Mat ma Tay tang 8 - 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 19

Đường đến Tước Mẫu

Hhang dài khoảng hơn nghìn bậc, vươn thẳng lên trên vách đá thành một góc bảy mươi lăm độ, leo lên hết bậc thang có một hang động thiên nhiên, nhưng rất hẹp, sâu ba bốn mét, dài chừng mười lăm mét. Đứng trong hang này đã có thể cúi nhìn trọn vẹn toàn bộ rừng rậm ở tầng bình đài thứ hai, cũng giống như tầng thứ nhất, bên dưới là một biển xanh lục, chỉ khác biệt là, ở đây xanh hơn mà thôi.

Tận cùng hang đá, có hai cánh cửa khổng lồ, nhưng đã bị phá hoại nghiêm trọng, giờ chỉ còn lại cái rãnh để cắm trục cửa vào. Phía trên vách đá, không biết do con người hay thiên nhiên tạo thành, có vô số các ô cửa sổ trời nhỏ, ánh sáng chiếu xeo xéo từ trên đó xuống cánh cửa, có thể thấy bên trong còn vô số tượng đá, hầu hết đều kỳ dị cổ quái, lại bị tàn phá tan hoang, nên trông càng có vẻ dữ tợn ghê hồn.

Trong hang không có thú vật, không có gió, chỉ có những bức tượng đá quái dị vỡ vụn nằm rải rác, tựa như một vùng đất chết bị nguyền rủa, cả bầu không khí cũng khô hanh lạ thường. Những người vào đây đều loáng thoáng ngửi thấy mùi máu tanh, cũng không biết là máu của mình hay của người khác.

Ở đây có năm người, Tây Mễ, Max, Lôi Ba, Hồ Tử và Ivan, tên nào tên nấy đều đã tắm trong vũng máu, đầu tóc bết lại, quần áo rách bươm, toàn thân đầy các vết sứt sẹo, thần tình uể oải, bước đi nghiêng nghiêng ngả ngả. Bọn chúng bị người Lỗ Mặc đuổi cả đêm, bản thân cũng không biết mình đã bắn chết bao nhiêu con thằn lằn mới sống sót xông ra được tới đây. Sự thực là, tới khi bốn tên đen đủi bị chất dịch quái dị kia bắn lên người hoàn toàn biến mất, bọn thằn lằn đó mới ngừng truy kích. Trên mặt Hồ Tử bị cào một vết rộng, máu thịt bầy nhầy lòi cả ra ngoài, trông như có thêm một cái miệng nữa, nhưng đó vẫn chỉ là vết thương nhẹ; con gấu Nga Ivan kia cậy khỏe, nhét cả cánh tay vào miệng con thằn lằn, kết quả là giờ tay trái của hắn bị bó chặt, chỉ còn lại phần gốc; cả Tây Mễ bây giờ cũng đi tấp ta tấp tểnh; Lôi Ba bị thương nhẹ nhất, hắn chỉ bị một con thằn lằn vỗ trúng lưng, nếu không có áo chống đạn, e rằng đã bị giật cả xương sống ra mất rồi. Còn Max... Max trông có vẻ thảm nhất, toàn thân đầy vết máu, nhưng thực ra y không hề bị thương. Đừng nhìn vẻ ngoài tưởng y không có bản lĩnh gì, lúc chạy trốn, y còn nhanh hơn cả thỏ nữa.

Nhìn đám thương binh nằm la liệt dưới đất, Tây Mễ nhìn chằm chằm vào Max, nói: “Hình như mày nên nói gì đấy với chúng tao chứ nhỉ. Nói đi.”

Max nghe mà gai cả người, y biết, lần thảm bại này chính vì mình đã quên mất không nói chuyện về Sean ra. Sự thực là, nếu không phải vì muốn bảo mệnh, lúc đó y cũng không định nói chuyện về Sean cho đám người này biết. Nhưng giờ thì đã muộn quá rồi, chỉ cần y nói sai một câu, sợ rằng đám khát máu này sẽ ập lại cắn xé ăn tươi nuốt sống y ngay lập tức, bằng không thì đá văng ra ngoài tặng cho lũ chim khổng lồ kia làm bữa tối. Y đành gắng sức điều chỉnh lại nhịp hô hấp, hỏi ngược lại: “Đại ca Tây Mễ, anh cho rằng thực lực của ông chủ thế nào?”

Tây Mễ ngẩn người ra, hỏi vậy là có ý gì? Lẽ nào định lấy Merkin ra dọa ta? Nhưng Tây Mễ biết, tên Max này không ngu xuẩn như mình nghĩ, ở cái chỗ chó ăn đá gà ăn sỏi này mà vác Merkin ra thì chẳng có lợi gì cho hắn cả, hắn đã hỏi như vậy thì chắc chắn là có nguyên nhân gì đó. Vì vậy, y bèn trả lời một cách khách quan: “Ông ta rất mạnh. Tao cũng xuất thân từ lính đặc chủng, nhưng so với ông ta, vẫn còn kém một bậc.”

Max gật đầu, lại nói: “Đúng vậy, tôi nghĩ tất cả chúng ta đều cảm giác được ông chủ mạnh như thế nào. Nhưng... nếu tôi nói, ông chủ từng gia nhập một tổ chức...”

Max ngừng lại giây lát, thấy vẻ mặt cả bọn hoàn toàn như mình đã liệu trước, lại tiếp tục: “Nhưng trong tổ chức ấy, ông chủ của chúng ta chỉ là một nhân vật nhỏ bằng hạt vừng...”

Ánh mắt những kẻ còn lại bắt đầu biến đổi...

“Soares cũng thế. Hơn nữa, cả ông chủ và Soares chỉ cần nghe nói đến nhân vật có đẳng cấp cao, đều sợ đến run cả người...”

Ánh mắt những tên còn lại đã chuyển từ kinh ngạc sang không thể nào tin nổi...

“Mày nói cái quái gì vậy? Không thể nào có chuyện đó!” Lôi Ba không sao nhịn nổi nữa. Merkin đã mạnh hơn hắn một bậc rồi, lẽ nào còn có người mạnh hơn hắn vô số lần nữa sao?

Tây Mễ ngăn Lôi Ba lại, ra hiệu hắn yên lặng nghe Max kể tiếp. Max lại cất lời: “Đó là tổ chức như thế nào, có bao nhiêu người, cơ cấu ra sao, tên là gì, tất cả tôi đều không biết, nhưng tôi biết rằng, cái tổ chức ấy thực sự tồn tại, hơn nữa Soares và ông chủ từng là cộng sự trong tổ chức ấy. Đừng tưởng hắn ta là giáo sư thỉnh giảng của đại học đại hiếc gì, thực lực của hắn cũng đáng sợ lắm đấy. Theo tôi được biết, tổ chức của họ bồi dưỡng những người khác nhau thành các chuyên gia về các lĩnh vực, đồng thời dựa trên chuyên môn của mỗi người mà đặt ra các danh hiệu khác nhau. Như ông chủ chẳng hạn, võ nghệ cao cường như thế là vì ông ấy học chuyên về bộ đội đặc chủng, nắm rõ phương thức huấn luyện và đặc điểm tác chiến của đội lính đặc chủng của hầu hết các quốc gia trên thế giới, xét về khả năng cận chiến hay sử dụng vũ khí quân sự, ông chủ cũng giỏi hơn bộ đội đặc chủng thông thường vô số lần. Nhưng trong tổ chức ấy, ông chủ của chúng ta gần như chỉ là một tên lính đặc chủng ở tầng thấp nhất, cao hơn một bậc hình như gọi là Đặc chủng sĩ, tôi từng nhiều lần nghe ông ấy cảm khái, hy vọng có thể trở thành một Đặc chủng sĩ nữa.”

Những người khác đều im bặt, cả Tây Mễ cũng chau mày không nói gì, cũng phải cần một thời gian nhất định thì y mới chấp nhận được sự thực này. Trên đời này có tổ chức như vậy sao? Tại sao ta chưa từng nghe nói đến?

Nhìn vẻ mặt của những người còn lại, Max thầm thở phào. Chỉ cần phân tán sự chú ý của bọn chúng, đám người này sẽ không dồn thù hận vào y nữa. Muốn bọn chúng quên đi tại sao lại mất bốn chiến hữu, tại sao lại bị lũ thằn lằn truy đuổi suýt chết cả bọn, bí mật của ông chủ Merkin rõ ràng là một quân bài lợi hại, y cần phải tiếp tục khiến đám người này cảm thấy kinh ngạc.

“Còn nữa, các anh có biết, tại sao ông chủ lại nhiều tiền như vậy không?” Max tiếp tục lẳng lặng chuyển chủ đề câu chuyện.

“Không phải ông ấy đi trộm mộ à?” Ivan hỏi ngược lại.

Max nói: “Đúng thế, ông chủ là một kẻ trộm mộ, hơn nữa, tổ chức của bọn họ hình như cũng là một tổ chức trộm mộ. Nhưng tôi hỏi, các anh đã bao giờ thấy trộm mộ mà giàu to được như thế chưa?”

Cả bọn nghĩ lại, thấy cũng phải, trộm mộ thì trên thế giới đâu đâu cũng có, nhưng loại trộm mộ tài sản lên đến cả trăm triệu đô như Merkin thì hình như chưa thấy bao giờ. Dù sao đó cũng là chuyện chẳng vinh dự gì, đám người ấy cũng chẳng khác nào lũ trộm vặt, tự biết đồ mình kiếm được không sạch sẽ, dù có đào được nhiều thứ quý giá cũng không dám cho đi ngay, ôm bảo vật mà ngày ngày nơm nớp, nghe đâu tuổi thọ của bọn họ cũng rất ngắn. Dù có liên hệ được người mua, thì giá cũng bị ép cho thấp đến độ không thể thấp hơn. Nhiều người chỉ cần kiếm được một khoản nho nhỏ là thôi không làm nữa. Đây gần như đã trở thành quan lệ trong giới trộm mộ, trong nước hay ở nước ngoài cũng đều như vậy cả.

Max lại một lần nữa nắm lấy thế chủ động, tiếp tục nói: “Về chuyện này thì không thể không nhắc đến nghề thứ hai của ông chủ, ngoài thân phận lính đặc chủng, ông chủ còn là một nhà thưởng giám. Ông ấy có thể liếc nhìn một cái là nhận ra được viên nào là bảo thạch thực sự giữa một đống vụn thủy tinh, cũng như màu sắc, thuộc tính và giá trị của nó ở các sàn đầu giá lớn, đồng thời cũng có thể phân biệt được đồ cổ thật, giả và cả lịch sử của những bảo vật ấy nữa. Đây chính là nguyên nhân ông chủ có thể kiếm được nhiều tiền như vậy. Ông ấy không cần nôn nóng bán đi các cổ vật kiếm được, mà chỉ cần trực tiếp đưa đến các sàn đấu giá, với danh vọng đó, thông thường mỗi món đều có thể bán được tới cả triệu đô ấy chứ.”

Cả đám nghe Max nói mà không khỏi thở dồn dập, nuốt nước miếng, biến những thứ không thể thấy ánh mặt trời thành món được bao người tranh đoạt ở sàn đấu giá, chẳng trách Merkin lại sở hữu được khối tài sản lớn đến vậy. Nếu có thể mang hết các thứ trong Bạc Ba La thần miếu ra ngoài... bọn chúng dường như tạm thời quên hết những đau đớn khắp người, hai mắt sáng bừng lên. Max biết ý dừng lại, cho đồng bọn thời gian để mường tượng.

Tây Mễ là người đầu tiên thoát ra khỏi ảo tưởng về vàng bạc châu báu ấy, y cảnh giác trừng mắt nhìn Max. Max vội cúi đầu, hơi khom lưng xuống, bộ dạng hết sức ti tiện nhún nhường. “Hừ!” cùng với tiếng hừ lạnh lùng của Tây Mễ, cả đám mới sực nhớ đến hoàn cảnh trước mắt của mình.

“Chuyện mày nên nói, không phải chuyện đó chứ?” ánh mắt Tây Mễ dần trở nên lạnh lẽo.

Max lập tức đáp ngay: “Đúng, tôi biết mà. Kỳ thực, tôi chỉ muốn nói đến thân phận của ông chủ thôi. Vì tổ chức đó toàn phải tiếp xúc với những thứ lịch sử để lại, trong tình trạng nhân thủ không đủ, cần phải nhanh chóng nhận ra bảo vật nào giá trị nhất, vì vậy mới cần một người có trình độ giám thưởng. Đồng thời, khi hoạt động ở các nước trên thế giới, cũng cần phải biết về lực lượng quân sự, cách bố phòng vũ trang của nước đó, bởi vậy nên cũng cần những người như lính đặc chủng. Cùng một lẽ đó, tổ chức của bọn họ thường hay đi sâu vào những vùng hoang dã không bóng người, cũng giống như hoàn cảnh chúng ta đang phải đối mặt đây vậy, luôn gặp phải các loài mãnh thú không rõ tên tấn công. Bởi thế, họ còn cần một loại người nữa, chuyên để loại trừ nguy cơ do dã thú mang đến, loại người này được gọi là... Thao thú sư! Soares cũng chính là một Thao thú sư!”

Con mắt tam giác của Tây Mễ dần co lại thành hình củ ấu, dường như đã hiểu ra gì đó. Có điều, cho đến giờ, những gì y nghe được đều là những thứ y chưa bao giờ tiếp xúc. Đây cũng là lần đầu tiên y biết, hóa ra Merkin lại ẩn giấu thân phận của mình kín kẽ đến thế.

“Thao thú sư đa phần đều có tri thức của một giáo sư ngành động vật học, họ nắm rõ các tập tính và thói quen hoạt động của những loài động vật hoang dã như lòng bàn tay, ngoài ra cũng có thể nắm bắt và lợi dụng các tập tính của một loài động vật hoàn toàn xa lạ trong khoảng thời gian tiếp xúc cực ngắn. Họ có thể triệu tập, chỉ huy, thao túng nhiều loài dã thú khác nhau, vì vậy, họ cũng có thể khiến kẻ khác hoàn toàn không hay biết gì đã gặp một bầy dã thú tấn công mãnh liệt.” Max cố gắng hết sức để nói một cách êm dịu nhất. Lúc này mà ngữ điệu chỉ hơi không ổn thôi, là lập tức chọc giận đám người thương tích đầy mình này ngay.

Quả nhiên, Lôi Ba đã gầm lên: “Thế có nghĩa là, chúng ta bị một tên Thao thú sư khốn kiếp gì đấy tấn công hả? Trong bọn Trác Mộc Cường Ba, con mẹ nó, có một tên Thao thú sư?”

“À không,” Giọng Max run lên như đứa giúp việc vừa đánh vỡ cái đĩa quý, “nhưng trong đám người ấy, có một kẻ tên là Sean, hình như hắn là...”

“Mày đã biết trong đám ấy có một tên Thao thú sư, tổ bà nó, sao không báo với chúng tao? Hả?” Lôi Ba, Ivan, Hồ Tử kẹp Max vào giữa, ánh mắt ấy như thể muốn ăn tươi nuốt sống y.

Max cố khắc chế thôi thúc muốn bỏ chạy đang sôi trào lên, vẫn cẩn thận dè dặt trả lời: “Không, sự thực Sean có phải là Thao thú sư hay không thì cả ông chủ và Soares cũng không dám khẳng định, chỉ là trong lúc nói chuyện phiếm họ có nhắc đến người này, bảo y là một kẻ hiểu biết về sinh vật học, có khả năng là Thao thú sư. Thử nghĩ mà xem, ông chủ là người như thế nào chứ, một kẻ như tôi làm sao biết được chuyện bí mật chừng ấy, những thông tin này toàn là tôi nghe trộm cả đấy. Việc đến cả ông chủ chưa dám khẳng định, tôi lại càng chẳng thể nào xác nhận được. Hơn nữa, từ lúc đến đây, mỗi ngày chúng ta đều phải chạy tháo mạng, ngày nào cũng không được ngủ yên, thực sự là không thể nhớ ra ngần ấy chuyện được. Nếu hôm qua không phải trên người bọn kia có mùi rất nặng, sau rồi bọn thằn lằn đổ dồn đến đông như thế, tôi cũng không thể nào liên tưởng được những chuyện ấy với nhau. Hoặc cũng có lẽ tôi sợ quá nên hoảng, bản thân tôi cũng không thể giải thích được, đột nhiên nhớ ra Soares từng nói, Thao thú sư thường hay trích xuất một thứ gọi là ‘chất thông tin’ trong cơ thể các loài sinh vật, dùng chai lọ hoặc thứ gì đó tương tự cất giữ, sau đó khi sử dụng, đơn giản chỉ cần ném về phía kẻ địch là được rồi. Giờ tôi cũng hối hận lắm, tại sao lại không nghĩ đến chuyện này sớm hơn một chút cơ chứ. Tôi thề, tôi không có ý che giấu gì hết, thật đấy mà. Chúng ta cùng đến chỗ này, từ đó đến giờ chưa hề tách nhau ra, tôi cũng có bản lĩnh gì đâu chứ? Lúc bị bọn thằn lằn truy đuổi, tôi thực sự sợ lắm, sợ mình sẽ là người đầu tiên bị chúng nó ăn thịt lắm! Tôi gạt đại ca Tây Mễ và các anh thì có lợi gì chứ? Dẫu có ngu đến mấy thì cũng không đến nỗi giúp kẻ địch đối phó với người của mình chứ, các anh nói phải không...”

Max càng nói càng cuống, gã đàn ông cao lớn vạm vỡ ấy dường như oan khuất đến độ sắp rơi lệ tới nơi. Đám người thương tích đầy mình kia nhìn thấy cảnh tượng ấy, đầu tiên lộ ra vẻ khinh bỉ, sau đó lại nghĩ, nếu không có tên này nhắc nhở, có lẽ cả bọn chẳng còn ai sống sót thật. Lôi Ba đưa mắt liếc về phía Tây Mễ, hỏi y muốn xử lý Max thế nào. Tây Mễ vẫy tay ra hiệu cho ba tên ngồi xuống, lại bảo Max cũng ngồi xuống, đổi giọng nói: “Không thể hoàn toàn hiểu về kẻ địch, thì không có cách chống lại chúng đâu. Lẽ nào, ông chủ mày cũng không biết điều này ư?”

Max lắc đầu: “Tôi cũng không biết ông chủ nghĩ thế nào nữa. Có lẽ ông ấy nghĩ cả bọn đều xuống được đến nơi, tiêu diệt mười mấy người đó cũng dễ như trở bàn tay thôi.”

Tây Mễ lại nói: “Nếu tên Sean đó là Thao thú sư, vậy chắc cũng là người cùng tổ chức với ông chủ của mày chứ! Sao lại không thể xác nhận?”

“Không phải vậy đâu.” Max nói: “Thao thú sư là một loại chức nghiệp đặc thù, nghe đâu là học từ Trung Quốc, không chỉ trong tổ chức ấy có, mà bên ngoài cũng có nữa, gần như có thể coi đó là một lĩnh vực trong ngành động vật học cũng không sai, chỉ khác là các chuyên gia ngành động vật học chú trọng vào nghiên cứu phương thức sinh sản, sinh sống của sinh vật; còn Thao thú sư thì dựa trên cơ sở ấy, chú trọng nghiên cứu về khả năng và phương thức tấn công của động vật, đồng thời lợi dụng chúng. Có thể nói, mỗi Thao thú sư đều là chuyên gia về động vật, nhưng chuyên gia về động vật thì chưa chắc đã có thể trở thành Thao thú sư. Những điều này toàn do Soares nói cho tôi biết, dù sao quan hệ của tôi với ông ta cũng khá tốt.” Những lời này của y đều đúng sự thực, không ai nghi ngờ cả.

“Vậy thì lạ thật! Ý mày muốn nói là, người trong tổ chức ấy kẻ nào cũng đều có thể trở thành chuyên gia trong lĩnh vực nào đó? Nếu bọn họ có địa vị xã hội cao như thế, tại sao còn phải đi trộm mồ trộm mả làm gì? Bọn họ hoàn toàn có thể dựa vào năng lực của mình để vươn lên, cũng có thể sống rất thoải mái mà!”

“Tôi cũng chỉ biết suy đoán thôi, nguyên nhân có lẽ nằm ở tổ chức ấy. Khi tổ chức đó bảo họ đi trộm mộ, những người ấy tuyệt đối không dám trái lệnh.”

“Nói cho tao thêm về Merkin và Soares đi, còn cả tổ chức của bọn họ nữa. Nhớ ra được gì thì nói hết, đừng có mà giấu giếm gì tao đấy.”

“Vâng. Theo tôi quan sát, tổ chức thần bí ấy thường ngày không hề ước thúc thành viên của mình, mỗi người hoàn toàn có thể làm việc mà mình muốn. Vả lại, rất nhiều thành viên của tổ chức ấy đều có thân phận địa vị rất hiển hách làm vỏ bọc. Nhưng một khi nhận được mệnh lệnh, bọn họ sẽ phải trở lại tổ chức chờ sắp xếp, hơn nữa, nếu bất cẩn làm lộ thông tin về tổ chức, rất có thể sẽ tức thì biến mất khỏi thế gian này. Tất nhiên, đấy chỉ là tôi nghĩ thế thôi...”

Trong rừng sâu, ánh sáng mờ mờ mịt mịt. Dẫu sao đây cũng là chỗ sâu nhất của khu rừng, áp sát với vách đá, rừng cây lá kim dày đặc che khuất cả ánh sáng, cơ hồ cứ cách hai mét lại có một cây to, không thể dùng dây móc để đu qua được, vì chỉ hơi bất cẩn một chút là bị va vào cây khác ngay. Kế hoạch ban đầu của họ là sáng sớm rời thôn Công Nhật Lạp, áng chừng đến trưa là có thể tới được Tước Mẫu, nhưng vì không thể dùng được dây móc, nên sợ rằng phải đến chiều tối mới đến nơi được. Trương Lập và Mã Cát diễn một màn kinh điển “tiễn chàng ngàn dặm, mỗi bước lại ngoảnh đầu”, nói theo kiểu của Nhạc Dương, thì là cảm động vãi cả ra, chỉ thiếu mỗi cảnh khóc lóc ỉ ê nữa thôi.

Sau khi biết được thông tin về di tích của người Mục từ chỗ Địch ô An Cát Mẫu, trong nhóm xuất hiện hai luồng ý kiến trái chiều. Một bên là phái ôn hòa do Đường Mẫn đại diện, cho rằng, nếu kẻ địch đang nghỉ ngơi chỉnh đốn đội ngũ ở chỗ di tích ấy, vậy thì, bọn họ chỉ cần đi vòng qua chỗ đó, đến Tước Mẫu trước đối phương là được rồi, vì bọn chúng không có bản đồ, chắc chắn là không dám mạo hiểm đi thẳng một mạch như họ, còn việc bọn chúng quấy nhiễu các thôn làng khác, đích thực là họ lực bất tòng tâm, không thể ngăn trở; phe còn lại do Ba Tang làm đại biểu, muốn lấy cứng chọi cứng, cho rằng kẻ địch ở đâu cũng phải truy đuổi tận cùng, nhân lúc chúng đang yếu thế mà một đòn tiêu diệt tận gốc, giết sạch đám quân tiên phong ấy ở chỗ di tích, tránh để lại hậu họa.

Mặc dù chưa hình thành thế đối lập rõ rệt, nhưng nhân số của phái ôn hòa cao hơn hẳn phái cứng rắn. Tuy rằng, nơi này gần như đã thoát ly khỏi giới hạn của pháp luật, nhưng cho dù thế nào, những người còn lại cũng không thể coi việc giết người bình thường như ăn cơm uống nước giống Ba Tang được. Nếu đối mặt với kẻ địch tay không tấc sắt, liệu mình có thể không nghĩ ngợi gì mà tặng cho hắn một loạt đạn, khiến đối phương máu thịt bầy nhầy mà chết hay không? Đa số đều tự thấy mình không có dũng khí ấy. Có điều lần này, đội trưởng Hồ Dương lại bất ngờ ủng hộ cho phe cứng rắn. Theo anh, bọn Hồ Lang này cần phải bị tiễu trừ từ lâu rồi, đừng nói là ở chốn hoang vu không bóng người này, mà kể cả trong thành phố, anh cũng thấy tên nào là giết tên đó ngay tại chỗ.

Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam đều chưa tỏ thái độ gì, có điều trong lòng Trác Mộc Cường Ba vẫn hơi nghiêng về phía Đường Mẫn hơn một chút, còn Lữ Cánh Nam nghĩ thế nào thì gã cũng không biết. “Được rồi, bọn chúng có ở chỗ di tích của người Mục hay không vẫn còn chưa biết mà, nhưng dọc đường đều có xác của bọn người Lỗ Mặc làm dấu rồi, chúng ta cứ xem tình hình rồi tính sau. Nếu bọn chúng nấp trong di tích đó thật, nơi ấy ở trên cao, dễ thủ khó công, chưa chắc chúng ta đã lấy cứng chọi cứng với chúng được, thà rằng thiết đặt mấy cạm bẫy bên dưới, nhốt luôn chúng ở đó cho xong; nếu chúng không trốn vào trong di tích, mà chặn ở trên đường, thì hãy nghĩ cách tiêu diệt cả bọn, vậy được không?” Trác Mộc Cường Ba đưa ra một phương án mà mọi người đều có thể chấp nhận được.

Có điều phái cứng rắn vẫn chưa hài lòng. Ba Tang không tranh biện gì, chỉ lộ ra vẻ mặt hờ hững, như thể muốn nói “sao cũng được”; nhưng đội trưởng Hồ Dương thì bảo như vậy là thả hổ về rừng, không thể nào để sổng một tên Hồ Lang nào cả, còn mắng cho Trác Mộc Cường Ba một trận.

Lữ Cánh Nam bị thương ở chân, nhưng vẫn kiên trì đi trước cả nhóm, tựa hồ không muốn trở thành gánh nặng của mọi người, cô còn gắng sức đi nhanh hơn nữa. Tới lúc đến gần chỗ di tích, Trác Mộc Cường Ba mới khuyên cô dừng lại. Đường Mẫn nằng nặc đòi kiểm tra vết thương cho cô, mới thấy băng vải trên đùi đã bị máu rỉ ra nhuốm đỏ ối.

Tới đây, thi thể của người Lỗ Mặc đã rất thưa thớt. Có hai khả năng, một là người Lỗ Mặc đã bị kẻ địch tiêu diệt gần hết; hai là đạn được của bọn chúng đã tiêu hao gần hết rồi. Có điều, xét từ diện tích rừng rậm ở tầng bình đài thứ hai này và số lượng người Lỗ Mặc mà đối phương đụng độ, khả năng thứ hai có vẻ lớn hơn một chút.

Trác Mộc Cường Ba bảo Nhạc Dương và Trương Lập leo lên cây, một mặt tìm kiếm di tích, mặt khác cũng tiện thể quan sát hoàn cảnh xung quanh luôn. Khoảng cách giữa các thân cây rất nhỏ, nên phải quăng dây móc mấy lần mới thành công, Nhạc Dương và Trương Lập leo lên một cái cây cao khoảng bốn chục mét, rồi lại bám vào cành cây chìa ra đu sang một cây khác cao hơn, chỉ thấy bóng người nhấp nhô mấy cái đã biến mất trong tán cây rậm rạp.

Ba Tang nói: “Tại sao không đến di tích? Nhìn tình trạng trước mắt, quá nửa là chúng đã hết sạch đạn dược, chắc chắn đang trốn ở trong đó rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Thám thính tình hình trước đã.”

Ba Tang nói: “Nơi này quá tối tăm ẩm thấp, sẽ ảnh hưởng đến phán đoán của chúng ta. Cứ đến chỗ di tích trước đã.”

“Ba Tang, tại sao phải nhất định giết chết hết bọn chúng? Nếu chúng đã hết sạch đạn dược, vậy thì cũng đâu phải là mối uy hiếp với chúng ta nữa?”

“Bởi vì, bọn chúng muốn giết chết toàn bộ chúng ta. Ngày nào còn chưa bị tiêu diệt, chúng mãi mãi vẫn uy hiếp đến chúng ta.”

“Có đúng vậy không?” Trác Mộc Cường Ba thở dài, con người tàn sát lẫn nhau, lý do chỉ cần đơn giản như vậy thôi sao? Bởi vì hắn muốn giết ta, mà ta không có lòng tin có thể tự bảo vệ mình, vì vậy phải giết chết đối phương trước cho yên tâm.

Lúc này, Nhạc Dương và Trương Lập ở trên cây báo cáo: “Cường Ba thiếu gia, đằng trước và đằng sau đều có rất nhiều người Lỗ Mặc, hình như đang tiến về phía chúng ta.”

“Lên cây!” Trác Mộc Cường Ba phát lệnh.

Cả bọn liền lần lượt quăng dây móc ra, leo được cao bao nhiêu thì leo bấy nhiêu. Có điều, Lữ Cánh Nam vừa hất cổ tay ra, liền cảm thấy vết thương đau nhói lên như bị vỡ. Cô bèn thu tay lại, hạ xuống mặt đất, nói với những người khác: “Mọi người đi trước đi, tôi dẫn dụ bọn chúng.” Dứt lời, liền lập tức guồng chân chạy về phía trước.

Nhưng cô chưa nói hết lời, đã thấy Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La từ trên cây trượt xuống, chạy chung với mình. “Xem ra phải nghĩ cách tiêu diệt hết bọn chúng, không biết vũ khí có đủ không nữa.” Trác Mộc Cường Ba tựa như không nghe thấy Lữ Cánh Nam vừa nói gì, tự lẩm bẩm một mình.

Đường Mẫn và đội trưởng Hồ Dương cũng xuống, sau đó là Ba Tang. “Đến chỗ di tích, vẫn còn kịp!” Trong mắt Ba Tang ánh lên vẻ mừng rỡ.

Cuối cùng Nhạc Dương và Trương Lập cũng xuống theo. Trương Lập hỏi: “Đánh thế nào đây?”

Trong rừng một cái đầu xấu xí ló ra, nhìn chằm chằm vào họ một cái, rồi lại rụt về. Những nơi khác cũng thấy cỏ cây lay động, nhất thời không biết có bao nhiêu người Lỗ Mặc đang ẩn nấp. Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Chỗ di tích ấy ở đâu?”

Trương Lập đớ người, nói: “Không rõ. Vừa leo lên là đã thấy chỗ nào cũng có người Lỗ Mặc ẩn hiện, vậy là chúng tôi xuống luôn.”

Nhạc Dương liền đáp: “Bên dưới vách đá phía trước mặt có bậc thang dẫn lên trên, có một chỗ hình như là hang động thiên nhiên, cách chúng ta khoảng năm trăm mét.”

Lúc này, lại có ba con thằn lằn được gọi là người Lỗ Mặc nấp phía sau mấy thân cây, những con khác cũng thong thả bám theo, giữ một khoảng cách nhất định. Bọn chúng dường như đang quan sát đám người này, không hề nôn nóng tấn công: “Năm trăm mét, không biết có xông qua đó được không nữa.” Phía trước cũng có nhiều cái bóng thấp thoáng, số lượng tuyệt đối không phải ít.

Đường Mẫn lo lắng hỏi: “Tại sao vẫn còn nhiều người Lỗ Mặc thế?”

Nhạc Dương nói: “Chúng từ xa đến. Tưởng chúng đã tản đi rồi, không hiểu vì sao đều quay trở lại hết, lẽ nào trên người chúng ta cũng có mùi gì khiến chúng nổi điên lên ư?”

Ánh mắt cả bọn đều hướng về phía Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Tôi không bị dính chút nào mà.”

Pháp sư Á La cũng nói: “Nếu bị dính phải, thì chúng đã tấn công từ lúc ở trong làng rồi, không cần đợi tới lúc đến di tích này mới áp sát lại như thế. Kỳ quái thật, có vẻ như chúng muốn xua chúng ta đến chỗ di tích ấy vậy.”

Chương 20

Di tích của người Mục

Quả nhiên, bọn người Lỗ Mặc phía sau họ chỉ bám theo từ xa, bọn phía trước cũng không ào lên tấn công, đúng như pháp sư Á La nói, tựa hồ chúng định xua họ đến chỗ di tích kia vậy. Nhạc Dương nói đùa: “Chẳng lẽ vì bọn chúng không thể tiến vào di tích kia, lại biết chúng ta là kẻ địch của đám người đó, nên muốn dồn chúng ta vào trong di tích giúp chúng tiêu diệt bọn người kia? Nếu đúng vậy, thì chúng cũng có đầu óc phết đấy chứ.”

Trương Lập nói: “Nhìn cái bộ dạng ấy của chúng mà đầu óc thông minh được vậy sao? Mà tôi bảo này, tại sao chúng không thể tiến vào chỗ di tích đó nhỉ?”

“Hú...” Không biết con “người Lỗ Mặc” nào dẫn đầu, chỉ trong thoáng chốc, cả khu rừng đã vang lên những tiếng rú như tiếng còi hơi, cùng với âm thanh trầm bổng ấy, vô số thằn lằn trong rừng nhao ra, nhe nanh múa vuốt bổ tới chỗ bọn họ. Họng súng tóe lửa, nhưng tốc độ của bọn người Lỗ Mặc ấy rất nhanh, cho dù trúng đạn, cũng thuận theo quán tính lao thêm được mấy mét nữa. Càng tệ hơn nữa là, bọn người Lỗ Mặc này dường như đã nếm mùi đau khổ của súng đạn, không ngờ lại còn biết lợi dụng cây cối che chắn để tránh né.

Tám người quây thành một vòng tròn nhỏ, vừa đánh vừa lui. Lũ người Lỗ Mặc từ khắp bốn phương tám hướng tràn về, thoăn thoắt lao vù ra, thể hiện trọn vẹn tốc độ kinh hồn của chúng. Chỉ trong thoáng chốc đã có mười mấy cái xác người Lỗ Mặc chất thành một đống lớn, nhưng vẫn còn nhiều con khác đạp lên thi thể đồng loại lao tới. Hiệu quả của súng đạn đối với hệ thống thần kinh trì độn của chúng không được tốt lắm, dẫu trúng phải vết thương chí mạng, chúng vẫn có thể chạy thêm một đoạn nữa rồi mới tắt thở.

“Ầm!” một tiếng, khẩu súng phóng lựu trong tay Ba Tang phát ra tiếng “cách cách cách cách”, anh ta đã bắn sạch cả lựu đạn rồi. Đội trưởng Hồ Dương lớn tiếng nói: “Thế này không ổn đâu, bọn chúng đông quá, không khéo vũ khí của chúng ta cũng tiêu hao hết ở đây mất thôi!”

Nhạc Dương chợt kêu toáng lên: “Nhìn kìa! Nhìn xem! Lối vào di tích kìa!”

Chỉ thấy phía trước là vách đá trần trụi màu đỏ, tới chỗ này, khu rừng tựa như bị phát quang đi một khoảng lớn, hình thành một bãi trống diện tích chừng trăm mét vuông, phía bên kia bãi đất liền kề với vách đá, nơi ấy có một cầu thang thẳng tắp tựa hồ như thông lên đến tận trời xanh.

Trương Lập nói: “Cẩn thận có mai phục!”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không lo được nhiều thế đâu. Những bậc thang này ít nhất cũng dốc đến bảy mươi lăm độ, nếu bọn chúng ở trên ló đầu ra xạ kích chúng ta, chúng ta cũng có thể bắn trả được chúng như thường.”

Đường Mẫn nói: “Chỉ sợ chúng ném đá xuống thôi.”

Pháp sư Á La nói: “Bậc thang rất rộng, ném đá vẫn có thể tránh được.” Đã đến sát bên dưới bậc thang, pháp sư Á La tung mình nhảy lên trước, rồi quay lại bắn xuống dưới, yểm hộ cho những người ở phía sau.

Bậc thang quả thực hơi dốc, cả bọn dùng cả tay lẫn chân, leo một mạch hai ba chục mét liền, nghe tiếng gầm rú bên dưới, có vẻ như bọn người Lỗ Mặc không đuổi theo nữa. Nhạc Dương ngoảnh đầu lại nhìn, không khỏi buột miệng phía cười. Thì ra bọn người Lỗ Mặc ấy hai chân rất khỏe, có thể dễ dàng leo cây, nhưng lại không sao đứng vững được trên bậc thang đá chật hẹp, đồng thời lớp đá rắn cũng khiến móng vuốt của chúng trượt đi, chỉ leo lên được vài bậc, thân hình đã lắc lư ngã bổ ngửa ra sau, lăn lông lốc mấy vòng liền dưới đất.

Thấy vậy, Nhạc Dương liền nhắc nhở: “Không phải lo bên dưới, bọn chúng không lên được đâu, chỉ cần để ý bên trên là được rồi.” Những người còn lại cũng lần lượt ngoảnh đầu xuống nhìn, vừa khéo trông thấy bọn người Lỗ Mặc đang gắng sức bò lên trên, trông như thể đang leo bám trên mặt băng, kết quả con nào con nấy đều lăn lông lốc xuống, bộ dạng trông tức cười vô cùng.

“Vậy, chúng ta có cần nghĩ chiến thuật gì rồi mới tiếp tục leo lên không? Ít nhất chỗ này còn cách cửa hang trên kia một quãng, bọn người bên trên muốn nổ súng bắn xuống cũng không phải chuyện dễ.” Trương Lập nhìn hơn nghìn bậc thang phía trước, hổn hển thở gấp, nói.

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Ba Tang đang cúi đầu, nói: “Nhưng tôi vẫn thấy hết sức nguy hiểm, không phải ở lối vào di tích trên kia, cũng không phải ở bên dưới. Hình như lại là cảm giác ấy, thật kỳ lạ.”

Nhạc Dương cũng thở dốc, vỗ vỗ vai Trương Lập hỏi: “Một phút anh leo được bao nhiêu tầng nhà?”

Trương Lập đáp: “Hai mươi tầng, sao vậy hả?”

Nhạc Dương nói: “Thông thường một tầng nhà là chín bậc thang, cứ tính là chín bậc đi, thì một phút đại khái có thể leo được hai trăm bậc thang. Vả lại, càng leo cao càng mệt. Chỗ này ít nhất cũng phải hơn nghìn bậc, tính sơ sơ cũng mất chừng mười phút mới lên được đến nơi đó.”

Trương Lập nói: “Phải đấy, leo được lên tới đó thì chúng ta đã sức cùng lực kiệt, nếu kẻ địch đang canh ở trên, thì coi như tiêu đời luôn.”

Nhạc Dương lắc đầu: “Không phải vấn đề đó. Mà bây giờ phải leo lên cho nhanh, bằng không sẽ chết thảm hơn cả bị bọn người Lỗ Mặc dưới kia xơi tái đấy. Nhìn thử lên trời mà xem.”

Trương Lập ngoảnh đầu lại, thấy thấp thoáng trên bầu không có mấy chấm đen mờ mờ đang đảo lượn, thoạt nhìn không to hơn con muỗi là mấy, nhưng chỉ trong giây lát anh đã lập tức hiểu ra, lũ chim khổng lồ! Lũ Cộng mệnh điểu mà Địch ô An Cát Mẫu nói tới!

Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang cũng đã nhìn thấy nguồn gốc của cảm giác nguy hiểm, vội vàng thúc giục mọi người: “Nhanh lên, nhân lúc lũ chim ấy vẫn chưa phát giác ra chúng ta!”

Nhưng mới leo được vài ba bước đã thấy không ổn, đeo trên lưng cái ba lô nặng gần bốn chục ki lô gam, làm sao có thể nhanh chóng leo lên hơn nghìn bậc thang dốc đứng như vậy được. Đã mấy lần Nhạc Dương và Đường Mẫn suýt chút nữa thì mất trọng tâm, ngã lăn xuống dưới như bọn người Lỗ Mặc, may mà có người ở sau đỡ giúp. Trác Mộc Cường Ba thấy không ổn, vội ra lệnh: “Đặt tạm ba lô lên bậc thang, chỉ mang vũ khí nhẹ theo thôi, nhanh lên!”

Nhạc Dương căng thẳng nhìn lên bầu trời, bọn chim khổng lồ vẫn đang quần đảo trên không, dường như chưa phát hiện ra họ.

Đường Mẫn nói: “Nhưng mà, trong ba lô còn có...” Trác Mộc Cường Ba nói: “Không kịp đâu, lên trên đó rồi tính sau.” Nói đoạn, gã liền giúp Đường Mẫn cởi ba lô xuống, đẩy cô leo lên trên.

Tất cả thành viên trong đội đều dùng cả tay lẫn chân, bò theo đúng nghĩa đen của từ đó. Cứ chốc chốc Nhạc Dương lại ngoảnh đầu quan sát, lúc bò lên được nửa đường, anh đã phát hiện ra, ít nhất có hai chấm đen bằng con muỗi đã to hẳn ra, giờ áng chừng phải to bằng con nhặng rồi. “Chúng phát hiện ra rồi, đang bay đến. Nhanh lên!” Nhạc Dương cuống quýt nhắc nhở những người còn lại.

Cả bọn đều dốc hết sức leo bám lên chỗ hang đá, ai nấy đều biết rằng, chỉ có lên trên đó mới còn hy vọng, chứ đang lơ lửng ở giữa dốc thế này, vốn không thể nào chống chọi với lũ chim khổng lồ đó được. Lữ Cánh Nam bị thương ở chân, leo bậc thang thế này cực kỳ tốn sức, Trác Mộc Cường Ba đành ở phía sau cô, dọc đường bò lên, ít nhất cũng phải đỡ hộ cô tới năm sáu lần.

Trong chớp mắt, những cái bóng đảo lượn trên không trung kia đã to bằng con chim sẻ, mà Nhạc Dương ngẩng đầu nhìn lên, những bậc thang thẳng tắp ấy vẫn chưa thấy kết thúc ở đâu, bên cạnh chỉ nghe thấy tiếng thở hổn hển gấp gáp. Đây là lần đầu tiên họ biết được, thì ra leo cầu thang cũng mệt đến thế. Nhạc Dương hít sâu một hơi, dồn thêm sức lực bám bậc thang leo tiếp, bàn tay trượt một cái, khẩu tiểu liên tự động trên tay liền rơi xuống dưới, chỉ nghe tiếng Cường Ba thiếu gia ở phía sau vang lên: “Mặc kệ nó, mau leo lên đi!”

Nhạc Dương ngoảnh đầu lại quan sát, thấy cái bóng kia đã to bằng con chim ưng! Đội trưởng Hồ Dương ở bên cạnh quát lên: “Đừng nhìn nữa! Leo lên đi!”

Sau lưng đã cảm thấy tiếng gió vù vù rồi, lũ chim khổng lồ đáng sợ ở ngay phía trên đầu, bóng đen kia trùm lên phía trên cả bọn. Nhạc Dương thậm chí còn bắt đầu thấy nản lòng, bởi khả năng phán đoán chuẩn xác của anh đã đưa ra kết luận, trước khi lên được cửa hang dẫn vào di tích, chắc chắn họ sẽ bị lũ chim ấy đuổi tới nơi. Nhưng lại leo thêm được một đoạn nữa, sao vẫn không thấy bị tấn công gì cả? Hơn nữa tiếng gió mãnh liệt kia cũng chỉ lướt qua phía trên đầu. Lẽ nào mục tiêu của bọn chim khổng lồ kia không phải bọn họ, mà là lũ người Lỗ Mặc phía dưới kia? Nhạc Dương không kìm được, lại quay đầu nhìn, kỳ lạ thật, hai con chim khổng lồ không tấn công người, cũng không ra tay với bọn người Lỗ Mặc bên dưới, mà như đang tranh cướp gì đó giữa không trung. Vũ khí trang bị của họ ư? Không phải, ba lô còn để ở dưới nữa cơ mà.

Lúc này, Ba Tang leo bên cạnh anh chợt lạnh lùng cất tiếng: “Không cần nhìn nữa, là đạn hấp dẫn. Bò nhanh lên!” Thì ra, Ba Tang đã ném ra một trái đạn hấp dẫn, vào những thời khắc thế này, sự bình tĩnh mới là quan trọng nhất. Viên đạn hấp dẫn nảy tưng tưng lăn xuống các bậc thang, có lẽ đối với lũ chim kia, vật thể vừa phát sáng vừa kêu lên “u... u... u...” ấy là báu vật cũng nên. Hai con chim thậm chí còn lao vào đánh nhau để tranh đoạt quả cầu phát ra ánh sáng.

Nhân lúc bọn chim còn đang tranh chấp ở lưng chừng cầu thang đá, Nhạc Dương lại bò lên được hơn trăm bậc nữa. Ủa? Pháp sư Á La đâu rồi? Chỉ thấy vị pháp sư già đã ở trên cửa hang động thiên nhiên ấy ló đầu ra, nói với những người bên dưới: “Bên trên không có mai phục, mọi người lên cả đi.” Nhạc Dương thầm giật mình kinh hãi, ông ấy lên từ lúc nào vậy?

Khi cả bọn đều lên được hang động thiên nhiên kia mà không gặp gì nguy hiểm, hai con chim đã đánh nhau sứt đầu chảy máu vì quả cầu phát sáng kia, một con thảm bại bỏ chạy, con kia miệng ngậm quả cầu không còn phát sáng nữa, ngẩng đầu nhìn quanh, bộ dạng xem chừng kiêu căng đắc ý lắm.

Cửa hang xập xệ bị một cái xác chim lớn chắn, rõ ràng là một nhóm người khác đã bắn chết nó. Pháp sư Á La nói: “Bên trong không có người, có vẻ chúng đã rút sâu vào bên trong rồi.”

Nhạc Dương đứng chỗ cửa hang, nghiêng người nhìn ra phía ngoài, dọc theo vách đá, khắp nơi đều là những lỗ nhỏ chi chít chằng chịt, trông như một cái tổ ong khổng lồ. Tới khi Trương Lập gọi: “Nhìn cái gì mà nhìn? Còn không mau vào đây đi!” Nhạc Dương mới là người cuối cùng vào hang, trong lòng lấy làm nghi hoặc: “Đây không phải hang động thiên nhiên, mà hình thành do con người phá hoại. Trước đây, phía trên hang động này chắc được xây thành một dạng cung điện lầu các gì đó chăng?”

Bước qua xác con chim khổng lồ, vào bên trong hang. Nhạc Dương nhìn về bên trái, hang động này cứ vươn mãi theo chiều rộng của vách đá, những trụ ánh sáng rọi xuống từ các lỗ hổng bên trên chiếu lên những bệ đá và các bức tượng vỡ vụn, hình thành nên một hành lang dài đầy trụ sáng. Dõi mắt nhìn hồi lâu mà cũng chẳng thấy đâu là tận cùng, chỉ có thể trông thấy những trụ ánh sáng đan chéo vào nhau và đám bụi lơ lửng bên trong cột sáng mà thôi. Bức tường phía sau tượng đá dường như có rất nhiều bích họa, nhưng giờ đều đã tróc hết cả rồi, duy chỉ có chỗ chân tường là còn mấy mảng màu sắc loang lổ.

“Đây là gì thế?” Trương Lập hỏi. Anh kinh ngạc trố mắt ra nhìn, từ những khối đá vụn bị tàn phá này, có thể tưởng tượng được những bức tượng đá năm xưa lớn đến nhường nào. Trương Lập đang đứng trước một cái đầu chim vẫn còn tương đối hoàn hảo, vậy mà chiều cao của anh cũng chỉ đến mép bên dưới của cái mỏ chim mà thôi.

Pháp sư Á La giải thích: “Đây, có lẽ là những vị thần nguyên thủy nhất của Bản giáo cổ đại. Đừng nói là các cậu, ngay cả tôi cũng chưa từng trông thấy những hình tượng này bao giờ. Có điều, Bản giáo truyền thống thờ phụng các thần linh Tam giới, ‘Thần giới trên bầu trời, Tán giới ở giữa, Long giới ở dưới... những bức tượng này chắc là Tán. Tiếc là máy tính để bên dưới kia rồi, không tra được tư liệu.”

Đường Mẫn vừa vào trong hang đã vội kéo Lữ Cánh Nam ra kiểm tra vết thương. Lữ Cánh Nam dựa lưng vào một bức tượng vỡ để Đường Mẫn băng bó, hai người rì rầm nói chuyện gì đó, nét mặt tươi cười. Trác Mộc Cường Ba trông thấy vậy, trong lòng cũng không khỏi mừng thầm.

Dưới đất phủ một lớp bụi dày, để lại vô số vết chân. Nhạc Dương quan sát rồi nói: “Chắc là có năm người, ba người cao trên một mét tám, nhìn vết chân có thể thấy, chúng đã đi sâu vào bên trong khu di tích trước khi chúng ta tới đây, chỉ để lại một tên canh giữ. Tên kia thấy chúng ta, hoặc nghe được tiếng súng, liền chạy đi tụ họp với đồng bọn, vì vậy vết chân của hắn có vẻ rối loạn hơn một chút. Người này cao khoảng một mét sáu lăm đến một mét bảy, chiều cao tương đương với người còn lại. Vết máu dưới đất cho thấy, trong bọn chúng đã có người bị thương, chỉ có điều, bao nhiêu người bị thương, và thương thế ra sao thì không rõ.”

Ba Tang cũng chú ý đến vết máu trên mặt đất, có mấy chỗ máu đọng lại, vẫn chưa khô hẳn. Anh ta bước tới, đưa ngón trỏ ra chấm một chút, đưa lên lưỡi liếm một cái, rồi nhâm nhấm tỉ mỉ như người thử ma túy, cuối cùng mới nhổ cả máu lẫn nước bọt ra. Sau khi thử mấy lần, Ba Tang đưa ra kết luận: “Có máu của bốn người, trong đó có hai người bị thương rất nặng.”

Nhạc Dương chưa bao giờ thấy Ba Tang lộ ra chiêu này, lấy làm ngưỡng mộ, vội tò mò hỏi: “Sao mà biết được thế? Anh Ba Tang, dạy em được không?”

Ba Tang cười gằn một tiếng: “Nếm nhiều máu người chết, tự nhiên sẽ phân biệt được thôi.” Nhạc Dương rùng cả mình, không dám hỏi tiếp nữa.

Lữ Cánh Nam cũng nói: “Chắc Ba Tang nếm ra được sự khác biệt của máu trong động mạch và tĩnh mạch thôi. Vết chân dưới đất cho chúng ta thấy, trong đó có một người bị tập tễnh, một người khác tay bị thương nặng, có thể đã đứt lìa ra rồi, dọc đường hắn đi vẫn có máu nhỏ xuống, vả lại còn là loại trộn lẫn giữa máu trong động mạch và tĩnh mạch.”

Pháp sư Á La bổ sung thêm: “Trọng tâm của hắn hơi nghiêng về bên phải, có lẽ tay bị thương là tay trái.”

Trương Lập hỏi: “Vậy, giờ chúng ta tính sao đây? Tiến vào trong hay ở lại đây?”

Ba Tang gằn giọng nói: “Đương nhiên là tiến vào rồi. Bọn chúng có hai tên bị thương nặng, vũ khí đạn dược cũng tiêu hao gần hết, không nhân lúc này giết luôn chúng đi, chẳng lẽ đợi chúng dưỡng thương xong quay lại cắn chúng ta một miếng sao?” Nói rồi, anh ta trợn tròn mắt nhìn chằm chằm vào Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba hơi nhíu mày.

Đội trưởng Hồ Dương cũng bày tỏ thái độ: “Đúng, phải nhân lúc này ném đá xuống giếng!”

Đường Mẫn nói: “Nhưng mà, họ đã bị thương nặng rồi, nếu đổi lại là chúng ta, chắc họ cũng buông tha thôi, phải không?”

Trên gương mặt Ba Tang liền lộ ra một nụ cười tàn khốc, anh ta bước đến sát trước mặt Đường Mẫn, gằn giọng nhả ra từng chữ một: “Cô chớ quên rằng, đến cả đồng bọn chúng còn không tha, huống hồ là chúng ta! Cô thử nghĩ xem, nếu bắt được cô, chúng sẽ làm gì?” Nhìn nụ cười tựa bà ngoại sói trong truyện Cô bé quàng khăn đỏ của Ba Tang, Đường Mẫn tái mét mặt, cúi gằm đầu xuống.

Trác Mộc Cường Ba lên tiếng ngăn lại: “Đủ rồi, Ba Tang.” Gã đưa mắt liếc nhìn Lữ Cánh Nam theo thói quen, nhưng Lữ Cánh Nam cũng cúi đầu trầm tư, không biết đang nghĩ gì.

Nhạc Dương chăm chú nhìn vào sâu bên trong hang, nói: “Không rõ sâu bao nhiêu, rất dễ mai phục đấy.” Anh đang đứng bên cạnh một trụ đá cao gấp đôi người, đường kính phải ba người ôm mới trọn vòng, thoạt trông có vẻ như một đoạn cánh tay của pho tượng nào đó.

Ba Tang cất giọng khan khan nói: “Tôi cũng đang lo lắng chuyện này, chúng biết chúng ta đến rồi. Hừ, để xem xem, chúng còn mai phục được kiểu gì nữa.”

Nhìn bộ dạng hăm hở muốn xông vào của Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương, lại nghe bên dưới bậc thang không ngừng vang lên những âm thanh như tiếng tù và, Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm giây lát, đoạn nói: “Nếu nghỉ ngơi đủ rồi, thì chúng ta tiến vào trong. Chia làm hai nhóm, giữ khoảng cách hai trăm mét, mọi người phải cẩn thận.”

Nhóm đầu tiên gồm có pháp sư Á La, Nhạc Dương, Trương Lập và đội trưởng Hồ Dương. Pháp sư Á La đi đầu tiên, ông không di động men theo hành lang, mà nhảy nhót giữa những bức tượng bị tàn phá xập xệ. Trác Mộc Cường Ba lấy làm lo lắng, như vậy rất dễ trở thành bia bắn cho kẻ địch, nhưng Lữ Cánh Nam thì hầu như không để ý. Nhạc Dương cũng nhanh chóng chú ý đến phương pháp và quỹ đạo di chuyển kỳ lạ của pháp sư Á La, thoạt nhìn có vẻ như ông nhảy từ chỗ này sang chỗ kia, hơi ngưng lại một chút, rồi tiếp tục tiến lên phía trước, nhưng kỳ thực thân thể pháp sư không hề dừng vận động dù chỉ một giây. Phải khi giương súng lên ngắm về phía pháp sư mới phát hiện, căn bản không thể ngắm đúng vào người ông được.

Chưa đi được bao xa, men theo hành lang trụ ánh sáng ấy qua một đoạn vòng cung, pháp sư Á La bỗng “ồ” lên một tiếng khe khẽ, rồi tăng tốc. Bọn Nhạc Dương, Trương Lập vội chạy theo sau, vừa quành qua chỗ rẽ, liền thấy phía trước lại có một cửa đá, giờ chỉ còn lại hai khung cửa vuông vắn, ánh sáng tràn vào từ phía ngoài cửa. Nhạc Dương đưa mắt quan sát, dấu chân đi ra bên ngoài, sau đó lại trở lại, kế đó lại chuyển sang hướng khác, lẽ nào cánh cửa này không đi được? Anh đi theo pháp sư Á La ra ngoài cửa đá, trước mắt bỗng sáng bừng lên, nơi này lại là một hang động hình bán cầu giống như chỗ lúc nãy họ vừa leo lên, nhưng lớn hơn gấp mấy lần. Nhạc Dương bước ra chỗ mép, dưới chân cũng có các bậc thang dốc đứng, nhưng chỉ còn vài bậc, bên dưới tựa như đã bị rìu sắc đẽo đi nhẵn nhụi, tạo thành một vách đá phẳng cao mấy trăm mét. Nhạc Dương lè lưỡi thầm nhủ, chẳng trách bọn kia lại vòng trở lại. Trương Lập cũng đi theo ra, hỏi: “Chạy mất rồi hả?”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Chỗ này chắc không xuống được chứ?”

Nhạc Dương gật đầu. Pháp sư Á La đã vòng trở lại, Nhạc Dương vẫn đứng ở mép cửa hang, quan sát những lỗ hổng lớn nhỏ không đều chạy dài về phía bên trái vách đá bên ngoài. “Sao thế? Chưa đi hả?” Trương Lập hỏi.

Nhạc Dương chầm chậm đi theo sau, nói: “Tôi đang nghĩ, chỗ này có lẽ không phải là hang động thiên nhiên, nhưng đã bị con người phá hoại toàn bộ rồi. Bên trên này chắc là có mái chìa ra, có góc cạnh, rất có thể chúng chính là những cung điện, lầu các chúng ta thấy trong Mật quang Bảo giám.”

“Hả!” Trương Lập dừng lại, phát hiện pháp sư Á La đã đi trước một quãng xa rồi, bèn vội vàng chạy theo.

Nhạc Dương nói: “Bọn họ xây dựng giữa lưng chừng vách núi, ở độ cao này, nếu quy mô đủ lớn, chắc là có thể nhìn thấy từ trên mặt biển. Phá hoại cũng sạch sẽ thật đấy!” Anh nhớ lại hang động bên ngoài khung cửa không hề để lại chút dấu vết nào của con người, không khỏi lắc đầu cảm thán.

Lúc này, pháp sư Á La đã dừng lại. Nhạc Dương, Trương Lập và đội trưởng Hồ Dương vội vàng nấp vào một chỗ, hồi lâu sau vẫn không thấy động tĩnh gì, chỉ thấy pháp sư Á La đang đứng bên trên một cái mũi chó có mọc cánh dơi, nhìn chằm chằm xuống mặt đất, chắc là không phải đụng độ với kẻ địch. Nhạc Dương bèn từ chỗ nấp bước ra, pháp sư Á La chậm rãi nói: “Dấu chân, rối loạn mất rồi.”

Chương 21

Oan gia ngõ hẹp

Nghe những lời lẽ đầy kích động của Trát Lỗ, bọn Trác Mộc Cường Ba đều thầm kinh hãi. Đúng thế, Đạo quân Ánh sáng bách chiến bách thắng, sao có thể bị một đội quân bình thường đánh bại! Thế nhưng, tại sao họ lại nghiêm khắc khu biệt mình với những cư dân vốn sống ở đây từ trước như thế? Tại sao lại chẳng nể nang gì mà tiêu diệt cả bộ tộc người ta? Lẽ nào đội quân ấy đã không còn chút nhân tính nào, trở thành những kẻ điên cuồng chém giết rồi hay sao?

Kẻ đi cuối cùng báo tin kia dường như cũng phát hiện ra những dấu chân rõ rệt trên nền đất, cố ý giẫm thêm mấy vết nữa trên những vết chân vốn có, hoặc di chân xóa đi, nhìn như thể có rất nhiều người đi qua đi lại chỗ này vậy.

Chẳng những vậy, ở phía trước đám dấu chân nhốn nháo nhộn nhạo này, dấu chân vốn của năm người đột nhiên chỉ còn lại một, chính là dấu chân của tên bị tập tễnh.

Trương Lập nói: “Bọn chúng làm loạn các vết chân, chắc muốn khiến chúng ta nghi hoặc đây. Kỳ lạ thật, dấu chân của những tên còn lại sao đều biến mất cả rồi?”

Pháp sư Á La chỉ vào cái chân gãy của một bức tượng đá cách chỗ họ đứng không xa: “Trên kia có hai vết chân, khoảng cách rất lớn.”

Nhạc Dương nói: “Vậy là đã rõ, chúng chưa đi được bao xa, kẻ ở lại canh phòng đã hội họp với bốn tên còn lại ở đây. Có bốn tên nhảy nhót trên các mảnh tượng vỡ giống pháp sư Á La, chỉ có tên bị thọt chân kia là không thể nhảy được, vì vậy mới đi dưới đất. Hãy cẩn thận, kẻ địch có thể ở ngay phía trước đây thôi.”

Như vậy là muốn lần theo vết chân truy đuổi kẻ địch sẽ khó khăn hơn nhiều, không biết liệu đối phương sẽ nấp vào đâu. Đi được chừng bốn năm chục mét nữa, pháp sư Á La lại dừng lại, chăm chú nhìn vào vách tường phía trước. Một đường màu đen, vạch từ trên vách tường kéo xuống mặt đất, rồi lại kéo dài sang phía tường bên kia, hai bên vạch đen ấy có vẽ hai ký hiệu “?”, trông như ký hiệu tiền tệ vậy.

“Đây là...?” Nhạc Dương thì thào hỏi.

“Đây là...” pháp sư Á La ngập ngừng nói, “nếu tôi đoán không lầm, đây có lẽ là Kim Cương tuyến. Màu đen là định, các ký hiệu xung quanh chỉ thân, pháp, ý... À mà thôi, nói một cách đơn giản, trong Bản giáo cổ đại, đường màu đen có các ký hiệu này giống như một lời cảnh báo vậy, nó đại biểu cho sự nguy hiểm, không thể vượt qua.”

“Nhưng mà...” Trương Lập nhìn dấu chân chạy sang phía bên kia vạch màu đen, nói: “Đã được bao xa đâu chứ, có khi nhóm của Cường Ba thiếu gia vẫn còn chưa xuất phát cũng nên.”

Nhạc Dương nói: “Vạch đen này hẳn đã có từ rất lâu rồi! Nét vẽ bằng than chì có thời gian bảo tồn lâu nhất, nhưng mọi người nhìn đi, ở chỗ riềm đã mờ mờ loang lổ rồi. Phía trước cũng không nghe thấy tiếng kêu thảm thiết gì cả, chúng ta cẩn thận hơn một chút chắc là không có vấn đề gì đâu.”

Pháp sư Á La trước tiên khẽ chau mày, rồi đưa mắt nhìn những bệ đá và tượng đá đã bị phá hoại nghiêm trọng, gật đầu nói: “Đi sau lưng tôi.” Bốn người, một đi trước, ba theo sau lần lượt bước qua vạch đen cảnh báo nguy hiểm, bốn người nhóm Trác Mộc Cường Ba phía sau thấy họ vòng qua chỗ ngoặt, cũng bắt đầu đi theo.

Sau khi bước qua vạch cảnh báo, trong không khí lan tỏa một thứ mùi kỳ dị, chẳng hề dễ ngửi chút nào. Cuối cùng, Nhạc Dương không chịu nổi kêu lên: “Mùi gì vậy? Thối quá.” Trương Lập đáp: “Như là mùi chuồng gà ở quê ấy, ừm, chắc là mùi cứt gà.”

Mùi thối càng lúc càng nồng nặc, nhưng dấu chân dưới đất vẫn tiến về phía trước. Nếu kẻ địch muốn giở trò gì, thì trong thông đạo duy nhất này chắc cũng không thể thoát thân nổi. Phía trước sáng bừng lên, thì ra vách tường bên ngoài đã sụp hẳn xuống, hình thành nên một cánh cửa sổ kiểu Pháp khổng lồ, ánh sáng từ bên ngoài chiếu thẳng vào.

Trương Lập bảo Nhạc Dương: “Cậu nói xem, liệu chúng có nhảy thẳng từ trên này xuống dưới kia không?”

Nhạc Dương hỏi ngược lại: “Anh dám không?” Thấy Trương Lập lắc lắc đầu, Nhạc Dương lại nói tiếp: “Tôi nghĩ, bọn chúng cũng không dám đâu.”

Đi được chừng mười phút nữa, dọc đường đã qua hơn chục chỗ cả bức tường sụp xuống như thế, pháp sư Á La nói: “Chú ý, có lối rẽ nhánh.”

Phía trước, vẫn là hành lang dài có vô số cửa sổ trời lớn nhỏ, bên phải, có một hang động sâu không thấy đáy, cao khoảng ngang đầu người. Dấu chân dưới đất vẫn tiến thẳng về phía trước. Họ đứng bên ngoài cửa hang sâu nhỏ kia nhòm thử vào, chỉ thấy một vùng tối tăm mù mịt. Từ các dấu vết để lại, dường như không có người đi vào trong đó, nhưng cũng không ai dám khẳng định chắc chắn. Trương Lập nói: “Giá mà có lựu đạn khói ở đây thì tốt.”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Chúng ta đi tiếp thôi.” Pháp sư Á La vòng qua chỗ rẽ, đi về phía có ánh sáng, đột nhiên chăm chú nhìn một hồi, đoạn nói: “Không ổn! Phía trước có gì đó!”

Vách tường đá khẽ rung lên, tựa hồ có thứ gì to lớn lắm đang ập tới. Nhạc Dương đang đứng bên cạnh chỗ tường sụt ở vách phía bên ngoài, ngẩng đầu lên nhìn, thấy trên bầu không lại có bóng đen đảo lượn. Mùi phân chim, đường vạch màu đen, trong chớp mắt lập tức được liên kết với nhau. Lúc này, chấn động trên vách đá càng lúc càng rõ ràng hơn. “Không xong rồi, đây là tổ chim!” Nhạc Dương kêu lên. Đội trưởng Hồ Dương và Trương Lập đều ngẩn ra, pháp sư Á La xoay mình lại, đứng giữa ba người họ. Vách đá vẫn tiếp tục rung lên, một vật gì đó rơi ra, có hai miếng dây màu đen, trông như cái đồng hồ đeo tay vậy. Vật đó vốn chẳng xa lạ gì với họ, Cơn Lốc Đen! Hồi ở Đảo Huyền Không tự, chính thứ này đã khiến họ nếm đủ khổ sở rồi.

“Đừng chạy!” “Không kịp nữa rồi!” Hai tiếng quát lần lượt là của đội trưởng Hồ Dương và pháp sư Á La. Thời gian hẹn giờ hiển thị trên đồng hồ vẫn còn hai giây, chỉ thấy hai tay ông vung lên, bàn tay ấn lên người Nhạc Dương và Trương Lập, đồng thời tung ra một cước, cùng lúc hất văng ba người trước mặt mình ra xa, còn bản thân ông cũng mượn lực phản chấn bắn mình về phía con chim khổng lồ đang lao tới.

“Ầm!” một tiếng, quả bom nổ tung, mà không chỉ có một, liền kề sau đó lại liên tiếp vang lên những tiếng nổ lớn như trời long đất lở, vụn đá bắn tung tóe khắp nơi, khói mù mờ mịt khiến người ta tức thở. Khi mở được mắt ra, Nhạc Dương cũng không khỏi kinh hãi đến bần thần cả người. Hành lang họ vừa đi qua đã bị nổ thành mấy đoạn, chỗ anh đang nằm chỉ rộng chưa đến hai mét, thành một trụ đá nhô ra trên vách núi, chẳng may lăn một cái là rơi xuống ngay. Trương Lập đang đeo mình ở bên mép vực, khó nhọc bò lên, Nhạc Dương vội vươn ra giúp Trương Lập một tay. Đội trưởng Hồ Dương bị pháp sư Á La đá sang một đoạn gãy khác, cách Nhạc Dương và Trương Lập chừng mười lăm mét, hình như là bị xung lực của vụ nổ tác động nên mới bay xa như vậy. Có vẻ như chân anh còn bị đè bên dưới một bức tượng đá. Còn pháp sư Á La ở phía bên kia đâu? Nhạc Dương không thấy, hình như ông đã biến mất ở chỗ rẽ ngoặt đằng trước rồi.

“Đội trưởng Hồ Dương! Anh không sao chứ?” Nhạc Dương lớn tiếng hỏi.

Đội trưởng Hồ Dương nghiến răng, rút chân ra khỏi bức tượng đá, trả lời Nhạc Dương: “Tôi không sao, các cậu mới phải cẩn thận đấy, bên dưới sắp sụt xuống rồi!”

Nhạc Dương vội cúi xuống nhìn, chỗ anh và Trương Lập đứng đã thấy có đá vụn tróc xuống, xem chừng có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Nhưng phía trước cách những sáu bảy mét, phía sau còn sụt đến một hai chục mét, làm sao mà nhảy qua được. Vách đá cũng bị nổ cho vụn bét ra, căn bản không thể nào leo bám lên được. Chẳng lẽ bị vây khốn ở đây? Anh nhìn sang Trương Lập hỏi: “Tính sao giờ?” Trương Lập vung mạnh cổ tay, dây móc bị kẹt trong ổ quay không bắn ra được, anh liền bực tức gắt lên: “Dây móc bị chấn động, hỏng rồi, không dùng được.”

Nhạc Dương quay người lại nói: “Sẽ sập đấy, chúng ta phải nghĩ cách. Nhìn kia kìa, kia kìa! Cái hang nhỏ ấy! Chúng ta có thể nhảy qua đó được!”

Trương Lập đứng ở mép vách đá do dự mãi vẫn chưa nhảy, lại kéo tay Nhạc Dương nói: “Cậu biết tôi mắc bệnh sợ độ cao mà. Làm sao nhảy được đây?”

Nhạc Dương nói: “Đã đến lúc này rồi anh đừng có mà nói đùa nữa, lúc ở Đảo Huyền Không tự nhảy thế nào thì giờ nhảy thế ấy.” Nói xong, anh liền hít sâu một hơi, nhảy bật lên, rồi vững vàng hạ xuống chỗ cửa hang tối om om kia. Nhưng lúc quay người lại, thì chẳng thấy Trương Lập đâu, anh bèn ngó đầu ra cửa hang, lớn tiếng gọi: “Mau nhảy qua đây đi! Anh còn đợi cái gì nữa?”

Trương Lập vẫn dáo dác ngó xuống bên dưới. Hồi ở Đảo Huyền Không tự, bên dưới tối om đen kịt, không nhìn thấy gì, lấy hết dũng khí nhảy một cái là qua luôn, nhưng ở chỗ này lại nhìn thấy rõ mồn một, vách đá dựng đứng phẳng lì như vừa bị một lưỡi rìu đẽo gọt, bên dưới là những ngọn cây xanh ngắt như từng mũi cọc nhọn chĩa lên tua tủa, cao quá đi mất!

Phần gốc chỗ đoạn nhô ra nơi anh đứng đã có khe nứt, cả khối nham thạch nhô ra ấy có thể đổ sập xuống bất cứ lúc nào. Nhạc Dương cuống cuồng kêu lên: “Đồ ngốc, nhảy đi!” Trương Lập ngần ngừ, lùi lại một bước, rồi cũng chạy lấy đà như ai, nhưng đến sát mép giậm chân nhảy lại không dồn lực xuống, mà lao bổ vào giữa khoảng không! “Đồ ngốc!” Nhạc Dương mắng một tiếng, rồi giơ báng súng ra. Trương Lập vội bắt lấy, cả người đập thẳng vào vách đá, Nhạc Dương phải vất vả lắm mới kéo được anh vào trong hang động. Phía bên kia, đội trưởng Hồ Dương cũng loạng choạng đứng lên, nói với hai người: “Cứ ở yên đó, tôi đi gọi bọn Cường Ba thiếu gia!”

Nhạc Dương nói với lại: “Anh cũng cẩn thận đấy, đội trưởng Hồ!” Trở vào trong hang, nhìn Trương Lập đang ngồi rũ ra dưới đất, anh bèn hỏi: “Tôi bảo này, sao mà anh lại sợ độ cao được chứ?”

Trương Lập lắc đầu: “Không biết, hồi đi lính đã bao giờ bị thế đâu. Nhưng mà hồi đấy hình như cũng chưa phải tác chiến trên cao lần nào cả. Có lẽ tại nhà cửa ở quê tôi đều thấp tè tè cũng nên. À, phải rồi, giờ chúng ta tính sao đây, cứ đợi ở đây à?”

Nhạc Dương đưa mắt nhìn vào sâu trong hang, rồi lại liếc Trương Lập, mỉm cười hỏi: “Vào trong... xem thử nhé?”

Cái hang nhỏ này không sâu lắm, nhưng rẽ qua một khúc quanh, thì ánh sáng liền bị chặn lại, tối om như mực. Nhạc Dương đi phía trước, được một bước lại dừng lại, cẩn thận đưa chân dò dẫm mặt đất, chỉ sợ bước hụt vào khoảng không, hoặc giẫm phải cạm bẫy gì. Trương Lập đặt một tay sau lưng Nhạc Dương, để đảm bảo khoảng cách giữa hai người.

“Nhanh hơn một chút được không vậy?”

“Tối thui lui thế này, chẳng nhìn thấy gì cả, nhanh làm sao được?”

“Sao không bật đèn lên?” Trên súng tiểu liên tự động của họ đều có gắn đèn pin. “Đồ ngốc, nếu bên trong có kẻ địch, thế chẳng phải chúng ta đã bị lộ rồi à?”

“Suỵt, có ánh sáng!”

“Ồ...”

Hình như họ đã đi ra khỏi cái ngách nhỏ ấy, phía trước là một gian sảnh lớn, hoặc có lẽ giống một cái kho hơn, bên trong chất đầy một đống những thứ vàng óng. Những cột ánh sáng nhỏ hơn phía bên ngoài từ bốn phương tám hướng chiếu vào, giao nhau chằng chịt, hệt như ánh nắng chiếu qua cái rổ vậy.

“Oa! Giàu to rồi!” Hai người bị sắc vàng lóa mắt phía trước thu hút. Cả một đống to tướng, chất lên như một ngọn núi nhỏ vậy, ít nhất phải cao tầm mười mét. Những cột sáng nhỏ ấy chiếu lên trên, lập tức phản xạ ra một loại ánh sáng khiến người ta không sao kháng cự lại nổi... ánh vàng! Ngoài một đống lớn ở giữa, xung quanh còn có vô số tượng vàng, tuy đều bị tàn phá, nhưng vẫn rực rỡ chói ngời, ánh sáng lóa mắt, dù có xấu xí khó coi đến mấy thì cũng chẳng ai là không thích cả.

Tiếng nổ vừa vang lên, liền có bốn người bò lên từ một chỗ vách đá đổ sập, chính là Tây Mễ, Max, Ivan và Hồ Tử. “Bám đuôi chúng ta à, được lắm! Nếu không nổ chết, thì cho chúng chơi với bọn chim kia.” Tây Mễ cười gằn.

“Khổ thân thằng Lôi Ba.” Hồ Tử nói.

Tây Mễ cười khẩy: “Mày biết nhược điểm của thằng ấy mà, không kìm được lòng với những thứ lấp lánh phát quang, để cho nó ở trong ấy với những thứ đó cũng tốt.” Y đột nhiên vung tay, hạ thấp giọng khẽ quát: “Nấp mau, vẫn còn người!”

Bọn Trác Mộc Cường Ba chạy rất gấp gáp, vừa nghe thấy tiếng nổ liền tức thì guồng chân chạy, tuy họ đã dự phòng trước kẻ địch sẽ chạy thoát thân bằng lối rẽ, nhưng cũng không thể ngờ chúng lại cho nổ sập cả vách đá, thế này thì thực sự là quá tàn độc!

Trác Mộc Cường Ba xông lên trước tiên, đang chạy, gã chợt thấy cảnh giác, liền lăn ngay xuống đất, đồng thời nghe thấy Ba Tang kêu lên: “Có mai phục!” Hai viên đạn sướt qua vai, chỉ thấy nhói lên cảm giác bỏng rát, sau đó mới nghe tiếng súng. Chỉ chậm một bước thôi, viên đạn ấy rất có thể đã xuyên qua lồng ngực gã rồi. Gã vừa ngã người ra, tiếng súng đã vang lên tới tấp. Ba Tang, Lữ Cánh Nam, và Đường Mẫn đều nấp phía sau các bức tượng đá, kẻ địch dường như cũng đang ẩn mình đằng sau mấy bức tượng phía đối diện.

Bốn người đi trước không rõ sinh tử thế nào, lòng Trác Mộc Cường Ba như có lửa đốt, nhưng mấy tên chặn phía trước kia cũng cực khó đối phó. Kỹ thuật bắn súng của chúng đều rất chuẩn xác, chỉ hơi nhúc nhích một chút thôi, là lập tức lia tới một loạt đạn ngay. Tính sao bây giờ? Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại tìm sự trợ giúp, chỉ thấy Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đều nấp sau bức tượng bên trái, còn Ba Tang thì không thấy đâu. Lữ Cánh Nam khe khẽ lắc đầu, ra hiệu bảo gã chớ nên vọng động. Cần phải nghĩ ngay một phương án tác chiến, nhanh chóng giải quyết tên địch cản đường, các tính toán chạy qua với tốc độ chóng mặt trong đầu Trác Mộc Cường Ba.

“Cạch cạch cạch”. Một quả cầu hấp dẫn ném ra, bắt đầu kêu lên “ong ong ong...” “Tạch tạch...” mấy tiếng súng vang lên, bắn nó vỡ tung. Tây Mễ rút ổ đạn ra, lắp một băng mới, nói với Hồ Tử ở đằng trước: “Còn chơi trò này nữa, tưởng bọn ta là khỉ chắc.”

Trác Mộc Cường Ba liếc thấy ánh mắt nghi hoặc của Lữ Cánh Nam, tựa như đang hỏi gã định làm gì. Gã cũng chẳng nghĩ ngợi được nhiều nữa. Đạn bắn từ ba hướng khác nhau tới, bên trái phía trước khoảng năm chục mét có một người, chính diện tầm bốn chục mét có một người khác, xa hơn chỗ vách đá bên ngoài bị sụt có hai người nữa lộ cái bóng hắt ra. Kẻ địch nấp rất khéo, vừa có thể nhìn thấy lối đi duy nhất qua khe hẹp giữa những mảnh vỡ của các pho tượng, cả người lại khuất hoàn toàn sau lưng tượng đá. Trong khi gã chỉ cần đặt một chân ra khỏi chỗ nấp là lập tức ăn đạn ngay. Súng bắn không tới được chỗ đó, trừ phi ném lựu đạn đúng vào chỗ chúng ẩn nấp, bằng không cũng không làm gì được đối phương. Nhưng ở góc của gã, khe hở lớn nhất để quăng lựu đạn vào cũng chưa đến mười xăng ti mét. Cách xa đến năm chục mét mà muốn ném lựu đạn vào cái lỗ chỉ nhỏ bằng nắm tay, sợ rằng trên đời này chẳng ai có thể làm được. Lẽ nào không có sơ hở nào hay sao?

“Bình tĩnh, bình tĩnh nào.” Trác Mộc Cường Ba tự nhủ, rồi tập trung phân tích lại tình thế. Nếu xông thẳng qua thì sao nhỉ? Phía trước bên trái có ba người, trước sau hô ứng, dù xông ra được phía trước cũng không thể nào an toàn rút lui được; chính diện chỉ có một người, hơn nữa còn ở gần nhất, nhưng hắn cũng ẩn nấp khéo léo nhất, giữa ba cái đôn đá liền sát nhau cao khoảng hai mét, trên đầu có một trụ đá bắc ngang, hình thành nên một cái khám thờ hình chữ “Môn” (

); nấp trong đó, cũng bằng như nấp trong lô cốt vậy. Cái “khám thờ” ấy mở ra phía sau, nếu phối hợp với mấy tên đồng bọn nấp phía bên trái, sơ hở duy nhất của hắn có lẽ là khung cửa. Vì trụ đá bên trên và đôn đá phía dưới không hoàn toàn khớp nhau, nên phía trên của lô cốt ấy có lỗ hở, Trác Mộc Cường Ba có thể nhìn thấy bóng sáng lấp lóa biến đổi bên trong. Gã thầm tính toán, thấy có thể ném lựu đạn vào đó. Nếu từ phía trên ném lựu đạn vào trong, khi phát nổ thì sóng xung kích cũng không ảnh hưởng đến gã, ngược lại mấy tên đồng bọn kia sẽ bị gây nhiễu. Vấn đề lúc này là làm sao xông được tới phía trước đó? Làm sao có thể leo lên đỉnh lô cốt? Trong cả quá trình ấy, làm sao để mình không bị trúng đạn?

Lúc này, Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ đến pháp sư Á La. Phải rồi, phương thức di động của pháp sư!

Không được, mình không làm được. Vậy thì phải dùng cách nào đối phương không thể ngờ tới... Đúng rồi, dùng cách đó! Đôn đá cao khoảng một mét tám, tương đương với chiều cao của mình, có thể nhảy được cao chừng ấy không nhỉ? Xem ra đành phải đánh liều một phen! Tính toán xong xuôi, Trác Mộc Cường Ba liền đặt khẩu tiểu liên tự động xuống đất, chỉnh lại vị trí đôi tiểu liên mini Steyr hai bên nách sao cho dễ rút ra nhất, kế đó lấy ra hai quả đạn hấp dẫn, tay phải cầm một quả lựu đạn. Trước ánh mắt kinh ngạc của Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn, gã nở một nụ cười đầy tự tin, vung tay ném ra quả đạn hấp dẫn đầu tiên, vẽ một đường cong tuyệt đẹp trên không trung.

Cùng lúc đó, Trác Mộc Cường Ba từ chỗ nấp chạy ra, nhưng gã không chạy giữa đường, mà men theo vách hang bên trong, thân người nghiêng đi, bám theo vách tường chạy lên cao, sử dụng kỹ thuật chạy trên tường đã tập luyện không biết bao nhiêu lần. Mượn đà lao của cơ thể, có thể men theo tường lên cao ba bốn mét, rồi chạy thêm được bảy tám bước dọc theo chiều ngang bức tường nữa.

Tây Mễ quả nhiên không ngờ Trác Mộc Cường Ba sẽ xông qua bằng cách này, đến khi y phát hiện ra, Trác Mộc Cường Ba đã vòng qua được chướng ngại vật, chạy thêm chừng hai chục mét nữa rồi. Cùng lúc ấy, quả đạn hấp dẫn thứ hai cũng được gã ném ra. Tây Mễ chưa kịp đoán ra ý đồ của Trác Mộc Cường Ba, lại vẫn phải liếc mắt xem đối phương ném ra đạn hấp dẫn hay thứ gì khác. Lợi dụng khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, Trác Mộc Cường Ba đã xông thêm được mười mét nữa, chỉ còn cách chỗ Ivan ẩn nấp vài mét. Bấy giờ Tây Mễ mới sực hiểu ra Trác Mộc Cường Ba định làm gì, còn sự chú ý của Ivan đều đã đặt cả lên chỗ quả đạn hấp dẫn, gã lại còn đang giương súng lên định bắn vào quả cầu phát sáng ấy nữa.

“Ivan, hắn ở trên đầu mày!” Tây Mễ vội quay họng súng, đồng thời quát lên nhắc nhở Ivan. Song, Trác Mộc Cường Ba đã dồn hết sức lực bật mạnh, cả người bốc lên tại chỗ, nhảy một cái lên đỉnh cái đôn đá cao gần hai mét, cánh tay vươn ra, tương luôn quả lựu đạn vào trong “lô cốt”. Đây là khoảnh khắc duy nhất gã dừng lại, tiếc rằng họng súng của Tây Mễ vẫn chưa kịp dịch chuyển tới.

Trong khoảnh khắc đó, Ivan vừa bắn vỡ quả đạn hấp dẫn, bên tai nghe thấy tiếng quát của Tây Mễ, não bộ vẫn đang phân tích hàm nghĩa của câu nói ấy; họng súng của Tây Mễ dịch chuyển, đang cố gắng đuổi theo bóng Trác Mộc Cường Ba, Trác Mộc Cường Ba đã bỏ lựu đạn vào chỗ Ivan ẩn nấp, liền ngả người về phía sau, hai chân dồn sức đạp mạnh, thân thể bắn ngược lại như mũi tên rời dây cung.

“Ầm!” ánh lửa lóe lên, khói bụi bắn tung tóe, đạn sướt qua bên tóc mai Trác Mộc Cường Ba. Gã lộn một vòng rồi hạ xuống, lúc lơ lửng trên không hai tay đã rút ra đôi tiểu liên mini Steyr, bắn tới tấp vào kẻ địch trong đám bụi mùi, đồng thời lợi dụng làn khói ấy che chắn, lao bổ về phía bên trái. Lữ Cánh Nam và Ba Tang cũng lần lượt phối hợp yểm hộ cho gã. Không còn cản trở nào, Trác Mộc Cường Ba lại phi lên vách đá bằng một động tác cực kỳ đẹp mắt, hai tay cầm súng chạy như bay trên tường, khi thân thể song song với mặt đất, gã đột nhiên xoay một vòng ba trăm sáu mươi độ, động tác tuyệt mỹ như vận động viên trượt băng đảo mình trên không. Thân thể đang xoay, hai họng súng đã liên tiếp nhả đạn, bắn trúng Hồ Tử vẫn đang ngẩn ra trước vụ nổ. Vừa hạ xuống góc tường, hai tay đã một trước một sau, cùng lúc khai hỏa, vừa khiến kẻ địch phía trước không thể phản kích, đồng thời cũng đảm bảo tên ở sau lưng hoàn toàn không còn cơ hội sống sót. Liền ngay sau đó, hai khẩu súng chĩa ra phía trước, người bổ nhào sang bên phải, thân thể xoay chuyển trên không trung, họng súng nhả đạn không ngừng, hoàn toàn phong tỏa không cho kẻ địch nhô đầu ra.

Lúc Tây Mễ phát hiện Trác Mộc Cường Ba xông ra từ làn khói bụi, vừa khéo trông thấy gã làm động tác xoay mình ba trăm sáu mươi độ trên tường, đồng thời nổ súng xạ kích, trong chớp mắt, Hồ Tử đã trúng đạn ngã xuống; y đang định giương súng ngắm bắn, một loạt đạn đã quét về phía mình. Đối phương đang biểu diễn nghệ thuật chắc? Bắn súng cũng có thể nhịp nhàng như nước chảy mây trôi, phiêu hốt bất định như đang khiêu vũ thế hay sao? Tây Mễ chợt có cảm giác, mấy chục năm cầm súng của mình đều thật uổng phí. Hóa ra, bắn súng cũng có thể trở thành một thứ nghệ thuật, cũng có thể khiến người ta nảy sinh ra thứ ảo giác gần như hoàn mỹ ấy. Quỹ đạo xoay chuyển họng súng ấy, kiểu vừa xạ kích vừa đảo người xoay chuyển ấy, liệu y có tránh được không? Thấy đối phương đã áp sát tới, y không do dự thêm giây nào nữa, nhảy thẳng xuống lỗ hổng trên vách tường.

Không chỉ kẻ địch chấn động vì kinh ngạc, cả bọn Ba Tang cũng đều chấn kinh như thế. Tính toán chuẩn xác, thời gian không sai một giây, đến cả màn khói bụi mù mịt sau vụ nổ cũng đều được tính kỹ càng, sau cùng, điều khiến họ thấy không thể tin nổi chính là những động tác ấy, một loạt động tác liền mạch liên tiếp, thậm chí có thể nói là hoàn mỹ không một khuyết điểm nào.

Mái tóc đen phất phơ, mắt tóe lên ánh lửa, đạn bay vù vù, mang đi hơi ấm trong không khí, những động tác liền lạc như áo trời ấy khiến Lữ Cánh Nam cũng không khỏi biến sắc. Nếu không phải lúc này, nếu không phải ở nơi này, cô gần như đã tưởng rằng mình đang xem một màn biểu diễn thể dục nhịp điệu. Mỗi bước đều được biên đạo từ trước, tựa như đã tập luyện cả trăm cả vạn lần, mỗi động tác đều biểu hiện được sức mạnh và vẻ đẹp của cơ thể, điểm khác biệt duy nhất là, vận động viên biểu diễn ấy hai tay hai súng, khi xoay chuyển trên không còn nhả đạn bắn vào kẻ địch. Cô lẩm bẩm: “Mình có dạy cho anh ta thứ này đâu chứ!”

Ba Tang vừa nhìn động tác của Trác Mộc Cường Ba liền tức thì hiểu ra, Cường Ba thiếu gia đã kết hợp động tác của đám thanh niên chạy Parkour người Nga và đôi súng trên tay một cách hoàn mỹ, chỉ có điều, thật khó mà tin nổi là gã lại có thể thực hiện một cách thuần thục nhuần nhuyễn đến thế, có... đây có phải là năng lực bộc phát không? Xem ra, có những lúc, Cường Ba thiếu gia sẽ đột nhiên trở nên cực kỳ cao thâm khó dò...

Chương 22

Thực lực của Max

Trác Mộc Cường Ba nhìn chỗ Tây Mễ nhảy xuống, thầm kinh hãi: “Cao như vậy mà cũng dám nhảy sao!” Gã dừng lại, cẩn thận quan sát chỗ Tây Mễ nấp, vẫn còn một tên nữa!

Lữ Cánh Nam, Đường Mẫn và Ba Tang đều xông lên, vây tên cuối cùng lại. Đường Mẫn không nói tiếng nào, chỉ bần thần nhìn Trác Mộc Cường Ba chăm chăm. Trong khoảnh khắc lúc gã xông ra đó, cô gần như đã không nén được muốn hét lên, nhưng những chuyện diễn ra tiếp sau đó khiến cô có cảm giác như mình đang nằm mơ, bóng dáng thân quen ấy làm cô kích động đến độ chỉ muốn bật khóc lên. Ba Tang thì lại để ý đến cái bóng vừa nhảy xuống, tại sao... cảm giác quen thuộc đó là thế nào vậy?

“Cạch cạch!” Âm thanh làm kinh động mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba. Gã vội xoay người ôm lấy Đường Mẫn lăn sang một bên, kế đó mới phát hiện có người ở phía sau tượng đá ném khẩu súng ra, rồi đến hai cánh tay run lẩy bẩy giơ lên cao, một giọng tiếng Trung ngọng nghịu lơ lớ cất lên: “Đừng... đừng bắn... đầu... đầu hàng, đầu hàng rồi!” Ngữ điệu ấy, cũng run lên bần bật như muốn khóc.

Trác Mộc Cường Ba hạ nòng súng xuống, quát lên: “Cút ra đây!”

Chỉ thấy Max loạng choạng bước ra từ chỗ nấp, hai chân mềm ra như bún, có vẻ như một chân đã trúng đạn, máu tuôn ra như suối, mới được vài bước đã ngã ập xuống đất. Y lại rướn bò lên mấy bước nữa, đến trước mặt Trác Mộc Cường Ba, hai tay ôm chặt sau gáy, mông chổng lên cao, toàn thân đều run bần bật như cầy sấy. “Đừng giết tôi.” Giọng nói ấy đủ khiến người ta nghe mà nổi hết cả da gà. Max khóc lóc cầu xin: “Đừng giết tôi mà... tôi trên còn có mẹ già khóc đòi ăn, dưới có còn con trẻ tám mươi tuổi...”

Dường như Max cũng ý thức được nói vậy rất không thuận miệng. Giọng y vốn đã nghe mai mái eo éo, giờ lại thêm cả tiếng khóc lóc ỉ ôi, càng toát lên một vẻ quái dị khó tả, khiến Đường Mẫn không sao nén được, bật cười thành tiếng “hích hích”.

Trác Mộc Cường Ba thấy đối phương là một tên tóc vàng mắt xanh, bèn hỏi Lữ Cánh Nam: “Người này, không phải trong đảng Hồ Lang à?”

Lữ Cánh Nam nhận ra y, gật đầu đáp: “Hắn tên là Max, có thể coi là quản gia của Merkin cũng không sai.”

Max miễn cưỡng hiểu được Lữ Cánh Nam nhận ra mình, lại nhìn thấy hy vọng cầu sinh, vội vàng xun xoe cười với cô: “Vâng, vâng, tôi... tôi bị ép mà...” Y vốn đang nước mắt đầm đìa, giờ lại gượng nhếch hai khóe miệng lên, bộ dạng thành ra phía trên nước mắt lưng tròng, phía dưới lại miệng cười toe toét, một gương mặt chia ra làm hai nửa. Vừa nói, Max lại vừa đập đầu lạy Trác Mộc Cường Ba như tế sao. Trông dáng vẻ ấy, nếu Trác Mộc Cường Ba lên tiếng, có khi y còn sẵn sàng liếm gót giày cho gã cũng nên.

Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ chán ghét, nói với những người phía sau: “Mọi người để ý hắn, xem có hỏi được gì không, tôi đi xem bọn Nhạc Dương thế nào rồi!” Dứt lời, liền không cho Max cơ hội lấy lòng, sải chân bước đi luôn. Max khóc ròng, ngước đôi mắt đầm đìa nhìn ba người còn lại, lập tức khóa chặt mục tiêu, vừa xun xoe lấy lòng, vừa tỏ ra hết sức đáng thương với Lữ Cánh Nam.

Dọc đường, Trác Mộc Cường Ba gặp đội trưởng Hồ Dương. Hồ Dương bèn thuật lại mọi chuyện xảy ra với họ. Trác Mộc Cường Ba thấy vết thương trên đùi đội trưởng Hồ Dương, bèn nói: “Anh quay lại để Mẫn Mẫn xử lý vết thương trước đi, có cần tôi đỡ không?” Đội trưởng Hồ Dương lắc đầu bảo không, đòi đưa Trác Mộc Cường Ba đi tìm bọn Trương Lập. Trác Mộc Cường Ba nói mãi mới khuyên được đội trưởng Hồ Dương quay lại chữa trị, rồi tiếp tục chạy về phía trước.

Nhạc Dương và Trương Lập hưng phấn bò lên bò xuống trên núi vàng trong hang động, lúc ngừng lại để nghỉ lấy hơi, Nhạc Dương bỗng kinh ngạc phát hiện ra có một người bị vùi trong đống vàng, chỉ có đôi chân là lộ ra ngoài, thỉnh thoảng lại giật giật một cái, máu chảy lênh láng đầy ra đất, xem ra chắc không sống nổi rồi. Hai người đoán rằng, đây là một tên định mai phục trong hang này, nhưng chấn động của vụ nổ ngược lại đã chôn luôn hắn ở đây.

Hai người bèn hợp sức lại nhấc các khối vàng ra, Nhạc Dương nhận diện được, người này chính là gã tên Lôi Ba luôn ở bên cạnh Tây Mễ, trước đây anh từng đọc qua tài liệu về nhóm người này. Nhạc Dương đang nghĩ ngợi, bỗng Lôi Ba vươn tay bám chặt vào ống quần, chỉ kêu lên được một tiếng: “Vàng!” rồi ngoẹo đầu, tắt thở.

Nhạc Dương vẫn chưa hết sợ, đưa tay vuốt vuốt lên ngực, đột nhiên lại nghe thấy có người ở phía ngoài cửa hang hỏi: “Ai ở trong đó vậy?” Hai người lại được một phen bở vía, nhưng rồi lập tức nhận ra, đó là giọng của pháp sư Á La.

“Pháp sư, pháp sư Á La!” Nhạc Dương và Trương Lập kêu lên. Pháp sư Á La nhún nhảy mấy cái, đã đến trước mặt hai người.

“Pháp sư, ông qua đây bằng cách nào vậy?” Nhạc Dương không sao hiểu nổi. Lúc nãy, họ cách cửa hang này chỉ chưa đầy hai mét, còn pháp sư Á La ở phía bên kia của đoạn đứt gãy, cách cửa hang ít nhất cũng phải hơn chục mét, dù ông có chạy trên tường cũng không thể nào đi xa thế được. Thông thường, cự ly giới hạn của chiêu chạy bộ trên tường này chỉ khoảng bảy mét.

Quần áo pháp sư trông nhàu nhĩ rách bươm, ông gật đầu bảo với Nhạc Dương: “Cậu suy đoán không sai, bên đó quả nhiên là tổ chim, bọn chim khổng lồ ấy nuôi chim non ở đây. Tôi đã giết chết ba con, khó khăn lắm mới thoát ra được.”

“Á!” Nhạc Dương và Trương Lập đều ngây ra, phản ứng hệt như lúc Trác Mộc Cường Ba lần đầu tiên nghe Lữ Cánh Nam nói đã giết con trăn khổng lồ ở rừng Nam Mỹ vậy. Lũ chim ấy đâu phải loại chỉ dùng từ “to lớn” là hình dung được, vậy mà pháp sư lại bảo đã giết chết ba con rồi! Giờ nghĩ lại, chuyện pháp sư Á La đến được hang động này cũng chẳng to tát gì cho lắm. Bọn chim khổng lồ kia mà ông còn bảo giết là giết luôn, thử hỏi còn chuyện gì không làm được nữa đây?

Trương Lập cười khổ gật đầu, đằng nào cũng chỉ cần biết pháp sư Á La rất mạnh, mình tuyệt đối không phải là đối thủ của ông là được rồi. Anh chỉ vào núi vàng, cười cười với pháp sư Á La: “Pháp sư, bọn cháu phát hiện một kho vàng này. Nhiều lắm, toàn bộ ở đây đều là vàng cả đó!”

Pháp sư Á La nhìn hai người với ánh mắt kỳ lạ, rồi nói ra một câu khiến cả Trương Lập và Nhạc Dương suýt chút nữa thì ngất xỉu. Chỉ nghe ông chậm rãi nói: “Đây là đồng.”

“Cái... cái gì? Sao lại là đồng được? Đồng... đồng... đồng làm gì có màu sắc đẹp thế này? Ông có thấy chúng phát sáng không? Pháp sư, ông nhìn kỹ hơn được không ạ!” Trương Lập vẫn còn mang theo một tia hy vọng.

“Pháp sư, chỗ này, ít nhất cũng phải mấy trăm năm rồi chứ? Nếu là đồng thì làm sao giữ được hoàn hảo vậy được? Đây vẫn còn sáng bóng như mới mà!” Nhạc Dương cũng cuống quýt nói.

Pháp sư Á La nở một nụ cười điềm đạm, nói: “Thứ này, có thể nói là một loại bí pháp cổ xưa, các cậu gọi là hợp kim đồng cũng được. Giải thích thế nào nhỉ, giống như là kỹ thuật mạ kiếm đồng thời Chiến Quốc vậy, đây là một phương pháp dùng để bảo đảm đồng không bị ô xy hóa. Trong các sách vở của Mật giáo cũng có ghi chép, chỉ là phương pháp luyện chế đã bị thất truyền rồi mà thôi.”

Trương Lập và Nhạc Dương bị shock khá nặng, những tưởng phát hiện được kho báu rồi, kết quả lại chưng hửng một phen. Pháp sư Á La cầm một cây gậy trông giống như bằng vàng lên, hỏi Nhạc Dương: “Nếu bằng vàng thật, cậu cho rằng tôi có thể nhấc lên thế này không?”

Nhạc Dương sau khi lấy lại bình tĩnh đã nghĩ kỹ lại, đúng vậy, nếu là vàng thật, cây gậy đó ít nhất cũng tầm mấy trăm cân, sức một người không thể nào nhấc lên nổi. Anh chàng xìu hẳn xuống.

“Ủa?” Pháp sư Á La cầm cây gậy đồng, đưa mắt nhìn Lôi Ba đã nằm đờ dưới đất, hỏi Nhạc Dương: “Người này lợi hại lắm à?”

“Không biết nữa, lúc chúng cháu vào hắn đã bị đè chết ở đây rồi.” Trương Lập đáp.

Pháp sư Á La gật đầu như thể vừa giải đáp được khúc mắc trong lòng: “Vậy thì không phải hắn. Nếu hắn lợi hại thế thật, hai người các cậu chắc không thể đứng ở đây rồi.”

“Hả? Pháp sư, ý của ông là...?” Nhạc Dương nhạy bén hỏi ngay.

Pháp sư Á La đảo mắt một vòng quanh hang động hình bán cầu, nói với hai người: “Chỗ này, trước khi các cậu đến, đã xảy ra một trận ác đấu.” Ông đưa mắt nhìn khắp bốn phía, rồi lại tiếp lời: “Các bức tượng đồng này có lẽ đã bị phá hoại từ rất lâu rồi, có điều, trận đấu đó đã phá hoại chúng triệt để hơn nữa. Các cậu nên cảm thấy mình may mắn, vì trước mặt họ, sợ rằng hai cậu thậm chí còn chẳng có cơ hội đánh trả đâu!” Pháp sư Á La chăm chú nhìn cây gậy bằng đồng trong tay, thầm nhủ: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Phải chăng là để tranh đoạt vàng? Không, không thể nào, với thân thủ của những người ấy, chắc sẽ không động lòng vì vàng bạc nữa. Vả lại, họ cũng không thể nào không phân biệt được những thứ này rốt cuộc là đồng hay là vàng.”

Nhạc Dương và Trương Lập ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu pháp sư Á La đang nói gì. Cái gì mà ác đấu, sao đến cả cơ hội đánh trả cũng không có nữa? Pháp sư thấy hai người lộ vẻ nghi hoặc, liền đưa cây gậy đồng ngắn trong tay cho Nhạc Dương: “Cậu xem đi, có thấy gì không?”

Pháp sư Á La chỉ cho Nhạc Dương xem năm chỗ hõm nhỏ trên thân cây gậy, to nhỏ khác nhau, khoảng cách vừa khéo như một bàn tay. “A...” Nhạc Dương sửng sốt áp bàn tay mình vào đó, bàn tay người kia lớn hơn bàn tay anh rất nhiều. Có thể tưởng tượng được, bàn tay ấy mà nắm thành nắm đấm sẽ lớn chừng nào. Vả lại, cây gậy này bằng đồng chứ đâu phải đồ chơi, cần sức lực lớn thế nào mới để lại dấu vết rõ như vậy trên đó được? “Đây... không thể nào chứ, đây là đồng cơ mà! Lẽ nào pháp sư cũng làm được?” Nhạc Dương kinh hãi kêu lên.

Pháp sư Á La lắc đầu nói: “Tuy tôi không thể, nhưng tôi biết có người làm được, sức người đích thực là có thể làm được việc đó.” Pháp sư Á La tự đánh giá, Đại lực ưng trảo công của mình chỉ có thể bóp vỡ những vật cứng như gạch đá, nhưng muốn để lại vết tích rõ rệt như vậy trên hợp kim đồng thì vẫn còn kém một bậc.

Pháp sư Á La đặt cây gậy đồng xuống, quay qua lần tìm trong hang động, thử tìm kiếm các dấu vết trên những pho tượng đồng vẫn chưa bị phá hủy hoàn toàn, chốc chốc lại dừng lại nghĩ ngợi, tựa hồ đang mường tượng ra trận đấu từng diễn ra ở nơi đây. Pháp sư Á La quan sát càng lâu, hai hàng lông mày càng nhíu chặt lại, dường như gặp phải một vấn đề cực kỳ khó khăn. Nhạc Dương và Trương Lập thấy thế liền nhổm dậy, đi theo sau pháp sư quan sát những dấu vết lúc nãy mình không để ý đến. Họ thấy những vệt lõm hình nắm đấm trên tượng đồng, và cả những vết chém rất mảnh, thoạt nhìn trông như vết nứt tự nhiên, nhưng quan sát kỹ sẽ nhận ra, đó là do một loại vũ khí cực kỳ sắc bén để lại. Nhạc Dương giật một sợi tóc luồn vào khe nứt, thấy rất sâu, mà bề mặt lại hết sức nhẵn nhụi, không hiểu là do loại vũ khí nào gây ra nữa?

Pháp sư Á La nói không sai, càng lúc Nhạc Dương và Trương Lập càng phát hiện thêm nhiều dấu vết đánh đấm, tuy không biết cuộc chiến xảy ra từ bao giờ, nhưng nhìn những dấu tích dể lại có thể thấy, đó là một trận ác đấu vô cùng kịch liệt, khó mà hình dung cho nổi.

Pháp sư Á La ban đầu chỉ là lấy làm kỳ lạ, càng về sau càng thấy kinh hãi, ông thầm nhủ: “Thực lực của những người này, e rằng đã chẳng kém gì các vị trưởng lão trong Trưởng lão viện rồi. Những kẻ đáng sợ ấy là người Qua Ba ư? Hay là người nào khác?”

“Trận đấu này, chắc là xảy ra vài năm trước, hơn nữa, những người này, từ bên ngoài tới đây.” Phía bên kia, Nhạc Dương đã rút ra kết luận, chứng cứ ủng hộ kết luận này của anh là một đồng xu. Đồng xu ấy bị kẹt trong một bức tượng đồng, vì va chạm với bức tượng, nên đã biến từ hình tròn thành hình bầu dục. Họ đều không đọc được chữ khắc trên đó, nhưng số 1985 thì được khắc rất rõ ràng. Nếu phát hiện ra đồng xu này trước khi pháp sư Á La tới đây, chắc chắn Nhạc Dương sẽ cho rằng đó là do một loại vũ khí chuyên bắn đồng xu thay cho đạn gây ra. Nhưng xem tình hình hiện tại, rất có khả năng đồng xu này là do người nào đó dùng lực cổ tay trực tiếp ném ra. Trương Lập hiểu rất rõ vậy nghĩa là như thế nào. Tuy lính đặc chủng bọn họ cũng có thể ném phi tiêu xuyên qua tấm kính, nhưng dù sao đó cũng là vật sắc nhọn, còn muốn ném đồng xu tròn va chạm mạnh đến độ méo cả đi, vậy thì lực tay phải lớn đến chừng nào mới đủ! Nếu không phải trước đó pháp sư Á La đã có lời, anh hẳn đã cho rằng đây tuyệt đối không phải hành vi của con người.

Pháp sư Á La xoay xoay đồng xu giữa các ngón tay, đột nhiên thốt lên: “Đi!” Cổ tay ông lắc nhẹ, chỉ nghe “đinh” một tiếng, đồng xu đã va chạm với tượng đồng, phát ra một âm thanh giòn tan. Nhạc Dương vội lại chỗ phát ra âm thanh quan sát, chỉ thấy đồng xu đã làm hõm một vệt mỏng trên bức tượng đồng, nhưng bản thân nó thì không bị biến hình, mà rơi xuống đất. Pháp sư Á La kiểm nghiệm lại suy đoán của mình, thầm nhủ, “Quả nhiên, với công lực hiện tại, ta chỉ làm được đến vậy mà thôi. Người bên ngoài, không ngờ lại là người bên ngoài! Ở thế giới ngoài kia đã xuất hiện kẻ mạnh như vậy từ bao giờ? Thật đáng sợ, sau này trở về nhất định phải báo với các trưởng lão trong Trưởng lão viện mới được.”

“Nhạc Dương! Trương Lập! Pháp sư Á La!” Lúc này, bên ngoài cửa động chợt vang lên tiếng hô hoán của Trác Mộc Cường Ba. Nhạc Dương và Trương Lập vội chạy ra ngoài, miệng đáp vang: “Cường Ba thiếu gia, chúng tôi ở đây, chúng tôi không sao. Pháp sư Á La cũng ở đây này! Chúng tôi ở bên này này!”

Có tiếng Lữ Cánh Nam cất lên: “Không có dây thừng, họ không qua được đâu.” Thì ra, sau khi đội trưởng Hồ Dương trở lại, Lữ Cánh Nam thấy đã có ba người canh phòng Max, mà tên này dường như cũng bị thương khá nặng rồi, vì vậy cũng đi theo Trác Mộc Cường Ba qua đây. Trác Mộc Cường Ba vỗ vỗ đầu, đúng là cuống quá thì rối, dây thừng lại để trong ba lô bên dưới bậc thang, gã liền bảo bọn Nhạc Dương chịu khó đợi mình và Lữ Cánh Nam quay trở lại lấy dây thừng.

Đường Mẫn nói với đội trưởng Hồ Dương: “Hình như gãy xương ống chân rồi, đợi lát nữa phải nẹp vào cho anh mới được.”

Ba Tang nhìn chằm chằm vào Max, họng súng cũng luôn chĩa về phía y. Tên Max này thoạt trông có vẻ như đang cúi đầu bất động, nhưng thực ra cặp mắt vẫn đảo không ngừng, lúc này thấy Đường Mẫn đã kiểm tra sơ qua vết thương của đội trưởng Hồ Dương, liền vội dè dặt nhích lên, gương mặt già đanh rặn ra một nụ cười hết sức khó coi, nói bằng thứ tiếng Trung ngọng líu ngọng lô: “Chị ơi, có thể giúp tôi với không, tôi... tôi... tôi sắp không xong rồi, máu... máu cứ chảy mãi... chị ơi, chị xinh đẹp ơi...” Nước mắt nước mũi Max chảy đầm đìa. Nếu không phải tự biết mình không được dễ thương cho lắm, có khi y đã lao đến ôm chân Mẫn Mẫn, lớn tiếng kêu gào gọi cô bằng mẹ rồi cũng nên.

Đường Mẫn thoáng đỏ mặt, bị một gã đàn ông đã ba bốn chục tuổi gọi bằng chị, ít nhiều cũng có cảm giác kỳ kỳ. Cô liếc nhìn Max, quả nhiên, máu vẫn rỉ ra không ngừng, cả một bên ống quần đã hoàn toàn bị nhuộm đỏ ối, trông bộ dạng hắn lại cũng hết sức đáng thương. Đường Mẫn thầm thấy bất nhẫn, liền quay sang nhìn Ba Tang hội ý. Ba Tang đanh mặt lại lắc lắc đầu, ý muốn nói, cứ mặc xác hắn. Max ngước đôi mắt đẫm lệ lên nhìn chằm chằm vào mặt Đường Mẫn, thi thoảng lại cúi xuống nhìn cái đùi bị thương của mình, tuy không nói gì nữa, nhưng bộ dạng ấy rõ ràng đang tỏ ý: không ngờ các người cũng thế, đành chấp nhận số phận vậy thôi.

Cuối cùng, Đường Mẫn nói: “Qua đây xem nào.” Max ngoảnh đầu sang một bên, trông chẳng khác nào một đứa con trai vừa bị oan ức, vừa khéo cũng để Đường Mẫn trông thấy hàng nước mắt đeo trên má mình. Đường Mẫn nói: “Chỉ cần anh không làm loạn thì không có chuyện gì đâu. Nào, qua đây tôi xem cho.”

Ba Tang hơi chau mày, tuy nòng súng của anh ta vẫn hướng về phía Max, nhưng khoảng cách giữa Đường Mẫn và tên đó quá gần. Anh ta thầm tính toán, như vậy đạn xuyên qua nội tạng đối phương, hẳn sẽ làm Đường Mẫn bị thương. Còn nếu bắn vào đầu? Ở khoảng cách gần như vậy, liệu đạn có xuyên qua được xương sọ không nhỉ?

Đường Mẫn đang chuẩn bị vén ống quần Max lên để kiểm tra vết thương, đột nhiên nghi hoặc hỏi: “Máu của anh sao lạnh vậy?” Nếu là máu tràn ra từ vết thương hở, sao lại lạnh buốt thế này được? Đúng lúc đó, cô liền trông thấy trong đôi mắt đáng thương đó bỗng lộ ra một tia hung hãn. Đường Mẫn còn chưa kịp kêu lên, Max đã chụp lấy cổ tay cô. Đường Mẫn vội giở ngay thủ pháp Cầm nã thủ lật cổ tay chụp ngược lại đối phương, không ngờ cổ tay Max cũng lại lật thêm lần nữa, bóp chặt tay Đường Mẫn. Đồng thời, thân hình cao lớn đó cũng vòng qua phía sau cô một cách linh hoạt dị thường. Cái chân bị thương kia, giờ như chẳng hề bị thương chút nào cả vậy.

Toàn bộ quá trình chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương đều ở ngay bên cạnh, song cũng không kịp ra tay ngăn lại, chỉ thấy Đường Mẫn đặt tay lên vết thương của Max nói một câu, kế đó y đã áp người vào phía sau cô, một tay tóm chặt hai cổ tay Đường Mẫn, tay kia lăm lăm một miếng đá nhọn hình mũi giáo, đầu nhọn chỉ còn cách mắt Đường Mẫn chưa đầy một cen ti mét.

“Đừng... đừng kích động.” Max cảnh cáo đội trưởng Hồ Dương và Ba Tang. “Tao cũng không muốn cô gái xinh đẹp này bị thương chút nào cả, lùi lại, lùi lại hết! Mày, ném súng qua đây!”

Bàn tay cầm súng của Ba Tang không hề nhúc nhích, ngược lại còn gằn giọng nói: “Mày thử nhúc nhích xem nào.” Đồng thời, ngón tay anh ta đã chầm chậm dồn lực, cò súng phát ra âm thanh khe khẽ. Đội trưởng Hồ Dương vội kêu lên: “Đừng làm bừa, Ba Tang!”

Max cũng không ngờ trong nhóm đối phương lại có người như thế, vội nấp đầu ra phía sau Đường Mẫn. Đúng lúc này, Đường Mẫn đột nhiên vung chân hất về phía sau, đá vào chỗ yếu hại của kẻ địch. Nhưng Max đã có đề phòng từ trước, hai đùi kẹp lại, giữ cứng chân cô. Thấy cô gái này cũng không phải hạng vừa, y lập tức buông tay kia ra, hơi ngửa người về sau một chút, chặt thẳng vào động mạch trên cổ cô. Đường Mẫn tức thì ngất xỉu tại chỗ. Max lại áp người lên, lần này một tay xốc dưới nách Đường Mẫn để giữ cô ở tư thế đứng, tay kia vẫn cầm miếng đá nhọn hoắt chĩa vào mắt cô.

Ba Tang thầm kinh hãi, thủ pháp ấy sao mà quen thuộc vậy. Họ đều đã được huấn luyện như thế. Từ động tác của kẻ địch có thể phán đoán, tên Max này chắc chắn là lính đặc chủng chuyên nghiệp. Vừa nãy họ đã hoàn toàn bị bộ dạng đáng thương của hắn lừa gạt, vẻ ngoài yếu ớt như sắp hết hơi chỉ là giả bộ, vết thương đầm đìa máu kia chẳng lẽ cũng là dùng máu dự trữ để ngụy trang? Xem ra cả viên đá nhọn kia cũng nằm trong tính toán của đối phương rồi, thật không ngờ lại phạm phải sai lầm như thế!

Max kéo Đường Mẫn giật lùi từng bước một, Ba Tang cũng không ngừng ép tới, gây áp lực về tâm lý cho kẻ địch. Anh ta không lo lắng nhiều cho an nguy của Đường Mẫn giống đội trưởng Hồ Dương, chỉ cần Max lộ ra một chút sơ hở, họng súng trên tay Ba Tang sẽ nhả đạn không chút nể nang gì. Trước khi xuất phát, mỗi chiến sĩ đều phải chuẩn bị để chết, tuyệt đối không thể chịu sự uy hiếp của kẻ địch, cần phải dùng máu và sắt, bất chấp mọi giá để hoàn thành sứ mệnh, đây chính là những gì anh ta được huấn luyện. Cho dù cha mẹ vợ con của mình bị trói ở ngay trước mặt, anh ta cũng quyết không bao giờ chấp nhận thỏa hiệp với kẻ thù.

Max cũng đang thầm toát mồ hôi lạnh. Không nhận người thân, tàn bạo vô tình, những kẻ như vậy mới thực sự là kẻ địch đáng sợ nhất. Y bắt đầu thấy hối hận vì không tìm hiểu kỹ hơn về đám người này từ chỗ ông chủ của mình, có điều cũng còn may, gã râu ria xồm xoàm bị thương kia dường như căng thẳng hơn tên cầm súng này nhiều. “Mày, ngăn hắn lại!” Max nấp sau lưng Đường Mẫn ra lệnh cho đội trưởng Hồ Dương. Lúc này, Max đã giật lùi đến chỗ lối vào ban đầu, y đưa mắt nhìn hoàn cảnh xung quanh, thấy nếu lùi xuống các bậc thang thì hơi quá mạo hiểm, nhưng nếu không đi ngay, gã lùn kia chắc chắn sẽ không buông tha cho mình. Đúng khoảnh khắc đó, ánh mắt Max quét phải một vật trông như bằng đá hình bán nguyệt, vừa đủ để mình che chắn phía trên, trong đầu liền lóe lên một khả năng đào tẩu.

Bấy giờ, Đường Mẫn đã có dấu hiệu tỉnh dần. Max tính toán lại mọi việc một lần cuối, rồi lấy đầu nhọn của miếng đá chọc khẽ làm Đường Mẫn tỉnh hẳn, đẩy mạnh cô về phía Ba Tang, rồi ném luôn cục đá nhọn ra chỗ đội trưởng Hồ Dương. Đường Mẫn lao ập tới, Ba Tang thầm kinh hãi, ít nhất trong lúc này đối phương vẫn còn sáng suốt từ bỏ con tin; Đường Mẫn tỉnh lại lúc ngã dựa vào người Ba Tang, khiến anh ta lại bị phân tán; kế đó đội trưởng Hồ Dương bị viên đá ném vào, sự chú ý của Ba Tang lại bị phân tán thêm lần nữa. Tuy chỉ có hai ba giây, nhưng vậy cũng là quá đủ cho Max. Y chỉ mất một khoảnh khắc để đẩy Đường Mẫn và ném viên đá đi, kế đó liền tung chân đá vật trông như cái khiên hình bán nguyệt kia xuống bậc thang, cả người bổ nhào lên đó. Khi Ba Tang đưa mắt qua, Max đã nằm sấp trên cái khiên đá ấy lướt xuống bậc thang như một vận động viên lướt sóng rồi.

Ba Tang không thể hất văng luôn Đường Mẫn ra, sau khi đặt được cô xuống đất, chạy ra chỗ bậc thang thì Max đã trượt đi được hơn trăm mét. Ba Tang nổ súng, nhưng tiếc là không thể ngắm bắn chuẩn xác được nữa. Max mặc áo chống đạn, ngoài ra còn giơ một tảng đá chắn phía trên đầu, nghe thấy một tràng tiếng súng, liền vẫy vẫy một cánh tay, ra hiệu tạm biệt với Ba Tang. Ba Tang đã bắn hết đạn, cũng không làm gì được tên địch đã thoát đi một quãng xa, chỉ phẫn nộ vung vẩy khẩu súng trên tay, đồng thời cũng sực hiểu ra rằng, từ đầu chí cuối, anh ta đều đánh giá quá thấp khả năng thực sự của gã tóc vàng mắt xanh ấy.

Lúc này, Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam vừa chạy tới, nghe thấy tiếng súng, đã biết có chuyện không ổn, kế đó lại thấy Ba Tang đứng ở chỗ bậc thang nổ súng và Đường Mẫn, đội trưởng Hồ Dương đang nằm dưới đất.

“Anh Cường Ba... em...” Đường Mẫn từ từ tỉnh hẳn, trông thấy Trác Mộc Cường Ba, khóe mắt đỏ lựng lên. Trác Mộc Cường Ba liền ôm cô vào lòng, vuốt tóc an ủi: “Được rồi, không sao là tốt rồi.”

Lữ Cánh Nam bước ra chỗ bậc thang, chỉ thấy bóng Max đã trở nên hết sức mơ hồ, bèn hỏi Ba Tang: “Đó chính là tên bị thương lúc nãy à?” Ba Tang gật đầu. Lữ Cánh Nam lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì?” Cô cũng không hiểu nổi, ba người vậy mà lại để một tên địch đã bị thương, tay không vũ khí chạy thoát.

Trác Mộc Cường Ba cũng đã đến chỗ bậc thang, ngước mắt nhìn lên, thấy trời sắp tối tới nơi, cũng không còn bóng dáng lũ chim khổng lồ đảo lượn trên không nữa, bèn nói: “Mang ba lô lên trước, cứu bọn Trương Lập ra rồi tính sau.”

Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang, Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn đi xuống, mới phát hiện đã mất hai cái ba lô, không biết là bị tên Max kia lấy, hay bị lũ chim quắp đi mất. Bên dưới đã không còn tiếng kêu của bọn người Lỗ Mặc, tên Max hẳn đã chạy xa rồi. Bốn người bèn mang luôn cả sáu cái ba lô lên, Đường Mẫn lập tức xử lý vết thương cho đội trưởng Hồ Dương, còn Trác Mộc Cường Ba thì mang dây thừng cho Nhạc Dương, Trương Lập ra khỏi hang động, chuẩn bị nghỉ đêm lại luôn phía trên này.

Nghe Ba Tang kể lại chuyện Max chạy thoát, Lữ Cánh Nam thở dài nói: “Chúng ta khinh địch quá.” Trác Mộc Cường Ba cũng thầm lắc đầu, nếu không phải chính miệng Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương chứng thực, gã không thể nào tin được, một kẻ như thế, vừa lắc mình một cái đột nhiên biến thành con người hoàn toàn khác. Còn cuộc chiến thần bí mà bọn Nhạc Dương kể, thì hoàn toàn nằm ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Đồng tiền xu đó, sau khi tìm trong máy tính, phát hiện là của nước I, giờ vẫn còn lưu hành trên thị trường. Lẽ nào nước I lại có cao thủ như vậy? Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đều rất lo lắng, không hiểu những kẻ đáng sợ ấy đã tìm được Bạc Ba La thần miếu hay chưa? Nếu những cao thủ ấy vẫn còn đang ở nơi này, vậy bọn họ làm sao ứng phó nổi? Những người ấy tuyệt đối không phải hạng đối thủ đơn giản như Merkin. Đồng thời, Trác Mộc Cường Ba cũng rất lo lắng, có phải sau khi Đường Thọ phát hiện ra Tử kỳ lân đám người đó mới đến đây? Liệu Tử kỳ lân đã bị họ dẫn đi hay chưa? Đêm hôm đó, mọi người đều ngủ không ngon.

Chương 23

Quách Nhật Niệm Thanh

Sáng sớm hôm sau, khi chắc chắn người Lỗ Mặc đã bỏ đi, họ liền rời khỏi khu di tích, tiếp tục tiến về Tước Mẫu. Lần này, không còn gặp bọn chúng kết thành từng đàn lớn nữa, có một vài con lẻ tẻ thì cũng nhanh chóng lẩn bay lẩn biến mất. Trác Mộc Cường Ba không khỏi nhớ lại cảm giác kỳ dị hôm qua, lẽ nào bọn chúng bị thứ gì đó sai khiến nên mới tấn công họ hay sao?

Theo lời Địch ô An Cát Mẫu, chỗ di tích của người Mục ấy nằm giữa thôn Công Nhật Lạp và Tước Mẫu, vậy nghĩa là chỉ cần nửa ngày đã có thể đến Tước Mẫu rồi. Nhưng bôn ba cả nửa ngày trời vẫn chẳng thấy bóng dáng Tước Mẫu đâu, phía trước càng lúc càng nhiều khe suối, nước chảy tràn lan, đường đi nhầy nhụa bùn lầy, khiến họ buộc lòng phải rời xa vách đá, vòng vào trong rừng. Đi vòng vèo trong rừng một lúc, bỗng phát hiện ra đã mất phương hướng, họ bèn dùng dây đỏ đánh dấu lại, thử đi thử lại một hồi lâu, cuối cùng cũng ra khỏi được khoảng rừng như mê cung ấy. Vừa ra khỏi rừng, cả bọn đã ngẩn người ngạc nhiên, phía trước có đến vài chục người xếp thành đội ngũ chỉnh tề, cung kính chờ đợi họ!

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba ngây ra mất một lúc, nhất thời không biết là địch hay là bạn. Mấy chục người này ai nấy đều vai lớn eo rộng, phần thân trên để trần vạm vỡ như vận động viên thể hình. Đặc biệt là người trông có vẻ như là đội trưởng kia, cơ hồ cao ngang với Trác Mộc Cường Ba, nhưng vai còn rộng hơn vai gã, cánh tay cũng lớn hơn tay gã. Những người này, thoạt nhìn đã biết đều là các chiến sĩ dũng mãnh. Nhưng họ lại đang cung kính đứng thành một hàng, không cầm vũ khí, có vẻ như không có địch ý.

“Các vị là ai?” Trác Mộc Cường Ba bước lên hỏi.

“À, à, các vị khách tôn quý, cuối cùng cũng đợi được các vị rồi.” Giọng nói cất lên trả lời gã nghe eo éo chói tai, nhưng lại cố ý làm ra vẻ khàn khàn, nếu là giọng nữ thì còn lý giải được, nhưng đây lại là giọng nam. Bất thình lình nghe thấy giọng nói ấy, đến cả người giỏi chịu đựng áp lực tâm lý như Trác Mộc Cường Ba cũng không khỏi rùng mình.

Người vừa lên tiếng không phải võ sĩ, mà giữa đám võ sĩ ấy bỗng có một bóng người lách ra, cao chưa đến mét rưỡi, đại khái chỉ cao hơn Đa Cát một chút, đầu cạo trọc bóng lộn như cái bóng đèn, chứng tỏ thân phận của y cũng là một vị Địch ô. Có lẽ y vẫn luôn đứng trước đám võ sĩ kia, chỉ có điều thân hình quá thấp lùn nhỏ bé, nên chẳng ai chú ý đến sự tồn tại của y cả. Gã lùn đầu trọc này làm bộ làm tịch khom người một cái, rồi lại cất cái giọng khiến người ta nghe mà rởn cả gai ốc, tóc gáy dựng ngược ấy lên: “Cuối cùng cũng đợi được các vị rồi. Các vị là người Giáp Mễ, đúng không.” Ánh mắt của gã lùn trọc đầu lướt qua trên trang phục và ba lô của bọn Trác Mộc Cường Ba, hiển nhiên cũng không chắc chắn lắm. Có điều, dường như y cũng đã nhanh chóng xác nhận được, miệng cười toe toét ngẩng đầu lên, bộ dạng thân thiết ấy khiến Nhạc Dương và Trương Lập lấy làm thích thú, cảm giác như mình là khách quý được tiếp đón ở khách sạn năm sao vậy. Nhưng bọn Trác Mộc Cường Ba thì lại hết sức đề phòng với kiểu cười ấy, bởi vừa mới chiều hôm qua thôi, họ đã gặp nụ cười ấy ở một kẻ tên là Max.

“Phải rồi, chúng tôi là người Giáp Mễ. Sao ông biết?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Gã lùn trọc đầu ấy tiếp tục cười cười nói: “A ha, ta nói rồi mà, nghe tin các vị sắp đến, ta đặc biệt phụng lệnh quốc vương đến đây chờ đón.” Giọng nói cố làm bộ làm tịch ấy đầy vẻ nịnh bợ, cộng với ngữ điệu eo éo quái đản, nửa âm nửa dương, khiến người ta không khỏi nhớ đến những nhân vật nam luôn tin rằng mình là đàn bà trong phim. Đường Mẫn bất giác thầm nghĩ, lẽ nào đây chính là Địch ô đại nhân của Tước Mẫu? Thế này thì đáng sợ quá. Còn bọn Trác Mộc Cường Ba thì đoán rằng, chắc là có dân làng nào đến Tước Mẫu trước, mang theo tin tức về họ đến đây. Duy chỉ có Nhạc Dương cảm thấy, gã lùn này nói năng dường như rất hàm hồ, không nói là ai báo tin, mà cũng chẳng nói là biết tin lúc nào. Đồng thời, anh cũng chú ý đến mắt trái của đối phương, tròng đen đã bị một màu xám đục thay thế, con mắt trái đó là đồ giả! Có điều, nụ cười xun xoe kia đã che giấu đi khuyết điểm nhỏ này, nếu giọng nói của y không cố tình làm điệu làm bộ như thế, có khi Nhạc Dương cũng chỉ lướt qua mà không để ý cho lắm.

Gã lùn vỗ vỗ lên cái đầu trọc lốc của mình, lại nói tiếp: “À, quên mất chưa tự giới thiệu, ta tên là Quách Nhật Niệm Thanh, vị này là Thâm Tô, đội trưởng đội hộ vệ cung đình. Xin mời theo chúng ta, các vị khách tôn quý, đại vương của chúng ta sẽ tiếp đón các vị bằng nghi lễ long trọng nhất.”

Bọn Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, họ đang định đến Tước Mẫu, giờ có người dẫn đường tất nhiên là chẳng còn gì hơn. Lữ Cánh Nam lẳng lặng ra hiệu ngầm với Ba Tang và Trương Lập, bảo họ cảnh giác, hai người cũng làm ám hiệu hồi đáp. Hai bên giới thiệu qua loa, đôi mắt sắc bén của Quách Nhật Niệm Thanh đã nhanh chóng phán đoán được ai là người đứng đầu đội ngũ này, vậy là Trác Mộc Cường Ba liền trở thành Cường Ba đại nhân của y.

Quách Nhật Niệm Thanh khom người làm tư thế mời giống như một nhân viên tiếp tân chuyên nghiệp, thân thể lùn tịt cộng với tư thế vụng về ấy khiến y trông như một con gấu Koala vậy, đến Đường Mẫn cũng không khỏi nảy sinh một chút hảo cảm.

“À à à!” Quách Nhật Niệm Thanh làm bộ như vừa trông thấy ba lô trên lưng bọn Trác Mộc Cường Ba, vội vỗ mạnh vào trán mình nói: “Hãy để đám thuộc hạ này mang giúp các vị những thứ nặng nề ấy. Tuy bọn chúng rất ngu, chẳng làm được việc gì ra hồn, nhưng được chút sức khỏe vẫn còn dùng được. Có thể ra sức cho các vị khách tôn quý, sẽ là niềm vinh hạnh cả đời của chúng.”

“Việc này, không cần đâu.” Trong một thoáng, Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam đã trao đổi ánh mắt.

“Không, không, sao có thể được? Đây là việc của bọn người dưới mà. Vả lại, vị này chân bị thương rồi, vậy mà cũng không cần chúng tôi giúp sao? Nếu để quốc vương thấy chúng tôi tiếp đón sơ sót như thế, chúng tôi, chúng tôi thật không biết phải làm sao nữa.” Quách Nhật Niệm Thanh rối rít thanh minh, bộ dạng cuống cuồng, như thể sẽ bị quốc vương trừng phạt cho sống không bằng chết vậy.

“Phải đấy, Cường Ba thiếu gia, cứ giao cho họ cầm đi, không thì họ chẳng biết ăn nói thế nào mất.” Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại, thấy Trương Lập và Nhạc Dương đã không chờ được mau chóng cởi những chiếc ba lô nặng nề xuống giao cho đám võ sĩ kia giữ hộ rồi, giờ lại còn quay qua nói giúp cho Quách Nhật Niệm Thanh. Nhạc Dương vừa thấy Trác Mộc Cường Ba liếc về phía mình, liền đắc ý cúi xuống nhìn khẩu súng trên tay, ý chừng muốn nói, vũ khí vẫn ở trong tay chúng ta, kiếm mấy người vác ba lô cho cũng chẳng có gì là không được. Nhìn bộ dạng hì hì hà hà của anh, chắc chắn là đã muốn bỏ bớt gánh nặng này đi từ lâu rồi.

Cuối cùng, ba lô đều giao cả cho đám võ sĩ khiêng vác, họ chỉ mang theo một vài món vũ khí phòng thân, đi theo phía sau. Trong lúc trò chuyện, mới biết Quách Nhật Niệm Thanh vẫn chưa phải là Địch ô, mà chỉ là đồ đệ của Địch ô đại nhân, nhưng bọn võ sĩ như Thâm Tô vẫn gọi y là đại nhân. Bọn Trác Mộc Cường Ba đều không ngờ một đồ đệ của Địch ô mà địa vị cũng cao như vậy. Lúc họ hỏi về tình hình ở Tước Mẫu, Quách Nhật Niệm Thanh nhất nhất đều trả lời rất tận tình. Tuy nhiên, có lẽ vì nụ cười và giọng nói của y, Trác Mộc Cường Ba cứ có cảm giác y trả lời không được đầy đủ sự thực cho lắm, bèn quay qua nói chuyện với Thâm Tô. Đối với vị đội trưởng đội hộ vệ cung đình còn cao to hơn cả mình này, Trác Mộc Cường Ba ngược lại còn thấy có nhiều thiện cảm hơn, nhưng tay Thâm Tô này chỉ hỏi một câu đáp một câu, gương mặt từ đầu chí cuối đều không lộ ra chút cảm xúc gì. Còn Quách Nhật Niệm Thanh, trên mặt lúc nào cũng nở nụ cười tiêu chuẩn đó, tựa hồ đã được rèn luyện đặc biệt rồi vậy. Y lượn lờ giữa cả bọn, cung kính trả lời mọi câu hỏi, lúc cặp chân vừa to vừa ngắn của y chuyển động, trông toát lên một vẻ hài hước khôn tả, thường thường khiến mọi người phải bật cười. Khi bọn Trác Mộc Cường Ba đề nghị được gặp Địch ô đại nhân, Quách Nhật Niệm Thanh chẳng cần nghĩ ngợi gì đã đáp ứng ngay, điều này lại khiến Trác Mộc Cường Ba thầm sinh nghi, nhưng không nói ra được rốt cuộc là khả nghi ở điểm nào. Gã chợt thấy rất nhớ giáo sư Phương Tân, giá mà có thầy giáo gã ở đây...

Đi qua trận địa cạm bẫy trong rừng, vượt qua ngọn đồi nhỏ chắn ngang phía trước, sự chuyển biến to lớn của không gian khiến người ta kinh ngạc đến không thốt nổi thành lời. Bầu trời u ám của rừng rậm bỗng sáng rỡ lên, phía trước là một cái hồ lớn trải ra mênh mông bát ngát, đây là cái hồ lớn nhất họ từng thấy ở Shangri-la này, so với nó, cái hồ nơi Trương Lập và Mã Cát gặp nhau chỉ có thể tính là cái bồn rửa mặt cỡ đại là cùng. Ngay phía trên hồ là một dải thác nước, đúng thế, một dải, chứ không phải một thác nước đơn lẻ. Bọn Trác Mộc Cường Ba từng thấy rất nhiều thác nước, ở châu Mỹ đã từng vượt thác dạng bậc thang hình vành khuyên, ở Mặc Thoát có thấy thác nước giữa khe núi, còn cả thác nước dạng chùm trên dòng U Minh hà, nhưng nếu nói về hùng vĩ tráng lệ, thì không đâu so được với thác nước ở trước mắt này. Nhìn từ gần ra xa, thác nước trắng xóa liền thành một dải với hồ nước, bọt nước cuộn lên thành sóng như muôn ngàn đụn tuyết, hơi mù bắn tóe bốc ra cả mấy trăm mét, che mờ mặt hồ, phảng phất như thể cả nửa hồ nước đang sôi lên sùng sục. Đó đã không còn là một dải lụa trắng giữa trời xanh, cũng không phải ngọc long đang lượn giữa từng không, mà là muôn ngàn muôn vạn ngôi sao băng trắng xóa sầm sập đổ xuống chỗ hổng giữa trời và đất. Nhìn bằng mắt thường, cả đường chân trời, không đâu là không bị quân đoàn sắc trắng sầm sập như tuyết lở ấy thay thế.

Điều khiến người ta kinh ngạc nhất là, đứng bên bờ hồ rõ ràng cảm thấy mặt đất khẽ rung lên, hơi ẩm vấn vít quanh mình, nhưng lại không nghe thấy tiếng “ầm ầm” vang động, âm thanh ấy men theo mặt hồ phiêu đãng ra tận xa tít tắp, cảm giác như một khúc nhạc giao hưởng thời viễn cổ, du dương dìu dặt.

Theo Quách Nhật Niệm Thanh giới thiệu, tầng bình đài thứ hai của Thánh vực bị hồ nước thiên nhiên này chia làm hai phần, phía bên này là vương quốc Langbu, phía bên kia là vương quốc Yaca, thác nước hùng vĩ như một kỳ tích của tạo hóa này được gọi là Màn Trời Màu Bạc, kỳ quan duy nhất trong Thánh vực Tứ đại kỳ quan ở tầng bình đài thứ hai này. Còn hồ nước lớn bên dưới gọi là Nặc Nhật Lang Thố, tức biển Sinh Mệnh.

Khi mọi người đều kinh ngạc trầm trồ trước kỳ quan của thiên nhiên, Lữ Cánh Nam vẫn cảnh giác cao độ. Cô hiểu rất rõ, những cảnh đẹp dễ khiến người ta có cảm giác quên mất mình đang ở nơi đâu, thông thường cũng là hoàn cảnh thích hợp nhất để phát động tấn công. Có điều, đám võ sĩ kia đều đứng yên như cọc gỗ đóng xuống đất, trên mặt Quách Nhật Niệm Thanh vẫn đeo một nụ cười hòa nhã, không có dấu hiệu gì bất ổn cả. Lữ Cánh Nam bất giác thầm nhủ, lẽ nào mình đã quá đa nghi rồi?

Tước Mẫu được xây dựng phía sau thác nước, nhìn kiểu tạo hình của các hang đá, thì chắc là kiến trúc cùng thời kỳ với di tích của dân tộc Mục mà bọn Trác Mộc Cường Ba đã nghỉ lại đêm qua, chỉ có điều bên ngoài không có vách tường, mà thay bằng những mũi giáo dài nhọn hoắt đâm tua tủa, nhìn như thể vách núi há ngoác miệng ra, với hàm răng sắc nhọn. Cái miệng đó vươn mãi về phía sau, không biết có nối liền với những tổ chim kia không. Phía trước thì chui vào đằng sau thác nước, không biết đâu mới là tận cùng. Có mấy cầu thang hơn nghìn bậc phân bố rải rác trên vách đá, nhưng họ không đi lối cầu thang, mà dùng ròng rọc thả giỏ tre xuống kéo lên. Nhìn những cầu thang đá ngoằn ngoèo không có lan can ấy, Nhạc Dương không kìm được buột miệng nói: “Nơi này đúng là thành lũy dễ thủ khó công, chỉ có điều lên xuống ra vào cũng thực quá phiền phức.”

Quách Nhật Niệm Thanh cười cười đáp: “Tại sao phải lên xuống ra vào chứ? Chẳng qua để nghênh đón các vị khách tôn quý, chúng tôi mới cố tình xuống đó thôi. Bằng không thường ngày, trừ các binh sĩ đi huấn luyện, hoặc các thương nhân lai vãng, những người khác đâu cần phải lên xuống làm gì chứ.”

Nhạc Dương lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Không lên xuống thì ăn gì?”

Quách Nhật Niệm Thanh mỉm cười: “Bên trên rất rộng, chúng tôi có thể tự cấp tự túc.”

Giỏ treo được từ từ kéo lên, Nhạc Dương nhanh chóng chú ý thấy, chỗ buộc dây thừng ở chính giữa giỏ treo không trực tiếp treo vào, mà thông qua một bộ ròng rọc, đầu bên kia sợi thừng, cũng được nối với một bộ ròng rọc khác. Khoảng cách giữa hai bộ ròng rọc này khoảng mười lăm mét, như vậy tính ra, từ mặt đất lên đến Tước Mẫu, áng chừng có khoảng hai ba chục bộ ròng rọc như vậy. Đây rõ ràng lại là một kỳ tích do người Qua Ba sáng tạo ra, vừa giải quyết được vấn đề độ dài của dây thừng, lại giải quyết được cả vấn đề tải trọng cho giỏ treo. Về vấn đề này, họ đã nhận được đáp án khẳng định từ Thâm Tô. Tương truyền rằng, loại giỏ treo này đúng là kỳ tích của người Qua Ba, nhưng đến ngày nay, người Tước Mẫu đã học được cách chế tạo loại giỏ này và tiến hành cải tạo, cái giỏ lớn nhất có thể tải được tới năm mươi con bò. Quách Nhật Niệm Thanh ngấm ngầm lườm Thâm Tô một cái, tựa như đang trách anh ta không nên nói chuyện bí mật ấy cho người ngoài. Nhạc Dương nhạy bén phát giác ra nét mặt đó, đồng thời cũng để ý thấy, tuy Quách Nhật Niệm Thanh lúc nào cũng toe toét miệng cười, nhưng nói câu nào cũng đều quan sát rất tỉ mỉ phản ứng của họ.

Thấy vậy, anh không khỏi thầm nhủ: “Hừm, thái độ dè dặt này, có phải là sợ đắc tội với chúng ta, hay là còn ý đồ nào khác nhỉ? Nhưng, chúng ta vừa mới đến đây, lẽ nào đêm hôm qua kẻ địch đã đến rồi? Không, chúng ta đã đi con đường gần nhất rồi, hơn nữa còn đuổi kịp mấy tên đi cùng tuyến đường với mình. Nếu còn những tên khác, thì chẳng có bản đồ, lại còn bị người Lỗ Mặc truy kích, thể lực cũng không bằng được chúng ta, tỉ lệ chúng có thể đến đây trước chúng ta gần như bằng không; mà dẫu cho chúng có đến đây trước chúng ta, thì cũng chỉ khiến người Tước Mẫu thêm cảnh giác, chúng có biết nói tiếng bản địa hay không cũng còn chưa xác định được nữa là... nếu vậy thì đám người Tước Mẫu này sẽ không hoan nghênh chúng ta như vậy. Nếu như...” Nhạc Dương loại trừ hết mọi khả năng, cuối cùng đưa ra kết luận: “Tên Quách Nhật Niệm Thanh này là một nhà ngoại giao rất giỏi, có lẽ còn là thân tín bên cạnh quốc vương, rất giỏi quan sát lời ăn tiếng nói của kẻ khác, song cũng không có ác ý gì. Nơi này cũng sơn thanh thủy tú, không biết có cô Mã Cát nào đang đợi mình nhỉ? Hì hì...”

Trong lúc trò chuyện, giỏ treo đã dần lên đến đỉnh, bọn Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc nhận ra, khe nứt nơi xây thành Tước Mẫu nhìn bên dưới thì không lớn lắm, lên tới đây mới phát hiện, chiều cao khe nứt này áng chừng khoảng bảy mươi mét, độ sâu e rằng phải tính bằng ki lô mét, ít nhất cũng phải trên mười nghìn mét, chiều rộng trải về hai phía lại càng không thể đo đếm. Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hiểu ra, thì ra những khe nứt này không phải do bàn tay con người tạo ra, mà do vách đá trên tầng bình đài thứ ba chịu lực không đều, gây ra sự đứt gãy, từ đó hình thành một bình đài nhỏ nằm giữa hai tầng, cả thành Tước Mẫu tọa lạc trên tầng bình đài nhỏ này.

Có thể gọi nơi này là tòa thành của những kỳ tích, khắp nơi đều là di tích văn minh cổ của người Qua Ba lưu lại. Hàng giáo nhọn chĩa lên trời ở chỗ rìa mép bình đài, nhìn từ dưới lên thì chẳng khác nào những mũi giáo bình thường, nhưng lên phía trên này mới thấy, mỗi cây đường kính đều lên đến cả mét, tua tủa vươn lên những độ cao khác nhau, cây dài nhất chắc khoảng hơn sáu chục mét, ngắn nhất cũng bốn năm chục mét, có lẽ là dùng để phòng ngự lũ chim khổng lồ kia tấn công. Để đảm bảo những cây giáo khổng lồ này được cố định ở đó, phần chôn trong vách đá ít nhất cũng phải dài ngang với phần lộ ra bên ngoài. Nhìn những khối kim loại khổng lồ ấy, họ bỗng nhớ lại những trụ đồng trong Đảo Huyền Không tự, có trời mới biết người ta đã đúc nên những cây cột khổng lồ đó như thế nào. Bên ngoài mũi giáo vẫn sáng bóng như mới, phát ra những tia sáng vàng nhạt, thật khó mà tin nổi, chúng đã đứng ở đây suốt cả nghìn năm rồi. Hợp kim đồng, đúng là một thứ kỹ thuật thần kỳ.

Ở trên đỉnh khe nứt, còn có thể trông thấy rất nhiều vật hình tròn, giống như những cái gương lớn. Những vật hình tròn này hắt ánh sáng từ bên ngoài vào những ngóc ngách bên trong khe nứt, làm cả bình đài gần như luôn giữ được độ sáng như nhau. Theo lời Thâm Tô, hồi trước những tấm tròn đó còn nhiều hơn, nhưng vì một số bị rơi xuống, không đặt trở lại được, mà cũng chẳng ai biết những người Qua Ba kia đã đặt chúng lên như thế nào cả. Ngoài các tấm gương tròn, phía trên đỉnh còn phủ chi chít những vật hình ống, dùng ống nhòm quan sát kỹ, thì ra không phải đường ống gì, mà là loại thực vật quấn chặt vào tất cả mọi thứ họ từng gặp trong Đảo Huyền Không tự, có điều ở đây chúng được dùng vào mục đích khác. Thứ thực vật này, một đầu vươn ra ngoài khe nứt, bám theo vách đá bò lên, chắc là vươn thẳng vào trong thác nước, nhờ đặc tính sinh học kỳ lạ của chúng mà hút nước ở thác vào thành Tước Mẫu, rồi thông qua hệ thống ống dẫn đục đẽo vào vách đá, đưa nước đến từng nhà một.

Đến gần mép bình đài nhỏ, họ đã thấy các binh sĩ đang chuyển động bánh xe đưa giỏ treo lên. Thật không ngờ, cả một đoàn năm chục người mà chỉ cần hai binh sĩ. Giỏ treo dần dần lên cao hơn mép bình đài, Tước Mẫu, đô thành của vương quốc Langbu cũng dần dần hiện ra trước mắt họ.

Nhìn đồng cỏ rộng mênh mông xuất hiện, cả bọn Trác Mộc Cường Ba cơ hồ không dám tin vào mắt mình, thì ra đây chính là Tước Mẫu, chẳng trách Địch ô đại nhân ở thôn Công Nhật Lạp lại bảo với họ, đó là nơi không có rừng, hết sức thoáng đãng sáng sủa, hơn nữa lại không sợ Cộng mệnh điểu tấn công. Nơi này hoàn toàn khác với chỗ di tích của người Mục, đồng cỏ bát ngát tựa như phủ lên một tấm thảm màu xanh lục, vô số bò dê ung dung gặm cỏ, xa xa là những thửa ruộng trồng trọt, chủ yếu là trồng ngô và lúa mì Thanh Khoa, ngoài ra còn có rau xanh, củ quả, được phân thành từng khu vực trồng trọt, quy hoạch rất ngay ngắn thẳng hàng. Nhìn sang bên trái không thấy tận cùng, sang bên phải cũng không thấy tận cùng, nơi này hoàn toàn là một không gian độc lập hẳn với rừng già bên dưới.

Đội trưởng Hồ Dương lập tức nhớ đến Machu picchu của người Inca và khu công viên quốc gia Mesa Verde ở Mỹ, thành Tước Mẫu này gần như là sự tổng hợp của hai kỳ quan ấy. Nhìn ra ngoài, nhìn xuống dưới, thành Tước Mẫu này trăm phần trăm có thể coi là nơi cao nhất mà họ thấy ở tầng bình đài thứ hai này. Những gò đồi trập trùng nhấp nhô, một dải màu xanh vươn ra xa tít tắp, chỉ cần đứng trên tòa vương thành này đã đủ trải nghiệm cảm giác cúi nhìn cả thiên hạ rồi; nhìn vào trong, nhìn lên trên, cả tòa thành xây dựa vào núi, đục đá làm nhà, tầng tầng lớp lớp, cao dần lên như ruộng bậc thang. Ruộng vườn và nhà cửa được xây thành từng vòng xen kẽ, vươn đến tận bên dưới vách đá của tầng bình đài thứ ba. Ngoảnh nhìn sang phía trái, liền trông thấy biển Sinh Mệnh cuồn cuộn bọt sóng trắng xóa vỗ bờ, lũ chim đảo lộn giữa tầng không, một tấm màn bạc từ trời cao chảy xuống, vài cầu vồng ẩn ẩn hiện hiện phía sau thác nước, bắc ngang qua bầu không của vương thành; phóng mắt nhìn sang bên phải là cả một khoảng rừng xanh ngút ngàn, rặng núi xa xa trập trùng, trong rừng thảng hoặc vang lên tiếng gió vi vu, làm cây lá dập dềnh như sóng, hòa với tiếng nước vỗ bờ biển, tạo nên một bản giao hưởng mỹ diệu tuyệt trần.

Nếu mới rồi ở bên bờ biển Sinh Mệnh, khung cảnh tráng lệ hùng vĩ mang cho họ cảm giác chấn động đến tận sâu thẳm tâm linh, vậy thì lúc này khi đứng trên vương thành Tước Mẫu, họ lại được hưởng thụ một vẻ đẹp bình lặng, hiền hòa, trời đất êm ả, gió thổi du dương, một vẻ đẹp có thể khiến tâm hồn người ta trở nên thanh khiết. Vách đá từ thuở hằng cổ hồng hoang, mặt nước mênh mông cuộn sóng, ngàn vạn năm đã ngưng tụ thành một thứ thiền ý. Con người ở giữa khung cảnh ấy, tâm theo gió, ý theo sóng, đứng trên tuyệt đỉnh, cảm giác mình là bậc cường giả đang cúi nhìn chúng sinh bất giác trào dâng lên trong tâm khảm, mỗi người tựa hồ đều hóa thành một ngọn núi, đắm chìm trong sự thanh bình tĩnh lặng, để mặc cho y phục tung bay trong gió.

Đúng lúc ấy, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang chợt giật mình cảnh giác. Trác Mộc Cường Ba khẽ kêu lên: “Cẩn thận!” Ba Tang thì đã nghiêng mình sang một bên, né tránh đòn tấn công từ phía sau, đồng thời quát hỏi: “Làm gì vậy?”

Cũng trong khoảnh khắc Trác Mộc Cường Ba cất tiếng ấy, Lữ Cánh Nam đã kịp thời né sang một bên, nhưng bọn Trương Lập, Nhạc Dương thì không phản ứng nhanh được như vậy. Đội trưởng Hồ Dương bị thương ở chân, lại càng không cần nói, Trương Lập vẫn đang đắm chìm trong cảnh sắc tuyệt mỹ của Tước Mẫu, đột nhiên cảm thấy phía sau có tiếng gió, ý nghĩ né tránh vừa lóe lên trong đầu thì đã bị võ sĩ phía sau ghìm chặt. Nhạc Dương lăn người xuống đất, bị bốn năm tên võ sĩ vạm vỡ nhảy bổ lên, cũng nhanh chóng bị khống chế. Đường Mẫn nghiêng người lách sang một phía, vừa khéo lại đụng trúng vào lòng một tên khác, chưa kịp vận sức, đã bị đối phương giữ chặt hai tay, không nhúc nhích nổi. Ba Tang lập tức rút súng ra, nhưng lại bị Trác Mộc Cường Ba chặn nòng súng lại. Chỉ thấy đám võ sĩ kia đã đẩy Trương Lập, Nhạc Dương, đội trưởng Hồ Dương ra phía trước mình, Đường Mẫn cũng bị Thâm Tô khóa ngoặt tay ra phía sau, nhấc lên như nhấc một con gà con, hàm răng nghiến chặt lại, gượng không phát ra tiếng kêu.

Lữ Cánh Nam cũng đã rút súng ra, đang đối mặt với ba tên vạm vỡ, cả ba đều không dám áp sát quá, nhưng cũng không tản ra, hai bên cứ gầm ghè nhau như thế; pháp sư Á La thì đã biến mất trong lúc hỗn loạn, dưới đất có bốn tên võ sĩ nằm hôn mê bất tỉnh, trong thành Tước Mẫu có tiếng quát tháo ầm ĩ, đằng xa vẳng lại tiếng hò hét đuổi bắt.

“Đứng yên!” Nụ cười trên mặt Quách Nhật Niệm Thanh bỗng biến đổi, trở nên lạnh lùng dữ tợn, chỉ vào khẩu súng Ba Tang đang cầm trên tay: “Đặt vũ khí trong tay các ngươi xuống! Bọn ta biết, vũ khí đó rất lợi hại, nhưng, các ngươi muốn đẩy bạn bè mình vào chỗ chết trước sao?”

Y ngầm ra ám hiệu, Trương Lập, Nhạc Dương, đội trưởng Hồ Dương liền bị đẩy ra phía trước, Đường Mẫn cũng bị Thâm Tô nhấc lên cho lơ lửng bên ngoài giỏ treo, chỉ cần y buông tay, cô sẽ lập tức rơi xuống từ độ cao mấy trăm mét. Lữ Cánh Nam không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, xem ra, chỉ từ cách đối thoại và cử chỉ của họ, đối phương đã nhận rõ quan hệ của từng người thế nào. Đồng thời, chúng không hề nôn nóng động thủ, mà để họ lơ là cảnh giác, đây là một âm mưu đã được tính toán hết sức công phu cẩn mật, lẽ nào tất cả đều do gã lùn này đạo diễn? Kẻ này thật quá giảo hoạt...

Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng quát hỏi: “Tại sao? Tại sao lại làm như vậy?”

Chương 24

Nhà ngục Tước Mẫu

“Hả... tại sao?” Quách Nhật Niệm Thanh cười gằn: “Bọn người Giáp Mễ các ngươi đã làm Địch ô đại nhân của chúng ta trọng thương, còn ra vẻ vô tội nữa. Chúng ta đợi các ngươi lâu lắm rồi, đừng hòng tên nào thoát được!” Y đưa mắt nhìn về phía hướng pháp sư Á La bỏ chạy, lẩm bẩm nói: “Không ngờ lão già đó mới là kẻ lợi hại nhất, ta nhìn lầm mất rồi.”

“Làm... Địch ô đại nhân trọng thương?” Trác Mộc Cường Ba hiểu ra, đã có người tới trước khi họ đến Tước Mẫu, hơn nữa còn khiến Địch ô đại nhân ở đây bị thương. Thế nhưng, đối thủ cũng vừa hôm qua mới đuổi kịp họ, vậy thì những người đó là ai? Ai đã đến đây trước họ, còn khiến Địch ô đại nhân trọng thương nữa?

Nhạc Dương tuy đã bị bắt, nhưng lại là người đầu tiên có phản ứng, lập tức than thầm trong bụng: “Tính sót rồi! Lúc nhảy dù, trong đám người kia nhất định đã có kẻ bị gió thổi tạt về phía trước. Bọn chúng từ trên cao trực tiếp nhảy xuống, khả năng có người rơi xuống phía trước chúng ta cũng không phải là không có, thật không ngờ mình lại bỏ sót mất.”

“Đừng lãng phí thời gian nữa! Ném hết những thứ trong tay các ngươi xuống, đừng hòng giở trò, nhanh lên!” Quách Nhật Niệm Thanh bất ngờ nghiến răng rít lên, âm thanh đột nhiên cao vút đâm vào màng nhĩ, khiến người ta không khỏi giật thót mình. Lữ Cánh Nam thầm nhủ: “Đột nhiên đổi giọng uy hiếp kẻ địch... tâm lý chiến! Y đúc rút ra từ trong thực chiến sao? Kẻ tự xưng là đồ đệ của Địch ô đại nhân này, rốt cuộc có vai trò gì trong thành Tước Mẫu?”

Quách Nhật Niệm Thanh không cho họ thời gian suy nghĩ, chỉ thấy hắn giơ ngón tay ra, chầm chậm chỉ về phía Trương Lập, mấy tên võ sĩ đang giữ chặt anh liền bất ngờ nhấc bổng Trương Lập lên, chuẩn bị ném xuống bên dưới. “Gượm đã...” Trác Mộc Cường Ba vội ra hiệu cho Ba Tang ném súng đi. Lữ Cánh Nam cũng đặt súng xuống, cô lẳng lặng rút băng đạn ra, đặt súng ở vị trí có thể kịp thời cầm lên khi có cơ hội. Lúc này mới nghe Trác Mộc Cường Ba nói: “Đừng làm vậy. Các vị lầm rồi, chúng tôi và những kẻ các vị đã gặp tuyệt đối không phải đồng bọn. Làm ơn tin chúng tôi, làm rõ mọi việc trước đã.”

Ba Tang nhìn tên lùn đó với ánh mắt khinh miệt, anh ta hiểu rõ, tên Quách Nhật Niệm Thanh này chỉ muốn đánh cược một phen, để xem quan hệ giữa bọn họ rốt cuộc là thế nào, dù họ có không buông súng, Quách Nhật Niệm Thanh hẳn cũng không dám dễ dàng ném Trương Lập xuống. Thật đáng tiếc, lại để đối phương giành phần thắng trong canh bạc này, bởi bất luận thế nào, Cường Ba thiếu gia cũng không thể giở bộ mặt lạnh lùng tàn khốc ra được.

Trương Lập bị nâng lơ lửng giữa không trung, cúi nhìn xuống dưới, quả tim như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực.

“Không phải đồng bọn? Ha ha, cái túi trên lưng các người giống hệt của chúng, vũ khí cũng chẳng khác gì, chúng ta làm sao tin được?” Quách Nhật Niệm Thanh chỉ mấy khẩu súng dưới đất, phái ra một người nhặt hết lên.

Câu nói này của Quách Nhật Niệm Thanh càng khiến Trác Mộc Cường Ba thêm nghi hoặc. Chỉ có Nhạc Dương là chứng thực được suy đoán của mình, quay sang cười khổ với Trác Mộc Cường Ba, thầm nhủ: “Thật ngại quá, Cường Ba thiếu gia, tôi tính sót mất rồi.”

“Ông phải tin chúng tôi, chúng tôi không có ác ý gì cả, người dân làng Công Nhật Lạp có thể làm chứng, chúng tôi chỉ đi qua đây, chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ làm hại bất cứ ai. Còn một đám người nữa, chúng cũng có trang bị hệt như chúng tôi, đó mới là những tên ác đồ giết người như ngóe, đi khắp nơi cướp bóc.” Tuy không hiểu nội tình thế nào, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn nói sự thực.

Thâm Tô kéo Đường Mẫn vào trong giỏ treo, hỏi: “Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân, giờ tính sao?”

Quách Nhật Niệm Thanh đảo tròng mắt một vòng, nói: “Dẫn chúng đi, tách ra giam giữ. Bắt được lão già kia rồi tính sau.”

Không ngờ còn chưa gặp được quốc vương và Địch ô đại nhân đã bị đưa thẳng vào nhà lao. Chỗ này ẩm ướt tối tăm, nằm giữa khe đá, không thấy mặt trời, mùi ẩm mốc và máu tanh nồng nặc trong không khí, khiến người không khỏi đầu váng mắt hoa, chỉ muốn nôn ọe. Cây đuốc trên tay đám võ sĩ áp giải họ chỉ có thể chiếu sáng được khoảng năm sáu mét phía trước, trong bóng tối xung quanh dường như có động vật phát ra những tiếng “sột sột soạt soạt”, nước nhỏ xuống nền đá vang lên “tí tách tí tách”, lại bị tiếng vọng trong hang khuếch đại lên, nghe váng cả óc.

Hang đá được đục đẽo thành những gian nhà lao khác nhau, ngăn cách bằng chấn song gỗ. Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn ở gian ngoài cùng, hai gian giữa là đội trưởng Hồ Dương và Trương Lập, Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương, gian cuối cùng là Ba Tang và một người khác nữa.

“Cứ ngoan ngoãn mà đợi ở đây đi, Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân sẽ làm rõ mọi chuyện. Đừng mơ chạy thoát, nếu bị phát hiện, sẽ ném các ngươi vào hố bọ cạp đó!” Trước khi bỏ đi, tên lính còn ném lại một câu như thế.

Ngọn đuốc vừa bị mang đi, nhà lao liền trở lại tối đen như mực, xung quanh cũng còn không nhìn thấy được, đừng nói đến chuyện chạy trốn.

“Mọi người đều không sao chứ?” chỉ nghe giọng Trác Mộc Cường Ba cất lên trong bóng tối.

Trương Lập xoa xoa ngực nói: “Cũng còn may. Nhạc Dương, cậu không bị thương chứ? Bị bốn năm tên to vâm như thế đè lên cơ mà.”

“Tôi còn khỏe hơn anh ấy.” Nhạc Dương đáp. “Mẫn Mẫn, cô không sao chứ?”

“Cô ấy ở đây, khỏe lắm.” Lữ Cánh Nam đáp thay.

“Ưm, em không sao.” Mẫn Mẫn nói: “Vết thương ở chân đội trưởng Hồ Dương vẫn ổn chứ?”

“Ừm,” đội trưởng Hồ Dương đáp một tiếng.

Không ngờ lại gặp phải chuyện thế này, xem ra đãi ngộ đặc biệt ở thôn Công Nhật Lạp đã khiến cả bọn đều lơ là cảnh giác, nói cho cùng vẫn là do thiếu kinh nghiệm.

“Rốt cuộc là chuyện gì vậy? Những kẻ có ba lô và trang bị giống chúng ta, không thể nào đến đây trước được chứ nhỉ?”

“Là lúc chúng nhảy dù xuống...” Nhạc Dương nói ra suy luận và kết quả quan sát của mình. Lữ Cánh Nam tức giận trách: “Sao cậu không nói sớm ra?” Nhạc Dương chỉ biết cười khan: “Hì hì... việc này, tôi quên mất...”

“Cái gã lùn tên Quách Nhật Niệm Thanh cũng không đơn giản, rốt cuộc hắn là người như thế nào vậy?” Đội trưởng Hồ Dương chợt lên tiếng hỏi. Những người khác cũng chìm vào trầm tư, phải rồi, từ cách xưng hô tôn kính của đám binh sĩ với Quách Nhật Niệm Thanh, xem ra uy vọng của y trong mắt các binh sĩ không hề thấp, tuyệt đối không đơn giản chỉ là một học trò tầm thường của Địch ô đại nhân.

Nhạc Dương bám vào hàng chấn song đi một vòng, rồi ước đoán: “Mỗi gian nhà lao rộng đến tám mét vuông, cần gì phải chia chúng ta ra nhỉ?”

Lữ Cánh Nam nói: “Để đề phòng chạy trốn chứ còn gì, dựa trên sự chênh lệch về năng lực của tù binh mà đưa ra điều chỉnh. Dù mở được cửa gian nào, Cường Ba thiếu gia và Mẫn Mẫn cũng không thể bỏ nhau lại mà chạy trốn, Nhạc Dương và Trương Lập cũng vậy, đội trưởng Hồ Dương bị thương ở chân càng không cần phải nói. Còn nếu Ba Tang muốn bỏ lại chúng ta chạy trốn, thì anh ấy lại chỉ có một mình, khả năng thoát khỏi chỗ giam cầm rất thấp. Mà người hiểu biết về các chốt bẫy cơ quan như Trương Lập, lại bị nhốt chung với đội trưởng Hồ Dương bị thương, nên cũng coi như chỉ có một người. Vậy là, trừ phi toàn bộ các cánh cửa đều được mở ra, bằng không chúng ta chẳng ai có thể thoát được. Như vậy, họ sẽ có đủ thời gian vây chặt chúng ta lại. Tôi thật hy vọng đây chỉ là một sự trùng hợp, nhưng rất rõ ràng, đối phương chỉ quan sát trong thời gian rất ngắn, đã phán đoán ra được quan hệ giữa chúng ta, cùng đặc điểm tính cách cũng như năng lực hành vi của mỗi người. Con người tên Quách Nhật Niệm Thanh, là một đối thủ rất đáng sợ. Nếu không thể chứng minh được sự thanh bạch, sợ rằng trong thời gian ngắn chúng ta cũng khó mà rời khỏi nơi đây lắm.”

Nhạc Dương thốt lên: “Lợi hại thật!”

Trương Lập đã lần mò được khóa sắt trên cửa, khẽ nói: “Hình như cũng không khó mở lắm.”

Đội trưởng Hồ Dương nghe thấy tiếng khóa sắt xủng xoẻng, liền nhắc nhở Trương Lập: “Cẩn thận chút, sợ là có cạm bẫy.” Anh vừa dứt lời, Trương Lập liền cảm thấy như có con sâu nhỏ từ xích sắt bò lên cánh tay mình, liền đờ người ra đó, không dám nhúc nhích, mãi đến khi con sâu kia bò qua mu bàn tay, mới dám rụt về, bổ sung thêm: “Nhưng cũng không phải dễ.” Đội trưởng Hồ Dương nói: “Chạm phải cái gì vậy?” Trương Lập gãi gãi đầu: “Hình như là sâu bọ gì đấy.”

Đường Mẫn thỏ thẻ nói: “Không biết pháp sư Á La thế nào rồi?”

Trương Lập đáp: “Pháp sư rất lợi hại, chắc không có vấn đề gì đâu. Nếu pháp sư bắt sống được quốc vương Tước Mẫu đến đổi lấy tự do cho chúng ta thì tốt quá, ha ha.”

Nhạc Dương “phì” một tiếng nói: “Đồ ngốc, anh không thấy pháp sư đánh ngã bốn tên võ sĩ liền bỏ chạy sao? Dựa vào vũ lực không thể giải quyết vấn đề được đâu, huống hồ pháp sư Á La lại càng không bao giờ dùng cách đó.”

“Tại sao chứ?” Trương Lập không hiểu, đối với anh, dùng quốc vương Tước Mẫu đổi lấy tự do cho họ là điều hết sức hợp lý.

“Đúng là đồ ngốc, đầu óc chẳng dùng để suy nghĩ gì cả. Nhưng mà tứ chi anh cũng phát triển gì lắm đâu nhỉ, sao đầu óc lại đơn giản thế?” Nhạc Dương châm chọc.

Trương Lập nổi giận gắt gỏng: “Cậu... cái thằng này! Nếu không phải đầu cậu chỉ nghĩ đến đàn bà, chúng ta cũng chẳng rơi vào thế bị động như thế này!”

Lữ Cánh Nam nói: “Cậu quên mục đích của chuyến đi này rồi hả, Trương Lập? Nếu Địch ô đại nhân ở đây là người duy nhất có thể giải trừ cổ độc cho Cường Ba thiếu gia, sao chúng ta có thể tùy tiện trở mặt với người Tước Mẫu được?”

“Bằng không thì chúng ta cũng chẳng cần thỏa hiệp, nổ súng luôn lúc ở trên giỏ treo, cũng có thể tiêu diệt cả đám người đó rồi.” Ba Tang lạnh lùng buông ra một câu.

Nhạc Dương nói: “Đấy đấy, anh Ba Tang còn bình tĩnh hơn cả anh nữa.” Trương Lập giờ mới hiểu thì ra quan hệ còn sâu xa đến thế.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không sao đâu, có lẽ pháp sư đã đi tìm Địch ô đại nhân ở thôn Công Nhật Lạp đến làm chứng cho chúng ta.”

“Ôi chà!” Trong bóng tối, Nhạc Dương đụng phải thứ gì đó, bất giác kêu lên một tiếng.

“Đụng phải cái gì đấy?” “Cái thằng tứ chi phát triển đó, lại va phải cái gì rồi?”

Nhạc Dương lần mò dưới đất, đoạn nói: “Đây là.. là một khúc gỗ, đặt ở đây làm gì nhỉ? Ghế ngồi chắc?”

Trác Mộc Cường Ba cũng đưa tay rờ thử: “Là một loại hình cụ. Cậu có sờ thấy một cái lỗ to bằng nắm tay không, người ta kẹp chân phạm nhân vào đó, giống như cái cùm vậy. Mỗi cái này có thể kẹp được chừng mười mấy phạm nhân, người bị khóa vào đây đứng không được, ngồi không xong, càng chẳng thể nằm, cực kỳ khổ sở.”

Nhạc Dương le le lưỡi, nói: “Vậy tính ra, đãi ngộ của chúng ta cũng vẫn còn khá nhỉ.”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Tại sao cả một nhà lao lớn thế này, mà chẳng thấy có phạm nhân nào nhỉ?”

Đội trưởng Hồ Dương vừa lên tiếng, họ mới phát giác hình như đúng là thế. Dọc đường tới đây, đi mất gần chục phút, theo lý mà nói thì nhà lao này không hề nhỏ, nhưng chẳng hề nghe thấy tiếng ai kêu gào, các phòng giam đều trống không, dường như chỉ có mấy người bọn họ thôi vậy.

Trác Mộc Cường Ba hướng sang phòng bên cạnh gọi: “Ba Tang, người ở chung phòng với anh còn sống hay đã chết? Thử hỏi bằng tiếng của họ xem sao.”

Nhạc Dương lẩm bẩm: “Không phải là tay trong được cài cắm từ trước đấy chứ?”

Ba Tang gọi mấy tiếng, mới có người cất giọng khan khan trả lời: “Ai đánh thức ta dậy thế? Tối tăm thế này cũng không để yên một chút được à?” Giọng nói lên bổng xuống trầm, như người đang ngâm thơ vậy.

Giọng Ba Tang không được dễ nghe như vậy, phát âm rất gượng gạo lắp bắp: “Tại sao anh bị giam ở đây? Chỗ này không còn người nào khác à?”

“Hả?” người kia dường như vừa phát hiện trong nhà lao có thêm mấy người nữa, kích động thốt lên: “Trong bóng tối mịt mùng kia, lẽ nào là đồng bào nơi cố thổ? Các người đã vượt qua biển Sinh Mệnh đến nơi đây sao?” Anh ta vừa nhúc nhích một chút, xích sắt liền kêu lên loẻng xoẻng.

“Băng qua biển Sinh Mệnh?” Ba Tang nghe không hiểu lắm. Trác Mộc Cường Ba ở gian bên cạnh đã lập tức hỏi: “Anh là người Yaca à?”

“Yaca, cái tên thật quen thuộc biết bao, đã bao lâu rồi ta chưa nghe thấy? Một năm, hai năm, hay là ba năm...”

Nói chuyện một lúc, họ tìm hiểu được, người này tên là Giang Dũng Trát Lỗ, ba năm trước đã đại diện cho vương quốc Yaca đến Tước Mẫu đàm phán, chỉ vì phạm phải một sai lầm không thể tha thứ, nên mới bị giam lại nơi đây, từ đó mất liên lạc với tổ quốc. Còn việc đó là tội lỗi gì, thì hỏi thế nào anh ta cũng không chịu nói, chỉ một mực tự trách, bảo mình đã làm tổn hại đến một người cực kỳ tôn quý. Sai lầm ấy, dẫu có mất đi mười cái mạng, anh ta cũng không thể đền bù được.

Từ Trát Lỗ, họ còn biết được gã lùn trông hết sức tầm thường Quách Nhật Niệm Thanh kia không ngờ lại là đại tướng quân nổi tiếng nhất vương quốc Langbu, trong cuộc đại chiến với Yaca, y đã nhiều lần lập được chiến công hiển hách. Con mắt giả đó của y là bị tên bắn phải trên chiến trường, sau khi trúng tên, y vẫn còn cưỡi trên lưng ngựa, mũi tên vẫn găm trong mắt, vung đao chém bay đầu một vị danh tướng của Yaca, đồng thời đột phá vòng vây đào tẩu. Lúc đó, Yaca đã đánh qua biển Sinh Mệnh, đồng thời phong tỏa tất cả đường về Tước Mẫu. Ai nấy đều tưởng rằng, không có đại Địch ô trị liệu, Quách Nhật Niệm Thanh chắc chắn sẽ không thể sống nổi, chẳng ngờ, không biết y được ai chữa trị cho, lại sống khỏe mạnh trở về, còn dẫn quân giải nguy cho Tước Mẫu.

Ba năm trước, hai vương quốc ký hiệp nghị đình chiến, cũng là do vị danh tướng này xúc tiến, các binh sĩ đều tôn xưng y là chiến thần, xưa nay chỉ biết tôn trọng và sùng kính, chưa từng có ai dám châm chọc chiều cao và tướng mạo của y cả.

Nghe câu chuyện của Trát Lỗ, Lữ Cánh Nam cuối cùng đã hiểu ra, chẳng trách tên Quách Nhật Niệm Thanh có thể vừa nhìn đã suy đoán được quan hệ và đặc điểm của mọi người trong bọn họ, lại am hiểu chiến thuật tâm lý, có thể âm thầm chỉ huy và điều động hơn ba chục binh sĩ phối hợp tác chiến. Tất cả những điều đó, đều phải đem cả sinh mạng ra đánh đổi trên chiến trường mới có được, thật nực cười là từ đầu chí cuối họ vẫn luôn nghĩ người ta chỉ là một tên hề vớ vẩn.

Đội trưởng Hồ Dương nhắc lại câu hỏi, sao trong nhà ngục này lại không có tù phạm nào khác. Giang Dũng Trát Lỗ nghe xong phá lên cười ha hả, đáp bằng giọng nói đặc biệt của mình: “Các người tưởng đây là nơi nào? Nhất định phải chật ních người sao? Đây vốn là nơi để giam giữ nô lệ và tù binh chiến tranh, đàn ông hầu hết đều đã tử trận, sau hiệp nghị ba năm trước, hai bên cũng đều trả hết tù binh, chỗ này mà có người mới là lạ đấy.”

Đường Mẫn hỏi: “Tại sao hai nước lại đánh nhau vậy?” Từ lúc ở thôn Công Nhật Lạp, họ đã muốn làm rõ nguyên nhân của cuộc chiến tranh sáu năm về trước, rốt cuộc nó có quan hệ gì với việc thôn Công Bố bị tiêu diệt? Chỉ có điều, trận chiến đó không lan đến thôn Công Nhật Lạp, về sau lại đánh sang tận Yaca, Địch ô An Cát Mẫu và Mã Cát đều không biết rõ cho lắm. Người tên Trát Lỗ này đã là sứ giả được phái đến ký kết hiệp định đình chiến, chắc chắn phải biết được điều gì đó.

“Ha ha ha...” Tiếng cười của Giang Dũng Trát Lỗ nghe sao mà thê thảm, “đúng vậy, tại sao phải đánh nhau chứ! Giữa người với người, tại sao cứ phải có chiến tranh bạo loạn? Thời viễn cổ, là để tranh đoạt thức ăn, tranh đoạt không gian sinh tồn; thời bộ lạc, là để tranh cướp nô lệ, tranh cướp đàn bà, đất đai; đến khi lập quốc, chiến tranh nổ ra chỉ do sở thích của người có quyền lực tối cao mà thôi, có thể vì một người đàn bà, một tấm Thangka, một món bảo vật hay một thứ gì đó chẳng hề đáng giá. Lịch sử của loài người, chẳng phải nhờ có chiến tranh nên mới tiến lên phía trước hay sao? Dù có trải thêm mấy nghìn năm nữa, con người rồi vẫn sẽ tương tàn để tranh đoạt cơ hội sinh tồn. Ở nơi ta sống kia...”

Cùng giọng kể trầm bổng như đọc thơ của Giang Dũng Trát Lỗ, bọn Trác Mộc Cường Ba dần dần có nhận thức mới về hai vương quốc Langbu và Yaca. Vương quốc Yaca chủ yếu là các dân tộc có truyền thống du mục, sống trên thảo nguyên, chia thành các bộ lạc, mỗi năm lại thiên di một lần. Còn vương quốc Langbu chủ yếu làm nghề nông, phân thành các thôn làng định cư. Sự khác biệt giữa hai vương quốc là do vị trí địa lý và điều kiện khí hậu quyết định. Trước khi nổ ra chiến tranh, mỗi mùa đều có thương nhân chuyên qua lại giữa biển Sinh Mệnh, lấy thịt của Yaca đổi lấy lương thực của Langbu, các chế phẩm từ da và lông của Yaca đổi lấy hàng dệt của Langbu, thảm lông đổi lấy tơ lụa, còn các tài nguyên khác thì mỗi bên đều có ưu thế riêng, như Yaca nhiều muối, Langbu nhiều gỗ, Yaca có đất sét...

Còn về trận chiến ấy, đúng như Mã Cát đã nói, có thể coi như một sự kéo dài của trận chiến mười tám năm trước. Mười tám năm trước, bộ lạc Cách Hùng ở Yaca đột nhiên bị người Thượng Qua Ba tiêu diệt, nguyên nhân không rõ tại sao. Nhưng thời đó, bộ lạc Cách Hùng là bộ lạc lớn thứ ba Yaca. Vì từ trước đó, hai vương quốc đã luôn có tranh chấp, chiến tranh liên miên, thù oán vốn sâu đậm, phía Langbu vừa thấy có cơ hội, bèn phát động chiến tranh tấn công Yaca để cướp đoạt của cải. Chẳng ngờ, dân Yaca ai ai cũng hung hãn dũng mãnh, chiến đấu cực kỳ ngoan cường, tuy đã tổn thất một bộ lạc lớn, nhưng vương quốc Langbu cũng không thể chiến thắng. Vì vậy, cuộc chiến mười tám năm trước tuy do vương quốc Langbu khởi đầu, nhưng rốt cuộc lại bị đại quân Yaca kéo rốc qua biển Sinh Mệnh, cướp sạch tài nguyên mang về.

Sáu năm trước, có một trận thiên tai, nhiệt độ trên tầng bình đài thứ ba đột ngột sụt giảm, tuyết đọng không tan, cái lạnh xâm chiếm thảo nguyên, khiến gia súc của các bộ lạc Yaca đều bị chết cóng chết đói, còn tình hình phía Langbu thì dễ chịu hơn nhiều. Thêm nữa, sau trận chiến mười tám năm trước, quân lực của vương quốc Langbu đã suy yếu, khiến các trưởng lão của Yaca lại hướng ánh mắt về đây, không biết phía quân đội đã tìm được cớ gì, mà Yaca tuyên chiến với Langbu. Nhưng chẳng ai có thể ngờ được, lần này, Langbu lại xuất hiện một tên Quách Nhật Niệm Thanh, gã lùn tướng mạo tầm thường ấy được người Langbu ca ngợi là chiến thần. Quân lực của Langbu không hề được tăng cường, hoàn toàn đều dựa vào những kế sách khéo léo của Quách Nhật Niệm Thanh mới đánh ngang tay được với đại quân Yaca. Hai bên giằng co bên hai bờ biển Sinh Mệnh, chiến tranh kéo dài suốt ba năm trời. Sau ba năm, những người tử trận, chết đói, chết bệnh gần như đã chiếm nửa số dân hai nước, đa phần lại đều là thanh niên trai tráng, hai bên đều đã sức cùng lực kiệt, vậy nên mới buộc phải tuyên bố đình chiến.

“Lại là người Thượng Qua Ba! Sao lại vậy nhỉ? Người Thượng Qua Ba lẽ nào thường tiêu diệt cả bộ tộc của người ta mà chẳng có lý do gì hay sao? Chẳng lẽ các người không biết phản kháng lại họ à?” Nhạc Dương nghe mà cảm thấy vô cùng phẫn nộ.

“Phản kháng?” Giang Dũng Trát Lỗ cười khổ: “Nói thì dễ lắm! Trong lịch sử không phải chưa từng xuất hiện chuyện phản kháng, nhưng chưa có lần nào thành công cả. Vào thời ông nội của ta, đã từng bùng nổ một cuộc phản kháng quy mô lớn nhất. Hai vương quốc Yaca và Langbu liên hợp lại được gần năm vạn tinh binh, định lật đổ sự thống trị của người Thượng Qua Ba, các binh sĩ xuất phát từ Côn Ba Thác, rầm rộ tiến lên tầng bình đài thứ ba, kết quả, họ không trở về nữa, một người cũng không. Nghe nói, ba ngày sau, dân cư ở hai bờ biển Sinh Mệnh phát hiện, thác nước màu bạc kia đã biến thành sắc đỏ, ba tháng sau, biển Sinh Mệnh biến thành biển máu, liên tục có những mảnh xác của binh lính hai nước nổi lên dập dềnh giữa biển máu ấy. Ngay trong đêm đó, mười mấy bộ tộc xuất binh nhiều nhất đều bị tiêu diệt toàn bộ, chỉ trong một đêm ngắn ngủi, họ đã vĩnh viễn biến mất trên bản đồ. Không ai phát hiện ra dấu vết của người Qua Ba, nhưng nhìn những xác chết ấy, có thể nhận ra khi đó họ thậm chí còn chưa kịp phản kháng lại đã tắt hơi rồi. Không ai biết người Thượng Qua Ba đã làm như thế nào, dường như họ đã biết trước tất cả, đồng thời có thể tùy ý qua lại giữa ba tầng bình đài như không. Phản kháng? Chẳng bộ tộc nào muốn bị tiêu diệt toàn bộ chỉ trong một đêm cả? Người Thượng Qua Ba là những kẻ không thể phản kháng được!”

Nghe những lời lẽ đầy kích động của Trát Lỗ, bọn Trác Mộc Cường Ba đều thầm kinh hãi. Đúng thế, Đạo quân Ánh sáng bách chiến bách thắng, sao có thể bị một đội quân bình thường đánh bại! Thế nhưng, tại sao họ lại nghiêm khắc khu biệt mình với những cư dân vốn sống ở đây từ trước như thế? Tại sao lại chẳng nể nang gì mà tiêu diệt cả bộ tộc người ta? Lẽ nào đội quân ấy đã không còn chút nhân tính nào, trở thành những kẻ điên cuồng chém giết rồi hay sao? Đáng sợ hơn nữa là, trong một đêm họ có thể tiêu diệt mười mấy bộ tộc cách nhau mấy chục thậm chí là cả trăm ki lô mét, đồng thời triệt thoái về tầng bình đài thứ ba mà không để lại dấu vết gì. Cách giải thích duy nhất là, những người Qua Ba đó có thể trực tiếp lên xuống giữa ba tầng bình đài, nhưng sao mà làm như vậy được? Bọn Trác Mộc Cường Ba dùng những thiết bị hiện đại nhất, cũng còn không thể thực hiện được cơ mà?

Chương 25

Giao dịch

Ba ngày sau đó đều bình an vô sự, tay Quách Nhật Niệm Thanh kia thậm chí còn chẳng buồn thẩm vấn, chẳng rõ y đã đi đâu.

Ngày thứ ba, Quách Nhật Niệm Thanh mới dẫn theo một đội hộ vệ đến nhà lao. Đám hộ vệ đứng xếp thành một hàng ngang trước bốn phòng giam, ánh đuốc chiếu sáng bừng cả khu nhà lao tăm tối.

Dưới ánh lửa, lần đầu tiên Ba Tang nhìn rõ tướng mạo Giang Dũng Trát Lỗ. Người này rất gầy, râu ria bờm xờm che kín cả nửa gương mặt, đôi mắt hõm sâu, vì cả mấy năm liền không thấy ánh mặt trời, sắc da anh ta trắng ởn ra như bị ngâm nước. Trên người Trát Lỗ còn phải đeo thêm cùm tay cùm chân, anh ta xòe hai tay về phía Ba Tang với vẻ cam chịu, ý rằng mình đã phạm phải sai lầm không thể tha thứ.

Quách Nhật Niệm Thanh quét ánh mắt nhìn đám người trong phòng giam, đột nhiên quát lớn: “Trương Lập!”

Trương Lập đang ngủ ngon lành. Đội trưởng Hồ Dương ngước mắt lên nhìn Quách Nhật Niệm Thanh, chỉ thấy ánh mắt y sao mà hung hãn dữ tợn, toát lên một nỗi hận sâu cay, tựa hồ muốn lao đến cắn người vậy. Anh cũng không biết Trương Lập đã đắc tội gì với vị Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân này, chỉ thầm nhủ: “Lẽ nào hôm đó Trương Lập chạm vào xích sắt đã bị phát hiện rồi? Thế này hình như quá lợi hại thì phải?”

Quách Nhật Niệm Thanh hằn học trừng mắt lên nhìn đội trưởng Hồ Dương thêm một lượt nữa, gật đầu nói: “Tốt lắm! Tốt lắm!” Đoạn, y lại đến trước cửa phòng giam Trác Mộc Cường Ba, lần này không hỏi han gì hết, mà trực tiếp nói với gã: “Nói đi, các người đến Tước Mẫu của chúng ta, rốt cuộc là có mục đích gì?”

Trác Mộc Cường Ba nghĩ thầm: “Bắt đầu thẩm vấn rồi đấy à?” Gã bèn đáp: “Vì tôi trúng phải Đại Thanh Liên cổ, đến Tước Mẫu, là muốn tìm Thứ Kiệt Đại Địch ô, nhờ ngài hóa giải cổ độc trên người.”

“Hử?” Quách Nhật Niệm Thanh đón lấy cây đuốc trong tay một tên hộ vệ, đưa vào trong hàng chấn song gỗ để nhìn rõ hơn. Quả nhiên, ở hốc mũi và miệng Trác Mộc Cường Ba có những vệt màu xanh nhàn nhạt, chỉ là bị râu ria che mất, không nhìn kỹ thì không thể nhận ra được. Quách Nhật Niệm Thanh bỏ đuốc ra, nghĩ ngợi giây lát, rồi đánh mắt ra hiệu với tên hộ vệ. Tên hộ vệ liền bước đến mở khóa. Trương Lập trong lúc mơ mơ màng màng vẫn để ý thấy, lúc mở khóa, tên hộ vệ dùng một thủ pháp kỳ quái gõ lên cái khóa mấy chục cái trước, trong lỗ khóa liền có một con rết màu đỏ, dài chừng ngón tay bò ra. Anh bất giác nhớ lại, đây rất có thể chính là thứ đã bò qua tay mình trong bóng tối, lòng thầm kinh hãi, lập tức trở nên hoàn toàn tỉnh táo.

Tên hộ vệ mở hết các cửa nhà giam, Quách Nhật Niệm Thanh lại nói: “Ra ngoài hết đi, đại vương của ta muốn gặp các vị.” Bọn Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn nhau, xem ra không giống thẩm vấn cho lắm, quá nửa là pháp sư Á La đã làm gì đó, khiến Tước Mẫu vương thay đổi thái độ với bọn họ.

Thâm Tô dẫn đội hộ vệ đi phía trước, còn Quách Nhật Niệm Thanh thì đi chung với đám người bọn Trác Mộc Cường Ba. Mới đi được một đoạn, liền nghe Quách Nhật Niệm Thanh hắng giọng lên tiếng trước: “Về chuyện hôm trước, là do chúng ta chưa điều tra rõ ràng, hy vọng các vị đừng để trong lòng.” Giọng y rất thấp, tựa như nói với Trác Mộc Cường Ba, lại giống như tự lẩm bẩm nói với chính mình.

Trác Mộc Cường Ba nhìn người đàn ông chỉ cao đến ngang ngực mình ấy, thầm nhủ: “Đây là xin lỗi ư? Lẽ nào pháp sư Á La đã chứng minh được chúng ta vô tội? Không, chỉ như vậy thì vẫn chưa đủ, nhất định là còn chuyện gì đó khác, bằng không quốc vương ở đây cũng không để vị đại tướng quân này đích thân đến xin lỗi như vậy.” Có điều gã cũng là người rộng lượng, vả lại mấy ngày nay Quách Nhật Niệm Thanh cũng không làm khó gì bọn họ, nên cũng bỏ qua cho xong. Trác Mộc Cường Ba nửa đùa nửa thật nói: “Thật không ngờ, người đón tiếp chúng tôi ngày hôm đó lại là đại tướng quân của Tước Mẫu, vậy mà bọn tôi chẳng nhìn ra được. Đúng là thâm tàng bất lộ, Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân.”

Quách Nhật Niệm Thanh nghe ra được ngữ khí của Trác Mộc Cường Ba, thở phào một tiếng nói: “Tên Giang Dũng Trát Lỗ đó, lẽ ra phải khiến hắn không nói được nữa mới đúng.”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Người tên Trát Lỗ đó rốt cuộc đã phạm phải tội gì? Bị giam cầm ba năm rồi!”

Quách Nhật Niệm Thanh đáp: “Các vị sẽ nhanh chóng biết thôi, hắn phạm phải một sai lầm không thể tha thứ được!” Nói đoạn, y liền chuyển qua chủ đề khác: “Đồ đạc của các vị, lát nữa ta sẽ trả lại. Những vũ khí đó khá lắm, để hỏa dược cháy bùng lên trong không gian chật hẹp, đẩy viên đạn sắt bắn về một hướng cố định nào đó, hòng va chạm mạnh vào mục tiêu. Kỹ thuật đúc đồng và sắt đạt tới trình độ rất cao, trước đây chúng ta chưa từng thấy vật nào như vậy cả.”

Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Chẳng trách tên Quách Nhật Niệm Thanh ba ngày qua không để ý tới chúng ta, thì ra là nghiên cứu các loại vũ khí đó. Gã này cũng thông minh thật.” Gã liền tỏ vẻ kinh ngạc nói: “Sao ông biết? Không phải các ông...”

Trên gương mặt Quách Nhật Niệm Thanh lại nở ra nụ cười quen thuộc ấy: “Người Giáp Mễ, các vị cũng coi thường chúng ta quá rồi đó. Theo các ghi chép lịch sử của Tước Mẫu chúng ta, hơn một nghìn năm trước khi người Qua Ba tới đây, họ đã mang theo các kiến thức về hỏa dược rồi. Mấy chục năm gần đây, Tước Mẫu chúng ta cũng thu thập được rất nhiều vũ khí tương tự như vậy, mới đầu chúng ta cũng không biết dùng để làm gì, nhưng rồi cũng nhanh chóng tìm hiểu được. Vũ khí của các vị rất tốt, cả về sức mạnh và tốc độ đều ưu việt hơn những loại chúng ta tìm được trước đây rất nhiều. Tiến bộ hơn cả là, vũ khí của các vị sau khi phát xạ, không cần dùng tay kéo chốt lại, mà có thể bắn liên tiếp được. Còn một loại vũ khí nữa, nhồi một lượng lớn thuốc nổ vào một vật chứa, sau khi đốt cháy có thể phá hoại một phạm vi nhất định xung quanh nó, ừm, cũng gần bằng vũ khí của người Thượng Qua Ba rồi đấy.”

“Ông... ông nói gì?” Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình kinh ngạc. Nghe cách nói của Quách Nhật Niệm Thanh, vũ khí của bọn họ vẫn chưa bằng được vũ khí người Qua Ba sử dụng từ hơn nghìn năm trước, làm sao có thể như thế được!

Quách Nhật Niệm Thanh nói: “Đúng vậy, trong truyền thuyết của bọn ta, người Qua Ba còn có những vũ khí lợi hại hơn nhiều, chẳng hạn như có một loại gọi là ‘tiễn cơ’, cũng có thể phát xạ liên tục, nhưng uy lực hơn xa vũ khí của các vị. Nó có thể bắn chiến tượng khoác giáp thành từng mảnh vụn, vũ khí của các vị làm được không?”

“Ồ.” Trác Mộc Cường Ba thấy yên tâm phần nào. Có vẻ như Quách Nhật Niệm Thanh đang nói đến những truyền thuyết kiểu như “bảy loại vũ khí truyền kỳ” của Shangri-la gì gì đó, thông thường đều có những phần được thần thoại hóa và khoa trương.

Thâm Tô dẫn bọn họ tới vương cung của vương quốc Langbu. Cũng khoét vách đá làm hang, xây phòng, chỉ khác là mở rộng hơn một chút mà thôi, nhưng so với những kỳ tích của người Qua Ba để lại kia thì chẳng toát lên chút khí phái huy hoàng gì cả. Thâm Tô chỉ đưa họ đến cửa, một tên binh sĩ khác liền chạy vào thông báo, còn Quách Nhật Niệm Thanh cười cười đứng trước cửa vương cung. Cánh cửa đó là một hình thang khoét vào vách đá, không có khung, không có giằng, cũng không có hình điêu khắc trang trí, mà chỉ có dấu vết đã được mài giũa. Có vẻ như các hình trang trí trước đây đã bị bóc đi theo yêu cầu của người Qua Ba rồi.

Lúc này, binh sĩ vào thông báo đã trở ra, nói rằng bọn họ có thể vào trong.

“Xin mời, các vị khách tôn quý.” Nụ cười trên gương mặt Quách Nhật Niệm Thanh không hề thay đổi, tựa như đã được đúc ra vậy.

Vương cung của vương quốc Langbu so với chữ “cung” thì còn kém rất xa, con đường đá dẫn vào bên trong vừa nhỏ vừa chật hẹp, hai người sánh vai là đã phải chen chúc, cũng chẳng có cái khí thế hai bước một trạm canh, ba bước một trạm gác. Trước tiên là đi men theo vách núi, sau đó rẽ ngoặt vào bên trong, không gian bắt đầu hơi tối đi, hai bên đường có những gian thạch thất nhỏ, thoạt trông đều không lớn hơn mười mét vuông. Họ đi tới trước một gian buồng đá lớn hơn một chút, nhìn có vẻ như là phòng làm việc của quốc vương, bước vào trong thì gần như thất vọng toàn tập. Đây chẳng qua chỉ là một gian phòng khách rộng hơn hai chục mét vuông tí xíu. Một cột sáng đường kính khoảng một mét từ trên chiếu xuống, làm gian phòng này sáng hơn bên ngoài một chút, Nhạc Dương ngẩng đầu lên quan sát, thấy trụ ánh sáng này là do vật thể hình tròn phía trên đỉnh vách đá phản xạ hắt xuống.

Phía sau trụ sáng có một người đàn ông ngồi xếp bằng, quả nhiên pháp sư Á La đang ngồi bên phải ông ta, còn Địch ô An Cát Mẫu thì ngồi bên trái. Thấy bọn Trác Mộc Cường Ba đi vào, pháp sư Á La và Địch ô An Cát Mẫu đều mỉm cười gật đầu chào hỏi.

Quách Nhật Niệm Thanh khom mình hành lễ với người đàn ông kia, đoạn nói: “Đại vương, đã đưa các vị khách đến.” Rồi lại quay sang nói với bọn Trác Mộc Cường Ba: “Gặp đại vương của ta, cớ sao không quỳ xuống?”

“Ừm,” người đàn ông phía sau trụ sáng cất tiếng, “khách quý từ xa đến, không quen phong tục của chúng ta ở đây, không cần phải quỳ... Tại sao lại tiếp đón chậm trễ thế? Mau mời khách quý ngồi đi.”

Quách Nhật Niệm Thanh lại liếc mắt nhìn bọn họ một cái, cười nói: “Xin mời.”

Trác Mộc Cường Ba ngồi xuống phía dưới pháp sư Á La, cách vị đại vương của Tước Mẫu ngồi sau trụ ánh sáng tương đối gần, có thể thấy Tước Mẫu vương thân hình hơi mập, lưng hơi còng, râu tóc đều đã bạc trắng, xem ra tuổi tác cũng khá cao rồi.

Tước Mẫu vương lại cất tiếng: “Nghe nói các vị khách từ bên ngoài đến, hai vị nữ Bồ Tát lại là hóa thân của Triết Kim Mã và Nhân Nãi Công Tái Mã 

1

, hôm nay được gặp, thực sự là vô cùng hân hạnh.”

Sau đó vị quốc vương ấy lại nói một tràng những lời khách sáo, đa phần là xưng tụng bọn họ, đồng thời khéo léo bày tỏ ý xin lỗi. Bọn Trác Mộc Cường Ba thấy được nể nang chiều chuộng quá, lại ngấm ngầm kinh hãi, thật không hiểu pháp sư Á La và Địch ô An Cát Mẫu đã nói gì với Tước Mẫu vương, tại sao thái độ của ông ta lại thay đổi hoàn toàn như thế?

Sau khi nói xong những lời mang tính lễ tiết, Tước Mẫu vương liền đi vào chủ đề chính: “Nghe nói các vị khách tôn quý đây có tài của Lục Độ Mẫu, mang theo vô số linh đơn diệu dược, có thể khởi tử hồi sinh, đã mang đến tin phúc lành cho dân chúng vương quốc Langbu chúng ta, thậm chí còn chữa khỏi được cho người trúng cổ độc.”

Lữ Cánh Nam ngập ngừng lên tiếng: “Thực ra chúng tôi chỉ...”

Tước Mẫu vương lại ngắt lời cô: “Thực không dám giấu gì, bản vương có một chuyện muốn nhờ vả, con gái ta...” Tước Mẫu vương chầm chậm kể lại đầu đuôi sự tình. Thì ra vị quốc vương này không có nhiều con cái, từng có một đứa con trai, nhưng đã chết yểu từ rất lâu rồi; đến năm năm mươi tuổi mới được một công chúa, coi như hòn ngọc trên tay, nhưng thật đáng tiếc, ba năm trước không hiểu vì sao vị công chúa ấy lại trúng phải Hắc cổ. Theo lời Thứ Kiệt Đại Địch ô, người trúng phải loại cổ độc này toàn thân sẽ thấy vô cùng ngứa ngáy, sau đó da dẻ sẽ mẩn lên những cục u, rồi dần dần mất đi thị lực, giờ đây công chúa đã gần như không nhìn thấy gì nữa rồi.

Bấy giờ cả bọn mới hiểu ra, chẳng trách vị quốc vương già này lại khách sáo với họ như thế, thì ra công chúa cũng trúng phải cổ độc. Nhưng rồi họ cũng lấy làm khó xử, cổ độc ở nơi này có hàng trăm loại khác nhau, họ cũng không chắc có thể chữa được cho công chúa hay không, vì vậy chuyện này cũng không tiện nhận lời ngay được. Có điều, dường như Tước Mẫu vương rất có lòng tin ở họ, lại nói thêm rất nhiều lời đẹp đẽ tán dương. Trác Mộc Cường Ba thầm nghi hoặc, vừa nãy Quách Nhật Niệm Thanh có nói với gã, người tên Trát Lỗ ấy đã phạm phải sai lầm không thể tha thứ, lại còn bảo một chốc nữa gã sẽ biết ngay, lẽ nào, Hắc cổ mà vị công chúa kia trúng phải, lại có liên quan đến Trát Lỗ hay sao?

“Vậy còn Thứ Kiệt đại nhân? Cả Thứ Kiệt đại nhân cũng không có cách trị liệu cho công chúa sao?” Nhạc Dương hỏi.

“À...” Tước Mẫu vương phát ra một tiếng thở dài. Quách Nhật Niệm Thanh đứng cạnh bèn giải thích: “Không phải thứ cổ độc nào Thứ Kiệt đại nhân cũng giải được. Vì thuật dùng cổ độc của các Địch ô chỉ được truyền miệng từ đời này sang đời khác, nên có rất nhiều loại cổ độc đã thất truyền, như loại Vạn Xà Thực Tâm cổ mà các vị khách tôn quý đã chữa trị được đó, Thứ Kiệt đại nhân cũng không có cách nào giải trừ được.”

Đường Mẫn nói: “Chúng tôi cũng không chắc chắn lắm. Như vậy đi, để chúng tôi xem bệnh tình của công chúa trước đã. Ngoài ra, chúng ta cũng muốn gặp Thứ Kiệt đại nhân nữa.”

“Việc này...” Quách Nhật Niệm Thanh chau mày nói: “Thực không dám giấu các vị, gặp công chúa thì không vấn đề gì, nhưng Thứ Kiệt đại nhân vừa bị trọng thương, giờ đang trong thời gian tĩnh dưỡng, không biết ngài có chịu gặp các vị không nữa. Đến cả Địch ô An Cát Mẫu cũng không được Thứ Kiệt đại nhân cho vời nữa đó.”

Đường Mẫn liền nói: “Không sao cả, vết thương của Thứ Kiệt đại nhân, biết đâu chúng tôi có thể chữa trị cũng không chừng.”

“A, vậy sao? Vậy thì tốt quá.” Không hiểu tại sao, lúc nói vậy, vẻ mặt Quách Nhật Niệm Thanh bỗng lộ ra vẻ vô cùng hân hoan.

Sau khi gặp mặt quốc vương, Quách Nhật Niệm Thanh trả lại cho họ ba lô và một phần vũ khí, nhưng các loại vũ khí có lực phá hoại lớn thì không được giao lại, chẳng hạn như lựu đạn, mìn tay, lựu đạn sáng, ống phóng hỏa tiễn xách tay... Quách Nhật Niệm Thanh nói, hy vọng bọn họ có thể hiểu cho y. Bọn Trác Mộc Cường Ba cũng hiểu được dụng ý của đối phương, nên cũng không nói gì nữa. Sau đó, họ được dẫn đến nơi Thứ Kiệt Đại Địch ô trú ngụ. Nơi này được đẽo ra một cái cửa hình tam giác trên to dưới nhỏ, đường vào vừa dài hẹp, vừa âm u. Trương Lập ngước mắt lên nhìn, thấy trên đỉnh đầu cũng có kính tròn hắt ánh sáng vào, chỉ là bên trong thông đạo lại chẳng thấy có chút ánh sáng nảo cả. Lấy thân phận là đồ đệ duy nhất của Thứ Kiệt đại nhân, Quách Nhật Niệm Thanh bảo bọn họ đợi bên ngoài một chút để mình vào trước thông báo. Không lâu sau, y trở ra nói: “Địch ô đại nhân chỉ đồng ý gặp mặt Trác Mộc Cường Ba và hai vị nữ khách, để không làm phiền đại nhân nghỉ ngơi, hy vọng ba vị có thể lần lượt đi vào. Những vị khác, thật xin lỗi, mời các vị theo Thâm Tô đi nghỉ ngơi, đại vương của chúng ta đã chuẩn bị cho các vị một bữa tối thịnh soạn rồi.”

Trác Mộc Cường Ba là người đầu tiên theo Quách Nhật Niệm Thanh bước vào thông đạo, vừa qua chỗ rẽ, nơi này liền trở nên tối om như mực, ánh sáng bị chặn hết ở bên ngoài. Quách Nhật Niệm Thanh đưa bàn tay nhỏ mập mạp ngắn ngủn của mình ra, nắm lấy tay Trác Mộc Cường Ba nói: “Theo sát ta, không được chạm vào hai bên và trên đỉnh đầu, chỗ đó có sâu tường, nguy hiểm lắm.”

“Sâu tường?” Trác Mộc Cường Ba lần đầu tiên nghe thấy danh từ này.

Quách Nhật Niệm Thanh đáp: “Ừm, phải biết rằng, nơi cư trú của Địch ô đại nhân, dù không có hộ vệ thì người thường cũng không thể dễ dàng tiến vào trong được.”

Không biết đã rẽ ngoặt mấy lần, phía trước mới xuất hiện một tia sáng mờ mờ. Nhờ chút ánh sáng yếu ớt đó, Trác Mộc Cường Ba mới nhìn rõ sâu tường mà Quách Nhật Niệm Thanh nói là thứ gì. Trên đầu có lưới, vô số dơi treo ngược mình, thi thoảng có con giật mình tỉnh giấc, liền tung cánh bay là là trên không trung như một mảnh giấy đen; nhưng hai bức tường hai bên mới thực sự khiến người ta phải nổi da gà, vô số loài sâu bọ mà Trác Mộc Cường Ba không biết tên bị ghim chặt, bụng ưỡn ra ngoài, chi chít chằng chịt không để hở một chút không gian nhỏ bé nào.

Lũ sâu bọ ấy có con bốn chân, có con sáu chân, có con tám chân, toàn bộ đều vẫn còn sống, gió khẽ thổi qua liền quẫy động những cái chân ấy thật nhanh, giãy giụa quằn quại, khiến cả bức tường như sống dậy. Nhìn màu sắc lốm đốm loang lổ trên cơ thể bọn sâu bọ ấy, không cần nghĩ cũng biết, nếu bị chúng cào cho một nhát, hoặc cắn cho một cái, hậu quả sẽ như thế nào.

Vào trong phòng, lập tức có thể ngửi thấy mùi thuốc bắc nồng nặc, trên tường đóng đầy giá gỗ, trên giá đặt đủ các loại chai lọ lớn nhỏ khác nhau. Trên tường, trên mặt bàn, thậm chí cả dưới sàn, đều vẽ đầy những ký hiệu thần bí cổ quái, nhìn qua cột ánh sáng, có thể thấy không khí trong phòng bốc lên thành từng cụm từng cụm, bay lững lờ, có cụm màu xanh, có cụm màu tím, màu lam. Trác Mộc Cường Ba không khỏi thầm ngờ vực, không biết liệu có phải ở nơi này càng lâu, tuổi thọ sẽ càng rút ngắn đi hay không.

Đại Địch ô Thứ Kiệt nằm trên giường, trên người đắp hờ một cái chăn bện bằng lông bò Yach màu đen, tuổi tác có vẻ còn lớn hơn cả quốc vương, gương mặt không có chút thịt nào, nếu không phải trên đó vẽ đầy những ký hiệu màu đen, thoạt nhìn còn tưởng ông là một cái xác khô quắt queo. Ông vẫy tay với Trác Mộc Cường Ba gọi: “Lại gần đây, để ta nhìn cho rõ.”

Không hiểu vì sao, nhìn thấy bàn tay xương xẩu, cùng gương mặt vẽ đầy những totem khó hiểu, đôi mắt hõm sâu phát ra những tia mờ mờ trong bóng tối của Đại Địch ô Thứ Kiệt, Trác Mộc Cường Ba bỗng cảm thấy hơi căng thẳng. Đó không phải là cảm giác khi nguy cơ ập đến, mà giống như, cảm giác lúc đối diện với cha gã. Gã bước đến bên dưới cột ánh sáng, rồi không thể nào lại gần thêm được nữa. Trác Mộc Cường Ba không sao hiểu nổi, tại sao nhìn vị Đại Địch ô dung mạo trông có vẻ thật tà ác này, gã lại có cảm giác căng thẳng và bức bách như đang đối mặt với cha mình như thế.

Đại Địch ô Thứ Kiệt nheo mắt nhìn gã một hồi rất lâu, rồi gật đầu nói: “Tên là Cường Ba, phải không? Ừm, đây là Đại Thanh Liên cổ, thời trẻ ta có dùng qua một lần, đối với đứa trẻ ấy, thật quá tàn khốc. Tuy hắn đã phạm phải tội lỗi đáng chết, nhưng dùng Đại Thanh Liên cổ thực sự vẫn quá...”

Trác Mộc Cường Ba khẽ hỏi: “Vậy, Địch ô đại nhân có thể giải trừ được không?” Gã thầm nhủ, có lẽ vì lý do này mà mình thấy căng thẳng cũng nên.

Đại Địch ô Thứ Kiệt gật đầu: “Ừm, dùng Tằm Diên có thể giải được...”

“Nhưng mà...” Quách Nhật Niệm Thanh vừa nghe đã hơi cuống lên, “Thứ Kiệt đại nhân, chúng ta chỉ còn một bình Tằm Diên cuối cùng thôi, cả đại vương cũng không nỡ...”

Đại Địch ô Thứ Kiệt xua xua tay, ngoảnh mặt về phía Trác Mộc Cường Ba nói: “Ngươi cũng nghe thấy rồi đó, đứa nhỏ đáng thương. Nếu sáu bảy chục năm trước ngươi đến đây, muốn giải Đại Thanh Liên cổ vốn chẳng phải chuyện gì khó khăn. Có điều, giờ đây Tằm Diên dùng để giải độc chỉ còn lại một lần sử dụng duy nhất. Đối với đại vương của chúng ta, đó là thứ vô cùng trân quý, nếu cho cậu, đại vương sẽ không thể dùng nó để kéo dài tuổi thọ nữa, cậu có hiểu ý của ta không? Cường Ba?”

Trác Mộc Cường Ba vừa thoạt nghe đã lập tức hiểu, thứ gọi là Tằm Diên kia, xem ra không chỉ dùng để giải trừ Đại Thanh Liên cổ, mà còn là một thứ thuốc đại bổ có công dụng như linh đơn diệu dược gì đó. Chẳng có vị quốc vương nào lại không muốn được trường thọ cả, gã muốn dùng thứ đó để giải độc, thực chẳng khác nào đang tranh giành tuổi thọ với Tước Mẫu vương. Nhưng, sáu bảy chục năm trước lại chẳng phải chuyện khó khăn gì, vậy nghĩa là sao? Trác Mộc Cường Ba thầm thấy tức cười: “Sáu bảy chục năm trước? Lúc ấy tôi vẫn còn chưa biết mình ở đâu nữa kia.” Gã bèn hỏi: “Ý của Địch ô đại nhân, là bảo tôi từ bỏ ư?”

Đại Địch ô Thứ Kiệt lắc đầu nói: “Không phải, ý của ta là, nếu các ngươi có thể khiến công chúa mà đại vương coi như châu báu nhìn thấy ánh sáng trở lại, đại vương hẳn sẽ rất vui lòng dùng thứ có thể kéo dài tuổi thọ cho mình để giải độc cho ngươi.”

“Nhưng chúng tôi đều chưa gặp công chúa, tôi không dám chắc có thể giúp công chúa hồi phục được hay không nữa.” Trác Mộc Cường Ba cảm thấy đề nghị này hết sức đột ngột, gã cũng không ngờ vị Địch ô đại nhân này lại đưa ra phương thức trao đổi như thế.

“Chỉ cần các ngươi tận tâm tận lực, đại vương ta sẽ tự biết phán đoán.” Đại Địch ô Thứ Kiệt hơi nghển đầu về phía trước, đến một góc khuất chỉ có Trác Mộc Cường Ba trông thấy, bỗng lộ ra ánh mắt hết sức cổ quái. Quách Nhật Niệm Thanh đứng sau lưng Trác Mộc Cường Ba cũng âm thầm lộ vẻ trầm ngâm suy nghĩ gì đó.

Chương 26

Tinh linh tuyết

Trát Lỗ nói: “Ông nói đến Đại Địch ô Khước Ca Ba Nhiệt ư? Ông ta... là một người vô cùng thần bí, lều của ông ta luôn luôn ở sát bên cạnh lều của đại vương. Phần chóp lều trang trí bằng đuôi bò đen; vô số đầu người khô đét dựng phía bên trên, làm thành nóc lều; dùng ruột người vẫn còn đẫm máu làm dây thừng buộc lều; dùng xương người chết cắm xuống đất thay cho cọc gỗ. Khiến người ta thoạt nhìn, đã thấy lạnh hết cả người.”

Từ trong phòng đi ra, Trác Mộc Cường Ba hỏi Quách Nhật Niệm Thanh: “Sáu bảy chục năm trước từng xảy ra chuyện gì vậy?”

Quách Nhật Niệm Thanh gượng cười đáp: “Sáu bảy chục năm trước? E hèm, nghe nói vào thời kỳ đó, cả hai vương quốc đều trở nên lớn mạnh, lớn mạnh đến mức không biết trời cao đất dày là gì nữa, vọng tưởng phản kháng lại người Thượng Qua Ba, xuất binh đánh lên tầng bình đài thứ ba, kết quả khiến toàn quân bị tiêu diệt, lại còn kéo theo cả sự báo thù của người Qua Ba nữa, mười mấy bộ lạc và thôn làng bị tiêu diệt toàn bộ, trong đó có ba thôn làng là nơi duy nhất biết nuôi dưỡng Tằm Diên của cả vương quốc, sau khi họ bị tiêu diệt, Tằm Diên càng ngày càng ít hơn, đến giờ, thì gần như là tuyệt chủng rồi.”

Trác Mộc Cường Ba lập tức liên hệ với sự kiện phản kháng mà Trát Lỗ kể lúc ở trong nhà lao, xem ra là cùng một việc. Gã lại hỏi: “Tằm Diên là gì vậy?”

Quách Nhật Niệm Thanh nghĩ ngợi giây lát, đoạn trả lời: “Một loại sâu, gọi là nhộng thì đúng hơn, thực ra ta cũng chưa từng thấy thứ đó sử dụng như thế nào cả.”

Bước ra khỏi thông đạo, Quách Nhật Niệm Thanh lại dẫn Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đi vào trong. Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở: “Tuyệt đối không được chạm vào vách tường, tốt nhất là đừng nhìn, đặc biệt là Mẫn Mẫn.” Sau đó gã liền đi theo một tên hộ vệ tới một gian đại sảnh khác. Pháp sư Á La và những người khác đều đợi ở đó, mọi người đang nói chuyện vui vẻ, chỉ không thấy đội trưởng Hồ Dương đâu.

“Đội trưởng Hồ Dương đâu rồi?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Nhạc Dương lập tức đáp: “Ừm, được đưa đi chữa trị rồi. Lúc ở trong nhà giam, vết thương ở chân đội trưởng Hồ Dương có vẻ như bị nhiễm trùng.” Lần bị giam giữ này, vết thương của Lữ Cánh Nam đã khỏi, nhưng đội trưởng Hồ Dương lại trở bệnh nặng hơn.

Địch ô An Cát Mẫu lên tiếng: “Cứ yên tâm, loại vết thương này chúng tôi xử lý rất tốt.”

Thì ra đúng như Lữ Cánh Nam suy đoán, hôm đó sau khi thoát khỏi giỏ treo, pháp sư Á La chạy một vòng quanh thành Tước Mẫu, thoát khỏi bọn lính truy đuổi rồi trở lại thôn Công Nhật Lạp, đồng thời mời Địch ô An Cát Mẫu đến làm chứng cho bọn Trác Mộc Cường Ba, thêm nữa cũng có mấy dân làng đến Tước Mẫu, chuyện Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam trị được cho người trúng cổ độc liền lan truyền khắp thành. Lần này, Tước Mẫu vương vội vàng sai Quách Nhật Niệm Thanh đến nhà lao mời các vị khách tôn quý ra, tự nhiên cũng là hy vọng họ có thể trị được loại cổ độc mà con gái mình trúng phải. Trác Mộc Cường Ba cũng kể lại cuộc gặp gỡ với Đại Địch ô Thứ Kiệt, Trương Lập trầm ngâm: “Nói vậy là, nếu chúng ta không chữa được bệnh cho công chúa, Cường Ba thiếu gia chẳng phải là...”

Địch ô An Cát Mẫu cũng nói: “Nếu là Tằm Diên thì đúng là phiền phức lắm, nghe nói chúng đã tuyệt tích từ lâu lắm rồi, không ngờ trong vương cung vẫn còn lưu giữ.”

Trương Lập tò mò nói: “Tằm Diên rốt cuộc là cái gì vậy? Địch ô đại nhân.”

Nhạc Dương chợt thốt lên: “Đúng rồi, tôi nhớ pháp sư Tháp Tây từng nói, muốn giải trừ cổ độc trên người Cường Ba thiếu gia, cần đến một loại sinh vật khác, đã tuyệt tích lâu rồi, lẽ nào chính là thứ Tằm Diên này?”

Pháp sư Á La lắc đầu nói: “Không biết, tôi cũng chưa từng thấy. Nếu có pháp sư Tháp Tây ở đây thì tốt quá, hình như ông ấy từng tình cờ nhìn thấy hình vẽ của loại sinh vật ấy trong thư tịch cổ.”

Địch ô An Cát Mẫu nói: “Truyền thuyết kể rằng, Tằm Diên là do linh hồn của những đứa trẻ chết yểu hóa thành, vì vẫn chưa báo đáp được công lao nuôi nấng của người mẹ, nên chúng không nỡ ra đi, mà chọn lựa sáu mươi năm ẩn mình trong bóng tối tĩnh mịch, chỉ để đổi lấy một ngày sáng bừng lên, dùng tiếng ca bày tỏ lòng cảm ân. Dù là ấu trùng hay đã trưởng thành, thân thể Tằm Diên đều tuyền một màu trắng trong suốt, tựa như ngọc thạch vậy, tối đến sẽ phát ra ánh sáng màu trắng sữa, là một loại côn trùng rất đẹp!”

“A! Tinh linh tuyết!” Trương Lập khe khẽ kêu lên một tiếng, bỗng nhớ lại đêm trước lúc chia tay. Lần này Mã Cát phải chăm sóc những bệnh nhân trúng phải cổ độc, không đến được đây, Trương Lập càng lúc càng thấy nhớ cô hơn.

Địch ô An Cát Mẫu gật đầu nói: “Ừm, đúng thế, vì thân thể chúng trắng như tuyết, nên cũng có người nói đó là những tinh linh do bông tuyết hóa thành. Thuở trước có rất nhiều truyền thuyết về Tằm Diên, nhưng đa phần đều là những câu chuyện bi thương. Tôi cũng chỉ nghe nói, đó là một loại côn trùng nhỏ rất kỳ lạ, tương truyền, trứng của chúng chôn dưới đất hai mươi năm sau mới nở, ấu trùng cũng ẩn mình dưới lòng đất hai mươi năm mới kết thành nhộng, nhộng lại mất thêm hai mươi năm nữa mới biến thể lần thứ hai, sau đó chui lên mặt đất. Dưới ánh mặt trời, chúng chỉ sống được duy nhất một ngày, trong ngày hôm đó, chúng sẽ bay lượn, hát ca, giao phối, đẻ trứng, rồi chết đi. Nghe những người già kể lại, khúc hợp xướng của Tằm Diên là thứ âm nhạc mỹ diệu nhất trên thế gian này, tiếng ca của chúng làm trong sạch linh hồn con người, xua tan mệt mỏi, mang đến niềm vui. Chúng thường xuất hiện vào những lúc mùa màng bội thu, ở phía Đông thôn làng của chúng tôi, các vị chắc đã đi qua một cái hồ nhỏ, thuở trước đó là nơi chúng thích tụ tập quần cư. Thời đó, sau một năm cấy cày vất vả, thu hoạch mùa màng xong xuôi, mọi người thường tụ tập ở nơi có nhiều Tằm Diên nhất, pha một bình trà nóng, ngồi dưới gốc ngô đồng đón cơn gió mát, lặng yên lắng nghe khúc hoan ca cuối cùng của chúng. Bọn chúng thường vừa hát ca, vừa bay lượn quần nhau trên không trung, giao phối xong, con đực sẽ chết ngay, tiếng ca tức thì im bặt, khi dư âm vẫn còn văng vẳng trong không gian, thân thể chúng lả tả rơi xuống tựa những đóa hoa tuyết bay giăng giăng. Còn con cái sẽ thực hiện nốt sứ mệnh cuối cùng, bay đến nơi chúng đã rời khỏi mặt đất, đẻ trứng vào cái hang nhỏ mà chính chúng đã bò ra. Cũng ngày này sáu mươi năm sau, sinh mệnh sẽ được luân hồi một lần nữa. Khi ấy, mọi người lại mang theo niềm vui của một vụ mùa bội thu, tắm mình trong những đóa hoa tuyết cuối thu, ai về nhà nấy. Nếu năm đó Tằm Diên nhiều, năm sau nhất định cũng sẽ được mùa. Lại có truyền thuyết kể rằng, người nào được nghe Tằm Diên hát, cả đời đều sẽ được hạnh phúc.”

Địch ô An Cát Mẫu thở dài: “Tiếc rằng, giờ đây lũ trẻ gần như không còn thấy Tằm Diên nữa rồi.”

Nhạc Dương nói: “Nghe vậy thì hình như Tằm Diên là sinh vật hoang dã, sao lại tuyệt chủng được?”

Địch ô An Cát Mẫu ngần ngừ nói: “Việc này, nói ra thì thật hổ thẹn, không biết từ bao giờ, có một vị Đại Địch ô đã phát hiện ra, ấu trùng của Tằm Diên có thể trừ độc, sau khi ăn vào thân thể sẽ thêm khang kiện, đầu óc sáng suốt. Hơn nữa mùi vị của chúng rất thanh mát, ngọt mà không ngấy, vì vậy chúng liền trở thành món ăn ưa thích nhất của đại vương và các quý tộc, thậm chí còn thay cả thịt trâu bò trở thành món chính trên bàn ăn. Trải qua nhiều đời cố gắng, cuối cùng người ta đã phát hiện ra phương pháp thu hoạch được lượng lớn ấu trùng Tằm Diên, biết cách tìm kiếm những cái hang nơi Tằm Diên đẻ trứng, nên Tằm Diên hoang dã dần dần biến mất. Có điều, cũng may là có mấy bộ tộc đã phát triển được một phương pháp nuôi dưỡng Tằm Diên nhân tạo, từ việc chọn đất, đào lỗ, cấy nhộng, nuôi nhộng, đã hình thành nên một quy mô tương đối lớn, chỉ có điều vẫn không thể nào rút ngắn được thời gian sinh sản của chúng. Có điều, khoảng sáu bảy mươi năm về trước, đã xảy ra một sự kiện khủng khiếp...”

Trác Mộc Cường Ba cười khổ: “Tôi biết rồi, khoảng sáu bảy mươi năm trước, hai vương quốc lớn hợp nhau chống lại người Thượng Qua Ba, kết quả là toàn quân bị tiêu diệt, lại còn khiến người Qua Ba ngay đêm hôm ấy xuất binh tiêu diệt mấy bộ tộc có nhiều người tham gia nhất, hơn nữa mấy bộ tộc đó vừa khéo lại chính là những người duy nhất biết nuôi dưỡng Tằm Diên, vì vậy, phương pháp nuôi Tằm Diên nhân tạo cũng thất truyền rồi, có phải vậy không? Địch ô đại nhân?”

Địch ô An Cát Mẫu giải thích: “Theo tôi được biết, sự thực đúng là như thế. Trước đây, các vị đại vương và quý tộc ăn Tằm Diên có thể sống đến hơn chín mươi tuổi, dù là người sắp chết, ăn được một bát cháo Tằm Diên cũng có thể sống thêm dăm ba ngày nữa. Từ khi những bí mật đó bị phát hiện, tất cả đều diễn ra một cách hết sức tự nhiên. Đến giờ, cũng không thể nói là Tằm Diên đã tuyệt chủng, ở những nơi hoang vu, thỉnh thoảng cũng vẫn nghe thấy tiếng kêu cô lẻ của chúng, chỉ có điều, không còn cảnh cả bầy Tằm Diên lớn hợp xướng nữa, mà chỉ có những con đực một mình hát vang, không sao gọi được lũ Tằm Diên cái đến giao phối đẻ trứng, đành từ từ chết đi...”

Sáu mươi năm ẩn mình trong bóng tối, chỉ để đổi lấy một ngày được hoan ca dưới ánh mặt trời, một quyền lợi nhỏ nhoi như vậy mà cũng bị tước đoạt mất hay sao? Nhạc Dương chợt cảm thấy, những người Shangri-la này thật đáng ghét, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, lẽ nào mình chưa từng làm những chuyện tương tự? Có tư cách gì mà bình phẩm người khác đâu chứ...

“Ủa, mọi người sao vậy?” Lúc này, Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn vừa trở lại, thấy mọi người trong phòng đều chìm trong im lặng, gương mặt rầu rĩ, còn tưởng đã có chuyện gì xảy ra nữa.

“Không có gì.” Trác Mộc Cường Ba bước về phía Đường Mẫn: “Địch ô đại nhân vừa kể một câu chuyện thương tâm thôi.”

Đường Mẫn ngước mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Lát nữa kể cho em nghe với.”

Lữ Cánh Nam nói: “Chúng tôi chỉ đến xem mọi người ở đâu thôi, giờ còn phải đi gặp công chúa đã.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Thương thế của Đại Địch ô Thứ Kiệt thế nào?”

Lữ Cánh Nam nói: “Có một chỗ bị đạn bắn xuyên qua, còn mấy chỗ khác đều chỉ sướt sát, tự họ đã xử lý rất tốt rồi, tôi thấy, chỉ vài ngày nữa là Thứ Kiệt đại nhân có thể xuống giường đi lại bình thường. Ừm, chuyện kia, việc của anh ấy, Thứ Kiệt đại nhân cũng nói với chúng tôi, chúng tôi biết phải làm sao rồi.”

Trác Mộc Cường Ba muốn nói vài câu cảm kích hoặc bày tỏ sự thân thiện, nhưng nhìn Lữ Cánh Nam, lại không sao thốt nổi thành lời, chỉ đành ngượng ngập nửa như cười nửa như không, cuối cùng, lại ngoảnh đầu lại nói với Đường Mẫn: “Em không sợ chứ?”

Đường Mẫn lắc đầu nói: “Đâu có đâu, tuy Thứ Kiệt đại nhân tướng mạo hơi hung ác một chút, nhưng thực ra tâm địa lại rất thiện lương. Nếu ông ấy có thể dùng Tằm Diên được, có lẽ đã trị liệu cổ độc cho anh luôn rồi.”

Lúc này Quách Nhật Niệm Thanh đã xuất hiện ngoài cửa, nói với Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn: “Hai vị, xin mời theo ta.”

Đường Mẫn lại ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Yên tâm đi, bọn em sẽ có cách mà.” Trác Mộc Cường Ba gật đầu, miễn cưỡng nở một nụ cười.

Vốn là, thân thể ngọc ngà của công chúa không thể tùy tiện cho người ngoài kiểm tra, nhưng Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam là hai vị Lục Độ Mẫu, đương nhiên không thể xét theo lẽ thường. Tẩm cung của công chúa được chiếu sáng bằng sáu bảy cột ánh sáng đường kính khoảng một mét, rất sáng sủa. Công chúa A Cát Lập Mẫu quỳ trên tấm thảm da dê, an tường, đoan trang, toát lên một vẻ trầm ổn không hợp với tuổi tác của cô cho lắm.

“Ta có thể tin các người không?” Đây là câu đầu tiên công chúa thốt ra. Sau khi biết những người này đến thăm bệnh cho mình, công chúa hết sức hợp tác, cả một số hành vi tương đối kích thích cô cũng cố gắng chịu đựng, có thể nhận thấy, niềm khát khao với ánh sáng của vị công chúa này đã vượt lên tất cả. Công chúa hết sức gầy gò, sắc mặt trắng bệch bệnh tật. Những chỗ như môi, đầu ngón tay đều không còn sắc máu, xem tình hình nếu không trị liệu, sợ rằng không chỉ còn là vấn đề mất đi thị lực, thân thể cô thực sự là quá gầy gò.

Theo lời kể của Quách Nhật Niệm Thanh, nguyên do chính là bởi người tên Trát Lỗ kia. Ba năm trước, y là một tên văn thư ghi chép trong đoàn sứ giả của vương quốc Yaca đến hòa đàm. Vốn tưởng rằng y chỉ sinh lòng ngưỡng mộ si mê với công chúa sau lần tình cờ gặp gỡ, lại nghĩ đến việc hai nước đang tiến hành hòa đàm, nên đã không bắt y vì tội lén lút đến vườn hoa của công chúa lớn tiếng đọc thơ tình, mà chỉ cảnh cáo đuổi đi. Không ngờ, tên Giang Dũng Trát Lỗ đó lại tiếp cận công chúa với mục đích xấu xa, không lâu sau đó, thân thể công chúa bắt đầu biến đổi, sau khi kiểm tra, Đại Địch ô Thứ Kiệt đã đoán định, đó là do Hắc cổ gây ra. Quả nhiên, thị lực của công chúa bắt đầu giảm sút, đến giờ thì đã gần như hoàn toàn không nhìn thấy gì nữa.

Trát Lỗ chỉ là một tên văn thư quèn, theo lý thì y không thể dùng cổ độc được, Quách Nhật Niệm Thanh suy đoán, là Đại Địch ô của vương quốc Yaca, Khước Ba Ca Nhiệt đã thi triển cổ độc lên người Trát Lỗ, khiến y trở thành kẻ mang mầm độc, khi Trát Lỗ tiếp cận với công chúa, cổ độc liền chạy sang, khiến công chúa trúng độc. Nhưng sau đó, Khước Ca Ba Nhiệt nói gì cũng không chịu thừa nhận chuyện này liên can đến mình, lại còn lớn tiếng tuyên bố mình chưa bao giờ tiếp xúc với Hắc cổ, cũng không biết cách giải trừ. Giang Dũng Trát Lỗ cũng một mực nói mình hoàn toàn không hề hay biết. Quan hệ hai nước suýt chút nữa đã lại rơi vào thế căng thẳng, Quách Nhật Niệm Thanh phải tốn rất nhiều công sức mới duy trì được cục diện ngày hôm nay. Trát Lỗ bị giam giữ vô thời hạn trong nhà ngục của vương quốc Langbu, Đại Địch ô của hai nước cùng hợp lực nghĩ cách vãn hồi thị lực cho công chúa, nhưng cho đến giờ vẫn chưa tìm được cách nào phù hợp.

Ở chỗ Đại Địch ô Thứ Kiệt, Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn đã tìm hiểu sơ bộ về sự biến hóa của bệnh tình của công chúa, song vẫn còn một số chi tiết cần công chúa kiểm chứng lại, công chúa đều nhất nhất trả lời đầy đủ. Lúc mới bắt đầu, công chúa từng có triệu chứng da dẻ toàn thân ngứa ngáy khó chịu, điểm này hết sức quan trọng, vì Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đều biết rằng, đây là phản ứng điển hình của cơ chế phòng vệ trong cơ thể người khi có sinh vật dị thể xâm nhập, y học gọi là phản ứng dị ứng. Sau đó, công chúa bắt đầu gầy rộc đi, chứng tỏ chất dinh dưỡng trong cơ thể cô đã bị ký sinh vật hấp thu mất, nên thiếu dinh dưỡng để duy trì cơ thể. Khoảng một năm trước, công chúa phát hiện ra dưới da mình có mấy chỗ gồ lên, ấn vào thấy đau, lại có thể di chuyển, sau đó lại nhận thấy, dưới da khắp chỗ nào cũng có những khối u lớn thì bằng hạt lạc, nhỏ thì bằng hạt gạo, lại còn sờ thấy một vài vật dài dài như sợi dây. Nghe ả nữ tỳ nói, từ đó, nước tiểu của công chúa cũng bắt đầu có màu trắng như nước gạo.

Sau khi lần lượt kiểm chứng các dấu hiệu bệnh trạng, Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn đã xác nhận, công chúa mắc phải một loại bệnh do ký sinh trùng gây ra. Trứng của ký sinh trùng sau khi xâm nhập vào cơ thể thông qua các loài vật truyền nhiễm như ruồi nhặng, sẽ khiến da dẻ ngứa ngáy, tróc lở, sau đó chúng sẽ sinh sôi nảy nở bên trong cơ thể, hấp thu chất dinh dưỡng, rồi xác ký sinh trùng chết vẫn ở lại trong cơ thể, tạo thành hạch. Ngoài ra, một số ký sinh trùng xâm nhập được vào mạch bạch huyết, gây mưng mủ và làm tắc nghẽn mạch bạch huyết, tạo ra những vật hình dạng như sợi dây dưới biểu bì, và nước tiểu màu trắng sữa.

Sau khi đưa ra kết luận này, hai cô đều thầm thở phào, vì xét cho cùng, đối với y học hiện đại, bệnh do ký sinh trùng gây ra cũng là loại tương đối dễ trị, nếu công chúa bị biến đổi gien gì đó, thì họ đúng là chỉ còn nước bó tay. Ngoài ra, công chúa còn bị viêm giác mạc rất nặng, nếu không kịp thời trị liệu, giác mạc bị thủng thì muốn khôi phục được thị lực e rằng sẽ khó lại càng thêm khó.

Song họ vẫn cần kiểm tra thêm để làm rõ nguyên nhân ký sinh trùng khiến công chúa bị mù, trước tiên cần phải xác định được chủng loại ký sinh trùng. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam phân tích, nếu là ký sinh trùng loại lớn, thì đã bị phát hiện từ trước rồi, nhưng loại kỳ sinh trùng này lại rất nhỏ. Nếu là ấu trùng Micromaria hay Streptocerca đã tương đối khó khăn, còn có khả năng là ấu trùng Sparganum xâm nhập đại não, vậy thì càng khó xử lý hơn.

Tuy Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam không phải chuyên gia y tế, nhưng may là họ còn có chiếc máy tính của giáo sư Phương Tân. Sau khi nhập các triệu chứng thu thập được vào hệ thống, đặt lệnh tìm kiếm những chứng bệnh đã được biết đến, cuối cùng hệ thống đưa ra hơn mười loại bệnh khác nhau. Khi thấy một chứng bệnh trên màn hình, hai người gần như cùng lúc thốt lên: “Bệnh mù sông!” 

1

Họ vội vàng quay lại đối chiếu với bệnh tình của công chúa, cuối cùng xác nhận, công chúa mắc phải bệnh mù sông hoặc một loại bệnh ký sinh trùng rất gần với bệnh này. Đây là một loại bệnh dịch được phát hiện lần đầu tiên ở châu Phi, đồng thời từng hoành hành ở châu lục này, khiến cho mỗi năm có khoảng gần ba trăm nghìn người châu Phi mất đi ánh sáng!

Tư liệu cho thấy: bệnh mù sông, hay còn gọi là bệnh Onchocerciasis, phổ biến ở các khu vực nhiệt đới, thường gặp nhất là ở châu Phi và Nam Mỹ, do loài nhặng đen hoặc muỗi vằn truyền nhiễm. Nhặng đen này thường sinh đẻ ở những dòng sông nhỏ nước chảy xiết, vì vậy mới gọi là bệnh mù sông. Ấu trùng của loài trùng xoắn Onchocerca tồn tại trong da người, đi vào cơ thể nhặng đen khi chúng hút máu, đồng thời phát dục trở thành ấu trùng gây bệnh trong đó, rồi lại truyền cho những vật chủ khác khi lũ nhặng đen hút máu. Ấu trùng trưởng thành trong một năm, đồng thời hình thành nên các hạch dưới da, đường kính từ vài mi li mét đến một xăng ti mét. Ký sinh trùng bên trong hạch có thể dài đến một mét, cuộn xoắn lại thành hình cầu, con cái có thể sống trong những hạch sâu bên dưới da khoảng mười lăm năm. Con đực di chuyển giữa các hạch, đồng thời định kỳ thụ tinh cho các con cái. Mỗi ngày chúng có thể sinh sản vài triệu ấu trùng, những ấu trùng này chủ yếu dịch chuyển bên dưới biểu bì và xâm phạm đến mắt.

Điều khiến họ lo lắng là, trước mắt vẫn chưa có thứ thuốc đặc hiệu nào có thể đối phó với loại ký sinh trùng này, phương pháp duy nhất đạt được hiệu quả chính là tiến hành phẫu thuật loại bỏ các hạch dưới da, đồng thời phối hợp với các loại thuốc khác.

Đường Mẫn nắm cánh tay gầy như que củi của công chúa, lần rờ lên phía trên, thấy toàn là các khối u và những tuyến bạch huyết bị tắc nghẽn, vừa nghĩ đến chuyện mỗi khối hạch ấy có khả năng là một con ký sinh trùng dài cả mét, cảm thấy toàn thân ớn lạnh. Lữ Cánh Nam cũng nắm cánh tay còn lại của công chúa, cất tiếng hỏi: “Tính sao?”

Đường Mẫn ngẩn người, rồi lập tức hiểu ra, lắc đầu nói: “Phẫu thuật ngoại khoa, tôi không làm được đâu.”

“Tại sao?”

“Chị biết rồi mà, tôi chỉ có thể làm trợ thủ, chưa bao giờ cầm dao mổ, hơn nữa, những dụng cụ phẫu thuật đó của chúng ta cũng không hoàn toàn thích hợp sử dụng trong trường hợp này, dù có thể loại bỏ được những khối hạch dưới da, nhưng còn ở sâu hơn thì sao, bên trong các khớp xương và trong nội tạng nữa, chúng ta không thể làm được đâu!”

“Nói vậy thì, chúng ta chỉ có thể tạm thời khống chế bệnh viêm giác mạc thôi. Có điều, Mẫn Mẫn này, cô nói xem tại sao công chúa mắc bệnh mù sông mà những người xung quanh cô ấy lại không bị truyền nhiễm nhỉ?”

“Tôi nghĩ, là do không có vật truyền nhiễm, loài nhặng đen đó không thích hợp sống trong môi trường ở nơi này, chắc là có người cố ý lợi dụng...”

“Tức là, chúng ta có thể cho rằng đây là một hành vi được mưu tính từ trước...”

Công chúa Lạp Mẫu nghe hai người họ thay đổi cách nói chuyện, bèn mỉm cười nói: “Hai vị, vẫn không được phải không? Không sao đâu, Lạp Mẫu từ lâu đã chấp nhận sự thực này, có lẽ, tại vì phụ vương ăn quá nhiều Tằm Diên, nên trời cao mới trừng phạt người thế này!”

“Không, Lạp Mẫu, không phải vậy đâu, chúng tôi cần kiểm tra lại một chút nữa.” Đường Mẫn vội trả lời.

“Thật không? Tôi có thể tin cậy các vị được không?”

“Yên tâm, chúng tôi nhất định sẽ cố gắng hết sức.”

Chương 27

Bệnh mù sông

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam vừa tiếp tục kiểm tra cơ thể cho Lạp Mẫu, vừa nói chuyện với cô để phân tán sự chú ý. Trong lúc trò chuyện, họ nhận thấy vị công chúa này ở trong thâm cung đã lâu, gần như hoàn toàn không hề hay biết những chuyện xảy ra ngoài cung, càng không cần phải nói đến những chuyện ở thế giới bên ngoài, cô chỉ biết một vài truyền thuyết và chuyện kể xa xưa, chắc cũng là nghe từ các cung nữ trong lúc nhàn rỗi. Khi công chúa nghe nói Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn ở nhà lao ra, liền lập tức hỏi thăm về Trát Lỗ.

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam lấy làm kỳ quái, người tên Trát Lỗ đó chẳng phải chính là nguyên hung khiến công chúa mất đi ánh sáng hay sao? Công chúa Lạp Mẫu lắc đầu nói: “Không, Trát Lỗ vô tội, tôi tin anh ta không làm thế, mà chỉ muốn tặng cho tôi những vần thơ đẹp thôi. Sở dĩ tôi bị thế này, nhất định là do phụ vương ăn quá nhiều Tằm Diên, tôi chỉ là kẻ gánh chịu lời nguyền thay cho người mà thôi.” Hàng lông mi dài của cô cụp xuống, rồi cô khẽ cất tiếng thở dài: “Chắc hẳn Trát Lỗ đã chịu nhiều khổ sở rồi.”

Đường Mẫn không nén được thầm nhủ: “Cô bé đáng thương, vì không nhẫn tâm tổn thương bất cứ ai, mà một mực tin rằng mình bị nguyền rủa ư? Có lẽ làm vậy cũng khiến cô ấy thấy dễ chịu hơn phần nào chăng?”

Họ nhanh chóng bắt chuyện được với công chúa. Công chúa Lạp Mẫu hỏi thăm về Trát Lỗ, rồi cứ nhắc đi nhắc lại những lời kiểu như “phụ vương tuổi tác đã cao, mà mình thì mắt có bệnh nên không thể chăm sóc cho người, thực sự rất áy náy...”. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thay nhau nhẹ nhàng khuyên nhủ, để cô yên tâm, tâm lý cũng thoải mái phần nào. Nhưng kết quả kiểm tra lại khiến họ vô cùng bất an, vì kết quả siêu âm màu 3D đúng như Đường Mẫn dự đoán, công chúa không chỉ có hạch dưới da, mà trong các cơ quan nội tạng cũng có. Tệ hại nhất là, trong xương sọ của cô cũng có một chỗ kết hạch, đè lên dây thần kinh thị lực, đó mới chính là nguyên nhân thực sự khiến thị lực của công chúa sút giảm.

Kết quả này khiến họ nhất thời cũng chưa nghĩ ra được cách nào khả thi. Nếu chỉ có hạch ở dưới da, họ còn có thể mạo hiểm thử một phen, nhưng phẫu thuật mở hộp sọ đâu phải chuyện người chưa từng cầm đến dao phẫu thuật có thể dễ dàng thử nghiệm! Có điều, công chúa Lạp Mẫu lại tỏ ra rất lạc quan thoải mái, nói chuyện với Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn một hồi, ngược lại còn an ủi họ: “Không sao đâu, tôi đã ốm yếu thế này từ lâu rồi, hai người tận tâm thăm bệnh cho tôi như thế, tôi cảm kích còn chẳng kịp nữa là. Thực ra, trước khi mọi người đến đây, phụ vương đã báo cho tôi một tin tốt lành rồi. Vương quốc Yaca đã thay một vị Đại Địch ô mới, vị tân nhiệm Đại Địch ô đó nghe nói còn lợi hại hơn Khước Ca Ba Nhiệt trước đây cả chục lần, sứ giả cũng phái đi rồi. Hai chị đã nói, bệnh này có thể trị được, vậy thì, tôi nghĩ, nhất định là sẽ chữa được thôi.”

“Đại Địch ô mới?” Lữ Cánh Nam hỏi: “Chuyện xảy ra lúc nào vậy?”

Công chúa Lạp Mẫu đáp: “Phụ vương cũng mới biết tin này mấy ngày trước thôi, thấy bảo rằng vị Đại Địch ô mới đó từ tầng bình đài thứ ba xuống đây khoảng hơn một tháng trước, mọi người đều đang suy đoán, biết đâu ông ta và người Thượng Qua Ba lại có quan hệ gì cũng nên.” Nói tới đây, cô khẽ gật gật đầu: “Vì vậy, mọi người không cần lo lắng cho bệnh tình của tôi đâu, còn việc của Cường Ba thiếu gia, tôi sẽ giúp các vị thỉnh cầu phụ vương. Phụ vương không phải là người ngoan cố, tôi nghĩ, chắc người cũng không gạt bỏ lời thỉnh cầu của con gái mình đâu.”

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam lẳng lặng nhìn nhau, với tình hình trước mắt, e rằng cũng chỉ còn cách đó mà thôi. Công chúa Lạp Mẫu lại nói: “Đợi khi nào mắt tôi khỏi hẳn, nhất định phải xem mặt vị Cường Ba thiếu gia đó mới được. Chắc hẳn người đó cao lớn anh tuấn lắm, nên hai chị mới quan tâm lo lắng đến thế, phải không?”

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đều không hẹn mà cùng ngoảnh đi né tránh ánh mắt của đối phương.

Họ kiểm tra cho công chúa hơn một tiếng đồng hồ rồi mới rời khỏi tẩm cung của cô. Vừa thấy Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam ủ rũ bước ra, Quách Nhật Niệm Thanh lập tức nở một nụ cười nhiệt tình niềm nở, ân cần hỏi han: “Sao rồi? Có cách gì không?”

Đường Mẫn lấy làm áy náy trả lời: “Chúng tôi biết công chúa mắc phải bệnh gì, cũng biết cách trị liệu thế nào, nhưng lại không thể chữa trị được.”

Nghe Đường Mẫn trả lời như thế, gương mặt Quách Nhật Niệm Thanh liền lộ vẻ vừa kinh ngạc lại vừa sợ hãi, vừa mừng lại vừa lo, thần tình vô cùng phức tạp: “Vậy... vậy nghĩa là sao? Các vị biết công chúa mắc bệnh gì, cũng biết cách trị liệu, nhưng lại không thể chữa trị được?”

Đường Mẫn phải rất cố gắng mới giải thích cho Quách Nhật Niệm Thanh hiểu được, họ không có công cụ và kỹ thuật để chữa trị cho công chúa, mà chỉ có đáp án trên lý thuyết. Quách Nhật Niệm Thanh trầm ngâm nghĩ ngợi một lúc, rồi nói với hai người: “Ta biết các vị cần gì rồi, xin mời đi theo ta.”

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam ngờ vực đi theo Quách Nhật Niệm Thanh, đến một gian phòng đá khác. Y lấy ra một cái túi da bò được buộc hết sức cẩn thận, bên trong đựng đầy các loại công cụ kỳ hình quái trạng. Những thứ ấy, đa phần đều được làm bằng bạc hoặc hợp kim đồng, nhiều món có lưỡi dao rất sắc bén, lại có món cong cong như móc câu, hoặc hình dạng như gọng kìm, kéo, cờ lê, cưa, lưỡi rìu...

“Đây là gì vậy?” Nhìn những công cụ kỳ dị mà vô cùng sắc bén hình chữ “công” 

2

, hình chữ “T”, hình chữ “Thổ” 

3

, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đều bối rối. Ấn tượng đầu tiên của họ khi tiếp xúc với những thứ này là phỏng đoán đây có lẽ là các thứ hình cụ khiến người ta đau đớn, dùng trong lúc tra khảo, thẩm vấn.

“Công cụ... thứ mà các vị cần, chính là những công cụ có thể cắt da, thịt, xương...” Quách Nhật Niệm Thanh lại giải thích một hồi, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam mới dần dần hiểu ra. Quách Nhật Niệm Thanh hy vọng họ có thể dùng những thứ hình dạng kỳ quái trông tựa như hình cụ tra tấn này để phẫu thuật cho công chúa Lạp Mẫu.

“Không, không, không, không thể được, thứ này làm sao có thể dùng để phẫu thuật? Không được, không được!” Đường Mẫn vội vàng xua tay rối rít, lại mất công giải thích thêm một lượt nữa.

Cuối cùng Quách Nhật Niệm Thanh cũng hiểu ra, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thậm chí còn chưa từng thấy những công cụ phẫu thuật ấy bao giờ, nói gì đến việc sử dụng chúng. Y thở dài nói: “Thật không ngờ, các vị cũng giống như Thứ Kiệt đại nhân, lẽ nào đây là ý trời?”

Đường Mẫn nghe vậy bèn hỏi: “Ý ông là sao?”

Quách Nhật Niệm Thanh bèn giải thích, thì ra, sau khi kiểm tra thân thể cho công chúa, Đại Địch ô Thứ Kiệt cũng nói cần phải loại trừ những khối hạch ấy, nhưng lại không biết làm thế nào. Những công cụ này là do sư phụ của sư phụ của sư phụ... của Thứ Kiệt đại nhân truyền lại, cách dùng đã thất truyền từ lâu lắm rồi. Cuối cùng, Đại Địch ô Thứ Kiệt chỉ đành kê cho công chúa một vài thứ thuốc, bảo rằng có thể làm chậm sự suy yếu của thị lực, nhưng không thể chữa tận gốc được.

“Lẽ nào, thật sự không còn cách gì sao?” Vẻ mặt của Quách Nhật Niệm Thanh khiến người ta không thể nhận ra y đang mừng rỡ hay ưu tư, hoặc có lẽ là cả hai cũng nên.

Lữ Cánh Nam nói: “Trong các loại thuốc chúng tôi mang theo, giờ chỉ có thuốc chữa viêm giác mạc, và thuốc trừ ký sinh trùng tác dụng trên diện rộng, loại thứ nhất không thể giải quyết tận gốc vấn đề, loại thứ hai lại chẳng hiệu quả gì với bệnh tình của công chúa cả. Thật xin lỗi, chúng tôi đã cố gắng hết sức rồi.”

Quách Nhật Niệm Thanh thở dài một tiếng: “Ừm, vậy được rồi, ta sẽ thông báo mọi việc lại với đại vương, có thể làm bệnh tình công chúa thuyên giảm phần nào cũng là tốt lắm rồi. Giờ chỉ còn biết chờ xem đoàn sứ giả đi Yaca kia có mang về tin tốt lành gì không, biết đâu đại vương cao hứng lên, lại đồng ý trị liệu cho Trác Mộc Cường Ba thì sao.”

Đường Mẫn nói: “Phải rồi, Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân, chúng tôi hoàn toàn không biết gì về chuyện đoàn sứ giả, nếu đã phái người đến Yaca mời Đại Địch ô của họ đến, vậy tại sao còn nhất định muốn chúng tôi thăm bệnh cho công chúa làm gì nữa?”

Quách Nhật Niệm Thanh đáp: “Dù chỉ có một tia hy vọng, đại vương của chúng ta cũng tuyệt đối không bỏ qua. Sau khi biết được tin vương quốc Yaca có Đại Địch ô mới, ngay đêm hôm đó đoàn sứ giả đã xuất phát lên đường rồi, từ đây có thể thấy đại vương lo lắng cho bệnh tình công chúa đến nhường nào.”

Quách Nhật Niệm Thanh dẫn hai người đến vương cung, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam lại giải thích về bệnh tình của công chúa với Tước Mẫu vương, nhìn bộ dạng lo lắng như có lửa đốt trong lòng của vị quốc vương già, Đường Mẫn không khỏi bồi hồi thương cảm. Cuối cùng, cô nói: “Thuốc của chúng tôi cũng có ích cho bệnh viêm giác mạc mãn tính của công chúa, chỉ cần nhỏ thuốc đúng giờ như chúng tôi đã căn dặn, nói không chừng, bệnh mắt của công chúa nay mai sẽ thuyên giảm phần nào.”

Tước Mẫu vương nãy giờ vẫn chau mày nhăn mặt, nghe thấy lời này của cô, hai mắt liền sáng rỡ, vui mừng nói: “Hay lắm, nếu các vị thực sự khiến bệnh tình của con gái ta khởi sắc, bản vương cũng sẽ dốc hết sức cứu trị cho người dẫn đầu Trác Mộc Cường Ba của các vị, quyết chẳng nuốt lời.”

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam cũng hết sức hân hoan, cả hai đều không sao cầm lòng được, đôi bàn tay nắm chặt lấy nhau. Cuối cùng, cũng thấy được một tia hy vọng rồi. Lúc hai người vẫn còn đang hoan hỉ, Tước Mẫu vương và Quách Nhật Niệm Thanh dường như đã trao đổi gì đó, sắc mặt vị quốc vương hơi biến đổi, tiếp đó liền cất tiếng hỏi: “Ừm... bản vương có thể tin các vị được không?”

Đường Mẫn nói: “Đại vương yên tâm, ngày mai ngài có thể tự mình đi hỏi xem công chúa thấy thế nào?”

Tước Mẫu vương gật đầu nói: “Ừm, vậy các vị có thể lui được rồi. Quách Nhật Niệm Thanh tướng quân, ngươi ở lại đây.”

Trên đường, Lữ Cánh Nam hỏi Đường Mẫn: “Có cảm thấy công chúa Lạp mẫu và Tước Mẫu vương có gì đó không ổn không?”

“Hả? Có gì đâu?”

“Tôi cảm thấy, A Cát Lạp Mẫu dường như muốn ám thị cho chúng ta điều gì đó. Cô ấy nhiều lần nhắc đến việc cha mình tuổi tác đã cao, lại hỏi đi hỏi lại xem chúng ta có đáng tin cậy không, cảm giác như thể có lời gì đó vẫn chưa nói ra vậy.”

“Chị đa nghi quá rồi, giáo quan. Đối với công chúa, chúng ta chỉ là người ngoài mà thôi, cô ấy quanh năm ở chốn thâm cung, tự nhiên là phải thận trọng hơn rồi. Vừa nãy, Tước Mẫu vương cũng nói những lời y như vậy, lẽ nào ông ta cũng có chuyện không dám nói với chúng ta hay sao?”

“Có lẽ là tôi hơi lo lắng quá thật.”

Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam trở về phòng nghỉ, đội trưởng Hồ Dương cũng đã quay về đây, vết thương ở chân đã được xử lý ổn thỏa và băng bó lại. Sau khi kiểm tra, Đường Mẫn phát hiện, trình độ y học của những người Tước Mẫu này không hề thấp hơn họ.

“Bệnh mù sông, thật sự khó chữa vậy sao?” Nghe Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn tả bệnh tình của công chúa Lạp Mẫu, Nhạc Dương ngửa đầu ra sau, dựa vào tường.

Đường Mẫn nói: “Cần phải làm phẫu thuật, khối hạch đè lên dây thần kinh thị giác vẫn còn ở trong giai đoạn phát triển, một khi dây thần kinh bị đứt hẳn, thì sẽ không bao giờ hồi phục được thị lực nữa. Đáng tiếc là nơi này hoàn toàn không đủ điều kiện để thực hiện phẫu thuật. Muốn tiến hành phẫu thuật mở hộp sọ, thì phải bệnh viện cao cấp đầu ngành mới triển khai được.”

Pháp sư Á La lại hỏi: “Có tin gì mới về đoàn sứ giả và vị Đại Địch ô mới của vương quốc Yaca không?”

Lữ Cánh Nam lắc đầu nói: “Có vẻ như bọn họ mới được tin vài hôm trước, cũng không có nhiều thông tin lắm. Xem ra, thái độ của Tước Mẫu vương rốt cuộc thế nào, phải đợi đến ngày mai mới có kết quả rồi.”

“Tại sao?” Trương Lập thắc mắc.

Đường Mẫn giải thích: “Chúng tôi đã kê cho công chúa thuốc chuyên trị viêm giác mạc cấp và mãn tính, hiệu quả trong thời gian ngắn rất rõ rệt, chỉ cần công chúa nhỏ thuốc đúng giờ, ngày mai sẽ thấy hiệu quả ngay.”

Sáng sớm hôm sau, Tước Mẫu vương cho mời họ đến dùng bữa sáng, khiến ai nấy đều mừng ra mặt. Điều này chứng tỏ thuốc nhỏ mắt đã có hiệu quả, thái độ của Tước Mẫu vương đang từng bước chuyển biến, cổ độc trong người Trác Mộc Cường Ba đã có hy vọng giải trừ.

Trong phòng ăn, Tước Mẫu vương ngồi chính giữa, cứ nheo mắt cười nhìn bọn họ. Công chúa được cung nữ đỡ vào ngồi bên cạnh, trên bàn bày đủ các loại thức ăn hết sức phong phú. Đối với đám người đang thường xuyên phải ăn thực phẩm nén qua ngày như họ, đây đích thực là bữa sáng thịnh soạn nhất trong cả quãng thời gian dài gần đây.

“Mời dùng, xin đừng khách khí, đây chỉ là một chút để bày tỏ lòng cảm kích của ta với các vị.” Tước Mẫu vương mỉm cười: “Sáng sớm hôm nay, con gái ta nói, mắt nó cảm thấy rất dễ chịu, tựa hồ đã lờ mờ thấy được các thứ. Linh dược của các vị quả nhiên rất hiệu quả, bản vương thực sự vô cùng cảm kích.”

Trong bữa ăn, Tước Mẫu vương lại không tiếc lời tán dương bọn họ, nào là pháp sư Á La đạo hạnh cao thâm, đội trưởng Hồ Dương nhìn xa trông rộng, Nhạc Dương, Trương Lập anh tuấn phi phàm, Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang trưởng thành mà hấp dẫn, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thì càng không cần phải nhắc, những lời dạng như tiên nữ hạ phàm, thiên tiên giáng thế cứ tuôn ra ào ạt, nhưng chỉ tuyệt nhiên không nhắc đến chuyện Tằm Diên mà thôi.

Thấy bữa tiệc sắp tàn, Đường Mẫn cuối cùng cũng không nén được, cất tiếng hỏi: “À, đại vương tôn kính, xin hỏi, ngài... ngài có thể giúp Cường Ba, cổ độc trong mình anh ấy...”

“À... cổ? Các vị khách tôn quý cũng nghe nói đến chiến cổ của chúng ta sao? Đó là một thứ vũ khí lợi hại trên chiến trường đấy...”

“Đại vương tôn kính, cô ấy không nói đến chiến cổ, mà là cổ độc trên người Trác Mộc Cường Ba, đội trưởng của chúng tôi, Thứ Kiệt đại nhân nói cần phải dùng đến Tằm Diên mà chỉ quý quốc mới sở hữu để trị liệu, ngài đã nhận lời chúng tôi, chỉ cần chúng tôi giúp chữa cho mắt công chúa, ngài sẽ giúp chúng tôi trị bệnh cho Cường Ba thiếu gia. Bệnh tình của công chúa, chúng tôi đã tận hết sức lực rồi. Còn về bệnh của Cường Ba thiếu gia, không biết đại vương chuẩn bị giúp chúng tôi thế nào. Chúng tôi cần một câu trả lời của ngài.” Thấy vị Tước Mẫu vương này thực sự quá đáng ghét, Lữ Cánh Nam cũng không muốn giả bộ khách khí với lão nữa, nói thẳng ra luôn.

“Phụ vương!” Cả công chúa Lạp Mẫu cũng thoáng lộ sắc giận, ngước mặt về phía Tước Mẫu vương.

“À... à..., chuyện này... chậc chậc, các vị thấy cái tai này của ta tệ chưa, già rồi mà, già rồi!” Tước Mẫu vương cười gượng gạo nói: “Chuyện là thế này, các vị khách tôn quý, xin các vị nghe ta nói đã...”

Đúng lúc này, một tên lính chạy vào thông báo có Quách Nhật Niệm Thanh xin gặp. Tước Mẫu vương giận dữ quát: “Y không biết ta đang dùng cơm với các vị khách tôn quý hả? Lúc này thì có chuyện gì chứ?”

Tên lính vội nhỏ giọng đáp: “Việc liên quan đến đoàn sứ giả.”

“Ồ!” Tước Mẫu vương đứng lên nói: “Cho y vào đây.”

Quách Nhật Niệm Thanh rảo chân bước nhanh vào, ghé miệng sát tai Tước Mẫu vương thì thầm mấy câu gì đó, đoạn liếc mắt sang phía bọn Trác Mộc Cường Ba. Tước Mẫu vương hơi nhíu mày, cũng len lén nhìn về phía Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt lộ vẻ bất an, làm cả bọn đều không khỏi ngấm ngầm hoang mang. Lẽ nào đã xảy ra biến cố gì? Nhưng, đoàn sứ giả kia thì liên quan gì đến họ đâu chứ?

Quả nhiên, Tước Mẫu vương nghe Quách Nhật Niệm Thanh thầm thì một hồi, liền bất an đan hai tay vào nhau, nhăn nhó nói: “Các vị khách tôn quý, ta, ta thực không biết nên nói thế nào nữa. Đoàn sứ giả ta phái đi Yaca vừa mới trở về, họ mang theo một tin tức... ừm, Đại Địch ô mới của họ đã đồng ý trị bệnh cho con gái ta, nhưng mà, điều kiện của ông ta, chính là... Tằm Diên!”

“Hả!” “Cái gì?” Nhạc Dương và Trương Lập gần như cùng lúc nhảy dựng lên. “Lẽ nào các người muốn trở mặt?” “Thế này là thế nào?” Cả hai đồng thời tức giận chất vấn.

Quách Nhật Niệm Thanh vội dùng giọng điệu độc đáo chỉ riêng mình y mới có khuyên can: “Các vị khách tôn quý, xin bớt giận, bớt giận. Tin tức này, chúng ta cũng vừa mới nhận được thôi mà.”

Tước Mẫu vương xòe hai tay ra, làm bộ bất lực nói: “Các vị khách tôn quý, đây cũng là chuyện vạn bất đắc dĩ, các vị thấy đó, việc này...”

Công chúa Lạp Mẫu biết sự việc có liên quan đến mình, cũng chỉ biết im lặng, Tước Mẫu vương liền sai cung nữ đưa cô trở về.

Đội trưởng Hồ Dương thầm nhủ: “Lại có chuyện trùng hợp vậy sao? Lẽ nào đây chỉ là một vở kịch được sắp sẵn từ trước? Không giống lắm...”

“Làm gì có chuyện trùng hợp như vậy chứ! Chúng tôi không đến, chẳng ai cần đến cái thứ Tằm Diên gì đó cả, chúng tôi vừa xuất hiện, ai ai cũng muốn tranh muốn cướp là sao!” Nhạc Dương không nhịn nổi, nói trắng ra. Nói ra xong, anh mới thấy pháp sư Á La đang trừng mắt lên nhìn mình.

Quả nhiên, sắc mặt Tước Mẫu vương và Quách Nhật Niệm Thanh đều không được dễ coi cho lắm. Một lúc sau, Quách Nhật Niệm Thanh mới phản ứng, giọng nói nam không ra nam, nữ chẳng ra nữ ấy du dương cất lên: “Ôi chao ôi, các vị khách tôn quý, các vị hiểu lầm rồi. Sự thực là, Tằm Diên có thể trị được bách bệnh, kéo dài tuổi thọ, người ở hai vương quốc chúng ta ai mà chẳng biết, cũng có ai không muốn sở hữu nó đâu chứ? Chỉ là đám người Yaca ấy không có cơ hội mà thôi. Vị Đại Địch ô mới kia hiển nhiên cũng biết đó là đồ tốt, cũng biết đại vương của chúng ta cực kỳ yêu thương công chúa, vì vậy đòi hỏi chúng ta thứ ấy cũng là chuyện hết sức bình thường thôi.”

“Nhưng... chúng tôi đến trước mà...”

“Nhưng các vị cũng không thể khiến công chúa hoàn toàn bình phục mà!”

“Ông... các người...” Hai bên bắt đầu rơi cục diện bế tắc.

Đường Mẫn khẽ nắm lấy tay Trác Mộc Cường Ba, lo lắng đến độ sắp rơi nước mắt. Trác Mộc Cường Ba mỉm cười an ủi cô: “Số phận thích trêu cợt con người, chúng ta cứ coi như chưa từng xảy ra chuyện này là được rồi.”

Ba Tang lẳng lặng hỏi: “Giết sạch bọn chúng, cướp đồ về?”

Trác Mộc Cường Ba vội lắc đầu.

“Vị Đại Địch ô của Yaca kia có dám đảm bảo sẽ chữa được mắt cho công chúa không? Chắc là không chứ, thậm chí ông ta còn chưa gặp mặt công chúa bao giờ cơ mà.” Đội trưởng Hồ Dương gãi đúng vào chỗ ngứa, chỉ ra điểm mấu chốt của vấn đề.

“Phải đó, nếu ông ta chỉ muốn gạt lấy Tằm Diên của các vị thì sao?” Nhạc Dương vội vàng hùa theo.

Tước Mẫu vương xoa xoa lên những nếp nhăn trên trán: “Việc này, cũng chẳng còn cách nào khác. Vì đứa con gái này, ta đành phải thử thôi, chỉ cần còn một tia hy vọng, ta chẳng tiếc bất cứ bảo vật nào cả.” Những lời này nghe như chém đinh chặt sắt, tựa hồ vị Tước Mẫu vương lúc nãy vẫn còn lắp ba lắp bắp khi nhắc đến Tằm Diên đã hoàn toàn biến thành một con người khác rồi vậy.

Quách Nhật Niệm Thanh đứng bên cũng nói: “Vì vị Đại Địch ô đó bị thương nặng ở chân, không thể đi lại được, nên chúng ta phải đưa công chúa tới đó trước, sau đó cùng họ thành lập minh ước thần thánh, trước khi Đại Địch ô của họ chữa khỏi bệnh cho công chúa, thì không thể nào có được Tằm Diên.”

Trương Lập “hừ” khẽ một tiếng, thầm nhủ, minh ước thần thánh cái quái gì chứ, nếu Yaca có đủ thực lực quân sự, minh ước gì cũng chẳng có tác dụng. Nếu người Yaca mang công chúa ra uy hiếp các người, ông có dám không lấy Tằm Diên ra đổi người hay không?

Lúc này, pháp sư Á La chợt lên tiếng hỏi: “Vị Đại Địch ô mới của vương quốc Yaca đó tên là gì?”

Quách Nhật Niệm Thanh lắc đầu nói: “Ừm, chuyện này thì không rõ lắm, người Yaca đều gọi ông ta là Qua Ba Đại Địch ô, vì nghe nói ông ta từ tầng bình đài thứ ba xuống đây.”

Chương 28

Điều kiện của Tước Mẫu vương

Pháp sư Á La lại hỏi tiếp: “Các vị có biết tân nhiệm Đại Địch ô đến Yaca vào khoảng thời gian nào không? Tương đối chính xác một chút.”

Quách Nhật Niệm Thanh chau mày nói: “Chúng ta cũng chỉ nghe nói, vị Qua Ba Đại Địch ô ấy đến vương trướng của Yaca khoảng một tháng trước, hiện giờ họ đang đóng trại ở Nhật Mã Ca Tùng. Trước đấy, hình như là ở Á Nhật, dân du mục đã phát hiện ra ông ta, khi đó, vị Đại Địch ô ấy bị thương rất nặng, ông ta tự xưng là người từ tầng bình đài thứ ba xuống.”

Pháp sư Á La trầm ngâm, tựa hồ đang suy nghĩ gì đó. Tước Mẫu vương tỏ vẻ quan tâm, cất tiếng giải thích: “Không phải ta không muốn dùng Tằm Diên để cứu tính mạng Trác Mộc Cường Ba, chỉ là thực sự không ngờ lại xảy ra chuyện ngoài ý muốn như vậy, bản vương... ài...” Ông ta thở hắt ra một tiếng não nề.

Con mắt duy nhất của Quách Nhật Niệm Thanh đảo quanh một vòng, chợt cất giọng chua loét nói: “Tằm Diên chỉ có một chút vậy thôi, muốn chia ra chắc chắn là không đủ dùng, trừ phi...”

“Trừ phi thế nào?”

“Trừ phi các vị tự đi gặp Qua Ba Đại Địch ô thương lượng, thử coi ông ta có chịu nhường hay không.” Quách Nhật Niệm Thanh cố gắng giấu nụ cười đang thấp thoáng ẩn hiện trên khóe môi.

“Thật là rắm chó! Chúng tôi làm sao đi thương lượng với Đại Địch ô của vương quốc Yaca được?” đội trưởng Hồ Dương tức tối quát lên.

Lúc này, pháp sư Á La đã đứng lên, khom mình nói: “Đại vương tôn quý, nếu như, chúng tôi có thể mời và thuyết phục vị tân nhiệm Đại Địch ô kia từ Yaca tới đây, không hiểu ngài có đồng ý dùng Tằm Diên trị bệnh cho người đứng đầu của chúng tôi không?”

“Hả?” Tước Mẫu vương kinh ngạc bước lại gần pháp sư, tựa hồ không dám tin pháp sư Á La lại dám chấp nhận đề nghị của Quách Nhật Niệm Thanh. Ông ta kích đột lắp bắp: “Ngài... ngài... nói là, có thể mời Qua Ba Đại Địch ô tới đây, mời tới đây ư?” Tước Mẫu vương đương nhiên cũng không yên tâm để con gái mình đi Yaca, sau chiến tranh, quan hệ hai nước vốn đã chẳng tốt đẹp gì. Nhưng nếu có thể mời vị Đại Địch ô kia tới đây, vậy thì tình hình sẽ hoàn toàn khác.

Những người khác cũng đều kinh ngạc mắt tròn mắt dẹt nhìn pháp sư Á La, rất hiển nhiên, đó chỉ là một câu nói châm biếm bọn họ của Quách Nhật Niệm Thanh, lẽ nào pháp sư Á La lại coi là thật? Nụ cười âm hiểm trên gương mặt Quách Nhật Niệm Thanh cũng đã biến mất, thay vào đó là vẻ ngờ vực khó hiểu.

“Đúng vậy, chúng tôi sẵn sàng thử một phen.” Pháp sư Á La bình tĩnh nói: “Chỉ không biết, đại vương có vui lòng thành lập minh ước thần thánh hay không?”

“Pháp... pháp sư?” “Pháp sư Á La?”

Tước Mẫu vương cũng ngây người ra, không dám tin vào tai mình nữa, ông ta nhìn pháp sư Á La một hồi thật lâu mới hạ quyết tâm, nghiến răng nói: “Được, nếu các vị thực sự có thể mời Đại Địch ô của Yaca tới đây thăm bệnh cho công chúa của bản vương, mà vị Qua Ba Đại Địch ô đó lại không đòi Tằm Diên làm thù lao, vậy thì số Tằm Diên đó đương nhiên sẽ được dùng để trị bệnh cho Trác Mộc Cường Ba. Bản vương sẵn lòng lập minh ước thần thánh với các vị!” Nói đoạn, ông ta vươn một cánh tay ra. Pháp sư Á La cũng đưa tay ra.

Đúng lúc đó, Quách Nhật Niệm Thanh chợt cất giọng the thé rít lên: “Gượm đã.” Y bước tới đứng giữa Tước Mẫu vương và pháp sư Á La, thì thầm vài câu bên tai Tước Mẫu vương. Sắc mặt vị quốc vương già nua biến đổi mấy lượt, chốc chốc lại gật gù ra vẻ hiểu ý, sau đó liền ngẩng đầu lên hỏi pháp sư Á La: “Các vị là người ngoài đến đây, sao ta có thể tin các vị sẽ tuân thủ minh ước thần thánh chứ? Nếu vị Đại Địch ô của Yaca kia có cách nào khác trị bệnh cho Trác Mộc Cường Ba thì sao? Nếu các vị không mời được Qua Ba Đại Địch ô, ngược lại còn đắc tội với ông ấy, khiến ông ấy không đồng ý thăm bệnh cho con gái ta nữa thì sao?? Ừm... những yếu tố chưa xác định quá nhiều, bản vương không thể dễ dàng tin các vị như vậy được.”

Gặp phải biến cố quá bất ngờ, pháp sư Á La không ngờ cũng hơi mất kiểm soát, ít nhất là trong mắt ông cũng thoáng lộ ra sát khí xưa nay chưa từng có bao giờ. Quách Nhật Niệm Thanh đột nhiên cảm thấy đỉnh đầu lạnh buốt mà chẳng hiểu vì sao. Nhưng chỉ trong thoáng chốc, pháp sư Á La đã khắc chế được bản thân, chỉ chậm rãi hỏi: “Vậy thì, chúng ta phải làm sao mới khiến ngài tin tưởng đây?”

Tước Mẫu vương không trả lời, mà chỉ liếc sang phía Quách Nhật Niệm Thanh. Quách Nhật Niệm Thanh lại lấy tay che miệng thì thầm vào tai vị quốc vương kia một hồi. Cuối cùng, Tước Mẫu vương gật đầu nói: “Ừm, chúng ta có thể thành lập minh ước thần thánh, nhưng các vị không thể đi hết, mà phải để lại con tin, đồng thời đưa Qua Ba Đại Địch ô về đây trong thời gian hạn định. Bằng không, con tin của các vị sẽ trở thành cống phẩm tạ tội bất kính với trời, các vị thấy sao?”

“Điều kiện như vậy hình như quá hà khắc thì phải! Nếu thời gian hạn định của các vị ngắn quá thì sao? Nếu Đại Địch ô thực sự có lý do không thể rời khỏi Yaca thì sao? Như vậy cũng coi là chúng tôi đã làm trái minh ước ư?” Lữ Cánh Nam không chút khoan nhượng chỉ trích.

“Vấn đề này...” Tước Mẫu vương nghĩ ngợi giây lát, đoạn nói: “Các vị cứ yên tâm, thời gian bản vương đưa ra nhất định sẽ hợp tình hợp lý. Nếu Qua Ba Đại Địch ô thực sự không thể rời khỏi Yaca... Ừm, nếu thực sự không thể, như vậy đi, chỉ cần các vị trở về trong thời gian hạn định, đồng thời mang theo tín vật hoặc nhân chứng chứng tỏ Qua Ba Đại Địch ô không thể tới đây, thì cũng coi như không làm trái minh ước, vậy được không?”

Thấy Tước Mẫu vương đã chịu nhượng bộ, Lữ Cánh Nam nghĩ ngợi giây lát, rồi quay sang nhìn pháp sư Á La.

Nhạc Dương và Trương Lập cũng tranh nhau hỏi pháp sư: “Pháp sư à, vậy có được không thế? Có phải hơi mạo hiểm quá không? Chúng ta thậm chí còn chẳng biết cái Nhật Mã... Ca Tùng kia ở chỗ nào cơ mà?”

“Phải đấy phải đấy, hơn nữa điều kiện của con rùa già này rõ ràng là rất bất lợi cho chúng ta. Nếu chúng ta không thể trở về đúng hạn, lão sẽ khai đao với con tin đấy!”

“Tôi không đồng ý.”

Pháp sư Á La nghe tiếng mà giật mình, ngạc nhiên nhìn Trác Mộc Cường Ba, chỉ nghe gã kiên quyết nói: “Tôi không thể để bất cứ ai ở lại đây làm con tin. Sống chết có số, tôi không muốn gượng ép. Thử hỏi, tôi làm sao có thể dùng tính mạng của bất cứ ai trong nhóm để mạo hiểm được chứ?”

Pháp sư Á La điềm đạm nói: “Nhưng đây là cơ hội duy nhất của chúng ta, ngoài ra không còn cách nào khác nữa. Nếu tôi nói, tôi chắc chắn đến chín mươi phần trăm là chúng ta làm được, thì cậu cũng không muốn đánh cược một phen sao?”

Nhạc Dương ngạc nhiên thốt: “Hả? Chín mươi phần trăm? Pháp sư Á La, ông...”

Đường Mẫn chợt bảo Trác Mộc Cường Ba: “Anh Cường Ba, có lẽ đây là cơ hội cuối cùng của chúng ta rồi, đã đến lúc này, sao anh có thể bỏ cuộc chứ? Nếu như... nếu như anh thực sự... vậy em biết phải làm sao đây? Em biết phải làm sao đây!” Cô thút thít khóc nấc lên. Trác Mộc Cường Ba vuốt ve mái tóc Đường Mẫn, chợt thấy tim mình nhói đau.

Pháp sư Á La nói: “Làm gì có người nào không trân trọng tính mạng của mình chứ? Có tính mạng nào không phải của phụ mẫu, của trời đất ban cho đâu? Quyết định như vậy phải chăng là hơi quá lỗ mãng? Đừng để vẻ bề ngoài của sự vật lường gạt, cũng đừng đưa ra phán đoán vì xung động nhất thời, đối với một tập thể, ý kiến của mọi người mới là quan trọng nhất.”

Trương Lập nói: “Phải đấy, Cường Ba thiếu gia, chúng ta vất vả đi xa như vậy, một trong những mục đích chẳng phải chính là trị bệnh cho anh sao? Nếu là tôi, tôi cũng sẽ đánh cược một phen.”

Nhạc Dương gật đầu tán thành: “Nếu pháp sư đã chắc đến chín mươi phần trăm, tôi cũng đồng ý.”

Lữ Cánh Nam nói: “Chúng ta nên thử xem sao.”

Mẫn Mẫn ngước cặp mắt đẫm lệ lên nhìn Trác Mộc Cường Ba. Ba Tang cũng nói: “Nếu không phải vì anh, tôi cũng chẳng cần đến nơi này làm gì.”

Lòng Trác Mộc Cường Ba ngổn ngang trăm mối tơ vò, nhìn những người đồng đội bên cạnh mình, lại nhớ đến những người đã bị chôn vùi trong bóng đêm vô tận, gã chợt thấy mình thật tội lỗi. Có thể nói, tất cả bọn họ đều chết vì bản thân gã. Những lời hứa trước lúc lên đường ấy, không ngờ gã lại chẳng thể nào thực hiện!

Lúc này, đội trưởng Hồ Dương chợt cất tiếng, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Mọi người đi đi, tôi ở lại đây!”

Trác Mộc Cường Ba giật nảy mình, thất thanh thốt lên: “Đội trưởng Hồ Dương!”

Đội trưởng Hồ Dương bật cười nói: “Không cần phải khoa trương thế đâu, cứ làm như sinh ly tử biệt không bằng, chẳng qua chỉ là tách ra vài ba ngày thôi. Chân tôi bị thương, vừa khéo cần mấy ngày nghỉ ngơi cho lại sức, tranh thủ lười một chút, ha ha...”

Trác Mộc Cường Ba lặng im đứng trước mặt đội trưởng Hồ Dương, không biết nên nói gì cho phải. Hồ Dương vỗ nhẹ lên vai gã, mỉm cười nói: “Đừng quên, cậu đã hứa là sẽ dẫn mọi người đến nơi đó, và còn đưa tất cả an toàn trở về nữa. Nếu cậu ngã xuống thì làm sao hoàn thành được lời hứa ấy chứ? Giáo sư Phương Tân chỉ có một học sinh tốt như cậu, chẳng may cậu có mệnh hệ gì ở đây, lúc trở về ông ấy lại chẳng tìm tôi liều mạng ấy chứ?”

“Nhưng anh...”

“Yên tâm đi, cậu quên à, mạng tôi lớn lắm, tôi là Hồ Dương cơ mà, ha ha ha!”

Trác Mộc Cường Ba đảo ánh mắt nhìn lại một lượt gương mặt của mọi người, cảnh tượng ấy như đưa gã trở lại lúc đang nằm trong phòng bệnh, từng nét mặt cố chấp mà vẫn tươi cười, thân thuộc đến độ khiến trái tim gã phải run lên. Mỗi câu nói của mọi người lúc ấy, đến giờ gã vẫn còn nhớ rõ như in.

“Cường Ba thiếu gia, anh từng nói, chưa bao giờ anh bỏ cuộc cả. Trong thời khắc nguy hiểm nhất, anh đã không bỏ tôi, đồng thời khiến tôi tin tưởng rằng, anh sẽ không bỏ rơi bất cứ một người nào. Vì vậy, xin anh, đừng bỏ rơi chính mình nhé!”

“Cường Ba thiếu gia, anh lúc nào cũng giúp chúng tôi mang gánh nặng. Nhưng đừng quên chúng ta là một nhóm: khó khăn lớn đến mấy, nếu anh không gánh nổi, chúng ta sẽ cùng gánh vác.”

Hai mắt gã mờ đi, giữa hình bóng bạn bè, một hình ảnh rõ nét hiện lên. Một đôi mắt to tròn biết nói, gương mặt thanh tú không chút tì vết, nụ cười dịu dàng, giọng nói sao mà thành khẩn: “Anh ơi, đừng bỏ cuộc nhé!”

“Được, anh hứa, anh sẽ không bỏ cuộc...”

“Tốt quá! Cường Ba thiếu gia đồng ý rồi!” Nhạc Dương reo lên, làm Trác Mộc Cường Ba giật mình sực tỉnh khỏi cơn mộng mị.

Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc lẩm bẩm: “Tôi, tôi đã nói gì vậy?”

Nhạc Dương nói: “Cường Ba thiếu gia, anh vừa hứa với chúng tôi, bảo là sẽ không bỏ cuộc, lẽ nào anh không ý thức được?”

Trác Mộc Cường Ba nhìn Mẫn Mẫn, gương mặt rạng rỡ vẫn còn lăn dài những giọt nước mắt ấy tựa đóa hoa lê sau cơn mưa. Gã thầm nói với một người con gái khác trong lòng: “Cám ơn em, em gái.”

Pháp sư Á La kết luận: “Vậy thì, cứ quyết định thế đi.” Nói đoạn, ông quay sang bảo Tước Mẫu vương: “Chúng tôi đồng ý điều kiện của ngài, hãy lập minh ước đi.”

Tước Mẫu vương liếc nhìn Quách Nhật Niệm Thanh một cái, rồi do dự chìa tay ra. Pháp sư Á La nắm lấy cổ tay Trác Mộc Cường Ba, để gã đập tay lập lời thề với Tước Mẫu vương.

Sau khi thề hẹn,Quách Nhật Niệm Thanh đứng bên cạnh mới cất giọng âm hiểm hỏi: “Các vị, để lại ai làm con tin vậy?”

Đội trưởng Hồ Dương ưỡn ngực bước ra nói: “Tôi sẽ ở lại làm con tin của các người.”

Quách Nhật Niệm Thanh khẽ chau mày, lại thấp giọng “xì xà xì xồ” một chập bên tai Tước Mẫu vương. Vị quốc vương già gật gật đầu, sau đó nói: “Vậy không được, một người không được.”

“Cái gì? Các người đừng có được voi đòi tiên đấy nhé!”

Tước Mẫu vương chìa hai ngón tay ra, nói: “Ít nhất phải để lại hai người làm con tin.”

Con mắt độc nhất của Quách Nhật Niệm Thanh nhìn chằm chằm vào Đường Mẫn không chớp. Mẫn Mẫn thầm giật thót mình, lập tức hiểu ra, bọn họ cần một người có vị trí quan trọng trong lòng Trác Mộc Cường Ba, một người khiến Trác Mộc Cường Ba nhất định phải quay lại. Với sự tinh minh của Quách Nhật Niệm Thanh, những người khác đều chưa đủ sức nặng, rõ ràng là y muốn cô ở lại. Lúc Nhạc Dương và Trương Lập còn đang cãi vã ầm ĩ, Đường Mẫn lấy hết can đảm ra nói: “Em cũng ở lại.”

“Mẫn Mẫn,” Trác Mộc Cường Ba chộp lấy hai vai cô lay mạnh, “em nói gì vậy?’

Đường Mẫn nhoẻn miệng cười điềm đạm: “Em cũng ở lại.” Bàn tay cô khẽ lướt qua mái tóc Trác Mộc Cường Ba, dịu dàng nói: “Vết thương ở chân đội trưởng Hồ Dương vẫn chưa khỏi hẳn, anh ấy cần người chăm sóc, vả lại tiếng Tạng cổ của anh ấy cũng không được tốt cho lắm. Hơn nữa, nếu em ở lại, anh sẽ có thể quay trở về sớm hơn, có phải không?”

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại nhìn, vừa khéo trông thấy nụ cười lạnh lẽo nở trên môi Quách Nhật Niệm Thanh. Gã liền hiểu ra ngay tức thì, giữ Mẫn Mẫn lại để kiềm chế mình, đó mới là ý đồ thực sự của tên Quách Nhật Niệm Thanh kia. Y hiểu rất rõ quan hệ giữa bọn họ, vì vậy, có đổi lại người nào khác, chắc chắn y cũng không chấp nhận. Hơn thế, Mẫn Mẫn nói không sai, nếu cô ở lại chăm sóc đội trưởng Hồ Dương, tốc độ của họ sẽ tăng lên đáng kể. Tuy rằng, Mẫn Mẫn chưa lần nào rớt khỏi đội ngũ, nhưng dù sao thì thể lực của cô cũng là người kém nhất trong cả nhóm.

Chỉ là Trác Mộc Cường Ba không thể ngờ, lần này Mẫn Mẫn lại chủ động đưa ra đề nghị đó. Trước đây, chuyện như vậy tuyệt đối không thể có. Xem ra, Mẫn Mẫn đã không còn là cô bé con mới xa gã ba bốn ngày đã buồn đến mức khóc sưng cả mắt lên nữa rồi. Giờ đây, cô đã trưởng thành, trở thành một người đàn bà hiểu được thế nào là tình yêu thực sự.

Gã ngắm nhìn gương mặt thanh tú, đôi mắt to, sáng long lanh ấy, tựa hồ như nghe thấy tiếng em gái đang cổ vũ mình: “Anh trai, anh phải cố lên nhé!” Hai người bốn mắt nhìn nhau, thâm tình dạt dào vô hạn.

Trương Lập nhìn xoáy vào mặt Tước Mẫu vương, lạnh lùng hỏi: “Như vậy đã hài lòng chưa?”

Tước Mẫu vương ngoẹo đầu nhìn Quách Nhật Niệm Thanh. Tên lùn trọc đầu ấy không ngờ lại tiếp tục áp miệng vào tai Tước Mẫu vương xầm xà xầm xì một hồi lâu. Tước Mẫu vương vừa nghe vừa gật đầu lia lịa như con gà say rượu. Ba Tang nắm chặt bàn tay, phát ra những tiếng răng rắc, nếu có vũ khí bên mình, e rằng anh ta đã nổ súng từ lâu rồi.

Quách Nhật Niệm Thanh nói xong, lại lùi sang một bên, như thể chuyện này chẳng hề liên can gì đến y vậy. Tước Mẫu vương hắng giọng một cái, rồi nói: “Còn một việc nữa, vì đoàn sứ giả của chúng ta đã đàm phán với Qua Ba Đại Địch ô rồi, nếu giờ lại đi nữa, thì sẽ phải cho họ một lời giải thích thỏa đáng. Ngoài ra, nếu chỉ phái một tên tùy tùng chỉ đường cho các vị, thì lại tỏ ra không được tôn trọng vương quốc Yaca cho lắm. Vì vậy, lần này, người của chúng ta sẽ không đi theo các vị.”

“Ông nói cái gì? Chúng tôi thậm chí còn chẳng biết đường, làm sao mà đi được chứ?” Nhạc Dương vừa nghe, đã cao giọng làm ầm lên.

Tước Mẫu vương hờ hững nói: “Bản vương chỉ nói người Tước Mẫu chúng ta không theo các vị đi, chứ đâu có nói không chỉ đường. Sẽ có một người thông thuộc hoàn cảnh và địa hình ở Yaca chỉ dẫn cho các vị đến cầu kiến Qua Ba Đại Địch ô, y chính là Giang Dũng Trát Lỗ từng ở chung nhà lao với các vị. Y đã bị nhốt ở đó ba năm rồi, giữ lại cũng chẳng ích gì, bản vương sẽ đặc xá, cho y trở về cố thổ. Vì vậy, sự kiện lần này sẽ là việc cá nhân giữa các vị với Qua Ba Đại Địch ô, không hề liên quan đến quan hệ của hai vương quốc Yaca và Langbu, các vị có hiểu không?”

Nhạc Dương cười gằn nói: “Thì ra là vậy, tiện quá nhỉ.”

Pháp sư Á La gật đầu với Trác Mộc Cường Ba: “Có thể chấp nhận.”

Tước Mẫu vương lại quay qua nhìn Quách Nhật Niệm Thanh, chỉ thấy y khẽ gật đầu. Bấy giờ, Tước Mẫu vương mới nói bằng giọng của kẻ chiến thắng: “Tốt rồi, vậy cứ theo thỏa thuận đó mà làm. Đoàn sứ giả của bản vương phái đi, từ lúc xuất phát đến khi trở về, trước sau tốn mất ba ngày thời gian, vì các vị còn phải đi thuyết phục Qua Ba Đại Địch ô, bản vương cho thêm một ngày nữa, vậy chắc cũng đủ dùng rồi. Còn về con tin, hai vị đây là được rồi, con gái bản vương, còn phải nhờ cô nương chăm sóc nhiều nữa.”

Trở về phòng nghỉ, Nhạc Dương và Trương Lập vẫn hết sức bất bình. Nhạc Dương tức tối nói: “Chuyện đang tốt đẹp, bị hắn nói cho mấy câu liền thành ra như vậy, tức chết đi được! Cả cái lão Tước Mẫu vương kia nữa, trở mặt như trở bàn tay vậy, mà còn chẳng có chủ ý, làm đại vương cái nỗi gì chứ!”

Địch ô An Cát Mẫu đành lên tiếng giảng hòa: “Được rồi, được rồi, Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân là thần bảo vệ của vương quốc Langbu chúng tôi, không thể chỉ vì ông ấy dùng kế bắt các vị, giam giữ mấy ngày mà các vị đã coi ông ta là một tên tiểu nhân gian trá bỉ ổi được.”

“Không,” đội trưởng Hồ Dương nói: “Tên Quách Nhật Niệm Thanh không hề đơn giản. Tuy nhìn bề ngoài mỗi lần vạch mưu tính kế của y đều vì lợi ích của Tước Mẫu vương, nhưng tôi luôn cảm thấy y có tâm địa khác. Ít nhất là y khiến tôi có cảm giác, mọi điều y làm đều là cố ý nhằm vào chúng ta cả.”

“Nhưng chẳng có lý do gì cả! Chúng ta đã chứng minh mình không phải đồng bọn của những kẻ đã khiến Đại Địch ô Thứ Kiệt bị thương rồi, hơn nữa cũng không có thù cũ hận mới gì với tên Quách Nhật Niệm Thanh, y cũng không thể nào vừa nhìn thấy chúng ta đã ghét mặt rồi đúng không? Lẽ nào, vì lần đầu tiên gặp mặt chúng ta đã cười nhạo thể hình của y, nên y ôm hận trong lòng? Không thể nào chứ, hôm đó chúng ta cũng có cố ý giễu cợt gì y đâu!” Vừa nhắc đến vấn đề và những gì khó hiểu, Nhạc Dương liền bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc.

Địch ô An Cát Mẫu cười nói: “Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân không như các vị tưởng tượng đâu. Ông ấy giỏi dùng mưu lược, bách chiến bách thắng. Có thể đạt được hiệp nghị với vương quốc Yaca, mang lại hòa bình ngày hôm nay, công lao của ông ấy là lớn nhất. Khí độ và lòng dạ của Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân không thể nào lại hẹp hòi như vậy được.”

Trương Lập không phục nói: “Vậy tại sao y cứ nhằm vào chúng ta vậy? Lại còn suốt ngày gây chuyện rắc rối cho chúng ta nữa.”

“Cũng không thể nói là nhằm vào các vị!” Địch ô An Cát Mẫu nói: “Đúng như đội trưởng Hồ Dương vừa mới nói, mọi điều Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân làm đều là vì lợi ích của Tước Mẫu. Ông ấy mới biết các vị được vài ba ngày, chưa hiểu gì về nhau, nhưng vũ khí của các vị lại khiến ông ấy không thể không cảnh giác. Nếu như các vị muốn giúp đỡ Yaca, vậy chẳng phải sẽ trở thành uy hiếp cực lớn cho vương quốc Langbu chúng tôi hay sao?”

Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Nhạc Dương cùng lúc hiểu ra, cả mấy người họ đều không nghĩ đến mặt này, tuy họ chỉ có các loại vũ khí thông thường, nhưng đúng như Ba Tang nói, chỉ cần đủ đạn dược, giết sạch người ở đây cũng không phải là chuyện bất khả thi. Chẳng qua họ chưa hề nghĩ đến việc này mà thôi. Nhưng cứ hễ nghĩ đến tướng mạo và giọng điệu của Quách Nhật Niệm Thanh, là lại càng thấy y đáng ghét!

Chương 29

Đi sứ Yaca

Lữ Cánh Nam nói: “Không thể xem thường gã Quách Nhật Niệm Thanh này được, y là người rất am hiểu tâm lý học. Khi chúng ta đàm phán với Tước Mẫu vương, y vẫn luôn quan sát nét mặt và động tác của từng người một trong chúng ta. Kỳ thực, y rất giống một người bán hàng rong bên vỉa hè, nếu chúng ta càng tỏ ra cần món hàng đó, giá y đặt ra sẽ càng cao. Qua lại với hạng người này cần phải vô cùng cẩn thận, sẽ rất khó lòng mà chiếm được lợi ích từ y, nhưng lại rất dễ rơi vào bẫy. Thậm chí, y còn có thể dựa vào vẻ mặt và động tác của chúng ta, để phân tích ra tính cách, thói quen và nhược điểm của từng người nữa đó.”

Nhạc Dương ngần ngừ: “Nói vậy là, tôi và Trương Lập càng lớn tiếng, ngược lại càng lộ ra nhược điểm rồi?” Lữ Cánh Nam chỉ hờ hững mỉm cười. Nhạc Dương lấy làm hổ thẹn liếc mắt sang nhìn Trương Lập.

Ba Tang cất giọng khan khan nói: “Dù hắn có nhiều trò đến mấy, chỉ cần một viên đạn là cũng giải quyết xong xuôi.”

Pháp sư Á La chậm rãi nói: “Thực ra, từ đầu đến giờ, chúng ta vẫn luôn coi thường vị Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân này, vì vậy nên mới mấy lần bị y cho rơi vào thế yếu mà chẳng biết kêu ai. Mỗi lần xuất kích, y đều có thể đánh đúng vào chỗ yếu nhất của chúng ta, làm cho chúng ta không thể không phòng bị, đồng thời cũng có cảm giác không sao chống đỡ nổi. Nếu chúng ta có thể đứng ở lập trường của Quách Nhật Niệm Thanh suy tính vấn đề sớm hơn một chút, có lẽ sẽ không thành ra cục diện như ngày hôm nay rồi. Quách Nhật Niệm Thanh, Quách Nhật Niệm Thanh, bản thân đó đã là một cái tên đáng sợ rồi, chỉ tiếc là chúng ta chỉ được nếm mùi âm mưu thủ đoạn của y, chứ chưa được thấy kiến thức và phong thái đại tướng của con người ấy.”

Nhạc Dương chợt hỏi: “À, phải rồi, pháp sư, minh ước thần thánh là như thế nào vậy? Chỉ vỗ tay một cái vậy là xong rồi à?”

Pháp sư Á La lắc đầu đáp: “Đó chỉ là nghi lễ khởi đầu, giống như nghi thức đính hôn vậy, ngày mai mới chính thức kết minh ước, lập đàn làm lễ, dâng tế phẩm, bẩm báo với trời cao lời thề mà hai bên đã ước định. Một khi đã bẩm báo với chư thần trên trời, thì cũng như người ngày nay đã ký hợp đồng rồi vậy, kẻ nào vi phạm, sau khi chết linh hồn sẽ bị đày xuống địa ngục, mãi mãi chịu giày vò khổ sở.”

“A! Vậy thì cái minh ước này chẳng phải rất hàm hồ hay sao?” Nhạc Dương ngạc nhiên hỏi.

Pháp sư Á La cười, điềm đạm nói: “Đây là cách làm thời cổ. Có thể nói, đối với những người tôn thờ thần thánh, minh ước này còn hữu hiệu hơn sự ước thúc của pháp luật nhiều.”

Ngày hôm sau, họ được đám vệ binh dẫn đến đàn tế của thành Tước Mẫu. Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người trong giây lát, đàn tế này thực sự quá giống với một đàn tế trong ký ức của gã. Vô số tảng đá lớn được sắp xếp thành những hình tròn đồng tâm, chính giữa đàn tế là đài cao ba tầng hình tròn giống như Thiên Đàn ở Bắc Kinh, chỉ là bệ đá ở chính giữa đàn tế được thay bằng một trụ đá cao ngất. Giờ đây, xung quanh trụ đá đã bày kín các cống phẩm dùng để tế lễ, Đại Địch ô Thứ Kiệt cũng chống gậy bận rộn sắp xếp mọi việc trên đàn tế. Tước Mẫu vương đã đợi sẵn bên trên, những người khác thì đứng trong vòng tròn đồng tâm phía dưới.

Quách Nhật Niệm Thanh cũng dẫn theo một nhóm người sắp xếp công việc dưới đàn tế, bận tới bận lui, thấy bọn Trác Mộc Cường Ba đi tới, y liền dặn dò thủ hạ mấy câu, rồi bước lại đón tiếp. Quách Nhật Niệm Thanh ngước mắt lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Các vị đã quyết định chưa? Nếu giờ muốn hối hận thì vẫn còn kịp đấy.”

Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh nhìn thẳng vào Quách Nhật Niệm Thanh, chợt thấy thấp thoáng bóng dáng của Đa Cát. Là đối thủ, Quách Nhật Niệm Thanh là loại mà gã ghét nhất; là bạn bè, Đa Cát Điệt Bất lại là dạng người mà gã thích quen biết nhất. Cùng là con người, mà sự khác biệt lại lớn đến vậy sao?

Giờ lành đã đến, pháp sư Á La dặn dò vài câu, rồi để Trác Mộc Cường Ba tự mình ký kết minh ước thần thánh. Sau đó, Đại Địch ô Thứ Kiệt tiến hành một loạt những nghi thức phức tạp, mời đến đủ các vị thần linh trên trời. Trước họa tượng của chư thần, Trác Mộc Cường Ba và Tước Mẫu vương cùng lớn tiếng đọc lên ước định, uống một bát rượu lớn, đập vỡ bát kết minh, lấy đại đao cắt ra một mảng thịt lớn, những người bên ngoài tế đàn bắt đầu nhảy múa hát ca, coi như minh ước đã được thành lập.

Hôm sau, khi bầu trời Thánh vực bắt đầu ánh lên những tia sáng màu sắc rực rỡ, bọn Trác Mộc Cường Ba đứng trên giỏ treo. Đội trưởng Hồ Dương, Mẫn Mẫn và Địch ô An Cát Mẫu đều đứng phía bên ngoài, Quách Nhật Niệm Thanh dẫn theo một đám quân lính canh chừng bọn họ. Những lời cần nói đều đã nói hết từ tối hôm trước, hôm nay, Mẫn Mẫn chỉ kiên cường mỉm cười. Kỳ thực, trên gương mặt mỗi người đều gượng nở ra nụ cười khích lệ. Họ đã cùng trải qua biết bao hiểm nguy sinh tử, giờ đây trong đội lại có hai người phải tạm thời chia tay, ở lại một nơi xa lạ, ngày ngày không biết chuyện gì đang chờ đợi mình phía trước. Vì vậy, họ đều thầm chúc phúc cho nhau, hai mắt nhìn thẳng, ánh mắt giao nhau, lộ ra những cảm xúc phức tạp. Sau đó, rong rọc từ từ quay, giỏ treo bắt đầu hạ xuống. Ánh mắt hai nhóm người trước sau vẫn xoắn chặt lấy nhau.

Sau khi giỏ treo hạ xuống được hơn chục mét, Nhạc Dương đột nhiên phát hiện trong mắt Quách Nhật Niệm Thanh thoáng lộ sát khí nặng nề. Không thể lầm được, đó là chắc chắn là sát khí. Nhạc Dương biết, trên thế gian này có thể có tình yêu vô duyên vô cớ, nhưng rất khó có nỗi hận vô cớ vô duyên, hơn nữa, còn là nỗi thù hận khắc cốt ghi xương kia nữa. Anh thầm nhủ: “Rốt cuộc là chuyện gì vậy? Ánh mắt đó là như thế nào? Trước khi đến Tước Mẫu, chúng ta chưa hề gặp mặt tên Quách Nhật Niệm Thanh đó, mà Quách Nhật Niệm Thanh cũng không thể nào là đồng bọn của Merkin được, y có lý do gì để thù hận chúng ta đâu?”

Cho tới khi bóng bọn Trác Mộc Cường Ba khuất hẳn khỏi tầm nhìn, Quách Nhật Niệm Thanh mới gọi một tên thủ hạ đến dặn dò vài câu. Tên thủ hạ nhận lệnh chạy đi, mấy chục phút sau, một con chim câu bay vút lên trời cao, hướng về phía thác nước.

Quách Nhật Niệm Thanh phái một đội hộ vệ đi theo hộ tống bọn Trác Mộc Cường Ba, người đứng đầu tên là Nha Châu, chính là một trong các dũng sĩ đã nghênh tiếp bọn họ hôm trước. Trên đường, Nha Châu nói với bọn Trác Mộc Cường Ba, không thể trực tiếp băng qua biển Sinh Mệnh từ chỗ rìa vách đá được, như vậy sẽ bị những xoáy nước khổng lồ nhấn chìm hết thuyền bè, nếu đi gần mép bình đài quá, lại có nguy cơ bị sóng đánh văng xuống tầng bên dưới. Vì vậy, họ phải mất một ngày đi vòng qua hồ nước lớn đó, đến một nơi tên là Thác Nhật, ở đó chỉ cần nửa ngày là sang được bờ bên kia. Theo như Nha Châu miêu tả, biển Sinh Mệnh hình dáng như cái hồ lô, còn Thác Nhật chính là chỗ thắt nút của cái hồ lô đó, nếu Yaca và Langbu muốn động binh với nhau, nhất thiết phải vượt biển ở nơi này. Vì vậy Langbu dồn trọng binh về trấn thủ ở Thác Nhật, còn Yaca cũng dựng thành Nhật Mã Ca Tùng ở phía bờ bên kia.

Giang Dũng Trát Lỗ cuối cùng cũng được rời khỏi gian nhà lao tối tăm đã giam cầm anh ta suốt ba năm trời, nhưng trên gương mặt hoàn toàn không có vẻ gì là mừng vui. Nhạc Dương thấy anh ta như đang nặng trĩu một bầu tâm sự, bèn hỏi nguyên nhân, có điều Trát Lỗ chỉ ấp a ấp úng không trả lời. Thấy đối phương có điều khó nói, Nhạc Dương bèn chuyển sang chuyện khác, hỏi chức vụ của Trát Lỗ ở Yaca là gì, bấy giờ Trát Lỗ mới đắc ý trả lời: “Phải biết là, những văn sư quốc sự như chúng ta, nhất định phải có tài văn, không chỉ viết chữ đẹp, mà còn cần phải biết sáng tác những vần thơ đẹp đẽ. Dù là tướng mạo hình thể, cũng phải trải qua lựa chọn nghiêm khắc...”

Trát Lỗ còn chưa nói dứt, đã nghe Nha Châu ngắt lời: “Thôi đi, mấy tên được gọi là văn thư các ngươi, ở Yaca làm quái gì có địa vị. Dân tộc trên lưng ngựa các ngươi chỉ nói chuyện đao ai nhanh hơn, thuật cưỡi ngựa của ai giỏi hơn, những người đàn ông uống rượu mạnh, có võ công cao cường mới là dũng sĩ được người người tôn trọng. Hạng người chỉ biết trốn trong trướng viết sơn ca như ngươi, căn bản chẳng có cô nương nào chịu gả cho. Nếu chẳng có chuyện đi sứ sang vương quốc Langbu chúng ta, thì đám người tay chân yếu ớt như các người vốn chẳng có lý do gì để mà tồn tại cả!” Nghe những lời cay nghiệt tức tối của Nha Châu, rõ ràng là y cực kỳ căm ghét kẻ đã làm hại công chúa của mình.

Trát Lỗ bị Nha Châu mỉa mai cho một chặp, không nói được nên lời, chỉ cúi gằm mặt xuống lúng búng gì mà mình là văn thư được vương thân đề bạt, là người xuất sắc nhất so với những kẻ đồng trang lứa, nhưng âm lượng quá nhỏ, rõ ràng là chẳng có lý lẽ gì vặc lại được đối phương. Trác Mộc Cường Ba bèn an ủi: “Chớ nên đau lòng, những vần thơ đẹp đẽ của anh sẽ được người đời ghi nhớ và lưu truyền, đó lẽ nào lại chẳng phải một sự việc rất vĩ đại hay sao?”

Nhạc Dương nghe mà không khỏi giật mình, Nha Châu nói không sai, Yaca là vương quốc theo chế độ tù trưởng, do vô số bộ lạc du mục hợp lại mà thành, vậy thì hẳn là rất giống với đế chế Mông Cổ mà bọn họ đã quá quen thuộc. Bọn họ chỉ sùng bái những dũng sĩ có thể chinh chiến trên lưng ngựa, hạng người như Trát Lỗ chỉ là loại tiểu tốt bị người ta coi khinh. Nếu đại vương của Yaca thực sự coi trọng anh ta, thì cũng đã chẳng để mặc anh ta bị nhốt trong nhà lao ở Langbu suốt mấy năm trời như thế. Vậy thì, cần phải cân nhắc lại việc Trát Lỗ khiến công chúa Lạp Mẫu bị mù rồi. Một con tốt có thể tùy ý bỏ rơi hoặc tiêu diệt như anh ta, liệu có thể đảm nhận trọng trách lớn đến thế không? Vậy thì toàn bộ sự việc liên quan đến công chúa này, sợ rằng không đơn giản như họ vẫn hằng tưởng tượng. Tại sao lại làm cho công chúa bị mù? Kẻ nào mới là người được lợi nhiều nhất? Những dòng suy nghĩ chuyển động nhanh chóng trong đầu Nhạc Dương, chỉ là có một số vấn đề không tiện nói ra trước mặt Nha Châu, anh ngầm ghi nhớ lại, định khi nào tới Thác Nhật, lên thuyền xong mới hỏi Trát Lỗ.

Phần giáp ranh với biển Sinh Mệnh là một vùng đầm lầy, bùn đất và nước biển giao hội với nhau ở đây. Khác hẳn với khu rừng đá trơ trọi kia, nơi này là cả một vùng trời khác, đất đai màu mỡ làm cây cối ở nơi này hết sức to lớn rậm rạp, sức sống hừng hực đó như thể muốn bật tung khỏi vùng đất bùn, bay vút lên trời cao. Để thích ứng với kết cấu đất yếu, rễ cây ở đây đều rất to khỏe, có khi rễ vươn ra từ thân cây, lại có lúc rễ rủ từ trên cành xuống, hệ thống rễ cây phát triển chằng chịt đó như vòi bạch tuộc bám chặt lấy đất bùn, làm cho thân cây to lớn có thể tiếp tục sinh trưởng. Những cây đước, cây vẹt ở đây cao chừng năm chục mét, tán lá sum suê xòe rộng trên diện tích cả trăm mét vuông, rễ cây lại càng chia thành trăm ngàn nhánh nhỏ, một cây mà trông đã như rừng, cảnh tượng thiên nhiên hết sức tráng lệ.

Trong đầm lầy không có đủ dưỡng khí, vì vậy vô số rễ cây đước đã đâm xuống đầm lầy lại ló đầu lên như những đọt măng tre, tựa hồ một thân cây mới đang vươn lên, có rễ cây còn cao gần bằng nửa thân cây, mở ra vô số lỗ hô hấp, tham lam hút oxy trong không khí.

Chương 30

Kẻ thù của Nhạc Dương

Đi vòng quanh biển Sinh Mệnh hơn nửa ngày, cảnh đẹp trước mắt không ngừng biến đổi, bờ biển Sinh Mệnh không có bãi cát, mà toàn là nham thạch rắn. Nhưng nham thạch ở đây khác với những nơi khác, phóng mắt nhìn ra xa, bề mặt cả vùng đều được nước rửa sạch, mài phẳng lỳ, cứ cách vài mét lại có một rãnh vừa sâu vừa hẹp, vươn thẳng ra xa tít tắp. Ngang cũng có, dọc cũng có, bề mặt phẳng lỳ tựa như bị búa trời chém xuống tạo thành những đường vạch đều đặn, ngang dọc cắt nhau, người đi ở giữa như đang bước trên một bàn cờ khổng lồ của trời đất. Trong bàn cờ ấy, vô số tảng nham thạch nhô lên cao ngất sừng sững bên bờ biển, càng giống những quân cờ hình dáng khác nhau, kỳ quái vô cùng, có tảng trông như cây nấm, có tảng lại như con nai, như đầu người, như cây cối, như con chim... mỗi tảng đá đều là một quân cờ, mỗi quân cờ lại khác nhau, toàn bộ được đúc tạc bởi bàn tay thần kỳ của tự nhiên, hoàn toàn không có chút dấu vết mài giũa của con người. Giữa những trụ đá cũng có những hố nhỏ, trong hố có nước đọng, thậm chí còn thấy cả cá bơi. Nha Châu nói, những cái hố này trông không lớn lắm, nhưng thực ra sâu vô cùng, nhiều hố còn thông thẳng đến biển Sinh Mệnh, những lúc triều dâng, chúng sẽ phun trào lên như suối nước nóng. Xem ra, hồ nước khổng lồ được người ở đây gọi là biển Sinh Mệnh này, có lẽ là kết quả của dòng thác không ngừng chảy ngàn vạn năm và núi đá đỏ. Nước, và gió, đã tạo nên một kỳ quan của thiên nhiên.

Thác Nhật đã mỗi lúc một gần hơn, Nhạc Dương không nén nổi tò mò nữa, liền hỏi pháp sư Á La: “Pháp sư, tại sao ông có vẻ chắc chắn vậy?”

Pháp sư Á La mỉm cười nói: “Phải biết rằng, mời cũng có cách dùng văn và dùng võ.”

Ba Tang lấy khẩu súng lục ra mân mê khe khẽ, thầm nhủ: “Quả nhiên đúng như mình nghĩ.”

Nhạc Dương liếc sang phía Nha Châu, thầm biết pháp sư Á La nói vậy là để cho y nghe.

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Thác Nhật còn xa không?”

Nha Châu đáp: “Không xa, ở ngay trước mặt thôi, tảng đá lớn kia chính là cột mốc đánh dấu của Thác Nhật.”

Vừa đi được mấy bước, liền nghe trong rừng cây đước cạnh đó vẳng ra tiếng gào thét rợn người, Trác Mộc Cường Ba vội hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Nha Châp đáp: “Nhất định là có người giẫm phải bẫy rồi, cạm bẫy chung quanh Thác Nhật đều được thiết kế dựa trên hình vẽ của người Thượng Qua Ba để lại. Chúng ta lại đó xem sao.”

Nhạc Dương thầm nhủ: “Kẻ giẫm phải bẫy chắc chắn là người không quen thuộc địa hình nơi này, vậy nhất định là bọn người kia rồi!”

Trương Lập cũng thầm nghĩ: “Cơ quan cạm bẫy của người Qua Ba để lại, cũng đáng đi xem lắm.”

Chạy được vài chục bước, lại nghe thấy một tiếng gầm khủng khiếp, giống như của một con mãnh thú đang chờ chết, âm thanh truyền khắp cả rừng đước, làm thú chạy chim bay tứ tán. Nha Châu đưa tay ra, nói: “Dừng lại!”

Nhìn vẻ mặt nghiêm túc của y, Nhạc Dương vội hỏi: “Sao thế?”

Nha Châu rút ở sau lưng ra một cuộn da dê, nói: “Chúng ta đã tiến vào trận địa cơ quan rồi, chạy nhanh quá sẽ giẫm phải cạm bẫy đó.”

Trương Lập đứng sau lưng Nha Châu liếc mắt nhìn tấm bản đồ bố trí cạm bẫy, chỉ thấy hai bên con đường ngoằn ngoèo quanh co toàn các chấm đỏ, cả tấm bản đồ nhìn chi chít như một bãi mìn khổng lồ. Trương Lập kinh hãi nói: “Cái gì vậy? Nhiều cạm bẫy thế cơ à?”

Nha Châu chỉ vào những bộ rễ cây vươn lên khỏi đầm lầy, nói: “Đây không phải là cây non, mà là rễ của cây lớn, chúng đâm xuống đầm lầy, rồi lại chổng ngược lên, cành cây và thân rễ cực kỳ dẻo dai đàn hồi. Người Thượng Qua Ba dạy chúng tôi kéo những cành cây đước đó xuống hầm, dây buộc và đinh cố định đều ở bên dưới mặt bùn, trải qua một khoảng thời gian, dây thừng và đinh gỗ đều mục nát đi, nhưng cành cây không hề bị ảnh hưởng, vẫn sinh trưởng rất tốt bên dưới đầm lầy. Giờ đây, những dây thừng và đinh gỗ mủn ra đó đều trở nên cực kỳ không ổn định, chỉ hơi bất cẩn giẫm phải, sẽ thành ra thế này...”

Nói đoạn, Nha Châu cúi người chọc tay xuống bùn, bẻ một đoạn rễ cây, rồi tùy tiện ném vào một chỗ cách đấy chừng mười mét. Rễ cây đước cắm vào bùn lầy, “ủm ủm” lên hai cái bong bóng, chìm xuống. Cả bọn Trác Mộc Cường Ba đều nín thở chăm chú, đợi chừng ba mươi giây mà không có phản ứng gì, Trương Lập và Nhạc Dương ngoảnh đầu lại nhìn Nha Châu dò hỏi. Chỉ thấy Nha Châu giơ bàn tay phải lên, nói: “Đợi thêm chút nữa!”

Gần một phút sau, mới nghe thấy tiếng “soạt...”, trong đầm lầy bắt đầu xuất hiện biến hóa. Thoạt đầu giống như có rắn ngoằn ngoèo bò bên dưới làn nước, kế đó mặt bùn cuồn cuộn lên, như thể vô số con cá đang quẫy lộn, tiếp đó là tiếng cành cây đứt gãy “rắc rắc”, từng bộ rễ cây đước bỗng đột nhiên rời khỏi đầm bùn, bắn vọt lên trời như những thanh kiếm sắc. Cây cối như biến thành tinh, từng cành từng cành cây quẫy động như lũ rắn, nước bùn tóe lên như mưa rào. Bọn Trác Mộc Cường Ba đều thầm kinh hãi trước cảnh tượng đang diễn ra trước mắt, nhìn những cành cây bay rào rào như châu chấu ấy, liệu bản thân dám chắc mấy phần rằng mình né tránh được?

Đợi cho trận địa cạm bẫy hoàn toàn dừng lại, bọn Trác Mộc Cường Ba mới kinh hãi nhận ra, khoảng rừng đước phía trước mặt đã xảy ra những biến đổi khó tin, hình dạng, tuyến đường hầu như đã thay đổi, bùn nước vẫn đang rơi xuống lõm bõm, nhắc nhở họ về sự đáng sợ của nơi này. Nha Châu cất tấm bản đồ đi, nói: “Được rồi, giờ con đường này đã tạm thời an toàn, chúng ta đi thôi.”

Trong rừng cây lạnh lẽo u ám ấy, họ nhìn thấy Đạt Kiệt nằm thoi thóp thở. Hắn đang dựa lưng vào một cây đước lớn, toàn thân ướt đẫm bùn lỏng nhão nhoẹt, hai tay yếu ớt duỗi dọc theo bên đùi, lỗ hổng to tướng trên vai trái đã ngừng chảy máu, xương trắng và cơ bắp cuốn chặt vào nhau, máu và bùn hòa trộn lẫn lộn. Những người nhìn thấy cảnh tượng ấy, đều không ai dám tin rằng con người đó vẫn còn sống.

Cơ thịt dưới mắt Nhạc Dương giật giật liên hồi, tuy người đó đầu tóc rũ rượi, bùn đất che kín mặt mũi, nhưng ánh mắt hung hãn dưới mớ tóc lập tức khiến anh nhớ đến một người. Còn ánh mắt Đạt Kiệt cũng dừng lại trên gương mặt Nhạc Dương giây lát, rồi nhanh chóng lộ ra vẻ khinh miệt.

“Là Đạt Kiệt!” người đầu tiên kêu lên lại là Trương Lập. Không phải Nhạc Dương không nhận ra, mà chỉ là nhất thời không dám tin mình lại có thể gặp lại hắn ở nơi này, không ngờ hắn lại bị thương nặng thế, đúng là trời cao có mắt!

“Trần Văn Kiệt!” Hai mắt Nhạc Dương đỏ lựng lên, lạnh lùng gằn giọng.

“À, Nhạc Dương hả.” Trần Văn Kiệt cúi đầu, cười lạnh.

Chuyện của Nhạc Dương và Trần Văn Kiệt, cả bọn Trác Mộc Cường Ba đều đã biết sơ sơ, nên không ai lên tiếng, lặng lẽ chờ Nhạc Dương tự mình giải quyết.

“Mày không thể ngờ sẽ có kết cục này phải không?” Nhạc Dương bước lên phía trước.

“Vậy sao?” Trần Văn Kiệt ngẩng đầu lên, chỉ thấy đầu tóc y rũ rượi, mặt mũi đầy máu và bùn, khóe miệng nhếch lên, đôi mắt lóe ánh hung quang dữ tợn, chẳng hề có vẻ gì là hối hận, mà chỉ thấy đầy ngông cuồng, hưng phấn. Giọng y cất lên đầy dẫn dụ: “Giết tao đi!”

Nhạc Dương vốn đã giương súng lên, thấy bộ dạng đó của Trần Văn Kiệt, bỗng ngẩn người ra, lắc lắc đầu, hạ súng xuống, nói: “Không!”

Trần Văn Kiệt khó nhọc giơ tay lên, ngón tay tạo thành hình khẩu súng, chỉ vào đầu mình, nói: “Bắn vào đây này, đạn xuyên vào trong, giống như bắn vỡ toang quả dưa hấu, màu đỏ, màu trắng, màu đen, màu gì cũng có, ha... ha ha... bắn đi, bắn đi! Thằng nhát cáy! Khụ, khụ... mày, mày chỉ biết lén lút tố cáo người ta thôi sao? Hừ, tao quên mất mày là tên nội gián xuất sắc nhất, bây giờ mày cũng là nội gián phải không?”

Trần Văn Kiệt vừa nói, vừa quan sát phản ứng của những người đứng sau lưng Nhạc Dương, tuy tất cả đều im lặng, nhưng hắn nhìn ra được, câu nói ấy đã có tác dụng.

Nhạc Dương bình tĩnh, quay người lại, tựa hồ mới buông bỏ được gánh nặng trong lòng, thở hắt ra một tiếng nói: “Chúng ta đi thôi.”

Trương Lập bối rối hỏi: “Cậu không trả thù à?”

Nhạc Dương nói: “Tôi nghĩ, cô chú tôi cũng chẳng mong đợi tôi nổ súng vào một kẻ đã hoàn toàn chẳng còn sức phản kháng! Dù hắn tội ác ngập đầu đi chăng nữa. Họ thường nói với tôi, đừng làm những chuyện phạm pháp, đừng đi con đường không thể quay đầu. Làm chuyện bất nghĩa sẽ bị quả báo, thôi thì để hắn tự sinh tự diệt ở đây đi.”

Đôi mắt cuồng loạn của Trần Văn Kiệt cuối cùng cũng lộ ra vẻ sợ hãi, hắn giận dữ quát chửi: “Thằng nhát gan, đồ hèn, giết tao đi!” Không hiểu lấy sức lực đâu ra, hắn đột nhiên nhảy chồm lên khỏi đám đất bùn, bổ nhào về phía Nhạc Dương!

“Tạch!” “Tạch tạch!”

Nhạc Dương đang quay đầu trở lại, nhưng những người khác đều cực kỳ cảnh giác, chỉ sợ anh xảy ra chuyện, đạn từ họng súng của Ba Tang, Trương Lập, Lữ Cánh Nam trước sau lần lượt bắn trúng Trần Văn Kiệt. Trần Văn Kiệt gục xuống bùn đất, khó nhọc ngẩng đầu lên, nhưng đôi mắt vẫn cực kỳ hung hãn, bộ dạng nghiến răng nghiến lợi như thể muốn lao vào cắn xé Nhạc Dương. Hắn lẩm bẩm gì đó, nhưng giọng mỗi lúc một yếu hơn.

“Cẩn thận!” Ba Tang chợt cảm nhận được mùi nguy hiểm.

“Tất cả chúng mày... chết chung với tao đi!” Trần Văn Kiệt bật cười điên loạn một tiếng cuối cùng, rồi tắt thở.

Nhưng Ba Tang lại phát hiện, cảm giác nguy hiểm kia vẫn chưa biến mất, ngược lại còn trở nên nặng nề hơn, tại sao vậy chứ? Đột nhiên, anh ta phát hiện trên áo chống đạn của Trần Văn Kiệt, bùn đất hình như bọc quanh một vật hình tròn gồ lên, trông giống một đồng xu!

“Nằm xuống! Cơn Lốc Đen!” Cùng với tiếng hét, Ba Tang bổ lên phía trước ôm lấy Nhạc Dương, rồi húc ngã Trương Lập, lăn một vòng dưới đất. Lữ Cánh Nam và Trác Mộc Cường Ba cũng kịp thời phản ứng, còn pháp sư Á La thì đã lộn nhào một vòng, kéo Nha Châu và Trát Lỗ nằm xuống, nhưng mấy tên hộ vệ khác thì vẫn đứng ngây ngây ra đó.

“Ầm!” một tiếng nổ kinh thiên động địa vang lên, Nha Châu cứ ngỡ rằng tầng bình đài thứ hai đã sụp đổ đến nơi. Lúc y ngẩng đầu lên, chỉ thấy rừng đước vốn lạnh lẽo ẩm thấp, giờ bỗng ngập tràn những luồng nhiệt nóng rát, khoảng rừng có mấy cây lớn phía trước giờ đã trống huếch trống hoác, chỉ còn lại những gốc cây cụt lủn, đám hộ vệ đứng gần nhất đều cháy đen kịt, những người khác thì bị hất văng ra xa, đang vất vả bò dậy. Đằng xa vẳng lại tiếng cành cây “vù vù vù”, tựa như những cạm bẫy khác cũng bị ảnh hưởng của vụ nổ làm cho phát động rồi.

Nhạc Dương lật người bò dậy, Trần Văn Kiệt đã biến mất khỏi thế gian, những dấu vết màu máu lốm đốm trên người anh có lẽ là do hắn để lại. Trần Văn Kiệt đã trở thành một đống thịt vụn, giống như hắn đã từng xẻ tung thi thể của những người khác. “Nếu tao hóa thành tro, mày tuyệt đối không thể nhận ra được!” Tiếng cười điên cuồng đáng sợ của Trần Văn Kiệt phảng phất như vẫn còn văng vẳng bên tai, những xác chết đen kịt xung quanh, những mảnh thịt bắn tung tóe khiến Nhạc Dương như quay ngược thời gian trở lại quá khứ, từng cảnh tượng lại tái hiện trước mắt. Nhạc Dương không sao kiềm chế nổi, ôm ngực, há miệng “ọe” ra một bãi lớn.

Trương Lập bước đến an ủi: “Được rồi, qua hết rồi, cơn ác mộng ấy sau này sẽ không xuất hiện nữa.”

Nhạc Dương thương tâm ngẩng đầu lên: “Anh có thấy không? Anh có thấy không? Trong mắt hắn, trong mắt hắn không hề có vẻ hối hận, hắn không hề nghĩ mình đã sai trái. Tại sao lại như thế? Tại sao lại như thế!”

Trương Lập tắc tị không nói được gì, Lữ Cánh Nam đứng cạnh đó cất tiếng: “Sự thực là, trên đời này có những kẻ sau khi phạm sai lầm lần đầu tiên, giới hạn về đạo đức và luân lý của họ sẽ hoàn toàn sụp đổ, họ không còn quan niệm đúng sai thị phi gì nữa, mọi thứ nhân tính, lương tri thảy đều bị vứt bỏ đi hết, hành vi sẽ không tuân theo lý lẽ thông thường, thủ đoạn cực đoan tàn nhẫn. Bọn họ thù hận những người bình thường, đồng thời cũng không thể nào sống trong xã hội của người bình thường nữa. Có điều, cuộc sống những tên tội phạm hung ác cùng cực này thực ra chẳng khác nào lũ chuột qua đường, cuối cùng không bao giờ có được kết cục tốt đẹp.”

Nha Châu và những hộ vệ khác đang dìu đỡ lẫn nhau, y nghiêng tai nghe ngóng tiếng động từ đằng xa vọng đến, rồi nói với bọn Trác Mộc Cường Ba: “Vụ nổ vừa nãy đã làm trận địa cơ quan trở nên cực kỳ bất ổn, chúng ta phải lập tức rời khỏi nơi này, đến được Thác Nhật thì mới an toàn. Đi thôi, theo chúng tôi.”

Trát Lỗ bi phẫn nói: “Vậy, vậy còn những người khác thì sao?” Anh ta chỉ vào những hộ vệ đã chết và bị thương nặng không thể cử động.

“Những người khác? Rừng cây này chính là nơi an nghỉ của họ.” Nha Châu lạnh lùng trả lời. Chỉ thấy thi thể người chết và cả những người đang sống nhưng không còn khả năng hành động từ từ chìm xuống, đầm lầy tựa như một sinh vật nhu động khổng lồ, chầm chậm nuốt chửng lấy tất cả.

Khi bọn họ đến Thác Nhật, trời đã ngả về hoàng hôn, dải mây nhiều màu kia lại càng rực rỡ.

Thác Nhật là một cứ điểm quan trọng bên bờ biển Sinh Mệnh, đứng sừng sững trên một bãi trống mênh mông. Bãi đá này cao hơn mặt nước chừng hai mươi mét, phía dưới có vô số đá ngầm, sóng biển cuồn cuộn dâng cao, những tháp canh vươn lên như những gã khổng lồ thời thượng cổ, nai nịt khôi giáp chỉnh tề đứng nhìn mặt biển xa xa. Nơi này phòng bị hết sức thâm nghiêm, các võ sĩ mặc giáp chia thành các nhóm nhỏ đi lại tuần tra. Nha Châu nói với Trác Mộc Cường Ba, những kẻ đã đả thương Đại Địch ô của bọn họ từng chạy đến đây cướp một con thuyền đi sang Yaca, vì vậy giờ càng phải tăng cường giới bị hơn.

Nha Châu giới thiệu bọn Trác Mộc Cường Ba với người phụ trách phòng thủ ở Thác Nhật, rồi bảo gã: “Nhiệm vụ của ta đã hoàn thành, đêm nay sẽ dẫn người trở về. Các vị ở đây nghỉ ngơi một đêm, bọn họ chuẩn bị thuyền, Trát Lỗ sẽ dẫn đường. Nếu sáng sớm mai lên thuyền, tới trưa là có thể đến Nhật Mã Ca Tùng.” Trác Mộc Cường Ba nghe xong, liền nói mấy lời khách sáo, tỏ ý cảm ơn.

Chương 31

Gặp lại Ngưu Nhị Oa

Ngày hôm sau, trời trong gió nhẹ, bọn Trác Mộc Cường Ba lên một con thuyền gỗ không hề có khắc ký hiệu gì, do hai con thuyền của Langbu dẫn đường, rời cảng đá ngầm của Thác Nhật, bắt đầu tiến về vương quốc Yaca.

Con đường thủy ra khỏi Thác Nhật là một dải dung nham, qua thời gian năm tháng, đã bị trời đất cắt thành một khe nước rộng rãi thoáng đạt, dưới đáy nhô lên vô số măng đá nhọn hoắt, ẩn hiện dưới nước, chỉ hơi bất cẩn một chút, thuyền sẽ mắc cạn hoặc bị thủng đáy ngay.

Có hai con thuyền đi trước dẫn đường, con thuyền nhỏ bọn Trác Mộc Cường Ba ngồi đương nhiên là bình an vô sự, chỉ là càng tiến lên phía trước, rãnh nước càng sâu, vách đá hai bên càng cao, cảnh trí rất giống với vách đá sừng sững chắn hai bên bờ ở Trường Giang Tam Hiệp. Vách đá màu vàng đỏ dần dần cao lên, con đường thủy lộ vốn rộng mấy chục mét dần thu hẹp lại, lộ ra một đường chân trời. Núi non trùng điệp nguy nga, khí thế ngất ngưởng, không khỏi khiến người ta sinh lòng e sợ, tựa như vách đá hai bên bất cứ lúc nào cũng có thể khép chặt lại, chôn vùi con thuyền nhỏ của họ.

Đi tiếp về phía trước, phong cảnh lại biến đổi, thủy đạo dần rộng ra, hai bên vách đá xuất hiện vô số khán thờ lớn nhỏ khác nhau có các pho tượng Phật giáo, Bản giáo tạo hình kỳ dị, sừng sững hai bên bờ, thoạt nhìn như thể đang hơi cúi đầu quan sát ba con thuyền nhỏ đi qua bên dưới. Những pho tượng ấy đều cao to dị thường, vững chãi kiên cố như vách đá núi lửa nơi đây, chẳng rõ đã đứng ở đó được mấy nghìn năm, rất nhiều pho tượng cả pháp sư Á La cũng không rõ nguồn gốc thế nào.

Càng đi về phía trước, vách đá càng cao, những bức tượng điêu khắc trên đó cũng càng lớn hơn. Đột nhiên, phía trước xuất hiện hai pho tượng cao lớn nhất, một đứng, một ngồi, đo bằng mắt ít nhất cũng phải trên năm chục mét. Tượng đứng có ba mắt hai cánh tay, chân đạp ra, tướng mạo phẫn nộ, trên mũ có chày xương, đầu lâu xâu lại làm chuỗi đeo cổ, tay trái cầm một cái bát hình xương sọ đặt trước ngực, tay phải gập lại, cầm kiếm chỉ lên trời cao, chân giẫm lên một người đàn ông nằm nghiêng, xung quanh có tầm chục pho tượng nhỏ với các tư thế khác nhau, ngồi có, quỳ có, ngồi nghiêng có, ngồi kiết già có; pho tượng ngồi xếp bằng có ba mắt tám mặt, mười tám cánh tay, búi tóc buộc một nắm đầu người, mũ có chùm hoa, cổ đeo chuỗi đầu lâu, hai tay phía trước dâng bát hình xương sọ người; mười sáu cánh tay còn lại cầm các loại pháp khí khác nhau, bên cạnh cũng có bảy tám pho tượng nhỏ cao chừng mười mét, pho thì đứng hai chân, pho thì đứng một chân, pho thì nhảy múa...

Càng đến gần, trông hai pho tượng càng cao lớn, không giận mà tự toát lên vẻ uy phong, khí thế như nuốt cả núi non trời biển, lại như tọa trấn giang sơn, chế ngự vạn vật. Thuyền đi qua dưới chân tượng đá, thật đúng như hạt cát giữa sa mạc, làm ai nấy đều không khỏi sinh lòng hổ thẹn. Vừa đi qua hai pho tượng khổng lồ này, phía trước chợt mở ra mênh mang, trời biển nối liền thành một, thì ra đã ra khỏi khu vực vách đá, xung quanh chỉ còn lại biển rộng trời cao.

Thuyền của Langbu đưa họ ra khỏi bãi đá ngầm, liền quay đầu trở lại. Thấy thuyền của Langbu đi xa rồi, Nhạc Dương mới nôn nóng hỏi: “Pháp sư, họ đều đi cả rồi, giờ đã có thể nói, rốt cuộc là chúng ta phải làm gì bây giờ?”

Pháp sư Á La đưa mắt nhìn Trát Lỗ, rồi mỉm cười nói: “Thực ra, tôi cũng chỉ đánh liều một phen thôi, không chắc chắn như mọi người vẫn tưởng tượng đâu.”

“Hả?” Nhạc Dương kinh ngạc kêu lên một tiếng. Nhưng Trác Mộc Cường Ba lại rất bình tĩnh, dường như đã đoán trước được điều này.

Pháp sư Á La mặc cho Nhạc Dương kinh ngạc, lại quay sang hỏi Trát Lỗ: “Trát Lỗ, Đại Địch ô trước đây của Yaca là người như thế nào?”

Trát Lỗ nói: “Ông nói đến Đại Địch ô Khước Ca Ba Nhiệt ư? Ông ta... là một người vô cùng thần bí, lều của ông ta luôn luôn ở sát bên cạnh lều của đại vương. Phần chóp lều trang trí bằng đuôi bò đen; vô số đầu người khô đét dựng phía bên trên, làm thành nóc lều; dùng ruột người vẫn còn đẫm máu làm dây thừng buộc lều; dùng xương người chết cắm xuống đất thay cho cọc gỗ. Khiến người ta thoạt nhìn, đã thấy lạnh hết cả sống lưng.”

Pháp sư Á La hơi nhíu mày, Nhạc Dương vội thấp giọng hỏi: “Pháp sư nghe ra được điều gì à?”

Pháp sư Á La gật đầu đáp: “Lều của một Chú thuật sư điển hình.”

Trát Lỗ lại tiếp tục nói: “Đại Địch ô có những thanh đao bạc sáng loáng, trong chớp mắt có thể biến bò dê thành xương trắng...”

Pháp sư Á La lại thấp giọng nói: “Thuật giải phẫu.”

Trát Lỗ nói: “Ông ta có thể gọi gió hô mưa, cũng có thể khiến nước hồ khô cạn, núi cao chấn động...”

Pháp sư Á La thấp giọng thì thào: “Thiên khí chú sư.”

“Khi phẫn nộ, ông ta có thể gọi thần điểu trên trời xuống, giúp ông ta giáng phục kẻ địch, cũng có thể sai khiến lũ ngựa hoang chỉ đường, chở ông ta tiến về phía trước...”

“Thao thú sư.”

“Ông ta còn biết biến hình, có người từng thấy Đại Địch ô biến thành bò hoặc ngựa, có lúc còn thấy ông ta hóa thành một đạo cầu vồng, trong chớp mắt đã từ phương Bắc xa xôi bay đến trướng của đại vương...”

“Ảo thuật sư!”

“Ông ấy có thể hiểu tiếng của chim chóc và các loài sâu bọ, có thể sai bọn chuột ban đêm đến doanh trại địch nghe ngóng tình hình...”

Trát Lỗ cứ nói một câu, pháp sư Á La ở bên cạnh lại lẩm bẩm thốt lên một danh từ. Đến khi Trát Lỗ nói xong, hai hàng lông mày của pháp sư Á La đã nhíu chặt lại.

Cuối cùng, Trát Lỗ mới đắc ý hỏi: “Đại Địch ô của chúng ta có lợi hại không?”

Pháp sư Á La trầm tư suy nghĩ, dường như không hề nghe thấy câu hỏi của anh ta. Nhạc Dương cũng thắc mắc: “Pháp sư, vừa nãy ông lẩm bẩm gì thế ạ?”

Pháp sư Á La nói: “Đó là một số chức nghiệp cổ xưa, cổ xưa đến mức ngày nay người ta đã quên mất sự tồn tại của họ, mỗi chức nghiệp, đều đại diện cho những bản lĩnh khác nhau của vị Đại Địch ô đó.”

Nhạc Dương vội hỏi: “Vậy, vậy vị Đại Địch ô tên Khước Ba gì gì đó hẳn là lợi hại lắm?”

Pháp sư Á La gật đầu: “Cực kỳ lợi hại.”

“Vậy pháp sư có thể thắng ông ta được không?”

Pháp sư Á La lắc đầu.

Nhạc Dương không khỏi rợn cả người. Nếu vị Đại Địch ô tên Khước Ba Ca Nhiệt kia đã lợi hại như thế, vậy thì, làm sao họ đối phó nổi với người đã đánh bại ông ta để giành vị trí Đại Địch ô? Xem ra, pháp sư Á La có dùng văn hay dùng võ cũng đều khó có kết quả. Phải dùng mưu kế sao? Phải dùng mưu kế gì đây? Pháp sư nói là đánh liều một phen, rốt cuộc là ông ấy muốn liều cái gì?

Từ đoạn thắt eo hồ lô, vượt qua biển Sinh Mệnh cuồn cuộn mênh mông, chỉ thấy bờ biển đầy những tảng quái thạch lởm chởm, vách đá cao trăm thước, cũng là một nơi cực kỳ hiểm yếu, nhưng không thấy có binh lính canh phòng gì cả. Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên hỏi: “Phía trên kia là Nhật Mã Ca Tùng rồi đúng không? Sao không có binh sĩ phòng thủ gì vậy?”

Trát Lỗ lắc đầu đáp: “Không, lên bờ rồi phải đi thêm một đoạn đường nữa mới đến được Nhật Mã Ca Tùng, cũng không xa lắm. Tại sao lại không cần binh sĩ phòng thủ à? Ha ha, không phải Trát Lỗ ta tự khoa trương đâu, nhưng xưa nay chỉ có Yaca chúng ta đánh sang Langbu, chứ chẳng bao giờ có chuyện quân Langbu vượt biển sang đánh Yaca cả. Binh sĩ Yaca chúng ta là dũng mãnh nhất đó.”

Nhạc Dương gật đầu nói: “Phải rồi, Yaca là vương quốc theo chế độ liên minh các bộ tộc du mục, không có cứ điểm cố định. Quân Langbu vượt biển sang đây, một là không tìm được mục tiêu tấn công, hai là rất dễ bị rơi vào một cuộc chiến tranh du kích trên thảo nguyên, sẽ rất bị động.”

Lữ Cánh Nam bổ sung thêm: “Không sai. Hơn nữa, Langbu đủ ăn đủ mặc, đời sống sung túc, còn dân du mục trên thảo nguyên lại bị các nhân tố tự nhiên ức chế nhiều hơn, vì vậy, sự phân chia thành hai phe phòng ngự và tấn công càng thêm rõ rệt.”

Sau khi lên bờ, phóng mắt nhìn qua, cũng chỉ thấy một vùng rừng rậm cây cối chen chúc, không đi xuyên qua khoảng rừng này thì khó mà nhìn được ra phía xa. Trương Lập nói: “Cũng chẳng khác gì ở Langbu mà.”

Trát Lỗ lắc đầu: “Cứ đi rồi ngươi sẽ phát hiện, khác biệt rất lớn đấy.”

Lữ Cánh Nam hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Anh có để ý bờ biển ở hai bên không?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Ừm, bờ biển ở Yaca cao hơn bên phía Thác Nhật kia một chút.”

Lữ Cánh Nam lại nhìn sang chỗ Ba Tang. Ba Tang hơi miễn cưỡng nói: “Mặt phẳng là bất biến, vậy có nghĩa là địa thế bên bờ biển phía Yaca này cao hơn Thác Nhật, có khả năng là địa hình tầng bình đài thứ hai này cao dần từ Tây sang Đông, càng đến gần khu vực cao hơn mực nước biển, phương thức sinh trưởng và chủng loại thực vật sẽ càng thay đổi.”

Nhạc Dương nói: “Ồ, chẳng trách, vậy tức là, đi tới tận cùng phía Đông, tức là đến chỗ cao nhất của tầng bình đài thứ hai, cũng là nơi gần tầng thứ ba nhất, có thể leo lên từ chỗ đó.”

Lữ Cánh Nam nghe các học viên bàn luận, hài lòng gật đầu.

Năm phút sau, Nhạc Dương lại hỏi: “Trát Lỗ, rốt cuộc là còn bao xa nữa? Không phải anh vừa nói đi một lúc là tới rồi sao?”

Trát Lỗ đáp: “Ở ngay phía trước kia kìa, có thấy chỗ gồ lên hình tròn trên vách đá kia không? Sau khi lên bờ đi về phía nó chừng một nghìn bước là đến Nhật Mã Ca Tùng rồi.”

Nhạc Dương ngẩng đầu lên quan sát, trên vách đá có một vết bớt đỏ lớn hình thành tự nhiên, nhưng nếu đếm một nghìn bước là tới nơi, vậy thì họ phải đến rất gần rồi mới đúng. Anh lại thắc mắc: “Nhưng phía trước có cái gì đâu? Anh có nhớ nhầm không đấy?”

Trát Lỗ lắc đầu: “Không thể nào, tuy rằng ba năm nay ta chưa trở về, nhưng chuyện này làm sao mà nhầm được chứ?”

Trương Lập nói: “Hay là bộ lạc của các anh đã chọn nơi khác hạ trại rồi?”

Trát Lỗ cương quyết nói: “Làm sao có chuyện đó được? Nhật Mã Ca Tùng ở bên dưới tiêu ký màu đỏ, nghìn năm nay vẫn không thay đổi.”

“Đến rồi, chính là chỗ này!” Trát Lỗ dẫn mọi người đi xuyên qua rừng cây rậm rạp, phía trước liền xuất hiện một vùng đất trống, rộng bằng mấy chục cái sân bóng đá. Bốn phía đều là rừng cây, nhưng ở đây lại có một bãi cỏ mênh mông, một con sông nhỏ chảy từ trong rừng qua, cuối cùng đổ về phía biển Sinh Mệnh. Chỉ có điều, trước mắt họ chỉ là một vùng đất trống mà thôi, không có một căn lều căn trướng nào. Đứng trên bãi cỏ xanh ngút mắt ấy, Nhạc Dương xòe hai tay ra, hít thở mấy hơi, rồi quay lại hỏi: “Thế này là thế nào? Người đâu cả rồi?”

Trát Lỗ cuống lên đáp: “Ta... ta không biết! Sao lại thế được? Sao lại không có người chứ?”

Pháp sư Á La đến bên cạnh Trác Mộc Cường Ba, nói: “Họ đi rồi.”

Trác Mộc Cường Ba thoáng động tâm, liền quan sát lại khoảng đất trống ấy một lượt nữa, nơi này có rất nhiều phân bò dê, còn cả vết bánh xe được che đậy sơ sài. Gã lục lại những tri thức mình đã học được, đoạn lấy một cây gậy gỗ lật cục phân bò lên, nói: “Phân bò vẫn còn khá mềm, chắc họ chưa đi được bao lâu, có lẽ là chỉ mới hôm qua thôi!”

Nghe Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở, bọn Nhạc Dương cũng lần lượt có phát hiện. Trương Lập nói: “Vết xe được che đậy rất sơ sài vội vã, vết tích để lại rất rối loạn, hơi có cảm giác như cố ý làm mê hoặc truy binh, nhưng cuối cùng vẫn đi về phía Tây.”

Nhạc Dương cũng nói: “Dựa trên sự phân bố các cọc gỗ và tro tàn, nơi này từng có khoảng... ba trăm lều, kích cỡ có thể chứa khoảng mười người, chắc là đội hộ vệ của đại vương, tầm ba nghìn người, chủ yếu là kỵ binh, số lượng bò dê không nhiều, ngoài ra còn có mấy chục lều cỡ lớn, hẳn là lều của vua rồi, tổng số đại khái khoảng năm nghìn người, không có dấu vết của người già và trẻ con.”

Trát Lỗ nói: “Không, không phải, lều trướng của chúng ta lớn lắm, đúng tiêu chuẩn thì là một lều hai mươi đến ba mươi người.”

Lữ Cánh Nam nói: “Vậy thì đội hộ vệ có khoảng năm đến bảy nghìn người.”

Trát Lỗ gật gật đầu: “Đúng thế, đội hộ vệ của đại vương thông thường có khoảng bảy nghìn người, cộng với phi tử và nữ bộc, tổng cộng là một vạn người.”

Ba Tang nói: “Người đông như vậy, chắc chắn không thể đi nhanh được, chúng ta có thể bắt kịp họ.”

Trát Lỗ nói: “Nhưng họ có xe bò, chúng ta chỉ có hai chân thôi.”

Trác Mộc Cường Ba kéo vai Trát Lỗ lại nói: “Anh cứ chỉ đường đi, chúng ta nhất định sẽ đuổi kịp họ.”

Trong rừng, có mấy căn lều bằng vải bạt pha nylon nhuộm màu ngụy trang dựng trên một khoảng đất trống, radar tìm kiếm lặng lẽ chuyển động, thiết bị báo động dùng những điểm sáng đỏ đánh dấu vị trí bãi mìn, thiết bị giám sát sự sống liên tục đo hàm lượng khí Co2 trong phạm vi năm trăm mét vuông xung quanh, chốc chốc lại có thuốc sát trùng tự động phun, phát ra những âm thanh “xẹt xẹt”. Không thể tin được nơi này lại là rừng rậm nguyên sinh, thoạt nhìn qua, còn tưởng đã đến chỗ một doanh trại quân đội được ngụy trang hoàn hảo. Sự thực là, trong doanh trại này, chỉ có một người, y vừa là sĩ quan chỉ huy, lại đồng thời cũng là binh sĩ.

Y nằm trên tán cây, ôm trong lòng khẩu súng ưa thích nhất, cẩn thận lau từng li từng tí. Đã có một thời, y chỉ là một tên thợ săn tầm thường, cùng với anh trai gia nhập vào đảng săn trộm ấy. Trong đám săn trộm đó, hai anh em nhà y chỉ là chân sai vặt, chỉ gì làm nấy, vừa không hung tàn, cũng không có bản lĩnh gì đặc biệt. Bọn y vốn dự tính, làm cái nghề ấy dăm ba năm, kiếm chút vốn liếng rồi về quê mua ả đàn bà làm vợ, vài con trâu làm ruộng, chẳng ngờ số phận khó lường, anh trai y lại bị một gã tên Trác Mộc Cường Ba giết chết! Mỗi lần nhớ đến chuyện này, cặp mắt y lại ánh lên ngọn lửa hận thù rừng rực. Giờ đây, sau khi được Merkin dày công huấn luyện bồi dưỡng, y đã không còn là kẻ kém cỏi lỗ mãng ngày xưa nữa rồi, y hoàn toàn tự tin có thể hạ gục Trác Mộc Cường Ba với khẩu súng này.

Không sai, y chính là Ngưu Nhị Oa, tên ăn trộm từng đụng độ với bọn Trác Mộc Cường Ba ở Khả Khả Tây Lý, về sau được Merkin đưa đến doanh trại huấn luyện bộ đội đặc chủng hải lục không quân rèn giũa. Lần này y cũng gia nhập vào đội tiên phong nhảy dù, chỉ là, vừa lên đỉnh núi đã gặp phải cuồng phong, bảy người cùng bị gió thổi hất văng đi với y đều đã chết cả rồi.

Tám chiếc hòm sắt lớn gắn liền nhau đặt bên dưới gốc cây, Ngưu Nhị Oa đến nơi này, không có lý do gì khác, mà chính là vì tám cái hòm ấy. Lúc nhảy dù y đã phát hiện, có tám cái hòm bị gió thổi bay về phía Bắc, dựa theo chỉ dẫn trên thiết bị định vị, y đã tìm được hòm sắt, dựng một doanh trại ở gần đó, doanh trại của một mình y. Phải rồi, còn một người nữa, người đã điều trị cổ độc cho y, hiện vẫn đang giúp y tiếp tục trị liệu thương thế.

“Cách!” Ngưu Nhị Oa đột nhiên lộn người móc ngược vào cành cây, hai tay cầm chắc khẩu súng bắn tỉa M110, ngắm về phía có tiếng động trong rừng, “Đừng, đừng nổ súng, là ta đây.” Khước Ca Ba Nhiệt khoác áo da bò màu đen từ trong bụi cây um tùm bước ra. Hai chân Ngưu Nhị Oa thả lỏng, nhảy trên cây xuống, hỏi: “Sao rồi?”

Khước Ca Ba Nhiệt đáp: “Lều của đại vương đã rời khỏi Nhật Mã Ca Tùng, giờ có lẽ đang trên đường đi Gia Quỳnh, ngươi có chắc chắn đối phó được hắn không đấy?”

Ngưu Nhị Oa lắc lắc khẩu súng trong tay, nói: “Đừng coi thường thứ này của ta. Á...” Ngưu Nhị Oa đang nói, bỗng đùi non hơi giật giật, y bèn bảo Khước Ba Ca Nhiệt: “Kỹ thuật của ngươi không bằng lão già ở Langbu kia, lâu như vậy rồi mà vẫn chưa khỏi.”

Khước Ba đáp: “Ta bị thiếu mấy thứ thảo dược, bằng không vết thương của ngươi đã khỏi lâu rồi.”

Thì ra, Ngưu Nhị Oa chính là tên người Giáp Mễ bị thương được Đại Địch ô của Tước Mẫu cứu về. Lúc nhảy dù xuống, y bị gió lớn cuốn bay đến gần Tước Mẫu, bị thương rất nặng, rồi được Đại Địch ô Thứ Kiệt cứu mạng, sau đó lại bắn bị thương Thứ Kiệt, cướp một con thuyền ở Thác Nhật, chạy đến Yaca. Trong rừng rậm ở Yaca, y tình cờ gặp được Khước Ba Ca Nhiệt vừa bị Qua Ba Đại Địch ô đánh bại buộc phải rời khỏi vương trướng. Khước Ba vẫn một mực luẩn quẩn ở vùng xung quanh, chờ cơ hội báo thù. Khi Ngưu Nhị Oa biểu diễn uy lực của vũ khí hiện đại cho y xem, y liền cho rằng đây là cơ hội tốt để phục thù, bèn chủ động trị liệu thương thế cho Ngưu Nhị Oa, hy vọng Ngưu Nhị Oa giúp mình trả thù. Ngưu Nhị Oa vốn cho rằng y chỉ là một gã thổ dân, không hề ý thức được người ở bên cạnh mình nguy hiểm đến mức nào, liền hàm hồ nhận lời ngay, y cũng không biết nói tiếng Tạng cổ, nhưng Khước Ba lại có trí nhớ kinh người, chỉ trong thời gian ngắn đã có thể dùng tiếng Hán hiện đại biểu đạt ý đồ của mình. Hai người đã ở trong khu rừng này chờ đợi một thời gian, nhưng vị Qua Ba Đại Địch ô kia hiếm khi xuất hiện, rất khó tìm cơ hội ra tay. Bọn họ vẫn đợi mãi ở gần Nhật Mã Ca Tùng, giờ đây vương trướng bắt đầu di chuyển, Khước Ba cho rằng cơ hội đã đến, nên mới đến bàn bạc cùng Ngưu Nhị Oa.

Hai người nằm phục trên một tảng nham thạch khuất sâu trong rừng, từ trên cao nhìn xuống, Ngưu Nhị Oa hỏi: “Bọn họ nhất định sẽ đi qua đây chứ?”

Khước Ba đáp: “Ừm, chắc là không thể sai được, muốn đến Gia Quỳnh, nhất định phải đi qua chỗ này. Đến lúc ấy ta sẽ chặn đường của vương trướng, bọn hộ vệ ấy đều là thủ hạ của ta ngày trước, bọn chúng chắc sẽ không làm gì ta đâu. Sau đó ta sẽ khiêu chiến lão già kia, dụ cho lão xuất hiện, khi đó ngươi chỉ cần ngắm đúng đầu lão ta mà nổ súng là được rồi.”

Ngưu Nhị Oa nói: “Phải rồi, ta nhớ ngươi từng nói, phải đợi thêm một hai tháng nữa mới chuyển đi cơ mà? Sao lại đi sớm hơn vậy?”

Khước Ba đáp: “Thân tín của ta cho biết, là bởi phía Langbu có một đám người Giáp Mễ muốn đến tìm lão già kia, hình như muốn mời lão đến Langbu làm gì đó. Theo thỏa thuận của hai bên, không thể cho đám người ấy gặp mặt lão già kia, vì vậy mới chuyển đi sớm hơn dự kiến.”

Ngưu Nhị Oa nói: “Người Giáp Mễ? Ý ngươi là...”

Khước Ba nói: “Ừm, nghe nói, trang bị vũ khí thì cũng giống như ngươi, nhưng bọn họ nói không phải cùng một bọn với ngươi.”

“Hả?” Ngưu Nhị Oa hai mắt sáng lóe, vội hỏi: “Bọn chúng có bao nhiêu người? Có biết chúng tên là gì không?”

Khước Ba đáp: “Hình như có sáu người, kẻ dẫn đầu tên là Trác Mộc Cường Ba... Này, ngươi đi đâu đấy? Chỗ này mới là con đường đoàn người của đại vương nhất định sẽ đi qua cơ mà!” Lời y còn chưa dứt, đã thấy Ngưu Nhị Oa xách súng chạy về phía Nhật Mã Ca Tùng. “Yên tâm, ta sẽ giúp ngươi đối phó với lão già ấy, nhưng trước tiên phải đi giết kẻ thù của ta trước đã...” Ngưu Nhị Oa từ đằng xa nói với lại.

Chương 32

Kẻ bắn lén

Pháp sư Á La nói: “Bởi những Mật tu giả giống như pháp sư Tháp Tây, thể năng cũng tương đương với Phật tính, tu vi càng cao lại càng nhân từ hòa ái. Nếu gặp phải lũ hổ báo hay chim ưng đói khát, họ thà cắt thịt mình cho chúng ăn chứ cũng không chịu ra tay đại khai sát giới. Thực ra trong mắt những bậc đại sư ấy, những người như tôi, chẳng có được chút Phật tính nào. Vì vậy chúng tôi được huấn luyện như những võ tăng, còn bọn họ, thực ra là đang tìm con đường trở về.”

Ngưu Nhị Oa chạy như điên trong rừng, trong lòng thầm hét vang: “Thật không ngờ, cơ hội cuối cùng đã tới rồi! Anh à, em có thể báo thù cho anh được rồi! Trác Mộc Cường Ba, lần này mày phải chết!” Từ nhỏ đến lớn, dù đánh nhau hay đi ăn trộm ăn cắp, lúc nào y cũng có anh trai ở bên, lang bạt kỳ hồ khắp chốn đó đây. Anh trai là chỗ dựa dẫm nửa đời của y, hai anh em luôn cùng quẩn quanh qua lại trên lằn ranh sinh tử, bởi thế, gã Trác Mộc Cường Ba đã sát hại anh trai y, nhất định phải chết! Còn chuyện anh em nhà y làm toàn việc phạm pháp, giết vô số người, Ngưu Nhị Oa hoàn toàn không để tâm đến, logic của y hết sức đơn giản, bọn y làm như vậy, chỉ là để sinh tồn. Chỉ cần vì sinh tồn, dù có làm những chuyện gì thì cũng đều hợp lý cả! Kẻ nào chặn đường y đều phải chết, kẻ nào kéo chân bọn y cũng đều phải chết, nhưng anh trai y thì không thể chết! Chỉ có anh trai y là không thể chết! Trác Mộc Cường Ba! Trác Mộc Cường Ba...

“Oa, đừng có nhanh vậy chứ, đừng có nhanh vậy chứ!” Trát Lỗ ôm chặt lấy một bên chân của Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng kêu toáng lên. Đối với người chưa từng tiếp xúc với dây móc, cảm giác đu người lao đi vun vút như thế tuyệt đối không chỉ là kích động, mà phải nói là khủng khiếp mới đúng. Bọn Trác Mộc Cường Ba lợi dụng hoàn cảnh trong rừng, lật cổ tay, vung dây móc ra, rồi tung mình đu lên như diễn viên đu bay trong đoàn xiếc đu từ cái đu này sang cái đu khác. Giờ đây họ đã quá quen thuộc với tính năng của loại thiết bị bắn dây móc này, chỉ khổ thân Trát Lỗ, vừa nhìn thấy phía trước sắp đập vào một thân cây to tướng, liền sợ đến hết hồn, không dám mở mắt ra, nói gì đến chỉ đường chỉ lối cho ai. Vậy mà trong lúc đu bay với tốc độ cao như thế, Nhạc Dương vẫn có thể nhận rõ được hướng xe chạy.

Nhạc Dương nhẹ nhàng hạ xuống đất, nói với những người phía sau: “Đến đây thì vết xe chia làm hai, chúng ta đi lối nào đây?”

Bọn Trác Mộc Cường Ba cũng lần lượt hạ xuống, gã nói với Nhạc Dương: “Kiểm tra xem con đường nào có dấu vết của xe lớn và đa số kỵ binh đi qua.” Kế đó, gã lại quay sang hỏi Trát Lỗ: “Hai con đường này thông tới đâu?” Trát Lỗ vẫn sợ đến nỗi chẳng dám thở mạnh, đang đần thối cả mặt ra.

Nhạc Dương cẩn thận kiểm tra lại một lượt, đoạn nói: “Lều của quốc vương đi phía trái.”

“Đó, đó là đường đi Gia Quỳnh.” Cuối cùng Trát Lỗ cũng định thần lại được.

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Đại Địch ô và quốc vương của các người có bao giờ tách nhau ra không?”

“Không đâu, sự an toàn của đại vương ít nhất có một nửa là do Đại Địch ô phụ trách, tất cả đám binh lính hộ vệ cộng lại cũng không thể bằng một Đại Địch ô.” Trát Lỗ khẳng định.

“Nhưng nếu bọn họ cố ý không ngồi trên xe lớn chở trướng của quốc vương, mà chuyển sang ngồi xe nhỏ... nhưng, hư mà thực, thực mà hư, cũng có khả năng họ không đổi xe...” Trương Lập nói.

Ba Tang nghe vậy liền bực tức gắt lên: “Nói vậy cũng nói làm gì!”

Nhạc Dương nói: “Vấn đề không phải ở đó, quan trọng là tại sao bọn họ lại đột nhiên rời khỏi Nhật Mã Ca Tùng gấp gáp thế? Lẽ nào có liên quan đến chúng ta? Nếu là như vậy, thì e rằng đây là trò của Quách Nhật Niệm Thanh. Lại quay lại với vấn đề cũ, tại sao y lại căm ghét chúng ta đến vậy? Rốt cuộc chúng ta đã làm gì chạm đến lợi ích của y đâu chứ?”

Lữ Cánh Nam nói với Trác Mộc Cường Ba: “Giờ không có thời gian nghĩ ngợi chuyện này đâu, rốt cuộc là đi hướng nào? Anh có quyết định được không? Chúng ta không thể chia nhau ra đuổi theo được đâu.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn sang phía pháp sư Á La, pháp sư Á La gật đầu nói: “Ừm, chúng ta chỉ đến mời Đại Địch ô của Yaca, nếu xung đột với quân đội của họ thì không ổn chút nào. Còn rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, thì cứ gặp được Đại Địch ô trước, chắc là sẽ rõ ngọn ngành thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đối với các dân tộc du mục, mỗi bộ lạc đều có phạm vi thế lực và tuyến đường di chuyển riêng của mình, những bộ lạc khác không được xâm phạm và can thiệp, người đứng đầu liên minh có thể đặt ra và thay đổi tuyến đường cũng như thời gian di chuyển. Nhưng nếu ông ta muốn thay đổi, liệu có cần phái một nhóm nhỏ đi thông báo cho các bộ lạc khác không?”

Trát Lỗ gật đầu lia lịa: “À, phải rồi, đại vương sẽ phái đoàn sứ tiết đi thông báo cho các bộ lạc khác việc thay đổi thời gian và tuyến đường di chuyển như thế nào.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn vết xe để lại, thấy rất ngay ngắn chỉnh tề, vết chân ngựa thẳng tăm tắp, rồi khẳng định: “Đến Gia Quỳnh! Đi thôi, Trát Lỗ...”

Trát Lỗ thoáng biến sắc, gần như là khẩn cầu: “Lần này đừng nhanh thế nữa, có được không vậy?”

Ngưu Nhị Oa lao đi vun vút trong rừng, y thấy máu nóng bắt đầu sôi trào lên sùng sục. “Anh trai à, lần này nhất định... nhất định! Nhất định em sẽ giết chết Trác Mộc Cường Ba!” Đột nhiên, y bỗng dừng lại. Một cơn gió mang thông tin từ đằng xa tới, thiết bị thu âm gắn bên tai khiến thính lực của y tăng lên gấp cả trăm lần, cộng với những bài huấn luyện đặc biệt, giờ đây y thậm chí có thể phân biệt được âm thanh của lũ chuột trong vòng hai cây số vuông. Thông tin cơn gió ấy mang đến cho y là: Có vật thể đang di chuyển với tốc độ cao trong rừng, còn nhanh hơn cả y nữa, từ tiếng cành cây và tiếng ma sát có thể nhận thấy, đường đồ thị biểu diễn âm thanh nhô lên thụp xuống theo hình sin, đó không phải tiếng chạy trên mặt đất, có thứ gì đó đang nhảy nhót, hay là đang đu bay? Là lũ sóc bay? Không! Những vật thể này khá lớn, nhưng không phải tinh tinh, xung quanh đây không có tinh tinh. Âm thanh càng lúc càng lớn, mà không chỉ có một, có bốn, năm, sáu, bảy, tám... không, bảy... sáu... sáu!

“Bọn chúng tổng cộng có sáu người...” Giọng Khước Ba văng vẳng bên tai y. Ngưu Nhị Oa lập tức chọn lấy một chỗ ẩn náu tốt, ngụy trang đầy đủ, mắt gí vào ống ngắm điện tử...

Bọn Trác Mộc Cường Ba đang dùng dây móc đu trong rừng, không hề phát giác ra nguy hiểm đang ở cận kề...

Bóng Trác Mộc Cường Ba đã xuất hiện trong dấu chữ thập của ống ngắm điện tử, Ngưu Nhị Oa thậm chí có thể thấy rõ từng sợi râu trên gương mặt gã. Y liếm liếm môi, nòng súng dịch chuyển theo hướng di động của Trác Mộc Cường Ba. “Anh ơi, đợi em, sẽ xong ngay thôi. Em nên cho hắn toi đời ngay bây giờ, hay khiến hắn phải chịu đủ sự giày vò đau khổ đây?” Ngón tay y bóp mạnh, “pằng”, một viên đạn lao vút đi.

Một trận gió lớn phía trước ập tới, Trác Mộc Cường Ba đang nheo nheo mắt tìm kiếm những cành cây để ném dây móc vào, đột nhiên, một tia lửa lóe lên lướt qua ngay trước mặt gã, tựa như một ánh sao băng trên bầu trời đêm. Sao lại vậy được? Ảo giác chăng? Nhưng liền ngay sau đó, thân cây bên cạnh đã tóe ra mấy mảnh mạt gỗ, bắn vào mặt gã. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại, thấy thân cây dường như bị một mũi dao nhỏ khoét ra mất một mẩu. Gã lập tức hiểu được chuyện gì vừa xảy ra.

Đồng thời, Ba Tang cũng cảm thấy lạnh buốt, tựa như có người dùng một con dao bằng băng nhè nhẹ rạch vào ngực mình, anh ta lấy làm lạ, bỗng nghe Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng kêu lên cảnh báo: “Có kẻ bắn lén!”

Sáu người cùng lúc thu dây, nhanh chóng hạ xuống đất, nấp vào mấy bụi cây thấp tè. Trát Lỗ kinh hoảng, không hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, có điều, nhìn nét mặt họ, anh ta cũng biết được sự tình hết sức nghiêm trọng.

“Cơn gió đáng chết!” Ngưu Nhị Oa nghiến răng. Trở lực của gió đã làm chậm tốc độ đu người của Trác Mộc Cường Ba, khiến đạn lướt qua trước mặt đối phương. Y hướng họng súng xuống, tiếp tục tìm kiếm mục tiêu.

Nhạc Dương nhìn chỗ toét ra trên thân cây nói: “Đạn bắn chếch theo hướng gió từ phía Tây đến, hắn ở phía trái chúng ta. Đạn kiểu này chắc là súng bắn tỉa, cách chúng ta ít nhất cũng khoảng năm trăm mét.”

Trương Lập lấy ống nhòm điện tử ra, tìm kiếm giây lát rồi lắc đầu nói: “Không thấy mục tiêu.”

Lúc này trên người Ngưu Nhị Oa cắm đầy cành cây và dây leo, trên mặt cũng bôi bùn đất, dính lá cây, chỉ có đôi mắt và họng súng đen ngòm lộ ra ngoài, đừng nói là cách nhau mấy trăm bước, cho dù có đi qua phía trước y, chỉ cần y nằm im bất động, thì cũng khó mà phát hiện được.

Trương Lập điều chỉnh lại ống nhòm, hơi nhích người về phía Trát Lỗ. Trát Lỗ vẫn chưa định thần lại, vừa chạm vào đã ngã bổ ra, cả người đè lên một gốc cây. “Nằm xuống!” Lữ Cánh Nam bỗng dưng nhảy chồm tới đè Trát Lỗ xuống đất, một tia lửa đã lặng lẽ xuyên qua chỗ Trát Lỗ vừa mới đứng, để lại một loạt lỗ thủng trên lá cây.

“Chuyện... chuyện gì vậy? Chuyện gì xảy ra thế?” Trát Lỗ nhìn lỗ thủng tròn trên lá cây, bối rối nói.

Ba Tang lạnh lùng nói: “Không được cựa quậy, chết đấy!” Trát Lỗ nghe mà hồn xiêu phách lạc.

Nhạc Dương nói: “Bắn rất chuẩn, chỉ hơi nhúc nhích một chút là hắn đã phát hiện ra. Kỳ lạ thật, trong đám Hồ Lang ấy xuất hiện một tên như vậy từ bao giờ nhỉ?” Anh vừa nói, vừa cúi xuống nhặt một cục đá lên, rồi tiện tay ném mạnh, viên đá đập vào một thân cây gần đó. Chỉ nghe “tạch” một tiếng, đạn đã bắn tung viên đá vừa rơi xuống đất ra xa!

Trương Lập nói: “Không chuẩn đến vậy chứ!”

Nhạc Dương nói: “May mắn thôi. Nhưng nhất định hắn dùng ống ngắm bội số nhỏ, bằng không thì không thể giám sát được động tĩnh trong phạm vi rộng như vậy được. Phải rồi, chúng ta có radar mà? Thử xem vị trí của hắn ở đâu.”

Trương Lập lắc đầu, nói: “Radar chỉ có thể phát hiện được các vật thể di động thôi.”

Nhạc Dương lại nói: “Chỉ cần hắn nổ súng là sẽ có vật thể di động liền.” Trương Lập hiểu ra, tức thì mở ba lô lấy bộ radar cỡ nhỏ.

Ngưu Nhị Oa nhìn không chớp mắt, cả hơi thở như cũng ngưng lại luôn. Tâm trạng y lúc này đang hưng phấn cực độ, đó là cảm giác phấn chấn của thợ săn khi nhìn thấy con mồi rơi vào cạm bẫy, tuy rằng vẫn chưa có động tĩnh gì, cũng không nghe được tiếng động, nhưng y đã khóa chặt phạm vi hoạt động của đối phương rồi, chỉ cần có gió thổi cỏ lay một chút thôi, y sẽ không hề do dự nã ngay một phát đạn. “Hai phát súng vừa rồi đều không thấy máu tóe lên, hừ, đang thăm dò vị trí của tao hử? Tao đã ngụy trang đến độ gần như hoàn hảo rồi, muốn tìm tao à, đừng có mơ! Hừ, lại có động tĩnh, đó là cái gì vậy? Hừ, thì ra là trang bị của chúng ta. Xem ra chúng đã nhặt được một vài món đồ Merkin cho chúng ta rồi, chẳng trách...” Ngưu Nhị Oa lại nổ súng.

“Tạch!” Trương Lập đớ người ra, radar còn chưa giơ lên quá đỉnh đầu đã bị phát súng của đối phương bắn cho vỡ nát, kiểu này là kiểu gì vậy chứ?

Lữ Cánh Nam nói: “Bắn từng phát một từ cùng vị trí, kẻ địch chỉ có một tên, mọi người đợi ở đây, chớ vọng động. Pháp sư.” Pháp sư Á La gật đầu, cùng Lữ Cánh Nam chia hai hướng trái phải len lén lùi về phía sau.

“Hừm, sao không có động tĩnh gì vậy?” Ngưu Nhị Oa chăm chăm nhìn vào ống ngắm, bắt đầu thấy ngờ vực, nhưng rồi y lại nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, vẫn im lìm bất động. Y hiểu rất rõ, giữa tay súng bắn tỉa và người bị ngắm bắn, vốn là một cuộc đọ sức về ý chí và khả năng nhẫn nại, kẻ nào trầm tĩnh hơn, kẻ đó sẽ giành được thắng lợi cuối cùng. “Chỗ này ẩm thấp lạnh lẽo, lại có bọn côn trùng ghê tởm, để tao xem chúng mày nhẫn nại được bao lâu?” Ngưu Nhị Oa thầm nghĩ, đột nhiên, trong thiết bị thu âm vang lên những âm thanh sột soạt rất khẽ, dường như có thứ gì đang tiến lại gần chỗ này.

“Vòng ra phía sau tập kích hử, biết là chúng mày sẽ giở trò này mà, tao chuẩn bị sẵn quà mừng rồi đây.” Tay trái Ngưu Nhị Oa cầm một thiết bị dẫn nổ, ở đầu dây phía bên kia là một trái lựu đạn, chỉ cần y ấn nhẹ, thằng người giả ngụy trang kia sẽ cho những tên đánh lén một niềm vui bất ngờ. “Từ phía sau bên trái vòng qua, trên cây à, không... vẫn còn âm thanh, động tác nhẹ quá, gần như không nghe thấy được, ở phía sau bên phải, hừm, muốn bao vây tao hả? Chúng dừng lại rồi, tốt quá, chúng đã phát hiện ra lễ vật của ta rồi.” Bàn tay Ngưu Nhị Oa bóp nhẹ vào thiết bị dẫn nổ, chỉ chờ nghe tiếng kẻ địch rời khỏi tán cây kia.

Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đang nấp trên ngọn cây, đích thực đã nhìn thấy một chỗ gồ lên được che đậy bằng cành lá, nếu không quan sát kỹ e rằng khó mà nhận ra, cho dù nhìn từ góc độ nào cũng rất dễ cho rằng đó là một đống lá rụng được quét vun vào. Nhưng kẻ địch rõ ràng đã bỏ qua mất một vấn đề, nơi này đâu phải công viên, cũng chẳng có ai đi quét lá rụng cả, vậy thì rõ ràng là có người cố ý vun lá rụng lại một chỗ. Vị trí này đích thực cũng là một chỗ rất tốt để mai phục bọn Trác Mộc Cường Ba.

Lữ Cánh Nam ra hiệu bằng tay với pháp sư Á La: “Dùng cành cây và đá làm phân tán sự chú ý của tên bắn lén đó trước, sau đó nhanh chóng nhảy xuống chế phục đối phương.”

Pháp sư Á La gật đầu, nhưng trong lòng vẫn thấy hơi nghi hoặc, vị trí này liệu có hơi lộ liễu quá không? Lẽ nào tên này không sợ có người ở phía sau nhằm vào hắn hay sao? Nhưng Lữ Cánh Nam đã ném một cành cây ra phía trước tên bắn tỉa chừng hơn chục mét, khi cành cây sắp chạm đất, hai người liền cùng lúc rời khỏi tán cây.

Ngưu Nhị Oa nắm bắt được sự thay đổi này một cách chuẩn xác. “Chào mừng đến với Địa ngục!” Y ấn nhẹ vào cái nút trên thiết bị dẫn nổ.

Cành cây vừa chạm đất, đống lá cây vẫn im lìm bất động. “Không ổn!” pháp sư Á La chợt giật thót mình, trong thời khắc đối đầu căng thẳng thế này, con người tuyệt đối không thể nào bình tĩnh như vậy được, pháp sư đột nhiên ngoắc cổ tay một cái, bắn dây móc ngược ra phía sau, đu người vút đi.

“Pháp sư sao lại...” Phản ứng của Lữ Cánh Nam cũng cực kỳ mẫn tiệp, vừa thấy pháp sư Á La như vậy, cũng chuẩn bị bắn dây móc ra. Nhưng lúc ấy, phía trước bỗng bùng lên một luồng sáng trắng, liền ngay sau đó, là tiếng nổ đinh tai váng óc!

Trước khi tiếng nổ vang lên, Ngưu Nhị Oa đã chuyển thiết bị gắn trên tai sang chế độ cách âm, sau khi ánh sáng lóe lên, y lại nhanh chóng bật chế độ thu âm khuếch âm, bật dậy tìm kiếm kẻ vòng ra sau đánh lén. “Làm sao thế được? Không có người, không có âm thanh, cả tiếng thở cũng không? Lẽ nào ta nghe lầm?” Ngưu Nhị Oa hồ nghi tìm kiếm chỗ quả lựu đạn sáng vừa nổ, chuyển mắt kính sang chế độ dò tìm sự sống bằng tia hồng ngoại: không có! Xung quanh đó không hề có chấm đỏ nào báo hiệu sự tồn tại của vật thể sống. “Âm thanh vừa nãy, tuyệt đối không thể nào là ảo giác được, hay là có con vật nhỏ nào đấy? Bị nổ bay mất tiêu rồi? Con mẹ nó, mất thời gian của ta.” Ngưu Nhị Oa lại xoay người trở lại điểm phục kích.

Sau khi Ngưu Nhị Oa quay người bỏ đi, pháp sư Á La mới đưa Lữ Cánh Nam ló đầu lên khỏi đầm nước băng lạnh. Khi ánh chớp của lựu đạn lóe lên, pháp sư Á La đã biết là có chuyện gì xảy ra rồi, ông xoay lưng về phía ánh sáng, ngửa mặt hú dài một tiếng, tiếng rít phát ra từ phế phủ đủ để kháng cự lại âm thanh của quả lựu đạn lóa ấy. Tiếng hú vừa dứt, hiệu lực của lựu đạn lóa cũng không còn nữa, pháp sư Á La ngay lập tức tìm thấy Lữ Cánh Nam, dẫn cô đến đầm nước gần đó. Lúc này, Ngưu Nhị Oa vẫn đang ở trong trạng thái cách âm. Chỉ trong một chớp mắt ngắn ngủi, pháp sư Á La đã dùng chỉ pháp đặc hữu của Mật giáo ra lệnh cho Lữ Cánh Nam: nín thở, trầm xuống.

Lữ Cánh Nam tuy không nghe thấy cũng không nhìn thấy, nhưng xúc giác của cơ thể vẫn còn y nguyên, hai chân cô đã cảm nhận được cái lạnh ngập đến đầu gối, biết mình đang ở trong nước hoặc đầm lầy, bèn hít sâu một hơi, cùng chìm xuống với pháp sư Á La, náu mình tránh khỏi sự tìm kiếm của Ngưu Nhị Oa.

Ở phía bên kia, uy lực của quả lựu đạn lóa cũng làm kinh động bọn Trác Mộc Cường Ba. Nhạc Dương nói: “Là lựu đạn lóa, giáo quan bị phát hiện rồi à?”

Nhạc Dương nói đoạn liền định lao ra, nhưng Ba Tang đã vươn tay kéo lại, bình tĩnh nói: “Xông ra cũng vô dụng thôi.” Nhạc Dương ngẩn người ra nhìn Ba Tang, anh hiểu, ý của Ba Tang là, cả giáo quan và pháp sư Á La còn không đối phó được với tên ấy, mình đi cũng chỉ là tự lao đầu vào chỗ chết, nhưng bảo anh tiếp tục đợi ở đây thì trong lòng càng thấy bứt rứt khó chịu.

Trương Lập cũng lên tiếng: “Giáo quan nói, kẻ địch chỉ có một tên, nếu hắn đang cùng lúc đối phó cô ấy và pháp sư, vậy thì chúng ta có thể di động, ít nhất cũng rời khỏi phạm vi giám sát của hắn được, Cường Ba thiếu gia, anh thấy...”

“Đợi đã...” Trác Mộc Cường Ba cũng biết, cần phải lập tức đưa ra phán đoán. Nếu kẻ địch vẫn đang giám thị bọn họ, vậy thì đây là cơ hội tốt nhất để hành động. Trong đầu gã thầm tính toán, tốc độ lan truyền của âm thanh là 340 m/s, sau khi sử dụng lựu đạn lóa, thông thường người ném ra phải chờ hai ba giây mới lao vào vòng chiến. Từ đó, Trác Mộc Cường Ba phán đoán thời gian âm thanh vang được tới đây và thời gian kẻ địch cùng pháp sư Á La, Lữ Cánh Nam chiến đấu.

“Hành động!”

Năm người họ lập tức di chuyển theo một hướng khác, nhưng Trát Lỗ đã chân tay mềm nhũn, vừa chạy mà lảo đảo như muốn ngã đến nơi.

Ngưu Nhị Oa đã trở lại vị trí phục kích, lập tức trông thấy phía trước có di động, liền không chút do dự nâng súng lên, nã ngay một phát vào người hành động chậm chạp nhất kia.

“Á!” Trát Lỗ đau đớn rống lên, viên đạn đã ghim vào vai trái anh ta, song hình như chưa xuyên qua. Trương Lập kêu lớn: “Trát Lỗ trúng đạn rồi!” Năm người vội vàng nằm phục xuống. Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều thấy dâng lên một tia sợ hãi đối với kẻ địch này. Cùng lúc đối phó với Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La, lẽ nào nhanh như vậy đã giải quyết xong rồi ư? Vậy thì đối phương thực sự quá đáng sợ, hay chúng không chỉ có một tên thôi?

Pháp sư Á La không dám bỏ Lữ Cánh Nam lại, vì cô đang tạm thời mất cả thị lực lẫn thính lực, nếu gặp phải kẻ địch cầm súng thì đúng là hoàn toàn chẳng còn chút năng lực phòng ngự nào cả. Ông phải đợi Lữ Cánh Nam đỡ được phần nào, sau đó mới có thể chế phục tên kia. Nhưng thời gian không đợi người, vừa đỡ Lữ Cánh Nam vào chỗ ẩn nấp, liền nghe thấy tiếng súng vang lên. Pháp sư Á La thầm nhủ: “Bọn Cường Ba thiếu gia hành động sớm quá, không ổn, cần phải bảo vệ an toàn cho cậu ấy!” Ông ra lệnh cho Lữ Cánh Nam ẩn nấp tại chỗ, tự bảo vệ mình, kế đó, nhanh chóng lao vút ra ngoài.

Ngưu Nhị Oa chỉ bắn có một phát, tất cả kẻ địch đều đã nằm phục xuống. Trên khóe miệng y khẽ lộ ra một nụ cười, có độ khó thì mới kích thích chứ. Y dựa vào trí nhớ lần tìm vị trí của mấy người vừa nãy, lúc này, trong thiết bị gắn bên tai chợt vang lên tiếng động báo hiệu phía sau lưng y có vật thể đang di động. “Hừm? Lần này lại là gì nữa đây? Lợn rừng à?”

Chương 33

Qua Ba Đại Địch ô

Pháp sư Á La đã hoàn toàn xác định được vị trí ẩn náu của Ngưu Nhị Oa, khi ông sắp tiếp cận được y, Ngưu Nhị Oa bỗng ngoảnh đầu lại, pháp sư liền ném ra một cành cây, ông biết khả năng xạ kích của đối phương rất chuẩn xác, nên hy vọng bằng cách này có thể phân tán được sự chú ý của kẻ địch.

“Tạch!” Một phát đạn của Ngưu Nhị Oa đã bắn vỡ tét khúc cây, nhưng pháp sư Á La đã lao tới trước mặt y rồi. Ngưu Nhị Oa giương họng súng ra ngoài, chỉ thấy thân thể pháp sư Á La nghiêng đi một cái. “Tách!” Một viên đạn bay vào khoảng không, còn chân pháp sư Á La đã vút tới ngay phía trước. Y vội giơ ngang súng lên chặn cú đá đó lại, pháp sư Á La liền mượn thế hất văng luôn khẩu súng đi. Ngưu Nhị Oa vội lộn ngửa về phía sau, đồng thời rút ở hông ra một con dao ngăm bén nhọn, lúc chạm chân xuống đất đã từ trái sang phải, vung ra một đòn. Pháp sư Á La tức thời rụt chân về.

Ngưu Nhị Oat tay cầm dao găm, đâm nhầu hai ba phát, lưỡi dao phát ra tiếng rít gió “vù vù”. Y thầm nhủ: “Đây là kỹ thuật dùng dao găm cận chiến của đội Mũ Nồi Đỏ, mặc xác mày là ai, dùng để thử uy lực của nó một phen cũng tốt.” Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng chân y lại đột nhiên hất lên, một mảng đất bùn bắn tung về phía pháp sư Á La. Pháp sư vội đưa cánh tay lên ngăn lại, thân người nghiêng đi, chợt thấy một tia sáng lạnh lẽo lóe lên giữa khe hở của đám bùn đất, biết rằng đó là lưỡi dao găm đâm tới, liền chống một tay xuống đất, cả người xoay một vòng, hai chân như thần long xuất hải, liên tiếp tung lên mấy cước.

Ngưu Nhị Oa thấy thế công của mình bị khóa chặt, thân hình liền hơi ngả ra sau, con dao găm ném vút ra như phi đao, đồng thời vuốt tay bên hông một cái, lại cầm một khẩu súng lục M500. Pháp sư Á La biết rõ uy lực của loại vũ khí này, tức thời vươn tay bắt lấy con dao găm, lật cổ tay ném ngược trở về. Ngưu Nhị Oa thậm chí còn chưa kịp nổ súng, đã bị mũi dao đâm trúng cổ tay. Lúc này cả hai người đều đang trong trạng thái ngửa ra sau, Ngưu Nhị Oa cười gằn một tiếng, chân đạp mạnh làm bắn lên một mảng bùn đất lớn nữa, tay trái vớt lấy khẩu M500, xoay người bỏ chạy, song vẫn không quên ngoảnh lại nổ một phát súng, hoàn toàn không cần ngắm nghía gì cả.

Pháp sư Á La thấy hướng y chạy không phải nơi Lữ Cánh Nam đang ẩn nấp, cũng không truy kích, quay đầu lại nhìn, chỉ thấy khẩu M110 kia cũng đã chìm xuống đầm lầy, không thấy bóng dáng đâu nữa, bèn thở dài một tiếng, trở lại chỗ Lữ Cánh Nam.

Khi Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La quay lại chỗ bọn Trác Mộc Cường Ba, pháp sư trầm giọng nói: “Hắn chạy mất rồi, không còn súng bắn tỉa, chắc tạm thời cũng không dám lại gần chúng ta quá đâu.”

Ba Tang hỏi: “Ai vậy?”

Pháp sư Á La lắc đầu: “Toàn thân ngụy trang, không nhìn ra được. Nhưng lúc hắn bỏ chạy, dường như có một chân không được linh hoạt cho lắm, chắc là đã bị thương từ trước khi chúng ta đến đây, khả năng rất lớn chính là kẻ chạy trốn khỏi Tước Mẫu. Thật đáng tiếc, không cướp được vũ khí của hắn.”

Nhạc Dương và Trương Lập thấy Lữ Cánh Nam được pháp sư Á La dìu trở về, vội cuống quýt hỏi han: “Giáo quan không sao chứ?” “Giáo quan, không vấn đề gì chứ?”

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Không sao, hơi sơ ý thôi.” Thị lực và thính lực của cô cũng đang dần dần hồi phục.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không có chuyện gì thì tốt. Trát Lỗ bị thương rồi.”

Chỉ thấy Trát Lỗ đang nằm bên cạnh kêu gào khóc lóc: “Ta tiêu đời rồi, ta sắp chết rồi.” Cánh tay anh ta đã được băng bó lại, thực ra vết thương cũng không nặng lắm, chỉ là máu cứ chảy mãi không ngừng mà thôi.

Pháp sư Á La bước lại nói: “Phấn chấn lên, cậu không việc gì đâu.” Ông bóp nhẹ vài cái quanh vết thương của Trát Lỗ, máu liền ngừng chảy tức thì. Sau đó, pháp sư lại nghĩ ngợi giây lát, rồi bẻ một cành cây, đâm vào vài chỗ trên người Trát Lỗ. Tiếng khóc của anh ta cũng nhỏ dần, nhưng chỉ chốc lát sau, Trát Lỗ đã lại kêu lên: “Tay ta không còn cảm giác gì nữa, phải chăng tay ta đứt rồi?”

Pháp sư Á La vỗ vỗ lên cánh tay anh ta mỉm cười nói: “Không có vấn đề gì đâu, nếu kịp thời tìm được Qua Ba Đại Địch ô, cậu sẽ lành lặn như chưa bao giờ bị thương vậy. Chúng ta đi thôi, không biết quanh đây có còn tên địch nào khác nữa không, vả lại, tên kia cũng có thể quay lại bất cứ lúc nào.”

Nhạc Dương gật đầu nói: “Phải đấy, may mà hắn không biết chúng ta không có vũ khí.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Trát Lỗ, còn đi được chứ?”

Trát Lỗ gật đầu: “Đi được.” Nghe nói Qua Ba Đại Địch ô có thể trị khỏi vết thương của mình, anh ta cũng không còn sợ hãi quá thể như trước nữa.

Bảy người tiếp tục tiến về hướng Gia Quỳnh, chỉ có điều, vì không thể đưa Trát Lỗ đu bay bằng dây móc, nên tốc độ giảm đi rất nhiều.

Ngưu Nhị Oa phẫn hận vô cùng, vừa chạy vừa thầm nghĩ: “Kẻ toàn thân đầy bùn đất đó rốt cuộc là ai? Những kỹ thuật mình học được trong quá trình huấn luyện đặc biệt dường như đều không có tác dụng gì với hắn? Lẽ nào thằng cha Merkin đó đã chơi mình? Không, là tên kia quá mạnh! Trác Mộc Cường Ba, lần này mày may mắn, nhưng tao không bỏ cuộc như vậy đâu, hãy đợi đấy!”

Ngưu Nhị Oa trở lại khoảng rừng mà y trú ẩn mấy hôm nay. Khước Ba đã đợi sẵn ở đó, thấy y trở về liền vội vàng chạy lại nói: “Trướng của đại vương đã đi qua chỗ khe núi rồi. Hả, sao ngươi lại bị thương vậy?”

Ngưu Nhị Oa cười gằn đáp: “Vết thương vớ vẩn thôi. Không sao. Phải rồi, ngươi có biết bọn Trác Mộc Cường Ba đó đến đây làm gì không?”

Khước Ba băng bó vết thương cho Ngưu Nhị Oa, đoạn nói: “Chúng đến tìm lão già kia.”

“Tìm lão già ấy, tại sao?”

“Chuyện này thì ta không biết, có điều ta nghĩ, rất có thể liên quan đến công chúa Tước Mẫu. Ha ha, tính ra thì ả công chúa ấy giờ chắc là mù hẳn rồi.” Khước Ba bật cười âm hiểm.

Ngưu Nhị Oa cũng cười lạnh lẽo: “Hừ, kế hoạch này của các ngươi cũng ác độc thật đấy.”

Khước Ba đột nhiên phẫn nộ nói: “Nếu không phải lão già đó đột nhiên xuất hiện, kế hoạch của chúng ta vốn hoàn toàn không có kẽ hở nào.”

Ngưu Nhị Oa rút cánh tay đã được băng bó về, lại lấy ra một khẩu súng bắn tỉa loại AW338, nói: “Ta chẳng hứng thú gì với âm mưu của các ngươi cả, có điều tên Trác Mộc Cường Ba muốn gặp lão già ấy, thì ta nhất quyết không cho hắn được như ý. Đi thôi, đến trướng của đại vương các ngươi đi.” Y liếc nhìn bãi mìn đánh dấu bằng vô số chấm đỏ trên bản đồ, lòng thầm suy tính: “Nếu như, có thể dụ bọn chúng đến chỗ này...”

“Cường Ba thiếu gia, vết xe càng lúc càng rõ hơn, chúng ta càng lúc càng đến gần họ rồi.” Nhạc Dương quan sát xong liền báo cáo với Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba gật đầu nói: “Tốt lắm. Trát Lỗ, còn cố được không?”

Trát Lỗ đã đầm đìa mồ hôi, nãy giờ vẫn được Trác Mộc Cường Ba đỡ đi. Anh ta nghiến răng nói: “Được.”

Trương Lập hỏi: “Còn bao xa nữa thì đến Gia Quỳnh?”

Trát Lỗ đáp: “Không xa nữa đâu. Gia Quỳnh không phải thành trấn, mà chỉ là một điểm đóng quân, mà giữa hai điểm đóng quân không bao giờ vượt quá một ngày đường cả.”

Cứ đi như vậy thêm một hồi nữa, bước chân Nhạc Dương dần dần chậm lại, những người khác cũng thả bước chậm theo, duy chỉ có Trát Lỗ là hoàn toàn không cảm thấy gì. Dưới đất có dấu chân ngựa được bọc kín bốn vó quay ngược trở lại, sâu trong rừng thấp thoáng có tiếng ngựa thở rất nhẹ, xung quanh an tĩnh đến độ bất bình thường. Nhạc Dương lặng lẽ nói: “Có mai phục.”

“Biết rồi.” Trác Mộc Cường Ba nói. Một cái lá cây xanh mơn mởn rơi từ trên cao xuống, gã ra lệnh: “Ẩn nấp!” Sáu người liền như năm mũi tên tỏa ra các hướng khác nhau, mỗi người nấp bên dưới một thân cây lớn, ngẩng đầu nhìn lên. Bọn họ đều hiểu rõ, kẻ địch đang nấp trên cây. Khả năng ẩn mình của những tên này không xuất sắc gì cho lắm. Trát Lỗ được Trác Mộc Cường Ba kéo lôi đi, mang đến bên dưới một gốc cây. Anh ta hỏi: “Gì thế?”

Trác Mộc Cường Ba thì thào: “Đừng lên tiếng.”

Kẻ địch trên cây bị lá cây che khuất tầm nhìn, không thể trông thấy bọn Trác Mộc Cường Ba bên dưới, còn mấy người nhóm Trác Mộc Cường Ba lại có thể nhìn xuyên qua kẽ lá trông thấy một vài cánh tay và cẳng chân lộ ra. Họ trao đổi ý kiến từ xa trong giây lát, đám người này đại khái có chừng hai mươi tên, đều ăn mặc theo kiểu người bản địa, cũng có nghĩa là, tỉ lệ xuất hiện vũ khí hiện đại rất thấp, bọn họ có thể chỉ phải đối mặt với cung tên và phi tiêu.

Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, đám người trên cây đã hết kiên nhẫn, có cảm giác không biết những kẻ bị bao vây kia ở đâu, còn mình ngược lại đã bị lộ. “Những kẻ bên dưới mau ra đây, các ngươi đã bị bao vây rồi!” Đối phương dùng tiếng Tạng cổ.

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn nhau cười cười, bọn họ đương nhiên không thể cứ thế bước ra được. Nhưng Trát Lỗ đã kêu toáng lên: “Ba Trát đội trưởng có phải không? Tôi nghe thấy tiếng của ngài rồi. Tôi đây mà, Trát Lỗ đây! Văn thư Trát Lỗ đây! Các người đừng bắn tên!”

Người trên cây trả lời: “Trát Lỗ? Ngươi là Giang Dũng Trát Lỗ? Không phải ngươi đang bị nhốt ở Tước Mẫu à?”

Trát Lỗ nói: “Đúng thế, nhưng tôi được thả trở về rồi! Ba Trát đội trưởng, đúng là ông rồi, đại vương ở đâu thế? Tôi muốn gặp đại vương!” Nói đoạn, liền định nhổm dậy ra phía ngoài. Trác Mộc Cường Ba khẽ kéo một cái, Trát Lỗ liền không còn chút sức lực nào, chỉ còn biết ngoảnh đầu lại giận dữ với gã. Trác Mộc Cường Ba nói: “Đợi đã.” Gã có cảm giác rất rõ rệt, sự việc không đơn giản như vậy, câu hỏi của tên Ba Trát đội trưởng đó đầy vẻ nghi hoặc.

Quả nhiên, một người khác trên cây đã lên tiếng: “Đừng nghe hắn, Giang Dũng Trát Lỗ đã chết trong nhà lao ở Langbu rồi, chuyện này thuộc hạ của ta đã báo cáo từ lâu rồi. Đám người này muốn ám sát đại vương của chúng ta, giết hết bọn chúng đi!”

Sắc mặt Trát Lỗ tái mét, lớn tiếng quát lên: “Ngươi! Ngươi là ai? Ngươi nói bậy!”

Người kia nói: “Nếu ngươi là Trát Lỗ, vậy có dám đứng ra chỗ trống cho bọn ta nhìn rõ không?”

Trát Lỗ nói: “Có gì mà không dám! Ta chính là Giang Dũng Trát Lỗ! Nếu các ngươi là hộ vệ của đại vương, thì chắc chắn sẽ nhận ra ta!”

“Đồ ngốc, cạm bẫy đấy!” Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở.

Trát Lỗ mặc kệ lời cảnh cáo của Trác Mộc Cường Ba, vận sức xé rách vạt áo, lao ra khỏi chỗ Trác Mộc Cường Ba và anh ta đang nấp, đứng giữa khoảng trống kêu lên: “Tôi chính là...” Lời còn chưa dứt, một mũi tên đã lạnh lùng “vù” một tiếng bắn tới. Trát Lỗ ngây người ra nhìn mũi tên, không kịp có bất kỳ phản ứng gì, may mà Trác Mộc Cường Ba theo sát phía sau, đột nhiên chồm lên như hổ vồ mồi, ấn cả người Trát Lỗ xuống đất, nên mới thoát nạn. Hai người lăn tròn mấy vòng nấp vào bên dưới một gốc cây khác, lần này thì Trát Lỗ không dám nhao ra nữa, chỉ run run giọng hỏi: “Tại sao? Họ không tin ta à?”

Chỉ nghe giọng Ba Trát đội trưởng vang lên: “Hắn chính là Trát Lỗ! Lý Ca, tại sao ngươi bắn tên?”

Lý Ca nói: “Ta nhận được tin Trát Lỗ đã chết từ lâu rồi, sao hắn lại xuất hiện ở đây được chứ? Nhất định là đã cấu kết với bọn người Langbu, mưu đồ ám hại đại vương của chúng ta.”

Ba Trát nói: “Vậy thì cũng phải hỏi cho rõ rồi mới tính chứ. Tất cả vệ binh của ta nghe đây, không ai được bắn tên!”

Lý Ca gằn giọng quát: “Ba Trát, ngươi chớ quên rằng ta mới là chỉ huy hành động lần này. Tuy đám vệ binh đó đều là người của ngươi, nhưng, ngươi dám làm trái lệnh của đại vương ư?”

Ba Trát lầu bầu một tiếng: “Khốn kiếp!” rồi không nói năng gì nữa. Chỉ nghe người tên Lý Ca kia hạ lệnh: “Xuống dưới, giết sạch hết bọn chúng cho ta, không được để tên nào sổng mất! Vừa nãy các ngươi cũng thấy động tác của chúng rồi đó, bọn sát thủ này lợi hại vô cùng, tuyệt đối không được mềm lòng! Bằng không, người bị giết chính là các ngươi đấy.”

Nhạc Dương ở phía xa dùng tay ra hiệu hỏi xem phải làm sao. Trác Mộc Cường Ba cũng lấy làm khó xử, nếu ra tay ở đây, tức là đã kết thù kết oán với người Yaca rồi, vậy liệu còn có thể mời được Đại Địch ô của họ nữa hay không? Nếu không ra tay, lẽ nào ngồi một chỗ chờ chết? Đúng là một cục diện tiến thoái lưỡng nan. Gã đưa mắt nhìn sang phía pháp sư Á La, hỏi xem có cách gì chế phục được đám vệ binh này không. Pháp sư Á La nhè nhẹ lắc đầu, số lượng quá đông, mà bọn họ cũng đã nếm qua sự lợi hại của đám dũng sĩ này rồi, không giết chết họ, họ nhất định sẽ cứ bám lẵng nhẵng không buông.

Các chiến sĩ cầm vũ khí lần lượt từ tàng cây trèo xuống, càng lúc càng đến gần chỗ bọn Trác Mộc Cường Ba ẩn nấp, ra tay cũng không ổn, không ra tay cũng không xong. Cây cung trong tay Nhạc Dương kéo ra rồi lại đưa về, chỗ nắm tay đã bị mồ hôi anh thấm đẫm, tình thế cực kỳ nguy cấp.

Đúng lúc ấy, trong rừng chợt vọng ra một tiếng gầm vang như sấm động: “Dừng tay!”

Nghe thấy tiếng quát đó, đám binh sĩ Yaca liền lần lượt buông vũ khí xuống. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đều lấy làm nghi hoặc, chỉ thấy trong rừng có một cỗ xe ngựa lọc cọc chạy ra, bốn con chiến mã trắng như tuyết đều được mặc giáp, to lớn giống hệt nhau, mỗi con đều toát lên khí chất bất phàm. Tất cả binh sĩ đều hướng về phía cỗ xe quỳ bái, người đánh xe lạnh lùng quét ánh mắt nhìn bọn họ, xem ra thân phận và chức vị của y cũng cao hơn đám hộ vệ của đại vương này rất nhiều.

Trát Lỗ lại xông ra ngoài, nước mắt đầm đìa chảy xuống: “Đại vương? Đại vương? Thần là Trát Lỗ, là Giang Dũng Trát Lỗ đây! Cuối... cuối cùng cũng gặp được đại vương rồi!”

Ba Trát, một người cao lớn chắc nịch, gương mặt hơi rỗ, tay cầm một cây rìu bước tới, quỳ xuống bên cạnh Trát Lỗ, đồng thời nói với anh ta: “Không phải đại vương, mà là Địch ô đại nhân tân nhiệm của Yaca chúng ta. Ba Trát bái kiến Địch ô đại nhân.”

Địch ô đại nhân trong xe nói: “Lý Ca đâu?”

Ba Trát lắp bắp nói: “Vừa... vừa nãy khi đại nhân tới, hắn liền chạy mất rồi. Thuộc hạ vô năng, không giữ hắn lại được.”

Địch ô đại nhân cơ hồ khẽ thở dài một tiếng: “Quả nhiên là vậy.” Đột nhiên ngữ khí biến đổi, trầm giọng nói: “Người bạn ở trong rừng, ngươi theo dấu ta cũng khá lâu rồi nhỉ! Nếu không phải đến tìm ta, thì mau mau đi đi!” Chỉ thấy màn xe dường như hơi nhúc nhích, tựa hồ có thứ gì đó bay vút ra. Vừa trông thấy tấm màn hơi hé lên, pháp sư Á La liền thầm thở phào một hơi.

Phía đằng xa, Ngưu Nhị Oa “á” lên một tiếng, cánh tay bị thương của y lại bị thứ gì đó đâm trúng. Lần này, y thậm chí còn không nhìn rõ đó là thứ gì, thì đã bị đâm xuyên qua rồi. Vết thương cực nhỏ, nhưng cảm giác đau đớn thì lại mạnh hơn bị dao găm đâm phải gấp mười lần. Ngưu Nhị Oa ngoảnh đầu lại tìm kiếm, chỉ thấy thứ đó xuyên qua bàn tay của y rồi cắm ngập vào thân cây, chỉ để lại một đoạn đuôi nhỏ xíu. Y liền cẩn thận rút ra xem, không ngờ đó chỉ là một cây kim bạc, giống loại vẫn thường sử dụng trong trung y, mảnh như sợi tóc. Y biến sắc, vội nhặt khẩu AW338 dưới đất lên chạy đi, đồng thời hỏi Khước Ba: “Lão già ấy rốt cuộc lai lịch thế nào?”

Khước Ba đanh mặt nói: “Không biết, ta chỉ biết lão ta lợi hại đến mức không giống con người nữa. Thật đáng tiếc, quân cờ cuối cùng của ta để lại cũng bị lộ rồi.”

Ngưu Nhị Oa nói: “Nghĩ cách gọi hắn đến đây, nói không chừng vẫn còn có ích cho chúng ta. Ừm, bọn chúng đến đây vì ả đàn bà mù kia chứ gì, chắc không lâu sau sẽ phải trở lại Tước Mẫu? Chúng ta có thể sắp đặt một chút chướng ngại trên đường về của chúng, đi theo ta!” Nói đoạn, hai người liền chạy vụt đi.

Trong rừng, bọn Trác Mộc Cường Ba đều đã đứng cả ra. Tuy bọn họ không quen biết vị Địch ô đại nhân này, nhưng có vẻ ông ta cũng không ác ý gì với họ. Trát Lỗ không quên mục đích chuyến đi lần này, vội nói: “Địch ô đại nhân, mấy người Langbu, à không, là mấy người Giáp Mễ này, họ có chuyện muốn xin gặp, cầu xin ngài...”

Địch ô đại nhân ngắt lời nói: “Ta biết rồi. Giang Dũng Trát Lỗ phải không, ba năm trước ngươi bị oan uổng rồi, giờ ngươi có thể trở về, đại vương mà gặp hẳn sẽ vui lắm. Ngươi và Ba Trát trở về trướng của đại vương trước đi.”

Ba Trát kinh ngạc lắp bắp: “Địch ô đại nhân, vậy ngài...”

Địch ô đại nhân lại nói: “Ta nói chuyện với mấy người Giáp Mễ này một lát, các ngươi không cần bảo vệ ta. Tôn Ma ở lại, những người khác đều trở về đi. Ba Trát, ngươi trở về bẩm báo với đại vương, cứ nói là suy đoán của chúng ta đã được chứng thực rồi, còn chuyện Lý Ca thì không cần nhắc đến làm gì.” Ba Trát và đám thuộc hạ nhận lệnh, liền đưa Trát Lỗ về chỗ trướng của quốc vương Yaca, chỉ để lại một người tên là Tôn Ma, cũng chính là người đánh xe kia.

Đợi bọn người Ba Trát đi xa hẳn, pháp sư Á La mới lên tiếng: “Cuối cùng cũng tìm được ngài rồi.”

Bọn Trác Mộc Cường Ba đều đần mặt ra, chỉ nghe vị Qua Ba Đại Địch ô phía sau tấm màn phủ kia không ngờ cũng đáp lại bằng tiếng Trung: “Cuối cùng tôi cũng đợi được mọi người rồi.” Giọng nói đó nghe thật quen thuộc.

Đến khi vị Qua Ba Đại Địch ô ấy vén tấm màn xe lên, cả bọn lại càng kinh ngạc thốt lên: “Pháp sư Tháp Tây!” Vị Địch ô đại nhân đang ngồi xếp bằng trong xe ấy, tuy đã khoác lên mình tấm áo đen tuyền của vu sư, đầu đội khăn, tai và mũi đều đeo vòng, nhưng đó không phải pháp sư Tháp Tây thì còn là ai vào đây được nữa? Chẳng trách giọng nói tiếng Trung vừa nãy nghe sao lại quen tai thế.

“Rốt cuộc là thế nào đây?”

“Pháp sư Tháp Tây, không phải ngài đã...”

“Sao ngài lại trở thành Đại Địch ô của Yaca thế?” Cả bọn nhao nhao hỏi.

Pháp sư Tháp Tây khẽ mỉm cười, ôn tồn nói: “Tôi bị thương rất nặng, không thể đi lại được nữa rồi. Chỉ còn biết ở đây đợi mọi người thôi. Tôi biết, mọi người nhất định sẽ tìm được đến đây mà. Lên xe ngồi trước đã.”

Trải nghiệm của pháp sư Tháp Tây

Trong xe rất rộng rãi, ngồi bảy tám người mà cũng không hề có cảm giác chật chội. Thấy cả bọn đều đã ổn định trên xe, pháp sư Tháp Tây mới nói: “Tôi hỏi trước nhé, chuyện mọi người đến đây tìm tôi là thế nào vậy?”

Trác Mộc Cường Ba trả lời: “Là thế này, chúng tôi ở Tước Mẫu...” Gã lần lượt kể sơ qua chuyện bị bắt giam ở Tước Mẫu, sau đó bị ép đến Yaca mời Đại Địch ô đến xem bệnh mắt cho công chúa, đội trưởng Hồ Dương và Mẫn Mẫn bị giữ lại làm con tin... cho pháp sư Tháp Tây nghe. Những điểm nào chưa được rõ ràng lắm, mấy người Lữ Cánh Nam, Nhạc Dương, Trương Lập... lại bổ sung thêm.

Pháp sư Tháp Tây nhíu mày nói: “Chỉ có bốn ngày thời gian, giờ đã qua hai ngày rồi, cũng tức là, nếu hai ngày nữa không kịp trở về? Hồ Dương và Mẫn Mẫn sẽ bị giết chết?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng vậy.”

Pháp sư Tháp Tây lập tức nói: “Tôn Ma, đi Nhật Mã Ca Tùng.”

Tôn Ma ở bên ngoài nói vọng vào: “Địch ô đại nhân, giờ hơi muộn rồi, trên đường trời sẽ tối mất.”

Pháp sư Tháp Tây nói: “Trời tối thì đốt đuốc lên, chúng ta muốn đến bờ biển Sinh Mệnh trước khi trời sáng. Đi thôi.”

Tôn Ma “vâng” một tiếng, rồi giật dây cương, bốn con ngựa liền tung vó, lao vụt đi trong rừng già.

Không biết vì tâm trạng căng thẳng, hay vì có quá nhiều nghi vấn trong lòng, ngược lại không biết nên bắt đầu hỏi từ đâu, ba phút đầu tiên từ khi xe chuyển bánh, trong khoang xe hết sức yên tĩnh, chỉ nghe thấy tiếng bánh xe cán lên đất bùn phát ra những âm thanh “lẹt bẹt.”

“Pháp sư Á La nói, chắc chín mươi phần trăm, có phải chính là chuyện này không ạ?” Cuối cùng, Nhạc Dương vẫn không nhịn được, cất tiếng hỏi.

Pháp sư Á La còn chưa kịp cất tiếng, pháp sư Tháp Tây đã đáp lời thay: “Chuyện này, thật hết sức xin lỗi mọi người, trước đó chúng tôi không kịp thương lượng gì, đã tự tiện đưa ra quyết định. Lúc ấy, chúng tôi nghĩ thế này, vì lúc xuất phát có nhiều người, lại phải chăm lo cho nhau, chúng tôi sợ đối thủ đến Bạc Ba La thần miếu trước, vì vậy tôi quyết định một mình đi trước. Nếu chỉ một mình tôi, thì tốc độ ít nhất cũng nhanh hơn tất cả chúng ta rất nhiều.”

“Ngài, sao có thể làm được vậy? Lúc đó chúng ta đang lênh đênh trên biển ngầm mà?” Trương Lập không ghìm được vội hỏi ngay. Xét cho cùng thì lúc đó họ vẫn còn đang ở giữa một vùng biển tối tăm xòe bàn tay ra trước mặt cũng chẳng thấy năm ngón tay, xung quanh lại còn vô số loài quái vật ăn thịt rình mò chầu chực.

Pháp sư Tháp Tây mỉm cười nói: “Cũng nhờ vào bộ trang bị nổi được mà cậu thiết kế ra đấy!”

Trương Lập sực hiểu ra: “Pháp sư muốn nói đến, quả bóng bơm khí đó à!” Anh đã nhớ ra, quả bóng bơm bằng khí nén đó không chỉ có thể làm giảm đà rơi từ trên cao xuống, mà trên mặt nước cũng là một cái phao rất tốt, khi người di chuyển bên trong quả bóng nhỏ, đồng thời cũng khiến quả bóng lớn bên ngoài di chuyển với tốc độ nhanh trên mặt nước. Anh lại hỏi thêm: “Nhưng mà, ngài rời thuyền như thế nào vậy? Chúng tôi đều không chú ý thấy.”

Pháp sư Tháp Tây tiếp tục nói: “Lúc đó, mọi người đã đói đến mắt hoa đầu váng rồi, ý chí còn đang giãy giụa trên lằn ranh giữa tỉnh táo và hôn mê, trong bóng tối mù mịt ấy, tôi lẳng lặng rời đi, mọi người tự nhiên không thể phát giác ra được. Tôi và pháp sư Á La đều đã tu luyện Thiên nhật hành, mấy tháng không ăn gì cũng chẳng thấm vào đâu, nhưng mọi người thì không thể.”

Nhạc Dương nói: “Pháp sư Á La cũng thật là, lúc ấy phải nói với chúng tôi một tiếng chứ, còn gạt mọi người bảo là pháp sư Tháp Tây đã đi rồi, chúng ta còn tưởng ngài... chậc, Cường Ba thiếu gia còn rất thương tâm nữa đó.” Anh nói nửa đùa nửa thật, nhưng ngữ khí đầy sự bất mãn và chất vấn, tựa như đang trách móc pháp sư Á La vẫn không tin tưởng bọn họ vậy.

Pháp sư Tháp Tây lắc đầu nói: “Không thể trách pháp sư Á La được, ông ấy chỉ là một Hạ vị Cách quả, không có lệnh của tôi, tự nhiên không thể nói với mọi người được. Hơn nữa, đoàn thám hiểm của Cường Ba thiếu gia tổ chức có đủ mọi hạng người từ khắp nơi, chúng tôi cũng không dám đảm bảo người nào cũng đáng tin cậy cả, có phải không?”

Nhạc Dương lập tức nhớ đến Triệu Trang Sinh, bao nhiêu lời muốn nói đều nghẹn lại cổ họng.

Trong xe lại rơi vào một khoảng lặng ngắn, Trương Lập thấy bầu không khí có vẻ gượng gạo, bèn cất tiếng: “Nhưng mà cũng may. Cuối cùng chúng ta cũng gặp lại được pháp sư Tháp Tây rồi, càng không thể ngờ, pháp sư lại trở thành Đại Địch ô của vương quốc Yaca nữa. Nhưng mà chúng tôi nghe nói, Đại Địch ô của Yaca từ tầng bình đài thứ ba xuống đây từ hơn một tháng trước cơ mà, chuyện này là như thế nào vậy ạ?”

Pháp sư Tháp Tây mỉm cười đáp: “Nói chuyện mọi người đến Tước Mẫu như thế nào trước, được không?”

Trương Lập thoáng ngây người, sau đó liền kể vắn tắt lại chuyện bọn họ cập bờ, lên tầng bình đài thứ nhất, rồi dựa vào bản đồ tìm được thôn làng của người Qua Ba, và lên được tầng thứ hai từ chỗ đó, sau đó lại đi về phía Tây, cuối cùng đến được Tước Mẫu.

Pháp sư Tháp Tây gật đầu, nói: “Ừm, mọi người quả nhiên dựa vào bản đồ trong Hương Ba La Mật quang Bảo giám.”

Trương Lập lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Ủa? Sao ạ? Pháp sư không đi theo lối đó sao?”

Pháp sư Tháp Tây lắc đầu: “Ừm, khi chúng ta nghiên cứu bản đồ trong Hương Ba La Mật quang Bảo giám, vì tư liệu trong tay cho thấy, trong quãng gần trăm cây số bị sương mù phong tỏa trên dãy Himalaya này, có hai mạch núi tỏa rộng xuống phía dưới thành hình chóp, mỗi tầng bình đài áng chừng rộng mấy trăm cây số, trong đó lại không biết có bao nhiêu sinh vật quái dị, như vậy đi lại sẽ lãng phí rất nhiều thời gian. Nên tôi không đi theo tuyến đường đã vạch trên bản đồ, mà từ tầng thấp nhất trèo thẳng lên.”

“Gì ạ?” Lần này không chỉ có Trương Lập, ngoài pháp sư Á La ra, những người khác đều lộ vẻ kinh ngạc, cả Lữ Cánh Nam cũng bất giác ngồi thẳng người lên. Phải biết rằng, trong tay họ có các công cụ chuyên dụng để leo núi, lại còn leo lên từ nơi tầng bình đài thứ nhất và thứ hai gần nhau nhất, vậy mà cũng khó khăn lắm mới lên được đến nơi. Pháp sư Tháp Tây chẳng những không có công cụ gì, chỉ dùng đôi tay trần, hơn nữa còn leo qua hơn hai nghìn mét vách đá hình vòm cong vào bên trong, sức người sao có thể làm được điều đó cơ chứ?”

Trác Mộc Cường Ba kinh sợ đưa mắt nhìn pháp sư Á La, xem ra những Mật tu giả này không đơn giản chỉ là mấy tháng không ăn không uống, bọn họ cơ hồ đang không ngừng khiêu chiến cực hạn trong cực hạn chịu đựng của cơ thể con người. Nhạc Dương rốt cuộc cũng đã hiểu ra, pháp sư Tháp Tây trực tiếp leo lên tầng bình đài thứ hai, rồi lại từ đó leo thẳng lên tầng bình đài thứ ba, thời gian cũng chỉ mất khoảng ba đến năm ngày, còn bọn họ đi trong rừng thì mất những hai tháng trời, chẳng trách pháp sư lại có thể ở tầng bình đài thứ ba xuống đây từ hơn một tháng trước. Nhưng mà, tại sao ông ấy lại không đến thẳng Bạc Ba La thần miếu luôn nhỉ?”

Pháp sư Tháp Tây nói: “Nghe khó tin lắm phải không? Kha kha, nhưng mọi người thử nghĩ xem, năm xưa người Qua Ba đến đây, chẳng phải cũng chỉ dựa vào đôi bàn tay trần để leo lên các tầng phía trên thôi sao? Chẳng những vậy, họ còn vận chuyển theo cả những tượng Phật vàng và các báu vật nhà Phật nặng đến cả vạn tấn nữa. Được rồi, để tôi kể tiếp nhé. Khi đó tôi đến tầng bình đài thứ hai, là một thảo nguyên ở phía Bắc nơi này, chỗ đó rất gần nơi ngắn nhất giữa tầng thứ hai và thứ ba, hơn nữa tôi cũng phát hiện, thì ra nơi này quả có người sinh sống, bọn họ đã sinh sôi trên vùng đất này hơn một nghìn năm nay rồi. Chỉ là, bọn họ dường như không có nhiều thay đổi, vẫn giữ lại các tập tục của nghìn năm về trước, hoàn toàn không hề hay biết thế giới bên ngoài đã xảy ra những biến đổi nghiêng trời lệch đất. Nơi tôi đến lúc đó, gọi là Côn Ba Thác, một vùng đất của vương quốc Yaca này...”

Bọn Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, họ đã từng nghe Địch ô An Cát Mẫu nói về nơi này, tóm lại là một nơi rất gần với tầng bình đài thứ ba.

Pháp sư Tháp Tây lại tiếp tục kể: “Những người dân du mục trên thảo nguyên này cũng vẫn hiếu khách như nghìn năm trước vậy, tôi ở lại nhà một mục dân tên là Thất Châu hai ngày. Lúc đó tôi cũng nôn nóng quá, không để tâm mấy đến những điều Thất Châu nói về người Thượng Qua Ba. Tôi nghĩ, biết đâu mình lại có cơ hội giao lưu với người Thượng Qua Ba, dù có chuyện không hay, muốn rút lui mà không tổn hại gì chắc là cũng làm được.” Nói tới đây, pháp sư Tháp Tây không khỏi ủ rũ mặt mày.

Nhạc Dương nói: “Pháp sư Tháp Tây, ngài vừa nói mình bị thương rất nặng, không thể đi lại được nữa? Chính là do những người Thượng Qua Ba đó gây ra ư?” Cả bọn đều không khỏi lạnh người. Nếu cả pháp sư Tháp Tây mà cũng không thoát được đám người Thượng Qua Ba ấy, vậy thì bọn họ làm sao vượt qua được khu vực người Thượng Qua Ba kiểm soát đây?

Pháp sư Tháp Tây không trả lời, chầm chậm lật tấm chăn da dê phủ lên đùi mình ra. “Á!” Bọn Trác Mộc Cường Ba đồng thanh thốt lên một tiếng kinh hãi, chỉ thấy hai chân pháp sư từ đầu gối trở xuống đã bị cắt đứt, giờ chỉ còn lại hai bắp đùi.

“Chuyện này là như thế nào vậy? Người Thượng Qua Ba cũng thật quá tàn nhẫn rồi!” Trương Lập kích động đứng hẳn dậy.

Pháp sư Tháp Tây ra hiệu cho anh ngồi xuống, sắc mặt lộ vẻ ngượng ngùng: “Nói ra thật xấu hổ, tôi thậm chí còn chưa thấy bóng người Thượng Qua Ba nào thì đã bị trọng thương rồi.”

Trương Lập ngạc nhiên thốt: “Sao... sao lại vậy được? Có phải bị trúng cạm bẫy không?”

Pháp sư Tháp Tây lắc đầu cười khổ: “Cũng không phải cạm bẫy, thứ này, chắc là mọi người biết đấy.” Nói đoạn, ông liếc nhìn sang phía Ba Tang đầy ẩn ý. Trong mắt Ba Tang lập tức xuất hiện vẻ sợ hãi hệt như của pháp sư Tháp Tây, những người khác cũng đều tức thì hiểu ra. “Chó sói! Là chiến lang của người Qua Ba!” Nhạc Dương thốt lên.

Pháp sư Tháp Tây gật đầu: “Đúng thế, tôi không thể ngờ, vừa mới lên tầng bình đài thứ ba, đã gặp phải một bầy sói. Tôi không thể phán đoán bọn chúng có ác ý gì hay không, đành phải ra tay trước, chẳng thể nào ngờ... tôi lại không phải đối thủ của bọn chúng! Tôi vừa đánh vừa lùi, lùi mãi đến mép tầng bình đài thứ ba, vốn định lợi dụng dây móc tạm thời xuống tầng bên dưới, càng không ngờ được rằng...” Sắc mặt pháp sư Tháp Tây chợt biến đổi: “Bọn sói đó, chân của chúng nhỏ hơn chúng ta, lợi dụng những móng vuốt sắc bén lại có thể chạy thẳng băng trên vách đá cực hẹp, vậy là thành ra tôi mua dây buộc mình, kết quả là ngã từ tầng thứ ba xuống, đừng nói chỉ gãy mất một đôi chân, không chết đã là một kỳ tích rồi đó.”

“Sao... sao lại thế được? Lẽ nào, pháp sư Tháp Tây mà cũng không đánh lại được một bầy sói?” Trương Lập không dám tin vào những gì mình vừa nghe nữa.

Pháp sư Tháp Tây nói: “Cậu chưa gặp bọn sói ấy nên không biết. Tôi cũng chưa từng gặp bầy sói nào như thế cả, trận thế của chúng có tấn công lại có cả phòng thủ, nhanh như tia chớp, lặng lẽ như bóng ma, đừng nói là đánh, chỉ riêng chống trả những đợt tấn công liên tiếp từ khắp bốn phương tám hướng đã đủ khiến cậu không chịu nổi rồi. Cảm giác của tôi là, bầy sói này là một chỉnh thể thống nhất, giống như một đội quân vậy, chúng có sĩ quan chỉ huy, có chiến sĩ tấn công, có chiến sĩ bổ trợ, lại có cả các chiến sĩ phụ trách đánh lén và quấy nhiễu tầm nhìn của kẻ địch. Tôi nghĩ, đó chắc chắn là chiến lang của người Thượng Qua Ba rồi. Quả thực vô cùng đáng sợ.”

Trên trán Ba Tang rịn ra một lớp mồ hôi lấm tấm, những lời tả của pháp sư Tháp Tây làm anh ta nhớ lại cảnh tượng năm đó nhóm người toàn các tinh anh trong quân đội của mình đã bị bầy sói đồ sát ra sao.

“Cả pháp sư Tháp Tây cũng không thể đối phó với chiến lang của người Thượng Qua Ba hay sao? Vậy chúng ta sao...” Nhạc Dương lẩm bẩm.

Pháp sư Tháp Tây nói: “Không, không phải vậy đâu. Lúc đó tôi còn chưa rõ lắm, nhưng giờ đã hiểu ra rồi, đàn sói ấy cũng có phạm vi lãnh địa của riêng chúng, giữa các lãnh địa có những vùng đệm, mà lãnh địa và tuyến đường di chuyển của chúng là cố định, chỉ cần không xâm nhập vào vùng lãnh địa của chúng thì sẽ không bị tấn công. Về chuyện này, tôi đã nhờ người tìm được một vài dũng sĩ năm xưa từng lên tầng bình đài thứ ba, chỉ cần có bọn họ chỉ đường thì không vấn đề gì cả. Vấn đề bây giờ không phải là làm cách nào lên được tầng bình đài thứ ba, mà là ở mọi người. Mọi người có biết, đám hộ vệ kia tại sao lại ngăn cản mọi người, còn tôi tại sao lại phải chạy thẳng vào rừng tìm mọi người như vậy không?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không biết.”

Pháp sư Tháp Tây nói: “Kẻ hạ lệnh bao vây mọi người lúc nãy tên là Lý Ca, là một viên tướng nhỏ của vương quốc Yaca này, đã bại trận mấy lần liền, nhưng nghe nói hắn rất giỏi thuật nịnh bợ lấy lòng, nên rất được quốc vương Yaca sủng ái. Công việc cụ thể của hắn có lẽ là thu thập tin tức cho liên minh bộ lạc Yaca. Ngày hôm qua, hắn đột nhiên đến bẩm báo quốc vương, nói nhận được tin tức, lần trước Langbu phái người đến mời tôi không thành, lần này lại phái thêm một nhóm người khác, có ý đồ xấu xa với tôi. Quốc vương Yaca tin là thật, ngay hôm đó liền hạ lệnh nhổ trại đi Gia Quỳnh. Tôi không biết chuyện này, vậy nên cũng không nghĩ ra đó là mọi người, cũng không biết đã xảy ra chuyện gì. Nhưng sáng sớm hôm nay, Lý Ca đã lén lút dẫn theo một nhóm người rời khỏi doanh trại, toàn bộ đều là các hộ vệ tinh anh của quốc vương Yaca. Tôi lấy làm thắc mắc, bèn đi hỏi quốc vương mới biết được chuyện, thì ra, Lý Ca đã xin với quốc vương cho dẫn quân đi mai phục, tiêu diệt những kẻ muốn gây bất lợi cho tôi. Cần phải biết rằng, Yaca và Langbu vừa kết thúc một trận chiến kéo dài, mới nghỉ ngơi dưỡng sức được ba năm, quốc vương Langbu dù có lo lắng cho bệnh tình của con gái đến mấy cũng không thể nào dám làm bừa như vậy được. Đại Địch ô là chức vị tương đương với thừa tướng, lại là người nắm giữ thần quyền, ở phương diện nào đó, chức vị này còn cao hơn cả quốc vương nữa, quốc vương Langbu muốn đối phó với tôi, vậy chẳng khác nào tuyên chiến với Yaca cả. Vì vậy, hành vi này của Lý Ca chỉ có thể giải thích rằng, hắn muốn ngăn cản những người kia đến gặp tôi, tuy không biết vì nguyên nhân gì, nhưng tôi lập tức nghĩ ngay đến mọi người. Kỳ thực, cho dù không phải mọi người, tôi cũng nhất định phải đến xem thử coi sao, bởi cái tên Lý Ca này, tôi luôn có cảm giác hắn là gian tế của Khước Ba Ca Nhiệt tiềm phục lại, giờ thì quả nhiên đã được chứng thực rồi.”

Trương Lập nói: “Gian tế, chuyện này là như thế nào nữa vậy?”

Pháp sư Tháp Tây nói: “Chuyện này kể ra dài lắm, tôi nói vắn tắt thôi vậy. Trước tiên kể từ chuyện tôi làm chức Đại Địch ô này đã nhé, khi đó tôi bị thương rất nặng, được dân du mục cứu về và đưa đến một nơi gọi là Vị Huyết Nhẫn dưỡng thương. Để cảm tạ những người đã cứu mình, tôi bèn chữa trị một số bệnh tật đơn giản cho người nhà họ, như viêm phổi, kiết lị..., không ngờ tin tức này nhanh chóng lan truyền đi khắp Yaca. Cả Đại Địch ô Khước Ba Ca Nhiệt cũng bị kinh động, y phái người đến ám sát tôi, nhưng đều bị tôi đuổi đi hết. Đương nhiên, chuyện này về sau tôi mới biết...”

Nhạc Dương ngắt lời: “Y, tại sao y phải cho người đi ám sát ngài?”

Pháp sư Tháp Tây đáp: “Bởi vì y thuật mà tôi thể hiện đã uy hiếp đến địa vị của y. Sự thực là, sau khi y ám sát tôi thất bại không lâu, quốc vương Yaca đã phái hộ vệ tới đón tôi về trướng, mấy phi tử bị mắc phải một số bệnh thường gặp của ông ta cũng được tôi chữa khỏi. Khước Ba Ca Nhiệt lại nghĩ ra mấy độc chiêu, nhưng đều thất bại cả, lúc đó tôi mới bắt đầu đề phòng y. Sau đó, y lại chính thức khiêu chiến với tôi, người nào thất bại sẽ phải ra đi...”

“Pháp sư đã chiến thắng y à?”

“Nói thế nào nhỉ, coi như là thắng đi, dù sao thì giờ tôi cũng là Đại Địch ô của vương quốc Yaca rồi.”

“Lẽ nào pháp sư Tháp Tây nghiên cứu cổ độc còn sâu hơn cả Đại Địch ô Yaca sao?”

“Việc này chỉ có thể nói là cơ duyên trùng hợp mà thôi. Tuyệt đại đa số cổ độc cũng đi theo truyền thống của Trung y, chỉ chú trọng kết quả chứ không cần làm rõ nguyên nhân, cũng có nghĩa là, họ biết làm như vậy sẽ dẫn đến hậu quả như thế nào, nhưng tại sao làm như vậy lại mang đến hậu quả đó thì họ chẳng hề biết. Tên Khước Ba Ca Nhiệt đó thấy tôi trị liệu những căn bệnh mà y phải bó tay ấy một cách dễ dàng, cứ ngỡ rằng thuật dùng cổ độc của tôi cao hơn y nhiều lắm, vì vậy đã khiêu chiến biện luận với tôi. Về lý luận y học thì tôi không thua hắn rồi, hơn nữa, đối với sự nảy sinh và tác dụng của cổ độc, cách lý giải của tôi cũng thấu triệt hơn y nhiều. Đối với y, cổ độc được tạo ra vì chiến tranh, nhưng sự thực là, cổ độc sinh ra là để trị bệnh, về điểm này thì có rất nhiều kinh văn đã ghi chép lại các đoạn tranh biện của người xưa, y có lợi hại đến mấy cũng không thể hơn được sự tổng kết của các bậc tiên hiền trong suốt nghìn năm. Nếu y trực tiếp tỷ thí với tôi xem ai hạ độc lợi hại hơn, chắc chắn tôi không thể bằng được rồi; ngay mới đầu, nếu y không phái sát thủ đến đối phó tôi, mà trực tiếp dùng luôn cổ độc, trong lúc không phòng bị, rất có thể tôi cũng khó mà thoát nổi.” Pháp sư Tháp Tây ngưng lại một chút, rồi kể tiếp: “Thực ra trong tình hình lúc đó, dù tôi có thắng được y, cũng không thể nào làm được chức Đại Địch ô này. Điểm mấu chốt là khi tôi xem bệnh cho vương phi của quốc vương Yaca, đã phát hiện ra âm mưu của tên Khước Ba này, từ trước đến giờ, y vẫn âm thầm cho quốc vương uống một loại chất độc mãn tính!”

“Hả?”

“Đồng thời, y còn mang những loại thuốc khiến người ta không thể sinh con được, bảo đó là thuốc tăng cường khả năng sinh nở cho vương phi uống, vì vậy, sau khi ba người con của quốc vương Yaca lần lượt tử trận trên chiến trường, đến nay ông ta vẫn chưa có con nối dõi. Một khi quốc vương Yaca qua đời, Khước Ba sẽ có thể một tay nắm giữ đại quyền của cả vương quốc. Vì vậy, Khước Ba sợ nhất chính là quốc vương Yaca tìm được người biết xem bệnh như tôi, sợ tôi vạch trần âm mưu của y. Sau khi bị tôi phơi bày âm mưu, y liền bị nhốt vào tử lao, không ngờ vẫn có thể thoát ra được. Vì vậy tôi cho rằng, trong vương quốc Yaca này nhất định còn rất nhiều chức vị cao do thân tín của y đảm nhận.”

Nhạc Dương nói: “Không thể nào chứ! Cả chúng cháu còn không biết pháp sư Tháp Tây chính là Đại Địch ô mới của vương quốc Yaca, bọn họ làm sao lại liên hệ chúng ta vào với nhau được chứ?”

Pháp sư Tháp Tây nói: “Ừm, tôi cũng chưa từng bộc lộ thân phận và mục đích của mình, bằng không, họ cũng không coi tôi là Qua Ba Đại Địch ô từ trên tầng bình đài thứ ba xuống đây. Lẽ nào, lại là vì Tằm Diên?”

Trương Lập kinh ngạc thốt lên: “Hả, pháp sư Tháp Tây muốn Tằm Diên thì ra là vì...”

Pháp sư Tháp Tây gật đầu: “Đúng vậy, tôi không ngờ mọi người lại gặp chuyện ở Tước Mẫu, vì nghe nói Tằm Diên chỉ còn lại một bình cuối cùng, vì vậy mới định lấy về tay trước, giữ giùm cho Cường Ba thiếu gia. Bây giờ, Đại Địch ô của Langbu đã đồng ý tự tay rửa máu cho Cường Ba thiếu gia, đương nhiên là không còn gì tốt hơn rồi. Dù sao tôi cũng chỉ đọc trong thư tịch biết cách thao tác thế nào thôi, Đại Địch ô Thứ Kiệt nhất định thành thạo hơn nhiều.”

Trác Mộc Cường Ba cảm kích nhìn pháp sư Tháp Tây, không ngờ tất cả mọi người đều hao tâm tổn sức vì mình như thế.

Nhạc Dương nghĩ ngợi giây lát, đoạn nói: “Không ổn, Quách Nhật Niệm Thanh cũng có nói, Tằm Diên là thứ rất quý giá, dù có bị lấy ra làm điều kiện cũng là chuyện bình thường, chắc không thể nào liên tưởng được chúng ta với nhau đâu.”

Pháp sư Tháp Tây nói: “Nếu vậy thì, vấn đề nằm ở chỗ mọi người rồi.”

Trương Lập thắc mắc: “Sao lại nói vậy được ạ?”

“Lý Ca cũng không thể nào biết được rằng chúng ta đã quen biết nhau từ trước, ngăn cản tôi gặp mọi người đối với y chẳng có lợi gì cả, mà chúng ta gặp nhau cũng không gây tổn thất gì cho y hết. Chỉ có thể giải thích là đồng minh yêu cầu y làm như vậy, mà đồng minh của y, ắt hẳn phải đến từ Langbu. Nếu kết nối những điểm này với chuyện mọi người gặp phải ở Langbu, toàn bộ sự việc này rất có khả năng đều do một tay người tên Quách Nhật Niệm Thanh kia sắp đặt.” Pháp sư Tháp Tây điềm đạm nói.

Lần này là Lữ Cánh Nam lên tiếng thắc mắc: “Mục đích là gì? Mục đích của y là gì?”

Pháp sư Tháp Tây nói: “Nếu mọi người không thể trở về Tước Mẫu đúng thời gian, tiếp đó sẽ xảy ra chuyện gì, thì đó chính là mục đích y muốn đạt được, ít nhất là bây giờ y đang có ý đồ như thế.”

Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Ý pháp sư là, y, y muốn giết chết đội trưởng Hồ Dương và Mẫn Mẫn!”

Pháp sư Tháp Tây nhướng mày: “Hoặc chỉ là một trong hai người, người còn lại chỉ dùng để che đậy mục đích thực sự phía sau mà thôi.”

Chương 34

Âm mưu của Quách Nhật Niệm Thanh

Pháp sư Tháp Tây nói: “Tôi ở Yaca cũng nghe nói nhiều về người tên Quách Nhật Niệm Thanh này, đó là một vị tướng quân rất giỏi dùng mưu lược, có rất nhiều tướng lĩnh của Yaca từng nếm mùi thua thiệt trong tay y, nhưng họ đều tỏ ra rất khinh thường mưu lược của người này, bảo rằng đó không phải quyết đấu quang minh chính đại, mà toàn chỉ giở trò sau lưng. Có điều, họ lại lấy làm hài lòng đối với hành vi ra sức thúc đẩy hòa đàm của Quách Nhật Niệm Thanh ba năm trước, dù sao thì trận chiến ấy cũng kéo dài quá lâu rồi.”

“Vẫn là vấn đề đó, chúng ta chẳng hề có xung đột lợi ích hay uy hiếp gì đến tên Quách Nhật Niệm Thanh đó cả, tại sao hắn nhất định phải đẩy chúng ta vào chỗ chết kia chứ?”

Pháp sư Tháp Tây lắc đầu nói: “Cái đó thì chưa chắc, giống như ban đầu tôi bị Khước Ba sai người ám sát vậy, tôi cũng hoàn toàn không hề biết chút gì về chuyện của y cả. Có lẽ trong lúc vô ý, mọi người đã làm gì tổn hại đến lợi ích của Quách Nhật Niệm Thanh, vì vậy y mới nảy ra ý định giết người.”

Nhạc Dương nghĩ kỹ lại một lượt, rồi vẫn lắc đầu: “Không có gì. Nếu nói có chuyện gì đặc biệt, vậy việc chúng tôi chữa bệnh cho dân làng Công Nhật Lạp cũng chỉ có thể xung đột với Đại Địch ô Thứ Kiệt thôi, đâu có liên can gì đến Quách Nhật Niệm Thanh. Ngoài ra, đâu còn chuyện gì xâm phạm tới lợi ích của Quách Nhật Niệm Thanh chứ?”

Trương Lập nói: “Liệu có phải vũ khí chúng ta mang theo khiến hắn cảm thấy sợ hãi không?”

Nhạc Dương lắc đầu: “Vũ khí của chúng ta đều bị thu lại cả rồi, hắn còn sợ gì nữa? Lẽ nào sợ chúng ta chế tạo ra được một loạt vũ khí khác?”

Trương Lập gật đầu: “Ừm, cũng có khả năng này chứ.”

Nhạc Dương nói: “Không thể nào, vậy thì hắn sẽ không để chúng ta đi như thế. Hơn nữa, trong mắt hắn, những vũ khí ấy vẫn chưa bì kịp với vũ khí của người Thượng Qua Ba kia mà. Vả lại, kẻ đến Tước Mẫu trước chúng ta lại còn bắn bị thương Đại Địch ô Thứ Kiệt, chẳng phải cũng mang vũ khí hay sao...” Nói tới đây, Nhạc Dương chợt ngẩn người, quay sang hỏi pháp sư Tháp Tây: “Pháp sư, ngài nghe nói minh ước hòa bình ba năm trước là do Quách Nhật Niệm Thanh ra sức thúc đẩy hay sao?”

Pháp sư Tháp Tây gật đầu: “Ừm, hai bên đã tiến hành hòa đàm hai lần, lần đầu tiên là Quách Nhật Niệm Thanh đích thân dẫn người đến Yaca, lần thứ hai thì do một tướng lĩnh cao cấp khác của Yaca đến Langbu.”

“Vậy thì, người kết minh với Quách Nhật Niệm Thanh ở Yaca là quốc vương hay là Khước Ba vậy?” Nhạc Dương lại hỏi tiếp.

Pháp sư Tháp Tây thoáng ngây người, nói: “Ý cậu là... đúng thế! Năm đó, người ký kết hòa đàm với Quách Nhật Niệm Thanh chính là Khước Ba Ca Nhiệt.”

Nhạc Dương ngẩng đầu nói: “Nếu như Quách Nhật Niệm Thanh là đồng minh của Khước Ba ở Langbu, mà mục đích của Khước Ba là mưu cầu quyền lực của quốc vương Yaca, vậy thì Quách Nhật Niệm Thanh cũng muốn...” Trước giờ anh cứ trăn trở, nếu mắt công chúa Langbu bị mù, kẻ được lợi nhất sẽ là ai, bây giờ tình hình dường như đều đã sáng tỏ cả rồi.

Trương Lập ngạc nhiên thốt lên: “Ý cậu muốn nói, người Quách Nhật Niệm Thanh thực sự muốn đối phó là quốc vương Tước Mẫu? Nhưng tôi thấy quan hệ của của họ cũng có tệ lắm đâu nhỉ?”

Nhạc Dương lạnh giọng nói: “Đây chính là chỗ đáng sợ của hắn. Nếu không phải chúng ta đứng ở góc độ người ngoài cuộc nhìn vào, nếu không phải pháp sư Tháp Tây vạch trần được cuộc nội loạn ở Yaca, sợ rằng chúng ta rất khó có thể nghĩ đến, cũng khó mà tin nổi rằng, Quách Nhật Niệm Thanh lại ngấm ngầm đối phó với quốc vương Tước Mẫu. Đây chính là chỗ cao minh của một kẻ dùng mưu. Nhìn bề ngoài, quan hệ giữa hắn và quốc vương Langbu hết sức thân thiết, về mặt đối ngoại, hắn đóng vai trò sứ giả hòa bình của hai vương quốc, trong giới quân sự, hắn người người chỉ huy tối cao, lại lập được chiến công hiển hách, đương nhiên không ai lại liên tưởng hắn với một kẻ có thể soán ngôi đoạt vị cả. Tôi cứ ngờ vực mãi, hai nước đánh nhau nhiều năm vậy rồi, thù hận có thể nói còn sâu hơn biển, mà sao Langbu đang chiếm thế thượng phong lại đưa ra đề nghị hòa đàm, làm sao hắn có thể đàm phán thành công. Nhưng nếu chuyện hắn và Đại Địch ô của Yaca ba năm trước hòa đàm, biến thành âm mưu thay triều đổi đại của hai kẻ nắm giữ thực quyền của hai vương quốc, vậy thì lợi ích của bọn hắn sẽ thống nhất với nhau. Vì vậy, sau khi hòa đàm, công chúa đã mù mắt, đồng thời Khước Ba cũng bắt đầu ra tay với quốc vương Yaca.”

Pháp sư Á La nghĩ ngợi một lát, rồi cũng gật đầu nói: “Có lý, Quách Nhật Niệm Thanh là đệ tử của Đại Địch ô Thứ Kiệt, lại là tướng lĩnh nắm toàn bộ binh quyền của Langbu, nếu y muốn khống chế cả vương quốc, thay thế quân chủ cũng là chuyện rất dễ dàng. Nếu sau khi trở thành Đại Địch ô, y lại làm luôn cả quốc vương Langbu, vậy thì sẽ trở thành một vị quân chủ chí cao nắm giữ cả vương quyền và thần quyền, không còn gì có thể ước thúc được nữa.”

Nhạc Dương lẩm bẩm: “Quách Nhật Niệm Thanh, con người này thật quá sức đáng sợ, hắn rất giỏi ngụy trang mình thành dạng nhân vật nhỏ không đáng để mắt, lại tỏ ra cực kỳ thân thiết với người mình muốn đối phó, giấu mình thật sâu, chẳng trách chúng ta lại chịu thiệt thòi trong tay hắn như vậy. Giờ đây, điều duy nhất mà tôi không thể nào hiểu nổi là, rốt cuộc chúng ta đã phạm phải lợi ích gì của hắn. Còn nữa, tại sao hắn chỉ làm mù mắt công chúa, hơn nữa còn để lại cho nàng một hy vọng phục hồi lại ánh sáng, rốt cuộc hắn đang tính toán điều gì?”

Lữ Cánh Nam nói: “Có lẽ, hắn hy vọng có thể danh chính ngôn thuận ngồi lên ngai vàng, giữ mình trong sạch. Sau khi quốc vương qua đời, Langbu chắc cũng không thể nào để cho một nàng công chúa mù mắt thống trị chứ, phải vậy không?”

Nhạc Dương sực hiểu ra: “À! Lẽ nào...”

Vừa nghe ngữ khí ấy của Nhạc Dương, Trương Lập vội hỏi ngay: “Nghĩ ra điều gì rồi à?”

Nhạc Dương nói: “Vết thương của Đại Địch ô Thứ Kiệt! Chúng ta không hỏi đến, cũng chưa từng thắc mắc, tại sao Đại Địch ô Thứ Kiệt cứu tên người Giáp Mễ kia, ngược lại còn bị hắn gây thương tích rồi bỏ trốn? Còn nhớ Quách Nhật Niệm Thanh đã từng nói với chúng ta, hắn cũng có chút hiểu biết đối với các loại súng ống hiện đại không? Hắn không thể nào lại không nhận ra vũ khí trong tay người kia, sao lại để cho một kẻ cầm súng lại gần Đại Địch ô Thứ Kiệt được chứ? Hơn nữa, cả vương quốc Langbu chắc cũng chỉ mình hắn biết nói tiếng Anh, vì vây, cách giải thích duy nhất là, chính Quách Nhật Niệm Thanh đã xúi giục người Giáp Mễ kia ra tay với Đại Địch ô Thứ Kiệt! Hắn muốn gạt phăng mọi âm mưu có liên quan đến mình, mượn tay người Giáp Mễ ám sát Đại Địch ô Thứ Kiệt chính là phương pháp tốt nhất. Đại Địch ô Thứ Kiệt là chướng ngại đầu tiên ngăn hắn đến gần ngai vàng, Thứ Kiệt đại nhân không còn nữa, hắn là đệ tử, đương nhiên sẽ kế thừa thân phận Đại Địch ô. Trong thế giới quân quyền thần quyền này, trở thành người duy nhất có thể giao lưu với thần linh cũng có nghĩa là đã sở hữu tấm giấy thông hành để bước thẳng đến ngai vàng của quốc vương rồi! Còn tên người Giáp Mễ kia, nói không chừng đã yêu cầu hắn đối phó chúng ta để đổi lại việc hắn làm giúp Quách Nhật Niệm Thanh! Đây có lẽ là một lời giải thích khá hợp lý rồi!”

Những người trong xe hít sâu một hơi khí lạnh, thật không ngờ, Nhạc Dương lại có thể kết nối toàn bộ các sự kiện lại với nhau như thế! Pháp sư Á La và pháp sư Tháp Tây đưa mắt nhìn nhau, sau đó đều chăm chú nhìn Nhạc Dương, thầm nhủ: “Chỉ dựa vào một chút tin tức nghe được mà đã đưa ra suy luận như vậy rồi sao? Nhạc Dương, cậu cũng đáng sợ thật đấy! Cánh Nam à, đệ tử đắc ý do cô đào tạo ra, về một mặt nào đó đã vượt qua cả thầy cậu ta rồi đấy.”

Nhạc Dương vẫn đang lẩm bẩm như tự nói với chính mình: ”Nhưng đôi mắt của công chúa, sợ rằng không đơn giản chỉ vì danh chính ngôn thuận. Một bậc thầy âm mưu như y, mỗi bước sắp xếp hẳn đều có ý nghĩa riêng, dù sao những thông tin mà chúng ta biết được vẫn còn quá ít.”

Trác Mộc Cường Ba lo lắng nói: “Pháp sư Tháp Tây, liệu có thể bảo đánh xe nhanh hơn chút nữa được không? Tôi rất lo cho đội trưởng Hồ Dương và Mẫn Mẫn!”

Pháp sư Tháp Tây gật đầu, bảo Tôn Ma: “Tôn Ma, chạy hết tốc lực đi! Thời gian rất gấp!” Tôn Ma đáp một tiếng, rồi cao giọng hét quát cho lũ ngựa tăng tốc.

Trương Lập phẫn nộ nói: “Sau khi trở về Tước Mẫu, chúng ta nhất định phải vạch trần âm mưu của tên khốn kiếp Quách Nhật Niệm Thanh đó!”

Nhạc Dương cười khổ: “Vô dụng thôi, đúng như giáo quan vừa nói, Quách Nhật Niệm Thanh làm chuyện gì cũng giữ cho đôi tay mình sạch sẽ, mọi điều tôi vừa nói, toàn bộ đều chỉ là suy luận, chẳng có chút chứng cứ nào hết. Vả lại, Quách Nhật Niệm Thanh đã có căn cơ nhiều năm ở Langbu, thâm căn cố đế, muốn lật đổ hắn đâu phải nói là làm được chứ. Giờ chỉ hy vọng chúng ta kịp trở về Tước Mẫu, hy vọng hắn tuân thủ ước định, không ra tay trước với đội trưởng Hồ Dương và Mẫn Mẫn thôi.”

“Yên tâm,” pháp sư Tháp Tây nói, “cậu đừng quên, nói gì thì tôi cũng được coi là một vị Đại Địch ô, người ở đây, đối với người có thể giao lưu với thần linh...”

Đột nhiên lũ ngựa hý vang, xe ngựa dừng gấp, mấy người trong xe đều bị dịch chuyển một đoạn dài theo quán tính, Nhạc Dương ngồi sát cửa xe còn suýt chút nữa thì bị hất văng ra bên ngoài, may mà Ba Tang kịp giữ lại.

“Chuyện gì vậy?” pháp sư Tháp Tây lớn tiếng hỏi. Nhạc Dương cũng vén màn xe lên quan sát.

Tôn Ma trả lời: “Có cây lớn đổ chặn ngang đường!”

Nhạc Dương đã nhảy xuống, lớn tiếng hỏi: “Ai làm vậy?”

Bọn Trác Mộc Cường Ba cũng lần lượt xuống xe ngựa, chỉ thấy trên đường có mấy thân cây to ba người ôm nằm nghiêng ngả tán loạn, hoàn toàn chặn mất đường đi phía trước. Với sức họ căn bản không thể nào dịch chuyển đám cây này đi được, mà xung quanh đều là rừng rậm, xe bốn ngựa kéo cũng không thể đi trong đó. Ba Tang nhìn chỗ gãy bị cháy đen trên mấy thân cây, lạnh lùng nói: “Cơn Lốc Đen!” Anh ta đứng bật dậy, đảo mắt nhìn khắp bốn phía như chim ưng rình mồi, không có cảm giác nguy hiểm, kẻ địch dường như chỉ muốn ngăn cản họ lại đây.

Trương Lập nói: “Sao thế được nhỉ? Hay là còn kẻ địch nào khác nữa?”

Pháp sư Tháp Tây vén màn che lên nói: “Không, đường xe chạy vòng vèo, ngựa chạy nhanh mấy cũng không bằng những người chạy thẳng một mạch băng rừng. Có lẽ là người lúc nãy, y có vũ khí nóng, mới xuất hiện quanh đây khoảng một hai tuần thôi, cũng từng muốn ám sát tôi rồi, chắc có lẽ chính là người Giáp Mễ chạy từ Tước Mẫu đến đây.”

Nhạc Dương phẫn nộ nói: “Khốn kiếp, biết vậy thì ngay từ đầu đã truy sát hắn bằng được rồi.”

Lữ Cánh Nam nói: “Đừng quên thời gian của chúng ta rất có hạn. Dường như hắn cũng nhận ra được điều này, vậy nên mới nghĩ cách kéo dài thời gian, hơn nữa, hắn có vũ khí, chúng ta thì không!”

Trương Lập nhăn mặt hỏi: “Giờ tính sao đây?”

Nhạc Dương nói: “Pháp sư Tháp Tây, hay là chúng cháu gỡ xe ngựa ra làm thành cái cáng, khiêng ông đi cho nhanh.”

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Không được, như vậy pháp sư Tháp Tây sẽ trở thành bia cho đối phương ngắm. Đừng quên, đó là một tên cao thủ bắn tỉa đấy.”

Trác Mộc Cường Ba đưa cung tên cho Lữ Cánh Nam, nói: “Tôi sẽ cõng pháp sư, mọi người chú ý yểm hộ.”

Ba Tang liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Chúng ta thay nhau.” Trác Mộc Cường Ba mỉm cười gật đầu, người đàn ông máu lạnh xưa nay chưa từng quan tâm người khác này, giờ đây đã bắt đầu thấy xuất hiện tình người rồi.

Pháp sư Tháp Tây dặn dò Tôn Ma mấy câu, bảo anh ta đánh xe trở về, sau đó nằm lên lưng Trác Mộc Cường Ba, cả bọn lại tiếp tục chạy về hướng biển Sinh Mệnh.

Vòng qua chỗ đường bị chắn, chạy được chừng hơn mười phút, bỗng thấy phía trước có một người đang trên đường, không nhúc nhích gì. Nhạc Dương nói: “Để tôi xem sao.” Trác Mộc Cường Ba dặn với theo: “Cẩn thận đấy.”

Nhạc Dương bước lên nói: “Chết rồi, hình như là binh sĩ của Yaca.”

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba cũng lại gần, pháp sư Tháp Tây nói: “Là Lý Ca, sao y lại chết ở đây được nhỉ?”

Nhạc Dương quan sát rồi đưa ra kết luận: “Vừa mới chết, thi thể xanh lét, có lẽ bị loài trùng độc gì đó cắn thì phải.”

Trương Lập đột nhiên kêu lên: “Nhạc Dương! Cậu đứng yên! Tuyệt đối không được nhấc chân lên!”

Nhạc Dương cúi đầu nhìn, thấy giữa chân mình và xác chết kia, lờ mờ có thứ gì đó trông như sợi tóc, một đầu đã bị đứt, đang nằm dưới gót chân mình, đầu kia kéo dài tới tận bên trong xác chết, bàn chân này mà nhấc lên thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Anh không khỏi có chút căng thẳng: “Cái... cái gì vậy?”

Trương Lập cẩn thận quỳ xuống bên cạnh chân Nhạc Dương, quan sát xác chết thật kỹ càng, rồi đưa mũi hít mạnh: “Không biết, nhưng mà thứ này không phải mìn hay tạc đạn, cái bẫy chết tiệt!” Anh lấy trong ba lô ra hai mũi tên, cắm vào hai đầu sợi dây mảnh, rồi lấy đầu ngón tay khẽ chạm vào, cẩn trọng nói: “Mảnh quá, hơi dùng sức một chút là đứt ngay, mọi người lùi hết lại đi!”

Chỉ thấy Trương Lập lấy trong túi đồ tùy thân ra một vài nan tre, mảnh vải, bày biện sắp xếp một lúc lâu, rồi đưa tay về phía Nhạc Dương: “Nhạc Dương, nắm chặt tay tôi.” Hai bàn tay nắm chặt vào nhau xong, Trương Lập lại nói: “Đợi tôi đếm, một, hai, ba. Chúng ta sẽ cùng ngã ra phía ngoài, sau đó lập tức lăn ra. Cậu đạp mạnh được chừng nào hay chừng ấy. Mấy thứ kia của tôi chắc chỉ kéo dài thời gian được khoảng từ 0.2 đến 0.5 giây. Nếu là lựu đạn hay mìn, từ lúc dẫn nổ đến khi nổ thực tế còn khoảng một giây gì đó, và giây đầu tiên xác chết sẽ hút hết sóng xung kích do vụ nổ gây ra, như vậy tổng cộng chúng ta có từ hai đến ba giây, chuẩn bị xong chưa?”

Nhạc Dương mỉm cười, Trương Lập bắt đầu đếm: “Một... hai... ba!” Hai người cùng lúc dồn lực bật mạnh, ngả người ra phía ngoài xác chết, kế đó lại nhanh chóng lăn thêm hai vòng nữa. Nhưng cái bẫy nổ kia không trực tiếp nổ tung tóe như Trương Lập tưởng tượng, mà kẻ địch dường như đã bố trí một tầng gì đó bên dưới xác chết, kết quả là khiến xung lực định hướng, bắn tung xác chết lên không như một quả hỏa tiễn, cách mặt đất bảy tám mét mới dừng lại.

Trương Lập và Nhạc Dương vẫn đang lăn tròn, những người khác đều đứng đằng xa quan sát động tĩnh. Trương Lập và Nhạc Dương dừng lại, cũng ngước nhìn xác chết bị bắn lên không. Trương Lập hỏi: “Làm trò gì vậy?” Lời còn chưa dứt, bỗng thấy ổ bụng của cái xác như cái túi bị mở toang phéc mơ tuya, bên trong có vô số chấm đen nhỏ trào ra. Chỉ nghe pháp sư Tháp Tây thất thanh kêu lớn: “Cổ độc! Mau chạy đi!”

Trương Lập và Nhạc Dương vội bò dậy guồng chân chạy. Nhưng những chấm đen nhỏ kia không rải thẳng xuống như vãi đậu, mà bắn tóe ra khắp bốn phương tám hướng, cả bọn Trác Mộc Cường Ba, pháp sư Á La cũng đều nằm trong phạm vi ảnh hưởng. Pháp sư Tháp Tây lại lớn tiếng gọi: “Lùi lại, tất cả lùi lại!”

Trương Lập và Nhạc Dương cách xác chết gần nhất, một số chấm đen đã vượt qua bọn họ. Trương Lập phát hiện, đó hóa ra là một số loài côn trùng vẫn còn đang sống, có tằm, có châu chấu, bọ ngựa, gián, bọ cánh cứng, đa phần đều biết bay, cảnh tượng nhất thời hỗn loạn, con thì bay, con thì nhảy, đâu đâu cũng có.

Không biết chạy được bao xa, bọn Trác Mộc Cường Ba mới không thấy những chấm đen nhỏ cứ nhảy đi nhảy lại ấy. Pháp sư Tháp Tây nói: “Là Thi cổ, hy vọng Trương Lập và Nhạc Dương không sao.” Giây lát sau, Trương Lập và Nhạc Dương cũng chạy tới. Pháp sư Tháp Tây nói: “Các cậu không bị lũ côn trùng đó chạm phải đấy chứ?”

Trương Lập nghĩ ngợi giây lát: “Chắc là không sao chứ ạ?”

Pháp sư Tháp Tây chụp lấy cổ tay Nhạc Dương, chỉ thấy trên mu bàn tay anh đã có thêm một đốm xanh lục, to bằng hạt đậu tương, trông như là nấm mốc vậy. Pháp sư Tháp Tây vội bảo Trác Mộc Cường Ba quỳ xuống, rồi xé một mảnh áo trên người, thấm bùn đất vào, “bẹt” một tiếng, dính vào mu bàn tay Nhạc Dương, điềm đạm nói: “Cậu trúng cổ độc rồi.”

“Hả?” Nhạc Dương nói. “Vậy, vậy mà đã trúng cổ độc ư? Cháu, cháu sẽ không sao chứ?”

Pháp sư Tháp Tây thở dài: “Khó nói lắm, Thi cổ cũng có nhiều loại, còn phải xem đối phương đã hạ độc gì lên người Lý Ca nữa. Mọi người đều tự kiểm tra lại những chỗ hở trên cơ thể mình, kiểm tra chéo nhau nữa, tuyệt đối không được để sót chỗ nào, cổ độc mà phát tác thì không phải chuyện chơi đâu.”

Những người còn lại đều chia thành từng đôi một kiểm tra chéo cho nhau, Nhạc Dương lại hỏi: “Pháp sư Tháp Tây, tình hình của cháu cũng không đến nỗi quá nghiêm trọng chứ?”

Pháp sư Tháp Tây lắc đầu: “Không biết nữa, phải tìm được kẻ đã hạ cổ độc, hắn không thể chạy xa đâu. Loại cổ độc này cần phải chế ngay dùng ngay, hơn nữa bất cứ lúc nào cũng có khả năng cắn ngược lại chủ nhân, nên trên người hắn nhất định có thuốc giải.”

Sau khi kiểm tra cho nhau, những người khác đều không trúng độc, chỉ là trong lòng Trác Mộc Cường Ba lại có thêm một mối lo, không sao dứt đi nổi. Đột nhiên trong rừng vang lên tiếng động, pháp sư Á La nói: “Là kẻ hạ độc!”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đuổi theo!” Lời vừa dứt liền cõng theo pháp sư Tháp Tây guồng chân chạy. Những người khác cũng lần lượt bắn dây móc ra, đu veo véo giữa các tán cây trong rừng, nhưng âm thanh kia lại cực kỳ quái dị, lúc ở phía Đông, thoắt cái đã ở phía Tây, mà chẳng thấy bóng người nào cả.

Đuổi được một lúc, âm thanh kia đột nhiên biến mất. Nhạc Dương nói: “Đừng đuổi nữa, chúng ta càng lúc càng rời xa khỏi biển Sinh Mệnh rồi.” Lúc này, phía xa xa lại vang lên tiếng động, Trác Mộc Cường Ba nói: “Cậu đừng lo!”

Pháp sư Tháp Tây nói: “Không sao, chúng ta có thể đi suốt đêm, chỉ cần trước khi trời sáng đến được bờ biển Sinh Mệnh là ổn thôi.”

Lại đuổi thêm một lúc nữa, cuối cùng họ cũng bao vây được kẻ hạ độc kia trong rừng, thoạt trông hắn có vẻ hơi thảm hại nhếch nhác, nằm vật ra đất, nhưng nét mặt chẳng hề có vẻ gì là sợ hãi. “Khước Ba Ca Nhiệt, giao thuốc giải ra đây, chúng ta thả ngươi đi. Người ngươi muốn đối phó là ta, không liên quan gì đến họ,” pháp sư Tháp Tây nói.

Khước Ba Ca Nhiệt, vị tiền nhiệm Đại Địch ô của vương quốc Yaca mà bọn Trác Mộc Cường Ba mới chỉ nghe tên chứ chưa từng thấy mặt bao giờ ấy, cười hằn học nói: “Hừ hừ, không sai, là cổ độc của ta đó, ngươi biết là loại gì không? Tam thi tuyệt hộ cổ, lợi hại không, thuốc giải ở đây này, chỉ có công hiệu trong mười hai canh giờ thôi.” Y lấy ra một bình sứ nhỏ, đắc ý lắc lắc. Nhạc Dương thấy sắc mặt pháp sư Tháp Tây hơi biến đổi, trong lòng không khỏi thầm kinh hãi.

Lữ Cánh Nam nói: “Ngươi đã không còn đường thoát rồi, có gì mà cao hứng thế.”

“Ta không còn đường thoát?” Khước Ba Ca Nhiệt cười âm hiểm: “Thuốc giải ở đây, có giỏi thì qua mà lấy!”

Trương Lập đột nhiên chú ý đến mấy đống lá cây nhỏ nằm rải rác, thoáng trầm ngâm, rồi nhặt một cục đá to bằng quả bóng chuyền ném tới, quả đúng như anh đoán, một tiếng “ầm” vang lên, cả khu rừng đều chấn động. “Bãi mìn!” Sắc mặt Trương Lập trở nên hết sức khó coi.

Chương 35

Thượng vị Cách quả

Sau tiếng nổ lớn ấy, âm thanh vẫn chưa dừng hẳn, chỉ thấy trên cái cây lớn phía trước bên trái bỗng phát ra mấy tiếng “tít tít tít” cảnh báo, phía bên phải liền “soạt soạt soạt” bắn ra một loạt tên nhọn hoắt, mấy cây cọc gỗ to tướng thình lình nhô lên khỏi đám bùn đất xung quanh, đâm đâm hai ba cái rồi lại từ từ lặn xuống, phía sau bên phải họ, một tấm lưới đan bằng dây mây gắn đầy gai nhọn bất ngờ bắn tung lên không trung. Vậy vẫn chưa hết, một loạt tiếng điểm xạ “tạch tạch tạch” trong rừng vẳng ra, không rõ họng súng ở chỗ nào, nhưng loạt đạn đã quét thành một đường cong trên không trung. Lần này cả Lữ Cánh Nam cũng tái mặt, thấp giọng nói: “Không chỉ là bãi mìn, khắp nơi trong rừng đều đầy cạm bẫy, chúng ta trúng kế rồi.”

Nhạc Dương làu bàu chửi: “Hắn lấy đâu ra lắm vũ khí thế không biết?”

Khước Ba Ca Nhiệt nói: “Thấy rõ chưa hả, kẻ bị bao vây là các ngươi mới đúng!” Y cười ha hả. Sau lưng bọn Trác Mộc Cường Ba lại vang lên mấy tiếng nổ lớn nữa, vài cây đại thụ đổ vật ra, hiển nhiên đường lui của họ cũng đã có thêm vô số cạm bẫy.

Khước Ba Ca Nhiệt cười đắc ý, lại nói: “Các ngươi không qua lấy thì ta đi trước vậy. Địch ô đại nhân, chỗ này chính là đất chôn thây của ngươi!” Câu nói cuối cùng ấy, y nghiến răng rít lên. Lời vừa dứt, người đã bò dậy lao thẳng vào sâu trong rừng.

Trương Lập chuẩn bị đuổi theo, nhưng bị Ba Tang cản lại. Ba Tang khẽ nói với Trác Mộc Cường Ba: “Chúng ta bị tên bắn tỉa kia ngắm rồi.” Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Tôi biết.”

Đằng xa, Ngưu Nhị Oa nhìn qua ống nhòm điện tử thấy gương mặt nghiêm nghị của Trác Mộc Cường Ba, cười thầm trong bụng: “Trác Mộc Cường Ba, cuối cùng cũng có ngày mày rơi vào tay tao rồi. Giờ thì mày còn chẳng dám nhúc nhích, phải đứng yên cho tao ngắm bắn, hừ, tao phải cho mày nếm mùi đau khổ, phát súng đầu tiên này, nên bắn gãy tay trái hay bắn rụng tai bên phải của mày đây nhỉ? Nhiều lựa chọn quá cũng thật là phiền phức, thôi bỏ đi, cứ bắn bừa một chỗ vậy, hay là, cho mày làm thái giám luôn nhé, ha ha!”

“Ừm!” Ngưu Nhị Oa ngắm vào đùi non Trác Mộc Cường Ba, lẩy cò. Đúng vào khoảnh khắc y bóp cò súng, đột nhiên thấy trong tầm nhìn xuất hiện một người khác, vừa khéo chắn ngay trước mặt Trác Mộc Cường Ba. “Chó chết thật!” Ngưu Nhị Oa chửi thầm một tiếng, buộc phải đưa mắt ngắm lại.

Pháp sư Tháp Tây vốn đang ở trên lưng Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên xoay người lại chắn trước mặt gã. Trác Mộc Cường Ba cũng lấy làm bất ngờ. Nhưng liền ngay sau đó, gã liền thấy trên đùi pháp sư Tháp Tây bắn ra một vòi máu, ngay tức thời, gã đã hiểu có chuyện gì xảy ra. Nhạc Dương lớn tiếng kêu lên: “Mục tiêu của kẻ địch là Cường Ba thiếu gia!”

Ngay sau đó, tất cả liền đứng chắn trước mặt Trác Mộc Cường Ba, vây thành một vòng cung.

Ngưu Nhị Oa ngắm lại lần thứ hai, chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba đang được những người còn lại vây quanh, tỷ lệ cơ thể lộ ra chưa đến năm phần trăm, không khỏi cười thầm: “Ha ha, lại còn trò quên mình vì bạn nữa hả, Trác Mộc Cường Ba, tao thấy kính phục đám thuộc hạ này của mày rồi đấy. Có điều, không ngờ mày lại nhu nhược đến thế, dựa vào người khác bảo vệ mình à, vậy thì, tao cứ bắn bừa vậy thôi. Giữa bãi mìn này, chúng mày chạy đi đâu được, cứ ở đấy mà làm bia tập bắn cho tao đi.” Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, y đã không cười nổi nữa, chỉ thấy những người trong ống ngắm kia, hàng phía trước quỳ một chân xuống, hàng phía sau đứng nguyên, cùng lúc vung tay, chuyển ba lô ra phía trước, hai hàng ba lô chất lên nhau, xếp thành một tấm lá chắn hình cầu. Ngưu Nhị Oa lớn tiếng chửi: “Chó chết thật, quả nhiên chúng được huấn luyện rất kỹ lưỡng!”

Phía sau tấm lá chắn hình cầu ấy, Trác Mộc Cường Ba thất thanh kêu lên: “Pháp sư Tháp Tây!”

“Pháp sư Tháp Tây không sao chứ ạ?” Mấy người bọn Nhạc Dương cũng nhao nhao hỏi.

Pháp sư Tháp Tây lắc đầu nói: “Tuổi tác cao rồi, thân thể cũng không còn linh hoạt như xưa.”

Lữ Cánh Nam nói: “Pháp sư Tháp Tây, vết thương của ngài đang chảy máu, cần phải xử lý ngay.” Lữ Cánh Nam mở phéc mơ tuya ba lô, chuẩn bị lấy bông băng ra xử lý vết thương. Pháp sư Tháp Tây lắc đầu nói: “Không cần, để tôi tự làm.” Chỉ thấy mười ngón tay ông cong lại, ấn vào hai bên bắp thịt trên đùi, khẽ dồn sức, “bựt” một tiếng, viên đạn đã bị ép ra ngoài. Liền sau đó, những ngón tay pháp sư Tháp Tây nhanh chóng kết ấn xung quanh vết thương, liên tiếp ấn mấy cái liền, máu liền ngưng chảy. Những người xung quanh đều trợn tròn mắt, há hốc miệng ra, thủ pháp này ngay cả pháp sư Á La cũng chưa từng thi triển lần nào. Ngước nhìn pháp sư Tháp Tây, thấy ông từ đầu chí cuối vẫn luôn mỉm cười, nét mặt không hề có vẻ gì là đau đớn, tựa hồ như cái chân đó vốn chẳng phải của ông vậy. Ba Tang cuối cùng cũng hiểu được, ý chí sắt thép là như thế nào, so với người ta, thì ra sức mạnh ý chí trải qua huấn luyện nghiêm khắc mới rèn đúc được của mình vốn chẳng thể nào gọi là kiên cường được.

Pháp sư Tháp Tây cầm máu vết thương xong, lại mỉm cười nói: “Thật không ngờ, kẻ địch lại giở ra trăm phương ngàn kế ám hại chúng ta như vậy, xem ra, không động thủ thì không xong rồi. Dây móc của mọi người vẫn còn chứ, cho tôi mượn.” Giọng pháp sư Tháp Tây vẫn hết sức bình thản, chỉ là lời vừa mới dứt, ông đã vươn tay ra, đặt lên cổ tay Trác Mộc Cường Ba lắc nhẹ. Thiết bị bắn dây móc vốn gắn rất chặt trên cổ tay gã, không hiểu sao đã lọt vào bàn tay khẳng khiu của ông rồi.

Nhạc Dương lập tức nói: “Pháp sư Tháp Tây, ông đi lại không tiện, lại còn bị thương nữa, để chúng cháu đi cho.”

Lữ Cánh Nam cũng định lên tiếng khuyên giải, nhưng pháp sư Á La đã lặng lẽ ra hiệu cho cô yên lặng, xem chừng bản thân ông cũng không có ý định xông pha qua trận địa đầy cạm bẫy kia. Pháp sư Tháp Tây mỉm cười với Nhạc Dương, đoạn nói: “Được rồi, tôi mà không ổn thì cậu lên tiếp ứng ngay nhé.” Dứt lời, cánh tay đã vung lên, lao vút ra khỏi tấm lá chắn xếp bằng ba lô.

Ngưu Nhị Oa đã đổi mấy phương hướng khác nhau, nhưng vẫn không tìm được kẽ hở nào, hằn học nghĩ: “Đằng nào chúng mày cũng bị vây khốn trong rừng không ra được, mấy hôm rồi thì cũng chết đói thôi! Không! Không được, nếu bọn chúng có trang bị của chúng ta, e rằng trong thời gian ngắn cũng khó mà chết đói được, nhưng tại sao không thấy chúng sử dụng vũ khí nhỉ? Lẽ nào... ừm, để tao vòng ra phía sau lá chắn của chúng mày xem! Phải rồi, dùng thứ đó, tuy vẫn chưa ổn định lắm, nhưng mà... hả? Có thứ gì vậy?”

Y đột nhiên trông thấy có thứ gì đó từ phía sau lá chắn bay vút ra. Ngưu Nhị Oa giơ súng lên bắn luôn, nhưng tốc độ di chuyển của vật thể ấy thực sự quá nhanh, lại đổi hướng đột ngột, nên không trúng một phát nào.

Những người phía sau đống ba lô chăm chú quan sát pháp sư Tháp Tây qua kẽ hở, chỉ thấy dây móc trong tay ông bắn vào cành cây, cành cây đó trầm xuống, rồi gãy lìa rơi xuống, pháp sư Tháp Tây vẫn không hề hoảng loạn, thu tay về, hất cổ tay lên, đu sang một hướng khác, mấy mũi tên bắn vụt qua. Tay trái pháp sư Tháp Tây quơ một cái, giữa các ngón tay đã kẹp ba mũi tên, miệng ngậm mang một mũi khác. Ngay phía chính diện có một súc gỗ lớn ghim đầy gai nhọn đang lao thẳng về phía ông, chỉ thấy pháp sư Tháp Tây vung tay ném tên đi, mấy mũi tên đuôi gắn lông chim nhỏ không ngờ đã cắt đứt hai sợi dây mây treo súc gỗ. Cả súc gỗ lớn rơi xuống, phát ra tiếng “ầm ầm”, đồng thời làm nổ vô số mìn gài xung quanh, tiếng súng máy “tạch tạch tạch” lại vang lên một chặp. Lúc này, pháp sư Tháp Tây mới thể hiện bản lĩnh thực sự, chỉ thấy ông vừa vung vẩy ống tay áo, tránh khỏi những mảnh vụn và đất bùn bắn lên sau vụ nổ, mặt khác vẫn không ngừng xuyên qua khoảng không chằng chịt những tấm lưới gắn lưỡi dao và tên đạn bay vèo vèo, vươn tay ra bắt lấy các loại ám khí bay tới, đồng thời lại ném ra phá hoại một cạm bẫy khác; vừa né tránh, ông lại vừa nhìn chuẩn vị trí các cành cây, để dây móc không bắn trượt, kịp thời tránh đi trước khi làn đạn của súng máy tự động quét tới; đạn từ khẩu súng bắn tỉa của Ngưu Nhị Oa chốc chốc lại sướt qua người pháp sư Tháp Tây, nhưng dường như ông chẳng hề để tâm đến y. Trong khoảnh khắc, tiếng nổ, tiếng súng, tiếng ám khí bay vèo vèo hòa trộn vào nhau, pháp sư Tháp Tây tựa như cánh nhạn biển đang chao liệng giữa bầu trời bão tố, sải cánh tung bay, vẽ nên những đường cong gấp khúc tuyệt mỹ trên không trung, tạo nên những quỹ đạo chuyển động gần như hoàn mỹ, không để một giọt nước nào dính lên người. Thật không ai dám tin, đây lại là một ông già đã bị thương nặng đến độ không thể đi lại được nữa.

Nhạc Dương nhìn mà chỉ biết há hốc miệng ra, giờ mới biết vừa nãy mình nói thay pháp sư Tháp Tây xông lên chẳng qua chỉ là một trò đùa, giữa rừng cạm bẫy chằng chịt dày đặc thế này, sợ rằng mình còn chưa đi được mười bước thì đã hy sinh anh dũng mất rồi. “Pháp sư Á La này, cho cháu hỏi, ông với pháp sư Tháp Tây thì ai lợi hại hơn?” Trương Lập thẫn thờ hỏi.

Pháp sư Á La điềm đạm trả lời: “Nếu đánh tay đôi, mười Á La cũng không phải là đối thủ của một Tháp Tây. Nhưng như hôm nay, sợ rằng cả đời pháp sư Tháp Tây cũng chỉ thể hiện không đến hai lần đâu.”

“Tại sao thế ạ?” Nhạc Dương tò mò hỏi.

Pháp sư Á La nói: “Bởi những Mật tu giả giống như pháp sư Tháp Tây, thể năng cũng tương đương với Phật tính, tu vi càng cao lại càng nhân từ hòa ái. Nếu gặp phải lũ hổ báo hay chim ưng đói khát, họ thà cắt thịt mình cho chúng ăn chứ cũng không chịu ra tay đại khai sát giới. Thực ra trong mắt những bậc đại sư ấy, những người như tôi, chẳng có được chút Phật tính nào. Vì vậy chúng tôi được huấn luyện như những võ tăng, còn bọn họ, thực ra là đang tìm con đường trở về. Ít nhất theo những gì tôi biết được, cả đời này pháp sư Tháp Tây chưa từng sát sinh một lần nào, trị bệnh cứu người mới là điều ông ấy thích làm nhất. Chẳng hạn như tên Khước Ba Ca Nhiệt lúc nãy, nếu pháp sư Tháp Tây muốn ra tay thật, chắc y đã chết từ lâu rồi, đâu còn mạng mà hò hét trước mặt chúng ta chứ.”

Trác Mộc Cường Ba không nhịn được buột miệng hỏi “Nói vậy thì chức vị của pháp sư Tháp Tây hẳn phải cao lắm? Không biết trong giới Mật tu giả, ông ấy là...”

Pháp sư Á La không đợi gã nói hết, đã tiếp lời: “À không, khi tôi rời khỏi nơi đó, pháp sư Tháp Tây cũng là một Cách quả, chỉ có điều là Thượng vị Cách quả, còn tôi là Hạ vị Cách quả mà thôi, giờ không biết ông ấy đã có đột phá gì mới chưa.”

Trác Mộc Cường Ba im bặt, ngầm kinh hãi tự nhủ: “Mật tu giả, đó rốt cuộc là loại người gì vậy chứ!”

Khước Ba Ca Nhiệt không trực tiếp chạy thẳng về chỗ Ngưu Nhị Oa, mà càng lúc càng đi xa hơn, bởi vì bãi mìn này được bố trí rất phức tạp, đường đi quanh co gấp khúc, nếu không có bản đồ cạm bẫy do chính tay y tự vẽ ra, thì chính y cũng không chắc chắn có thể ra khỏi đây được. Phía sau tiếng nổ vang trời, Khước Ba nghe mà không khỏi thầm kinh sợ uy lực của các thứ hỏa khí hiện đại do Ngưu Nhị Oa mang đến, nếu không theo kiến nghị của y bổ sung thêm hỏa khí vào trận địa bẫy, sợ rằng muốn đối phó với bọn người Giáp Mễ kia e vẫn khá là khó khăn. Một lúc sau, tiếng nổ sau lưng y nhỏ dần, Khước Ba ngoảnh đầu lại bật cười âm hiểm: “Hừ, đây là trận địa cạm bẫy ta bố trí mất mười năm trời, cộng thêm các thứ hỏa dược kia nữa, các ngươi muốn liều mình xông qua thì chỉ có kết cục chết không toàn thây mà thôi.”

Nhưng mới chạy thêm được vài bước, Khước Ba chợt cảm thấy âm thanh có gì không ổn lắm, dường như hơi quá gần, ngoảnh đầu lại nhìn, tức thì hồn bay phách lạc, chỉ thấy pháp sư Tháp Tây đang bắn dây móc lao về phía mình với tốc độ kinh người. Chỉ nghe ông nghiêm giọng quát: “Khước Ba Ca Nhiệt! Ngươi ba lần bốn bận ám sát ta, ta đều bỏ qua cả. Nhưng giờ đây, ngươi lại dùng tà thuật hại người vô tội, thật không thể tha thứ, mau đưa thuốc giải ra đây! Bằng không, hôm nay ta sẽ tiễn ngươi đi gặp tổ sư đó!”

Nhìn pháp sư Tháp Tây lao vun vút qua một rừng đầy cơ quan cạm bẫy, Khước Ba Ca Nhiệt ngỡ như tổ sư của mình giáng phàm, đầu óc hỗn loạn, căn bản không kịp nghĩ ngợi gì, vội vàng quỳ gục xuống đất, hai tay nâng bình sứ lên quá đầu, run giọng lắp bắp: “Tôi... tôi... tôi...” Sau mấy tiếng “tôi” liền, y cảm giác như thần Chết mỗi lúc một đến gần hơn, trong khoảnh khắc sinh tử ấy, cuối cùng y cũng không kìm nổi kêu lên: “Tôi biết lỗi rồi! Xin ngài tha tội! Tôi không dám nữa đâu! Thuốc giải ở đây, xin đừng giết tôi! Tôi không muốn chết! Tôi không muốn chết!”

Giây lát sau, tiếng ầm ầm đã lắng xuống, âm thanh của các cạm bẫy bị phá ở đằng xa vẫn vọng lại. Khước Ba Ca Nhiệt nghi hoặc mở mắt ra, kỳ lạ thật, có người nào đâu? Lẽ nào vừa nãy mình sợ lão già kia quá, nên bị ảo giác? Y loạng choạng đứng lên, vuốt vuốt mặt, thầm nhủ: “Ban ngày ban mặt còn sợ như vậy! Thế nào cũng có ngày ta giẫm nát ngươi dưới gót chân! Hừ! Ủa?” Y đột nhiên nhận ra bàn tay mình nhẹ bẫng, bình sứ lúc nãy đâu rồi? Bị lấy mất rồi sao? Y vội lục lọi khắp người, sắc mặt tức thì tái mét như tờ giấy, ngồi phịch xuống đất, quả tim đập thình thịch như điên cuồng trong lồng ngực.

Một lúc lâu sau đó, Khước Ba Ca Nhiệt mới đứng lên được, ngước nhìn về phía âm thanh vang xa dần, thầm biết Ngưu Nhị Oa lần này khó mà thoát nạn. Vùng căn cứ địa nhiều năm này sợ rằng cũng bị người ta chiếm mất rồi, lẽ nào, mình không còn nơi nào để đi nữa? Y nghĩ ngợi một lúc, rồi xoay người chạy về phía biển Sinh Mệnh, thầm nghĩ: “Xem ra, đành phải đến chỗ tên đồng minh cũ kia rồi.” Nhưng vừa được mấy bước, y lại dừng lại, tự nhủ: “Nhưng cái tên đó tâm địa sâu xa như vậy, bây giờ qua đó, liệu hắn có lấy ta ra làm vật thí mạng không? Không, có lẽ ta vẫn còn hữu dụng với hắn, phải rồi, cứ vậy đi.” Chủ ý đã quyết, Khước Ba Ca Nhiệt liền tất tả chạy vù đi.

Pháp sư Tháp Tây cất thuốc giải vào người, không dừng lại dù chỉ một khoảnh khắc, trực tiếp lao bắn về nơi hiểm yếu nhất giữa trận địa cạm bẫy, đó cũng là nơi Ngưu Nhị Oa náu mình bắn lén bọn họ! Mắt thấy bóng người mỗi lúc một đến gần, Ngưu Nhị Oa cũng không khỏi cuống tay cuống chân, nhưng lần nào bóng dáng ấy cũng chỉ lướt qua ống ngắm trong một chớp mắt, y căn bản không thể nào bắt kịp được tốc độ di chuyển ấy.

“Chó chết thật!” Thấy pháp sư Tháp Tây chỉ còn cách mình chừng hai ba trăm mét, Ngưu Nhị Oa tức tối tháo luôn ống ngắm ra, giương súng lên ngắm không. “Tạch!” “Tạch!” “Tạch!”... Y như người đang bắn đĩa bay, những viên đạn liên tiếp lao về phía pháp sư Tháp Tây, viên sau nhanh hơn viên trước. Thế nhưng, rõ ràng đối phương còn đang tránh né các loại cạm bẫy, vậy mà y vẫn không sao bắn trúng được. Ngưu Nhị Oa thầm nhủ: “Đó là con người sao? Quái vật mới đúng!”

“Soạt” một tiếng, pháp sư Tháp Tây bắt được một mũi phi tiêu chẳng rõ từ đâu bắn tới, tuy vị trí chưa chuẩn lắm, nhưng ông cũng lờ mờ nắm được phạm vi náu mình của Ngưu Nhị Oa rồi. Mũi phi tiêu lao vút khỏi tay, kế đó lại thêm mấy mũi tên, vài mũi phi đao... Pháp sư bắt được thứ gì liền ném cả về phía Ngưu Nhị Oa thứ ấy. Nhất thời, Ngưu Nhị Oa cũng bị dồn ép cho luống cuống chân tay. Tránh được mấy lần, cuối cùng y cũng bị một lưỡi câu móc ngược ghim vào vai trái, đau đến nghiến răng nghiến lợi, khẩu AM388 cũng rơi mất. Y bèn rút ngay khẩu M500 ra, định chống trả đến cùng. Bỗng nghe “cạch” một tiếng, khẩu súng đã bị dây móc xuyên qua ổ cò, chỉ thấy cổ tay pháp sư Tháp Tây hất nhẹ, khẩu M500 đã nhẹ nhàng rơi xuống tay.

Pháp sư một tay bám vào thân cây, tay kia cầm súng. Ngưu Nhị Oa đứng dưới đất, một tay ôm vết thương trên vai trái, ngước nhìn quái vật trên cây. Chỉ nghe pháp sư Tháp Tây nói: “Tại sao lại bắn lén chúng ta? Ngươi là người của chúng à? Merkin?”

Ngưu Nhị Oa hằn học gằn giọng: “Muốn giết thì giết đi, đừng phí lời nữa. Đời này ta không giết được Trác Mộc Cường Ba, chết đi làm ma cũng quyết không tha cho hắn!”

Pháp sư Tháp Tây thoáng ngẩn người, nói: “Cường Ba thiếu gia? Ngươi và cậu ấy có thù hận gì?”

Ngưu Nhị Oa nhìn con người ăn mặc quái dị trước mắt, không rõ đối phương rốt cuộc là địch hay bạn, nhưng trông bộ dạng thì có vẻ không muốn giết chết mình, bèn lạnh lùng “hừ” một tiếng. Pháp sư Tháp Tây lại nói: “Nếu đây là vấn đề của ngươi và cậu ấy, vậy thì cũng nên đối mặt giải quyết một lần, trận địa cạm bẫy này hẳn phải có chốt tổng chứ, ở đâu? Có phải trong lán trại kia không?”

...

Mấy phút sau, được pháp sư Tháp Tây dẫn đường, bọn Trác Mộc Cường Ba tránh khỏi bãi mìn, đến chỗ doanh trại nhỏ của Ngưu Nhị Oa. Nhạc Dương lớn tiếng thốt: “Thì ra tên này nhặt được một bộ hòm thiết bị, thảo nào có nhiều vũ khí thế! Ha ha, lần này may mắn thật!” Vừa dứt lời, anh đã chạy tới mở một hòm vũ khí đạn dược ra.

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Kẻ bắn tỉa đó đâu rồi?”

Pháp sư Tháp Tây chỉ tay: “Hắn ở trong kia.”

Vào trong lều, Ngưu Nhị Oa ngồi dưới đất, không biết pháp sư Tháp Tây đã làm gì mà mặt y trông lộ rõ vẻ uể oải ủ rũ.

Trác Mộc Cường Ba ngây người ra giây lát, nói: “Là mày à?”

Ngưu Nhị Oa nghiến răng kèn kẹt nói: “Đúng vậy, không ngờ phải không! Trác Mộc Cường Ba, mày có biết hai năm nay tao trải qua như thế nào không? Tao hận không thể lóc xương xẻ thịt mày ra ăn tươi nuốt sống! Trả anh trai lại cho tao đây!”

Trác Mộc Cường Ba chau mày, Trương Lập đứng bên cạnh không nhịn được lên tiếng: “Này, tự mày bắn chết anh trai mày đấy chứ! Chúng mày đã cầm súng bắn chết bao nhiêu người rồi? Xử theo pháp luật, thì cả hai em nhà mày đã chết mấy chục lần rồi ấy chứ!”

“Bọn chúng muốn giết tao, chúng tao không nổ súng, chẳng lẽ chờ chết à? Tất cả chúng mày đều muốn đuổi giết bọn tao!” Ngưu Nhị Oa nhìn chằm chằm xuống đất, sắc mặt vẫn hết sức hung hãn.

Trương Lập khịt mũi nói: “Chúng mày không đi săn trộm, ai thèm đuổi giết chứ!”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ngưu Nhị Oa, anh trai mày chết dưới họng súng của chính mày, hơn nữa từ khi đặt chân lên con đường của kẻ săn trộm, chúng mày cũng phải biết rằng mình không có kết cục tốt đẹp gì rồi. Bọn mày liều mạng đi săn trộm thế, rốt cuộc kiếm được bao nhiêu tiền? Sống như vậy cũng chưa thấy đủ à? Mày không cảm thấy mình rất yếu hèn hay sao?”

Lúc này, Nhạc Dương hưng phấn chạy vào, cầm theo một món vũ khí có hệ thống điện tử rất hoàn bị: “Cường Ba thiếu gia, xem cái này này, đồ tốt đấy nhé.”

Trương Lập ngây người ra, thốt lên: “Đây... đây là súng tiểu liên XM29 của OICW 

1

 mà, nó... không phải vẫn đang trong quá trình nghiên cứu chế tạo sao? Trời ơi, bọn chúng lại...”

Ba Tang cũng chạy vào, lạnh lùng cầm theo hai khẩu SCAR của lính đặc chủng Mỹ, đưa cho Trác Mộc Cường Ba một khẩu.

Nhạc Dương hân hoan giới thiệu với Trương Lập: “Nhìn đây này, cái này này, hệ thống đo khoảng cách bằng tia laser, tự động tìm mục tiêu, đạn nổ, khống chế tia lửa bằng hệ thống điện tử, hì hì...”

Lữ Cánh Nam cũng cầm vũ khí bước vào, cất tiếng hỏi: “Tên này xử lý sao đây?”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Trương Lập, Trương Lập lại nhìn sang Nhạc Dương, tuy họ đều đã trải qua chiến đấu, nhưng giết một kẻ tay không tấc sắt thì không ai làm được. Nhạc Dương ngoẹo đầu, bên cạnh anh là Ba Tang. Ba Tang nói: “Giao cho tôi được rồi.” Pháp sư Tháp Tây thở dài, lắc đầu.

Trác Mộc Cường Ba gật đầu. Lúc này, Ngưu Nhị Oa nãy giờ vẫn im lặng nằm dưới đất đột nhiên nhảy chồm lên, giật tung vạt áo ra, không ngờ y lại quấn cả thuốc nổ Cơn Lốc Đen trên ngực. Chỉ nghe y gầm lên: “Nổ súng đi, người trong căn lều này đều chết sạch! Trác Mộc Cường Ba, tao với mày cùng chết một lượt!” Dứt lời, tựa như muốn lao bổ tới Trác Mộc Cường Ba. Nhạc Dương và Trương Lập vội chắn trước mặt gã, không ngờ Ngưu Nhị Oa lại lăn ngược về phía sau, luồn ra phía ngoài căn lều, rồi ném luôn miếng thuốc nổ Cơn Lốc Đen nhỏ như cái đồng hồ đeo tay ấy trở lại.

Nhạc Dương và Trương Lập vội hét lớn: “Chạy mau! Tạc đạn đấy!”

PHẦN 61

Cái chết của đội trưởng Hồ Dương

Chương 36

Đường hẹp gặp nhau

Trong rừng, sáu thớt ngựa đang lao đi như ánh chớp, chính là nhóm người bọn Trác Mộc Cường Ba. Bọn họ đụng độ một nhóm lính áo đen dùng cung tên, kết quả không cần phải nói cũng biết, nhóm lính kia không thể ngăn bước được họ dù chỉ một phút, ngược lại còn cung cấp thêm mấy con ngựa khỏe. Chỉ có điều, buổi sáng sớm ngồi thuyền đi đường vòng lên bờ cũng tốn mất một chút thời gian, giờ đây tình hình càng lúc càng gấp rút, bọn Trác Mộc Cường Ba ai nấy đanh mặt lại, để mặc cơn gió như những ngọn roi vô hình táp lên. Tất cả đều đã được tính toán kỹ càng, từ kẻ địch chặn đường, đến tên Max bỏ trốn, cạm bẫy... duy chỉ một điều họ không nghĩ đến, đó chính là thời tiết ở Shangri-la này!

Trương Lập giật lùi về sau, đè lên cây cột chống lều, căn lều bạt đung đưa như muốn đổ. Bỗng thấy Lữ Cánh Nam chầm chậm đi tới, nhặt miếng thuốc nổ Cơn Lốc Đen dưới đất lên, nói với Nhạc Dương và Trương Lập: “Mặt phía sau có màng cảm ứng áp lực, một khi đã dính vào thì không thể lấy ra, các cậu quên rồi à?”

Nhạc Dương ngượng ngùng gãi gãi đầu “hì hì” cười chữa thẹn. Lữ Cánh Nam tiện tay ném luôn miếng Cơn Lốc Đen đó cho Trương Lập, nói: “Thuốc nổ bị rút hết ra rồi, chỉ là đồ giả thôi.”

Nhạc Dương đột nhiên kêu lên: “Chết, đừng để hắn chạy mất!” Vén cửa lều lên, bóng Ngưu Nhị Oa đã biến mất tự bao giờ.

Pháp sư Tháp Tây nói: “Thôi bỏ đi, nhân quả luân hồi, chuyện gì cũng phải tùy duyên, y quá chấp vào cừu hận, sợ rằng sống cũng chẳng thoải mái gì đâu.”

Trương Lập nói: “Loại người này, lẽ ra phải chết từ lâu rồi mới đúng!”

Nhạc Dương nghe vậy liền châm chọc: “Sao vừa nãy anh không nổ súng đi?”

Trác Mộc Cường Ba khuyên can: “Đừng nói nữa, sắp xếp lại vũ khí đi, thu dọn xong chúng ta lại tiếp tục lên đường cho sớm.”

Pháp sư Tháp Tây nói: “Giờ trời đã tối, không thể nhận ra được những chỗ đánh dấu có mìn vừa nãy nữa, đêm nay e rằng phải ở lại đây mất rồi. Có điều, chỗ này khá gần bờ biển Sinh Mệnh, sớm mai xuất phát cũng không lỡ mấy thời gian đâu.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn theo hướng Ngưu Nhị Oa bỏ chạy, thở dài một tiếng: “Tôi vẫn không thể nào yên tâm được, chẳng may xảy ra chuyện gì...”

Trương Lập nói: “Yên tâm đi, Cường Ba thiếu gia, chúng ta vẫn còn hai ngày cơ mà, lộ trình có một ngày rưỡi, dù thế nào thì cũng kịp thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đừng quên là còn Quách Nhật Niệm Thanh, y đã có thể thông báo cho người phía Yaca ngăn cản chúng ta, thì khi trở về, sợ rằng cũng không được bình yên như lúc khởi hành đâu.”

Nhạc Dương nói: “Không, Cường Ba thiếu gia, anh quên rằng hắn ta là một kẻ rất giỏi dùng âm mưu, hắn phải giữ cho đôi tay mình trong sạch, ra tay ở Langbu chẳng phải sẽ làm hắn lộ tẩy hay sao? Vả lại, giờ chúng ta không giống như lúc đến đây nữa rồi, chúng ta đã có vũ khí!” Nói đoạn, anh giơ khẩu súng lên. Ba Tang cũng chợt thấy một cảm giác hưng phấn dâng trào, nhè nhẹ vuốt ve khẩu súng trên tay, lạnh lùng cất tiếng: “Chỉ sợ chúng không đến thôi!”

Lữ Cánh Nam cũng khuyên giải: “Quan tâm tắc loạn, đừng quá lo lắng, Mẫn Mẫn và đội trưởng Hồ Dương biết phải tự bảo vệ mình mà.”

“Cũng chỉ có thể vậy thôi, sớm mai xuất phát!” Trác Mộc Cường Ba thở dài một tiếng, tự nơi đáy lòng vẫn lờ mờ cảm thấy không ổn lắm, đành tự nhủ có lẽ mình đã quá lo lắng mất rồi.

Trương Lập vội nói: “Tôi đi kiểm tra các trang bị.” Nhạc Dương thấy thế cũng chạy tót theo.

Các loại trang bị đã chứng thực suy nghĩ của Trương Lập, quả nhiên, vũ khí bên trong mỗi tổ hợp hòm sắt được thả dù xuống đều khác nhau. Nếu như trong tổ hợp hòm sắt đầu tiên bọn họ nhặt được chủ yếu là vũ khí mang tính chế ngự và thiết bị y tế, thì vũ khí của nhóm người bọn Tây Mễ chủ yếu là để thăm dò và khống chế trong phạm vi rộng. Còn mấy cái hòm sắt của Ngưu Nhị Oa lại chủ yếu dùng để sắp đặt cạm bẫy, camera giám sát và súng máy tự động có thể điều khiển từ xa, mấy quả mìn cũng đều có thể dẫn nổ từ xa, vả lại tất cả đều là vũ khí kiểu mới, tuyệt đại đa số chưa từng xuất hiện trên thị trường. Thực không hiểu bằng cách nào mà Merkin lại kiếm được những thứ này. Có điều, sau khi Trương Lập kiểm tra, phát hiện hầu hết các vũ khí đều có ký hiệu sản phẩm thử nghiệm bằng tiếng Anh, quả nhiên là vẫn chưa được đưa vào sử dụng. Họ tìm thấy trong hòm vũ khí rất nhiều đạn ám lực có thể xuyên thấu cả áo chống đạn, may mà Ngưu Nhị Oa vẫn chưa kịp dùng đến chúng.

Ở bờ biển Sinh Mệnh phía bên vương quốc Langbu, có hai người đang dìu nhau, lấy súng làm gậy chống, tấp ta tấp tểnh đi trong rừng đước. Đó chẳng phải ai khác, mà chính là Max và Tây Mễ. Xương gò má Tây Mễ gồ lên, hình dung tiều tụy, trông lại càng thêm ác độc âm hiểm. Lúc ở di tích của dân tộc Mục, y đã nhìn rõ dưới vách đá có chỗ hõm vào nên mới dám tung mình nhảy xuống, vì y cho rằng mình không nhất thiết phải lấy một địch bốn làm gì, mà quan trọng hơn là, y dự định để Max lại đó, ở lại đó vĩnh viễn. Nhưng không ngờ tên Max này lại cực kỳ may mắn, trong tình cảnh ấy mà vẫn sống sót chạy thoát ra được.

Mấy ngày này, hai người lần theo tín hiệu đi một mạch về phía Tây, Max vẫn hết mực lấy lòng Tây Mễ như trước. Nhưng Tây Mễ không phải kẻ mù, y thừa sức nhìn ra cái bóng phía sau bộ dạng xun xoe bợ đỡ của Max, có thể sống sót trong tình huống ấy mà không hề bị thương tích gì, tuyệt đối không thể nào chỉ dựa vào may mắn như hắn ta nói được.

Đi đến một cái đầm, hai người dừng lại, trước mặt họ là một cái cây lớn bị nổ toác ra. Tây Mễ ngước đầu lên nhìn xung quanh, nói: “Chỗ này hình như có rất nhiều cạm bẫy, nhưng bị phá hoại mất một phần rồi.”

“Đại ca Tây Mễ! Anh nhìn kìa...” Max chỉ vào chỗ chạc ba của thân cây đổ gãy, có một cánh tay người, đã hơi thối rữa. Tây Mễ giật cánh tay đã rữa ấy xuống, quan sát một hồi, đoạn nói: “Đạt Kiệt, xem ra, hắn bị nổ chết ở chỗ này rồi.”

Max nói: “Nhất định là bọn Trác Mộc Cường Ba làm! Liệu chúng có ở quanh đây không nhỉ? Chỗ này nhiều cạm bẫy thế, chắc là có thôn làng rồi, nói không chừng bọn Trác Mộc Cường Ba đó đang ở trong làng. Chúng ta, chúng ta có nên vòng qua không? Đại ca?” Vừa nói, y vừa tỏ ra sợ hãi đến run lên lẩy bẩy.

Tây Mễ cười gằn: “Thôn làng mà phòng ngự kiểu này thì hơi quá đáng đấy, hơn nữa chỗ này vốn chẳng thích hợp để trồng trọt gì hết, không thể là làng mạc được, chắc là một dạng cứ điểm quân sự. Cái hồ đó dường như không thể bơi qua được, vậy thì ở đây chắc chắn phải có thuyền. Không cần sợ đám người kia thế, nếu phía trước đúng là làng mạc hay cứ điểm thì bọn chúng cũng ở ngoài sáng, còn tao với mày ở trong tối, chúng phải sợ chúng ta mới đúng!” Lúc này, đằng xa chợt vang lên tiếng tù và. Vẻ mặt Tây Mễ đanh lại, tức tối chửi: “Lũ ôn thần chó chết, lại đến rồi, chạy mau!”

Bên bờ biển Sinh Mệnh phía Yaca, mấy tên hộ vệ nằm rải rác dưới đất, trong xưởng đóng thuyền bè sắp ngay ngắn một loạt các loại thuyền khác nhau. Khước Ba Ca Nhiệt đứng trên một con thuyền tam bản nhỏ sắp rời bến, giơ cao ngọn đuốc trong tay, nhìn những con thuyền nằm thành hàng dài, thầm nhủ: “Bạn cũ, ta giúp ngươi thêm lần nữa, có thể nói là đã hết lòng rồi, mong rằng ngươi cũng đừng làm ta thất vọng!” Dứt lời, y vung mạnh tay một cái, ngọn đuốc liền bay vèo qua hàng thuyền gỗ...

Sáng sớm hôm sau, Trác Mộc Cường Ba là người đầu tiên tỉnh giấc. Sự thực là gã gần như không hề ngủ, gã cảm giác được bọn họ đã bỏ qua mất điều gì đó, hơn nữa, còn nghe thấy cả tiếng Mẫn Mẫn đang hô hoán ở nơi phương xa. Đêm qua, Trương Lập và Nhạc Dương và những người khác đã thay đổi hết những thứ trong ba lô của mình, các loại vũ khí hiện đại đầy uy lực lại được nhét đầy bên trong, những bao đạn căng đầy khiến họ cảm thấy sức lực tràn trề chảy khắp cơ thể. Trước khi xuất phát, Trương Lập bỏ ra nửa tiếng đồng hồ để bố trí điều chỉnh lại bãi mìn và các cạm bẫy, dù sao thì họ cũng không thể mang hết đồ đạc trong tổ hợp hòm sắt đi được, hơn nữa sau này còn phải đi qua Yaca để lên tầng bình đài thứ ba, nếu có thời gian, họ sẽ trở lại đây lấy sau.

Nhưng khi họ chạy đến bờ biển Sinh Mệnh, cuộn khói đen mù mịt cuồn cuộn bốc lên làm ai nấy đều lạnh người. Trác Mộc Cường Ba nói: “Chuyện tôi lo lắng rốt cuộc vẫn xảy ra rồi.”

Nhạc Dương nói: “Là Khước Ba Ca Nhiệt, chỉ có hắn mới biết thuyền bè giấu ở đâu!”

Ba Tang cũng gằn giọng nói: “Pháp sư Tháp Tây, không thể nhân từ với kẻ địch được nữa!”

Cả bọn vội đặt ba lô xuống, tranh thủ thời gian đi chặt cây. Khổ nỗi chất gỗ bên bờ biển rất đặc, không thể nào nổi trên mặt nước được, họ đành phải đi xa hơn tìm những cây gỗ nhẹ mà chắc chắn, lúc ghép xong được một cái bè gỗ có thể hạ thủy thì đã mất nửa ngày rồi. Họa vô đơn chí, lúc bè gỗ đang dập dềnh trên biển Sinh Mệnh, bỗng một trận cuồng phong mang theo cả mưa đá ập xuống rào rào, cái bè gỗ nhỏ hoàn toàn không thể điều khiển nổi. Khi cả bọn ướt lướt thướt như chuột đến được bờ bên phía Langbu, trời đã sẩm tối.

Nhạc Dương kêu lên: “Cường Ba thiếu gia, đến rồi, chúng ta đến Langbu rồi!”

Ba Tang ngẩng đầu lên nhìn bầu không xám xịt ngoằn ngoèo như con rắn khổng lồ của Shangri-la, nói: “Hôm nay sắc trời rất xấu, có thể sẽ sập tối sớm hơn thường ngày!”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Dù thế nào, hôm nay cũng không thể dừng lại ở Thác Nhật được, chúng ta lên bờ sẽ lập tức tiến về Langbu, khi nào trời tối hẳn mới thôi!”

Trong không gian tối tăm như mực của Shangri-la, dù là người giỏi nhận biết phương hướng đến mấy cũng không thể nào đi lại trong khu rừng xòe tay năm ngón trước mặt cũng không thấy gì ấy được, huống hồ lại còn vô số loài động vật ăn thịt và các cạm bẫy nữa.

Thế nhưng, lúc họ đến gần bãi đá ngầm, phía Langbu không hề phái thuyền ra đón vào. Trương Lập tức tối ngoác miệng ra chửi bới: “Ghét thật! Không cần tuyệt tình như vậy chứ!”

Nhạc Dương lắc đầu: “Không, mọi người nhìn kìa! Đó là thuyền ba lá! Thuyền phía trước cũng va phải đá ngầm rồi! Hình như ở Thác Nhật đã xảy ra chuyện gì đó!”

Một cơn sóng quật tới, bè gỗ dập dềnh nâng lên hạ xuống... Khi cả bọn sức cùng lực kiệt bò lên được bờ, ai nấy cùng kinh ngạc nhìn xác chết nằm la liệt dưới đất.

“Vết thương do đạn bắn!” Nhạc Dương nói.

Trương Lập trầm giọng hỏi: “Có phải tên Ngưu Nhị Oa kia không?”

Nhạc Dương lắc đầu: “Không, những người này chết từ hôm qua, lúc đó Ngưu Nhị Oa vẫn đang ở Yaca, là người khác làm. Max!” Anh và Lữ Cánh Nam đồng thanh thốt lên.

Trương Lập quan sát vết thương rồi nhận định: “Đạn M16 tiêu chuẩn, điểm xạ, trên cơ thể mỗi binh sĩ nhiều nhất chỉ có hai vết đạn, bắn vừa chuẩn vừa nhanh. Giết hết binh sĩ canh phòng ở Thác Nhật, bọn chúng vẫn còn đầy đủ hỏa lực.”

Hai bàn tay Trác Mộc Cường Ba nắm chặt lại. Kẻ địch của bọn họ phân tán khắp nơi, giống như vô số con bọ chét, nhân lúc không để ý lại thình lình xồ ra cắn một phát, đến lúc phát hiện ra, chúng lại bỏ chạy mất rồi! Nhưng đến giờ phút sinh tử này, tất cả bọn chúng lại lũ lượt kéo ra, hết tên này đến tên khác cản đường gã, như thể đã bàn bạc với nhau từ trước rồi vậy. Gã không còn thời gian nghĩ ngợi nhiều nữa, cần phải rời khỏi nơi ngổn ngang xác chết này, nhanh chóng trở về Tước Mẫu mới là quan trọng nhất.

Đúng lúc bọn Trác Mộc Cường Ba vừa mới đặt chân lên Thác Nhật, trong một dãy nhà đơn sơ phía đối diện, Max khẽ kêu lên: “Vẫn còn người!”

Tây Mễ bật dậy khỏi giường, hai người đều cầm khẩu M4A1, quan sát qua kính ngắm. Max nói: “Có bắn không?”

Tây Mễ nói: “Cái thằng lợn, nhìn cho rõ đi, bọn người kia không phải binh sĩ ở đây, mà là bọn đối đầu với chúng ta! Mạo hiểm nổ súng chỉ làm chúng chú ý thôi. Bọn chúng đông hơn chúng ta, súng xịn hơn, lại có đội hình chỉnh tề ngay ngắn, đứa nào phản ứng nhanh nhẹn linh hoạt nhất ở phía bên ngoài, người già và kẻ bị thương ở giữa, vả lại khoảng cách xa như vậy, đạn của chúng ta chưa chắc xuyên qua được áo chống đạn của chúng nữa. Nếu chúng ta dùng súng bắn tỉa, thì chúng chết chắc rồi! AM338, MX20, ống ngắm điện tử, khó đối phó lắm đấy.”

Max nói: “Tên đó là Trác Mộc Cường Ba... Bọn chúng quả nhiên đã đi trước chúng ta một bước. Lạ thật, sao chúng quay trở lại nhỉ? Ủa? Trên tay chúng là... là loạt vũ khí thử nghiệm đó hả! Lẽ nào, bọn chúng vượt biển chỉ để lấy số vũ khí đó thôi chắc?”

“Hử?” Tây Mễ sờ lên vết sẹo trên mặt. “Không phải mày nói, tên tù binh chúng ta bắt được kia bảo Bạc Ba La thần miếu ở tầng thứ ba sao? Phải vượt biển mới lên được, chỉ có một con đường đó thôi mà? Tai mày có vấn đề hay là dịch sai vậy?”

“Không, không, không, không phải vậy. Tôi đã tốn rất nhiều công sức học ngôn ngữ của bọn người ở đây, tin chắc là không sai được đâu.” Trước ánh mắt nghi hoặc của Tây Mễ, Max cuống quýt nói, bộ dạng như thể đã sợ đến đầm đìa mồ hôi ra rồi vậy.

Tây Mễ lấy làm hài lòng với biểu hiệu này của Max, tuy rằng cũng biết có phần giả tạo trong đó, nhưng trông thấy bộ dạng đó của đối phương, đích thực cũng khiến y có cảm giác mình đang ở ngôi cao vời vợi. Tây Mễ chầm chậm nói: “Mày xem, bọn chúng có kẻ bị thương, những tên khác trông cũng nhếch nhác thảm hại, chắc là gặp phải chuyện gì ở bên kia, nên quay lại cầu viện rồi. Có lẽ chúng ngẫu nhiên tìm thấy số vũ khí đó thôi. Hử, là hắn à?” Y nhìn thấy một bóng người quen thuộc trong ống ngắm.

Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị bảo mọi người mặc kệ những xác chết đó, tiếp tục lên đường, nhưng câu nói của Nhạc Dương đã khiến gã không thể không thay đổi sách lược. “Cường Ba thiếu gia, những binh sĩ này không phải từ phía Thác Nhật chạy ra bờ biển, mà toàn bộ đều từ bờ biển chạy ngược về phòng thủ ở đây, chắc rằng chính họ là những người đã phóng hỏa đốt hết thuyền ở bên phía Thác Nhật này rồi.”

Trương Lập tiếp lời: “Thế tức là kẻ địch của chúng ta vẫn chưa rời khỏi nơi đây? Bọn chúng không có thuyền!”

Những người đứng trên khoảng đất trống lập tức trở nên cảnh giác, tình cảnh Ngưu Nhị Oa phục kích họ vẫn còn sờ sờ trước mắt. Trác Mộc Cường Ba hiểu, giờ đây cái bè gỗ nhỏ của họ là công cụ duy nhất có thể vượt biển. Lúc này kẻ địch vẫn chưa rời khỏi Langbu, vùng Thác Nhật đã bị thanh tẩy này đương nhiên chính là nơi thích hợp nhất cho chúng nghỉ ngơi dưỡng sức. Bọn chúng đang ẩn nấp ở đâu? Tháp canh? Không, nếu ở trên tháp canh, chúng đã sớm phát hiện ra bọn gã và nổ súng rồi, chắc chúng ở trong một gian nhà nào đó. Hay là, đang ở trong khu rừng bên ngoài kiếm gỗ để làm bè? Không, trong rừng toàn cây đước, không có loại gỗ có thể nổi được trên mặt nước. Nhưng dù đối phương ở nơi nào, nhất định chúng cũng rất để ý đến lối ra vào duy nhất này, bọn họ định băng qua đây, ắt hẳn sẽ bị chúng lén lút tập kích. Hơn nữa, trong tình trạng không rõ số lượng kẻ địch mà đứng ở bãi đất trống như vậy thực sự quá nguy hiểm!

Mọi suy nghĩ ấy đều chỉ lóe lên trong óc gã trong khoảnh khắc ngắn ngủi, gần như cùng lúc Trương Lập vừa dứt lời, Trác Mộc Cường Ba lập tức ra lệnh: “Nằm xuống!” Cả bọn liền nằm rạp xuống, trà trộn vào giữa đám thi thể.

Trong dãy nhà đối diện, họng súng của Tây Mễ và Max vẫn không rời khỏi ô cửa sổ.

Max nói: “Bọn này phản ứng nhanh quá, lẩn vào giữa đám xác chết, chẳng thấy đâu nữa rồi. Lạ thật, sao chúng có thể khẳng định chúng ta không ở trên tháp canh nhỉ?”

Tây Mễ nói: “Mấy tên còn sống sót này đều là những kẻ mạnh nhất trong bọn chúng, không chỉ quen thuộc với đường lối tác chiến của chúng ta, mà còn rất giỏi lợi dụng hoàn cảnh xung quanh nữa.”

Max lại hỏi: “Giờ tính sao?”

Tây Mễ bình thản đáp: “Đợi, đợi chúng xuất hiện sơ hở, cả một đám người di chuyển trên bãi đất trống, chắc chắn sẽ có sơ xuất. Nhớ kỹ, lúc nào tao nổ súng thì mày cũng bắn luôn, mày phụ trách phía sau, tao phía trước, bắn hết một băng đạn thì lập tức triệt thoái. Khu rừng đước phía bên tay trái rất tối tăm ẩm thấp, bên dưới lại là khu đá ngầm, rất thích hợp để ẩn nấp. Từ chỗ đó ra bờ biển, chúng ta có thể lợi dụng đá ngầm và cây rừng yểm hộ, chắc chúng không dám mạo hiểm truy kích đâu. Chỉ cần tìm được con thuyền chúng dùng để tới đây, tao với mày có thể sang được bờ bên kia rồi.”

Trương Lập thì thào: “Liệu chúng có nấp trên tháp canh không? Hình như tôi thấy có tia sáng lóe lên.”

Nhạc Dương khẽ gắt gỏng: “Bé mồm thôi, bị phát hiện bây giờ. Chúng ta phải tìm chỗ nào che chắn mới được.”

Trương Lập làu bàu: “Chỗ này là bãi đất rộng, lấy đâu ra chỗ nào che chắn?”

Lữ Cánh Nam nói: “Chúng không ở trên tháp canh đâu, đó là mục tiêu rất dễ khiến người khác chú ý, tuy đạt được hiệu quả giám sát rất tốt, nhưng đồng thời cũng dễ bị kẻ địch tấn công. Ánh sáng lóe lên đó có lẽ là một tấm gương, chắc chúng muốn dụ chúng ta lên đó. Nói không chừng, lên được nửa đường chúng ta đã bị tập kích rồi.”

Lúc này, Ba Tang chợt lên tiếng: “Chúng ở một trong các gian nhà kia, một nơi có thể vừa ngắm lên tháp canh, vừa giám sát được bãi đất trống này.”

Nhạc Dương thắc mắc: “Anh Ba Tang, sao anh biết hay vậy?”

Ba Tang lạnh lùng đáp: “Cách làm của Nhện Xanh. Nhường chỗ kẻ địch dễ nghĩ đến nhất cho chúng, những binh sĩ này cũng trúng phải kế này nên mới mất mạng. Dùng xác chết kẻ thù để thu hút sự chú ý của kẻ thù khác, đây vốn là một điển hình trong giáo trình tác chiến của bộ đội đặc chủng.” Càng lúc anh ta càng có thể khẳng định, “bạn cũ” của mình chắc chắn đang ở quanh đây.

Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh quan sát hoàn cảnh xung quanh, đồng thời nhớ lại cảnh tượng lúc họ nhìn Thác Nhật từ phía bên ngoài. “Dịch chuyển sang bên phải, giữ nguyên đội hình, từ cửa sổ tiến vào dãy nhà bên phải kia. Qua chỗ đấy là rừng cây rồi. Ngoài nữa là bãi đá ngầm. Giờ trời sắp tối rồi, hoàn cảnh phía bên ấy có lợi cho chúng ta hơn!” Phán đoán của gã gần giống với Tây Mễ, đồng thời lại hỏi: “Pháp sư Tháp Tây, ngài không sao chứ?”

Pháp sư Tháp Tây đáp: “Tôi không sao, lúc di chuyển nhớ phải cẩn thận. Tuyệt đối không được nhô cao qua khỏi những xác chết này đâu đấy.”

Chương 37

Cách chiến đấu của Nhện Xanh

“Có động tĩnh!” Max nói. Bọn y trông thấy những chiếc ba lô từ từ nhô lên thụp xuống, tựa như sống lưng của một con thú khổng lồ: “Không thấy bọn chúng.”

Tây Mễ nhíu chặt hai hàng lông mày lại nói: “Bọn chúng cũng dịch chuyển về phía trái. Kỳ lạ thật, kiểu này thì rõ là không định chiến đấu với chúng ta rồi, chúng không sợ bọn ta mai phục trong dãy nhà bên trái đó sao nhỉ?” Y đảo mắt nhìn xung quanh, tưởng tượng vị trí của bọn Trác Mộc Cường Ba, lập tức nói: “Bọn chúng phán đoán dựa trên hướng xác chết ngã xuống và ánh sáng, phía trái đó tối quá, bất lợi cho việc giám sát. Thằng Max ngu xuẩn, hôm qua mày kéo mấy cái xác đó đi thì giờ đã không gặp phải chuyện này rồi!”

Max cuống quýt nói: “Chúng càng lúc càng đến gần dãy nhà bên trái đó rồi, tính sao bây giờ?”

Tây Mễ nói: “Chỗ đó rất có lợi nếu muốn tiến vào bãi đá ngầm và rừng cây. Nhưng muốn tiêu diệt chúng ta thì lại rất khó khăn, hơn nữa làm như vậy chẳng khác nào tự bỏ trống đằng sau, xem chừng chúng đang nôn nóng rời khỏi đây thì phải. Tốt lắm, vậy thì chúng ta để chúng đi qua, đằng nào trong rừng... hừ hừ, biết đâu chúng lại nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt cũng nên!” Tây Mễ bật cười nanh ác, nói với Max: “Chúng ta rút về phía phải!”

Max thắc mắc: “Sao không tiến lên chặn phía trước chúng luôn?”

Tây Mễ liền sẵng giọng mắng: “Đồ ngu, lúc tao với mày áp sát được phía bên đó thì chúng cũng nhìn thấy chúng ta rồi. Mày nghĩ hai chúng ta có thể giết hết ngần ấy người chắc?”

Đã đến gần cửa sổ, Nhạc Dương lấy làm lạ nói: “Cường Ba thiếu gia, anh xem trong nhà hình như có bóng người!”

Là cửa sổ không đóng, bóng cây đung đưa! Trác Mộc Cường Ba cũng đã thấy, gã hiểu rõ, giờ phút này chỉ cần phán đoán sai một chút, sẽ lập tức có người bị thương, tuyệt đối không thể để xảy ra sai sót nữa. Gã vẫn nhớ lúc mới tới Thác Nhật, tất cả cửa sổ đều đóng chặt, vì ở đây thường có gió rất lớn. Nhưng giờ đây, cửa sổ của cả dãy nhà đều đã mở ra hết, tại sao kẻ địch lại mở cửa sổ? Để tiện quan sát, tấn công hay bỏ chạy? Không đúng, mục đích của chúng là... kéo dài thời gian và khiến đối phương ngộ nhận, cũng giống như kế không thành của Gia Cát Lượng vậy, đây là một dạng chiến thuật tâm lý! Có lẽ kẻ địch đang dịch chuyển về phía trái, nếu tốc độ của chúng đủ nhanh, sợ rằng sẽ đến phía sau lưng mình, như vậy thì cả bọn sẽ vẫn bị giam chân ở đây. Nhưng trong hoàn cảnh này, mạo hiểm xông vào trong nhà cũng rất nguy hiểm, rốt cuộc bọn chúng có bao nhiêu tên? Không may chúng để lại một tên nấp bên trong những tấm mành đang đung đưa bất định kia thì sao nhỉ?

Nhạc Dương vừa mới dứt lời, Trác Mộc Cường Ba cũng đã có phán đoán của riêng mình - “Pháp sư Á La!” Pháp sư Á La là người duy nhất trong bọn họ có thể tiến vào trong nhà thám thính tình hình. Hai chân pháp sư Tháp Tây đã đứt, đi lại không tiện, hoàn toàn không có ưu thế ở chốn đất bằng này.

Pháp sư Á La hiểu dụng ý của Trác Mộc Cường Ba, ông vốn đang ở phía trước đội hình dịch chuyển. Chỉ thấy hai tay hai chân pháp sư cùng lúc phát lực, vẫn giữ nguyên tư thế khom khom người đó nhảy vụt qua cửa sổ vào bên trong. Nhìn tư thế nhảy ấy của pháp sư Á La, Trác Mộc Cường Ba bất giác nhớ lại lúc Lữ Cánh Nam huấn luyện họ thực hiện động tác này từng giải thích: “Phương thức nhảy dùng cả tay lẫn chân này, dễ nghe thì gọi là nhảy kiểu linh dương, khó nghe hơn một chút thì kêu là nhảy ếch, có điều trong một số hoàn cảnh đặc biệt, lại rất hữu dụng.”

Lúc này, pháp sư Á La trong nhà đã phát ra tín hiệu an toàn. Trác Mộc Cường Ba nói: “Mau, tất cả vào nhà!” Lần lượt từng người từng người, đều dùng kiểu nhảy ếch đó bật vào qua cửa sổ. Trác Mộc Cường Ba bất giác lại trầm ngâm suy nghĩ, kẻ địch không để người canh phòng trong này, cũng có nghĩa là, nhân thủ của chúng không nhiều, thậm chí còn ít hơn chúng ta nữa, chúng đang dịch chuyển về phía trái, như vậy vừa có thể kiềm chế chúng ta, lại có cơ hội rút lui ra bãi đá ngầm bên ngoài, chúng ta phải đối phó thế nào đây?

Nếu họ rời khỏi những gian nhà này, thẳng tiến vào rừng cây, coi như chỉ chạm mặt rồi lướt qua những kẻ đã đồ sát hết binh sĩ ở Thác Nhật, thì mấu chốt nhất là những kẻ ấy sẽ trở thành một mối uy hiếp tiềm tàng của họ, cũng giống như tên Ngưu Nhị Oa kia vậy, nói không chừng chúng lại trốn ở đâu đó bắn trộm họ cũng nên; nhưng nếu ở lại đây tiêu diệt kẻ địch, vậy thì họ buộc phải bỏ lỡ chút ánh sáng cuối cùng của ngày, không thể không qua đêm ở Thác Nhật. Dù nói là ngày mai vẫn còn một ngày để đi tới Tước Mẫu, nhưng không ai dám đảm bảo dọc đường không xảy ra chuyện gì bất ngờ ngoài ý muốn, như giờ đây họ đang bị mắc kẹt ở Thác Nhật này, vậy thì tính mạng của đội trưởng Hồ Dương và Mẫn Mẫn sẽ cực kỳ nguy cấp. Còn một vấn đề nữa, những kẻ này sau khi tiêu diệt toàn bộ binh sĩ ở Thác Nhật, tại sao còn ở lại đây? Bọn chúng đang đợi gì? Rõ ràng chuyện này rất có vấn đề. Mặc kệ nó! Đối với những vấn đề không thể phỏng đoán, Trác Mộc Cường Ba lựa chọn tạm thời gác sang một bên, đưa ra quyết định: giải quyết nguy cơ của Đường Mẫn và đội trưởng Hồ Dương trước. Những kẻ địch này, cứ để chúng chạy đến Yaca cũng được, chắc gì đã gặp lại lần nữa.

Thế nhưng, đột nhiên trong rừng vẳng lại một tiếng hú dài “Ù....”, giống như còi tàu sắp rời bến, hay tiếng tù và báo hiệu cuộc chiến sắp bùng nổ. Tiếng rít vang lên trong ánh hoàng hôn ấy khiến Trác Mộc Cường Ba lại rơi vào tình trạng tiếng thoái lưỡng nan. Lúc này tiến vào rừng đước, đợi chờ bọn họ không chỉ là một trận địa cạm bẫy dày đặc, mà đáng sợ hơn nữa là lũ động vật hung dữ kia. Gã sực hiểu ra, chẳng trách mấy tên kia lại không rời khỏi Thác Nhật, một là không có thuyền, hai là trong rừng lại có vô số sát thủ đang tiềm phục, kẻ địch của bọn gã cũng bị vây khốn ở nơi này. Lúc này, rõ ràng đối phương muốn cướp đoạt cái bè gỗ, có bè gỗ, muốn đi Yaca hay vòng qua Thác Nhật đều được cả. Ngay cả bọn gã, muốn rời khỏi nơi đây, nói không chừng cũng phải dùng đến cái bè gỗ ấy!

Nghĩ thông được điểm này, Trác Mộc Cường Ba tức thì quyết đoán hạ lệnh: “Chuẩn bị chiến đấu, không cho chúng xông lên!”

Trương Lập lấy làm ngạc nhiên hỏi: “Nhưng mà, không phải chúng ta đang vội về Tước Mẫu sao?”

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Không vội được, các cậu không nghe ra âm thanh vừa nãy là gì à? Đó là tiếng kêu của người Lỗ Mặc. Kẻ địch của chúng ta cũng bị bọn sát thủ ấy vây khốn ở Thác Nhật, vì vậy nên chúng mới không rời khỏi đây. Giờ chúng đang muốn cướp thuyền của chúng ta, mà lúc này, e rằng chúng ta cũng rất cần đến cái bè gỗ đó.”

Pháp sư Á La nói: “Tôi có thể cõng pháp sư Á La xông về Tước Mẫu trước.”

Trác Mộc Cường Ba phản đối: “Không được, làm vậy quá nguy hiểm, chúng ta không biết trong rừng rốt cuộc có bao nhiêu con thằn lằn nguy hiểm ấy. Bọn chúng không phải là cạm bẫy chỉ biết ở yên một chỗ, mà đều là vật sống, lại hoạt động tập thể như một bầy sói, tôi không thể yên tâm với vết thương của pháp sư Tháp Tây được.” Đội trưởng Hồ Dương từng cảnh cáo gã, không thể vì cứu một người mà bù vào bằng tính mạng của hai người khác, như vậy dẫu có cứu được thì cũng chẳng có ý nghĩa gì. Pháp sư Á La nghĩ ngợi giây lát, rồi cũng gật đầu cho là phải.

“Vậy giờ chúng ta tính sao đây?”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt liếc sang phía Lữ Cánh Nam nói: “Sắp xếp phương án tác chiến một chút, trước tiên phải giành chiếm địa hình có lợi. Cả khu này chỉ lớn chừng đó, dãy nhà này đối diện với chúng ta như hình chữ “U”. Bên dưới là vách đá dựng ngược và bãi đá ngầm, chỉ có chỗ chúng ta lên bờ và hai rìa bên trái phải của dãy nhà là xuống được bên dưới thôi. Bây giờ kẻ địch đang muốn xuống dưới bãi đá ngầm, cái dốc bên trái này chính là đường duy nhất của chúng. Chúng ta đứng ở cuối dãy nhà chắc hẳn có thể trông thấy chúng rồi, Ba Tang, anh sắp đặt một điểm bắn tỉa ở chỗ này; ngoài tháp canh, mặt ngang của hình chữ “U” này mới là cao điểm khống chế cục diện, Nhạc Dương, Trương Lập và tôi, ba chúng ta sẽ qua đó; nóc nhà rõ ràng là có tầm nhìn rộng hơn mấy ô cửa sổ này, nếu trên tháp canh không có ai quan sát, thì nóc nhà còn ẩn nấp dễ hơn nhiều, pháp sư Á La và Cánh Nam, hai người lên trên đó, chú ý giữ an toàn.” Trác Mộc Cường Ba vừa nói, vừa vạch bản đồ địa hình trên mặt đất, trong vòng ba mươi giây đồng hồ đã bố trí nhân thủ xong xuôi.

Tây Mễ và Max cũng nghe thấy tiếng gào rú như của loài ác ma chốn địa ngục vẳng về ấy, cả hai cùng nhớ lại cuộc sống khốn khổ khốn nạn mấy ngày nay, Tây Mễ đột nhiên ngừng chạy, tựa hồ bị âm thanh kia làm cho khiếp sợ đến thần người ra. Max cũng vội vàng dừng lại theo, y đương nhiên không có dũng khí một mình chạy lên phía trước. Hỏi người chuyên nghiệp những vấn đề liên quan đến nghiệp vụ của họ, đây là sở trường của ông chủ y, riêng bản lĩnh này thì Max học cũng rất tới nơi tới chốn. “Chuyện gì vậy đại ca Tây Mễ? Có gì không ổn à?” Max cung kính đưa ra một loạt câu hỏi.

Tây Mễ nói: “Mày có nghe thấy những âm thanh đó không?”

“Dĩ nhiên rồi, giờ cứ hễ nghe thấy âm thanh đó là tôi lại thấy rùng hết cả mình.”

“Vậy mày nói xem, đối thủ của chúng ta có nghe thấy không?”

“Chuyện này thì đương nhiên rồi, âm thanh đó vang rất xa mà.”

“Vì vậy không thể tiến lên trước nữa, lúc này mà xông ra, thì chỉ có ăn đạn thôi.”

Tây Mễ vừa quan sát hoàn cảnh xung quanh chỗ mình đang đứng, vừa nói: “Nếu là tao, ít nhất sẽ để lại hai tên bắn tỉa chờ đợi; nóc nhà là cao điểm khống chế, tao cũng phái người đi chiếm lấy; hơn nữa còn phái thêm một nhóm khác đi vòng qua dãy nhà để bọc vây.” Nếu Trác Mộc Cường Ba nghe được suy nghĩ hoàn toàn tương đồng của Tây Mễ, thực không biết gã sẽ có cảm tưởng như thế nào nữa.

Max nói: “Vậy, chúng ta vào trong rừng chứ?”

Tây Mễ nhìn ra bên ngoài cửa sổ, rừng cây đước tăm tối tựa như vô số con quái thú đang nhe nanh múa vuốt, y lắc đầu nói: “Không, trong ấy là bàn ăn của thần Chết, nhưng nếu có thể dẫn dụ bọn Trác Mộc Cường Ba vào trong rừng thì cũng không tệ đâu. Có điều, kẻ địch của chúng ta rất tinh minh, khó mà khiến chúng mắc bẫy được. Giờ cách tốt nhất chính là ở lại chỗ này, chuẩn bị cho chúng một đòn phủ đầu. Phải rồi, chúng ta còn bao nhiêu miếng Cơn Lốc Đen?”

Max lục tìm trong túi, nói: “Ba miếng.”

Tây Mễ gật đầu: “Tao còn hai miếng. Đặt một miếng ở đây, hẹn giờ một tiếng. Để cái gì đấy lên trên che nó đi, đừng để ánh sáng của đồng hồ hẹn giờ lộ ra ngoài.”

“Một tiếng?” Max không hiểu.

Tây Mễ nói: “Đúng thế, một tiếng đồng hồ sau, dù chúng ta chạy rồi hay chết mẹ nó rồi, bọn chúng cũng đều lơ là cảnh giác, mà chỗ này cũng sẽ hoàn toàn tối đen như mực. Đến lúc ấy, tặng chúng một món quà bất ngờ, không phải sẽ rất vui sao?”

Max được thể liền xun xoe lấy lòng: “Chiêu này quả nhiên thật cao minh. Nếu là tôi, không, sợ rằng dù là ông chủ, cũng chưa chắc đã nghĩ ra được cũng không chừng...”

Trác Mộc Cường Ba cảm thấy như có thứ gì đó nhoi nhói lên trong lòng, dự cảm bất an ấy khiến gã càng cẩn trọng hơn, gã dùng thiết bị liên lạc hỏi Ba Tang: “Có thấy chúng không?”

“Không.” Giọng Ba Tang vẫn băng lạnh như thế.

“Pháp sư Á La?”

“Không có ai xuất hiện.”

Trác Mộc Cường Ba giơ tay lên, Trương Lập và Nhạc Dương cũng dừng lại, nấp vào chỗ khuất ánh sáng. Trác Mộc Cường Ba nói: “Chúng không xuất hiện phía sau dãy nhà, vậy có nghĩa là chúng đã nghĩ đến khả năng sắp xếp này của chúng ta rồi, nói không chừng đang ở phía trước chờ tấn công chúng ta cũng nên. Giảm tốc độ xuống, Trương Lập, có phải lấy được thiết bị khuếch âm từ chỗ Ngưu Nhị Oa không? Phóng đại âm thanh trong dãy nhà đó lên, chúng ta thở thật nhẹ thôi, chầm chậm tiến lên, phải tìm bằng được bọn chúng!”

Trương Lập đổi nút tai nghe, trong chớp mắt, tất cả âm thanh trong dãy nhà đều được phóng lớn lên, tiếng thở, tiếng bước chân rất nhẹ, tiếng gió thổi. Trương Lập cẩn thận phân biệt từng âm thanh một, ba người bước từng bước nhỏ, chầm chậm dịch chuyển về phía trước.

Giây lát sau, Tây Mễ chợt nói với Max trong bóng tối: “Mày nghĩ từ đầu kia dãy nhà này đi qua đây mất bao lâu?”

Max đáp: “À, chừng nửa phút?”

Tây Mễ lập tức nói: “Vậy thì đúng rồi, chúng ngần ngừ không tiến lên, nhất định là đã biết chúng ta đang phục kích giữa đường, khốn thật! Chúng có thiết bị liên lạc, tất nhiên biết chúng ta chưa ra khỏi gian nhà này!”

Max thắc mắc: “Sao chúng biết chúng ta không luồn ra ngoài chạy vào rừng chứ?”

Tây Mễ tức tối quát: “Thằng ngu, mày tưởng bọn thằn lằn khốn kiếp kia biết phân biệt ai là địch ai là bạn chắc? Mà mày có phải Thao thú sư gì đó đâu! Lại còn trận địa cạm bẫy kia nữa, chắc hẳn chúng cũng nếm qua rồi. Đi! Đi ra ngoài trước!” Dứt lời Tây Mễ liền nhao qua cửa sổ, giẫm mạnh xuống đất bùn vài cái, dùng một loại bộ pháp hết sức kỳ quái, khom lưng chạy một mạch dọc theo bờ tường.

Trương Lập nghe thấy một loạt tiếng động lạo xạo, nhưng anh chưa được huấn luyện chuyên nghiệp như Ngưu Nhị Oa, nên thậm chí không thể phân biệt được những âm thanh ấy là tiếng chân giẫm lên cỏ hay gió thổi lá cây. Thấy đã gần đến cuối dãy nhà, Trương Lập bỏ tai nghe xuống lắc lắc đầu, tỏ ý không thể tìm thấy kẻ địch ở đâu.

Tây Mễ và Max náu mình phía sau một thân cây gần gian nhà đó nhất, Tây Mễ trầm ngâm nói: “Nhất định phải nghĩ cách đánh lạc hướng chú ý của tên bắn tỉa. Nhưng nóc nhà và cửa sổ giống như mâu và thuẫn có thể đổi tay bất cứ lúc nào, phòng ngự và tấn công đều bổ trợ cho nhau được, muốn tấn công được chúng, nhất thiết phải chiếm được chỗ nào cao hơn. Nhưng cao điểm đều bị chúng chiếm lĩnh cả rồi, chúng ta chỉ có thể...” Y ngẩng đầu lên nhìn về phía tháp canh.

Max vội nói: “Nhưng mà, không phải anh nói, đó là nơi cực kỳ nguy hiểm à? Đó là chỗ có khả năng trở thành mục tiêu tấn công nhất mà?”

Tây Mễ cười gằn lạnh lẽo: “Đúng thế, nhưng cũng có lúc, nơi nguy hiểm nhất lại cũng chính là nơi an toàn nhất, chuyến này phải mạo hiểm đánh cuộc một phen vậy. Bọn chúng cho rằng, sắc trời mỗi lúc một tối hơn, nơi nhô cao lên như tháp canh kia giống như một tiêu điểm, rất dễ thu hút mọi ánh mắt, ngược lại sẽ bỏ qua mất. Hừ, nếu chiếm được tháp canh, giải quyết xong kẻ địch trên nóc nhà, muốn lập tức rút lui cũng không phải là điều không thể. Chỉ có điều, chúng ta không thể hành động cùng lúc thôi.”

Bộ dạng Max có vẻ hết sức căng thẳng: “Đại ca Tây Mễ, anh, anh nói là, chúng ta tách nhau ra à?”

Tây Mễ nhìn chằm chằm vào Max: “Mày sợ à? Loại như mày cũng coi như đã theo Merkin vào sinh ra tử nhiều năm nay rồi, tao thật không hiểu, sao một thằng như mày lại sống được đến ngày hôm nay nữa? Nhớ kỹ đây, nếu không làm theo lời tao, rất có thể, chỗ này sẽ là đất chôn thây của tao với mày đấy, chỉ còn cách đánh liều một phen, mới có hy vọng giành được chiến thắng cuối cùng thôi.”

Max nhìn sắc trời, gật gật đầu, trong mắt vẫn lộ ra vẻ khiếp hãi. Tây Mễ hài lòng nhìn y, rồi bóp chặt lên hai vai gã đàn ông cao lớn ấy truyền cho y chút dũng khí, nhấn giọng cổ vũ: “Yên tâm, mày sẽ làm được. Bây giờ, tao cần mày vòng ra phía sau bọn chúng, sau đó...”

Trong bóng tối, một quả bóng chớp chớp lên những tia sáng màu đỏ lập lòe lục cục lăn ra, đây là quả đạn hấp dẫn mà tối qua Trương Lập đã tận dụng các thiết bị còn thừa cải tiến ra, ánh đỏ chớp chớp ấy rất dễ khiến người ta liên tưởng đến các loại vũ khí như bom hoặc lựu đạn lóa. Nhưng sự thực là, quả bóng nhỏ ấy chỉ biết lập lòe ánh đỏ, chẳng hề có gì nguy hiểm hết. Có điều, nếu kẻ địch thật sự ở trong nhà, chắc chắn chúng sẽ nhanh chóng có phản ứng, cho dù là nổ súng hay nhảy qua cửa sổ bỏ chạy, cũng sẽ đều bại lộ tung tích.

Không có bất cứ động tĩnh gì, trong gian nhà ấy không có người. Trác Mộc Cường Ba không khỏi lấy làm ngạc nhiên, chẳng lẽ bọn chúng mọc cánh bay đi mất rồi? Hay là, vốn chẳng có kẻ địch gì hết, tất cả đều chỉ là phán đoán sai lầm?

Trương Lập thở phào một hơi, chúc nòng súng xuống: “Phù, xem ra chúng ta đa nghi quá rồi.”

“Không, có kẻ địch, chúng xông ra rồi, bên ngoài cửa sổ!” Trác Mộc Cường Ba nhìn cánh cửa sổ đung đưa trong gió, khẳng định một cách chắc chắn.

Trương Lập vội giương súng lên, nói: “Sao lại thế, bọn chúng điên rồi chắc? Bên ngoài là địa bàn của người Lỗ Mặc mà, hay là, chúng sợ đến nỗi chẳng kịp nghĩ trước nghĩ sau gì nữa?”

Nhạc Dương gật đầu nhận định: “Cường Ba thiếu gia nói không có sai, chúng từng mai phục ở chỗ này, ngay trước khi chúng ta đến một chút thôi, vừa mới đi khỏi!” Anh chỉ vào một góc nhà, phía ấy có dấu vết rất rõ rệt.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Trong rừng đước có một trận địa cạm bẫy, giữa bọn người Lỗ Mặc và Thác Nhật vẫn còn một khoảng đệm, chắc là chúng lợi dụng vùng đệm này để thực hiện chiến thuật vu hồi. Vấn đề lúc này là, bước tiếp theo bọn chúng muốn làm gì?” Suy nghĩ của gã xoay chuyển cực nhanh trong óc. Tại sao kẻ địch lại rời khỏi chỗ này? Như vậy tức là, bọn chúng biết mấy người bọn gã đã cảnh giác, phải rồi, bên mình vẫn chưa thấy bọn chúng, nhưng kẻ địch đã quan sát từ khi bọn gã đặt chân lên bờ. Bọn chúng biết nhân số và vũ khí của bọn gã như thế nào, bọn chúng rời đi, chứng tỏ rằng vũ khí và nhân số của chúng không bằng mình. Nhưng đi vòng qua vùng đệm ấy, thực sự chẳng khác nào nhảy múa trên lằn ranh sinh tử, mục đích của chúng có lẽ là cướp cái bè gỗ nhỏ của chúng ta, nhưng giờ phía mình đã chiếm hết các cao điểm rồi, bọn chúng làm sao ra được khu bãi đá ngầm chứ?

Lúc này, lời nói của giáo sư Phương Tân bỗng văng vẳng bên tai gã: “Khi cậu do dự, hãy đừng ngại hỏi ý kiến của mọi người, đặc biệt là ý kiến của các chuyên gia.” Mà lúc này, vẫn còn hai chuyên gia tác chiến của bộ đội đặc chủng vẫn chưa phát biểu gì.

“Các vị, có kiến nghị gì không?” Trác Mộc Cường Ba hỏi, thông qua thiết bị liên lạc, thông tin bọn họ nhận được đều giống nhau. Lữ Cánh Nam lập tức trả lời: “Mục đích của chúng là cướp cái bè gỗ của chúng ta, chúng lẩn tránh như vậy, ít nhất cũng chứng tỏ một điều rằng, chúng tự cho mình ở thế yếu hơn. Nếu một nhóm yếu hơn muốn giành phần thắng khi bị chúng ta bao vây, chúng nhất thiết phải đánh lạc hướng chú ý của bọn ta trước, mà không bao lâu nữa, bóng tối sẽ trở thành tấm lá chắn lớn cho chúng rồi, đến lúc ấy thì ưu thế về vũ khí cũng như nhân số đều sẽ mất đi.”

Còn Nhạc Dương sau mấy lần thăm dò, đã phán đoán được kẻ địch không nấp trong rừng cây bên ngoài ngắm vào trong cửa sổ, anh nhảy qua cửa sổ quan sát, Trương Lập bên trong yểm hộ. Nhạc Dương cúi rạp mình xuống đất săm soi một hồi: “Vết chân rất loạn, không thể phán đoán được có bao nhiêu tên, đợi chút... tuy độ sâu của dấu chân hơi khác nhau, nhưng vết giày thì giống hệt, chỉ có hai cỡ... đúng rồi, chỉ có hai cỡ thôi!”

“Dấu chân rối loạn như thế nào?” Ba Tang bỗng cất tiếng hỏi.

“Ừm, rõ ràng là kẻ địch vừa tiến vừa lùi, làm hai hàng vết chân biến thành mấy hàng, hơn nữa còn cố ý giẫm mạnh rồi lại thả bước nhẹ, nếu không dừng lại quan sát kỹ lưỡng thì rất khó mà nhận ra được.” Nhạc Dương cuối cùng bổ sung thêm: “Chắc không có gì đặc biệt, người bình thường được huấn luyện một chút cũng có thể dễ dàng thực hiện.”

Nhưng Ba Tang vẫn hỏi lại: “Cậu nhìn kỹ lại xem, có phải đa số vết chân đều trước mạnh sau nhẹ không?”

Nhạc Dương gật đầu: “Hình có vẻ như nửa bàn chân phía trước nhấn xuống nhiều hơn, có điều vết giày lớn hơn kia lại rất bình thường.”

“Những vết chân ngụy trang đó kéo dài đến đâu?”

“Ừm... không biết, tôi toàn nhìn thấy những vết chân kiểu ấy. Kỳ lạ thật, thời gian rất ngắn, sao có thể để lại một vệt dấu chân ngụy trang dài như thế nhỉ? Hay là tôi lầm?”

“Trên cửa sổ có cái đinh hay thứ gì khác giống vậy không?” Ba Tang lại hỏi. Dường như anh ta đã nắm bắt được điều gì đó, rất hiếm khi bọn Trác Mộc Cường Ba thấy anh ta hỏi đi hỏi lại một chuyện thế này.

“Không có,” Nhạc Dương đáp, “nhưng có một cái lỗ đinh, có tác dụng gì không?”

Ba Tang không trả lời, có điều trong cánh mũi dường như phát ra một tiếng “hừ” nhẹ lạnh lùng.

Chương 38

Lọt lưới

Lữ Cánh Nam nhận xét: “Kẻ địch chỉ có hai tên, bọn chúng muốn tránh khỏi sự phong tỏa của chúng ta. Đánh lạc hướng chú ý của chúng ta thì khó hơn nhiều, chúng hành động tập thể, không dám mạo hiểm tách nhau ra, chắc hẳn là không có thiết bị liên lạc, sợ tách ra thì không thể chi viện cho nhau được. Hơn nữa, bọn chúng từ đầu đến giờ vẫn chưa từng xuất hiện trong tầm nhìn của chúng ta, tuy chúng ta không thấy được chúng, nhưng chúng cũng không thể biết được bên ta sắp xếp cụ thể thế nào. Tôi nghĩ, bọn chúng cũng chỉ dựa vào suy luận để phán đoán tình hình phía chúng ta, nếu có thể sắp xếp lại ở những điểm chúng không thể ngờ tới, biết đâu lại có thu hoạch gì đó cũng nên.”

“Không,” Ba Tang ngắt lời, “bọn chúng nhìn thấy chúng ta đấy.”

“Gì hả?”

“Những cánh cửa sổ mở toang kia không đơn giản chỉ để làm mê hoặc kẻ địch thôi đâu, đó được gọi là Điệu múa gương của đội Nhện Xanh. Trên đồng phục của biệt đội Nhện Xanh, dù là những thứ tầm thường nhất, chẳng hạn như cúc áo, hay những thứ trang trí quân huy, huân chương, cũng đều có tác dụng riêng. Chúng giống như kính chiếu hậu của xe ô tô vậy, có thể cung cấp cho chúng tôi rất nhiều thông tin trong những hoàn cảnh đặc biệt. Bên cạnh cửa sổ mở toang đó, chỉ cần một cái đinh mũ nhỏ, là có thể khiến chúng ta hoàn toàn lộ mình ra trước mặt kẻ địch rồi. Những thành viên tinh thông kỹ thuật này trong biệt đội Nhện Xanh thậm chí không cần đo đạc điều chỉnh gì, trong lúc bỏ chạy vẫn có thể bố trí chuẩn xác mấy chục món đồ phản quang kiểu như đinh mũ, thông qua sự phản xạ của ánh sáng, tất cả thông tin cần thiết đều có thể lọt vào tầm mắt y cả.”

“Anh Ba Tang, ý anh là, bên phía kẻ địch có một tên từng thuộc biệt đội Nhện Xanh ngày trước của anh à?” Nhạc Dương lấy làm thắc mắc: “Có chắc chắn không?”

Ba Tang đáp: “Đúng vậy, phán đoán của cậu về vết chân bên ngoài cửa sổ rất chính xác, đích thực chỉ có hai người, có một trong hai tên đó sử dụng bộ pháp đặc thù của biệt đội Nhện Xanh chúng tôi, chuyên dùng để mê hoặc kẻ địch trong khi vẫn chạy với tốc độ cao. Hắn không hề bước giật lùi, bộ pháp này gọi là Bước nhảy Clacket, dùng mũi chân liên tiếp di động với tốc độ cao, khoảng cách người thường chỉ cần bước một bước, chúng tôi có thể biến thành như có mấy người cùng giẫm đạp lên đó vậy. Ưu thế lớn nhất của phương pháp này chính là, nó không ảnh hưởng đến tốc độ. Tuy bước chân nhỏ hơn, hơn nữa lại làm tăng độ lệch của tuyến đường di chuyển, nhưng tần suất nhấc chân lên hạ chân xuống thì tăng lên rất nhiều. Có điều, phương pháp Bước nhảy Clacket này cũng chỉ thích hợp với một số hoàn cảnh đặc thù, tỷ dụ như nền đất bùn và rừng cây đước rất dễ ẩn mình ở đây chẳng hạn.”

Trương Lập đột nhiên nói: “Anh Ba Tang, anh từng nói, ngoài anh ra, chỉ còn một tên...”

“Ừm, Tây Mễ, biệt hiệu là Nhện Tơ Vàng.” Ba Tang khẳng định một cách chắc nịch.

Trong giọng nói của Ba Tang toát lên một vẻ hưng phấn khó tả. Trác Mộc Cường Ba thậm chí còn cảm nhận được, đó là tín hiệu phấn khích của một kẻ săn mồi khát máu gặp phải đồng loại của mình vậy! Gã hỏi: “Vậy thì, giờ chúng ta phải thay đổi thế nào? Nếu là biệt đội Nhện Xanh, bọn họ sẽ xử lý tính huống này ra sao?”

Ba Tang bật cười lạnh lẽo: “Mê hoặc kẻ địch!”

Trong rừng cây, Tây Mễ đang xoay xoay một cái cúc áo bằng kim loại, đột nhiên, y bỗng dừng động tác trên tay lại, trên nóc nhà phía xa xa có người đang lom khom dịch chuyển, ánh sáng phản xạ qua một vật phản quang khác được y sắp đặt từ trước truyền thông tin ấy đến. Tuy ở trong cái cúc áo, muốn nhận ra có người di động hay không còn khó hơn là nhận ra một sợi tơ nhện treo lơ lửng trên không, nhưng đôi mắt Tây Mễ cơ hồ không còn là mắt người thường nữa, y vẫn có thể nắm bắt được những thông tin cực kỳ nhỏ nhặt này. Tây Mễ cười thầm lạnh lẽo: “Cuối cùng cũng phát hiện được góc chết trong tầm nhìn của điểm bắn tỉa phía bên phải kia rồi hả? Người bạn cũ kia, chắc cũng phát hiện được thông tin đặc biệt ta để lại rồi chứ nhỉ, hắn muốn giết ta như vậy cơ mà. Chắc hẳn hắn sẽ nghĩ, muốn làm gì đó ngoài tầm dự liệu của ta, thì duy chỉ có cách khiến tầm nhìn của ta bị mê hoặc, muốn như vậy, thì phải điều chỉnh lại vị trí. Thằng Max không kịp đến chỗ đã định trước kia rồi, thằng ngu ấy hẳn sẽ bị phát hiện giữa đường, nhưng với thực lực của hắn chắc cũng vẫn cầm cự được một lúc, đó chính là cơ hội của ta.” Tây Mễ rất hài lòng, mọi sự đều nằm trong tính toán của y cả.

Max nhắm được một cơ hội, lao ra khỏi khu rừng, dán mình sát vách tường. Y không dám ở lại quá lâu trong rừng, một là vì nơi đó ở cách xa dãy nhà, càng áp sát phía bên phải dãy nhà, khả năng bị phát hiện khi đang di chuyển trong rừng càng lớn; hai là những âm thanh trong rừng vang lên mỗi lúc một gần hơn, khiến y nghe mà không khỏi rùng mình vì sợ hãi, sợ hãi thực sự chứ không hề có chút ngụy tạo nào cả. Vị trí hiện giờ tạm coi như an toàn, Max thầm suy tính, chỉ cần thận trọng là sẽ đến được vị trí Tây Mễ đã nói kia. Chỉ là, đến lúc đó, liệu Tây Mễ có leo lên tháp canh, tiêu diệt mấy tên bắn tỉa như kế hoạch đã định hay không? Max lại nghiền ngẫm một lượt nữa trong đầu toàn bộ kế hoạch của Tây Mễ, không tìm được sơ hở nào, có vẻ như rất hợp lý. Y hơi do dự, nên bỏ Tây Mễ lại hay tiếp tục hợp tác đây? Dẫu sao, trong cả chặng đường sau này, có một tên chắn phía trước mình vẫn an toàn hơn, sau khi cân đi nhắc lại, Max tiếp tục men theo mép tường nhích dần, bộ dạng lén la lén lút như một con chuột cống.

Mới được hai ba bước, bỗng nhiên có một ít bụi rơi xuống chóp mũi Max. Y vội thẳng người như cây sào, áp chặt vào bờ tường, trên nóc nhà có người! Tuy đối phương không phát ra âm thanh gì, nhưng sự ma sát rất nhẹ đó đã thay đổi vị trí của bụi bám trên nóc, khiến một ít bụi ở mép rơi xuống. Max kinh hãi đến độ không dám thở mạnh, đồng thời các ý nghĩ cũng nhanh chóng chuyển động trong đầu như điện chớp. Tại sao trên nóc nhà lại có người?

Trong kế hoạch của y và Tây Mễ, đâu có dự tính đến chuyện đối phương cũng dịch chuyển khắp nơi, vậy chẳng phải sẽ làm lộ mình ra trước họng súng của bọn y rồi hay sao? Trừ phi kẻ địch biết được nhân số và vũ khí trang bị của bọn y, đồng thời cũng biết bọn y đang dịch chuyển, hơn nữa còn đã tách nhau ra. Không kịp nghĩ ngợi gì nữa, Max đột nhiên có một dự cảm chẳng lành, y chầm chậm co một chân, gác lên cửa sổ, kế đó dang tay ra, trọng tâm cơ thể dịch chuyển sang cánh tay và cái chân kia, lộn vào bên trong nhà. Trông bộ dạng y lúc này thực chẳng khác nào một con rùa vụng về, tuy chậm chạp nhưng không hề phát ra bất cứ âm thanh nào.

Max vừa lộn vào trong, Nhạc Dương cũng men theo mép tường rẽ ngoặt qua, anh vừa cảnh giác quan sát rừng cây, vừa lần tìm dấu vết dưới chân tường. Max ở trong nhà còn chưa kịp thở phào, Trương Lập đã từ một phía khác vòng qua. Lúc này Max đột nhiên không còn là tên nhát gan gặp chuyện gì cũng run lên kia nữa, tựa hồ đã biến thành một người hoàn toàn khác vậy. Max nín chặt hơi thở, lỗ chân lông thu nhỏ lại, thân thể bắt đầu lạnh băng như mặt tường. Chỗ y nấp nằm hoàn toàn trong bóng tối đen kịt, gần như đã hòa làm một thể với màn đen dày đặc, tư thế giống như cái táp luy đầu giường, dù Trương Lập có đeo kính hồng ngoại sợ rằng cũng khó mà nhận ra được, càng huống hồ bọn họ không hề có thiết bị nhìn trong đêm.

Để đề phòng vạn nhất, một tay Max đã cầm chắc con dao săn, ánh mắt y tựa như rắn độc nhìn chằm chằm vào con mồi, nhưng trong đôi mắt ấy lại không hề loé lên dù chỉ một điểm sáng. Nhìn y lúc này, còn đáng sợ hơn lúc khống chế Đường Mẫn bội phần. Trương Lập cầm súng, dò tìm những mục tiêu khả nghi trong gian nhà, có điều, theo kế hoạch của Trác Mộc Cường Ba, làm vậy cũng chỉ để cho đối phương xem mà thôi, huống hồ bây giờ sắc trời đã tối mịt, trong nhà toàn những góc chết mắt thường không thể nào nhìn thấy được. Nhạc Dương đi qua bên ngoài cửa sổ, vẫy tay chào Trương Lập, Trương Lập cũng cười cười bước qua phía đó. Trong bóng tối, Max nhìn con mồi đến mỗi lúc một gần, bàn tay cầm cán dao từ từ bóp chặt lại.

Một bước, hai bước, ba bước... đồng tử Max co lại, gắng hết sức để quả tim đang đập nhanh như ngựa kia bình tĩnh trở lại. Cuối cùng, Trương Lập cũng dừng lại cách y chừng năm xăng ti mét, mũi chân anh suýt chút nữa thì chạm vào mặt Max, thậm chí y còn ngửi được cả mùi hôi từ trong chiếc giày kia tỏa ra: “Này, cậu nói xem làm vậy có hiệu quả không nhỉ?” Trương Lập nói.

Nhạc Dương không dừng bước, cười cười trả lời: “Anh muốn nghe cách nghĩ của tôi hả? Theo tôi ấy à, có lẽ chỉ có Nhện Xanh mới biết phải đối phó với Nhện Xanh như thế nào thôi. Tiếp tục chấp hành đi. Anh đứng đây rất dễ bị hắn nhìn ra sơ hở đó.” Nói đoạn, Nhạc Dương cũng đi khuất khỏi ô cửa sổ.

Trương Lập thò đầu ra ngoài nhìn ngó, trong rừng cây vẫn không có biểu hiện gì khác thường. Max vẫn đang co ro bên dưới chân Trương Lập, sự nhẫn nại của y đã đạt đến cực điểm, cơ hồ không thể nín nhịn được nữa rồi. Đồng thời, các lỗ chân lông đóng kín kia cũng không sao khống chế nổi nữa, những giọt mồ hôi đang giành giật không gian hòng chui ra ngoài. Nhưng y vẫn gắng gượng chịu đựng, không thể giết chết người này được, bọn đối phương có thiết bị liên lạc, chỉ cần có một chút động tĩnh, ắt sẽ làm kinh động đến những tên còn lại, lúc đó tự nhiên y sẽ trở thành bia lĩnh đạn, còn Tây Mễ thì có thể thừa cơ muốn làm gì thì làm rồi. Tại sao đối phương lại đột nhiên điều chỉnh như vậy chứ? Lẽ nào, tất cả chuyện này đều nằm trong tính toán của tên Tây Mễ kia? Hắn sớm đã đoán được mình sẽ bị lộ rồi ư? Hừ, hắn không hề có ý định xông lên tháp canh, mà chỉ cần mình tranh thủ thời gian cho hắn cướp thuyền bỏ trốn? Được lắm, tao vốn đợi lợi dụng mày làm bia đỡ đạn, không ngờ mày lại lợi dụng ngược lại tao. Tây Mễ, giỏi lắm, mày giỏi lắm! Nhìn Max lúc này đâu còn vẻ ngu xuẩn cum cúp thường ngày nữa, đôi mắt tựa loài rắn độc kia thật không khác ông chủ Merkin của y một chút nào!

Trương Lập tiếp tục bước đi, anh không hề cảm nhận được sự tồn tại của Max, cả Nhạc Dương và Ba Tang trên nóc nhà cũng vậy. Nếu họ biết, tên Max này nấp vào một góc nhỏ đến không thể nào nhỏ hơn trong vòng tuần tra của mình, không hiểu sẽ nghĩ thế nào nữa.

Tây Mễ lặng lẽ chờ đợi, nhưng rồi nhanh chóng nhận ra, đã quá thời gian y dự tính rồi mà vẫn không có bất cứ động tĩnh gì. Bọn Trác Mộc Cường Ba vẫn nhịp nhàng điều chỉnh vị trí, nếu Max hành động đúng theo kế hoạch thì không thể nào không đụng đầu với đối phương được. Lẽ nào, Max đã âm thầm giết chết được một tên trong bọn chúng rồi? Không, đám người này đều được huấn luyện đặc biệt một cách bài bản, thiết bị liên lạc đều bật liên tục, dù chỉ là con muỗi bay đến gần một người trong bọn, những tên khác cũng sẽ cảm ứng được. Vậy thì chỉ còn lại một khả năng... Max đã tránh được bọn chúng! Tây Mễ không khỏi cười gằn, “Thằng Max này, không ngờ còn giỏi hơn một chút so với trong tưởng tượng của ta. Có điều, vậy cũng không sao, ta vẫn còn một kế hoạch khác, thằng Max kia có thể nói là rất ngu xuẩn, nếu hắn tránh được bọn Trác Mộc Cường Ba, đến được điểm mai phục, lẽ ra hai bên sẽ cùng lúc làm náo động, nhưng nếu ta không hành động gì, vậy thì Max cũng sẽ thu hút hết sự chú ý của cả bọn kia. Đến lúc ấy, hắn không lấy một chọi năm sáu, thì cũng phải trốn vào rừng sâu. Mày tự cầu nguyện đi nhé, Max...”

Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La vẫn ở nguyên vị trí ban đầu, tập trung tinh thần chăm chú quan sát dãy nhà bên phải, đó là phòng tuyến cuối cùng mà kẻ địch muốn chọc thủng. Đột nhiên, sau lưng có âm thanh rất nhẹ vang lên, pháp sư Á La thấp giọng nói: “Để ta đi xem sao.”

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Cẩn thận.” Pháp sư Á La liền tụt khỏi mái nhà như một bóng u linh, lần này thì cả Tây Mễ cũng không thể dựa vào cái cúc áo kim loại để phát hiện ra sự thay đổi ấy.

Không lâu sau, tiếng pháp sư Á La vang lên trong thiết bị liên lạc: “Tôi phát hiện một cái bẫy chưa hoàn chỉnh do một tên trong bọn để lại, rõ ràng chúng muốn khiến cả khu rừng cùng lúc phát ra tiếng động, thu hút sự chú ý của chúng ta. Nhưng tên này đã thất bại, hắn không dám khẳng định âm thanh phát ra có làm kinh động chúng ta được hay không, vì vậy đã chạy vào rừng mất rồi.”

“Không phải con Nhện đó.” Ba Tang khẳng định: “Biệt đội Nhện Xanh tuyệt đối không bao giờ bỏ chạy kiểu đó, nếu nghi ngờ mình bị bại lộ, hắn sẽ ẩn nấp tại chỗ, chờ thời cơ tấn công.”

“Vậy thì, kẻ bỏ chạy kia chắc là một tên nhát gan rồi.” Nhạc Dương nói.

“Rừng cây này sẽ trở thành nơi yên nghỉ cho hắn.” Trương Lập thở phào nói. Giờ bọn họ chỉ cần phải đối mặt với một tên địch, hơn nữa đối phương còn đang ngu ngốc chờ đồng bọn hoàn thành kế hoạch, đâu biết rằng tên kia đã chạy biến đi mất rồi.

Lữ Cánh Nam nhắc nhở: “Không được lơ là, tên còn lại rất có thể là cựu thành viên của biệt đội Nhện Xanh, cuối cùng bọn chúng vẫn lựa chọn tách nhau ra, xem chừng có vẻ định liều chết đánh cuộc một phen rồi. Nếu cùng lúc làm cây rừng rung động, cộng với sắc trời lúc này, đích thực là có thể khiến chúng ta phân tán chú ý. Vấn đề là, sau khi đánh lạc hướng chú ý của chúng ta, bước tiếp theo bọn chúng sẽ có hành động gì?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chúng có thể lợi dụng khoảng thời gian ngắn ngủi đó xông về phía bãi đá ngầm, nhưng vậy quá nguy hiểm, chắc chúng cũng biết, dù chúng ta bị ảnh hưởng cũng không thể nào lơ là bỏ qua chỗ mép vách đá ấy được. Còn một khả năng nữa, là nhân lúc chúng ta bị phân tán sự chú ý, chiếm điểm cao có lợi, điều này thì có lẽ chúng ta dễ bỏ qua hơn.”

“Tháp canh!” Lữ Cánh Nam thốt lên, đó vốn chính là một trong ba nơi bọn họ cho rằng kẻ địch có thể xuất hiện.

“Vậy chúng ta có thể sắp xếp trước, nhưng mà, phải làm sao mới khiến con Nhện ấy hiện thân đây?” Trương Lập hỏi.

“Chúng ta chỉ cần khiến rừng cây rào rạc một phen là biết ngay thôi?” Ba Tang nói.

Nhạc Dương gật đầu: “Hay đấy, tương kế tựu kế, quả là chiêu độc.”

Tây Mễ tiếp tục xoay xoay cái cúc áo, thầm tính toán, thời gian cũng xấp xỉ rồi. Y hít sâu một hơi, điều chỉnh lại trạng thái tinh thần, giống như vận động viên chạy trăm mét chuẩn bị xuất phát vậy. Tiếp sau đó, cần phải để tinh thần và cơ thể đều đạt đến trạng thái tốt nhất, bất cứ sơ hở hay sai sót nhỏ nào cũng đều có thể dẫn đến nguy cơ chí mạng. Y ngước nhìn về phía tháp canh. Đó là một mũi giáo chọc thẳng lên nền trời hôn ám, đồng tử Tây Mễ giãn to, nhìn rõ từng khe hở giữa các viên gạch trên tháp, và cả những ngọn cỏ mọc trên mái nữa, trạng thái lúc này đã đạt đến mức độ tốt nhất rồi. Có cơ hội lên đó xem một lần cũng không phải một ý kiến tồi, chỉ tiếc rằng không phải lần này.

“Loạt soạt loạt soạt!” Tựa hồ như có cơn sóng ập qua, khoảng rừng phía đối diện y vang lên vô số âm thanh xào xạc. Max đã thành công rồi! Tây Mễ bắt đầu tăng tốc, lao về phía mép vách đá với tốc độ như vận động viên chạy trăm mét, khu nhà hình chữ “U” đã ngăn cản thị lực của bọn Trác Mộc Cường Ba, cơ hội này sẽ giúp y phóng qua được điểm mù trong tầm nhìn của tay bắn tỉa, chạy thẳng đến bên dưới tháp canh. Kế đó, cạm bẫy y sắp đặt từ trước sẽ tạo thêm một cơ hội nữa, đồng thời Max đã bị lộ mặt cũng phân tán phần nào sự chú ý của kẻ địch, vậy thì, y sẽ có thể đến được chỗ vách đá một cách thuận lợi.

Đáng tiếc thay, Tây Mễ vừa hiện thân, đã lập tức bị tay súng bắn tỉa bên phía Trác Mộc Cường Ba theo dấu. Nhạc Dương nói: “Thấy hắn rồi, đang chạy đến chỗ tháp canh.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Thu hẹp vòng vây, bất kể thế nào cũng không cho hắn thoát.”

“Hiểu rồi.”

Tây Mễ dựa vào phía sau tháp canh, há miệng thở hổn hển, quãng chạy gấp gáp không làm y thấy mệt mỏi. Mà bởi sự việc vừa xảy ra đã sém chút nữa khiến y mất mạng. Thật không ngờ, sau khi điều động lại nhân thủ, tay bắn tỉa kia vẫn rình rập vị trí này, căn bản không hề bị tiếng động kia làm xao lãng. Giờ y chỉ còn biết hy vọng kẻ địch không trông thấy mình trong ống ngắm, có điều giờ muốn xông ra chỗ vách đá chắc rằng không thể nữa rồi. “Con bà nó chứ, liều mạng thôi!” Tây Mễ nghiến răng, bắt đầu leo lên tháp canh.

Trong tính toán của Tây Mễ, nếu bọn Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa phát hiện ra y, vậy thì lên đó có thể quan sát được động thái của đối phương, chỉ cần Max bị phát hiện, y vẫn còn cơ hội; nếu tay bắn tỉa kia đã trông thấy y rồi, vậy thì ra tay bắn hạ đối phương trước, sau đó thử xem có tìm được Max không, nếu giúp hắn xử lý một hai cái đuôi đang bám theo, thằng nhãi ấy sẽ mang nợ y, mà đối với kẻ đang ở vị trí cao điểm này thì đó chẳng qua chỉ là chuyện vặt vãnh. Sau đó thì sẽ là một cuộc chiến công phòng, lấy cứng chọi cứng rồi, phải xem súng ai nhanh hơn, lòng dạ ai độc hơn, tay ai vững hơn... mắt thấy sắp leo lên đến nơi, đột nhiên phía trên có một người thò ra, đầu trọc! Chính là kẻ lợi hại nhất trong đám người kia, hơn nữa lão ta còn cầm vũ khí nữa! Tây Mễ gần như không kịp nghĩ ngợi, lập tức bỏ ngay ý định leo lên, trực tiếp nhảy từ độ cao mười mấy mét xuống, vừa chạm đất liền nương theo đá lăn thêm mấy vòng để hóa giải bớt trọng lực. Phương pháp nhảy này, bất cứ lính dù nào cũng đều phải biết cả.

Thế nhưng, khi Tây Mễ đứng dậy, bên cạnh đã có thêm ba họng súng chĩa vào, một trong số đó, chính là chiến hữu cũ năm xưa trong biệt đội Nhện Xanh của y, Ba Tang. Tây Mễ cười thảm, y hiểu rõ, lần này mình đã thua, thua một cách hoàn toàn triệt để. Có điều, rốt cuộc sơ sót ở đâu? Y không nghĩ ra được.

Tây Mễ vứt súng suống đất, Trương Lập nhanh nhẹn bước tới nhặt lên, kế đó đưa mắt quan sát đối phương, ánh mắt đảo tròn ấy tựa như đang hồi tưởng lại điều gì.

Tây Mễ sực hiểu ra: “Là Max! Thằng Max đó không thực hiện đúng kế hoạch, nhất định hắn đã giở trò gì đó, làm đám người này chú ý đến ý đồ của ta, đồng thời tương kế tựu kế sắp sẵn vòng vây chờ mình lọt lưới. Nhưng, còn bản thân hắn thì sao? Nơi duy nhất hắn có thể đi, chỉ có khu rừng đầy rẫy bọn thằn lằn ăn thịt người ấy, lẽ nào hắn không sợ? Lẽ nào! Lẽ nào... thằng khốn ấy ngay từ đầu đã giả bộ! Nhát gan, ngu xuẩn, thiếu kinh nghiệm dã ngoại, không có năng lực tư duy, không dựa vào kẻ mạnh hơn thì không thể tồn tại, lẽ nào tất cả những biểu hiện ấy đều chỉ là ngụy trang thôi? Mẹ kiếp, hắn đã đi theo Merkin bao nhiêu năm như vậy, mà Merkin là hạng người như thế nào chứ, ta lại quên mất không lưu ý đến điểm này. Không, chỉ vì thắng khốn ấy ngụy trang quá giống mà thôi! Cả Thao thú sư mà hắn cũng biết, nói không chừng hắn còn biết cách tránh khỏi bọn thằn lằn ấy. Từ đầu chí cuối, hắn luôn đi theo ta, cùng ta chạy trốn một cách thảm hại, tất cả chỉ vì muốn người khác chú ý đến ta, mà bỏ qua hắn. Thằng khốn này thật đáng sợ, hắn không phải là người nữa! Hắn và tên Merkin kia đều không phải con người nữa rồi!”

Ba Tang lạnh lùng nói: “Mày thua rồi!”

Tây Mễ nhắm mắt lại, cục yết hầu nhô lên hạ xuống, thấp giọng nói: “Mày đến chậm rồi!”

Ba Tang nói: “Đúng vậy, tao chậm mất mười tám năm! Mày đáng lẽ nên chết từ mười tám năm trước rồi! Tại sao mày còn giữ lại dấu ấn sỉ nhục ấy, sống những ngày tháng không liêm sỉ làm gì chứ? Mày có còn là Nhện Tơ Vàng nữa không?”

Hai mắt Tây Mễ đột nhiên mờ bừng ra, gằn giọng nói: “Bởi vì tao còn chưa muốn chết! Có con mẹ thằng nào muốn chết trong miệng bọn dã thú ấy chứ?” Liền ngay sau đó, ngữ điệu y lộ ra vẻ ngạc nhiên: “Mã Long Kỳ, mày nhớ lại hết rồi à?”

Chương 39

Nhện Xanh đối đầu

Ba Tang nói: “Tuy không phải toàn bộ, nhưng những điều mày đã làm, tao đều nhớ lại cả rồi! Mười tám năm trước, là mày đã lén bắt sói con ăn thịt, mới khiến cả bầy sói điên cuồng tấn công chúng ta! Sau đó, chính mày đã bán đứng đồng đội, nên mới nhục nhã sống sót được đến bây giờ. Chính mày đã dẫn bọn tao vào vòng vây của lũ sói, chính mày đã để lại dấu vết dẫn đường cho chúng nó, tất cả đều tại mày!”

Tây Mễ gầm lên một tiếng: “Nói nhảm!” Kế đó giọng nói bỗng trở nên uể oải, lẩm bẩm như đang tự giải thích: “Không phải như mày nghĩ! Bọn sói đó, tuyệt đối không tấn công chúng ta vì tao ăn thịt lũ sói non! Mười tám năm nay tao vẫn không ngừng tìm kiếm, nhất định là còn có nguyên nhân khác, bằng không, tao không thể nào sống sót được, cả mày cũng không thể!”

Ba Tang nói như chém đinh chặt sắt: “Tao mặc xác, từ khi sống sót ở núi tuyết trở về, tao đã quên rất nhiều, chỉ có một việc duy nhất là vẫn khắc ghi trong tâm khảm, chính là phải giết chết mày!”

Con mắt tam giác của Tây Mễ khẽ giật giật, cuối cùng thở hắt ra nói: “Được rồi! Cũng phải kết thúc thôi! Mày tưởng những năm qua tao sống tử tế lắm hả? Bọ Cạp, Báo Đốm, Sói Bắc Cực... dáng vẻ trước khi chết của chúng nó, đến giờ tao vẫn không thể nào quên được, ngày nào cũng sống trong ác mộng. Có thể chết trong tay mày, cũng coi như ăn nói được với lũ Nhện kia rồi.”

Ba Tang đột nhiên gầm lên: “Cường Ba thiếu gia, hãy giao hắn cho tôi.”

“Hắn là của anh đấy.” Trác Mộc Cường Ba có thể nhìn thấy ngọn lửa phẫn hận đang bốc lên ngùn ngụt trong mắt Ba Tang, sau đó gã hướng ánh mắt lên bầu không phía sau lưng Tây Mễ. Bầu trời Thánh vực như đôi mắt đang nheo tít lại, một sắc lam thẫm kịt, đêm nay không thể nào đi được rồi.

Ba Tang giật lấy thanh đao Trương Lập vừa đoạt được của Tây Mễ, một thanh loan đao hình giọt nước của Nepal, ném xuống chân y: “Tao cho mày một cơ hội, cơ hội sống thêm lần nữa!”

Tây Mễ nhặt thanh đao lên, cười giễu cợt: “Giống như trước đây hả?”

“Tao cho phép này chết như một thành viên của Nhện Xanh!” Ba Tang gật đầu.

“Không sợ tao chạy mất à?”

“Nếu mày thật sự chạy được, thì cả đời này cứ làm một tên lính đào ngũ đi, mày không còn là người của Nhện Xanh nữa!”

“Chiến trường của chúng ta ở đâu đây?” Vết thẹo trên mặt Tây Mễ khẽ co giật, mấy lời vừa rồi của Ba Tang dường như khiến hắn bị sỉ nhục nặng nề.

Ánh mắt Ba Tang ném về phía dãy nhà, trong bóng đêm mịt mùng, trông tựa một món đồ tế lễ bằng đồng xanh thời cổ đại, cổ phác mà thần bí.

Ba Tang và Tây Mễ bắt đầu kiểm tra lại từng món đồ trên người mình, đồng thời quan sát các thứ của đối phương, cả một cái cúc áo, một sợi tơ mảnh cũng không bỏ qua. Lúc này, những người khác cũng đều đã tập trung lại, Lữ Cánh Nam hỏi: “Ba Tang, anh định làm gì?”

Ba Tang đáp: “Đây là phương thức quyết chiến sinh tử của Nhện Xanh, dùng đao chiến đấu, răng trả răng, máu trả máu. Lấy cánh cửa kia làm giới hạn, tôi và hắn mỗi người đi một phía vào dãy nhà hình chữ “U” kia, ngoài thanh đao trong tay, tất cả mọi thứ bên trong ấy đều có thể sử dụng làm vũ khí, bất kể là mai phục hay đánh lén, chỉ một người có thể sống sót trở ra khỏi đó.”

Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn nhau, bọn họ chưa bao giờ nghe nói đến kiểu quyết đấu như vậy, đây có lẽ là một phương thức đặc thù chỉ riêng biệt đội Nhện Xanh mới có. Lúc này, Trương Lập bỗng đứng ra, nói với Ba Tang: “Tôi, cũng muốn tham gia trận chiến này.”

Ba Tang ngẩng đầu ngước nhìn Trương Lập, giọng anh nghe tựa như vẳng về từ thế giới băng tuyết: “Tôi cũng có lý do cần phải giết chết kẻ này!”

Tây Mễ cười khẩy ngạo nghễ: “Tao không chơi với bọn trẻ con.”

Ba Tang nói: “Lý do.” Anh ta chưa từng thấy Trương Lập vừa tức giận, cũng lại vừa bình tĩnh lạnh lùng như vậy, đây là dấu hiệu của một sát thủ đã trưởng thành!

Trương Lập nhìn chằm chằm vào Tây Mễ, gằn giọng nói từng chữ một: “Mày còn nhớ, mười tám năm trước, dưới chân núi tuyết, có một người tên Trương Hoài Thành không?”

“Trương Hoài Thành? Cái tên trong đội khảo sát khoa học đã cứu tao, sau đó bị tao giết chết đó hả?” Tây Mễ nở một nụ cười khinh miệt: “Giống thật, vậy mà tao không nhận ra. Có điều nhãi con à, mày có tư cách gì nói chuyện quyết đấu với tao chứ?”

“Bộ đội đặc chủng Trung Quốc!” Trương Lập chậm rãi đáp.

Nụ cười của Tây Mễ liền biến mất, y hiểu rõ sáu chữ này nghĩa là thế nào. Nhưng chỉ trong thoáng chốc, vẻ cợt nhạo kia lại hiện lên trên gương mặt sẹo ấy, lại nghe y nói: “Có điều, đừng tưởng có Mã Long Kỳ giúp mà thắng được tao.” Trong bóng tối mít mùng như thế, chủ yếu là đánh lén và ám sát, đông người không phải là ưu thế. Ngược lại, Tây Mễ đến đây sớm hơn Trương Lập và Ba Tang một ngày, thời gian một ngày ấy, đủ cho y quen thuộc với từng món đồ trong nhà, hơn nữa, y còn có một số sắp xếp bên trong đó từ trước rồi.

Trương Lập không hề động dung, nén lửa giận xuống, lạnh lùng đáp: “Giết mày, chỉ cần một thanh đao thôi cũng đủ rồi!”

Ba Tang đã kiểm tra xong xuôi, đứng lên nói: “Được rồi, chúng ta bắt đầu thôi!”

“Tao muốn... bên phải!” Cặp mắt Tây Mễ nhìn chằm chằm xuống đất.

Khi sắc trời chìm vào màu đen tối tăm hơn, ba người lần lượt bước vào trong dãy nhà, bốn phía xung quanh lập tức trở nên trầm lặng. Song phương đều không phát ra một tiếng động nhỏ nào.

Nhạc Dương lẩm bẩm: “Thật sự không sợ tên Tây Mễ ấy thừa cơ bỏ trốn chứ?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Không, tôi nhận ra được, đây là cuộc quyết đấu giữa Nhện Xanh và Nhện Xanh, bọn họ đánh cược bằng danh dự của mình, đối với họ, thứ đó thậm chí còn quan trọng hơn cả tính mạng nữa!”

Nhạc Dương vẫn ngờ vực: “Có thật là vì danh dự mà bất chấp tất cả không?”

Lữ Cánh Nam điềm đạm cất tiếng: “Đây, chính là quân nhân chuyên nghiệp.” Nhạc Dương lắc lắc đầu. Điểm này thì những người kia hoàn toàn khác với những tay trinh sát nằm vùng như anh, anh được huấn luyện để có thể biến báo linh hoạt, bảo đảm an toàn cho mình trong các tình huống phức tạp nhất, như vậy mới có thể đả kích kẻ địch một cách hiệu quả nhất.

Cuộc chiến vừa bắt đầu, toàn bộ Shangri-la cũng chìm hẳn vào bóng đêm tăm tối. Trong khoảng nửa tiếng đồng hồ sau đó, thi thoảng lại nghe thấy tiếng “huỳnh huỵch” lẻ tẻ trong bóng tối, có lúc cũng vang lên tiếng đồ đạc vỡ, nhưng chủ yếu là một bầu không khí tuyệt đối yên tĩnh, hệt như màn đêm của vùng đất Shangri-la này vậy, an tĩnh đến độ khiến người ta cảm thấy bất an.

Cuối cùng, trong nhà phát ra một tiếng nổ vang trời, ánh lửa bốc lên ngùn ngụt, lưỡi lửa liếm trọn cả dãy nhà. Đúng lúc Nhạc Dương kinh hãi đứng bật dậy, liền thấy Trương Lập và Ba Tang dìu nhau chạy ra. Bọn Trác Mộc Cường Ba đều bước lên đón, Lữ Cánh Nam hỏi: “Kết thúc rồi à?”

Trương Lập gật đầu: “Kết thúc rồi, cái tên Tây Mễ sẽ không bao giờ xuất hiện trong danh sách kẻ địch của chúng ta nữa.”

Nhạc Dương nói: “Xem anh kìa, sao lại ra nông nỗi này cơ chứ?”

Khắp người Trương Lập đều đầy máu tươi, ánh mắt toát lên niềm sung sướng của kẻ báo được thâm thù, cười cười nói: “Tôi không sao, chính tay tôi giết hắn đấy.”

Ba Tang cũng nói: “Đều là máu của Tây Mễ, chúng tôi đều không bị thương. Nghỉ ngơi một đêm, sáng mai là hồi phục thôi.” Nói đoạn, anh ta liền liếc sang phía Trương Lập với ánh mắt kỳ lạ, tựa hồ như còn có chút khen ngợi.

Nhạc Dương chưa từng thấy Ba Tang khen ngợi ai.

Trác Mộc Cường Ba chợt hỏi: “Vụ nổ cuối cùng đó là như thế nào vậy?”

Ba Tang đáp: “Chắc là một miếng Cơn Lốc Đen được gài từ trước khi chúng tôi vào trong đó, có lẽ Tây Mễ định sau khi đào tẩu, nhân lúc chúng ta lơ là cho nổ một vụ bất ngờ, nên hẹn giờ tương đối dài. Đây cũng là một chiến thuật giãn giờ của Nhện Xanh, chúng tôi thường gọi là Khúc cầu hồn sau chiến trận! Thực ra, trước khi bom nổ, hắn đã nói cho chúng tôi biết rồi. Nhưng dù hắn không nói, tôi cũng đoán ra được.”

Nhạc Dương không khỏi rùng mình thốt lên: “Kế hoạch ác độc quá, cũng may là hắn chết rồi đấy!”

Trương Lập lại nói: “Phải rồi, trước khi chết Tây Mễ có nói với chúng tôi một chuyện, không biết là thật hay chỉ là dọa chúng ta thôi. Hắn bảo, phải cẩn thận với kẻ đi cùng hắn.”

Ba Tang bổ sung: “Max.”

Nhạc Dương tưởng rằng Tây Mễ bị bom nổ chết, giờ nghe kể lại mới biết hình như không phải thế, trước khi chết hắn còn cảnh cáo bọn Trương Lập và Ba Tang gì đó, anh bèn không nén nổi tò mò hỏi: “Tây Mễ chết như thế nào vậy?”

Ba Tang lại nhìn Trương Lập với ánh mắt tán thưởng, nói: “Bị ám sát, bị một con dao găm từ trong bóng tối đâm chết.”

Nhạc Dương kinh ngạc nhìn Trương Lập. Cái gã này không ngờ nói được làm được, bằng cách nào vậy? Dùng dao găm ám sát một thành viên của biệt đội Nhện Xanh, chẳng trách ánh mắt của Ba Tang cũng biến đổi như thế.

Trương Lập khẽ thở hắt ra nói: “Mệt quá, giờ tôi chỉ muốn nghỉ ngơi một lúc thôi. Phì, đêm nay chúng ta đành phải ngủ ngoài trời vậy, nhà cửa cháy hết rồi...”

Phía xa xa trong rừng đước, Max nằm trên một tán cây, đột nhiên thấy phía xa bùng lên một ánh chớp đỏ, liền lắc lắc đầu, thầm nhủ: “Tây Mễ tiêu đời rồi, giờ đây trong đám nhảy dù đợt đầu tiên, sợ rằng chỉ còn lại mình ta thôi. Chết tiệt thật, lúc đó không nên tham công đòi đi trước làm gì, nếu cùng đi với ông chủ, chắc chắn an toàn hơn nhiều.”

Trên bãi đất trống ở Thác Nhật, ánh lửa rợp trời, Trác Mộc Cường Ba nhìn ngọn lửa, lòng cũng nóng như thiêu như đốt, ngày mai, ngày mai nhất định không thể để xảy ra chuyện gì nữa.

Cùng lúc đó, trong một gian phòng đá ở Tước Mẫu, ánh nến bập bùng, Đường Mẫn đang cẩn thận thay băng cho đội trưởng Hồ Dương. Vết thương đã khép miệng, tình trạng rất ổn định, chỉ cần một hai tuần nữa là khỏi hẳn, tuy sẽ để lại sẹo, nhưng nhất định đội trưởng Hồ Dương sẽ coi nó như huân chương chiến công, ngược lại còn lấy làm tự hào. Hồ Dương nhìn cô bé đang băng bó cho mình, trong lòng dâng trào lên một cảm giác giống như giáo sư Phương Tân thuở đó, trước đây mình thô lỗ với cô bé này quá, có lẽ, đúng là nhìn mặt mà bắt hình dong mất rồi.

“Để tôi tự làm, cô đi nghỉ sớm đi!” Giọng đội trưởng Hồ Dương thân thiết vang lên.

Đường Mẫn lắc lắc đầu, vẫn nhẹ nhàng, chăm chú tiếp tục băng bó cho anh. Đột nhiên, cô nhẹ giọng hỏi: “Đội trưởng Hồ Dương, anh nói xem, Cường Ba... anh ấy, liệu ngày mai, anh ấy có trở về không?”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Yên tâm đi, ngày mai họ nhất định sẽ trở về mà.”

Đường Mẫn lại nói: “Nhưng mà, không phải đã nói, cùng lắm cũng chỉ mất ba ngày thời gian thôi sao?”

“Chà, tại cô nhớ Cường Ba quá đấy thôi. Có lẽ họ gặp phải mưa bão, hoặc ở Yaca thêm một ngày cũng nên, ngày mai nhất định họ sẽ về kịp. Hẳn cô phải biết, trong lòng Cường Ba, cô còn quan trọng hơn tính mạng của cậu ấy chứ.” Đường Mẫn ngượng ngùng cúi gằm mặt xuống, hai má ửng lên một ráng mây hồng.

Thế nhưng, hai người họ đợi đến trưa ngày hôm sau cũng không thấy bóng dáng bọn Trác Mộc Cường Ba trở về. Đường Mẫn bắt đầu bối rối, cô lại đến phòng đội trưởng Hồ Dương, nôn nao lo lắng: “Họ vẫn chưa trở về.”

Đội trưởng Hồ Dương đang nghĩ không biết nên an ủi cô bé này như thế nào, ngoài cửa đột nhiên xuất hiện một bóng người, chỉ thấy Quách Nhật Niệm Thanh đang nheo nheo mắt lại, mỉm cười nói: “Thời gian hạn định của chúng ta sắp đến rồi đó, hai vị, chuẩn bị đi, ta đến mời các vị lên đàn tế đây.” Cặp mắt y đã nhăn tít lại mảnh như sợi chỉ.

“Đàn... đàn tế gì?” Đường Mẫn hoảng hốt kêu lên: “Ngày hôm nay vẫn chưa kết thúc mà!”

“Đúng thế,” Quách Nhật Niệm Thanh nói, “đúng là ngày hôm nay vẫn chưa kết thúc, có điều, theo ước định giữa chúng ta, khi màn đêm buông xuống, cũng chính là lúc các vị tắt thở, ta sẽ chấp hành ước định ấy một cách nghiêm khắc. Hơn nữa, đàn tế cũng là nơi cao nhất ở Tước Mẫu này, ở đó cũng có thể nhìn thấy Cường Ba của các vị đã trở về hay chưa.”

Đội trưởng Hồ Dương chau mày, xem ra, tình hình không được lạc quan như trong tưởng tượng của anh, chỉ nghe Quách Nhật Niệm Thanh lại nói tiếp: “Ta nghĩ, chắc bọn Trác Mộc Cường Ba đã bỏ rơi các vị rồi. Để đề phòng các vị bỏ trốn, chúng ta buộc phải có một số biện pháp phòng ngừa cần thiết. Mong các vị lượng thứ.”

Đường Mẫn lắc mạnh đầu: “Không đâu! Cường Ba nhất định sẽ trở lại! Các người canh giữ nơi này nghiêm mật như vậy, chúng tôi làm sao chạy thoát được? Liệu có thể chạy đi đâu đây?”

Quách Nhật Niệm Thanh không giải thích gì thêm, vẫy tay một cái, đám quân lính liền bắt lấy Đường Mẫn và đội trưởng Hồ Dương đưa lên đàn tế. Nhưng bản thân y vẫn chưa rời khỏi gian phòng, đợi bọn lính đưa hai người kia đi xa hẳn, trong bóng tối mới có người cất tiếng nói: “Binh sĩ chắc đã đến nơi rồi.”

Quách Nhật Niệm Thanh nói với người trong góc khuất kia: “Ngươi chắc chắn bọn chúng đã đưa Qua Ba Đại Địch ô đến chứ?”

Ngữ khí người kia nghe chắc chắn mười mươi: “Đúng vậy, không biết chúng dùng cách gì mà thuyết phục được lão, hơn nữa lão còn giúp bọn chúng phá hoại rất nhiều cạm bẫy ta tốn nhiều năm tâm huyết mới bố trí ra được.”

“Còn tên Ngưu Nhị Oa kia thì sao?”

“Chuyện này bị hỏng chính là do hắn, hắn có thù với tên Trác Mộc Cường Ba, lần này nếu không phải tại hắn một lòng muốn trả thù, chúng ta đã có thể thuận lợi kéo dài thời gian ngăn không cho chúng gặp Qua Ba Đại Địch ô rồi, cũng không đến nỗi bị lão già ấy hủy mất bao nhiêu cạm bẫy của ta.”

“Được rồi, cuối cùng tên người Giáp Mễ đó thế nào hả?”

“Không biết, quá nửa là đã chết rồi.”

“Ừm, vậy thì rất tốt, kế hoạch của ta vẫn không bị ảnh hưởng gì.”

Người trong bóng tối kia mắng thầm: “Kế hoạch của ngươi đương nhiên không bị ảnh hưởng, nhưng ta thì tiêu rồi!” Có điều, ngoài miệng y vẫn tỏ ra quan tâm hỏi: “Đám binh sĩ ấy, có ngăn cản được chúng không?”

Quách Nhật Niệm Thanh cười khẩy: “Yên tâm đi, đó là đội quân Ám Dạ do đích thân ta huấn luyện, dù chúng có vượt được biển Sinh Mệnh, hôm nay cũng không thể kịp trở về Tước Mẫu. Ừm, cũng đến giờ chuẩn bị hành hình rồi, bất cứ kẻ nào muốn đối đầu với ta, cũng đều không thể tha thứ được!” Gương mặt tươi cười của y bỗng trở nên nanh ác tàn độc lạ thường, biến đổi quá nhanh, khiến người trong bóng tối kia cũng không khỏi rùng mình kinh hãi.

Chương 40

Cái chết của đội trưởng Hồ Dương

Trên đàn tế bằng đá xếp thành hình tròn ấy, Đường Mẫn và đội trưởng Hồ Dương bị người ta dùng dây thừng trói chặt vào cột đá. Từ nơi này đúng là có thể dõi mắt nhìn thấy khu rừng và biển hồ mênh mông bên dưới thành Tước Mẫu. Quách Nhật Niệm Thanh chậm rãi bước tới trước mặt hai người, liếc xuống bên dưới một cái, rồi cười cười bảo: “Cảnh sắc cũng không tệ nhỉ?”

“Hừ!” Đường Mẫn nói: “Họ sẽ trở về, họ sẽ trở về nhanh thôi.”

“Ừm, ta tin cô nói thật, có điều, trước lúc đó, ta muốn tặng các vị một món lễ vật nhỏ.” Quách Nhật Niệm Thanh đánh mắt ra hiệu cho tên binh sĩ bưng tới một cái mâm nhỏ, chỉ thấy trên mâm xếp một hàng những ống kim loại rỗng ruột, từ nhỏ đến lớn xếp thành một hàng, ống to nhất cũng bằng ngón tay cái.

“Đây là gì vậy?” Đường Mẫn thất thanh kêu lên. Còn đội trưởng Hồ Dương thì chỉ cần liếc nhìn đã nhận ra ngay, đây là ống rút máu. Thời xưa, các đồ tể thường dùng để rút máu những loài động vật cỡ lớn như lợn, bò... đầu nhọn cắm vào huyết quản, máu sẽ theo đường ống chảy ra ngoài cơ thể, cho đến khi chết. “Rốt cuộc ngươi muốn làm gì?” Đội trưởng Hồ Dương cũng nghi hoặc hỏi.

“À, cái này...” Quách Nhật Niệm Thanh đưa tay chọn lựa trong mâm, mỉm cười nói: “Minh ước thần thánh, được ký kết bằng máu tươi, kẻ nào vi phạm, cũng phải dùng máu để đền bồi. Theo thông tin ta nhận được, bọn Trác Mộc Cường Ba đến giờ vẫn chưa đến Thác Nhật. Hôm nay sợ rằng họ không kịp trở lại rồi, vì vậy, ta chuẩn bị trước một chút thôi!”

“Ông nói bậy! Ông gạt tôi! Chắc chắn họ đã đến Thác Nhật rồi, giờ đang ở trên đường, chỉ một chốc nữa là sẽ về tới đây thôi!” Đường Mẫn lớn tiếng hét lên. Quách Nhật Niệm Thanh chọn một cái ống cỡ vừa, đung đưa trước mắt cô, sắc mặt Đường Mẫn tức thì trở nên tái mét.

“Ừm, muốn làm gì thì cứ làm với ta đây này, bắt nạt đàn bà, vậy mà cũng coi là bậc đại tướng à?” Đội trưởng Hồ Dương không thể nhịn nổi nữa.

Quách Nhật Niệm Thanh cười khì khì nói: “Đừng nôn nóng, ai cũng có phần, máu của các người sẽ chỉ từ từ chảy ra thôi. Ta nhất định sẽ tuân thủ minh ước thần thánh, trước khi màn đêm hoàn toàn buông xuống, các người nhất định không tắt thở được đâu.”

Đội trưởng Hồ Dương nghe mà tức đến xanh mặt, tên khốn này, không ngờ lại chơi trò chữ nghĩa đó, làm vậy có khác nào giày vò người ta đến chết? Lão quốc vương kia sao không thấy đâu, sao lại để cho hắn dùng trò bỉ ổi vô sỉ này hại người! Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Lẽ nào ông ta để mặc cho Quách Nhật Niệm Thanh làm bừa hay sao?”

Thấy Quách Nhật Niệm Thanh lại bước về phía Đường Mẫn, khóe mắt cô đã ầng ậng nước, đội trưởng Hồ Dương không nhịn nổi quát lên: “Đủ rồi, đừng làm hại cô ấy, có giỏi thì đâm hết cả vào ta đây này!”

“Chậc chậc!” Quách Nhật Niệm Thanh làm ra vẻ kinh ngạc lắm, tấm tắc nói: “Đây là yêu cầu của ngươi đây nhé, ta chỉ lo, nếu trước khi trời tối bọn Trác Mộc Cường Ba trở về, mà... mà... ngươi lại không cầm cự được. Vậy thì cũng không thể xem là chúng ta vi phạm minh ước thần thánh đâu đấy nhé!”

Đội trưởng Hồ Dương trợn trừng mắt lên quát: “Im mẹ cái mồm mày đi! Tên nhãi con nhà ngươi chắc không chỉ biết dọa khiếp người ta thôi đấy chứ!”

Quách Nhật Niệm Thanh mím môi cười, đổi sang một ống khác lớn hơn, trên mặt vẫn giữ nguyên nụ cười xun xoe thường ngày, bước về phía đội trưởng Hồ Dương. Đội trưởng Hồ Dương không cam lòng, gào lên: “Ta vẫn còn một chuyện muốn hỏi. Tại sao? Tại sao ngươi nhất định phải nhằm vào chúng ta như thế?”

Quách Nhật Niệm Thanh áp mặt vào, kiễng chân lên khẽ thì thầm vào tai đội trưởng Hồ Dương: “Bởi vì ngươi, đã cướp đi thứ quý giá nhất của ta. Không có kẻ nào, có thể cướp đoạt thứ gì của ta được!”

Đội trưởng Hồ Dương ngoảnh đầu lại, lấy làm nghi hoặc nhìn tên lùn Quách Nhật Niệm Thanh trước mắt, đột nhiên thấy trước ngực nhói lên, lúc cúi đầu xuống, thì cái ống rút máu dài chừng năm lóng tay kia đã đâm một nửa vào ngực mình rồi, từng giọt máu to tướng chảy ra phía đầu bên kia, nhuộm đỏ cả bàn đá. Quách Nhật Niệm Thanh đã bước lùi lại, Đường Mẫn thất thanh khóc nấc lên: “Đội trưởng Hồ Dương... đừng mà... đừng mà...”

Đội trưởng Hồ Dương dịu giọng an ủi: “Tôi không sao, nhất thời cũng không chết được đâu mà lo.” Anh nhìn chằm chằm vào mặt Quách Nhật Niệm Thanh, nói: “Ta không hiểu, rốt cuộc ngươi đã mất cái gì vậy? Tại sao ta lại cướp của ngươi? Ngươi nói ra xem, nếu đúng là ở chỗ ta, ta sẽ lập tức trả lại ngươi ngay bây giờ!”

“Trả lại cho ta? Ha ha!” Tiếng cười của Quách Nhật Niệm Thanh nghe thật thê thảm: “Không, ngươi không bao giờ trả lại được! Không bao giờ có thể trả lại được!” Y quay người rời khỏi đàn tế, trước khi đi còn dặn dò thuộc hạ: “Canh chừng bọn chúng, có chuyện gì phải báo ngay với ta!”

Tên hộ vệ trưởng đứng cạnh đó lo âu hỏi: “Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân, đại vương bảo tôi đến hỏi ngài, làm như vậy liệu có... có ổn không?”

Quách Nhật Niệm Thanh cười gằn nói: “Ngươi nói với đại vương, chắc chắn bọn chúng không thể trở về kịp. Hơn nữa, ta dám đảm bảo, chỉ cần trời chưa tối hẳn, kẻ đó tuyệt đối không thể tắt thở được, chúng ta không hề vi phạm minh ước thần thánh.” Gã đội trưởng liền cung kính lui xuống.

Trong rừng, sáu thớt ngựa đang lao đi như ánh chớp, chính là nhóm người bọn Trác Mộc Cường Ba. Bọn họ đụng độ một nhóm lính áo đen dùng cung tên, kết quả không cần phải nói cũng biết, nhóm lính kia không thể ngăn bước được họ dù chỉ một phút, ngược lại còn cung cấp thêm mấy con ngựa khỏe. Chỉ có điều, buổi sáng sớm ngồi thuyền đi đường vòng lên bờ cũng tốn mất một chút thời gian, giờ đây tình hình càng lúc càng gấp rút, bọn Trác Mộc Cường Ba ai nấy đều đanh mặt lại, để mặc cơn gió như những ngọn roi vô hình táp lên. Tất cả đều đã được tính toán kỹ càng, từ kẻ địch chặn đường, đến tên Max bỏ trốn, cạm bẫy... duy chỉ một điều họ không nghĩ đến, đó chính là thời tiết ở Shangri-la này! Thời tiết hôm nay rất tệ, mới trưa mà bầu trời hình con rắn khổng lồ của Shangri-la đã xám xịt. Ba Tang ước tính, hôm nay có thể sẽ sập tối sớm hơn ngày thường từ hai đến ba tiếng đồng hồ. Chính hai ba tiếng này, rất có thể sẽ lấy mạng của đội trưởng Hồ Dương và Đường Mẫn!

Trên đàn tế, sắc mặt đội trưởng Hồ Dương đã bắt đầu nhợt nhạt, từng giọt máu lớn vẫn đang không ngừng nhỏ xuống. Đường Mẫn từ đầu vẫn luôn nói chuyện, tìm cách phân tán sự chú ý của anh. Lúc này, cô cũng quan sát thấy đội trưởng Hồ Dương bắt đầu có biểu hiện dị thường, vội nói: “Đội trưởng Hồ Dương, anh... anh không được ngủ đâu đấy!”

Đội trưởng Hồ Dương gượng cười gật đầu: “Tôi biết, tôi có ngủ đâu?”

“Đội trưởng Hồ Dương, có phải anh bắt đầu thấy lạnh không?” Đường Mẫn lại hỏi.

“Làm gì có.” Đội trưởng Hồ Dương mỉm cười lắc đầu.

Nhưng Đường Mẫn thấy rất rõ ràng, toàn thân đội trưởng Hồ Dương đang khe khẽ run lên, hơn nữa giọng anh cũng càng lúc càng nhỏ hơn. Đường Mẫn tiếp tục gọi: “Đội trưởng Hồ Dương, đội trưởng Hồ Dương...?”

Lần này không có tiếng trả lời. Hồi lâu sau, đội trưởng Hồ Dương mới từ từ ngẩng gương mặt tái nhợt lấm tấm mồ hôi lạnh lên, khẽ nói: “Con đường này, mọi người phải đi tiếp thôi vậy. Tôi già rồi, không thích hợp với công việc này nữa rồi.”

“Đội trưởng Hồ Dương, anh nói gì vậy?” Đường Mẫn cuống lên, chẳng lẽ, chẳng lẽ... đội trưởng Hồ Dương đã sắp không nghe thấy cô nói gì rồi hay sao?

Đội trưởng Hồ Dương vẫn lẩm bẩm tự nói một mình: “Lần này đến được đây, thật đúng là, đúng là nơi nguy hiểm nhất trong những nơi tôi từng đặt chân đấy. Phải rồi, thay tôi nói hộ với Cường Ba một tiếng, bảo cậu ấy...” giọng đội trưởng Hồ Dương càng lúc càng nhỏ, dần dần không thể nghe thấy nữa.

Đường Mẫn khóc lớn: “Đội trưởng Hồ Dương! Đội trưởng Hồ Dương! Anh không có chuyện gì đâu! Đội trưởng Hồ Dương, Cường Ba sẽ trở về ngay thôi mà! Đội trưởng Hồ Dương! Người đâu! Mau đến đây! Cầu xin mấy người đấy!”

Giây lát sau, Quách Nhật Niệm Thanh đã đến bên cạnh đàn tế, quan sát trạng thái của đội trưởng Hồ Dương. Đường Mẫn bị trói bên cạnh vừa khóc lóc vừa kêu gào: “Anh ấy không xong rồi, mau cứu anh ấy đi... cầu xin mấy người mau cứu anh ấy đi!”

Quách Nhật Niệm Thanh làm bộ nghĩ ngợi, hỏi: “Tại sao lại không xong chứ?” Y ngẩng đầu lên nhìn sắc trời, rồi như thể vừa sực nhớ ra chuyện gì đó: “À, thì ra trời sắp tối rồi!” Nói đoạn, y liền quay sang bảo Đường Mẫn: “Đừng lo, rồi sẽ đến lượt cô thôi. Ta sẽ cho cô một cái chết nhanh gọn, chứ không phải chịu khổ như vị dũng sĩ này đâu. Đây là, ưu đãi dành riêng cho cô đấy.”

Đường Mẫn bấy giờ mới phát hiện, bầu trời đã mù mịt mây đen, quả nhiên màn đêm đã gần như phủ kín khắp nơi. Cô lẩm bẩm nói: “Sao lại thế, sao lại thế này chứ?”

Quách Nhật Niệm Thanh sai binh sĩ đốt đuốc lên, rồi lẩm bẩm không ngừng: “Đến lúc lên đường rồi, đến lúc lên đường rồi...” tựa như một gã phù thủy đang niệm chú ngữ nguyền rủa ai đó.

Lúc này, đội trưởng Hồ Dương lại tỉnh táo được một chút, cúi đầu nói với Quách Nhật Niệm Thanh: “Này, thằng lùn, ta hỏi cái, sau khi chết, ta có được thiên táng không vậy?”

“Hả, thiên táng?” Quách Nhật Niệm Thanh chẳng hề để tâm đội trưởng Hồ Dương gọi y là thằng lùn, cười khẩy đáp lời: “Đó là nghi thức dành cho bậc quân vương! Ngươi à? Chết rồi chỉ có da bọc xương, xác thịt ngươi sẽ làm thức ăn cho lũ sâu bọ dưới lòng đất.”

“Trở về rồi! Họ trở về rồi!” Đột nhiên, Đường Mẫn hét lớn: “Mau, mau thả anh ấy ra, Cường Ba trở về rồi kìa!”

Quách Nhật Niệm Thanh đứng trên đàn tế dõi mắt nhìn ra phía xa xa, quả nhiên, trong bóng tối có mấy cái bóng đang di động, nhưng không thể phân biệt được đó là gì. Y không dám khẳng định, cúi đầu suy nghĩ giây lát, quyết định thà giết lầm còn hơn bỏ sót, bèn ngẩng cao đầu lớn tiếng nói: “Đó không phải Trác Mộc Cường Ba, là người Lỗ Mặc. Hơn nữa... trời đã tối đen, theo minh ước thần thánh, ta sẽ cắt lấy linh hồn của các người!”

“Không!” Đường Mẫn kêu lên thảm thiết: “Trời vẫn chưa tối hẳn, các người mau nhìn đi! Trời vẫn chưa tối hẳn mà!”

Trong tầng mây đen dày đặc, vẫn còn một kẽ hở, một tia sáng yếu ớt ló ra từ nơi đó. Mấy tên binh sĩ đều ngước nhìn bầu trời, rồi lại đưa mắt sang phía Quách Nhật Niệm Thanh. Làm trái minh ước thần thánh, chính là báng bổ thần minh, bọn họ bắt đầu do dự.

Quách Nhật Niệm Thanh tức giận quát lớn: “Sao vậy hả! Các ngươi dám trái lệnh ta?”

Một tên binh sĩ nói: “Nhưng đại vương...”

Quách Nhật Niệm Thanh tức tối hét lên: “Ta sẽ nói với đại vương, bây giờ, cứ theo lệnh ta mà làm, hành...” Lời còn chưa dứt, lại có một tên binh sĩ khác chạy lên báo cáo: “Bẩm đại tướng quân! Là bọn Trác Mộc Cường Ba, bọn họ trở về rồi!”

Quách Nhật Niệm Thanh nhìn lại, những bóng đen kia đã lại gần hơn, đó là sáu thớt ngựa, nhưng vẫn không thể nhận ra người ngồi trên đó là ai. Có điều, mấy tên binh sĩ đứng trước đã nhìn rõ rồi. Y dịu giọng nói: “À, trở về rồi, trở về rồi thì tốt.” Đúng lúc Đường Mẫn tưởng rằng y định tuyên bố thả người, Quách Nhật Niệm Thanh lại bước đến sát cạnh đội trưởng Hồ Dương.

Quách Nhật Niệm Thanh ghé miệng sát bên tai đội trưởng Hồ Dương, khẽ nói: “Không kẻ nào có thể tranh đoạt bất cứ thứ gì của ta, không một kẻ nào hết!” Đội trưởng Hồ Dương đột nhiên cảm thấy tim mình nhói lên, kế đó, cổ họng ngọt lịm, phun ra một ngụm máu tươi. Đường Mẫn thấy rõ rành rành, ống kim loại đã cắm một nửa vào ngực đội trưởng Hồ Dương kia đã bị Quách Nhật Niệm Thanh ấn thêm vào một phần tư nữa. “Đừng mà!” Cô gào lên một tiếng, hai mắt nhòa đi, trước lúc hôn mê còn lờ mờ nghe thấy đám binh sĩ hộ vệ quát lớn: “Ai?”

“Làm gì vậy!”

Sau đó, Đường Mẫn không biết gì nữa.

Trên đàn tế, mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba cẩn thận đặt đội trưởng Hồ Dương xuống. Máu nhuộm đỏ cả người anh, nhìn mà không khỏi kinh hãi, ai nấy đều thấy trào dâng lên cảm giác bi phẫn tột cùng!

“Đừng động vào.” Pháp sư Tháp Tây ngăn tay Trác Mộc Cường Ba lại: “Nhổ nó ra, cậu ấy sẽ chết ngay lập tức.”

Lữ Cánh Nam nói: “Anh ấy mất máu quá nhiều, sức sống bắt đầu suy kiệt. Chúng ta có máu dự phòng phải không? Đâu rồi?”

Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên, bảo Trương Lập: “Đi lấy về đây.”

Trương Lập nói: “Ở đâu cơ?”

Trác Mộc Cường Ba tức giật gắt lên: “Hỏi đi! Mau lấy về đây!”

Trương Lập sực nhớ ra, vội chụp lấy một tên binh sĩ, lớn tiếng quát: “Mấy cái bao của chúng ta ở đâu? Mau dẫn ta đến đó! Ngay lập tức!”

Lúc này, một tên binh sĩ khác đang run rẩy trước mặt Ba Tang. Vị sát thần lạnh lùng đến độ cơ hồ không còn cảm xúc ấy, hai mắt hờ hững nhìn ra phía xa, chầm chậm hỏi: “Kẻ nào làm?” Giọng nói tựa hồ như từ chốn âm ty địa ngục vẳng về, băng lạnh thấu xương.

“Tôi, tôi, tôi... tôi không biết, là, Quách Nhật Niệm Thanh, Quách Nhật Niệm Thanh đại nhân bảo chúng tôi canh giữ ở đây.”

“Hắn đâu rồi?”

“Vừa nãy, vừa nãy còn ở đây, sau đó, sau đó đã biến mất rồi!”

“Khốn kiếp!” Ba Tang đột nhiên ngẩng mặt hú lên một tiếng bi thương, hai tay vươn ra, một tay chụp vào hông, một tay nắm xương ức, nâng tên binh sĩ giơ cao quá đầu, rồi ném mạnh xuống đất, giẫm chân lên, nhìn thẳng vào mắt hắn, nghiến răng kèn kẹt nói bằng một thứ tiếng mà hắn không hiểu: “Các ngươi cứ trơ mắt ra nhìn anh ấy bị giết... các ngươi trơ mắt ra nhìn hả!” Tên binh sĩ kia cực kỳ hoảng sợ, hai mắt trợn ngược, không ngờ đã ngất luôn tại chỗ.

Trác Mộc Cường Ba thấy Lữ Cánh Nam lại chạy đến chỗ Đường Mẫn, vội hỏi: “Cô ấy sao rồi?”

Lữ Cánh Nam đáp: “Chỉ bị hôn mê thôi.”

“Đội trưởng Hồ Dương! Đội trưởng Hồ Dương!” Nhạc Dương chợt reo lên: “Đội trưởng Hồ Dương tỉnh rồi!”

“Đội trưởng Hồ Dương!” Trác Mộc Cường Ba quỳ một chân bên cạnh. Đội trưởng Hồ Dương gắng hết sức ngoẹo đầu qua, nhìn gã, mỉm cười nói: “Nói với lão Phương một tiếng, nợ của ông ấy, tôi trả hết rồi nhé.”

“Đội trưởng Hồ Dương, anh không nợ gì hết. Cố gắng lên, anh sẽ khỏe lại ngay thôi mà. Mạng anh cứng lắm, anh quên rồi à?”

“Kha kha, cứng mấy thì cũng... tôi biết mà, hạng... hạng người như tôi, thế nào cũng không thể chết yên lành ở nhà được, cậu đấy... đừng học tôi nhé!”

“Đội trưởng Hồ Dương, anh phải gắng lên, anh được mà...” Trác Mộc Cường Ba lo lắng nhìn mọi người, hy vọng tìm được sự giúp đỡ. Gã kéo pháp sư Á La lại, gần như van vỉ: “Có cách gì cầm máu không? Không thể cứ để chảy mãi thế này được!”

Pháp sư Á La lắc đầu. Loại ống rút máu này đã cắm vào mạch máu thì không thể cầm được, huống hồ tình hình đội trưởng Hồ Dương lúc này đã giống như ngọn đèn sắp tắt bùng lên một lần cuối cùng, cầm máu cũng chẳng thể giải quyết được vấn đề gì. Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng nóng nảy, gã lớn tiếng gầm lên: “Trương Lập đâu rồi? Sao chậm thế!”

Đội trưởng Hồ Dương khẽ nói: “Được rồi, cậu nóng nảy như vậy sẽ ảnh hưởng đến những người khác đấy. Đợi lát nữa Tước Mẫu vương đến, nhớ giúp tôi hỏi một tiếng, loại người như tôi, sau khi chết có tư cách... có tư cách được thiên táng không? Từ ngày đầu tiên đặt chân đến Tây Tạng tôi đã nghe nói, trong lòng người Tạng, ai được thiên táng, linh hồn sẽ lên tới thiên đường, chỉ tiếc là ở Tây Tạng bao nhiêu năm như thế, chưa bao giờ tôi gặp được cả.”

“Anh đừng nói bậy, anh sẽ không sao đâu, tôi đã hứa với thầy giáo, nhất định sẽ đưa mọi người trở về mà. Đội trưởng Hồ Dương, chúng tôi còn cần có anh dẫn đường mà!”

“Không, tôi biết chứ, cậu để tôi nói hết đi, có... có mấy câu thôi, nhớ kỹ nhé, đừng bao giờ hỏa táng, đến lúc ấy lại còn tro cốt lằng nhằng, mang đi không tiện. Mà bây giờ, giá đất ở nghĩa trang còn đắt hơn giá nhà ấy, đội trưởng Hồ Dương của các cậu... nghèo lắm, ha ha ha!”

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên không sao kìm nén nổi sự bi phẫn trong lòng, nước mắt trào tuôn ào ạt. Cuối cùng, chỉ nghe đội trưởng Hồ Dương nói: “Lá mùa thu rụng xuống, là để chồi non mùa xuân mọc lên, con đường sau này, mọi người hãy tự đi nhé. Nhớ kỹ, người thành công sở dĩ thành công, là vì ngày ngày họ đều không ngừng nỗ lực. Đừng buông lơi, đừng bỏ cuộc, đừng...” giọng đội trưởng Hồ Dương dần chìm xuống, màn mây đen trên trời cũng tan đi, ánh sáng rực rỡ bảy màu từ khe nứt chiếu xuống, dịu dàng bọc lấy thân thể anh. Trên gương mặt trắng nhợt ấy, nở ra một nụ cười an lạc.

Hết tập 8.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro