Mặt trận đường 9 - Quảng Trị

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lịch sử Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (1966- 1973)

Người thành cổ Quảng trị

Lịch sử Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (1966- 1973)

Tên sách: LỊCH SỬ MẶT TRẬN ĐƯỜNG 9 - BẮC QUẢNG TRỊ (1966 - 1973)

Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân

Năm xuất bản: 2001

CHỦ BIÊN:

Trung tướng, PGS NGUYỄN ĐÌNH ƯỚC

NGƯỜI VIẾT:

Thượng tá Th.s TRẦN TIẾN HOẠT

Thượng tá ĐƯỜNG KHẮC HỒ

Thượng tá VŨ TRỌNG HOAN

Trung tá NGUYỄN HUY THỤC

LỜI NÓI ĐẦU

Tháng 6 năm 1966, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta đang đi vào giai đoạn quyết liệt nhất, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Mặt trận đường 9-Bắc Quảng Trị (gọi tắt là mặt trận B5) nhằm thu hút, giam chân một bộ phận của quân Mỹ để Bộ đội chủ lục của ta trực tiếp đánh quân viễn chinh Mỹ.

Qua gần tám năm (6.1966 - 1.1973) xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, quân dân ta trên mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương đã vượt qua những thời điểm khó khăn, gian khổ quyết liệt nhất, chiến đấu mưu trí, dũng cảm, lập nên những chiến công to lớn, có những chiến công có ý nghĩa chiến lược quan trọng như chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh trong cuộc tổng tiến công năm 1968, Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào 1971, Chiến dịch tiến công Trị - Thiên, giải phóng hòan toàn tỉnh Quảng Trị năm 1972, cùng toàn quân, toàn dân hồn thành nhiệm vụ của Cuộc tiến công chiến lược năm 1972, và đánh thắng B.52 ở miền Bắc, buộc Mỹ phải ký hiệp định Pa-ri (1.1973) rút hết quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Chiến trường đướng 9 - Bắc Qủang Trị có nhiều biến động với sự phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Có những chiến dịch lớn của ta do Bộ trực tiếp chỉ đạo vượt ra ngồi phạm vi Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Song Đường 9 - Bắc Quảng Trị là một chiến trường cực kỳ ác liệt, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc thống nhất đất nước. Để ghi lại những chiến công hào hùng của quân và dân ta trên mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, kịp thời rút ra những bài học về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng tài tình, sáng tạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, góp phần vào công tác giáo dục truyền thống lịch sử, nghiên cứu khoa học, giảng dạy, huấn luyện ở các cơ quan, nhà trường trong và ngồi quân đội, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam đã biên soạn cuốn Lịch sử Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (1966- 1973).

Trong quá trình nghiên cứu biên soạn, tập thể tác giả đã nhận được sự chỉ đạo chặt chẽ của lãnh đạo Bộ Quốc phòng, sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ đã từng chiến đấu, công tác ở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Nhân dịp xuất bản cuốn sách, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam xin chân thành cảm ơn sự quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Thủ trưởng Bộ Tổng Tham- mưu, sự giúp đỡ có hiệu quả của Quân khu 4, Tỉnh đội Quảng Trị, huyện đội Hướng Hóa và sự cộng tác của nhiều vị tướng lĩnh và nhà khoa học trong và ngồi quân đội.

Tuy tập thể tác giả biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng do tư liệu thất tán nhiều, trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên cuốn sách không tránh khỏi khiếm khuyết. Chúng tôi rất mong nhận được góp ý, bổ sung của các đồng chí.

VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM

CHƯƠNG I

MẶT TRẬN ĐƯỜNG 9 - BẮC QUẢNG TRỊ RA ĐỜI, THU HÚT, GIAM CHÂN MỘT LỰC LƯỢNG QUAN TRỌNG CỦA MỸ - NGỤY

(1966 - 1967)

I. Vài nét về mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị

Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, phía bắc giáp khu vực Vĩnh Linh - Quảng Bình (cực nam miền Bắc xã hội chủ nghĩa), đông giáp biển Đông, tây giáp Trung -Hạ Lào và nam giáp huyện Hải Lăng sông Ba Lòng, với số dân khoảng 20 đến 25 vạn (1960- 1965) sống trên một vùng địa lý, khí hậu khắc nghiệt. Sáu tháng gió tây nóng khô (tháng 3 đến tháng 8 làm hoa màu cây trái xác xơ úa cháy. Sáu tháng còn lại, mưa bão triền miên, lũ lụt ngăn cách tàn hại mùa màng, đường sá đi lại trắc trở. Tuy vậy, đất và người Quảng Trị cũng như bao miền quê của Tổ quốc Việt Nam ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đòan kết đấu tranh chống giặc ngoại xâm bất khuất kiên trung. Cách đây hơn một trăm năm (1885) tại thành Tân Sở (Cam Lộ), vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương chống giặc Pháp, lập tức hàng nghìn người dân Quảng Trị đủ mọi lứa tuổi đã lên đường theo vua chống giặc. Đầu thế kỷ XX, để tiến hành khai thác thuộc địa thuận lợi, tại tỉnh Quảng Trị và các tỉnh miền Trung Lào, cùng với việc tu bổ, mở rộng đường số 1 chạy qua địa phận tỉnh, thực dân Pháp tập trung hàng vạn dân hai nước Việt Nam và Lào mở tuyển đường 9 nhằm tạo thành hành lang giao thông nối với Lào, Thái Lan.

Sau hơn hai mươi năm (1905-1926) với công cuộc lao động vất vả của hàng triệu lượt người, tuyến đường chiến lược số 9 đã được hình thành. Nhưng ngay sau khi đường 9 được thực dân Pháp đưa vào sử dụng, quân và dân Bình - Trị - Thiên nói chung, quân dân Quảng Trị nói riêng đã tổ chức phục kích phá các đồn xe chở hàng và lính đi càn ở đoạn đường số 9 Cam Lộ, Lao Bảo (phía tây) và đoạn đường 1 Hải Lăng, Triệu Phong (phía đông).

Đặc biệt từ khi đế quốc Mỹ gạt thực dân Pháp xâm lược miền Nam nước ta (1954), chúng xem tỉnh Quảng Trị không chỉ là phần đất cực bắc của thể chế Việt Nam cộng hòa mà còn được mệnh danh là “biên giới" của thế giới tự do Hoa Kỳ. Đầu năm 1955, khi nhân dân ta bước vào cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ, chúng coi vùng đất Quảng Trị - Đường 9 là "trọng điểm bình định", “tái thiết chế độ mới" chống phá phong trào cách mạng. Về chính trị, chúng ra sức tuyển dụng những phần tử cực kỳ phản động mới di cư ở miền Bắc vào, thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh đòi tự do cơm áo, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất Tổ quốc. Về quân sự, chúng ra sức xây dựng Quảng Trị thành hệ thống căn cứ quân sự liên hồn, vững chắc để có thể đủ sức tiến công ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hoặc phòng thủ ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam.

Để giữ vững phong trào cách mạng, nhân dân Quảng Trị - Đường 9 dưới sự lãnh đạo của Đảng một lần nữa đứng lên đấu tranh chính trị, từng bước kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang tự vệ trong giai đoạn 1955 - 1959 khó khăn nhất của tình hình cách mạng miền Nam. Năm 1955, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng các cấp, các tầng lớp nhân dân Quảng Trị bất chấp những cuộc đàn áp gắt gao của địch, đã đứng lên đấu tranh chống "tố cộng diệt cộng", chống trả thù hèn hạ những người yêu nước, đòi cải thiện dân sinh dân chủ, đòi tự do đi lại giữa hai miền Nam - Bắc... Hàng loạt các cuộc đấu tranh của nhân dân Tam Hiệp, Cam Chính (Cam Lộ), Hải Lệ, Hải An (Hải Lăng), Do Hải (Do Linh), Khe Sanh (Hướng Hóa)...chống địch rời làng, chống khủng bố trắng diễn ra liên tiếp. Các hình thức đấu tranh cũng bắt đầu phong phú hơn do nhân dân tự tổ chức như "dân canh chống cướp" chống địch rình mò bắt cóc đảng viên, cán bộ, gia đình có người thân tập kết ở miền Bắc.

Phong trào đấu tranh cách mạng của các tầng lớp nhân dân Quảng Trị càng lên cao, đế quốc Mỹ và tay sai càng ra sức đánh phá quyết liệt. Đi đôi với những giọng điệu tuyên truyền lừa bịp, mị dân, chia rẽ khối đồn kết lương – giáo, khối đồn kết dân tộc thống nhất Bắc – Nam, chúng liên tục mở các đợt đánh phá vào các tổ chức cơ sở Đảng ở địa phương với phương châm "khuấy nước động bùn”, "giết lầm còn hơn bỏ sót".

Từ tháng 2 năm 1957, sau khi ổn định xong bộ máy ngụy quân ngụy quyền thôn xã trở lên, chúng ráo riết đánh phá phong trào cách mạng của nhân dân Quảng Trị. Với chiêu bài "cải cách điền địa, phát triển nông thôn", bề ngồi "vì dân", "vì quốc gia cường thịnh" nhưng thực chất bên trong là những đêm trường của đợt 3 "tố cộng diệt cộng", "dùng cộng diệt cộng", "dùng dân phá dân", địch mong thực hiện âm mưu bắt các gia đình có công với kháng chiến vào trại tập trung ở dinh điền Cùa, Xoa... hòng “tát nước bắt cá" tiêu diệt nhân cốt cách mạng, reo rắc tâm lý hồi nghi giữa đảng viên với quần chúng, giữa nhân dân và cách mạng.

Tức nước vỡ bờ, Mỹ - ngụy càng ra sức khủng bố đàn áp, thì phong trào cách mạng của nhân dân ta càng dâng cao. Tại khu phi quân sự, nhân dân các xã của huyện Do Linh đã kết hợp đấu tranh chính trị với diệt ác, trừ gian. Qua ba năm khủng bố nhân dân, đàn áp lực lượng cách mạng, bọn địch ở xã Do An và các xã lân cận vẫn không lập được tề ngụy. Mặc dù Mỹ - ngụy cự tuyệt mối quan hệ Bắc - Nam nhưng do nhân dân ta biết đấu tranh chính trị, dùng pháp lý đi đôi với thuyết phục, cảm hóa được một số nhân viên cảnh sát ngụy quyền nên việc đi lại giữa hai miền ở giới tuyến vẫn được duy trì đến hết năm 1956. Kết quả đấu tranh cách mạng của quần chúng thời gian đầu buộc địch phải nhượng bộ một số mặt.

Tuy nhiên trong quá trình đấu tranh cách mạng, quân và dân miền Nam nói chung cũng như quân và dân Quảng Trị nói riêng chưa tìm được phương pháp đối phó có hiệu lực với kẻ thù, bảo vệ được cơ sở cách mạng. Do đó, khi địch tập trung phản kích lại, hầu hết các lực lượng lãnh đạo và cơ sở cách mạng bị bắt bớ, giam cầm ngay từ đầu, gây cho ta nhiều tổn thất. Sau chuyển quân tập kết, Quảng Trị còn lại 8.400 đảng viên, nhưng đến cuối năm 1956, ở ba huyện đồng bằng chỉ còn lại 7 chi bộ với 106 đồng chí. Hai huyện Hải Lăng, Cam Lộ bị địch rà quét không còn chi bộ nào. Nhiều thôn xóm không còn đảng viên. Suốt hai năm liền (1957 - 1958) nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân các thôn, xã vùng giới tuyến bị dìm trong bể máu. Đó là thời kỳ khó khăn nhất của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị.

Cuối năm 1958, nhiều câu hỏi bức bách về tình hình đấu tranh cách mạng của các tầng lớp nhân dân Quảng Trị đã vang lên: Trong tình thế Mỹ - ngụy độc tài phát xít như vậy, liệu đấu tranh bằng phương pháp hòa bình có hợp lý nữa không. Không có lẽ cứ chịu ngồi yên nhìn chúng giết hại bà con, đồng chí mình. Đến bao giờ thì nhân dân Quảng Trị được cầm vũ khí chiến đấu? v.v. . Giữa tháng 1 năm 1959, hội nghị Ban Chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 15 đã tháo gỡ được những trăn trở và đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị: “con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân"; và "vấn đề thống nhất nước nhà không phải là vấn đề pháp lý mà căn bản là vấn đề cách mạng". Như vậy, đối với kẻ thù Mỹ - Diệm, chỉ có một câu trả lời: Phải sử dụng bạo lực cách mạng.

Được Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 soi sáng, Đảng bộ Quảng Trị đã lãnh đạo nhân dân chuyển hướng đấu tranh, từ đấu tranh chính trị là chủ yếu chuyển sang đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang tự vệ; trước mắt phải ra sức tập hợp quần chúng đồn kết đấu tranh chống lại mọi hình thức khủng bố của địch, khôi phục và xây dựng các tổ chức của Đảng. Từ đó, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Quảng Trị từng bước được hồi phục.

Sau khi phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ở các huyện đồng bằng gặp nhiều khó khăn, tổn thất, Tỉnh ủy đã khôi phục và gây dựng các căn cứ cách mạng ở miền núi, làm chỗ dựa để đưa phong trào cách mạng ở đồng bằng phát triển. Miền núi Quảng Trị trong kháng chiến chống thực dân Pháp hầu hết là vùng tự do. Khi ta chuyển quân tập kết xong, Mỹ - Diệm đã nhanh chóng chiếm lĩnh các địa bàn quan trọng, xây dựng bộ máy chính quyền, lập hệ thống đồn bốt liên hồn, vững chắc "quyết khống chế bằng được vùng rừng núi" vốn là địa bàn chiến lược của cách mạng nước ta.

Nhưng với sự tập trung chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Trị, với truyền thống cách mạng của các dân tộc miền núi vùng Cam Lộ, Hướng Hóa, đến đầu năm 1959 ta đã khôi phục được các căn cứ địa, đưa hầu hết các bộ phận quần chúng vào các tổ chức đồn thể, trên 20 xã có cơ sở Đảng, Đồn hoạt động. Từ đó, phong trào đấu tranh chính trị ở miền núi tỉnh Quảng Trị phát triển mạnh mẽ, phong phú và đa dạng. Từ những hầm chông cạm bẫy được bố trí với lý do hợp pháp để chống thú rừng phá hoại mùa màng nương rẫy, dần dần xuất hiện những bãi chông, bẫy đá ngăn cản quân địch càn quét, phục kích bắn giết cán bộ, đồng bào. Trong phong trào đấu tranh tự vệ, bảo vệ bản làng đã xuất hiện các tổ du kích bán vũ trang hoạt động công khai hoặc bí mật, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị đòi quyền dân sinh, dân chủ của quần chúng.

Căn cứ cách mạng ở miền núi Quảng Trị được khôi phục và phát triển không chỉ làm chỗ dựa để Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong tỉnh mà còn góp phần bảo vệ, xây dựng tuyến hành lang chiến lược Bắc - Nam và làm nhiệm vụ quốc tế với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

Phong trào cách mạng càng dâng cao, quân và dân Quảng Trị càng xốc tới, chuyển phương châm chiến lược tiến công địch bằng cả chính trị và quân sự, mở đầu bằng cuộc đồng khởi ở miền núi, phát triển thành cuộc chiến tranh nhân dân, liên tục tấn công, góp phần cùng toàn Miền đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của đế quốc Mỹ.

Giữa năm 1959, để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng miền Nam bằng con đường bạo lực như nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ thị. Tỉnh ủy Quảng Trị đã đề ra hai chủ trương lớn: Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng vùng căn cứ miền núi, đảm bảo đủ mạnh để từ đó hoạt động lan tỏa ra các vùng (đặc biệt là vùng sâu) gây dựng cơ sở cách mạng rộng khắp toàn tỉnh. Hai là, khẩn trương thành lập lực lượng vũ trang, mở rộng mạng lưới hoạt động diệt ác, phá kìm, hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh chính trị.

Sau một thời gian khẩn trương thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị đã xây dựng được hai đơn vị vũ trang với phiên hiệu 59A và 59B. Sự ra đời của hai đơn vị vũ trang này báo hiệu sự phát triển về chất của phong trào cách mạng; đó cũng là cơ sở phát triển lực lượng vũ trang Quảng Trị sau này.

Sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời (ngày 20 tháng 12 năm 1960), đầu năm 1961 ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Quảng Trị cũng được thành lập. Sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đồn kết thành một khối, đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước.

Đứng trước tình hình phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ vội vã tiến hành chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam nước ta, ra sức xây dựng quân ngụy, hình thành hệ thống lực lượng kìm kẹp dày đặc để thực hiện kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược với khẩu hiệu "ấp chiến lược là sự toàn vong, là quốc sách số 1". Để thí điểm “quốc sách xây dựng trại tập trung" chống phá cách mạng, Mỹ - Diệm đã chọn 4 thôn trong tỉnh Quảng Trị để "xây dựng điển hình". Với tư tưởng chỉ đạo "kiên quyết phá ấp chiến lược của địch ngay từ những ngày đầu” của Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị, các cấp bộ Đảng và chính quyền đã tăng cường cán bộ bám sát cơ sở, phát động quần chúng phá "ấp chiến lược” với phương châm "ngày địch xây, đêm ta phá". Đồng thời, chỉ đạo lực lượng vũ trang trong tỉnh tiến công ấp Tuồi Muồi là tiếng súng mở đầu cho phong trào khởi nghĩa của nhân dân miền núi Quảng Trị. Cuối năm 1960, nhân dân các xã phía nam của huyện Hướng Hóa đã đồng loạt nổi dậy khởi nghĩa. Chỉ trong một thời gian ngắn, 10 xã nam đường số 9, năm xã vùng Ba Lòng và xã Hải Phúc (Hải Lăng) đã giải tán chính quyền địch, lập chính quyền cách mạng, một vùng rộng lớn kéo dài từ miền tây Quảng Trị đến miền tây Thừa Thiên được giải phóng.

Trên cơ sở thắng lợi của phong trào đồng khởi ở miền núi, tháng 6 năm 1961, Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ đã quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III và Chỉ thị của Bộ Chính trị về phương hướng và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam.

Chấp hành Nghị quyết của Trung ương, Đảng bộ tỉnh đã đề ra nhiệm vụ cụ thể trước mắt là:

- Khẩn trương xây dựng và củng cố miền tây thật sự vững chắc về mọi mặt.

- Từ đó, quyết tâm phát động quần chúng gấp rút xây dựng cơ sở chính trị ở đồng bằng vững mạnh.

- Đẩy mạnh công tác binh vận.

Sau đại hội, lực lượng vũ trang các huyện lần lượt được thành lập, thực hiện phương châm đấu tranh "hai chân, ba mũi, ba vùng”, góp phần củng cố, xây dựng miền núi thành căn cứ địa cách mạng vững chắc, đưa phong trào đấu tranh quần chúng ở miền xuôi lên một bước mới: đấu tranh hợp pháp, diệt ác trừ gian, đòi cải thiệu quyền dân sinh, dân chủ. Tại thị xã Quảng Trị, nhân ngày lễ Phật Đản (8-5-1963) cuộc đấu tranh của đồng bào Phật giáo đã nổ ra, kéo dài, phát triển thành cuộc mít tinh, biểu tình chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm. . .

Đi đôi với phong trào đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự cũng phát triển lên một bước mới nhằm phá ấp chiến lược, làm cho chính quyền xã ấp của địch lo sợ. Đặc biệt, rạng ngày 9 tháng 2 năm 1964, bộ đội địa phương Quảng Trị được sự hỗ trợ đắc lực của một đơn vị Quân giải phóng Quân khu Trị -Thiên đã đột nhập quận lỵ Ba Lòng, một quận lỵ mà quận trưởng Trần Đình Lâm đã từng huênh hoang tuyên bố là “bất khả xâm phạm". Sau 25 phút chiến đấu, bộ đội Quảng Trị đã làm chủ quận lỵ. Tin chiến thắng Ba Lòng làm nức lòng quân dân trong và ngồi tỉnh, làm quân địch hoang mang, tinh thần binh lính ngày càng thêm sa sút.

Để thực hiện chủ trương của Liên khu ủy 5 về việc khẩn trương chuẩn bị nổi dậy giành lại nông thôn đồng bằng, đầu tháng 4 năm 1964 tại Ro Rô (nam Hướng Hóa), Tỉnh ủy Quảng Trị đã triệu tập Hội nghị thảo luận và hạ quyết tâm phát động phong trào đồng khởi toàn diện, rộng khắp ở tất cả các cơ sở cách mạng đang hoạt động. Sau hội nghị, một không khí cách mạng dấy lên khắp nơi trong tỉnh.

Trước khí thế chuẩn bị cho đồng khởi của ta, một số binh lính địch cảm tình với cách mạng đã nổi lên binh biến, trở về với nhân dân. Tiêu biểu là vụ binh biến của trung đội tổng vệ số 18 ở Ba Thành (Ba Lòng). Cũng trong những ngày sôi nổi đó, cán bộ, chiến sĩ đại đội đặc công 10 đã tiêu diệt căn cứ Đầu Mầu (24-6-1964).

Bước vào đồng khởi, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Vũ Soạn, Phó bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Lê San, ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị, đêm ngày 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1964, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa phương, nhân dân hai thôn Mai Lộc và Mai Đàm đã nổi dậy diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ. Phong trào đồng khởi của hai thôn đã nhanh chóng lan ra khắp vùng Cùa. Địch tổ chức phản kích nhưng bị quân ta đánh bật trở lại. Kết quả đồng khởi ở vùng Cùa đã phá bỏ được toàn bộ hệ thống chính quyển địch; thay vào đó, chính quyền cách mạng từ thôn đến xã được thành lập. Phát huy thắng lợi đã giành được, đêm ngày 5 tháng 7 năm 1964, nhân dân các vùng Long Hưng Phường, Hải Thượng (Hải Lăng), Triệu Lễ, Triệu Đông (Triệu Phong). . . được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang và du kích địa phương đã vùng lên giành quyền làm chủ.

Phối hợp với phong trào đồng khởi ở các vùng nông thôn, sáng ngày 25 tháng 8 năm 1964. gần 1 vạn người gồm nhiều giới khác nhau ở thị xã Quảng Trị đã tổ chức biểu tình chống tên độc tài Nguyễn Khánh, tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ. Hàng ngàn người đã hô vang khẩu hiệu: “Đế quốc Mỹ cút đi", "Mỹ không được can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam”, v.v. . . Các cuộc biểu tình của các tầng lớp nhân dân thị xã Quảng Trị đã góp phần hỗ trợ cho phong trào đồng khởi trong toàn tỉnh tiến lên mạnh mẽ, rộng khắp, giành nhiều thắng lợi to lớn.

Để đẩy mạnh phong trào đồng khởi đợt 2, đợt 3, ngày 25 tháng 9 năm 1964, tại bờ sông Nhùng (tây huyện Hải Lăng) Thường vụ Tỉnh ủy đã họp, một mặt rút kinh nghiệm, ưu khuyết điểm trong tiến hành đấu tranh cách mạng, đề ra những biện pháp cấp bách trong việc kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, hỗ trợ quần chúng giành quyền làm chủ; mặt khác xúc tiến việc cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng.

Qua 7 tháng (từ tháng 7 năm 1964 đến tháng 1 năm 1965), toàn tỉnh thực hiện đồng khởi, tuy còn những nhược điểm như: phong trào phát triển không đồng đều, lúc lên lúc xuống, một số xã ở đồng bằng chưa làm được... Nhưng nhìn chung, quân và dân Quảng Trị đã giành được thắng lợi to lớn, đã xoá bỏ được vòng kìm kẹp của địch ở 140 thôn, xóm với số dân gần 8 vạn người, hầu hết cơ sở Đảng ở các xã được khôi phục, phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng đã phát triển.

Thắng lợi của phong trào đồng khởi ở Quảng Trị đã góp phần cùng toàn miền Nam phát triển cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp tiến lên đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

II. Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị - một hướng tiến công chiến lược quan trọng.

Đầu năm 1965, mặc dù đã đẩy lên đỉnh cao, vượt quá mức lý thuyết và dự định ban đầu, nhưng chiến lược "chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam vẫn có nguy cơ bị quân và dân miền Nam đánh bại hồn toàn. Để cứu vãn tình thế khốn quẫn đó, Mỹ quyết định thay đổi chiến lược chiến tranh để giành thắng lợi quyết định ở miền Nam Việt Nam; chuyển từ chiến lược "chiến tranh đặc biệt" sang chiến lược "chiến tranh cục bộ". Mục tiêu của Mỹ trong cuộc chiến tranh này là triển khai lực lượng lớn từ Mỹ sang, dùng "phản công" tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng miền Nam. Trong quá trình thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", để tránh làm ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước; tránh lôi kéo các nước lớn (Liên Xô, Trung Quốc) trong phe xã hội chủ nghĩa trực tiếp tham chiến..., chính quyền Giôn-xơn chủ trương đưa quân Mỹ ồ ạt vào để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian ngắn. Do vậy, tháng 7 năm 1965, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã chính thức thông qua kế hoạch chiến lược "tìm diệt" của tướng Oét-mo-len, Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV). Đế quốc Mỹ trù tính hồn tất các mục tiêu chiến lược của cuộc “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam trong khoảng thời gian từ hai năm đến hai năm rưỡi. Kế hoạch này được dự định chia làm ba giai đoạn:

Giai đoạn l, từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1965 đưa nhanh quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào miền Nam, hồn thành việc triển khai lực lượng, chuẩn bị cho các hoạt động giai đoạn kế tiếp.

Giai đoạn 2, từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1966. mở cuộc phản công chiến lược "tìm diệt” ở những vùng ưu tiên để tiêu diệt chủ lực đối phương, phá chiến tranh du kích, giành lại quyền chủ động chiến trường từ tay đối phương, tổ chức lại các hoạt động bình định nông thôn.

Giai đoạn 3, từ tháng 7 năm 1966 đến tháng 6 năm 1967 (hoặc tháng 12 năm 1967), mở tiếp các cuộc tiến công “tìm diệt" những đơn vị chủ lực quân giải phóng còn lại, phá căn cứ kháng chiến và tiêu diệt cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam, hồn tất chương trình "bình định nông thôn", bắt đầu rút quân Mỹ về nước.

Theo Mỹ: "ý nghĩa cơ bản nêu rõ trong chiến lược “tìm diệt” là muốn đưa cuộc chiến tranh đến tận xứ sở của kẻ địch, làm cho kẻ địch không thể tự do đi lại ở bất cứ nơi nào trên đất nước và giáng cho kẻ địch những đòn thết bại nặng nề" (Chú thích: Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, tập 2, Việt Nam thông tấn xã dịch và phát hành, Hà Nội, 1971,tr 137.).

Thực hiện mục tiêu trên cuối năm 1965, hơn 20 vạn quân Mỹ và chư hầu (trong đó có 184.314 lính Mỹ) đã được đưa vào miền Nam và triển khai xong ở các địa bàn chiến lược. Đầu năm 1966, chúng lại đưa thêm một số trung đoàn, lữ đoàn, một sở chỉ huy sư đoàn cùng tập đồn không quân số 7 vào miền Nam. Toàn bộ quân Mỹ, ngụy và chư hầu đã hợp thành một đội quân 72 vạn tên. Với lực lượng đông đảo ấy, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ quyết định mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất (mùa khô năm 1965-1966) nhằm "tìm diệt" chủ lực quân giải phóng, giành lại quyền chủ động trên chiến trường, giải tỏa áp lực quanh đô thị và khai thông những tuyến đường giao thông chiến lược, "bình định" các vùng nông thôn quan trọng, ổn định và tăng cường hiệu lực chính quyền, quân đội Sài Gòn.

Đối với miền Bắc Việt Nam: mặc dù đã sử dụng một khối lượng lớn bom đạn, áp dụng nhiều thủ đoạn đánh phá, và mặc dù đã chịu tổn thất nhiều máy bay và người lái nhưng chiến dịch “Sấm rền" của không quân Mỹ đã không đạt được kết quả như dự tính ban đầu. Trong một báo cáo gửi lên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra, cơ quan tình báo Bộ quốc phòng Mỹ nhận định "ý kiến cho rằng phá hủy hoặc dọa phá hủy nền công nghiệp Bắc Việt Nam thì sẽ buộc Hà Nội phải quỳ gối, nhìn lại thì thấy đó là một nhận định sai lầm". Mùa hè năm 1966, hội nghị chuyên đề bí mật bao gồm một tập thể các nhà khoa học có danh tiếng của Mỹ họp dưới sự đỡ đầu của Chính phủ Mỹ để nghiên cứu toàn bộ kết quả cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam đã đi đến kết luận rằng: “Tính đến tháng 7 năm 1966, các hoạt động ném bom của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam đã không có ảnh hưởng trực tiếp đáng kể nào đến khả năng của Hà Nội trong việc tiến hành và hỗ trợ các hoạt động quân sự ở Nam Việt Nam". Tình hình đó khiến cho Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra "phải suy nghĩ lại vai trò của toàn bộ chiến dịch oanh tạc trong cố gắng của Mỹ, ông rất đau khổ biết rõ tình trạng bất lực của lực lượng không quân trong việc ngăn chặn các hoạt động thâm nhập vào Nam và không thấy thể hiện gì chứng tỏ oanh tạc có khả năng bẻ gãy ý chí của Hà Nội".

Trong khi đó, trên chiến trường miền Nam, gọng kìm "tìm diệt" mà quân Mỹ thực thi đã bị bẻ gãy ở miền Đông Nam Bộ và Phú Yên - Khu 5. Mục tiêu "bình định" nông thôn do quân ngụy đảm nhiệm trong đợt phản công lần thứ nhất, xem ra cũng bị bế tắc. Quân và dân miền Nam kết hợp chặt chẽ phương châm đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đánh địch bằng “ba mũi giáp công” (quân sự, chính trị, binh vận) đã thu được nhiều kết quả. Đã phá vỡ kế hoạch bình định 900 ấp, củng cố 1.900 ấp trong năm 1966 do tổng thống Mỹ Giôn-xơn và Nguyễn Văn Thiệu nhất trí tại Hô-nô-lu-lu vạch ra từ ngày 20 tháng 4 năm 1965. Cuối tháng 4 năm 1966, trải qua gần một năm "tìm diệt" và "bình định" với cuộc phản công chiến lược quy mô lớn lần thứ nhất (mùa khô 1965- 1966) huy động tới hơn 70 vạn quân cả Mỹ và ngụy (14 sư đoàn, 9 lữ đoàn) gần 1.000 khẩu pháo, 1.342 xe tăng thiết giáp, 2.000 máy bay ra năm hướng ở Nam Bộ và Trung Trung Bộ, đội quân viễn chinh nhà nghề Mỹ chẳng những không thực hiện được mục tiêu "đánh gãy xương sống Việt cộng" mà còn bị quân và dân ta giáng đòn chí mạng: loại khỏi vòng chiến đấu 67.000 tên (có 35.000 lính Mỹ), bắn rơi, phá hủy 940 máy bay, bắn cháy và phá hỏng 5.000 xe quân sự, làm phá sản kế hoạch bình định của ngụy quyền Sài Gòn. Thất bại trong cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất của đế quốc Mỹ là thất bại có tính chiến lược. Thất bại đó chứng minh: sức mạnh quân sự của Mỹ không thể nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam dù có áp dụng những chiến thuật tân kỳ gì đi nữa.

Nhưng với bản chất cực kỳ ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mỹ vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm xâm lược, tiếp tục tăng quân và phương tiện chiến tranh vào miền Nam, leo thang đánh phá miền Bắc nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta. Mặt khác dù phương châm "đánh nhanh thắng nhanh” của Mỹ bước đầu bị thất bại, nhưng chúng đã gây cho phong trào đấu tranh cách mạng ở ba vùng chiến lược (đặc biệt là nông thôn đồng bằng) gặp không ít khó khăn tổn thất.

Để tiếp tục giữ vững và đẩy mạnh cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam phát triển lên một bước cao hơn nhằm đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, tháng 4 năm 1966, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương đã xem xét kết qua hoạt động quân sự, chính trị trên chiến trường từ miền Trung Tây Nguyên đến đồng bằng Nam Bộ. Sau khi đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của từng chiến trường trong hoạt động mùa khô lần thứ nhất (1965 -1966), Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương khẳng định: Chiến lược chiến tranh nhân dân chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đã động viên được hết thảy các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ vùng tự do đến vùng địch tạm chiếm, phát huy cao độ lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, kiên quyết đấu tranh một mất một còn chống thế lực xâm lược và bè lũ tay sai bán nước. Với ưu thế tuyệt đối về chính trị, tinh thần, các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã vận dụng linh hoạt sáng tạo hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự, phát huy có hiệu quả phương châm đấu tranh "hai chân, ba mũi, ba vùng", đánh giỏi thắng lớn, bước đầu làm thất bại chiến lược, ‘tìm diệt" của quân xâm lược Mỹ.

Tuy nhiên sự trưởng thành về mọi mặt của các chiến trường, các mặt trận không đồng đều. Ở chiến trường Đông Nam Bộ, nơi Mỹ - ngụy tập trung lực lượng đánh phá. Một mặt chúng mở các đợt hành quân "tìm diệt” sâu vào căn cứ kháng chiến chiến lược của ta, mặt khác, mở các cuộc bình đình nông thôn.

Ở chiến trường Khu 5, địa hình đồng bằng mỏng hẹp, xen kẽ núi non hiểm trở, dân cư nhiều chỗ thưa thớt, Mỹ - ngụy không "tìm diệt" dàn đều như ở miền Đông Nam Bộ mà thường chọn một vài tỉnh như Phú Yên, Bình Định, đánh phá ồ ạt quyết liệt; các nơi khác chúng dùng hỏa lực phi pháo và chất độc hóa học chà xát, hủy diệt. Song các cấp bộ Đảng, chính quyền và lực lượng vũ trang nhân dân ở các chiến trường này, với tinh thần tiến công "tìm Mỹ mà diệt, tìm ngụy mà đánh" đã luôn giành được thế chủ động trong mọi tình huống, phá tan được hầu hết các cuộc hành quân "đánh nhanh thắng nhanh" của địch.

Trong khi đó trên chiến trường Trị - Thiên - Huế, mặc dù Mỹ - ngụy không tập trung "tìm diệt" lớn như các chiến trường khác, nhưng do nhìn nhận đánh giá địch, ta không thống nhất, nhiều lúc hữu khuynh, dẫn tới việc vận dụng sai lệch phương châm, phương pháp tiến hành chiến tranh cách mạng. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo cho rằng quân Mỹ tiến hành "chiến tranh cục bộ" bằng những phương pháp tác chiến hiện đại đã gây nhiều khó khăn cho các hình thức đấu tranh của ta. Nếu ta sử dụng lực lượng (kể cả lực lượng quân sự và lực lượng chính trị) tiến công, dễ bị chúng bao vây tiêu diệt. Một bộ phận khác thì muốn bí mật xây dựng cơ sở cách mạng trong quần chúng, chờ dịp thuận lợi sẽ nổi dậy tiến công địch. Do vậy, trong suốt mùa khô 1965 – 1966, địch ở Trị - Thiên -Huế yếu, quân viễn chinh Mỹ tập trung không nhiều (dao động từ 1 đến 2 trung đoàn), nhưng việc sử dụng ba thứ quân hoạt động tác chiến trên ba vùng chiến lược phối hợp với toàn Miền đã không được phát động đồng đều. Hầu hết bộ đội chủ lực (Trung đoàn 9, Trung đoàn 57, tiểu đoàn 806 v.v...) đứng chân trên các vùng giáp ranh Thừa Thiên - Huế đã không chủ động tiến công địch. Nhiều đội vũ trang công tác nằm vùng xây dựng lực lượng dân quân du kích và các đồn thể cách mạng đã không nhận được chỉ thị phát động quần chúng đấu tranh chống địch, làm cho tình thế cách mạng ở Trị - Thiên - Huế không những không mạnh lên mà còn có chiều hướng suy giảm.

Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng toàn Miền và vị trí vai trò của từng khu vực trong thời kỳ mới, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã chỉ thị cho các chiến trường Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên tiếp tục tăng cường giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng cho quân và dân trong từng khu vực nhận thức rõ bản chất của chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, những điểm mạnh, điểm yếu của quân viễn chinh và các nước đồng minh của chúng, từ đó ra sức chuẩn bị tinh thần, vật chất kỹ thuật, chiến thuật cho chiến đấu, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, đánh bại các hoạt động quân sự mới của Mỹ - ngụy. Đồng thời, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định tách chiến trường Trị - Thiên ra khỏi Khu 5, thành lập Khu ủy Trị - Thiên, bao gồm các Đảng bộ Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế đặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương, nhanh chóng khôi phục và phát triển phong trào đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị trên ba vùng chiến lược. Bộ Chính trị ủy nhiệm cho Quân ủy Trung ương trực tiếp chỉ đạo mọi mặt đối với Khu ủy Trị - Thiên.

Căn cứ nhiệm vụ của Bộ Chính trị giao cho, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Quân khu Trị -Thiên đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu ủy Trị -Thiên do thiếu tướng Trần Văn Quang, ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy kiêm Tư lệnh Quân khu phụ trách. Quân ủy Trung ương xác định nhiệm vụ cho chiến trường Trị - Thiên: "Tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ; ra sức chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang thành phố để phục vụ kế hoạch tổng công kích và tổng khởi nghĩa khi có điều kiện chín muồi... Cắt đứt đường giao thông chiến lược của địch, xây dựng đường hành lang của ta, giành thắng lợi về mọi mặt và tạo nên một tình thế mới trên chiến trường Trị - Thiên, phối hợp tốt với các chiến trường khác trong mọi tình huống (kể cả tình huống đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh trên đất liền ra Trung Lào - Hạ Lào) (Chú thích: Nghị quyết của Thường trực Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ chiến trường Trị - Thiên tháng 4, 5, 6 - 1966, TLN, Viện lịch sử quân sự Việt Nam, KH. TW 480.).

Việc tách chiến trường Trị - Thiên khỏi Khu 5 và việc thành lập Khu ủy Trị - Thiên, tiếp đó là Quân khu ủy Trị - Thiên ngay sau mùa khô 1965- 1966 của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chẳng những chứng minh sự phân tích đúng đắn tình hình ta, địch trên chiến trường toàn Miền và từng khu vực, quan điểm phát triển chiến tranh nhân dân toàn diện trong tình hình mới mà còn sớm khắc phục tình hình đấu tranh cách mạng “ở Trị - Thiên tiến triển chậm, trong điều kiệu địch ở đây yếu hơn các chiến trường khác", nhanh chóng "đẩy mạnh tư tưởng tiến công địch về quân sự, đấu tranh chính trị thích hợp với hồn cảnh của Trị - Thiên” (Chú thích: Quân khu 4 - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr 160.)

Tháng 5 năm 1966, ngay sau khi thành lập, Khu ủy và Quân khu ủy Trị - Thiên đã chủ trương đẩy mạnh hoạt động trong những tháng đầu hè - thu năm 1966 để phối hợp với quân và dân toàn miền phá thế chuẩn bị mùa khô tới của địch. Bộ đội địa phương tỉnh, huyện Thừa Thiên - Huế đứng chân ở các vùng giáp ranh bí mật luồn sâu xuống các huyện Quảng Điền, Hương Trà, Hương Thủy... cùng dân quân du kích đẩy mạnh tác chiến nhỏ lẻ, hỗ trợ nhân dân nổi dậy diệt ác phá kìm giành quyền làm chủ. Một số khu vực có quân Mỹ chiếm đóng lớn như Phú Bài, Đồng Lâm, cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ vũ trang công tác và du kích địa phương vận động nhân dân xây dựng "vành đai diệt Mỹ”, quấy rối, bắn tỉa, đấu tranh chống địch bắn phá bừa bãi, gây tâm lý hoang mang trong hàng ngũ của chúng.

Đầu tháng 6 năm 1966, bộ đội tiểu đoàn 6 Trung đoàn 6 chủ lực quân khu được lực lượng vũ trang địa phương hỗ trợ đánh bại một tiểu đoàn Mỹ càn quét xã Phong Chương bắn rơi 4 máy bay. Bộ đội đặc công tỉnh tập kích kho hậu cần dã chiến ở An Cựu, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên. Ba huyện miền núi xây dựng và phát triển 45 tổ phục kích đánh máy bay, cùng hàng trăm dân quân cơ động phối hợp với bộ đội địa phương bao vây đồn bốt, bắn tỉa, gài chông bẫy tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy.

Đặc biệt cuối tháng 6 năm 1966, Trung đoàn 6 đã sử dụng tiểu đoàn 2 và các đại đội công binh, trinh sát, hỏa lực của trung đoàn do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Quốc Khánh chỉ huy, tổ chức trận phục kích giao thông đoạn Cẩu Nhi quốc lộ số 1.

Sáng ngày 29 tháng 6, đúng lúc bộ đội ta vừa chiếm lĩnh xong trận địa thì 26 xe GMC chở đầy lính (có 2 xe M113 dẫn đường) từ Huế ra ứng cứu cho Đường 9 - Quảng Trị đi tới. Bộ đội ta được lệnh tổ chức đánh ngay. Đợi cho đồn xe địch đi vào trung tâm khu vực Cẩu Nhi, các tổ hỏa lực và công binh chặn đầu, khóa đuôi mới giật mìn, nổ súng. Bọn địch ở hai đầu chưa kịp hồn hồn, hai đại đội bộ binh ta ở chính diện được lệnh xung phong diệt hết xe này đến xe khác. Sau gần 15 phút chiến đấu cả 28 xe đều bị bắn cháy, phá hủy, tiểu đoàn 2 lính thủy đánh bộ gần như bị tiêu diệt gọn. Hãng AFP ngày 4 tháng 7 nhận xét "Đây là trận đánh giao thông lớn nhất kể từ khi lính viễn chinh Mỹ hành quân ra các tỉnh cực bắc vùng 1 chiến thuật”.

Kết quả hoạt động quân sự và hoạt động chính trị trong hai tháng 5 và 6 năm 1966 trên chiến trường Trị -Thiên (chủ yếu là Thừa Thiên - Huế) không chỉ chứng tỏ sự chỉ đạo nhạy bén, kịp thời của Khu ủy, Quân khu ủy Trị - Thiên ngay sau khi được thành lập, mà còn là cơ sở thuận lợi để quân dân ở đây xây dựng, phát triển chiến tranh nhân dân toàn diện, rộng khắp trong tình hình mới.

Tiếp sau hai tháng Khu ủy, Quân khu ủy Trị -Thiên thành lập, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ủy nhiệm cho Quân ủy Trung ương họp bàn thành lập Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị - gọi tắt là Mặt trận B5 gồm từ vĩ tuyến 17 đến bắc sông Thạch Hãn, từ Cửa Việt đến Khe Sanh - Hướng Hóa, nhằm "Tạo nên một hướng tiến công mới của ta vào nơi yếu của địch trên chiến trường miền Nam, buộc địch phải phân tán lực lượng lên rừng núi, thực hiện tiêu diệt chiến lược đối với quân cơ động chiến lược của địch bằng lực lượng chủ lực mạnh của ta ở miền Bắc, tạo điều kiện cho các chiến trường khác - trực tiếp nhất là vùng đồng bằng Trị - Thiên, làm cho địch bị động càng bị động hơn, ngăn chặn âm mưu của chúng mở rộng chiến tranh trên bộ ra miền Bắc, đặc biệt là vùng Quân khu 4 của ta”. (Chú thích: Nghị quyết của Thường trực Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ chiến trường Trị - Thiên tháng 4, 5, 6, năm 1966. TLN tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam KH-TƯ).

Để đi tới một quyết định đúng đắn cho việc mở một hướng tiến công chiến lược mới liên quan đến tình thế chung toàn Miền và một số tỉnh cực nam hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Quân ủy Trung ương đã thảo luận kỹ diễn trình tác chiến giữa các lực lượng vũ trang nhân dân ta với quân viễn chinh Mỹ, kể từ khi chúng tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam. Trong đó đặc biệt chú trọng giai đoạn Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ huy động 12 vạn quân (trong tổng số 18 vạn quân Mỹ) mở cuộc phản công chiến lược "tìm diệt" vào hai hướng miền Đông Nam Bộ và một số tỉnh đồng bằng Khu 5 mùa khô 1965 - 1966.

Do sớm nhận định đúng: miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Trung Trung Bộ là những địa bàn chiến lược nơi có vùng giải phóng rộng lớn và là nơi bộ đội chủ lực ta hoạt động mạnh, trực tiếp uy hiếp hậu phương chiến lược Mỹ - ngụy nên quân và dân ta trên các hướng chiến lược đã chủ động đánh địch làm cho quân Mỹ không những không "tìm diệt” được bộ đội chủ lực ta, mà còn bị thiệt hại nặng nề.

Ta đã tiêu diệt, tiêu hao được một số lượng lớn sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân viễn chinh Mỹ. Nhưng trên thực tế ta chưa diệt gọn được từng đại đội và tiểu đoàn quân Mỹ. Trong khi đó, ở một số vùng đồng bằng, miền núi nằm ở tâm điểm đánh phá của quân Mỹ, các căn cứ kháng chiến, các cơ sở quần chúng cách mạng của ta bị đánh phá nhiều lần, có nơi lực lượng vũ trang địa phương phải tạm thời rút lui bảo toàn lực lượng.

Qua diễn biến phức tạp của chiến trường, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã từng bước triển khai các biện pháp chiến lược, cùng với việc bố trí lực lượng chiến lược. Tăng cường củng cố xây dựng, mở rộng Mặt trận miền Đông Nam Bộ (Mặt trận B2), mặt trận Tây Nguyên (Mặt trận B3)...

Qua tác chiến mùa khô 1965 – 1966, các chiến trường này đã thu được những thắng lợi to lớn về quân sự và chính trị, giữ vững thế tiến công chiến lược, tạo điều kiện quan trọng cho chiến tranh nhân dân địa phương phát triển. Trong Hè - Thu 1966 này, khi Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tiếp tục tăng quân viễn chinh lên 28 vạn tên (tính trung bình mỗi tháng quân Mỹ vào một vạn tên), thì việc quyết định mở thêm Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương là một chủ trương mạnh bạo, một đóng góp mới vào việc đẩy mạnh thế tiến công của ta, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của địch, có tác dụng làm cho quân Mỹ không đủ quân để triển khai ở đồng bằng Nam Bộ, đồng thời ngăn chặn âm mưu của đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh trên mặt đất ra miền Bắc. Có thể nói, việc nhận định đánh giá chiến trường miền Đông Nam Bộ là hướng chiến lược chủ yếu và Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị là hướng tiến công chiến lược quan trọng của Đảng ta đã thể hiện sự điều hành chiến tranh một cách chủ động trong lúc quân Mỹ đang tăng quân ồ ạt.

Trên trục đường số 1 từ cầu Quảng Trị (sông Thạch Hãn) đến nam cầu Hiền Lương (sông Bến Hải), Mỹ - ngụy đã xây dựng các căn cứ quân sự: Ái Tử, Đông Hà, và các chốt điểm Ngã Tư Sòng, Quán Ngang, Dốc Miếu, đồi 31... trên mật độ khá dày (cách nhau từ 5 đến 7 km). Trên trục đường 9 chiến lược nối biển Đông (Việt Nam) với Xa Van Na Khệt (Lào) chia Đông Dương thành hai miền Nam - Bắc, Mỹ - ngụy (kể cả ngụy Lào) sớm nhận ra “sức mạnh của bức tường thép khổng lồ ngăn chặn sự xâm nhập của cộng sản từ phương Bắc” đã đốc thúc hàng chục nghìn binh lính củng cố và mở rộng căn cứ quân sự liên hồn Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Khe Sanh (Việt Nam), Bản Đông, Mường Phìn, Pha Lan, Đồng Hến, Sê Nô (Lào). Ngồi các căn cứ quân sự mạnh kể trên, ở phía bắc đường 9, Mỹ - ngụy còn cho quân lính nống ra vùng giáp biên, giáp vĩ tuyến 17, xây dựng các chốt điểm Bái Sơn, Cồn Tiên, điểm cao 182 (khu đông); Đồng Trị, các điểm cao 660, 850 (khu tây) để ngăn chặn đối phương từ xa.

Cùng với việc ra sức củng cố xây dựng hệ thống căn cứ quân sự ở Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam cũng bắt đầu cho các đơn vị viễn chinh Mỹ ở Chu Lai, Đà Nẵng ra Quảng Trị thực thi “phòng thủ” và "tiến công hạn chế" giành quyền chủ động. Cuối tháng 4 năm 1966 chúng bố trí ở đây 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, 1 lữ đoàn thiện chiến thuộc lực lượng dự bị chiến lược ngụy và lực lượng địa phương quân. Nhưng đến cuối tháng 6 đầu tháng 7 năm 1966, sau khi “hông phía bắc (Quảng Trị) của lực lượng đồng minh Nam Việt Nam bị đe dọa", Bộ chỉ huy cụm các lực lượng lính thủy đánh bộ số 3 ở Đà Nẵng lập tức điều động trung đoàn 3 thuộc sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ đang làm nhiệm vụ ‘tìm diệt” Quân giải phóng tại Quảng Ngãi, Tam Kỳ, 4 tiểu đoàn tổng dự bị chiến lược ngụy, với sự hậu thuẫn đắc lực của sư đoàn 1 bộ binh thuộc vùng 1 chiến thuật, cùng hàng trăm khẩu pháo và xe thiết giáp tăng cường đến "biên giới" phía bắc ngăn ngừa sự tiến công của ta.

Mỹ - ngụy tăng cường ồ ạt binh lực và phương tiện chiến tranh ra chiến trường Quảng Trị trong một thời gian ngắn (tháng 6 và tháng 7 năm 1966) đã chứng minh sự đoán định tài tình của Quân ủy Trung ương và Đảng ủy Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị về đặc điểm tính chất của chiến trường quan trọng này. Nhận định nêu rõ: Cuộc chiến tranh cách mạng chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân cả nước ta không chỉ là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thống nhất Tổ quốc, mà còn là cuộc đọ sức quyết liệt giữa hai chế độ: chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa.

Tính chất phức tạp đó lại được nhân lên gấp bội khi lực lượng vũ trang ta và địch đều có hậu phương chiến lược cận kề đối diện nhau, trong thời gian nhất định có thể huy động được một lực lượng lớn theo yêu cầu về binh lực và phương tiện chiến tranh vào cuộc chiến. Quán triệt tầm quan trọng đặc biệt của hướng tiến công chiến lược này. Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã ra nghị quyết: “lãnh đạo chỉ huy lực lượng trong biên chế tăng cường mở cuộc tiến công liên tục vào địch nhằm tiêu hao, tiêu diệt và cầm chân một lực lượng địch càng lớn càng tốt tại đường 9, thực hiện phương châm căng địch ra mà đánh, phối hợp đắc lực với các chiến trường, hỗ trợ có hiệu quả với phong trào du kích chiến tranh ở đồng bằng Trị Thiên”. (Chú thích: Nghị quyết Đảng ủy Mặt trận B5 tháng 6 năm 1966. TLN tại kho K4 - Bộ Quốc phòng - HS8.).

Trước mắt Mặt trận quyết định tập trung lực lượng mở cuộc tiến công vào những nơi hiểm yếu trên tuyến phòng ngự đường 9 - Bắc Quảng Trị để mở thông đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn, chi viện kịp thời sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Rõ ràng khi đế quốc Mỹ thực hiện “chiến tranh cục bộ”, huy động hàng vạn quân mở hàng loạt các cuộc hành quân “tìm diệt” lực lượng vũ trang cách mạng, thì nhân dân miền Nam trước đã cần, nay lại càng cần hơn sự chi viện to lớn, toàn diện về vật chất và tinh thần của hậu phương miền Bắc. Đế quốc Mỹ và tay sai biết rõ nguồn sống chiến lược đó của cách mạng miền Nam nên chúng khẳng định: “ngày nào Mỹ còn ở Việt Nam thì ngày đó Mỹ còn duy trì củng cố tuyếnl phòng thủ Đường 9 - Bắc Quảng Trị" Và “chúng sẽ nỗ lực tới mức cao nhất để chặt đứt tuyến đường vận chuyển chiến lược Trường sơn của ta” (Chú thích: Nghị quyết Đảng ủy Mặt trận B5 tháng 6 năm 1966, TLN tại kho K-4 Bộ Quốc phòng - HS8.).

Do đó, “cuộc chiến đấu ở đây chẳng những có tính chất ác liệt mà còn có tính chất lâu dài". Với tính chất đặc trưng của chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Quân ủy Trung ương đã xác định cho Bộ tư lệnh Mặt trận: Trên cơ sở quán triệt phương châm đánh lâu dài, cần phải tạo thời cơ đánh nhanh, đánh mạnh với mức độ quy mô ngày càng lớn, về chiến lược nhằm thúc đẩy cuộc chiến tranh cách mạng phát triện lên một bước cao hơn. Thực hiện tốt phương thức tác chiến chiến lược đó, Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị không chỉ tạo điều kiện cho các vùng nông thôn đồng bằng Trị -Thiên khôi phục phát triển phong trào cách mạng của quần chúng, mà còn phối hợp với toàn miền phá thế củng cố lực lượng trong mùa mưa của Mỹ - ngụy.

Chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị lúc đầu được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh giao cho Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 4 trực tiếp chỉ huy và điều hành lực lượng chiến đấu. Xuất phát từ vị trí vai trò đặc biệt quan trọng (có tính đặc thù) của chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 4 được sự ủy quyền của Quân ủy Trung ương đã quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân khu tiền phương (còn gọi là đảng ủy, Bộ Tư lệnh Mặt trận X) bao gồm các đồng chí: đại tá Nam Long, Phó tư lệnh Quân khu 4 làm Tư lệnh, đại tá Quách Sĩ Kha, Chủ nhiệm chính trị Quân khu làm chính ủy, thượng tá Chu Phương Đới, Sư đoàn trưởng Sư lồn 234 làm phó tư lệnh, thượng tá Nguyễn Tiến Lợi, Chính ủy sư đoàn 324 làm phó chính ủy. Hai đồng chí Trương Chí Công, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị và Hồ Sĩ Thản, bí thư Khu ủy Vĩnh Linh được chỉ định vào Đảng ủy Mạt trận.

Cán bộ cấp Cục hầu hết được điều động từ Bộ tư lệnh Quân khu 4 và các sư đoàn lên. Các đồng chí: Nguyễn Công Tranh được cử giữ chức Chủ nhiệm chính trị Mặt trận. Duy Sơn, Tham mưu trưởng, Chí Cường, chủ nhiệm hậu cần. Đối với sở chỉ huy, dựa vào thế bố chí chiến lược ở vùng Nam Quân khu 4 và chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Bộ tư lệnh Mặt trận đã chọn khu vực chợ Cổn (tây thị xã Quảng Bình 8km) làm sở chỉ huy cơ bản; khu vực Mỹ Lộc, xã Vĩnh Chấp (Vĩnh Linh) chọn làm sở chỉ huy tiền phương. “Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị mở ra sự phát triển mới của chiến trường Trị - Thiên, đặt vùng đất Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Vĩnh Linh trở thành hậu phương trực tiếp, trong đó Quảng Bình và Vĩnh Linh trở thành hậu phương chiến dịch" (Chú thích: Quân khu 4 - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1994. Tr 162, 163.). III. Đẩy mạnh hoạt động quân sự, chính trị thu hút, giam chân địch.

Căn cứ phương châm chiến lược của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, giữa tháng 6 năm 1966, Đảng ủy Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã họp phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của đại tá Quách Sĩ Kha, Chính ủy Mặt trận, bàn về phương thức, biện pháp hoạt động của các lực lượng vũ trang trên chiến trường này. Sau khi phân tích tình hình địch, ta trên chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, hội nghị xác định: Chủ trương đưa bộ đội chủ lực (có sự phối hợp và hỗ trợ chặt chẽ của bộ đội địa phương và dân quân du kích tỉnh Quảng Trị) là hồn toàn đúng đắn sáng tạo. Chủ trương đó, nếu được thực hiện tốt chẳng những thu hút, giam chân được một bộ phận quan trọng quân chủ lực địch (chủ yếu là quân Mỹ) ra chiến trường vùng cực bắc, tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang ở Nam Trung Bộ hoạt động đánh bại các cuộc hành quân "tìm diệt” của Mỹ - ngụy, mà còn tạo thời cơ để củng cố, xây dựng lực lượng cách mạng (đặc biệt là lực lượng dân quân du kích nằm vùng) ở tỉnh Quảng Trị. Đồng thời, hội nghị cũng đưa ra những dự kiến khi ta hoạt động mạnh, Mỹ - ngụy sẽ phản ứng như thế nào, mức độ ác liệt tới đâu để tìm cách khắc phục hạn chế tới thức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra.

Để triển khai nghị quyết đảng ủy Mặt trận, ngày 20 tháng 6 năm 1966, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 -Bắc Quảng Trị đã tổ chức hội nghị quân chính mở rộng tới cấp tiểu đoàn, bí thư huyện Cam Lộ, Do Linh, các huyện đội trưởng và các phái viên Bộ Tổng Tham mưu. Đại tá Nam Long, Tư lệnh Mặt trận đã nêu bật những khó khăn, thuận lợi của các lực lượng vũ trang nhân dân trên địa bàn Quảng Trị, chủ yếu đi sâu vào các đơn vị bộ đội chủ lực chuẩn bị bước vào tác chiến.

- Sư đoàn 324 (bộ đội chủ lực Quân khu 4) tăng cường cho Mặt trận, có nhiệm vụ "Phối hợp với các lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị tiêu diệt một bộ phận quân ngụy, kéo chủ lực Mỹ ra Đường 9, giam chân tiêu diệt chúng, buộc chúng phải bị động đối phó và tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường và làm chỗ dựa cho phong trào đấu tranh chính trị ở đồng bằng Trị - Thiên, củng cố xây dựng căn cứ ở miền núi, mở rộng hành lang vận chuyển của ta" (Chú thích: Lịch sử Sư đoàn 324, Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội 1992 tr.39, 40.)

Trung đoàn 31 cũng là lực lượng của Quân khu 4 tăng cường, phân tán nhỏ lẻ thành các trung đội, đại đội luồn sâu vào trong lòng địch móc nối, xây dựng dân quân du kích, hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương (các đội vũ trang công tác huyện, tỉnh) với phương châm “tích cực, chủ động, đánh nhỏ lẻ, liên tục bằng mọi hình thức (kể cả công tác binh vận), xây dựng cơ sở cách mạng. Phát động chiến tranh du kích, nhằm tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ quân địch" (Chú thích: Nghị quyết Đảng ủy Mặt trận B5, Sơ kết quý 3 năm 1966. (10-1966). Lưu tại kho K4 Bôk Quốc phòng. HS8.).

- Các tiểu đoàn 27 Vĩnh Linh, đặc công, công binh, thông tin, vận tải của Bộ tăng cường cho Mặt trận sẵn sàng làm nhiệm vụ phối thuộc hoặc độc lập tác chiến nhỏ lẻ trên từng hướng (chủ yếu là vùng sau lưng địch).

Căn cứ nhiệm vụ trên giao, Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định đưa toàn bộ Sư đoàn 324 vào hoạt động tác chiến trên các khu vực giáp ranh đồng bằng và miền núi tỉnh Quảng Trị.

- Khu vực 1: từ Đầu Mầu, Cam Lộ ra Cù Đinh, Ba De. Trên khu vực hoạt động này, Sư đoàn 324 chọn căn cứ Đầu Mầu và điểm cao 402 (nằm ngay cạnh Đường 9) do 2 đại đội biệt động quân chốt giữ làm mục tiêu chủ yếu châm ngòi kéo địch vào vòng chiến theo ý đồ chiến lược: giam chân, thu hút một bộ phận quan trọng Mỹ - ngụy. Nhiệm vụ quan trọng này được giao cho Trung đoàn 90 (còn gọi là Trung đoàn 1), có đại đội đặc công của sư đoàn tăng cường.

- Khu vực 2: gồm Cùa và Tân Lâm, do Trung đoàn 812 (còn gọi là Trung đoàn 2) đảm nhiệm, có nhiệm vụ tiêu diệt đồn Cùa và đánh sập một vài cây cầu trên đường 9. Mặc dù đây là “hướng phụ” nhưng nếu cán bộ, chiến sĩ chủ quan, không có kế hoạch chặn địch tốt, sơ hở để chúng tạt sườn thì Trung đoàn 90 sẽ không rảnh rang đột phá dứt điểm Đầu Mầu, điểm cao 402, ảnh hưởng rất lớn đến ý đồ hoạt động toàn mặt trận.

Trung đoàn 803 (còn gọi là Trung đoàn 3) và một số tiểu đoàn trực thuộc sư đoàn (trừ một vài phân đội đi phối thuộc) làm lực lượng dự bị và công tác bảo đảm cho các đơn vị ở phía trước.

Toàn bộ khu vực hoạt động tác chiến của sư đoàn có 5 tiểu đoàn biệt động quân, 6 đại đội địa phương quân đóng chốt, ngăn chặn lực lượng vũ trang địa phương ta (đặc biệt là du kích) hoạt động, đồng thời kìm kẹp nhân dân ta trong các khu tập trung ở Cam Lộ và Cùa.

Để tạo điều kiện cho hướng chính hoạt động, Bộ tư lệnh Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị đã cho 2 tiểu đoàn (thiếu) của Trung đoàn 31 vào Cồn Tiên, Dốc Miếu yểm trợ cho 2 đại đội hỏa lực cối ĐKZ82 bắn chế áp các trận địa pháo, nghi binh phân tán sự đối phó của địch.

Sau một tuần chuẩn bị chiến trường, khai mở các cung chặng vận chuyển, lót ổ gạo đạn, các trung đoàn 1 và 2 (Sư đoàn 324) được lệnh hành quân chiếm lĩnh trận địa. Mặc dù gặp một số sự cố như lạc đường, vấp mìn, pháo địch bắn vào đội hình, nhưng sau gần 10 giờ hành quân liên tục, xử lý các tình huống tốt, hai trung đoàn đã vào vị trí quy định, triển khai đội hình chiến đấu.

5 giờ sáng ngày 26 tháng 6 năm 1966, tiếng súng tiến công địch trên mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị bắt đầu. Mở màn, tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 1) cùng với đại đội đặc công của sư đoàn do tiểu đoàn trưởng Lê Văn Toàn và chính trị viên Lê Quốc Huy chỉ huy bất ngờ đột kích căn cứ Đầu Mầu, tiêu diệt gọn đại đội biệt động quân, thu 30 súng các loại, làm chủ trận địa.

Mất chốt điểm quan trọng trên trục đường số 9, cuối tháng 6 và đầu tháng 7, bọn địch ở Đông Hà và thị xã Quảng Trị vội vàng đưa quân đi giải tỏa. Ngày 9 tháng 7 địch dùng hàng trăm trực thăng đổ quân xuống đường 9 thuộc địa phận Cam Lộ. Riêng khu vực lèn 300 đất và lèn 300 đá (bắc đường 9) chúng đổ xuống 1 tiểu đoàn. Địch vừa chạm đất thì đã bị tiểu đoàn 7 bố trí sẵn nổ súng tiêu diệt nhiều tên.

Cùng thời gian trên, phối hợp với Trung đoàn 1 ở Đầu Mầu, Trung đoàn 2 được bộ đội địa phương và du kích huyện Cam Lộ hỗ trợ đánh vào một loạt vị trí ở Cùa, Miếu Hòa , O Giang, Bản Hiệu, Phượng Nghĩa... diệt và làm bị thương gần 200 tên. Các đại đội hỏa lực của mặt trận và Trung đoàn 31 bắn hàng trăm quả cối 82, ĐKZ75 vào căn cứ Cồn Tiên, Dốc Sỏi, Dốc Miếu, gây cho địch nhiều thiệt hại.

Đợt tiến công châm ngòi của quân và dân ta trên Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị làm cho Bộ chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải rút bớt lực lượng ở miền Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ ra Quảng Trị ứng cứu quân ngụy. Chỉ trong một tháng, chúng đã đưa 3 trung đoàn (của 2 sư đoàn 1, 3) lính thủy đánh bộ Mỹ và sư đoàn dù (thiếu) lực lượng tổng dự bị của quân ngụy cấp tốc ra Trị - Thiên (chủ yếu là Quảng Trị) nâng tổng số quân địch trên chiến trường Trị - Thiên lên 41.000 tên, trong đó có 16.700 lính Mỹ (Chú thích: Quân khu 4 lịch sử kháng chiến chống Mỹ, sách đã dẫn tr. 172.).

Từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 6 năm 1966, Mỹ -ngụy mở hàng trăm cuộc hành quân nhỏ và vừa ra các vùng miền Đông Nam Bộ, Trung Trung Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên. Với “kế hoạch phá tan" cuộc chiến tranh nhân dân (chủ yếu là chiến tranh du kích) đang phát triển mạnh mẽ, đều khắp ngay từ đầu mùa mưa 1966, Mỹ - ngụy những tưởng có thể giải vây cho các căn cứ lớn, các trục đường giao thông, giữ vững được thế phòng ngự hiện trạng, chuẩn bị cho cuộc phản công mùa khô hai (1966 - 1967). Nhưng mọi cuộc hành quân càn quét đều mang tính bị động và đã bị lực lượng vũ trang giải phóng đánh bại.

Ở miền Bắc, trong ba tháng 6, 7, 8 năm 1966 số lượng máy bay và số trận máy bay leo thang đánh phá tăng gấp hai đến ba lần so với thời gian Hè - Thu 1965, trung bình ngày chúng sử dụng 200 đến 250 lần chiếc máy bay cất cánh, ngày cao nhất có tới 400 lần chiếc, đánh phá hầu hết các thành phố, thị xã và tuyến đường giao thông quan trọng từ Vĩnh Linh đến Lạng Sơn. . .

Tình hình chiến sự sôi động ở hai miền Nam -Bắc Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến nội tình nước Mỹ, làm cho phong trào chống chiến tranh của các tầng lớp nhân dân Mỹ lên cao, nội bộ chính quyền Giôn-xơn phân tán sâu sắc. Phái “diều hâu” hiếu chiến tiếp tục hò hét đẩy mạnh chiến tranh, đòi ném bom mạnh hơn nữa vào Hà Nội, Hải Phòng, yêu cầu đưa quân viễn chinh vào Lào, Cam-pu-chia, thậm chí ra cả Bắc Việt Nam, đòi tăng quân Mỹ lên 49 vạn rồi 57 vạn... phái Mắc Na-ma-ra tỏ ra thực tế và dè dặt hơn sau thất bại đầu tiên của cuộc "chiến tranh cục bộ”, Mác Na-ma-ra chủ trương chiến tranh có giới hạn và đưa ra đề nghị 5 điểm: ổn định mức quân số Mỹ là 47 vạn; thiết lập hàng rào điện tử chống xâm nhập một tỷ đô-la ở vĩ tuyến 17; ổn định "chương trình sấm rền" đành phá miền Bắc ở mức độ 12.000 chuyến bay trong một tháng và xét việc ngừng ném bom miền Bắc kết hợp với việc vận động thương lượng; tiến hành một chương trình bình định mạnh mẽ; gây sức ép đòi thương lượng. Mác Na-ma-ra chán nản cho rằng "khó mà trông mong cuộc chiến tranh có thể đi đến chỗ kết thúc một cách thỏa đáng trong vòng hai năm nữa". Tổng thống Giôn-xơn và một số quan chức theo "đường lối dung hòa” bác bỏ đề nghị tăng quân lên 57 vạn của Oét-mo-len, tán thành hạn chế quân số ở mức 47 vạn nhưng không đồng ý giảm bớt mức độ ném bom miền Bắc.

Trước giới lãnh đạo Mỹ đã có ý kiến khác nhau, công chúng Mỹ bắt đầu tỏ ra bi quan về tình hình và triển vọng của cuộc chiến tranh. Mặc dù vậy, đế quốc Mỹ vẫn bất chấp dư luận trong nước và thế giới. Tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh, giữ vững thế phòng ngự mùa mưa, ráo riết chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai. Mùa hè năm 1966, đồng thời với việc điều động gấp sang chiến trường Việt Nam thêm 10 vạn quân, đế quốc Mỹ còn leo thang bắn phá miền Bắc. Ngày 29 tháng 6 năm 1966, đế quốc Mỹ cho máy bay ném bom bắn phá 52 điểm trên miền Bắc, trong đó có hai mục tiêu quan trọng là kho xăng Đức Giang ở thủ đô Hà Nội và kho xăng Thượng Lý (Hải Phòng).

Trước tình hình đế quốc Mỹ ồ ạt tăng cường lực lượng vào miền Nam và leo thang đánh phá miền bắc cực kỳ nghiêm trọng, đầu tháng 7 năm 1966, Hội đồng Quốc phòng tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa họp tại thủ đô Hà Nội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh: bàn biện pháp huy động toàn quân, toàn dân đánh bại những âm mưu, thủ đoạn mới của địch. Sau khi nghe báo cáo về tình hình chiến đấu, sản xuất của quân và dân hai miền Nam Bắc, Hội đồng đã quyết định những chủ trương lớn nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi quân và dân cả nước đồn kết một lòng quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược. Người chỉ rõ: "Giôn-xơn và bè lũ phải biết rằng chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không lay chuyển được ý chí sắt đá quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng..." (Chú thích: Hồ Chí Minh tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội 1980, tr 2.430.). Người khẳng định: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hồng hơn, to đẹp hơn".

Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ý chí sắt đá của nhân dân cả nước ta tập trung toàn lực quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc tiến tới thống nhất nước nhà.

Đáp lời kêu gọi thiêng liêng "Không có gì quý hơn độc lập tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lệnh tổng động viên cục bộ của Nhà nước, quân và dân cả nước nói chung, quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị nói riêng, bước vào cuộc chiến đấu một mất một còn với giặc Mỹ xâm lược.

Thượng tuần tháng 7 năm 1966, sau khi nắm được Bộ chỉ huy Mỹ ở miền Nam đưa hơn 4 vạn tên địch (có gần một nửa là lính Mỹ) ra Trị - Thiên (chủ yếu là Quảng Trị), Bộ chỉ huy Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị nhận định: Quân Mỹ đưa những đơn vị thiện chiến nhất ra Quảng Trị nhằm mục đích “ngăn chặn", "tìm diệt” quân chủ lực, đánh phá phong trào cách mạng của nhân dân địa phương, chúng còn có ý đồ gì? Trong khả năng nhất định, chúng có dám liều lĩnh đưa bộ binh ra đánh phá miền Bắc không? Nếu có thì chúng sẽ dùng lực lượng như thế nào, không gian hoạt động tới đâu? Với bản chất hiếu chiến, phiêu lưu như giặc Mỹ, những dự đoán của các thành viên trong Bộ tư lệnh Mặt trận không chỉ lượng định mọi khả năng của kẻ thù, mà còn là căn cứ để soạn thảo những kế hoạch thiết thực nhằm đánh thắng kẻ thù trong mọi tình huống.

Quả đúng như dự đoán của Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, sau khi hùng hổ đổ quân ra vùng đất Trị - Thiên, hai sư đoàn (1, 3) lính thủy đánh bộ Mỹ đã hò hét "đánh tới" bất kể đối phương mạnh yếu thế nào. Chúng cũng dự định chỉ trong vòng một tháng sẽ "quét sạch" quân chủ lực ta ra khỏi vĩ tuyến 17. Ngày 12 tháng 7 năm 1966, lính thủy đánh bộ Mỹ ở Trị - Thiên mở cuộc hành quân Hát-xtinh với lực lượng một vạn tên đánh vào vùng Cam Lộ.

Để đánh bại cuộc hành quân của địch ngay từ những ngày đầu, sau khi bàn tính kỹ, Bộ tư lệnh Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị quyết định dùng sư đoàn 324 - đơn vị có kinh nghiệm mở đợt tác chiến đầu tiên tiêu diệt quân ngụy ở Đầu Mầu, Tân Lâm, thực hiện mục tiêu kéo địch ra Quảng Trị, tiến hành đánh bại cuộc hành quân Hát- xtinh của lính thủy đánh bộ Mỹ.

Ngày 15 tháng 7 năm 1966, giữa lúc Sư đoàn 324 đang kửân trương hồn tất mọi công việc cho đợt chiến đấu mới thì sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ Mỹ cho hàng trăm chiếc máy bay lên thẳng đổ quân xuống hàng loạt vị trí O Giang, Bản Hiệu. lèn 300 đất, lèn 300 đá, Cù Đinh, Ba De, điểm cao 402 , miếu Bái Sơn v.v. . . Đổ quân tới đâu lính thủy đánh bộ Mỹ gọi phi pháo đánh phá các vùng xung quanh tới đó. Chỉ tính riêng trong hai bốn giờ ngày 16 tháng 7, chúng đã dùng 18 lần chiếc máy bay B52 ném bom xuống tây bắc Cù Đinh, nam Tân Lâm và đông bắc điểm cao 402. Ngoài ra chúng còn dùng hàng chục lần chiếc máy bay phản lực, hàng chục khẩu pháo các loại đánh phá liên tục xuống nam- bắc sông Bến Hải hòng làm nhụt chí tiến công của quân và dân ta.

Do công tác chuẩn bị chiến trường chu đáo nên mặc dù bị phi pháo địch đánh phá ác liệt, nhưng hầu hết các đơn vị ở phía trước của Sư đoàn 324 vẫn chủ động phản kích ngay từ những giờ phút đầu.

Sáng ngày 16 tháng 7, tại điểm cao 402, sau khi máy bay B52 đánh phá gần như xoá sạch những mầm xanh còn sống sót, sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ mới cho trực thăng chở một tiểu đoàn của trung đoàn 1 đổ bộ xuống chiếm vị trí chiến thuật lợi hại này. Đại đội 6 tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 2) chốt giữ điểm cao đã đánh bại các đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên Mỹ. Trong trận đánh, tổ hỏa lực Nguyễn Phi Hùng đã lập công xuất sắc, đánh lui 12 đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 32 tên, góp phần đắc lực cùng đại đội giữ vững điểm cao 402 và hầu hết khu vực lèn 300 đất.

Được chiến công của đại đội 6 (tiểu đoàn 6) cổ vũ, đại đội 2 tiểu đoàn 5 được mệnh danh là "Đại đội gió lốc”, đã vượt qua các đợt đánh phá ác liệt của phi pháo địch, bám trụ kiên cường, đánh bại các đợt tiến công ồ ạt của một tiểu đoàn Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn100 tên, trở thành "chốt thép thắng Mỹ" đầu tiên trên chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị.

Ngày 17 tháng 7, sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ Mỹ cho hai tiểu đoàn đổ bộ xuống Cù Dinh, Ba De “tìm diệt” tiểu đoàn bộ binh của ta chốt giữ khu vực này. Với ý chí quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, mặc dù bị bom pháo đánh phá trên địa bàn rất ác liệt, nhưng tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 1) và tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 3) mới được điều đến tiến công kịp thời vào đội hình địch đang đổ quân làm chúng hoảng sợ phá chạy toán loạn.

Phối hợp chặt chẽ với hai trung đoàn 2 và 3 đánh địch giữ vững các điểm cao dọc đường 9, Trung đoàn 1 (thiếu tiểu đoàn 1) đã bí mật luồn sâu xuống Do Hải (Do Linh), Cam Thanh (Cam Lộ), Triệu Thượng (Triệu Phong) cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, kết hợp hoạt động vũ trang, giải phóng một số xã vùng đông tỉnh Quảng Trị, tạo bàn đạp đưa lực lượng xuống đồng bằng ven biển Triệu Hải. Ở phía nam tỉnh Quảng Trị, ngày l6 tháng 7, trung đoàn 6 Thừa Thiên thọc xuống quốc lộ 1, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn ngụy, phá hủy 15 xe quân sự...

Trước thất bại của quân sĩ, trung tướng Uôn-tơ, Tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ ở Nam Việt Nam, mặc dù không còn huênh hoang thách thức “lính thủy đánh bộ đang mong muốn có một trận đánh lớn” như lúc đầu nhưng vẫn vơ vét quân còn lại của hai sư đoàn (1, 3) ở Tam Kỳ, Đà Nẵng ra Quảng Trị để tiêu diệt quân ta. Sáng ngày 22 tháng 7, chúng đổ 2 tiểu đoàn (thuộc trung đoàn 5 lính thủy đánh bộ) xuống Khe Chùa lập tuyến phòng ngự từ Ba De, Cù Đinh tới Đá May. Chúng còn cho chiến đồn dù ngụy đang chốt giữ vùng Cùa đổ quân xuống Khe Vạn, Làng Đôn (phía tây Tân Lâm 10 km) kết hợp với quân Mỹ ở bắc đường 9 tạo thành hai gọng kìm tiêu diệt quân ta.

Ngày 25 tháng 7, hai cánh quân Mỹ - ngụy bắt đầu tiến hành "tập hậu” quân ta. Tại Cù Đinh, tiểu đoàn 3 linh thủy đánh bộ được sự yểm trợ của máy bay và pháo binh, chia làm hai mũi đánh lên điểm cao 314, nơi có 1 tiểu đoàn ta chốt giữ. Nhưng mới ngày đầu tiến công ồ ạt, cả hai đại đội lính thủy đánh bộ đã không còn đủ sức "vượt dốc" trước đòn đánh trả mãnh liệt của quân ta, phải khiêng cáng nhau lui về vị trí ban đầu.

Thảm cảnh đó được Giốc Giơ-ét-te (phóng viên hãng tin Mỹ AFP) mô tả như sau: "Hôm nay 25 tháng 7, các máy bay lên thẳng của lính thủy đánh bộ Mỹ từ từ hạ xuống một cách khổ não trên ngọn đồi rậm để chở ra khỏi nơi này những cái lồng thép dành cho thương binh của đại đội 1. Có 71 người bị thương, chiếm gần một nửa đại đội. Số chết sẽ được máy bay lên thẳng chở đi sau...". Đại úy Gơ lây-dơ, đại đội trưởng rưng rưng nước mắt nói: "Chúng tôi bị chết và bị thương vô số ở đây".

Còn chiến đoàn dù ngụy hoạt động ở Khe Vạn, Làng Đôn khi biết tin tiểu đoàn Mỹ bị đánh ở hướng bắc chúng không dám nống lấn thêm chỉ quanh quẩn một chỗ gần như “án binh bất động". Chiều ngày 25 tháng 7, mới bị mấy chục quả pháo cối 82 của ta bắn vào đội hình, chúng đã tháo lui về Cùa bỏ mặc cho quân Mỹ tác chiến. Trưa ngày 26 tháng 7, thấy không còn trông cậy vào sự chi viện của quân ngụy, hai tiểu đoàn Mỹ hoạt động ở Cù Đinh, Ba De phải rút chạy về Cam Lộ bỏ cuộc hành quân Hát- xtinh.

Bị thất bại liên tiếp ở Đường 9 - Bắc Quảng Trị, bộ chỉ huy Mỹ - ngụy chẳng những không chịu dừng lại, mà còn tiếp tục lao vào "canh bạc khát" hòng cứu vãn tình thế thất bại. Trung tuần tháng 8 năm 1966, sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ cho 3 tiểu đoàn đóng chốt ở Đông Hà, Tân Lâm tiến hành càn quét vùng giải phóng. Nhưng bọn lính thủy đánh bộ lấn chiếm tới đâu cũng bị lực lượng vũ trang ba thứ quân tỉnh Quảng Trị chặn đánh tới đó.

Ngày 17 tháng 8, một đại đội hỏa lực cối 82, ĐKZ75, 12,7 ly của Trung đoàn 2 bắn cấp tập một đại đội lính thủy đánh bộ đang hành quân từ Cam Lộ lên Đầu Mầu, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên. Ngày 18 tháng 8, một đại đội của tiểu đoàn 5 lính thủy đánh bộ đóng ở Đông Hà, được máy bay trực thăng chuyên chở đổ bộ xuống Bản Hiệu (tây bắc Đầu Mầu 5 km) bị đại đội 5 (Trung đoàn 3) diệt và làm bị thương 40 tên. Đêm ngày 25 tháng 8, hai đại đội đặc công của Mặt trận tập kích trận địa hỗn hợp pháo binh, xe tăng chốt giữ phía tây bắc cầu Thiện Xuân diệt 36 tên, phá hủy 2 pháo 105, 3 xe thiết giáp...

Đầu tháng 9 năm 1966, sau khi điều thêm 5 tiểu đoàn Mỹ (3 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 1 và sư đoàn 3 lính thủv đánh bộ ở Quảng Nam - Đà Nẵng ra và 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 5 từ hạm đội 7 vào), bộ chỉ huy Mỹ ở vùng 1 đã mở cuộc hành quân mang tên “Đồng cỏ" đánh vào vùng tây Do Linh và tây bắc Cam Lộ, nhằm ngăn chặn bộ đội chủ lực ta đang hoạt động ngày một gia tăng ở vùng này.

Cuộc hành quân "Đồng cỏ” được chia làm hai cánh. Cánh một (chủ yếu) do 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, tiểu đoàn ngụy có 3 chi đồn xe tăng thiết giáp yểm trợ tiến đánh các khu vực từ phía tây đường số 1 lên xã Do An, chú trọng các vị trí chiến thuật xung quanh căn cứ Cồn Tiên. Cánh hai do 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ và 1 tiểu đoàn bộ binh ngụy đánh vào khu vực điểm cao 400, 363, 300 đất, 300 đá (tây bắc huyện lỵ Cam Lộ từ 10 đến 12 km). Để giữ bí mật cho cuộc hành quân, ngày 19 tháng 9, Mỹ - ngụy cho chiến đồn 1 ngụy càn quét các xã Do Mỹ, Trung Hải (bắc cảng Cửa Việt) nhằm thu hút sự chú ý của Bộ chỉ huy Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị.

Ngày 19 tháng 9, khi trận càn quét của chiến đồn 1 ugụy đi vào giai đoạn cực điểm thì bọn chỉ huy Mỹ ở Đông Hà (tưởng đã giành được thế bất ngờ) ra lệnh cho hai cánh quân "tìm diệt" bộ đội chủ lực ta. Mở màn cuộc hành quân, bọn Mỹ cho hàng trăm lần chiếc máy bay (kể cả máy bay B52), 8 trận địa pháo (kể cả pháo hạm) ném bom bắn phá hàng giờ liền xuống các mục tiêu mà Mỹ - ngụy dự định sẽ đổ bộ.

Nhưng mọi ý đồ hoạt động của địch đã không đánh lừa được quân và dân Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Tại khu vực Gia Bình, An Định (Do An) Ban chỉ huy Trung đoàn 2 (Sư đoàn 324), có sự giúp đỡ dẫn đường của một tiểu đội du kích Do Linh, đã cho 2 tiểu đoàn (6 và 7) chiếm lĩnh các vị trí chiến thuật, thiết kế trận địa chờ quân địch đến. Khi tiểu đoàn 7 lính thủy đánh bộ (cánh l) ồ ạt tiến công vào làng An định, tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 2) được sự chi viện của các trận địa pháo cối 120, 82 ở bờ nam sông Bến Hải bắn cấp tập vào đội hình đại đội B lính thủy đánh bộ đi đầu, rồi bất ngờ “bật thổ" quần chiến với quân Mỹ. Không chịu nổi đòn đánh giáp lá cà rất ác liệt của quân giải phóng, bọn lính Mỹ sống sót của đại đội B phá chạy tán loạn.

Sau ba ngày tiến công vào làng An Bình thất bại, sáng ngày 21 tháng 9, tiểu đoàn 8 lính thủy đánh bộ (vừa thay tiểu đoàn 7 bị tiêu hao nặng) mở đợt tiến công mới với "ý chí quyết san bằng thôn An Bình". Mở đầu cuộc tiến công, lính thủy đánh bộ được hỏa lực bắn theo yêu cầu. Bởi vậy, sau gần 2 giờ, làng An Bình rộng hơn nửa ki-lô-mét vuông bị bom đạn đào xới gần như quang lắc, quân Mỹ được xe thiết giáp yểm trợ mới xông vào. Nhưng một lần nữa “bức tường lửa” của tiểu đoàn 5 (trung đoàn 2) ở khu “tử địa” lại bất ngờ dựng lên làm chúng kinh hồng, đến nỗi tên đại úy Oai-nơ chỉ huy đại đội 1 phải than vãn: "Những chiếc xe tăng có súng phun lửa dẫn đầu lính thủy đánh bộ tiến vào khu pháo đài liên hợp (làng An Định) đại bác đã rót mấy ngàn viên đạn cỡ lớn nhưng suốt ba ngày chẳng làm nên trò trống gì" (Chú thích: Báo Quân đội nhân dân ngày 4 tháng 10 năm 1996). Và chúng tôi bị thương vong quá nhiều. Họ (quân giải phóng) đã làm chúng tôi thiệt hại nhiều ở đây..”.

Trong khi cánh 1 còn đang bị sa lầy ở tây bắc Do Linh thì cánh 2 do tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 4 lính thủy đánh bộ Mỹ) đảm nhiệm cũng bị pháo cối của trung đoàn 3 (Sư đoàn 324) tập kích loại khỏi vòng chiến đấu gần 20 tên. Giữa lúc chúng đang tập trung giải quyết hậu quả, 2 đại đội của Trung đoàn 3 đã bí mật vận động tập kích 1 trung đội lính thủy đánh bộ chốt giữ bình độ 285 (đông nam điểm cao 400) làm cho tiểu đoàn 3 Mỹ chốt giữ khu vực bắt đầu lúng túng.

Để cải thiện tình hình chờ quân tăng viện, sáng ngày 26 tháng 9 tiểu đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ cho 2 đại đội (được hỏa lực chi viện đắc lực) đánh chiếm điểm cao 400. Nắm bắt được ý đồ của địch, Trung đoàn 3 đã cho tiểu đoàn 9 (đã bí mật phục kích ở khu vực 400 từ đêm ngày 25 tháng 9) đánh trả quyết liệt khiến 2 đại đội địch không trụ nổi phải thu nhặt xác đồng bọn tháo lui. Tình cảnh ấy còn dành cho trung đoàn 4 lính thủy đánh bộ Mỹ thêm hai ngày nữa. Ngày 29 tháng 9, thấy binh lực bị hao tổn ngày một nhiều trên cả hai cánh, trung tướng Uôn-tơ, Tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ ở Nam Việt Nam phải hủy bỏ cuộc hành quân mang tên “Đồng cỏ”.

Những trận thua đau liên tiếp của lính thủy đánh bộ Mỹ ở Cam Lộ, Do Linh, Đông Hà, đường số 9 suốt hơn 3 tháng qua đã chứng minh sự lúng túng bị động về quân sự của bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Rõ ràng việc điều các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ chiếm đóng vùng rừng núi Quảng Trị là một sai lầm về chiến thuật. Bọn lính “Cọp biển" Mỹ vốn chỉ quen tác chiến ở đồng bằng ven biển được sự chi viện tối đa của phi pháo và xe thiết giáp với phương châm "tốc chiến, tốc thắng” nay phải đưa lên vùng đồi núi heo hút, địa hình hiểm trở, không phát huy được xung lực, hỏa lực, đội hình xé nhỏ chốt giữ từng mỏm đồi, khe suối, sa vào thế đánh nhỏ lẻ táo bạo của quân giải phóng dẫn tới tổn thất binh lực nghiêm trọng.

Chính bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn phải than phiền về sự đánh mạnh và cách đánh "thiên biến vạn hóa" của lực lượng vũ trang giải phóng ở Quảng Trị thời gian gần đây "đã tạo ra một tình hình mới làm cho người ta thấy rằng các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ phụ trách vùng chiến thuật một không còn đủ sức nữa". Mặc dù bị thiếu quân ở khắp nơi, nhưng "Bộ chỉ huy Mỹ vẫn không dám dàn mỏng lực lượng ra những phần đất khác của Nam Việt Nam để tập trung đương đầu với mối đe dọa tại Quảng Trị". Do đó, mâu thuẫn cố hữu giữa tập trung quân đóng chốt và phân tán lực lượng đi càn quét, giữa tấn công và phòng ngự của giặc Mỹ ngày càng sâu sắc chưa có cách nào tháo gỡ nổi.

Để tìm cách khắc phục khó khăn ác liệt, bám trụ chiến trường, đánh liên tục, tiêu diệt tiêu hao, thu hút sinh lực địch, đặc biệt là việc đẩy mạnh hoạt động quân sự phối hợp với quân và dân miền Nam đánh bại cuộc phản công mùa khô lần thứ hai (1966-1967), trung tuần tháng 11 năm 1966 Đảng ủy Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã họp bàn về nhiệm vụ hoạt động trong thời gian tới. Tham dự hội nghị gồm các đồng chí Trần Thế Môn - Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy (người thay thế đồng chí Quách Sĩ Kha đi nhận công tác khác); Đàm Quang Trung, Tư lệnh Mặt trận, Chu Phương Đới, Nguyễn Tiến Lợi, Phó tư lệnh Mặt trận; Nguyễn Công Trang, chủ nhiệm, Trần Nhật Độ, phó chủ nhiệm chính trị Mặt trận; Hồ Sỹ Thản, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị; Trần Đồng, Bí thư Đảng ủy khu vực Vĩnh Linh và một số đồng chí phái viên của Bộ tư lệnh Quân khu 4.

Sau khi phân tích, đánh giá kỹ tình hình hoạt động trong thời gian qua (chủ yếu là kết quả hoạt động quân sự), hội nghị tập trung thảo luận phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới. Hội nghị nhấn mạnh: Để cứu vãn tình thế thất bại nặng nề trên hai miền Nam- Bắc, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai (kể cả chư hầu) đang ra sức tăng thêm lực lượng vào miền Nam (từ 30 đến 45 vạn) nhằm mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai với quy mô lớn nhất từ trước đến nay hòng giành lại thế trận về quân sự.

Mở đầu mùa khô (giữa tháng 10 năm 1966), Bộ chỉ huy Mỹ đã mở cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ với lực lượng hơn 30.000 tên (bao gồm cả lữ đoàn dù 173, lữ đoàn 2 (sư đoàn 25) lữ đoàn 3 (sư đoàn 4 bộ binh), trung đoàn thiết giáp 11 (sư đoàn 1 Anh cả đỏ) được sự yểm trợ của 300 xe tăng, thiết giáp, 130 khẩu pháo các loại, tiến công đồng loạt vào chiến khu Tây Ninh và Dương Minh Châu (miền Đông Nam Bộ) nhằm tiêu diệt các căn cứ của Trung ương Cục miền Nam. Đồng thời với các cuộc tiến công quân sự, Mỹ - ngụy còn đẩy mạnh kế hoạch bình định, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn - Gia Định, kiềm chế các chiến trường Tây Nguyên và miền Trung - Trung Bộ. So sánh toàn cục trên chiến trường, Mỹ -ngụy đã thay đổi chiến lược "tìm và diệt" mùa khô năm 1965 - 1966 sang chiến lược "tìm diệt và bình định” trong mùa khô 1966 - 1967...

Đối với chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, mặc dù đế quốc Mỹ không tập trung lực lượng và phương tiện lớn mở cuộc hành quân đánh phá ồ ạt như miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, nhưng chúng vẫn coi đây là chiến trường rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp, toàn diện tới cục diện chiến tranh ở Nam Việt Nam. Do vậy, ngồi việc tiếp tục duy trì 2 sư đoàn lính thủy đánh bộ (1 và 3), 1 sư đoàn và 3 chiến đồn, liên đồn biệt động quân ra vùng này, đưa số quân giao động từ 45.000 - 65.000 tên (có 30.000 - 40.000 quân Mỹ) chưa kể lực lượng bảo an dân vệ địa phương.

Với số quân được tăng cường lớn, Mỹ - ngụy ra sức củng cố tuyến phòng ngự Đường 9 - Bắc Quảng Trị, ngồi các căn cứ lớn: Ái Tử, Đông Hà, Cửa Việt, Khe Sanh và các cứ điểm Dốc Miếu, Cồn Tiên, Cam Lộ, Tân Lâm, Lao Bảo tiếp tục được xây dựng mở rộng; chúng còn cho xây dựng một loạt vị trí chiến thuật mới: miếu Bái Sơn, Đầu Mầu, điểm cao 544, Rào Quán, Tà Cơn, Làng Vây, Động Tri... nhằm xây dựng tuyến Đường 9 - Bắc Quảng Trị thành “lá chắn thép” chống phá hữu hiệu "sự xâm nhập của quân cộng sản" từ miền Bắc vào miền Nam. Cùng với việc bố trí lại hệ thống cụm cứ điểm xen kẽ giữa Mỹ và ngụy, chúng bắt đầu đẩy mạnh bình định, gom dân lập ấp chiến lược, quyết biến vùng nam sông Bến Hải thành vùng trắng để phi pháo tự do đánh phá, che chở cho chúng. "Từ tháng 6 năm 1966 đến hết năm 1967, địch đánh Vĩnh Linh 255.889 quả bom, 298.611 quả đại bác" (Chú thích: Quân khu 4 - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ... (Sách đã dẫn), tr 183)

Từ nhận định âm mưu, thủ đoạn hoạt động của địch, hội nghị đi sâu thảo luận nhiệm vụ của Quân ủy Trung ương giao cho Mặt trận trong thời gian tới. Hội nghị nêu rõ: "Liên tục tiến công tiêu hao, tiêu diệt từng đơn vị nhỏ tiến tới tiêu diệt lớn từng đơn vị Mỹ - ngụy (trung đội đến đại đội Mỹ, đại đội đến tiểu đoàn ngụy), tiếp tục thu hút giam chân chúng, tạo điều kiện cho đồng bằng duyên hải Trị - Thiên đẩy mạnh chiến tranh du kích chống phá bình định là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài. . .

Trong mùa khô này, nhiệm vụ kìm chân Mỹ, chốt chặn quân Mỹ, tiêu diệt ngụy là không chỉ đánh vào âm mưu chiến lược dùng quân ngụy thực thi "bình định" của Mỹ, mà còn đánh vào chỗ dựa chính trị của quân Mỹ, khoét sâu vào mâu thuẫn "không tin cậy lẫn nhau giữa nội bộ địch". Đồng thời “đẩy mạnh tác chiến ở Trị -Thiên còn tạo điều kiện bảo vệ, mở rộng hành lang vận chuyển chiến lược vào Nam chi viện chiến trường. Thông qua chiến đấu rút ra được những kinh nghiệm tiên tiến về cách đánh Mỹ, để góp phần giúp Bộ xác định cách thức tổ chức tác chiến thích hợp hơn" (Chú thích: Nghị quyết Đảng uỷ Mặt trận B5, Sơ kết quý III năm 1966 (tháng 10- 1966). TLLT tại kho K-4, Bộ Quốc phòng. HS8.)

Căn cứ tình hình địch, ta và nhiệm vụ cụ thể của Bộ giao, Đảng ủy Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị như sau:

- Khu tây (từ Lao Bảo về Khe Sanh) địch phòng ngự tương đối sơ hở, binh hỏa lực mỏng yếu, ta có khả năng đánh nhỏ thường xuyên, tiêu diệt đơn vị cấp chiến thuật của địch. Hướng này được Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị giao cho Sư đoàn 325 và bộ đội địa phương huyện Hướng Hóa đảm nhiệm. Trong quá trình tác chiến, nếu Sư đoàn 325 và lực lượng vũ trang địa phương được bảo đảm hậu cần tốt, có cách đánh phù hợp, có thể thu hút, kìm chân, tiêu hao số lượng lớn binh lực địch.

- Khu giữa gồm Tân Lâm và vùng giáp ranh đồng bằng Do - Cam, tiếp tục giao cho các trung đoàn 1, 2, 3 (thuộc Sư đoàn 324 cũ), 2 đại đội đia phương tỉnh Quảng Trị, 2 trung đội du kích của liên huyện Do - Cam, có nhiệm vụ bao vây các căn cứ trung và đông trong hệ thống phòng ngự Đường 9 - Bắc Quảng Trị (chủ yếu là Cồn Tiên, Dốc Miếu, điểm cao 544), "khơi ngòi" dụ địch ra các vùng tây Cam Lộ, bắc Do An (nam sông Bến Hải) dùng chiến thuật vận động tiến công, kết hợp chốt để tiêu diệt địch. Trong quá trình thực hành dụ địch thoát khỏi căn cứ, chỉ huy các cấp cần chú trọng đề phòng địch dùng hỏa lực đánh phá ồ ạt hoặc dùng trực thăng “nhảy cóc” tập hậu các phân đội hoạt động ở phía trước.

- Khu đông gồm các xã phía đông đường số 1 của huyện Do Linh và cảng Đông Hà, Cửa Việt được giao cho lực lượng đặc công hải quân (đồn 126) và 1 đến 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 27 Quảng Trị. Đây là khu ven biển, địa hình trống trải, sông rạch nhiều, địch lại thường xuyên bắn phá tự do để lập "vành đai trắng". Để bám trụ được lâu dài ở chiến trường này đánh địch, trước hết bộ đội ta phải dựa vào dân. Nhưng muốn dựa vào dân điều đầu tiên là phải bảo vệ được dân, giành được dân từ các khu dồn "ấp chiến lược"của địch. Đồng thời muốn tiêu diệt được kho tàng, hậu cứ, cầu cảng, tàu thuyền của địch, bộ đội ta chỉ có thể thực hành vào ban đêm với số quân hạn chế. Vì vậy các đơn vị tác chiến ở khu vực này ngoài yêu cầu kỹ thuật, chiến thuật tinh thông, còn phải có kế hoạch tác chiến tổng thể hết sức chu đáo, tỉ mỉ, đặc biệt là xây dựng tuyến hành lang tiếp cận Đông Hà, Cửa Việt, củng cố các cơ sở cách mạng ở địa phương, tạo thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc tiến công địch.

Các địa phận Ba Hồ, Ba Lòng, Cùa... địch bố phòng tương đối sơ hở. Nhưng do địa hình ngăn cách, bảo đảm hậu cần khó khăn nên ta chỉ có thể đưa lực lượng nhỏ vào hoạt động trong thời gian ngắn. Với địa thế như vậy, Bộ tư lệnh Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị giao cho Trung đoàn 31 tùy theo nhiệm vụ cụ thể trong từng thời kỳ cho 1 đến 2 tiểu đoàn có các phân đội đặc công của Bộ phối hợp luồn sâu, đánh hiểm nhằm phân tán sự đối phó của địch trên toàn bộ phòng tuyến Đường 9 - Bắc Quảng Trị.

Về thời gian hoạt động, hội nghị dự kiến từ tháng 2 đến tháng 9 năm 1967, kế hoạch tác chiến các đợt phân chia theo mục đích, yêu cầu của toàn chiến trường hoặc trong từng khu vực. Cuối cùng hội nghị kết luận: "Vận dụng những kinh nghiệm hoạt động tác chiến năm 1966, phát huy sức mạnh ba thứ quân và hỏa lực pháo binh tầm xa đặt bên bờ bắc sông Bến Hải, liên tục tập kích và vây ép, tiêu hao, tiêu diệt các lực lượng Mỹ trong các căn cứ, buộc chúng phải thường xuyên chịu đựng căng thẳng. Trong từng thời điểm nhất định, tập trung chủ lực hiệp đồng binh chủng, tiêu diệt từng bộ phận quân Mỹ - ngụy, bẻ gãy các cuộc hành quân giải tỏa của chúng. Kết hợp chặt chẽ giữa quân sự và chính trị, giữa tiến công và nổi dậy, giữa hoạt động tập trung và phân tán rộng khắp, quân dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị quyết giành thắng lợi trong năm 1967, tạo điều kiện tiến lên thực hiện đánh tiêu diệt lớn trong năm 1968..." (Chú thích: Nghị quyết Đảng ủy Mặt trận B5 tháng 2 năm 1967, TLLT tại kho K4- Bộ Quốc phòng, HS59).

Để chuẩn bị cho các đợt hoạt động tác chiến đạt kết quả tốt hơn, cuối tháng 12 năm 1966 và đầu tháng 1 năm 1967, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị một mặt chỉ đạo các đơn vị điều động quân (cấp trung đội và đại đội là chủ yếu) phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích hoạt động nhỏ lẻ phục kích quấy phá kìm chế không cho chúng hành quân giải toả; mặt khác cho bộ đội học tập chính trị, xác định quyết tâm xây dựng tư tưởng "tiến công tiêu diệt địch với ý chí quyết chiến quyết thắng, quyết biến đường 9 thành mồ chôn giặc Mỹ" (Chú thích: Báo cáo tổng kết hoạt động mùa khô của Bộ tư lệnh Mặt trận B5.TLLT tại kho K4- Bộ Quốc phòng, HS8.); trong tiến công, "quyết bám thắt lưng địch mà đánh”; trong chốt giữ trận địa đánh địch, phản kích, quyết thực hiện "còn người còn trận địa”, thực hiện tốt các chính sách thương binh, liệt sĩ, chính sách dân vận, địch vận.

Giữa lúc các đơn vị trên toàn Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đang hạ quyết tâm thực hiện nhiệm vụ, ngày 15 tháng 2 năm 1967 Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho Mặt trận bước vào chiến đấu lớn phối hợp với chiến trường toàn Miền quyết đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ - ngụy. Mở màn cho đợt hoạt động, căn cứ vào mục tiêu Bộ giao, Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị cho Sư đoàn 325 được sự hỗ trợ của bộ đội địa phương và dân quân du kích huyện Hướng Hóa, dùng một trung đoàn vào hoạt động ở Khe Sanh- Hướng Hóa (hướng thứ yếu) nghi binh, thu hút địch về hướng này, tạo điều kiện cho hướng chính (tây Do Linh, bắc Cam Lộ) tiến công tiêu diệt sinh lực địch.

Tại hướng tiến công mới, theo chủ trương "vừa đánh vừa rèn luyện bộ đội", tạo thế cho các đợt hoạt động lớn hơn, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Sư đoàn 325 quyết định sử dụng Trung đoàn 95C được tăng cường tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 18C) vào nhiệm vụ mở đầu. Các Trung đoàn 101D, 18C (thiếu) và Trung đoàn pháo binh 78 đứng chân ở bắc sông Bến Hải, tiếp tục tranh thủ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu khi có lệnh.

Cuối tháng 2 năm 1967, Trung đoàn 95C và các lực lượng vũ trang địa phương dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Trai và Chính ủy trung đoàn Trần Văn Ân (Phó chính ủy sư đoàn xuống trực tiếp phụ trách) từ tây bắc thung lũng Khe Sanh bước vào chiến đấu.

Thung lũng Khe Sanh nằm giữa vùng rừng núi miền tây Quảng Trị - Đường 9 - cửa ngõ quan trọng nhất nối liền biển Đông Việt Nam với Trung Lào và Hạ Lào. Hồi thực dân Pháp cai trị nước ta, đã xây dựng Khe Sanh thành một cứ điểm khá mạnh. Nay đế quốc Mỹ cũng rất chú ý đến thung lũng này. Đặc biệt là từ khi ta mở thông tuyến đường vận tải quân sự Bắc - Nam bên sườn tây dãy Trường Sơn, giới quân sự Mỹ càng cho rằng Khe Sanh là một vị trí "không thể xem nhẹ".

Theo Oét-mo-len, Mỹ có thể dùng căn cứ này làm một "lá chắn" để ngăn chặn đối phương từ Lào sang và làm một căn cứ quan trọng cho các cuộc hành quân tìm diệt lực lượng, đánh phá kho tàng đối phương trên miền rừng núi Việt - Lào. Khe Sanh còn là một sân bay cho các máy bay trinh thám kiểm tra “đường mòn Hồ Chí Minh", đồng thời là một “cái mỏ neo” ở phía tây của toàn bộ hệ thống phòng thủ đường 9.

Đầu năm 1967, khi quyết định đưa toàn bộ 2 sư đoàn (1 và 3) lính thủy đánh bộ Mỹ ra chiến trường đường 9, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam lập tức phái ngay 2 tiểu đoàn lên miền tây Quảng Trị cùng với quân ngụy tăng cường phòng thủ Khe Sanh. Các lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ chủ yếu tập trung ở cụm cứ điểm Tà Cơn nằm ở trung tâm thung lũng. Trong cụm cứ điểm này có một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, một tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp và một sân bay khá lớn. Chúng được bảo vệ bằng các hệ thống bãi mìn, vật cản và hàng rào kẽm gai kiên cố nhiều tầng.

Đổ quân Mỹ vào thung lũng này, các tướng lĩnh Mỹ đã nghĩ tới “bài học cay đắng" của quân viễn chinh Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ năm xưa. Bởi vậy, cùng với việc tổ chức cụm cứ điểm Tà Cơn, chúng cho quân chiếm giữ quận lỵ Hướng Hóa, cứ điểm Làng Vây và một số điểm cao quan trọng trên các dãy núi bao bọc xung quanh Khe Sanh như 689, 682, 845, 832, 1009 (Động Trị).

Với vật chất dư thừa và phương tiện thi công hiện đại, chỉ trong vòng một tháng (kể từ khi Mỹ đổ quân) chúng đã thiết lập xong cụm cứ điểm Khe Sanh. Tướng tá Mỹ hy vọng cụm cứ điểm này sẽ là một “cái bẫy" lý tưởng để “nghiền nát" chủ lực đối phương và là một "thành trì bất khả xâm phạm".

Nhưng sự thật đã diễn ra hoàn toàn trái với ước muốn của quân Mỹ. Xuất phát từ vị trí quan trọng của cụm cứ điểm Khe Sanh, sau khi nghiên cứul kỹ chiến trường, Phòng tham mưu Sư đoàn 325 đã thiết lập phương án tác chiến linh hoạt: đưa 3 tiểu đoàn của Trung đoàn 95C vào bố trí ở hướng tây bắc Tà Cơn theo thế chân kiềng, khơi ngòi nhử địch ra khỏi công sự, đưa chúng vào khu vực bố trí sẵn để tiêu diệt. Phương án tác chiến của trung đoàn 95C được Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị thông qua và nhắc nhở khẩn trương chuẩn bị mọi mặt (chủ yếu là hậu cần) đưa bộ đội vào chiến đấu.

Trong khi hướng tây đường 9, bộ đội Sư đoàn 325 đang chạy đua với thời gian để bước vào diệt địch, ở hướng đông, các đơn vị được lệnh của Bộ tư lệnh Mặt trận đã bước vào chiến đấu. Đêm ngày 25 tháng 2 năm 1967, Trung đoàn 31 cho đại đội cối 82, bắn 100 quả vào căn cứ Cồn Tiên, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên ngụy, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.

Ngày 26 tháng 2, nắm bắt được một đại đội Mỹ mới đến chốt giữ điểm cao 85, tiểu đoàn 4 Trung đoàn 2 (Sư đoàn 324 cũ) chiếm lĩnh tây nam núi Đá Bạc, đã đồng loạt tập kích mãnh liệt, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên. Thấy tình thế không trụ bám nổi, ngày 27 tháng 2 bọn này phải xin trên chi viện, mở đường máu tháo chạy khỏi điểm cao 85. Không cam chịu thất bại, ngày 28 tháng 2 địch đổ 2 đại đội Mỹ xuống điểm cao 182 (tây Tân Kim 1 km) hòng khống chế tây bắc Cam Lộ đang bị uy hiếp mạnh. Nhưng bọn này mới đặt chân xuống điểm cao 182 chưa được một ngày đã bị tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 tiến công, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên, bắn rơi 2 máy bay lên thẳng. Trong trận này "tiểu đội thép" Mai Văn Vinh đảm nhiệm hướng chủ yếu đã dũng cảm chặn đánh 1 đại đội Mỹ trong suốt 7 giờ, loại khỏi vòng chiến đấu 20 tên, thu 10 súng cá nhân.

Ở dọc đường số 1, bộ đội địa phương, dân quân du kích tiến công tiêu diệt các tụ điểm ác ôn ở Cam Giang, Cam Thanh, Cam Thủy, Do Hải, Quán Ngang... tạo bàn đạp đưa bộ đội đặc công, biệt động đánh vào hậu cứ địch. Để đẩy địch vào thế bị động, đối phó, ta chú trọng đẩy mạnh hoạt động du kích đánh mìn tiêu hao thường xuyên xe cơ giới địch, củng cố vừng chắc địa bàn ở bốn xã đã được giải phóng ở nam sông Bến Hải, kiên quyết đánh bại các cuộc hành quân càn quét của địch.

Để trả thù cho đồng bào các xã Vĩnh Thủy, Vĩnh Hiền, Vĩnh Quang bị pháo 105 và 175 ly của giặc Mỹ giết hại, từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 3, các trận địa pháo (gồm cả pháo cơ giới) ở bắc và nam sông Bến Hải bắn phá mãnh liệt các trận địa pháo địch ở Dốc Miếu, Cồn Tiên, Tân Lâm và các vị trí địch ở 182, 137, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.

Được chiến thắng ở hướng đông đường 9 cổ vũ, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 325 ở hướng tây từ cuối tháng 2 đến giữa tháng 3 năm 1967 đã ra sức chuẩn bị hậu cần gồm hệ thống hầm hào trêu các trận địa chốt và các vị trị trú quân. Mọi công việc được tiến hành nhanh chóng, bí mật.

Sau một thời gian chuẩn bị khá đầy đủ vật chất, trang bị theo quy định, sáng ngày 19 tháng 3 năm 1967, Trung đoàn 95C được lệnh bước vào chiến đấu. Châm ngòi cho đợt hoạt động, các chiến sĩ súng cối, ĐKZ tiểu đoàn 8 với phần tử đã tính toán sẵn, sau vài phút bắn hiệu chỉnh đã dồn dập nã đạn vào cứ điểm Tà Cơn. Đòn tập kích hỏa lực bất ngờ này đã tiêu diệt và làm bị thương 72 tên lính thủy đánh bộ Mỹ, trong đó có tên trung tá tiểu đoàn trưởng và bắn cháy 2 máy bay địch đang đỗ trên đường băng sân bay Tà Cơn.

Được thắng lợi mở đầu khích lệ, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 8 hỏa lực táo bạo đề nghị Bộ tư lệnh sư đoàn cho di chuyển trận địa vào sát hàng rào để tiêu diệt địch. Lính thủy đánh bộ Mỹ suốt một tuần lễ dùng phi pháo đủ loại đánh phá dữ dội vào các vùng chúng nghi có bộ đội ta đứng chân. Khắp dải đồi phía tây - tây bắc Tà Cơn mới hôm qua, hôm kia những mảnh rừng xanh còn sót lại sau các đợt rải chất độc hóa học của Mỹ, nay lại bị bom pháo đào phạt quang lắc. Đánh phá đến vậy, nhưng quân lính trong Tà Cơn vẫn “án binh bất động”. Trên các trận địa chốt, các chiến sĩ Sư đoàn 325 nóng lòng chờ đợi thời cơ tiêu diệt địch.

Trong những ngày cuối tháng 3 năm 1967, quân Mỹ liên tục tung lực lượng ra phản kích, đánh vào các trận địa chốt của quân ta ở các khu vực điểm cao 832, 845. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 8 kiên cường bám giữ trận địa, mỗi ngày đánh lui 4 - 5 đợt phản kích của địch. Vừa đánh địch ở phía trước, các đơn vị vừa tổ chức các mũi nhỏ vu hồi đánh vào bên sườn, phía sau, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm lính Mỹ.

Chủ trương kéo quân Mỹ ra bên ngoài căn cứ để tiêu diệt của Trung đoàn 95C (Sư đoàn 325) đã được thực hiện. Với tinh thần chiến đấu mưu trí, dũng cảm, các chiến sĩ tiểu đoàn 8 đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đánh châm ngòi của đợt hoạt động, buộc Bộ chỉ huy lính thủy đánh bộ Mỹ phải đổ thêm quân xuống thung lũng Khe Sanh. Nhưng do việc tổ chức phối hợp giữa các lực lượng chốt và lực lượng cơ động thiếu chặt chẽ nên ta chưa thực hiện được đòn đánh diệt gọn từng bộ phận địch trong vận động.

Tiếng súng tiến công dồn dập của quân ta trên hai hướng trong những ngày cuối tháng 3 năm 1967 làm cho quân Mỹ trên chiến trường đường 9 vốn đã lúng túng lại càng lúng túng hơn. Để phá thế bí, ngày 16 tháng 3, Bộ chỉ huy lính thủy đánh bộ Mỹ ở vùng I chiến thuật mở cuộc hành quân Đếch-hao nhằm đánh phá triệt để lực lượng chủ lực Mặt trận "đang tập trung xung quanh hai căn cứ Dốc Miếu, Cồn Tiên”. Chúng cho rằng hướng tiến công này "luôn luôn bị cộng quân gây áp lực rất mạnh". T

rong khi đó, đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam trên dãy Trường Sơn vẫn phát triển mạnh. Vật chất trang bị cho chiến trường miền Nam ngày một nhiều, đáp ứng được những cuộc tiến công lớn. Do vậy Mỹ - ngụy đã phải tính đến chuyện "lập phòng tuyến ngăn chặn sự xâm nhập từ miền Bắc vào miền Nam" của quân và dân ta.

Tuy nhiên, chủ trương thiết lập “phòng tuyến điện tử chống xâm nhập" của Mỹ không phải đến bây giờ mới khởi xướng. Ngay sau thất bại mùa khô (1965 -1966) Mắc Na-ma-ra, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã nảy ra ý định thiết lập một phòng tuyến chống xâm nhập hiện đại nhất ở bờ nam sông Bến Hải để ngăn chặn đối phương. Ý tưởng của Mắc Na-ma-ra đã được 47 nhà khoa học tài ba nhất nước Mỹ như giáo sư Phi-sơ, tiến sĩ Gioóc-kít-chi-a-cốp-xki, tiến sĩ Kê-xin, tiến sĩ Oét snơ, tiến sĩ Gia-sa-ri-ôt... tổ chức nghiên cứu thực thi. Sau ba tháng nghiên cứu, hội đồng khoa học dưới sự điều khiển của Mắc Na-ma-ra đã vạch ra một kế hoạch với tham vọng lớn:

- Phòng tuyến ước tính có chiều rộng khoảng 20km, từ nam vĩ tuyến 17 đến đường 9, chiều dài trên 100km chạy song song với sông Bến Hải từ biển Đông đến Sê Pôn (Lào) trong đó hành lang mặt bằng xây dựng có bề ngang 500m sẽ được san bằng như một sân bóng.

- Xây dựng một hệ thống đồn bốt dày đặc, cứ khoảng 2 km có 1 tháp canh khoảng 4 km có 1 căn cứ cỡ đại đội hoặc tiểu đoàn.

- Bố trí một hệ thống công sự gồm đủ hầm hào, lô cốt kiên cố, hàng chục lớp hàng rào kẽm gai chằng chịt, xen kẽ với nhiều lớp bom mìn đủ kiểu: mìn định hướng, mìn đĩa, mìn lá, mìn clây-mo, mìn chiếu sáng, lựu đạn nổ tức thì (Mỹ dự kiến sử dụng 20 triệu quả mìn và 25 triệu quả bom cỡ nhỏ). Đặc biệt phòng tuyến được trang bị phương tiện điện tử tối tân như "cây nhiệt đởi", “máy thông minh", “máy phát hiện hơi người". Đây là các loại máy thu phát tiếng động tinh vi đủ cỡ 15 ngày, 3 tháng, hoặc 6 tháng thay pin một lần.

- Tổ chức phòng ngự chặt chẽ, có lực lượng đông và hỏa lực mạnh. Bên cạnh lực lượng chiếm đóng còn có lực lượng cơ động bảo vệ vòng ngoài cả mặt đất và trên trời. Bọn lính thám báo đi phục kích, xe bọc thép đi tuần tiễu dọc hành lang, còn máy bay thì thường xuyên trinh sát trên không. Ngoài hỏa lực tại chỗ còn có sự chi viện kịp thời của pháo binh, không quân của các căn cứ Mỹ ở miền Nam và Đông Nam Á.

- Cuối cùng là một hệ thống chỉ huy với đài quan sát và phương tiện thông tin cực kỳ hiện đại, nhạy bén, chỉ một tiếng động nhỏ cũng được báo ngay về trung tâm chỉ huy, về các căn cứ không quân ở Việt Nam, Thái Lan, Phi-líp-pin, hạm đội 7 Thái Bình Dương và lập tức có sự phản ứng rất kịp thời bằng những trận ném bom, bắn pháo liên hồi vào nơi phát ra tiếng động.

Và để thực hiện kế hoạch trên, suốt những tháng cuối năm 1966, đầu năm 1967, Bộ chỉ huy Mỹ - ngụy ở vùng 1 đã tiến hành những biện pháp hết sức quyết liệt tàn bạo. Chúng cho hàng trăm máy bay (kể cả máy bay chiến lược B52) ném bom rải thảm tiêu diệt lực lượng vũ trang ta, mở hàng chục trận càn quét lớn nhỏ, triệt để đốt phá làng mạc nhằm xúc ép toàn bộ nhân dân ta ở khu vực nam sông Bến Hải vào các trại tập trung sát thị trấn, thị xã để lập phòng tuyến Mác Na-ma-ra. Cuộc hành quân Đếch-hao giữa tháng 3 của 3 tiểu đoàn Mỹ vào khu vực Do - Cam là một trong những nhiệm vụ nằm trong kế hoạch đó.

Cùng với việc mở các cuộc hành quân vào vùng nam giới tuyến 17, Bộ chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam còn tăng cường lực lượng pháo binh ra chiến trường Quảng Trị. Các căn cứ Dốc Miếu, Cồn Tiên trước kia chỉ có 2 đại đội với 8 khẩu 105 ly, nay tăng lên 2 tiểu đoàn 24 khẩu từ 105 ly đến 155 ly, đặc biệt cuối tháng 12 năm 1967, chúng đã đưa 1 tiểu đoàn pháo 175 ly ra Đông Hà nhằm bắn phá hậu phương Vĩnh Linh của ta. Đây là một trong hai tiểu đoàn pháo 175 ly đầu tiên Mỹ đưa sang chiến trường miền Nam Việt Nam.

Hiệu quả pháo binh Mỹ rất thấp. Nhưng chúng có nhiều pháo đạn, lại bắn suốt ngày đêm. Trong tuần lễ hạ tuần tháng 2 năm 1967 (sau khi quân Mỹ đưa pháo 175 ly ra Quảng Trị), chúng đã bắn sang Vĩnh Linh hàng trăm quả, gây thương vong cho hàng chục dân thường.

Để trừng trị tội ác của giặc Mỹ ở bờ nam sông Bến Hải, Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ thị cho Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị nghiên cứu một số trận đánh bằng pháo cơ giới tiêu diệt các căn cứ pháo binh địch ở bờ nam sông Bến Hải.

Trong tuần lễ đầu tháng 3 năm 1967, cùng với việc cho 3 đại đội cối 82 ly của Trung đoàn 270 Vĩnh Linh đêm đêm tập kích vào các khu vực Dốc Miếu, Cồn Tiên, đồi 31... Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị cho trung đoàn pháo binh cơ giới 164 (còn gọi là Trung đoàn pháo binh Bến Hải) chuẩn bị trận địa đánh phá các trận địa pháo và các khu vực đổ bộ hành quân của quân Mỹ.

Ngày 20 tháng 3 năm 1967, sau khi đã chuẩn bị kỹ khu vực hành quân, Bộ chỉ huy sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ đã cho đổ bộ 2 tiểu đoàn Mỹ (khoảng 1.500 tên) xuống khu vực Dốc Miếu và 1 tiểu đoàn xuống khu vực Cồn Tiên. Nắm chắc âm mưu và kế hoạch của địch, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã cho 2 tiểu đoàn pháo 100 ly và 105 ly của Trung đoàn pháo binh 164 bắn phá mãnh liệt 2 tiểu đoàn Mỹ đổ quân xuống căn cứ Dốc Miếu.

Với lối đánh thông minh, táo bạo (chọn đúng lúc Mỹ đổ quân xuống khu vực, thoát khỏi công sự; vừa bắn phá dồn dập vừa bắn cầm canh), sau 2 tiếng (từ 18 giờ 30 đến 20 giờ 30 phút) pháo các cỡ của ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, phá hủy 17 khẩu pháo, 51xe vận tải, 2 kho đạn, 1 kho xăng. Cuộc hành quân Đếch-hao mới triển khai ngày đầu đã bị hủy bỏ.

Cay cú trước thất bại, ngày 21 tháng 3, Bộ chỉ huy sư đoàn 3 Mỹ cho mở tiếp cuộc hành quân Bi-khôn-hin vào tây Dốc Miếu - tây bắc Đông Hà, nhằm "tiêu diệt lính chính quy Bắc Việt đang chốt giữ vùng tứ giác Cồn Tiên - Dốc Miếu - Ngã Tư Sòng - miếu Bái Sơn". Bốn tiểu đoàn Mỹ (tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 4 - trung đoàn 4, tiểu đoàn 3 - trung đoàn 3, tiểu đoàn 1 - trung đoàn 9) và một số chiến đoàn dù ngụy phối hợp "đã từng có kinh nghiệm chiến đấu với cộng quân cuối năm 1966" được đưa vào cuộc hành quân này.

Phát huy thành tích chiến đấu đã đạt được, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị tiếp tục cho bộ đội đẩy mạnh hoạt động tác chiến trên cả hai hướng trọng điểm nhằm thu hút, kìm chân, tiêu hao sinh lực địch và kiên quyết làm thất bại kế hoạch xây dựng “hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra" của địch. Trên hướng Khe Sanh (Hướng Hóa), sau khi cho tiểu đoàn 8 rút lui về phía sau củng cố, Bộ tư lệnh Sư đoàn 325 đã đưa 2 tiểu đoàn 4 và 5 (Trung đoàn 95C) lên hoạt động ở các khu vực điểm cao 832, 845. Rút kinh nghiệm tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 18C), các chiến sĩ Trung đoàn 95C vừa liên tục tập kích hỏa lực vào các vị trí địch, vừa táo bạo đưa từng phân đội nhỏ vào "độn thổ” dưới chân hàng rào căn cứ Tà Cơn, chờ thời cơ diệt địch.

Trong đợt chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu. Chiến sĩ Nguyễn Văn Thảo, đại đội 2 (tiểu đoàn 4) kiên trì bám trụ, giữ chốt kiên cường, một mình một hướng, đã đẩy lùi nhiều đợt phản kích của 2 đại đội Mỹ. Trung đội Nguyễn Văn Oanh, đại đội 6 (tiểu đoàn 5) dùng đại liên bắn rơi 1 máy bay C130 khi nó mới rời khỏi đường băng sân bay Tà Cơn. Ngày 28 tháng 4, trung đội trưởng Nguyễn Văn Huynh chỉ huy một tiểu đội bí mật luồn vào sát cổng căn cứ địch trên điểm cao 682, một bộ phận quân Mỹ vừa mò ra tới cổng căn cứ, các chiến sĩ lập tức bật nắp hầm nổ súng, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 50 tên.

Ngày 30 tháng 4 năm 1967, để tiếp tục gây cho địch những thiệt hại nặng nề, sau khi đã nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng. Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị quyết định cho cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 18C (Sư đoàn 325) tổ chức đánh cứ điểm Làng Vây. Đêm ngày 1 tháng 5, dưới sự chỉ huy của Trung đoàn phó Trần Sĩ Kịch, các chiến sĩ tiểu đoàn và đại đội đặc công 40 của sư đoàn đã bất ngờ tập kích mãnh liệt căn cứ này, diệt gọn tiểu đoàn biệt kích ngụy.

Các trận đánh liên tiếp của Trung đoàn 95C trên hướng tây - tây bắc và trận đánh xuất sắc diệt địch trong công sự vững chắc ở Làng Vây, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch đã làm cho bọn địch ở Tà Cơn (Hướng Hóa) hoang mang, buộc sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ phải đổ thêm lực lượng xuống Tà Cơn tăng cường phòng giữ cái "mỏ neo" ở miền tây Quảng Trị.

Sau khi có thêm lực lượng từ Đông Hà lên tăng viện, quân Mỹ ở Tà Cơn bắt đầu phản ứng dữ dội. Ngày 4 tháng 5, Chúng đổ 2 đại đội xuống khu vực đồi không tên (nằm giữa điểm cao 832 và 845), đại đội 1 tiểu đoàn 4 làm nhiệm vụ mai phục chờ địch ở đấy đã đánh lui nhiều đợt tiến công của quân Mỹ, giữ vững trận địa. Không chịu nổi những đòn phản kích quyết liệt của quân ta, chiều hôm đó, quân Mỹ lại phải rút vào căn cứ để bảo toàn lực lượng.

Rút kinh nghiệm trận đánh của đại đội 1 tiểu đoàn 4, Bộ Tham mưu Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị chỉ rõ: Trận đánh tuy diệt được địch, giữ được trận địa nhưng hiệu suất chưa cao, chưa thực hiện được yêu cầu đánh tiêu diệt gọn. Trung đoàn 95C sư đoàn 325) và các lực lượng vũ trang địa phương phối hợp cần bổ sung phương án tác chiến, gạt bỏ kịp thời những khuyết điểm, đặc biệt là việc chớp thời cơ chuyển từ phản kích sang tiến công; khi tiến công thì phải táo bạo, liên tục, với tư tưởng "bám thắt lưng Mỹ mà diệt", không cho chúng kịp trở tay chống trả. Cần đánh một trận có hiệu quả cao để phổ biến kinh nghiệm cho toàn mặt trận.

Căn cứ vào chỉ thị của cơ quan tham mưu Bộ tư lệnh Mặt trận, Ban chỉ huy Trung đoàn 95C đã cho cán bộ các cấp rút kinh nghiệm các trận đánh phục kích, phản kích vừa qua, đồng thời đề ra những phương án tác chiến mới, trong đó đặc biệt chú trọng bố trí đội hình, để khi cần có thể huy động lực lượng nhằm đạt hiệu quả chiến đấu cao.

----------------------------

Trưa ngày 3 tháng 5, một đại đội Mỹ được máy bay lên thẳng đổ tiếp xuống khu vực đồi Không Tên. Nắm chắc thời cơ, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 4 ra lệnh cho đại đội 3 - lực lượng dự bị của tiểu đoàn vận động tới phối hợp với đại đội 1 tiêu diệt đại đội Mỹ này, loại khỏi vòng chiến đấu 150 tên. Trận đánh được cấp trên tặng thưởng huân chương Chiến công hạng nhất.

Ngày 9 tháng 5, đại đội Mỹ nhảy ra đông - bắc điểm cao 843, phát huy thắng lợi đơn vị vừa giành được, đại đội trưởng Nguyễn Hữu Thọ đưa bộ đội đi trinh sát địa hình gặp địch, lập tức nổ súng chiến đấu. Bị đánh bất ngờ, địch chạy lên đỉnh đồi dùng khói màu phân tuyến cho máy bay đánh phá, đồng thời chống trả quyết liệt. Quyết không để địch có thời gian củng cố đối phó và gọi lực lượng cứu viện, cán bộ, chiến sĩ ta đã dũng cảm vượt qua bom đạn, áp tới chia cắt chúng ra từng tốp nhỏ để tiêu diệt. Các bộ phận phục vụ ở phía sau (kể cả anh nuôi, y tá) nghe thấy tiếng súng nổ ở phía trước cũng tổ chức thành một mũi đánh vào phía sau lưng địch.

Sau hai giờ nổ súng, đại đội Mỹ với quân số gần 200 tên đã bị loại khỏi vòng chiến đấu. Quân ta thu được ống nhòm, cờ hiệu chỉ huy và nhiều vũ khí của địch. Trận đánh xuất sắc của đơn vị được cấp trên tặng thưởng huân chương Quân công hạng ba và được Bộ tư lệnh mặt trận phát động các đơn vị học tập.

Những thất bại nặng nề của quân Mỹ ở thung lũng Khe Sanh trong hai tháng qua đã được hãng tin Roi-tơ ngày 7-5-1967 đưa tin: trong những ngày cuối tháng 4 và đầu tháng 5 năm 1967, lính thủy đánh bộ Mỹ đã bị thương vong gần 50%". Cùng thời gian đó, Oét-mo-len và Uôn-tơ, Tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ ra Khe Sanh thị sát tình hình cũng phải thừa nhận: "ở đây chúng ta đã gặp một địch thủ cứng rắn".

Để tiếp tục đẩy mạnh hoạt động quân sự theo kế hoạch Bộ giao, đầu tháng 6 năm 1967, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã điều động toàn bộ Sư đoàn 325 vào tác chiến trên chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Tuy nhiên, trước khi bước vào đợt chiến đấu mới, Bộ tư lệnh Mặt trận đã chỉ đạo các đơn vị họp rút kinh nghiệm để tìm ra cách đánh Mỹ đạt hiệu quả cao, thực hiện tốt các chính sách chiến trường.

Thông qua thảo luận, cán bộ, chiến sĩ các trung đoàn 1, 2, 3, 31 (trên hướng đông), Trung đoàn 95C, tiểu đoàn 8 (trên hướng tây) đã thống nhất đánh giá: muốn tiêu diệt được quân Mỹ, làm chủ được trận địa, ngoài yếu tố chính trị, tinh thần vững vàng, dũng cảm, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, cán bộ, chiến sĩ còn phải nắm chắc và vận dụng thành thạo các hình thức chiến thuật, kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn của mình. Tư tưởng dám đánh và quyết thắng giúp cho người lính vượt qua mọi gian lao thử thách ác liệt, hy sinh, để đi đến cùng vì lý tưởng cao đẹp. Chiến thuật, kỹ thuật tinh thông sắc bén, sáng tạo đảm bảo cho người lính tự tin vào cách đánh của mình, tạo ra hiệu suất chiến đấu cao, giành thắng lợi lớn. Thực tế các trận chiến đấu ở Dốc Miếu, Cồn Tiên, điểm cao 402, Đầu Mầu, Tân Lâm (Do - Cam) và tây bắc Tà Cơn đã cho ta những bài học đó.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho đợt chiến đấu lớn trên hướng trọng điểm, đầu tháng 6 năm 1967 trên hướng tây đường 9, Bộ tư lệnh Mặt trận đã chỉ đạo Sư đoàn 325 cho Trung đoàn 95C: sau gần một tháng nghỉ ngơi củng cố, bước vào vây ép Tà Cơn và một vài vị trí quan trọng khác nhằm nghi binh thu hút và tiêu hao sinh lực địch. Trong đợt hoạt động, đại đội 9 tiểu đoàn 6 nhận nhiệm vụ đánh Động Trị - một chốt điểm ở độ cao 1009m nằm ở phía tây bắc Tà Cơn do 1 đại đội biệt kích Mỹ chiếm giữ.

Ngày 6 tháng 6 năm 1967, sau một đêm hành quân chiếm lĩnh Động Trị dưới trời mưa tầm tã vô cùng gian khổ, các chiến sĩ đại đội 9 đã thực hiện một trận tập kích xuất sắc: loại khỏi vòng chiến đấu 160 lính biệt kích Mỹ chiếm giữ điểm cao, thu toàn bộ vũ khí. Với chiến tháng Động Trị, đại đội được tặng thưởng huân chương Quân công hạng ba.

Cùng với hoạt động nghi binh, tiêu diệt sinh lực địch ở hướng tây, ở ven biển phía đông, các chiến sĩ đặc công hải quân đoàn 126A cũng được lệnh bước vào chiến đấu. Ngày 24 tháng 6 năm 1967, các chiến sĩ phân đội 3 (phân đội người nhái) được 2 tiểu đội du kích xã Do Hà và Do Hải chốt bảo vệ đường, luồn sâu trinh sát mục tiêu ở cảng Cửa Việt và đoạn sông Cồn Tòng - Mai Xá. Việc trinh sát và "lót ổ” của các chiến sĩ đặc công hải quân diễn ra khá thuận lợi.

23 giờ ngày 29 tháng 6 năm 1967, tổ đánh tàu phân đội 3 do tổ trưởng Nguyễn Hồng Lễ chỉ huy bắt đầu tiếp bước tiến vào mục tiêu theo la bàn. Hơn một giờ sau, tổ đã tiếp cận được chiếc tàu LST trọng tải 5.000 tấn và đặt được hai quả mìn vào chỗ hiểm của con tàu. Hai giờ sáng ngày 30 tháng 6, khi các chiến sĩ đã về vị trí an toàn, hai quả mìn phát nổ, nhấn chìm chiếc tàu LST trong đó chứa hàng chục xe thiết giáp và nhiều súng ống các loại. Đây là chiếc tàu vận tải cỡ lớn đầu tiên bị các chiến sĩ Đoàn 126A đánh chìm bằng khí tài kỹ thuật.

Chiến công giòn giã trên hai hướng tây – đông càng thúc giục cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 3 và các đơn vị phối thuộc trên hướng trọng điểm Do An khẩn trương chuẩn bị tốt mọi mặt để bước vào chiến đấu. 19 giờ ngày 27 tháng 6, sau khi các đơn vị đã triển khai xong công sự trận địa ở điểm xuất phát 1 và điểm xuất phát 2 (còn gọi là kiềng chính và kiềng phụ), vũ khí khí tài, lương thực cho 10 ngày chiến đấu.

Ban chỉ huy Trung đoàn 3 và cán bộ cấp tiểu đoàn của các đơn vị phối thuộc mở hội nghị quân chính để thống nhất hiệp đồng trước khi bước vào tác chiến. Đại tá Đàm Quang Trung Tư lệnh Mặt trận và một số phái viên tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu tham dự cuộc họp này. Sau khi Ban chỉ huy Trung đoàn đánh giá điểm mạch, điểm yếu trong công tác chuẩn bị trận địa hiệp đồng tác chiến, bảo đảm hậu cần và quyết tâm chiến đấu của trung đoàn và các đơn vị phối thuộc, Tư lệnh Mặt trận Đàm Quang Trung đã biểu dương cán bộ, chiến sĩ quán triệt tốt nhiệm vụ chiến đấu, chiếm lĩnh trận địa bí mật, an toàn, bảo đảm thời gian kế hoạch. Tuy nhiên, Tư lệnh cũng nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ các đơn vị còn bộc lộ những thiếu sót như giữ gìn bí mật chưa thật tốt, bố trí trận địa binh hỏa lực phân đội nhỏ (cối, ĐKZ, 12.7 ly) chưa hợp lý, nặng về ẩn nấp, quán triệt tư tưởng chiến thuật và nhiệm vụ của các chốt còn giản đơn, nhất là nhiệm vụ đánh châm ngòi kéo địch vào tròng để tiêu diệt...

Để nhanh chóng khắc phục những khuyết điểm trên, Tư lệnh nhấn mạnh: Cán bộ các cấp không được chủ quan, trước mắt phải tập trung khả năng chỉ đạo việc giữ bí mật, quán triệt lại nhiệm vụ phương pháp tác chiến của các chốt cho thật tốt. Trong lúc địch chưa đến tiếp tục củng cố công sự và luyện tập; địch đến, đánh châm ngòi phải khôn khéo, chắc thắng, khi cần phải tập trung cả tiểu đoàn tiêu diệt cấp trung đội cũng kiên quyết thực hiện...

22 giờ 30 phút cuộc họp quân chính trung đoàn đang được Tư lệnh Mặt trận dự họp kết luận, thì Phòng Hai tiền phương Bộ tư lệnh Mặt trận thông báo: "Đại đội 6 tiểu đoàn 2 trung đoàn 9 (sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ) đã đổ bộ xuống điểm cao 39", các cán bộ dự họp bỗng phấn chấn hẳn lên. Sau 30 phút bổ sung thêm nhiệm vụ, tất cả mọi người nhanh chóng trỏ về đơn vị chuẩn bị chiến đấu.

5 giờ sáng ngày 28 tháng 6 năm 1967, toàn trung đoàn đã chiếm lĩnh xong trận địa, sẵn sàng chờ địch đến. 8 giờ, một trung đội địch có hai xe tăng hộ tống theo đường 75 tiến vào Long Sơn nhưng cách chốt của ta 300m thì dừng lại. 16 giờ, bọn này được lệnh rút. Ở hướng tiểu đoàn 8, một tổ cán bộ đi điều nghiên trận địa, gặp địch nổ súng diệt 3 tên. Sau đó số cán bộ này dùng mọi cách dụ địch vào trận địa, nhưng chúng đã "cao chạy xa bay".

Ngày 29 tháng 6, buổi sáng địch cho một đại đội bám theo đường 75 tiến vào An Nha. Đại đội 2 chốt giữ Bãi Dâu, nhà ông Cao, Bãi Cháy hiệp đồng không chặt, nổ súng lẻ tẻ diệt 3 tên, làm bị thương 10 tên. Bọn địch dừng lại giải quyết hậu quả, đến 16 giờ 30 phút, tiểu đoàn 8 đề nghị cho 1 đại đội xuất kích tiêu diệt địch. Ban chỉ huy Trung đoàn nhắc nhở chỉ huy tiểu đoàn nắm lại địch cho thật chắc chắn mới cho bộ đội xuất kích. Quả nhiên khi trinh sát tiểu đoàn lên tới nơi, bọn địch ở đây đã rút hết.

Ngày 1 tháng 7 năm 1967, sau khi rút kinh nghiệm về tình hình địch, ta qua ba ngày sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu nhỏ lẻ chưa đạt kết quả, Ban chỉ huy Trung đoàn 3 quyết định: Tổ chức lại hệ thống trinh sát bám nắm địch trên các vị trí trọng yếu từ trung đoàn đến tiểu đoàn. Khi địch xuất hiện, các tổ, đài quan sát phải thông tin kịp thời, chính xác để đơn vị chớp thời cơ tiến công ngay. Nếu địch không chịu vào sâu, các tiểu đoàn phải táo bạo cho các phân đội ra phía trước phục kích địch, nổ súng buộc chúng phải phản ứng.

Trước mắt, tiểu đoàn 9 cho 1 đại đội cối 82 ly tăng cường bắn phá quấy rối Cồn Tiên, dụ địch ra Hảo Sơn đánh châm ngòi cho trung đoàn. Tiểu đoàn 8 củng cố chốt An Nha, ngụy trang kín đáo, tránh địch phát hiện sớm dừng lại đối phó hoặc tháo lui. Hai đại đội của tiểu đoàn 9 còn lại chốt giữ ở ngã ba Gia Bình, 1 trung đội độn thổ ở điểm cao 82, khi địch vào đúng ý định, bật thổ thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào, tiêu diệt thật thanh gọn.

Đúng như ý định của trung đoàn, 8 giờ 10 phút ngày 2 tháng 7, một đại đội của trung đoàn 9 Mỹ, một nửa đi theo đường 75 kéo vào sục sạo An Nha, một nửa được 6 trực thăng chở quân đổ bộ xuống đồi 82 và làng Hảo Sơn. Thời cơ diệt địch đã đến. Trung đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn 9 dùng 1 đại đội, 3 trung đội xuất kích tiêu diệt đại đội lính thủy đánh bộ. Các phân đội còn lại sẵn sàng đánh địch khi chúng đổ quân tiếp.

Tại hướng tiểu đoàn 8, sau khi đại pháo các loại của ta mới chuyển làn, đại đội trưởng Giao đã bật dậy dẫn đầu đại đội đánh thẳng vào ngã ba An Nha, bất chấp bọn địch chống trả quyết liệt. Thấy tình thế không trụ nổi, một trung đội địch phá chạy tán loạn, nhưng chúng không thể thoát khỏi cách đánh gần, quyết liệt, táo bạo của quân ta. Hầu hết trung đội địch bị tiêu diệt.

Trên hướng tiểu đoàn 9, tình hình diễn ra không suôn sẻ như tiểu đoàn 8. Trước khi cho một trung đội đổ quân xuống điểm cao 82, địch cho pháo các cỡ bắn hàng trăm quả đạn vào mảnh đất rộng chừng hơn một héc-ta. Một trung đội của tiểu đoàn độn thổ ở đây không trụ nổi, một nửa thương vong, số còn lại tự động rút lui. Do vậy khi 2 đại đội của tiểu đoàn 9 đánh lên gặp trở ngại lớn. Mặc dù được pháo các cỡ của ta bắn chi viện tới hai lần, nhưng hai ổ hỏa lực đại liên và cối 61 của địch chưa bị tiêu diệt, vẫn khống chế được toàn bộ phần tây bắc điểm cao.

Thấy tình hình trận đánh phát triển chậm có thể ảnh hưởng tới kế hoạch đánh châm ngòi của trung đoàn, tiểu đoàn trưởng Chánh một mặt hạ lệnh cho đại đội 2 điều 1 trung đội lợi dụng địa hình đánh vu hồi từ tây nam lên nhằm thu hút sự chú ý của địch, mặt khác hai trung đội còn lại, lợi dụng pháo cối của ta bắn phá nâng dần đội hình, khi pháo chuyển làn thì xung phong nhanh, đồng loạt làm cho địch không trở tay kịp.

Thực hiện ý định của tiểu đoàn trưởng, sau khi đợt pháo bắn thứ ba của ta chuyển làn, trung đội 1 ở phía tây nam đã bật dậy tiến công vào sau lưng địch, gây cho chúng nhiều lúng túng. Lợi dụng tình thế, hai trung đội ở hướng chủ yếu do đại đội trưởng Hiền dẫn đầu bật dậy dùng B40, B41 bắn phá mãnh liệt vào các vị trí hỏa lực địch. Trong giây lát bọn địch bị "phơi áo’ hoàn toàn, mất khả năng chống đỡ, hò nhau tháo chạy. Vậy là chỉ trong 1 giờ 30 phút, bằng trí thông minh và lòng dũng cảm, tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn 9 Trung đoàn 3 đã phối hợp chặt chẽ, tiến công liên tục, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 1 đại đội địch, thực hiện tốt trận đánh châm ngòi.

Mô tả về trận đánh này, tờ Diễn đàn Quốc tế của Mỹ ngày 7 tháng 7 năm 1967 viết: "Đợt đầu tiên của trận đánh trong ngày chủ nhật 2 tháng 7 năm 1967 đã tiêu diệt cả đại đội B của tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 9 thủy quân lục chiến Mỹ. Đại đội đã bị chết 58 người, bị thương 100 người và cho đến tối ngày hôm đó còn 38 xác mất tích".

Tiếng súng tiến công dồn dập, quyết liệt của Trung đoàn 3 đã gây hậu quả nặng nề cho tiểu đoàn 1 trung đoàn 9 Mỹ khiến các cấp chỉ huy Mỹ ở Đông Hà -Quảng Trị vô cùng cay cú. Ngày 4 tháng 7, để trả thù cho "các chiến hữu đại đội B đã bị cộng quân tiêu diệt", Bộ chỉ huy sư đoàn 3 Mỹ cho 2 tiểu đoàn (tiểu đoàn 3 trung đoàn 9 và tiểu đoàn 1 trung đoàn 3) đổ bộ xuống khu vực Bãi Dâu nhà Hội Đồng, An Nha củng cố đội hình nhằm tiến công sang Gia Bình, Xuân Hải, Phương Xuân. Nhưng bọn này vừa đặt chân xuống ngoại vi Bãi Dâu ( cách An Nha 2 km) đã bị pháo các loại của ta bắn cấp tập gây nhiều thương vong không còn sức phát triển tiếp.

Ngày 5 tháng 7 chúng điều thêm tiểu đoàn 2 trung đoàn 3 và tiểu đoàn 2 trung đoàn 9 đổ bộ xuống Trung An và đường 76 phối hợp với 2 tiểu đoàn (tiểu đoàn 3 trung đoàn 9 và tiểu đoàn 1 trung đoàn 3) ở Bãi Dâu nhằm đẩy lực lượng ta ra khỏi khu vực Do An.

Ngày 7 tháng 7, bọn chỉ huy Mỹ ở Đông Hà cho hàng chục trận địa pháo (kể cả pháo hạm ở vùng biển Quảng Trị) bắn dồn dập hàng ngàn viên đạn xuống Gia Bình, Xuân Hải, Phương Châm, Trạm Cá, Trung Sơn. Trước khi xuất kích, chúng còn cho hàng chục tốp máy bay ném hàng trăm quả bom xuống các khu vực nghi ngờ quân ta có "hầm ngầm cố thủ”.

8 giờ 30 phút, sau khi được phi pháo đánh tới “đã” theo yêu cầu, tiểu đoàn 1 (trung đoàn 3) lính thủy đánh bộ Mỹ cho hai đại đội ở điểm cao 82, nhà Hội Đồng và làng Hảo Sơn tiến công sang chốt Long Sơn của ta. Đại đội 2 (tiểu đoàn 3) có 3 xe tăng yểm trợ bám theo trục đường 76 tiến sang đông Long Sơn. Đại đội 3 (tiểu đoàn 3) có 2 xe tăng đi cùng từ làng Hảo Sơn tiến vào bắc Long Sơn.

Với tinh thần “đánh gần, diệt gọn”, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 7 Trung đoàn 3, mặc dù đã có một số đồng chí bị bom pháo sát thương nhưng vẫn kiên trì để địch vào khu quyết chiến điểm mới nổ súng. Đại đội 2 ở gần địch nhất (có chỗ chỉ cách 8m) cùng một lúc cho nổ 6 quả mìn định hướng. Trong khoảnh khắc, 12 tên Mỹ đổ gục, số còn lại kêu cứu om sòm. Thấy đồng bọn phía trước bị tiêu diệt, 2 chiếc xe tăng phía sau lồng lên bắn phá. Nhưng bọn này chỉ vài phút sau đã bị 4 tay súng B40, B41 của đại đội 1 chốt ở cánh trái kết liễu. Bị mất hỏa lực yểm trợ, đại đội địch tháo chạy tán loạn. Đại đội 1 (tiểu đoàn 3) tiến theo đường 76, thấy đồng bọn bị chặn đánh không dám xông vào, dừng lại chờ lệnh.

13 giờ 30 phút, Ban chỉ huy Trung đoàn 3 nhận định: địch vẫn chưa vào đúng kế hoạch dự kiến (sau khi bị tiêu hao trên 100 tên và 2 xe tăng ở Long Sơn), chúng co về vị trí ban đầu (điểm cao 82 và làng Hảo Sơn) để củng cố. Khả năng trong ngày địch sẽ không mở thêm đợt tiến công nào.

Căn cứ vào tình hình của địch, trung đoàn quyết định: tập trung lực lượng tiến công tiêu diệt địch trong khu vực Hảo Sơn, điểm cao 82 và khu vực nhà Hội Đồng nhằm loại khỏi vòng chiến đấu tiểu đoàn 1 (trung đoàn 3) và tiểu đoàn 3 (trung đoàn 9) đã bị đánh đau nhiều lần và đang hoang mang. Về sử dụng lực lượng: tiểu đoàn 7 tiến đánh khu vực Hảo Sơn, điểm cao 82, tiểu đoàn 8 đánh Bãi Dâu và ngã ba An Nha; tiểu đoàn 2 dự bị sẵn sàng chi viện cho các hướng.

14 giờ 30 phút, sau 15 phút pháo các loại của ta bắn phá mãnh liệt khu vực điểm cao 82, ngã ba An Nha (hai khu vực trọng điểm), Trung đoàn 3 phát lệnh tiến công.

Tại hướng tiểu đoàn 8, ngay khi pháo ta còn bắn, bộ đội ta đã dâng lên sát tiền duyên địch. Khi pháo ta vừa bắn chuyển làn, đại đội 1 phụ trách cánh phải bật dậy xung phong đánh vào Bãi Dâu, An Nha. Cuộc chiến đấu lúc đầu diễn ra khá suôn sẻ. Chỉ trong 10 phút, đại đội 1 đã chiếm được gần một nửa mục tiêu. Nhưng sau đó bắt đầu gặp khó khăn do đại đội 2 phụ trách cánh trái phát triển chậm. Địch dựa vào hào sâu và hỏa lực xe tăng chống trả quyết liệt. Đại đội 1 sau ba lần tổ chức xung phong đều bị đánh bật ra và quân số hao hụt hơn một nửa. Tới 16 giờ, đại đội trưởng và chính trị viên phó hy sinh, số quân còn lại chỉ đủ sức đánh trả địch để bảo vệ thương binh, liệt sĩ.

Trên hướng tiểu đoàn 7, hồi 15 giờ, khi pháo ta mới dừng bắn, đại đội 2 đã xung phong đánh lên đồi 82. Nhưng địa hình phát triển xa (cách 300m) trống trải, bọn địch gọi pháo ở Cồn Tiên bắn sang chặn lại. Tiểu đoàn 7 buộc phải tạm ngừng tiến công, gọi pháo của trên chi viện. Do mục tiêu lộ và hầm hố bị pháo 130 ly của ta phá hủy, bọn địch ở điểm cao 82 không trụ nổi tháo chạy về Hảo Sơn cùng đồng bọn lo chống đỡ.

16 giờ 80 phút, trước tình hình chung phát triển thuận lợi, Trung đoàn 3 quyết tâm dốc toàn lực đánh vào khu quyết chiến điểm Hảo Sơn, khu nhà Hội đồng, Bãi Dâu quyết không cho địch có thời gian rút chạy hoặc gọi lực lượng chi viện. Kế hoạch táo bạo của trung đoàn được Bộ chỉ huy Mặt trận chấp thuận.

17 giờ 30 phút, sau khi được pháo các cỡ của ta bắn hàng trăm quả vào khu vực quyết chiến điểm, ba tiểu đoàn 7, 8 và 9 (tiểu đoàn dự bị của trung đoàn) bất chấp bom đạn, phi pháo của địch đã xung phong dũng mãnh, đánh phá quyết liệt, tiêu diệt hết mục tiêu này đến mục tiêu khác làm cho bọn địch không kịp trở tay, chỉ còn lo tìm đường tháo chạy.

Vậy là sau 7 ngày chiến đấu liên tục, quyết liệt, Trung đoàn 3 và các đơn vị phối thuộc đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.300 tên địch, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn (tiểu đoàn 1 trung đoàn 3 và tiểu đoàn 3 trung đoàn 9) lính thủy đánh bộ Mỹ, bắn cháy 11 xe tăng, bắn rơi 14 máy bay các loại, thu nhiều phương tiện chiến tranh, giải phóng hầu hết xã Do An.

Chiến thắng Do An đã được Bộ tư lệnh Mặt trận đánh giá: ‘là trận đánh lớn đầu tiên cấp trung đoàn, phối hợp chặt chẽ với pháo binh có nhiều ưu điểm, đánh dấu một bước trưởng thành về mặt tổ chức chỉ huy hiệp đồng binh chủng, vận dụng cách đánh thọc sâu, bao vây chia cắt, đánh giáp lá cà, phân tán đội hình địch thành từng mảng để tiêu diệt”.

Phối hợp với các đòn tiến công quân sự tiêu diệt sinh lực địch và thu hút kìm chân các đơn vị lớn Mỹ - ngụy của bộ đội chủ lực, các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương Đường 9 - Bắc Quảng Trị dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Trị đã kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, từng bước chống phá âm mưu ổn định hậu tuyến, xây dựng hệ thống phòng thủ của địch.

Cuối tháng 3 năm 1967, để phối hợp với bộ đội chủ lực phá tan cuộc.hành quân Bi-khôn-hin vào vùng tây Dốc Miếu, bắc Đông Hà, Tỉnh đội Quảng Trị cho 2 trung đội, 3 tổ võ trang công tác dân sự, 2 tiểu đội du kích huyện Cam Lộ được 1 phân đội đặc công của mặt trận hỗ trợ, luồn sâu vào các khu tập trung dân ở Ba Dốc, Ngã Tư Sòng; các “ấp liên gia tự quản" ở Quất Xá, Lâm Láng, Do Lệ diệt 6 tụ điểm ác ôn cấp xã, quận, vận động hàng trăm hộ dân ở các thôn Thượng Nghĩa, Thanh Lương và một số thôn ở đông đường số 1 thuộc các xã Cam Thành, Cam Giang diệt bảo an dân vệ giành quyền làm chủ.

Đầu tháng 4 năm 1967, cùng với việc vận động nhân dân các xã Do Hà, Do Hải (Do Linh) chống địch tập trung dân thanh lọc cán bộ hoạt động bí mật, nhân cốt cách mạng, bắt thanh niên đi quân dịch, Tỉnh đội còn vận động du kích và nhân dân địa phương các xã Triệu Đông, Triệu Thành (Triệu Phong) đấu tranh không cho địch bắn phá, phục kích bừa bãi xóm làng, ruộng vườn gây thương tích cho nhân dân.

Giữa tháng 5 năm 1967, trong khi lực lượng quân sự Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị hoạt động mạnh, nhiều tổ võ trang công tác hỗn hợp của Mặt trận và của tỉnh luồn sâu vào hậu phương địch, phát động quần chúng đấu tranh chống phá kìm kẹp của địch, các cơ sở đảng trên hai hướng đông và tây nhanh chóng được phục hồi phát triển.

Ở miền núi, thực hiện chủ trương của Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị và Tỉnh ủy Quảng Trị, Đảng bộ huyện Hướng Hóa đã chỉ đạo các chi bộ xã trong vùng địch hậu khắc phục khó khăn, ác liệt, bám dân, bám đất cùng quần chúng vượt qua mọi khó khăn khôi phục thế trận chiến tranh nhân dân, phối hợp với bộ đội chủ lực đánh địch bằng mọi hình thức, biện pháp.

Ở các huyện đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng, thị xã Quảng Trị, một số cơ sơ đảng cấp xã, phường đầu năm 1967 bị đánh đi đánh lại không hoạt động được.

Cuối tháng 6, đầu tháng 7 năm 1967, các đội võ trang công tác nằm vùng của Mặt trận, của tỉnh đã khôi phục trở lại. Các đồng chí Hồ Sĩ Thản, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, Lê Văn Hoan, Bí thư huyện ủy Hải Lăng; Phan Chung, Bí thư huyện ủy Do Linh và rất nhiều đồng chí khác đã nêu tấm gương kiên trung bất khuất "Đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám giặc để đánh giặc". Các nữ du kích Trần Thị Tâm, Nguyễn Thị Liên, Phan Thị Hoa, Nguyễn Thị Lành, Lê Thị Tuyết...chưa một ngày dời dân, cùng đội du kích liên tục đánh địch.

Do đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị phát triển mạnh nên trong ba tháng hè - thu năm1967, ta đã xây dựng được cơ sở cách mạng ở 100 thôn (trong tổng số 159 thôn đồng bằng), 42% thôn có cơ sở cách mạng đã phục hồi lại cơ sở Đảng. Các huyện đồng bằng tổ chức được 47 cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng giành thắng lợi. Nhiều nơi chính quyền thôn, xã được xây dựng củng cố đi vào hoạt động có hiệu quả hỗ trợ đắc lực cho bộ đội chủ lực Mặt trận tiêu diệt địch.

Phối hợp chặt chẽ với quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị chiến đấu kiên cường chống quân viễn chinh Mỹ và tay sai, ở hậu phương chiến dịch, quân và dân Quảng Bình, Vĩnh Linh, mặc cho địch đánh phá quyết liệt các nút giao thông quan trọng dọc sông Gianh, sông Nhật Lệ, đường 12; tuyến giao thông từ Vĩnh Linh vào đường 9 đường ô tô bị tắc, nhưng gần 1.000 dân công của các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình vẫn liên tục vận chuyển bộ, cùng với các đại đội "gùi, cõng" của Mặt trận khắc phục khó khăn gian khổ, tạo nhiều bến vượt, nhiều đường vòng, thực hiện "khi vào tải đạn, khi ra tải thương". Ở phía đông khu vực Vĩnh Linh, những tuyến đường giao thông trong hầm hào liên hoàn được xây dựng. Thương binh từ Mặt trận đưa ra có cung, trạm dừng chân để chăm sóc, cấp cứu an toàn.

Giữa tháng 7 năm 1967, được hậu phương chi viện sức người, sức của, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị quyết định sử dụng Sư đoàn 325 và Trung đoàn 1 (trực thuộc Bộ tư lệnh Mặt trận) tổ chức bao vây tiến công Cồn Tiên nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực, gây nỗi kinh hoàng mới cho quân Mỹ.

Cồn Tiên là một căn cứ lớn, “một tiền đồn đặc biệt quan trọng" ở phía đông tuyến phòng thủ Đường 9 - Bắc Quảng Trị của địch. Mất căn cứ Cồn Tiên, toàn bộ phía đông bắc đường 9 thuộc khu vực Do - Cam sẽ bị uy hiếp. Vì vậy, ngay từ khi quân Mỹ ra Quảng Trị, chúng liên tục cho một tiểu đoàn Mỹ chốt giữ ở đây. Trong hơn một tháng chiến đấu, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ác liệt, các chiến sĩ hai trung đoàn 101D và 1, lần lượt đánh bóc được tới lớp hàng rào thứ 9 trên hướng đông nam và tây bắc Cồn Tiên, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

Đầu tháng 9 năm 1967, cuộc bao vây của hai trung đoàn gần giành được thắng lợi trọn vẹn thì Quảng Trị bước vào mùa mưa lớn. Căn cứ và tình hình cụ thể và để chuẩn bị cho các đợt hoạt động mùa khô tới, Bộ tư lệnh Mặt trận đã cho các đơn vị mở vây Cồn Tiên, chuyển lực lượng ra phía sau để củng cố.

Như vậy, tính từ ngày thành lập (tháng 6 năm 1966 đến tháng 10 năm 1967), quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ác liệt, hy sinh, mở hàng chục đợt chiến đấu quy mô vừa. Đánh hàng trăm trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 8 tiểu đoàn (có 6 tiểu đoàn Mỹ) với gần 1 vạn tên, bắn rơi 80 máy bay các loại, bắn cháy và bắn hỏng 190 xe quân sự (có 42 xe tăng), 9 tàu vận tải LST, 65 khẩu pháo, 6 kho xăng cùng hàng trăm tấn phương tiện chiến tranh và đồ dùng quân sự.

Những chiến công đầu tiên của quân và dân Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị đã góp phần tích cực cùng quân và dân toàn miền mở được một hướng tiến công chiến lược mới ở Đường 9 - Bắc Quảng Trị, tiêu hao, tiêu diệt, thu hút giam chân một bộ phận khá lớn sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ tại chiến trường làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng. Đồng tnời chiến công đó còn trực tiếp bảo vệ, mở rộng hành lang vận chuyển chiến lược Bắc - Nam trên dãy Trường Sơn, bước đầ đánh bại kế hoạch xây dựng hệ thống phòng thủ Mắc Na-ma-ra, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào chiến tranh du kích ở miền Trung - Trung Bộ nói chung và Trị - Thiên nói riêng phát triển mạnh mẽ.

CHƯƠNG II

MỞ CHIẾN DỊCH ĐƯỜNG 9 - KHE SANH PHỐI HỢP VỚI TOÀN MIỀN TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968

I. Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968.

Cuối tháng 12 năm 1967, trên địa bàn vùng 1 chiến thuật, Mỹ - ngụy đã tập trung 243.000 quân (bao gồm:134.000 quân Mỹ, 99.000 quân ngụy và 5.000 quân các nước chư hầu). Đặc biệt, đối với khu vực trọng điểm Đường 9 - Khe Sanh, chúng đã tăng cường chủ lực lên đến 45.000 quân, trong đó có 28.000 quân Mỹ (biên chế thành 10 tiểu đoàn bộ binh, 9 tiểu đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn và một đại đội cơ giới), 17.000 quân ngụy (gồm 5 tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn và một đại đội pháo, một đại đội xe cơ giới), riêng lực lượng cơ động có 4 tiểu đoàn Mỹ và 2 tiểu đoàn ngụy. So với các vùng chiến thuật khác thì đây là vùng địch tập trung số lượng quân và phương tiện chiến tranh có quy mô lớn nhất, nhằm mục đích: ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam, tạo ra bức "bình phong” án ngữ trực tiếp cho địa bàn Trị - Thiên - Huế, đồng thời giữ cho ngụy quân, ngụy quyền trong khu vực khỏi bị tan rã.

Song song với việc tăng cường lực lượng, Mỹ - ngụy tập trung đầu tư công sức, tiền của củng cố lại hệ thống phòng ngự gồm 23 vị trí liên hoàn với nhau dọc theo Đường 9 - Khe Sanh, chạy từ biên giới Việt - Lào đến bờ biển bắc Quảng Trị. Đây là hệ thống phòng ngự được tổ chức khá hoàn chỉnh, công sự được xây dựng vững chắc, có hầm ngầm kiên cố chống được đạn pháo cỡ lớn. Trong các khu vực phòng ngự có tổ chức các cụm hỏa lực pháo binh mạnh và không quân địch sẵn sàng chi viện cho việc cơ động khi thực hành các tình huống chiến đấu.

Trước việc Mỹ thay đổi các biện pháp chiến lược trên chiến trường, Bộ Chính trị ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết chỉ rõ: "Thực trạng diễn biến cơ bản của tình hình là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, bị động và khó khăn, tình hình cũng cho phép ta có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của ta sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định”.

Từ nhận định như vậy, Trung ương quyết định: "...Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định” (Chú thích: Viện Lịch sử quân sự Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975.). Những sự kiện quân sự. Nhà XB QĐND, Hà Nội, 1988, tr.56).

Qua nghiên cứu tình hình cách bố trí lực lượng cuối năm 1967, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã vạch ra kế hoạch chiến lược năm 1968 là: Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực nhằm thu húi, phân tán lực lượng, tiêu diệt địch mà chiến trường chính là hướng Đường 9 - Khe Sanh, thực hiện cuộc tiến công đồng loạt vào thành phố, thị xã kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng mở đầu cho một cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Nam Bộ, Trị - Thiên - Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng.

Để thực hiện quyết tâm chiến lược trên, ngày 6 tháng 12 năm 1967, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Theo quyết định trên, Thiếu tướng Trần Quý Hai Phó tổng tham mưu trưởng làm tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy mặt trận.

Cùng với việc kiện toàn công tác lãnh đạo, chỉ huy của mặt trận, Bộ cũng nhanh chóng điều động lực lượng đảm bảo dồn sức mạnh cho chiến dịch hoạt động giành thắng lợi. Ngoài lực lượng đã và đang hoạt động trên địa bàn mặt trận như: Sư đoàn bộ binh 325, các Trung đoàn 1, 2, 3 (của Sư đoàn 324 cũ), Trung đoàn 270 (Quân khu 4), 2 tiểu đoàn địa phương Quảng Trị, các đại đội địa phương huyện, 1 đoàn đặc công, 3 Trung đoàn pháo binh 84, 164, 204, hai Trung đoàn cao xạ 128, 282... là những đơn vị đã có ít nhiều kinh nghiệm đánh Mỹ và rất quen thuộc với chiến trường. Bộ Quốc phòng đã điều động 2 Sư đoàn bộ binh 304, 320, 5 đại đội đặc công, 4 đại đội xe tăng, 2 Trung đoàn pháo binh 675, 45, Trung đoàn cao xạ 241 vào tham gia chiến dịch. Các đơn vị mới được điều động từ miền Bắc vào được huấn luyện khá tốt, được trang bị đầy đủ, nhưng chưa có kinh nghiệm đánh Mỹ, chưa quen biết địa hình và thời tiết khu vực tác chiến.

Sau khi đã cơ bản tập kết được lực lượng và binh khí kỹ thuật, ổn định về tổ chức, ngày 31 tháng 12 năm 1967, Đảng ủy Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã họp hội nghị để xác định quyết tâm thực hiện nhiệm vụ trong đợt ra quân đầu năm 1968.

Dựa trên cơ sở chủ trương, kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng, chỉ lệnh nhiệm vụ của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Đảng ủy Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ra nghị quyết chỉ rõ: Trong Xuân - Hè năm 1968, toàn mặt trận phải quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, chủ yếu là Mỹ. Khi có điều kiện thì phá vỡ một phần hệ thống phòng ngự của địch ở đường 9 và phát triển vào Trị - Thiên - Huế. Thu hút, giam chân, tiêu diệt lực lượng Mỹ - ngụy ra đường 9 càng nhiều càng tốt. Đồng thời hiệp đồng chặt chẽ với các chiến trường toàn Miền, tạo điều kiện thuận lợi cho Trị - Thiên - Huế tiến công và nổi dậy (chủ yếu là Huế) và giải phóng nông thôn đồng bằng. Từ thực tiễn chiến đấu góp phần rèn luyện bộ đội, bồi dưỡng cán bộ để đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh. Trong các nhiệm vụ trên, nhiệm vụ tiêu diệt địch, thu hút và giam chân địch tạo điều kiện cho các chiến trường toàn Miền mà trực tiếp là Trị - Thiên - Huế thực hiện tiến công và nổi dậy giành thắng lợi là nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất.

Cũng tại hội nghị, bản quyết tâm thực hiện kế hoạch chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh chính thức được thông qua và ngay sau đó được triển khai xuống các đơn vị trực thuộc. Đảng ủy chủ trương chia Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị thành hai chiến trường:

Hướng tây (Khe Sanh) là hướng chủ yếu do các Sư đoàn 325 và 304 phụ trách.

Hướng đông là hướng quan trọng do Sư đoàn 320 và 3 Trung đoàn (của Sư đoàn 324 cũ) phụ trách (trong quá trình diễn biến chiến dịch, tùy tình hình có thể hướng đông sẽ trở thành hướng chủ yếu).

Hướng nam (khu đệm) phát triển vào Trị - Thiên - Huế, sử dụng Trung đoàn 27 làm lực lượng đi trước.

Với nhiệm vụ và mục tiêu được phân công trên các hướng, các đơn vị nhanh chóng bắt tay vào thực hiện công tác chuẩn bị của mình như: Trinh sát nắm địch, địa hình, bổ sung súng đạn, thuốc men, lương thực và phương tiện vũ khí kỹ thuật vừa trải qua một cuộc hành quân đường dài sức bộ đội giảm, pháo và xe tăng cần phải bảo dưỡng, sửa chữa và hiệu chỉnh... Hơn nữa, thời gian mở màn chiến dịch có sự thay đổi, lúc đầu dự kiến là cuối tháng 2, sau lại chuyển sang ngày 20 tháng 1 năm 1968, nên mọi công việc chuẩn bị đặt ra càng phải tích cực và chủ động hơn bất cứ lúc nào.

Ở Hướng Hóa, những ngày giáp Tết Mậu Thân 1968, hầu hết nhân dân vừa trải qua nạn đói khủng khiếp do chất độc hóa học của Mỹ gây ra, nhưng sau khi được các cơ sở Đảng và các đoàn thể cách mạng tuyên truyền, làm rõ tình hình và nhiệm vụ mớt, mọi người đều ghi tên đăng ký đi dân công hỏa tuyến phục vụ mặt trận. Do vậy, trong đợt đầu, toàn tuyến đã huy động được hơn 3.000 người lên đường phục vụ chiến đấu. Phần lớn số còn lại được phân công phối thuộc với một đơn vị công binh đi mở đường cho mặt trận Huế.

Ngoài việc đóng góp sức người cho mặt trận, mặc dù số đông gia đình vẫn còn thiếu đói nhưng để hưởng ứng chủ trương quyên góp lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến, nhân dân đã "thắt lưng buộc bụng" cùng nhau tự nguyện quyên góp gạo, sắn cho cách mạng. Kết quả đợt 1, các xã nam Hướng Hóa đã đóng góp được 200 tấn gạo, 2 triệu gốc sắn (mỗi gốc sắn thu được 1,5 đến 2 kg củ).

Đi đôi với việc đóng góp dân công, gạo, sắn cho mặt trận, lực lượng vũ trang huyện Hướng Hóa (trong đó có trung đội 4 bộ đội địa phương khu vực Ba Lòng trực thuộc đại đội bộ đội địa phương huyện Hướng Hóa) đã tích cực phục vụ và phối thuộc với bộ đội chủ lực tổ chức một số trận phục kích diệt 1 đoàn xe vận tải của Mỹ vào ngày 13 tháng 1, phá hủy 9 xe, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên địch ở đoạn đường Tân Lâm đi Cà Lu, đánh các điểm cao 1009, 845, 852 đêm ngày 18 tháng 1 năm 1968.

Đồng thời với công việc chuẩn bị, ngày 18 tháng 1 năm 1968, Trung đoàn 95C và 101D thuộc Sư đoàn 325 đã tiến công tiêu diệt cứ điểm Động Trị (điểm cao 1009), các điểm cao 845, 832, 683, 573 để thực hiện phối hợp và “dọn đường" cho các lực lượng chiến dịch áp sát lực lượng vào vị trí xung quanh Hướng Hóa, Tà Cơn (những mục tiêu mở màn cho chiến dịch Đường 9 -Khe Sanh Xuân - Hè 1968).

Ngày 20 tháng 1 các đơn vị cơ bản đã tập kết xong lực lượng, phương tiện vũ khí kỹ thuật trên các vị trí được phân công, Bộ tư lệnh chiến dịch đã phát lệnh nổ súng tiến công Khe Sanh với trận mở màn trên hướng tây đánh chiếm chi khu quân sự quận lỵ Hướng Hóa và điểm cao 832 (ngoại vi Tà Cơn).

Hướng Hóa là huyện vùng cao của tỉnh Quảng Trị, diện tích rộng nhưng phần lớn là rừng núi. Dân số ở đây có khoảng 30.000 người chủ yếu là người Tà Ôi và Vân Kiều. Chi khu quân sự và quận lỵ Hướng Hóa nằm trên đường 9 và là vị trí trung tâm Khe Sanh nên nơi đây được Mỹ - nguỵ đánh giá là "nơi an toàn nhất" của chúng trong hệ thống phòng thủ Đường 9 - Khe Sanh.

Đêm ngày 20 rạng ngày 21 tháng 1, khi pháo binh chiến dịch và của Sư đoàn 304 phát hỏa thì tiểu đoàn 7 Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) có 1 tiểu đội bộ đội địa phương huyện dẫn đường bắt đầu xuất kích. Do máy bay B52 Mỹ đánh bom phát quang địa hình, cây cối ngổn ngang chắn đường cơ động liên đội hình tiến công rất chậm, một số bộ phận bị lạc hướng... mãi đến 4 giờ sáng ngày 21 tháng 1 tiểu đoàn 7 mới chiếm lĩnh được vị trí xuất phát tiến công.

Đòn tiến công bất ngờ kéo dài với uy lực mạnh chưa từng có của pháo binh ta đánh vào nhiều mục tiêu quan trọng của địch ở Khe Sanh đã “khoan" nhiều hố trên đường băng, làm cháy kho đạn 1.500 tấn, phá một máy bay lên thẳng (Chú thích: Lịch sử Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam 1945- 1975. NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội 1980. tr225). Mô tả cảnh tượng trên, nhà báo Mỹ Mai-cơn Mắc-li-a viết: “rạng sáng ngày 21 tháng 1 năm 1968, pháo tầm xa của Bắc Việt mở màn cuộc bao vây ở Khe Sanh với sự chính xác tai hại, 300 quả đạn đã làm 18 lính Mỹ chết, 40 bị thương, những quả đạn pháo ấy như rơi ngay vào Oa-sinh-tơn” (Chú thích: Mai-cơn Mắc-li-a. Việt Nam - Cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, Nxb Hà Nội l990, tr.148).

Khi quân địch chưa kịp lấy lại tinh thần, tiểu đoàn 7 đã đưa lực lượng lên nhanh chóng mở cửa, khắc phục vật cản và cơ động đánh chiến các mục tiêu trong tung thâm chi khu quân sự - quận lỵ Hướng Hóa.

Phối hợp chặt chẽ với Sư đoàn 304 đánh Hướng Hóa, Sư đoàn 325 dùng tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 đánh điểm cao 832 (tây bắc Tà Cơn khoảng 4 km) do 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ tổ chức phòng ngự. Mặc dù được hỏa lực pháo binh chi viện nhưng quân Mỹ dựa vào lợi thế điểm cao, có hệ thống công sự trận địa phòng ngự vững chắc, đặc biệt là được cụm pháo Tà Cơn chi viện trực tiếp nên mọi sự cố gắng và quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 6 đều bị đẩy lùi và bị thiệt hại lớn. Trước tình hình này, Bộ tư lệnh chiến dịch đã quyết định chuyển tiểu đoàn 6 vào tổ chức bao vây kiềm chế địch.

Mất Hướng Hóa, Tà Cơn bị uy hiếp từ hướng nam. Điểm cao 832 ở phía bắc bị bao vây, địch dùng hỏa lực phi pháo ngăn chặn lực lượng ta.

Tiếp tục thực hiện ý định chiến dịch, ngày 23 tháng 1, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh hạ lệnh tiến công tiêu diệt cứ điểm Huội San nằm sát biên giới Việt - Lào.

Huội San là khu vực phòng ngự của tiểu đoàn 33 - ngụy Lào (6 đại đội) và một số trung đội dân vệ, tổ chức thành 12 cứ điểm nhỏ, trung tâm là cứ điểm Tà Mây. Đây là cụm cứ điểm ngăn chặn đường 9 rất lợi hại của địch ở khu vực biên giới Việt - Lào.

Để đảm bảo đánh chắc thắng, ngoài lực lượng Trung đoàn 24 Sư đoàn 304, Bộ tư lệnh đã tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng lội nước (11 xe PT-76) 1 đại đội công binh, một số trung đội địa phương và một số cán bộ địch vận của Quân giải phóng Lào.

Đây là lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, bộ đội xe tăng được trực tiếp vào chiến trường tham gia chiến đấu. Vì vậy đại đội 3 xe tăng họp xác định quyết tâm "Kiên quyết đánh thắng trận đầu, một xe, một người cũng quyết đánh. Nếu phải chuyển sang đánh ban ngày cũng quyết đánh cho đến khi thắng lợi" (Chú thích: Lịch sử binh chủng Thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam 1954 - 1975, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1982 tr. 54)

Mặc dù phải chuẩn bị quá gấp, bộ binh và xe tăng chưa có điều kiện hợp luyện, nhưng đúng 19 giờ ngày 23 tháng 1, khi hỏa lực pháo binh bắn chuẩn bị, các mũi tiến công của bộ binh và xe tăng ta bắt đầu xuất phát xung phong. Khi xe tăng vượt qua các ngầm thì 2 chiếc (số 555 và 558) bị sa lầy, phải tập trung sức lực để cứu kéo, nên đội hình tiến công của ta bị địch phát hiện. Chúng dồn hỏa lực pháo binh và không quân đánh phá dữ dội vào đội hình của ta, sau đó tổ chức đánh chặn trên đường 9.

Trước tình hình khó khăn, phức tạp trên, chỉ huy Trung đoàn 24 đã quyết định đưa bộ binh cơ động vượt lên trước chủ động kiên quyết tiến công địch. Khoảng 6 giờ sáng ngày 24 tháng 1, tiểu đoàn 5 và đại đội 8 tiểu đoàn 6 đã vào tiếp cận địch. Đại đội 6 mở cửa đột phá trên hướng đông bắc, đại đội 7 bám được hàng rào tây bắc... nhưng hầu hết các mũi tiến công của Trung đoàn 24 đều bị hỏa lực các loại của địch chặn lại gây cho ta một số thiệt hại.

Trong lúc các mũi bộ binh của Trung đoàn 24 đang phải chống trả quyết liệt với quân địch, các xe tăng 558, 555 đã được kéo khỏi vùng lầy và không chờ tập kết đủ đội hình, đã nhanh chóng cơ động theo đường 9 bất chấp mọi hỏa lực đánh chặn dữ dội của địch, tiến thẳng vào căn cứ Tà Mây.

Thấy xe tăng quân giải phóng lần đầu tiên xuất hiện trên chiến trường, toàn bộ quân địch trong căn cứ lâm vào tình trạng hoảng loạn. Được xe tăng chi viện, các mũi tiến công của bộ binh nhanh chóng vượt qua cửa mở, tiến vào tung thâm, chia cắt địch, diệt sở chỉ huy, chiếm các mục tiêu và dập tắt mọi sự chống cự của địch.

8 giờ sáng cùng ngày, quân ta đã làm chủ căn cứ Tà Mây cùng hệ thống phòng ngự Huội San của địch. Phần lớn quân địch chốt giữ ở đây đều bị tiêu diệt và bị bắt, chỉ một bộ phận nhỏ chạy thoát về Làng Vây. Đây là trận chiến đấu ban ngày đầu tiên của Trung đoàn 24 trong chiến dịch đánh quân địch phòng thủ trong công sự vững chắc, giành thắng lợi nhanh chóng. Đặc biệt, đại đội 3 xe tăng mới chỉ có 2 chiếc (555 và 558) tham gia chiến đấu đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho bộ binh đánh thắng địch làm chủ mục tiêu, bảo tồn lực lượng, phương tiện, tạo niềm tin tưởng bước đầu về sức mạnh đột phá của xe tăng trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng.

Cụm cứ điểm phòng ngự Huội San, chi khu quân sự quận lỵ Hướng Hóa bị tiêu diệt đã cắt đứt 2 mắt xích rất quan trọng trong hệ thống phòng thủ phía tây đường 9 của địch. Vòng vây xung quanh căn cứ Tà Cơn của ta mỗi ngày một xiết chặt, Mỹ đã khẩn trương dồn lực lượng không quân, pháo binh đánh phá quyết liệt nhằm ngăn chặn và đẩy lùi các mũi tiến công của Quân giải phóng. Mặt khác, chúng cấp tốc đưa thêm một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 9 lính thủy đánh bộ đến tăng cường cho Khe Sanh, nâng lực lượng đồn trú ở đây lên đến 6.000 tên (cuối tháng 1 năm 1968).

Cùng với các Sư đoàn 304 và 325 đánh địch trên hướng chủ yếu, trên hướng thứ yếu chiến dịch, Sư đoàn 320 được giao nhiệm vụ tác chiến tiêu diệt sinh lực địch, cắt đứt sự vận chuyển của địch trên đường 9, đẩy Khe Sanh vào tình trạng bị cô lập.

Đêm ngày 23 tháng 1, Sư đoàn 320 lệnh cho tiểu đoàn 1 Trung đoàn 64 cùng các tiểu đoàn 14 (pháo, cối mang vác) và 16 khẩu súng máy cao xạ 12.7 ly... cơ động triển khai xây dựng hệ thống công sự trận địa ở Động Mã (gồm các dãy điểm cao 322, 388, 166, 554 thuộc phía bắc đường 9); lệnh cho tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 vào bố trí ở đông nam Cù Đinh (điểm cao 182) sẵn sàng đánh địch ra ứng cứu đường 9, đưa tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 vào bám đánh địch trên đường 76 và phối hợp chiến đấu với Trung đoàn 64 khi cần thiết. Đồng thời Sư đoàn 320 cũng cho tiểu đoàn 1 và 2 (Trung đoàn 48) đi chuẩn bị cho trận đánh chiếm chi khu Cam Lộ.

Qua hai ngày chiến đấu (23 và 24 tháng 1), tiểu đoàn 7 Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 đã phá hủy 10 xe quân sự (có 2 xe tăng), loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên địch. Sư đoàn 320 đã hoàn thành được nhiệm vụ cắt đứt đường 9, góp phần quan trọng vào việc tạo điều kiện thuận lợi cho các Sư đoàn 304 và 325 của chiến dịch, siết chặt vòng vây ở Khe Sanh.

Ngày 25 tháng 1, tướng hai sao Uy-liêm Giôn, Tư lệnh Sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ (lực lượng chủ yếu bảo vệ đường 9) sau khi đi thị sát đường 9, trực tiếp thấy những hố đạn pháo và cả đoàn xe quân sự của Mỹ bị Quân giải phóng thiêu hủy còn nằm ngổn ngang trên đường, đã đi đến quyết định: điều tiểu đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ từ Đông Hà ra Cam Lộ, đưa tiểu đoàn 2 từ Dốc Miếu về đánh chiếm điểm cao 105 (bắc đường 9) chuẩn bị bàn đạp tiến công Động Mã, "đuổi" tiểu đoàn 7 Trung đoàn 64 ra xa, phối hợp với lực lượng chốt giữ ở điểm cao 241 tổ chức bảo vệ đoạn đường này.

Qua nguồn tin tức của trinh sát phát hiện thấy địch đang cơ động lực lượng và xây đựng công sự trận địa ở khu vực điểm cao 105, ngay trong đêm ngày 25 tháng 1, tiểu đoàn 7 đã được lệnh cấp tốc luồn rừng, lội suối tới tiếp cận địa điểm dã chiến của địch khi chúng còn đang ngủ. Bộ đội nổ súng. Hầu như quân địch không kịp chống cự, phần lớn bị diệt, số sống sót vội tháo chạy vào ẩn nấp trong rừng chờ đồng bọn đến ứng cứu.

Trận đánh diễn ra chưa đầy 20 phút nhưng ta đã tiêu diệt được 1 số lượng khá lớn sinh lực địch, phá tan âm mưu đóng chốt trên điểm cao, từng bước giải toả và khống chế đường 9 của Mỹ.

Cùng với các đòn tiến công trên bộ, trong các ngày 20, 21, 22 tháng 1 năm 1968, Đoàn 126 đặc công Hải quân có sự phối hợp chiến đấu của tiểu đoàn 47 bộ đội Vĩnh Linh và du kích huyện Do Linh đã liên tiếp đánh chìm 6 tàu LCU trên cảng Đông Hà và đoạn sông làng Xuân Khánh.

Tiếp đó, trong 3 ngày 26, 27 và 28 tháng 1, các chiến sĩ đặc công Hải quân Đoàn 126 lại dùng thủy lôi diệt thêm 3 tàu LCU chở đầy hàng hóa quân sự của Mỹ từ Đà Nẵng qua Cửa Việt lên Đông Hà. Thắng lợi bước đầu trong việc phong tỏa cảng sông Cửa Việt đã góp phần quan trọng cho chiến dịch tiếp tục tiến công tiêu diệt địch trên hướng chủ yếu Khe Sanh.

Sức ép của Quân giải phóng ở Đường 9 - Khe Sanh ngày càng tăng đã làm cho bộ chỉ huy quân Mỹ ở Nam Việt Nam thực sự lo ngại. Tướng Oét-mo-len đã từ Sài Gòn ra Đà Nẵng để gặp các tướng lĩnh chỉ huy các sư đoàn lính thủy đánh bộ và lục quân vùng 1 chiến thuật bàn cách đối phó với ta.

Về lực lượng, Oét-mo-len đã quyết định tăng cuờng cấp thời toàn bộ sư đoàn A-mê-ri-cơn và 2 lữ đoàn của sư đoàn kỵ binh số 1 cho vùng 1, chủ yếu là Trị - Thiên - Huế, chuyển lữ đoàn lính thủy đánh bộ Nam Triều Tiên ra Đà Nẵng thay thế cho lữ đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, tăng thêm 1 lữ đoàn cho sư đoàn dù 101 và lên kế hoạch sẵn sàng đưa cả sư đoàn vào chiến đấu khi cần thiết.

Cùng với việc tăng quân, chúng đã thiết lập một Bộ chỉ huy quân sự Việt - Mỹ (MACVFOARD) tại Phú Bài để điều khiển lực lượng đánh trả các cuộc tiến công của ta trên đường 9 - Khe Sanh. Vì vậy số lượng quân chiến đấu của địch ở đây đã lên tới 43 tiểu đoàn chủ lực (25 tiểu đoàn Mỹ, 18 tiểu đoàn ngụy) với tổng quân số 69.490 tên (40.800 Mỹ, 28.690 ngụy).

Đến đây, Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh đã thực hiện được một phần nhiệm vụ thu hút giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của địch (chủ yếu là lính Mỹ), góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho toàn Miền thực hiện đòn chiến lược tổng tiến công đồng loạt Tết Mậu Thân 1968.

Trong khi quân địch đang tìm mọi cách đối phó với chủ lực giải phóng trên mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, trong các ngày 30 và 31 tháng 1 năm 1968, quân và dân ta đã mở cuộc tổng tiến công đồng loạt ở 39 trên tổng số 44 thành phố, thị xã, 71 trên tổng số 242 quận lỵ và hàng trăm vị trí quân sự của Mỹ - ngụy trên toàn miền Nam.

Lần đầu tiên quân và dân miền Nam đã giáng một đòn chí mạng vào các cơ quan chỉ huy đầu não địch như: Sứ quán Mỹ, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam cộng hòa, sở chỉ huy các quân đoàn, quân binh chủng, các sư đoàn, lữ đoàn... Mỹ - ngụy và chư hầu, các tiểu khu, chi khu quân sự, các sân bay, bến cảng, hệ thống kho tàng quân sự... làm tê liệt nhiều trung tâm thông tin liên lạc, vận chuyển và cơ động của chúng.

Phối hợp với các đòn tiến công của bộ đội chủ lực trên chiến trường, lực lượng vũ trang địa phương và các tổ chức cơ sở Đảng đã làm nòng cốt động viên hô hào nhân dân nổi dậy tiến công địch, giành quyền làm chủ nhiều vùng rộng lớn ở nông thôn, vùng quanh các thành phố, thị xã và thị trấn. Chính quyền cơ sở của địch ở nhiều địa phương bị xoá bỏ. Hệ thống "ấp chiến lược” và khu dồn dân của Mỹ - ngụy ở nhiều vùng đã bị phá banh, phá rã... Vùng giải phóng của cách mạng được mở rộng.

Ở mặt trận Thừa Thiên - Huế, do có sự chuẩn bị mọi mặt chu đáo nên các trung đoàn chủ lực 18C, 9 và 6 đã phối hợp với các lực lượng tại chỗ tiến công vào khắp các mục tiêu quan trọng của địch. Chỉ sau một thời gian ngắn ta đã làm chủ thành phố Huế - một sào huyệt quan trọng về quân sự, kinh tế, chính trị xã hội ở miền Trung của Mỹ - ngụy. Những thắng lợi to lớn và đều khắp miền Nam trên đây đã "giáng một đòn vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ", làm đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ", làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ" (Chú thích: Cuộc kháng chiến chóng Mỹ cứu nước 1954 – 1975 (Những sự kiện quân sự). sách đã dẫn, tr. 184.).

Hòa nhịp với khí thế tiến công mùa Xuân năm 1968 trên toàn miền Nam, trực tiếp nhất là Trị -Thiên - Huế và đặc biệt là để nhanh chóng ngăn chặn địch rút lực lượng từ đường 9 (hướng đông) vào gây khó khăn cho Trị - Thiên, Bộ tư lệnh Đường 9 – Khe Sanh đã ra lệnh cho Sư đoàn 320, có 1 trung đội bộ đội phân khu và 1 tiểu đội du kích huyện Cam Lộ phối thuộc tổ chức tiến công tiêu diệt chi khu quân sự - quận lỵ Cam Lộ (nằm trên ngã ba đường 9 và đường 76). Đây là căn cứ quân sự rất kiên cố gồm nhiều lô cốt hầm ngầm, công sự trận địa được xây dựng bằng bê tông cốt thép.

Mặc dù thời gian chuẩn bị cho trận đánh chỉ có hai ngày, lại đúng vào dịp tết Nguyên Đán nên khó khăn càng nhiều nhưng Sư đoàn 320 đã kiên quyết chấp hành chỉ lệnh của Bộ tư lệnh Mặt trận là "phải nổ súng đúng thời gian quy định".

Với bề dày kinh nghiệm đánh công kiên từ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nên tiểu đoàn 1 Trung đoàn 48 được giao thực hiện nhiệm vụ đúng thời gian và ý định tác chiến.

Sau khi khẩn trương hoàn thành công tác nắm địch, hiệp đồng với các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương, đưa bộ đội vào chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công một cách bí mật an toàn, 1 giờ sáng ngày 2 tháng 2 năm 1968, tiểu đoàn 1 đã nổ súng tiến công vào căn cứ chi khu quân sự Cam Lộ.

Bị đánh bất ngờ và mãnh liệt bọn địch không kịp trở tay đối phó. Một số lượng quan trọng quân địch đã bị loại khỏi chiến đấu, bọn sống sót phải chui xuống hầm ngầm công sự lẩn tránh. Riêng ở phía nam chi khu, một đơn vị lực lượng vũ trang huyện Cam Lộ đã đột nhập diệt gọn trung đội dân vệ ác ôn, giải phóng 6.000 dân bị địch giam giữ trong trại tập trung.

Hơn 1 giờ sau đó, tình thế chiến đấu bắt đầu diễn ra bất lợi cho ta. Bọn địch bên dưới các hầm ngầm đã dần dần ổn định tinh thần, dùng máy thông tin gọi pháo bắn trực tiếp vào các mục tiêu trong cứ điểm nơi có quân ta đang tiến công. Tiểu đoàn trưởng Bùi Dung hy sinh, chính trị viên Ngọc Giao bị thương nặng. Cán bộ cấp đại đội và trung đội cùng một lực lượng quan trọng chiến sĩ trên các mũi tiến công bị thương và hy sinh, sức chiến đấu của ta giảm hẳn.

Trong khi đó, càng lúc địch càng tăng cường thêm pháo, máy bay ném bom quyết ngăn chặn cho được lực lượng tiến công của ta. Trước tình huống khó khăn phức tạp, biết có cố tập trung diệt cho được những lực lượng địch còn đang trốn dưới hầm ngầm cũng khó thành công mà nhất định số thương vong sẽ tăng thêm, sư đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 1 Trung đoàn 48 lui quân.

Trong khi đó, tại thị xã Quảng Trị, mặc dù địch bố trí lực lượng phòng thủ khá dày đặc, nhưng đêm ngày 31 rạng ngày 1 (ngày 1 Tết) lực lượng đặc công biệt động của Mặt trận và Bộ đánh mạnh vào phía đông nam thị xã tiêu diệt và làm thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn quân ngụy. Cùng đêm, 2 phân đội đặc công bí mật vượt sông Thạch Hãn đột nhập vào bên trong đánh chiếm ty cảnh sát, dinh tỉnh trưởng, nhà máy đèn. Sau hai giờ chiến đấu, mặc dù đã diệt hàng chục tên, phá hủy được một số mục tiêu, nhưng sau đó bị địch chặn đánh quyết liệt, ta không tiếp tục phát triển được. Trong khi đó, các mũi của bộ đội địa phương và dân quân du kích đánh vào La Vang Thượng, Cầu Lớn cũng không dứt điểm. Vì thế đêm ngày 1 tháng 2, toàn bộ lực lượng phải rúi ra bên ngoài thị xã.

Sau khi tiêu diệt các căn cứ Hướng Hóa, Huội San, đánh thiệt hại nặng lực lượng địch trên đường 9 và chi khu Cam Lộ, Bộ Tổng Tham mưu đã gửi công điện khẩn cho Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị "Phải diệt căn cứ Làng Vây trong ngày 6 tháng 2 để phối hợp tác chiến chung với toàn Miền”.

Cứ điểm Làng Vây được địch xây dựng gấp rút vào cuối 1967 (cách căn cứ Làng Vây cũ khoảng 2 km đã bị ta tiêu diệt cùng với 1 tiểu đoàn biệt kích ngụy vào ngày 1 tháng 5 năm 1967), trên hai điểm cao 320, 230 có 6 lớp rào kẽm gai kiên cố bảo vệ xung quanh. Với lực lượng chiếm đóng cỡ tiểu đoàn biệt kích thám báo ngụy do cố vấn Mỹ chỉ huy và bộ phận tàn quân từ căn cứ Tà Mây chạy về tổng cộng khoảng 1.000 quân, chia thành 2 cụm phòng ngự có hệ thống lô cốt, hầm ngầm, công sự vững chắc, được trang bị cả súng chống tăng và thường xuyến được không quân chiến lược B52 liên tục đánh phá để chặn lực lượng ta tiến công... quân địch tin chắc sẽ khống chế, bảo vệ được đường 9 và cụm cứ điểm Tà Cơn.

Để đánh chắc thắng Làng Vây, Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương dùng một lực lượng mạnh áp đảo quân địch gồm Trung đoàn 24 Sư đoàn bộ binh 304, tiểu đoàn 3 Sư đoàn bộ binh 325, tiểu đoàn pháo 122 nòng dài Trung đoàn 45, Trung đoàn công binh 7 (thiếu), 2 đại đội xe tăng số 3 và số 9, 2 đại đội đặc công 4 và 10.

Tiếp tục phát huy yếu tố bất ngờ của lực lượng tăng - thiết giáp, cán bộ chỉ huy các đơn vị này đã nhiều lần đi nghiên cứu thực tế địa hình Làng Vây để tìm ra hướng tiến công lợi hại nhất. Do vậy, ngoài hướng phía tây đường 9, ta đã tìm ra một hướng rất hiểm yếu nữa là lợi dụng sông Sê Pôn đưa xe bí mật vào ém sẵn ở phía nam căn cứ. Đây là cả một sự quyết tâm rất cao của tất cả cán bộ, chiến sĩ tham gia trận đánh Làng Vây mà trực tiếp nhất là cán bộ, chiến sĩ công binh và xe tăng.

Trong lúc xe tăng và pháo binh đang gấp rút triển khai công tác chuẩn bị thì các đơn vị bộ binh đã nhanh chóng cơ động áp sát, hình thành thế bao vây căn cứ Làng Vây.

Cũng trong khoảng thời gian này, pháo binh địch từ các căn cứ Làng Vây và Tà Cơn kết hợp với không quân tập trung bắn phá dữ dội vào đội hình tiến công của ta.

Đúng 23 giờ 15 phút, pháo binh của ta tập kích hỏa lực đợt 2. Lợi dụng thời cơ này, phân đội mở cửa hướng chủ yếu (phía nam) do tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 trực tiếp chỉ huy đã cơ động lên đặt bộc phá mở cửa. Được pháo trên xe tăng yểm trợ trực tiếp nên chỉ 10 phút sau cửa vào căn cứ đã được mở thông. Đại đội 9 được 2 xe tăng dẫn đầu tiến vào đánh chiếm đầu cầu nhưng bị địch tập trung các loại hỏa lực đánh chặn quyết liệt, 2 xe tăng đều bị trúng đạn, một số chiến sĩ trong kíp lái bị thương, bộ binh đi cùng cũng bị thương vong một số, đội hình tiến công bị chậm lại.

Trước tình huống này, đại đội trưởng xe tăng Ngô Xuân Nghiên đã lệnh cho toàn đội hình xung phong nhanh chóng yểm trợ cho tiểu đoàn 3, lực lượng đặc công tíến sâu vào tung thâm căn cứ địch. Tiếng nổ dữ dội của đạn pháo, bộc phá, lựu đạn và tiếng gầm rú của động cơ và xích xe tăng đã làm cho cả vùng rừng núi phía tây nam thung lũng Khe Sanh rung chuyển, quân địch hoang mang, dao động, chống cự một cách yếu ớt rồi chui xuống hầm ngầm cố thủ. Tiểu đoàn 3 lần lượt đánh chiếm mục tiêu theo kế hoạch phân công.

Trên hướng Tây, tiểu đoàn 5 dùng 2 tiểu đội đặc công thực hành mở cửa lần 1 không thành công phải chuyển sang vị trí khác nên mãi tới 23 giờ 50 phút mới mở thông được đường vào căn cứ địch. Được đại đội 3 xe tăng tiến quân đi đầu đội hình, tiểu đoàn 5 đã dàn đội hình đánh chiếm các mục tiêu trên các điểm cao 230, 320, diệt gọn các đại đội 102, 103 biệt kích ngụy, sau đó phát triển tiến công cùng đánh vào sở chỉ huy tung thâm căn cứ Làng Vây với tiểu đoàn 3.

Riêng trên hướng đông bắc của tiểu đoàn 4 tình hình rất khó khăn. Vị trí mở cửa được chọn ở sườn đồi dốc giữa hai lô cốt địch, do vậy nhiều cán bộ, chiến sĩ xung phong lên đặt bộc phá mở cửa đã bị thương vong. Khi mở được hai lớp rào thì bộc phá hết mà hỏa lực địch từ hai sườn cửa mở vẫn bắn quét xối xả. Trung liên của ta tập trung đánh trả mãnh liệt nhưng không mang lại kết quả, còn B40, B41 chưa tìm ra được giải pháp ngắm bắn thích hợp vì sườn đồi dốc, vì vậy chỉ còn một cách là phải đứng bắn. Lợi dụng thời khắc khi địch thay băng đạn, các xạ thủ B40 và B41 của tiểu đoàn 4 mới diệt được các lô cốt của địch. Tiếp đó, theo lệnh của Trung đoàn trưởng Trung đoàn 24, các phân đội mở cửa đã nhanh chóng cơ động lên cắt rào và chống rào lên cho bộ đội xung phong vào đánh chiếm các mục tiêu trong căn cứ.

Đến 3 giờ 30 phút ngày 7 tháng 2, cả ba hướng đã cơ bản hoàn thành việc đánh chiếm được các mục tiêu theo phân công.

Phát huy thắng lợi của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương Nam Hướng Hóa dưới sự chỉ huy của 2 đồng chí Hồ Văn Lôi và Hồ Văn Long đã tiến đánh bọn bảo an, dân vệ ở “ấp chiến lược" Làng Vây, diệt 17, bắt 8 tên, thu 17 súng các loại, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy phá vỡ "ấp chiến lược" của địch.

Đến 10 giờ trưa ngày 7 tháng 2, trận đánh Làng Vây kết thúc thắng lợi. Ta đã diệt gọn một cứ điểm quan trọng án ngữ trên đường 9 của địch. Như vậy, cùng với thắng lợi ở Động trị, Huội San, Hướng Hóa, Cam Lộ... chiến thắng Làng Vây đã đẩy cụm cứ điểm Tà Cơn của địch vào thế bị cô lập hoàn toàn giữa lòng chảo thung lũng Khe Sanh; nhưng mục đích đặt ra là buộc địch phải tăng thêm quân nữa ra Khe Sanh là chưa thực hiện được. Mặt khác, do yếu tố bí mật, Bộ tư lệnh chiến dịch không được biết ngày "N” của cấp chiến lược, do vậy kế hoạch tác chiến chỉ nêu chung chung là phải ra sức đẩy mạnh các hoạt động phối hợp với các chiến trường trong toàn Miền nên chưa thực hiện được đầy đủ việc đánh mạnh, đánh dồn dập trước ngày "N” để thu hút địch.

Đặc biệt, đêm ngày 31 tháng 1 năm 1968, đêm giao thừa tết Mậu Thân, ta đồng loạt tiến công mạnh ở các thành phố, thị xã toàn miền Nam. Ở Thừa Thiên ta chiếm được thành phố Huế, nên lực lượng địch phải dồn vào ứng cứu, giải tỏa các đô thị, khả năng địch tăng viện ra Khe Sanh là rất ít xảy ra. Do vậy, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9- Bắc Quảng Trị chủ trương vây hãm Tà Cơn quyết "ép" địch phải đưa quân ra giải tỏa để thực hiện bằng được yêu cầu nhiệm vụ của chiến lược đặt ra.

Căn cứ phòng ngự Tà Cơn của địch có chiều dài 2.200m, rộng 1.260m, phía bắc và tây có các điểm cao khống chế, phía đông có sông Rào Quán nước sâu, bờ dốc đứng bao bọc, phía nam địa hình thấp thoải dần ra tận đường 9.

Với lực lượng 3 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 26, 1 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 9 Mỹ, 1 tiểu đoàn pháo 155 ly, đại đội xe tăng, tiểu đoàn 37 biệt động quân ngụy, 1 đội thám báo 300 tên (mang tên Lôi Hổ), địch bố trí như sau: 4 điểm cao 845, 852, 550, Động Trị ở phía Bắc do 1 tiểu đoàn Mỹ chiếm đóng; cổng phía Nam Tà Cơn do đại đội 37 biệt động quân ngụy bảo vệ. Ở khu vực sở chỉ huy và khu vực hướng Bắc bố trí 2 tiểu đoàn Mỹ cơ động sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết. Riêng đại đội thám báo Lôi Hổ cơ động thường xuyên xung quanh căn cứ, phát hiện từ xa mọi hành động xâm nhập vào căn cứ, đồng thời còn nắm và chỉ huy lực lượng dân vệ trong các "ấp chiến lược": Châu Lang Chánh, A Sơn, Tà Cơn, Làng Chàm để phát hiện cơ sở và các hoạt động của ta. Về hỏa lực pháo binh được bố trí 2 trận địa ở phía tây và đông bắc, 3 trận địa dự bị ở tây bắc, tây nam, đông nam cứ điểm.

Được xác định là trung tâm phòng ngự của tập đoàn cứ điểm Khe Sanh nên hệ thống công sự, trận địa, thiết bị chiến trường ở Tà Cơn được ưu tiên xây dựng rất kiên cố, vững chắc. Ngoài hệ thống hàng rào dây thép gai 5, 7 lớp đủ kiểu bùng nhùng, cũi lợn, mái nhà, các bãi mìn sát thương, cây nhiệt đới phát hiện, ngăn chặn mọi hành động xâm nhập cứ điểm, Mỹ- ngụy còn xây dựng hệ thống công sự trận địa liên hoàn, kiên cố, nối các ụ bắn lô cốt với nhau từ các điểm tới trung tâm chỉ huy căn cứ. Bên cạnh đó, mỗi khu vực của căn cứ (căn cứ được phân ra 5 khu vực nhỏ) còn có các hầm ngầm bê tông, một số nhà tôn hay nhà xây nửa nổi nửa chìm. Đặc biệt, ở giữa căn cứ còn có một sân bay với các thiết bị rất hiện đại bảo đảm cho tất cả các loại máy bay có thể lên xuống bất kỳ ngày hay đêm.

Tuy vậy, để bảo vệ Tà Cơn, ngoài lực lượng hỏa lực bố trí trong căn cứ, địch còn dùng pháo binh hỗn hợp (4 khẩu 155 ly và 10 khẩu 175 ly) ở căn cứ Ca-rôn trên điểm cao 241 cùng máy bay các loại kể cả B52 chi viện tối đa (có ngày pháo binh bắn tới 15.000 quả, máy bay chiến thuật oanh tạc tới 300 lần xung quanh căn cứ).

Với cụm căn cứ được đầu tư xây dựng hoàn chỉnh, lại có lực lượng khá lớn lính thủy đánh bộ trực tiếp bảo vệ, Oet-mo-len và Bộ chỉ huy quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam tin tưởng bảo vệ vững chắc được Khe Sanh, tạo điều kiện cho viện binh tăng cường tới giải tỏa, đẩy các lực lượng chủ lực ta ra khỏi địa bàn.

Nhưng, đến thời điểm này cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta đang diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp, Mỹ - ngụy buộc phải đưa lực lượng cơ động về ứng cứu cho các trọng điểm (chủ yếu là các thành phố, thị xã... nhất là Huế), tuy một bộ phận lực lượng quân Mỹ vẫn bị bao vây tiến công cầm giữ ở Khe Sanh. Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định đẩy mạnh vây lấn Tà Cơn (chuyển từ vây hãm sang vây lấn), tích cực tiêu hao, tiêu diệt địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, cắt tiếp tế đường bộ, đưa chúng vào tình thế khốn quẫn hơn nữa, buộc chúng phải đưa quân ra ứng cứu, giải tỏa càng sớm càng tốt.

Để tạo điều kiện cho quân dân hướng tây vây lấn Tà Cơn đạt hiệu quả cao, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 -Khe Sanh đã chỉ thị cho quân dân hướng đông tăng cường hoạt động quân sự đánh cắt giao thông đường thủy và đường bộ nhằm hạn chế chi viện hàng hóa chiến tranh cho quân địch ở Khe Sanh.

Ngày 6 tháng 2 năm 1968, trong lúc tiếng súng tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân Trị - Thiên đang dồn dập vang động khắp nơi thì cán bộ chiến sỹ Đoàn đặc công Hải quân 126 cùng nhân dân các xã Do Hà, Do Quang, Cam Giang dưới sự chỉ đạo của Mặt trận và phân khu đội Quảng Trị đã chất hàng trăm cây dương liễu đường kính từ 10 đến 15 cm, cao 6 mét, hàng nghìn cọc tre tươi dài 6 mét vạt nhọn hai đầu, hàng trăm bó chông chà và hàng trăm cuộn dây thép gai các loại, đồng thời lựa chọn 80 du kích làm nghề sông biển, có hiểu biết về việc cắm cọc căng dây, cùng với bộ đội thiết lập "Bạch Đằng Giang" trên sông Hiếu quyết cắt đứt tuyến đường giao thông vận chnyển tới 80% tổng số hàng hóa vật dụng chiến tranh sử dụng trên chiến trường này của địch.

21 giờ 30 phút ngày 7 tháng 2 năm 1968, khi con nước thủy triều vừa xuống đến mốc chỉ định, từng đoàn thuyền chở người và vật liệu từ bến Thanh Xuân ra các khu vực lựa chọn, nhanh chóng rải quân, hạ cọc căng dây liêu kết các bó chông chà. Hơn ba giờ lao động cực nhọc căng thẳng, ba bãi cọc rộng hàng nghìn mét vuông nằm so le trên đoạn sông dài hơn 1 km được xây dựng xong. Gần sáng nước thủy triều lên lấp dần toàn bộ khí cụ chiến địa. Các đồng chí Mai Năng, Phạm Trung Toan (chỉ huy đặc công Hải quân), Trần Ba, Phạm Toàn (cán bộ liêu huyện) cùng các phái viên Bộ tư lệnh Mặt trận, từ trận địa phục kích ngắm nhìn dòng sông lòng đầy cảm kích trước trận địa "Bạch Đằng Giang", trận địa lòng dân đã được thiết lập và thầm hứa quyết tâm chỉ huy chiến đấu thật tốt để khỏi phụ lòng đồng bào, đồng chí.

9 giờ sáng ngày 8 tháng 2, sau khi dùng cối và đại liên bắn dọn đương, sáu tàu LCU chất đầy hàng hóa từ cảng Cửa Việt bắt đầu ngược nước.

Chiếc tàu thứ nhất, thứ hai vượt qua Xuân Khánh, chạm làng Bạch Câu. Các trận địa hồi hộp chờ lệnh. Khi chiếc thứ tư vừa hiện ra trong kính ngắm các khẩu pháo, đại đội trưởng Vũ Sơn chỉ huy trận địa hỏa lực hạ lệnh nổ súng. Cùng một lúc 4 khẩu ĐKZ 75, B41 gầm lên dữ dội. Chiếc thứ nhất và chiếc thứ tư trúng đạn nổ tung rồi chìm dần, hai chiếc tầu đi giữa vội vã quay đầu nhưng khi tháo chạy lần lượt sa vào bãi chướng ngại có gắn thủy lôi nhấn chìm...

Mô tả chiến công của ta và sự khốn cùng của địch trên tuyến đường thủy sông Hiếu trong những ngày đầu tháng 2 năm 1968, phóng viên Mỹ UPI viết: "Chỉ riêng khúc sông từ Cửa Việt đến Đông Hà dài 13 km cũng đủ khủng khiếp cho tàu và xuồng chiến đấu Mỹ. Các tàu của hải quân Mỹ buộc phải chạy thành đoàn với tốc độ 1 dặm một giờ". Và "ở đoạn sông này, mìn trôi trên sông, những hàng rào ngăn sông bằng tre, gỗ cài nhiều mìn và hai bên bờ sông ngày ngày đạn đại bác, rốc – két, súng cối bắn liên tiếp vào các đoàn tàu. Một tàu tuần tiễu bị đánh chìm, 8 tàu vạn năng bị đánh hỏng... Chẳng còn biết xoay sở thế nào vì máy bay, đại bác đã ném bom bắn phá nhưng quân cộng sản vẫn ở đây, lực lượng ngày càng tăng và cuộc tiến công của họ ngày càng táo bạo".

Ngày 8 tháng 2, để đảng bảo cho việc phục vụ vây lấn ở hướng tây chắc chắn thắng lợi, Bộ chỉ huy Mặt trận đã điện cho Sư đoàn 304, Sư đoàn 325 phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:

- Nhanh chóng chuẩn bị chu đáo mọi yếu tố cần thiết để đưa lực lượng vào thực hành vây lấn ngay.

- Trên cơ sở trận địa ban đầu, tổ chức đào giũi xuyên qua các lớp rào của địch, tổ chức đánh phá các lô cốt tiền duyên, dùng súng bắn tỉa sát thương tiêu hao sinh lực, làm cho địch luôn ở trong trạng thái căng thẳng, hoang mang, dao động.

- Dùng các loại hỏa lực, kết hợp với đặc công khống chế phá hoại sân bay, triệt đường tiếp tế của địch. Tìm mọi cách cơ động súng máy 12.7 ly vào trong trận địa vây lấn để vừa đánh máy bay vừa trực tiếp đánh phá các trậu địa, hỏa điểm của địch.

Thực hiện chỉ thị của Bộ tư lệnh Mặt trận, bằng sự nỗ lực rất cao của mỗi cán bộ, chiến sĩ, đến ngày 10 tháng 2 năm 1968, hai Trung đoàn 9, 66 Sư đoàn 304, các trung đoàn 95c và 101D thuộc Sư đoàn 325C cùng bộ đội địa phương Hướng Hóa đã xây dựng được 13 trận địa vây lấn bao quanh căn cứ Tà Cơn.

Ngay trong đêm ngày 10 tháng 2, các trận địa vây lấn của ta đã thực hiện các trận chiến đấu đầu tiên đạt kết quả tốt: Sau khi lấn giũi mở toang một số đoạn rào, bộ đội ta dùng bộc phá, lựu đạn, bất ngờ tập kích tiêu diệt các lô cốt, hỏa điểm bảo vệ vòng ngoài gây thiệt hại khá lớn cho địch. Cũng tại đây, ta liên tục bắn pháo cối kết hợp với hỏa lực bộ binh đẩy lùi các đợt phản kích thăm dò của địch. Pháo binh ta tập kích dữ dội sân bay và các mục tiêu trọng yếu, gây cho chúng mất thế ổn định, ăn ngủ không yên, suốt ngày đêm chui rúc dưới hầm ngầm.

Trung bình mỗi ngày không quân Mỹ phải thực hiện 140 lần chiếc máy bay cho nhiệm vụ tiếp tế và tải thương, nhưng chỉ 40 lần được an toàn. Nhiều chiếc thoát được lưới lửa phòng không nhưng khi xuống đường băng lại trúng đạn pháo cối của ta.

Mô tả sân bay Tà Cơn, phóng viên hãng tin Roi-tơ của Anh ngày 18 tháng 3 năm 1968 viết: "Một sân bãi gồm máy bay lên thẳng và máy bay vận tải bị đốt cháy nằm dọc đường băng của Khe Sanh đã chứng minh cho các khó khăn hạ cánh và cất cánh của máy bay ở đó. Cộng sản đã khóa chặt căn cứ không quân này. Suốt ngày cộng sản đã nã súng cối và đạn pháo vào đường băng, không chiếc máy bay nào hạ cánh được”. Do vậy, tình trạng thiếu lương thực, thuốc chữa bệnh, vũ khí kỹ thuật và sự tồn đọng ngày một nhiều số binh lính thương vong trong căn cứ đã làm cho tinh thần quân địch mất ổn định.

Để đẩy lùi lực lượng ta ra khỏi Khe Sanh, Mỹ đã sử dụng hỏa lực pháo binh và không quân không hạn chế. Tính từ ngày 21 tháng 1 đến ngày 3 tháng 3 năm 1968, không quân Mỹ đã xuất kích 24.000 lần chiếc kể cả máy bay chiến lược B52, trút hơn 10.000 tấn bom các loại, đồng thời pháo binh từ Khe Sanh, trại Car ron và Rockpile bắn 150.000 quả đạn tạo nên những trận bão lửa dữ dội chưa từng thấy trên khắp khu vực Khe Sanh.

Điều đặc biệt là "trong cuộc oanh tạc này mỗi vị trí nghi là có quân Bắc Việt Nam được khoanh thành lô 500 x 1.000 mét, sau đó 2 chiếc A6, mỗi chiếc mang 28 quả bom loại 500 bảng Anh (225 kg) được gọi đến, 30 giây trước khi 2 máy bay này đến khu vực mục tiêu, pháo 175 ly từ căn cứ Car ron hay Rockpile bắn khoảng 60 quả đạn vào giữa ô, đồng thời pháo 155 ly và 105 ly cùng súng cối 106.7 ly nã đạn vào nửa ô còn lại. Thời gian được tính toán để toàn bộ bom đạn đồng thời rơi xuống khu vực đã định" (Chú thích: Pim Lott. Việt Nam Nhữilg trận đán'h quyết định. Trung tâm thông tin Khoa học-Công nghệ và Môi trường. Bộ Quốc phòng dịch và ấn hành năm 1997, tr. 115.).

Với sức đánh phá như vậy, mỗi ngày ta phải sửa, đào mới 40-50%, ngày cao điểm đánh phá có hướng, mũi phải sửa chữa đến 70% công sự trận địa. Cùng với thiệt hại về công sự, vật chất kỹ thuật, số lượng cán bộ, chiến sĩ ta bị thương và hy sinh lên tới gầu 200 người. Mặc dù vậy, cán bộ, chiến sĩ trên các mũi vây hãm địch của các Sư đoàn 304 và 325 vẫn kiên cường bám trụ vững và hoạt động đạt kết quả. Người trước ngã, người sau lên thay, phân đội này sức chiến đấu giảm, phân đội khác lên thay thế, cả sư đoàn, cả mặt trận đều dành mọi sự ưu tiên cao nhất cho các hướng, mũi vây hãm địch ở Tà Cơn.

Trước tình thế bị vây hãm ngày càng chặt, các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ cũng liên tục tổ chức các đợt phản kích cố đẩy lực lượng ta ra xa. Các trận giao chiến giữa các mũi vây hãm của ta và các mũi phản kích của quân Mỹ diễn ra đặc biệt ác liệt vào cuối tháng 2 năm 1968. Tiêu biểu nhất là ở chốt số 3. Đây là trận địa chốt của đại đội 8 tiểu đoàn 2 Trung đoàn 9 đảm trách, gồm 3 khu vực; ở phía tây nam cách hàng rào Tà Cơn 600m, chốt chính được xây dựng trên một khu đồi không tên, từ đây có thể quan sát rõ toàn bộ cứ điểm Tà Cơn, phía tây nam chốt chính 300m là chốt phụ thứ hai. Chốt thứ ba nằm cách chốt thứ hai về phía nam 500m. Ba chốt như những chân kiềng hình thành thế vây hãm lợi hại nhất đối với Tà Cơn.

Từ các chốt, này bộ đội ta xuyên qua hàng rào bảo vệ vòng ngoài của căn cứ, bằng các loại hỏa lực cối 82 ly, B40, B41, ĐKZ và súng máy 12,7 ly bộ đội ta luôn gây nhiều thương vong và hoảng loạn cho địch. Và cũng do vậy nên máy bay địch đã không tiếc bom đạn ngày đêm oanh tạc dữ dội vào các chốt vây hãm của đại đội 8.

Với 32 tay súng, sau 10 ngày chiến đấu (từ 15-2 đến 24/2) đại đội 8 có các đơn vị pháo ĐKB, Đ74 yểm trợ, phối hợp đã tiêu hao được một bộ phận sinh lực địch, khống chế được sân bay, triệt đường tiếp tế của địch. Trận địa chốt vây lấn của đại đội 8 thực sự như một mũi tên đâm vào “yết hầu” quân địch ở Tà Cơn.

Để khắc phục tình trạng bất lợi trên, sáng sớm ngày 25 tháng 2, địch sử dụng 2 đại đội Mỹ, 1 đại đội ngụy chia thành 2 cánh tiến vào khu vực trận địa đại đội 8. Mặc du phát hiện địch chậm, song các chiến sĩ đại đội 8 đã nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu. Chờ cho địch vào đúng tầm, với hỏa lực mạnh, tập trung và kinh nghiệm bắn gần, ngay loạt đạn đầu tiên nhiều tên địch đi đầu đã bị tiêu diệt. Tuy vậy, quân địch vẫn đốc thúc nhau cố tràn vào trận địa ta. Hỏa lực cối của ta được lệnh bắn tràn lên đội hình xung phong của địch, gây thêm cho chúng nhiều thương vong.

Lợi dụng lúc đại đội 8 đang tập trung đối phó với cánh phản kích bên trái, cánh quân bên phải của địch lặng lẽ; mò mẫm tiến vào trận địa ta, nhưng mọi hành động của chúng đã bị phát hiện kịp thời. Khi đội hình 1 đại đội quân Mỹ vào cách chiến hào một của ta khoảng 20m, hỏa lực các loại của đại đội 8 đã tập trung bắn mãnh liệt, một bộ phận quân địch đã bị tiêu diệt. Bị đánh bất ngờ, quân địch rối loạn, nhiều tên bị tiêu diệt ngay dưới chiến hào của ta. Thấy tình thế của quân phản kích quá khó khăn, pháo binh địch từ căn cứ Tà Cơn được lệnh bắn yểm trợ. Lúc này ta và địch ở sát nách nhau nên pháo địch đã bắn cả vào đội hình quân phản kích của chúng gây thêm một số thương vong nữa.

Sau hơn một giờ tiến công vào chốt vây hãm của đại đội 8 không thành công, đến 10 giờ 15 phút sáng ngày 25 tháng 2 địch đã rút quân, chấm dứt trận phản kích, bỏ lại gần 100 xác chết trên trận địa. Để giải quyết hậu qua này, 12 giờ trưa cùng ngày, không quân Mỹ một mặt oanh kích dữ dội vào những khu vực nghi là có lực lượng lấn giũi của ta ém quân, mặt khác chúng thả bom xăng, bom na-pan xuống khu vực có quân Mỹ bị thương vong trong trận phản kích buổi sáng để thủ tiêu xác đồng bọn.

Trong trận đánh trả lực lượng oanh kích của không quân Mỹ, các đơn vị cao xạ và bộ binh tham gia chốt vây lấn ở Tà Cơn đã bắn rơi 4 máy bay Mỹ. Đây là trận đánh quân Mỹ phản kích thắng lợi đầu tiên của các phân đội tham gia vây hãm căn cứ Tà Cơn. Kinh nghiệm thực tiễn của trận đánh phản kích ở chốt 4 của Trung đoàn 66 đã nhanh chóng được phổ biến cho các đơn vị tham gia vây hãm học tập, vận dụng.

Ngày 8 tháng 3, địch dùng không quân và pháo binh đánh liên tục và dữ dội vào khu vực chốt vây hãm của đại đội 3 tiểu đoàn 1 Trung đoàn 9, làm cho 70% công sự, giao thông hào bị hư hỏng nặng, phần lớn chiến sĩ ta bị sức ép, một số bị thương vong, vũ khí và phương tiện chiến đấu bị hỏng hóc nhiều. Ngay sau đó chúng dùng đại đội biệt kích "Lôi Hổ" của ngụy cơ động vào phản kích. Do chốt vây hãm của đại đội 3 có ưu thế nằm trên khu vực địa hình cao, công sự vây hãm được đào xuyên vào trong lòng căn cứ địch nên việc quan sát phát hiện địch được khá sớm và đầy đủ, nên đã tạo được sự chủ động cho đại đội 3 nổ súng đánh địch. Chính vì vậy, sau 4 giờ nổ súng chiến đấu giằng co quyết liệt, đại đội 3 đã tiêu diệt gọn đợt phản kích của quân biệt kích ngụy, giữ vững trận địa.

Trong lúc mặt trận vây hãm Tà Cơn đang diễn ra ác liệt thì lực lượng chiến đấu của ta có sự thay đổi. Ngày 15 tháng 3, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã quyết. định điều động Sư đoàn 325 vào chiến trường Tây Nguyên chuẩn bị mở đợt tiến công, nổi dậy mới, chỉ để lại Tiểu đoàn 8 chốt giữ trên các điểm cao 845 và 832, chuyển sang biên chế cho Trung đoàn 24 Sư đoàn 304.

Ngày 30 tháng 3, với quyết tâm xóa bằng được chốt vây lấn của ta, địch tập trung pháo 105 ly và không quân oanh kích dữ dội khu vực trận địa ta từ chiều ngày 29 tháng 3 đến tận 4 giờ sáng ngày 30 tháng 3, sau đó dùng bộ binh và xe tăng thực hành xung phong. Trận chiến đấu không cân sức giữa địch và ta đã diễn ra vô cùng ác liệt từ 7 giờ đến 12 giờ 4 phút. Chỉ huy trận đánh của đại đội 6 tiểu đoàn 2 trên chốt đã hy sinh ngay khi trận đánh bắt đầu. Các chiến sĩ ta đã phối hợp đánh trả địch rất kiên quyết, nhưng do quân địch quá đông nên sau gần 2 giờ tác chiến, chúng đã tràn vào một phần của trận địa. Mặc dù chỉ còn rất ít các tay súng chiến đấu, nhưng ta vẫn tiếp tục đánh trả địch. Đến quá trưa, thấy quân lính quá mỏi mệt và số thương vong đã trên 100 tên, chỉ huy hành quân của địch ra lệnh thu quân rút vào căn cứ Tà Cơn. Trận đánh kết thúc, tiểu đoàn 2 nhanh chóng đưa lực lượng lên củng cố lại công sự, hầm hào, chuẩn bị cho trận đánh mới.

Qua bốn lần dùng lực lượng trong căn cứ Tà Cơn với quy mô đại đội, tiểu đoàn ra phản kích nhằm đẩy lực lượng vây lấn của ta ra xa không thành công, không quân Mỹ đã tập trung máy bay chiến lược B52 ném bom huỷ diệt hầu hết vành đai phòng ngự xung quanh căn cứ của chúng. Trung bình mỗi ngày Mỹ dùng từ 15 đến 18 lần chiếc B52, giội khoảng 3.300 tấn bom các loại xuống khu vực trận địa vây lấn của ta. Để tiêu diệt cơ quan lãnh đạo, chỉ huy mặt trận, Mỹ đã sử dụng một bộ phận quân thám báo trinh sát mang mặc những bộ đồ hoá trang như hổ, báo lén lút trong rừng dò tìm và chỉ điểm cho máy bay đến đánh phá.

Đồng chí Lê Quang Đạo kể lại: "Chúng tôi tới Sở chỉ huy Mặt trận vừa được vài ba ngày thì máy bay trinh sát của địch ngày đêm quần đảo trên bầu trời. Một tốp trực thăng địch đổ quân biệt kích lên đỉnh một núi đá gần khu vực sở chỉ huy. Đây là vùng dân cư thưa thớt, rừng rậm mênh mông. Hậu cần chiến dịch đã chuẩn bị đủ lương thực, thực phẩm có cả bánh chưng cho các đơn vị ăn Tết. Một ngày sau khi vào, chúng tôi đã mở được hội nghị đại diện các đơn vị, binh chủng tham gia chiến dịch để bàn kế hoạch tác chiến và giao nhiệm vụ chiến đấu cho tùng đơn vị. Các đại biểu ra về khẩn trương triển khai thực hiện kế hoạch. và quyết tâm rất cao. Mấy ngày sau, máy bay địch đến ném bom bắn phá dữ dội khu vực sở chỉ huy suốt ngày đêm, làm đứt hết đường dây thông tin liên lạc. Chúng tôi vô cùng sốt ruột vì không nắm được tình hình bộ đội. Anh Trần Quý Hai và tôi bàn nhau quyết định di chuyển đến sở chỉ huy dự bị. Vào khoảng 2 giờ sáng hôm ấy, lúc ngớt bom, chúng tôi và anh em bắt đầu ra khỏi hang đá, đi thành hai tốp. Vừa ra khỏi hang, B52 lại ném bom rải thảm toàn bộ khu vực. Cây cối đổ rạp, đất đá hai bên sườn núi sạt lở chặn lấp cả lối đi. Do vậy các đồng chí giao liên cũng không xác định được đúng đường đi nữa, cứ dẫn đi loanh quanh trong khe núi, dưới pháo sáng và bom đạn của địch. Có một số đồng chí bị tử vong do đá văng. Bác sĩ Trung đi cùng bị tụt chân xuống một khe sâu, may mà có chiếc ba lô con cóc to đeo đằng sau đỡ lại, nếu không đã nguy hiểm đến tính mạng. Chợt thấy tiếng bom nổ rất to ngay bên cạnh, lập tức chúng tôi nằm sấp xuống khe đá tại chỗ. Đồng chí Hoá và đồng chí Oanh, cán bộ, chiến sĩ bảo vệ đã nằm đè lên che chở cho tôi. Nhờ đó tôi được an toàn. Nhưng hai đồng chí bị thương do đá văng vào. Lúc ấy tôi không kìm được sự xúc động trước tấm lòng và tinh thần dũng cảm của anh em, đồng chí. Đồng chí Trần Quý Hai hội ý tìm chỗ tạm ẩn, đợi trời sáng, xác định đúng hướng hãy đi. Ở sườn núi gần đó có cái vòm đá kiểu hàm ếch. Mấy anh em lợi dụng luôn để tạm trú, tranh thủ bóc bánh chưng ăn. Đang ăn thì đồng chí Cao Văn Khánh, Phó tư lệnh Mặt trận từ chỗ tạm dừng quay lại tìm chúng tôi. Tất cả cùng đi đến sở chỉ huy mới. Máy bay B52 lại tiếp tục dội bom khu vực sở chỉ huy cũ suốt cả tuần, hôm sau nữa chúng tôi mới bắt liên lạc được với các đơn vị. Do vậy trong thời gian diễn biến chiến dịch, có lần sở chỉ huy chiến dịch của Mặt trận bị đánh phá thiệt hại nặng, các đồng chí lãnh đạo chiến dịch phải nhiều ngày sau mới liên lạc được với nhau. Đây thực sự là những ngày rất khó khăn gian khổ của cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh trong đợt 1 cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968" (Chú thích: Lê Quang Đạo ‘Nhớ mãi chiến dịch đường 9 - Khe Sanh” Báo Sự kiện và Nhân chứng số 1 năm 1998, tr 13.)

Như vậy, bằng những trận tiến công kiên quyết và mạnh mẽ, có sự phối hợp chiến đấu chặt chẽ giữa các đơn vị tham gia hoạt đọng trên địa bàn Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, nên trong đợt hoạt động Tết Mậu Thân năm 1968, quân và dân ta lần lượt tiêu diệt các căn cứ quân sự khá mạnh của Mỹ - ngụy ở Huội San, Làng Vây, Hướng Hóa... và tổ chức vây hãm, vây lấn Tà Cơn một cách có hiệu quả, tiêu hao, tiêu diệt được một bộ phận quan trọng lực lượng và vũ khí phương tiện chiến tranh của địch.

Riêng thời gian gần 2 tháng vây hãm và vây lấn ở Khe Sanh, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 3.086 tên địch, bắn rơi và phá hủy 279 máy bay các loại, phá sập 85 lô cốt và ụ súng, phá hủy 35 kho tàng, làm thiệt hại nặng các sở chỉ huy, trận địa hỏa lực, khu thông tin của địch. Những thắng lợi bước đầu giành được trong đợt tết đã góp phần tạo đà cho cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh tiếp tục bước vào đợt tiến công mới, quyết tâm thực hiện bằng được mục đích đặt ra từ khi mở màn chiến dịch là "thu hút và giam chân lực lượng cơ động của địch", tạo thuận lợi cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 trên toàn miền Nam giành thêm thắng lợi to lớn hơn nữa.

II. Tăng cường tiến công địch, giải phóng Khe Sanh, mở ra thế trận mới

Những thất bại liên tiếp của Mỹ - ngụy trên mặt trận Đường 9 - Khe Sanh đầu Xuân năm 1968 đã gây chấn động mạnh đối với Lầu Năm Góc. Tổng thống Giôn-xơn cùng các quan chức đứng đầu Chính phủ và quân đội Mỹ đã quan tâm đặc biệt tới Khe Sanh.

Cuối tháng 3 năm 1968, Giôn-xơn đã chỉ thị cho Tay-lo thành lập "Phòng tình hình đặc biệt" ngay tại Nhà Trắng để theo dõi, thu thập nghiên cứu, phân tích tình hình chiến sự ở Việt Nam, đặc biệt là Khe Sanh. Giôn-sơn đã cho làm mô hình căn cứ này ngay trong Nhà Trắng và ngồi nghiên cứu hàng giờ mỗi ngày, thảo luận nhiều vấn đề chi tiết với các cố vấn quân sự - những người phải cam đoan rằng căn cứ này sẽ không rơi vào tay cộng sản. Cao hơn nữa, chính tổng thống đã ra lệnh cho Uy-lơ, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân phải ký cam kết giữ cho được Khe Sanh bằng bất cứ giá nào, bởi vì "tổng thống không muốn phải chịu những hậu quả quân sự và chính trị của thất bại như người Pháp năm 1954” ở Điện Biên Phủ. (Chú thích: J.Pim Lott, Những trận đánh quyết định, Trung tâm Thông tin Khoa học - công nghệ và Môi trường Bộ Quốc phòng dịchvà ấn hành. Hà Nội, 1997, tr. 109.)

Thực hiện ý định trên, ngoài lực lượng đang tổ chức phòng ngự chốt giữ Khe Sanh, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ đã quyết định đưa sư đoàn kỵ binh không vận số 1 - lực lượng cơ động mạnh nhất, lần đầu tiên tham chiến trên chiến trường Nam Việt Nam và chiến đoàn dù 3 ngụy, liên tiếp mở các cuộc hành quân giải tỏa, nhằm đẩy lực lượng vây lấn của ta ra khỏi cứ điểm Tà Cơn, bảo đảm cho máy bay vận tải lên xuống tiếp tế hậu cần, kỹ thuật cho Khe Sanh, chuẩn bị cho việc thay quân chốt giữ Khe Sanh tiếp sau đó. Đây cũng là lầu đầu tiên trong cuộc chiến tranh Việt Nam, một lực lượng ứng chiến lớn, tình nhuệ được sử dụng vào việc hành quân giải tỏa trên một hướng phòng ngự quan trọng.

Với biên chế 15.787 người, 434 máy bay (chủ yếu là trực thăng), 1.600 xe các loại, 54 khẩu pháo 105 ly, 87 dàn rốc-két với 1.872 ống phóng cỡ 70 ly lắp đặt trên trực thăng vũ trang, sư đoàn kỵ binh 1 đã tạo cho lục quân một khả năng mà không một lục quân nào khác trên thế giới ngày nay có được.

Điểm mạnh cơ bản của sư đoàn kỵ binh không vận số 1 là tổ chức linh hoạt, sức cơ động cao, nhiều phương tiện trinh sát có thể phát hiện nhanh mục tiêu, hỏa lực mạnh cả trên không và mặt đất (đặc biệt là trên không) nên đã tạo được sức đột kích lớn trong tấn công - ưu thế về đột kích từ trên không xuống. Do vậy, khi sư đoàn này được điều động ra Khe Sanh đã gây khó khăn không nhỏ cho bộ đội ta, chính nó đã tác động ít nhiều đến tư tưởng, tinh thần cán bộ, chiến sĩ đang trực tiếp chiến đấu trên chiến trường, nhất là trong thời điểm lúc đó khả năng phòng không của ta còn hạn chế, cuộc chiến đấu đã liên tục trong thời gian khá dài.

Việc địch đổ một số lượng lớn quân vào Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã tạo thuận lợi cho đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 trên toàn miền Nam giành thêm những thắng lợi mới, đồng thời đây cũng là thắng lợi quan trọng của Mặt trận. Song, cũng chính điều này đã làm so sánh lực lượng giữa ta và địch tại đây càng chênh lệch. Về phía ta có: Sư đoàn bộ binh 304 (quân số sau hơn 2 tháng chiến đấu bị tiêu hao nhiều, tuy có bổ sung nhưng thực tế số quân tiểu đoàn chỉ đạt 200 - 300 người), Trung đoàn pháo 45, Trung đoàn cao xạ 241; 2 đại đội xe tăng, các đơn vị du kích và bộ đội địa phương hai huyện Hướng Hóa, Cam Lộ (hướng tây), Sư đoàn 320: Trung đoàn 27, Trung đoàn 270, một số đơn vị địa phương (ở hướng đông).

Để chủ động đối phó với mọi hành động của địch, Bộ tư lệnh chiến dịch đã họp xác định quyết tâm: Động viên bộ đội tận dụng mọi lực lượng hiện có, nắm chắc thời cơ địch thoát ly công sự phản kích để tiêu diệt chúng. Do vậy, thế bố trí lực lượng của ta cũng có sự điều chỉnh: một bộ phận lực lượng phải cơ động gấp ra chốt chặn dọc đường 9 nhằm tiêu hao và làm chậm bước tiến của địch. Riêng bộ phận đang thực hành vây ép, vây lấn cụm cứ điểm Tà Cơn phải tăng cường giữ vững trận địa và tìm cách lấn giũi sâu thêm vào trong lòng căn cứ địch, đồng thời tích cực đánh và đánh thắng các mũi phản kích, khống chế và giam chân địch trong căn cứ; lực lượng cơ động luôn chủ động sẵn sàng đánh quân đổ bộ đường không xuống cụm cứ điểm, triệt để cô lập cụm cứ điểm Tà Cơn.

Phương pháp tác chiến được xác định là kết hợp đánh nhỏ với đánh vừa, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng binh chủng, tiêu diệt từng toán đổ bộ đường không, đánh chặn từng mũi tiến công đường bộ, thực hành chia cắt, bao vây tiêu diệt từng bộ phận lực lượng đội hình hành quân của địch. Khi địch đổ bộ hay tạm dừng, đứng chân chưa vững thì phải vận động tập kích tiêu hao tiêu diệt chúng.

Thực hiện ý định và quyết tâm của Bộ tư lệnh chiến dịch, các đơn vị tham gia chiến dịch đã khẩn trương tiến hành mọi công tác chuẩn bị. Các phân đội vây lấn kiên trì áp sát Tà Cơn, một bộ phận dự bị chiến đấu của Mặt trận được phân công ém sẵn ở một số khu vực dự kiến địch sẽ đổ quân, điều tiểu đoàn 8 Trung đoàn 9 Sư đoàn 304 ra Làng Cát, đưa tiểu đoàn 3 Trung đoàn 24 lên Thượng Vạn, lệnh cho 2 đại đội thuộc tiểu đoàn 8 ra Xóm Bông Miệt Xá, đại đội còn lại của tiểu đoàn 8 tăng cường hoạt động ở Cà Lu – Tân Lâm.

Song song với việc sắp xếp lực lượng, mọi yếu tố bảo đảm như lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vũ khí, đạn... cũng được khẩn trương vận chuyển đáp ứng cho các đơn vị chiến đấu trong nhiều ngày. Khi mọi công tác chuẩn bị đã cơ bản hoàn thành thì cuộc hành quân giải tỏa quy mô lớn của địch ở Khe Sanh cũng bắt đầu.

Sáng ngày 1 tháng 4 năm 1968, không quân Mỹ đã sử dụng 15 lần chiếc B52 rải bom dọc hai bên trục đường 9, tiếp đó các máy bay trực thăng đổ 1 tiểu đoàn kỵ binh không vận xuống Bồng Nho, Động Tro và Úc Nghi, đổ 1 đại đội pháo binh xuống Tà Cơn. Cùng với đường không, trong ngày chúng còn cho 147 lần chiếc xe vận tải chuyển đồ dùng quân sự và đạn dược từ Tâu Lâm đến Cà Lu.

Ngày 2 tháng 4, máy bay địch tập trung oanh kích dữ dội ở khu đông nam Tà Cơn, sau đó chúng cho tiểu đoàn 1 lữ đoàn 3 kỵ binh không vận xuống Làng Khoai và một tiểu đoàn xuống Cà Lu. Ngày 3 tháng 4, địch cho 200 lần chiếc trực thăng đổ lữ một kỵ binh không vận Mỹ xuống Pa Ka. Làng Con, điểm cao 420, Cô Nhôm.

Rút kinh nghiệm đổ quân hai ngày đầu có tổ chức hỏa lực dọn bãi nên ý định bị lộ và bị ta cơ động mai phục hay sử dụng pháo binh đánh chặn gây cho chúng những thiệt hại đáng kể, nên lần này, chúng không những không dùng hỏa lực chuẩn bị mà tiến hành bất ngờ đổ quân xuống nhiều khu vực trong cùng một thời điểm. Đồng thời với đổ quân, địch thả ngay những lô cốt đúc sẵn và cả pháo 105 ly xuống để xây dựng trận địa chống lại các trận tập kích của bộ đội ta.

Cùng ngày, chiến đoàn dù 3 ngụy cũng được lệnh cơ động lên Cà Lu và sau đó được trực thăng chở đến đổ ở Ku Pút và bắc Làng Vây. Riêng lữ đoàn 2 kỵ binh không vận Mỹ chỉ có một tiểu đoàn được đổ xuống Ku Bốc và nam Hướng Hóa, 2 tiểu đoàn còn lại vẫn nằm ở lại sau.

Song song với việc đổ quân giải tỏa, địch tập trung hỏa lực pháo binh bán phá hết sức khốc liệt cả vòng trong, vòng ngoài phía trước cũng như hậu phương chiến lược gây cho ta những tổn thất khá lớn về người và phương tiện vũ khí, phá hủy nhiều mạng thông tin, gây mất liên lạc ở một số đơn vị trong nhiều giờ, thậm chí nhiều ngày.

Sự tàn phá của bom đạn và lực lượng lớn quân kỵ binh không vận đổ xuống Khe Sanh (trong đó có một số lần đổ thẳng xuống trận địa của ta) đã khiến cho một số đơn vị lúng túng bị động. Nhưng qua trực tiếp chiến đấu, lòng tin của cán bộ, chiến sĩ ngày càng được củng cố vững chắc.

Sáng ngày 4 tháng 4 năm 1968, với ý định đánh chiếm bằng được điểm cao 471, khống chế vùng tây nam Tà Cơn, địch dùng hỏa lực pháo binh và không quân bắn phá dữ dội nhiều giờ vào điểm cao và đưa tiểu đoàn 1 trung đoàn 9 lính thủy đánh bộ Mỹ ra chiếm các mỏm 3, 4, 5 ở động Ché Riêng. Do có sự chuẩn bị công sự hầm hào vững chắc, cơ động linh hoạt nên phân đội chốt của ta trên điểm cao 471 đã bảo tồn được lực lượng và chủ động đánh trả đẩy lùi các mũi tiến công lên điểm cao của địch.

Trận chiến đấu giằng co giữa ta và địch kéo dài từ 10 giờ sáng đến 15 giờ chiều vẫn không phân thắng bại, số thương vong của lính thủy đánh bộ Mỹ đã khá nhiều, chỉ huy quân địch đã quyết định dùng trực thăng đổ một tiểu đoàn kỵ binh không vận xuống mỏm 3 và 4 động Ché Riêng, tiếp tục tổ chức đánh chiếm điểm cao 471.

Sau một ngày chiến đấu ác liệt, lực lượng, vũ khí tuy bị tiêu hao khá nhiều, nhưng ngay trong đêm ngày 5 tháng 4, ta đã bất ngờ tập kích vào khu trú quân của địch trên mỏm 2 động Ché Riêng diệt gần 100 tên địch.

Cùng với điểm cao 471, khu vực chốt Làng Khoai, các tay súng của trung đội 3, đại đội 13 do tham mưu trưởng tiểu đoàn 3 trực tiếp chỉ huy, trong các ngày 4, 5, 6 đã liên tiếp đẩy lùi nhiều đợt tiến công của tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ.

Tiêu biểu nhất trong các trận đánh giữ chốt trong các ngày đầu tháng 4 năm 1968 là điểm cao 559, nằm ở phía tây cụm cứ điểm Tà Cơn. Lực lượng giữ chốt ở đây ngoài 2 tiểu đội bộ binh chiếm giữ ở hai mỏm đồi còn có hai khẩu 12.7 ly và một khẩu cối 60 ly bố trí ở khu vực yên ngựa, có hệ thống hầm hào, công sự trận địa khá vững chắc nên các đợt tiến công của địch đều bị đẩy lùi.

Ngày 7 tháng 4, chúng lại nhiều lần đốc thúc quân lính tiến quân và cũng không mang lại kết quả, trong khi số thương vong đã lên đến hàng trăm tên. Núng thế, địch đổ thêm một đại đội kỵ binh không vận xuống điểm cao 832 để hiệp sức với bọn còn lại tiếp tục tiến công chiếm bằng được điểm cao 595.

Bên cạnh việc tăng cường lực lượng, quân Mỹ bỏ quy luật đánh ngày, tổ chức đánh ban đêm. Với thủ đoạn bất ngờ này địch đã chiếm được một số công sự và trận địa trong khu vực chốt giữ của ta, làm một chiến sĩ bị hy sinh và bốn chiến sĩ bị thương. Không thể để quân địch tiếp tục đánh chiếm đến mỏm cao của điểm cao 595, mặc dù chỉ còn lại rất ít lực lượng nhưng các chiến sĩ ta đã kết hợp sử dụng nhiều loại vũ khí đánh bại các mũi xung phong của địch, tạo điều kiện để lực lượng phía sau lên hỗ trợ chiến đấu bảo vệ vững chắc trận địa còn lại và giải quyết chính sách thương binh, tử sĩ. Gương chiến đấu kiên cường, dũng cảm, bảo vệ trận địa chốt đến cùng ở điểm cao 595 của Trần Hữu Bào (2 ngày diệt 79 tên địch) sau này đã được nhà nước tuyên dương danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Song song với nhiệm vụ đánh địch hành quân giải tỏa các điểm cao quan trọng xung quanh Tà Cơn và đường 9, không cho chúng hình thành thế hợp vây, Bọ tư lệnh cho các đơn vị chủ động tổ chức các trận tập kích tiêu diệt các vị trí tiến quân tạm thời của lực lượng kỵ binh không vận Mỹ.

Sáng ngày 5 tháng 4, tiểu đoàn 4 Trung đoàn 24 bất ngờ tiến công loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên kỵ binh không vận trên điểm cao 400. Sáng ngày 7 tháng 4, chiến đoàn dù số 3 đã dùng 132 máy bay lên thẳng từ Nhơn Biều đổ xuống các ngọn đồi phía tây bắc Làng Vây cũ. Sau khi đánh chiếm các điểm cao 400, 542, đông nam 567, địch tiến hành đổ bộ đợt hai xuống Rồ Cút.

Trong thời gian đổ quân địch đã bị pháo ta tập kích trúng đội hình, hơn 200 tên thuộc tiểu đoàn 2 và 6 dù bị loại khỏi vòng chiến đấu. Tiểu đoàn 3 và 8 dù bị Trung đoàn 24 Sư đoàn 304 bám đánh liên tục, tiêu hao một bộ phận lực lượng và phương tiện, buộc chúng phải co cụm lên điểm cao 400. Đêm ngày 8 tháng 4, tiểu đoàn 4 Trung đoàn 24 bất ngờ tập kích diệt thêm một số trong đó có tên thiếu tá tham mưu trưởng chiến đoàn dù số 3 ngụy.

Ngày 10 tháng 4, tiểu đoàn 6 dù ngụy được một tiểu đoàn kỵ binh Mỹ yểm trợ chia làm 3 mũi hành quân đánh chiếm Làng Vây cũ. Được pháo binh chi viện, tiểu đoàn 7 Trung đoàn 66 đã liên tục đẩy lùi 3 đợt xung phong vào căn cứ Làng Vây của 2 tiểu đoàn địch, buộc tiểu đoàn 6 dù phải lùi về điểm cao 500 (tây bắc Làng Vây). Ngay đêm ngày 11 tháng 4, ta quyết định tiến công điểm cao 500, diệt thêm một đại đội, làm thiệt hại nặng một đại đội dù ngụy.

Bị thiệt hại nặng ở Làng Vây, ngày 12 tháng 4 địch tập trung không quân, pháo binh và cả chất độc hoá học đánh vào Làng Vây lần thứ hai. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt. Để bảo toàn lực lượng, Bộ chỉ huy chiến dịch cho tiểu đoàn 7 rút khỏi Làng Vây. Lữ 1 kỵ binh Mỹ sau khi chiếm được Làng Vây đã nhanh chóng đánh chiếm Pa Ka, Làng Con, Làng Trài, Bi Hiên, đẩy được một số đơn vị của ta ra xa. Tuy vậy sau một tuần tác chiến ở khu vực Làng Vây, chiến đoàn dù số 3 ngụy đã bị thiệt hại tới 40% quân số. Tinh thần quân Mỹ mất ổn định nghiêm trọng, phải rút về căn cứ ở Huế để củng cố. Cuộc hành quân quân “Lam Sơn 207" của lữ đoàn dù số 3 ngụy đến đây chấm dứt.

Đặc biệt, với phương pháp tác chiến chốt kết hợp với vận động tiến công, trung tuần tháng 4 năm 1968, lợi dụng lúc địch tiến công đánh chốt 622 lộ toàn bộ đội hình trên trận địa, tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66 đang ém sẵn ở các vị trí có lợi đã bất ngờ xuất quân trên nhiều hướng tiến đánh đội hình địch; loại khỏi chiến đấu 250 tên, gây thiệt hại nặng một đại đội lính thủy đánh bộ và hai đại đội kỵ binh không vận Mỹ.

Cùng thời gian trên, trên hướng đông, Sư đoàn 320 cũng tăng cường hoạt động tác chiến đạt kết quả khá tốt. Trung đoàn 64 liên tục tiến công trên đường 9 diệt nhiều xe cơ giới và quân chiến đấu của địch. Nhiều mũi tiến quân của địch nống ra phá thế vây hãm của ta ở khu vực Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang, An Thái... đã bị Trung đoàn 48 chặn đánh và tiêu hao nặng.

Đặc biệt, những mũi thọc sâu của sư đoàn trên hướng Do Linh, Cửa Việt và những trận tập kích pháo binh cấp tập, liên tục của Mặt trận đã tạo thế uy hiếp rất mạnh và trực tiếp đối với những căn cứ yết hầu của địch ở Đông Hà và Cửa Việt. Đồng thời, trên tuyến sông Cửa Việt, những đoàn tàu chở hàng hóa của địch liên tục bị đặc công Hải quân và một số đơn vị của Sư đoàn Đồng Bằng kết hợp đánh chìm, bắn cháy. . . gây tác động không nhỏ đến việc tiếp tế vật chất cho quân phòng thủ của chúng ở khu vực đường 9.

Thấy quân số bị tiêu hao nhiều, tinh thần binh sĩ trực tiếp chiến đấu ở Khe Sanh đã quá mệt mỏi, rệu rã, chỉ huy quân địch quyết định thay quân. Để che mắt ta phát hiện, địch tiến hành thay quân thứ tự từ phía bắc, đến Tà Cơn và cuối cùng mới đến tiểu đoàn 1 lính thủy đánh bộ đang trực tiếp tiếp xúc với ta; thay dần từng đại đội, từng tiểu đoàn, tiến hành liên tục suốt ngày và các đơn vị dù đóng giữ ở xa hay gần sân bay Tà Cơn đều được tập trung về đây rồi mới tiến hành rút quân. Trong quá trình rút, chúng sử dụng chủ yếu là đường không, chỉ bộ phận vũ khí khí tài nặng mới rút theo đường bộ.

Trước tình hình mới xuất hiện, Bộ tư lệnh chiến dịch đã điện chỉ thị cho toàn mặt trận nhấn mạnh: Phải khắc phục mọi khó khăn về lực lượng nhanh chóng xốc lại đội hình, bám địch mà đánh, theo sát từng bước, chặn địch lại mà tiêu diệt... khôi phục lại thế trận vây hãm Tà Cơn... Phải đánh mạnh trên đường 9 không cho địch vận chuyển và cơ động được dễ dàng.

Ngày 14 tháng 4, địch bắt đầu thay quân. Mặc dù đã đặt ra kế hoạch nghi binh khá tỷ mỷ nhưng hành động thay quân và rút quân của địch đã bị ta phát hiện và bám đánh liên tục. Bộ phận kỵ binh không vận Mỹ rút khỏi Làng Vây, điểm cao 656 (nam Pa Ka) bị ta đánh tiêu hao nặng. Bộ phận nống đánh ra Xiêm La Ha (tây bắc điểm cao 845) và La Viêm Ấp (bắc điểm cao 832) đều bị ta chặn đánh phải quay trở lại, ở nhiều khu vực máy bay trực thăng địch không thực hiện được việc hạ cánh bốc quân mang đi hay đổ quân mới xuống bởi mạng lưới cao xạ của ta đánh trả quyết liệt. Sân bay Tà Cơn bị pháo binh ta tập kích, đường băng hỏng nặng, máy bay vận tải không lên xuống được; đường 9 cũng bị phục kích và đánh hỏng nhiều đoạn nên tốc độ rút quân trên bộ của địch diễn ra rất chậm.

Mặc dù vậy, đêm ngày 19 tháng 4, địch đã hoàn thành việc thay quân và rút quân. Toàn bộ sư đoàn 1 ky binh không vận và trung đoàn 26 lính thủy đánh bộ Mỹ đã rút khỏi khu vực Khe Sanh. Trung đoàn 9 (thiếu 1 tiểu đoàn) được bổ sung một tiểu đoàn của trung đoàn 4 lính thủy đánh bộ Mỹ, 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận đã được đưa đến thay thế trung đoàn 26 lính thủy đánh bộ chiếm giữ cụm cứ điểm Tà Cơn. Rút kinh nghiệm hoạt động của Trung đoàn 26 trước đó, chỉ huy địch ở Tà Cơn chỉ để 2 tiểu đoàn làm nhiệm vụ chốt giữ các căn cứ, 4 tiểu đoàn còn lại làm lực lượng cơ động, sẵn sàng tổ chức các cuộc hành quân phản kích bảo vệ và mở rộng căn cứ hay bảo vệ giao thông.

Ngay sau khi ổn định đội hình thay thế ở Tà Cơn, địch bắt đầu mở các trận phản kích ra xung quanh cố đẩy lực lượng vây lấn vây hãm của ta ra xa, giảm áp lực đối với cụm cứ điểm phòng ngự Tà Cơn.

Ngày 21 tháng 4, 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ chia làm nhiều mũi cơ động tiến đánh điểm cao 622. Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 66 Sư đoàn 304 đã bám trụ công sự trận địa vững chắc kết hợp với vận động tiến công quy mô nhỏ trên từng hướng, đánh bại từng mũi tiến công lên điểm cao của quân địch, loại khỏi chiến đấu khoảng 250 tên, đẩy quân địch trở lại Tà Cơn.

Ngày 23 tháng 4, gần 1 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ từ Làng Con - Húc Hạ đã mở cuộc hành quân về phía Làng Vây, khi quân địch vừa đổ quân chiếm vị trí xuất phát xung phong đã bị lực lượng cơ động của Sư đoàn 304 chặn đánh quyết liệt, bắn cháy 2 máy bay chở quân, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch... bị đòn phủ đầu thiệt hại lớn về quân số, tổn thương nặng về tinh thần, số còn lại vội tháo chạy về Húc Hạ bỏ dở cuộc hành quân.

Trên tuyến đường 9, tiểu đoàn 8 liên tục phục kích đánh các đoàn xe vận tải vũ khí trang bị và cơ động lực lượng của địch. Ngày 19 tháng 4 ta diệt 5 xe GMC, 1 xe M113; ngày 20 tháng 4, loại khỏi vòng chiến đấu 2 trung đội địch hành quân trên 6 xe chở quân; ngày 21 tháng 4, ta diệt thêm 108 tên địch cùng 1 xe tăng và một số xe vận tải của địch.

Bị thiệt hại lặng nề về lực lượng và phương tiện trong ứng cứu, giải tỏa Khe Sanh, cuối tháng 4 năm 1968 địch buộc phải kết thúc cuộc hành quân "Ngựa bay" và "Lam Sơn 207” khi ý định giải tỏa Khe Sanh chưa thực hiện được. Tuy vậy, các cuộc hành quân của chúng đã đẩy được một số mũi vây lấn của ta ra xa, chiếm được một số khu vực chốt quan trọng ở khu vực xung quanh Tà Cơn, gây thiệt hại về quân số và trang bị vũ khí kỹ thuật cho ta.

Tháng 5 năm 1968, toàn miền Nam mở cuộc tiến công và nổi dậy đợt 2, với khí thế: "Phát huy khí thế chiến thắng, tiếp tục phát triển, tiến công toàn diện giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn nữa, nhanh chóng mở rộng lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị cách mạng, càng đánh càng mạnh, đẩy địch vào thế thất bại liên tiếp, ngày càng suy yếu, tan rã không gượng dậy được" (Chú thích: Nghị quyết Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ngày 24 tháng 4 năm 1968.)

Nhiệm vụ chiến lược của Mặt trận Đường 9 – Khe Sanh vẫn được xác định là: tiếp tục vây hãm Khe Sanh, kìm giữ và diệt địch ở chiến trường Đường 9.

Để hoàn thành nhiệm vụ được giao trong đợt 2 tiến công và nổi dậy năm 1968, đầu tháng 5, Đảng uỷ và Bộ chỉ huy Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh đã họp và quyết định: tập trung lực lượng chủ động mở các trận tiến công nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, nhanh chóng khôi phục và củng cố lại thế vây lấn Tà Cơn, tạo thế uy hiếp cụm phòng ngự Tà Cơn mạnh hơn nữa, buộc địch phải đưa lực lượng lên giải tỏa lần thứ 2 hoặc phải rút chạy, tạo thời cơ đánh địch ngoài công sự, kéo thêm quân địch ra đường 9 để tiêu diệt. Nhưng do quân số có hạn, vũ khí đạn dược có hạn, sức khoẻ của bộ đội đã giảm sút sau chiến đấu dài ngày trong điều kiện rừng núi, các yếu tố bảo đảm hạn chế nên phương châm tác chiến được xác định là giữ vững chủ động, hoạt động nhỏ, đánh tiêu diệt gọn, đánh liên tục nhưng có trọng điểm, vừa đánh vừa củng cố lực lượng, thế trận, sẵn sàng chuyển sang đánh lớn khi có điều kiện, thời cơ thuận lợi.

Nhờ có sự chỉ đạo, chỉ huy sâu sát của Đảng uỷ và Bộ chỉ huy Mặt trận, nên ở khu vực chủ yếu Khe Sanh, lực lượng bộ binh được bố trí rất hợp lý. Tiểu đoàn 8 đảm nhiệm đánh địch trên đoạn Cà Lu - Rào Quán. Khu vực phía tây và đông bắc Tà Cơn do Trung đoàn 66 đảm nhiệm. Trung đoàn 9 được phân công vây lấn ở nam Tà Cơn. Riêng Trung đoàn 24 được lệnh lui về tuyến sau để bổ xung lực lượng, củng cố đội hình, sẵn sàng tham ra chiến đấu khi có lệnh.

Với lực lượng có trên các địa bàn được phân công, các đơn vị đã nhanh chóng bố trí đội hình và mở một số trận chiến đấu đạt hiệu suất cao ngay từ những ngày đầu tháng 5.

Ngày 4 tháng 5, ta bất ngờ tập kích điểm cao phòng ngự 552 của địch, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội kỵ binh không vận, một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, phá hủy 4 khẩu pháo 105 ly và 9 khẩu cối 106,7 ly của chúng. Cùng thời gian, ở hướng tây và tây bắc Tà Cơn, Trung đoàn 66 thực hành bao vây kiềm chế các điểm cao 832, 689. Ở hướng đông nam Trung đoàn 9 tiến công áp sát Làng Khoai, tổ chức đánh bại một mũi phản kích của địch, bắn rơi 3 máy bay trực thăng và tiêu diệt, làm bị thương khoảng 200 tên địch.

Trên tuyến đường 9 liên tục trong các ngày 14 và 15 tháng 5, ta đã tổ chức một số trận tập kích ở nam Làng Khoai, diệt nhiều xe vận tải và sinh lực địch, gây khó khăn cho việc tiếp vận cho Tà Cơn của chúng.

Với những hoạt động có hiệu quả của ta trong nửa đầu tháng 5 năm 1968, thế trận vây lấn Tà Cơn đã được khôi phục lại như trước ngày địch mở các cuộc hành quân giải tỏa, các loại hỏa lực súng cối và ĐKZ của ta tiếp tục bắn vào trung tâm tập đoàn phòng ngự Tà Cơn, gây cho địch nhiều thiệt hại. Nhưng trên thực tế, lực lượng ta đang trực tiếp chiến đấu ở khu vực Khe Sanh không còn đủ sức để vừa thực hiện vây lấn Tà Cơn vừa sẵn sàng tổ chức đánh bại các cuộc hành quân giải tỏa của địch.

Trước tình hình khó khăn ở Khe Sanh, Bộ Tổng Tham mưu quyết định điều Sư đoàn bộ binh 308 (thiếu Trung đoàn 36) vào chiến đấu ở Mặt trận Khe Sanh, với nhiệm vụ được xác định là: "Cắt đường số 9 từ Rào Quán đến Ku Bốc, đẩy Khe Sanh trở lại tình trạng cô lập đường bộ, buộc địch phải ra giải tỏa, tạo thời cơ cho ta tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch ngoài công sự, uy hiếp địch ở Tà Cơn, buộc chúng phải rút lực lượng ở nơi khác tăng cường cho Tà Cơn, giam chân địch càng đông, càng lâu càng tốt, phối hợp với đợt hai tiến công và nổi dậy toàn Miền. Phương châm đánh địch ngoài công sự là chủ yếu, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, tạo điều kiện đánh lớn" (Chú thích: Sư đoàn Quân tiên phong, tập 3 Ký sự, Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1979. tr. 51, 52.)

Trong thời gian Sư đoàn 308 tập kết lực lượng, bố trí sắp xếp đội hình, trinh sát nắm địch, học tập kinh nghiệm chiến đấu của các đơn vị bạn, xây dựng phương áu quyết tâm chiến đấu của mình... thì các chiến sĩ Sư đoàn 304 vẫn ngày đêm kiên trì bám trụ đánh địch.

Ngày 19 tháng 5, một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 66 tổ chức phục kích phía tây căn cứ Tà Cơn, bất ngờ chặn đánh diệt một đại đội địch cùng 3 xe M113 khi chúng đang hành quân sục sạo thăm dò lực lượng ta. Tiếp ngay sau đó, địch tập trung hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ càn quét ra hướng tây nam Ché Riêng nhằm đẩy lực lượng ta ra xa. Qua 3 ngày (19, 20, 21) đưa quân ra ngoài căn cứ hoạt động, không những không đẩy lực lượng vây lấn của ta mà số lượng quân bị tiêu hao cứ tăng lên mỗi ngày nên địch lại vội vàng thu quân về cố thủ, dùng hỏa lực pháo binh và không quân tiếp tục đánh phá dữ dội vào các khu vực chốt giữ của ta.

Không cho địch thực hiện chiến thuật co cụm, rúc sâu trong căn cứ cố thủ, Bộ tư lệnh Mặt trận đã quyết định cho các đơn vị tổ chức lực lượng đánh nhỏ kết hợp đánh vừa, tìm mọi cách đánh hữu hiệu nhất để "lôi" địch ra khỏi căn cứ mà tiêu diệt.

Ngày 25 tháng 5, tiểu đoàn 8 Trung đoàn 102 Sư đoàn 308 được Bộ tư lệnh Mặt trận giao nhiệm vụ đánh trận "mở màn" ở Làng Cát, một vị trí án ngữ trên đường 9, cách cầu Rào Quán 1 km về phía Nam. Đây là một cứ điểm vừa xây dựng nên địch chưa có hàng rào dây thép gai, công sự trận địa còn sơ sài..

Sau hai ngày chuẩn bị, ngày 28 tháng 5 tiểu đoàn 8 nổ súng tiến công Làng Cát. Được pháo binh Trung đoàn 66 bắn chế áp mãnh liệt, nên các mũi tiến công của tiểu đoàn 8 đã loại khỏi vòng chiến đấu được hơn 100 tên địch. Tuy nhiên các mũi hướng tiến công của ta không đồng đều, thiếu liên tục, trong khi đó sau giây phút bàng hoàng bọn địch dần dần lấy lại bình tĩnh tập trung hỏa lực cối 106,7 ly, đại liên, M79...đánh trả dữ dội, đồng thời dùng máy bay ném bom Na-pan xuống điểm cao để ngăn chặn các mũi tiến công của ta. Sau 1 giờ chiến đấu ta đã làm chủ được mỏm thấp của điểm cao, nhưng quân số chiến đấu có hạn... trong khi quân địch vẫn tăng cường lực lượng phản kích liên tục nên ta phải chủ động kết thúc trận đánh, đưa tiểu đoàn 8 ra ngoài để củng cố.

Tuy không đánh chiếm dứt điểm được mục tiêu nhưng tiểu đoàn 8 đã thực hiện được nhiệm vụ "châm ngòi" tạo đà cho Trung đoàn 102 tiếp tục mở trận tập kích mới.

Về phía địch, sau khi bị đánh đòn ngày 28 tháng 5, chúng vội vàng tăng cường một đậi đội lính thủy đánh bộ, hỏa lực và phương tiện chiến tranh, khẩn trương củng cố trận địa, công sự cho khu vực phòng thủ Làng Cát, quyết tâm giữ cho được sự thông thương trên đường 9.

Biết địch đã tăng quân cho điểm cao Làng Cát, nhưng ngày 31 tháng 5 Trung đoàn 102 vẫn kiên quyết cho tiểu đoàn 7 mở trận tập kích đánh chiếm điểm cao lần thứ 2. Do cả hai bên đều quyết tâm thực hiện cho được mục đích của mình nên cuộc đọ sức ở điểm cao Làng Cát lần thứ hai diễn ra vô cùng ác liệt.

Ngoài việc sử dụng sức mạnh của máy bay, pháo binh, địch đã chủ động chia lực lượng ra thành nhiều mũi phản kích liên tục, quyết đẩy lực lượng tiến công của ta ra xa. Việc giành giật từng tấc đất trên điểm cao giữa ta và địch diễn ra suốt một ngày dưới trời nắng nóng như đổ lửa. Nhiều đợt phản kích của địch đã bị ta đẩy lùi. Thấy tình hình bất lợi, địch cho lực lượng từ Tà Cơn ra chi viện, tiếp tục mở các đợt phản kích với quy mô lớn kết hợp với việc dùng bom cháy tiêu diệt đội hình xung phong của ta cơ động trên sườn đồi đầy cỏ tranh. Tuy đã có sự chuẩn bị cho tình huống này, nhưng ta vẫn bị thiệt hại về người và vũ khí. Đến cuối buổi chiều cùng ngày, Bộ chỉ huy Mặt trận đã gửi điện khen ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm của tiểu đoàn 7 và ra lệnh cho đơn vị thu quân kết thúc trận đánh.

Trong khi các Sư đoàn 304 và 308 đẩy mạnh hoạt động ở Tà Cơn, đường 9, Sư đoàn Đồng Bằng cũng vừa chiến đấu tạo thế liên hoàn trên cánh đông vừa nghiên cứu quy luật hoạt động trên sông và cách bố phòng bảo vệ cảng Cửa Việt của địch, chuẩn bị cho đợt tác chiến đánh tàu trên sông Cửa Việt.

Cuối tháng 4 đầu tháng 5, tiểu đoàn 6 và đại đội hỏa lực của Trung đoàn 52 được Trung đoàn 27 Quảng Trị, Đoàn A1 Hải Quân, lực lượng du kích Do Linh phối hợp đã triển khai hệ thống công sự trận địa ở khu vực Xóm Soi, Đại Độ, Thượng Nghĩa sẵn sàng đánh tàu địch trên sông Cửa Việt.

Do sự chuẩn bị chu đáo và sử dụng hỏa lực ĐKZ, cối 82 ly. B40, B41, 12,7 ly... một cách linh hoạt chủ động, nên ta đã đánh chìm được nhiều tàu chở hàng của địch trên sông Cửa Việt, đồng thời đánh bại liên tiếp các cuộc hành quân phản kích của nhiều tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ ở khu vực Xóm Soi, Đại Độ, diệt hàng trăm tên địch, phá hủy nhiều xe bọc thép cùng phương tiện chiến tranh của chúng. Tiêu biểu nhất trong đợt hoạt động tháng 5 của sư đoàn 320 là trận đánh trên khu vực bãi cát Cửa Việt chiều ngày 2 tháng 5, tiểu đoàn 3, tiểu đoàn 6 phối hợp cùng pháo binh và các đơn vị bộ đội địa phương đã đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 2 trung đoàn 4 lính thủy đánh bộ Mỹ.

Được chiến công của bộ đội chú lực cổ vũ, Phân khu đội Quảng Trị đã cho các đội võ trang công tác luồn sâu vào hậu phương địch phát động nhân dân đấu tranh chống phá kế hoạch thanh lọc, kìm kẹp của địch. Ngày 14 tháng 5 năm 1968, giữa lúc bọn bảo an dân vệ tỉnh Quảng Trị đang tập trung gần 1.000 dân xã Triệu Vận (Triệu Phong) thanh lọc, đánh đập dã man hơn 20 người, thì tổ võ trang công tác 2 và du kích Chợ Cạn đã nổ súng nghi binh, kéo địch ra ngoài để bắn tỉa, gây hoang mang cho bọn lính đang thi hành công vụ. Đầu tháng 6 năm 1968, tổ võ trang công tác 1 được du kích xã Triệu Thượng giúp đỡ, phục kích diệt 6 tên ác ôn của tiểu khu Quảng Trị.

Phát huy thắng lợi vừa giành được, ngày l5 tháng 6, tổ công tác 1 cùng du kích xã Hải Hoà (Hải Lăng) phục kích đường 1, thiêu huỷ 1 xe GMC trong đó có 6 tên lính đi kèm...

Bị ta đánh thiệt hại nặng ở Đông Hà - Cửa Việt, mặt khác lại bị vây hãm ở Khe Sanh như trước ngày chúng mở cuộc hành quân giải tỏa lần 1 đặc biệt là phát hiện thấy lực lượng mới - Sư đoàn 308 của ta xuất hiện ở đường 9; Bộ chỉ huy sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ đã đưa trung đoàn 4 (thiếu 1 tiểu đoàn), tiểu đoàn 1 trung đoàn 9 tổ chức hành quân giải tỏa Khe Sanh lần thứ 2 với mật danh "Xcốt-len II".

Ngày 1 tháng 6 năm 1968 địch tăng cường các hoạt động trinh sát dọc tuyến đường 9 và khu vực nam Khe Sanh. Với chiến thuật "trực thăng vận". liên tục trong các ngày 2, 3 tháng 6 địch đã huy động nhiều chục lần chiếc trực thăng chở quân đổ 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, 1 tiểu đoàn pháo binh xuống khu vực Tà Ri, Tà Quan. Tiếp đó, địch đổ 1 tiểu đoàn trung đoàn 9 lính thủy đánh bộ từ Đông Hà xuống Pa Trang, Húc Cốt Giang thực hành đánh chiếm các bàn đạp chuẩn bị cho mục đích hành quân giải tỏa.

Qua mạng lưới tin tức tình báo, trinh sát, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã phán đoán trước được âm mưu và hành động của địch. Ngày 1 tháng 6, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận họp và thống nhất nhận định: Địch tập trung lực lượng lính thủy đánh bộ mở cuộc hành quân "Xcốt-len II" nhằm đối phó với các lực lượng ta đang vây hãm, vây lấn Tà Cơn ngày một siết chặt. Nhưng bên cạnh đó một khả năng nữa cũng có thể xảy ra là: địch mở cuộc hành quân nữa để kéo giãn đột hình vây lấn của ta, tạo điều kiện cho ý định rút bỏ Khe Sanh. Từ những dự kiến phán đoán như vậy, Bộ tư lệnh Mặt trận đã điện khẩn chỉ đạo các đơn vị chủ động triển khai phương án tác chiến đánh địch.

Theo mệnh lệnh chiến đấu, Sư đoàn 308 đảm nhiệm đánh địch ở nam Tà Cơn. Sau khi nhận nhiệm vụ của Mặt trận giao, sư đoàn đã đưa các đơn vị thuộc quyền triển khai đội hình sẵn sàng đánh địch khi chúng bắt đầu đổ quân.

10 giờ sáng ngày 3 tháng 6, sau khi sử dụng pháo binh và máy bay ném bom đánh phá dọn bãi, địch dùng 20 máy bay lên thẳng Si-núc đổ 1 đại đội lính thủy đánh bộ xuống khu vực 2 mỏm đồi Pa Trang. Do tiểu đoàn 8 hành quân chiếm lĩnh sai địa bàn phân công nên địch đổ quân an toàn. Nhưng trong đêm ngày 3 rạng ngày 4, tiểu đoàn 7 đã chia thành nhiều mũi bất ngờ tập kích trận địa địch. Ngay những phút đầu bọn chỉ huy và điện đài liên lạc bị tiêu diệt, nên địch không gọi được pháo binh, bộ binh chi viện. Tiểu đoàn 7 nhanh chóng làm chủ trận địa, chỉ còn một bộ phận nhỏ quân địch rút chạy sang cố thủ ở mỏm đồi bên cạnh.

Cùng thời gian trên, pháo binh Mặt trận đã mở trận tập kích hỏa tiễn dồn dập vào sân bay Tà Cơn, phá hủy một kho đạn và hai máy bay trực thăng.

Cuối ngày 4 tháng 6, địch tiếp tục "trực thăng vận" hai đại đột sở chỉ huy tiểu đoàn lính thủy đánh bộ và một số xe ủi đất xuống Pa Trang.

Không để cho địch được yên ổn xây dựng trận địa. Trung đoàn 102 đã sử dụng tiểu đoàn 9, phân đội đặc công và phân đội cối 82 ly và cao xạ 12.7 ly nhanh chóng triển khai đội hình đánh địch. Suốt ngày 5, bom pháo địch đánh phá không lúc nào ngớt khu vực xung quanh điểm cao Pa Trang. Nửa đêm, địch chuyển đội hình để tránh ta tập kích nhưng bị đại đội 11 và đặc công ta bám đánh diệt khoảng 70 tên.

Ngày 11 tháng 6, địch vội ra lệnh rút Tướng Oét-mo-len về nước và đưa Tướng A.Bram lên làm Tổng tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở Nam Việt Nam. Như vậy cuộc tiến công và nổi dậy Xuân - Hè 1968 trên toàn miền Nam nói chung, trên chiến trường Đường 9 – Khe Sanh nói riêng đã hạ bệ một tư lệnh quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam, gây một tác động rất lớn tới quyết tâm chiến tranh Việt Nam của Nhà Trắng.

Để tiếp tục cuộc hành quân "Xcốt-len II", Cốt-xman, chỉ huy trưởng đã quyết định đánh sâu xuống Phu Nhoi -một vị trí cách Khe Sanh 12 km theo đường chim bay, án ngữ con đường vận chuyển tiếp tế bằng xe cơ giới của ta ở vùng nam Khe Sanh.

Ngày 13 tháng 6, Cốt-xman đã dùng trực thăng đổ một đại đội tăng cường xuống chiếm giữ các điểm cao ở khu vực Phu Nhoi. Rút kinh nghiệm những lần đổ quân trước đây, để đảm bảo an toàn cho lính trong nhiều ngày liền, địch đã liên tục dùng bom, pháo giội xuống các chân điểm cao để ngăn chặn lực lượng ta tiến công. Đặc biệt, đổ quân đến đâu chúng khẩn trương xây dựng hệ thống công sự trận địa, bố trí hệ thống hỏa lực vững chắc ngay đến đó.

Điểm cao Phu Nhoi gồm 3 mỏm đồi thế chân kiềng, mỗi mỏm cách nhau 1 km. Mỏm cao nhất nằm ở phía nam là mỏm 690, gọi là đồi Chóp Nón. Hai mỏm còn lại là mỏm Mâm Xôi và Mỏm Cháy. Địa hình Phu Nhoi rất phức tạp; chân điểm cao là rừng già rậm rạp, khó quan sát, lên cao thưa dần, sát đỉnh là khu vực trống trải do na-pan đốt cháy trụi.

Nhưng do kinh nghiệm phát hiện, phán đoán âm mưu địch dày dạn của Bộ tư lệnh Mặt trận, nên việc địch đổ quân xuống Phu Nhoi đã hoàn toàn không làm cho ta bị bất ngờ. Ngay từ khi Sư đoàn 308 được lệnh vào Khe Sanh chiến đấu, Bộ tư lệnh Mặt trận đã bố trí Trung đoàn 88 ở Tông Cháy, ngay phía Bắc Phu Nhoi, sẵn sàng chiến đấu được ngay nếu địch xuống điểm cao này. Và bây giờ thời cơ diệt địch của Trung đoàn 88 bắt đầu.

Để chủ động đánh địch theo mệnh lệnh của Bộ tư lệnh Mặt trận và sư đoàn, Trung đoàn 88 đã dùng tiểu đoàn 4 thực hành đánh chiếm Phu Nhoi.

Do có điều kiện chuẩn bị chu đáo mọi mặt, cán bộ, chiến sĩ náo nức lập công nên sáng ngày 15 tháng 6, tiểu đoàn 4 đã nổ súng tiến công đúng theo kế hoạch. Sau ít phút chiến đấu, ta chiếm được một mỏm đồi. Trận đánh mỗi lúc thêm ác liệt. Địch liên tục dùng trực thăng chở quân tăng viện và tiến hành phản kích liên tiếp nhiều đợt, kết hợp với hỏa lực pháo binh đánh phá dữ dội vào đội hình xung phong của ta. Nhiều cán bộ và chiến sĩ đã hy sinh. Thấy khả năng kéo dài cuộc chiến đấu cũng không mang lại kết quả như mong muốn, tiểu đoàn 4 được lệnh thu quân rút khỏi điểm cao.

Biết ta lui quân nhưng chỉ huy địch vẫn tiếp tục tăng viện cho Phu Nhoi, đưa tổng số quân ở Phu Nhoi lên 1 tiểu đoàn (thực chất quân số chỉ khoảng hơn 300 tên vì đã bị tiêu hao nhiều trong trận đánh ngày 15 tháng 6).

Phán đoán trận đánh Phu Nhoi có tác động mạnh tới ý chí, tư tưởng của quân Mỹ trên chiến trường Đường 9 - Khe Sanh năm 1968, Bộ tư lệnh Mặt trận đã điện chỉ đạo Sư đoàn 308, trực tiếp là Trung đoàn 88 phải gấp rút ổn định lực lượng, tập trung quân số trang bị đánh Phu Nhoi lần thứ hai càng nhanh càng tốt.

Với kinh nghiệm đúc rút từ trận đánh lần trước, tiểu đoàn 4 Trung đoàn 88 vẫn được giao nhiệm vụ đánh chiếm điểm cao Phu Nhoi lần thứ hai. Để có lực lượng đủ mạnh đảm bảo đánh dứt điểm mục tiêu, tiểu đoàn 4 được tăng cường thêm đại đội 13 tiểu đoàn 6, đại đội 12 tiểu đoàn 9 và tiểu đoàn súng máy phòng không 12.7 ly. Sở chỉ huy Trung đoàn 88 di chuyển đến ngọn đồi kề Phu Nhoi và một đường dây thông tin từ Sở chỉ huy Sư đoàn 308 được nối thẳng xuống Sở chỉ huy tiểu đoàn 4 tạo điều kiện thuận lợi cho chỉ huy chiến đấu.

Ngày 18 tháng 6, sau khi đã cơ bản hoàn thành mọi công tác chuẩn bị theo các mục tiêu phân công, các đại đội tham gia trận đánh Phu Nhoi bắt đầu thực hành tiến công.

Thấy ta xung phong từ nhiều phía lên điểm cao, địch tập trung rất nhiều máy bay trực thăng vũ trang bắn xối xả vào phía trước, phía sau, bên phải và bên trái đội hình tiến quân của ta. Trận địa bị cày xới nham nhở, nhiều mũi xung phong của ta đã bị máy bay địch chặn lại. Một bộ phận hỏa lực bộ binh (trung liên, đại liên...) được lệnh quay sang đánh máy bay lên thẳng thu hút chúng để cho các mũi xung kích tiếp tục xung phong.

Riêng lực lượng cao xạ 12,7 ly của ta phải khó khăn lắm mới cơ động lên chiếm lĩnh được trận địa thích hợp, tuy có chậm hơn so với thời gian quy định nhưng ngay sau khi triển khai đội hình đã thực hiện nhiệm vụ đánh trả máy bay địch rất hiệu quả. Khó khăn trở ngại đã dần được khắc phục, các mũi xung phong của bộ binh ta trên các hướng đã phối hợp với nhau đánh lấn lên quét hết địch trên điểm cao Mâm Xôi.

Nhưng trên hướng Đồi Cháy, đến 9 giờ sáng quân ta vẫn không lên được vì đồi cao, dốc đứng địch lợi dụng thế đánh trả ác liệt, nhiều mũi xung phong của ta bị địch đẩy lùi. Trước tình thế khẩn cấp này trung đội 9 đại đội 13 tiểu đoàn 6 sau khi chiếm lĩnh xong đồi Mâm Xôi đã cơ động gấp sang tăng cường cho lực lượng tiến công Đồi Cháy.

Có thêm lực lượng, ta đã chiếm được nửa mỏm đồi, địch còn giữ nửa phía bên kia. Trận chiến đấu trong thế giằng co nhau rất quyết liệt; địch cố đẩy lùi ta bằng những đợt oanh kích dữ dội của máy bay trực thăng vũ trang, ta cũng kiên quyết kìm đầu quân lính thủy đánh bộ Mỹ bằng những đợt tập kích pháo binh kết hợp xen kẽ với tập kích và bắn tỉa của bộ binh.

Đến quá trưa ngày 18, số lượng quân địch trên điểm cao Phu Nhoi bị loại khỏi chiến đấu quá nửa. Như vậy tiểu đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ ở đây chỉ còn hơn 100 tên đang bị ta bao vây tiến công. Khả năng đặt ra là địch có thể tung quân viện phản kích chiếm lại những vị trí đã mất. Nhưng đến cuối buổi chiều, vẫn không thấy quân tăng viện đến mà chỉ tăng cường phi pháo với cường độ lớn, đánh dồn dập, liên tục vào khu vực xung quanh các mỏm đồi ở Phu Nhoi. Đây là hành động kéo dãn đội hình của ta ra xa để thực hành rút chạy khỏi Phu Nhoi. Trước tình thế chuyển biến mau lẹ, Bộ tư lệnh Mặt trận điện chỉ thị: "ở Phu Nhoi, tiểu đoàn 3 lính thủy đánh bộ đã bị thiệt hại rất nặng, Trung đoàn 88 phải cố tìm mọi cách xóa sổ nó đi".

Nhận được lệnh chỉ đạo của Bộ tư lệnh, toàn bộ các trận địa pháo, súng cối của ta đã cùng lúc tập trung đánh cấp tập vào các vị trí của địch. Bộ binh cơ động chặn các mũi rút quân của địch xuống khu vực chân đồi hòng thoát thân. Cuối buổi chiều, trận đánh của tiểu đoàn 4 Trung đoàn 88 kết thúc thắng lợi. Tiểu đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ đã bị thua nặng ở Phu Nhoi. Cốt-xman, Tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ đã quyết định "bốc hết lực lượng rải rác ở các điểm cao Kơ Long, Pa Trang, 635... đưa về tăng cường cho đường 9, Nam Tà Cơn và Đông Hà, Cửa Việt. Đây cũng là thời điểm địch kết thúc thảm hại cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh lần 2 - mang tên "Xcốt-len II", hơn 1.000 quân địch bị loại khỏi vòng chiến đấu, 11 máy bay các loại bị phá hủy và bắn rơi, 7 khẩu pháo và cối bị phá hủy, phá hỏng, tiểu đoàn 3 trung đoàn 4 lính thủy đánh bộ Mỹ bị đánh thiệt hại nặng.

Đến đây, Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh đã thực hiện thắng lợi thêm 1 bước nữa trong việc thu hút lực lượng cơ động chiến lược và kìm chân, tiêu hao một bộ phận rất quan trọng quân Mỹ, tạo điều kiện cho các địa phương miền Nam tiến công và nổi dậy lần 2, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Cuộc hành quân "Xcốt-len II" kết thúc, lực lượng địch ở Khe Sanh còn lại 5 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, trong đó một bộ phận rải rác dọc đường 9 để bảo vệ cho tiếp tế Tà Cơn và bảo đảm yểm hộ kịp thời, hiệu quả cho việc rút chạy của chúng ra khỏi Khe Sanh khi cần thiết. Trong các ngày 20, 21, 22, 23 và 24 tháng 6, địch tung 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ hành quân càn quét ra hướng tây nam cách Cà Lu 2 km, đồng thời rút bớt quân ở một số cứ điểm ngoại vi về Tà Cơn và chuyển một số trang bị vũ khí nặng ra khỏi tập đoàn cứ điểm phòng ngự Tà Cơn.

Phát hiện thấy hành động chuẩn bị cho một cuộc chuyển quân lớn của địch, Trung đoàn 88 và tiếp đó là Trung đoàn 238 bộ đội địa phương Quảng Trị đã bám đánh gây thiệt hại thêm sinh lực và phương tiện chiến tranh cho quân địch.

Trên hướng tây Khe Sanh, Trung đoàn 246 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thay Sư đoàn 304 tiếp tục bao vây kiềm chế quân Mỹ trên các điểm cao 832, 845, 689, liên tục đánh bại các đợt pháo kích, tiêu hao hàng trăm sinh lực địch. Đặc biệt, khi địch tổ chức rút quân về Tà Cơn, Trung đoàn đã vừa thực hành đánh kiềm chế, vừa phối hợp với Trung đoàn 88 Sư đoàn 308 đánh thiệt hại nặng quân địch ở Ku Bốc, 471, Làng Khoai.

Bị thất bại nặng nề trong Xuân - Hè 1968 trên toàn miền Nam, ở Khe Sanh và Đông Hà, Cửa Việt, quân đội Mỹ bị đánh thiệt hại nặng. Riêng ở tập đoàn phòng ngự Khe Sanh, lực lượng lính thủy đánh bộ, kỵ binh không vận và các lực lượng hỗ trợ đã phải chấp nhận sự thật: không thể giữ nổi Khe Sanh. Do vậy, ngày 26 tháng 6, tướng A.Bram đã ra lệnh: Rút bỏ Khe Sanh.

Nhưng thực tế, mang quân vào đã khó, rút quân ra lại càng khó hơn bởi Khe Sanh là một tập đoàn phòng ngự được xây dựng kiên cố, nhiều phương tiện, thiết bị hiện đại mà lại được đặt trên địa bàn rừng núi. Do vậy, để thực hành rút quân, địch đã phải đồng thời tiến hành đưa quân lùng sục, dùng bom pháo đánh phá dữ dội ở vòng ngoài, cố đẩy lực lượng ta ra xa, vòng trong làm nhiệm vụ thu quân và phương tiện để rút lui.

Tuy cuộc rút quân được sắp đặt rất bài bản, nhưng hầu hết các đợt rút quân của chúng đều bị ta phát hiện và tổ chức chặn đánh rất kịp thời.

Trung đoàn 246 liên tục tổ chức đánh địch rút chạy trên hướng tây, nhưng do lực lượng quá mỏng nên chỉ đánh được bọn rút sau cùng, không đánh được vào quân chủ lực nên không phá vỡ được đội hình rút lui của chúng.

Trên hướng Nam. Trung đoàn 102 đã rút về tuyến sau củng cố, Trung đoàn 88 cũng triển khai lực lượng đón đánh địch trên hướng đường 9, nhưng lực lượng địch quá đông nên chỉ đánh được bộ phận bảo vệ mà không đánh được đội hình rút quân chính của chúng. Riêng lực lượng pháo binh Mặt trận đã tổ chức chặn đánh địch rất hiệu quả vào sân bay Tà Cơn và chặn đánh trên đường bộ gây cho địch nhiều thiệt hại về lực lượng và vũ khí, phương tiện chiến tranh.

Do những hoạt động tích cực của ta nên cuộc hành quân rút chạy khỏi Khe Sanh của địch phải kéo dài gần 20 ngày, đến ngày l5 tháng 7 năm 1968 địch mới rút hết quân về tập trung ở Cà Lu - Tân Lâm. Ta đã làm chủ đường 9 đoạn từ Lao Bảo đến sát Cà Lu (trừ cứ điểm Động Trị), giải phóng toàn bộ khu vực Khe Sanh - một địa bàn chiến lược quan trọng ở phía tây đường 9.

Trong gần 20 ngày đánh địch rút chạy, Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246 đã phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ loại khỏi vòng chiến đấu 1.333 tên địch, bắn rơi, phá hủy 34 máy bay, 5 khẩu pháo, cối và 5 xe vận tải của địch.

Như vậy, “sau 170 ngày đêm chiến đấu liên tục, vô cùng anh dũng và quyết liệt, quân giải phóng Mặt trận Khe Sanh đã chiến thắng oanh liệt, đập tan một ý đồ ngông cuồng và ngoan cố của giặc Mỹ tại chiến trường Đường 9- Bắc Quảng Trị, buộc chúng phải chịu thất thủ Khe Sanh" (Chú thích: Thông báo của Bộ tư lệnh Mặt trận B5 ngày 11 tháng 5 năm 1968, dẫn theo Sư đoàn Quân tiên phong, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1979, tr. 111.).

Nhận định về sự kiện này, đài phát thanh BBC tối ngày 30 tháng 6 năm 1968 chỉ ra rằng: "Việc rút lui khỏi Khe Sanh không phải đơn giản bỏ rơi một yếu điểm, mà là bỏ rơi một ảo tưởng và một chính sách mà tất cả mọi nỗ lực của Hoa Kỳ đã dựng lên, đã tan rã ra tro như những pháo đài xi măng cốt sắt ở Khe Sanh. Bây giờ Hoa Kỳ muốn có một chính sách "ngồi chờ sung rụng”, một chính sách thụ động và đang đi đến thất bại", "Căn cứ Khe Sanh sẽ được ghi vào lịch sử của cuộc chiến tranh Việt Nam như một trong những nơi được trả giá đắt nhất bằng máu (của Mỹ)".

Thắng lợi ở Khe Sanh của Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã thực hiện được nhiệm vụ rất quan trọng đối với phong trào cách mạng miền Nam trong năm 1968 là giam chân, thu hút một bộ phận quan trọng lực lượng tinh nhuệ của địch (quân Mỹ), tạo điều kiện cho toàn Miền thực hiện cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt giành thắng lợi. Đó là, để lập phòng tuyến Khe Sanh địch thường xuyên phải sử dụng 10.000 quân chiếm giữ các mục tiêu ở khu vực lòng chảo này. Nhưng do sự hoạt động mạnh của lực lượng vũ trang Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, chúng phải huy động tới 50.000 quân hoạt động ở vòng ngoài và tiến hành các. cuộc hành quân giải tỏa. Càng kéo dài thời gian phòng thủ Khe Sanh, sự thiệt hại càng nặng nề, mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán, giữa chiếm đóng và cơ động, giữa cố giữ và rút khỏi Khe Sanh diễn ra ngày càng sâu sắc trong nội bộ chỉ huy quân Mỹ. Do vậy, sự sa lầy ở Khe Sanh đã góp phần kéo theo sự thất bại từng bước của Mỹ - ngụy trên khắp các chiến trường miền Nam trong năm 1968.

Đánh giá thắng lợi Khe Sanh, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “cuộc thắng lợi của ta ở Khe Sanh tỏ rõ mưu lược và sức mạnh vô địch của quân dân và cán bộ ta, nó góp phần xứng đáng vào thắng lợi to lớn của toàn miền Nam từ đầu xuân đến nay, cùng với những thắng lợi của ta ở các chiến trường khác, nó mở đường cho những thắng lợi to lớn hơn nữa" (Chú thích: Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr.489.)

Sau chiến thắng Khe Sanh, Bộ quyết định cho Sư đoan 308 hành quân ra hậu phương miền Bắc để bổ sung lực lượng, vũ khí trang bị và tổ chức huấn luyện bộ đội. Trên chiến trường Bắc Quảng Trị, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 quyết định giao nhiệm vụ cho Sư đoàn Đồng Bằng lật cánh về triển khai lực lượng ở khu vực núi rừng từ Cam Lộ đến nam Hướng Hóa (dọc đường 9), ngăn chặn âm mưu đánh chiếm các điểm cao khống chế bắc đường 9 của Mỹ - ngụy trong mùa mưa 1968.

Trung đoàn 64 trở lại chiếm các điểm cao từ Cam Lộ đến An Thái, liên tục đánh địch trên đường 9. Ngày 5 tháng 8, tiểu đoàn 7 bắn rơi 1 trực thăng, diệt và làm bị thương gần 100 tên địch khi chúng hành quân thăm dò khu vực điểm cao 168. Ngày 7 tháng 8, tiểu đoàn 9 mở trận tiến công đánh thiệt hại nặng 1 đơn vị địch ở Tân Phú Ấp.

Để chủ động đánh địch, tiểu đoàn 8 đưa 1 đại đội ra bố trí ở khu vực đồi chữ Y. Sáng ngày 1 tháng 8, hai chi đoàn xe tăng, xe bọc thép chở 1 đại đội bộ binh Mỹ ra đồi chữ Y để ngăn chặn sự tiến công của ta.

Chờ địch lọt vào khu "quyết chiến điểm", hỏa lực B40, B41, ĐKZ của ta cùng phát hỏa. Sau 15 phút chiến đấu quyết liệt, ta tiêu diệt 6 xe bọc thép, 20 tên địch. Số còn lại hoảng sợ rút lên đồi co cụm gọi viện binh ứng cứu.

Bị đánh ở điểm cao 166, Phú Tân Ấp, đặc biệt là khu vực đồi Chữ Y, Bộ chỉ huy Vùng I chiến thuật cùng bộ tư lệnh sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ rất cay cú. Giữa tháng 8, chúng dùng trung đoàn 9, trung đoàn 26 lính thủy đánh bộ, lữ đoàn 11 và 27 kỵ binh không vận, 3 chiến đoàn xe tăng, mở cuộc hành quân "Lam Sơn 250" đánh phá vùng Cam Lộ - nam Hướng Hóa.

Do chủ động bố trí lực lượng trên những địa bàn hiểm yếu chờ đón đánh địch kịp thời nên liên tiếp trong hai ngày 16 và 17 - 8, tiểu đoàn 7 Trung đoàn 64 đã đánh bại 2 đợt tiến công lấn chiếm các điểm cao 75 và 163, loại khỏi vòng chiến đấu một bộ phận quan trọng sinh lực và bắn rơi 2 máy bay (1 chiếc HU.1A, 1 chiếc AD.6) của địch.

Cùng trong thời gian trên, để thực hiện nhiệm vụ được giao, tiểu đoàn 5 Trung đoàn 52 được tăng cường một bộ phận hỏa lực ĐKZ đã cơ động nhanh chóng chiếm lĩnh dãy điểm cao Khe Sóc, Ba Lào và vận chuyển lương thực, thực phẩm thuốc chữa bệnh lên dự trữ để đảm bảo chiến đấu dài ngày nếu địch tổ chức bao vây điểm cao. Hệ thống công sự trận địa trên đỉnh Khe Sóc và Ba Lào được xây dựng kiên cố và ngụy trang cẩn thận nên tiểu đoàn 7 đã tạo được thế uy hiếp mạnh đối với Tân Lâm.

Ngày 25 tháng 8 sau khi dùng bom đạn đánh phá liên tục xuống khu vực điểm cao không thành công, địch cho 4 máy bay trực thăng đổ quân xuống sườn đông bắc Khe Sóc, hòng "nhảy cóc" chiếm các điểm cao. Bất chấp bom đạn địch đánh phá ác liệt, lực lượng ta bố trí sẵn, nổ súng mãnh liệt vào đội hình địch, hỏa lực ĐKZ bắn cháy 2 trực thăng khi chúng đang đổ quân. Nhiều tên lính địch đã bị tiêu diệt ngay khi vừa bước ra khỏi máy bay. Số sống sót tháo chạy tán loạn vào rừng liền bị ta truy kích tiêu diệt. Nhân đà thắng lợi tiểu đoàn 5 đã cho lực lượng đánh chiếm điểm cao "300 đá" nằm kế cận đường 9. Những ngày sau đó địch dùng đến 3, 4 tiểu đoàn liên tiếp tập kích chiếm các điểm cao nhưng vẫn không thành công.

Giữa tháng 9, địch tập trung 2 lữ đoàn kỵ binh không vận, 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ tổ chức bao vây đội hình chốt giữ khu vực 3 điểm cao của ta. Do vậy ở các điểm chốt Khe Sóc, Ba Lào ta gặp khó khăn nghiêm trọng: thiếu gạo, đạn, thuốc bệnh, thương binh không vận chuyển được... Mặc dù vậy, tiểu đoàn 5 vẫn kiên quyết không bỏ trận địa. Hàng ngày, cán bộ, chiến sĩ thay phiên nhau đi kiếm rau rừng, bắt cua cá dưới suối nấu ăn thay cơm và chiến đấu giữ vững trận địa chờ tới khi liên lạc được với trung đoàn.

Để chi viện cho các đơn vị phía trước, được sự chỉ đạo của Bộ tư lệnh Quân khu 4, đảng bộ và nhân dân Quảng Bình đã đưa 6 tiểu đoàn bộ binh, 6 đại đội đặc công, 2 tiểu đoàn phòng không, 3 tiểu đoàn pháo cối, một số lớn thanh niên xung phong và dân công vào đường số 9 thay chân các đơn vị của Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ra hậu phương củng cố. Kết hợp với Sư đoàn 320 và lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Quảng Trị, các đơn vị vừa vào đã tập kích, phục kích trên đường giao thông, bắn pháo cối vào căn cứ 241, Cồn Tiên, Dốc Miếu; phục kích tàu địch trên sông Cửa Việt gây cho địch nhiều thiệt hạị.

Sang tháng 10 năm 1968, sau khi đã chủ động cản phá được cơ bản cuộc hành quân "Lam Sơn 250” của lính thủy đánh bộ và kỵ binh không vận Mỹ, Sư đoàn 320 được Bộ tư lệnh Mặt trận cho rút quân về tỉnh Hà Tĩnh để củng cố và huấn luyện chuẩn bị cho mùa hoạt động mới. Như vậy bằng các chiến thuật vây hãm, vây lấn các cụm cứ điểm phòng ngự, tập kích, phục kích đánh phá giao thông, đánh bại các cuộc hành quân giải tỏa quy mô vừa và lớn của địch, năm 1968 lực lượng vũ trang đường 9 - Bắc Quảng Trị loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1 vạn tên địch (lúc cao nhất, lực lượng địch tập trung ở đây lên đến hơn 6 vạn tên, chủ yếu là quân chiến đấu Mỹ); bắn rơi, bắn hỏng gần 200 máy bay các loại, bắn cháy, bắn chìm hàng chục tàu xuồng vận tải trên sông, phá hủy phá hỏng hơn 70 xe quân sự, hơn 40 pháo cốt.. thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Bộ Tổng tư lệnh giao, đó là: thực hiện đòn nghi binh chiến lược thu hút giam chân và tiêu hao một bộ phận quan trọng quân chủ lực cơ động của quân đội Mỹ, để quân và dân toàn Miền tiến hành thắng lợi cuộc tiến công và nổi dậy năm Mậu Thân 1968.

Thắng lợi của cuộc tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, làm phá sản chiến lược "Chiến tranh cục bộ” tạo ra bước ngoặt quyết định trong chiến tranh.

Để góp phần tạo nên thắng lợi đó, lực lượng vũ trang Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã phải chịu một tổn thất khá lớn. Những kinh nghiệm tác chiến được đúc rút qua một năm chiến đấu là những bài học giá trị cho các đơn vị trên Mặt trận nâng cao sức mạnh chiến đấu và phát triển nghệ thuật quân sự, tiếp tục chiến đấu thắng lợi trong những năm tiếp sau.

CHƯƠNG IV

TRONG CHIẾN DỊCH TIẾN CÔNG TRỊ - THIÊN 1972

1. Tiến công giải phóng tỉnh Quảng Trị.

Bước vào Đông Xuân 1971- 1972, tình hình cách mạng ở miền Nam nước ta diễn ra hết sức sôi động. Sau thắng lợi có ý nghĩa chiến lược Xuân-hè năm 1971 của quân và dân ba nước Đông Dương, Cục diện chiến tranh đã thay đổi quan trọng. Chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ bị thất bại nặng nề. Mỹ - ngụy buộc phải chuyển hẳn vào thế phòng ngự chiến lược. Quân ngụy Sài Gòn tuy còn trên một triệu quân, được Mỹ viện trợ trang bị thêm nhiều súng đạn và phương tiện kỹ thuật chiến tranh nhưng sức chiến đấu đã bị sa sút trầm trọng. Việc bổ xung quân gặp nhiều khó khăn.

Quân Mỹ sau đợt rút quân tháng 3 năm 1972 còn khoảng 9,5 vạn tên, nhưng trên thực tế đã chấm dứt hoạt động chiến đấu bằng bộ binh trên chiến trường. So sánh cục diện chiến tranh, rõ ràng "Ta đang ở thế thắng, thế đi lên! Mỹ - ngụy đang ở thế thua, thế đi xuống". Nhưng với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, với tiềm lực chiến tranh lớn chúng vẫn tiếp tục thực hiện những âm mưu và hành động chiến tranh phiêu lưu nhằm chống lại nhân dân ba nước Đông Dương, thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" rút dần số quân Mỹ còn lại, tạo điều kiện mặc cả với ta trên thế mạnh trong hội nghị Pa ri, đồng thời để xoa dịu phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ, tạo thuận lợi cho Ních - xơn tái cử tổng thống trong cuộc bầu cử vào cuối năm 1972.

Trước tình hình đó, tháng 8 năm 1971 Bộ Chính trị họp ra nghị quyết về phương hướng hoạt động quân sự năm 1972 là mở nhiều chiến dịch tiến công trên chiến trường Đông Dương, trọng điểm là chiến trường miền Nam, đẩy mạnh đánh phá "bình định” của địch ở nông thôn, đưa phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị lên một bước mới, phát huy thế chủ động chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam, tạo ra một bước chuyển biến cơ bản, tiến lên thay đổi cục diện chiến tranh. Theo phương hướng đó, Bộ Chính trị đề ra nghị quyết cụ thể mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên các hướng miền Đông Nam Bộ, Trị - Thiên, Tây Nguyên, trong đó miền đông Nam Bộ là hướng tiến công chủ yếu đánh vào đây sẽ tác động mạnh tới Sài Gòn.

Nhưng thông qua diễn biến của chiến trường, nhất là việc chuẩn bị vật chất cho chiến trường miền Đông Nam Bộ tuy có nỗ lực lớn nhưng chưa đảm bảo yêu cầu, nên đầu tháng 3 năm 1972 Quân ủy Trung ương quyết định thay đổi hướng tiến công chiến lược chính sang chiến trường Trị - Thiên, Miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên chuyển thành hướng quan trọng, và sẵn sàng đưa một bộ phận chủ lực thọc sâu xuống đồng bằng khi có thời cơ. Có sự thay đổi như vậy là vì ở chiến trường Trị - Thiên sát với hậu phương chiến lược miền Bắc, ta có thể tập trung lực lượng và bảo đảm vật chất cho một chiến dịch quy mô lớn, dài ngày. Thêm nữa, cho đến lúc này, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ vẫn cho rằng hướng tiến công chiến lược chính của ta vẫn là chiến trường Tây Nguyên, nên đã điều động phần lớn sư đoàn dù (lực lượng dự bị chiến lược) và các lực lượng chủ lực của quân khu 2 lên cao nguyên trung phần...

Quyết tâm mới của Quân ủy Trung ương được Bộ Chính trị thông qua ngày 11 tháng 3 năm 1972. Cũng trong hội nghị, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên 1972, trong đó có cả sáp nhập Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó tổng tham mưu trưởng được cử làm tư lệnh; Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy. Các đồng chí Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cương, Doãn Tuế, Phạm Hồng Sơn, Lương Nhân, Nguyễn Anh Đệ làm Phó tư lệnh. Đồng chí Hồ Sỹ Thản, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị cũng tham gia Đảng ủy Bộ tư lệnh chiến dịch.

Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Uỷ viên Bộ Chính trị Tổng tham mưu trưởng được cử làm đại diện của Quân ủy Trung ương trực tiếp chỉ đạo hướng chiến lược quan trọng này.

Sau khi phân tích tình hình địch, ta trên chiến trường Trị - Thiên (đặc biệt là tỉnh Quảng Trị), Quân ủy Trung ương xác định chiến dịch tiến công Trị -Thiên 1972 có một số nhiệm vụ chủ yếu như sau:

- Tiêu diệt phần lớn lực lượng quân sự địch ở Trị -Thiên, cơ bản tiêu diệt cho được 2 sư đoàn và đánh thiệt hại nặng 1 sư đoàn khác.

- Phối hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn đồng bằng, đẩy mạnh phong trào đô thị và công tác binh vận; tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, đánh bại kế hoạch bình định của địch.

- Giải phóng phần lớn địa bàn Trị -Thiên, có điều kiện thì kiên quyết giải phóng toàn bộ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Tiêu diệt, phân tán, giam chân, thu hút lực lượng địch, phối hợp với các chiến trường khác giành thắng lợi chung cho cuộc tiến công chiến lược 1972. . .

Trong những nhiệm vụ trên thì hai nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch và hỗ trợ cho quần chúng trên cả ba vùng nổi dậy là quan trọng bậc nhất. Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết với nhau. Muốn phong trào quần chúng nổi dậy mạnh mẽ thì phải có những đòn tiêu diệt sinh lực địch, phá thế kìm kẹp của địch; mặt khác, muốn tiêu diệt nhanh gọn sinh lực địch mở rộng địa bàn hoạt động nhất thiết phải có sự đấu tranh hỗ trợ của nhân dân.

Căn cứ nhiệm vụ của Quân ủy Trung ương giao cho, ngày 15 tháng 3 năm 1972 tại Bãi Hà (Vĩnh Linh), Đảng ủy, Bộ tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên họp bàn triển khai kế hoạch tác chiến. Đảng ủy Bộ tư lệnh chiến dịch nghiên cứu sâu thêm về nhiệm vụ quân sự năm 1972 của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương trên chiến trường miền Nam nói chung và chiến trường Trị -Thiên nói riêng. Đồng chí Lê Trọng Tấn thay mặt Đảng ủy Bộ tư lệnh chiến dịch báo cáo tình hình và nhiệm vụ, nội dung cơ bản như sau:

Chiến trường Trị - Thiên (nhất là Quảng Trị) là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng trong hệ thống phòng ngự chiến lược của địch. Trong thời gian qua, mặc dầu bị đánh đau nhiều, binh lực bị hao tổn nặng, nhưng địch vẫn ngoan cố, không chịu rút bỏ một điểm nào. Ngay từ cuối năm 1971, Mỹ - ngụy đã phán đoán hướng tiến công chiến lược chính năm 1972 của ta không phải là Trị - Thiên, nhưng chúng vẫn tăng cường phòng vệ, ráo riết hành quân, tung biệt kích thám báo thăm dò, phát hiện lực lượng và sự chuẩn bị của ta.

Đến trung tuần tháng 2 năm 1972, lực lượng địch ở Trị - Thiên gồm có: 2 sư đoàn bộ binh (1, 3), 2 lữ đoàn lính thủy đánh bộ (147, 258), 4 tiểu đoàn, 94 đại đội bảo an, 302 trung đội dân vệ, 5.100 cảnh sát, 14 tiểu đoàn pháo binh (258 khẩu), 3 thiết đoàn 184 xe tăng, thiết giáp. Với lực lượng trên, địch tập trung bố phòng trên hai hướng Quảng Trị và Thừa Thiên, lấy Quảng Trị làm trọng điểm, ở đây luôn luôn có 5 trong số 8 trung đoàn chủ lực địch.

Lực lượng địch bố trí thành ba tuyến.

Tuyến ngoài cùng (giáp ranh giữa ta và địch), chúng bố trí tương đối chặt chẽ, liên hoàn; có không gian rất rộng kéo dài từ biển Đông đến sát biên giới Việt -Lào, có nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, phá hoại sự chuẩn bị của ta từ xa. Lực lượng bảo vệ tuyến này là không quân, pháo binh, biệt kích; khẩn cấp lắm thì dùng một bộ phận nhỏ chủ lực hành quân càn quét.

Tuyến giữa, tuyến phòng thủ cơ bản quan trọng nhất, quyết định nhất trong hệ thống phòng thủ của chúng. Đó là các điểm cao, các căn cứ mà từ lâu Mỹ - ngụy đã từng huênh hoang tuyên bố "bất khả xâm phạm": Động ông Do, các điểm cao 52, 365, 548, 597, 241, 544... kéo tới tận Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang, Cửa Việt. Nhiệm vụ của tuyến này là ngăn chặn cuộc tiến công của ta, bảo vệ các thị xã, thị trấn, các căn cứ, đường giao thông quan trọng và các vùng đã "bình định" của địch. Trên tuyến này, địch tổ chức thành từng khu vực phòng thủ cấp trung đoàn, tiểu đoàn hoặc tương đương, vừa có thể liên kết phòng giữ vừa có thể độc lập tác chiến.

Tuyến trong cùng - còn gọi là tuyến phòng thủ dự bị - từ đường số 1 kéo ra biển Đông gồm các thị trấn, thị xã đông dân: Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị. Binh sĩ ở hướng này có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với bảo an dân vệ kìm kẹp, đánh phá các phong trào đấu tranh, hoặc nổi dậy của quần chúng.

Dựa trên cơ sở phân tuyến, sư đoàn 3 và các lữ đoàn phối thuộc tổ chức phòng thủ ở Quảng Trị thành năm khu vực cấp trung đoàn. Trung đoàn 57 bố trí từ Quán Ngang đến Dốc Miếu. Trung đoàn 2, từ Bái Sơn đến Cồn Tiên. Trung đoàn 56, từ điểm cao 241 đến nam Tân Lâm, lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ từ Mai Lộc đến Động Toàn... Lữ đoàn 258 từ Tân Điền đến điểm cao 36 7. Sở chỉ huy sư đoàn 3 đóng tại Ái Tử. . .

Nhìn chung chỗ mạnh cơ bản của địch là hệ thống phòng ngự kiên cố, vững chắc được xây dựng và hoàn chỉnh từng bước trong gần hai mươi năm nay. Đây là những cứ điểm lợi hại, có hệ thống hỏa lực mạnh đã được tính toán chi li cho pháo binh, pháo hạm và không quân Mỹ có thể khống chế được một vùng rộng lớn hai bên nam bắc sông Bến Hải. Nhưng chỗ yếu cơ bản của chúng là bên ngoài mạnh, bên trong sơ hở. Vả lại, từ khi bộ binh Mỹ rút, tinh thần binh lính ngụy hoang mang, quân dự bị chi viện lại rất yếu và thiếu . . .

Căn cứ tình hình địch triển khai trên chiến trường, chiến dịch tổ chức thành bốn cánh quân và sử dụng các lực lượng tác chiến trên từng cánh như sau:

- Cánh bắc, cánh chủ yếu, sử dụng Sư đoàn 308 (thiếu một trung đoàn), 2 trung đoàn bộ binh (48, 27), tiểu đoàn l5 độc lập, 2 trung đoàn pháo mặt đất (164, 84), 1 trung đoàn pháo cao xạ (284), 2 tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp; 2 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn đặc công (33), 3 trung đội hoá học, trinh sát, súng phun lửa... do đồng chí Phạm Hồng Sơn, Phó tư lệnh chiến dịch và đồng chí Hoàng Minh Thi, Phó chính ủy chiến dịch trực tiếp chỉ huy, phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt trung đoàn 57 và trung đoàn 2 bộ binh (thuộc sư đoàn 3) ở điểm cao 544, Đồi Tròn, Động Mã, Cồn Tiên, thừa thắng bao vây tiêu diệt Miếu Bái Sơn, Quán Ngang, sẵn sàng diệt địch ở Hồ Khê, Đá Bạc, Thiện Xuân, Lăng Cô, Gia Bình... Sau khi đã tiêu diệt toàn bộ các mục tiêu nói trên, nhanh chóng chuyển sang bao vây tiến công cụm cứ điểm Đông Hà, kiên quyết không cho địch co cụm đối phó.

- Cánh tây, sử dụng Sư đoàn bộ binh 304, trung đoàn pháo binh 38, bốn trung đoàn pháo cao xạ (230, 232, 241, 280), 2 tiểu đoàn tên lửa, 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn công binh do đồng chí Hoàng Đan, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 chỉ huy, đảm nhận tiến công tuyến phòng ngự phía tây của địch ở Động Toàn, Ba Tum, vây ép Ba Hồ; nếu địch phản ứng có thể tổ chức tiêu diệt trước thời gian quy định, nhằm thu hút địch cho các cánh khác chuẩn bị. Sau đó, toàn cánh phối hợp với cánh bắc chiếm Núi Kiếm, bao vây tiêu diệt các cứ điểm 241, Mai Lộc, Đầu Mầu, sẵn sàng tiến công tiêu diệt Ái Tử.

- Cánh nam do Sư đoàn 324 (thiếu 1 trung đoàn) cùng các đơn vị phối thuộc, phối hợp chặt chẽ với 3 tiểu đoàn địa phương tỉnh Quảng Trị, do đồng chí Giáp Văn Cương, Phó tư lệnh và đồng chí Lê Tự Đồng, Phó Chính ủy Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ huy, có nhiệm vụ tiêu diệt địch ở nam và bắc sông Thạch Hãn, chủ yếu là khu vực Phượng Hoàng, Động ông Do và một đoạn đường số 1 bắc sông Mỹ Chánh, thực hiện thật tốt chia cắt chiến dịch, hỗ trợ cho nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng nổi dậy diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ. .

- Cánh đông, cánh thứ yếu của chiến dịch, kéo dài trên một dải đất hẹp từ Hoàng Hà, Mai Xá lên ngã ba Gia Độ hầu hết là những doi cát trắng và những cánh đồng quanh năm ngập nước. Ở đây, tuy cơ sở cách mạng vững, bộ đội địa phương và du kích tự vệ có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, đa số nhân dân theo cách mạng, nhưng đường cơ động của bộ đội chủ lực khó, nhất là việc triển khai binh khí kỹ thuật cơ giới. Mặt khác, bọn địch chốt giữ khu vực này từ lâu đã có hệ thống phòng thủ vững chắc, thông thạo địa hình, phản ứng nhanh, pháo hạm và giang thuyền nhiều, gây cho ta không ít khó khăn trở ngại. Từ tình hình đó Bộ tư lệnh quyết định sử dụng tiểu đoàn 47 bộ đội Vĩnh Linh, 2 tiểu đoàn đặc công (31, 25), một tiểu đoàn vận tải mang vác, 4 đại đội địa phương và đoàn đặc công hải quân 126, do đồng chí Bùi Thúc Dưỡng, Tham mưu phó chiến dịch chỉ huy, đảm nhiệm bao vây Dốc Miếu, Quán Ngang từ phía đông, tiêu diệt căn cứ hải thuyền Cửa Việt, phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt và làm tan rã lực lượng kìm kẹp của địch, hỗ trợ quần chúng Do Linh, Triệu Phong nổi dậy giành quyền làm chủ.

Về phương châm, phương pháp chỉ đạo và thực hiện tác chiến, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Chính ủy chiến dịch nhấn mạnh: Cần tranh thủ đánh dã ngoại để tiêu diệt sinh lực địch và phương tiện chiến tranh, tạo thời cơ đánh những trận quyết định tiêu diệt từng trung đoàn, lữ đoàn địch, phá vỡ tuyến phòng thủ, nhanh chóng đột phá tung thâm, không cho chúng đối phó. Đồng thời phát huy cao độ uy lực của mọi loại binh khí kỹ thuật hiện có, đánh tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, coi trọng đánh vừa và nhỏ, đánh sâu và hiểm bằng những lực lượng tinh nhuệ, hỗ trợ cho nhân dân tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên nổi dậy giành quyền làm chủ. Đó vừa là ý chí quyết tâm vừa là tình cảm thiêng liêng của cán bộ, chiến sĩ trên Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Khẩu hiệu "Tất cả vì Quảng Trị thân yêu”, "Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, phải trở thành tâm huyết của mỗi người. Trong chiến đấu dù gặp phải khó khăn gian khổ, ác liệt hy sinh đến mấy cũng đập tan hệ thống phòng ngự mà một thời Mỹ - ngụy đã rêu rao "Kiên cố nhất chiến trường Đông Dương”, là "bất khả xâm phạm".

Tiếp theo Hội nghị Đảng ủy Bộ tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên, ngày 19 tháng 3 năm 1972, Thường vụ Tỉnh ủy và Tỉnh đội Quảng Trị đã họp bàn thực hiện nhiệm vụ. Tinh thần nghị quyết nêu rõ: Quân và dân trong tỉnh tích cực chuẩn bị mọi mặt, phối hợp với bộ đội chủ lực, tận dụng mọi thời cơ thuận lợi, động viên mọi khả năng, nhanh chóng khắc phục những khó khăn, vượt qua hy sinh, ác liệt đánh bại mọi kế hoạch bình địch của địch, giành quyền làm chủ hầu hết nông thôn đồng bằng, giải phóng 75% đến 95% dân số...

Sau khi thảo luận cân nhắc kế hoạch tác chiến, Thường vụ Tỉnh ủy và Tỉnh đội Quảng Trị quyết định lãnh đạo, tổ chức chỉ huy lực lượng vũ trang địa phương thành hai hướng:

- Hướng bắc gồm hai huyện Do Linh, Cam Lộ và thị xã Đông Hà do đồng chí Nguyễn Thư, Uỷ viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng quân sự tỉnh phụ trách.

- Hướng nam gồm hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng và thị xã Quảng Trị do đồng chí Nguyễn Đức Dũng, Phó bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Nguyễn Văn Lương, ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy đảm nhiệm.

Cuối tháng 2 năm 1972, khi thời điểm chiến dịch càng đến gần thì nhịp độ chuẩn bị hoàn thiện cho tác chiến càng khẩn trương hơn bao giờ hết. Bên cạnh việc tăng cường trinh sát kỹ các mũi, hướng, đưa các tổ đài kỹ thuật luồn sâu bám nắm địch, báo cáo kịp thời cho chỉ huy các cấp xử lý các tình huống xảy ra; mở gấp và hoàn chỉnh các mạng đường tiến công, Bộ tư lệnh chiến dịch bắt đầu ra lệnh cho các cánh quân hành quân vào vị trí dừng chân, nhanh chóng bổ sung đầy đủ vật chất trang bị chiến đấu; đồng thời tiếp tục chỉ đạo nghi binh chiến dịch. Trong nghệ thuật chiến dịch, điều quan trọng hàng đầu là phải giữ được bí mật, tạo được bất ngờ. Đối với một chiến dịch quy mô lớn như chiến dịch Trị - Thiên năm 1972, với mức độ huy động lực lượng lớn, với hàng nghìn công tác chuẩn bị phức tạp; giữ được bí mật, tạo được bất ngờ là điều hết sức khó khăn, nhưng cũng hết sức cần thiết.

Để đảm bảo tốt cho nghi binh chiến dịch, Bộ chỉ huy chiến dịch đã chỉ đạo Tỉnh đội Quảng Trị thực hiện một số trận đánh cài thế ở cánh nam và cánh đông để lừa địch. Các bộ phận cơ động chuẩn bị chiến dịch, chủ yếu dựa vào hệ thống thông tin hữu tuyến tại chỗ của các đơn vị để sử dụng, tuyệt đối không dùng vô tuyến liên lạc. Tổ đài vô tuyến của Sư đoàn 304 tiếp tục được lệnh hành quân vào Tây Nguyên, thường xuyên phát lên không trung những chỉ thị, mệnh lệnh giả . . .

Đối với công tác hậu cần, do chuyển hướng chiến dịch rất khẩn trương, thời gian chuẩn bị chiến dịch rất ngắn, trong khi đó phải đảm bảo một khối lượng vật chất rất lớn, nên trên đường vào tham gia chỉ đạo chiến dịch, Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng đã trực tiếp làm việc với đồng chí Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần đang công tác ở Đoàn 559 và đồng chí Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh 559 kế hoạch tập trung bảo đảm cho chiến dịch Trị - Thiên.

Đến ngày 26 tháng 3 năm 1972, mọi công việc chuẩn bị cho chiến dịch đã cơ bản hoàn thành. Cục Vận tải Đoàn 559 và Đoàn vận tải Quân khu 4 cùng 50.000 dân công hỏa tuyến của các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, hàng nghìn thanh niên xung phòng, bằng các phương tiện vận chuyển ô tô, xe thồ, mang vác tập kết được 16.020 tấn hàng đạt yêu cầu thời kỳ đầu của chiến dịch.

Có được thành tích to lớn trong bước cài thế chuẩn bị chiến dịch, cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận chẳng những phải nỗ lực vượt bậc để thực hiện nhiệm vụ trên giao, mà còn phải biết vận dụng những kinh nghiệm trong lãnh đạo chỉ huy chiến dịch, chiến đấu trên mỗi cương vị chỉ huy của mình. Ở chiến trường Quảng Trị, kinh nghiệm này không chỉ mới xuất hiện trong chiến dịch năm 1972, mà còn ở tất cả các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược trong những năm tháng đánh Mỹ. Vì thế, kẻ thù ở Mặt trận Đường 9 -Bắc Quảng Trị không chỉ bị bất ngờ vì các chiến dịch có nhiều sư đoàn, binh đoàn chủ lực của Bộ tham dự, mà còn bị bất ngờ trước các trận chiến đấu của các trung đoàn bộ binh 27, 246, Đoàn đặc công hải quân 126, Trung đoàn pháo binh 84, hai tiểu đoàn đặc công 31, 33... thường xuyên có mặt trên chiến trường, làm cho Mặt trận luôn luôn sôi động. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện cài thế chiến dịch, đội hình hành quân rất lớn của ta vẫn vấp phải thương vong, phần lớn do địch đánh phá theo kế hoạch trên tuyến giao thông vận chuyển chiến lược, chiến dịch và sự chuẩn bị chiến trường của ta. (Chú thích: Tổn thất: hy sinh 34, bị thương 75; hỏng 4 pháo mặt đất, 17 pháo cao xạ, 8 xe tăng, 12 xe xích, 39 ô tô.)

Cuối tháng 3 năm 1972, khi các binh đoàn chủ lực của ta đã cài thế chiến dịch xong và sẵn sàng lao vào trận quyết chiến, thì bọn tướng tá ngụy và quan thầy của chúng vẫn sa vào thế "mê hồn trận" chưa đoán định được hướng nào là hướng chính của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của ta. Chính Nguyễn Văn Thiệu và những người giúp việc của y sau tết nguyên đán Nhâm Tý đã liên tục bay đi thị sát các chiến trường; ở đâu y cũng chỉ nhắc nhở vài câu, đại ý: Cộng quân Bắc Việt sẽ tiến công, nhưng khả năng không bằng Mậu Thân năm 1968. Và, quân lực Việt Nam Cộng hòa sẵn sàng chiến đấu chống sự xâm lăng của cộng sản. Phan Bá Hòa, đại tá tỉnh trưởng Quảng Trị thì tỏ ra lạc quan với "tình hình an ninh Quảng Trị đã đạt tới một trăm phần trăm" và tuyên bố "quân lực Việt Nam Cộng hòa đã quét sạch đối phương", "Việc phát triển bình định đã hoàn thành”. Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn bộ binh 3 trấn ải bắc Quảng Trị tuy không lộ rõ niềm hân hoan như đại tá Hòa nhưng cũng tỏ ra "lạc quan trước sự yên ổn của tỉnh Quảng Trị". Vì vậy theo kế hoạch, cuối tháng 3 Vũ Văn Giai vẫn cho các đơn vị trong sư đoàn thay quân: tiểu đoàn 2 (trung đoàn 2) từ Đông Hà ra Cồn Tiên; tiểu đoàn 3 (trung đoàn 66) từ Cồn Tiên vào Tân Lâm, Đầu Mầu; tiểu đoàn 3 (trung đoàn 2) thay tiểu đoàn 1 ở điểm cao 544, v.v...

Mãi đến ngày 29 tháng 3, khi mà Phan Bá Hòa và Vũ Văn Giai đang chuẩn bị nghênh đón trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh quân đoàn 1, quân khu 1 ra úy lạo thiết đoàn 20 ở Đông Hà thì chúng mới phát hiện ra "mấy sư đoàn tinh nhuệ với hỏa lực tối đa của cộng sản" đã thình lình xuất hiện tấn công vào "Phòng tuyến Mắc Na-ma-ra’, thì thầy tớ chúng mới cuống cuồng lo đối phó. Hàng loạt bức điện khẩn cấp từ Ái Tử, Đông Hà, Quảng Trị được phát về Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn "báo cáo về tình hình nguy cấp sẽ diễn ra ở Quảng Trị”. Đề nghị với quân đoàn 1 và quân lực Việt Nam cộng hòa nhanh chóng cho tăng viện ở Quảng Trị.

Sáng ngày 30 tháng 3 năm 1972, theo thường lệ Bộ tư lệnh chiến dịch giao ban nắm tình hình và kiểm tra lần cuối mọi công tác chuẩn bị cho giờ G (giờ nổ súng của chiến dịch), thì vào lúc 8 giờ 30 phút đồng chí Kim Hùng Trưởng phòng quân báo của mặt trận báo cáo "trung đoàn 56 ngụy đang thay quân ở điểm cao 544 và Đồi Tròn". Với vẻ mặt đầy hào hứng, vui vẻ như đã vượt qua khó khăn trong quá trình chuẩn bị chiến dịch, Tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn nói: "Đây là thời cơ nổ súng tốt nhất, đảm bảo bất ngờ nhất, vì địch chưa biết thời điểm tấn công của ta! Kế hoạch là 16 giờ mới nổ súng, nhưng ta đề nghị cho đánh ngay vào 11 giờ 30 phút trưa nay!".

Chiến dịch tiến công Trị - Thiên được bắt đầu bằng trận đánh địch thay quân ở khu vực điểm cao 544. Khoảng 10 giờ, đội hình hành quân tiểu đoàn 2 địch lọt hẳn vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 3 do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Huy Hiệu và chính trị viên Trần Xuân Gừng chỉ huy ở bình độ 322 và 288. Tuy chưa đến giờ quy định của Mặt trận, nhưng tiểu đoàn vẫn quyết định nổ súng không chỉ vì bọn địch chủ quan, sơ hở, mà cái chính là tiêu diệt được bọn địch ở đây, sẽ tạo thuận lợi cho tiểu đoàn bạn và cả trung đoàn nhanh chóng đánh chiếm điểm cao 544 và Đồi Tròn.

Sau hơn một giờ chiến đấu, tiểu đoàn 3 được sự chi viện của hỏa lực ĐKZ, cối 82 của trung đoàn đã tiêu diệt gọn tiểu đoàn 2, bắt sống tiểu đoàn trưởng Hà Thúc Mẫn, phá tan kế hoạch thay quân của địch.

Thắng lợi của tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 27) càng làm cho tiếng súng mở đầu chiến dịch thêm giòn giã. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 3 năm 1972, tại sở chỉ huy chiến dịch, lệnh tấn công Quảng Trị được phát ra. Cả mặt trận lao vào chiến dịch quyết chiến với quân thù.

Mở màn chiến dịch, hàng chục trận địa pháo binh với hàng trăm khẩu đại bác các loại, theo phần tử đã được tính toán sẵn, cùng gầm lên một lúc như sấm rền chớp giật lan tỏa cả một vùng không gian rộng lớn từ Dốc Miếu, Cồn Tiên, Dốc Sỏi, Miếu Bái Sơn đến điểm cao 544, Đồi Tròn, Đầu Mầu, Tân Lâm, Động Toàn, Đông Hà, Ái Tử... Ngay từ phút đầu, pháo binh ta đã bắn trúng hàng loạt các mục tiêu quy định dìm đầu quân địch tạo điều kiện cho bộ binh và xe tăng áp sát mục tiêu.

Tại cánh bắc, các trung đoàn bộ binh 27 và 48 (Sư đoàn 320B) sau một đêm hành quân vượt qua những bãi mìn, những toạ độ pháo cối của địch, triển khai trận địa, nóng lòng chờ đợi giờ nổ súng. Khi giờ "G” mới điểm, pháo chiến dịch thi nhau giã xuống các căn cứ địch, Trung đoàn 27 ào ạt đánh lên điểm cao 544. Sau hai mươi phút chiến đấu, các chiến sĩ tiểu đoàn 2 đã cắm cờ giải phóng lên căn cứ địch. Thừa thắng xốc tới, tiểu đoàn 2 tiếp tục tiến xuống bao vây công kích Đồi Tròn. Cùng lúc với hỏa lực cối, ĐKZ, 12,7 ly bắn phá mãnh hệt, tiêu diệt hỏa điểm lộ; trung đoàn cho tiểu đoàn sử dụng hai bộ vũ khí FR mở tung hai cánh cửa, ào căn cứ địch. Bọn địch hoang mang định rút chạy. Chớp thời cơ, bộ đội ta ào ạt tiến lên, vừa truy kích, vừa gọi hàng, vừa tiêu diệt những tên ngoan cố chống cự. Đến 10 giờ sáng ngày 31 tháng 3 năm 1972, Trung đoàn 27 đã giải phóng căn cứ Đồi Tròn. Tối hôm đó, một hãng tin phương Tây đã phát đi từ Huế. "Tướng Giai đã để lọt vào tay Quân giải phóng hai căn cứ tiền tiêu cực kỳ quan trọng ở bắc đường số 9 một cách nhanh chóng:. “. Thế là mắt xích quan trọng trong hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra bị chặt đứt.

Hướng Trung đoàn 48; sau khi tiêu diệt địch ở khu vực Quất Xá, cầu Đuồi, quân ta đã nhanh chóng chuyển sang bao vây chi khu Cam Lộ, ngăn chặn địch rút chạy và tăng viện cho đường 9. Trưa ngày 31 tháng 3, để cứu nguy cho đồng bọn đang bị bao vây, địch cho 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 56 có xe tăng, thiết giáp yểm trợ lên giải tỏa và tăng cường giữ sở chỉ huy trung đoàn ở điểm cao 241. Tiểu đoàn 15 và các đơn vị có hỏa lực tăng cường của ta đã chặn đánh quyết liệt bọn này ở cầu Thiện Xuân, buộc chúng phải dừng lại chống đỡ chờ quân tăng viện.

Cùng thời gian này, trên hướng Cồn Tiên, Miếu Bái Sơn, Đoàn bộ binh 31 của ta đã nhanh chóng bao vây chia cắt tiêu diệt bọn địch cơ động ở vòng ngoài; sau đó, cùng lực lượng vũ trang địa phương vây hãm căn cứ Cồn Tiên. Lo sợ trước đòn tiến công như vũ bão của ta, ngay chiều ngày 31 thảng 3, bọn địch còn lại ở Cồn Tiên bỏ căn cứ tháo chạy về Miếu Bái Sơn, mở đầu cuộc rút chạy trên tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch.

Ở cánh tây cánh trọng yếu của chiến dịch, ngay sáng ngày 30 tháng 3, khi sương mù chưa tan hết trên đỉnh căn cứ Động Toàn, cứ điểm Ba Hồ và các thung sâu kế cận, một bộ phận trinh sát của Trung đoàn 66 đã phục kích diệt gọn 1 trung đội địch nống ra lùng sục để phát hiện bàn đạp tấn công của ta. Đến 11 giờ 45 phút trưa, nắng xuân mới bừng lên soi tỏ từng lô cốt đen ngòm trên đỉnh Động Toàn thì cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 304 được chứng kiến một cơn bão lửa đại bác, hỏa tiễn chưa từng thấy trút xuống hàng chục căn cứ địch rải dọc hai bên đường 9, dọc hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra. Những chớp lửa nhằng nhịt, những đụn khói xám xịt như những cái nấm cứ thi nhau trùm lên căn cứ địch.

Chớp thời cơ bọn địch đang hoảng loạn, 11 giờ 55 phút, Phó sư đoàn trưởng Duy Sơn một mặt lệnh cho hai trung đoàn pháo (68, 38) tiếp tục bắn phá Động Toàn, Ba Hồ, Mai Lộc, điểm cao 241; mặt khác, lệnh cho Trung đoàn 9 lợi dụng kết quả pháo bắn, bao vây tiến công quân địch ở điểm cao 252. Trận đánh diễn ra rất ác liệt. Sau 8 giờ chiến đấu, người trước ngã, người sau xông lên, tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 9) đã làm chủ điểm cao 252 và truy kích diệt bọn địch bỏ chạy về điểm cao 245.

Đến trưa ngày hôm sau (31-3), Trung đoàn trưởng Lê San ra lệnh cho tiểu đoàn 2 (trung đoàn 9) tiếp tục bao vây tiến công căn cứ Đầu Mầu - một trong những vị trí phòng thủ quan trọng từ phía tây bắc căn cứ Tân Lâm. Sau hai giờ chiến đấu, được sự chi viện đắc lực của pháo binh chiến dịch, quân ta đã làm chủ căn cứ diệt gọn tiểu đoàn 3 trung đoàn 56 ngụy, bắt sống 31 tên, thu toàn bộ vũ khí, khí tài và quân trang quân dụng. Đầu Mầu bị tiêu diệt, tạo điều kiện thuận lợi để ta đưa lực lượng Trung đoàn 24 và Trung đoàn 9 vào bao vây tiêu diệt bọn địch ở Núi Kiếm và căn cứ 241 - sở chỉ huy trung đoàn 56 ngụy.

Trong khi Trung đoàn 9 phát triển khá thuận lợi thì trên hướng Trung đoàn 66 đánh chiếm Động Toàn gặp rất nhiều khó khăn. Đúng 12 giờ trưa ngày 30 tháng 3, ngay sau khi pháo binh ta bắn phá tạm ngừng. Trung đoàn 66 chia làm ba hướng đã ồ ạt đánh lên điểm cao 548. Tiểu đoàn 7 tổ chức hỏa lực B40, B41 , đại liên bắn phá mãnh liệt các lô cốt tiền tiêu hỗ trợ cho các bộc phá viên dùng bộc phá và mìn định hướng ĐH10 phá rào. Tiểu đoàn 8 tổ chức từng phân đội tiến công đẩy lùi quân địch, nhằm đánh chiếm đầu cầu. . . Nhưng tiểu đoàn lính thủy đánh bộ 4 (lữ đoàn 147) lợi dụng hầm hào kiên cố, vách đá và dốc đứng của Động Toàn chống trả quân ta rất quyết liệt. Nhiều nơi đã xảy ra những trận đánh đẫm máu để giành từng mỏm đất, đoạn hào...

Trận đánh kéo dài tới ngày thứ ba. Với sự yểm trợ đắc lực của hỏa lực các loại, Trung đoàn 66 mới làm chủ được Động Toàn. Cùng thời gian trên, tiểu đoàn đặc công 19 của sư đoàn, bằng lối đánh táo bạo: vây chặt, tiến công nhanh tiêu diệt tiểu đoàn 1 (lữ 147) giải phóng cứ điểm Ba Hồ. Rạng sáng ngày 2 tháng 4, những lá cờ chiến thắng mang tên "Chiến thắng Đầu Mầu”, "Chiến thắng Động Toàn”, "Chiến thắng Ba Hồ”... của Sư đoàn 304 đã phấp phới tung bay trên một loạt các điểm cao phía tây bắc Quảng Trị.

Hiệp đồng tiếng súng tiến công với hai hướng chủ yếu ở cánh đông, Trung đoàn đặc công hải quân 126 táo bạo tiến công duyên đoàn 11 ở cảng và hai bên bờ sông Cửa Việt, khoá chặt quân cảng không cho địch ở biển vào cũng như từ Đông Hà ra. Trong khi đó, căn cứ Dốc Miếu nằm bên trục đường 1 vừa bị pháo kích phá hủy nặng nề, vừa bị vây hãm từ ba phía.

Sáng ngày 1 tháng 4, trước nguy cơ bị tiêu diệt. địch ở Dốc Miếu, Dốc Sỏi hoảng hốt bỏ chạy về Quán Ngang.

Trước tình thế thuận lợi, tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh kết hợp chặt chẽ với bộ đội đặc công, dân quân du kích địa phương tiến công tiêu diệt các lực lượng vũ trang địch ở các thôn ấp, chi khu, đập tan hệ thống kìm kẹp, giải phóng quận lỵ Do Linh, khu tập trung Bến Ngự, Mai Xá Thị, Xuân Khánh, Hà Thượng. . . tạo điều kiện cho nhân dân các xã Do Hà, Do Lễ, Do Mỹ, khu tập trung Quán Ngang nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ.

Cánh nam do Sư đoàn 324 đảm nhiệm. Đêm ngày 29 rạng ngày 30 tháng 3, sư đoàn tổ chức cho Trung đoàn 1 và Trung đoàn 2 cùng các đơn vị phối thuộc hành quân chiếm lĩnh trận địa.

Trên hướng Trung đoàn 1, mặc dù gặp khó khăn do biệt kích, thám báo phát hiện gọi pháo bắn ngăn chặn, nhưng cán bộ, chiến sĩ trung đoàn vẫn lặng lẽ vượt qua những khó khăn ác liệt ban đầu, hình thành thế trận bao vây điểm cao 365 - một điểm cao có tầm khống chế mọi hoạt đông của ta ở nam căn cứ Mai Lộc, bắc điểm cao 367 - một "lá chắn thép" chặn đường quân ta tiến xuống đổng bằng Quảng Trị. Do tính chất quan trọng ấy, địch đã bố trí tiểu đoàn lính thủy đánh bộ 8 (lữ đoàn 147) chốt giữ. Gần 11 giờ, như thường lệ, hai trực thăng từ Ái Tử bay lêu 365 tiếp tế vật chất. Khi cánh quạt trực thăng chưa dừng hẳn và bọn địch còn đang hò nhau lôi đẩy hàng thì lệnh tiến công trên toàn tuyến phát ra. Ngay từ loạt đạn đầu, hai trực thăng đã bốc cháy. Lửa cháy, đạn nổ, khói bay càng phấn khích cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 1 lao vào trận đánh.

Đến 17 giờ, hầu hết hỏa điểm lộ xung quanh căn cứ 365 bị phá hủy. Địch hoang mang cực độ định bỏ chạy. Nhưng mọi con đường về hướng đông đã bị khoá chặt, Trung đoàn 1 lần lượt xung phong tiêu diệt những ổ kháng cự. 18 giờ ta làm chủ hoàn toàn trận địa. Mất điểm cao 365, địch ở điểm cao 367 hoang mang rút chạy về căn cứ Phượng Hoàng.

Sáng ngày 2 tháng 2, trên cánh bắc, sau khi nhận được lệnh thông báo tình hình địch của Bộ tư lệnh chiến dịch. Ban chỉ huy Trung đoàn 48 (sư đoàn 320B) tổ chức triển khai chiến đấu ngay. Trung đoàn cho tiểu đoàn 1 bôn tập tiến công cụm địch hỗn hợp của thiết đoàn 20 đang tiến lên giải tỏa Cam Lộ. Tiểu đoàn 2 phối hợp với đơn vị bạn tiêu diệt cụm địch ở đông bắc chi khu quân sự Cam Lộ. Bị bộ đội ta tiến công từ nhiều phía, một bộ phận của thiết đoàn 20 đi cứu viện bị đánh thiệt hại nặng, số còn lại vượt đồi Cao Hạ tháo chạy về Đông Hà. Thấy quân chi viện bị đánh tan, quận trưởng Cam Lộ và cấp dưới của hắn bỏ chạy không kịp mang theo dấu ấn và tài liệu mật.

Cánh tây bắc, Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) siết chặt vòng vây tiến công mãnh liệt quân địch ở điểm cao 241, căn cứ chỉ huy trung đoàn 56 ngụy. Khiếp đảm sức mạnh tấn công như vũ bão của ta, toàn bộ quân ngụy trong căn cứ gồm chỉ huy, cơ quan tham mưu trung đoàn cùng một tiểu đoàn bộ binh và các đại đội trực thuộc do trung tá trung đoàn trưởng Phạm Văn Đính, thiếu tá trung đoàn phó Nguyễn Vĩnh Phong chỉ huy chấp nhản đầu hàng. Ta chiếm căn cứ, tiếp nhận hàng binh và vũ khí phương tiện. 12 giờ 45 phút ngày 2 tháng 4 toàn bộ khu vực phòng thủ của trung đoàn 56 ngụy bị phá vỡ. Đây là trung đoàn ngụy đầu tiên bị ta tiêu diệt trong chiến dịch.

Phối hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở vòng ngoài, bộ đội đặc công, bộ đội địa phương và các tổ võ trang công tác tỉnh Quảng Trị đã bí mật luồn sâu vào hậu cứ địch mật tập một số mục tiêu ở Đông Hà, Ái Tử, thị xã Quảng Trị khiến cho địch càng thêm bối rối hoang mang. Bộ đội địa phương, du kích hai huyện Do - Cam chia thành nhiều cụm, nhiều khu bám sát các mục tiêu được phân công chuẩn bị đánh địch. Khoảng 2 giờ sáng ngày 31 tháng 3, các lực lượng vũ trang luồn sâu đồng loạt nổ súng vào các mục tiêu, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm, phá các khu tập trung đưa dân về làng cũ. Các xã có lực lượng tại chỗ mạnh như Do Hải, Cùa, Ba Lòng, khi bộ đội chủ lực tiến công áp đảo địch, quần chúng chủ động nổi dậy. Đặc biệt xã Do Hà, tuy bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương chưa đến, nhưng lực lượng du kích ở đây cũng chớp thời cơ nổi dậy diệt địch, giải phóng quê hương.

Ở các xã Cam Chính, Cam Nghĩa, trước giờ nổ súng, các đồng chí ở huyện uỷ Cam Lộ đã phát động trên 2.000 quần chúng tự trang bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy. Trong khu tập trung đồng bào dân tộc thiểu số ở nam Cùa, lực lượng cách mạng vận động 3 trung đội dân vệ làm binh biến, khởi nghĩa cướp xe ô tô của địch, cắm cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng chạy khắp khu tập trung, kêu gọi đồng bào phá ấp chiến lược trở về bản cũ. Ở Ba Lòng, các đội vũ trang công tác vận động được 14 lính ngụy ra đầu thú, tuyển chọn thanh niên tăng cường cho đội vũ trang của xã...

Đến ngày 4 tháng 4, toàn bộ các vị trí địch trên ba cánh cung đông - tây - bắc được mệnh danh "lá chắn thép", “pháo đài bất khả xâm phạm” bị ta xoá sạch. Ta tiêu diệt gọn 1 trung đoàn, đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn và thiết đoàn 20. Bốn căn cứ trung đoàn, 7 căn cứ tiểu đoàn và nhiều căn cứ dã chiến khác đã trở thành bàn đạp để ta tiếp tục tiến công sâu vào tuyến phòng thủ dự bị của địch. Ba huyện Hướng Hóa, Cam Lộ, Do Linh với hơn 10 vạn dân được giải phóng.

Bị mất tuyến phòng thủ vòng ngoài, địch vội vã tăng cường lực lượng đối phó. Ngày 2 tháng 4 năm 1972 Nguyễn Văn Thiệu từ Sài Gòn ra Huế thị sát tình hình và khẩn trương mở cuộc họp với các tư lệnh quân khu, sư đoàn, lữ đoàn bàn cách "ngăn chặn hữu hiệu sự xâm lăng của cộng sản!". Nguyễn Văn Thiệu một mặt khích lệ "tinh thần quả cảm vô song của binh lính đồn trú ở biên ải", mặt khác ra lệnh cho quân khu 1 và sư đoàn 3 bộ binh tổ chức cụm phòng ngự Đông Hà - Ái Tử - La Vang và quyết tâm "tử thủ” tại đó. Đồng thời, Thiệu cũng chỉ thị cho Bộ Tổng Tham mưu ngụy cấp tốc tăng viện cho mặt trận Quảng Trị.

Ngày 4 tháng 4, Mỹ - ngụy không vận lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 từ Sài Gòn ra Mỹ Chánh. Ngày 5 tháng 4, không vận tiếp 3 liên đoàn biệt động quân (4, 5, 6) từ quân khu 2, quân khu 4 ra tăng cường cho Đông Hà, Quảng Trị. Chỉ trong hai ngày, bằng sự nỗ lực cao nhất, chúng đã đưa được 9 tiểu đoàn tới mặt trận nóng bỏng này. Cùng với việc tăng cường lực lượng phòng thủ, chúng ra lệnh cho các lực lượng không quân (kể cả máy bay chiến lược B52) và pháo hạm oanh kích ngăn chặn sự tiến công của ta. Địch lợi dụng các điểm cao còn lại ở phía tây tổ chức thành tuyến phòng thủ liên hoàn, hỗn hợp bộ binh xe tăng với lối đánh phân tán nhỏ, di động nhanh để tránh hỏa lực và tránh bị tiêu diệt lớn.

Trước diễn biến phức tạp của tình hình này, ngày 6 tháng 4 năm 1972, Bộ tư lệnh chiến dịch nhận định: Địch tuy đã tăng cường lực lượng nhưng chưa được củng cố, tinh thần đang hoang mang, nếu ta đánh nhanh, đánh mạnh thì chúng sẽ tan vỡ. Bộ tư lệnh quyết tâm tiến công vào khu trung tâm phòng ngự của địch, không cho chúng kịp củng cố thế trận.

Về sử dụng lực lượng, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định dùng Sư đoàn 308 (thiếu Trung đoàn 88) được tăng cường Trung đoàn 28 và 2 đại đội xe tăng, tiến công tiêu diệt địch co cụm ở Đông Hà - Lai Phước; Sư đoàn 304 (thiếu Trung đoàn 66) tiến công địch ở Ái Tử, khống chế cầu Quảng Trị chặn đường rút lui của địch; Sư đoàn 324 (thiếu) đánh địch ở La Vang, Tích Tường, cắt giao thông quốc lộ số 1 đoạn từ cầu Nhùng đến cầu Mỹ Chánh. Trung đoàn 27 và tiểu đoàn 47 được hai đại đội xe tăng chi viện, thọc sâu vu hồi ở cánh đông diệt địch hỗ trợ nhân dân nổi dậy làm chủ hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng.

Sau hai ngày chuẩn bị cơ sở vật chất và điều chỉnh lực lượng vào khu vực tác chiến, đúng 15 giờ ngày 8 tháng 4, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các cụm pháo binh bắn phá mãnh liệt cụm căn cứ Đông Hà - Ái Tử - La Vang. Tiếp đó, cho các mũi hướng bộ binh cơ giới lợi dụng pháo bắn và đêm tối dâng đội hình chiếm lĩnh trận địa.

Đến 5 giờ sáng ngày 9 tháng 4, trên hướng Đông Hà do Sư đoàn 308 đảm nhiệm. Trung đoàn 36 và Trung đoàn 102 được xe tăng, thiết giáp yểm trợ đột phá mãnh liệt bọn địch trên một cánh cung dài 8 km từ chùa Tám Mái (tây bắc Đông Hà) sang điểm cao 32, qua dãy động Quai Vạc. Sau hai giờ chiến đấu, bộ binh và xe tăng ta đã chiếm được một số mỏm đồi ở phía bắc và phía tây, tiêu diệt được một số tổ chốt hỗn hợp xe tăng và bộ binh địch. Nhưng sau đó bị địch tổ chức phản kích nhiều lần rất quyết liệt, quyết đánh bật quân ta ra khỏi các vị trí mới chiếm được, Trung đoàn 36 đã phải điều phân đội xe tăng dự bị từ phía sau lên đột phá giữ trận địa. Các chiến sĩ xe tăng của ta thiếu kinh nghiệm chiến đấu, lại có phần chủ quan nên bị xe tăng và súng chống tăng địch nằm bí mật trong công sự bắn cháy 3 xe. Bộ đội ta phải chiến đấu vất vả mới giữ được trận địa .

Ở phía tây Ái Tử, 5 giờ sáng ngày 9 tháng 4, Trung đoàn 24 Sư đoàn 304 được xe tăng yểm trợ chiếm căn cứ Phượng Hoàng - một vị trí sống còn của Ái Tử. Chiều cùng ngày, địch tăng quân phản kích chiếm lại. Đến 17 giờ ngày 10 tháng 4, sau hai lần tập trung đột phá quyết liệt ta mới chiếm lại được.

Ở cánh đông, hai tiểu đoàn đặc công (19, 25) và tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh bí mật vượt sông Cửa Việt tiến công địch ở một số xã phía bắc huyện Triệu Phong. Nhưng bọn bảo an dân vệ ở đây được lính chủ lực hỗ trợ đã chống trả quyết liệt, ta bị tổn thất không đủ sức chốt giữ đành phải rút sang phía bắc sông Thạch Hãn để củng cố chấn chỉnh.

Như vậy, qua hai ngày tiến công địch trên tuyến phòng thủ cơ bản Đông Hà - Ái Tử - Quảng Trị, các đơn vị của ta không những không làm chủ được các mục tiêu được giao, trái lại còn bị những tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến đấu. Sở dĩ gặp trở ngại đó là vì chúng ta không nắm được sự thay đổi về hình thức chiến thuật phòng ngự của địch - một hình thức chiến thuật phòng ngự di động mà chúng gọi là "chiến thuật di tản".

Tư tưởng chủ yếu của chiến thuật này là tận dụng khả năng chống đỡ của vỏ thép và sức cơ động lớn xe tăng, thiết giáp trên địa hình đồi bằng liên tục, kết hợp với bộ binh thành từng cụm gồm một tiểu đoàn bộ binh và một chi đoàn thiết giáp. Trong từng cụm, chúng phân thành từng tốp nhỏ. Các cụm liên hoàn yểm trợ cho nhau thành tuyến phòng ngự. Ở vòng ngoài, chúng luôn luôn thay đổi vị trí, ngày ở chỗ này, đêm ở chỗ khác. Xe tăng được ngụy trang kín đáo nằm trong công sự nhô tháp pháo lên thành một hỏa điểm mạnh. Chưa phát hiện được ta, chúng bí mật nằm yên. Khi phát hiện được, chúng thông báo cho nhau hợp đồng chống cự hay phản công. Ở vòng trong, chúng dựa vào hệ thống công sự xi măng cốt thép, dựa vào cấu trúc vững chắc của thị trấn, thị xã và địa hình phức tạp của đồi trống, làng xóm để tạo cho các tuyến phòng ngự có một chiều sâu nhất định. Ở Đông Hà, Ái Tử, chiều sâu đó khoảng bốn đến năm ki-lô-mét. Ngoài ra, chúng còn dựa vào hỏa lực không quân chiến lược, chiến thuật, hệ thống pháo hạm từ ngoài khơi và một mạng lưới pháo binh mặt đất vừa ngăn chặn từ xa, vừa yểm hộ trực tiếp cho các trận đánh. Nhiều nguồn tin còn cho biết: đây là "chiến thuật trâu rừng” do tướng A-bram khởi xướng, đã được lính Mỹ áp dụng ở Mặt trận Đường 9 -Bắc Quảng Trị trong những năm 1969 - 1970.

Sau khi chỉ đạo cho các đơn vị tổ chức rút kinh nghiệm đợt chiến đấu không thành công ấy, Bộ tư lệnh chiến dịch đã kịp thời phát hiện thiếu sót của tư tưởng chủ quan, nóng vội, chưa nắm chắc địch. Nhưng một câu hỏi rất cấp thiết buộc những người lãnh đạo chỉ huy chiến dịch và sư đoàn cần nghiên cứu và trả lời nhanh chóng, đó là làm thế nào để tiêu diệt lực lượng quân địch lớn đang tập trung cố thủ với chiến thuật "phòng ngự cứng” có xe tăng, thiết giáp yểm trợ này. Chưa tìm được câu trả lời đó, chưa thể nói tới giành thắng lợi ở Đông Hà - Ái Tử - Quảng Trị - La Vang. Bằng trí tuệ tập thể và kinh nghiệm chỉ huy tác chiến dày dạn, Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch đã tìm được giải pháp để chỉ đạo các đơn vị tác chiến.

Đối với các cụm phòng ngự Đông Hà - Ái Tử - La Vang (đặc biệt là Đông Hà - Ái Tử) rõ ràng không thể dùng lối đánh "ồ ạt”, "chớp nhoáng” để đập tan các cụm phòng ngự ấy bằng một đòn, mà ta phải đập tan nó bằng nhiều đòn liên tục nhằm làm rạn vỡ từng đoạt tiến tới đập tan nó bằng một đòn quyết định.

Để trả lời cho chủ trương đúng đắn đó, từ ngày 10 đến 25 tháng 4, trên các hướng quân ta vừa chuẩn bị cơ sở vật chất cho đợt chiến đấu lớn, vừa tổ chức đánh những trận nhỏ nhằm tiêu hao sinh lực địch, giữ vững vị trí đứng chân.

Trên cụm tác chiến Đông Hà, Sư đoàn 308 chỉ thị cho Trung đoàn 36 đang giữ bàn đạp làng Tây Trì (bắc Đông Hà) tổ chức các trận đánh phục kích tiêu hao lực lượng bộ binh và xe tăng địch, sau đó tiến công tiêu diệt tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 57 ngụy ở các điểm cao 30 và 28... Trung đoàn 102 khẩn trương chấn chỉnh duy trì lực lượng mạnh để cơ động đánh liên tục, đồng thời tổ chức đánh nhỏ lẻ ở các điểm cao 25, 32, 30 vừa tiêu diệt địch vừa tạo bàn đạp ở tây nam Đông Hà và cầu Lai Phước. Trung đoàn 48 (đơn vị tăng cường) thanh chóng củng cố đội hình, tích cực hoạt động ở tây và nam Tân Vĩnh. Trung đoàn pháo binh 58 đưa tiểu đoàn 10 lựu pháo 122 vào chân động Quai Vạc để vươn tầm bắn hiệu quả tới Trung Chỉ, Đại Áng.

Trên cụm tác chiến Ái Tử, Sư đoàn 304 tổ chức cho Trung đoàn 9 đánh một số trận vào An Đôn, Nham Biều, áp sát cầu Quảng Trị vừa co cụm kéo địch ra ngoài để tiêu diệt, vừa thực hiện ý đồ chia cắt chiến dịch. 2 giờ 30 phút ngày 10 tháng 4 năm 1972, tại đây đã diễn ra trận chiến đấu vô cùng dũng cảm của trung đội Mai Quốc Ca - một tập thể anh hùng làm cho quân thù khiếp sợ, nhân dân hết lòng mến phục. Tập thể đó, sau khi cùng các trung đội trong đại đội đánh sập cầu Quảng Trị đã bám chắc địa bàn thực hiện "một tấc không đi, một ly không rời” với tinh thần 1 thắng 100, đánh bại 3 lần tiến công của 3 tiểu đoàn địch. Hai mươi dũng sĩ ấy đã bám trụ kiên cường trước bom đạn địch, chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chia cắt chiến dịch.

Đặc biệt trong đợt hoạt động tạo thế này, lần đầu tiên quân ta đã sử dụng vũ khí chống tăng B72. Trong trận đánh ngày 23 tháng 4, các khẩu đội B72 Lục Vĩnh Tưởng, Lê Văn Trung được sự hỗ trợ đắc lực của các phân đội bộ binh đã tiêu diệt 14 xe tăng thiết giáp, gây cho địch nỗi kinh hoàng về huyền thoại "đạn có mắt”, "bắn đâu trúng đấy” của quân ta. Tóm lại, trong đợt hoạt động tạo thế 15 ngày này, ta diệt hơn 2.000 tên địch, bắt sống gần 40 tên, làm hạn chế bước triển khai phòng thủ địch. Nhưng điều chủ yếu và trước hết là quân ta đã tìm ra "bí quyết” của chiến thuật co cụm cứng bằng xe tăng thiết giáp địch. Đánh bại "Chiến thuật trâu rừng”, tất yếu ta sẽ đánh bại hoàn toàn cụm phòng thủ của địch ở Đông Hà - Ái Tử - La Vang.

Trong lúc Bộ tư lệnh Mặt trận và các cánh quân của ta ở Quảng Trị đang dốc sức hoàn thiện lần cuối phương án tác chiến tiến công tiêu diệt tập đoàn phòng ngự địch ở Đông Hà - Ái Tử - La Vang giải phóng tỉnh Quảng Trị, thì trên các chiến trường ở miền Nam quân dân ta đang thu nhiều thắng lợi lớn.

Ngày 7 tháng 4, quân dân miền Đông Nam Bộ tiến công giải phóng quận lỵ Lộc Ninh; ngày 14 tháng 4, quân dân Tây Nguyên đập tan tuyến phòng thủ tây sông Pô Cô do 2 lữ đoàn dù địch chốt giữ; tiếp đó (ngày 20 tháng 4) đánh chiếm quận lỵ Đắc Đô - Tân Cảnh; ngày 1 tháng 5, giải phóng Võ Định, bao vây thị xã Kon Tum. Ở đồng bằng Trung Bộ, ta đánh chiếm Bồng Sơn, Tam Quan... toàn Miền hình thành sự phối hợp tác chiến rất chặt chẽ.

Thắng lợi dồn dập của quân dân Tây Nguyên, Nam Bộ, Trung Trung Bộ càng thúc giục quân dân Quảng Trị khẩn trương hoàn thành mọi công tác chuẩn bị để bước vào đợt tác chiến mới.

Đến ngày 26 tháng 4, lực lượng địch bố trí trên chiến trường Quảng Trị so với thời kỳ đầu có biến động không đáng kể:

- Cánh chủ yếu Đông Hà - Lai Phước, địch vẫn giữ nguyên trung đoàn 57 (sư đoàn 3) mới chạy từ Cồn Tiên, Miếu Bái Sơn về "giữ vai trò trọng yếu” trong phòng ngự thị trấn Đông Hà; sẽ cùng với 2 liên đoàn biệt động quân (4, 5) và 2 thiết đoàn (17, 20) có nhiệm vụ ngăn chặn tiến tới đẩy lùi "quân địch" khỏi Đông Hà, Sông Hiếu... thu hồi những phần đất đã mất.

- Khu sân bay, kho tàng, hậu cứ Ái Tử do trung đoàn 2 (sư đoàn 3), lữ đoàn lính thủy đánh bộ 147 và thiết đoàn 11 đảm nhiệm, phối hợp chặt chẽ với hướng chủ yếu Đông Hà bảo vệ bằng được các tiền đồn ở đông căn cứ Phượng Hoàng, nam Tân Vĩnh, kiên quyết không cho "địch” phát triển từ hướng tây xuống và từ hướng sông Thạch Hãn lên.

Cả khu vực Đông Hà - Lai Phước - Ái Tử được trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh quân khu 1 giao cho đại tá Nguyễn Trọng Luật người đã từng "nướng” gần hết thiết đoàn 17 ở Bản Đông trong chiến dịch "Lam Sơn - 719" ở Đường 9 - Nam Lào tháng 3 năm 1971, làm chỉ huy trưởng.

- Cụm La Vang - Long Hưng, địch bố trí liên đoàn biệt động quân 1, lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 và 2 chi đoàn thiết giáp, 2 trận địa pháo hỗn hợp đảm trách ngăn chặn các đợt tiến công "tạt sườn" của bộ đội ta vào các điểm cao phía tây thị xã Quảng Trị, bảo vệ bằng được trục đường 1.

Tất cả các lực lượng ở "Mặt trận Quảng Trị’ được Nguyễn Văn Thiệu và Hoàng Xuân Lãm một lần nữa giao cho chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn bộ binh 3 chỉ huy.

Thông qua việc bài binh bố trận, ta thấy chỗ mạnh của địch là đã tổ chức được các cụm phòng ngự lớn, liên hoàn, có chiều sâu, chiều rộng thích hợp, khi xảy ra tác chiến chiến thuật, chiến dịch có thể hỗ trợ cho nhau bảo vệ khu vực phòng thủ; việc vận chuyển đường bộ, đường không, đường biển đang được duy trì và chiếm ưu thế về phương tiện hiện đại; cường độ và số lượng hoạt động của không quân và pháo hạm của địch gia tăng đáp ứng yêu cầu tối đa của các đơn vị tham chiến ở phía trước. Chỗ yếu của địch là tác chiến cải thiện thế phòng thủ không đạt yêu cầu; lực lượng được tăng cường lớn nhưng tư tưởng hoang mang; đội hình phòng thủ bị co hẹp trên một khu vực dài dọc đường 1 có nhiều sông núi ngăn cách, khi tác chiến dễ bị chia cắt, tiêu diệt.

Về phía ta, sau đợt hoạt động tạo thế, quân ta đã tìm ra "bí quyết” của chiến thuật "phòng thủ cứng” của địch, khí thế các đơn vị đang lên, lực lượng ta vẫn sung sức chiếm ưu thế hơn hẳn về xung lực, hỏa lực (trừ máy bay, pháo hạm), những bàn đạp quan trọng ta vẫn giữ vững. Căn cứ tình hình đó, Bộ tư lệnh chiến dịch chủ trương tác chiến và sử dụng lực lượng như sau:

Tập trung lực lượng tấn công tiêu diệt các cụm dịch ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang hỗ trợ cho quần chúng hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng nổi dậy diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ, giải phóng hoàn toàn thị xã Quảng Trị, nắm thời cơ phát triển giải phóng Thừa Thiên.

Hướng tiến công chủ yếu Đông Hà - Lai Phước, hướng phối hợp quan trọng Ái Tử. Đoạn Cầu Nhùng đi Mỹ Chánh là hướng chia cắt chiến dịch; đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng là hướng thọc sâu vu hồi.

Sư đoàn bộ binh 308 cùng các lực lượng tăng cường tiến công Đông Hà - Lai Phước. Sư đoàn bộ binh 304 tiến công cụm cứ điểm Ái Tử, chia cắt địch ở cầu Quảng Trị, đập tan các đợt phản kích, ứng cứu của địch ở Quảng Trị, La Vang. Sư đoàn bộ binh 324 chia cắt địch ở đường số 1 (đoạn Quảng Trị - Mỹ Chánh), kiên quyết đánh bại các đợt giải tỏa ứng cứu của địch ở Huế ra, Quảng Trị vào. Trung đoàn 27 cùng với các tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh được tăng cường 1 tiểu đoàn thiết giáp, 1 tiểu đoàn đặc công thọc sâu vào đồng bằng ven biển Triệu Phong - Hải Lăng với hai nhiệm vụ: bao vây vu hồi chia cắt chiến dịch và hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giải phóng quê hương.

Phương thức tác chiến chiến dịch là hiệp đồng binh chủng chặt chẽ, phát huy cao độ sức mạnh của binh khí kỹ thuật, vừa bắn phá trên toàn tuyến, vừa tập trung diệt từng điểm, từng cụm, quyết bao vây chia cắt chiến dịch; kết hợp đánh vỡ từng mảng tiến tới tiêu diệt hoàn toàn 25 tiểu đoàn bộ binh, 3 trung đoàn thiết giáp cùng toàn bộ lực lượng bảo an và phòng vệ dân sự.

Chiều ngày 26 tháng 4 năm 1972, sau khi kiểm tra lần cuối công tác chuẩn bị, Bộ tư lệnh chiến dịch hạ lệnh cho các cánh quân vào tuyến xuất phát tiến công. Trên suốt dọc chiến tuyến từ tây bắc Đông Hà- Lai Phước đến những dải đồi trùng điệp ở phía tây Ái Tử, La Vang, bộ binh, xe tăng và pháo binh ta nối nhau vào vị trí quy định

Ở hướng Đông Hà - Lai Phước do Sư đoàn 308 đảm nhiệm, Trung đoàn 102 lặng lẽ tiến dọc theo sông Vĩnh Phước, hình thành thế bao vây điểm cao 26, điểm cao 23, dự kiến tiếp phương án phát triển đánh chiếm Đồi Vuông, điểm cao 20.

Trung đoàn 88 chia thành hai mũi bí mật luồn sâu vào bên trong bao vây điểm cao 24. Trung đoàn 36 từ hướng Tây Trì tiếp cận các điểm cao 19 và 28. Trung đoàn 48 tiến vào Tân Vĩnh, xe tăng, thiết giáp phối thuộc các trung đoàn, được lệnh dừng lại cách đội hình bộ binh từ 1 đến 2 km. Đến 4 giờ 35 phút, trên trận tuyến đông Hà, Sư đoàn 308 đã ở tư thế sẵn sàng tiến công.

Hướng Ái Tử, Sư đoàn 304 cho Trung đoàn 9, Trung đoàn 24 áp sát các điểm cao 22, 23, 42. Hướng Đông, Trung đoàn 27, tiểu đoàn 47 và các đơn vị phối thuộc được nhân dân Triệu Phong giúp đỡ vượt sông Cửa Việt tiến sâu vào đồng bằng ven biển.

Sư đoàn 324 ở hướng nam tiến ra đường 1 thực hiện chia cắt chiến dịch. Hai trận đánh nhỏ giữa Trung đoàn 1 với lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ đã diễn ra . .

5 giờ 30 phút ngày 27 tháng 4, sau khi cùng Bộ Tham mưu chiến dịch kiểm tra toàn bộ công tác chuẩn bị chiến đấu của các cánh quân, Tư lệnh Lê Trọng Tấn ra lệnh tấn công.

Bắn mở màn cổ trận quyết chiến chiến dịch vẫn là pháo hạng nặng 130, Đ74, lựu pháo 122, l05, 100, súng cối 160 ly, 120 ly. Đạn hỏa tiễn A12, H12, ĐKB... dội bão lửa lên tất cả các vị trí địch.

5 giờ 30 phút, các sư đoàn bộ binh trên khắp các chiến tuyến được lệnh xung phong.

Hướng Sư đoàn 308, Trung đoàn 88 sau khi cùng xe tăng, thiết giáp vượt qua điểm cao 37 đã chia làm hai mũi đánh vào quân địch chốt giữ vòng ngoài thị trấn Đông Hà. Mũi một tiến xuống đồi Mâm Xôi tiếp giáp với các điểm cao 24. 28. Tại đây một trận ác chiến đã xảy ra. Trước sức tiến công mãnh liệt của ta, bộ binh và thiết giáp địch vừa chống cự và lùi dần về điểm cao 24 nằm cạnh sân bay Đông Hà. Mũi hai luồn sâu chiếm bàn đạp Làng Mới, công kích tiểu đoàn biệt động quân 30, đẩy chúng vào tình thế bị uy hiếp từ nhiều phía. Thấy tình thế bị nguy ngập, bộ chỉ huy địch ở Đông Hà liền cho một chi đoàn thiết giáp lên tăng cường và cho không quân, pháo binh đánh phá tối đa, quyết đánh bật Trung đoàn 88 ra khỏi vị trí vừa chiếm được.

Được tăng viện, tiểu đoàn biệt động quân cùng 12 xe tăng và xe M113 dàn hàng ngang hò hét xông lên tưởng chừng nuốt chửng quân ta. Các chiến sĩ Trung đoàn 88 chờ cho bộ binh, xe tăng địch đến thật gần mới nổ súng. Sau một loạt đạn tên lửa chống tăng B72, B40, B41, 10 xe tăng địch đã bị trúng đạn. Lính biệt động hết chỗ dựa, bất chấp lệnh chỉ huy, bỏ trận địa tháo chạy. Đến 9 giờ, Trung đoàn 88 đã làm chủ các điểm cao 35. 24, 37, đưa lực lượng bộ binh cơ giới thọc sâu bao vây sở chỉ huy trung đoàn 57 ở Đại Áng, Trung Chỉ.

Trên hướng tiến công chủ yếu của Sư đoàn 308 do trung đoàn 102 đảm nhiệm, cuộc chiến đấu diễn ra hết sức ác liệt. Sau đợt pháo bắn yểm trợ, trung đoàn cho một lực lượng áp sát tiêu diệt Đồi Vuông, rồi nhanh chóng chuyển sang bao vây quân địch ở điểm cao 26 và điểm cao 23. Địch dựa vào thế cao, hào sâu có xe tăng yểm trợ chống trả quyết liệt. Trung đoàn đã ba lần tổ chức cho bộ đội xung phong chiếm các điểm cao nhưng đều bị địch đẩy lùi và bị thiệt hại. Trong tình thế cấp thiết đó, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 102 một mặt kiên quyết bám trụ giữ vững trận địa, mặt khác quan sát xem xét sự chống trả của địch. Sau chốc lát quan sát, cán bộ chiến sĩ ta phát hiện ra hai hỏa điểm xe tăng địch chôn ngầm rất lợi hại có thể khống chế sự phát triển của ta. Yêu cầu khẩn thiết tiêu diệt hai hỏa điểm lợi hại đã được một trung đội bộ binh thực hiện. Hai hỏa điểm xung yếu của địch bị diệt, bộ đối ta ào ạt đánh lên, lính ngụy vỡ tổ phá chạy. Trung đoàn 102 lần lượt làm chủ các mục tiêu thuộc các điểm cao 26, 23, 32, áp sát bao vây điểm cao 28. Trận đánh kéo dài hết buổi chiều, nhưng Trung đoàn 102 vẫn chưa diệt được điểm cao 28 để thực hiện chốt chặn tại cầu Lai Phước.

Hai giờ sáng ngày 28 tháng 4, sau khi xem xét lại toàn bộ diễn trình tác chiến ngày 27, Bộ tư lệnh chiến dịch hài lòng nhận thấy bộ đội ta trên các hướng chiến dịch phát triển nhịp nhàng, ăn ý, hoàn thành được các mục tiêu đã giao; tư tưởng tiến công liên tục không cho địch có thời gian hồi sức là rất đúng với sự chỉ đạo của chiến dịch... Nhưng muốn đảm bảo đánh chắc thắng, thắng nhanh, thắng giòn giã, ngay lúc này phải chỉ đạo cho các hướng (đặc biệt là hướng Sư đoàn 308) phải trinh sát thật kỹ, luôn bám sát địch, không để hoạt động nào của chúng thoát khỏi mắt ta. Đồng thời chỉ đạo Sư đoàn 308 tổ chức lại các mũi bộ binh có thiết giáp yểm trợ đột phá ra đường 1 chốt giữ và phá sập cầu Lai Phước. Sư đoàn 304 khẩn trương đánh Ái Tử, Quảng Trị. Sư đoàn 324 phải đánh phản kích thật tốt ở Cầu Nhùng, cầu Bến Đá, chốt giữ chặt đường số 1, kiên quyết thực hiện tốt nhiệm vụ chia cắt chiến dịch.

5 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4 năm 1972, cuộc tiến công quy mô toàn diện của quân dân Quảng Trị vào sào huyệt địch bắt đầu. Mở màn đợt 2 chiến dịch, pháo binh của ta ầm ầm nã đạn. Bốn cụm mục tiêu Đông Hà - Ái Tử - La Vang, thị xã Quảng Trị chìm ngập trong biển lửa 6 giờ, các sư đoàn bộ binh, các trung đoàn độc lập, có xe tăng, thiết giáp yểm trợ đồng loạt mở cuộc tiến công.

Ở hướng Sư đoàn 304, tiếng súng bộ binh nổ ra sớm hơn ít phút. Năm giờ, khi Trung đoàn 24 đang triển khai đội hình phát triển vào Ái Tử thì một cụm địch hỗn hợp (cả bộ binh và xe tăng) chốt ở vòng ngoài phát hiện được ta đã sổ súng. Tình huống đó không làm cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 24 lúng túng. Như phương án đã vạch sẵn, trung đoàn cho một phân đội dựa theo bình độ khuất vòng trái, nổ súng thu hút địch. Quân địch bị đánh, bất ngờ bộc lộ lực lượng tổ chức phản công lại ta. Thế là "tổ con chuồn chuồn" đã bị lộ. Mười hai xe tăng địch và nhiều bộ binh bám theo dàn hàng ngang hùng hổ xông thẳng vào đội hình tiến công của ta. Đúng như kế hoạch hiệp đồng, 2 tiểu đội tên lửa chống tăng B72 được lệnh phát hỏa. Sáu chiếc xe tăng M48 kềnh càng kiêu ngạo của địch lập tức bị bốc cháy. Những chiếc còn lại khiếp sợ "đạn có mắt” vội vàng quay đầu tháo chạy. Bộ binh và xe tăng ta xung phong truy diệt toàn bộ xe tăng và bộ binh lữ đoàn 258 bám theo. Cùng lúc, Trung đoàn 48, sau khi tiêu diệt căn cứ Tân Vĩnh (ngày 27 tháng 4) đã nhanh chóng xốc lại đội hình phối hợp cùng Sư đoàn 304 tiến công vào Ái Tử. Trung đoàn chia làm hai mũi, một mũi phát triển xuống nam Tân Vĩnh hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương diệt ác, phá kìm giải phóng hai xã Triệu Giang,Triệu Ái (Triệu Phong), một mũi tiến xuống nam cầu Lai Phước đè bẹp các ổ kháng cự trên đường rồi thọc thẳng ra sân bay.

12 giờ trưa, hai trung đoàn 24 và 48 được sự yểm trợ đắc lực của xe tăng, thiết giáp mở nhiều cuộc tiến công vào quân địch cố thủ ở sân bay Ái Tử. Địch chống trả điên cuồng, quyết sống chết với ta. Nhiều trận đánh đẫm máu để giành giật từng đoạn hào, từng lô cốt đã diễn ra. Đến 17 giờ 30 phút ta mới chiếm được hơn nửa sân bay. Nhưng quân số hao hụt, đạn dược cạn dần, quân ta phải tạm dừng củng cố, bổ sung rồi mới đánh tiếp.

Ở mũi thọc sâu của Trung đoàn 66 tình hình diễn ra còn phức tạp hơn nhiều. Sau một đêm hành quân vượt qua 23 km mệt mỏi căng thẳng, trung đoàn đã đến nam cầu Quảng Trị triển khai trận địa thực hiện chốt chặn đường 1. Nhưng quân địch ở đây phòng bị rất chặt chẽ. Ngay từ phút đầu quân ta đặt chân đến, chúng đã phát hiện ra và gọi phi pháo đánh chặn rồi phản kích mạnh mẽ quyết đánh bật trung đoàn ra khỏi khu vực Cầu. Tình huống ngày càng phức tạp. Trung đoàn phó Đinh Xuân Nguyên và Chính ủy Nguyễn Van Tời vừa chỉ huy đơn vị lợi dụng địa hình địa vật tổ chức bám trụ phản kích địch, vừa gọi pháo binh chiến dịch bắn mạnh vào hai khu vực đầu cầu phía bắc và phía nam yểm trợ cho quân ta xoay chuyển tình thế phát triển tiến công. Đến 8 giờ sáng, Trung đoàn phó Nguyên tập trung bộ đội đột phá quân địch chốt giữ ga Quảng Trị. Bị đánh bất ngờ, địch núng thế, chống cự yếu ớt rồi lùi ra đường 1. Tận dụng thời cơ thuận lợi, mũi đột phá phía bắc ào lên đánh địch chốt giữ đầu cầu. 12 giờ trưa, Trung đoàn 66 cơ bản làm chủ mục tiêu phía nam cầu và lập tức chuyển sang đánh địch giải tỏa đường 1. Việc đưa Trung đoàn 66 vượt sông Thạch Hãn đánh chiếm phía tây thị xã Quảng Trị không chỉ tạo thế chốt chặn chiến dịch đường rút chạy của địch từ Đông Hà - Ái Tử mà còn trực tiếp uy hiếp sở chỉ huy sư đoàn 3 và cố vấn Mỹ ở thị xã Quảng Trị.

Trên hướng chú yếu chiến dịch do Sư đoàn 308 đảm nhiệm, 5 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4, pháo chiến dịch mới chuyển làn, cả sư đoàn bộ binh và thiết giáp phối thuộc đã đồng loạt tiến công. Trung đoàn 102 ở hướng nam, chia làm hai mũi đánh thẳng ra đường 1 , đánh chiếm cầu Lai Phước chia cắt đội hình địch. Địch dùng xe tăng, thiết giáp phản kích quyết liệt giữ cầu. Tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 9 tập trung súng chống tăng các loại bắn phá diệt 3 xe tăng, 2 ổ đại liên. Phần lớn xe tăng, thiết giáp địch lợi dụng độ cao của đường sắt làm vật che khuất nhô tháp pháo khống chế xe tăng, bộ binh ta. Trung đoàn 102 buộc phải dừng lại điều chỉnh đội hình tác chiến, nên tốc độ phát triển rất chậm.

Hướng Trung đoàn 88, được sự chi viện đắc lực của xe tăng, quân ta tổ chức thành nhiều mũi xung phong đánh chiếm Trung Chỉ, địch không chống cự nổi tháo chạy về Đại Áng. Trong khi đó, Trung đoàn 36 ở hướng bắc thọc thẳng theo đường 1 tràn vào các đường phố Đông Hà. Địch chống cự yếu ớt rồi tháo chạy thục mạng.

8 giờ 30 phút, thông qua sự phát triển chung của chiến dịch, đặc biệt là của Sư đoàn 308, Bộ tư lệnh chiến dịch nhận định: Quân địch ở Quảng Trị thất bại đã rõ ràng, vấn đề chỉ còn là thời gian. Nhưng để tiêu diệt gọn, bắt tù binh, thu vũ khí, các cánh quân cần bảo vệ vững chắc mục tiêu đã giành được, đánh phản kích tốt, kiên quyết không cho địch ứng cứu lẫn nhau. Sư đoàn 308 phải nhanh chóng cắt đứt cầu Lai Phước. Các hướng cần chú ý sự đột biến tan vỡ của địch.

10 giờ, pháo binh chiến dịch và pháo binh Sư đoàn 308 bắn phá mãnh liệt khu vực cầu Lai Phước. Pháo vừa dứt, bộ binh và cơ giới của Trung đoàn 102 bất chấp sự chống cự của đích, ồ ạt phát triển qua đường sắt chiếm ven sông, khống chế hai đầu cầu, bắn cháy một lúc 3 xe tăng địch. Thấy nguy cơ mất cầu Lai Phước - một cây cầu sinh tử đối với địch ở Đông Hà, bọn bảo vệ cầu dồn sức phản kích quyết liệt khống chế mọi hành động của bộ đội. "Phải tiêu diệt ngay chiếc xe tăng địch cách cầu ba mét", trung đội trưởng Dũng thét lớn. Chiến sĩ Bùi Minh Quyết bật dậy xông thẳng vào gần chiếc xe tăng siết cò súng. Chiếc xe tăng trúng đạn bốc cháy, nhưng sau đó Quyết trúng đạn hy sinh cách xe có hơn mười mét.

Dựa thời cơ thuận lợi, công binh vượt lên đặt khối thuốc nổ vào giữa cây cầu. Chỉ trong chốc lát, 120 kg thuốc nổ đã liên kết xong. Hoàng Xuân Lạng điểm hoả. Nhưng khối bộc phá không nổ do nụ xoè bị gãy núm, dây chuyền lửa bị ẩm mất tác dụng gây nổ. Lạng lại lao lên mặt cầu cặp trái lựu đạn vào khối thuốc nổ, giật nụ xòe rồi quay về đầu cầu. Một tiếng nổ long trời chuyển đất phá tung một lỗ thủng lớn đường kính tới 4mn. phá hủy cầu Lai Phước.

Cầu Lai Phước bị cắt đứt như một tiếng chuông báo hiệu giờ cáo chung của căn cứ Đông Hà, đồng thời như một tiếng sét rung chuyển làm bủn rủn quân ngụy khi chúng nhận được tin này. Sư đoàn 308 phấn chấn hẳn lên, lao vào trận đột phá cuối cùng.

Trung đoàn 36 ở phía bắc cưỡi xe tăng theo đường 1 hò reo tràn xuống phía nam. Trung đoàn 102 ở phía nam đánh ngược trở lại. Trung đoàn 88 ở phía tây ép xuống. Toàn bộ quân địch ở Đông Hà hoang mang cực độ bỏ xe cộ khí giới chạy thoát thân. Chúng xông vào các xóm làng ven đường, ven sông tranh cướp quần áo, lột xác làm dân sự. Chúng lao bừa ra sông Thạch Hãn tranh cướp thuyền ghe để vượt sông chạy vào thị xã Quảng Trị. Trên trời máy bay Mỹ quần đảo gầm thét chứng kiến cảnh thê lương của đội quân tay sai. Dưới đất quân ta cưỡi chiến xa xông tới gọi hàng, bắt giữ hàng trăm tên. Hàng trăm tên khác liều mạng vượt sông, thuyền đắm, ghe tan bỏ mạng giữa sông đục ngầu, sùi bọt.

Đến 15 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4, toàn bộ Đông Hà - Lai Phước được giải phóng. Chiến thắng Đông Hà - Lai Phước làm nức lòng đồng bào, chiến sĩ Mặt trận Trị - Thiên.

Chiến thắng Đông Hà - Lại Phước càng thôi thúc cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 304 khẩn trương chuẩn bị lao vào trận đánh ở cụm cứ điểm Ái Tử.

Sáng ngày 30 tháng 4, sau đợt pháo bắn phá hỏa điểm địch, hai trung đoàn 24 và 48 được xe tăng thiết giáp yểm trợ đánh tràn qua sân bay, xông thẳng vào căn cứ Ái Tử chiếm kho xăng và sở chỉ huy sư đoàn 3. Địch ở đây không còn hồn vía nào nghĩ đến chuyện chống đỡ, phá chạy về bến phà Tả Kiên tranh nhau bè chuối vượt sông về thị xã Quảng Trị. Đến 14 giờ ngày 30 tháng 4, ta làm chủ căn cứ Ái Tử.

Trong lúc các sư đoàn 308, 304 và nhiều trung đoàn chủ lực Mặt trận tiến công giải phóng Đông Hà - Ái Tử thì ở hướng đông Trung đoàn 27, tiểu đoàn 47, tiểu đoàn 3 (lữ đoàn 202), tiểu đoàn pháo binh 75 và hàng trăm cán bộ quân dân chính địa phương cũng lao vào trận đánh. Ngày 28 tháng 4, được bà con cô bác huyện Do Linh và một số xã phía bắc huyện Triệu Phong dùng thuyền đưa sang sông, cán bộ chiến sĩ các đơn vị nhanh chóng đánh chiếm Long Quang, Thanh Hội, Vĩnh Hồ. . .

Thừa thắng, quân ta phát triển đánh chiếm các mục tiêu nằm rải rác dọc đồng bằng ven biển hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng. Quân ta đi đến đâu cũng được nhân dân phấn khởi chào đón và phối hợp đấu tranh chính trị, binh vận tới đó. Khi được tin Đông Hà - Ái Tử được giải phóng, Trung đoàn 27 và các lực lượng vũ trang địa phương náo nức chuẩn bị tiến công hệ thống đồn bốt kìm kẹp hơn 10.000 dân ở khu Gia Đẳng. Hàng nghìn bà con cô bác các xã lân cận đốt đuốc, gõ mõ, đánh trống reo hò ủng hộ. Khí thế đấu tranh trào dâng như nước vỡ bờ. Chiều ngày 28 tháng 4 khu tập trung Gia Đẳng được giải phóng thì ngày 29 tháng 4, chi khu quân sự Triệu Phong đầu hàng. Ngày 30 tháng 4, địch ở Linh Chiều, Phương Lang bỏ chạy. Sáng ngày 2 tháng 5 ta diệt nốt chi khu quân sự Hải Lăng.

Đông Hà, Ái Tử, Hải Lăng bị mất, đường số 1 bị cắt đứt nhiều đoạn từ Cầu Nhùng đi Mỹ Chánh. Thấy không còn khả năng chống cự, chỉ huy địch ở Quảng Trị quyết định "rút lui có kế hoạch". Nắm được ý đồ của địch. Bộ tư lệnh Mặt trận đôn đốc Sư đoàn 324 khẩn trương xốc lại đội hình chia cắt chiến dịch, kiên quyết không cho địch bảo toàn lực lượng khi rút chạy.

5 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4, Trung đoàn 1 sử dụng tiểu đoàn 3 tiến công đại đội biệt động quân chấn giữ Cầu Nhùng, diệt 25 tên, phá hủy cầu. 10 giờ địch cho 2 đại đội bảo an từ Thượng Xá phản kích chiếm lại Cầu Nhùng. Một lần nữa, tiểu đoàn 3 lại đánh thiệt hại nặng 2 đại đội, buộc chúng quay về vị trí cũ. Để nối thông con đường sinh tử, 13 giờ chiều cùng ngày, địch cho 1 tiểu đoàn biệt động quân có 8 xe tăng, thiết giáp yểm trợ từ Long Hưng vào "chiếm bằng được Cầu Nhùng”. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 1 vượt qua ác liệt của bom đạn bám trụ kiên cường đánh bại đợt phản kích của địch, thiêu cháy 6 xe tăng và xe bọc thép M113.

Ngày 30 tháng 4, Trung đoàn 2 cho 2 tiểu đoàn 5 và 6 tiến công tiểu đoàn 8 lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 ngụy ở khu vực Tân Điền, mở cửa cho tiểu đoàn 4 đánh địch ở cầu Bến Đá . . .

Ngày 1 tháng 5, thấy Đông Hà, Ái Tử thất thủ, địch ở thị xã Quảng Trị hoang mang cực độ, bắt đầu "rút chạy có kế hoạch". Đó là một ngày cả Sư đoàn 324 chiến đấu dữ dội, ác liệt nhất và gây cho địch nỗi kinh hoàng nhất. Suốt cả ngày địch mở hàng chục đợt tiến công để khai thông đường. Nhưng địch đi đến đâu cũng bị đánh, chạy ngả nào cũng bị chặn. Cả đoạn đường gần 30 km từ thị xã Quảng Trị đến Mỹ Chánh trở thành đoạn đường máu, trở thành "Đại lộ kinh hoàng” đối với quân ngụy.

Đến ngày 2 tháng 5 năm 1972, tỉnh Quảng Trị hoàn toàn được giải phóng.

Như vậy sau hơn một tháng (30-3 đến 3-5-1972) quân và dân Quảng Trị vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, hy sinh, đánh hàng trăm trận lớn nhỏ, diệt và làm bị thương 14.350 tên địch, bắt 3.160 tên; thu, phá hủy 1.870 xe quân sự (có gần 600 xe tăng, thiết giáp) 419 khẩu pháo; bắn rơi, phá hủy 340 máy bay và rất nhiều quân trang quân dụng các loại.

Cùng với chiến thắng ở Tây Nguyên, miền Trung và Đông Nam Bộ, thắng lợi to lớn trên mặt trận Quảng Trị là đòn giáng mạnh vào Mỹ - ngụy, là thắng lợi của ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc của quân và dân cả nước nói chung, của quân và dân Quảng Trị nói riêng. Lần đầu tiên trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, phá tan tuyến phòng thủ kiên cố nhất ở miền Nam Việt Nam. Thắng lợi đó chẳng những thể hiện sức mạnh tiềm tàng của cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện, của nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà còn đánh dấu bước trưởng thành mới của ba thứ quân trong tác chiến hiệp đồng binh chủng nhằm đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ.

II. Chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị.

Sau hơn một tháng tiến công trên toàn miền Nam, quân dân ta đã tiêu diệt hàng vạn tên địch, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, phần lớn tỉnh Kon Tum, vùng phía bắc tỉnh Bình Định và các địa bàn xung yếu thuộc các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, mở ra những vùng hoạt động quan trọng ở đồng bằng Khu 5 và miền Tây Nam Bộ.

Cơ đồ "Việt Nam hóa chiến tranh" mà Mỹ dày công xây dựng trong hơn 3 năm bị sụp đổ từng mảng lớn. Tình hình nguy ngập đó khiến Ních-xơn phải "Mỹ hóa" trở lại cuộc chiến tranh, huy động với cường độ cao nhất từ trước tới nay không quân và hải quân Mỹ đánh phá trở lại miền Bắc và chi viện cho quân ngụy phản kích ở miền Nam. Dựa vào hỏa lực phi pháo mạnh, quân còn đông, trong tháng 5 và tháng 6 Mỹ - ngụy đã tập trung củng cố lực lượng và vạch kế hoạch phản công chiến lược trên toàn miền Nam, lấy Quảng Trị làm hướng phản công chính.

Ở vùng 1 chiến thuật và quân khu 1, sau khi đưa Ngô Quang Trưởng (nguyên tư lệnh quân khu 4 và quân đoàn 4) vào làm tư lệnh quân khu 1 và quân đoàn 1 thay Hoàng Xuân Lãm (bị cách chức), Mỹ - ngụy quyết định đưa lực lượng dự bị quân khu 1 và tổng dự bị chiến lược tổ chức tuyến phòng thủ mới ở nam sông Mỹ Chánh và tây đường 12. Âm mưu của chúng trước mắt nhằm ngăn chặn ta phát triển tiến công vào Huế, đồng thời tích cực chuẩn bị cho một cuộc phản công quy mô lớn nhàm chiếm lại tỉnh Quảng Trị.

Trong tháng 6 lực lượng địch ở Thừa Thiên từ 2 sư đoàn đã tăng lên tương đương 4 sư đoàn (thêm sư đoàn lính thủy đánh bộ và sư đoàn dù) gồm 13 trung đoàn với 44 tiểu đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh và 5 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp. Địch bố trí lực lượng trên hai hướng:

- Hướng đường 1: Sử dụng toàn bộ sư đoàn dù, sư đoàn lính thủy đánh bộ, liên đoàn biệt động quân 1, trung đoàn bộ binh 51 cùng 1 bộ phận lớn pháo binh và xe tăng thiết giáp.

- Hướng đường 12: Sử dụng sư đoàn bộ binh 1 ngụy là chủ yếu.

Địch sử dụng thủ đoạn phòng ngự phân tán di động (kể cả xe tăng, pháo binh), tổ chức phản kích quy mô từ 1 đến 2 trung đoàn, tích cực lấn dũi ra các điểm cao xung quanh, tổ chức các cuộc hành quân quy mô vừa ra hậu phương ta vừa để thăm dò, phá chuẩn bị của ta vừa chuẩn bị hỏa lực cho các cuộc phản công quy mô lớn hơn. Địch đánh phá ác liệt hậu phương chiến dịch bằng không quân, pháo mặt đất, pháo hạm, chủ yếu tập trung vào các đường giao thông, trận địa pháo (riêng máy bay B52 tăng từ trung bình 11 lần chiếc ngày trong tháng 5 lên 51 lần chiếc ngày và cao nhất là l05 lần chiếc ngày trong tháng 6). Sự tham gia hỏa lực trực tiếp với mật độ cao chưa từng có của không quân và hải quân Mỹ là một yếu tố quan trọng làm thay đổi hoạt động tác chiến trên chiến trường không có lợi cho ta.

Về phía ta, sau khi giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, khí thế bộ đội ta rất cao, có tiến bộ về tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, có kinh nghiệm đánh địch co cụm lớn ở địa hình trống trải. Để chuẩn bị cho cuộc tiến công mới (dự kiến từ ngày 20 đến 27 tháng 6), Bộ đã tăng thêm cho Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị Trung đoàn 18 (sư đoàn 325), Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320B) và bổ sung quân số cho một số đơn vị. Nhưng do chiến đấu liên tục, bộ đội ta cũng đã mỏi mệt. Phần lớn các đơn vị quân số hao hụt chưa được bổ sung. Các binh chủng kỹ thuật xe, máy, đạn dược, khí tài dự trữ còn rất ít.

Tuy ta đã nỗ lực chuẩn bị nhưng đến trước ngày nổ súng tiến công đợt 3 hệ thống đường sá xuống phía nam còn phải vừa đánh địch vừa làm đường. Việc đảm bảo vượt sông gặp nhiều khó khăn nên việc vận chuyển gạo đạn lên phía trước không đáp ứng được nhu cầu, có đơn vị phải sử dụng một bộ phận chiến đấu sang làm nhiệm vụ tiếp tế, có đơn vị bộ đội bị đói do thiếu lương thực. Trong việc củng cố vùng mới giải phóng, ta mới lo được việc tổ chức chính quyền, đoàn thể, tạm thời ổn định sinh hoạt của nhân dân, còn kế hoạch chuẩn bị cụ thể về bố phòng chưa được tiến hành khẩn trương và đúng mức.

Tình hình địch đã thay đổi, chúng có ý đồ phản công lớn nhưng lúc này ta vẫn cho rằng khả năng phản công của địch chỉ có thể thực hiện được vào mùa mưa vì phải có thêm từ 1 đến 2 sư đoàn nữa. Trước mắt chúng chỉ có thể tổ chức một cuộc hành quân vừa ra Hải Lăng. Từ nhận định đó ta chủ trương mở một đợt tiến công mới nhằm hoàn thành toàn bộ nhiệm vụ đề ra để đưa cuộc tiến công chiến lược ở Trị - Thiên đến toàn thắng.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương: Trước mắt tiêu diệt tập đoàn chủ yếu của địch, phá vỡ thế phòng thủ của chúng, làm chủ đến giáp sông Hương, không cho địch co cụm ở tuyến sông Bồ, tạo thế có lợi nhất để phát triển tiến công. Sau đó tùy thuộc vào kết quả tác chiến và công tác chuẩn bị chiến trường của ta, sẽ quyết định kế hoạch hoạt động và phương hướng phát triển.

Mục tiêu cụ thể là:

- Tiêu diệt 3 đến 4 trung đoàn địch. Phá vỡ tuyến phòng thủ của địch từ Mỹ Chánh đến bắc sông Hương và từ Động Tranh đến tây sông Hương, bao vây Bình Điền, tranh thủ chiếm lĩnh những địa bàn có lợi, tạo điều kiện cho nhiệm vụ tiếp theo.

- Tiến công và nổi dậy giải phóng nông thôn, trước mắt là các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, và Hương Trà.

- Củng cố và bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị, nhất là các khu vực trọng điểm.

Theo ý định đó, trong 48 ngày chuẩn bị từ ngày 3 tháng 5 đến 19 tháng 6, ta đã liên tục đánh nhỏ tạo thế tiêu diệt được một số sinh lực địch. Song ta cũng bị tiêu hao lực lượng. Do những khó khăn về vận chuyển, không quân địch tập trung đánh phá ác liệt, đợt tiến công thứ 3 của ta từ ngày 20 đến ngày 27 tháng 6 diễn ra không đồng loạt gặp nhiều khó khăn.

Ở hướng đường 1: Theo nhiệm vụ được giao các đơn vị đã tiến công địch trên một diện rộng từ Xuân Lộc, Đá Bạc, núi Cái Mương, núi Cây Lời, núi Yên Bầu, đánh vào phòng tuyến của sư đoàn dù. Trung đoàn 88 Sư đoàn 308 đánh chiếm được một số điểm cao ở núi Cái Mương do tiểu đoàn 7 dù chiếm giữ. Nhưng địch dùng chiến thuật cơ động để lẩn tránh, bám giữ được một số điểm cao quan trọng. Trung đoàn 9 Sư đoàn 304 đánh bật tiểu đoàn dù 9 ra khỏi các điểm cảo 102, 156 làm chủ núi Cánh Giơi. Trung đoàn 66 được 1 đại đội xe tăng chi viện tiến công tiểu đoàn dù 11 ở núi Đá Bạc, Hồ Lầy chiếm được các điểm cao 52, 55 phát triển chiếm được Cầu Nhi và điểm cao 17 ở phía đông đường 1. Tiểu đoàn 2 độc lập chiếm Xuân Lộc. Ngày 24 tháng 6 địch từ Phò Trạch có xe tăng yểm trợ phản kích chiếm lại điểm cao 35 và làng Xuân Lộc. Trung đoàn 24 do chuẩn bị không kịp đến ngày 26 tháng 6 mới tiến công địch ở Cây Lời, Yên Bầu. Địch phản kích quyết liệt, ta và địch ở thế giằng co.

Trên hướng đông: Ngày 19 tháng 6, sư đoàn lính thủy đánh bộ sử dụng các lữ đoàn 147 và 369 hành quân ra hướng Xuân Viên, Đông Dương, Thẩm Khê và hướng Vân Quỹ, Hội Kỳ Phường, buộc ta phải nổ súng trước thời gian quy định. Trung đoàn 18 đánh địch ở Xuân Viên, Đông Dương tiêu hao được một số sinh lực địch buộc chúng phải lui về Thanh Hương, Đại Lộc nhưng ta bị thương vong nhiều phải lui về củng cố. Ngày 23 thảng 6 Trung đoàn 64 Sư đoàn 320B vào thay thế Trung đoàn 27 chặn đánh địch ở Vân Quỹ Bắc và Hội Kỳ Phường. Địch bị thiệt hại phải lui về Vân Quỹ Nam và Phú Kinh.

Mặc dù bị một số thiệt hại nhưng sư đoàn lính thủy đánh bộ vẫn chiếm giữ được các tuyến làng ở nam bắc sông Mỹ Chánh. Lợi dụng địa hình trống trải địch dùng phi pháo ngăn chặn. Trung đoàn 27 của ta bị thiệt hại, không thực hiện được ý định đánh chiếm bàn đạp để vượt sông và phải tạm dừng để củng cố.

Ở hướng đường 12: Ta gặp khó khăn về chuẩn bị vật chất và địch nống ra đánh phá chuẩn bị của ta nên đến ngày 26 tháng 6 các đơn vị mới bước vào tác chiến, chậm mất 5 ngày so với các hướng khác. Trung đoàn bộ binh 1 tiến công 2 tiểu đoàn của trung đoàn 54 ngụy ở nam Khe Thai, ta diệt được một số tên. Trung đoàn bộ binh 3 tiến công 1 tiểu đoàn của trung đoàn 1 ngụy ở điểm cao 372, ta không dứt điểm được mục tiêu. Trung đoàn 6 độc lập tiến công địch ở đèo Sun Na, ta chỉ chiếm được 1 trong số 3 mục tiêu quy định.

Ngày 26 tháng 6 công binh ta đánh cắt giao thông trên đường 1, đoạn nam Phú Lộc. Bộ đội địa phương diệt đại đội bảo an ở Đá Bạc. Một đơn vị đặc công diệt một trung đội dân vệ ở gần sân bay Phú Bài. . .Nhìn chung trong 6 ngày tiến công, các hướng tuy có diệt được một số địch nhưng đều bị chặn lại không thực hiện được kế hoạch (ta diệt được 2.800 tên, bắt sống 25 tên, đánh thiệt hại 7 tiểu đoàn địch nhưng ta không giải phóng thêm được đất đai; trái lại địch lấn ra chiếm thêm được một số khu vực ở hướng tây và bắc sông Mỹ Chánh; ta tổn thất cao hơn 2 đợt tấn công trước). Tình hình trên đặt cuộc chiến đấu đánh địch bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị trước nhiều khó khăn to lớn về cả lực lượng và thế trận.

Trong khi ta mở tiến công đợt 3 không thành công thì địch đã hoàn tất công tác chuẩn bị phản công lớn ra Quảng Trị.

Sau những cuộc hành quân uhỏ đánh ra Hải Lăng để phá chuẩn bị của ta và cuộc hành quân nghi binh ra khu vực Cửa Việt, ngày 26 tháng 6 năm 1972 đội hình phản công của địch ra Quảng Trị đã hình thành trên hai hướng:

- Hướng tây đường 1 (Từ cầu Mỹ Chánh sang phía tây sư đoàn dù do Bùi Thế Lân chỉ huy gồm 3 lữ đoàn 1, 2, 3) được tăng cường thiết đoàn 20 (xe tăng thiết giáp), thiết đoàn 7 (kỵ binh), một tiểu đoàn pháo 155 ly đã triển khai xong đội hình chiến địa. Đây là cánh quân mà Mỹ-ngụy hy vọng sẽ đến thị xã Quảng Trị sớm nhất trong cuộc hành quân "Lam Sơn 72".

- Hướng đông (từ Hải Lăng đến sát biển) do sư đoàn lính thủy đánh bộ của Lê Quang Lưỡng đảm nhiệm được tăng cường thiết đoàn 18 (kỵ binh), 1 chi đoàn xe bọc thép của thiết đoàn 17, 1 tiểu đoàn pháo 155 ly cũng triển khai xong lực lượng, chiến đoàn 4 (gồm trung đoàn bộ binh 4 và thiết đoàn 17 thiếu) là lực lượng dự bị của hướng này cũng đã cơ động xong quân vào vị trí tập kết. Các lực lượng pháo binh của quân đoàn 1 gồm 2 tiểu đoàn pháo 175 ly, 2 tiểu đoàn 105 ly, 1 tiểu đoàn phòng không), sư đoàn không quân 1, hải quân vùng 1 duyên hải, các lực lượng không quân, hải quân Mỹ cũng được lệnh chi viện tối đa cho cuộc hành quân này. Theo đánh giá của giới quân sự Mỹ thì cuộc hành quân này địch yểm trợ mạnh về hỏa lực còn hơn cả cuộc hành quân "Lam Sơn-719" đánh ra khu vực Đường 9 - Nam Lào.

Vào lúc địch triển khai lực lượng phản công, ở hướng đông lực lượng ta có 3 trung đoàn. Trung đoàn 18 sư đoàn 325 sau khi đánh địch ở Xuân Viên, Đông Dương bị mất sức chiến đấu đang củng cố lực lượng ở bắc sông Cửa Việt. Trung đoàn 27 độc lập đang chặn địch ở Vân Quỹ, Hội Kỳ Phường. Trung đoàn 64 Sư đoàn 320B vào thay Trung đoàn 18 làm dự bị của hướng, đứng chân ở An Trú. Đạo Đầu, có 1 tiểu đoàn chặn ở Cổ Lũy, Phương Lang.

Ở hướng tây, Sư đoàn 304 được tăng cường Trung đoàn 88 và tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48 đang đánh địch ở nam sông Mỹ Chánh. Sư đoàn 308 (thiếu 1 trung đoàn) đang trên đường hành quân, lúc này đã tới Phong Điền. Sư đoàn 324 đang đánh địch ở tây đường 12. Các trận địa pháo và phòng không của chiến dịch đang triển khai từ Tường Phước đến Thượng Phước để chi viện cho các đơn vị theo kế hoạch tiến công đợt 3. Như vậy trước cuộc phản công lớn của địch, lực lượng ta từ Tân Điền (bắc sông Mỹ Chánh) đến Quảng Trị chỉ có 3 tiểu đoàn gồm: tiểu đoàn 2 độc lập, tiểu đoàn 8 Quảng Trị và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 48 phòng giữ. Lực lượng chủ yếu của Mặt trận còn đang ở nam sông Mỹ Chánh. Cả thế và lực của ta lúc này đều bất lợi trước cuộc phản công lớn của địch.

Đêm ngày 26 tháng 6, sau khi nghe báo cáo các mặt hoạt động của địch, phán đoán khả năng địch sẽ phản công lớn, Bộ tư lệnh Mặt trận đã lệnh cho Trung đoàn 102 (sư đoàn 308) quay lại cùng Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) ngăn chặn địch trên đường 1 đoạn Tường Phước - Hương Điền; ngày 27 tiếp tục lệnh cho Sư đoàn 308 (lúc này đang ở Phong Điền) trở lại bắc sông Mỹ Chánh để đánh địch trên trục đường 1 và tiếp tục điều chỉnh đội hình chiến đấu của các Sư đoàn 304, 302B.

Nhưng ý định điều chỉnh lực lượng của ta không thực hiện kịp, nhất là ở hướng tây vì thời gian quá gấp và lúc này không quân, pháo binh địch đã đánh phá rất ác liệt các trục đường hành quân. Trừ Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304), không một đơn vị nào khác đến kịp vị trí quy định để đánh địch. Đây là một thuận lợi lớn cho địch trong những ngày đầu triển khai cuộc phản công ra Quảng Trị.

Sau hai ngày đánh phá dữ dội vùng bờ bắc sông Mỹ Chánh, sáng ngày 28 tháng 6 địch bắt đầu cuộc hành quân "Lam Sơn 72" - Phản công lớn ra vùng giải phóng Quảng Trị.

Ở hướng đông 2 lữ đoàn 147, 369 (sư đoàn lính thủy đánh bộ) đánh chiếm các làng phía bắc sông Mỹ Chánh, bị các trung đoàn 64, 27 của ta chặn lại. Cuộc chiến đấu ở khu vực Đông Dương, Diên Khanh, Xuân Viên, Kim Giao diễn ra rất ác liệt, bộ đội ta anh dũng đánh trả đẩy lui hàng chục đợt tiến công của xe tăng và bộ binh địch. Do lực lượng mỏng, các lực lượng ta phải lui dần. Ngày 29 tháng 6 một bộ phận lữ đoàn 258 từ phía sau đổ bộ đường không xuống chiếm khu vực Cổ Lũy, Mỹ Thủy. Một lực lượng khác đổ bộ đường biển vào Thuận Đầu phối hợp với lực lượng trên bộ từ Đông Dương, Xuân Viên đánh lên Hải Lăng.

Cùng thời gian này phía đường 1, sư đoàn dù ngụy đánh vào các trận địa của Sư đoàn 304. Ngay ngày đầu tiên các trận địa của Trung đoàn 66 từ Thượng Nguyên đến Cầu Dài đã tiêu diệt 1 đại đội, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội khác của sư đoàn dù, bẻ gãy một mũi tiến công lên hướng tây của địch.

Trong khi Trung đoàn 66 đánh chặn địch ngay trên trục đường quốc lộ 1 đoạn Cầu Dài và chốt giữ điểm cao 28, thì các đơn vị khác của Sư đoàn 304 tổ chức các trận địa ngăn chặn địch ở Yên Bầu, Cây Lợi thuộc khu vực núi Cái Mương. Sư đoàn liên tục tổ chức những trận phản kích hai bên sườn, chủ yếu là hướng tây, bước đầu đánh bại ý đồ "chiếm thị xã nhanh chóng" trong giai đoạn đầu của địch.

9 Trong những ngày Mỹ-ngụy mở cuộc hành quân "Lam Sơn 72", Thành Cổ là một trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay và pháo hạm Mỹ, cũng là mục tiêu quan trọng nhất của cuộc hành quân. Nhưng đã hơn một tháng qua, lính dù, lính thủy đánh bộ vẫn không chiếm được Thành Cổ.

Để tiếp sức cho lính ngụy ở Mặt trận Quảng Trị, Mỹ-ngụy thành lập thêm chiến đoàn 4 (gồm 1 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn xe tăng, xe bọc thép). Mỹ tăng gấp đôi số máy bay chiến lược B52, triển khai trở lại toàn bộ lực lượng không quân chiến thuật ở miền Nam để chi viện hỏa lực cho quân ngụy; một bộ phận lính thủy đánh bộ Mỹ đã sẵn sàng ở căn cứ Phú Bài, cũng nằm trong lực lượng dự bị của các cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị.

Sau hai đợt tiến công không chiếm được thị xã Quảng Trị, địch sử dụng sư đoàn lính thủy đánh bộ thay sư đoàn dù tiếp tục đánh chiếm thị xã. Chúng mở đợt tập kích hỏa lực "phóng lôi" đánh phá ác liệt các trận địa của ta để chi viện cho lữ đoàn lính thủy đánh bộ 258 lấn dũi vào thị xã, trong khi đó sư đoàn dù sử dụng lữ đoàn 1 đánh vào La Vang, Tích Tường, Như Lệ.

Về phía ta, Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định tăng cường trung đoàn 95 sang thị xã cùng chiến đấu với Trung đoàn 48. Như vậy đến lúc này ở thị xã ta có 2 trung đoàn (48, 95), 2 tiểu đoàn của tỉnh Quảng Trị và tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64. Với lực lượng đó, ta chủ trương đập tan đợt phản kích lần thứ 3 của địch, tiêu diệt một lực lượng quan trọng của lữ đoàn 258 lính thủy đánh bộ, khôi phục lại khu vực đông nam thị xã.

Theo kế hoạch tác chiến chung của toàn Mặt trận, Sư đoàn 308 sử dụng 3 trung đoàn (36, 102, 165) đánh quân dù ở điểm cao 105B, Tích Tường, Như Lệ. Trung đoàn 88 đánh địch ở khu vực bệnh viện và làng Thạch Hãn. Ở hướng đông Sư đoàn 320B sử dụng các trung toàn 27 và 101 đánh vào Nại Cửu, Chợ Sải, các đơn vị trong Mặt trận đã tổ chức chiến đấu ngăn chặn các mũi tiến công của địch ngày càng hiệu quả hơn. Đặc biệt là vào những ngày Mỹ-ngụy tập trung hỏa lực cùng các lực lượng của sư đoàn dù, lính thủy đánh bộ mở những đợt tiến công ồ ạt nhằm đánh sâu vào vùng giải phóng hòng chiếm thị xã Quảng Trị để mặc cả với ta trên bàn đàm phán.

Ở ngã ba Long Hưng, cửa ngõ phía nam của thị xã Quảng Trị, đại đội 5 tiểu đoàn 2 trung đoàn bộ binh 48 do đại đội trưởng Tạ Đình Dọng và chính trị viên Vũ Trung Thướng chỉ huy, cán bộ chiến sĩ đã phát huy tinh thần đoàn kết hiệp đồng, ngoan cường chiến đấu bẻ gãy hàng chục đợt tiến công của địch, tiêu diệt hàng trăm tên giữ vững trận địa, đánh bại ý đồ nhanh chóng đánh chiếm thị xã từ phía nam của sư đoàn dù trong cuộc hành quân "Lam Sơn 72".

Cùng với những trận đánh của Trung đoàn 48 ở khu vực thị xã, các trận đánh của Trung đoàn 165 Sư đoàn 312 ở Như Lệ, Tân Téo, Trung đoàn 95 Sư đoàn 325 ở Tri Bưu, Thạch Hãn; Trung đoàn 36 Sư đoàn 308 ở Tích Tường - La Vang, ta đã ngăn chặn được các đợt tấn công của địch vào phía nam và tây nam thị xã.

Ở cánh đông, cán bộ chiến sĩ trung đoàn 27, Trung đoàn 64 (sư đoàn 320B), Đoàn 1A hải quân... đã bám trụ kiên cường dưới những trận bom hủy diệt của Mỹ-ngụy, để giữ vững vùng giải phóng bảo vệ hướng đông và đông bắc thị xã Quảng Trị. Các đơn vị ở cánh đôngđã hình thành một tuyến "chốt" liên hoàn từ Long Quang, Thanh Hội đến Chợ Sải, An Lộng, Bích La...

Sát cánh chiến đấu cùng bộ đội chủ lực là các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích của hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng tỉnh Quảng Trị. Lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích vừa làm nhiệm vụ dẫn đường vừa phối hợp chiến đấu trong mọi lúc mọi nơi. Bộ đội địa phương tỉnh đã có những trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao như tiểu đoàn 14 đánh địch ở Hội Yên, Gia Đẳng, tiểu đoàn 10 ở Trà Trì, Trà Lộc...du kích các xã Triệu Sơn, Triệu Trạch, Hải Thượng... đã kết hợp nhiều cách đánh táo bạo kể cả bằng cạnh bẫy chông mìn... để tiêu diệt địch bảo vệ quê hương.

Huyện đội phó huyện Hải Lăng Trần Thị Tâm liên tục bám dân, bám đất, cùng tổ du kích xã Hải Quế đánh với một tiểu đoàn địch, có máy bay trực thăng vũ trang chi viện trong suốt một ngày. Phát hiện hầm ẩn nấp của chị, địch dùng rốc-két bắn thắng vào hầm, Trần Thị Tâm bị thương nặng. Trước khi hy sinh, chị đã giấu súng, đốt hết tài liệu để không rơi vào tay giặc Tấm gương chiến đấu, hy sinh anh dũng của Trần Thị Tâm đã được cán bộ chiến sĩ toàn Mặt trận nêu gương, học tập. Chị đã được Đảng và Nhà nước ta truy tặng danh hiệu cao quý: "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

Cũng trên mảnh đất mà bom đạn Mỹ đang "chà đi xát lại” này, du kích và cán bộ cơ sở ngoài nhiệm vụ cùng phối hợp chiến đấu với bộ đội, còn tranh thủ mọi lúc mọi nơi, tìm cách đưa bà con cô bác còn "kẹt” lại ra vùng giải phóng an toàn.

Theo thống kê sơ bộ, trong thời gian địch mở cuộc hành quân "tái chiếm Quảng Trị”, 60 nghìn dân của hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng đã được sơ tán ra Quảng Bình, Vĩnh Linh.

Sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích trên toàn Mặt trân, đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, bẻ gãy các cuộc tiến công ra vùng giải phóng Quảng Trị của Mỹ- ngụy.

Bước sang tháng 8 năm 1972, do yêu cầu công tác, đồng chí Lê Trọng Tấn và đồng chí Lê Quang Đạo về Bộ công tác, đồng chí Trần Quý Hai giữ chức Tư lệnh Mặt trận, đồng chí Song Hào giữ chức Chính ủy Mặt trận.

Cũng trong thời gian này, Bộ Tổng Tham mưu quyết định tiếp tục bổ sung hai trung đoàn 209 và 141 của Sư đoàn 312 cho Mặt trận Quảng Trị.

Mặc dù vừa làm nhiệm vụ ở Mặt trận phía tây về, nhưng khi nhận được lệnh vào chiến đấu ở Quảng Trị, cán bộ chiến sĩ hai trung đoàn đã chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến đấu. Dọc đường hành quân từ Nghệ An, Hà Tĩnh vào chiến trường, các đơn vị của hai trung đoàn đã vượt qua bom đạn của giặc Mỹ đánh phá ác liệt để có mặt đúng thời gian quy định.

Trung đoàn 141 phải nhanh chóng khắc phục hậu quả của bom B52 đánh vào đội hình, để tiếp tục hành quân. Hết gạo, hết thực phẩm các đơn vị vừa hành quân, vừa liên hệ với các địa phương giúp đỡ, để đơn vị không bị đói và vẫn giữ vững tốc độ hành quân. Lúc này, có mặt kịp thời ở Quảng Trị để chia lửa cùng đồng đội bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ thị xã Quảng Trị, là mệnh lệnh thiêng liêng nhất của mọi cán bộ chiến sĩ.

Khi các trung đoàn 209, 141 lần lượt vào chuẩn bị chiến đấu cũng là lúc không quân và hải quân Mỹ thực hiện "kế hoạch phóng lôi" chi viện hỏa lực tối đa để quân ngụy mở đợt tấn công lớn thứ 4 vào thị xã và hướng đông. Sư đoàn dù tiếp tục lấn ra phía tây. Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương tăng cường lực lượng cho các hướng đánh phản kích lần thứ 4 nhằm tiêu diệt từ 2 đến 3 tiểu đoàn địch, phá thế uy hiếp thị xã từ hướng tây và hướng đông.

Sư đoàn 308 được giao nhiệm vụ đẩy địch ra khỏi phía nam thị xã, chiếm lại ngã ba Long Hưng, giữ vững Tích Tường, Như Lệ. Từ ngày 1 đến ngày 16 tháng 8, các đơn vị giữ thị xã tổ chức các trận đánh phản kích ở chùa Bà Năm, khu học xá, trường Bồ Đề, khu Thạch Hãn, nhiều nơi ta đẩy lùi địch được từ 200 đến 300m.

Ở Tích Tường, Như Lệ các Trung đoàn 36, 66 đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn, 2 đại đội địch, diệt gọn hai đại đội trinh sát dù ở Tường Phước. Trung đoàn 24 diệt hai đại đội, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội, giữ vững trận địa. Các trận địa pháo của ta đánh tốt chế áp có hiệu quả các trận địa pháo của địch, phá hủy 44 khẩu pháo 105 và 175 ly, diệt nhiều xe cơ giới và sinh lực địch.

Ở hướng đông, Trung đoàn 101 đánh địch ở Chợ Sải không kết quả. Trung đoàn 27 chiếm được Bích La Trung, Nại Cửu Bắc, một phần Nại Cửu Nam, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ nhưng đơn vị không đủ sức giữ trận địa. Ngày 19 tháng 8 các trung đoàn 88 và 102 đánh ra ngã tư Thạch Hãn, ngã ba Long Hưng nhưng ta chỉ giữ được trận địa một thời gian ngắn.

Mặc dù, các đơn vị ta đã có kinh nghiệm trong xây dựng công sự trận địa nhưng bom đạn Mỹ đánh phá Quảng Trị thời gian này mang tính hủy diệt nhất là khu vực Thành Cổ nên quân số thương vong của các đơn vị đều tăng (trong đó quân số thương vong do bom pháo gấp 2 lần số thương vong của đạn bắn thẳng). Vấn đề đảm bảo sức chiến đấu lâu dài cho các đơn vị phía trước, nhất là các đơn vị trong thị xã Quảng Trị ngày càng khó khăn. Ngoài bom pháo đánh phá liên tục vào các bến vượt của sông Thạch Hãn, sông Cửa Việt, sông Vĩnh Định địch còn thả thủy lôi, bom từ trường trên các cửa sông, các luồng lạch nhằm cắt đứt sự chi viện từ phía sau lên phía trước của ta.

Để tăng cường bộ máy chỉ huy và tổ chức chi viện kịp thời cho cuộc chiến đấu trong thị xã Quảng Trị, từ ngày 9 tháng 8 năm 1972 Bộ tư lệnh Mặt trận đã giao cho Sư đoàn 325 lãnh đạo chỉ huy chung và đảm bảo các mặt cho lực lượng chiến đấu bảo vệ thị xã Quảng Trị, nhưng về tác chiến Bộ tư lệnh Mặt trận vẫn chỉ huy vượt cấp đến Ban chỉ huy khu vực thị xã.

Thực hiện nhiệm vụ của trên giao, Sư đoàn 325 đã tổ chức thêm một Sở chỉ huy nhẹ ở Nham Biều, xây dựng thêm một đường dây cáp điện thoại qua sông liên lạc với Ban chỉ huy thị xã và tổ chức thêm 3 tuyến vận tải đường bộ cùng Sư đoàn 320B chi viện kịp thời cho cuộc chiến đấu đang diễn ra khẩn trương quyết liệt tại thị xã Quảng Trị. Chủ trương đúng đắn của Bộ tư lệnh Mặt trận đã tạo điều kiện đảm bảo phục vụ tiếp tế kịp thời cho các lực lượng ta trong thị xã có đủ sức chiến đấu, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ trong giai đoạn chiến đấu mới.

Cũng trong thời gian này, Ban chỉ huy khu vực thị xã chủ trương luân phiên bổ sung các đơn vị mới vào để rút dần các đơn vị đã chiến đấu dài ngày trong thị xã ra phía sau củng cố.

Về phía địch, sau một thời gian tổ chức đánh vào khu vực La Vang, Tích Tường, Như Lệ, Thành Cổ Quảng Trị không thành công và bị thiệt hại nặng, chúng chuyển hướng đánh mạnh vào phía đông và đông bắc, cố gắng chiếm khu vực nhà thờ Tri Bưu để làm bàn đạp tiến công vào Thành Cổ. Các lực lượng địch đã hình thành tuyến bao vây ở phía nam-đông nam, đông-đông bắc Thành Cổ Quảng Trị. Hành động chiến đấu của địch lúc này cũng có những thay đổi so với trước. Chúng không tiến công ồ ạt như trước mà tập trung phi pháo cao độ để sát thương ta trước khi sử dụng lực lượng mạnh đột kích vào các trận địa, vừa tấn công chính diện vừa sử dụng lực lượng bảo vệ hai bên sườn để đề phòng ta đánh tạt sườn và chia cắt phía sau.

Để khắc phục chỗ yếu của bộ binh, địch đã phát huy cao độ máy bay ném bom chiến thuật, máy bay chiến lược B52, pháo mặt đất, nhất là pháo từ các hạm tàu. Chúng phối hợp chặt chẽ giữa xung lực và hỏa lực; lấy hỏa lực là chính với thủ đoạn chủ yếu là dùng phi pháo thường xuyên, đánh mạnh vào đội hình và các đường tiếp tế của ta; đưa từng phân đội nhỏ "lấn dũi” dần từng bước, khi gặp ta đánh mạnh thì rút lui và tập trung phi pháo đánh mạnh vào đội hình của ta; sau đó tiếp tục tấn công. Để đối phó với pháo binh của ta, tiến đến đâu, chúng làm công sự vững chắc tới đó và khi chiếm lĩnh thì sơ tán đội hình bằng nhiều điểm chốt nhỏ, kết hợp chặt chẽ giữa bộ binh, xe tăng, thiết giáp, trong tiến công cũng như trong phòng ngự.

Tiếp tế của địch từ cửa Thuận An và căn cứ Phú Bài ra, chủ yếu là dùng ô tô để vận chuyển chạy trên trục đường quốc lộ 1 và trục đường 68.

Trước âm mưu và thủ đoạn của địch, Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương:

- Kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự và tiến công. Kết hợp đánh chính diện và thọc sâu, chia cắt, bao vây tiêu diệt, đánh tan từng bộ phận địch. Tổ chức đánh phân tán rộng kháp, tiêu hao địch cả ở chính diện và trong vùng địch kiểm soát, đánh tập trung từng tiểu đoàn, có hiệp đồng binh chủng, tiêu diệt từng bộ phận địch.

- Kết hợp giữa xung lực và hỏa lực. Kết hợp tiêu hao, tiêu diệt địch với phá thế của chúng. Tiêu diệt từng bộ phận địch, phải nhằm mục đích tiến tới phá vỡ thế địch. Địch đang tổ chức các lực lượng tiến công vây ép thị xã Quảng Trị, tiến tới đánh chiếm Thành Cổ từ phía nam - đông nam, đông - đồng bắc. Vì vậy phá thế vây ép thị xã Quảng Trị của địch là nhiệm vụ cấp bách của toàn Mặt trận.

Thực hiện chủ trương của Mặt trận, từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 8 (khi địch mở đợt tấn công lớn thứ 5 vào thị xã) các đơn vị trong toàn Mặt trận đã đẩy mạnh tác chiến lên một bước; đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn dù 3, chiếm lại được ngã ba Long Hưng và tổ chức các trận đánh đồng loạt trong hai ngày 23 và 24 tháng 8 năm 1972. Có một số đơn vị đã đánh chiếm được mục tiêu, buộc địch phải "giãn ra" không dám “lấn dũi " tiếp. Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 95 tập kích chiếm khu vực nhà thờ Xanh làng Tri Bưu ở hướng đông bắc Thành Cổ, tiểu đoàn 7 Trung đoàn 18 đánh chiếm lại Cầu Sắt ở phía nam, tiểu đoàn 5 Trung đoàn 165 cùng phối hợp với lực lượng của Trung đoàn 88 tập kích địch ở làng Đệ Ngũ, tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48 đánh địch ở làng Hành Hoa..

Tiêu biểu là trận tập kích vào khu nhà thờ Xanh làng Tri Bưu của tiểu đoàn 5 Trung đoàn 95 trong các ngày 22, 23, 24 tháng 8 năm 1972. Do nắm chắc địch, địa hình và thủ đoạn đối phó của lính thủy đánh bộ, tiểu đoàn 5 đã thực hiện tốt nhiệm vụ đánh chiếm và giữ vững khu nhà thờ Xanh, đánh thiệt hại tiểu đoàn lính thủy đánh bộ 8, loại khỏi vòng chiến đấu 250 tên địch. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 5 đã liên tục đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, giữ vững trận địa, mở rộng và cải thiện được thế trận của ta trên hướng đông bắc của thị xã Quảng Tị. Tiểu đoàn 5 đã được đề nghị tặng thưởng huân chương Quân công hạng ba và được Bộ tư lệnh Mặt trận khen là "tiểu đoàn đánh giỏi".

Để giữ vững vị trí quan trọng trên các hướng chiến đấu của thị xã Quảng Trị. Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương điều chỉnh lực lượng và bổ sung kế hoạch cho các đơn vị như sau:

- Tăng cường lực lượng cho Trung đoàn 48 và Trung đoàn 95 để không những giữ vững vị trí hiện may mà đủ sức chiếm lại khu vực Tri Bưu và phối hợp với Sư đoàn 308 chiếm lại làng Thạch Hãn.

- Sư đoàn 308 có nhiệm vụ: Dùng các Trung đoàn 102, 88 và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 36 chốt giữ vững chắc khu vực Long Hưng và phối hợp với Trung đoàn 48 tiêu diệt địch ở làng Thạch Hãn. Kết hợp Trung đoàn 209 và Trung đoàn 36 (thiếu) tiêu diệt một bộ phận và từng bước làm tan rã lữ đoàn dù 1.

- Sư đoàn 304 được tăng cường Trung đoàn 141của Sư đoàn 312, khẩn trương tổ chức lực lượng, phối hợp với Sư đoàn 308 đánh chiếm địa bàn và tiêu diệt từng bộ phận lính dù, chiếm lại khu vực Cầu Dài, Cầu Nhùng, thực hiện bao vây chia cắt chiến dịch và phát triển về phía nam. Sử dụng Trung đoàn 9 cùng tiểu đoàn 2 của Mặt trận, đánh vào lữ đoàn dù 3 ở Tường Phước và đánh giao thông ở khu vực Bến Đá.

- Tiểu đoàn 15 và tiểu đoàn đặc công của Mặt trận. tiếp tục đánh giao thông và đánh vào các hậu cứ địch ở khu vực Cầu Nhi, Đồng Lâm.

- Sư đoàn 320B dùng lực lượng của Trung đoàn 101 và Trung đoàn 27, tiếp tục đánh lữ đoàn lính thủy đánh bộ 147 ở Nại Cửu, An Tiêm, Chợ Sải, làm chủ khu vực phía tây sông Vĩnh Định. Trung đoàn 64 đánh thọc sâu, thực hiệu chia cắt ở vùng Ngô Xá Đông. Các lực lượng ở cánh đông phải giúp đỡ hoạt động của bộ đội địa phương và du kích đánh sau lưng địch ở khu vực Hải Lăng.

- Sư đoàn 325 chuẩn bị sẵn sàng lực lượng chi viện cho thị xã Quảng Trị khi có lệnh và làm tốt nhiệm vụ phòng thủ khu vực Ái Tử - Đông Hà.

Trên thực tế ở vào thời điểm này, quân số các đơn vị thiếu hụt nhiều, có đơn vị chỉ đạt từ 30 đến 50% quân số. Trong chiến đấu ác liệt quân số thương vong nhiều, địch đánh phá ngăn chặn trên các trục đường hành quân, các bến vượt của sông Quảng Trị, Thạnh Hãn, càng hạn chế lực lượng quân số bổ sung cho các đơn vị. Có đơn vị sau mỗi trận đánh "quân vào" ít hơn "quân ra", vì vậy tuy đã đánh chiếm được mục tiêu, nhưng không còn lực lượng để chiếm giữ lâu dài, nhất là những vị trí trọng yếu của các khu vực xung quanh thị xã Quảng Trị.

Từ đó, vấn đề chiến đấu tiêu diệt nhiều địch, làm chủ mục tiêu và ta thương vong ít, đặt ra cho các đơn vị. Muốn thực hiện được các yêu cầu đó, đòi hỏi chỉ huy lãnh đạo các cấp phải nắm chắc tình hình, chuẩn bị tốt các mặt mới tổ chức chiến đấu, đảm bảo đánh chắc thắng. Nhờ làm tốt các yêu cầu đặt ra mà một số đơn vị đã tổ chức được những trận đánh tốt, trụ bám lâu ngày, đơn vị có sức chiến đấu cao.

Nhiệm vụ giữ vững vùng giải phóng, giữ vững thị xã Quảng Trị ngày càng được đồng bào và chiến sĩ cả nước quan tâm theo dõi, đặc biệt là Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh. Ngoài việc cử các đoàn cán bộ của cơ quan Bộ Quốc phòng vào trực tiếp theo dõi giúp đỡ Mặt trận, các đồng chí thủ trưởng Bộ luôn luôn tìm cách liên lạc trực tiếp với ban chỉ huy chiến đấu khu vực thị xã Quảng Trị để chỉ đạo và động viên bộ đội giữ vững tinh thần chiến đấu.

Vào một ngày giữa tháng 8 năm 1972, tại sở chỉ huy Trung đoàn 48 đóng ở "dinh tỉnh trưởng” giữa thị xã Quảng Trị, cán bộ chỉ huy Trung đoàn 48 qua điện thoại vượt cấp được nghe lời động viên nhắc nhở ân cần của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhân chuyến vào kiểm tra tình hình nhiệm vụ chiến đấu ở Mặt trận Quảng Trị.

Những lời cổ vũ động viên của Đại tướng trong thời điểm chiến đấu quyết liệt được chuyển đến các trận địa chiến đấu của các đơn vị đang bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị đã khích lệ tinh thần chiến đấu của mỗi cán bộ, chiến sĩ đang cầm súng chiến đấu bảo vệ thị xã Quảng Trị.

Do những yêu cầu cấp bách về chính trị, ngoại giao nên mặc dù đã bị tổn thất nặng trong các cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị địch vẫn tăng cường lực lượng cố gắng giữ vững địa bàn đã đánh chiếm và tiếp tục tổ chức lực lượng đánh chiếm thị xã. Kết hợp giữa hỏa lực đánh phá có tính chất hủy diệt với lính ngụy "lấn dũi" đánh chiếm dần những vị trí có lợi, địch đã tạo được khả năng vây ép ta để tiến sát vào Thành Cổ Quảng Trị. Chúng chuyển hướng tấn công đánh chiếm Thành Cổ từ hướng nam - đông nam sang hướng đông - đông bắc, và tập trung mọi lực lượng, mọi thủ đoạn để "cắm cờ lên Cổ Thành Đinh Công Tráng".

Trước yêu cầu cấp bách của chính trị, ngoại giao, để lừa bịp dư luận, chỉ huy sư đoàn lính thủy đánh bộ cho lính cắm cờ lên nhà thờ Trầm Lý để quay phim chụp ảnh tuyên truyền làm như chúng đã chiếm được Thành Cổ Quảng Trị. Nhưng chúng đã bị dư luận lên án. Những bức ảnh do phóng viên báo Quân đội nhân dân chụp các chiến sĩ Trung đoàn 48 chiến đấu ở Thành Cổ đăng trên các báo, là những bằng chứng hùng hồn chứng minh sự lừa dối và những thất bại của Mỹ - ngụy trong việc đánh chiếm Thành Cổ. Cùng với những bức ảnh chiến đấu, sinh hoạt của bộ đội, ta còn đăng những bức ảnh bom đạn Mỹ đánh phá hủy diệt Thành Cổ kịp thời tố cáo tội ác hủy diệt của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trước dư luận tiến bộ thế giới.

Mọi cố gắng cao nhất của địch để đánh chiếm Thành Cổ đều không đạt kết quả. Ở Quảng Trị lính sư đoàn dù, sư đoàn lính thủy đánh bộ, lính biệt động quân. . . lại liên tiếp tổ chức tiến công đánh chiếm Thành Cổ Quảng Trị. Đây cũng là thời kỳ mà các lực lượng chiến đấu của ta ở Mặt trận Quảng Trị bị hao tổn lớn về lực lượng. Tuy ta tiêu diệt được một phần sinh lực quan trọng của sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ ngụy nhưng ta không còn đủ sức giữ một số trọng điểm. Ta đã để địch lấn chiếm được tới thôn Gia Đẳng, Bích La, Tri Bưu, An Thái, La Vang, Long Hưng và hình thành thế bao vây thị xã từ hướng đông và đông nam. Phía tây đường 1 địch chiếm đến Tân Điền, Tường Phước, Thượng Nguyên, các cao điểm 28m, 105N, 138. Tình hình trên cùng với thời tiết mưa lũ lớn đã đặt cuộc chiến đấu của quân dân Quảng Trị trước những thứ thách mới.

Để khắc phục những khó khăn trên, bảo đảm chiến đấu liên tục trong điều kiện thời tiết mưa lũ, Thường vụ Đảng ủy. Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương:

- Vừa tác chiến, vừa xây dựng lực lượng, có lực lượng đánh, có lực lượng củng cố. Sẵn sàng lực lượng để chủ động trong mọi tình huống. Đồng thời đẩy mạnh tác chiến phía trước, đánh địch liên tục, nhưng cũng phải chú ý thích đáng phía sau để bảo vệ vững chắc vùng giải phóng.

- Chú trọng hình thức tác chiến phòng ngự, phản kích, ngăn chặn địch, đẩy mạnh đánh tiêu hao, tiêu diệt nhỏ thường xuyên; tích cực đánh phá giao thông, tiếp tế, đánh trận địa pháo, chỉ huy sở phía sau của địch. Đồng thời tổ chức đánh những trận lớn có chuẩn bị từ trung đoàn trở lên, để tiêu diệt từng bộ phận quan trọng của địch.

- Tổ chức tốt công tác xây dựng trận địa, có công sự chiến đấu, công sự ẩn nấp, phòng tránh bom pháo địch. Hạn chế đến mức thấp nhất quân số thương vong ngoài chiến đấu. Trên khu vực tác chiến của các đơn vị hoạt động phải nắm vững những quy luật đánh phá của bom pháo địch để tổ chức cơ động lực lượng an toàn trong mọi tình huống.

Quán triệt chủ trương của Bộ tư lệnh Mặt trận, các đơn vị trên các hướng chiến đấu đã tổ chức củng cố trận địa phòng ngự phát huy tinh thần chủ động tiến công tiêu diệt địch.

Ở Cánh Đông Quảng Trị, dưới sự chỉ đạo giúp đỡ trực tiếp của Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận, Bộ tư lệnh Cánh Đông đã hoàn thành kế hoạch tác chiến trong mùa mưa, với các yêu cầu chỉ đạo tác chiiến là:

- Chủ động tiến công, kiên quyết ngăn chặn địch từ xa, giữ vững địa bàn trọng yếu.

- Lấy đánh tiêu diệt nhỏ làm chính (diệt gọn từng trung đội, đại đội, hoặc chi đội thiết giáp, từng toán tàu xuồng địch). Khi tạo được điều kiện thì đánh tiêu diệt vừa một vài trận, đồng thời đánh tiêu hao rộng rãi và liên tục.

- Chủ động đánh địch ngoài công sự, đề cao tính mưu trí sáng tạo, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, tìm ra cách đánh hiệu quả, thích hợp với chiến trường đồng bằng mùa mưa lụt.

- Đánh tập trung hiệp đồng binh chủng, phát huy sức mạnh tổng hợp của ba thứ quân. Kết hợp hoạt động quân sự với chính trị, tác chiến với xây dựng.

- Kết hợp chặt chẽ với địa phương, vừa đánh địch vừa xây dựng vùng giải phóng, luân phiên củng cố, xây dựng đơn vị.

Địa bàn và hướng tác chiến chủ yếu của đơn vị ở Cánh Đông là phía đông sông Thạch Hãn và phía tây sông Bích La.

Về sử dụng lực lượng: Trung đoàn 27 (trừ tiểu đoàn 1 ra củng cố ở bắc sông Cửa Việt) được tăng cường thêm 3 tiểu đoàn bộ binh đánh địch từ Nại Cửu, Đại Hào (khu chủ yếu) đến Bích Khê, Tân Định, An Mỗ, Trà Liên. Trung đoàn 101 (trừ tiểu đoàn 1 ra củng cố) tác chiến trên khu vực Tả Kiên, Vĩnh Phước, Trung Chỉ, Lập Thạch. Trung đoàn 64 đánh địch ở Long Quang, Thanh Hội, Cửa Việt.

Sau khi thay đổi thủ đoạn, từ đánh nhanh sang "lấn dũi" tập trung lực lượng mở cuộc hành quân theo trục đường quốc lộ 1 để chiếm thị xã Quảng Trị không thành công, địch chuyển sang đánh chiếm dần thị xã từ phía đông đông nam. Nhiều đơn vị lính dù đã ‘lấn dũi" lên phía bắc Thành Cổ Quảng Trị. Ở phía tây nam, tiểu đoàn 6 lữ đoàn lính thủy đánh bộ 258 cũng đã chiếm được nhà thờ Tin lành, nhằm khống chế đường vận tải của ta từ Nham Biều đến thị xã.

Ban chỉ huy Thành (Chú thích: Cuối tháng 7 năm 1972, Bộ tư lệnh quyết định thành lập Ban chỉ huy khu vực thị xã Quảng Trị gồm các đồng chí: Lê Quang Thúy Trung đoàn trưởng Trung đoàn 48 làm chỉ huy trưởng, Vũ Quang Thọ, phó chính ủy Trung đoàn 95 làm chính ủy, Vũ Thư, Trung đoàn phó Trung đoàn 95 và Trần Minh Vân, Trung đoàn phó Trung đoàn 48 làm chỉ huy phó. Đến cuối tháng 8 năm 1972, đồng chí Nguyễn Việt, cán bộ của Sư đoàn 325 thay đồng chí Lê Quang Thúy làm chỉ huy trưởng.) họp quyết định tập trung lực lượng đánh lấy lại nhà thờ Tin lành và đánh chiếm khu vực nhà bằng của làng Hải Trí ở phía nam Thành Cổ chặn địch trên trục đường từ ngã 3 Long Hưng vào Thành Cổ, không cho bọn địch ở phía đông và nam nối liền nhau. Lực lượng của tiểu đoàn 5 Trung đoàn 95 do tiểu đoàn trưởng Vũ Xuân Cường chỉ huy và tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48 do tiểu đoàn phó Thiều Quang Nông chỉ huy cùng phối hợp đánh địch ở khu vực nhà thờ Tin lành và làng Hải Trí. Tiểu đoàn 5 và tiểu đoàn 2 phải phân tán lực lượng thành nhiều bộ phận, để đảm nhiệm chốt giữ Thành Cổ, vừa tổ chức tiến công địch, vừa làm lực lượng dự bị cho các hướng.

Sau khi hiệp đồng và phân công mục tiêu cụ thể, các lực lượng chiến đấu của tiểu đoàn 5 và tiểu đoàn 2 đã nhanh chóng tập kích bất ngờ vào hai mục tiêu trên.

Tuy mỗi đơn vị chỉ có 30 tay súng, nhưng cán bộ chiến sĩ đều có quyết tâm cao, nắm chắc địch và địa hình, vượt qua mưa gió, tổ chức lực lượng hợp lý đánh chiếm được mục tiêu, giữ vững trận địa phòng ngự ở phía tây nam Thành Cổ và bảo vệ được con đường vận chuyển của ta từ Nham Biều, Ái Tử sang thị xã Quảng Trị.

Sau hơn một tuần củng cố điều chỉnh lực lượng, ngày 5 và ngày 6 tháng 9 địch tăng cường cho sư đoàn lính thủy đánh bộ liên đoàn 1 biệt động quân (gồm 3 tiểu đoàn), thiết đoàn 17 kỵ binh (thiếu); sư đoàn dù được tăng cường lữ đoàn biệt động quân 7, một liên đội pháo. Cả hai sư đoàn này đều được trang bị thêm mỗi sư đoàn từ 10 đến 5o xe phun lửa M-125. Sư đoàn dù đảm nhận khống chế phía nam đã điều liên đoàn biệt động quân 1 đến Triệu Phong thay cho lữ đoàn 147 để lữ đoàn 147 và 258 tiến công chiếm thị xã và Thành Cổ Quảng Trị. Lực lượng không quân, hải quân Mỹ cũng được lệnh tập trung bom pháo chi viện tối đa cho cuộc hành quân này.

Về phía ta, trên cơ sở các khu vực phòng ngự đã hình thành, Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương:

- Sư đoàn 308 dùng Trung đoàn 36 và Trung đoàn 209 (của Sư đoàn 312 tăng cường) tiêu diệt tiểu đoàn dù 11, sau đó phối hợp với 2 trung đoàn (102 và 88) tiêu diệt địch đánh chiếm lại Long Hưng.

- Sư đoàn 304 sử dụng Trung đoàn 66 phối hợp với Sư đoàn 308 tiêu diệt tiểu đoàn dù 7 ở Long Hưng và Cầu Nhùng, dùng các trung đoàn 141 và 24 đánh tiểu đoàn dù 3 rồi phát triển sang cầu Bến Đá phối hợp với Trung đoàn 9 đánh lữ đoàn dù 3.

- Sư đoàn 320B vây ép, đánh nhỏ ở khu vực Chợ Sải, Nại Cửu. Sử dụng lực lượng vũ trang địa phương phối hợp hoạt động rộng khắp sau lưng địch.

- Sư đoàn 325 trực tiếp chỉ huy các lực lượng bảo vệ thị xã ngoan cường cố thủ và kiên quyết phản kích giữ vững khu Thành Cổ.

Để tăng cường chỉ huy, bảo đảm tổ chức hiệp đồng chặt chẽ hướng tây nam, Bộ tư lệnh Mặt trận cử đồng chí Phạm Hồng Sơn, Phó tư lệnh và đồng chí Hoàng Minh Thi, Phó Chính ủy trực tiếp chỉ huy 2 Sư đoàn 308 và 304.

Sáng ngày 7 tháng 9 địch mở đầu cuộc tấn công bằng một đợt pháo hỏa chuẩn bị gọi là "kế hoạch phóng lôi’. Suốt 48 giờ liền chúng đánh phá dữ dội vào tất cả các trận địa của ta, đặc biệt là xung quanh Thành Cổ, các đường vận chuyển, các bến vượt sông. Máy bay B52 rải thảm bờ bắc sông Thạch Hãn, tập trung nhất vào khu vực Ái Tử, Nhan Biều, Đông Hà và các trận địa pháo của ta.

Sáng ngày 9 tháng 9 sư đoàn dù cho một cánh quân đánh chiếm trại Gia Long, khu vực La Vang (nam thị xã 2.5 km), một cánh quân đánh vào Tích Tường, Như Lệ nhằm chặn ta từ hướng tây - tây nam phản kích sang.

Ở phía bắc thị xã, liên đoàn biệt động quân sử dụng 2 tiểu đoàn (39, 37) đánh chiếm Bích Khê, Nại Cửu để chặn ta từ phía bắc sông Vĩnh Định tới và tổ chức kiềm chế pháo của ta ở tả ngạn sông Thạch Hãn.

Cùng thời gian này sư đoàn lính thủy đánh bộ tiến công từ bốn hướng vào Thành Cổ. Hướng chủ yếu (nam, đông nam) do 4 tiểu đoàn của lữ 258 thay nhau đột phá. Mũi chủ yếu (tiểu đoàn 6) theo bờ sông Thạch Hãn đánh chiếm cầu ga và khu vực bệnh viện. Cả ba mũi đều bị ta đánh chặn quyết liệt bị thiệt hại nặng, phải dừng lại củng cố.

Trên hướng lữ đoàn 147, mũi chủ yếu (tiểu đoàn 3) từ làng Tri Bưu đánh vào đông bắc thành. Ta phản kích và dùng pháo từ bờ bắc bắn chặn, địch bị thiệt hại phải dừng lại cách Thành Cổ 500m; mũi tiểu đoàn 7 theo bờ sông Vĩnh Định đánh vào tây bắc thành bị ta chặn đánh quyết liệt phải lùi ra xa cách Thành Cổ lkm. Tiểu đoàn 8 (lực lượng dự bị của địch) bị pháo ta đánh trúng đội hình bị thiệt hại nặng phải lui ra củng cố.

Tại phía nam thị xã, Trung đoàn 209 phản công chiếm lại ngã ba Phước Môn, thôn Phú Long. Trung đoàn 102 tập kích địch ở ngã ba Long Hưng. Trung đoàn 24 tiêu diệt 1 đại đội địch ở Cầu Nhùng. Tuy các mũi tiến công của sư đoàn dù của địch bị chặn lại nhưng ta cũng bị thương vong nhiều không đủ sức giữ trận địa đã chiếm được vì phi pháo địch đánh phá rất ác liệt. Trung đoàn 102 phải lui về phía tây Long Hưng, Trung đoàn 24 lui về Tường Phước củng cố, sau đó bị nước lũ ngăn trở không cơ động được.

Cuộc chiến đấu tại khu vực thị xã và Thành Cổ từ ngày 10 tháng 9 trở đi diễn ra hết sức ác liệt. Địch tập trung xe tăng, xe thiết giáp, xe phun lửa và chất độc hoá học đánh liên tục vào thành. Ngày 13 tháng 9 tiểu đoàn 6 lữ đoàn 258 chiếm được một phần góc đôn gnam Thành Cổ. Ngày 15 tháng 9 tiểu đoàn 3 Lữ đoàn 147 chiếm được đông bắc thành. Các lực lượng ta chiến đấu giành giật với địch từng mô đất, mảng tường, góc hầm. Ta tăng cường thêm lực lượng tiểu đoàn 8 vào thị xã nhưng sau mấy trận chiến đấu ác liệt tiểu đoàn không còn đủ sức đánh tiếp. Các đơn vị ở các hướng khác tuy đã cố gắng chi viện cho thị xã nhưng do phi pháo địch ngăn trở không thu được hiệu quả. Ngày 16 tháng 9 Trung đoàn 18 được lệnh vượt sông sang chi viện cho thị xã nhưng nước sông Thạch Hãn lên to, địch đánh phá ngăn chặn dữ dội các bến vượt, phương tiện vượt sông bị hư hỏng hết. Trung đoàn 18 phải rất chật vật mới đưa được một lực lượng nhỏ qua sông. Lúc này lực lượng ta trong thị xã và Thành Cổ đã bị thương vong lớn. Đêm ngày 16 tháng 9 những tổ chiến đấu cuối cùng của ta rời Thành Cổ, vượt sông Thạch Hãn sang phía Nham Biều, Ái Tử.

Tính đến ngày 16 tháng 9 năm 1972, các đơn vị đã trải qua cuộc chiến đấu liên tục 81 ngày đêm giữ vững thị xã và vùng giải phóng Quảng Trị, phá âm mưu "đánh chiếm thị xã Quảng Trị trước mùa mưa", để thực hiện mưu đồ chính trị và ngoại giao của Mỹ - ngụy.

81 ngày đêm, chỉ tính riêng về thời gian, cuộc hành quân "Lam Sơn 72" của địch đã kéo dài ra gấp 8 lần so với dự kiến ban đầu của chúng. Toàn bộ hai sư đoàn cơ động chiến lược ngụy bị thu hút vào Mặt trận Quảng Trị, trong đó Lữ đoàn dù 2, các tiểu đoàn lính thủy đánh bộ 3, 6, 7, 8 đã bị tổn thất nặng nề: 7.756 tên địch thiệt mạng, hàng nghìn tên bị thương; hàng trăm xe quân sự, máy bay bị tiêu diệt. Tổn thất nặng nề nhưng ngay cả những mục tiêu đề ra ban đầu cho cuộc hành quân địch không phải đã hoàn toàn thực hiện được.

Bên bờ nam sông Thạch Hãn tại nhiều địa bàn quan trọng; một loạt các trận địa của ta vẫn hiên ngang đứng vững trong bom đạn , ác liệt và đánh thắng các trận phản kích của địch. Đó là trận địa của các chiến sĩ Sư đoàn 304 ở động Ông Do - Tường Phước; của Trung đoàn 165, Sư đoàn 312 ở Phú Long, Phước Môn; của Sư đoàn 308 ở Tích Tường, Như Lệ, Tân Lệ, Đá Đứng trên cánh tây. Đó cũng là trận địa của các chiến sĩ Trung đoàn 64 Sư đoàn 320B, Trung đoàn 101 Sư đoàn 325, Trung đoàn 27 ở An Tiêm, Nại Cửu, An Lộng, Thanh Hội...trên Mặt trận cánh Đông. Riêng tại thị xã Quảng Trị, phải tới ngày 16 tháng 9, khi Thành Cổ Đinh Công Tráng chỉ còn là những đống gạch vụn thì sư đoàn lính thủy đánh bộ mới vào được thành.

81 ngày đêm đứng vững ở thị xã Quảng Trị, đương đầu với cuộc đánh phá quy mô ác liệt nhất từ trước đến nay của không quân, hải quân Mỹ, với tất cả mưu mô thủ đoạn xảo quyệt và những đơn vị thiện chiến nhất của quân ngụy Sài Gòn, quân dân Quảng Trị, tiêu biểu là lực lượng bảo vệ thị xã đã viết nên bản anh hùng ca tuyệt vời về sức mạnh của quân dân ta trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.

*

* *

Đến cuối tháng 9 năm 1972 trên toàn Mặt trận Trị - Thiên địch bị tổn thất hết sức nặng nề: 26. 000 lính ngụy Sài Gòn bị loại khỏi vòng chiến đấu; 349 xe quân sự trong đó có 200 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy, 205 máy bay bị bắn rơi; 2 sư đoàn sừng sỏ nhất của quân đội Sài Gòn đã bị thiệt hại nặng. Mặc dù tiến được vào thị xã Quảng Trị nhưng chúng chưa chiếm được đồng bằng Triệu Phong, chưa tới được Cửa Việt, Đông Hà như kế hoạch đã định.

Bị tổn thất lớn nhưng địch vẫn rất ngoan cố, chúng quyết tâm tái chiếm bằng được tỉnh Quảng Trị. Trong những ngày cuối tháng 9 năm 1972, lợi dụng mùa mưa gây cho ta nhiều khó khăn trong tiếp tế, xây dựng công sự trận địa, địch tiếp tục tập trung cao độ hỏa lực của không quân, hải quân đánh phá các trận địa, các tuyến vận chuyển của ta, đồng thời tranh thủ củng cố lại lực lượng chuẩn bị cho các cuộc hành quân mới đánh ra vùng giải phóng.

Về phía ta, Bộ tư lệnh Mặt trận chỉ thị cho các đơn vị nhanh chóng củng cố tổ chức, tranh thủ rút kinh nghiệm chiến đấu, nhất là kinh nghiệm chiến đấu phòng ngự trong mùa mưa ở đồng bằng. Đánh giá tình hình, khả năng chiến đấu của các đơn vị, nghị quyết của Thường vụ Đảng ủy Mặt trận chỉ rõ: Trải qua 6 tháng liên tục chiến đấu vô cùng anh dũng, ta đã giành được những thắng lợi lớn. Tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Giữ vững thị xã Quảng Trị trong một thời gian dài, giữ vững phần lớn vùng giải phóng, giam chân thu hút các lực lượng tinh nhuệ của quân ngụy, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường phát triển tiến công.

Về vấn đề củng cố lực lượng: Xuất phát từ cuộc chiến đấu kéo dài, các đơn vị phải liên tục chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, trong khi lực lượng bổ sung từ hậu phương không thể đáp ứng kịp; do đó việc nuôi quân, cứu chữa thương bệnh binh nhẹ để đảm bảo quân số chiến đấu cao là mục tiêu phấn đấu của các đơn vị.

Trong điều kiện chiến đấu liên tục, dài ngày, thời tiết vào mùa mưa lũ, đường vận chuyển khó khăn, bom đạn địch đánh phá ác liệt, thì tổ chức tốt việc nuôi dưỡng bộ đội ở gần mặt trận, là một việc làm thiết thực để tăng cường sức chiến đấu cho các đơn vị.

Về tác chiến, Bộ tư lệnh Mặt trận chia Quảng Trị làm bốn khu vực: khu vực phía đông; khu vực phía tây; khu vực thị xã và vùng sau lưng địch; khu vực hậu phương trực tiếp của chiến dịch.

Mặt trận chủ trương tiếp tục đẩy mạnh tiến công địch ở ba khu vực: Phía đông, phía tây, thị xã và sau lưng địch; khẩn trương tổ chức phòng thủ vững chắc khu vực hậu phương trực tiếp của chiến dịch.

Ngày 22 tháng 9 Quân ủy Trung ương gửi điện (số 276/Đ) cho Bộ tư lệnh Mặt trận xác định nhiệm vụ cụ thể của từng khu vực:

“- Cánh tây: Phải giữ kỳ được những địa hình có lợi như Tích Tường, Như Lệ, Đá Đứng, Tường Phước, động Ông Do, động Chiên Giòng để làm bàn đạp tiếp tục tiến công và giữ vững đường vận chuyển, tiếp tục tiến công địch với quy mô và phương thức thích hợp. Thường xuyên uy hiếp cạnh sườn địch không cho chúng rảnh tay tiến công ra Ái Tử, chuẩn bị sẵn sàng để khi có thời cơ thì chuyển mạnh sang tiến công lớn tiêu diệt địch.

- Cánh đông: giữ vững và cố gắng cải thiện tuyến chiếm lĩnh hiện nay, làm chủ đường Triệu Phong - Cửa Việt, kiên quyết không cho địch chiếm Cửa Việt hoặc tạt sườn vào đông khu phòng thủ Ái Tử, tiếp tục luồn sâu vào sau lưng địch hỗ trợ cho lực lượng vũ trang địa phương hoạt động.

- Ở thị xã và sau lưng địch: Tiếp tục bao vây uy hiếp tiêu hao địch, đẩy mạnh đánh giao thông hậu cứ, sở chỉ huy, trận địa pháo, tiêu diệt một bộ phận bảo an dân vệ ngụy quyền từng bước móc nối lại cơ sở.

- Ở khu giữa: tổ chức phòng thủ vững chắc khu Ái Tử, Đông Hà, kiên quyết tiêu diệt địch ngay khi chúng bắt đầu tiến công, kiên quyết phản kích khi chúng đứng chân chưa vững. Thường xuyên chế áp thị xã, chi viện chiến đấu cho cánh đông, cánh tây...Các hướng phải hiệp đồng chặt chẽ với nhau theo một ý định thống nhất, phối hợp hỗ trợ cho nhau... ".

Tiếp đó trong điện (số 277-Đ) ngày 24 tháng 9 Bộ Tổng Tham mưu nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của khu vực Ái Tử “...Trong khu vực Ái Tử cần giữ cho được một số trọng điểm, đặc biệt là khu Nham Biều, sân bay, một số điểm cao 42, 29, 21... khu Bích Khê, Đầu Kênh, An Mỗ là khu vực hiểm yếu liên quan trực tiếp đến sân bay, chú ý khu trung tâm, coi trọng khu ven sông. Tăng cường hỏa lực phòng không cho Ái Tử, chỗ địch có thể đổ bộ trực thăng. . . chú ý hiệp đồng giữa Ái Tử với cánh đông, cánh tây, với lực lượng dự bị các binh chủng. . .".

Dựa vào phương hướng chỉ đạo đó, trên cơ sở thế trận đã hình thành qua kinh nghiệm chiến đấu phòng ngự, Bộ chỉ huy Mặt trận xác định chủ trương tác chiến là: Kiên quyết tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, lấy việc tiêu diệt địch làm chủ yếu để bảo vệ và phát triển vùng giải phóng, đồng thời tranh thủ củng cố lực lượng, chuẩn bị điều kiện để mở những trận phản công đẩy lùi địch, tiến tới đánh bại cuộc hành quân của chúng.

Bộ tư lệnh Mặt trận đả điều chỉnh kế hoạch tác chiến như sau:

- Khu phía tây bao gồm phạm vi từ bắc sông Mỹ Chánh đến nam sông Thạch Hãn, tây đường 1 do các sư đoàn 304 và 308 phụ trách. Sư đoàn 304 sử dụng Trung đoàn 9 đứng chân từ nam động Ông Do đến Động Tiên, tổ chức phòng ngự khu vực các điểm cao 74, 235, 367. Trung đoàn 66 tổ chức phòng ngự khu vực 105B, động Ông Do. Hai tiểu đoàn đặc công 15 và 19 hoạt động ở nam sông Mỹ Chánh. Trung đoàn 24 và Trung đoàn 141 làm lực lượng dự bị đứng chân ở khu vực Chùa Nga. Sư đoàn 308 sử dụng Trung đoàn 36 phòng ngự khu vực Tích Tường, Như Lệ; Trung đoàn 209 giữ Phước Môn, điểm cao 26, Tanh Lê; 2 trung đoàn 102 và 88 củng cố phía sau.

- Khu phía đông gồm hai huyện Triệu Phong và Do Linh do Sư đoàn 320B phụ trách, bố trí các trung đoàn 64 và 101 ở tuyến phòng ngự phía trước. Các đơn vị K5 hải quân, tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh phòng giữ Cửa Việt. Trung đoàn 48 củng cố và làm lực lượng dự bị của cánh đứng chân ở Cam Lộ.

- Khu giữa là khu phòng ngự chủ yếu gồm Phượng Hoàng, Ái Tử, Đông Hà, Cam Lộ do Sư đoàn 325 phụ trách. Sử dụng Trung đoàn 18 phòng ngự Nham Biều, Ái Tử; Trung đoàn 27 và Tiểu đoàn 3 địa phương phòng ngự khu vực Đông Hà, Động Côn, Quai Vạc (sau đó Trung đoàn 271 vào thay để Trung đoàn 27 ra củng cố); 2 trung đoàn (165 và 95) làm dự bị đứng chân ở khu vực Nại Cửu, Phượng Hoàng, Rào Vịnh, điểm cao 36.

Các lực lượng vũ trang địa phương Quảng Trị sử dụng tiểu đoàn 14 hoạt động ở Triệu Phong và trục đường 18, tiểu đoàn 3 bảo vệ Đông Hà, tiểu đoàn 8 hoạt động ở Tây Hải Lăng. trục đường 1 từ La Vang đến Mỹ Chánh. Tiểu đoàn 10 luân phiên từng đại đội hoạt động ở Phương Lan, Mỹ Thủy, Đa Nghi.

Các lực lượng pháo binh, cao xạ, xe tăng được giao nhiệm vụ phối thuộc và chi viện trực tiếp cho từng hướng. Về chỉ huy, Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định tăng cường đồng chí Giáp Văn Cương (Phó tư lệnh), đồng chí Lê Tự Đồng, Phó chính ủy Mặt trận và một số cán bộ cơ quan xuống trực tiếp giúp Sư đoàn 325 tổ chức phòng thủ khu giữa, tổ chức hiệp đồng giữa các lực lượng đồng thời tăng cường chỉ huy khi địch tấn công ở từng hướng.

Ngày 22 tháng 9 địch kết thúc cuộc hành quân "Lam Sơn 72". Sau khi củng cố bổ sung quân, những ngày cuối tháng 9 chúng mở tiếp cuộc hành quân "Lam Sơn 72 A”, đánh ra các bàn đạp ở phía đông và phía tây. Do tổ chức phòng ngự chặt chẽ và có cách đánh thích hợp nên ta đã đánh tan các đợt tấn công hòng mở rộng chiếm các bàn đạp ở phía tây và phía đông của địch. . .

Đầu tháng 10 năm 1972, Bộ tư lệnh Mặt trận mở hội nghị cán bộ tiếp tục quán triệt về phương hướng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động, kinh nghiệm chiến đấu phòng ngự nhằm tăng cường sự nhất trí trên dưới, động viên các lực lượng quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ phòng ngự Quảng Trị mà Quân ủy Trung ương giao cho. Tháng 10 là tháng mưa lũ lớn ở Quảng Trị. Mưa, lũ cuốn phăng đi những đường cáp điện thoại qua sông, mưa làm ngập các đường vận chuyển trên bộ. Trên các cánh đồng nước sâu đến ngực, bom pháo địch đánh phá liên tục, các chiến sĩ thông tin, vận tải, phải lăn lộn ngày đêm mới đảm bảo được dây, máy, lương thực, đạn dược cho các trận đánh.

Vận tải tiếp tế. đảm bảo thông tin liên lạc đã rất khó khăn nhưng xây dựng hầm hào, công sự, trận địa chiến đấu trong những ngày này còn khó khăn gấp bội, đặc biệt là các trận địa ở đồng bằng Triệu Phong và các bãi cát ven biển. Mưa lớn, nước tràn đến đâu hào sạt đến đó, nhiều đường hào bị cát sạt lấp chỉ còn ngang bụng chân. Quần áo, lương thực, đạn dược bộ đội ta đều phải cho vào túi ni lông mới tránh được nước. Ở các trận địa chốt, nắng cũng như mưa cán bộ chiến sĩ mặc trần một chiếc quần đùi, một áo cộc. Cuộc chiến đấu vật lộn với mưa lũ với bom đạn đã ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của nhiều cán bộ, chiến sĩ. Bệnh đi lỏng, ghẻ lở, hắc lào phát triển làm quân số chiến đấu của nhiều đơn vị giảm sút. Đại đội chỉ còn 30 đến 40 tay súng, tiểu đoàn nhiều lắm cũng chỉ trên dưới trăm người. Cán bộ chỉ huy các cấp không ít băn khoăn lo lắng cho nhiệm vụ chiến đấu trong những ngày sắp tới của đơn vị mình. Từ Thường vụ Đảng ủy Mặt trận đến các chi bộ, tổ đảng chỉ bàn lãnh đạo xoay quanh một vấn đề: xây dựng công sự trận địa, đảm bảo tiếp tế thế nào để bộ đội trụ vững và đánh thắng trong mùa mưa.

Trong lúc ta đang gặp muôn vàn khó khăn do mưa lũ gây ra thì địch tập trung bom pháo hủy diệt và cho bộ binh liên tục tấn công quyết chiếm bằng được các bàn đạp quan trọng của ta.

Ở phía tây sau các đợt hỏa lực đánh phá ác liệt sư đoàn dù triển khai lực lượng đánh vào Tích Tường, Như Lệ, Phước Môn, Tân Téo. Ta dựa vào trận địa phòng ngự chiến đấu giành giật với địch, đánh thiệt hại nặng 2 Lữ đoàn dù (1 và 2) và tiểu đoàn biệt động quân 85 nhưng địch chiếm được Tích Tường 2. Ở phía động Ông Do, ta đánh lui các đợt tiến công của tiểu đoàn dù 6. Trên khu vực các điểm cao 235, 367 địch tập trung phi pháo rất cao để tiến công. Do trận địa của ta ở đây chưa được chuẩn bị tốt, tổ chức phòng thủ còn sơ hở, địch lần lượt chiếm được các điểm cao 74, 235, 108, 101, 118, 124 uy hiếp nghiêm trọng khu vực điểm cao 367, động Chiên Giòng và động Ông Do.

Trước tình hình đó, ngày 20 tháng 10 Bộ tư lệnh Mặt trận lệnh cho Sư đoàn 304 đưa Trung đoàn 24 là lực lượng dự bị vào cùng với lực lượng phòng ngự tiến hành phản kích. Trung đoàn 66 chiếm lại các điểm cao 124, 128. Địch tiếp tục đánh phá và tổ chức tiến công vào các điểm cao 367, động Ông Do, ta tăng cường thêm tiểu đoàn 2 độc lập cho hướng phòng ngự này. Sau 10 ngày chiến đấu ác liệt, đến ngày 3 tháng 11 địch chiếm được một phần điểm cao 367.

Ở hướng đông từ ngày 7 tháng 10 địch liên tục đánh vào Bích La, An Lộng, Chợ Sải, Nại Cửu, Long Quang. Ta kiên quyết ngăn chặn giữ vững trận địa đồng thời sử dụng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích dùng nhiều thủ đoạn đánh địch rộng khắp buộc địch phải co về đối phó. Đêm ngày 18 tháng 10 trung đội 2 đại đội 7 tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 do trung đội trưởng Vũ Thanh Bình chỉ huy tập kích tiêu diệt gọn 2 trung đội địch, phá tan đài quan sát của chúng ở điểm cao 11. Đêm ngày 19 tháng 10 ta pháo kích vào Linh Chiểu diệt gọn cả pháo đội địch và 7 khẩu 105 ly, 2 xe tăng, 1 kho đạn. Đêm ngày 2 tháng 11, công binh ta đột nhập vào Ngô Xá Đông đặt mìn phá 7 khẩu pháo và nhiều đạn dược. Bộ đội đặc công phá hủy hàng loạt cầu trên đường quốc lộ 1, đường 68A như cầu sắt Quảng Trị, cầu Chợ Cống, cầu Vân Trình. Bộ đội địa phương, dân quân du kích hoạt động mạnh ở vùng sau lưng địch như Ba Bến, Tam Hữu, Diên Khánh, diệt nhiều xe, pháo và sinh lực địch.

Các hoạt động trên của ta ở hướng này làm cho địch bị động đối phó nhiều nơi không lấn ra được. Bộ đội ta vừa chiến đấu vừa tranh thủ mọi thời gian củng cố cống sự trận địa nên thế trận phòng ngự của ta ở hướng này ngày càng vững vàng hơn.

Cũng trong thời gian này, hưởng ứng đợt phát động "tìm kiếm nguyên vật liệu giúp cho các đơn vị tuyến trước xây dựng công sự trận địa", nhân dân vùng giải phóng và các đơn vị tuyến sau đã cử người vào các căn cứ cũ của địch tìm kiếm vật liệu gửi giúp các đơn vị phía trước. Hàng vạn bao cát được lấy từ các công sự địch ở Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang tới tấp chuyển đến các trận địa chốt. Hàng nghìn tấm tôn lá của đồng bào Quảng Trị từ các nơi sơ tán gửi đến cho bộ đội. Các loại thùng phuy, thùng sắt từ các đơn vị xe trên tuyến đường Trường Sơn, từ nông trường Quyết Thắng (Vĩnh Linh) được chở bằng mọi phương tiện chuyển tới các trận địa. Khẩu hiệu hành động "Tất cả vì chiến sĩ trên trận địa chốt" thôi thúc mọi người đồng tâm hiệp lực vượt mọi gian khổ ác liệt chiến thắng mưa lũ, bom đạn chi viện kịp thời cho tuyến trước. Các đồng chí trong Bộ tư lệnh Mặt trận thay nhau xuống các đơn vị kiểm tra đôn đốc, mọi yêu cầu đảm bảo cho các trận địa chốt "trụ vững và đánh thắng” được giải quyết với tinh thần khẩn trương nhất, tập trung nhất. Có đêm hàng tiểu đoàn được huy động để chuyển bao cát, tôn, gỗ, thùng phuy lên chốt. Trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng là người trực tiếp chỉ huy xây dựng các công sự trận địa. Bộ đội thức thâu đêm đào hào, dựng hầm, ai cũng hiểu rằng công sự, trận địa lúc này là tất cả. Mỗi bao cát đoạn hào, căn hầm bây giờ là chỉ tiêu phấn đấu của cán bộ, chiến sĩ.

Nhờ sự nỗ lực vượt bậc đó, trong tháng 10 ta đã cơ bản giải quyết được yêu cầu công sự, hầm hố trú ẩn trong mùa mưa, tạo điều kiện để cán bộ, chiến sĩ trên các trận địa chốt có thể thay nhau trực chiến và đối phó được những trận đánh phá ác liệt của kẻ thù.

Cùng với việc đánh ra hướng đông, hướng tây, đêm ngày 1 tháng 11 địch mở cuộc hành quân "Sóng thần 9" cho quân vượt sông Thạch Hãn đánh sang Nham Biều, Ái Tử. Dự đoán đúng các âm mưu của địch, kế hoạch tác chiến của ta ở khu vực giữa đã được chuẩn bị sẵn sàng. Ngay khi tiểu đoàn lính thủy đánh bộ 6 (bộ phận đi đầu của lữ đoàn 369 trong cuộc hành quân) mới sang sông đã bị tiểu đoàn 8 Trung đoàn 18 chặn đánh và tiêu diệt gọn. Pháo binh Mặt trận vừa chi viện cho tiểu đoàn 8 vừa bắn cấp tập vào đội hình phía sau của địch ở phía Thành Cổ. Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 bị thiệt hại nặng phải bỏ cuộc tiến công. Cuộc hành quân "Sóng thần 9" của địch bị thất bại nhanh chóng.

Tháng 11 mưa nhiều (14 trên 30 ngày), bão lụt liên tiếp ảnh hưởng lớn đến mọi mặt hoạt động của ta, đặc biệt là ở hướng đông. Lợi dụng khó khăn của ta, ngày 11 tháng 11 sư đoàn lính thủy đánh bộ triển khai cuộc hành quân "Sóng thần 36" đánh chiếm các bàn đạp phía đông. Trong hai ngày 15 và 16, mỗi ngày địch sử dụng 50 lần máy bay cường kích, 6 tốp B52 và bắn hàng vạn quả pháo vào khu vực từ Long Quang đến Thanh Hội. Ngày 17 tháng 11 địch sử dụng hai mũi tiến công vào Long Quang, Thanh Hội để mở đường ra Cửa Việt. Bộ đội của ta trên các tuyến chốt dựa vào công sự trận địa kiên cường chiến đấu đẩy lùi các đợt tiến công của địch, các tiểu đoàn lính thủy đánh bộ 1, 2, 8 bị mất sức chiến đấu phải lui về phía sau củng cố. Suốt 18 ngày địch phải thay quân, bổ sung xe tăng, xe thiết giáp nhiều lần để tiến công nhưng không vượt qua được tuyến phòng ngự của ta. Ngày 4 tháng 12, nhận thấy sức tiến công của địch đã yếu, Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định điều Trung đoàn 48 (thiếu) và tiểu đoàn 3 địa phương vượt sông cùng lực lượng phòng ngự phản kích trên toàn tuyến đuổi địch về Bình An, Gia Đẳng, Ba Lang. Cuộc hành quân "Sóng thần 86" của địch bị ta đánh bại hoàn toàn. Riêng ở hướng đông, trong 18 ngày đêm chiến đấu (từ 17 tháng 11 đến 5 tháng 12) ta đã diệt 3.290 tên địch, phá hủy 49 xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi 16 máy bay địch.

Trước yêu cầu chính trị, ngoại giao thúc bách, ngày 16 tháng 12 năm 1972 địch mở tiếp cuộc hành quân "Sóng thần 45" sử dụng 4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ vào Bình An, Thanh Hội để mở đường đánh ra Cửa Việt. Dựa vào thế trận phòng ngự, các đơn vị, Sư đoàn 320B đánh thiệt hại nặng cả 2 cánh quân của địch. Nhân lợi thế truy kích địch rút chạy, ta tiến công tiêu diệt quân địch ở Hữu Niêm, Bích La Trung, Linh An. Bộ đội địa phương, dân quân du kích đẩy mạnh hoạt động phía sau, đánh phá kho tàng, cắt giao thông, làm cho địch lúng túng bị động đối phó khắp nơi. Bị nhiều tổn thất, không còn đủ sức tiếp tục tấn công, ngày 25 tháng 12 địch phải lui quân, kết thúc cuộc hành quân "Sóng thần 45". Từ ngày 17 đến ngày 20 tháng 01 năm 1973 địch mở tiếp cuộc hành quân "Sóng thần 18” đánh vào Thanh Hội, tranh thủ chiếm đất trước khi có lệnh ngừng bắn. Ta điều một bộ phận Trung đoàn 101 sang cùng Trung đoàn 64 đánh địch. Chỉ sau 3 ngày cuộc hành quân của địch bị đập tan.

Ở hướng tây, ngày 9 tháng 11, sư đoàn dù sử dụng lữ đoàn 2 tấn công động Ông Do. Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra rất ác liệt, ta và địch giành đi giật lại từng mỏm đồi. Ngày 14 tháng 11 địch chiếm được mỏm A1. Trên cơ sở thế phòng ngự ở khu giữa đã ổn định, đầu tháng 12 Bộ tư lệnh Mặt trận điều Bộ tư lệnh Sư đoàn 312 vào thay Bộ tư lệnh Sư đoàn 308 và điều Trung đoàn 165 từ khu giữa sang tăng cường cho Sư đoàn 304. Ngày 17-12 Sư đoàn 304 (có thêm Trung đoàn 165 thiếu) tiến hành phản kích lấy lại mỏm A1 nhưng ta không giữ được trận địa lâu vì phi pháo địch đánh phá rất ác liệt. Ngày 12-12, địch chiếm được toàn bộ động Ông Do và tiếp tục đánh ra Khe Trai, Đá Đứng, Phương Thủy, sau đó chúng tiếp tục đánh chiếm các điểm cao 105B, 132, 264.

Nhận thấy ở hướng tây sức chiến đấu của ta giảm sút trong khi đó ở hướng đông ta đang có thuận lợi, Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định mở một đợt phản kích để cải thiện tình hình ở hướng tây. Ngày 23 tháng 1 năm 1973 Trung đoàn 95 ở khu giữa được lệnh vượt sông cùng Trung đoàn 209 đánh địch ở Tích Tường, Như Lệ chiếm lại các điểm cao 52, 29, 15 giữ vững tuyến ven sông Thạch Hãn cho đến ngày có lệnh ngừng bắn.

Ròng rã hơn 4 tháng trời (từ ngày 17 tháng 9 năm 1972 đến ngày 25 tháng 1 năm 1973) liên tục quần nhau với địch trong điều kiện mưa lũ và bom đạn vô cùng ác liệt, quân dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã đánh bại mọi âm mưu tấn công lấn chiếm vùng giải phóng của địch, cao điểm là cuộc hành quân “Sóng thần” 9-36-45-18 giữ vững vùng giải phóng Quảng Trị trong đó có các mực tiêu quan trọng như Nham Biều, Ái Tử, Đông Hà, Cửa Tùng, Cửa Việt kìm giữ giam chân hai sư đoàn cơ động chiến lược của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt trận khác đánh địch. Trong đợt chiến đấu gay go quyết liệt này, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 27.500 tên địch, diệt gọn 12 đại đội, đánh thiệt hại nặng l5 tiểu đoàn, 2 chi đoàn thiết giáp, bắn rơi 164 máy bay, phá hủy, phá hỏng 345 xe quân sự (có 221 xe tăng, xe bọc thép M113), 363 khẩu pháo, 38 kho đạn, xăng, đánh chìm, đánh hỏng 8 tàu, 13 xuồng, thu nhiều súng đạn, phương tiện chiến tranh của địch.

Qua đợt chiến đấu dài ngày cực kỳ gian khổ và ác liệt này, các đơn vị Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã được rèn luyện thử thách, có bước trưởng thành về mọi mặt, tạo ra khả năng và sức mạnh chiến đấu mới để đánh thắng kẻ thù khi chúng liều lĩnh mở cuộc hành quân quy mô lớn ra Cửa Việt.

10-Vào những ngày cuối tháng 1 năm 1973, lúc Hiệp định Pa-ri sắp có hiệu lực ở Quảng Trị, địch dồn lực lượng lớn liều lĩnh mở cuộc hành quân "Tăng-gô Xi-ty” đánh chiếm cảng Cửa Việt - một đầu mối giao thông đường thủy quan trọng thuộc địa phận 2 xã Triệu Vân và Triệu Trạch thuộc huyện Triệu Phong nằm sâu trong vùng giải phóng của ta. Đánh chiếm cảng Cửa Việt địch muốn thực hiện ý đồ cắt đứt sự chi viện to lớn bằng đường biển từ hậu phương ra tiền tuyến của ta, trực tiếp là chi viện cho chiến trường Trị Thiên; đồng thời bịt cửa khẩu của Chính phủ cộng hòa miền Nam Việt Nam giao lưu với quốc tế bằng đường biển. Với địch, nếu chiếm được cảng Cửa Việt, chúng sẽ thiết lập được một đầu cầu quan trọng để đưa binh lính, súng đạn ra đánh chiếm vùng giải phóng, thực hiện âm mưu phá hoại Hiệp định Pa-ri về sau này.

Khác với các cuộc hành quân "Sóng thần" trước đây cuộc hành quân "Tăng-gô Xi-ty” do cố vấn Mỹ trực tiếp vạch kế hoạch, tướng A.BRam và tướng Héc chủ trì, tư lệnh quân đoàn 1 Ngô Quang Trưởng trực tiếp tổ chức thực hiện. Lực lượng cuộc hành quân gồm: Lữ đoàn đặc nhiệm mới được tổ chức (có 3 tiểu đoàn), lữ đoàn 147 (2 tiểu đoàn), lữ đoàn 258 (2 tiểu đoàn), 2 tiểu đoàn bảo an, 3 thiết đoàn (17, 18, 20), 4 tiểu đoàn pháo (70 khẩu), 4 tàu LCU, không quân; hải quân Mỹ (trong đó có 5 tàu khu trục của hạm đội 7 tham gia) chi viện hỏa lực. Toàn bộ cuộc hành quân do sư đoàn lính thủy đánh bộ chỉ huy, sở chỉ huy nhẹ của địch đặt ở Đa Nghi. Bằng một cuộc hành quân lớn, đánh vào sát thời điểm ngừng bắn theo Hiệp định Pa-ri, Mỹ -ngụy hy vọng tạo được yếu tố bất ngờ để nhanh chóng chiếm cảng Cửa Việt, điều mà trước đó với 3 cuộc hành quân "Sóng thần" chúng chưa làm nổi.

Ngày 25 tháng 1 năm 1973 địch bắt đầu triển khai lực lượng thực hiện cuộc hành quân "Tăng-gô-xi-ty”. Sau khi sử dụng 70 lần chiếc B52 và bắn trên 60.000 quả đạn pháo các cỡ vào khu vực Vĩnh Hòa, Long Quang, Thanh Hội, Cửa Việt. . . địch bắt đầu nổ súng dồn dập đánh vào các bàn đạp trên toàn tuyến phòng ngự của ta ở cánh đông. Đội hình tiến công của địch chia làm 3 hướng:

- Lữ đoàn đặc nhiệm (gồm 3 tiểu đoàn 2, 4, 9) và chi đoàn thiết giáp đột kích hướng chủ yếu ven biển vào Thanh Hội.

- Lữ đoàn 147 (có 2 tiểu đoàn 5, và 2 chi đoàn thiết giáp đánh vào Long Quang.

- Lữ đoàn 258 (có 2 tiểu đoàn 3 và 6) đánh vào Nại Cửu, Chợ Sải.

Đêm ngày 25 tháng 1, lữ đoàn đặc nhiệm dùng 1 tiểu đoàn bí mật đánh vào Thanh Hội. Lữ đoàn 258 sử dụng tiểu đoàn 3 đánh Nại Cửu, Chợ Sải. Sáng ngày 26 tháng 1 lữ đoàn 147 đánh vào Long Quang. Cả 3 hướng quân địch đều bị quân ta đánh trả quyết liệt, bị thiệt hại phải dừng lại củng cố. Trong đêm ngày 26 tháng 1 các trung đoàn 64, 101 đã khẩn trương bổ sung kế hoạch phòng thủ khu vực cảng Cửa Việt, ta hình thành 3 tuyến phòng ngự liên hoàn từ Xam Tuân đến Hà Tây sẵn sàng đánh trả các đợt tiến công mới của địch.

Ngày 27 tháng 1 địch tập trung bom pháo đánh phá ác liệt các tuyến chốt của ta. Lữ đoàn đặc nhiệm được gần 100 xe tăng, xe bọc thép chi viện mở liên tiếp 4 lần tấn công vào Thanh Hội, lực lượng chốt giữ của ta chiến đấu kiên cường chặn địch, đến chiều địch mới chiếm được Thanh Hội và một phần làng Vĩnh Hoà, ta tiếp tục tổ chức lực lượng phản kích để giành lại. Trong khi đó lữ đoàn 147 được khoảng 40 xe tăng chi viện đánh vào Long Quang, An Trạch, địch chiếm được một phần trận địa của ta nhưng ngay đêm đó Trung đoàn 48 phản kích chiếm lại được trận địa.

Mặc dù bị thiệt hại nặng nhưng do yêu cầu phải chiếm Cửa Việt trước giờ ngừng bắn (8 giờ ngày 28 tháng 1) địch vẫn điều thêm quân, tăng thêm xe pháo cho sư đoàn lính thủy đánh bộ tiếp tục tấn công. Chúng thay đổi cách đánh, không đột phá chính diện mà lợi dụng ban đêm luồn qua khe hở giữa các trận địa phòng ngự của ta tiến ra Cửa Việt.

23 giờ 30 ngày 27 tháng 1, lợi dụng lúc gió to, sóng lớn, nước thủy triều xuống, Lữ đoàn đặc nhiệm bí mật tiến theo mép nước ra Cửa Việt. Ta mất cảnh giác nên cuộc tiến công của địch thuận lợi. Đến 1 giờ 30 ngày 28 tháng 1 ta mới phát hiện được quân địch. Bộ binh Trung đoàn 101 và 5 xe tăng, xe bọc thép đánh vào đội hình địch ở đông Hà Tây, Vĩnh Hòa, diệt được 8 xe, cắt đội hình địch làm hai nhưng một bộ phận địch vẫn tiến về cảng đánh vào các chốt của ta ở Hà Tây, Cửa Việt, điểm cao 12. Đến 7 giờ ngày 28 tháng 1 địch hình thành 3 cụm quân:

- Cụm 1 có 1 đại đội và 20 xe tăng, xe M113 ở cách Cảng Mỹ (về phía nam) khoảng 700 m.

- Cụm 2 khoảng 1 đại đội và 10 xe tăng ở đông thôn Hà Tây cách cảng Cửa Việt khoảng 1.500m.

- Cụm 3 có hai trung đội và 8 xe tăng cách điểm cao 4 khoảng 200 m về phía đông bắc.

Sau khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực, địch lấn tiếp ra nam điểm cao 4 (cách khoảng 600 m) một cụm quân nữa, cụm quân này có hai trung đội và 12 xe tăng, xe M113. Lực lượng địch ở phía sau tiếp tục tăng cường lên, thực hiện âm mưu cắm cờ lấn đất. Trước hành động đó của địch, Bộ tư lệnh Mặt trận lệnh cho Bộ tư lệnh Cánh Đông kịp thời uốn nắn những nhận thức lệch lạc của cán bộ chiến sĩ, nhanh chóng đưa bộ đội trở lại tư thế chiến đấu, đồng thời khẩn trương điều động lực lượng dự bị tăng cường cho các trận địa đánh chiếm lại các vị trí đã bị địch lấn chiếm. Các tiểu đoàn 1 (trung đoàn 48), 7 (Trung đoàn 271), 38 (bộ đội địa phương), 8 (Trung đoàn 64), 1 (Trung đoàn 27) từ bắc Cửa Việt và Chợ Sải được lệnh vượt sông vào vị trí chiến đấu. 1 giờ ngày 29 tiểu đoàn 38 đánh cụm 1 và cụm 2 diệt 50 tên và 5 xe. Một đại đội của tiểu đoàn 8 (trung đoàn 64) đánh địch ở điểm cao 4 và chốt lại đó. Địch thu lại còn 3 cụm, sau đó chúng tăng viện và tổ chức thêm 1 cụm mới tại bắc Vĩnh Hòa gồm 1 đại đội và 4 xe tăng.

Để tăng cường lực lượng cho Cánh Đông tiêu diệt địch, Bộ tư lệnh Mặt trận điều Trung đoàn 24 Sư đoàn 304 và đại đội xe tăng T54 từ Miếu Bái Sơn sang tăng cường cho các trận địa chốt ở Thanh Hội, Cửa Việt, lệnh cho Trung đoàn 66 cơ động xuống Vinh Quang làm lực lượng dự bị cho hướng đông đồng thời cử các đồng chí Cao Văn Khánh, Phó tư lệnh Mặt trận, Hoàng Minh Thi, Phó chính ủy và đồng chí Doãn Tuế, Tư lệnh pháo binh của Mặt trận xuống trực tiếp cùng Bộ tư lệnh Cánh Đông tổ chức lực lượng chiến đấu.

Sau khi di chuyển sở chỉ huy từ Hà Thượng (Do Linh) vào Thanh Xuân để trực tiếp chỉ huy bộ đội chiến đấu, ngày 30 tháng 1 Bộ tư lệnh Cánh Đông tổ chức đội hình đánh trận phản đột kích Cửa Việt như sau:

- Bộ phận chặn đầu gồm 2 đại đội của 2 trung đoàn 101 và 48, bộ phận K5 Hải quân, công binh Sư đoàn 320B có nhiệm vụ giữ cảng, Phó Hội, Hà Tây, kiên quyết ngăn chặn địch trước các chốt, không cho địch phát triển lên Cửa Việt.

- Bộ phận khóa đuôi gồm có Trung đoàn 64 (thiếu), tiểu đoàn 6, Trung đoàn 24, tiểu đoàn 2, Trung đoàn 101 chốt tại Vĩnh Hòa đánh địch tăng viện từ Thanh Hội lên và chặn bọn địch rút chạy từ Cửa Việt xuống.

- Bộ phận chủ lực, gồm Trung đoàn 101 (thiếu), Trung đoàn 24 (thiếu), tiểu đoàn 38 (thiếu) và tiểu đoàn 7 Trung đoàn 271 có nhiệm vụ tiêu diệt địch từ Xóm Mộ lên đến cảng.

12 giờ ngày 30 tháng 11 ta nổ súng tấn công địch. Trận đánh này kết quả thấp do ta nổ súng không đồng loạt. Kịp thời rút kinh nghiệm, ngày 31 tháng 01 ta tập trung 5 tiểu đoàn của bộ phận chủ lực có một số xe tăng, xe bọc thép đồng loạt tiến công vào các cụm quân địch ở phía nam cảng. Các trận địa pháo chiến dịch, các trận địa pháo chống tăng ở bờ bắc bao gồm ĐKZ75ly pháo 85 ly, B72 các đội hỏa khí chống tăng đi cùng bắn mãnh liệt vào cụm quân địch diệt nhiều bộ binh và xe tăng. Do nổ súng tiến công đồng loạt vào cả 5 cụm quân địch nên chúng không thể hỗ trợ được cho nhau, đội hình nhanh chóng rối loạn. Đến 8 giờ 30 ngày 31 tháng 1 ta diệt xong cả ba cụm quân địch ở phía nam cảng, các cụm quân địch còn lại chống cự yếu ớt rồi tháo chạy. 10 giờ 30 ngày 31 tháng 1, từ cảng Cửa Việt đến Vĩnh Hòa không còn bóng giặc, tuyến chốt từ Thanh Hội đến Long Quang, Chợ Sải được khôi phục. Cuộc hành quân "Tăng-gô xi-ty" của địch bị đánh bại hoàn toàn.

12 giờ 30 ngày 31 tháng 1 năm 1973 Bộ tư lệnh Mặt trận ra lệnh ngừng tiến công, chuyển vào thế bố trí mới để tiến hành cuộc đấu tranh chống địch lấn chiếm giữ vững vững giải phóng. Trong đợt chiến đấu từ ngày 26 đến ngày 31 tháng 1 năm 1973 ta đã tiêu diệt 2.330 tên địch, bắt gần 200 tên, phá hỏng 113 xe tăng, xe bọc thép, thu 13 chiếc, bắn rơi 5 máy bay, phá hủy 10 khẩu pháo, bắn cháy 1 tàu, thu nhiều súng đạn, quân trang quân dụng của địch.

Với chiến thắng Cửa Việt, quân và dân ta đã đập tan âm mưu tráo trở, lật lọng của Mỹ - ngụy đối với Hiệp định Pa-ri vừa ký kết. Sau đòn trừng trị đích đáng này, Mỹ - ngụy không dám mở những cuộc hành quân lớn ra vùng giải phóng Quảng Trị trong suốt thời gian thi hành hiệp định.

Sau chiến thắng Cửa Việt, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã gửi thư biểu dương và chúc mừng năm mới tới toàn thể cán bộ, chiến sĩ đã tham gia chiến đấu. Bức thư có đoạn viết: "Cán bộ, chiến sĩ Cánh Đông đã cảnh giác cao, chiến đấu giỏi, làm tốt công tác binh vận giành thắng lợi lớn, tiêu diệt, bắt sống và gọi hàng được nhiều địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân lấn chiếm trái phép của địch, giữ vững vùng giải phóng. Đây là một thắng lợi lớn rất quan trọng trong những ngày đầu thi hành hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. . .".

Sau chiến dịch Quảng Trị năm 1972, Thường vụ quân ủy Trung ương ra nghị quyết về thống nhất tổ chức chỉ đạo, chỉ huy Mặt trận B5 và B4, Nội dung nghị quyết có những vấn đề chủ yếu như sau:

- Trên cơ sở những thắng lợi to lớn mà chiến trường Trị - Thiên đã giành được trong đợt tiến công vừa qua và nhiệm vụ tác chiến hiện nay, cũng như sắp tới của Mặt trận Trị - Thiên là giữ vững vùng giải phóng, củng cố xây dựng phát triển lực lượng, tiếp tục tiến công địch làm cho chiến trường Trị - Thiên vững mạnh trong mọi tình huống.

- Căn cứ vào đặc điểm vị trí chiến trường Trị -Thiên: địch thành một địa bàn hoạt động thống nhất. Ta thì Quảng Trị và Thừa Thiên quan hệ mật thiết với nhau lại tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là chiến trường có điều kiện tiếp tục tổ chức trận địa tiến công binh chủng hợp thành quy mô lớn nên cần có tổ chức thống nhất để tạo sức mạnh. Thường vụ quân ủy Trung ương đã quyết định thống nhất Mặt trận B5 và B4 thành một quân khu.

Chỉ trong một thời gian ngắn, Quân khu Trị Thiên - Huế ra đời, tiếp tục đảm đương sứ mạng lịch sử trong giai đoạn mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.

--------------------------------------------------------------------------------

KẾT LUẬN

Do chiến lược "chiến tranh đặc biệt" thất bại, từ giữa năm 1965 Mỹ đưa ồ ạt quân viễn chinh vào miền Nam thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", mở cuộc phản công chiến lược "tìm diệt" bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang nhân dân ta trong mùa khô lần thứ nhất (1965 - 1966). Tháng 6 năm 1966, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương với tầm nhìn chiến lược xa rộng, cùng với việc ra chỉ thị tăng cường củng cố, xây dựng Mặt trận miền Đông Nam Bộ (B2), Mặt trận Tây Nguyên (B3)... đã quyết định thành lập Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (B5) - một hướng tiến công chiến lược quan trọng, nhằm tạo ra một mặt trận mới phân tán lực lượng địch, đẩy quân Mỹ lún thêm vào thế bị động, tạo điều kiện để chủ lực ta ở miền bắc trực tiếp đánh quân Mỹ.

Trải qua tám năm (6.1966 - 1.1973) xây dựng, chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị - một trong những nơi đọ sức quyết liệt nhất giữa ta và địch, quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị không chỉ gánh vác trọng trách sứ mệnh lịch sử, thu hút và tiêu hao, tiêu diệt một lực lượng lớn sinh lực Mỹ ở miền Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường Trung Bộ, Nam Bộ hoạt động, mà còn đánh bại chiến lược ngăn chặn và chia cắt của địch, trực tiếp tăng thêm sức mạnh chiến đấu, chất lượng tiến công cho chiến trường miền Nam. Có thể nói, suốt dải đất từ bắc sông Bến Hải đến nam sông Thạch Hãn, từ Cửa Tùng, Cửa Việt (biển Đông) đến Khe Sanh, Lao Bảo (biên giới Việt - Lào) không nơi nào giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước không thực hiện đánh phá hủy diệt, không chỉ hủy diệt một lần mà tới hai ba lần, có nhiều nơi đã trở thành bình địa. Đồng thời, chúng còn xây dựng ở đây "hàng rào điện tử chống xâm nhập", thực chất là những bãi mìn khổng lồ nhằm ngăn chặn triệt để sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam với ảo vọng không một sinh linh nào có thể vượt qua nổi. Nhưng như mọi mặt trận của miền Nam bất khuất kiên trung, quân và dân Mặt trận Đường 9 -Bắc Quảng Trị từ trong khói lửa đạn bom đã tôi luyện bản lĩnh chiến đấu của mình, bám trụ chiến đấu ngoan cường hàng nghìn ngày đêm, tạo nên những trang sử vàng chói lọi.

Trong những năm 1966 - 1967, khi thời điểm "chiến tranh cục bộ" ở chiến trường miền Nam đi vào giai đoạn quyết liệt nhất, Mỹ - ngụy huy động hàng chục nghìn tên cùng hàng trăm nghìn tấn phương tiện chiến tranh hiện đại ra chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị thực hiện âm mưu "tìm diệt" và "bình định" đánh phá triệt để phong trào cách mạng ở nơi đây, nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam. Chính trong những ngày tháng khó khăn gian khổ ấy, Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị vừa ra đời đã gánh vác trọng trách tạo thế, tạo lực giữ vững chiến trường, chủ động tiến công thu hút, giam chân hàng vạn tên lính viễn chinh Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên, giáng cho chúng những đòn chí mạng. Những thắng lợi đầu tiên của quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ở khu vực Cam Lộ, Do Linh, phá tan các cuộc hành quân Hát - xtinh (cuối năm 1966), Đếch - hao, Bi - khôn - hin (đầu năm 1967) ra nam lưu vực sông Bến Hải (đông đường 9); và những chiến công Do An, đánh chiếm quận lỵ Hướng Hóa, giải phóng cứ điểm Làng Vây, tiến công vây hãm hàng nghìn lính thủy đánh bộ Mỹ ở Tà Cơn (tây đường 9, tháng 12 năm 1967) góp phần cùng quân dân toàn Miền đánh bại một bước quan trọng chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ.

Đường 9 - Khe Sanh là một Mặt trận nóng bỏng nhất đối với quân Mỹ và sự quan tâm đặc biệt của Tổng thống Mỹ. Tết Mậu Thân năm 1968, trên chiến trường miền Nam nói chung và trên chiến trường Đường 9 -Bắc Quảng Trị nói riêng, Bộ tư lệnh quân viễn chinh Mỹ đều bị bất ngờ, lúng túng bị động đối phó. Cuối tháng 1 năm 1968, trong khi Mỹ - ngụy đang bị "hút” vào chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh, hàng nghìn quân tinh nhuệ đang bị vây hãm ở Tà Cơn, Làng Vây Hướng Hóa, đang căng ra "be bờ" cho đường 9, thì bất ngờ quân và dân toàn Miền thực hành "Tổng tiến công và nổi dậy" ở hàng chục thành phố, thị xã cơ quan đầu não của Mỹ - ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên, gây nên những chấn động dữ dội giữa lòng nước Mỹ, khiến cho đông đảo các tầng lớp xã hội Mỹ càng phản đối chiến tranh. Giới diều hâu Mỹ cũng phải xem xét lại cuộc chiến, kể cả các quan chức cấp cao, các nghị sĩ, các nhà tài thiệt đầy thế lực Mỹ, phải thay đổi quan điểm đối với cuộc chiến tranh, đa số không còn hậu thuẫn cho chính sách chiến tranh của chính quyền Giôn-xơn nữa.

Vào những năm 1969 - 1971, trên chiến trường miền Nam nói chung và chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị nói riêng, mặc dù Mỹ - ngụy bắt đầu thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh”, rút dần quân Mỹ về nước nhưng trên thực tế chiến trường đường 9 lại diễn ra một cuộc đọ sức quyết định cho chiến lược mới - chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn. Trong những năm 1969, 1970, Mỹ - ngụy mở hàng chục cuộc hành quân nhỏ và vừa ra các vùng giáp biên, giáp vĩ tuyến 17 với ý đồ "triệt phá từ gốc các chân hàng của quân Bắc Việt ở vùng cán xoong". Đặc biệt, đầu tháng 2 năm 1971 Mỹ - ngụy đã tập trung hàng vạn quân (Chú thích: 4 sư đoàn (3 sư đoàn nguỵ: sư đoàn dù, sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, sư đoàn 1, sư đoàn không kỵ 101 Mỹ), 2 liên đoàn biệt động, 2 thiết đoàn, 1 tiểu đoàn pháo binh.), hàng trăm xe tăng, thiết giáp, hàng trăm khẩu pháo, 500 máy bay trực thăng, 1.500 máy bay chiến đấu mở cuộc hành quân "Lam Sơn - 719" ra Đường 9 - Nam Lào, nhằm thực hiện chia cắt chiến trường Đông Dương, cắt đứt triệt để hậu cần từ miền Bắc vào miền Nam, làm suy yếu lực lượng kháng chiến của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia. Giữa thời điểm vô cùng khó khăn gian khổ ấy, quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã cùng với Binh đoàn chủ lực B70 chấp hành triệt để mệnh lệnh chiến đấu của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng chủ động phản công, tiến đến đánh bại cuộc hành quân "Lam Sơn – 719” của Mỹ-ngụy, giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng trên chiến trường Đường 9 - Nam Lào.

Bước vào mùa Xuân năm 1972, để chấp hành nghị quyết mở cuộc tổng tiến công chiến lược toàn miền đánh bại một bước căn bản chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ, quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị lại cùng với các binh đoàn chủ lực trên hướng tiến công chiến lược chủ yếu mở cuộc tiến công hiệp đồng binh chủng với quy mô lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (tính đến năm 1972).

Trải qua 11 tháng (từ tháng 3 năm 1972 đến tháng 1 năm 1973) chiến đấu vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ác liệt hy sinh, lực lượng vũ trang Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã cùng các binh đoàn chủ lực của Bộ tiến công giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị (5 - 1972) và sau đó đánh địch phản kích bảo vệ thắng lợi thành quả cách mạng đã giành được (Thu Đông năm 1972), loại khỏi vòng chiến đấu hơn 4 vạn tên địch, thu và phá hủy hơn 1.000 xe quân sự.

Chiến thắng to lớn ở Quảng Trị trong năm 1972 đã làm thay đổi thế và lực của ta trên chiến trường, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của Mỹ - ngụy, làm cơ sở và phối hợp đắc lực cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Hội nghị Pa-ri. Đồng thời thắng lợi to lớn, toàn diện của ta trong năm 1972 và trận "Điện Biên Phủ trên không” ở Hà Nội đã buộc đế quốc Mỹ phải cam kết rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam nước ta. Quân và dân ta thực hiện tốt di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh "đánh cho Mỹ cút", tạo ra thuận lợi căn bản để "đánh cho ngụy nhào".

Điểm lại những mốc son thắng lợi to lớn, toàn diện trong các giai đoạn lịch sử để chúng ta thấy rằng: mỗi một chiến công mà quân và dân ta trên chiến trường Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị giành được không chỉ biểu hiện tinh thần chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị mệnh lệnh của cấp trên, tinh thần đoàn kết chiến đấu keo sơn, ý chí quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, mà điều quan trọng hàng đầu có tính quyết định là sự lãnh đạo tài tình, nhạy bén sáng tạo của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương trong việc đề ra những quyết sách đúng đắn, táo bạo, kịp thời trên hướng tiến công chiến lược quan trọng này.

Rõ ràng, sau cuộc đọ sức quyết liệt với cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 cùng quân viễn chinh Mỹ, mặc dù bộ đội ta đã chiến đấu dũng cảm, lần lượt làm thất bại các mũi, hướng "tìm diệt" của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên Mỹ, phá hủy hàng vạn tấn phương tiện chiến tranh, nhưng trên thực tế, Mỹ vẫn đang trên đà tăng quân ồ ạt vào miền Nam hòng làm xoay chuyển hẳn cục diện trên chiến trường.

Trong khi đó, ở một số vùng đồng bằng, miền núi nằm ở tâm điểm đánh phá của quân Mỹ: các căn cứ kháng chiến, các cơ sở quần chúng cách mạng của ta bị đánh phá nhiều lần, có nơi lực lượng vũ trang địa phương phải tạm thời rút lui bảo toàn lực lượng. Với tầm nhìn chiến lược xa rộng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã từng bước phát triển thế tiến công chiến lược của ta trên toàn miền, hình thành các chiến trường trọng điểm, căng kẻ địch ra các Mặt trận miền đông Nam Bộ, Mặt trận Tây Nguyên, Khu 5 ngay khi quân Mỹ mới tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam - Việt Nam. Và bước vào Hè -Thu 1966, khi Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tiếp tục tăng quân viễn chinh lên 38 vạn tên (tính trung bình mỗi tháng quân Mỹ vào 1 vạn tên), thì việc quyết định mở thêm Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương là một chủ trương rất dúng đắn, sáng suốt về mặt chỉ đạo chiến lược, một đóng góp mới vào việc giữ vững và phát triển quyền chủ động, đẩy mạnh thế tiến công của ta, làm phân tán bớt lực lượng quân Mỹ, làm đảo lộn tính toán chiến lược của địch, có tác dụng ngăn chặn ý đồ đưa quân Mỹ vào đồng bằng sông Cửu Long và phá âm mưu của đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh trên mặt đất ra miền Bắc.

Có thể nói, việc nhận định đánh giá chiến trường miền Đông Nam Bộ là hướng tiến công chiến lược chủ yếu và Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị là hướng tiến công chiến lược quan trọng của Đảng ta đã thể hiện sự điều hành chiến tranh một cách chủ động trong lúc quân Mỹ đang tăng quân ồ ạt.

Ta đã kéo được hầu hết các tiểu đoàn, lữ đoàn thuộc các sư đoàn sừng sỏ (sư đoàn 1, sư đoàn lính thủy đánh bộ 3, sư đoàn A-mê-ri-cơn, sư đoàn kỵ binh bay) ra Đường 9 - Khe Sanh, nơi quân Mỹ gặp khó khăn về địa hình núi non hiểm trở, tiếp tế hậu cần xa (huy động cả đường bộ, đường không, đường thuỷ, nhiều lúc vẫn thiếu). Và hầu hết các đơn vị này bị quân và dân ta kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ, tiến công, vây hãm làm cho quân Mỹ bị tiêu diệt, tiêu hao, bị "vô hiệu hoá" như "cá voi mắc cạn". Với tầm nhìn chiến lược toàn cục, cả quân sự và chính trị, cả ở nước ta và ở nước Mỹ, Đảng ta đã dự kiến xu thế phát triển của cuộc chiến tranh, phát hiện được thời cơ chiến lược đang xuất hiện.

Trong điều kiện tương quan lực lượng quân sự lúc bấy giờ vẫn nghiêng về phía địch, song nắm vững chiều hướng vận động của tình hình và để kịp thời chớp lấy thời cơ nhằm xoay chuyển cục diện chiến tranh, Đảng chủ trương đánh vào ý chí xâm lược của đối phương bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh cách mạng miền Nam, bằng việc kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, nhằm vào toàn bộ mục tiêu hiểm yếu của địch trên chiến trường.

Chính lúc Lầu Năm Góc đang bị động, lúng túng về chiến lược, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương đã quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đánh địch trên hầu khắp các thành phố thị xã toàn miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 đã làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của Mỹ, tạo ra bước ngoặt quyết. định của cuộc chiến tranh.

Đây là bài học quý báu để Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương chỉ đạo các chiến trường tăng cường xây dựng lực lượng, chuẩn bị thế trận đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ. Đồng thời đây cũng là những kinh nghiệm thiết thực để Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ đạo Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị khẩn trương chuẩn bị mọi mặt lần lượt đánh bại cuộc hành quân "Lam Sơn-719” ra Đường 9 - Nam Lào (1971) và mở cuộc tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1972 giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị.

Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ra đời, trưởng thành, chiến thắng là sự kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh tinh thần và sức mạnh vật chất, giữa tinh thần đoàn kết gắn bó keo sơn Nam Bắc là một nhà, hậu phương lớn hết lòng vì tiền tuyến lớn, với ý chí quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược và trí thông minh sáng tạo của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Sức mạnh tổng hợp đó của quân và dân trên Mặt trận Đường 9 được biểu hiện bền vững, xuyên suốt cả quá trình vừa chiến đấu vừa xây dựng cho đến ngày kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình.

Thực tế trong những năm tháng xây dựng, chiến đấu trên một địa bàn chiến lược trọng yếu này quân dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị luôn luôn nhận được sự đóng góp to lớn, toàn diện, chí tình, chí nghĩa của quân và dân cả nước; đặc biệt là của hậu phương chiến lược miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Giữa cuộc "chiến tranh cục bộ"; giặc Mỹ tập trung hàng chục nghìn quân Mỹ và tay sai mở những cuộc hành quân "tìm diệt" đánh phá hết sức dã man vùng Đường 9 - Quảng Trị, xóa trắng các vùng bắc Đường 9 tới nam sông Bến Hải để ngăn chặn và đẩy lùi sự chi viện của quân và dân miền Bắc với miền đất Trị - Thiên yêu thương. Với tinh thần "Quảng Trị vì cả nước", "cả nước vì Quảng Trị", hầu hết các sư đoàn chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam như 324, 325, 304, 308, 320, 312..., các đơn vị binh chủng pháo mặt đất, pháo cao xạ, tên lửa, xe tăng, công binh, thông tin, đặc công... các tổng đội thanh niên xung phong và hàng vạn dân công của các tỉnh Khu 4 đã có mặt trong những giờ phút gay go quyết liệt nhất để cùng quân và dân Quảng Trị chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, lập nên những "chiến thắng Khe Sanh lừng danh đất nước", "Đường 9 - Nam Lào lừng lẫy chiến công", tới "Mùa Xuân lập công, vượt sông Bến Hải, quét sạch quân thù giải phóng Quảng Trị".

Thắng lợi to lớn, toàn diện của quân dân ta trên Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc thống nhất Tổ quốc của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Những truyền thống, những kinh nghiệm rút ra trong xây dựng và chiến đấu ở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị mãi mãi là bài học vô giá trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro