Mat ma Tay tang 8 - 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hà Mã

Mật Mã Tây Tạng - tập VIII

phần 54
Bí ẩn người tuyết Himalaya

Chương 1

Muỗi

Rất nhiều người nước ngoài tin rằng, người tuyết cư trú trong một nơi cực kỳ ẩn mật trên dãy Himalaya, nơi đó, rất có khả năng chính là Shangri-la trong truyền thuyết. Thêm vào đó, người tuyết chưa bao giờ thực sự lộ diện, đâu đâu cũng có truyền thuyết, song lại chẳng có một chứng cứ xác tín nào cả, nên mọi người lại càng tin rằng, người tuyết có thể tìm được đường đến Shangri-la, bắt được người tuyết, biết đâu có thể bắt họ dẫn đường đến Shangri-la cũng không chừng.

Đột nhiên, trong rừng sâu vang lên những tiếng “vù vù vù vù” đều đặn. Âm thanh ấy khiến mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang theo bản năng rợn hết cả tóc gáy, những vết thương kinh hoàng chợt trở về trong ký ức. Ong sát nhân châu Mỹ! Tuy vẫn chưa xác định được có phải thứ ấy đang tiến lại gần họ hay không, nhưng âm thanh thì rõ ràng là giống đến kinh người.

Nhạc Dương căng thẳng giương ống nhòm, rồi đột ngột ném cho Sean đang đứng bên cạnh, kinh hãi thốt lên: “Là muỗi! Chưa bao giờ tôi thấy giống muỗi nào to thế này cả!” Vừa nói anh vừa bắt đầu lục tìm vũ khí bên mình, nhưng chọn đi chọn lại cũng không sao chọn được thứ gì có thể tiêu diệt lũ muỗi này một cách hiệu quả nhất. Bọn chúng là những cỗ máy giết người bay lượn trên không trung, rõ ràng là cực kỳ đáng sợ. Cứ hễ nhớ đến lũ ong sát nhân ở châu Mỹ, Nhạc Dương lại không rét mà run.

Sắc mặt Sean cũng tái nhợt, lúc anh ta đưa ống nhòm cho Trác Mộc Cường Ba, cổ tay thậm chí còn hơi run run. Trác Mộc Cường Ba cầm ống nhòm lên xem thử, chỉ thấy cả một khoảng rừng từ gần kéo ra xa, tựa hồ bị một lớp khói mù nhàn nhạt bao phủ. Gã hiểu rất rõ, làn khói mờ phiêu đãng ấy chính là đại đoàn quân muỗi. Những con bay đầu tiên đã hiện lên rất rõ trong tầm nhìn của ống nhòm rồi. Phải gọi chúng là những con quái vật bay mới đúng... Chính xác là vậy, bất cứ người nào bỗng dưng nhìn thấy những con muỗi dài hơn một mét, ắt sẽ không mảy may nghi ngờ gì mà lập tức nhận định rằng chúng là một lũ quái vật. Bọn quái vật ấy có cái đầu phủ đầy những con mắt dạng lưới, ước chừng to bằng đầu đứa trẻ sơ sinh, phía sau kéo theo phần bụng trông tựa như cái túi đựng nước bằng da bò; toàn thân từ đầu tới đuôi, kể cả trên cánh cũng mọc đầy những sợi lông cứng như kim thép, trong tầm nhìn màu xanh lá cây của ống nhòm ban đêm, những vằn trắng xám biến thành các ô đen và trắng; giữa đầu và bụng nhìn tựa như bị dây thừng thít chặt lại, bất cứ lúc nào cũng có thể đứt lìa ra, thực không hiểu sao hai bộ phận này có thể nối liền vào nhau được như thế; nhưng chính cái vòi hút máu đặc trưng của loài muỗi mới là thứ thực sự khiến người ta run rẩy. Trên đầu của những con quái vật ấy, con nào con nấy mọc ra cái vòi dài chừng ba mươi phân, trông như đầu kim của một cái xy lanh khổng lồ vậy, không khó để tưởng tượng, muốn hút được máu của bọn thằn lằn khổng lồ kia, những cái vòi ấy phải đủ sắc bén thế nào; còn hai cái xúc tu thì cứ ngo ngoe trên đầu mũi kim như thể đang khiêu khích ai vậy.

Trác Mộc Cường Ba buông ống nhòm xuống nhưng không đưa cho người tiếp theo, bởi còn không cần thiết nữa rồi. Bọn muỗi quái vật đã bay đến xuất hiện trong ánh lửa. Phía bóng tối thăm thẳm kia, những tiếng “vù vù vù” vang lên chói tai, khiến người ta không thể đoán biết được bọn chúng rốt cuộc có bao nhiêu con.

Ánh mắt Trương Lập đảo đi đảo lại liên tục trên mấy cái ba lô. Nhạc Dương thấy vậy bèn hỏi: “Tìm cái gì thế?”

Trương Lập căng thẳng nói: “Tôi đang nghĩ không biết có thuốc diệt côn trùng gì không.”

Nhạc Dương nói: “Thuốc diệt côn trùng dùng được với bọn quái vật khổng lồ này chắc? Nếu bọn chuồn chuồn khổng lồ ở tầng dưới mà lên được đây thì tốt quá.”

Sean vội lên tiếng an ủi: “Đừng lo, đừng lo, theo những gì tôi biết, thì bọn muỗi khổng lồ thời viễn cổ chắc là chỉ hút nhựa cây thôi.”

“Nổ súng!” Trác Mộc Cường Ba biết rõ vào lúc này không thể do dự thêm chút nào nữa, mặc xác bọn muỗi ấy có hút máu hay không, dù sao cũng không thể để bọn chúng đến gần bọn họ được.

Ánh lửa lóe lên, lũ quái vật đáng sợ bay lượn trên không trung lần lượt rơi xuống, nhưng bọn chúng số lượng quả thực quá nhiều, chỉ có một phần rất nhỏ bị bắn hạ mà thôi. Càng lúc càng có nhiều muỗi vây bâu quanh bọn Trác Mộc Cường Ba, bọn chúng rõ ràng rất sợ bức tường lửa họ đốt lên, không dám mạo hiểm lao vào. Có điều, số muỗi bị bắn chết có thể nói là rất ít, hầu hết chỉ bị bắn rụng xuống đất, đập đập cánh mấy cái là lại bò dậy được, tiếp tục chằm chằm nhìn đám người bên trong qua bức tường lửa. Số lượng muỗi trên mặt đất mỗi lúc một nhiều, bắt đầu chồng chất lên nhau, Ba Tang không hề do dự quăng ra một quả lựu đạn, nổ cho lũ quái vật xác thịt tung tóe bắn văng tứ phía.

Nhạc Dương để ý thấy hễ trên cánh những con muỗi ấy lóe lên một tia lửa, tựa như một mảnh tro giấy còn chưa tắt hẳn, liền có vệt lửa lướt qua trên đôi cánh, rồi chỉ trong chớp mắt, cặp cánh khổng lồ đã cháy hết. “Chúng sợ lửa, dùng lửa mà đốt!” Nhạc Dương kêu lên, lập tức lấy chân hất lên một đám lửa. Đám lửa rơi vào giữa đàn muỗi, liền như mồi lửa quăng trên thảo nguyên vào mùa thu, những sợi lông cứng trên mình lũ muỗi cũng dễ cháy như lông tóc của nhiều loài động vật khác, mà đôi cánh của chúng rõ ràng cũng thuộc loại hàng dễ cháy, bùng lên rất nhanh. Đốm lửa ấy thậm chí còn gây thương tổn cho lũ muỗi dưới mặt đất nhiều hơn quả lựu đạn Ba Tang ném ra lúc nãy. Những người khác cũng lần lượt làm theo, vừa giương súng bắn rơi lũ muỗi đang bay, vừa dùng chân đá vào đống lửa, hoặc cầm những khúc gỗ đang cháy phừng phừng ném vào đàn muỗi.

Nhưng nhiều con muỗi đã bay tít lên cao, những cỗ máy giết chóc đập cánh vù vù ấy rõ ràng đã thích ứng với bức tường lửa chướng ngại kia, bay lên đến độ cao mà ngọn lửa không thể bốc tới được, sau đó đảo lượn ở giữa vòng lửa, rồi ngừng đập cánh, lao thẳng xuống như một mũi tên.

“Cẩn thận! Cẩn thận!” Vừa phải tránh thế công dồn dập như một trận mưa tên ấy, những người trong vòng lửa đã không còn sức đâu mà để ý đến lũ muỗi trên mặt đất nữa, từng nòng súng lần lượt chĩa thẳng lên cao, bắn được bao nhiêu tốt bấy nhiêu, xả đạn không thương tiếc vào bầu trời.

Chỉ nghe “Soạt!”, một thanh kiếm sắc cắm phập xuống cách Trương Lập chưa đầy một mét. Trương Lập rởn người nhìn con quái vật đang dồn sức vào bốn chân, định nhổ mũi kim khổng lồ của nó ra khỏi vũng bùn lầy, anh liền vung tay tương cho nó một thanh củi cháy phừng phừng, toàn thân con vật dị hợm ấy tức thì bị những tia lửa lóe lên thiêu rụi. Thấy thế lửa xung quanh đã yếu dần, Trương Lập liền xông sang phải mấy bước, giật sợi dây thừng thứ hai, một thùng xăng nữa đã chảy theo đường rãnh được thiết kế từ trước đổ vào vòng lửa. Lửa đổ thêm dầu, lập tức bùng lên cao gấp đôi, ngọn lửa nhảy nhót vút lên đến mười mấy mét. Những con muỗi khổng lồ chưa bay lên đủ độ cao bị lưỡi lửa liếm vào, lập tức rơi xuống lả tả, thân thể liền trở thành một nguồn nhiên liệu mới.

Trong vòng lửa, bọn muỗi ầm ập lao xuống hết con này đến con khác, như máy bay ném bom Trân Châu cảng. Bọn Trác Mộc Cường Ba vất vả né tránh, thỉnh thoảng lại nổ súng phản kích. Lũ muỗi rơi xuống bên trong vòng lửa cũng chưa chết hẳn, có con cánh bị bùn đất dính chặt, ngửa bụng lên trời khua loạn sáu cánh tay bé xíu, có con thì lăn lộn khắp phía, trừng những con mắt dạng lưới như cái rổ lên, vươn thứ hung khí như đầu kim ra chọc loạn lung tung, có con vùng vẫy bò ra được khỏi đống lửa, toàn thân vẫn cháy bùng bùng. Tình hình bên ngoài vòng lửa cũng không khác gì, chỉ là số muỗi nhiều hơn bên trong rất nhiều, tầng tầng lớp lớp chen chúc nhau, khi lưỡi lửa liếm đến, cảnh tượng còn ghê người gấp bội. Tiếng cảnh cáo, tiếng hét, tiếng rú, tiếng súng, tiếng nổ, tiếng đập cánh, tiếng ngọn lửa cháy “lách tách”, tất cả hòa trộn nháo nhào; người nổ súng, người né tránh, lấy củi châm lửa, ném lựu đạn, ném đuốc, ném đạn khói... cảnh tượng thực sự vô cùng hỗn loạn, nhất thời cảm tưởng như đâu đâu cũng là đạn nổ, đâu đâu cũng là lửa cháy.

Bọn muỗi khổng lồ rơi vào vòng lửa mỗi lúc một nhiều hơn, bọn họ cơ hồ đã bị buộc đẩy vào thế đánh giáp lá cà với lũ chúng, chẳng còn đội hình trận pháp gì hết, mọi thứ loạn xà ngầu, không đụng phải người mình thì va phải bọn muỗi. Dù chỉ bị những sợi lông cứng nhọn hoắt của chúng cọ phải một cái, đã để lại vết thương khá sâu. Không cần nói cũng biết, nếu bị cái vòi trên đầu lũ muỗi chọc cho một cái, rất khó nói còn bao nhiêu phần cơ hội sống sót.

Trong lúc hỗn loạn, Trác Mộc Cường Ba lách người né tránh một con muỗi khổng lồ xông thẳng tới trước mặt, chỉ thấy đùi non đau nhói lên bỏng rát, ống quần đã bị lông cứng trên mình con muỗi ấy cà rách toác, ba vết thương trông như thể bị chó săn cào cấu. Gã vung chân lên tung ra một cước, đá lộn nhào một con muỗi khác, khẩu súng carbine đã hết đạn, đành dùng súng lục 45 li, từng đám từng đám chất dịch trông như bùn loãng bắn tóe. Bên phải gã lại có một con muỗi khác bò tới, đà lao vừa nhanh vừa mạnh, khó mà tránh được. Trác Mộc Cường Ba lập tức quyết đoán trong khoảnh khắc, thân hình vặn một cái, nhằm thẳng vào cái đầu to tướng của nó vỗ một phát thật mạnh, chỉ thấy cảm giác như thể vỗ vào một cái bao bố đựng đầy hạt ngũ cốc vậy. Cảm giác khó chịu ấy khiến toàn thân gã hơi chùn lại. Nhưng cũng còn may, phần nối giữa đầu và thân thể con muỗi ấy quả nhiên không được chắc chắn, bị Trác Mộc Cường Ba vỗ cho một cái, cả cái đầu lẫn mũi kim nhọn cùng văng tuốt, ở chỗ đứt lìa có một thứ vật chất trông như sô cô la lỏng chảy tràn ra, còn phần thân thể vẫn lao tới phía trước, xông thẳng vào vòng lửa.

Bỗng nghe có tiếng rú kinh hãi, “Á!” Đường Mẫn bị một con muỗi hất ngã văng ra đất, lại có một con khác xông đến, đã chồm cả lên người Đường Mẫn, cái vòi dài nhọn hoắt giơ lên cao. Trác Mộc Cường Ba nãy giờ vẫn ở bên cạnh để ý canh chừng cho cô, sao có thể để Đường Mẫn bị tổn thương dù chỉ một chút, chỉ thấy gã vươn tay lên một cái đã tóm chặt cái dùi nhọn ấy, vận sức bẻ mạnh, giật tung cả cái đầu và toàn bộ phần tiếp nối với thân thể của con quái vật, rồi ném vèo ra tít đằng xa.

“Bên trên kìa!” Đường Mẫn nằm dưới đất lại kêu lên hoảng hốt, liên tục giật lùi. Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên, một kẻ tập kích từ trên không đang giơ cao lợi khí của nó nhằm thẳng vào Mẫn Mẫn lao xuống. Đã không kịp nữa rồi, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên giơ cánh tay trái ra hứng lấy cú đâm đó. Cái vòi hút máu nhọn hoắt đâm thẳng vào cánh tay Trác Mộc Cường Ba ngọt xớt, nhưng đồng thời, khẩu súng lục 45 li đã hết đạn trên tay phải gã cũng đã quật thẳng tới, báng súng đập nát bét đầu con muỗi.

Nhưng chênh chếch phía sau lại có một con khác lao tới, cánh tay Trác Mộc Cường Ba vẫn còn để nguyên đầu mũi kim to tướng chưa rút xuống, gã lại đang xoay lưng bảo vệ cho Đường Mẫn, e rằng khó mà tránh được. Đúng lúc ấy, Sean từ một bên lao tới, anh ta không dám trực tiếp tóm lấy vũ khí của con muỗi khổng lồ, bèn nghiêng người húc thẳng vào con muỗi đang lao đến đánh lén Trác Mộc Cường Ba, giữa chừng còn ngoảnh đầu lại, nở một nụ cười điệu bộ quý tộc với Trác Mộc Cường Ba.

“Oa, Chúa ơi!” Ngay sau đó đã nghe tiếng Sean hét lên bằng tiếng Anh. Cái vòi nhọn hoắt của con muỗi quái vật đâm thẳng vào chỗ bàn tọa nhiều thịt nhất của Sean, không sai không lệch. Chỉ thấy anh ta tay bịt mông nhảy tưng tưng, nhưng trước sau chẳng cách nào hất được cái vòi cứng ngắc ấy đi.

Ba Tang bèn đến giải vây giúp Sean, tung cước đá vào chỗ tiếp giáp giữa đầu và cơ thể con muỗi, kế đó thì chính anh ta cũng suýt chút nữa bị đánh trộm, vội vàng ngã sang một bên, lăn mấy vòng tránh né. Sean đã tự rút được mũi nhọn ra, nhưng vẫn cứ “xuýt xoa” mãi không ngừng.

Đúng lúc ấy, có người kêu lên: “Bắt lấy này!” Chỉ thấy một vật đen sì sì rơi vào tay Sean, hóa ra là một cái mặt nạ hô hấp có kèm bình dưỡng khí. Lại thấy Lữ Cánh Nam đang ra sức vẫy cánh tay chỉ về phía hồ nước, hét lớn: “Nhảy xuống nước! Mau nhảy xuống nước!” Dưới ánh lửa bập bùng, Nhạc Dương và Trương Lập đã nhảy xuống từ lúc nào, nhưng đầu vẫn lộ ra trên mặt nước chờ mặt nạ dưỡng khí.

Pháp sư Á La đứng một bên hộ vệ, chỉ thấy tay trái tay phải ông vung lên liên tiếp, vỗ xuôi vỗ ngược như thể tiện tay vung lên tát ai đó, con muỗi nào lại gần ông đều bị vỗ cho đầu văng bắn đi. Lũ muỗi đã mất đầu, dù có đông hơn nữa cũng không dễ gì gây ra những vết thương chí mạng cho ai được nữa. Còn Lữ Cánh Nam lúc này đang ở bên cạnh mở ba lô, phân phát mặt nạ dưỡng khí cho những người vẫn đang loạng choạng trốn chạy và những người đã nhảy xuống nước.

Những người còn lại cũng đã lấy được mặt nạ, từng người từng người nhảy xuống nước “tùm tũm” rồi lặn xuống chỗ sâu hơn. Trước khi lao xuống làn nước, Ba Tang vừa khéo ngoảnh lại, nhìn thấy pháp sư Á La vẫn vung cánh tay lên như thể đang thong thả dạo bộ trong vườn, tư thế đẹp tựa một vị nhạc trưởng đang chỉ huy dàn nhạc giao hưởng, bất giác anh ta thấy lạnh cả người, thầm nhủ: “Lão già này...”

Không ai dám khẳng định lũ muỗi trên không kia liệu có lao thẳng xuống nước như chim bói cá được hay không, nhưng theo kết luận do Nhạc Dương quan sát và phân tích rút ra, thì dưới nước chắc sẽ tạm thời an toàn cho bọn họ.

Qua ánh lửa phừng phừng trên bờ có thể trông thấy, đàn muỗi mất mục tiêu vẫn đảo lượn trên không trung một hồi lâu, cuối cùng mới hậm hực kéo nhau bỏ đi. Nếu không có những trang bị để hô hấp này, họ không thể nào ở dưới nước được lâu như vậy.

Để cho an toàn, lại sợ đàn muỗi giảo hoạt nấp đâu đó gần đấy, họ vẫn ở lại dưới nước thêm một lúc lâu nữa mới trở lên bờ. Lửa tắt dần, bờ hồ như vừa trải qua đại chiến thế giới, khắp nơi chốn khói thuốc vẩn vít bốc lên và la liệt xác chết cháy đen thui. Họ nhớ lại trận chiến sinh tử vừa diễn ra trong khoảnh khắc trước, và cả những cơ thể côn trùng vẫn còn sống không ngừng vặn vẹo kia, tâm thần bất định không yên.

Đường Mẫn kiểm tra thương thế của mọi người, Trác Mộc Cường Ba bị đâm một cú xuyên qua xương cẳng tay và xương cổ tay, cơ bắp có tổn thương chút ít, nhưng không ảnh hưởng đến gân cốt, cũng không bị phạm vào mạch máu lớn, chỉ cần rửa sạch, sát trùng, chích mủ và băng bó vào là xong, thậm chí vẫn còn cử động được. So sánh ra, vết thương của Sean hình như nặng hơn một chút. Đường Mẫn quan sát vết thương bên mông trái của Sean: có thể khiến anh ta nhảy cẫng lên kêu ầm ĩ như thế, cú đâm này chắc chắn là không phải tầm thường, bên trong vết thương to như ngón tay cái ấy toàn những thịt là thịt màu đỏ hồng, không biết là sâu bao nhiêu nữa. Nhìn gương mặt của Sean, có lẽ ít nhất nhát đâm cũng phải xuyên hết qua bắp thịt ở mông, vào đến tận xương chậu, hoặc thậm chí xuyên qua cả xương chậu nữa. Vết thương sâu như thế, chỉ riêng rửa cho sạch cũng đã là chuyện rất khó khăn rồi. Đường Mẫn ngước lên, gương mặt lộ vẻ khó xử.

Nhìn Sean đang hít hà hít hà, cô hơi do dự. Lữ Cánh Nam thấy trên tay Đường Mẫn không phải ống xy lanh dùng một lần bằng nhựa, mà là loại xy lanh bằng thủy tinh không gắn đầu mũi kim, đại để cũng đã biết cô định làm gì, bèn giật lấy ống tiêm thủy tinh đó hơ qua hơ lại trên ngọn lửa, nói: “Tôi làm cho.” Tiếp đó cô lại bảo với Sean: “Hơi đau đấy, cố nhịn nhé.” Rồi, cô kẹp ống xy lanh vào ngón giữa và ngón vô danh, ấn nguyên cả ống vào cái lỗ mới xuất hiện trên mông Sean.

“Á á!” Sean đau đến nỗi từng hạt mồ hôi to như hạt đậu trên trán túa ra như tắm.

Lữ Cánh Nam bơm hết chất lỏng bên trong ống xy lanh vào cái lỗ ấy rồi rút ra. Để làm sạch vết thương hoàn toàn, cô lại bơm thêm một ống nữa vào, rồi vò vò khu vực xung quanh vết thương như thể người ta giặt quần áo, làm Sean đau đến ngất xỉu. “Vết thương thế này mà không khử độc sạch sẽ thì rất dễ bị nhiễm trùng, phải không?”

Đường Mẫn hoảng hồn gật gật đầu, rốt cuộc cô cũng không thể không thừa nhận, ở một mặt nào đó, cô vĩnh viễn không bao giờ có thể bì kịp Lữ Cánh Nam. Trong đầu cô bỗng nhớ lại lời vị bác sĩ hướng dẫn đã dặn dò mình: “Làm một bác sĩ, trước tiên phải học cách tàn nhẫn đã.”

Xong xuôi mọi việc, cả bọn mới ngồi lại phân tích nguyên nhân dẫn đến vụ tập kích của đàn muỗi, ý kiến của Sean (lúc này đã đau đến mức dở sống dở chết) là được tin phục nhất: lũ muỗi bình thường đã có thể cảm ứng được mùi vị từ cách xa một cây số, mà khứu giác của lũ muỗi khổng lồ kia rõ ràng là nhạy bén hơn nhiều, vừa khéo bọn họ lại mới làm thịt một con thằn lằn khổng lồ, hẳn mùi máu thằn lằn chính là nguyên nhân dẫn dụ lũ muỗi hung ác kia tới.

Nhưng nói gì thì nói, cả bọn đã bị quân đoàn muỗi ập đến bất ngờ ấy làm cho chẳng còn lòng dạ nào mà yên giấc, ai nấy mệt mỏi thương tích đầy mình. Nghiêm trọng hơn nữa là, vũ khí đã tiêu hao gần hết trong trận chiến đấu chẳng có chút ý nghĩa gì đó, nếu lại gặp phải những quân đoàn quái vật như thế, bọn họ thật không biết phải đối phó thế nào nữa.

Đêm hôm đó đã được định sẵn là không thể trôi qua một cách bình yên, đám người hiện đại vừa mới nhảy dù xuống Shangri-la kia cũng gặp phải tình cảnh bi thảm chẳng kém gì. Đúng như Nhạc Dương đã dự đoán, đám người của Tây Mễ trực tiếp nhảy dù xuống thôn Công Bố, nhưng cả bọn chỉ có mười ba người thành công đáp xuống bên trong thôn làng, còn bốn người khác thì rơi xuống tầng bình đài thứ hai. Các trang thiết bị của bọn chúng cũng chỉ có ba hòm rơi xuống đúng vị trí dự định, hai hòm không biết đã bay đi đâu. Kế đó, mười ba kẻ nhảy dù xuống thôn Công Bố cách tầng bình đài thứ hai quá xa, nên chỉ nghe được thứ tạp âm sột soạt và những tiếng kêu thảm thiết điên loạn. Tiếng kêu thảm ấy quá đỗi khủng khiếp, thậm chí không cần dùng hệ thống bộ đàm liên lạc cũng nghe thấy được.

“Hai tên lính đánh thuê đó... á á... rẹt rẹt... loẹt xoẹt... cách cách... á! Cứu...”

Tây Mễ đắc ý nói với những kẻ còn lại: “Nghe thấy chưa hả? Đây chính là nơi mà chúng mày muốn đến đó! Không đơn giản chỉ là địa ngục thôi đâu, muốn sống sót ở đây, thì phải nghe lời ta!”

Max tiếp lời: “Đúng thế, đúng thế, tất cả đã nghe rõ chưa? Ở đây, chúng ta nhất định phải nghe theo đại ca Tây Mễ. Phải theo đại ca Tây Mễ, chúng ta mới tìm được kho báu ấy, cũng chỉ có đại ca Tây Mễ đây mới giúp chúng ta có thể sống sót ở đây. Đúng vậy không, đại ca Tây Mễ...” Nói đoạn, y liền nhe răng cười ngó sang phía Tây Mễ. Tây Mễ nhìn bộ dạng của Max, trông chẳng khác nào một con chó Nhật lông xù đang lè lưỡi quẫy đuôi tíu tít.

Sáng sớm ngày hôm sau, bọn Trác Mộc Cường Ba mang theo đủ nước dự trữ rời khỏi hồ nước đáng sợ ấy. Vì hầu hết đạn dược đã tiêu hao trong cuộc chiến đêm trước, nên bọn họ buộc phải tiến lên một cách cẩn thận hơn đồng thời tăng tốc. Trác Mộc Cường Ba vót cho Sean một cây gậy chống, và gánh ba lô giúp anh ta. Sean tập tễnh đi theo sau mọi người, bộ dạng trông chẳng khác nào Lý Thiết Quài trong truyện Bát Tiên. Trong cả quá trình ấy, thi thoảng Trác Mộc Cường Ba vẫn đánh ánh mắt phức tạp liếc sang phía Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La. Phải biết rằng, đêm qua nếu không có Sean đỡ cho cú đánh đó, lúc này người phải chống gậy hoặc nằm trên cáng, sợ rằng chính là bản thân gã. Thế nhưng lời của Lữ Cánh Nam chốc chốc lại vang lên trong tâm trí, khiến đầu óc gã vô cùng hỗn loạn.

Nhạc Dương và Trương Lập đi trước dò đường, thi thoảng lại gặp phải một số loài sinh vật hình dáng kỳ dị, hầu hết đều đi vòng qua né tránh, nếu thực sự không thể nào né tránh được mới đành tiêu diệt. Bôn ba hơn nửa ngày trời, cuối cùng cũng trở lại được chỗ mép bình đài mà không gặp phải nguy hiểm gì. Đối với bọn Trác Mộc Cường Ba lúc này, chỉ còn phương án men theo mép bình đài tiến lên mới không quá nguy hiểm mà thôi.

Đi men theo mép bình đài được một lúc, Nhạc Dương chợt nheo nheo mắt, dường như phát hiện ra gì đó. Trương Lập thấy vậy cũng nhướng mắt lên nhìn, nhưng không thấy gì cả, bèn quay sang hỏi Nhạc Dương: “Phát hiện ra gì à?”

Nhạc Dương đáp: “Không biết, đi thêm một lúc nữa mới nhìn rõ được.” Cả bọn đi thêm một đoạn nữa, Nhạc Dương đột nhiên reo lên mừng rỡ, rồi lao về phía trước. Trương Lập chẳng hiểu gì, cũng nhao lên theo, những người phía sau cũng lần lượt chạy theo.

Lúc này cả bọn mới nhìn rõ, một cái dù rơi xuống mắc ở mép bình đài, đang bị gió thổi hơi đung đưa. Bên dưới cái dù là một hộp sắt lớn hình chữ nhật, nhang nhác cái công ten nơ, nhưng nhỏ hơn nhiều. Khi bước lại gần, mới phát hiện đó không phải một cái hòm, mà là mấy cái va li du lịch cỡ lớn buộc chặt lại với nhau, lớp vỏ bên ngoài bằng hợp kim rất chắc chắn. Trương Lập cũng nhận ra, đây là thiết bị mà bộ đội đặc chủng thường dùng khi nhảy dù. Thông thường một bộ hòm xiểng thế này, bên trong đủ các trang bị vật dụng thường dùng cho cả một tiểu đội, gồm cả vũ khí, dược phẩm, thực phẩm...

 

Chương 2

Trang bị mới

Nhạc Dương mừng rỡ nói: “Ha ha, đúng là mất cái nọ, được cái kia. Nhất định là trang bị của bọn nhảy dù kia bị gió thổi chuyển hướng. Nhìn kìa, thiết bị định vị bằng laser bị va đập hỏng rồi! A di đà Phật, A di đà Phật, đúng là ông Trời phù hộ.” Đối với họ mà nói, có những trang bị này thật chẳng khác nào được tặng than hồng giữa trời tuyết giá cả.

Trác Mộc Cường Ba vỗ vỗ lên lớp vỏ ngoài bằng hợp kim, đưa tay kéo thử, thấy gắn rất chặt, không kéo được. Trương Lập vừa lấy máy tính ra, vừa nói: “Không được đâu, giờ mấy cái hòm này đã bị khóa chặt với nhau, không có đĩa giải mã thì kéo còn không thể, đừng nói đến chuyện mở ra.” Nói đoạn, anh nhanh nhẹn đăng nhập vào máy tính, lập tức bắt tay tìm kiếm chỗ tiếp nối, rồi nói: “Nhưng mà chúng ta cũng có máy tính, phá giải mấy thứ mật mã này chẳng khó hơn phá giải cạm bẫy của cổ nhân là mấy đâu.”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Bọn chúng làm cách nào vận chuyển lên núi được nhỉ? To thế này cơ mà.”

Nhạc Dương giải thích: “Kiến còn tha được cả voi cơ mà. Tách ra, mỗi hòm nhỏ bên trong cũng bằng một cái ba lô leo núi. Nếu có bốn mươi người lên được đỉnh núi, thì ở đó bọn họ sẽ lắp ghép các hòm nhỏ lại thành bốn hòm lớn, thả dù xuống, mười người theo một nhóm. Như loại này thì là do tám cái hòm nhỏ ghép lại.”

Có tiếng “Cạch cạch!” vang lên, lại nghe Trương Lập nói: “Cái đầu tiên mở được rồi, rút ra đi.”

Ba Tang liền đưa tay kéo ra một cái hòm khá lớn, cao bằng nửa người, đặt nằm ngang dưới đất, “tách tách” mở ra. Vừa bật hai cái khóa móc ở hai bên, bơm nén khí ở nắp hòm đã tự động nâng lên. Phần bên trong hòm từ trên xuống dưới được lưới kim loại chia thành ba tầng, từng loại thiết bị đặt ở mỗi tầng hiện ra lồ lộ trước mắt mọi người.

Tầng đầu tiên là đồ dùng y tế, gồm có túi cấp cứu của bộ đội đặc chủng, thuốc kháng sinh, ngoài ra còn có một số thuốc tiêm và viên con nhộng khá hiếm thấy. Nhìn những chữ viết tắt tiếng Anh bên ngoài bao gói, Lữ Cánh Nam đoán những loại thuốc tiêm và viên con nhộng này gồm nhiều loại, có các tác dụng như gây tê, gây mê, khí độc...

Tầng thứ hai là tầng xép giữa hai tầng, nên hơi nhỏ hơn, bên trong toàn là những miếng nhỏ hình chữ nhật kích thước 7,5 x 2,5 x 1 xăng ti mét, vỏ bọc bằng chất dẻo hút chân không, trông hơi giống lương khô, mà sự thực thì cũng hoàn toàn có thể gọi đây là một loại lương khô, có điều hàm lượng nguyên tố vi lượng và vitamin cao hơn lương khô thông thường rất nhiều mà thôi. Nhạc Dương đọc lướt qua mấy hàng chữ nhỏ li ti in bên ngoài bao bì, nét mặt liền lộ ra vẻ kinh hãi, cầm một miếng bánh vuông vắn ấy lên nói: “Chỉ cần một miếng này, cũng đủ cung cấp toàn bộ năng lượng cho cơ thể hoạt động trong một ngày, trời ơi là trời, bọn Mỹ ấy giỏi thật đấy! Ở đây có một, hai, ba, bốn, năm...” Nhạc Dương đếm thử, ngăn nhỏ ở giữa này có ít nhất là một nghìn miếng lương khô giàu năng lượng, đủ để ăn trong hai năm liền.

Lữ Cánh Nam cũng cầm một miếng lên xem thử, rồi nói: “Hạn sử dụng năm năm, bao bì bên ngoài sử dụng kỹ thuật đóng gói bằng màng của cơ quan hàng không vũ trụ, có vẻ như được nghiên cứu chế tạo làm thực phẩm cho các phi hành gia. Theo tôi được biết, ở Mỹ họ đang ra sức nghiên cứu một loại hỗn hợp giàu năng lượng dạng thuốc viên, hy vọng có thể làm được loại hỗn hợp kích cỡ chỉ nhỏ bằng viên thuốc, mà có thể thỏa mãn nhu cầu trong một ngày của cơ thể người, xem chừng họ đã có bước đột phá rồi.”

Đội trưởng Hồ Dương cũng rất hài lòng với loại lương khô đặc biệt này, cười nói: “Để người sử dụng không có cảm giác chán ăn, lại còn làm ra các mùi vị khác nhau nữa chứ.”

Tầng thứ ba để vũ khí, chia làm rất nhiều ngăn nhỏ, như hộp đựng đồ trang điểm của các bà các cô vậy, các loại vũ khí được cố định trong các ngăn nhỏ bằng bọt biển. Ngăn lớn nhất chiếm ba phần tư không gian cũng là ngăn để vũ khí chính, chính giữa đặt nghiêng một khẩu súng phóng lựu bề ngoài rất giống khẩu M16A4, chỉ thoạt nhìn đã biết cả tính năng lẫn các chỉ số kỹ thuật đều hơn xa loại M16 thông thường; ngăn phía trên bên trái là một đôi tiểu liên Steyr TMP có gắn nòng giảm thanh, ngăn bên phải bên dưới là một khẩu súng lục USP có gắn thiết bị ngắm tia hồng ngoại. Mỗi loại kèm theo năm băng đạn, còn vũ khí chính thì kèm thêm mười băng đạn được nối dài. Bên dưới ngăn để vũ khí là ba ngăn hẹp dài đựng đồ phụ trợ, ngăn đầu tiên có mười quả lựu đạn, ngăn thứ hai năm quả thủ pháo, năm quả lựu đạn sáng. Ngăn thứ ba có mười quả bom dạng đồng hồ đeo tay. Phía bên phải ngăn để vũ khí chính còn có mấy ngăn nhỏ hình vuông, chứa một số loại đạn đặc biệt như đạn xuyên giáp, đạn phát sáng, đạn nổ... Ngoài ra còn một ngăn nữa để ba quả mìn cỡ nhỏ.

Đến cả Ba Tang cũng phải rung động trước những hòm vũ khí trang bị ấy, một tiểu đội lính đặc chủng được trang bị thế này trên chiến trường hẳn là những kẻ thù cực kỳ đáng sợ, chỉ còn thiếu mỗi ống phóng hỏa tiễn cá nhân nữa mà thôi.

Nhạc Dương lại phát hiện ra, đáy tầng thứ ba này còn cách đáy hòm một khoảng nữa. Ba tầng mà họ trông thấy đây có lẽ chỉ chiếm khoảng một nửa không gian bên trong hòm mà thôi. Anh bèn thử đẩy nhẹ một cái, nghe tiếng “tách”, các ngăn đựng vũ khí liền trượt ra như ngăn kéo tủ, phía bên dưới, quả nhiên vẫn còn một bộ trang thiết bị hoàn chỉnh nữa...

Móc câu, thiết bị bắn móc câu, dây thừng an toàn, dây thừng leo bám, khóa móc, vòng số tám lớn nhỏ, chêm đục để leo vách đá, cuốc chim leo núi, giày, mũ, đệm bảo vệ đầu gối và khuỷu tay, đèn chiếu sáng, đèn pin, túi ngủ cá nhân... có thể nói là tất cả các trang bị để sinh tồn được giữa nơi hoang dã, thứ gì cần là có thứ ấy. Tận cùng bên dưới còn xếp một cái ba lô to tướng đã được gấp lại gọn ghẽ. Hiển nhiên, đeo theo cái hòm kim loại thế này không hề tiện cho việc di chuyển đường dài một chút nào.

Sean chống gậy loạng choạng bước lên hai bước, kinh ngạc thốt lên: “Quá hoàn mỹ, thật không thể nào tin nổi!” Nói đoạn, lại nghĩ đến những thứ bọn họ đang mang trên mình, quá nửa là đồ tự chế lấy, trong lòng lập tức có cảm giác trang bị của mình thật chẳng khác nào đồ vứt đi.

Trương Lập hắng giọng nói: “Tiền nào của nấy, người ta tiền nhiều như thế, trang bị thêm cho chúng ta cũng vẫn còn thừa chán. Hòm thứ hai mở ra rồi đây!”

Đường Mẫn mừng rỡ nhìn Trác Mộc Cường Ba, giờ bọn họ đã có thêm các trang thiết bị mới này, cơ hội có thể sống sót ra khỏi đây rõ ràng là tăng lên rất nhiều. Trác Mộc Cường Ba vẻ như đã biết Đường Mẫn đang nghĩ gì, cũng quay sang nhìn cô mỉm cười gật đầu khe khẽ. Cô ôm chặt cánh tay Trác Mộc Cường Ba, dựa đầu vào vai gã. Lữ Cánh Nam vẫn đang nhìn đống trang thiết bị dưới đất, nhưng khóe mắt dường như không sao kiềm chế nổi nữa.

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Sao không thấy có nước nhỉ?”

Nhạc Dương đáp: “Ngoại trừ ở những khu vực tác chiến đặc biệt, thông thường lính đặc chủng không mang theo nước uống, cùng lắm chỉ có một bình thôi, còn trong tuyệt đại đa số hoàn cảnh đều lấy nước tại chỗ. Dù sao cũng không thể cõng theo mấy chục cân nước mà đi khắp núi đồi được.”

“Cả quần áo cũng không có.” Đội trưởng Hồ Dương lại nói.

Ba Tang bật ra một tiếng cười lạnh lẽo, Trương Lập cũng không nén nổi cười, buột miệng đáp: “Thông thường khi tác chiến dã ngoại, một bộ quần áo mặc suốt mấy tháng liền, huống hồ đa phần đều là đàn ông với nhau, đâu có phụ nữ như chúng ta.” Lời vừa thốt ra khỏi miệng, anh liền cảm thấy có ánh mắt sắc bén đằng đằng sát khí đang nhìn mình, vội vàng bổ sung thêm: “Nhưng mà lính đặc chủng nữ cũng có thể hành động như nam giới vậy, không, à không, có lúc còn ưu tú hơn ấy chứ.” Nói xong, anh chàng vội lè lè lưỡi, mồ hôi túa ra, thầm mắng mình lắm mồm, rồi lại tiếp tục cắm đầu phá giải mật mã.

May cho Trương Lập là Lữ Cánh Nam lúc này không để tâm đến lời nói của anh lắm, đầu óc cô đang nghĩ đến một vấn đề khác. Chỉ nghe cô cảnh cáo mọi người: “Đừng vui mừng sớm quá, đây chỉ là các trang thiết bị thất lạc của kẻ địch, từ đây chúng ta có thể hình dung ra đối phương được trang bị đầy đủ như thế nào. Kẻ địch như vậy, lẽ nào không đáng cho chúng ta phải cảnh giác ư?”

Câu nói của Lữ Cánh Nam làm cả bọn bình tĩnh lại, duy chỉ có Ba Tang là vẫn quyến luyến thử điều chỉnh các loại vũ khí. Nghĩ cũng phải, bọn họ chỉ là may mắn phát hiện ra một bộ hòm xiểng này, mà theo như cách nói của Nhạc Dương, đối phương tuyệt đối không chỉ có một bộ. Vũ khí và các trang thiết bị hiện đại giúp họ có thể đối mặt với các loại ác thú hung mãnh hơn, thích ứng được với những hoàn cảnh hiểm ác hơn, có điều, kẻ địch cũng có những trang bị ấy, nên điều này chỉ có thể dẫn đến hậu quả đáng sợ hơn bội phần mà thôi.

Toàn bộ tám chiếc hòm đã được mở ra, bảy hòm giống hệt nhau, đều chứa nguyên một bộ trang thiết bị tiêu chuẩn, nhưng chiếc còn lại thì khác hẳn... bên trong không có túi đựng đồ cấp cứu, mà là một va ly chứa đầy dụng cụ phẫu thuật, loại mà các bác sĩ ngoại khoa vẫn thường mang theo: dao phẫu thuật đủ các cỡ, gương, kẹp, dụng cụ tách, ngoài ra còn có thiết bị siêu âm màu 3D xách tay và máy sốc điện, một cái hộp giữ lạnh kín mít bên trong có mấy túi máu dự phòng; trong hòm này không có thức ăn, nhưng lại có nguyên một bộ thiết bị thông tấn hoàn chỉnh, có thể liên lạc ở khoảng cách xa hơn đồng hồ nguyên tử của bọn Trác Mộc Cường Ba, ngoài ra còn có ống nhòm hồng ngoại điện tử để nhìn ban đêm và thiết bị theo dõi dẫn đường bằng tia laser; trong hòm không có các vũ khí thông thường, nhưng có hai ống phóng hỏa tiễn xách tay, một khẩu trung liên tháo rời được, hai hộp đạn to đùng, hai khẩu súng bắn tỉa cự ly xa; bên dưới còn có máy phát điện kiểu quay tay, radar và bộ điều hợp...

Ba Tang không kìm được huýt lên mấy tiếng sáo, những người hiểu anh ta đều biết, điều này chứng tỏ Ba Tang đang hết sức phấn khích. Đối với Ba Tang, có những thứ này mới có thể coi là một đơn vị tác chiến hoàn chỉnh được.

Nhạc Dương kiểm lại đống khí giới rồi phân tích: “Kẻ địch của chúng ta rõ ràng cũng rất chuyên nghiệp. Nhìn cách phân phối trang bị này có thể thấy, chúng ít nhất có một bác sĩ, hai lính trinh sát, hai tay súng bắn tỉa, hai chuyên gia chất nổ, lại cả các thiết bị thông tin chuyên nghiệp này nữa, hiển nhiên cũng phải có cao thủ về máy móc điện tử thao tác sử dụng. Tám người được trang bị thế này, đính thực là một nhóm tác chiến cực kỳ đáng sợ, so với lúc đụng độ với bọn ta ở Đảo Huyền Không tự, đám người này đã tiến bộ hơn rất nhiều rồi. Rất rõ ràng, cũng giống như chúng ta, Merkin có ý định huấn luyện đàn em của hắn thành những tinh anh trong các tinh anh. Ừm, lạ thật đấy...”

“Sao hả?” Với những vấn đề kiểu này, có lúc Lữ Cánh Nam cũng phải hỏi anh chàng có tài năng thiên bẩm của một lính trinh sát, rất giỏi quan sát phát hiện những điều người bình thường không dễ gì nhận ra ở những sự vật hết sức bình thường này.

Nhạc Dương quan sát lại một lượt toàn bộ các trang thiết bị, rồi nói: “Một hệ thống tác chiến và các phụ kiện hỗ trợ hoàn thiện, thế nhưng, nếu bọn chúng đến đây để tìm Bạc Ba La thần miếu, nơi đã có hơn nghìn năm tuổi, đầy rẫy các cạm bẫy chết người, sao có thể đến cả một hệ thống thám trắc phổ thông nhất cũng không có cho được? Ít nhất thì cũng phải có một bộ thiết bị thăm dò thường dùng nhất như camera gắn trên ống chất dẻo chứ nhỉ.”

Lữ Cánh Nam đã hiểu ý Nhạc Dương, khẽ gật đầu.

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Ý cậu là...”

Nhạc Dương nói: “Nếu cần một lời giải thích hợp lý, vậy thì, rất có khả năng, đối phương định chia quân thành nhiều đợt tiến vào Shangri-la, đội thứ nhất này là đơn vị tác chiến, nhiệm vụ chỉ là quét sạch mọi chướng ngại vật và dò đường mà thôi!”

Mọi người nghe vậy đều trầm mặc. Nếu nói những kẻ ấy chỉ là đội tiên phong đi trước, vậy phía sau còn bao nhiêu người nữa sẽ tiến vào Shangri-la là điều thật sự rất khó đoán. Chuyện này thật không có gì hoan hỉ.

Sean đã cầm lên một miếng lương khô, hỏi Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam: “Có thể... có thể ăn một miếng không?” Ban sáng không ai còn muốn hưởng dụng lũ muỗi mọc đầy lông cứng ngắc đó, về sau trên đường cũng bắn hạ được một vài con động vật chân đốt, nhưng món thịt nướng chẳng có mắm muối gì ấy không thể nào khiến người ta có cảm giác ngon miệng thèm ăn cho được, thêm nữa phải bôn ba suốt một ngày mệt nhọc bụng ai nấy lúc này đều đã rỗng không.

“Dĩ nhiên.” Trác Mộc Cường Ba không hề do dự đáp ngay.

Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba nói: “Hôm nay chúng ta hạ trại ở đây luôn.” Nói đoạn, cô liếc sang cái va ly chứa dụng cụ phẫu thuật, rồi lại nói: “Vết thương của Sean vẫn cần xử lý một chút.”

“OK!” Trác Mộc Cường Ba gật đầu đáp.

Lúc này, Sean đã bóc lớp màng mỏng bọc bên ngoài miếng lương khô, vừa nhai nhồm nhoàm vừa nói: “Vị dâu tây, tôi thích vị này lắm.” Ăn được một nửa, anh ta bỗng ngạc nhiên thốt lên: “Cái gì đây nhỉ?” Chỉ thấy anh ta rút từ bên trong lớp màng mỏng bọc bên ngoài ra một vật mỏng, dèn dẹt như cái kẹo cao su.

Nhìn bao bì bên ngoài của vật mỏng ấy, Sean bất giác cười khổ, khoảng cách về trang thiết bị của bọn họ so với đối phương quả thực đúng là một trời một vực. Nhạc Dương tò mò hỏi: “Cái gì thế?” Anh đón lấy vật mỏng đó, không ngờ lại đúng là kẹo cao su thật. Nhạc Dương nhìn nhìn, rồi cũng bật cười, bộ dạng có vẻ rất cam chịu. Đường Mẫn cũng lấy làm hiếu kỳ: “Gì thế?”

Nhạc Dương đưa cho cô, rồi nói: “Đúng là kẹo cao su. Giấy bọc viết rất rõ, sử dụng sau khi ăn có tác dụng làm sạch khoang miệng, ngoài ra bên trong còn có hoạt chất khiến đầu óc tỉnh táo, hấp thụ thông qua lưỡi. Hơn nữa nhai kẹo còn làm máu não tuần hoàn tốt hơn, khiến phản ứng và khả năng phán đoán của con người tăng lên đáng kể, rất có lợi cho việc phối hợp và điều hòa tác chiến. Đây cũng là nguyên nhân khiến rất nhiều vận động viên bóng rổ, bóng đá thích nhai kẹo cao su trong khi thi đấu. Còn cả hàng chữ cuối cùng nữa, cô Mẫn Mẫn có thấy không? Bên trong còn có RDX đã được xử lý khử hoạt tính nữa cơ đấy.”

Đường Mẫn bất giác khẽ thở hắt ra một hơi: “Chất nổ dẻo! Nhưng làm gì có kíp nổ chứ?”

Nhạc Dương nói: “Nhai kỹ xong lật ngược lớp giấy bọc bên ngoài gói lại, lúc ấy thì tuyệt đối không được để bất cứ vật gì đè lên nó nữa đâu.”

Đội trưởng Hồ Dương nghe mà ngẩn cả người ra: “Đây hình như không phải là thứ mà bộ đội đặc chủng cần sử dụng thì phải?”

Nhạc Dương gật đầu: “Chỉ có điệp viên mới sử dụng loại vũ khí bí mật kiểu thế này. Đến cả giấy gói cũng không lãng phí, sợ rằng những từ như ‘hiện đại, hoàn bị’ không đủ để hình dung về trang thiết bị của đối thủ của chúng ta rồi.”

Trương Lập nãy giờ vẫn quỳ một chân trước cái hòm lục lòi tìm kiếm rất kỹ càng và cẩn thận một thứ gì đó. Trác Mộc Cường Ba thấy vậy bèn hỏi: “Tìm cái gì đấy?”

Trương Lập đầm đìa mồ hôi đứng dậy, lắc đầu nói: “Thiết bị phát xạ tia laser. Thứ gì bọn chúng cũng chuẩn bị đầy đủ cả, duy chỉ có thiết bị phát tia laser là không có thôi, hình như đối thủ của chúng ta không định liên lạc với thế giới bên ngoài thì phải. Theo lý mà nói, bọn chúng từ trên cao nhảy dù xuống, nhất định phải biết ngoài tia laser ra thì chẳng có loại tín hiệu nào xuyên qua được màn mây mù trên đỉnh kia mới phải chứ nhỉ.”

Nhạc Dương liền nói: “Chuyện này đơn giản lắm mà. Đối thủ của chúng ta cũng sợ trong đám người của hắn có những thành phần bất thuần. Mà hắn còn sợ nơi này bị người khác phát hiện hơn chúng ta nhiều. Điều này hoàn toàn phù hợp với tác phong của Merkin thôi.”

Điều chỉnh lại một chút, rồi Trương Lập ném một bộ thiết bị thông tấn cho Nhạc Dương. Nhạc Dương bắt lấy đưa lên nhìn qua một cái, rồi đeo vào tai, kéo nửa miếng kính mắt có thể mở ra kéo vào che lên mắt phải, tai nghe nhét vào trong lỗ tai, microphone chĩa về phía khóe miệng, ngoài ra còn hai sợi dây kết nối với hệ thống dữ liệu số buông trên vai. Trương Lập lại đưa cho anh thêm một thiết bị trung chuyển tín hiệu cỡ bằng cái điện thoại di động. Nhạc Dương nhét thiết bị đó vào túi áo trước ngực, rồi gắn dây kết nối vào, đoạn ấn hai cái nút bố trí phía trên tai. Trên mảnh kính phía trước mắt anh lập tức xuất hiện vị trí của bảy bộ thiết bị thông tấn còn lại và khoảng cách của anh so với chúng, vì lúc này các bộ khác chưa bật, nên số liệu hiện lên đều bằng không. Nhạc Dương cũng không kìm được, đắc ý huýt sáo véo von. Bộ trang thiết bị này cứ như thể là được đặt làm riêng cho cánh lính trinh sát giống anh chàng vậy.

Nhìn Nhạc Dương điều chỉnh thiết bị một cách hết sức thành thạo, Lữ Cánh Nam chợt hỏi: “Hồi trước cậu dùng qua hệ thống này rồi à?”

Nhạc Dương lắc đầu: “Đâu ra cơ hội tiếp xúc với hàng xịn thế này chứ? Giáo quan, cô dùng bao giờ chưa?”

Lữ Cánh Nam lắc đầu, trong lòng thầm nhủ: “Chưa dùng bao giờ sao lại thành thạo vậy được?”

Trương Lập đứng bên cạnh bổ sung thêm: “Còn một bộ xử lý trung tâm nữa, đến lúc đó sẽ do một người đeo trên lưng, thông qua camera gắn bên cạnh mắt kính, bất cứ người nào trong chúng ta cũng có thể nhìn thấy cảnh tượng ở trước mắt người khác tại thời điểm đó. Ngoài ra còn có một radar siêu cao tần, nó sẽ cung cấp cho chúng ta dữ liệu về phạm vi hoạt động của các sinh vật sống cũng như quỹ đạo di động của chúng.”

Nhạc Dương nắm chặt hai tay trước ngực, kích động thốt lên: “Mặc kệ đây là bang hội tổ chức nào, tôi cũng yêu chúng đến chết đi được ấy! Mỗi người một cái ba lô, cứ như là được đặt làm riêng cho chúng ta ấy nhỉ.”

Trương Lập nói: “Ai bảo là vừa khéo chứ? Ở đây chỉ có tám cái ba lô, chúng ta lại có tận chín người, trừ phi có thêm...”

Nhạc Dương vội cướp lời: “Câm cái mõm chim lợn của anh vào!” Trương Lập giờ mới chợt ý thức được, hình như suýt chút nữa thì mình đã lại nói ra một câu xui xẻo.

Lữ Cánh Nam nói: “Đừng xúc động nữa, trời cũng không còn sớm đâu, dựng trại đi thôi. Đối thủ của chúng ta dùng túi ngủ, xem ra bọn chúng vẫn còn chưa tìm hiểu kỹ lưỡng về Shangri-la rồi, có lẽ đây là sơ xuất duy nhất của bọn chúng cũng nên.”

Những người còn lại phụ trách dựng trại trên vách đá, trạm radar cỡ nhỏ của Trương Lập cũng đã lắp ráp xong xuôi, rất nhỏ, nhưng tiện xách theo bên người. Để thử phạm vi quét của radar, Trương Lập bảo Nhạc Dương mang theo thiết bị thông tin đi lùi về phía sau. Còn Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thì cùng bắt tay làm một ca phẫu thuật đơn giản để xử lý vết thương ở mông của Sean, loại bỏ các tổ chức mô bị hoại tử, dẫn lưu vết khâu... Lần này đã có thuốc tê nên Sean cũng không bị đau đớn quá. Chỉ có điều vết thương rất sâu, theo ý kiến của Mẫn Mẫn, Sean vốn không nên tiếp tục lên đường nữa, như vậy sẽ rất bất lợi cho vết thương, nhưng Sean vẫn cho rằng không vấn đề gì, chắc chắn sẽ không bị tụt lại phía sau.

Lúc này Trương Lập cũng đã có kết luận sơ bộ về phạm vi quét của radar, khoảng cách lớn nhất lên đến mười cây số, nếu ăng ten lắp trên cây, phạm vi quét thậm chí còn có thể lớn hơn nữa. Chỉ có điều, đây không phải loại radar có thể phát hiện vật thể sống mà Trương Lập tưởng tượng, chỉ là loại radar phát hiện vật thể di động bình thường, đồng thời chỉ có thể bắt được những tín hiệu di chuyển với tốc độ cao, nếu là vật thể đứng yên bất động hoặc chầm chậm di chuyển thì không thể nào phân biệt được với cây cối trong rừng.

Ngày hôm sau, cả bọn sắp xếp lại đồ đạc rồi tiếp tục tiến về phía trái. Giờ đây sự tự tin của họ đã tăng lên gấp bội. Được trang bị đến tận răng thế này, dẫu có gặp phải mấy con thằn lằn khổng lồ như lần trước vây công, bọn họ cũng thừa tự tin có thể tiêu diệt được hết. Bọn Trác Mộc Cường Ba vẫn tiếp tục men theo mép tầng bình đài thứ hai tiến lên. Vì không cần lo lắng về chuyện thức ăn nữa, nên ngoài những lúc lấy nước, họ gần như không cần thiết phải tiến sâu vào rừng, thành ra tốc độ nhanh hơn rất nhiều. Nhưng đồng thời, họ cũng nghĩ đến kẻ địch của mình. Cũng như họ, đối phương cũng không cần lo lắng về thức ăn, bởi thế hành trình mười ngày mà họ dự đoán ban đầu, áng chừng sẽ phải rút ngắn xuống chỉ còn khoảng năm đến bảy ngày mà thôi.

Hai ngày đầu không gặp nguy hiểm gì, thi thoảng mới có một hai con quái vật xông ra khỏi rừng, nhưng cũng bị họ tiêu diệt một cách dễ dàng. Sean vẫn còn có thể đầy hứng thú giới thiệu với mọi người đây là sinh vật thuộc giống gì, từ ngoại hình có thể nhìn ra được các đặc điểm gì, đó là động vật ăn thịt hay ăn cỏ, từ các cơ quan trên cơ thể có thể đoán được nó săn mồi như thế nào, vân vân...

Chương 3

Núi Tu Di

Trác Mộc Cường Ba dẫn theo đội của mình đơn độc tiến lên giữa chốn rừng rậm hoang dã đầy rẫy quái thú hoành hành nhưng chẳng có vết dấu gì của loài người ấy. Trên đường, họ quẳng lại sau lưng hết thảy những sợ hãi và mệt mỏi, tạm thời quên đi đau đớn và nỗi buồn, nói theo cách của Nhạc Dương, thì dù có bi thương đến mấy đằng nào cũng phải tiến lên phía trước, vậy cớ sao không vui vẻ mà đi cho rồi.

Điều đáng tiếc duy nhất trong hai ngày nay chính là vết thương ở mông Sean, chẳng những không có dấu hiệu thuyên giảm, mà ngược lại còn có xu hướng ngày một trầm trọng hơn. Về sau, cứ mỗi lần Sean chống cây gậy xuống, cả bọn đều nghe thấy anh ta khẽ rên lên một tiếng, xem chừng có vẻ đang gắng sức chịu đựng, nhưng mồ hôi trên trán thì vẫn túa ra không sao kìm được. Sau khi cùng chẩn đoán, Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn đều cho rằng vết thương của Sean như vậy thì không thể tiếp tục tiến lên được nữa. Lúc ấy sắc mặt anh ta tái dại đi, mấy ngày này, anh ta vẫn luôn gắng gượng, cố hết sức không để tình trạng này xảy ra. Nhưng ngay sau đó, đề nghị của Trác Mộc Cường Ba đã hoàn toàn biến đổi nỗi lo của Sean. Gã đề nghị, liệu có nên làm cho Sean một cái cáng, rồi mọi người thay nhau cáng anh ta tiếp tục lên đường. Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đưa ánh mắt trao đổi giây lát, nhưng cuối cùng vẫn đồng ý, cho dù nghi ngờ Sean có mục đích gì đi nữa, thì anh ta cũng đã đạt được rồi. Bỏ Sean lại trong hoàn cảnh này, tốc độ tiến lên của họ rất có thể còn chậm hơn khi phải cáng anh ta theo, càng huống hồ họ cũng không có chứng cứ gì, nhất là đội ngũ này không thể cứ thế bỏ lại người bị thương rồi đi tiếp được.

Những ngày này, pháp sư Á La và đội trưởng Hồ Dương không lúc nào ngừng việc chỉnh lý sắp xếp cuốn Nhật ký thôn Công Bố và những quyển kinh văn còn sót lại, hy vọng có thể tiếp tục đào xới được thêm một số đầu mối có ích khác nữa. Những người khác sau khi hoàn thành việc của mình, có lúc cũng lại giúp họ một tay. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thì dành thời gian chăm sóc Sean nhiều hơn một chút, hễ làm xong công tác phòng ngự và trinh sát, Trương Lập và Nhạc Dương cũng chạy qua lăng xăng giúp đỡ hai cô.

Ban đầu mọi tư liệu đều được lưu vào máy tính, chỉ mình pháp sư Á La tiến hành phiên dịch và giải nghĩa, nhưng giờ đây, trong đống trang bị của bọn Merkin còn có cả thiết bị lưu trữ và đọc dữ liệu cỡ nhỏ, pháp sư có thể chia các tư liệu trong máy tính ra theo từng khoảng thời gian, chuyển vào thiết bị lưu trữ của từng thành viên trong đội, hiệu suất nghiên cứu Nhật ký thôn Công Bố liền tăng lên đáng kể.

Phần Nhật ký phân cho Trương Lập, hình như chỉ toàn ghi chép những chuyện vụn vặt lắt nhắt, chẳng hạn như năm nào tháng nào đi đến đâu, mang theo những thứ gì, đổi về những thứ gì. Mặc dù thế, anh cũng phát hiện được rất nhiều chữ lạ, không hiểu nghĩa là gì, bèn đi tìm pháp sư Á La để nhờ chỉ giáo.

Lúc Trương Lập đến chỗ pháp sư Á La, ông và đội trưởng Hồ Dương đang thảo luận rất sôi nổi, nói toàn những gì mà Lục đạo, hoa sen tám cánh, cung điện gì gì đó. Đột nhiên đội trưởng Hồ Dương hét lớn một tiếng, kích động tóm chặt tay pháp sư Á La kêu lên: “Pháp sư còn nhớ Đại Thiên Luân kinh miêu tả thế giới này được cấu thành như thế nào không? Đoạn ở ngay đầu tiên ấy!”

Pháp sư Á La cũng đánh mất vẻ bình tĩnh thường ngày, trợn trừng mắt lên nói: “Ý cậu là, đây không phải Shangri-la? Đúng thế, nó không giống với những gì được ký tải trong Đại Thiên Luân kinh, nó là cả một thế giới!”

Đội trưởng Hồ Dương nắm chặt tay đấm vào tảng nham thạch lớn bên cạnh mình, thốt lên: “Đúng là vậy rồi! Đúng là vậy rồi!”

Trương Lập chẳng hiểu gì, đần mặt ra hỏi: “Pháp sư, đội trưởng Hồ Dương, hai người đang nói gì vậy? Cái gì không phải là Shangri-la? Đúng vậy rồi là sao?”

Pháp sư Á La bèn giải thích: “Thực ra, khi nghiên cứu Nhật ký thôn Công Bố, chúng tôi đã phát hiện ra danh xưng họ gọi nơi này không phải Shangri-la chúng ta vẫn cứ nói, mà là một từ khác. Lẽ dĩ nhiên, chúng tôi cho rằng từ này chính là để chỉ Shangri-la, nhưng hôm nay, đội trưởng Hồ Dương đã xác định được từ nguyên của Shangri-la rồi. Dựa theo phần miêu tả trong Nhật ký thôn Công Bố này, Shangri-la chắc là nằm ở một nơi nào đó trên tầng bình đài thứ ba mới đúng.”

Trương Lập lắp bắp nói: “Cháu... cháu không hiểu, pháp sư Á La, cháu hồ đồ mất rồi. Nơi này, không phải Shangri-la? Shangri-la ở một nơi nào đó trên tầng bình đài thứ ba? Vậy thì... nơi này... nơi này là cái gì? Còn Mật quang Bảo giám mà chúng ta diễn dịch ra thì sao? Nó chỉ cái gì? Hay là chúng ta đã nhầm?”

Đội trưởng Hồ Dương bật cười khà khà, đưa tay vỗ lên lưng Trương Lập một cú rõ mạnh. Pháp sư Á La gật đầu nói: “Đây cũng chính là vấn đề chúng tôi vừa tranh luận khi nãy. Nếu nơi này, toàn bộ không gian ở bên trong khe nứt khổng lồ giữa lòng núi này, không phải là Shangri-la, mà Shangri-la chỉ là một phần trong nó mà thôi, vậy thì nơi này rốt cuộc là nơi nào đây? Đúng lúc cậu bước đến, thì tôi và đội trưởng Hồ Dương đã rút ra được một kết luận có thể nói là tương đối chuẩn xác rồi.”

Pháp sư Á La hướng ánh mắt về phía mép bình đài, chậm rãi nói: “Người bộ tộc Qua Ba cổ đại coi chốn này như một thế giới độc lập. Họ cho rằng, bất luận là băng qua U Minh hà hay vượt qua núi tuyết thần thánh thiêng liêng, thì cũng đều là những quá trình siêu thoát khỏi sự sống và cái chết. Đối với họ, toàn bộ không gian bên trong khu khe nứt này chính là một thế giới hoàn toàn mới, nơi đây chính là toàn thế giới, toàn vũ trụ; quả núi có ba tầng bình đài hình chóp ngược này, chính là núi Tu Di.

Trương Lập vẫn chưa hiểu, đội trưởng Hồ Dương bèn giải thích thêm: “Cậu còn nhớ Đại Thiên Luân kinh miêu tả vũ trụ cấu thành như thế nào không? Thế giới vật chất do Tứ luân: địa, thủy, hỏa, phong tạo nên. Phong luân ở chốn hư không, bên trong là Hỏa luân do nó nâng đỡ, có bảy tầng, tầng thứ bảy gọi là Kim Cương sơn hay Danh Mã Diện Hỏa sơn; bên trong ngọn núi lửa ấy là Thủy luân, cũng có bảy tầng, tầng thứ bảy được gọi là Diêm Hải; bên trong nó là Địa luân, trung tâm của Địa luân chính là núi Tu Di, trên dưới núi Tu Di có những vòng vây quanh, dạng như cái đĩa đồng úp ngược ra phía bên ngoài, tầng dưới cùng nhỏ nhất, càng lên trên càng lớn dần, thực chất chính là một hình chóp nón trên lớn dưới nhỏ úp ngược. Cậu nghĩ lại những gì chúng ta đã trải qua khi tìm đến được nơi này mà xem, bên ngoài núi tuyết là gió thốc cuồng loạn, lại còn cả biển ngầm và kết cấu thông đạo của U Minh hà nữa, đều là do núi lửa cổ đại tạo thành, dung nham núi lửa đã hình thành nên biển ngầm, mà bình đài ba tầng hình chóp ngược chân nhỏ đầu to này chính là ở giữa biển ấy. Từ đầu đến giờ, chúng ta không hề liên hệ gì giữa kết cấu hình chóp ngược này và núi Tu Di cả, giờ nghĩ lại mới thấy, ba tầng bình đài mà chúng ta đang leo lên đây, đích thực chính là núi Tu Di rồi!”

Trương Lập ngạc nhiên thốt: “Đây... đây là núi Tu Di? Thế còn Shangri-la đâu? Mật quang Bảo giám không phải chỉ đường đến Shangri-la hay sao?”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Theo tôi nghĩ, trước đây chúng ta đã hiểu lầm rồi. Trong Mật quang Bảo giám, vệt chỉ đường ẩn tàng ấy không phải chỉ đường cho chúng ta đến Bạc Ba La thần miếu, mà là đến Shangri-la. Shangri-la, chỉ là một phần trong thế giới Tu Di này mà thôi. Người đời muốn tìm kiếm Shangri-la ở thế giới bên ngoài kia là chuyện không thể nào thực hiện được, bởi vì Shangri-la, Shangri-la ở bên trong thế giới này, đây... đây là một thế giới hoàn toàn khác với thế giới bên ngoài. Cậu nhìn đây đi...” Đội trưởng Hồ Dương chỉ vào máy tính, nói với Trương Lập: “Những người dân trong thôn Công Bố ở tầng thấp nhất này tự nhận rằng ngôi làng của họ tọa lạc ở miền giáp ranh giữa Thánh vực và Phiên vực, đây cũng là những gì được miêu tả về thế giới Tu Di trong Đại Thiên Luân kinh. Dọc theo chân núi Tu Di chia ra làm bốn góc vuông, mỗi góc là một châu, mỗi châu lại chia thành ba khu Đông, Trung, Tây. Cách lý giải thông thường về Đại Thiên Luân kinh cho rằng, phàm nhân như chúng ta cư trú ở nửa vùng phía Bắc khu Trung của châu phía Nam, vùng này lại được chia làm sáu khu vực nhỏ, từ Bắc đến Nam lần lượt là Tuyết sơn tụ, Shangri-la, Hán vực, Lê vực, Phiên vực, Thánh vực. Các nhà nghiên cứu cho rằng, Phật giáo được truyền vào từ Ấn Độ, vì vậy Thánh vực để chỉ Ấn Độ, Phiên vực là chỉ Tây Tạng, Lê vực đại khái chắc là vùng Tân Cương, Tuyết sơn tụ chắc là vùng cực Bắc của Đại Lục, còn Shangri-la rốt cuộc là ở đâu thì vẫn chưa có kết luận nào rõ ràng. Ngoài ra còn rất nhiều luận định nhất trí cho rằng núi Tu Di mà người xưa nói, kỳ thực chính là chỉ Hy Mã Lạp Sơn, ai có thể ngờ được... ai có thể ngờ được! Thì ra núi Tu Di lại là núi ở bên trong núi!”

Trương Lập hoàn toàn đắm chìm vào cảm giác chấn động pha lẫn kinh hãi, núi Tu Di, Shangri-la, những danh từ trong truyền thuyết ấy cứ luân phiên xuất hiện trở đi trở lại trong đầu anh. Pháp sư Á La giật lấy chiếc máy tính, nói: “Chúng ta vẫn còn phải đọc thêm nhiều tư liệu nữa, để xem có thể kết hợp với hình vẽ trên gương đồng mà vẽ ra một tấm bản đồ cụ thể và tỉ mỉ của núi Tu Di hay không. À, đúng rồi, Trương Lập, cậu tìm tôi có việc gì đấy?”

Trương Lập giật mình sực nhớ ra, vội nói: “À, vâng, pháp sư, ở đây có một số phần cháu không hiểu nghĩa lắm, muốn nhờ ông xem giúp.” Nói đoạn, anh liền chuyển phần tư liệu mình được chia cho vào máy tính.

Pháp sư Á La nhìn lướt qua tư liệu, “ồ” lên một tiếng, nói: “Trong này có rất nhiều từ ngữ tu sức, chẳng trách cậu lại không hiểu. Ừm...” Vừa đưa mắt đọc, pháp sư Á La vừa mỉm cười hiền hòa. Trương Lập đứng bên cạnh cuống cuồng hỏi: “Sao rồi ạ? Pháp sư, trong đó viết gì vậy?”

Pháp sư Á La giải thích: “Đây chắc là một dạng kiểu như du ký do người phụ trách ghi chép Nhật ký của thôn làng viết ra, miêu tả lại những nơi bản thân từng đi qua và những gì mắt thấy tai nghe. Ừm, thời gian này... tính theo lịch pháp Thiên Luân...” Pháp sư Á La gõ mạnh lên bàn phím máy tính, kích động nói: “Trong những tư liệu chúng ta phát hiện được, đoạn ghi chép này có lẽ khá gần với thời gian thôn Công Bố xảy ra thảm họa diệt tộc, phải nghiên cứu cho kỹ vào. Trương Lập, cậu chú ý tìm lại coi, trong phần tư liệu cậu được phân cho đó có đoạn nào tương tự như như vậy nữa không, cứ tìm hết loạt ra. Rất có thể, chúng ta sẽ tìm được trong đó nguyên nhân thôn Công Bố bị đồ sát cũng nên đấy.”

Trương Lập gật đầu nói: “Vâng ạ. Thế đoạn ấy rốt cuộc là viết gì thế ạ? Cháu chỉ biết trong ấy có một tên người, hình như tên là A Mễ hay gì đó, phải không ạ?”

“Mã Cát A Mễ, cái tên đẹp thật!” pháp sư Á La chậm rãi nói. “Xem chừng, người ghi chép của thôn Công Bố này rất để ý tới cô bé đó, mỗi lần nhắc đến Mã Cát A Mễ, đều dùng khá nhiều từ tu sức.”

Nghe pháp sư Á La nói thế, cả đội trưởng Hồ Dương cũng thấy tò mò, Trương Lập lại càng nôn nóng thúc giục: “Pháp sư đọc lên nghe thử xem thế nào đi, đọc thử đi ạ.”

Pháp sư Á La chuẩn bị một chút, rồi chầm chậm đọc thành tiếng bằng chất giọng thấp trầm: “Đêm nay, vầng trăng đã lâu rồi không xuất hiện chiếu rọi khắp muôn nơi, tiếng lá cây xào xạc tấu lên một khúc nhạc tuyệt mỹ dưới ánh trăng vàng, bóng trăng loang lổ, tinh tú chuyển dời, ánh trăng chiếu xuyên qua tán cây rậm rạp rải xuống thảm cỏ màu bích lục, trên mặt đất tựa như có dòng sông sao đang chảy. Ta đầu đội ánh sao, chân bước qua dòng sông sao, đón ngọn gió nhè nhẹ mát lành tiến về phía trước, cảnh đêm đẹp tuyệt trần ấy làm ta quên đi cả thời gian và mệt mỏi. Dần dần, bóng trăng ngả về Tây, phía góc trời đã thấy có ánh sáng, tia nắng đầu tiên của ban mai chiếu qua màn sương mờ vẫn chưa khép hẳn lại phủ lên khu rừng, sương sớm ngưng kết thành vô vàn tinh linh bé nhỏ, những hạt sương run rẩy nghịch ngợm lượn tròn trên đám lá xanh mơn mởn mới nhú, trong khu rừng tĩnh lặng truyền lại tiếng chim trong trẻo véo von, dòng suối hân hoan khẽ cất tiếng ngâm nga, chúng chảy từ núi tuyết xuống, xuyên qua Thánh vực. Đã lâu lắm lâu lắm rồi ta không tìm đến Thánh vực tĩnh lặng thanh bình này nữa. Hôm nay đã được định sẵn là một buổi ban mai không bình phàm, ta bước lên thảm cỏ xốp mềm, tựa hồ như trong cõi vô minh có một thứ lực lượng đang chỉ dẫn ta tìm kiếm gì đó, ta cũng không biết đó là gì, cho tới khi thấy bóng hình yêu kiều mong manh đó. Một thiếu nữ đi nhặt quả phỉ, nàng quỳ một chân trên bãi cỏ, xoay lưng hướng về phía ta, bên cạnh có một chiếc giỏ trúc nhỏ, nàng rất chăm chú, hoàn toàn không biết ta đang tiến lại gần. Nếu nói thần Tự nhiên khẳng khái đã trải ra trước mắt ta một bức tranh diễm lệ, vậy thì, chẳng nghi ngờ gì nữa, cô bé đó chính là trung tâm của bức tranh ấy, nàng hòa lẫn với khu rừng thành một thể hài hòa thống nhất, cảm giác như sự tồn tại của ta chỉ là dư thừa. Khi nàng ngoảnh đầu lại nhìn, ta lấy làm kinh ngạc trước vẻ đẹp đó, rồi bỗng bàng hoàng hiểu ra, thì ra ánh nắng mai như mộng cảnh này, chính là để tôn lên vẻ đẹp ấy! Trên gương mặt thanh nhã non tơ đó, ta có thể nhìn thấy dung nhan tuyệt thế của nàng sau này, trong đôi mắt nàng, ta càng có thể thấy cả khu rừng mênh mông. Một sắc xanh tràn ngập, thậm chí cả trái tim già nua mệt mỏi này của ta, cũng vì thế mà được rót tràn trề một sức sống mới...”

Trương Lập và đội trưởng Hồ Dương tựa như đang nghe một đoạn tản văn tuyệt mỹ, tâm thần say sưa chìm đắm, thấy pháp sư Á La ngừng lại, cả hai không hẹn mà đồng thanh hỏi: “Hết rồi à?”

Pháp sư Á La mỉm cười, tiếp tục đọc: “Ta khâm phục sự dũng cảm của nàng. Chắc mới chỉ khoảng bảy tám tuổi thôi, vậy mà đã dám một mình vào chốn rừng sâu này nhặt quả phỉ, lẽ nào nàng không biết, bất cứ loài động vật nào ở đây, bất cứ một cây rừng nào ở chốn này, cũng có thể đưa nàng vào chỗ chết? Đối mặt với một kẻ lạ mặt đi ra từ trong rừng sâu như ta, nàng cũng không hề có vẻ sợ hãi hay hoảng hốt gì, ngược lại còn nở một nụ cười ngọt ngào. Nụ cười ấy như thế nào nhỉ, trong những năm tháng đầy rẫy khổ đau này, nụ cười ấy đủ sức mạnh để xua tan tất thảy mọi bi thương và tang tóc. Ta cũng thấy yên tâm phần nào, một thiếu nữ có nụ cười như thế, chắc hẳn sẽ được chư thần bảo hộ, dẫu là đám người Lỗ Mạc hung mãnh nhất, nhìn thấy nụ cười đó, chắc cũng không nhẫn tâm mà ra tay với nàng đâu. Cô bé ấy là... là một tinh linh có nụ cười của Thiên sứ.”

“Thiên sứ?” Trương Lập tròn mắt nhìn pháp sư Á La.

Pháp sư Á La nói: “Tôi chỉ cố để dịch sao cho các cậu có thể hiểu được.” Đội trưởng Hồ Dương vừa ra hiệu cho pháp sư Á La tiếp tục đọc, vừa lừ mắt lườm Trương Lập, tựa như đang trách anh chàng phá thối, ngắt lời pháp sư Á La.

“Bởi một cảm giác thân cận hết sức tự nhiên, ta lại gần nàng, cùng nàng trò chuyện. Thiếu nữ ấy nói với ta, nàng tên là Mã Cát, Mã Cát A Mễ, một cái tên đẹp đến độ khiến người ta đắm say ngây ngất. Năm nay nàng tám tuổi, đang sống chung với bà nội ở thôn Công Nhã Lạp gần đây, bà nàng không được khỏe, nên Mã Cát đi nhặt quả phỉ về cho bà ăn. Được Mã Cát mời, chúng ta cùng nhặt quả, hái hoa, kết vòng cỏ, chơi đùa. Sự ngây thơ thuần khiết của nàng khiến ta quên đi cả tuổi tác của mình, tựa hồ lại trở về với những năm tháng vô ưu vô lự thuở ấu thơ. Buổi sớm hôm ấy khiến ta trọn đời cũng khó thể nào quên. Bởi vì vui, cho nên vui, cảm giác vui vẻ đơn thuần ấy, khiến ta hồi tưởng lại được niềm vui thích thật sự. Điều khiến ta kinh ngạc nhất là, từ lời kể của Mã Cát, ta biết được rằng cha mẹ nàng đã chết trong chiến tranh, nàng và người anh trai hơn hai tuổi xưa nay vẫn quấn quýt nương tựa lẫn nhau cách đây không lâu cũng bị ly tán trong nạn đói. Nhưng ở thiếu nữ này, ta chỉ nhìn thấy niềm hoan lạc và sự kiên định. Niềm vui của nàng khiến từng ngọn cỏ cành cây xung quanh cũng thấm đẫm vẻ hân hoan thích thú. Thiếu nữ ấy nói với ta bằng giọng khẳng định chắc nịch, bà nàng nhất định sẽ khỏe lại, chiến tranh nhất định sẽ kết thúc, anh trai nàng nhất định sẽ trở về đón nàng rời khỏi nơi đây, họ sẽ ra thế giới bên ngoài kia, họ đã ước định như vậy rồi! Họ sẽ cùng đi tìm kiếm miền tịnh thổ không có chiến tranh loạn lạc trong truyền thuyết ấy, thế giới bên ngoài rộng lớn vô hạn, nhất định sẽ có một vùng thánh địa thanh bình, nàng muốn tất cả mọi người, đều sống bên nhau thật tình tương thân tương ái. Khi Mã Cát nói những lời ấy, vẻ nghiêm túc trên gương mặt nàng khiến tim ta rung lên. Thật hổ thẹn thay, Địch ô của thôn Công Bố như ta, mà lại không có được đảm thức và sự giác ngộ ấy. Một lần nữa, ta lại kinh ngạc trước sự kiên định và chấp niệm của nàng, trước đôi bờ vai nhỏ nhắn non tơ ấy...” Pháp sư Á La đọc tới đoạn cuối cùng, nhíu mày nói: “Chiến tranh? Trong các đoạn Nhật ký trước đây chúng ta đọc được, hình như không có nhắc đến chiến tranh. Thử tìm kỹ lại xem, có khi lại có quan hệ trực tiếp với sự diệt vong của thôn Công Bố cũng nên đấy.”

Trương Lập vẫn đứng im bất động, trong óc anh đã phác ra một cô bé với nụ cười tươi tắn thuần khiết, tay cầm chiếc giỏ trúc, chăm chú nhặt quả phỉ trong cánh rừng u tịnh. Sương sớm, dòng suối nhỏ, thảm cỏ xốp mềm, vài tia nắng chiếu qua cây, cảnh tượng đó hẳn phải đẹp vô cùng!

Chương 4

Câu chuyện của A Mễ

Sau đó họ lại đi thêm hai ngày nữa. Trong hai ngày này, người nhàn nhã nhất chính là Sean, vì vết thương ở chỗ nhạy cảm nên anh ta được ung dung thoải mái nằm sấp trên cáng, ngày ngày chỉ có mỗi việc đọc tài liệu trong máy tính của giáo sư Phương Tân, bổ sung thêm kiến thức về các loài sinh vật khổng lồ thời tiền sử, nên giờ đây đã có thể phán đoán được tập tính sinh hoạt của các loại quái thú ở đây một cách chính xác hơn nhiều rồi.

Có điều, sự nhàn nhã của Sean được xây dựng trên cơ sở sự bận bịu của bốn người, Ba Tang, đội trưởng Hồ Dương, Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La - bốn người này phải thay nhau khiêng cáng. Ba người còn lại không nói gì, chỉ có Ba Tang là rất nghi ngờ về vết thương của Sean. Đầu óc Sean vẫn tỉnh táo, vết thương cũng không hề có chiều hướng nhiễm trùng nặng hơn, tại sao lâu như vậy vẫn không đỡ chút nào? Ít nhất anh ta cũng phải tự đi được vài bước mới phải. Có điều lần nào thay thuốc cũng thấy Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn nhíu chặt đôi hàng lông mày, lần nào cũng dẫn lưu được nhiều dịch như cũ, nhưng nếu bảo là vết thương bị nhiễm trùng, thì cơ thể Sean lại cũng không xuất hiện bất cứ triệu chứng nào khác. Đối với trường hợp này, bọn họ cũng không thể nào giải thích nổi, các loại thuốc tiêu viêm, kháng sinh có thể dùng được đều đã dùng hết cả rồi, lẽ nào cả vi khuẩn ở Shangri-la này cũng khác với thế giới bên ngoài hay sao? Nhưng Trác Mộc Cường Ba cũng bị thương y như vậy, tại sao Trác Mộc Cường Ba không sao? Vết thương của gã về cơ bản đã khỏi hẳn, sẹo cũng liền lại rồi.

Nhưng chẳng phải Ba Tang quan tâm đến tình trạng sức khỏe của Sean, điều anh ta lo lắng là, Sean chẳng những không chia sẻ một phần việc vác đồ, ngược lại còn tăng thêm trọng lượng cho những người còn lại, khiến tốc độ hành trình của cả nhóm giảm xuống đáng kể, cứ tiếp tục thế này sớm muộn gì cũng bị đám phần tử vũ trang đằng sau kia đuổi kịp. Nếu là đội trước đây của anh ta, những thành viên như tay Sean này đã sớm phải rời khỏi đội ngũ, một mình tự sinh tự diệt trong rừng sâu rồi, còn nếu như gặp tình trạng quá sức đau đớn không thể sinh tồn được, thì những thành viên khác trong đội sẽ hoàn toàn không chút do dự giúp người bị thương giải thoát.

Mỗi lần nhìn thấy ánh mắt băng lạnh đầy sát khí của Ba Tang, Sean cũng không khỏi có chút áy náy, đương nhiên anh ta cũng biết hiện giờ mình đang là gánh nặng của cả đội, có điều lần “tiếp xúc thân mật” với con muỗi khổng lồ ấy có lẽ đã thương tổn đến thần kinh hay xương mông gì đó, cứ hễ đặt một chân xuống đất là lại đau đến thấu tim, mà anh ta thì cũng tuyệt đối không thể hy sinh bản thân vì nhóm người này được.

Trong thời gian nghỉ ngơi của hai ngày này, với sự cố gắng không mệt mỏi của mình, cuối cùng Trương Lập đã phát hiện được thêm hai đoạn ghi chép nữa có nhắc đến Mã Cát, pháp sư Á La đã dịch lại cho anh thành một đoạn văn đầy thi vị...

“Ngọn lửa chiến tranh, mặc dầu đã dần dần lắng xuống, nhưng mỗi lẫn nhìn thấy những gương mặt trẻ thơ vô tội, cùng những cặp mắt oán hận ấy, ta lại biết rằng, dấu ấn thù hận đã hằn sâu, bên dưới sự bình lặng bề ngoài ấy là sóng ngầm đang cuồn cuộn trào dâng. Ta thật không hiểu nổi, những kẻ sống ở phía trên kia nghĩ thế nào. Sự cân bằng thế lực giữa hai vương quốc lớn đã giữ được hơn trăm năm, phá vỡ thế cân bằng ấy, chắc chắn sẽ dẫn đến hậu quả vô cùng khủng khiếp, bọn họ hẳn cũng hiểu rõ đạo lý ấy chứ! Thật đáng tiếc, chúng ta không thể nào trở lại trên ấy nữa, xem ra, mãi mãi ta cũng không thể nào biết được chân tướng sự thực.

Có điều, khi đi qua thôn Công Nhã Lạp, ta đã thấy một cảnh tượng khiến mình thật sự cảm động, một đám trẻ con tầm sáu bảy tuổi, quần áo rách rưới vây quanh một cô bé khoảng mười tuổi, ríu ra ríu rít, tiếng cười hân hoan vang lên không ngớt. Dường như chúng đã quên đi nỗi đau do ngọn lửa chiến tranh mang tới. Trong khoảnh khắc ấy, ở chúng toát lên vẻ thuần chân mà những đứa trẻ nên có, thật hài hòa với cỏ xanh mầm biếc nơi đây. Ta bất giác dừng ngựa đứng từ xa nhìn, không phải cố ý, nhưng bất chợt nghe thấy lũ trẻ ấy báo cáo với thiếu nữ đang quay lưng về phía ta bằng chất giọng non nớt trong trẻo.

“Chị Mã Cát, em giúp chú Lạp Cát tìm được cái chổi trong nhà, chú ấy khen em cẩn thận đấy nhé...”

“Chị Mã Cát, em giặt sạch khăn giúp a ma, a ma còn khen em rất giỏi giang nữa cơ...”

“Chị Mã Cát, chị Mã Cát... chú dê nhỏ nhà em bị thương ở chân, em băng bó cho nó rồi, nó còn liếm tay em nữa nhé...”

“Cả em nữa, cả em nữa, em tưới cây cho vườn quả của a ba, a ba bảo em đã lớn rồi...”

...

Những lời báo cáo hân hoan ấy, cùng với tiếng cười ngân nga như tiếng chuông bạc như mưa xuân tưới đẫm lên linh hồn của kẻ đang lắng nghe là ta đây. Tựa hồ lần đầu tiên ta biết được, thì ra, niềm vui còn có thể hưởng thụ được theo cách như thế. Lũ trẻ tranh nhau nói ra những điều khiến mình vui vẻ, những điều mình tự hào, bất giác, đã làm nhạt đi cảm giác đau đớn, quên đi cả đói khát và nỗi sợ, những gương mặt non nớt ngây thơ càng tôn thêm vẻ đẹp của nụ cười. Cô bé gái lớn hơn một chút ấy, tay xách một giỏ trúc nhỏ, chừng như đang phát phần thưởng cho lũ bé hơn. Ta có cảm giác, bóng lưng ấy sao mà quen thuộc thế, cả cái tên Mã Cát cũng cứ vương vấn mãi trong lòng. Khi nàng quay người lại, gương mặt tươi cười khiến người ta có cảm giác như được tắm trong gió xuân, khiến lòng người thấy ngọt ngào như có dòng suối mát chảy qua, chính là nàng... trong tâm trí ta lập tức hiện lên bóng hình nhỏ nhắn mong manh ấy, Mã Cát A Mễ. Cùng với năm tháng, Mã Cát càng ngày càng thêm xinh đẹp, bất cứ ai nhìn thấy nụ cười thanh bình của nàng, cũng đều mang một hồi ức cả đời khó quên.

Mã Cát đã không nhận ra ta nữa, nhưng nụ cười của nàng vẫn không hề thay đổi, đôi mắt trong suốt của nàng cũng không thay đổi. Bước lại gần, ta ngạc nhiên phát hiện ra, chiếc giỏ trúc nhỏ của Mã Cát, chứa đầy các loại hạt giống, hạt cỏ, hạt quả, hạt ngũ cốc. Còn lũ trẻ nhỏ hơn kia, thì nâng niu những hạt giống ấy trên tay như báu vật, nét mặt lộ ra vẻ dương dương đắc ý. Ta tò mò hỏi xem cả bọn đang chơi trò gì. Mã Cát bèn khẽ nói với ta rằng, lũ trẻ ấy đã phải chịu nhiều đau khổ trong chiến tranh, đứa thì mất người thân, đứa thì thành tàn phế, cặp mắt chúng đã phủ lên sắc màu u ám, nếu không có người nào giúp đỡ chúng, trái tim chúng sẽ như tảng băng ngàn vạn năm không tan trên cao nguyên tuyết phủ. Nhìn những đứa trẻ mất đi nụ cười hoan hỉ của tuổi thơ ấy, Mã Cát liền nghĩ đến bản thân mình. Nàng hy vọng những đứa trẻ mồ côi bị chiến tranh giày vò ấy có thể tìm được hạnh phúc trong bất hạnh; nàng hy vọng nỗi đau mà nàng từng phải chịu đựng, từng phải nếm trải, không còn giáng xuống đầu những đứa trẻ khác nữa. Vì vậy, nàng đã nhặt rất nhiều hạt giống, và nói với chúng, mỗi ngày chúng có thể mang những điều khiến mình vui vẻ, những điều khiến mọi người vui vẻ đến đây đổi lấy một hạt giống hạnh phúc. Mang những hạt giống ấy trồng xuống đất, rồi dùng trái tim yêu thương tưới tắm, dùng niềm vui để chăm sóc, hạt giống sẽ nảy ra những mầm xanh hạnh phúc, mầm sẽ lớn lên, đơm hoa kết thành những trái hy vọng. Như thế, mỗi ngày lũ trẻ đều đi thu thập niềm vui, bọn chúng sẽ quên đi những điều bất hạnh.

Nhìn nụ cười thuần khiết vô tà của Mã Cát, ta bất giác rung động cả cõi lòng. Rốt cuộc nàng là người như thế nào? Chỉ với một hạt giống bé nhỏ đã có thể khiến lũ trẻ ấy quên đi nỗi đau đi thu nhặt niềm vui. Nàng đã gieo trồng những hạt giống hạnh phúc vào lòng lũ trẻ ấy. Chữa lành vết thương do chiến loạn gây ra là việc ta đã vắt óc nghĩ suy cũng không thể nào làm nổi, vậy mà nàng đã làm được. Nàng mới chỉ là một thiếu nữ mười tuổi. Sau khi vào thôn Công Nhã Lạp, ta nghe được một tin đau lòng: nửa năm trước, bà của Mã Cát đã qua đời. Cô bé vừa nãy mang đầy một giỏ hạnh phúc phân phát cho đám trẻ đã phải một mình gánh vác cuộc sống rồi hay sao? Khi nhìn thấy vẻ kính ngưỡng và sùng bái trong mắt lũ trẻ ấy, ta càng có niềm tin rằng, thiên sứ bé nhỏ ấy, chính là Độ Mẫu trên trời chuyển thế đến nơi đây cứu vớt những linh hồn bị thương tổn vì chiến loạn như chúng ta đây.

...

Lúc trở về, khi đi qua thôn Công Nhã Lạp, Địch ô Lạp Tố mời ta cùng đón tết Vọng Quả, ta lại nhớ đến cô thiếu nữ ấy. Mã Cát giờ chắc đã mười hai tuổi rồi. Khi ngọn lửa cháy lên, ta liền thấy nàng. Giờ nàng đã trổ mã, càng thêm duyên dáng thướt tha. Mã Cát nhảy múa quanh đống lửa, vạt váy tung bay, ngọn lửa cũng lay động hòa theo nhịp múa của nàng, mặt đất cũng đang rung lên theo nhịp chân nàng, nụ cười toát ra từ trong ánh mắt nàng...

Khác với Trương Lập chỉ chăm chú lắng nghe những dòng văn đẹp đẽ ấy, pháp sư Á La và đội trưởng Hồ Dương để tâm hơn đến các thông tin ẩn chứa đằng sau những ghi chép dạng như du ký cá nhân hay tùy bút đó, giờ họ đã hiểu được đại khái, nơi này chắc là một vùng đất cách biệt với thế giới bên ngoài ở trong dãy núi tuyết, cực kỳ khó ra vào. Nếu các loại truyền thuyết cũng có thể coi như lịch sử, vậy thì cách đây khoảng mười nghìn năm, đã lần lượt có các dân tộc thiên di đến đây để tránh chiến loạn hoặc nạn đói. Những dân cư nguyên thủy ở đây thống nhất gọi cả ba tầng bình đài là Thánh vực, hoặc cũng có thể mấy nghìn năm trước họ đã từng có một mô thức thống nhất, nhưng về sau đã lại bị phân tán ra; từ sau khi người Qua Ba đến đây, họ bèn gọi nơi này là núi thánh Tu Di, còn một nơi nào đó trên tầng bình đài thứ ba, sau khi được người Qua Ba xây dựng kiến tạo, đã được đặt tên là Shangri-la, là nơi được kiến tạo giống như trong truyền thuyết, không có chiến tranh, không có đói khát, cơ hồ mọi thứ đều có thể tự động hoàn thành.

Sở dĩ họ cho rằng trước đây đã từng xuất hiện một mô thức thống nhất, là vì trong các phần ghi chép tản mạn, sự phân bố quyền lực trong các bộ lạc có nét tương đồng rất lớn, giống như bộ lạc người Kukuer ở rừng rậm châu Mỹ, quyền lực được chia thành thần quyền và vương quyền, người đại biểu cho thần quyền gọi là Địch ô. Pháp sư Á La giải thích, Địch ô là một dạng thầy mo có thể trực tiếp đối thoại với thần linh, có thể đoán biết tương lai, đồng thời cũng sở hữu năng lực tiêu trừ khổ bệnh hoặc giáng tai họa trong Bản giáo cổ đại. Trong các bộ tộc ở tầng bình đài thứ hai này, địa vị của Địch ô đã được nâng lên đến gần bằng hoặc có thể nói là ngang với vương quyền, mỗi bộ lạc đều có một Địch ô, chức trách của họ giống như trưởng thôn, cũng đồng thời là thầy lang của thôn làng ấy, trong chiến tranh lại có tác dụng như Thiên khí chú sư, hoặc Cổ độc sư, Thao thú sư...

Trong những ghi chép dạng hồi ức ấy, còn một điểm cực kỳ quan trọng... chiến tranh. Nhật ký thôn Công Bố dường như không hề nhắc đến chiến tranh, có thể là ngọn lửa chiến tranh không bao giờ lan đến thôn Công Bố ở tận tầng bình đài thứ nhất, cũng có thể là người phụ trách việc ghi chép của thôn Công Bố rất kín kẽ đối với vấn đề chiến tranh, nên sự việc vốn trọng đại hơn thiên tai, tế lễ gấp bội phần này không hề xuất hiện trong các bản ghi Nhật ký lấy một lần.

Từ những đoạn ghi chép hồi ức, trải nghiệm của những người thuộc nhiều thời kỳ khác nhau, có thể thấy rằng, nơi này không chỉ từng bùng nổ một trận chiến, mà cứ cách chừng mấy chục năm lại nổ ra một trận. Người Qua Ba khi mới đặt chân đến đây cũng không được thuận buồm xuôi gió, mà đã từng nảy sinh vô số xung đột lớn nhỏ với những dân tộc sống ở đây từ trước, cuối cùng mới xác lập được địa vị của mình. Trong một bản chép tay cổ xưa nhất, có nhắc đến một cuộc chiến tranh gian khổ nhất kể từ sau khi bộ tộc Qua Ba đến núi thánh Tu Di, ở trên tầng cao nhất, họ giằng co bất phân thắng bại với một bộ tộc nào đó.

Phần nội dung này Nhạc Dương phát hiện ra, anh rất ngạc nhiên vì trong phần tư liệu do những người khác phụ trách, chiến tranh chỉ được nhắc đến hết sức qua loa đại khái. Xét cho cùng ở thời đại đó, thế lực có thể đối kháng ngang hàng với Đạo quân Ánh sáng gần như không tồn tại, bộ lạc có thể buộc Đạo quân Ánh sáng phải huyết chiến nhiều ngày, ắt hẳn cũng tương đối lớn mạnh chứ chẳng chơi.

Nhạc Dương đưa phần tư liệu ấy cho pháp sư Á La. Pháp sư vừa nhìn thấy tên bộ lạc đó, liền bất giác biến sắc thốt lên: “Mã Tang!”

Nhạc Dương vội hỏi: “Đây là bộ lạc gì vậy ạ?”

Pháp sư Á La giải thích: “Mã Tang là một bộ lạc trong truyền thuyết. Tương truyền rằng, trước khi Thổ Phồn thống nhất cao nguyên Thanh Tạng, nơi đây đã từng trải qua mười mấy vương triều khác nhau, Mã Tang chính là một trong số đó. Thời kỳ thống trị của bộ tộc này có lẽ còn trước cả vương triều Tượng Hùng, chắc là cùng thời kỳ với triều nhà Thương ở Trung Nguyên. Nhưng đồng thời, Mã Tang cũng là một loại ma vật có sức mạnh vô song trong Bản giáo cổ xưa, về sau khi dung hợp với Phật giáo, Mã Tang được đổi thành Dạ Xoa và gọi như vậy cho đến ngày nay! Ngoài ra, trong các truyền thuyết thần thoại xa xưa, còn một câu chuyện rất nổi tiếng về Mã Tang nữa.”

Gần đây, Trương Lập trở nên cực kỳ mẫn cảm với các loại thần thoại truyền thuyết, vội vàng ngó đầu vào hỏi: “Thật không ạ? Truyền thuyết gì thế?”

Pháp sư Á La bèn kể vắn tắt: “Là một truyền thuyết khác về nguồn gốc của người Tạng. Trong câu chuyện ấy, tổ tiên của chúng ta từ đầu đã ở trên cao nguyên rồi. Họ sống trong những hang động nằm lưng chừng núi, còn được gọi là người ở hang đá; còn ở nơi cao hơn nữa trên núi tuyết, thì có người núi tuyết sinh tồn, tên của họ chính là Mã Tang. Vì vậy Mã Tang còn có thể gọi là người núi tuyết. Trong truyền thuyết, người Mã Tang cao lớn hơn chúng ta, bên ngoài cơ thể mọc một lớp lông tóc dày, tay dài chân rộng, có thể bước đi như bay trên núi tuyết. Thời viễn cổ xa xưa, người núi tuyết thường xuống núi ức hiếp người ở hang đá. Người ở hang đá phản kháng, nhưng vì sức khỏe không bằng đối phương nên vẫn luôn bị người núi tuyết chèn ép áp bức. Về sau, vì muốn sinh tồn, người ở hang đá đã đến cầu xin mẹ của các thần Sa Đô Ngải Tang. Vậy là, trong một trận quyết chiến giữa người núi tuyết và người ở hang đá, thần Mẫu đã giúp đỡ người ở hang đá, biến vũ khí trong tay họ thành những tảng đá khổng lồ, còn vũ khí của người núi tuyết bị biến thành những quả cầu tuyết. Cuối cùng, người ở hang đã dùng những tảng đá ấy đuổi người núi tuyết sang tận phía bên kia núi, rồi từ đó vui vẻ sinh sôi nảy nở dưới chân núi tuyết, cuối cùng đã hình thành nên các bộ tộc trên cao nguyên.”

“Hả?” Trương Lập và Nhạc Dương đều cho rằng mình đã tìm hiểu đủ về cao nguyên Thanh Tạng rồi, vậy mà pháp sư Á La chỉ cần thuận miệng kể ra một câu chuyện thôi cũng khiến họ cảm thấy hoàn toàn mới mẻ.

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Truyền thuyết này tôi cũng có nghe nói. Còn nhớ khi đó có một vị chuyên gia nghiên cứu Tây Tạng đã từng phân tích, bảo rằng truyền thuyết này chắc là để ám chỉ cuộc chiến giữa người da vàng phương Đông và người da trắng ở phương Tây. Mọi người biết đấy, đám người nước ngoài kia thường thường thể hình đều cao lớn hơn chúng ta, hơn nữa lông tóc trên người cũng dài mà rậm rạp hơn. Thậm chí có người còn nói đấy là cuộc chiến giữa người Neanderthal và người Homo Sapien nữa.”

Pháp sư Á La lắc đầu nói: “Không, không phải, đây có lẽ là một lần thay đổi vương triều trong thời kỳ nô lệ, thời kỳ vẫn chưa có văn tự ghi chép. Hơn nữa, về người núi tuyết này, tôi có khuynh hướng nghiêng về...”

“Người Tuyết!” đội trưởng Hồ Dương tựa hồ bỗng nhiên sực nghĩ ra điều gì đó, vội vội vàng vàng nôn nóng tiếp lời.

Trương Lập và Nhạc Dương cũng lập tức lần lượt nói theo: “Dạ Đế?” “Chính là cái thứ lần trước chúng ta ở trên núi tuyết nghe thấy tiếng, mà không thấy đâu ấy ạ?”

Đội trưởng Hồ Dương gật đầu nói: “Ừm, trên cao nguyên Thanh Tạng vùng nào mà chẳng có các truyền thuyết về người tuyết, dã nhân, miêu tả cũng tỉ mỉ kỹ lưỡng lắm, nhưng trước nay vẫn chưa có chứng cứ nào xác thực cả. Nhiều nước trên thế giới còn tổ chức các đội khảo sát khoa học đến Tây Tạng và Nepal để tìm kiếm chứng cứ về người tuyết nữa đó.”

Nhạc Dương tò mò hỏi: “Đội trưởng Hồ sao lại nắm rõ những thông tin kiểu ‘thế giới đó đây’ này thế?”

Đội trưởng Hồ Dương nhe răng cười, đáp: “Không đơn giản chỉ là chuyện lạ đó đây đâu, rất nhiều nước coi việc điều tra về người tuyết như một hạng mục nghiên cứu khoa học. Năm đó, thời tôi mới vừa tham gia công tác, cũng từng theo ông đội trưởng già lên núi tuyết tìm cái thứ ấy đấy.” Đội trưởng Hồ Dương ngước mắt nhìn trời, như hồi tưởng: “Ở vùng Thanh Tạng và cả dãy Himalaya này, những câu chuyện về người tuyết thật nhiều vô số kể. Những khu vực khác nhau cũng có cách gọi khác nhau, cách gọi ‘Dạ Đế’ là phổ biến nhất, cả vùng núi thuộc Trung Á và Đông Á đều gọi như thế cả, gần như đã trở thành tên gọi chính thức của người tuyết. Nhưng ở khu Mặc Thoát thì lại gọi là ‘Tắc Thị’, gần vùng núi Lạp Ca Ba gọi là ‘Khang Mễ’, vùng phía Bắc Thanh Hải gọi bằng tên ‘Cách Lý’, các ghi chép thời nhà Thanh thì gọi là ‘Nhân Đồng’. Đối với vấn đề dã nhân có tồn tại hay không, nhà nước xưa nay vẫn rất coi trọng, chỉ có điều trọng điểm là ở khu vực Thần Nông Giá, còn về phương diện người tuyết thì các chuyên gia nước ngoài nghiên cứu kỹ hơn chúng ta nhiều. Họ hoạt động ở phía Nepal và Ấn Độ, ngoài ra các hoạt động bí mật điều tra về người tuyết cũng được triển khai khá nhiều ở xung quanh ngọn Chomolungma.”

“Không đúng.” Pháp sư Á La nở một nụ cười điềm đạm, nói với đội trưởng Hồ Dương bằng giọng hết sức khẳng định.

Đội trưởng Hồ Dương thoáng ngẩn người ngạc nhiên, vẫn chưa hiểu ra không đúng ở điểm nào. Nhạc Dương đã nhanh nhảu phản ứng trước, reo toáng lên: “Đám người nước ngoài ấy không tìm người tuyết! Mà chỉ mượn đó làm cái cớ che mắt, thực ra là họ muốn tìm Bạc Ba La thần miếu! Giống như đoàn khảo sát đỉnh Chomolungma của Hitler và các nước khác thời Thế chiến II vậy, tất cả chỉ là để che mắt mà thôi, tất cả đều muốn tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu!”

Pháp sư Á La nở một nụ cười khen ngợi, nhưng vẫn nói: “Không đúng.”

Nhạc Dương gãi gãi đầu, lần này thì anh cũng không hiểu ông muốn nói gì nữa. Chỉ nghe pháp sư Á La chầm chậm giải thích: “Bọn họ tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, nhưng cũng tìm kiếm cả người tuyết nữa, đó không phải cái cớ.” Thấy Nhạc Dương vẫn còn chau mày, pháp sư lại tiếp lời: “Giống như Cường Ba thiếu gia vậy, cậu ấy tìm kiếm Tử kỳ lân, cũng tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, đâu có mâu thuẫn gì. Đồng thời, cũng tương tự như chúng ta biết rõ việc bộ tộc Qua Ba đã xây dựng Bạc Ba La thần miếu, giữa Đạo quân Ánh sáng và Bạc Ba La thần miếu có một mối liên hệ tất nhiên, có một số nhà nghiên cứu phương Tây cũng tin chắc rằng giữa người tuyết và Shangri-la có một mối liên hệ tất nhiên nào đó.”

“Sao lại nói thế?” Giờ thì cả đội trưởng Hồ Dương cũng bắt đầu thấy hứng thú.

Pháp sư Á La nói: “Chuyện này phải bắt đầu từ Morton Stanley. Người đời sau đều biết, Morton Stanley tìm được đầu mối về Bạc Ba La thần miếu trong sử thi A Lý Vương, vì vậy, cũng có một số người kế thừa phương hướng tìm kiếm này của ông ta, họ chuyên thu thập các loại truyền thuyết, thần thoại, hy vọng có thể phát hiện được bí mật về Bạc Ba La thần miếu trong đó. Trong đó có một câu chuyện thần thoại, bắt nguồn từ Bản giáo cổ, đại ý là thế này: vào thời kỳ của Thần và Ma, nơi Thần cư ngụ gọi là Gia quốc, nơi Ma cư ngụ gọi là Ngạn quốc. Ngạn quốc là nơi có đủ loại bệnh tật, chất độc, sinh linh tương tàn, sinh tồn là điều cực kỳ gian nan; còn Gia quốc thì ngược lại, hoa thơm cỏ lạ, chim chóc líu lo, mây lành vẩn vít, không cần lo ăn lo mặc. Hai vùng đất này bị chia tách bởi dòng sông Hy Mã, Ngạn quốc muốn chiếm lĩnh đất đai của Gia quốc, vì vậy chiến loạn cứ kéo dài liên tu bất tận. Về sau, Ngạn quốc phái đi một ma nữ để dụ dỗ Thần linh, sinh con đẻ cái, rồi ma nữ ấy giết chết mẹ ruột của mình, bỏ rơi chồng và con cái trở về Ngạn quốc, từ đó Gia quốc cũng bị vấy bẩn theo. Vì vậy, khi tiến hành mọi nghi lễ của Bản giáo cổ, nhất định phải có nghi thức tịnh hóa, chính là để rửa sạch sự ô nhiễm mà ma nữ của Ngạn quốc mang đến, dần dần thì được diễn hóa thành một tập tục của dân Tạng ngày nay... tục ‘đốt tang’.”

Pháp sư Á La nói tới đây thì dừng lại. Trương Lập, Nhạc Dương và cả đội trưởng Hồ Dương không nói gì, chỉ trố mắt ra nhìn ông, câu chuyện này hình như chẳng liên quan gì đến người tuyết và Shangri-la thì phải?

Pháp sư Á La giờ mới nói: “Những nhà nghiên cứu nước ngoài ấy cho rằng, Ngạn quốc, chính là chỉ cao nguyên mà người thời cổ sinh sống, lúc ấy môi trường ở cao nguyên rất khắc nghiệt, con người muốn sinh tồn là chuyện cực kỳ khó khăn, các loại bệnh tật cũng rất nhiều; Gia quốc, là để ám chỉ Shangri-la; còn dòng sông Hy Mã, chính là con đường dẫn đến thánh địa Nguy Ma Long Nhân của Bản giáo cổ, cũng tức là con đường duy nhất dẫn đến Shangri-la. Còn người tuyết lại được gọi là Dạ Đế, rất nhiều nơi dịch âm thành Gia Đề, những nhà nghiên cứu ấy chỉ ra rằng, Gia quốc, thực ra có hàm nghĩa là đất nước của người Gia Đề. Ngạn quốc làm ô nhiễm Gia quốc, vừa khéo cũng rất trùng khớp với truyền thuyết người ở hang cuối cùng cũng xua đuổi được người núi tuyết, mà tục ‘đốt tang(1)’ của người Tạng ngày nay, chính là để làm lắng đi oán niệm của người Mã Tang bằng phương thức đốt. Và sự thực là, ‘tang’ mà chúng ta nói đó, hẳn phải có nghĩa ‘sạch sẽ, thanh khiết’, toàn bộ nghi thức tịnh hóa này, là dùng nước sạch và khói tinh khiết của cây bách hòng xua đi những thứ vẩn đục ô ế và bệnh tật.”

Nhạc Dương sắp xếp lại tư duy trong đầu, đoạn nói: “Ý của pháp sư là, những nhà nghiên cứu nước ngoài đó cho rằng, Shangri-la chính là Gia quốc trong truyền thuyết, cũng chính là nơi Người núi tuyết Mã Tang cư trú? Những từ người núi tuyết, Mã Tang, người tuyết, Dạ Đề, đều để chỉ một loại sinh vật đã từng tranh đoạt không gian sinh tồn với tổ tiên chúng ta thời xa xưa, về sau đã bị xua đuổi đi, và chạy đến Shangri-la? Sao thế được nhỉ, tôi nhớ Cường Ba thiếu gia từng nói, trong tiếng Hạ Nhĩ Ba, Dạ Đế nghĩa là người ở hang, ở đây sao lại biến thành kẻ đối đầu của người ở hang rồi?”

Pháp sư Á La lắc đầu nói: “Trong tiếng Hạ Nhĩ Ba không có từ nào chỉ người núi tuyết. Dạ Đế là để chỉ một loại sinh vật khổng lồ có vóc dáng rất giống con người, nhưng thân hình cao lớn, khắp người lông lá, hoạt động trong khu vực núi tuyết, vì người Hạ Nhĩ Ba không biết chúng sống ở đâu, cũng chưa bao giờ tìm được sào huyệt của chúng, vì vậy cho rằng chúng cư trú trong những hang đá trên núi tuyết, bởi thế, trong tiếng Hạ Nhĩ Ba, Dạ Đế còn có thể phiên nghĩa ra thành người ở hang đá. Người ở hang đá này và người ở hang đá chúng ta vừa nhắc đến là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Còn những phân tích khác của cậu thì đều không sai, đại để chính là như vậy. Rất nhiều người nước ngoài tin rằng, người tuyết cư trú ở một nơi cực kỳ ẩn mật trong dãy Himalaya, nơi đó rất có khả năng chính là Shangri-la trong truyền thuyết. Hơn nữa, người tuyết chưa bao giờ thực sự lộ diện, đâu đâu cũng có truyền thuyết, song lại chẳng có một chứng cứ xác tín nào cả, nên mọi người lại càng tin rằng, người tuyết có thể tìm được đường đến Shangri-la, bắt được người tuyết, biết đâu có thể ép họ dẫn đường đến Shangri-la cũng không chừng.”

Nhạc Dương nói: “Xem các tư liệu chúng ta tìm được ở thôn Công Bố, thì cách lập luận của đám chuyên gia nước ngoài kia hình như cũng có lý ra phết! Ở đây đúng là có một bộ tộc Mã Tang thật, chỉ tiếc là tôi tìm được có mỗi một đoạn ngắn.”

Pháp sư Á La nói: “Sở dĩ các nhà nghiên cứu nước ngoài ấy vững tin như vậy, chính là vì câu chuyện thần thoại về Gia quốc và Ngạn quốc tôi vừa nhắc đến ấy xuất hiện rất sớm, còn sớm hơn cả các câu chuyện lưu truyền trong dân gian như sử thi A Lý Vương, sử thi Cách Tát Nhĩ Vương rất nhiều. Còn có cả nhà nghiên cứu Tạng học nước ngoài chỉ ra rằng, từ trước khi Bản giáo cổ hình thành, đã có những câu chuyện như thế lưu truyền rồi. Mặc dù tôi không biết họ tìm được chứng cứ xác thực ở đâu, nhưng truyền thuyết này thì đích thực là có từ rất sớm, bao gồm cả câu chuyện về cuộc chiến giữa người ở hang và người núi tuyết, đều được người Tạng truyền miệng cho nhau bao nhiêu đời nay rồi. Mặc dù về sau này có pha trộn thêm một số tu sức của Bản giáo cổ và các đặc điểm riêng của từng địa phương, nhưng nội dung chính của câu chuyện thì có lẽ là không thay đổi gì cho lắm.”

Nhạc Dương nhìn đống tư liệu trên tay, trong đầu đột nhiên lóe lên một ý nghĩ: “Chẳng lẽ là, người Qua Ba năm xưa cũng vì nghe được câu chuyện này, nên cuối cùng mới tìm được tới nơi đây?”

Pháp sư Á La trầm ngâm gật đầu: “Có khả năng như vậy. Mọi người xem câu này, dịch ra có nghĩa là: Quân lính trong Đạo quân Ánh sáng cơ hồ chỉ cao đến ngực người Mã Tang. Mà theo như chúng ta đã biết, người Qua Ba không phải giống thấp lùn, Đạo quân Ánh sáng lại là những chiến sĩ xuất sắc nhất trong bộ tộc, từ đây có thể suy ra, chiều cao bình quân của người Mã Tang hẳn phải hơn hai mét. Với thể hình khổng lồ ấy mà người ghi chép này cũng không dùng ngữ khí kinh ngạc, xem ra giống như là ông ta đã biết có một giống người như vậy tồn tại từ lâu rồi vậy.”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Pháp sư, ông dịch giúp bọn tôi cả đoạn này được không.”

Pháp sư Á La gật đầu, rồi dịch vắn tắt cả đoạn văn ấy ra. Người viết chép lại câu chuyện của một người bạn ông ta, người này cùng với những tộc nhân khác lên tầng bình đài cao nhất ác chiến với người Mã Tang. Sau khi trở về tầng dưới này, người bạn đó đã chia sẻ đoạn chiến sự thảm liệt đó với ông ta. Đây rõ ràng là chuyện xảy ra khi người bộ tộc Qua Ba mới tiến vào đây, giữa các tầng bình đài vẫn còn có thông tin qua lại. Trong ghi chép chỉ viết rằng người Mã Tang rất khỏe, ngoài ra còn một số đoạn tả cảnh chiến đấu, nửa sau thì vẫn chưa tìm được. Nhưng sau khi nghe pháp sư Á La dịch những đoạn miêu tả về chiến tranh ấy, đội trưởng Hồ Dương lại nhíu mày lại, nói: “Dựa... dựa vào ngoại hình, thì những người Mã Tang ấy khá là phù hợp với đặc điểm hình thể của người tuyết. Có điều, xưa nay chúng ta vẫn quy người tuyết vào loại dã nhân, một giống sinh vật tương tự như khỉ vượn, trí tuệ có hạn. Nhưng người Mã Tang mà pháp sư vừa nhắc đến có hẳn bộ lạc cơ mà. Người Mã Tang và người tuyết có lẽ nào là hai loại khác nhau không?”

Pháp sư Á La cũng nói: “Đúng vậy, nếu câu chuyện truyền thuyết không bị biến đổi quá nhiều, vậy thì người núi tuyết và người ở hang chắc là có trí tuệ tương đương nhau, chỉ là hai chủng tộc khác nhau giống như người phương Đông và người phương Tây vậy thôi, trí khôn hẳn không hơn kém nhau quá nhiều. Còn nữa, trong các truyền thuyết về Shangri-la còn có một thuyết nói rằng, Shangri-la do hai tộc người A Trát Ba và Khố Tấn Ba nắm giữ, thể hình hai tộc người này cũng rất giống người tuyết, thân thể cao lớn, nhiều lông. Nhưng trong truyền thuyết đó, trí tuệ của hai tộc người này đều cao hơn những người bên ngoài chúng ta rất nhiều. Đương nhiên, tôi vẫn chưa tìm được xuất xứ của truyền thuyết này, khó mà xác định được độ tin cậy.” Tới đây, pháp sư Á La mỉm cười, đoạn nói tiếp: “Tư liệu về người tuyết thì tôi không tìm hiểu nhiều lắm, nhưng nhớ hình như văn bản sớm nhất về sự xuất hiện của người tuyết chắc là vào khoảng hơn tám trăm năm về trước. Tôi phát hiện một đoạn ghi chép về họ trong một ngôi chùa nhỏ, bản ghi đó nói trí tuệ của người tuyết không cao.”

Đội trưởng Hồ Dương cũng nhớ ra điều gì đó, nói: “Tôi nhớ có một nhà thám hiểm người Anh từng kể, người tuyết mà ông ta gặp có cầm cung tên. Chỉ có điều, hầu hết các miêu tả về người tuyết đều là hình tượng dã nhân, không mặc quần áo, ngoại hình giống vượn, ăn sống vật săn mà thôi.”

“Việc này cần gì phải tranh luận.” Trương Lập vỗ vỗ lên máy tính xách tay, nói: “Cứ bỏ thời gian ra tra cứu một lúc là biết.” Trong máy tính của giáo sư Phương Tân có cài đặt toàn bộ dữ liệu của Thư viện Britanica.

Pháp sư Á La nói: “Đúng, chuyện này giờ không phải là trọng điểm, trước tiên chúng ta cần sắp xếp các tư liệu có liên quan đến chiến tranh trong đống tư liệu tìm được ở thôn Công Bố đã. Đây mới là mấu chốt để tìm hiểu thêm về vùng đất này.”

Nhạc Dương lại tìm được một số ghi chép về chiến tranh. Nhưng dựa trên những đoạn ghi chép rời rạc mà họ tìm được, ngoài cuộc xung đột thuở ban đầu với các bộ tộc ở đây khi người Qua Ba mới đến vùng đất này, hồi ức về chiến tranh trong giai đoạn sau cũng như Bạc Ba La thần miếu hoàn toàn không có gì. Trong khoảng hai trăm năm trở lại đây thì mới bắt đầu nhắc đến chiến tranh. Hơn nữa thời gian những cuộc chiến này rất khớp với thời gian thiên tai, mượn lương thực, tế lễ trong Nhật ký của thôn Công Bố. Trận chiến gần đây nhất là khoảng mười bảy mười tám năm trước, bản thân phần ghi chép ấy cũng rất mơ hồ, tuồng như nguyên nhân ban đầu là do một thôn làng nào đó bị hủy diệt, nhưng rốt cuộc tại sao bị hủy diệt thì không thấy nhắc đến, chỉ biết rằng lần đó do sự cân bằng thế lực bị phá vỡ, cả tầng bình đài thứ hai này đã đánh nhau loạn cả lên.

Pháp sư Á La bảo Nhạc Dương tiếp tục suy luận. Theo ý kiến của Nhạc Dương thì điều này cũng hết sức tự nhiên: ở một khu vực khép kín, nếu gặp phải thiên tai tức là không có gì ăn, những người không có gì ăn không thể sống được, không thể sống được thì phải đi cướp của người khác ăn, người đi cướp nhiều, tự nhiên sẽ bùng nổ chiến tranh... Xét cho cùng, dựa theo những gì được ghi chép lại trong các cuộn da, tầng bình đài thứ hai của Thánh vực này không phải là một chỉnh thể thống nhất, mà bị phân chia thành rất nhiều bộ lạc khác nhau. Trong khoảng thời gian một vạn năm, có vô số bộ lạc đã lần lượt đến nơi này, đặc biệt là sau khi người Qua Ba đến đây, bọn họ đã không ra thế giới bên ngoài nữa. Trải qua nhiều năm phân chia rồi lại hợp nhất, trước mắt đại để đã hình thành hai thế lực lớn, hoặc có thể gọi là hai vương quốc, lần lượt là cái gì mà Langbu ở hồ bên trái và Yaca ở bên phải, còn phân biệt trái phải như thế nào, lại còn hồ gì, thì họ cũng không tìm được tư liệu nào liên quan, kết quả vẫn là một đống bùng nhùng không lời giải đáp.

Có một điều khiến pháp sư Á La cảm thấy khó hiểu là, sau khi người Qua Ba đến đây, không ngờ đã có một khoảng thời gian bình lặng không chiến tranh kéo dài tới mấy trăm năm. Thật sự không có chiến tranh nổ ra? Hay người Qua Ba không ghi chép lại?

Còn Nhạc Dương cũng lấy làm thắc mắc, dù là Nhật ký của thôn Công Bố hay bút ký của các vị trưởng giả trí giả gì đấy, ngoài khoảng một trăm năm đầu tiên có loáng thoáng đề cập đến tầng bình đài thứ ba, cũng là tầng của Shangri-la thực sự, và đoạn ghi chép nói một người tên Thứ Tháp Nhĩ đã gây họa, thì không còn bất cứ ghi chép nào nữa. Hơn nữa, khi các bộ lạc tầng bình đài thứ hai này đánh nhau kịch liệt nhất, cũng không thấy những người dân bản địa này xuống tầng thứ nhất hoặc lên tầng thứ ba. Nhạc Dương hết sức nghi hoặc hỏi pháp sư: “Pháp sư, lẽ nào lên, xuống một tầng bình đài thực sự khó khăn thế sao? Nếu thang kéo của người Qua Ba không bị phá hoại, việc lên xuống chắc cũng không phải chuyện gì gian nan chứ nhỉ? Hơn nữa những người Qua Ba đó, hình như cũng lên tầng bình đài thứ ba rồi còn gì? Dựa theo các tư liệu chúng ta nắm được cho đến nay, người gây ra họa tên là Thứ Tháp Nhĩ, hình như cũng lên tầng thứ ba rồi?”

Pháp sư Á La giải thích: “Lên xuống giữa các tầng chắc không phải việc khó, khó ở chỗ phải băng qua khu vực rừng rậm không người. Với những gì chúng ta biết được, vùng này đầy rẫy dã thú hoành hành, riêng loài thằn lằn khổng lồ kia cũng xuất hiện trong các ghi chép không dưới mười lần, còn nữa, dọc đường chúng ta tới đây đã gặp phải không biết bao nhiêu loài động vật hoang dã dữ tợn rồi. Với số người của một bộ tộc hoặc một thôn làng, muốn xuyên qua khu rừng rậm ấy thật chẳng khác nào đi tự tử cả, trừ phi họ cũng có vũ khí trang bị hiện đại như chúng ta đây. Chắc cũng vì nguyên nhân này mà không ai lên tầng thứ ba được cả.”

Nhạc Dương lại hỏi tiếp: “Thế sao người Qua Ba có thể dễ dàng đi lên đi xuống như không vậy?”

Pháp sư Á La mỉm cười nói: “Họ là hậu duệ của Đạo quân Ánh sáng, sợ rằng người bình thường không thể nào so sánh được.”

Nhạc Dương lộ vẻ kinh hãi, nói: “Từ đó suy ra, muốn tiêu diệt toàn bộ thôn làng của người Qua Ba, không để sót lại một mạng sống nào là điều rất khó khăn!”

Khóe mắt pháp sư Á La khẽ giật giật. Điều Nhạc Dương nói là sự thật, người Qua Ba thực lực mạnh như thế vậy mà vẫn bị hủy diệt hoàn toàn, tuy trước mắt vẫn chưa biết là do nguyên nhân gì, nhưng hung thủ ra tay sạch sẽ gọn gàng như thế, chắc hẳn còn đáng sợ hơn người Qua Ba nhiều chứ chẳng nghi. Pháp sư liền không nói gì nữa, tiếp tục lật những đoạn văn ngắn ngủn rời rạc còn sót lại trong đống tàn quyển, tìm kiếm thêm đầu mối.

Ngày thứ sáu sau khi đụng độ với lũ muỗi, mới đi chưa được bao xa, bỗng nghe thấy phía đằng xa có tiếng gầm rú, âm thanh nghe rất giống tiếng kêu của con thằn lằn khổng lồ họ gặp mấy ngày trước. Cả bọn bất giác giật nảy mình kinh hãi, vội tìm chỗ kín đáo ẩn nấp. Nhạc Dương và Trương Lập thì cẩn thận tiến lên thăm dò.

Không lâu sau, hai người trở lại, đội trưởng Hồ Dương vội hỏi: “Tình hình thế nào?”

Nhạc Dương thấp giọng đáp: “Phía trước có một loại thằn lằn lớn, cao tầm chừng này này...” Nhạc Dương đưa tay lên diễn tả, áng chừng cao hơn anh một chút, nhưng thấp hơn Trác Mộc Cường Ba, kế đó lại nói tiếp: “Động vật ăn thịt, bọn chúng cắn chết một con thằn lằn khác lớn gấp đôi chúng, xem chừng có vẻ như là một con thằn lằn khổng lồ còn chưa trưởng thành.”

Trương Lập đứng bên cạnh bổ sung: “Loại thằn lằn nhỏ ấy rất giống với loài Tấn mãnh long(2) trong phim Công viên Kỷ Jura, trong rừng cũng có nữa, số lượng không rõ bao nhiêu.”

Nhạc Dương lại nói: “Chúng ở trong khu rừng bên cạnh, có con còn nấp trên cây, rất khó phát hiện.”

Sean nhíu mày, thấp giọng nói: “Đi vòng qua.”

Nhạc Dương lắc đầu: “Không biết chúng có bao nhiêu con, e là rất khó...” Lời còn chưa dứt, phía xa xa đã lại vang lên một tiếng kêu nữa. Nếu âm thanh vừa nãy mới chỉ là giống, thì lần này gần như đã có thể khẳng định đó chính là một con thằn lằn khổng lồ đang chạy ra từ phía khu rừng đằng sau họ.

Ba Tang buột miệng chửi: “Chó chết! Muốn đánh nhau thì cũng đừng kẹp bọn ta vào giữa thế chứ.”

Sean giơ tay lên không vẫy vẫy thử, rồi lập tức nói: “Vào trong rừng, lên cây, chỗ ấy ở cuối gió, hy vọng không bị chúng phát hiện ra.”

Lữ Cánh Nam bảo Trương Lập: “Bật radar lên, giám sát động thái của các sinh vật xung quanh đây.”

Trương Lập tìm một cây khá cao, hì hục leo lên, lắp đặp hệ thống radar xong xuôi thì những người khác lần lượt lên cây, cáng của Sean cũng được buộc vào bốn sợi dây thừng, nhanh chóng kéo vào chỗ tán cây ẩn mật.

Trên màn hình radar hiển thị, có một sinh vật đang xông về phía bên trái bọn họ với tốc độ cực nhanh, còn phía trước họ lại không dò ra được dấu hiệu của sinh vật nào. Trương Lập là người đầu tiên nhìn màn hình radar, không khỏi “í” lên một tiếng. Mẫn Mẫn tò mò ngó đầu qua xem, rồi hỏi: “Phía trước không có à?”

Nhạc Dương khẳng định: “Không thể nào, rõ ràng chúng tôi đã nhìn thấy mà.”

Lữ Cánh Nam nói: “Loại radar này chỉ phát hiện được những vật thể di động, điều này chứng tỏ bọn thằn lằn nhỏ phía trước không di chuyển, hoặc động tác rất nhỏ, radar không thể phát giác được. Kỳ lạ thật, săn được con mồi rồi mà không lập tức di chuyển, bọn chúng còn định làm gì nữa nhỉ?”

Nhạc Dương từ trên cao nhìn xuống, nhanh chóng dùng ống nhòm điện tử phát hiện được mục tiêu và báo cáo: “Cách khoảng một nghìn hai trăm mét, tọa độ 052, 322, là con thằn lằn khổng lồ non bị sát hại lúc nãy.”

Sean nằm sấp trên cáng cũng nhanh chóng nhìn thấy mục tiêu Nhạc Dương nhắc đến trong ống nhòm; đúng là có một con thằn lằn khổng lồ chưa trưởng thành, đầu hơi vuông vuông, vai gồ nhô cao, tròng mắt hõm sâu, cổ đã bị cắn đứt lìa nằm gục xuống bất động. Đồng thời anh ta cũng thấy trên cái cây cạnh đó loài thằn lằn nhỏ mà bọn Nhạc Dương và Trương Lập nhắc đến. Khác với loài thằn lằn khổng lồ, loại thằn lằn kia đầu nhọn hơn, chiều dài cơ thể khoảng chừng hai mét, phía sau kéo theo một cái đuôi lớn to và dài, các móng vuốt sắc bén ở bốn chân giúp chúng bám vững được trên cành cây, làn da nhăn nheo màu vàng úa pha lẫn sắc xanh lục khiến chúng trông như một phần của tán cây vậy.

Tại sao lại bỏ con mồi ở chỗ dễ thấy như vậy? Điều này trái ngược hẳn với chuẩn tắc hành vi của động vật. Sean tựa hồ phát hiện ra điều gì đó, không ngừng điều chỉnh tiêu cự ống nhòm. Phần mặt của con thằn lằn nhỏ đang nằm rạp trên cây kia không ngừng hiện lên gần hơn trong ống nhòm, Sean thấy rất rõ, trong cặp mắt màu vàng kim của nó, rõ ràng có ánh lên vẻ giảo hoạt! Không sai, giảo hoạt, đôi mắt ấy sắc bén, lạnh lùng, bình tĩnh, tựa như một tay lính bắn tỉa kinh nghiệm phong phú ẩn mình bất động trên chiến trường vậy. Sean thầm giật mình kinh hãi, dịch chuyển ống nhòm, lại phát hiện ra trên cây còn nhiều con thằn lằn nhỏ khác duỗi tứ chi bám trên cành cây, hơi thở chầm chậm, kéo dài, nằm phân bố xung quanh xác con thằn lằn khổng lồ non kia. Kinh ngạc hơn nữa là, bọn thằn lằn ấy cũng giống họ, đều nấp ở chỗ cuối ngọn gió. “Là một cuộc mai phục!” Sean phát ra một tiếng kêu kinh ngạc khe khẽ.

Lúc này, con thằn lằn khổng lồ trong rừng đã xông tới chỗ cái xác con thằn lằn non, tựa như cũng cảm giác được điều gì đó nguy hiểm, cặp chân to khỏe liền chầm chậm dấn từng bước một, đôi mắt hồ nghi đảo khắp bốn phía xung quanh.

Giờ thì những người khác cũng lờ mờ đoán ra được. Nhạc Dương thở hắt ra một tiếng, nói: “Ồ, thì ra là chúng giết con của con thằn lằn khổng lồ kia, hòng dẫn dụ con to vào vòng vây! Giảo hoạt thật đấy!”

Sean lắc đầu: “Chưa chắc đã là con của nó, nhưng dẫn dụ nó đến thì chắc chắn rồi.” Chỉ thấy bọn thằn lằn nhỏ nấp phía sau cành cây, nhích động thân thể theo bước tiến của con thằn lằn khổng lồ, động tác đều đặn thống nhất, phối hợp có thể nói là cực kỳ ăn ý.”

Con thằn lằn khổng lồ đến trước cái xác của đồng loại, mùi máu tanh đã thu hút nó, Trương Lập còn đang cảm khái rằng con thằn lằn ấy nhất định là rất thương tâm, thì nó đã há miệng đớp một phát hết nửa người con thằn lằn non, rồi ngửa cổ nuốt ực một cái. Đúng lúc ấy, lũ thằn lằn nhỏ nấp trên cây cũng phát động tấn công, cặp chân khỏe mạnh giúp chúng có thể bật tung lên khỏi cành cây như một đàn châu chấu, những móng vuốt sắc nhọn vung vẩy trên không trung. Con thằn lằn khổng lồ căng thẳng ngẩng đầu lên, lấy làm hoảng loạn trước đợt tấn công có tổ chức quá bất ngờ, cái đầu hết nghiêng sang bên trái rồi ngửa bên phải né tránh, nhưng thân thể to lớn đã bị cào xước vô số vết thương lớn.

Lúc bọn thằn lằn nhỏ nhảy xuống Sean mới để ý thấy, chi trước của chúng có khác biệt rất lớn so với con thằn lằn khổng lồ. Chi trước của thằn lằn khổng lồ so với chi sau của nó thì giống như thể chưa phát dục hoặc bị teo cơ, vừa ngắn lại vừa nhỏ, còn chi trước của bọn thằn lằn nhỏ hơn thì to khỏe linh hoạt hơn rất nhiều, nếu không có bàn tay to lớn và móng vuốt sắc nhọn, thoạt nhìn trông có vẻ không khác cánh tay người là mấy.

Chương 5

Gia tộc thằn lằn

Con thằn lằn khổng lồ không chịu nổi đau đớn, mất hết ý chí chiến đấu, quay đầu định bỏ chạy. Nhưng lũ thằn lằn nhỏ kia nào chịu bỏ qua, hết con này đến con khác từ trên cao bổ xuống, cắm móng vuốt sắc nhọn vào da thịt kẻ thù khổng lồ, rồi bám chặt trên đó, mấy con thể hình lớn hơn thì nhảy lên cái cổ ngắn ngủn to tướng kia, ý đồ muốn bò lên đầu đối thủ. Con thằn lằn khổng lồ gầm lên một tiếng giận dữ, toàn thân run lên, cần cổ vung mạnh, vừa hất văng bọn thằn lằn nhỏ xuống, vừa há miệng ra đớp. Nhưng bọn thằn lằn con rất linh hoạt, hai chi trước móc vào, giống như lũ khỉ con bám vào cổ ngựa, không ngừng đung đưa theo đà lắc, tránh khỏi đòn tấn công của con thằn lằn khổng lồ, nhưng vẫn bám chặt trên cổ địch thủ, không để mình rơi xuống.

Trong rừng loáng thoáng vang lên những tiếng “chí chí” kỳ lạ. Sean đưa ống nhòm lần theo âm thanh ấy, anh ta đã nghe ra có sự biến điệu, ít nhất cũng có tới bảy tám âm tiết, trong đầu cứ cảm giác rằng âm thanh đó không đơn giản chỉ là tiếng kêu ầm ĩ loạn xạ.

Lúc này đã có con thằn lằn nhỏ leo lên được cái đầu hình vuông to tướng của con thằn lằn khổng lồ, không chần chừ một chút nào, nhân khoảnh khắc con thằn lằn sững lại do thay đổi phương hướng lực khi lắc qua lắc lại, móng vuốt nó đã móc thẳng vào hốc mắt kẻ thù. Con thằn lằn khổng lồ rống lên thảm thiết, không còn thấy đường nữa, cứ thế lao thẳng về phía trước. Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đưa mắt nhìn nhau, cảnh tượng vừa nãy sao mà giống cách pháp sư Á La đối phó với con thằn lằn khổng lồ lần trước đến thế, có điều, thân hình linh động nhanh nhẹn chúng, sợ rằng còn linh hoạt hơn pháp sư Á La lúc đứng trên đầu con thằn lằn khổng lồ kia nhiều.

Một tiếng “Ầm!” vang lên, cả khu rừng tựa hồ khẽ rung lên nhè nhẹ, con thằn lằn khổng lồ kia đã húc thẳng vào một gốc cây lớn. Dù con vật thể hình to lớn ấy là loại da dày xương cứng, nhưng cú va chạm cũng khiến nó phải loạng choạng, nó quay đầu lại, rồi lại lao sầm sập về một hướng khác. Bọn thằn lằn nhỏ vẫn không chịu buông tha, bám chặt vào thân thể con mồi to lớn, lại có mấy con khác dùng bộ móng vuốt sắc nhọn móc vào phần da bụng mềm nhất của con thằn lằn khổng lồ, rạch ra một vết thương lớn. Nội tạng của con vật tung tóe khắp mặt đất, nhưng nó vẫn chạy thêm được khoảng trăm mét nữa, cuối cùng hai chân mới mềm nhũn, tựa như chiếc xe tải đang lao nhanh bỗng nhiên bị lật, còn ầm ầm trượt thêm một khoảng xa nữa rồi đập mạnh vào một thân cây khác, sau đó mới dừng lại.

Lúc này, Sean đã phát hiện ra con vật đang kêu “chí chí” kia, nó náu mình trên ngọn cây cao nhất, chỉ ló đầu ra khỏi tán cây, trông có vẻ là một vị tướng chỉ huy toàn cục, phát hiệu lệnh cho đồng bọn. Con thằn lằn ấy cũng hơi khác với bọn thằn lằn nhỏ còn lại, đầu nó rõ ràng là lớn hơn những cái đầu nhọn xung quanh, đỉnh đầu hơi dẹt, xương sọ có hai bướu gồ lên, trông như thể trên đỉnh đầu đội hai quả dừa vậy. Sau khi phát hiện ra con thằn lằn nhỏ phát hiệu lệnh kia, Sean lại nhanh chóng phát hiện ra một điều kinh ngạc hơn: cũng trên cái cây cao nhất đó, còn hai con thằn lằn nữa khác với con thằn lằn đầu to phát lệnh và cả bọn thằn lằn nhỏ bình thường. Tứ chi của hai con thằn lằn ấy bé hơn bọn thằn lằn nhỏ nhiều, cũng không thấy có móng vuốt, nhưng toàn thân thì gồ lên rất giống với vỏ cây, hơn nữa màu da dường như cũng không khác gì màu vỏ cây, nếu không để ý đến con thằn lằn đầu to, chắc Sean không thể nào nhận ra được hai con thằn lằn ngụy trang rất giỏi ấy. Một điều nữa khiến Sean càng kinh ngạc hơn, đó là cặp mắt của hai con thằn lằn ngụy trang đó, cơ hồ giống hệt như mắt tắc kè hoa, hai con mắt có thể chuyển động theo các hướng khác nhau. Nếu bỏ qua sự khác biệt về tỷ lệ tứ chi, có bảo chúng là hai con tắc kè hoa cỡ lớn cũng chẳng sai chút nào.

Sean lập tức ý thức được bọn họ đang nhìn thấy thứ gì, bèn lẩm bẩm: “Đây là một gia tộc!”

Trác Mộc Cường Ba ở bên cạnh bèn hỏi: “Cái gì? Gia tộc gì cơ?”

Sean thì thầm nói: “Đây là một gia tộc thằn lằn, bọn chúng tiến hóa ra các loại công năng khác nhau. Để tôi giải thích thế này cho đơn giản, anh có biết cơ cấu của tổ kiến không?”

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, mấy người bọn Lữ Cánh Nam nấp bên cạnh cũng bị lời nói của Sean làm chú ý. Chỉ thấy Sean chỉ ngón tay vào những thân hình nhỏ đang nhảy lên nhảy xuống trong rừng cây phía xa xa nói: “Bọn thằn lằn đang tấn công con mồi kia, cũng giống như kiến thợ, bọn chúng phụ trách vây khốn, cầm chân vật săn, đoán chừng vai trò lớn nhất của chúng vẫn là vận chuyển thực phẩm, chúng ta có thể gọi là thằn lằn vận chuyển cũng được. Không biết mọi người có để ý trong đám thằn lằn vây công con thằn lằn khổng lồ kia, có mấy con thể hình tương đối lớn hơn không.”

“Thấy rồi, thấy rồi.” Người lên tiếng trả lời là Nhạc Dương. Trong đám thằn lằn nhỏ đuổi giết con thằn lằn khổng lồ ấy, có mấy con thể hình to hơn hẳn bọn còn lại. Nhạc Dương cũng nhận ra, những con thằn lằn đó không chỉ là thể hình to lớn hơn, mà chi trước của chúng cũng to gấp đôi đồng loại, hơn nữa móng vuốt cũng dài hơn khá nhiều, thoạt nhìn hơi giống như cái càng cua. Chính bọn thằn lằn thể hình lớn hơn này đã chọc mù mắt và móc toang ổ bụng của con thằn lằn khổng lồ.

Sean nói: “Bọn đó mới là chủ lực chiến đấu, giống như là kiến lính, chúng ta có thể tạm gọi nó là thằn lằn lính. Vừa nãy tôi quan sát được, trên cái cây cao nhất kia còn hai loại thằn lằn hoàn toàn khác nữa, một loại đầu to hơn, không ngừng phát ra những âm thanh với ngữ điệu khác nhau, bọn thằn lằn lính và thằn lằn vận chuyển bên dưới đều nghe theo sự chỉ huy của nó. Đó là loại thằn lằn chỉ huy hay thằn lằn chúa. Bên cạnh nó có hai con thằn lằn trinh sát giống hệt như loài tắc kè hoa, ẩn mình rất kỹ trên cành cây, hai con mắt có thể đồng thời chuyển động theo hai hướng khác nhau. Mà hơn nữa, còn chưa biết có loại thằn lằn nào chưa bị chúng ta phát hiện hay không. Vì vậy tôi mới nói, đây là một cuộc săn được phân công rất chặt chẽ, phối hợp cực kỳ hài hòa của gia tộc thằn lằn. Giống như loài người chúng ta phân hóa ra các ngành nghề khác nhau vậy, bọn thằn lằn này không biết đã phải trải qua mấy nghìn vạn năm tiến hóa, mới có thể trở thành một quần thể gồm nhiều cá thể có các sở trường khác nhau như thế này.”

“Chậc chậc,” Trương Lập lẩm bẩm, “phối hợp tổ nhóm một cách hoàn mỹ, tấn công hiệu quả cực cao, cũng may bọn chúng không phải là thứ chúng ta gặp đầu tiên khi tới đây.”

Nhạc Dương nói: “Có lẽ loài vật có thể đuổi con thằn lằn khổng lồ bị chúng ta giết bỏ chạy tháo mạng mà anh Sean nhắc đến lần trước, chính là bọn chúng rồi. Mặc dù thể hình lũ thằn lằn này không lớn, nhưng với sự phối hợp hoàn hảo thế này, một con thằn lằn khổng lồ hành động đơn độc rõ ràng không phải là đối thủ. Giống như... giống như...”

“Giống như châu chấu và kiến vậy.” Hai mắt Sean sáng rực như sao, chầm chậm nói: “Trước tiên giết chết con thằn lằn khổng lồ vẫn còn non, sau đó lợi dụng tiếng kêu của nó và mùi máu tanh để dẫn dụ con thằn lằn khổng lồ trưởng thành đến, bố trí thế trận vây công, nhân lúc con mồi phân tâm nhất loạt ào lên, sử dụng chiến thuật ‘kiến nhiều cắn chết voi’ phục kích kẻ địch. Nếu đổi lại là tổ tiên loài người chúng ta, vào một vạn năm trước, cùng lắm chắc cũng chỉ có thể làm được đến vậy mà thôi. Đây là một hành vi xã hội điển hình, tôi có thể khẳng định rằng, về mặt hình thái xã hội, bọn thằn lằn có sự phân công rõ ràng này đã không thua gì tổ tiên loài người chúng ta vào khoảng mười nghìn năm trước đâu.”

Bấy giờ, lũ thằn lằn nhỏ đã vật đổ con thằn lằn khổng lồ, bọn thằn lằn lính vung vẩy những móng vuốt sắc bén, cắt thân thể con mồi thành những tảng thịt lớn, rồi dưới hiệu lệnh âm thanh của thằn lằn chỉ huy, mỗi con thằn lằn vận chuyển lần lượt trật tự đưa những tảng thịt vào sâu trong rừng. Chẳng bao lâu sau, con thằn lằn khổng lồ đã bị tách ra tận từng cọng xương chuyển hết đi, không bỏ phí một chút nào, cuối cùng, con thằn lằn chỉ huy cũng bật lên khỏi cành cây bỏ đi. Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị nhổm người dậy rời khỏi tán cây thì Sean đã kéo lại, những người khác cũng đều bất động. Sean cẩn thận nhắc nhở: “Đợi thêm chút nữa đã!”

Không lâu sau, mấy cành cây chạc ba lại khẽ đung đưa, cả bọn giờ mới phát hiện, ở ngoài phạm vi quan sát của họ vẫn còn mấy con thằn lằn trinh sát ngụy trang cực kỳ khéo léo, bọn chúng mới là những con rời đi cuối cùng trong đàn.

“Ồ...” Nhạc Dương quệt quệt mồ hôi rỉ ra trên trán, khẽ nói: “May mà chưa bị phát hiện.”

Sean áng chừng lũ thằn lằn kia đã đi xa rồi, lập tức nói: “Mau lên, nhìn hướng chúng tiến vào rừng, chắc hẳn chỗ này ở không xa sào huyệt của chúng lắm đâu, không nên luẩn quẩn ở gần quanh đây nữa.”

Cả bọn leo xuống khỏi tán cây, tiếp tục men theo mép bình đài tiến nhanh về phía trước. Sean nằm trên cáng, nghĩ ngợi một hồi vẫn thấy không yên tâm, bèn gọi Trác Mộc Cường Ba tới, đưa cái lọ thủy tinh nhỏ mà anh ta cẩn thận cất giữ cho gã, đồng thời dặn dò, nếu không may bị bọn thằn lằn nhỏ kia phát hiện, thì thử dùng thứ này trước, tốt nhất là ném ra cùng với lựu đạn để cả bình nổ tung, cố gắng sao cho phạm vi che phủ của chất lỏng bên trong càng rộng càng tốt.

Trác Mộc Cường Ba ngờ vực hỏi: “Có hiệu quả không?”

Sean gật đầu khẳng định, đoạn nói: “Chắc là có, chất thông tin này sẽ khiến lũ thằn lằn tưởng đồng loại của mình là con thằn lằn khổng lồ đã chết và quay lại tấn công lẫn nhau.”

Trương Lập vừa thay Ba Tang khiêng cáng ở phía sau hỏi với lên: “Chẳng phải là bọn chúng đều có mắt sao? Lẽ nào không thể phân biệt được đâu là đồng loại của mình?”

Sean nói: “Đây là một vấn đề về quyền hạn ưu tiên. Ừm, nói sao nhỉ? Thế này nhé, một đứa trẻ năm tuổi, có một ông chú lạ mặt và người mẹ đã nuôi dưỡng nó năm năm cùng chỉ vào một vật hình cầu, ông chú kia thì bảo đấy là quả bóng chuyền, còn mẹ nó lại bảo đấy là quả bóng đá. Cậu nói xem, theo lẽ thường thì đứa bé kia sẽ tin ai hơn?”

Trương Lập đáp: “Dĩ nhiên là tin mẹ nó rồi.”

Sean gật đầu: “Đúng vậy, bởi vì cả quá trình trưởng thành của đứa trẻ đều có mẹ nó ở bên, đối với nó, độ tin cậy của mẹ cao hơn ông chú xa lạ kia rất nhiều, nói cách khác, tức là quyền hạn của người mẹ đối với nó cao hơn ông chú kia. Cùng lẽ đó, đối với mấy trăm triệu năm tiến hóa của sinh vật, quyền hạn của chất thông tin cao hơn quyền hạn mà thông tin do các giác quan khác thu nhận được rất nhiều lần, mà động vật càng thấp cấp, sự ỷ lại vào chất thông tin ấy lại càng rõ rệt. Quyền hạn này tỷ lệ nghịch với công năng của các cơ quan mà sinh vật tiến hóa ra. Quyền hạn càng đơn giản, càng trực tiếp thì vị trí lại càng cao. Đến cả những sự sống tiến hóa đến mức độ cao cấp và có lý tính như con người chúng ta, cũng chịu ảnh hưởng của chất thông tin và những quyền hạn không dễ gì nhận ra được ấy, chúng ta gọi chung đó là trực giác, hoặc... giác quan thứ sáu.”

Trương Lập ngây người ra một lúc, rồi kết luận: “Phức tạp quá.”

Sean cười cười, lại đưa bộ phận phát thanh của con thằn lằn khổng lồ kia cho Trương Lập, dặn dò: “Cậu và Nhạc Dương phụ trách trinh sát, rất dễ rơi vào chốn nguy hiểm. Khi nào không thể đột phá được vòng vây thì hãy dùng cái này, ít nhiều gì thì cũng có tác dụng gây chấn động hoặc làm kẻ địch khiếp sợ, chỉ cần sử dụng hợp lý, nói không chừng còn có thể gọi được bọn thằn lằn khổng lồ khác đến, tới lúc đó làm thế nào thì phải xem sự ứng biến của các cậu rồi đấy.” Kế đó, anh ta lại dạy Trương Lập một số kỹ xảo để thổi mảnh xương. Trương Lập mừng lắm, vội vàng ghi nhớ.

Không ai ngờ được, đến tối hôm ấy Sean lại bắt đầu sốt, tình huống tệ nhất e rằng cũng chỉ đến mức ấy là cùng. Mặc dù không sốt cao, nhưng Sean rất bực dọc, lấy làm oán trách Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn, có mỗi vết thương đơn giản mà cũng xử lý không xong. Anh ta bị ép phải uống rất nhiều thuốc viên, tiêm đủ các loại thuốc vào người. Mặc dù tự bản thân Sean cũng đã xem qua, biết rõ là theo lẽ thường, các loại thuốc ấy sớm đã khống chế được chứng sốt do nhiễm trùng thông thường rồi, nhưng chẳng hiểu tại sao, các loại thuốc đó vào cơ thể anh ta cứ như làm bằng tinh bột vậy, chẳng hề có lấy một chút tác dụng gì.

Đêm hôm ấy, Sean đột nhiên giật mình cảnh giác, mặc dù không nhìn thấy gì, nhưng anh ta biết, có người đang đứng bên cạnh mình. Cảm giác băng lạnh ấy, ừm, là Ba Tang, không thể sai được, người gác đêm hôm nay chính là Ba Tang!

“Ba Tang, anh đấy à?” Sean khẽ cất tiếng hỏi. Hồi lâu sau, không thấy có ai trả lời, Sean cũng cảm nhận được người đứng bên cạnh mình đã rời đi, hoặc cũng có thể là chưa từng có người nào đứng ở đó cả. Anh ta bất giác cảm thấy hơi lo lắng. Sau một thời gian dài tiếp xúc, anh ta cũng đã hiểu được phần nào con người Ba Tang, con người này đã được huấn luyện thành một cỗ máy giết chóc, nếu mình thực sự không còn tác dụng gì, khả năng rất cao là anh ta sẽ không hề do dự mà tiễn đưa mình về cõi vĩnh hằng. Khổ nỗi lúc này thân thể mình lại không thể đối kháng được với cái gã lạnh lùng đó, sợ rằng đành phải sử dụng biện pháp đề phòng vậy. Nghĩ đoạn, Sean âm thầm lần mò trong bóng tối, lấy một loại thuốc cao bôi lên những chỗ dễ chí mạng nhất trên người mình, lòng thầm nhủ: “Ta không muốn chết một cách vô duyên vô cớ như vậy, kẻ nào muốn giết ta thì phải đem mạng ra mà đổi!” Nhưng anh ta không thể ngờ được, cuộc đời này có rất nhiều việc luôn trái với ý muốn của mình, càng không muốn nó xảy ra, ngược lại càng dễ xảy ra hơn.

Sang ngày thứ bảy, bệnh tình của Sean dường như lại trầm trọng hơn.

“Nhiệt độ lại tăng cao nữa rồi.” Đường Mẫn lo lắng nói. Cô bước tới phía trước mặt Sean, ngồi xuống, nhẹ nhàng nói: “Tôi và chị Cánh Nam đã thương lượng rồi, chuẩn bị đổi cho anh một đơn thuốc khác, lần này chúng tôi dùng Neostigmine, Hydroprednisone, Alprazolam, ngoài ra dùng thêm phương pháp châm cứu và bấm huyệt của Trung y nữa, anh thấy sao?”

Sean ngẩng đầu lên, chỉ nhìn được đến chéo áo Đường Mẫn. Lấy ta ra làm vật thí nghiệm hả? Trong lòng thầm thóa mạ, nhưng cuối cùng anh ta vẫn nhẫn nhịn, gương mặt nở ra một nụ cười tươi tắn khiến người ta nảy sinh cảm giác tín phục, chậm rãi nói: “Tôi cảm thấy mọi người nên thảo luận thêm về bệnh tình của tôi, chứ không phải cắm đầu cắm cổ dùng thuốc để thử nghiệm hiệu quả trị liệu. Có lẽ nói vậy hơi thất lễ một chút, nhưng mà, theo cô thì thế nào?”

Đường Mẫn trầm ngâm gật đầu, nói: “Vết thương của anh vẫn tiếp tục chảy mủ, bởi vậy, chúng tôi nghĩ anh đã bị nhiễm trùng, nhưng xem tình hình sử dụng kháng sinh liều cao hai ngày nay của anh, có vẻ như vi khuẩn ở đây dường như có khả năng đề kháng lại thuốc kháng sinh của chúng ta. Mà không có điều kiện, nên tôi cũng không thể nuôi cấy vi khuẩn tại chỗ, càng không có cách nào tìm được vắc xin, vì vậy mới đành phải tiến hành thử trị liệu bằng các loại kháng sinh có kháng phổ rộng. Có thể là tôi đã bỏ sót điều gì đó mất rồi, bây giờ anh cảm thấy cơ thể mình có xuất hiện hiện tượng gì bất ổn không? Chẳng hạn có cảm giác toàn thân đau mỏi gì đó, anh có thể từ từ nhớ lại, có gì khác với lúc bình thường không...”

Lông mày Sean nhíu lại như hai cọng dây thừng, nói: “Đau mỏi? Không có! Nếu phải nói có gì khác biệt, có điều cô hỏi vậy, giờ tôi cảm thấy hình như... hình như chỗ này, chỗ này hơi tê tê.” Sean một tay chỉ vào mông, một tay chỉ vào xương cổ.

Đường Mẫn lộ vẻ khó xử: “Nhiễm trùng lan đến hệ thần kinh rồi? Phải... phải làm sao bây giờ?”

Sean khôi phục lại tư thế lúc nãy, cố gắng rặn ra một nụ cười nhìn Đường Mẫn, trong lòng thầm nhủ: “Nhiễm trùng đến hệ thần kinh? Không đến nỗi thảm vậy chứ, nếu đám người này đều bó tay, có khi ta phải nghĩ đến việc hợp tác với bọn Merkin kia vậy, hy vọng chúng có cách chữa được. Đây... đây là cảm giác gì thế!” Sean bỗng giật thót mình kinh ngạc, những chỗ anh ta vừa chỉ, bảo thấy hơi tê tê, giờ đây cảm giác tê dại bỗng ập đến, liền tiếp đó, sau gáy bỗng thấy nhói đau, như bị kim đâm vào, rồi cảm giác đau ấy giống như một quả tạc đạn nổ bên trong đầu, sự tê dại nhanh chóng lan tỏa khắp đại não, rồi từ đại não truyền đi khắp toàn thân.

Toàn bộ quá trình ấy chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc, nhưng mỗi bước đó, Sean đều cảm nhận được một cách vô cùng rõ rệt, khi anh ta định thần lại, thì đã nhận ra toàn thân mình không thể nào nhúc nhích được nữa. Ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu anh ta là: con nhỏ đó, nó đã làm gì mình rồi! “Cô làm cái gì vậy” Sean muốn lớn tiếng quát hỏi, nhưng lại lập tức phát hiện ra, thậm chí cả khả năng phát âm của mình cũng không còn nữa, gương mặt chỉ có thể giữ nguyên điệu bộ mỉm cười ấy.

“Chớp mắt! Chớp mắt! Chớp mắt!” Sean gắng hết sức ép thân thể mình nhúc nhích dù chỉ một chút cũng được, nhưng càng muốn cử động, lại càng phát hiện, thân thể mình không thể nào cựa quậy, đến cả động tác cực kỳ cơ bản như chớp mắt cũng không sao thực hiện được. Trên gương mặt Sean, vốn là một nụ cười hết sức tự nhiên, nhưng lúc này nụ cười ấy lại toát lên vẻ kỳ dị khôn cùng.

Trong đầu Sean nhanh chóng có vô số ý nghĩ chạy qua vùn vụt, nhưng lòng dạ rối bời, cảm giác tê dại vẫn đang xâm thực vào hệ thần kinh, khiến anh ta không thể nào suy nghĩ như bình thường được. Đầu tiên anh ta nghĩ không biết có phải là Đường Mẫn giở trò hay không, nhưng lúc này, trông thấy Đường Mẫn vẫn đang quỳ một chân trước mặt anh ta, không hề nhúc nhích, bất giác lại nghĩ, liệu kẻ nào đang ở sau lưng mình nhỉ? Nếu có người, Đường Mẫn phải phát hiện ra mới đúng. Không, không phải, Đường Mẫn đang nghĩ xem dùng thuốc thế nào, biết đâu vừa nãy có người đi lướt qua mà cô ta không để ý. Không thể nào, cô ta mà lại để tâm nghĩ ngợi dùng thuốc cho mình thế nào kỹ đến thế ư? Chết tiệt thật, nhìn tôi đi này, nhìn tôi đi này! Cô nhìn kỹ hơn một chút đi, tùy tiện hỏi một hai câu là biết thân thể tôi đang xảy ra chuyện rồi!

“À, phải rồi!” Cuối cùng Đường Mẫn cũng nghĩ ra điều gì đó, bèn nói với Sean: “Hình như có... để tôi đi tìm xem.” Sean không ngừng kêu khổ trong lòng, Đường Mẫn vừa đi được hai bước lại phát hiện ra có điều không ổn, vội ngoảnh đầu hỏi: “Sean, anh không sao chứ? Anh... anh sao rồi? Nói gì đi chứ? Anh Sean! Anh Sean!”

Thân thể Sean xảy ra hiện tượng dị thường, khiến cho tất cả mọi người đều hết sức lo lắng. Phong cách nói năng quý tộc và học thức uyên bác của anh ta sớm đã để lại ấn tượng sâu sắc với mọi người, dọc đường tới đây, tri thức về sinh vật học của Sean đã giúp ích rất nhiều, không có anh ta, họ thật chẳng biết phải ứng phó với nhiều loài động vật như thế nào nữa. Lần ấy cũng vì không nghe theo kiến nghị của Sean mà cắm trại bên bờ hồ, cuối cùng mới thành ra như vậy.

Chỉ có Sean là không nghĩ thế.

Làm bộ cuống cuồng lên như thế, nhưng cũng thấy các người làm cái quái gì đâu, lúc nãy khi kẻ đó đến bên ta hạ thủ, Đường Mẫn mà lại không nhìn thấy ư? Không thấy thật hay giả bộ không thấy? Hừ... lẽ nào? Bọn chúng lại bắt tay nhau dồn ta vào chỗ chết ư? Không sai rồi, ả Lữ Cánh Nam và cả Đường Mẫn đều từng nhiều lần chú ý đến mình, xem ra chúng đã nghi ngờ mình là nội gián rồi, nhưng mình có để lộ sơ hở nào đâu nhỉ? Ba Tang cũng từng hoài nghi mình, Cường Ba... Cường Ba thì không, quá nửa là anh ta không biết chuyện này. Hai tên nhãi Trương Lập và Nhạc Dương chắc chắn không dám cãi lệnh Lữ Cánh Nam; pháp sư Á La và bọn chúng hình như cũng cùng một hội, nhất định là chúng đã lên kế hoạch này từ trước không chỉ một ngày. Mấy hôm nay mình không thể cử động, không thể nào biết được chúng đang thương lượng điều gì. Đúng rồi, để Đường Mẫn ở trước mắt mình thu hút sự chú ý, nhân lúc mình không phòng bị hạ thủ sau lưng! Lẽ ra mình phải nhận ra từ trước mới đúng, con bé con ấy có khiếu diễn kịch thật! Người ở sau lưng mình là ai nhỉ? Ba Tang à? Không, nếu hắn tiếp cận, chắc chắn mình sẽ nhận ra; pháp sư Á La cũng không giống, ông ta quá cao thâm, chắc không làm những chuyện hạ thủ sau lưng người khác; Lữ Cánh Nam? Đúng! Nhất định là cô ta, cô ta và Đường Mẫn có thể lợi dụng cơ hội xem xét bệnh tình của mình để lẳng lặng ra tay. Ở đây ngoài cô ta và Đường Mẫn, không ai có hiểu biết sâu về các loại thuốc cả... Sean càng nghĩ càng thấy lạnh buốt cả người, cảm giác sợ hãi dần trào dâng lên trong tâm thức.

Chương 6

Cái chết của Sean

Lữ Cánh Nam đưa tay lên rờ trán Sean, đoạn nói: “Nhiệt độ không tiếp tục tăng, cho dù đã bị nhiễm trùng đến hệ thần kinh thì cũng không thể nhanh thế được, mà cũng làm gì đến nỗi toàn thân không thể nhúc nhích cựa quậy gì thế này?”

Sean nghe thấy thế, thầm nhủ: “Vậy mà cũng mặt dày nói ra được, ai mà chẳng biết chứ. Chết tiệt thật, thấy ta không đi lại được, chẳng còn tác dụng gì nữa thì muốn vứt bỏ cho bớt gánh nặng hả. Các người, cũng tàn nhẫn thật! Sớm biết thế này, lẽ ra ta cho mỗi tên một ít thuốc, ta mà chết, tất cả các ngươi cũng phải bồi táng theo! Sao mình lại không làm vậy cơ chứ! Chết tiệt thật! Chết tiệt thật!” Đồng thời, anh ta cũng thấy bàn tay Lữ Cánh Nam ấn lên trán mình, trong lòng không khỏi lấy làm chấn động: “Sao lại thế được? Tay cô ta đặt trên đầu mình đấy sao? Tại sao không có cảm giác gì thế này? Lẽ nào... thân thể mình chẳng những không nhúc nhích được, mà còn mất cả tri giác luôn rồi sao? Thế này thì có khác gì người thực vật? Lẽ nào bọn chúng muốn giày vò mình đến chết? Hay là muốn moi điều gì đó từ miệng mình? Bọn chúng đã nghi ngờ bao lâu rồi? Rốt cuộc là mình sơ hở ở điểm nào? Ở đâu nhỉ?”

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thảo luận về mấy khả năng có thể xảy ra, nhưng cũng đều bó tay trước tình trạng hiện tại của Sean, không biết nên trị liệu thế nào, lại đi tra trong máy tính của giáo sư Phương Tân cũng vẫn không tìm được phương pháp nào giải quyết. Đội trưởng Hồ Dương nói: “Giờ làm sao đây? Chúng ta không thể dừng mãi ở đây mà nghĩ cách được đâu.”

Lại nổ ra một trận tranh cãi nảy lửa, chủ yếu là xoay quanh chuyện tình hình sức khỏe của Sean lúc này và sự an toàn của cả nhóm. Đường Mẫn, Lữ Cánh Nam cho rằng, trước khi tìm được nguyên nhân tại sao thân thể Sean xảy ra hiện tượng đó thì không nên mạo hiểm cáng anh ta tiếp tục tiến lên, chỉ e tình hình sẽ ngày một nghiêm trọng hơn. Còn Ba Tang lại phản đối ý kiến đó, cho rằng lẽ nào cứ không tìm được nguyên nhân thì phải ở mãi một chỗ này? Với kỹ thuật và nhân lực trước mắt của họ, rất có thể sẽ chẳng bao giờ tìm được nguyên nhân tại sao, chuyện duy nhất sẽ xảy ra khi dừng chân tại đây chính là phải đụng độ với đám truy binh ở phía sau. Vì một người mà làm chuyện bất lợi cho cả nhóm, rõ ràng là lợi bất cập hại. Ngược lại, nếu tiếp tục tiến lên, biết đâu lại tìm được các bộ lạc khác ở đây, như thế may ra còn có một tia hy vọng. Hai bên đều có lý lẽ riêng, những người còn lại nhất thời cũng không biết quyết định thế nào. Bọn họ không hề ngại bị lũ người kia đuổi kịp, làm theo cách nào có lợi nhất cho sức khỏe của Sean, đó mới là điều họ quan tâm nhất.

Sean thầm miệt thị trong đầu: “Hừ, làm bộ làm tịch diễn kịch cho ai xem? Đối tốt với ta vậy cơ à? Ta không tin các người đâu! Tuyệt đối không tin!”

Lữ Cánh Nam bước tới phía trước mặt Sean, đoạn nói: “Nhất định anh ấy nghe được, nhìn thấy được, chỉ có điều không có cách nào biểu đạt ra được mà thôi. Nhất định anh ấy đang rất đau đớn, thậm chí còn không nhắm mắt lại được nữa.” Nói đoạn, cô liền vuốt mi mắt của Sean xuống, không ngờ lại không gặp phải trở lực gì, dễ dàng giúp anh ta nhắm mắt lại, nhưng nụ cười ấy thì vẫn đông cứng lại trên gương mặt, không thể nào hồi phục được dáng vẻ bình thường.

Sean lại âm thầm chửi bới: “Định làm gì hả? Không muốn cho ta thấy chứ gì? Hay là sợ những người khác nhìn ra được điều gì trong ánh mắt ta?”

Lữ Cánh Nam tựa hồ như biết được Sean đang nghĩ gì, lại nói tiếp: “Nhãn cầu không được bảo vệ, sẽ nhanh chóng bị khô, dẫn đến viêm kết mạc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị lực.”

Sean lại thầm nhủ: “Nói như hát hay ấy.” Nhưng điều làm anh ta thực sự lo lắng là, những giọng nói khác hình như cũng tán đồng với cách làm của Lữ Cánh Nam.

Lữ Cánh Nam lại nhúc nhắc chuyển động tứ chi của Sean, lần này anh ta cũng không có cảm giác gì. Chỉ nghe Lữ Cánh Nam nói: “Cơ bắp không có hiện tượng tê cứng, ngược lại mất đi sức lực và sự đàn hồi vốn có, tình trạng này không giống như bị nhiễm trùng dây thần kinh, mà có vẻ như là đại não không thể điều khiển được cơ thể nữa vậy.”

“Người... người thực vật!” Nhạc Dương kinh ngạc kêu lên: “Cô nói anh Sean sẽ biến thành người thực vật á?”

Ba Tang lấy móng tay vạch một đường cong trên lòng bàn tay Sean, lắc đầu nói: “Không phải sẽ, mà là đã.”

Trác Mộc Cường Ba tổng hợp ý kiến của các bên, cuối cùng quyết định: “Dùng nửa ngày kiểm tra thật kỹ xem rốt cuộc đã có thay đổi gì xảy ra trên cơ thể Sean. Còn nữa, cáng anh ấy đi liệu có gây tổn thương gì nghiêm trọng hơn nữa không? Nếu thực sự không tìm được cách trị liệu nào nữa, thì chỉ còn cách khiêng anh ấy tiếp tục tiến lên, vừa đi vừa nghĩ tiếp vậy thôi.”

“Thực ra...” Ba Tang thấp giọng làu bàu một tiếng. Anh ta vốn muốn nói, còn một cách nữa, chính là đợi đám người ở phía sau đuổi kịp, xem có thể giảng hòa với đối phương không, đằng nào thì ở chỗ này cũng không còn ai khác nữa, hai phe có thể bắt tay cùng đi tìm Bạc Ba La thần miếu, đồng thời, cũng có thể nghe ý kiến của những người kia về bệnh tình của Sean. Có điều bản thân anh ta cũng biết, cơ hội để điều đó xảy ra gần như là không có, ngay cả chính anh ta cũng chẳng tin, vì vậy nên rốt cuộc cũng không nêu ra nữa.

Kết quả kiểm tra là, bọn họ không thể làm gì để thay đổi tình trạng của Sean cả. Cuối cùng Lữ Cánh Nam kết luận: “Khiêng bằng cáng sẽ không gây thương tổn gì cho cơ thể anh ấy, nhưng hiện giờ cảm giác của Sean đã mất, hơn nữa lại không thể biểu đạt được cảm nhận của mình. Cũng có nghĩa là, nếu bản thân bị thương, dù là bị đâm, hay bị bỏng hoặc gì gì khác, anh ấy cũng không hề hay biết. Điều duy nhất chúng ta cần chú ý, chính là trong lúc vận chuyển cần chú ý bảo vệ tránh để cơ thể anh ấy bị thương.”

Vậy là, cả nhóm người lại tiếp tục cáng theo Sean với bộ mặt cười cứng đờ quái dị tiếp tục lên đường.

Ngày thứ hai sau khi Sean bị tê liệt hoàn toàn, anh ta nghe thấy Đường Mẫn nói với Lữ Cánh Nam: “Nhiệt độ anh ấy lại tăng lên rồi, sốt cao quá.”

“Dùng thuốc hạ sốt chưa?”

“Dùng rồi, nhưng hình như chẳng có tác dụng gì cả.”

“Ừm, trán anh ấy hình như không nóng, hay là trung khu điều khiển nhiệt độ trong hộp sọ xảy ra vấn đề gì rồi, giờ chúng ta chỉ có thể dùng biện pháp vật lý để giảm nhiệt độ thôi vậy.”

Sean không còn tri giác, nhưng anh ta biết, lúc này Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam nhất định đang làm gì đó với cơ thể mình. Anh ta tự nhủ: “Mình đang sốt à? Sao lại thế được? Nếu bị sốt, đầu phải có cảm giác nặng nề, hơn nữa ý thức cũng mơ hồ dần đi mới đúng, nhưng sao mình lại cảm thấy tỉnh táo hơn bao giờ hết thế này. Chẳng lẽ là, nhiệt độ máu của mình đã tăng lên rồi sao? Tim đập nhanh hơn? Đáng ghét thật, cả nhịp tim của chính mình cũng hoàn toàn không cảm giác được. Giờ mình có khác nào một kẻ ký sinh, thân thể này đã hoàn toàn không thuộc về mình nữa rồi! Gượm đã... mình vừa nghĩ đến gì vậy nhỉ? Nhất định là vừa nghĩ ra được gì đó, có gì không ổn ở đây nhỉ?”

Sang ngày thứ ba, Đường Mẫn nói với Lữ Cánh Nam: “Nhiệt độ không giảm xuống, tim anh ấy đập nhanh hơn hẳn, cứ tiếp tục thế này, anh ấy sẽ...”

Trên cơ thể Sean bắt đầu xuất hiện những nốt đỏ lấm tấm bằng hạt thóc, trên mặt, trên cổ, mu bàn tay, ngực, sống lưng, gót chân, khắp nơi chỗ nào cũng có, giống như bị bọ chó đốt, hoặc bị nhện bò qua vậy.

Đến hôm thứ tư, nhiệt độ cơ thể Sean lại giảm xuống, các đốm đỏ cũng biến mất, nhưng Đường Mẫn lại phát hiện ra vấn đề khác. Cơ thể Sean đang gầy đi nhanh chóng, mặc dù ngày nào cũng tiêm chất dinh dưỡng đồng thời truyền đủ lượng nước muối sinh lý, nhưng Sean vẫn giống như người ba bốn ngày liền không ăn không uống gì cả, không, so với lúc họ vừa ra khỏi U Minh hà, anh ta còn thảm hơn nhiều. Làn da vốn trắng trẻo căng đầy, giờ giống như lớp vỏ cây khô khốc, chỉ còn một lớp mỏng dính bọc bên ngoài xương cốt, các cơ bắp đầy tính đàn hồi cũng trở nên khô đét tựa như miếng thịt bò khô, thứ duy nhất có thể thấy rõ ràng chỉ có từng sợi mạch máu gồ lên như những con giun ngoằn ngoèo, trông chẳng khác nào một lũ quái thú đang cuồn cuộn bám vào mảnh đất cằn cỗi khô kiệt.

Ngày thứ năm, Đường Mẫn thì thầm nói với Trác Mộc Cường Ba: “Em nghĩ, bọn em đã phát hiện ra nguyên nhân Sean bị gầy đi nhanh chóng rồi, trong cơ thể anh ấy, dường như có... có thứ gì đó.”

“Em nói gì hả? Dẫn anh đi xem nào.”

Lữ Cánh Nam đang đứng bên cạnh Sean, đôi hàng lông mày thanh tú nhíu chặt lại. Tình trạng của Sean lúc này rất không ổn, hai mắt đã lở loét, chảy ra chất mủ dịch màu vàng, trông chừng có vẻ như đã không còn cơ hội thấy lại ánh sáng; hai má gầy tóp lại, xương gò má gồ cao lên, hốc mắt hõm xuống thành hai hố sâu bầm máu, nhìn chẳng khác nào một cái xác ướp đang nhe răng ra mỉm cười cả. Đáng sợ hơn cả là phần bụng gầy đến lõm hẳn xuống của Sean, giờ chỉ còn lại một lớp da bọc lên trên xương chậu. Bên dưới lớp da ấy, có thể nhận rõ những sinh vật to tầm bằng ngón tay người đang nhung nhúc chuyển động.

Không chỉ một con, mà giống như cảnh tượng họ nhìn thấy trên bãi cát vậy, những chỗ gồ lên dưới lớp da dịch chuyển từ điểm này sang điểm khác, đây rõ ràng là cách di chuyển của loài sâu hay côn trùng gì đó. Lúc nhiều nhất có thể cùng lúc thấy sáu bảy chỗ gồ lên như thế dịch chuyển bên dưới da, có lúc chúng như bọn nòng nọc bơi trong hồ nước, tốc độ nhu động rất nhanh, cũng có lúc lại dừng lại, nhúc nhích từng chút từng chút một như bọn tằm đang gặm lá dâu; lại có lúc hai con đụng đầu nhau, rồi quấn chặt lại, tựa như đang tranh đoạt, lần nào con thất bại cũng nhúc nhích về phía lồng ngực Sean rồi biến mất.

Đây chính là nguyên nhân Sean gầy đi một cách nhanh chóng như vậy... chất dinh dưỡng họ truyền vào người Sean đều bị những sinh vật kỳ quái ấy hấp thu hết sạch. Mà bọn chúng dường như vẫn không có ý định dừng lại, vẫn còn tiếp tục lần lượt ăn hết nội tạng của anh ta. Trác Mộc Cường Ba tựa hồ còn nghe thấy cả những âm thanh “nhồm nhoàm” phát ra lúc chúng đang ngon lành gặm nhấm thức ăn nữa.

Trương Lập và Nhạc Dương cũng bước đến. Vừa nhìn thấy cảnh tượng đó, suýt chút nữa Trương Lập đã kêu toáng lên. Nhạc Dương vội bịt miệng anh lại, kéo sang một bên, giận dữ gắt gỏng: “Anh làm cái gì vậy? Lỡ để anh Sean nghe thấy thì sao?”

Sau khi để lại pháp sư Á La trông chừng Sean, những người còn lại đều bước sang một bên thảo luận. Lữ Cánh Nam nói: “Giờ thì coi như đã biết được nguyên nhân thực sự của hiện tượng lạ xảy đến với Sean rồi. Tại sao thuốc kháng viêm không có tác dụng? Tại sao lại sốt cao? Tại sao lại tê liệt? Tất cả đều do loài sinh vật ký sinh trong cơ thể anh ấy gây ra cả.”

Trương Lập thắc mắc: “Nhưng mà, chuyện này xảy ra từ lúc nào vậy nhỉ? À, chẳng lẽ là do bị con muỗi đó...”

Nhạc Dương nói: “Muỗi đẻ trứng bằng vòi ở đuôi cơ mà? Sao lại dùng miệng được? Hay là lúc ở trong hồ nước...”

Đường Mẫn lắc đầu: “Không thể nào, lúc ấy cả bọn chúng ta đều bị thương, nhưng chỉ có mỗi mình Sean là có vấn đề thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chắc là như vậy rồi, đây cũng là nguyên nhân giải thích tại sao tôi thì vẫn ổn còn Sean lại gặp vấn đề, khi ấy con muỗi đó đã đâm xuyên qua cánh tay tôi, còn Sean thì chỉ bị đâm vào một nửa. Dùng miệng để đưa ấu trùng vào ký sinh trong vật chủ, đây đích thực là một phương thức sinh sôi nảy nở rất tốt.” Gã bỗng phát hiện khi nghe thấy hai chữ “vật chủ”, Lữ Cánh Nam nhìn mình với ánh mắt rất quái dị.

Đội trưởng Hồ Dương lắc đầu: “Cũng chưa chắc đã là ấu trùng của muỗi, cần biết rằng, bản thân muỗi đã là kẻ gieo rắc, khi hút máu, chúng có thể mang ký sinh trùng ở cơ thể mình chuyển sang những cá thể khác.”

Nhạc Dương nắm chặt bàn tay lại nói: “Vậy mà chúng ta không nghĩ ra, giờ thì rõ hết cả rồi!” Nguyên nhân chủ yếu là vì hình dáng bọn muỗi khổng lồ ấy quá dữ tợn, thực sự khiến người ta khó mà liên tưởng đến loài muỗi ở thế giới bên ngoài kia.

Lữ Cánh Nam nói: “Thông qua sự tuần hoàn máu, trước tiên chiếm cứ trung khu thần kinh, sau đó làm tê liệt toàn bộ thân thể con mồi, cắt đứt mọi cảm giác, như vậy có thể đảm bảo con mồi sống được một thời gian dài, không đến nỗi chết vì đau đớn, để cho chúng ăn từ từ. Bọn chúng vừa ăn, vừa bài tiết, chất bài tiết này có hàm lượng độc tính rất cao, gây thương tổn nghiêm trọng đến vật chủ. Loài ký sinh trùng này, quả thực quá đáng sợ!”

Đội trưởng Hồ Dương hỏi: “Giờ tính sao đây? Bắt bọn sâu ấy ra à?”

Đường Mẫn lắc đầu: “Cần quan sát trước đã, mấy ngày trước dùng máy siêu âm màu cũng đâu phát hiện được chúng.”

“Ừm,” Lữ Cánh Nam nói, “kết cấu cơ thể bọn sâu này rất giống với kết cấu các tổ chức mềm trong cơ thể người, nếu chúng náu mình trong các mạch máu thì siêu âm màu cũng khó mà nhận ra được.”

Trở lại bên cạnh Sean, dùng máy siêu âm màu kiểm tra lại, tất cả đều kinh ngạc đến nỗi không thốt lên nổi một lời. Khoảng trống, khoảng trống, khoảng trống, trên màn hình hiển thị cả phần bụng Sean chỗ nào cũng toàn là khoảng trống. Đường Mẫn vừa kiểm tra, nước mắt vừa lã chã tuôn rơi.

Lá gan đã bị ăn mất một phần ba, phổi gần như cũng chỉ còn khoảng một nửa, dạ dày và ruột đều thủng lỗ chỗ, nội tạng của Sean lúc này giống như cái tổ kiến có hàng trăm lối ra vào. Lần này, thông qua hình ảnh 3D, mọi người có thể thấy rõ ràng, lũ ký sinh trùng to bằng ngón tay trong ổ bụng Sean đang cuồn cuộn vặn vẹo như một đám ruột non cuốn vào nhau. Không hiểu chúng dùng cách gì, từ từ ăn hết các tổ chức mô, nhưng mạch máu thì vẫn giữ nguyên không hề tổn hại gì. Chỉ thấy những mạch máu to như rễ cây lúc này đang chăng như mạng nhện trong khoang bụng trống rỗng, phập phồng theo nhịp tim đều đặn, lúc thì tóp lại, thoáng sau đã căng phồng. Cảnh tượng quái dị trong màn hình hiển thị, khiến họ bất chợt nhớ đến loại dây leo kỳ dị mà đáng sợ bên trong Đảo Huyền Không tự.

Ba Tang lạnh lùng nói: “Anh ta không sống nổi đâu.” Ý muốn bảo đã tới lúc nghĩ đến chuyện bỏ Sean lại rồi, sự thực là, anh ta cũng đã nhẫn nhịn suốt mấy ngày nay không nói ra rồi.

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên vươn tay ra, chụp lấy cổ áo Ba Tang, nhấc anh ta lên trước mặt mình, từ trên cao nhìn chằm chằm vào mắt đối phương, hai tay run lên khe khẽ. Ba Tang không ngờ Cường Ba thiếu gia lại giận dữ đến thế, nên cũng không tránh kịp cú chộp ấy của gã. Trác Mộc Cường Ba cố gắng khắc chế cảm xúc đang trào lên, cuối cùng cũng dập tắt được ngọn lửa giận đang bốc lên bừng bừng trong tâm thức, hạ thấp giọng, nhưng hết sức kiên định, nói: “Tôi không muốn nhắc lại một lần nào nữa, Trác Mộc Cường Ba này, không bao giờ bỏ rơi, bất cứ một người nào cả! Anh ấy là đồng đội của chúng ta đó, Ba Tang!”

Đây là câu nói cuối cùng mà Sean nghe thấy được. Cuối cùng, màng nhĩ anh ta đã vỡ toang, dịch mủ chảy ra theo hai lỗ tai, rồi anh ta nhanh chóng cảm nhận được sự tĩnh lặng tuyệt đối, trong lòng buồn bã thầm nhủ: “Cường Ba, không quen anh sớm hơn, thật là một điều đáng tiếc! Thì ra thế giới này cũng có thể thanh bình đến thế. Mình sắp chết rồi sao? Đây chắc là báo ứng, theo cách nói của người Trung Quốc...”

Trác Mộc Cường Ba đặt Ba Tang xuống. Nhưng Ba Tang cũng không có ý định từ bỏ ý đồ của mình, anh ta hỏi vặn lại: “Vậy anh tính làm sao?” Tình hình trước mắt đã rất rõ ràng, khoang bụng của Sean đã bị bọn ký sinh trùng ăn cho tan hoang, mặc dù nét mặt anh ta không có vẻ gì đau khổ, nhưng có ai dám khẳng định rằng, nỗi đau đớn không thể nào biểu đạt ra ấy không phải là càng đau đớn hơn bội phần? Bất luận có giết được bọn ký sinh trùng chưa rõ nguồn gốc lai lịch kia hay không thì Sean cũng chỉ sống được thêm một hai ngày nữa là cùng, mà với tình trạng như lúc này, sống thêm một ngày, là anh ta lại thêm một ngày đau khổ.

Trác Mộc Cường Ba không trả lời được. Ba Tang đặt tay lên cán đao, ánh mắt lạnh lùng như lưỡi dao đâm vào lồng ngực Trác Mộc Cường Ba. Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba dấy lên niềm bi thương vô hạn, trong lòng thầm nhủ: “Ba Tang, sao anh có thể lạnh lùng đến thế? Người đó là chiến hữu đã từng đồng sinh cộng tử với chúng ta mà.”

Ánh mắt Ba Tang không hề nhượng bộ, đôi mắt lạnh lẽo ấy như thể đã đưa ra câu trả lời: “Tôi được tái sinh từ trong phần mộ, tôi đã phải giẫm đạp lên thi thể của chiến hữu để sống sót trở về. Tim tôi đã chết, nhưng chúng ta đều phải tiếp tục sống, xin hãy chấp nhận sự vô tình của tôi đi.”

Trác Mộc Cường Ba quay người đi, gã không thể đối diện với chuyện này. Những người khác cũng đều đang sụt sịt, cúi gằm mặt xuống. Ba Tang rút dao ra “choeng” một tiếng, lưỡi đao tỏa ra khí lạnh rợn người, nhưng mới rút ra được một nửa đã bị Lữ Cánh Nam ấn lại. Chỉ nghe cô điềm đạm nói: “Để tôi xử lý cho.” Cô mở cái bao da đựng thuốc ra, trong đó không chỉ có các loại thuốc men chữa bệnh, đồng thời, cũng có cả những thứ mang đến sự hủy diệt nữa.

Lữ Cánh Nam lấy ra một lọ thuốc ngủ, chầm chậm chuyển động thân lọ, hàng chữ bên trên đã ghi rõ, chỉ cần mười lăm giây là nó có thể đưa người ta vào giấc ngủ vĩnh hằng. Lữ Cánh Nam bất giác cắn môi, đây cũng là lần đầu tiên cô đảm nhậm vai trò này.

Chất lỏng trong suốt được tiêm vào mạch máu Sean, nó sẽ nhanh chóng theo dòng chảy của máu đi khắp thân thể, lúc đó, tất cả đều kết thúc. Lữ Cánh Nam tiêm xong, cả người khẽ run lên, rút đầu kim ra, đột nhiên vung mạnh tay ném ống kim tiêm ấy ra thật xa, tựa hồ như đó là thứ đã bị ma quỷ chạm vào, cô không thể cầm trên tay được nữa. Tất cả mọi người, đều lẳng lặng đứng đó, lẳng lặng cúi gằm mặt xuống.

Trác Mộc Cường Ba thì ngồi xổm ở một góc xa, cái vẫy tay rất lịch sự ấy, nụ cười thân thiện hữu hảo ấy, mái tóc bạch kim bay bay, tựa như đang hiện lên trước mắt gã. Lữ Cánh Nam bước lại gần, khuyên giải: “Trước khi xuất phát, chúng ta đều đã chuẩn bị tâm lý cả rồi mà, không phải vậy sao?”

Trác Mộc Cường Ba không hề nể nang, nói vặc lại: “Người ta từ tận bên kia đại dương tới, không có bất cứ yêu cầu nào, mà chỉ vì từng cùng băng rừng ở châu Mỹ đã khẳng khái nhiệt tình giúp đỡ chúng ta. Nếu không có Sean, cả bọn chúng ta liệu có mấy người sống sót? Còn các người thì sao? Ngoài nghi ngờ, các người đã làm gì chưa?”

Lữ Cánh Nam ngẩn người, cô không ngờ thì ra Trác Mộc Cường Ba phản cảm với thái độ cẩn trọng của bọn họ như thế. Nhưng về mặt này, cô cũng có những nguyên tắc của riêng mình: “Không sai, tôi nghi ngờ anh ta đấy, cho đến bây giờ cũng không hết nghi ngờ, đây là chức trách của tôi.” Nói tới đây, ngữ điệu đột nhiên thay đổi: “Nếu một ngày nào đó, tôi cũng giống như Sean thì sao?” Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên ngoảnh đầu lại.

Đúng lúc ấy, Đường Mẫn chợt gọi vang: “Anh Cường Ba, chị Cánh Nam, mau đến xem Sean này!”

Hơi thở của Sean ngắn mà gấp gáp, lũ ký sinh trùng trong khoang bụng anh ta rõ ràng đã bị chất thuốc ảnh hưởng, đang lăn lộn bên trong đó, dưới lớp da như có vô số con ếch nhỏ đang giãy giụa muốn thoát ra khỏi cơ thể Sean. Lớp da nhẽo nhèo ấy đột nhiên bật tung lên, phần bụng phồng to như cái lều, kế đó lại xẹp xuống, rồi lại có chỗ khác bật lên, có lúc có tới mấy điểm cùng bật lên, tựa như trong bụng anh ta đang có một con quái thú nhe nanh múa vuốt muốn phá toang lớp da bọc bên ngoài thoát ra vậy.

Trong thế giới tĩnh lặng ấy, Sean đang hồi tưởng vô số đường hầm trong mộ cổ, các loại cạm bẫy bí mật, nếu không có vụ án đó, nếu không gặp tấm bản đồ ấy, có lẽ giờ đây anh ta đã trở thành một luật sư xuất sắc rồi cũng nên. Anh ta lại nhớ đến những người trong tổ chức, anh ta đã học được ở họ một lượng tri thức đáng sợ, theo họ đến những nơi kinh hoàng nhất, kích thích mà điên cuồng nhất, đã bao giờ được nghỉ ngơi trong bình lặng thế này! Đột nhiên, Sean bỗng thấy tỉnh táo lạ thường, tri giác của anh ta dường như đã hồi phục, cảm giác đau đớn thấu tim gan từ khắp mọi bộ phận trên cơ thể truyền về, trong bụng dường như có gì đó đang bò qua bò lại, có thứ gì đó đang cắn mình. Anh ta đột nhiên sực hiểu ra tất cả, mấy ngày trước chẳng phải mình luôn lo lắng chuyện này sao? Đến phút cuối cùng không ngờ lại không nghĩ đến nó thì ra, đây chính là...

Sean bỗng nhiên khôi phục lại quyền kiểm soát cơ thể, miệng đã ngậm lại được, kế đó liền gắng sức hét lên: “Po li si - mei ke - ku te...”

Những người cạnh đó đều giật bắn mình, Sean đột nhiên ngồi bật dậy, miệng phát ra tiếng hét chói tai. Đồng thời, vì quá đau đớn, anh ta bất giác đưa tay móc vào bụng mình, lớp da mỏng dính lập tức bị móc toang một vết lớn, “toẹt” một tiếng, máu và các cơ quan nội tạng bị tàn phá tuôn ào ra ngoài, đồng thời còn có cả mấy con sâu màu trắng như mỡ dê, toàn thân gần như trong suốt, tựa hồ không nhuốm một chút máu nào. Nếu không có cơ thể khô kiệt đang run rẩy của Sean ngay bên cạnh, thử hỏi ai có thể liên tưởng bọn chúng với cảnh tượng tàn nhẫn khủng khiếp nhường này cơ chứ?

Sau khi để lại lời cuối cùng, Sean lại ngã xuống, lần này, anh ta đã biến thành một cái xác không còn sự sống.

“Sean!”

“Anh Sean!”

--------------------------------

Chương 7

Gián

Nhạc Dương nói: “Theo lời Địch ô Cát Mẫu, người tuyết đã tiến hóa tới hình thái bộ lạc, đồng thời đã có cả công cụ bằng kim loại. Đây là một thể chế tương đối văn minh rồi, ít nhất cũng phải tương đương với Văn minh đồng thau thời nhà Thương. Nhưng tại sao những người tuyết được phát hiện cho đến nay, đa phần đều ở trạng thái người vượn hoang dã, trí lực đần độn vậy nhỉ? Rốt cuộc người tuyết có phải người núi tuyết không? Về vấn đề này, hiện tại chúng ta vẫn chưa thể có kết luận chuẩn xác được. Còn nữa, người núi tuyết bị bộ tộc Qua Ba đánh bại bỏ chạy, đã chạy đi đâu rồi? Tại sao lại lưu truyền nhiều câu chuyện thần thoại dân gian và tôn giáo về họ đến thế? Càng không cần phải nói đến những người tự xưng là đã tận mắt chứng kiến từ thời cận đại đến nay, người nào người nấy đều miêu tả rất thật. Hơn nữa, tôi còn có phát hiện mới trong một số tư liệu...”

Khi Sean tự móc toác bụng mình ra rồi tử vong, Nhạc Dương và Trương Lập đều kêu toáng lên kinh hãi, Đường Mẫn đưa tay che kín mặt, cả Ba Tang cũng phải chau mày. Sean không được yên nghỉ một cách an lành như họ tưởng tượng, mà ngược lại đúng vào khoảnh khắc cuối cùng trước khi chết, anh ta lại phải chịu đựng cảm giác đau đớn khủng khiếp nhất. Nỗi đau ấy khiến ngũ quan khô đét như xác khô của anh ta cũng vặn vọ biến hình, hai tay co quắp, cặp mắt trống rỗng đầy máu trợn trừng, cái miệng khô khốc há hốc, hàm răng màu cà phê cắn chặt cái lưỡi màu tím sậm, trong hốc máu nơi ổ bụng, từng con từng con côn trùng màu trắng nhung nhúc bò ra, thật sự là một cảnh tượng thê thảm đến nỗi không ai nỡ nhìn lâu.

Trương Lập giơ chân lên giẫm tới tấp, “Giẫm chết bọn mày! Tao giẫm chết bọn mày!” Đội trưởng Hồ Dương và Ba Tang mỗi người một bên giữ chặt anh lại. “Á!” Trương Lập vừa vùng vẫy, vừa ngửa mặt gầm lên giận dữ.

Nhạc Dương thì trầm ngâm suy tư: “Câu cuối cùng mà anh Sean hét lên có nghĩa gì nhỉ? Po li si - mei ke - ku tu?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nghe giống tên người nước ngoài.”

Đường Mẫn cuối cùng cũng bình tĩnh lại, nói: “Không, không phải tên người đâu. Hình như Sean muốn nói với chúng ta điều gì đó, vậy thì nhất định anh ấy sẽ nói thế nào để chúng ta có thể hiểu được, nếu đó là một tên người, thì cả bọn chúng ta đã bao giờ nghe qua cái tên nào như thế đâu. Hơn nữa, từ cuối cùng đó, dường như vẫn phát âm chưa hết, vì vậy, em cho rằng, anh ấy mới chỉ nói được một nửa thôi.”

Trác Mộc Cường Ba thoáng ngạc nhiên liếc nhìn Mẫn Mẫn, rồi lại đưa ánh mắt sang phía Nhạc Dương. Nhạc Dương khẽ gật đầu nói: “Có lý đấy.”

Lữ Cánh Nam chợt cất tiếng: “Tạm gác những chuyện đó lại, chúng ta mai táng cho Sean trước đã.”

Bên bìa rừng lại có thêm một đống đất nhỏ. Bên cạnh đống đất, họ bứng một cây nhỏ ra trồng, trên thân cây to bằng miệng bát được khắc hàng chữ “Sean, một nhà thám hiểm vĩ đại của thế kỷ hai mươi mốt, an nghỉ tại nơi đây.”

“Ngày hôm đó, sắc trời rất u ám, dường như trời tối quá sớm. Lồng ngực tôi như thể có một tảng đá khổng lồ đang đè nặng, làm tôi không sao thở nổi. Cảm giác ấy như thế nào, tôi không diễn tả được, tôi muốn khóc, nhưng lại không thể òa lên, chỉ thấy có áp lực nặng nề dồn nén, khiến tôi mỗi bước đều phải hết sức khó nhọc lê chân. Nếu không phải sau này gặp được Mã Cát, tôi nghĩ, không biết mình có thể tiếp tục cầm cự ở vùng đất Shangri-la đó nữa hay không. Tôi là người đã đưa Sean gia nhập đội ngũ này, chính tôi là người đã đưa ân nhân cứu mạng mình lên đoạn đầu đài, khi ấy, tôi cứ luôn tự trách mình như thế. Cuối cùng, rốt cuộc tôi đã hiểu được tại sao mình không thể khóc được... Nước mắt, không thể nào cuốn trôi đi cảm giác hối hận trong lòng người ta được. Cái cây ấy, giờ chắc đã lớn lắm rồi. Sean từng nói, loài cây đó có thể sống cả mấy nghìn năm, không biết nghìn năm sau nữa, người ta có thể tìm được cái cây ấy giữa muôn vàn cây cối khác ở Shangri-la hay không... có lẽ...” Nhiều năm sau đó, Trương Lập đã viết như thế trong cuốn hồi ký của anh.

Chôn cất Sean xong, họ lại tiếp tục lên đường, ban ngày đi dọc theo mép bình đài, ban đêm dựng trại ở lưng chừng vách đá, mỗi ngày đeo trên lưng năm mươi ki lô gam đồ đi bộ hai mươi cây số. Vì sự ra đi bất ngờ của Sean, không khí trong đội cũng trở nên nặng nề khó tả.

Họ đi gần một tháng trên tầng bình đài thứ hai, càng tiến về phía trước, thực vật trong rừng càng thấp nhỏ hơn, nhưng chủng loại cũng phong phú hơn nhiều. Họ gặp phải đủ thứ sinh vật ly kỳ cổ quái, có con rắn đuôi như con lươn; hoặc một loài sinh vật toàn thân gồ ghề đầy gai, vừa giống thằn lằn lại vừa giống cá sấu; hoặc loài động vật thể hình như tê giác, toàn thân mọc đầy gai nhọn, phần miệng lại to cứng như mỏ vẹt; hoặc có loài lại đầu lừa miệng ngựa thân hươu, đuôi thì giống như đuôi chuột; ngoài ra còn có các loại giống như khỉ, chim, đại bàng, tất cả đều là những loài chưa từng xuất hiện trong bất cứ ghi chép nào. Họ tra ra rất nhiều hình ảnh phục dựng 3D của các loài sinh vật tiền sử trong máy tính của giáo sư Phương Tân, nhưng cũng đều chỉ là giông giống chứ không phải, không thể nói được rốt cuộc chúng thuộc giống nào loài nào. Có điều, lòng nhiệt tình của cả nhóm đối với vấn đề này cũng không cao nữa, bởi người có hứng nhất, thích giảng giải nhất đã không còn nữa, gặp phải loài sinh vật nào trông có vẻ nguy hiểm hoặc thể hình to lớn, cả bọn lại đi đường vòng tránh qua. Ngoài ra, cũng có mấy lần họ gặp phải bọn thằn lằn săn mồi theo đàn kia, may mà năng lực quan sát của Nhạc Dương cũng chẳng kém gì bọn thằn lằn trinh sát biết đổi màu ấy, nên bọn Trác Mộc Cường Ba mới không phải chính diện đụng đầu với lũ săn mồi đáng sợ đó.

Nhưng không thấy bất cứ dấu tích nào của con người. Dựa trên những gì ghi chép trong Nhật ký thôn Công Bố, ít nhất bọn họ đã bỏ qua mấy chỗ di tích cổ, có điều trong đó cũng nhắc đến, các di tích cổ ấy đều đã bị hoang phế từ mấy trăm năm trước rồi, sau này cũng hầu như không còn ai đến những nơi đó nữa.

Dọc đường thảng hoặc cũng có những tình huống bất ngờ, gặp phải một loài động vật thể hình to lớn lại có cảm quan nhạy bén từ trong rừng ào ra tập kích, trong đó có tới mấy lần bị bọn động vật lớn hợp thành một đàn tấn công, cuối cùng gây ra lở đất. Về sau, họ còn bị lũ chim khổng lồ ở đây để mắt, may mà chạy nhanh lẩn tuột vào trong rừng, mới tránh được bị bọn chim kia không kích.

Cuối cùng, nước uống đã dùng cạn kiệt, họ buộc phải đi sâu vào rừng tìm kiếm nguồn nước. Băng qua thảo nguyên, qua khu vực toàn cây họ dương xỉ thấp tè chịu được hạn hán, lại một lần nữa bước chân vào khu rừng ẩm ướt, băng lạnh, tối tăm. Không hiểu tại sao, mỗi lần đi sâu vào rừng, Trác Mộc Cường Ba đều thấy không được thoải mái, cảm giác như có người đang ngấm ngầm nhìn trộm mình vậy.

Khu rừng lần này đã khác hẳn với mấy lần trước, thực vật um tùm, tán lá sum suê rậm rạp, càng đi vào bên trong, hơi ẩm càng nhiều, lớp bùn bên dưới đã ngập tới gần mắt cá chân họ rồi.

Đi chưa được bao lâu, Lữ Cánh Nam bỗng nhắc: “Chú ý cảnh giới, thực vật ở đây bắt đầu thấp nhỏ đi rồi đấy.”

Mọi người đều hiểu ý Lữ Cánh Nam, đây là kinh nghiệm họ rút ra được ở Shangri-la này, khi cây cối cao lớn khổng lồ, còn mặt đất lại không có loài thực vật cỡ nhỏ nào, thông thường các loài sinh vật xuất hiện đa phần đều thuộc loại thể hình to lớn kềnh càng, đó cũng là để thích ứng với môi trường sống. Mà sinh vật khổng lồ ở Shangri-la này, không phải đơn độc hành động, thì cũng là loại thiểu năng trí tuệ, đối phó với bọn đó vừa dễ tấn công, mà cũng dễ né tránh. Thế nhưng, khi rừng cây xuất hiện các loại thực vật thấp nhỏ, thì lũ sinh vật nhỏ cũng có chỗ náu thân, tệ hơn nữa là, những loài đó thông thường đều sống theo bầy lớn, chẳng may đụng độ với chúng, thực đúng là giết hoài cũng chẳng hết. Bọn họ đã mấy lần nếm mùi đau khổ rồi!

Cảm giác lạnh lẽo âm u, tiếng gió rú gào giữa các tán cây rừng thi thoảng pha lẫn với tiếng gầm của những loài dã thú chưa biết tên, còn trước mặt bọn họ, xương cốt của các loài thú hoang cũng mỗi lúc một nhiều hơn. Nơi này như thể một lò sát sinh thời cổ đại, cứ bước được vài bước là lại thấy một bộ xương tương đối hoàn chỉnh, hình thái muôn hình vạn trạng, gió thổi qua, chốc chốc lại phát ra những âm thanh “u u” rợn người. Còn cả một số sinh vật khổng lồ, nhìn có vẻ như mới chết không bao lâu, lạ một điều là, bên ngoài bộ xương của chúng vẫn còn một lớp biểu bì chi chít những lỗ nhỏ trông như cái sàng. Tiếng “u u u” chính là âm thanh khi gió thổi vào những bộ xương có lớp da bọc bên ngoài ấy phát ra.

Lữ Cánh Nam bất giác nhíu mày, thứ gì đã tạo ra những xác chết thế này chứ? Nhện ư? Bọn nhện cũng thích bơm dịch tiêu hóa vào cơ thể con mồi, khiến phần bên trong con mồi từ từ tan chảy, sau đó hút lấy dinh dưỡng. Có điều nhện rất hiếm khi hành động theo bầy đàn, hơn nữa vết thương do chúng gây ra là vết thương không có hình dạng cố định, còn những vết thương này đều hình tròn, giống như kim châm vậy. Phải chăng là lũ muỗi? Không, ở đây có rất nhiều xương động vật nhỏ, nhỏ đến mức lũ muỗi đại tướng kia khó mà tấn công được, hơn nữa hoàn cảnh nơi này cũng rất không thích hợp cho việc bay lượn. Phải là một loài hút máu nhỏ hơn, sống theo bầy đàn, có bộ xương vỏ ngoài tương đối cứng rắn và dẻo dai để đối phó với các loài thực vật đầy gai nhọn, có lẽ không biết bay, nhưng tốc độ bò trườn trên mặt đất nhất định rất nhanh!

Lữ Cánh Nam bèn nói suy nghĩ của mình ra. Từ khi Sean ra đi, bọn họ chỉ còn có thể dựa vào phán đoán của mình để nhận biết các loài quái thú sắp phải đối mặt.

Đường Mẫn hơi sợ hãi, dè dặt đề nghị: “Hay là, chúng ta lấy nước ở đây rồi đi luôn cho nhanh.”

Lúc này phía trước họ không hề có dòng suối nào, chỉ có một đám đất bùn nhão nhoẹt. Đường Mẫn nói lấy nước, là chỉ cách dùng bao vải bọc lấy đất bùn ép ra nước. Đây là phương pháp thường dùng khi ở giữa chốn hoang vu một thời gian dài mà không tìm được nguồn nước, cũng không có công cụ nào thích hợp để đào nước ngầm.

Nhạc Dương lắc đầu nói: “Mẫn Mẫn lo xa quá đấy, nói gì thì nói chúng ta cũng đều được huấn luyện đặc biệt có bài có bản, lại còn cả những trang bị mới này nữa chứ.”

Đội trưởng Hồ Dương lên tiếng cảnh cáo: “Nhạc Dương, đừng khoác lác thế, chú ý quan sát đi.”

Trác Mộc Cường Ba nắm chặt tay Mẫn Mẫn nói: “Không sao đâu, ít nhất đến giờ chúng ta vẫn chưa thấy có gì nguy hiểm.”

Trong lúc nói chuyện, Trác Mộc Cường Ba nhận ra Trương Lập đang dựa người vào một gốc cây nghỉ ngơi, hơi thở của đội trưởng Hồ Dương cũng trở nên nặng nề, gã bèn nói: “Nghỉ ở đây một lát đã.”

Nhưng Trương Lập đã đứng lên nói: “Biết đâu phía trước có nguồn nước luôn rồi!”

Nhạc Dương lắc đầu nói: “Độ mềm và độ ẩm của bùn đất phân bố rất đều, phía trước có khả năng là đầm lầy hoặc hố bùn thôi.” Anh cũng muốn nghỉ ngơi một lát, lưng đeo một đống nặng trịch bước đi trên đất bùn nhão nhoét, thực sự là rất tốn sức.

Trương Lập nói: “Vậy để tôi lắp ăng ten.” Giờ cứ mỗi lần bọn họ dừng lại, Trương Lập liền lập tức bật hệ thống radar lên, cũng là một biện pháp để đảm bảo an toàn khá hữu hiệu. Có điều khoảng thời gian này, Trương Lập tương đối trầm mặc hơn.

Đội trưởng Hồ Dương đặt ba lô xuống bên cạnh, chọn lấy một khúc rễ cây khô ráo ngồi phịch xuống, bỗng nghe “rắc” một tiếng, rễ cây đã gãy lìa. Thế cũng chưa là gì, lại thấy một vật trăng trắng bay vèo ra từ giữa đám rễ cây bùng nhùng. Đội trưởng Hồ Dương tưởng là côn trùng gì đó, lập tức giật bắn mình nhảy thót lên. Pháp sư Á La vươn tay ra bắt lấy, thì ra là một khúc xương trắng. Đội trưởng Hồ Dương thấy vậy bèn lầm bầm: “Chỗ này cứ quái quái kiểu gì ấy, đâu đâu cũng toàn xương trắng.”

Sau lưng họ là một đống xương trắng chất lẫn lộn, lờ mờ có thể nhận ra vài bộ còn nguyên vẹn, còn một bộ xương khổng lồ ít nhất cao ba mét, dài khoảng mười mét bị ngập một nửa trong đầm lầy. Pháp sư Á La nhìn khúc xương dài trong tay mình, nét mặt có vẻ ngần ngừ nghi hoặc. Lữ Cánh Nam để ý đến vẻ mặt ấy của pháp sư Á La, cũng đưa mắt nhìn khúc xương, bất giác giật mình ngạc nhiên: “Đó là...”

Pháp sư Á La đã bước tới gần chỗ đội trưởng Hồ Dương, nghi hoặc nói: “Cho tôi xem khúc rễ cây bị gãy kia được không?”

Đội trưởng Hồ Dương không hiểu gì, nhưng vẫn nhổm người đứng lên. Pháp sư Á La cẩn thận quan sát khúc rễ cây, có lẽ là một đoạn rễ gồ lên của cái cây to phía sau lưng Hồ Dương, chỉ thấy ở chỗ gãy lìa ấy có một cái lỗ, bên trong còn vài khúc xương trắng toát nữa. Pháp sư Á La lại kiểm tra thân cây to đó, quả nhiên lại phát hiện thêm mấy khúc xương khác mắc kẹt giữa các kẽ cây, hoặc có thể nói, chúng được thân cây bao bọc bên trong cũng không sai.

Đội trưởng Hồ Dương cũng nhìn thấy xương trắng kẹt trong thân cây, ngạc nhiên nói: “Thế này là sao nhỉ? Trong thân cây có xương? Có động vật gì chết trong thân cây được nhỉ?”

Pháp sư Á La lắc đầu, Lữ Cánh Nam cũng lên tiếng: “Đây giống như xương người hơn.”

Pháp sư Á La gật đầu tán thành: “Ừm, đây là xương đùi của người.”

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đều đứng bật dậy đến bên cạnh cái cây ấy. Trác Mộc Cường Ba hỏi lại cho chắc: “Xương người? Sao lại ở trong thân cây? Ở gần đây có người à?”

Pháp sư Á La đáp: “Chắc là một dạng thụ táng. Thời cổ đại, ở Tây Tạng cũng có khá nhiều hình thức thụ táng khác nhau, một trong số đó là đặt xác hoặc tro cốt, hoặc bình đựng tro cốt của người chết vào khe nứt trên thân cây, hoặc chôn bên dưới gốc cây.”

Đường Mẫn mừng rỡ thốt lên: “Vậy có nghĩa là gần đây có người sống rồi?”

Pháp sư Á La mỉm cười, khe khẽ lắc đầu. Nhạc Dương đã trả lời thay: “Có thể rất lâu trước đây từng có người, hoặc giả ở sâu trong rừng có di tích của một bộ lạc nào đấy. Nhưng giờ thì sợ rằng không còn nữa rồi, nhìn ở đây có nhiều xương cốt động vật như vậy, không giống nơi có người ra vào cho lắm.”

Thấy vẻ mặt thất vọng của Đường Mẫn, Trác Mộc Cường Ba nói: “Đi thôi, chúng ta tiếp tục lên đường.”

Nhạc Dương lại bổ sung: “Tất nhiên, cũng có khả năng có người. Mà dù chỉ có di tích thôi thì cũng tốt mà, nếu là thôn làng bỏ hoang chưa lâu lắm, biết đâu chúng ta còn tìm được mấy bộ quần áo thì sao.”

Tiếp tục đi thêm về phía trước, bùn nhão dưới chân mỗi lúc một sâu, bọn họ chỉ có thể dùng dây móc đu trên cây. Có điều, vùng đầm lầy này cũng không lớn lắm, không bao lâu sau đã thấy thấp thoáng trong rừng một dòng suối nhỏ trong vắt chảy ngoằn ngoèo, nước suối trong thấy đáy, phản chiếu từng mảng lá xanh bùn vàng xung quanh, lập tức khiến người ta cảm thấy thanh bình lạ thường. Nhạc Dương nôn nóng muốn nhảy xuống bên bờ suối, nhưng đúng lúc ấy, cả Trác Mộc Cường Ba lẫn Ba Tang đồng thời cảm nhận được bên dưới có gì đó nguy hiểm!

“Nhạc Dương! Đừng xuống đó!” Trác Mộc Cường Ba hét lên hơi chậm mất một chút, hai chân Nhạc Dương đã chạm đất. Nhưng gót chân anh chàng hóa ra không giẫm lên mặt đất, mà chỉ thấy cả một khoảng đất bên cạnh dòng suối bỗng nhiên nhung nhúc chuyển động, nào thấy đất vàng lá xanh gì đâu, mà thì ra là cả một lũ gián to tướng! Lũ gián ấy tụ lại rất ngay ngắn, màu vàng nâu trên cơ thể chúng thoạt nhìn trông chẳng khác nào bùn đất. Cú đáp của Nhạc Dương đã làm kinh động cả bầy gián xung quanh. Đội trưởng Hồ Dương ở trên cây không kìm được buột miệng kêu lên: “Gián khổng lồ!”

Cũng may Nhạc Dương vẫn chưa thu dây móc lại, nghe thấy tiếng hét của Trác Mộc Cường Ba, anh chỉ nhún chân xuống như chuồn chuồn điểm nước, rồi lại đu tiếp lao vút lên. Có điều trong lúc hoảng hốt, anh đã tương nguyên ra cả một băng đạn như một phản xạ có điều kiện. Hành động ấy rõ ràng đã gây họa to, không biết xác chết của bọn gián nguyên thủy ấy phát ra chất thông tin gì, mà những con gián khác lập tức bắt đầu phát động tấn công.

Bọn gián đó, có thể không lợi hại bằng lũ côn trùng khổng lồ họ từng gặp phải trước đây, nhưng vô số thân thể dài hơn ba chục xăng ti mét phủ kín cả một khoảng mặt đất như thế, cũng đủ khiến người ta run lên sợ hãi. Tệ hơn nữa là, bọn gián đó biết leo cây, vậy là ngay cả trên cây họ cũng không còn an toàn.

Những kẻ gây hỗn loạn đầu tiên là bọn gián nhỏ chưa trưởng thành, vỏ giáp bên ngoài của chúng mới là từng khúc từng khúc một, pha lẫn hai màu trắng và vàng nâu, mặc dù không có móc răng cưa như bọ ngựa, nhưng sáu cái chân của chúng đều có móc ngược, bị quẹt phải một cái là đủ toác thịt ra. Trước đây chẳng ai để ý đến miệng gián thế nào, cũng chẳng ai quan tâm xem chúng ăn uống ra sao, giờ gặp phải bọn gián dài cả thước này, họ mới nhìn rõ cái miệng của chúng. Những cái miệng hình tam giác nhọn, hơi giống miệng chuồn chuồn hay bọ ngựa, trên dưới đều có hàm, bên trong có rất nhiều xúc tu cuồn cuộn nhu động. Vừa thấy bọn gián bò lên, Đường Mẫn đã lập tức kêu rú ầm ĩ.

Lãnh địa của bọn gián này rất rộng, tốc độ leo cây lại nhanh đến kinh hồn, chẳng những vậy, dù họ bắn dây móc về hướng cây nào, thì bọn gián bên dưới gốc cây ấy cũng lập tức bò lên ngay.

“Khốn thật! Bọn chúng làm gì có mắt? Sao lại biết vị trí của chúng ta được chứ nhỉ?” Trương Lập ngoác miệng ra chửi, vừa đặt chân xuống, suýt chút nữa bị một con gián bò lên đùi, may mà kịp giơ súng bắn hạ.

Lữ Cánh Nam đáp: “Cảm ứng rung động. Gián có thể cảm ứng được rung động nhỏ như lá rơi ở khoảng cách vài trăm mét, nói gì đến rung động mạnh khi dây móc bắn vào cành cây chứ.” Vừa nói, chân cô vừa giẫm lên lưng một con gián, chất dịch màu trắng bắn tóe ra khiến cô chỉ muốn nôn mửa, vội vàng lật cổ tay, bắn dây móc đu người sang một thân cây khác.

“Bọn chúng, bọn chúng đâu có ăn thịt, sao cứ đuổi theo chúng ta làm gì thế nhỉ?” Đường Mẫn thắc mắc hỏi Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba cũng giẫm bẹp gí hai con gián, nhưng trong đầu gã lúc này lại đang nghĩ đến một chuyện khác: “Sáu cái chân mọc đầy gai móc, phần đầu hình nửa bầu dục, tốc độ bò cực nhanh, cắt đầu đi vẫn có thể sống được thêm ba tiếng đồng hồ, trong hoàn cảnh không có thức ăn và nước uống vẫn sống được thêm một tuần, nếu không tiêu hao thể lực còn có thể kéo dài được lên đến ba tháng, sức sống cực mạnh, loại động lực thích hợp nhất, lẽ nào chính là chỉ thứ này? Trung tâm của các loại cạm bẫy máy móc lẽ nào chính là bọn chúng?”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Ai bảo chúng không ăn thịt? Bọn chúng là động vật ăn tạp, cái gì chẳng xơi.”

Nhạc Dương cũng nói: “Đúng đấy, ở chỗ chúng ta người ta gọi gián là ‘mụ trộm mỡ’, nếu đã ăn mỡ, thì chắc chắn là không ăn chay rồi.”

Lữ Cánh Nam đột nhiên giật mình, sực nghĩ ra: “Phải rồi, tấn công theo bầy đàn kiểu này có đúng là gián không nhỉ? Tại sao toàn là các cá thể chưa trưởng thành không có cánh? Không! Bọn này không giống gián lắm, mà giống loài bọ chó hút máu nhiều hơn!”

Dường như để nghiệm chứng suy nghĩ của Lữ Cánh Nam, vài con gián đột nhiên lợi dụng sức bật của chi sau mạnh mẽ bắn người lên cao. Tình hình càng thêm nghiêm trọng, tốc độ và độ cao của những cú nhảy ấy chẳng khác nào bay. Ở đây mà gặp phải một đám côn trùng biết bay thì đúng là chẳng còn gì tệ hơn được nữa. Trác Mộc Cường Ba lập tức đưa ra quyết định: “Tản ra chạy!” Đoạn dẫn theo Đường Mẫn đột phá về phía phải.

Đây là kinh nghiệm họ rút ra được sau nhiều lần đụng độ với các quần thể sinh vật số lượng lớn. Một khi phân tán, số lượng truy binh phía sau cũng sẽ bị tản ra, mà thông thường bọn chúng cũng rất hiếm khi bay ra khỏi vòng lãnh địa của mình. Đồng thời, sau khi phân tán lại không lo lỡ tay làm bị thương người của mình, phiền phức cũng giảm đi đáng kể. Với trang bị vũ khí hiện giờ của họ, đã đủ để bảo đảm an toàn của cá nhân rồi, cộng với hệ thống thông tấn hiện đại, có thể nhanh chóng tìm được vị trí của những người khác, không sợ bị lạc trong rừng sâu.

Tám người tản ra tám hướng khác nhau, Nhạc Dương đi sâu vào rừng, Trương Lập thì xuôi theo dòng suối, lao thẳng vào chỗ bọ chó nhiều nhất, anh định dẫn dụ đám đông nhất theo mình. “Này, anh cẩn thận đấy! Trương Lập!” Nhạc Dương hét lên trong bộ đàm, nhưng anh cũng không dám khẳng định Trương Lập có nghe lọt lời mình không. Nhạc Dương rất lo Trương Lập vì cái chết của Sean mà nghĩ quẩn. Xa xa vang lên tiếng nổ “ầm ầm, ầm ầm”, Ba Tang đã bắt đầu ném lựu đạn ra rồi.

Lúc Trương Lập dừng lại, trên người đã có mấy chỗ bị cào rách, cánh tay hình như bị một con chẳng hiểu là gián hay bọ chó ấy móc vào, lòi cả thịt ra ngoài, nhưng cũng coi như đã thoát được sự truy đuổi của chúng. Thông qua thiết bị thông tấn, anh nhận ra, người ở xa nhất là Ba Tang, hai người cách nhau tới khoảng năm ki lô mét, còn người ở gần nhất là pháp sư Á La, có điều cũng cách tới khoảng 1,7 ki lô mét. Khi anh phát tín hiệu an toàn, ba người khác cũng đồng thời phát ra tín hiệu an toàn, chỉ có Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La, đội trưởng Hồ Dương và Ba Tang là chưa xác định được vị trí an toàn, có điều bốn người bọn họ chắc đều biết làm thế nào để thoát khỏi lũ gián. Trương Lập phần nào yên tâm, lấy băng cấp cứu ra băng qua cánh tay bị thương, bắt đầu lần mò tiến lên phía trước.

Lội qua bờ suối bên trái, đi ngược dòng tiến lên phía trước, xuyên qua một vùng cỏ rậm rạp um tùm, rồi leo qua một con dốc đất và đá vụn, xương trắng đã thưa dần, tiếng suối nước vang lên rõ hẳn. “Chà chà.” Trương Lập bất giác than thầm một tiếng, đã đến đầu nguồn của con suối này rồi. Lại một thác nước, từ tầng bình đài thứ ba lẩn khuất trong sương mù chảy xuống, tựa như bị ngọn gió trên cao thổi tan, đến nơi đây chỉ còn một dòng nhỏ mong manh, chảy dọc theo những dây leo xanh biếc ngoằn ngoèo rỏ xuống, như thể một nàng tiên nữ đang gội đầu chải tóc. Cảnh đẹp như tranh, dường như khiến quả tim nặng nề co thắt lại của Trương Lập cũng thấy dần nhẹ nhõm.

Đá núi màu đỏ và cây rừng màu xanh xung quanh quây lại thành một hố trũng, bao bọc lấy một viên minh châu màu phỉ thúy, viên ngọc ấy cũng phản chiếu mọi cảnh vật xung quanh, gió thổi rì rào bên ngoài không thể nào cuốn vào trong. Nơi đây tựa như một cái chậu khổng lồ, những dòng khí lưu chầm chậm lưu động bên trong. Thế nhưng, đột nhiên, trong mắt Trương Lập, cảnh sắc tuyệt vời xung quanh đều nhòa đi không còn màu sắc, anh chàng trợn tròn mắt, há hốc miệng nhìn ra giữa hồ, thời gian dường như đứng lại, cả linh hồn bất giác cũng rời khỏi xác thân phàm tục bay ra ngoài.

Chương 8

Gặp gỡ Mã Cát

Trong hồ nước xanh biếc hoàn toàn thoát ly khỏi hiện thực ấy, một cô gái, không phải, một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, cũng không phải, là một tiên nữ mới đúng, nàng tiên nữ ấy đang tắm! Cô xoay lưng về phía Trương Lập, chầm chậm đứng dậy trong làn nước. Mái tóc dài đen mượt mềm mại như tơ, giống như một tấm gấm lụa đen lớn khoác lên bờ vai nàng tiên nữ; làn da trắng muốt như dương chi bạch ngọc, chẳng khác nào một tác phẩm nghệ thuật tinh xảo hoàn mỹ, không thể tìm đâu ra một tì vết; những đường cong mềm mại quyến rũ, không biết bàn tay của vị thần nào đã phác nên những đường nét hoàn mỹ đến rung động lòng người như thế, khiến người ta chỉ thấy thật hết sức thích đáng, thêm một chút hay bớt một chút cũng đều không được.

Nàng tiên nữ khẽ lắc đầu, vô số hạt trân châu lóng lánh trong suốt bắn tung lên không trung. Mái tóc mượt, đôi mày ngài, chiếc mũi thon, làn môi đỏ thắm như chu sa, gương mặt lung linh, cùng đôi mắt sáng như hai vì sao rơi xuống, cặp lông mi hơi cong lên mang theo cả mấy hạt nước nhỏ li ti, toàn bộ đều lọt hết vào mắt Trương Lập. Tim anh ra sức đập dồn. “Thình thịch thình thịch thình thịch thình thịch thình thịch thình thịch...” Dẫu có đeo theo năm mươi ki lô gam đi liên tiếp không ngừng nghỉ hai mươi cây số, dù phải đối mặt với cả đàn gián vô số con, tim Trương Lập cũng chưa từng đập nhanh và mạnh đến thế lần nào. “Nếu được nhìn gần hơn một chút nữa thôi thì đời này chẳng còn gì hối hận nữa rồi. Nếu tiên nữ cùng mình chuyện trò một lúc thôi, thì dù sau đó có chết ngay lập tức cũng đáng lắm.” Trong đầu Trương Lập nghĩ thế, tự nhiên đưa tay lên gỡ thiết bị thông tấn gắn trước mắt xuống, chầm chậm nhích lên phía trước.

Hai tay tiên nữ khẽ giơ lên, cánh tay như ngó sen, mười ngón tay như mười cọng hành. Cô đứng yên, trời đất cũng như nhòa sắc, gió tự nhiên dịu dàng; cô cử động, động tác yêu kiều uyển chuyển mê hồn; cô hơi chau mày, cơn gió kia thổi làn nước biếc gợn lên những hàng sóng lăn tăn; đôi mắt cô sáng bừng, trời đất cũng như sáng bừng lên theo. Không cười cũng không giận, không hờn không dỗi, thế mà đôi mắt kia tựa như toát lên ngàn mối tơ tình. Trương Lập cách nàng tiên nữ mỗi lúc một gần hơn, càng nhìn càng thấy si mê, thậm chí nhất thời quên cả mình đang ở đâu, chân đứng không vững, “bịch bịch” một tiếng ngã lăn ra đất.

Mặt Trương Lập áp lên mặt đất lạnh lẽo, khóe miệng đã có máu rỉ ra, nhưng anh chẳng hề thấy đau chút nào, phản ứng đầu tiên của anh là, mình đang nằm mơ! Đúng vậy rồi, sau hơn một tháng trời quần thảo với các loại quái vật ở Shangri-la này, bỗng dưng lại gặp một đồng loại ở chốn đây, mà lại còn đẹp như thế này nữa, bất kể thế nào thì Trương Lập cũng không dám tin những gì trước mắt mình bây giờ là sự thực.

Thế nhưng, khi anh ngẩng đầu lên lần nữa, lại nhìn thấy nàng tiên đó đang khoan khoái vùng vẫy trong làn nước. Trương Lập bèn dụi mạnh hai mắt, rồi bấu mạnh vào má mình một cái, đau thật, cuối cùng cũng tin rằng mình đã trở thành nhân vật chính của một màn kỳ ngộ. Nhưng anh không hề phát hiện ra, ngay phía trên đầu mình, có một bóng đen khổng lồ đã lẳng lặng che phủ.

Đột nhiên, một làn hơi nóng phừng phả vào lưng Trương Lập, là gió sao? Trương Lập cảm giác không giống lắm.

Anh bèn ngoảnh đầu lại, hai mắt mở to, sém chút nữa là trợn lên chỉ còn tròng trắng. Một cái đầu to tướng gí sát trước mặt anh, cơ hồ mũi đã chạm vào mũi, cái đầu ấy, chắc trăm phần trăm không thể nhỏ hơn đầu một con voi châu Phi được. Cái gì vậy? Quái vật gì thế? Trương Lập nhảy dựng lên, ngã bổ ngửa về phía sau!

Lúc ngã ngửa ra, Trương Lập mới phát hiện, thì ra đó là một con thằn lằn cổ dài đã trưởng thành, họ đã gặp loài thú khổng lồ dài tới hơn ba chục mét này trong rừng rồi. Chúng là loài động vật hiền lành, chỉ ăn cỏ. Con thú khổng lồ tròn đôi mắt to tướng, tò mò quan sát kẻ lạ mặt. Trương Lập không biết lấy dũng khí ở đâu, vội đưa một ngón tay đặt lên môi, làm động tác ra hiệu không được lên tiếng. Nhưng cú ngã của anh đã làm kinh động đến nàng tiên nữ đang tắm trong hồ, chỉ nghe phía sau vang lên tiếng chất vấn. Trương Lập vội lén lút bò ra khỏi bãi cỏ như một con chuột. Bên tai còn loáng thoáng nghe thấy nàng tiên nữ ấy đang lớn tiếng nói gì đó, hình như đã nhìn thấy anh, nhưng đầu óc Trương Lập lúc này chỉ toàn những tiếng “ong ong ong”, máu trong cơ thể đều dồn cả lên đầu, tiếng gì cũng chẳng nghe rõ nữa rồi.

Trương Lập bò đến chỗ cách bờ hồ một khoảng khá xa, nơi này có lẽ an toàn rồi, chắc là không bị phát hiện đâu, anh thầm nhủ. Anh nằm lăn ra đất thở hồng hộc, nhịp tim vẫn chưa trở lại bình thường. Một đợt rung động nhè nhẹ bỗng làm Trương Lập giật bắn mình, giờ mới phát hiện ra đồng hồ nguyên tử đang rung lên, những người khác đã tìm đến đây rồi. Anh vội đeo lại thiết bị thông tấn, nhìn số liệu trên màn hình, họ đã đến rất gần rồi!

Trương Lập cuống hết cả lên, lòng dạ rối bời, không phải vì anh sợ mình bị phát hiện, mà là bởi trong cái đội này có quá nhiều “thành phần bất lương”, ngoài pháp sư Á La và hai cô gái, bốn người khác đều là phần tử nguy hiểm, đặc biệt là Cường Ba thiếu gia, Trương Lập đã liệt gã vào hạng phần tử khủng bố hàng đầu rồi.

“Trương Lập, không sao chứ? Sao lại gỡ thiết bị truyền tin xuống? Gọi mãi cũng không trả lời, còn tưởng anh bị quái thú ăn thịt mất rồi cơ đấy!” Giọng Nhạc Dương vang lên trong thiết bị. Trương Lập vừa bật thiết bị truyền tin lên, những người khác liền lập tức biết được vị trí của anh.

“Đâu... đâu có đâu! Tôi... tôi... tôi đang trinh sát!” Trương Lập bối rối đáp. Bấy giờ, bên dưới dốc đá hình tròn ấy đã thấy bóng dáng Trác Mộc Cường Ba xuất hiện. Trương Lập vội vàng xuống đón, anh chẳng mong muốn nàng tiên của mình bị bao nhiêu người nhìn thấy trong tình trạng đó.

“Cậu không sao chứ?” Thấy Trương Lập đi xuống, Trác Mộc Cường Ba mới yên tâm.

“Ối, tay anh bị thương rồi, có phải bị bọn gián kia làm bị thương không?” Đường Mẫn thoạt nhìn đã thấy vết thương chạy dài trên cánh tay Trương Lập.

“Hả? À, chắc là thế.” Chính Trương Lập cũng đã quên mất mình bị thương lúc nào, trong đầu lúc này chỉ nghĩ đến phía bên kia dốc, vừa liếc thấy Nhạc Dương đang định đi lên, vội vàng nói: “Đừng lên đó! Nguy hiểm!” Tuy rằng quan hệ của anh và Nhạc Dương xưa nay vốn rất tốt, có điều lúc này, Nhạc Dương tính ra cũng chỉ nguy hiểm kém Cường Ba thiếu gia một chút mà thôi.

“Sao thế? Trên đó có gì hả?” Nhạc Dương giật mình kinh ngạc, giọng nói cũng nhỏ hẳn đi.

Trương Lập giơ cánh tay bị thương lên cho Đường Mẫn kiểm tra, gương mặt lộ ra vẻ kinh hoảng: “Khủng khiếp lắm, đừng lên đó! Khủng khiếp lắm!”

Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương gần như cùng lúc kiểm tra vũ khí trên tay, nếu có con quái thú nào bất ngờ xông ra, súng mà kẹt đạn thì cầm như chết chắc.

“Là thứ gì? Đáng sợ lắm à?” Lữ Cánh Nam nghiêm túc hỏi.

Đầu óc Trương Lập như một mớ bùng nhùng, chỉ biết hàm hồ đáp: “Tôi... tôi không biết, tóm lại là, đáng sợ lắm, khủng khiếp lắm!”

Mọi người đều biết, ở nơi này đích thực có rất nhiều loài quái thú không thể chỉ dùng một hai câu mà có thể hình dung được. Nhìn vẻ mặt hoảng hốt bấn loạn của Trương Lập, bọn Trác Mộc Cường Ba đã bắt đầu nghĩ xem có nên lùi lại đi vòng đường khác hay không rồi.

“Chẳng lẽ, còn kinh khủng hơn cả bọn thằn lằn khổng lồ à?” Trong trí nhớ của Nhạc Dương, lần gặp phải con thằn lằn khổng lồ đó rõ ràng là chuyện khủng khiếp nhất.

“Còn đáng sợ hơn cả trăm lần!” Trương Lập đã bắt đầu nói năng lung tung.

“Thế so với bọn muỗi kia thì sao?” Đối với Đường Mẫn, lũ muỗi cỡ đại tướng ấy mới là những sinh vật đáng sợ nhất, xấu xí nhất.

“Làm sao mà so sánh được!” Trương Lập thầm nhủ trong lòng, nhưng ngoài miệng lại nói: “Còn ghê hơn lũ muỗi ấy cả vạn lần!” Miệng thì nói vậy, trong đầu anh lại cứ nghĩ về cảnh tượng lúc nãy vừa mục kích, nói một hồi, bỗng cảm thấy có hai dòng chất lỏng nong nóng chảy phía trên môi.

“Ủa! Anh chảy máu mũi kìa!” Nhạc Dương chỉ vào mặt Trương Lập nói.

Trương Lập đưa ngón tay lên quẹt, máu trong người vẫn nóng phừng phừng, sôi sùng sục, đành nghiến răng nói bừa: “Lợi hại chưa, tôi mới chỉ nhìn một cái đã sợ đến chảy cả máu mũi rồi! Tôi thấy, tốt nhất cứ đi vòng qua thì hơn.” Nói thì nói vậy, nhưng trên mặt anh chàng lại lộ ra vẻ lưu luyến không nỡ rời đi.

Đột nhiên, Trương Lập bỗng cảm thấy không khí có gì đó không ổn lắm, đến cả Đường Mẫn cũng ngừng việc rửa vết thương lại, trong mắt những người khác hiện lên một vẻ kỳ quái mà mình không sao hiểu nổi, tuồng như trước là kinh ngạc, sau đó là chăm chăm nhìn mình với ánh mắt nghi hoặc, rồi tựa hồ sực ngộ ra đạo lý gì đó, cuối cùng thì những ánh mắt ấy đều lộ ra vẻ coi thường, giễu cợt.

Trương Lập nắc nỏm bất an ngoảnh đầu lại, lập tức hồn xiêu phách lạc, chỉ thấy nàng tiên đó đã mặc lại quần áo, đang đứng phía trên dốc đá nhìn họ với ánh mắt dò xét. Mái tóc búi lên kia vẫn còn nhỏ nước, quần áo mặc vội trong lúc cuống quýt vẫn chưa buộc gọn gàng, với sự tinh minh của đám người này, dẫu có dùng mông để suy luận, cũng biết rõ mười mươi vừa nãy Trương Lập đã làm gì.

“Hừ, đáng sợ hơn thằn lằn khổng lồ một trăm lần hả!” Lữ Cánh Nam hờ hững nói. Gương mặt Trương Lập tức thì biến thành một quả cà chua chín nục, cả hai tai đều nóng bừng lên như bị lửa đốt.

Chỉ nghe nàng tiên ấy cất tiếng hỏi: “Các vị là... người Hạ Qua Ba à?” Tiếng Tạng cổ tiêu chuẩn, giọng nói trong veo ấy làm người ta nghĩ đến những vụn băng ngày đầu xuân. Cô thầm nhủ: “Làm sao thế được nhỉ? Nhìn phục sức của họ, đích thực không phải kiểu của người Hạ Qua Ba, nhưng mà, trên lưng họ đeo gì thế nhỉ? Mình chưa bao giờ thấy kiểu gùi nào như thế. Vả lại, người Hạ Qua Ba không phải bị tiêu diệt hết rồi sao? Đã bao nhiêu năm rồi không có ai từ dưới đó lên nữa. Địch ô trong thôn nói, những người băng qua được rừng Xương Trắng, ai cũng đều là dũng sĩ cả.”

Lòng Trương Lập lúc này thật hoan hỉ không biết nên nói sao cho phải, không ngờ có thể nghe hiểu được! Không ngờ lại hiểu được lời tiên nữ ấy nói! Anh vội vội vàng vàng hấp tấp chạy vụt lên, lắp ba lắp bắp gượng gạo nói: “Chúng tôi... chúng tôi ở bên dưới lên.” Miệng thì nói, tay thì khua loạn xạ, trình độ tiếng Tạng cổ của anh cao nhất cũng chỉ đến mức ấy. Mặc dù pháp sư Á La có thể nói tiếng Tạng cổ rất lưu loát, nhưng Trương Lập không hề có ý định để ông lên tiếng một chút nào.

Nàng tiên ấy thoáng ngây ra, tựa như phải nghĩ ngợi giây lát mới lĩnh ngộ được những gì Trương Lập nói. Trương Lập vừa liếc thấy đám người bọn Trác Mộc Cường Ba đều tiến về phía này, lại vội vàng bổ sung thêm: “Cái này... cái kia... vừa nãy... bí mật! Bí mật!” Ấp a ấp úng mãi, mới tìm được từ ngữ muốn biểu đạt. Lần này thì nàng tiên kia có vẻ đã hiểu, nhìn anh chàng mặt mũi đỏ bừng bừng, tay chân luống cuống trước mặt, khuôn mặt cô cũng hơi ửng hồng, nhưng chỉ thoáng sau đã trở lại bình thường. Từ trên cao cô nhìn chằm chằm xuống mặt Trương Lập. Mặc dù không nói gì, nhưng vẻ mặt ấy đã rất rõ ràng: “Thì ra chính là anh!” Ánh mắt ấy của cô làm trống ngực Trương Lập cứ đập lên thình thịch.

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đã lại gần, nàng tiên đó liền hỏi lại câu vừa nãy Trương Lập vẫn chưa trả lời trực tiếp: “Người Hạ Qua Ba à?” Ánh mắt đầy vẻ nghi hoặc.

Pháp sư Á La chắp tay trước ngực đáp: “Chúng tôi từ bên ngoài tới. Bộ tộc Hạ Qua Ba mà cô nương nói, phải chăng là thôn làng hoang phế ở tầng bên dưới? Thật đáng tiếc, trong thôn đã không còn sinh linh nào nữa rồi?”

Đôi mắt trong veo như nước của nàng tiên ấy tức thời sáng bừng lên, hân hoan nói: “Ở bên ngoài? Các vị từ bên ngoài tới à!” Tiên nữ vừa nở nụ cười, Trương Lập bỗng cảm thấy trên cánh đồng hoang trong tâm hồn mình lập tức nở đầy những bông hoa nhỏ đủ sắc màu rực rỡ. Lữ Cánh Nam lấy làm kỳ lạ, cô bé này sao mà biết được sự khác biệt giữa bên trong và bên ngoài nhỉ?

“Con vật to quá! Bạn nuôi hả?” Tiếng Tạng cổ của Đường Mẫn rõ là giỏi hơn Trương Lập nhiều, cô là người đầu tiên trông thấy con thằn lằn cổ dài khổng lồ đang nằm phục phía sau nàng tiên đó. Mà sự thực là, người nào trong nhóm này cũng giỏi tiếng Tạng cổ hơn Trương Lập rất nhiều, ít nhất là muốn nói chuyện bình thường với Mã Cát cũng đều không có vấn đề gì.

“Chị hỏi Thủ hộ linh của em à? Nó tên là Cường Ba, Long Ba Cường Ba. Em tên là Mã Cát. Mọi người từ bên ngoài đến thật đấy à?” Vẻ mặt Mã Cát đầy vẻ ước ao chờ đợi.

“Sặc!” Nhạc Dương không nhịn được phải len lén phì cười. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam cũng đều mím chặt môi. Thật không ngờ, con vật to bự đại tướng này cũng tên là Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba thì ngước mắt lên nhìn con thú khổng lồ, con Cường Ba này còn giống “Cường Ba” hơn gã nhiều. Chỉ có Trương Lập là trợn tròn mắt lên, lớn tiếng hỏi: “Mã... Mã... Mã Cát? Mã Cát A Mễ? Cô... cô tên là Mã Cát A Mễ hả?”

Mã Cát lộ vẻ kinh ngạc, rồi ngay sau đó trên gương mặt lập tức xuất hiện nét ngượng ngùng xấu hổ: “Sao... sao anh biết tên người ta?” Bộ mặt ngây thơ hoàn toàn không có chút gì giả tạo ấy khiến Đường Mẫn cũng phải cảm thấy hổ thẹn không bì được.

“Ừm, chúng ta vừa đi vừa nói được không. Mã Cát, cô sống ở gần đây à?”

Trò chuyện với Mã Cát, họ biết thêm rằng, thôn làng của cô tên là Công Nhật Lạp, hiển nhiên chính là ngôi làng Công Nhã Lạp trong bản dịch của pháp sư Á La. Như vậy có nghĩa là, họ đã đến vùng gần với trung tâm của tầng bình đài thứ hai. Hiện giờ thôn Công Nhật Lạp có khoảng hơn hai trăm hộ, sống nhờ chăn nuôi và trồng trọt. Phía Đông thôn làng vốn còn một làng khác tên là Cường Nhật, nhưng giờ đã bị bỏ hoang, Công Nhật Lạp nay trở thành thôn làng nằm gần rừng Xương Trắng nhất. Có lẽ trong tương lai không xa, họ cũng phải dời cả thôn làng, tránh xa khỏi khu rừng Xương Trắng nguy hiểm, nơi này rồi sẽ hoàn toàn trở thành lãnh địa của bọn quái thú. Còn các vấn đề lịch sử chẳng hạn như, tại sao trước đây trong rừng lại có nhiều thôn làng như thế, vì cớ gì mà giờ đã bỏ hoang gần hết, quan hệ giữa họ và bộ tộc Qua Ba như thế nào... thì Mã Cát đều không trả lời được. Nhưng theo lời cô, thì Địch ô đại nhân trong thôn chắc chắn có câu trả lời, bởi vì chuyện gì Địch ô đại nhân cũng biết hết.

Dọc đường, Mã Cát cũng hỏi rất nhiều chuyện về thế giới bên ngoài, tỷ như bên ngoài rộng lớn nhường nào, cảnh sắc ra sao, trời xanh mây trắng trông như thế nào, chuyện gì cô cũng thắc mắc.

Những câu hỏi này thực không dễ trả lời chút nào. Sự thực là, pháp sư Á La quen nói những lời thấm đẫm thiền cơ, một lời đa nghĩa. Nhưng lúc này lại phải miêu tả một thế giới rộng lớn bao la với bao điều kỳ lạ cho một thiếu nữ xưa nay vốn vẫn nhìn bầu trời qua miệng giếng như Mã Cát, vậy nên vai trò người đối thoại liền đổi sang cho Trương Lập nãy giờ vẫn mong ngóng từ lâu. Có điều, đối với Mã Cát, những câu trả lời ngọng nghịu, lắp ba lắp bắp của Trương Lập, đúng là càng dễ khiến cô gợi được nhiều liên tưởng hơn.

Trương Lập nhìn đôi mắt to tròn biết nói ấy, quả tim đập lạc cả nhịp, lúc nhanh lúc chậm. Được Lữ Cánh Nam gợi ý, Trương Lập mới hỏi Mã Cát, tại sao cô không hề ngạc nhiên khi gặp những người từ bên ngoài đến như bọn họ?

Câu trả lời của Mã Cát làm tất cả đều giật nảy mình: “Bởi vì thường hay có người bên ngoài đến mà.”

Chương 9

Người Lỗ Mặc

Nếu nói có chuyện gì khiến bọn Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên, thì câu trả lời của Mã Cát chắc chắn được xem là một trong số đó, dù bây giờ Bạc Ba La thần miếu có bất thình lình xuất hiện trước mặt cũng chẳng khiến họ ngạc nhiên đến thế được. Dẫu sao thì, từ khi bắt đầu công cuộc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu tới giờ, họ vẫn luôn cho rằng, mình là đội ngũ duy nhất thành công đặt chân đến Shangri-la này. Dù có gặp được thi thể của những nhà thám hiểm đi trước, họ cũng chỉ cho rằng đó chẳng qua chỉ là những kẻ thất bại, vừa đặt chân đến đây hoặc thậm chí là còn chưa đặt chân xuống đất đã chết tiệt hết cả rồi. Nhưng giờ nghe như Mã Cát nói, không chỉ có người hiện đại đến được nơi này mà vẫn còn sống, chẳng những vậy, còn khá thường xuyên nữa, chứng tỏ rằng những người đã đến đây cũng không phải là ít! Cảm giác vượt trội và niềm vui sướng ban đầu lập tức tan biến thành mây khói.

“Mã Cát, cô nói họ từ bên ngoài đến à, có chắc vậy không? Cô biết bên ngoài nghĩa là như thế nào chứ?” Lữ Cánh Nam không cam tâm hỏi.

“Ưm.” Đôi mắt biết nói ấy của Mã Cát lại một phen khiến Trương Lập hồn xiêu phách lạc. “Họ toàn tới bằng những cái nấm khổng lồ biết bay. Nhưng người leo từ tầng dưới lên, lại băng qua rừng Xương Trắng như mọi người thì đây mới là lần đầu tiên em gặp đấy.”

Pháp sư Á La nói: “Như chúng tôi thì cháu mới gặp lần đầu tiên, lẽ nào cháu đã gặp những người bên ngoài bay đến bằng cái nấm khổng lồ rồi?”

Mã Cát tỏ vẻ đắc ý, cười hì hì nói: “Đương nhiên, năm mười tuổi cháu đã gặp một chú đến từ bên ngoài kia rồi mà. Địch ô đại nhân trong thôn nói, chú Đa La bay đến bằng một cây nấm lớn, nhưng bị ngã gãy chân, chẳng đi đâu được cả. À, chú ấy cao lắm, cao như cái chú này này.” Mã Cát chỉ vào Trác Mộc Cường Ba, nói tiếp: “Nhưng tóc chú ấy màu vàng, mắt màu xanh, mũi nhọn hoắt, cháu còn tưởng người bên ngoài kia đều như vậy cơ. À, chú ấy nói không sõi như mọi người đâu, nhưng cháu vẫn hiểu được, giống như anh Trương Lập ấy.” Mặt Trương Lập lại đỏ bừng lên, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, tên của Cường Ba thiếu gia cô còn chẳng nhớ, vậy mà lại nhớ được tên của mình.

Về điểm này thì pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đều không có gì nghi hoặc, những người nghiên cứu Bạc Ba La thần miếu, ít nhiều đều có nghiên cứu về tiếng Tạng và tiếng Phạn cổ. Pháp sư Á La lại hỏi tiếp: “Thế người đó đã nói gì với cháu rồi?”

Mã Cát nói: “Cháu nhớ tên của chú Đa La đó rất cổ quái, cái gì mà Đa La Cách Phúc hay là Đa La Cách Ngúc gì đấy. Chuyện mà chú ấy nói nhiều nhất là, vương quốc của chú ấy sắp đưa một khối sắt to lên cao ơi là cao, đến gần cả mặt trăng ấy, hình như có một vương quốc nào đấy tên là... tên là... Ai Mê Ni Ca (America) cũng chưa làm được đâu. Chú ấy còn bảo, ở bên ngoài, chỉ cần trời không mưa thì ngày nào cũng có thể nhìn thấy mặt trăng, không giống như ở nơi này, có khi cách mấy tháng trời mặt trăng mới ló rạng một lần.” Nói tới đây, Mã Cát cụp hàng lông mi cong cong xuống. Trương Lập cảm tưởng như có quả chùy đập mạnh vào ngực mình, chỉ muốn nhào tới ôm Mã Cát vào lòng, nói với cô: anh có thể dẫn em ra ngoài kia ngày ngày ngắm trăng, đếm sao trời.

Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn nhau, vậy là có thể xác định rồi, khoảng thập kỷ năm mươi sáu mươi của thế kỷ trước, người Liên Xô, có thể là cán bộ tình báo cấp cao, bằng không chắc không thể biết được chuyện vệ tinh sắp được phóng lên quỹ đạo. Lúc Mã Cát gặp ông ta, người đó chắc đã sống ở Shangri-la này hai ba chục năm rồi, tiếng Tạng cổ của ông ta có lẽ cũng là về sau này mới học.

“Mã Cát, vậy cô còn gặp những người đến từ bên ngoài khác không?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Mã Cát lắc lắc đầu đáp: “Hết rồi, có điều hồi nhỏ cháu nghe người lớn trong thôn nói, ở thôn Phá Nhật, thôn Thác Nhật, cả bên vương quốc Yaca nữa, đều có người bên ngoài đến cả.”

“Mã Cát, cô nói thêm về chú Đa La ấy được không, chúng tôi muốn biết thêm nhiều chuyện về chú ấy nữa.” Lữ Cánh Nam dịu dàng nói. Họ thực sự cần biết thêm thông tin về thực lực cũng như kết cục cuối cùng của những kẻ ngoại lai ấy. Tại sao lại không có một chút tin tức nào về những người đó? Chẳng lẽ toàn bộ bọn họ đều sống nốt quãng đời còn lại của mình ở Shangri-la này hay sao?

“À.” Trước khi nói gì, Mã Cát đều thích nghiêng đầu nghĩ ngợi, khi ấy đôi mắt cô đều sáng rỡ lạ thường. “Hồi trước em không biết chú Đa La là người ở bên ngoài tới, vì chú ấy bị thương nên suốt ngày chỉ ở trong nhà của Địch ô đại nhân, ít khi ra ngoài lắm. Em có đến gian phòng ấy rồi, lần nào cũng thấy chú Đa La làm gì đấy với một cái hộp vuông. Chú ấy dùng khoai tây, với một ít đất bùn và mấy mảnh sắt và dây sắt liền có thể làm rất nhiều thứ sáng bừng lên, lại còn kéo ra một sợi dây sắt dài ơi là dài nữa.”

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn nhau cười cười... thiết bị phát sóng điện, kết quả hiển nhiên là đã làm ông chú Đa La kia rất thất vọng. Nhưng việc lợi dụng các nguyên tố hiếm trong đất bùn và khoai tây cộng với sắt để phát điện thì rõ ràng đã khiến cô thiếu nữ này cảm thấy hết sức thần kỳ, vì vậy ấn tượng lưu lại trong cô cũng vô cùng sâu đậm.

Mã Cát tiếp tục nói: “Mỗi lần em đến, chú Đa La đều kể nhiều chuyện lắm, toàn là chuyện bên ngoài cả, có nhiều thứ em chẳng hiểu gì cả...” Kế đó, Mã Cát liền kể ra đủ thứ chuyện thần kỳ ở thế giới bên ngoài. Chắc rằng đây là điểm mà cô kính phục ông chú tên là Đa La đó nhất, nhưng những chuyện ly kỳ hấp dẫn mà cô kể, đối với đám người đến từ thế kỷ hai mươi mốt này, rõ ràng là đã quá lạc hậu mất rồi.

“Ừm, Mã Cát này...” Sau khi Mã Cát kể ra một loạt các kỹ thuật lạc hậu từ thập niên năm mươi sáu mươi của thế kỷ trước, cuối cùng pháp sư Á La cũng không kìm được cất tiếng ngắt lời cô: “Những chuyện thần kỳ ấy, chắc hẳn nhất thời cũng khó mà nói hết được đúng không.”

“Vâng ạ.” Mã Cát phấn khởi nói. “Chú Đa La kể nhiều chuyện lắm, nói mấy ngày cũng chẳng hết ấy chứ.”

“À, vậy thì, những chuyện ấy để lại sau mới kể được không? Có thể cho tôi biết, chú Đa La đó về sau đã đi đâu rồi không?” Pháp sư Á La nở một nụ cười hiền hậu, Trương Lập thì chỉ thấy lúc này pháp sư thật là giả dối hết sức.

“Ồ.” Sắc mặt Mã Cát liền trở nên ảm đạm, thầm nhủ, lúc trước khi mình kể chuyện này với các bạn nhỏ trong thôn làng, ai nấy cũng đều thích thú lắm cơ mà, sao những người này... à, phải rồi, họ cũng ở bên ngoài đến đây, trong mắt họ, những câu chuyện của mình cũng bình thường chẳng khác nào trâu bò ăn cỏ, Mã Cát ăn bánh bột mỳ Thanh Khoa vậy thôi.

Trương Lập thấy thế thì đau lòng lắm, thật chỉ muốn vươn tay ra vuốt ve gương mặt ấy để an ủi, mà sự thật là anh đã không tự chủ nổi mình, lập tức vươn tay ra vuốt khẽ lên má Mã Cát: “Không sao, anh... sau này... về sau... sẽ kể... kể cho em... nhiều nữa... bên ngoài... nhiều nữa...” Nói dứt lời, anh mới thấy kinh ngạc trước hành động của chính mình, tựa hồ cơ thể không còn chịu sự khống chế của bộ não nữa rồi vậy. Cũng may là những người khác dường như đều không để ý lắm. Mã Cát nghe lời hứa của Trương Lập cũng vui vẻ trở lại, có điều, ở trước mặt nhiều người, nên cũng không tiện reo lên, nhưng nụ cười bằng mắt ấy, Trương Lập có thể cảm nhận được.

“Chú Đa La luôn ở trong nhà Địch ô đại nhân, chú ấy và Địch ô đại nhân là bạn tốt của nhau. Về sau, khi biết thời gian của mình trên thế giới này không còn nhiều nữa, Địch ô đại nhân bèn hợp nhất linh hồn với chú Đa La, không bao lâu sau, họ đã phi thăng lên theo thang trời.” Mã Cát đã hồi phục tâm trạng vui vẻ thoải mái, tiếp tục kể.

“Hợp nhất linh hồn? Phi thăng? Đó là gì thế?” Bọn Trương Lập, Nhạc Dương đều thấy như đang nghe chuyện thần thoại. Riêng Trác Mộc Cường Ba thì cứ có cảm giác dường như đã nghe nói đến điều gì đó tương tự ở đâu rồi, nhưng ký ức của gã về chuyện này lại hết sức mơ hồ. Pháp sư Á La thầm nhủ: phi thăng thì dễ lý giải rồi, nhưng còn “hợp nhất linh hồn”, hình như không có điển tịch nào từng ghi chép về nghi thức này thì phải.

Mã Cát cũng lộ vẻ ngạc nhiên nhìn bọn họ, những người này chắc không đến nỗi không biết phi thăng là gì đấy chứ, người nào đến cuối cùng mà chẳng phi thăng, cả chuyện linh hồn hợp nhất cũng rất bình thường mà. Nghĩ đoạn, cô bèn giải thích: “Hợp nhất linh hồn, tức là, tức là chỉ Địch ô đại nhân và chú Đa La, trong người này có người kia, trong người kia lại có người này.”

“Trong người này có người kia, trong người kia lại có người này! Lẽ nào Địch ô là phụ nữ, hay là...” Nhạc Dương vẫn chưa hiểu lắm.

Nhìn ánh mắt có vẻ vẫn chưa hiểu của những người này, Mã Cát càng bối rối, lại giải thích tiếp: “Đơn giản lắm mà, tức là linh hồn của Địch ô đại nhân và chú Đa La, hợp nhất làm một, dung hợp lại với nhau ấy. Chỉ có những người bạn thân thiết nhất mới được như vậy thôi, sau khi hợp nhất linh hồn thì dù đi tới đâu họ cũng ở bên nhau, kể cả lúc phi thăng cũng thế.”

Những người khác vẫn chưa hiểu, nhưng Trác Mộc Cường Ba thì bỗng lộ vẻ kinh hoảng, gã đột nhiên nhớ lại một chuyện Sean kể với mình: “Những bộ tộc ăn thịt người sùng bái niềm tin linh hồn và nhục thể hợp nhất cho rằng... linh hồn con người mãi mãi gắn liền với thể xác, không thể nào tách lìa nhau được, khi ăn thịt một người, linh hồn người đó sẽ vĩnh viễn gắn liền với mình, vĩnh viễn ở bên mình. Vì vậy, khi họ coi anh là bạn, không muốn phân ly với bạn bè, vậy thì phương pháp tốt nhất, chính là xơi tái luôn người bạn ấy. Bọn họ cho rằng, đặt người bạn tốt nhất, tôn quý nhất vào bụng mình, đó mới là cách thể hiện cao nhất của tình bạn...” Lẽ nào nơi họ sắp tới đây lại là... Trác Mộc Cường Ba không dám nghĩ tiếp. Gã len lén dùng tiếng phổ thông hỏi Lữ Cánh Nam: “Có từng nghe nói đến những bộ tộc ăn thịt người sùng bái linh hồn và nhục thể hợp nhất không?”

Lữ Cánh Nam giật mình chấn động, cô đã hiểu ngay Trác Mộc Cường Ba muốn nói gì rồi. Cô lại chuyển lời ấy cho pháp sư Á La, pháp sư ngây ra mất khoảng hai giây, kế đó lại nói với đội trưởng Hồ Dương, đội trưởng Hồ Dương đang định báo cho Ba Tang biết, thì bỗng nghe trong rừng phía trước vang lên âm thanh tựa như tiếng tù và. Mã Cát tái mặt, vội nắm lấy vạt áo Trương Lập thốt lên: “Chạy mau lên, người Lỗ Mặc đấy!” “Người Lỗ Mặc?” Trương Lập và pháp sư Á La đều cảm thấy danh xưng này nghe rất quen thuộc. Mọi người còn chưa kịp phản ứng gì, Mã Cát vừa mới xoay người, đã thấy trong rừng có hai cái đầu ló ra, “Chúng ta đã bị bao vây rồi! Bọn chúng, bọn chúng đã xâm lấn đến tận đây rồi ư?”

Cái đầu mọc đầy vẩy, cặp mắt xanh ngọc ẩn bên dưới lông mày gồ cao, hàm răng nhọn hoắt lộ ra bên trong cái miệng khép hờ, đó đâu phải người ngợm gì, mà rõ ràng chính là bọn thằn lằn nhỏ hung dữ kia.

Trước mắt họ là hai con thằn lằn vận chuyển, cao khoảng từ một mét bảy đến hai mét, chiều dài cơ thể áng chừng từ hai mét rưỡi tới ba mét, chi trước nhỏ mà ngắn, chia làm ba ngón, chi sau to khỏe mạnh mẽ, sau lưng kéo theo một cái đuôi dài to tướng. Bỗng nhiên nhìn thấy nhiều người như vậy, hai con thằn lằn vận chuyển liền nhìn nhau một cái, miệng khẽ gầm gừ phát ra âm thanh như tiếng tù và, ánh mắt ấy rõ ràng không phải của loài dã thú.

Lữ Cánh Nam cả kinh thốt lên: “Bọn chúng đang trao đổi!”

Tám người nhích dần quây lại thành hình tròn, bảo vệ Mã Cát ở giữa. Nhạc Dương thấp giọng thì thào: “Sống quần cư, tay chân linh hoạt, anh Sean đã bảo rồi, bọn chúng đã tiến hóa không thua kém gì tổ tiên loài người một vạn năm trước đâu.” Những ngày này, để sinh tồn ở nơi đây, họ đều không dám lơ là việc nghiên cứu tìm hiểu thêm tư liệu về các loài sinh vật.

“Ùa gừm...” một con thằn lằn bỗng bất thình lình nhảy tót sang hướng khác. Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương đều không chút nể nang nổ súng luôn, con thằn lằn vận chuyển ấy rơi bịch xuống từ trên không trung, làm dấy lên một màn bụi mù trước mắt họ.

“Ù...” lại một âm thanh tương tự như tiếng tù và, hai con thằn lằn vận chuyển xuất hiện trước mặt bọn Trác Mộc Cường Ba phát ra tiếng kêu cảnh cáo, rồi nhanh chóng rút lui vào rừng sâu. Liền ngay sau đó, cây cối ở các phía trái, phải, sau lưng cùng lúc lay động, chốc chốc lại có tiếng “tù và” cất lên chỗ này chỗ kia. Mã Cát khẽ run lên nhè nhẹ, rõ ràng là đang vô cùng sợ hãi.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Có vẻ chúng ta bị bao vây rồi, cẩn thận bọn thằn lằn lính đấy!”

Nhạc Dương thắc mắc: “Tại sao lại để một lối thoát phía trước nhỉ?”

Lữ Cánh Nam nói: “Bọn chúng muốn lùa chúng ta vào bẫy đó mà, hừ, đừng hòng được như ý! Lên cây!” Vừa dứt lời, cổ tay cô đã vung lên, dây móc bắn vút ra, Lữ Cánh Nam nhẹ nhàng đu người lên như cánh én chao liệng trong mưa xuân. Những người khác cũng đều lần lượt bắn dây móc, tản ra bốn phía. Mã Cát nhìn cảnh tượng ấy mà trợn tròn mắt, giọng nói trong trẻo cất lên: “Ồ, biết bay à!”

Trương Lập nhìn cô, cố nén trái tim đập loạn nhịp xuống, nói: “Anh đưa em bay lên nhé, có sợ không?”

“Ưm.” Mã Cát chớp chớp mắt nhìn chằm chằm vào Trương Lập, khẽ cắn môi dưới, rồi kiên định lắc đầu.

“Tốt lắm, vậy ôm chặt anh vào nhé, không được buông tay đâu đấy.” Trương Lập vốn muốn ôm eo Mã Cát, nhưng lại thoáng sợ rằng chiếc eo thon nhỏ nhắn ấy sẽ gãy liền, anh liền hơi nhún người xuống, để Mã Cát leo lên lưng mình. Mã Cát thẹn thùng nghiêng đầu dựa vào vai Trương Lập, hai tay ôm chặt cổ anh, cổ hai người áp sát vào nhau. Trương Lập vung lên, chạy đà mấy bước, rồi thân thể đu lên theo sợi dây móc vừa bắn ra.

Mắt Mã Cát mở to, miệng khẽ há ra như thể muốn kêu lên kinh hãi nhưng lại không dám thốt ra thành lời, tựa như không dám tin đây là sự thật. Không ngờ có một ngày mình có thể bay lên như vậy, tuy rằng không được cao lắm, nhưng cảm giác ấy, trải nghiệm ấy, sao có thể nào quên được.

Trương Lập ngoái đầu nhìn giai nhân, Mã Cát rất nhẹ, gần như không cảm giác được trọng lượng của cô. Được tiếp xúc với người trong mộng ở cự ly gần như thế, thực khiến anh chàng hân hoan muốn phát điên lên. Vừa khéo lúc ấy Mã Cát cũng đưa mắt sang, bốn mắt nhìn nhau, cô nhoẻn miệng cười thật tươi, cây cối và mãnh thú xung quanh tức thì tan biến vào không khí, trước mắt Trương Lập chỉ còn mỗi nụ cười ngọt ngào của Mã Cát. Anh cảm giác như thân thể mình đang lơ lửng trên mây, ở nơi mềm mại nhất trong cõi lòng, tựa hồ có một chú mèo nhỏ đang vươn bàn tay ra, khe khẽ gãi một cái, rồi lại gãi thêm cái nữa, cảm giác tê dại mà chấn động đó, suýt chút nữa khiến cả hai ngã bịch xuống đất.

“Trương Lập, hỏi xem thôn làng của cô ấy có an toàn không?” Câu hỏi của Lữ Cánh Nam kéo Trương Lập xuống khỏi tầng mây. Nguy hiểm quá, suýt chút nữa là đập thẳng mặt vào thân cây lớn rồi, anh vội thu ánh mắt khỏi nụ cười duyên dáng của Mã Cát, chuyên tâm vào sợi dây móc gắn ở tay.

“Mã Cát, lũ thằn lằn này, à không, những ‘người Lỗ Mặc’ này, bọn chúng có tấn công thôn làng của em không?” Trương Lập hỏi. Lúc này anh đã nhớ lại rồi, loài thằn lằn này, rất có thể chính là “người Lỗ Mặc” trong bản dịch của pháp sư Á La. Trong tư liệu tìm được ở thôn Công Bố có chép rằng, người Lỗ Mặc giống như một dạng quân du kỵ trong rừng, phạm vi săn bắt rất rộng, đi đâu cũng thành một nhóm lớn.

Mã Cát chỉ tròn mắt lên nhìn cây rừng đang giật lùi về phía sau, gió thổi vù vù vù vù bên tai, không nghe thấy Trương Lập nói gì. Mãi tới khi Trương Lập nhắc lại đến lần thứ ba, cô mới nói: “Làm gì có chứ, quanh thôn làng đều có cạm bẫy chuyên dùng để đối phó với chúng đấy.”

“An toàn, có bố trí bẫy bắt thú.” Trương Lập trả lời.

“Bảo Mã Cát dẫn chúng ta về làng, cậu đi trước dẫn đường, chúng tôi theo sau. Cẩn thận đấy! Đừng sướng quá mà quên hết mọi sự trên đời!” Giọng Lữ Cánh Nam nghiêm lạnh, nhưng Trương Lập nghe mà mừng thầm trong bụng, rõ ràng là giáo quan đang cổ vũ mình.

“Đàn thằn lằn này có khoảng ba chục đến bốn chục con, bọn chúng đuổi phía sau rát lắm, có cần tiêu diệt không?” Nhạc Dương hỏi.

Lữ Cánh Nam đáp lại: “Cố gắng tiết kiệm đạn dược, đối phó với bọn này chỉ cần dùng bẫy là đủ rồi.”

“Đã hiểu.”

“Mã Cát, bọn chúng cũng giống Thủ hộ linh của em mà, sao lại gọi là ‘người Lỗ Mặc’?” Trương Lập không sao kìm nén nổi cảm giác cứ muốn nói gì đó với Mã Cát.

“Người Lỗ Mặc thì là người Lỗ Mặc mà, chúng là người Lỗ Mặc có chân, người Hạ Qua Ba đều gọi chúng như thế mà. Vả lại, người Hạ Qua Ba còn nói, những động vật khác mỗi loài ở một nơi trong rừng, chỉ có người Lỗ Mặc là đi khắp nơi, từ phía Đông sang phía Tây, tới chỗ nào là ăn ở chỗ đó, rất nhiều thôn làng đã bị chúng tấn công súc vật rồi đấy.” Hơi thở Mã Cát phả vào bên tai thơm như mùi hoa lan, Trương Lập hân hoan hưởng thụ cảm giác ấy.

Trác Mộc Cường Ba nói với Trương Lập: “Lỗ Mặc là một loại tinh linh đầu người mình rắn trong Mật giáo, trong giáo lý Mật giáo, chúng là chúa tể của mọi động vật, bọn thằn lằn ấy ngoài hai cái chân ra, thì trông cũng khá giống đầu người mình rắn mà, hiểu chưa hả?”

“Ồ.” Trương Lập rốt cuộc cũng hiểu được phần nào, rồi ngay tức thì lại nhớ ra gì đó, giở giọng trách móc Mã Cát: “Làng ở xa cái hồ đó như vậy, sao em lại một mình chạy đến chỗ ấy làm gì chứ! Em không sợ đám ‘người Lỗ Mặc’ kia à?”

Mã Cát lúng búng đáp: “Hồi trước làm gì có người Lỗ Mặc đến chứ, người ta vẫn thường ra đó, có bao giờ thấy quái thú nào đâu, mỗi lần này gặp phải anh thôi.” Nói đến phía cuối, giọng cô đã nhỏ như tiếng muỗi, bất giác lại nhớ tới lời tiên đoán của Địch ô đại nhân dành cho mình: “Người trong số mạng cô sẽ xuất hiện nơi có nước...”

“Sau này không được tự đi đến đó nữa đâu đấy...” Trương Lập đã coi Mã Cát như em gái mình, hết sức tự nhiên nói ra như thế.

“Người ta biết rồi.” Mã Cát dường như rất nghe lời.

Trương Lập còn đang định nói gì đó nữa, bỗng nghe Nhạc Dương hỏi: “Mã Cát có nói đến người Hạ Qua Ba, có thể cô ấy đã gặp họ rồi. Thử hỏi về người Hạ Qua Ba xem.” Miệng Mã Cát rất gần microphone trên thiết bị thông tấn, nên những người khác đều có thể nghe thấy.

Trương Lập thầm mắng Nhạc Dương không biết chọn thời điểm, nhưng vẫn hỏi: “Mã Cát, em đã gặp người Hạ Qua Ba bao giờ chưa?”

“Ưm, hồi nhỏ em gặp rồi. Người Hạ Qua Ba giống như là Thủ hộ linh của các thôn làng vậy, họ thường xuyên băng qua tất cả rừng rậm trên tầng thứ hai này, hình như đang tìm thứ gì đó, về sau rất hay đến làng em. Mãi cho đến hai năm trước, lúc ấy họ đã không ghé qua làng em ba bốn năm rồi, mới có tin lan đến bảo rằng, người Hạ Qua Ba chọc giận người Thượng Qua Ba, bị tiêu diệt cả tộc rồi.”

“Cái gì? Người Thượng Qua Ba?” Lần này là do Trương Lập không nén nổi tò mò hỏi tiếp, chắc hẳn là chỉ người Qua Ba sống trên tầng bình đài thứ ba kia rồi.

Mã Cát khe khẽ đáp bên tai Trương Lập: “Ưm.”

“Sao, sao lại có người Thượng Qua Ba nữa? Họ là ai thế?”

Mã Cát nhoẻn miệng cười tươi tắn đáp: “Anh Trương Lập ngốc thật đấy, có người Hạ Qua Ba, thì dĩ nhiên phải có người Thượng Qua Ba rồi. Người Hạ Qua Ba sống ở tầng thấp nhất, người Thượng Qua Ba sống ở tầng cao nhất. Truyền thuyết kể rằng, họ sống ở hai đầu Thánh vực, không cho ai vào mà cũng chẳng cho ai ra, dường như là đang bảo vệ thứ gì đấy, hay là như đang đợi gì đó vậy.”

Trương Lập đang định thăm dò thêm thông tin về người Thượng Qua Ba với Hạ Qua Ba, dù sao thì chuyện này cũng quan hệ đến mục đích chuyến đi này của họ, nhưng Mã Cát đã vỗ vỗ lên lưng anh nói: “Đến rồi, đến rồi, bỏ em xuống, mau cho em xuống!”

Trương Lập chỉ thấy xung quanh rõ ràng vẫn là một vùng rừng rậm cây cối um tùm, nào có thấy bóng thôn làng gì, sao bảo đã đến được rồi? Có điều giọng nói rối rít của Mã Cát khiến anh căng thẳng hơn mọi việc trên đời, vội vàng thu dây về, chẳng ngờ lại không khống chế được đà lao. Mắt thấy Mã Cát sắp đập vào tảng đá dưới đất, Trương Lập vội bất chấp tất cả, lộn người trên không trung, hai tay nâng móc lên, còn mình thì đập lưng xuống đất một cú rõ mạnh, đau đến điếng người.

“Anh không sao chứ, anh Trương Lập!” Ánh mắt Mã Cát đầy sự quan thiết. Trương Lập dẫu có gãy xương đứt gân, lúc này cũng chẳng còn thấy đau đớn gì nữa, khí khái nam nhi bốc lên ngùn ngụt: “Anh không sao!” Chợt nhận ra, ối trời, tay mình đang để vào chỗ nào của Mã Cát vậy?! Anh vội vàng buông tay ra, vậy là cả người cô liền đè sát lên người Trương Lập, cái miệng nhỏ không kịp tránh, cũng vừa khéo ép lên môi Trương Lập. Cảm giác mềm mại truyền qua, khiến thần hồn Trương Lập bay vút lên tận mây cao, đầu óc hoàn toàn trống rỗng, cảm giác phiêu phiêu lâng lâng ấy bao phủ khắp toàn thân đổ từ gót chân lên tới đỉnh đầu. Bất ngờ quá, điều ao ước bấy lâu nay bỗng nhiên xảy ra, đúng là một kỳ tích!

Chương 10

Thôn Công Nhật Lạp

Mã Cát cuống quýt đứng dậy, trên gương mặt hiện lên hai ráng mây ửng hồng, bộ dạng nửa muốn từ chối nửa không, vừa bất an lại vừa thích thú đó khiến quả tim Trương Lập như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, nhất thời còn chẳng có cả sức lực đứng lên. Mã Cát bối rối đưa mắt nhìn quanh, cũng may là không có ai, nhưng cô nào có biết, toàn bộ cảnh tượng ban nãy đều đã được thiết bị thông tin liên lạc gắn trên mắt Trương Lập truyền tới tất cả những người khác không sót một chi tiết nhỏ nào rồi.

Nhạc Dương bất mãn kêu lên: “Vậy cũng được à! Cường Ba thiếu gia, tay Trương Lập này thật là quá đáng hết mức!”

“Cái gì? À? Ờ.” Trác Mộc Cường Ba vẫn đang hồi tưởng lại những ngày đồng hành với Sean trong rừng rậm ở châu Mỹ.

Đường Mẫn cười hì hì nói: “Thế thì sao đâu chứ, Trương Lập giỏi đấy. Nhạc Dương, anh cũng phải cố lên đó.”

“Hừ, thế thì có gì khó?” Nhạc Dương thầm nhủ, từ lâu đã nghe nói Tây Tạng có rất nhiều truyền thuyết về Mỹ nhân tộc, Mỹ nhân cốc gì gì đó, nguyên một làng chỉ toàn là mỹ nữ, chủ yếu là vì vùng này có địa thế tốt, chất nước tốt... vùng đất Shangri-la này tuy là hơi nhiều quái thú một chút, nhưng xét về cảnh sắc sơn thủy thì đúng là chẳng cần phải nói rồi. Biết đâu làng của Mã Cát lại chính là một “ngôi làng mỹ nhân” đúng tiêu chuẩn trong truyền thuyết thì sao. Vả lại, với tầm nhìn hạn hẹp của họ, nói không chừng chỉ cần một cái đèn pin hay vài viên bi thủy tinh gì gì đó là đã đổ ràn rạt hết cả rồi cũng nên.

Chỉ thấy Mã Cát chỉnh trang lại quần áo, bước tới bên cạnh một cây không cao lắm trong rừng, cung kính chào: “Chú Lang Ca, chú vẫn khỏe chứ ạ? Mã Cát về rồi.” Nói đoạn, cô đưa tay lên vuốt khẽ lên thân cây. Gió thổi cây lay, tán lá kêu rì rào rì rào.

Trương Lập đã ngồi dậy, thấy vậy bèn thầm nhủ, lại trò gì nữa đây? Nghi thức trước khi về làng sao? Chỉ thấy Mã Cát đã quay mặt về phía mình, lại nói tiếp: “Chú Lang Ca, đây là anh Trương Lập, bọn họ là người từ bên ngoài đến đó, Mã Cát chuẩn bị đưa họ về làng đây.” Nhìn bộ dạng cô như thể đang giới thiệu Trương Lập với ai đó vậy, nhưng trước mặt Mã Cát rõ ràng là một cái cây chứ chẳng có ai hết. Kế đó, Mã Cát lại trịnh trọng giới thiệu với Trương Lập: “Anh Trương Lập, đây là chú Lang Ca, trước đây chú ấy yêu quý Mã Cát lắm đó.”

Trương Lập nghe thấy hai chữ “yêu quý”, tức thời cảm thấy bàn tay đang vuốt ve lên thân cây của Mã Cát cũng khá giống như đang vuốt ve gương mặt người tình, đầu anh như muốn nổ tung... Đó rõ rành rành là một cái cây mà, chẳng lẽ nàng tiên Mã Cát này... Cô... trí lực của cô có vấn đề hay sao? Lúc này, những người khác cũng đều đã đến nơi, lần lượt hạ xuống khoảng đất trống. Mã Cát lại giới thiệu ông chú Lang Ca đó với từng người một, giống như thể giới thiệu một người thân rất quan trọng của mình vậy. Nét mặt mọi người đều giống như Trương Lập, cũng cảm thấy không hiểu Mã Cát có vấn đề ở đâu đó hay không, chỉ có mình pháp sư Á La là nghiêm nghị bước đến gần, quan sát thân cây không lớn lắm đó một cách kỹ lưỡng.

Cái cây đó đã cao chừng ba mét, lá cây chĩa ra các phía, đường kính thân cây chỉ khoảng nửa mét, phần dưới thân cây có mấy chỗ gồ lên như những con rắn quấn vào thân cây. Pháp sư Á La dè dặt hỏi: “Vì sao mà chú Lang Ca này lại bị trồng ở đây vậy?”

Mã Cát thoáng lộ nét u buồn, đáp: “Chú Lang Ca chẳng làm gì sai cả, là Đại Địch ô của vương quốc nói con trai chú ấy đã đầu hàng quân địch, vì vậy, chú ấy bị trồng ở đây. Trước khi chú Lang Ca hoàn toàn thụ hóa, ngày nào cháu cũng mang thức ăn ngon cho chú ấy ăn đó. Hồi nhỏ chú Lang Ca tốt với cháu lắm mà...” Kể tới đây, Mã Cát lắc đầu thật mạnh, tựa hồ muốn hất những chuyện thương tâm đó ra khỏi ký ức, rồi cô nói nhanh: “Thôn làng ở ngay phía trước đây thôi, để cháu dẫn mọi người vào nhé, cẩn thận có bẫy đấy.”

Trương Lập đứng lên mới phát hiện vết thương trên cánh tay có máu rỉ ra, chắc là lúc nãy khi chạm đất vết thương lại bị toác ra nữa. Anh cứ mặc kệ đó, bước tới sau lưng Mã Cát hỏi: “Chú... chú Lang Ca ấy, là người hả?” Mã Cát ngừng bước, gật gật đầu, rồi lại tiếp tục đi trước dẫn đường.

Đằng sau, Nhạc Dương cũng đang hỏi pháp sư Á La: “Pháp sư, cái cây đó là thế nào vậy?”

Pháp sư Á La chăm chú nhìn vào thân cây, đáp: “Thụ nhân trong truyền thuyết đó, không ngờ lại là sự thật.”

Nhạc Dương thắc mắc: “Thụ nhân trong truyền thuyết?”

Pháp sư gật đầu đáp: “Ừm, trong các điển tịch cổ có ghi chép, có thể xem như là một loại cổ độc vậy. Theo những gì viết trong kinh thư, người ta sẽ cấy một loại hạt giống thực vật vào cơ thể nạn nhân, hạt giống ấy sẽ hút hết chất dinh dưỡng trong máu để sinh trưởng, sau đó từ từ biến người trúng cổ độc thành một cái cây. Tuy chưa từng được thấy loại cổ độc trong truyền thuyết ấy, nhưng từ lúc đội trưởng Hồ Dương ngồi gãy khúc rễ cây đó, tôi đã nghi nghi rồi.”

Đường Mẫn bước theo sau, cất tiếng hỏi: “Hạt giống sinh trưởng bên trong cơ thể người, làm sao được chứ?”

Pháp sư Á La giải thích: “Ở Tây Tạng có một loại đông trùng hạ thảo rất nổi tiếng, chắc mọi người đều nghe nói đến rồi phải không?”

Đông trùng hạ thảo thì chẳng ai lạ lẫm gì, mùa đông là côn trùng, bị nấm và vi khuẩn tấn công, nó sẽ chôn mình xuống dưới đất, sang năm sau, trên đỉnh đầu con côn trùng ấy sẽ mọc lên một loại thực vật họ cỏ, thân thể côn trùng chỉ giữ lại vẻ bề ngoài, còn về cơ bản đã bị thực vật hóa cả rồi. Đội trưởng Hồ Dương lại hỏi tiếp: “Nhưng mà, dù sao cũng là nấm khuẩn... đây... đây là cả một cái cây to cơ mà?”

Pháp sư Á La nói: “Thì cũng có thể coi cái cây này như một loại nấm khuẩn khổng lồ. Phải biết rằng, ở tầng dưới kia chúng ta đã gặp những thực vật họ dương xỉ cao tới cả trăm mét, chúng cũng lớn lên từ những bào tử nhỏ bé thôi. Thế giới bao la, điều kỳ lạ nào mà chẳng có thể xảy ra chứ.”

Mã Cát đi đằng trước không ngừng nhắc nhở Trương Lập: “Đừng đi sang bên trái đấy!” “Giới hạn là cái cây bên phải kia kìa, không được vượt qua đó đâu nhé!” “Nhìn thấy cái dấu trên thân cây kia chưa, nghĩa là tuyệt đối không được lại gần đấy!”

Những câu trả lời của Trương Lập càng khiến Mã Cát kinh ngạc hơn: “À, bên trái là hố bẫy đúng không, bên trong chắc là có cọc gỗ chứ gì?” “Đằng sau cái cây bên phải ấy có lưới à? Trên lưới có gắn thêm lưỡi đao nữa không?” “Thấy dấu hiệu rồi, khì khì, bước lại gần đó đạp trúng chốt bẫy, thì cọc gỗ nhọn giấu trên thân cây sẽ sập xuống, đúng không?”

Mỗi lần nghe trả lời, Mã Cát đều mở to đôi mắt ra, thốt lên: “Chà, sao anh biết vậy?”

Trương Lập thầm thấy tức cười, những loại bẫy này chỉ dùng để đối phó với bọn thú hoang, tất nhiên là chỉ cần nhìn thoáng một cái đã nhận ra rồi. Có điều, cũng phải nhờ đến giáo quan huấn luyện, coi như không uổng công hai năm trời vất vả.

Vừa đi vừa nói chuyện, cuối cùng đã đến thôn Công Nhật Lạp, ai nấy đều nhất loạt phát ra một tiếng kêu đầy kinh ngạc. Sự thần kỳ của thiên nhiên vĩ đại, thực đúng là dẫu rằng có nhìn ngắm bao nhiêu cũng không thể nào thưởng thức hết cho được. Chắc là do núi lửa làm lòng núi nứt vỡ sụt xuống, những khối nham thạch khổng lồ nhô ra tua tủa, trước mặt bọn Trác Mộc Cường Ba hiện ra một cái đỉnh ba chân khổng lồ. Chân đỉnh cao khoảng chừng hai ba trăm mét, khoảng cách giữa các chân lên đến hơn nghìn mét, thân đỉnh có hình dáng như một chiếc khay tròn, phần đáy ít nhất cũng phải rộng bằng mười mấy cái sân bóng đá gộp lại. Một dòng thác lớn cuồn cuộn chảy từ tầng bình đài thứ ba, đổ vào trong đỉnh, rồi xuôi theo các chân đỉnh ngoằn ngoèo chảy xuống. Thoạt nhìn, trông như thể phần dưới của tòa tháp Đông Phương Minh Châu ở Thượng Hải được phóng to lên vô số lần, hoặc bảo là một tòa kim tự tháp bị khoét rỗng ruột, chỉ còn lại phần khung giá cũng không sai cho lắm. Mã Cát nói, thôn làng của họ ở ngay bên dưới cái đỉnh đá khổng lồ này.

Phòng ngự ngoại vi của ngôi làng này về đại thể cũng giống như thôn Công Bố, đều bọc quanh bằng tường đất nện, bên trên cắm đầy chông nhọn hoắt, chỉ khác một chút là, ở chân tường và một số khoảng trống có bố trí thêm một tầng lưới sắt gắn móc câu ngược, có vẻ như để phòng ngừa một số loài động vật cỡ nhỏ, như lũ gián kia chẳng hạn.

Vừa vòng qua bức tường đất, lại có thêm mấy tiếng kêu kinh ngạc nữa. Vẻ đẹp thanh bình tĩnh lặng của ngôi làng, và hiểm nguy bốn bề trong rừng sâu, thật là một sự đối lập mạnh mẽ chẳng khác nào thiên đường và địa ngục.

Cả thôn Công Nhật Lạp rộng khoảng ba trăm héc ta, địa thế bằng phẳng thông thoáng, từ đầu thôn có thể nhìn thẳng tới cuối thôn, sắc xanh phủ kín cả tầm mắt, một dòng sông nhỏ uốn theo hình chữ “S” chảy từ trên xuống dưới, vòng qua bốn năm khúc quanh chảy qua thôn làng. Nhưng điều làm bọn Trác Mộc Cường Ba phải trầm trồ kinh ngạc, chính là những căn nhà ở đây. Những ngôi nhà lặng lẽ nằm tản mác giữa một vùng xanh ngắt, vừa lộn xộn nhưng cũng rất có trật tự ngay ngắn, hòa thành một thể thống nhất với đồng cỏ xanh tươi mát mắt, hoàn toàn trọn vẹn. Những ngôi nhà thấp hơn một chút, thì giống như nơi ở của giống loài tinh linh trong thần thoại phương Tây, có mái tròn nhọn hoắt và thân nhà hình trụ; những ngôi cao hơn, thì như các cối xay gió trên thảo nguyên Hà Lan vậy, trước nhà có ba bốn cây cao lớn, sau nhà có vườn hoa, nhìn rộng hơn nữa, bốn bề là một vùng thảo nguyên ngút ngàn xanh ngắt. Càng khó tin hơn nữa là, tất cả nhà ở đây đều không hề có dấu vết gì của bàn tay con người, những đường nét cổ phác đơn sơ đó, trông như thể gió thiên nhiên đã bào mòn nhào nặn đá núi mà ra vậy.

Nhất thời, tất cả mọi người đều liên hệ vẻ đẹp ấy với Mã Cát, chắc cũng chỉ ở một nơi thế này, mới có thể sinh ra được một nàng tiên ngây thơ trong sáng như cô mà thôi. Đội trưởng Hồ Dương còn thất thanh thốt lên kinh ngạc: “Ống khói tinh linh! Ống khói tinh linh!” 

1

“Đó là cái gì vậy?” Nhạc Dương tò mò hỏi.

Đội trưởng Hồ Dương hưng phấn giải thích: “Là một loại địa mạo núi lửa, khi dung nham lạnh đi, do chịu nhiệt không đều và tác dụng của ngoại lực mà rạn nứt thành dạng trụ, tác dụng của gió trong suốt hàng triệu hoặc hàng trăm triệu năm đã mài giũa chúng thành hình dạng như cây nấm. Tùy theo mức độ kiên cố của nham thạch, nhiều chỗ có thể trực tiếp đục thành những căn phòng đá ở bên dưới, tạo thành một nơi ở thiên nhiên. Có thể nói, đây là những căn nhà kỳ diệu mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người.”

Đi qua cổng thôn làng, liền thấy một tấm bia đá, nét chữ bên trên đã mờ tịt, gắng gượng lắm cũng chỉ nhận ra được mấy chữ như ‘tân nghiêu, nguyệt huy...’ gì gì đó. Theo suy đoán của pháp sư Á La, ngôi làng này đã tiến vào Shangri-la ẩn cư từ khoảng năm 647 sau Công nguyên, dựa theo ghi chép trên văn bia, họ là một nhánh của bộ tộc Vi Đạt của nước Đại Bằng. Theo đó suy ra, tổ tiên của họ chắc hẳn thuộc nhóm những người không chịu quy thuận sau khi Tượng Hùng bị Thổ Phồn đánh bại.

Mã Cát nghe bọn họ bàn luận mà lấy làm mê hoặc, tới khi Trương Lập lắp bắp dùng tiếng Tạng cổ giải thích xong, cô liền kinh ngạc kêu lên: “Mọi người... mọi người... nhận ra được những văn tự trên đó sao? Trời ơi, những chữ này đến cả Địch ô đại nhân cũng không đọc được nữa đó!” Thì ra, người trong thôn làng của Mã Cát đều nói tiếng Tạng cổ, nhưng lại chẳng có ai biết chữ Tạng cổ cả.

Ba Tang thì lại dồn sự chú ý vào một cái đỉnh lớn cạnh cổng làng, hoặc có thể nói là một thứ bằng kim loại trông hơi giống cái vạc lớn. Vật này cao khoảng gấp đôi người bình thường, có bốn chân, bụng tròn, phần thân như một cái nồi cỡ đại, dưới đáy cũng có dấu vết ám khói. Nhưng dùng cái nồi cỡ đại này để nấu cái gì chứ nhỉ? Dùng nồi kiểu này, sợ rằng cả làng ra ăn cũng chẳng hết.

Trương Lập cũng tò mò không biết cái nồi lớn ấy dùng để làm gì. Mã Cát nói, dùng trong tế lễ, sau buổi lễ, thức ăn trong đó đúng là được phân phát cho cả làng cùng ăn. Nói tới đây, cô bỗng nheo mắt cười cười nhìn Trương Lập, bảo: “Có điều, nó còn một tác dụng khác nữa cơ.” Khi Trương Lập hỏi là gì, Mã Cát dường như nghĩ tới điều gì đó, sắc mặt đỏ ửng lên, dẫn cả bọn vào trong làng, miệng lí nhí đáp: “Sau này mới cho anh biết.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn quanh thôn làng, quanh quanh đó áng chừng có khoảng năm ba chục nếp nhà, mỗi nhà đều có chuồng nuôi gia súc, có khoảnh đất ruộng khá lớn, có điều, những người gã trông thấy chỉ toàn là người già cùng với đàn bà trẻ con.

Đàn ông đàn bà ở đây đều chít khăn trên đầu. Nhìn kiểu buộc khăn, rõ ràng họ thường dùng đầu để đội hàng hóa vật dụng. Bên trên họ khoác một loại áo cộc không cổ, không móc cài, phía dưới mặc một thứ khá giống váy quây, có người già khoác một dạng giống áo gi lê, lại có người khoác tấm áo rộng một mét, dài hai ba mét, quấn lại trước ngực rồi hất ra phía sau; các bé gái đều đeo hoa tai, chừng như bằng gỗ hoặc bằng tre gì đấy, trước ngực có trang sức bằng bạc, mặc áo hoa chiết eo và váy ống dài; bé trai thì bên hông phải giắt một con dao nhỏ, nhét trong vỏ bằng gỗ, trên vỏ buộc chằng chịt các loại dây vải đủ màu.

Những người già, đàn bà và trẻ nhỏ ấy đều tò mò quan sát đám khách lạ qua ô cửa sổ gỗ, từ phía sau cánh cửa, hoặc từ những khe hở nhỏ trên bức tường thấp lè tè.

Người ở đây đen, gầy, ai nấy đều toát lên một vẻ mệt mỏi như người mới bình phục sau trận ốm nặng lâu ngày. Da dẻ người già hệt như mặt đất bị hạn hán làm cho khô khốc, để lộ ra những vết rạn nứt chằng chịt trên mặt và cánh tay; lũ trẻ con thì đầu to thân nhỏ, nấp sau lưng người lớn, len lén dòm qua, đôi mắt to tròn, đen láy. Không hiểu vì sao, khi nhìn thấy những người này, trong lòng bọn Trác Mộc Cường Ba đều chợt thấy trào lên một niềm thương cảm, như thể gặp phải một đám người đói khát thảm hại trong ốc đảo xanh trên hoang mạc, trông thật không hài hòa, khiến cho ngôi làng vốn đẹp như tranh ấy lại bị phủ lên một cảm giác tang thương của một tòa thành đổ nát trên sa mạc vào buổi hoàng hôn u ám.

Rồi cả ánh mắt của những dân làng đó nữa, người già thì lạnh lùng, cảnh giác, trẻ con thì yếu ớt, khẩn nài. Ở một nơi hoàn toàn xa lạ, bị những ánh mắt phức tạp ấy nhìn chằm chằm vào vốn không phải chuyện hay ho gì, cảm giác như thể mình là một con quái vật bị người ta soi xét vậy, khiến cho đến bước đi cũng trở nên cẩn trọng nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

Cũng không hiểu có phải vì cảm giác bị một đám người nhìn chăm chú quá đỗi khó chịu, hay là vì thấy đám trẻ giống như trẻ con chết đói ở châu Phi đó quá đáng thương, Mẫn Mẫn định xoa dịu bầu không khí ấy đi một chút, bèn lấy một miếng lương khô hàm lượng calorie cao trong túi ra, vẫy vẫy tay với đứa trẻ đứng gần mình nhất, nở một nụ cười thân thiết rồi nói bằng tiếng Tạng cổ: “Tới đây, tới đây!”

Đứa bé gầy gò vàng vọt ấy trợn tròn cặp mắt to đầy sợ hãi, chẳng những không dám lại gần, ngược lại còn nấp ra sau lưng một bà già, chỉ để lộ nửa gương mặt nhỏ nhắn nhìn Mẫn Mẫn với vẻ dò xét.

Tới khi Mã Cát dang rộng hai cánh tay, đứa bé mới hân hoan chạy ra từ phía sau lưng bà già, ào đến dụi đầu vào lòng cô. Mã Cát bế đứa bé lên, nói với bọn Trác Mộc Cường Ba, vì chiến tranh, tráng niên trong làng hầu hết đều đã tử trận hoặc bị sung vào làm quân cận vệ của vương quốc, hiện giờ ở đây chỉ còn lại người già và trẻ con. Vì người Hạ Qua Ba đã bị tiêu diệt, vậy nên mỗi khi đói kém, cũng chẳng có người mang hạt giống đến tặng như trước đây nữa. Bây giờ, lương thực trong thôn lúc nào cũng thiếu thốn, những người già buộc phải liều mình vào rừng bắt dã thú hoặc hái quả về ăn.

Pháp sư Á La liền hỏi: “Không phải trận chiến mười tám năm trước đã kết thúc rồi à? Sao mà...”

Lúc này, đứa bé trong lòng Mã Cát vừa được cô khích lệ, đã đưa tay nhận lấy thức ăn của Mẫn Mẫn đưa cho. Mẫn Mẫn đang dạy nó cách bóc lớp giấy bọc bên ngoài. Mã Cát mở to mắt đáp lời pháp sư: “Trận chiến mười tám năm trước thì kết thúc từ lâu rồi, nhưng sáu năm trước lại đánh nhau với Yaca một bận nữa, đánh suốt ba năm mới ngừng đó ạ.”

Pháp sư Á La sực hiểu ra, vào thời điểm đó, trong Nhật ký thôn Công Bố có ghi chép về việc Thứ Tháp Nhĩ gây ra họa gì đó, họ còn đang lo cho mình chẳng xong, làm gì có ai ra khỏi thôn làng, đương nhiên cũng không thể nào có ghi chép về trận chiến tranh sáu năm về trước được.

“Trận chiến sáu năm trước, có thể xem như là kéo dài của cuộc chiến tranh mười tám năm về trước...” Dường như nhớ lại những điều thương tâm trong quá khứ, sắc mặt Mã Cát bỗng trở nên ảm đạm hẳn đi, làm Trương Lập nhìn mà thấy nhói đau trong lòng. Nghe Mã Cát thủ thỉ kể lại, bọn Trác Mộc Cường Ba đã có nhận thức rõ ràng hơn về cuộc chiến tranh nổ ra vào mười tám năm trước. Trận chiến ấy, là do vương quốc Langbu ở bên bờ biển Sinh Mệnh khởi xướng, nguyên nhân tại sao thì Mã Cát không rõ lắm, nhưng kết quả, thì phe gây chiến Langbu đã bị đánh bại, quân đội Yaca băng qua biển Sinh Mệnh, cả một vùng thôn trang lớn của vương quốc Langbu bị đại quân Yaca quét sạch, cha mẹ của Mã Cát cũng đã qua đời trong cuộc chiến ấy.

Trong lúc Mã Cát kể chuyện, đứa bé trong lòng cô lần đầu tiên được nếm thứ thực phẩm dinh dưỡng cao của Đường Mẫn đưa cho, sung sướng reo lên thích thú. Mẫn Mẫn cũng thử tiến thêm một bước tiếp xúc với nó, dang tay đón lấy đứa trẻ từ tay Mã Cát. Những đứa bé khác đang vây xung quanh cũng dần bớt cảnh giác, lần lượt quây lại gần, xin Mẫn Mẫn phát cho chúng món đồ ăn lạ kia.

Mẫn Mẫn bị quây chặt kín không sao thoát thân nổi, ánh mắt lũ trẻ lại hướng về phía Lữ Cánh Nam. Có lẽ do bản tính thiên bẩm của phụ nữ, Lữ Cánh Nam cũng bắt đầu phân phát thức ăn cho đám trẻ cùng với Mẫn Mẫn. Lại thấy hầu hết những đứa trẻ này đều suy dinh dưỡng hoặc khắp người đầy những vết thương nhỏ, nếu không xử lý tiêu độc sát trùng, e rằng rất dễ nhiễm bệnh, cô bèn vừa phát thức ăn, vừa giúp những đứa trẻ bệnh tật gầy gò xử lý vết thương. Lũ trẻ có thức ăn, chỗ nào bị thương được những cái bình nhỏ kỳ lạ xịt vào một cái là hết đau luôn, liền chạy đi khắp nơi thông báo. Tin tức vừa lan đi, Lữ Cánh Nam và Mẫn Mẫn lập tức bị dân làng vây kín không nhúc nhích nổi. Mấy người hội đội trưởng Hồ Dương cũng muốn lại giúp một tay, nhưng dân làng thấy một đám đàn ông râu ria xồm xoàm thì chẳng ai chịu tin cả.

Pháp sư Á La thì chỉ muốn mau mau chóng chóng gặp được Địch ô đại nhân của thôn làng. Xét cho cùng, họ đã quá khao khát được biết rốt cuộc đây là nơi như thế nào, cũng có quá nhiều thắc mắc cần một lời giải đáp.

Chương 11

Địch ô An Cát Mẫu

Căn nhà của Địch ô An Cát Mẫu ở trung tâm thôn làng, thân nhà hình tròn, nhìn các cửa sổ thì ít nhất cũng chia làm ba tầng, bốn góc có kinh phướn, phía dưới có rất nhiều tượng quỷ thần điêu khắc bằng gỗ, pháp sư Á La kiến văn quảng bác như thế mà cũng không nói được đó là những tượng gì. Mã Cát vừa vào cửa đã lớn tiếng gọi ầm ĩ: “Địch ô đại nhân, Địch ô đại nhân, con tìm được cho ông người đọc được chữ Mã Nhĩ rồi này!”

“Kha kha, A Mễ về đấy hả, sao lớn tiếng thế, lại gây họa gì bên ngoài rồi phải không?”

Mã Cát vừa xấu hổ vừa bối rối, vội nói: “Địch ô đại nhân nói bừa nhé, có khách quý đến đây nè.”

“Ủa.” Lúc này ông già kia mới quay người lại, chú ý đến bọn Trác Mộc Cường Ba: “Người Hạ Qua Ba à? Sao có thể được?” Địch ô An Cát Mẫu khoảng tầm sáu mươi đến bảy mươi tuổi, trông vẻ bề ngoài còn già nua hơn pháp sư Á La, gương mặt đầy những nếp nhăn sâu hõm, trên đầu chít khăn, nhưng không để tóc, mà chỉ có hai hàng râu dài bên mép và chòm râu dưới cằm tụ lại một chỗ.

Mã Cát cười cười nói: “Địch ô cũng có lúc không linh rồi nhé! Họ không phải người Hạ Qua Ba đâu, họ là quý khách từ bên ngoài tới đấy!” Tiếp đó, cô lần lượt giới thiệu từng người trong bọn Trác Mộc Cường Ba, rồi tự tiện lấy trong phòng trong của Địch ô đại nhân ra rất nhiều nệm cho mọi người ngồi xuống.

Sau khi biết được thân phận của mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, vị Địch ô đại nhân ấy liền thẳng thừng nói luôn: “Nói mục đích của các vị đi, những vị khách phương xa.”

Pháp sư Á La nói: “Chúng tôi tìm kiếm vết chân của Bạc Ba La quang vinh, đến vùng đất này, chúng tôi...”

“A!” Tuy biết rằng làm vậy là rất thiếu lễ độ, nhưng vị Địch ô An Cát Mẫu vẫn không sao nén nổi cất tiếng ngắt lời: “Người Qua Ba! Bạc Ba La thần miếu! Tôi hiểu rồi.” Ông đứng dậy, bất an đi đi lại lại mấy bước, đoạn nói: “Hình như tất cả những người từ bên ngoài đến, đều vì Bạc Ba La thần miếu cả. Nơi đó không dễ gì đến được đâu.” Ông đưa mắt liếc sang phía Mã Cát, rồi thở dài nói tiếp: “Thôi được, tôi có thể nói cho các vị biết chuyện về Bạc Ba La thần miếu và bộ tộc Qua Ba. Chỉ hiềm nỗi, những điều tôi biết cũng chẳng nhiều nhặn gì.”

Ông già vuốt vuốt lại vạt áo, ngồi trở xuống, chầm chậm cất tiếng: “Người Vi Đạt chúng tôi đã đến định cư ở nơi này từ rất sớm, rất sớm, chỉ hơi muộn hơn so với người ở hang và người núi tuyết thôi.”

“Người núi tuyết!” Nhạc Dương vừa nghe thấy cách phát âm đó đã kinh ngạc thốt lên. Cách phát âm chữ “người núi tuyết” của Địch ô An Cát Mẫu gần giống với “sa tư mã tang mễ” hoặc “cáp tư khoa ngưỡng hĩ”, còn khi Nhạc Dương ghép các âm “núi tuyết” và “người” trong tiếng Tạng cổ vào, thì lại nhận ra phát âm không giống thế. Pháp sư Á La bèn giải thích, cách phát âm “người núi tuyết” chắc là của tiếng Tượng Hùng, hoặc một loại ngôn ngữ cổ còn sớm hơn cả tiếng Tượng Hùng và vẫn được lưu giữ đến tận ngày nay, vì vậy không thể dùng tiếng Tạng cổ để ghép âm lại được.

Địch ô An Cát Mẫu dừng lại, Nhạc Dương ngại ngùng giải thích: “Tôi... tôi muốn nói, không biết Địch ô đại nhân có thể kể về người núi tuyết trong truyền thuyết của các vị được không.” Từ sau khi pháp sư Á La nhắc đến người núi tuyết, Nhạc Dương đã tra tìm trong kho dữ liệu của giáo sư Phương Tân các tư liệu về người tuyết Tây Tạng. Không tra thì không biết, tra ra liền không khỏi giật mình, từ cuối thế kỷ mười chín cho đến ngày nay, số lượng các ghi chép chính thức về việc tìm kiếm người tuyết ở dãy Himalaya và vùng phụ cận phải lên đến hơn nghìn, số lần các đoàn khảo sát tiến vào rặng núi với danh nghĩa tìm kiếm người tuyết, so với số lần khảo sát đỉnh Chomolungma còn nhiều hơn gấp bội.

Hơn nữa, bọn họ còn phát hiện ra rất nhiều thứ thú vị. Chẳng hạn, có nhà khoa học cho rằng, con người và người tuyết có cùng một tổ tiên. Hai triệu năm trước, Vượn người Phương Nam 

1

 bắt đầu từ trên cây xuống đất, mở ra một phương thức sinh tồn hoàn toàn mới. Vượn người Phương Nam có thân thể cao lớn, trong đó có một bộ phận tiến hóa thành người, còn một bộ phận khác thì phân hóa thành loại nhỏ bé, loại cao lớn và người nguyên thủy Paranthropus Boisei. Ban đầu, Vượn người phương Nam tiến hóa thành người khéo léo Homo habilis, cũng chính là những tổ tiên có thể chế tạo ra các công cụ bằng đá đơn giản, mở ra thời kỳ Đồ đá cũ của loài người.

Một triệu năm trước, băng hà bao phủ trái đất, tiến trình hoang mạc hóa ở châu Phi tăng tốc, một nhóm người Homo habilis ở châu Phi lại tiến hóa thành người đứng thẳng Homo erectus, họ học cách sử dụng lửa, ngôn ngữ cũng rõ ràng hơn. Đất đai châu Phi bị sa mạc hóa mỗi lúc một nhiều, khiến người đứng thẳng Homo erectus không thể không rời bỏ châu lục này, di cư đi khắp thế giới. Người vượn Bắc Kinh, người Nguyên Mưu, người Lam Điền rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đều thuộc nhánh người đứng thẳng Homo erectus này cả; người Homo erectus đến châu Âu muộn hơn một chút, ở đây, họ tiến hóa thành người Homo neanderthalensis.

Khoảng hai trăm năm mươi nghìn năm trước, môi trường châu Phi càng trở nên khắc nghiệt, một nhóm người đứng thẳng Homo erectus ở đây đã tiến hóa thành người có trí tuệ Homo sapiens, người Homo sapiens bắt đầu cuộc đại di cư toàn cầu lần thứ hai. Những người đứng thẳng Homo erectus ở những nơi khác cũng có sự tiến hóa với mức độ khác nhau, họ đã sống chung với người Homo sapiens trong một thời kỳ rất dài. Mãi đến khoảng sáu mươi nghìn năm trước, lại một đợt băng hà nữa phủ khắp địa cầu, môi trường sinh tồn trên cả trái đất đều trở nên khắc nghiệt, người Homo sapiens không ngừng tiến hóa trong lao động, cuối cùng đã trở thành người Homo sapiens kỳ cuối, hoặc gọi là người mới, người hiện đại, về ngoại hình và dung lượng bộ não gần như tương đương với con người ngày nay, và đồng thời dần dần thay thế người đứng thẳng Homo erectus vẫn chưa thể tiến hóa được. Người ta chia người Homo sapiens kỳ cuối ra làm bốn đại chủng: Trung Quốc, Đông Á, người Indian ở châu Mỹ chủng da vàng, gọi là người Mongoloid hay người Mông Cổ; người châu Âu, Bắc Phi, Nam Á thuộc chủng da trắng, hay gọi là người Oropeoit hay người Caucasoid; ngoài ra còn có chủng da đen ở châu Phi, da nâu ở châu Úc, từ đó hình thành cách cục của nhân loại ngày nay.

Điều khiến các nhà nhân loại học và nhà nghiên cứu Tây Tạng thấy thú vị là, có rất nhiều truyền thuyết viễn cổ của Tây Tạng có những điểm tương đồng đến đáng ngạc nhiên với lịch sử tiến hóa của loài người; chẳng hạn như truyền thuyết về nguồn gốc loài người của dân tộc Tạng cho rằng, con người từ loài vượn tiến hóa nên; còn cả truyền thuyết về cuộc chiến giữa người núi tuyết và người ở hang, gần như chính là một phiên bản của sự cạnh tranh giữa người Homo erectus và người Homo sapiens; thậm chí cả từ “người núi tuyết” cũng ngầm ám chỉ đến thời kỳ băng hà. Vì vậy, những nhà nhân loại học ấy suy đoán, người tuyết mà ngày nay vẫn được đồn đại lưu truyền trong vô số các câu chuyện, cũng như được rất nhiều người tận mắt trông thấy đó, rất có thể là một chủng người Homo erectus đã tiến hóa để thích nghi với sự sinh tồn vùng sông băng trong cuộc chiến giữa người Homo erectus với người Homo sapiens. Vì sông băng tan chảy, đa phần không gian sinh tồn còn lại đều bị người Homo sapiens chiếm cứ, duy nhất chỉ có cao nguyên núi tuyết trên nóc nhà thế giới này là vẫn còn giữ lại một mảng không gian thích hợp để người tuyết sinh tồn mà thôi.

Hơn nữa, thông qua nghiên cứu các tư liệu, Nhạc Dương và Trương Lập còn phát hiện, cả quá trình tiến hóa của loài người, cực kỳ tương đồng với quá trình sản sinh ra Lang vương mà giáo sư Phương Tân đã nói, gần như có thể nói là đồng nhất. Cũng có nghĩa là, dù là chủng loại nào, cũng đều phải trải qua một quá trình giống nhau, mới có thể tiến hóa nên đủ trí tuệ. Khi sự thay đổi khắc nghiệt của môi trường sống, cuộc sống lao động tập thể, những cuộc thiên di không ngừng, số lượng quần thể và năng lực chống lại môi trường đều đạt đến mức độ nhất định, thì bắt đầu định cư, trải qua nghìn vạn năm tích lũy, rồi mới từ từ thay đổi được.

Địch ô An Cát Mẫu không có những tri thức khoa học phổ thông này, nhưng ông được nghe những truyền thuyết từ đời cha ông, ông nội ông, cụ kỵ ông kể lại. Ông nói: “Người núi tuyết là một trong những cư dân sớm nhất của nơi này, tất cả các truyền thuyết đều nói như vậy. Chiều cao của họ ít nhất cũng gấp đôi người bình thường chúng ta, tương truyền rằng, người núi tuyết có lớp lông rất dày, đi lại dễ dàng trên núi tuyết, không hề sợ đóng băng và giá lạnh; dùng tay không có thể đánh ngã được bò rừng và báo tuyết; họ cũng có bộ lạc, có công cụ sản xuất của riêng mình, có điều so với công cụ của chúng ta thì hơi kém một chút. Hầu hết đều bằng đá, cũng có một ít chế phẩm kim loại. Nhưng truyền thuyết về họ rất ít, dù sao thì trong chúng tôi cũng chưa ai từng thấy họ cả, mà có rất nhiều truyền thuyết còn do người Hạ Qua Ba kể lại cho chúng ta nữa.”

Thấy phần nội dung truyền thuyết mà Địch ô An Cát Mẫu kể ra quá ít, Nhạc Dương không khỏi chau mày lại, thoáng nheo mắt, anh liền thấy pháp sư Á La đang nhìn mình chằm chằm, ý chừng muốn nhắc anh đừng tùy tiện ngắt lời Địch ô An Cát Mẫu nữa.

Địch ô An Cát Mẫu thấy Nhạc Dương không còn câu hỏi nào khác, mới tiếp tục nói: “Thực ra, tổ tiên chúng tôi tới vùng đất này là để tránh chiến tranh loạn lạc, những người tới đây gần như đều có cùng một mục đích ấy. Người Qua Ba là nhóm cuối cùng thiên di tới chốn này, nhưng lại là những người mạnh mẽ nhất, tuy họ cũng giống như chúng ta, đều được gọi là hậu nhân của người ở hang, nhưng niên đại cách nhau quá xa, nên giữa hai bộ tộc có những khác biệt rất lớn. Bọn họ chiếm cứ tầng cao nhất vốn thuộc địa bàn của người núi tuyết, đồng thời điều động nhân thủ ở Thánh vực xây dựng nên Bạc Ba La thần miếu, không có bộ tộc nào dám phản kháng cả.”

“Tại sao lại chọn tầng cao nhất?” Đội trưởng Hồ Dương buột miệng hỏi. Tầng bình đài thứ hai này ước chừng ở độ cao khoảng bốn nghìn mét so với mực nước biển, còn tầng thứ ba thì xấp xỉ đạt sáu nghìn mét, gần đến lằn ranh tuyết, mà độ cao quá năm nghìn mét so với mực nước biển không thích hợp cho con người sinh sống, đây là thường thức hiển nhiên.

Địch ô đại nhân đáp: “Tại sao ư? Có thể vì người ở trên đó ít nhất. Trước khi người Qua Ba tới đây, tầng bình đài thứ ba hầu như chỉ có người núi tuyết, môi trường trên đó không thích hợp lắm cho các bộ tộc khác sinh sống, nhưng khi người Qua Ba cưỡng chiếm nơi đó, những người núi tuyết phản kháng hoặc bị giết, hoặc đều bỏ trốn cả. Về sau mới có truyền thuyết kể rằng, bộ tộc Qua Ba tìm được một nơi gần như hoàn mỹ, vì chỗ đó lúc nào cũng có băng tuyết và sương mù bao phủ, nên chưa từng được phát hiện bao giờ. Tương truyền rằng, nơi ấy có một vùng đất rộng lớn, không có thời tiết biến đổi, không có những khu rừng Xương Trắng và lũ ác thú khủng khiếp, lại rất gần núi Thần. Ở nơi ấy, đồng cỏ mãi mãi một màu xanh, mãi mãi ấm áp, mây mãi mãi giữ một màu trắng, từ đầu năm tới cuối năm đều là mùa xuân. Cũng có truyền thuyết nói rằng, người Qua Ba đã tạo nên tất cả những thứ ấy, tóm lại là, trong truyền thuyết, người Qua Ba thực sự rất lớn mạnh, họ có những loại vũ khí mạnh nhất, có vu sư mạnh nhất, có quân đội mạnh nhất, kỹ nghệ của họ khiến người ta phải kinh ngạc, trí tuệ của họ lại càng cao tuyệt. Họ không sử dụng chữ Mã Nhĩ nữa, mà dùng một loại văn tự khác, lại còn phát minh ra thứ dùng để viết chữ, không cần viết trên vỏ cây nữa. Chẳng những thế, họ còn có thần thông thao túng được cả ngọn lửa, khiến khúc cây tự động di chuyển...” Nói tới đây, Địch ô An Cát Mẫu ngừng lại, mỗi lần nghe thấy các thông tin này, những người từ bên ngoài đến thông thường đều hết sức kinh ngạc.

Có điều, mấy người này hình như chẳng hề ngạc nhiên một chút nào, mà chỉ tiếp tục hỏi: “Về sau thì sao? Sau khi người Qua Ba chiếm lĩnh tầng bình đài thứ ba thì thế nào?”

“Về sau...” Địch ô đại nhân lục tìm trong ký ức, “truyền thuyết kể rằng họ đã xây dựng rất nhiều tòa thành đá trên tầng bình đài thứ ba, đến cả những người thợ xây bị chiêu mộ cũng phải thừa nhận đó là một kỳ tích, là điềm lành do thần ưng trên trời đưa tới, những truyền thuyết tôi vừa kể cho mọi người đó cũng là do họ mang về. Nhưng về sau người Qua Ba đã bảo vệ rất chặt những tòa thành ấy, họ đuổi hết những người khác xuống các tầng dưới, mọi bộ tộc khác đều không được phép đặt một chân lên tầng thứ ba này, vì thế, những chuyện xảy ra sau đó, chúng tôi cũng không thể nào biết được. Cũng từng có người thử tìm cách lén lên tầng thứ ba, nhưng nghe nói những người Thượng Qua Ba ở trên đó đều không chút nương tình mà giết sạch tất cả những kẻ nào dám đặt chân lên đất cấm của họ.”

“A, sao lại thế?” Mã Cát không kìm được buột miệng thốt lên. Kể cả pháp sư Á La, tất cả những người khác đều cảm thấy thật khó tin.

“Nếu những người lên đó đều bị giết chết, vậy làm sao tin tức lan truyền xuống dưới đây được?” Nhạc Dương thắc mắc.

Địch ô đại nhân đáp: “Thì cũng có những dũng sĩ liều chết lên tầng bình đài thứ ba và may mắn chạy thoát trở về. Trước đây, người Thượng Qua Ba về đại thể cũng giống như chúng tôi, phân bố khắp nơi, chủ yếu sống thành các bộ lạc, mà giữa các bộ lạc cũng có tranh đấu, hiềm khích, vì vậy, chỉ cần ở trên đó cẩn thận không để gặp phải bọn họ thì cũng vẫn còn cơ may sống sót trở về. Đương nhiên, những tin tức này cũng mới lan truyền đi từ một hai trăm năm gần đây. Theo các truyền thuyết xa xưa của bộ tộc, vào khoảng mấy trăm năm trước, những người lên tầng bình đài thứ ba đó đều tuyệt đối không có bất cứ cơ hội nào để sống sót trở về, nhất loạt đều ra đi rồi biến mất vĩnh viễn.”

Đám Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn nhau ngơ ngác. Không đúng rồi, cách nói này hoàn toàn không khớp với những gì họ đã biết. Bộ tộc Qua Ba chính là Đạo quân Ánh Sáng, đó là một cánh quân hoàn chỉnh, sao lại có thể phân chia thành các bộ lạc khác nhau được? Lẽ nào vì thời gian quá lâu, Đạo quân Ánh Sáng cũng bị phân chia thành từng nhóm nhỏ, rồi tranh đấu với nhau để giành được quyền thống trị tối cao? Còn pháp sư Á La thì lại càng thầm khẳng định, tuyệt đối không thể nào, nhất định là có sai sót gì ở đâu đó? Truyền thuyết sai ư? Hay là những người tự xưng đã lên tầng thứ ba ấy, căn bản chưa từng đặt chân lên đó, chẳng qua chỉ bịa tạc ra để lòe bịp mọi người mà thôi?

“Họ lên đó làm gì vậy?” Nhạc Dương thắc mắc.

“Làm gì ư?” Địch ô An Cát Mẫu cười khổ đáp: “Tại sao các vị lại không ngại đường xa ngàn dặm, không sợ bao hiểm nguy gian khó trùng trùng trên đường để tới tận nơi này? Tại sao khi đồng bạn tử thương vô số, các vị cũng vẫn không chịu quay đầu? Đừng nói vói tôi rằng, các vị đến được đây mà không hề thương vong gì. Vậy thử hỏi, các vị vì điều gì mà nhất định phải lên tầng bình đài thứ ba ấy?” Nhạc Dương toan mở miệng, Địch ô An Cát Mẫu lại tiếp lời: “Chúng tôi, cũng giống như các vị thôi, nghe nói phía trên đó có vùng đất được thần linh ban phước, có thức ăn không bao giờ cạn kiệt, không có thiên địch và dã thú xâm hại, có ai mà không muốn tận mắt nhìn thấy một lần trong đời chứ? Tình trạng của chúng tôi ở đây thế nào, các vị cũng đều đã thấy cả rồi, chiến tranh, bệnh dịch, dã thú đầy rẫy khắp nơi, mỗi ngày chúng tôi đều phải vật lộn vùng vẫy trên lằn ranh sinh tử, mỗi năm đều bị cái đói và bệnh tật cướp đi không biết bao nhiêu sinh mạng. Càng huống hồ, những năm gần đây, những người ‘giáp mễ’ từ bên ngoài đến như các vị mỗi lúc một nhiều, từ nơi bọn họ, chúng tôi biết được rằng ở bên ngoài có một thế giới hoàn toàn khác với nơi đây, một thế giới rộng lớn vô cùng. Một thế giới, nếu đi bộ thì tốn mười năm cũng chẳng thể đi hết. Những người ấy có màu da khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, lại còn phát minh ra những thứ dẫu có trong mơ chúng tôi cũng không thể tưởng tượng ra nổi nữa. Thử hỏi, các vị có biết rằng, những người sống ở đây khát khao được rời khỏi chốn này thế nào hay không? Họ khát khao được ra xem thế giới bên ngoài ấy, tận mắt nhìn thấy con chim sắt biết bay trong truyền thuyết, nhìn thấy những con sâu sắt khổng lồ có bánh, không cần sức người sức ngựa cũng có thể lao như bay về phía trước...”

Cứ nói, nói mãi, khóe mắt Địch ô đại nhân cũng hơi ươn ướt: “Thế nhưng, người Qua Ba đã xây nên một rào chắn không thể nào vượt qua ở phía trên đó, họ khiến người bên ngoài không thể tìm được nơi này, đồng thời cũng khiến người ở trong đây không thể ra thế giới rộng lớn ngoài kia. Nhiều lúc, những người dân bình thường có thể sẽ cho rằng, những dũng sĩ đã lên trên ấy và không bao giờ trở về nữa, chắc hẳn đã tìm được lối ra, và rời khỏi nơi đây rồi cũng nên. Tuy rằng biết rõ là không thể nào thế được, nhưng họ vẫn không sao kìm nén được suy nghĩ ấy. Càng huống hồ, rất nhiều lúc, chúng tôi còn buộc phải lên trên đó nữa.”

Địch ô An Cát Mẫu lại đổi giọng, chầm chậm thở dài nói: “Như các vị đã thấy đấy, ở tầng thứ hai này thời tiết biến đổi rất đa đoan, có lúc chỉ cần một trận thiên tai thôi cũng đủ khiến cả một bộ lạc mất hết mùa màng rồi. Ví như mấy bộ lạc ở phương Bắc chẳng hạn, gặp một trận lụt lớn, vậy là chẳng thu hoạch được một hạt lương thực nào. Mà người Hạ Qua Ba thì cũng không phải năm nào cũng xuất hiện, có khi mấy chục năm họ mới xuất hiện một lần cũng không chừng. Để bộ lạc có thể tiếp tục sinh tồn, các dũng sĩ của Yaca buộc phải liều chết lên tầng thứ ba ăn trộm hạt giống, còn dũng sĩ của Langbu chúng tôi thì phải vượt qua rừng Xương Trắng xuống chỗ của người Hạ Qua Ba bên dưới. Lương thực của người Hạ Qua Ba lúc nào cũng sung túc dồi dào, nếu gặp may, thì thường thường cũng có dũng sĩ mang được hạt giống trở về. Có điều, đến giờ thì e rằng phía Yaca khó lòng mà trộm được hạt giống của họ nữa rồi, chỉ mong các bộ lạc bên đó vẫn có thể tiếp tục cầm cự được.”

“Tại sao thế?”

“Ba năm trước, các dũng sĩ đi trộm lương thực, kết quả là bị tiêu diệt toàn bộ, chỉ có một người chỉ còn một tay một chân bò về được đến Côn Ba Thoát, người đó mang về một tin tức, nói rằng, người Qua Ba đã có vương của họ rồi.”

Nhìn những ánh mắt có vẻ không hiểu lắm của những vị khách phương xa, Địch ô An Cát Mẫu giải thích: “Người Qua Ba vốn cũng giống như các bộ lạc ở tầng thứ hai này, họ phân tán ra sống ở các khu vực khác nhau theo từng bộ lạc, giữa các bộ lạc ấy thường có khoảng cách, dường như cũng không hòa bình gì cho lắm. Thế nhưng, một khi họ đã có vương, vậy thì tình hình sẽ hoàn toàn khác. Có nghĩa là, toàn bộ người Thượng Qua Ba trên tầng thứ ba đều đã được thống nhất thành một mối. Giờ thì chỉ biết hy vọng, bọn họ sẽ không tiêu diệt hết các bộ lạc như chúng tôi mà thôi.”

Pháp sư Á La lại hỏi: “Vậy còn Hạ Qua Ba tộc? Hạ Qua Ba tộc là như thế nào?”

Địch ô đại nhân gật đầu, nói: “Sự thực là, trong các truyền thuyết của đời trước lưu truyền lại, có một khoảng thời gian rất dài chúng tôi không hề biết về sự tồn tại của người Hạ Qua Ba. Khoảng chừng hơn trăm năm sau khi người Thượng Qua Ba xuất hiện, chúng tôi mới biết rằng còn có người Hạ Qua Ba nữa. Bọn họ nói rằng, họ và người Thượng Qua Ba cùng đến vùng đất này, nhưng không hiểu vì nguyên do gì, họ lại ở phía bên dưới mà không tiếp tục đi lên trên cao.”

“Vậy tại sao họ lại bị tiêu diệt thế?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Địch ô An Cát Mẫu cười khổ, lắc đầu: “Làm sao tôi biết được? Nhưng chắc đến quá nửa là có liên quan đến người Thượng Qua Ba rồi. Một hai trăm năm gần đây, những thôn làng bị tiêu diệt đa phần đều có liên quan đến người Thượng Qua Ba. Các thôn làng bên Yaca còn bị tiêu diệt nhiều hơn, ví như trộm lương thực bị phát hiện, là phải chuẩn bị tâm lý đón nhận kết cuộc ấy rồi.”

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: “Sao có thể vậy được!” Rất rõ ràng, những hạt giống ấy có lẽ chính là “lương thực vàng” mà đội trưởng Hồ Dương nói tới. Lẽ nào vì chất đất hay nguyên nhân nào đó khác, khiến cho sản lượng của “lương thực vàng” trồng trên tầng bình đài thứ hai này sau mấy đời liền giảm xuống? Mà dù có thế chăng nữa, những người Thượng Qua Ba kia có nhiều lương thực đến độ ăn chẳng hết, chia một phần cho cư dân ở tầng thứ hai này thì có làm sao? Lại còn cấm cửa người ta, một khi phát hiện kẻ nào xâm phạm, liền tiêu diệt toàn bộ thôn làng bộ lạc của họ, đây là đạo lý gì chứ? Còn người Hạ Qua Ba nữa, sao họ lại kinh động đến người Thượng Qua Ba? Ruộng của họ cũng có “lương thực vàng”, có thiếu thốn gì nữa đâu?

Pháp sư Á La đưa tay ngăn Trác Mộc Cường Ba lại, tiếp tục hỏi: “Chuyện người Hạ Qua Ba bị tiêu diệt xảy ra vào lúc nào vậy?”

Địch ô đại nhân đáp: “Ừm, chắc khoảng bốn năm trước gì đó, lúc đó cả thôn Côn Ba Thoát và Thư Đội Công Nhật đều bị kinh động, vì có cả một nhóm lớn người Thượng Qua Ba đi qua khu vực gần thôn làng bọn họ. Họ còn tưởng rằng làng mình sắp bị đồ sát nữa cơ.”

“Bốn năm trước, cũng chính vào khoảng thời gian đó, người Qua Ba điên ấy thoát ra khỏi nơi này. Nếu là vậy, nếu là vậy thì thời gian đã gắn kết với nhau rồi. Thì ra ngôi làng bên dưới bị người Thượng Qua Ba tiêu diệt, thang trời và bánh xe nước cũng bị người Thượng Qua Ba phá hoại. Nhưng mà, kết quả khám nghiệm thi thể cho thấy, những vết thương đó đều không phải do vũ khí của con người tạo nên, việc này thì giải thích thế nào đây nhỉ? Đúng rồi, Thủ hộ linh! Nhất định là thế rồi!” Nhạc Dương đã sắp xếp lại toàn bộ các đầu mối thành một đường liền mạch trong óc.

Nói tới đây, Địch ô An Cát Mẫu đã đứng lên, đảo mắt nhìn những vị khách lạ, đoạn tiếp lời: “Được rồi, đó là rất cả những gì tôi biết, nhiều chuyện bản thân tôi cũng không hiểu rõ cho lắm. Nếu các vị còn muốn tìm hiểu thêm nữa, hay là đến Tước Mẫu tìm Đại Địch ô Thứ Kiệt đại nhân của vương quốc Langbu chúng tôi đi, ông ấy biết rất nhiều bí mật. Vả lại, rất nhiều truyền thuyết tôi biết, đều là nghe ông ấy truyền lại cả.”

Thấy Địch ô đại nhân hơi cúi người, bọn Trác Mộc Cường Ba vội vàng đứng dậy nói: “Được Địch ô đại nhân cho biết nhiều điều như vậy, chúng tôi thực sự vô cùng biết ơn. Cũng làm phiền ngài lâu quá rồi, thật xin lỗi. Vậy, vậy chúng tôi, xin phép được cáo từ ở đây.”

Mã Cát đứng bên cạnh bèn cất lời mời: “Đến nhà em đi, nhà em ở ngay phía trước đây thôi...”

Địch ô đại nhân mỉm cười nói: “Có gì đâu, vừa nãy nghe nói có người Hạ Qua Ba đang phân phát thức ăn, lại còn trị bệnh cho người trong thôn chúng tôi nữa, tôi phải cảm ơn các vị mới đúng. À, đợi đã... Cường Ba!”

Trác Mộc Cường Ba vừa bước ra đến cửa, ánh sáng của Shangri-la đang chiếu lên người gã. Gã quay người lại, thấy Địch ô đại nhân đang nhìn mình với ánh mắt kỳ lạ rồi cất tiếng hỏi: “Tôi có thể xem mắt của anh được không? Trác Mộc Cường Ba?”

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu. Địch ô đại nhân bèn đưa hai cánh tay gầy guộc khô héo ra, kéo mí mắt gã xuống, chỉ thấy bên dưới và hai bên nhãn cầu, có khá nhiều sợi tơ máu màu xanh rất khó nhận ra, thậm chí có sợi đã chuyển sang màu đen, thoạt trông giống như con sâu nhỏ màu đen đang bò theo nhãn cầu vươn thẳng vào trong xương sọ.

Địch ô An Cát Mẫu lùi lại một bước, hít sâu rồi thở hắt ra: “Không ngờ lại là nó.”

Bọn Trác Mộc Cường Ba dường như cũng biết Địch ô An Cát Mẫu nói đến thứ gì, pháp sư Á La kinh ngạc hỏi: “Địch ô nhận ra ư?”

Địch ô An Cát Mẫu đáp: “Ừm, Đại Thanh Liên cổ trong Địa Ngục Bát Đại Cổ Độc, thì ra các vị cũng biết, bao nhiêu lâu rồi?”

Trác Mộc Cường Ba không sao kìm nén được cảm giác vui sướng dâng trào lên trong tâm khảm, không ngờ chưa cần đến Bạc Ba La thần miếu, mới tới thôn làng đầu tiên ở Shangri-la đã có người nhận ra được loại cổ độc này rồi, thử hỏi gã làm sao mà không vui mừng ra mặt cho được. Gã nôn nóng nói: “Tôi, tôi vẫn còn ba tháng thời gian, Địch ô đại nhân, tôi... tôi... có thể trị được không vậy?”

Pháp sư Á La đứng bên cạnh bổ sung thêm: “Đây cũng là một mục đích tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu của chúng tôi.”

Địch ô An Cát Mẫu nhìn pháp sư Á La với ánh mắt ngờ vực, tựa như rất khó tin Bạc Ba La thần miếu lại có phương pháp trị liệu cổ độc, ông vân vê chòm râu dài, rồi khe khẽ lắc đầu: “Ừm, Đại Thanh Liên, không ngờ trong những năm còn sống trên đời này, tôi lại có thể thấy nó lần nữa. Tôi không biết cách giải, nhưng vẫn một câu nói đó thôi, hãy đi tìm Đại Địch ô Thứ Kiệt đại nhân. Trước đây, tôi từng thấy Đại Thanh Liên cổ một lần, chính là do ông ấy sử dụng.” Cả bọn đều hiểu ý của Địch ô An Cát Mẫu, nếu đã có thể sử dụng, vậy thì quá bán là cũng có thể giải trừ loại cổ độc này.

“Có điều...” Địch ô An Cát Mẫu lại bổ sung thêm, “tốt nhất các vị nên cẩn trọng, Thứ Kiệt đại nhân không dễ nói chuyện như tôi đâu.”

“Vậy thế, từ đây đến Tước Mẫu cần bao nhiêu thời gian vậy?” Nhạc Dương hỏi thêm.

Địch ô đại nhân đáp: “Nếu không xảy ra chuyện gì, khoảng ba ngày đi bộ là tới nơi rồi.”

“Cám ơn, thật vô cùng cám ơn ngài!” “Cám ơn ngài lắm, Địch ô đại nhân.” Mỗi người đều bày tỏ sự cảm kích của mình với Địch ô An Cát Mẫu.

Rời khỏi căn nhà của Địch ô An Cát Mẫu, chỉ thấy Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đã bị một đám đông vây kín. Hai cô đang khám bệnh cứu người, phân phát các thứ cần thiết cho cuộc sống, bận đến không ngơi tay ngơi chân ra được giây phút nào.

“Giáo quan!” “Cô Mẫn Mẫn!” Trương Lập và Nhạc Dương từ đằng xa đã ngoác miệng hét lên, họ đều nôn nóng muốn báo tin này cho hai người. Cường Ba thiếu gia được cứu rồi, đây là tin mừng tày trời chứ chẳng chơi!

Nghe thấy tin tức khiến lòng người phấn chấn ấy, Mẫn Mẫn hạnh phúc gục đầu vào vai Trác Mộc Cường Ba, kích động nói trong nước mắt: “Anh Cường Ba, đúng là người tốt sẽ có phúc, em biết là anh sẽ không sao mà.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Phải rồi, phải rồi, anh sẽ không sao đâu. Được rồi, đừng khóc nữa, bao nhiêu người đang nhìn kìa. Bọn Trương Lập, Nhạc Dương cũng sẽ cười em nữa đó.”

Lữ Cánh Nam đứng một bên, nét mặt cũng lộ vẻ hân hoan mừng rỡ. Cô liếc nhìn đám người đang chen chúc, vội gọi đội trưởng Hồ Dương và pháp sư Á La: “Mọi người, mau giúp tôi phân phát các thứ này.”

Nhạc Dương cảm thấy hơi tiêng tiếc, bèn nói: “Giáo quan, phân phát hết đồ ăn cho dân làng, vậy chúng ta thì sao?”

Lữ Cánh Nam nói: “Chúng ta ăn làm sao hết được nhiều thế? Nhưng đối với những người này, thì có thể cứu mạng họ đó! Nếu không tới đây, Cường Ba... làm sao... làm sao có thể...” Nói tới đây, trong mắt cô đượm lên một vẻ dịu dàng.

Cả bọn bận rộn suốt cả ngày trời, Mã Cát nhìn Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thuần thục chữa trị cho dân làng, nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, rồi nhân lúc rảnh rỗi, gọi Mẫn Mẫn ra nói: “Chị Mẫn Mẫn, ngày mai nếu mọi người có thời gian, em muốn, em muốn nhờ mọi người đến thăm mấy người bệnh nặng lắm.”

Đường Mẫn nói: “Ngày mai à, ngày mai bọn chị phải đi Tước Mẫu rồi, bệnh của anh Cường Ba phải trị gấp. Hay là tối nay em dẫn đi luôn, biết đâu có thể giúp được gì cho họ.”

Mã Cát len lén liếc mắt sang phía Trương Lập. Trương Lập nãy giờ vẫn chăm chú ngắm nhìn Mã Cát, thấy cô đưa mắt qua, hai má liền đỏ bừng lên, cố làm ra vẻ bình tĩnh ngoảnh đầu đi. Bấy giờ, Mã Cát lại lấy làm khó xử nói: “Ngày mai đã đi rồi sao?”

“Ừ, nhưng bọn chị sẽ trở lại thăm em mà.”

“Tối nay thì không được rồi, chỗ đó ở bên ngoài thôn làng cơ. Ngày mai, ngày mai mọi người cũng sẽ đi qua nơi ấy đấy.” Mã Cát nghĩ ngợi giây lát, rồi nói.

“Được rồi.” Đường Mẫn liền gật đầu đáp ứng.

Chương 12

Lịch sử Thánh vực

Buổi tối, cả bọn kéo đến nhà Mã Cát. Nhà cô ở phía Bắc thôn, nằm bên con sông nhỏ, căn nhà không lớn lắm, nhưng được quét dọn rất sạch sẽ. Nhà chia làm hai tầng, có cầu thang độc mộc dẫn lên xuống, hai tầng đều trổ ô cửa sổ nhỏ hướng về phía ánh sáng, chỗ thông phong có bếp lửa. Trong nhà gần như không có đồ đạc gì, chỉ có mấy món đồ thêu đơn giản treo trên tường.

Bữa tối rất bình thường, chẳng có gia vị gì, thức ăn đạm bạc, song cũng đã lâu lắm rồi họ không được ăn thứ gì ngoài lương khô. Cơm nắm, bánh rau dại, một ít nấm ngâm muối hoặc hong khô, trộn với thứ bột cay cay giống như ớt, Mã Cát còn lấy ra một loại thức uống tự chế khá giống rượu gạo, mấy người bọn đội trưởng Hồ Dương đều nức nở khen ngon.

Trong bữa ăn, Trác Mộc Cường Ba hỏi Mã Cát về lịch sử của Thánh vực và tình hình các thôn làng xung quanh. Cô bèn kể lại một lượt những gì mình biết, những truyền thuyết đã được nghe cho họ.

Thánh vực này được ai phát hiện, phát hiện vào lúc nào thì từ lâu đã chẳng còn ai biết được. Chắc là từ rất lâu, rất lâu trước đây, hơn một vạn năm trước, đã có những cư dân nguyên thủy cư trú ở gần núi tuyết phát hiện ra chốn này. Vì nơi này không có gió thốc dữ dội, có thể coi là một ốc đảo giữa vùng băng tuyết, nên lẽ tự nhiên là có người di cư tới đây. Trải qua hơn vạn năm, không biết đã có bao nhiêu bộ tộc thiên di tới. Tính riêng các bộ tộc mà Mã Cát biết, đã có thôn Mã Ba ở gần đây tự xưng là hậu duệ của người Cát, mà người Cát lại phát triển từ người dân tộc Mục mà ra; dân làng Đa Ngưỡng thì cho rằng tổ tiên của mình là người dân tộc Niên đầu sói; các làng Qua Ninh, Na Ninh thì lần lượt là hậu duệ của người Côn Ngô, người Vi; làng Vị Huyết Nhẫn khá lớn mạnh là hậu duệ của bộ tộc Bạch Lang;... gần như mỗi thôn làng đều là một chủng tộc khác nhau.

Pháp sư Á La nghe khá chăm chú, phát hiện ra một điều đáng kinh ngạc, mấy chủng tộc mà Mã Cát thuận miệng kể ra ấy, không ngờ bao gồm cả những chủng tộc khởi nguyên trong truyền thuyết của người Tạng và cả tộc Khương, tộc Địch trong các ghi chép lịch sử thời Hạ, Thương, Chu. Khoảng cách về cả thời gian và cương vực của những dân tộc này đều cực lớn. Nói một cách dễ hiểu hơn, thì ở đây vừa có người triều Hạ, vừa có người triều Thương, hay người nước Tần, nước Tề thời Chiến Quốc là hàng xóm, hoặc Hung Nô triều Hán và Đột Khuyết thời Đường ở sát cạnh nhau, đi vài bước là tới.

Về lịch sử của Thánh vực thì Mã Cát cũng chỉ biết ngần ấy. Tới đây sớm nhất là người núi tuyết, cũng có truyền thuyết nói rằng, người núi tuyết vốn là những sự sống được núi tuyết mang thai đẻ ra, vì vậy bọn họ vốn đã cư trú trên tầng bình đài thứ ba kia rồi. Về sau mới lục tục có những người khác tới đây. Mới đầu người ít, đất rộng, ai nấy đều tìm những vùng đất thích hợp để sinh sống, sản xuất, mọi sự hết sức bình an vô sự. Về sau khi người dần đông lên, không tránh khỏi việc xuất hiện những tranh chấp. Thánh vực này cũng chẳng khác gì những nơi khác bên ngoài, hết phân rồi lại hợp, hợp rồi lại phân, có điều quy mô và mức độ thảm khốc nhỏ hơn rất nhiều mà thôi. Cũng đã từng xuất hiện một khoảng thời kỳ thống nhất ngắn ngủi, nghe đâu gọi là Vương triều Thái Dương gì đó, nhưng thời gian cũng không được dài lắm, sau rồi lại phân khai. Còn về người núi tuyết ở tầng bình đài thứ ba, vì việc lên xuống một tầng không phải chuyện dễ, vả lại thời đó tầng thứ ba ấy còn chưa có người Qua Ba xuất hiện, không giống như bây giờ. Thời đó, trên tầng thứ ba cũng thiên tai liên tiếp, mà có những nơi còn thoắt nóng thoắt lạnh, ngoài người núi tuyết ra, đó không phải là nơi thích hợp cho tất cả mọi người cùng sinh tồn, vì vậy, trong truyền thuyết, suốt một hai vạn năm liền đều chỉ có người núi tuyết sống ở trên đó.

Nhạc Dương lại hỏi cặn kẽ Mã Cát về tình hình của những người tuyết ấy, đặc biệt là sau khi bị người Qua Ba đánh bại, kết cục của họ như thế nào? Nhưng Mã Cát chỉ có thể lắc đầu trước câu hỏi ấy. Người ở bên ngoài thi thoảng còn có cơ hội thấy bóng dáng người tuyết, nhưng người ở Thánh vực thì không như vậy, bọn họ cơ hồ chưa từng thấy người núi tuyết lần nào, mà biết rằng có một chủng người như vậy nhờ các truyền thuyết cổ xưa. Vả lại, họ nhớ đến người núi tuyết đa phần cũng chỉ vì người Qua Ba, còn chuyện người núi tuyết bị người Qua Ba đánh bại, bỏ trốn, trốn chạy đến nơi đâu thì ai có thể biết được chứ?

Nhạc Dương không khỏi thêm một lần thất vọng, đành nghe Mã Cát kể tiếp.

Thời bấy giờ cũng có những bộ tộc đến đây, phát hiện nơi này không thích hợp cho họ sinh tồn, rồi lại ra đi. Nhưng nơi này gần như hoàn toàn ngăn cách với thế giới bên ngoài, nên dù là tới đây, hay rời khỏi nơi đây, cũng phải chuẩn bị sẵn tâm lý mười người chỉ có thể sống một, đồng thời phải đối mặt với kết quả đó. Nhưng rốt cuộc vẫn có những người sống sót rời khỏi nơi đây, họ đã mang sự tồn tại của Thánh vực này lan truyền đi khắp nơi như một thần thoại. Vì vậy, từ hơn nghìn năm trước, ở cao nguyên Thanh Tạng chắc hẳn có khá nhiều người đã nghe nói đến các truyền thuyết tương tự, biết rằng có một nơi như thế tồn tại trên đời, cho tới khi những người Qua Ba đến đây.

Vào khoảng hơn một nghìn năm trước, một nhóm người Qua Ba đông nhất đã đến nơi này, sự lớn mạnh của họ khiến tất cả những bộ tộc khác ở Thánh vực đều không dám phản kháng. Mới đầu mọi người còn chưa biết đến sự tồn tại của họ, đợi khi phát hiện ra, thì người Qua Ba đã chiếm cứ toàn bộ tầng bình đài thứ ba, đồng thời đánh đuổi người núi tuyết ra khỏi vùng đất của họ. Bấy giờ cư dân Thánh vực còn ngỡ rằng nơi này sẽ lại thống nhất về một mối, nhưng về sau mới phát hiện ra, người Qua Ba vốn không hề có dự định này, họ chỉ đến các thôn làng bắt đi thanh niên trai tráng để lên tầng thứ ba xây dựng thành trì. Đồng thời, họ cũng mang đến cho cư dân ở Thánh vực một tin tức: bên ngoài núi tuyết đang chìm vào một thời kỳ đen tối nhất, hỗn loạn nhất; để tránh chiến hỏa lan đến nơi đây, Thánh vực đã bị bọn họ phong tỏa, cấm chỉ bất cứ người nào ra vào. Ngoài ra, họ cũng hứa sẽ mang đến cho tất cả một cuộc sống an cư lạc nghiệp. Quy củ được đặt ra từ đấy. Sau đó, thì không còn ai có thể ra thế giới bên ngoài kia nữa.

Nghe nói là không chỉ có một tòa thành đá, không biết bao nhiêu đời người, bỏ ra hơn trăm năm mới hoàn thành. Tất cả cư dân Thánh vực đều vô cùng hân hoan chờ người Qua Ba thực hiện lời hứa của họ, mang đến cho mọi người một cuộc sống no đủ, không có bệnh tật, người cấy cày có ruộng có vườn, ai ai cũng có nhà ở thoải mái. Chẳng ngờ rằng, sau khi xây xong các tòa thành đá, người Qua Ba trên tầng thứ ba ấy liền không còn liên hệ gì với họ nữa. Còn những người già thuộc nhóm cuối cùng tham gia xây dựng những tòa thành đá ấy, cũng không nói năng nửa lời về chuyện này, tựa hồ đã xảy ra biến cố kỳ lạ gì đó, chỉ trong những lúc hồi tưởng lại, mới cảm thán thốt lên hai tiếng: “Kỳ tích!”

Sau rồi thì chuyện về tầng thứ ba và người Qua Ba đều nhạt dần, cư dân Thánh vực lại sống cuộc sống vạn năm nay vẫn không thay đổi của họ, chỉ có điều, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, không còn người nào rời khỏi đây nữa. Nói tới đây, Mã Cát đặt một ngón tay lên môi dưới, nghiêng nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, rồi ngạc nhiên thốt lên: “Kỳ lạ lắm nhé, sau khi các tòa thành đá được xây, trong các truyền thuyết kể lại, suốt mấy trăm năm liền Thánh vực đều không có chiến tranh nổ ra. Lúc ấy mọi người còn rất đoàn kết, sống tự cấp tự túc, không tranh đoạt gì cả.”

Sau một thoáng kinh ngạc, Mã Cát kể tiếp, không rõ từ lúc nào, Thánh vực lại bắt đầu bùng nổ chiến tranh, kể từ đó thì chiến loạn kéo dài liên tu bất tận, thôn làng đánh với thôn làng, bộ lạc đấu với bộ lạc, rồi lại hình thành nên các liên minh thôn làng, liên minh bộ lạc, rồi các liên minh đánh nhau, đánh mấy chục mấy trăm năm liền, cuối cùng thì lấy biển Sinh Mệnh làm ranh giới, hình thành nên hai vương quốc lớn Langbu và Yaca. Sau khi hai vương quốc lớn này được thành lập, từng có một độ huy hoàng, tưởng rằng đã lớn mạnh lắm. Không biết ai đã đề xướng ra việc lên tầng thứ ba, nhưng chẳng ai ngờ được rằng, đội quân mà họ tưởng là mạnh mẽ ấy, mới lên tầng thứ ba đã bị tiêu diệt toàn bộ. Khi đó, người ta mới nhớ ra quy củ mà người Qua Ba đã đặt ra từ thuở trước: bất cứ ai, cũng không được ra vào!

Chuyện Mã Cát biết, đại để cũng chỉ có vậy. Bọn Trác Mộc Cường Ba cũng đã biết, ở thôn Công Nhật Lạp và các thôn làng khác, dân chúng thông thường đều chỉ có ngôn ngữ của mình mà không biết chữ, người duy nhất thực sự hiểu biết và nắm bắt được các tri thức, e rằng chỉ có vị Địch ô trong thôn làng. Còn tư liệu văn hiến, thì chỉ Đại Địch ô của vương quốc mới có. Cũng may là Mã Cát từ nhỏ đã rất thân cận với Địch ô An Cát Mẫu, nên mới nghe được từ nơi ông khá nhiều điều.

Nhạc Dương nghe hết sức chăm chú, trong đầu không ngừng sắp xếp lại các đầu mối, bộ não hoạt động cơ hồ hết công suất. Thời kỳ hắc ám, hỗn loạn nhất ở bên ngoài núi tuyết mà những người Qua Ba ấy nói, chắc hẳn chính là cuộc diệt Phật, cấm Phật quy mô lớn nhất. Sau đó họ cấm chỉ người ở đây ra bên ngoài, tự nhiên là có liên quan đến việc họ mang theo số báu vật của Tứ Phương miếu kia. Một khi có người ra được bên ngoài, thì sẽ có khả năng tiết lộ bí mật của nơi này, mà số báu vật ấy đủ để mang đến cho cả Thánh vực này tai họa diệt vong. Còn những tòa thành đá mà họ phải xây dựng mất hơn trăm năm mới hoàn thành kia, rất có thể trong đó có một tòa chính là Bạc Ba La thần miếu! Mặc dù không cho người ở đây ra ngoài, nhưng bản thân họ nhất định đã phái người trở ra, vị sứ giả đến Cổ Cách có lẽ đã đi ra từ nơi này? Nhiệm vụ của ông ta, hẳn là đi xem xem thời kỳ đen tối ngoài kia đã kết thúc chưa? Không, không đúng rồi, người Qua Ba mạnh như vậy, nếu lúc ấy họ biết được thời kỳ đen tối kia đã kết thúc rồi, nếu họ đã có năng lực mang báu vật của Tứ Phương miếu tới đây, vậy thì nhất định cũng có khả năng mang chúng trở ra bên ngoài, hà tất phải để sứ giả mang theo tín vật chỉ dẫn phương hướng, để hậu nhân khai quật lên làm gì? Đúng rồi, người Qua Ba đã hứa với cư dân ở Thánh vực sẽ cho họ một cuộc sống an định thanh nhàn, sau đó mới bắt đầu xây dựng nhiều tòa thành đá. Từ quy mô thôn làng của người Hạ Qua Ba, có thể thấy rằng họ thực sự có năng lực làm được điều đó, cũng có nghĩa là, ban đầu đúng là họ định làm như thế. Nếu như Đại Thiên Luân kinh là do người Qua Ba viết nên, vậy thì có một số chi tiết lịch sử trong đó, hẳn là đã kết hợp thần thoại của họ với lịch sử của Thánh vực này mà viết nên, từ đó suy ra, sự tồn tại của Shangri-la thiên đường hạ giới, chắc hẳn là một ý tưởng của họ. Vậy thì tại sao, sau khi xây thành xong, họ lại đoạn tuyệt quan hệ với cư dân Thánh vực? Tại sao sau đó mấy trăm năm liền Thánh vực đều không có chiến tranh? Đọc trong các ghi chép của thôn Công Bố, thì chiến tranh cũng chỉ bùng nổ vào khoảng một hai trăm năm gần đây mà thôi, phải chăng người Qua Ba đã làm gì đó? Làm sao họ có thể làm được? Trên tầng thứ ba kia, đã xảy ra biến cố? Rốt cuộc đó là biến cố gì? Lẽ nào biến cố ấy đã khiến bộ tộc Qua Ba hùng mạnh nhất cũng lực bất tòng tâm với việc ra khỏi chốn này? Nhưng Mã Cát nói, trong khoảng trăm năm trở lại đây, cũng từng có vô số người muốn lên tầng thứ ba ấy, mà chẳng ai sống sót trở về, chứng tỏ ở trên đó, vẫn còn thực lực mang tính áp đảo! Rốt cuộc là chuyện gì đây?

Họ vẫn còn rất nhiều nghi vấn muốn hỏi, có điều sau bữa cơm, trời tối rất nhanh, mà người ở thôn Công Nhật Lạp đều có thói quen ngủ sớm. Trương Lập vốn muốn tìm Mã Cát nói chuyện, Nhạc Dương cũng rất cổ vũ, nhưng Trương Lập cứ ấp a ấp úng mãi chẳng biết nói gì, vừa vào đến nhà Mã Cát đã bỗng dưng biến thành bé ngoan ngồi im thin thít.

Phòng ốc nhanh chóng được sắp xếp xong xuôi, Lữ Cánh Nam, Đường Mẫn và Mã Cát ở chung một phòng, Trác Mộc Cường Ba, Trương Lập, Nhạc Dương ở một phòng, đội trưởng Hồ Dương, pháp sư Á La, Ba Tang ở một phòng.

Nằm trên tấm thảm da bò dễ chịu, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Nhạc Dương, cậu rất hứng thú với người núi tuyết hả?”

Nhạc Dương đáp: “Không phải, Cường Ba thiếu gia, lần trước tôi có nói với anh rồi mà, chúng tôi đã thảo luận với pháp sư Á La về quan hệ của người núi tuyết với Shangri-la? Sau đó, tôi và Trương Lập lại tìm được thêm một chút tư liệu trong máy tính của giáo sư Phương Tân. Cá nhân tôi cho rằng, tuy người núi tuyết đã bị đánh bại, nhưng rất có khả năng họ vẫn chưa bỏ đi, hoặc là bỏ đi rồi lại trở về, họ vẫn còn ở đây, ở trên tầng bình đài thứ ba kia kìa.”

Trác Mộc Cường Ba khẽ trở mình hỏi: “Sao lại nói thế?”

Nhạc Dương cũng nghiêng người qua, trả lời gã: “Đầu tiên, những người nước ngoài được gọi là chuyên gia kia, dẫu rằng họ có cái tư chất ấy hay không chăng nữa, nhưng đã có nhiều người quan tâm đến người tuyết như vậy, thì hẳn là cũng chẳng phải chuyện bắn tên không đích. Những câu chuyện thần thoại và truyền thuyết đó cũng không phải bịa tạc vô căn cứ. Lần trước, pháp sư Á La chỉ kể một câu chuyện rất đơn giản, nhưng trong văn hóa Tây Tạng, còn có rất nhiều thần thoại truyền thuyết tương tự như thế, có chuyện đã xuất hiện từ trước khi có các ghi chép lịch sử, cũng có chuyện được người đời sau chép lại. Bằng không, với năng lực và sức tưởng tượng của đám người nước ngoài ấy, cũng không thể nào mà liên hệ người tuyết và Shangri-la lại được với nhau đâu.”

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, đoạn hỏi: “Thế thì sao chứ? Những nhà nghiên cứu nước ngoài ấy cũng chỉ muốn thông qua người tuyết để tìm đến nơi này. Chúng ta đã đến được rồi, lên tầng trên là có thể thấy được Shangri-la thực sự, đầu mối này đối với chúng ta đã đâu còn quan trọng lắm nữa?”

Nhạc Dương lắc đầu đáp: “Nhưng đây lại là một mặt để chúng ta hiểu thêm về người Qua Ba đó. Càng đến gần Bạc Ba La thần miếu, chúng ta càng phải sục sạo thêm các đầu mối, càng tìm được nhiều, khi tổng hợp chúng lại, mới có thể đưa ra kết luận gần với chân tướng sự thực nhất. Chẳng hạn, Nhạc Dương nói: “Theo lời Địch ô Cát Mẫu, người tuyết đã tiến hóa tới hình thái bộ lạc, đồng thời đã có cả công cụ bằng kim loại. Đây là một thể chế tương đối văn minh rồi, ít nhất cũng phải tương đương với Văn minh đồng thời thau thời nhà Thương. Nhưng tại sao những người tuyết được phát hiện cho đến nay, đa phần đều ở trạng thái người vượn hoang dã, trí lực đần độn vậy nhỉ? Rốt cuộc người tuyết có phải người núi tuyết không? Về vấn đề này, hiện tại chúng ta vẫn chưa thể có kết luận chuẩn xác được. Còn nữa, Người núi tuyết bị bộ tộc Qua Ba đánh bại bỏ chạy, đã chạy đi đâu rồi? Tại sao lại lưu truyền nhiều câu chuyện thần thoại dân gian và tôn giáo về họ đến thế? Càng không cần phải nói đến những người tự xưng là đã tận mắt chứng kiến từ thời cận đại đến nay, người nào người nấy đều miêu tả rất thật. Hơn nữa, tôi còn có phát hiện mới trong một số tư liệu...”

Nhạc Dương vuốt lại tấm thảm lông, hai mắt sáng bừng lên: “Ở Châu Mỹ, người Indian gọi quái vật chân to là ‘sa si kua zhi 

1

’, về mặt phát âm ít nhất cũng có điểm tương đồng với phát âm của từ ‘người núi tuyết’ đúng không. Hơn nữa, tôi còn tìm được một số tài liệu viết rằng, một số bộ tộc Indian gọi thứ quái vật giống người là Uma. Theo các truyền thuyết đời đời lưu truyền trong bộ tộc, Uma cư trú ở gần miệng núi lửa St Helen’s, khi Đại thảm họa giáng xuống, Uma sẽ dẫn những người Indian trí tuệ tìm đến cái rốn của địa cầu, nơi tránh nạn duy nhất và cuối cùng. Tôi tin rằng, các tư liệu ấy cũng đã xuất hiện trong hồ sơ của các nhà nghiên cứu nước ngoài kia từ rất lâu rồi, thông tin ẩn chứa trong đó là gì chứ? Giáo quan đã từng nói, tất cả mọi sự việc đều không đột nhiên xuất hiện, vạn vật vạn sự đều có nguyên nhân của nó, dù là cách xa nhau nghìn vạn dặm đường, cũng tồn tại những đầu mối liên hệ mà ta không thể nhìn thấy.”

Trác Mộc Cường Ba đưa tay lên day day trán suy tư. Những lời Nhạc Dương hình như đã khơi gợi lên điều gì đó trong gã, nhưng hết sức mơ hồ, hình như trước đây gã đã từng tra tìm các tư liệu tương tự như thế thì phải.

Nhạc Dương nằm bên cạnh bèn nhắc nhở: “Châu Mỹ! Sứ giả! Maya!”

Trác Mộc Cường Ba liền sực nhớ ra, phải rồi, Maya ở châu Mỹ! Khi họ trở về từ Bạch thành, đã từng tốn rất nhiều thời gian nghiên cứu quan hệ giữa châu Mỹ và Tây Tạng. Có rất nhiều đầu mối rõ rệt cũng như ngấm ngầm chỉ ra, vị sứ giả ấy đã đến tận châu Mỹ xa xôi để chôn giấu Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, nhưng tại sao lại phải giấu chiếc gương đồng ấy, thì đến giờ họ vẫn hoàn toàn không hay biết. Có điều, hồi ức bất chợt ấy lại khiến Trác Mộc Cường Ba cảm thấy ảo não vô cùng, chuyện vừa mới xảy ra không được bao lâu, vậy mà gã đã hầu như quên sạch rồi, lẽ nào gã đã già nua đến mức ấy, hay là do Đại Thanh Liên cổ gây ra?

Nhạc Dương lại nói: “Nếu như, tôi chỉ nói là nếu như thôi nhé, cách xưng hô và truyền thuyết về dã nhân ở châu Mỹ là do vị sứ giả ấy mang đến, vậy thì tại sao ông ta phải làm vậy? Người núi tuyết có phải là Uma không? Chẳng phải họ đã bị đánh bại, đuổi đi rồi hay sao? Liệu có phải vì người núi tuyết đã cư trú ở đây mấy vạn năm, biết rõ các con đường dẫn tới nơi này trong núi tuyết? Nếu người núi tuyết không quay trở lại, Uma sao có thể tìm được cái rốn của địa cầu? Nếu người núi tuyết vẫn ở trên tầng bình đài thứ ba kia, vậy thì quan hệ giữa họ và người Thượng Qua Ba giờ là như thế nào? Phải chăng khi đối mặt với người Thượng Qua Ba, chúng ta đồng thời cũng phải đối mặt với một đám dã nhân khổng lồ cao đến ba bốn mét, toàn thân mọc đầy lông lá? Dĩ nhiên, đây đều chỉ là suy đoán của cá nhân tôi, không có chứng cứ gì hết.” Nhạc Dương nói tới đây, cũng cảm thấy không chắc chắn lắm, xét cho cùng, nghĩ ngợi rồi suy đoán lung tung cũng không phải là con đường chính để nghiên cứu khoa học.

Trác Mộc Cường Ba cười cười, hỏi: “Trương Lập thì sao? Cậu có ý kiến gì không?”

Không nghe thấy Trương Lập đáp lời, Nhạc Dương mới phát hiện, anh và Cường Ba thiếu gia thảo luận cả một hồi lâu mà Trương Lập cũng không tham dự lấy nửa lời, bèn ngoảnh đầu lại nhìn. Thì ra, Trương Lập sớm đã ngủ tít thò lò từ lúc nào rồi, chắc cũng lâu lắm anh không được ngủ trên tấm thảm nào dễ chịu như thế. Bôn ba cả một ngày, thực sự ai cũng rất mệt mỏi, Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương nói thêm vài câu nữa, rồi cũng ngủ luôn.

Sáng sớm hôm sau, việc đầu tiên Nhạc Dương làm khi thức giấc là lay Trương Lập: “Dậy đi, đồ lười!”

Trương Lập lúng búng trong miệng nói: “Mã Cát...” Hai chân kẹp chặt vào tấm thảm.

Nhạc Dương hơi ngả người ra phía sau, thốt lên: “Chậc chậc, anh trúng phải bùa phải ngải rồi hả? Ngủ mà cũng gọi tên người ta, tối qua lại không dám tìm người ta nói chuyện. Dậy đi, dậy đi!” Vừa nói, anh lại thúc thêm hai cái nữa, tiếng động làm Trác Mộc Cường Ba cũng giật mình tỉnh giấc.

“Để cậu ta ngủ thêm lúc nữa đi, Nhạc Dương.” Trác Mộc Cường Ba nói.

Nhưng Nhạc Dương lại phát hiện ra điều không ổn, vừa lắc vừa lay như thế mà Trương Lập không hề có phản ứng gì. Anh liền rờ thử lên mặt Trương Lập, kế đó vội vàng rờ lên trán mình, rồi lại đặt tay lên trán Trương Lập lần nữa, vội vàng nói: “Trương Lập bị sốt rồi!”

Trác Mộc Cường Ba khẽ cười nói: “Biết rồi, từ lúc gặp Mã Cát hôm qua, lúc nào mà cậu ta chẳng nóng bừng bừng lên.”

Nhạc Dương lắc đầu: “Không phải đâu, Cường Ba thiếu gia, anh ấy sốt thật đấy, đầu nóng như lửa vậy.” Anh rút ở bên cạnh chiếc đồng hồ đeo tay ra một cái cặp nhiệt độ cỡ bằng que tăm, quẹt quẹt hai ba cái lên áo rồi nhét vào miệng Trương Lập: “Đồ ngốc, ngậm vào. Sao lại sốt cao thế này?” Trương Lập làu bàu đáp: “Tôi có cố ý đâu.” Nhạc Dương đang chuẩn bị bảo tên này vẫn còn tỉnh táo, thì Trương Lập lại ú ớ bồi thêm một câu: “Em đẹp quá. Hừ hừ...” kế đó là một tràng những âm thanh lung búng không nghe rõ là gì.

Trác Mộc Cường Ba cũng lại gần rờ trán Trương Lập, rồi gọi lớn: “Mẫn Mẫn, em dậy chưa? Trương Lập bị sốt rồi, qua đây xem sao.”

Chỉ thoáng sau, Lữ Cánh Nam đã bước sang, Đường Mẫn ở phía sau, Mã Cát cũng đi theo. Lúc này đã có kết quả đo nhiệt độ cơ thể Trương Lập, không ngờ lại sốt cao đến 40 độ. Đường Mẫn nói: “Nhất định là vết thương hôm qua bị nhiễm trùng rồi, tối qua quên mất không xem vết thương cho anh ấy, mà anh ấy cũng chẳng nói gì, đều tại em hết, sao lại quên được cơ chứ.” Nói đoạn, liền vén chăn lên kiểm tra vết thương của Trương Lập. Mã Cát đỏ bừng mặt, xấu hổ quay đi, cô vẫn chưa từng thấy đàn ông chỉ mặc độc một chiếc quần cộc bao giờ. Có điều, thấy mọi người trong phòng đều không để ý, cô lại ngượng ngùng ngoảnh mặt lại, lo lắng nhìn vết thương của Trương Lập.

Trời vẫn chưa sáng hẳn, phải bật thiết bị chiếu sáng, chỉ thấy cánh tay Trương Lập vừa đỏ tấy vừa sung phù lên, đã mưng mủ. Lữ Cánh Nam nói: “Phải lập tức rửa vết thương cho cậu ta, tên nhãi này, như vậy mà cả ngày hôm qua không hé răng lấy một lời.”

Nhạc Dương thấp giọng lầm bầm: “Cả ngày hôm qua, anh ta cứ phiêu phiêu, thần hồn lơ lửng như hút ma túy, quá nửa là chẳng cảm thấy đau đớn gì đâu.”

“Phải đấy.” Đường Mẫn cũng khẳng định: “Em cũng cảm thấy hôm qua hồn phách Trương Lập cứ để đâu đâu ấy.” Nói đoạn, cô đưa mắt nhìn sang phía Mã Cát. Có điều họ toàn nói chuyện bằng tiếng phổ thông tiêu chuẩn, Mã Cát chỉ biết mở to mắt nhìn mà chẳng hiểu gì.

Rửa vết thương, bôi thuốc kháng sinh, hạ sốt, xử lý mọi thứ xong xuôi, Đường Mẫn ngước mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba không chút do dự, nói ngay: “Chúng ta đợi cậu ấy khỏe hẳn đã. Từ đây đến Tước Mẫu cũng không mất nhiều thời gian lắm, chẳng phải vậy sao?”

Nhạc Dương vỗ vỗ lên má Trương Lập, tỏ vẻ không biết làm sao hơn: “Đồ ngốc.” Rồi lại véo thêm một cái, vừa ngoẹo đầu, liền trông thấy vẻ mặt trách móc của Mã Cát, vội vàng nở một nụ cười hiền hòa, nhường vị trí của mình cho cô. Mã Cát quỳ xuống bên cạnh Trương Lập, thử đưa tay rờ trán anh, rồi lại vột vàng rụt tay về, dè dặt hỏi Nhạc Dương: “Anh Trương Lập vì em mới bị thương, phải không?”

Nhạc Dương thầm nhủ: “Đừng có mà ngốc, anh ta bị thương từ lâu rồi, liên quan gì tới cô đâu chứ.” Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng ngoài miệng anh chàng vẫn nói: “Chuyện này, chuyện này tôi cũng không rõ lắm, có lẽ, có thể... ừm... chuyện này...” đoạn quay mặt đi, thầm nghĩ: “Đồ thối thây, tôi nhân nghĩa với anh hết mức rồi đấy nhé, hì hì, đúng thật là...”

Đúng lúc ấy, Trương Lập lại ú ớ nói: “Mã Cát... em đẹp quá...” Tuy không hiểu Trương Lập nói gì, nhưng hai tiếng “Mã Cát” thì Mã Cát nghe rất rõ, rồi lại nhìn vẻ mặt những người khác, chẳng cần đoán cũng biết anh chàng kia đang nói gì. Nhớ lại cái bóng hoảng hốt bỏ chạy bên bờ hồ hôm qua, đôi mắt to tròn sáng rỡ như sao của Mã Cát chợt khép lại, bất giác toát lên một vẻ yêu kiều diễm lệ vô cùng.

Nhạc Dương thầm nghĩ: “Cái tên này bị sốt đến hồ đồ rồi hay vẫn còn tỉnh táo vậy nhỉ? Hừ, nhất định là đầu óc có vấn đề rồi, lúc tỉnh táo anh ta làm sao dám nói vậy trước mặt Mã Cát chứ?”

Lúc này trời đã sáng, đội trưởng Hồ Dương và những người còn lại cũng đều thức giấc, biết chuyện Trương Lập sốt cao, cả bọn đều đồng ý ở lại ngôi làng này nghỉ ngơi vài ngày. Khoảng thời gian này, ngày nào cũng phải qua lại giữa rừng rậm nguyên sinh đầy rẫy quái thú, có thể thấy đồng loại thêm mấy ngày cũng là điều tốt.

Lấy Trương Lập ra làm vật thí nghiệm, Đường Mẫn tranh thủ thời gian rảnh dạy cho Mã Cát một số kiến thức thông thường về chăm sóc người bệnh. Như đếm tốc độ truyền dịch, đo nhiệt độ cơ thể, Mã Cát học rất chăm chỉ và nghiêm túc. Thi thoảng Mẫn Mẫn lại ngẩng đầu lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, nhoẻn miệng cười với gã một cái, nội dung hàm chứa trong nụ cười ấy, thì chỉ có họ mới biết được.

Lúc này, Lữ Cánh Nam chợt nói: “Mã Cát, hôm qua không phải cô nói muốn dẫn chúng tôi đi thăm mấy người bệnh nặng sao? Giờ có thời gian rồi, bây giờ cô dẫn chúng tôi đi, hay là...”

“À!” Mã Cát giờ mới nhớ ra hôm qua mình đã nhờ họ đến thăm mấy người bệnh nặng. Cô đưa mắt nhìn Trương Lập, rồi lại ngước nhìn mọi người, vẻ mặt xem ra khó lựa chọn lắm. Đường Mẫn liền gợi ý: “Còn có ai khác biết chỗ ấy không?”

“À, mọi người đợi em một chút.” Mã Cát tựa như nhớ ra điều gì đó, chạy vù ra ngoài, thoáng sau đã trở lại, nói: “Địch ô đại nhân sẽ dẫn mọi người đi, em... em ở lại đây...” vừa nói, hai má cô lại ửng hồng lên.

“Được đấy, Mã Cát, vậy nhờ cô chăm sóc anh Trương Lập của chúng tôi nhé.” Mã Cát chớp chớp đôi mắt to tròn, nụ cười của Nhạc Dương thật kỳ quặc hết sức.

Đường Mẫn đeo thiết bị thông tin lên tai Mã Cát, chỉ cho cô cách sử dụng, rồi dặn: “Nếu xảy ra chuyện gì, thì dùng cái này báo với chúng tôi, dù cách rất xa cũng vẫn nghe thấy được.”

Đội trưởng Hồ Dương nhìn Nhạc Dương và Đường Mẫn với ánh mắt kỳ quặc, hỏi: “Tôi cũng ở lại chăm sóc Trương Lập chứ nhỉ?”

“Anh ở lại làm cái gì chứ?” Nhạc Dương vừa nháy mắt, vừa ra dấu tay. Đường Mẫn cũng phụ họa: “Trương Lập đã không còn gì đáng ngại nữa rồi. Đội trưởng Hồ có ở lại cũng chẳng giúp được gì đâu, chúng ta cùng đi thăm những người bệnh nặng kia đi, biết đâu anh lại giúp được cũng nên.” Đội trưởng Hồ Dương nhìn Trương Lập, rồi lại nhìn cô bé đang căng thẳng kia, rồi như đã hiểu ra, gật gật đầu nói: “Chúng ta đi thôi nào.”

Ra phía bên ngoài, Lữ Cánh Nam mới chất vấn Đường Mẫn và Nhạc Dương: “Hai người đang làm gì vậy?” Cô ngưng lại, nghiêm mặt hỏi: “Vấn đề của chúng ta vẫn chưa đủ nhiều hay sao? Đã tìm được Bạc Ba La thần miếu rồi sao? Tìm được Tử kỳ lân rồi à? Cổ độc trên người Cường Ba thiếu gia đã giải được rồi à? Phía sau còn có truy binh, phía trước ra sao thì chúng ta hoàn toàn không có manh mối, chặng đường này của chúng ta không thể có thêm chuyện rắc rối gì nữa đâu. Tôi biết, Trương Lập có tình cảm với Mã Cát, nhưng hai người cần gì phải ở bên cạnh đổ dầu vào lửa nữa? Hai người tưởng làm vậy là tốt cho cậu ta à? Hai người đã bao giờ nghĩ, chúng ta sắp phải rời khỏi nơi đây chưa? Hai người muốn để Trương Lập lại đây, hay là muốn khiến cậu ấy bất an lo lắng cho Mã Cát suốt chặng đường còn lại? Hay để cho cô bé ấy một mối tương tư khắc cốt ghi lòng? Đừng quên là giữa họ có khoảng cách rất lớn, căn bản không thể nào ở bên nhau được. Hơn nữa, chúng ta không phải khách du lịch, hành trình này vốn đầy rẫy những hiểm nguy, có thể mất mạng bất cứ lúc nào, vạn nhất Trương Lập... hai người có thể nghĩ đến hoàn cảnh của chúng ta trước rồi mới làm vậy được không?”

Đội trưởng Hồ Dương, pháp sư Á La và Ba Tang đều không bày tỏ thái độ, Nhạc Dương bị mắng cho một trận, chỉ biết cúi đầu. Nhưng Mẫn Mẫn thì không phục, cô ngẩng cao đầu nói: “Em cảm thấy...” Mới thốt lên được ba chữ ấy đã bị Trác Mộc Cường Ba tiếp lời: “Ha ha, tôi cảm thấy giáo quan nói rất có lý, đối với chuyện này, chúng ta nên giữ thái độ khách quan, việc của Trương Lập nên để tự cậu ta giải quyết, chúng ta không giúp đỡ, cũng không ngăn cản, phải vậy không?”

Đội trưởng Hồ Dương cũng nói: “Này, chúng ta đến chỗ Địch ô đại nhân đã, người ta đang đợi đấy.”

Lữ Cánh Nam chán nản lắc đầu, lòng thầm nhủ: “Không giúp sức à? Các người đã hết lòng giúp cậu ta rồi đấy thôi. Một cô bé tuổi mới lớn sống trong môi trường hoàn toàn bít kín, đối mặt với một gã bộ đội đặc chủng đến từ thế kỷ hai mươi mốt, các người bảo Mã Cát làm sao mà kháng cự nổi đây?”

Chương 13

Những người trúng cổ độc

Cho tới khi tảng đá cử động, vụn đá rơi xuống “lạo xạo”, bọn họ mới phát hiện đó là một con người, ai nấy đều giật thót mình. Người này toàn thân mọc kín một thứ vật chất trông như sỏi, cả phần đầu và mặt cũng bị thứ đó bao phủ, thân mình dựa vào vách đá, nếu không nhìn kỹ thì không thể nào phát hiện ra được. Bộ mặt đó, không thể nào gọi là dữ tợn, phải nói là kinh khủng khiếp mới đúng!

Nhóm người Trác Mộc Cường Ba tìm được Địch ô An Cát Mẫu, nói rõ ý định. Địch ô đại nhân gật đầu, dẫn họ ra khỏi cổng làng, đi về hướng họ đã tới lúc đầu. Dọc đường gặp dân làng, ai nấy đều mỉm cười chào hỏi, giờ dân làng Công Nhật Lạp đã không còn thù địch với họ nữa rồi. Nhưng Nhạc Dương lại phát hiện, có ba người bộ dạng trông như lão nông, lúc đi qua gặp họ, nét mặt hoàn toàn không lộ cảm xúc gì, không vồn vã cũng chẳng lạnh lùng, ánh mắt đượm vẻ cảnh giác. Có lẽ họ không biết hôm qua Mẫn Mẫn và giáo quan đã phân phát lương thực cứu trợ dân làng cũng nên, hoặc là không phát cho họ, dân làng đông như vậy, thế nào chẳng bị sót. Nhạc Dương cũng chưa kịp nghĩ ngợi nhiều, chỉ thấy ba người ấy có hai người cụt một chân, một người cụt tay trái, nhìn cứ quái quái làm sao, lúc lướt người qua mới không nén được ngoảnh đầu lại nhìn thêm lần nữa, vừa khéo trông thấy người cụt hoàn toàn từ gối trái trở xuống đang chằm chằm nhìn mình, ánh mắt hung hãn lạ thường, Nhạc Dương vội quay đầu lại, trong lòng vẫn chưa hết sợ.

Vừa đi, Nhạc Dương vừa âm thầm ghi nhớ vị trí, nơi này ở sâu trong rừng, không xa chỗ Trương Lập gặp Mã Cát hôm qua lắm, đằng trước có một hang động trông rất kỳ lạ. Địch ô An Cát Mẫu nói: “Chính là chỗ này, bọn họ đều là những người trúng phải cổ độc trong chiến tranh. Thuật sử dụng cổ độc của vương quốc chúng tôi và vương quốc Yaca khác nhau, vì vậy chúng tôi cũng không có cách nào giải trừ được. Hôm qua tôi thấy các vị chữa trị cho dân làng, biết đâu lại giúp được điều gì đó. Mà tìm hiểu thêm một chút về cổ độc, biết đâu lại giúp được cho các vị ít nhiều.”

“Nơi này bị cách ly hoàn toàn phải không?” Lữ Cánh Nam nhìn cảnh trí xung quanh, cất tiếng hỏi.

Địch ô đại nhân đáp: “Đúng thế, vì sợ bị truyền nhiễm, mà cũng tránh để dân làng sợ hãi, họ đều bị cách ly ở nơi này. Ngoài làm như vậy, chúng tôi cũng chẳng còn cách nào tốt hơn nữa.”

“Vậy họ ăn uống như thế nào?” Đường Mẫn hỏi.

Địch ô đại nhân mỉm cười đáp: “Mã Cát, mỗi ngày Mã Cát đều mang đồ ăn đến cho họ. Sự thực là, cũng chỉ có tôi và Mã Cát là sẵn lòng đến nơi này. Tất cả dân làng đều không dám đến gần Mã Cát quá, họ sợ bị truyền nhiễm. Kỳ thực, Mã Cát chắc là không bị nhiễm phải những thứ cổ độc đáng sợ ấy đâu, tôi biết chứ. Một đứa bé thiện lương như nó, làm sao lại bị truyền nhiễm cho được?”

Ở cửa hang, Địch ô lại nhấn mạnh thêm một lần nữa: “Hy vọng các vị đừng phát ra những âm thanh quá kinh ngạc, dẫu sao thì những người ở trong đó, cũng hơi... đáng sợ!”

Sự thực là, không cần Địch ô An Cát Mẫu phải nhấn mạnh như thế, khi đứng ngoài cửa hang, họ đã cảm nhận được điều đó rồi. Một luồng hôi thối nồng nặc bên trong xộc ra, đó là mùi thịt thối rữa mưng mủ pha lẫn với mùi của chất bài tiết; trong hang rất tối tăm, chỉ có những tia sáng yếu ớt từ trên đỉnh rót xuống, không khí bên trong những trụ sáng ấy tưởng chừng như đã biến thành một dạng chất keo kết dính, đục ngầu lên; đủ thứ tiếng rên rỉ yếu ớt và đau đớn vẳng ra, nghe như những mũi dùi nhọn đâm vào tai.

Mới đi vào được nửa đường, Mẫn Mẫn đã phải chau mày, mùi không khí ở đây quả thực là rất kinh khủng. Không chỉ mình cô, cả nét mặt Nhạc Dương cũng không lấy gì làm dễ chịu cho lắm, mỗi người đều đang cố đè nén cảm giác buồn nôn mửa xuống. Lúc này, Địch ô đại nhân đã dừng lại, cất lời: “Bạc Ca, chúng tôi đến thăm cậu đây, cậu khỏe không?”

Bọn Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn quanh quất khắp bốn phía, nhưng không thấy người nào, xung quanh chỉ có vách đá xám xịt, Địch ô An Cát Mẫu đang nói chuyện với ai vậy? Chỉ có Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La là chú ý thấy, ở một góc tường, có hơi thở rất yếu ớt, đó cũng là nơi ánh mắt của Địch ô An Cát Mẫu dừng lại. Có điều, nhìn kỹ lại, thì đó cũng chỉ là một đống đá mà thôi.

“Địch ô đại nhân... hôm nay, Mã Cát không đến ạ?” Nơi góc tường vang lên tiếng hồi đáp yếu ớt, giọng nói rất già nua mệt mỏi. Nhưng bọn Trác Mộc Cường Ba trợn tròn hết cả mắt lên cũng vẫn chẳng thấy người nào hết!

Cho tới khi tảng đá cử động, vụn đá rơi xuống “lạo xạo”, bọn họ mới phát hiện đó là một con người, ai nấy đều giật thót mình. Người này toàn thân mọc đầy một thứ vật chất trông như sỏi, cả phần đầu và mặt cũng bị thứ đó bao phủ, thân mình dựa vào vách đá, nếu không nhìn kỹ thì không thể nào phát hiện được. Bộ mặt đó, không thể nào gọi là dữ tợn được, phải nói là kinh khủng khiếp mới đúng!

“Mã Cát nói, đã tìm cho tôi một nơi rất tốt, bao giờ thì đưa tôi đi vậy?” Người đàn ông tên là Bạc Ca ấy vừa cất tiếng, vụn đá trên mặt liền rơi xuống lả tả. Anh ta khẽ nhúc nhích một chút, trên người cũng có từng mảng từng mảng sỏi lớn rơi xuống, lộ ra phần thịt màu đỏ tươi, có chỗ, lại còn lộ ra cả xương trắng hếu.

Địch ô An Cát Mẫu nói với Bạc Ca: “À, một hai hôm nữa đi, sức khỏe cậu vẫn còn trụ được, trong thời gian ngắn thì chắc không sao đâu. Chỗ ấy ta cũng xem qua rồi, được lắm, đích thân Mã Cát chọn đấy.”

Khi nghe thấy Mã Cát đã đích thân chọn nơi đó, ánh mắt Bạc Ca thoáng lộ ra một tia hy vọng, khẽ mấp máy môi nói: “Đi được thì tốt, đi là tốt, khỏi phải liên lụy mọi người. Mã Cát vẫn khỏe chứ, sao hôm nay không đến?”

Địch ô An Cát Mẫu đáp: “Có bệnh nhân mới, Mã Cát phải chăm sóc cho người đó.”

“Ồ.” Trên gương mặt đáng sợ của Bạc Ca, không ngờ lại nở được một nụ cười ấm áp.

Địch ô An Cát Mẫu lấy một thùng nước, đổ từng gáo từng gáo lên người Bạc Ca, rồi nói: “Đây là Na Nhật Bạc Ca, từng là dũng sĩ của vương quốc Langbu chúng tôi, sau một lần hành thích thất bại, cậu ấy bị trúng phải Nham cổ, thân thể đang hóa thành nham thạch. Cả người cậu ấy sẽ dần dần biến thành một tảng đá, giờ đã đến thời kỳ cuối rồi, không thể đi đâu được nữa, giờ thì cả thức ăn cũng chẳng nuốt được, mỗi ngày đều phải dùng nước tưới ba đến bốn lần, bằng không thân thể sẽ cứng đơ, giống như các vị vừa trông thấy đó, nhúc nhích một chút là nứt toác ra.”

Đường Mẫn lấy cái kẹp nhỏ gắp lên một miếng vụn đá rơi dưới đất, kinh ngạc thốt lên: “Đây là... đây là tầng chất sừng, bọc bên ngoài tổ chức xương. Thân thể anh ấy không phải đang biến thành đá, mà là biến thành xương! Đợi một chút, hình như em có biết chứng bệnh này, hình như ở đâu đó cũng có ca tương tự như thế thì phải.”

Đội trưởng Hồ Dương liền nhắc nhở: “Tra tư liệu.”

Trác Mộc Cường Ba quỳ một chân xuống, lấy máy tính xách tay ra, nhập vào các từ khóa “cốt hóa”, “các cơ quan tổ chức trên cơ thể cốt hóa” để tìm kiếm. Không lâu sau, máy tính liền cho ra mấy kết quả, trong đó “chứng cốt hóa cơ bắp” khá phù hợp với tình trạng của người đang ở trước mặt họ lúc này.

Đường Mẫn nói: “Đúng rồi, chính là nó đấy, em nhớ những người đó được gọi là người san hô. Đây là một loại biến dị gene di truyền, cơ bắp và các tổ chức mềm trên cơ thể người, thậm chí cả các cơ quan nội tạng, mạch máu, đều dần dần hóa thành xương! Khi bệnh đến giai đoạn cuối, thân thể người bệnh không thể hoạt động gì được nữa, toàn bộ đều biến thành xương hết.”

Trác Mộc Cường Ba gấp máy tính lại, những người khác cơ hồ cũng thầm thở phào nhẹ nhõm, có thể dùng phương pháp khoa học để biết đây là chứng bệnh gì, xem ra cổ độc và y học hiện đại cũng vẫn có liên quan đến nhau. Địch ô An Cát Mẫu thoáng thấy một tia hy vọng, vội hỏi: “Sao rồi? Có cách chữa trị không?”

Đường Mẫn lí nhí nói: “Chúng tôi biết đó là bệnh gì, nhưng cũng không có cách nào cứu chữa cho anh ấy được.” Sự thực là, với kỹ thuật y học hiện nay, vẫn chưa có phương pháp nào thực sự hữu hiệu để chữa trị chứng bệnh này cả. Đường Mẫn thở phào, đồng thời cũng tăng thêm mấy phần sợ hãi, lẽ nào loại cổ độc này đã đạt đến mức có thể gây biến dị trong gene rồi hay sao? Đây là thuật phù thủy được phát minh bởi những con người từ một nghìn năm trước đó thật sao?

Địch ô An Cát Mẫu gật đầu: “Ừm, Bạc Ca cũng đã có chuẩn bị rồi, nơi này cũng chỉ có mình cậu ấy là ‘nham nhân’ thôi, Mã Cát đã tìm cho cậu ấy một nơi sơn thanh thủy tú để yên nghỉ rồi.”

Nhạc Dương buột miệng hỏi: “Không phải sẽ thiên táng sao?”

Sắc mặt Địch ô An Cát Mẫu trầm xuống, rồi lập tức mỉm cười nói: “Thiên táng, chỉ những người có phẩm đức cao quý mới được hưởng đãi ngộ đó thôi, không phải tùy tiện ai cũng được, hơn nữa, những người trúng cổ độc chỉ có thể dùng thổ táng hoặc hỏa táng thôi. Vì vậy, có thể tìm được một nơi thanh tĩnh vắng vẻ, cảnh sắc tươi đẹp, đã là tốt nhất cho họ rồi.” Nói đoạn, ánh mắt dò hỏi lại hướng về phía pháp sư Á La và Trác Mộc Cường Ba, tựa như đang hỏi: “Lẽ nào cả chuyện này mà các vị cũng không biết ư?”

Sắp xếp cho Bạc Ca xong, họ lại tiếp tục đi vào trong. Không ai nói năng gì nữa, đặc biệt là Mẫn Mẫn, chẳng có chuyện gì khiến cô khó chịu hơn là nhìn thấy người bệnh nặng mà mình lại không thể giúp được gì cho họ. Người thứ hai ở cách đó cũng không xa lắm, nằm trên một chiếc giường bằng đá, những tiếng rên rỉ yếu ớt họ nghe thấy ban nãy chính là phát ra từ đây. Bước lại gần, họ mới phát hiện người trên giường là một bà già đầu tóc bạc phơ, trong lòng lại thầm thở phào một tiếng, ít nhất thì mặt mũi bà già này cũng không bị biến đổi gì, chỉ có phần từ cổ trở xuống là dường như bị làm sao đó, thân thể phình to hoàn toàn không hợp tỉ lệ với phần đầu. Trên người bà đắp tượng trưng một tấm chăn màu đen.

Bà già nằm trên giường đá không nhúc nhích được, miệng không ngừng phát ra những âm thanh khiến người ta nổi da gà: “Ôi cha... ôi cha...”

Địch ô An Cát Mẫu nói: “Bà Đan Châu là mẹ của Đôi Vượng, con trai bà ấy không hiểu sao bị trúng phải Vạn Xà Thực Tâm cổ trong chiến tranh. Đôi Vượng trở về thôn làng đã bị thương rất nặng, cổ độc chưa phát thì đã rời khỏi thế gian này. Mẹ già ôm xác con khóc suốt một ngày một đêm, tôi không biết loại cổ độc này lại truyền nhiễm, không ngờ bà Đan Châu cũng bị trúng phải Vạn Xà Thực Tâm cổ, giờ thì giống như có một vạn con rắn đang cắn xé thịt da bà ấy, gặm xương bà ấy vậy.”

Dường như nghe thấy tiếng người nói chuyện, tiếng rên rỉ của bà Đan Châu nhỏ đi nhiều, bà gắng gượng cất giọng dịu dàng hỏi: “Mã Cát, Mã Cát đến phải không?” Trên gương mặt đau đớn ấy không ngờ lại nở ra một nụ cười rạng rỡ vô cùng.

Không hiểu vì sao, Lữ Cánh Nam nhìn thấy cảnh ấy, trái tim bỗng quặn thắt.

Địch ô An Cát Mẫu nói: “Bà Đan Châu, tôi đây, An Cát Mẫu, chúng tôi đến thăm bà.”

Bà Đan Châu mở to đôi mắt đục ngầu, chăm chú quan sát đám người mới đến, nhìn thấy bóng Đường Mẫn lấp ló phía sau, liền tươi cười nói: “An Cát Mẫu à, ông gạt tôi, đó không phải là Mã Cát thì là ai chứ.” Đến khi nhìn rõ đó không phải Mã Cát, bà Đan Châu lại gượng cười đau đớn, nói: “Xin lỗi, tôi nhìn nhầm người rồi.”

Địch ô An Cát Mẫu nói: “Họ là Bạch Độ Mẫu được thượng thiên phái đến thăm bệnh cho bà đấy.” Nói rồi, ông chuẩn bị nhấc tấm chăn trên người bà Đan Châu xuống, để bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn rõ tổn thương do Vạn Xà Thực Tâm cổ gây ra với cơ thể. Nhưng, bà Đan Châu thấy có nhiều người, liền hoảng hốt kéo chặt đầu chăn bên kia, và lại bắt đầu rên rỉ “ôi cha... ôi cha...”

Đội trưởng Hồ Dương phát hiện ra điều gì đó, liền đề nghị: “Mấy người chúng ta sang bên kia xem đi.” Nói rồi, anh quay sang bảo Địch ô An Cát Mẫu: “Chúng tôi không đi lung tung, cũng không đụng chạm gì đâu.”

Đám đàn ông bọn Trác Mộc Cường Ba đều tránh đi hết, chỉ để lại Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam, Địch ô đại nhân lúc ấy mới cẩn thận nhấc tấm chăn phủ lên thân thể bà Đan Châu ra. “Á!” Đường Mẫn đã gắng hết sức để kiềm chế bản thân rồi mà vẫn không sao nén nổi, phải đưa hai tay lên bịt miệng phát ra một tiếng kêu khe khẽ.

Bên dưới tấm chăn, không thể gọi là một thân thể, mà chỉ có thể nói là một đống thịt, giống như phần sau của con kiến vậy, một phần thân lớn đến mức vượt quá sức tưởng tượng bình thường, có bảo đấy là một quả núi nhỏ cũng chẳng quá đáng. Nếu Trác Mộc Cường Ba có thể coi là lưng hùm eo gấu, vậy thì một cái bắp tay của bà Đan Châu này cũng to ngang với cả thân người gã rồi; vòng ngực của bà giống như đeo thêm một cái phao bơi làm bằng lốp ô tô, lớp da nhăn nheo phủ lên trên; phần thịt lồi ở bụng che xuống tận đầu gối, để lộ ra cặp đùi to như hai cái trống; bàn chân giống như quả bong bóng được thổi căng phồng, ít nhất cũng phải to gấp bốn năm lần chân người thường, sưng phồng bóng cả lên! Chẳng những vậy, khắp người bà lão này tỏa ra một thứ mùi cực kỳ khó ngửi!

Địch ô An Cát Mẫu giải thích: “Trúng phải Vạn Xà Thực Tâm cổ, vì lũ rắn trong người mỗi lúc một nhiều, nên thân thể sẽ từ từ phình to ra, thông thường bắt đầu từ phần thân dưới, đến cuối cùng thì cả người vỡ toang, vạn con rắn cùng đổ về tim. Như Bà Đan Châu thì đã đến thời kỳ cuối rồi.”

Lữ Cánh Nam lấy hết can đảm, khe khẽ ấn nhẹ lên đùi của bà Đan Châu, cảm giác như thể đang ấn vào một quả bóng da bên trong đầy nước. Cô lại kiểm tra những triệu chứng khác trên cơ thể, rồi nói với Đường Mẫn: “Trong cơ thể không có mỡ tích tụ, cũng không phải sẹo thịt lồi, mà hoàn toàn là phình trướng lên. Tôi nghĩ, triệu trứng này không phải xa lạ với chúng ta, chỉ là chưa bao giờ gặp trường hợp nào nghiêm trọng như vậy thôi.”

Đường Mẫn cũng thử kiểm tra lại mấy triệu chứng khác, rồi đưa ra kết luận: “Phù thũng, bệnh sán chỉ!” Lữ Cánh Nam gật đầu, cô cũng cho là vậy. Tuy nhiên, cô vẫn giữ thái độ cẩn trọng, nói: “Ít nhất cũng là thứ gì đó tương tự như vậy. Tôi nhớ pháp sư Á La từng nói, ký sinh trùng chính là loại cổ độc nguyên thủy nhất, cơ bản nhất, cơ chế phát bệnh của loại cổ độc này có lẽ là tương đồng với bệnh sán chỉ mà chúng ta đã biết.”

“Nếu là sán chỉ, đã phù thũng đến mức này, trong cơ thể sao thể chỉ có một vạn con được, sợ rằng phải đến cả mười vạn con ấy chứ.” Đường Mẫn nghĩ ngợi giây lát, đoạn nói: “Trong đống trang bị của Merkin cung cấp, cũng có thuốc trị ký sinh trùng, chỉ là không biết có hiệu quả hay không thôi, nhưng chúng ta cũng có thể thử xem sao.”

Đường Mẫn nói với Địch ô An Cát Mẫu: “Bệnh của bà Đan Châu, chúng tôi có thể thử một phen, nhưng cũng không dám bảo đảm đâu.”

Địch ô An Cát Mẫu nói: “Thật cảm ơn các vị quá... thượng thiên sẽ bảo vệ các vị, sẽ bảo vệ bà Đan Châu.” Kế đó, ông lại có vẻ hơi khó xử nhìn Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam, nói: “Phải lau rửa người cho bà Đan Châu, ngày nào Mã Cát cũng giúp bà ấy chuyện này. Nhưng tôi...” Nhìn nụ cười của vị Địch ô đại nhân, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam bèn tiếp lấy thùng nước và khăn bông.

Bà Đan Châu không cử động được, đại tiểu tiện đều tại chỗ, chất thải dính đầy lên người, có điều không hiểu Mã Cát tìm ở đâu được một loại cỏ giống như cỏ lau, kê vào những chỗ da nhăn nheo đùn lên thành đống của bà Đan Châu, lại trải một lớp dày bên trên giường đá. Loại thực vật này vừa thoáng khí lại hút nước rất tốt, bà già đó nằm trong hang này không biết đã bao lâu rồi, vậy mà không hề bị hoại tử chút nào cả.

“Đây là gì thế?” Đường Mẫn hỏi.

Địch ô An Cát Mẫu đáp: “Đây là cỏ lác, cứ ba tháng là có thể thu hoạch một lần, Mã Cát đã chất hết số cỏ mà con bé có thể thu thập được ở đây.” Ông chỉ vào một góc hang, quả nhiên thấy một đống cỏ chất lên như trái núi nhỏ trong đó.

Giúp bà Đan Châu rửa sạch thân thể không phải chuyện dễ dàng, chỉ được một chốc, Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn đã lấm tấm mồ hôi. Đặc biệt là lúc rửa sạch những chất thải ô uế kia, họ đều chưa từng làm bao giờ, cả hai đều phải chau mày, cố nén nhịn cảm giác buồn nôn. Vậy mà bà Đan Châu còn không hài lòng lắm với hai “người mới” này. “Ôi cha... tay Mã Cát nhẹ hơn các cô nhiều lắm...”

“Ây... ây a..., tôi sắp rụng ra rồi... ai ya...”

“Ôi chao ôi... tay các cô bấm vào thịt tôi rồi...”

Cuối cùng cũng rửa sạch người cho bà già ấy, thay một lớp cỏ mới, Đường Mẫn khẽ thở dốc, hỏi: “Mã Cát, cô ấy, ngày nào cũng đến thay rửa cho bà Đan Châu một lần ạ?” Nhận được câu trả lời khẳng định của Địch ô An Cát Mẫu, cô không khỏi thầm nhủ, cô bé ấy, phải lật cả một tấm thân to như trái núi nhỏ thế này lên, làm sao cô ấy làm được nhỉ?”

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam cho bà Đan Châu dùng một liều nhỏ thuốc trừ giun sán diện rộng trước, sau đó dặn dò Địch ô An Cát Mẫu cách dùng và liều dùng, cũng như cách quan sát hiệu quả trị liệu, rồi mới đi sâu vào trong hang tìm bọn Trác Mộc Cường Ba.

Mấy người đám Trác Mộc Cường Ba đang ở phía bên kia hang động, vây quanh hai người thân thể bị biến dạng một cách kỳ quái. Cả hai người này đều mặt mũi vặn vẹo biến dạng, xương cốt hoại tử, thân thể lọm khọm gù hẳn xuống, khắp người đầy những vảy sẹo màu đen, mưng mủ, chảy máu, cơ thể tỏa ra một thứ mùi khiến người ta chỉ muốn nôn ọe. Thấy Đường Mẫn, Lữ Cánh Nam và Địch ô An Cát Mẫu đi tới, đội trưởng Hồ Dương cất tiếng: “Hai người này bị bệnh phong.” Họ đã dùng máy tính kiểm tra lại các thông tin liên quan rồi.

Địch ô đại nhân nói: “Họ trúng phải Quỷ Diện cổ. Người trúng thứ cổ độc này, thân thể sẽ bị biến dạng nghiêm trọng, mặt mũi trở nên cực kỳ đáng sợ. Loại cổ độc này rất ác hiểm, nghe nói, nếu họ sinh con, thì con cái cũng sẽ bị như vậy, thậm chí cả con của con cái họ cũng thế, đời đời tiếp nối, không bao giờ chấm dứt cả.”

Mặc dù đã biết đó là bệnh phong, nhưng họ cũng không có cách nào trị liệu, chỉ biết bày tỏ sự tiếc nuối với Địch ô An Cát Mẫu. Vị Địch ô già cũng không nói gì, bởi sự thực là, chỉ cần cứu được một người ở đây thì cũng là điều hết sức đáng mừng rồi.

Địch ô An Cát Mẫu lại dẫn họ đi thăm mấy người trúng cổ độc khác cũng được an trí trong hang động, mỗi người lại mỗi khác, tuy nhiên, cũng có một vài người họ có thể tìm được trong máy tính tư liệu về các ca bệnh tương tự để đối chiếu. Chẳng hạn, có một người bàn tay bàn chân bị biến dạng nghiêm trọng, trên da mọc đầy các sẹo thịt, tựa như những nụ hoa đỏ. Địch ô An Cát Mẫu nói đó là Vạn Hoa cổ, nhưng thông qua đối chiếu trên máy tính, họ cho rằng đó là một dạng biến thể của u độc đầu vú. Phương pháp trị liệu hiện nay thông thường là dùng tia laser đốt hết những khối u thừa đó đi, nhưng không thể trị tận gốc được, vì sau đó chúng sẽ mọc trở lại.

Còn hai người nữa trúng phải Đầu Diện cổ, trong đó có một người đầu to như cái đấu. Thật khó mà tưởng tượng nổi, nếu một người có khoang miệng lộ hẳn ra bên ngoài, má hóp vào bên trong, mũi mọc ngược vào trong, hai mắt không đối xứng thì sẽ như thế nào; còn người kia cũng có một bộ mặt rất khó hình dung, miêu tả chuẩn xác một chút, thì như thể người ấy quấn cả một bộ lòng ruột lên mặt mình, ngũ quan hoàn toàn biến mất. Theo quan sát của họ và sự phân tích của máy tính, tổ chức xương đầu của người thứ nhất dường như đã bị biến dị, còn người thứ hai thì tổ chức mạch máu trên đầu bị mọc khối u. Thật không sao tưởng tượng nổi, cùng một loại cổ độc tại sao lại có thể gây ra hai trạng thái biến dạng hoàn toàn khác nhau như thế.

Họ cũng gặp những “thụ nhân” giống như “người” mà Mã Cát chào hỏi lúc ở cổng làng, một người đã bị xâm thực lên đến đùi non, hai chân chỉ còn màu xám xịt mục ruỗng, mới chạm khẽ vào, đã có chất bột lả tả rơi xuống như được gắn bằng thạch cao, để lộ ra những mạch máu đỏ tươi và rễ thực vật màu đen bên trong, hai bàn chân thì giống như giẫm lên hai đống tóc đen nháy, toàn bộ đều là những sợi rễ cây. Theo lời Địch ô An Cát Mẫu, người này đã không thể nào đi lại được nữa, hai chân cũng không thể chạm đất quá lâu, bằng không hai búi lùng bùng trông như búi tóc ấy sẽ xuyên qua gan bàn chân xuống đất. Một khi chúng đã bám rễ vào mặt đất, thì sẽ sinh trưởng càng nhanh. Còn người kia thì đã bị thực vật hóa lên đến phần eo, hai chân đã hoàn toàn mất cảm giác. Địch ô đại nhân nói, người này vẫn còn bốn năm tháng nữa, khi nào phần màu xám xịt kia lên đến ngực, thì cơ hội sống sót gần như là bằng không.

Đường Mẫn định lấy một hai sợi rễ cây nhỏ như sợi tóc ấy về nghiên cứu, ban đầu Địch ô An Cát Mẫu tỏ ra hơi do dự, nhưng nghĩ đến việc biết đâu họ lại tìm ra được nguyên nhân người biến thành cây, cuối cùng ông và mấy “thụ nhân” kia cũng miễn cưỡng đồng ý.

Kết quả là “thụ nhân” ấy bị đau đến nghiến răng nghiến lợi, suýt chút nữa thì ngất xỉu. Bấy giờ Địch ô An Cát Mẫu mới cho họ biết, trước đây cũng có người từng làm vậy, giật đứt hết những thứ mọc chìa ra như tóc ấy đi, kết quả là đau đớn đến chết đi sống lại, nhưng chẳng bao lâu sau những “sợi tóc” bị nhổ đi ấy lại mọc ra như cũ. Từ đó trở đi, không còn ai làm như vậy nữa. Cuối cùng, Đường Mẫn phát hiện ra, thứ trông như tóc ấy thực ra là một kết cấu có tế bào thực vật bám vào các dây thần kinh, nhổ một “sợi tóc” ấy cũng bằng như trực tiếp giật đứt một dây thần kinh, cảm giác gần như lấy búa đập nát đầu ngón tay vậy, chẳng trách người kia lại đau đến cơ hồ muốn ngất đi như thế.

Còn mấy người trúng cổ độc khác lại càng khó hình dung hơn, không chỉ hình dạng khó thể dùng ngôn ngữ miêu tả cho rõ ràng, mà Đường Mẫn cùng Lữ Cánh Nam tra hết các tư liệu trong máy tính cũng không có đầu mối gì, thậm chí cả thứ gì gây nên biến dị cũng không rõ. Có điều, dựa vào những loại cổ độc mà họ đã tiếp xúc cho đến lúc này, đủ thấy cổ độc đã bao hàm từ động thực vật, đến ký sinh trùng, nấm khuẩn, virus, thậm chí cả sinh vật biến đổi gene. Thực khó mà tin nổi, đây là những thứ mà cổ nhân từ nghìn năm trước đã tiến hành nghiên cứu.

Nhìn những người bệnh hình thù dị dạng, sẹo lồi sẹo lõm mọc khắp người, mùi hôi thối, lở loét bốc nên nồng nặc, Đường Mẫn cảm thấy thật khó tin, lẽ nào tất cả những người này đều do cô bé tên là Mã Cát ấy một tay chăm sóc hay sao? Cô nghĩ thế, bèn hỏi luôn ra miệng.

Địch ô An Cát Mẫu gượng cười đáp: “Đương nhiên, ngoài tôi và Mã Cát, làm gì còn ai dám đến nơi này nữa đâu?”

“Vậy... nếu có ngày nào Mã Cát không tới thì sao?”

“Thì họ sẽ lặng lẽ chờ đợi, chờ đợi cái chết, hoặc là chờ đợi Mã Cát.” Địch ô An Cát Mẫu bất giác nở ra một nụ cười hiền hòa, nói với những người khách lạ: “Thực ra, số phận của những người trúng cổ độc này lẽ ra phải bị bỏ ở trong rừng Xương Trắng bên ngoài thôn làng cho tự sinh tự diệt. Mã Cát đã phát hiện ra hang động này, rồi chuyển những người đó vào đây, hàng ngày đều đưa nước và thức ăn tới, dốc lòng chăm sóc họ như chăm sóc thân nhân của chính mình vậy. Mã Cát là con bé rất có quyết tâm, chuyện mà nó muốn làm, thì phải làm cho bằng được, từ nhỏ nó đã như vậy rồi.”

“Không ai dạy cô ấy, tự cô ấy nghĩ là cần làm chuyện này à?” Đường Mẫn không tin có ai vừa sinh ra đã có tấm lòng Bồ tát, mới ngần ấy tuổi mà đã chăm sóc bao nhiêu người mắc bệnh nặng như vậy, đó không phải là chuyện người bình thường có thể làm được.

Địch ô An Cát Mẫu mỉm cười nói: “Thực ra, mới đầu Mã Cát cũng không ngờ sẽ thành ra như vậy, chỉ là cô Ương Kim của con bé bị trúng phải Thất Tâm cổ, Mã Cát và cô Ương Kim của nó rất thân thiết, nó không cho dân làng đuổi cô Ương Kim đi, liền tìm ra nơi này, hằng ngày đều đến chăm sóc cô ấy. Người trúng phải Thất Tâm cổ, bình thời thì chẳng khác nào người thường cả, nhưng khi cổ độc phát tác thì chẳng còn nhận ra người thân người quen gì nữa, đầu óc trở nên điên cuồng, không thể dùng lý lẽ của người bình thường để lý giải được. Từ năm mười tuổi, Mã Cát đã bắt đầu chăm sóc Ương Kim, suốt năm năm ròng cho tới khi cô ấy qua đời. Lúc ấy, người trong làng không ai tin con bé ấy có thể kiên trì được đến cùng. Ngày nào Mã Cát cũng bị thương, không phải bị cào cấu, thì là bị cắn xé, nhưng nó không hé răng than van lấy nửa lời. Mã Cát chăm sóc cho Ương Kim được nửa năm thì trong làng lại đưa tới đó người trúng cổ độc thứ hai, chính là “thụ nhân” ở đầu làng, tên là Thứ Nhân Lang Ca. Mã Cát cũng không từ chối, hoặc có lẽ, đối với nó, một hay hai người cũng chẳng có gì khác biệt cả. Về sau, lại có người thứ ba, thứ tư. Thực ra, trong làng chúng tôi cũng chỉ có khoảng ba bốn người trúng cổ độc đó thôi. Về sau các thôn làng khác nghe được tin này, những người trúng cổ độc ở những nơi ấy cũng đều tới đây hết. Tôi nghĩ, chắc rằng chẳng có ai muốn chịu đói chịu khát, chịu đựng nỗi cô đơn và sợ hãi trong rừng Xương Trắng tối tăm lạnh lẽo ấy cả. Mã Cát đối xử với mọi người đều như nhau, dường như nó đã quên mất ban đầu tại sao mình lại tới đây rồi, nó cũng không có lấy một lời oán trách, chỉ lặng lẽ tiếp tục công việc của mình, để những người ấy được bớt đi phần nào đau khổ.”

Nhạc Dương thấy tim mình nhói lên, tựa hồ đã ý thức được mình vừa phạm phải sai lầm gì. Trác Mộc Cường Ba cũng cảm nhận được, những người trúng cổ độc ấy, chỉ cần nghe thấy tên Mã Cát, cho dù đau đớn đến mấy, trên gương mặt họ cũng đều nở một nụ cười. Nghe câu chuyện tưởng chừng rất đỗi bình thường ấy, Ba Tang cũng không khỏi động dung, anh ta thực sự không có cách nào liên tưởng cô gái trong câu chuyện với cô bé Mã Cát mình gặp bên hồ hôm trước, với nụ cười thuần khiết như hài đồng, khiến người ta nhìn một lần là khó thể nào quên của cô. Anh ta không thể hiểu nổi: trên đời này lại có người như vậy sao? Cô ấy còn vui vẻ được sao? Còn hạnh phúc được sao? Tại sao cô ấy vẫn có thể cười vui như thế?

Chương 14

Mã Cát và Trương Lập

Trên đường trở về làng, Nhạc Dương tò mò hỏi về cái nồi lớn đặt ở cổng làng, Địch ô An Cát Mẫu cười cười, rồi giải thích: “Chuyện về cái nồi lớn đó hả, truyền thuyết kể rằng, từ rất lâu rất lâu trước đây, trên tầng thứ hai của Thánh vực này có Lâm quốc và Trạch quốc, hai nước giao chiến liên miên. Có một lần, vương tử của Lâm quốc bị thương rất nặng, một mình chạy đến vùng này. Năm đó cũng mất mùa đói kém, Vương tử bị thương nặng, lại không có gì ăn, tưởng chừng không sống nổi. Lúc ấy, có một cô gái xinh đẹp lương thiện cư trú ở vùng này tên là Như Thu Kiệt Mẫu đã cứu sống vương tử. Vương tử bị lạnh, nàng liền dùng thân thể mình ủ ấm, vương tử bị đói, nàng liền cắt thịt trên thân mình cho vương tử ăn, còn bản thân nàng thì chỉ nhai cỏ khô cầm hơi. Được Như Thu Kiệt Mẫu tận tình chăm sóc, vương tử đã sống lại, chàng đã nặng lòng yêu say đắm người con gái cứu sống mình ấy. Còn Như Thu Kiệt Mẫu cũng sớm đã đem lòng yêu vương tử, hai người bèn kết tình chồng vợ, hẹn ước trăm năm. Chỉ có điều, chiến tranh vẫn đang tiếp diễn, không kịp nói lời từ biệt, vương tử đã lại khoác chiến bào lên đường ra trận. Đến khi chiến tranh kết thúc, vị vương tử ấy chợt nhận ra mình không thể tìm được nơi người vợ năm xưa đã cứu mạng mình. Chàng chỉ lờ mờ nhớ được, dáng núi nơi ấy giống như một cái vạc, vì vậy vương tử một mặt phái người đi khắp nơi tìm kiếm, đồng thời lại sai người dựa theo ký ức của mình đúc nên một cái vạc lớn, đặt trước cổng lớn của vương thành, thông báo nếu có người biết được nơi này sẽ ban thưởng lớn. Cuối cùng, vương tử cũng tìm được người vợ đang khổ sở đợi chờ chàng, khi ấy chàng đã trở thành quốc vương của Lâm quốc, hai vợ chồng họ sống hạnh phúc bên nhau tới lúc bạc đầu. Cái vạc lớn ấy được đưa trở lại nơi hai người lần đầu gặp mặt để làm chứng cho tình yêu của họ. Về sau, khi quốc vương băng hà, vương phi cũng không muốn sống tiếp, bèn nhờ Đại Địch ô của vương quốc đưa quốc vương tới đây, dùng cái vạc lớn này để tiến hành nghi thức hợp nhất linh hồn, cùng nhau nắm tay về trời, mãi mãi không lìa xa nhau nữa. Sau đó, người Vi Đạt chúng tôi di cư tới đây, chọn đất cắm bia, lập nên thôn làng này, cái vạc này trở thành Vạc Hạnh Phúc được dân làng truyền tụng từ đời này sang đời khác. Những đôi nam nữ luyến ái nhau, đều len lén ra trước vạc phát nguyện hẹn thề, bày tỏ tình yêu.”

Nói xong, Địch ô An Cát Mẫu mỉm cười nhìn Nhạc Dương, tựa hồ muốn nói, đây là một câu chuyện tình đẹp lắm phải không, sau lại bổ sung thêm: “Đương nhiên, đây cũng chỉ là truyền thuyết, rốt cuộc là thôn Công Nhật Lạp chúng ta có trước hay cái vạc này có trước, trong các thư tịch cổ xưa của thôn làng không hề có ghi chép rõ ràng.”

Nhạc Dương lại hỏi thêm: “Vậy nghi thức linh hồn hợp nhất đó, rốt cuộc là như thế nào vậy?”

Địch ô An Cát Mẫu thu lại nụ cười, nói: “Đó là một nghi thức rất cổ xưa của chúng tôi.” Nhạc Dương thấy nét mặt của Địch ô đại nhân, thầm đoán chắc đây là một loại nghi thức không thể tùy tiện cho người ngoài biết, bèn không hỏi thêm nữa. Địch ô An Cát Mẫu thầm khen cho sự nhạy bén và khả năng lý giải của anh chàng trẻ tuổi này, nghĩ ngợi một chút, rồi chuyển qua chủ đề khác: “Kể ra thì, câu chuyện của Mã Cát cũng khá giống với truyền thuyết đấy chứ.”

“Hả?” Nhạc Dương thốt lên: “A Mễ cũng từng cứu được vương tử à?”

Địch ô An Cát Mẫu cười cười, còn chưa kịp trả lời thì đã có người dân trong làng chạy đến tìm hỏi chuyện gì đó, Nhạc Dương đành tạm gác chuyện kia lại.

Về đến trong làng, Đường Mẫn mới phát hiện Mã Cát đang ở trong phòng Trương Lập bối rối điều chỉnh vặn đi vặn lại thiết bị thông tấn, rồi lại chống cằm ủ rũ. Một điệu bộ hết sức bình thường như thế, nhưng khi cô thể hiện ra lại sao mà đáng yêu, khiến người ta phải thương xót đến lạ thường. Thì ra Trương Lập vẫn chưa tỉnh, chốc chốc lại nói mớ vài câu, Mã Cát nghe chẳng hiểu gì cả, cô liền nhớ đến thiết bị liên lạc mà Đường Mẫn để lại, nhưng lần này rõ là đã làm theo hướng dẫn rồi mà chẳng có tác dụng gì cả.

Thấy mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba trở về, Mã Cát nhảy bật lên, cầm thiết bị liên lạc đưa cho Đường Mẫn nói: “Chị Mẫn Mẫn, cái này, cái này, không có tiếng nữa rồi...” bộ dạng trông hết sức tủi thân. Đường Mẫn nhìn lại mới phát hiện ra, không hiểu ai đã rút dây điện nối giữa thiết bị liên lạc với thiết bị nguồn ra rồi, cô chỉ liếc về phía Lữ Cánh Nam một cái, nhưng cũng không nói gì, rồi chỉ cho Mã Cát biết nguyên nhân tại sao thiết bị không hoạt động. Có điều, Mã Cát lại phát hiện ra, sau khi trở về, người nào người nấy đều nhìn mình với ánh mắt khác hẳn, cô bèn hỏi: “Mọi người, sao vậy ạ? Lẽ nào các cô các chú ấy khiến mọi người không vui ư?”

Cả bọn rõ ràng đều không ngờ Mã Cát lại hỏi thẳng như vậy. Nhạc Dương vội vàng cười cười giải thích: “À, không, không, làm gì có, nhưng mà, chúng tôi cũng không giúp được gì nhiều, có hơi áy náy một chút.”

“Ồ, không sao đâu.” Mã Cát ngược lại còn an ủi họ: “Tấm lòng của mọi người, em hiểu mà...”

Đội trưởng Hồ Dương chợt hỏi: “Mã Cát, một mình cô chăm sóc những người này, làm sao... làm sao mà chăm sóc hết được?”

Mã Cát mở to mắt, lắc đầu nói: “Không phải một mình cháu đâu, còn có Địch ô đại nhân nữa. Nhưng mà, người trong thôn đều không biết đâu, nếu phát hiện Địch ô đại nhân cũng đến đó, chắc họ không dám đến nhờ Địch ô đại nhân thăm bệnh nữa mất.” Nói tới đây, cô nhoẻn miệng nở một nụ cười ranh mãnh.

“Cô không mệt sao?” Ba Tang cất giọng khàn khan hỏi.

Đây mới là lần đầu tiên Mã Cát nghe thấy Ba Tang lên tiếng, cô giật mình, thoáng ngẩn ra, rồi khe khẽ bặm môi, tròng mắt đảo tròn, tựa như đang nghĩ ngợi xem “mệt” rốt cuộc là ý gì. “Tại sao phải mệt chứ?” Mã Cát trả lời: “Được ở bên mọi người, không phải là một điều rất vui hay sao?”

Thế rồi Mã Cát bắt đầu kể, như thể đang đếm các đồ quý trong nhà ra vậy: “Lời khen của bà Đan Châu, giống như đóa tuyết liên nở rộ trên đỉnh núi quanh năm băng giá, chú Bạc Ca biết rất nhiều câu chuyện hay; bàn tay chú Tố Lang còn khéo léo hơn cả..., chú ấy biết làm rất nhiều món đồ chơi nhỏ thú vị bằng gỗ; à... còn nữa còn nữa, tiếng hát của chú Lang Ca, có thể sánh ngang với chim bách linh trong rừng, cô Ương Giang còn biết kết giỏ hoa bằng cỏ lác nữa...”

Câu trả lời của Mã Cát, khiến cả đám người đến từ thế kỷ hai mươi mốt ấy đều rịn mồ hôi. Khi gặp những người trúng cổ độc đó, họ căn bản không thể nào coi đó là con người giống mình, mà cùng lắm chỉ có sự thương hại mà thôi. Nếu đổi lại để họ đi chăm sóc những người ấy, bản thân họ cũng không dám đảm bảo mình có oán thán hay không. Nhưng Mã Cát thì khác, cô thực sự đã đạt đến cảnh giới coi ai cũng như ai. Một cô bé cùng chuyện trò tán gẫu, vui vẻ kể chuyện, hát ca với các cô các chú, có gì mà phải mệt chứ? Đúng vậy, tại sao phải mệt chứ? Giống như một người mẹ, cả ngày phải thay tã lót cho đứa con mới ra đời của mình mười mấy hai mươi lần; hoặc như người con trẻ tuổi khỏe mạnh, cõng mẹ già sáu bảy mươi tuổi lên phố đi dạo, tại sao phải mệt chứ? Phải thấy hoan hỉ mừng vui mới đúng chứ!

Thấy mọi người không ai nói gì, Mã Cát lại nói tiếp suy nghĩ của mình: “Thực ra, bọn họ cũng đáng thương lắm, nếu Mã Cát không chăm lo cho họ, thì chẳng ai để ý đến họ nữa cả. Thỏ trắng con bị thương, thì thỏ mẹ sẽ mang cỏ non về cho nó; dê con bị thương, dê mẹ sẽ liếm vết thương cho nó; dân làng Công Nhật Lạp bị thương, Mã Cát sẽ chăm sóc cho họ. Sau này Mã Cát sẽ trở thành Đại Địch ô của vương quốc Langbu, lúc ấy cả vương quốc sẽ không còn ai bị thương, cũng không còn ai phải chịu khổ nữa. Mọi người đều có thể sống thật vui vẻ bên nhau.”

Đường Mẫn không nén được đưa tay lên âu yếm xoa đầu Mã Cát, cô bé này tuyệt đối có khả năng và tiềm lực trở thành một y tá giỏi.

Còn Ba Tang, anh ta đanh mặt lại, chầm chậm bước ra ngoài. Anh ta căm ghét thứ cảm giác ấy, ở cái thế giới này, kẻ mạnh làm vua, kẻ nào thích ứng được thì sẽ sinh tồn, những con người và sự vật đến chính bản thân mình cũng không thể tự chăm sóc ấy, lẽ ra cần phải bị đào thải mới đúng. “Chuyện gì xảy ra thế này, tại sao chỉ vì một cô bé con, lại khiến lòng mình thấp thỏm bất an như vậy?”

Hai ngày sau, không ngờ Trương Lập vẫn chưa có dấu hiệu thuyên giảm, tiếp tục sốt cao, miệng thì lẩm bẩm nói mớ, lúc khóc lúc cười. Nhạc Dương là người lo lắng nhất, không biết Trương Lập có bị nhiễm phải loại ký sinh trùng đáng sợ như của Sean hay không. Có điều cả Lữ Cánh Nam và Mẫn Mẫn đều khẳng định rằng, bệnh của Trương Lập và Sean hoàn toàn khác nhau, thế nhưng, đúng là có liên quan đến Sean thật. Lữ Cánh Nam nói với Nhạc Dương, vì cái chết của Sean mà Trương Lập luôn tự trách mình, tâm trạng cực kỳ ức chế. Sau khi Sean chết, anh luôn dùng quá sức mình, cố gắng quan sát cẩn thận hơn một chút, bày bố cạm bẫy nghiêm mật hơn nữa. Rồi bận gặp phải bầy gián khổng lồ hôm trước, Trương Lập lấy thân mình mạo hiểm, chủ động dẫn dụ một đám đông nhất, việc làm ấy đã vượt quá cực hạn chịu đựng của cơ thể anh. Vài vết thương trên người vốn chỉ là chuyện nhỏ, nhưng sau khi gặp được Mã Cát, tâm trạng Trương Lập biến đổi đột ngột, chính sự thay đổi đột ngột từ bi thương sang hoan hỉ, cộng với cơ thể thoắt nóng thoắt lạnh sau khi bị thương, mới là nguyên nhân khiến Trương Lập bất ngờ đổ bệnh nặng như thế.

Mẫn Mẫn ở bên nói: “Có điều, đây biết đâu lại là một chuyện tốt. Nếu Trương Lập cứ tiếp tục đè nén cảm xúc trong lòng mình xuống, cho tới khi cơ thể không thể nào chịu đựng được nữa mới bùng phát ra thì hậu quả càng nghiêm trọng hơn nhiều. Trận ốm này, có thể coi như đào thải độc tố, tháo gỡ đi phần nào những khúc mắc u uất trong lòng Trương Lập, khiến gánh nặng trong lòng anh ấy nhẹ bớt, sau này mới có thể từ từ điều chỉnh được.”

Hai ngày này, Mã Cát trở thành người chăm sóc chính cho Trương Lập, đến cả người chẳng hiểu gì chuyện tình ái như Nhạc Dương cũng nhìn ra, cô bé này đối xử với Trương Lập khác hẳn với những người khác. Phải nói thế nào nhỉ? Nhạc Dương lờ mờ cảm thấy hơi giông giống như hồi đó Babatou chăm chóc cho Cường Ba thiếu gia, nhưng lại không hoàn toàn giống thế. Babatou nhiệt tình cởi mở, vui buồn gì đều lộ ra mặt hết, giống như một cô em gái chăm sóc cho người anh trai bị ốm; còn Mã Cát thì lại thu giấu cảm xúc vào trong, giống như một người mẹ chăm lo con thơ, yêu thương, lo lắng, hân hoan, bao nhiêu cảm xúc thảy đều dồn cả lại. Vẻ đẹp của hai người cũng hoàn toàn khác biệt, nếu nói Babatou giống như một đóa mẫu đơn nở rộ dưới vầng dương diễm lệ, thì Mã Cát chính là một bông sen còn đang hé nụ giữa ngày hè, mang đến cho người xung quanh một cảm giác mát mẻ dễ chịu. Lúc cô chống cằm mỉm cười, bộ dạng thật khó diễn tả, chỉ hơi nhíu mày một chút thôi đã khiến người ta thần hồn mê mẩn rồi. Nhạc Dương xưa nay vẫn tự phụ là người ý chí kiên định, vậy mà trước mặt Mã Cát cũng không thể cầm cự được, thường hay đưa mắt liếc nhìn, cũng chẳng biết là đang nhìn Trương Lập hay nhìn cô nữa, tâm tư lại lơ lửng bay đến tận châu Mỹ xa xôi diệu vợi.

Ngoài ra, pháp sư Á La và Địch ô An Cát Mẫu thường bàn luận về tôn giáo, cũng thăm dò được khá nhiều điều về Shangri-la. Còn bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba, thân thể cường tráng, tự nhiên là đảm nhận các công việc nặng nhọc như chặt củi, săn bắn, kiếm thêm đồ dự trữ cho cô nhi quả phụ trong làng. Nói theo cách của Nhạc Dương, cả nhóm đã thành một đội cứu trợ tình nguyện rồi.

Đến ngày thứ ba, Trương Lập mới hồi phục được ý thức, câu đầu tiên sau khi tỉnh lại của anh chàng là: “Hôm nay Mã Cát không đến à?” Làm Nhạc Dương ngồi trông bên cạnh gần hai tiếng đồng hồ suýt nữa thì mắc nghẹn, tức tối chỉ thẳng vào mặt Trương Lập ngoác miệng ra mắng: “Người trọng sắc khinh bạn thì tôi gặp nhiều rồi, nhưng đến mức như anh thì mới là lần đầu tiên tôi gặp đấy, hừ!”

Trương Lập nửa đùa nửa thật nói: “Được rồi, được rồi, tôi biết cậu trông ở đây đã lâu lắm rồi, nhưng mà tôi nhớ loáng thoáng hình như hai ngày nay toàn là Mã Cát ngồi ở đầu giường cơ mà nhỉ?”

Nhạc Dương lại kêu lên: “Cái đồ này, sao anh biết giỏi thế? Giả bộ hôn mê chắc?”

Trương Lập lảng đi không trả lời, cười hì hì nói: “Chà chà, giờ mới cảm nhận được sự hưởng thụ của Cường Ba thiếu gia lúc ở bộ tộc Kukuer đấy nhé. Chẳng trách Cường Ba thiếu gia lại hôn mê lâu thế, nếu đổi lại là tôi, dù có hôn mê cả tháng cũng thấy đáng ấy chứ.”

Nhạc Dương không nói gì, ngẩn người ra một lúc lâu, mới lên tiếng: “Tôi bảo này, hãy rời xa Mã Cát đi.”

“Hả? Cậu nói cái gì?”

“Tôi nói là, anh không thể ở bên Mã Cát được.”

“Hả! Cậu nói vậy là ý gì hả, đồ nhãi nhép!” Trương Lập chụp lấy cổ áo Nhạc Dương, ngồi bật dậy chất vấn: “Cậu nói vậy là có ý gì? Nói đi! Có phải cậu ganh tị với tôi không? Nếu cậu cũng thích Mã Cát, thì có thể quang minh chính đại cạnh tranh công bằng với tôi! Giỏi thì giở hết bản lĩnh ra đi! Đừng làm bộ làm tịch nữa, tôi biết cậu chẳng tử tế gì từ lâu rồi! Nói đi! Lúc cậu đi tìm cô Babatou của cậu, tôi có cản cậu hay không hả? Tôi còn giúp cậu ghép cái từ tiếng Anh ấy còn gì! Hừ, giờ đến lượt tôi rồi, cậu giỏi lắm, chẳng những không giúp, còn ngăn cản tôi nữa, còn là anh em không hả, phì phì!”

Nhạc Dương đợi Trương Lập nói hết, mới chậm rãi nhắc lại: “Nói thực lòng, bởi vì tôi cảm thấy, anh không xứng ở bên cô ấy.”

“Tôi không xứng! Cậu xứng chắc?”

“Tôi cũng không xứng! Anh có biết cô gái anh yêu là người như thế nào không? Cô ấy là tiên nữ đấy.”

“Tiên nữ? Tôi mặc xác cô ấy là cái gì nữ! Tôi hỏi cậu, cô ấy không phải là phụ nữ à? Tôi có phải là đàn ông không? Thế không phải là xong rồi à! Tiên nữ! Tiên nữ thì không cần người yêu chắc! Tiên nữ thì không thể yêu con người chắc! Tôi không xứng! Hừ! Người đẹp và quái thú, tiên nữ và ma quỷ! Thế chẳng xứng quá còn gì!”

“Quái thú? Ma quỷ?” Nhìn bộ dạng nghiến răng kèn kẹt của Trương Lập, xem ra cũng có vài phần dữ tợn của lũ ma quỷ.

Trương Lập lại nói: “Cậu không biết à, ở nước ngoài, bộ đội đặc chủng được gọi là quân lính của quỷ đấy. Nói gì thì nói, tôi cũng được coi là một nửa ma quỷ rồi.” Nói đoạn, anh chàng ngẩn ngơ ngửa mặt lên trần nhà mơ mộng: “Nghĩ lại thì, tôi và Mã Cát cũng xứng đôi lắm đấy chứ.”

Nhạc Dương chưa bao giờ ngờ rằng, vừa nhắc tới Mã Cát, Trương Lập liền như biến thành một con người hoàn toàn khác, tư duy nhạy bén, ứng biến nhanh nhẹn, đến cả mình cũng nhất thời tắc tị chưa tìm được lời nào đối đáp kịp. Anh chỉ đành thở dài nói: “Giáo quan nói không sai chút nào, chúng ta đến đây là để thực hiện sứ mệnh của mình. Ở một nơi phía trước có mãnh thú, phía sau có truy binh, không thể gây thêm rắc rối nữa. Anh và Mã Cát cách nhau cả nghìn năm văn minh, lại có rất nhiều khác biệt về tập tục thói quen, hai người vốn không thích hợp...”

Trương Lập tức thì lớn tiếng ngắt lời: “Hợp hay không hợp, đấy là chuyện của hai người chúng tôi chứ! Tôi vốn không tin vào chuyện mới gặp đã yêu, nhất kiến chung tình, nhưng kể từ khoảnh khắc nhìn thấy Mã Cát lần đầu tiên, tôi đã tin rồi! Lẽ nào yêu là phải phân biệt tuổi tác, quốc tịch, phong tục và tín ngưỡng hay sao? Lẽ nào tình yêu có thể dùng quan niệm vật chất và giá trị để đo đếm hay sao? Tôi mặc xác là giáo quan hay là Cường Ba thiếu gia, họ có thể mệnh lệnh cho tôi làm bất cứ nhiệm vụ gì, nhưng không thể ngăn cản tôi yêu một người được! Tôi cứ yêu Mã Cát đấy! Tôi yêu Mã Cát! Bất cứ ai cũng không thể thay đổi suy nghĩ của tôi hết!” Trương Lập mặt đỏ tía tai, thái độ cứng rắn kiên quyết, hai câu cuối cùng gần như là gầm lên vậy.

Vừa khéo lúc ấy Mã Cát cũng đi đến cửa, còn chưa vào trong phòng đã nghe thấy Trương Lập ở bên trong gầm lên, cô chỉ nghe được hai ba câu cuối cùng, rõ ràng là Trương Lập lại lớn tiếng gọi tên mình ra, nhưng không hiểu câu ấy là ý gì. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, liền ngay sau đó, cô đã có chủ ý.

“Mã... Mã... Mã... Mã Cát!” Vừa thấy Mã Cát xuất hiện ngoài cửa, Nhạc Dương liền lắp ba lắp bắp gọi tên cô, dẫu sao thì anh cũng đang đóng vai không đẹp cho lắm. Trương Lập thì vẫn nhìn Nhạc Dương với ánh mắt khiêu khích, như thể muốn nói: Tôi nhất quyết ở bên Mã Cát đấy, cậu làm gì được nào?

Mã Cát cầm đến một cái hộp nhỏ, cẩn thận đi đến bên chiếc giường lót bằng mấy tấm thảm, quỳ một chân xuống đất, chầm chậm mở nắp ra, rồi bảo Trương Lập: “Anh Trương Lập, cái này, cái này là... uống vào, bệnh của anh sẽ khỏi nhanh thôi.”

Nhạc Dương liếc mắt ngó vào xong, cũng chẳng buồn tranh luận với Trương Lập nữa, chỉ cố nhịn cười “hích hích”, nói: “Hình... hình như là phân chó thì phải!”

Mới đầu vừa nhìn thấy thứ trong hộp, Trương Lập đã hơi chau mày rồi, giờ còn bị Nhạc Dương lớn tiếng nói toạc ra lại càng cảm thấy khó mà nuốt được. Anh khó nhọc ngước nhìn Mã Cát hỏi: “Đây... đây là cái gì thế?”

Mã Cát nghiêm nghị trả lời: “Đây là Mật Lộ hoàn, mỗi năm Địch ô đại nhân cũng chỉ xin được của Đại Địch ô một viên...” Mã Cát giải thích chừng mười lăm phút đồng hồ, Trương Lập và Nhạc Dương rốt cuộc cũng hiểu ra, cái viên Mật Lộ hoàn trông giống cục phân chó này về cơ bản thì giống như một loại linh đơn diệu dược có thể trị được bách bệnh, khởi tử hồi sinh, chỉ có điều ngoại hình quả thực là...

Trương Lập nhìn viên Mật Lộ hoàn ấy, cầm lên rồi lại đặt xuống, cầm lên rồi lại đặt xuống, khoảng cách càng gần lại càng thấy khó mà nuốt được, cuối cùng đành thẽ thọt hỏi: “Cái này... cái này... thành phần như thế nào vậy?”

Mã Cát liền tỏ vẻ không vui, giận dỗi nói: “Em mặc kệ, người ta khó khăn lắm mới xin được cho anh một viên linh dược, anh lại còn chê bai đùn đẩy. Bây giờ em phải đi một chút, khi nào quay lại anh nhất định phải uống rồi đấy nhé. Anh Nhạc Dương, giám sát anh ấy hộ em nhé!” Mã Cát vừa dứt lời liền quay người đi luôn.

Trương Lập đần thối mặt ra nhìn Nhạc Dương, chỉ thấy Nhạc Dương cười cười bảo: “Nuốt đi, còn đợi gì nữa? Linh dược đấy.”

Trương Lập cầm “viên thuốc” ấy lên, đưa lại gần quan sát, rồi lại ngửi ngửi, sau đó đặt trở lại vào hộp, lồng ngực phập phồng, điều chỉnh hơi thở một hồi, đoạn nghiến răng nói: “Uống thì uống, của Mã Cát đưa cho, dù là thuốc độc tôi cũng chẳng từ.” Nói xong, anh chàng lại ngước mắt lên nhìn Nhạc Dương, hỏi: “Cậu... cậu có thể quay mặt đi không?”

“Không dược,” Nhạc Dương nói, “Mã Cát đã bảo rồi, tôi phải giám sát anh, nhất định phải tận mắt nhìn thấy anh uống hết thuốc mới được.”

Trương Lập lấy hết dũng khí và can đảm, nhắm tịt mắt lại...

Cùng lúc đó, Mã Cát len lén tìm gặp Đường Mẫn, nói: “Chị Mẫn Mẫn, à, có chuyện này... chúng ta có phải bạn tốt của nhau không?”

“Đương nhiên, chúng ta đương nhiên là bạn tốt rồi.”

“Thế, chị có thể giữ bí mật hộ em được không?” Cô mở to đôi mắt tròn nhìn Đường Mẫn đầy mong đợi.

“Tất nhiên rồi.”

“Ưm, em biết mọi người có thể nói nhiều thứ tiếng nữa, chị... chị có thể giảng cho em, câu này... câu này có nghĩa là gì không... nhưng không được nói với ai khác đâu đấy!”

“Được rồi, em cứ nói ra nghe xem nào.”

“Không được nói với ai đâu đấy nhé!”

“Biết rồi mà, em thấy chị Mẫn Mẫn giống người thích buôn chuyện lung tung lắm à?”

Mã Cát liền bắt chước giọng của Trương Lập, rồi bỏ đi tên của mình, lặp lại một lượt: “Tôi cứ yêu đấy, không ai có thể thay đổi suy nghĩ của tôi cả!”

“À.” Mẫn Mẫn vừa nghe đã bật cười. Mã Cát vội căng thẳng hỏi: “Nghĩa... nghĩa là gì thế? Chị Mẫn Mẫn, chị đừng cười mà, câu ấy nghĩa là gì thế?”

Đường Mẫn bèn mỉm cười giải thích: “Câu đó ấy à, là các anh chàng ở chỗ chị, bày tỏ tấm lòng trung trinh với cô gái của lòng mình, cả đời cũng không bao giờ phân ly. Có phải Trương Lập nói không?” Cuối cùng, Đường Mẫn đột nhiên hỏi.

“Không, không, không, không phải đâu... em đi trước đây. Nhớ giữ bí mật đấy nhé, chị Mẫn Mẫn!” Mã Cát xua tay lia lịa, nhưng gương mặt nhỏ nhắn đỏ bừng lên vì xấu hổ kia đã bán đứng cô, Mã Cát cuống cuồng bỏ chạy.

Nhìn bóng Mã Cát đi xa dần, Đường Mẫn cứ bật cười khúc khích mãi không thôi.

Cùng lúc ấy, Trương Lập và Nhạc Dương đang thảo luận một chuyện khác. “Ý cậu là, ba ngày nay mọi người đều đi chặt củi gánh nước, săn bắn, tích trữ lương thực à?”

Nhạc Dương gật đầu: “Chứ còn gì, cứ như đội cứu trợ ở châu Phi ấy.”

Trương Lập lại hỏi: “Vậy, mọi người không gia cố thêm các cạm bẫy ở ngoài làng à?”

“Tại sao phải gia cố thêm cạm bẫy ở ngoài làng?”

“Ngu thế! Cậu nghĩ xem, chúng ta có thể tìm được chỗ này, vậy thì bọn Merkin nhất định cũng có thể tìm được, mấy cái bẫy ngoài kia chỉ có thể dùng để ngăn cản lũ dã thú, làm sao ngăn được bọn người như Merkin chứ? Cậu nghĩ là chúng sẽ ở đây chặt củi gánh nước, trị bệnh cứu người như chúng ta chắc?”

Nhạc Dương sực hiểu ra: “Cũng phải, bọn chúng không đến cướp bóc đã là may lắm rồi.”

Trương Lập đanh mặt lại nói: “Nếu bọn chúng định cướp bóc thật, thì dân làng ở đây làm sao chống lại súng ống hiện đại được!”

Nhạc Dương lập tức đứng dậy: “Tôi phải báo cho Cường Ba thiếu gia ngay mới được.”

Lúc này, Mã Cát cũng trở lại, cô đến kiểm tra cái hộp nhỏ để ở đầu giường, rồi nhướng mày lên chất vấn như một bà chủ nhà khó tính: “Uống rồi chứ?”

Trương Lập gật gật đầu, cảm giác ấy thực sự rất khó quên. Mã Cát lại nhìn sang phía Nhạc Dương, Nhạc Dương vội vàng cam đoan: “Uống rồi, uống hết cả rồi.” Mã Cát giờ mới nhoẻn miệng cười tươi tắn, cúi người nhẹ nhàng nói với Trương Lập: “Anh Lập, bệnh của anh sẽ mau chóng khỏi thôi.” Nói xong, liền đặt lên trán Trương Lập một nụ hôn thật sâu.

Biến chuyển ấy thật quá đỗi bất ngờ, cả Trương Lập cũng không thể ngờ đến, Nhạc Dương lại càng chỉ biết lẳng lặng rút lui, trong lòng thầm than không ổn: nghe nói Bản giáo có một loại Tình cổ, sau khi nuốt vào, đàn ông có muốn hối hận cũng không được nữa, giống như bị bà xã nắm hết quyền lực kinh tế vậy. Cái thứ Mã Cát cho Trương Lập uống, lẽ nào chính là thứ đó?

Ba người bọn Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang, đội trưởng Hồ Dương mồ hôi vã ra như tắm, từng khối gỗ tròn to tướng bị bổ thành những thanh củi đều đặn rộng bằng chừng ba ngón tay chập lại. Thấy Nhạc Dương hộc tốc chạy đến, đội trưởng Hồ Dương liền hỏi: “Gì thế?”

Nhạc Dương lắc đầu nói: “Anh ta trúng độc nặng quá rồi, không thuyết phục nổi.”

Trác Mộc Cường Ba thở dài: “Thực ra, những chuyện này vốn không phải chúng ta nói mà được, cũng không phải việc chúng ta có thể can dự vào.”

Nhạc Dương lại nói: “Cường Ba thiếu gia, Trương Lập có nhắc đến một chuyện mà chúng ta hơi sơ xuất.”

“Hả...”

Nhạc Dương liền nhắc lại điều Trương Lập lo lắng.

“Trên bản đồ có nhiều thôn làng như vậy, chẳng lẽ bọn chúng lại đồ sát hết toàn bộ cư dân ở Shangri-la này hay sao? Vả lại, trang bị của chúng ta cũng có hạn, không thể nào đến nơi nào là liền tăng cường phòng ngự cho nơi ấy được? Chúng ta chỉ là những người qua đường, lẽ nào lại gượng ép thay đổi trật tự và kết cấu vốn có của nơi đây?” đội trưởng Hồ Dương phân tích.

Nhạc Dương nói: “Nhưng mà, đây dù sao cũng là thôn làng đầu tiên có người mà chúng ta gặp phải, nếu bọn Merkin ở trong rừng bị ức chế, muốn phát tiết một phen, vậy thì ngôi làng này chắc chắn sẽ là mục tiêu đầu tiên của chúng. Hơn nữa, Địch ô đại nhân ở đây đã chỉ cho Cường Ba thiếu gia con đường hy vọng chữa trị được cổ độc trong người, lại còn là làng của Mã Cát, việc này...”

“Có đặt bẫy hay không, chủ yếu phải xem Trương Lập thế nào.” Về những việc này thì Ba Tang cũng rất có quyền phát ngôn, tuy rằng anh ta không nói nhiều, chỉ điểm đến là dừng.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đúng thế, không biết Trương Lập còn cần bao nhiêu ngày nữa mới có thể hồi phục. Mà bọn Merkin ở phía sau đuổi rất rát, dù vì mình hay vì ai, cũng cần phải tăng cường phòng ngự cho ngôi làng.”

Ba Tang nói: “Ở bên ngoài cần đặt thêm mấy cạm bẫy nữa. Giờ Trương Lập vẫn chưa thể dậy được, bảo Lữ Cánh Nam đi, bẫy rập phải sắp đặt cho kín đáo một chút!”

Nhạc Dương lại hỏi: “Vậy, có cần phải báo cho dân làng không nhỉ?”

Đội trưởng Hồ Dương gật đầu: “Có chứ, vì sự an toàn của họ, đương nhiên phải báo cho họ biết rồi.”

Ba Tang cũng nói: “Tốt nhất là bảo với họ, đám người ấy là lũ ác ma giết người không chớp mắt!” Trên gương mặt anh ta hiện lên một nụ cười lạnh lẽo.

Sau hôm đó, bệnh tình Trương Lập cũng dần thuyên giảm, chẳng những vậy, không hiểu có phải bị trúng tà hay không mà anh chàng đột nhiên bắt đầu chăm chỉ học tiếng Tạng cổ, trình độ tăng tiến một cách rõ rệt, giỏi hơn hồi huấn luyện đặc biệt ở căn cứ bí mật nhiều. Cũng trong thời gian này, vẫn có dân làng đến xin khám bệnh, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đều dốc hết sức cứu chữa cho những nạn nhân của cổ độc và người bệnh khác, Mã Cát thì chạy đi chạy lại giữa hang động và phòng bệnh của Trương Lập. Có một điều khiến ai nấy đều hân hoan, đó là bà Đan Châu sau khi dùng thuốc, không ngờ đã dần dần có dấu hiệu thuyên giảm. Cả Địch ô An Cát Mẫu cũng không thể ngờ lại có người giải được Vạn Xà Thực Tâm cổ, giờ đã nhìn Mẫn Mẫn và Lữ Cánh Nam với ánh mắt hoàn toàn khác trước.

Nhiệt độ của Trương Lập luôn được khống chế ở mức độ sốt nhẹ, có điều vẫn chưa hoàn toàn khỏi hẳn, lúc mệt lúc không, người đông tụ tập thì bệnh tình của anh lại xấu đi, lúc nào chỉ có anh và Mã Cát thì bệnh lại thuyên giảm nhiều. Những lúc chỉ có một mình, anh sẽ nắm tay Mã Cát, kể cho cô nghe những chuyện ở bên ngoài. Anh kéo cô lại phía mình mỗi lúc một gần, đến nỗi về sau thành ra Mã Cát hai tay chống cằm, đè hẳn lên người Trương Lập mà nghe anh kể về thế giới ở ngoài kia. Còn nguyên do tại sao bỗng dưng trở nên táo gan như vậy thì chính bản thân Trương Lập cũng không nói ra được, chỉ biết quy kết đó thành phản xạ có điều kiện của cơ thể. Hoặc cũng có thể tại Mã Cát chưa bao giờ phản kháng, nên đã khiến lá gan của Trương Lập to ra cũng nên. Nhìn đôi mắt biết nói ấy của cô, hoặc những lúc được Mã Cát rờ trán, nghe nhịp tim, Trương Lập hạnh phúc lắm. Chỉ những lúc nào có người ở bên cạnh, hai người mới tách nhau ra.

Bên ngoài vốn đầy màu sắc và hấp dẫn, diễn tiến hơn một nghìn năm đã tạo nên một thế giới văn minh hoàn toàn khác với vùng đất bị phong bế kín mít này, Trương Lập không cần phải thêm mắm dặm muối một chút nào, thế giới ấy cũng đủ khiến Mã Cát đắm đuối mê say rồi. Đặc biệt là khi nghe Trương Lập kể về thành phố Thượng Hải, đôi mắt Mã Cát chớp chớp, sáng bừng lên, luôn miệng trầm trồ kinh ngạc: “Thế gian này lại có nơi như thế sao? Có tòa thành đẹp như vậy thật ư? Trời ơi, ước gì em được tận mắt trông thấy nơi đó! Những người ở đó, chắc chắn là phải hạnh phúc lắm đấy nhỉ!”

Trương Lập không khỏi nở một nụ cười gượng gạo, trong lòng thầm nhủ, nếu để Mã Cát biết, niềm khao khát của những người sống ở thế giới bên ngoài kia đối với Shangri-la cũng chẳng kém gì sự ngưỡng mộ của cô dành cho Thượng Hải, thật không biết cô sẽ nghĩ thế nào nữa.

Thế nhưng, sau khi Trương Lập kể chuyện anh cùng bọn Cường Ba thiếu gia cùng vượt bao gian khổ tìm đến nơi đây, ánh mắt của cô thiếu nữ ấy liền từ ngưỡng mộ chuyển sang sùng bái tuyệt đối. Bấy giờ cô mới biết, thì ra những người này đã vượt qua biết bao khó khăn khổ nạn, thì ra người đàn ông trước mắt cô đây lại anh dũng vô địch đến thế. Ánh mắt ấy, trăm phần trăm là ánh mắt của giai nhân nhìn bậc anh hùng của lòng mình. Trương Lập nhất thời kích động, lại không kìm được ôm lấy Mã Cát hôn đắm đuối. Sự thực là, trong vụ “tai nạn” bất ngờ lần đó, Mã Cát cũng không thể nào kháng cự lại cảm giác kích thích hoàn toàn mới mẻ ấy, nàng sơn nữ trẻ tuổi đắm chìm trong nụ hôn nóng bỏng, nhiệt tình đáp trả.

Lại thêm hai ngày nữa, cuối cùng Trương Lập cũng có thể ra khỏi giường đi lại, xơi một bát canh thịt to tướng, rồi lại thêm một ít bánh nữa. Địch ô An Cát Mẫu kiến nghị anh nên ra ngoài vận động cho giãn gân cốt, hít thở không khí trong lành, Lữ Cánh Nam và Mẫn Mẫn cũng đều có ý này. Nhưng khi trông thấy Mã Cát dìu Trương Lập đi ra, cùng ánh mắt quan thiết mà âu yếm của cô gái dành cho anh, Lữ Cánh Nam không khỏi chau mày, khe khẽ thở dài một tiếng.

Hôm sau, Nhạc Dương chuyển lời đến: “Giáo quan bảo, anh đã hoàn toàn bình phục rồi, ngày mai chúng ta sẽ xuất phát, cô ấy kêu tôi hỏi xem anh tính thế nào?”

“Ngày... ngày mai đã đi rồi à?” Mấy ngày này, Trương Lập cảm giác như thể mình đang sống trên thiên đường, trận ốm này không ngờ lại kết thúc nhanh thế, thật là khiến người ta thất vọng. Đồng thời, anh cũng hiểu rõ, dù thế nào Mã Cát cũng không thể cùng họ lên đường được, chưa nói đến chuyện dọc đường nguy cơ rình rập khắp bốn bề tám hướng, dẫu là dọc đường mọi sự đều thuận lợi thì cô bé cũng không thể chịu nổi với tốc độ hành quân thần tốc của bọn họ được.

Nhạc Dương thấy Trương Lập ngần ngừ, lại bổ sung thêm: “Cường Ba thiếu gia cũng nói rồi, ngày mai chúng ta sẽ đi, nhưng anh có thể lựa chọn.”

Trương Lập cười khổ, đương nhiên anh không quên mục đích mình đến nơi này, chỉ là không biết phải từ biệt với Mã Cát như thế nào mà thôi, mấy ngày này, tuy rằng hai người chưa có hành động gì thân mật hơn, nhưng anh đã được nếm trải cảm giác ngọt ngào phát xuất từ đáy lòng. Một ánh mắt, một thoáng lướt qua, một tiếng gọi, cũng đều khiến toàn thân anh thấy ấm áp vô ngần. Trương Lập giờ đã cảm nhận được, ý nghĩa thực sự của hai chữ “ái tình” rồi.

“Tôi biết rồi.” Trương Lập là người thế nào, Nhạc Dương hiểu rõ nhất, anh vỗ vỗ lên vai Trương Lập, nhìn bạn với ánh mắt thông cảm pha lẫn tiếc nuối, ý như muốn bảo: “Tôi đã nói trước, bảo anh đừng để lún sâu quá rồi mà.”

Chiều hôm ấy, Trương Lập cẩn thận kiểm tra hết một loạt các cạm bẫy bên ngoài làng, để tránh dân làng không may giẫm phải bẫy, họ chỉ bổ sung thêm một số sản phẩm khoa học kỹ thuật cao vào những chỗ cạm bẫy ban đầu. Trương Lập chỉ lẳng lặng cắm đầu làm, không nói một lời nào, Mã Cát cũng cảm nhận được có chuyện gì đó sắp xảy ra, cô nghi hoặc nhìn Trương Lập chăm chú kiểm tra từng chốt bẫy một.

Cuối cùng, sau khi chắc chắn tất cả các bẫy rập đều hoạt động bình thường, anh mới đứng lên, thở dài một tiếng, quay lưng về phía Mã Cát nói: “Ngày mai, bọn anh phải đi rồi, Mã Cát.” Nói xong câu ấy, Trương Lập cảm thấy sau lưng mình chìm vào tĩnh lặng, dường như đã trầm mặc suốt cả một thế kỷ dài.

Sau đó, anh cảm nhận được, một đôi bàn tay nhỏ nhắn từ phía sau vòng qua, ôm chặt lấy hông mình. Mã Cát áp mặt vào lưng Trương Lập, thủ thỉ: “Anh Lập, em muốn bay thêm một lần nữa. Đêm nay.”

“Được, đêm nay, anh sẽ đưa em bay!” Trương Lập không biết làm sao mà mình thốt lên mấy chữ ấy được, chỉ có cảm giác sau khi nói ra, trái tim cũng như bị móc khỏi lồng ngực.

“Cái này, tặng cho anh đấy.” Mã Cát lấy ra một đóa hoa nhỏ màu hồng, nhẹ nhàng gài lên ngực Trương Lập. Trương Lập không hiểu gì, lại hồ đồ tháo đóa hoa xuống: “Cái này, cài trên tóc Mã Cát thì mới đẹp chứ!”

Gài đóa hoa đó xong, Mã Cát tựa như chú thỏ trắng kinh hãi, ngượng ngùng đỏ bừng mặt chạy đi, được một đoạn mới quay đầu lại, thẹn thùng nói: “Nhớ đấy nhé! Tối nay đến tìm em!” Nụ cười ấy tựa như nụ hoa xuân chờ hé nở, giọng nói ấy thực chẳng khác nào tiếng chuông bạc ngân lên trong gió.

Hẹn hò xong xuôi, Trương Lập nghĩ đi nghĩ lại, cảm thấy buổi tối không có ánh sáng gì hơi nguy hiểm, bèn lấy lý do đó đề nghị với Mã Cát xem có thể chuyển sang buổi chiều hay không. Nhưng Mã Cát không chịu, kiên quyết một mực đòi bay buổi tối, lại còn nói, chỉ cần kiên trì khấn nguyện, kỳ tích nhất định sẽ xuất hiện.

Màn đêm sớm đã buông xuống Shangri-la, bốn bề chỉ còn lại tiếng côn trùng kêu rỉ rả, duy chỉ còn những thành viên đoàn thám hiểm sớm mai phải rời khỏi ngôi làng này là không sao ngủ được. Đến thời gian ước hẹn, Trương Lập nhẹ nhàng gõ lên cửa phòng Mã Cát, cô sơn nữ ấy liền lao bổ vào lòng anh như chú chim nhỏ về rừng. Trương Lập vươn tay ra, để Mã Cát ngồi lên cánh tay mình, đầu dựa vào vai. Trương Lập cứ bế Mã Cát như thế, cẩn thận bước ra bên ngoài.

Dân làng đều đã tắt đèn đi ngủ, trên đường vắng tanh không một bóng người, Trương Lập đeo kính hồng ngoại nhìn đêm vào, một tay ôm Mã Cát, đi từ phía bên này sang phía bên kia thôn làng. Lúc này, ngoài tiếng bước chân của chính anh, thì xung quanh chỉ còn tiếng thở nhè nhẹ mà hơi gấp gáp của Mã Cát mà thôi. Đây là thế giới riêng của bọn họ, không có bất cứ phiền nhiễu nào quấy rối, hai người có thể gần nhau bao nhiêu cũng được. Gió, sao mà nhẹ nhàng êm ái, chẳng cần lời nói, mà trực tiếp đọc luôn nội tâm của người kia. Trương Lập cảm giác như thể mình đang ôm cả một thế giới trong lòng, tất thảy, đều thật đắm say, mà cũng thật chân thực. Trong khoảnh khắc ấy, Trương Lập thật sự hy vọng có một ngày, có thể ôm Mã Cát trong lòng mà đi mãi, đi mãi... nếu thật có một ngày như thế...

Mã Cát dựa vào vai Trương Lập, trong bóng tối, cô không nhìn thấy bất cứ thứ gì. Và sự thực là cô cũng không cần nhìn thấy gì cả, ngay từ đầu cô đã nhắm chặt mắt lại, cô chỉ cần cảm nhận, dùng thân thể mình cảm nhận một sự tồn tại khác, thật chân thực. Gương mặt nhỏ nhắn của cô khẽ cọ vào má tình nhân, nơi lồng ngực cô, có một nhịp tim mạnh mẽ, vững chắc truyền đến, cô có thể cảm nhận được hơi thở và nhiệt độ của người đàn ông ấy. Không cần lời nói, tất cả sự tĩnh lặng ấy đều thật diễm lệ, thật rung động lòng người!

“Chuẩn bị xong chưa? Bay lên nhé!” Giọng nói ấy đã trở thành vị thần bảo hộ trong giấc mơ ngọt ngào của Mã Cát, tựa như cơn gió xuân phất qua hàng liễu, mỗi âm thanh phát ra, đều khiến trái tim cô cơ hồ lạc nhịp.

“Ưm.” Mã Cát đáp một tiếng, rồi ôm càng chặt hơn.

Lùi lấy đà, tăng tốc, nhảy lên, đu vút đi... gió ập tới, hai thân thể rời khỏi mặt đất. Cảm giác bay lượn này sẽ là những hồi ức đáng trân trọng nhất trong đời Mã Cát, cho dù bay đến đâu, cho dù màn đêm có tăm tối nhường nào chăng nữa, cô chỉ muốn ôm chặt lấy hạnh phúc ngắn ngủi ấy, bay mãi, bay mãi...

Phía Đông làng Công Nhã Lạp.

“Đại ca Tây Mễ, khoảng năm cây số về phía trước, có vật thể đang di chuyển với tốc độ cao.” Max lớn tiếng kêu toáng lên.

“Cái gì mà làm ầm lên thế! Sợ cái gì? Đợi khi nào chúng cách ta hai cây số rồi hãy nói.” Tây Mễ ở cạnh đó hạ lệnh.

“Vâng, vâng.” Max gật đầu lia lịa, “A, lại có hai cái...” Tây Mễ vừa trừng mắt lên, giọng Max lập tức nhỏ dần rồi tắt hẳn.

“Hử?” Tây Mễ hờ hững liếc mắt qua màn hình hiển thị, vết sẹo trên mặt bỗng giật giật lên một cái.

“Sao... sao vậy?” Vừa thấy Tây Mễ tỏ ra nghiêm túc, Max tức thì trở nên vô cùng căng thẳng.

“Mày nhìn ba điểm sáng này xem,” Tây Mễ chỉ màn hình nói. “Hai điểm phía sau đang đuổi theo điểm thứ nhất, tốc độ di chuyển không hề chậm, hơn nữa gần như là đi theo đường thẳng, đây hình như không phải hành vi của dã thú.”

“Là... là người sao?” Max càng căng thẳng hơn.

“Dậy đi!” Tây Mễ lay lay mấy cái túi ngủ treo lủng lẳng phía dưới, đánh thức cả bọn dậy, rồi tuyên bố: “Max, mày dẫn theo Mike, Dick, Brian, Steven và cả Ivan nữa, theo tao đi xem thế nào. Những người khác ở lại đây canh giữ, đừng có thằng nào ngủ đấy nhé! Lôi Ba, tỉnh táo lên đi, thay tao để ý các anh em!”

Lôi Ba gật đầu, Tây Mễ liền dẫn theo Max nhảy xuống gốc cây.

Vươn tay ra, rồi lại giật dây về, Trương Lập ôm Mã Cát lao đi vun vút trong rừng, không hề cảm thấy mệt mỏi một chút nào. Anh chỉ sợ, chỉ sợ khu rừng này không đủ lớn. Phía xa bỗng vang lên tiếng gầm của dã thú, Trương Lập đang do dự xem có nên đổi hướng không, bỗng nghe Mã Cát nói: “Cường Ba đấy, tiếng của Cường Ba đấy, nhất định là nó thấy chúng ta rồi. Mình qua chỗ nó được không, anh Lập?”

Tiếng nước ì oạp lớn dần, sau khi lướt qua cây đại thụ lớn cuối cùng chắn trước mặt, Trương Lập nhận ra họ đã trở lại, trở lại nơi lần đầu hai người gặp gỡ. Mặt nước hồ đang khẽ lăn tăn trong màn đêm, cơn gió dồn nước thành từng cơn sóng nhỏ vỗ vào bên bờ.

“Chúng ta đến rồi.” Trương Lập đứng trên dải đất cao vây quanh hồ, khẽ rủ rỉ nói vào tai Mã Cát, nhưng anh vẫn chưa có vẻ gì là muốn buông tay.

“Vâng.” Trái tim Mã Cát giờ vẫn đang phiêu lãng theo gió, cô chầm chậm mở mắt, cũng chẳng hề có vẻ gì là muốn xuống khỏi tay Trương Lập cả.

Hai người cứ đứng thế, nghe tiếng nước, cảm nhận cơn gió nhẹ phất qua, không ai lên tiếng nói gì. Trương Lập lặng lẽ nhìn con vật khổng lồ từ giữa hồ đứng lên, bước về phía bờ, lắc lư hất nước trên người xuống, rồi ục à ục ịch đi về phía họ; Mã Cát thì bỗng phát hiện ra bóng tối xung quanh dường như dần lùi đi, vách đá, rừng cây, bụi cỏ, dần trở nên rõ nét, cô nghiêng đầu sang nhìn, chỉ thấy gương mặt mới quen chưa lâu mà đã thân thuộc ấy đang hiện lên rõ mồn một, những đường nét góc cạnh rõ ràng phủ một lớp ánh sáng bàng bạc.

Mã Cát chợt ngẩng đầu, đôi mắt lập tức sáng bừng lên: “Anh Lập, nhìn xem, trăng kìa!”

Trương Lập cởi bỏ kính nhìn đêm, chỉ thấy ánh trăng màu bạc chảy lan khắp mặt đất như thủy ngân, phủ kín cả một vùng núi đồi rừng rậm, đổ tràn vào hồ nước, mặt hồ gợn lên từng vụn bạc li ti, nơi bờ hồ phía trước bọn họ là một khoảng lớn toàn một loài cỏ không rõ tên, cao chừng ngang người, đầu ngọn cỏ mềm như bông, đung đưa phất phơ theo gió, tựa như một vùng đầm lau sậy vậy. Cả khu rừng xung quanh nhuốm lên một lớp màu ngân bạch, mây mù dày đặc u ám không biết đã tan đi từ lúc nào, trên đỉnh đầu là một dải lụa đẹp tuyệt trần điểm xuyết muôn sao lấp lánh. Trăng sáng trên cao, ánh sao lưu chuyển, kỳ tích, thực sự đã xảy ra rồi!

Lúc đó, con thằn lằn cổ dài tên Cường Ba kia đã đến bên cạnh họ, đưa cái đầu to tướng lại gần. Mã Cát giơ tay sờ sờ lên đầu mũi nó, con vật tỏ vẻ thích thú, gật gù nhắm mắt lại, chừng như khoái chí lắm. Mã Cát đảo mắt một vòng, rồi nói với Trương Lập: “Anh Lập, chúng ta lên lưng Cường Ba đi!”

“Hả?” Trương Lập ngẩng đầu nhìn con vật to bự trước mặt. Tuy rằng con thằn lằn cổ dài này thể hình vĩ đại, lưng còn rộng hơn lưng voi, ngồi hai người cũng không thành vấn đề gì, thế nhưng... anh nói: “Nó không hất văng bọn mình xuống đấy chứ?”

Mã Cát bật cười khúc khích, nói: “Không đâu, Cường Ba biết nghe lời lắm, nó sẽ ngoan mà. Phải không, Cường Ba?” Nói đoạn, tay cô liền vuốt vào chỗ đầu mũi Cường Ba, từ trên xuống dưới. Cường Ba quả nhiên phục hẳn người xuống, chân trước choãi ra như cái thang. Mã Cát vén váy lên, nhún nhẩy hai ba bước đã leo lên lưng con thằn lằn khổng lồ, ngồi vững vàng trên đó. “Xin lỗi nhé, Cường Ba thiếu gia.” Trương Lập nhủ thầm trong bụng, rồi cũng leo lên ngồi.

Sau khi cả hai người đều đã ngồi vững trên lưng nó, Cường Ba mới chầm chậm ngẩng đầu lên, giống như thể đang ngồi trên vòng đu quay ngắm cảnh. Họ dần dần được đưa lên cao, tầm nhìn cũng dần trở nên thoáng hơn. Rừng cây dưới chân họ trở nên nhỏ dần. Mã Cát khẽ vỗ vỗ lên đầu Cường Ba, con vật liền cõng hai người họ chầm chậm đi về giữa hồ.

Ánh sao lấp lánh, mặt hồ lóa ánh trăng, lũ tinh linh đang nhảy múa trong rừng, ai đang chơi đàn thụ cầm, ai đang huýt sáo theo tiếng nhạc? Một thế giới như trong cổ tích xuất hiện trước mắt hai người, như thật mà cũng như mơ.

Cường Ba vừa rời khỏi dải đất cao quây xung quanh hồ nước, tức thì liền có hai bóng người chiếm luôn vị trí từ trên cao nhìn xuống đó, hóa ra chẳng phải ai khác, mà chính là Nhạc Dương và Ba Tang. Hai người cũng đeo kính nhìn đêm, vũ trang chỉnh tề từ đầu đến chân.

Cường Ba đã ngâm nửa người xuống nước, chỉ để lộ sống lưng và cái đầu đang nghển cao, hai người ngồi trên tấm lưng rộng rãi của nó, chân có thể đung đưa đá nước, ngửa mặt lên là có thể ngắm nhìn trăng sao trên trời.

“Anh Lập, xem kìa, ngôi sao ấy sáng quá.”

“Ừ, đó là sao Bắc Đẩu.” Trương Lập nhìn theo hướng ngón tay Mã Cát chỉ, nói: “Anh nhớ bên cạnh đó hình như là chòm sao Tiên Nữ, sao nhìn thấy được chính là Tạo phụ tinh 

1

. À, phải rồi, em có biết không? Nó cách chúng ta đến một nghìn ba trăm năm ánh sáng cơ. Có nghĩa là, ánh sáng mà chúng ta nhìn thấy bây giờ, thực ra đã được nó phát ra từ một nghìn ba trăm năm trước cơ, đó cũng là lúc bộ tộc của em tiến vào Thánh vực này đấy.”

“Ưm.” Tuy không hiểu Trương Lập đang nói gì, nhưng Mã Cát vẫn đắm đuối nhìn anh với ánh mắt sùng bái, dịu dàng âu yếm dựa đầu vào vai anh. Hai người cứ ngồi dựa vào nhau như thế trên lưng Cường Ba, tắm mình trong ánh trăng sao, đón làn gió mát, lặng lẽ đếm sao trời phản chiếu dưới mặt hồ.

Thời gian dần trôi, Nhạc Dương và Ba Tang ngồi lom khom phía trên cũng tê rần cả chân. Hai mắt Nhạc Dương vừa khô vừa mỏi, đây rõ ràng là một quá trình đau khổ kéo dài dằng dặc, vậy mà hai người một thú phía dưới kia vẫn không thèm nhúc nhích, cứ như đã hóa thành mấy pho tượng rồi vậy. Nhạc Dương xoa xoa cặp giò đã tê cứng, làu bàu nói với Ba Tang: “Anh Ba Tang này, chắc bọn họ không ngủ gật rồi đấy chứ? Lâu như vậy mà chẳng thấy ai động đậy gì cả.”

Ba Tang không nói gì, chỉ khịt khịt mũi thở ra một hơi mạnh.

Thêm một lúc nữa, Nhạc Dương lại nói: “Anh Ba Tang, đợi thêm lúc nữa, nếu tên Trương Lập đó làm chuyện gì quá đáng, liệu chúng ta có cần ngăn lại không nhỉ?”

Ba Tang nói: “Chúng ta chỉ phụ trách làm sao để họ không bị người hay động vật nào làm phiền thôi, những chuyện khác thì tốt nhất đừng nhúng mũi vào.”

Nhạc Dương tức tối phun nước bọt phì phì: “Thật đúng là, người ta ở kia nói chuyện tình yêu, còn chúng ta thì ngồi đây làm cu li canh gác.”

Bốn bề tĩnh mịch như tờ, Ba Tang bỗng nhiên lên tiếng hỏi: “Nhạc Dương, thấy cậu ngày nào cũng vô lo vô ưu, dường như vui vẻ lắm thì phải.”

Nhạc Dương cười hì hì: “Đương nhiên rồi, có gì mà phải lo lắng nghĩ ngợi chứ, con người ta sống trên đời, cớ gì mà không vui vẻ thoải mái cho sướng?”

Ba Tang lại hỏi: “Vậy theo cậu, hạnh phúc là gì?”

Nhạc Dương chăm chú nhìn Ba Tang, tựa như câu nói ấy thốt lên từ miệng Ba Tang khiến anh chàng ngạc nhiên ghê lắm. Có điều, anh cũng nhanh chóng đưa ra câu trả lời: “Hạnh phúc à, hì hì, làm việc mình muốn làm, yêu người mình muốn yêu, vậy chẳng phải là hạnh phúc rồi đó sao?”

“Đơn giản vậy thôi à?”

“Ừ, chỉ đơn giản vậy thôi, nếu không thì còn gì nữa? Anh nhìn cái tên dưới kia xem, giờ hắn ta hạnh phúc đến hết biết rồi đấy.”

“Đó là hạnh phúc sao? Mã Cát vì đơn giản nên mới cảm thấy hạnh phúc ư? Còn Trương Lập? Là vì thân tâm được thỏa mãn mà cảm thấy hạnh phúc ư? Hạnh phúc như vậy có thể kéo dài sao? Hừ, liền kề sau niềm vui ngắn chẳng tày gang sẽ là những tháng ngày đau khổ kéo dài đằng đẵng, đây chính là cuộc đời, đây chính là thứ hạnh phúc mà họ theo đuổi đó hay sao?” Ba Tang thầm nhủ.

Chương 15

Bài ca của tinh linh tuyết

uy Trương Lập và Mã Cát không hề nhúc nhích, nhưng hai người vẫn tay nắm chặt tay, sắc mặt rạng rỡ. Vốn hai người có rất nhiều điều để nói cùng nhau, nhưng đến đêm chia tay cuối cùng này ngược lại chỉ đắm chìm vào tĩnh lặng, chỉ dựa vào nhau, lắng nghe nhịp tim của nhau, thứ âm thanh ấy còn hay hơn, hấp dẫn hơn mọi tiếng nhạc trên đời.

Cuối cùng, Trương Lập mới lấy hết dũng khí, cất tiếng lí nhí như muỗi kêu: “Mã Cát, em đẹp lắm.”

Giọng anh nhỏ, thật nhỏ, nhỏ đến mức Mã Cát ngồi gần như vậy cũng chỉ nghe thấy một chữ “đẹp”. Cô chỉ vào bãi lau cách đó không xa, nói: “Đấy là cỏ lác, chỉ chừng mười ngày nữa, tất cả sẽ chuyển sang màu vàng óng ánh, lúc ấy mới đẹp cơ.”

“Ừ.” Trương Lập cũng phát ra một âm thanh từ khoang mũi. Lần đầu tiên gặp Mã Cát, anh đã được thưởng thức vẻ đẹp của thứ cỏ ấy rồi, đêm nay cỏ mịn như bông, gió thổi phất phơ, ngưng tụ thành một dải lụa màu xám bạc, vươn ra, cuộn lại, đẹp đến phi thường. Đột nhiên một âm thanh như tiếng chuông bạc vang lên, tựa như tiếng nhạc nơi tiên giới. Nơi nào có gió phất qua, ở trên dải lụa bạc ấy bỗng có mấy điểm trắng nho nhỏ bay lên, thoạt nhìn thấy rất giống đom đóm. Những điểm sáng ấy lửng lơ dừng lại trên không trung, đung đưa nhảy múa, nhưng ánh sáng trắng hơn đom đóm nhiều, trắng như tuyết, khi sáng khi tắt, tựa như loài tinh linh sống ở chốn rừng sâu chỉ nhảy múa dưới ánh trăng trong truyền thuyết. Âm thanh vui tai ấy cũng như thể tiếng hát của loài tinh linh, phiêu hốt nhẹ bẫng, làm người ta nghe mà như say như mê, thần hồn điên đảo.

Thoạt đầu, chỉ một đơn âm cao vút lên, khuấy động mặt hồ, lững lờ theo gió văng vẳng vào tai, khiến lòng người như rung lên khe khẽ, phảng phất như hồn phách cũng rời khỏi thân thể bay lên, phiêu phiêu hốt hốt như thể ngồi trên mây, như thể dập dềnh trên mặt nước. Âm thanh vừa dứt, liền tan biến không tăm không tích, tức thời cảnh đêm như cũng trống rỗng tựa mặt hồ, chợt lại có một âm khác vút lên, như gió cuốn mây tàn, co lại rồi đột ngột tung ào ra, như thể bàn tay tình nhân cầm một miếng nhung mềm cà nhẹ lên chỗ ngứa ngáy nhất, nửa như cự tuyệt, lại nửa như hân hoan chào đón, như muốn ở, lại như muốn đi. Liền kề sau đó, lại một âm nữa cất lên, như thể trời đất giao hòa, mặt hồ xanh ngọc bích khẽ thở dài một tiếng, ngàn năm vạn năm cũng không hề đổi thay. Hai âm hòa trộn, xoắn xuýt lấy nhau, như thể long phượng hòa minh, chợt cao vút lên như đao thương thiết mã chạm nhau trên chiến trường, rồi lại chợt thấp trầm rủ rỉ như tiếng thì thầm của tình nhân. Âm thứ ba, âm thứ tư cũng từ từ hòa vào đó, trời đất như thể đang tấu lên một khúc giao hưởng, trên không trung, những nốt nhạc tung tăng nhảy múa. Khúc hợp tấu dần trở nên hoàn mỹ, khiến những người nghe đều có cảm giác đời này chẳng còn gì để hối tiếc nữa. Tới lúc mọi người ngỡ rằng âm thanh đã dứt, khúc nhạc trời ấy sắp tan biến vào hư vô, thì đột nhiên lại bừng lên một âm mạnh nhất, phát ra từ tận đáy sinh mệnh, kết thành một tấm lưới lớn trên không trung, khắp bốn phương tám hướng, đều văng vẳng tiếng nhạc đắm say huyền diệu.

Cả bốn người có mặt ở đó, không ai là không đắm chìm trong tiếng nhạc, quên đi hết thảy mọi điều. Khi âm cuối cùng kết thúc, dường như họ vẫn không thể thoát ra khỏi thế giới huyền ảo lung linh ấy. Không biết bao lâu sau, người mới giật mình sực tỉnh, tựa như vừa trải một giấc mộng Nam Kha, lạc vào tiên cảnh, nghe được tiếng nhạc trời trên chốn Cửu thiên.

Mã Cát chăm chú nhìn về phía trước, kích động thốt lên: “Tinh linh Tuyết, là tinh linh Tuyết đang hát đấy!” Mắt cô đã ngân ngấn lệ.

Trương Lập và cô ở gần nhất, mắt thấy trên không trung có mấy chục điểm sáng trắng như tuyết, âm thanh tuyệt vời lúc nãy chính là do những đốm sáng lập lòe ấy phát ra. Anh thật không sao hiểu nổi, mấy đốm sáng nhỏ xíu đó không ngờ lại có thể phát ra những âm thanh rung động đến tận tâm linh con người như thế. Khúc ca vừa dứt, phảng phất như thể mọi cảnh vật xung quanh đều đứng im bất động, duy chỉ có những điểm sáng lập lòe bất định ấy bỗng bừng lên sáng hơn bao giờ hết. Dưới ánh trăng bàng bạc, từng điểm từng điểm phất phơ rơi xuống. Chúng bay lên từ một dải màu trắng bạc, hoan ca một trận, rồi lại trở về với dải sáng bàng bạc đó, thật như những đóa hoa tuyết thả mình rơi xuống thảm tuyết trắng mênh mang, thoắt cái đã biến mất.

Ngây ngẩn một hồi lâu, Trương Lập mới dụi mạnh tay vào mắt, cất tiếng hỏi: “A, em, em nói gì thế? Tinh linh tuyết? Vừa nãy anh nằm mơ phải không?”

Trên gương mặt Mã Cát đã xuất hiện hai hàng lệ nóng trào tuôn, từng giọt lệ rơi xuống làm vỡ toang bóng trăng dưới nước, gợn lên những hàng sóng lăn tăn, bóng nguyệt như mộng như ảo, cô đưa tay lau vệt nước mắt, khe khẽ nói: “Tinh linh tuyết đấy, đã lâu lắm rồi em không được nghe chúng hát. Hồi nhỏ, em và anh trai còn cùng nhau mai táng cho tinh linh tuyết nữa cơ.”

Trong cơn gió đêm nhè nhẹ phất qua, Mã Cát rủ rỉ thì thầm kể. Tinh linh tuyết là một loại côn trùng nhỏ biết bay, phần đuôi phát ra ánh sáng màu trắng sữa, trong truyền thuyết ở Thánh vực, đó là linh hồn của những đứa trẻ chết trong chiến tranh hoặc chết yểu hóa thành. Vì không nỡ để người thân đau lòng, mỗi năm khi sắp đến mùa thu hoạch, chúng đều mang theo lòng cảm ân sâu sắc, tự do tự tại hoan ca giữa không trung, vừa để vỗ về xoa dịu vết thương chôn sâu trong đáy lòng thân nhân, đồng thời cũng mang đến tin về một vụ mùa bội thu.

Nhưng đồng thời, đó cũng là bài ca cuối cùng trong đời tinh linh tuyết, khi tiếng ca vừa dứt cũng là lúc chúng lìa bỏ cõi trần này, rơi rụng lả tả như những đóa hoa tuyết. Tương truyền rằng, người nào nghe thấy tiếng ca của tinh linh tuyết sẽ được chúc phúc. Nếu có thể tìm được những tinh linh tuyết vừa rơi xuống dưới ánh trăng ấy, đào một cái hố nhỏ, chôn chúng xuống, đồng thời thành tâm ước nguyện, tinh linh tuyết sẽ nghe thấy tiếng lòng của bạn. Khi trở về cõi âm, chúng sẽ đưa nguyện vọng ấy đến với Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bồ Tát sẽ giúp bạn thực hiện điều tâm nguyện.

Chỉ có điều, đến giờ tinh linh tuyết dường như chỉ còn tồn tại trong truyền thuyết mà thôi, rất hiếm người được nghe thấy tiếng ca của chúng.

Mã Cát nhẹ nhàng cất tiếng hát: “Hỡi bầy tinh linh tuyết đang bay múa, xin hãy mang đến cho người phương xa tin vụ mùa bội thu...” Tiếng ca uyển chuyển du dương, nhạc điệu cao mà trong vắt, trong vẻ đẹp vẫn thấp thoáng chút thương cảm, một khúc điệu thoạt nghe đã khiến người ta nhớ nhung cố hương và người thân, hoài niệm lại những khoảng thời gian đẹp đẽ của tuổi ấu thơ.

Trương Lập lờ mờ nhớ ra, trong phần ghi chép của vị Địch ô thôn Công Bố có viết, Mã Cát có một người anh trai đã lạc nhau từ nhỏ, chắc rằng anh trai cô đã chết trong chiến tranh rồi, nên Mã Cát mới thương tâm như thế.

Mã Cát u uất nói: “Hồi bé, cha mẹ em đều chết trong chiến tranh, là anh trai đã lôi em ra khỏi đống xác người, anh ấy cũng giống như em, người thân đều chết cả rồi, nhưng anh ấy kiên cường hơn em nhiều lắm. Hồi đó em chỉ biết đi theo anh trai, bám chặt vào vạt áo anh ấy, tìm kiếm thức ăn, chạy chốn quân lính Yaca, việc gì anh trai cũng bảo vệ em...” Trong mắt Mã Cát, lại ngân ngấn những giọt lệ lấp lóa.

Trương Lập lặng lẽ lắng nghe. Mười mấy năm trước, từng có một cậu bé bảy tám tuổi và một cô bé bốn năm tuổi gặp nhau trên bãi cỏ ven hồ dưới ánh trăng, những năm tháng lửa chiến tranh vẫn ngùn ngụt cháy ấy, hai đứa trẻ muốn sống sót, thực là một chuyện gần như không thể. Chiến tranh, dã thú, bệnh dịch, đói khát và cả những người dân chạy loạn, chỉ cần một điều ấy thôi cũng đủ lấy mạng của họ rồi. Mã Cát và anh trai cô rốt cuộc đã sống sót như thế nào? Họ thực sự không có gì cả, chỉ biết nương tựa vào nhau mà vùng vẫy giãy giụa giữa con đường đời. Cũng trong một đêm thế này, để cô bé có thể quên đi đau thương mà kiên cường vui vẻ tiếp tục sống, cậu bé trai đã kể cho cô câu chuyện về tinh linh tuyết. Đêm hôm ấy, cô bé và cậu bé đã quăng hết mọi ưu phiền, tung tăng nô đùa vui vẻ trên bãi cỏ, lần đầu tiên cô bé quên đi nỗi sợ, cùng anh trai tìm kiếm những tinh linh tuyết rơi xuống, quan sát những đốm sáng màu trắng sữa dần tối đi rồi tắt hẳn, sau đó đào một cái lỗ nhỏ, mai táng cho tinh linh tuyết dưới ánh sao. Mã Cát thầm khấn lên ước nguyện nho nhỏ của mình: mong thế gian này, vĩnh viễn chẳng còn chiến tranh!

Bao nhiêu năm trôi qua, bóng dáng anh trai đã trở nên mơ hồ, nhưng hình ảnh tinh linh tuyết nhảy múa ca lên khúc tuyệt xướng đã in sâu vào linh hồn của cô bé gái, cả đời này cũng không sao quên được. Mã Cát thở dài nói: “Lúc ấy em hỏi anh trai, tại sao lại có chiến tranh, anh trai bảo, là bởi vì có con người, nơi nào có người thì nơi ấy ắt có chiến tranh. Anh ấy còn nói, những thứ trong Thánh vực này rất hữu hạn, nếu người càng lúc càng nhiều, mà các thứ ấy lại không nhiều lên, thì sẽ không thể chia đều được, không thể chia đều thì sẽ có tranh chấp nổ ra, tranh chấp lớn dần, rồi sẽ biến thành chiến tranh.”

Trương Lập không khỏi thầm kinh ngạc, kiến giải ấy thật sâu sắc, thấu triệt! Đó là những lời một đứa bé trai tám chín tuổi có thể nói ra hay sao? Phàm là chiến tranh, sợ rằng đều có thể quy về một mối ấy, không chỉ là chiến tranh của nhân loại, mà tất cả vật chủng trên đời này, đều phải tranh đoạt một khoảng không gian sinh tồn vì sự tồn tại của chính bản thân mình, chỉ có điều, sự tranh đoạt của chúng trực tiếp hơn, tanh máu và trần trụi hơn chứ không được phủ lên một lớp áo choàng âm mưu như chiến tranh của loài người mà thôi.

Mã Cát lại tiếp lời: “Em mãi không thể nào hiểu nổi, nếu mọi thứ ít đi, thì càng phải trân trọng, mọi người càng phải giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn chứ? Em hỏi anh trai, anh ấy bảo cũng không hiểu, mọi điều anh ấy ấy biết, đều do cha dạy cả. Bao nhiêu năm nay rồi, em vẫn không sao hiểu được.” Mã Cát lắc lắc đầu, tựa hồ muốn rũ đi sự thương cảm vẫn vấn vương trong cõi lòng. Đoạn cô vỗ khẽ lên cổ Cường Ba, con thằn lằn cổ dài liền bơi qua hồ nước, lên bờ ở chỗ bãi cỏ. Mã Cát kéo tay Trương Lập, nhoẻn miệng cười nói: “Đi nào, anh Lập, mình đi tìm tinh linh tuyết thôi!”

“Hả, có, có tìm được không nhỉ?” Nhìn cả vùng cỏ rộng, vừa nãy chắc chỉ có khoảng mười mấy con, không, chắc chỉ tầm mười con tinh linh tuyết là cùng, thân thể chúng nhỏ như vậy, lại chỉ có ánh trăng, liệu có tìm được không? Trương Lập tỏ vẻ nghi ngờ.

Mã Cát gật đầu khẳng định: “Anh trai em nói, chỉ cần tìm kiếm chúng với tấm lòng chân thành, thì nhất định sẽ tìm được.”

Vào đêm trăng sao như thế, Mã Cát tựa hồ lại trở về với thuở ấu thơ mười mấy năm trước, dưới ánh trăng bàng bạc, cô dường như quên đi hết thảy phiền não, chỉ còn lại tiếng cười trong veo đầy hoan lạc. Nhìn nụ cười thuần khiết ngọt ngào của Mã Cát, trái tim Trương Lập bỗng quặn thắt. Đây là đêm cuối cùng được ở bên Mã Cát sao? Mình có thể sống trở về từ Bạc Ba La thần miếu hay không nhỉ? Không! Nhất định phải sống trở về!

Trời không phụ kẻ có lòng, chỉ một chốc sau, Mã Cát đã tìm được tinh linh tuyết giữa đám cỏ rậm rạp như một búi lông tóc bù xù. Cô cẩn thận nâng niu trong lòng bàn tay, miệng lẩm bẩm những lời chúc phúc gì đó. Trương Lập đứng bên cạnh quan sát con tinh linh tuyết. Đó là một loại côn trùng nhỏ màu bạch ngọc, gần như trong suốt, có sáu chân, dưới lớp vỏ cứng có năm đôi cánh mỏng gần như trong suốt, rực rỡ nhiều màu đang yếu ớt xòe ra, phần đuôi trông như một chiếc đèn lồng nhỏ, quầng sáng màu trắng sữa cỡ bằng hạt ngô lúc ẩn lúc hiện. Khúc nhạc giao hòa mọi âm thanh của trời đất khi nãy dường như đã tiêu hao toàn bộ năng lượng của con vật nhỏ, lúc này nó chỉ còn biết ủ rũ nằm trên tay Mã Cát, thậm chí chẳng có sức mà bò nhúc nhích nữa.

Ánh sáng phía đuôi tinh linh tuyết mỗi lúc một tối đi, tần số nhấp nháy cũng dần chậm lại, cuối cùng thì không còn nhích động gì nữa. Bấy giờ Mã Cát mới đặt nó vào trong hố đất chôn đi, đoạn nhắm mắt lại, hướng về phía mặt trăng cầu khấn. Trương Lập đứng bên cạnh lẳng lặng ngắm nhìn. Dưới ánh trăng, Mã Cát dường như cũng hóa thành tinh linh tuyết, khắp người tỏa ra một thứ ánh sáng êm dịu màu trắng sữa, tà áo phấp phới tựa ráng mây, mái tóc bồng bềnh như tuyết, đẹp mà trong sáng vô ngần.

Chờ đến lúc Mã Cát mở mắt ra, Trương Lập mới khẽ hỏi: “Em ước nguyện gì thế?”

Mã Cát ngoảnh mặt lại, không nói gì, chỉ im lặng nhìn chăm chăm vào gương mặt Trương Lập. Hai người cứ thế nhìn nhau đắm đuối, chỉ cảm thấy thân thể và trái tim đều đang tiến sát lại nhau, gần hết mức như muốn hòa làm một thể.

Không biết bao lâu sau, Mã Cát mới lí nhí cất tiếng hỏi: “Anh Lập, mọi người đi rồi, có còn trở lại không?”

Trương Lập cọ cọ má vào vầng trán Mã Cát, nói: “Nếu anh còn sống, nhất định sẽ trở lại đây.”

“Anh Lập, nếu có thể trở lại, anh dẫn em ra thế giới ngoài kia, nhé?”

“Anh hứa với em, nếu có thể trở lại, nhất định anh sẽ đưa em ra thế giới bên ngoài kia, bằng lòng đi với anh nhé?”

“Ưm, anh đi đâu, em sẽ theo đó, Mã Cát là của anh rồi, anh muốn đi, thì hãy mang theo trái tim của Mã Cát đi... nó đã không còn thuộc về em nữa, để lại có ích gì?” Nói xong, Mã Cát ngước nhìn Trương Lập không chớp mắt, ánh mắt đắm đuối mê say, trái tim dồn nhanh nhịp đập.

Trương Lập giật nảy mình, chỉ cảm thấy máu trong người đều dồn lại tụ về một chỗ. Nhìn vẻ yêu kiều nũng nịu pha lẫn thẹn thùng của người yêu, sao anh lại không hiểu được thâm ý ẩn chứa sau lời nói cùng đôi mắt long lanh kia được chứ. Anh cố gắng vùng vẫy chống đỡ, tay run lên khe khẽ. Tiềm thức anh không ngừng cảnh cáo bản thân, dường như, dường như phải nghĩ đến hậu quả. Nhưng chỉ cần nhìn vào đôi mắt Mã Cát, là anh chẳng thể nghĩ gì được nữa, Trương Lập không sao kiềm chế nổi, thực sự không kiềm chế nổi nữa rồi!

“Em... em không... hối hận...” Trương Lập vẫn đang khổ sở đè nén xúc cảm đang trào dâng.

“Em không hối hận.” Ngữ khí kiên định của Mã Cát đã xé toang lớp rào phòng ngự cuối cùng của Trương Lập, anh không sao tìm nổi lý do nào để ngưng lại nữa, vội ôm eo bế bổng Mã Cát lên, chạy vào giữa vùng cỏ rậm rạp. Dưới ánh trăng bạc, Mã Cát lặng lẽ nhìn người đàn ông mạnh mẽ như loài dã thú ấy, dự cảm được việc mình mới chỉ được nghe kể trong truyền thuyết sắp sửa xảy ra, cô thấy vừa hân hoan lại vừa thẹn thùng. Tuy không phải lần đầu tiên xuất hiện trước mắt người đàn ông này với thân thể lõa lồ, nhưng không hiểu tại sao, cô vẫn run lên vì hưng phấn. Mã Cát chưa bao giờ có cảm giác như thế, mà sự thực là, mỗi cảm giác khi ở bên Trương Lập cô đều chưa từng được trải nghiệm trước đây.

Hai người đến giữa bãi cỏ tựa như cỏ lau ấy, Trương Lập đạp bằng một vạt lớn, đặt Mã Cát nằm ngửa xuống, một áng mây lướt qua, lặng lẽ che đi cặp mắt của vầng trăng trên cao.

Nhạc Dương đang phụ trách giám sát trên cao, đột nhiên nhảy bật lên thấp giọng gọi: “Anh Ba Tang, hai người họ, biến mất rồi!” Anh nôn nóng định lao xuống, thì Ba Tang vươn tay ra kéo lại. Người đàn ông xưa nay vốn lạnh lùng ấy nở ra một nụ cười hiếm có, chầm chậm nói: “Yên tâm, tạm thời không có chuyện gì đâu.”

Cùng lúc ấy, Trác Mộc Cường Ba đang nằm trong phòng bỗng bật người dậy, vừa bước ra cửa liền gặp ngay Lữ Cánh Nam, trong bóng tối, ánh mắt hai người đều sáng rực. Trác Mộc Cường Ba cầm thiết bị báo động, bình tĩnh nói: “Có người đạp bẫy.” Đường Mẫn và đội trưởng Hồ Dương cũng bước ra theo.

Lữ Cánh Nam gật đầu, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Pháp sư Á La đâu?”

Lữ Cánh Nam đáp: “Pháp sư đi trước rồi. Mau lên...”

Bốn người liền chạy về phía cổng làng...

Trong bụng Max nãy giờ vẫn thầm nguyền rủa chửi bới Tây Mễ, tên khốn này, lại để toàn bộ người của hắn ở lại giữ trại mà dẫn đám người ngoài chúng ta đi dò đường, thằng ngu nào mà chẳng biết, dò đường là nguy hiểm nhất! Nhưng trên mặt y vẫn luôn thường trực một nụ cười đầy sùng bái, miệng còn xoen xoét nào là đại ca Tây Mễ cần gì phải đích thân đi, nào là đại ca lúc nào cũng xung phong đi trước đàn em, thực sự đúng là quá quan tâm thuộc hạ rồi, kỹ thuật diễn xuất cao siêu ấy khiến con mắt tam giác của Tây Mễ cứ chốc chốc lại nheo tít lại thành một đường chỉ mỏng dính.

Chưa đi được bao xa, Tây Mễ đột nhiên dừng sững lại, chỉnh ngọn đèn gắn trên đầu, nheo mắt quan sát thân cây phía trước, Max cẩn thận giương súng lên cảnh giới phía bên phải. Y hiểu rất rõ lúc nào cần nói, lúc nào cần im miệng lại.

Tây Mễ ngoảnh đầu sang bên trái theo thói quen, vừa khéo lại không trông thấy Max đang đứng bên phải. “Dick,” y thuận miệng gọi một cái tên khác, nói: “Mày đến xem sao, cái cây kia không ổn lắm, có thấy đống cỏ bên dưới gốc cây kia không? Cẩn thận đấy.”

Dick từng là lính đánh thuê, đã theo Merkin bốn năm có lẻ, chỉ cao chừng mét sáu, đầu phẳng mặt vuông, da màu nâu bánh mật, mắt to, lông mày rậm rạp. Hắn nắm chặt khẩu tiểu liên giảm thanh, cẩn thận nhích lại gần đống cỏ ấy, gạt bỏ đám lá và cỏ phủ bên trên đi, rồi ngoảnh đầu cười cười bảo: “Có chăng dây, quả nhiên là cạm bẫy.”

Tây Mễ ngẩng đầu nhìn lên, trên chạc ba chỉ thấy một khoảng tối om đen kịt, y bèn đeo kính nhìn đêm lên, trong quầng sáng màu xanh lục liền hiện lên một đám dây leo quấn chằng chịt trông như cái kén tằm. Y gỡ kính xuống, lẩm bẩm nói: “Chắc là súc gỗ lớn có gắn mũi nhọn, đây không phải loại bẫy một người có thể sắp đặt được, xung quanh còn nữa, là cả một tổ hợp bẫy. Xem ra, không xa phía trước là có thôn làng rồi.”

Max nói: “A ha, nếu phía trước có làng, chúng ta có thể ngủ ngon một giấc rồi.”

Brian vân vê mái tóc xoăn tít màu vàng kim óng ánh, bật cười gian hiểm: “Phải đấy, có thể ngủ ngon một giấc, kiếm vài ả đàn bà châu Á cũng không tệ.”

Ivan xòe bàn tay to tướng như cái quạt ra: “Năm đứa, tao quất phải năm đứa mới đã! Ha ha!” nói rồi liền làm động tác vươn eo, cả bọn xung quanh cười ồ lên dâm đãng, tựa hồ chúng đã nhìn thấy những chiếc giường ấm áp thoải mái, những cô gái phương Đông nhỏ nhắn xinh đẹp, thức ăn thơm phưng phức ở ngay trước mắt mình rồi vậy. Dick cũng cười hô hô đứng thẳng người lên.

“Soạt!” Tây Mễ bất chợt phát hiện cỏ dưới chân Dick hơi đung đưa, tựa như có thứ gì đó đang rút thật nhanh bên dưới, liền chẳng nói chẳng rằng, giương súng bắn vào bên cạnh Dick, đồng thời quát: “Lăn ra, thằng ngu!”

Nếu bảo Dick tránh ra, chưa chắc y đã kịp phản ứng. Nhưng tiếng súng vừa vang lên thì đó lại là một phản ứng gần như thuộc về bản năng, tên lính đánh thuê dày dạn kinh nghiệm trên chiến trường ấy liền tức thì nghiêng mình lăn sang một bên, vừa mới nhích ra khỏi vị trí ấy, súc gỗ khổng lổ ghim đầy mũi nhọn trên đầu liền sập ngay xuống chỗ y vừa mới đứng. Dick từ dưới đất lồm cồm bò dậy, giờ mới hiểu ra mình vừa thoát chết trong gang tấc, mặt mũi tái nhợt trở lại bên cạnh đồng bọn.

Tây Mễ tìm được một sợi thừng mảnh khác ở hướng ngược lại với chỗ Dick vừa đứng, ở đầu dây còn nối thêm một đoạn dây mảnh hơn, ẩn mật hơn nữa, nếu chỉ chú ý đến đống cỏ ngụy trang nhìn lồ lộ đập ngay vào mắt thì rất dễ giẫm phải cạm bẫy thực sự này. Tây Mễ cầm sợi dây chỉ to hơn sợi tóc một chút ấy, lẩm bẩm nói: “Đây không phải bẫy để đối phó với dã thú, mà giống như dùng để ngăn ngừa những thợ săn dạn dày kinh nghiệm vậy.”

Max lập tức có phản ứng, ngần ngừ lên tiếng: “Đại ca..., ý anh là, có người đề phòng chúng ta? Hay là ở đây thường có chiến tranh, các thôn làng cũng phải đề phòng lẫn nhau?

Tây Mễ nói: “Không sai, chỉ có hai khả năng này thôi.” Y liếc mắt nhìn sang Max, thầm nhủ, thằng nhãi này xem ra không chỉ biết xun xoe nịnh bợ. Tây Mễ đứng lên, vỗ vỗ vào Dick vẫn đang thất kinh hồn vía: “Phải cẩn thận hơn nữa, tìm đúng đường, nếu không, cả bọn chẳng khác nào nhắm mắt lao vào bãi mìn đâu. Đi thôi...” Lần này, cả bọn đều ngoan ngoãn lầm lũi đi theo sau Tây Mễ.

Trong rừng, lại có người hỏi Lôi Ba: “Phía trước bảy cây số lại có vật thể di chuyển với tốc độ cao, đang tiến về phía chỗ đại ca, chúng ta có cần chi viện không?”

Lôi Ba đáp: “Nhiệm vụ của chúng ta là canh giữ ở đây. Nếu muốn sống sót, mày biết là nên làm gì rồi đấy.” Từ hồi ở Khả Khả Tây Lý bọn chúng đã biết được một điều rằng, muốn sống, thì cứ theo lời đại ca mà làm.

Chương 16

Ám chiến (1)

“Đây là gì thế?” Trương Lập hỏi. Anh kinh ngạc trố mắt ra nhìn, từ những khối đá vụn bị tàn phá này, có thể tưởng tượng được những bức tượng đá ấy năm xưa lớn đến nhường nào. Trương Lập đang đứng trước một cái đầu chim vẫn còn tương đối hoàn hảo, chiều cao của anh cũng chỉ đến mép bên dưới của cái mỏ chim mà thôi.

Pháp sư Á La giải thích: “Đây, có lẽ là những vị thần nguyên thủy nhất của Bản giáo cổ đại. Đừng nói là các cậu, ngay cả tôi cũng chưa từng trông thấy những hình tượng này bao giờ. Có điều, Bản giáo truyền thống thờ phụng các thần linh Tam giới, ‘Thần giới trên bầu trời, Tán giới ở giữa, Long giới ở dưới’...

Tây Mễ dẫn theo sáu người vòng qua các cọc chông ngầm, tránh khỏi các chốt lẫy cung nỏ, chặt đứt tấm lưới có gắn các lưỡi dao, dọc đường, phát hiện được cạm bẫy nào đều nhất loạt phá hoại rốt ráo, đồng thời cũng là để lại cho mình một con đường triệt thoái an toàn. Bấy giờ, những bức tường gắn đầy móc nhọn của thôn Công Nhã Lạp đã lờ mờ hiện ra phía trước bọn chúng rồi. Nhưng bọn Tây Mễ cũng không dễ dàng vượt qua các cạm bẫy ấy, Ivan bị một súc gỗ thúc cho chảy máu trong, còn Steven thì bị một mũi lao phóng thẳng vào bụng, nếu không phải mặc áo chống đạn thì y đã chết mấy chục lần rồi cũng nên.

Càng đến gần thôn làng, các cạm bẫy càng dày đặc, càng hung hiểm, Tây Mễ tin rằng, kẻ bố trí những cạm bẫy này tuyệt đối phải là một cao thủ. Max hạ chiếc ống nhòm nhìn ban đêm xuống, nói: “Đại ca Tây Mễ, khoảng tám trăm mét nữa là đến tường quây bên ngoài của ngôi làng rồi, cũng giống như các làng chúng ta gặp trước đây thôi, đều cắm đầy giáo nhọn cả, nhưng bên ngoài hình như còn có một tầng gì đấy nữa. Với... với cả, cây cối phía trước có rất nhiều, rất nhiều dây leo, mặt đất cũng phủ đầy cỏ để che đậy, nếu tôi không nhìn lầm.” Ở với nhau một dạo, đại để Max cũng đã hiểu được phần nào tính cách của Tây Mễ, y ghét nhất những kẻ nói lấp lửng nửa chừng.

“Con mẹ nó!” Tây Mễ giằng lấy ống nhòm, quan sát một hồi, vẻ mặt bực tức. Con đường bọn y chọn rõ ràng là không ổn, phía trước toàn là cạm bẫy trùng trùng, nhưng cũng chính y là người đã chọn con đường này. Kẻ bố trí cạm bẫy này thực sự đã khiến Tây Mễ mất mặt.

“Đại... đại ca? Hay là, hay là chúng ta đi vòng qua?” Gã tên Mike liều lĩnh cất tiếng hỏi, rõ ràng hắn vẫn chưa biết tính cách của vị lão đại này. Trong những thời điểm thế này, Max tuyệt đối không bao giờ đưa ra những đề nghị ngu xuẩn như thế.

“Mày nói cái gì? Mày bảo tao chọn lầm đường rồi đúng không?” Tây Mễ điên tiết chụp lấy Mike, rồi đẩy một cái vào phía khu rừng, quát lên: “Mẹ cha nó, giỏi thì mày dẫn đường đi!”

Cú đẩy khá mạnh, Mike loạng choạng mấy bước mới trụ vững được, vội quay đầu lại xin tha: “Đại ca, em biết lỗi rồi...” Lời còn chưa dứt, liền cảm thấy cổ chân thắt lại, kế đó liền bị kéo lê trên mặt đất, trượt sàn sạt vào sâu trong rừng. Mike một tay bám chặt vào mặt đất, tay kia dùng súng chống xuống, miệng hét lớn: “Cứu tôi với! Đại ca cứu em với!”

Tây Mễ không hề có phản ứng gì, cứu làm sao được? Phía trước toàn là cạm bẫy chết người, Mike lại bị kéo đi nhanh thế, thà rằng cứ cẩn thận quan sát xem Mike đã chạm phải chốt bẫy nào còn hơn. Chỉ thấy trên tuyến đường bị kéo lê đi của Mike có một đống cỏ nhỏ, chẳng cần phải nói cũng biết bên trong chắc chắn có giấu lưỡi dao nhọn hoắt, xem ra đây chỉ là loại cạm bẫy để đối phó với dã thú bình thường.

Mike thấy những người phía sau đều không có phản ứng, cũng biết lúc này chỉ có thể dựa vào chính mình mà thôi. Hắn lật người ngồi dậy, chuẩn bị chặt đứt sợi dây, nhưng vừa nhìn thấy đống cỏ kia, bèn vội vàng kinh hoảng ném khẩu súng sang một bên, lật sấp người, hai tay chống xuống đất, cả thân hình rời khỏi mặt đất chừng ba mươi xăng ti mét, lướt sát ràn rạt phía trên đống cỏ. Mặc dù vậy, ngực hắn vẫn cọ vào làm bung đống cỏ che chắn bên trên, lộ ra lưỡi đao trắng lấp lóa, Mike thậm chí còn cảm giác được hơi lạnh rợn người nơi lưỡi đao ấy phả vào bụng rồi chạy dọc lên đến tận cổ họng mình. Sau khi thoát hiểm, Mike lại lật người trở lại, cũng may, chưa bị rách áo, hắn thở phào một tiếng, biết mình đã sống rồi. Thế nhưng, tại sao dây thừng vẫn tiếp tục lôi mình đi thế này nhỉ?

Mike vẫn chưa hiểu gì, bỗng “vù” một tiếng, cả người đã bị treo ngược lên không, liền ngay sau đó, trong rừng bỗng có hai tiếng “soạt soạt”, rồi “vù vù vù...” toàn bộ mũi tên trọn vẹn găm cả vào người Mike đang lơ lửng, trông như một con nhím. Có điều vẫn còn may, bộ y phục trên người lại cứu hắn thêm một mạng nữa, đầu mũi tên chỉ ghim vào một nửa rồi không tiến thêm được nữa. Tây Mễ đứng đằng xa lắc lắc đầu, lại là một cạm bẫy liên hoàn, nếu chỉ để bắt dã thú, đâu cần thiết phải dùng đến loại bẫy liên hoàn này làm gì cơ chứ.

Mike đang bị treo ngược trên không mừng rỡ kêu lên: “Tôi vẫn sống, tôi vẫn sống, cứu với, mau đến cứu tôi!” Hắn hiểu rõ, đằng nào thì hắn cũng đã phá hoại các cạm bẫy, không còn gì nguy hiểm nữa, dẫu lũ đồng bọn kia có không còn nhân tính thì cũng không đến nỗi bỏ mặc mình ở đây, nói gì thì nói, thêm một người là thêm một phần sức mạnh. Chẳng ngờ hắn còn chưa kịp mừng rỡ, trong khu rừng phía trước lại có hai tiếng “bặc bặc” vang lên, cơ hồ có thứ gì vừa đứt, tiếp đến lại một tiếng “véo”... Trong bóng tối, Mike vẫn thấy rõ mồn một, một khối gỗ ít nhất phải bốn người ôm mới hết, bên trên gắn đầy mũi giáo nhọn đang lao thẳng về phía mình. Hắn chỉ còn biết lớn tiếng gào lên trong kinh hãi!

“Rầm!” Súc gỗ đập thẳng vào người Mike, tuy bộ y phục trên người hắn có thể ngăn được mũi tên hòn đạn, nhưng đối với loại va chạm mạnh và trực tiếp thế này thì nó không có nhiều tác dụng lắm, vô số mũi tên nhọn chìm hẳn vào cơ thể Mike, một đám máu đỏ tươi phun tung tóe ra trên khối gỗ lớn.

Cặp mắt tam giác của Tây Mễ giật giật. Cái cạm bẫy liên hoàn chó chết này rõ ràng là muốn nạn nhân của nó chết đến không thể nào chết hơn, xưa nay y chưa từng nghe nói lại có kiểu bẫy liên tiếp như thế này.

“Đi, kéo nó xuống, xem còn cứu được không.” Tây Mễ ra lệnh, dù sao lúc nãy hắn cũng chỉ tiện tay đẩy một cái trong lúc cáu giận, chứ không hề muốn đưa Mike vào chỗ chết. Ở nơi này, bớt đi một người, tức là bớt đi một phần sức mạnh.

Mới đi được năm sáu bước, sợi dây thừng dưới chân chợt đứt phựt, đống cỏ bên trái bỗng xổ lên, một tấm lưới kết bằng cành cây gắn đầy những mũi đinh gỗ nhọn hoắt bật tung ập tới. Tây Mễ không lùi mà ngược lại còn lao thẳng lên, trước khi tấm lưới đạt đến tốc độ nhanh nhất, hắn thọc tay thẳng vào giữa hàng đinh gỗ, lấy súng chặn tấm lưới lại, kế đó lại bảo Dick và Brian bên cạnh cùng dồn sức, đè tấm lưới bật ngược trở về. Chốt lẫy bị kẹt cứng ở đó, các bẫy liên hoàn phía sau đều không thể phát động được tiếp.

Mike được hạ xuống cùng với khúc gỗ khổng lồ, chỉ thấy miệng hắn oẹ ra đầy máu, hít vào thì nhiều thở ra thì ít. Steven nói: “Tên này hỏng rồi.”

Hỏng rồi, có nghĩa là không còn giá trị lợi dụng, người như vậy thì không cần phải quan tâm làm gì nữa. Nhìn Mike đang thoi thóp sắp chết đến nơi, Tây Mễ cuối cùng cũng từ bỏ ý đồ thám thính thôn Công Nhật Lạp vào giữa đêm khuya, y hạ lệnh: “Lấy vũ khí trang bị của nó, chúng ta trở về.” Đi được, hai ba bước, y lại quay đầu lại, gọi Steven đang lục lọi đồ đạc vũ khí của Mike: “Bắt lấy!” rồi ném ra một quả lựu đạn.

Steven đón lấy quả lựu đạn, hoàn toàn không hiểu thế là ý gì. Tây Mễ chỉ vào Mike đang nằm nói: “Dạy cho bọn dân làng này một bài học, cho chúng nó biết, chọc giận chúng ta thì kết cục sẽ như thế nào!”

Steven vẫn bần thần nhìn quả lựu đạn đang cầm trên tay, không hiểu Tây Mễ muốn bảo mình làm gì. Tây Mễ tức tối nắm chặt tay lại, nói trắng ra: “Gắn vào người thằng này, chỉ cần đụng vào nó là sẽ nổ tung. Hiểu chưa hả!” Nếu là bọn Lôi Ba, thì chỉ cần mình đánh mắt một cái là đã biết phải làm thế nào rồi, đúng là một bọn ngu xuẩn khốn kiếp, Tây Mễ chửi thầm trong bụng.

Steven vẫn còn chưa hiểu lắm, Max đứng bên cạnh liền giải thích: “Ngày mai dân làng nhất định sẽ đến kiểm tra cái xác, mày nghĩ cách nào để chúng vừa đụng đến, cái xác liền lập tức nổ tung, cho chúng một bài học.” Bấy giờ Steven mới hiểu ra.

Lúc bọn Trác Mộc Cường Ba chạy ra đến cổng làng, nơi này đã trở lại thanh bình tĩnh lặng, từ xa đã trông thấy các cạm bẫy bị phá hoại, Trác Mộc Cường Ba nói: “Xem ra, bọn chúng đã rút lui rồi.”

Đội trưởng Hồ Dương gật đầu: “Đột phá được tầng phòng ngự bên ngoài và ở giữa, xông vào đến tận tầng trong cùng, bọn người này cũng lợi hại thật đấy! Chúng ta tốn bao nhiêu công sức bố trí cạm bẫy, không ngờ lại chẳng thể khiến chúng bị thương ư?”

“Ở đây có người!” Lữ Cánh Nam đã trông thấy Mike, lúc này hắn vẫn còn đang thoi thóp thở. Thấy bọn Trác Mộc Cường Ba và đội trưởng Hồ Dương đi tới, cô liền nói nhanh: “Người này vẫn còn sống, có vẻ như bọn chúng đã bỏ mặc đồng bọn rút lui, đúng là bọn nhảy dù rồi, bọn chúng đến nhanh thật đấy! Vũ khí bị đồng bọn lấy mất rồi, hả? Đây...”

Cảm giác nguy hiểm đột nhiên tăng cao, “Nguy hiểm!” Trác Mộc Cường Ba bổ nhào tới đè lên Lữ Cánh Nam, hai người ôm chặt nhau lăn mấy vòng liền dưới đất. “Ầm!” một tiếng, bóng đêm chợt sáng bừng lên, vụn thịt bắn tung tóe khắp tứ phía, kế đó, tất cả lại chìm vào tĩnh lặng.

Bọn Tây Mễ đang trên đường trở lại chỗ hạ trại, ngoảnh đầu lại nói: “Nhanh như vậy đã có người bồi táng với mày rồi còn gì, an nghỉ đi được rồi đấy.”

Ở bên hồ, Nhạc Dương bỗng ngồi bật dậy, nghiêng tai lắng nghe gì đấy: “Có nghe thấy tiếng gì không anh Ba Tang?”

Ba Tang thò đầu ra nhìn, bụi cỏ phía đằng xa vẫn không thấy có động tĩnh gì, chỉ có con thằn lằn cổ dài kia đang mở to đôi mắt hiếu kỳ nhìn sự việc kỳ dị đang diễn ra trong đám cỏ bên dưới nó. Ba Tang bất giác liếc nhìn Nhạc Dương với ánh mắt kỳ dị, nói: “Xa vậy mà cũng nghe được tiếng, thật không hổ là lính trinh sát.”

Trác Mộc Cường Ba nằm trên, Lữ Cánh Nam nằm dưới, áng mây đen che khuất vầng trăng vừa khéo tan đi, mặt trăng lại lồ lộ hiện ra, gã chỉ thấy làn da Lữ Cánh Nam nằm bên dưới mình như một khối bạch ngọc mềm mại, dưới ánh trăng lại càng trắng muốt một cách lạ kỳ, lồng ngực cô không ngừng phập phồng lên xuống, nhưng rõ ràng không phải vì quá căng thẳng hay thất thoát thể lực gây ra.

“Hứ!” Nghe thấy một tiếng “hứ” nhẹ, Trác Mộc Cường Ba vội vàng bò dậy, ngượng ngùng hỏi: “Không sao chứ?”

Lữ Cánh Nam cũng bối rối ngồi dậy đáp: “Không sao, lần này, cám ơn anh...”

Đường Mẫn chạy tới, nắm cánh tay Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Anh không sao chứ?”

Trác Mộc Cường Ba xoa xoa đầu cô, mỉm cười nói: “Không sao, anh thì có chuyện gì được chứ.”

Đội trưởng Hồ Dương nhận xét: “Không ngờ chúng còn gài cả lựu đạn trên người tên đồng bọn vẫn đang thoi thóp thở, bọn này cũng dã man thật!”

Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra một chuyện, liền hỏi: “Phải rồi, pháp sư Á La đâu?”

Pháp sư Á La đến trước bọn họ, những cạm bẫy này cộng với thân thủ của ông, muốn đối phó những kẻ xâm nhập này chắc cũng dư sức, thế nhưng, lại hoàn toàn không thấy bóng dáng ông đâu.

Lữ Cánh Nam nói: “Pháp sư nhất định có suy tính riêng, nói không chừng đã theo dấu chúng rồi cũng nên.”

Lữ Cánh Nam nói hoàn toàn chính xác, khi pháp sư Á La thấy bọn Tây Mễ, phát hiện chúng chỉ có bảy người, hơn nữa cũng chỉ mang theo vũ khí tấn công, rõ ràng là đã hạ trại gần đây, vả lại, chắc chắn cũng không đưa toàn bộ lực lượng tới đây, bèn bám theo bọn chúng từ một quãng xa. Bọn Tây Mễ hoàn toàn không phát giác được.

Lúc bọn Tây Mễ về đến chỗ đóng trại, Lôi Ba hỏi: “Thế nào rồi?”

Tây Mễ lắc đầu: “Mike ngỏm rồi, cạm bẫy rất lợi hại, ngày mai trời sáng chúng ta quay lại. Xem ra đành phải ngủ trong rừng thêm một đêm nữa rồi.” Y vỗ vỗ lên vai mấy tên đàn em thân tín, nói: “Ngủ đi, ngủ đi.”

Lôi Ba vừa quay người, đột nhiên buột miệng thốt lên: “Hừm?”

“Sao vậy?” Tây Mễ cảnh giác hỏi.

Lôi Ba nói: “Vừa nãy xuất hiện một tia nhiễu loạn trên trường điện từ, hay là ảo giác nhỉ?”

Max hỏi: “Nếu không phải thì sao?”

Lôi Ba đáp: “Thì tức là có người đang phát tín hiệu!”

Tây Mễ nói: “Có người bám theo chúng ta à? Không thể nào!” Bị người khác theo dõi mà cả bọn, bao gồm cả y, hoàn toàn không hề hay biết sao? Lấy đâu ra nhân vật lợi hại nhường ấy? Tây Mễ cảm thấy, dẫu là Merkin cũng không thể làm được điều này, mà Merkin đã là kẻ đáng sợ nhất y biết rồi.

Nhưng để đề phòng vạn nhất, y vẫn sai Đinh Minh Hữu, Đạt Kiệt, Hồ Tử dẫn theo ba tên lính đánh thuê đi vòng vòng xung quanh cảnh giới.

Lữ Cánh Nam xoay xoay cái nút bên cạnh thiết bị liên lạc gắn trên mắt, nói: “Tần số 33,8. Pháp sư Á La tìm được chỗ chúng cắm trại rồi, bảo chúng ta mau đến đó.”

Bốn người bắt đầu tiến về phía pháp sư Á La. Đường Mẫn hỏi: “Giờ mình tập kích bọn chúng hả?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừ, bọn người này đến cả đồng bọn cũng không tha, nhất định chẳng phải thứ tốt lành gì, nếu chúng ta đi khỏi đây, nhất định chúng sẽ trút giận lên dân làng. Nhân lúc chúng còn chưa phát hiện ra mình, còn chưa cảnh giác, hãy cho chúng một đòn đau cho nhớ đời!”

Đội trưởng Hồ Dương hỏi: “Có báo với bọn Nhạc Dương không nhỉ?”

Trác Mộc Cường Ba thoáng nghĩ ngợi, rồi đáp: “Không.”

Lữ Cánh Nam nói: “Có bảy tên đến, sáu tên trở lại, giờ lại thấy thêm ba gương mặt mới, chứng tỏ ít nhất có chín người, vũ khí tương đồng với chúng ta. Đợi chút, dừng lại!” Cô thu dây về, hạ xuống đất, ba người khác cũng đều dừng lại theo.

Trong rừng, Lôi Ba trầm mặt nghiêm giọng nói: “Bọn chúng dừng lại rồi, lạ thật, cách chúng ta tới năm cây số, nếu muốn tập kích, khoảng cách này hình như hơi xa thì phải?”

Tây Mễ ngẩng đầu lên: “Bốn người mà muốn tấn công chúng ta, có phải chúng đánh giá bản thân quá cao rồi không?”

“Không. Năm người. Đừng quên còn một cao thủ đang ẩn núp đâu đó quanh đây.” Max nhắc nhở. Mặc dù Tây Mễ không cho rằng có người giỏi hơn cả Merkin, nhưng Max thì biết chắc là có, hơn nữa còn nhiều là đằng khác. Y gần như lập tức nhớ đến trong nhóm đối thủ có một lão lạt ma già, ít nhất ông chủ của y cũng phải thừa nhận có dốc toàn lực ra cũng chưa chắc là đối thủ của lão già ấy, sau đó, hệ thống radar liền xuất hiện thêm bốn điểm sáng, rõ ràng đối phương không hề bị thương. Di động có quy luật như vậy, hiển nhiên phải là hành vi của con người, hơn nữa, tốc độ di chuyển này không thể nào là chạy bộ được; Max lại nghĩ đến những cạm bẫy bên ngoài làng kia, rõ ràng là thiết kế để nhằm vào những kẻ đã quen thuộc với các loại bẫy rập như bọn y, cuối cùng Max đưa ra kết luận: rất có khả năng, đối thủ lớn nhất của bọn y trong hành trình lần này, chính đang ở trong ngôi làng kia, không biết tại sao đối phương lại dừng ở đấy... Y không trực tiếp nói ra, mà chỉ không đầu không đuôi buột miệng thốt lên một câu: “Liệu có phải là đám người kia không?” Y hiểu rất rõ, với sự tinh minh của Tây Mễ, chắc là cũng phải có chút phản ứng gì đấy rồi.

“Sao vậy?” Đường Mẫn hỏi.

Lữ Cánh Nam nói: “Tôi suýt nữa quên mất, trang bị của chúng cũng giống chúng ta, tiếp cận với tốc độ cao thế này, chắc chắn sẽ bị phát hiện.”

Trác Mộc Cường Ba lập tức bổ sung thêm: “Nếu sự di động nhanh và có quy luật này của chúng ta bị radar của chúng bắt được, rất có thể sẽ lộ cả thân phận nữa.”

“Hơn nữa, còn lao thẳng đến mục tiêu thế này, không cần nói cũng biết chúng ta đã phát hiện ra chỗ chúng hạ trại, nhất định chúng sẽ liên tưởng đến có người tiềm phục ở gần xung quanh chúng. Chúng sẽ đi tìm ngài đấy, pháp sư Á La.” Lữ Cánh Nam nói.

Pháp sư Á La đáp: “Không sao, chỗ này rất kín. Chỉ sợ chúng sẽ tản ra thôi, mọi người mau tới đây!”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy, chúng ta tiếp tục thôi.” Ánh mắt gã vừa khéo gặp phải ánh mắt của Lữ Cánh Nam, lập tức nhận ra sự hiểu ý ngầm trong mắt đối phương.

Tay vung lên, dây móc lại bắn vù ra.

Đường Mẫn thắc mắc: “Không sợ bị phát hiện sao? Tại sao...”

Lữ Cánh Nam mỉm cười, nói: “Nếu bị phát hiện thì vừa nãy chúng đã phát hiện ra ta rồi, chi bằng dứt khoát để lộ luôn. Nhưng phải biết là, loại radar này có một nhược điểm, một nhược điểm chí mạng, chính là chỉ có thể phát hiện được các vật thể di động!”

“Lạ thật, lại di chuyển rồi, bọn chúng cũng táo gan thật, chẳng hề coi chúng ta ra gì à?” Lôi Ba nói.

Tây Mễ “hừ” khẽ một tiếng: “Vừa nãy dừng lại, có lẽ là để liên lạc với đồng bọn, đồng thời cũng có khả năng chúng đã biết mình bị lộ rồi. Nếu là vậy, thì cũng là một lời tuyên bố với chúng ta rằng, chúng đã biết bọn ta là ai, biết chúng ta có trang bị gì. Nếu thế, những kẻ đang tới đây, ngoài kẻ địch của chúng ta ra, thì chẳng có thể là ai khác nữa.”

“Hữu Tài, vẫn chưa bắt được tần số liên lạc của chúng à?” Tây Mễ quay người lại hỏi Lục Hữu Tài. Lục Hữu Tài đeo ống nghe, cẩn thận điều chỉnh nút vặn, lắc đầu đáp: “Thời gian ngắn quá, không đủ. Hơn nữa, cũng chưa chắc chúng có dùng bộ thiết bị liên lạc này hay không.”

Tây Mễ nói: “Chắc chắn là có, nếu chúng tìm được mấy thùng hàng bị thất lạc của chúng ta, thì nhất định sẽ sử dụng.” Y lại quay sang phía Max, xác nhận lại lần nữa: “Lúc chúng xuất phát, đúng là có mười tám người chứ?”

Max gật đầu khẳng định. Tây Mễ liền nở một nụ cười lạnh lẽo: “Mười tám người, còn lại năm, U Minh hà quả nhiên không dễ gì vượt qua, hừ hừ. Chỉ cần bắt được tần số liên lạc này, tao sẽ cho chúng một niềm vui bất ngờ. Nhanh lên, chúng đã đến gần lắm rồi đấy!”

“Chúng ta đã đến khá gần rồi.” Lữ Cánh Nam dừng lại, nhưng tay vẫn không dừng, mà thuận đà ném một khúc cây ra tít đằng xa. Những người khác cũng ném cành cây về các hướng khác nhau, ba lần liền. “Hy vọng chúng nhìn thấy, nếu radar đủ nhạy.” Lữ Cánh Nam nói.

“Chúng dừng lại rồi, cách chúng ta khoảng tám trăm mét. Chúng đang tung hỏa mù!” Lôi Ba khẽ chau mày.

Tây Mễ hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Lôi Ba chỉ vào màn hình radar nói: “Đại ca xem.” Chỉ thấy trên màn hình chớp chớp lên mấy đốm sáng, có lúc một điểm chợt phân ra thành hai, bay về những hướng khác nhau, sau đó lại phân ra tiếp, lúc nhiều nhất, trên màn hình hiện ra tới mười bảy mười tám đốm sáng. Những đốm sáng ấy tách ra, khoảng cách lên tới vài trăm mét thì đột nhiên đều dừng lại.

“Chúng nó ném đá đấy!” Tây Mễ sa sầm nét mặt.

Lôi Ba cũng chậc lưỡi nói: “Đá, cành cây, bất cứ thứ gì có thể ném ra, tạo thành di động với tốc độ cao.”

Lúc này, Lục Hữu Tài hơi nhướng mày lên, nói: “Bắt được rồi! Tần số 33,3.” Hắn rút tai nghe ra, trong loa liền phát ra một giọng trong trẻo, là tiếng phụ nữ: “Pháp sư nói, bọn chúng treo túi ngủ trên một cái cây phía trước, hình như còn lắp ghép một gian nhà cây đơn giản nữa.”

Một giọng đàn ông trầm hùng vang lên: “Không thấy, chắc chúng đã ngụy trang rồi. Pháp sư, ngài đang ở đâu?”

Max khẽ nói: “Trác Mộc Cường Ba.” Tây Mễ gật gật đầu.

Pháp sư Á La nói: “Tôi đang ở trên cây bên phải các cậu. Cẩn thận, trong rừng có sáu tên đang tuần tra, nhân lúc chúng đang phân tán, chế phục bọn này trước. Giờ ở hướng chín giờ của tôi có một tên, không, hướng mười hai giờ còn một tên nữa. Tôi sẽ đối phó với tên ở hướng mười hai giờ, các cậu nghĩ cách xử lý tên hướng chín giờ nhé.”

Tây Mễ nhì chằm chằm vào màn hình radar không phản ứng, nhớ lại quỹ đạo di chuyển của những đốm sáng vừa nãy, ít nhất có hai người đang ở gần nhau, mà phía mình cũng có hai người đang ở bên dưới gốc cây đối phương mai phục, một người hướng mười hai giờ, một người ở hướng chín giờ. Tây Mễ điều chỉnh thiết bị liên lạc, trên mặt kính liền xuất hiện vị trí và khoảng cách của sáu tên đang đi tuần tra xung quanh, y nhanh chóng đưa ra phán đoán, rồi hạ lệnh: “Đinh Minh Hữu, Brian, ở hướng ba giờ và sáu giờ của chúng mày, trên cây có mai phục, cố gắng đứng gây tiếng động, trực tiếp thịt chúng luôn đi!”

“OK! Đã nhận!”

Chương 17

Ám chiến (2)

Một thoáng im ắng, rồi đột nhiên có hai tiếng súng nổ vang lên, kế đó trong loa vang lên một giọng già nua: “Chúng phát hiện tôi rồi, rút lui thôi. Cẩn thận đấy, đám người này lợi hại lắm!”

Đinh Minh Hữu nói: “Chạy mất rồi, không bị thương. Thân thủ người này đáng sợ lắm, khoảng cách gần như vậy mà vẫn tránh được!”

Tây Mễ nói: “Đừng đuổi, ở hướng bây giờ của chúng mày còn ít nhất hai tên nữa, cẩn thận khép kín vòng vây vào. Dick, mày tiến lên theo hướng mười một giờ, đừng nhanh quá, chắc chúng cách mày khoảng chín mươi bước; Đạt Kiệt, hướng năm giờ của mày, khoảng cách một trăm ba mươi bước; Hồ Tử, mày lên cây, hướng một giờ; Steven, chi viện cho Đạt Kiệt...”

Bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba vẫn ẩn mình trong bụi cây, không hề hay biết đám quân tuần tra của kẻ địch đang bao vây cả bọn lại, vẫn đang thì thầm thảo luận: “Cẩn thận, đừng loạn động, không khéo làm kinh động bọn chúng đấy.” Trác Mộc Cường Ba trấn an Đường Mẫn, để cô đừng quá căng thẳng, dù sao bọn họ cũng chỉ có năm người, còn kẻ địch thì ít nhất cũng phải đông gấp đôi.

“Anh mới phải cẩn thận, đầu anh to nhất, dễ trở thành mục tiêu nhất đó.” Đường Mẫn không hề nhân nhượng phản bác lại ngay.

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Bọn chúng vẫn ở ngoài tầm nhìn của chúng ta, không ở trong phạm vi xạ kích.”

Bọn Tây Mễ đang ở trên chòi cây lắng nghe bọn Trác Mộc Cường Ba nói chuyện. Tây Mễ cười khẩy: “Tốt quá rồi, bốn đứa tụm lại một chỗ, vậy thì khỏi phải lo. Hồ Tử, mày có thể tiến lên thêm năm mươi mét nữa, tầm nhìn ở đó tốt hơn.”

Hồ Tử nhảy xuống khỏi tán cây, lẳng lặng áp sát.

Trác Mộc Cường Ba nghe thấy trong rừng có âm thanh vẳng ra, liền thấp giọng nói: “Tình hình không ổn lắm thì phải. Pháp sư, ngài ở đâu rồi?”

Pháp sư Á La nói: “Tôi vòng qua hướng ba giờ của bọn chúng, đang định thám thính xem trên chòi cây còn bao nhiêu tên nữa.”

Tây Mễ đánh mắt ra hiệu, Lâm Nhiệm và Lôi Ba liền cầm súng đi ra.

Hai người vừa ra khỏi chỗ che chắn, cái loa trong chòi cây liền vang lên tiếng: “Lại có hai gương mặt lạ nữa.” Tây Mễ và Max kinh hoảng nhìn nhau, đối phương đã đến gần vậy rồi ư, sao có thể như vậy được? Tây Mễ nói: “Lâm Nhiệm, hắn ở ngay bên ngoài đó thôi, đã nhìn thấy chúng mày rồi, cẩn thận đấy!”

Bỗng nhiên, một quả pháo sáng bắn lên, màn đêm tăm tối bỗng rực lên như ban ngày, đám người trong bóng tối nhất thời đều không chịu nổi, liền sau đó là tiếng súng, chỉ nghe pháp sư Á La “a” một tiếng, cơ hồ lại lẩn ra xa rồi.

Lữ Cánh Nam nói: “Đó là hướng của pháp sư Á La, ông ấy bị phát hiện rồi, kỳ lạ thật.” Cô đưa mắt sang nhìn Trác Mộc Cường Ba, hai người gần như cùng lúc thốt lên: “Tản ra!”

Quả pháo sáng cơ hồ như hiệu lệnh tổng công kích, bốn người vừa mới chia ra hai hướng, một viên đạn đã rơi đúng vào giữa, kế đó là tiếng súng tiểu liên tự động “tạch tạch tạch... tạch tạch tạch...” vang lên liên hồi, trong rừng dường như chỗ nào cũng có kẻ địch, cả bốn hướng đều bị tấn công. Bọn họ cũng bắn trả, nhưng rõ ràng thấy kẻ địch trúng đạn rồi mà vẫn không sao... áo chống đạn! Trác Mộc Cường Ba thầm thấy gai cả người, bọn họ đã đánh giá thực lực của kẻ địch quá thấp rồi!

Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn cùng nấp bên dưới một cái cây.

“Em không sao chứ?”

“Ưm, không sao.”

“Anh bên trái, em bên phải, kẻ địch ở hướng năm giờ và bảy giờ phía sau lưng chúng ta.”

Vừa ló đầu ra, đã bị hai viên đạn bắn cho phải rụt đầu lại. Trác Mộc Cường Ba bực bội nói: “Hình như chúng nhìn thấu được chiến thuật của ta rồi!”

“Hay là lên cây đi, anh yểm hộ em.” Đường Mẫn nói.

Lữ Cánh Nam nói: “Phục thấp xuống, đừng ló đầu ra, trên cây có kẻ địch đấy.”

Đội trưởng Hồ Dương lấy làm khó hiểu: “Chẳng lẽ chúng ta bị bao vây rồi? Từ lúc nào...”

“Cẩn thận, lựu đạn mù đấy!”

Tiếng Pháp sư Á La cất lên: “Tôi bị đuổi rát lắm, mọi người cẩn thận đấy.”

Sau đó lại là một khoảng lặng ngắn, gió đêm yên ắng đến độ khiến người ta rợn người, kẻ địch đang lặng lẽ áp sát, Hồ Tử nằm trên cây nheo mắt ngắm chuẩn mục tiêu, khẽ nói: “Đạt Kiệt, phía trước mày chừng mười bước, sau cái cây kia kìa, ít nhất có hai đứa.”

Đạt Kiệt ló đầu ra khỏi bụi cỏ, nhe răng cười dữ tợn, dùng miệng giật chốt quả lựu đạn, dồn sức ném mạnh ra.

Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn lăn ra khỏi thân cây, một loạt đạn dài đón lấy họ. Bụi cỏ quá dày, người bắn chỉ có thể dựa theo hướng cỏ lay động, cũng không biết có trúng mục tiêu hay không, có điều Hồ Tử trên cây thì nhìn được rất rõ ràng, hắn chuyển khẩu súng sang chế độ bắn từng phát một, hết viên đạn này đến viên đạn khác lướt rát rạt qua bóng người thấp thoáng trong bụi cây. Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam hoảng hồn tránh né, thậm chí còn chẳng kịp để ý xem kẻ địch ở hướng nào bắn tới. Lữ Cánh Nam tranh thủ một khoảng trống, vội lách người ra khỏi thân cây, bắn về phía Đạt Kiệt, đồng thời ném ra một quả lựu đạn, có điều Đạt Kiệt đã tránh đi từ lâu. Đinh Minh Hữu và Brian từ nãy giờ vẫn rình rập gốc cây ấy, chỉ đợi bọn Lữ Cánh Nam lộ thân. Đồng thời Hồ Tử trên cây cũng xoay họng súng, ngắm về phía cô, bỗng phát hiện đội trưởng Hồ Dương đang định lén vòng ra khỏi khu vực chiến đấu, liền nã đạn ép anh phải lui về.

Lữ Cánh Nam và đội trưởng Hồ Dương bị đẩy lùi về phía sau gốc cây, còn Trác Mộc Cường Ba cùng Đường Mẫn thì bị kẹp giữa một tảng đá lớn và một thân cây, nhất thời không thể đột phá thoát ra được. Trác Mộc Cường Ba đưa tay ra phía sau, chạm phải một vật tròn tròn trơn nhẵn như quả bóng tennis, là đạn hấp dẫn, gã liền đưa tay ra hiệu với Mẫn Mẫn, chỉ rõ phương hướng, đoạn ném mạnh ra. Quả đạn hấp dẫn bắn tung lên không trung, rồi bắt đầu phát ra ánh sáng yếu ớt, rồi sáng dần lên, tiếp đó là những âm thanh đập cánh “vù vù vù”, cả thiết bị bắt sóng của bọn Tây Mễ cũng bị nhiễu loạn, phát ra những tiếng điện lưu “rẹt rẹt rẹt”. Bọn Đạt Kiệt thì lại càng chẳng hiểu gì, trố mắt ra nhìn thứ đồ chơi phát sáng trên không trung ấy.

“Bẹt!” Trong bóng tối, không rõ ai đã bắn rơi quả đạn hấp dẫn. Nhưng chỉ cần một thoáng ngắn ngủi ấy, cũng đủ cho Trác Mộc Cường Ba có được thời cơ quý báu để ẩn nấp, gã và Đường Mẫn đã rời khỏi vị trí ban đầu, mai phục vào một nơi khác.

Nhất thời, cục diện rơi vào thế giằng co, nhưng cũng không duy trì được bao lâu, Đạt Kiệt đã đeo lên thứ thiết bị trông giống như kính nhìn ban đêm, có điều ngoài nhìn được cảnh đêm qua bộ lọc màu xanh lá cây, y còn trông thấy những đám khí thể màu đỏ nữa. Đây là kính nhìn đêm có công năng phát hiện khí CO2! Nhìn qua mắt kính, hắn nhanh chóng phát hiện bốn luồng khí thấp thoáng trong bụi cỏ, một loạt đạt liền quét thẳng qua, không chút lưu tình.

Trác Mộc Cường Ba lăn tròn dưới đất, ít nhất cũng có ba viên đạt sướt qua bên má gã, những viên đạn khác cũng đều bắn sát sàn sạt bên cạnh. Nhất thời gã cũng không hiểu nổi sao kẻ địch có thể phát hiện ra mình nhanh thế, chỉ biết cứ tiếp tục thế này thì quá bị động, nhất thiết phải ngăn thế công điên cuồng này lại. Gã bèn ném ra một quả lựu đạn sáng.

Đạt Kiệt tháo kính nhìn đêm xuống. Nếu không có lựu đạn khói, lựu đạn sáng thực sự là vũ khí tối ưu để làm rối loạn chiến trường, dù có tránh được bị chói mắt và tiếng nổ, thì lượng CO2 lớn sinh ra sau khi các chất bên trong quả lựu đạn bị cháy cũng sẽ làm nhiễu thiết bị của y.

Lúc này, Đinh Minh Hữu đột nhiên chú ý đến phía sau lưng, gần như cùng lúc giơ súng lên với người trong bụi cỏ, nhưng đối phương động tác rõ ràng nhanh hơn hắn, chớp mắt một cái đã ấn nòng súng vào ngực Đinh Minh Hữu, rồi bóng người lóa lên: “Lôi Ba!” Đinh Minh Hữu ngạc nhiên nhìn người mới xuất hiện.

Lôi Ba thu súng về, cũng lấy làm kinh ngạc nhìn Đinh Minh Hữu hỏi: “Không thấy có người chạy qua đây à?”

“Làm gì có.” Sém chút nữa bị người của mình ngộ sát, mồ hôi Đinh Minh Hữu túa ra.

Sau lưng Lôi Ba là Lâm Nhiệm, hai tên này đuổi theo pháp sư Á La tới đây. Thân hình đầu trọc ấy nhanh như một bóng ma, đối phương dẫn bọn chúng chạy một vòng quanh khu hạ trại tới đây thì đột nhiên lắc mình một cái, đã chẳng thấy đâu nữa!

Lôi Ba nói vào thiết bị liên lạc: “Lão pháp sư kia biến mất rồi, có thể đã tụ họp với những tên khác.”

Tây Mễ nói: “Tốt lắm, bao vây cho tao, không để đứa nào thoát!”

Thực ra pháp sư Á La cũng phải tốn bao tâm sức mới thoát được, không ngờ đối phương lại mắc lừa, tự mình bắn người của mình, ông lắc lắc đầu, thoắt hiện, rồi lại đu người đi, hút theo một loạt đạn rồi biến mất sau một thân cây, tụ họp với bọn Lữ Cánh Nam.

“Pháp sư Á La, ngài không sao chứ?” Lữ Cánh Nam lo lắng hỏi.

“Lợi hại hơn chúng ta nghĩ nhiều, có vẻ như chúng ta đã quá khinh địch rồi.” Pháp sư Á La đáp với giọng bất lực.

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Giờ không phải lúc nghĩ cách tiêu diệt kẻ địch, tốt nhất nên tính sao để đột phá vòng vây trước đã.”

Tây Mễ cắn móng tay, cười gằn lạnh lẽo.

Trác Mộc Cường Ba không tài nào hiểu nổi, tại sao kẻ địch lại nhanh chóng tìm được vị trí của bọn gã như thế, chúng đã lẳng lặng hoàn thành vòng vây từ lúc nào? Tại sao pháp sư Á La lại bị phát hiện? Tất cả thật quá bất ngờ.

Lúc này, thiết bị liên lạc gắn trên tai gã chợt vang lên tiếng Lữ Cánh Nam: “Chúng ta phải đột phá vòng vây, lát nữa tôi sẽ ném ra một quả đạn hấp dẫn, đồng thời phối hợp hỏa lực chi viện. Cái cây bên phải chỗ anh và Đường Mẫn tương đối thấp, hãy nghĩ cách dùng dây móc đu qua đó, tay súng trên cây ở hướng mười hai giờ của hai người, vừa khéo đó cũng là góc chết của hắn. Nhân lúc những tên khác bị thu hút, hai người lên cây, trước tiên tìm cách triệt hạ tay súng kia đã, đến lúc đó chúng ta sẽ lật ngược tình thế, thừa cơ phản công. Bên này chúng tôi sẽ tấn công theo chiến thuật tam giác, hai người ở trên cao yểm hộ, các hướng năm giờ và ba giờ đều là chỗ yếu của chúng, lại có che chắn, có cơ hội thì xông ra luôn.”

“Chúng đều có áo chống đạn, tay súng kia lại nấp trong chạc ba, khó bắn trúng lắm!”

“... Gắng hết sức đi, chúng ta phải tin vào chính mình.”

Sau khi phác ra một kế hoạch tác chiến đơn giản, cả bọn liền chuẩn bị hành động. Đạn hấp dẫn được ném vù ra, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn bắt đầu bắn dây móc, chẳng ngờ vừa đu đến giữa chừng, đột nhiên có một quả pháo sáng bắn lên, không những nhấn chìm tia sáng của quả đạn hấp dẫn, mà còn khiến hai người hoàn toàn hiển lộ giữa bầu trời đêm, gần như thành hai cái bia di động. Đạn như có mắt bay tới vèo vèo, Trác Mộc Cường Ba chửi thầm trong bụng, lập tức cùng Đường Mẫn hạ xuống đất, lăn nhanh vào bụi cỏ, tìm nơi ẩn nấp, giờ thì cả năm người đều bị vây vào một chỗ. Đường Mẫn lo lắng hỏi: “Anh không sao chứ?”

“Không sao.” Vừa nãy Trác Mộc Cường Ba ở ngoài, Đường Mẫn ở trong, đạn hầu như đều nhằm cả vào người gã.

“Á, máu kìa!”

“Bị sướt qua thôi.”

“Không bị thương chứ?” Lữ Cánh Nam cũng hỏi. Đồng thời cô cũng thầm lấy làm khó hiểu: tại sao kẻ địch lại giống như dự đoán trước được kế hoạch của họ? Chẳng có lý do nào hết! Trong năm người này, lẽ nào có người ngấm ngầm báo tin? Sao có thể làm được điều đó trong hoàn cảnh này, và trong một khoảng thời gian ngắn ngủi như thế? Còn khả năng nào khác hay không?

“Không sao. Kế hoạch của cô xem chừng không ổn rồi.” Trác Mộc Cường Ba cũng đang nghĩ đến cùng một vấn đề với Lữ Cánh Nam. Pháp sư Á La bị phát hiện, cả bọn bị bao vây, kế hoạch tác chiến bị đối phương nhìn thấu, kẻ địch dường như có năng lực tiên tri, giống như là nghe được kế hoạch tác chiến của họ từ trước rồi vậy... Gượm đã, nghe được kế hoạch tác chiến của chúng ta từ trước? Trong đầu Trác Mộc Cường Ba chợt lóe lên một ý nghĩ, vừa khéo cũng nhìn thấy ánh mắt sáng bừng của Lữ Cánh Nam. Trong một góc kẻ địch không thể quan sát thấy, hai người gần như cùng lúc giơ tay phải lên, chỉ vào thiết bị liên lạc đeo trên mắt, rồi lại cùng gật đầu khẳng định lại.

“Xem ra cách này không xong rồi, chúng ta phải xắp xếp lại.” Dường như không một giây do dự, Lữ Cánh Nam lại đưa ra một kế hoạch tác chiến khác, lần này là Trác Mộc Cường Ba cùng pháp sư Á La phụ trách thu hút sự chú ý của kẻ địch, làm bộ chuẩn bị đột phá chạy trở về, nhưng sự thực lại tấn công ngược vào cái chòi trên cây của kẻ địch, lợi dụng chòi cây yểm hộ, tiếp tục quần thảo với bọn chúng. Có điều lần này, ngữ khí của Lữ Cánh Nam có vẻ khá thoải mái, nhưng nếu không cực kỳ chú tâm lắng nghe thì không thể nào nhận ra được.

Tây Mễ vỗ vỗ lên vai Ivan. Con gấu Nga này mặc dù vừa nãy mới bị một súc gỗ to tướng tương cho một cú nặng, nhưng vẫn còn khỏe như một con thú hoang. Một tay hắn xách khẩu trung liên gắn thêm cả băng đạn to tướng, nhắm về hướng bọn Trác Mộc Cường Ba có khả năng xuất hiện. Tây Mễ thì ra vẻ lười nhác ngồi xuống, hai tay cầm súng, đầu ngửa ra sau, dựa vào hộp thiết bị nghe lén. Lúc này, y thấy mình giống như một vị hoàng đế, cảm giác này thật quá sức dễ chịu!

Lại một quả lựu đạn sáng nữa, Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La lăn sang bụi cỏ ở hai bên, những bóng người khác lẳng lặng trườn về phía chòi cây như bầy rắn, tất cả đều giống như trong kế hoạch. Tay súng trên cây báo cáo số người và phương hướng tập kích với Tây Mễ: “Ba đứa, hướng bảy giờ, tên ở giữa đã mai phục, hai tên còn lại tản ra theo hướng chín giờ và ba giờ.”

Ngón tay Tây Mễ gõ nhè nhẹ lên huyệt Thái Dương: “Vừa muốn tiếp ứng với hai tên dụ địch, lại vừa muốn bao vây chòi cây của chúng ta, bọn này cũng tham quá đấy nhỉ.”

Tiếng súng bắn về phía Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La rất thưa thớt, vì bọn Lôi Ba sớm đã vòng sang hai bên trở lại phía trước chòi cây, chính diện phía trước bọn Lữ Cánh Nam chỉ có hai người, Đinh Minh Hữu và Brian. Họng súng của Hồ Tử đã chuyển hướng, nhằm vào đống cỏ có người mai phục phía trước căn chòi trên cây, nhả đạn quét qua, không chút khách khí. Kỳ lạ thật, sao không có phản ứng, lẽ nào người đó đã di chuyển rồi? Rõ ràng còn thấy đám cỏ ấy xao động mà, Hồ Tử thầm nghĩ.

Đinh Minh Hữu và Brian cũng cảm thấy kỳ lạ, đám cỏ mà Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La nhảy vào cũng không có động tĩnh gì nữa, chẳng lẽ đối phương đã trúng đạn? Dường như hơi dễ dàng quá thì phải!

“Ầm...!” “Ầm...!”

“Chuyện gì vậy! Lại thêm hai quả đạn sáng nữa, chẳng lẽ năm tên này đã thành chó cùng dứt dậu rồi sao?”

Đột nhiên, từ vị trí bọn chúng không thể nào ngờ được, chính là chỗ năm người vốn ẩn náu, lại lóe lên ánh lửa. Nhưng năm người đều đã tản ra khỏi đó rồi, lẽ ra phải không còn ai nữa chứ? Đinh Minh Hữu và Brian tuy đã kịp thời phản ứng, nhưng đối phương không chỉ có hai người, bọn y lập tức bị áp đảo. Hồ Tử đang chuẩn bị xoay họng súng qua, bỗng thấy một trái đạn phát ra ánh sáng và những âm thanh vo vo bay vụt qua trước mặt. Đúng vào khoảnh khắc hắn thần người ra ấy, một viên đạn đã bay vèo tới. “Ối!” Hồ Tử chỉ kêu lên một tiếng, rồi ngã lăn từ trên cây xuống.

Lựu đạn sáng vừa nổ, Tây Mễ đã biết có chuyện không ổn, lập tức hạ lệnh cho tất cả nhằm hướng mục tiêu khai hỏa! Đạn bắn tung tóe ra khỏi khẩu trung liên trong tay Ivan, vỏ đạn phun ra như vỏ trấu, nhưng rồi hắn nhanh chóng nhận ra, tốc độ di chuyển của tay mình lại không đuổi kịp những thân hình đang di động trong lùm cỏ kia. Sao lại nhanh thế được? Hai mắt Ivan như bốc lửa, ghìm chặt cò súng, nhất định phải bắn trúng kẻ đó mới thôi. Tây Mễ cũng thấy hơi nôn nao: “Này... này... dừng lại, mày là đồ con lừa! Con mẹ mày tưởng chúng ta mở xưởng công binh chắc! Bắn hết đạn rồi, chẳng may gặp phải bọn quái thú trong rừng thì sao? Thằng đần!”

Ivan gầm lên giận dữ, vứt khẩu súng sang một bên, rút con dao đi rừng bên cạnh lao ra ngoài. Phía bên kia, năm sáu người đang vây lấy cái bóng đang di động trong lùm cỏ, vậy mà vẫn không bắn trúng! Chỉ có Lôi Ba và Lâm Nhiệm nhận ra, phương thức di động ấy, kiểu đổi hướng kỳ dị đó, dường như chính là lão pháp sư mà vừa nãy hai tên bọn chúng truy kích! Nhưng, chẳng phải lão pháp sư ấy đang ở phía trước thu hút một nhóm khác sau? Vậy thì kẻ này là ai? Hay là đối thủ của bọn chúng, người nào cũng có thực lực đáng sợ như vậy?

Đúng vậy, người thu hút hầu hết hỏa lực, đang lách qua lách lại né tránh trong lùm cỏ chính là pháp sư Á La. Vậy còn người nhao ra lúc ban đầu? Đó chỉ là hai bộ quần áo bọc bên ngoài tảng đá, còn kèm theo cả hai trái lựu đạn sáng nữa. Giữa một bãi cỏ cao ngang đầu người trong đêm khuya khoắt tối tăm, muốn phân biệt rõ đâu là người thật, đâu là người giả nào phải chuyện dễ dàng! Người vòng ra phía sau bò tới chỗ chòi cây cũng chỉ có Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La, ở giữa chỉ là một đám quần áo nhồi cỏ. Sự thực là, bọn Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn làm ngược lại với kế hoạch, mục tiêu của bọn họ không phải cái chòi cây, mà là đột phá vòng vây chạy ra xa khỏi đó. Đây là một trận ám chiến thực sự, chỉ trong mấy phút đồng hồ ngắn ngủi, nhóm của Tây Mễ đã bắt được tần số sóng liên lạc của mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, đồng thời lợi dụng thông tin qua sự trao đổi của bọn gã mà định ra đối sách tương ứng; sau đó Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam lại phát giác được điều này, bèn lẳng lặng lợi dụng tin tức giả mê hoặc đối phương. Giờ bọn gã đã nắm được hoàn cảnh hiện tại của mình, xét về nhân số hay vũ khí trang bị, bọn gã cũng đều ở thế yếu hơn. Xem ra, các thùng thiết bị của Merkin ném xuống cũng hơi có sự khác biệt, ít nhất họ không có thiết bị bắt sóng, cũng không có áo chống đạn, đương nhiên, cũng có thể bọn chúng đã mặc áo chống đạn ngay từ đầu rồi. Nói gì thì nói, bọn họ cũng cần phải nhanh chóng rời khỏi nơi này, sắp xếp lại kế hoạch đối phó với kẻ địch mới.

Pháp sư Á La lượn một vòng trong lùm cỏ, rồi lại biến mất ngay trước mắt những kẻ đang khép chặt vòng vây, trở lại tụ họp với nhóm Trác Mộc Cường Ba, rồi dồn hỏa lực mở ra một lối giữa Đinh Minh Hữu và Brian, thoát ra khỏi thế trận của kẻ địch. Không lâu sau, Lữ Cánh Nam cũng trở lại, nhưng sau lưng cô vẫn còn một đám đuổi theo.

Ivan đứng lên giữa lùm cỏ lòa xòa, liếm liếm vết máu nơi khóe miệng. Ả đàn bà đó cũng lợi hại thật, dù là lực bộc phát của cơ bắp hay thân hình cũng đều là loại mà hắn thích nhất, ý nghĩ đè Lữ Cánh Nam xuống, khiến cô phải rên lên đau đớn khiến con gấu Nga ấy không sao kìm nén nổi, ngửa mặt lên trời hú vang.

Chương 18

Chất thông tin của Sean

Nhất định phải đuổi bằng được bọn nó cho tao! Khốn kiếp thật!” Tây Mễ vô cùng phẫn nộ. Vốn đã tưởng có thể tiêu diệt toàn bộ, nhưng giờ lại để kẻ địch thoát ngay trước mũi, mười hai người đối phó với năm người, vậy mà còn để đối phương chạy mất, đây có khác nào một thất bại lớn chứ? Có điều, trong thời gian ngắn vậy mà đám người này đã phát hiện được sơ hở, đồng thời lợi dụng luôn sơ xuất này khiến mình mắc bẫy, chỉ riêng tư duy sắc bén và cẩn mật ấy thôi đã không thể coi thường được rồi.

Max nói: “Yên tâm, đằng nào bọn chúng cũng bị trói chân ở cái làng phía trước rồi, chẳng thể chạy đi đâu được. Bọn chúng đều là hạng nhân từ như đàn bà, chắc chắn sẽ ở lại đề phòng chúng ta đến tiêu diệt cả thôn làng ấy, đến lúc đó muốn giết chúng còn dễ hơn nhiều? Cứ tưởng lợi hại lắm, hóa ra vừa đụng mặt đã bị đại ca dọa cho sợ té đái vãi phân ra rồi.” Tiếng Trung của Max vốn chẳng ra gì, lại thích tỉa tót câu chữ, thành ra mấy từ cuối phát âm thành: “mông đít trâu voi”. Tây Mễ không nhịn nổi cười, hoàn toàn quên mất vừa nãy lúc chiến đấu tên giỏi nịnh bợ này đã lẩn đi đâu mất.

Kẻ địch chia làm hai hướng trái phải, hợp kích vào giữa như gọng kìm. Bọn Trác Mộc Cường Ba chạy phía trước, tốc độ chưa chắc đã nhanh hơn bọn truy binh, lại không dám dùng dây móc, vì như thế sẽ trở thành bia tập bắn cho đối phương. Họ phải lách qua lách lại tránh đạn, chốc chốc lại bắn trả, nhưng xét về tổng thể, thì đích thực vẫn đang ở thế yếu hơn.

“Đội trưởng Hồ Dương, anh không sao chứ?” Đường Mẫn hỏi.

“Không sao.”

“Nhưng mà, có máu kìa.”

“Không phải máu của tôi.”

“Làm sao đây?” Trác Mộc Cường Ba nhất thời cũng bó tay chưa nghĩ ra cách gì. Vẫn còn ba quả lựu đạn, hai quả lựu đạn sáng, ba trái đạn hấp dẫn, súng cũng còn đủ đạn, nhưng muốn đối phó với kẻ địch đông gấp đôi thì rõ ràng vẫn chưa đủ. Đột nhiên, gã rờ thấy bình thủy tinh nhỏ Sean đưa cho mình, lời nhắn của Sean lại vang lên bên tai: “Thứ này, gặp lúc nguy cấp, có thể dùng...” Gã lấy bình thủy tinh ấy ra, xé một mảnh áo quấn chặt vào quả lựu đạn, rồi rút chốt, nhắm về phía kẻ địch ném vèo ra.

Mấy người bọn Steven vội vàng phục người xuống, “ầm” một tiếng, cát bụi bắn tung tóe, nhưng trong bóng tối, chẳng ai chú ý đến những giọt nước bắn tung tóe lên người mình.

Bọn địch phía bên phải lại ào lên, tiếng súng phía sau vẫn rất rát, bình chất lỏng dùng để giữ mạng của Sean dường như không phát huy tác dụng gì lớn lắm. Trác Mộc Cường Ba bắt đầu thấy lo lắng.

Lúc này, chỉ nghe pháp sư Á La nói: “Cứ vậy thì không thoát được, để tôi dẫn dụ bọn chúng.” Nói xong liền lách người lao về phía trái. Lữ Cánh Nam nói: “Vậy thì, đành nhờ pháp sư vậy.”

“Vù!” Một cái bóng lướt vèo qua trước mắt bọn truy binh, Lôi Ba buộc phải dừng lại, hỏi Lục Hữu Tài: “Này... có thấy gì không?”

Lục Hữu Tài đáp: “Hình như có người chạy sang phía bên phải. Nhanh quá!”

Những tên khác cũng đều dừng lại theo, chỉ có Ivan là muốn lập tức bắt được người đẹp, xông lên nhanh nhất: “Mặc mẹ là cái gì, cứ đuổi theo làm thịt hết từng đứa một. Tao muốn đứa con gái kia, tao muốn đứa con gái kia!”

Lôi Ba vươn tay, giữ chặt lấy con gấu Nga cao hơn hắn cả một cái đầu. “Mày biết cái đếch gì! Nếu chúng vòng ngược ra phía sau cắn trộm thì bọn ta lại rơi vào thế bị động đấy. Trong đám ấy có một thằng thân thủ thế nào, có phải mày chưa thấy đâu!”

Lôi Ba quát lên như thế, Ivan cũng không dám xông lên nữa, tuy hắn to đầu hơn Lôi Ba, nhưng nếu động tay động chân thật, hắn cũng không dám chọc đến tên họ Lôi này.

“Vậy... vậy giờ tính sao?” Những cái bóng phía trước mỗi lúc một xa, Brian xòe tay ra hỏi.

“Quay lại. Chúng nó không thoát được đâu.” Nhìn vết máu nhỏ xuống đám cỏ, Lôi Ba nhe răng cười, liên lạc lại với Tây Mễ.

Lúc bọn chúng về đến chòi cây, Hồ Tử đang băng bó vết thương, hắn bị đạn xuyên qua bắp tay, loại áo chống đạn này không bảo vệ được tứ chi. Vừa bước vào, Max đã chun mũi hít mạnh, bước đến bên cạnh bọn Lâm Nhiệm, hít hít ngửi ngửi một lượt: “Trên người bọn mày có mùi gì đấy?”

“Làm quái gì có mùi mẽ gì?” Mấy tên vừa quay lại đều đưa cổ áo lên mũi hít mạnh, chẳng hiểu mô tê gì. Ivan nói: “Tao chỉ ngửi thấy mùi đàn ông thôi, trên người tao từ nhỏ đã rất đậm mùi đàn ông rồi.”

“Ivan, ngày mai trên người mày sẽ có thêm nhiều mùi đàn bà nữa, ha ha!” Cả bọn liền cười phá lên dâm đãng.

Trở về làng Công Nhật Lạp, việc đầu tiên cần làm là xử lý vết thương. Trác Mộc Cường Ba đúng là chỉ bị xước sát sơ sơ, cùng một bên má bị ba viên đạn sượt qua, không biết có phải may mắn hay không, giờ đây trên mặt gã đã có thêm ba vết thương trông như râu mèo. Đội trưởng Hồ Dương cũng không bị thương nặng, máu trên người anh là của Lữ Cánh Nam chảy xuống, cô thoát được khỏi vòng vây của kẻ địch, nhưng dù sao thân thủ cũng chưa bằng được pháp sư Á La, bị một viên đạn xuyên qua giữa xương vai và xương quai xanh, một viên khác ghim vào bắp đùi, về sau lại phải quần thảo tay đôi với con gấu Nga khủng khiếp kia một hồi, vết thương càng sâu thêm. Nhưng trên đường quay về, cô vẫn như chưa hề có chuyện gì xảy ra, vừa chạy vừa bắn trả, lại còn nhiều lần yểm hộ cho đội trưởng Hồ Dương và Đường Mẫn. Nhìn vệt máu nhuốm đỏ cả vùng ngực dưới ánh đèn, Trác Mộc Cường Ba không khỏi thầm kinh hãi: “Người đàn bà này là thể loại gì vậy? Lẽ nào Mật tu giả đều không biết đau là gì hay sao?”

Đêm nay vậy là không thể nghỉ ngơi được nữa, cần phải lập tức chuẩn bị sẵn sàng, biết đâu sáng sớm ngày mai, kẻ địch lại vác đủ loại vũ khí hạng nặng mà họ chưa gặp bao giờ xông tới càn quét cũng không chừng. Cạm bẫy phía cổng làng cần phải gia cố tăng cường, dù cho dùng đến các loại vũ khí có sức phá hoại lớn như mìn cỡ nhỏ, thuốc nổ kẹo cao su... cũng chưa đủ. Trác Mộc Cường Ba kiểm tra lại đạn được còn lại, nếu kẻ địch vây khốn ngôi làng này, liệu bọn gã cầm cự được bao nhiêu lâu chứ? Dù sao thì nơi này cũng chẳng còn cách Bạc Ba La thần miếu bao xa nữa, bọn đối phương chỉ cần tiêu diệt nhóm của gã, là đã có thể hoành hành bá đạo ở nơi này, chẳng cần phải lo nghĩ gì nữa. Lúc này, đội trưởng Hồ Dương chợt quay sang hỏi gã: “Có cần báo cho dân làng không? Để mọi người còn biết mà đề phòng.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “À, dĩ nhiên, tôi quên mất đấy.”

Đội trưởng Hồ Dương lại nói: “Nhưng cậu đã tính toán kỹ chưa, những dân làng ấy sẽ nghĩ thế nào? Chính chúng ta đã mang lũ ma quỷ và sự hủy diệt đến đây, tất cả đều là lỗi của chúng ta đấy.”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Giờ chẳng kịp lo những chuyện ấy nữa đâu, cần phải báo cho họ mới được, bằng không dân làng sẽ chết oan chết ức mà chẳng hiểu vì sao. Ngoài ra còn phải cho họ hiểu được uy lực đáng sợ của súng ống và thuốc nổ nữa.”

Lúc này, Trương Lập mới hoảng hốt lật đật lao vào, vừa bước qua cửa đã oang oang cất tiếng: “Cường Ba thiếu gia, không xong rồi, có nhiều ‘người Lỗ Mặc’ lắm! Hả? Mọi người sao vậy?” Bấy giờ, anh mới để ý thấy vết máu lấm tấm trên người Trác Mộc Cường Ba, đội trưởng Hồ Dương và pháp sư Á La.

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Mã Cát đâu?”

Trương Lập gãi gãi đầu, thẽ thọt nói: “Mã... Mã Cát gì cơ? Cô ấy đang ngủ trong phòng mà.” Anh chàng đã lén lút đưa Mã Cát về phòng trước, vẫn còn tưởng không ai hay biết chuyện gì.

“Hoàn thành nhiệm vụ rồi! Hai cái đứa này thật là chẳng ra sao, lại bị bọn người Lỗ Mặc đuổi giết.” Nhạc Dương vừa vào cửa đã cáu kỉnh làu bàu, nhìn thấy Trương Lập, tức thì kêu lên một tiếng kinh ngạc: “Ồ, nhanh thật đấy, tôi còn tưởng anh vẫn đang ở trong phòng Mã Cát cơ!” sau đó lại nhanh nhảu quay sang hỏi: “Cường Ba thiếu gia, vết thương của mọi người...”

Mặt Trương Lập tức thì đỏ bừng lên như trái cà chua chín, chỉ tay vào Nhạc Dương và Ba Tang, lắp bắp nói: “Hai... hai người! Thì ra là hai người!” Thảo nào anh luôn thấy kỳ lạ, bọn người Lỗ Mặc ấy vốn đang bám riết lấy bọn họ, sau rồi chẳng hiểu sao lại ngừng truy kích, hình như còn nghe thấy tiếng súng.

Nhạc Dương dẩu mỏ lên: “Không phải chúng tôi, hai người làm sao thoát dễ dàng thế được...”

Trác Mộc Cường Ba xua tay nói: “Tạm gác chuyện của Mã Cát lại, chuyện người Lỗ Mặc kia là thế nào.”

Trương Lập và Mã Cát đang nằm trên thảm cỏ nghỉ ngơi, đột nhiên nghe thấy âm thanh giống như tiếng thổi tù và, Mã Cát bảo với Trương Lập, hình như người Lỗ Mặc bị khiêu khích gì đó. Trương Lập vội hoảng hốt bế cô lên chạy thẳng một mạch, lần này anh chỉ mang có một món vũ khí, mà cũng không phải loại đối phó được với bọn người Lỗ Mặc ấy. Trong lúc bỏ chạy, Trương Lập phát hiện có rất nhiều người Lỗ Mặc, dường như chúng đang tụ tập về nơi nào đó, nhưng vẫn có một nhóm nhỏ tách ra truy đuổi anh và Mã Cát, nhưng về sau hình như đã bị cản lại.

Trương Lập kể xong, Nhạc Dương lại bổ sung thêm. Anh và Ba Tang đứng ở chỗ cao, độ cảnh giới cũng cao hơn, theo quan sát của họ, bọn người Lỗ Mặc từ bốn phương tám hướng dường như đều bị thu hút cả về một chỗ, đang tụ tập về phía mép bình đài gần thôn làng. Họ không dám khẳng định lũ người Lỗ Mặc ấy có ý đồ tập kích làng Công Nhã Lạp hay không, vì vậy chỉ giết chết đám đuổi theo Trương Lập và Mã Cát, rồi trở về báo cáo luôn.

Vừa dứt lời, Nhạc Dương lại hỏi: “Cường Ba thiếu gia, sao mà mọi người bị thương vậy? Giáo quan và Mẫn Mẫn đâu?”

Trác Mộc Cường Ba đứng lên nói: “Cánh Nam bị thương, Mẫn Mẫn đang giúp cô ấy. Tôi đi báo với họ một tiếng, đội trưởng Hồ Dương sẽ kể cho các cậu nghe mọi chuyện.” Rốt cuộc là sao vậy? Hôm nay là ngày hạn của họ chăng? Bọn người Lỗ Mặc cũng muốn tấn công ngôi làng này ư? Trác Mộc Cường Ba lắc mạnh đầu, cố gắng hất văng những ý nghĩ hoang đường ấy ra ngoài.

Viên đạn đã được gắp ra, Đường Mẫn đang băng vai cho Lữ Cánh Nam. Trác Mộc Cường Ba định gõ cửa, không ngờ vừa đụng khẽ vào cánh cửa đã bật mở ra, gã tưởng vết thương của Lữ Cánh Nam đã xử lý xong rồi, liền bước vào nói: “Bọn Nhạc Dương mang về một tin xấu, người Lỗ Mặc...” Ánh mắt gã dừng lại trên bộ ngực trắng như tuyết, lập tức biết mình đã sai lầm.

Đường Mẫn cuống quýt kêu lên: “Anh... anh vào làm gì thế? Mau ra đi!”

Trác Mộc Cường Ba vội khép cửa lại, đứng bên ngoài nói: “Có rất nhiều người Lỗ Mặc, hình như đang tiến về phía ngôi làng này, không hiểu nguyên nhân vì sao.”

Lữ Cánh Nam nói: “Anh thấy nên làm thế nào thì cứ làm vậy đi, anh là đội trưởng kia mà.”

Trác Mộc Cường Ba quay trở lại, bảo Trương Lập khởi động hệ thống radar, tất cả sẵn sàng vũ khí, chuẩn bị quyết tử chiến một trận.

Lúc này, âm thanh nghe giống tiếng tù và kia lại vang lên, phá vỡ màn đêm tĩnh lặng, tựa như có vô số người Lỗ Mặc đang sầm sập tràn về phía ngôi làng như cơn nước thủy triều dâng. Dân làng đều giật mình thức giấc, ai nấy hoảng hốt bất an, vội chạy sang các nhà thông báo lẫn nhau, có người quỳ sụp xuống cầu khấn. Hơi thở của thần Chết đã mù mịt bao phủ khắp xung quanh thôn Công Nhật Lạp này rồi.

Mã Cát cũng bị kinh động, cô chạy đi tìm Trương Lập, hy vọng biết được tin tức gì đó. “Bọn chúng, bọn người Lỗ Mặc, có tấn công làng ta không? Em chưa từng nghe thấy nhiều người Lỗ Mặc cùng kêu gào như thế bao giờ cả.”

Trương Lập nhẹ nhàng đỡ lấy Mã Cát, để cô dựa vào người mình, thì thầm nói: “Em ra đây làm gì? Trở về nghỉ ngơi đi. Không có chuyện gì đâu, chúng làm sao mà xông vào làng được.”

Pháp sư Á La nhắm mắt lắng nghe phương hướng phát ra âm thanh, cặp mắt bỗng mở bừng ra: “Dường như mục tiêu của chúng không phải ngôi làng này, mà là, hướng của kẻ địch!”

Nhạc Dương và Trương Lập đã biết chuyện gì xảy ra, đương nhiên hiểu được ý của pháp sư Á La.

Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra lời nhắc nhở của Sean: “Sau khi ném cái này về phía kẻ địch, phải chạy thật nhanh, càng xa càng tốt, đừng để tự chuốc vạ vào thân.” Lẽ nào là...

Bọn Tây Mễ cũng không tên nào ngủ được, có điều, chúng không ngủ là vì hưng phấn. Trong làng sẽ có gì chứ? Có những súc thịt lớn, có rượu ngon, lại còn có cả vô số mỹ nữ, đương nhiên, nếu có vàng bạc châu báu gì gì đó thì càng tốt. Bọn chúng thu xếp lại hành trang, ba lô, túi xách. Đã biết vị trí ngôi làng ở đâu, giờ còn gì phải do dự nữa? Tuy có mấy tên người hiện đại giống như bọn chúng bảo vệ cho ngôi làng ấy, nhưng trang bị của đối phương không hoàn thiện như chúng, nhân số cũng không bằng. Chỉ cần đợi đến khi trời sáng là có thể tấn công vào làng, tiêu diệt hết kẻ địch, hừ, mọi người sống trên vùng đất này đều phải cúi đầu, đám người nguyên thủy cầm cung nỏ với giáo dài ấy, lấy gì ra để đối kháng với súng máy và lựu đạn cơ chứ?!

Đúng lúc ấy chợt có âm thanh “ù... ù...” như tiếng còi hơi từ đằng xa vẳng lại. Kỳ quái, còi hơi? Á! Là bọn thằn lằn hai chân, loài sinh vật đáng ghét nhất trong khu rừng này, bọn chúng như là một lũ quân du kích, chốc chốc lại ập ra đột kích mọi loài động vật trong rừng, cả bọn Tây Mễ cũng không ít lần nếm mùi đau khổ rồi.

Tây Mễ lập tức trở nên căng thẳng, vội khoát tay bảo Lâm Nhiệm: “Lên cây, lên cây, xem rốt cuộc xảy ra chuyện gì. Hình như chúng ta chưa bao giờ gặp phải nhiều thằn lằn thế này, đúng không?”

Lâm Nhiệm lên cây, lắp đặt thêm ăng ten cho radar.

“Không xong rồi, đại ca.” “Lớn chuyện rồi, tao thấy chúng ta phải...” Dick vừa dứt lời, Max liền buột miệng nói theo, mới được nửa câu đã sực nhận ra mình lỡ lời, lập tức im bặt.

“Chuyện gì vậy?” Tây Mễ lại bắt đầu sờ sờ lên vết sẹo trên mặt, đó là tín hiệu nguy hiểm.

“Có, có rất nhiều thằn lằn từ bốn phía dồn cả lại khu vực quanh đây, không biết mục tiêu của bọn chúng có phải là ngôi làng đằng trước kia không. Đại ca xem, đâu đâu cũng thấy chúng.”

Chỉ thấy trên màn hình hiện ra hơn trăm điểm sáng nhấp nháy, đều đang di chuyển về cùng một hướng. Tây Mễ nói: “Khoảng cách, phương hướng, tốc độ.”

Lôi Ba lập tức đáp: “Con gần nhất chỉ cách chưa đầy hai mươi ki lô mét, chúng đang đi qua ngôi làng phía trước, hình như không hề có ý định tụ tập ở đó. Tốc độ khoảng bốn mươi ki lô mét một giờ, không phải vận tốc lúc săn mồi, chúng tiến lên theo từng nhóm năm ba con một. Có vẻ như tất cả bọn thằn lằn ở khu vực quanh đây đều tụ tập cả lại rồi, thật hết sức bất bình thường.”

“Nếu không phải ngôi làng ấy, thì mục tiêu của chúng có thể ở đâu?” Max lẩm bẩm nói một mình.

Tây Mễ ra lệnh: “Chuẩn bị sẵn sàng vũ khí đã, mặc xác chúng nó, bọn ta cứ lo thân mình trước đã. Lâm Nhiệm, xuống đây!”

“A, Sean! Sao lại quên mất hắn chứ! Khốn kiếp thật!” Max bỗng dưng kêu toáng lên, khiến cả Tây Mễ cũng giật bắn mình, Max đuỗn mặt ra, cuống cuồng nói bằng tiếng Anh: “Nếu không phải là cái làng ấy, thì còn là ai được nữa? Chính là chúng ta đấy! Đã bảo lúc trở về bọn này có mùi gì là lạ mà lại, lúc chúng mày đuổi theo đám người ấy, có bị chúng tấn công ngược lại không? Ý tao là có thứ vũ khí nào bất bình thường không, như là lọ chai, hay hộp, hoặc túi nylon gì gì đó! Có không hả? Có không hả?”

Cả đám người đều ngẩn cả ra. Tây Mễ quát lên: “Nhớ lại đi! Có nghe nó nói gì không hả? Có bị ném chai lọ hay túi nylon gì không?” Y hiểu rất rõ, cái tên Max nhát gan này đột nhiên dám lớn tiếng như vậy, chắc chắn phải có nguyên do gì đặc biệt.

Đinh Minh Hữu nghĩ ngợi giây lát, rồi nói: “À, thủy tinh có tính không?”

“Thủy tinh! Mày nói là thủy tinh hả?” Max sợ đến nỗi giọng nói cũng phát run lên.

Dick hỏi: “Thủy tinh? Thủy tinh gì hả?”

Đinh Minh Hữu liền nhắc: “Chúng mày quên rồi à? Lúc đuổi theo bọn chúng, không hiểu đứa nào ném ngược lại một quả lựu đạn, không ai bị thương, nhưng thằng Steven bị mảnh thủy tinh bắn sướt qua rách cả mặt, mày còn hỏi tao, sao ở đây lại có mảnh thủy tinh còn gì.”

“À, phải đấy.” Steven rờ rờ vết thương nhỏ trên má, cuối cùng cũng nhớ ra.

Mặt Max tái mét, lẩm bẩm nói: “Vậy là đúng rồi, chắc chắn bọn thằn lằn ấy đang nhằm vào chúng ta... mẹ ơi là mẹ! Nghe đây, tất cả những người có mặt trong phạm vi nổ của quả lựu đạn ấy, mau cởi hết quần áo ra, rồi cả bọn mau rời khỏi chỗ này, càng xa càng tốt. Tao cũng không biết phải chạy đi đâu mới thoát được, nhưng có lẽ tìm nơi nào có nước thì tốt hơn.”

“Cởi quần áo?” Tây Mễ vươn tay chụp lấy Max, định nhìn cho rõ xem thằng Tây cao lớn này có phải đã sợ đến phát rồ rồi hay không, “Mày nói cái gì hả?”

Max bình tĩnh nói: “Là một loại kích thích tố dụ bọn dã thú đến. Giờ không kịp giải thích nữa, tóm lại là phải làm như vậy, tin tôi đi đại ca. Tôi vẫn chưa muốn chết sớm vậy đâu.”

Lôi Ba nói: “Nó nói cũng có lý. Đại ca, những đốm sáng kia đang đang tiến về phía này.”

Con mắt tam giác của Tây Mễ nheo nheo lại, bắn ra những tia lạnh lẽo rợn người, y gầm lên một tiếng: “Còn không làm theo lời nó đi? Lột sạch quần áo của chúng mày ra cho tao!”

Đinh Minh Hữu nói: “Nhưng đại ca, cởi hết thì bọn em mặc gì?”

“Mày cần mạng hay cần mặc quần áo?” Giọng Tây Mễ thấp hẳn xuống, nhưng ngữ khí lại băng lạnh khiến người ta nghe mà phát run lên.

“Một cái lọ thủy tinh chứa đầy chất lỏng?” Pháp sư Á La nghe Trác Mộc Cường Ba kể xong, không khỏi thầm kinh ngạc. Ông đã biết đó là thứ gì rồi, đồng thời cũng càng khẳng định chắc chắn thân phận của Sean hơn, một người yêu thích động vật tuyệt đối không thể có trình độ ấy được! Nhìn những đốm sáng đang tràn về phía doanh trại của kẻ địch trên màn hình, pháp sư Á La khẽ mỉm cười.

“Đấy chính là chất thông tin gì đó mà anh Sean để lại đấy à?” Trương Lập đứng bên cạnh hỏi. Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu.

Lúc này, Lữ Cánh Nam đã mặc lại quần áo, cùng với Đường Mẫn bước ra ngoài, thấy cả hội vẫn còn ở trong phòng mà không ra ngoài đầu làng phòng ngự, liền hỏi: “Sao vậy? Không cần ra cổng làng phòng thủ à?”

Pháp sư Á La lắc đầu: “Tạm thời quan sát một chút đã, có thể kẻ địch đã trúng phải Dẫn cổ. Cường Ba thiếu gia đã ném ra.”

Lữ Cánh Nam lập tức hỏi: “Sean?”

Pháp sư Á La gật đầu. Trác Mộc Cường Ba thoáng động tâm, nếu đúng là chất thông tin ấy gây ra, vậy thì thủ đoạn này thực sự quá sức hữu hiệu, lẽ nào Sean đúng thật là...

Trong tiếng tù và từ đằng xa vẳng lại, còn kèm theo tiếng súng và tiếng nổ. Pháp sư Á La khẽ nói: “Bắt đầu rồi.”

Lữ Cánh Nam cũng nói: “Xem ra phải đến mai mới biết kết quả rồi.” Cô khẽ vuốt vuốt lại mái tóc, dù Sean là người thế nào, thì lần này anh ta cũng đã cứu họ một mạng, trước đây đối đãi với Sean như vậy, rốt cuộc là đúng hay sai?

Khóe mắt của Ba Tang khẽ giật giật. Cổ độc, càng lúc anh ta càng không thể hiểu nổi thứ ấy.

Cổ độc tuyệt hậu

Cả bọn Trác Mộc Cường Ba và dân làng Công Nhật Lạp cùng trải qua một đêm không ngủ. Sáng sớm hôm sau, khi người Lỗ Mặc đã tản đi, pháp sư Á La, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang liền trở lại chỗ kẻ địch cắm trại.

Sau trận chiến kịch liệt hồi đêm, khắp chốn đâu đâu cũng đầy những chân tay đứt lìa của bọn người Lỗ Mặc, còn có mấy con thú hoang không biết tên đang tranh nhau cắn xé những cái xác đó, thể hình không lớn lắm, vừa thấy người sống, liền nhanh chóng chạy mất tiêu.

Cái chòi cây đã sụp hẳn, trong đống hoang tàn họ phát hiện ra những mảnh vải vụn rách bươm bét, súng máy, những miếng kim loại. Sau khi khảo sát, pháp sư Á La kết luận: “Chết tại chỗ hai tên, có điều, ở đây ít nhất có đến ba mươi cái xác người Lỗ Mặc. Bọn chúng rút lui theo hướng này.” Pháp sư Á La chỉ ra chỗ phía bên ngoài của tầng bình đài thứ hai.

Ba Tang nói: “Bọn chúng không còn bao nhiêu đạn dược nữa rồi, cuộc chiến vẫn chưa kết thúc.” Theo kết quả tối qua họ quan trắc được, bọn người của Tây Mễ và lũ thằn lằn được dân ở đây gọi là người Lỗ Mặc ấy đã quần nhau một lúc ở quanh cái chòi cây này, về sau vì số lượng người Lỗ Mặc đông quá, bọn chúng mới buộc phải mở ra một con đường máu, bắt đầu rút lui, nhưng lũ người Lỗ Mặc cũng vẫn đuổi riết không tha.

Kẻ địch chạy vào sâu trong rừng, chắc hẳn cũng vì sợ lũ chim khổng lồ ở mép bình đài kia, lần theo dấu vết những cái xác người Lỗ Mặc đến tận gần chỗ vách đá, rồi lại đi tiếp thêm tầm chục cây số nữa, họ phát hiện ra ba cái xác người bị cắn xé tả tơi. Tới đó thì họ dừng lại, trở về làng Công Nhật Lạp báo tin với mọi người.

“Tốt quá!” Trương Lập hưng phấn thốt lên: “Giờ thì không sợ chúng trở lại tấn công thôn làng rồi, bọn chúng cũng chẳng còn sức mấy nữa.”

Anh nghĩ ngợi giây lát, rồi lại cười hì hì nói với Lữ Cánh Nam: “Giáo quan, cô bị thương nặng vậy, có lẽ chúng ta nên ở lại đây nghỉ ngơi thêm vài ngày nữa nhỉ.”

Lữ Cánh Nam nói: “Tôi bị thương nặng mà sao cậu vui vẻ thế? Vết thương của tôi chẳng là gì cả, đừng quên mục đích của chúng ta. Giờ kẻ địch đã vượt lên trước rồi, lại không có bằng chứng gì chứng tỏ chúng đã chết hết. Phải biết rằng, phạm vi nổ của quả lựu đạn Cường Ba thiếu gia ném ra chỉ ảnh hưởng được đến bốn năm tên mà thôi. Vì vậy, chúng ta phải mau chóng bắt kịp bọn chúng. Nếu bọn chúng tiêu diệt những làng phía trước, thậm chí đánh thẳng đến Tước Mẫu, vậy thì cổ độc của Cường Ba thiếu gia coi như hết cách rồi. Vì vậy, chúng ta phải xuất phát ngay hôm nay!”

Thần sắc Trương Lập tức thì trở nên sầm sì ảm đạm. Nhạc Dương cười hích hích châm chọc: “Anh được đấy... hí hí, bên hồ nước dưới ánh trăng, bãi cỏ lau thật đẹp biết mấy.”

Mặt Trương Lập đỏ bừng lên, hồi lâu sau mới lấy hết dũng khí nói: “Bây giờ, Mã Cát là vợ tôi rồi.”

“Ồ!” Nhạc Dương nói: “Chuyện đã rồi, chuyện đã rồi, cái đồ ăn cơm trước kẻng.”

Trương Lập vội nói: “Không, không phải thế.” Đến tối qua anh mới biết, thì ra anh nhận đóa hoa đỏ của Mã Cát tặng, rồi lại cài nó lên đầu cô, vậy là đã thừa nhận Mã Cát là vợ mình, chẳng trách Mã Cát lại chủ động như thế. Trong suy nghĩ của cô, đó là việc người vợ cần phải làm. Trương Lập gãi gãi đầu, nói qua nói lại một hồi lâu mới giải thích rõ được chuyện này.

Nhạc Dương nói: “Nhưng làm vậy là phi pháp đó!”

Trương Lập giận dữ quát: “Cái thằng này, nói nữa thử xem, tôi đánh đấy!”

Nhạc Dương vẫn toét miệng cười hì hì.

“Vậy, cậu tính sao?” Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh hỏi Trương Lập.

Trương Lập lấy làm khó xử. Anh nhất định phải đi cùng mọi người, về điểm này thì không gì có thể thay đổi được, nhưng nếu cứ đi thế này, anh lại có cảm giác mình giống như những gã bạc tình lang trong truyền thuyết quá. Đặc biệt là khi vừa mới “chiếm đoạt” thân thể của người thiếu nữ ấy, lại “chiếm đoạt” cả trái tim cô, như vậy thì có khác nào những kẻ lãng tử đa tình trong truyện đâu cơ chứ? Nếu Mã Cát có con với mình thì sao? Chậc chậc, nghĩ xa quá rồi. Trương Lập khổ sở vò đầu bứt tóc, thực chẳng còn mặt mũi nào đối diện với Mã Cát nữa, nên nói thế nào với cô bây giờ?

Mã Cát ở bên cạnh nhìn Trương Lập đang ủ ê rầu rĩ, trong lòng cũng thầm nhủ: “Tại sao anh Lập lại buồn như vậy? Tại sao mọi người đều nhìn anh ấy với ánh mắt đó? Lẽ nào anh ấy đã làm gì sai? Lẽ nào, Mã Cát trở thành vợ anh Lập, nên mọi người đều nhìn anh ấy với ánh mắt thù địch? À, phải rồi, họ có sáu người đàn ông đi cùng nhau, tình thân như anh em, vậy mà Mã Cát chỉ thành vợ của anh Lập thôi, những người khác đương nhiên là không vui rồi.”

“Ưm, thế này...” Mã Cát ngượng ngùng đứng dậy nói: “Em có thể, có thể trở thành vợ của tất cả mọi người.”

Tất cả đều đần thối mặt ra, nhất thời đều không kịp phản ứng.

“Em có thể trở thành vợ của tất cả mọi người.” Mã Cát tự hào lặp lại một lần. “Vậy là mọi người đều vui vẻ rồi đúng không.” Cô thầm nghĩ.

“Phụt...” Nhạc Dương đang cầm cốc nước, vừa nhấp được một chút đã phì cả ra ngoài, đội trưởng Hồ Dương mỉm cười, nhưng nhìn cũng có vẻ rất thích thú; sắc mặt Ba Tang hơi đực ra; đến cả Trác Mộc Cường Ba cũng trợn tròn mắt, làm Đường Mẫn tức tối véo gã một cái thật mạnh, chỉ có pháp sư Á La là lặng lẽ chắp tay kết thủ ấn, lẩm nhẩm niệm kinh.

Phản ứng của Trương Lập là dữ dội nhất, anh chàng nhảy dựng lên như con mèo bị ai giẫm phải đuôi. “Các, các người...” Ngón tay chỉ vào mặt Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang, vẻ mặt kích động khôn cùng, cuối cùng ngón tay và ánh mắt của anh khóa chặt lên gương mặt đang cười toe toét của Nhạc Dương: “Cậu cười cái gì? Có cái gì đáng cười đâu chứ? Không được cười! Cấm không ai được cười!”

Nhạc Dương thực sự không sao nín nổi cười, hai vai giật giật, nói không ra hơi: “Tôi, hí hí, tôi nghĩ...”

“Nghĩ cũng không được!” Trương Lập nhảy lên chồm chồm. “Đừng tưởng tôi không biết cậu đang nghĩ gì! Từ lâu cậu đã nghĩ thế rồi! Nói cho cậu biết, cậu mà còn suy nghĩ này trong đầu, tôi... tôi, hừ! Chẳng anh em gì nữa! Hừ! Thật đúng là...!”

Trương Lập tức đến lỗ mũi xịt khói, nhưng lúc quay người lại đối diện với Mã Cát, lại không biết phải mở miệng thế nào. Anh đặt tay lên vai Mã Cát, nhăn nhó nói: “Mã Cát à, anh phải nói với em, chuyện này, em... em... em sao có thể nghĩ như vậy được chứ?”

Mã Cát nghiêng nghiêng mặt nhìn Trương Lập, không phải ai cũng đều rất vui vẻ đấy sao? Cô đang định cất tiếng, Trương Lập đã ghé tai sát vào, căng thẳng thì thầm: “Nói, nói nhỏ cho mình anh nghe là được rồi.”

Mã Cát liền nói ra ý nghĩ cổ quái của mình, xong rồi còn ấm ức cao giọng: “Có gì không ổn đâu chứ?”

Trương Lập nghe được cái lý do khiến anh dở khóc dở cười ấy, bối rối vò đầu bứt tóc, chẳng biết phải làm sao nữa. Sao lại như vậy được chứ? Lẽ nào cô không biết, một người vợ chỉ nên chung thủy với người chồng duy nhất của mình hay sao? Cuối cùng, Trương Lập đành thử giải thích cho Mã Cát biết thế nào là chế độ một vợ một chồng. Chẳng ngờ, vẻ mặt Mã Cát lại như thể không sao tin nổi đó là sự thực, ý chừng cảm thấy thực sự không thể hiểu nổi tại sao trên đời này lại có chế độ như thế. Chỉ nghe cô nói với giọng hết sức ngạc nhiên: “Làm sao thế được? Một người vợ, thì phải có rất nhiều chồng mới đúng chứ? Em còn có năm bố đây này.” Mã Cát giơ bàn tay nhỏ nhắn của mình lên trước mắt, năm ngón tay, không thừa, không thiếu.

Trương Lập trợn mắt đến nỗi con ngươi cũng sắp rơi ra ngoài. Pháp sư Á La liền lên tiếng: “Ở đây họ theo chế độ một vợ nhiều chồng.”

“Tại sao lại như vậy?” Trương Lập hỏi ngay tắp lự.

Pháp sư Á La lắc đầu: “Không biết, theo tôi hiểu, thường là những gia đình tương đối nghèo mới có trường hợp anh em cùng lấy chung một người vợ. Trước khi nước Trung Quốc mới thành lập, ở một số vùng nghèo đói lạc hậu của Tây Tạng vẫn còn giữ tập tục này, về sau dần dần đã bị chế độ một vợ một chồng thay thế. Có điều, ở đây hình như không phải thế, vả lại, nam đinh trong làng ít như vậy, theo lẽ phải là chế độ hôn phối một chồng nhiều vợ mới đúng chứ nhỉ, sao lại thành một vợ nhiều chồng được? Có lẽ, chúng ta phải hỏi Địch ô đại nhân mới biết được.”

Đầu Trương Lập như muốn nổ tung, vội vàng giải thích với Mã Cát về những điểm ưu việt của chế độ một vợ một chồng.

“Không phải như em nghĩ đâu.”

“Nhìn họ có điểm gì giống người chưa có vợ đâu chứ?”

“Em hiểu lầm hết cả rồi.”

“Em nhìn họ kìa, người kia, cả người kia nữa...” Trương Lập vừa thì thầm rủ rỉ với Mã Cát, vừa không ngừng đảo ánh mắt liếc qua chỗ Trác Mộc Cường Ba, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam.

Mã Cát chốc chốc lại khẽ thốt lên kinh ngạc: “Hả, một người lại có hai người...” Trương Lập vội vội vàng vàng bịt chặt cái miệng nhỏ nhắn của cô lại. Hai người cứ rì rà rì rầm, toàn nói chuyện về bọn Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt như kẻ trộm ấy của Trương Lập khiến Lữ Cánh Nam nhìn mà phát bực, cô gắt lên: “Trương Lập, cậu lầm bà lầm bầm cái gì thế? Nói lớn tiếng lên xem nào!”

“Đâu... đâu có gì, tôi chỉ cải chính lại một số hiểu lầm thôi mà... à, ha ha!” Trương Lập cười khan mấy tiếng. Có cho ăn gan giời, anh chàng cũng chẳng dám lớn tiếng nói chuyện vừa nãy.

“Giờ không phải lúc nói mấy chuyện này nhỉ?” Ba Tang hờ hững lên tiếng.

Lữ Cánh Nam gật đầu nói: “Ừm, cũng đến lúc lên đường rồi. Phải đến báo với Địch ô đại nhân một tiếng, tiện thể cũng hỏi xem hành trình tiếp theo thế nào. Đi thôi.”

Mọi người đều đeo ba lô, loạt soạt đứng dậy, liếc nhìn Trương Lập với những ánh mắt khác nhau, sau đó lần lượt ra khỏi gian phòng. Nhìn các đồng đội từng người từng người một đi ra, Trương Lập càng thấy căng thẳng bội phần. Anh ngập ngừng, ấp a ấp úng, vấn đề lúc này không chỉ là làm sao nói lời từ biệt với Mã Cát, mà nghiêm trọng hơn, là phải uốn nắn lại quan niệm đáng sợ kia của cô, cái gì mà một người vợ phải có nhiều chồng mới đúng chứ! Tuyệt đối không thể nào chấp nhận được!

Trong phòng chỉ còn lại hai người. Trương Lập cảm thấy, không gian nơi đây sao mà chật hẹp thế, anh và Mã Cát gần kề bên nhau đến thế, nhưng, tại sao lại luôn có cảm giác mình không giữ nổi Mã Cát? Cảm giác trống rỗng, bất lực ấy khiến lòng anh như bị nhấn chìm trong cơn sóng tự trách chính mình.

“Anh Lập, phải đi rồi à?” Mã Cát khẽ nhắc lại. Mặc dù đã biết hết từ đêm trước, mặc dù trong lòng cũng đầy lưu luyến, không nỡ rời xa. Thế nhưng, người đàn ông này đã mang đến cho cô những hồi ức đẹp đẽ, quý giá nhất, cô còn mong cầu điều gì nữa đây? Cô chỉ nhoẻn miệng khẽ cười, nụ cười rất ngọt ngào, cũng rất mãn nguyện.

Trương Lập gắng hết sức để lòng mình tĩnh lặng trở lại, ôm chặt Mã Cát vào lòng: “Mã Cát, tin anh đi, anh thực lòng muốn ở bên em mãi mãi. Nhưng anh là một người đàn ông, những người bạn cùng đi với anh kia, bọn anh là một thể thống nhất, mỗi người đều bị sợi dây vận mệnh trói chặt lại với nhau, mang trên vai một sứ mệnh không thể không hoàn thành. Vì vậy, anh buộc lòng phải tạm thời lìa xa em. Nhưng em phải tin rằng, anh nhất định sẽ trở về, anh nhất định sẽ đưa em ra xem thế giới bên ngoài kia, đưa em đi ngắm nhìn bầu không hằng đêm đều có trăng sao kia. Thực ra, đối với chuyến đi lần này, anh cũng không nắm chắc lắm, cũng từng nghĩ đến chuyện mình sẽ phải chôn thây ở mảnh đất xa lạ này. Thế nhưng, kể từ hôm nay, anh sẽ vì em mà sống cho thật tốt. Tin anh đi, hãy đợi anh trở về.”

Mã Cát chớp chớp đôi mắt to tròn, áp mặt vào lồng ngực Trương Lập, dịu dàng nói: “Em sẽ đợi anh mãi mãi.”

Kế đó, Trương Lập liền đi vào trọng điểm: “Ừm, nhưng mà... em không được, ngàn vạn lần không được tìm thêm chồng nữa. Anh... anh sợ, sợ họ không biết yêu em... anh...”

Mã Cát lại càng ôm chặt hơn: “Em biết rồi, anh Lập, em không đi tìm chồng nào khác nữa, em sẽ đợi anh trở về, đợi mãi...” Cảnh vật trước mắt như mờ đi, đó là gì vậy? Phải chăng chính là cảm giác hạnh phúc?

“Ồ, chuyện đó hả, thực ra đúng như pháp sư Á La đã nói, đều là vì nhu cầu sinh sôi nảy nở của chủng tộc, chúng tôi mới buộc phải theo chế độ một vợ nhiều chồng này.” Khi gặp Địch ô đại nhân, Nhạc Dương vẫn không nhịn được giúp Trương Lập hỏi thăm chuyện ấy. Địch ô An Cát Mẫu giải thích: “Mọi người cũng biết rồi đấy, ở vùng đất này đã từng một độ có rất nhiều thôn làng và thành bang, mỗi thôn làng đều có hơn vạn nhân khẩu. Nghìn năm trước, chúng tôi có nhiều chế độ hôn phối cùng tồn tại, quý tộc và những người giàu có thì một chồng nhiều vợ, người bình thường đa phần đều là một vợ một chồng, còn những gia đình cực kỳ nghèo khó thì buộc phải mấy anh em lấy chung một người vợ, vì không đủ sính lễ, cũng không gánh vác được cuộc sống có quá nhiều nhân khẩu. Truyền thuyết kể rằng, thời ấy cũng là một thời kỳ vô cùng hỗn loạn, năm nào cũng có đánh trận, trận nhỏ thì cứ liên tu bất tận chẳng bao giờ ngừng, trận lớn thì mười mấy năm lại nổ ra một bận, kẻ chiến bại bị thôn tính, tiêu diệt, hoặc phải rời khỏi nơi đây, sau đó lại có những dân tộc khác di cư đến, lại có những cuộc chiến mới. Nhưng sau khi bộ tộc Qua Ba xuất hiện, trước tiên họ dùng vũ lực chinh phục tất cả các bộ tộc khác, sau rồi lại chiêu mộ rất nhiều nhân công đi xây dựng Bạc Ba La thần miếu và các tòa thành đá. Tương truyền, công việc lao lực ấy đã khiến rất nhiều người mất mạng, cuối cùng gây ra phản biến, nhưng cuộc tạo phản đã nhanh chóng bị trấn áp, người đứng đầu Ni Mã Khang bị cực hình xử tử. Bộ tộc Qua Ba tuy rất lớn mạnh, nhưng sau sự kiện phản biến đó, họ cũng ý thức được các bộ tộc vốn sinh sống ở Shangri-la này rất đông đúc, cứ như vậy, họ sẽ khó mà thống trị được nơi này. Vì thế, họ đã sử dụng một loại cổ độc có phạm vi rất lớn... toàn bộ những người đi xây dựng thành đá chỉ trong một đêm đờ đẫn như bị say rượu, nhưng đều không biết đã xảy ra chuyện gì. Về sau, những người đó trở về, lại gieo rắc thứ cổ độc ấy đến từng thôn làng.”

“Đó là loại cổ độc gì vậy?” đội trưởng Hồ Dương hỏi.

Địch ô An Cát Mẫu lắc đầu nói: “Rất nhiều năm sau, người ở Thánh vực mới phát hiện, đàn bà trở nên rất khó thụ thai, dù chồng họ cố gắng đến mấy, họ cũng không thể có con được. Thỉnh thoảng có thành công, thì đứa trẻ ra đời cũng dị hình dị dạng, chẳng được mấy là chết.”

“A! Tuyệt hộ chi cổ!” pháp sư Á La kêu lên khe khẽ. “Tôi từng đọc được trong các điển tịch cổ xưa, thật không ngờ, trên đời này lại thực sự có loại cổ độc như thế!”

“Đó rốt cuộc là gì vậy?”

“Nói theo khái niệm y học hiện đại, thì là một loại phương pháp dùng chất độc khiến cho số lượng tinh trùng của đàn ông giảm mạnh, cuối cùng dẫn đến không thể thụ thai, nếu nhất định phải cho nó một cái tên, vậy thì có thể gọi là chứng tuyệt tinh di truyền. Mọi người đều biết, trong một mi li lít tinh dịch của một người đàn ông bình thường có khoảng hơn một trăm triệu tinh trùng, mà cuối cùng chỉ có một con duy nhất có thể kết hợp được với trứng trong tử cung của người phụ nữ. Cũng có nghĩa là, mỗi đứa trẻ sinh ra trên đời đều phải trải qua một cuộc cạnh tranh vô cùng tàn khốc, phải vượt lên trên hàng trăm triệu đồng bào của nó, ngoài thể lực, kỹ thuật ra, còn phải nhờ đến may mắn và sự mẫn tiệp nhất định. Như vậy, mới có thể đảm bảo rằng mỗi người sinh ra trên đời này đều là những cá thể ưu tú và độc nhất vô nhị. Nhưng những người đàn ông trúng phải thứ cổ độc này, mỗi lần xuất tinh, chỉ có thể phóng ra vài nghìn hoặc vài trăm tinh trùng, so với đàn ông bình thường, con số ấy gần như là bằng không, vậy nên tỉ lệ thụ thai thành công cũng giảm xuống rất nhiều. Hơn nữa, thiếu đi sự cạnh tranh, cho dù có thụ thai được, thì đứa trẻ ra đời cũng rất dễ bị chết yểu.”

Giải thích đến đây, pháp sư Á La quay sang phía Địch ô An Cát Mẫu, nói: “Về sau thì thế nào?”

Địch ô An Cát Mẫu nói: “Về sau, một người phụ nữ trong đời có thể sinh ra một đứa con khỏe mạnh đã là may mắn lắm rồi, càng nghiêm trọng hơn nữa là, tình trạng này cũng xuất hiện ở những đứa trẻ đời sau, và tiếp diễn mãi cho đến ngày nay. Vậy nên, nhân khẩu ở đây giảm đi nhanh chóng...”

“Thế nhưng, mọi người lại phát hiện, trong các gia đình nghèo khó, những người phụ nữ nhiều chồng lại có thể thụ thai bình thường, tuy không sinh đẻ được nhiều con lắm, nhưng khỏe mạnh, hiếm khi bị dị dạng. Vì vậy, dần dần, mọi nơi trong Thánh vực này đều chuyển sang chế độ hôn phối một vợ nhiều chồng.”

“Sao... sao lại thế được?”

Pháp sư Á La liền giải thích: “Đây đúng là một cách trong lúc không có cách nào khác, một người đàn ông một lần chỉ có mấy trăm đến mấy ngàn tinh trùng, mười người thì có thể tăng lên đến cả vạn con, thế nào chẳng có tinh trùng mạnh khỏe bình thường có được cơ hội thụ thai. Số lượng và chất lượng cá thể đều không ổn, thì chỉ có thể tăng số cá thể lên thôi.”

Địch ô An Cát Mẫu lại nói: “Không chỉ có vậy, cổ nhân còn phát hiện, nếu một người vợ lấy năm người chồng, thì nhiều nhất cũng chỉ sinh được sáu đứa con, tuyệt đối không vượt qua con số này. Trong một khoảng thời gian rất dài, nhân khẩu các thôn làng ở Thánh vực đều chỉ khoảng trên dưới một nghìn người, sáu bảy trăm năm nay cũng chưa hề tăng trưởng.”

Pháp sư Á La nói: “Có điều, theo tôi được biết, dù cổ độc lợi hại mấy, thời gian cũng không thể kéo dài quá nghìn năm được, duy trì liên tiếp ba trăm đời, đã được coi là rất lợi hại rồi.”

Địch ô An Cát Mẫu gật đầu: “Đúng vậy, thực ra như tôi biết, tỉ lệ thụ thai của phụ nữ ở Thánh vực đã tăng lên rất nhiều rồi, hơn trăm năm trước nhân khẩu đã bắt đầu tăng thêm. Chỉ có điều, muốn hình thành nên một tập tục không phải chuyện vài chục năm có thể làm được, tương tự vậy, cũng không phải chỉ vài chục năm là thay đổi được nó.”

Nhạc Dương chợt kêu lên: “A! Tôi hiểu ra rồi!” Thấy ánh mắt của tất cả mọi người đều chú ý về phía mình, anh hơi ngại ngần, đành gượng cười nói: “Tôi nghĩ... đây chỉ là suy đoán của tôi thôi nhé, trong bản ký lục của thôn Công Bố kia, sau khi Bạc Ba La thần miếu xây dựng xong, có đến sáu bảy trăm năm không hề nổ ra cuộc chiến nào, nguyên nhân có lẽ chính là do thứ cổ độc này! Mọi người nghĩ thử xem, cả không gian Thánh vực chỉ có ngần này, tài nguyên cũng có hạn, nếu nhân số cứ tăng gia vô hạn, vậy thì phạm vi sinh sống của họ chắc chắn sẽ càng xích lại gần nhau hơn, tư liệu sản xuất cũng sẽ không đủ để phân phối, cộng với sự khác biệt về văn hóa và tín ngưỡng nữa, không đánh nhau mới là lạ đấy! Người Qua Ba đã sử dụng cổ độc, khống chế nhân số luôn ở trong một phạm vi nhất định nào đó, mỗi thôn làng đều có đủ tài nguyên để duy trì sự sống, lại phải chống chọi lại với môi trường khắc nghiệt, tự nhiên là chiến tranh không thể bùng nổ được rồi!”

Đội trưởng Hồ Dương cũng nói: “Cũng có thể coi là, cuộc chiến giữa người với người trở thành cuộc chiến giữa con người với thiên nhiên. Cho dù là mô thức chiến tranh nào chăng nữa, kỳ thực cũng chỉ vì sự sinh sôi nảy nở và sinh tồn của chủng tộc mà thôi.”

Nghe Nhạc Dương nói vậy, Địch ô An Cát Mẫu cũng bảo: “Đúng thế, khoảng thời gian đó gần như không có chiến tranh bùng phát, thôn làng nào cũng có thể tự cấp tự túc, chúng tôi gọi đó là thời kỳ yên bình.”

“Được rồi, vấn đề này đã làm rõ, phiền Địch ô đại nhân cho biết, tiếp sau đây chúng tôi sẽ phải đi như thế nào.” Lữ Cánh Nam cho rằng không cần phải truy cứu thêm vấn đề này làm gì nữa.

“Ừm, con đường các vị phải đi ấy, thời trẻ tôi mới chỉ đi qua hai lần, nhưng giờ nhớ lại, ký ức vẫn còn mới nguyên.” Địch ô An Cát Mẫu cầm bản đồ, lấy ngón tay vạch ra tuyến đường, đoạn nói: “Trước đây, các vị vẫn luôn đi dọc theo bên mép bình đài đúng không?” Sau khi nhận được đáp án khẳng định, ông gật gật đầu: “Phải, tránh xa rừng sâu mới có thể thoát khỏi sự tập kích của bọn dã thú, phương pháp này rất thông minh, nhưng ở đây thì không ổn, tôi tin rằng các vị cũng đã cảm nhận được rồi, đúng không?”

“Đúng vậy, có bọn chim khổng lồ.”

“Kha kha, chim khổng lồ à, đó là Cộng mệnh điểu, lũ thực thần tà ác, cả Đại kim điêu cũng không thể đối đầu với chúng được. Có điều, cũng chính vì có chúng, nên vùng quanh đây mới tương đối an toàn, lũ dã thú lớn đều bị chúng bắt làm thức ăn, còn rừng già rậm rạp lại ngăn cản bước tiến của chúng.”

“Tôi luôn cho rằng, sào huyệt của chúng ở trên tầng bình đài thứ ba.”

“Không, không, không, tầng bình đài thứ ba là thiên hạ của người Qua Ba, lũ Cộng mệnh điểu tuy đáng sợ, nhưng so với người Qua Ba thì cũng chẳng có phần thắng nào đâu. Cũng giống như chúng tôi, chỉ khi nào không có thức ăn, thực sự đói đến không thể chịu nổi, bọn chúng mới lên tầng bình đài thứ ba trộm thức ăn. Có điều, cũng phải dùng tính mạng để đánh đổi đó, nếu may mắn thì được hưởng thụ một bữa đầy đủ no say, không may thì lại trở thành bữa ăn của kẻ khác. Thôi, tôi lại nói chệch đi đâu mất rồi. Cho các vị biết, từ đây đến Tước Mẫu có hai con đường. Vốn là từ Cường Nhật đến Phá Nhật, rồi qua Thác Nhật là có thể đến nơi, nhưng giờ những nơi này đều đã được khuyên đỏ, tức là không có người ở nữa. Ừm, tấm bản đồ này chắc mới vẽ gần đây thôi đúng không? Nhưng người Hạ Qua Ba đã nói những thôn làng này không có người ở nữa, thì chắc là không có ai đâu. Vậy là không ổn rồi, con đường này vốn là tương đối an toàn, nhưng giờ không còn người ở, dã thú trong rừng nhất định sẽ rất nhiều, hừm...” Địch ô An Cát Mẫu vừa lắc đầu, vừa phát ra một tiếng thở dài.

“Còn một con đường nữa thì sao?”

“Còn một con đường nữa, chính là men theo mép sát phía bên trong bình đài tiến lên, có điều rất tối tăm, hơn nữa còn có nhiều người Lỗ Mặc. Nếu không có đông người, thường không ai đi con đường ấy cả.”

“Vậy sao vẫn có người chọn đường đó?”

“Vì con đường ấy là gần nhất. Ừm, tấm bản đồ này đánh dấu không được chuẩn lắm, thoạt nhìn có vẻ đi trong rừng thì đường gần hơn một chút, nhưng những người từng đến Tước Mẫu đều biết, đi bên dưới vách đá, nếu chạy nhanh thì chỉ cần một ngày là đến được đó rồi, còn băng rừng thì ít nhất cũng tốn ba ngày. À, phải rồi, đi được nửa đường sẽ gặp một di tích, nghe nói là thần điện của người Mục xây dựng trước đây, giờ đã hoang phế từ lâu lắm rồi, nhưng có thể tạm thời ẩn tránh bọn người Lỗ Mặc ở đó được.”

“Chỗ đó có thể ẩn tránh người Lỗ Mặc tấn công? Đó là nơi như thế nào?”

“Một nơi kỳ quái, tóm lại, các vị cứ tới đó thì sẽ biết, nhưng bảo tôi nói ra thì tôi cũng chịu. Chỉ biết là nó khác với tất cả các thần điện mà các vị từng thấy thôi.”

Nhạc Dương lại chăm chú nhìn bản đồ, nói: “Tước Mẫu sao lại ở sâu tít trong rừng thế này? Chỗ đó tối tăm lắm mà?”

Địch ô đại nhân lắc đầu đáp: “Không, không, không, chỗ người Tước Mẫu sống không có rừng, sáng sủa lắm.”

“Thế họ không sợ Cộng mệnh điểu tấn công à?”

“Các vị phải đến tận nơi mới biết được, Cộng mệnh điểu không thể tấn công chỗ đó được.”

Tính sao bây giờ? Bọn Trác Mộc Cường Ba thương lượng nhanh một lúc, kẻ địch đã men theo vách đá bỏ chạy, vậy thì họ cũng chỉ còn cách đi con đường này mà truy đuổi chúng, dù sao thì đây cũng là đường gần nhất. Hơn nữa, rất có khả năng, kẻ địch đang ở trong thần điện của người Mục để chỉnh đốn đội ngũ.

Sau khi thương nghị xong xuôi, pháp sư Á La nói với Địch ô đại nhân: “Chúng tôi đã quyết định rồi, đi men theo vách đá. Phiền ngài nói tường tận hơn về di tích kia được không.”

“Ừm, để tôi nhớ lại đã, chỗ ấy được khoét vào trong vách đá, đầu tiên là có một cầu thang dài thẳng tắp...”


To be continue ...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro