Mật mã Tây tang 7.3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nhạc Dương ở trên cành cây nói: “Anh Sean bảo rồi mà, con sên, không phải ốc sên.”

                                                                                                                            

Trương Lập nói: “Như nhau cả thôi mà. Thả tôi xuống thấp chút nữa, để thu lưới lên cao hơn.”

                                                                                                                            

Đến hôm nay, họ đã ở trong khu rừng này được mười lăm ngày. Trong mười lăm ngày này, họ đã dùng phương pháp sinh tồn đặc biệt mà Lữ Cánh Nam truyền thụ, dần dần tìm hiểu và quen thuộc với khu rừng nguyên sinh thực sự ấy.

                                                                                                                          

  

Trong rừng mọc đầy những cây họ quyết cao đến cả trăm mét. Những cây này chỉ có một thân chính, không chia nhánh, đến ngọn thì đột nhiên xòe rộng thành tán, trông như cái ô, che phủ cả một vùng trời. Lá của loài thực vật này cũng không giống với lá cây thông thường, trên thân cây mọc ra các cọng, có vô số phiến mỏng hình bầu dục phủ lên bên trên cọng như vẩy cá, những phiến mỏng ấy chính là lá cây. Ở giữa mỗi chiếc lá đều có cuống. Thực ra, những chiếc lá này cũng là hạt giống của thực vật họ quyết, lá rơi xuống đất, là lại mọc lên một cây quyết khổng lồ nữa. Ngoài ra, sâu trong rừng, còn có một loài thực vật cổ xưa hơn nữa. Chúng không có rễ, cũng không có lá, chỉ có thân, nhìn từ xa, trông chẳng khác nào vô số con giun đất khổng lồ, uốn éo ngoằn ngoèo quấn mình quanh các cây họ quyết. Mới đầu cả bọn còn tưởng đó là động vật, sợ đến nỗi không dám đu trên những cây ấy, sau mấy lượt thử đi dò lại, mới phát hiện ra đó là thực vật. Ba Tang cũng nói đó không phải loài thực vật quấn người mà anh ta từng gặp phải, thân rễ của loài ấy không to đến như vậy. Còn các loài động vật trong rừng đa phần đều là động vật nguyên sinh thể hình to lớn mà không có não, chỉ hành động theo bản năng. Một khi tìm hiểu rõ được thói quen, chúng cũng không thể uy hiếp gì nhóm thám hiểm. Trong mười lăm ngày này, các loài động vật họ gặp phải, đa phần đều đã trở thành bữa ăn của cả bọn, hơn nữa còn được phân chia thành mấy loại dựa trên chất lượng thịt nữa.

                                                                                 

                                           

Chẳng hạn như con sên khổng lồ, thịt ăn cũng khá ngon, nhưng lại có mùi rất khó ngửi, khiến thứ hạng bị giảm xuống mấy bậc, nhưng nó lại là món ăn ưa thích của các loài động vật khác, đặc biệt là bọn châu chấu. Lũ châu chấu này sống quần cư, hoạt động ở ven các đầm lầy trong rừng, thứ gì cũng ăn, tuy bộ dạng dữ tợn hung hăng, nhưng thịt ăn lại hết sức vừa miệng, đặc biệt là thịt bên trong lớp vỏ ở hai đùi, ăn khá giống thịt cua. Chỉ là bọn châu chấu này rất khó bắt, thường đi theo bầy, phạm vi hoạt động rất lớn, lại có thể bay ở độ cao thấp, lúc chiến đấu thậm chí có thể đứng thẳng lên bằng đôi chân sau mạnh mẽ. Khi đứng thẳng lên, nó cũng cao tầm một người trưởng thành, đồng thời đôi chân trước có gai nhọn và cái miệng khỏe như gọng kìm cũng có thể gây tổn thương lớn cho các sinh vật khác. Lúc bọn Trác Mộc Cường Ba gặp lũ châu chấu khổng lồ này lần đầu tiên, cũng phải trải qua một trận ác đấu gian khổ, Ba Tang còn bị thương. Nhưng về sau thì đã tìm hiểu rõ, lũ châu chấu này cùng lắm chỉ bay được cao khoảng mười mét, cũng không khác gì loài chuồn chuồn khổng lồ. Vậy là bọn họ bèn đặt bẫy ở chỗ cao để bắt châu chấu. Đồng thời, họ cũng phát hiện ra, càng đi sâu vào rừng, lũ sinh vật càng tiến hóa lên cao, các bộ phận càng phức tạp và hoàn thiện hơn, động tác cũng nhanh nhẹn hơn nhiều. Muốn bắt hay muốn né tránh chúng đều khó hơn trước rất nhiều. Trong mười lăm ngày, áng chừng họ đã từ khoảng 450 triệu năm đi tới khoảng 350 triệu năm về trước. Dĩ nhiên, không có giới hạn nào tuyệt đối, chỉ là Sean nói, anh ta cảm giác như vậy mà thôi. Lũ châu chấu ấy có vỏ rất cứng, tứ chi vừa khỏe vừa có gai nhọn, nhưng vùng bụng lại rất mềm, bị lọt vào lưới một lúc là không giãy giụa gì được nữa. Ăn xong thịt châu chấu, cả bọn móc hết thịt ở chân chúng ra gói lại, rồi tiếp tục tiến về phía bên phải.

                                                                                                                            

Ở Shangri-la này, không có phương hướng gì cả. Điều duy nhất họ biết là, mấy mạch núi lớn ở Tây Tạng như mạch núi Himalaya, mạch núi Cương Để Tư, Đường Cổ Lạp, đều vạch một đường vòng cung theo hướng Đông Nam - Tây Bắc, hướng đi của họ, có lẽ cũng là từ Đông Nam hướng về Tây Bắc. Ngoài ra, địa từ trường ở đây dường như rất khác với thế giới bên ngoài, tất cả các thiết bị xác định phương hướng đều không hoạt động; dựa vào bầu trời, vào hướng mọc của thực vật, hoặc các phương pháp phân biệt phương hướng nơi hoang dã khác cũng đều không có tác dụng; họ chỉ có thể dựa vào phương pháp nguyên thủy nhất, mà cũng hữu hiệu nhất, mới không đến nỗi bị lạc đường trong rừng sâu: đánh dấu!

                                                                                                                            

Trương Lập đặt một máy phát sóng điện công suất nhỏ ở nơi họ xuất phát, sau đó họ chỉ cần định kỳ kiểm tra khoảng cách và vị trí của họ so với nguồn phát sóng là sẽ biết mình có bị mất phương hướng trong rừng hay không. Chỉ có điều, có nhiều loài sinh vật nguyên thủy không biết tên và đầm lầy thường xuyên chặn mất lối đi, nên mỗi ngày nhiều nhất họ cũng chỉ đi được khoảng trên dưới hai mươi cây số. Từ núi tuyết Đa La đến núi tuyết Mông Đạt, khoảng cách đường thẳng khoảng gần hai trăm cây số, cũng có nghĩa là, khe nứt phía trên bầu không Shangri-la rộng khoảng hai trăm cây số. Khoảng cách bên dưới của địa hình hình chóp ấy còn lớn hơn rất nhiều, có lẽ phải gấp đôi, hoặc còn hơn nữa. Tóm lại, họ cho rằng tiến lên theo phương hướng hiện tại là chính xác, nếu như đi sai hướng, thì sau mười lăm ngày chắc cũng đã đi đến mép của khe nứt Shangri-la rồi.

                                                                                                                            

Dùng dây móc đu trên tán cây được một đoạn, Nhạc Dương ở phía trước phụ trách trinh sát dừng lại, nói với mọi người ở phía sau: “Phía trước lạ quá, có một lớp sương mù mờ mờ, không hiểu có gì nguy hiểm không.”

                                                                                                                   

         

Sean đón lấy ống nhòm quan sát, vừa nhìn đã không nén nổi kinh hãi thốt lên: “Cái gì đấy, lại là thứ tôi chưa từng thấy bao giờ! Máy tính đâu...”

                                                                                                     

                       

Trong mười lăm ngày này, chiếc máy tính của giáo sư Phương Tân đã giúp họ rất nhiều, gặp phải loài sinh vật nào không biết, họ đều tìm câu trả lời trong máy tính. Một số nhà khoa học nước ngoài đã dùng tiêu bản hóa thạch để phục dựng lại hình ảnh ba chiều của các loài sinh vật cổ, về cơ bản thì hình thái và kết cấu khá chính xác, mặc dù không nhiều chủng loại lắm, nhưng dù sao cũng giúp họ có hiểu biết đại khái về giới sinh vật cổ.

                                                     

                                                                       

Trương Lập đang đứng ở chỗ rẽ nhánh trên đỉnh một cây họ quyết, lấy máy tính ra, dùng ống nhòm điện tử đưa tín hiệu vào máy tính, một hình ảnh rõ nét liền hiện trên màn hình. Bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn kỹ lại, thì thấy sau khi được ống nhòm điện tử phóng lớn lên mười lần, đám sương mù mờ mờ đã biến thành những vật thể dạng hạt màu xanh nhạt, toàn bộ tán cây phía trước đều bị những vật thể ấy phủ kín. Ống nhòm tiếp tục phóng lớn hơn nữa, phát hiện ra đó là những trái cầu lông bờm xờm, mỗi trái cầu lại do vô số sợi lông tơ tạo thành, trông hơi giống với hạt bồ công anh, tất cả đều đang lơ lửng trên không trung.

                                                                                

                                            

“Cái gì vậy?” Trương Lập vừa hỏi, vừa ấn bàn phím để phần mềm tiến hành so sánh hình ảnh, trước khi làm rõ phía trước là thứ gì, họ sẽ không mạo hiểm tiến lên. Khoảng nửa tiếng sau, máy tính đã kiểm tra hết toàn bộ kho hình ảnh, chỉ tìm được vài tấm hình hoa bồ công anh và hoa tuyết, nhưng tỉ lệ giống đều chưa đến năm mươi phần trăm, rõ ràng đây lại là một loài hoàn toàn mới. Những quả cầu lông trôi nổi trên không ước chừng còn cách họ khoảng hai cây số, nhìn từ xa lại, trông như một áng mây lững lờ trôi theo gió. Theo quan sát của Nhạc Dương, ở giữa đám mây ấy, dường như có vô số dòng suối phun trào. Anh nói: “Tôi muốn lại gần quan sát xem sao.”

                                                                     

                                                       

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhớ kỹ, đừng lại gần quá, chúng ta vẫn chưa biết thứ đó có gây hại cho cơ thể không.”

                                                                                           

                                 

Nhạc Dương cười cười, gật đầu nói: “Biết rồi.”

                                                                                                                            

Một lúc sau, Nhạc Dương trở lại: “Ở bên dưới, có thứ gì đó, là một loại... phun lên trên.”

                                                                                                                            

Trương Lập nói: “Bên dưới có gì hả?”

                                                        

                                                                    

Nhạc Dương gượng cười: “Tôi cũng chẳng biết tả thế nào nữa, mọi người cứ đến xem thì biết. Còn nữa, tôi phát hiện, trong đầm lầy ngay bên dưới đám sương mù dày đặc ấy có rất nhiều động vật chết, chắc là thứ này có hại cho sinh vật.”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba gật đầu nói: “Được, chúng ta xuống dưới, lại gần quan sát, nếu không được thì đi vòng qua.”

                                                                                                                            

Dưới tầng tán cây, ánh sáng trong rừng rất yếu, bộ rễ của đại đa số thực vật họ quyết đều ngâm trong nước, những vũng nước lớn và đầm lầy phủ khắp tầng đáy, dòng nước chảy róc rách như một vật thể sống nhu động, lạnh băng, ẩm thấp, tối tăm, đây chính là toàn bộ cảm giác mà rừng sâu nguyên thủy mang đến cho họ. Vì những vật thể hình cầu kia trôi lềnh phềnh trên không trung, nên họ không đu dây chuyền cành nữa mà xuống mặt đất, bước đi trên đám bùn trơn tuồn tuột. Mới đi được một lúc, liền trông thấy thứ kỳ quái ấy, có lẽ nên nói đó là một loại cây, thế nhưng...

                                                      

                                                                      

Ở chỗ gần ngọn cây, có năm sáu vật trông như túi thịt treo thành hàng. Đường kính chúng khoảng bảy tám mét, chiếm đến hơn nửa thân cây, trông như quả dừa, nhưng đầu nhọn lại chĩa lên trời. Những túi thịt hình quả dừa ấy không ngừng co dãn, tựa quả tim đang đập, mỗi lần co dãn, lại phun ra vô số vật như quả cầu lông lên cao hơn trăm mét. Đây chắc chính là dòng suối phun trào mà Nhạc Dương đã nói rồi. Hơn nữa, loại cây này chỉ cao chưa đầy hai chục mét, thực khó mà tưởng tượng nổi chúng sinh tồn trong khu rừng này như thế nào. Cả một khoảng rừng phía trước đều là loại thực vật kỳ dị ấy, vô số túi thịt đang phun lên không một lượng lớn những quả cầu lông nhỏ, xòe rộng ra như tán nấm che phủ cả một khoảng không rộng, muốn đi vòng thì cũng chỉ có thể đi theo đường phía dưới này mà thôi.

                                                                                                                            

“Trời đất, cái gì vậy?” Đường Mẫn kinh ngạc kêu lên.

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương cũng nói: “Đó là... sinh vật ký sinh trên thực vật hay bản thân thực vật vậy? Thực vật có thể động đậy thế sao?” Trong nhận thức của đội trưởng Hồ Dương, cho dù là thực vật ăn thịt, cũng không thể nào vận động như có cơ bắp thế này được. Nhưng những vật thể dạng túi thịt ấy đúng là mọc ở trên thân cây, còn cả những vật như quả cầu lông kia nữa, rõ ràng cũng có các thuộc tính của thực vật.

                                                                                                                            

Trương Lập nói: “Dùng máy tính, dùng máy tính đi.”

                                         

                                                                                   

Sean lắc đầu: “Không cần đâu, chắc chắn là không tìm thấy gì cả. Nếu thật sự phát hiện ra hóa thạch của loài sinh vật này, chắc chắn đã chấn động cả giới sinh vật cổ rồi, nhất định tôi cũng sẽ biết. Có lẽ, đây chính là một loài nằm trên đường ranh giữa động vật và thực vật mà một số nhà cổ sinh vật học đã từng nhắc đến, chúng sinh trưởng như thực vật, nhưng lại có một phần khả năng vận động mà chỉ động vật mới có.”

          

                                                                                                                  

Nhạc Dương nói: “Ranh giới giữa động vật và thực vật? Sinh trưởng như thực vật, lại cử động được như động vật. Mẹ ơi, thế này thì ly kỳ quá rồi.”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba cũng nói: “Tôi chưa từng nghe đến giả thuyết này bao giờ cả.”

                                                

                                                                            

Sean cười hì hì nói: “Đúng thế, không phải ai cũng biết đâu, từ khi Thuyết tiến hóa được nêu lên đã tồn tại tranh luận này rồi. Có nhà sinh vật học cho rằng, từ khi các loài sinh vật nguyên sinh như nấm và khuẩn tồn tại, giữa động thực vật đã xuất hiện ranh giới rõ ràng, mỗi bên đều phát triển theo hướng của riêng mình; nhưng cũng có một số nhà sinh vật học lại cho rằng, khi ở hình thái sinh vật đơn bào, động thực vật không có ranh giới rõ rệt, mà sau này khi tiến hóa đến hình thái phức tạp hơn, động vật và thực vật cũng không hoàn toàn tách rời, mỗi bên phát triển một hướng, mà xu thế phát triển của chúng giống như sóng điện vậy, phân tách, rồi hợp lại, giao thoa, sau đó lại phân tách. Nếu không lầm, đây có lẽ là điểm giao thoa đầu tiên của động vật và thực vật nguyên thủy sau khi hình thái sinh vật đơn bào kết thúc. Dù là ngày nay, cũng vẫn còn rất nhiều sinh vật dạng này tồn tại.”

                                                   

                                                                         

Trương Lập nói: “Không thể nào.”

                                                                                                                            

Sean điềm đạm nói: “Có biết vi khuẩn phức hợp acid amoniac không? Nói theo cách của người Trung Quốc cổ, gọi là Thái tuế đấy, nhìn rất giống thịt, nhưng nói một cách chính xác thì là một loại khuẩn nấm cỡ lớn, có thể sinh trưởng trong thời gian dài, sống đến nghìn năm vạn năm, nhưng rất khó nói chúng là một cá thể sống hay là một tập hợp của vô số các cá thể. Có một số loại Thái tuế đặc biệt, khi lấy tay khẽ vuốt ve lên, nó sẽ co rút lại như cơ thịt, giống như người ta bị vuốt ve lên tay chân vậy thôi, nghe đâu thậm chí còn phát ra cả âm thanh như tiếng cười nữa. Người ta gọi loại Thái tuế ấy là Hài nhi ngứa, thứ ấy, có thể nói là một loại nấm khuẩn phức hợp, cũng có thể gọi là một dạng kết hợp giữa động vật và thực vật.”

                                                              

                                                              

Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều thầm nghĩ: “Người tên Sean này, xem ra không hề đơn giản.”

                                                                         

                                                   

Lúc này, Sean lại chuyển sự chú ý từ đám thực vật sang mặt đất ở xung quanh. Dưới da những loài động vật đã chết kia có những chỗ gồ lên rõ rệt, như thể rễ cây đã chen chúc nhau bên dưới, thậm chí có con còn mọc cả nầm non ra từ mắt tai mũi miệng. Như là một con châu chấu cách họ chưa đến trăm mét kia chẳng hạn, một mầm non đã chọc thủng cả lớp vỏ cứng trên đầu nó, trông như thể trên đầu con châu chấu mọc lên một cái sừng nhọn, khắp xung quanh cái sừng nhọn ấy lại bám đầy các bào tử hình nấm. Sean thầm lạnh sống lưng, nói: “Xem ra chúng ta phải đi vòng thật rồi, đây là thực vật ký sinh.”

                                                                                                                          

  

“Thực vật ký sinh?”

                                                                                                                            

Sean nói: “Còn nhớ thứ nấm chúng ta gặp phải ở rừng châu Mỹ không? Loại đó và loại này giống nhau, chỉ khác là kích cỡ lớn hơn nhiều mà thôi, chúng được cơ thể mẹ phun lên không trung, bay theo gió, một khi bị động vật hít vào, gặp được môi trường và nhiệt độ thích hợp, sẽ bắt đầu sinh trưởng, mọc rễ bên trong cơ thể con vật ấy, hút chất dinh dưỡng, cuối cùng thì phá vỏ chui ra, mọc thành một cây mẹ cao lớn khác. Nếu không muốn chết, tốt nhất nên đi đường vòng.”

                                                                                                                            

Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam lại không khỏi đưa mắt nhìn nhau, “Cổ độc!” hai người không hẹn mà cùng nghĩ đến một lúc.

                                                                                                                            

Trong đầu Ba Tang như có sấm nổ, những lời Sean vừa nói lại khơi gợi dậy hồi ức của anh ta. Nhớ ra rồi, là Lôi, miệng anh ta sùi bọt mép trắng xoá, nghẹn ngào nói một cách khó nhọc: “Tôi cảm thấy rồi, nó ở trong cơ thể tôi, nó ở trong cơ thể tôi, mỗi ngày đều đang lớn lên, tôi đau lắm, thật sự đau lắm! Cầu xin anh, đội trưởng, giải thoát cho tôi đi! Cầu xin anh đấy!”

                                                                                                                            

Đó là chiến sĩ dũng mãnh nhất trong đội, thần kinh còn vững hơn cả sắt thép, rốt cuộc là thứ gì đã khiến anh ta đau đớn đến không muốn sống nữa? Ba Tang nhắm mắt lại, chỉ thấy trong óc hiện lên đôi mắt mở to tròn của Lôi, miệng hơi hé ra, không ngừng trào tuôn bọt mép trắng xóa, không còn hơi thở, nhưng tim vẫn đập; không còn tri giác, nhưng vẫn vùng vẫy tay chân không tự chủ được. Đội trưởng cầm lưỡi dao nhọn, rạch da Lôi ra, máu tươi bắn tung tóe; họ mở khoang ngực anh ta ra như mở cửa mui một chiếc xe hơi hạng sang, trời đất, đó là thứ gì vậy, nó quấn chặt lấy tim Lôi, trái tim đã ngừng làm việc từ lâu, nhưng nó vẫn không ngừng co bóp, những xúc tu của nó tỏa ra như con bạch tuộc, từng sợi xúc tu trắng sữa đâm vào huyết quản và các dây thần kinh của Lôi, vừa hút chất dinh dưỡng, vừa phá hoại cảm giác và khả năng vận động của anh ta. Chính là thứ này đã khiến Lôi phải đau đớn. Khi lưỡi dao của đội trưởng cắm vào trái tim Lôi, thứ màu trắng ấy vươn xúc tu ra, vung vẩy trên không trung. Những người lần đầu tiên nhìn thấy cảnh tượng ấy, thật chẳng khác nào nhìn thấy quái vật ngoài hành tinh cả.

                                                                                                                            

“Đi thôi. Vòng qua.” Trác Mộc Cường Ba điềm đạm nói. Nhìn những xác chết nằm la liệt giữa đám sương mù, bọn họ không dám du dây băng qua, đành phải chầm chậm giẫm lên dải đất bùn ướt nhoẹt nguy cơ tứ bề mà tiếp tục tiến về phía trước.

                                                                                                                            

Mới đi được mấy bước, bỗng nghe bên trái có tiếng loạt soạt, một con rết dài chừng năm mét trườn ra, trên mình nó là lớp vỏ cứng dày, thoạt nhìn như một chiếc xe tải cỡ lớn. Con rết hoảng hốt chạy vào giữa bọn họ, vừa thấy phía trước có kẻ cản đường, nửa thân trên liền nhổm lên, cái đầu nghển cao phải đến hai mét, hai sợi xúc tu không ngừng ve vẩy. Nhưng bọn Trác Mộc Cường Ba đã quá quen với những chuyện thế này, chỉ nghe gã lạnh lùng nói: “Nổ súng!” Khẩu súng trong tay Nhạc Dương và Sean lập tức nhả đạn, con rết khổng lồ chỉ kịp giãy giụa vài cái, rồi nằm bẹp ra.

                                                                                                                            

Tiếp tục tiến lên, trên mặt đất xuất hiện các hố lớn, trên miệng hố chăng đầy một thứ trông như tơ màu trắng. Nhạc Dương nhón một sợi tơ trắng trông như sợi lụa lên, ngạc nhiên hỏi: “Cái gì vậy nhỉ?”

                                                                                                                            

Đột nhiên, trong một hố lớn phía trước bỗng vươn ra một cặp hàm sắc nhọn, một sinh vật tám chân nần nẫn thịt bò ra. Không chỉ một con, hai con, ba con, trong các hố khác cũng có những con to như chậu rửa mặt bò ra... hình như là lũ nhện thì phải!

                   

                                                                                                         

“Trúng phải ổ nhện Mesothelae rồi!” Sean thốt lên. “Chạy mau!”

                                                                                        

                                    

Vất vả lắm cả bọn mới thoát khỏi hang ổ của lũ nhện Mesothelae, leo lên một con dốc. Trương Lập đứng không vững, bị trượt xuống dưới, đụng phải một cành cây khô, kêu lên một tiếng: “Ối cha!” Kế đó anh lại hét lên: “Mau đến mà xem, đây là cái gì này?”

                                                                                                                                                                                                                                 

                                                                                                                                                     

Làng người Qua Ba (1)

                                                                                     

                                                                                                                                                                    

Cả bọn liền xuống dốc, đến bên cạnh Trương Lập. Chỉ thấy khúc gỗ mà Trương Lập đụng phải ấy, không ngờ lại bị khoét rỗng ở giữa một hốc hình chữ nhật dài một mét, rộng chừng nửa mét. Nhìn vết cắt gọn ghẽ phẳng phiu, có thể khẳng định chắc chắn là do con người làm ra, chẳng trách Trương Lập lại kêu toáng lên như thế.

                              

                                                                                              

Trác Mộc Cường Ba đưa tay vuốt nhẹ dọc theo mép hốc lõm, bờ mép thẳng thớm mà trơn nhẵn, tuyệt đối không thể hình thành trong tự nhiên được. Gã quả quyết nói: “Đúng thế, là do con người tạo ra. Chắc là gần đây có người!”

                                                                                                                            

Nhạc Dương lấy làm lạ nói: “Khúc gỗ này dùng để làm gì nhỉ? Xây nhà chắc?”

                                                                                                                            

Sean lắc lắc đầu: “Không, không, nhìn hình dáng thì đây hẳn là một cái trống gỗ, có lẽ là loại trống nguyên thủy nhất rồi đấy. Người xưa khoét rỗng một khúc gỗ, gõ vào để phát ra âm thanh, nhiều nơi có loại trống nguyên thủy này lắm.” Nói đoạn, anh ta tiện tay nhặt lên một cục đá gõ vào mép khúc gỗ đó, khúc gỗ liền phát ra một loạt âm thanh “bung bung bung”.

                         

                                                                                                   

Trác Mộc Cường Ba nói: “Được rồi, nếu đã phát hiện đồ vật nhân tạo, thì chúng ta hãy tìm kiếm ở vùng quanh đây. Hai người một nhóm, tản ra theo hình rẻ quạt về ba hướng Đông, Nam, Bắc. Nhớ là phải giữ liên lạc, chú ý mọi động tĩnh khả nghi, cẩn thận có cạm bẫy, nếu gặp con người thì phải giữ bình tĩnh, kiềm chế, cố gắng không xung đột với họ. Mọi người hiểu cả chưa? Xuất phát.”

                                

                                                                                            

Ba Tang và Sean một nhóm, Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh một nhóm, đội trưởng Hồ Dương và Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Trương Lập, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn, năm nhóm người tản ra năm hướng khác nhau, liên lạc với nhau bằng đồng hồ nguyên tử đeo trên cổ tay.

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đi về phía Bắc được khoảng năm trăm mét, những thành viên khác trong đội cũng đã khuất sau tán cây rừng từ lâu. Sau khi dùng thiết bị liên lạc trên đồng hồ lần lượt hỏi han tình hình mọi người, không ai có phát hiện gì mới, Trác Mộc Cường Ba quyết định tiếp tục đi sâu vào rừng.

                                                                                                                            

Đường Mẫn cầm súng trên tay, nhưng vẫn rất sợ hãi, căng thẳng bám sát sau lưng Trác Mộc Cường Ba, mỗi lần nghe thấy tiếng chim tiếng thú, cô đều giật thót mình dừng lại. Trác Mộc Cường Ba an ủi: “Không cần phải căng thẳng quá như vậy, không sao đâu.”

                                                                                                                   

         

Lại đi được thêm năm trăm mét nữa, vành tai Trác Mộc Cường Ba khẽ giật giật, gã vội kéo Đường Mẫn lại thì thầm nói: “Em nghe thử xem.” Đường Mẫn bèn nghiêng tai chăm chú lắng nghe, rồi mỉm cười nói: “Nước, là tiếng nước đấy, phía trước hình như có nước.” Nói đoạn, cô ngẩng đầu lên nhìn, rồi nghi hoặc lẩm bẩm: “Ở đây đâu có thác nước, sao lại có tiếng nước được nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba vỗ nhẹ lên lưng Đường Mẫn, cười cười nói: “Em quên rồi à, ngoài thác nước ra, còn có nước trong khe núi nữa mà, đi thôi, xem thử thế nào.” Có nước, cũng đồng nghĩa với có khả năng con người cư trú quanh đây. Bởi sống bên cạnh nguồn nước, chính là tập quán của con người.

                                                                                                     

                       

Tiếng nước lớn dần, xem ra phía trước không đơn giản là một con suối nhỏ. Vài phút sau, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đã đến được nguồn nước. Chỉ thấy trên mặt sông rộng gần trăm mét róc rách chảy xuyên qua rừng cây ấy, vẫn có vô số cây cổ thụ cao lớn, cành cây rễ cây rủ xuống mặt nước, hình thành nên kỳ quan sông giữa rừng cây, cây mọc trên sông. Dòng sông rất rộng, nhưng cũng rất nông, trông như một tấm khăn lụa trải giữa khu rừng, chỉ hướng dẫn đường. Dòng sông rẽ ngoặt ở khoảnh rừng dưới hạ du, rồi biến mất khỏi tầm mắt, có điều, nhìn theo hướng nó ngoằn ngoèo gấp khúc tiến về phía trước, dường như là có thể ra thẳng đến bờ biển! Càng khiến Trác Mộc Cường Ba cảm thấy kinh ngạc hơn là, khi nghĩ đến biển, dường như gã còn nghe thấy cả tiếng sóng dạt dào.

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn vừa đi dọc lên theo dòng nước, vừa báo tình hình với những nhóm khác. Pháp sư Á La và Trương Lập cũng nhìn thấy dòng nước trong rừng, cũng đang đi ngược lên. Bọn Nhạc Dương cũng đã nghe thấy tiếng nước, đồng thời tìm được một số dấu vết do con người tạo ra trên thân cây, càng bất ngờ hơn nữa là, họ còn phát hiện ra hai đường ray bằng kim loại trong rừng, trông như đường ray xe lửa. Trương Lập cho rằng thứ này giống đường ray để tượng đồng di chuyển trong Đảo Huyền Không tự hơn. Họ sợ đụng phải cạm bẫy, đang đi vòng qua. Đội trưởng Hồ Dương và Lữ Cánh Nam đã đến được chân núi, phát hiện ra một số tảng đá có dấu vết bị mài giũa, hiện đang men theo chân núi tiếp tục vòng sang phía phải, ở chỗ họ cũng phát hiện ra đường ray bằng kim loại, còn nói đường ray đó hình như thông thẳng vào làng. Phạm vi tìm kiếm của mọi người bắt đầu được thu hẹp lại.

                                                                                                                            

Càng tiến lên phía trước, những dấu vết của con người để lại càng thêm rõ rệt. Cuối cùng, một công trình kiến trúc điển hình của con người đã lấp ló giữa những tán cây, rồi hiện ra trước mặt bọn Trác Mộc Cường Ba. Đó là một bức tường đá cao, trên tường cắm đầy giáo sắt, cây nào cây nấy thẳng đứng hướng lên trời, dưới chân tường đá còn có vô số gò đá nhỏ, bên trên gò đá cắm đầy giáo sắt, mũi giáo nhọn hoắt chắn ngang đường phía trước. Nhìn cách bố trí ấy, Trác Mộc Cường Ba lập tức nhận ra đây là hàng rào mà người ở đây dùng để ngăn cản lũ thú dữ khổng lồ. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn dừng bước, phía trước rất có thể là nơi người bộ tộc Qua Ba quần cư, tiếp tục mạo hiểm tiến lên e sẽ gặp phải những nguy hiểm khó lường. Gã thông báo cho các nhóm khác, yêu cầu mọi người đến dưới bức tường đá ấy tập hợp.

                                                                               

                                             

Cả bọn đã tề tựu, nhìn những bức tường đá cắm đầy giáo sắc nhọn hoắt, không ai còn nghi ngờ gì nữa, phía sau bức tường đá này chắc chắn có một khu tập trung dân cư, nhưng bên trong có bao nhiêu người, tập tính của họ thế nào, phải xử sự với họ ra sao thì lại là một vấn đề phiền phức, mà bọn Trác Mộc Cường Ba dẫu sao cũng hoàn toàn chưa hay biết gì về nơi đây.

                                                                                                         

                   

Nhạc Dương tinh mắt, hình như đã phát hiện ra gì đó, liền lùi lại hai bước, chỉ vào sườn núi đằng sau bức tường cao: “Mọi người nhìn xem, đó là gì vậy!” Nhìn theo ngón tay chỉ của Nhạc Dương, cả bọn mới để ý thấy, vách đá phía sau những bức tường cao đối diện với họ không giống những nơi khác. Vách đá ở những chỗ khác đều nghiêng vào phía trong, từ xa trông như một ngọn sóng khổng lồ đang ập tới trước mặt, chẳng những vậy, nước bên trong rỉ ra còn khiến chúng trở nên trơn nhẵn. Còn vách đá ở đây lại như có một thứ vật chất dạng keo màu nâu đỏ chầm chậm chảy dọc theo triền dốc, rồi đông đặc lại, những nếp uốn trên vách đá còn hình thành nên các bậc cấp khá rõ rệt, rất giống một tòa kim tự tháp dốc đứng hay đỉnh nhọn của tòa Đại giáo đường Cologne. Màu sắc của nó khác hẳn với đá núi xung quanh, trông như một mũi tên đánh dấu màu đỏ đang tiết lộ với họ rằng, từ đây đi lên, con đường của các ngươi chính xác rồi đấy.

                                                                               

                                             

Ngoài con dốc núi màu đỏ bắt mắt ấy ra, vách đá xung quanh cũng đều thuộc loại nghiêng vào bên trong. Vách đá ở phía Tây Nam khu làng là nghiêng nhiều nhất, trông như luôn sẵn sàng sụp xuống bất cứ lúc nào. Ánh sáng ở đây cũng rất ảm đạm, hắt về phía bóng tối, cơ hồ tạo nên một vòng cung chẳng khác nào một cái lỗ đen khổng lồ vô tận cả.

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt quan sát xung quanh, trong đầu đã từ từ phác họa ra hoàn cảnh địa lý của khu làng này. Không gian chỗ bọn họ đang đứng đây, có thể hình dung như là ở bên trong một chiếc giày khổng lồ, khu làng phía trước tọa lạc ở gần với mũi giày, trên đỉnh đầu họ chính là mặt trên của chiếc giày, tầng nham thạch nghiêng hẳn xuống, khiến người ta có cảm giác bị đè nén đến khó chịu. Còn chỗ gót giày thì đã bị đám thực vật kỳ dị đang phun hạt giống chắn mất, ngăn cách bọn họ với hầu hết các loài động vật hoang dã. Vách đá họ muốn leo lên, nằm ở một bên thành giày, thành giày phía bên kia là khu rừng giáp với biển ngầm dưới lòng đất.

                                                                                                                          

  

“Đúng rồi, nếu nói chúng ta sắp đến chỗ khép lại của cả khe nứt, thì khoảng rừng này rất gần biển, vừa nãy tiếng sóng mà mình nghe thấy không phải là ảo giác! Nếu tiếp tục tiến về phía Tây Nam thì sẽ như thế nào? Hai bên vách đá khép dần lại, cuối cùng thì hẹp đến mức không thể lách người qua được, hay là giống như lúc chúng ta đến đây, bên dưới vách đá, là mặt biển tối tăm vô tận?” Nhìn hoàn cảnh độc đáo nơi đây cùng với con đường có thể tiến lên phía trước, trong đầu Trác Mộc Cường Ba nổi lên trăm mối tơ vò.

                                                                                                                            

“Dung nham chồng chất!” đội trưởng Hồ Dương lớn tiếng kêu lên. “Chính là ở chỗ này rồi, chỉ có chỗ này, chúng ta mới có thể leo lên được. Có điều không biết những người sống bên trong có cho phép chúng ta đi qua không nhỉ?”

                                                                                                                            

Trương Lập nói: “Nếu người ở đây đều nói tiếng Tạng cổ thì tốt quá, ít nhất cũng có thể giao lưu được. Chỉ sợ họ không phải người Qua Ba, mà là người gì khác ấy chứ.”

                                                                                                                           

Nhạc Dương lắc đầu nói: “Đừng quên người điên kia, khả năng đây là làng của người Qua Ba là rất lớn, hay là để tôi leo lên tường kia quan sát xem sao.”

                                                                                                       

                     

Pháp sư Á La lập tức phản đối: “Không được, nếu đây là địa giới của người Qua Ba, thì chạm vào bất cứ thứ gì cũng đều rất nguy hiểm. Cậu nhìn những cây giáo sắt kia mà xem, độ ẩm ở đây cao như thế, vậy mà không có lấy một vết gỉ, chứng tỏ rằng bên trên chắc chắn có bôi thứ gì đó.”

                                                                                                                            

Ba Tang nói: “Chúng ta cứ thế mà vào thôi, bọn chúng mà dám ra tay thì xử lý luôn!”

 

                                                                                                                           

“Hả?” Mọi người nghe vậy đều giật mình ngạc nhiên.

                                                                                  

                                          

Đường Mẫn nói: “Chúng ta vốn đến để nhờ họ giúp đỡ, nếu vừa gặp mặt đã động tay động chân, chẳng phải là...”

                                                                                                         

                   

Ba Tang nhìn nét mặt hoảng hốt của mọi người, nói: “Dùng vũ lực khuất phục bọn chúng, có gì không ổn đâu chứ?”

                                                                                                                            

Pháp sư Á La nói: “Dĩ nhiên là không ổn. Trước hết, vũ khí của chúng ta chưa chắc đã mạnh hơn cổ độc, dù sao thì đó cũng là thứ chưa ai từng thấy bao giờ; thứ nữa, nếu dùng vũ lực khuất phục bọn họ, vậy thì họ sao còn chịu toàn tâm toàn ý cứu chữa cho Cường Ba thiếu gia nữa. Chi bằng, để tôi đi trước thăm dò xem sao.”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba gật đầu đồng ý, chắc rằng pháp sư Á La có thể tránh được các cạm bẫy ấy, nếu có nguy hiểm, ít nhiều gì ông cũng có thể lùi về an toàn. Pháp sư Á La đặt ba lô xuống, bóng người khuất sau tường đá, thoắt cái đã biến mất, những người còn lại đều nhìn theo bóng pháp sư, ngẩng đầu chờ đợi. Không ngờ pháp sư Á La đi được một lúc mà vẫn bặt vô âm tín, hồi lâu sau cũng không thấy có động tĩnh gì; muốn liên lạc, thì lại sợ ông đang âm thầm bí mật tiến lên, sử dụng thiết bị truyền tin sẽ làm bại lộ hành tung.

                                                           

                                                                 

Sau mười phút đằng đẵng chờ đợi trong lo lắng, mọi người mới nghe thấy tiếng pháp sư Á La vang lên trong thiết bị truyền tin: “Không có cạm bẫy, không có nguy hiểm... Mọi người, mau vào đây đi, mau vào đây xem... Rốt cuộc... rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy trời!” m thanh ấy, dường như không phải của một ông già năm sáu chục tuổi, mà giống một đứa trẻ năm sáu tuổi hơn, ngữ khí không giấu nổi sự mừng rỡ và kinh ngạc, khiến ai nấy đều trở nên kích động. Duy chỉ có mình Lữ Cánh Nam là nhận ra sự hụt hẫng to lớn trong câu nói cuối cùng của pháp sư Á La, bên trong chắc chắn đã xảy ra chuyện gì mà họ không thể nào tưởng tượng nổi.

                                                                      

                                                      

Con đường bên trong trận địa tường đá ngoằn ngoèo khúc khuỷu, những chỗ chật hẹp chỉ có thể đi từng người qua, nhưng hoàn toàn không thể ngăn được tâm trạng nôn nóng muốn vào bên trong của mọi người. Vòng qua bức tường chắn cuối cùng, cảnh tượng phía trước bỗng mở bừng ra... Trước mắt họ, là một bức tranh hoàn toàn không thể nào tưởng tượng nổi.

                                                                                                              

              

Tầm mắt họ hoàn toàn bị phủ kín bởi màu xanh ngút ngàn, như thể họ vừa đột nhiên từ khu rừng nguyên sinh bốn bề đầy những hiểm nguy rình rập đến mảnh đất đào nguyên thế ngoại. Ở nơi đây, rừng cây cổ thụ cao rợp trời đã được con người khai phá thành một mảnh đất phì nhiêu màu mỡ, cỏ non xanh rợp chân trời, tre trúc hắt bóng nước, chồi non lộc biếc, cây cỏ tốt tươi, hoa đào đỏ thắm, hoa lê trắng muốt, điểm xuyết trên thảm cỏ xanh ngắt như thể sao trời lấp lánh. Bức tường đá xám xịt cắm đầy những ngọn giáo sắt sau lưng họ, tựa như đường ranh giới giữa địa ngục và thiên đường, tách rời hai thế giới hoàn toàn khác nhau ấy. Đồng thời, cũng giống như một tấm màn ma thuật, mang đến cho những vị khách bất ngờ này những cảm nhận thị giác như mộng như ảo.

                                                                                                                            

Những kiến trúc ở đây lại càng khó tin hơn nữa. Nếu nói sự thay đổi về thực vật làm môi trường nơi đây khiến tâm trạng của đám người vừa thoát ra khỏi địa ngục ấy khó thể bình tĩnh được, thì cảm giác mà kiến trúc ở nơi đây mang đến cho họ, hoàn toàn chỉ có chấn động và kinh ngạc mà thôi, thậm chí cả pháp sư Á La, cũng khó kiềm chế được cảm giác ấy.

                                    

                                                                                        

Cảm giác đầu tiên của tất cả mọi người đều là, không thể hình dung, không thể tin nổi, bởi vì ở trước mắt họ đây, là một kiểu kiến trúc mà họ chưa từng thấy bao giờ... Từng dãy từng dãy nhà gỗ được ghép từ những tấm ván màu vàng kim, giống như những hàng cây hoa(1) trồng ngay ngắn ở đầu bờ ruộng; những dây leo trông như loài tử la lan phủ trên mái nhà thành rèm che, rừng trúc xanh biếc vây chúng vào giữa, như thể một hàng rào. Mỗi dãy nhà gỗ đều được phân bố cân đối theo tiêu chuẩn hình học hết sức nghiêm khắc, diện tích ruộng đất hai bên nhà gỗ cũng hoàn toàn bằng nhau, hệt như là soi gương vậy. Nhìn tổng thể, khu làng này trông như một chiếc quạt xếp khổng lồ xòe rộng, những dãy nhà gỗ chụm lại một phía, như những nan quạt, còn ruộng đất giữa các căn nhà thì giống giấy bồi giữa những nan quạt. Ngoài ra lại có một đường phân giới màu xanh nhạt ngăn tách phần nan quạt màu xanh ngọc và phần giấy quạt màu xanh lá mạ ra, đó là một trảng cỏ rộng chừng hơn ba chục mét hình chữ “S”, quây quanh nhà gỗ và đất ruộng. Vô số kênh dẫn nước chảy xuyên qua trảng cỏ và ruộng đất, cuối cùng chảy ra phần đỉnh chiếc quạt xếp, hợp lại thành một dòng sông lớn.

                                 

                                                                                           

Kết cấu các dãy nhà gỗ giống hệt nhau. Các căn nhà ở gần vòng ngoài làng to lớn nhất, càng vào bên trong càng nhỏ dần lại, nhưng đều chia làm ba tầng trên, dưới và giữa, mỗi tầng có hành lang có thể đi thông khắp các phòng. Nhìn phía ngoài hình lăng trụ của các gian phòng, có thể thấy tất cả các phòng đều có hình lục lăng hoàn mỹ, chỉ là diện tích lớn nhỏ hơi khác nhau một chút, sắp xếp khít chặt như tổ ong. Giữa các dãy nhà gỗ tỏa ra ấy, cứ cách chừng trăm bước, lại có một cây cầu gỗ nối liền hai dãy nhà lại với nhau. Không biết người xưa đã dùng kỹ thuật gì mà bên dưới cây cầu gỗ dài cả trăm mét chẳng hề có trụ cầu, mố cầu chống đỡ, hoàn toàn chỉ là bắc qua không trung. Trên cầu mọc đầy các dây leo đủ màu sắc rực rỡ, cả nghìn cây cầu gỗ lơ lửng đan chéo nhau, nhìn từ xa trông hệt như một dải hành lang làm bằng hoa và dây leo lơ lửng giữa không trung.

                                                                    

                                                        

Bức tường gỗ cao mấy chục mét màu vàng kim đã ở ngay trước mắt, những hình vẽ thần bí và ô cửa sổ được chạm trổ hết sức kỳ công đã có thể thấy rõ mồn một. Bất ngờ hiện ra trước mắt như vậy, rồi vươn dài ra đến tưởng chừng như vô tận. Vô số những ống mềm lớn nhỏ khác nhau vươn ra từ hai tầng dưới của những tòa nhà gỗ màu vàng thấp thoáng ẩn hiện giữa rừng trúc cũng giống như những dây leo kia. Ống nhỏ thì đung đưa trong gió, ống lớn thì giống những cẳng chân bằng máy to tướng, cắm thẳng xuống đất. Những đường ray bằng kim loại vươn ra từ dưới chân các căn nhà gỗ này, có vô số đường giao nhau, giống như một tấm lưới mảnh bằng kim loại trải trên ruộng đồng. Tấm lưới cứ vươn ra xa, cuối cùng vươn đến ngoài khu làng... đến khu rừng tăm tối đầy rẫy những hiểm nguy.

                                                                                                                            

Nhìn những đường ray ấy, Trác Mộc Cường Ba cảm giác dường như mình đang đứng trước một đoàn tàu khổng lồ màu vàng kim, đầu tàu hướng về phía mình, thân tàu kéo dài ra vô tận. Đoàn tàu chạy đến Thiên quốc ấy nghiến qua cả lịch sử, đang hú lên “tu tu” chạy về phía xa xa. Phóng tầm mắt nhìn ra xa, bốn bề đều là những bạn đồng hành của nó đang chở trên mình vô số linh hồn muốn sang miền hạnh phúc ở thế giới bên kia.

                                                                                                                            

Tất cả những người còn lại cũng hoàn toàn bị quần thể kiến trúc trước mặt chinh phục. Tuy trông có vẻ hơi quái dị một chút, nhưng không thể nghi ngờ gì, chúng hết sức hùng vĩ, hoành tráng, và đẹp tuyệt trần. Những kiến trúc ấy trông như cánh tay lực lưỡng căng đầy nhựa sống của người khổng lồ, những cây cầu gỗ thì giống đình đài lầu các lúc ẩn lúc hiện trên không trung, còn ruộng đồng và cây ăn quả thì càng chẳng khác nào ở chốn thế ngoại đào nguyên cả. Tất cả những điều ấy lại kết hợp với nhau một cách hoàn mỹ, không phân biệt đâu là chính, đâu là phụ. Ngôi làng kỳ diệu này cứ vậy mà nằm lặng lẽ bên dưới vách núi ngất ngưởng, một mình hưởng thụ sự yên bình tĩnh lặng của chốn hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài.

                                                                                     

                                       

Nhưng rồi mọi người lại mau chóng phát hiện ra, ngôi làng này yên tĩnh đến độ có gì đó kỳ lạ. Ngoài tiếng gió, tiếng nước róc rách, tiếng cây cỏ xôn xao xào xạc, thì nơi đây không còn bất cứ âm thanh gì khác.

        

                                                                                                                    

Liền sau đó, tiếng thở dài của pháp sư Á La đã đưa họ từ những tưởng tượng đẹp đẽ đến với vùng đất u ám của ác quỷ Tu la.

                  

                                                                                                          

Pháp sư Á La từ đằng xa bước trở lại, lắc đầu nói: “Không có một người sống nào.” Ông ngừng giây lát, rồi lại nói: “Không có một động vật sống nào hết.”

                                                                                                                            

Tâm trạng cả bọn chùng hẳn xuống. Giờ họ mới để ý thấy, giữa những bụi cỏ thấp thoáng xương cốt trắng hếu; bên trong hành lang những căn nhà gỗ, dường như cũng có những bộ xương đang dựa vào với đủ tư thế khác nhau; phía xa xa cuối dãy nhà gỗ, cũng có khá nhiều vệt đen, tựa như vết cháy. Triệu Trang Sinh bước lên vài bước, đột nhiên giẫm phải một vật tròn lông lốc, giật bắn mình tung chân sút mạnh, cả một cái đầu lâu liền bay vút lên theo đường parabol.

                                                                                                                            

Đúng vào khoảnh khắc nhìn thấy cảnh tượng đó, Trác Mộc Cường Ba lập tức nhớ đến những lời của người điên ở Mông Hà: “Tất cả dê, đều bị cắn chết hết cả rồi! Tất cả mọi người, đều bị cắn chết hết cả rồi!” Giờ đây khi ở trong cảnh tượng ấy, gã bỗng rùng mình ớn lạnh, sự tàn khốc trong câu nói ấy, không ngờ lại khiến người ta khó chấp nhận đến nhường ấy!

                                                                                                                            

Đường Mẫn thất thanh kêu lên: “Ở đây, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?”

                     

                                                                                                       

Ngôi làng thanh bình yên tĩnh này, hóa ra lại là một ngôi làng chết, nhà cửa vẫn còn giữ nguyên không suy suyển, nhưng không hề có một sinh vật sống nào. Đứng trên khu ruộng đất rộng mênh mông trống trải, nhìn xương trắng rải đầy dưới chân, cả bọn đều lạnh toát cả người.

                                                                                                                            

“Chúng ta vào trong xem sao.” Mang trong lòng tâm trạng kính sợ cùng vô số nghi hoặc, Trác Mộc Cường Ba bước về phía tòa kiến trúc cao lớn màu vàng kim.

                                                                                                                    

        

Dồn sức đẩy hai cánh cửa gỗ nặng nề ra, âm thanh “kẽo... kẹt” được không gian rộng rãi bên trong nhà gỗ phóng đại lên, gây cảm giác như họ đẩy cánh cửa dẫn đến một thế giới khác. Một cảnh tượng bừa bãi lộn xộn đập vào mắt lại khiến họ kinh ngạc đến bần thần người ra một lần nữa.

                                                                                                                            

“Đây là...”

                                                                                        

                                    

“Tôi biết là sẽ thế này mà.”

                                                                                                                            

“Không thể tin được, không thể tin được.”

                         

                                                                                                   

Trong nhà là một gian công xưởng khổng lồ, rộng bảy tám chục mét, vào sâu cả trăm mét, ở giữa dường như chỉ có một vài cột chống, một cánh cửa lớn khác chỉ có khung cửa, nối liền với gian xưởng phía sau. Trong công xưởng xếp bừa bãi đủ các loại máy móc vỏ gỗ, nằm nghiêng nằm ngửa, tất cả đều bị phá hoại nghiêm trọng, linh kiện, lò xo, giống như những món nội tạng bị banh khỏi ổ bụng nằm rải rác khắp nơi nhưng vẫn còn vương vấn nối liền với vỏ máy.

                                                                                                                            

Vừa nhìn thấy những thứ máy móc bị tàn phá nặng nề ấy, Trương Lập tức thì trở nên hưng phấn, trông thực chẳng khác nào kẻ nghèo rớt mồng tơi thình lình phát hiện ra kho báu, hai mắt sáng bừng, chạy đi chạy lại giữa đống máy móc vỡ bung vỡ bét, miệng không ngừng kêu lên: “Tuy chỉ là vỏ gỗ, nhưng hầu hết bộ phận bên trong đều làm bằng kim loại cả! Không! Là thép hợp kim đấy, còn nhẹ hơn thép nữa, độ giãn và độ cứng cũng hơn nhiều!”

                                                                                                                            

“Ha ha! Lò xo gấp đây mà, hóa ra họ cũng phát minh ra thứ này rồi!”

                                                                                                                            

“Đây là mộng và chốt... đây là bánh răng xích... đây là con lăn... đây là...”

                                 

                                                                                           

__________

                                                                                                                                                          

                                                                                               

Chú thích:

                                                                                                                            

1. Một loại cây ở miền Đông Bắc Trung Quốc

                                                                                                                                                                                                                                               

                                                                                                                                       

Làng người Qua Ba (2)

                                                                                                   

                                                                                                                                                      

Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh mỗi người một bên đi theo sau Trương Lập, tuy cũng trông thấy tất cả các thứ ấy, nhưng chẳng ai có vẻ hứng thú như Trương Lập cả. Triệu Trang Sinh thì chỉ thấy một đống những phụ tùng linh kiện chẳng biết thứ gì là thứ gì. Nhạc Dương không kìm được hỏi: “Những cái này dùng để làm gì nhỉ?” Trương Lập tức thì quay ngoắt người lại chộp lấy Nhạc Dương, lắc mạnh nói: “Thế mà cậu cũng không nhìn ra à!” Rồi anh ta lại ngoác miệng lớn tiếng nói: “Đây chính là máy móc tự động hóa đấy! Có thấy những đường ray kia không? Bên dưới các máy móc này đều có ngạnh, có thể chuyển động tiến lui trên những đường ray ấy, hoàn toàn tự động, thật là đáng kinh ngạc! Hơn nữa họ còn dùng loại máy nhiều cánh tay, lắp lên các cánh tay máy khác nhau, cỗ máy sẽ có những công năng hoàn toàn khác nhau! Cái này để cày ruộng, để cấy mạ, đây là để thu hoạch, để đập lúa, cái kia để chặt cây, chắc là còn có loại đập đá nữa, nhưng đây không có, chắc là không ở trong nhà này, kia là để cắt kim loại, đây là... để để nhặt trứng à?”

                                                                                            

                                

Nhìn những cánh tay máy đã hoàn toàn bị phá hoại, mà Trương Lập vẫn có thể nói vèo vèo công năng. Càng nhìn lại càng thấy kỳ diệu, càng nhìn càng thấy khâm phục trí tuệ của người xưa, cuối cùng anh chàng cười ngây ngốc nói: “Tôi biết là vậy mà.” Anh huých huých Nhạc Dương, rồi lại thúc vào người Triệu Trang Sinh một cái, nói: “Các cậu biết không, ngay từ lúc vừa nhìn thấy những dãy nhà gỗ này, là tôi đã tự nhủ, cái làng này, hoàn toàn có thể coi như một công xưởng lớn, những dãy nhà gỗ sắp xếp như những dây chuyền sản xuất, từ thu thập nguyên liệu, tuyển lựa, đến gia công thô, gia công tinh, cuối cùng thì được lắp ráp thành hình, ha ha, thật là hoàn mỹ!”

                                                                         

                                                   

Triệu Trang Sinh kiểm tra những máy móc đã nát bươm ấy rồi nói: “Hình như không có thiết bị điện thì phải, những thứ này hoạt động như thế nào nhỉ?” Trương Lập đập mạnh lên cánh tay Triệu Trang Sinh một cái, lớn tiếng nói: “Đây chính là chỗ giỏi nhất của người xưa đấy! Họ dùng nguyên lý đơn giản nhất, các linh kiện đơn giản nhất, vậy mà có thể lắp ráp lại thành những cỗ máy tự động hóa cao độ thế này! Hồi nhỏ các cậu có bao giờ chơi thứ nào giống thế chưa, chúng có đủ các hình dáng, trên lưng có một dây cót, vặn vài vòng, liền có thể tự động đi qua đi lại, có thứ còn kèm theo tiếng nhạc rất hay nữa! Còn cả đồng hồ lên dây cót, vặn một vòng thì có thể chạy cả một ngày... những máy móc này, chính là dùng nguyên lý ấy, có lò xo dây cót, bánh răng, mộng và chốt, cộng với sự dẻo dai của hợp kim, có thể tạo ra năng lượng rất lớn cho cỗ máy, hoàn toàn là sự chuyển hóa giữa cơ năng và cơ năng. Bên trong chúng dường như còn có thiết bị tự động, khi động năng không đủ, chúng sẽ tự động trở lại chỗ này, ở đây chắc chắn là có chỗ để lên dây cót cho chúng, à... hoặc là ở trong nữa, những thứ máy móc này, trông như dùng để làm chướng ngại vật ấy...”

                                                                           

                                                 

“Kỳ lạ thật, nếu nếu kỹ thuật cơ khí đã phát triển thế này, tại sao còn phải làm vỏ gỗ nhỉ?” Câu hỏi của Nhạc Dương, lập tức khiến Trương Lập tắc tị.

                                                         

                                                                   

Mấy người hội Sean và đội trưởng Hồ Dương thì đi sang phía bên kia công xưởng. Ở đây có một khúc xương động vật khổng lồ đặt nằm trên chiếc bàn lớn trông như một thứ tiêu bản, bên cạnh còn một đống đồ trông nhăn nheo như vải buồm. Sean nhìn khúc xương thở dài cảm khái: “Đúng là vĩ đại thật!”

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương hỏi: “Cái gì đấy?”

                                                                                                                            

Sean đáp: “Khúc khấu đuôi của một loài động vật nào đó.”

                                                                

                                                            

“Khấu đuôi!” Giọng đội trưởng Hồ Dương nghe lạc cả đi. Cái thứ cao hơn hai mét, dài hơn chục mét ấy, không ngờ lại chỉ là một khúc khấu đuôi! Vậy thì... vậy thì con vật ấy, lúc còn sống rốt cuộc là to đến chừng nào?

                                                                                                                            

“Ừm. Là một loài sinh vật biển hoặc lưỡng thê.” Sean bước tới cầm vật thể trông như vải buồm lên, khi ấy mới nhận ra độ dày của nó hơn xa anh ta nghĩ, bèn “a ha” lên một tiếng, lần tay ra tìm chỗ mép, hóa ra lại dày đến cả chục phân. Anh ta bèn gắng sức nhấc lên, thử cảm giác ở tay, rồi lại đưa mắt nhìn các thứ công cụ xung quanh, đoạn nói: “Nếu tôi đoán không lầm, đây chính là nguyên liệu chế tác ra con thuyền hình rắn chúng ta ngồi tới đây.”

                                                                                                                            

“Thật không?” Lữ Cánh Nam hỏi. “Vỏ ngoài thuyền rắn đâu có dày đến vậy?”

                                                                                                                            

Sean đáp: “Chắc chắn là họ đã dùng công nghệ đặc biệt gì đấy để khử lớp chất hữu cơ tích tụ trên tấm da này, rồi lại gia công chà xát, mới hình thành được lớp vỏ ngoài vô cùng bền chắc ấy.” Nghĩ ngợi giây lát, anh ta lại ngạc nhiên thốt lên: “Muốn bắt được sinh vật to lớn như thế để chế tạo thuyền, phải cần đến những vũ khí và công nghệ cực kỳ tiên tiến mới được đó!” Nói xong, Sean lại lấy ra một con dao găm, đâm mạnh xuống miếng da, kết quả giống như đâm vào một quả bóng cao su cứng, lớp da lõm xuống dưới, nhưng ấn dao xuống mãi cũng chẳng thấy rách. Cuối cùng Sean chán nản nói: “Khó hơn bắt cá voi nhiều lắm!”

    

                                                                                                                        

Trác Mộc Cường Ba theo pháp sư Á La, Mẫn Mẫn đi theo Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang đi sau cùng, bốn người họ lại đi theo một hướng khác, theo dấu những khúc xương trắng nằm rải rác dưới đất, rẽ ngoặt đi về phía bức tường của công xưởng lớn. Ở đây có một cái thang gỗ, trông có vẻ vẫn dùng được. Đi theo bậc thang là có thể lên tầng hai, họ bước qua cửa gian phòng gần nhất, suy đoán dựa vào vài thứ đồ trang sức bày biện và quần áo, càng thêm khẳng định rằng đây chính là một ngôi làng của người Qua Ba.

                                                                                                                            

Trong phòng có một bộ xương khô, thoạt trông đã rõ là xương của nữ giới, đang quỳ cuộn người dưới đất; trong lòng ôm chặt một bộ xương trẻ con. Ở mé xa bên ngoài cửa sổ có một bộ xương nằm rạp, cánh tay vươn thẳng về phía trước, hiển nhiên là sau khi ngã xuống vẫn còn bò thêm một đoạn nữa. Pháp sư Á La phân tích: “Ngôi làng này bên ngoài có tường đá cắm chông, lưng dựa vào vách núi, trên đầu lại có loài thực vật dạng như sương mù che phủ, có thể nói là địa thế vô cùng thuận lợi, các loài chim thú lớn căn bản không thể xông vào được. Còn nữa, nhìn mức độ mục rữa của xương cốt và quần áo, có thể khẳng định người ở đây ít nhất cũng chết được ba bốn năm rồi, vậy mà vẫn giữ được nguyên vẹn trạng thái lúc trước khi chết. Cũng có nghĩa là, trong ba bốn năm nay, ngoài thực vật ra, không có sinh vật nào đến đây cả.”

                                                                                                                            

Ba Tang cũng nói: “Nhìn vị trí của các bộ xương, có thể thấy những người này đều đang hoảng loạn chạy trốn, mọi người tỏa ra các hướng khác nhau để đào vong, nhưng hung thủ đã chặn hết mọi ngả đường, không buông tha cho bất cứ ai. Dù là đàn ông đàn bà người già hay trẻ nhỏ, thậm chí cả trẻ sơ sinh cũng không thể thoát chết. Họ... họ đã bị tàn sát hàng loạt.”

                                                                                                                            

Nói tới đây trong lòng anh ta chợt dâng lên một nỗi sợ, tựa hồ vừa nắm bắt được gì đó, dường như chính anh ta và đồng đội cũng từng gặp phải cuộc tàn sát thảm khốc đó rồi!

                                                                                                                            

Pháp sư Á La gật đầu: “Đúng thế, những người ở đây, có lẽ đã chết trong một trận tàn sát lúc đêm khuya, trong các căn nhà phía trước vẫn còn mấy cái xác đang trong tư thế say ngủ.”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đồ đạc, chum vại, nông cụ trong nhà vẫn còn nguyên vẹn, không có tài sản nào bị cướp đi, đến cả bàn ghế bị hất đổ cũng chỉ là do người chạy trốn va đập phải thôi. Nhưng các thứ máy móc thì lại bị phá hoại một cách hoàn toàn triệt để, cả người và súc vật cũng không một ai sống sót, đây rốt cuộc là...”

                                                                                                                            

Mẫn Mẫn nói: “Liệu có phải những thứ kia đã giết chết người trong làng không?” Cô ngẩng đầu nhìn làn sương mù.

                                                                                                                            

Pháp sư Á La lắc đầu: “Không phải, tôi đã nói rồi, đây là nơi được người xưa lựa chọn rất kỹ lưỡng, vừa bên bờ nước lại dựa lưng vào núi, có thể nói đã chiếm được địa lợi ở chốn rừng nguyên thủy này, còn khoảng trời bị loài thực vật như sương mù che phủ kia, lại có tác dụng ngăn cản sự tấn công của các loài chim dữ trên không trung. Nếu những người ở đây bị loại thực vật lơ lửng đó giết hại, thì không thể nào gây ra hiện tượng tất cả mọi người đều hoảng sợ chạy trốn trên quy mô lớn như thế được, đồng thời nó cũng không thể khiến người ta chết ngay lập tức. Nói không chừng, loài thực vật phun sương mù ấy chính là biện pháp người dân ở đây dùng để ngăn cản các loài động vật ngoại lai. Vả lại, mọi người có thấy xác lũ dê trong hàng rào kia không? Trước lúc chết chúng không hề kinh hoảng chạy loạn đi tứ phía, mà bị dồn vào một vòng quây nhỏ, xác chết chất đống lên nhau, đây là phương pháp tàn sát điển hình nhất. Còn tại sao mọi người lại hoảng loạn chạy trốn, tôi nghĩ là vì bọn hung thủ đến tàn sát không thể trao đổi một cách hiệu quả với người ở đây, vì vậy hung thủ không dồn người dân trong làng vào một chỗ, mà dùng biện pháp sét đánh không kịp bưng tai giết sạch hết tất cả mọi người.”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba dường như đã nghe ra được điều gì đó trong lời pháp sư Á La, kinh ngạc thốt lên: “Hành vi động vật?”

                                                                                                                            

Ba Tang đáp ngay: “Đúng vậy. Trên xương cốt còn dấu vết cắn và cào xé, xem ra hung thủ sở hữu móng vuốt và hàm răng sắc nhọn, nhìn vị trí của những cái xác chết trong lúc chạy trốn kia, có thể thấy hung thủ còn có tốc độ đáng sợ và thân thủ rất nhanh nhẹn nữa. Chỉ trong một lần mà bao vây tàn sát ngần ấy người, không buông tha một ai, tôi nghĩ chắc chắn bọn hung thủ này chiếm ưu thế rõ rệt về số lượng, hơn nữa còn rất giỏi tác chiến tập thể nữa.”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại hỏi Mẫn Mẫn: “Còn nhớ những lời người điên ở Mông Hà ấy nói không?”

                                                                                                                            

Mẫn Mẫn nói: “Á! Lẽ nào là...” Cô nhớ lại suy luận mà họ từng đưa ra, những sinh vật từng tấn công Ba Tang, những sinh vật đã tàn sát cả ngôi làng của người Qua Ba, rất có thể chính là lũ sói Khả Khả Tây Lý có trí tuệ tương đương với con người, hoặc giả phải nên nói là lũ sói của Shangri-la thì chính xác hơn.

    

                                                                                                                        

Mọi người lại đưa mắt nhìn Ba Tang, dò xem cảnh tượng trước mắt có thể khơi gợi cho anh ta nhớ lại điều gì đó không. Nhưng Ba Tang vẫn hờ hững nhìn đống xương trắng chất đầy trước mắt, gương mặt không hề bộc lộ chút cảm xúc nào, rõ ràng là cảnh tượng này vẫn chưa đủ để kích thích lại những hồi ức đã bị vùi sâu.

                                                                               

                                             

Mẫn Mẫn nói: “Nếu nói là cả ngôi làng bị tàn sát hết, vậy thì người điên đó làm sao thoát ra được nhỉ? Còn nữa, những hung thủ còn đông hơn cả người làng ấy từ đâu đến? Làm sao chúng có thể băng qua khu rừng tăm tối kia để đến được đây? Tại sao lại đột nhiên tàn sát cả một ngôi làng? Sau khi giết hết mọi người, chúng đã đi đâu rồi?”

                                                                                                                            

Mẫn Mẫn đưa ra một loạt câu hỏi, khiến mọi người đều cảm thấy khó có thể trả lời. Trước mắt bọn họ cũng mới chỉ nêu suy đoán, tất cả đều không có đầu mối gì cả.

                                                                                                       

                     

“Ủa? Đây là?” Chỉ nghe tiếng “xoảng xoảng xoảng” vang lên, pháp sư Á La kéo một sợi xích sắt to tướng dưới giường ra, cúi người quan sát, thấy một đầu xích sắt không phải buộc vào chân giường, mà gắn chặt với cây cột chống đỡ toàn bộ căn nhà, còn vòng sắt to bằng ngón tay út ông đang cầm, dường như đã bị một sức mạnh rất lớn giật bung cả ra. Pháp sư Á La ngạc nhiên nhìn Trác Mộc Cường Ba nói: “Kỳ lạ thật đấy.”

                                                                             

                                               

Trác Mộc Cường Ba cũng chăm chú nhìn sợi xích sắt ấy, sắc mặt rất nghiêm túc: “Đúng là kỳ lạ thật.”

                                                                                                             

               

Mẫn Mẫn nói: “Sống chung với sói! Lẽ ra phải nghĩ ra từ trước rồi mới phải, hai người, tại sao lại cảm thấy kỳ lạ vậy?”

                                                                                                                         

   

Trác Mộc Cường Ba kéo tay cô nói: “Không nên có xích sắt.”

                                                                                                                            

Mẫn Mẫn thắc mắc: “Nhưng mà, em nhớ là lũ chó lớn ở quê, chẳng phải đều dùng xích sắt xích lại đấy sao?”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba nói: “Mẫn Mẫn à, người Qua Ba sống chung với sói tuyệt đối không như em tưởng tượng đâu. Người dưới quê xích chó lại, là để đề phòng người lạ bị chúng cắn; còn ở những khu vực chăn thả ít người lui tới, người Tạng không bao giờ dùng xích sắt xích chó của mình lại đâu.”

Mẫn Mẫn dường như đã hiểu, gật đầu nói: “Vì sợ hạn chế khả năng tự do hoạt động của chúng, khiến chúng không thể đuổi bắt trộm và dã thú phải không?”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba nói: “Quan trọng hơn là, người Tạng coi lũ chó như là một thành viên của gia đình, chẳng ai lại móc lên cổ người nhà mình một cái vòng, rồi lấy xích xích lại cả. Huống hồ đây lại là người Qua Ba sống chung với sói, tương truyền rằng, quan hệ của họ với sói, dường như còn thân thiết hơn cả với người nhà ấy chứ.”

                                                                                                                            

Mẫn Mẫn nhìn sợi xích to tướng dưới đất, nói: “Vậy thì sợi xích này... đúng là kỳ lạ thật đấy..., à, anh bảo, liệu có lẽ nào là bọn chúng...”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu, trước khi có chứng cứ xác thực, gã không muốn dễ dàng đưa ra kết luận. Gã bèn chuyển chủ đề khác: “Không biết, xem ra ở đây còn ẩn giấu nhiều bí mật lắm, sợ rằng chúng ta phải nghỉ lại đây rồi. Vậy đi, Ba Tang, anh đi gọi Sean nữa, hai người và Trương Lập, Triệu Trang Sinh đi chôn hết những bộ xương này đi, sau đó anh bảo với đội trưởng Hồ Dương, để anh ấy cùng với Cánh Nam và Nhạc Dương tìm kiếm bên ngoài, chúng tôi sẽ lục soát bên trong, xem xem có còn đầu mối nào khác nữa không.”

                                                                                          

                                  

Tầng dưới ngoài khu công xưởng lớn ra thì là chuồng gia súc được quây rào, tầng hai tầng ba lần lượt có phòng khách, phòng ngủ, phòng quản gia, kho, những rường cột, mái hiên, bậu cửa đều vẽ hoặc điêu khắc những hình vẽ hết sức tinh xảo đẹp đẽ, cầu thang lên xuống đều dùng nguyên một khối gỗ đẽo hình răng cưa tạo thành. Chỉ có máy móc là bị phá hủy, còn đâu đa phần các đồ bày biện trong nhà của cư dân, các chum vại đều còn nguyên vẹn không hề suy suyển, thoạt nhìn chẳng hề giống như đã xảy ra một trận tàn sát. Nhưng cũng chính vì nguyên nhân đó, tất thảy mọi thứ ở đây ngược lại đều trở nên càng thêm kỳ dị và bí ẩn. Một điều nữa khiến Trác Mộc Cường Ba càng lấy làm khó hiểu là, mỗi gian phòng đều có xích sắt, đồng thời mỗi sợi xích sắt đều bị giật bung ra, nhưng lại không hề phát hiện ra bộ xương chó sói hoặc chó ngao nào. Cuối cùng, họ cũng tìm được chút đầu mối còn sót lại trong một gian phòng lớn đã bị cháy ở tầng hai. Chỗ đó hóa ra là một đàn tế, tầng dưới là phòng họp, tầng trên còn có các tư liệu văn bản. Lúc trông thấy những hàng chữ Tạng cổ viết trên da dê, bọn Trác Mộc Cường Ba thảy đều vô cùng kích động. Tuy rằng đa phần đều đã bị thiêu hủy, nhưng dù sao cũng là những ghi chép lịch sử, đối với một nền văn minh, đây có thể coi là những tư liệu quan trọng nhất rồi.

                                                                                                                            

Hầu hết các cuộn văn bản đều dùng vàng bạc lỏng viết lên da dê, ngoài ra cũng có những quyển trục giống với quyển trục Cổ Cách, được viết trên da sói.

                                                                                                                            

Pháp sư Á La đọc thật kỹ lưỡng, cuối cùng cũng hiểu đại khái nội dung của những cuộn da dê ấy. Những cuộn da dê gần như là nhật ký của làng, đã được ghi chép liên tục từ một nghìn năm trước cho đến bây giờ.

                                                                                                                   

         

Ngôi làng này, không ngờ cũng được gọi là thôn Công Bố, có điều về sau đã đổi sang tên khác, cả pháp sư Á La cũng không thể dịch được một cách chính xác, hình như mang máng có nghĩa là “cuối cùng”; người ở đây sử dụng phương pháp ghi năm theo kiểu “hỏa không hải(1)”, sau khi xem qua, pháp sư Á La nói, cách ghi năm này hơi khác với cách ghi năm theo kiểu “hỏa không hải” mà biết, có điều tính toán sơ qua, thì có lẽ là bắt đầu từ năm Lãng Đạt Mã cấm Phật. Trong các bản ghi chép không thấy viết về nguyên nhân họ đến Shangri-la, chỉ loáng thoáng nhắc đến, viết rằng các vị trí giả quyết định từ bỏ, lần theo dấu vết tiền nhân để lại tìm đến Shangri-la... còn những gò Mã Ni chất trên mu bàn chân người khổng lồ thì hóa ra đã có từ trước khi họ đến đây, là nơi tế bái của những người đến đây từ trước trước nữa, sớm nhất có thể truy ngược lại từ khoảng ba nghìn năm trước. Hẳn là người dân ở đây có thể đọc hiểu được cách ghi năm của Tượng Hùng cổ. Những người dân trong làng này đều tự nguyện ở lại, họ sẽ đời đời canh giữ tầng đầu tiên của thánh địa Shangri-la, đồng thời chuẩn bị nghênh tiếp những vị dũng sĩ đến sau; còn rất nhiều người Qua Ba khác đã cùng họ tiến vào đây thì tiếp tục tiến lên trên, cuối cùng ở lại tầng bình đài thứ ba. Người dân thôn Công Bố từ bấy giờ vẫn canh giữ và bảo vệ thôn làng và con đường duy nhất thông lên tầng bình đài phía trên. Những dòng ghi chép cuối cùng kết thúc vào khoảng bốn năm về trước...

                                                                                          

                                  

Trong các quyển da dê đa phần đều chép lại những sự kiện quan trọng như tế lễ, thiên tai, hoặc thần tích hiển linh... Trong đó có mấy điểm thu hút sự chú ý của pháp sư Á La. Vào năm này năm này, người bộ tộc... từ thang trời đi xuống, mượn đi bao nhiêu lương thực; năm nào năm nào... người bộ tộc... đến tuyên bố tin tức ..., vua nước... mở ra... vào... năm..., trong làng đã phái đi bao nhiêu sứ giả đến thánh đàn Shangri-la tham gia nghi thức trọng đại ấy, rồi có bao nhiêu người trở về vào lúc nào...

                                                                                                                            

Dựa trên những thông tin đó, họ biết được, Shangri-la này không chỉ có một ngôi làng. Ở tầng bình đài thứ hai, thứ ba, còn có những dân tộc cổ xưa hơn nữa tồn tại, đồng thời đã hình thành nên cả một vương quốc, mà có thể là không chỉ có một vương quốc. Cũng có nghĩa là, vương quốc Shangri-la mà thế gian vẫn đồn đại, thực sự có tồn tại.

                        

                                                                                                    

__________

                                                                                                                                                 

                                                                                                        

Chú thích:

                                                                                                                            

1. Phương pháp tính năm độc đáo của người Tạng, lấy thời điểm năm bắt đầu là năm 624 sau Công nguyên. Ví dụ: năm 132 theo cách tính "hỏa không hải" là năm 755 sau Công nguyên.

                                                                                                 

                                                                                                                                                                                                                                                                

                     

Thang trời đứt gãy

                                                                                                                                                                                                                        

                                 

Sau đó, từ những ghi chép để lại, họ đã tìm được nguyên nhân tại sao ngôi làng này có thể bình yên vô sự suốt hơn một nghìn năm. Thì ra, ngôi làng này nằm đơn độc ở tầng thứ nhất, ẩm ướt oi bức, hơn nữa các loài quái thú, sâu bọ rất nhiều, cực kỳ bất lợi cho con người sinh sống; chẳng những vậy, con đường dẫn lên các thôn làng ở tầng thứ hai cũng đầy rẫy hiểm nguy, nếu đi một mình thì căn bản không thể nào băng rừng đến được khu có con người cư trú ở tầng thứ hai được; các dũng sĩ cũng phải đi mất ba tháng mới đến được ngôi làng gần nhất, một chuyến đi về như thế, ít ra cũng phải tử thương mất quá nửa. Ngoài ra, có rất nhiều nội dung ghi chép trong đó hết sức giống trong cuốn Ninh Mã cổ kinh của nhà Trác Mộc Cường Ba, chẳng hạn như quái thú cao bằng ba tầng lầu bắt đầu lũ lượt xuất hiện trong hành trình của dũng sĩ...

                                                                                                                            

Vì các cuộn da chỉ ghi chép những chuyện lớn, có khi mấy năm liền không có sự kiện gì đáng ghi, lại còn rất nhiều cuộn đã bị thiêu hủy, pháp sư Á La và Đường Mẫn lập tức bắt tay vào việc, dựa theo trình tự thời gian phân loại các cuộn da còn lại quét vào máy tính. Trác Mộc Cường Ba thì để ý đến các thông tin liên quan tới “thang trời”. Dựa theo các ghi chép trên cuộn da, vách núi ở tầng dưới cùng này vốn là không thể vượt qua được, sau khi vô số dũng sĩ phải trả giá bằng cả tính mạng, con đường thông lên tầng bình đài thứ hai mới được phát hiện. Về sau, được một vị trưởng lão trí tuệ sâu dày chỉ dẫn, các vị dũng sĩ đã chôn hạt giống vào các khe hở trên vách đá, cuối cùng đã hình thành nên thang trời. Theo như mô tả trên cuộn da, thông đạo này dường như hơi giống loại giỏ treo thả lên thả xuống.

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba gọi cho đội trưởng Hồ Dương, hỏi xem dưới chân vách đá có gì đặc biệt không. Đội trưởng Hồ Dương trả lời, ở chỗ tất cả các dãy nhà gỗ tụ về có một bánh xe nước khổng lồ, không chỉ dẫn nước tưới tiêu cho đồng ruộng ở đây, mà dường như còn cung cấp động lực cho thứ gì đó nữa, chỉ là trục xoay được chôn sâu dưới lòng đất, không biết là thông đến tận đâu. Còn những thứ kiểu như thang trời hay giỏ treo gì đó thì vẫn chưa phát hiện ra. Lát sau, Lữ Cánh Nam nói: “Anh Cường Ba, chúng tôi phát hiện ra một số thứ, không biết có dính dáng gì đến thang trời không, anh lại đây xem đi.”

                                             

                                                                               

Trác Mộc Cường Ba vội tới chỗ vách núi, giờ mới phát hiện, mảng vách núi này không đơn giản chỉ là màu đỏ, mà do vô số màu sắc kỳ dị chắp ghép lại, chủ yếu là ba màu đỏ, tím, xanh lam. Hình dáng vách đá cũng không đơn giản chỉ là hình chóp nón, ít nhất là phần đáy còn hơi lõm vào trong, giống như một giọt nước đỏ sắp nhỏ xuống khảm vào vách đá màu xám. Xung quanh rải rác rất nhiều đá và cuội núi lửa.

                             

                                                                                               

Đội trưởng Hồ Dương chỉ vào thiết bị vừa lắp ráp xong xuôi, nói: “Chúng ta suy đoán chính xác đấy, nơi đây luôn có núi lửa phun trào, dung nham đông cứng tạo thành vách đá này còn chưa đến hai vạn năm tuổi.”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu nói ở đây luôn có núi lửa phun trào, chỗ này lại ở giữa đường đi của dung nham núi lửa, vậy tại sao những người Qua Ba ấy còn xây nhà gỗ? Không sợ tự chuốc họa vào thân sao?”

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương vân vê bộ râu xồm xoàm, cười cười nói: “Đây chính là đặc điểm của núi lửa nơi này, không phải phun trào theo kiểu bộc phát bùng lên, mà chảy chầm chậm xuống như dòng suối vậy, đến nơi này thì đã ngừng lại rồi. Rõ ràng những người Qua Ba ấy đã quan trắc cả ba tầng bình đài, cho rằng lần núi lửa phun trào sau, dung nham chỉ có thể chảy được đến đây thôi, cộng với một số điều kiện địa lý khác nữa, nên mới chọn đây làm chỗ đặt chân. Không biết cậu có nghe thấy tiếng sóng không, tôi nghĩ, nơi này đã rất gần một đầu mút của khe nứt Shangri-la rồi. Khoảng cách từ ngôi làng này ra đến biển rất ngắn, còn con sông kia thì rộng như vậy, có thể hạ thủy những con thuyền rất lớn, trong làng chắc chắn là có những chỗ để chế tạo thuyền, chỉ là chúng ta chưa phát hiện ra thôi.”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ý anh là, nếu dung nham chảy qua đây, toàn bộ người trong làng có thể nhanh chóng sơ tán ra biển?”

                                                                                                                            

“Đúng vậy,” đội trưởng Hồ Dương gật đầu. “Lúc dòng dung nham nóng chảy chảy qua, còn nơi nào an toàn hơn ngoài biển nữa đâu?”

     

                                                                                                                       

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, tiếp tục tiến về phía trước, liền trông thấy Lữ Cánh Nam đang đứng trước một đống thực vật dây leo tỉ mỉ quan sát, nhưng không thấy Nhạc Dương đâu. Đội trưởng Hồ Dương nói, anh và Lữ Cánh Nam, Nhạc Dương chia nhau tìm theo ba hướng, anh đi giữa, nên nghe thấy tiếng Lữ Cánh Nam gọi liền chạy đến trước. Chỉ thấy những dây leo ấy đều to như cánh tay trẻ con, chất lên thành đống như núi bên dưới vách đá. Ngẩng đầu nhìn lên, trên vách đá màu đỏ vẫn còn bám lại một phần dây leo, mọc thành từng đoạn từng đoạn một, chỉ có điều đã không còn liền mạch, cách nhau ít cũng phải cỡ mấy trăm mét. Các dây leo rơi xuống mặt đất không chết, mà vẫn có cành lá mọc ra từ thân chính. Lữ Cánh Nam cầm một đoạn dây leo lên, Trác Mộc Cường Ba nhận thấy, giữa hai thân chính to như cánh tay trẻ con, không ngờ còn có vô số nhánh nhỏ vươn ra quấn chặt lại với nhau, khiến chúng giống như một cái thang dây vậy. Lữ Cánh Nam nói: “Xem ra, đây chính là thang trời rồi.”

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Sáng tạo cực kỳ thông minh. Xem ra sức sống của những dây leo này rất mãnh liệt, chúng có thể mọc rễ trong các khe nứt trên vách đá, rồi cứ thế sinh tồn, mỗi lúc một lớn dần lên. Cho dù những dây leo già có chết đi, thì cành lá mới cũng sẽ xuôi theo hướng đi của những dây leo cũ mà tiếp tục sinh trưởng, đảm bảo cho thang trời này vĩnh viễn không bao giờ bị đứt lìa.”

                                                                                                                            

Lữ Cánh Nam quan sát một đầu thang dây, nhìn vết cắt nói: “Có vẻ như bị cố ý phá hoại, dường như là để cắt đứt tất cả đường chạy trốn của người trong làng, hoặc có lẽ là vì muốn ngăn cản những người khác đến cứu viện.”

                                                                                       

                                     

Trác Mộc Cường Ba nhìn những đoạn dây leo dài không quá chục mét còn sót lại trên vách đá, lẩm bẩm: “Xem ra, chúng ta đành phải tự leo lên trên đó rồi. Vách đá này cũng lớn thật đấy nhỉ!”

                               

                                                                                             

“Cũng còn đỡ.” Lữ Cánh Nam nhìn vách núi cao ngất như muốn chọc xuyên mây, điềm đạm nói. Vách đá trước mặt họ do dung nham chất chồng tạo nên, độ dốc có lẽ phải đến khoảng tám mươi tám lăm độ, nhưng so với những vách đá vát ngược vào bên trong thì còn đỡ hơn rất nhiều. Có lẽ chính vì vậy mà người xưa đã chọn nơi đây làm con đường duy nhất thông lên tầng bình đài thứ hai. Nhưng vách đá này dù sao cũng cao gần hoặc thậm chí là hơn hai nghìn mét, bên trên có rất ít mố và khe hở, sợ rằng chỉ có lũ sơn dương mới đứng vững được. Trong lòng Trác Mộc Cường Ba không lạc quan được như Lữ Cánh Nam.

                                                                                

                                            

Đội trưởng Hồ Dương cũng nói: “Ừm, xem ra mấy ngày tới chúng ta đều phải qua đêm trên vách đá lớn này rồi, chắc phải mất ba ngày mới lên được đến nơi mất.”

                                                        

                                                                    

“Không cần lâu thế đâu,” Lữ Cánh Nam tự tin nói. “Mọi người ở trong làng nghỉ ngơi đầy đủ, lấy lại tinh thần. Chúng ta sẽ quan sát kỹ đường đi lên, chỉ cần nghỉ lại trên vách đá một đêm thôi. Tuy thang trời đã bị phá hoại, nhưng dù sao cũng vẫn còn lại cho chúng ta mười mấy đoạn dây leo, ít nhất cũng có mấy trăm mét không cần tốn sức quá. Đoạn phải leo trèo thực tế chỉ khoảng một nghìn ba đến một nghìn bốn trăm mét gì đấy thôi.”

           

                                                                                                                 

Trác Mộc Cường Ba nói: “Trở về bàn bạc với mọi người đã, xem có tìm được thông tin nào hữu ích trong đống cuộn da dê ấy không.” Kế đó, gã liên lạc với Nhạc Dương hỏi xem có phát hiện gì không.

                                                                                                                            

Nhạc Dương trả lời: “Cường Ba thiếu gia, tôi thấy một số thiết bị máy móc. Mọi người lại đây xem đi.”

                                                                                                                            

Ba người đi về phía Nhạc Dương, dọc đường có nhìn thấy bánh xe nước khổng lồ mà đội trưởng Hồ Dương nhắc đến lúc nãy. Bánh xe nước ấy quả nhiên hết sức to lớn, trông như một cái bánh xe đu quay, chỉ có điều giờ đã nằm vật ra đất, gãy lìa thành mấy mảnh. Dòng nước bên cạnh vẫn đang tuôn ầm ầm đinh tai nhức óc, mặt đất xung quanh rung lên bần bật. Ba người bọn Trác Mộc Cường Ba bịt chặt tai, nhanh chóng đi qua.

                                                                                                                            

Chỗ Nhạc Dương phát hiện cách dòng nước không xa lắm, nhưng tương đối khuất nẻo, ẩn giữa rừng trúc bên dưới vách đá. Phải gạt bớt trúc sang hai bên mới phát hiện ra bên trong có một khe nứt, phía trên rừng trúc, phần bên ngoài khe nứt này đã khép miệng, có điều bên trong lại tối om om, dường như cứ vươn lên trên mãi.

                        

                                                                                                    

Thấy ba người bọn Trác Mộc Cường Ba đến, Nhạc Dương nói luôn kết quả quan trắc của mình: “Vách đá chỗ này rất trơn trượt ẩm ướt, có vẻ như là một dòng suối khác nữa. Có điều không biết bị cạn rồi hay bên trên bị người ta chặn. Bên trong có mấy thứ máy móc, nhưng cũng bị phá hoại cả rồi.” Tới đây, thấy mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đã đi vào trong, anh lại vội vàng tiếp lời: “Cẩn thận, trơn lắm đấy.”

       

                                                                                                                     

Nhìn những giá gỗ vứt bừa bãi, đội trưởng Hồ Dương nói: “Xem ra, sau khi lên được tầng bình đài thứ hai, người Qua Ba đã lợi dụng thông đạo thiên nhiên hình thành do dòng suối chảy trong núi để lắp thang máy lên xuống ở chỗ này, rồi lại lợi dụng sức chảy của một dòng suối khác làm động lực cho bánh xe nước đưa khoang chở người lên. Đúng là thông minh thật.”

                                   

                                                                                         

Lữ Cánh Nam thì chăm chú quan sát những giá gỗ bị hơi nước ăn mòn đến chẳng còn hình dạng gì, nói: “Xem ra khi tàn sát dân làng năm đó, hung thủ đã bít chặt mọi đường thoát, nguyên một ngôi làng, không có bất cứ hy vọng sống sót nào cả.”

                                                                                                                            

Vách đá ướt sũng trơn bóng không thể leo trèo, Trác Mộc Cường Ba đã hiểu, bọn họ chỉ có thể dựa vào sức mình mà thôi. Chỉ có điều, gã cũng lấy làm kỳ quái, nếu theo suy đoán của họ, thì là một loại sinh vật giống như sói đã gây ra tất cả những chuyện này, rốt cuộc chúng đã làm như thế nào? Tại sao chúng lại làm như vậy?”

                                                                                                                            

Bận rộn gần nửa ngày, mấy người bọn Ba Tang mới xử lý ổn thỏa xương cốt của dân làng, ở đầu thôn đã có thêm vô số ngôi mộ mới. Sau đó Trương Lập lại đi nghiên cứu cái bánh xe nước mà đội trưởng Hồ Dương phát hiện ra, và nhận định chiếc tuốc bin nước to như bánh xe đu quay ấy chính là ngọn nguồn của tất cả động năng trong ngôi làng này, nó nằm ở chỗ giao nhau của tất cả các dãy nhà gỗ, trực tiếp chuyển hóa thế năng của dòng nước đổ từ độ cao hơn hai nghìn mét xuống thành các loại động năng khác nhau.

                                                                                                                            

Trương Lập kết luận, những máy móc thiết kế tinh vi này chắc chắn phải được mô tả bằng văn tự. Rốt cuộc, với sự giúp đỡ của pháp sư Á La, anh cũng tìm được phần ghi chép về cách chế tạo cạm bẫy máy móc trong những cuộn da ghi lại các chuyện lớn của thôn làng. Những cạm bẫy được mô tả khiến Trương Lập xem mà trán ướt đẫm mồ hôi. Anh đồng thời cũng nhận ra, họ may mắn đến nhường nào khi có thể bình an đến được ngôi làng này. Nếu những cạm bẫy ở rừng giáo sắt bên ngoài làng đều được khởi động, bọn họ nhất định không thể vào được đến đây mà không tổn thất chút gì. Nhưng, từ đây pháp sư Á La lại nghĩ ra một chuyện khác, đó là, những sinh vật đến tàn sát dân làng, ngay cả các cạm bẫy đáng sợ như thế cũng bị chúng phá hủy không còn gì, vậy chẳng phải còn đáng sợ hơn so với họ tưởng tượng rất nhiều lần hay sao!

                                                                                                                            

Nghiên cứu sâu hơn nữa, Trương Lập và pháp sư Á La cùng phát hiện ra rằng, trong những cuộn da này dường như có ẩn chứa bí mật. Những người sống trong làng dường như đã tham gia nghiên cứu một thứ gì đó, mỗi lần nhắc đến chuyện này, họ đều hết sức kín đáo, chỉ loáng thoáng một hai lời, nhưng lại ít nhiều ẩn chứa vẻ kiêu ngạo. Cả quá trình nghiên cứu kéo dài đến năm sáu đời, trải qua gần một trăm năm thời gian. Chắp nối những mẩu thông tin của các đời chép lại với nhau, thì thứ đó có vỏ ngoài hết sức cứng rắn, có thể độc lập hành động, không bị gò bó bởi đường ray, tốc độ di chuyển cực nhanh, hơn nữa lại vô cùng linh hoạt, có thể đến những nơi máy móc bình thường không thể tới được, chuyên chở những vũ khí dạng ném có thể tấn công từ cự ly xa, dường như còn có thể tự động khóa mục tiêu. Ngoài ra, nguồn năng lượng của loại máy này có vẻ đến từ sinh vật sống nào đó. Phần được mô tả nhiều nhất, chính là việc tìm kiếm trái tim cho cỗ máy đó, đây có vẻ như cũng là phần mà người sống trong ngôi làng này chịu trách nhiệm. Còn những bộ phận khác của cỗ máy, có lẽ là do những người Qua Ba ở tầng cao nhất nghiên cứu. Cuối cùng, dân làng đã tìm được một loại sinh vật “có sáu chân, đầu hình bán bầu dục, có thể bò rất nhanh” ở tầng bình đài thứ hai làm hạch tâm cho loại máy móc ấy. Người dân làng Công Bố đã không khỏi đắc ý khi viết “đây là kỹ thuật phòng ngự hoàn toàn mới, một thành tựu to lớn tập trung cả thuật chế tạo cơ quan, thuật nuôi trùng độc và huấn luyện sinh vật,” - có kỹ thuật này, thần miếu sẽ được an toàn gấp bội.

                                                                                          

                                  

Điều khó tin nhất là, trong một trăm năm đầu tiên, rất hiển nhiên là người làng này có qua lại với người Qua Ba ở tầng cao nhất. Trong các cuộn da, ngoài phần chép về chuyện họ cùng nghiên cứu phát minh ra loại máy móc đáng sợ kia ra, còn có cả những ghi chép việc phái người đi tham gia các buổi tế lễ chung. Thế nhưng, một trăm năm sau, đột nhiên không thấy nhắc gì đến những người Qua Ba ở tầng trên cùng ấy nữa, dường như họ đã hoàn toàn cắt đứt liên hệ với tầng bình đài thứ ba của Shangri-la, song không thấy ghi chép lý do.

                                                                                                                            

Đồng thời pháp sư Á La cũng tìm được một số dấu vết có thể dẫn đến vụ việc cả làng Công Bố bị tàn sát. Trong một đoạn viết về sự việc xảy ra sáu năm trước có ghi “Thứ Tháp Nhĩ gây họa rồi, hắn đã đến...” phần ở giữa bị cháy một lỗ to. Liền kề sau đoạn ấy, chính là lời nguyền mà họ đã vô cùng quen thuộc: “Vô số tai ương sẽ ùn ùn kéo đến như tuyết lở, giáng xuống tất thảy mọi nơi. Tất cả thành thị đều sẽ biến thành nơi hoang phế không một bóng người, giống sài lang an cư bên dưới thánh đàn, lũ độc xà phơi nắng trên bậc cấp, lưới nhện bịt kín khung cửa, loài hoa chết chóc nở khắp mặt đất mênh mông...” Tiếp sau là một câu hỏi: “... đền tội, lẽ nào cuối cùng chúng ta cũng không thể thoát khỏi vận mệnh hay sao?” Pháp sư Á La đã dồn hết tâm sức tìm kiếm những đầu mối khác, song cũng chỉ tìm được mấy câu khó hiểu ấy mà thôi.

                  

                                                                                                          

Sau khi hoàn thành hầu hết mọi việc, dựa theo mô tả trong các cuộn da, mấy người bọn Ba Tang đi ra theo lối bên dưới, bắt vô số châu chấu khổng lồ về làm một bữa thịnh soạn. Rồi cả bọn lại thay những bộ đồ đã rách rưới te tua trên người bằng quần áo của người Qua Ba, tìm một gian nhà vẫn còn tương đối nguyên vẹn làm nơi nghỉ qua đêm. Pháp sư Á La và Mẫn Mẫn quét toàn bộ các cuộn da vào máy tính, hầu hết những tư liệu chưa kịp xem cho kỹ sẽ từ từ kiếm cơ hội giải mã trên đường. Buổi tối hôm ấy, họ mở một cuộc họp, tổng hợp ý kiến mọi người, cuối cùng đưa ra một kết luận kinh người: sức mạnh khoa học kỹ thuật mà người Qua Ba sở hữu, vượt xa so với những gì họ vẫn hằng tưởng tượng! Mức độ vận dụng máy móc ở đây đã gần bằng hoặc thậm chí là vượt quá trình độ của châu u sau cuộc cách mạng công nghiệp hồi thế kỷ mười tám. Còn về mặt tự động hóa, thậm chí đã có thể so sánh với kỹ thuật máy móc công nghiệp hiện đại mà cũng không hề thua kém.

                                                                                                                            

Trương Lập nói: “Lúc trước tôi có bảo với Nhạc Dương, ngôi làng này là một nhà máy lớn, các dãy nhà gỗ được sắp xếp giống hệt như một dây chuyền sản xuất, một hệ thống công nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp hợp lý và hoàn mỹ. Nhưng bây giờ, tôi phải đính chính lại, hình dung như thế vẫn chưa hoàn thiện, ngôi làng này giống như là một xã hội tập trung trí tuệ vậy, có thể nói, những kiến trúc này, đồng ruộng và mạng lưới đường ray bằng kim loại, đã cấu thành một kết cấu xã hội gần như là mạng internet. Mỗi gian nhà gỗ nhỏ ở đây, giống như một máy vi tính đầu cuối, chỉ cần ở trong nhà người ta cũng có thể độc lập hoàn thành bất cứ công việc gia công sản xuất nào, công xưởng bên dưới sẽ biến ý tưởng của họ thành hiện thực. Hơn nữa, họ cũng có thể thông qua phương thức vận chuyển của mạng lưới chia sẻ tư liệu tài nguyên với cả làng. Nhìn những kiến trúc như thể một tổ ong, chúng ta có thể tưởng tượng mỗi dân làng Công Bố như một con ong mật có chỉ số thông minh cực cao, khi họ tập hợp lại, có thể nhờ phương thức tập trung trí tuệ để tạo ra khả năng sáng tạo lớn gấp bội phần.”

                                        

                                                                                    

Nhạc Dương nghĩ ngợi giây lát, đoạn nói: “Tôi nhớ giáo sư Phương Tân từng bảo, muốn hình thành trí tuệ tập trung như vậy cần phải đạt được con số nhất định, mới có thể đến được giới hạn để từ đó nảy sinh sự biến đổi về chất.”

                                                                                                                            

“Đúng thế.” Trương Lập đưa mắt nhìn quy mô của ngôi làng, rồi nói: “Đây cũng chính là nguyên nhân tại sao làng Công Bố tuy đã áp dụng mô thức xã hội tập trung trí tuệ, nhưng khoa học kỹ thuật vẫn chưa thể phát triển một cách triệt để như người ở bên ngoài chúng ta... là vì số lượng của họ quá ít. Có lẽ họ đã biết lợi dụng hiệu ứng điện từ, nhưng lại không biết nguyên lý và sự chuyển hóa của chúng; họ cũng chưa nghiên cứu ra được năng lượng hạt nhân; do hạn chế về mặt địa lý, họ cũng không sử dụng được những nguồn năng lượng hiệu quả cao như dầu mỏ; họ chỉ phát triển kỹ thuật chế tạo máy móc đã có từ thời cổ đại lên đến mức tuyệt đỉnh mà thôi. Mà trên thực tế, cả thuật chế tạo máy móc, họ cũng bị hạn chế rất lớn...” Anh liếc sang phía Nhạc Dương, nói: “Cậu không thấy tò mò tại sao máy móc ở đây đều có vỏ gỗ à? Rất hiển nhiên, khoáng thạch ở đây không thể luyện được nhiều sắt thép, vì vậy họ chỉ có thể dùng sắt thép để chế tạo các bộ phận dễ hư tổn như trục quay và bánh răng mà thôi.”

                                                                                                        

                    

Triệu Trang Sinh lẩm bẩm: “Cứ đẻ thật nhiều vào chẳng phải là xong hay sao?”

                                                                                                                            

Pháp sư Á La lắc đầu: “Người dân ở đây đã chú trọng nhiều hơn đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống, chứ không chỉ quan tâm đến số lượng nhân khẩu. Dựa trên các ghi chép để lại, có thể thấy số lượng người trong làng luôn giữ ở mức cân bằng, thậm chí có nhiều khi nhân khẩu còn tăng trưởng âm, nhưng kỹ thuật y học của họ rõ ràng đã đạt đến trình độ rất cao. Thông qua quan sát một số xương cốt, ít nhất chúng ta cũng có thể khẳng định, bọn họ có thể thực hiện các loại phẫu thuật đòi hỏi trình độ khoa học kỹ thuật cực kỳ cao, ví dụ như phẫu thuật mở hộp sọ, mở lồng ngực, phẫu thuật cắt ghép chi... Chỉ tiếc là, phần tư liệu về y học đều đã bị đốt cháy hết cả rồi.”

                                                                                                                            

“Phẫu thuật mở hộp sọ!” Triệu Trang Sinh kinh ngạc đớ người ra.

                                                                                                                            

“Không chỉ có thế thôi đâu,” đội trưởng Hồ Dương bổ sung thêm, “trí tuệ của người dân Công Bố tuyệt đối không chỉ giới hạn ở kỹ thuật chế tạo máy móc và y học. Tôi và Cánh Nam đã nghiên cứu rất kỹ khu ruộng đất, người dân ở đây rõ ràng đã nắm bắt được kỹ thuật tạp giao gì đó. Loại nông sản mà họ trồng, dường như có bóng dáng của lúa mì Thanh Khoa, nhưng mật độ thì dày hơn chúng ta tưởng tượng nhiều lần. Thông qua tính toán mô phỏng bằng máy tính, cho dù là lúa mì Thanh Khoa thật, thì với mật độ hạt giống dày như thế, một mẫu ruộng cũng có thể cho đến hơn nửa tấn. Còn nếu là loại nông sản khác, sản lượng chắc phải tăng thêm mấy lần.”

                                                                                                                            

Lữ Cánh Nam cũng lên tiếng: “Suy luận này đã được kiểm chứng trong các cuộn da để lại. Theo những ghi chép từ thuở ban đầu, sản lượng lương thực mỗi mùa đủ để toàn bộ dân làng ăn trong sáu năm. Chẳng những vậy, mỗi năm ở đây đều có bốn mùa thu hoạch, ngoài một phần được gia công thành các loại thực phẩm có thể giữ một thời gian dài ra, hầu hết lương thực còn lại đều được họ áp dụng phương thức dự trữ định kỳ, tiêu hủy định kỳ. Chúng ta vẫn chưa tìm được ghi chép gì về việc họ tiến hành tạp giao, còn ghi chép về sản lượng của các thửa ruộng thực nghiệp này cũng chỉ kéo dài mấy chục năm, về sau thì không thấy nữa. Có điều, nếu số liệu họ ghi lại đều là sự thật, thì tôi chỉ có thể nói, những người này, đã đi trước cả ông Viên Long Bình(1) rồi. Sản lượng lương thực ở đây, cơ hồ có thể sánh ngang với lúa nước cao sản của chúng ta ngày nay. Ngoài ra, chắc hẳn sản lượng rau xanh và hoa quả ở đây cũng không thể nào thấp được.”

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương lấy ra một cái túi, bên trong có vài gốc cây cái, kích động nói với những người còn lại: “Mọi người có biết đây là gì không? Chúng ta đã phát hiện được kho báu lớn nhất ở Shangri-la này rồi đó, nếu mang những gốc cái này ra ngoài, chúng có thể thay đổi cả thế giới.”

                  

                                                                                                          

Mấy người bọn Nhạc Dương, Triệu Trang Sinh đều lấy làm nghi hoặc. Trương Lập tò mò hỏi: “Đội trưởng Hồ, thứ này không phải chỉ có thể so được với lúa nước cao sản của chúng ta ngày nay hay sao? Cùng lắm là có thêm mấy loại cây nông nghiệp sản lượng cao nữa thôi chứ, sao mà thay đổi được thế giới?”

                                                                                                           

                 

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Lương thực vàng, là lương thực vàng đấy! Các cậu chưa bao giờ nghe nói đến hả?”

                                                                                                                            

__________

                                                                                                                                                                                                                                                         

Chú thích:

                                                                                                                            

1. Viện sĩ Viện Công trình Trung Quốc, người được mệnh danh là cha đẻ của lúa lai thế giới.

                                  

                                                                                                                                                                                                                                                                

                                                                                    

Trí tuệ tập trung

                                                                                                                                                          

                                                                                               

Nhạc Dương nghĩ ngợi giây lát, dường như đã nghe nói đến ở đâu đó, nhưng nhất thời không sao nhớ ra được, chỉ có Mẫn Mẫn “ố” lên một tiếng, có vẻ như đã nghĩ ra rồi. Lữ Cánh Nam bèn cất tiếng giải thích: “Trong truyền thuyết có một loại lương thực thần kỳ, mỗi ngày chỉ ăn một nửa, đến hôm sau nó sẽ hồi phục lại nhiều như lúc ban đầu, vĩnh viễn không bao giờ ăn hết. Tuy rằng đây chỉ là một câu chuyện thần thoại, nhưng từ ngàn xưa đến nay, các nhà nông nghiệp và nhà khoa học vẫn chưa bao giờ ngừng công cuộc theo đuổi thứ lương thực vàng ấy. Tiêu chuẩn thấp nhất của họ, là hy vọng có thể tìm thấy hoặc lai tạo ra một giống cây nông nghiệp sản lượng cao, có thể thích ứng với các loại điều kiện khí hậu, có thể chống lại các loại bệnh và sâu hại, chỉ cần hai thứ cơ bản nhất là nước và ánh sáng mặt trời là có thể sinh trưởng hàng loạt. Chỉ cần rải hạt giống xuống, bất kể là trong sa mạc hay trên kẽ đá, chỉ cần có ánh sáng và nước là có thể sinh sôi, không cần phải cày ruộng, không phải bón phân, cũng không cần nhổ cỏ, trừ sâu hại, mà sản lượng lại cao đến kinh người. Có lẽ thoạt nghe cũng giống như chuyện thần thoại, nhưng rất nhiều nhà nông học, bao gồm cả Viên Long Bình, đều đã và đang lấy đó làm mục tiêu để lai tạo ra các loại cây nông nghiệp sản lượng cao khác nhau đấy.”

                                                                                                                            

Lúc ấy mọi người mới thực sự để ý nhìn cái túi trông có vẻ hết sức tầm thường trên tay đội trưởng Hồ Dương. Nhạc Dương nói: “Lẽ nào anh đã phát hiện ra...” Đội trưởng Hồ Dương cẩn thận cất túi hạt giống đi, đoạn nói với cả bọn: “Nếu thời gian cuối cùng được ghi chép lại, chính là lúc ngôi làng này bị tàn sát toàn bộ, vậy thì, nơi đây ít nhất cũng đã bỏ hoang bốn năm rồi. Nhưng mọi người thử nhìn ngoài ruộng mà xem, những cây mạ tốt tươi thế kia, có vẻ gì là bị ảnh hưởng không? Chúng vẫn sinh trưởng rất khỏe mạnh, tự sinh tự diệt, tự khô héo rồi lại tự mọc lên, bên cạnh ruộng đầy những cỏ dại mọc rất khỏe, thế nhưng lại chẳng thể làm gì được chúng. Mọi người có biết tôi đã phát hiện được điều gì nữa không? Đến cả trong những kẽ hở của các đường ray kim loại chạy khắp cánh đồng, chúng cũng vẫn có thể sinh trưởng được, chỉ cần nước và ánh sáng, thậm chí có thể sinh trưởng được cả trong kim loại, thế đã đủ làm đảo lộn ấn tượng truyền thống của chúng ta đối với thực vật rồi. Vì vậy, quyết không thể sai, đây chính là giống lương thực vàng mà người nơi đây dùng trí tuệ và thực nghiệm của không biết bao nhiêu đời, mới nghiên cứu ra được. Nếu như có một ngày, sa mạc Sahara biến thành khu ruộng cao sản mỗi mẫu có thể cho hơn nửa tấn lương thực, cả Bắc Cực phủ đầy tuyết trắng cũng như vậy, mọi người nói xem, thế có phải đã thay đổi cả thế giới rồi không?”

                                                                                                                            

“Hả!...” Tiếng trầm trồ kinh ngạc khe khẽ phát ra từ những cái miệng há hốc. Lúc này mọi người đều đã cảm nhận được sức nặng của cái túi trên tay đội trưởng Hồ Dương, ai nấy đều nhìn anh với ánh mắt hân hoan pha lẫn kích động. Chỉ có Sean là thầm nhủ: “Đây chẳng qua chỉ là một trạm trung chuyển, nếu lên được tầng thứ ba, lúc ấy mới có thể phát hiện được những thứ đáng mang ra thế giới bên ngoài.” Tuy nghĩ vậy, nhưng anh ta vẫn liếc một cái về phía ba lô của mình, bên trong ấy có những gốc cây cái còn hoàn thiện hơn các mẫu mà đội trưởng Hồ Dương thu thập được nhiều.

             

                                                                                                               

Pháp sư Á La nói: “Chúng tôi còn phát hiện được những khu nuôi gia cầm gia súc với quy mô lớn ở các gian công xưởng bên dưới. Người ở đây rõ ràng không phải lo lắng về chuyện thực phẩm bao giờ, năng lực sản xuất của họ cũng cao đến đáng kinh ngạc.” Nói đoạn, ông đưa mắt nhìn sang phía Trương Lập.

                                                                                                       

                     

Trương Lập lập tức tiếp lời: “Người Qua Ba ở đây chưa phát minh ra máy hơi nước, nhưng họ đã dùng thủy lực làm được việc tương tự; chiếc bánh xe nước ấy là nguồn cung cấp động lực cho cả thôn làng. Những đường ray kim loại chính là hệ thống giao thông trong làng, người Qua Ba đã lợi dụng cơ năng của dây cót để làm cho các cỗ máy tự động di chuyển trên đường ray, tự động thu nhặt nguyên liệu gỗ và đá, tự động gieo hạt giống và thu hoạch. Ở bên dưới, tôi còn phát hiện được rất nhiều đường ống dùng để vận chuyển vật tư và năng lượng. Tôi đã kiểm tra rất kỹ các gian nhà gỗ, phát hiện mỗi gian đều có một thiết bị tích trữ năng lượng bằng dây cót, dù bánh xe nước không thể chuyển động hoặc cần phải kiểm tra tu sửa, động năng tích trữ được cũng đủ cho mỗi nhà sử dụng hai ba ngày.”

                                                                                                                            

Đường Mẫn hỏi: “Năng lượng này được sử dụng làm gì vậy?’

                                     

                                                                                       

“Chia làm hai loại, một dùng cho các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, như tự động dệt vải, tự động thuộc da, làm giấy, mài giũa, gia công linh kiện...; loại thứ hai dùng để phòng vệ, có thể nói thế này, mỗi gian nhà gỗ ở đây đều là một thứ vũ khí tầm xa, hầu hết đều là vũ khí đối không, hiển nhiên những thứ vũ khí ấy có thể gây thương tổn rất lớn cho các loài mãnh cầm trên không trung. Có điều, trong một hai năm cuối, những người ở đây dường như đã điều chỉnh lại các vũ khí cạm bẫy, tăng cường phòng ngự dưới mặt đất.” Trương Lập chỉ vào một ống sắt gỉ ở trong góc nói: “Chẳng lẽ mọi người chưa phát hiện ra, người dân làng này đã dùng nước máy rồi à? Còn cả mặt bàn cố định kia nữa, tôi ngờ rằng đó là một thiết bị tự động...”

                                                                                                                            

Sean khẽ gạt mấy lọn tóc bạc lòa xòa trước trán, lắc đầu cười với điệu bộ khó tin: “Người ở đây chẳng phải làm việc gì hết.”

                                                                                                                            

Trương Lập gật đầu: “Đúng là người ở đây đã được giải phóng khỏi lao động chân tay ở mức độ rất cao, có lẽ còn giải phóng triệt để hơn người thành thị hiện đại chúng ta nữa ấy chứ. Hầu hết thời gian của họ, chắc là đều dùng để suy nghĩ. Mọi người có để ý, những điêu khắc trên phiến gỗ kia tinh xảo như thế nào không, không chỉ có một tầng, mà là tầng này lại chồng lên tầng khác; còn cả mấy tấm thangka kia nữa, tuy đã bị lửa thiêu mưa dầm, nhưng vẫn không thể che mờ được vẻ đẹp của chúng; còn cả vô số đồ gốm, có lẽ là tương tự như các loại cờ của chúng ta. Đương nhiên, tôi cho rằng thứ họ nghiên cứu nhiều nhất vẫn là cấu tạo của các máy móc, mọi người đều đã vào kho xem rồi đấy, bao nhiêu là công cụ để sản xuất máy móc, có lẽ một nghìn năm nay, những người dân làng Công Bố này đều nghiên cứu làm cách nào để chế tạo ra nhiều loại máy móc thực dụng hơn.”

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Tôi cảm thấy trình độ máy móc tự động hóa của họ vẫn ở mức phải nhờ đến thao tác của con người mới hoàn thành được. Chẳng hạn như, cho dù hệ thống công nghiệp hóa nông nghiệp của họ có giống chúng ta chăng nữa, có máy móc tự động gieo hạt và thu hoạch, có hệ thống tưới tiêu tự động, nhưng ít nhất công việc trừ cỏ cũng phải do con người hoàn thành chứ; muốn dệt vải, những việc như ươm tơ thì có thể dựa vào máy móc tự động hóa, nhưng nuôi tằm thì phải nhờ con người hoàn thành...”

                                                                                                                            

Pháp sư Á La lắc đầu nói: “Không, trình độ tự động hóa ở đây e rằng còn cao hơn những gì chúng ta nghĩ nhiều. Vì người xưa hiểu được thuật điều khiển thao túng các loại sinh vật, nên họ hoàn toàn có thể làm triệt để, hoàn mỹ hơn nhiều. Như việc dệt vải chẳng hạn, người ta hoàn toàn có thể làm được việc cho lũ tằm ăn ở một nơi, sau đó lại đến một nơi khác kết kén, rồi giao phối đẻ trứng ở một chỗ khác nữa, như vậy, những máy móc tự động đó chỉ cần đến những chỗ cố định để nhặt tằm, sau đó rút tơ, dệt vải cũng có thể thực hiện một cách tự động, hoàn toàn giải phóng nhân lực khỏi công việc lao động.” Nói tới đây, tâm cảnh đã tiềm tu nhiều năm của pháp sư Á La cũng không thể bình tĩnh trở lại, ông đột nhiên cảm thấy mình hiểu được một cách sâu sắc câu nói trống không trong cuộn da “thành tựu tập hợp cả thuật chế tạo cơ quan, cổ độc, và nuôi dưỡng sinh vật.” Nhạc Dương nghe một hiểu mười, lập tức nói: “Cũng có nghĩa là, bò dê ở đây có thể tự đến chỗ ăn cỏ, bò sữa tự đến chỗ máy vắt sữa để vắt, con nào sắp chết thì tự đến chỗ đồ tể, sau đó thịt sẽ được chuyên chở trên đường ray đến từng nhà từng hộ một? Thậm chí... thậm chí... còn có thể cắt thành lát, thành miếng, tất cả đều do máy móc làm hết cả! Ối mẹ của tôi ơi, cuộc sống kiểu gì vậy chứ!”

                         

                                                                                                   

Trác Mộc Cường Ba thở dài một hơi nói: “Đây chính là... cuộc sống ở Shangri-la.”

                                                                            

                                                

Mẫn Mẫn cảm khái lặp lại một lần truyền thuyết về Shangri-la: “Ở đó hoa nở bốn mùa, nước chảy không ngừng, mùa màng lúc nào cũng đợi thu hoạch, quả ngọt lúc nào cũng treo trên cành... người ở đó dùng ý niệm chi phối tất cả mọi thứ ở thế giới bên ngoài, cảm thấy lạnh, quần áo sẽ tự động dày lên, nếu nóng sẽ tự động mỏng đi; muốn ăn thứ gì, thức ăn sẽ tự bay đến trước mắt, no rồi, thực phẩm sẽ tự động rời đi...” Cả bọn nhìn ra những căn nhà gỗ trong làng dưới bầu trời đang dần tối, cố tưởng tượng ra sự phồn hoa đã từng hiện diện ở nơi đây. Ai có thể ngờ được, trong thần thoại lại ẩn tàng sự thật, không ngờ lại như thế.

                                                                                               

                             

Cả bọn mỗi người một câu suy luận. Đối với những người đã từng thấy Đảo Huyền Không tự và địa cung Maya như họ, tất cả những thứ này tuy thật đáng kinh ngạc, song vẫn có thể lý giải được. Có điều, đối với Triệu Trang Sinh thì tất cả chẳng khác nào cổ tích. Anh ta chỉ biết trợn mắt lên, bần thần nhìn những thành viên khác đang nói chuyện như thể kể chuyện trong nhà mình vậy.

                                                                                                          

                  

“Đợi chút! Đợi chút!” Cuối cùng Triệu Trang Sinh không chịu đựng nổi, lớn tiếng nói: “Hình như mọi người đang nói, trình độ kỹ thuật ở đây... cơ quan máy móc gì đấy, còn tiên tiến hơn cả các nhà máy của thế kỷ hai mươi mốt chúng ta sao?”

                                                                                                                            

Mọi người ngừng thảo luận, nhìn Triệu Trang Sinh với ánh mắt ngạc nhiên, rồi lập tức sực hiểu ra, anh chàng này chưa từng tận mắt thấy những thành tựu của thuật cơ quan cổ đại, bây giờ vẫn chưa dám tin vào trí tuệ của cổ nhân. Pháp sư Á La nghiêm giọng nói với anh ta: “Ở một số mặt nào đó, thì đúng đấy.”

                                                                                  

                                          

“Chẳng... hạn, như?” Triệu Trang Sinh ngây người hỏi.

                                                                                                                            

Nhạc Dương kéo vai Triệu Trang Sinh, bảo: “Thế này nhé, cơ sở của nền công nghiệp hiện đại của chúng ta bắt đầu từ cuộc đại cách mạng công nghiệp thế kỷ mười tám. Cậu có biết... đại cách mạng công nghiệp là cái gì không?”

                                                                      

                                                      

Triệu Trang Sinh lắc đầu. Nhạc Dương bèn nói tiếp: “Đại cách mạng công nghiệp, tức là, chuyển đổi thao tác thủ công thành thao tác của máy móc, tiết kiệm nhân lực, mà nâng cao sản lượng, khiến toàn bộ quy trình sản xuất của cả thế giới thay đổi căn bản, sự phân phối vật chất và cấu trúc xã hội loài người cũng vì đó mà hoàn toàn thay đổi, cuối cùng thì diễn biến thành thế giới ngày hôm nay của chúng ta. Mà nhân tố quan trọng nhất của đại cách mạng công nghiệp, kỳ thực chỉ có hai điểm, máy hơi nước của Watt và... người châu u học được thuật luyện thép.”

                                                                                                                            

“Chuyện, chuyện này... thì can hệ gì?” Triệu Trang Sinh lầm bầm.

                                                                                                                            

Nhạc Dương tiếp tục nói: “Kỳ thực, ý nghĩa cơ bản của máy hơi nước là: một thiết bị có thể liên tục cung cấp nguồn động năng ổn định, một nguồn động năng ổn định và liên tục là cơ sở của toàn bộ nền công nghiệp. Còn thép ư, thép là nguyên liệu cơ bản của mọi loại máy móc. Đại cách mạng công nghiệp muốn thành công, nhất thiết phải tìm được một loại nguyên liệu rắn chắc, chịu mài giũa mà có thể sử dụng lâu dài, khó bị hư hại, phương pháp luyện kim mới đã biến thứ gang vốn vừa nặng vừa dễ vỡ dễ gãy thành thép. Thế nhưng, hai điều kiện tiên quyết của cuộc đại cách mạng công nghiệp này từ hai nghìn năm trước đã được tổ tiên của chúng ta phát minh ra rồi.”

                                                                                                                            

“Hả?” Nét mặt Triệu Trang Sinh trở nên hết sức quái dị.

                            

                                                                                                

Trương Lập nhướng mày lên nói: “Cậu chẳng biết gì cả, dù sao cậu cũng chưa được học về thuật chế tạo cơ quan cạm bẫy một cách có hệ thống. Từ hơn hai nghìn năm trước, tổ tiên của chúng ta đã phát minh ra nguồn động năng có thể ổn định và liên tục lợi dụng sức gió và sức nước, trong đó thì động năng từ nước là ổn định nhất. Chẳng hạn như bánh xe nước, cối xay nước, đến ngày nay vẫn còn rất nhiều nơi sử dụng. Còn phương pháp luyện thép thì càng chẳng cần nói nữa, phương pháp luyện thép mới mà châu u áp dụng vào thế kỷ mười tám đã được phát minh và ứng dụng ở nước ta từ thời Xuân Thu Chiến Quốc rồi. Ban đầu là thép bách luyện, về sau, khi công nghệ phát triển, phương pháp luyện thép càng được cải tiến, cuối thời Hán đã phát minh ra một phương pháp luyện thép mới... Tức là nung nóng chảy sắt ra, rồi khuấy trộn trong lò để chưng khô, đây cũng chính là nguyên lý của công nghệ luyện thép ngày nay vẫn còn sử dụng. Lợi hại hơn nữa, tổ tiên chúng ta đã phát hiện ra, chất nước khác nhau có thể ảnh hưởng đến hiệu quả tôi thép, mà điều này thì gần đây các học giả châu u mới bắt đầu nghiên cứu. Sau này có cơ hội, cậu có thể đọc thử mấy cuốn như Hạ Hầu Dương toán kinh, Thần Khí Phổ, Cách vật thô đàm(1) gì gì đó ấy.”

                                                                                                                            

Nhạc Dương lập tức xen miệng vào, nói tiếp: “Giờ thì cậu đã hiểu chưa, sở dĩ tổ tiên chúng ta không thể khởi xướng được cách mạng công nghiệp từ hai nghìn năm trước, là vì tầm nhìn của con người thời đó không đủ rộng lớn. Mục đích ban đầu của việc phát minh ra sắt thép là để rèn đúc binh khí cho chiến tranh, bánh xe nước là để phục vụ sản xuất nông nghiệp, các phát minh của chúng ta đều chỉ để tự cấp tự túc; chứ không giống cách mạng công nghiệp ở châu u, mục đích là để bán sản phẩm cho cả thế giới với giá rẻ, tích lũy tư bản. Nhưng chỉ cần có những điều kiện tiên quyết ấy, thì bất cứ lúc nào cũng có thể bùng nổ cách mạng công nghiệp được, vì vậy khi thấy ở đây xuất hiện các loại máy móc tự động hóa với quy mô lớn, chúng tôi cũng không cảm thấy kinh ngạc. Dù sao thì chúng tôi cũng đã biết đến các cạm bẫy tự động mà Đạo quân Ánh sáng chế tạo từ một nghìn năm trước.”

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Tiểu Triệu à, cậu không cần phải kinh ngạc quá làm gì, phải biết rằng, các thành phần cơ bản của những máy móc cỡ lớn hiện nay như bánh răng, trục, dây xích, ròng rọc, đều do tổ tiên chúng ta phát minh ra từ hơn hai nghìn năm trước, người u châu chẳng qua chỉ dùng sắt thép thay thế cho gỗ mà thôi. Nếu nhìn lại lịch sử, cậu sẽ phát hiện ra rất nhiều sự việc tương tự, sách sử thường có rất nhiều ghi chép như vậy, chẳng hạn như có gì đó xuất hiện ở nước ta vào năm bao nhiêu bao nhiêu, sau đó người châu u phải sau bao nhiêu năm mới có phát hiện tương tự. Điều duy nhất khiến người ta cảm thấy đáng tiếc, chính là, những phát minh đó đã dần dần biến mất trong vô số những cuộc chiến loạn liên tiếp, nếu chẳng phải vì nạn đói bệnh dịch, thay triều đổi đại, chiến loạn liên miên, Trung Quốc chúng ta chắc đã nổ ra một cuộc đại cách mạng công nghiệp giống như ở Shangri-la này từ hơn nghìn năm trước rồi.”

                                                                                                                            

Pháp sư Á La nói: “Không chỉ có vậy, hơn một nghìn năm về trước, khi Thổ Phồn vừa quật khởi, đất nước này vừa khéo lại nằm giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Thời đó, khi các dân tộc sinh sống trên cao nguyên vẫn còn ở trong hình thái xã hội tương đối lạc hậu, vị quân vương có tầm nhìn trác việt của Thổ Phồn đã bắt đầu học tập các phương thức sản xuất tiên tiến của hai đất nước văn minh lớn lân cận. Rất hiển nhiên, Đạo quân Ánh sáng đã hoàn toàn nắm bắt được các tri thức tinh túy nhất, trong đó bao gồm cả những phát minh và sáng tạo mà chính vùng đất sinh ra nó cũng đã quên lãng hoặc coi thường mà bỏ qua. Đạo quân Ánh sáng đã phát hiện và phát huy chúng đến mức tột đỉnh, cuối cùng sáng tạo nên một thần thoại vô địch. Những gì được bảo tồn trong Tứ Phương miếu, chắc hẳn là thành tựu cao nhất của tất cả những nền văn minh cổ đại thời bấy giờ, những gì ở trước mắt chúng ta đây, chẳng qua chỉ là một phần nhỏ mà thôi.”

                                                                                                                            

Lời của pháp sư Á La đã khiến mọi người phải suy nghĩ, cả Ba Tang cũng hiếm hoi để lộ vẻ hâm mộ trên nét mặt.

                                                                                                                            

Lữ Cánh Nam thì lại nghĩ đến những lời pháp sư Á La từng nói trước đó: “Thuật cổ độc dung hợp cả thuật phù thủy của người bản địa, kỹ thuật ngoại khoa của Ấn Độ, và y thuật cùng dược liệu của Trung Quốc; phương pháp Mật tu kết hợp phương pháp thổ nạp nội gia của phương Đông với thể thuật yoga của phương Tây; và cả vũ khí trang bị được rèn đúc bằng phương pháp luyện thép vượt lên trên hẳn các quốc gia cùng thời đại; ngoài ra còn có thuật điều khiển thú vật, thuật mê ảo, thuật quan sát thời tiết, sự hiểu biết đối với cấu trúc sinh lý của cơ thể người chẳng khác nào bộ đội đặc chủng, phương thức hành quân như một đoàn quân ám sát, đó chính là Đạo quân Ánh sáng, Đạo quân Ánh sáng vô địch thiên hạ.”

                                                                                                                            

“Nếu nơi này đã phát triển tới mức ấy, sao có thể nói hủy diệt... là bị hủy diệt luôn vậy nhỉ?” Câu hỏi của Nhạc Dương lập tức kéo những người khác trở về với hiện thực. Câu hỏi ấy đích thực khiến người ta cảm thấy đau đầu. Theo những gì họ tìm hiểu, Đạo quân Ánh sáng có thể được coi là một tập hợp mạnh nhất thời bấy giờ, dẫu là một nghìn năm đã trôi qua, hậu duệ của họ không còn sức mạnh năm xưa của Đạo quân Ánh sáng nữa, nhưng bao nhiêu máy móc đó vẫn còn cơ mà. Nhìn mức độ gỉ sét của các cạm bẫy, rõ ràng bốn năm trước chúng vẫn có thể hoạt động bình thường, mà Trương Lập đã nói, chúng đều hết sức đáng sợ, muốn tàn sát cả làng chắc hẳn phải là một chuyện cực kỳ khó khăn mới đúng.

                                                                                                           

                 

Trương Lập nói: “Thực ra cũng không khó, chỉ cần phá hoại các đường ống truyền dẫn năng lượng trước, vì trong các căn nhà đều có thiết bị tự động tích tụ động năng, trong mấy ngày sẽ không phát hiện ra điều gì dị thường, rồi toàn bộ hệ thống tự động sẽ tê liệt cùng một lúc. Có lẽ, điều này, mặt khác cũng cung cấp cho chúng ta thêm một số đặc trưng của hung thủ, chúng không thể phân biệt đâu là các cạm bẫy dùng để phòng ngự, đâu là máy móc dùng trong sản xuất, vì vậy chúng đã phá hoại tất cả các máy móc có thể tự động vận hành.”

                                                                                                                            

Đường Mẫn nhớ lại những sợi xích đã thấy ban sáng, gật đầu nói: “Hoặc có lẽ, bản thân chúng vốn sống chung với dân làng, rồi đột nhiên làm loạn tấn công, vì vậy tỉ lệ thành công càng cao hơn gấp bội.”

                                                                                                                            

Nhạc Dương nói: “Được, tạm thời chưa thảo luận việc chúng có sở hữu trí thông minh cao như thế hay không, tôi chỉ muốn hỏi, tại sao, chúng lại đột nhiên làm loạn tấn công?”

                                                                                                           

                 

Không ai có thể trả lời câu hỏi ấy. Nhạc Dương lại tự phân tích một mình: “Tôi còn nhớ Cường Ba thiếu gia từng bảo, người Qua Ba điên ấy từng nói, nó đến rồi...”

                                                                             

                                               

Trác Mộc Cường Ba ngắt lời: “À, khi ấy người đó nói rất hàm hồ, chúng tôi cũng không rõ rốt cuộc là nó hay là chúng nó.”

                                                                                        

                                    

Nhạc Dương nói: “Dù là nó hay chúng nó, nếu đã là ‘đến rồi’, thì tức là biểu thị, không phải vốn đã ở đây, mà từ phía trên, hoặc từ nơi nào khác đến chốn này. Sau đó mới là, ‘tất cả, đều bị cắn chết hết rồi’. Tiếp đó, theo thông tin pháp sư đã tìm được trong đống cuộn da còn sót lại, thì có một người tên là Thứ Tháp Nhĩ, tuy rằng chúng ta không biết ông ta đã đi đâu, nhưng đoạn phía sau có viết, ‘khi máu tươi nhuộm đỏ bậc thang thánh miếu’, từ đây chúng ta có thể suy đoán, nơi người đó đi chắc có lẽ là tầng thứ ba, chỉ có nơi đó mới có thần miếu; nhưng chuyện này lại làm tôi liên tưởng đến một vấn đề ở một cuộn da khác, đó chính là, tại sao sau khi cùng những người Qua Ba ở tầng bình đài thứ ba nghiên cứu chế tạo ra cái thứ được gọi là con rối hay con riếc gì đó, bọn họ lại không còn qua lại gì nữa? Tại sao người ở đây lại không thể đi lên tầng thứ ba? Sau đó là câu cuối cùng trong cuộn da ấy, người ở đây nói họ rốt cuộc cũng không thể chạy thoát khỏi vận mệnh? Không thể thoát khỏi vận mệnh gì? Người tên là Thứ Tháp Nhĩ ấy đã đi đâu? Từ giọng điệu trong cuộn da có thể thấy, bọn họ đã biết sẽ có chuyện gì xảy đến, hoặc có lẽ, từ những ghi chép của quá khứ, họ đã biết được trước đây đã xảy ra chuyện gì.”

                      

                                                                                                      

“Nếu là vậy, chắc chắn họ đã có biện pháp đề phòng.” Đội trưởng Hồ Dương tỉnh táo đưa ra phân tích.

                                                      

                                                                      

Nhạc Dương gật đầu: “Đúng thế, bọn họ đã có biện pháp đề phòng. Không phải Trương Lập đã nói rồi đấy sao, trong một hai năm cuối, họ đã điều chỉnh một phần các cơ quan bẫy rập đối không thành đối đất, chỉ đáng tiếc, những biện pháp đề phòng ấy không hề đủ để thay đổi số mệnh của họ. Nếu như nói, người sống ở đây là người bộ tộc Qua Ba, và họ vẫn còn giữ tập tục sống chung với sói và chó ngao, vậy thì tại sao ngoài những sợi xích bị giật đứt, lại không phát hiện ra bất cứ bộ xương sói hay chó ngao nào cả? Điểm này cũng khiến tôi rất nghi ngờ. Phải biết rằng, từ những tư liệu chúng ta tìm hiểu được, sói và chó ngao là những trợ thủ đắc lực nhất của người bộ tộc Qua Ba, sống chung với sói đã là tập tục kéo dài suốt mấy nghìn năm của họ. Khi tai họa sắp ập đến, họ dùng xích sắt để khóa cái gì lại chứ? Sự thực là, ngay từ đầu, chúng ta đã chỉ nghĩ đến sói hoặc chó ngao, mà không hề nghĩ đến, đằng sau sói hoặc chó ngao có ẩn giấu vấn đề gì hay không. Cho tới khi tôi nghe được pháp sư nói, người Qua Ba ở đây chia làm làng trên và làng dưới...”

                                                                                                                            

Lữ Cánh Nam lập tức tiếp lời: “Cậu muốn nói là, hung thủ hủy diệt làng người Qua Ba này không chỉ là bầy sói hay loài sinh vật gì đó như vẻ bề ngoài biểu hiện, mà là...”

                                                                                                                       

     

“Làng Qua Ba trên.” Nhạc Dương gật đầu với giáo quan. “Tôi nhớ pháp sư Á La đã từng nói, chỉ có Thao thú sư mới có thể đối phó với Thao thú sư, cùng một lý lẽ như thế, chỉ có Đạo quân Ánh sáng mới có thể đối phó được với Đạo quân Ánh sáng. Tại sao những người này phải xích những trợ thủ đắc lực nhất của mình lại, rất có khả năng là vì họ sợ những người Qua Ba làng trên có kỹ thuật điều khiển thú cao minh hơn họ khiến chính lũ chó ngao và sói của mình trở ngược lại cắn chủ. Điều này cũng có thể giải thích tại sao họ chỉ hợp tác với người Qua Ba ở làng trên có một trăm năm, chắc chắn là đã xảy ra sự việc gì đó làm nảy sinh mâu thuẫn không thể nào hóa giải được.”

                                                                                              

                              

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Là mâu thuẫn gì mà khiến cả làng bị tàn sát?”

                                                                                                                            

Nhạc Dương lắc đầu: “Khó nói lắm, tôi chỉ có thể suy đoán, có lẽ... liên quan đến tín ngưỡng. Suy luận này, do tôi suy ra từ các thần thoại truyền thuyết về Shangri-la. Cường Ba thiếu gia và mọi người nghiên cứu về Shangri-la lâu hơn, tôi nhớ mọi người có nói trong lịch sử Shangri-la từng có một sự kiện phản bội bỏ trốn gì đó, không biết đoạn thần thoại ấy liệu có ẩn giấu lịch sử chân thực hay không...” Cơ hồ như lại nghĩ ra điều gì đó, anh đột nhiên ngây người, kế đó lại nói: “Hơn nữa, tôi cảm thấy, sự kiện ấy cũng đã gián tiếp ảnh hương đến thái độ của sứ giả đang ở bên ngoài, dẫu sao thì về mặt thời gian là chúng rất khớp nhau!”

                                                                                                                            

Đạo quân Ánh sáng ra tay với Đạo quân Ánh sáng, người Qua Ba đối phó với người Qua Ba, Nhạc Dương đã nói ra suy luận mà pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam không muốn nghe thấy nhất. Pháp sư Á La nãy giờ vẫn cứ liên tục khe khẽ lắc đầu, còn Lữ Cánh Nam thì nhướng mày suốt. Nhưng bọn họ cũng không thể phủ nhận rằng, Nhạc Dương đã đưa ra suy luận hợp lý nhất mà họ có thể nghĩ đến trong thời điểm này. Tín ngưỡng của Đạo quân Ánh sáng từng đổi đi đổi lại tùy theo tín ngưỡng của kẻ nắm quyền, dẫu cho là họ có thần linh của riêng mình, nhưng trong cả một quá trình lịch sử dài đằng đẵng, cùng một nhóm người có những tín ngưỡng khác nhau cũng không phải là điều không thể. Vấn đề quan trọng nhất là, muốn đối phó với hậu duệ của Đạo quân Ánh sáng hùng mạnh với những thứ cơ quan bẫy rập tiên tiến này, cơ hồ cũng chỉ có hậu duệ của Đạo quân Ánh sáng mới làm được mà thôi. Còn chuyện mâu thuẫn năm đó khiến sứ giả biểu hiện những thái độ hoàn toàn khác nhau đối với tín vật, dường như cũng rất hợp lý. Cộng với câu chuyện thần thoại kia, pháp sư Á La bất giác thầm thở dài trong lòng: “Nhạc Dương ơi là Nhạc Dương, cậu thật là đáng sợ, lẽ nào sự thực lại đúng như những gì cậu nói?”

                                                                                                                            

Đây mới là lần đầu tiên Sean được thấy khả năng này của Nhạc Dương, lập tức kinh hãi đến toát mồ hôi lạnh, thầm nhủ: “Thằng nhóc này là cao thủ suy luận, xem ra sau này phải cẩn thận hơn nữa mới được, cũng may là hiện giờ nó chưa hề chú ý đến mình.”

                        

                                                                                                    

Nhạc Dương thì vẫn đang thầm thắc mắc trong lòng, thực ra anh còn rất nhiều câu hỏi vẫn chưa nêu ra hết, chẳng hạn như người ở đây có trình độ kỹ thuật cao như thế, thậm chí có thể bắt giết được cả loài sinh vật đáng sợ để chế tạo thuyền hình rắn, tại sao lại chịu bó chân rúc vào một góc, tại sao không mở rộng không gian sống ra? Ít nhất thì cũng có thể xây dựng một con đường an toàn thông ra biển được chứ?

 

                                                                                                                           

Sau đó, họ lại phân tích mấy khả năng có thể dẫn đến việc người Qua Ba tàn sát thôn làng, có điều, vì trong những cuộn da còn sót lại kia không có các tư liệu về y thuật của người Tạng, cũng không có thông tin nào về Bạc Ba La thần miếu và đàn sói, nên tuy rằng cảm thấy hết sức tò mò với mọi sự vật hiện tượng của ngôi làng này, song kết quả bàn bạc cuối cùng vẫn là cần nhanh chóng rời khỏi nơi đây, tiếp tục tiến lên tầng bình đài thứ hai.

                                                                                                                            

__________

                                                                   

                                                                                                                                                                                      

Chú thích:

                                                               

                                                             

1. Bàn qua về ngọn nguồn sự vật

                                                                                                                                                                   

                                                                                                                                                                                                                   

Đêm Shangri-la

                              

                                                                                                                                                                                                                           

Đêm về, Nhạc Dương nằm trong phòng thì thào thảo luận với Trương Lập. Anh nói: “Nếu mà, tôi nói là nếu mà thôi nhé, máy móc trong ngôi làng này đều vẫn còn nguyên vẹn, người ở đây cũng chẳng làm sao cả, anh có muốn ở lại không?”

                                                                

                                                            

Trương Lập nghĩ ngợi giây lát, lắc đầu đáp: “Không biết, còn cậu?”

                                                                                                                            

Nhạc Dương nói: “Nếu có thể đón người nhà và bạn bè tôi cùng đến, tôi cảm thấy cũng hay lắm đấy chứ.” Nhưng rồi anh lại đột nhiên nghĩ đến, người nhà cũng còn có người nhà, bè bạn cũng có những bè bạn khác nữa, lập tức cảm thấy suy nghĩ này không thực tế, bèn lắc lắc đầu.

                                                                                                                            

Triệu Trang Sinh ở bên cạnh lập tức phủ định luôn: “Tuyệt đối tôi không ở lại chỗ này, đã xảy ra chuyện đáng sợ như thế...”

                                                                                                                            

Nhạc Dương ngắt lời: “Nếu không có những chuyện đáng sợ ấy thì sao?”

                                                           

                                                                 

Triệu Trang Sinh không nói gì, cơ hồ đang suy nghĩ. Trương Lập nói: “Nhạc Dương à, tôi bảo cậu này, cái suy luận ấy của cậu, rốt cuộc đáng tin được mấy phần hả? Lẽ nào, đúng là vì tín ngưỡng bất đồng, mà tiêu diệt cả một làng toàn người cùng bộ tộc với mình?”

                                                                                                                            

Nhạc Dương nghĩ ngợi giây lát, đoạn nói: “Chắc là có thể tin được năm mươi phần trăm, trong lịch sử cũng có khá nhiều sự kiện tương tự như thế, thậm chí có trường hợp tiêu diệt cả một quốc gia vì tín ngưỡng, huống hồ đây chỉ có một ngôi làng. Chủ yếu là còn một số vấn đề mấu chốt tôi vẫn chưa nghĩ thông suốt, không tìm được đáp án. Nếu là tín ngưỡng bất đồng, tại sao không ra tay từ chín trăm năm trước đi? Thù hận kiểu gì mà tích tụ suốt cả chín trăm năm như thế? Còn nữa, suy luận trước đó của mấy người bọn Cường Ba thiếu gia chắc là chính xác, tàn sát toàn bộ dân làng và phá hoại máy móc, là hành vi của loài vật; còn suy luận của tôi, chỉ là dựa trên cơ sở ấy, thêm vào giả thiết rằng không biết loài động vật ấy có phải đã nhận được mệnh lệnh hay không. Anh nói xem, những người Qua Ba làng trên kia liệu có quá tự tin đến mức ấy không nhỉ? Chỉ ra lệnh cho lũ sói hoặc chó ngao ấy, để chúng tiến vào tàn sát toàn bộ dân làng và các động vật sống, sau đó... sau đó thì phá hoại hết cả ngôi làng tiên tiến này?”

                                                                   

                                                         

Trương Lập lắc đầu: “Không biết, tôi chỉ biết một sự thực là, không phát hiện được xác sói hay chó ngao nào hết, ngôi làng này cũng đã thực sự bị hủy diệt, hủy diệt một cách triệt để.”

              

                                                                                                              

Nhạc Dương lấy tay chống đầu lên, nhăn mặt rầu rĩ nói: “Không thể hiểu nổi, sao chẳng hề có chút phản kháng nào vậy...”

                          

                                                                                                  

Triệu Trang Sinh đột nhiên sực nghĩ ra một điều: “Hai người nói xem, liệu có khi nào là sáu năm trước người tên Thứ... Thứ..., Thứ cái gì đó ấy, đã đến tầng bình đài cao nhất, đánh cắp bảo bối của người Qua Ba làng trên, người trong làng cũng biết, vì vậy mới cho rằng người Qua Ba làng trên sẽ không bỏ qua cho họ. Nếu nói, chỉ lấy đi thứ gì đó trong làng, vậy thì chắc là không nhận ra được đâu nhỉ?”

           

                                                                                                                 

Trương Lập phản bác: “Sáu năm trước trộm bảo bối, mà phải đợi hai năm sau mới phát hiện à? Vậy thì phản ứng của người Qua Ba làng trên cũng hơi chậm quá đấy nhỉ, vả lại nếu bảo là trộm đồ, thì cũng không được thông cho lắm. Người làng dưới sao biết được thứ đồ ấy ở đâu? Ít nhất cũng phải lật hòm giở tủ gì đó chứ?”

                                                                                   

                                         

Triệu Trang Sinh lại đột nhiên có linh cảm mới: “Chẳng lẽ là... bọn sói khởi nghĩa?”

                                                                                                                            

Trương Lập lấy làm hứng thú, hỏi: “Sao lại nói vậy?”

                                                                                                                            

Triệu Trang Sinh nói: “Thì giống như khởi nghĩa nô lệ thời cổ đại vậy thôi. Đám chủ nô không hề tham gia lao động sản xuất, nhưng lại sở hữu rất nhiều tư liệu sản xuất; các nô lệ làm sống làm chết, nhưng cũng chỉ được nhận một chút của bố thí miễn cưỡng ăn đủ no từ các chủ nô. Nếu nói lũ sói hoặc chó ngao ở đây có thể thông qua trí tuệ tập trung để tiến hóa lên giai đoạn có chỉ số thông minh cao hơn. Vậy liệu chúng có bị sai khiến như nô lệ, đồng thời cũng chất chứa đầy những sự bất mãn của nô lệ? Khi trong khu rừng này xuất hiện một lãnh tụ của bầy sói, cũng là lúc ‘nó đến rồi’, chà, nhất hô bách ứng, trải qua hai năm âm thầm mưu tính, lũ sói đã tạo phản, vì phối hợp cả trong lẫn ngoài, nên chỉ một đòn đã hạ được cả thôn Công Bố này rồi!”

                                                                                                       

                     

Trương Lập mừng rỡ nói: “Ừm! Ý kiến này cũng có lý lắm đấy. Nhạc Dương, cậu thấy sao?”

                                                                                                                            

Nhạc Dương nói: “Được rồi, suy luận mà không có căn cứ, thì chỉ gọi là đoán bừa thôi. Nhưng mà tôi tin rằng, dù là chuyện gì, chỉ cần dụng tâm điều tra, ắt sẽ rõ được ngọn ngành thôi.”

                                                                                               

                             

Trong bóng tối, Triệu Trang Sinh cảm giác câu nói ấy của Nhạc Dương dường như chỉ nói cho mình nghe, lẩm bẩm tự nhủ: “Thế nghĩa là gì?”

                                                                                           

                                 

Đêm khuya, ở bờ hồ nơi đầu làng, một bóng người cởi bỏ quần áo, ngâm mình trong làn nước, vòng sáng đèn pin được chỉnh cho nhỏ lại, ánh sáng lờ mờ chỉ chiếu rõ cơ thể. Đột nhiên cái bóng đen đó giật mình cảnh giác, lập tức tắt đèn, thấp giọng quát hỏi: “Ai?”

                                                                                                                            

Một cái bóng khác, lẳng lặng như con sói, hiện ra dưới bầu trời đêm, sát khí lạnh lẽo trong khoảnh khắc đã lan tỏa đi khắp không gian. Ba Tang lạnh lùng hỏi: “Muộn thế này còn không ngủ, anh làm gì ở đây vậy Sean?”

                                                                                                                            

Sean đứng thẳng người dậy, nói: “Ồ, thì ra là anh Ba Tang à. Tôi không ngủ được, định ra đây tắm một cái, không ngờ lại đánh thức anh rồi.” Giọng Ba Tang vẫn đều đều: “Tắm? Gần đây hành vi của anh rất kỳ lạ, từ lúc leo lên chỗ bình đài này...”

                         

                                                                                                   

Sean khẽ “hừ” một tiếng, nói: “Anh đa nghi quá, tôi thấy... thấy chẳng có gì khác cả.”

                                                                      

                                                      

Ba Tang nói: “Tôi không cần biết anh nói gì, nếu anh làm chuyện gì không phải với mọi người, tôi sẽ giết anh đấy.” Dứt lời, bóng người lại biến mất trong màn đêm.

                                      

                                                                                      

Sean lẩm bẩm nói một mình: “Hừ, giết tao à? Mày thì biết gì chứ?” Nói đoạn, anh ta lại bật sáng đèn lên, trong lòng thầm nhủ: “Đã thử qua hết tất cả các phương pháp mình biết rồi, rốt cuộc có bị người đó cấy cổ độc không nhỉ? Chết tiệt thật, lẽ nào đây chính là sự khác biệt giữa chúng ta? Không hề có chút dấu vết nào. Y thực sự đã hạ thủ với mình? Không, chắc là không... chỉ là ngộ nhỡ...”

                                 

                                                                                           

Chưa về đến phòng, Ba Tang đột nhiên đứng sững lại trong gió, anh ta nín thở, các lỗ chân lông trên cơ thể co hết lại, tròng mắt mở to, tựa hồ hòa tan vào trong bóng đêm, bốn bề xung quanh bỗng toát lên một vẻ kỳ bí lạ thường. Thậm chí anh ta có thể cảm nhận được một cách hết sức rõ ràng, mặc dù mình không nhìn thấy gì, nhưng lúc này mình chẳng khác nào một đứa trẻ sơ sinh lõa thể, lồ lộ trước ánh nhìn của người khác. Là ai? Hoặc giả, là cái gì? Sao mình lại cảm thấy kinh hoảng bất an đến thế?

                                                                                                                            

Không biết cứ như thế bao lâu, Ba Tang mới cảm thấy nguy cơ từ từ đi xa dần. Anh ta cẩn thận hít thở, rồi lặng lẽ đi về phòng, nhịp tim bấy giờ mới dần trở lại bình thường, chỉ có điều, hai chân vẫn cảm thấy hơi tê tê. Trong phòng, một người khác cũng lặng lẽ thở hắt ra một tiếng, gã nhẹ nhàng vuốt ve người đang nằm trong lòng, để cô được ngủ ngon hơn chút nữa.

                                                                                                                            

Sáng hôm sau, cả bọn ăn uống no say rồi thu dọn hành trang, bắt đầu leo lên vách đá lớn. Vách đá này thuộc loại khó trèo nhất trong các vách đá khó, bởi vì khả năng của con người có hạn, thêm vào đó, sợi dây thừng dài nhất cũng không quá một trăm năm mươi mét, mà vách đá cao đến hơn nghìn mét, căn bản không ai có thể leo được lên trong một ngày, vì vậy cần phải đeo theo rất nhiều thiết bị để ngủ qua đêm trên lưng chừng vách đá, chỉ dựa vào một sợi dây treo mình trên không trung, ăn uống vệ sinh đều phải giải quyết tại chỗ. Núi cao hai nghìn mét, dù đi bộ cũng phải mất đến nửa ngày, huống hồ đây là vách đá dựng đứng không thể đặt chân. Ngước nhìn vách đá vươn cao ngút tầm mắt ấy, người nào người nấy đều thầm hít vào một hơi lành lạnh.

                                                                                                      

                      

Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh nhẹ nhàng nhất, xung phong đi đầu, theo sát phía sau là đội trưởng Hồ Dương và Ba Tang, sau đó là Mẫn Mẫn, Trương Lập, Sean, Trác Mộc Cường Ba, pháp sư Á La, Lữ Cánh Nam đi đoạn hậu. Leo được chừng hơn ba chục mét, Nhạc Dương mới bắt đầu để lại các điểm cố định dọc đường. Để bảo đảm an toàn, họ tăng mật độ các điểm cố định lên, cứ năm mét lại chốt một lần, vì dây thừng không đủ độ dài, nên họ chỉ dùng hai sợi làm dây an toàn, mỗi khi qua điểm cố định lại thắt nút vào, sau khi người cuối cùng vượt qua điểm đó, lại phải tháo dây, rút chốt cố định ra. Mười người cứ thế lợi dụng hai sợi dây thừng, hình thành nên một con sâu nhỏ dài hơn trăm mét khó nhọc bò trườn trên vách đá cheo leo. Vừa phải cố định, lại vừa phải rút chốt cố định ra, leo chưa được bao lâu, cả đoàn đã phải dừng lại nghỉ ngơi một lúc. Trong đó, những người đi đầu tiên và cuối cùng, hẳn là những người phải làm việc nhiều nhất.

                                                                     

                                                       

Lẽ ra leo vách núi cũng không khó khăn như thế, nhưng vì họ phải mang theo cả ba lô và các thứ vũ khí nặng nề, mỗi người mấy chục cân, cộng lại cũng đến mấy trăm cân, nên càng thêm khó khăn gấp bội.

  

                                                                                                                          

Suốt cả một ngày treo lửng lơ trên vách đá, dù là đối với thể lực hay ý chí, cũng đều là một khảo nghiệm. Hầu hết thời gian, mọi người phải bám vào vách đá dựng đứng như lũ thạch sùng. Vách đá này thực sự quá đỗi phẳng phiu, các khe nứt và chỗ gồ ra rất ít, chỉ hơi bất cẩn một chút là sẽ trượt chân ngay, tuy rằng không đến nỗi rơi xuống, nhưng xước xát là điều không thể tránh khỏi. Vì không có các trang bị phòng hộ, mới leo được chừng hai trăm mét, khuỷu tay, đầu gối của cả bọn đều trầy xước cả.

                                                                                                                            

Leo đến khoảng bốn trăm mét, đội trưởng Hồ Dương phát hiện đinh chốt cắm trong khe đá bị lỏng, bèn chuẩn bị gia cố thêm một cái nữa, đột nhiên dưới chân trượt một cái, toàn thân lập tức mất điểm tựa, chỉ nghe “cạch” một tiếng, cái đinh chốt ấy quả nhiên đã lơi ra. Sợi dây chính bị tuột khỏi chốt cố định, Ba Tang bên dưới đột nhiên cảm thấy có thay đổi, mà lúc ấy, anh ta đang ở trong trạng thái bán nghỉ ngơi, hai tay không bám vào chỗ nào, chỉ có hai chân là đang đạp lên vách đá. Biến cố bất ngờ đó, khiến Ba Tang mất thăng bằng, cả người rời khỏi vách đá, trọng lượng toàn thân đều treo lên sợi thừng an toàn. Tiếp đó là Đường Mẫn, cô bỗng dưng cảm thấy trầm xuống, cơ thể rời khỏi vách đá. Chỉ nghe “cạch cạch”, lại có thêm hai cái đinh chốt tuột ra, ba người lấy sợi thừng làm trung tâm, vạch một vòng cung trên không, đu từ bên trái sang bên phải. Một thứ gì đó văng ra khỏi ba lô của Đường Mẫn, Đường Mẫn “ối” lên một tiếng, Trương Lập ở phía sau cô vốn định vươn tay ra bắt lấy, nhưng thứ đó bị văng ra quá xa, chỉ chớp mắt thôi đã không thấy đâu. Tất cả mọi việc, chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, đội trưởng Hồ Dương lập tức nghĩ xem có nên cắt đứt dây an toàn của mình để dây chính không bị chịu tải quá nặng hay không, nhưng con dao giắt bên hông mới rút ra được một nửa, thì đã thấy gót chân bị Ba Tang nắm lấy. Từ đôi mắt lạnh lùng của Ba Tang có thể đọc được ý nghĩ hết sức kiên định: “Nếu anh cắt dây, tôi sẽ quyết không buông tay ra đâu.”

                                                                                                 

                           

Cũng may hai chân hai tay của Trương Lập vẫn cố định trên vách đá, nên mới không tiếp tục trượt xuống, chặn phản ứng dây chuyền lại.

                                                                                                

                            

Lúc này giọng của Trương Lập và Triệu Trang Sinh mới truyền đến tai những người khác: “Bám chặt trên vách đá, đừng cử động! Đang bị trượt đấy!”

                                                                                    

                                        

Đội trưởng Hồ Dương ổn định lại cơ thể, dùng một cái đinh chốt khác cố định dây thừng chính, rồi tìm thấy điểm bám mới, cuối cùng cũng thầm thở phào nhẹ nhõm. Ba Tang và Đường Mẫn cũng đã trở lại được vách đá.

      

                                                                                                                      

“Rơi mất cái gì đấy? Mẫn Mẫn?” Trương Lập hỏi.

                                                                                           

                                 

Đường Mẫn đáp: “Chẳng biết nữa, chắc là đèn pin, hoặc cuộn băng gạc gì đấy thôi, phải xem lại mới biết được. Không quan trọng lắm đâu, chúng ta tiếp tục lên thôi.”

                                                           

                                                                 

Càng lên cao, gió càng lớn, vách đá bị cơn gió lưu động tuần hoàn ở đây mài giũa cả ngàn năm càng trơn trượt, khó khăn hơn nữa là, cả vách đá lớn cao hai nghìn mét này, không có chỗ nào đủ cho cả mười người cùng lúc đặt chân nghỉ ngơi. Những lúc nghỉ, lúc nào cũng có một số người phải đeo mình lủng lẳng trên dây thừng như bao cát, đồng thời, để đề phòng dây thừng chính không thể chịu được trọng lượng của tất cả mọi người, một số người khác vẫn phải tiếp tục giữ tư thế bám người vào vách đá như thạch sùng, luân phiên nghỉ ngơi. Cũng may, lúc ở bên dưới họ đã bắt được rất nhiều động vật, mà các loại thực phẩm giàu năng lượng này lại đóng một vai trò rất lớn trong khi leo núi. Nếu không có chúng, cả bọn thật không biết làm thế nào mà ăn uống giữa lưng chừng không như thế được. Mà sự thực là, từ trước khi xuất phát, Lữ Cánh Nam đã nghiêm khắc quy định với mọi người về yêu cầu ăn uống, dù sao thì khi treo mình như thế, cũng không thể nào đại tiểu tiện một cách thông thường được.

                                                                                                                            

Họ bắt đầu leo từ lúc trời còn tờ mờ sáng, đến lúc trời sâm sẩm tối mới ngừng lại, bắt đầu lắp ghép linh kiện. Trên dưới hai hàng đinh cắm sâu vào vách đá, hàng ống sắt bên dưới cắm cheo chéo nghếch lên không, đỡ hàng ống phía trên, tạo thành một hình tam giác, đồng thời ghép với mép ngoài của hàng ống sắt phía trên, tạo thành một khung hình chữ nhật cố định, sau đó lại quấn thêm nhiều vòng dây nylon chịu lực ở các mối ráp giữa ống kim loại với ống kim loại, tạo ra một bình đài trên không trung làm chỗ đặt chân.

                                                                                                

                            

Phía trên bình đài, lại phủ xuống một tấm vải màu sắc ngụy trang nữa, vậy là coi như xong xuôi. Nếu nhìn nghiêng, trông sẽ giống như hai hình tam giác một lớn một nhỏ ghép lại với nhau. Phần phía dưới hơi chìa ra một chút so với lều bạt, mọi người có thể bắc bếp đun lại các thứ thịt khô ở đấy. Đường Mẫn xử lý vết thương cho mọi người, đồng thời đề nghị hôm sau cần lót thêm một ít vải dày vào những chỗ dễ bị cọ xát, tránh để vết thương rộng ra hoặc nhiễm trùng.

                   

                                                                                                         

Đường Mẫn đứng ở mép bình đài nhân tạo, gió lành lạnh thổi mái tóc tung bay lõa xõa, chỉ thấy vạt rừng bên dưới đã hóa thành một màn sương mơ ảo, áng mây nhàn nhạt tựa một làn khói nhẹ bốc lên nơi mặt biển, lại tựa như một tấm vải xô mỏng phủ trên biển cây xanh ngắt ngay trước mắt. Cô hít sâu một hơi, cảm thấy tâm thần sảng khoái lạ thường, chỉ muốn tung mình nhảy vút lên, học theo lũ chim dang rộng sải cánh bay lượn.

                                                                                                                            

Nhạc Dương ngồi xổm bên cạnh nhai thịt khô, ngẩng đầu lên ngước nhìn, vách đá đỏ hệt như bức tường của một tòa cung điện thuộc về người khổng lồ, vươn cao lên tít giữa ngàn mây xanh, nhìn không thấy đâu là điểm cuối; ngó đầu xuống dưới, những cây cối cao lớn trong rừng đã liền thành một mảng lớn, chỉ có thể trông thấy một tấm lụa màu thúy lục, mỗi khi có gió thổi qua lại cuộn lên những đợt sóng nhè nhẹ.

                                                                                                                            

Vùng đất Shangri-la không thể nhận được ánh sáng trực tiếp từ mặt trời này tối rất nhanh, từ lúc bắt đầu lắp ghép các giá sắt đến khi ăn cơm tối, tổng cộng chưa đến nửa tiếng đồng hồ, mà vầng dương ngoằn ngoèo hình rắn trên đỉnh Shangri-la đã từ màu vàng chói chuyển sang xám trắng, rồi đen kịt, biến hóa như nhảy cóc. Cả bọn ngồi trong lều, vạch ra một cách sơ lược các bước hành động ngày mai, rồi bắt đầu đi ngủ. Trời vừa tối đã ngủ, trời chưa sáng đã dậy, những ngày này, họ đã sớm hình thành thói quen đó. Ở nơi đây và thế giới bên ngoài tồn tại hai khái niệm thời gian hoàn toàn khác nhau, nếu đối chiếu theo đồng hồ nguyên tử họ đeo trên tay, lúc bắt đầu đi ngủ chỉ khoảng năm giờ chiều, còn lúc dậy chờ trời sáng thì khoảng sau bảy giờ.

                                                                                                                         

   

Nhưng đêm nay, có hai người không sao chợp mắt được. Đội trưởng Hồ Dương lấy ra bao thuốc lá Trung Hoa cất giấu đã lâu, đốt lên một điếu, ánh lửa đỏ lập lòe trong bóng tối. Những hiểm nguy anh từng trải qua không thể nói là ít, có điều gần kề với tử vong như hôm nay thì thực sự cũng không nhiều. Trong một cái chớp mắt, sống, hay là chết, ít nhất anh đã suy nghĩ mất hai giây. Thậm chí anh còn có thể tưởng tượng, lúc đó nếu Trương Lập cũng trượt xuống, một giây do dự đó của anh rất có thể sẽ khiến những người bên dưới đều bị trượt xuống hết. Ba Tang ngồi bên cạnh, ánh lửa đỏ hắt lên đôi mắt, khiến anh ta thoạt trông như thể một con sói đang tiềm phục ẩn mình trong bóng đêm. Ba Tang đang nhớ lại cảm giác nguy hiểm đêm hôm trước. Khi nào chưa nghĩ thông, anh ta sẽ tiếp tục giữ trạng thái cảnh giác cao độ thế này, cho dù là ở trong bóng đêm tuyệt đối như ở đây.

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương đưa bao thuốc nhàu nhĩ ra: “Làm một điếu không?”

                                                                                                                            

Ba Tang nhấc tay lên từ chối: “Không.”

                                                    

                                                                        

Đội trưởng Hồ Dương hít sâu một hơi thuốc, làn khói mỏng nhàn nhạt chầm chậm tuôn ra nơi lỗ mũi, nói với giọng như thể đang tự giễu chính mình: “Hôm nay... tôi...”

                    

                                                                                                        

Ba Tang đứng lên nói: “Không cần nói gì cả, dù là ai ở bên dưới anh cũng đều sẽ làm thế cả thôi, chúng ta là một nhóm. Tôi vẫn chưa quên chuyện anh đã làm trên núi tuyết đâu.”

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương nhìn Ba Tang một hồi thật lâu, phả ra hết hơi thuốc này đến hơi thuốc khác, đoạn nói: “Anh là một người lính, là một người lính chân chính đã được lửa chiến tranh trui rèn.”

                                                                                                                            

Ba Tang nhướng mắt nhìn bóng đêm xa xăm, trong đôi mắt ấy dường như có thứ gì đó đang sáng lên lấp lánh, phải một hồi lâu sau mới đáp lời: “Chỉ có điều, chiến hữu của tôi đều đã đến cùng một nơi hết cả rồi.” Dứt lời, anh ta lạnh lùng nhìn thẳng vào mắt đội trưởng Hồ Dương: “Cũng như những thành viên trong đội của anh vậy thôi!”

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương ngây người, cơ hồ đắm chìm vào trong cơn tư lự, mãi tới khi điếu thuốc cháy sát ngón tay, anh mới vội đưa đầu lọc lên môi hít mạnh hai cái, rồi mới dập thuốc, đứng lên, vỗ nhẹ lên vai Ba Tang như để biểu lộ sự đồng cảm. Anh biết, nếu Shangri-la đúng là nơi Ba Tang và đồng đội đã từng đến, vậy thì nơi đây, chính là chỗ những chiến hữu của anh ta chôn thây. Đội trưởng Hồ Dương an ủi: “Thực ra, tôi luôn lấy làm hãnh diện vì bọn họ, họ đã tìm thấy thứ mình muốn tìm, ngoại trừ trong bệnh viện, tôi vẫn chưa từng thấy người nào ra đi với sự bất an, kinh hoảng, hối hận và ảo não. Lúc lên đường, họ đều biết mình sẽ chết, rất bình tĩnh, rất thỏa mãn, tôi vốn rất lấy làm kỳ quái, cứ ngỡ rằng đó là do mình bị ảo giác. Thế nhưng hôm nay, trong khoảnh khắc rút đao ra cắt dây thừng đó, tôi cũng cảm thấy hết sức bình tĩnh, đầu óc còn sáng suốt hơn bao giờ hết.”

                                                                                                                            

Có tiếng loạt soạt vang lên, lại thêm một người nữa đi ra. Đội trưởng Hồ Dương hỏi: “Ai vậy?”

                                

                                                                                            

Ba Tang nói: “Cường Ba thiếu gia, sao không ngủ?”

                                                                                                                  

          

Người vừa bước ra chính là Cường Ba thiếu gia. Gã khẽ nói: “Anh cũng không ngủ, là vì đêm hôm trước...”

                                                                                                                            

Ba Tang giật bắn mình, nhưng vẫn hờ hững nói: “Anh cũng cảm thấy à? Cảm giác ấy, hết sức quái dị.”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, là cảm giác như bị người ta nhìn trộm vậy.”

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Hai người nói gì vậy? Tôi chẳng hiểu gì hết?” Trác Mộc Cường Ba bèn thuật lại chuyện đột nhiên thấy cảnh giác tối qua cho anh. Đội trưởng Hồ Dương nói: “Có chuyện như vậy à? Nhưng mà, tuy rằng ngôi làng ấy rất lớn, nhưng cũng không nhiều chỗ có thể ẩn náu mà. Người nào lại giám thị chúng ta được nhỉ?”

                                      

                                                                                      

Ba Tang nói: “Không đơn giản thế thôi đâu, tôi có thể nói cho hai người một điều, tối hôm qua, tôi lờ mờ thấy, cảm giác đó, đã đánh thức phần nào đó trong ký ức, dường như có liên quan đến cái chết của những người đồng đội ấy!” Trác Mộc Cường Ba thoáng giật mình, một cảm giác mừng rỡ không thể gọi tên chợt dâng lên trong tâm thức.

                                                                                             

                               

“Nói gì thế? Anh Ba Tang lại nhớ ra gì à?” Nhạc Dương, Triệu Trang Sinh, và Trương Lập cũng ra góp chuyện.

                                                                                                                      

      

Trác Mộc Cường Ba nói: “Mấy người các cậu sao vẫn chưa ngủ?”

                                                                                                                            

Nhạc Dương nói: “Nghe thấy tiếng Cường Ba thiếu gia đi ra, nên bọn tôi cũng ra theo.”

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Cậu cũng cảnh giác nhỉ, hơi có tiếng động thôi cũng không qua mắt nổi.”

             

                                                                                                               

Nhạc Dương cười “hì hì”. Trương Lập nói: “Rốt cuộc là chuyện gì thế. Nói ra cho bọn tôi nghe với nào.”

                                          

                                                                                  

“Phải đấy phải đấy.” Triệu Trang Sinh cũng nói.

                                                                                                                            

Mấy người thì thầm thảo luận bên ngoài lều. Không bao lâu sau thì Sean cũng đến tham gia. Không biết bao lâu sau, Nhạc Dương bỗng phát hiện: “Kỳ lạ thật, sao hôm nay tôi lại nhìn rõ được mặt mọi người nhỉ?” Lúc ấy cả bọn mới ngớ ra, đêm nay không ngờ lại có ánh sáng. Phải biết rằng, những đêm trước ở Shangri-la, đêm nào cũng tối đen kìn kịt, giơ năm ngón tay ra cũng không nhìn thấy. Vậy mà lúc này, mọi người đều lờ mờ thấp thoáng nhìn thấy đường nét trên gương mặt nhau. Lúc ngẩng đầu nhìn lên, cả bọn đều trợn tròn mắt, ngây cả người ra.

                                                                                                                                                                                                                                   

                                                                                                                                                   

CHƯƠNG 53:

                                                                                                  

                                                                                                                                                                                                                                                                

                    

Lạc lối ở Shangri-la

                                                                                                                                                                                                                       

                                                                                                                                                               

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu. Nhạc Dương ngửa cổ lên nhìn bầu trời đêm, mấy ánh sao lấp lóe, bất giác thốt lên: “Hay thật, đêm nay màn sương mù phía trên Shangri-la lại tan đi, lại có thể thấy bầu trời sao rồi.” “Thật không?” Trác Mộc Cường Ba cũng ngẩng đầu lên. Có điều, gã và Nhạc Dương đều nhanh chóng phát hiện ra, những ngôi sao ấy có gì đó không ổn, đó không chỉ là những ánh sao lấp lánh, mà còn di chuyển với tốc độ rất nhanh, không giống như quỹ đạo của các vì sao chút nào. Trác Mộc Cường Ba đứng lên, nhíu mày nói: “Lạ thật đấy!”

                                                                  

                                                                                                                                                                                                                                                                

                                                    

Đá màu

                                                                                                                                                                                                     

                                                    

Nếu Shangri-la có ba tầng bình đài thật, thì bọn họ chỉ có thể trông thấy được tầng thứ nhất và thứ hai, vì tầng thứ ba và trên cao nữa lúc nào cũng bị mây mù che kín, không thể nhìn được.

               

                                                                                                             

Nhưng hôm nay, đêm hôm nay, Shangri-la lại tựa như nàng dâu mới đêm động phòng, chỉ hững hờ phủ nhẹ một lớp sa mỏng, mây mù đều tan hết, chỉ còn lại một màu trắng tinh khiết thần thánh. Khe nứt hẹp dài cong cong luôn bị mây mù khuất lấp trên đỉnh đầu, giờ đây đã hiển hiện rõ rệt. Chỗ họ đang đứng là một thung lũng kẹt giữa hai mạch núi lớn, hoặc nói là một mạch núi nứt toác ra cũng không có gì sai. Hai bên có mấy ngọn núi cao sừng sững cùng nghiêng nghiêng về phía trung tâm thung lũng, dáng hơi cong cong như răng sói. Nếu nói đây là một đóa sen, vậy thì những ngọn núi ấy chính là những cánh sen còn đang khép nụ. Lúc này giữa khe núi không ngờ lại khảm đầy sao trời lấp lánh, tựa hồ dải Ngân hà được kéo lại gần cả trăm lần, một chiếc mâm ngọc ló lên khỏi khe nứt, ánh sáng trong vắt đẹp đến ngất ngây lạ thường.

                                                                                               

                             

“Trăng kìa!” Tất cả hân hoan reo lên. Vừa mới đây thôi, họ còn tưởng mình đã hoàn toàn tách biệt khỏi thế gian, không biết đang ở chốn nào nơi nào, giờ đây được trông thấy vầng trăng vắng bóng đã lâu, làm sao không kích động cho đành. Điều này ít ra cũng chứng minh họ vẫn còn ở một góc nào đó không ai biết đến trên địa cầu, chứ không phải đã rơi vào vực sâu của chốn địa ngục A Tỳ.

                                                                                                   

                         

Pháp sư Á La và mấy người đã chìm vào giấc ngủ, nghe thấy tiếng hoan hô cũng bước ra, ngạc nhiên phát hiện, Shangri-la vốn vẫn chìm khuất sau màn sương, giờ đã hoàn toàn hiển lộ trước mắt.

                                          

                                                                                  

“Giống hệt! Đúng là giống hệt!” Đường Mẫn nhảy cẫng lên reo vang. Cô nói “giống hệt” ý là chỉ cảnh tượng nhìn thấy lúc này giống hệt như trong Hương Ba La mật quang bảo giám. Từ lúc họ đặt chân lên mảnh đất này, vẫn chưa ai dám khẳng định, liệu đây có đúng là nơi họ muốn tìm kiếm hay không. Tuy rằng đã phát hiện ra dấu vết người xưa để lại, nhưng dù sao ở bên dưới cũng không thể trông thấy những cung điện huy hoàng tráng lệ ấy, cũng không thể thấy vẻ đẹp tựa tòa thành trong mây, hay thánh địa Liên Hoa. Mãi cho tới đêm nay, họ mới tin chắc rằng, mình không đi lầm đường. Nơi đây, chắc chắn chính là nơi họ kiếm tìm rồi!

                                                             

                                                               

Pháp sư Á La thì trầm ngâm suy tư: “Mạch núi ấy, đỉnh núi ấy, tại sao lại có cảm giác như đã thấy ở đâu rồi nhỉ? À! Phải rồi, núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc, đêm hôm đó, mây mù cũng tan hết, nếu nhìn từ bên ngoài, hình dáng thực sự rất giống.” Nghĩ tới đây, ông chầm chậm nói: “Nói vậy thì, khe nứt trên đỉnh núi Tư Tất Kiệt Mạc, quả đúng là lối vào Shangri-la rồi!”

                                                                                       

                                     

Nhạc Dương mừng rỡ nói: “Đúng rồi! Sao tôi không phát hiện ra nhỉ! Mọi người nhìn kìa, ngọn núi đối diện ấy, chỗ đấy đấy, độ cong của đỉnh núi thứ hai bên tay trái, với ngọn bên tay phải kia nữa, đó chính là núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc đấy! Chắc chắn chính là núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc rồi!”

                                                                                                                            

Trương Lập tiếc rẻ nói: “Chà chà! Hồi ấy mà quyết tâm nhảy từ trên xuống, nói không chừng đã thành công rồi ấy chứ!”

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương nhìn lên chỗ hõm, lắc đầu nói: “Nếu nhảy từ trên đó xuống, rất có thể sẽ rơi xuống biển, căn bản không có hy vọng rơi xuống được mé bình đài bên này.”

                                                                                                                            

Lữ Cánh Nam lo lắng nói: “Nếu như, có người đặt thiết bị định vị ở bên trong Shangri-la, đồng thời có thể liên lạc được với bên ngoài, vậy thì muốn nhảy dù từ trên đỉnh xuống cũng không phải chuyện khó đâu.” Cô hết sức lo lắng, liếc nhìn Sean một cái, liền phát hiện ra pháp sư Á La cũng đang chăm chú nhìn anh ta từ phía sau.

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên nói: “Tôi hiểu rồi! Hai tấm bản đồ da sói ấy đều là thật! Vì vậy rất có khả năng được cắt ra từ cùng một tấm da sói! Suy đoán của các chuyên gia không hề sai, chỉ là chúng ta đã chọn sai tuyến đường, nếu như lên đỉnh từ phía bên kia...” Gã chỉ ngón tay lên đỉnh đầu nói: “Rất có khả năng sẽ tìm được con đường thông thẳng tới tầng bình đài thứ ba.” Gã bất ngờ đứng lên, chỉ tay ra phía xa, lồng ngực phập phồng, đột nhiên lảo đảo, suýt chút nữa thì ngã xuống dưới, may có Ba Tang và Trương Lập ở hai bên kịp thời chộp lại.

                                                           

                                                                 

Khi họ phát hiện ra lối vào ở U Minh hà, thực ra mọi người đều ngấm ngầm có cảm giác, vùng đất Shangri-la ở đầu bên kia của dòng sông ngầm này, có lẽ không giống với nơi tuyệt hiểm mà Đường Thọ và Ba Tang đã từng đến qua đường đỉnh núi. Nói cách khác, e rằng nơi này chỉ có Bạc Ba La thần miếu đã biến mất trong lịch sử, chứ không có Tử kỳ lân nào cả. Song không ai nói ra điều đó, thậm chí cả Trác Mộc Cường Ba cũng không hề biểu lộ ra ngoài. Gã hiểu rõ, mọi người đã trải qua bao nhiêu khó khăn gian khổ mới phát hiện được đầu mối duy nhất ấy, chỉ cần khẳng định có sự tồn tại của Bạc Ba La thần miếu, vậy thì, cho dù có Tử kỳ lân hay không, bọn họ cũng không thể bỏ cuộc được nữa. Vì vậy, dọc đường tới đây, Trác Mộc Cường Ba đều cố gắng nén nhịn cảm giác hụt hẫng to lớn. Giờ đây đột nhiên phát hiện ra, nơi bọn họ đặt chân đến, vẫn có khả năng chính là nơi Đường Thọ và Ba Tang từng lui bước, Tử kỳ lân cũng rất có khả năng đang ở đâu đó quanh đây, thử hỏi gã làm sao mà không kích động, làm sao mà không mừng rỡ như muốn phát cuồng lên được?

                                                                                                                            

Triệu Trang Sinh gật gù: “Thì ra nơi này vẫn thông với thế giới bên ngoài, thì ra là thế!” Dường như anh nghĩ ra điều gì đó, cả Sean cũng vậy.

                                                                                                                            

Lữ Cánh Nam nói với Ba Tang: “Lẽ nào các anh đi săn nhiều như vậy, mà không lần nào phát hiện ra hình dáng của ngọn núi đó?”

                                                                                                                            

“Không, lần nào chúng tôi cũng đều đi trong sương mù, tầm nhìn chỉ giới hạn ở mấy trăm mét xung quanh mình thôi.” Nhìn bộ dạng chau mày của Ba Tang, Lữ Cánh Nam cho rằng anh ta không nói dối.

                                                                                                       

                     

Nhạc Dương nghi hoặc nói: “Tại sao bình thường trên đó lúc nào cũng có sương mù bao phủ thế nhỉ? Không biết những khi sương mù tan đi giống lúc này có quy luật gì chăng?”

                                                                

                                                            

Nghe Nhạc Dương hỏi, mọi người cùng ngoảnh đầu hướng ánh mắt về phía pháp sư Á La. Chỉ nghe pháp sư đáp: “Trong các cuộn da không thấy ghi chép gì, hiện tượng tự nhiên được nhắc đến trong đó chỉ có một thứ được gọi là ‘rồng ngẩng đầu’, ở tầng bình đài thứ ba. Có điều dường như cũng không có thời gian cố định, tình hình cụ thể thế nào không được ghi chép rõ ràng lắm.” Giờ đây, mọi người đều đã rõ trí nhớ nhìn một lần là không quên của pháp sư Á La, ông đã nói không có, tức là không có.

                                                                                                                            

Mặt trăng xuất hiện áng chừng một tiếng đồng hồ, sau đó màn sương mù dần dần tụ lại, bầu trời trở lại tối đen. Có điều, họ đã phát hiện ra dáng vẻ thực sự của Shangri-la, mỗi người đều ôm theo bầu tâm sự, hồi lâu sau mới ngủ lại được.

                                                                                                                   

         

Hai ngày một đêm, nhóm người của Trác Mộc Cường Ba cuối cùng cũng leo lên được vách đá dựng đứng. Trương Lập và Nhạc Dương lên đỉnh đầu tiên. Khi mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba vẫn còn cách mấy mét nữa, đã nghe thấy Trương Lập hét vang: “A... A... A..., mẹ ơi mẹ ơi... mẹ ơi... mẹ ơi....”

                                                                                                                            

Nhạc Dương cũng hét lớn: “Đây là cái gì... cái gì.... cái gì...”

                        

                                                                                                    

Tiếng vọng của hai người hòa vào nhau, khiến người ta có cảm giác không gian tĩnh lặng lạ thường.

                                                          

                                                                  

Leo lên được tầng bình đài thứ hai, bọn Trác Mộc Cường Ba ai nấy đều giật mình cả kinh. Phần rìa của tầng thứ hai này không ngờ lại là một thế giới hoàn toàn khác so với tầng dưới. Nơi đây không có rừng nguyên sinh cây cối rậm rì che phủ, mà chỉ toàn gò đá nổi lô nhô khắp nơi, nhỏ thì cao mấy mét, mười mấy mét, lớn thì hơn trăm mét, liên miên nhấp nhô kéo dài, hình dạng thôi thì đủ mọi kiểu. Các loài thực vật chỉ nằm rải rác điểm xuyết giữa các gò đá. Có cây tre phủ phần đỉnh của gò đá như chiếc khăn bịt đầu, lại có cây buông rủ xuống từ hai bên như dải thắt lưng, lại có loài thực vật mọc lên thành một mảng xanh xanh giữa hai gò đá. Nhưng khiến người ta kinh ngạc nhất thì chính là bản thân những gò đá ấy, chúng không chỉ có một màu xám xịt hoặc đỏ nâu như đá ở tầng thứ nhất, mà giống một dải lụa màu chia thành tầng lớp rõ ràng, nom như tấm bảng pha màu của các họa sĩ vẽ tranh sơn dầu.

                                                            

                                                                

Đỏ cam vàng lam lục chàm tím đen trắng xám... họ thực sự không thể đếm được tổng cộng có bao nhiêu màu sắc tổ hợp thành thế giới đầy những mảng màu kéo dài ra ngút ngát ấy, có những dải màu rất ngay ngắn, quấn từng vòng từng vòng vạch nên các đường đồng tâm hoặc những vòng xoáy ốc; lại có dải vặn vẹo uốn éo, trùng trùng điệp điệp như con sóng ngoằn ngoèo vươn về phía trước; lại có chỗ giống như cồn cát, bị gió thổi lên từng tầng từng tầng nếp nhăn lăn tăn, cả không gian ngập tràn các màu sắc mê ảo.

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương giải thích: “Đây chính là trầm tích dung nham của đại Tân sinh. Chúng chảy từ chỗ cao hơn xuống, rồi dần nguội đi ở đây, chất chồng thành từng gò đồi nhỏ. Trong dung nham có các khoáng vật khác nhau, nên tạo thành các dải màu khác nhau rõ rệt thế này.”

                                                           

                                                                 

“Thật... thật... kỳ lạ quá đi mất!” Trương Lập thốt lên, bước mấy bước về phía trước, đột nhiên cả người nghiêng hẳn sang một bên, anh vội kêu: “Không ổn, không ổn!” Càng đi về phía trước, cơ thể càng nghiêng nhiều hơn, cuối cùng thì lộn nhào một cú, lăn lống lốc vào một khoảng hõm tạo bởi mấy gò đá vây xung quanh. Nhạc Dương định tới cứu Trương Lập, nhưng cũng vừa bước được hai ba bước đã mất thăng bằng. Tuy nhiên anh phản ứng nhanh, vội vàng thụp gối xuống, hai tay chống đất, nên không bị lăn nhào như Trương Lập. Lúc này Trương Lập cũng đã đứng lên, có vẻ lấy làm khó hiểu với cú ngã vừa rồi của mình.

                                                                                             

                               

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Đó là do ảo giác đấy, nguyên lý cũng giống như cậu cảm thấy choáng váng khi đi trong lòng sông băng thôi, thị lực của chúng ta có thể phân biệt được những đường thẳng và đường gấp khúc đơn giản, nhưng màu sắc phức tạp và đường cong khúc khuỷu ở đây làm nhiễu thị giác. Cậu trông thấy một đường thẳng, kỳ thực lại là một con dốc, nhưng cơ thể cậu thì vẫn tiếp tục đi như trên đường thẳng, kiểu như cậu nhìn thấy phía trước có bậc thang, nhấc chân bước lên mà lại đạp vào khoảng không ấy, thân thể đột nhiên mất thăng bằng. Mọi người hãy cố gắng đi vào phía bên trong, bằng không nếu để mất thăng bằng ngã lăn ra khỏi bình đài thì toi đấy. Đợi khi nào cơ thể mọi người dần dần thích ứng với sự sai biệt thị giác này thì mọi thứ sẽ trở lại bình thường thôi.”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu nhìn xuống dưới, chỉ thấy biển xanh liền trời biếc, rừng cây nối nước ngàn, mây bay dưới chân, nước chảy trên đá, cảnh sắc hết sức lạ thường nhưng cũng rất đẹp mắt. Gã ngẩng đầu lên, lại thấy tầng bình đài thứ ba ẩn nấp trong mây mù, chỉ có mấy dải thác như lụa buông xuống trong gió.

                             

                                                                                               

Theo ghi chép từ các cuộn da trong làng Công Bố, tầng bình đài này có rất nhiều di tích, đều cổ xưa đến mức không biết là do ai xây dựng, còn cả hơn trăm ngôi làng lớn nhỏ, đều đã hình thành từ trước khi người Qua Ba đến đây. Nhưng nhìn thấy cảnh ngộ của làng Công Bố, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng không có nhiều ảo tưởng. Có trời mới biết ở đây đã xảy ra chuyện gì, những ngôi làng ấy có thể bảo tồn được trong thế giới đầy rẫy dã thú hoành hành này, bản thân điều đó thôi đã là một kỳ tích rồi.

                                                                                                                            

“Tại sao không trực tiếp làm luôn dây treo đưa thẳng lên tầng thứ ba, còn phải băng qua tầng bình đài thứ hai này làm quái gì nhỉ?” Nhạc Dương lẩm bẩm thu ống nhòm lại. Trên vách đá không thấy thang trời do dây leo mọc tạo thành nữa.

                                                                            

                                                

Trương Lập lườm anh một cái, nói: “Cậu thì biết cái gì, những chỗ có nước ngầm rỉ ra như thế không dễ tìm đâu. Nếu không lợi dụng địa thế đặc biệt phân thành từng tầng từng đoạn đó, thì không thể nào lắp đặt thiết bị đưa người lên xuống được, đầu tiên là cậu đã không thể làm được dây thừng nào dài hơn nghìn mét được rồi.”

                                                                                                                            

“Hơn nữa để lộ mình giữa không trung thật quá nguy hiểm, lũ chim chóc và mãnh thú sẽ phá hoại các thiết bị,” đội trưởng Hồ Dương bổ sung.

                                                                                                                            

“Vậy từ đây chúng ta có thể leo thẳng lên tầng thứ ba luôn không?” Nhạc Dương lại hỏi đội trưởng Hồ Dương.

                                                                                                                            

Pháp sư Á La lắc đầu trả lời thay: “Không thể. Vách đá chỗ này toàn là hình nón ngược nghiêng vào bên trong, cơ hồ không tìm thấy chỗ nào để bám tay, giống như lúc chúng ta ở dưới tầng thứ nhất vậy. Bằng không, tùy tiện chọn bừa chỗ nào cũng có thể leo lên được, chúng ta hà tất phải đi vòng một vòng lớn thế làm gì.”

                                                                                                                            

Nhạc Dương thở dài: “Chậc, xem ra vẫn phải băng qua cả bình nguyên này rồi, không biết còn phải đi bao nhiêu lâu nữa nhỉ.”

                                                                                                                            

Lữ Cánh Nam nói: “Đừng ở đó thở ngắn than dài nữa, dò đường trước đi.”

                                           

                                                                                 

Đầu tiên là tìm nguồn nước, cắm trại dò đường. Trong khu rừng nguyên sinh bốn bề toàn nguy cơ này, không tìm hiểu rõ tình hình xung quanh là không thể được. Họ dè dặt tiến lên mép tầng bình đài thứ hai, dọc đường cũng không phát hiện ra dấu tích nào của các loài thú dữ lớn. Sau đó, cả bọn tìm được một dòng suối nhỏ, xem ra chính là đầu nguồn của dòng suối chảy trong khe núi ở thôn Công Bố. Trác Mộc Cường Ba quyết định cắm trại nghỉ ngơi ở đây, để bọn Nhạc Dương, Trương Lập đi kiểm tra xung quanh.

                                                                                                                            

Chưa đầy mười phút sau, lều trại còn chưa dựng xong, đã thấy ánh đỏ trên đồng hồ nguyên tử nhấp nháy, Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Xảy ra chuyện gì vậy?” Nhạc Dương ở đầu bên kia nôn nóng gọi: “Cường Ba thiếu gia, anh đến đây xem đi, tôi và Trương Lập phát hiện được một số thứ.”

                                      

                                                                                      

Đó là một vạt cây bụi mọc giữa rừng toàn những cây khổng lồ có gai, cao chừng mười mét, một tấm vải to tướng phủ lên bên trên, tấm vải đã rách bươm, nhưng vẫn có thể nhìn ra, đó là một cái dù. Trác Mộc Cường Ba nói: “Chúng ta đi vào xem sao.” Trong vạt cây bụi ấy đầy gai nhọn. Thứ thực vật quái dị đó gai chĩa dài cả mét, tua tủa đâm ra giữa các thân cây như những lưỡi kiếm, muốn đi vào bên trong thực sự hết sức khó khăn. Trác Mộc Cường Ba cầm con dao pha ra sức phạt bớt gai nhọn mở đường. Lúc đến được bên dưới tấm dù, từng khúc xương trắng lù lù hiện ra trước mắt. Qua phán đoán sơ bộ cho thấy chúng thuộc về một người đàn ông.

                                                

                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương ngẩng đầu nhìn lên, xuyên qua tầng tầng gai nhọn chi chít, xuyên qua những tán cây cao ngất phía trên, lờ mờ có thể trông thấy lối ra ẩn khuất sau màn sương xám xịt của Shangri-la. Tất cả mọi người đều cùng nghĩ đến một điều, xem ra người này, chắc là đã liều mình nhảy từ trên đỉnh núi tuyết xuống, anh ta may mắn không nhảy xuống biển, nhưng rồi rốt cuộc cũng vẫn phải mất mạng.

                                   

                                                                                         

Nhạc Dương nhặt một mảnh vải rách dưới đất lên, dùng sức giật mạnh, đoạn nói: “Cũng không lâu lắm đâu, vải dù còn rất chắc.”

                                          

                                                                                  

Đội trưởng Hồ Dương quét mắt một vòng xung quanh khu rừng, mặc dù không nhìn rõ lắm, nhưng anh vẫn nói với giọng khẳng định: “Không còn lưu lại thứ gì khác, cả bao đựng đồ cũng không.”

                                                                                                                            

Sean nói: “Người nhảy dù thường không đeo ba lô quá nặng, trước tiên là bất tiện khi mở dù, thứ nữa là rất khó khống chế. Thông thường, bọn họ sẽ buộc các thứ cần thiết vào máy phát tín hiệu hoặc thiết bị gì đó tương tự như thế thả dù xuống trước, sau đó mới dựa theo vị trí của máy phát mà nhảy dù.”

                                                                            

                                                

Triệu Trang Sinh hờ hững nói: “Thì ra, chúng ta không phải những người duy nhất đến được đây.”

                                                                                                                 

           

Trương Lập bổ sung thêm: “Ừm, bọn họ không chỉ có một người.” Ai cũng đều hiểu, trên đỉnh núi tuyết, chẳng ai lại ngu xuẩn đến mức một mình nhảy thẳng vào vòng tay của Tử thần như thế. Hẳn là ít nhất cũng phải là một đám người giống như họ. Giờ đây họ mới chỉ phát hiện một cái dù, nói không chừng, ở những chỗ khác cũng có nữa.

                                                                                                                            

“Tìm... tìm thấy rồi...” Nhạc Dương bò toài ra đất, cẩn thận chui vào giữa một rừng gai nhọn. Khi anh chật vật chui lùi được ra, trên tay đã có thêm một tấm thẻ sắt đã gỉ sét buộc vào dây xích nhỏ. Tấm thẻ này rất giống với thẻ quân nhân của các binh sĩ ngoại quốc, bên trên khắc tên, số hiệu và thời gian. Người đàn ông tên là Walt này sinh năm 1972. Đội trưởng Hồ Dương suy nghĩ giây lát, rồi nhớ lại: “Tôi nhớ ra rồi, mấy người thuộc nhóm tay Walt này mất tích năm 1991, lúc đó tôi đang khảo sát ở đỉnh Chomolungma. Họ có hai mươi mấy người, chia làm ba nhóm, hình như là đi chinh phục đỉnh Hạ Bang Mã. Về sau có tin báo bị mất tích ba người, chúng tôi còn tham gia công tác tìm kiếm nữa, nhưng không có thu hoạch gì hết.”

                                                                                          

                                  

Nhạc Dương nói: “Thì ra là vậy, xem ra ba vị dũng sĩ nhảy xuống này không thể phát ra tín hiệu gì nữa, vì vậy những người phía sau cũng đành phải bỏ cuộc.”

                                                                  

                                                          

Ngoài mấy thứ đó ra, họ không phát hiện được gì thêm. Trác Mộc Cường Ba nói: “Đi thôi, trở về chỗ cắm trại, kể cho mọi người chuyện xảy ra ngày hôm nay. Lúc về đến nơi, trời đã tối mịt. Sau khi kể lại mọi chuyện, mọi người bàn bạc một phen, vẫn chưa biết ở đây có sinh vật gì kỳ dị hay không. Cắm trại trên cây lúc này không an toàn bằng dựng lều dưới đất, mỗi đêm ít nhất phải có hai người trở lên canh gác, ngoài ra cách bố trí các lều trại cũng phải điều chỉnh lại, bên ngoài khu cắm trại có bổ sung thêm một số hố bẫy và cọc bắt voi đơn giản, chỉ hy vọng đừng gặp phải các loại sinh vật khổng lồ cao ba bốn tầng nhà.

                                                                                         

                                   

Còn người nhảy dù dũng cảm kia, lại mang đến cho bọn Trác Mộc Cường Ba thêm nhiều nghi vấn hơn nữa. Nếu đã có không chỉ một người nhảy dù, vậy thì những người khác chẳng lẽ đều nhảy hết xuống biển rồi? Hay là đã sinh tồn được ở vùng đất hoàn toàn cách biệt này? Nhưng ở bên ngoài không hề có bất cứ tin đồn nào về con đường thông đến Shangri-la. Mọi người thảo luận một hồi, xét thấy chỉ có ba tình huống có thể dẫn đến kết quả này: một là không có người nào sống sót trở ra, hai là những người đi ra được vẫn giữ kín như bưng về hành trình ấy, khả năng cuối cùng là vì họ nghiên cứu chưa đủ kỹ càng, nên không thể tra được nhiều đầu mối hơn. Đối với họ, hai khả năng đầu đều không phải tin tức tốt lành, nhưng vì họ không hiểu nhiều lắm về nơi này, vì vậy cũng không thể nào đưa ra được một kết luận chính xác. Cuối cùng vẫn là pháp sư Á La đưa ra, chỉ có thể đi một bước tính một bước, nếu may mắn có thể phát hiện được làng mạc và dân cư còn sót lại trên tầng bình đài thứ hai này, chắc có lẽ sẽ tìm hiểu được nhiều thông tin hơn nữa từ họ.

                                                                                                                            

Đêm khuya, ở một góc nhỏ không ai để ý đến, một bàn tay đang nắm một thiết bị còn nhỏ hơn viên đạn một chút, trông như một cái đinh ốc, khẽ ấn nhè nhẹ, thiết bị sáng lóe lên một cái. Người cầm nó biết rằng, thiết bị phát tín hiệu này đã bắt đầu phát sóng vô tuyến ra bên ngoài theo quy luật nhất định. Y không do dự nữa, lập tức cẩn thận chôn thiết bị nhỏ ấy xuống, nhẹ nhàng lách đi.

                                                                                                                            

Bóng người chôn thiết bị ấy vừa đi, một bóng người khác lại đến chỗ đó, đào lên, lấp lại cẩn thận, ấn một cái trên đầu, tắt thiết bị phát tín hiệu, rồi bỏ vào trong túi.

                                                                                                                            

Khu vực không người ở Tây Tạng. Trong một chiếc xe tiếp nhận tín hiệu vệ tinh đã được ngụy trang, một hồi còi báo động gấp rút vang lên làm gã đàn ông cao lớn đang say ngủ giật mình tỉnh giấc, y nhìn vào màn hình ra đa, rồi vội vàng cầm điện thoại di động lên gọi.

                                 

                                                                                           

Lahsa. Max đưa điện thoại cho Merkin. Merkin thấp giọng hỏi mấy câu, rồi một nụ cười đắc ý chợt hiện lên trên gương mặt: “Cuối cùng chúng cũng đến rồi!” Y mở máy tính xách tay, kết nối mạng, số liệu bản đồ lập tức gửi qua.

                                                                                                                            

Nhìn nụ cười của ông chủ, Max cũng thấy hưng phấn hẳn lên: “Ở đâu vậy?”

  

                                                                                                                          

Merkin nói: “Cách chỗ chúng ta lên đỉnh lần trước chưa đầy sáu mươi kilomet.”

                                                        

                                                                    

“Hả!” Max kêu lên: “Nói vậy thì chỗ lần trước chúng ta đến cũng gần chính xác rồi còn gì, thật không thể nào ngờ được. Nhưng mà, sao lại thế chứ? Ông chủ, bao nhiêu nhóm đã mất mạng ở gần đỉnh núi đó, liệu có phải nên đợi thêm một thời gian, tôi sợ bọn chúng cố ý...”

                                                                                                                            

Merkin nói: “Không... mày không hiểu đâu, tấm bản đồ đó vốn là đồ thực, còn nhớ tao đã bảo mày gì không, hai tấm bản đồ ấy cùng chỉ đến một điểm đích. Chỗ đáng sợ của U Minh hà là bóng đêm vô cùng vô tận và dòng chảy ngầm cuồn cuộn, chỗ đáng sợ của núi tuyết là sương mù dày đặc trên đỉnh núi và từ trường khiến tất cả các thiết bị điện tử mất tác dụng, dù là con đường nào, cũng đều không thể dễ dàng mà đến được. Giờ đã có tọa độ, chúng ta có thể nhảy dù rồi. À, ngu xuẩn thật, có bao nhiêu đội leo núi đã lên được đỉnh, nhưng có mấy đội lên được từ đầu phía bên này đâu? Tao hiểu rồi, phía bên kia là sinh, phía bên này chính là tử, người nào bước qua cánh cửa nấy, cần phải từ bỏ hết mọi hy vọng. Chẳng trách mà xưa nay vẫn chưa có ai thành công, thì ra nguyên nhân chính là thế!”

                                   

                                                                                         

Y vội vàng gọi điện thoại thông báo cho Soares: “Này, Kahn, anh mau đến Tây Tạng đi. À, không, chúng ta sẽ gặp nhau ở Kathmandu. Nhớ mang theo thành quả nghiên cứu của anh nữa nhé, lần này chúng ta phải cho chúng biết mặt một phen.”

                                                                                                                                                                                              

                                                                                                                                                                                        

Đường Shangri-la gập ghềnh

                                             

                                                                                                                                                                                                            

Theo sự chỉ hướng trong Hương Ba La mật quang bảo giám, hướng đi ở tầng thứ hai này trái ngược với tầng thứ nhất, là đi từ bên phải sang bên trái, khi đến gần chỗ mép bình đài mới có đường đi lên tầng trên. Nếu tỉ lệ trong đó vẽ chính xác, vậy thì thời gian cần để vượt qua tầng thứ hai này chắc sẽ gấp ba lần tầng thứ nhất.

                                                                                                                            

Nhưng hành trình này không khó khăn như ở tầng thứ nhất. Nếu ở tầng bình đài thứ nhất là rừng nguyên sinh không khí ẩm thấp tăm tối, bốn bề đầy rẫy nguy cơ, thì trên tầng thứ hai này, đã bắt đầu hiển lộ những phong cảnh độc đáo. Nơi này giống một khu bảo hộ tự nhiên cấp quốc gia, vừa tràn ngập vẻ nguyên thủy, thô hào, lại ẩn chứa vẻ đẹp tinh tế, biến ảo. Không nhắc đến những màu sắc rực rỡ mê ly khiến người ta có ảo giác, chỉ riêng muôn vàn hình thái kỳ dị của đá núi thôi cũng đã đủ khiến người ta ngắm nhìn không chán mắt rồi.

                                                                                              

                              

Những ụ đá bệ đá gò đá cao mấy chục đến cả mấy trăm mét, sau khi được nước suối và gió ăn mòn, lại được những lớp nham thạch nóng chảy khác phủ lên, xâm thực, xuyên thấu, tầng tầng lớp lớp, hình thành nên những vẻ đẹp độc đáo tựa hồ có hàng ngàn bàn tay điêu khắc.

                                                                                                                            

Cũng hệt như lần đầu tiên họ thấy thôn Công Bố, đá núi ở đây cũng khiến bọn Trác Mộc Cường Ba không biết phải hình dung thế nào, chỉ cảm thấy khung cảnh toát lên một vẻ ngông cuồng hoang dã, không chịu bất cứ ước thúc hay phong cách nào.

                                                                                                               

             

Nhìn từ xa, có chỗ trông như cánh tay người đàn ông gân guốc, cơ bắp cuồn cuộn phá đất vươn lên đến tận mây xanh; lại có chỗ giống như tảng đá Aye(1), độc bá một phương, khí thế át hết mọi vật xung quanh; có nơi lại nối liền như bướu lạc đà, hoặc uốn lượn như lưng động vật, lại còn cả chỗ ngoằn ngoèo kéo dài bất tận, tựa như dải Vạn lý Trường thành sừng sững giữa chốn núi non, khí thế ngất trời. Thêm vào đó, khung cảnh lại được điểm xuyết bởi cây cối xanh tươi mát mắt, hoặc trong những vách đá cao ngất thẳng đứng bỗng như có người khổng lồ dùng búa chẻ đôi ngọn núi, một dòng thác trắng xóa đổ xuống; hoặc giữa những đỉnh núi nhọn hoắt có những áng mây nô đùa đuổi bắt, biến ảo không ngừng; cũng có nơi mây mù bị vây giữa các đỉnh núi, cuồn cuộn trào cả ra, tựa như làn khói đặc quánh quây quanh thác nước. Lại còn có vô số hồ nước, cả lớn cả nhỏ, có hồ tròn vạnh như hạt trân châu, lại có hồ hình vầng trăng khuyết, nằm rải rác khắp cả vùng núi non trùng trùng điệp điệp, màu sắc rực rỡ chẳng khác nào phường nhuộm vải ở miền sông nước Giang Nam, sắc vàng như chanh, sắc cam như quýt, bên ngoài nhuộm thêm một vòng xanh ngọc bích; nếu không thì đỏ rực như ráng chiều, xanh ngắt như biển khơi, rồi phủ lên một lớp màu ngân bạch. Dù là đội trưởng Hồ Dương đã đi nhiều biết nhiều, hay pháp sư Á La học vấn thâm sâu, hoặc Trác Mộc Cường Ba đã đi khắp các miền Nam Bắc cũng đều chưa từng thấy qua cảnh tượng nào như thế, chưa từng thấy hồ nào như ở đây, chưa từng thấy màu sắc nào như ở đây. Cổ nhân có câu: “Sông là dải lưng xanh, núi là trâm bích ngọc”, thực không sai chút nào. Khi nhìn lại, những núi những non ấy, đã bị mây mù vẩn vít quấn quanh, thời ẩn thời hiện, thoắt cái đã hóa thành lầu vàng gác ngọc, khiến người ta chỉ muốn thả hồn theo gió. Đến gần hơn, cảnh tượng lại càng khiến người ta phải trầm trồ thán phục. Bề ngoài những khối nham thạch ấy tựa như dòng thác bị đóng băng, còn các dải màu uốn lượn chẳng khác nào cầu vồng, hai yếu tố kết hợp với nhau một cách hoàn mỹ tạo thành một thể thống nhất, khiến người ta có ảo giác như thể cầu vồng rơi xuống cùng dòng thác cuồn cuộn chảy.

                                                                                                                            

Đi giữa rừng đá rực rỡ ấy, những tảng đá trụ đá hình dạng quái dị càng lúc càng nhiều, trụ thì giống như cây xương bồ chín khúc, vươn lên cao mãi; trụ lại giống suối phun nước ba tầng. Có lúc, bọn Trác Mộc Cường Ba lại cảm thấy như mình đang đi giữa một rừng binh khí của vương quốc người khổng lồ, đao, thương, kiếm, côn, xếp la liệt trước mắt, nhìn ngang lại thấy nào kích, nào cung, gần xa cao thấp đều không giống nhau; lại có lúc như lạc vào vương quốc tiền sử, các loài động vật quái dị to lớn nhăm nhe muốn bổ tới, muốn nhảy lên, muốn bỏ chạy, tựa hồ trong một chớp mắt đều đã bị phép thuật nào đó biến thành đá núi ở đây; đi tiếp về phía trước nữa, lại có những dải đá giống Bồ tát, giống con thuyền đi biển, giống voi chiến, giống sư tử đại bàng, nhưng nếu đổi góc nhìn khác, lại ra một hình dáng hoàn toàn khác trước, khiến người ta tưởng tượng ra muôn vàn thứ, mà lại chẳng thể nào hình dung chính xác được.

                                                                                                                            

Có khi phía trước đột ngột xuất hiện một tảng đá lớn chắn đường, thoạt nhìn trông tưởng không thể trèo qua, lúc đến gần lại chợt thấy ở giữa có khe nứt, một con đường ruột dê ngoằn ngoèo vươn ra phía trước rồi biến mất ở đằng xa như một kỳ tích. Cũng có lúc dưới đất đột nhiên mọc lên mấy trụ đá nhọn hoắt, cao ngất chọc tận mây trời, phía trên mấy trụ đá ấy kẹt cứng một tảng thiên thạch thể tích lớn hơn chúng gấp mấy lần, nhìn đung đưa như trứng để đầu đẳng, vậy mà họ vẫn phải đi qua bên dưới tảng thiên thạch đó, mất mấy tiếng đồng hồ. Cũng có nhiều khi, họ phải vòng qua vòng lại trong các hang động như mê cung. Trong hang động đá núi lửa có một loại địa hình hết sức đặc biệt, nhìn thì tưởng bằng phẳng trơn bóng, nhưng thực chất lại có những lỗ nhỏ dạng tổ ong. Khi có nước suối chảy qua, thứ nham thạch như miếng bọt biển này hút đầy nước, người nào bất cẩn giẫm lên đó sẽ chẳng khác nào giẫm phải bẫy, vách đá xung quanh sẽ như thằng bé nghịch ngợm tè ra một dòng nước suối trong mát phun lên người kẻ không may. Mỗi lần như thế, những người khác đều cười ồ lên sảng khoái.

                                                                                                                            

Họ cứ vừa cười vừa nhanh nhẹn tiến lên phía trước, dọc đường chông gai, song ai nấy hưng phấn lạ kỳ, cảnh sắc tươi đẹp cùng không khí trong lành của nơi đây đủ để xua tan mọi mệt mỏi. Phía trước không có đường, thì tìm một con đường khác, gặp núi thì vượt núi, gặp rừng thì băng rừng, thiên nhiên vĩ đại cũng không chút tiếc rẻ mà đem hết thảy mọi quang cảnh kỳ dị nhất của thế gian phơi bày ra trước mặt họ, khiến họ không ngớt trầm trồ thán phục trước núi non, cây cối, mây trời của nơi đây...

                                                                                                                            

Còn về các loài sinh vật, sau khi quan sát hình thái các loài sinh vật dọc đường đi, họ phát hiện hình thể của các loài động vật họ côn trùng có xu thế thu nhỏ lại nhanh chóng. Sean giải thích, đây là một quá trình tiến hóa, thể hình của các loài côn trùng có xương ngoài tăng đến một kích cỡ nhất định sẽ ngừng lại; trong khi đó các loài sinh vật xương trong mới xuất hiện lại có thể trở nên to lớn hơn nữa. Lúc này, côn trùng đã từ kẻ đi săn trở thành con mồi, mà con nào nhỏ hơn thì dễ lẩn trốn hơn, có cơ hội sống sót cao hơn... tất cả đều chỉ vì sinh tồn!

                                                                                                                            

Điều làm họ cảm thấy may mắn nhất là, loài quái thú cao ba tầng lầu mà họ luôn lo lắng từ đầu, đến nay vẫn chưa xuất hiện lần nào!

                                                                                                                            

Ngày thứ mười ở tầng bình đài thứ hai, họ không thể không rời khỏi vùng ven để đi sâu vào bên trong. Vì địa hình nơi này hơi giống chiếc xe goòng, bên ngoài cao bên trong thấp, phần mép bên ngoài chỉ còn lại những đồi đá trơ trọi. Mà lúc này, họ đã ba ngày không phát hiện được dòng suối nào, nước dự trữ cũng sắp hết đến nơi.

                   

                                                                                                         

Từ vùng ven đi vào bên trong chừng gần chục cây số, cuối cùng phát hiện một vùng hồ có thể lấy nước, liên tiếp chín cái liền. Kích cỡ và hình dáng của chín cái hồ này giống nhau đến kinh người, hệt như một hàng dấu chân của người khổng lồ để lại trên bề mặt nham thạch. Nơi đây là một vùng đất trũng, xung quanh có vô số dòng chảy ngầm đổ dồn về, diện tích mỗi cái hồ áng chừng khoảng bốn năm chục cây số vuông, nối liền thành một chuỗi ngay ngắn. Bên bờ hồ rải rác những khu rừng đá thưa thớt, các trụ đá cái cao cái thấp, nhưng bề ngoài rất giống nhau, na ná một loại nấm ăn có tên là nấm đùi gà. Kỳ thực, người đầu tiên phát hiện ra rừng đá này nghĩ rằng, những trụ đá ấy rất giống với sinh thực khí của đàn ông, chỉ có điều không dám nói ra mà thôi.

                                                                                                                            

Lúc này, bọn họ đã bắt đầu xuất hiện những bất đồng về phương hướng của cả nhóm. Sean cho rằng, vùng xung quanh không thấy có nguồn nước nào rõ rệt, dải đất bên rìa thạch lâm chỉ mọc toàn những cây cao to rậm rạp, nơi đây có khả năng là nơi tụ tập của quái thú, sau khi lấy đủ nước, cần lập tức rời đi. Nhưng hầu hết mọi người còn lại đều cho rằng, bây giờ trời đã muộn, dù có rời đi cũng không thể trở về khu vực mép bình đài, rồi cũng vẫn phải ở lại trong rừng sâu, so với đụng độ quái thú trong rừng sâu, thì chi bằng cứ ở lại bên hồ nước, ít nhất thì ngày mai cũng có thể mang theo được nhiều nước hơn. Mà kết quả quan sát khu vực rìa xung quanh hồ nước cho thấy, không phát hiện ra dấu chân hay xương cốt của loài động vật khổng lồ nào, thậm chí còn chẳng phát hiện ra dấu vết hoạt động của loài sinh vật nào cả, trong hồ cũng hết sức bình lặng. Lữ Cánh Nam phán đoán sơ bộ, nơi này không có quái thú qua lại, ít nhất là mấy ngày gần đây chưa từng xuất hiện, và khả năng có sinh vật sống theo đàn lớn ở khu vực quanh đó cũng rất thấp.

                         

                                                                                                   

Về vấn đề này, Nhạc Dương đã đưa ra mấy suy luận: thứ nhất, hồ nước này chỉ hình thành trong thời gian ngắn, chẳng hạn ở tầng thứ ba hoặc tầng thứ hai này đổ mưa lớn, những dòng chảy ngầm sẽ dồn vào các chỗ trũng thấp rồi hình thành nên một hồ nước thế này, khi mưa ngừng lại, hồ nước sẽ lại nhanh chóng biến mất; thứ hai, các dòng chảy ngầm tụ lại thành hồ này lộ ra trên mặt đất ở nơi nào đó khác, những chỗ đó tiện lấy nước hơn, vì vậy các sinh vật quanh vùng cũng tự nhiên chẳng đến đây tụ tập làm gì, mà chỉ thỉnh thoảng mới ghé qua; thứ ba, xung quanh đây có một kẻ săn mồi siêu cấp cực kỳ đáng sợ, nơi này đã trở thành hồ nước riêng của chúng, các loài sinh vật khác đương nhiên cũng không dám lại gần, còn việc không để lại dấu tích thì bởi bùn dưới đất rất mềm, dù là có dấu chân hay vết tích gì cũng sẽ biến mất rất nhanh, mà sau khi chết thì xương cốt cũng chìm hết xuống dưới bùn thôi.

                           

                                                                                                 

Nếu suy luận của Nhạc Dương chính xác, thì bên bờ hồ này chẳng những không nguy hiểm, mà ngược lại còn là một nơi tương đối an toàn. Nói theo cách của Trương Lập là, dù có kẻ săn mồi siêu cấp đáng sợ ấy tồn tại đi chăng nữa, thì chỉ cần bố trí mấy cái bẫy đơn giản để phát hiện và cảnh báo là cũng đủ rồi. Các loài vũ khí uy lực lớn của họ, chính là chuẩn bị để đối phó với những kẻ săn mồi đáng sợ như thế kia mà.

                                                                                                                            

Chỉ có Ba Tang ủng hộ quan điểm của Sean. Lý do của anh ta rất đơn giản, hồ nước này quá yên tĩnh, yên tĩnh đến bất bình thường, yên tĩnh đến mức có gì đó kỳ dị. Nếu không phải vạn bất đắc dĩ, anh ta quyết không muốn cắm trại ở đây một chút nào.

                                                                                                                            

Muốn đưa ra phán đoán giữa cảm tính và lý tính là tương đối khó khăn, không ai nghi ngờ lý luận của Sean và trực giác của Ba Tang, có điều, cũng không ai phản bác lại quan điểm của Nhạc Dương và Lữ Cánh Nam. Chủ yếu nhất là, đối với những người liên tiếp nhiều ngày thiếu nước, cái hồ trước mắt có thể nói là một thứ dụ hoặc, những người có thể kháng cự lại sự hấp dẫn của nó thực sự rất ít. Trương Lập thấy mọi người cứ do dự không quyết, bèn đưa ra một hệ thống phòng ngự và cạm bẫy hoàn thiện hơn nữa. Anh sẽ đào một cái hào cách ly xung quanh khu trại, bên cạnh hồ nước, đường kính ít nhất năm mét trở lên, trong hào bỏ các loại gỗ dễ cháy, đằng nào thì ở đây nhiều nhất chính là gỗ, rồi tẩm dầu vào. Nếu gặp tình huống khẩn cấp, chỉ cần đốt lửa là sẽ hình thành một vách chắn hết sức hiệu quả.

                                                                                                                            

Nghe Trương Lập nói xong, đội trưởng Hồ Dương cũng gia nhập vào hàng ngũ những người ủng hộ hạ trại, Triệu Trang Sinh tất nhiên là theo sát Nhạc Dương, còn đối với Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam, hồ nước còn một điểm lợi rất quan trọng khác... chính là có thể tắm rửa. Tuy họ đã quen với việc bôn ba gió bụi, cả ngày làm bạn với đầm lầy bùn đất, nhưng thiên tính của phụ nữ vốn là vậy, nếu có thể tắm mà phải bỏ lỡ cơ hội thì họ còn khó chịu hơn cả bị giết chứ chẳng nghi. Cảm giác quần áo thấm đẫm mồ hôi dính chặt vào người như một cái khăn bông dính đầy nhựa cao su, vừa lành lạnh vừa trơn trơn ấy, họ còn thấy sợ hơn cả gặp phải quái thú khổng lồ, đặc biệt là khi ở bên cạnh Cường Ba thiếu gia, cảm giác ấy lại càng chết người hơn nữa. Trong hai phe, Ba Tang và Sean rõ ràng rơi vào thế yếu, thậm chí họ còn chẳng có cả tư cách để thảo luận, cục thế rõ ràng là nghiêng hẳn về một phía. Người duy nhất không có ý kiến là pháp sư Á La, một Mật tu giả. Đối với ông, thích ứng với mọi hoàn cảnh để sinh tồn vốn là điều cơ bản nhất. Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba quyết định sẽ hạ trại lại đây, đồng thời đề nghị mấy người bọn Nhạc Dương đi kiểm tra xung quanh. Trương Lập bận sắp xếp các cạm bẫy, Nhạc Dương bèn gọi Triệu Trang Sinh cùng mình đi ra xung quanh xem xét.

                                                                                                                            

Có điều, lần này Nhạc Dương không kiểm tra trong vòng bán kính một trăm mét xung quanh khu trại như thường lệ. Anh dẫn Triệu Trang Sinh đi xa dần, hơn nữa hình như còn không hề chú ý đến những cây to nghiêng ngả và các bụi cây bị đè dẹp xuống, tâm tư cơ hồ đã để ở một nơi khác.

                                                                                                                            

Trong rừng u ám, lạnh lẽo, gió luồn lách khắp mọi nơi khiến cây cối run rẩy phát ra những âm thanh xào xạc, khiến người ta bất giác đưa tay lên khép cổ áo. Mặt đất phủ đầy rễ cây và dây leo, ngoài ra chỉ có các vũng nước đọng, Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh người trước kẻ sau giẫm lên đất bùn ẩm ướt, tiếng bước chân lộn xộn vang lên trong khu rừng u tĩnh, gấp gáp mà dường như vẫn có chút kìm nén.

                                                                                                                            

Triệu Trang Sinh vẫn chưa nhận ra vẻ dị thường của Nhạc Dương, vẫn tấp tểnh bước theo phía sau, không ngừng hỏi han: “Này, Nhạc Dương, hình như chúng ta đi xa khu trại quá rồi thì phải.”

                                                                                                                            

“Không xa, tôi đang đo đạc một chút.”

                  

                                                                                                          

“Có phải cậu phát hiện được gì rồi không? Sao cứ đi thẳng mãi thế? Đi nữa là đến bên dưới tầng bình đài thứ ba, đó là khu bị khuất bóng, liệu có quá nguy hiểm không?”

                                                                                                                            

“Biết rồi, cứ đi đi.”

                                                                                             

                               

“Nhạc Dương, cậu xem kìa, mấy cái cây kia sao nghiêng hết cả đi thế kia nhỉ? Rễ cây cũng bật cả lên nữa. Lạ thật, cây to thế kia mà, lẽ nào bị gió thổi bật cả lên?”

                                                            

                                                                

“Chỗ này sao mà gập gà gập ghềnh thế, chỗ nào cũng đầy các vũng nước nhỏ, chẳng may mà trượt ngã thì tôi hết quần áo thay rồi đấy. Nhạc Dương, cậu còn đồ thay không?”

                         

                                                                                                   

“Hết rồi.”

                                                                                                                            

“Được chưa thế, chúng ta đi xa thế này rồi cũng có phát hiện con vật lớn nào đâu, có phải nên đi vòng về khu trại rồi không? Hôm nay cậu làm sao thế? Cứ đi mãi về một hướng, cũng chẳng bảo tôi là phát hiện được gì rồi.”

                                                          

                                                                  

Nhạc Dương dừng lại, đột nhiên xoay người đối diện với Triệu Trang Sinh. Triệu Trang Sinh nhìn chằm chằm xuống đất, thốt lên: “Nhạc Dương, cậu xem, cái vũng nước này trông kỳ lạ thật, sao mà giống dấu chân thế nhỉ?” Anh ta lấy tay đo thử độ dài của vũng nước ấy, lại nói tiếp: “Chậc, nếu là dấu chân, thì con này cũng to lắm đấy, chắc chúng ta không gặp phải quái thú cao ba tầng nhà gì đó đâu nhỉ... Khục khục, may mà tôi không có cái miệng chim lợn như Trương Lập.”

                                                                                                                            

Nhạc Dương ngần ngừ giây lát, cuối cùng cũng chầm chậm cất tiếng: “Còm à, tôi...”

                            

                                                                                                

Triệu Trang Sinh đột nhiên kêu lên: “Có động tĩnh!”

                                                                                                            

                

Có tiếng lạo xạo vang lên, Nhạc Dương ngoảnh đầu nhìn, liền thấy một con vật nhỏ trông như con thằn lằn đứng trên hai chân chạy vụt ra bên dưới bụi cây, đang tròn mắt cảnh giác nhìn hai kẻ không mời mà tới khổng lồ. Triệu Trang Sinh nhanh chân đuổi lên mấy bước, cười cười: “Thằn lằn! Không phải chứ? Con này còn bé hơn con tắc kè hoa mà thầy giáo tôi ở Đức nuôi nữa, chẳng lẽ đó chính là tổ tiên của nhân loại trong truyền thuyết? He he, xem ra phải bắt về cho anh Sean giám định rồi.”

         

                                                                                                                   

Con thằn lằn nhỏ ấy dường như cảm nhận được nguy hiểm, vội chui tọt trở vào bụi cây. Nhạc Dương thấy không có gì nguy hiểm nữa, liền nhìn chằm chằm vào Triệu Trang Sinh hỏi: “Còm à, tôi hỏi cậu, mấy đêm nay cậu đã làm gì vậy?”

                                                                                                                            

“Gì hả? Cái gì mà làm gì? Thì ngoài canh đêm ra, chỉ có ngủ thôi thứ còn làm gì nữa.” Triệu Trang Sinh không dám nhìn thẳng vào mắt Nhạc Dương, mệt mỏi nghiêng người dựa vào một tảng đá hình dạng kỳ dị.

                                                                                                   

                         

Nhạc Dương không nói gì, chỉ lấy trong túi ra một nắm những thiết bị phát tín hiệu trông như viên đạn, thả từng cái từng cái xuống đất, cuối cùng để lại một cái trên lòng bàn tay, xòe ra về phía Triệu Trang Sinh: “Từ buổi tối hôm nhìn thấy khe hở trên đỉnh Shangri-la ở vách đá lớn, mỗi đêm cậu đều tìm cách đặt một cái thiết bị phát tín hiệu này, cho đến hôm nay tổng cộng đã có mười một cái, tất cả đều ở đây. Có thể cho tôi biết, tại vì sao không?” Giọng nói bình tĩnh của anh đã hơi run lên, ánh mắt Nhạc Dương nhìn Triệu Trang Sinh dần dần trở nên sắc bén.

                                                                                                                            

Triệu Trang Sinh không trả lời, anh ta chỉ lạnh lùng hỏi ngược lại: “Cậu giám sát tôi à?”

                                                                                                                            

Nhạc Dương nói: “Đúng vậy, trong phạm vi có thể, chú ý quan sát từng người đồng hành, đây chính là nhiệm vụ giáo quan giao cho tôi. Chỉ là tôi không thể ngờ, thực sự không thể ngờ, đến cả cậu cũng...”

                                                                                                                            

Triệu Trang Sinh không che giấu nữa, chỉ bướng bỉnh ngẩng cao đầu nói: “Đúng vậy, chính là tôi, cậu định làm gì? Giết tôi à?”

                                                                                                                            

Nhạc Dương buồn bã chau mày: “Còm, cậu làm việc cho tổ chức nào?”

                                                                                                                            

Triệu Trang Sinh cười cười: “Cậu có phải ngày đầu tiên làm lính trinh sát đâu, sao lại hỏi câu ngu xuẩn như thế. Hừ, chúng ta vào sinh ra tử để làm gì? Giáo quan giao cho cậu nhiệm vụ ấy, chắc chắn cậu không thể nghi ngờ mình tôi phải không. Chắc là cậu cũng biết, trong những người sống sót ra khỏi U Minh hà, thử hỏi có mấy người không có mục đích của mình chứ? Đừng có mà bảo với tôi là cậu lại cao thượng đến mức quên sống quên chết vì một người hoàn toàn không liên quan gì đấy nhé! Cậu dám nói là cậu không có mục đích không? Chẳng qua chỉ là ông chủ đứng sau lưng mỗi người khác nhau mà thôi. Hôm nay cậu đã vạch trần sự việc ra rồi, vậy thì tốt, chúng ta cứ thẳng thừng luôn đi. Nếu người sau lưng tôi đến đây, tôi cũng sẽ cho cậu được chút lợi ích, thấy sao hả?”

                                                                                                  

                          

Nhạc Dương thấy trái tim mình nguội lạnh, tiếc nuối lắc đầu: “Tôi từng nghĩ rằng, chúng ta sẽ là những người bạn thân thiết nhất, cậu cũng không phải là người có thể bán đứng bạn bè vì lợi ích, sao cậu lại trở thành như thế? Ở Đức, rốt cuộc cậu đã học những gì?” Anh như thể đang nhìn một người hoàn toàn xa lạ.

                                                                                                                            

Triệu Trang Sinh cười khổ nói: “Lẽ nào cậu không phát hiện ra? Con người bao giờ chẳng sống vì một số lợi ích nào đó, đây chính là chân lý của cuộc đời. Mỗi người đều có giá của mình, đó chính là giá trị của cuộc sống, cậu cũng không thể nào thoát ra khỏi cái vòng đó. Tôi làm việc mình cần phải làm vì một cái giá thích hợp, phải lấy mạng ra đổi đấy. Cậu biết mà, thực ra tôi không hề muốn đối đầu chính diện với cậu một chút nào, nếu cậu thực sự đã quên tình bạn từng có giữa chúng ta...” Khẩu súng trong tay anh ta lặng lẽ từ từ giơ lên.

                     

                                                                                                       

“Đừng ngu ngốc nữa!” Nhạc Dương cũng giơ súng lên, chỉ có điều, anh có chính khí lẫm liệt, tốc độ rút súng cũng nhanh hơn Triệu Trang Sinh nhiều. Nhạc Dương một tay cầm súng, một tay nắm cái máy phát tín hiệu đó, nói với Triệu Trang Sinh: “Sử dụng các dòng hạt năng lượng cao sinh ra mạch xung biến tần, phát đi tín hiệu sóng điện theo từng khoảng thời gian nhất định, rồi vệ tinh đồng bộ tiếp nhận, lại truyền đi qua các trạm trung chuyển trên mặt đất. Phương pháp tiên tiến lắm, nhưng vô dụng thôi! Dù tôi không phát hiện ra, dù tôi để chúng lại chỗ đó, người ở sau lưng cậu cũng không nhận được tín hiệu gì hết. Cậu chưa trèo lên đỉnh núi tuyết đó, nên cũng không biết ở đó có từ trường rất kỳ quái, tất cả mọi tín hiệu sóng điện từ đều bị hút hết. Tín hiệu của cậu cũng không thể nào phát đi được! Cậu đừng ảo tưởng nữa, tôi đảm bảo với cậu, người của cậu tuyệt đối không thể xuất hiện ở nơi này đâu!” Nhạc Dương ném mạnh cái máy phát tín hiệu cầm trong tay vào mặt Triệu Trang Sinh, sắc mặt Triệu Trang Sinh biến hẳn đi.

                                                                                                                            

Ngữ khí Nhạc Dương trở nên mềm mỏng hơn: “Đừng như vậy nữa được không. Chắc cậu cũng biết, tôi không bao giờ ngờ được rằng sẽ có một ngày chúng ta cầm súng chĩa vào nhau thế này, cũng chưa từng nghĩ sẽ tổn thương đến cậu. Hôm nay tôi dẫn cậu đi xa như vậy, chính là không muốn để những người khác biết. Trở về đội ngũ, tiếp tục tiến lên phía trước với mọi người đi. Ở vùng rừng nguyên sinh này, sức của chúng ta là cực kỳ nhỏ bé, mỗi ngày đều phải tranh đấu với mọi thứ xung quanh để sinh tồn, hà tất phải tranh đấu với nhau nữa? Tôi có thể không nói chuyện hôm nay với bất cứ người nào khác, chỉ cần cậu đừng làm những chuyện tổn thương đến mọi người nữa. Cậu hỏi tôi gia nhập đội ngũ này với mục đích gì, vậy thì tôi có thể nói cho cậu biết. Mới ban đầu, đó chỉ là nhiệm vụ của tôi, nhưng bây giờ, đó đã trở thành sứ mệnh. Trong suốt quá trình ấy, mạng của tôi, đã được Cường Ba thiếu gia và những đồng đội khác liều chết cứu về tổng cộng bốn lần, ít nhất có bốn lần tôi đã chết chắc, thế nhưng tôi vẫn sống, đây chính là nguyên nhân tại sao tôi lại ở đây.”

                                                                                                                            

Triệu Trang Sinh như thể đã hiểu ra: “Để báo ân?”

                                                                         

                                                   

Nhạc Dương nói với giọng khinh thường: “Cậu lại sai rồi. Thực ra, tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ báo ân gì cả, chỉ là khi ở cùng với mọi người, tôi cảm thấy rất vui vẻ, rất đủ đầy, chỉ đơn giản vậy thôi. Vận mệnh của mọi người đã trói chặt lại với nhau, chúng tôi có thể vừa cười đùa vừa đối mặt với mọi thiên tai nhân họa và tất cả kẻ địch mạnh nhất, dù cho gặp phải bao nhiêu khó khăn, khi ở bên mọi người, cậu sẽ không thấy sợ hãi nữa. Chẳng những vậy, chặng đường này, sẽ là ký ức cả đời không thể nào quên được, đặc biệt là khi cậu cống hiến một phần sức lực, dù chỉ là rất nhỏ nhoi thôi, cậu cũng sẽ hiểu rõ được giá trị tồn tại của mình hơn bất cứ lúc nào. Cảm giác ấy, sợ rằng cậu chưa bao giờ có rồi. Vì vậy, tôi hy vọng, cậu có thể gia nhập với chúng tôi. Ở vùng đất này, cho đến hiện giờ, chúng ta là những con người duy nhất còn sống sót, sao chúng ta không thể buông bỏ tất cả mọi thành kiến mà đoàn kết lại chứ?”

                                                    

                                                                        

Triệu Trang Sinh cúi đầu không nói gì, nhưng khẩu súng trên tay đã từ từ hạ xuống. Nhạc Dương cũng hạ nòng súng xuống. Nhưng trong chớp mắt, Triệu Trang Sinh lại giơ súng lên. Lần này, anh ta nhanh hơn Nhạc Dương. “Nghe cũng có có lý lắm đấy, lại cảm động nữa, nhưng như cậu nói đấy, tôi không có cảm giác đồng sinh cộng tử giống cậu và bọn họ. Nếu cậu không nói chuyện này ra, nói không chừng chúng ta còn có thể chung sống hòa bình; nhưng cậu đã vạch trần tôi rồi, vì vậy...” ngón tay đặt trên cò súng của Triệu Trang Sinh nhất thời cũng không thể nào bóp lại, chỉ thấy Nhạc Dương đứng đối diện với anh ta đang trợn tròn mắt, nhìn chằm chằm vào mình như không thể tin được, không ngờ lại cũng giương súng lên, cậu ta thật sự muốn chết hay sao!

                                                                                                                            

Tiếng súng cùng lúc vang lên, Triệu Trang Sinh bắn trúng cánh tay cầm súng của Nhạc Dương, nhưng Nhạc Dương lại bắn vào chỗ khác. Anh ta ngây người, Nhạc Dương không bắn mình, vậy cậu ta bắn gì? Chỉ nghe Nhạc Dương lớn tiếng hét lên: “Mau chạy đi!”

                                                                                         

                                   

___________

                                                                                                                                                                                                                 

                                        

Chú thích:

                                                                                                                            

1. Còn được gọi là Uluru, là một khối kiến tạo sa thạch ở phía Nam của Northern Territory, miền Trung Australia.

                                                                                                                                                                                                                                

                                                                                                                                                      

Thằn lằn tiền sử

                                                                                         

                                                                                                                                                                

Triệu Trang Sinh vẫn còn chưa hiểu ra, chỉ cảm thấy một luồng sức mạnh khổng lồ từ chỗ eo hông truyền lại, tựa hồ nghe thấy tiếng xương cốt vỡ nát, thân thể bỗng nhẹ bẫng, sao mình rời khỏi mặt đất thế này, màu đen ấy, có phải là máu không? Máu sao đỏ đến mức hóa đen thẫm thế kia?

                                                                      

                                                      

Còn Nhạc Dương lại nhìn thấy, tảng nham thạch kỳ quái sau lưng Triệu Trang Sinh bỗng nhúc nhích, lẳng lặng không một tiếng động, mở cặp mắt to như chuông đồng. Anh vừa cất tiếng cảnh báo, con vật khổng lồ đã há miệng đớp một cái, nghiến Triệu Trang Sinh vào trong, máu tươi bắn tung tóe khắp mặt đất. Phát súng của Nhạc Dương bắn trúng một bên má con quái vật, khiến nó đau đớn hất văng Triệu Trang Sinh, đồng thời đứng bật hẳn dậy. Sắc trời lập tức tối sầm, thân hình nó thật đáng sợ, không ngờ còn cao hơn cả những bụi cây cao mười mấy mét kia. Tảng đá lớn mà Triệu Trang Sinh dựa vào, hóa ra lại chính là cái đầu của con quái khổng lồ này! Nhạc Dương giật mình chấn động, trong đầu chỉ vang lên một giọng nói: “Quái thú cao ba tầng nhà! Quái thú cao ba tầng nhà...”

                                                                                                                            

Thể hình cao lớn cùng hàm răng dài sắc nhọn như những lưỡi mã tấu lập tức khiến Nhạc Dương liên tưởng đến kẻ săn mồi khủng khiếp nhất kỷ Jura, khủng long bạo chúa! Tuy con vật trước mắt không giống trên phim lắm, nhưng chắc chắn không sai, chúng đều là những kẻ săn mồi đáng sợ nhất. Nhìn bề ngoài, nó giống một con cá sấu khổng lồ biết đi đứng trên hai chân. Bị con quái vật đi đứng như người lại mọc một cái đầu dài như cá sấu ấy nhìn chằm chằm, tự sâu trong đáy lòng Nhạc Dương bất chợt dâng tràn cảm giác sợ hãi của một con mồi. Nhưng lúc này anh không thể né tránh nữa. Anh liếc mắt nhìn theo hướng Triệu Trang Sinh bị hất văng lên rơi xuống, nghiến chặt răng, vừa nổ súng vừa dùng thiết bị liên lạc trên đồng hồ nguyên tử cầu cứu. Đồng hồ nguyên tử không có hồi âm, Nhạc Dương giờ mới sực nhớ ra, anh và Triệu Trang Sinh đã đi quá xa. Đạn nã vào con cá sấu hình người làm bắn tóe ra lên một thứ huyết tương màu xanh, nhưng chỉ khiến nó càng thêm nổi trận lôi đình, căn bản không thể gây ra những vết thương chí mạng. Con vật khổng lồ gầm lên, khiến người ta run rẩy, rồi nó cúi đầu làm mặt đất rung bần bật. Nhạc Dương sợ hãi ngây ra mất mấy giây, đến khoảnh khắc sinh tử mới lách được người né theo bản năng. Con quái vật không thu thế kịp, đâm thẳng vào một thân cây lớn. “Ầm” một tiếng, gốc cây khổng lồ đã bị con quái vật khỏe vâm đó húc bật, nghiêng sang một bên. Con quái lại ngẩng đầu gầm lớn, thân hình đung đưa, tách hai thân cây lớn ra, lao về phía Nhạc Dương.

                                                                                                                            

Nhạc Dương cầm súng nấp sau một thân cây đường kính mấy mét, bàn tay đã hơi run rẩy, không ngừng tự nhắc nhở chính mình: “Bình tĩnh đi nào, Nhạc Dương, mày phải bình tĩnh. Con quái ấy ngoài được cái to xác ra thì chẳng có gì đáng sợ cả, không có gì đáng sợ cả... Mày nhất định phải nghĩ cách báo cho Cường Ba thiếu gia, nhất định có cách... Phải rồi! Lựu đạn khói!”

                                                                                                                            

Mặt đất chấn động, con quái vật khổng lồ đã hất thân cây Nhạc Dương ẩn nấp sang một bên. Nhạc Dương phơi ra lồ lộ giữa một khoảng đất trống, chỉ còn biết cầu khẩn lựu đạn khói sẽ có hiệu quả nữa mà thôi. Con cá sấu khổng lồ giận đùng đùng nhìn con vật hai chân đã gây đau đớn cho thân thể nó, nhất định phải bắt nó bỏ vào miệng nghiền nát ra mới hả được cơn giận này. Đột nhiên, con côn trùng nhỏ ấy phóng ra những tia sáng chói lóa, rồi một hóa làm hai, luồng sáng ấy phát ra những âm thanh khó chịu bay về một phía! Kẻ săn mồi đã bị chọc giận hết cỡ! Nó gầm lên đuổi về phía đó.

                                                                                                                            

Lồng ngực Nhạc Dương vẫn không ngừng nhấp nhô lên xuống, anh không dám do dự thêm dù chỉ một giây, vừa nãy tay hơi run run, ném quả lựu đạn đi không được xa lắm. Trước khi con vật giống khủng long bạo chúa ấy quay đầu lại, cần phải thông báo với bọn Cường Ba thiếu gia, bằng không cả mình lẫn Triệu Trang Sinh đều không thể thoát khỏi. Anh rút ra một cây gậy ngắn, bẻ đôi ra, một luồng khói tím cuồn cuộn dâng lên. Nhạc Dương ném cây gậy tỏa khói sang hướng khác, còn mình thì lợi dụng sự yểm hộ của các thân cây bò về phía Triệu Trang Sinh.

                                                                   

                                                         

Trong trại, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang mới lắp xong đài quan sát. Họ vừa từ trên một thân cây lớn trèo xuống, bỗng nghe thấy tiếng gầm váng động cả không gian từ trong rừng dội ra, mặt đất rung lên, kế đó lại có hai tiếng khác nữa, mọi người trong trại đều ngừng tay, đưa mắt nhìn về phía âm thanh ấy.

                                                                                                                            

Trương Lập và Lữ Cánh Nam đứng bên cạnh hàng cột bắt voi vẫn chưa chôn xong, chỉ thấy pháp sư Á La lướt tới, nói: “Sinh vật khổng lồ, lấy vũ khí, chúng ta đi!”

                                                                                                                           

“Sinh vật khổng lồ?” Sắc mặt Trương Lập lộ vẻ nghi hoặc, âm thanh nghe có vẻ đáng sợ thật, nhưng âm thanh lớn chưa chắc gì thể hình đã lớn. Lữ Cánh Nam dường như biết được Trương Lập đang ngờ vực điều gì, liền dừng tay, cầm khẩu AK47 nhanh chóng chạy đi, buông lại một câu: “Mặt đất rung lên, con vật này rất lớn, cậu canh giữ ở đây, hoàn thành nốt hàng cọc bẫy voi ấy đi.”

“Sao tôi chẳng thấy gì cả nhỉ?” Trương Lập nằm rạp xuống đất thử cảm giác.

                                                             

                                                               

Trác Mộc Cường Ba nhìn về phía đó chau mày nói: “Là hướng đi của Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh.” Đường Mẫn đặt thanh củi trên tay xuống, kéo kéo vạt áo gã, rồi chỉ về phía xa xa: “Cường Ba, anh nhìn xem!” Một làn khói tím uốn lượn trên bầu không. Ba Tang cũng từ trên đài quan sát nhảy xuống, còn cách mặt đất hai chục mét liền vung tay ra, lợi dụng dây móc để đáp đất, không nói một lời đã chạy đi lấy vũ khí hạng nặng, rõ ràng anh ta cũng đã thấy màn khói đó. “Đạn khói cầu cứu! Bọn Nhạc Dương gặp nguy hiểm rồi!” Trác Mộc Cường Ba còn chưa nói dứt lời, đã lao về phía xảy ra chuyện. “Ba Tang, mang vũ khí theo tôi, Trương Lập, cậu và những người còn lại mau hoàn thành các cạm bẫy, rồi lên cây ẩn nấp.”

                                                                                                                            

“Nhạc Dương! Nhạc Dương! Các cậu ở đâu? Trả lời tôi!” Trác Mộc Cường Ba vừa chạy vừa hỏi, nhưng mãi cũng không thấy có hồi âm gì, bất giác thầm chửi: “Chết tiệt thật!” Bốn người chạy như bay trong rừng về phía màn khói tím đang tản ra.

                                                                                                                            

Chừng mười phút sau, phía trước lại vang lên tiếng ầm ầm, pha lẫn cả tiếng súng, Trác Mộc Cường Ba không khỏi lấy làm ngờ vực: “Sao bọn Nhạc Dương lại đi xa thế nhỉ?... Xem ra mấy người pháp sư Á La đã đến rồi.”

                                                                      

                                                      

Đến khi Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang chạy đến, cuộc chiến đã kết thúc, xác con quái vật khổng lồ nằm vật ra đất, vô số thằn lằn nhỏ bâu vào, tổng cộng phải đến cả trăm con ngốn ngấu trên xác chết quái thú, cảnh tượng như thể một miếng thịt lớn bò bị kiến bu đen.

                                                                                                                            

“Nhạc Dương!” Nguy hiểm đã qua, Trác Mộc Cường Ba không buồn đưa mắt nhìn cảnh tượng khủng khiếp trước mặt, lập tức nghĩ đến Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh vẫn đang nấp trong tán cây. Họ vòng qua xác chết con khủng long bạo chúa, khiến bọn thằn lằn nhỏ náo động một phen, nhưng chỉ thoáng chốc sau đã yên lặng trở lại. Nhìn thấy hàm răng nhọn hoắt còn nguyên vẹn kia, Ba Tang lập tức nhớ đến bộ răng đã cắm phập vào thân thể người đồng đội Lalacat của mình.

                                                                                                                            

Đến bên cạnh gốc cây, chỉ thấy Nhạc Dương đang ngồi dưới đất, vạt áo xé ra băng trên cánh tay, còn Triệu Trang Sinh thì gối lên đùi anh, nửa phần thân dưới và nửa phần thân trên đã đứt lìa, chỉ còn dính một lớp da. Trái tim Trác Mộc Cường Ba như trĩu xuống, gặp phải tình cảnh này thì thần tiên cũng khó mà cứu được, chẳng ngờ Triệu Trang Sinh lại vẫn còn sống. Anh ta có thể cầm cự được đến tận giờ cũng đã là một kỳ tích rồi.

                                                                                     

                                       

Nhạc Dương nói: “Còm phát hiện ra dấu chân khổng lồ và các thân cây bị đổ nghiêng ngả, chúng tôi bèn lần theo dấu vết, tại tôi sơ ý, lẽ ra không nên dẫn cậu ấy đi xa thế. Tôi lẽ ra không nên dẫn cậu ấy theo...” Trong mắt anh chỉ còn toàn sự hổ thẹn và hối hận, trong vẻ đau đớn lộ ra trên gương mặt cũng thấp thoáng cả chút hoang mang. Ba Tang vỗ nhẹ lên vai Nhạc Dương, ý bảo anh không cần tự trách mình quá.

                                                               

                                                             

Gương mặt Triệu Trang Sinh đã không còn chút sắc máu, đôi mắt lạc thần không biết đang nhìn Nhạc Dương hay Trác Mộc Cường Ba, hay ngẩng lên nhìn bầu không, cặp môi nhợt nhạt mấp máy nói: “Cám ơn..., đây là, mạng. Cường Ba thiếu gia, tôi... tôi không có gì để nói... nữa, tôi chỉ muốn nghe anh hát, anh có thể hát cho tôi bài... Trời cao biển...”

                                                                                                         

                   

Trác Mộc Cường Ba quỳ một chân xuống, khẽ cất tiếng hát: “Thứ tha cho tôi cả đời ngỗ nghịch yêu tự do, cũng sợ có ngày sẽ vấp ngã, mất đi lý tưởng, ai ai cũng có thể, sợ gì ngày sau chỉ có tôi cùng anh. Mất đi lý tưởng, ai ai cũng có thể, sợ gì ngày sau chỉ có tôi cùng anh...” Giọng ca trầm trầm hồn hậu lan tỏa trong khu rừng, tiếng ca tang thương mà hào sảng vẳng đi vẳng lại trên mặt đất, Triệu Trang Sinh thỏa mãn nhắm mắt lại, pháp sư Á La niệm lên một bài kinh siêu độ.

                

                                                                                                            

Một con thằn lằn nhỏ nằm bò ra trên thi thể quái thú nhổm người đứng thẳng dậy, nhưng rồi nó mau chóng phát hiện ra, miếng thịt vừa rứt được đã bị đồng loại không chút khách khí cướp mất, nó lại rứt một miếng thịt nữa, xem ra nhét đầy cái bụng vẫn quan trọng hơn thưởng thức âm nhạc nhiều.

                                                                                                                  

          

Di thể Triệu Trang Sinh được khiêng về chỗ cắm trại, mọi người cùng mặc niệm tiếc thương người bạn yêu ca hát này của Nhạc Dương. Sau khi tìm hiểu tình hình, Sean đề nghị trở lại chỗ xác chết quái thú xem xét, tiện thể cũng xem luôn cả lũ thằn lằn nhỏ. Trương Lập an ủi Nhạc Dương mấy câu, rồi cũng tỏ ý muốn đi cùng. Anh biết, lúc này nên để Nhạc Dương và bạn chiến đấu cũ ở một mình với nhau thì tốt hơn,.

                                                                                              

                              

Ba Tang dẫn bọn đội trưởng Hồ Dương đi tìm lại chỗ con quái thú, còn Nhạc Dương một mình cầm chiếc xẻng gấp xúc từng xẻng từng xẻng một, đào ra một cái huyệt, vừa đào, anh vừa hồi tưởng lại: “Hôm nay chúng ta lập bia cho họ, ngày mai, ai sẽ khắc chữ lên tấm bia của chúng ta đây?” Đó là câu Triệu Trang Sinh chính miệng nói với anh khi họ đứng trước gò Mã Ni lúc mới đến Shangri-la này, thật không ngờ, nhanh như vậy đã ứng nghiệm rồi. Đồng thời, một câu nói khắc nghiệt khác của Triệu Trang Sinh cũng làm anh hết sức lo lắng: “Cậu nghĩ rằng trong đám người sống sót ra khỏi U Minh hà ấy, có mấy người không có mục đích riêng chứ!”

                                                                                                          

                  

Mấy người bọn Sean đi rất lâu mới trở lại. Sau khi cử hành một tang lễ đơn giản cho Triệu Trang Sinh, Nhạc Dương tự tay chôn bạn. Sau đó, Sean mới nhăn mặt nhăn mày phân tích một lượt. Theo anh ta, loài sinh vật ấy không phải khủng long bạo chúa, nhưng còn kinh khủng hơn. Miệng nó rộng hơn, răng dài hơn, sắc bén hơn, lưỡi tẽ ra, hơi giống thằn lằn, có thể bắt được những mùi cực nhẹ trong không khí, trên cổ có nếp nhăn, không gian hoạt động của các khớp xương cổ rất lớn. Đầu nó thậm chí có thể xoay chuyển một trăm tám mươi độ, chi trên to lớn mạnh mẽ, ngón chân có vuốt, đuôi hơi ngắn. Từ những dấu vết để lại trên các thân cây khổng lồ cao cả trăm mét, con quái thú cao hơn mười mét này rõ ràng cũng biết leo trèo. Dựa trên những thứ chưa tiêu hóa hết trong dạ dày của nó, có thể thấy đây là loài động vật ăn thịt. Lúc họ thấy xác quái thú, da nó màu xanh nâu. Còn lúc Nhạc Dương trông thấy nó, da con quái thú này lại giống như màu sắc của nham thạch, chứng tỏ rằng nó có thể biến đổi màu sắc hòa lẫn với môi trường xung quanh như con tắc kè.

                                                                                                                            

Tóm lại, theo lời Sean, kẻ săn mồi khủng khiếp này tuyệt đối có thể là bá chủ của vùng. Tuy da nó không dẻo dai bền chắc như da khủng long, nhưng nếu đúng là có khủng long Tyrannosaurus thì rõ ràng chúng cũng chỉ có thể trở thành thức ăn cho loài sinh vật này mà thôi. Theo khái niệm sinh vật học, Sean gọi loài động vật này là thằn lằn khổng lồ tiền sử.

                                                                                                                            

Đội trưởng Hồ Dương ngây ra một lúc lâu, rồi mới thẫn thờ nói: “Con quái vật to thế này, còn biến đổi màu sắc làm gì nữa? Còn biết trèo cây, vô địch mẹ nó rồi còn gì!”

                                                                                                                            

Sean trầm mặc hồi lâu, cuối cùng vẫn nói ra cái kết luận càng khiến người ta rùng mình kia: “Chứng tỏ rằng ở tầng này, có loài sinh vật nào đó lấy thằn lằn tiền sử làm thức ăn, mới khiến nó không thể không tự bảo vệ mình mà phải học cách biến đổi màu sắc và leo cây.”

                                                                         

                                                   

Nghe Sean nói con thằn lằn khổng lồ đó đáng sợ nhường nào, mọi người bất giác đưa mắt nhìn sang hai người đã tiêu diệt nó là Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La. Lúc đó Nhạc Dương đang bảo vệ Triệu Trang Sinh, còn Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đến nơi thì cuộc chiến đã kết thúc. Lữ Cánh Nam lắc đầu, nói pháp sư Á La đã một mình giết chết con thằn lằn khổng lồ.

                                                                                                           

                 

Nhìn đám người ngạc nhiên đến không thể khép miệng lại được ấy, pháp sư Á La điềm đạm nói: “Mỗi loài sinh vật, đều có nhược điểm của mình.”

                                                                                                   

                         

Sean gật đầu: “Hình như mắt con thằn lằn ấy đã bị bắn mù, chắc là pháp sư Á La trực tiếp nhét lựu đạn vào hốc mắt, làm tổ chức não của nó bị hủy hoại hoàn toàn. Không biết tôi nói đúng không vậy?” Thấy pháp sư Á La gật đầu, Sean lại bổ sung: “Có điều, tôi không biết làm cách nào mà pháp sư đứng được lên đầu con quái vật ấy.” Pháp sư Á La chỉ cười cười không nói gì.

                                                                                                                       

     

Vừa rồi, tiếng gầm của con quái thú đã khiến một dải xung quanh đây không còn con thú hung hãn nào dám lại gần, họ sẽ tạm thời được an toàn. Tuy nhiên họ vẫn còn một mối lo - chính là lũ thằn lằn nhỏ kia. Sean nói, đó chắc chắn không phải đời sau của con thằn lằn khổng lồ, mà giống như một dạng thằn lằn núi, có quan hệ cộng sinh với thằn lằn khổng lồ. Lũ thằn lằn nhỏ tự đem thân mình làm mồi dẫn dụ các loài ăn thịt khác đến chỗ con thằn lằn khổng lồ mai phục, sau đó ăn thức ăn thừa của thằn lằn khổng lồ. Còn nếu thằn lằn khổng lồ chết, đương nhiên lại trở thành thức ăn của thằn lằn nhỏ. Vuốt trước của chúng cũng có móng sắc để xé thịt vật săn, khoang miệng cũng có hàm răng sắc nhọn, mà số lượng đông đến trăm con thì không thể là chuyện đùa. Vì vậy mấy người bọn họ đã tiện thể quăng lên xác con thằn lằn khổng lồ ấy một quả lựu đạn, nổ cho bọn thằn lằn con banh xác hết quá nửa. Đội trưởng Hồ Dương giải thích, họ trở về muộn thế là vì Sean ở lại giải phẫu con thằn lằn khổng lồ, còn mang vài thứ về nữa.

    

                                                                                                                        

Trước ánh mắt chăm chú của mọi người, Sean lấy trong ba lô ra một khúc xương còn cả thịt, chính giữa phình to. Đội trưởng Hồ Dương nói trông giống như một loại nhạc cụ tên là hồ ti. Sean nói, khúc xương này là khoang cộng hưởng của con thằn lằn khổng lồ, chỉ cần thổi đúng cách thì có thể phát ra tiếng gầm lớn như vậy, các sinh vật lớn xung quanh nghe thấy âm thanh đó, thì sẽ không dám lại gần nữa, trừ phi là loài sinh vật lấy con thằn lằn khổng lồ ấy làm thức ăn. Nhưng theo quy luật của giới tự nhiên, chắc là không thể xuất hiện loài sinh vật nào như thế cả.

                                                                                   

                                         

Mọi người đều nhíu mày nhăn mặt, rốt cuộc cũng dễ dàng thổi được khúc xương kia dưới sự hướng dẫn của Sean. Nhạc Dương cho rằng, khúc xương này và cây sáo xương của Trác Mộc Cường Ba chỉ khác nhau về hình thức chứ công dụng thì chẳng khác gì mấy. Kế đó, Sean lại lấy ra mấy bình chất lỏng màu nâu vàng, nói với mọi người, đây là nước tiểu của con thằn lằn khổng lồ đó: “Sau khi tiến hóa đến một mức độ nhất định, trong nước tiểu của động vật sẽ hàm chứa rất nhiều thông tin, bao gồm cả phạm vi lãnh địa, chu kỳ phát dục, số lượng chủng quần, thậm chí một số loài động vật còn có thể phân biệt được tuổi của đồng loại dựa trên nước tiểu nữa. Vào những lúc cần thiết, nước tiểu có thể trở thành một vách chắn, ít nhất cũng có thể làm mê hoặc hoặc xua đuổi những kẻ săn mồi khác.” Sean hưng phấn mở nắp chìa ra trước mặt mọi người, tựa hồ trên tay mình là một loại thức uống bổ sung năng lượng hấp dẫn lắm, chẳng hề chú ý đến Mẫn Mẫn đã bịt mũi chạy tít ra xa. Lúc Sean chuẩn bị cất mấy cái lọ ấy đi, Ba Tang nãy giờ vẫn nhìn chằm chằm vào anh ta bỗng lên tiếng: “Còn một bình nhỏ kia là gì?”

                                                                                                                            

Sean nở một nụ cười hết sức quý tộc, lấy ra một cái bình nhỏ, trông như bình penicilin. Bên trong cũng là chất lỏng, nhưng trong hơn nhiều. Anh ta cầm chặt nắp bình, lắc lắc vài cái, nói: “Cái này... nói thế nào nhỉ, kiểu như là một chất thông tin vậy ấy. Mọi người biết đó, có một số côn trùng và động vật lợi dụng ngoại kích thích tố để thu hút các con khác giới đến giao phối. Lại có một số sinh vật, khi gặp nguy hiểm sẽ phát ra một loại chất có mùi rất nồng, để cảnh báo đồng loại chớ nên lại gần. Tôi nghe mọi người nói, khi con thằn lằn khổng lồ vừa mới chết, bọn thằn lằn nhỏ liền từ bốn phương tám hướng ùn ùn kéo về, chứng tỏ rằng chúng đã bắt được luồng thông tin gì đó, báo cho chúng biết rằng sinh vật khổng lồ ấy đã trở thành thứ ăn được. Sau khi quan sát và phân tích, cuối cùng tôi tìm thấy chất lỏng này trong khoang đầu của con thằn lằn khổng lồ, có lẽ nó đã tự hóa lỏng sau khi con thằn lằn chết... tương tự như kích thích tố vậy. Có nghĩa, thông tin mà chất dịch này chuyển tải là, một sinh vật khổng lồ đã biến thành bữa ăn ngon lành. Tôi đã thử nghiệm với bọn thằn lằn con đó rồi, thứ chất lỏng này có thể khiến bọn chúng tấn công một cách điên cuồng. Mà ở nơi này, chúng ta vẫn chưa biết có bao nhiêu loài động vật có thể bắt được thông tin qua mùi ấy, chúng ta có thể dùng nó để đối phó với các loài động vật lớn.”

                                                                                                                            

“Chà chà, anh Sean giỏi quá. Chúng tôi còn chẳng biết là có thể lợi dụng bọn động vật để đối phó với nhau nữa.” Sean vừa dứt lời, lập tức nhận được vô số lời khen ngợi.

                                                                                                                            

Sean chỉ gượng gạo cười, trong lòng thầm nhủ: “Nếu không phải để tự bảo vệ, cần gì phải làm rõ ra như thế, không biết có ai nghi ngờ ta hay không nữa. Không, chắc chắn là chúng đã nghi ngờ ta rồi, hừ, thế thì sao chứ, ta đã làm gì đâu chứ. Hừm, gượm đã... chuyện trên thuyền, hừ, chúng không có chứng cứ, chỉ cần Johnson không nghi ngờ ta, thì chúng cũng chẳng dám làm gì cả.” Nghĩ đoạn, anh ta vội chuyển qua chủ đề khác: “Đúng rồi, con thằn lằn đó sinh sống ở vùng này, vậy mà lại không dám đến gần nguồn nước, nói không chừng ở đây còn ẩn tàng nguy cơ gì mà chúng ta chưa biết cũng nên.”

                                                                                                                            

“Đêm nay chúng ta đề cao cảnh giác là được, đến tối tự khắc sẽ biết thôi.” Lữ Cánh Nam đưa ra kiến nghị, đồng thời cũng liếc sang nhìn pháp sư Á La, hai người đều thoáng lộ vẻ nặng nề rất khó nhận ra. Đối với họ, thân phận của Sean đã hoàn toàn rõ ràng rồi. Thế nhưng, làm sao để Trác Mộc Cường Ba tin chuyện này đây? Lữ Cánh Nam lục lọi lại trong ký ức tất cả những gì Sean đã làm đã nói dọc đường đi, nhưng cũng không phát hiện ra được sơ hở gì.

                                                                                                                            

Trời đã tối hẳn, Nhạc Dương không sao ngủ được, bèn đổi luôn ca gác với Trương Lập. Trác Mộc Cường Ba biết trong lòng anh khó chịu, hầu hết thời gian đều để Nhạc Dương ngồi yên tĩnh một mình, còn gã thì dồn hết sức phụ trách giám sát tình hình xung quanh khu cắm trại.

                                         

                                                                                   

Không được bao lâu, Nhạc Dương chợt lẩm bẩm nói: “Cường Ba thiếu gia, anh nói xem, có phải mỗi người đều có cái giá của mình? Chúng ta đều đang nỗ lực không ngừng vì cái giá ấy?”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba nghiêng đầu nhìn anh, chỉ thấy Nhạc Dương đang nhìn chằm chằm xuống mặt đất, nét mặt thẫn thờ u ám. Gã không hiểu ý Nhạc Dương lắm, bèn thuận miệng đáp: “Cậu nói giá trị của đời người à? Ừ...” Gã nghịch nghịch thanh củi đang cháy, sắp xếp lại suy nghĩ trong đầu rồi nói: “Theo như tôi hiểu, giá trị của cuộc đời chia làm ba tầng lớp: giá trị đầu tiên chính là giá trị sinh tồn. Đó cũng là mục đích căn bản nhất của đời người. Nó cần đến những nhu cầu vật chất cơ bản nhất, như thức ăn để con người có thể tồn tại, và một cơ thể khỏe mạnh. Cho dù cậu muốn hoàn thành mục đích vĩ đại gì hay muốn làm nên sự tích kinh thiên động địa thế nào, thì trước tiên cũng phải thỏa mãn được điều kiện này - vẫn còn sống. Xét ở điểm này, con người và động vật chẳng có gì khác cả. Một khi mục tiêu căn bản nhất ấy đáp ứng được, thì tự nhiên sẽ bắt đầu nảy sinh khát vọng thực hiện tầng giá trị thứ hai, đó là giá trị xã hội. Con người muốn chi phối vật chất, đồng thời thông qua nhiều phương thức khác nhau để địa vị của bản thân được xã hội công nhận. Có lẽ đây chính là sự thể hiện giá trị tự thân mà cậu vẫn hay nói đó. Nó bao gồm cả nhu cầu về vật chất tinh thần, quan hệ giữa người với người, bối cảnh xã hội và một loạt các phương thức xây dựng gia đình, diễn sinh đời sau, toàn bộ những phương thức thể hiện giá trị bản thân cậu ra bên ngoài. Chỉ tồn tại trên thế gian này không thôi vẫn chưa đủ, con người cần phải thông qua nhiều phương thức khác nhau để khảo chứng tính tất nhiên và tất yếu của sự tồn tại của mình trên thế giới này. Đương nhiên, phương thức thường dùng nhất mà cũng là cơ bản nhất để thể hiện giá trị này xưa nay vẫn chỉ giới hạn trong phạm trù tiền bạc, việc dùng một con số làm đại biểu cho tài sản mà một người tạo ra đã trở thành thói quen của tất cả mọi người. Tuy rằng có rất nhiều thứ là vô giá, thế nhưng, con người vẫn quen dùng một giá trị cố định để đo đếm. Vì vậy, nếu gượng ép nói đây là một giá trị của cuộc sống thì cũng không có gì sai cả.”

                                                                                                                            

Nói tới đây, Trác Mộc Cường Ba lại đưa mắt nhìn xem Nhạc Dương có đang nghe hay không. Nhạc Dương đang mở tròn mắt, ngây người ra, bất giác buột miệng hỏi: “Thế còn tầng giá trị thứ ba?”

                                                                                                                            

“Giá trị cao nhất hả?” Trác Mộc Cường Ba cười điềm đạm. “Đó đương nhiên là giá trị tinh thần rồi. Thực ra, khả năng sáng tạo của con người không có giới hạn, đặc biệt là khi rất nhiều người tập trung lại. Họ sáng tạo ra được bao nhiêu giá trị, điều này quyết định bởi họ thỏa mãn tới mức nào đối với những gì mình sáng tạo ra. Nếu họ vĩnh viễn không bao giờ thỏa mãn, họ sẽ vĩnh viễn chỉ theo đuổi tầng giá trị thứ hai. Thế nhưng, khi người nào đó đã đạt đến mức tự thỏa mãn về nhu cầu vật chất, về địa vị xã hội, người đó sẽ chuyển sang một hình thức thể hiện giá trị ở tầng cao hơn. Giá trị ấy, có lẽ là một thứ rất mơ hồ. Người có tài năng và học vấn, sẽ chuyên tâm dồn sức vào tài năng của họ, như các nhà nghệ thuật, nhà tư tưởng chẳng hạn; còn những người bình thường, thì phải nhờ đến tôn giáo hoặc các phương thức biểu hiện khác. Kỳ thực, sự thể hiện tầng giá trị thứ hai và tầng giá trị thứ ba không có ranh giới tuyệt đối nào cả. Tỷ như có một số người rất coi nhẹ việc thể hiện giá trị ở tầng thứ hai, họ chỉ cần thỏa mãn được giá trị ở tầng thứ nhất là đủ, sau đó chỉ dồn toàn bộ tâm trí sức lực theo đuổi sự thể hiện giá trị tinh thần. Đối với nhóm người này, nhu cầu vật chất và sự công nhận của xã hội với họ đều thấp đến mức không thể thấp hơn, suốt đời họ chỉ đắm chìm trong thế giới tinh thần của riêng họ, cũng rất khó nói là họ đúng hay sai, có phải không?”

                                                                                                                            

Nhạc Dương cầm một cành cây ném vào đống lửa, ngạc nhiên nói: “Đây là lý giải của anh ư, Cường Ba thiếu gia?”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi chỉ biết vậy thôi.”

              

                                                                                                              

Nhạc Dương cười cười, sắc mặt lại trở nên nặng nề, hỏi tiếp: “Tại sao, Cường Ba thiếu gia, tại sao có những người, có thể vì tầng giá trị thứ hai mà thay đổi, thậm chí là hoàn toàn thay đổi... như thể là một con người khác? Ma lực của tầng giá trị thứ hai ấy, thật sự đáng sợ đến nhường ấy hay sao?” Trác Mộc Cường Ba thở dài đáp: “Có lẽ, người ấy quá khao khát được thể hiện một giá trị xã hội nào đó để chứng nhận sự tồn tại của bản thân mình. Kỳ thực, tâm thái này tồn tại trong tiềm thức của rất nhiều người, chẳng hạn như những người ra sức cố công làm việc, ra sức cố công học hành thi cử, và cả những người yêu đương người hơn kém tuổi mình quá nhiều nữa, trong tiềm thức họ hoặc ít hoặc nhiều đều cảm thấy mình vẫn chưa hoàn toàn được xã hội công nhận, hoặc giả vẫn chưa có được địa vị xã hội bình thường của một người bình thường. Chỉ là, có những người thích dùng những hình thức cực đoan mà thôi.” Gã lại nhớ đến Đồng Phương Chính, nét mặt không khỏi ít nhiều ảm đạm.

                                                                                                                            

Nhạc Dương ủ rũ nói: “Cực đoan... Thật sự có thể bất chấp tất cả hay sao?”

                                                                                                                            

Đột nhiên, Trác Mộc Cường Ba tựa hồ nghĩ ra gì đó, ngẩng đầu lên hỏi: “Cậu đang nói Trang Sinh hả?” Gã nhìn cánh tay quấn băng của Nhạc Dương, tiếp tục hỏi: “Vết thương trên cánh tay cậu, không phải vì bị con thằn lằn tấn công bất ngờ mà ngộ thương ngoài ý muốn?”

                                                                                                                    

        

Nhạc Dương cười gượng gạo, đoạn kể lại hết một lượt sự việc cho Trác Mộc Cường Ba nghe.

                                                                                                                            

Cuối cùng, Nhạc Dương nói: “Xem ra, khi đứng trước lợi ích, tình bạn, lời hứa, thậm chí là cả lời thề cũng đều biến đổi. Tôi còn nhớ, ai đó đã từng nói, thời gian có thể biến đổi tất cả, chỉ là tôi không thể ngờ, lại biến đổi nhanh như thế, triệt để như thế.”

                                

                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba chìm vào trầm tư. Hai người nhất thời đều không nói gì, chỉ còn tiếng đống lửa cháy lép bép.

                                                     

                                                                       

Giây lát sau, Nhạc Dương ngẩng đầu lên, tựa hồ đang từ từ gỡ gánh nặng đè nén trong lòng, thở hắt ra một tiếng: “Thôi, thế nào thì cũng là quá khứ rồi, có lẽ, cậu ấy cũng có nguyên nhân bất đắc dĩ. Cường Ba thiếu gia, chuyện này, ngoài giáo quan ra thì đứng nói với ai nữa nhé, được không?”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu. Nhạc Dương ngửa cổ lên nhìn bầu trời đêm, mấy ánh sao lấp lóe, bất giác thốt lên: “Hay thật, đêm nay màn sương mù phía trên Shangri-la lại tan đi, lại có thể thấy bầu trời sao rồi.”

                                                                     

                                                       

“Thật không?” Trác Mộc Cường Ba cũng ngẩng đầu lên. Có điều, gã và Nhạc Dương đều nhanh chóng phát hiện ra, những ngôi sao ấy có gì đó không ổn, đó không chỉ là những ánh sao lấp lánh, mà còn di chuyển với tốc độ rất nhanh, không giống như quỹ đạo của các vì sao chút nào. Trác Mộc Cường Ba đứng lên, nhíu mày nói: “Lạ thật đấy!”

                                                                                                                            

Nhạc Dương cũng nói: “Chuyện gì thế nhỉ? Đèn ở đuôi máy bay à?”

                                                                                                                                                                                                   

                                                                                                                                                                                   

Kẻ địch nhảy dù

                                                             

                                                                                                                                                                                            

“Không ổn!” Trác Mộc Cường Ba giật thót mình. Gã và Nhạc Dương kinh hãi nhìn nhau, cả hai cùng lúc nghĩ đến: đó là người nhảy dù! Là thiết bị chiếu sáng gắn trên thân thể người nhảy dù! Cả hai gần như cùng lúc hành động. Nhạc Dương vươn tay kéo cái chốt lật úp rổ bùn chuyên dùng để dập lửa, ánh lửa lập tức tắt ngúm. Còn Trác Mộc Cường Ba thì lần lượt đi thông báo cho những người vừa mới đi ngủ.

                                                                                                                            

Chuyện gì vậy? Chẳng lẽ bọn chúng dám leo lên ngọn núi tuyết đáng sợ ấy vào giữa đêm hay sao? Nhạc Dương hết sức nghi hoặc, nếu không phải vậy, thì... thì chỉ có một khả năng khác, tức là bên ngoài Shangri-la đang là ban ngày! Nghĩ tới đây, Nhạc Dương cơ hồ đã hiểu ra, tại sao những người nhảy dù trên đỉnh núi tuyết xuống đều không thể sống sót. Bên ngoài là ban ngày, còn bên trong Shangri-la lại là màn đêm đen kịt giơ năm ngón tay ra cũng không nhìn thấy gì. Những kẻ nhảy dù xuống từ đỉnh phía Đông, gặp bóng đêm mít mùng như thế thì chỉ có thể nhảy xuống biển mà thôi.

                                                                                                                            

Chín người đứng ngẩng đầu nhìn lên bầu không tăm tối, gắng sức dõi tìm những đốm sáng lập lòe yếu ớt ấy. Nhạc Dương chỉ dùng mắt thường để đếm số lượng những đốm sáng, còn Trác Mộc Cường Ba thì giơ ống nhòm nhìn ban đêm lên điều chỉnh, nhưng chỉ giây lát sau đã thất vọng buông xuống nói: “Không được, cách xa quá, tối quá.” Đội trưởng Hồ Dương đón lấy cái ống nhòm. Trác Mộc Cường Ba nắm chặt tay Đường Mẫn. Không còn nghi ngờ gì nữa, đám người này sẽ trở thành đối thủ đáng sợ nhất của họ trong rừng rậm, thậm chí còn vượt xa lũ động vật nguyên thủy kia rất nhiều.

                                                                       

                                                     

Lữ Cánh Nam thầm thở dài: “Rốt cuộc vẫn bị theo đến đây rồi, không biết là người của nhóm nào nữa.”

                                                                                                       

                     

Sean thì tự nhủ: “Đến chẳng đúng lúc chút nào, lẽ ra phải đợi chúng ta phát hiện ra Bạc Ba La thần miếu rồi mới vào chứ, nếu lúc đó hai bên đánh nhau...”

                                                                                 

                                           

Nhạc Dương vừa đếm vừa hoang mang nghĩ: “Sao lại thế được nhỉ? Còm chỉ đặt thiết bị phát tín hiệu sóng điện, loại tín hiệu ấy vốn không thể nào xuyên qua được bức tường từ trường trên đỉnh Shangri-la. Nếu đối phương không có tọa độ chính xác ở dưới này, bọn chúng tuyệt đối không dám mạo hiểm nhảy dù. Lẽ nào đúng như Còm nói, trong chúng ta vẫn còn người của thế lực khác nữa. Người đó rốt cuộc là ai? Đã liên hệ với bên ngoài từ lúc nào? Ba Tang, Sean, đội trưởng Hồ Dương...” Vừa nghĩ anh vừa lọc lại một lượt những người mình âm thầm quan sát.

                                                                                                                            

Trương Lập cũng đang nghĩ về cùng một vấn đề với Nhạc Dương: “Chỉ có thể là thiết bị phát xạ tia laser, hoặc là mạch xung một lần. Không, chỉ dựa vào một lần phát xạ thì không thể bảo đảm rằng vệ tinh có thể bắt được tín hiệu. Vậy thì, đó chắc chắn là tín hiệu laser gián cách, cần phải hướng điểm phát xạ chuẩn vào khe nứt trên đỉnh Shangri-la. Thế nhưng, trước cái đêm sương mù trên đỉnh Shangri-la tan đi ấy, chúng ta vẫn chưa biết kết cấu phía trên đó là như thế nào. Chuyện này nhất định xảy ra sau đêm hôm đó. Từ đó đến giờ, mới chỉ có mười ngày. Đối phương có thể lên đỉnh núi tuyết nhanh như vậy, thì chỉ có một khả năng thôi, bọn chúng đã từng lên đỉnh rồi! Giống như chúng ta, chúng cũng từng bị mất phương hướng trong đám sương mù dày đặc đó.”

                                                                  

                                                          

Pháp sư Á La nửa vô tình nửa cố ý liếc nhìn sang phía Ba Tang, chỉ thấy nét mặt anh ta vẫn hững hờ, không bộc lộ gì cả.

                                                                              

                                              

“Từ bảy đến mười một.” Hồi lâu sau Nhạc Dương mới dụi dụi cặp mắt đã mỏi, báo con số tối đa mà anh có thể đếm được bằng mắt thường. Phải biết là, đó không đơn giản chỉ là đếm bảy ngôi sao, mà phải tìm ra những điểm sáng lập lòe nhỏ bằng đầu kim trên bầu không bao la, hơn nữa những điểm sáng đó lại di động rất nhanh, có lúc lóe lên rồi lại chợp tắt, lúc sáng trở lại thì đã đổi vị trí.

                                                                               

                                             

Lữ Cánh Nam nói: “Được rồi, ít nhất là mười một, chỉ có nhiều chứ không ít hơn được đâu. Vậy thì, giờ chúng ta phải thương lượng đối sách, xem ra cần phải thay đổi kế hoạch một chút.” Cô đưa mắt nhìn sang phía Trác Mộc Cường Ba. Gã thở dài một tiếng. Trong giờ phút này, kẻ địch mà gã không muốn đối mặt nhất, chính là đồng loại của mình... những con người có trí tuệ.

                                                                                                  

                          

Không chỉ có những người ở tầng bình đài thứ hai ấy kinh hoảng, mà cả những kẻ nhảy dù đang lơ lửng trên không trung kia cũng hoảng sợ không kém. Rõ ràng chúng không thể ngờ được, bên ngoài mặt trời vẫn chưa lặn, trên đỉnh núi tuyết vẫn còn sáng rõ, vậy mà vừa xuyên qua màn sương mù dày đặc đã rơi luôn vào không gian tối đen giơ năm ngón tay ra trước mặt cũng chẳng thấy gì. Tây Mễ hét lên trong bộ đàm: “Lôi Ba, phía sau còn người không?”

                                            

                                                                                

Lôi Ba trả lời: “Hết rồi, tôi là người cuối cùng nhảy xuống. Lúc tôi nhảy xuống, khoảng hai trăm mét từ trên đỉnh núi đổ xuống đã bắt đầu nổi gió lớn, bọn họ không lên được, bị kẹt lại ở lưng chừng núi rồi. Nếu tôi mà không nhảy nhanh, sợ rằng cũng bị gió cuốn bay mất tiêu rồi.”

                                                                                                                            

Tây Mễ lại hỏi: “Có liên lạc được với bên ngoài không?”

                                                                                                                            

Lôi Ba đáp: “Hoàn toàn bị cắt đứt. Lúc nhảy xuống, ít nhất có khoảng một nghìn mét là không có tín hiệu gì. Giờ chúng ta chỉ có thể liên lạc được với nhau, còn với bên ngoài thì hoàn toàn bị cắt đứt liên lạc rồi.”

                                                                                                                            

Tây Mễ lại nói: “Tao biết rồi. Hồ Tử, thống kê số người nhảy dù xuống đi, mỗi người tự báo số hiệu của mình ra. Nghe cho rõ đây, giờ chúng ta đã hoàn toàn cắt đứt với thế giới bên ngoài, ở đây tao nói gì tức là như thế. Tao mặc xác chúng mày trước đây ở bộ phận nào, muốn sống thì phải nghe theo tao. Báo số hiệu đi.”

                                                                                                                            

Chỉ nghe một giọng uể oải cất lên: “Số 00001.”

                                             

                                                                               

Đôi mắt tam giác của Tây Mễ nhướng lên, thoáng ngẩn ra rồi nói: “Max! Sao hả? Ông chủ mày vẫn chưa yên tâm bọn tao hả?” Toàn bộ đội tiên phong đều đeo mặt nạ, không thể nào nhận ra được ai với ai.

                                                                                                                            

Max liền đổi ngay giọng nịnh bợ, nói: “À, không phải vậy đâu, anh Tây Mễ. Tôi cũng không biết chuyện này gọi là may mắn hay xui xẻo nữa, lúc lên đỉnh, tốc độ của tôi tương đối nhanh, nên nhảy xuống trước luôn. Chậc, không ngờ những người phía sau lại bị gió ngăn ở lưng chừng núi, xem ra chắc phải tạm thời rút lui, sợ rằng mấy ngày nữa mới lên được mất. Chuyện này chẳng liên quan gì đến ông chủ cả đâu, anh tin tôi đi, giờ tôi chỉ là một tên lính nhép dưới quyền anh thôi mà.”

                                                                                                                            

Tây Mễ “hừ” một tiếng, y đã quá hiểu tên Max này, đương nhiên biết đối phương quá nửa là vì muốn tranh công nên mới nhanh như thế. Nhưng y cũng không nói gì, chỉ tự báo số hiệu của mình: “00002.”

                                                                                 

                                           

“00035.”

                                                                                                                            

“00107”...

                                                                     

                                                       

Cuối cùng, gã tên Hồ Tử thống kê ra, trước mắt tổng cộng có mười bảy người nhảy dù. Tây Mễ đã thuộc lòng ý nghĩa của những số hiệu ấy, mười thủ hạ cũ của y toàn bộ đều còn sống, thủ hạ của Merkin, tính cả Max là ba tên, ngoài ra còn bốn tên lính đánh thuê. Trước mắt, y vẫn còn quyền chỉ huy tuyệt đối. Chỉ có điều, tên Max kia thân phận hơi đặc biệt một chút, kẻ không có bản lĩnh mà chỉ biết nịnh bợ ấy khiến y cực kỳ chán ghét. Cái tên này, chuyện làm được thì chẳng có gì, chỉ toàn sai sót, nhưng hắn lại là thân tín của người đó. Nếu xảy ra chuyện gì, sợ rằng...

                                                                                                                            

Tây Mễ không nghĩ đến những chuyện tiếp theo nữa, sau nhiều năm sống nơi đầu gươm mũi súng, y đã quen với việc chỉ biết ngày hôm nay. “Lôi Ba, mày còn nhớ lúc lên đỉnh không? Đội tiên phong có phải đã lên hết rồi không?” Cuối cùng Tây Mễ hỏi.

                                  

                                                                                          

Câu trả lời của Lôi Ba làm tất cả rùng mình ớn lạnh: “Đúng vậy, toàn bộ đội tiên phong đã lên đến đỉnh.” Như vậy có nghĩa là, đội tiên phong bốn mươi bảy người, chỉ có mười bảy người an toàn đáp xuống. Những người khác, không phải bị cuồng phong thổi bay mất, thì cũng mất liên lạc trong khi nhảy dù.

                                                                                                                         

   

Tây Mễ liếm liếm môi, đúng là một cuộc liều mạng. Có điều, cảm giác kích thích ấy... y rất thích! Đồng thời, ánh mắt sắc bén của Merkin cũng khiến y cảm thấy rùng mình sợ hãi. Con người đó, quả thực là quá hiểu nội tâm con người. Y biết người thế nào cần cuộc sống như thế nào, bao giờ cũng có thể khiến người ta bất giác rơi vào cạm bẫy rồi không thể nhấc chân ra được, biết rõ là mình đang bán mạng cho y mà vẫn cam tâm tình nguyện. Nhược điểm của Merkin nằm ở đâu? Nếu nói đến nhược điểm, có lẽ là y quá đa nghi, thứ gì đã tạo nên tính cách cẩn trọng đó? Nhất định là có nguyên nhân. Khóe miệng Tây Mễ nở ra một nụ cười.

                                                                                                                            

Mấy ngọn đèn nhỏ đó không hề làm bọn Trác Mộc Cường Ba rối loạn, chuyện này vốn đã nằm trong suy đoán ban đầu của họ. Sau khi suy đoán mấy khả năng có thể xảy ra tiếp theo, đồng thời đưa ra đối sách tương ứng, tất cả lại trở về với quỹ đạo bình thường. Người cần đi ngủ thì tiếp tục đi ngủ, người canh đêm thì tiếp tục canh đêm.

                                                                                                                            

Theo quan sát của họ, những đốm sáng ấy sẽ hạ xuống phía bên phải chỗ họ cắm trại, khoảng cách cũng tương đối xa. Điều này khiến Nhạc Dương không khỏi nghi ngờ, tọa độ đánh dấu của đám người này rất có thể ở thôn Công Bố. Nếu như vậy, khoảng cách giữa họ và kẻ địch là khoảng mười ngày đường. Bọn Trác Mộc Cường Ba không cho rằng, trong rừng nguyên sinh bốn bề đầy rẫy những hiểm nguy ấy, kẻ địch có thể đi nhanh hơn họ. Hơn nữa, đối phương cũng còn phải mất thêm một khoảng thời gian để làm quen với hoàn cảnh, thích ứng với phương thức sinh tồn ở đây. Khoảng cách mười ngày này, rất có thể còn được kéo dài ra nữa, đồng thời cũng không thể loại trừ khả năng bọn chúng sở hữu các loại vũ khí tiên tiến, có thể thuận lợi sinh tồn trong rừng sâu. Tóm lại, nếu có thể giữ được khoảng cách mười ngày này vẫn là tốt nhất.

                          

                                                                                                  

Sau khi hoạch định sơ lược phương cách đối phó, Trác Mộc Cường Ba yêu cầu mọi người trở về nghỉ ngơi. Lữ Cánh Nam không bỏ lỡ thời cơ này, kéo gã ra một góc tối, chầm chậm nói: “Anh thấy chuyện này thế nào?”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba biết cô muốn nói gì, trầm ngâm giây lát, đoạn nói: “Nhạc Dương kể với tôi một chuyện.” Kế đó, gã liền kể những gì thực sự diễn ra giữa Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh cho Lữ Cánh Nam nghe.

                                                                                                                            

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Chuyện này, chúng ta cũng đã nghĩ đến rồi.” Cô nói, ánh mắt hơi liếc về phía pháp sư Á La, biểu thị “chúng tôi” ở đây là chỉ những người nào. Kế đó, cô lại tiếp lời: “Nhưng anh không thấy kỳ lạ sao? Cả tôi và anh đều hiểu rõ, tín hiệu sóng điện từ không thể xuyên qua vách ngăn điện ly trên đầu chúng ta được, chỉ có thiết bị phát xạ tia laser mới làm được điều đó thôi.”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba nhìn thái độ của Lữ Cánh Nam, hiểu rõ cô đang ám chỉ điều gì, bèn không tranh biện với cô nữa, mà trực tiếp hỏi luôn: “Cô đang nghi ngờ ai?”

                                                                                                   

                         

“Sean.” Lữ Cánh Nam trả lời rất dứt khoát.

                                                                                                                            

“Sean?” Trác Mộc Cường Ba thoáng ngây ra. Gã không ngờ, Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La không nghi ngờ các thành viên cũ trong đội, mà là Sean, bất giác phì cười nói: “Có thể sao? Nếu không phải Trương Lập tình cờ gặp Sean ở nước ngoài, nếu không phải chúng ta hết lòng mời gọi, người ta cũng đâu nghĩ đến chuyện tham gia vào hành trình mạo hiểm này. Cô... sao có thể nghi ngờ Sean được chứ?”

Lữ Cánh Nam điềm đạm nói: “Thật vậy sao? Anh khẳng định Trương Lập tình cờ gặp gỡ Sean à? Trùng hợp thôi sao?” Thấy Trác Mộc Cường Ba đã có vẻ ngần ngừ, cô lại tiếp tục: “Cần phải biết rằng, lúc đó Trương Lập và đội trưởng Hồ Dương xuất cảnh bằng visa du lịch, muốn thẩm tra và theo dõi hành trình của bọn họ là chuyện vô cùng đơn giản. Chỉ cần chuẩn bị một chút, hoàn toàn có thể đến trước mười mấy hai mươi ngày, rồi đợi họ ở nơi nào đó.”

 

                                                                                                                           

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu, gã chưa hề nghĩ đến những chuyện như vậy.

                                                                

                                                            

Một người hảo tâm đến giúp gã như Sean, không ngờ cũng có khả năng là gian tế, sao lại có chuyện đó được chứ? Gã chất vấn Lữ Cánh Nam: “Làm như vậy thì anh ta được lợi gì?”

                       

                                                                                                     

Lữ Cánh Nam đáp: “Có rất nhiều nguyên nhân, có thể vì tiền, hoặc vì báu vật, hoặc vì thứ gì đó khác.”

                                                     

                                                                       

“Có chứng cứ không?” Trác Mộc Cường Ba ý thức được mình vừa hỏi một câu hết sức ngu xuẩn, lại tiếp tục hỏi thêm câu khác.

                                                               

                                                             

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Không.”

                                                                                                                            

“Hừ...” Trác Mộc Cường Ba không nhịn được bật ra một tiếng cười châm biếm.

                                                                                                                            

Lữ Cánh Nam nói: “Không sai, từ lúc anh ta tham gia huấn luyện, chúng tôi đã để ý quan sát hết sức nghiêm ngặt, đích thực là không phát hiện ra anh ta có điểm gì không ổn. Nhưng chính vì vậy, anh ta mới càng khả nghi hơn, trừ phi anh ta không phải gian tế, bằng không, Sean chính là một cao thủ trong các cao thủ, có thể làm rất nhiều việc một cách kín kẽ, khiến chúng tôi không thể tìm được bất cứ dấu vết nào.”

                                                                                                                            

“Vậy tại sao không nghĩ đến khả năng anh ấy trong sạch?”

                

                                                                                                            

“Chuyện này cần phải kể từ đầu,” Lữ Cánh Nam nói. “Lẽ nào hồi ở rừng Amazon, anh không cảm thấy Sean quá may mắn hay sao? Không cảm thấy anh ta hiểu biết quá nhiều hay sao? Nhiều lúc các anh thì khốn khổ thảm hại, còn anh ta lại có thể dễ dàng gặp hung hóa cát, cuối cùng chẳng hề thương tổn một chút nào. Phải biết một điều rằng, lúc đó các anh đã được tôi huấn luyện đặc biệt một thời gian rất dài. Vậy mà một người yêu thích thám hiểm bình thường, lại không những có thể đồng hành cùng tiến với các anh, mà còn quay ngược lại giúp đỡ nữa, anh nghĩ trên đời này có bao nhiêu người làm được điều đó? Kể từ khi ấy, chúng tôi đã bắt đầu nghi ngờ anh ta rồi.” Thấy Trác Mộc Cường Ba không nói gì, Lữ Cánh Nam lại tiếp tục: “Còn một việc nữa tôi cần nói với anh. Chúng tôi nghi ngờ, Lê Định Minh là do Sean giết chết.”

                                                                                                    

                        

“Cô nói gì cơ?” Trác Mộc Cường Ba cao giọng thốt lên.

                                                                                                                            

Lữ Cánh Nam nói: “Lúc đó trên thuyền rất hỗn loạn, chỉ có Sean là ở gần Lê Định Minh nhất, chúng ta không thể biết anh ta đã làm gì. Hơn nữa, nếu anh ta dùng các loại chất độc như botulin, TTX để giết người, trong tình hình đó, chúng ta gần như không thể tìm được chứng cứ nào.”

                               

                                                                                             

Trác Mộc Cường Ba càng không tin, lại cười khẩy chế nhạo: “Chẳng có lý gì cả, tại sao anh ấy phải làm thế? Sean và Lê Định Minh không oán không cừu, càng không thể quen biết từ trước đó. Lẽ nào cô muốn nói với tôi, bạn học thầy giáo tìm về giúp đỡ chúng ta cũng là một tên gian tế khác?”

                                                                                                                            

Lữ Cánh Nam nói: “Đích thực, mới đầu chúng tôi cũng không biết động cơ và mục đích của anh ta. Thế nhưng, đã ở Shangri-la này được một thời gian rồi, chẳng lẽ anh vẫn chưa nhận ra sao? Anh không thấy hiểu biết của Sean đối với tập tính các loài động vật hơi quá nổi bật à? Đến cả những loài sinh vật cổ mà chúng ta hoàn toàn xa lạ, thậm chí các nhà sinh vật học hiện đại cũng không thể nào tiếp xúc được, anh ta cũng có thể nhanh chóng nắm bắt được tập tính và phương thức hoạt động của chúng, đồng thời đưa ra ý kiến. Điều này chứng tỏ gì chứ? Chỉ có thể chứng minh rằng anh ta đã được huấn luyện một cách hệ thống về sinh vật học. Mà biểu hiện ngày hôm nay của anh ta đối với con thằn lằn khổng lồ đó, càng khiến tôi và pháp sư Á La nghi ngờ Sean chính là một Thao thú sư. Trong một thời gian ngắn ngủi như vậy lại có thể tìm ra chất dịch uy hiếp và dẫn dụ các loài sinh vật khác, chuyện này cơ hồ chỉ có Thao thú sư mới làm được mà thôi. Vì vậy, đây rất có thể là động cơ khiến Sean giết chết Lê Định Minh.”

                    

                                                                                                        

Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa thể hiểu hết, ngây ra nhìn Lữ Cánh Nam. Lữ Cánh Nam bèn dứt khoát chỉ ra luôn: “Bởi vì một mình Sean hiểu biết về các loài động vật đã đủ rồi, không cần trong đội chúng ta có thêm một nhà động vật học nữa. Nếu con đường dẫn đến Shangri-la đầy rẫy các loài quái thú hoành hành như trong truyền thuyết, vậy thì Sean có thể lợi dụng tri thức về động vật học của anh ta để trói chặt chúng ta lại với mình, khiến chúng ta không thể bỏ anh ta lại, mà chỉ có thể dựa dẫm anh ta để tiếp tục tiến lên.”

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba trợn mắt, đây là lời giải thích hoang đường nhất mà gã từng nghe. Nhưng sâu thẳm trong lòng gã lại cũng ý thức được, lời giải thích này, cơ hồ cũng có khả năng là sự thật. Lẽ nào, con người có mái tóc bạch kim và luôn nở nụ cười trên môi ấy, lại hạ sát đồng đội trên cùng một con thuyền! Trác Mộc Cường Ba chợt rùng mình, không dám nghĩ tiếp nữa.

“Còn nữa...” Lữ Cánh Nam không để Trác Mộc Cường Ba có thời gian suy nghĩ, tiếp tục nói: “Sau khi chúng ta đến thôn Công Bố, Sean đã từng một mình ra bên ngoài, pháp sư Á La và Ba Tang đều phát hiện ra. Tuy sau đó chúng tôi không phát hiện được bất cứ dấu vết gì ở những chỗ Sean từng qua lại, nhưng cũng có khả năng, anh ta che giấu tốt hơn cả những gì chúng tôi tưởng tượng.”

                                           

                                                                                 

“Ý cô là, Sean và Merkin là đồng bọn? Anh ta cũng đột nhiên nổi tiếng từ tám năm trước?”

                                                                                      

                                      

“Không, tuy rằng chúng tôi cũng từng nghĩ đến khả năng đó, nhưng sự thực vừa khéo lại hoàn toàn trái ngược. Sean từ trước tới nay luôn lặng lẽ ẩn mình. Sau khi trở về từ rừng rậm Amazon, tôi từng thử điều tra thân phận của anh ta, nhưng vì tư liệu quá ít nên không có kết quả gì. Lần này tôi đã dùng đến quan hệ của mình trong nội bộ, nhờ họ giúp điều tra thân phận của Sean, nhưng lại phát hiện ra, thân phận của con người này dường như bị một tầng sương mù che phủ. Anh ta trong sạch đến độ không một tì vết, lý lịch anh ta bình thường đến không thể bình thường hơn. Điểm này lại càng khiến chúng tôi tin chắc rằng anh ta có vấn đề. Anh thử nghĩ xem, với năng lực và học vấn sâu rộng của Sean, sao lại có thể bình thường hơn cả một người bình thường được chứ?”

                                                                                                                            

Đầu óc Trác Mộc Cường Ba bắt đầu rối loạn, đây là Sean mà gã quen biết đấy sao? Con người mà quần áo lúc nào cũng sạch sẽ chỉnh tề, gương mặt lúc nào cũng nở nụ cười ôn hòa ấy, sau lưng anh ta không ngờ lại ẩn giấu nhiều bí mật đến thế! Nhưng, nếu không phải như Lữ Cánh Nam nói thì sao? Chính Lữ Cánh Nam cũng đã nói họ không có bằng chứng gì về việc Sean sát hại Lê Định Minh, đây chỉ là một giả thiết. Tạm gạt chuyện này sang không nói, trong thời gian đi cùng Sean, thứ anh ta mang đến cho họ, cơ hồ chỉ có giúp đỡ, giúp đỡ trên nhiều phương diện khác nhau. Nếu nói theo cách của Lữ Cánh Nam, vậy thì mục đích của tất cả những điều anh ta làm, chính là để tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Không... không đúng, nếu Sean là tên gian tế thông báo địa điểm cho kẻ địch, vậy thì anh ta cần gì phải khiến cả bọn không thể rời xa anh ta, chỉ có thể dựa dẫm vào anh ta làm gì nữa? Anh ta hoàn toàn có thể giết chết toàn bộ mọi người, rồi cùng đồng bọn họp mặt mà!

                                                                                                                            

Tư duy của Trác Mộc Cường Ba dần trở nên rõ ràng hơn, chuyện Sean giết chết Lê Định Minh và Sean đặt thiết bị phát tín hiệu hết sức mâu thuẫn. Quan trọng hơn nữa là, trong suốt thời gian ở cùng họ, Sean không hề làm bất cứ chuyện gì có lỗi với mọi người, ngược lại còn mấy lần cứu mạng họ nữa. Nếu nói Sean là gian tế, Trác Mộc Cường Ba không muốn tin, mà gã cũng khẳng định, Trương Lập và Nhạc Dương cũng quyết không tin. Coi một người bạn đã vượt ngàn dặm xa đến giúp đỡ mình mà không yêu cầu gì là kẻ địch, điều này Trác Mộc Cường Ba không thể làm được. Gã gần như không biết nên chứng thực chuyện này như thế nào nữa.

                                                                                                                            

Đúng lúc Trác Mộc Cường Ba đang khổ não vì chuyện ấy, Nhạc Dương đang canh đêm chợt phát tín hiệu cảnh báo.

                                                                                                                            

“Chuyện này để tôi nghĩ đã.” Trác Mộc Cường Ba buông lại cho Lữ Cánh Nam một câu, rồi vội vàng chạy đến chỗ Nhạc Dương. Lần này kẻ địch xuất hiện ở ngay bên cạnh họ, nhìn những điểm sáng trên màn hình hiển thị, rõ ràng là họ đã bị thứ gì đó bao vây kín. Tuy rằng trước đây cũng gặp phải tình huống bị các loài động vật thần bí bao vây tấn công, nhưng chưa lần nào lại xuất hiện nhiều như thế.

                                                                                                                            

Trác Mộc Cường Ba đã khởi động các cạm bẫy phòng ngự, tường lửa xung quanh khu trại đã được đốt lên. Tất cả mọi người đều đứng bên trong một vòng lửa đường kính khoảng năm mét, độ cao của tường lửa có thể điều tiết bằng số lượng xăng dầu bơm vào.

                                                                                            

                                

“Thứ gì vậy?” Đường Mẫn căng thẳng hỏi.

                                                                                                                            

Nhạc Dương lắc đầu đáp: “Không biết, nhưng rõ ràng là chúng đang chạy về phía chúng ta. Số lượng rất nhiều. Đã đến gần lắm rồi.”

                                                                                                                                                                                           

                                                                                                                                                                                           

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro