của hai chân, dùng sức eo hông cộng với lực xoáy toàn thân quật ngã đối thủ xuống đất. Chỉ là, trong môn võ tự do, người ta thường dùng chiêu này tấn công hai khớp gối hoặc cần cổ kẻ địch, như vậy mới có thể quật ngã đối phương, nhưng lúc này… Đường Thọ lại chỉ kẹp lấy một chân của y, vậy là…

Lực xoắn mạnh mẽ truyền lên từ bắp chân, Merkin đột nhiên hiểu ra, Đường Thọ muốn… vặn gẫy xương y! Tập trung sức lực toàn thân để đối phó với một trong tứ chi, trước tiên dùng thế gọng kiềm cố định chân hoặc tay đối thủ, sau đó dồn sức xoay người vặn mạnh, hoàn toàn có thể khiến cánh tay hoặc cẳng chân kẻ trúng chiêu gẫy lìa ra. Trước áp lực khủng khiếp chưa từng có ấy, Merkin cũng bị ép phải phát huy hết tiềm lực của mình. Khi Đường Thọ xoay được một nửa vòng ba trăm sáu mươi độ, Merkin cũng nhấc chân kia lên, xoay người trên không trung một vòng theo y, rốt cuộc cũng không bị phế mất một chân. Nhưng hai tay Đường Thọ vừa chạm đất, y lại bật lên, xoay thêm một vòng nữa. Còn Merkin, khi xoay vòng đầu tiên, y đã mất thăng bằng, ngã người trên thảm cỏ, còn chưa định thần lại được, thì thấy lực vặn xoắn mạnh mẽ kia lại truyền tới. Y không kịp phản ứng gì, đành nghiến răng kiên trì đến cùng. Cũng may cho y, cơ bắp đùi tương đối rắn chắc, lực vặn kia chỉ khiến cản người y lăn lông lốc trên thảm cỏ, nhưng chân thì không bị bẻ gãy.

Đường Thọ chau mày, chiêu thức bẻ chi này chỉ có hai vòng đầu tiên là khó đề phòng nhất, những vòng xoay về sau, tỷ lệ bẻ gẫy tay chân đối phương nhỏ hơn rất nhiều. Đồng thời, lúc này Trác Mộc Cường Ba đang đuổi sát sau lưng đã giẫm mạnh cả tứ chi xuống đất vọt người bổ nhào về phía y. Đường thọ ưỡn bụng, hai chân đang kẹp cẳng chân Merkin dồn sức vung mạnh, ném cả người Merkin vào Trác Mộc Cường Ba. Có điều dùng chân ném dẫu sao cũng không thể chuẩn xác, Trác Mộc Cường Ba và Merkin lướt qua nhau trên không trung. Hai người nhìn vào mắt nhau, tâm niệm tương thông, đột nhiên cùng vươn tay phải ra móc chặt vào nhau, hai luồng lực tác động lẫn nhau, lập tức khiến quỹ đạo chuyển động và phương hướng của hai người thay đổi hoàn toàn. Trác Mộc Cường Ba bị Merkin kéo cho dừng sững lại, còn Merkin lại lấy Trác Mộc Cường Ba làm trung tâm, vạch một vòng tròn trên không trung, vòng trở lại phía Đường Thọ.

Lúc này, Đường Thọ vừa đứng lên, nghe thấy tiếng gió sau lưng, y chẳng buồn nhìn, tức thì thuận thế tung ra một cước, Merkin nhận định tình thế hết sức chuẩn xác, nhắm vào gan bàn chân Đường Thọ đấm mạnh. Thân hình Đường Thọ thoáng lắc lư mấy cái, đà lao của Merkin cũng dứt, cùng lúc chạm đất với Trác Mộc Cường Ba.

Đường Thọ ngoảnh đầu, thoáng ngạc nhiên, y không ngờ kẻ tấn công mình lại là Merkin. Trác Mộc Cường Ba và Merkin nhìn nhau, dùng khẩu hình đưa ra ám hiệu: “Tiếp sức trên không!”

Cái gọi là tiếp sức trên không đó, kỳ thực là một phương pháp tá lực đả lực mà Trác Mộc Cường Ba lĩnh ngộ được từ chiến thuật của bầy sói. Chiến lang của bộ tộc Qua Ba khi hợp tác săn mồi thường làm một loạt những động tác thế này: một con sói đứng yên bất động, một con khác chạy đà đạp mạnh lên thân thể con sói đầu tiên, sau đó con sói đầu tiên cũng lập tức bật người nhảy lên giúp con sói thứ hai một quãng. Cộng với đà lao của bản thân con sói thứ hai, cách này có thể khiến nó nhảy xa hơn, cao hơn; hoặc khi đang xông tới, bị con mồi tránh được, con sói lao thẳng vào gốc cây hoặc vách đá dựng đứng, nhưng chúng không hề hãm lại, ngược lại còn dồn thêm sức xông tới, rồi lấy thân câu hoặc vách đá làm điểm tựa mượn lực đàn hồi bật ngược trở lại. Vậy là, đòn tấn công theo đường thẳng liền biến thành thế công hình tam giác. Giống như Cương Nhật Phổ Bạc và Cương Lạp vậy, Cương Lạp có thể mượn sức cánh tay Cương Nhật để nhẩy lên, khi tấn công kẻ địch, nó cũng nhảy từ vai tên thứ nhất sang vai tên thứ hai rồi tên thứ ba, giống như nhảy lên các cây cột, khiến kẻ địch hoa mắt chóng mặt.

Khi tránh né các cơ quan cạm bẫy trong Bạc Ba La thần miếu, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đã dựa theo phương thức hợp tác này của loài sói, phối hợp thực hiện một loạt động tác tiếp sức trên không. Khi xuất hiện những vết nứt gãy không nhảy qua được, hoặc không còn đường nào để đi, họ liền lấy một người làm trung tâm, ném người còn lại qua, sau đó bản thân cũng nhảy theo. Người được ném đi ấy sẽ sang bờ bên kia trước, rồi quay lại tiếp ứng đối phương, thoạt nhìn có vẻ rất giống với những người biểu diễn đu bay trong đoàn xiếc, nhưng động tác thì khó hơn rất nhiều lần. Có điều hai người đều có sức mạnh, cộng với thân thủ nhanh nhẹn, sau nhiều lần diễn luyện cũng đã quen với những động tác này rồi.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin vẫn đang móc chặt tay vào nhau, không đợi Đường Thọ kịp phản ứng, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên dùng cả hai tay tóm vào cánh tay Merkin, ném y như ném quả trùy sắt. Thân hình Merkin bay lên không trung, đá về phía Đường Thọ, Đường Thọ vội giơ tay lên cản lại, người hơi lảo đảo lùi lại hai bước, dù sao thì sức của hai người gộp lại cũng mạnh hơn một người nhiều.

Merkin chưa đá trúng được Đường Thọ, nhưng y đã nhanh chóng chạm mặt đất, vòng tay kéo mạnh, lại ném Trác Mộc Cường Ba ra. Hai người lúc này giống như hai quả chùy sắt móc vào cùng một sợi xích, luân chuyển tấn công Đường Thọ. Lần này Merkin ném Trác Mộc Cường Ba ra thật, hai tay móc vào nhau đã tách ra. Trác Mộc Cường Ba hai tay liên tiếp vung lên “chào hỏi” Đường Thọ, còn Merkin lại nhảy bật về phía sau. Cũng là hai tay, nhưng quyền pháp của Đường Thọ rõ ràng nhanh hơn Trác Mộc Cường Ba một bậc, chỉ thấy cổ tay y lật lên lật xuống mấy lần, đã hóa giải toàn bộ chiêu thức của gã, tưởng như một đấm sắp tương lên trán Trác Mộc Cường Ba, nào ngờ thân hình gã lại đột nhiên dừng phắt giữa không trung, rồi nhanh chóng giật lùi trở về sau. Thì ra, Merkin lùi lại phía sau đã tóm lấy hai chân Trác Mộc Cường Ba, Trác Mộc Cường Ba một đòn không trúng đích, y liền kéo ngay về phía sau. Nếu chỉ có một người, Trác Mộc Cường Ba hay Merkin cũng không thể nào thực hiện được những động tác kiểu này, nhưng hai người hợp tác, chuyện không thể cũng biến thành có thể.

Merkin kéo Trác Mộc Cường Ba giật ngược lại, bản thân cũng ngửa người ra trượt lên thảm cỏ, hai chân tấn công phần thân dưới của Đường Thọ, đồng thời dồn sức lên hai tay, ném Trác Mộc Cường Ba lúc này đã bay qua đầu y bay ngược trở lại. Sắc mặt Đường Thọ thoáng biến đổi, liên tiếp giật lùi, nhất thời cũng chưa thích ứng được với cách đánh này.

Thân thể Merkin và Trác Mộc Cường Ba giống như được nối với nhau bằng một sợi dây chun, lúc thì tay người này tóm lấy tay người kia, lúc thì hai chân móc vào nhau, có lúc Trác Mộc Cường Ba coi thân thể Merkin như cái cột, tay ôm cột, bật người lên đá xoay một vòng; có lúc Merkin lại coi thân thể Trác Mộc Cường Ba như bao cát hay quả chùy dây xích, nhấc bổng lên ném vèo ra. Hai người thoắt trước thoắt sau, khi lùi khi tiến, khiến Đường Thọ có cảm giác không phải đang chiến đấu với hai người, mà là một kẻ có bốn tay bốn chân. Sau ba bốn lần đột kích, cuối cùng nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba cũng thụi trúng mặt Đường Thọ. Đường Thọ ngã xuống, trượt trên thảm cỏ ra xa bốn năm mét. Y chống một tay xuống đất bật dậy, tay kia quét qua khóe miệng, nhìn vết máy trên ngón tay cái, y chỉ nhếch mép, “phì”, nhổ ra một ngụm máu bầm: “Không ngờ đấy, chiến thuật hợp kích này dường như không nằm trong hạng mục huấn luyện lính đặc chủng thì phải.”

Trác Mộc Cường Ba và Merkin thấy có hiệu quả, đâu buồn rỗi hơi mà lắm lời với Đường Thọ. Hai người bắt tay, sải bước xông lên truy kích. Đường Thọ lạnh lùng nói: “Các ngươi tưởng dùng chiêu này có thể đánh trúng ta lần nữa sao!” Đột nhiên hai tay y giơ lên, bàn tay xòe ra, cả người trượt ngược về phía sau như vừa nãy, đồng thời, y đã bốc hai nắm đất lên. Trác Mộc Cường Ba và Merkin chỉ kịp thấy một đống cát đen ngòm bay tới trước mặt.

“Hỏng bét!” Trác Mộc Cường Ba và Merkin cùng cảm thấy không hay, khoảng cách quá gần, họ không thể không giơ tay lên bảo vệ cặp mắt. Đường Thọ xông lên một bước, chen vào giữa hai người, hai tay chia ra tấn công hai hướng. Trong tình huống như vậy, hai người vừa không thể hợp tác tấn công, ngược lại còn vì hai tay móc vào nhau mà không thể kịp né tránh đòn thế của Đường Thọ.

Đến khi hai người tách được ra để né đòn thì Merkin đã bị đánh lui ba bốn bước, Trác Mộc Cường Ba càng thảm hơn, bị tay phải Đường Thọ đánh cho hộc máu. Đường Thọ dùng thân thể của mình ngăn cách giữa Trác Mộc Cường Ba và Merkin, không cho hai người có cơ hội liên thủ, ba người đứng trên một đường thẳng, mặt Đường Thọ nhìn ra phía trước, còn Trác Mộc Cường Ba và Merkin lại lom lom nhìn y, hai bên cứ vậy gườm ghè lẫn nhau.

Đường Thọ đột nhiên bật cười: “Có biết tại sao lúc nãy nghe ngươi nói ta là tên điên, ta lại cười không? Vì ta nhớ đến một tên điên khác, một mụ điên thì đúng hơn. Mụ ta cảm thấy cuộc sống với người chồng trước thật quá đơn điệu nhạt nhẽo, tưởng rằng mình đã tìm thấy tình yêu chân chính, bèn quyết định dẫn theo con gái, chia tay người chồng cũ. Không ngờ, chồng sau của mụ ta lại là một thằng nghiện cờ bạc, thoáng cái đã thua sạch hết tài sản trong nhà, chẳng những vậy hắn ta không hề thích mụ đàn bà đó, mà chỉ muốn ra tay với con gái mụ. Con bé đáng thương thật, mười… mười mấy tuổi nhỉ? Dù sao thì, đêm đó ta đã thấy nó mặc một bộ đồ trắng như tuyết, nhảy từ nóc nhà mười tám tầng xuống, đẹp như một cánh bướm vậy, ha ha, mụ đàn bà đáng thương ấy, không ngờ lại hóa điên…”

“Đường Thọ” cổ họng Trác Mộc Cường Ba phát ra một tiếng gầm, bật người lao tới: “Mày không phải con người!”

“Này, đừng thế!” Merkin biết rõ Đường Thọ đang chọc giận Trác Mộc Cường Ba, nhưng lúc này, y đã không thể ngăn gã lại được nữa.

Trác Mộc Cường Ba hung hăng lao tới, nhưng Đường Thọ chỉ cần khẽ khàng giơ chân cất tay là lại đánh bật gã. Có điều, Trác Mộc Cường Ba dường như hoàn toàn không biết đau đớn, hai chân chạm đất, lại xông lên như thể bất cần đời, cứ vậy bốn năm lần, trên vạt áo Đường Thọ đã có không ít vết máu, máu của Trác Mộc Cường Ba.

Merkin thấy vậy thì hết sức lo lắng, cũng muốn xông lên giúp sức, nhưng chỉ mấy chiêu đã bị Đường Thọ đánh bật ra. Nụ cười nhã nhặn trên gương mặt Đường Thọ vẫn chưa từng biến mất.

“Ầm!” Trác Mộc Cường Ba lại bị đánh bay ra xa bốn năm mét, rơi bịch xuống đất, trượt thêm ba bốn mét nữa rồi ộc ra một ngụm máu lớn. Lần này gã không thể một mạch lao tới được nữa, Trác Mộc Cường Ba khó nhọc xoay người ngồi dậy, há miệng thở dốc, cảm giác phẫn hận trong lòng mỗi lúc một bùng lên mạnh mẽ, tại sao, tại sao lại có kẻ như tên Đường Thọ này? Tại sao lại là ta? Tại sao lại là ta?

Đường Thọ nói với giọng thương hại : Cường Ba thiếu gia, ngươi không thể trách ta được, có trách thì trách ngươi là Trác Mộc Cường Ba đi, ai bảo người là con trai của Đức Nhân lão gia, ai bảo gia tộc ngươi là hậu duệ của Trại Bản Ba. Có điều, người cứ yên tâm, giờ mụ đàn bà đó đang ở trong bệnh viện mà ta đã từng ở ấy, ngươi cũng từng đến đó rồi, điều kiện rất tốt đấy.”

“A...a...” Trác Mộc Cường Ba ngửa mặt lên trời hú dài, cục máu ứ trong lồng ngực phun ra, lửa phẫn nộ trong long cháy lên ngùn ngùt. Gã đột nhiên cảm thấy, vòng tròn vốn đang chầm chậm di chuyển động giữa hai đùi kia, biến thành một thông đạo, dường như có một thứ vật chất vô hình nào đó trong trời đất, đang ùa vào tràn đầy cơ thể qua thông đạo đó.

“A...a...” cùng với tiếng gầm đầy giận dữ ấy, làn da Trác Mộc Cường Ba từ từ chuyển sang sắc đỏ, từng sợi gân xanh gồ hẳn lên, cơ bắp vặn vẹo đè lên xương cốt phát ra những âm thanh “răng rắc lách cách”, những khối thịt gồ lên cao như thể muốn xé toạc y phục ra. Mekin và Đường Thọ đều ngạc nhiên nhìn những biến hóa trên thân thể gã.

“Hải Để Luân”(56) mở ra hết! Cường Ba thiếu gia, ngươi cũng giỏi mang đến cho ta nhiều niềm vui bất ngờ đấy, ở thời điểm này mà còn đột phá được cơ à!” Đường Thọ không hề sợ hãi, ngược lại còn tỏ ra vui mừng, nụ cười càng thêm rạng rỡ.

Trác Mộc Cường Ba lại đứng lên, gã thậm chí không buồn quan tâm đến những thay đổi của mình, lao thẳng vào Đường Thọ. Thân thể hai người lướt qua cạnh nhau, Trác Mộc Cường Ba lại trúng một đấm. Nhưng lần này, gã cảm nhận được một cách rõ ràng mình đã nắm bắt được quỹ tích ra đòn của Đường Thọ, trong một chớp mắt trước khi trúng chiêu, gã đã né được chỗ yếu hại trên cơ thể. Đường Thọ muốn tung cước, không hiểu sao trong đầu Trác Mộc Cường Ba lại nảy ra ý nghĩ đó, gã hơi co gối lên, trước khi hai chân Đường Thọ hình thành được thế công, chặn đùi non của y lại, hai người đều tung ra một đấm, lùi lại một bước, tạm thời tách ra.

Đúng vào khoảng khắc họ tách ra đó, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hiểu được tại sao mình biết Đường Thọ muốn tung cước. Vì nếu gã ở vị trí của Đường Thọ, đá chân lên không nghi ngờ gì chính là lựa chọn tốt nhất, chính là như vậy! Trác Mộc Cường Ba đã dự cảm được suy nghĩ của Đường Thọ, từ đó chặn được thế công của y lúc chiến đấu. Đồng thời, gã cũng hiểu ra sự thua kém của bọn gã với Đường Thọ nằm ở đâu. Gã và Mekin, ra đòn có thể rất nhanh, chiêu thức quái dị, nhưng khi bọn gã ra đòn thì chỉ biết xông thẳng tới trước, gặp chiêu giải chiêu. Còn Đường Thọ lại hoàn toàn khác, trước khi ra chiêu, y đã nghĩ trước xem đối thủ có thể phản ứng như thế nào, vì vậy mỗi lần y xuất chiêu đều chặn đứng những bộ vị hai người bọn gã có thể tấn công, đồng thời nhằm vào những vị trí hai người không kịp thu về phòng ngự, giống như hai cao thủ đánh cờ mà Đường Thọ luôn nhìn trước được một nước cờ vậy. Cũng chẳng trách khi tấn công Đường Thọ, gã và Mekin rất khó đánh trúng đối phương, mà lại liên tiếp trúng đòn của y.

Đường Thọ và Trác Mộc Cường Ba vừa tách ra, Mekin lập tức bọc hậu tấn công. Đường Thọ thoáng lộ vẻ chán ghét, y đã không còn hứng thú hưởng thụ trò mèo vờn chuột này nữa, trong lòng ngấm ngầm lo lắng. Y lo lắng Trác Mộc Cường Ba bắt đầu nắm bắt được cách thức đoán trước quỹ tích vận động và ý đồ tác chiến của đối thủ trong chiến đấu. Tuy rằng y cũng biết, điều này cần một quá trình lâu dài, nhưng y vẫn cảm thấy lo lắng.

“Cút đi cho ta” Đường Thọ không còn nương tay nữa, nhắm vào Mekin tung ra một đấm. Khi nắm đấm còn cách Mekin khoảng ba bốn chục xăng ti mét, y lại đột nhiên hất cổ tay lên, đầu móc kéo theo dây xích mảnh bắn vụt ra. Ở khoảng cách gần như thế này, uy lực của đầu móc tuyệt đối không kém viên đạn vừa rời khỏi họng súng, chỉ trong chớp mắt đã bắn xuyên qua vị trí dưới bả vai của Merkin. Đây cũng là một trong những chỗ mỏng nhất trên bộ đồ chống đạn này. Vì tốc độ bắn xuyên qua quá nhanh, Merkin còn không kịp cảm thấy đau đớn, bàn tay vẫn nắm chặt vung ra phía trước. Cổ tay Đường Thọ khẽ vặn nhẹ, dây xích lập tức rút trở về. Cảm giác đau đớn thấu xương thấu cốt tức thì lan đi khắp toàn thân, Merkin “Á!” lên một tiếng, cú đấm lập tức run rẩy thoát lực dừng sững lại. Đường Thọ giơ chân đá tạt một cú, hất y văng ra xa, rồi xoay người lại toàn lực đối phó Trác Mộc Cường Ba.

Merkin bị đã bay lơ lửng trên không trung, nhìn thấy Đường Thọ dốc sức tấn công Trác Mộc Cường Ba, một chọi một, Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn rơi vào thế yếu. Trước đó, gã đã bị thương rất nặng chẳng qua mới nắm bắt được phương thức dự đoán động tác trước khi xuất chiêu mà thôi. Y nhìn thấy rất rõ, gương mặt đỏ bừng vì phẫn nộ của Trác Mộc Cường Ba đang dần tái đi, gã mất máu nhiều quá, giờ đã như ngọn đèn cạn dầu rồi. Merkin lạnh cả người, thầm nhủ: “Không thể chiến thắng hắn được, hắn còn chưa dùng đến vũ khí, cũng không sử dụng côn trùng, mà đã mạnh đến thế, lẽ nào chũng ta phải kết thúc như vậy sao?” Thân thể Merkin rơi chạm đất, khẽ bật nảy lên, khóe mắt liếc thấy… vùng gò đồi đằng xa kia, dường như có gì nhích động!

Thời gian quan ngược lại lúc ba người bắt đầu chiến đấu, khi Trác Mộc Cường Ba phun ra vũng máu đầu tiên, những phân tử máu bắn tung tóe, được cơn gió nhẹ dịu dàng bao bọc, đưa ra xa khỏi bãi cỏ, không ngừng khuếch tán rộng hơn…

Tứ Vương lăng, bầy sói đang nô đùa.

Sói Út không biết kiếm đâu được một khúc xương dài, ngậm trong miệng chạy vào một nhà dân đặt trước một con sói cái. Con sói cái ấy e thẹn cúi đầu, bước đến cọ cọ vào má Sói Út. Sói Út ta đang mừng rỡ hớn hở, đột nhiên trở lên nghiêm nghị, chạy ra khỏi nhà, ngẩng đầu tìm kiếm gì đó trong không khí. Một mùi quen thuộc từ xa bay đến, mùi máu. Lúc này đã có một ngọn gió mang theo mùi máy nồng nặc lướt qua, nhưng Sói Út không để ý, cho rằng đó là đội săn bắn đang đi săn, nhưng lần này thì khác, máu này, là của A U Chang!

Trên đỉnh Tứ Vương lăng, vị vương giả trên cao đột nhiên đứng dậy, bốn chân như bốn cây cột, mặt hướng về phía Tây. Một con sói cường tráng đứng ở bậc thang bên dưới, khẽ gầm gừ: “Là người đó!” Vương giả đáp: “Ta còn ngửi thấy mùi quen thuộc khác, xem ra, đến lúc chúng ta hành động rồi.”

Dường như tất cả lũ sói và chó ngao ở Shangri-la đều ngửa mặt lên trời, dùng cái mũi nhạy bén của chúng tìm kiếm thứ gì đó. Đột nhiên, cái bóng màu tím kia từ trên Vương lăng bước xuống, nó đi đến đâu, đàn sói nhất loạt cúi đầu, rồi lập tức đứng dậy đi theo vị vương của mình, tiến về cùng một hướng. Đàn sói ở bốn phương tám hướng cũng tràn về, bọn chúng đều bỏ dở hết công việc đang làm, nhưng chơi đùa nhảy nhót, cùng đi theo một bóng hình, dần tụ tập thành những dòng thác lũ, những dòng lũ lớn lại hòa vào nhau, tựa như cơn sóng thần ngoài biển khơi ập đến nhấn chìm hết thảy.

Đàn sói tràn qua rừng rậm, hết sức trật tự theo sau vị vương giả của chúng, không phát ra bất cứ âm thanh nào, nhưng những bước chân nhịp nhàng ấy lại khiến cả khu rừng run lên. Trong khoảnh khắc, động vật trong rừng, ngoài những con bay được trên không và rúc sâu dưới lòng đất, dường như tất cả đều ùa ra khỏi hang ổ, bỏ chạy dáo dác.

Vương giả của loài sói, bước chân thanh nhã mà cao quý nhanh nhẹn bước đi, tốc độ tăng dần, sải chân nhỏ dần, nhỏ dần rồi như thể đang bay. Toàn bộ các đàn sói ở Shang-ri la đều đi theo thủ lĩnh của chúng, nghìn vạn cùng lao đi, khiến mặt đất chấn động rung lên bần bật.

Merkin tưởng rằng mình hoa mắt, vội đưa tay dụi mạnh rồi nhìn lại, đúng vậy, khu vực gò đồi đó đang rung lên, không phải, không phải đồi núi đang rung động , mà cả một vùng gò đồi đằng xa ấy đều bị thứ gì đó phủ kín, thứ đó đang chuyển động. Merkin chưa kịp nhìn rõ đó là thứ gì, y chỉ biết, số lượng bọn chúng rất đông đảo, tất cả đang ào ào tràn tới đây. Y ngoái đầu nhìn quanh quất, chỉ thấy toàn bộ trong tầm mắt, đầu là như vậy, dường như mặt đất đang cuộn sóng… liền ngay sau đó Merkin cảm thấy mặt đất, hồ nước, núi non, tất thẩy đều đang run lên nhè nhẹ.

Đường Thọ vừa đánh bật Trác Mộc Cường Ba ra xa mấy mét, lập tức cảm nhận được mặt đất rung động. y ngoảnh đầu, liền thấy cơn sóng do lũ sói tạo thành ập đến. Đường Thọ tức thì tái mặt, thầm tính toán khoảng cách giữa mình và lũ sói, rồi quay lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên rút súng bắn luôn. Trác Mộc Cường Ba sớm đã có chuẩn bị, thuật bắn súng cận thân được bản năng trợ giúp, đã phát huy vượt cấp. Gã lăn lội mấy vòng, đạn của Đường Thọ bắn ra đều rơi vào khoảng trống. Y rất muốn giết chết Trác Mộc Cường Ba và Merkin ở đây, nhưng cũng không hề muốn hợp táng với hai người. Ngay cả Merkin cũng nhận ra, Đường Thọ đang chuẩn bị bỏ chạy! Lúc này, Merkin đã nhìn rõ, thứ tràn qua rừng rậm kia, là sói, toàn bộ đều là sói, sói đến rồi! Sói đến rồi! Không hiểu vì sao. Merkin cảm thấy kích động sôi trào, suýt chút nữa thì rơi nước mắt. Y có lẽ là một trong số rất ít người trong lịch sử nhìn thấy nhiều sói như vậy chạy về phía mình mà con vui mừng đến thế.

Chú thích

(56) Hải Để Luân: Trong Ấn Độ giáo và một số nền văn hóa châu Á, luân xa là trung tâm thu phát năng lượng trong cơ thể người, có bảy luân xa chính nằm dọc theo cột sống lên đến đỉnh đầu. Hải Để Luân hay Mūlādhāra (Luân xa gốc) là luân xa nằm ở đốt xương sống cuối cùng.

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 81

KẾT THÚC BẰNG MỘT TẤM ẢNH

Chương 55

VƯƠNG GIẢ GIÁNG LÂM

    

ường Thọ đành bỏ qua cho bọn Trác Mộc Cường Ba, xoay người chạy đi, đồng thời mở khóa ba lô, lấy hết vũ khí ra, toàn thân từ đầu đến chân đều vũ trang tới tận răng. Y vừa chạy vừa cật lực thầm nhủ: “Không qua đâu, không qua đây đâu…”

Ven hồ là những khối đá lớn nhỏ sừng sững, đàn sói chạy đến trước những khối đá ấy liền đồng loạt dừng lại, chân cào bới đất một cách bất an, gầm gừ khe khẽ. Đường Thọ yên tâm phần nào, song vẫn không dám hoàn toàn lơi lỏng, y biết, điều này chẳng nói lên gì cả, quan trọng nhất là phải xem thái độ của “vị” kia như thế nào.

Tử kỳ lân được bầy sói tiền hô hậu ủng, trông cao hơn hẳn những con sói và chó ngao khác hẳn một cái đầu, nó chầm chậm bước tới đường ranh giới tạo bởi các khối đá, mấy con sói tương đối cao tuổi ở bên cạnh khẽ thì thào: “Chuyện này…ngài xem…”

Tử kỳ lân chẳng buồn để ý, hờ hững như không, ngẩng cao đầu bước qua lằn ranh vô hình ấy, lũ sói phía sau hú lên mừng rỡ, lần lượt bám đuôi theo. Trái tim Đường Thọ giật nảy lên, khẩu súng trong tay suýt nữa thì rơi mất.

Trác Mộc Cường Ba nằm dưới đất, nhất thời không sao dậy nổi, chỉ có thể nghiêng người đi một chút. Gã cũng cảm thấy mặt đất đang chấn động, nhìn thấy đàn sói ùa tới, nhưng gã vẫn chưa hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Gã chỉ biết, vương quốc sói có quy củ riêng của mình, hoặc giả, bọn chúng cũng có sứ mệnh của mình, không để bất cứ kẻ nào từng đặt chân đến Bạc Ba La thần miếu được phép rời khỏi đây, giống như Ba Tang và đồng đội của anh ta năm đó vậy. Thế cũng tốt, ít nhất Đường Thọ cũng không thoát được.

Nhưng ngay sau đó, gã liền loại bỏ mối lo này, vì trong đàn sói ập đến như nước triều đen kịt ấy, có hai con soi xông lên đến cạnh gã trước tiên. Sói Út và Sói Hai thân thiết liếm liếm vết thương trên người gã, đoạn ngồi chồm hỗm bên cạnh gã. Trác Mộc Cường Ba giơ tay lên, vuốt dọc theo sống lưng hai con sói.

Sói Út thấp giọng thì thào: “Ai bắt nạt anh thế, A U Chang, chúng tôi giúp anh báo thù.”

Trác Mộc Cường Ba dùng tiếng sói đáp lại: “Vậy thì, nhờ chúng mày vậy.” Đang nói chuyện, chợt nghe một tiếng hét giận giữ: “Lũ khốn kiếp!” Kế đó, tiếng súng vang lên liên tiếp.

Trác Mộc Cường Ba muốn nhìn xem có chuyện gì xảy ra, nhưng cần cổ đau nhức, toàn thân không còn chút sức lực nào cả. Sói Hai liền dùng mõm rúc vào, nâng đầu Trác Mộc Cường Ba lên cao hơn.

Trác Mộc Cường Ba trông thấy, không biết từ lúc nào, Đường Thọ đã bị lũ sói ép trở về, đồng thời, xung quanh gã cũng có vô số con sói đang quây thành vòng tròn, ném cho gã những ánh nhìn thân thiết. Gã lập tức ngập tràn trong hạnh phúc, chúng không hề quên người bạn này!

Đường Thọ hai tay hai súng, liên tục phát xạ, quỹ tích đạn bao phủ toàn bộ các phương vị xung quanh, y thay đạn cũng cực nhanh, hai khẩu súng vừa hết đạn, y kiền ném lên không trung, đồng thời búng lên hai băng đạn giắt ở thắt lưng, sau đó rút hai khẩu súng khác ra tiếp tục xạ kích. Hai băng đạn cắm lọt ngay vào hai khẩu súng trên không trung, rơi xuống, khi ấy, Đường Thọ cũng vừa bắn hết đạn hai khẩu súng trên tay, y lại ném súng lên, búng ra hai băng đạn khác, rồi lại bắt lấy hai khẩu súng vừa rơi xuống, tiếp tục nhả đạn. Kỹ thuật này, hiển nhiên còn cao minh hơn Merkin một bậc, hai khẩu súng đồng thời nạp đạn, vả lại gần như không có thời gian cách quãng.

Trác Mộc Cường Ba quan sát quỹ tích nhả đạn của Đường Thọ cũng không khỏi thầm kinh ngạc. Góc độ xạ kích hết sức độc địa, quỹ đạo dịch chuyển của nòng súng cũng thập phần quái dị, diện tích che phủ rất toàn diện, gần như một hình cầu toàn thân đều có những họng súng chĩa ra vậy. Gã bất giác thầm nhủ, nếu Đường Thọ vừa xuất hiện đã sử dụng kỹ thuật xạ kích này đối phó mình và Merkin, sợ rằng bọn gã đã sớm chẳng còn mạng nữa rồi, chỉ có điều, tên Đường Thọ này tâm lý quá biến thái, y muốn hưởng thụ khoái cảm chinh phục, kết quả lại bị đàn sói lùa vào trong rọ.

Kỹ thuật bắn súng của Đường Thọ đã đáng kinh ngạc, nhưng biểu hiện của đàn sói lại càng khiến người ta chấn động hơn. Bọn chúng nhảy qua nhảy lại giữa các làn đạn, nhanh như những cái bóng mờ, đạn của Đường Thọ quá nửa đều bắn trượt, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên nhớ đến chuyện xảy ra khi mấy con sói đuổi theo gã và Ba Tang. Tốc độ của lũ sói này còn nhanh hơn một chút so với tốc độ mắt thường có thể theo kịp, rõ ràng nhìn thấy chúng, nhưng khi nổ súng lại chỉ bắn vào một cái bóng, nếu nhắm mắt bắn bừa bắn bậy, nói không chừng lại bắn trúng cũng nên.

Đáng tiếc, Đường Thọ không hiểu lý lẽ này, trong cơn căng thẳng và sợ hãi cực độ, cặp mắt y càng lúc càng mở lớn.

“Cách cách!” hai tiếng, Đường Thọ vỗ vào thắt lưng nhưng đã không còn băng đạn nào nữa. Y vẫn không can tâm, liền chĩa súng vào lũ sói bóp cò liên tiếp, không ngừng phát ra những tiếng “cách cách cách” trống rỗng. Lũ sói tách ra tạo thành một con đường, Tử kỳ lân chầm chậm bước lên phía trước, mặt đối mặt với Đường Thọ. Nó nhìn chằm chằm vào Đường Thọ, miệng khẽ nhếch lên.

“Nổ súng đi, xem người còn bao nhiêu đạn. Lần trước đã để ngươi chạy thoát, không ngờ ngươi còn dám trở lại nữa, lần này để xem ngươi chạy được đi đâu.” Đường Thọ đọc được điều đó trong mắt Tử kỳ lân.

“Không thể nào, đây không phải là cấm địa của các ngươi hay sao? Sao các ngươi dám vượt qua ranh giới? Sao các ngươi dám!” Đường Thọ chỉ vào những khối đá sừng sững ở đằng xa quát tháo ầm ĩ.

Tử kỳ lân ngoảnh đầu lại nhìn những khối đá, ánh mắt lộ vẻ tiếc nuối, tựa như đang nói: “Quy củ lập ra là để phá vỡ, chẳng lẽ ngay cả điều này ngươi cũng không biết sao? Ngươi có óc không vậy?”

“Không thể nào, không thể nào.” Đường Thọ vừa lắc đầu vừa lùi lại, y biết rõ lũ sói này đáng sợ đến chừng nào, kí ức bị truy đuổi lần trước vẫn còn rõ ràng như mới. Vốn luôn cho rằng mình là một thứ tồn tại cao quý vô thượng, không ngờ lại bị một đám súc sinh đánh bại, Đường Thọ bị đả kích rất lớn, vì vậy mà tinh thần rối loạn mất một khoảng thời gian, đây cũng chính là một trong các nguyên nhân khiến y mặc đồ lính đánh thuê trà trộn vào giữa đám thuộc hạ của Merkin để che giấu hành tung.

Đột nhiên, Đường Thọ trông thấy Trác Mộc Cường Ba đang được đàn sói quây lại bảo vệ, sau đó, y lại trông thấy Merkin. Đãi ngộ của Merkin không được như Trác Mộc Cường Ba, mấy con sói đang hướng về phía y nhe hàm răng nhọn hoắt, khiến Merkin sợ đến không dám nhúc nhích. Đường Thọ dường như sực hiểu ra điều gì đó, y chỉ Trác Mộc Cường Ba hét lớn: “Ngươi! Chính là ngươi! Ngươi là Người được chọn! Không! Không công bằng! Ta cũng là hậu duệ của Vu vương, tại sao chỉ có ngươi là Người được chọn?” Trác Mộc Cường Ba đã phục hồi phần nào sức lực, đang khó nhọc chống khủy tay xuống đất để nâng người lên cao một chút, gã nuốt ngụm máu trào lên đến cổ họng xuống, dùng câu nói của chính Đường Thọ trả lời y: “Thế thì sao? Ngươi không phục à?”

Đường Thọ cực kỳ phẫn hận rít lên: “Cường Ba thiếu gia, ngươi tốt số thật đấy! Có kẻ sống gửi bảo vệ ngươi! Lại có lũ sói bảo vệ ngươi! Được lắm! Được lắm!”

Sói Út đứng lên, lông cổ dựng ngược, nhìn chằm chằm vào Đường Thọ, hỏi Trác Mộc Cường Ba: “A U Chang, hắn phải không? Xem tôi xử lý hắn này!”

Một con sói bên cạnh ngăn Sói Út lại, nói: “Đừng hoảng, đó là con mồi của Vương.”

Tử kỳ lân khẽ gầm lên một tiếng, chuyển sự chú ý của Đường Thọ sang phía nó: “Con người, cuộc chiến của chúng ta chỉ mới bắt đầu thôi, không phải ngươi sợ rồi chứ?”

Đường Thọ nghiến răng kèn kẹt, tay trái rút dao, tay phải lại lặng lẽ rút vào trong ống tay áo, cơ hồ như đang chuẩn bị gì đó, y hung hăng quát: “Đến đây, con chó ôn dịch, ta không sợ ngươi đâu!”

Tử kỳ lân nghiêng đầu, dường như đang nghĩ xem chỗ dựa của Đường Thọ là thứ gì. Mấy con sói dạn dày kinh nghiệm cũng ghé đầu ghé tai thfi thào: “Tên đó, lần trước không phải bị đánh cho tơi bời hoa lá sao? Hắn còn dám tiếp chiến à? Dựa vào cái gì chứ?”

Tử kỳ lân nhếch mép cười, thân hình lắc nhẹ, thoắt cái đã... biến mất trong ánh mắt kinh ngạc của Trác Mộc Cường Ba và Merkin!

Duy chỉ có Đường Thọ vẫn giữ được sự trầm ổn, chỉ một khoảnh khắc sau đó, y đột nhiên nghiêng người, con dao trong tay đâm mạnh ra phía sau. Lưỡi dao của Đường Thọ đâm ra, Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới trông thấy bóng dáng của Tử kỳ lân lóe lên đằng sau Đường Thọ một cái. Khi hai người đều tưởng rằng Tử kỳ lân đã bị dao đâm trúng, mới phát hiện ra, Đường Thọ chẳng qua chỉ đâm vào một cái bóng.

Nhanh... nhanh quá, Trác Mộc Cường Ba và Merkin cùng chung một cảm giác, tốc độ mà xưa nay Đường Thọ vẫn lấy làm kiêu ngạo, ở trước mặt Tử kỳ lân, chẳng đáng là gì cả. Merkin từng chứng kiến tốc độ chạy hết sức của Hải Lam thú, nếu nói Hải Lam thú như một cơn gió, khi chạy chỉ để lại một cái bóng mờ mờ, vậy thì Tử kỳ lân này sở hữu tốc độ ngang với một tia chớp, mắt thường cơ hồ không thể theo kịp quỹ đạo di chuyển trong cự ly ngắn của nó được.

Phải quan sát cách thức di động và vị trí lưỡi dao của Đường Thọ, Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới thấy được bóng dáng Tử kỳ lân, thoắt hiện ra rồi lại thoắt biến mất, rồi lại hiện ra, rồi biến mất. Đột nhiên, Đường Thọ giơ con dao trên tay đâm mạnh vào cánh tay phải của mình, đường dao cực kỳ dứt khoát, tốc độ cực nhanh, dao và cánh tay đập vào nhau tóe lửa! Hả? Dao và cánh tay đập vào nhau tóe lửa?

Trác Mộc Cường Ba và Merkin đang nghi hoặc, Tử kỳ lân đã xuất hiện phía sau Đường Thọ, cách chừng hơn chục mét, nó cũng đang nhìn Đường Thọ với ánh mắt hồ nghi. Đường Thọ nhe răng cười khành khạch: “Sao hả? Đau răng rồi à?” Bấy giờ, hai người mới nhận ra, tay áo bên phải của Đường Thọ đã bị rách toạc bốn vết lớn.

Đường Thọ giật tung ống tay áo rách đó xuống. Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên nhận ra, cả cánh tay phải của y tuyền một màu đen, còn ánh lên sắc kim loại. Merkin lẩm bẩm: “Ghép chi?”

Trác Mộc Cường Ba lúc này mới phát hiện, toàn bọ tay phải của Đường Thọ từ vai trở xuống, hoàn toàn bằng kim loại. Không ngờ y lại cấy ghép một cánh tay máy chế tạo từ hợp kim! Chẳng trách tay phải y không linh hoạt bằng tay trái, chẳng trách pháp sư Á La lại nói tay phải của Đường Thọ sở hữu sức mạnh không phải của con người.

Đường Thọ chuyển động cánh tay phải, bàn tay xòe ra rồi nắm lại, cười cười nói: “Khoa học kỹ thuật của con người, không ngờ phải không, con chó ôn dịch, đừng tưởng ta hết đồ chơi rồi nhé.” Nói đoạn, không biết y đã điều chỉnh nút bấm nào trên cánh tay, đoạn từ khuỷu tay trở xuống liền bật ra một lưỡi dao nữa.

Tử kỳ lân thấp giọng gầm ghè, như thể đang nói: “Chẳng qua cũng thế mà thôi.”

Tia chớp màu tím lại xoay chuyển xung quanh tấn công Đường Thọ, Trác Mộc Cường Ba chợt để ý thấy hai mắt Đường Thọ chớp chớp với tốc độ nhanh hơn người thường rất nhiều, mỗi lần chớp mắt y đều có thể khóa chặt vị trí của Tử kỳ lân. Trác Mộc Cường Ba cũng học theo, bắt đầu chớp mắt thật nhanh, quả nhiên, mỗi lần chớp mắt gã đều thấy được bóng dáng của Từ kỳ lân, giống như cửa chập của máy ảnh vậy.

Tử kỳ lân thường tấn công Đường Thọ từ phía sau, bổ tới, lướt qua, tạt, vồ, đớp... còn Đường Thọ lại dùng cánh tay máy phòng ngự kín kẽ, mỗi lần Tử kỳ lân lao đến gần, y đều có thể nhanh chóng phản kích. Dưới ánh dao lấp lóa, bộ lông của Tử kỳ lân tung bay phấp phới, có mấy lần suýt nữa bị lưỡi dao của Đường Thọ vạch trúng.

Trác Mộc Cường Ba bắt đầu thấy lo lắng cho Tử kỳ lân, đòn tấn công của nó rõ ràng không thể gây tổn thương cho cánh tay máy kia, có điều, Đường Thọ dường như cũng không dùng cánh tay máy phòng hộ toàn thân, sau mỗi lần bị tấn công, y lại dùng luôn cánh tay máy ấy để phản kích.

“Công kích chịu đòn.” Không biết từ lúc nào, Merkin đã tập tễnh bên cạnh Trác Mộc Cường Ba.

“Ông nói gì cơ?”

“Đường Thọ, y đang sử dụng thuật công kích chịu đòn, anh không nhận ra à? Mỗi lần con chó kia tấn công hắn, hắn đều lập tức phản kích, có mấy lần suýt nữa là thành công rồi.” Merkin giải thích.

Trác Mộc Cường Ba cải chính lại: “Tử kỳ lân. Ông muốn nói, phương thức công kích ấy là một loại sách lược gì đó?”

Merkin gật đầu đáp: “Ừm, khi tốc độ và sức mạnh của anh đều không bằng đối thủ, muốn đánh trúng hắn thì phải làm thế nào chứ? Sách lược tốt nhất chính là cách mà Đường Thọ đang sử dụng, dù đối thủ mạnh đến mấy, khi hắn tấn công anh, nhất thiết sẽ phải tiếp xúc với thân thể anh. Chỉ cần đối thủ tiếp xúc với thân thể anh, động tác của hắn sẽ bộc lộ. Nếu anh bị đá trúng phần thân trên, trước khi ngã xuống anh có thể dùng chân đá lại hắn; nếu đối thủ tóm được một chân anh, anh có thể dùng chân kia; khi hai nắm đấm đều bị khóa chặt, liền dùng trán đập tới; khi mặt đối mặt với đối thủ, cũng có thể nhổ nước bọt, kiểu gì cũng được, vì anh đang ở thế yếu hơn, trong cuộc đấu đặt cược bằng tính mạng, mục đích duy nhất chính là giết chết đối phương, dùng bất cứ thủ đoạn nào cũng không bị coi là quá đáng.”

Trác Mộc Cường Ba đã lờ mờ đoán ra được. “Dùng thân thể của chính mình làm mồi, hy sinh một phần những bộ vị không quan trọng lắm để cho đối phương một đòn chí mạng?”

Merkin gật đầu: “Đúng thế. Anh xem, Đường Thọ rất ít khi dùng tay phải phòng ngự, chính là vì nguyên nhân này. Vì tay phải của hắn là tay máy, một khi Tử kỳ lân tấn công cánh tay máy đó, Đường Thọ cảm ứng sẽ chậm hơn, không thể áp dụng được chiến thuật chịu đòn, mà như vậy thì hắn thậm chí còn không chạm vào được sợi lông của con chó ấy.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng Tử kỳ lân cũng không hề gây tổn thương đến cánh tay máy đó mà?”

Merkin nói: “Không thấy trên cánh tay máy của Đường Thọ có một ngọn đèn nhỏ nhấp nháy à? Thứ đó dùng pin công suất lớn, dòng điện có thể khiến cánh tay đó sở hữu sức mạnh mà người bình thường không thể có được, nhưng nếu hết pin, thì nó liền biến thành một đống sắt vụn. Đường Thọ không dám mạo hiểm, hắn cũng không biết cánh tay máy đó rốt cuộc có thể chịu được bao nhiêu lần tấn công của Tử kỳ lân nữa.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng lần nào Tử kỳ lân cũng tránh được mà.”

Merkin chợt lắp bắp kêu lên: “Chuyện này… điểm sát! Đó là điểm sát!”

“Cái gì hả?”

Merkin nói: “Là một sách lược chiến đấu cực kỳ cao minh, khi anh dốc hết sức tấn công đối thủ, có thể sẽ đánh trúng, gây cho đối thủ thương tổn cực lớn, nhưng cũng có thể không đánh trúng, hoặc giả đối thủ có thể chịu đựng được sự tổn thương đó, khi ấy, anh rất dễ bị đối thủ phản kích, đây chính là chiến thuật chịu đòn phản kích của Đường Thọ. Nếu anh tấn công đối thủ lại chỉ dùng bảy phần sức, vậy thì, khi đối thủ tránh né đòn, anh vẫn còn dư lực để thay đổi phương hướng tấn công, tiếp tục ra đòn, nhược điểm duy nhất chính là, lực đánh vào đối thủ sẽ không quá lớn. Phương thức công kích này, được gọi là điểm sát, giống như vận động viên đấm bốc vậy, không nhất thiết phải đánh cho đối thủ nốc ao ngã xuống, chỉ cần dùng điểm số cũng giành được thắng lợi. Anh nhìn Tử kỳ lân tấn công mà xem, lần nào cũng điểm đến là dừng, trước khi Đường Thọ kịp phản kích nó đã né đi rồi, một vết thương nhỏ, khiến hắn chảy mười mi li lit máu, nhưng nếu hơn một trăm vết thương như thế thì sao? Tự nhiên cũng thành chí mạng. Chớ coi thường phương thức công kích này, nó yêu cầu phải có trình độ khống chế tốc độ và sức mạnh cực cao đó, nhiều người luyện tập cả đời cũng chỉ có thể đánh một đòn dốc hết sức, mà không có cách nào làm được như Tử kỳ lân: một đòn đánh nhanh hết sức có thể, nhưng lại chỉ dùng một phần ba sức lực.”

Quan sát một lúc nữa, Merkin nghi hoặc nói: “Tôi thực sự rất hoài nghi, con Tử kỳ lân ấy, nó là một con chó thật sao? Anh nhìn cách thức tấn công của nó mà xem, nó không chỉ biết Đường Thọ sẽ phản kích thế nào, thậm chí còn biết trước được động tác của Đường Thọ sau khi phản kích nữa, giống như lúc Đường Thọ đối phó chúng ta vậy, trời đất…”

Trác Mộc Cường Ba cũng đã thấy, thân thể Tử kỳ lân lao bổ vào Đường Thọ rồi lập tức bật ra, không ngờ còn có thể vặn vẹo theo hình sóng, vừa khéo tránh khỏi một cú tạt ngang của y, sau đó vuốt ngược lên trên. Quần áo Đường Thọ đã rách toạc nhiều chỗ, những mảnh áo chống đạn bung ra, giống như con cá bị đánh sạch vẩy, mấy chỗ bị thương sâu vào đến thịt, máu thấm ra ngoài.

Đường Thọ dường như cũng ý thức được, cứ tiếp tục như vậy đối với mình rất bất lợi, sau khi bị móng vuốt của Tử kỳ lân cào toạc một vệt trên lưng, y đột nhiên vặn mạnh tay phải, cơ hồ lại thay đổi chốt lẫy gì đó, chỉ nghe “phì” một tiếng, khói mù vừa phun ra, Tử kỳ lân liền liên tiếp trồi lên thụp xuống hai lần, rời khỏi phạm vi màn khói bao phủ, có vẻ như nó cũng tương đối e ngại thứ khói này.

Bên ngoài vòng chiến, một con sói không cẩn thận đến gần màn sương trắng ấy đột nhiên rút lên thảm thiết, ngã gục xuống đất, giật giật hai cái ròi không nhúc nhích gì nữa.

“Có độc!” Trác Mộc Cường Ba mắng thầm, rõ ràng Đường Thọ đã chuẩn bị để đối phó với đàn sói ở Shangri-la này. Hai mắt Tử kỳ lân chuyển động, đột nhiên nó vục mặt xuống đất, vùi lỗ mũi vào hất lên một đống đất ẩm, sau đó dùng hai chân trước vỗ cho chặt, há miệng hít thở, rồi lại xông vào đám khói trắng. Những con sói khác cũng lần lượt học theo, dùng bùn để bịt mũi. Merkin giật mình hiểu ra: “Không phải độc, là cổ độc, thứ khói trắng kia có lẽ là một loại sinh vật có hại với lũ sói.”

Giây lát sau, chỉ thấy trong màn khói trắng bùng lên khói xanh và đỏ, kế đó là tiếng kêu thảm thiết, rồi không còn khói mú gì xuất hiện thêm nữa.

Màn khói mù từ từ tan đi, chỉ thấy Tử kỳ lân đứng một bên, Đường Thọ đang trợn mắt nhìn nó đầy kinh sợ, tay trái ôm chặt vai phải, cánh tay máy kia đã bị Tử kỳ lân dỡ tung, để lộ ra những sợi dây kim loại đủ màu sắc. Đường Thọ đích thực đã chuẩn bị cổ độc, y còn tìm được loại độc chất ở trạng thái bay hơi chỉ có hiệu quả với sói mà vô hại với con người. Ai cũng biết, cái mũi chính là ưu điểm lớn nhất và cũng là sơ hở lớn nhất của loài sói. Đường Thọ đã chuẩn bị riêng nhiều loại vật chất có thể gây ra thương tổn chí mạng với khứu giác của chúng. Nhưng y không thể ngờ, Tử kỳ lân lại tự phong bế khứu giác, dùng bùn đất bịt mũi, y quả tình chưa từng gặp chuyện quái dị như vậy bao giờ. Trong màn sương mù mịt, Đường Thọ không sao phán đoán được phương vị của Tử kỳ lân, còn Tử kỳ lân lại chỉ cần dùng vị giác và thính giác, sau mấy lần tấn công liên tiếp, đã giật bay cả cánh tay máy của y ra.

Đường Thọ mất đi chỗ dựa lớn nhất, không cầm cự được bao lâu đã bị Tử kỳ lân đè sấp xuống đất. Tử kỳ lân giẫm lên lưng Đường Thọ, khiến y không sao nhổm người lên được, đoạn ngửa cổ gầm một tiếng, một lần nữa uy nghiêm tuyên bố, nó mới là vị chúa tể duy nhất của mảnh đất này.

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

PHẦN 81

KẾT THÚC BẰNG MỘT TẤM ẢNH

Chương 56

KẾT THÚC BẰNG MỘT TẤM ẢNH

    

ứu tôi, Cường… Cường Ba thiếu gia… cứu tôi với!”. Đường Thọ bị đè dưới đất không ngờ lại khó nhọc ngóc đầu lên cầu cứu.

Trác Mộc Cường Ba ngồi dậy, hỏi: “Nói, mày để cái hộp đó ở đâu rồi?”

“Tôi, tôi đưa nó ra ngoài rồi, dùng thiên nga, chỉ có tôi mới biết nó ở đâu, anh… anh cứu tôi đi, tôi có thể nói cho anh biết, chúng ta cùng mở nó ra, chúng ta có thể cùng xưng hùng xưng bá, cùng thống trị thế giới này…”

Trác Mộc Cường Ba đứng dậy, Đường Thọ nhìn thấy một tia hi vọng, lại nói: “Anh có thể, anh là Người được chọn, anh có thể nói chuyện với nó, anh… anh có thể bảo con chó này tha cho tôi.”

Merkin đứng bên cạnh đỡ Trác Mộc Cường Ba, lắc đầu nói: “Không thể tha cho tên này được.”

Tử kỳ lân nhìn Đường Thọ bị nó giẫm dưới chân, rồi lại nhìn Trác Mộc Cường Ba. Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba hết sức kiên quyết, gã thậm chí còn chẳng thèm liếc Đường Thọ một cái. Đường Thọ dường như hiểu ra điều gì đó, đột nhiên phá lên cười ha hả, nói: “Tôi biết tâm sự của anh, tôi biết anh không thể buông bỏ được, anh vẫn luôn nhớ nhung người đó, tôi biết cô ta đang ở đâu.”

Trác Mộc Cường Ba bị điểm trúng yếu huyệt, hơi thở tức khắc trở nên dồn dập, Đường Thọ lại nói: “Sao hả? Làm một cuộc giao dịch không, anh bảo con chó này thả tôi đi, tôi sẽ cho anh biết em gái anh đang ở đâu.”

Trác Mộc Cường Ba không kìm được, nói: “Mày biết thật sao? Tao dựa vào cái gì để tin mày?”

Đường Thọ vừa thấy có hy vọng, vội vàng lần rờ trong túi. Tử kỳ lân chẳng hề khách khí, thấy Đường Thọ vừa nhúc nhích, liền không do dự cắn mạnh một cái, khiến Đường Thọ đau đến toát mồ hôi mà không dám kêu lên. Tử kỳ lân cắn một phát ngập đến tận xương cánh tay, nếu cần thiết, nó cũng không ngại ngần gì cắn đứt luôn xương chân của y. Sở dĩ nó vẫn chưa giết Đường Thọ, là vì Trác Mộc Cường Ba dùng ánh mắt và dấu tay nói với nó: “Xin ngài tạm thời giữ lại mạng hắn, Vương, tôi còn chút chuyện muốn hỏi hắn.”

Cánh tay run rẩy của Đường Thọ cuối cùng cũng lần được bên trong túi áo, y… không ngờ lại lấy ra một tấm ảnh, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Đây.”

Trác Mộc Cường Ba giật lấy tấm ảnh, còn mờ hơn cả tấm chụp Tử kỳ lân, có vẻ như được chụp ở một khu phố đông đúc, không biết ở Trung Quốc hay nước ngoài, một cô gái trẻ tóc ngắn, hình như mặc áo khoác dày có lông, đeo túi chéo màu nâu, không cầm ô, đang rảo bước đi dưới mưa. Tấm ảnh chỉ chụp phía sau cô gái, phong cảnh bên đường và bóng lưng cô gái đều nhập nhòe, dường như nước mưa đã làm ướt ống kính. Nhìn tấm ảnh này, Trác Mộc Cường Ba không thể phán đoán bóng lưng này thuộc về ai, gã chất vấn: “Thế này là thế nào?”

Đường Thọ cười gượng nói: “Em gái anh. Tôi… tôi không dám tiến lại quá gần để chụp trộm. Giờ đây, em gái anh đã trở thành một nhân vật mà tôi chỉ nhìn từ phía xa cũng run lên sợ hãi rồi.”

“Mày nói gì?”

“Anh đừng quên tôi đến năm mười một tuổi mới bị Mười ba kỵ sĩ bàn tròn tìm đến, còn em gái anh đã bị bắt có từ năm bảy tuổi. Bảy tuổi đấy, cô ta đã trở thành một tồn tại cực kỳ mạnh mẽ và đáng sợ. Anh vẫn còn muốn tìm cô ta chứ?” Mặt mũi Đường Thọ dính đầy bùn đất, khi cười cũng không còn phong độ ngời ngời như trước nữa.

Trác Mộc Cường Ba chất vấn: “Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, rốt cuộc là thứ gì vậy?”

“Ha ha, tôi chỉ có thể cho anh biết, bọn họ là những kẻ mạnh nhất và đáng sợ nhất trên thế giới này, anh không thể tưởng tượng tổ chức ấy lớn mạnh đến chừng nào đâu. Người như tôi và Merkin, ở đó chỉ là những tên tép riu không đáng để mắt. Anh đừng tưởng con chó này lợi hại gì, nói không chừng, nó chỉ là một vật cưng của nhân vật lãnh đạo cấp cao trong tổ chức mà thôi. Anh cũng đừng tưởng biết mấy nhóm trộm mộ chúng tôi là có thể hiểu được toàn bộ tổ chức này. Anh không thể tưởng tượng được, không thể nào tưởng tượng được. Mười ba kỵ sĩ bàn tròn là một con thú khổng lồ, còn chúng tôi, tất cả những nhóm trộm mộ chúng tôi gộp lại, chẳng qua cũng chỉ là một trong vô số sợi xúc tu của con thú ấy mà thôi. Nhiệm vụ của chúng tôi, chính là tìm kiếm những nền văn minh đã từng một độ huy hoàng rồi bị hủy diệt, khai quật đào bới tìm ra nguyên nhân hủy diệt của những nền văn minh ấy, xem có gì thích hợp với nhân loại ngày nay không. Còn bộ phận thu nạp em gái anh, chính là nanh vuốt của con ác thú khổng lồ ấy, bọn họ phụ trách loại trừ mọi chướng ngại vật cản bước tiến của tổ chức. Hủy diệt loài người, không phải là si tâm vọng tưởng của một mình tôi, mà đó, thực sự là mục tiêu của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn.”

Trác Mộc Cường Ba không nói một lời, Đường Thọ phỏng chừng đột nhiên nghĩ ra gì đó, vội nói: “Chúng ta hợp tác, đúng, chỉ cần chúng ta hợp tác mở cái hộp đó ra, nắm giữ được vật chất trong đó, Mười ba kỵ sĩ bàn tròn cũng không phải là đối thủ của tôi và anh. Tôi có mối thâm thù với chúng, chúng đã giết chết ba mẹ tôi, bắt cóc tôi đi, anh không biết bọn chúng làm gì với một đứa trẻ mười một tuổi đâu. Tôi đã tận mắt chứng kiến những hình phạt tàn khốc nhất chỉ có ở chốn Địa ngục…”

Trác Mộc Cường Ba ngắt lời: “Tại sao chúng lại bắt mày?”

Đường Thọ nhìn Trác Mộc Cường Ba như thể đang nhìn một tên ngốc, thoáng sau, thấy Trác Mộc Cường Ba nghiêm túc thực sự, y mới nói: “Còn không phải vì tín vật hay sao? Kỳ thực, tôi là kẻ cuối cùng bị Mười ba kỵ sĩ bàn tròn nhận định là hậu duệ của Vu vương. Bọn họ chỉ biết ba hậu duệ của Vu vương, mỗi người đều có một món tín vật, phải kết hợp ba món tín vật này mới có thể đến được Shangri-la, nhưng không biết huyết thống của chúng ta cũng quan trọng không kém. Bọn chúng vốn tưởng rằng cuốn Cổ kinh Ninh Mã của nhà anh chính là tín vật, vì vậy mới…”

“Bắt cóc em gái tao?”

“Đúng!”

“Sao mày biết được? Tại sao bọn chúng không giết mày luôn?”

Đường Thọ gượng cười đáp: “Mười ba kỵ sĩ bàn tròn không bao giờ lãng phí tài nguyên, những đứa trẻ bị chúng bắt cóc đều buộc phải tiếp nhận huấn luyện bí mật, anh không thể không liều mạng tăng cường tri thức, liều mạng rèn luyện tăng cường sức mạnh, nếu không đạt tiêu chuẩn, bọn chúng sẽ không giết anh, mà sẽ cho anh nếm mùi đủ thứ cực hình tàn khốc ở chốn Địa ngục A tỳ. Gia tộc của tôi cũng giống gia tộc nhà anh, không biết từ đời nào đã quên mất bí mật mà gia tộc mình vẫn bảo vệ, cũng không biết tín vật là thứ gì. Mười ba kỵ sĩ bàn tròn không tìm được gì trên người tôi, liền đưa tôi đến trại huấn luyện, tiến hành tẩy não, để tôi học cách phục tùng. Để sinh tồn, tôi đành giả bộ không biết gì, ra sức huấn luyện, cho đến khi bắt đầu nhận nhiệm vụ, tôi mới dần dần điều tra, tìm hiểu được một số dấu vết, cuối cùng cũng biết rốt cuộc bọn chúng muốn tìm kiếm thứ gì.”

“Vậy ngươi làm sao biết được một số bí mật mà ngay cả mười ba kỵ sỹ bàn tròn cũng không biết?”

“Tuy người nhà tôi không biết, nhưng nếu đây là sự thật, vậy thì tổ tiên của tôi hẳn phải biết được gì đó. Tôi vẫn lờ mờ nhớ được nhà cũ của mình ở đâu. Cha tôi từng nói, gia tộc chúng tôi đã ở đây mấy trăm năm, vậy là tôi trở về nơi đó, đào hết các mộ phần xung quanh lên, ruốt cuộc cũng phát hiện ra dấu vết. Trong một ngôi mộ, tôi phát hiện tổ tiên mình từ nơi đâu di cư đến, tôi lại tới đó đào bới, sau khi đào hết mười mấy ngôi mộ, đầu mối cũng dần trở nên rõ ràng hơn, sau cùng, tôi cũng biết được toàn bộ chân tướng. Sau này, để có được nhiều đầu mối hơn, tôi liền xung phong đi tìm kiếm các đầu mối về Bạc Ba La thần miếu, để giành được sự tín nhiệm của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, tôi thậm chí còn luộc em gái lên ăn thịt, đó là em gái ruột của tôi đấy.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn y với ánh mắt tởm lợm, tên này không nhận cha mẹ, lại ăn thịt em gái, tự đào mồ quật mả của tổ tiên nhà mình lên, thử hỏi còn chuyện gì y không dám làm nữa chứ, sao y có thể… Trác Mộc Cường Ba không kìm được hỏi: “Mày… mày không sợ chết rồi bị đày xuống địa ngục sao?”

“Địa ngục là cái gì chứ?” Đường Thọ nói, “Trên thế gian này chẳng có địa ngục hay thiên đường, chẳng có luân hồi, cũng chẳng có kiếp sau gì cả. Toàn là những trò gạt người mà thôi. Con người sống thì mới có ý thức, chết rồi sẽ phân giải thành một đống vật chất vô cơ, chẳng là gì cả. Người ta sống nhất định phải một tay che trời, đã chết rồi thì mặc xác hết thảy, quan tâm làm gì.”

Trác Mộc Cường Ba thất vọng nhìn Đường Thọ, tên này không có tín ngưỡng, không có đạo đức, không có lý trí, tư duy lại hết sức sáng sủa, tri thức phong phú, võ nghệ cao cường, người như vậy mới là đáng sợ nhất. Đường Thọ lại nói: “Tôi đã nói nhiều như vậy rồi, sao hả? Anh không cần suy nghĩ sao, Cường Ba thiếu gia? Hợp tác đi, chúng ta sẽ là chúa tể của thế giới mới này, chúng ta chính là chân thần trên thế gian này, đám người kia sẽ chỉ biết thành kính quỳ lạy chúng ta, bọn chúng sẽ thành đồ chơi của chúng ta, muốn thế nào thì làm thế ấy.”

Trác Mộc Cường Ba khẽ lắc đầu, Đường Thọ đã hoàn toàn rơi vào ma chướng, không còn thuốc chữa nữa rồi. Tử kỳ lân đứng bên cạnh nhìn bọn họ, ngáp một cái rõ to, dường như, Trác Mộc Cường Ba và Đường Thọ nói chuyện lâu quá, khiến nó cũng mất cả hứng ăn thịt Đường Thọ. Nó nhấc chân khỏi người Đường Thọ bỏ đi, nhưng những con sói khác vẫn giương mắt nhìn chằm chằm vào y.

Từ sau khi cầm tấm ảnh kia, Trác Mộc Cường Ba vẫn luôn giữ khoảng cách với Đường Thọ, lúc này gã không tiến lên mà ngược lại còn lùi về sau, gương mặt lạnh như băng giá. Vô số ý niệm xoay chuyển trong đầu Đường Thọ, y đột nhiên lớn tiếng nói: “Tôi nói thật đấy, Merkin có thể chứng minh. Ngoài tôi, trên đời này không ai nhận ra em gái anh đâu, ai để ý đến một đứa bé gái bảy tuổi lại mất đi giá trị lợi dụng chứ? Anh tưởng với sức của một mình anh có thể khiêu chiến được Mười ba kỵ sĩ bàn tròn à? Không có tôi làm nội ứng, anh chẳng thể làm được gì đâu, Merkin hoàn toàn không biết gì về các lãnh đạo cao cấp của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, địa vị của hắn còn thấp hơn tôi nữa! Vả lại, ngoài tôi ra không ai có thể tìm được cái hộp kia, không có cái hộp ấy, anh thậm chí còn không vượt qua được cửa ải thấp nhất của bọn chúng nữa! Này, Trác Mộc Cường Ba, anh không nghe tôi nói à? Quay lại đây, quay lại đây!”

Trác Mộc Cường Ba vẫn bước đi một cách kiên định, một bước, rồi lại một bước, càng lúc càng đi xa Đường Thọ, gã thấp giọng nói: “Thì ra chỉ có mình mày mới tìm được chiếc hộp ấy, tốt lắm, thế là tốt nhất rồi.” Vừa nãy, khi đến gần Đường Thọ, Sói Út vẫn luôn chắn trước mặt gã, không ngừng nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba phải tránh Đường Thọ thật xa. Tuy rằng không biết rốt cuộc là chuyện gì, nhưng Trác Mộc Cường Ba cực kỳ tín nhiệm Sói Út. Lúc này, gã đã lùi hơn hai mươi bước, dù trên người Đường Thọ có bom hẹn giờ thì cũng không thể gây hại gì cho gã được nữa. Bây giờ, Sói Út mới đưa móng vuốt lên cậy bùn đất bịt mũi ra, dụi dụi vào người Trác Mộc Cường Ba hít hà ngửi ngửi, rồi nhe răng nở nụ cười hân hoan.

Đường Thọ vẫn đang ở đằng xa gào hét, lũ sói đều ngoảnh đầu lại, nhìn con người đã dùng sinh mạng ký kết hiệp ước với chúng, xem gã đã nghĩ ngợi xong chưa. Trác Mộc Cường Ba cũng phản ứng lại, trước ánh mắt chăm chú của Merkin và lũ sói, gã đưa tay lên kết thành thủ ấn. Từ khi học được thủ ấn này, gã vốn tưởng rằng mình sẽ không bao giờ dùng đến nó. Tất cả chiến lang của bộ tộc Qua Ba dường như nhìn thấy những người bạn nhân loại của mình hơn một nghìn năm trước, đang dùng bàn tay truyền đi thông điệp với bầy sói sát cánh chiến đấu bên họ: “Xé xác nó ra!”

Ngay sau đó, Tử kỳ lân khẽ hú lên một tiếng, biểu thị sự công nhận của nó. Vận mệnh của Đường Thọ cuối cùng bị người khác quyết định… vạn lang phân thây!

Tiếng kêu thảm thiết của Đường Thọ vang lên rồi tắt lịm, hơn vạn con sói cùng ào tới. Những con đi đầu chia nhau đớp một miếng thịt trên người y rồi chạy đi thưởng thức, đợt tiếp theo lại tràn lên. Cứ thế, thân thể Đường Thọ bị phân giải, nghiền nát thành những phân tử nhỏ bé nhất. Đến khi đàn sói tản đi, trên trảng cỏ thậm chí không còn một khúc xương, rất nhiều con sói không được chia phần, trong lòng ấm ức ngửa cổ hú vang, chuyển hướng nhìn về phía Merkin.

Merkin không khỏi bị một phen kinh hồn bạt vía, y không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại đưa ra mệnh lệnh ấy, cũng không ngờ chỉ một dấu hiệu bàn tay lại có thể khiến cả bầy sói cùng nhau hành động. “Trác Mộc Cường Ba sẽ không ra tay với mình chứ? Ai mà biết được, chuyện mình đã gây cho hắn trong quá khứ, và những chuyện đã làm cho hắn trong hiện tại, hắn sẽ coi trọng cái nào hơn đây?”

Trác Mộc Cường Ba khó nhọc bước đến bên cạnh Merkin, ngăn đàn sói lại. Chỉ thấy mấy con sói già bộ dạng hung dữ, nhìn chằm chằm vào Merkin nhe hàm răng nhọn hoắt. Gã nhìn theo ánh mắt của lũ sói, không khỏi ngẩn người, hóa ra ở hông Merkin đeo một sợi thắt lưng dệt bằng tơ vàng, khảm đầy bảo thạch quý giá, rõ ràng lúc chiến đấu với Đường Thọ bị rạch toác quần áo mới lộ ra ngoài. Lúc này, y đang căng thẳng quan sát bầy sói, bản thân hoàn toàn không nhận ra điều đó. Chẳng trách, lũ sói cứ gầm lên với y như thế. Chỉ mấy cái bát, cái chậu của người Qua Ba để lại mà đàn sói ở đây đã coi trọng như sinh mạng, huống hồ, trên người Merkin lại toàn những thứ quý giá nhất!

“Lấy ra đi.” Trác Mộc Cường Ba hất hất đầu về phía Merkin, chỉ vào chỗ thắt lưng y. Merkin giật mình, cảm giác cực kỳ bất nhẫn, tựa như bị ai cắt mất một miếng thịt vậy. Nhưng tình thế bức ép, y không thể không cởi thắt lưng, bỏ hết những thứ màu vàng, sáng lấp lánh trên người xuống. Merkin lúc này, trái ngược hẳn với tác phong nhanh nhẹn thường ngày, động tác cực kỳ chậm rãi, mỗi khi lấy ra một món lại ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt cầu khẩn, chẳng khác nào lão già bệnh nặng buộc lòng phải ném bộ ván quan tài của mình xuống nước vậy. Trác Mộc Cường Ba chỉ dùng ánh mắt nghiêm nghị sắc lạnh cảnh cáo y, ông mà không lấy ra món đồ cuối cùng không thuộc về mình, lũ sói sẽ không bỏ qua cho đâu.

Đồ vật ném xuống đất mỗi lúc một nhiều thêm, Trác Mộc Cường Ba lấy làm kinh ngạc, gã thực sự không thể ngờ trên người Merkin lại giấu lắm thứ như thế, còn che đậy rất khéo nữa. Chắc chắn, lúc từ đại điện chạy ra, y đã thỏa sức vơ vét một phen. Đường Thọ không có mặt, bọn lính đánh thuê đâu phải là đối thủ của y. Chẳng trách khi chiến đấu với Đường Thọ vừa nãy, y trúng nhiều đòn như vậy mà tinh thần vẫn tốt hơn gã nhiều, chắc hẳn là do bên trong mặc áo giáp vàng rồi!

Merkin nhịn đau lột hết túi quần túi áo ra ngoài, xòe hai bàn tay không, muốn khóc mà không có nước mắt: “Hết rồi, thật sự là hết rồi!” Bấy giờ, đàn sói mới thôi không hú lên nữa.

“Không thể cho tôi dù chỉ một món sao?” Merkin đờ đẫn nhìn Trác Mộc Cường Ba, vẫn chưa chịu buông bỏ.

Trác Mộc Cường Ba lại gần Merkin, vỗ vỗ vai y nói: “Ít nhất chúng ta vẫn còn sống.”

Merkin thẫn thờ như phỗng đá, lặp lại: “Phải, ít nhất chúng ta vẫn còn sống.”

Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên, ngước nhìn vạt sáng cuối cùng của vầng dương đã khuất sau núi, lẩm bẩm nói: “Ông biết không? Vừa mới đây thôi, tôi đột nhiên hiểu ra một chuyện.”

“Cái gì?”

“Chính là nguyên nhân tại sao bầy sói truy sát Ba Tang và đồng bọn của anh ta, tại sao tiêu diệt hết người Qua Ba, vả lại vô số thôn làng ở tầng bình đài thứ hai cũng bị tiêu diệt nốt. Tôi nghĩ, tất cả chúng ta đều đã sai lầm, bọn chúng không phải những con sói tàn bạo khát máu, hành vi của chúng là có mục đích đấy.”

“Mục đích gì?”

“Tôi nhớ Đường Thọ từng nói, Đạo quân Ánh sáng đã tìm ra một phương pháp, có thể biết trước người nào sắp sửa phát bệnh, rồi cách ly bọn họ ra.”

“Ý anh là…”

“Đúng thế, khứu giác của lũ sói rất nhạy bén, tôi nghĩ, chính nhờ có chúng, Đạo quân Ánh sáng mới phát hiện được những người sắp phát bệnh. Chỉ là, đến cuối cùng, Đạo quân Ánh sáng cũng không tránh khỏi bị tiêu diệt toàn bộ. Vì vậy tôi nghĩ, khi biết mình sẽ hoàn toàn biến mất, bọn họ đã dạy cho lũ sói này một bản lĩnh khác, hoặc giả có thể nói, họ đã trao cho chúng một sứ mệnh mới.”

“Thanh tẩy!”

“Đúng, chính là tiến hành thanh tẩy một cách triệt để trước khi nguồn bệnh kịp lây lan rộng rãi, tận hết khả năng làm giảm bớt nguy cơ lây nhiễm. Bất kể là bọn Ba Tang, hay người Qua Ba, hay những thôn làng ở tầng bình đài thứ hai… trong những nhóm người này đều có người đã đến tầng bình đài thứ ba. Tôi nghĩ, có thể bọn họ đã đến những thành trấn hoang phế ở Shangri-la, hoặc giả đã chạm phải thứ gì đó ở đây mà bị truyền nhiễm thứ vật chất kia. Ba Tang, Tây Mễ và cả người điên ở Mông Hà kia sở dĩ sống sót, không phải vì bọn họ đầu hàng bầy sói, hoặc bán đứng đồng đội, hoặc bất cứ nguyên nhân nào khác, mà chỉ vì bọn họ không bị lây nhiễm thứ vật chất khủng khiếp kia mà thôi.”

Merkin rốt cuộc đã hiểu ra: “Vậy vừa nãy anh hạ lệnh tấn công Đường Thọ…”

“Đúng, dù tôi không ra lệnh, đàn sói cũng sẽ không bỏ qua cho y. Vừa nãy tôi cũng lấy làm lạ, Đường Thọ đã bị Tử kỳ lân đánh bại, dường như cũng không còn năng lực tấn công nữa, tại sao Sói Út vẫn ngăn cản tôi đến gần y? Về sau tôi mới hiểu, Đường Thọ chắc chắn đã bị cảm nhiễm loại vật chất đó rồi, còn chuyện hắn bị nhiễm từ lúc nào, bị nhiễm ở đâu thì chúng ta không thể biết được. Phải rồi, giờ có thể nói cho tôi biết Mười ba kỵ sĩ bàn tròn rốt cuộc là như thế nào hay không?

“À… được thôi, chỉ là những điều tôi biết, có lẽ không được nhiều như anh mong muốn đâu. Tôi chỉ biết một số khái niệm đơn giản và cơ bản nhất mà thôi. Nếu hôm nay Đường Thọ không nói ra, tôi vẫn còn tưởng, tất cả các nhóm trộm mộ chúng tôi tập hợp lại, chính là toàn bộ tổ chức của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn rồi, thật không ngờ lại chỉ là một phân nhánh nhỏ.”

“Tôi là nhân viên cấp bậc thấp nhất, chỉ biết người trong tổ chức được phân loại theo các đẳng cấp khác nhau. Một nhóm có mười ba người, vì chuyên đi trộm mộ, nên trong nhóm sẽ có một hai nhà giám định, chính là những người có hiểu biết về văn vật. Vì phải băng qua biên giới các nước, trong nhóm cần có một hai người rất hiểu biết về lực lượng quân sự của các nước, kỹ thuật chiến đấu và sử dụng vũ khí cũng phải thuộc hàng chuyên gia, trong tổ chức, những người này được gọi là lính đặc chủng. Cả hai yêu cầu trên, đều do tôi kiêm nhiệm. Thực ra, trong nội bộ tổ chức, có rất nhiều người không chỉ tinh thông một ngón nghề, chẳng hạn như Đường Thọ vừa tinh thông kỹ thuật chiến đấu vừa biết thuật thao thú, còn người tên Sean trong đội các anh, nếu tôi không đoán nhầm, có lẽ anh ta vừa biết thuật thao thú, vừa có tri thức về phương diện thực vật. Ngoài ra, vì thường xuyên phải ra vào rừng rậm nguyên thủy, cần phải có hiểu biết nhất định đối với các loài động vật, trong một nhóm cũng cần có một hai Thao thú sư. Thực ngữ giả cũng vậy, chúng tôi cần người hiểu biết về thực vật. Vì rất nhiều mộ cổ có cơ quan tự hủy hoặc các loại cạm bẫy công kích, thế nên trong nhóm còn cần một kiến trúc sư. Thêm nữa, vì không phải lần nào cũng thuận buồm xuôi gió, thường hay có người bị thương, vậy nên bác sĩ cũng không thể thiếu được. Đại khái, một nhóm thường có đủ sáu chức nghiệp tôi vừa nêu trên, mỗi chức nghiệp lại dựa theo trình độ để phân ra thành các đẳng cấp khác nhau…”

“Lính đặc chủng chúng tôi rất đơn giản, dựa theo kỹ xảo chiến đấu và trình độ sử dụng vũ khí để chia thành các cấp: Lính, Hạ sĩ quan, Sĩ quan, và Tướng quân. Còn Thao thú sư đại khái chia thành Thao thú sư, Thao trùng sư, Cổ sư, Vu sư, còn cả Tế sư nữa. Nhìn tên là biết, Thao thú sư có hiểu biết tương đối về tập tính sinh hoạt của đại đa số các động vật lớn, có thể dùng nhiều cách khác nhau để điều khiển những động vật ấy làm theo ý đồ của mình; khi bọn họ đã có kiến thức tương đối về động vật, liền tiếp tục nghiên cứu về côn trùng, tuy nhỏ hơn những động vật ấy rất nhiều, song chủng loại lại đông hơn gấp bội, trở thành Thao trùng sư. Sau khi tìm hiểu về côn trùng, đến mức độ nhất định, lại tiếp tục nghiên cứu nấm khuẩn hoặc các sinh vật bào tử, trở thành Cổ sư, còn hai loại cấp bậc về sau như thế nào thì tôi cũng không rõ, chắc là Vu sư thì tìm hiểu về những vi khuẩn vi trùng, còn Tế sư hẳn đã nghiên cứu đến các loại virus và bệnh độc rồi. Bác sĩ được phân biệt dựa theo thông lệ quốc tế, lần lượt là y sĩ, bác sĩ, bác sĩ chủ trị, phó chủ nhiệm và chủ nhiệm, tóm lại là bọn họ rất mạnh, có thể tiến hành cấy ghép các bộ phận ở nơi hoang dã, hoặc thay đổi tứ chi của con người bằng của động vật…”

“Một nhóm mười ba người, đội trưởng do người có năng lực từ cấp hai trở lên đảm nhiệm, có khi gặp phải những khu mộ lớn, từ ba đến năm nhóm sẽ hợp lại thành một trung đội, trung đội trưởng thường do người có năng lực từ cấp ba đến cấp 4 đảm nhiệm, khi gặp khu mộ quy mô siêu lớn, sẽ có ba bốn trung đội hợp lại thành đại đội, đại đội trưởng phải là người có năng lực cấp năm…”

“Sự thực thì, dù là Tướng quân hay Tế sư, trong tổ chức Mười ba kỵ sĩ bàn tròn này cũng chỉ là người làm công mà thôi, họ thường được gọi là những người làm công cao cấp. Trong nội bộ Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, họ dùng các danh xưng như Hội viên, Hội trưởng, Trưởng phòng… để phân biệt chức vị, tôi nghe nói từng có một vị Tướng quân muốn khiêu chiến quyền uy của Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, kết quả nội bộ chỉ tùy tiện gọi ra một Hội viên, dùng hai ba chiêu đã đánh cho kẻ kia tơi bời rồi…”

“Còn Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, đó là những tồn tại tối cao mà mấy kẻ thân phận như chúng tôi có thể biết được, nhưng rốt cuộc đó là tên gọi chung của một nhóm người hay là tên của tổ chức này thì không ai biết cả. Nếu là một nhóm người, đó là một người hay mười ba người, họ là nam hay nữ, cao thấp gầy béo thế nào, tôi đều không biết, cũng không biết có còn ai ở cấp bậc cao hơn Mười ba kỵ sĩ bàn tròn hay không…”

Dưới ánh tà dương, hai người cùng đàn sói chầm chậm đi về phía rừng sâu, đột nhiên sau lưng vang lên một tiếng nổ lớn, hai người ngạc nhiên ngoảnh đầu, chỉ thấy mặt hồ rộng lớn phun lên một cột nước lớn, khéo phải cao đến hơn trăm mét. Toàn bộ tầng bình đài thứ ba rung lên, dư chấn lan đi khắp xung quanh như những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ. Trác Mộc Cường Ba mà Merkin đưa mắt nhìn nhau, thầm đoán có lẽ trong Bạc Ba La thần miếu đã xảy ra chuyện gì đó, nhưng lúc này họ cũng chẳng còn tâm trí đâu mà tra xét kỹ càng làm gì nữa.

Họ không hề biết, trên mặt hồ dập dềnh kia, đã có thêm một cái tủ đá lớn chưa mở ra, trồi lên thụp xuống theo làn sóng, từ từ cập vào mép nước.

Chấn động lan đến tầng bình đài thứ hai, trong một căn nhà nhỏ bằng đá, một người đàn ông toàn thân quấn đầy băng trắng cẩn thận đỡ một cô gái cũng toàn thân quấn đầy băng trắng bước ra ngoài, hai người tay nắm chặt tay, vai kề sát vai, cùng ngẩng đầu lên nhìn tầng bình đài thứ ba mờ mịt trong sương, những dân làng khác cũng lần lượt chạy ra, quỳ rạp xuống lạy sì sụp.

“Tầng bình đài thứ ba ruốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Mấy người Cường Ba thiếu gia chắc đã đến được Bạc Ba La thần miếu rồi chứ nhỉ? Nhất định phải bình an vô sự nhé, Cường Ba thiếu gia!” Người đàn ông kia thầm nhủ với lòng, ngoảnh lại nhìn cô gái bên cạnh mình. Mặc dù hai người không thể nhìn thấy gương mặt nhau, nhưng người này đều nhận ra sự khích lệ và ấm áp trong ánh mắt người kia, hai bàn tay, càng nắm lại chặt hơn.

Dư chấn tiếp tục lan đến tầng bình đài phía dưới, cả mặt biển cũng bắt đầu cuộn lên những đợt sóng. Ngồi trên con thuyền nhỏ, Soares và Sasaki cảm nhận được một cách rõ rệt sự biến động của mặt biển, liền sau đó, trên không trung vang lên những tiếng ì ùng như sấm mãi không dứt. Sasaki ngẩng đầu lên nói: “Xem ra, trên đó đã xảy ra biến cố gì rất lớn, mặt biển dưới này cũng chấn động nữa.”

Soares cũng ngẩng đầu nhìn lên, bọn họ chỉ thấy một vùng sương mù mờ mờ, thầm nói: “Trác Mộc Cường Ba, Merkin, các người đã đến được thần miếu chưa? Thành công rồi à?”

Nhạc Dương nằm trong thuyền dường như cũng cảm ứng được chấn động ấy, dưới mí mắt nhắm nghiền, tròng mắt khẽ chuyển động.

Sasaki nói: “Được rồi, không liên quan đến chúng ta, chúng ta đi thôi, trở về thôi.”

Một con thuyền nhỏ, hướng về phía bờ bên kia, tiến vào bóng đêm vô cùng vô tận.

Ở xa xa về phía Đông của dãy núi khổng lồ ấy, thành phố Thượng Hải, trong một căn nhà bình thường, trước một ngọn đèn, một chiếc máy tính, có một ông già đang ngồi, đầu mẩu thuốc lá rơi đầy dưới đât.

Giáo sư Phương Tân chau mày nhìn bức thư điện tử vừa nhận được, bức thư này do một người bạn nước ngoài gửi đến, bức thư viết: “Tôi giúp anh điều tra về người tên Hahn đó rồi, đoán xem hắn ta làm gì nào? Hắn ta là thành viên của Ủy ban Dị năng dưới trướng Himmler, về sau quân Đức chiến bại, tên này bị quân Mỹ bắt đi. Anh xem tấm ảnh này đi, đây là tờ Thời báo Washington năm 1945, người bên phải chính là Hahn, lúc đó bọn họ đang được cơ quan truyền thông phỏng vấn, anh biết hắn ta nói gì không: “Bom nguyên tử là cái quái gì, chúng tôi đang nghiên cứu thứ còn lợi hại hơn bom nguyên tử gấp trăm lần!” Anh biết hắn sang Mỹ đảm nhiệm công việc nghiên cứu gì không? Vũ khí sinh hóa đấy. Sau đó, tôi lại lần theo một đầu mối khác, rốt cuộc cũng tìm hiểu được một số việc, thì ra Himmler kiếm được ở Tây Tạng một cái hộp, ban đầu đám người Hahn chính là nghiên cứu cái hộp này, nghe nói các trại tập trung, rồi các thí nghiệm độc ác trên cơ thể người sau đó, đều có liên quan đến cái hộp này. Tôi không biết rốt cuộc bọn họ muốn nghiên cứu vũ khí sinh hóa gì, làm sao lại lợi hại hơn bom nguyên tử gấp trăm lần được. Thêm một chi tiết nữa là Hitler từng tàng trữ rất nhiều máu của chính ông ta, tôi đoán, có thể ông ta muốn chế tạo huyết thanh hoặc vác xin gì đó…”

Thần sắc giáo sư Phương Tân càng lúc càng thêm nặng nề, ông dụi tắt điếu thuốc cuối cùng, chíu chặt hai hàng lông mày, trong lòng thầm nhủ: “Chúng ta … rốt cuộc đang tìm cái gì vậy, Cường Ba…”

Bên cạnh bức thư điện tử ấy, còn có hai phần tư liệu giáo sư Phương Tân đang mở ra xem, cửa sổ đặt cạnh nhau, bên trái là “Lời tiên tri ngày tận thế của người Maya: tính toán theo lịch của người Maya, năm 2012 công nguyên, loài người sẽ diệt vong, người sống tàn sát lẫn nhau, nhưng kẻ còn lại sẽ tự sát mà chết…” bên phải là, “Lời tiên tri ngày tận thế của Shangri-la: tính toán theo lịch của Đại Thiên Luân Kinh, khoảng năm 2030, Cách Tất Nhĩ Vương vĩ đại sẽ dẫn theo đội quân Hoàng Kim vô địch của ngài trở lại nhân gian, đội quân Hoàng kim đi tới đâu, sẽ thanh tẩy toàn bộ tới đó, tất cả bắt đầu lại từ đầu…”

Ở nơi xa hơn nữa, trong rừng rậm châu Mỹ cách Thượng Hải cả một Thái Bình Dương, một đứa bé trai khỏe mạnh da ngăm ngăm đen đang tiếp nhận nghi thức đầy tuổi dưới dự chứng kiến của mọi người trong bộ tộc. Tù trưởng đích thân vẽ lên má đứa bé hai vành trăng khuyết đại biểu cho hình tượng răng sói, nhưng ông vừa buông tay, đứa bé đã cuống cuồng chạy vụt đi, bước chân loạng choạng hướng về phía trước. Nó khát khao thoát ra khỏi mọi sự ước thúc, nóng lòng chạy về phía rừng già, ôm lấy cả đất trời bao la.

Hà Mã

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

VĨ THANH

    

hiều ngày sau đó, trên khu vực núi tuyết phủ mênh mông của dãy Himalaya, xuất hiện hai bóng người trong bộ da thú, một trước một sau, lầm lũi đội gió tuyết bước đi.

Nơi này sương mù mờ mịt che kín, gió Tây cuồng bạo rít gào, phát ra những âm thanh chói tai, từng đụn tuyết lớn bị gió hất tung lên, hóa thành mù tuyết bay khắp trời, quật vào mặt như những lưỡi dao băng sắc bén.

Từng đụn tuyết trắng xóa liên miên phủ kín hết đỉnh núi này đến đỉnh núi khác, phóng tầm mắt nhìn ra xa, trông như những bậc thang dẫn lên thiên đình, cứ cao dần lên mãi.

“Con bà nó, gió to thật.” Merkin dùng mũ da bịt kín mặt mũi nheo nheo đôi mắt xanh, quan sát những ngọn núi cao chập trùng xa xa, y vừa cất tiếng, trong miệng liền phun ra một đám sương trắng, hòa vào sương tuyết mù mịt.

“Nói ít thôi, lên đường nào.” Trác Mộc Cường Ba nghiêng người một góc bốn mươi lăm độ so với núi tuyết, ủng da thú bám chặt vào núi đá dưới chân. “Cường Ba, tôi bảo này, nếu chúng ta sống vượt qua núi tuyết này, bước tiếp theo anh định làm gì?”

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát, rồi nghiêm túc trả lời: “Tôi sẽ đến chùa Sắc Lạp, tìm pháp sư Đan Châu, tiến hành huấn luyện Mật tu một cách chính thống, sau đó, đi tìm em gái tôi!” Khi trả lời câu hỏi của Merkin, Trác Mộc Cường Ba chợt cảm thấy quyển kinh thư giắt ở hông mình nặng trịch. Đó là cuối kinh ngày trước pháp sư Á La giao cho gã, sau khi xong xuôi mọi sự, gã giở ra xem mới phát hiện đó chẳng phải Thánh điển mà Mật tu giả vẫn khổ sở kiếm tìm, mà là một bộ phương pháp huấn luyện của Đạo quân Ánh sáng.

“A ..” Merkin phun ra một mảng khí trắng, “anh… anh vẫn muốn tìm em gái à? Anh có biết mình sẽ phải đối địch với thứ gì không? Anh muốn khiêu chiến tổ chức lớn nhất, đáng sợ nhất thế giới sao? Bọn họ có lẽ còn lớn hơn hẳn các đảng phái chính trị, nói không chừng, bọn họ còn khống chế trong tay mấy vương quốc nhỏ, thậm chí, còn khả năng ngay cả nước siêu cường như Mỹ cũng bị bọn họ lũng đoạn đấy. Vả lại… em gái anh… em gái anh…”

“Không, tôi tin em gái tôi, dù nó trải qua chuyện gì, nó vẫn luôn là em gái tôi, tôi sẽ cho nó biết, người thân của nó chưa bao giờ bỏ rơi nó.” Trác Mộc Cường Ba nói bằng giọng kiên định quyết liệt.

“Nhưng, đây biết đâu lại là một cái bẫy của Đường Thọ thì sao?” Trác Mộc Cường Ba lấy tấm ảnh ra, bóng lưng mơ hồ kia sau nhiều ngày chăm chú nhìn ngắm đã trở nên thân thiết vô cùng, gã hết sức cẩn thận cất vào sát trong người, nói: “Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ làm Chúa Cứu Thế hay gì cả, nhưng là một con người, trong cuộc đời này cũng phải có một số chuyện cần kiên trì, chúng ta gọi thứ ấy là tín nhiệm. Đường Thọ đích thực đã nhìn thấu nhược điểm của tôi, dù đấy có là núi đao biển lửa, tôi cũng sẽ không hề do dự mà nhảy xuống.”

Nhất thời không ai nói gì, họ lại leo thêm một đoạn nữa, Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông thì sao? Có dự định gì không?”

“Tôi à?” Merkin ngần ngừ nói, “Không biết, có lẽ, tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm, tôi sẽ thử tìm Thành Phố Vàng của người Inca, tôi đã quen với cuộc sống này rồi, mỗi ngày đều vật lộn trên lằn ranh sinh tử, toàn bộ cuộc sống của tôi chỉ có thế. Phải rồi, người đó, anh có định đi tìm ông ta không? Người đó rất có khả năng chính là một nhân vật cấp cao trong Mười ba kỵ sĩ bàn tròn đấy.”

Trác Mộc Cường Ba bất giác luồn tay vào trong bọc, bên trong có một tấm thẻ nhỏ bằng thép, xâu vào một dãy kim loại không gỉ. Giã nhớ lại lúc thương thế hai người vừa khỏi, đang chuẩn bị rời khỏi vương quốc loài sói. Sói Út truyền tin A U Chang sắp ra đi cho toàn vương quốc, không ngờ, Vương giả của loài sói lại đích thân tiễn bọn gã lên đường. Phải biết rằng, trong vương quốc sói, địa vị của Trác Mộc Cường Ba chẳng qua chỉ ngang với một con sói bình thường, còn Merkin thì thậm chí còn thấp hơn một bậc.

Lũ sói lùi lại nhường đường, Tử kỳ lân dẫn theo Trác Mộc Cường Ba lên một vùng đất cao. Ở đó, Tử kỳ lân ngồi xuống, giở chân phải phía trước của nó lên. Trong ánh mắt Tử kỳ lân, Trác Mộc Cường Ba nhận ra hình như nó muốn bắt tay với mình. Gã nơm nớp bất an, đặt bàn tay lên chân Tử kỳ lân. Nó khe khẽ lắc tay mấy cái, động tác ấy khiến Trác Mộc Cường Ba không khỏi có cảm giác rất giống những người đi đường bắt tay con chó nhỏ, vừa khẽ lắc lắc, vừa luôn miệng nói: “Xin chào, xin chào, xin chào…”

Kế đó, Tử kỳ lân kéo tay Trác Mộc Cường Ba đặt lên cổ mình. Lông cổ Tử kỳ lân xòe ra như lông bờm sư tử đực, bàn tay Trác Mộc Cường Ba đặt lên đó, cảm giác trơn mượt như vuốt lên một tấm khăn lụa. Gã chưa từng có ý nghĩ, vị Vương giả cao quý của loài sói lại cho phép mình chạm vào cơ thể nó. Nhưng đồng thời, gã cũng biết, Tử kỳ lân tuyệt đối không phải muốn mình vuốt ve nó, lẽ nào nó muốn nói gì? Quả nhiên, Tử kỳ lân nhắc chân phải phía trước lên, ấn bàn tay gã vào sâu trong đám lông bờm, bàn tay Trác Mộc Cường Ba cảm nhận thân nhiệt nồng ấm của Tử kỳ lân, đột nhiên, gã cảm thấy thứ gì đó ở sát da, giống như những hạt kim loại rất nhỏ.

Tay Trác Mộc Cường Ba lần theo hạt kim loại đó, dần dần phát hiện, đó là một chuỗi hạt kim loại. Trên cổ Tử kỳ lân, đeo một chuỗi hạt kim loại ư? Chỉ nghe Tử kỳ lân thấp giọng gầm gừ ra lệnh: “Lấy xuống.” Trác Mộc Cường Ba run run tay, không hiểu vì kích động hay vì nguyên do nào khác, gã phải tốn kha khá thời gian mới hoàn thành được nhiệm vụ ấy. Gỡ được chuỗi hạt kim loại ra xem, mới thấy bên dưới còn đeo một tấm thẻ kim loại của quân nhân, thi thoảng vẫn có thể bắt gặp những tấm thẻ như vậy ở tầng bình đài thứ ba này. Chuỗi hạt kim loại kia, cũng là sợi dây để xâu tấm thẻ, nhưng được người ta nối dài ra, có lẽ phải do mười mấy sợi nối lại với nhau mới dài như thế. Tấm thẻ kim loại đã bị mài phẳng, sau đó dùng thứ gì đó khắc lên trên mấy chữ Latinh xiên xẹo. Trác Mộc Cường Ba cơ hồ không dám tin, trố mắt nhìn hàng chữ đó, đọc lên thành tiếng: “Bone!”

Ánh mắt Tử kỳ lân đầy vẻ hân hoan, thậm chí còn khe khẽ phe phẩy cái đuôi. Trác Mộc Cường Ba suýt chút nữa thì ngất xỉu tại chỗ, con Tử kỳ lân này, không ngờ lại có… chủ nhân! Gã dĩ nhiên hiểu được, Tử kỳ lân tuyệt đối không bao giờ vẫy đuôi với mình, chẳng qua, là nó đang tự hào với cái tên ấy, cái tên nó được chủ nhân ban tặng. Trong hiểu biết của Trác Mộc Cường Ba, con Tử kỳ lân này đã là tồn tại mạnh mẽ vô địch rồi, vậy thì chủ nhân của nó, sẽ phải lớn mạnh đến chừng nào chứ?

Trác Mộc Cường Ba nắm chặt tấm thẻ kim loại ấy trong lòng bàn tay, cất tiếng hỏi: “Ngài muốn tôi đi tìm ông ấy, nói với ông ấy, ngài sống ở đây rất tốt, rất nhớ ông ấy? Ngài… đợi ông ấy trở về?”

Tử kỳ lân khe khẽ gật đầu, rồi ngửa cổ, hướng về phía ngoài rặng núi tuyết, phát ra một tiếng hú thấp trầm. Trác Mộc Cường Ba biết, đây là tiếng hú dài biểu đạt lòng nhớ nhung quê hương của loài sói, âm thanh du dương trầm đục, tràn đầy hoài niệm…

Một trận gió lạnh ùa tới, kéo Trác Mộc Cường Ba ra khỏi hồi ức, gã nắm chặt tấm thẻ đó, nói: “Chuyện này càng không có đầu mối gì, tùy duyên thôi.”

Sâu trong đáy lòng Merkin, vẫn còn một ý nghĩ khác. “Nếu thực sự có thể sống sót, tìm, thống trị thế giới, đề nghị này cũng không tệ! Đường Thọ, việc ngươi chưa hoàn thành ấy, để ta thay ngươi làm vậy!” Nghĩ đoạn, y ngoảnh sang Trác Mộc Cường Ba bên cạnh, cười cười.

Trong đầu Trác Mộc Cường Ba, thoáng hiện lên nụ cười ngây thơ thuần khiết của em gái, những đoạn không thể xóa nhòa trong ký ức, gã ngẩng đầu nhìn về phía chân trời, đường nét của những ngọn núi nhấp nhô dường như tạo thành một cái đầu sói khổng lồ. Gã lại nhớ lúc trước khi rời khỏi Shangri-la, Sói Hai, Sói Út và bạn đời của nó cùng tiễn mình một đoạn xa, rồi vẫn đứng đó ngẩng đầu nhìn theo bóng lưng mình một hồi lâu.

Bọn họ khó nhọc leo qua một khe núi, phía trước gió tuyết ngợp trời, chỉ thấy một vùng trắng xóa. Trác Mộc Cường Ba biết, vượt qua khe núi này, phía trước lại còn mấy ngọn núi nữa, sau đấy còn những ngọn núi cao hơn, tất cả chẳng qua mới chỉ là sự khởi đầu, chặng đường phía trước vẫn còn rất dài.

Dù sống sót ra khỏi vùng tuyết phủ này thì sao chứ? Phải đối phó với Mười ba kỵ sĩ bàn tròn như thế nào? Em gái lớn lên mặt mũi như thế nào? Pháp sư Đan Châu có thu nhận gã hay không? Phải ăn nói với thầy giáo như thế nào? Những nhân viên trong công ty nuôi luyện chó ngao của gã thì sao? Giữa vùng mênh mang ấy, Trác Mộc Cường Ba phảng phất như nghe thấy cha mình đang cất tiếng trong làn gió: “Sự sống tồn tại vì cái gì? Con người tồn tại vì cái gì? Là một con người, con sống vì cái gì?”

HẾT TRỌN BỘ

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro