mê tông chi quốc _thiên hạ bá xướng

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG I: BẢO VẬT TRONG HẮC ỐC

Hồi 1: Hắc Ốc

Đúng như Tư Mã Khôi vẫn thường nói: “Vận xui là một loại vậy may vĩnh viễn không bao giờ bị bỏ lỡ”. 

Năm mười lăm tuổi, cha mẹ của Tư Mã Khôi đều bị buộc tội hữu khuynh, kẻ trước người sau lần lượt nhắm mắt xuôi tay vì bạo bệnh ngay trong lớp cải tạo, song thân ra đi vội vã đến nỗi chẳng kịp nhắn nhủ cậu con trai ở lại câu gì. Khi đó không có ai nói cho Tư Mã Khôi hay cậu nên đi đâu học, đến đâu ăn, cũng chẳng người nào thèm để mắt xem cậu sống hay chết. Đợi khi tất cả của cải trong nhà đều bị đem bán sạch trơn, từ trong ra ngoài chẳng có thứ gì đáng giá, cậu mới tỉnh ngộ từ nay về sau chỉ còn biết dựa vào chính mình mà thôi. Để tìm một con đường sống, cậu đành phải chạy đến nơi mà trước đây ngay cả nằm mơ cậu cũng không dám mơ đến – Hắc ốc để mưu sinh qua ngày.

“Hắc ốc” không phải là một tòa địa ốc màu đen mà đó là biệt danh của một xóm nhỏ ở vùng ngoại ô heo hút, con xóm nằm kẹp ngay giữa hai dải núi trọc, quanh năm mưa không thuận, gió không hòa, đất xấu dân nghèo, vô cùng xa xôi hẻo lánh. Thời chiến tranh, nơi đây từng bị máy bay thả bom dữ dội, sau đó xảy ra một trận hỏa hoạn rất lớn, nhà cửa bị thiêu cháy sụp đổ, khắp nơi tang thương, khói lửa dày đặc hun tất cả những bức tường vỡ nát còn sót lại thành một màu đen xì xì, vì thế người dân ở đây gọi nơi này là “Hắc ốc”.

Suốt mười năm loạn lạc, khu vực “Hắc ốc” vẫn chưa được chính phủ trùng tu. Bao nhiêu năm đến giờ không hề có người dân chính thức nào của con xóm quay lại cố hương sinh sống. Nhưng ngay trong lòng thôn xóm hoang tàn lại có một con đường sắt xuyên qua, hàng ngày rất nhiều chuyến tàu chuyên chở hàng hóa chạy đi chạy lại, đã thu hút một lượng lớn số người ăn theo đường sắt đến đây trú ngụ. Ngày qua tháng lại, nơi đây dần dần trở thành cứ địa tụ tập của những cư dân thuộc tầng đáy xã hội.

Đương nhiên ở đây không tránh khỏi việc vàng thau lẫn lộn, cát bùn nhào trộn cả vào nhau. Trong xóm có rất nhiều thành phần, từ trẻ mồ côi không nhà không cửa đến những kẻ nhặt rác lưu lạc tứ phương, những nông dân từ nông thôn chạy lên thành phố kiếm sống, những người nhặt than vụn rơi trên đường sắt, phu khuân vác ở bến tàu, kẻ bán khoai lang dạo, thậm chí còn có cả những thanh niên trí thức không chịu được công việc lao động chân tay gian khổ nơi hoang vu hẻo lánh một mình chạy trốn về đây ẩn náu.

Bọn họ chia bè kết phái sống ở Hắc ốc, đa số đều mưu sinh nhờ vào công việc buôn bán lặt vặt trái phép hoặc đào hầm lấp hố, chẳng người nào có công việc tử tế để làm, đương nhiên trong số đó không thiếu những kẻ phá khóa trộm đồ, bò vào xe lửa ăn cắp, còn có cả bọn lưu manh vô lại chuyên đâm thuê giết mướn kiếm tiền.

Những kẻ rập rình ẩn hiện ở khu vực Hắc ốc hầu như tất cả đều là thành phần đã bị bài trừ ra khỏi hệ thống xã hội, những việc chính phủ nghiêm cấm không được làm chúng đều nhúng tay làm cả. Nhưng trong khi thế giới bên ngoài đang hừng hực đấu tranh chính trị một mất một còn giữa các đảng phái thì ở đây dường như bị đoạn tuyệt hoàn toàn với thị phi tranh chấp, ngay cả tin tức giật gân chữ to in đậm ngay trên bìa báo cũng không lọt đến được nơi này. Mỗi lần có cớm vào xóm truy quét lùng sục, bang Hắc ốc chỉ cần đánh động vài tiếng là cả hội đã rút gọn không còn vết tích, đợi khi sóng yên bể lặng, lại kéo nhau trở về tụ tập. Tất cả các thế lực trong chính phủ dường như đều bất lực, chẳng làm gì được chúng, đành phải nhắm một mắt mở một mắt bỏ qua. Hơn nữa, chỉ cần bọn họ đừng gây ra trọng án kinh thiên động địa thì ai thèm để ý đến lũ “cặn bã của xã hội” sống ở khu ven thành phố bị bỏ hoang phế.

Băng đảng của Tư Mã Khôi là một nhóm gồm toàn những đứa trẻ khoảng tầm mười bốn mười lăm tuổi, trong đó có cả nam và nữ, đa số bọn chúng đều là con cái trong những gia đình có bố mẹ bị quy chụp thành phần cánh hữu, chúng lại chưa đến tuổi nhập ngũ để tham gia quân đội nên đành phải phiêu dạt nay đây mai đó, trôi nổi giữa xã hội, chúng không có việc làm cũng không được đi học, càng chẳng có bà con thân thích nào có thể nương tựa. Bọn chúng đúng là những kẻ “bà không yêu, cậu không chiều, thím nhìn thấy đá cho ba cái, ngay đến chó cũng nguýt dài quay mặt”.

Trong đám trẻ mới lớn này, tuy có một vài đứa cũng được nhận mấy đồng trợ cấp sinh hoạt phí, nhưng số tiền ít ỏi đó chẳng thấm vào đâu, bản năng sinh tồn buộc chúng phải tập hợp lại thành băng nhóm tranh giành cơm áo với xã hội. Khi đó thường thịnh hành khẩu hiệu “Tư tưởng Mao Trạch Đông như luồng gió xuân thổi đến muôn nơi” nên hội Tư Mã Khôi quyết định đặt tên cho nhóm là “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” và còn nghiêm trang phát thệ trước tượng đài Mao chủ tịch: “Từ nay cả nhóm phải đoàn kết, đồng cam cộng khổ, cùng làm cách mạng”. Trên thực tế, khẩu hiệu này chỉ là cái cớ để chúng làm loạn, gây họa khắp nơi, quấy nhiễu an ninh khiến chó cắn gà kêu không ngày yên ổn, dân chúng cách mạng trong thành không người nào nhìn thấy chúng mà không muốn chửi mắng cho thỏa giận.

Tính chất của “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” có vài phần tương tự với nhóm “Đồng Đảng” trong lịch sử từng nhiễu nhương thành phố sương mù Luân Đôn ở Anh, tuổi đời các thành viên đều tương đối thấp, hoạt động của nhóm có tính chất nguy hại nhất định đối với xã hội. Chẳng bao lâu sau, “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” tự thấy rằng thành phố không phải nơi dễ kiếm cơm nên đành rút lui về khu vực gần Hắc ốc. Hội Tư Mã Khôi đánh mấy trận sống mái với bọn lưu manh bản địa, tuy chịu không ít thiệt thòi nhưng “không đánh bất thành bạn”, cuối cùng hai bên đã hóa giải được hận thù và đạt được nhận thức chung một cách không ngờ. Qua nhiều cuộc thương thuyết kéo dài, hai bên đã phân định ranh giới địa bàn của mỗi bên rất rạch ròi, cục diện hỗn loạn từ đó tạm thời ổn định trở lại.

Trong “Nhóm chiến đấu Xuân Phong”, Tư Mã Khôi có một người bạn thân tên là La Đại Hải. La Đại Hải khí chất hào hiệp lại rất dũng cảm, cha cậu ta là La Vạn Sơn, từng là bộ đội chuyển ngành làm cán bộ trong tòa án địa phương, sau này do bị điều động công tác nên cả gia đình từ Đông Bắc phải chuyển xuống Hồ Nam. Trong chiến dịch bài trừ hàng ngũ cán bộ suy đồi, ông La Vạn Sơn bị áp giải vào trại cải tạo lao động, còn lại một mình La Đại Hải tứ cố vô thân đành phải phiêu dạt đầu đường xó chợ. Tên tiểu tử này trông khá khôi ngô tuấn tú, tướng mạo đường hoàng, chiều cao và thể lực đều hơn hẳn các bạn cùng trang lứa, cậu ta rất thích ngồi rỗi lo chuyện thiên hạ, hay ra tay dẹp chuyện bất bình, vì thế có sức hiệu triệu rất lớn đối với các thành viên trong nhóm. Chỉ có điều khi còn nhỏ ở Đông Bắc, La Đại Hải bị rét đến nỗi đóng băng hỏng cả lưỡi nên khi nói không mấy rõ ràng, lại thêm cái tật nói nhiều vì vậy bị mọi người ở đây đặt cho biệt danh Hải ngọng.

Vì từ nhỏ Tư Mã Khôi đã bái “Văn Võ tiên sinh” làm thầy nên cũng thủ thân được chút ít bản lĩnh lục lâm, cậu ta không chỉ thân thủ nhanh nhẹn, ra tay gọn gàng, gan to hơn người mà còn rất giỏi ăn nói giảo biện, lại hiểu được các quy tắc của giới giang hồ trước giải phóng, biết rằng “Hành bang các phái, coi nghĩa khí làm trọng”. Trong những kẻ chiếm cứ khu Hắc ốc có không ít tên xuất thân từ xã hội cũ, chỉ có Tư Mã Khôi mới giao lưu được với chúng. Bởi vậy Tư Mã Khôi và La Đại Hải tự dưng trở thành thủ lĩnh của nhóm “Xuân Phong”, cầm đầu cả hơn trăm thiếu niên nam nữ, suốt ngày náo loạn con đường sắt hoang phế, thoát ẩn thoắt hiện, di chuyển nhanh như lốc cuốn.

“Xuân Phong đoàn” tuy đã giao kèo được vấn đề lãnh thổ với “Hắc Ốc bang”, rằng lấy đường sắt làm ranh giới phân định, nhưng vấn đề sinh tồn của hội Tư Mã Khôi vẫn chưa được giải quyết. Cứ theo thành phần xuất thân mà xét, bọn họ tuyệt đối không cam tâm đi nhặt than rơi trên đường sắt hoặc làm các công việc lao động chân tay thấp hèn. May mà Tư Mã Khôi có nhiều tai mắt, lại nhanh trí, cuối cũng cũng nghĩ ra một kế mưu sinh thượng sách. Cậu bảo các thành viên trong nhóm khuân tất cả đồ đạc còn sót lại trong nhà chuyển đến lều trại dựng tạm ở đây để xây dựng cứ điểm hoạt động, đồng thời sai đám con nít nhỏ tuổi lợi dụng hoàn cảnh gia đình bi thảm trở về nhà bếp cơ quan nơi bố mẹ chúng đã làm trước đây để “thuận tay dắt bò”. Kế sách này được gọi là “Khổ nhục kế”. Kế hay ở chỗ cho dù lỡ bị người ta phát hiện cũng không sao, bởi vì thành viên được phái đi thực hiện nhiệm vụ chỉ là những đứa trẻ khoảng trên mười tuổi. Hơn nữa các nhân viên làm trong nhà bếp đa phần lại là đồng nghiệp cũ, quen biết với cha mẹ chúng, chẳng ai nỡ lòng nào tóm cổ chúng giao nộp cho chính quyền, ngược lại phần lớn họ đều lấy cơm thừa canh cặn trong nhà bếp mang ra chia cho đám trẻ.

Thử nghiệm được vài ngày, các nhà bếp quả nhiên đều tình nguyện để lại cơm thừa cho bọn trẻ. Tư Mã Khôi thấy kế này khả thi liền cho bắc mấy cái bếp ở chân tường đổ nát, rồi đi trộm vài chiếc nồi to. Khi thức ăn kiếm về không đủ liền thả thêm vào đó mấy cọng rau nát, đồ khô thì mang lên hấp, đồ có nước thì cho vào nồi nấu thành một thứ thức ăn hỗn hợp. Vì đây là những đồ ăn thừa ở các nhà bếp khác nhau nên khẩu vị mỗi món một khác, sau khi đổ lẫn vào nhau nấu lên, mùi vị lại hấp dẫn khác thường, mùi thơm tỏa ra khắp nơi. Cả nhóm đắc chí đặt tên cho nó mỹ danh “Khách sạn Lục Quốc”.

Có điều hội Tư Mã Khôi không thèm ăn mấy đồ đó mà bán lại cho bọn “Hắc Ốc bang” ở bên kia đường sắt. Đám người đó đều là dân lao động chân tay, cả năm quần quật làm những công việc nặng, bụng lúc nào cũng rống tuếch, hơn nữa cả đời chưa bao giờ được thưởng thức các món ăn ở nhà bếp cơ quan, chính phủ. Bọn họ nhìn đồ ăn trong nồi của “Khách sạn Lục Quốc” vô cùng phong phú, lại láng một lớp dầu hoa ở bên trên, thấy ngon hơn hẳn đồ ăn thường ngày của mình nên người nào người nấy lần lượt móc tiền trong hầu bao ra mua từng bát lớn. Họ đút cả cơm lẫn cháo vào miệng nhai nuốt ngon lành. Những kẻ không có tiền thì dùng vật để trao đổi. “Khách sạn Lục Quốc” do Tư Mã Khôi phát minh ra ngày nào cũng cháy hàng, nồi niêu sạch trơn, cung không đủ cầu.

Hành động lần này của hội Tư Mã Khôi đã nhiều phần hóa giải được ánh mắt thù địch lẫn nhau giữa hai bang phái bên đường sắt, hơn nữa lại mang đến khoản lợi nhuận không nhỏ giúp cả hội duy trì những nhu cầu của cuộc sống.

Cứ như vậy qua hết mùa xuân, ngày càng lúc càng dài, chớp mắt đã bước vào mùa hè oi bức. Những ngày này chẳng thấy bóng dáng của một giọt mưa, trời hanh vật khô, nóng bỏng như trên chảo lửa. Lúc sắp trưa cũng là thời khắc khu Hắc Ốc yên tĩnh nhất trong ngày, mọi người đều tản ra các ngả lao động kiếm cơm, chỉ có mấy cô gái ở nhà lo chuyện bếp núc, chuẩn bị nấu thức ăn thừa từ ngày hôm trước, để phần cho những người ở lại ăn. 

Buổi sáng ngày hôm đó, La Đại Hải đặt bẫy ở khu đất hoang và tròng cổ được một con lợn rừng cỡ nhỡ, liền mang về Hắc ốc giết thịt, mổ bụng lột da, xử lý hết nội tạng rồi ngoắc cả tảng thịt tiết rỏ ròng ròng lên móc câu, thuận tay vứt luôn cái đầu lợn vừa cắt ra khi nãy lên tấm gỗ để ngay bên cạnh, chuẩn bị nổi lửa nấu nồi thịt cải thiện bữa tối cho cả nhóm. Đợi đến buổi trưa mới xong việc, cậu ta liền ngồi phệt đít xuống tấm đá xanh đặt trước cửa trại ngồi nghỉ ngơi hóng mát.

Lúc này, Hải ngọng nóng bức đến nỗi mồ hôi ướt đầm lưng áo nhưng trên đầu vẫn đội khư khư chiếc mũ quân nhân rách nát đi cướp được từ đời thủa nào, miệng phì phèo điếu thuốc, vừa hút vừa thao thao bất tuyệt nói chuyện với Tư Mã Khôi, chủ đề vẫn quanh quẩn mấy chuyện đợi khi nào bố cậu ta phục chức trở lại làm việc như trước, bọn rác rưởi dám đăng tin việc nhà cậu lên trang nhất hãy chống mắt lên mà xem cậu đây trả thù như thế nào.

Tư Mã Khôi tuy tuổi còn nhỏ nhưng lại trải nghiệm không ít những gập ghềnh trên đường đời, điều đó khiến tâm lí phản nghịch xã hội của cậu trở nên vô cùng nghiêm trọng. Dường như cậu đã sớm dập tắt hết mọi hi vọng trong lòng nên nghe Hải ngọng nói vậy chỉ ậm ừ đáp bừa vài câu lấy lệ.

Đúng lúc này, cậu chợt nhìn thấy một lão già đi vào trong ngõ. Tư Mã Khôi vô cùng thính tai tinh mắt, bất kể gió lay cỏ động khẽ khàng thế nào cũng không lọt khỏi tầm mắt. Chững lại thầm ước lượng một lát, cậu cảm thấy kẻ mới đến có chút gì đó khá cổ quái.

Quay đầu nhìn kỹ, chỉ thấy lão già đó ăn mặc rách rưới, quê cục, hơn nữa trông mặt rất lạ, chắc chắn không phải là người sống ở bên khu Hắc ốc hoang phế này. Lão già xem chừng tầm hơn năm mươi tuổi, dáng người nhỏ thó, mắt la mày lém, hai bên mép còn để hai chòm râu chó, cổ đeo chuỗi “bánh đả cẩu”, đầu đội chiếc mũ chóp cao rách nát, tay cầm bồ cào, vai cõng một túi vải đay phồng to cồm cộm, trên người mặc chiếc áo khoác bằng da trông khá cũ, trước ngực áo còn có một hàng séc, quần dài áo dài, chân đi đôi giày đen đế dày cộp đá bò bò chết, mũi giày há hoác miệng lòi ra góc tất trắng bên trong. Bây giờ đúng là ngày hạ chí, trời nóng như đổ lửa nhưng nhìn cách ăn mặc đông không ra đông, hè không ra hè của lão già khiến người ta không khỏi cảm thấy khác thường.

Lão già lạ mặt đó dùng cặp mắt cú vọ ngó đông nhìn tây một hồi, đợi lúc đi đến trước cửa căn lều gỗ của Tư Mã Khôi, hốt nhiên lão ta dừng lại, giả bộ quỳ xuống xách giày, đồng thời thò đầu vào trong lều ngó nghiêng dò xét.

Cử chỉ này của lão có thể che mắt mọi người nhưng không thể che mắt Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi quan sát hành động và cách ăn vận của người này, trong lòng cảm thấy vô cùng quái dị, lập tức đề cao tinh thần cảnh giác, đồng thời mở miệng dò hỏi một câu: “Xem lão gia không quen mặt, chẳng biết từ đâu đến thế?”

Lão già nghe hỏi lập tức đứng thẳng người dậy, đuôi mắt quét quanh một lượt, liền nhận ra Tư Mã Khôi và La Đại Hải chính là chủ nhân căn lều hoang phế này, lập tức ngoác miệng cố nặn ra một nụ cười trên khuôn mặt già nua. Lão ta nói với hai người: “Không dám nhận lão gia, mỗ đây họ Triệu, quê ở Quan Đông, từ trước đến nay không có biệt hiệu gì, những người quen biết đều gọi mỗ là Triệu Lão Biệt. Trước giải phóng mỗ lưu lạc đến đây, mấy năm nay phiêu dạt khắp nơi trong ngoài thành, dựa vào công việc đan làn cỏ, nhặt phế liệu sống qua ngày. Hôm nay đến vùng đất quý này là muốn đổi một số vật phẩm thiết yếu trong cuộc sống”.

Tư Mã Khôi nghe lão trình bày khá rõ ràng, trong lòng ngầm giảm bớt cảm giác đề phòng, tiếp tục hỏi Triệu Lão Biệt: “Sao Triệu sư phụ lại ăn mặc như vậy? Trời hè oi bức, lão không sợ ủ thối người ra à?”

Triệu Lão Biệt mỉm cười nhẹ, trả lời ngay: “Bậc hậu sinh các cậu không hiểu đấy thôi, chiếc áo mỗ đây mặc được gọi là áo khoác anh hùng như ý, tứ bề thông thoáng, rất thoát gió đấy”.

Tư Mã Khôi nghe thấy mấy lời lão già nói có vài phần giống tiếng lóng trong giới giang hồ, người thời nay làm gì còn ai nói năng như vậy nữa? Lòng càng cảm thấy kỳ quái hơn, cậu bèn hỏi gặng: “Xem lão nói năng không phải hạng phàm tục, chân tay lại khá nhanh nhẹn nhưng sao đi vào nơi ngói vỡ gạch nát hoang tàn này, không sợ bị què chân, lạc đường ư?”

Triệu Lão Biệt hiểu ngay ẩn ý trong lời lẽ của Tư Mã Khôi, nhưng dường như không thể tin những lời ấy lại phát ra từ miệng một đứa trẻ ranh như cậu, nên liền nảy ý thăm dò lại. Lão ta bước lên một bước, chân trước chân sau đứng chéo nhau, không ra hình chữ đinh, cũng không ra hình chữ bát rồi nói: “Mỗ đây chân cứng, đế dày, đi chắc, đứng vững, cất bước tiêu dao hoạt bát”.

Đoạn đối đáp của hai người toàn bộ là ám ngữ của thế giới ngầm trong “Đáy biển giang hồ”, Hải ngọng đứng bên cạnh nghe chẳng hiểu gì, ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, nhưng Triệu Lão Biệt và Tư Mã Khôi thì ngấm ngầm hiểu đối phương không phải hạng tầm thường nên tuyệt đối không dám khinh xuất.

Triệu Lão Biệt dường như không có ý định bỏ đi ngay, lão nói trời nắng chang chang, trên đường đi vừa mệt vừa khát, muốn xin hai vị “đầu lĩnh” cho trú chân nghỉ ngơi giây lát uống ngụm nước chè. Miệng chưa nói xong, không đợi chủ nhà đồng ý, lão đã tự ý ngồi sụp xuống ngay trước lều.

Tư Mã Khôi cũng muốn xem rốt cục người này muốn làm gì cho nên cũng chẳng xua đuổi làm gì, ngược lại còn mang cho lão một chiếc bát, bên trong là nước trà “Lão Âm” vừa mới cắt ban sáng.

Triệu Lão Biệt chỉ “cảm ơn” hai tiếng rồi giơ tay đón lấy bát nước uống ực một hơi, cạn đến tận đáy, xong mới ngẩng mặt lên khen: “Loại trà Lão Âm có sâu trà quả đúng là thức uống giải khát bậc nhất”. Nói đoạn lão liền móc ra một tẩu thuốc, dốc ngược đáy xuống gõ mấy cái lên bàn, rồi nhét đầy sợi thuốc lá vào trong, châm lửa đầu tẩu thuốc, tí ta tí tách hút liền mấy hơi, vừa hút vừa chuyện trò mấy câu vô bổ cùng Tư Mã Khôi và La Đại Hải. Lòng vòng một hồi lâu cuối cùng lão cũng chịu đi vào chuyện chính.

Lão già Triệu Lão Biệt này tự nhận mình bước chân vào giang hồ mưu sinh từ rất sớm, thông thạo nhân tình thế thái, bây giờ lão ta có mối quan hệ rất tốt với một số đường dây đặc biệt trong thành, không những có thể hối lộ mà còn có thể lấy được rất nhiều đồ tốt trong thế giới ngầm. Cuộc nói chuyện khi nãy với Tư Mã Khôi khiến lão nhận thấy cậu tuy trẻ tuổi nhưng khá thông hiểu các quy tắc ngầm, chắc hẳn phải xuất thân từ một gia đình thế tộc, gốc gác không phải hạng vừa. Tục ngữ nói rất hay “Trọc đầu thì vào chùa, đội mũ thì làm quan”, nay người cao tay lại gặp bậc kỳ tài, thật đúng là duyên trời sắp đặt, vì thế lão tình nguyện để Tư Mã Thiên và La Đại Hải đi theo mình cùng hưởng phúc.

Giống như lão biết phép thần thông biến hóa vậy, lời nói vừa dứt thì lôi ngay từ trong túi vải đay rách nát của mình ra ba tút thuốc lá thơm hảo hạng, cười tít mắt bày cả lên mặt đất.

Gia thế nhà La Đại Hải cũng thuộc hạng có gốc gác, cậu ta lại là người khá trải đời nên vừa nhìn thấy liền biết loại thuốc lá này chỉ cung cấp hạn chế cho các cán bộ cấp cao, chứ lão bách tính thường dân hầu như chẳng bao giờ được nhìn thấy, cho dù ở chợ đen cũng khó lòng tìm ra, có tiền cũng không mua được. Lão già này xuất chiêu độc thật, một phát rút ra liền ba tút khiến Hải ngọng hai mắt vụt sáng, vội vã thò tay ra lấy, miệng còn nói: “Hôm nay, chúng ta coi như bèo nước tương phùng, lần đầu gặp mặt mà lão đã rộng rãi như thế, khiến anh em bọn tôi thấy xấu hổ vô cùng. Thế lão ở đơn vị nào? Lần sau anh em bọn tôi nhất định sẽ viết bức thư biểu dương, tỏ lòng cảm tạ sự giúp đỡ vô tư và khẳng khái này của lão”.

Triệu Lão Biệt cũng nhanh tay không kém, liền giơ tay ngăn không cho La Đại Hải rờ vào mấy tút thuốc: “Người anh em xin đừng vội, thứ này mỗ đâu dễ kiếm nhưng bất kể nói thế nào chúng ta gặp được nhau đúng là có duyên, hôm nay kết giao thành bằng hữu, hai bên xem như không còn vấn đề gì khúc mắc nữa. Hai vị đầu lĩnh thử xem, mỗ có thể dùng ba tút thuốc lá hảo hạng này để đổi lấy một … một vật trong căn lều của hai cậu không?”

La Đại Hải cười to: “Lão Triệu ơi lão Triệu, chẳng giấu gì lão, anh em bọn tôi đúng là những kẻ “Sói vàng bị cắt mất đuôi – trên người chẳng còn nửa cọng lông đáng tiền”, chỉ cần lão không chê mấy đồ giẻ rách trong căn lều của chúng tôi, nhìn thấy vật gì thích hợp lão cứ thỏa sức mà lấy”.

Tư Mã Khôi nhìn thấy tình hình như vậy, trong lòng không khỏi ngầm cảm thấy kỳ lạ, tuy cậu cũng muốn giữ ba tút thuốc lá thơm nhưng đầu óc vẫn khá tỉnh táo, nên liền tiến đến cạnh ngăn Triệu Lão Biệt rồi nói: “Khoan đã! Cuộc trao đổi này e rằng chưa xong, trước hết lão phải nói rõ xem rốt cục muốn đổi lấy vật gì trong lều đã”.

Triệu Lão Biệt dường như không thể nhẫn nại thêm nữa, con ngươi đảo một vòng rồi thò tay vào túi vải đay lấy ra một hộp tai lợn kho tàu, bốn ống thịt bò hộp chất cả lên mặt đất, đoạn nói: “Muốn đổi lấy vật gì, thì phải vào lều chọn xem mới biết được. Nhưng Triệu Lão Biệt mỗ cũng nói trước, trong hai thứ đồ ăn và thuốc lá, các cậu chỉ được đổi lấy một món, tuyệt đối không được lấy hơn”.

Tư Mã Khôi nhận thấy Triệu Lão Biệt dường như có ý rất quyết tâm muốn lấy bằng được vật đó, chưa đâu vào đâu, lão đã chủ động nâng giá, có câu “Càng mời càng không mua, càng hối càng không bán, nếu hối thúc quá đáng, mua bán cũng bất thành”, lão đã không tiếc mang ra bao nhiêu đồ quý hiếm để đổi lấy thứ trong căn lều thì thứ đó chắc hẳn cũng không phải loại tầm thường, làm sao Tư Mã Khôi có thể chấp nhận trao đổi dễ dàng như vậy.

Hơn nữa Tư Mã Khôi còn nhớ lại một việc, trước đây khi cậu còn ở miền Bắc, từng nghe người ta kể về truyền thuyết “Man di biệt bảo”, trong đó nói những nơi phong thủy tốt đều chôn giấu báu vật, không những vậy báu vật ấy vô cùng quý giá do trời đất tạo hóa, được thần quỷ ngầm bảo vệ. Nếu ai tự tiện sờ vào khó tránh khỏi rước họa vào thân, muốn đoạt được tất phải dùng những bí thuật kỳ môn cổ xưa mới xong. Bởi vậy họ không thể nói với người ngoài mình là kẻ quật táng, trộm ngọc mà nói lóng thành “biệt bảo”.

Nghe nói bí thuật “biệt bảo” khởi nguồn từ khu vực Giang Tây, muốn học món bản lĩnh này tất phải luyện tập từ nhỏ, người ta mang đứa trẻ vừa mới sinh nhốt vào mật thất kín mít không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, đợi đến ngày thứ 100 mới ẵm ra ngoài, từ đó nhãn lực của đứa bé trở nên khác biệt với mọi người, có thể phân biệt được mọi báu vật trên đời, họ gọi khả năng này là “Khai địa nhãn”, những loại truyền thuyết kiểu này là thật hay giả, người ngoài khó lòng mà biết.

Tư Mã Khôi thấy cách ăn vận và cử chỉ của Triệu Lão Biệt vô cùng kỳ quái, rõ ràng thần bí khó lường, không biết có trùng hợp với mấy truyền thuyết đó không, xem ra lão ta chắc hẳn là bậc kỳ tài hiểu biết về dị thuật biệt bảo. Chỉ có điều trong căn lều mà mình đang sống chỉ dặt đũa gẫy, bát sứt, bàn ghế chẳng cái nào còn nguyên lành, hoàn toàn không giống với dáng vẻ ngôi nhà để người ta sinh sống, quả đúng như lời La Đại Hải vừa nói, trong căn lều ngay cả chiếc bát uống trà tử tế cũng chẳng tìm thấy, thì làm gì có bảo vật gì đáng giá? Không biết thứ mà Triệu Lão Biệt muốn lấy rốt cục là thứ gì? Hơn nữa, lão ta lại vừa chân ướt chân ráo đến đây, làm sao phát hiện ra nơi này có giấu bảo vật dị thường?

Trong khi Tư Mã Khôi còn đang suy đoán mông lung thì Triệu Lão Biệt sớm đã thò đầu vào trong lều dò xét, ánh mắt nhìn chằm chằm vào một chiếc cọc gỗ lớn, đó chính là chiếc án dài cổ xưa, dùng để giết mổ gia súc, đã bị mục nát nhiều phần, ngày thường vẫn dùng để thái thịt, băm rau, nên mặt án trông nhớt nhát bẩn thỉu, bốc mùi tanh hôi, không hề bắt mắt. Ai ngờ thứ mà Triệu Lão Biệt nhìn trúng ý lại là vật này, ánh mắt tham lam của lão đậu mãi trên chiếc án, không chịu rời sang chỗ khác.

Hồi 2: Biệt bảo

Tư Mã Khôi thấy cách hành xử của Triệu Lão Biệt vô cùng ngoài dự liệu, chẳng ngờ lão chịu mang thuốc lá hảo hạng và đồ hộp đáng giá để đổi lấy chiếc án mổ thịt mục nát, càng nghĩ càng thấy sự việc này rất kỳ lạ.

Trong đống đổ nát ở Hắc ốc chỗ nào cũng có vật vô chủ, ai nhặt được thì của người ấy, cái án này vốn là một trụ gỗ mục nát rỗng ruột, to bằng một vòng ôm, xung quanh buộc ba vòng dây thừng gai, quanh năm bị máu tiết dầu mỡ bám nhằng nhợ, màu sắc đã bị phai nhạt biến đổi từ lâu, sau khi nhặt về chủ yếu được dùng làm thớt thái rau, chẳng ai biết rõ lai lịch cụ thể của nó, xem ra ngoài việc thấy nó có niên đại sử dụng từ khá lâu thì chẳng thấy có điểm gì khác thường. Không hiểu sao vô duyên vô cớ lại có người quan tâm đến nó?

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Cái án chặt thịt chắc chắn là một bảo vật, nếu bây giờ mình động lòng vì miếng lợi nhỏ mà dễ dàng trao đổi với Triệu Lão Biệt, bất kể lão già đó giơ ra vật gì thì mình cũng vẫn bị thiệt, trước tiên phải kiếm cớ để lão ấy thấy cái án này đúng là đồ quý cái đã”. Thế là cậu thuận miệng khua môi múa mép một hồi: “Triệu lão sư phụ này, lão không biết đấy thôi, thực ra gia đình mấy đời nhà tôi đều mở cửa hàng bán thịt dê ở Bắc Kinh để làm nghề mưu sinh, chiếc án mục này tuy rằng nhìn có vẻ bình thường nhưng lại là vật gia truyền mấy đời nhà tôi để lại, tôi không chỉ dùng nó quen tay mà còn “nhìn cương nhớ ngựa, nhìn vật nhớ người”, mỗi khi nhìn thấy nó là tôi như nhìn thấy liệt tổ liệt tông đã quy tiên nhà mình. Cái án này cùng gia đình tôi trải qua những năm tháng dưới thời Quang Tự, rồi tới Nghĩa Hòa Đoàn bao vây tấn công khu đại sứ quán Đông Giao Dân Cảng khiến liên quân tám nước tràn vào thành Bắc Kinh. Đám quỷ tây này dặt là bọn man di từ nước ngoài dẫn xác đến, lũ bợm đó chẳng có nửa tên tốt đẹp, đến Trung Quốc chúng ta ngang nhiên đốt nhà giết người cướp của, chẳng tội ác nào chúng không dám làm, đánh đập người mù, mắng nhiếc kẻ điếc, cuối cùng chúng nó cũng ào vào nhà tôi, mấy tên lính tây ngắm thấy con mèo tam thể nhà tôi nuôi rất đẹp liền định cướp về, mang dâng tặng cho nữ hoàng điện hạ nhà chúng nó, ông tổ nhà tôi liền nổi giận lôi đình mắng chúng: ngày xưa lão phật gia Từ Hy thái hậu rất ưng ý con mèo này, định mang Thập Tam cách cách ra đổi lấy nó mà ông đây còn tiếc không nỡ đem đổi, tiên sư chúng mày chứ, chúng mày là thứ tép riu gì mà dám cướp trắng của ông hả?! Trong cơn thịnh nộ, cụ lao thẳng ra phố tham gia phong trào phục Thanh diệt ngoại xâm, trước lúc đi còn ôm theo chiếc án này, gặp tên giặc tây nào là lấy án đập chết tên ấy, không biết dưới gầm án đã chôn bao nhiêu mạng tướng tây lính tây. Sau đó chiếc án truyền đến đời ông nội tôi, nó lại cùng ông lưu lạc đến Giang Tây tham gia hồng quân công nông, cứ thế được mấy đời nhà tôi giữ gìn cho đến tận bây giờ. Có thể trong mắt người khác, khúc gỗ này chẳng đáng cái đinh gỉ nhưng đối với tôi nó chính là vật chứng chứng kiến cả gia đình tôi đã trải qua cách mạng cận đại Trung Quốc, là kỷ niệm không thể xa lìa, ngày nào tôi cũng phải bày nó ra trước mặt sáng thỉnh an, tối hồi báo, nếu ngày nào không nhìn thấy nó tinh thần tự nhiên trở nên hoảng loạn, đến nỗi ngay cả hướng bắc ở đâu cũng không biết, một ngày không gặp cách tựa ba thu, nếu lỡ ba ngày không gặp có khi lo lắng đến tẩu hỏa nhập ma vẫn là nhẹ. Lời tôi nói đây câu nào cũng là thật, nếu lão không tin thì cứ tìm một miếng đậu phụ về đây, tôi sẽ đập đầu vào đấy cho lão xem”. 

Hải ngọng đứng bên cạnh nghe, không nhịn nổi cười thầm trong bụng, cậu ta cũng nhân cơ hội để nâng giá cái án, bảo chí ít Triệu Lão Biệt phải thò ra thêm ba tút thuốc lá nữa thì mới đồng ý đổi.

Triệu Lão Biệt nghe hai người bọn họ kẻ tung người hứng mà trợn mắt á khẩu, lão còn cho rằng có khi mình nhìn lầm, liền quay lại đăm đăm ngắm nghía cái án một hồi lâu, sau đó lắc đầu tỏ ý không tin, đồng thời mở toang cái túi vải đay ra cho hai người nhìn, bên trong chẳng còn thứ gì đáng giá, đoạn lão nói: “Mỗ không thể trả giá thêm cho hai cậu được”.

Tư Mã Khôi thấy việc đã đến nước này thì cứ nói thẳng toẹt cho xong: “Bọn tôi và lão kẻ cắp gặp bà già, cóc cần sử dụng mấy chiêu thụt thò như bơi chó. Chẳng thà đừng ai giở trò với ai nữa. Mấy bài của lão bọn tôi biết tỏng từ khuya, trước đây cũng gặp nhiều rồi, nói chuyện cũng không cần vòng vo tam quốc, giấu giấu diếm diếm làm gì. Bọn tôi đã sớm nhìn ra Triệu Lão Biệt lão đích thị là tên biệt bảo, nếu không chẳng người nào đang sống nhe nhởn lại quàng trên cổ chuỗi bánh đả cẩu như lão.

Cái thứ “bánh đả cẩu” này thực ra là một loại bánh thuốc, dùng để xua đuổi chó mèo. Thời xưa, ở vùng nông thôn mỗi khi trong nhà có người chết, lúc đặt thi thể vào quan tài thường đeo lên cổ xác chết chuỗi vòng này để đề phòng bị lũ chó đói gặm nát thủ cấp hoặc bị mèo hoang nhảy qua khiến người chết nhập tràng sống dậy. Những kẻ biệt bảo thường xuất hiện ở những nơi rừng già núi thẳm hoặc mộ hoang, đất dữ, để tránh rắn độc, dã thú, họ cũng có thói quen đeo “bánh đả cẩu”.

Triệu Lão Biệt cũng nhận thấy cậu Tư Mã Khôi này tuy chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi đầu nhưng vô cùng tinh quái, hiểu biết rất nhiều chuyện và không dễ bị bắt nạt nhưng tuyệt đối không thể tưởng tượng tên tiểu tử ấy lại có thể nhìn xuyên thấu hành tung của lão, trong lòng không tránh khỏi thất kinh một phen, liền bội phần khâm phục nói: “Vị đầu lĩnh này đúng là nhãn lực hơn người, không ngờ thời thế này vẫn còn có người biết đến nghề biệt bảo của bọn mỗ”.

Việc đến nước này, Triệu Lão Biệt chỉ còn cách thẳng thắn thừa nhận mình quả thực là một tay biệt bảo, hôm nay gặp vận may lớn, khi vô tình đi ngang qua khu Hắc ốc hoang phế liền phát hiện ra chiếc án chặt thịt, đúng là “Đi mòn gót giày tìm chẳng thấy, đứng lại ngồi nhìn ở ngay đây”. Cuối cùng lão ta nói với bọn Tư Mã Khôi và La Đại Hải: “Lão mỗ đây chẳng nói sai với người ngay thẳng, có gì nói nấy, cái án gỗ cổ dùng để chặt thịt của hai cậu đích thị là một vật vô cùng quý hiếm, nhưng chỉ sợ trên đời này ngoại trừ Triệu Lão Biệt mỗ ra thì chẳng còn người thứ hai hiểu được giá trị của nó. Hôm nay trời đã muộn, chúng ta tạm thời cáo biệt ở đây, hai người các cậu cứ bàn bạc kỹ xem. Lời đã nói thẳng như vậy thì mỗ cũng chẳng để hai cậu phải chịu thiệt thòi quá đáng. Trong thành mỗ còn giấu một vật rất tốt, ngày mai sẽ mang đến đây. Nếu lúc đó các cậu vẫn khăng khăng không chịu đổi hàng, mỗ sẽ không nói đến câu thứ hai, cất bước đi luôn, đã đi là không quay trở lại, có câu nói xưa mỗ thấy rất hay “Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”, đến lúc đó hai cậu đừng có hối hận”.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải gật đầu đồng ý, hai người nhìn Triệu Lão Biệt đi khỏi “Hắc ốc” liền lập tức trở lại lều, khêu to ngọn đèn dầu cho sáng, khênh chiếc án nhớt nhát dính đầy dầu mỡ đặt lên mặt đất, lật đi lật lại hồi lâu, nhưng cả hai xem tới xem lui mãi vẫn không phát hiện ra Tý Sửu Dần Mão gì ẩn chứa bên trong chiếc án, đầy bụng nghi hoặc. Đêm hôm đó, cả hai suy đi tính lại, nghĩ trước nghĩ sau, chập chờn mất ngủ suốt đêm.

Sáng sớm hôm sau, Triệu Lão Biệt quả nhiên lại tìm đến, lần này trong túi vải đay của lão có thêm chiếc áo lông da sáng bóng, mềm mại, lớp lông da màu đen pha lẫn ánh đỏ, có vài phần khá giống với da báo nhưng rất nhẹ và mỏng. Có điều Tư Mã Khôi và La Đại Hải đừng nói da báo, ngay cả lông chồn Đại Liên cũng chưa bao giờ nhìn thấy nửa cọng, bèn giả vờ am hiểu hỏi Triệu Lão Biệt: “Đây là da con gì vậy? trông lớp da bóng láng, sáng sủa cũng không tệ, là da xịn hả?”

Triệu Lão Biệt nghe xong càng thêm đắc ý, lão liền khoe khoang: “Lai lịch chiếc áo lông da này của mỗ đúng là bất phàm”. Sau đó liền kể lại lai lịch của nó cho hai người nghe. Lão bảo trước giải phóng thường đến núi Trường Bạch để đào nhân sâm, đêm đến tá túc ở một lâm trường gỗ bỏ hoang. Trong lâm trường có một con mèo già, lông vằn vện như lông hổ, to béo mập mạp, lại vô cùng linh hoạt nhanh nhẹn, lên cây bắt được chim, xuống đất vồ được chuột.

Triệu Lão Biệt ở trong lâm trường lâu dần cũng trở nên quen thuộc với nó, thường cho con mèo ăn thức ăn của mình. Về sau mỗi buổi sáng trước khi vào núi, lão đều nhìn thấy con mèo nằm rạp trên cành cây, thở hổn hển, trông có vẻ sức cùng lực kiệt, ngay cả đuôi cũng chẳng buồn động đậy, suốt nhiều ngày trời nó đều trong tình trạng như vậy.

Triệu Lão Biệt thầm thấy quái lạ, với con mắt cú vọ của kẻ biệt bảo, lão vừa nhìn là biết ngay con mèo này chắc chắn đã gặp kỳ ngộ gì đây, liền nảy ra ý định phải tìm hiểu ngọn ngành cho rõ. Thế là lão âm thầm quan sát theo dõi, phát hiện chỉ cần màn đêm vừa buông xuống, con mèo già liền chạy vào miếu Sơn Thần, nó luồn vào khe cửa rồi náu mình trong bóng tối nơi góc tường, mai phục ở đó án binh bất động.

Đợi đến khi đêm đã trở về khuya, không gian tĩnh lặng, trên chiếc kèo gỗ của miếu Sơn Thần bất ngờ phát ra một tiếng động nhỏ, trông lên chỉ thấy một con chuột khổng lồ to như con chó, hai mắt sáng quắc như đèn pha, đang bò từ trên kèo nhà xuống trước mặt các vị thần, đến nơi nó dùng đuôi ngoáy vào trong chiếc đèn dầu, ăn trộm dầu đèn mà người ta dâng cúng cho Sơn Thần, đồng thời ôm ngọn nến mỡ bò gặm nham nhở, phát ra âm thanh nghe “lọt cọt lọt cọt”.

Lúc này con mèo già đột ngột từ trên góc tường nhảy vọt ra, quyết đấu sống mái với con chuột. Con chuột tuy to người nhưng không hề đù đờ, chẳng những vậy còn vô cùng hung tàn hiểm ác, dường như không hề sợ sệt kẻ địch. Con mèo già di chuyển nhanh thoăn thoắt mà vẫn không làm gì được nó, hai con quái thú vật đi vật lại huỳnh huỵch, đánh nhau không biết mệt mỏi, đúng là chúng quyết chiến sống chết một phen, con nào cũng thần thông, khó phân định cao thấp.

Nhờ vào ánh trăng, Triệu Lão Biệt có thể nhìn rõ sự việc và hiểu được chân tướng. Thì ra đêm nào con mèo cũng phải đến đây quyết đấu với con chuột cho nên khi trời sáng nó mới mệt đến nỗi không lết nổi thân. Lão nhìn trộm trận ác chiến giữa hai kẻ địch mải mê đến độ quên hết mọi thứ xung quanh, toàn thân căng thẳng theo nhịp độ của trận đấu, vô tình lão chạm vào một cánh cửa bị hỏng khiến nó đổ rầm xuống đất.

Con chuột khổng lồ đang toàn tâm toàn ý tập trung vào trận ác đấu với con mèo già, đột nhiên nghe thấy âm thanh lạ từ đằng sau vọng đến liền giật nảy người, chỉ cần mấy giây mất tập trung cũng khiến nó lộ ra yếu điểm và bị con mèo già quật ngã, cắn đứt cổ họng, phút chốc máu trào ra như suối, nhuộm đỏ cả gạch ngói vương trên mặt đất miếu thần, giãy dụa một hồi cuối cùng cũng trợn ngược mắt, thở hắt ra mà chết. Đây đúng là “Tranh hùng quyết sống mái, phút cuối phân thắng bại”. 

Triệu Lão Biệt là tay sành sỏi trong nghề, vừa nhìn là biết con chuột này đã nhiều năm ăn dầu đèn, gặm sáp nến, chắc chắn đã thành tinh, đạo hành cũng không ít nên liền lấy dao lột da nó, mang về đem đi gia công làm thành một chiếc áo khoác da thú. Vào những ngày tháng chạp băng giá, Quan Ngoại rỏ nước thành băng nhưng chỉ cần khoác chiếc áo da chuột trên người, cho dù bên trong để mình trần thì trán vẫn đổ mồ hôi như thường. Chỉ có điều lão ta chưa bao giờ tiết lộ cho người ngoài biết đây là chiếc áo da chuột trăm năm mà chỉ gọi nó là “Xích long tuấn mã”.

Triệu Lão Biệt lại bảo Tư Mã Khôi và La Đại Hải, đừng thấy bây giờ là mùa hè nóng bức, mà cho rằng chiếc áo này vô dụng, đợi khi mùa thu đến, lá trên cây ngả sang màu vàng, hàng đàn chim ưng kêu “quang quác” bay về phương nam tránh rét, đến lúc ấy nếu các cậu vẫn sống trong căn lều rách khu Hắc ốc này chắc khó lòng chống chọi nổi với cái lạnh căm căm và không khí ẩm ướt, chẳng chóng thì chày cũng nhuốm bệnh vào thân. Lúc đó hai cậu không thể rời xa chiếc áo da “Xích long tuấn mã” của mỗ đây một bước đâu.

Tư Mã Khôi trong lòng tự biết chiếc áo khoác da này chắc chắn là cái giá cuối cùng Triệu Lão Biệt đồng ý trả, dù sao dựa vào nhãn lực và kiến thức của mình cũng không thể nhìn ra cái án chặt thịt mục nát đó rốt cục là bảo vật phương nào, chi bằng cứ đổi quách đi cho xong, bèn chấp nhận điều kiện trao đổi. Nhưng cậu vẫn giao kèo với Triệu Lão Biệt: “Vụ làm ăn này giữa bọn tôi và lão chắc không có vấn đề gì, nhưng xin lão sư phụ không ngại chỉ dạy cho, đừng để chúng tôi chịu thiệt một cách mù mờ, lão hãy nói cho bọn tôi biết rõ toàn bộ ngọn nguồn lai lịch của chiếc án chặt thịt, đồng thời nói luôn rốt cục lão làm cách nào phát hiện ra nó có điểm khác thường và mang nó đi để dùng vào việc gì? Nếu có chỗ nào giải thích không rõ ràng, Tư Mã Khôi tôi đây thả chẻ nó ra làm củi đun cũng tuyệt đối không chịu để cho lão hưởng lợi dễ dàng như thế đâu”.

Triệu Lão Biệt vô cùng khó xử, nhăn mặt nói: “Tư Mã đầu lĩnh, cái lý của cậu có phần không đúng cho lắm, người xưa có câu “Khăn thêu uyên ương, mặc người thưởng ngoạn. Kỹ nghệ kim chỉ, một mình mình hay”, hai bên chúng ta tiến hành giao dịch là lấy vật đổi vật, lại không để cậu thiệt thòi chút nào, sao nhất định phải ép mỗ nói ra gốc gác của nó?”

Tuy rằng Tư Mã Khôi và La Đại Hải phiêu bạt giang hồ đã nhiều năm nhưng rốt cục vẫn không thoát khỏi tâm lý hiếu kỳ của trẻ con, mọi chuyện đều phải biết rõ chân tướng mới thỏa mãn, nếu trắng đen mập mờ, cả đêm ngủ cũng không ngon giấc, hai người kẻ đánh người xoa, nằng nặc đòi bằng được Triệu Lão Biệt giải thích cặn kẽ, lại còn thề thốt sau này tuyệt đối không hối hận mà thay đổi quyết định, cũng không trở thành kẻ phản đồ tiết lộ bí mật cho người khác biết chuyện.

Triệu Lão Biệt gặp phải hai hòn đá tảng cứng đầu đành tự nhận mình đen đủi, buộc phải tiết lộ vài phần sự thực: thế gian đều nói bọn man di biệt bảo mắt sắc như dao, sự thực quả đúng như vậy. Trưa hôm qua khi đi ngang khu Hắc ốc hoang phế, Triệu Lão Biệt đảo mắt một cái liền phát hiện căn lều có điểm khác thường.

Nhãn lực nhận biết bảo vật là một môn công phu, hơn nữa còn là kinh nghiệm được tích lũy nhiều năm, nói sao được nhỉ? Kỳ thực phải nói trắng ra thế này, khả năng ấy không hề tà ma như dân gian vẫn truyền miệng, cũng không phải cái gì xa xôi giống như kiểu nhìn thấy ánh hào quang lấp lánh tỏa ra từ căn lều gỗ, chỉ đơn giản là người làm nghề biệt bảo rất giỏi quan sát, họ có thể phát hiện ra những chi tiết nhỏ bé mà người thường dễ dàng bỏ sót.

Triệu Lão Biệt liền đi đến căn lều thì phát hiện gần khu vực đó có rất nhiều hiện tượng khác thường. Theo lẽ tự nhiên, thời tiết oi bức thế này, khu vực Hắc ốc rác rưởi chồng chất như núi, La Đại Hải lại vừa mới cắt chiếc thủ lợn vứt quay lơ trên mặt án, khiến khắp nơi đều nhuốm mùi máu tanh, xung quanh lẽ ra phải có rất nhiều ruồi nhặng bay lượn vo ve không ngớt mới đúng. Thế nhưng xung quanh căn lều phía đằng sau Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại tịnh không thấy bóng dáng nửa con ruồi, đó chẳng phải chuyện rất lạ hay sao?

Triệu Lão Biệt đoán chắc gần đây có giấu bảo vật, liền lập tức dừng bước, giả bộ xin bát nước chè, nhân cơ hội này ngồi luôn xuống trước cửa lều, nhìn quanh bốn phía cẩn thận dò xét, cuối cùng ánh mắt dừng lại ở chiếc án mục nát dùng để chặt thịt. Chiếc án chặt thịt là phần bên trên của một thân trụ gỗ, bốn phía buộc dây thừng gai, trên mặt án còn đặt một chiếc đầu lợn mắt trợn trừng không chịu nhắm, máu tươi nhỏ ròng ròng xuống, nhưng lạ một điều là không nhìn thấy giọt máu nào chảy ra ngoài mà từ từ thấm ngược vào trong thân gỗ.

Triệu Lão Biệt liếc mắt một cái liền đoán định ra bên trong chiếc án gỗ nhuốm đầy dầu mỡ này hẳn phải có một kỳ vật. Khúc gỗ để làm chiếc án chắc chắn được lấy từ một thân cây cổ thụ. Trước khi bị người ta đốn chặt, trong thân nó có lỗ hổng do sâu đục, vừa vặn để một con rết cỡ nhỏ chui lọt. Con rết ở trong thân cây lâu ngày, cơ thể dần phình to, khó lòng chui ra ngoài thoát thân, đành chịu bị nhốt ở bên trong, gỗ mang tính âm, lại tiết ra dịch thông qua thớ gỗ, nuôi con rết nhiều năm không chết.

Sau này, cây cổ thụ bị đốn xuống làm nguyên liệu, khúc gỗ được bào thành chiếc án cắt tiết chặt thịt gia súc lại chính là khúc gỗ có con rết trốn bên trong. Con rết liên tục được hút tiết lợn, năm dài tháng rộng lâu dần cơ thể nó tiết ra một viên “Ngọc Định Phong”. Nghe nói vì viên ngọc có thể chữa trị bệnh thống phong nên người ta mới đặt cho nó tên ấy, chứ không phải đó là viên ngọc mà Tôn Ngộ Không năm xưa dùng để mượn quạt Ba Tiêu của mụ La Sát trên đường đi lấy tây kinh. Về sau chiếc án gỗ chặt thịt bị chủ hàng vứt bỏ, không biết lưu lạc thế nào lại đến được khu Hắc ốc hoang phế, con rết già nằm bên trong đã bị chết đói từ lâu, nhưng viên ngọc thì vẫn còn. Viên “Ngọc Định Phong” này là loại linh đơn được kết tụ bởi rất nhiều âm tà huyết khí, nên lũ ruồi muỗi mới không dám bén mảng đến gần. Vật mà Triệu Lão Biệt muốn có, chính là viên ngọc quý này.

Nhất thời Tư Mã Khôi không thể tin nổi, làm gì có chuyện chuẩn xác đến thế? Cậu lập tức đi tìm cái rìu bổ củi, bổ toang cái án chặt thịt ra làm mấy mảnh, trong đó quả nhiên có một con rết lớn, toàn thân đỏ au au nằm cuộn tròn người, bị rìu chặt ra làm hai đoạn, tuy nó đã chết nhưng trông vẫn sinh động như đang sống, trong miệng con rết ngậm một viên ngọc trắng phơn phớt, tròn vành vạnh, không hề tỏa ánh sáng bóng, mà nhìn giống như một cái “mắt cá” màu đùng đục.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải nhìn chằm chằm không rời mắt, đến lúc này mới coi như thực sự tâm phục khẩu phục, có trách thì chỉ trách bản thân mắt mờ, ở bên cạnh bảo vật bao lâu nhưng không hề nhìn thấy, sau này muốn hối hận cũng không kịp, tối nay cứ việc nằm đợi mà nuôi muỗi.

Triệu Lão Biệt cười hì hì, trong lòng vô cùng đắc ý nhưng vẫn giả bộ khuyên giải hai người: “Có câu nói xưa thế nào nhỉ… “Số mệnh ba thước, khó cầu một trượng”. Hai vị đầu lĩnh tuổi trẻ xuất anh hùng, tuy rằng vô duyên với viên ngọc này nhưng ngày dài tháng rộng, hơn nữa còn đổi được chiếc áo da, thuốc thơm và nhiều đồ nhai sướng miệng nữa, thì cũng nên biết thỏa mãn. Hai bên chúng ta đều có được vật mà mình muốn có, chẳng ai thiệt thòi cả, núi không chuyển thì sông chuyển, sau này chắc chắn còn có cơ hội gặp mặt”. Nói đoạn lão nắm chặt viên “Ngọc Định Phong” trong tay, quay người định đi.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải đang lúc hưng phấn, làm gì có chuyện buông tay bỏ qua dễ dàng như thế, hai người liền vội vàng ngăn Triệu Lão Biệt lại: “Lão vẫn chưa nói rõ hết mọi chuyện, sao nói đi là đi ngay được? Viên ngọc trông giống cái mắt cá này rốt cục có công dụng gì? Lão mang nó đi định dùng vào việc gì?”

Triệu Lão Biệt có vẻ hơi ngần ngừ một chút, lão vốn không định nói thêm nữa nhưng thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải gan to ngang trời, ngông cuồng chẳng biết sợ thần quỷ gì cả, bây giờ một mình lão vào núi biệt bảo lại đang cần trợ thủ, nếu được hai thiếu niên trẻ tuổi ở bên cạnh giúp sức thì chẳng phải công việc sẽ thêm phần suôn sẻ hơn sao? Nghĩ đến đây, Triệu Lão Biệt liền nheo mắt nhìn trời rồi thấp giọng bảo: “Xem cái thị trấn cổ trong Hắc ốc này địa hình không phải hạng xoàng, vốn là mảnh đất vàng, phong thủy thuận chiều “Phượng hoàng sải cánh, tung ngọc rải vàng”, nhưng bao năm nay không biết vì lý do gì mà đất đai trở nên cằn cỗi, người vật cùng kiệt?” 

Tư Mã Khôi và La Đại Hải cảm thấy không thể lý giải nổi, liền hỏi: “Mấy cái thuật phong thủy địa lý cổ xưa, anh em bọn tôi cóc hiểu lắm nhưng nghe nói Hắc ốc từ trước đến nay đều nghèo xơ xác thế này, cỏ dại mọc um tùm, đất đai nứt nẻ, trồng cây gì chết cây đấy, thì làm sao có thể gọi là mảnh đất vàng được?”

Triệu Lão Biệt nói: “Lúc trước mỗ đã nói gì nhỉ, có trách thì chính là trách điều này, nơi đây tuy rằng địa lý vốn rất tốt nhưng lại nằm ở giữa hai dải núi, thiếu mất nguồn linh khí mà những mảnh đất vàng phong thủy tốt vẫn có, vì thế mỗ đây dám phỏng đoán rằng bên trong ngọn núi hoang vu phía tận cùng mạch đất, nơi con người chưa hề đặt chân tới chắc chắn có chôn giấu một cổ vật ngàn năm mang âm khí rất nặng nề, chính vật này đã hút cạn tinh hoa của trời đất, ám hại thổ nhưỡng sông ngòi nơi này. Nhưng vẫn có câu “Phải nhìn tận mắt mới hay thật giả”, rốt cục trong lòng núi cất giấu vật gì, bây giờ mỗ cũng không dám đoán bừa”. 

Triệu Lão Biệt tự nhận mình phải dùng trăm phương ngàn kế mới lấy được viên “Ngọc Định Phong” trong chiếc án chặt thịt mục nát. Lão muốn mượn vật này để đi đào bảo vật chôn giấu dưới lòng núi. Trước khi đi, lão ta còn nhắn nhủ: “Này hai vị đầu lĩnh! Nếu hai cậu có gan thì giờ tý đêm nay đến chân cầu La Sư phía sau khu Hắc ốc đợi mỗ, tới lúc đó mỗ sẽ cho hai cậu mở rộng tầm mắt. Có điều hai cậu phải tuyệt đối nhớ kỹ, việc này không được tiết lộ với bất kỳ ai”.

Hồi 3: Cầu La Sư

Triệu Lão Biệt dặn dò xong xuôi, hẹn mười hai giờ đúng đêm nay hai người đợi lão ở chân cầu La Sư cùng đi biệt bảo, sau đó liền nhét viên “Ngọc Định Phong” vào trong người, vội vàng bỏ đi mất dạng.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải từ lúc đó đứng ngồi không yên, hai người vô cùng ngứa ngáy chân tay, cảm giác mách bảo chuyện tối nay chắc hẳn vừa mạo hiểm vừa hấp dẫn, nói không chừng còn được chia không ít đồ tốt, thế là liền khởi động chuẩn bị chu đáo mọi việc.

Trước tiên hai người phân phát thuốc lá và đồ hộp cho mọi người trong nhóm, sau đó tìm một ngọn đèn dầu còn dùng được, lại lo lỡ đâu gặp phải bất trắc bên ngoài, mỗi người bèn thủ trong mình một con dao díp ba khía. Loại dao díp này có ba mặt lưỡi, rãnh sâu khoét trên khe, nếu xuyên vào gan tụy người nào thì vết thương không thể khép miệng, cho dù được đưa đến bệnh viện kịp thời vẫn không thể tránh khỏi cái chết do mất quá nhiều máu. Trong khu vực Hắc ốc không thiếu loại hung khí kiểu này. Hai người thu xếp gọn gàng đâu vào đấy, chỉ chờ màn đêm buông xuống là lập tức đến chân cầu La Sư tìm gặp Triệu Lão Biệt.

Đợi mãi mặt trời mới xuống núi, hai người liền đứng dậy chuẩn bị xuất phát. Ai ngờ đúng lúc này, một cô gái tên là Hạ Cần lại đến tìm gặp. Trước khi nghỉ học ở trường, Hạ Cần từng là bạn cùng lớp với Tư Mã Khôi và La Đại Hải, tuy rằng cô nàng không phải hạng xinh gái nhưng thân hình cân đối, khuôn mặt dễ nhìn, thành tích học tập cũng khá, quan trọng hơn là điều kiện chính trị của gia đình rất tốt, sớm muộn cô nàng cũng tham gia quân đội, con đường tương lai có thể nói vô cùng sáng lạn. Từ trước đến nay Hạ Cần rất ít khi kiếm chuyện thị phi với đám người La Đại Hải, thế mà hôm nay đột nhiên đến đây tìm gặp khiến Tư Mã Khôi và La Đại Hải cảm thấy vô cùng ngạc nhiên.

Hạ Cần không đội mũ, hàng tóc mái Hỉ Nhi lòa xòa trước trán, đằng sau kết thành hai bím dài và nhỏ, trên người mặc bộ quân phục loại đắt tiền, quần kaki màu xanh da trời, ngực cài huân chương của Mao chủ tịch. Cô nàng vội vàng từ thành phố chạy đến đây, quần áo ướt đẫm mồ hôi, dường như có chuyện gì quan trọng lắm muốn thông báo cho hội Tư Mã Khôi biết nhưng nhìn thấy bộ dạng ngang ngược, vô lại, bất cần đời của hai người bọn họ, liền cảm thấy vô cùng thất vọng. Hạ Cần thở dài bất lực, lời nói vốn dĩ sắp vọt ra khỏi miệng lập tức bị nuốt ngược vào trong, thay vào đó không ngừng trách mắng bọn họ một thôi một hồi, nói họ không nên cam tâm buông thả bản thân như vậy mà phải tìm cơ hội học tập nhiều thêm một ít, nếu không sẽ lãng phí mất tuổi thanh xuân quý giá.

Điều Tư Mã Khôi ghét nhất là phải nghe người khác lên mặt dạy đời, trong lòng thầm nghĩ: “Cái con nha đầu này sao lắm chuyện thế không biết, bây giờ là thời đại nào rồi mà còn học tập?”, tuy nghĩ vậy nhưng miệng vẫn điềm nhiên lấp liếm: “Cậu nghĩ bọn tôi muốn thế này à? Vì sao người ta phải học tập hử? Đương nhiên là vì muốn thể hiện giá trị cái tôi của bản thân. Nhưng tôi lại nghe có một nhà hiền triết nói thế này, người ta sinh ra trên đời nhất thiết phải lần lượt đi theo các tiêu chí: trước tiên là sinh tồn, tiếp đến là cảm giác an toàn, thứ ba là tình yêu, gia đình, thứ tư là sự tôn trọng, xếp hàng thứ năm mới là thể hiện cái tôi. Bây giờ bọn tôi ăn bữa sáng lo bữa tối, cuộc sống có hôm nay mà không có ngày mai, ngay cả tiêu chí đầu tiên cũng chẳng đạt được thì làm gì còn tâm trí mà nghĩ đến việc học hành nữa”.

Hạ Cần tự biết miệng lưỡi mình không thể thắng nổi Tư Mã Khôi, chỉ có quỷ mới biết nhà hiền triết nào đã nói với cậu ta mấy triết lý đó hay chính cậu ta thuận miệng nói nhăng nói cuội, cô nàng đành nói: “Bạn Khôi ạ! Chúng mình dù sao cũng là bạn cùng lớp với nhau, tớ nói thế chẳng qua là muốn tốt cho các cậu mà thôi!”. Cô nàng thấy điệu bộ Tư Mã Khôi và La Đại Hải có vẻ như muốn kết thúc câu chuyện ở đây. Hai người bọn họ tay cầm chiếc đèn dầu, thắt lưng dắt theo hung khí, Hạ Cần lại tưởng hai tên này chuẩn bị ra ngoài đánh lộn với người ta liền vội vàng hỏi họ định đi đâu?

Đầu óc La Đại Hải không thể nhanh nhạy như Tư Mã Khôi nên nghe hỏi liền thuận miệng trả lời ngay: “Bọn tôi đến cầu La Sư…”. Cậu ta nói được nửa câu, tự biết mình lỡ lời, lập tức lấy tay bịt mồm lại.

Hạ Cần từng nghe nói đến cầu La Sư ở vùng ngoại ô hẻo lánh, đó là chiếc cầu bằng đá cổ xưa đã bị bỏ hoang từ lâu, đi qua cầu là rừng sâu núi thẳm và khu nghĩa địa rộng lớn, ở đó tịnh không có bóng người qua lại, không hiểu hai người bọn họ đến đó làm gì vào đêm hôm khuya khoắt thế này? Cô nàng không khỏi sinh nghi, trong lòng chắc mẩm bọn họ đến đó chỉ để gây họa mà thôi.

Tư Mã Khôi vội vàng giải thích, bọn họ đến đó tuyệt đối không phải để đánh nhau mà là… mà là để bắt chim cút. Khu vực gần cầu La Sư cỏ hoang mọc rậm rạp, cao ngút ngang thắt lưng, trong bụi cỏ có rất nhiều tổ chim cút.

Cậu ta nói vậy cũng không hoàn toàn sai sự thật, vì người ngoài mới vào khu Hắc ốc muốn đứng chắc chân ở đây thì buộc phải đánh nhau với bọn lưu manh vô lại bản địa. Trừ phương pháp hai bên mang quân lính đánh nhau lộn tùng bậy ra, cách tốt nhất chính là “chọi chim cút”.

“Chọi chim cút” là một hình thức cá độ, bắt nguồn từ cuối thời Minh và được lưu hành rộng rãi trong dân gian cũng giống như các trò “chọi chim, đấu chó, chọi dế”. Lúc đầu, khi mới đến đây, vì Tư Mã Khôi tìm được một con chim cút mỏ sắt, lông vũ tím biếc, trong vòng ba ngày nó liên tiếp hạ gục mười lăm con chim cút khác của bang Hắc ốc nên cục diện mới được thay đổi và hội Tư Mã Khôi mới giành được chỗ dung thân.

Sau sự việc ấy, mỗi lần hai bên có tranh chấp gì đều lấy phương thức “chọi chim cút” để giải quyết, nhưng chim cút không nuôi bộ được lâu nên Tư Mã Khôi phải tìm trăm phương nghìn kế ra bãi cỏ hoang bắt chim. Có điều nửa đêm nửa hôm thế này thì không thể bắt nổi, giờ lấy lý do đó quả thực chỉ là miễn cưỡng viện cớ mà thôi.

Hạ Cần nghe giải thích bán tín bán nghi, khăng khăng đòi đi theo bằng được mới chịu tin. Tư Mã Khôi khuyên giải thế nào cũng không được, nhìn lên thấy sắc trời đã nhá nhem tối, bây giờ cũng không thể đuổi cô nàng về thành phố nên đành phải chấp nhận cho bám đuôi.

Đêm hôm đó, vòm trời chi chít sao nhưng lại không có trăng, không gian chẳng có lấy một sợi gió mát, oi bức ngột ngạt đến khó thở. Ba người xách theo ngọn đèn dầu lặng lẽ rời khỏi khu Hắc ốc, bước thấp bước cao đi rất lâu trong khu đất vắng vẻ, cuối cùng cũng nhìn thấy chiếc cầu đá đã bị sập mất một nửa, bắc ngang qua lòng sông khô cạn. Đây chính là cầu La Sư. Đối diện với cầu La Sư là một vùng hoang vu, gò đồi nhấp nhô lượn sóng, trong đó là đồng cỏ mênh mông không biết đâu là bờ và khu nghĩa địa cổ rộng lớn có từ ngàn năm trước, mộ phần chôn cất lộn xộn chẳng có lớp lang gì cả, phần lớn là mộ vô chủ, người bị chôn dưới đất đều là người nghèo, thậm chí có những mộ mấy khẩu chôn cùng một hố. Nghe nói ở đây ma quỷ hoành hành rất dữ nên ít người dám qua lại sau khi trời tối.

Trời vào hạ, lòng sông phía dưới gầm cầu tích đầy bùn cát, cỏ dại mọc um tùm, phía sâu bên trong lùm cây ếch ộp không ngừng cất tiếng kêu ộp ộp, bọ gậy nhung nhúc từng bầy bơi lội trong mấy vũng nước tù, những con ngài to hơn cả chim thỉnh thoảng lại liệng vèo qua trước mặt khiến người ta sợ đến vã mồ hôi lạnh. Có điều Tư Mã Khôi và La Đại Hải sống ở nơi hoang vu này đã quen rồi nên vẫn điềm nhiên như chẳng nhìn thấy gì. Xem chừng thời gian vẫn còn sớm, mấy người bọn họ liền ngồi bừa xuống một bãi đất dưới chân cầu, tắt đèn dầu, vừa hút thuốc vừa chờ đợi.

Tư Mã Khôi thấy cơ sự đã đến nước này, sợ rằng không thể giấu diếm thêm được nữa liền thuật lại việc gặp Triệu Lão Biệt cho Hạ Cần nghe một hồi, rồi bắt cô nàng hứa khi về tuyệt đối không được hé môi kể với bất kỳ ai.

Hạ Cần thấp giọng đồng ý: “Cậu cứ yên tâm, tớ nhất định không bao giờ thành kẻ phản đồ đâu, nhưng hai người các cậu cứ làm mấy việc thị phi này, chẳng sớm thì muộn cũng gặp phải đại họa. Mấy hôm trước tớ nghe bố tớ nói, cục cảnh sát đã quyết định bài trừ tận gốc bang Hắc ốc đấy. Nếu các cậu không muốn bị nhốt vào tù thì phải sớm trở về thành phố mới được”.

Tư Mã Khôi nghe tin ấy, trong lòng cảm thấy hơi khó chịu. Thông qua sự tiếp xúc trong những ngày ở đây, cậu phát hiện cái gọi là “Bang Hắc ốc” thực ra là những con người rất thuần phát, họ chỉ là những người đẩy xe bán khoai lang, bánh hành dạo, nếu không thì là những kẻ lưu lạc không nhà không cửa, tất cả bọn họ đều sống nhờ vào con đường sắt, chẳng gây ra tội ác tày trời nào cả, nếu quả thực bắt họ phải rời khỏi túp lều hoang tàn này thì họ phải đi đâu để tìm chốn dung thân?

Trái lại, La Đại Hải chẳng buồn để tâm, cậu ta nói nếu như không thể sống trong Hắc ốc thì sẽ dẫn Tư Mã Khôi đi Đông Bắc, ông già cậu ta trước đây gốc rễ trong quân đội sâu tận đâu cơ chứ, muốn quan hệ có quan hệ, muốn đường đi có đường đi, nói không chừng đợi khi đủ tuổi còn được sắp xếp vào trong quân đội ấy chứ, việc gì phải cố kiết ở lại đây mà chịu uất ức.

Hạ Cần nói: “Đông Bắc thì có gì hay cơ chứ, đến mùa đông lạnh chết người đi được, chẳng phải lưỡi của cậu khi nhỏ bị đông cứng hỏng mất đấy sao?”

La Đại Hải bĩu môi tỏ ý khinh thường: “Cậu thì hiểu gì? Đồ con gái tóc dài, trí tuệ ngắn!”, đoạn quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Khôi này, bố cậu sau này cũng đến Quan Ngoại phải không? Cậu bảo cái vùng ấy như thế nào nhỉ?”

Tuy rằng Tư Mã Khôi mơ hồ cảm thấy cái thằng như mình đây tiền đồ mờ mịt, số phận khó đoán nhưng từ trước đến nay đều tự hóa nguy thành an, sớm đã chẳng buồn quan tâm đến điều này nữa, bây giờ nghe La Đại Hải gợi lại chuyện Quan Ngoại, liền nói: “Tớ chưa bao giờ đến vùng Đông Bắc, trước đây chỉ nghe ông già kể, ở đó vào mùa đông đúng là tuyết bay ngập trời, khắp nơi đóng băng đông cứng, vạn vật đều chìm vào giấc ngủ, có người còn bị đóng băng cả mũi. Nhưng trong rừng già núi sâu, những việc quái lạ nhiều vô cùng, chỉ cần ngồi trong lâm trường nghe người già kể chuyện cổ xưa, nghe suốt cả mùa đông cũng vẫn không hết”.

Để giết thời gian, Tư Mã Khôi liền kể cho La Đại Hải và Hạ Cần nghe câu chuyện ly kỳ mà ông bố Trương Hồ Lô từng gặp ở Quan Ngoại. Ông bảo ở ngôi miếu hoang trong núi sâu vùng Quan Ngoại một hôm bỗng nhiên có lão đạo sĩ đến, lão ta thu nạp một đồ đệ ở dưới núi làm đạo đồng, đồng thời xây một tòa điện để thờ sư tổ. Hai thầy trò cùng nhau ở trong đó tháng nọ tiếp tháng kia. Trước cửa điện um tùm rậm rạp, bất kể ở đây chỉ toàn cỏ dại cây hoang nhưng hôm nào cũng nhìn thấy hai đứa trẻ hồn nhiên nô đùa ở ngoài hang núi. Mỗi ngày lão đạo sĩ gặp chúng đều thuận tay đưa cho hai đứa bé khi thì viên kẹo, khi thì cái bánh. Thời gian lâu dần, hai bên trở nên khá thân thiết. Nhưng hai đứa trẻ đó tuyệt đối không dám lại gần cửa điện một bước.

Cứ như vậy nhiều năm trôi qua, tất cả đều bình an vô sự, mãi cho đến một ngày, lão đạo sĩ từ dưới núi mang về mấy quả đào tươi ngon, trên cuống còn dính mấy chiếc lá, quả nào quả nấy căng mọng mỡ màng. Lão mang chúng bày lên hương án trong điện thờ, dâng lên sư tổ. Lão đạo sĩ đi suốt một ngày đường, vừa mệt lại vừa buồn ngủ, thần thái lờ đờ, cứ thế ngồi trong điện, ôm hương án, dần dần thiếp đi.

Lúc này, một trong hai đứa trẻ đứng thập thò ở ngoài, rồi bò lên bậu cửa nhòm vào bên trong. Nó nhìn thấy mấy trái đào tươi mọng, không nhịn nổi liền khe khẽ lẻn vào trong điện ăn trộm. Ai ngờ lão đạo sĩ đột nhiên hèm lên một tiếng, nhảy bật người dậy, giơ tay tóm lấy đứa trẻ, chẳng nói chẳng rằng kẹp mạnh nó vào dưới nách, ba chân bốn cẳng xông thẳng vào lò đốt hương phía sau điện, cuống quýt chân tay lột sạch quần áo của đứa trẻ, dùng nước tắm rửa sạch sẽ rồi vứt sống nó vào miệng một nồi nước to, lấy nắp gỗ nắp chặt lại, rồi dùng tảng đá to chèn lên trên.

Lão đạo sĩ lại gọi tiểu đạo sĩ đồ đệ đến, ra lệnh cho hắn chất thêm củi vào lò, tuyệt đối không được ngớt lửa, cũng không được mở nắp vung xem bên trong là thứ gì, sau đó lão ta chạy đi tắm rửa thay quần áo, tế bái thần linh.

Tiểu đạo sĩ trong lòng thầm nghĩ, người xuất gia nên lấy thiện làm gốc mới phải, sao lại ăn thịt người tàn nhẫn như thế? Chỉ e rằng sư phụ đang muốn tu luyện môn công phu tà đạo nào đó. Tai hắn nghe thấy đứa trẻ bên trong nồi khóc thét giẫy giụa, lòng cảm thấy không nhẫn tâm, định mở vung nồi phóng sinh cho nó. Nhưng lại sợ lỡ đâu sư phụ chẳng ăn được thịt người, sẽ lấy dao mổ thịt hắn, thế nên lại không dám kháng lệnh.

Lửa càng cháy càng đượm, tiếng kêu thét càng lúc càng nhỏ, dần dần trở nên u tịch vô thanh, tiểu đạo sĩ nghĩ rằng đứa trẻ chắc đã bị đun chết. Hắn lo nước trong nồi bị cạn nên nhè nhẹ hé mở nắp vung, đang định nghé mắt vào xem, đột nhiên nghe thấy “bùm” một tiếng, đứa bé từ bên trong nhanh thoăn thoắt chui ra ngoài trốn mất dạng.

Vừa lúc đó, lão đạo sĩ đang ôm hộp thuốc chạy tới, trông thấy sự tình, vội vàng giục đồ đệ chạy ra ngoài cửa tìm kiếm, kết quả tìm khắp nơi mà đứa bé vẫn biệt vô âm tín. Lão đạo sĩ đành gạt nước mắt than dài: “Đồ nhi ngu ngốc, mi làm hỏng việc lớn của ta rồi! Ta ở bao nhiêu năm trong chốn rừng sâu núi thẳm này chỉ vì quả nhân sâm ngàn năm đó thôi. Nếu nấu nó thành nước uống cùng với thuốc, có thể trường sinh bất lão. Xem ra mệnh của ta không đủ phúc phận, ước nguyện thành tiên cũng vô vọng rồi. May mà nước canh trong nồi và quần áo của đứa trẻ vẫn còn giữ lại, đem luyện thành linh đơn uống cũng được thượng thọ, miễn nhiễm bách bệnh”. Nói xong, hai thầy trò liền gấp gáp quay trở vào trong điện.

Nhưng khi bọn họ trở về tìm kiếm quần áo thì phát hiện không biết chúng đã biến mất từ lúc nào, chẳng những thế nước trong nồi cũng bị một con chó hoang trụi lông uống cạn, một giọt cũng không còn. Lão đạo sĩ thất vọng quá mức liền bị đổ bệnh, mấy tháng sau thì âu sầu lìa đời. Còn con chó hoang, nghe nói về sau lông đen mọc kín toàn thân, óng mượt tuyệt luân, từ đó nó bỏ vào rừng sâu không bao giờ quay trở lại nữa.

Trên núi chỉ còn sót lại vị tiểu đạo sĩ, một mình ngồi thủ điện sư tổ trống toang hoang, sau này hắn rơi vào tình cảnh cùng quẫn, không kế sinh nhai, đành buộc phải gẫy cành thành cướp, theo chân ông Trương Hồ Lô làm thổ phỉ. Câu chuyện này do chính miệng hắn kể lại cho ông Trương Hồ Lô nghe.

La Đại Hải và Hạ Cần nghe Tư Mã Khôi kể với giọng rất quả quyết, như thể thực tế đúng là đã từng xảy ra việc ấy, trong lòng cảm thấy rất mơ hồ, không thể phân biệt nổi câu chuyện này là sự thực hay do Tư Mã Khôi bịa láo.

Tư Mã Khôi giải thích: “Đã là truyền thuyết thì đừng thắc mắc nó thật hay giả, nhưng các cậu có biết vì sao tôi kể chuyện này ra không? Là vì tôi cứ cảm thấy cái lão già Triệu Lão Biệt đi lùng bảo vật kia hao hao giống với tên đạo sĩ đi lùng bắt nhân sâm thành tinh”

La Đại Hải cũng gật đầu đồng ý: “Mẹ kiếp! mấy lũ bợm đó chẳng đứa nào ra gì! Cậu xem bây giờ là mấy giờ rồi mà lão già chết tiệt ấy còn chưa đến? Tớ thấy, chắc quá nửa là bọn mình bị lão cho leo cây rồi”.

Tư Mã Khôi gật gật đầu, lớn giọng sang sảng: “Là con người, ai chẳng có tính xã hội, mà xã hội lại là cái quần thể tạp nham đầy tính mâu thuẫn. Mấy năm kinh nghiệm mách bảo cho chúng ta rằng, bất luận thế nào cũng đều phải tin câu này – trên thế giới, loại khốn nạn nào cũng có”. Cậu nói xong liền nhổm người đứng dậy, định bụng nhìn quanh xem Triệu Lão Biệt đã đến chưa, không ngờ vừa ngẩng đầu trông ra phía xa thì giật nảy người. Cậu dường như không tin vào cảnh tượng mình đang nhìn thấy, vội vàng đưa tay dụi mắt rồi nhìn lại.

Lúc bấy giờ, mây đen u ám, che phủ mọi vì sao vốn chi chít trên nền trời, bóng tối bao trùm bủa vây khắp không gian. Chỉ duy phía đối diện với cầu La Sư, nơi tận cùng đầu bên kia của cánh đồng hoang là lung linh ánh đèn. Không thể ngờ ở đó lại có một thành trì trải rộng hàng trăm dặm, có sức chứa trên dưới vạn người, quy mô quả thực không nhỏ. Có điều do màn đêm mịt mùng, tầm nhìn bị mộ phần và cỏ hoang che lấp, lại thêm khói bay sương phủ la đà, nên khi nhìn qua đó chỉ thấy khung cảnh chập chờn lúc mờ lúc tỏ bất định. Trong thành hiện rõ ma khí vô cùng nặng nề, khiến người ta không khỏi dựng tóc gáy sợ hãi.

La Đại Hải và Hạ Cần cũng phát hiện ra cảnh tượng dị thường đó, ba người đều cảm thấy da gà nổi lên từng đợt. Chưa bao giờ bọn họ nghe nói trong khu nghĩa địa bỏ hoang này lại có sơn thôn, thị trấn. Nơi đây tuy rất hiếm dấu tích của con người nhưng ban ngày thỉnh thoảng vẫn có kẻ qua lại trên đường, có điều chưa ai từng nhìn thấy người sống trong khu nghĩa địa, chẳng hiểu sao tự nhiên hôm nay lại nổi lên một tòa thành lớn như vậy? Nhìn tòa thành đó âm hiểm dị thường, lẽ nào đó là ma thành dưới âm phủ?

Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều không tin vào mấy chuyện ma mãnh, hai người mau chóng định thần, thắp sáng ngọn đèn dầu, rút con dao díp ba khía ra, cầm lăm lăm trong tay, hướng thẳng vào bức thành trì chập chờn mờ tỏ như ma chơi rồi tiến từng bước đến đó. Bọn họ định nhìn xem rốt cục là thứ gì đang tác oai tác quái. Hạ Cần tuy rằng không muốn đi nhưng cô nàng càng không muốn ở lại một mình dưới chân cầu, nên đành níu áo Tư Mã Khôi, theo sát phía sau.

Ba người hướng tầm mắt nhìn về phía tòa thành ma, lần mò từng bước trong nghĩa địa, vừa đi vừa phạt cỏ tiến lên. Tuy rằng cả bọn đi rất lâu trong bóng tối nhưng dường như càng đi càng cảm thấy chột dạ, bất luận tiến về phía đó bao xa thì trước sau vẫn không thể đến gần tòa thành ẩn hiện ánh đèn nến ấy.

La Đại Hải trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, liền khuyên Tư Mã Khôi: “Tớ thấy bọn mình nên rút đã, hảo hán sợ gì cái thiệt trước mắt, nếu tiếp tục đi không khéo lại lạc đường mất”.

Tư Mã Khôi nhìn thấy sắc trời đúng là tối quá, trong lòng cũng thầm cảm thấy lực bất tòng tâm, nên đành quyết định rút lui rồi tính tiếp. Ba người bèn quay đầu về phía sau, ai ngờ cánh đồng cỏ hoang rộng mênh mông, đêm đen bao trùm mịt mùng, chút ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn dầu chỉ đủ soi rõ trong phạm vi ba bước. Ánh sáng le lói của ngọn đèn hiện lên giữa khu nghĩa địa hoang vắng này chẳng khác nào ánh lửa ma chơi. Tất cả những gì có thể nhìn thấy bây giờ chỉ là những nấm mồ nối tiếp nấm mồ. Ba người bọn họ đi không biết bao lâu nhưng vẫn không thể quay về lòng sông khô cạn dưới chân cầu La Sư, ngoái đầu nhìn lại, thấy khoảng cách giữa họ và tòa thành trì ẩn hiện ánh sáng ma quỷ đằng kia dường như vẫn không hề thay đổi.

Trên trời giờ đã không nhìn thấy bóng dáng nửa ngôi sao, nên cũng chẳng thể phân biệt đâu là hướng nam, đâu là hướng bắc. Mất vật tham chiếu, cảm giác không gian bồng bềnh như không tồn tại. Trong đêm hè oi bức, thời gian phảng phất như dừng lại, ngưng tụ tại một điểm.

Trán La Đại Hải đầm đìa mồ hôi lạnh, không nhịn được lẩm bẩm thành tiếng: “Thế này chẳng phải đang gặp ma à? nghe người ta đồn những hồn ma bị chết oan khuất thường xuất hiện trên đường vào ban đêm để dẫn lối cho lữ khách, bắt họ đi vòng vo một hồi rồi quay trở lại điểm xuất phát, cuối cùng khiến họ cùng quẫn mà chết, tục truyền con đường đó gọi là “Hẻm ma ám”. Chẳng lẽ hôm nay anh em bọn mình lại đâm vào con hẻm ma?

Tư Mã Khôi vẫn bình tĩnh hơn cả: “Cùng lắm thì lãng phí một đêm ở đây, sáng ngày mai đợi khi chim kêu trời sáng thì cô hồn, dạ quỷ gì cũng phải tiêu tan”. Cậu lại vung dao huơ huơ trước mặt: “Có thứ giết người này trong tay, bất kể trong nghĩa địa có vật gì không thanh sạch, ông đây cũng phanh thây chúng ra thành ba mảnh”.

Tuy cứng miệng như vậy nhưng thời khắc này dường như cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, mỗi giây mỗi phút đều kéo dài đằng đẵng tựa ngàn thu, hoàn toàn không thể cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian. Ba người khó lòng át chế được sự phát tác của chủ nghĩa duy tâm, họ lo rằng bọn họ thực sự đang bị sa vào con hẻm ma ám. Đường ma đi, người không thể đi, ngộ nhỡ lạc bước vào trong đó, chỉ e vĩnh viễn không thể đợi đến thời khắc chim kêu trời sáng.

Hải ngọng đột nhiên nhớ ra một việc, cậu ta kể với Tư Mã Khôi và Hạ Cần, theo cách nói lưu truyền của dân gian vùng Đông Bắc, nếu một người đi lạc trong núi, thì thường lỡ bước vào nhầm thành cổ, trong thành chắc chắn chẳng có ai là người sống, chỉ có một lão già gầy gò như thanh củi khô, da dẻ nhăn nheo, đầu đội mũ chóp nhọn, khi nhìn thấy bạn thì tự nhận: “Đầu đội mũ hoàng kim, mình mặc áo lưu ly, bản quan là đại vương trong mộ, cưỡi thỏ ngọc đi tuần”.

Nếu gặp phải tình huống như vậy thì lão già đó tuyệt đối không phải là người, mà là con chồn tinh còn gọi là “Hoàng đại tiên” từ trong núi chui ra, nếu bạn còn muốn 

sống sót thoát ra khỏi hẻm ma ám, phải lập tức dập đầu cúi lạy và cầu xin nó dẫn đường.

Hồi 4: Hẻm ma ám

Nửa đêm canh khuya, hội ba người Tư Mã Khôi đi lạc trong khu nghĩa địa bỏ hoang, càng lúc càng hoảng loạn, loanh quanh một hồi, trong lòng cảm thấy rùng rợn đến nỗi không còn phân biệt nổi phương hướng nữa.

Bình thường La Đại Hải là tay vô cùng gan dạ, chẳng biết sợ sệt gì sất, nhưng cũng phải tùy việc, nếu luận đến việc đánh nhau, gây vạ, cậu ta có thể dùng que chọc thủng trời, ngưu ma, xà thần gì cũng chẳng phải đối thủ. Có điều khi còn nhỏ, cậu ta từng leo lên cây ăn trộm trứng trong tổ chim, không ngờ vừa lúc đó một con chồn hoa cũng luồn vào, đẩy cậu ta ra rồi cắn chết chim mẹ ngay tại trận. Lúc này quanh miệng con chồn dính toàn máu chim, hai mắt đỏ ngầu, nhìn cảnh tượng ấy La Đại Hải sợ mất vía, kể từ đó trở đi sự việc này trở thành chiếc bóng u tối ám ảnh tâm lý cậu ta một cách nặng nề, mãi đến tận bây giờ vẫn không thể phai mờ. Bởi vậy thứ duy nhất trên đời này khiến cậu ta khiếp đảm có lẽ chính là con chồn, trước đây cậu ta thường tỏ ra không hề gì, thực ra chỉ là cố tình giả bộ. Bây giờ gặp phải tình cảnh kinh dị vượt qua cả phạm vi nhận thức của con người, nên trong lòng cậu ta khó tránh khỏi việc liên tưởng đến chuyện cũ. Lúc này cậu ta quả đúng là gan nhỏ hơn cả gan thỏ. Khi ở Đông Bắc, Hải ngọng từng nghe kể rất nhiều truyền thuyết dân gian với thể loại tương tự như vậy, nên giờ cứ một mực quả quyết rằng mấy người bọn họ đang bị chồn tinh nằm dưới mộ huyệt mê hoặc, nghĩ đến đây cậu ta cảm thấy dường như có một luồng khí lạnh xuyên thẳng vào đáy tim, bắp chân tự nhiên co cứng như bị chuột rút.

Hạ Cần nghe cậu ta nói có chồn tinh trong thành ma, chỉ cần nghĩ thôi mà da gà đã nổi hết cả lên, cô nàng không thể tự kiềm chế được nỗi sợ hãi đang dần trào dâng trong lòng, sắc mặt trở nên tái nhợt.

Tư Mã Khôi hoàn toàn không tin vào mấy thuyết pháp tà ma kiểu đó, cậu biết khu vực Đông Bắc rất sùng bái “Hoàng tiên”, nhưng trước thời Mãn Thanh, những người dân mê tín chuyện này ở Quan Nội tồn tại không nhiều lắm, thậm chí có thể nói là gần như không còn, mãi cho đến sau khi chế độ thiết giáp bát kỳ (chế độ quân đội và hộ khẩu thời Mãn Thanh có tám màu cờ) tràn vào Quan Nội, hai nền văn hóa Hán Mãn bị ảnh hưởng lẫn nhau, Quan Nội mới dần bắt đầu nảy sinh tập tục thờ hoàng tiên. Còn về nguyên nhân hình thành “Hẻm ma ám” có rất nhiều cách giải thích, mấy thuyết pháp dân gian kia chưa hẳn là sự thật, khu mộ hoang này cũng chưa hẳn bị bọn chồn hoang quấy nhiễu, chỉ là tình hình đang gặp trước mắt quả thực quá sức quái dị, khó có thể dùng lý lẽ thông thường để phán đoán. Cho dù Tư Mã Khôi đảm khí cứng rắn, lại giỏi tùy cơ ứng biến nhưng rốt cục cậu ta tuổi vẫn còn trẻ, kiến thức còn nông cạn nên lúc này khó tránh khỏi cảm giác bất lực.

Lúc này, Tư Mã Khôi phát hiện ánh sáng của chiếc đèn dầu đang cầm trên tay mỗi lúc một trở nên yếu ớt, như báo hiệu sắp sửa tắt hẳn. Trong lòng cậu chợt dội lên cảm giác không lành. Cậu nói với La Đại Hải và Hạ Cần: “Chắc chắn chúng ta bị lạc đường rồi, chỉ sợ không dễ thoát ra khỏi nơi này, dầu trong đèn cũng chẳng còn lại bao nhiêu, xem chừng không thể duy trì được lâu nữa, người xưa thường nói “đèn tắt ma tìm đến”, nếu chúng ta muốn bảo toàn mạng sống, bắt buộc phải nhanh chóng tìm ra cách thoát khỏi đây. Nếu không đợi thêm chút nữa, khi ánh đèn hoàn toàn tắt hẳn, trước mắt tối thui thui, thì càng chẳng có cơ hội thoát thân đâu”.

La Đại Hải bất lực nói: “Tớ coi như hết sạch chiêu rồi, thường ngày toàn thằng ôn con nhà cậu nghĩ ra bao nhiêu quỷ kế, theo cậu bây giờ chúng ta nên làm thế nào?”.

Tư Mã Khôi vắt óc nghĩ ngợi hồi lâu. Khi cậu còn ở Bắc Kinh theo “Văn Võ tiên sinh” học nghệ, cũng biết đến một vài điển cố lục lâm. Cái từ “ngựa vang” (tiếng lóng vùng Đông Bắc ám chỉ bọn thảo khấu) vốn chuyên dùng để chỉ “Trên đường Sơn Đông, nếu nhìn thấy kẻ cưỡi ngựa đeo chuông, thì ngầm hiểu đó chính là ám hiệu của đạo tặc lục lâm, bọn họ coi trọng khí chất nghĩa hiệp, chúng ta khó lòng biết thực ra họ là kẻ xấu hay người tốt, khó phân biệt điều họ làm là sai hay đúng, họ bí mật cướp của, tàng hình giết người”. Tiếng lóng này sau đó được phát triển rộng ra thành bất luận “râu xồm” ở Sơn Đông, “giặc cướp ngựa” ở Quan Tây, “nhà ưng” ở Giang Nam hay “bang thuyền” ở Hồ Bắc và Hồ Nam, phàm là những tên cướp tự cho mình là “cướp của người giàu chia cho người ngoài, thay trời hành đạo”, đồng thời bái mười tám vị la hán làm sư tổ thì đều được quy vào hàng ngũ “ngựa vang”. 

Trước đây, “ngựa vang” thường phải chạy vào sâu trong khe núi để trốn khỏi sự truy đuổi của quan quân, cánh rừng rậm nguyên thủy quanh năm không trông thấy mặt trời này, cỏ mọc còn cao hơn đầu người, đưa mắt nhìn quanh chỉ thấy bốn bề cỏ hoang mọc bạt ngàn, những người không thông thổ lỡ chân lạc bước vào đây sẽ lập tức bị bầy “muỗi biển” hút sạch máu và trở thành xác khô. Ngoài rừng rậm ra, thì đầm lầy, sơn cốc băng tuyết, khe vực đều là những cứ địa vàng để “ngựa vang” nương thân tránh họa và thoát khỏi vòng vây truy sát của quân lính. Bọn họ và quan quân chỉ giao đấu vài hiệp rồi lập tức tản ra, chạy vào khu rừng già nơi không có dấu chân người qua lại để ẩn thân, đợi khi sóng gió qua đi mới tụ tập trở lại.

Chính vì vậy, người đời mới nói “ngựa vang rất giỏi tìm đường”, cho dù chạy vào nơi sơn cùng thủy tận, địa hình phức tạp, khi bị lạc đường, họ vẫn có thể xác định được phương hướng dựa vào việc quan sát vị trí của chòm sao bắc đẩu. Vào những ngày trời âm u, không có sao, họ sẽ đi tìm mạch nước nguồn, chỉ cần xuôi theo hướng nước chảy là nhất định sẽ tìm được lối ra. Nhưng tình hình trước mắt bây giờ vừa không có sao, lại không có sông suối gì cả, thì làm gì còn phương pháp nào mà nghĩ?”

Cuối cùng Tư Mã Khôi nhớ lại “thuật thôi môn” được ghi chép trong “Lục Lâm truyền kỳ”, trong đó nói, người ta có thể thông qua phương thức mê tín để suy đoán cánh cửa sinh tồn, đây là một bí thuật trong “Thuật âm dương bát quái”, thông thường chỉ có bọn quân sư vớ vẩn mới sử dụng thủ thuật này. Tư Mã Khôi không biết cái món bí thuật này có tác dụng thật hay không, cũng chưa bao giờ thực hành cụ thể, nhưng vì phải giành giật sự sống khỏi bàn tay thần chết nên quyết định liều một phen, cậu đành nhìn mèo vẽ hổ, nhìn bầu vẽ dưa để bắt chước phương pháp cổ xưa mà tiền nhân truyền lại, lấy ba hòn đá vun đống trước mộ, xếp thành hình phủ thờ sư tổ, sau đó đắp đất thành lò đốt hương, cuối cùng cắm lên đó mấy cọng cỏ dại làm nhang.

Lúc này lẽ ra cậu phải ngồi niệm “Thôi môn lệnh” nhưng Tư Mã Khôi đã quên béng bài chú này từ đời nào, nên đành tạm thời chắp vá mấy câu khác vào thay thế, chỉ thấy miệng cậu ta tụng niệm một hồi dài, nghe cũng rất ra văn ra vẻ : “Con xin thỉnh quan phu tử giáng đàn, Lý lão quân hạ thế, mời các vị sư tổ, ngọc hoàng thượng đế, quan âm bồ tát, tổng tư lệnh, ba vị nguyên lão, bốn vị thiếu gia trên trời, mau mau hiện thân đến cứu đệ tử khỏi vòng hiểm nguy…”, nói xong liền giơ tay giật chiếc mũ La Đại Hải đang đội trên đầu, vứt vèo một cái vào không trung, rồi đưa mắt nhìn xem chiếc mũ rơi xuống chỗ nào, chỗ rơi xuống chính là cửa sinh, chỉ cần đi theo hướng đó sẽ tìm thấy con đường sống.

La Đại Hải hoàn toàn mù tịt mấy món này, cậu ta chỉ tiếc đứt ruột chiếc mũ quân nhân, bèn hét to: “Thằng điên này! sao cậu lại mù quáng đi tin mấy chuyện quỷ thần mê tín dị đoan thời phong kiến thế hả?”, Nói xong liền chạy bổ đi tìm chiếc mũ rơi trên mặt đất, nhưng trong nghĩa địa, chỗ nào cũng tối hù hù, cỏ lại mọc cao quá đầu gối, chiếc mũ bay từ trên trời rơi xuống đồng cỏ hoang rồi biến mất dạng, biết tìm ở đâu bây giờ?

La Đại Hải cuống đến nỗi nước mũi chảy cả xuống miệng, không kiềm chế được liền mở miệng trách móc Tư Mã Khôi. Bất ngờ, từ nơi sâu xa nào đó trong đám cỏ vang lên những tiếng “loạt xoạt”, cậu ta cứ nghĩ chồn tinh đang từ dưới mộ huyệt chui lên, bất giác sợ đứng tim, mồm há hốc, phệt đít ngã lăn xuống đất.

Tư Mã Khôi không ngờ chiêu vứt mũ ấy lại có hiệu quả thật, trong lòng cũng cảm thấy kinh dị, miệng lầm bầm: “Lẽ nào sư tổ hiển linh chỉ đường cho mình thật?”. Cậu kéo Hạ Cần ra phía sau lưng, giơ cao ngọn đèn dầu với ánh sáng bé bằng hạt đậu soi về phía phát ra tiếng động, thì nhìn thấy trong đám cỏ hoang bị sương đêm bủa vây, có một người đang đi đến. Người đó tay xách đèn kéo quân, miệng lẩm bẩm rất khẽ bài đồng dao mà ngày thường trẻ nhỏ vẫn hát: “Hôm nay thần tài giáng phàm trần, thiên hạ người người đều nhanh chân, tiền sạch cá độ Triệu thái gia, tiền bẩn cá cho Thập Bát gia, ngàn núi vạn sông một bông hoa, tiền sạch tiền bẩn đều là tiền, anh phát tài tôi xin hưởng chút, tôi ăn thịt chia súp cho anh …”

Giọng hát vừa sai lời vừa sai nhạc, lệch cả nhịp điệu cứ vang lên càng ngày càng rõ trong đêm tối, mãi cho đến khi người đó đi tới gần, Tư Mã Khôi mới nhìn rõ, kẻ mới đến chính là Triệu Lão Biệt.

Thì ra Triệu Lão Biệt đến chân cầu La Sư đúng giờ như đã hẹn, nhưng không thấy bóng dáng của Tư Mã Khôi và La Đại Hải đâu, lại phát hiện có ánh đèn lay động trong nghĩa địa, chẳng cần hỏi cũng đoán được chuyện gì đã xảy ra. Thế là lão vội vàng mò xuống tìm. Vừa gặp hội ba người Tư Mã Khôi, lão ta liền nói: “Đã bảo các cậu giờ Tý đợi mỗ ở dưới chân cầu La Sư, thế mà dám cả gan tự tiện xông vào khu nghĩa địa này, lại còn dẫn theo một ả nha đầu nữa. Các cậu muốn bỏ mạng à? Ngộ nhỡ rơi vào hố sâu trong mộ huyệt, bị bọn hồ ly lôi đi, thì cho dù các cậu có bản lĩnh tài giỏi thế nào đi nữa cùng đừng mơ trèo lên được!”

Vị cứu tinh La Đại Hải đang mong chờ cuối cùng cũng xuất hiện, cậu ta mừng rỡ ra mặt, nhưng vẫn giả bộ cứng giọng: “Lão Triệu, ngay từ đầu sao lão chẳng bảo bọn tôi không được vào khu nghĩa địa này, đến bây giờ thì chớ giở cái giọng Tiểu Gia Cát Lượng lột khố - khai sáng cho mọi người nữa”.

Triệu Lão Biệt chẳng thèm bận tâm đến mấy lời nhăng cuội của La Đại Hải, lão chỉ vào Hạ Cần rồi hỏi Tư Mã Khôi: “Con nhỏ này là đứa nào vậy?”

Tư Mã Khôi nhìn thấy trên chiếc áo sơ mi Triệu Lão Biệt đang mặc có mấy mụn vá, phía sau lưng cũng có chiếc bóng đổ dài dưới ánh đèn, liền biết lão là người chứ không phải ma. Cậu bèn đem việc của Hạ Cần kể tóm tắt cho lão ta nghe một lượt.

Lúc này, Hạ Cần đã biết Triệu Lão Biệt là bạn của Tư Mã Khôi và La Đại Hải, tuy rằng nhất thời chưa thể hoàn hồn nhưng vẫn giữ thái độ lịch sự cần có, cô nàng bước đến phía trước giơ tay ra bắt rồi chào hỏi: “Cháu chào Triệu lão sư phụ!”

Triệu Lão Biệt không hề ỏ ê đến cô nàng, quay mặt sang Tư Mã Khôi cau mày tỏ ý khó chịu: “Mỗ đã nói trước không được dẫn theo người ngoài đến rồi mà, các cậu quên sao?”

Tư Mã Khôi lái câu chuyện sang hướng khác: “Việc này để sau tính cũng chưa muộn”. Nói đoạn, cậu kể vắn tắt tình hình trước mắt cho lão ta nghe. Nơi này đúng là cửa tà, nếu có người đứng ở bờ sông khêu đèn lên tiếp ứng thì tốt biết mấy, nhưng bây giờ tất cả bốn người đều ở trong nghĩa địa này rồi, e rằng không đợi đến khi trời sáng hoặc khi mây tan trăng sáng thì rất khó thoát thân.

Triệu Lão Biệt nheo cặp mắt nhỏ ti hí nhìn bốn xung quanh rồi thấp giọng nói: “Thực ra nếu phải đi gấp trong đêm ở nơi núi sâu rừng thẳm thì khó tránh khỏi sa vào hẻm ma ám, nhưng chỉ cần đừng để cô hồn dạ quỷ bám theo mình, thì chẳng có gì đáng ngại nữa cả. Có điều đi đêm tuyệt đối không được im lặng, mà hãy làm theo cách người xưa truyền lại, đi trong hẻm ma thì phải hát hý văn, như vậy sẽ trấn áp được bách tà. Chúng ta vừa hát vừa hét để xông ra khỏi chỗ này nhé!”.

Hội Tư Mã Thiên nghe mấy câu này đều thấy mù mờ chẳng hiểu gì: “Chuyện này bọn tôi mới nghe nói đến lần đâu, đi lạc trong hẻm ma ám phải hát hý văn thật sao? Là vở “Đèn lồng đỏ” hay vở “Núi Đỗ Quyên”? Triệu sư phụ có biết hát không?”

Triệu Lão Biệt không lên tiếng trả lời mà chỉ dặn dò mấy câu: “Các cậu chỉ cần đi theo sau mỗ là được rồi, có điều phải nhớ tuyệt đối không được quay đầu nhìn lại đằng sau, phía thành trì đèn nến lập lòe đó, nếu không đừng nghĩ thoát khỏi chỗ này”.

Tư Mã Khôi không hiểu ý lão muốn ám chỉ điều gì, liền hỏi: “Sao lão lại nói vậy?”

Triệu Lão Biệt nói: “Tòa thành đó trông giống như ánh lửa ma chơi, ẩn ẩn hiện hiện giữa đám cỏ úa khói tàn trong rừng cây tạp chủng. Nhìn nó như gần như xa, biến đổi quái dị khó lường, càng nhìn càng cảm thấy mơ hồ, bất luận thế nào chúng ta cũng không thể xác định phương hướng dựa vào vị trí của nó được, ngộ nhỡ bị sa chân vào bên trong, thì chỉ có mà vạn kiếp không thể siêu sinh”. Thì ra khúc hát lão đang ngâm nga trong miệng là bài “Điệu khúc ngâm” đã bị thất truyền từ lâu trong dân gian, tuy rằng tiếng hát khàn đục nhưng lại vang lên giữa đêm khuya, khiến nó càng mang âm hưởng hùng tâm tráng chí, hiên ngang khí phách. 

Không biết có phải bài hát ảnh hưởng đến tâm lý hay không mà khi Triệu Lão Biệt vừa hắng giọng ngân nga mấy câu, hội Tư Mã Khôi đã không còn cảm thấy rùng rợn nữa, vội vàng lên giây cót tinh thần, vùi đầu nhắm thẳng về phía trước. Không ngờ, một lát sau cả hội đã thoát khỏi nghĩa địa và quay trở về chỗ chiếc cầu La Sư vỡ nát bị bỏ hoang. 

Ba người thấy cuối cùng cũng thoát được ra ngoài, ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm. Đến lúc này, Tư Mã Khôi càng thêm khẳng định Triệu Lão Biệt chắc chắn là một kỳ nhân bí ẩn khó lường, đừng thấy lão ta ăn mặc lôi thôi quê mùa mà coi thường, lão già này quả ứng với câu “nhìn mặt khó bắt hình dong, nước biển khó lòng đo đếm”. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền bám theo xin thỉnh giáo xem vừa rồi rốt cục đã xảy ra chuyện gì? Vì sao khi bị sa vào hẻm ma ám, chỉ cần hát hý văn là có thể tìm đường đi ra được?

Triệu Lão Biệt dường như khi nãy đi gấp quá nên giờ ngồi phệt xuống đất nghỉ ngơi. Lão ta rút tẩu thuốc châm lửa hút, nhắm nghiền mắt tham lam hít hai hơi vào phổi. Sau khi khoan khoái nhả từng ngụm khói lên trời mới từ từ nhã nhặn trả lời: “Vì sao ấy hả? Chỉ vì – đi đêm vạn dặm đều là họ Hổ!”

Câu này có nghĩa là gì? Thì ra họ “Hổ” trong câu “đi đêm vạn dặm đều là họ Hổ” muốn ngầm ám chỉ đến sơn thần, khi lạc đường trong núi tất nhiên phải hát “Ngâm khúc qua núi”.

La Đại Hải cũng chạy đến bên hỏi Triệu Lão Biệt, tòa thành trì rực rỡ ánh đèn nến ở phía xa rốt cục là nơi nào? Trong đó có chồn tinh không?

Triệu Lão Biệt bảo nơi đó là “Thành hàm oan”, bên trong có hai loại ma “hàm oan và uẩn khuất”, ngoài ra còn có năm ngàn âm binh đầu trâu mặt ngựa đứng bên ngoài canh gác, người sống khó lòng tiếp cận. Sau đó, lão móc viên “Ngọc Định Phong” trong người ra, rồi nói chỉ cần có vật này trong tay, thì ta có thể liều chết mà xông vào thành thăm dò một chuyến. Các cậu có gan dám đi cùng mỗ không? 

Hải ngọng nghe nói trong đó không có chồn tinh liền lập tức hứng khởi trở lại, cậu ta nhướng nhướng mày, quệt ngang nước mũi dính trên mặt rồi nói: “Tôi chả bao giờ tin mấy cái món này, chúng ta đều là người có hai cái chân, hai cánh tay, lão cũng chẳng phải kẻ mọc nhiều hơn tôi một cái đầu, chỉ cần Triệu Lão Biệt lão dám đi thì cớ gì La Đại Hải cậu đây không dám hử?”

Tuy rằng Triệu Lão Biệt quả thực có một vài bản lĩnh nhưng lão lại là kẻ bụng dạ hẹp hòi, nhìn thấy La Đại Hải phát ngôn ngông cuồng, thì chỉ cười nhạt, giơ tay trái ra nói: “Thực ra trong mắt mỗ, các cậu chẳng qua chỉ là đám trẻ ranh mới lớn, vì thế các cậu hãy khoan khoác lác! Cậu xem bàn tay trái của mỗ có mấy ngón? chẳng phải nhiều hơn cậu một ngón tay hay sao? Nếu có bản lĩnh cậu thử mọc thêm một ngón nữa cho mỗ đây được mở rộng tầm mắt”.

La Đại Hải thấy Triệu Lão Biệt đúng là có sáu ngón tay thật, đành cãi bừa: “Cái này thì có gì đáng phải đem ra khoe khoang! Lão đừng quên núi cao còn có núi cao hơn. Lão có sáu ngón tay thì không còn biết trời cao đấy dày nữa phỏng? Thực chẳng dám giấu, La Đại Hải tôi đây lúc mới sinh cũng có đến ba cánh tay lận, nhưng ông già tôi hưởng ứng khẩu hiệu vĩ đại của Mao chủ tịch, cần kiệm liêm chính làm cách mạng, ông không muốn lãng phí vải vóc để may thêm một cánh tay áo nữa cho tôi, bèn đè tôi ra lấy dao thái rau chặt phéng đi một cánh, bây giờ cánh tay đó vẫn để ngâm muối ở trong vại dưa nhà tôi đấy, không tin lão cứ theo tôi về nhà mà xem”.

Lúc này Triệu Lão Biệt mới phát hiện loại người như Hải ngọng chẳng thể nói bằng lý được, đành phải ngậm miệng không tiếp lời. Lão ta quay đầu sang nhìn Tư Mã Khôi và Hạ Cần, hỏi hai người bây giờ định thế nào.

Cũng giống như Hải ngọng, Tư Mã Khôi không tin vào mấy chuyện thần quỷ rùng rợn của Triệu Lão Biệt, trên thế giới này làm gì có chuyện tồn tại “Thành hàm oan”, cậu cũng quyết định phải vào đó một chuyến để nhìn xem rốt cục nó là cái gì. Còn Hạ Cần không dám ở lại đây một mình, nên một lần nữa đành phải lựa chọn đi theo bọn họ.

Bốn người từ lòng sông đi vòng qua khu nghĩa địa rộng lớn, rồi lại quanh co mấy vòng rất xa. Nói ra cũng lạ, lần này cùng với sự di chuyển của bước chân, tòa thành trì lập lòe ánh lửa ma quỷ cách họ càng lúc càng gần. Đợi khi đến thật gần, Triệu Lão Biệt đột nhiên dừng lại, thổi tắt đèn kéo quân và lấy tay ra dấu, bảo hội Tư Mã Khôi quỳ xuống, phủ phục trong ổ cỏ, lặng lẽ nhìn về phía trước.

Tư Mã Khôi dụi dụi mắt, định thần nhìn kỹ lại, chỉ thấy trong đám mộ hoang cỏ dại có từng quầng lửa liên tục nhấp nháy lập lòe, thì ra đó là đom đóm, số lượng nhiều không kể xiết, chúng lập bầy lập đàn bay lượn giữa cánh đồng hoang, nhung nhúc kết bè với nhau tạo thành bức bình phong tường thành, chỉ thấy ánh sáng xanh ngập trời, biến hóa khôn lường, từ đằng xa nhìn lại quả đúng là một kỳ quan độc nhất vô nhị. Có thể nói không ngoa rằng nó chẳng khác nào một tòa thành lửa di động.

Hồi 5: Đom đóm

Bầy đom đóm kết bầy kết đàn bay lượn vờn vũ đầy trời, ánh sáng mơ ảo tụ hợp lại, khiến “Thành hàm oan” bị chôn sâu dưới lòng đất một lần nữa được tái hiện giữa nhân gian.

Ba người nấp đằng sau lưng Triệu Lão Biệt cứ tròn mắt nhìn mãi cho đến khi hoa hết cả lên, lúc này cả hội mới hay “thành đom đóm” mà lúc trước họ nhìn thấy từ đằng xa chỗ bãi cỏ hoang hóa ra lại là hàng triệu con đom đóm tập hợp lại mà thành. Nếu không phải đêm nay tất cả đều được tận mắt chứng kiến thì khó lòng tưởng tượng được trên thế gian này lại có kì quan độc đáo như vậy.

Tư Mã Khôi nhớ lại việc từng nghe người ta nói câu “cỏ mục hóa sâu”, đom đóm âu cũng là loài vật được hóa thân từ cỏ dại mục nát. Nếu chúng tâp hợp lại thành đàn lớn ở chỗ nào thì chỗ đó âm khí ngưng tụ dày đặc, bọn chúng hễ ngửi thấy mùi dương khí tỏa ra từ người sống lập tức rút lui và “thành đom đóm” cũng theo đó mà từ từ di chuyển. Lúc trước vì ba người hội Tư Mã Khôi lấy ánh sáng đom đóm phía xa làm vật tham chiếu nên họ mới bị lạc đường trong nghĩa địa. Bất luận bạn đi nhanh hay đi chậm, tiến hay lui, sớm muộn gì cũng sẽ bị mất cảm giác phương hướng, càng đi càng như sa vào mê cung chẳng khác nào bước chân vào “hẻm ma ám”.

Nhưng vì sao bây giờ bọn họ lại có thể ở cách “thành đom đóm” gần đến thế? Tư Mã Khôi thầm băn khoăn một lúc, rồi cuối cùng cũng hiểu ra nguyên nhân. Chắc chắn là do âm khí tỏa ra từ viên “Ngọc Định Phong” rất nặng, nó đủ sức che lấp và lấn át sinh khí toát ra từ cơ thể bốn người sống. Có điều, đến lúc này cậu vẫn không thể lý giải nổi vì sao Triệu Lão Biệt phải tìm đủ mọi cách để tiếp cận “thành đóm đóm”.

Đúng lúc đó chợt thấy Triệu Lão Biệt cố tình hạ giọng thật thấp, nói với ba người Tư Mã Khôi: “Bọn đom đóm giống như ánh lửa ma chơi kia đều từ xác chết thối rữa hoặc cỏ khô mục nát hóa thân thành. Mỗ trộm nghĩ thành trì được tạo ra bởi vô số con đom đóm như thế này hẳn không phải là cảnh tượng mà người ở trần gian có thể nhìn thấy. Chuyện này đủ sức chứng minh phía dưới lòng đất chắc chắn có chôn giấu một vật mà âm khí nặng nề không thể tưởng tượng được, chỉ có nó mới đủ sức khiến lũ đom đóm kết bầy kết đàn tụ tập lại với số lượng lớn, hơn nữa lũ đó chỉ bay thêm vào chứ chẳng thấy con nào bay đi. Cả đời Triệu Lão Biệt mỗ đây bắt đầu đi tìm từ Quan Đông tìm tới Quan Trung, rồi lại tìm suốt mấy tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, gót chân in khắp nửa vùng trời, hao tổn không biết bao nhiêu thời gian và tâm huyết, cũng chính là để tìm kiếm vật này đây. Tiếc thay một bàn tay chẳng thể phát ra tiếng, bây giờ được các cậu sát cánh tương trợ như thế này thì còn gì bằng. Sau khi xong việc, mỗ nhất định sẽ báo đáp hậu hĩnh”.

Thì ra Triệu Lão Biệt là kẻ vô cùng tinh thông cổ thuật, ngoài bản lĩnh biệt bảo ra, lão còn được kỳ nhân truyền thụ cho Liễu Trang tướng pháp vô cùng thâm hậu. Những bí thuật như bát quái ngũ hành, kỳ môn tuần giáp lão đều thuộc làu như lòng bàn tay. Thường ngày lão vẫn đi khắp thôn cùng ngõ tận để tìm kiếm bảo vật quý hiếm, vô tình được biết ở gần mộ địa dưới chân cầu La Sư có “thành đom đóm”, tòa thành này biến hóa khôn lường, và chỉ xuất hiện giữa đêm hạ chí vào những năm đặc biệt.

Nghe nói những con đom đóm này đều được hóa thân từ lửa ma chơi hoặc lân quang trong thành hàm oan. Tòa thành lửa như bóng ma ấy ẩn hiện bất định, không phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy, mà chỉ trong những năm liên tiếp xảy ra trộm cướp, thiên tai, khi cánh cửa âm tào địa phủ mở rộng ra để thu nạp người vào bên trong thì nó mới xuất hiện, hơn nữa sự xuất hiện của nó chẳng mang theo bất kỳ điềm báo tốt lành nào.

Triệu Lão Biệt suy đoán ở gần “thành đom đóm” nhất định có chôn giấu một vật gì đó rất kỳ dị, không những thế vật đó còn hút cạn cả tinh hoa nhật nguyệt, linh khí trời đất, khiến cả dải long mạch đều trở nên khô cằn. Vật đó tuyệt đối là vật vô cùng khác thường. Chỉ có cách kiếm cơ hội dò tìm tông tích, làm rõ xem căn nguyên của “thành đom đóm” rốt cục nằm ở chỗ nào, như vậy mới có thể thi triển bí thuật biệt bảo.

Thành phố Trường Sa diện tích lên đến cả trăm dặm, chỗ nào cũng là đất phong thủy “Chín rồng hội tụ”. Ở đây tất cả có chín dải long mạch, chín dải đó hình thành nên nhiều loại địa thế khác nhau, độ tốt xấu cũng không nơi nào giống nơi nào. Dải đất quanh khu vực này mộ cổ đặc biệt nhiều, mộ cũ có khi có từ thời Xuân Thu chiến quốc, mộ mới cũng phải bắt đầu từ thời Minh thời Thanh. Ở đó mai táng vô số bậc vương hầu tướng quân và những người quyền cao chức trọng. Thông qua địa hình nơi phát hiện ra mộ cổ, ta có thể đại khái tiến hành phán đoán – những người được chôn ở nơi có địa thế bằng phẳng, mộ phần thường sơ sài qua loa, ngược lại những người được chôn ở nơi sơn cùng thủy tận, thì mộ phận lại vô cùng sa hoa tráng lệ.

Có điều Triệu Lão Biệt không phải dân trộm mộ, thứ mà lão muốn tìm là dải long mạch nghèo nàn, cũng chính là dải đất kéo dài từ “Hắc ốc” hoang phế cho đến “nghĩa địa La Sư”, bởi “thành đom đóm” chỉ xuất hiện ở xung quanh khu vực này. Từ trước đến giờ lão đã tiến hành thăm dò, khảo sát rất nhiều lần, cuối cùng cũng đã phát hiện ra “nghĩa địa La Sư” là vùng đất hoang có vô số mộ phần nằm san sát liền kề nhau, trong đó có rất nhiều ngôi mộ cổ, tất cả là những mộ huyệt chôn người chết từ những năm trước thời Dân Quốc, đa số mộ phần ở đây đều không có bia mộ, địa hình nhấp nhô bị cây dại cỏ hoang cao ngút ngàn che phủ, chồn hoang rất thích náu mình bên dưới mộ huyệt âm u lạnh lẽo, vì thế phía dưới mộ cỏ, đâu đâu cũng toàn là hang mộ do chồn hoang đào bới.

Những hang ổ và hố mộ này có độ nông sâu rất khác nhau, giăng mắc chi chít như bàn cờ, bên ngoài lại bị cỏ hoang che khuất, dường như chẳng ai phát hiện ra hiểm họa ở ngầm sâu dưới lòng đất. Nếu ai đó đi ngang qua, lỡ rủi thụt chân xuống hố, cho dù may mắn không bị gẫy chân nhưng đợi khi khó khăn lắm mới rút được ra ngoài thì chuột đồng, chồn hoang ẩn trốn trong hang đã gặm hết sạch da thịt, giơ cẳng lên nhìn, chỉ thấy lòng bàn chân trơ lại đoạn xương trăng trắng, lấp ló lộ ra giữa đám máu nhầy nhụa. 

Nơi này cho dù đi giữa thiên thanh bạch nhật cũng rất dễ bị lạc đường, nói chi “thành đom đóm” lại chỉ hiện hình vào giữa đêm khuya, không những vậy chỉ cần người sống tiến đến gần, nó lập tức di chuyển sang chỗ khác, vì thế muốn truy tìm tông tích của nó đâu phải chuyện dễ dàng. Nếu ai mù quáng đi đào bới lung tung giữa khu nghĩa địa thì chẳng khác nào mò kim đáy bể.

Trên đời này vạn việc thành bại đều nằm ở chữ duyên, duyên chính là cơ hội, vì thế còn gọi là “cơ duyên”. Cơ duyên cái thứ này chỉ có thể gặp chứ không thể cầu. Triệu Lão Biệt tìm kiếm khắp nơi trong nhiều năm ròng, vắt kiệt tâm trí, cuối cùng cũng tìm thấy viên “Ngọc Định Phong” trong chiếc án mục ở Hắc ốc. Có thể nói lão ta đã chuẩn bị vạn sự đều đầy đủ, chỉ còn thiếu gió Đông. Bây giờ, điều lão đang chờ đợi chính là thời cơ tiếp cận “thành đom đóm”.

Triệu Lão Biệt dự đoán vật mà mình đang muốn tìm hẳn là một vật khá lớn, muốn vận chuyển nó từ mộ huyệt dưới lòng đất về thành phố chắc không phải điều dễ. Bởi vậy lão liền tìm cách lôi kéo hội ba người Tư Mã Khôi đến giúp sức, đồng thời còn hứa thưởng lớn cho bọn họ. Nhưng chiếu theo lệ cũ, trước khi sự việc thành công thì tuyệt đối không cho những người đi theo giúp đỡ được biết những chi tiết cụ thể.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải vốn dĩ chỉ định đi theo để tìm hiểu rõ ngọn ngành, giờ tự dưng lại nhìn thấy cái lợi trước mắt, đương nhiên đều nhận lời cả. Hạ Cần biết rõ cái cậu Tư Mã Khôi này một khi đã quyết định phải làm việc gì thì cho dù Lão Tử Thiên Vương thò ra ngăn cản cũng không thể ngăn nổi. Việc đã đến nước chỉ có tiến mà không có lùi, nên cô nàng đành đồng ý đi theo giúp sức.

Triệu Lão Biệt vẫn có đôi chút chưa yên tâm, liền nhỏ giọng nói với Tư Mã Khôi: “Chúng ta cứ mất lòng trước được lòng sau mà đánh bài ngửa với nhau thì hơn, sau khi sự việc thành công, chỉ cần những thứ Triệu Lão Biệt mỗ đây có, cái gì cũng đều có thể cho các cậu, nhưng chỉ duy vật mà đêm nay mỗ tìm thấy thì không thể được”.

Tư Mã Khôi giọng bất cần nói: “Lão phải nhìn xem Tư Mã Khôi này là ai chứ hả, chí ít tôi cũng là kẻ xuất thân từ lục lâm. Ngày trước trong gia phủ nhà tôi, có loại ngọc quý, bảo vật nào mà không có hả? Ngay đến sợi dây thừng buộc lừa ở chuồng gia súc phía sau vườn cũng là sợi dây thừng gai mà Dương Quý Phi dùng để treo cổ tự vẫn ở dốc Mã Ngôi, giấy dán tường đều là bản đồ địa lý càn khôn của Bắc Tống. Lão tưởng tôi thèm cái của lão đào được ở nơi núi hoang rừng thẳm này hay sao?”

Triệu Lão Biệt không chỉ đồng tử nhỏ mà tâm địa càng nhỏ hẹp hơn, lão ta lại thường lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, từ bụng ta mà suy ra bụng người, nghe xong mấy lời của Tư Mã Khôi vẫn chưa dám tin, liền gặng hỏi lại: “Lời này có thật không vậy?”

Tư Mã Khôi chửi thầm trong bụng: “Ông mày là hạng người nào mà lời nói ra còn không đáng tin hử?”, nghĩ vậy liền cất lời thề độc: “Triều đình có vương pháp, giang hồ có luật lệ, kẻ vô lại làm chuyện trái với lương tâm, khó tìm chốn dung thân trong thiên hạ. Có mười tám vị la hán sư tổ ở trên trời chứng giám, nếu như tôi nói nửa lời gian dối, sẽ chết không có chỗ chôn thây”.

Triệu Lão Biệt nghe xong liền gật đầu: “Lời thề như thế là đủ trọng lượng rồi, xem ra Tư Mã đầu lĩnh quả nhiên không phải là người chỉ biết nói xuông. Bây giờ thời gian không còn sớm nữa, chúng ta phải mau chóng bắt tay hành sự mới kịp”. Nói xong lão liền dẫn ba người Tư Mã khôi mai phục trong lùm cỏ, khẽ khàng theo sát “thành đom đóm” đang không ngừng di chuyển giữa cánh đồng cỏ hoang.

Lúc bấy giờ bầu trời tối đen như mực, bốn bề chỉ thấy rất nhiều con đom đóm lẻ đàn từ nơi nào sâu trong lùm cỏ chập chờn bay ra, không ngừng gia nhập vào “thành đom đóm”, bức tường lửa được kết tụ bởi ánh sáng của ngàn vạn con đom đóm tỏa ra từng quầng sương sáng xanh nhấp nháy, trông rực rỡ như chốn thiên đình.

Vì khoảng cách rất gần, nên giờ đây trong mắt họ điều duy nhất có thể nhìn thấy là hàng đàn hàng đàn đom đóm chen chúc nhấp nháy tỏa sáng, chúng quyện vào nhau tạo thành từng vòng sương ánh sáng, bay lượn bất định. Ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Hạ Cần nhìn những con đom đóm thoắt nhiên tiêu tan như ảo mộng, thật khiến người ta hoa hết cả mắt mũi, cứ ngỡ mình đang lạc vào cõi mơ, cảm thấy giờ đây mắt không còn đủ dùng nữa.

Triệu Lão Biệt quan sát tỉ mỉ một hồi lâu, cuối cùng cũng nhận ra dòng chảy đom đóm phần lớn đều túa ra từ phía sau một ngôi mộ hoang. Nơi có thể khiến cỏ khô hóa thành sâu bọ chắc chắn phải là vùng đất âm khí vô cùng nặng nề, tối tăm mục rữa, xem ra dưới lòng đất chỗ đó phải có chút gì cổ quái. Nghĩ vậy, lão liền dẫn ba người dò dẫm đi về phía trước.

Giữa lùm cỏ là một hố sâu trũng hơn những vùng khác một chút, nhìn địa thế của nó rất giống với hình dạng đáy nồi, bên trong mọc đầy cỏ dại. Nhổ mấy đám cỏ cao hơn đầu người lên, bọn họ liền nhìn thấy một đường nứt bị cỏ che lấp ở phía dưới. Khe nứt đó hẹp và dài, độ sâu phải đến hàng mét, chỗ rộng nhất một người có thể chui lọt. Trên hai mép vách đất âm u lạnh lẽo, rễ cỏ bám chắc kết bánh lại với nhau, bên trong um tùm rậm rạp, giữa đám cỏ hoang ấy là la liệt những con nhộng đom đóm chưa kịp thành hình, ở nơi sâu nhất, từng luồng gió lạnh thổi vù vù, phía dưới đen ngòm ngòm không thể nhìn thấy đáy. 

“Nghĩa địa La Sư có kết cấu địa chất lỏng lẻo, lại thêm thời tiết nắng nóng, ít mưa nên ở đây xuất hiện khá nhiều khe nứt kéo dài, độ nông sâu không giống nhau, thêm vào đó là sự hoành hành của vô số chuột đồng và chồn hoang, chúng tạo ra không biết bao nhiêu hang hố dưới lòng đất, những hang hố này không kiên cố, bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ sụt lở cùng với sự chuyển động của đất đá. Bởi thế chẳng ai muốn bước chân vào nơi này trừ phi cảm thấy chán sống.

Bọn họ thả dây thừng dài mười mấy mét xuống bên dưới chiếc hố, nhờ vào ánh sáng chập chờn mờ tỏ của ngọn đèn, mọi người có thể thấp thoáng nhìn thấy một viên đá đen ở trong khe đất. Bề mặt của nó lồi lõm không bằng phẳng, lỗ chỗ nhiều hố to nhỏ khác nhau, chất liệu mịn bóng như ngọc. Viên đá đó trông to như cái đấu đong gạo, ước chừng nặng khoảng mười mấy cân, phát ra ánh sáng lạnh lẽo yêu dị dưới ánh đèn.

Triệu Lão Biệt nằm rạp ra đất, quăng một sợi dây thừng dài xuống bên dưới, rồi thò cả người ra mép hố để nhìn cho rõ. Vừa nhìn thấy vật ấy, lão ta liền kích động đến nỗi hai tay run lẩy bẩy, miệng lầm bầm không ngớt: “Ông trời có mắt”.

Ngược lại với thái độ mừng rỡ tột độ của Triệu Lão Biệt, hội Tư Mã Khôi dường như bị rơi vào màn sương mù, trước đây bọn họ vẫn cho rằng bảo vật mà lão ta muốn tìm kiếm ắt phải là thứ gì đó vô cùng kinh thiên động địa, ai ngờ nó chỉ là một viên đá đen không hề bắt mắt một chút nào.

Sau khi định vị chính xác vị trí của viên đá, Triệu Lão Biệt liền kéo chiếc đèn kéo quân lên, cởi sợi dây thừng ra rồi buộc vào ngang thắt lưng mình. Lão ta muốn tự xuống dưới đó lấy báu vật, đồng thời bảo với hội ba người Tư Mã Khôi đứng ở bên trên để thả dây.

Hạ Cần thấy vô cùng hiếu kỳ, cô nàng không nhịn nổi đành quay sang hỏi: “Xin hỏi Triệu lão sư phụ, vật đó có phải quặng đá không vậy?”

Triệu Lão Biệt không thể che giấu được sự đắc ý đang dâng trào trong lòng, liền cười hì hì đáp lời: “Cái gì? Quặng đá? Ha ha! Cái con nhóc miệng còn hôi mùi sữa nhà cậu đúng là cóc hiểu biết gì cả, chẳng lẽ Triệu Lão Biệt mỗ đây trông giống một tên đi khai thác quặng đá lắm sao?”

La Đại Hải ăn không tiêu mấy lời này của lão ta, liền vênh mặt lên hất hàm nói: “Đừng có giở trò úp úp mở mở với bọn này, niệm tình chúng ta từng quen biết nhau, nên tôi có lời cảnh cáo, lão tuyệt đối không nên đánh giá sai lầm về tình thế mà lão đang phải đối mặt, nếu bây giờ không lập tức giải thích rõ ràng mọi chuyện cho bọn tôi nghe, lão có tin đợi sau khi lão bò xuống tới nơi, bọn tôi ở trên này sẽ xúc đất chôn sống lão không hử?”

Triệu Lão Biệt nghe xong trong lòng thất kinh, lão tuyệt đối tin rằng loại người như Hải ngọng nói được là làm được, vì thế đành mềm giọng xuống nước: “Các thiếu gia xin chớ làm thế, cứ cho là khi nãy mỗ phỏng đoán sai lầm tình thế trước mắt đi, như thế là được chứ gì? Các cậu tuyệt đối đừng giở chiêu đó ra với mỗ đấy!”.

La Đại Hải không kiên nhẫn thêm được nữa, liền đốp lại: “Cái gì mà coi như? Tiên sư nhà lão, khi nãy chính xác là lão phỏng đoán sai con mẹ nó rồi. Mau nói cho bọn tôi biết rốt cục viên đá đó là thứ gì?”

Triệu Lão Biệt bí thế đành phải tạm thời giải thích ngọn ngành, tẩu thuốc vẫn không rời miệng, lão lại ngồi xổm xuống đúc đầy sợi thuốc vào trong tẩu, vừa phì phèo hút vừa hỏi mấy người hội La Đại Hải: “Các cậu có biết thứ này xuất xứ từ đâu không?”

La Đại Hải và Hạ Cần nào có biết nó từ đâu đến, nên khi bị hỏi lập tức cứng miệng không tiếp lời nổi. La Đại Hải giận quá hóa khùng, liền mắng luôn: “Đừng nhiều lời, biết rồi thì còn hỏi lão làm cái chết tiệt gì?”. Chỉ có Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt coi viên đá đen không hề bắt mắt ấy là vật báu, trong bụng suy đoán vật này tuyệt đối không phải loại tầm thường. Suy nghĩ thêm một chút, cậu trả lời: “Đây là khu nghĩa địa bỏ hoang chẳng hề có bóng dáng con người, nếu không phải do tự nhiên sinh ra thì chắc hẳn là do người cổ xưa chôn nó ở đó, nhưng không hiểu rốt cục lai lịch cụ thể của nó như thế nào”.

Phàm là những người có bản lĩnh thực sự đều không muốn đem sự tình nói ra tuốt tuột, bởi như vậy sẽ thể hiện bản thân là kẻ nông cạn. Triệu Lão Biệt cũng mắc phải tật đó, lão ta đắc ý cười hì hì: “Vật này vô cùng quý hiếm, ngay cả Từ Hy thái hậu đương thời cũng chỉ có một mẩu to bằng cái móng tay thôi. Cậu muốn hỏi lai lịch của nó ấy à?”, Triệu Lão Biệt nói đến đây thì cố tình ra vẻ thần bí đưa tay chỉ lên trời: “Nó từ trên trời rơi xuống đấy!”

Tư Mã Khôi ngơ ngác chưa hiểu ý lão định ám chỉ điều gì, liền ngửa mặt lên nhìn bầu trời đêm, đột nhiên cậu bừng tỉnh ngộ, quay sang hỏi: “Lẽ nào, đây là … Lôi Công Mặc (người Trung Hoa cổ đại gọi vẫn thạch pha lê là Lôi Công Mặc)

Triệu Lão Biệt gật đầu công nhận: “Vật này có rất nhiều tên gọi khác biệt căn cứ theo từng khu vực và niên đại, giới quan lại và dân thường cũng gọi nó bằng những tên không giống nhau, có nơi còn gọi nó là đá Lôi Công hoặc Tịch Lịch Kham. Thực ra cái gọi là Lôi Công Mặc hay đá Lôi Công nói toẹt ra chẳng qua là một cục thiên thạch từ trên trời rơi xuống. Theo các ghi chép trong sử sách, năm đó có một viên đá Lôi Công trên mình còn mang theo lửa trời rơi xuống thành Hàm Dương, thiêu cháy toàn bộ đám đông vây xung quanh thành tro bụi, chất liệu của đá Lôi Công được so sánh với ngọc đen, nó đã được luyện qua sức nóng không thể tưởng tượng nổi, lại từ trên trời rơi xuống, cho nên được người xưa coi là báu vật, thậm chí còn tôn nó thành bí mật của trời đất”.

Triệu Lão Biệt lại nói: “Đâu chỉ có vậy, tương truyền từ rất xa xưa, đá có thể trấn tà, Lôi Công Mặc vô cùng thích hợp để dùng làm “trạch tiên”. Những hộ giàu có bậc nhất ở Sơn Tây, Sơn Đông ngoài vườn đều có từ đường hoặc miếu thờ, bên trong đó người ta thường đặt than Lôi Công, để bảo vệ cả gia đình được bình an, vinh hoa phú quý, không cầu mà được, thu nạp hết vàng bạc của cải trong thiên hạ, mà không cần phải lao động vất vả nữa”.

“Nghĩa địa La Sư” là một long mạch trong quần thể long mạch “Chín rồng hội tụ”, mỗ e rằng viên Lôi Công Mặc này chính là viên ngọc được ngậm trong miệng rồng. Tuy rằng thiên thạch không phải vật hiếm có trên thế gian nhưng đa số chúng đều mang thuộc tính của đá hoặc sắt, chỉ có những viên có chất liệu giống như ngọc đen mới được gọi là “Lôi Công Mặc”, than đá là vật có âm khí rất nặng, nó có khả năng hủ hóa cỏ mục, thu hút dòng chảy đom đóm trong núi tụ tập lại với nhau xây thành dựng quách. Có thể nói không ngoa rằng, nó chính là một bảo vật hiếm có trên đời.

Nhưng theo ghi chép trong sách cổ, nếu muốn thờ phụng “Lôi Công Mặc” làm trạch tiên thì cũng không thể làm tùy tiện được, bởi nếu lỡ có chút sai sót, nó sẽ đem lại tai ương cho gia chủ. Vì thạch tính của Lôi Công Mặc âm khí quá nặng, người sống khó lòng đến gần, chỉ khi nào tìm được viên ngọc được tiết ra từ cơ thể con rết già, sau đó mang viên ngọc đó nhét vào bên trong Lôi Công Mặc để dưỡng khí. Thời gian lâu dần, trên bề mặt của than đá sẽ từ từ sản sinh ra một tầng biểu bì, đến lúc đó âm khí tối tăm của viên Lôi Công Mặc mới hoàn toàn tiêu tán.

Không chỉ có vậy, gia chủ ngày nào cũng phải giết mổ gà đen, chó trắng, rồi mang tiết gà, tiết chó còn tươi nguyên tưới lên phần biểu bì của viên Lôi Công Mặc, chỉ khi thờ cúng được như vậy mới có thể giữ được trạch tiên. Từ đó trở về sau nhà Lão Triệu ta sẽ phú quý vô biên, vinh hoa vô hạn, phát tài không ngớt, hưởng hết mọi phúc đức trên đời. Nhưng nếu chỉ cần một ngày ngơi nghỉ hương hỏa cho trạch tiên, tất cả mọi đen đủi rủi ro sẽ lập tức giáng xuống đầu, không chỉ khiến gia chủ khuynh gia bại sản mà còn phải gánh chịu vô số tai họa, có muốn tránh cũng không thể tránh được.

La Đại Hải nghe xong cảm thấy không thể tin được, liền nói xen vào: “Nếu thật như vậy chẳng phải ngày nào đêm nào cũng nơm nớp lo sợ hay sao? Xem ra kẻ vô sản triệt để như bọn ta lại hóa ra thoải mái hơn cả, giai cấp vô sản chúng mình sẵn sàng đạp cả táo quân vương gia dưới gót giày, chỉ cần nhấc chân một cái là cả nhà lên đường, cuộc đời này lấy tứ hải làm nhà, sống tiêu dao tự tại, chẳng cần lo nghĩ gì sất”.

Tư Mã Khôi cũng cảm thấy những lời của Triệu Lão Biệt vừa nói không phải sự thật, đi đâu tìm mới có thể tìm thấy gà đen chó trắng mỗi ngày? Lão già này đi đào quật “Lôi Công Mặc” chắc chắn phải có ý đồ gì khác, nhưng trong lòng cậu cũng biết rõ cho dù có hỏi gặng nữa thì lão ta cũng không nhổ ra chân tướng sự việc, vì thế cậu đành giữ im lặng.

Lúc này Triệu Lão Biệt đã hút gần hết điếu thuốc, những lời cần nói thì đã nói cả rồi nên bây giờ lão liền đứng dậy chui vào trong khe nứt, ba người còn lại hợp sức kéo dây thừng, cẩn thận từng chút một thả lão xuống bên cạnh viên “Lôi Công Mặc”.

Triệu Lão Biệt dùng tay nhổ mấy bụi cỏ, giẫm chân lên lớp đất, phủi hết kén nhộng đom đóm sang một bên. Căn cứ vào tàn tích để lại gần đó, thì có thể nhận ra nơi này trước tiên bị thiên thạch từ không trung rơi xuống, sau đó địa tầng mới nứt rạn. Giờ đây viên Lôi Công Mặc đen nhánh một cách dị thường lại treo mình chơi vơi ở giữa khe nứt, cách hai mép vách một khoảng tương đối gần, chắc chỉ rộng như nắm đấm là cùng, dường như chỉ cần khẽ lay động, nó sẽ thuận chiều lăn xuống vực sâu phía dưới.

Triệu Lão Biệt không muốn “miếng ăn đến miệng còn để rơi”, nên lão vô cùng cẩn trọng. Lão ta bảo Tư Mã Khôi thả sợi dây thừng thứ hai xuống, đoạn nhẹ nhàng buộc vào viên Lôi Công Mặc, xem chừng vòng buộc đã chắc chắn, lão ta mới giơ đèn kéo quân lên huơ huơ vài vòng giữa không trung.

Ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Hạ Cần nhìn thấy tín hiệu, lập tức gắng hết sức kéo sợi dây thừng lên. Không ngờ cùng với sự tác động của ngoại lực, một ngọn lửa ma quỷ màu xanh lam nhạt đột nhiên phun ra từ trong đêm tối, phút chốc cả khe nứt vụt sáng bừng. Triệu Lão Biệt không kịp tránh sáng bên cạnh, liền bị ngọn lửa bén mồi. Lão ta đau đớn kêu lên thảm thiết, hai chân đạp bừa vào vách đất. Chỉ trong chớp mắt, ngọn lửa u hồn đó liếm đứt hai sợi dây thừng, Triệu Lão Biệt và viên Lôi Công Mặc cùng lúc rơi vèo xuống phía dưới, đất đá bùn cát bị sụt lở, rào rào rơi theo, chôn sống lão ta dưới lòng đất.

Hồi 6: Bọ cạp đảo đầu bò tường

Gần mộ huyệt khu nghĩa địa ở ngoại thành chôn giấu rất nhiều “lò lửa”, những lò lửa đó đều do xác chết mục rữa phân hủy, trộn lẫn với bùn Hydrocacbua dưới lòng đất, từ đó hình thành một loại khí đốt đặc biệt. Hỗn hợp chất này bị vùi lấp nhiều năm trong động huyệt, một khi bất ngờ được giải phóng và tiếp xúc với không khí bên ngoài, nó sẽ sinh ra hiện tượng đốt cháy cực mạnh.

Lần này coi như Triệu Lão Biệt gặp vận rủi, viên Lôi Công Mặc mà lão ta muốn có lại vừa vặn nằm ngay giữa lò lửa tràn ngập khí hydrocacbua, lão nhờ mọi người buộc sợi dây thừng vào viên đá để kéo lên, vô tình đã khiến vách đất hai bên mép khe bị sụt lở, hàng chuỗi cầu lửa từ trong kẽ phun lên nghe “phừng phừng”, quả cầu lửa thiêu đốt toàn thân khiến Triệu Lão Biệt giãy dụa quằn quại đầy đau đớn, thảm thiết gào thét cha mẹ, sợi dây thừng buộc quanh người lão ta cũng bị đứt thành từng đoạn, cả người và viên đá cùng rơi tõm xuống kẽ đất sâu hun hút.

Hội ba người Tư Mã Khôi nhìn thấy sự việc diễn ra ngoài dự liệu liền vội vàng trườn người xuống xem tình hình bên dưới, chỉ thấy đất đá cát sỏi từ hai bên vách đất rào rào lăn xuống, chiếc đèn kéo quân cũng bị rơi tắt cả lửa, dưới đáy hố tối như hũ nút, không thể nhìn thấy bất kỳ thứ gì ở bên trong.

May mà ở gần chỗ viên Lôi Công Mặc là sào huyệt sinh sôi nảy nở của vô vàn kén nhộng đom đóm, hàng ngàn vạn con đom đóm bị giật mình, bay túa ra từ gốc cỏ, điên loạn đâm lung tung khắp nơi, ánh sáng đom đóm chập chờn di chuyển khắp khe nứt trong lòng đất. Nhờ vào màn sương ánh sáng nhàn nhạt âm u, hội Tư Mã Khôi có thể nhìn thấy lờ mờ cảnh tượng phía dưới. Sau khi Triệu Lão Biệt bị rơi xuống khe, lão ta nằm ở chỗ cách mặt đất khoảng ba mươi mấy mét, bị một đụn nham thạch thò ra chắn lấy, đầu lão ta cắm xuống, chẳng rõ sống chết thế nào.

Tư Mã Khôi ở bên trên ra sức hét gọi Triệu Lão Biệt mấy câu, không nghe thấy tiếng trả lời, trong lòng cậu bắt đầu cảm thấy lo lắng, bèn định mạo hiểm lao xuống cứu người.

Hải ngọng thấy vậy vội cuống quýt can ngăn: “Thằng điên này! khe đất kia là cái bình đất rỗng ruột đấy, bất cứ lúc nào cũng có thể bị sụt lở, cậu giờ mà xuống chắc chắn sẽ bị nó chôn sống dưới đó. Lưng dắt mỗi cái cào gẫy mà dám liều mạng vào rừng săn cọp. Tớ nói cho cậu tỉnh ngộ, lúc này không phải lúc giở thói anh hùng ra đâu nhé!”.

Hạ Cần cũng bấn loạn hết cả lên, nhưng cô nàng còn thiếu chủ kiến hơn cả Hải ngọng, chỉ biết hỏi rối rít: “Bây giờ phải làm sao? Hay là chúng ta mau quay về tìm người đến giúp….”

Tuy rằng Tư Mã Khôi cũng biết việc này vô cùng nguy hiểm, nhưng trực giác mách bảo cho cậu, Triệu Lão Biệt là một nhân vật kỳ tài hiếm có với bản lĩnh rất đỗi phi phàm, nếu lão ta phải bỏ mạng một cách lãng nhách và bất minh như vậy trong nghĩa địa La Sư này thì quả là đáng tiếc, cậu không thể thấy chết mà vô tình nhắm mắt, phẩy tay làm ngơ được. Trước mắt việc cứu người là quan trọng, Tư Mã Khôi không thể nghĩ ngợi thêm nữa, chỉ rờ rờ vào dây lưng cài vũ khí buộc chặt ở ngang hông, đầu thoắt nghĩ một thoáng bèn nảy ra một kế sách. Cậu lập tức bảo La Đại Hải và Hạ Cần đưa dây lưng của hai người cho mình rồi để họ ở bên trên tiếp ứng, sau đó liền phi thân bò xuống khe nứt phía dưới.

La Đại Hải và Hạ Cần vốn định tiếp tục khuyên ngăn nhưng nhìn thấy tư thế bò xuống hố của Tư Mã Khôi, cả hai đều tròn mắt cứng miệng kinh ngạc. Nếu là người bình thường, bất luận là bò lên hay bò xuống, đương nhiên đều phải “đầu hướng lên trên, lòng bàn chân hướng xuống dưới”, nhưng Tư Mã Khôi lại làm trái ngược hoàn toàn, chỉ thấy cậu ta “Đỉnh đầu chúc xuống dưới, hai gối co lại, ngón chân bám chặt vào mép đá, hai cánh tay dang rộng đan chéo nhau nâng đỡ trọng tâm, trông chẳng khác nào một con thạch thùng bám chặt vào bờ tường chúc đầu thong dong bò xuống”, hai người bọn họ chưa từng nhìn thấy loại thủ pháp quái dị như thế này trước đây, cho nên giờ cứ ngây người ra, tim dường như trồi lên, đập phập phồng ngay trên cổ họng.

Thì ra món bản lĩnh leo vách vượt tường này của Tư Mã Khôi vốn là một tuyệt kỹ lục lâm được tổ tiên truyền lại, có tên “Bọ cạp đảo đầu bò tường”, hay còn gọi “cởi giầy ngược”. Nghe nói, món “Bọ cạp bò tường” này vốn là một môn trong nghệ thuật xiếc dân gian, quê hương nổi tiếng nhất của bộ môn xiếc ở Trung Quốc phải kể đến huyện Ngô Kiều thuộc tỉnh Hà Bắc, nơi này từ ông cụ đã 99 tuổi đến đứa trẻ mới chập chững biết đi, bất luận già trẻ gái trai người nào người nấy đều có vài món bí kíp nhà nghề dắt lưng, phòng khi gặp phải những năm tình cảnh làm ăn khốn khó, họ liền tụ hợp nhau lại thành từng nhóm đi nơi khác mãi nghệ mua vui cho người để kiếm chút tiền mưu sinh. Đây là truyền thống của người bản địa đời con nối đời cha từ thời thủa xa xưa, chẳng ai nói được chính xác phong tục này bắt đầu hình thành từ triều đại nào. Cách đây không lâu, ở gần khu vực Ngô Kiều, người ta mới khai quật được một ngôi mộ cổ có từ thời Ngụy Tấn, trên vách tường mộ thấy khắc một bức bích họa, trong đó mô tả các động tác biểu diễn xiếc thời cổ đại như “rốn đội bát, bọ cạp bò tường, lửa sao băng”, điều đó chứng tỏ những tuyệt kỹ kiểu này đã có từ xa xưa với lịch sử rất lâu đời.

Tuy nhiên trong các động tác tạp kỹ có từ mấy trăm năm trước, môn công phu “bọ cạp đảo đầu bò tường” đã sớm bị thất truyền, có điều nó vẫn được tiếp tục kế thừa và giữ gìn trong hàng ngũ quân nhân trong quân đội ngày xưa, những kẻ nắm giữ được bí kíp này phần lớn đều là những đạo tặc lục lâm được triều đình chiêu an, khi bọn họ lẻn trộm vào doanh trại hoặc ra vào thành đều dùng chiêu thức đầu chúc ngược xuống, hai chân ôm lấy góc tường thành, nhanh chóng bò lên trên với tốc độ như gió cuốn. Những người nhìn thấy cảnh tượng này không ai không kinh ngạc, liền đặt tên cho tư thế đó là “bọ cạp đảo đầu bò tường”.

Kỳ thực, kỹ thuật chúc đầu leo tường trong tuyệt kỹ “bọ cạp đảo đầu bò tường” rất thích hợp với lý thuyết về thể lực con người, chỉ có điều ít ai có đủ can đảm thử nghiệm chúng, thậm chí những người có đầu óc bình thường ngay cả nghĩ cũng không thể nghĩ ra tư thế quái dị đó. Tổ tiên mấy đời trước nhà Tư Mã Khôi từng làm quân quan trong quân đội thời mạt Thanh, lại là nhân vật kiệt xuất trong giới lục lâm, thực sự là người có bản lĩnh “thượng thông thiên đường, hạ triệt địa phủ” nên mới đủ khả năng khiến bí thuật này đến tận bây giờ vẫn còn truyền nhân. Từ nhỏ, Tư Mã Khôi đã theo học Văn Võ tiên sinh và luyện thành một thân tuyệt kỹ. Có điều hỏa hầu chưa đủ đượm nên từ trước đến nay, cậu không dám thi triển nó trước mặt người khác.

Lúc này Tư Mã Khôi hít một hơi dài rồi bám chặt lấy mép vách nhanh chóng di chuyển xuống phía dưới, chẳng mấy chốc đã bò xuống cạnh thi thể Triệu Lão Biệt, nhờ vào ánh sáng lờ mờ phát ra từ từng đàn đom đóm bay lượn gần đó, cậu phát hiện mũi và miệng lão ta đều đang chảy máu, nằm vật ra bất tỉnh nhân sự. Tuy rằng chiếc áo da thú dày dạn khoác trên người coi như đã cứu lão một mạng khỏi bàn tay tử thần nhưng những vết bỏng loang rộng khắp cơ thể vô cùng nghiêm trọng, thò tay ra sờ thử, cậu phát hiện trên mũi lão phập phồng hơi thở yếu ớt, nếu kịp thời cõng trở lên, nói không chừng vẫn còn cơ hội cứu sống.

Tư Mã Khôi lập tức quay ngược lại, dùng thắt lưng da buộc vào ngang hông Triệu Lão Biệt, sợi còn lại đem nối với chiếc thắt lưng da mà mình đang đeo trên người, rồi buộc lão trên lưng. May mà cơ thể Triệu Lão Biệt mỏng dẹt như thanh củi khô, hom hem toàn da bọc xương, thêm vào đó sợi thắt lưng vũ trang dùng cho quân nhân khá chắc chắn nên cậu có thể miễn cưỡng lôi lão lên. Tư Mã Khôi nheo mắt ngắm nhìn lớp đất dưới đáy khe, nó trông có vẻ rất yếu ớt, chẳng biết sẽ sụt xuống lúc nào, cậu không dám chần chừ nán lại đây lâu thêm nữa. Trong lúc Tư Mã Khôi đang định bò ngược trở lên theo đường cũ, đột nhiên nghe thấy Triệu Lão Biệt rên rỉ một tiếng trong cổ họng, thì ra lão ta đã thoát khỏi hôn mê và tỉnh lại. Lão dùng chút sức lực yếu ớt gắng sức giơ tay lên chỉ xuống chỗ sâu hút ở phía dưới khe nứt.

Tư Mã Khôi cúi đầu xuống thấp, thuận theo chiều tay lão ta chỉ. Cậu nhìn thấy trong tầng tầng lớp lớp ổ đom đóm giữa khe nứt, màn ánh sáng xanh mờ mờ bao trùm lên viên Lôi Công Mặc đen bóng như ngọc. Viên vẫn thạch pha lê vừa vặn rơi cách đó chừng nửa mét về phía dưới, khoảng cách không xa lắm, gần như chỉ cần dang tay ra là có thể chạm tới.

Dường như Triệu Lão Biệt có ý muốn Tư Mã Khôi mang viên Lôi Công Mặc theo cùng, bởi vì khe đất sâu cả mấy trăm mét, lớp vỏ bên ngoài và tầng nham thạch lại có thể sập xuống bất cứ lúc nào, nó sẵn sàng chôn vùi mọi thứ dưới đáy khe rồi nêm lại chặt cứng. Tuy toàn thân Triệu Lão Biệt đang bị thương nặng nhưng tà niệm tham sân si trong đầu óc lão ta còn nặng nề hơn nhiều, lão không đành lòng vứt bỏ miếng ngọc Lôi Công Mặc ngàn năm khó gặp này dưới đáy vực sâu nên đến giờ vẫn còn vọng tưởng chiếm lấy nó làm của riêng.

Tư Mã Khôi cõng Triệu Lão Biệt trên lưng, leo lên được vách đá đã thấy rất vất vả, hơn nữa nếu trọng lực quá lớn thì lớp đất đá phía bên trong địa tầng sẽ bị lở ra và rơi xuống càng mạnh mẽ hơn. Cậu nhìn thấy tình hình không hay, trong lòng thầm định lượng sự sống mới là điều quan trọng, làm gì còn tâm trạng nào mà để ý đến viên Lôi Công Mặc. Nghĩ đoạn cậu liền hít một hơi thật sâu rồi thi triển tuyệt kỹ “bọ cạp bò tường” leo ngược lên mặt đất.

La Đại Hải và Hạ Cần đứng ở bên trên nhìn từng mảng từng mảng đất đá lớn đang không ngừng sụt xuống, lại thấy Tư Mã Khôi mấy lần suýt bị chôn sống dưới nấm mồ, bọn họ không tự chủ nổi cơ tim co thắt lên từng hồi. Cuối cùng khi thấy cậu ta lên được gần mặt đất, cả hai liền vội vàng chìa tay ra, gắng hết sức kéo bật cả Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt lên. Hai người họ vừa mới thoát thân ra khỏi miệng khe nứt thì nghe thấy một tiếng “ầm ầm” nổi lên, một lượng lớn đá sỏi bùn đất từ bên trên thi nhau rào rào chảy xuống, lấp kín mít miệng hố, viên Lôi Công Mặc và vô vàn con đom đóm đều bị chôn vùi tận sâu trong lòng đất, xem ra chúng khó có ngày trở lại chốn phàm trần.

Tư Mã Khôi lên được tới nơi thì mồ hôi đã chảy ướt đầm đìa lưng áo, cậu ngồi phịch xuống đất thở hổn hển. Khi nãy, trong lúc bốc đồng, máu yêng hùng nổi lên ngùn ngụt khiến cậu làm mà không hề suy tính nhưng giờ nghĩ lại cũng cảm thấy rợn hết cả chân tóc, chỉ cần chậm một bước thôi, có lẽ giờ này cậu đã chôn thây ở dưới lòng đất kia rồi.

La Đại Hải nhìn thấy Tư Mã Khôi bình an vô sự mới thở phào nhẹ nhõm, ngoảnh mặt sang bên cạnh nhìn thấy thương thế của Triệu Lão Biệt, cậu ta liền phẩy tay than dài: “Vừa bị bỏng lại vừa bị ngã thế kia, lão này chắc tiệt đường sống rồi, chỉ e bây giờ có đưa đến bệnh viện cũng không còn kịp. Nhân lúc còn sớm sủa, bọn ta hãy đào một cái hố chôn lão xuống cho xong, không khéo lôi thôi lại vướng vào án giết người thì bọn mình chẳng gánh vác nổi đâu”.

Tư Mã Khôi định thần lại, nói: “Khó khăn lắm mới cứu được lão ta từ dưới đáy mồ lên đây, ít ra cậu cũng phải nghĩ ra cách gì cứu sống lão, trước khi ký giấy khai tử chứ. Lão ta vẫn còn thoi thóp thở đấy, làm gì có chuyện nói chôn là chôn quách ngay được?”

La Đại Hải bất lực bảo: “Bọn mình chẳng phải bác sĩ, làm sao cứu lão được? Không tin cậu cứ thử nhìn xem, cái lão Triệu này bây giờ thở ra thì mạnh, hít vào thì yếu, nửa khuôn mặt đã bị thiêu rụi, toàn thân lùng nhùng một mớ nhầy nhụa, chẳng mấy chốc nữa là lão cất bước xuống hố nghe dế kêu cho mà xem”.

Tư Mã Khôi đột nhiên nhớ ra một việc: “Mẹ của Hạ Cần là bác sĩ trong bệnh viện quân khu, chắc chắn con nhỏ cũng được tôi luyện từ môi trường của gia đình, ít nhiều cũng phải hiểu đôi chút về y thuật chứ”. Thế là cậu vội vã bắt Hạ Cần nghĩ cách cấp cứu cho Triệu Lão Biệt, sau đó sẽ tìm biện pháp đưa đi bệnh viện.

Hạ Cần còn chưa đầy mười sáu tuổi, làm gì có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Tuy cô nàng cũng hiểu biết đôi chút về những kiến thức y học thường thức. Nhưng bây giờ nhìn thấy cả người Triệu Lão Biệt bê bết toàn là máu, gương mặt lại bị cháy mất một nửa, hai hàm răng chìa hết cả ra ngoài, trông bộ dạng vô cùng đáng sợ. Đầu óc cô nàng chỉ quay mòng mòng mỗi hai chữ “hoảng sợ”, thì làm gì còn nghĩ ra nổi cách nào mà cứu chữa. Hơn nữa, quả đúng mẹ cô nàng làm bác sĩ không sai, nhưng bà lại là bác sĩ khoa sản.

Tư Mã Khôi thực lòng không muốn nhìn thấy Triệu Lão Biệt cứ như vậy từ giã cõi đời nên dù chỉ còn một tia hi vọng, cũng đừng mong cậu bỏ qua. Cậu ngoan cố yêu cầu Hạ Cần: “Bác sĩ khoa sản thì cũng vẫn là bác sĩ chứ gì, cậu cóc cần phải nghĩ ngợi nhiều thế, chỉ cần chữa được ngựa chết thành ngựa sống là ổn. Nói chi ông lão Triệu đang nằm cong queo chờ chết đằng kia chắc cũng chẳng thèm quan tâm bệnh viện nhà cậu treo biển hiệu gì đâu”.

Hạ Cần không nỡ khước từ lời thỉnh cầu tha thiết của Tư Mã Khôi và La Đại Hải, nên đành bạo gan đến kiểm tra tình trạng vết thương của Triệu Lão Biệt. Ngoại trừ những vết bỏng vô cùng nghiêm trọng trên gương mặt lão ra thì xương sườn cũng bị gẫy mất mấy thanh, đâm rách cả nội tạng, gây nên tình trạng xuất huyết trong, miệng lão sủi lên toàn bòn bọt máu, hô hấp ngắt quãng từng hơi, thần trí lúc tỉnh lúc mơ. Khu vực nghĩa địa La Sư này lại nằm ở vùng ngoại ô hoang vắng, nên bọn họ căn bản khó có thể đưa lão đến bệnh viện được, mà cho dù có đưa tới nơi chăng nữa, cũng chắc chắn không thể cứu sống nổi.

Tuy Hạ Cần tất bật cứu chữa suốt một hồi nhưng cô nàng vừa không có kinh nghiệm lại không có y cụ, cuối cùng cũng đành bó tay bất lực. Hạ Cần lo lắng đến nỗi nước mắt bỗng dưng không ngừng tuôn rơi.

Đúng lúc này, cả hội chợt nghe thấy Triệu Lão Biệt ho lên mấy tiếng, dường như lão ta vừa tỉnh lại từ cơn hôn mê sâu. La Đại Hải lại tưởng rằng Hạ Cần có bản lĩnh cải tử hoàn sinh, liền không ngớt lời ngợi khen cô nàng y thuật cao siêu.

Nhưng Tư Mã Khôi lại nhìn thấy Triệu Lão Biệt lúc này hồi quang phản chiếu, tính mạng chắc chỉ còn tính từng khắc nữa thôi, trong lòng không kiềm chế nổi cảm giác u buồn ứ lên tận cổ, cậu nhỏ giọng ân cần hỏi: “Lão Triệu ơi! lão có còn anh em bạn bè thân thích nào nữa không? Có muốn nhờ bọn tôi nhắn nhủ điều gì đến họ không?”

Triệu Lão Biệt đưa cặp mắt đờ dại nhìn Tư Mã Khôi một thoáng rồi lắc đầu, ngắt quãng nói phều phào: “Triệu Lão Biệt mỗ… kiếp này sóng to gió lớn nào cũng từng trải qua, chẳng ngờ lại bị lật thuyền ở rãnh con sông nhỏ nơi nghĩa địa La Sư này, xem ra tất cả đều tại số mệnh cả, hừ…số mệnh tám thước, khó cầu một trượng, câu nói này quả chẳng sai chút nào. Nhưng điều càng khiến mỗ bất ngờ hơn là Tư Mã đầu lĩnh cậu đây mới một nhúm tuổi mà có thể thi triển được tuyệt kỹ “Bọ cạp đảo đầu bò tường”, cậu được cao nhân nào truyền dạy bản lĩnh này vậy?”

Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt có vẻ sẽ sắp đoạn khí đến nơi, trong lòng nghĩ chẳng cần phải giấu diếm lão ta thêm điềm gì nữa, liền tóm tắt cho lão nghe tất cả lai lịch xuất thân gia đình của mình.

Triệu Lão Biệt có đôi chút kinh ngạc nhưng lão cũng cảm thấy mệnh mình chẳng kéo dài được bao lâu, nên gắng gượng dùng chút sức tàn chăng chối lại: “Triệu Lão Biệt mỗ trên đời này tứ cố vô thân, niệm tình bằng hữu ít nhiều chúng ta từng có với nhau, các cậu hãy giúp mỗ đưa nắm xương già này vùi ở nghĩa địa La Sư, sống chẳng có phúc nhìn thấy Lôi Công Mặc thì sau khi chết mỗ sẽ hóa thành quỷ thủ bên cạnh nó cũng tốt vậy….”, lời nói đến đây, lão khẽ rùng mình mấy cái, tay chỉ xuống phía dưới lòng đất, rồi đầu môi mấp máy một câu: “Núi đá vàng sinh ra bò vàng, đại kiếp đến ta cưỡi mây ngàn…”

Tư Mã Khôi hướng mắt theo tay lão chỉ, thì ra đó chính là nơi viên Lôi Công Mặc vừa bị đất đá sụt vỡ chôn vùi ở bên dưới. Cậu lại nghe thấy mấy lời sau cùng của Triệu Lão Biệt có phần rất cổ quái liền vội vàng quay sang hỏi: “Lão vừa nói gì vậy?”.

Nhưng ánh mắt của Triệu Lão Biệt hốt nhiên trở nên thất thần, chẳng đợi nói dứt câu thì đã không thể thở ra nổi nữa, lão ta nằm chết ngay trước mặt Tư Mã Khôi.

Hội ba người Tư Mã Khôi tuy rằng chỉ quen biết Triệu Lão Biệt được ít lâu nhưng lại cùng trải qua cơn hoạn nạn, nay tận mắt nhìn thấy lão chết mà không được toàn thây, trong lòng ai nấy không tránh khỏi cảm giác đau buồn, bùi ngùi. Mọi người lặng lẽ ngồi thủ bên thi thể lão một hồi khá lâu, mãi cho đến khi thành đom đóm bay tứ tán khắp cánh đồng hoang rồi từ từ biến mất, cả hội mới đứng dậy dùng mấy phiến đá nhọn đào một chiếc hố nông, khiêng xác lão chôn xuống đó.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ trong lòng, viên Lôi Công Mặc đã bị vùi chôn ở nơi sâu nhất dưới đáy khe, từ nay về sau e rằng người đời chẳng bao giờ còn nhìn thấy kỳ quan “thành đom đóm” tái hiện giữa nhân gian thêm lần nữa, cậu lại tự nhủ mình đợi đến tết Thanh minh, nhất định sẽ quay về đây quét mộ cho Triệu Lão Biệt một chuyến.

Ba người cùng nhau cáo biệt trước nơi Triệu Lão Biệt chôn thân, rồi lững thững quay trở lại cầu La Sư, trên đường về trong lòng người nào cũng nặng đầy tâm sự, chẳng ai mở miệng nói với ai câu nào, đợi mãi khi đến chân cầu, La Đại Hải mới nhớ ra một chuyện, quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Câu Triệu Lão Biệt nói trước khi lâm chung có ý nghĩa gì nhỉ?”, Tư Mã Khôi lắc đầu trả lời: “Tớ chẳng nghe rõ, đại loại là mấy lời lung tung lúc hấp hối ấy mà”. Nói vậy nhưng trong lòng cậu vẫn đang suy nghĩ rất mông lung, chẳng ai có thể hỏi được đáp án từ miệng người đã chết, giờ đây thân thế lai lịch của Triệu Lão Biệt và cả bí mật ẩn giấu trong viên Lôi Công Mặc nữa, tất cả đều trở thành một chuỗi câu đố vĩnh viễn không có lời giải.

Trong lòng Tư Mã Khôi tâm sự trĩu nặng, ngẩng đầu lên, cậu mới phát hiện lúc này hừng đông đã lộ ra vầng trắng sáng như bụng cá, hồi tưởng lại toàn bộ sự việc xảy ra đêm hôm qua, quả giống như một cơn ác mộng, vươn vai một cái để co giãn gân cốt cho bớt đau người, cậu quay sang nói với Hạ Cần: “Cả đêm hôm qua cậu không về nhà, chắc bố cậu phải lên cơn điên mất, không khéo lúc này đã điều động cả thế giới đi săn tìm tông tích của cậu cũng nên, mau về nhà đi!”.

La Đại Hải cũng vội vàng dặn dò theo: “Đừng có kể với bố cậu chuyện của tôi và Tư Mã Khôi đấy, thanh danh hai đứa bọn tôi từ trước đến nay cực kỳ trong sạch”.

Hạ Cần lắc đầu nói: “Không sao đâu, tôi đã nói trước với bố sẽ ngủ qua đêm ở nhà dì rồi”.

Hải ngọng tủm tỉm cười: “Khôi ơi, cậu xem bạn Hạ Cần đối xử với anh em ta tốt chưa kìa, cậu ấy nghe thấy bố mình nói sắp tới đây quét sạch băng đảng xã hội cặn bã rác rưởi, liền đặc biệt nói dối cha mẹ đi qua đêm không về nhà, lại từ xa xôi mãi tít trong thành chạy vội về đây mật báo cho chúng ta nữa đấy”.

Hạ Cần lại lắc đầu, tỏ ý không phải vậy. Do dự một lát, cô nàng mới thổ lộ: “Thực ra lần này tớ đến tìm các cậu là có một việc rất quan trọng muốn nói, nhưng tớ sợ sau khi các cậu biết rồi sẽ lại gây ra tai họa, cho nên bây giờ vẫn chưa quyết định được rốt cục có nên nói hay không”.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải vừa nghe nói liền cùng nhau vội vã hỏi xem rốt cục cô nàng có chuyện gì hay ho muốn kể? Dù sao thì trong con mắt của quần chúng nhân dân bọn họ sinh ra vốn đã là một tai họa, bây giờ từ trong thành đến ngoài thành, chỗ nào có thể đập phá được thì đã đập phá cả rồi, còn tai họa gì có thể gây ra thêm nữa? Hai con người trẻ tuổi nghĩ vậy mà không hề biết rằng: “Nhân tình thế thái mênh mang tựa biển lớn, kiếp con người nào thiếu sóng gió phong ba”.

CHƯƠNG II: MÁY BAY TIÊM KÍCH

Hồi 1: Núi Dã Nhân

Sau khi nghe xong mấy lời của Hạ Cần, Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều cảm thấy vô cùng kỳ quái, lờ mờ nhận thấy sự việc này không phải chuyện tầm thường, nhưng bọn họ thực lòng không thể nghĩ ra một cô bé mới mười sáu tuổi như cô nàng thì có nổi tin tức gì đáng để hai người họ phải kinh ngạc cơ chứ. Thế là hai cậu liên tục hỏi đồn cho đến khi cô nàng chịu nói ra mới thôi.

Hạ Cần cẩn thận nhìn quanh bốn phía đều không có người mới ngập ngừng tiết lộ: “Anh họ tớ… từ vùng nông thôn… vừa mới trốn về nhà”. Tư Mã Khôi và La Đại Hải gần như không dám tin những lời cô bạn vừa thốt ra là sự thật, còn cho rằng tai mình có vấn đề nên nghe nhầm.

Thì ra anh họ của Hạ Cần tên là Hạ Thiết Đông, thân hình cao tới một mét tám mươi sáu, trên sống mũi luôn gắn một cặp kính cận nhưng nhìn anh không hề yếu ớt kiểu thư sinh trói gà không chặt mà ngược lại trông rất trí thức, uyên bác. Anh ấy thích đánh bóng rổ, khi cách mạng văn hóa bắt đầu, anh ấy đang học đại học ở Bắc Kinh, từng đọc rất nhiều tiểu thuyết phương tây, tư tưởng khá cấp tiến, tài ăn nói hùng biện rất xuất sắc, yêu thích tham gia mọi hoạt động thể thao và là một trong những thành viên cốt cán tham gia phong trào Hồng Vệ binh sớm nhất.

Vì Hạ Thiết Đông là người có tấm lòng hào phóng quảng đại, tính tình trung thực, trọng chữ tín, dám làm dám chịu, thêm vào đó văn võ song toàn, lúc nào cũng hừng hực sức sống, tầm hiểu biết lại rất rộng. Bất kể chuyện quốc gia đại sự hay tình hình thế giới, chẳng lĩnh vực nào anh ấy không thông tỏ. Hơn thế nữa, anh ấy lại rất coi trọng nghĩa khí, đọc làu làu các tác phẩm của Karl Marks, Lê nin, Mao Trạch Đông cùng các tác giả nổi tiếng trong và ngoài nước khác, ví dụ như thơ của Puskin, bất kể nói đến đoạn nào anh ấy đều có thể thuộc lòng như cháo chảy. Không chỉ vậy, anh ấy còn sở hữu khí chất đặc biệt của kẻ lãnh đạo được đám đông, bởi thế xung quanh luôn có rất nhiều anh em muốn đi theo.

Năm Tư Mã Khôi và La Đại Hải mười ba tuổi, hai cậu từng theo anh Thiết Đông lúc đó mới từ Hồ Nam trở về tham gia phong trào Hồng Vệ binh do sinh viên tổ chức, từng đi con đường trường chinh, lại lên núi Cảnh Cương. Trong suốt thời gian hơn nửa năm đó, họ đã được mở rộng tầm mắt, trưởng thành lên và trải nghiệm thêm rất nhiều điều, hai cậu thường nghe vị đại ca lớn tuổi này giảng giải không ít về “Chân lý cách mạng”. Khi đó, Hạ Thiết Đông nói với bọn họ: “Chỉ kẻ nào dám đương đầu với mạo hiểm và vất vả thì kẻ đó mới mong thành đại sự”. Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng của Hạ Thiết Đông đến nỗi bất kể những gì anh nói họ đều tin là điều tất nhiên. Tự đáy lòng, hai đứa trẻ sùng bái anh chẳng khác nào thần tượng.

Sau này, chủ tịch Chu Ân Lai ra chỉ thị mới, phong trào Hồng vệ binh cuối cùng cũng được hạ màn trên phạm vi toàn quốc, Hạ Thiết Đông trở về Bắc Kinh, còn Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại phiêu dạt nơi đầu đường xó chợ trên dải dất Trường Sa, hai bên kể từ đó đứt liên lạc với nhau. Chỉ nghe phong thanh Hạ Thiết Đông vì nguyên nhân nào đã đó đã cuốn vào một sự vụ chính trị rất nghiêm trọng. Tuy rằng chưa đến nỗi bị kết án nhưng tiền đồ sáng lạn của anh ấy coi như hoàn toàn tiêu tan thành mây khói. Năm ngoái anh bị đẩy xuống một vùng quê nghèo khó thuộc tỉnh Thiểm Bắc.

Nhưng hai ngày trước, Hạ Thiết Đông cùng hai thanh niên trí thức khác, một nam một nữ, tất cả ba người bọn họ chạy trốn về lại quê nhà. Anh không dám lộ mặt ra phố nên đành nhờ Hạ Cần giúp mình tìm lại những bạn bè bằng hữu khi xưa rồi triệu tập họ lại, nói rằng anh muốn gặp mặt mọi người, sau đó dự định sẽ vượt biên giới rời khỏi Trung Quốc, cả đời này không chừng chẳng còn cơ hội sống sót mà quay trở về cố hương.

Hạ Cần biết mối giao tình giữa Hạ Thiết Đông và hội Tư Mã Khôi rất tốt, vì thế cô nàng lo lắng với hạng người có tính cách vô thiên vô pháp như cậu không những chẳng thể khuyên nhủ anh Thiết Đông đi theo lẽ phải mà ngược lại còn đâm đầu đi theo anh ấy trốn ra nước ngoài cũng nên, bởi vậy cô nàng cứ mãi do dự không quyết, cuối cùng chẳng thể giấu được hơn mới đành thổ lộ ra mọi chuyện.

Tư Mã Khôi nghe xong câu chuyện liền nói với Hạ Cần: “Tiểu Hạ! cậu đa nghi quá đấy thôi, anh họ cậu là người như thế nào, bọn tớ rõ hơn ai hết, anh ấy tuyệt đối không thể nào trở thành kẻ hàng giặc phản quốc. Cậu cứ nghe tên của anh ấy là biết, Hạ Thiết Đông, Thiết là sắt đá, Đông có nghĩa Mao Trạch Đông, ý nói anh ấy một lòng sắt đá đi theo tư tưởng của Mao Trạch Đông, người như vậy làm sao có thể trốn ra nước ngoài đầu hàng kẻ địch? Cho dù bị cậu chặt đầu, bọn tớ cũng cóc tin”.

Hải ngọng cũng hoàn toàn tán thành quan điểm của Tư Mã Khôi: “Bản lĩnh của Lâm Xung lớn đến cỡ nào, thế mà muốn đến Lương Sơn Thủy Bạc làm anh hùng thảo khấu vẫn phải giết một mạng người cắt đầu về nạp cho Tống Giang làm khế ước sinh tử, chứ anh Thiết Đông bây giờ chẳng qua chỉ là một thanh niên trí thức lên rừng núi, xuống nông thôn, lại chẳng biết gì về chuyện cơ mật quốc gia, cho dù anh ấy có toan tính hàng giặc phản quốc thật đi chăng nữa, có lẽ người ta cũng chẳng buồn cho anh ấy chơi cùng”. Hai người nghĩ vậy liền lập tức quyết định, phải nhanh chóng đến chỗ anh Thiết Đông gặp mặt một chuyến.

Chạng vạng chiều ngày hôm đó, Tư Mã Khôi dẫn theo mấy đồng chí ngày trước cùng tham gia phong trào Hồng Vệ binh cùng với Hạ Thiết Đông vượt sông vào thành phố. Trong một ngôi nhà dân đơn sơ gần nghĩa trang liệt sĩ, bọn họ đã gặp lại anh cả Hạ Thiết Đông – người đã chia ly từ nhiều năm trước.

Hạ Thiết Đông đen hơn trước rất nhiều, người cũng gầy đi trông thấy, vẻ mặt ưu tư nhưng những ngày lao động nặng nhọc dưới ánh nắng chói chang của mùa hè ở vùng nông thôn Thiểm Bắc đã khiến cơ thể của anh trở nên vô cùng rắn rỏi. Nhìn thấy những vị tiểu huynh đệ ngày nào còn lẽo đẽo bám theo chân mình, giờ đã trưởng thành, trong lòng anh cảm thấy rất đỗi vui mừng. Hạ Thiết Đông giơ tay bắt chặt lấy tay của Tư Mã Khôi và La Đại Hải theo phương thức giao thiệp giữa người lớn với nhau. Niềm vui ngày gặp mặt khó lòng cưỡng chế khiến khóe mắt của cả ba người đều hoe hoe đỏ và nhòe nước. Họ nhìn nhau một hồi lâu mà chẳng thốt nên lời.

Tiếp sau đó rất nhiều thanh niên lũ lượt kéo nhau đến, khiến căn phòng vốn dĩ không rộng rãi cho lắm giờ chở nên chật cứng. Bọn họ đều là bạn học hoặc đồng chí tốt của anh Thiết Đông. Mọi người tụ hợp nhau lại chẳng khác nào giờ họp của đội sản xuất nhà máy, họ ngồi quây quần rôm rả hàn huyên đủ thứ chuyện. Tuổi đời của hội mấy người Tư Mã Khôi nhỏ hơn bạn bè của Hạ Thiết Đông một chút nên khi lọt thỏm giữa bọn họ, mấy cậu trông chẳng khác nào lũ đàn em ngồi chầu rìa.

Hạ Thiết Đông nhìn thấy rất nhiều bạn cũ năm xưa, tâm trạng càng trở nên kích động mãnh liệt. Sau một hồi cảm khái, anh liền kể cho mọi người nghe ngọn nguồn câu chuyện. Năm 68, anh bị đẩy đến Diêm Vương câu ở Thiểm Bắc, lúc đầu còn cảm thấy mình xuống nông thôn để rèn luyện bản thân, chấp nhận việc tái giáo dục từ thành phần bần nông, nhưng sau khi đến đó mới dần dần phát hiện ra, nơi đó căn bản không hề hoan nghênh các anh, bởi vì đất đai vùng ấy nghèo nàn, bất luận có tăng cường lực lượng lao động cho đội sản xuất thêm bao nhiêu chăng nữa thì sản lượng thu hoạch một năm vẫn chỉ có ngần đó. Đa số thời gian của mọi người dùng vào việc ngồi trông chờ vào sự ban ân của trời đất. Điều này cách xa với lý tưởng nhân sinh của Thiết Đông, bởi thế chẳng đợi được một năm, anh đã cảm thấy không thể nào tiếp tục kéo dài kiếp sống mòn mỏi ở nơi đây. Hơn nữa, chỉ cần nghĩ cả đời phải bám rễ ở nơi hoang vắng thê lương đến độ chim chẳng buồn ị cứt này là anh không thể nào chấp nhận nổi hiện thực tàn khốc.

Tuy rằng Hạ Thiết Đông là người tài hoa xuất chúng nhưng loại người này cũng có một nhược điểm rất rõ rệt, đó là trạng thái chủ nghĩa lý tưởng quá trầm trọng, anh ấy cũng giống như đa số thanh niên đương thời lúc nào cũng tràn đầy khí thế và lòng nhiệt huyết với cách mạng thế giới, đồng thời cảm thấy việc khai hoang trồng trọt trong nước khó lòng giúp họ làm nên trò trống gì, bởi thế liền hạ quyết tâm cùng hai đồng chí chạy trốn về quê nhà. Anh nói với mọi người kế hoạch mai sau của mình: “Nơi này không trọng ông thì khác có chỗ trọng ông, nếu chẳng nơi nào trọng ông, thì ông sẽ đầu quân cho Bát Lộ, thay vì ngồi nhà chơi lông bông, liên lụy đến mẹ cha, chi bằng nhân lúc này hòa mình vào dòng hồng thủy của cách mạng thế giới”.

Đám người La Đại Hại đều mong ngóng được tận tay sờ vào súng thật đạn thật từ lâu, nhưng bọn họ lại chẳng hiểu ý tứ trong lời hiệu triệu của Hạ Thiết Đông, nên đứng bên cạnh hỏi: “Lũ quỷ Nhật Bản ác ôn đã sớm đầu hàng tận năm nào rồi, bây giờ làm gì còn nơi nào tồn tại Bát Lộ quân nữa hả anh?”

Hạ Thiết Đông giải thích: “Tuy rằng về cơ bản chủ nghĩa Phát xít đã bị sụp đổ nhưng dân chúng lao khổ chiếm hai phần ba tổng dân số trên toàn thế giới thì vẫn còn đó, họ vẫn bị hầm da nấu thịt trong cảnh nước sôi lửa bỏng của cuộc sống cũ. Chừng nào chủ nghĩa đế quốc chưa hoàn toàn bị diệt vong, thì nhân dân toàn thế giới chừng đó vẫn không thể hưởng thụ cuộc sống tươi đẹp”.

Đa số mọi người có mặt tại hiện trường nghe mấy lời ấy đều cảm thấy không vững tin cho lắm: “Lão Mỹ người ta là một siêu cường quốc, nếu chỉ dựa vào mấy người lẻ tẻ bọn ta qua đó, sợ rằng chẳng thể giải phóng nổi giới cần lao. Hơn nữa, cứ cho bọn ta có đủ quyết tâm đấu tranh thì cũng chẳng tìm đâu ra thuyền và vũ khí. Đừng nói đến tên lửa, đại bác, máy bay ném bom, ngay cả một con dao thái rau bây giờ bọn ta cũng chẳng kiếm nổi. Chắc anh không định để chúng ta mỗi người dắt lưng vài ba quả lựu đạn rồi trèo lên chiếc thuyền đánh cá vượt Thái Bình Dương đi đánh Mỹ chứ hả?”

Hạ Thiết Đông lại nói: “Siêu cường quốc chẳng qua chỉ là con hổ giấy, chẳng có gì đáng sợ, quân Mỹ tàn bạo nhưng nhu nhược, tất cả chỉ dặt lũ lính con nhà giàu. Hơn nữa không phải toàn bộ người Mỹ đều là dân tư bản, 99% trong số họ cũng là giai cấp lao động bị bóc lột, chúng ta có thể dùng tư tưởng của Mao Trạch Đông võ trang cho anh em công nông binh và giai cấp vô sản ngay trong lòng địch, kích động bọn họ giơ cao ngọn cờ “Tạo phản nội bộ”, chỉ cần làm được công tác trong ứng ngoài hợp, cộng với việc Fidel Castro trong hậu viện của Mỹ cùng chúng ta kẻ trước người sau khép chặt gọng kìm thì chẳng có gì phải lo không đánh đổ được đế quốc Mỹ. Có điều… trước mắt lực lượng của chúng ta quả thật vẫn còn rất yếu mỏng, nếu trực tiếp vượt Thái Bình Dương xâm nhập vào lãnh thổ nước Mỹ thì e không được thực tế cho lắm. Nhưng chẳng phải đế quốc Mỹ đang xâm lược Việt Nam láng giềng đó sao? Tôi thấy chi bằng chúng ta đi chi viện cho nhân dân Việt Nam, đến vùng rừng rậm nhiệt đới tham gia đánh du kích, cùng quân Mỹ tỉ thí một chuyến xem sao, đợi đến ngày thắng lợi khải hoàn, vinh quang thái lai, thì chúng ta có thể khiến người trong nước phải nhìn mình bằng con mắt khác, xem chúng ta rốt cục là nhà cách mạng chân chính hay cách mạng giả dối”.

Những thanh niên này tuy rằng trong lồng ngực tràn đầy nhiệt huyết và hùng tâm tráng chí nhưng lại chẳng thèm biết trời cao bao nhiêu, đất dày mấy tấc. Hạ Thiết Đông vừa dứt lời lập tức có vài người đồng thanh hưởng ứng: “Những nhà cách mạng vô sản tiền bối đã dùng thời gian 28 năm để tạo ra một Trung Quốc mới thì hà cớ gì chúng ta không thể dùng 28 năm tiếp theo để giải phóng toàn nhân loại?”

La Đại Hải lại càng là hạng người chỉ lo thiên hạ bất loạn, có đám náo nhiệt thế này làm gì có chuyện cậu ta chịu ngồi yên trong nhà. Hơn nữa khu Hắc Ốc cũng sắp bị giải tỏa đến nơi, nếu bọn họ ở lại thành phố, thì trước cuối năm nay kiểu gì cũng bị tống xuống vùng nông thôn cải tạo lao động.

Tuy nói rằng làm cách mạng không phân biệt sang hèn cao thấp, hàng triệu quân giải phóng chỉ cần rời khỏi sự trợ giúp tích cực của anh em nông dân là lại quay về con đường cũ, nhưng trên thực tế chẳng ai tình nguyện sống cuộc sống bán lưng cho đất bán mặt cho trời như vậy cả đời. Lúc bấy giờ trong tâm trí của hàng ngũ thanh niên trí thức chỉ có trở thành quân nhân mới là sự nghiệp thần thánh vinh quang nhất. Đã không thể làm lính trong nước thì sang Việt Nam đánh trận cũng là một con đường thoát thân, dù sao thì người cầm súng vẫn mạnh hơn kẻ cầm cuốc. Bọn họ lại suy ngẫm anh em mình từ ngàn dặm xa vất vả đến Việt Nam chi viện cho sự nghiệp giải phóng của nhân dân nước láng giềng, cho dù chẳng có công lao cũng có khổ lao. Hơn nữa nếu luận về kinh nghiệm chiến thuật và lý luận chiến lược thì người Trung Quốc chúng ta chính là bậc thầy của họ, từ cổ chí kim hai bên từng đánh nhau hàng ngàn năm, xét về thứ bậc đương nhiên chúng ta là anh cả, giờ sang Việt Nam, kiểu gì họ chẳng bố trí cho chúng ta chức vụ đại loại như sư đoàn trưởng hay chí ít cũng là trung đoàn trưởng.

Tuy rằng Tư Mã Khôi từng sống ở Bắc Kinh mười mấy năm, ngày ngày cũng đến trường đi học nhưng từ nhỏ đã được Văn Võ tiên sinh thu nạp truyền nghệ, lại chịu ảnh hưởng rất sâu sắc bởi hoàn cảnh gia đình, kết cấu tư duy của cậu không phải là kết cấu tư duy được hình thành dưới mô thức giáo dục đơn nhất, bởi vậy cậu không hoàn toàn tán đồng với kế hoạch mà Hạ Thiết Đông vừa nói hôm nay. Có điều Tư Mã Khôi là người vô cùng coi trọng hai chữ “nghĩa khí”, hội La Đại Hải đều đã quyết định theo chân Hạ Thiết Đông đến Việt Nam tham chiến thì cậu cũng không thể để mình tụt hậu lại phía sau, hơn nữa rời khỏi Hắc ốc, cậu cũng chẳng còn chốn dung thân. Thế là Tư Mã Khôi liền quyết định theo mọi người cùng đến Việt Nam.

Những người lựa chọn đến Việt Nam đa số đều là con em có cha mẹ mắc tội hữu khuynh, không nhà không cửa, tương lai mờ mịt, trừ một vài người cá biệt không dám đi ra thì mọi người đều tự viết một bức huyết thư thể hiện lòng quyết tâm cao độ, sau đó đập nồi niêu bán sắt vụn, gom tiền vào làm lộ phí, cùng nhau bỏ nhà cất bước sang xứ người.

Hạ Cần thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải quả nhiên đi theo mọi người, trong lòng không tránh khỏi cảm giác hối hận muộn màng. Trong lúc tiễn biệt, cô nàng còn muốn khuyên nhủ bọn họ hồi tâm chuyển ý nhưng Tư Mã Khôi đâu chịu nghe người khác khuyên bảo. Cậu biết Hạ Cần là người rất kín miệng, không bao giờ tiết lộ với người ngoài kế hoạch bí mật của cả nhóm, nên cũng chẳng cần thiết phải dặn dò thêm điều gì. Tư Mã Khôi lại nghĩ đến việc giờ đây phải rời xa cố hương sang nước người đánh nhau với quân Mỹ trong làn mưa rơi lửa đạn đâu phải chuyện đùa, súng đạn vô tình, lành ít dữ nhiều, ngộ nhỡ trở thành thây ma chốn sa trường thì cả đời này chẳng về nổi tổ quốc cũng nên. Người ta ai cũng khó lòng rời bỏ quê mẹ, nên cậu đương nhiên không tránh khỏi cảm giác bùi ngùi lưu luyến, trong lúc thần trí trở nên bấn loạn, tâm sự trĩu nặng, những lời định nói ra đều quên khuấy mất.

Hạ Thiết Đông dẫn theo hai mươi mấy bằng hữu tiễn biệt người ở nhà trong dòng nước mắt chia ly. Cả đoàn lặng lẽ lên đường, vượt ngàn dặm Nam tiến. Trên đường đi, mọi người gặp phải biết bao sóng gió gập ghềnh, khó khăn không thể diễn tả hết bằng lời. Có điều vất vả lắm mới đến được biên giới Việt Trung, rồi lẻn qua cửa khẩu Hữu Nghị, đặt chân lên lãnh thổ Việt Nam, vừa nhìn thấy cảnh tượng khói lửa ngụt trời, máy bay ném bom của không quân Mỹ gầm rít ầm ầm khắp vòm trời miền Bắc Việt Nam khiến cả đoàn mãn nhãn đúng như mong đợi, trong lòng ai nấy đều dấy lên ý chí muốn quyết chiến sống mái một phen với quân thù, vừa định xông ra tiền tuyến tham gia chiến đấu, ngờ đâu tráng chí vẫn chưa được báo đáp, chẳng ai kịp nhìn tận mắt đại binh nước Mỹ trong truyền thuyết mặt mũi trông thế nào thì lại gặp ngay phải mấy đồng chí công an Bắc Việt. Mấy đồng chí ấy thấy cả đoàn đều mặc trang phục quân nhân nhưng lại chẳng đeo hàm hiệu gì cả, liền cho rằng họ là quân giải phóng đào ngũ đang chạy nhầm hướng, lập tức bắt tất cả đem nhốt lại mà chẳng cần hỏi han ngọn nguồn đen trắng gì sất. Do hai bên bất đồng ngôn ngữ, giải thích thế nào các đồng chí ấy cũng lắc đầu không hiểu. Thế là cả đoàn bị nhốt trọn một đêm trong song sắt. Ngày hôm sau họ trói gô tất cả mọi người lại như trói lợn, rồi đem áp giải trở về Trung Quốc.

Đám người trẻ tuổi ấy sau khi trả về nước, trước tiên bị đem ra thẩm vấn một chập, sau đó được trực tiếp điều phối đến nông trường Vân Nam để cải tạo lao động. Khi đến nông trường lao động, họ nghe được một thông tin, nói là Miến Điện cũng đang đánh nhau, hơn nữa trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt, đầu người đều bị mang ra đánh như đầu chó. Ở Vân Nam có rất nhiều thanh niên trí thức từng chạy đến đó gia nhập hàng ngũ quân đội cộng hòa nhân dân Miến Điện. Miến Điện Cộng Hòa luôn nồng nhiệt chào đón người Trung Quốc, bất luận họ thuộc thành phần gì chăng nữa, cũng chẳng ai hỏi thân phận cao thấp sang hèn, lập tức phát súng thật cho mình, muốn chọn súng ngắn hay súng trường tùy sở thích, xưởng thuốc súng mở toanh mặc kệ ai muốn dùng bao nhiêu thì dùng. Tuy rằng ở đó không có máy bay rải bom nhưng hỏa tiễn anti-tank AT4, pháo cao xạ, súng máy hạng nặng thì muốn bao nhiêu cũng có, bọn họ còn thành lập “doanh trại đặc vụ thanh niên trí thức”. Đó là một nhóm bộ đội lập được rất nhiều công trạng lớn lao, khiến bọn địch sợ vỡ mật.

Hội Hạ Thiết Đông vẫn chưa được tham gia chiến đấu ở Việt Nam, trong lòng ai nấy đều cảm thấy không cam tâm, vừa nghe nói tình hình chiến sự ở Miến Điện như vậy, mọi người đều vô cùng ngứa ngáy chân tay. Cả nhóm chụm đầu bàn mưu tính kế, thấy rằng nông trường được bảo vệ rất lỏng lẻo, nên đều quyết định sẽ lẻn trốn ra ngoài một lần nữa. Thế là họ từ Vân Nam âm thầm xuất cảnh, vượt dòng Nô Giang tham gia quân đội nhân dân của tổ chức Cộng hòa Miến Điện.

Từ khi đến Miến Điện, Hạ Thiết Đông tham gia tất cả hàng trăm trận chiến lớn nhỏ, tuy rằng anh chỉ mới hai mươi mấy tuổi đầu nhưng do trình độ văn hóa tương đối cao lại được tôi luyện nhiều năm từ các bộ phim nội chiến trong nước, vì thế tầng kiến thức và lý luận về chiến thuật chiến lược của anh có thể nói là không thầy mà tự hiểu, tác chiến vô cùng anh dũng, đương nhiên được sự trọng dụng của quân đội Miến Điện. Những chiến hữu này đều tụng xưng anh ấy là Che Guevara của Trung Quốc.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải luôn sát cánh bên cạnh anh Hạ Thiết Đông, trong suốt cuộc chiến tranh tanh mùi máu kéo dài suốt bao nhiêu năm, họ đã trải qua vô số lễ rửa tội của máu và lửa, từ cuộc hành quân trinh sát hiểm nguy mai phục tứ phía đến cuộc đấu tranh sinh tồn vô cùng gian khổ nơi hoang dã, từ việc đối diện với màn mưa rơi lửa đạn trên chiến trường đến những áp lực tinh thần khó lòng chịu đựng sau khi sống sót. Tất cả nỗi khiếp sợ, hoảng loạn trong chiến tranh dường như đều giáng xuống đầu họ, giúp họ sớm rèn luyện được phẩm chất độc lập đương đầu với thực tế, kiên gan trước cục diện tàn khốc sau này. Trong hậu kỳ cuộc chiến tranh, bộ đội Cộng hòa Miến Điện liên tiếp bại trận, nội bộ quân đội nhân dân xảy ra mâu thuẫn gay gắt, liên đới lẫn nhau, phạm vi khống chế càng ngày càng bị thu hẹp, tình hình trở nên vô cùng khó khăn. Cuối cùng tiểu đội của Tư Mã Khôi cũng bị đại đội quân chính phủ vây bắt và dồn vào ven rìa khu rừng rậm bí ẩn của núi Dã Nhân nằm ở phía bắc Miến Điện.

Những chiến hữu rời bỏ đất nước theo chân Hạ Thiết Đông sang Miến Điện năm đó, giờ đây người thì chết trận, kẻ thì mất tích trong khi chiến đấu, số người sống sót chẳng còn bao nhiêu, vì thế tất cả đành phải rút lui vào núi đánh du kích. Trong một lần đi trinh sát, Hạ Thiết Đông dính trọng thương rồi bị địch bắt sống, sau đó anh bị chúng hành hình tàn khốc bắt đem đi chôn sống, đến nay ngay cả thi thể cũng không tìm thấy.

Tàn dư của đội du kích chỉ còn khoảng bốn mươi mấy người, cả ngày chạy tháo mạng mệt không kể xiết, cuối cùng phải lui về gần núi Dã Nhân. Bọn họ không chỉ thiếu thốn lương thực đạn dược mà ngày nào cũng phải đối mặt với thương vong chết chóc. Cho dù bản lĩnh của hội Tư Mã Khôi có giỏi giang hơn nữa thì giờ khắc này cũng khó lòng xoay chuyển được đại cục.

Quân chính phủ đã sớm coi nhóm người này là cái gai trong mắt, chúng treo giải thưởng lớn cho người nào cắt được thủ cấp tên cầm đầu. Tuy rằng bọn chúng không dám mạo hiểm vào sâu trong núi Dã Nhân Bắc Miến để truy bắt nhưng lại điều động một lực lượng lớn binh sĩ phong tỏa khắp các cửa núi. Mục đích của họ là dồn tất cả các thành viên còn lại của đội du kích vào núi sâu rừng thẳm, nhốt sống trong đó cho đến chết.

Núi Dã Nhân là một khu vực vô cùng nguy hiểm và thần bí đến khó lường. Dải địa hình của nó cực kỳ phức tạp, hệ thực vật trong rừng nguyên sinh um tùm rập rạp dị thường, quanh năm mây mù che phủ, không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời. Bởi vậy nơi đây được mệnh danh là “địa ngục chốn rừng sâu”. Thời tiết luôn luôn ẩm ướt, oi bức tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh dịch phát triển tràn lan, côn trùng độc sinh sôi nảy nở, muỗi vắt nhiều vô số, bất kể loài nào trong số chúng đều có thể hút cạn máu người thành xác khô ngay trong phút chốc. Tương truyền, rừng rậm còn là nơi ẩn náu của yêu quái “Phi đầu man” (loại yêu quái thường xuất hiện dưới hình hài con người, ban đêm đầu và cơ thể tách rời nhau, phần đầu đi khắp nơi săn mồi), nó có thể nuốt chửng một con mãng xà dài mười mấy mét, còn biết phun sương tạo mây. Trên cạn đã vậy, dưới nước lại là nơi cư ngụ của từng bầy từng đàn cá ăn thịt người, bởi thế chẳng ai vào núi mà dám cả gan đến gần ao hồ sông suối. Từ xưa đến nay, chưa một người nào có thể sống sót trở về sau khi lạc bước đến chỗ này. Hiện giờ, đội du kích rút chạy về đây thì rơi vào tuyệt lộ. Họ chịu sự kìm kẹp đồng thời từ cả hai phía trong và ngoài, cho dù chọn cách phá vòng vây hay trốn vào núi sâu thì kết cục cuối cùng vẫn khó lòng thoát khỏi bàn tay thần chết.

HỒI 2: KARAWEIK (1)

Trong lần đột phá vòng vây ác liệt sau cùng, vai trái của Tư Mã Khôi bị mảnh lựu đạn cầm tay găm vào trọng thương, mảnh đạn tuy không lớn lắm nhưng đâm sâu vào tận xương khiến máu không ngừng chảy ra, may mà La Đại Hải quên mình lao ra cõng anh quay trở về mới giữ được mạng sống. Có điều trong rừng rậm núi sâu thế này lại thiếu thốn thuốc men nên không đủ điều kiện để làm phẫ

u thuật.

Tuyệt là người duy nhất trong đội du kích am hiểu về y thuật. Cô là người Hồ Nam, thân hình gầy guộc, tâm địa lương thiện, ưa sạch sẽ, cho dù lâm vào tình cảnh trốn vào rừng sâu núi thẳm tháo chạy khỏi tay bọn lính truy sát thì cô vẫn cố gắng thu vén để bản thân trông gọn gàng ngăn nắp nhất có thể. Sau khi tốt nghiệp trung học, cô cũng lên rừng núi, xuống nông thôn như bao thanh niên trí thức khác, đồng thời cũng là một trong những thành viên theo chân anh Thiết Đông trốn chạy khỏi Vân Nam năm đó. Trong quá trình tham gia cải tạo lao động, cô từng làm bác sĩ bấm huyệt chân, vì thế hiểu được đôi chút về cách điều chế thuốc, đặc biệt cô có tài nắn xương cho người khác.

Cố nội nhà cô tên là Tô Lão Nghĩa, cụ là một tín đồ theo đạo Thiên chúa, hiểu biết khá nhiều về tiếng tây, thời Dân Quốc, cụ còn học được mấy tuyệt chiêu thủ thân từ người Pháp. Ngoại trừ nội khoa và ngoại khoa ra, cụ còn học được món kỹ thuật nắn xương. Nếu có ai bị thương gẫy xương, cụ Tô Lão Nghĩa chẳng cần phẫu thuật, mà chỉ cần dùng tay nắn nắn mấy cái là biết ngay thương thế nặng nhẹ ra làm sao, ví dụ như gẫy mấy chiếc xương, mức độ gẫy nghiêm trọng đến mức nào. Sau đó cụ nắn hai xương vào nhau cho thật khớp rồi đắp thuốc lên trên, lấy thanh gỗ hoặc nẹp tre nẹp chắc, lại dùng băng vải cuốn chặt xung quanh, cuối cùng cụ cho bệnh nhân uống mấy viên thuốc. Kẻ bị thương sau khi được cụ chữa trị sẽ hồi phục như trước, không để lại bất kỳ dấu hiệu tàn phế nào, ngay cả những hôm trái gió trở trời cũng chẳng hề bị đau nhức.

Tuyệt có thể coi là truyền nhân dòng họ Tô, cô được truyền thụ lại kỹ thuật nắn xương nổi tiếng của gia đình, nhưng trong thời gian diễn ra cách mạng văn hóa, cô cũng bị liên lụy bởi cố nội, vì thế chưa kịp trở thành bác sĩ quân y, cô đã bị đẩy xuống vùng nông thôn khi chưa tròn mười sáu tuổi. Năm đó anh Thiết Đông thấy cô còn ít tuổi, thân hình lại gầy gò, mỏng manh nên thường làm giúp những công việc nặng nhọc cần dùng nhiều đến sức lực, sau đó mọi người chạy trốn khỏi Vân Nam cũng dẫn cô theo cùng. Bắt đầu từ ấy, Tuyệt trở thành "bác sĩ quân y" kiêm "liên lạc viên" cho bộ đội Cộng hòa Miến Điện.

Sau khi xem xét tình hình thương thế của Tư Mã Khôi, Tuyệt phát hiện nếu không nhanh chóng phẫu thuật gắp mảnh đạn ra khỏi cơ thể thì có khả năng sẽ dẫn đến việc mất quá nhiều máu mà nguy hiểm đến tính mạng. Thế là cô lập tức bắt tay chuẩn bị, đồng thời quay sang hỏi Tư Mã Khôi xem anh có chịu đau nổi không?

Sau khi Hạ Thiết Đông mất đi, trong lòng Tư Mã Khôi không lúc nào ngớt đau buồn, cộng thêm vết thương trên vai máu chảy như tháo cống khiến khuôn mặt anh trở nên tái nhợt, nhưng không muốn để mọi người lo lắng nên vẫn gắng gượng nói cứng với Tuyệt: "Cô đúng thật là! Muốn xử lý cái thân này thế nào thì cứ làm đi, nếu tôi mà có rên "hừ" lên một tiếng thì cứ để người ta xông vào đánh cho thỏa tay"

La Đại Hải đứng bên cạnh lo lắng nói: "Tiên sư nhà cậu, chẳng biết sống chết gì sất, cậu tưởng mình là Quan Công chắc, cạo xương trị độc mà chẳng thèm nhăn mày lấy một cái. Đến lúc không thể chịu được nữa thì cậu cứ việc thoải mái gào thét, ở đây cũng chẳng có ai mà lo mất thể diện, hay là để tớ đi kiếm thanh gỗ cho cậu cắn mà mài răng nhé!"

Tư Mã Khôi nghiến chặt răng rồi nói: "Thực ra chuyện Quan Vân Trường cạo xương trị thương cũng chẳng phải điều gì ghê gớm lắm, trong lịch sử còn có nhiều nhân vật hổ báo hơn ông ấy nhiều. Thời kỳ dấy lên cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, rất nhiều tướng lĩnh bị quân địch bắt sống phải chịu cực hình tùng xẻo, khổ hình này đúng là từng dao từng dao cắt dần từng miếng thịt trên cơ thể xuống nhưng làm gì có ai được bôi thuốc tê? Người ta còn ghi chép rõ ràng về hai vị tướng, một người tên Lâm Phụng Tường, còn người kia là Thạch Đạt Khai. Lâm Phụng Tường bị trói ở cổng chợ chịu hình. Trong quá trình chịu cực hình, mặc cho máu chảy ròng ròng đầm đìa khắp cơ thể nhưng ánh mắt vẫn nhìn chừng chừng theo động tác dao của tên tùng xẻo đưa qua đưa lại trên người mình, ánh mắt chăm chú đến nỗi khiến tên kia phải cảm thấy ghê tay. Còn Thạch Đạt Khai bị quân Thanh xử tùng xẻo ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên, đầu tiên ông bị cắt rời tứ chi sau đó cắt đứt cổ họng nhưng từ đầu chí cuối thần thái họ Thạch vẫn điềm nhiên, chẳng hề giống với kẻ đang bị chịu cực hình, mà ngược lại giống như đang được tắm gội trong bồn tắm nước nóng dễ chịu. Chết như thế quả đúng như xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, đó mới là khí khái của người anh hùng".

La Đại Hải biết chẳng thể nào giận dữ với anh được, liền lắc đầu bảo: "Cái thằng này đúng là đồ Hồ ly gặm bình trà, nói xuôi cũng được nói ngược cũng xong – Miệng toàn chữ là chữ".

Tuyệt nói với Tư Mã Khôi: "Cậu cũng đừng cố gượng quá làm gì, khi nãy tôi cũng vừa tìm thấy mấy cây "Quỷ tu tử" ở gần đây, loại cỏ dại này có tác dụng giảm đau nhất định nhưng vẫn rất đau đấy, cậu ráng chịu nhé!"

Tư Mã Khôi không nói thêm câu gì, cố gắng nén cơn đau để Tuyệt gắp mảnh đạn ra khỏi cơ thể, trên trán đọng từng giọt mồ hôi to như hạt đỗ xanh nhưng anh vẫn kiên cường, từ đầu chí cuối không hề kêu rên một tiếng nào.

Tay nghề phẫu thuật của Tuyệt phải nói vô cùng cao siêu, từng động tác chính xác mà nhanh thoăn thoắt, chẳng đầy mấy phút đã gắp được mảnh đạn ra. Sau khi lấy tro cỏ khử trùng, cô liền xử lý băng bó vết thương. Đợi khi hoàn tất mọi việc, khóe mắt cô liền đỏ lên, hoen hoen nước, rồi chẳng cầm lòng được thêm, nước mắt thi nhau tuôn chảy.

Tư Mã Khôi nhịn đau hỏi: "Sao Tuyệt lại khóc?"

Tuyệt cúi đầu, dùng tay quệt ngang dòng nước mắt đầm đìa trên má: "Khi nãy tôi nhớ lại việc lúc chúng ta rời khỏi đất nước, cả đoàn hào hùng như thế, vậy mà giờ đây chỉ còn sót lại ba người bọn mình".

Nhắc đến việc này, cả Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều trùng lòng xuống, rất nhiều anh em bằng hữu phải bỏ mạng ở vùng đất Miến Điện này, hơn nữa cái chết của họ không những chẳng lãng mạn, oanh liệt chút nào mà còn hoàn toàn vô nghĩa. Họ âm thầm nằm lại trên mảnh đất lạnh lẽo nơi xứ người, vĩnh viễn không thể trở về cố hương, còn người thân ở nhà từ nay cũng chẳng biết tông tích của họ lưu lạc chốn nào mà tìm.

La Đại Hải trầm ngâm hồi lâu, mãi mới lắc đầu than thở: "Tớ nghĩ mãi vẫn không ra, lúc bắt đầu khởi binh, thanh thế của Miến Điện Cộng hòa đúng là thắng như chẻ tre, dường như sắp đánh đến ngày thắng lợi khải hoàn đến nơi, ấy thế mà sau này nói hỏng là hỏng hẳn, tốc độ tan rã còn rách nhanh hơn cả giấy dán diều". Tư Mã Khôi bất lực nói: "Đây vốn dĩ không phải đất làm cách mạng, vì thiên không thời, địa không lợi, nhân không hòa. Tớ thấy cho dù Guevara có tái thế mà bị quăng vào cái xó này thì cũng chẳng thể làm nên trò trống gì".

Nhân thời khắc nghỉ ngơi ngắn ngủi giữa cuộc chiến đấu, ba người liền ngồi phân tích cục diện đang phải đối đầu trước mắt, quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện cho đến thời điểm này, thì thực tế chỉ còn mỗi hư danh mà thôi, đội du kích lẻ tẻ mấy người bọn họ khó mà làm nên kỳ tích gì. Hơn nữa tàn dư của quân đội chính quy đều hợp nhất với quân đặc phái vũ trang của địa phương để trở thành quân đội quân phiệt chiếm cứ mỗi người một phương, họ trồng anh túc, buôn bán vũ khí quân đội, chỉ coi trọng cái lợi của bản thân, không phân biệt tốt xấu gì sất, chẳng chuyện gì họ không dám nhúng tay vào làm.

Các thành viên trong đội du kích do Tư Mã Khôi lãnh đạo, tên nào chạy trốn được thì đã chạy mất tăm mất dạng, những người còn lại đều đang bị quân đội chính phủ phát lệnh truy nã đặc biệt, chỉ cần ló mặt ra là chắc chắn mất mạng, tuyệt đối chẳng có kết cục tốt đẹp nào đón đợi họ ở phía trước, bởi vậy đừng nói đến việc ngồi xuống đàm phán thỏa thuận mà ngay cả buông súng đầu hàng cũng chẳng mong đợi bọn chúng chừa cho một con đường sống. Nay cả đội lại bị nhốt trong núi Dã Nhân, trong không có lương thực, ngoài không có viện binh, nếu định cố thủ tại chỗ chẳng khác nào ngồi đợi thần chết đến rước.

Đội du kích vẫn còn một lựa chọn – chạy sâu vào rừng rậm nguyên sinh trong lòng núi Dã Nhân, nhưng người Miến Điện cứ nhắc đến nơi ấy là "xanh mắt tái mào", chốn rừng rậm sâu thăm thẳm này không có đường đi, địa hình lại nhấp nhô gồ ghề, môi trường phức tạp khó mà tưởng tượng, chưa kể đến những rừng cây um tùm rậm rạp và đầm lầy trải rộng quanh năm âm u không nhìn thấy mặt trời, thì độc xà ác thú lảng vảng khắp nơi, chẳng biết chúng thình *** h xuất hiện lúc nào, chướng khí sương độc bao trùm cả không gian, đã vào thì đừng nghĩ đến chuyện thoát được ra. Mấy năm gần đây, những kẻ mất tích trong đó số lượng nhiều không kể xiết.

Nghe đồn, tính cho đến thời điểm này, lần mất tích lớn nhất phải kể đến đội sư đoàn tàn dư quân Nhật, chúng dễ còn đến hơn hai ngàn tên, bị quân Anh đánh cho không còn đường thoát thân, đành tháo chạy vào một đầm lầy lớn phía sườn nam của núi Dã Nhân, kết quả cả sư đoàn lạc đường, rồi đột nhiên bị vô số đàn cá sấu tấn công, hơn hai ngàn tên lính Nhật được vũ trang đến tận răng mà vẫn trở thành mồi nuôi cá sấu, chỉ có vài tên may mắn sống sót.

Bởi vậy đội du kích Cộng hòa Miến Điện chắc chắn không thể sống sót mà thoát ra khỏi núi Dã Nhân, lùi hàng vạn bước mà nói, cứ cho họ may mắn thoát chết khỏi núi Dã Nhân thì sau đó sẽ ra sao? Bắc Miến chắc không có chỗ cho họ dung thân, chỉ còn cách vượt biên sang Trung Quốc nhưng vài năm trước hội Tư Mã Khôi đều chạy trốn khỏi trại cải tạo lao động để đến đây, nếu bây giờ quay trở về, chẳng cần nghĩ cũng biết kết quả gì đang chờ đợi ở phía trước.

Cơ sự đã đến nước này, La Đại Hải cũng chẳng buồn màng đến sự sống chết, anh dùng mũi dao găm vạch một dấu X lên mặt đất bùn, thể hiện tình hình lúc này "lên trời vô lối, xuống đất vô môn", sau đó quay sang hỏi Tư Mã Khôi và Tuyệt: "Mọi người rõ cả rồi chứ? Hiện giờ chúng ta rơi vào tình cảnh như vậy đấy!".

Tư Mã Khôi gật gật đầu, cười đau khổ: "Hiểu, chúng ta ngay cả cơ hội chết rồi đầu thai sang kiếp sau cũng chẳng có nữa là, dù sao thì cũng chết, chỉ còn xem rốt cục bị chết như thế nào mà thôi".

Tuyệt cũng trầm mặc trong lòng, nhưng bây giờ biết rằng mình chắc chắn sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa, tự nhiên lại cảm thấy điềm nhiên hơn nhiều, cô nói: "Dù sao thì cũng khó tránh khỏi cái chết, tôi chẳng muốn bị bắt sống rồi để mặc cho chúng hành quyết, chúng ta có chết cũng không thể chết trong rừng sâu núi thẳm nơi đất khách quê người thế này được".

Tư Mã Khôi và Hải 

ngọng cũng chung suy nghĩ đó. Ba người họ muốn cùng mạo hiểm đi xuyên qua núi Dã Nhân. Nếu mệnh ai lớn có thể sống sót thoát ra ngoài thì sẽ gắng sức nghĩ cách càng về gần Trung Quốc càng tốt, mọi chuyện sau này sẽ nghe theo sự an bài của số phận. Bất luận nói thế nào, về đến tổ quốc cho dù bị bắt, xấu đẹp gì thì cũng rơi vào tay người nước mình, chí ít họ cũng giao cho bộ phận có liên quan thẩm vấn sau đó mới đem đi xử bắn, so ra như thế vẫn tốt hơn để bọn quân phiệt Miến Điện tóm được, lũ người này chẳng thèm hỏi đến câu thứ hai, lập tức kề súng vào sọ, nã đạn cho đến khi óc nở hoa mới thôi.

Ba người nguội lạnh hết cả ý chí, sau khi bàn bạc và xác định phương hướng rõ ràng, liền triệu tập tất cả thành viên còn sống sót bao gồm cả những người bị thương trong đội du kích lại, nói rõ tình cảnh tuyệt vọng mà cả nhóm đang lâm vào và tuyên bố phải phân tán lực lượng để đột phá vòng vây. Cái gọi là "phân tán lực lượng đột phá vòng vây" thực ra chỉ là cách nói khéo để người khác dễ lọt tai, kỳ thực muốn ám chỉ kể từ giờ trở đi, đội ngũ của chúng ta không còn sự ràng buộc về kỷ luật và tổ chức gì nữa, cha chết mẹ đi lấy chồng – ai tự lo thân người nấy.

Thông tin vừa tuyên bố ra, chẳng hề có ý kiến phản đối, bởi vì cả nhóm đều biết việc này sớm muộn gì cũng xảy ra. Sau nghi thức chào tạm biệt trân trọng, mọi người lặng lẽ bước đi theo con đường riêng mà mình lựa chọn. Tuyệt đại đa số thành viên thà bị quân đội chính phủ bắt được đem xử ngũ mã phanh thây, cũng không dám bước chân vào khu rừng rậm.

Nhưng những người quyết định lựa chọn con đường mạo hiểm này, ngoại trừ hội ba người Tư Mã Khôi ra không ngờ còn có thêm một thiếu niên người Miến Điện khoảng chừng mười sáu, mười bảy tuổi. Tên tiểu tử này là đứa trẻ mồ côi không nhà không cửa, cũng chẳng có lấy một cái tên hẳn hoi, người gầy như chú khỉ, khoác tấm saron rách nát, đầu cạo trọc, vẻ mặt ngờ nghệch, cả ngày chỉ trình ra mỗi bộ dạng ngố ngố với nụ cười hềnh hệch thường trực trên môi. Các thành viên trong đội du kích gọi cậu ta là Karaweik hoặc Kara.

Karaweik là từ dùng để chỉ một loài chim trong truyền thuyết của người bản địa. Mười hai con giáp Miến Điện khác với mười hai con giáp Trung Quốc, ở đây chỉ có tám con vật lần lượt tương trưng cho các ngày trong tuần, thứ hai là con hổ, thứ ba là sư tử, thứ tư hơi đặc biệt một chút, nếu sinh vào ban ngày là con voi hai ngà, nếu sinh vào ban đêm thì lại là con voi cụt ngà, thứ năm là con chuột, thứ sáu là chuột lang, thứ bảy là con rồng, chủ nhật là chim khổng tước. Từ đây có thể phán đoán có lẽ cậu bé được sinh vào ngày chủ nhật, bởi thế hội Tư Mã Khôi liền đặt cho cậu một cái tên Trung Quốc là "Chủ Nhật".

Hai tháng trước, Karaweik còn là một cậu bé mồ côi được Hạ Thiết Đông cứu sống từ một làng quê Bắc Miến, cả nhà cậu đều chết hết trong chiến tranh loạn lạc, từ đó trở đi cậu một mực theo chân quân đội nhân dân Cộng hòa đi khắp nơi, muốn tách cậu ra cũng chẳng tách nổi. Bây giờ Hạ Thiết Đông không còn nữa, Karaweik liền sống chết đòi bám theo Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: "Có lẽ cậu bé nghĩ nếu theo chân chúng ta tiến về phía trước sẽ phá được vòng vây mà sống sót, chẳng ngờ ba người bọn ta chỉ có một con đường chết đang chờ đợi". Thế là anh bèn chỉ về hướng ngoài núi, đoạn nói: "Cậu hãy lên núi mà làm hòa thượng".

Nhưng Karaweik nào chịu nghe lời, nếu theo cách nói của người Bắc Kinh thì cậu ta quá "lỳ", quá cứng đầu, bất kể làm việc gì, chỉ cần bản thân cho rằng đúng thì sẽ chạy theo mãi một lối cho đến khi trời tối. Không những thế tuy rằng cậu có thể nghe hiểu được tiếng Hán nhưng lại chỉ biết bập bẹ vài câu tiếng Trung nghe lơ lớ, ngay cả Tư Mã Khôi cũng chẳng hiểu cậu muốn nói gì, trong lúc bất lực, anh đành phải dẫn Karaweik theo mình cùng tiến vào núi.

Tư Mã Khôi cho rằng đã rơi vào tình cảnh này thì thêm một người hay bớt một người cũng chẳng hề gì. Hơn nữa ở quê nhà Tuyệt cũng có một người em trai, nhưng giờ đây thân cô đang ở Miến Điện, hoàn toàn đoạn tuyệt mọi tin tức với trong nước, hai chị em đã nhiều năm không được gặp mặt, tính ra độ tuổi của nó cũng tương đồng với Karaweik. Thế là cô liền chăm sóc cậu bé ân cần như chăm sóc chính em trai của mình vậy.

Tư Mã Khôi và Tuyệt còn dễ thuyết phục, duy chỉ có Hải ngọng thì chẳng muốn Karaweik gia nhập đoàn chút nào. Bởi vì người bản địa có tính lề mề chậm chạp, mặc cho bạn tha hồ thúc giục, họ cứ từ từ mà làm, ngay cả đi cũng lững tha lững thững. Karaweik cạo trọc đầu là vì người bản địa rất sùng bái đạo Phật. Theo tập tục này, đàn bà con gái đã vào am làm ni cô thì vĩnh viễn không được hoàn tục, ngược lại đàn ông có thể trở thành hòa thượng ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời điểm nào, khi không muốn làm hòa thượng nữa thì nghiễm nhiên có thể hoàn tục. Lý do để người ta vào chùa làm hòa thượng cũng muôn hình vạn trạng. Có người thì do tâm trạng không tốt muốn làm hòa thượng vài ba ngày cho vui, có người lại do dạo này hay gặp vận đen nên xuất gia làm tăng nhân mấy bữa để giải hạn.

Do sự ảnh hưởng của Phật pháp vô hình trung đã thay đổi họ tự lúc nào không biết, nên người bản địa dần dần trở nên tiêu dao, lười nhác, rất nhiều người là kẻ ba phải, phản ứng chậm chạp, chẳng bao giờ lo lắng nghĩ ngợi, sống thì sống, chết thì chết. Trong tư duy của họ, qua hết kiếp này sẽ có kiếp khác, chẳng việc gì phải dằn vặt về những chuyện trước mắt. Karaweik chính là một trong số đó. "Nhân sinh quan tiêu cực" của họ khiến La Đại Hải vô cùng phản cảm.

Sau một hồi than thở, Hải ngọng nhìn thấy những người còn lại đều tản ra bốn phía, anh liền đem mấy tập tài liệu còn sót lại mang ra đốt sạch, nhìn sang thấy Tuyệt và Karaweik đang bày chiếc máy điện đàm quân dụng không dây ra đất, bèn thúc giục họ nhanh lên còn vào rừng, cố gắng vứt bớt đồ đạc để đi lại cho nhẹ nhàng, hơn nữa bây giờ cũng chẳng còn anh em bộ đội nào nữa mà cần liên lạc, giữ bộ điện đàm này chỉ tổ mệt người, thà đập nát nó ra cho sớm chợ.

Tuy tiếng phát ra từ chiếc máy bộ đàm cũ kỹ toàn là tạp âm, những tiếng "xẹt xẹt" vang lên không ngớt, giọng người nói mơ hồ khó phân biệt nổi nhưng lúc này Tuyệt đang chăm chú theo dõi, hoàn toàn không để ý xem Hải ngọng nói gì. Mấy năm gần đây, Tuyệt thường tìm cơ hội để học ngôn ngữ của người bản địa và gần như có thể trở thành phiên dịch. Cô bịt một bên tai, tập trung cao độ cố gắng nghe tiếng phát ra từ bộ đàm, sắc mặt càng lúc càng xấu. Trong sóng điện lẫn tạp âm lẹt xẹt, chập chờn lúc được lúc mất, dường như cô đã nghe được tin tức gì đó vô cùng đáng sợ.

HỒI 3: ĐƯỜNG U LINH BỊ LÃNG QUÊN (1)

Có lẽ "vận đen" đúng là một vận may vĩnh viễn không bao giờ bị bỏ lỡ. Đúng lúc tiểu phân đội quyết định trốn vào núi Dã Nhân thì Tuyệt nghe được tin tức sau cùng phát ra từ bộ đàm – cơn bão nhiệt đới "Buddha" sắp tràn vào Ấn Độ Dương và dần dần di chuyển về hướng bắc, cơn đầu tiên đang tiếp cận núi Dã Nhân với quy mô cực lớn và cấp độ cực mạnh. Cơn bão hung b

ạo như thế này rất hiếm xảy ra trong gần ba mươi năm trở lại đây.

Hội Tư Mã Khôi tham gia chiến đầu nhiều năm ở Miến Điện, không chỉ một lần chứng kiến hậu quả thiên tai ghê gớm do bão nhiệt đới mang lại. Họ hiểu rất rõ tin tức này có nghĩa là gì.

Trong rừng rậm nguyên sinh, hiểm nguy bủa vây tứ bề, hiểm họa thực sự không phải đến từ cá sấu và mãng xà khổng lồ mà đến từ rắn độc, côn trùng độc. Hơn nữa, hành quân trong rừng rậm núi sâu là một việc vô cùng gian nan, mỗi bước di chuyển đều phải dùng dao "phạt núi mở đường" mới đi qua được. Vì những nguyên nhân này nên đường thủy vẫn là con đường tắt nhanh chóng và an toàn nhất.

Nhưng giờ đây sự xâm nhập và tấn công của cơn bão nhiệt đới chắc chắn sẽ kéo theo lũ lớn tràn về, nó không chỉ khiến hội Tư Mã Khôi không thể lợi dụng mạng lưới sông ngòi chằng chịt ngang dọc mà còn khiến những khe rãnh trũng sâu trong lòng núi cũng chịu sự công kích bất ngờ của nước lũ mà trở nên vô cùng nguy hiểm.

Núi Dã Nhân không chỉ là một ngọn núi mà là tên gọi chung của cả dải núi. Hàng trăm triệu năm trước, đây từng là nơi tập trung giải phóng nguồn năng lượng của lớp vỏ trái đất, tạo thành khu vực nguy hiểm với tần số hoạt động cực kỳ mạnh mẽ. Nó chính là sản vật từ quá trình vận động tạo sơn cổ đại của dãy Himalaya, phía tây dải núi cuốn quanh con sông Irrawaddy, phía bắc tiếp giáp với vùng núi Gao Li Gong, phía nam là bình nguyên Bago rộng lớn, tạo hình rất giống với người khổng lồ đang ngủ say giấc, nó vắt mình qua ba nước Miến Điện, Lào và Trung Quốc.

Đội du kích Cộng hòa Miến Điện bị nhốt vào vành đai dài hẹp nằm kẹp giữa đầm lầy và rừng rậm nguyên sinh, chỉ đi về hướng bắc rồi xuyên qua núi Dã Nhân mới có thể tiếp cận biên giới Trung Quốc. Trong tay Tư Mã Khôi lại không có bản đồ, để tránh đi lạc đường, vốn dĩ anh lên kế hoạch men theo con sông lần ngược lên thượng nguồn, nhưng giờ đây cơn bão nhiệt đới mang theo mưa to gió lớn chắc chắn sẽ khiến cơn lũ bất ngờ tràn về với tốc độ và cấp độ kinh hoàng. Nếu đi ngược dòng, chắc chắn sẽ lãnh chịu kết quả khủng khiếp bị lũ cuốn trôi và nuốt chửng, cho dù tránh đường thủy để chuyển sang đi trên mỏm núi thì cũng phải chịu sự uy hiếp không kém từ nguy cơ sụt lở và dòng chảy bùn đá.

Thế là ngay cả tia hy vọng cuối cùng cũng bị dập tắt, có điều Tư Mã Khôi cũng hiểu rất rõ, bất luận tình thế xoay chuyển ra sao thì cuối cùng họ vẫn đâm ra con đường chết, chỉ là xem đích đến kết thúc ở đâu mà thôi. Sau khi thầm định lượng trong lòng một hồi, anh cảm thấy được chết càng gần tổ quốc bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi bèn quay lại giục mọi người nhanh chóng nai nịt hành lý chuẩn bị lên đường, đồng thời bảo La Đại Hải cho nổ luôn chiếc máy bộ đàm quân dụng không dây, sau đó cả đoàn không hề do dự một phút, liền đứng dậy khởi hành.

Miến Điện là một quốc gia cổ xưa có truyền thống lịch sự rất lâu đời, thời cận đại từng bị bọn thực dân Anh thống trị gần một trăm năm, trong đại chiến thế giới lần thứ hai, Anh, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản lần lượt chạy qua chạy lại nơi đây như đèn kéo quân, đánh nhau loạn xì ngầu, khó khăn lắm mới thoát khỏi chủ nghĩa thực dân và giành được độc lập, ngờ đâu những ngày thái bình chưa hưởng thụ được bao lâu thì đất nước lại rơi vào cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài suốt nhiều năm.

Thời gian đầu, khi gia thế Miến Điện Cộng hòa còn vững chắc, vật chất dự trữ và vũ khí quân đội vô cùng đầy đủ, ngay cả súng cối, ống hỏa tiễn, xe tăng thiết giáp đều có cả, các loại súng ống đạn dược nhiều vô kể xiết. Từng thùng từng thùng bom mìn và lựu đạn cầm tay chất đống cao như núi, các loại vũ khí quân dụng kiểu Trung Quốc, kiểu Mỹ, kiểu Anh, kiểu Nhật, kiểu Liên Xô, kiểu Đức muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, thậm chí còn có cả xưởng sản xuất công cụ chiến tranh bản địa "nhãn hiệu Miến Điện", xưởng này có thể làm nhái súng ngắn và súng trường của Anh. Nơi đây quả không hổ danh với biệt hiệu bảo tàng trang thiết bị vũ khí "nhãn hiệu đa quốc gia". Nhưng Miến Điện Cộng hòa lại rất ít vũ khí đời mới, đại bộ phận đều là đồ lưu cữu từ những thời kỳ chiến tranh trước.

Nhưng kể từ khi chiến dịch Kunlong thảm bại, quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện bị gục hẳn không thể đứng dậy nổi nữa, vũ khí đạn dược của bộ đội cũng bắt đầu phải giật gấu vá vai, như giờ đây hội bốn người Tư Mã Khôi ngoại trừ khẩu súng ngắn phòng thân ra thì chỉ còn lại hai khẩu súng trường kiểu cũ do Anh chế tạo, cùng với số lượng đạn dược ít ỏi, bên mình hầu như không còn lương thực và thuốc men. Cả đoàn tiến vào rừng rậm nguyên sinh trong núi Dã Nhân tứ bề cây cối mênh mông ngút tầm mắt mà không hề có bản đồ và người dẫn đường.

Ngày hôm đó, sau khi vượt qua được hai mỏm núi, địa hình dần dần thấp xuống, hệ thực vật trong rừng sâu cũng dần dần trở nên um tùm rậm rạp hơn, gần như không tìm được chỗ đặt chân xuống, người đi vào trong đó, ngẩng đầu lên chẳng nhìn thấy bầu trời, nếu không nhờ vào kim chỉ nam và chiếc la bàn, thì chắc chắn không thể phân biệt được phương hướng. Cả hội có cảm giác như đang lạc vào một mê cung thiên nhiên âm u và kín mít, bốn người đành phải liên tục dùng dao phát quang cây cỏ xung quanh để mở lối, tốc độ di chuyển vì thế mà chậm đi rất nhiều.

Cánh rừng rậm nguyên sinh rộng lớn này có lịch sử tồn tại hơn một trăm hai mươi mấy triệu năm, nó nằm ở giữa khe cốc trũng, xung quanh có nhiều dãy núi cao vây kín, nhịp sống nơi này lúc nào cũng bình ổn, yên ắng. Hàng trăm khe suối chằng chịt thành một mạng lưới che phủ tứ bề, khiến khí hậu luôn luôn ẩm ướt, oi bức, không có mưa, cũng chẳng có nắng. Trong cánh rừng bí ẩn này có rất nhiều thực vật nhiệt đới sinh trưởng, chúng muôn màu muôn vẻ, một số loài bạn có thể tưởng tượng ra nhưng đa số chúng bạn không thể tưởng tượng nổi, chủng loại dễ lên đến con số hàng chục triệu, trong phạm vi tầm nhìn của hai con mắt, dường như bạn không thể tìm thấy hai loài thực vật nào hoàn toàn giống nhau.

Cành lá của các cây cổ thụ đan cài vào nhau che kín vòm trời, có những thân cây cao đến tám chín mét, tán lá của nó dày và rộng khiến bầu không khí trong khu rừng trở nên âm u khác thường, từng lớp sương mù nhàn nhạt mịt mùng giăng mắc khắp nơi, thỉnh thoảng lại nhìn thấy những con mãng xà khổng lồ ẩn mình trong cây cổ thụ chờ săn mồi, những loại rắn độc, côn trùng độc chẳng rõ tên gọi quanh quất suốt cả dải rừng, cá sấu luôn bất thình *** h xuất hiện trong bụi rậm um tùm hoặc bên bờ sông. Ở dưới nước, từng đàn nòng nọc thân hình to lớn dị thường bơi lội nhung nhúc thành từng bầy từng đàn, chẳng rõ sau khi biến thành ếch, bọn chúng phải bự đến cỡ nào. Hội Tư Mã Khôi từng lăn lộn nhiều năm ở chốn sa trường, đảm khí cũng chẳng phải hạng vừa, vậy mà khi ngụp lặn dưới hành lang sinh mệnh màu xanh thẫm này, trong lòng ai nấy không tránh khỏi cảm giác rợn tóc gáy.

Bốn người đều đề cao tinh thần cảnh giác, chẳng phút nào dám lơi lỏng, vừa đi vừa cố gắng né tránh mọi hiểm nguy có khả năng gặp phải. Có điều, mọi vật trước mắt dường như đều được nhuộm kín bởi một màu xanh quái dị, làm đầu óc họ cũng bị nhiễu loạn, mơ hồ theo. Nhìn rừng cây cổ thụ kềnh càng đan cài xoắn suýt vào nhau, dễ khiến người ta nảy sinh cảm giác như bàng hoàng choàng tỉnh khỏi cơn u mê, để cảm nhận một cách rõ ràng và sâu sắc, về sự khác biệt to lớn giữa cái vĩnh hằng vô biên của tự nhiên bao la và cái ngắn ngủi mờ mịt của sinh mệnh con người. Sự cảm khái trấn động đến từ nơi sâu thẳm trong linh hồn này át chế cả chủ thể, nó khiến người ta cảm thấy ngộp thở, đầu óc cũng mụ mị đi ít nhiều. Cả hội đành phải liên tục dừng bước cẩn thận xác định lại vị trí.

Theo kinh nghiệm từ trước đến nay của Tư Mã Khôi, nếu tiếp tục đi trong tình trạng này sẽ rất dễ bị lạc đường, có lẽ tìm một con suối hoặc một dòng hà lưu nào đó làm vật tham chiếu thì ổn thỏa hơn. Bọn họ lại tiếp tục tiến sâu thêm một đoạn nữa chợt nhìn thấy một sơn khê rộng rãi khoáng đạt nằm sâu trong rừng rậm, bề ngang lên tới mấy mét, dòng nước chảy lững lờ, trông có vẻ rất êm ả, hiền hòa.

Dòng nước sơn khê trong suốt đến tận đáy, có thể nhìn rõ những viên đá ngũ sắc tròn tròn nằm dưới lòng suối. Cả con suối ánh lên vẻ thướt tha mềm mại như dải lụa đào, lòng suối thoai thoải, từng vòng sóng nước lấp la lấp lánh như vẩy lân tinh.

Tư Mã Khôi quan sát địa hình cạnh đó rồi nói: "Nơi nước nông sẽ tương đối an toàn, chúng ta cứ đi men theo con suối mà lên thượng nguồn, đợi khi cơn bão đến thì sẽ trèo lên chỗ cao hơn". Đi trong rừng rậm không khí ẩm ướt nóng bức suốt thời gian dài khiến vết thương trên vai anh cứ ngâm ngẩm đau, nhìn lại thì thấy nó đã tấy mủ và bốc mùi hôi thối, nhưng giờ đây lại chẳng có thuốc men gì, cho dù nó có nát mủn ra thì cũng đành mặc kệ. Nhìn thấy dòng nước suối trong lành, mát lạnh, anh bèn đi đến đó, định bụng sẽ tháo vết thương ra rửa cho sạch sẽ.

Nhưng chưa kịp đến gần con suối thì Karaweik đột nhiên nhào tới, ôm cứng lấy thắt lưng anh, xông ra trước mặt, cố sức lắc đầu, trên mặt còn đọng nguyên vẹn thần sắc sợ hãi kinh hoàng, miệng không ngừng kêu "líu la líu lo" điều gì nghe không rõ.

La Đại Hải tóm lấy Karaweik như tóm một chú khỉ rồi giằng cậu ta ra khỏi người Tư Mã Khôi, anh lớn giọng quát mắng: "Chủ Nhật! tên tiểu tử này làm gì mà la hét nhặng xị lên thế hử? Anh thấy chú mày đi theo chỉ tổ làm vướng chân vướng cẳng bọn anh mà thôi, nhân lúc còn chưa muộn, hãy mau quay đầu trở về, nói không chừng bọn lính nhìn thấy chú mày còn ít tuổi, ngay cả lông trên người còn chưa mọc hết, chúng sẽ coi chú mày như quả rắm, đánh một cái là xong".

Tuyệt đứng bên cạnh nhìn thấy phản ứng của Karaweik, trong lòng thầm nghi chắc có chuyện gì đó không lành, cô vội vàng ngăn Hải ngọng lại, dùng tiếng thổ ngữ hỏi Karaweik đầu cuối sự tình, hai người trao đổi một hồi. Tuyệt nghe xong, dường như cảm thấy rất khó lý giải, cô nói với Tư Mã Khôi và La Đại Hải: "Chủ Nhật nói, trong núi Dã Nhân có ma nước, người nào uống phải nước ở đây đều không sống nổi".

La Đại Hải cho rằng chắc ý của Karaweik là trong nước có độc, nghe xong bèn chẳng buồn để tâm, quay ra nói: "Toàn nói linh tinh, không nhìn thấy cá đang bơi dưới nước mà vẫn sống ngoe nguẩy kia sao?"

Trái v

ới La Đại Hải, Tư Mã Khôi cũng có vài phần tin lời Karaweik, anh từng học được rất nhiều bản lĩnh từ Văn Võ tiên sinh, ngoại trừ các bí kíp lục lâm ra, còn có bộ "Kim điển mật truyền", tục gọi "Kim bất hoán", từ đầu chí cuối đều học bằng khẩu quyết, do sư phụ truyền miệng lại cho học trò, học trò phải nhập tâm ghi nhớ, tuyệt đối không được chép ra giấy dù chỉ một chữ. "Kim bất hoán" chia ra làm ba chương lần lượt là "Thiên, địa, nhân". Thiên, tức chỉ bát quái trong Tiên thiên tốc chưởng, địa là địa lý sông núi, nhân là mọi sự tương tác giữa vật và vật.

Những điều này đều là gốc rễ khởi nghiệp của tổ tiên họ Trương để lại, nội dung vô cùng thâm thúy ảo diệu, phạm vi bao hàm rất rộng lớn, còn được người đời tụng là thiên hạ độc môn. Vì chịu ảnh hưởng từ di huấn của dòng họ "Thà mất mạng cũng không để lộ nửa chữ Kim" nên từ trước đến nay bí kíp này chỉ truyền thụ cho con trai chứ không truyền thụ cho con gái, chỉ truyền cho người trong gia tộc chứ không truyền cho người ngoài. Câu cuối cùng trong bộ khẩu quyết đã khái quát tất cả tinh hoa chủ yếu của toàn tập: "Phải nhìn điểm đầu mà suy đoán điểm cuối, gặp một việc mà hiểu ba việc, lấy nhất biến ứng vạn biến, biết giới hạn chừng mực mà dừng lại, am hiểu thông tỏ mọi trò trên đời, như vậy có thể mặc sức tung hoành, thần quỷ khó lường, lừng danh bốn bể". Do vậy người ta có thể từ một chi tiết nhỏ mà suy đoán toàn bộ chân tướng sự việc.

HỒI 3: ĐƯỜNG U LINH BỊ LÃNG QUÊN (2)

Năm đó, khi Tư Mã Khôi được truyền thụ bí pháp "Kim điển mật truyền" thì tuổi hãy còn nhỏ, khó lòng lĩnh hội hết cái ảo diệu ẩn chứa bên trong, chỉ gắng học vẹt để cố khắc vào não, mãi cho đến khi anh gặp được Triệu Lão Biệt nơi Hắc ốc hoang phế, thì mới biết bí thuật cổ xưa có cội nguồn từ rất lâu đời này quả thực rất hữu dụng, từ đó mới dần dần bắt đầu mày 

mò nghiên cứu. Hơn nữa mấy năm trở lại đây, Tư Mã Khôi cũng chứng kiến rất nhiều chuyện vượt ngoài sức tưởng tượng ở Miến Điện. Mảnh đất hoang vu, vắng vẻ này bị yểm rất nhiều loại tà pháp như phù chú, bùa ngải hại người, bởi thế thường xảy ra những hiện tượng thần bí khó có thể dùng lý lẽ thông thường để giải thích.

Có câu "Cây có gốc, lời có nguồn", ở nơi đầm rộng núi sâu này, tất phải tồn tại rất nhiều quái thú, Tư Mã Khôi nghe Karaweik – một người bản địa nói, nước ở trong núi Dã Nhân không được uống, liền lập tức liên tưởng đến thời khắc tan rã của đội quân du kích. Khi đó hầu hết mọi người thà tự chĩa họng súng vào đầu cũng không dám đến gần khu rừng rậm nguyên sinh nửa bước, bên trong chắc hẳn phải có nguyên nhân của nó, chỉ sợ nguyên nhân đó không chỉ đơn thuần dừng lại ở vấn đề "nguồn nước", nhưng rốt cục cội nguồn gốc rễ của nó là gì thì chẳng ai được rõ. Tư Mã Khôi không hiểu nhiều lắm về núi Dã Nhân bèn nhờ Tuyệt hỏi kỹ Karaweik, bảo cậu ta nói cho thật cụ thể chi tiết.

Nhưng hỏi ra mới hay, ngay cả Karaweik cũng ù ù cạc cạc, chỉ nghe người Bắc Miến tương truyền từ xưa, nói cánh rừng bí ẩn trong lòng núi sâu có sương mù bủa vây, đó là vùng đất vô cùng hung hiểm, có đi mà không có về, nó khiến những người bỏ mạng ở đây đã không thể đầu thai luân hồi, lại không được trở thành Phật, thậm chí còn chẳng thể xuống nổi âm tào địa phủ, cái đợi chờ họ chỉ có hư vô vĩnh hằng.

Hàng trăm dòng hà lưu chảy qua hoặc khởi nguồn từ núi Dã Nhân cuối cùng đều đổ về vùng đầm lầy rộng lớn, cho dù nước ở đầm trong xanh đến đâu đi nữa, thì từ trước đến nay cũng chẳng có người nào dám uống. Bởi vì những sơn khê chảy ra từ sơn cốc, khe núi từ hàng ngàn năm trước đã sớm bị thổ dân yểm bùa, nếu có người chạm vào chắc chắn sẽ bỏ mạng bất thình *** h, hơn nữa sau khi chết đi, hồn bay phách lạc. Chỉ có nước sương đêm còn đọng lại vào buổi sáng sớm hoặc nước tù trong hồ nước chết mới được phép sử dụng.

Tư Mã Khôi cảm thấy thà tin vào những việc không có còn hơn không tin vào những việc có thật, giờ đây chỉ còn cách thật cẩn trọng, mới mong sống lâu thêm vài giờ, nghĩ vậy anh bèn vỗ vỗ vào vai Karaweik tỏ ý đã hiểu ý cậu ta. Xem ra núi Dã Nhân quả đúng là chốn hung hiểm, ngoại trừ khí hậu khắc nghiệt sắp sửa giáng xuống đầu ra thì ngay cả khe suối bờ sông cũng không thể đến gần được nữa.

Kế sách duy nhất lúc này chỉ là phải đi ở nơi cao, không thể đi ở chỗ thấp, bởi vậy cả đoàn đành tìm đường trên các mỏm núi, Tư Mã Khôi vác súng trường, đang chuẩn bị đứng dậy khởi hành thì lại bị Karaweik níu lại, cậu chỉ tay vào một khe núi ở bên cạnh, miệng nói liên thanh như súng bắn, dường như muốn bảo Tư Mã Khôi nên đi theo hướng ấy.

Miền Bắc Miến Điện có một câu ngạn ngữ dân gian "trong quân đội nhân dân không có nhân dân". Sự thực quả đúng như vậy, đội ngũ tác chiến quân đội nhân dân Miến Điện thực ra chẳng có mấy người gốc Miến Điện mà phần đông đều là người Trung Quốc. Điều này nói ra cũng khá kỳ lạ, tuy nhiên vẫn có một số người bản địa chính gốc, Tư Mã Khôi sống cùng những chiến hữu Miến Điện trong đội du kích lâu ngày, ít nhiều cũng hiểu được một vài câu thổ và tiếng anh thông dụng nhất, lúc nãy dường như nghe thấy Karaweik nhắc đến "con đường" gì đó, đầu óc anh quay mòng khó hiểu: "Này Chủ Nhật! chú mày nói trong khe núi có đường hả? không phải đang nói nhăng cuội đấy chứ? Nơi rừng già núi sâu hiếm dấu chân người qua lại đào đâu ra đường mà đi?"

Tuyệt dịch lại cho Tư Mã Khôi: "Ý của Chủ Nhật muốn nói…trong khe núi đằng kia có một con đường tên là "Đường U Linh".

Thông tin này khiến ba người đều cảm thấy rất đỗi mơ hồ, đường U Linh nghĩa là gì? Nó là con đường cho người đi hay cho ma đi?

Khả năng biểu đạt của Karaweik rất kém, không thể giải thích rõ ý nghĩ của mình, cậu vò đầu bứt tai cuống cả lên, rồi dường như chợt nhớ ra điều gì, cậu bèn dốc ngược túi xách, lật tìm một hồi lâu, cuối cùng cũng lôi được một cuốn nhật ký rách nát, đoạn đưa cho hội Tư Mã Khôi xem.

Tư Mã Khôi đỡ lấy cuốn sách, cảm thấy hình như trong cuốn nhật ký có kẹp một vật gì đó, anh tiện tay lật giở, liền nhìn thấy một chiếc quân hàm đeo vai của bộ quân phục, trên đó thêu hình một chiếc đầu hổ, nền màu xanh thẫm, như để tượng trưng cho rừng rậm nhiệt đới, bên dưới có mấy hàng chữ cái tiếng Anh, nhưng đã bị sờn rách từ lâu, khó có thể phân biệt đó là chữ gì. Dưới chiếc huy hiệu còn kẹp một bức ảnh đen trắng đã ngả vàng, hình ảnh không rõ nét, có lẽ là bức ảnh chụp tập thể của cả doanh trại bộ đội hơn mấy trăm người. Do số người quá đông nên trông toàn cảnh chi chít, không nhìn rõ được từng chi tiết cụ thể.

Giở mấy trang tiếp đọc nội dung được ghi chép bên trong cuốn nhật ký, không ngờ văn tự toàn bộ lại là chữ Hán, Tư Mã Khôi chỉ giở vài trang, càng đọc trong lòng càng cảm thấy kinh ngạc. Cùng lúc đó, anh cũng suy đoán được câu chuyện mà Karaweik muốn nói - Ở góc ngọn núi hoang vu hiểm yếu nhất của núi Dã Nhân quả thực tồn tại một con đường vừa thần bí vừa ẩn kín, tên là đường U Linh. Con đường đó vốn có tên là đường Stilwell, được bộ đội công trình hai nước Trung – Mỹ liên thủ xây dựng nên trong thời kỳ thế chiến thứ hai. Cuốn nhật ký cũng nhắc đến dải khu vực có liên quan đến đường U Linh, con đường này hệ lụy đến rất nhiều sự kiện đặc biệt thần bí khác.

HỒI 4: A – B (1)

Thỉnh thoảng Tư Mã Khôi lại có suy nghĩ: "Vận may, cái thứ ấy đôi lúc lại có vài phần giống với tính cách con gái, bạn càng muốn có cô ấy thì cô ấy lại càng tránh xa bạn, đến khi bạn chẳng còn ôm chút vọng tưởng nào nữa, thì cô ấy lại tự mình mò đến tìm".

Tình thế bây giờ vừa vặn ứng với suy nghĩ ấy, sau khi đội du kích Miến Điện Cộng hòa tan rã, những kẻ sống sót hội Tư Mã Khôi

 quyết định mạo hiểm xuyên qua núi Dã Nhân trở về Trung Quốc, tuy rằng biết chắc con đường họ đang đi là con đường tử thần không có chút cơ may sống sót, nhưng vẫn không thể không gắng hết sức tiến lên phía trước. Đúng lúc gần như mọi hy vọng đều bị dập tắt thì Karaweik lại chỉ ra một "con đường quân sự" bí ẩn dị thường.

Tư Mã Khôi biết việc này liên quan rất hệ trọng đến nhiều việc khác nên không dám nhẹ dạ tin tưởng, mà nhờ Tuyệt hỏi lại Karaweik xem cuốn nhật ký và chiếc huy hiệu hình đầu hổ xuất xứ từ đâu. Còn anh và La Đại Hải hai người cắm cúi đọc tiếp cuốn nhật ký để xem có thể tìm thấy đáp án từ đó không.

Khoảng hơn nửa tiếng sau, Tư Mã Khôi cuối cùng cũng hiểu rõ mọi mạch nguồn sự việc. Thì ra trong lòng núi Dã Nhân che giấu một con đường chiến lược. Các tư liệu lịch sử gọi nó là đường Stilwell.

Con đường Stilwell kéo dài từ vùng Đông Bắc Ấn Độ ngang qua Miến Điện tới tận vùng Tây Nam Trung Quốc. Con đường được Mỹ và Trung Quốc liên thủ xây dựng từ Thế chiến II, có tổng chiều dài 1.726 km, là con đường xuyên rừng, băng qua nhiều núi trong dãy Himalaya, và hơn 100 con sông. Hầu hết các đoạn đường đều bị rừng che phủ và không thể sử dụng được. Con đường này đã được các lực lượng Anh và Mỹ sử dụng nhằm cung cấp vũ khí, quân binh cho Trung Quốc để chống Nhật Bản trong Thế chiến II. Con đường đã được Tưởng Giới Thạch đặt theo tên của chỉ huy quân sự Mỹ "Joseph Warren Stilwell" .

Đây là khu vực có địa hình gồ ghề khúc khuỷu và phức tạp nhất trên trái đất, lớp vỏ địa cầu dường như đến đây thì đột nhiên đội lên vô số nếp gấp, một số nơi có độ cao chênh lệch lên tới ba bốn ngàn mét.

Năm đó có một bức ảnh thời sự chiến tranh nổi tiếng khắp thế giới, tấm hình chụp cảnh một đoàn xe tải Mỹ nối đuôi nhau chạy chầm chậm loanh quanh con đường núi ngoằn nghoèo, con đường đó nhỏ hẹp dị thường, chỉ trong khoảng cách vài cây số ngắn ngủi, liên tiếp xuất hiện mấy chục đoạn cua gấp. Còn một bức khác thì không nhìn thấy đoàn xe tải, mà chỉ thấy con đường núi quanh co, lượn vòng. Hai bức ảnh đó đều có chung một phông nền – đó là đoạn đường lừng danh có tên "Con đường hai mươi bốn khúc cua", nó chính là một phần của tuyến đường Stilwell.

Khi tiến hành xây dựng con đường này, tình hình chiến tranh đang bước vào giai đoạn cao trào, máy bay vận tải của không quân Mỹ viện trợ cho Trung Quốc liên tục đi đi về về con đường nhấp nhô đỉnh núi, nhưng dung tích vận tải của máy bay chỉ có hạn, thêm vào đó điều kiện phi hành trên tuyến đường này vô cùng khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra tình trạng máy bay rơi tan xác, tổn thất về người và của quả không thể tính đếm. Nếu chỉ dựa vào con đường hàng không thì khó lòng có thể viện trợ một cách đầy đủ cho nhu cầu vật chất ngày một phình to khổng lồ của cả chiến trường Trung Quốc, bởi vậy phía quân đội quyết định mở con đường đi xuyên qua khu rừng nguyên sinh.

Miến Điện lúc đó đang bị quân Nhật chiếm đóng, bộ đội công binh Trung Quốc và Mỹ đã phải trả giá rất đắt để xây dựng con đường này. Họ đào núi thông đường, bắc cầu qua sông, trong lúc xây dựng cầu đường, cuộc chiến tranh với quân Nhật vẫn diễn ra ngày một khốc liệt hơn, mỗi một mét đường đều được đắp bởi sự hi sinh của mấy mạng người. Có thể nói, người ta đã dùng tính mạng quý báu của không biết bao nhiêu quân nhân để đổi lấy con đường khúc khuỷu gồ ghề đó.

Điều hiển nhiên mà ai cũng biết là, con đường Stilwell không phải tuyến đường duy nhất, ngoài hai trục đường chủ đạo mà lúc đó gọi là "trục bắc" và "trục nam" ra thì ở giữa còn có rất nhiều đường nhánh, nguyên nhân chính là do kết cấu địa chất ở đây quá sức phức tạp, môi trường tự nhiên vô cùng khắc nghiệt, khiến con đường đang xây dựng dở dang thì bị bỏ dở và chuyển sang nơi khác. Vì vậy, men theo con đường Stilwell ngoằn nghoèo như rắn lượn xuất hiện rất nhiều đoạn đường rẽ ngang bỏ hoang phế.

Trong đó tuyến đường bị bỏ hoang dài nhất nằm trong lòng núi Dã Nhân thuộc miền Bắc Miến Điện. Năm đó, bộ đội công binh liên hợp Trung Mỹ đã tìm thấy một con đường xưa cũ hoang tàn từ thời kỳ chiến tranh giữa Anh và Miến Điện còn để lại trong cánh rừng bí ẩn nơi núi sâu.

Từ những năm chủ nghĩa thực dân bành trướng ở phương Tây, người Pháp đặt hệ thống cai trị của mình dọc suốt ba nước Việt Nam, Campuchia, Lào và gọi chung là Ấn Độ Na Dương. Còn Miến Điện lúc bấy giờ là thuộc địa của thực dân Anh.

Trong cánh rừng nguyên sinh giữa lòng sơn cốc có một dải đất từ đầu chí cuối không thuộc địa phận của bất kỳ quốc gia nào. Song phương Anh, Pháp đều bỏ rất nhiều công sức và tiền bạc để xây dựng các tuyến đường bộ và đường sắt với vọng đồ mưu chiếm lấy khu vực này về tay mình, nhưng những khó khăn và nguy hiểm mà họ gặp phải ở núi Dã Nhân quả thực vượt xa khỏi sức tưởng tượng, rất nhiều người phải bỏ mạng nơi đây, bởi vậy cuối cùng công trình vẫn không thể hoàn thành. Những sự việc khủng khiếp mà mỗi bên gặp phải trong núi Dã Nhân từ trước đến nay đều được giữ bí mật, chẳng bên nào dám tiết lộ công khai.

Trong một ngôi chùa ở Miến Điện ẩn chứa một bức bản đồ cổ với lai lịch bất minh. Bức bản đồ mô tả về "Tượng Môn" của núi Dã Nhân. Địa danh có tên Tượng Môn ấy kỳ thực là một sơn cốc rất sâu. Môi trường tự nhiên trong cốc âm u, ẩm ướt, vô cùng thích hợp để các loại mãng xà khổng lồ ở Miến Điện ẩn thân. Nghe nói, sơn cốc chính là lãnh địa vùi xương của đàn voi rừng. Tuy rằng di tích thời xưa đã sớm tiên tan không còn dấu vết nhưng khi xây dựng con đường Stilwell, bộ đội công trình Mỹ đã tham khảo bức bản đồ cổ, rồi căn cứ vào địa hình của dãy núi để sửa chữa con đường thành hình quanh co như lượn sóng, đồng thời hi vọng có thể tận dụng đoạn đường bị bỏ phế mà quân Anh để lại, như vậy vừa có thể tiết kiệm được rất nhiều công sức, vừa có thể làm đường đi xuyên qua lòng núi.

Tuy nhiên, cuối cùng sự việc không như mong muốn, đoạn đường chìm lặng nơi góc chết khu vực miền núi Bắc Miến này dần dần bị người đời cho vào quên lãng và trở thành "Con đường U Linh" hữu danh vô thực, vất vưởng bao linh hồn oan khuất. Từ đó trở đi chẳng ai có thể biết đích xác vị trí của nó nữa.

Khi đó, để nhanh chóng đạt được hiệp ước hành động quân sự song phương giữa Trung Quốc và Mỹ nên bộ đội Trung Quốc đã điều phối rất nhiều sĩ quan quân đội trung hạ cấp biết tiếng Anh và từng được huấn luyện qua lớp đào tạo sĩ quan Mỹ ở Ấn Độ gia nhập quân đội Mỹ. Trong số đó có thiếu úy Từ, tên đầy đủ là Từ Bình An, ông được đặc phái đến "Quân đoàn công trình tác chiến độc lập thứ sáu quân đội Mỹ", đồng thời theo binh đoàn này gánh vác trọng trách cực kỳ gian khổ, đó là xây dựng cầu đường ở núi Dã Nhân. Trong một lần chiến đấu với quân Nhật, ông không may bị thương nặng, cả gương mặt cháy bỏng nghiêm trọng, hủy hoại hoàn toàn dung nhan, trên thân thể cũng để lại di chứng tàn phế, sau khi lành vết thương, ông không muốn trở về tổ quốc mà chọn cách lưu lại Bắc Miến, lấy một cô gái bản địa làm vợ.

Từ Bình An chính là cố nội của Karaweik, ông đã ghi chép tất cả những điều mắt thấy tai nghe ở núi Dã Nhân vào cuốn sổ nhật ký. Có điều ông từ giã cõi đời khá sớm nên hậu duệ đều nhập gia tùy tục, hơn nữa họ lại được sinh ra và lớn lên trong núi sâu nên tuy là Hoa kiều nhưng chẳng ai biết nói tiếng Trung Quốc cả.

Vì Karaweik là người Hoa kiều, hơn nữa lại từng được Hạ Thiết Đông cứu mạng nên cậu luôn tỏ ra gần gũi với người Trung Quốc trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện và thường cảm thấy bản thân có quan hệ họ hàng với những người này. Tuy cậu không hiểu hội ba người Tư Mã Khôi đang bàn bạc vấn đề gì nhưng không khó nhận ra những người này đang muốn tiến vào núi Dã Nhân hung hiểm không gì sánh nổi.

Ở Miến Điện có một loại hương liệu rất đặc biệt, nó là nguyên liệu xông khói được đào từ gốc cây cổ thụ trong rừng, sau đó đem nghiền dần dần cho đến khi nát vụn mới có thể chế thành. Núi Dã Nhân có rất nhiều cây cổ thụ hàng ngàn năm tuổi, ông Từ Bình An rất thông thạo địa hình của dải núi, hơn thế nữa còn nắm rõ tình hình phân bố từng đoạn đường, bởi vậy ông thường vào núi đào rễ cây chế thành hương liệu hoặc hái thuốc nơi núi cao vực thẳm, để duy trì cuộc sống mưu sinh hàng ngày.

Karaweik từng được người nhà nhiều lần dẫn vào núi hái thuốc, nên khá quen đường, tuy qua nhiều năm, con đường vận tải quân dụng được xây dựng ngày xưa đã sớm bị bùn đất và thảm thực vật che lấp, lại có những đoạn dài bị chôn vùi do lở núi, ngoài Karaweik ra thì những người còn lại khó có thể tìm thấy dấu vết con đường cũ bị che khuất dưới lòng đất.

Ghi chép của ông Từ Bình An, tuy không vẽ bản đồ nhưng thông qua con chữ, ông đã mô tả địa hình núi Dã Nhân rất chi tiết. Dải núi này chiều đông tây khá rộng nhưng chiều nam bắc lại rất hẹp, địa thế từ Tây Bắc thấp dần xuống Đông Nam. Địa hình của nó vô cùng gồ ghề, phức tạp, thực vật rậm rạp, um tùm, dưới lòng đất có vô số động huyệt rỗng, sương mù dày đặc, tích tụ từ năm này qua năm khác, chẳng bao giờ tiêu tan. Con đường Stilwell từ Nam chí Bắc, chạy quanh co khúc khuỷu đến núi Dã Nhân thì chẽ ra thành hình chữ Y, ở giữa là một phân nhánh, bên phải đánh dấu là tuyến đường 719A, bên trái là tuyến đường 206B, được quân Mỹ gọi chung bằng cái tên "Đường U Linh".

Tuyến đường A cuốn quanh dải đất men theo sườn phải của núi Dã Nhân, tuy đường dài và phải đi vòng vèo nhưng lại tương đối an toàn. Còn tuyến đường B tận dụng rất nhiều động huyệt tự nhiên, để đâm xuyên qua núi. Đó là con đường thẳng cách biên giới Trung Quốc ngắn nhất.

Nhưng khu vực mà tuyến đường B của con đường U Linh đi qua lại là khu vực đáng sợ nhất trong cả dải núi Dã Nhân. Lúc xây dựng đường hầm này, người ta phát hiện hầu hết các khe đá huyệt động trong lòng núi Dã Nhân đều có màn sương dày đặc trắng xóa phun trào, những người đi vào trinh thám không một ai trở về. Con đường càng tiến vào sâu càng khiến nhiều thành viên của "Quân đoàn công trình tác chiến độc lập thứ sáu quân đội Mỹ" mất tích, đến nay vẫn chẳng rõ tông tích.

Về sương mù xuất hiện dưới lòng đất, người ta đặt ra ba giả thuyết: Thời kỳ thực dân sơ khai, có một nhà thám hiểm người Anh từng nêu quan điểm, đây là "chướng khí", ông ta suy đoán trong sương có hàm chứa một loại vật chất kịch độc, chỉ cần hít vào liền gây ra tình trạng tim gan tê liệt, nhưng sau đó qua nhiều lần thử nghiệm, giả thuyết thứ nhất hoàn toàn bị loại trừ. Người ta lại đưa ra một cách giải thích khác, tục truyền ở nơi sâu trong Tượng Môn có một con mãng xà khổng lồ màu đen cư ngụ, người bản địa gọi nó là "Trường xà", dân gian nhiều kẻ còn thờ phụng nó như thần tiên, nó dài đến hàng mét, có thể phun sương nhả mây, chỉ cần người hoặc gia súc đi ngang gần đó lập tức bị nó hút thẳng vào bụng.

Đồng thời, họ còn đồn đại nước suối chảy ra từ đám mây mù đó đều lọc qua hàng đống xương trắng chất cao như núi, trong đó còn ngấm cả độc dịch do mãng xà tiết ra, bởi vậy tuyệt đối không được uống.

Giả thuyết có mãng xà phun sương nhả mây dưới lòng đất được rất nhiều người tin là thật, có điều nếu bạn hỏi đã ai tận mắt nhìn thấy chưa, thì tất cả đều lắc đầu quầy quậy, nhưng sau đó đều phát thệ với Phật tổ rằng quả thực có người từng nhìn thấy nó ở núi Dã Nhân. Nói đi nói lại, cuối cùng khó lòng phân biệt nổi thật giả, vì vậy không thể kỳ vọng lấy được tin tức gì đó đáng giá từ miệng người bản địa.

Thậm chí, có người còn nói, các thổ dân thời cổ đại để bảo vệ bí mật được ẩn giấu trong núi Dã Nhân, đã yểm bùa vào nguồn nước, kẻ trúng tà rất khó giải cứu, gần như không còn đường sống.

Tóm lại, nhắc đến ngọn núi Dã Nhân, thực sự chỉ khiến người ta "không lạnh mà sởn gai ốc, nghe nói mà mặt biến sắc", nó dường như là con ác quỷ có thể nuốt chửng mọi sinh mệnh trên đời. Bào trùm lên tất cả các truyền thuyết ly kỳ là màn sương mù dày đặc quấn quýt khắp quần thể núi, trông mờ mờ ảo ảo đến quái dị, khiến người ta nhìn mà khiếp sợ, khó mà nắm bắt.

HỒI 4: A – B (2)

Tuyến đường B do quân đoàn bộ đội công trình Mỹ xây dựng do gặp phải trở ngại quá lớn nên rốt cục đành đứt gánh giữa đường, từ sườn Tây núi Dã Nhân quay về tuyến đường A. Tuy cuối cùng tuyến đường này không thể thông suốt nhưng vẫn có thể đi vòng qua núi Dã Nhân, dự tính phải mất mười mấy ngày lộ trình.

Karaweik lo lắng hội ba người Tư Mã Khôi có thể bị lạc đường trong rừng rậm 

nguyên sinh, rồi đi nhầm vào đám sương mù trong núi sâu mà dâng tặng cả tính mạng cho quỷ dữ. Hơn nữa, trong thời kỳ đại chiến thế giới thứ hai, quân Nhật từng dùng máy bay ném bom thả một lượng lớn bom mìn từ trên không xuống lòng núi, sau này mưa to gió lớn khiến đất đá và thảm thực vật che phủ phần địa bì bên trên, căn bản không thể nhìn thấy dấu vết của bom mìn. Karaweik từng theo cố nội vào núi nhiều lần, cậu biết rõ khu vực bom mìn dày đặc chi chít đó, vì thế mới nhất quyết đòi đi theo. Cậu muốn chỉ cho họ thấy tuyến đường A của con đường U Linh, rồi dẫn mọi người đến gần khu vực tam giác Bắc Miến, nơi đó cách biên giới Trung Quốc chẳng còn bao xa.

Tư Mã Khôi khẽ cảm động trong lòng, thầm nghĩ bao nhiêu năm cách biệt với tin tức nơi quê nhà, chỉ phong thanh được vài thông tin vỉa hè, cũng chẳng rõ tình hình trong nước cụ thể ra sao nữa, nhưng năm đó mấy người bọn ta lẻn trốn khỏi tổ quốc, giờ trở về với tư thế của kẻ bại trận, chẳng có chút anh hùng khí khái nào, cũng không thể viện ra nổi bất kỳ lý do gì để biện hộ cho hành động năm đó. Thảng hoặc số may giữ được mạng sống mà trở về, nếu không bị quy vào tội danh hàng địch phản quốc thì đã là kỳ tích không dám tham lam mơ tưởng đến. Chỉ e cho dù không bị xử bắn, thì cũng phải ngồi tù mọt gông. Còn về cái cậu Karaweik, đương nhiên vì được đưa vào Trung Quốc bất hợp pháp, nên kết cục tốt nhất dành cho cậu bé chẳng qua cũng chỉ là sau khi rời khỏi núi Dã Nhân, sẽ dẫn cậu đến một ngôi chùa, xuất gia làm hòa thượng rồi yên ổn sống hết kiếp này mà thôi. Nhưng đồng thời anh cũng hiểu, nếu để Karaweik ở lại Miến Điện, hậu quả cậu phải lãnh chịu chắc chắn không tránh khỏi cảnh bị truy bắt và chỉ có con đường chết chờ đợi. Có điều kết cục này quá tàn khốc, anh quả thực không nỡ nghĩ đến.

Tuyệt thương xót sờ sờ vào cái đầu trọc lốc của Karaweik, giọng nghèn nghẹn: "Đứa bé này thật tốt bụng!", cô vừa nói vừa trừng mắt nhìn La Đại Hải, như tỏ ý trách móc anh lúc đầu hay nổi cáu với Karaweik.

Hải ngọng cảm thấy hơi ngượng ngập, anh thường đối xử với mọi người khá thiếu tế nhị, lại không giỏi thể hiện tình cảm thật, thường ngày anh hay lắm lời, nhưng đến lúc cần phải nói thì lại chẳng nói được câu nào tử tế, đành phải giả bộ "quan tâm đến sự trưởng thành của đàn em", nói tía lia với Karaweik: "Không ngờ thằng giặc nhỏ này lại là Hoa kiều, hôm nay… mẹ kiếp! cứ coi như La Đại Hải anh đây nợ chú một món".

Tư Mã Khôi hiểu rất rõ tuy La Đại Hải chỉ nói một câu đơn sơ như vậy nhưng sâu bên trong chứa đựng ý chí sẵn sàng chết thay cho Karaweik một mạng. Có điều không hiểu sao, sau khi đứng bên cạnh nghe mấy lời này, trong lòng Tư Mã Khôi đột nhiên dội lên cảm giác sợ hãi khó tả, anh linh cảm chuyến đi này lành ít dữ nhiều. Anh cũng không hiểu nguyên nhân gì lại khiến mình có dự cảm xấu đến thế, thầm nghĩ hay là cứ ở lại trong rừng rậm nguyên sinh làm người rừng quách cho xong. Về mà phải chết thì thà cứ trốn trong rừng sâu mai danh ẩn tích chẳng phải tốt hơn sao?

Nhưng Tuyệt và La Đại Hải lại một lòng nhớ cố hương, hai người họ cứ thúc giục Tư Mã Khôi mau lên đường, hiện giờ càng hướng về phía bắc càng an toàn, nếu không cơn bão nhiệt đới "Buddha" mà tới thì có muốn đi cũng chẳng thể đi nổi.

Tư Mã Khôi đành lấy lại tinh thần, đi theo ba người vào khe núi phía tây. Nếu tính theo đường chim bay thì khoảng cách trong rừng rậm núi sâu trông có vẻ khá gần nhưng do địa hình gồ ghề, độ cao chênh lệch rõ rệt, nên khi đi thì lại vô cùng xa xôi và gian nan. Họ vượt núi băng rừng, mải miết đi cho đến khi hoàng hôn buông xuống mà vẫn chưa đến được chân tuyến đường A của con đường U Linh

Trên mình bốn người bọn họ chẳng còn lấy nửa gói lương thực. Đi nhiều giờ trong núi, bụng đói cồn cào, không thể chịu nổi, họ đành bắt hai con rắn cỏ chia nhau ăn tạm, cháo ít vãi nhiều còn biết làm sao. La Đại Hải vô tình ngẩng đầu lên nhìn, chợt phát hiện trong lùm cây cổ thụ có một con chim rừng chẳng biết thuộc họ gì. Con chim đó có bộ lông vũ xanh biếc, rất sặc sỡ, sống động, trông nó khá lớn, tiếng kêu nghe như tiếng người ta gõ tay vào ống trúc rỗng.

Các loài chim trong rừng rậm nguyên sinh nhiều không kể xiết, đại bộ phận đều có hình dáng rất cổ quái, bọn chúng thường tỏ ra không sợ người, có lẽ từ trước đến nay chúng chưa từng nhìn thấy con người, nên cứ cho rằng loài người chẳng khác loài khỉ là mấy, nhìn thấy có người đi qua, chúng cứ ngơ ngác đứng ngẩn tò te nhằm về phía mình mà kêu quang quác.

Hải ngọng thầm nghĩ chỗ này chắc đã vào rất sâu trong núi, cho dù tiếng súng có to hơn nữa thì cũng chẳng lo đánh động kẻ địch. Anh cố gắng nuốt ngụm nước bọt, giơ khẩu súng do Anh chế tạo, ngắm chuẩn mục tiêu, ba viên đạn tạo thành một đường thẳng. Tiếng súng vừa vang lên, tiếng chim rơi xuống từ cây cổ thụ cũng vang lên một giây sau đó. Tiếng súng đồng thời cũng kinh động đến bầy chim cư ngụ trong khu rừng, chúng xáo xác lượn vòng giữa không trung và cất tiếng kêu thê thiết mãi một lúc lâu.

Karaweik và Tuyệt không thể chờ thêm liền chạy về phía trước để nhặt con mồi. La Đại Hải cũng đắc chí chạy theo, chỉ có Tư Mã Khôi bị thương khá nặng trên vai, đầu óc hỗn loạn, vác mỗi khẩu súng trường nặng chừng bảy tám cân mà đã cảm thấy bước đi không vững, nên đành bị tụt hậu lại phía sau. Đột nhiên Tư Mã Khôi cảm thấy sau người có chút khác lạ, liền lập tức đề cao tinh thần cảnh giác theo phản xạ. Đang định ngoái đầu lại nhìn xem rốt cục là cái gì thì thấy một khẩu súng lạnh băng kề ngay sau gáy.

HỒI 5: ĐÁY BIỂN (1)

Mấy năm ở đội du kích Bắc Miến, dường như ngày nào Tư Mã Khôi cũng phải nếm trải những thời khắc lăn lộn nơi đầu súng mũi dao, nên hiểu sâu sắc luật lệ của rừng già là lấy thịt đè người, mạnh sống yếu chết, chỉ cần tỏ ra nương tay hay do dự một chút chắc chắn sẽ chết mà chẳng có đất chôn thây. Lúc này, hốt nhiên anh phát hiện có kẻ kề súng ngay sau gáy, không kịp nghĩ ngợi lâu

 la, liền lập tức thi triển chiêu "Túm đầu quật ngửa". Anh đột ngột cúi mạnh người về phía trước, đồng thời vai phải ngửa ra sau phản đòn, không đợi kẻ tấn công lén kịp rơi xuống đất, bèn nhanh chóng kẹp chặt cánh tay cầm súng của đối phương.

Vết thương ở vai trái của Tư Mã Khôi vẫn chưa lành, nên không thể phát huy tối đa sức mạnh, chỉ đành gắng gượng thuận thế thúc một cùi chỏ như trời giáng từ trán xuôi xuống dưới, trúng ngay lá mía trên sống mũi, chỉ nghe tiếng xương mũi gẫy rủn, phát ra một tiếng kêu nhỏ, vụn xương đâm ngược vào trong não, tên đó chẳng kịp ư hử nửa lời đã mềm nhèo nhẹo đổ rạp xuống đất.

Trong lúc cấp bách, Tư Mã Khôi thân thủ nhanh như cắt, ra tay tàn độc gọn gàng, nhưng giờ đây sau khi hạ gục kẻ địch, anh không còn đủ sức thu thế nên cũng đổ nhào xuống theo. Điều anh lo sợ là chúng không chỉ có một tên, nên vội vàng lăn sang một bên, thuận đà cuộn một vòng giơ tay túm lấy khẩu súng trường SMLE, đang định chạy lên phía trước hô hoán hội La Đại Hải mau tìm chỗ ẩn nấp thì thấy hai mươi mấy tên lính Miến Điện được vũ trang đầy đủ thình *** h từ rừng rậm chui ra.

Đám lính mới xuất hiện phần đông đều vận y phục đen, đầu chít khăn rằn, trong tay lăm lăm khẩu súng xung phong MP.18, họng súng đen ngòm chĩa thẳng vào hội ba người La Đại Hải ở phía trước, xem tình hình này, chỉ cần Tư Mã Khôi dám manh động một chút, họ sẽ lập tức bị bắn tan xác pháo.

Tư Mã Khôi tự biết không thể phản kháng nổi, nên đành buông vũ khí đầu hàng, chịu trận để người ta trói gô thành bó, chặt như nêm giò. Tư Mã Khôi tự than khổ trong bụng, chẳng ngờ vào đến tận rừng sâu rồi mà vẫn còn gặp kẻ địch, nhưng nhìn trang phục và vũ khí của nhóm người này có vẻ rất hỗn tạp, không giống với quân đội chính phủ. Nơi ma quỷ hung hiểm dị thường ở núi Dã Nhân này có lẽ chỉ những hạng người chạy tháo mạng như "đội du kích, phạm nhân giết người cướp của hoặc buôn bán thuốc phiện" mới dám lui tới.

Tư Mã Khôi không đoán nổi nhóm người này rốt cục muốn làm gì nhưng trong lòng cũng ngầm hiểu, mình đã giết chết một đồng bọn của đối phương, nay lại rơi vào tay chúng, đừng nói có viễn cảnh tốt đẹp gì chờ đợi phía trước mà ngay cả tính mạng chắc cũng khó có thể bảo toàn.

Đúng lúc này, từ phía sau đám lính vũ trang Miến Điện lại có sáu người nữa bước ra, già có, trẻ có, trong đó còn có một thằng tây cao to lực lưỡng. Có điều không ngờ kẻ cầm đầu lại lại một cô gái trẻ măng, mặt mày xinh xắn, thanh tú, xem ra cũng chỉ tầm hai mươi mấy tuổi là cùng, đầu đội chiếc mũ chiến đấu có lắp kính chắn gió, trên người mặc bộ trang phục của thợ săn, trông cô ta toát lên vẻ sáng láng, anh dũng hơn người, tinh tường, từng trải.

Đám lính vũ trang Miến Điện lục soát hội bốn người Tư Mã Khôi từ ngoài vào trong rất kỹ càng, rồi đem mấy vật phẩm vụn vặt cùng cuốn nhật ký của Karaweik tất cả giao nộp cho nữ thủ lĩnh xem xét.

Cô ả mặt không biến sắc, cầm từng món lên xem, đợi khi lật đến cuốn nhật ký của ông Từ Bình An, một chút biểu hiện kinh ngạc khẽ thoảng qua gương mặt. Cô ả lập tức gấp cuốn nhật ký lại, cúi đầu nhìn xác chết của đồng bọn đổ rạp trên mặt đất, rồi đi đến trước mặt Tư Mã Khôi, chăm chú nhìn từ đầu xuống chân như ngầm đánh giá, cuối cùng cũng mở miệng hỏi: "Các anh là người Trung Quốc hử? Sao lại mặc quân phục của quân đội nhân dân Miến Điện? Các anh đến khu rừng già trong vùng núi sâu Bắc Miến này để làm gì?"

Trong mắt Tư Mã Khôi, cô ả trông rất giống với các nhân vật nữ chính bước ra từ phim cổ trang, chẳng biết gốc gác lai lịch ra sao, nhưng nghe đối phương hỏi như thể hoàn toàn không biết việc quân đội nhân dân Miến Điện Cộng hòa có hàng vạn người Trung Quốc, thì liền suy đoán có lẽ họ mới từ nước ngoài đến đây. Anh lại thấy cô gái phát âm tiếng Trung nghe rất trong và chuẩn, không giống với người lớn lên mới học, lại đoán chắc cô ả là người Trung Quốc, hoặc chí ít cũng từng là người Trung Quốc. Tư Mã Khôi cũng tự biết người Trung Quốc mà trà trộn giữa đám người Miến Điện, chỉ liếc mắt một cái là nhận ra ngay, nên thấy chẳng cần thiết phải giấu diếm làm chi. Trong lòng thầm nghĩ: "Xem chừng việc này quá nửa là có đất xoay chuyển tình thế", nhưng trước mắt vẫn chưa rõ đám người này và quân đội chính phủ liệu có liên can gì đến nhau không nên không trả lời, mà chỉ gật đầu một cái.

Cô ả mỉm cười ra vẻ thân thiện rồi hỏi: "Sao anh không dám nói, hay tại sợ quá?", đầu óc Tư Mã Khôi không ngừng chuyển động tìm kế thoát thân, nhưng miệng vẫn giảo hoạt mập mờ: "Tôi quả là có chút vô cùng hoảng sợ".

Nào ngờ, nghe xong cô ả lập tức đanh sắc mặt, nhìn lạnh băng như nước đá, khẽ hừ lên một tiếng trong cổ họng: "Đừng giở trò cợt nhả với tôi! Khi nãy thuộc hạ của tôi vừa dùng họng súng kề ngay sau gáy, mà anh vẫn đủ thời gian giơ tay thúc chân giết hắn ngay tức thì, không những thế còn giết vô cùng nhanh gọn tàn nhẫn, chẳng hề do dự một giây. Anh giết người mà không thèm chớp mắt, có được thân thủ nhanh nhẹn và tố chất tâm lý kiệt xuất như vậy mà còn dám mở miệng kêu lo lắng, hoảng sợ vào lúc này sao?

Tư Mã Khôi dòm ánh mắt sắc như dao của cô ả thì biết cô nàng này không phải tay dễ đối phó, nhưng miệng vẫn lem lẻm: "Sở dĩ tôi cảm thấy lo lắng là vì cô ở gần tôi quá, nếu cô đứng cách xa tôi khoảng mười bước thì còn tạm được, nhưng nếu vượt quá khoảng cách này là tôi lại cảm thấy không an toàn".

Cô ả lạnh lùng trợn mắt nhìn Tư Mã Khôi một cái: "Tôi hỏi gì, tốt nhất anh hãy thành thực mà trả lời. Chẳng niệm tình các anh là người Trung Quốc, tôi đã không hạ lệnh bắt sống mang về, nếu bây giờ tôi giao nộp các anh cho bọn người Miến Điện, chắc chắn các anh sẽ bị họ mang lột da sống ngay trên cọc. Tôi nghĩ chắc anh hiểu rõ, bọn họ có nhiều chiêu đày ải thể xác người khác như thế nào".

Tư Mã Khôi hoàn toàn phớt lờ lời đe dọa của cô ả, hùng hồn nói: "La Đại Hải tôi xin hoan nghênh các vị đến mần, ai mần tốt sẽ được trọng thưởng".

La Đại Hải đang bị người ta trói nghiến, ấn nằm xuống đất, từ đầu đến giờ chẳng kêu rên nổi tiếng nào, bây giờ nghe thấy Tư Mã Khôi mạo nhận mình nói nhăng nói cuội, lập tức giãy dụa, ngoác miệng mắng lớn: "Tiên sư thằng Khôi, sao cậu mất dạy thế hả? cậu có chú không hử? Tớ ị vào chú cậu!"

Cô ả thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải căn bản không coi mình ra gì, hơn nữa hai người đều là dạng mồm mép giảo hoạt, hỏi cả ngày mà chẳng thăm dò được nửa câu hữu dụng từ miệng họ, rõ ràng bạn hỏi đông, họ lại đi trả lời tây. Lửa giận không biết từ đâu bốc lên ngùn ngụt, ý niệm giết người vụt lóe lên trong đầu, cô ả giật mạnh tóc của Tuyệt ngược ra sau, liền sau đó rút "xoẹt" con dao săn ra, ánh thép lạnh băng. Cô ả dí lưỡi dao xuống dưới cằm Tuyệt, mắt nhìn chằm chằm vào Tư Mã Khôi, hằn giọng đe dọa: "Nếu anh còn nói năng bậy bạ nữa, tôi sẽ cắt đứt cổ họng con ả này".

Tuyệt không hề sợ sệt, điềm nhiên nói: "Tôi muốn chết từ lâu rồi, có giỏi thì cứ cho tôi một cái chết thật sảng khoái xem nào!", sau đó cô liền nhắm mắt chờ đợi, Karaweik ở bên cạnh cuống quýt gào thét, nhưng bị một người Miến Điện đạp ngã vật ra đất, cầm súng chọc mấy cái liên tiếp vào đầu, trong phút chốc, máu chảy lênh láng khắp mặt cậu bé.

La Đại Hải nhìn thấy cảnh tượng ấy, không dằn lòng được liền liên miệng chửi mắng. Tư Mã Khôi cố nuốt giận vào trong, mặt không biến sắc, tuy bề ngoài vẫn tiếp tục hời hợt ứng khẩu, nhưng trong lòng thì âm thầm tìm cơ hội thoát thân, cướp súng khống chế lại kẻ địch. Khi đưa mắt nhìn tứ phía, anh đột nhiên phát hiện ngoại trừ hai mươi mấy tên lính vũ trang Miến Điện ra thì mấy người do cô ả cầm đầu còn cõng theo một thanh hợp kim ở sau lưng.

Tư Mã Khôi nhận ra loại vũ khí này, nó có tên tuổi đàng hoàng, gọi là "Giáo mỏ vịt", cây giáo rỗng ruột, được làm bằng ngũ kim, thân to bằng quả trứng ngỗng, cán dài bằng vai người, bên trong chứa ba khúc ngầm, có thể kéo dài hoặc thu ngắn, co duỗi tùy ý, phía trước mũi còn có hình đầu thú há miệng, từ trong khe miệng nhả ra mũi giáo giống hình đầu trượng, mũi giáo bằng, dẹt và sắc lẻm, hơi giống với cây thiền trượng ngũ hành mà các tăng nhân du phương vẫn thường sử dụng, nhưng tinh tế và nhanh nhạy hơn nhiều, lại rất tiện mang theo. Nó chính là công cụ độc môn dùng để phán đoán điều kiện địa chất của Kim Điển tiên sinh khi vẫn còn treo biển hành nghề năm xưa, loại công cụ này có thể đào núi lấy đất, ngay cả tầng nham thạch cứng rắn, dày đến mấy tấc cũng vẫn đào được, không những thế nếu lỡ trong núi hoang rừng thẳm chẳng may gặp phải bất trắc, còn có thể sử dụng như món binh khí phòng thân. Nghe nói, bọn trộm mộ ở khu vực Lĩnh Nam và Quan Đông trước đây vẫn thường dùng nó để đào mộ huyệt, bật nắp quan tài.

Tư Mã Khôi nhìn không sai vào đâu được, trong lòng bèn sinh nghi: "Xem ra nhóm người này không phải lính truy sát do quân đội chính phủ phái đến, nhưng từ trước đến nay nước giếng chẳng phạm tới nước sông, vậy hà cớ gì họ cứ nhất định phải tranh chấp với bọn ta nhỉ? Hơn nữa núi Dã Nhân thần bí khó lường này có thể nói là góc tối nguy hiểm nhất trên thế giới, rốt cục trong núi ẩn chứa những bí mật gì đáng để bọn trộm mộ bất chấp tất cả, mạo hiểm tính mạng tìm đến đây?"

Bên cạnh cô ả còn có một lão già chừng ngoài năm mươi tuổi, thân hình trung bình hơi gầy một chút, dưới cằm còn để một chùm râu dê, đầu trọc lốc, bóng lộn, giống với dáng vẻ của một "học giả". Lão ta nhìn thấy không khí lúc này đã căng thẳng đến cực độ, dường như sắp xảy ra nguy cơ tàn sát đẫm máu đến nơi, liền vội vàng chạy ra dàn hòa. Trước tiên, lão ta giải thích đầu đuôi sự việc cho Tư Mã Khôi nghe, lão tự giới thiệu mình họ Khương, quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, xuất thân là một "nhà thư pháp", đoạn quay sang giới thiệu cô nàng thủ lĩnh, thì ra cô ả họ Thắng, tên Ngọc, mọi người thường gọi là "Ngọc Phi Yến".

Khương sư phụ thanh minh bọn họ là đội thám hiểm khảo sát địa lý, muốn vào sâu trong lòng núi Dã Nhân để tìm dấu tích con đường Stilwell năm xưa. Đầu tiên họ phải bỏ rất nhiều tiền để thuê một đội quân quân phiệt rất có thanh thế ở vùng tam giác Bắc Miến, sau đó mới tìm cơ hội tiến vào núi. Nhưng khổ nỗi, chẳng ai trong số họ thông thuộc môi trường trong rừng rậm, lại không có người dẫn đường, nên cứ loanh quanh mãi trong núi suốt mười mấy ngày trời mà chẳng có kết quả gì.

Khi nãy đội thám hiểm nghe thấy tiếng súng trong rừng, lập tức tỏa ra tứ phía ẩn trốn, sau đó phát hiện hội mấy người Tư Mã Khôi, trên mình ai nấy đều khoác súng trường, hơn nữa lại có vẻ giống người Hoa, chỉ sợ xảy ra nhầm lẫn tạo thành xung đột không đáng có, nên mới sử dụng hạ sách tấn công lén, kỳ thực chẳng qua họ chỉ muốn sau khi giải trừ vũ khí của đối phương sẽ ngồi xuống thương lượng chính sự, nào ngờ Tư Mã Khôi hạ thủ quá tàn độc, khiến tình hình vượt ra ngoài dự liệu ban đầu, chẳng những hai bên chẳng khống chế được cục diện mà phía họ còn tổn thất một người anh em.

Khương sư phụ là một tay lọc lõi già đời, vừa nhìn là biết loại người như Tư Mã Khôi không thể dùng biện pháp cứng rắn mà chỉ ưa mềm dẻo, nên liền khuyên giải: "Trông các hạ râu hùm hàm én, rõ ràng là tướng vương hầu, không những thế thân thủ lại vô cùng phi phàm, chắc chắn không phải hạng người chơi không ngồi rỗi, khiến tôi bội phần khâm phục. Trộm nghĩ hôm nay chúng ta bèo nước tương phùng, trước đây đã chẳng gây thù, thì bây giờ cũng đừng nên kết oán, mất một tên lâu la đâu có đáng gì? Nhưng chớ vì một việc nhỏ mà làm tổn thương hòa khí.

Chúng tôi chỉ muốn hỏi một việc, cậu có biết chuyện gì liên quan đến con đường U Linh không?"

Nhưng lão đã phỏng đoán nhầm, Tư Mã Khôi là loại người rượu mời không uống, rượu phạt lại càng không, dầu mỡ chi cũng chẳng ưa, làm gì có chuyện anh dễ dàng tin vào mấy lời đường mật khéo léo ấy. Không đợi Khương sư phụ nói hết câu, anh liền đột ngột mở miệng chen vào: "Bọn "hối tử" trộm mộ các ông muốn tìm con đường Stilwell trong núi Dã Nhân để làm gì?". Anh suy đoán nhóm người Ngọc Phi Yến rất có khả năng là dân trộm mộ, nhưng không rõ mục đích cụ thể của cô ả, cho nên mới mang câu này ra làm mồi nhử, hỏi xem đối phương có phải là "hối tử" thật hay không.

Lời vừa dứt khỏi miệng, Thắng Ngọc và Khương sư phụ đã trợn mắt ngạc nhiên, không ngờ Tư Mã Khôi lại có thể nhận ra lai lịch của cả bọn, trong lòng không kiềm chế nổi cảm giác kinh ngạc, chẳng nhịn được liền buột miệng hỏi: "Làm sao cậu biết?"

Tư Mã Khôi quan sát phản ứng của đối phương liền biết tiên liệu của mình hoàn toàn chính xác, bèn dùng ánh mắt hướng về phía cây giáo mỏ vịt mà bọn họ đeo sau lưng, rồi cười nhạt hì hì lên mấy tiếng: "Võ Đại Lang nuôi Vương Bát – người nào của nấy thôi mà".

HỒI 5: ĐÁY BIỂN (2)

Thắng Ngọc và Khương sư phụ nghe xong, miệng không khép lại nổi, hai người liếc mắt ngầm trao đổi, sau đó Khương sư phụ lại gần cởi trói cho Tư Mã Khôi, nhưng ba người còn lại thì vẫn không được thả. Bọn họ chỉ mời một mình Tư Mã Khôi đến nói chuyện cụ thể.

Trước mắt, hai bên cùng có rất nhiều chuyện muốn hỏi đối phương, nhưng chẳng ai chịu mở lòng trước, bởi vì hệ lụy để lại

 rất lớn. Dường như mọi việc liên quan họ đều là những việc mờ ám trong bóng tối, hơn nữa lại không biết đối phương rốt cục là người như thế nào, nên chẳng ai dám dễ dàng hở miệng nửa câu. Trong giới lục lâm có quy tắc "Ba nói, ba không nói". Nếu lỡ gặp phải tình huống như bây giờ có thể vận dụng phương thức quen dùng của các hành bang, hai thủ lĩnh của mỗi bên cùng nhau ngồi xuống mặt đối mặt – "Gạn đáy biển". Đây là cách sử dụng ám ngữ trong "Mắt đáy biển giang hồ" của thế giới ngầm để thăm dò, gạn hỏi lẫn nhau. Sau khi đôi bên đều hiểu rõ gốc rễ ngọn ngành, mới dám đem những việc cơ mật ra bàn bạc chi tiết.

Khương sư phụ tìm thấy một phiến dá dài phủ đầy rêu xanh ở gần đấy, sau đó sai bọn lâu la lấy mười tám chiếc nắp ấm trà quân dụng để thay thế "bát trà", lại đổ đầy nước lọc vào trong, rồi lần lượt bày bố mười tám chiếc nắp ấm ở phía phải theo trận pháp đáy biển. Mọi việc xong đâu đấy, lão bèn mời Tư Mã Khôi và Thắng Ngọc ngồi vào hai phía đối diện của phiến đá.

Thắng Ngọc là chủ, lẽ đương nhiên phải mở màn trước, cô ả đẩy hai chiếc nắp trong thế trận ra phía trước, tay trái giơ ba ngón nhè nhẹ ấn vào một nắp, tay phải lại xòe ra bốn ngón chỉ chiếc nắp còn lại, nhếch mép cười: "Hành bang các phái, lấy nghĩa khí làm trọng, tam nhất bất nhị, lá rễ như nhau. Tư Mã huynh, mời anh uống trà trước".

Vết thương trên vai Tư Mã Khôi lại ngâm ngẩm đau, trong đầu dường như có hàng ngàn con bọ đang bò ngọ ngoạy, nhưng việc đã đến cơ sự này cũng đành đâm lao thì phải theo lao, anh vắt kiệt sức lấy lại tinh thần, nhìn hai chiếc nắp ấm bên trái và bên phải, biết rằng nếu tùy tiện uống sẽ bị đối phương đánh giá mình là kẻ ngoại đạo không hiểu phép tắc. Nghĩ vậy, anh liền lắc đầu nói: "Tại hạ đã không phải tam lão gia, cũng chẳng phải tứ thiếu gia, đâu dám mạo muội trước mặt quý lão gia".

Thắng Ngọc thấy anh am hiểu luật lệ, liền nhè nhẹ gật đầu, rút hai chén trà về, rồi bày lại thế trận "Nhất tự trường xà", xếp mười tám chiếc nắp thành một đường dài ngoằn nghoèo như rắn lượn, đoạn gạn hỏi: "Xin hỏi huynh đài, thế trận treo biển gì, trên biển viết chữ gì?"

Tư Mã Khôi biết Thắng Ngọc đang muốn hỏi lai lịch và xuất thân của mình, bèn trả lời: "Ở nhà chẳng dám cãi cha, ra ngoài chẳng dám cãi thầy, quý lão đại đã hỏi, thật chẳng dám giấu. Thế trận treo biển chữ, trên biển viết chữ đổ biển dốc sông, tại hạ họ Tây, đầu đội bảy mươi mốt, lưng cõng bảy mươi hai, chân giẫm bảy mươi ba".

Thắng Ngọc vừa nghe liền hiểu ngay, thì ra Tư Mã Khôi là truyền nhân của Kim Điển tiên sinh, nhưng thấy đối phương tuổi đời còn trẻ, khó lòng tin ngay được, nên lại tiếp tục dò hỏi xem bản lĩnh của anh lớn cỡ nào, được truyền thụ những bí kíp gì. Nghĩ vậy, cô ả bèn hắng giọng: "Tại hạ còn muốn thỉnh giáo huynh đài, trên người mang theo hàng gì?"

Tư Mã Khôi trả lời: "Trên người chẳng có hàng gì đặc biệt, chỉ mang theo nửa bộ "Kinh Kim Cương" lừng danh năm hồ bốn bể, nhưng tại hạ chỉ là chân trong chân ngoài, nếu có chỗ nói không đúng, chỉ mong lão thiếu gia bỏ quá cho". Anh nói xong, trong bụng thầm nghĩ: "Làm gì có chuyện hỏi tôi mãi thế, tôi cũng phải hỏi cô mới được", đoạn liền thay đổi thế trận chén trà đáy biển ban đầu thành thế trận "Nhị long xuất thủy", xếp mười tám chiếc nắp thành hai hàng, mỗi hàng chín chiếc song song nhau, rồi quay sang gạn hỏi Thắng Ngọc: "Dám hỏi quý lão đại, trong tay có bao nhiêu thuyền?". Vì khi nãy Tư Mã Khôi đã biết hội Thắng Ngọc là dân trộm mộ, cho nên cứ trực tiếp hỏi thẳng cô ả xem rốt cục đã tìm thấy bao nhiêu minh khí được tùy táng trong mộ cổ.

Thắng Ngọc cũng không chịu lép vế, liền đáp: "Hỏi hay lắm, trong tay tại hạ thuyền không nhiều cũng chẳng ít, chỉ có khoảng chín ngàn chín trăm chín mươi chín chiếc". Nói một cách tóm tắt, ý của cô ả là: "Quá nhiều, chẳng thể nhớ nổi".

Tư Mã Khôi thấy thủ đoạn của cô ả lợi hại, không mấy đáng tin nên hỏi tiếp: "Trên thuyền treo cờ hiệu gì?". Sở dĩ anh hỏi vậy vì bọn "Hối tử" trộm mộ trong dân gian, thủ pháp không giống nhau, do chịu sự hạn chế của nhân tố môi trường địa lý và kinh nghiệm kỹ thuật nên đa số đều phân khu vực để hành sự, dân Hà Nam không xâm phạm đến lãnh địa của dân Thiểm Tây, dân Quan Ngoại không vào Quan Nội. Câu hỏi khi nãy của Tư Mã Khôi đại ý là: "Nhóm người các cô thường đào mộ ở khu vực nào? Sử dụng loại kỹ thuật gì?"

Thắng Ngọc lập tức đối đáp: "Trên núi treo cờ thắng lợi, dưới núi treo cờ vàng đất, mùng một, hôm rằm treo cờ long phụng, đầu thuyền treo cờ vuông khẩu hiệu lớn, cuối thuyền treo cờ chín mặt uy phong!". Trong lời cô ả ẩn chứa hàm ý sâu sa, muốn nói nơi nào cũng đều đi cả. Những ngôi mộ cổ từ các triều đại xa xưa tuy rằng đâu đâu cũng có nhưng các ngôi mộ chôn ở nơi bình nguyên rộng rãi thường dễ đào dễ lấy nhưng đồ kiếm được lại thường không đáng tiền, cố sống cố chết, tim đập chân run, liều mạng một phen cuối cùng lại lấy được mấy thứ dưa chẳng ra dưa, táo chẳng ra táo, thật chẳng đáng chút nào. Ngược lại những ngôi mộ trong núi sâu toàn chôn những bậc đế vương, hầu tướng, minh khí bảo vật muốn bao nhiêu, có bấy nhiêu, nhưng những ngôi mộ đó địa cung mộ đạo, tường đá nắp sắt, chôn giấu rất nhiều ám khí, cài đặt vô số cơ quan ngầm, kiên cố khó phá, vừa không dễ tìm thấy, lại không dễ khai quật. Nhưng Thắng Ngọc tự nhận mình là dân trộm mộ cao siêu, mộ thường không chê ít, lăng tẩm vua chúa trong núi sâu cũng không ngại khó, chỉ cần cô ả trúng ý thì chẳng có ngôi mộ nào không thể khai quật.

Tư Mã Khôi nghe mấy lời tự cao tự đại này, quả không thể lĩnh giáo nổi: "Tôi hỏi trên thuyền cô có bao nhiêu ván? Mỗi ván đóng bao nhiêu đinh?". Ý anh muốn hỏi: "Bản lĩnh của cô lớn cỡ nào mà dám khoác lác thế hử? Cẩn thận gió to bay mất lưỡi đấy!".

Thần sắc Thắng Ngọc điềm nhiên như không, bình thản trả lời: "Mỗi thuyền có bảy mươi hai ván, tương tự bảy mươi hai phép địa sát, trên ván có ba mươi sáu đinh, giống như ba mươi sáu phép thiên cang". Ý cô ả muốn nói: "Thuộc hạ của tôi vừa là cao nhân hiểu bí thuật phong thủy lại là chuyên gia tinh thông địa lý, am tường thuốc nổ, dưới vòm trời này chẳng nơi nào chúng tôi không thể kiếm ăn được".

Tư Mã Khôi cảm thấy khó chịu trong lòng, lạnh lùng hừ một tiếng, lại hỏi: "Ván có lỗ mà không có đinh là loại ván gì? Ván có đinh mà không có lỗ lại là loại ván gì?"

Thắng Ngọc đối đáp trơn tru: "Loại có đinh mà không có lỗ là ván nhảy, loại có lỗ mà không có đinh là ván gió". Trả lời xong, cô nàng lập tức quay sang hỏi lại: "Anh bảo trên trời có bao nhiêu ngôi sao?"

Tư Mã Khôi nghe xong liền không phục, thầm chửi: "Dựa vào mấy món vặt vãnh nhà cô mà dám hỏi thân thủ của tôi sao?", nghĩ vậy anh liền thể hiện thái độ bất cần: "Sao trên trời, đếm không hết, tiền nhân nói có ba vạn sáu mươi sáu, còn cô có mấy sợi gân trên người?"

Thắng Ngọc thấy ban đầu đối phương còn khá tuân thủ luật lệ, nhưng càng ngày càng trở nên vô phép tắc, không nhịn nổi cơn giận thoáng qua, liền nhướng mày đáp: "Trên người có bảy sợi gân, cứ việc xẻ thịt lột da mà tìm. Thế anh có biết một con dao có mấy lỗ không?"

Tư Mã Khôi không thèm khách khí đáp: "Một dao hai lỗ, cô có mấy quả tim, cho tôi mượn một quả mang ra nhấm rượu chơi!".

HỒI 6: MÁY BAY TIÊM KÍCH (1)

Sắc trời càng ngày càng tối mịt, cả dãy núi Dã Nhân dần dần chìm vào màn đêm im lìm như cõi chết. Đây cũng là thời khắc chìm lắng ngắn ngủi báo hiệu cơn giông bão cuồng nộ sắp ập tới.

Vậy mà không khí đông cứng giữa bốn thành viên còn lại của đội du kích Miến Điện Cộng hòa và nhóm người của Ngọc Phi Yến vẫn ngày một căng thẳng hơn.

Tư Mã Khôi tự biết phe mình đang bị đối phương khống chế, nếu câu nói có chút tỏ ra sợ sệt sẽ lập tức càng bị lấn át hơn, bởi vậy anh không hề nhượng bộ nửa bước trên "bàn đại dương", ngược lại còn dụng tâm chọn những lời hổ báo khích tướng Thắng Ngọc khiến mặt cô ả biến sắc lúc xanh lúc đỏ.

Khương sư phụ đứng bên cạnh là tay cáo già lọc lõi, bươn trải giang hồ đã nhiều năm, lão nhận thấy bọn họ người tám lạng kẻ nửa cân, chẳng ai chịu nhường ai, càng nói càng khiến không khí trở nên căng thẳng, chỉ còn thiếu nước "đâm vào dao trắng, rút ra dao đỏ" mà thôi. Thế là lão vội vàng đứng bên cạnh ho lên một tiếng như ngầm cảnh báo câu chuyện của hai người nên chấm dứt ở đây, rồi thay nước trà trong chiếc nắp bày trận. Theo tiền lệ cổ xưa, lúc này nên dùng "hồng trà đặc" – một loại trà rất đậm đặc, chỉ cần uống một ngụm là sốc lên tận đỉnh đầu, nhưng điều kiện trong rừng nguyên sinh không có hồng trà nên chỉ còn cách thay bằng chén nước lọc khác, rồi bày lại thế trận thành "Tam dương khai thái", xếp mười tám chiếc nắp thành ba hàng, mỗi hàng sáu chiếc.

Chén trà đáy biển bắt đầu bằng việc tự xưng gia môn với thế trận "Nhất tự trường xà", sau đó bọn họ thay đổi trận pháp thành "Nhị long xuất thủy" để dò hỏi lẫn nhau, trong "Gạn đáy biển" vẫn còn các thế trận khác như "Tam dương khai thái, tứ môn đấu để, ngũ hổ quần dương, lục đinh lục giáp, thất tinh bắc đẩu, bát quái vạn tượng, cửu tử liên hoàn", cho đến trận pháp cuối cùng là "thập diện mai phục". Đôi bên phải tuân thủ quy tắc theo từng tầng thứ để dò hỏi đối phương, đợi khi hỏi ra gốc rễ, thì mỗi bên sẽ biết rõ đầu đuôi sự tình.

Thông qua cuộc nói chuyện, song phương đều hiểu hết ngọn nguồn của nhau, không có xung đột ghê gớm theo đúng nghĩa, càng không cần lo lắng bị thoát gió, lọt nước, sót mất thông tin. Câu chuyện của Tư Mã Khôi tương đối đơn giản, anh có thể dõng dạc kể với đối phương mà không cảm thấy tự hổ thẹn với lương tâm, nghĩ lại lúc đầu Tư Mã Khôi tôi một tay quét cả Miến Điện, trăm trận trăm thắng, giết người vô số kể, tôi giậm chân một cái cả dải đất Bắc Miến rung chuyển từng đợt, chẳng qua giờ đây quân đội nhân dân rớt đài, bọn tôi chẳng muốn uống chung dòng nước đục, nên dự định vòng qua núi Dã Nhân, chạy về phía bắc trốn sang biên giới.

Còn hội Ngọc Phi Yến, tổ tiên mấy đời đều hành nghề trộm mộ ở Quan Đông, bọn họ kết bè kết đảng, lấy hiệu là "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn", cũng vì từng gây ra một vài vụ trọng án vào thời Dân quốc, nên đành chạy đến Nam Dương tránh họa, họ buôn lậu ở gần khu vực eo biển Malacca suốt một thời gian dài, đồng thời câu kết với bọn hải phỉ vớt tàu thuyền thời cổ đại, hoặc là đến vùng biên giới Thái Lan, Campuchia để đào mồ quật mả và tìm kiếm các di tích trong Phật tháp ở các chùa chiền miếu mạo. Nghề mưu sinh chủ yếu của bọn họ là buôn lậu văn vật cổ.

Trong văn hóa truyền thống dân gian Trung Quốc, từ đầu chí cuối đều tồn tại hai chữ "giang hồ". Trên giang hồ có rất nhiều ngành nghề đặc thù, kẻ ăn mày ven đường dọc phố gọi là "Hoa tử", kẻ trộm mộ gọi là "Hối tử", ngoài ra còn có "Ngựa vang" nghĩa là dân trộm cướp, "Quải tử" là bọn cướp đường, "Nha tử" là dân đánh cá, "Phi tặc" ám chỉ những kẻ mở khóa phá cửa ăn trộm hàng ngàn hộ, tiên sinh ám chỉ kẻ hành nghề bói toán, mộ sư ám chỉ thầy coi tướng số phong thủy. Tuy rằng thủ đoạn hành nghề, mưu sinh của mỗi ngành nghề không giống nhau nhưng đều phải thông văn tỏ võ và mang một chút màu sắc mê tín nhất định. Nếu trong đó có nhân vật am hiểu về ngũ hành bát quái, bí thuật phong thủy mà trình độ văn hóa lại tương đối cao thì kẻ đó sẽ được giới giang hồ vô cùng trọng vọng. Từ đó có thể luận ra một cách tương đối là "nghề hối tử" chẳng qua chỉ là tên gọi chung dành cho những kẻ trộm mộ dân gian, còn kết cấu thành viên chi tiết thì vô cùng phức tạp.

Sau khi cha của Thắng Ngọc qua đời, cô ả được thừa kế tổ nghiệp, dẫn theo những thành viên cơ bản trong tổ chức cũ lập thành "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn" và tự mình làm thủ lĩnh. Dưới trướng cô ả cũng có mấy trợ thủ đắc lực, ngoài "Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, Mai Đông Thanh" ra thì còn có một tên lưu vong người Liên Xô rất am tường về thuốc nổ, mọi người dành tặng hắn biệt hiệu "Gấu trắng".

Còn vị Khương sư phụ là tay trộm mộ lõi đời, không những vậy còn là bậc cha chú của Thắng Ngọc, cũng có thể coi lão là thầy cô ả. Bởi thế Thắng Ngọc vô cùng kính trọng, gọi lão là "lão Khương" và luôn răm rắp nghe lời.

Ngọc Phi Yến từng được hưởng thụ nền giáo dục cao cấp, mấy năm gần đây đã cải tiến hoàn thiện kỹ nghệ gia truyền của tổ tiên lên rất nhiều. Dưới sự dẫn dắt, lãnh đạo của cô ả, "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn" dần dần gây dựng thanh thế, cuối cùng tiếng tăm đã vang dội khắp khu vực phía nam. Lần này bọn họ mạo hiểm tiến vào núi Dã Nhân là do chịu sự ủy thác của một khách hàng lớn, phải đi đến tận cùng con đường U Linh để tìm kiếm một vật vô cùng quan trọng. Công việc lần này không phải khai quật mộ cổ mà là "công việc đánh cược mạng sống", đó là công việc gian khổ mạo hiểm khác thường, có thể mất mạng bất cứ lúc nào.

Sau khi Tư Mã Khôi nghe xong câu chuyện liền nói hai bên chẳng có gì liên can đến nhau, nay đường rộng thênh thang, ai đi đường nấy. Giờ đây cuốn nhật ký cũng rơi vào tay cô, còn muốn gì ở bọn tôi nữa? Chi bằng nhân lúc còn sớm hãy thả ba người đồng bọn của tôi ra, khi nãy tôi đánh chết một tên thủ hạ của cô, thì chỉ cần một mình tôi ở lại là được, ông đây dám làm dám chịu, muốn chém muốn giết gì, tôi cũng nghe theo hết.

Sau khi nắm rõ được gốc rễ của Tư Mã Khôi, ngữ khí của Thắng Ngọc cũng khách khí, dịu dàng hơn trước nhiều nhưng cô ả vẫn nhất định không chịu thả người, bởi vì lúc "gạn đáy biển" khi nãy, thuộc hạ của cô ả cũng đã thẩm vấn Karaweik – cậu bé mang theo cuốn nhật ký bên mình. Cậu thiếu niên mới mười mấy tuổi đầu, lại ở vùng núi Bắc Miến thì làm sao có thể là đối thủ của mấy gã giang hồ lõi đời. Quả nhiên vừa mới hỏi năm câu sáu điều, cậu đã khai tuốt tuột sự tình. Cuốn nhật ký không mô tả tấm bản đồ chi tiết của con đường U Linh, bây giờ người duy nhất có thể tìm thấy nó, e rằng chỉ có một mình Karaweik. Cậu bé chính là cơ hội mà ông trời trao tặng cho Ngọc Phi Yến, làm gì có chuyện cô ả chịu bỏ qua. Bởi thế bất luận thế nào, đoàn thám hiểm cũng nhất định sẽ bắt Karaweik theo cùng để dẫn đường.

Nhưng Ngọc Phi Yến cũng không muốn hành sự tuyệt tình quá đáng. Lúc nói rõ ý đồ của mình cũng đưa ra hai phương án cho đối phương lựa chọn. Trước mắt có thể để Tư Mã Khôi lựa chọn, chỉ có hai con đường. Thứ nhất là để lại Karaweik rồi cả hội rời đi, thứ hai là gia nhập đội thám hiểm và cùng tiến sâu vào núi. Ngoài ra, Thắng Ngọc cũng hiểu rõ tình cảnh mà hội bốn người Tư Mã Khôi đang phải đối mặt, nên hứa hẹn nếu việc lần này thành công, cô ả sẽ sắp xếp cho bốn người bọn họ rời khỏi Miến Điện, có thể đến Hồng Kông, Thái Lan hoặc thoát hẳn châu Á, cao chạy xa bay, tất cả sẽ do cô ả lo liệu hoàn toàn.

Ngọc Phi Yến cần tăng cường lực lượng gấp, cô ả thấy thân thủ Tư Mã Khôi không tệ, lòng gan dạ, kiến thức cũng hơn người, hơn nữa lại từng là thành viên trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện, chắc chắn sẽ thông thuộc tình hình trong núi, bèn nảy ý định lôi kéo anh vào đoàn, cô ả đề nghị với giọng vô cùng khẩn thiết.

Tư Mã Khôi liếc mắt nhìn trộm ba người bạn đồng hành bị trói trên cọc, thấy Tuyệt và La Đại Hải khẽ gật đầu, tỏ ý không muốn bỏ rơi Karawei và đồng ý cùng đội thám hiểm vào sâu trong lòng núi Dã Nhân. Chuyến đi này tuy rằng nguy hiểm vạn phần nhưng cũng chưa hẳn là tuyệt đường sống. Cả hội đã sớm đặt mình ra ngoài vòng sinh tử, thì còn nơi nào không dám lao vào nữa? Thế là Tư Mã Khôi quyết định gật đầu chấp nhận lời thỉnh cầu của Ngọc Phi Yến, đồng ý gia nhập đội thám hiểm.

Hai bên liền thắp hương lập lời thề, thể hiện mãi mãi không bao giờ hối hận. Sau đó Thắng Ngọc lệnh cho thủ hạ cởi trói cho ba người La Đại Hải, lại cung cấp thuốc men cho Tư Mã Khôi chữa thương. Cả đoàn hạ trại tại chỗ, đợi sáng mai mới bắt đầu khởi hành.

Tuyệt rất tinh thông y lý, cô nhanh chóng làm sạch mủ trên vai Tư Mã Khôi, sau đó đắp thuốc và băng bó lại như cũ, nỗi lo trong lòng từ đầu đến giờ mới tiêu tan, nếu như không gặp đội thám hiểm trong rừng rậm, vết thương của anh chắc chắn sẽ bị nhiễm trùng càng ngày càng nghiêm trọng, e rằng chẳng đợi được đến ngày ra khỏi núi Dã Nhân.

Thắng Ngọc thấy thủ pháp xử lý vết thương của Tuyệt nhanh nhẹn, gọn gàng, lại hiểu biết dược tính, có thể sánh ngang với các bác sỹ cao minh chân chính, trong lòng không khỏi ngầm khâm phục, càng cảm thấy mình lôi kéo được bốn người bọn họ nhập hội đúng là trời giúp sức, hi vọng như được thắp sáng trở lại.

Ngược lại, Tư Mã Khôi chẳng thèm bận tâm xem Ngọc Phi Yến nghĩ gì, anh vừa để mặc cho Tuyệt băng bó vết thương vừa cầm lấy mấy túi thức ăn dã chiến mà La Đại Hải và Karaweik vừa mới đưa cho, đút từng miếng to vào miệng, nhai nhồm nhoàm. Trong hộp thức ăn dã chiến số sáu này, thứ gì cũng có, không chỉ có cà phê, thuốc lá thơm, diêm mà còn có cả sô cô la. Karaweik đói hoa cả mắt, chẳng quản là gì đều nhặt lên đút cả vào bụng, miệng cậu đầy thức ăn, đầu không ngớt gật gù với Tư Mã Khôi tỏ ý đồ ăn rất ngon.

~*~

HỒI 6: MÁY BAY TIÊM KÍCH (2)

Tư Mã Khôi lại cảm thấy loại thức ăn này thật khó nuốt, liền lắc đầu: "Chủ Nhật! tên tiểu tử này chẳng ra dáng nam nhi gì cả, đồ ăn nhai đi nhai lại chẳng có chút mùi vị nào, ngọt chẳng ra ngọt, mặn chẳng ra mặn, sao cậu có thể ăn ngon như thể đang được thưởng thức sơn hào hải vị thế hử?"

La Đại Hải cũng chung cảm nhận như vậy, anh nhổ đám thức ăn mới nhai nhộm nhoạm

 được một nửa từ trong miệng ra bàn tay, nhìn nhìn rồi nói: "Đúng là không khác gì nhai sáp nến, chẳng lẽ đội thám hiểm ngày nào cũng phải ăn thứ này?"

Tư Mã Khôi giải thích, đã là thức ăn dã chiến thì chắc đều để ăn những lúc tác chiến nơi hoang dã, ở đó làm gì có điều kiện, nên phải ăn như thế này là điều có thể lý giải được, hơn nữa nếu phơi khô lương thực thì có thể bảo quản được lâu hơn.

La Đại Hải bấy giờ mới bừng tỉnh ngộ: "Thì ra là được hong khô, mẹ tiên sư, chẳng trách tớ ăn mà như nhai giấy, có điều họ cũng hong khô quá". Nói xong lại đút đám thức ăn vừa nhổ ra tay cho vào miệng nhai lại.

Ngọc Phi Yến trợn tròn mắt ngạc nhiên, không nhịn nổi liền đi đến hỏi: "Anh tưởng cái thứ các anh đang ăn là gì vậy? Nó chính là giấy đấy".

Lúc bấy giờ Tư Mã Khôi và La Đại Hải mới biết mình lấy nhầm, đồ ăn không lấy lại lấy túi giấy ăn có thể tích lớn hơn được bọc kín trong túi đựng thức ăn dã chiến số sáu, rồi cầm lên đút cả vào miệng mà nhai, hai người biết được chân tướng đều tròn mắt há miệng nhưng họ là những kẻ rất cứng đầu, tất nhiên có chết cũng chẳng chịu nhận sai, cùng lắm đã nhầm thì nhầm cho trót. Họ thanh minh các ông đây đều là người có văn hóa, thường ngày thích ăn sách, vở, giấy, bút, đừng nói hai cuộn giấy nhà cô mà ngay cả cặp rắn trong tranh của Tề Bạch Thạch, bọn ông cũng ăn cả hai cân, vừa nói vừa cố tình đút nốt toàn bộ số giấy ăn trong hộp cơm dã chiến vào miệng nhai nát vụn rồi nuốt xuống bụng, xong đâu đấy mới ăn các thứ khác.

Thắng Ngọc không thèm đôi co với hai người. Nhân lúc này, cô ả giới thiệu với hội Tư Mã Khôi kết cấu thành viên trong đoàn thám hiểm. Gọi là thành viên "đội thám hiểm" cho oai, chứ về thực chất, bọn họ vẫn chẳng thoát xác khỏi "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn" của tổ chức "Ngựa vang" truyền thống. Tất cả mọi việc đều do "thủ lĩnh" quyết định, nhưng tâm của kẻ cầm đầu phải ngay, nếu không ngay sẽ bất thành đại sự.

Thứ đến là "nhà học giả", còn gọi là tiên sinh, đó chính là lão tặc có kinh nghiệm phong phú nhất trong đoàn, lão là tham mưu trưởng, có chức năng quân sư cho nhóm. Bên dưới còn có mấy huynh đệ như Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, họ đều là tâm phúc đắc lực của Thắng Ngọc.

Ngoài ra còn có hai mươi mấy tên lính vũ trang Miến Điện làm chân bốc vác, chúng đều là những kẻ cảm tử được chiêu mộ từ lực lượng vũ trang quân phiệt Bắc Miến, vì tiền họ sẵn sàng làm mọi việc.

Hội bốn người Tư Mã Khôi bị đẩy lên đầu "tuyến lửa" làm nhiệm vụ dẫn đường, chịu trách nhiệm giúp đội thám hiểm tìm ra con đường U Linh trong núi Dã Nhân.

Tuy cơn bão nhiệt đới "Buddha" sắp tấn công Bắc Miến đang tràn vào dãy núi với tốc độ kinh khủng, dự tính nội trong hai ngày sẽ cập núi Dã Nhân, nhưng quyết tâm của Thắng Ngọc dường như còn lớn hơn, cho dù phải đối mặt với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, cô ả vẫn sẵn sàng không ngại trả giá đắt để hoàn thành phi vụ làm ăn lần này, bởi cục diện quân sự khu vực Bắc Miến vô cùng bất ổn, nếu đợi cơ hội lần sau mới vào núi thì không biết còn phải đợi đến tháng nào năm nào.

Tư Mã Khôi suy tính Thắng Ngọc và đám lâu la thuộc hạ của cô ả đều là bọn "hối tử" chuyên đào bới khai quật mồ mả, buôn lậu cổ vật, nhưng từ trước đến giờ chưa thấy ai nói trong núi Dã Nhân có cổ mộ, huống hồ có thể mua hẳn một đội quân vũ trang địa phương vào núi, chắc chắn cũng phải chi ra một số tiền không nhỏ, số tiền đó hẳn không phải chỉ đào bới vài ngôi mộ vớ vẩn trong núi là có thể bù đắp được. Rốt cục ai dám bỏ ra số tiền lớn như thế và họ muốn tìm vật gì?

Tư Mã Khôi rất muốn biết rõ nội tình, liền hỏi Thắng Ngọc tận cùng con đường U Linh ẩn giấu bí mật gì?

Thắng Ngọc lấy một chiếc túi chống thấm, thò tay lôi ra một vật từ bên trong, đó là vài tập văn bản mỏng, ngoài ra còn có một bức ảnh, cô ả nói với hội Tư Mã Khôi: "Đây chính là mục tiêu duy nhất bọn tôi muốn tìm kiếm".

Tư Mã Khôi và La Đại Hải chụm đầu nhìn kỹ chiếc máy bay trong bức ảnh, xem địa điểm chụp có vẻ giống với sân bay quân dụng ở một nơi nào đó, hơn nữa tất cả các tấm ảnh đều chụp hình một chiếc máy bay vận tải. Chiếc máy bay này dáng dấp cổ xưa, hình thù kỳ quái, phần thân và cánh đều khắc biểu tượng rắn độc ngóc đầu đớp mồi, trông rất đặc biệt.

Hai người đều thấy quen mắt, hình như đã từng nhìn thấy nó ở đâu thì phải, xem ra loại máy bay này không phải máy bay hiện đại, chắc là diện phải đưa vào viện bảo tàng quân đội từ đời thủa nào. Nghĩ đến đây, Tư Mã Khôi và La Đại Hải đột nhiên nhớ ra những điều mắt thấy tai nghe lúc tác chiến trong núi trước đây, cả hai giật mình thốt lên: "Đây chẳng phải máy bay tiêm kích vận tải (1) của không quân hoàng gia Anh hay sao?".

(1) Máy bay tiêm kích: là loại máy bay do Anh chế tạo, được sử dụng rộng rãi trong thế chiến thứ hai, có hình dạng giống con muỗi, còn có tên tiếng anh là Mosquito plane.

HỒI 7: THÁP THÔNG THIÊN (1)

Quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điến từng ở gần Lashio, tấn công chiếm đóng sân bay quân dụng do người Anh xây dựng, trong nhà kho không quân còn bảo lưu rất nhiều chiến đấu cơ kiểu cũ bị hỏng hóc từ những năm trước, trong đó có một chiếc máy bay kiểu dáng giống với chiếc máy bay trong ảnh, hình thù quái dị của nó khiến người ta chỉ nhìn qua một lần là không thể quên 

được, tàn tích của loại máy bay này rơi xuống lòng núi, bọn họ cũng trông thấy không ít lần.

Bởi thế Tư Mã Khôi và La Đại Hải có thể phân biệt rõ ràng và nhận ra chiếc máy bay có hình thù kỳ quái này. Có lẽ đó là loại máy bay tiêm kích vận tải do người Anh chế tạo. Máy bay tiêm kích của không quân Hoàng gia Anh được sử dụng rộng rãi trong thời kỳ đại chiến thế giới thứ hai, số hiệu và chủng loại rất nhiều, ví dụ như "máy bay tiêm kích chiến đấu, máy bay phản tiêm kích ngư lôi, máy bay tiêm kích ném bom hạng nhẹ, máy bay tiêm kích thám thính, máy bay tiêm kích vận tải" v.v…Loại hình máy bay này vừa linh hoạt vừa tốc độ, vô cùng thích hợp để phi hành ở những khu vực nhiệt đới khí hậu phức tạp, dễ thay đổi. Trước đây, hàng loạt máy bay tiêm kích phục dịch không ngớt trên bầu trời Miến Điện, nhưng chủ yếu là loại tiêm kích hạng nhẹ và tiêm kích trinh sát, còn loại vận tải đã được cải tiến như trong ảnh thì không thường nhìn thấy lắm.

Tư Mã Khôi nói với Ngọc Phi Yến, loại máy bay cổ lỗ sĩ này đã sớm rút vào vũ đài lịch sử từ đời thủa nào, vậy mà các cô còn mạo hiểm và sẵn sàng trả giá đắt như vậy để đi tìm, e rằng chẳng phải chỉ vì bản thân chiếc phi cơ. Chắc chắn bên trong khoang chứa còn cất giấu bảo vật gì vô cùng quan trọng. Nhưng vì sao nó lại ở trong núi Dã Nhân? Và vì sao có người không tiếc tiền bạc thuê đội thám hiểm đi tìm kiếm nó? Trộm nghĩ trong đó chắc chắn phải ẩn chứa một nguyên do bí mật không thể tiết lộ.

Ngọc Phi Yến gật đầu thừa nhận phán đoán của Tư Mã Khôi là đúng, có điều cũng chẳng có nguyên do gì không thể tiết lộ. Thì ra sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, trước thềm các nước Miến Điện, Ấn Độ v.v… thoát khỏi ách thống trị của chế độ thuộc địa thực dân Anh, người Anh đã phái không quân đến chuyên trở hàng loạt bảo vật quý hiếm cướp bóc được ở Miến Điện, chuẩn bị đưa ra cảng biển lên thuyền vận chuyển về "Bảo tàng đại đế quốc Anh" ở bản địa.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vận chuyển bí mật này, một chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh vì gặp phải thời tiết xấu đã buộc phải đi lệch tuyến đường phi hành, rớt xuống lòng núi Dã Nhân. Thông qua báo các của các phi hành viên trên chiến đấu cơ đi hộ tống, thông tin cuối cùng họ nhận được từ chiếc tiêm kích vận tải là: "Chúng tôi bị rơi vào sương mù…", điểm rơi là một khe cốc lớn trong rừng nguyên sinh, có lẽ do ảnh hưởng của dòng không khí lưu thông trong khe cốc và kết cấu chiếc phi cơ tương đối nhẹ đã khiến nó không bị đâm vào núi rơi tan xác ngay tức thì.

Có điều nơi sâu thẳm trong khe cốc khổng lồ đó sương mù dày đặc, khiến tầm nhìn từ trên không bị cản trở. Sau khi chiếc tiêm kích rơi vào màn sương bí hiểm mênh mang chẳng bao lâu, lập tức vang lên những tiếng gào thét tuyệt vọng kinh hoàng của các thành viên phi hành đoàn, rồi tất cả rơi vào im lặng và hoàn toàn đoạn tuyệt mọi thông tin với thế giới bên ngoài.

Sau khi thông tin được truyền đến phía quân đội, họ lập tức điều động nhân viên, tổ chức thành các phân đội cứu viện, chia thành nhiều ngả tiến vào núi Dã Nhân tìm kiếm tông tích chiếc máy bay, thậm chí còn không ngại sự ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt, phái rất nhiều phi cơ trinh sát tiến hành lùng sục ở tất cả những khu lân cận.

Nhưng những phân đội tìm kiếm cứu nạn tiến vào núi nếu không trở về công cốc vì không tìm thấy đường thì cũng mất tích bất minh sau khi tiến vào khu rừng nguyên sinh. Chẳng biết sau nhiều năm tìm kiếm, số lượng máy bay và con người đã mất tích trong núi đã lên con số bao nhiêu, hoàn cảnh và lai lịch của họ rất đa dạng phong phú, ngoài những phần tử đầu cơ và các nhà thám hiểm muốn tìm kiếm bảo vật ra, thì còn có vô số kẻ chạy nạn, phạm nhân buôn lậu, thổ phỉ và những binh sĩ các nước đi lạc vào núi Dã Nhân qua nhiều thời kỳ chiến tranh. Nhưng bất luận là thời kỳ thực dân Anh thống trị hay thời kỳ phát xít Nhật chiếm đóng, tất cả những vụ mất tích xảy ra trong núi Dã Nhân đều bị giới quan chức các nước né tránh không đả động đến, từ trước đến nay cũng không có ghi chép công khai nào tường thuật về quá trình cứu nạn.

Rừng rậm nguyên sinh quanh năm không nhìn thấy mặt trời và sương mù dày đặc ngàn năm chẳng thể tiêu tán dưới lòng đất, đều trở thành bức bình phong thị giác của thiên nhiên, thêm vào đó môi trường tự nhiên khắc nghiệt đã khiến núi Dã Nhân cách biệt triệt để với thế giới bên ngoài, đến tận bây giờ vẫn chưa một ai có thể sống sót đi ra từ núi sâu.

Chiếc máy bay mất tích không lâu sau thì Miến Điện tuyên bố độc lập, người Anh hoàn toàn rút lui khỏi lãnh thổ đất nước, vụ án quân sự liên quan đến chiếc máy bay mất tích dưới khe cốc lớn trong lòng núi Dã Nhân tưởng như cũng khép lại vĩnh viễn. Nhưng rất nhiều người lại tâm tâm niệm niệm chẳng thể quên "bí mật" vận tải trong khoang hàng của chiếc phi cơ, đến tận giờ vẫn không hề đứt đoạn công cuộc lùng sục kiếm tìm chiếc tiêm kích bị mất tích khi xưa, "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn" của Thắng Ngọc chính là được người ta thuê để đi tìm chiếc máy bay khắc biểu tượng rắn đen và mang "hàng" trong khoang trở về.

Đầu mối trong tay Ngọc Phi Yến ngoại trừ bức ảnh mấy chiếc máy bay vận tải ra, thì chỉ có một vài tin tức tình báo còn sót lại của phân đội cứu nạn không quân Anh năm xưa mà thôi, nhưng chừng đó cũng đủ để đoán biết vị trí mất tích của chiếc tiêm kích, đại khái nằm ở khe cốc khổng lồ nơi trung tâm núi Dã Nhân. Có điều sương mù dưới lòng đất từ trong khe cốc phun lên mù mịt, càng ngày càng nhiều lên theo năm tháng, gần như che phủ tất cả các khu vực lân cận.

Nếu đội thám hiểm trực tiếp tiến vào khu rừng rậm nguyên sinh bị sương mù bủa vây, sẽ dễ giẫm phải vào vết xe đổ của người đi trước, bởi thế sau khi bàn bạc, Thắng Ngọc và Khương sư phụ quyết định trước tiên cần tìm ra con đường Stilwell do quân Mỹ xây dựng, nghe nói nơi tận cùng của con đường nằm rất gần vành đai ven khe cốc, năm đó đoàn bộ đội công trình tác chiến độc lập thứ sáu muốn xây dựng con đường phía rìa sườn để tránh đám sương mù kỳ quái dưới lòng đất phun trào, nhưng lúc đào đường hầm xuyên núi, cả đoàn lại vô tình khiến đất đá sụt lở, chỗ sụt lở lộ ra một động huyệt, sương khí từ bên trong phun ra dữ dội, những nhân viên đi vào trinh sát đều chết bất thình *** h, bởi thế mới buộc phải từ bỏ kế hoạch làm đường thông núi Dã Nhân.

Khổ nỗi, đội thám hiểm lại không có bản đồ, cũng chẳng có người dẫn đường, muốn tìm một con đường bị lãng quên hoang phế mấy chục năm đâu phải chuyện dễ dàng, may mà bọn họ gặp được hội Tư Mã Khôi cùng cậu bé Karaweik. Tuy Karaweik cũng chưa từng đi vào trục đường 206B của con đường U Linh, nhưng chí ít cậu cũng có kinh nghiệm, biết rốt cục phải đi đâu để tìm nó, đồng thời hiểu cách làm sao để tránh khu vực bom mìn rộng lớn mà nhiều thời kỳ chiến tranh trong lịch sử còn để lại, chỉ cần tìm thấy vị trí đường hầm nơi tận cùng trục đường B, là có thể tìm cách từ chỗ bị sụt lở xuyên qua động huyệt dưới lòng đất, đi vào khe cốc khổng lồ, tìm chiếc máy bay tiềm kích vận tải bị mất tích.

Sau khi Ngọc Phi Yến kể xong toàn bộ đầu đuôi câu chuyện, liền quay sang nói với Tư Mã Khôi và La Đại Hải: "Bất kể các anh có tin vào số mệnh hay không, chí ít tôi cũng cho rằng giữa con người với con người luôn tồn tại một loại "lực hấp dẫn" nào đó, hôm nay chúng ta tương ngộ trong núi Dã Nhân, đồng thời cuối cùng lại trở thành bạn đồng hành, e rằng đó cũng là sự an bài của số phận, kể từ nay trở về sau, chúng ta nhất định phải đồng tâm hiệp lực.

Tư Mã Khôi biết Ngọc Phi Yến không muốn tiết lộ thông tin liên quan đến "hàng" và "khách hàng" nhưng anh cũng biết những vật trong khoang máy bay chắc chắn không phải hạng tầm thường, đã là "phi vụ đánh cược mạng sống" thì không thể dễ dàng thành công, nói không chừng lại rơi vào thảm cảnh bị tiêu diệt hoàn toàn. Nghĩ vậy, anh liền cảnh báo Thắng Ngọc: "Cô đã nói phải tin vào số mệnh, vậy thì việc thành hay bại còn phải xem ý trời, nếu chuyến đi này không thành công, thì cô cũng đừng miễn cưỡng quá".

Thắng Ngọc khẽ cau đôi mày thanh tú, lời nói có phần trách móc: "Anh đừng lay động quyết tâm của người khác, chỉ cần chúng ta đồng tâm hiệp lực, thì làm gì có chuyện đại sự không thành?"

Tư Mã Khôi bảo, chẳng phải tôi muốn dội gáo nước lạnh vào cô, nhưng tôi thấy đội ngũ của chúng ta thế này khó mà đồng tâm hiệp lực nổi. Tôi còn nhớ trước đây, khi còn ở gần khu vực Midzu, từng nghe người ta kể một truyền thuyết tôn giáo phương Tây:

Đó là vào thời cổ đại xa xưa, con người trên trái đất phải sống một cuộc sống vô cùng khốn khó, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, lại chịu sự uy hiếp của lũ lụt, mãnh thú đe dọa sự sinh tồn. Khi đó loài người nghe đồn trên Thiên quốc cuộc sống rất sung sướng, quanh năm lúc nào cũng ấm áp như mùa xuân, bốn mùa hoa lá đua nhau khoe sắc, tám tiết cỏ xanh tươi non mơn mởn, sản vật vô cùng phong phú, không bao giờ phải lo lắng về chuyện ăn mặc, càng chẳng bao giờ phải chịu đựng sự giày vò của bệnh tật. Chỉ có điều thiên không xa xôi, độ cao của nó vượt xa tầm tưởng tượng của con người, những người bình thường sống trên mặt đất không có cách gì lên trên đó được.

Kết quả, mọi người cùng chụm đầu nghĩ kế, rồi quyết định phải bắc một chiếc tháp thông thiên cao vút lên tận trời, như vậy già trẻ gái trai chúng ta đều có thể ở đó và trở thành thần tiên, không cần chịu đựng khổ ải nơi trần thế này nữa. Thế là con người bắt tay vào thi công, mọi người đồng tâm hiệp lực, nên tiến độ xây dựng vô cùng nhanh chóng.

Nhìn thấy đỉnh tháp cao đến tận chân mây, càng xây lại càng cao hơn, Thiến đế ở Thiên quốc bắt đầu lo lắng, đứng ngồi không yên, bụng thầm nghĩ: "Trên trời chỉ có một mình ta thoải mái biết bao, bây giờ đám con cháu dưới mặt đất ăn no rửng mỡ, đều muốn lên đây gây sự. Không được, phải mau mau nghĩ cách". Kết quả, Thiên đế cũng nghĩ ra một hạ kế, đó là phân chia con người trên mặt đất thành các dân tộc khác nhau, bắt họ phải nói những ngôn ngữ khác nhau, khiến hai bên không thể tiến hành giao tiếp được nữa.

Biện pháp này phát huy tác dụng tức thì, bất đồng ngôn ngữ và bối cảnh văn hóa chủng tộc trở thành rào cản lớn khó lòng vượt qua, con người trên mặt đất vì không thể giao tiếp với nhau nên không còn đồng tâm hiệp lực, cùng hướng về một mục tiêu như trước. Cuối cùng, họ không thể xây dựng hoàn thành "tháp thông thiên", mãi cho đến tận bây giờ, các bên vẫn không ngừng chỉ trích đối phương, chiến tranh, bạo loạn liên tiếp nổ ra hết lần này đến lần khác.

Ngọc Phi Yến cố gắng kiên nhẫn nghe hết câu chuyện nhăng cuội của Tư Mã Khôi, cuối cùng cau mày hỏi: "Rốt cục anh muốn ám chỉ điều gì?"

Tư Mã Khôi nói, điều tôi muốn nhắc nhở là, trong đoàn chúng ta, vừa có người Liên Xô, vừa có người Miến Điện, người Campuchia và cả người Trung Quốc nữa, thậm chí còn có cả những người chẳng biết mình thuộc quốc tịch nào, việc giao tiếp giữa các bên đã rất khó khăn thì làm gì dám nói đến việc đồng tâm hiệp lực? Chúng ta chỉ đơn thuần là "đám quân ô hợp" miễn cưỡng lắp ghép lại trong chốc lát, tuyệt đối không thể thành đại sự. Bởi vậy tôi thấy tìm chiếc tiêm kích mất tích đã nhiều năm trong núi Dã Nhân không phải việc dễ dàng trong tầm tay, chúng ta chỉ có thể cố gắng hết sức, còn ngộ nhỡ bị thất thủ, thì cô phải đồng ý với tôi, khi bọn cô rút lui, ít nhất phải mang Karaweik theo cùng, đồng thời sắp xếp cho cậu bé rời khỏi Miến Điện.

HỒI 7: THÁP THÔNG THIÊN (2)

Thắng Ngọc chẳng cần nghĩ ngợi lập tức bảo Tư Mã Khôi cứ yên tâm, Sơn lâm đội lão thiếu đoàn chẳng phải chưa từng làm công việc đánh cược mạng sống như thế này bao giờ, đừng thấy đội ngũ thành phần tạp chủng, thực ra anh đâu cần phải giao tiếp, giao lưu gì, bởi vì đã có Ngọc Phi Yến tôi là "thủ lĩnh", tất cả chỉ cần một mình tôi nói là xong.

Tư Mã Khôi chẳng coi mấy l

ời của cô ả vào đâu, trong lòng thầm nghĩ: "Ngọc Phi Yến cô há chẳng phải cũng chỉ là thủ lĩnh một đội trộm mộ thôi sao? Ông đây ở Miến Điện còn chặt đầu không biết bao nhiêu người, nhiều gấp mấy lần số đầu người mà suốt đời cô có thể khai quật trong các ngôi mộ. Ranh con nhà cô có bản lĩnh gì mà dám chỉ huy ông hử?"

Nhưng anh cũng không muốn đôi co vì việc nhỏ này, nên buông xuôi cho câu chuyện tạm dừng ở đây. Anh chỉ bảo "Hy vọng được như thế", rồi chuồn ra chỗ khác cho nhẹ nợ.

Lúc này La Đại Hải nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi: "Nghe nói trong bảo tàng thực dân Anh đúng là có thu thập sưu tầm rất nhiều văn vật cổ đại, nhưng người bản địa Miến Điện nghèo khổ, vất vả như thế, ngay cả một ngôi nhà cho ra hồn cũng chẳng dựng được, thì hàng hóa trong chiếc tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh có thể tốt đến mức nào được nhỉ? Tớ thấy quá nửa chắc chỉ là hư danh, bây giờ cơn bão nhiệt đới mang thiên tai sắp tràn về, hội người này mạo hiểm cả tính mạng như thế liệu có đáng không?"

Tư Mã Khôi bảo: "Đồ Hải ngọng nhà cậu chả hiểu biết gì cả, cậu đừng thấy dân bản địa nghèo khổ mà coi thường, ở đây từng là vương triều cổ đại hưng thịnh hiển hách nhất trong quá khứ, trầm tích lịch sử rất thâm hậu, người bản địa vô cùng sùng bái tín ngưỡng, nên những ngôi chùa lớn danh tiếng đều được xây dựng tường vàng vách ngọc, lộng lẫy huy hoàng. Hơn nữa, mệnh danh "đất nước hoàng kim, phỉ thúy" cũng không phải hư danh đâu, nói cái khác có thể cậu không hiểu, tớ chỉ lấy một ví dụ thực tế trực quan nhất, cậu có biết nữ hoàng Anh là ai không?"

La Đại Hải bị hỏi như vậy chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, liền vặn lại: "Xem thường tớ đấy hử? Tớ còn lạ gì nữ hoàng Anh, ai chẳng biết trước đây Miến Điện là thuộc địa của thực dân Anh, bây giờ tượng bà ta vẫn còn khắp đất nước Miến Điện, chúng ta đánh nhau bao nhiêu năm ở đây, tuy chưa nhìn thấy người thật nhưng tượng điêu khắc thì khối ra đấy, ít nhất cũng chạm mặt đến phát quen, bà ta chẳng phải con dâu tổng thống Anh hay sao? Có điều chuyện tớ vừa hỏi thì liên quan gì đến bà ta?"

Tư Mã Khôi nói: "Cậu nhìn tượng điêu khắc thì biết, trên đỉnh vương miện của nữ hoàng Anh có gắn một viên hồng ngọc to như quả trứng ngỗng, màu sắc tươi đỏ như máu, toàn thế giới chỉ độc nhất vô nhị một viên ấy thôi. Viên ngọc đó được đội thám hiểm tùy quân Anh vô tình đào được ở núi Dã Nhân Bắc Miến trong một trận chiến giữa Anh và Miến Điện, sau đó mang về nước, dâng tặng lên nữ hoàng điện hạ".

La Đại Hải như sực tỉnh, gật gật đầu: "Thì ra là vậy, xem ra hàng trong chiếc tiêm kích vận tải chắc chắn không phải hạng trâu bò bình thường, nếu tìm thấy nó thật, thì chúng ta đúng là "chó ngáp phải ruồi" trúng quả lớn rồi còn gì.

Tuyệt nghe ý của La Đại Hải dường như muốn chiếm lấy những đồ vật trong chiếc máy bay mất tích làm của riêng, liền bảo anh đừng có nằm mơ giữa ban ngày, có thể sống sót ra khỏi núi Dã Nhân mới là điều quan trọng, anh chưa nghe nói những đoàn thám hiểm trước đây vào trong núi sâu, chưa ai có thể sống sót mà ra được hay sao? Nếu chúng ta cũng chẳng thoát nổi thì biết làm thế nào?

La Đại Hải cười lớn: "Tuyệt đừng dọa tôi, cô không biết chứ, Hải ngọng tôi đây là kẻ cực kỳ nhát gan, chỉ dám buộc lông gà trên bó đuốc thôi"

Ba người bàn luận một hồi, ai nấy đều cho rằng chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nhưng nếu quả thực có thể vớt được mạng sống trở về, thì không rõ vận mệnh gì sẽ chờ đợi họ ở phía trước? Trong lúc ngẫm nghĩ về cái được và cái mất, chỉ cảm thấy tiền đồ thật khó tiên liệu, từng dòng suy nghĩ ùa về, rồi tất cả đều dần dần chìm vào giấc ngủ đầy mộng mị.

Ngày hôm sau, khi trời còn chưa sáng rõ, cả đoàn đã bị Khương sư phụ gọi dậy, mọi người nai nịt chuẩn bị lên đường, đi xuyên qua cánh rừng rậm rạp, leo lên một mỏm núi, từ trên cao nhìn ra bốn phía xung quanh, giữa những dãy núi dài miên man, phủ mờ sương khói là cả không gian tĩnh lặng như tờ, màn sương sớm vẫn chưa tan hết, dõi mắt ra phía xa, thấy nền trời đỏ au au như máu, đó chính là điềm báo trước của cơn bão nhiệt đới cuồng nộ sắp tiến sát gần.

Khi thời tiết khắc nghiệt mang theo thiên tai tràn về, trong vòng vài ngày liên tiếp, cuồng phong bạo vũ chắc hẳn không thể nào suy yếu, lúc đó lũ lớn sẽ tràn về, đất đá sụt lở cuốn theo dòng nước, thậm chí địa hình của núi Dã Nhân cũng có thể vì nguyên nhân này mà biến dạng, bởi thế thời gian dành cho đội thám hiểm chẳng còn bao lâu, mọi người bắt buộc phải nhanh chóng tìm thấy khe cốc khổng lồ nơi có chiếc máy bay bị mất tích.

Karaweik đi trước dẫn đường, cả đoàn xuyên qua một khe núi, đi vòng tránh mấy bãi mìn, rồi tìm thấy ngã rẽ hình chữ Y ở khúc quanh gần vực thẳm, quân Mỹ gọi nơi này là "nút Kansas", bên tay trái là tuyến đường A khúc khuỷu vòng vèo, bên tay phải là đường hầm xuyên núi, liên thông trực tiếp đến khu vực nguy hiểm bị mây mù che phủ bủa vây.

Trước đây, Karaweik cũng chỉ đến "nút Kansas" là cùng, tiếp sau đó cả đoàn đành phải tự mò mẫm tìm kiếm tuyến đường B của con đường U Linh. Tuy con đường bị bỏ hoang nhiều năm, bề mặt đều bị thảm thực vật che phủ hoặc sụt lở, đứt gẫy, con đường sớm đã chẳng còn hình hài, móng đường được xây dựng bằng sự trợ giúp cơ giới hóa giờ bị những lùm cây bụi ngoan cường xâm nhập, rễ cây đâm xuyên qua khe nứt, chúng đan cài nhằng nhịt vào nhau che kín mặt đường, khiến người ta không thể nhận ra diện mạo của nó. Nhưng chỉ cần nắm vững quy luật lối đi, cũng không khó tìm được di tích con đường bị đất đá và cây cối phủ lấp, từ đó lần dây sờ dưa, việc xác định vị trí của tuyến đường 206B cũng không mấy khó khăn.

Chẳng ngờ con đường U Linh chỉ trông thấy đầu mà chẳng tìm thấy đuôi, tổng chiều dài nửa đoạn đầu áng chừng sáu mươi mét, rộng khoảng năm mét rưỡi, toàn bộ được xây dựng trong lòng núi, nó là một con đường cụt, tất cả có mười tám khúc quanh, nửa đoạn sau của con đường đã bị hồng thủy cuốn sập, chẳng để lại dấu vết nhỏ. Đội thám hiểu mất vật tham chiếu, trước mắt chỉ thấy một dải vực thăm thẳm nhấp nhô, dài tít tắp trong rừng rậm, vực thẳm chắn ngang lối đi khiến mọi người không có cách gì tiến đến lối ra của con đường hầm, vực sâu chỉ kéo dài chừng mấy chục mét, nhưng mỗi bước trong rừng rậm nguyên sinh đều vô cùng khó khăn, nếu từ từ dò dẫm, e rằng phải mất đứt ba đến năm ngày, may ra mới tìm thấy cổng đường hầm.

Đúng lúc mọi người đang bó tay bất lực thì Karaweik lại tiết lộ một đầu mối, cậu nhớ trước đây lúc cha cậu còn sống, từng nói: Năm ấy, ông vào rừng hái thuốc, khi đến mép vực gần lối ra con đường hầm, đã tận mắt nhìn thấy một kỳ quan khiến người khác không khỏi bàng hoàng, đó chính là "Rắn thiêng hiện thân" trong truyền thuyết cổ xưa của người Miến Điện, ông bị trấn động đến mức gần như hồn lìa khỏi xác, liền hấp tấp chạy thục mạng ra khỏi cánh rừng nguyên sinh. Chẳng ngờ, chân trước vừa xuống núi, thì chân sau mưa lớn đã kéo về, nhấn chìm và hủy hoại nhiều nơi trong núi Dã Nhân. Nếu ông chỉ cần chậm chân một bước, thì đã sớm bỏ mạng trong núi. Bởi vậy ông một mực cho rằng "rắn thiêng" đã hiện thân hiển linh ứng cứu, giúp ông đoán biết được điềm báo nguy hiểm, nhờ đó mới tha nổi mạng sống về nhà.

Căn cứ vào truyền thuyết này, có thể suy đoán "rắn thiêng hiện thân" là dấu hiệu đặc thù ở gần đường hầm 206, nhưng trong những ghi chép về quá trình xây dựng con đường của quân đội Mỹ thì không thấy nhắc đến hiện tượng kỳ dị ấy. Từ đó có thể thấy hiện tượng này không phải bất cứ lúc nào cũng gặp được, hơn nữa mãi cho đến tận giờ vẫn chưa ai hiểu rõ "rắn thiêng hiện thân" rốt cục muốn ám chỉ điều gì? Chỉ đành tạm thời suy đoán, càng vào những thời điểm khí hậu khắc nghiệt, càng có nhiều khả năng gặp phải kỳ quan độc đáo này.

Dãy núi Dã Nhân sâu hút ở phía Bắc Miến Điện là nơi thâm sơn tuyệt cốc ở tận cùng mạch núi Himalaya, những khu vực nằm dưới mực nước biển phần đa đều bị rừng rậm nguyên sinh um tùm che phủ, bốn phía núi cao vực sâu trùng điệp, hàng trăm khe sông, khe suối chảy qua, khí hậu quanh năm không đổi, ngoại trừ cơn bão nhiệt đới có quy mô lớn mạnh khủng khiếp ra thì trong núi sâu rất ít khi chịu sự công kích của mưa gió sấm chớp, có lẽ mười mấy năm trở lại đây đều không có cơ duyên gặp phải thời tiết khắc nghiệt kích thích dòng hồng thủy trong núi nổi giận cuồn cuộn như thế này.

Mọi người chỉ có thể suy đoán, về truyền thuyết "rắn thiêng hiện thân" đại khái tồn tại hai khả năng. Khả năng thứ nhất là mượn để chỉ một loại "hiện tượng thiên nhiên" nào đó, bởi vì người Trung Quốc cổ đại cũng từng lấy các con vật đặt tên cho các điềm báo thiên nhiên, có điều từ trước đến nay trong lịch sử chưa hề thấy ghi chép về thuật ngữ "rắn thiêng hiện thân", thể hệ tôn giáo ở Miến Điện đều được lưu truyền từ Ấn Độ cổ đại, có lẽ chính sự khác biệt tồn tại trong bối cảnh văn hóa đã tạo ra những ám thị mà con người hiện đại khó lòng giải thích.

Khả năng thứ hai có vẻ đúng đắn hơn, trong núi Dã Nhân có rất nhiều loại mãng xà khổng lồ, thậm chí truyền thuyết còn kể về con quái xà dài đến hàng chục mét, nó biết nhả khói trắng mịt mùng, hình thành lớp mây mù dày đặc ngàn năm không thể tiêu tán nơi sâu thẳm trong quần thể núi, che phủ khắp mấy dặm xung quanh, người hoặc gia súc mà tiến vào màn sương mù, sẽ lập tức bị nó làm cho tan chảy rồi nuốt vào bụng. Còn thuật ngữ "rắn thiêng hiện thân", nhiều phần để chỉ những con quái xà trốn trong lòng núi bị kinh động vì ảnh hưởng của khí hậu khác thường, nên lũ lượt kéo nhau hiện thân ra khỏi màn sương mù.

Lúc này, khí áp trong núi càng ngày càng xuống thấp, không khí oi nồng dường như sắp cô kết đặc quánh, xung quanh yên ắng tịnh không tiếng động, khiến người ta cảm thấy thắc thỏm bất an đến ngộp thở. Tư Mã Khôi nói: "Chắc giông bão và mưa lớn sắp sửa tràn về, nếu không tìm thấy lối ra của đường hầm, thì chúng ta phải lập tức trèo lên chỗ cao ngay". Đang định tự mình tìm đường leo lên mỏm núi thì trong khoảnh khắc ngẩng đầu ngước nhìn về sườn núi trọc phía đối diện, đột nhiên thấy một con mãng xà đen xì xì dài khoảng hai ba mươi mét, thân hình mờ ảo như sương khói, ẩn hiện chập chờn, điều lạ lùng nhất là con hắc xà lại treo mình trên vách đá dựng đứng, án binh bất động, trông nó giống như một bức thạch họa thần bí và cổ xưa. Dán mắt nhìn một hồi lâu, anh phát hiện trên vách vực thẳm rõ ràng hoàn toàn trống trơn, chẳng có vật gì bám víu, làm sao đột nhiên lại xuất hiện cảnh tượng kỳ dị dường vậy?

Tư Mã Khôi còn cho rằng mình bị hoa mắt, liền vội vàng gọi mọi người cùng ngẩng đầu lên dõi, mấy chục cặp mắt đổ dồn về đó kinh ngạc nhìn chằm chằm một hồi lâu, hầu như người nào cũng không dám tin vào mắt mình, bởi vì vật hiện lên trên vách đá đích thực là hình một con hắc xà nằm im lìm bất động, nó vừa không phải bức tranh đá điêu khắc hình con quái xà, vừa không phải sinh vật đã chết. Chẳng ai có thể tưởng tượng nổi "rắn thiêng hiện thân" chỉ tồn tại trong truyền thuyết cổ xưa của Miến Điện lại là bức phù họa thần bí đầy sức sống như thế, ly kỳ đến mức khiến người ta khó có thể tin là thật.

HỒI 8: RẮN THIÊNG HIỆN THÂN (1)

Đúng lúc đoàn thám hiểm bị vực sâu cản đường, trong lúc tưởng chừng sự việc giậm chân tại chỗ thì đột nhiên phát hiện trên vách núi xuất hiện hình thù con hắc xà khổng lồ, dài ngoằn nghoèo cả mấy chục mét. Trên vách đá phủ đầy rêu xanh và các loại thực vật khác nhau, dưới sự phản chiếu của màu xanh lục đậm, con rắn càng trở nên mờ ảo, quái dị như thể vong hồn u uấ

t. Vì khoảng cách ở quá xa, nên mọi người cũng không phân biệt rõ nó là rắn hay trăn.

Đám lính vũ trang Miến Điện nhìn thấy cảnh tượng ấy đều kinh hãi quỳ rạp xuống đất, miệng không ngừng lẩm bẩm tụng niệm phật hiệu, hướng về phía vực núi dập đầu liên tiếp.

Ngọc Phi Yến cũng không khỏi kinh ngạc, cô ả cầm ống nhòm, nghé mắt nhìn kỹ, một hồi sau mới bàng hoàng tỉnh ngộ, đoạn nói với mọi người không cần hoảng sợ, bóng đen hình con rắn treo trên vách đá thực ra chẳng phải mãng xà gì hết, chẳng qua chỉ là một bầy kiến đỏ đang di chuyển mà thôi.

Thì ra địa thế núi Dã Nhân là một vòng tròn khép kín, tứ bề núi cao chập trùng nhấp nhô, đa phần đều là sản vật từ "quá trình tạo sơn của dãy Himalaya" thời cổ đại, khí hậu quanh năm ổn định bất biến, gió bão nhiệt đới thông thường khó lòng va chạm ảnh hưởng đến đất này. Nhưng năm nay, cơn bão nhiệt đới đến từ Ấn Độ Dương có cường độ mạnh khủng khiếp, mấy chục năm hiếm gặp. Sự biến đổi khí tượng khắc nghiệt như vậy, từ sau khi được dự báo đến nay, đã thu hút sự quan tâm chú ý của đông đảo nhân dân các khu vực trên khắp thế giới, theo phân tích của giới khí tượng, vùng núi Dã Nhân Bắc Miến cũng chịu sự công kích mãnh liệt của cơn bão. Giờ đây, cơn bão nhiệt đới mang mưa lớn sắp tiến đến gần, khiến các con sông con suối vốn hiền hòa nằm im lìm dưới các khe cốc thấp bỗng chốc trở nên hung dữ, dòng hồng thủy cuồn cuộn chảy xiết.

Dường như các sinh vật trong rừng già núi sâu đều phát giác được cái oi bức khác thường của khí hậu, hàng ngàn vạn con kiến đỏ buộc phải di chuyển lên chỗ cao hơn để tránh nguy cơ chẳng may tổ kiến bị lũ quét. Số lượng kiến đỏ trong rừng rậm nguyên sinh nhiều đến khiếp người, tuy gọi là kiến đỏ nhưng toàn thân nó đen xì xì, chỉ có một chút ở phần đuôi là điểm màu đỏ thậm, con to nhất phải gần bằng ngón tay người, con bé cũng cỡ hạt gạo, chúng lúc nhúc tụ tập thành từng đoàn bò dọc vách đá hướng dần lên trên. Người ta đứng ở nơi xa nhìn vào tự nhiên thấy chúng chẳng khác nào một con rắn dài. Có lẽ từ hàng triệu năm trước từng có người tận mắt nhìn thấy hiện tượng tự nhiên thần bí này nên mới lưu lại truyền thuyết ly kỳ khiến người ta khó lòng tin nổi.

Tuy Thắng Ngọc đã nói bóng đen ngoằn nghoèo trên vách đá không phải mãng xà nhưng nhóm người Miến Điện, bao gồm cả Karaweik vẫn không thể lý giải được làm sao kiến đỏ trong rừng rậm lại biết chủ động leo lên chỗ cao tránh mưa bão, nên họ cứ một mực cho rằng rắn thiêng mượn xác bầy kiến để hiện thân, ai nấy mặt vàng như nghệ, miệng không ngớt lầm rầm tụng niệm.

Ngọc Phi Yến giải thích với mọi người, kiến đỏ sinh tồn trong rừng rậm nhiệt đới còn gọi là "kiến vống", chúng biết nhả ra "chất tín hiệu chỉ đường" khi nhai nuốt thức ăn trên những nơi mà chúng hành quân qua, bởi vậy mỗi lần di chuyển ở khoảng cách xa chúng đều bò theo một tuyến đường nhất định, đợi khi thời tiết ổn định, thì sẽ quay lại đường cũ để trở về đáy vực, bắt tay xây dựng lại chiếc tổ đã bị mưa gió cuốn trôi. Xem số lượng khổng lồ của đàn kiến đang tụ tập trên vách đá thật khiến người ta khiếp hãi, có thể đoán định nội trong mười mấy dặm xung quanh chắc không còn đàn kiến nào với quy mô vĩ đại như thế. Đã có người từng tận mắt nhìn thấy kỳ quan sinh vật của giới tự nhiên ở gần cổng đường hầm của con đường U Linh thì đường hầm xuyên núi đó chắc hẳn cũng chỉ ở đâu đây mà thôi. Thắng Ngọc móc một sợi dây chuyền vàng trong người ra bảo phiên dịch nói với mọi người: "Ai tìm được lối vào núi, sợi dây chuyền vàng trên tay tôi sẽ thuộc về người đó".

Tư Mã Khôi vốn còn cho rằng cô ả Ngọc Phi Yến có chiêu thức đặc biệt làm lung lạc lòng người, hóa ra cũng chẳng qua là hạng mang tiền ra nhử mồi câu, không có gì mới mẻ cả. Có điều, người ta vẫn thường nói: "Mang tiền trọng thưởng, tất có dũng phu", mấy người Miến Điện này tuy khiếp sợ núi Dã Nhân đến tận xương tận tủy, nhưng hơn hết bọn chúng là lũ thổ phỉ hung hãn chỉ cần tiền, chẳng cần mạng. Dưới sự dụ dỗ của cái lợi to lớn trước mắt, ban đầu còn hoảng loạn mất một lúc nhưng sau đó dưới lệnh của thủ lĩnh trong đội, họ lần lượt leo xuống vực sâu tìm kiếm lối ra của con đường hầm.

Đội thám hiểm lùng sục theo hình thức đan rào một hồi, cuối cùng cũng phát hiện cổng đường hầm của con đường U Linh, nhưng phần chóp cổng đã bị sụt lở hoàn toàn, một lượng đất đá lớn sụp xuống chắn kín lối ra, dường như nó bị con người dùng thuốc nổ phá hủy. Có lẽ quân Mỹ trước khi rút khỏi đường hầm tuyến đường B, muốn phong tỏa vĩnh viễn khu vực nguy hiểm này nên đã tiến hành kích nổ nhiều lần, khiến lối ra hoàn toàn đổ sụp, không thể tiếp tục đi về phía trước được nữa.

Có điều vẫn là đám lính vũ trang Miến Điện giàu kinh nghiệm đã tìm thấy một khe cốc bí ẩn bị thảm thực vật um tùm che phủ, nằm ở mặt bên của vực thẳm nơi lũ kiến vống đang bò. Trên tầng nham thạch nhẵn nhụi ở cổng vào khe cốc còn lưu giữ những bức tranh đá nguyên thủy mô tả cảnh tượng chết chóc của một bầy voi rừng lớn. Lòng sơn cốc thâm u, khúc khuỷu, không khí trầm lắng, nặng nề, hai bên mọc đầy cây cổ thụ tán lá rộng rợp trời, đan kết, xen cài vào nhau, khiến mặt trời không thể chiếu sáng khoảng không trên đầu, chỉ có những tia nắng yếu ớt khẽ lọt qua kẽ lá âm u rậm rạp.

Cuốn sổ ghi chép của cố nội Karaweik không chỉ mô tả địa hình trong lòng "Tượng môn" hoàn toàn trùng khớp với bức bản đồ cổ, mà còn ghi chép rất nhiều sự kiện có liên quan. Nghe nói, trong thời kỳ chiến tranh Anh Miến, từng có một viên thượng úy Anh chỉ huy bộ đội tác chiến ở gần khu vực núi Dã Nhân. Do quân Anh được trang bị vũ khí đầy đủ, tinh nhuệ nên dễ dàng đánh bại kẻ địch. Trong quá trình truy sát tàn quân, viên thượng úy đó đã gặp một con voi rừng già nua đang chuẩn bị lên đường gặp tổ tiên ở rừng rậm nguyên sinh. Một binh sĩ người Ấn Độ là thuộc hạ của anh ta tham thú chiếc ngà voi rừng, định dùng súng bắn hạ sát con voi già, nhưng viên thượng úy đã hoạt động nhiều năm ở Ấn Độ, Miến Điện v.v…, nên biết rõ tập tính của bầy voi rừng. Anh ta không cho người binh sĩ nọ dễ dàng nổ súng làm kinh động đến nó, mà lặng lẽ dẫn quân đi sát theo sau. Điều anh ta muốn biết là rốt cục con voi đến chỗ nào để chờ chết.

Thì ra voi rừng Miến Điện có một tập tính, khi một con voi già yếu và chuẩn bị chết, nó thường linh cảm được sự tắt rụi của số mệnh, bèn một mình rời khỏi đàn voi, đơn độc tiến vào rừng sâu. Nó đi mãi cho đến huyệt động đá nơi tổ tiên vùi xương hàng ngàn năm nay, sau đó nằm phủ phục bên cạnh đống xương voi chồng chất, không ăn không uống, lặng lẽ chờ đợi thần chết đến đón.

Tương truyền, mộ huyệt voi rừng Miến Điện, cổ xưa nhất dễ có lịch sử hàng vạn năm, xương voi, ngà voi trong động chất đầy như núi. Số lượng di hài bầy voi rốt cục có bao nhiêu, chẳng ai đếm được chính xác, cũng do niên đại quá xa xôi, thậm chí có những chiếc ngà voi quá cổ xưa đã hóa thạch nằm dưới tầng đáy của động huyệt.

Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo chế tạo từ ngà voi được giới quý tộc châu Âu rất ưa chuông, giá trị bất phàm. Viên thượng úy Anh biết rằng chỉ cần bám theo tông tích con voi già, rất có khả năng sẽ tìm thấy miền đất vùi xương của tổ tiên nó, điều đó cũng có nghĩa là sẽ tìm ra một kho báu giá trị liên thành, chứ không chỉ đơn giản dừng lại ở hai chiếc ngà voi.

Khi đó, viên thượng úy Anh bị lòng tham làm mờ lý trí nên đã bỏ qua một điều vô cùng quan trọng, quan niệm bầy đàn của voi rừng Miến Điện vô cùng mạnh mẽ, nó không ngại trả mọi giá để bảo vệ bí mật về miền đất vùi xương của tổ tiên. Không những thế, dường như bầy voi cũng biết được, từ trước đến nay, sở dĩ bầy voi bị loài người săn bắn, hạ sát, căn nguyên chính ở đôi ngà quý giá, bởi vậy mộ huyệt chúng lựa chọn thường nằm giữa khu vực nguy hiểm nhất trong núi sâu, rừng già, đủ để khép chặt lối về của bất kỳ kẻ bám sát nào.

Kết quả, viên thượng úy chỉ huy hơn hai trăm tinh binh Ấn Độ, bám sát dấu chân con voi già, tiến sâu vào sơn cốc ẩn khuất. Vượt qua bao gian khổ hiểm nguy, cuối cùng họ cũng nhìn thấy vô số động huyệt thiên nhiên bị màn rễ của cây si buông rủ phủ kín, nằm sâu trong sơn cốc. Đó đều là những huyệt động thiên nhiên được hình thành do quá trình nước mưa xâm nhập vào lòng núi đá vôi, làm tan chảy phần nham thạch mềm xốp, trải qua hàng chục triệu, thậm chí hàng trăm triệu năm dần dần điêu khắc mà thành. Gió lạnh trong động thổi vù vù, huyệt động âm u huyền bí bốn phía thông thoáng, hình thành một mạng lưới địa hình Karst – kiểu địa hình phong hóa đặc trưng của những miền núi [Chỉ có thành viên đã kích hoạt và đăng nhập mới thấy được liên kết. ] bị [Chỉ có thành viên đã kích hoạt và đăng nhập mới thấy được liên kết. ] chảy xói mòn – dày đặc, miên man. Những động huyệt này không chỉ khoáng đạt, rộng rãi khác thường mà còn chứa đựng tầng tầng lớp lớp di hài của loài voi rừng.

Viên thượng úy Anh kinh ngạc cực độ, chỉ có thể dùng bốn chữ "động huyệt ma mút" để hình dung cảnh tượng đang hiện ra trước mắt. Mặc dù trong đống di hài voi rừng cao ngất tuyệt đối không có xương của loài mãnh thú thời kỷ nguyên băng hà, nhưng chỉ có thể hình khổng lồ của nó mới đủ sức mô tả động huyệt hùng vĩ như một kỳ tích này. Ngoài ra, bọn họ còn phát hiện, nơi tận cùng động huyệt ma mút ăn thông với một khe cốc khổng lồ với độ sâu khó lường, màn sương mù ào ra từ lòng đất quánh đặc đến nỗi tưởng như không thể rẽ ra nổi, lúc đó chẳng ai dám bước chân thăm dò.

Tuy viên thượng úy không dám tiến sâu vào khe cốc, nhưng núi sâu hiểm nguy mai phục tứ bề, ngoại trừ rắn độc, ác thú ra, thì còn vô số lời nguyền cổ xưa. Cuối cùng cả đoàn quân đều bị tiêu diệt gần như sạch trơn. Viên thượng úy nọ cũng nằm trong số những kẻ phải bỏ mạng, chỉ có vài người may mắn sống sót nhưng chẳng ai mang nổi nửa cái ngà voi ra khỏi rừng. Sau đó rất nhiều nhà thám hiểm và những kẻ đầu cơ cũng thử vào đây tìm vận may, nhưng chẳng có ai trở về. Bởi thế sơn cốc này bị coi là vùng đất cấm.

Khương sư phụ phán đoán, khe cốc này có lẽ chính là "Tượng môn" mà tấm bản đồ cổ đã mô tả, hướng đi của con đường Stilwell về cơ bản cũng có nhiều nét tương đồng. Trong quá trình tiến hành thi công đường hầm, quân đội Mỹ đã vô tình xuyên thủng rìa khe cốc khiến sương khí trong lòng đất trào ra, bao nhiêu nhân viên bị bỏ mạng hoặc mất tích từ đây, bởi vậy quân đội Mỹ đành từ bỏ tuyến đường 206B. Nơi tận cùng của "Tượng môn" có lẽ cùng nối liền trực tiếp với lòng núi Dã Nhân. Đường đến khe cốc trong núi sâu có lẽ cũng không chỉ có một lối, nhưng "mọi ngả đường đều dẫn về La Mã", chẳng có nơi nào là không nguy hiểm.

HỒI 8: RẮN THIÊNG HIỆN THÂN (2)

Nếu bây giờ dùng thuốc nổ để mở lối ra của đường hầm 206 thì không chỉ một chốc một lát có thể thành công, Khương sư phụ tự lượng đội thám hiểm đều được vũ trang đầy đủ, hơn nữa kinh nghiệm lại rất phong phú, nếu cứ giằng co mãi ở con đường U Linh tương đối an toàn, chi bằng mạo hiểm xông vào động huyệt ma mút. Lão cũng là kẻ toan tính lọc lõi, trước tiên bảo Tư 

Mã Khôi và La Đại Hải hai người đi trước dò đường, đồng thời còn sắp xếp Xuyên Sơn Giáp đi theo giám sát. Ngọc Phi Yến cũng đồng ý với cách sắp xếp này, bèn giơ tay gọi ba người lại, rồi ra lệnh cho thuộc hạ đưa hai con dao săn cho hội Tư Mã Khôi dùng để phòng thân, ngoài ra còn phân phát hai chiếc đèn pin và pháo sáng tín hiệu.

Xuyên Sơn Giáp là gã người Quan Đông, khoảng hơn bốn mươi tuổi, trên mặt hằn một vết sẹo do dao chém, tứ chi ngắn ngủn, thô ráp, thân hình thấp lùn, săn chắc, tính tình trầm lặng ít nói, dễ nóng nảy cáu bẳn, bản mặt lúc nào cũng gằm gằm. Gã tự biết đi trước dẫn đường rất nguy hiểm nhưng thủ lĩnh đã phát lệnh, thì không dám trái lời, bèn gắt gỏng thúc giục Tư Mã Khôi và La Đại Hải: "Hai thằng ôn nghe cho rõ đây, đi đằng trước, da mặt phải căng ra một chút, cố gắng mà tỉnh táo cho ông mày đấy".

Tư Mã Khôi và La Đại Hải vốn dĩ định cố tình tụt lại phía sau, nhưng nghe Ngọc Phi Yến bố trí thì thầm nghĩ: "Thành viên trong đội thám hiểm các cô, người nào cũng được vũ trang đến tận răng, còn có cả Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, thế mà bắt bọn tàn binh bại tướng bọn tôi mạo hiểm tính mạng đi trước dò đường cũng không biết ngượng mặt à?", nhưng rồi lại tính: "Chúng ta làm sao phải cúi đầu trước gã lùn thó thế kia, đã biết chắc mình sẽ trở thành xác pháo đi dò địa lôi cho bọn họ, cơ sự đến nước này muốn không đi cũng không được, tốt nhất chả nên lèm bèm làm gì, chẳng có chỉ khiến người ta thêm khinh thường". Thế là người nào người nấy làm theo gã lùn, uể oải đứng dậy, bước từng bước chậm chạp.

Càng đi sâu vào trong sơn cốc, địa thế càng trở nên rộng rãi, thoáng đạt, nhưng chiếc cầu gỗ cây rừng cũng càng cao lớn lừng lững hơn, tưởng như muốn chọc thủng trời, tán lá um tùm, đan cài, kết chặt vào nhau, tấm màn màu xanh khổng lồ giăng mắc giữa không trung hoàn toàn che kín vòm trời, trên mặt đất cây bụi, cỏ dại mọc rậm rạp, chồng chéo xen lấn lẫn nhau, rất nhiều chỗ phải lần mò từng bước. Do nơi đây quanh năm không có ánh mặt trời, cho nên từ những vũng nước tù ở chỗ trũng bốc lên một mùi hôi thối, tanh tưởi sộc lên tận mũi.

Phần đáy rừng rậm hoàn toàn bị lớp sương mờ khói nhẹ bủa vây, sương khí thông thường được chia ra làm mấy loại như sương mù gió, sương mù núi, sương mù hơi, sương mù bức xạ, ở những nơi rừng sâu núi thẳm hoặc những khu vực có vũng tù nước đọng còn xuất hiện chướng khí, sương mù mang theo độc tố. Thế nhưng đến tận bây giờ vẫn chưa ai có thể giải thích, màn sương mù trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân cuối cùng thuộc thể loại sương mù gì và được hình thành như thế nào. Thông qua đo lường, người ta đã xác định loại sương mù này hoàn toàn không có độc, cũng không có tác dụng khiến người ta hôn mê hay hoang tưởng, vậy rốt cục nó được sinh ra bởi khí ẩm trong lòng núi hay từ dưới lòng đất trào ngược lên. Bất luân thế nào sự xuất hiện của "sương mù" đánh dấu bắt đầu từ chỗ này đã bước vào lãnh địa của khu vực nguy hiểm thực sự.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải nén nhịn thở, rẽ đám gai bụi phía trước, xuyên qua rừng rậm um tùm dưới sơn cốc từ từ tiến sâu vào trong. La Đại Hải ngoái đầu nhìn Xuyên Sơn Giáp bám sát phía sau, cách họ chừng mười mấy mét, hằn học nói: "Con giặc ranh Ngọc Phi Yến lòng dạ đen tối thật, bây giờ bọn mình bị rơi vào tay nó, mẹ kiếp, khác nào Võ Đại Lang gặp Phan Kim Liên - đúng là lành ít dữ nhiều".

Tư Mã Khôi điềm nhiên bảo: "Chí ít Võ Đại Lang còn có huynh đệ là Võ Tòng giúp ông ta trả thù huyết hận, tớ thấy nếu chẳng may bọn mình phải lên đường điểm danh với Diêm Vương thì cũng chả có ma nào thèm đến đây giúp dọn xác đắp mộ đâu. Có điều việc đến nước này, cậu nên nghĩ thoáng một chút, miếu nào mà chẳng có vài oan hồn, ai bắt số bọn mình đen đủi".

Hải ngọng từ đầu đã nhìn không thuận mắt đám người trong đội thám hiểm, anh chửi đổng một hồi, sau đó ngoái lại phía sau nhìn Xuyên Sơn Giáp, thấy đối phương cách mình không quá gần, chắc chẳng nghe thấy gì, liền nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi: "Khôi này, cậu thử ngắm vị đi đằng sau chúng ta xem, sao tớ thấy gã ngứa mắt thế nhỉ, cậu bảo hai đứa bọn mình tham gia ngần ấy năm trong quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện, giết bao nhiêu người, nổ bao nhiêu vụ, ngay cả bản thân cũng chẳng rõ, nói gì thì nói chẳng phải chúng ta vẫn đang cố nén chịu đấy ư? Nhưng cậu nhìn gã chẳng qua chỉ là cái thằng trộm mộ, chẳng biết làm gì ngoài việc lén lén lút lút đào bới mấy ngôi mộ vô chủ, nhân tiện bắt nạt luôn người chết nằm trong quan tài, gã thì có bản lĩnh gì mà dám vác cái bản mặt ra vẻ thâm trầm thế nhỉ?".

Tư Mã Khôi cũng liếc mắt nhìn về phía sau một cái, anh bảo La Đại Hải chớ đảo lưỡi nói bừa, vị "Xuyên Sơn Giáp" tuyệt đối không phải hạng tầm thường đâu, cậu ngắm hai cánh tay vừa ngắn vừa thô của gã mà xem, chắc chắn được rèn luyện lâu năm từ công việc "bới huyệt, đào lỗ, chui ống khói", còn đôi chân vòng kiềng nữa chứ, dài như cái lò xo, vừa nhảy vào động huyệt, chỉ cần "chíu" một cái là có thể bắn xa hơn mười trượng, cậu lại nhìn thân thể nung núc những thịt kia tớ đoán nếu bị ngâm trong mộ cổ không ăn không uống nửa tháng, gã cũng chẳng thể chết vì đói. Vị "Xuyên lão gia" này chắc chắn là bậc kỳ tài cái thế, được sinh ra chuyên để khai quật mồ mả đấy.

La Đại Hải chẳng mấy tin, liền hỏi: "Cậu bảo gã là người hay cái cào đất?", anh nói xong, không nhịn được liền liếc mắt ra sau, nhưng vừa nhìn đã giật nảy mình, suýt chút nữa cổ Hải ngọng rơi rụng khỏi đầu, anh vội vàng hét gọi Tư Mã Khôi. Lúc hai người quay đầu lại, chỉ thấy đằng sau vắng tanh không một bóng người, gã Xuyên Sơn Giáp luôn bám sát sau lưng đột ngột biến mất chẳng còn tông tích.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải thất kinh trong lòng, nếu khi nãy Xuyên Sơn Giáp vô ý rơi vào đầm lầy trong hốc cây thì chắc phải nghe thấy chút động tĩnh gì đó mới phải, nhưng chỉ trong thời gian nháy mắt, hai người đều chẳng phát giác được Xuyên Sơn Giáp bám ngay phía sau chạy đi đâu mất.

Đúng lúc đó, hai người nghe thấy dường như có một con vật rất to lớn động đậy trên vòm cây, liền lập tức ngẩng đầu lên nhìn, đồng thời bật sáng đèn pin, chiếu thẳng vào nơi phát ra âm thanh, quét đi quét lại tìm kiếm, thì thấy thân thể của Xuyên Sơn Giáp đang chơi vơi giữa không trung âm u, nét mặt khó coi đến cực độ, ngũ quan biến dạng, dường như miệng không thể nói, chỉ thấy tứ chi vừa ngắn vừa thô kiệt sức giãy giụa, giằng co.

Thì ra ở trên cao cách chỗ họ mười mấy bước, có một con mãng xà đen, thân hình to như thùng nước, con mãng xà vắt vẻo trên một thân cây cổ thụ, cuộn thành mấy vòng, nó thả người từ trên cao xuống, há cái miệng rộng ngoác như cái đấu gạo, đỏ lòm lòm như máu không ngừng hít khí, Xuyên Sơn Giáp đang đi đúng tầm bị nó hút ngược từ dưới gốc cây lên giữa không trung rồi nuốt sống vào bụng.

CHƯƠNG III: BÃO NHIỆT ĐỚI BUDDHA - HỒI 1: XẺ BỤNG (1)

Hồi 1: Xẻ bụng

Trong rừng già núi sâu ở Miến Điện, mãng xà đen và rắn độc là loài sinh vật vô cùng phổ biến, nhưng con ô xà náu mình trên tán cây um tùm âm u này không ngờ lại có khả năng hút một thân thể to béo, vạm vỡ như Xuyên Sơn Giáp lên giữa không trung trong lúc mở miệng hít thở. Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải nhìn chằm chằm không r

ời mắt, trong lòng lạnh buốt như bị nước đá dội vào, kinh hoàng thất đảm. Hai người lại chẳng thể ra tay ứng cứu vì trên người chẳng có súng, lại không thể dùng dao săn vì khoảng cách quá xa.

Hai người chỉ biết trừng trừng nhìn con mãng xà đen, nó há miệng hút được Xuyên Sơn Giáp, thì liền thò đầu xuống nuốt tất cả vào bụng, cơ thể con mãng xà phút chốc lồi lên hình dạng một con người.

Tuy rằng Xuyên Sơn Giáp có mang theo súng xung phong, nhưng sự việc diễn ra quá đột ngột, gã chẳng kịp phòng bị gì, đợi khi tỉnh táo lại thì đã bị cuốn vào một cơn lốc tanh tưởi.

Có câu "Lực bắt nguồn từ đất", giờ đây hai chân của Xuyên Sơn Giáp lại rời khỏi mặt đất, cả cơ thể chơi vơi giữa không trung, trên đầu dưới chân, chẳng chỗ nào có thể giãy giụa phản kháng nổi. Thế là gã lập tức bị nuốt sống vào bụng con mãng xà.

Xuyên Sơn Giáp là tên đạo tặc đào mồ trộm mả chuyên nghiệp. Thường xuyên phải làm những công việc liều mạng giúp gã luyện thành một thân tuyệt kỹ hiếm có, thủ thuật cũng không phải hạng vừa. Gã bị con mãng xà khổng lồ nuốt chửng vào bụng, chỉ cảm thấy một mùi tanh tưởi ghê tởm xộc vào tận óc, cả cơ thể dường như bị rơi vào nồi canh sôi sùng sục, toàn thân bỏng rát không thể chịu đựng nổi. May mà thần trí vẫn chưa bị nhiễu loạn, đầu óc hãy còn tỉnh táo, gã vươn cánh tay ngắn ngủn trong phút chốc thi triển công phu, móc cây giáo mỏ vịt luôn mang theo bên người, cắm phật lưỡi dao sắc lẻm xuống phía bên dưới, rạch mạnh một đường. Mũi dao rạch bụng con mãng xà nghe "xoạt" một tiếng như rạch vào tấm da mủn nát. Thấy vậy, gã lại cố sức rạch thêm vài nhát nữa, bụng con ô xà bị xẻ dọc từ trong ra ngoài.

Con mãng xà khổng lồ Miến Điện lúc đầu còn chưa phát giác bụng mình bị rạch lòi cả ruột gan, mãi cho đến khi Xuyên Sơn Giáp xẻ một đường dài mười mấy mét dưới đáy bụng, thì nó mới hay tình thế nguy to, nhưng sự thể đã muộn. Nó quằn quại, giãy chết trên thân cây cổ thụ một hồi lâu.

Tất cả diễn biến trên chỉ xảy ra trong thời gian nháy mắt, không đợi Tư Mã Khôi và La Đại Hải kịp định thần lại, Xuyên Sơn Giáp đã từ vết rạch trên bụng con mãng xà rơi tõm xuống đất, trông gã chẳng khác nào một củ cải đỏ lòm, từ đầu đến chân dính nhầy nhụa chất dịch vị trong dạ dày con quái thú.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải thấy thân hình phì nộn của Xuyên Sơn Giáp rơi từ không trung xuống, thì cùng đồng thanh hét lên hoảng hốt, rồi định chìa tay ra đón, nhưng hai người bọn họ làm sao có thể đỡ nổi. Một người sống nặng một trăm bảy mươi tám cân, lại rơi vèo vèo từ trên cao xuống, trọng lực có khác chi bom dội. Thế là Xuyên Sơn Giáp đâm sầm vào người bọn họ, tất cả ngã nhào ra đất, cuốn cả vào nhau, lăn liền mấy vòng.

Còn con mãng xà treo mình trên cành cây cổ thụ đã chết vì bụng rách, mất máu quá nhiều, xác nó từ cây cao trôi tuột xuống, Tư Mã Khôi lăn sang một bên tránh con rắn chết. Quay sang Xuyên Sơn Giáp, anh phát hiện gã bị té ngã không nhẹ, hơn nữa chất axít tiết ra từ dịch vị tiêu hóa trong dạ dày con mãng xà rất đậm đặc, cho dù thân thể gã to khỏe, lại thoát thân thần tốc nhưng da thịt vẫn bị phân hủy nhiều phần, ngũ quan trên mặt cũng chẳng còn toàn vẹn.

La Đại Hải vô cùng thán phục chiêu xẻ bụng mãng xà, tự mình chui ra khi nãy của Xuyên Sơn Giáp, giờ nhìn thấy bộ dạng gã thảm hại như vậy, anh không để ý bản thân cũng đang đau ê ẩm khắp mình mẩy, vội vàng đỡ gã dậy, ân cần hỏi: "Anh bạn Xuyên Sơn Giáp, anh vẫn bình an vô sự đấy chứ?"

Tư Mã Khôi quan sát thương thế của Xuyên Sơn Giáp, rồi lấy tay khẽ ấn lên bề mặt da, thấy tất cả đều mềm nhũn như quả dưa thối, tóc tai rụng sạch, mũi chạm một cái là rớt xuống, bèn lắc đầu nói: "Đã thành bộ dạng này rồi, còn bình an vô sự được sao?". Anh tìm mọi cách để gọi mọi người đến một cách nhanh nhất, biết đâu nếu được Tuyệt cấp cứu kịp thời, Xuyên Sơn Giáp lại giữ được cái mạng. Thế là anh lập tức huơ huơ pháo sáng tín hiệu, giơ cao tay gắng ném nó đi thật xa.

Ai ngờ, ánh lửa màu đỏ của pháo hoa vừa lóe lên, trong phút chốc toàn bộ khu vực phụ cận đều rực sáng. Tư Mã Khôi và La Đại Hải kinh hoàng phát hiện dưới màn bụi bay mù mịt như sương khói, trong những hốc cây hoặc động đá, hàng ngàn con mãng xà Miến Điện đang giương cặp mắt sáng quắc như điện xẹt, miệng thò thụt chiếc lưỡi đỏ lòm, con nào con nấy to lừng lững như cái đấu đong gạo, chẳng biết dài bao nhiêu mét. Chúng lũ lượt thò đầu ra khỏi hang, vắt vẻo đu mình, rồi ngoằn nghoèo bò xuống đất.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải than thầm trong bụng, vừa tận mắt chứng kiến Xuyên Sơn Giáp bị con mãng xà nuốt vào bụng, thân hình biến dạng thảm hại thế nào, nên giờ đâu dám chần chừ nửa giây. Cả hai đồng thanh hét lên một tiếng, rồi vội vã quay đầu bỏ chạy thục mạng, liền ngay đó, mấy chục con mãng xà Miến Điện lập tức phóng mình đuổi theo.

Tuy trong thâm cốc rừng già, cây cối um tùm, địa hình phức tạp khiến tốc độ di chuyển của lũ rắn giảm đi đáng kể, nhưng con người cũng vì thế mà chẳng thể chạy nhanh. Tư Mã Khôi và La Đại Hải chạy cuống cuồng ra khỏi chỗ cũ chừng mấy trăm bước, trong lúc hoảng loạn, chẳng kịp nhìn kỹ đường, chỉ thấy chỗ nào có thể dung thân là lập tức lao vào ẩn trốn. Quần áo trên người bị móc rách không biết bao nhiêu chỗ, tốc độ di chuyển cũng buộc phải chậm lại. Chỉ nghe lũ mãng xà rượt đuổi phía sau lao vù vù như gió cuốn, tiếng thân mình chúng va chạm vào cành khô, bùn đất nghe "lào rào", khoảng cách đôi bên càng lúc càng bị rút ngắn.

Tư Mã Khôi nhận thấy tình thế khó bề thoát thân, nên đành dừng lại cùng La Đại Hải, mỗi người nắm chặt con dao săn trong tay, lưng dựa sát vào một thân cây cổ thụ, chuẩn bị quyết chiến sống mái với chúng một phen. Đúng lúc nguy cấp ngàn cân treo sợi tóc, thì hai người đột nhiên thấy hai lưỡi lửa bỏng rát vù vù lao ra từ sau thân cây. Lưới lửa rừng rực, sóng này nối tiếp sóng khác. Cây cối xung quanh đổ rạp như gặp phải thần quỷ, để mặc chúng ra sức thể hiện sự hung tợn và cuồng bạo của mình. Những nơi lưỡi lửa liếm đến, ngay cả không khí và bùn đất đều bị bốc cháy, khí quyển khô nóng đến mức khiến người ta phải cảm thấy ngột ngạt.

Tư Mã Khôi trấn tĩnh nhìn lại, thì ra hội Ngọc Phi Yến bám ngay phía sau, nhìn thấy ánh sáng của pháo phát tín hiệu liền nhanh chóng đuổi theo tiếp ứng, đợi khi gần đến nơi, phát hiện phía trước có mãng xà lai vãng, bèn dùng bình phun lửa mang theo tấn công chúng. Mãng xà Miến Điện tuy da dày thịt cứng nhưng cũng chẳng phải mình đồng da sắt gì, làm sao chúng chịu nổi sự thiêu đốt của ngọn lửa cuồng bạo. Con nào không bị cháy thành tro ngay tại trận thì cũng thục mạng tháo chạy mất tăm mất dạng.

Ngọc Phi Yến phát hiện ba người đi trước dẫn đường giờ chỉ còn hai, liền đoán biết bọn họ đã gặp phải chuyện chẳng lành. Cô ả không hỏi han gì nhiều, lập tức huýt sáo gọi đám lính vũ trang người Miến Điện đến, dùng bình phun lửa mở đường, tỏa ra thành hình nan quạt tiến sâu vào khe cốc. Đi chẳng bao lâu, cả hội đã tìm thấy thi thể nằm thẳng đuỗi trên đất của Xuyên Sơn Giáp.

Mọi người nhìn thấy tư thế chết thảm thương của Xuyên Sơn Giáp, lại nghe Tư Mã Khôi và La Đại Hải thuật lại đầu đuôi sự việc, đều cảm thấy không lạnh mà sởn gai ốc. Ngọc Phi Yến thầm nghĩ: "Lần này Khương sư phụ đã tính sai một bước, việc chưa đến đâu mà khiến một huynh đệ phải bỏ mạng". Cô ả dẫn mọi người đến trước thi thể của Xuyên Sơn Giáp bái lạy: "Toàn huynh gia cứ an tâm lên đường, tất cả già trẻ gái trai trong nhà đã có mọi người thay mặt huynh chăm sóc. Sau khi trở về, chúng tôi sẽ đến chùa Kim Bồ Đề lập bia trường sinh, nếu huynh ở dưới cửu tuyền có hay, thì hồn thiêng hãy bay đến đó mà thọ hưởng hương hỏa". Sau đó, Thắng Ngọc lệnh cho thuộc hạ cắt đầu Xuyên Sơn Giáp mang về an táng, phần thi thể còn lại được đốt thành tro, rồi đào một nấm mồ chôn cất tro cốt rất cẩn thận.

Ngọc Phi Yến gọi Xuyên Sơn Giáp là Toàn huynh gia, kỳ thực Xuyên Sơn Giáp không mang họ Toàn, chẳng qua hành quy của bọn hối tử trộm mộ có rất nhiều điều cấm kỵ, về cơ bản, chúng khá tương đồng với đạo lục lâm. Theo giới luật của dân giang hồ Quan Đông, điều húy kỵ nhất ở mỗi ngành nghề, chính là trong tên có nhắc đến các số "hai, bốn, sáu, tám, chín", bạn có thể gọi họ là tam ca, ngũ ca, nhưng không được gọi họ là nhị ca, tứ ca. Xuyên Sơn Giáp là con thứ tư trong gia đình, cho nên Ngọc Phi Yến dùng chữ Toàn để thay thế.

Việc này nếu nghiên cứu kỹ lưỡng thì rất sâu sa, nếu nói đơn giản, dễ hiểu một chút, thì đại khái là do "tam giáo cửu lưu, thiên môn vạn đạo" tất cả bọn họ đều tôn kính Quan Đế Thánh Quân, mà Quan Đế là nhị ca trong ba anh em Lưu Bị kết nghĩa vườn đào, đương nhiên chẳng ai dám bằng vai phải lứa với Quan Nhị Gia. Hơn nữa, thời Bắc Tống có tên Dương Tứ Lang hàng địch theo Liêu, thời Tùy Đường có Lão Lục La nuốt lời thề, phản bội huynh đệ. Họ đều là những điển hình phản diện, cho nên giới giang hồ mới cố tình tránh né để cảnh báo đời sau.

Dân giang hồ còn tuyệt đối tuân thủ luật lệ "Ba nói, ba không nói, ba lộ, ba bất lộ". Ba nói, ý muốn ám chỉ những phi vụ của đạo tặc lục lâm, được phép nói với người cùng nghề, được phép nói ở điện đốt hương, được phép nói lúc ra tay trộm được đồ ăn cắp. Ba không nói là không được nói với đông đảo mọi người ở sân đình, không được nói ở miếu điện – cũng có nghĩa là không được ăn nói tùy tiện trước mặt quan viên cùng nghề, và không được nói lúc uống rượu trụy lạc. Ba lộ là được phép tiết lộ lúc bản thân gặp tai nạn, được phép tiết lộ khi có việc gấp, được phép tiết lộ khi gặp đạo tặc. Ba bất lộ là không được tiết lộ cho người gặp trên đường, không được tiết lộ cho người nhà, không được tiết lộ cho cừu nhân. Không được tiết lộ cho người nhà tức là "trên không nói cho cha mẹ, dưới không nói với con cái", truyền nhân trong gia tộc đương nhiên không tính vào đây. Rốt cục những giới luật và húy kỵ trong quan gia giới đạo không chỉ giúp họ bảo vệ được bí mật trong nghề ở mức độ nào đó mà còn giúp họ gặp lành, tránh dữ.

Hội trộm mộ trong Sơn lâm đội lão thiếu đoàn càng là những kẻ tin tưởng, khiếp nhược thần linh, nghiêm khắc tuân thủ hành quy xưa cũ. Đợi sau khi xử lý hoàn tất thi thể của Xuyên Sơn Giáp, thì thấy sắc trời đã mỗi lúc một âm u hơn. Dưới sự uy hiếp của cơn bão nhiệt đới Buddha đang ngày một sát gần, mọi người không dám lưu lại lâu hơn, vội vã khởi hành vào sâu trong sơn cốc.

Vì thời gian gấp gáp, có muốn quay trở về đường cũ thì cũng bị nước lũ và dòng bùn đất do cuồng phong bạo vũ mang đến nuốt chửng. Bởi vậy, Ngọc Phi Yến không cắt cử người đi trước dẫn đường nữa mà tất cả mọi người cùng tiến vào khu rừng bí ẩn.

Đường nhánh ở khe sâu trong sơn cốc mỗi lúc một nhiều hơn, mạch núi nhấp nhô, miên man bị rừng rậm nguyên sinh che phủ. Do các loài thực vật sinh trưởng ở đây đều có tính xâm lấn rất mạnh, khiến địa tầng trong lòng núi bị nứt toác, tạo thành rất nhiều khe sâu, chúng giao thoa ngang dọc lằng nhằng, phân bố chằng chịt như mạng nhện. Trong lòng cốc mọc đầy các loài thực vật phụ sinh và thực vật bì sinh, cộng thêm vô số những huyệt động lớn nhỏ, trông chúng chẳng khác gì một mê cung màu xanh nhiều tầng lớp. Lòng núi yếu xốp có thể sụt lở bất cứ lúc nào, cho dù trong tay có bản đồ chi tiết, thì đi vào nơi sâu vẫn rất dễ bị lạc đường.

Đi như vậy một hồi cũng chẳng biết có đúng phương hướng hay không, Khương sư phụ bèn bảo mọi người dừng lại, lão giải thích, đi mãi thế này, chỉ sợ lạc đường, tốt nhất nên bày trận "Tiên thiên tốc trưởng, ngũ hành bát quái", để xác nhận xem phương hướng đội thám hiểm đang đi là đúng hay sai. Hội Ngọc Phi Yến đều biết lão ta dày dạn kinh nghiệm, tinh tường lọc lõi, thuật quan sát phân tích thời thế, đoán biết sự biến đổi của tình hình lại rất cao minh, nên tự nhiên tin phục.

Khương sư phụ lập tức lấy ra một đồng tiền xu, úp ngược lên chiếc quạt giấy mở rộng, rồi lật đi lật lại nhiều lần, hai mắt lão dán chặt vào mặt lá bài, miệng không ngừng lẩm nhẩm tụng niệm:

Sửu bất Nam hành, Dậu bất Đông, cầu tài trộm mộ chỉ hư không,

Dần Thìn về tây, tà hiểm ác, trong quan gặp quỷ, đại kiết hung,

Hợi Tý phương Bắc, người mất của, đi lại chẳng thành, cách núi sông,

Tỵ Mùi Đông Bắc gặp tai nạn, tam sơn cản lối, chẳng hanh thông,

Ngọ Thân chớ đi Tây Nam lộ, xuống ngựa cửa mả, nạn chất chồng,

Gặp Tuất đừng đi dưới đường hầm, đụng độ yêu ma mạng mất không,

Mão lên Tây Bắc tai họa giáng, ưng khuyển tác quái, há uổng công.

HỒI 1: XẺ BỤNG (2)

Khương sư phụ tính xong, lại dùng la bàn xác định cho rõ thêm, lão ngắm chuẩn một khe cốc sâu, rồi vội vội vàng vàng đi tuột vào bên trong. Ngọc Phi Yến cũng cuống quýt dẫn mọi người bám sát theo sau. Ngược lại với thái độ tin tưởng tuyệt đối của cô ả, Tư Mã Khôi lại đem lòng sinh nghi. Anh không mảy may nghi ngờ huyền thuật suy đoán phong thủy địa lý của dân trộm mộ, nhưng kh

ông hiểu sao lại lờ mờ cảm thấy dường như Khương sư phụ thay đổi cả con người vậy, trên mình lão tỏa ra một mùi khác thường khó có thể hình dung cụ thể, chẳng biết lão định dẫn mọi người đến nơi nào.

Cả đoàn đi theo Khương sư phụ, lòng vòng quanh co trong rừng rậm một hồi khá lâu, có tên lính Miến Điện phát hiện trong vũng nước tù màu xanh đen, lộ ra một cánh tay người chết. Tên đó chắc hẳn phải là tay già đời chốn sa trường, nhìn thấy xác chết liền lập tức khám xét một hồi, xem trên thi thể nạn nhân có vật gì đáng giá đại loại như đồng hồ hay không. Thế là hắn liền đi lên phía trước gắng sức lôi cái xác lên, hì hục một hồi cuối cùng cũng vớt được cái tử thi nước ướt ròng ròng. Cái xác bị lật úp xuống dưới, sau khi lật lên, một khuôn mặt đen xì xì lộ ra trước mắt. Dưới ánh đèn Halogen, mọi người có thể nhìn thấy da thịt trên gương mặt đã hoàn toàn bị khô đét, lõm sâu, màu da đen quánh như xì dầu đặc, trông chẳng khác chi một cái xác khô bị bay hết hơi nước trên sa mạc, không những vậy miệng tử thi còn mở rộng, hốc mắt lóm sâu, vẫn giữ nguyên nét mặt đau đớn trước khi chết, quần áo xung quanh đều mủn như mùn, chẳng rõ đã chết được bao tháng bao năm, cũng không thể đoán biết thân phân lai lịch của anh ta.

Lúc này mọi người đều lũ lượt dừng bước theo Khương sư phụ, Tư Mã Khôi nhìn thấy xung quanh có nhiều vết tích cháy đen do bị bình phun lửa hun đốt khi nãy, trong lòng càng dấy lên nghi ngờ: "Sao lão giặc đất họ Khương cầm cái quạt rách, mông chẳng quạt, lại đi quạt mặt, mà dẫn cả hội trở về sào huyệt mãng xà thế nhỉ?". Anh lén quan sát xung quanh, thì thấy mặt Khương sư phụ trắng bệch như tờ giấy, thần sắc hoảng thốt, mắt khô vàng như sáp nến, gương mặt trông gầy đi rất nhiều so với trước. Anh đứng bên cạnh bình tĩnh quan sát tiếp thì thấy, lão có vài nét khá tương đồng với cái xác chết khô trong vũng nước, cả hai đều giống với loài ác quỷ bò ra từ "thành hàm oan".

Lão tam Hải Đông Thanh trong Sơn lâm đội thiếu lão đoàn là người có ánh mắt rất sắc bén, gã cũng phát giác con đường đang đi là quay trở về xuất phát điểm ban đầu, lại nhìn thấy Khương sư phụ có vẻ khác thường, liền đi lên phía trước hỏi: "Sư gia, người làm sao vậy?", chỉ nghe miệng Khương sư phụ lẩm bẩm câu gì chẳng rõ tiếng. Hải Đông Thanh không nghe được, lại cho rằng lão có chuyện cơ mật, bèn ghé sát tai vào, thì thầm: "Sao ạ? Người hãy nói rõ hơn một chút…"

Tư Mã Khôi dự cảm thấy có chuyện chẳng lành sắp xảy đến, anh muốn ngăn cản Hải Đông Thanh nhưng lại chậm mất nửa bước. Hải Đông Thanh chưa kịp dứt lời thì thấy phần miệng của Khương sư phụ đột nhiên rách toạc ra làm tư từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. Tư Mã Khôi biết thời Thanh có một loại ám khí, gọi là "Huyết trích tử", đó là quả cầu kim loại rỗng ruột gắn dây thừng dài, to gần bằng sọ người, bên trong giấu lưỡi dao sắc bén và dung dịch hóa cốt – loại dung dịch chỉ cần rắc lên thân thể người chết, sẽ lập tức xảy ra phản ứng hóa học, trong phút chốc thi thể hoàn toàn tiêu tán, chỉ để lại chút tạp chất khó lòng phân biệt là thứ gì. Thích khách sử dụng loại vũ khí này thường ẩn mình trên xà nhà, nhìn thấy mục tiêu ở phía dưới, thì ngắm chuẩn đầu người đó và quăng "huyết trích tử". "Huyết trích tử" hễ chạm đầu người sẽ lập tức phân thành nhiều cánh tỏa xuống phía dưới, ôm chặt lấy sọ người. Thích khách lại vẩy tay giật dây thừng lên, "huyết trích tử" liền tự động cắt đứt đầu người, dưới đất còn mỗi xác chết không đầu đứng sừng sững, thủ cấp trong "huyết trích tử" cũng sớm bị dung dịch hóa cốt giải quyết nhanh gọn, chỉ sót một giọt máu tươi dính trên đó, bởi vậy nó mới có tên "huyết trích tử".

Tư Mã Khôi cảm thấy đầu của Khương sư phụ giờ đây chẳng khác nào một quả "huyết trích tử", từ phần miệng rách toạc, nở ra vô số cánh, càng phình càng dài, những chiếc cánh phóng vù về phía trước, nhanh như chớp chùm gọn lấy đầu Hải Đông Thanh, rồi lôi vào trong, sau đó liền thu các cánh đang tỏa ra lại và khép chặt. Sự việc xảy ra quá đột ngột, khiến mọi người ai nấy đều kinh hoàng, đứng im như phỗng. Sau thời khắc thất thần, Hải Đông Thanh cảm thấy như có hàng ngàn mũi kim thép chọc thẳng vào óc, đau đến nỗi tứ chi co rút, trong phút giằng co giãy chết, khẩu súng trên tay gã bị cướp cò, một loạt đạn quét dọc theo đường di chuyển, đốn ngã mấy đồng bọn trong nháy mắt. Một viên trong số đó đâm xuyên qua ngực một tên lính Miến Điện, đánh trúng thùng nhiên liệu của bình phun lửa mà hắn đang cõng trên lưng, chiếc thùng lập tức phát nổ, chỉ nghe "ầm" một tiếng vang trời, quả cầu lửa bùng lên nuốt chửng những kẻ không kịp chạy đang đứng xung quanh, ngọn lửa rừng rực biến tất cả thành tro bụi.

HỒI 2: ĐỈA CAMPUCHIA ĂN THỊT NGƯỜI (1

Thùng nhiên liệu của bình phun lửa phát nổ, lập tức nuốt chửng mấy tên lính vũ trang người Miến Điện đứng gần đó, cả Hải Đông Thanh và Khương sư phụ cũng bị bùng cháy như hai quả cầu lửa. Tính cháy nổ của nguyên liệu chất đốt quân dụng vô cùng mạnh mẽ, chỉ cần nó bùng lên, thì không biện pháp gì có thể dập tắt được, hơn nữa ai bị ngọn lửa bủa vây, kẻ đó sẽ n

hất định sẽ chết trong tiếng thét gào thảm thiết và ra sức giãy dụa quằn quại.

Ngọc Phi Yến bị trấn động tâm thần, đứng im tại chỗ bởi biến cố xảy ra quá bất ngờ. Cô nàng biết rõ sự lợi hại của bình phun lửa, cho dù cố dập lửa cứu sống hai kẻ may mắn mà "diện tích vết bỏng toàn thân lên đến 99%" thì rừng rậm nguyên sinh cách xa bệnh viện thế này cũng đâu làm được gì, ngoài việc khiến họ sống chịu tội. Điều duy nhất có thể làm bây giờ là lập tức nổ súng, giúp họ sớm kết thúc sự đau đớn do bị ngọn lửa hung tàn hun cháy da thịt. Ngọc Phi Yến từ trước đến nay hành sự rất quyết đoán, nhưng đối với anh em thuộc hạ đã theo mình nhiều năm thì rốt cục vẫn không nỡ nhẫn tâm, cô đành ra dấu nhờ Gấu trắng – kẻ lưu vong người Liên Xô – giúp mình kết liễu họ.

"Gấu trắng" có tên thật là Ciglovski, trước đây từng chịu khổ hình, lưỡi bị người ta cắt mất quá nửa, giờ đây gã có miệng mà khó nói thành lời, nhưng kinh nghiệm vận dụng thuốc nổ của gã cực kỳ phong phú, chỉ cần dự tính đại khái về số lượng thuốc nổ và phương hướng phát nổ là có thể làm gần như chính xác so với thực tế. Gấu trắng là chuyên gia phá nổ được Ngọc Phi Yến thuê về. Gã người Nga này mang huyết thống Ngoại Kavkaz, cao khoảng một mét chín mươi, thân hình to lớn vạm vỡ, tâm địa đen tối, hạ thủ tàn độc. Năm đó, khi làm cố vấn quân sự viện trợ Việt Nam, gã đã lén trốn ra nước ngoài. Sau khi gã chạy trốn, toàn bộ già trẻ gái trai trong nhà đều bị KGB bắt giữ xử bắn, bởi vậy gã mang lòng hận thù bức màn sắt Nga – Xô Viết đến tận xương tủy, có lẽ những trải nghiệm lưu vong khốn khó đã khiến hắn hình thành tính cách khát máu tàn nhẫn như tên đồ tể. Gã giương súng, nhằm thẳng vào mấy thân hình đang bốc cháy rừng rực như cây đuốc sống, từ từ hạ gục từng người một, mỗi phát súng đều bắn xuyên não. Trong cả quá trình giết người, gã chẳng hề chần chừ nửa giây, ra tay vừa tàn bạo, vừa chuẩn xác, gương mặt tỉnh khô không chút biểu cảm, trông gã chẳng khác chi một cỗ máy hạng nặng do Liên Xô chế tạo – lạnh lùng và tàn khốc.

Hội Tư Mã Khôi và La Đại Hải trố mắt lên nhìn mà từng cơn lạnh cứ trườn qua gai sống lưng, nhưng đặt mình vào vị trí của cô ả mà xét, thì có lẽ Ngọc Phi Yến cũng chẳng qua vạn bất đắc dĩ mà thôi, nếu là mình, liệu có đủ nhẫn tâm ra lệnh cho tay người Nga kia hạ thủ bạn bè như thế không.

Sau một hồi súng vang lên, cánh rừng rậm thăm thẳm lại trở về vẻ yên ắng như ban đầu của nó, Ngọc Phi Yến vẫn chưa thể hoàn hồn, tim đập liên hồi, chân tay run lẩy bẩy, cô đăm đăm nhìn bảy tám cái xác, chết chẳng toàn thây, dung mạo cháy rụi, nằm co quắp trên mặt đất. Có ai ngờ, chỉ trong thời gian ngắn ngủi như vậy, cô lại mất Khương sư phụ, Xuyên Sơn Giáp, Hải Đông Thanh, những người này đều là tứ xà ba cột trong Sơn lâm đội lão thiếu đoàn, là hai cánh tay trái phải của mình, từ khi bước chân vào giang hồ đến nay, cô chưa bao giờ bị mất mát, hao tổn và gặp trắc trở gập ghềnh đến thế, có lẽ vậy nên trong phút chốc cô không thể chấp nhận sự thật và thích ứng với nó.

Lúc này chỉ còn lại mười mấy tên lính vũ trang người Miến Điện và hội bốn người Tư Mã Khôi, đi lên phía trước xắn tay áo, đào hố chôn mấy cái xác bị thiêu cháy thành tro. Một người trong đoàn chợt nhìn thấy có thi thể nằm dưới khe nước nông, cứ nghĩ đó là tử thi của đồng bọn, trong lúc giãy chết đã lăn xuống đó, nên định tiến đến trước vớt cái xác lên.

Nào ngờ, lại gần mới phát giác thi thể phảng phất hình người ấy không hề bị lửa thiêu cháy, mặt mũi chẳng thể nhận diện, tảo nước bám đầy thân thể, nhiều chỗ lòi cả khúc xương trắng ởn, chắc đó là thi thể bị chìm dưới nước đã nhiều năm. Xác chết này có rất nhiều điểm tương đồng với cái xác tìm thấy ở ven vũng nước khi nãy. Những chỗ trũng địa thế thấp trong thâm cốc tồn tại vô số vũng nước tù, lâu ngày tạo thành đầm hồ, hơn nữa người mất tích ở núi Dã Nhân lại nhiều không kể xiết, bởi thế phát hiện mấy cái xác trong vũng nước cũng chẳng phải điều gì kỳ lạ.

Nhưng khi mọi người quan sát kỹ cái xác, thì không nén nổi một tiếng kêu kinh hãi, khắp mình mẩy xác chết trương phình nổi lềnh bềnh trên mặt nước chi chít những giác hút. Thật không thể tưởng tượng nổi, vật lộ ra khỏi đám rong rêu không phải xương trắng của người chết mà là một con đỉa đang ngọ ngoạy vô số mao nhu động. Trên thực tế, đó là một con đỉa Campuchia ăn thịt người ẩn náu trong cái xác bị tảo xanh bám đầy.

Tư Mã Khôi ở Miến Điện đã nhiều năm, anh biết loài "đỉa Campuchia ăn thịt người", nó còn có tên là "đỉa nước nữ hoàng" hay "đỉa chúa", chỉ sống ở những dòng nước tăm tối trong rừng rậm nhiệt đới ẩm thấp, sinh tồn nhiều nhất ở lãnh thổ Campuchia, chúng có tập tính ký sinh trong thi thể mục rữa hoặc xác cá chết, lúc đầu đỉa chúa sống phụ sinh trong một cơ thể sống và phát triển theo kích cỡ của cơ thể sống đó. Phần lớn trứng đẻ ra đều là những con đỉa bình thường, chỉ những cái trứng ký sinh trong cơ thể động vật máu nóng mới trở thành đỉa chúa, bản thân đỉa chúa không ăn thịt người, mà chỉ hút sạch máu từ đầu xuống chân, điểm khác biệt so với đồng loại là nó có thể hút cạn máu của một con trâu hoặc voi rừng trong nháy mắt. Ở những vùng hoang dã phía tây nam có rất nhiều loài đỉa này xuất hiện hãm hại con người, nên dân gian mới gọi nó bằng cái tên "đỉa ăn thịt người".

Những người Miến Điện khác đều biết sự lợi hại của nó, tuy chẳng ai dám dùng tay sờ vào "đỉa Campuchia ăn thịt người" nhưng chỉ nhìn thôi cũng đủ để họ kinh hồn đảm vía, chẳng ai đợi thủ lĩnh ra lệnh, người nào người nấy đều giương súng chĩa thẳng vào mục tiêu, sau trận càn quét của súng đạn, con đỉa chúa to lớn dị thường bị bắn tan xác pháo.

Ai ngờ, trong cơ thể đỉa chúa toàn là những con đỉa con to khoảng năm sáu centimet, chui ra từ vết rách do bị súng bắn trên cơ thể mẹ, bò loằn ngoằn xuống nước, gặp da thịt người sống lập tức cuống cuồng xuyên bừa vào. Mọi người hoảng hốt, ai lo thân người nấy, mau chóng tháo chạy. Tư Mã Khôi nhanh tay tinh mắt, liền vớ lấy bình phun lửa còn sót lại ở trên bờ, ngắm thẳng vào lũ đỉa ăn thịt người phun mạnh, luồng lửa hung bạo lao ra quét một đường, trong phút chốc vô số đỉa con và xác đỉa chúa đều bị chết cháy dưới nước.

Tư Mã Khôi giơ cao đèn Halogen, dưới ánh sáng mạnh của chiếc đèn, anh có thể quan sát tất cả mọi nơi gần đầm nước, chỉ thấy trên mặt nước nổi lềnh bềnh cơ man nào là đỉa Campuchia ăn thịt người, thân hình chủ thể ký sinh phình to khác thường, trên lưng có những vệt vàng trông như mắt người, phần bụng màu tựa lá khô, trên đó có vô số giác hút. Mọi người được tận mắt chứng kiến cảnh tưởng sống động như vậy, gan ruột tự nhiên như bị teo rúm lại, da dầu căng cứng, trong lòng chỉ có mỗi hai từ "khiếp đảm". Số lượng loài đỉa này trong rừng rậm nhiều vô kể, hơn nữa lại sức sống của nó lại rất dai dẳng, bền bỉ, trừ bình phun lửa ra thì dao súng bình thường khó lòng giết chết được nó, nhưng chỉ cần không lại gần mặt nước thì sẽ an toàn hơn nhiều.

Lúc này, đám tàn binh vũ trang Miến Điện chỉ còn lại mười mấy người, họ không chịu nghe theo mệnh lệnh của Ngọc Phi Yến nữa, bọn họ vốn dĩ cũng chỉ là đám quân ô hợp, tất cả đều vì tiền mà bán mạng, tuy hô khẩu hiệu cần tiền, bất cần mạng, nhưng nếu vứt bỏ mạng sống thì tiền kiếm được còn có nghĩa lý gì? Bọn họ thấy trước mắt vẫn chưa tiếp cận được với khe cốc nơi chiếc tiêm kích vận tải mất tích, mà đã thiệt hại bao nhiêu huynh đệ, xem bộ dạng khi nãy của Khương sư phụ chẳng phải trúng tà thuật thì cũng bị quỷ ác nơi rừng già núi sâu nhập tràng, giờ còn tiếp tục tiến vào sâu hơn, không khéo chẳng ai giữ được mạng mà trở về.

HỒI 2: ĐỈA CAMPUCHIA ĂN THỊT NGƯỜI (2)

Huống hồ thủ lĩnh đội thám hiểm căn bản chẳng coi họi là con người, chết một mạng mà thờ ơ như chết một con sâu cái kiến, nếu còn ở lại chẳng sớm thì muộn cũng bị biến thành "tro pháo" chết thay người ta. Thế là, dưới sự lãnh đạo của một tên, bọn họ cướp tất cả vũ khí lương thực, rồi vuỗi tay không làm nữa, nhất loạt quay đầu về đường cũ tháo chạy.

Đám lính Miến Điện, tên nào tên nấy đều được vũ trang đầy đủ, khi bị đẩy đến bước đường cùng và phản kháng lại thì họ trở nên cực kỳ nguy hiểm. Hơn nữa, đội thám hiểm chỉ còn lại vài người, không thể khống chế nổi cục diện, nếu đối đầu thì chắc chắn hai bên sẽ cùng thương vong thiệt mạng, nên Ngọc Phi Yến chẳng biết làm gì khác ngoài việc trợn trừng mắt nhìn bóng họ dần khuất xa, răng nghiến vào nhau nghe ken két. Quay đầu lại nhìn hội Tư Mã Khôi, cô ả gằn giọng hỏi: "Sao các anh không biến nốt đi?"

Tư Mã Khôi nhìn những người ở lại, ngoại trừ bản thân, La Đại Hải, Tuyệt, Karaweik ra thì đoàn thám hiểm chỉ còn Ngọc Phi Yến, Thảo Thượng Phi và anh bạn người Nga Ciglovski, tất cả bảy người. Thoáng suy nghĩ một chút, anh cảm thấy tiền nhân hậu quả đúng là điều không thể lường trước được, hơn nữa cơn bão nhiệt đời có thể ập đến bất cứ lúc nào, mưa to gió lớn sẽ kèm theo lũ lụt, lở núi nghiêm trọng, những khu vực ở địa thế thấp chắc chắn sẽ bị nhấn chìm, đám lính vũ trang Miến Điện chạy trốn theo con đường cũ, e rằng chẳng khác nào tự mình đâm đầu vào chỗ chết. Bởi vậy, không thèm để ý đến mấy lời châm chọc của Ngọc Phi Yến, anh chỉ hỏi: "Rốt cục chuyện gì đã xảy ra với Khương sư phụ thế nhỉ?"

Đối với những sự việc xảy ra trước khi Khương sư phụ bị lửa thiêu chết, Ngọc Phi Yến vẫn chưa hết tim đập chân run, cô vốn là người thông minh tuyệt đỉnh, chỉ cần người khác gật đầu một cái là lập tức hiểu họ muốn nói gì, nghe Tư Mã Khôi nói, cô lờ mờ cảm thấy không ổn, thầm nghĩ: "Chẳng lẽ đúng là bị trúng tà…."

Tư Mã Khôi không đợi Thắng Ngọc trả lời, liền tiếp lời luôn: "Tôi thấy có khả năng Khương sư phụ bị trúng bùa ngải trong núi Dã Nhân". Nghe nói, để bảo vệ bí mật của núi Dã Nhân, người cổ đại đã cài đặt rất nhiều lời nguyền độc địa và các cạm bẫy cơ quan hiểm ác, theo tin tình báo nắm được hiện nay, quân đoàn bộ đội công trình tác chiến độc lập thứ sáu của quân Mỹ và vô số những nhà thám hiểm bước chân vào núi này trước đây đều phát hiện rất nhiều di tích và văn vật cổ xưa, nhưng vì chúng bị hư hại nghiêm trọng nên khó có thể phân biệt rốt cục là di tích của thời kỳ, triều đại nào.

Từ đó suy đoán, những truyền thuyết ly kỳ tưởng như hoang đường kia rất có thể là sự thật, muốn vào núi Dã Nhân tìm kiếm chiếc tiêm kích vận tải bị mất tích nhiều năm, ngoại trừ phải đối mặt với điều kiện khí tượng và môi trường tự nhiên ác nghiệt, phức tạp ra, thì còn phải đối phó với nhưng tà thuật và cạm bẫy mà người cổ đại đã để lại, còn về việc trong núi Dã Nhân rốt cục ẩn chứa bí mật gì và ai đã yểm những loại phù chú, bùa ngải lấy mạng người này, dựa vào thông tin hạn hẹp mà bọn họ có trong tay giờ đây thì căn bản không thể mò mẫm ra nổi đầu mối.

Mấy năm nay, mấy người Tư Mã Khôi, La Đại Hải, Tuyệt… thủy chung theo chân quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện chiến đấu trong rừng sâu, từng chứng kiến một số người bị yểm bùa ngải, còn Karaweik là dân bản địa chính gốc, sinh ra và lớn lên ở vùng núi này, nên càng rõ tình hình hơn ai hết. Nếu người nào xuất hiện những triệu chứng giống như Khương sư phụ, thì chắc chắn chẳng có nguyên nhân gì khác, mà chắc chắn là bị chơi ngải. Nếu chẳng may trúng loại tà thuật này, ngoài việc trước khi phát tác phải ăn thịt người luyện ngải hoặc yểm "vó ngựa" ra thì tuyệt đối chẳng có biện pháp gì giải cứu nổi, có điều tùy vào thể trạng của mỗi người khác nhau, nên cũng có kẻ may mắn thoát nạn, nhưng con số này chỉ chiếm 1%.

Tương truyền, ở Trung Quốc có một phương thuốc, đó là dùng "vó ngựa" để khắc chế bùa ngải, phương pháp dân gian này khởi nguồn từ Vân Nam. Nghe nói, thời xưa phong tục tập quán ở Vân Nam hãy còn mang nặng màu sắc mê tín, nếu ai chẳng may mắc bệnh hiểm nghèo, họ thường không mời lang trung đến khám chữa, mà mời pháp sư đến để xua đuổi tà ma, nghênh đón thần tiên, nếu lỡ gặp chuyện quái dị thì lập tức dùng vó ngựa. Vậy "vó ngựa" là gì? đó không phải da ở lòng bàn chân con ngựa mà người ta vẫn hay dùng để đóng giầy, cũng không phải đế ngựa. Khu vực miền Nam tục gọi "vó ngựa", còn ở miền Bắc lại gọi "chân gà", cũng chính là chân của con gà trống được cắt ra lúc nó vẫn còn sống. Tương truyền, vật này có thể giúp xua đuổi tà ma, tránh điều hung dữ, nó và "móng lừa đen, bánh đả cẩu" được tụng là ba linh vật. Tuy ở miền Bắc, không thường xuất hiện "vó ngựa" lắm, nhưng nó lại được truyền bá rộng rãi ở những nước thuộc khu vực Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan, Malayxia v.v…Thời cổ xưa cũng từng có người dùng nó để đối phó với một số loại bùa ngải có điều cái ảo diệu, bí mật ẩn chứa trong đó đã sớm thất truyền từ hàng trăm năm trước.

Giờ đây, điều duy nhất có thể xác định được là "ngải" ở núi Dã Nhân được người cổ đại yểm từ hàng trăm ngàn năm trước, nhưng e rằng bây giờ ngay cả nắm xương của người luyện ngải cũng đã hóa thành tro bụi, chứ nói chi đến thịt, biết đến nơi nào để tìm mà ăn? Bởi vậy ai bị chơi ngải, kẻ đó coi như gặp vận rủi, chắc chắn vô phương cứu chữa. Hơn nữa, khi chết đi, đừng nói có thể luân hồi sang kiếp khác, mà ngay cả làm quỷ cũng chẳng thành.

Bùa thuật trong núi sâu Bắc Miến vô cùng đặc biệt, những kẻ trúng tà đều xuất hiện một vệt đen rất rõ nét ở con ngươi phía đáy đồng tử, hình dạng giống như phân tằm. Nếu xung quanh bạn có ai xuất hiện dấu hiệu ấy, thì chắc chắn họ đã bị yểm bùa chơi ngải, tuyệt đối không sai lệch vào đâu được. Hội Tư Mã Khôi cũng hiểu sơ qua về bùa và ngải ở Miến Điện, biết được phàm kẻ nào bị trúng ngải, đúng thực trong đáy mắt họ đều có cùng một đặc trưng này, nhưng chẳng ai hiểu rõ nguyên lý sâu sa của nó.

Chỉ là từng nghe người ta nói, ở Vân Nam, Quý Châu, bọn man di rất giỏi luyện ngải và độc trùng, còn Nam Dương, Thái Lan lại là đất bùa chú, Miến Điện vừa vặn nằm lọt giữa hai khu vực đó, bởi vậy tà thuật "bùa" và "ngải" hòa quyện, hợp nhất với nhau thành một thể, cái ảo diệu bên trong của nó vô cùng ly kỳ, quái dị, người thường không thể lý giải nổi bằng lý lẽ thông dụng, cũng không thể dò dẫm được bằng biện pháp thông thường . Nếu bạn ở Miến Điện mà nhìn thấy gia đình nào, trong nhà không hề có mạng nhện hoặc đất bụi, thì có thể đoán định nhà đó đang nuôi ngải. Còn về các chủng loại ngải, thì nhiều vô số kể, chẳng rõ chính xác là bao nhiêu, có ngải tôm cá, ngải da trâu, ngải tử thi, ngải độc trùng, ngải rắn, ngải xương chó, ngải vải, ngải ếch v.v…

Ngọc Phi Yến vẫn có chút bán tín bán nghi, liền nói với Tư Mã Khôi: "Giờ đây thi thể của Khương sư phụ đã bị bình phun lửa thiêu cháy thành tro bụi, những gì anh nói cũng chẳng qua chỉ là phỏng đoán mà thôi, làm sao có thể khẳng định chắc chắn Khương sư phụ bị trúng ngải?"

Trong lúc hai người đang to nhỏ bàn bạc, thì Thảo Thượng Phi đứng bên cạnh hốt nhiên ho lớn từng cơn, miệng liên tiếp khạc ra mấy ngụm nước đen, đợi khi ngẩng đầu lên, thì trong mắt đã xuất hiện một vạch vàng mang tia máu, trông gã lúc này chẳng khác chi bộ dạng của Khương sư phụ khi trước. Thảo Thượng Phi là gã có thân hình nhỏ thó, đầu gián mắt chuột, tính tình tinh tế lanh lợi, chắc bởi gã có tài khinh công đi nhanh như lướt, nên mới được đặt cho biệt danh Thảo Thượng Phi – bay trên cỏ. Tuy cũng là loại giặc đất trộm mộ nhưng gã này bé gan nhỏ mật, vừa nãy nhìn thấy đồng bọn rơi vào tình cảnh thê thảm như thế thì đã sợ mất vía, mặt vàng như đất, tâm thần hỗn loạn.

Tư Mã Khôi trông bộ dạng của gã, bất giác như có một luồng hàn khí lạnh buốt xuyên thẳng vào óc, anh vội vàng đi đến đỡ Thảo Thượng Phi, rồi lật mí mắt dưới của gã ra xem, thì thấy dưới đáy hai con mắt đều xuất hiện một vệt đen kéo dài qua hai đồng tử, tiếp đó anh lần lượt xem mắt của những người còn lại.

Mọi người nhìn hành động của Tư Mã Khôi, đều dự cảm thấy một tai nạn lớn sắp giáng xuống đầu, chỉ mỗi Hải ngọng là vô tư hồn nhiên, anh hoàn toàn không biết gì cả, còn hỏi Tư Mã Khôi: "Cậu xem cặp mắt của La Đại Hải tớ, có phải tám mươi mấy năm rồi không nhỏ giọt mưa nào, tình cảm tràn trề quá chăng?"

Tư Mã Khôi không để ý đến lời nói bông đùa của La Đại Hải, bởi vì anh phát hiện, tất cả mọi người, có lẽ bao gồm cả đám lính vũ trang Miến Điện vừa tháo chạy khi nãy, người nào người nấy đều có một vạch đen rất rõ nét ở dưới đáy mắt, giờ đây tính mạng của mọi người chỉ được tính bằng từng giờ, không, có lẽ chỉ còn từng phút nữa thôi.

HỒI 3: BÙA NGẢI (1)

Chết chỉ là một đoạn đường mà ai trong cuộc đời cũng phải đi qua, bản thân cái chết có lẽ không đáng sợ, mà điều đáng sợ là khoảnh khắc thắc thỏm, dày vò khi chờ đợi chiếc bóng của thần chết sắp sửa giáng xuống đầu.

Ngọc Phi Yến biết mình cũng bị trúng ngải, trong lòng cảm thấy chán nản, buông xuôi đến cùng cực, cô ả kề khẩu súng ngắn đã lên nòng vào ngực, chuẩn bị cho thời khắ

c cuối cùng sẵn sàng nã một đạn vào huyệt thái dương của chính mình.

Gã Gấu trắng người Nga tuy là một tín đồ cảm tử, một kẻ điên cuồng mất hết lý trí, nhưng khi thật sự đến lượt mình phải đối mặt với cái chết thì các cơ trên mặt cũng không khỏi thi nhau co quắp lại. Gấu trắng lẳng lặng ngồi một mình dưới gốc cây, chẳng ai đoán được trong đầu gã đang nghĩ gì.

Đối lập với cảm giác bàng hoàng của đội thám hiểm, lúc này mấy kẻ may mắn sống sót trong đội du kích Miến Điện lại không hề bất ngờ một chút nào, bởi vì họ đã sớm quen với việc chịu đựng và đối mặt với cái chết, thậm chí Hải ngọng còn thoáng có thái độ kiểu như "cười vui trước nỗi đau của người khác", tâm trạng của anh giờ đây chẳng khác chi bệnh nhân mang mầm bệnh nan y, vô phương cứu chữa, đang nằm dài chờ chết, đột nhiên biết được mấy vị láng giềng bên cạnh cũng mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo y như mình, trong lòng bất giác cảm thấy vô cùng yên ổn, an tâm.

Chỉ duy có Tuyệt là suy nghĩ tỉ mỉ, chu đáo hơn cả, cô nhìn bộ dạng Khương sư phụ trước khi chết gầy héo như một cái xác khô, liền quay sang hỏi Tư Mã Khôi, nếu tất cả mọi người đều đã bị trúng tà thì tại sao lại không phát tác cùng một lúc? Hay là trong đó tồn tại một quy luật hoặc thứ tự nào đó? Trước đây, khi đoàn bộ đội công trình Mỹ xây dựng con đường hầm này, từng xảy ra sự việc hàng loạt nhân viên trong đoàn bị mất tích, phải chăng bọn họ cũng chết bởi loại ngải thuật âm hiểm, quái dị kia? Khái niệm về bùa và ngải quả thực quá đỗi mơ hồ, nếu có thể tìm ra căn nguyên, hoặc giả còn có cách giải cứu.

Tư Mã Khôi nói: tôi đoán, phàm những người trúng tà đều căn cứ vào thể trạng và sức đề kháng không giống nhau, thứ tự chết dường như cũng có một quy luật nhất định. Khương sư phụ tuy rằng thể trạng không tồi, đến tuổi này mà vẫn còn có thể vượt núi băng rừng, nhưng rốt cục lão vẫn thuộc dạng tuổi cao sức yếu, mắt mờ chân chậm, khí huyết không thể thông thuận như lúc trai trẻ, bởi vậy lão ta là kẻ bị phát tác trước tiên, tiếp theo đó là lão nhị "Thảo Thượng Phi" của đội thám hiểm, bởi gã lớn tuổi thứ hai sau Khương sư phụ. Nếu tôi đoán không nhầm thì người thứ đến phải chết sẽ là gã ngoại quốc người Nga, còn người bị chết sau cùng sẽ là Karaweik.

Tư Mã Khôi nói đến đây thì ngoảnh đầu lại nhìn Karaweik, chỉ thấy cậu bé dùng cả hai tay ôm chặt lấy đầu, trên khuôn mặt toát lên thần sắc tuyệt vọng đến cực độ. Ở Miến Điện, những người từng làm hòa thượng đều không sợ chết, trong quan niệm của họ, chết chẳng qua chỉ là sự bắt đầu của một luân hồi khác, nhưng đa số người bản địa đều vô cùng khiếp sợ tà thuật. Họ cho rằng, con bọ ngải luồn vào trong não sẽ dần dần gặm nhấm hết linh hồn trú ngụ trong thể xác của người sống, bởi thế Karaweik cứ mãi ôm đầu, miệng không ngừng lẩm nhẩm chỉ một chữ duy nhất.

Tư Mã Khôi nghe được từ mà Karaweik không ngừng lẩm nhẩm dường như là "trùng", lòng thầm cảm thấy kỳ quái: "Trong đầu lấy đâu ra trùng bọ nhỉ?", nhưng sau đó anh liền nghĩ ra, những người sống trong rừng rậm núi cao, nhiều kẻ thường nuôi độc trùng và xem chúng là vật môi giới cho các loại tà thuật như bùa hay ngải, bởi vì trùng tính ly kỳ, khó có thể lý giải, nên sẽ khiến những câu chuyện về bùa ngải càng trở nên tà ma, đáng sợ hơn.

Người ta thường nói: "Người nói vô tâm, kẻ nghe hữu ý", câu nói của Karaweik khiến Tư Mã Khôi và Tuyệt hốt nhiên cảm thấy hiểm họa chí mạng mà đội thám hiểm đang gặp phải rất có khả năng là do trùng trứng của loài "đỉa Campuchia ăn thịt người" đã ký sinh vào cơ thể họ trong lúc không ai ngờ đến.

Nghe nói, đỉa Campuchia ăn thịt người có một tập tính rất đặc biệt, trên một cơ thể chủ chỉ có một con đỉa chúa sống ký sinh, nếu như trước khi đỉa chúa thành hình mà cơ thể chủ chết đi, thì tự nhiên nó cũng theo đó mà hóa thành hòn máu đặc, chẳng những vậy, chúng không thể ký sinh trong cơ thể bọ máu lạnh, bằng không cái trứng sẽ chỉ nở ra một con đỉa bình thường. Đội thám hiểm từ lối cổng ra đổ nát của con đường U Linh tiến sâu vào sào huyệt trong thâm cốc, thì gặp sự công kích của bầy đỉa, con đỉa chúa khổng lồ bị bình phun lửa thiêu cháy khi ấy, cơ thể phình to ngang với thân hình một con người, hơn thế nữa ở đầm nước trong chỗ trũng gần đó còn tụ tập vô số đồng loại của nó, nếu không có thi thể người chết với số lượng tương ứng, thì làm sao chúng có thể sinh trưởng đông đúc đến vậy? Có lẽ con đỉa nữ hoàng mà chúng ta gặp ngày hôm nay, cũng chính là một trong những kẻ gặp nạn từng mất tích ở núi Dã Nhân bao nhiêu năm về trước.

Bộ dạng khô quắt sau khi trúng ngải của Khương sư phụ cũng giống như bị một con đỉa Campuchia ăn thịt người chui vào cơ thể, dần dần hút cạn toàn bộ tinh huyết và óc tủy quanh người, đến cuối cùng con đỉa thành hình mượn xác chết thay hình đổi cốt. Lúc này, Khương sư phụ trở thành cơ thể chủ cho đỉa chúa trú ngụ, hay nói cách khác, thi hài lão trở thành sào huyệt của nó ở nơi vũng tù này. Lúc phần sọ đột nhiên nở bung ra, cũng chính là lúc đỉa nước nữ hoàng đã chui vào não.

Tuy rằng Tuyệt đã sớm chẳng hề để tâm đến sự sống chết nhưng cứ nghĩ bên trong cơ thể mình có một con đỉa Campuchia ăn thịt người ký sinh thì lại thấy cách chết này quả thực quá sức ghê tởm và kinh dị. Mặt cô không khỏi biến sắc khó coi, thất kinh hỏi: "Từ khi tôi vào núi Dã Nhân đến nay, trước sau chưa từng chạm vào vũng nước tù có lũ đỉa đang sinh sống, tại sao lại bị loài đỉa nước này bám vào người vậy?"

Ngọc Phi Yến ngồi bên cạnh nghe thấy đoạn hội thoại giữa Tư Mã Khôi và Tuyệt, cô ả dường như vừa tóm được một tia hy vọng sống, liền nói chen vào: "Nếu anh biết vì sao cơ thể bị loài đỉa ký sinh, thì cũng không đến nỗi trúng loại tà thuật này. Môi trường ẩm ướt, oi bức trong núi Dã Nhân khiến trướng khí tràn lan khắp nơi, thực vật, thủy lưu, không khí, bùn đất, mây mù, đầm lầy đều trở nên bội phần nguy hiểm, đỉa Campuchia ăn thịt người thậm chí có thể luồn xuyên qua quần áo, giày tất và da thịt, nói cách khác chẳng lỗ nào chúng không thể thâm nhập, chẳng biện pháp nào đủ đảm bảo an toàn tuyệt đối. Nhưng nếu cái được gọi là ngải độc trùng chỉ là đỉa chúa chui vào trong cơ thể hút hết huyết khí, tinh tủy, thì hay chăng vẫn còn có thể nghĩ ra cách giải cứu?"

Tuyệt am hiểu rất sâu sắc về y lý, khi còn ở trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện, cô đã từng nhiều lần chữa thương cho người bị đỉa hút máu, nhưng giờ đây cũng chỉ biết lắc đầu nói: "Nếu đỉa bám ở vùng ngoài da thì còn dùng khói trực tiếp làm nóng nó hoặc đốt giấy cỏ hun chết, tóm lại có rất nhiều cách để đối phó. Nhưng một khi nó đã bò vào trong bụng hoặc trong hộp sọ, thì ngoại trừ phẫu thuật lấy nó ra, tuyệt đối chẳng còn biện pháp nào khác. Theo hoàn cảnh của chúng ta hiện nay, tính mệnh chỉ còn tính bằng từng khắc, đừng nói đến việc chẳng thể phẫu thuật, mà cho dù có được đưa đến một bệnh viện hiện đại với đầy đủ máy móc tối tân để cấp cứu ngay tức khắc, thì cũng chẳng kịp nữa rồi".

Ngọc Phi Yến liên tiếp đưa ra mấy phương pháp nhưng chẳng cách nào hữu hiệu, ví dụ tự mình nuốt độc dược, như vậy sẽ khiến con đỉa trong cơ thể cũng bị nhiễm độc mà chết, nhưng cách này chẳng khắc nào tự sát, toàn thân đỉa Campuchia ăn thịt người toàn là giác hút, những giác hút đó sẽ giúp nó bám chắc như keo trong cơ thể sống, không một loài trùng ký sinh nào có thể bì kịp với nó, cho dù bạn nôn thốc nôn tháo hết cả gan xanh mật vàng, thì cũng chẳng thể nôn ra nổi con đỉa đang bám diết trong bụng.

Tư Mã Khôi thấy mọi người xung quanh thần sắc đầy vẻ tuyệt vọng, anh cũng không khỏi trấn động tâm kinh, tuy anh chẳng sợ chết, nhưng cũng không cam tâm bị đỉa hút cạn huyết tủy mà khô quăn queo, sau đó thi thể còn chìm trong nước và trở thành sào huyệt đẻ trứng của đĩa chúa nữa. Nhìn thân mình đỉa Campuchia ăn thịt người chi chít những giác hút, bỗng dưng trong óc anh lại thấp thoáng hiện lên hình ảnh kỳ dị của con rết, liền sau đó lại liên tưởng đến việc Triệu Lão Biệt tìm thấy viên ngọc Định Phong cạnh cái xác con rết trong chiếc án mục nát năm xưa. Đến tận bây giờ, anh vẫn còn nhớ như in hình ảnh Triệu Lão Biệt với một thân kỳ thuật uyên thâm, khả năng nhận thức vạn vật muôn loài trên thế giới bội phần cao siêu. Nếu giờ đây lão chưa chết, nói không chừng có thể giúp anh nghĩ ra cách hay nào đó, giải quyết con đỉa nước nữ hoàng đang ký sinh trong cơ thể mọi người.

HỒI 3: BÙA NGẢI (2)

~*~

Theo lý, sau khi Tư Mã Khôi mang dòng tộc lục lâm, anh được mật truyền toàn bộ bí kíp Kim bất hoán, Văn Võ sư phụ anh bái làm thầy lúc còn ở nhà, được mệnh danh là "ma men Trương Cửu Y", có người gọi ông là "Trương bọ cạp" hoặc "Lão bách khoa toàn thư". Ngoại trừ món bản lĩnh tủ "Bọ cạp đảo đầu bò tường" ra, thì ông còn rất giỏi đàm đạo về phương thuật, chỉ điểm cát hung.

 "Mật truyền Kim điểm" mà tổ tiên họ Trương lưu lại chính là gốc rễ khởi nghiệp của gia tộc, được chia thành ba phần "Thiên, Địa, Nhân", từ trước đến nay chỉ truyền cho người trong tộc, không truyền cho người ngoài. Đến thời Trương Cửu Y, cả cuộc đời chỉ dạy dỗ cho hai truyền nhân trực hệ trong gia tộc, người thứ nhất là cháu đích tôn của dòng họ, có điều gã này tính tình thuần phát, ù ì, ông Trưởng Cửu Y chẳng mấy xem trọng hắn ta, nên không truyền thụ thuật suy diễn biến hóa, chỉ truyền cho một số khẩu quyết xem bói, rồi khéo léo đuổi hắn về quê nhà làm nông.

Truyền nhân mà Trương Cửu Y xem trọng lại chính là Tư Mã Khôi, bởi anh nhanh nhạy, cơ trí, cốt cách thanh thoát, tướng mạo thân hình đều có thể "trấn áp" được kẻ khác, lại giỏi ăn nói, giảo biện, từ ngữ sắc bén, tâm thuật cũng chính phái. Theo cách nói của giới lục lâm, người như thế có thể vượt qua phong ba bão táp, bảo vệ được bí mật gia truyền, gặp lúc thất thủ cũng không bán đứng đồng bọn và thế tộc, vì vậy ông mang tất cả tuyệt kỹ nhét tận đáy hòm nhà họ Trương truyền thụ tuốt tuột cho Tư Mã Khôi.

Chỉ có điều, lúc đó Tư Mã Khôi tuổi hãy còn quá nhỏ, đến khi bước được chân ra ngoài xã hội bươn trải thì lại không gặp thời, khiến bản lĩnh gia truyền bị lơ là, bỏ quên trong nhiều năm. Lúc này, anh bất chợt nghĩ đến sự việc gặp Triệu Lão Biệt năm xưa, lại liên tưởng đến cuộc đời tà môn ngoại đạo của lão, thấy rằng lão có những khả năng mà người thường khó lòng vươn tới được. "Mật truyền Kim điển" mà tổ tiên mình để lại là bộ cổ thuật "tỏ tường mọi ngách, lừng danh bốn bể", vậy sao mình lại phải chịu thua kém người ta? Nhưng rốt cục làm sao mới có thể dùng lý lẽ "tướng vật" trong "Kim bất hoán" để trục xuất đỉa chúa đang ký sinh ra khỏi cơ thể?

Ý niệm này tuy rằng chỉ lóe lên trong khoảnh khắc, nhưng anh cũng đã lờ mờ hiểu, cái gọi là "vật cực nhi phản, số cùng tắc biến", rốt cục có ý là trời chẳng bao giờ nỡ tuyệt đường sống của con người. Anh cho rằng chỉ cần tìm ra nhược điểm của đỉa Campuchia ăn thịt người trong thời gian cực ngắn, thì có thể những kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm sẽ có cơ hội thoát khỏi bàn tay tử thần.

Trong lúc Tư Mã Khôi đang vắt óc suy nghĩ, ánh mắt anh chợt chạm phải Thảo Thượng Phi. Gã đang ngước đầu lên, nhìn chằm chằm vào một thân cây cổ thụ với thần sắc hoảng hốt, thất thần. Lúc này, Thảo Thượng Phi gầy héo như bị thoát xác, hốc mắt lóm sâu hoắm vào trong, miệng ú ớ chẳng nói thành lời. Ngọc Phi Yến lo lỡ đâu gã đột ngột ra tay làm người khác bị thương, nên lấy dây thừng trói gã lại. Tư Mã Khôi cũng ngẩng đầu dõi mắt theo hướng nhìn của Thảo Thượng Phi, chỉ thấy trên đó tối hù hù, chẳng nhận thấy có điều gì khác lạ.

Lúc đó, Ngọc Phi Yến nói với mọi người: "Mọi người đã chắc chắn sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa, thì nhân lúc thần trí vẫn còn minh mẫn, hãy mau chóng tránh xa sào huyệt tập trung của lũ đỉa chúa".

Tư Mã Khôi lại nói: "Thủ lĩnh, cô thử nói xem vì sao Khương sư phụ lại dẫn đội thám hiểm trở về sào huyệt của đỉa Campuchia ăn thịt người?"

Ngọc Phi Yến đáp: "Chẳng phải anh nói Khương sư phụ bị trúng tà sao? Người chết giống như ngọn đèn đã tắt, bây giờ anh lại trách cứ người ta, phỏng có ý nghĩa gì?"

Tư Mã Khôi nói: "Tôi đoán, chắc ở gần chỗ này ẩn giấu một vật gì đó, vật ấy dụ dỗ Khương sư phụ, hoặc giả dụ dỗ con vật ký sinh trong cơ thể ông ấy trở về đây. Có lẽ đúng là mệnh chúng ta chưa hẳn đã tuyệt, nói không chừng vẫn tìm thấy một con đường sống cũng nên".

Ngọc Phi Yến cũng cảm thấy việc này rất đỗi kỳ quái, đáng nghi, trong dải rừng rậm âm u chẳng bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời này, môi trường ẩm ướt ô uế, tuy khiến người ta cảm thấy ngột ngạt, bức bối nhưng không biết vì nguyên do gì mà trong không gian dường như phảng phất một mùi hương vô cùng quái dị, chẳng rõ đó là mùi thơm của hươu xạ hương hay của gỗ trầm hương, không những vậy càng ở nơi cao thì mùi thơm càng nồng đượm. Cô nhìn những cây cổ thụ cao ngút ngàn đến tận trời, trong lòng tự thấy bất lực: tay không làm sao mà leo tới đó được? Trong lúc đang định tìm loại công cụ leo núi nào đó để trợ giúp thì chẳng ngờ đã thấy Tư Mã Khôi buộc đèn Halogen lên người, rồi liền đó thi triển tuyệt kỹ "Bọ cạp đảo đầu bò tường" bám thân cây leo ngược lên. Tuy vết thương trên vai anh chưa lành hẳn nhưng thân thủ vẫn nhanh thoăn thoắt như gió cuốn, khiến những kẻ ở dưới đất nhìn lên chỉ biết trợn mắt há miệng mà kinh ngạc và thán phục, người nào người nấy nhìn chằm chằm không rời mắt, chẳng dám phát ra tiếng động, ngay cả hơi thở cũng cố gắng thật khẽ khàng.

Thân thể Tư Mã Khôi rốt cục vẫn đang bị thương, bò lên tới tán lá thì hai vai đã cảm thấy tê cứng, đau buốt, anh nhìn thấy trong hốc cây cổ thụ có một cái hố giống như hang động vật, trong hố phủ đầy rêu xanh dày bì, không khí âm u, lành lạnh thấu cả xương, lấy đèn soi vào, chỉ thấy bên trong cất giấu những quả trứng mãng xà, quả nào quả nấy to như nắm đấm, thì ra đây là sào huyệt của con ô xà Miến Điện bị bình phun lửa thiêu cháy lúc trước. Anh thò tay ra sờ ba trái trứng trắng đục, cất chúng vào trong lòng, rồi nhẹ nhàng chuồn xuống dưới.

Trong lúc còn chưa rõ sống chết ra sao, lại thấy Tư Mã Khôi lẻn lên cây lấy cắp mấy quả trứng mãng xà, hội Ngọc Phi Yến cảm thấy tên này quá nửa là chuẩn bị phát điên.

Tư Mã Khôi nhìn thấy ba quả trứng trong lòng bình an vô sự thì mới trút được tiếng thở mạnh, anh cẩn thận nâng niu từng quả trứng, bày chúng lên mặt đất, nhìn sắc mặt mơ hồ khó hiểu của mọi người, anh đành phải giải thích: "Muốn trục xuất con đỉa chúa đang sống kí sinh ra khỏi cơ thể, chỉ có thể kỳ vọng vào vật cứu mạng này thôi".

Gã Gấu trắng người Nga thấy vẫn còn cơ hội sống, tinh thần phấn chấn lại ngay tức thì, nhưng trước mắt chỉ có ba quả trứng mãng xà, mà những kẻ sống sót còn những bảy người, cháo ít vãi nhiều, chẳng thể nào chia đủ, chắc chắn bốn người trong số họ phải chết, làm gì có chuyện gã để tâm đến những kẻ xung quanh, lập tức thò tay ra cướp, định bụng sẽ nuốt chửng một quả vào bụng.

Nhưng phản ứng của Tư Mã Khôi còn lanh lẹ gấp bội, chẳng để gã Gấu trắng người Nga kịp đến gần, anh đã thi triển chiêu "Phu tử tam thúc thủ", đẩy lùi bàn tay to phàm phàm như chiếc quạt Ba Tiêu của gã, nhưng trong thời khắc gấp gáp, giành giật từng giây giữa sự sống và cái chết, Tư Mã Khôi không muốn quyết một trận sống mái với gã, chỉ xua tay, ra hiệu cho đối phương đừng hòng tiến lại gần, lại làm động tác vuốt cổ, ngầm nói với mọi người tuyệt đối không được ăn "trứng mãng xà", nếu không sẽ càng chết nhanh hơn.

Gã Gấu trắng người Nga bình sinh sức khỏe vô địch, giết người chẳng khác chi giết một con gà, hắn cứ nghĩ chỉ cần thò tay ra là cướp được trứng rắn, nào ngờ lại lấy hụt, trong lòng cũng không khỏi cảm thấy bất ngờ, chẳng biết gã phương Đông này sử dụng tà thuật gì, gã khoằm cặp mắt hung tợn gườm gườm nhìn Tư Mã Khôi, nhưng chẳng dám manh động thêm nữa.

Những người còn lại đều biết rõ tập tính của mãng xà Miến Điện, con cái mỗi năm phải sinh hàng trăm trứng, ba quả trứng mà Tư Mã Khôi vừa lấy từ trên ổ rắn xuống sờ vỏ ngoài nhẵn nhụi trắng mịn như ngọc, xem ra chúng chỉ là những trái trứng bình thường, chưa được thụ tinh. Tư Mã Khôi nói chúng có khả năng giúp họ trục xuất con đỉa Campuchia ăn thịt người ra khỏi cơi thể, nhưng lại nói không được đập vỡ hay nuốt chửng, chẳng lẽ vật này dùng để xoa đắp ngoài da?

HỒI 4: CUỒNG PHONG GIÔNG TỐ (1)

Tư Mã Khôi tự biết mạng sống của mọi người giờ đây mong manh tựa ngàn cân treo sợi tóc, nên cũng không dám giải thích dài dòng, chỉ cầm một trái trứng mãng xà đặt xuống phía trước, lần lượt huơ huơ trước mũi hội La Đại Hải, Tuyệt, Ngọc Phi Yến. Trong giây lát, mọi người đều ngửi thấy một luồng khí thanh thoát thơm nồng quyện vào tận tim phổi, không thể tả hết cảm g

iác dễ chịu thoải mái, ai nấy không nhịn nổi càng kỳ lạ thắc mắc: "Trứng mãng xà Miến Điện sao lại có mùi thơm kỳ diệu đến thế nhỉ?"

Chẳng kịp đợi mọi người hiểu rõ, Tư Mã Khôi liền đập vỡ từng quả, đùn thành một đống nhầy nhụa trên mặt đất. Một mùi hương kỳ lạ, đậm đặc lập tức lan tỏa khắp không gian, khiến ai nấy không cưỡng nổi, định bò xuống đất liếm đám lòng trứng. May mà nhận thức của Tư Mã Khôi còn vô cùng tỉnh táo, anh là người đã được luyện khí công, khả năng định thần hơn hẳn người khác. Anh đứng bên ngăn cản hành vi của mọi người, không để bọn họ tiếp cận đám trứng vỡ.

Khoảng nửa phút sau, mọi người đều cảm thấy có một vật lạ ngọ ngoạy nhúc nhích trong cổ họng, buồn buồn ngứa ngứa không thể chịu nổi, gã Gấu trắng người Nga và Thảo Thượng Phi khô quắt, vàng vọt như cương thi là hai kẻ không chịu nổi trước tiên, bọn họ cùng lúc "ọe" lên một tiếng, mỗi người đều nôn ra một con đỉa ký sinh, dài gần hai mươi mấy centimet, thân thể trong suốt, vằn vện những vạch đỏ au au, to như cánh tay trẻ con, toàn thân chi chít giác hút rỏ máu ròng ròng, bọn chúng nhào xuống đám dịch lỏng dấp dính, thân đỉa cuộn lại quét một đường đã hút hết một nửa lòng trứng trên mặt đất.

Mấy người còn lại kẻ trước người sau đều nôn ra con đỉa ăn thịt người ký sinh trong cơ thể, chỉ thấy sau khi đỉa chúa hút sạch đám trứng mãng xà trên mặt đất chẳng bao lâu, thì trở nên cứng đờ, nằm im bất động, rồi hóa thành một đống máu đặc. Lúc này, mọi người lại ngửi đám vỏ trứng còn sót lại trên mặt đất, chỉ cần hơi lại gần một chút là một mùi khí tanh nồng lộng vào tận óc, ghê tởm, khó ngửi vô cùng, chẳng còn cảm giác thanh ngọt, thơm ngon như lúc trước nữa.

Mọi người sống sót sau kiếp nạn, người nào người nấy mặt trắng bệnh như giấy, thở dốc một hồi lâu, các giác quan dần dần khôi phục, càng nghĩ càng cảm thấy rùng rợn. Cả đội vốn nghĩ phen này chắc chết không còn nghi ngờ, may mà Tư Mã Khôi nhanh trí nghĩ ra cách giải quyết thần kỳ trong lúc nguy cấp, mới nhặt được mạng sống trở về, nếu chỉ chậm trễ thêm vài phút nữa, để con đỉa trong cơ thể kịp thành hình, thì e rằng bây giờ tất cả đã vạn nạn rũ áo về trời.

Lúc đầu, Tư Mã Khôi cũng không dám chắc chắn một trăm phần trăm, nhưng giờ đây nhìn kế sách cứu mạng quả đúng có thể thông hành, trong lòng cảm thấy bội phần may mắn. Anh còn muốn cứu những tên lính vũ trang Miến Điện tháo chạy khi trước, bèn kéo Karaweik chạy ngược về sau đuổi theo. Chỉ cần ven theo khe cốc tìm kiếm khoảng mấy dặm, đã phát hiện mười mấy tên lính vũ trang Miến Điện đang bị lạc đường bởi hơi thở của rừng sâu, không những vậy, bọn họ chạy chẳng bao xa, cũng moi ra mấy quả trứng mãng xà trong huyệt đá, hốc cây gần đó. Sau khi nuốt chửng vào bụng, đỉa chúa trong cơ thể càng lớn nhanh gấp bội, chẳng bao lâu đã rít hết não tủy và tinh huyết quanh người.

Tư Mã Khôi nhìn thấy cảnh chết của mấy tên Miến Điện, thực sự cảm thấy trấn động kinh tâm, núi Dã Nhân hiểm nguy mai phục tứ bề, tuy rằng bản thân đã thoát khỏi kiếp nạn này, nhưng không biết có bao nhiêu hung hiểm đang chờ đợi ở phía trước. Anh lo lỡ lạc mất mấy kẻ sống sót trong đội thám hiểm, chẳng thể bận tâm đến mấy xác chết ấy thêm nữa, liền vội vã quay đầu trở lại tìm hội Tuyệt và La Đại Hải, đồng thời thuật lại tóm tắt kết quả của đám lính Miến Điện cho Ngọc Phi Yến nghe.

Ngọc Phi Yến liệu định trước, sau khi mấy người Miến Điện kia bị trúng ngải đỉa, chắc chắn không thể sống mà chạy thoát khỏi núi Dã Nhân, nên chẳng hề ngạc nhiên trước kết cục này. Có điều cô ả lại đặc biệt trăn trở trước sự thành bại, đồng thời tự đánh giá mình rất cao, không bao giờ chịu gục ngã, giờ đây đã chấp nhận phi vụ mạo hiểm này, thì cho dù có gặp sóng gió nguy hiểm lớn hơn nữa cũng vẫn vọng đồ tiếp tục dấn thân vào sâu trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân.

Ngọc Phi Yến vẫn nhớ, khi nhìn thấy bức màn sương mù mỏng tang ở nơi sâu trong sơn cốc, cũng chính là khi có thể bắt gặp di hài voi rừng bất cứ lúc nào, chỉ cần đi theo dấu tích ấy mà tìm "huyệt động ma mút" sẽ đồng nghĩa với việc tiếp cận khu vực nơi chiếc máy bay vận tải không quân Anh bị mất tích. Giờ đây đã giải trừ được hiểm họa đỉa Campuchia ăn thịt người, thì làm gì có chuyện cô ả chịu đứt gánh giữa đường.

Có điều, tuy rằng thuộc hạ Thảo Thượng Phi của Ngọc Phi Yến đã bảo toàn được tính mạng nhưng lại trở thành phế nhân, đội thám hiểm trước mắt ngoại trừ thủ lĩnh là cô ả ra thì chỉ còn lại một mình gã Gấu trắng người Nga kia mà thôi, nhưng tay ngoại quốc này lạnh lùng tàn nhẫn, trở mặt thất thường, không đáng tin cậy chút nào. Ngọc Phi Yến đã chứng kiến bản lĩnh của Tư Mã Khôi, cảm thấy con người này quả thực tuyệt luân vô song, nhiều điểm hơn người, nếu có thể biến anh ta thành người của mình, thì "hàng" trong chiếc tiêm kích vận tải kia coi như đã nằm trong tầm tay, nghĩ đến đây, cô ả liền quay sang ngọt nhạt với Tư Mã Khôi: "Ơn cứu mạng, tôi không dám nói bằng lời…"

Chưa nghe xong, Tư Mã Khôi đã vội vàng từ chối: "Tàu hỏa có chạy nhanh cũng là do đầu tàu kéo. Cô là thủ lĩnh của chúng tôi, tôi cứu cô là lẽ đương nhiên, không cần phải cám ơn. Cho dù cô tình nguyện mang thân ra đáp đền, tôi đây cũng chẳng dám nhận".

Ngọc Phi Yến đang định mở lời, thì bị Tư Mã Khôi chặn họng làm cho ê mặt, cô ả không nén được cảm giác vừa thẹn vừa giận, liền nạt nộ: "Anh muốn chết thế nào?". Nhưng chuyển ý niệm nghĩ lại: "Gã này đối xử với ai mà chẳng ngang ngược, vô lại như thế, bây giờ là lúc mình đang cần dùng người gấp, thôi thì cứ tạm thời nén giận mà bỏ qua cho hắn". Thế là cô ả cố gắng áp chế lửa giận, nhỏ giọng nói: "Anh đã coi tôi là thủ lĩnh, vậy hẹn ước ban đầu của chúng ta, anh còn giữ lời hay không?"

Tư Mã Khôi nghe mấy lời này, thì biết Ngọc Phi Yến chưa chịu nhụt chí từ bỏ, mà vẫn muốn tìm tông tích của chiếc máy bay tiêm kích, trong lòng thầm nghĩ: "Tôi cứ tưởng mình chính là một kẻ liều mạng, ai ngờ cô còn bất cần mạng hơn cả tôi. Phi vụ này hung hiểm quá lớn, chi bằng nhân lúc sớm nhận ra tử khí u ám, mình nhanh chóng xù nợ cho xong". Nhưng Tư Mã Khôi lại nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, quả thực chẳng còn đường lui mà thoát thân, do tình thế thúc ép, cũng đành chui vào đường chết, chỉ hi vọng Ngọc Phi Yến có thể mang theo Karaweik rời khỏi biên giới Miến Điện. Nếu được như vậy, thì bất luận đối phương tiến hay lùi, anh cũng cam tâm tình nguyện dùng tính mạng đền đáp, có điều anh vẫn có ý muốn bàn bạc kỹ lại với hội La Đại Hải rồi mới quyết định.

Tư Mã Khôi dứt lời, liền đi xem tình hình phía La Đại Hải và Tuyệt, hai người bọn họ cũng giống anh, đều chẳng gặp trở ngại gì lớn lắm, chỉ là mất chút máu, cảm thấy tinh thần kiệt quệ, trên người dường như không còn sức lực.

La Đại Hải nhìn thấy Tư Mã Khôi đi đến, thì than thở: "Hôm qua tớ còn hoài niệm mãi về món trứng xào cà chua ở khách sạn Lục Quốc chỗ mình, nhưng bây giờ nghĩ đã thấy tởm, chắc suốt quãng đời còn lại, tớ chẳng dám động đến cái món đó nữa".

Tư Mã Khôi cũng xoa đầu an ủi bạn: "Thực ra tớ thấy món trứng cũng chẳng có gì ngon bổ mấy, chẳng qua nó chỉ là vật bị gà mẹ xảy thai tọt ra mà thôi, từ trước đến nay tớ chả bao giờ thèm động động đũa".

Lúc này, Tuyệt vẫn chưa hồi tâm định thần nổi, cô run giọng nói: phen này may mà có Tư Mã Khôi, tôi còn nhớ trong một cuốn sách y học có nói: ‘Ăn lông uống máu vốn là phong tục của người thượng cổ. Giờ đây, người hiện đại chúng ta đã quen với việc ăn chín uống sôi, nếu không trong bụng tất sẽ nảy sinh giun sán, nhẹ thì tổn hao huyết khí, nặng thì mất cả tính mạng’. Hai năm trước, khi tôi theo nhóm đặc vụ hành nghề ở Mandalay, từng chữa trị cho một thiếu niên mười mấy tuổi người bản địa. Thiếu niên đó thân hình gầy như que củi, chỉ có hộp sọ và bụng là phình to khác thường. Khi cậu bé bước đến trước mặt tôi thì đột nhiên đi hơi gấp một chút, rồi đầu cậu bé tự dưng từ cổ lăn lông lốc xuống đất, điều kỳ lạ là chẳng hề thấy máu chảy ra. Tôi lại gần kiểm tra thi thể, mới phát hiện trong cổ họng cậu bé bò lổm ngổm cơ man nào là đỉa, phần bụng và sọ não còn nhiều hơn. Lúc đó tôi vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, sau đó dò hỏi mọi người xung quanh mới hay, thì ra cậu bé thường ăn ốc vớt được dưới sông, nhưng do nấu không kỹ, cho nên đỉa ký sinh trong con ốc đều chui vào cơ thể cậu bé. Hoặc giả lúc đầu liều mạng mà cho cậu bé uống chút thuốc độc vừa phải, may ra còn có thể cứu chữa, nhưng chỉ cần đỉa chui vào não hoặc thành hình trong bụng, thì cho dù ngay cả Hoa Đà có tái thế sống lại, cũng đành bó tay.

Tư Mã Khôi không đề cập đến việc mình sử dụng huyền thuật "tướng vật" của tổ tiên truyền lại, chỉ nói tôi đây chẳng qua là hạng gà mờ, tay chiêu, những loại tà thuật cài đặt khắp nơi ở Thái, Lào, Campuchia v.v… tuy rằng đồn đại nghe có vẻ vô cùng quái dị, kinh khủng nhưng chỉ cần lật tẩy căn nguyên, tìm được cách khắc chế đối ứng, thì trong đó chẳng còn gì đáng gọi là bí mật nữa.

Tuyệt nghe xong, vẫn thán phục không ngớt, cô hiểu tập tính ký sinh của loài đỉa hút máu, nên nói với Tư Mã Khôi, những người từng bị đỉa chúa ký sinh trong cơ thể, khí huyết suy tổn nặng nề, nhưng cũng chính vì vậy, chỉ cần trục xuất con đỉa Campuchia ăn thịt người đang ký sinh ra ngoài, thì nội trong mấy ngày gần đây, không cần lo sợ trong bụng lại nở ra đỉa, giờ đây những vũng tù trong rừng rậm không còn uy hiếp chúng ta được nữa, nhưng cơn bão nhiệt đới Buddha có thể ập đến bất cứ lúc nào, nếu còn chần chừ ở lại trong núi, thì sớm muộn cũng bị nước lũ nuốt chửng, tiếp sau đây nên đi đâu về đâu, phải mau chóng quyết định mới được.

~*~ 

HỒI 4: CUỒNG PHONG GIÔNG TỐ (2)

~*~

Tư Mã Khôi gật đầu nói, tiêu trừ được đỉa Campuchia ăn thịt người chẳng qua là tạm thời khắc chế một trong số vô vàn hung hiểm tiềm ẩn ở núi Dã Nhân. Chỉ riêng hiểm họa này cũng đủ khiến hơn tám mươi phần trăm thành viên của đội thám hiểm phải bỏ mạng, nếu tiếp tục truy lùng tông tích chiếc máy bay không quân Anh dưới vực sâu khổng lồ, e rằng sẽ còn phải trả g

iá đắt hơn, nhưng hiện nay thời tiết chuyển biến ác nghiệt, môi trường cũng càng ngày càng trở nên phức tạp, cho dù có quay về theo đường cũ thì cũng không chắc an toàn thoát thân, chỉ còn cách chặt đứt đường lui, quyết tâm tiến lên phía trước, liều mạng sống chết một phen, may ra mới có cơ hội thành công.

La Đại Hải cũng nói: "Mấy năm ở Miến Điện, chỉ dặt làm mấy việc thất đức đốt nhà, giết người, chưa từng chính thức giúp đỡ bất cứ ai, bây giờ gặp cơ hội hiếm có, ông Hải đây đương nhiên chẳng còn lời nào phải bàn thêm".

Sau khi ba người đã quyết định đâu vào đấy, Tư Mã Khôi liền đi đến nói với Ngọc Phi Yến: "Bốn người bọn tôi đều là những kẻ một thân một mình, chẳng có ai phiền lụy, níu kéo, thôi thì cứ theo cô đi một hơi đến tối cho xong".

Ngọc Phi Yến liền cất lời cảm tạ: "Cám ơn các vị không chê cười và cũng cảm ơn tấm thịnh tình sâu sắc của quý vị. Chỉ có điều hi vọng các vị quân tử nhất ngôn, về sau không được thay đổi, trở mặt. Từ giờ phút này, chúng ta là những kẻ cùng hội cùng thuyền, hoạn nạn có nhau". Cô ả thấy con đường phía trước ngập tràn chông gai, hung hiểm, nên không dám lơ là, đoạn lệnh cho mọi người mau chóng chỉnh đốn hành lý còn sót lại. Khi đi vào núi, đội thám hiểm mang theo lượng lớn trang thiết bị, nhưng trong lúc hỗn loạn, tan rã đã thất lạc không ít, điện đài cũng bị bình phun lửa thiêu hỏng. Giờ đây chỉnh đốn hành lý, thì chẳng còn mấy chân khuôn vác người Miến Điện, nên mọi người đành cố gắng mang càng nhẹ càng tốt, những gì có thể bỏ lại đều đem vứt hết.

Gã Gấu trắng người Nga tự chất lên vai một túi to, nhét đầy "dây dẫn nổ, ngòi nổ, thuốc nổ, khoan hơi", Tư Mã Khôi cảm thấy dưới lòng đất trong khe cốc sâu có sương khí che chắn tầm nhìn, những thiết bị chiếu sáng là vật không thể thiếu, nên nhặt thêm mấy cái đèn Halogen, đèn pin tụ quang, pin đèn, pháo tín hiệu, pháo sáng v.v… nhét vào túi, những người còn lại đều chỉ mang những loại vũ khí cần thiết và lương khô dạng bánh.

Ngọc Phi Yến bảo La Đại Hải mang nốt chiếc bình phun lửa còn lại để đề phòng bất trắc. Nhưng La Đại Hải một mực không chịu, nói là các ông đây "lúc đánh Lashio, khi xuống Lalaung, đột phá vòng vây ở Ayeyarwady, tắm máu Mandalay", có trận đánh lớn nào chưa từng gặp qua? Trong rừng sâu tuy đầy hung hiểm nhưng chỉ cần dựa vào bản lĩnh chính mình và dao súng trong tay, cũng đủ để đối phó với chúng, chứ cần gì đến bình phun lửa. Hơn nữa, nếu lỡ ra món đồ chơi ấy mà phát nổ, thì Hải ngọng tôi chẳng phải số xui tận mạng hay sao? Cô cứ nhìn mấy vị bị nó thiêu sống thành tro lúc nãy mà xem, đến hình hài cũng chẳng còn, e rằng xuống tới âm tào địa phủ, ngay cả Diêm Vương cũng chẳng thể nhận ra họ là ai. Nếu cô còn cứ khăng khăng bắt tôi vác nó, thì chẳng thà cứ cho đạn lên nòng "pằng" một cái là xong, bắn vài phát cùng lắm trên người cũng chỉ mọc thêm vài cái lỗ, chết như vậy tôi còn thấy nhanh gọn hơn nhiều. Ngọc Phi Yến không ngờ lại bị đáp trả lắm điều như thế, đành phải gạt bỏ ý niệm ấy đi.

Lúc này Thảo Thượng Phi nằm trên mặt đất đã khôi phục lại một chút thần trí, sau khi hỏi rõ tình hình, gã biết nếu bị bỏ rơi một mình ở nơi rừng sâu núi thẳm này thì khó mà tránh khỏi cái chết, gã lật bật cầu xin van nài thủ lĩnh, gắng sức vắt ra vài chữ từ kẽ hai hàm răng: "Cầu xin thủ lĩnh, xin người mở lòng từ bi, cho tôi bảo toàn cái mạng già này…"

Tuyệt không nỡ bỏ rơi Thảo Thượng Phi lại, mặc kệ gã tự sinh tự diệt, không đợi Ngọc Phi Yến đưa ra quyết định, cô đã tự mình dùng dao cắt hai đoạn dây rừng, tận dụng áo mưa và dây thừng, chế thành chiếc cáng tạm thời. Cô cùng Karaweik, hai người khiêng hai đầu cáng nhấc bổng Thảo Thượng Phi lên, xong xuôi mọi việc mới chịu khởi hành.

Mọi người tiếp tục tiến về con đường ngoằn nghoèo tựa mê cung ở phía trước sơn cốc, từ xưa đến nay, không biết bao nhiêu con voi rừng Miến Điện từng đặt dấu chân qua nơi này để bước vào huyệt động vùi xương của tổ tiên, trong đó có nhiều con vì năm dài sức yếu, hoặc bị hại trong rừng nên đã gục ngã giữa đường, những hóa thạch xương cốt còn sót lại chính là những tấm biển chỉ đường liên tục cho đội thám hiểm lần mò đến vị trí động huyệt ma mút.

Hội Tư Mã Khôi lần theo dấu vết của di hài voi rừng, đi khá sâu vào trong sơn cốc, đột nhiên từng cơn gió núi âm u lạnh buốt thổi đến. Ngọc Phi Yến tự lẩm bẩm trong miệng: "Bão nhiệt đới đến rồi…", chỉ thấy màn sương mờ trong khe núi vén ra một nửa, tầm nhìn trở nên khoáng đạt hơn nhiều, mọi người dừng bước thăm dò tứ phía, nom trong lòng núi có rất nhiều huyệt động liên thông với nhau, trong động chất chồng cơ man nào là xương voi, chúng đè lên nhau tầng tầng lớp lớp, đống xương voi đó đã tích tụ bao đời, cao ngất ngưởng như những ngọn đồi gò, xương và ngà đan cài, xen lấn.

Nơi sâu nhất trong động huyệt ẩn chứa cửa đá, địa đạo, mặt đá được mài nhẵn nhụi, bằng phẳng như loại đá Đại Lí, gần như tất cả mọi nơi đều trang trí bằng những bức phù điêu, từ những vết tích dây leo và rễ cây xâm thực vào khe nứt của bức tường, có thể thấy nó đã có từ hàng ngàn năm trước, nhưng không rõ vì nguyên do gì mà tất cả những bức phù điêu đó đều bị phá hủy hoàn toàn, chẳng hề lưu lại chút thông tin nào cho hậu thế đọc hiểu. Những bộ phận bị cố ý phá hại, hủy hoại dường như là một bức bình phong dày dạn chắc chắn, gạt không đi, chùi không sạch, ngầm che giấu những "bí mật" vô cùng vô tận của núi Dã Nhân.

Con đường địa đạo ăn thông ra ngoài núi, tận cùng là một cánh cửa bằng đá đã bị sụp mất một nửa, phía ngoài mọc đầy cây cối um tùm, những cây cổ thụ không hoa không trái cao to lừng lững một vòng tay ôm không xuể, tán lá rủ xuống đất, tứ phía sương khí quánh đặc bay là là, khiến tầm nhìn bị hạn chế nội trong vòng mười bước. Đứng giữa mê cung thiên nhiên này, bạn dễ nảy sinh cảm giác không biết mình đang ở chốn nào. Nghe tiếng sấm rền nổ ì ùng giao hòa lẫn nhau, thì biết cơn bão nhiệt đới Buddha đã bắt đầu những đợt tấn công đầu tiên. Màn sương mù dày đặc bao trùm khắp núi Dã Nhân cũng bị cơn cuồng phong thổi cho tan tác, không gian xung quanh liền chìm vào màn đêm đen thui như ngày tận cùng của thế giới. Tuy những rặng núi nhấp nhô cuối cùng cũng phải tạm thời trút bỏ tấm mạng trắng huyền bí ra khỏi gương mặt nhưng thay vào đó lại bị mảnh vải đen dày bì nặng nề che phủ kín mít.

Mọi người đành phải giơ tay ra sờ sệt trong bóng tối, dò dẫm từng bước lên chỗ cao hơn, đúng lúc đợi lên chỗ cao để nhìn xuống xác định vị trí khe cốc khổng lồ trong núi Dã Nhân, chẳng ngờ vừa định với tay lên sườn núi, thì đột nhiên "xoẹt" một dải trắng sáng như băng tuyết, một lằn chớp ngoằn nghoèo như rắn lượn vụt lóe lên phía đường chân trời.

Mọi người đều bị giật mình bởi tia sét, bất giác ngẩng đầu nhìn lên, không ngờ lại thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải bay rè rè ngay sát khoảng không trên đỉnh đầu, khoang máy tối hù hù, không một tia sáng, động cơ ở cánh máy bay đã ngừng hoạt động, cả chiếc máy bay giống như một "chiếc bóng đen" im hơi tịnh tiếng. Trong cơn cuồng phong vần vũ dưới tầng mây đen, chiếc máy bay điềm nhiên bay lượn với độ cao rất thấp đến mức không thể thấp hơn được nữa.

Đây quả thực là cảnh tượng ngoài sức tưởng tượng, dưới điều kiện thời tiết khắc nghiệt như vậy, tuyệt đối không thể có tay phi công nào đủ gan dạ lái máy bay phi hành qua khu vực này, ngoài ra chiếc phi cơ từ trong ra ngoài chẳng hề có ánh sáng, ngay cả tiếng quay của động cơ cũng hoàn toàn ngưng bặt, tất cả đều đen thui, im lìm như thể bên trong khoang chẳng hề có người sống.

Chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi như điện giật, trong ánh sáng chói lòa, trắng bệnh của những đường chớp, mọi người thấp thoáng nhìn thấy biểu tượng rắn đen trên thân máy bay. Sấm chớp trườn qua vòm trời cũng chỉ trong thời gian nháy mắt, nên cho dù muốn phân biệt rõ ràng hơn chút nữa, thì xung quanh lại một lần nữa chìm vào màn đêm đen như mực. Chiếc bóng máy bay ma quỷ giống như oan hồn kia cũng vụt biến mất vào bóng tối mênh mông.

Mọi người quá bàng hoàng trước những gì vừa nhìn thấy, ai nấy kinh ngạc đến mức miệng không khép lại được, nửa phút sau mới có thể định thần trở lại, chẳng ai hẹn ai mà người người nào người ấy đều giơ tay dụi mắt, còn cho rằng lúc trước chắc mình bị hoa mắt. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải vừa lượn vèo qua đầu khi nãy, trên thân có khắc biểu tượng con rắn đen với hình thù quái dị, rõ ràng nó hoàn toàn trùng khớp với chiếc máy bay trong ảnh. Nếu phán đoán theo lẽ thường, thì chiếc tiêm kích vận tải rắn đen của không quân Hoàng gia Anh áng chừng đã mất tích ở núi Dã Nhân vào năm 1948, cách biệt một khoảng thời gian hai mươi mấy năm, làm sao nó có thể tiếp tục bay lượn giữa không trung trong khu vực núi cho đến tận hôm nay?

Khu vực lân cận phần đa đều là những vùng "sơn địa thấp" nhấp nhô, bị rừng rậm che phủ, theo độ cao phi hành khi nãy của chiếc máy bay, thì có lẽ nó phải bị va quệt vào những đỉnh núi, sau đó rơi xuống rừng rậm mới đúng, nhưng nhìn chăm chú một hồi lâu, phía trước vẫn chỉ là màn đêm u tịch, chẳng thấy xuất hiện âm thanh vang trời và ánh lửa ngùn ngụt bốc cháy do chiếc máy bay rơi phát nổ, nó như thể chưa từng thực sự tồn tại, trong bóng tối chỉ nghe thấy tiếng sấm kinh thiên động địa, rền vang khắp núi Dã Nhân.

HỒI 5: STUPA (1)

~*~

Sấm vang chớp giật, trấn động cả vùng núi hoang dã, mây đen dày đặc vần vũ khắp bầu trời, hốt nhiên xuất hiện chiếc tiêm kích vận tải lặng lẽ như bóng u linh, nó lượn qua đỉnh đầu mọi người, rồi lặng lẽ biến mất trong màn đêm thăm thẳm.

Có người nhiều lần từng nhìn thấy bóng dáng những "con tàu ma" lảng vảng trong khu vực tam giác Bermuda, cũng có những quả ngư lôi được phóng ra từ tàu ngầm mấy chục năm về trước, đến nay vẫn lởn vởn ngao du trên mặt biển. Nhưng từ trước đến nay chưa hề nghe ai nói, trên bầu trời sẽ xuất hiện một chiếc "máy bay u linh" đã mất tích từ hơn hai mươi năm trước.

Trên mỏm núi, đội thám hiểm ai nấy đều tròn mắt kinh ngạc nhìn chăm chú, quả thực khó mà tin được những gì vừa nhìn thấy, lẽ nào chiếc máy bay vừa lượn sát mặt đất khi nãy đúng là chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Anh bị mất tích trong khe cốc khổng lồ ở núi Dã Nhân? Rốt cục nó là thực thể hay u hồn? hay chỉ là hình ảnh còn lưu lại từ mấy chục năm trước được truyền dẫn qua sóng điện mây mù, giống như chiếc bóng ảo ảnh xuất hiện bởi hiện tượng khúc xạ ánh sáng?

Ngọc Phi Yến thầm hoang mang trong lòng, giờ đây lại không có Khương sư phụ kinh nghiệm lọc lõi ở bên cạnh, cô càng cảm thấy đơn thương độc mã hơn bao giờ hết, không nhịn nổi liền quay sang hỏi Tư Mã Khôi: "Anh nghĩ vật chúng ta vừa nhìn thấy là vật gì vậy?"

Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: "Cô là thủ lĩnh, lại là dân hối tử trộm mộ, chuyện người sống cô hiểu rõ hơn tôi, chuyện người chết cô cũng thông thạo hơn tôi, bây giờ đến cô còn chả biết thì tôi biết thế quái nào được?"

Ngọc Phi Yến hận Tư Mã Khôi đến nỗi nghiến răng ken két, nhưng cũng không biết phải làm sao: "Bây giờ tôi cũng chẳng có cách gì giải thích, nhưng tôi thấy chiếc máy bay tiêm kích bay trên trời hình như hướng về mỏm núi phía đối diện, chúng ta đành bám đuôi xem rốt cục nó là gì, rồi phân tích phán đoán sau cũng chưa muộn".

Tuy chưa đến lúc mặt trời lặn, nhưng dưới ảnh hưởng của cơn bão nhiệt đới cuồng bạo, trên đầu mây đen bủa vây, cả vòm trời đen thui như đít nồi, cho dù hai người đứng gần nhau mặt đối mặt, thì vẫn chẳng thể nhìn rõ đối phương, những dụng cụ chiếu sáng mang theo người giờ đây gần như không thể phát huy tác dụng. Đội thám hiểm chỉ còn biết mượn ánh sáng lóe lên trong khoảnh khắc ngắn ngủi của những tia sét rạch ngang bầu trời, họ đi xuyên qua cánh rừng rậm um tùm, truy lùng theo phương hướng mất hút của chiếc bóng máy bay quái dị, gian nan tiến từng bước về phía trước.

Cơn cuồng phong ù ù gầm rít thét gào, cuốn cả cánh rừng nguyên sinh trong núi Dã Nhân vào vòng xoáy của nó, tiếng sấm réo ùng ùng ngầm dự báo cơn mưa dữ dội như trút nước sắp chuẩn bị tràn về. Dưới sự công kích của cơn bão nhiệt đới hung bạo, gần như tất cả khu vực trong rừng đều trở nên nguy hiểm, bất cứ lúc nào cũng có khả năng xảy ra lũ lụt, lở đất trượt đá.

Nhưng căn cứ theo ghi chép của không quân Anh để lại, thì khe cốc khổng lồ nằm ở phần bụng núi Dã Nhân, là một nơi có dải địa hình tương đối hiếm có, nó vốn là hẻm núi được hình thành do lòng núi khô cạn bửa ra làm đôi. Nếu dùng cách miêu tả trực quan hơn, thì khe cốc khổng lồ này chính là một tòa động huyệt nằm ẩn sâu dưới lòng đất, có thể suy đoán, nó được hình thành bởi những mạch nước không ngừng lõm xuống từ hàng triệu năm trước, độ sâu lên đến hàng ngàn mét, hướng chạy của sơn động gần như vuông góc với mặt đất, cửa động tương đối nhỏ hẹp, càng vào trong càng rộng rãi hơn, đây là một hiện tượng địa chất vô cùng đặc biệt, nó không dễ bị lũ lụt từ những nơi thấp đổ về. Đối với đội thám hiểm mà nói, trong điều kiện thời tiết ác nghiệt như hiện nay, chỉ cần nghĩ cách tránh không để đất đá trong lòng núi sụt lở rơi trúng người, thì vào sâu trong lòng động lại là biện pháp tương đối an toàn hơn cả.

Ở nơi sâu trong khe cốc khổng lồ, quanh năm sương khí mịt mù, chẳng ai rõ rốt cục đám sương mù dày đặc đó là thứ gì, càng không rõ căn nguyên xuất hiện của nó. Mấy chục năm trước, chiếc tiêm kích vận tải của quân đội hoàng gia Anh rơi xuống núi, lại vừa vặn mất tích trong biển sương mênh mông. Khi ấy, do ảnh hưởng của việc thay đổi thời tiết, vị trí của mây mù xuống tương đối thấp, có thể thấp thoáng nhìn thấy cửa động sâu hun hút của khe cốc, vậy mà trải qua một quãng thời gian dài, lượng sương mù từ nơi sâu trong khe cốc đã trào ra, phủ kín khắp phạm vi mấy chục dặm bán kính vuông, thành ra rất khó phán đoán vị trí của nó một cách chuẩn xác.

Đội thám hiểm do Ngọc Phi Yến dẫn đầu, vốn định thông qua con đường Stilwell để tiếp cận khe cốc, như vậy sẽ tránh được những trở ngại do các nhân tố tự nhiên bao vây phía ngoài núi Dã Nhân gây nên, rồi từ động huyệt dưới lòng đất tìm kiếm lối ra bị sương mù che khuất. Kế hoạch là vậy nhưng trong thời gian thực hiện lại có quá nhiều biến cố xảy ra, giờ đây khí hậu thay đổi dữ dội, trong biển cây cối xanh mênh mông, rất khó phán đoán chính xác phương vị. Cả đội đành phải hành sự theo diễn biến tình hình thực tế, đổ ra truy lùng cái bóng bí ẩn của chiếc phi cơ ma quỷ biến mất sau mỏm núi. Đây là đầu mối duy nhất hiện có trong tay, đồng thời cũng là tia hi vọng sống còn của cả đội.

Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải lần mò từng bước trong rừng rậm đi trước mở đường. Tất cả những gì tầm mắt có thể nhìn thấy chỉ là tàn tích của những bức tường thành tan hoang sụp vỡ, trải qua bao bãi bể nương dâu, bị gió mưa xâm thực phá hủy. Tháp cổ đổ nát khắp nơi, chỉ còn lại mỗi cái móng trơ gan cùng tuế nguyệt. Thấp thoáng ẩn hiện dưới bức màn thảm thực vật um tùm dày kín là một bức tượng điêu khắc hình đầu người to lớn khác thường nằm đổ ngang trên mặt đất, từ sau những rễ cây cổ thụ đan kết ngoằn nghoèo chồng chéo lên nhau, đôi mắt tượng chiếu ánh nhìn đăm đăm khiến người ta không khỏi cảm thấy rợn tóc gáy.

Càng đi vào sâu, vết tích càng nhiều, rõ ràng trong những năm tháng xa xưa đã trôi vào dĩ vãng từ rất lâu, núi Dã Nhân quả thực từng có một thời đoạn lịch sử rất đỗi huy hoàng trần phong, rốt cục đó là nền văn minh hiển hách như thế nào? Vì sao lại không hề có bất kỳ tài liệu ghi chép liên quan nào? Và ai xuất phát vì mục đích gì mà cố tình hủy hoại tất cả những vết tích cổ xưa vốn có thể vén bức màn bí mật che đậy gương mặt thật của nó?

Dân gian Miến Điện lưu truyền một thuyết pháp: "Để bảo vệ bí mật chôn vùi trong núi Dã Nhân, người xưa đã cài đặt trùng điệp những cạm bẫy và trở ngại, bất kỳ kẻ nào vọng đồ rình trộm bí mật này, đều dính lời nguyền tà ác, cho dù chết đi cũng khó lòng giải thoát". Bởi vậy người bản địa sợ núi Dã Nhân hơn cả sợ quỷ, không ai dám lại gần nó nửa bước.

Rất lâu trước đây, Tư Mã Khôi đã sớm nghe đồn về những truyền thuyết này, lúc đó anh còn không tin lắm, nhưng giờ đây khi bản thân cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự, mới hiểu trong núi Dã Nhân quả thưc ẩn chứa quá nhiều bí mật. Tuy anh tham gia quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện gần chục năm nhưng lại không biết rõ lắm về lịch sử cổ đại của Miến Điện, Campuchia. Anh vừa đi vừa hỏi Ngọc Phi Yến ở phía sau: "Theo cô, trong núi có mộ cổ không?"

Ngọc Phi Yến trả lời: "Tôi chưa bao giờ nghe nói trong núi Dã Nhân có huyệt mộ gì cả, những nước Đông Nam Á như Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam v.v… đều bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nền văn minh Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại, lăng tẩm các đế vương quý tộc trong lịch sự đều vô cùng chú trọng đến vấn đề "thành phủ thâm u", tất cả những di tích mà chúng ta vừa gặp trên đường tuy rằng cổ quái nhưng không giống với hình dáng những loại tồn tại trong mộ táng. Về điểm này, tôi khẳng định không thể nhìn lầm".

Tư Mã Khôi nói: "Nhưng ngọn núi sâu này lại có vẻ còn thần bí hơn cả thành phủ trong mộ cổ, xem ra việc tìm kiếm chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích của quân Anh còn khó khăn gấp nhiều lần so với dự tính. Theo tôi đoán, khe cốc khổng lồ ở núi Dã Nhân quá nửa là tồn tại một vật gì đó mà chúng ta khó lòng tưởng tượng nổi".

Ngọc Phi Yến cũng có cùng linh cảm như vậy, cô gật đầu nói: "Đúng là một cõi u mê tăm tối, nghe vô thanh, nhìn vô ảnh, thần quỷ khó lường…", đang nói nửa chừng, bất chợt cuồng phong kẹp vô số những giọt mưa to như hạt đậu nành từ giữa không trung xối xả dội xuống, đánh rát cả mặt, mọi người không thể ngẩng mặt lên nổi, Ngọc Phi Yến hạ kính chắn gió trên mũ dã chiến xuống, sau đó đưa mắt nhìn lên nơi cao, thúc giục hội Tư Mã Khôi: "Trận mở màn của Stupa đã bắt đầu, nếu các anh không muốn mất mạng, thì phải đi nhanh hơn mới được".

HỒI 5: STUPA (2)

Tư Mã Khôi biết, trong tiếng Miến Điện, "Stupa" là phiên âm của từ "Buddha". Nghe nói từ này bắt nguồn từ Ấn Độ, nước lân bang phía tây Miến Điện, chính xác hơn thì đó là tiếng Phàn của người Ấn Độ cổ, nghĩa gốc của nó vốn để chỉ tháp cổ, còn có nghĩa là ngôi mộ hình vuông hoặc hình tròn, bởi vì tháp ở Ấn Độ đều là những mộ phần để an táng thi hài các bậc thánh tăng hoặc nơi cất

 đặt xá lị Phật tổ. Bởi vậy từ Buddha, ngoại trừ chỉ tháp Phật ra, còn ngầm có một tầng ẩn ý ám chỉ việc "mai táng".

Chẳng rõ ai đã đặt tên cho cơn bão nhiệt đới đến từ Ấn Độ Dương, di chuyển với tốc độ 140 km/h này là Stupa. Nhưng theo thông lệ từ trước đến nay, phàm những cơn bão có tên hiệu liên quan đến thần phật, thì cấp độ đều không thể là loại nhỏ, nó chắc chắn sẽ mang theo thiên tai với quy mô nhất định. Những nơi bão quét qua đều khiến nhà đổ cửa sập, ngay cả cây cổ thụ ngàn năm tuổi cũng bị nhổ bật gốc, sức tàn phá của nó giống như sức mạnh vô biên của Phật tổ, tát bể rời non, khiến chúng sinh chốn trần gian khốn đốn, không thể chống cự.

Miền Trung và miền Nam Miến Điện là khu vực đồng bằng bình nguyên, thuộc dải khí hậu nhiệt đới gió mùa mang theo mưa lớn, nhưng sang miền Bắc, địa hình bắt đầu thay đổi với hệ thống đồi núi phức tạp, càng ngược về Bắc càng xuất hiện nhiều núi cao vực thẳm, rừng sâu cốc hẹp. Còn về khu vực núi Dã Nhân, thì hẳn là nơi đường xa, núi hiểm, từ xưa đến nay thủy chung rơi vào trạng thái tuyệt đối kín bưng. Cơn bão nhiệt đới từ vùng ven biển cập vào đất liền, sau khi xuyên qua vùng bình nguyên rộng lớn ở Miến Trung, thì lại gặp sự cản trở của vùng sơn địa, khiến sức gió dần dần giảm xuống, bởi thế nếu là những cơn bão có quy mô nhỏ thì rất khó chạm tới núi Dã Nhân. Nhưng giờ đây cơn bão nhiệt đới Buddha thực sự cuồng bạo, dữ dội chẳng khác chi Stupa, nên núi Dã Nhân Bắc Miến mới đành thúc thủ chịu sự khảo nghiệm hà khắc của trời đất. Thảm thực vật sinh sôi nảy nở um tùm rậm rạp ở đây, cùng với vô số động huyệt nông sâu khác nhau đều là những tác nhân khiến địa tầng và lòng núi trở nên yếu ớt khác thường, nếu không tìm được nơi ẩn nấp an toàn thích hợp, thì dãy núi cao chập trùng bị rừng nguyên sinh che phủ này thực sự sẽ trở thành mộ địa chôn thây tất cả các thành viên của đội thám hiểm.

Tư Mã Khôi tự biết cân đối nặng nhẹ, hiểu rằng không thể lề mề chậm chạp, anh và Hải ngọng hai người đội mưa to gió lớn, liều mạng phạt đứt những lùm cây bụi dây leo rậm rịt cản đường, gắng sức leo lên các mỏm núi phía trên cao. Tư Mã Khôi cũng liệu định trước, nơi sâu trong khe cốc ở núi Dã Nhân chắc chắn mai phục vô số hiểm nguy ghê gớm. Trước đây, không biết bao nhiêu nhà thám hiểm và phân đội cứu nạn đặc phái của quân đội đều đứt ở trong này, quân Anh, quân Mỹ hoàn toàn bó tay bất lực với nó, so với đội quân được trang bị vũ khí khoa học tối tân đặc biệt, thì mấy kẻ sống sót vừa may mắn bước ra từ lãnh địa của thần chết như hội anh có thể tìm thấy món hời gì ở nơi đây? Nhưng tình thế ép người ta làm liều, biết rõ đã đi là chẳng còn đường về, nhưng cũng không thể không hô quyết tâm mà ngẩng đầu ưỡn ngực lao vào.

Đội thám hiểm dò dẫm đi từng bước nơi gần đường gờ của mỏm núi, trong cơn mưa như trút giăng mắc mịt mùng khắp cánh rừng, mượn ánh sáng của sấm chớp, mọi người nhìn thấy lòng núi dưới chân gồ đội lên như hình nón, trong khi chóp nón giống như bị ai đó phạt đứt, lộ ra một hẻm núi khổng lồ, rộng rãi, sâu hun hút, vết nứt không theo quy tắc vươn dài ra hai đầu Nam Bắc, dài đến mười mấy dặm, chỗ hẹp nhất cũng rộng không dưới trăm mét, giống như một cái miệng rộng ngoác, đen ngòm đang há to trên bề mặt núi, dường như cánh cửa thông với địa ngục đang mở ra ngay trước mắt.

Phần lộ ra trong lòng núi là những tầng nham thạch màu xanh đen, treo lủng liểng vô số loài dây leo, khiến nó trông càng sặc sỡ và quái dị hơn. Mưa gió từng cơn nối tiếp từng cơn, khiến màn sương mù dày đặc trào ra từ lòng đất bị tiêu tan hoàn toàn, nhưng ở nơi sâu trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân vẫn miên man mây mù, u tối mênh mông, chẳng thể nhìn thấy đáy.

Trước đây, mọi người không chỉ một lần thử tưởng tượng, xem khe cốc khổng lồ trong núi Dã Nhân nơi chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích, rốt cục trông như thế nào, nghĩ đĩ nghĩ lại, thì chẳng qua cũng chỉ hình dung nó là một hẻm núi sâu trong lòng núi, nó chắc chắn không thể hùng vĩ nguyên thủy như hẻm núi Grand Canyon ở Mỹ, cũng không thể khí nuốt vạn tượng như thung lũng chữ thập ở Châu Phi, chỉ có điều nó là một động huyệt nằm sâu dưới lòng đất và hướng chạy dựng đứng mà thôi.

Nhưng đến tận thời khắc này, khi mọi người mạo hiểm băng qua làn mưa như thác đổ, đứng trên mép vực của sơn cốc, mới thực sự cảm nhận một cách sâu sắc về địa thế đáng sợ, nguy hiểm tột cùng của nó. Những người từng tận mắt chứng kiến, đều không thể không kinh hoàng. Bởi đứng trước nó sẽ khiến bạn vô thức nảy sinh ảo giác như thể đang đứng trước vực thẳm sâu vạn trượng, chỉ cần nhìn lâu một chút sẽ lập tức hoa mắt chóng mặt, dường như dưới lòng đất có một thế lực khủng bố vô hình nào đó đang tồn tại, khiến người ta lạnh thấu tim phổi. Đó là cảm giác trấn động chân tâm khó có thể diễn tả bằng lời, là sự trống rỗng từ một nơi xa xôi, sâu thẳm nào đó trong linh hồn, là nội hàm to lớn không thể đo lường.

HỒI 6: CƯỜNG QUANG (1)

Cùng với sự xâm lấn của cơn bão nhiệt đới Buddha, mưa gió càng ngày càng trở nên hung bạo. Quần thể thực vật trong rừng rậm nguyên sinh phân bố cao thấp, giao hòa vào nhau, một số thân cây có rễ ăn nông trên mặt đất, độ bảo vệ và bám víu không được chắc chắn lắm, liền bị cuồng phong thổi bật gốc, hoặc nếu không cũng bị phạt đứt ngang thân, một số thực vật khác to lớn lực lư

ỡng, sức sống tương đối bền bỉ dẻo dai hơn thì cũng bị cuồng phong quật nghiêng ngả theo luồng gió cuốn. Giông tố cuồng phong và sấm vang chớp giật gầm réo khắp không trung, nuốt chửng tất cả âm thanh dưới vòm trời.

Hội Tư Mã Khôi đứng trên mép sơn cốc, tay bám chặt lấy mấy thân cây cổ thụ to đến một vòng ôm không xuể trên mỏm núi, nằm rạp xuống đưa mắt ngó xuống đáy hẻm núi, thì cảm thấy mưa gió mỗi lúc một mạnh bạo hơn, trận mưa này đúng chẳng khác nào đổ nước biển Đông, trút sông Ngân Hà, mỏm núi giờ không còn là chỗ có thể trú chân an toàn được nữa. Nhờ vào ánh sét sáng trắng rạch ngang bầu trời, có thể nhìn thấy dây leo bám chằng chịt vào bức tường cổ trong lòng hẻm núi, vách treo dựng đứng, hướng đi gần như vuông góc với mặt đất, nơi sâu nhất mây mù dày đặc mênh mang, hoàn toàn che khuất tầm nhìn, dây thừng đội thám hiểm mang theo chỉ có hạn, mà cho dù buộc tất cả dây thừng lại với nhau, rồi thả xuống lòng động huyệt sâu không thể lường này, thì chắc chắn cũng chẳng thể vươn tới đáy.

Đang đợi tìm một chỗ có thể trèo xuống, nào ngờ chiếc cáng mà Tuyệt và Karaweik đang khênh không chịu nổi sức gió, vừa bị cuồng phong tạt một cái, phút chốc đã căng như cánh buồm, Thảo Thượng Phi đang nằm trong cáng, người gầy khô chỉ còn lại nắm da bọc xương, chẳng địch lại nổi, một trận cuồng phong quét qua khiến cả người lẫn cáng đều bị cuốn vào không trung, nhẹ như cánh hoa bay theo chiều gió.

Tư Mã Khôi phát hiện chiếc cáng tuột ra khỏi tay Tuyệt, ngay sau đó nhìn thấy một bóng người vụt qua trước mắt, liền vội vàng giơ tay định bắt, nhưng lại tóm hụt, trong cơn cuồng phong giông tố mà cơn bão nhiệt đới Buddha mang tới, trước mắt chỉ nhìn thấy một màn đêm đen xì xì, trong chớp mắt đã chẳng nhìn thấy thân thể Thảo Thượng Phi rơi về phương nào. Tư Mã Khôi khẽ thở dài, lòng thầm nghĩ nếu có trách thì chỉ biết trách cái tên Thảo Thượng Phi đặt không hay, kiếp sau có lẽ nên đổi là "Trùy ngàn cân" mới thỏa đáng.

Lúc này, khu vực gần mép núi đã chẳng thể trú chân được nữa, may mà còn nhìn rõ địa hình, mọi người đang định đội mưa gió rút lui xuống sườn núi, tìm một nơi nhỏ hẹp bằng phẳng hơn tiến xuống đáy sơn cốc, nhưng dưới áp lực của gió bão hung dữ, ngay bước chân cũng không di chuyển nổi, cả cây cổ thụ đang bám trong tay cũng bị gió thổi ngả nghiêng như muốn đổ gục, giờ đây đúng là tiến thoái lưỡng nan.

Ngọc Phi Yến nhận thấy trên núi quá sức nguy hiểm liền vội vàng huých Tư Mã Khôi, ra hiệu cho mọi người phải tức khắc mạo hiểm bò xuống dưới sơn cốc. Tư Mã Khôi cũng biết đây là kế sách duy nhất có thể thực hiện trong lúc này, liền nắm lấy tay Karaweik, bảo cậu bé hãy theo sát mình, rồi tóm lấy một sợi rễ cây cổ thụ to như cánh tay người, từ từ tụt xuống dưới.

Lòng sơn cốc tuy cũng chịu ảnh hưởng bởi cơn bão nhiệt đới, nhưng dưới tác động của địa hình đặc biệt, ở nơi sâu có những dòng khí đối lưu quanh năm lượn vòng khiến mưa gió khó lòng xâm nhập vào bên trong. Từ vách đá bò xuống mấy chục mét, đã không còn cảm thấy tiếng gió thổi ù ù trên mặt đất, lượng mưa cũng giảm đi khá nhiều.

Tư Mã Khôi xuống đến độ sâu ngoài trăm mét, thì nhìn thấy sương khí dưới chân đặc quánh ngưng tụ, nếu còn xuống sâu hơn, thì sẽ lọt vào đám sương dày mênh mông. Loại sương mù đậm đặc này lai lịch bất minh, tuy bản thân sương mù hoàn toàn vô hại đối với cơ thể con người, nhưng nó cũng khiến những chất ô nhiễm trong không khí không dễ phát huy, rất có khả năng sẽ trở thành "sương mù sát nhân" khiến con người tử mạng.

Tuy cơn bão nhiệt đới Buddha khiến khí hậu thay đổi theo chiều hướng xấu, thổi tan tác đám sương mù trào ra từ lòng đất ở núi Dã Nhân, sương mù trong khe cốc khổng lồ cũng chịu sự áp chế của cơn giông tố, mà dần dần hạ thấp xuống với tốc độ chậm chạp. Nhưng trong động huyệt vẫn hoàn toàn bị mây mù che phủ kín mít, nông sâu khó lường, trong màn sương bí ẩn ngưng tụ không thể tiêu tán, tử khí bốc lên nặng nề, không rõ ẩn chứa những hung hiểm gì. Cho dù chiếc tiêm kích vận tải đúng thật rơi xuống chỗ này, nhưng đội thám hiểm phải đi vào màn sương mù hạn chế tầm nhìn đến cực độ, tiến hành tìm kiếm khắp khu vực rộng lớn, sâu hút như vậy, thì cũng chẳng khác nào mò kim đáy biển, cơ hội thành công rất đỗi mờ mịt, mong manh. Không những vậy, suốt chặng đường mệt muốn đứt hơi, mọi người đi đến đây đều sức cùng lực kiệt, cảm thấy khó có thể gắng gượng thêm được nữa.

Ngọc Phi Yến thấy đội thám hiểm đã thoát khỏi sự công kích của cơn bão nhiệt đới và vào đến lòng sơn cốc, theo tình hình lúc này, thì nên dừng chân hạ trại, không nên gấp gáp quá, kẻo cuối cùng lại hóa công cốc. Nghĩ vậy, cô ả bèn bảo mọi người ngừng chân nghỉ ngơi, đợi khi đám sương bí ẩn kia xuống thấp hơn nữa mới tiếp tục hành động.

Ở giữa hai vách đá trong lòng sơn cốc, mọi người tìm thấy một cái động lõm bị dây leo rừng phủ đầy, độ nông sâu rộng hẹp vừa đủ để mấy người bọn họ chen chúc chui vào, nhóm một đống lửa, hong khô quần áo vừa ướt sũng nước mưa, đồng thời giở lương khô ăn lót dạ, bên tai vẫn nghe thấy tiếng mưa rơi lào rào, trong những khe đá sát bên cạnh vẫn vọng lại tiếng gió càn quét ù ù. Cả đội trú chân ở nơi hiểm ác "đầu không chạm trời, chân không chạm đất", trong lòng không khỏi thót tim quặn bụng, làm sao có thể yên tâm nghỉ ngơi.

Trong thời gian một ngày ngắn ngủi, Ngọc Phi Yến liên tục bị chặt đứt mấy thuộc hạ đắc lực như tay trái tay phải, trong lòng đương nhiên không tránh khỏi cảm giác đau buồn, hoảng loạn, ngẫm nghĩ thấy giờ đây bên mình chỉ còn lại mỗi gã Gấu trắng người Nga, mà người này vì tránh né sự thống trị của bức màn sắt Nga – Xô Viết, mới chạy lưu vong sang dải đất Đông Nam Á, gã từng ở địa phận vô chính phủ khắp giữa ba nước Miến Điện, Campuchia, Thái Lan bán mạng cho quỷ dữ để trồng anh túc, việc giết người đối với gã đã trở thành bản tính, một khi thú tính trỗi dậy sẽ lập tức trở mặt không nhận người, sau đó do gây ra đại họa, bị người ta cắt mất nửa cái lưỡi, mới đành tháo chạy xuống eo biển Malacca, cuối cùng chuyển đến đầu quân làm thuộc hạ của Ngọc Phi Yến, hắn ta tính tình hung tàn, lạnh lùng, tâm địa khó dò, không đáng tin cậy.

Lúc này, người mà Ngọc Phi Yến có thể gửi gắm niềm tin và hi vọng chỉ có bốn thành viên trong đội du kích Cộng hòa Miến Điện mà thôi. Lúc đầu cô ả chỉ định dẫn theo Karaweik – cậu bé có thể tìm thấy con đường U Linh và thông thạo khu vực chôn vùi địa lôi ngầm, nhưng giờ đây, khi ngoái đầu nhìn lại chặng đường đã qua, cũng may nhờ lôi kéo Tư Mã Khôi vào nhập hội, nếu không hậu quả thực chẳng dám nghĩ đến. Ngọc Phi Yến dự định sau khi mọi việc thành công, sẽ lôi kéo, mua chuộc mấy người này gia nhập băng đảng của mình, cái cô tinh thông y thuật, giỏi nắn xương tên là Tuyệt gì đó còn có vẻ dễ thuyết phục, chứ hai gã Tư Mã Khôi và La Đại Hải tính tình quái đản, cứng mềm đều chẳng ưa, phải nói thế nào mới khiến họ động lòng đây? Từ trước đến nay, Ngọc Phi Yến là người đa mưu túc trí, rất giỏi lung lạc lòng người, chỉ cần động não một chút, liền nghĩ ngay ra kế sách. Nhân thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi, liền tìm đầu mối nơi Karaweik trước tiên.

Ngọc Phi Yến phát hiện cậu bé cực kỳ nhát gan, từ khi vào trong sơn cốc đến giờ cứ mãi sợ hãi đến nỗi hai hàm răng liên tục đánh cầm cập vào nhau, chẳng mở miệng nói nổi nửa lời, liền rút một miếng ngọc phỉ thúy hình ống ở trong người ra. Tổ tiên cô ả từng là giai cấp quý tộc giàu có hiển hách, miếng ngọc phỉ thúy này là một trong những báu vật gia truyền của tổ tiên, nếu bỏ nó vào chậu thau đồng đựng đầy nước sạch, sẽ phát ra ánh sáng xanh biếc sóng sánh ngập chậu, miếng ngọc quả thực là vật khác thường, vì nó còn có khả năng giúp chủ nhân tránh tà chặn nạn.

Ngọc Phi Yến cầm miếng ngọc bội, luồn sợi chỉ đỏ vào, rồi đeo lên cổ Karaweik, đồng thời nói cho cậu bé rõ tác dụng thần kỳ của nó.

Tuyệt thấy Karaweik có vẻ ngơ ngác không hiểu gì, thì nói với cậu vật này vô cùng quý giá, bảo cậu phải mau cảm ơn Ngọc Phi Yến.

Ngọc Phi Yến thầm đắc ý trong lòng, đang định nhận Karaweik là đồng hương, rồi nhân cơ hội này khiến hội Tư Mã Khôi thu nạp mình vào nhóm. Ai ngờ Tư Mã Khôi nhìn cũng chẳng thèm nhìn miếng ngọc phỉ thúy gia truyền của cô ả, quay ngoắt sang hỏi Ngọc Phi Yến: "Không có công lao mà nhận bổng lộc, e rằng ăn không ngon, ngủ không yên. Thằng nhóc Chủ Nhật này là anh em của tôi và La Đại Hải, cô tặng cho nó vật quý giá như vậy, thì bọn tôi cũng phải tặng lại cô một vật mới phải đạo chứ".

Ngọc Phi Yến biết thái độ này của Tư Mã Khôi tức là anh không chịu nhận lễ, đang ngầm tỏ ra bất cần, liền thầm nghĩ: "Gã tiểu tử này trên người có vật gì đáng đem ra so sánh với miếng ngọc gia truyền của tổ tiên nhà mình, mà dám mặt dày mang ra đáp lễ?"

Tư Mã Khôi đọc được ý nghĩ của cô ả, liền bảo cô đừng coi thường người ta quá đáng như thế, chớ quên thuyền rách cũng còn có ba ngàn cái đinh, gia tộc họ Thắng nhà cô có món đồ chơi gia truyền, thì chúng tôi cũng có vật ông bà cụ kị để lại chứ, nói xong liền quay sang La Đại Hải liếc mắt ra dấu, ý bảo anh hãy lôi vật nhà mình ra cho Ngọc Phi Yến được mở rộng tầm nhìn.

Từ trước đến nay La Đại Hải và Tư Mã Khôi làm việc rất ăn ý, anh gật đầu tỏ ra đã hiểu, rồi lộn ngược toàn bộ các túi trái phải trước sau trên người, cuối cùng cũng lôi ra được một cây móc ngoáy tai bằng đồng có khắc hoa văn, xem công nghệ có vẻ như là sản phẩm thủ công bản địa của người Miến Điện, tuy nhìn có vẻ khá tinh sảo, màu sắc có vẻ cũng đã lâu năm, nhưng ngắm thế nào thì cũng vẫn là loại hàng chợ, mang ra đặt ngang hàng với báu vật hiếm có khác thường của Ngọc Phi Yến, quả thực trông rõ rẻ tiền, kém phẩm chất, vật này thì có giá trị gì? Nếu lỡ rơi trên đường, sợ rằng của chẳng có ai thèm nhặt.

Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến nhìn chiếc ngoáy tai bằng đồng với con mắt đầy vẻ khinh thường, miệt thị, thì vờ cười nhạt một tiếng, nói với cô ả: "Thủ lĩnh! Chắc cô không hiểu về hàng họ lắm thì phải, có phải cô cho rằng vật trong tay anh em bọn tôi chẳng đáng hai hào mua cái *** gà không? Tạm thời chưa vội luận bàn đến việc đắt rẻ, nó thực sự không phải vật tầm thường đâu. Thực ra chắc cô không biết đấy thôi, chứ lúc cuối thời Thanh đầu những năm Dân Quốc, nó được mang ra từ đại nội hoàng cung đấy. Bao nhiêu năm qua, nó là bảo vật nhét đáy hòm nhà Hải ngọng, nếu chẳng phải đem tặng cho nhân vật có thân phận cao quý như cô, thì chúng tôi có sống chết gì cũng chả chịu mang ra đâu".

~*~

HỒI 6: CƯỜNG QUANG (2)

La Đại Hải ở bên cạnh cũng giúp đánh trống gõ mõ, hai khóe mắt hoen hoen đỏ như thể đang xúc động dạt dào, ngậm nước mắt khuyên can Tư Mã Khôi: "Người anh em! Tớ suy đi tính lại, vẫn thấy không nỡ xa rời nó, chúng ta làm như vậy thực sự….thực sự rất có lỗi với tổ tông đó". Nó đoạn liền định lấy vật đang ở trong tay Tư Mã Khôi mang đi.

Ngọc Phi Yến vốn dĩ cho rằng Tư Mã Khô

i đang định giở trò với mình, nhưng nhìn sắc mặt trịnh trọng của bọn họ, quả không phải làm giả, chẳng lẽ mình lại nhìn lầm thật, nhưng xét cả tình và lý, thì đều nói không thông, chỉ đành hỏi lại: "Làm sao trong hoàng cung lại có loại hàng chợ này?"

Tư Mã Khôi cố tình ra vẻ bất lực nói: "Chúng tôi nói đến đâu thì biết đến đấy, hôm nay tôi kể lai lịch gốc gác của nó cho cô biết cũng chẳng hề gì, nhưng cô tuyệt đối không được loan truyền ra ngoài, vì đây chẳng phải chuyện gì phong quang cho lắm". Ngọc Phi Yến càng cảm thấy quái dị hơn, bên trong còn có thể ẩn chứa chuyện gì không phong quang nữa đây? Thì nhìn thấy Tư Mã Khôi thò tay chỉ La Đại Hải, rồi trầm giọng nói với cô: "Chẳng giấu gì cô, cô đừng thấy Hải ngọng nói giọng khẩu âm Đông Bắc mà cho rằng cậu ta là người Đông Bắc, kỳ thực tổ tông mấy đời nhà Hải ngọng đều là người Bắc Kinh, dưới gốc rễ hoàng thành Bắc Kinh từ trước đến nay đều là nơi ngọa hổ tàng long, loại cao nhân nào mà chẳng có? Ông nội nhà Hải ngọng cũng không phải nhân vật tầm thường, mà là vị đại thái giám cuối cùng của vương triều Mãn Thanh, tên là Tiểu Đức Hải. Còn về vật này thì lai lịch càng không phải bàn, đó là vật ông nội Tiểu Đức Hải thuận tay dắt bò, tiện cầm luôn ra ngoài, lúc theo hoàng đế Phổ Nghi rời khỏi Tử Cấm Thành đấy".

La Đại Hải nghe xong suýt chút nữa thì ngất xỉu, chửi thầm trong bụng: "Tiên sư thằng Khôi, cậu đúng là đồ một bụng nước bẩn, thấy lời là chiếm, tớ đếch thấy ai thất đức hơn cậu, có ông nội nhà cậu mới là mẹ nó thái giám ấy". Nói là nói vậy, chứ đến nước này, anh cũng đành tiếp tục nhăn mặt, thở dài than vãn với Ngọc Phi Yến: " Cô nghe người ta nói thế cũng chẳng sao, nhưng đã nghe thì phải nghe cho rõ đầu cua tai nheo, thực ra nội tôi ông già chẳng phải hạng trộm cắp, tiện tay lấy đồ của người đâu, chỉ là muốn lưu lại chút kỷ niệm, cái này gọi là làm người không được quên gốc gác, sau khi nước Đại Thanh của chúng ta không còn, ông già ngày nào cũng lôi cái ngoáy dáy tai này ra lễ đủ ba lạy, khấu đầu đủ chín cái, ông già vào cung từ lúc sáu tuổi, hầu hạ thái hậu và hoàng thượng quá nửa đời người, mãi đến lúc chết vẫn chưa quên tận trung với chủ đấy….". Nói đến câu cuối cùng, dường như hoài niệm lại chuyện cũ, cảm xúc dâng trào đến nỗi nghẹn ngào chẳng nói thành lời.

Tư Mã Khôi liền vội vàng cất lời an ủi: "Nô tài mà làm được đến như vậy, thì cũng coi là chẳng còn gì phải hổ thẹn với chủ nữa rồi".

Ngọc Phi Yến nghe đến đây thì càng sinh nghi: "Ông Tiểu Đức Hải đã là thái giám trong Tử Cấm Thành, hơn nữa lại tịnh thân, vào làm quan lúc mới sáu tuổi, thì làm gì còn sinh con đẻ cháu được nữa?"

Tư Mã Khôi vội vàng che đậy hộ Hải ngọng, nói sau khi công công Tiểu Đức Hải xuất cung, chẳng phải ông ấy vẫn phải thành gia sống nốt quãng đời còn lại sao? Kết quả là ông ấy lấy một cung nữ già làm vợ, rồi nhận nuôi một đứa con trai lúc tuổi già xế bóng, để còn giúp mình dưỡng già đưa ma, tuy không phải cha đẻ, nhưng tình cảm cha con thân thiết chẳng chê vào đâu được, cái đó gọi là "không phải ruột thịt, mà còn hơn ruột thịt", đây chính là điểm khiến người ta cảm động nhất trong gia đình nhà La Đại Hải.

Ngọc Phi Yến nhẹ gật đầu, trong lòng vẫn còn rất nhiều nghi hoặc không giải đáp được, bèn hỏi: "Vị công công Tiểu Đức Hải đã định lấy một vật trong cung ra ngoài, sao chẳng lấy vàng bạc ngọc ngà, hoặc chí ít cũng là tranh chữ, đồ cổ, mà lại lấy cái móc ngoáy tai mang về lót dưới đáy hòm?"

Tư Mã Khôi lại khua môi múa mép bịa một hồi, nói cô đừng coi thường cái móc ngoáy tai bằng đồng chính hiệu này, những bảo vật quốc gia đều danh tiếng đúng với thực tế, vì sao ư? Bởi vì nhìn một vật cổ, cô không thể phán đoán nó sang hèn dựa vào chất liệu, mà trước tiên phải xem giá trị lịch sử, thứ đến mới là giá trị nghệ thuật của nó.

Nghe nói từ thời Đại Minh, Hồng Vũ Đế nổi dậy, tắm máu trăm trận, cuối cùng cũng đẩy lùi nhà Nguyên lui về phía bắc sa mạc Gobi, phục hồi sơn hà nhà Hán chúng ta, sau loạn Yến Vương dẫn quân tạo phản, Hán Chiêu Đế giành được ngôi báu dựng đô ở Bắc Kinh, chăm lo trị quốc, nhờ thế đất nước được hưởng thái bình, trải qua bao nhật nguyệt vần vũ, vật đổi sao rời, việc này gọi là "hoa thơm không thường nở, cảnh đẹp chẳng thường thấy", đến những năm cuối triều đại nhà Minh, triều đình thất chính, trong nhiễu ngoài loạn, dân chúng không thể yên ổn sinh sống, đầu tiên là Đại Thuận hoàng đế Lý Tự Thành lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân lật đổ nhà Minh, bức tử hoàng đế Sùng Trinh ở núi Môi Sơn, thay đổi triều đại thời thế, thiên hạ bách tính cứ ngỡ từ nay lại được an cư lạc nghiệp, đâu ngờ lại xuất hiện tên Tổng binh Ngô Tam Quế nổi giận vì bị cướp mất hồng nhan tri kỷ, đã mở cửa Sơn Hải Quan cho quân Thanh tràn vào, đội quân giáp sắt giương cao bát kỳ hành quân như gió cuốn tiến về Nam, đi đến đâu thắng như chẻ tre đến đó, cứ thế hùng cứ Trung Nguyên, nước Đại Thanh vẫn dựng đô ở Bắc Kinh, cô có biết vì sao không? Chỉ bởi vì vị hoàng đế Mãn Thanh đó cũng nhìn trúng ý địa hình Bắc Kinh của chúng ta, rõ ràng không phải hạng tầm thường, đất này phía bắc ngậm núi Yến Sơn, phía tây tiếp giáp núi Thái Sơn, Hành Sơn, phía Đông nuốt biển Bột Hải, phía nam trấn áp sông Hạ Thủy, núi Hoa Sơn, quả thật có thể gọi đây là "kim phủ thiên thành", là nền móng không thể lung lay của vạn cổ ngàn năm.

Từ khi Mãn Thanh làm chủ Bắc Kinh đến nay, liên tiếp mấy đời minh quân thánh chủ, thấu thời độ thế, trọng dụng hiền tài, dân no nước đủ, trọng thị canh nông, bình định mọi cuộc phản loạn, ba phen quét sạch, cuối cùng cũng khiến bốn biển thống nhất, vạn dân quy thuận, nào ngờ, sau thời Khang Hy, Càn Long trị vì đất nước, lại chẳng ngăn cản nổi sự luân chuyển thịnh suy, phong vân biến đổi, cuối cùng cương triều bại hoại, đại cục hỗn loạn đến nỗi không thể dàn xếp nổi nữa, mắt nhìn liên quân tám nước tràn vào Bắc Kinh, Từ Hi thái hậu buộc phải hoảng loạn chạy trốn, trên đường khênh kiệu tháo chạy, thời tiết hanh khô, nước non thiếu thốn, mặt trời chói chang xuyên suốt tầng không, tịnh chẳng bóng mây, lão Phật gia trong người bốc hỏa, tai ù mắt mỏi, nỗi khổ chẳng thể nói thành lời, ngự y chữa trị nhiều phương pháp nhưng vẫn vô hiệu, đúng lúc sắp sửa hấp hối lìa đời, may mà có một vị cung sử theo hầu dâng lên một cái móc ngoáy tai lung linh bát bảo mà nước Xiêm từng cống tặng trước đây, sau khi được chính tay tổng quản thái giám Lý Liên Anh ngoáy tai lấy dáy ra, mang cục dáy đặt lên bàn cân, thấy nặng hơn hai hoa, Từ Hy thái hậu hạ được nội hỏa trong người, phút chốc cảm thấy tinh thần sảng khoái, tai thông mắt rõ, bởi vậy mà sống lại, trở về Bắc Kinh chủ trương nghị hòa với bọn giặc tây, ký kết hiệp ước Tân Hợi.

Có thể nói nếu lúc đó Từ Hi thái hậu không được ngoáy tai, thì bà ta đã chẳng thể bảo toàn tính mạng trở về kinh thành. Nếu bà ta không trở về, thì công cuộc biến pháp năm Mậu Tuất của hoàng đế Quang Tự rất có thể đã thành công, còn ông cũng không cần uất ức đến phát bệnh, để rồi cuối cùng rơi vào thảm cảnh nuốt hận lìa đời. Có ai ngờ, chỉ mỗi chiếc móc ngoáy tai bé tí tẹo, lại trở thành vật chứng lịch sử chứng kiến sự thay đổi biến hóa của phong vân và những năm cuối của thời vãn Thanh bị tước quyền đoạt nước. Chẳng trách sau đó Lý Hồng Chương đại nhân lại cảm thán: "Nhọc nhằn thân ngựa đóng yên cương/ Đại sự chưa thành chết còn vương/ Ba trăm năm nước nhà suy bại/ Lủng lẳng xác dân treo dọc đường/ Thu phong bảo kiếm thầm rơi lệ/ Tà dương rọi bóng bức thành tường/ Ngoáy tai móc đồng, một báu vật(Vốn là: Phiêu du bốn bể lòng trĩu nặng)/ Đồng bào ơi hỡi, hãy lên đường".

Đến lúc này Ngọc Phi Yến cuối cùng cũng hiểu, thì ra Tư Mã Khôi nói nhiều như thế, chẳng qua chỉ muốn thể hiện món đồ chơi rách của anh ta có giá trị phi thường, đủ sức ngang hàng với mảnh ngọc bội phỉ thúy mà mình vừa mang tặng Karaweik, tấm chân tình sâu nặng toàn tâm toàn ý phơi ra bị gã tạt một gáo nước lạnh. Đúng là minh châu bảo ngọc rơi vào tay kẻ mù, lòng tốt bị coi là lòng lang dạ sói. Càng nghĩ, cô ả càng tức lộn ruột, không nhịn nổi, đôi hàng lông mày thanh tú dựng đứng lên: "Anh coi thường tôi thế cơ à?"

Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến bị mình chọc tức đến nỗi gò má chuyển màu trắng bệch, nước mắt ầng ậng trực trào ra khỏi mi, trong lòng anh cũng không khỏi cảm thấy ái ngại, liền nói thẳng với cô cho rõ chuyện. Tư Mã Khôi khuyên nhủ cô cứ nhận lấy đi, tuy vật này không thể sánh với những vật cô từng nhìn thấy dưới mộ cổ, nhưng châu chấu đã nhảy vào chảo mỡ, ít nhiều gì thì cũng thành thức ăn mặn. Hơn nữa cô cũng đừng tốn công phí sức lôi kéo bọn tôi nhập hội làm gì, bao nhiêu năm nay, chưa có người nào sống sót thoát ra khỏi sơn cốc trong núi Dã Nhân. Lùi một vạn bước mà nói, cho dù chúng ta thực sự may mắn giữ được cái mạng mà ra được, tôi cũng chỉ hi vọng cô hãy thực hiện lời hứa lúc trước, dẫn Karaweik cao chạy xa bay, còn về chuyện ba người bọn tôi, cô đừng can thiệp vào nữa.

Thì ra ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt trước khi gặp nạn "Đỉa Campuchia" ăn thịt người, đã suy nghĩ rất kỹ, cho dù ba người mình may mắn mang được mạng sống rời khỏi núi Dã Nhân, thì cũng không định trốn ra nước ngoài. Bởi vì sang bên đó, trên người chẳng có sở trường, cũng chẳng có nổi nghề nghiệp nuôi thân, vì kế sinh nhai, chắc chắn sẽ bị người khác khống chế, sớm muộn gì mà chẳng theo Ngọc Phi Yến trở thành dân "Hối tử" trộm mộ.

Nghĩ đến kết cục mà hội Khương sư phụ, Xuyên Sơn Giáp phải nhận, có thể thấy đúng thực "Người chết vì của, chim chết vì mồi", bọn họ đều là những kẻ được người ta bỏ nhiều tiền ra thuê, kết quả bị chết oan uổng, bất minh trong cánh rừng nguyên sinh đoạt tuyệt với thế giới bên ngoài. Làm những phi vụ mang sọ dừa giắt trong cạp quần như vậy, ai dám đảm bảo một ngày nào đó chẳng gặp vận rủi, đâm đầu vào tay "hồn ma chết bất đắc kỳ tử" mà đền luôn tính mệnh. Nếu phải bán mạng cho bọn tài phiệt vì chút tiền bạc, để đến cuối cùng chết nhục nhã chẳng khác nào một con chó, thì chẳng thà cứ vượt biên trở về đất nước, đáng bị bắn thì chịu bắn, đáng bị ngồi nhà đá thì ngồi nhà đá, như vậy còn thoải mái, dễ chịu hơn nhiều.

Ngọc Phi Yến nghe mấy lời của Tư Mã Khôi, cơn thịnh nộ trong lòng cũng nguôi ngoai đi chút ít, nhưng vẫn còn chưa hết giận anh, đang lúc định nói với anh câu gì, đột nhiên một âm thanh cực mạnh từ đáy sơn cốc dội lên, mọi người biết chắc có chuyện chẳng lành sắp xảy ra, liền vội vàng thò người xuống nhìn, chỉ thấy trong lớp sương mù bí ẩn dày đặc phía dưới chân, phát ra mấy luồng sáng cực mạnh, không những vậy nó còn vô cùng chói mắt.

Ánh sáng cực mạnh chói lòa, xuyên qua từng tầng sương dày, lúc mờ lúc tỏ không ngừng lay động, nó dao động lắc lư liên tục khiến người ta hoa hết cả mắt, cùng với đó là âm thanh quái dị cứ "răng rắc răng rắc" như tiếng thân cây cổ thụ mục nát đang bị đổ sụp gãy gập, nghe mà sởn gai ốc, anh ngẫm nghĩ: "Mấy luồng sáng trong sương dày trông chói sáng lóa mắt thế kia, có khi phải mạnh gấp mười lần ánh sáng của đèn chiếu Halogen, chắc chắn không thể là ánh sáng của sinh vật. Lại còn âm thanh giống như tiếng cành gãy, rung lên từng đợt dưới khe cốc, đang di chuyển đi lên với tốc độ chóng mặt nữa chứ, rốt cục là vật thể gì phát ra tiếng động đó nhỉ?"

HỒI 7: RƠI VỠ (1)

Ở nơi sâu khoảng hai ba trăm mét dưới khe cốc, bỗng xuất hiện mấy luồng sáng chói mắt phát ra từ đám sương mù dày đặc, ánh sáng mạnh trong bóng tối dao động bất định, đồng thời dưới lòng đất còn vọng lại âm thanh khác thường nghe "răng rắc" như tiếng cành khô gãy vụn, xem động tĩnh thì dường như có một vật gì bên dưới vực sâu đang bò lên với vận tốc rất nhanh.

Tư Mã Khôi đoán đị

nh nguồn ánh sáng xuất hiện trong sương mù đày đặc chắc chắn không phải ánh sáng sinh học. Bởi những loại ánh sáng do sinh vật hoặc quặng đá phát ra đều thuộc loại hàn quang hóa học, thời gian chiếu sáng kéo dài, không tỏa nhiệt, đối với con người mà nói, đó là nguồn ánh sáng lý tưởng nhất, vậy mà tia sáng dao động trong lớp sương mù mịt kia lại vô cùng chói mắt, những loại đèn chiếu sáng thông thường không thể nào so bì, dường như nó được sản sinh ra từ nguồn nhiệt quang điện khí. Lẽ nào trong khe cốc dưới lòng đất âm u không nhìn thấy mặt trời, hoàn toàn đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài này, lại ẩn giấu loại "thiết bị chiếu sáng cường quang" có thể hoạt động tốt cho đến tận bây giờ?

Chiếc tiêm kích mất tích gần ba mươi năm, trong môi trường ẩm ướt, lạnh lẽo thế này, nó cũng sớm bị ăn mòn, hoen rỉ, rách nát chẳng còn hình dạng, hơn nữa, trên thân máy bay chắc chắn không lắp đặt loại đèn chiếu sáng cường quang, bởi thế nguồn sáng phát ra từ màn sương dày đặc, cũng không thể đến từ chiếc máy bay bị rơi vỡ cách đây nhiều năm.

Mọi người ngấm ngầm kinh hãi trong lòng, khó nói thành lời, chẳng ai hay cái gì sẽ xuất hiện trong đám sương mù, nín thở tập trung nghe ngóng một hồi lâu, chỉ thấy mấy chùm sáng bỗng dưng vụt tắt, đáy khe cốc một lần nữa lại trở về trạng thái yên ắng không một tiếng động, như thể chưa từng xảy ra bất cứ việc gì trước đó.

Điều nguy hiểm sở dĩ trở thành nguy hiểm, khả năng rất cao, là do con người không thể dự đoán trước được chân tướng thật sự của nó, Tư Mã Khôi cũng biết gặp những việc đại loại như thế này, chỉ dựa vào phán đoán thì chưa đủ, mà còn phải tận mắt xác thực, anh và mọi người bàn bạc một chút, rồi quyết định mình và Ngọc Phi Yến hai người sẽ xuống chỗ sương mù mịt mùng dưới kia làm rõ xem rốt cục đó là cái gì. Hai người mang theo vũ khí, trên người buộc đèn led dã ngoại chiếu sáng bằng điốt phát quang, lại cầm thêm chiếc đèn pin tụ quang siêu sáng, tay bám rễ cây từ từ tụt xuống, càng đến gần chỗ sương khí trào ra, càng lờ mờ nhìn thấy một bóng đen to lớn ẩn hiện trong màn sương mù mênh mang mờ mịt.

Do sự xâm lấn của cơn bão nhiệt đới Buddha càng ngày càng gia tăng, nên sương khí trong lòng sơn cốc cũng dần dần giảm xuống thấp, lúc hai người đến gần thì sương mù không còn quá dày đặc nữa, nhờ ánh sáng của đèn pin, Tư Mã Khôi có thể nhìn kỹ bóng đen to lớn đó, không ngờ nó lại là một chiếc máy bay tiêm kích cải tiến, bị vô số rễ cây buộc chặt, chiếc máy bay có phần đầu tù tròn, phần thân hình e líp dọc, hai cánh phân bố theo hình thang, trước hẹp sau rộng, điểm khác biệt so với các máy bay cùng loại là từ đầu đến đuôi đều sử dụng kết cấu gỗ ván ép.

Trên thân chiếc máy bay tiêm kích còn có biểu tượng "Rắn đen" rất bắt mắt, chiếc máy bay này hoàn toàn giống với chiếc máy bay chụp ở sân bay không quân trong ảnh, không những vậy kết cấu cũng hoàn toàn đồng nhất với chiếc tiêm kích số hiệu "Rắn đen" bị mất tích của không quân Anh. Do chiếc máy bay mang số hiệu "Rắn đen" thuộc loại máy bay tiêm kích cải tiến, nên căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ, đã đặc biệt nới rộng dung tích chuyên chở hàng hóa, phần thân cũng được cải tiến gần như toàn bộ, so với những chiếc máy bay tiêm kích hạng nhẹ thông thường, trông nó rất khác biệt. Bởi thế, so sánh với ảnh chụp, đoàn thám hiểm không khó đoán ra "thân phận" của nó. Ghi chép năm đó còn cho thấy: sau khi chiếc máy bay bị rơi xuống sơn cốc, giọng liên lạc chập chờn khi được khi mất phát ra qua sóng điện, lúc các thành viên của đoàn bay gắng sức kêu cứu, cũng đã xác nhận chiếc "Rắn đen" bị rơi vào sương mù, sau đó thì hoàn toàn đứt đoạn mọi liên lạc với thế giới bên ngoài.

Nhưng giờ đây, Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến tận mắt chứng kiến, mới biết chiếc máy bay tiêm kích vận tải đó không hề rơi xuống nơi sâu nhất dưới đáy cốc, mà bị rễ cây cổ thụ treo níu giữ treo lơ lửng giữa không trung. Do máy bay tiêm kích khác với các loại máy bay quân dụng khác, nó hoàn toàn sử dụng gỗ Balsa – một loại gỗ rất nhẹ để xây dựng kết cấu, động cơ Piston tản nhiệt mang lại hiệu suất cực cao, tốc độ bay nhanh, thời gian bay có thể kéo dài liên tục, đồng thời khả năng tải trọng không vì thế mà giảm xuống, chẳng những vậy khả năng sống sót lại rất cao, có thể thích hợp mọi nhu cầu nhiệm vụ gian nan, dưới diều kiện khí hậu biến đổi phức tạp ở vùng núi Miến Điện, nó càng phát huy tính năng ưu việt vượt trội. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải cải tiến số hiệu "Rắn đen" khi bị mất lái rơi xuống sơn cốc, thì chịu sự tác dụng của dòng khí lưu thông trong khe cốc, khí đối lưu khiến thân máy bay được bảo toàn nguyên dạng, xem ra chẳng có hư hại gì nghiêm trọng.

Đội thám hiểm liều mạng xông vào núi Dã Nhân là để tìm chiếc tiêm kích vận tải, đồng thời lấy "hàng" trong khoang máy bay về, thế mà lúc này chiếc máy bay mất tích mà cả hội đang săn lùng lại bất ngờ hiện ra ngay trước mắt, nó bị đám rễ cây bám lung tung quanh thân, treo lủng lẳng giữa không trung. Như vậy cũng có nghĩa cả đội không cần xuống dưới đáy động sâu hút nơi sương khí bủa vây, hiểm nguy mai phục tứ bề nữa. Không thể không thừa nhận đây là niềm vui ngoài ý muốn nhưng chẳng hiểu vì sao Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến không hề cảm thấy may mắn mà ngược lại còn lờ mờ có dự cảm không lành.

Ngọc Phi Yến nhìn bên trong khoang máy bay tối hù hù, yên ắng rợn người, liền nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi: "Anh có cảm thấy chiếc máy bay vận tải này có điểm gì bất thường không?"

Tư Mã Khôi bám vào rễ cây rủ xuống từ vách đá dựng đứng, nhìn đăm đăm một hồi vào chiếc máy bay tiêm kích vận tải, anh đã sớm nhận ra vài điểm quái dị khác thường, bèn thuận miệng đáp: "Cũng hơi bất thường, trông nó mới quá… dường như chỉ vừa bị rơi xuống chưa lâu". Trên thực tế, chiếc may bay tiêm kích vận tải rơi xuống động huyệt trong sơn cốc có lẽ đã gần ba mươi năm. Vậy mà thời gian và quá trình xâm thực của môi trường ác nghiệt dưới lòng đất lại không để lại chút dấu tích nào trên thân mình nó, lớp sơn vẫn mới toanh như lúc ban đầu, có lẽ ngay cả động cơ cũng hãy còn nóng.

Nghĩ lại việc ở ngoài sơn cốc lúc trước, mọi người từng nhìn thấy bóng chiếc máy bay u linh bay sát đầu rồi lượn vèo qua, khi ấy trong khoang máy bay không hề có chút ánh sáng nào, cánh quạt cũng đã ngừng quay, đội thám hiểm đuổi theo quỹ đạo phi hành của nó đến tận đây. Theo lý mà suy đoán, thì chiếc máy bay vận tải vừa bay lượn giữa tầng mây, cũng chính là chiếc "Rắn đen" đang bị rễ cây cổ thụ buộc chặt dưới sơn cốc. Nhưng sao mỗi lúc xuất hiện nó lại có những đặc điểm khác nhau như hai chiếc hoàn toàn riêng rẽ vậy? Trong khi, chiếc máy bay vận tải số hiệu "Rắn đen" thực hiện nhiệm vụ chuyên chở đặc biệt của quân đội hoàng gia Anh, chỉ có một chiếc duy nhất đã mất tích hơn hai mươi năm trước trong núi Dã Nhân mà thôi.

Ngọc Phi Yến không nén nổi nỗi hoài nghi trỗi dậy trong lòng: "Lẽ nào chiếc khi nãy nhìn thấy chỉ là ảo giác? Bởi vì mọi vết tích đều cho thấy chiếc máy bay đang hiện hữu ngay trước mắt quả thực đúng là mới rớt xuống đây chưa lâu. Rốt cục chiếc máy bay số hiệu Rắn đen đã mất tích nhiều năm đã gặp phải chuyện gì? Trong điều kiện không hề có động lực, làm sao nó có thể bay lượn giữa không trung?", rồi cô lại nghĩ hay là thời gian và không gian – những năng lượng hằng định bất biến này đều bị bẻ cong quay vòng trùng lặp trong đám sương mù dưới lòng đất, mới khiến chiếc máy bay vận tải số hiệu Rắn đen xuất hiện theo phương thức quái dị không thể tưởng tượng nổi giống như loài ma quỷ? Ngoài ra, những phi công trong khoang máy bay đều đi đâu cả rồi? Còn nữa, mấy luồng sáng chói mắt dội ra từ đám sương mù và âm thanh dị thường kêu "răng rắc răng rắc" không ngớt phát ra từ nơi sâu dưới lòng đất rốt cục là thứ gì vậy?

Tuy rằng Ngọc Phi Yến đi nhiều hiểu rộng, nhưng tình hình lúc này cũng chẳng khác chi sa vào đám sương mù mịt trải dài năm dặm, không thể phân biệt nổi phương hướng, bởi vì những việc này hoàn toàn khác xa với những phi vụ trộm mộ mà cô hằng thông thuộc, hơn nữa tình hình hiện tại đang phải đối mặt dường như thuộc về phạm trù "hiện tượng siêu nhiên", các kiến thức khoa học thường thức và định luật vật lý đều khó lòng giải thích thỏa đáng, trong đầu cô liên tiếp lóe lên vài ý tưởng, nhưng rất nhanh sau đó đều bị chính mình phản bác, cuối cùng cô đành một lần nữa quay sang hỏi Tư Mã Khôi: "Trong thực tế sao lại xuất hiện tình hình như vậy được nhỉ? Hay chúng ta đang gặp ác mộng chắc?"

Tư Mã Khôi lại chẳng ước những việc trải qua trong mấy ngày nay chỉ là một cơn ác mộng quá đi chứ, nhưng vết thương đang ngâm ngẩm đau trên vai không ngừng nhắc nhở anh: "Những việc trước mắt tuy rằng quái dị ngoài sức tưởng tượng, nhưng lại hoàn toàn là sự thực, sự thật chắc như thép". Lúc này, nghe Ngọc Phi Yến nói, anh trầm mặc một lúc rồi mới trả lời: "Chắc chắn chẳng phải ác mộng đâu". Miệng thì ứng đáp vậy, nhưng trong lòng lại ngẫm nghĩ: "Lời này cũng có hai cách hiểu, từ cổ xưa đã có bốn giấc mộng: "Hồ Điệp, Hàm Đan, Nam Kha, Hoàng Lương", sau này còn có thêm Hồng Lâu mộng, tất cả như ngầm ẩn dụ vạn vật trên thế gian đều hư vô như giấc mộng, đời người vốn dĩ cũng chỉ là một giấc mộng, đang sống nghĩa là đang nằm mơ. Nghĩ kỹ lại, câu nói này đúng là cũng có lý lẽ nhất định, khoảng cách giữa giấc mơ và hiện thực vốn rất mong manh, mơ hồ, chỉ có điều những gì cuộc đời mình gặp phải…. toàn là ác mộng".

HỒI 7: RƠI VỠ (2)

Từ trước đến nay, Tư Mã Khôi gan to trùm trời, anh bèn quyết định vào trong khoang máy bay trước nhìn xem sự thể thực hư ra sao rồi mới nói. Tư Mã Khôi thi triển chiêu "Tiên nhân treo tranh", dùng hai chân quắp lấy rễ cây, thân mình nhoài ra chúc đầu xuống nhòm vào bên trong, hai tay nhẹ nhàng chạm vào phần đầu khoang lái của chiếc tiêm kích vận tải số hiệu Rắn đen, sau đó dùng 

đèn pin tụ quang mang theo bên mình soi vào bên trong, rồi nghé mắt quan sát tình hình . Trong phạm vi ánh sáng của đèn pin, chỉ thấy khoang lái trống toang hoang, ngoại trừ một vài chỗ bị rò nước do va chạm rách vỡ ra, thì ngay cả nửa bóng ma cũng chẳng thấy đâu.

Cả thân mình chiếc máy bay bị rễ cây buộc chặt cứng, treo lơ lửng giữa tầng không dưới lòng sơn cốc, những loài thực vật dây leo thả mình từ trên vách đá dựng đứng xuống dưới, thân to như các cột trụ trong đền chùa, miếu điện, tuy rất dai chắc nhưng rốt cục cũng đâu phải sắt thép, sức chịu đựng cũng đã gần tiệm cận mức giới hạn, hai tay Tư Mã Khôi vừa chạm nhẹ vào phần đầu khoang lái, liềnlập tức phát giác chiếc máy bay khẽ rùng rùng muốn rơi, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể tuột khỏi sự ràng buộc của đám rễ cây, dây leo, tiếp tục lao xuống nơi sâu hơn.

Tư Mã Khôi cũng không dám liều mạng hơn, anh chỉ sợ sẽ nhào theo chiếc máy bay rớt xuống đáy cốc có sương mù bủa vây và rơi vào thảm cảnh máy tan người nát. Chẳng tìm thấy bất cứ đầu mối nào trong khoang máy bay, anh bèn chuyển đèn pin tụ quang chiếu sáng hai cánh trên thân máy bay.

Nhưng đúng lúc này, từ trên cao dội xuống hàng loạt tiếng động rung trời chuyển đất, thì ra cơn cuồng phong giông tố do bão nhiệt đới Buddha mang tới quá sức dữ đội, kết cấu đất đá men bờ cốc lại xốp yếu, không chịu nổi sự công kích của mưa bão, nên đã xảy ra hiện tượng sụt lở trên diện tích rộng, một lượng lớn bùn đất, sỏi đá từ trên cao ùn ùn đổ xuống, không ngừng chảy về nơi sâu. Hội La Đại Hải đợi ở bên trên chờ tiếp ứng, nhìn thấy hiện tượng nguy hiểm liên tiếp xảy ra giữa hai vách núi, thì biết nơi này chẳng thể dung thân lâu thêm được nữa, đành phải bám vào rễ cây tụt xuống dưới chạy trốn.

La Đại Hải hướng xuống dưới, thét gọi Tư Mã Khôi: "Tránh ra mau!", hai chân Tư Mã Khôi hãy còn bấu rễ cây, nghe tiếng hét thất thanh, liền vội vàng thu thân nhìn lên trên, chỉ thấy một luồng gió nhẹ ập vào mặt, trong bóng tối cũng chẳng nhận ra rốt cục là vật gì rơi xuống, anh vội vàng dùng tay ẩy mạnh thân máy bay, mượn lực đàn hồi đẩy cơ thể bắn ra xa, một đoạn rễ cây lớn đâm sầm vào chiếc máy bay, cùng với đó là sự công kích liên tiếp của dòng đất đá, bùn nước, chiếc máy bay phải chịu một xung lực rất lớn, phần đầu rách toạc thành một miệng hố, cùng lúc đó nó lao mạnh xuống dưới một chút, vài sợi rễ cây bám trên thân máy bay cũng bị đứt theo.

Trong khoảnh khắc nhanh như điện xẹt, Ngọc Phi Yến phát giác tình hình không ổn, hai vách đá dựng đứng cheo leo, một khi trên cao sụt lở rơi xuống, nếu còn lảng vảng ở chỗ rễ cây cổ thụ, thì chắc chắn sẽ không có đường mà di chuyển, né tránh, còn nếu bám vách mà trốn xuống phía dưới, cho dù không bị ngã thịt nát xương tan, thì cũng bị đất đá sụt lở rơi trúng mà vỡ đầu chảy máu, thấy chiếc tiêm kích vận tải số hiệu Rắn đen cũng đang có chiều hướng muốn rơi xuống nơi sâu, cô liền lập tức hét gọi mọi người mau chóng trốn vào trong khoang máy, chí ít như thế vẫn còn có thể mượn vỏ máy bay tạm thời tránh khỏi công kích, hơn nữa "hàng" trong khoang máy bay cũng phải thu về tay, nếu không bao nhiêu mạng người của Sơn lâm đội lão thiếu đoàn đều hi sinh vô nghĩa cả hay sao.

Cánh cửa may bay vốn bị thủng lỗ, bốn người bọn họ trong lúc sốt vó lo chạy trốn, chẳng thèm suy nghĩ lâu la, kẻ trước người sau thi nhau chui vào trong khoang. Hai người Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến trốn gần khoang lái, chưa kịp đóng nắp máy bay lại, thì mấy sợi rễ cây treo phần đầu máy bay đứt thêm hai cọng nữa, đầu máy gần như chúi xuống dưới, mọi người ngồi bên trong cũng lao mạnh theo đà, ai nấy đều bất giác hét toáng lên, tưởng như tim gan phèo phổi đều vọt ra khỏi miệng, hoảng hốt chụp vội lấy dây an toàn đùng để buộc hàng trong máy bay.

Ngọc Phi Yến chui vụt vào trong khoang lái, cô ả cũng chưa kịp hoàn hồn trở lại, nhờ chút ánh sáng phát ra từ đèn tụ quang, cô quan sát bốn phía xung quanh, phát hiện tuy chiếc máy bay mất tích hơn hai mươi năm, nhưng thiết bị điều khiển và đồng hồ các loại thì vẫn còn như mới, chẳng hề bị han rỉ hay bám bụi, lúc này trong lòng cô chỉ sót lại duy nhất một ý niệm: "Sao có thể như vậy được…. rốt cục giờ đây đang là năm nào?"

Tư Mã Khôi nhìn thấy Ngọc Phi Yến ngồi vào vị trí phi công điều khiển, khuôn mặt tư lự đăm chiêu, liền hỏi: "Cô biết lái máy bay tiêm kích thế nào sao?"

Ngọc Phi Yến từng lái máy bay trực thăng cứu hộ trên mặt nước, dạng Martin đơn giản, chứ chưa từng chạm vào chiếc tiêm kích vận tải của không quân Anh bao giờ, nên lắc đầu nói: "Tôi không biết, chẳng lẽ anh thì biết khởi động nó bay lên trời sao?"

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: "Dù sao trước sau gì cũng chết, nhưng mình đã sống hai mươi mấy năm trời, mà đến tận giờ vẫn chưa hề được lái máy bay, thôi thì trước khi chết cũng phải lái nó một phen cho thật sướng đời mới được". Thế là anh vội đáp: "Không biết lái mà cô còn dám chiếm vị trí này à?", nói xong chẳng cần để ý gì, liền xô Ngọc Phi Yến sang một bên, luồn người chui vào, tranh chiếc ghế phi công, nắm chắc cần điều khiển rồi kéo mạnh một cái về phía sau.

Lúc này, Hải ngọng ở phía sau cũng thò nửa người ra trước, anh không muốn bị rơi tan xác chút nào, tuy nói mọi vật từ xưa đến nay đều phải chết một lần, nhưng cách chết do máy bay rơi lại chẳng đẹp đẽ cho lắm. Chắc trước đây anh từng mấy lần chơi game lái máy bay, nên tự phong cho mình chức phi công bán chuyên nghiệp: "Thực ra cái này cũng chẳng có gì khó, cậu cứ buộc cục xương vào cái cần điều khiển thì cả chó cũng biết lái ấy chứ". Hải ngọng vừa đứng một bên chỉ chỉ chỏ chỏ Tư Mã Khôi thao tác như thế nào, vừa thò tay ra ấn loạn xạ tất cả các nút trên bàn điều khiển một hồi.

Ngọc Phi Yến thấy mấy gã liều mạng này rõ là đang nghịch lung tung, liền hoảng hốt quát: "Các anh muốn chết phỏng?", lời còn chưa dứt thì một trận bùn đất cát đá bị sụt lở từ bên trên rào rào đổ xuống, phút chốc đã vùi lấp nửa thân máy bay, hàng loạt sợi rễ lần lượt đứt phựt, chiếc tiêm kích vận tải của không quân Anh lúc này hoàn toàn rơi vào tình trạng đầu chúc xuống, đít vống lên, trong tiếng kêu gào hoảng loạn như tuyệt mệnh của đội thám hiểm, chiếc máy bay lao vù vù xuống vực sâu mù mịt sương khí với tư thế dốc ngược dựng đứng.

HỒI 8: HẺM NÚI KHỔNG LỒ (1)

Dưới sự tấn công dữ dội của hết cơn giông tố này đến đợt cuồng phong khác, lòng núi Dã Nhân đồi rung núi chuyển, trời sụp đất vỡ. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải lao vù vù với tốc độ kinh người xuống đáy khe núi, cùng với vô vàn đất bùn cát đá sụt lở. Tư Mã Khôi quay cuồng nhào lộn trong khoang máy bay, chỉ thấy bên ngoài cửa sổ bóng tối hun hút bao trùm khắp nơi. Anh 

thấy trời xoay đất chuyển, hoa mắt chóng mặt, tiếng gió ù ù vang lên bên tai, nhưng một hồi lâu vẫn chưa thấy máy bay phát nổ do đâm phải lòng đất. Bốn xung quanh anh chỉ có màn sương đen bủa vây mù mịt, khiến người ta không thể cảm nhận được sự tồn tại của không gian và phương vị, như thể đang bị rơi xuống động không đáy vậy.

Trong lúc hỗn loạn, cũng chẳng biết có phải mình đã chạm vào nút gì hay không, chỉ thấy một chiếc đèn màu đỏ ở mặt đồng hồ trên bàn điều khiển đột nhiên sáng lên, Tư Mã Khôi thấy ánh đèn nhấp nháy bất định, trong lòng khẽ kích động, nhớ lại loại đèn này dường như là đèn tín hiệu cảnh báo, có lẽ chỉ phát ra khi máy bay bị mất lái hoặc sắp hạ cánh. Tư Mã Khôi than thầm, sương khí dưới lòng khe núi núi Dã Nhân dày không thể lường, mênh mông như trời đất, vô hạn tựa tạo hóa, chỉ thần quỷ mới rõ khi nào chiếc máy bay vận tải này mới hạ cánh tiếp đất, bây giờ chỉ sợ muốn chết ngay cũng chẳng được nữa rồi.

Chiếc máy bay tiêm kích vận tải đặc biệt số hiệu "Rắn đen", lao vù vù xuống dưới với tốc độ rất nhanh, nhưng khi chưa kịp đâm sầm vào mặt đất cho máy tan người nát, thì thân máy bay đột nhiên ngả dần ra. Thì ra, nửa trên của khe núi mạch chạy bất quy tắc, gần như hoàn toàn là vách treo dựng đứng, nhưng đến dưới đáy vực thì không gian lại rộng rãi thoáng đãng hơn rất nhiều. Hẻm núi này miệng hẹp, bụng rộng, bề mặt cắt ngang của nó tạo thành hình "kim tự tháp", càng xuống sâu càng khoáng đạt, hơn thế, nữa địa lại thế vô cùng độc đáo, địa khí từ dưới bốc lên, dòng nhiệt khí đối lưu mạnh mẽ không ngừng lưu chuyển ngùn ngụt, nhờ đó mà tự nhiên đỡ được chiếc máy bay, khiến tốc độ rơi tự do của nó từ từ giảm dần.

Kết cấu ván gỗ ép của chiếc máy bay tiêm kích vận tải, từ trước đã được mệnh danh là "Chất gỗ kỳ tích", trong hoàn cảnh đặc biệt gần tương tự với "hiệu ứng ống khói" sẽ phát huy tính ưu việt to lớn; nó giống như cánh diều đứt dây, nhào lộn giữa không trung mấy vòng, cuối cùng ngả ngả nghiêng nghiêng đáp xuống giữa dòng nước lặng. Lúc tiếp đất, cánh trái máy bay bị gãy nát hoàn toàn, cánh quạt trên động cơ cũng bị đâm gãy; dưới tác dụng của quán tính, thân máy bay lật nghiêng, trượt dài một đường trên trăm mét mới dừng lại hẳn.

Tư Mã Khôi trong khoang máy bay cảm thấy ba hồn bảy vía như lao ra khỏi xác, khó khăn lắm mới ép nó về đúng chỗ, toàn thân trăm xương không chỗ nào không đau nhức. Trong khi thần trí còn hoang mang bất định, anh vẫn nhận thức được cuối cùng máy bay cũng đã tiếp đất, chắc là mệnh mình chưa đến lúc tuyệt. Rơi từ độ cao hàng ngàn mét xuống mà không hề bị tan xương nát thịt ngay tại chỗ, điều này hoàn toàn có thể nói là một kỳ tích; nhưng giờ đây hoàn cảnh chưa rõ trắng đen, anh cũng không thể dùng những câu đại loại như "đại nạn không chết, tất có phúc dày" để đánh lừa bản thân, mà chỉ thấy trong lòng không thể không thầm thốt lên một câu: "Xem ra máy bay tiêm kích do người Anh chế tạo đúng là danh bất hư truyền, quả nhiên tỷ lệ sống sót cao đến kinh ngạc!"

Tư Mã Khôi giãy đạp cố gắng đứng dậy, sờ thấy chiếc đèn pin tụ quang trên người, cầm nó chiếu sáng tứ phía, mắt bị chấn động hoa hết cả lên, nhìn cái gì cũng thấy nhập nhèm. Anh lờ mờ thấy các thành viên khác trong đội vẫn tạm bình thường, may mà các thiết bị trong khoang máy rất gọn gàng ngăn nắp và mọi người đều thắt dây an toàn, tuy không tránh khỏi việc sứt đầu mẻ trán nhưng điều đáng mừng là chí ít chẳng ai bị gãy tay lìa chân. Người bị thương nghiêm trọng nhất là Karaweik, trong lúc điên đảo quay cuồng, cậu bị rách một đường dài trên đầu, mặt đầm đìa máu, Tuyệt ở cạnh đang giúp cậu băng bó vết thương. La Đại Hải và gã Gấu trắng người Nga đều ngã sưng mày tím mặt, nhưng cũng chẳng có gì đáng ngại lắm, chỉ là vẫn hoa mắt chóng mặt, nằm vật trong khoang máy bay mãi chẳng bò dậy nổi.

Tư Mã Khôi dùng đèn pin tụ quang chiếu sang Ngọc Phi Yến, tuy rằng cô ả mặt mày trắng bệnh như giấy sáp nhưng vẫn cố xua tay tỏ ý không sao. Hai người họ đầu óc quay cuồng, tư duy có chút đình trệ, cùng nhìn ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy phóng tầm mắt đến chỗ nào, chỗ ấy đều tối như hũ nút, chỉ duy trên đỉnh đầu là có một sợi sáng mỏng lờ mờ ẩn hiện, nên nghĩ chắc đó chính là miệng khe núi lộ ra ngoài núi Dã Nhân, lúc sáng lúc tối trong tiếng sấm rền chớp giật. Từ dưới đáy ngước nhìn lên trên, miệng hẻm núi rộng lớn khác thường ấy, lại chỉ mong manh như một đường chỉ, thực sự khó có thể tưởng tượng là rốt cục bản thân đang ở độ sâu bao nhiêu mét trong lòng núi.

Ngọc Phi Yến thầm kinh ngạc, cô không ngờ huyệt động trong lòng hẻm núi, có hướng thẳng đứng này, lại sâu đến dường vậy. Nếu như gần đây không có lối nào khác đi ra khỏi núi, thì giữa không gian đáy động thâm u khó lường này, với độ cao không thể trèo lên như thế, quả thực đã trở thành "cơn ác mộng" mà đội thám hiểm khó có thể vượt qua. Cô ta ra dấu tay, bảo Tư Mã Khôi ra bên ngoài xem xét tình hình.

Tư Mã Khôi khắp mình mẩy đau như thể gẫy lìa từng đoạn, đến nỗi phải hít ngược mấy hơi thở lạnh vào trong, rồi gắng sức đẩy nắp trên của máy bay ra, một cảm giác đơn độc cách biệt bất chợt ùa đến. Lúc này, anh mới nhìn thấy màn sương khí dày đặc che phủ khắp nơi sâu trong huyệt động đều đã tiêu tan chẳng thấy đâu, chỉ có một lượng lớn nước ngưng đọng khắp vách núi, hình thành nên làn mưa bụi mênh mông không ngừng lất phất bay xuống.

Anh suy đoán: có khả năng do diện tích sụt lở ở ven miệng hẻm núi quá lớn, đã làm thay đổi vòng tuần hoàn khí đối lưu dưới đáy động; ngoài ra, cuồng phong giông tố khiến nước đọng dưới tầng đất đá trong lòng núi nhanh chóng gia tăng, tràn vào những nơi sâu trong khe núi, trên không trung đang mưa ào ạt, dưới lòng động cũng ảnh hưởng mưa theo, nhờ vậy mới xua tan được đám sương khí mịt mù. Xem ra, trước khi cơn bão nhiệt đới Buddha qua đi, lớp sương mù dày đặc dị thường này tạm thời sẽ không xuất hiện nữa.

Ngọc Phi Yến mau chống chiếu sáng mọi chỗ. Cô ta lấy súng phát tín hiệu trong ba lô của Tư Mã Khôi, bắn lên hai chuỗi pháo sáng về hai hướng; hai chuỗi pháo phát ánh sáng chói lòa, trắng bạc, lần lượt vạch một đường rơi dài ở phương xa. Do khu vực lân cận đều không bị sương mù dày đặc che phủ nữa, nên có thể mượn ánh sáng xanh mờ ảo, nhìn thấy thấp thoáng khoảng cách giữa đáy động với đỉnh khe núi, thực sự không thể đoán nổi; còn nếu chỉ dựa vào trực giác phán đoán độ cao thẳng đứng đó có lẽ phải trên ngàn mét. Vách đá trong huyệt động hình kim tự tháp đều dựng đứng xiên lệch ra ngoài, nhìn nguy hiểm vô cùng, không có chỗ để con người có thể leo lên nổi, cho dù Tư Mã Khôi có giỏi thể hiện tuyệt kỹ: "Bọ cạp đảo đầu bò tường" đi nữa thì cũng bó tay đầu hàng. Đây dường như là một cái bẫy của tự nhiên, đã vào thì khó lòng ra. Những kẻ gặp nạn rơi vào nơi này, đúng thực "Xẻ ngang đất rộng không móng sắc, uốn lượn tầng không thiếu cánh bay".

Đáy khe núi thoai thoải, bốn phía đồng không mông quạnh, nhìn chẳng thấy bờ, tất cả đều là đầm lầy mênh mang do nước dưới lòng đất ngưng tụ lại mà thành; ở nơi xa tít còn có luồng sương khí mông lung chưa kịp tan, khói mờ nước rộng, sương tỏa núi sâu khiến người ta không thể nhìn rõ thực hư. Khu vực đáy động lẽ ra phải là một cái hồ dưới lòng đất, nằm ở nơi sâu nhất của núi Dã Nhân, nhưng do hệ thực vật ở đây um tùm rậm rạp, nên hầu hết nước tụ chưa kịp thẩm thấu xuống tầng đất đã bị rễ cây hút cạn veo, khiến cả lòng hồ dưới đất sâu biến thành đầm lầy. Thêm vào đó, hàng chục triệu năm nay, vô số thực vật và bùn đất bị mưa gió quét từ trên đỉnh cốc xuống, dần dần tích tụ dưới đầm lầy, tạo thành một bờ đê dài miên man. Lớp đất ẩm ướt trên bề mặt phủ đầy tầng tầng lớp lớp rêu xanh dày, đây đó thỉnh thoảng lại lóe lên những tia sáng lân tinh yếu ớt do sinh vật mục nát hóa thành, ngước mắt ra xa, chỉ thấy mặt nước bập bềnh lên xuống, thật giả khó phân.

Huyệt động thâm u dưới lòng đất, từ trước đã là miền đất bí mật mà thế nhân khó lòng nhòm ngó. Tuy rằng hội Tư Mã Khôi có thể sống sót lọt xuống đáy cốc, lại có thể nhân lúc sương mù dày đặc tiêu tan, lợi dụng ánh sáng của pháo phát tín hiệu, đại thể đã nhìn rõ địa hình xung quanh, nhưng trong lòng ai nấy không những đều cảm thấy việc hãy chưa xong, mà ngược lại, một linh cảm bất an còn không ngừng trỗi dậy: "Những gì nhìn thấy trước mắt chỉ là một góc phía trên của tảng băng trôi, không biết còn bao nhiêu bí mật kinh thiên động địa nữa vẫn bị niêm phong kín trong thế giới dưới lòng đất quanh năm không nhìn thấy ánh mặt trời này".

HỒI 8: HẺM NÚI KHỔNG LỒ (2)

Ngọc Phi Yến tai mắt tinh nhanh, nên lúc pháo tín hiệu phát sáng lướt qua bầu trời, cô đã phát hiện xung quanh đầm nước và mặt đất ẩm ướt, dường như có vật gì đó đang bò rất nhanh phía ngoài chiếc máy bay vận tải, nhưng tốc độ di chuyển quả thực nhanh đến nỗi chưa kịp nhìn rõ rốt cục là thứ gì, thì bóng dáng của nó đã biến mất khỏi tầm mắt. Cô ngẫm nghĩ: "Trong khu vực

 đầm lầy âm u, ẩm ướt này, phần nhiều thường ẩn náu những sinh vật có tính tấn công rất cao như cá sấu hoặc mãng xà Miến Điện; mạo hiểm rời khỏi máy bay lúc này đúng là không được thỏa đáng cho lắm". Thế là cô liền thay đổi chủ ý, nhắc nhở mọi người coi chừng động tĩnh bốn phía xung quanh, tạm thời không nên rời khỏi chiếc máy bay tiêm kích vận tải. Nói xong, cô ta lại bắn thêm ba chuỗi pháo sáng phát tín hiệu lên cao, chiếu sáng toàn bộ tầm nhìn lân cận, đồng thời kéo nòng khẩu súng tự động Uzi trong tay lên đạn sẵn sàng, đề phòng lỡ đột ngột xảy ra biến cố gì.

Tư Mã Khôi thấy ánh sáng phát ra từ mấy chuỗi pháo gần chiếc máy bay vận tải, trong huyệt động dưới lòng đất thâm u, yếu ớt chẳng khác chi ánh sáng đom đóm; rồi sau khi pháo sáng tắt lịm, bốn bề một lần nữa lại chìm vào sự tĩnh lặng yên ắng, sâu thẳm vô bờ bến.

Trước đây, không biết bao nhiêu lần anh từng tự hỏi, trong khe núi quanh năm bị sương mù che phủ rốt cục tồn tại thứ gì, nhưng trước sau đều không tìm ra nổi manh mối. Lúc này, thân sa vào đây, anh càng cảm thấy khe động núi Dã Nhân quả thực hiểm ác phi thường. Trải qua bao nhiêu tuế nguyệt mờ ảo như sương khói là bấy nhiêu năm tháng nó phải chịu cảnh mưa gọt gió bào, mãi cho đến tận ngày nay, vẫn mãi là góc chết mà tầm mắt loài người khó có thể nhận thức được. Không chỉ có vậy, trong dải bóng tối mênh mông này chắc chắn còn ẩn chứa một bí mật sâu xa nào đó khó có thể vạch trần. Anh càng nghĩ càng cảm thấy phức tạp, tư duy chìm đắm miên man, không khỏi có đôi chút bần thần. Anh tư lự mãi một hồi lâu chẳng nói câu gì.

Ngọc Phi Yến thấy Tư Mã Khôi cũng có lúc không biết nói gì, lại cảm thấy có vài phần bất ngờ, bèn đưa khẩu súng đang cầm trong tay cho anh, nhắc anh hãy chú ý quan sát tình hình xung quanh chiếc tiêm kích vận tải. Sau đó cô liền khom lưng lần ra phía sau khoang, lần lượt kiểm tra hàng hóa sắp đặt trong khoang, tìm kiếm vật phẩm mà khách hàng ủy thác, khi đã lấy được sẽ lập tức nghĩ cách tìm lối ra, rút lui khỏi núi Dã Nhân.

Ba mươi mấy thành viên của đội thám hiểm, bây giờ chỉ còn sáu kẻ may mắn sống sót, đồng thời lại bị rơi xuống nơi sâu nhất của khe núi núi Dã Nhân cùng với chiếc máy bay vận tải đã mất tích nhiều năm. Nhưng tước bỏ hết những yếu tố ly kỳ khó có thể giải thích, mà mọi người đã gặp phải sang một bên, thì sự việc tiến triển vẫn quá đỗi bất ngờ, đầu tiên là vô tình tìm thấy chiếc tiêm kích vận tải "Rắn đen" ngay trong khoảnh khắc đầu tiên, rồi sự xâm nhập của cơn bão nhiệt đới khiến cho sương mù trào ra từ lòng đất bị suy giảm đi rất nhiều, và điều quan trọng nhất là "hàng" trong khoang máy bay không ngờ lại vẫn còn nguyên.

Chiếc máy bay tiêm kích vận tải, cải tiến thịnh hành trong chiến tranh thế giới thứ hai này, thuộc loại máy bay hạng trung. Khoang máy bay rộng rãi, chia làm ba phần, xuyên suốt từ đầu đến cuối, không hề có bức ngăn nào ở giữa. Phần đầu là khoang lái, phần giữa và phần sau là khoảng không gian cần thiết để chuyên chở người và hàng hóa.

Phần sau của máy bay buộc chặt bốn chiếc hòm gỗ hình chữ nhật, đã được niêm phong kín, phía ngoài còn bọc bằng lớp áo mưa dày nặng. Hai chiếc hòm buộc thành một cọc, khóa lại rất chắc chắn, nên trong suốt quá trình rung lắc, động chạm dữ dội khi nãy mà nó không hề có vết tích bị lỏng lẻo hay xô lệch gì, nhưng trên mặt hòm, ngoại trừ một vài con số đánh ký hiệu ra, thì chẳng hề có bất kỳ biểu tượng gì khác.

Ngọc Phi Yến bảo Tuyệt cầm đèn halogen, giúp mình chiếu sáng bên trong khoang máy bay, lại lệnh cho gã Gấu trắng người Nga dùng giáo mỏ vịt cạy nắp hòm hàng. Đang đợi bắt tay vào làm, đột nhiên họ lại nghe thấy dường như có người đang nói gì đó ở góc tối trong khoang máy bay. Tư Mã Khôi nghe âm thanh tuy hơi yếu ớt, nhưng rõ ràng là phát ra ngay phía sau. Máy điện đàm không dây của máy bay đã hoàn toàn hỏng hóc, không thể tiếp nhận bất kỳ thông tin liên lạc nào. Tuy rằng, tình hình trong hòm hàng tạm thời vẫn chưa nhìn thấy, nhưng từ đầu đến giờ đều bị niêm phong kín mít, cho dù thực sự có người sống trốn bên trong, thì cũng chết ngạt từ bao giờ. Hơn nữa, vị trí phát ra giọng nói này có lẽ đến từ khoang giữa máy bay, phía nhóm mấy người La Đại Hải đang đứng; bây giờ đội thám hiểm chỉ còn sót lại mấy kẻ may mắn thoát chết. Ngoại trừ gã Gấu trắng người Nga coi như nửa câm ra, thì mấy người còn lại có nói gì, Tư Mã Khôi tự khắc hiểu rất rõ, nhưng giọng nói vừa vọng đến khi nãy nghe vô cùng cổ quái, rõ ràng còn có người khác nữa.

Tư Mã Khôi lập tức đề cao cảnh giác: "Trong khoang máy bay chắc chắn có kẻ lạ!" . Đang lúc anh định dỏng tai lên nghe lại, thì chẳng thấy tiếng gì phát ra nữa.

Tư Mã Khôi còn cho rằng chắc tại mình căng thẳng thần kinh, nên nảy sinh ra ảo thanh, anh bèn quay đầu lại hỏi Ngọc Phi Yến – người cách anh gần nhất: "Khi nãy cô có nghe thấy gì không?"

Ngọc Phi Yến cũng phát hiện thấy sự thể khác thường. Cô ta từng nhiều lần giao tiếp với khách hàng Âu Mỹ, có thể nghe ra người vừa nói lúc nãy mang khẩu âm Anh rất rõ rệt, liền trả lời Tư Mã Khôi: "Dường như có một người Anh, ông ta nói hàng trong khoang máy bay… rất nguy hiểm".

Trong huyệt động dưới lòng đất sâu như vực thẳm vốn dĩ chỉ có bóng tối âm u bao trùm, trong khoang máy bay bị rò nước mưa nhỏ hẹp này chỉ có một ngọn đèn halogen, mọi người tuy ở gần nhau, nhưng ngay cả mặt mũi và bóng hình của đối phương cũng nhìn chẳng rõ. Có điều, cũng chính vì không gian chật chội, hơn nữa khoảng cách lại cực gần, cho nên qua hơi thở tồn tại trên cơ thể người sống, mọi người vẫn có thể cảm nhận được. Tư Mã Khôi có thể khẳng định, bao gồm cả chính mình, thì trong khoang máy bay chỉ có sáu người, làm sao có thể đột nhiên lại nhiều thêm một người được? Trừ khi người Anh mà Ngọc Phi Yến vừa nói đến… là "vong hồn" của phi công không quân Hoàng gia Anh.

HỒI 9: GIỌNG NÓI (1)

Tư Mã Khôi đột nhiên nghe thấy bên cạnh có người nói, nhưng trong khoang máy bay rõ ràng không có người còn sống nào khác. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải, số hiệu "Rắn đen", trong khoang từ đầu đến cuối đều thông suốt, tuy rằng tối mò mò, nhưng cầm đèn halogen lên soi, thì có thể soi trực tiếp rõ từ đầu này đến tận đầu kia. Tất cả khoảng không gian chỉ rộng một nắm tay, thì

 làm gì còn nơi nào để cho người có thể lẩn trốn. Hay chăng, ngoại trừ sáu thành viên may mắn sống sót của đoàn thám hiểm ra, trong chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích nhiều năm này, còn có một vong linh của viên phi công người Anh đang ẩn náu?

Thông tin giống như lời cảnh báo kia, dường như đến từ một thế giới khác, không chỉ có hai người Ngọc Phi Yến và Tư Mã Khôi nghe thấy, mà gã Gấu trắng người Nga đang ngồi ở khoang giữa cũng nghe thấy rõ mồn một. Gã theo đoàn thám hiểm thâm nhập vào lòng núi Dã Nhân, chẳng qua cũng chỉ vì món thù lao khổng lồ. Có điều, gã hoàn toàn chẳng thể ngờ, sẽ gặp bao nhiêu tình huống phức tạp ngoài sức tưởng tượng ở trong núi đến thế, hơn nữa càng lún càng sâu, đến khi gã muốn phủi tay không làm, thì phát hiện đã chẳng thể thoát thân, nên đành phải tiếp tục đồng hành cùng những kẻ sống sót còn lại.

Sau khi chiếc máy bay tiêm kích vận tải rơi xuống đáy khe núi, gã Gấu trắng tuy rằng chẳng gặp thương tích gì nghiêm trọng, nhưng tâm thần lại bị chấn động không nhẹ, đầu óc mụ mẫm "nam bắc khó phân, đông tây khó định", tuy rằng thân thể đã chạm đất, nhưng lục phủ ngũ tạng hãy còn treo lơ lửng giữa tầng không, chưa chịu chui vào vị trí cũ. Gã chẳng theo tín ngưỡng nào, tâm tính lạnh lùng tàn nhẫn, từ trước đến giờ chẳng biết sợ sệt thứ gì. Trong quá trình chiếc máy bay bị rơi xuống, khoang máy bay hoàn toàn tối om, bên ngoài càng âm âm u u, mù mù mịt mịt. Gấu trắng ngồi trên ghế nệm, mình thắt dây an toàn, tay nắm chặt sợi dây thừng, trong cơn rung lắc dữ dội, thân thể bị quăng đi quật lại theo quán tính. Gã đã từng đi rất nhiều loại máy bay khác nhau, thậm chí còn bị lửa pháo phòng không trên mặt đất bắn trúng, nhưng cũng chưa từng hoảng hốt mất phương hướng, bởi vì gã biết gặp những tình huống như thế, sợ cũng vô tác dụng, nên chỉ còn biết tuân theo mệnh trời mà thôi.

Nhưng giờ đây, trong khoang máy bay chật chội âm u này, gã loáng thoáng nghe thấy động tĩnh tiếng nói của một người Anh, việc này hoàn toàn vượt ra khỏi nhận thức thông thường của gã. Trước đây, khi còn là lính đánh thuê, gã từng tiếp xúc với một vài người Anh, khẩu âm Anh nằng nặng không thể trộn lẫn vào đâu được. Thế nhưng trước mắt trong chiếc "Rắn đen" này căn bản chẳng có người Anh nào, thiết bị liên lạc ở khoang lái rõ ràng cũng đã bị hư hại, thì vì sao lại có tiếng thì thầm của người Anh? Ngoài ra, chiếc máy bay vận tải đã mất tích hơn hai mươi năm, vì sao mãi đến tận giờ này phút này, vẫn có thể bảo dưỡng y nguyên như mới? Và vì sao trước khi vào khe núi núi Dã Nhân, lại nhìn thấy chiếc bóng đen sì sì của nó bay lượn là là trên đỉnh đầu?

Tổng hợp tất cả những hiện tượng khó giải thích này lại, chỉ làm rõ cho một vấn đề, đó là chiếc máy bay vận tải này đang "gặp ma", hơn nữa trong máy bay còn lẩn khuất một vong hồn của phi công không quân hoàng gia, cho nên mới nghe thấy giọng nói của vong hồn.

Tuy gã Gấu trắng không nghe rõ được hết toàn bộ nội dung, nhưng vẫn có một vài từ chập chờn lọt vào tai, vong hồn của viên phi công không quân Anh dường như muốn cảnh báo đội thám hiểm: "Hàng trong khoang máy bay vận tải – cực kỳ nguy hiểm!".

Gấu trắng chẳng tin bất cứ ai, nhưng lại vô cùng tin tưởng vào đôi tai của chính mình, gã ra hiệu bằng tay với Ngọc Phi Yến: "Chiếc máy bay này quả thực quá bất thường, trước khi điều tra rõ ràng toàn bộ sự việc, tốt nhất không nên động chạm bừa bãi vào bất kỳ vật gì, nếu không rất có thể sẽ dính họa sát thân".

Ngọc Phi Yến luôn lo lắng khe động núi Dã Nhân sẽ liên tục sụt lở do sự công kích của bão nhiệt đới, mà nếu huyệt động hình kim tự tháp này sụp xuống hoàn toàn, mọi người sẽ đều bị chôn sống dưới đáy; vậy nên việc cần làm trước mắt chính là mau chóng lấy được "hàng" trong khoang máy bay, sau đó lập tức tìm kiếm lối ra, đợi khi cơn bão Buddha suy yếu thì cả hội sẽ tháo chạy ra khỏi núi Dã Nhân.

Nhưng đến đúng khớp này thì xảy ra sự bất ngờ, trước khi chiếc máy bay vận tải rơi xuống đáy cốc, cô ta hoàn toàn chưa kịp quan sát kỹ tình hình bên trong khoang; nhưng lúc này, cô ta lấy đèn halogen chiếu sáng trước sau trái phải một hồi, thì cũng làm gì có tên người Anh nào trốn trong khoang? Theo tư liệu ghi chép của quân Anh, mà cô nắm giữa trong tay, chiếc máy bay tiêm kích số hiệu "Rắn đen" trong lúc chấp hành nhiệm vụ ở Miến Điện và mất tích tại nơi sâu nhất trong đám sương mù dày đặc dưới lòng khe núi núi Dã Nhân, khi đó, bao gồm cả phi công, trong khoang máy bay có tất cả ba thành viên. Chẳng lẽ vong hồn của họ đều hãy còn lởn vởn quanh nơi này? Họ không chịu để người khác động chạm vào "hàng" trong khoang máy bay?

Trong lúc mọi người đang rối như tơ vò vì sự việc ly kỳ diễn ra trước mắt, thì thấy Karaweik đầu băng bó trắng toát, tay cầm một vật màu đen đưa ra trước mặt Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: "Đây là cái gì thế?". Karaweik tỏ ra luống cuống, cậu hoa chân múa tay nói một hồi lâu, may mà có Tuyệt đứng bên cạnh phiên dịch giúp, nên mọi người cuối cùng cũng hiểu rõ. Thì ra, sau khi chui vào khoang máy bay trốn, chiếc máy bay vận tải lập tức bắt đầu rơi tự do với tốc độ kinh khủng, cậu đột nhiên cảm thấy có một vật đập vào người. Trong lúc hoảng hốt, chẳng nhìn rõ là vật gì, cậu liền thuận tay bắt lấy. Lúc ấy cũng không hiểu ấn vào chỗ nào, tự dưng thấy có tiếng nói chuyện phát ra từ bên trong, khiến Karaweik giật nảy người, sau đó chiếc máy bay va chạm vào dòng khí lưu thông lượn vòng dưới khe núi. Trong lúc thân máy bay rung lắc điên đảo, đầu cậu bị đập mạnh, rách một miếng to, rồi từ đó mất hết cảm giác. Khi tỉnh lại, cậu thấy mình vẫn nắm vật ấy trong tay, ấn một cái lại thấy có tiếng nói phát ra nên Karaweik cảm thấy rất thích thú.

Theo luật lệ bất thành văn của đội du kích cộng hòa sản Miến Điện, trên chiến trường, những vật vô chủ và những vật trên cơ thể người chết, ai nhặt được thì coi như của người ấy, còn ở đây chẳng có ba mục kỷ luật, tám điều quy định gì cả, cũng chẳng hề có khái niệm "tất cả đều phải xung công", thế là cậu liền nhặt bỏ vào túi, định giữ làm của riêng. Thế rồi đợi khi nhìn thấy năm người còn lại chẳng ai nói câu gì, Karaweik mới mang vật đó đưa cho Tư Mã Khôi xem, muốn nhờ anh chỉ cho cậu cách sử dụng như thế nào.

Nhóm mấy người quan sát vật mà Karaweik nhặt được, thì ra là đó là chiếc máy thu âm loại nhỏ, kiểu cầm tay giống như máy dùng để phỏng vấn, mặt ngang còn cắm chiếc micro có dây. Lúc này mọi người mới vỡ lẽ, tiếng nói của người Anh nghe được lúc trong khoang máy bay đều từ đây mà ra. Tư Mã Khôi đúng là lắc đầu bất lực với cái kiểu ngờ nghệch, dạy mãi không khôn của người Miến Điện, nhưng sợi thần kinh đang căng như dây đàn cuối cùng cũng chùng xuống một đoạn.

La Đại Hải giơ tay gõ đầu Karaweik một cái: "Ranh con nhà cậu, suýt chút nữa khiến hồn vía bọn anh dạt nhà bỏ đi rồi đấy!"

Karaweik ú ớ chẳng hiểu chuyện gì xảy ra, khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác.

Ngọc Phi Yến thấy cả hội chỉ là sợ bóng sợ gió, nhưng cuốn băng trong máy ghi âm dường như có nhắc đến thông tin gì đó có liên quan đến "hàng" nên trong lòng cô cũng đang có rất nhiều nghi hoặc khó lòng giải thích. Gấp gáp muốn tìm đáp án từ trong cuốn băng, cô bèn quyết định sẽ nghe lại từ đầu đến cuối, rồi sau đó căn cứ theo tình hình thực tế để lấy hàng trong khoang. Nghĩ vậy, cô liền khuyên can: "Dù sao sai một chút và sai một trăm chút cũng chẳng khác nhau là bao, các anh đừng trách cứ người anh em nhỏ tuổi này nữa, cậu ta thì hiểu được gì chứ?" Nói xong, cô lập tức tua lại cuốn băng, rồi cẩn thận nghe lại từ đầu, phát hiện giọng nói ghi âm trong cuốn băng quả nhiên là của một người Anh. Trừ Tư Mã Khôi và La Đại Hải ra, thì những người còn lại đều ít nhiều hiểu tiếng Anh, nhưng hai người này làm gì có chuyện ngồi yên một bên mà giương mắt nghe như vịt nghe sấm. Ngọc Phi Yến cũng chẳng biết làm sao, đành phải nghe một đoạn, lại dịch một đoạn cho họ.

Không ngờ sự việc nghe được sau đó lại khiến mọi người cảm thấy kinh ngạc, đầu óc như muốn nổ tung, vì nội dung ghi lại trong cuốn băng còn đáng sợ gấp nhiều lần việc gặp phải vong hồn phi công không quân Anh dưới lòng đất như họ nghĩ.

Người ghi âm là một chuyên gia thám hiểm hang động người Anh, tên là Wilson. Anh đã tự mình ghi âm cuốn băng dựa theo thời gian thực tế, bắt đầu từ thời khắc chiếc máy bay vận tải cất cánh tại sân bay, đồng thời nói rằng nếu như có người phát hiện ra cuốn băng này, thì có nghĩa là anh ta đã lâm nạn. Trên đường phi hành, Wilson hồi tưởng ngắn gọn những điều mình đã trải qua, tự nhận đội của anh là phân đội tinh nhuệ có kinh nghiệm phong phú, bao gồm những phi hành viên ưu tú nhất, có chuyên gia nghiên cứu về lịch sử tôn giáo và hiện tượng siêu nhiên, cũng có quân nhân phục viên từ binh chủng không quân, họ không thuộc tổ chức chính trị nào mà chỉ làm việc vì tiền. Lần này, nhận đơn hàng từ một khách hàng không lộ diện, mục tiêu là tìm kiếm chiếc máy bay tiêm kích vận tải mất tích dưới khe núi núi Dã Nhân, nghe nói trong khoang vận tải chất đầy châu ngọc quý hiếm mà bọn thực dân Anh đã cướp đoạt từ Miến Điện, có điều cụ thể là hàng gì thì tuyệt đối cơ mật, nên ngoại trừ đội trưởng ra, các thành viên khác hoàn toàn không hề hay biết.

Qua nhiều lần thăm dò và trinh sát trên không, bước đầu đã xác minh được kết cấu địa hình trong lòng khe núi: đây là một huyệt động khổng lồ mặt cắt hình kim tự tháp, sâu rộng không thể lường, bề ngang tương đối hẹp. Căn cứ vào thông tin liên lạc qua bộ máy điện đàm không dây của phi công lái chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích, thì có lẽ nó đã rơi xuống sườn nam.

Đội thám hiểm đồng thời cũng phát hiện: bất luận trên mặt đất hay dưới lòng đất, đường bộ hay đường thủy, đều không có con đường nào tuyệt đối an toàn để đi xuyên vào núi. Ngoại trừ màn sương mù dày đặc trào ra từ lòng đất, núi Dã Nhân còn tồn tại một lượng lớn các di tích cổ đại: có điều, phần lớn trong số chúng đều bị hủy hoại nghiêm trọng, nên không thể phán đoán hay khảo nghiệm bối cảnh văn hóa và cội nguồn lịch sử của nó, vì dường như người cổ đại muốn che đậy một bí mật nào đó, đồng thời họ cài đặt trùng điệp cạm bẫy để bảo vệ nó. Trong khi ấy, chiếc máy bay tiêm kích vận tải chuyên chở bảo vật cổ đại Miến Điện lại rơi đúng xuống núi Dã Nhân, tất cả những việc đó phải chăng là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Wilson cho rằng có thể mình chỉ quá đa nghi mà thôi, nhưng những ai càng nghiên cứu sâu về luật logic thì càng nên coi trọng sự trùng hợp đó.

HỒI 9: GIỌNG NÓI (2)

~*~

Thật không may, tất cả những đội thám hiểm trước đây định vào núi đều không rõ tông tích, và gần như chẳng có kẻ may mắn nào sống sót trở về. Đối với những nhà thám hiểm chuyên nghiệp được trang bị tinh nhuệ, có kinh nghiệm phong phú, rèn luyện qua các lớp đào tạo cao cấp và vũ trang đến tận răng, thì địa hình ngoại vi núi Dã Nhân phức tạp và các loài mãng xà, độc trùng

chẳng phải trở ngại tuyệt đối. Hiểm họa thực sự là đến từ màn sương bí ẩn quanh năm không tiêu tan ở sâu trong núi, sương khí mù mịt bao trùm cả cánh rừng nguyên sinh xung quanh khe núi, đã khiến người ngoài khó lòng nhìn thấu những bí mật bên trong của nó.

Đội thám hiểm Anh của Wilson đã nghĩ ra một kế hoạch gần như là điên cuồng, họ cho rằng chiếc máy bay tiêm kích của không quân hoàng gia năm đó, sở dĩ có thể hạ cánh xuống vùng sương mù ở nơi sâu trong khe núi, là do có hai điểm thuận lợi, thứ nhất là kết cấu chất liệu đặc biệt của loại máy bay tiêm kích, thứ hai là tác dụng của dòng khí lưu thông mà địa hình đặc biệt trong khe núi sản sinh ra; nhưng nếu giả dụ thay vào chiếc máy bay khác, chắc chắn là sẽ bị quá nhẹ hoặc quá nặng, không thể vừa vặn như chiếc tiêm kích. Ngoài ra, điều kiện thời tiết cũng có khả năng là một trong những nhân tố quyết định, vào ngày chiếc tiêm kích vận tải số hiệu "Rắn đen" mất tích, cũng là ngày cơn bão nhiệt đới di chuyển về hướng bắc, khiến phần lớn vành đai địa hình khe núi núi Dã Nhân bị lộ ra khỏi lớp sương mù dày đặc.

Nếu bây giờ muốn vào sâu trong khe núi, chỉ có đợi đến khi cơn bão nhiệt đới lại đến một lần nữa, đồng thời còn phải sử dụng chiếc máy bay tiêm kích cùng số hiệu với chiếc đã mất tích, thì mới hi vọng đạt được mục đích. Nơi sâu trong núi Dã Nhân có khu vực bom mìn, sương mù, độc trùng và các loại tà thuật, khiến người phương Tây khó lòng lý giải, cho nên bọn họ dự định đáp chiếc máy bay tiêm kích giống nhau, nhân lúc thời tiết thay đổi, mạo hiểm tiến vào nơi sâu nhất dưới khe núi, rồi sau khi thành công sẽ nghĩ cách đáp khinh khí cầu rút lui. Mãi cho đến cuối những năm sáu mươi, vẫn có thể tìm thấy bóng dáng máy bay tiêm kích ở những khu vực tương đối lạc hậu. Họ đã vất vả ngược xuôi một phen, cuối cùng cũng tìm được chiếc máy bay tiêm kích cải tiến, có cùng số hiệu với chiếc "Rắn đen", ở một nơi nào đó thuộc khu vực Đông Nam Á.

Gần núi Dã Nhân tồn tại rất nhiều tô tem

mãng xà, chiếc máy bay rơi xuống vùng sương mù mang số hiệu "Rắn đen", mạch chạy của khe núi ngoằn ngoèo như rắn lượn, thậm chí ngay cả con đường U Linh mà liên quân Trung – Mỹ đã xây dựng cũng dài như hình rắn. Đội thám hiểm Anh phán đoán: có lẽ "rắn" là chiếc chìa khóa liên kết toàn bộ bí mật trong núi Dã Nhân. Thế là họ liền tìm một chiếc máy bay tiêm kích vận tải, sau đó tiến hành cải tiến, làm mới từ trong ra ngoài, bao gồm cả nước sơn, tất cả đều hoàn toàn giống như đúc với chiếc máy bay bị mất tích, rồi đặt tên cho nó là "Rắn đen II" với hi vọng nó có thể đem lại may mắn cho đoàn thám hiểm.

Đội thám hiểm Anh mua đứt một sân bay kín đáo, do lực lượng vũ trang địa phương khống chế, ở khu vực phi chính phủ giáp ranh Cam Miến, rồi nhân lúc cơn bão nhiệt đới Buddha xâm nhập, họ đáp chiếc Rắn đen II bay vào núi Dã Nhân. Kế hoạch này vô cùng mạo hiểm, thiên thời địa lợi nhân hòa, dũng khí kỹ thuật, chỉ cần thiếu bất kỳ nhân tố nhỏ nào cũng đều có khả năng ảnh hưởng đến vận mệnh cuối cùng, vì sự thay đổi bất thường luôn mang lại những khó khăn không thể tưởng tượng. Nhưng đối mặt với món thù lao thuộc khổng lồ và cảm giác sứ mệnh to lớn vô hình nào đó đã khiến đội thám hiểm dưới sự thôi thúc của tâm lý đầu cơ, vẫn quyết định lao vào dù biết rõ khó khăn.

Wilson thẳng thắn thừa nhận: "Tính nguy hiểm của nhiệm vụ lần này vô cùng lớn, có khả năng không còn đường trở về, nhưng hi vọng những gì chúng tôi làm là có giá trị".

Sau khi chiếc máy bay vận tải Rắn đen II cất cánh, nó bay lượn rất lâu trên bầu trời vùng núi, không ngờ thời tiết biến đổi càng lúc càng khắc nghiệt, đằng xa bắt đầu xuất hiện tiếng sấm rền vang dội, sương mù dày đặc gần khe núi cũng không hạ xuống đến mức thấp như dự tính ban đầu. Mọi việc đều không hội tụ đủ điều kiện giống trong kế hoạch, bởi vậy phi công đành đề nghị từ bỏ chuyến hành động này. Nhưng giữa khoảnh khắc cả đoàn đang bay là là vượt qua khe núi, thì đột nhiên xuất hiện chiếc máy bay tiêm kích vận tải u linh như một bóng ma từ trong dải mây mù ngưng tụ không tan biến lừ lừ bay ra.

Wilson nói: "Đó chính là chiếc máy bay tiêm kích vận tải đã mất tích mấy chục năm trước của không quân Hoàng gia Anh, nó lao thẳng vào chúng tôi mà không phát ra một tiếng động nhỏ, đến khi phi công phát hiện thấy nó, đồng thời định chuyển hướng né tránh, thì mọi sự đã quá muộn. Chiếc Rắn đen II của chúng tôi đâm trúng chiếc máy bay xuất hiện từ đám sương mù. Lạ một điều, tuy rằng đột ngột xảy ra va chạm giữa không trung, nhưng lại chẳng hề khiến chiếc Rắn đen II phát nổ ngay lập tức, mà cảm giác giống như đâm vào một màn sương dày đặc, nhìn không rõ, sờ không thấy, còn chiếc máy bay vận tải đối diện dường như vốn dĩ chỉ là ảo ảnh không hề tồn tại. Nhưng điều khiến mọi người khó hiểu nhất là: trong khoảnh khắc va chạm với chiếc máy bay u linh kia, hai động cơ của chiếc Rắn đen II liền ngừng hoạt động, các thiết bị khác cũng hoàn toàn không thể điều khiển nổi, khoang máy bay phút chốc trở nên tối mù, rồi rơi thẳng xuống khe núi trong tình trạng mất lái.

May nhờ thượng đế che chở, nên chiếc Rắn đen II thoát khỏi họa máy tan người nát. Nó bị vướng vào các rễ cây cổ thụ, treo lơ lửng giữa không trung. Đợi khi các thành viên lần lượt tỉnh lại khỏi hôn mê, phát hiện sương mù hoàn toàn che khuất tầm nhìn phía ngoài khoang, chẳng rõ mình bị rơi xuống phương nào, để duy trì tầm nhìn với khoảng cách nhất định trong sương mù, đội thám hiểm Anh liền bật sáng mấy ngọn đèn halogen cường quang đã chuẩn bị từ trước, vì nó có thể xuyên thấu những tạp chất trong sương mù với hạn độ lớn nhất. Sau đó mọi người mở cửa máy bay ra ngoài, dùng đèn halogen nhiều bóng soi chiếu địa hình gần "điểm rơi". Lúc này đội trưởng đội thám hiểm lại nhắc nhở mọi người thêm lần nữa: nếu tìm thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích, trước khi có sự cho phép của anh ấy, tuyệt đối không ai được mở hòm hàng, bởi vì "hàng" chở trong máy bay cực kỳ nguy hiểm".

Có điều, lúc này vận đen của đội thám hiểm Anh chỉ vừa mới bắt đầu, ánh sáng cực mạnh phát ra bởi đèn chiếu trên máy bay không ngờ lại dẫn dụ một vật thể to lớn dị thường từ nơi sâu trong đám sương mù đi ra - Wilson miêu tả vật thể đó là "vật thể sống" với giọng kinh hoàng tột độ, nó nuốt chửng cả chiếc Rắn đen II, tiếp sau đó là một loạt tạp âm hỗn loạn điếc tai cùng tiếng gào thét hoảng loạn, rồi băng ghi âm ngừng lại ở đây.

..

Tô tem: Tôn giáo của người nguyên thủy, coi một động vật hay thực vật nào đó là tổ tiên của mình và thờ nó.

CHƯƠNG 4: ĐỘNG KHÔNG ĐÁY KINH HOÀNG - HỒI 1: SÚNG SĂN (1)

Nguồn: e-tv

~*~

Dường như tất cả các đội thám hiểm vào núi Dã Nhân đều suy xét kỹ lưỡng đến những trở ngại và nguy hiểm có thể gặp phải, nhưng hiểm họa khó lòng dự tính nhất lại đến từ màn sương khí không ngừng trào ra dưới lòng đất. Ngoại trừ những kẻ mất tích vĩnh viễn bị nhốt trong đám sương mù bí ẩn, thì e rằng trên thế giới chẳng còn người nào khác có thể giải đáp xem rốt cục họ đã gặp phải điều gì trong đám sương mù, cũng không biết cội nguồn của nó xuất phát từ đâu. Nếu phán đoán theo lý lẽ thông thường, sương mù có khả năng khiến con người nảy sinh ảo giác, hoặc giả sương mù có hàm chứa độc tố, nhưng dựa vào kinh nghiệm phong phú, vũ khí tiên tiến hiện đại, cộng thêm một chút vận may không thể thiếu, thì lẽ ra họ cũng phải có cơ hội để rút lui an toàn khỏi núi mới phải.

Không chỉ có hai người Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến nghĩ như vậy, mà ngay cả đội thám hiểm Anh lái chiếc Rắn đen II cũng ôm hi vọng về sự may mắn đó. Để đối phó với màn sương mù ngàn năm nằm sâu trong khe động khổng lồ, họ đã làm rất nhiều công việc chuẩn bị cần thiết, bao gồm các loại biện pháp phòng độc cùng nhiều thiết bị chiếu sáng cường quang sử dụng trong sương mù. Thế nhưng, chẳng ai có thể ngờ, bao trùm dưới màn sương mù dày đặc ấy lại tồn tại một thứ gì đó khiến con người hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi.

Cuộn băng ghi âm mà Wilson để lại khiến mọi người nghe xong đều thất sắc, im lặng mãi một hồi lâu. Nội dung mà cuốn băng nhắc đến đã hoàn toàn đảo lộn toàn bộ nhận thức về các sự việc của họ trước đây. Ngọc Phi Yến biết rất rõ trong lòng, hội của cô và đoàn thám hiểm Anh lái chiếc Rắn đen II, chắc chắn đều có cùng một "khách hàng" ngồi phía sau màn diễn. Theo thông lệ quốc tế, nếu khách hàng đã thuê một nhóm người truy tìm tông tích chiếc máy bay vận tải bị mất tích, thì trước khi nhóm người đó thất thủ hoặc từ bỏ, sẽ không cho phép người khác nhúng tay vào. Nếu biết trước cơ sự như vậy, bọn cô ta đã chẳng thèm lao vào để uống ngụm nước đục này.

Ngọc Phi Yến lại nghĩ đến lúc cùng Tư Mã Khôi phát hiện ra chiếc máy bay tiêm kích vận tải, khi ấy sương mù trong khe núi đã hạ xuống mức thấp và chiếc Rắn đen II cũng không có biểu hiện gì bất thường, trong khoang chẳng thấy vết tích thể người Anh nào. Căn cứ vào đó có thể suy đoán: "vật thể sống" mà cuộn băng ghi âm nhắc đến, chỉ hoạt động trong phạm vi sương mù bao phủ, hơn nữa, chính "ánh đèn" đã dẫn dụ nó ra khỏi đám sương mù.

Lúc này Tư Mã Khôi đã cậy được nắp hòm hàng trong khoang máy bay, vừa nhìn quả nhiên bên trong chứa toàn trang thiết bị và vật dụng mà đội thám hiểm Anh mang theo, chứ không phải "báu vật Miến Điện" mà Ngọc Phi Yến đang mất công tìm kiếm.

Anh thấy thần sắc mọi người đều vô cùng nặng nề, như thể đại nạn đang sắp sửa giáng xuống đầu, liền tìm một lý do an ủi: "Chí ít cuốn băng ghi âm cũng giúp chúng ta giải thích một việc, đó là chiếc máy bay chúng ta gặp trong khe núi là chiếc Rắn đen II, chứ không phải oan hồn mấy chục năm trước vẫn lởn vởn trong sương mù còn gì !".

Ngọc Phi Yến liếc Tư Mã Khôi một cái rồi nói: "Anh việc gì phải lừa người rồi tự lừa mình như thế. Chiếc máy bay mà chúng ta gặp quả đúng là chiếc Rắn đen II, nhưng rốt cục nó đã đâm phải cái gì trong đám sương mù ấy?"

Tư Mã Khôi nói, chiếc Rắn đen II đã đâm chính diện vào chiếc máy bay tiêm kích vận tải, nhưng lại không hề xảy ra cháy nổ, tôi nghĩ chắc là do "sương mù". Nghe nói trên đời thường xuất hiện ảo ảnh "thành phố trên mặt nước, thành phố trong núi", buổi tối ở những khu nghĩa địa hoang vắng còn có "thành ma". Vật đột ngột xuất hiện từ trong lớp sương mù, quá nửa chỉ là hình ảnh mấy chục năm trước còn lưu lại của chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích mà thôi.

Cuối thời kỳ chiến tranh Thái Bình Dương, quân Mỹ có một trung đội máy bay chiến đấu Mustang P-51. Trong khi đang chấp hành nhiệm vụ tuần tra ở khu vực Thái Bình Dương, đột nhiên họ phát hiện không phận phía đối diện xuất hiện hàng loạt máy bay chiến đấu Mitsubishi A6M Zero của quân Nhật, trong khi hạm đội liên hợp Nhật Bản lúc đó đã hoàn toàn không còn tồn tại, không quân và hải quân đều đã bị đánh cho tan tác, và đã sớm mất quyền khống chế trên khu vực từ lâu. Vậy thì làm sao còn có thể xuất hiện cả đội quân với quy mô cực lớn và chỉnh tề như vậy? Trong lúc phi công máy bay chiến đấu Mỹ định phát đòn công kích, thì toàn bộ quân địch đột nhiên biến mất chẳng còn tông tích, trước mắt họ chỉ còn lại mặt biển mênh mông nối liền đường chân trời dài tít tắp, xanh biêng biếc ngút cả tầm nhìn. Thông qua liên lạc họ được biết: sóng ra-đa hải quân tuần tra ở khu vực lân cận trước sau không hề xuất hiện bất kỳ phản ứng bất thường nào. Khi đó toàn bộ thành viên phi hành của trung đội bay chiến đấu Mustang đều tròn mắt ngạc nhiên, chẳng ai rõ cảnh tượng họ tận mắt chứng kiến khi nãy rốt cục là chuyện gì.

Sau này, hiện tượng đã được giải thích: đó chỉ là do khúc xạ ánh sáng của hơi nước, và còn có rất nhiều người tận mắt nhìn thấy chiến trường cổ đại rực rỡ huy hoàng trên biển hoặc thấp thoáng hiện lên phía tận cùng đường chân trời trong sa mạc. Có điều, các nhà khoa học đến tận bây giờ vẫn chưa giải thích nổi vì sao những ảo ảnh hình thành trên mặt nước hoặc trong tầng mây, mãi bao nhiêu năm sau này mới xuất hiện.

Đây là những điều Tư Mã Khôi nghe được lúc còn ở trong đội du kích *** Miến Điện. Bản thân anh cũng không biết nó là thật hay giả, sở dĩ giờ đây lôi ra nhắc lại vì thấy cảnh ngộ đội thám hiểm gặp phải trong núi Dã Nhân có vài phần tương tự với các hiện tượng ly kỳ xuất hiện nơi biển rộng cát dài kia. Giải thích như vậy nghe có vẻ thông suốt lý lẽ hơn cả.

Thế mà Ngọc Phi Yến lại không công nhận suy đoán này. Nếu nói đó chỉ là hiện tượng giả được hình thành do sương mù, vậy thì tại sao vào khoảnh khắc chiếc Rắn đen II đâm phải nó, lại giống như chạm vào bức từ trường cực mạnh, khiến toàn bộ động cơ, thiết bị đều ngừng hoạt động? Ngoài ra, sau khi nó rơi xuống khe cốc, "vật thể sống" bị đèn halogen cực mạnh dẫn dụ ra khỏi đám sương mù là thứ gì? Các thành viên đội thám hiểm Anh đã gặp phải nạn gì? Và vì sao ngay cả thi thể cùng vết máu đều chẳng lưu lại chút nào tại hiện trường?

Tuyệt cũng có cùng cảm giác nghi hoặc sâu sắc như vậy. Không kìm được, cô liền mở miệng hỏi Tư Mã Khôi: "Vì sao người Anh lại hình dung vật xuất hiện trong sương mù dày đặc là vật thể sống?"

Tư Mã Khôi đáp: "Cái từ này đúng là dễ hù dọa người thật. Kỳ thực, nói trắng ra, đó chẳng qua là một "vật sống" nào đó tồn tại trong đám sương mù trào ra từ lòng đất hay sao?"

Tuyệt lắc đầu phủ nhận: "Chỉ sợ chẳng hề đơn giản như thế, từ này phạm vi bao trùm quá rộng lớn, anh có thể nói cái cây ngọn cỏ là vật thể sống, thậm chí cũng có thể nói cả cõi trời đất này đều là một vật thể sống. Chỉ đến khi chúng ta tận mắt chứng kiến vật xuất hiện trong sương mù ấy, thì mới có thể miêu tả chuẩn xác về nó. Rốt cục trời đất mênh mang, những điều con người biết chỉ vô cùng hữu hạn, nhưng một điểm có thể khẳng định chắc chắn, vật bị đèn halogen dẫn dụ ra khỏi sương mù, tuyệt đối nguy hiểm khác thường, chúng ta không gặp phải nó thì hơn".

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ: "Có thể làm rõ chân tướng vật ẩn nấp trong sương mù được, cũng chính là vấn đề then chốt giúp đội thám hiểm đào thoát khỏi núi Dã Nhân". Nhưng khi bị mọi người liên tiếp đặt câu hỏi như nã đạn pháo, thì anh cũng chẳng biết phải trả lời thế nào, và trong lòng nghĩ: "Tôi còn đang hoang mang đây này, sao các cô toàn nhằm tôi mà hỏi mãi thế?", nên đành phải lảng đi: "Nhìn không hết là việc bình thường dưới trời, hiểu không thấu là chuyện bình thường trên đất. Mọi việc diễn ra trước mắt quả thực vượt xa khỏi dự liệu, dường như chẳng có chút logic nào, nên nếu có là ai thì cũng chẳng thể giải đáp nổi. Với tình hình này, chúng ta chỉ có thể cố gắng dùng tư duy đàn hồi để giải quyết thôi".

Ngọc Phi Yến và Tuyệt đều ngơ ngác không hiểu, nên thắc mắc: "Tư duy đàn hồi có nghĩa là gì vậy?"

Hải ngọng nói thay Tư Mã Khôi: "Cái từ này đúng là dễ dọa người thật. Kỳ thực nói trắng ra, hiện giờ cậu ta chẳng còn kế sách gì nữa cả, đành phải cố biến vấn đề phức tạp thành đơn giản, biến nó từ lạ thành bình thường. Chúng ta cần gì phải tự làm khó bản thân thế chứ, chẳng may nghĩ quá hóa cuồng thì người chịu thiệt thòi rủi ro là chính mình chứ ai?"

Ngọc Phi Yến gật đầu đồng tình: "Nói cũng có lý. Giờ đây bên ngoài núi mưa to như tháo cống, nước mưa không ngừng thấm qua kẽ đất đá, lòng sơn động bị màn mưa che phủ, khiến sương mù dày đặc dưới khe cốc bị tiêu tan hoàn toàn. Chúng ta nhờ thế mà tranh thủ được thiên thời, nếu bây giờ buông tay từ bỏ thì có khác gì mang công đổ bể. Chiếc máy bay vận tải bị mất tích của không quân Anh, từng xác nhận thông tin thông qua liên lạc điện đàm không dây rằng: đã hạ cánh vào màn sương mù, chứ không chìm xuống đầm lầy. Ở dưới lòng đất có bao nhiêu là đầm lầy, nên nơi cho phép chiếc tiêm kích vận tải hạ cánh chỉ có mỗi dải đất ẩm ướt dài hẹp và sâu hút này thôi. Nếu chúng ta tiếp tục lần mò về phía nam, thì biết đâu vẫn còn cơ hội tìm thấy hàng chứa trong khoang máy bay.

Trước đây Ngọc Phi Yến thường tự do hành sự theo ý mình, chẳng bao giờ cần giải thích gì với thuộc hạ, nhưng đối với mấy người mới hội Tư Mã Khôi (bọn họ quả thật có thể buông tay giãy cẳng giữa đường, mà mình chẳng làm gì được), nên cô đành xuống nước, thương lượng đầu cuối với họ, rồi dặn dò mọi người: "Dụng binh hay ở chỗ thần tốc, bây giờ chúng ta không thể nấn ná thêm được nữa, phải nhanh chóng bắt tay hành động. Bởi không chừng cơn bão nhiệt đới chẳng kéo dài thêm bao lâu, lỡ mà nó chuyển hướng giữa chừng hoặc đột ngột suy yếu thì sự việc sẽ phiền phức to, lúc đó đám sương mù chắc chắn sẽ xuất hiện trở lại. Trước khi xuất phát, mọi người cố gắng mang theo những vật dụng cần thiết mà đội thám hiểm Anh để lại, đặc biệt là lương thực và vũ khí phòng thân, cùng với thiết bị chiếu sáng. Nếu trên đường bất ngờ gặp sương mù, thì phải tắt ngay đèn pin cường quang và đèn chiếu halogen đi. Trong tình huống bất đắc dĩ, cũng có thể đổi sang dùng đèn hàn quang hóa học không tỏa nhiệt". Nói xong, cô bắt đầu tìm kiếm vật dụng cần thiết trong hòm hàng của đội thám hiểm Anh.

Ngọc Phi Yến bất ngờ phát hiện một chiếc máy bộ đàm dạng đeo vai, bèn hỏi hội Tư Mã Khôi xem có ai biết sử dụng không?

Tuyệt xem xong bảo: "Đây là máy điện đàm không dây chiến thuật quân dụng hiệu PRS25/77 mà. Cái này do Mỹ sản xuất, tôi hiểu một chút về thông tin, chắc có thể sử dụng được nó, nhưng bây giờ trong huyệt động dưới lòng đất chẳng có kẻ sống sót nào khác ngoài chúng ta, thì cần nó để liên lạc với ai?". Ngọc Phi Yến nói: "Sau khi lấy được hàng, chúng ta sẽ tìm cách rút lui khỏi khe núi, nhưng nếu ra được ngoài núi Dã Nhân mà không có ai tiếp ứng thì cũng chẳng nên cơm cháo gì được, mang theo nó chẳng nguy hại gì, ngược lại biết đâu sẽ có lúc phải dùng đến".

Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến bố trí mọi việc khá hợp lý, có bài có bản hẳn hoi, nếu là mình thì cũng chẳng thể nghĩ ra sách lược gì hay hơn, nên anh chỉ ngồi im lặng, chẳng nói thêm gì.

Những người còn lại cũng không có ý kiến gì khác, người nào người nấy cắm cúi bắt tay chuẩn bị, chỉ mỗi mình La Đại Hải cả đời chưa từng bị con gái chỉ huy bao giờ, tuy chẳng nói ra miệng, nhưng trong lòng khó tránh khỏi có chút khó chịu. Anh vô tình phát hiện dưới đáy hòm có một hộp gỗ dài, mở ra nhìn thì thấy bên trong đựng một khẩu súng săn bốn nòng kiểu cũ bị tháo rời từng bộ phận, kèm theo hai loại thuốc súng đặc chế. La Đại Hải trong chốc lát đã lắp ráp xong và thấy khẩu súng săn này đúng là to ngoại hạng, hơn nữa chất liệu thân súng rất được chú trọng, công nghệ vô cùng tinh xảo, bốn nòng súng xếp thành hình chữ thập, hai nòng trái phải lắp đạn ghém, hai nòng trên dưới là những đường xẻ rãnh dành cho loại họng súng cỡ lớn. Anh từng nghe người bản địa nói, đây là kiểu súng mà dân quý tộc Anh trước đây thường sử dụng khi đi săn voi rừng hoặc tê giác ở Miến Điện hay Ấn Độ. Lớp sừng bên ngoài của tê giác cứng đanh như thép nguội, đủ để phòng vệ trước nhiều loại đạn, chỉ mỗi khẩu "săn voi rừng" với đường kính họng súng ngoại cỡ này là nó không thể địch lại nổi mà thôi.

HỒI 1: SÚNG SĂN (2)

~*~

La Đại Hải hớn hở ra mặt, nói với Tư Mã Khôi: "Khẩu súng này chẳng khác nào khẩu pháo, có nó bên mình, tớ cũng cảm thấy vững dạ hơn nhiều".

Tư Mã Khôi nhắc nhở: "Tiên sư Hải ngọng, cậu định mang nó đi bắn cả xe tăng đấy hả? Tớ bảo cho mà biết, sử dụng súng săn nòng ngoại cỡ đó cũng đáng ngại ra phết, tuy rằng uy lực nó lớn thật, nhưng vì được sản xuất từ lâu rồi nên cấu tạ

o thiết kế có khá nhiều điểm lạc hậu, khuyết điểm vô số, rất dễ cướp cò, đặc biệt lực đẩy về sau mạnh đến kinh người, kẻ nào thể lực yếu ớt, khi nổ súng không khéo còn nảy ra sau ngã chổng vó đấy".

La Đại Hải tự thấy mình cao to lực lưỡng, thể lực tráng kiện, tay vai chắc chắn nên chẳng coi mấy lời của Tư Mã Khôi vào đâu: "Bọn khọm Anh đấy chẳng phải cũng chỉ uống nước máy, ăn mỳ trắng thôi sao? Đâu phải hạng ba đầu sáu tay gì. Bọn ấy mà đã sử dụng được thì chúng ta cũng có thể chơi cho sướng tay chứ". Nói xong, anh khoác băng đạn của khẩu săn voi lên người, sau đó quay sang dặn dò Karaweik: "Ranh con nhà cậu nhớ bám đuôi cho sát vào nhé, nếu dám rớt lại phía sau, coi chừng anh bắn tuốt xác ra đấy".

Karaweik cũng biết hoàn cảnh trước mắt vô cùng nguy hiểm, mặt mày hoảng hốt, miệng ngậm chặt chẳng dám ho he câu nào.

Sau khi mọi người đã nai nịt gọn gàng đâu vào đấy, họ mới lần lượt chui ra khỏi khoang Rắn đen II. Người nào người nấy đều lăm lăm khẩu súng tự động trong tay, dùng đèn chiếu halogen mở đường, dò dẫm về phía cực nam của khe núi truy lùng mục tiêu. Vùng nước đọng thấm qua kẽ nứt đất đá bị dòng khí lưu thông ở nơi cao trong khe núi cuốn ngược lên, đã tạo thành màn mưa bụi dày đặc giăng mắc mịt mùng khắp không gian, khiến tầm nhìn cũng bị ảnh hưởng, mọi vật trở nên mơ hồ không còn rõ ràng nữa.

Đáy khe núi toàn là những vùng đất ẩm ướt hoang phế, trong đó có một dải khá rộng, trải dài theo chiều dọc, tạo hình giống như con mãng xà khổng lồ. Trên mặt nước xung quanh lại mọc đầy cỏ răng cưa thân dày lá rậm và lau sậy um tùm, chúng cao đến ngang thân người, khiến đầm lầy trông chi chít ngang dọc chẳng khác nào bàn cờ.

Tuyệt thấy kỳ lạ liền thắc mắc: "Không gian dưới lòng đất rộng lớn, sâu hút, quanh năm bị sương mù dày đặc phong tỏa như thế này, ánh mặt trời chẳng bao giờ lọt xuống tới nơi thì lẽ ra không thể xảy ra hiện tượng quang hợp được mới phải, vậy mà sao hệ thực vật ở đầm lầy lại có thể mọc um tùm, phong phú dường này nhỉ?"

Tư Mã Khôi cũng đồng cảm: "Điều bất thường nhất là ở đây quả thực quá rộng rãi, trống trải, mà độ sâu của huyệt động không dưới hai ngàn mét. Tôi vốn dĩ cho rằng dưới lòng đất phải có vật gì đó ẩn nấp, nhưng trong này ngoại trừ sương mù ra, thì dường như chẳng có thứ gì". Trong lúc nói, dưới chùm sáng của đèn chiếu halogen, anh nhìn thấy ở mặt nước lân cận nổi lềnh bềnh mấy khúc trông như củi khô, trong lòng biết chắc, đó chính là cá sấu.

Bốn xung quanh hẻm núi hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Những loài động thực vật từ trên cao rơi xuống đáy động, chỉ có thể sinh sôi nảy nở ở môi trường gần như khép kín. Bởi vậy, trong đầm lầy dưới lòng đất, xuất hiện các loài sinh vật bò sát như cá sấu hay mãng xà Miến Điện thì cũng chẳng phải điều gì kỳ lạ. Nhưng "vật thể sống" xuất hiện từ đám sương mù và tấn công chiếc Rắn đen II rốt cục là thứ gì? Hình dạng của nó chắc chắn không thể nhỏ được, hơn nữa, nó có thể mượn sự trợ giúp của sương mù nhanh chóng di chuyển lên nơi cao, nên chắc chắn không thể là cá sấu hoặc mãng xà Miến Điện.

Tư Mã Khôi chẳng lần tìm được đầu mối, nên mặc kệ không buồn nghĩ nhiều nữa. Anh ngẩng đầu nhìn lên cao, trước đây anh chẳng có chút cảm xúc nào với cơn bão nhiệt đới Buddha, chỉ thấy khí hậu khắc nghiệt là mối hiểm họa chí mạng, nhưng giờ đây lại ngàn vạn lần mong rằng cơn giông tố xua tan mây mù này đừng có dừng lại.

Trong lúc bước đi với đầu óc trỗng rỗng, đột nhiên anh nhìn thấy phía trước có một con cá sấu khổng lồ dài mười mấy mét, nặng tới vài tấn, há miệng lộ ra hàm răng sắc nhọn lởm chởm. Nó nằm vắt ngang đường, án binh bất động, bất ngờ bị kinh động bởi ánh sáng đèn halogen và tiếng bước chân, nhưng nó chẳng hề tấn công mà chỉ chậm chạp nhúc nhích thân hình nặng trịch phát ra mấy tiếng "ì oạp ì oạp" rồi cứ thế trườn sâu vào đám lau sậy, nghe âm thanh dường như đã bò đi khá xa.

Ngọc Phi Yến vội nhắc nhở mọi người, tuyệt đối không được đi gần chỗ cỏ lau sậy mọc, để tránh bị cá sấu mai phục ngoạm một ngoạm mà lôi xuống đầm lầy.

Lúc này gã Gấu trắng người Nga đột ngột dừng bước, làm một nhúm đất nơi con cá sấu khổng lồ vừa trườn qua làm vỡ cả tầng gỗ mục, dưới lớp rêu xanh và bùn đất dày lộ ra một khoảng đất rộng màu vàng như gan chó. Gã liên tiếp móc mấy chỗ khác nữa trên mặt đất, tất cả đều giống như vậy, xem ra nó kéo dài một mạch xuống tận nơi sâu dưới đáy đầm. Gã Gấu trắng người Nga dường như cảm thấy việc này rất đỗi bất thường, gương mặt vốn dĩ lạnh như băng của gã giờ đã phủ thêm một làn mây u ám.

Tuy rằng Tư Mã Khôi không hiểu gã khọm người Nga kia đang làm trò gì, nhưng nơi này cực kỳ nguy hiểm, đâu thể tự tiện dừng lại như thế, bèn hỏi: "Bác chuyên gia nhát chết cho em hỏi, bác đang đào bom đấy à?"

Gã Gấu trắng người Nga nghe thấy tiếng nói liền ngẩng đầu lên, mặt lạnh tanh hướng thẳng về phía Tư Mã Khôi mà há to miệng, bên trong lộ ra mỗi cái cuống lưỡi, ngầm ra hiệu mình không thể nói, sau đó liền dùng dao găm vạch vài chữ trên mặt đất.

Mọi người chiếu đèn nhìn xuống, chỉ thấy bốn chữ cái tiếng Anh "MOHO", ai nấy đều cảm thấy kỳ lạ khó hiểu: "Đây là tên người à?"

Ngọc Phi Yến biết một số kinh nghiệm mà chuyên gia bom mìn Gấu trắng này từng trải qua, nhìn thấy mấy chữ cái tiếng Anh trên mặt đất, thì liền hiểu ra điều mà gã muốn nói với mọi người, cô ta kinh ngạc hỏi lại: "Có phải anh muốn nói chúng ta bị rơi vào trong ống kính viễn vọng rồi không?

HỒI 2: KÍNH VIỄN VỌNG ĐỊA CẦU (1)

~

Gã Gấu trắng người Nga dùng dao găm vạch bốn chữ "MOHO" trên mặt đất, chỉ có Ngọc Phi Yến hiểu rõ ý gã. Đây là một sự thật khiến người ta không thể nào chấp nhận nổi: đáy động dưới khe núi khổng lồ ở vùng núi Dã Nhân được cấu thành bởi vật chất thạch quyển

, sáu kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm không rõ vì sao lại rơi vào "điểm gián đoạn Moho" ở giữa lớp v

ỏ địa chất và quyển Manti của trái đất.

Nếu phải giải thích sự việc này, thì phải bắt đầu nói từ thời kỳ đầu những năm 50, khi đó hai trận địa đối địch là hai cường quốc Liên Xô và Mỹ thường chịu sự chi phối bởi tư duy chiến tranh lạnh. Họ đổ một lượng lớn tài sản vật chất vào cuộc chiến tranh không bao giờ chấm dứt, nghiên cứu khoa học quân sự cũng phát triển đột biến với tốc độ gần như là thần kỳ, hai bên đều vắt kiệt sức để khai phá mọi nguồn tài nguyên chiến lược.

Liên Xô khi đó có một dự án bí mật, đặt biệt danh là "Kính viễn vọng địa cầu". Vùng phía đông và phía nam trên lãnh thổ Liên Xô rất rộng lớn trống trải, uốn vòng theo dải đồi núi, hang động thiên nhiên và các mỏ khoáng nhiều vô kể. Vì muốn nắm giữ được nguồn tài nguyên phong phú tiềm ẩn dưới lòng đất, đồng thời chạm tay vào thế giới chưa từng được biết đến của nhân loại sớm hơn nước Mỹ, người Liên Xô đã dùng thiết bị máy móc khoan sâu hạng nặng, bí mật tiến hành đào bới ở độ sâu chưa bao giờ từng có trước đây, dưới một hang động khô trong bồn địa thiên nhiên.

Công trình này tiêu tốn khoảng thời gian gần hai mươi năm, huyệt động mà họ đào được nằm dựng đứng với độ sâu đạt tới mười ba ngàn mét, là huyệt động sâu nhất trên thế giới được biết đến. Bởi vì việc này liên quan đến những cơ mật quân sự ở mức độ tối cao, cho nên dự án "Kính viễn vọng địa cầu" từ đầu chí cuối tuyệt đối được tiến hành trong trạng thái tuyệt mật, bên ngoài rất ít người biết đến nội tình sau bức màn.

Gấu trắng Ciglovski nghiên cứu tinh thông về chất nổ và khoan xuyên địa chất. Vào thời kỳ cuối của công trình "Kính viễn vọng địa cầu", gã từng tham gia vào dự án và có cơ hội tiếp xúc với rất nhiều bí mật có liên quan. Nhân loại đã chế tạo ra kính thiên văn, có thể dùng mắt thường để thăm dò mọi bí mật của không trung vũ trụ, nhưng mắt người lại không thể nhìn xuyên thấu lòng đất, cho nên họ mới đặt tên cho vực sâu nằm xuyên qua địa tầng trái đất là "Kính viễn vọng địa cầu" với mong muốn có thể thông qua nó để trực tiếp quan trắc vật chất dưới lòng đất.

Tại các độ sâu khác nhau trong lòng đất, kết cấu của vật chất cũng hoàn toàn khác nhau, không phải tất cả từ trên xuống dưới đều là bùn cát đất đá lẫn lộn. Nói một cách khái quát, đại thể có thể phân chia trái đất thành ba tầng khu vực, phần ngoài cùng gọi là lớp vỏ địa chất, phần sâu hơn là tầng quyển manti trung gian, hay còn gọi là lớp phủ, bên trong lớp phủ là phần lõi. Phía ngoài và phía trong tầng quyển manti, chỗ ranh giới của loại các vật chất khác nhau gọi là điểm gián đoạn, chỗ giáp ranh giữa lớp vỏ và lớp phủ được gọi là điểm gián đoạn Moho, chỗ giáp ranh giữa lớp phủ và lớp lõi được gọi là điểm gián đoạn Gutenberg.

Năm đó, người Liên Xô đã đào tới độ sâu hơn mười ngàn mét dưới lòng đất, lấy được mẫu vật từ tầng quyển manti bên trong "điểm gián đoạn Moho", phát hiện dưới lòng đất hàm chứa loại vật chất có tính phóng xạ rất lớn, khiến vật chất tầng thạch quyển hình thành giống như sáp parafin, nó không phải đá cũng không phải cát, có lẽ bên trong chứa vi sinh vật, nên mới hiện lên những vết vằn màu gan chó hiếm gặp ấy, hoàn toàn không giống với cấu tạo địa chất thường thấy trong các hang động khác ở núi Dã Nhân. Gấu trắng từng nhìn thấy mẫu vật này ở Liên Xô, đồng thời hiểu rằng vạch ranh giới loại vật chất dưới lòng đất này mang tính toàn cầu, nhưng tùy vào khu vực bề mặt khác nhau thì độ sâu của điểm gián đoạn Moho cũng thay đổi; nếu ở núi Dã Nhân Miến Điện, chí ít phải nằm sâu dưới lòng đất khoảng mấy chục nghìn mét thì mới có thể xuất hiện loại vật chất đặc thù này.

Ngọc Phi Yến ngước đầu lên nhìn khe nứt của miệng vực ở mãi trên cao qua lớp mưa bụi, trong lòng trào lên cảm giác khác lạ khó nói thành lời. Lúc này, bên ngoài núi mưa to như trút, sấm sét giao hòa, không thể dùng mắt thường phán đoán dựa theo tia sáng của ánh chớp, mà chỉ có thể nhìn con số hiển thị vị trí so với mực nước biển trên đồng hồ đeo tay, khoảng cách theo chiều thẳng đứng giữa đáy động và miệng vực áng chừng khoảng hai nghìn mét. Hơn nữa, đỉnh khe núi, bản thân lại nằm trong núi Dã Nhân, nơi có vị trí tương đối cao so với mực nước biển, trừ đi độ cao của ngọn núi, thì từ mặt đất xuống dưới này không thể vượt quá một nghìn mét. Độ sâu ấy đương nhiên không thể gọi là nông, nhưng sự biến hóa của vật chất địa tầng cho thấy rõ ràng mọi người đang ở độ sâu mười nghìn mét dưới lòng đất, chứ không phải một nghìn. Việc đó cũng có nghĩa là độ sâu mà bản thân tự cảm giác thấy còn kém độ sâu thực tế một số không. Trong lòng khe núi thăm thẳm như vực sâu vạn trượng này, dường như mọi logic và kiến thức thông thường đều mất hết ý nghĩa, khiến người ta hoàn toàn khó lòng phán đoán được rốt cục bản thân đang gặp phải tình huống gì.

Ngọc Phi Yến trong lòng hỗn độn một mớ, cô ta tóm tắt nội dung tình hình mà gã Gấu trắng phát hiện với những người còn lại. Hội Tư Mã Khôi trình độ văn hóa có hạn, nên chẳng thể nào hiểu được "điểm gián đoạn Moho" và "kính viễn vọng địa cầu" rốt cục là chỉ thứ gì? Nếu như diễn đạt nôm na có khi họ lại hiểu được chút ít.

Hải ngọng tặc lưỡi: "Bây giờ dù sao chân đã chạm tới đáy rồi, còn lo nó sâu bao nhiêu làm chi? Tôi thực sự chả hiểu chuyện này có gì đáng để quan tâm. Rơi xuống từ một ngàn mét cũng chết, mà rơi xuống từ mười ngàn mét chẳng phải cũng chết sao? Kiểu gì thì vẫn một kết cục thịt nát xương tan vung vãi tứ phía, dù sao có thành bộ dạng gì thì bản thân cũng chả nhìn thấy; bởi vậy, căn bản chẳng cần suy nghĩ về độ nông sâu của huyệt động dưới lòng đất này làm gì cho mệt óc".

Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói: "Chắc là vẫn hơi khác một chút đấy, rơi từ hai ngàn mét thì chỉ cần gào lên một tiếng thảm thiết, chẳng kịp đau buồn gì đã ra đi rồi. Nhưng nếu rơi từ nơi cao mười ngàn mét, cứ mặc thân thể rơi tự do xuống dưới, trước tiên cậu phải gào mất vài tiếng, sau đó móc một điếu thuốc ra hút, rồi lôi giấy bút ra viết di chúc, dặn dò hậu sự xong đâu đấy, lại hồi tưởng quãng đời chinh chiến trên lưng ngựa ở cánh rừng rậm nhiệt đới này hết mấy lượt, cúi đầu nhìn xuống, thì ô hay, vẫn còn nửa đoạn đường nữa mới rơi được tới đáy kia".

Ngọc Phi Yến thấy hai người bọn họ căn bản chẳng hiểu chuyện gì, bèn nói: "Bất kể do địa chất trong lòng núi Dã Nhân biến dị hay do cảm giác về không gian của bản thân bị nhiễu loạn, đều là những vấn đề sau này mới cần để tâm đến. Giờ phải cân nhắc việc nào quan trọng việc không. Hiện giờ quan trọng nhất là đi tìm chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích".

Cô thấy đầm lầy dưới lòng đất mênh mang vô bờ bến, lớp phủ thực vật và bóng tối lại cản trở công cuộc tìm kiếm, nên với tình hình này, muốn tìm thấy mục tiêu, gần như là mò kim đáy bể, thật khiến người ta chẳng biết bắt đầu từ đâu. Tất cả mọi chiêu phép đào mồ quật mả trong núi trước đây đều chẳng có tác dụng gì ở nơi này, đầu óc cô trống rỗng không nghĩ ra nổi một kế sách nào.

Tư Mã Khôi theo đoàn thám hiểm vào núi sâu, thấy hội trộm mộ Ngọc Phi Yến đúng là có chút bản lĩnh, nhưng kinh nghiệm và kỹ thuật truyền thống của bọn họ, dường như hoàn toàn không thích hợp trong rừng rậm nhiệt đới Miến Điện. Ngay từ đầu, Khương sư phụ quyết định tiến vào thâm cốc theo con đường "tượng môn" là đã phạm vào điều đại kị.

Tư Mã Khôi lăn lộn trong đội du kích *** Miến Điện đã nhiều năm, ngoài việc phóng hỏa giết người, thì kinh nghiệm về những phương diện như tác chiến trong rừng rậm, mưu cầu sinh tồn ở nơi hoang dã, tìm kiếm cứu viện hay phân biệt phương hướng v.v… anh đều nắm rõ như lòng bàn tay. Anh quay sang nói với Ngọc Phi Yến: "Địa hình vùng núi Miến Điện cực kỳ phức tạp, muốn đảm bảo an toàn, thì phải cố gắng thực hiện theo phương châm – đi chỗ cao, chớ đi chỗ thấp, đi đường rộng, chớ đi đường hẹp, đi dọc chớ đi ngang, băng rừng chớ lội cỏ".

Thế mà bây giờ đội thám hiểm ở đáy khe núi tìm tung tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích, trong bốn điều cấm kỵ, họ đã phạm phải ba. Thứ nhất, đi xuyên vào trong huyệt động, tức là đi nơi thấp, thứ hai sự hạn chế của địa hình và môi trường, khiến tầm nhìn trở nên vô cùng hạn hẹp, tức là đi nơi hẹp, thứ ba dưới lòng đất toàn là đầm lầy, cỏ răng cưa và lau sậy mọc um tùm rậm rạp, rất dễ bị cá sấu lén tấn công. Có thể nói, cảnh ngộ họ gặp phải bây giờ hiểm ác đến cực điểm.

Nghe Tư Mã Khôi nhắc đến cá sấu mai phục dưới đầm lầy, mặt mày ai nấy đều tự dưng biến sắc. Nhớ năm đó ở Miến Điện, đội quân hơn hai ngàn tên, được vũ trang đầy đủ đến tận răng lạc bước vào đầm lầy, do binh sỹ bị thương quá nhiều, mùi máu tanh bốc lên nồng nặc, kết quả là dẫn dụ vô số cá sấu trườn ra khỏi đầm. Chưa đầy nửa tiếng sau, hơn hai ngàn con người gần như đều trở thành miếng mồi sống nuôi cá sấu. Căn cứ vào tập tính của loài này là, sau khi phát hiện ra con mồi, nó không lập tức tấn công ngay, mà trước tiên sẽ quan sát kỹ một hồi, nhưng khi có con nhào lên trước, thì đồng loại sẽ thi nhau phi lên tranh mồi. Lúc đó kết cục như thế nào, đương nhiên chẳng cần nói thì ai cũng tự rõ.

Tư Mã Khôi lại nói: "Trước mắt chỉ biết chiếc máy bay vận tải đại khái hạ cánh ở cực nam khe núi, nhưng huyệt động dưới lòng đất thênh thang thâm u như thế này, dựa vào mấy khẩu súng của chúng ta, mạo hiểm đội mưa dò dẫm đi tìm trong đầm lầy, thì biết đến bao giờ mới thấy?"

HỒI 2: KÍNH VIỄN VỌNG ĐỊA CẦU (2)

~*~

Ngọc Phi Yến bị Tư Mã Khôi vặn lại thì máu quyết tâm đã nguội đi quá nửa, lặng lẽ hỏi: "Theo như anh nói, chẳng lẽ chúng ta không còn cơ hội nào tìm thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải đó sao?"

Tư Mã Khôi đáp: "Hoàn cảnh càng nghiệt ngã thì cơ hội càng nhiều hơn. Lúc đầu tôi cũng chẳng có cách gì hết, có điều từ khi đi vào đầm lầy, tôi lại đột nhiên nghĩ ra một cách, không chừng lại dùng được".

Chủ nghĩa thực dân Anh thống trị Miến Điện gần trăm năm, trong thời kỳ đại chiến thế giới lần thứ hai, quân đội Anh đánh nhau với quân Nhật ở Miến Điện, quy mô phải tới hơn một triệu người. Đương nhiên, phần lớn lính tráng lúc đó đều đến từ những nước thuộc địa, tuy nói rằng họ chiến đấu vì nước Anh vĩ đại, nhưng rất nhiều người cả đời chưa hề đặt nửa bước chân lên lãnh thổ nước Anh, thậm chí cũng chẳng rõ nước Anh nằm ở đâu trên bản đồ.

Giữa các nước thuộc địa rải rác khắp thế giới, người Anh coi trọng nhất Ấn Độ đất rộng người đông, trong khi Miến Điện lại là bức bình phong chiến lược tự nhiên của Ấn Độ. Năm đó, họ xây dựng Miến Điện trở thành một tỉnh của Ấn Độ. Bởi thế người Anh đặc biệt chú ý phát triển Miến Điện trong suốt nhiều năm, biến nó trở thành một trong những quốc gia giàu có nhất Đông Nam Á. Thời kỳ này, chế độ thống trị thực dân đã có ảnh hưởng vô cùng sâu rộng đối với Miến Điện. Cho đến ngày nay, lãnh thổ Miến Điện còn rất nhiều đường bộ, đường sắt, sân bay do người Anh xây dựng, đặc biệt có vô số vũ khí chiến tranh nằm rải rác khắp nơi trên đất nước, bao gồm cả pháo hạng nặng, xe tăng, máy bay chiến đấu.

Tư Mã Khôi cho dù không thông thạo tình hình nước Anh lắm, nhưng anh tham gia quân đội nhân dân *** Miến Điện đã bao nhiêu năm, nên nắm rất rõ những loại vũ khí do người Anh chế tạo. Chiếc máy bay tiêm kích, anh cũng từng nhìn thấy không ít lần. Trước đây, cùng đồng đội hành quân trong núi sâu rừng thẳm, đôi lúc anh cũng gặp vài xác máy bay ném bom bị rơi xuống núi, và cả những quả bom hạng nặng ném xuống nhưng không phát nổ. Binh lính bản địa của quân đội nhân dân *** nhìn thấy vỏ ngoài chiếc máy bay, liền dỡ nó ra mang về, những phần tương đối hoàn chỉnh họ còn có thể mang ra chợ bán lấy tiền, hay đổi lấy vật dụng có giá trị tương ứng. Bởi vì loại gỗ ván ép sử dụng cho máy bay tương đối nhẹ, nguyên liệu hoàn toàn dùng gỗ Balsa, một loại gỗ khá giống với họ gỗ hông (Paulownia) ở châu Á. Loại gỗ này không nứt không cong, dễ gia công, khả năng chịu chấn động tốt, không dễ bị biến dạng và không dễ cháy, nên nó rất thích hợp để làm đồ gia dụng hoặc sửa chữa nhà cửa. Nếu nhìn thấy trong nhà người bản địa, có những đồ gia dụng đơn giản do mấy tấm gỗ ván ép cũ kỹ lắp ghép thành, thì chẳng cần hỏi cũng biết, nguyên liệu chắc chắn được lấy từ chiếc tiêm kích của quân đội Hoàng gia Anh.

Những điều này đều là điều ai cũng biết, bình thường đến mức không thể bình thường hơn nữa, làm gì có chỗ nào đặc biệt? Nhưng Tư Mã Khôi từng được truyền thụ Kim điển, hiểu được cái lý "tướng vật", đó là căn bản khởi nghiệp của tổ tiên, giờ đây trên thế giới, ngoại trừ anh ra, thì chẳng còn người thứ hai có được bản lĩnh này nữa.

Vậy thế nào là "tướng vật"? Thời xưa thường có các thuật sĩ xem tướng số cho người sống, dựa vào ngũ quan diện mạo và khí sắc để phán đoán cát hung phúc họa cho họ, ngoài ra còn có thầy địa lý xem "tướng đất", nghĩa là thông qua bố cục địa hình phong thủy để phán đoán sông núi địa lý. Bên cạnh đó còn có rất nhiều hạng mục tạp nham như tướng mèo, tướng bò, tướng ngựa v.v… Thế nhưng tất cả quy nạp lại, cổ pháp đó toàn bộ đều thuộc về đạo "tướng vật".

Thời xưa, đạo chỉ "tướng vật" nhìn tên mà biết nghĩa, "tướng" tức là chỉ vật có thể dùng mắt nhìn thấy, còn về hàm ý của "vật" bao trùm phạm vi vô cùng rộng lớn, vạn vật trong cõi trời đất, bất kể sống chết gì, đều được coi là "vật". Là vật tất phải có thuộc tính, chẳng có cái gì không hợp lẽ âm dương sinh khắc.

Người xưa giải thích về nguyên lý "tướng vật" như sau: "Thiên địa vốn vô vi, thuộc tính vạn vật vốn dĩ đã có, muốn miêu tả vạn vật, hãy xem tạo hóa nhỏ bé của nó, mà phân biệt thời số vận hạn, sẽ linh ứng như thần phán".

Lời này hàm ý quá sâu xa, nếu nói đơn giản, rõ ràng hơn một chút, thì ta có thể lấy một ví dụ tương đối trực quan để hình dung: "Bỏ một giọt nước mắt vào ống rồi mang vào phòng thí nghiệm, từ đó ta rất dễ phân tích mọi thành phần hóa học, để biết giọt nước mắt do những phân tử nào cấu thành. Nhưng lý do gì khiến giọt nước mắt có thể trào ra khỏi cơ thể? Rốt cục do đau buồn hay do mừng vui? Cho dù áp dụng các phương pháp khoa học tiên tiến hơn nữa, thì cũng không thể phân biệt được nguyên nhân phát sinh ra nó. Cái này nghĩa là biết hình mà không biết tính. Nhìn rõ, sờ thấy bao giờ cũng dễ phân biệt, còn những khí chất vô hình vô ảnh thì rất khó phán đoán, chỉ có thể thông qua cổ pháp tướng vật để quan sát phân tích, điều ấy gọi là: nhìn hình, biết tính - biết tính mới có thể biết tường tận nguyên lý và nhờ đó cuối cùng sẽ tìm thấy con đường giải quyết.

Tuy Tư Mã Khôi lĩnh hội bản lĩnh gia truyền này không sâu lắm, chẳng qua thủ thân được một chút lông da bên ngoài, tới được trình độ nông cạn "nhìn hình, biết tính". Có điều, khi ở gần đầm lầy dưới lòng đất, anh đã tiến hành phân tích tỉ mỉ mọi vật xung quanh, không khỏi giật mình trước một số điều mình đã thấy.

Anh biết chất liệu chế tạo nên chiếc máy bay tiêm kích vận tải, còn có một đặc tính: nếu gỗ ván ép Balsa bị ngâm lâu trong môi trường ẩm ướt, không có ánh sáng mặt trời, thời gian càng lâu thì tính gỗ càng nặng nề âm khí. Nếu chiếc máy bay vận tải hạ cánh xuống khe cốc sâu mấy chục năm, thì cũng tức là trong rừng rậm dưới lòng đất đang vùi chôn một thân gỗ âm khí cực mạnh.

Cỏ răng cưa và lau sậy trong đầm lầy cũng đều hợp theo lẽ chuyển biến của tạo hóa. Nếu ở môi trường bình thường, cùng một đám lau sậy, nhưng khóm ở mặt bắc sẽ um tùm rậm rạp vì ở gần mặt trời hơn, còn khóm ở mặt nam sẽ khô cằn hơn một chút. Nhưng ở dưới khe núi quanh năm bị mây mù che phủ không chút ánh sáng này, quy luật sinh trưởng của lớp phủ thực vật chắc là sẽ không phân biệt nam bắc. Thế nhưng, chiếc máy bay tiêm kích vận tải đã mất tích mấy chục năm nay, chắc chắn đang tỏa âm khí nặng nề ở nơi nó nằm, nói cách khác, nơi nó nằm gọi là "cực âm", bởi vậy đám lau sậy mọc gần vị trí chiếc máy bay sẽ cằn cỗi hơn. Nếu tiến hành quan sát phân tích tỉ mỉ, thì sẽ không khó xác định phương hướng chính xác của nó.

Nếu Tư Mã Khôi không cùng đội du kích *** Miến Điện lăn lộn bao nhiêu năm nơi rừng già núi sâu, và không hiểu được đôi chút về bí thuật tướng vật, thì cũng khó có thể nắm vững được kinh nghiệm đặc thù này. Trong đầu anh nảy ra một kế sách, chỉ sợ để lâu sinh biến, nên liền đi trước dẫn đường và nói với hội Ngọc Phi Yến: "Mọi người chỉ cần đi theo tôi, trong ngày hôm nay chắc chắn sẽ có kết quả", rồi lại dặn dò: "Đi lại trong đầm lầy, mọi người hãy đi theo hàng dọc, khoảng cách giữa người trước và người sau không được vượt quá một cánh tay, đồng thời phải bước nhẹ, đứng chắc, nai nịt các vật dụng tùy thân như súng, ba lô, bình nước đều phải gọn gàng, ép sát vào người, những vật cao quá đầu, rộng quá vai đều vứt hết, như vậy khi xảy ra tình huống đột biến như bị ngã hay thụt chân, mới có thể đảm bảo những vật dụng mang theo không rơi vãi, mất mát, cũng có thể tránh va chạm vào bụi cỏ phát ra tiếng động lớn dẫn dụ bọn cá sấu đến, làm như vậy sẽ giúp hành động được nhanh chóng hơn".

Tư Mã Khôi nói xong, lập tức dùng dao săn phạt một đoạn cành khô, cắm xuống bùn dưới đầm để dò đường. Anh lần mò theo khu vực tỏa ra âm khí nặng nề tối tăm nhất trong đầm lầy, chậm chạp tiến từng bước. Những người còn lại bám sát phía sau, xuyên qua bụi cỏ răng cưa um tùm và bóng tối mênh mang, rồi chẳng biết họ đã đi được bao nhiêu cây số thì nhìn thấy ở nơi sâu phía bãi cỏ hoang, đột nhiên có một vật gì rất to lớn nằm chắn ngang.

Nhờ vào chùm sáng phát ra bởi đèn chiếu halogen, họ nhìn kỹ vào vật thể ấy, thấy thấp thoáng như hình của chiếc máy bay tiêm kích vận tải. Nó nằm bất động chìm sâu vào giấc ngủ im lìm ở nơi đây liền một hơi đã hai mươi mấy năm, nửa thân dưới của nó đã bị lún dưới đầm lầy, gần đó nhấp nhô lồi lõm đầy những vật trông như sáp nến, bao phủ kín mít chẳng chừa chỗ nào, đồng thời trên bề mặt đất ẩm ướt còn lộ ra rất nhiều măng đá[Chỉ có thành viên đã kích hoạt và đăng nhập mới thấy được liên kết. ], kết dính lằng nhằng bởi chất keo giống như thảm rêu, nhìn vào chẳng khác nào loại dầu nến, người Miến Điện gọi nó là "nến nước", kỳ thực đó là sào huyệt một loài bướm đêm có tên gọi là "ngài mắt kính".

Mọi người vừa đến gần, thì lũ côn trùng bị kinh động hoảng hốt bay tứ tán khắp nơi. Dưới làn mưa bụi mịt mùng, chúng túa ra từ lùm lau sậy gần đó, không ít con bị nước mưa đánh ướt sũng, nhìn thấy chùm sáng lay động trong bóng tối, liền ngờ nghệch đâm đầu bổ nhào vào đèn chiếu halogen, trên cánh ngài có những vệt vằn màu trắng, trong suốt như mắt kính, chúng đều là loại sinh vật sinh sôi nảy nở ở những nơi ẩm ướt quanh năm. "Nến nước" là loại hợp chất do bụi phấn trên cơ thể bướm đêm ngưng tụ đông đặc lại mà thành, và cho dù dưới làn mưa sương tăm tối, nó vẫn có thể tỏa ra thứ ánh sáng lành lạnh, nhưng trong môi trường đặc biệt này, rất khó có thể nhìn thấy từ phía xa, mà phải lại gần ở khoảng cách mấy chục mét mới có thể phát hiện được. Chiếc máy bay tiêm kích ngủ yên dưới lòng đất đã bao nhiêu năm, chất gỗ Balsa tuy rằng đã qua gia công, nhưng do ngâm lâu dưới lòng đất quá mức nóng ẩm nên rất dễ bị mục nát; giờ đây xung quanh nó đã sớm trở thành sào huyệt tụ tập của loài bướm đêm.

Hội Tư Mã Khôi mặc kệ chẳng buồn giơ tay xua bọn bướm đêm đang bám đầy người, đội mưa xách đèn đi tới chiếc máy bay. Tuy rằng toàn thân nó phủ đầy rêu xanh và rễ cây, nhưng dùng giáo mỏ vịt xới tung lớp phủ thực vật bên ngoài, thì đã lộ ra cửa khoang máy bay bị đóng kín mít. Họ kiểm tra mọi dấu hiệu đặc trưng, thấy đây chính là chiếc máy bay tiêm kích mà đội thám hiểm cần tìm. Đến phút giây này, tim ai nấy đều bất giác đập loạn xạ cả lên.

Ngọc Phi Yến giơ tay sờ vào thân máy bay ướt lạnh, trơn nhầy, xem ra bề mặt cũng kết đầy tổ ngài. Tuy rằng việc này hoàn toàn nằm trong dự liệu, nhưng cô dường như càng ngày lại càng lún sâu hơn vào bể nghi hoặc: "Chiếc máy bay tiêm kích thực sự, quả đúng đã rơi xuống khe núi hai mươi mấy năm. Vậy thì lẽ nào vật mà chiếc Rắn đen II đâm phải trong đám sương mù lại là một bóng ma?". Cô nóng lòng muốn xem hàng trong khoang còn nguyên lành không, bèn giục Hải ngọng đi cậy cánh máy bay.

Hải ngọng đành trao khẩu súng săn cho Tư Mã Khôi, cầm lấy cây giáo mỏ vịt chọc vào khe cánh máy bay. Cùng với âm thanh cọ sát nghe trầm đục rồi lại kèn kẹt do han gỉ, cánh cửa máy bay bị anh nậy ra một đường rãnh to, luồng khí ẩm mốc lập tức xộc thẳng vào mũi, chùm sáng của đèn halogen như bị bóng tối nuốt chửng, chẳng thể nhìn thấy tình hình bên trong khoang.

Tư Mã Khôi thấy cảnh tượng mờ mịt, bèn ngăn Hải ngọng lại, không để bạn tùy tiện trèo vào, rồi tự mình lẹ làng tiến sát, anh muốn cố gắng quan sát rõ tình hình trong khoang trước đã. Tư Mã Khôi giơ cao ngọn đèn, ghé mắt nhòm, chỉ thấy trong khoang tối mịt, im lìm, chẳng thể nhìn rõ nơi xa, còn nơi gần cũng không thấy điều gì bất thường. Bỗng nhiên anh nhìn thấy một vật đang bò phía trước, nhưng ánh sáng của ngọn đèn trong tay ảm đạm như sắp tắt, nên căn bản chẳng thể nhìn thấy rõ nó là cái gì.

Tư Mã Khôi trong lòng lờ mờ cảm thấy không ổn, liền định thu người lùi bước, ai ngờ từ trong khoang máy bay ào ra một vật đen ngòm, anh chưa kịp tránh thì toàn thân đã bị nó khóa chặt ngắc, chỉ cảm thấy luồng khí lạnh xuyên thấu tận xương, đầu óc tối tăm, cảm giác ngột ngạt tựa ngộp thở, trong khi cả người dường như bị một sức mạnh khủng khiếp nào đó đè nén bóp nghẹt, rồi bất giác kéo sâu vào trong khoang. Anh vội vã giơ tay ngăn lại, không ngờ tay vừa đẩy ra, thì chạm vào một khoảng không hư vô trống rỗng, chỉ có sương mù dày đặc bủa vây trước mắt mà thôi.

...

() Thạch quyển: Là lớp vỏ cứng ngoài cùng của các hành tinh có đất đá, bao gồm lớp vở và tầng trên cùng của quyển Manti.

() Măng đá: là một dạng trầm tích hang động phát triển từ nền hang động đá vôi lên, có hình măng, hình nón thấp nhỏ.

HỒI 3: HÀNG NGUY HIỂM (1)

*~

Tư Mã Khôi hoảng hốt phát hiện trước mắt là một dải hư không, vật đang bóp nghẹt cơ thể mình dường như chỉ có đám sương khí hữu hình vô chất này thôi. Ngực anh đau tức, thân thể không thể cử động, miệng cũng không thể thốt thành lời, bất giác bị kéo tụt vào trong quầng sương. Lúc đó anh lại cũng đang đứng quay lưng về phía mấy người cùng hội ở ngoài máy bay, khiến tầm nhìn của mọi người bị cản trở, nên chẳng ai có thể phát hiện cảnh ngộ bất ngờ mà anh gặp phải.

Nửa thân trên của Tư Mã Khôi bị kéo về trước, đầu ngón chân vẫn cố bám trụ trên mặt đất nhưng chẳng thể gồng mình lên được, cánh tay trái cầm đèn cũng bị sương mù khống chế, khí lạnh xuyên thấu đến tận xương tủy, mắt nhìn tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. Anh thầm oán thán trong lòng và giữa lúc tình thế cấp bách, tay phải anh gạt nòng khẩu "súng săn voi" lên.

Khẩu súng săn nòng cực đại nổ "đoàng" một tiếng thật lớn, khiến toàn thân Tư Mã Khôi bị bắn ngược về phía sau, đập mông một nhát rất mạnh xuống bùn. Trên nóc chiếc máy bay tiêm kích cũng bị đạn xuyên thủng một lỗ lớn, gió hoang mưa lạnh liền ùa vào, phút chốc màn sương mù mịt mùng trong khoang bị thổi tan tác.

Hội Hải ngọng nghe thấy tiếng súng mới biết xảy ra biến cố, cả bọn vội vàng chạy lại đỡ Tư Mã Khôi dậy, chỉ thấy trên người anh toàn là vết thâm tím, mặt trắng bệch như sáp nến.

La Đại Hải và Tuyệt hiểu rất rõ tính cách can trường của Tư Mã Khôi. Khí phách gan dạ, cái thứ này có thể chia ra làm nhiều loại: một vài kẻ có gan cợt nhả phụ nữ, nhưng không có gan sống mái một phen với kẻ thù, một số người khác không sợ tuốt thịt lột da, nhưng lại sợ bị bác sĩ tiêm, có kẻ dám ăn trộm ví tiền nhưng không dám chặn đường cướp của. Đương nhiên, cũng có người văn võ song toàn, như Tư Mã Khôi chẳng hạn, bẩm sinh đã là một kẻ liều mạng, trước giờ luôn điềm tĩnh ung dung trước mọi hoàn cảnh, lâm nguy cũng chẳng mảy may run sợ. Nhưng lúc này, nhìn thần sắc cũng thấy rõ là anh vừa bị chấn động không nhỏ; vậy rốt cục Tư Mã Khôi đã nhìn thấy vật gì mà khiến anh sợ tới mức như vậy?

Mãi một lúc sau, Tư Mã Khôi mới định thần lại được, sờ những vết bầm trên cơ thể, vẫn thấy đau đến tận xương tủy. Anh cũng không thể xác định rốt cục mình đã gặp phải cái gì giữa khoảnh khắc đó, chỉ có thể hình dung mọi cảm giác sợ hãi dường như đều cộng gộp cả vào lúc ấy, nên lòng thầm nghĩ "Chẳng lẽ trong đám sương mù kia lại có ma?"; nhưng suy ngẫm một lát, lại thấy không giống, có lẽ đội thám hiểm Anh trên chiếc Rắn đen II cũng gặp phải cảnh ngộ giống mình, cuối cùng ngay cả một cái xác cũng chẳng thấy đâu, tất cả đều bị đám sương mù dưới lòng đất núi Dã Nhân phân hủy hòa tan, hay là bị lôi đến nơi nào khác?

Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: "Lúc lăn lộn trên chiến trường năm đó, tình hình chiến sự trên không thảm khốc ác liệt như thế, xác người chết lấp đầy cả rãnh núi, hai đứa bọn mình mò mẫm giữa đêm tối trong rừng sâu, tìm đạn trên thân thể người chết, lúc đó tớ cũng chẳng thấy cậu nhíu mày một cái, thế mà bây giờ sao lại thế hả?"

Tư Mã Khôi lắc đầu, trả cho Hải ngọng khẩu súng săn, khi nãy chẳng hiểu ma sai quỷ khiến thế nào, tự nhiên anh lại cầm món đồ chơi này trong tay, nếu không có nó thì kết cục thật chẳng dám nghĩ tới. Tuy rằng Tư Mã Khôi đã sớm mặc kệ sự sống chết, nhưng anh vẫn không thể giải thích rõ ràng rốt cục khi nãy mình sợ điều gì. Có lẽ cảm giác này gần giống với cảm giác lần đầu tiên nghe người ta kể chuyện "Tây Du Ký", tuy nhiều lần ăn thịt lợn, cũng nhìn thấy lợn chạy tới chạy lui, nhưng không thể nào tưởng tượng nổi làm sao lợn lại mặc được quần áo, nói được tiếng người, mà lúc đó cứ tin là thật, nên tự nhiên cũng thấy khiếp đảm. Có lẽ đối với những hiện tượng chưa biết, vượt ra ngoài phạm trù nhận thức của mình, con người chắc hẳn đều ôm tâm lý hoảng sợ hình thành từ phút đầu tiên, và trước sau không thể khắc phục được nhược điểm này.

Tư Mã Khôi không muốn thuật lại chuyện vừa gặp cho mọi người nghe, để tránh nảy sinh áp lực tinh thần và hoảng sợ không cần thiết, nên chỉ nói sương mù ở huyệt động này không ổn lắm, chiếc máy bay tiêm kích lại bị niêm phong nhiều năm dưới lòng đất, sương khí bên trong chưa chịu ảnh hưởng bởi mưa gió, nhưng bây giờ trên nóc đã bị xuyên thủng một lỗ hổng lớn, sương khí trong khoang sẽ nhanh chóng tan hết, giờ chắc đã an toàn rồi, mọi người mau vào lấy "hàng", rồi nhanh chóng chuồn khỏi nơi quỷ quái chết tiệt này cho xong.

Ngọc Phi Yến thấy Tư Mã Khôi không hề có biểu hiện gì khác thường, thì tạm yên tâm trở lại. Rút kinh nghiệm lần trước, cô xách khẩu súng xung phong Uzi quét một lượt đạn vào khoang, khiến nóc máy bay bị thủng lỗ chỗ, nước mưa lại càng tràn xuống nhiều hơn, quả nhiên không thấy xuất hiện điều gì bất thường nữa; thế là cô bảo Tuyệt và Karaweik cùng mình đi vào tìm "hàng", còn Tư Mã Khôi, La Đại Hải và gã Gấu trắng người Nga ở lại bên ngoài cảnh giới.

Tư Mã Khôi cũng rất muốn biết vị khách hàng thuê đội thám hiểm rốt cục muốn tìm kiếm "hàng" gì. Người và máy bay mất tích trong rừng rậm Miến Điện suốt thời kỳ chiến tranh nhiều không kể xiết, vậy sao họ lại quan tâm duy nhất đến chiếc máy bay tiêm kích của không quân Anh? Chỉ riêng những gì Tư Mã Khôi tận mắt chứng kiến: để truy lùng chiếc máy bay giữa núi Dã Nhân hiểm nguy mai phục tứ bề, họ phải trả giá bằng mấy chục sinh mạng, thì không biết trong những năm gần đây đã có bao nhiêu kẻ phải thiệt thân vì nó nữa.

Thường nói thế gian có báu vật vô giá, nhưng đó chẳng qua chỉ là một cách hình dung mà thôi, phải trả một cái giá quá đắt như vậy, chỉ để kiếm tìm một vài món đồ cổ moi ra từ lòng đất Miến Điện thôi sao? Tư Mã Khôi không thể lý giải: vị khách sai khiến tất cả đứng đằng sau tấm màn này có tâm địa gì, cũng chẳng rõ "hàng" trong khoang máy bay có điểm gì đặc biệt, mà khiến người ta huy động nhiều sức người sức của như vậy. Anh chỉ cảm thấy: "Trong con mắt của những kẻ lắm tiền nhiều của kia, mạng sống con người chẳng qua chỉ là thứ rơm rác, đối với họ, nó chẳng có giá trị gì".

Giữa lúc ấy, đột nhiên lại nghe được tiếng "soạt soạt" từ trong bụi cỏ răng cưa dưới đầm sâu vọng lại, dường như có vật gì đang bò lên với tốc độ cực nhanh. Trước đây, khi ở ngoài khoang chiếc Rắn đen II, anh đã phát hiện có tiếng động tương tự như vậy, lúc này lại thấy nó xuất hiện, anh lập tức đề cao tinh thần cảnh giác. Hải ngọng và gã Gấu trắng ở bên cạnh cũng đều nhất loạt giương súng lên, sẵn sàng ngắm bắn.

Ba người bọn họ đều là những kẻ từng trải, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, nên trước khi nhìn thấy mục tiêu, họ tuyệt đối không nổ súng mù quáng. Ba người giơ cao ngọn đèn chăm chăm quan sát, chỉ thấy từ nơi sâu trong bụi cỏ xuất hiện một con thằn lằn màu xanh ngọc, to như nắm tay, từ đầu đến chân thon dài, xanh mỡ màng như ngọc phỉ thúy, cặp mắt lồi ra trông như hai ngọn đèn đỏ, miệng không ngừng thè chiếc lưỡi dài, đớp những con ngài mắt kính bị nước mưa đánh rụng trên mặt đất, động tác cực kỳ mau lẹ, thần tốc.

Con thằn lằn cỏ không tránh người, bò một mạch đến trước mặt bọn họ. Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều biết đây là loại thằn lằn thường xuất hiện trong rừng rậm, con có kích thước nhỏ gọi là thằn lằn, còn con có kích thước lớn gọi là rồng Komodo. Lúc bình thường nó nằm im như chết, nhưng khi trườn bắt mồi thì nhanh như cắt. Nó sinh trưởng rất chậm, nghe nói ở miền núi Miến Điện, từng có người bắt được con rồng Komodo hơn một trăm tám mươi tuổi, thân mình to lớn ngang ngửa với một con trâu đực.

Hải ngọng thấy vậy, lập tức hạ bớt cảnh giác. Anh đã hành quân nhiều năm trong rừng già núi sâu, cũng rất giỏi bắt thằn lằn, liền khoác súng lên vai, nhân lúc con thằn lằn không để ý, chộp nhanh lấy nó từ phía sau, bóp chặt đuôi nó, rồi nói với Tư Mã Khôi: "Chả ngờ trong đầm lầy mà tớ còn tìm được món đồ chơi này".

Tư Mã Khôi nhíu mày bảo: "Bốn chân của nó có máu độc đấy, dính một tẹo cũng đủ cậu toi đời, cẩn thận kẻo ảnh hưởng đến sức khỏe quãng đời còn lại, mau ném nó xuống đất, di cho nó một nhát cho xong".

Hải ngọng nói: "Lớn bé gì thì cũng coi là một sinh mạng, giẫm chết như thế thì phí quá…". Anh vốn định giở trò đùa ác, toan ném con thằn lằn lên người gã Gấu trắng, nhưng lời còn chưa dứt, đã nghe trong lùm cỏ dài gần đầm lầy phát ra những tiếng động loạn xạ, chẳng ngờ vô số con thằn lằn không ngừng ùn ùn chui ra. Chúng bị bọn bướm đêm thu hút đến, trườn lên với vận tốc cực nhanh, giống như gió cuốn mây tàn, phút chốc đã nuốt sạch bay bọn bướm đêm vào bụng. Bọn bướm đêm tuy có cánh, nhưng lại chẳng thể bay được dưới trời mưa, nên đành trở thành bữa ăn thịnh soạn cho lũ thằn lằn cỏ. Lũ thằn lằn bò ra từ đầm lầy càng lúc càng nhiều, những con tranh mồi chậm hơn đồng loại một chút, bèn nóng nảy kêu "chít chít" loạn cả lên, chúng bò loằn ngoằn trên mặt đất, thể hiện sự lo lắng bất an.

Ba người thấy bầy thằn lằn xuất hiện với số lượng kinh người, con nào con nấy xù vẩy khắp mình mẩy, liền bất giác lùi về sau mấy bước. Con thằn lằn bị La Đại Hải bóp chặt trong tay cũng giãy giụa dữ dội. Toàn thân nó đều là những chiếc vẩy nhỏ, sắc như dao cạo, trong lúc quằn quại, lớp vẩy của nó cứa cả vào hai tay Hải ngọng, phút chốc máu chảy đầm đìa.

Hải ngọng nổi cơn thịnh nộ, xé tay áo băng vết thương, chửi tục một hồi, rồi định cầm súng săn bắn chết con thằn lằn đó cho hả giận, nhưng thấy bầy thằn lằn từ đầm lầy bò lên nhiều không kể xiết, chúng lũ lượt ùn ùn kéo đến, nên đừng nói một khẩu súng, mà cho dù có bình phun lửa, cũng chưa chắc đã ngăn cản nổi bọn chúng.

Tư Mã Khôi thấy tình thế bất lợi, liền ra hiệu bằng mắt với La Đại Hải, cả hai người lập tức chui vào trong khoang máy bay, gã Gấu trắng người Nga cũng không dám chậm chễ, chui tọt vào theo. Ba người vội vã đóng chặt cánh cửa, tìm vật chặn các lỗ hổng và khe hở, đề phòng bọn thằn lằn lọt vào trong tấn công.

Ngọc Phi Yến đang dẫn Tuyệt và Karaweik bật đèn pin siêu sáng đi tìm "hàng". Tư Mã Khôi thuật lại tình hình bên ngoài cho cô ta nghe, rồi bảo trước mắt trong vòng một tiếng chắc không thể nào ra ngoài được, mà phải đợi đến khi bọn thằn lằn ăn hết sạch lũ bướm đêm rồi mới tính tiếp. Thằn lằn cỏ ở rừng rậm nguyên sinh Miến Điện có tập tính rất kỳ lạ, ngay cả những người bản địa giàu kinh nghiệm nhất cũng không dám kinh động đến chúng.

Theo lẽ thường mà nói, có rất ít loài thằn lằn mang nọc độc, còn những loại thằn lằn sinh tồn trong rừng rậm Miến Điện đều không có túi độc, thế mà rất nhiều người vẫn chết vì chất kịch độc của nó. Nghe nói rồng Komodo Miến Điện bản thân không hề có độc, chỉ khi máu tươi của nó từ cơ thể trào ra bên ngoài mới trở thành dịch độc, hơn nữa còn là loại dịch mang độc tính cực mạnh, vô phương cứu chữa. Đến ngày nay, người ta vẫn không thể điều tra rõ, máu độc dẫn đến chết người của chúng chứa thành phần gì. Năm đó cũng từng có nhà khoa học tiến hành những nghiên cứu có liên quan, nhưng chẳng thu được kết quả gì, cuối cùng chỉ có thể giải thích theo cách lý luận của một nhà tôn giáo người Nhật Bản: sinh vật bản thân chúng vốn dĩ không có độc, chỉ khi chúng tích lũy đủ cảm giác giận dữ, thì mới tấn công vào cái hư vô trong tinh thần của con người mà thôi.

Mọi người biết rõ điểm đáng sợ của thằn lằn cỏ, nhưng rốt cục chúng vẫn chỉ là loài sinh vật bò sát đầu óc đần độn, đội thám hiểm lại có máy bay che chắn, bởi thế chúng chẳng thể tạo ra hiểm họa gì lớn lắm. Chỉ có điều không biết cơn mưa trong khe núi sẽ kéo dài được bao lâu nữa, bởi vì so với thằn lằn, thì điều đáng sợ hơn gấp nhiều lần chính là đám sương mù giết người bủa vây khắp đáy động.

HỒI 3: HÀNG NGUY HIỂM (2)

~*~

Khi nãy Tư Mã Khôi suýt chút nữa thì hiến tặng cả tính mạng cho đám sương mù, nên đến giờ anh vẫn còn cảm thấy tim đập chân run. Nơi sâu trong đám sương mù dày đặc dường như chẳng tồn tại bất kỳ thứ gì, khoang máy bay cũng không tìm thấy thi thể của thành viên phi hành đoàn, có lẽ họ và đội thám hiểm Anh trong chiếc Rắn đen II đều vĩnh viễn "tan biến" trong sương mù. Anh nói với hội Ngọc Phi Yến tuyệt đối không được chạm vào màn sương mù bí ẩn trào ra từ lòng đất, sương khí càng đậm đặc thì càng nguy hiểm. Tuy rằng cơn bão nhiệt đới Buddha bội phần hung tàn dữ dội, nhưng nó lại mang đến cho chúng ta cơ hội vô cùng hiếm hoi để thoát khỏi bàn tay thần chết, đồng thời có khả năng sẽ lấy được "hàng" ra khỏi núi Dã Nhân.

Thế nhưng Ngọc Phi Yến vì đang nhìn chăm chăm vào khoang hàng như kẻ mất hồn, nên cô không hề để ý đến mấy lời của Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi thấy thần sắc Ngọc Phi Yến khác thường, đang định hỏi xem rốt cục có chuyện gì, thì nghe Tuyệt ở bên cạnh nói với mình: "Anh không nhớ sao, trong cuốn băng ghi âm mà chuyên gia hang động người Anh đó để lại, từng nhắc đến một việc, anh ta nói hàng chứa trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải... cực kỳ nguy hiểm".

Tư Mã Khôi nghe xong mới chợt nhớ ra khi nãy quên bẵng mất việc này, sinh vật bò sát máu lạnh trong đầm lầy dưới lòng đất, cơn cuồng phong giông tố vần vũ ngoài núi, và đám sương mù có thể xuất hiện trở lại bất cứ lúc nào, đều đang là mối hiểm họa tiềm ẩn, trong khi "hàng" ở khoang máy bay lại gần ngay gang tấc. Xem ra, trước mắt ngay cả khoang chiếc máy bay vận tải cũng chẳng thể an toàn tuyệt đối. Nhưng "nguy hiểm" mà người Anh kia muốn ám chỉ là thứ gì? Nó "nguy hiểm" đến mức độ nào? Chẳng lẽ chạm cũng không được chạm, xem cũng không được xem hay sao?

Tuyệt vừa cùng Ngọc Phi Yến lục soát kỹ lưỡng toàn bộ khoang hàng máy bay, cô hạ giọng nói với Tư Mã Khôi: "Chiếc máy bay vận tải này căn bản chẳng chuyên chở bất kỳ loại "hàng" nào cả, chúng ta bị mắc lừa rồi."

Lúc Tư Mã Khôi vừa chui vào khoang, thì nhìn thấy phía sau máy bay có chứa một thùng hàng giống chiếc thùng phuy khổng lồ, dường như cả khoang hàng đều bị nó chiếm hết chỗ, nhưng đến tận giờ, anh vẫn chưa biết bên trong nó đựng thứ gì. Anh chỉ mong mau chóng lấy được hàng, rồi kết thúc nhiệm vụ thót tim này, nhưng lúc này nghe Tuyệt nói trong máy bay chẳng hề có "hàng", anh không khỏi ngạc nhiên hỏi lại: "Khoang hàng máy bay chỉ có mỗi cái vỏ rỗng thôi sao?"

Căn cứ vào những thông tin mà hội Tư Mã Khôi được biết trước mắt, chiếc máy bay tiêm kích vận tải thuộc về không quân Hoàng gia Anh, lúc đang thực hiện nhiệm vụ, thì gặp thời tiết khắc nghiệt, mất tích trong hẻm núi Dã Nhân, khoang hàng chở rất nhiều bảo vật Miến Điện, giá trị không thể ước lượng nổi; còn đội thám hiểm do Ngọc Phi Yến dẫn đầu, lại được một nhà tài phiệt nào đó thuê tìm kiếm "hàng" trong chiếc máy bay với bất kỳ giá nào. Giờ đây, mọi người đã tìm thấy chiếc máy bay, nhưng tung tích của "hàng" thì vẫn chưa thấy, cùng lắm cũng chỉ là một phen vồ hụt, chứ sao có thể nói là "bị mắc lừa"?

Tư Mã Khôi biết rõ Tuyệt không phải hạng người nói sai sự thật, nên trong lòng anh cảm thấy có điều gì uẩn khúc. Anh không hỏi thêm gì nữa, mà vội vàng cùng Hải ngọng đẩy nắp thùng hàng sang một bên để nhìn cho rõ. Hai người cầm đèn chiếu halogen nhòm vào, khi nhìn rõ tình hình bên trong, thì cả hai đều rùng mình một cái, đồng thanh kêu lên thất kinh: "Thằng cha này được, một quả bom to tổ bố!"

HỒI 4: BOM ĐỊA CHẤN (1)

Thì ra chiếc thùng hàng bằng nhôm giống như thùng phuy kia lại là thùng chứa bom ngoại cỡ, bên trong đựng một trái "bom địa chấn" hạng nặng. Vào thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Hoàng gia Anh từng trang bị hàng loạt bom chấn động cỡ lớn, quả nặng nhất phải lên tới chục tấn, được gọi là "Grand Slam"

, sức hủy diệt vô cùng đáng sợ.

Loại bom cỡ lớn này, đa số đều do máy bay ném bom Lancaster từ không trung thả xuống, chuyên dùng để phá hủy vật chắn kiên cố dưới lòng đất được đúc bởi bê tông cốt thép. Do bom rơi xuống với vận tốc cực nhanh, nên sóng xung chấn hình thành sau khi phát nổ sẽ khuếch tán rộng ra tứ phía, dẫn đến hiệu quả gần giống với hiện tượng động đất, bởi vậy nó còn có tên là "bom địa chấn". Nhưng tuyệt đối không thể coi thường sóng xung chấn sinh ra do quá trình phát nổ mạnh, vì nó có khả năng sát thương rất cao đối với quân địch đang lẩn trốn trong đường hào giao thông hoặc trong hầm phòng không.

Hội Tư Mã Khôi đều đã từng trải qua chiến dịch Kunlong ở giai đoạn ác liệt thảm khốc nhất. Lúc đó quân chính phủ muốn khai thông phòng tuyến sông Irrawaddy, nên đã điều động rất nhiều loại pháo hạng nặng, quần thảo đánh phá khắp trận địa kiên cố của quân đội *** . Tuy rằng trước đó quân *** đã thực hiện công tác chuẩn bị rất chu toàn, đào nhiều hầm ẩn trú và chiến hào sâu, sẵn sàng tư thế chiến đấu, nhưng dưới làn pháo lửa dữ dội, họ vẫn gánh chịu hậu quả thương vong rất nặng nề. Trong số những binh sĩ hi sinh, có chín mươi phần trăm không phải chết trực tiếp do bom nổ, mà do pháo hạng nặng gây chấn động làm chết đứng ngay trong chiến hào. Sau chiến dịch này, nguyên khí quân *** bị hao hụt thảm hại, không còn khả năng chiến đấu trực diện với quân đội chính phủ nên đành phải rút lui vào núi thực hiện chiến thuật đánh du kích.

Bởi vậy bọn họ hiểu rõ hơn ai hết, đừng thấy hàng trong khoang máy bay là kiểu bom đời cũ mà coi thường, bởi cho dù quả bom gây chấn động nặng cả tấn này còn lại đến tận ngày nay, thì nó vẫn là loại vũ khí khủng khiếp nhất. Một khi nó đã nổ, cho dù ai may mắn không bị tan xác ngay tại hiện trường, thì lục phủ ngũ tạng của họ cũng bị sóng xung chấn ép cho dập nát.

Tuy Tư Mã Khôi là người phản ứng rất nhanh, nhưng cũng không thể ngờ nổi bảo vật Miến Điện trong khoang hàng chiếc tiêm kích vận tải lại là một quả bom địa chấn lạnh tanh thế này. Vật lù lù như một đống thiếc xám sắt nguội kia chắc phải nặng đến cả tấn, nếu chỉ dựa vào sức của sáu kẻ may mắn sống sót trong đội thám hiểm thì làm sao có thể xoay vần nổi nó? Huống hồ, trên đời này sao lại có chuyện phi lý như thế, làm gì có kẻ ăn no rỗi hơi, thuê bao nhiêu đoàn thám hiểm đến núi Dã Nhân chỉ để tìm một quả bom ngàn cân như vậy?

Lúc này Tư Mã Khôi mới cảm nhận một cách sâu sắc về chuỗi sự kiện liên quan đến chiếc máy bay tiêm kích vận tải, chỉ e nó phức tạp hơn rất nhiều so với những gì mà giờ đây anh được biết. Vốn dĩ con đường của hội anh và Ngọc Phi Yến đã khác nhau, hai bên lại chẳng hề có gì liên can; nhưng theo lời hứa lúc trước, hội anh cũng chỉ cần trợ giúp đội thám hiểm tìm thấy chiếc tiêm kích vận tải trong khe núi núi Dã Nhân, sau đó mang "hàng" ra ngoài. Bây giờ tình hình chuyển biến đột ngột thế này, anh không thể không hỏi đối phương xem rốt cục thế nào.

Hải ngọng cũng chẳng nể nang gì, quay sang chất vấn Ngọc Phi Yến: "Nói thật cho cô biết, Hải ngọng tôi vài bữa nay chưa giết đứa nào, chân tay cũng ngứa ngáy khó chịu lắm rồi đây, nếu như cô không giải thích lý do nghe cho lọt cái lỗ tai, thì đừng trách bọn ông cho nếm tí mùi".

Kỳ thực sau khi nhìn thấy hàng trong khoang máy bay, Ngọc Phi Yến cũng cảm thấy rất bất ngờ, nhưng trong lòng cô ta đúng thực cũng có vài điều giấu giếm hội Tư Mã Khôi. Đang lúc cô ta định nói cho Tư Mã Khôi biết, thì nghe La Đại Hải giở giọng uy hiếp, nên chẳng khách khí nữa, đốp luôn: "Anh bạn họ La đúng là kẻ nhiều lời; tôi cũng nói thật cho anh biết, trong khoang chỉ có mỗi quả bom địa chấn này thôi, nó chính là "hàng" mà đội thám hiểm cần tìm đấy. Có điều chúng ta chẳng cần phải mang nó ra khỏi núi, mà chỉ cần làm nó phát nổ là được. Những việc khác các anh không cần hỏi nhiều, chỉ cần làm theo lời tôi nói là được".

La Đại Hải nghe vậy chế nhạo: "Cô nói thế thì khác gì không nói, định dọa ma bọn này đấy à? Để cô tự nói ra, là Hải ngọng tôi đã chừa lại cho chút sĩ diện rồi mà còn chưa biết? Đừng biến mình thành kẻ được cho liêm sỉ mà vẫn không biết liêm sỉ là gì".

Ngọc Phi Yến làm gì có chuyện nuốt trôi mấy lời này, cô ta cười nhạt đáp: "Ba tờ giấy dán thành một cái đầu lừa, mặt của anh cũng to thật đấy".

La Đại Hải càng nghe càng ức chế, anh nạt nộ: "Hải ngọng ta gặp bọn cắp vặt các cô, đúng là cáo hoa nằm ấp ổ gà, nói lý không được, đành phải dùng nắm đấm hỏi chuyện vậy…"

Tư Mã Khôi thấy hai người này như thể ăn nhầm phải gan hùm, nói chuyện hung hăng, bất cần, căn bản chẳng giải quyết nổi vấn đề gì, đành phải ra mặt khuyên giải. Anh nói với Ngọc Phi Yến: "Nói thế dễ làm tổn thương người khác lắm đấy! Đại trượng phu thân chết, tiếng vẫn còn, nếu cô tự tiện chà đạp danh dự người khác như thế, tôi cũng chỉ còn cách tạ lỗi cáo từ tại đây để cất bước về cố hương thôi". Nói xong anh gọi ba người còn lại đến, quay lưng như thể định bỏ đi thật.

Ngọc Phi Yến lạnh lùng hừ lên một tiếng, trợn mắt nói với Tư Mã Khôi: "Nhìn bộ dạng của anh kìa, vừa nhắc đến về nước là hí ha hí hửng, trong suốt hai ngày tôi quen anh, chẳng bao giờ thấy anh hào hứng như thế, hay là ở trong nước có bóng hồng nào đang chờ?"

Tư Mã Khôi nghe cô ả nói thế, cũng không tránh khỏi có chút bực mình: "Nhà cô bán dấm đấy à, sao nói gì mà chua ngoa thế?". Ba người chẳng hợp lời, càng nói càng căng thẳng, trong khi gã Gấu trắng người Nga thì từ đầu chí cuối mặt đều lạnh như tiền. Gã đang chăm chú quan sát kết cấu của quả bom địa chấn, hoàn toàn vô cảm với tất cả những việc khác, còn Karaweik lại trễ miệng ngoác ra nụ cười ngờ nghệch, mọi người chẳng coi lời của cậu vào đâu, may mà nhờ Tuyệt khuyên giải, cuộc cãi vã mới tạm lắng xuống.

Ngọc Phi Yến bình tĩnh trở lại, tự biết hiện giờ mình là kẻ thân cô thế yếu, nếu làm hội Tư Mã Khôi điên tiết lên, thì khó mà thu dọn nổi chiến trường. Thế là, cô ta đành nói rõ toàn bộ quá trình sự việc cho hội Tư Mã Khôi nghe. Nhóm người của cô ta quả thực được "khách hàng" thuê để đi tìm chiếc máy bay vận tải bị mất tích của không quân Hoàng gia Anh; nhưng cô ta cũng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy khuôn mặt thực sự của khách hàng, chỉ biết chiếc máy bay tiêm kích vận tải chuyên chở cổ vật Miến Điện chuẩn bị được bí mật đưa vào viện bảo tàng đế quốc Anh, nên nhiệm vụ của đội thám hiểm là vào khe núi dưới lòng đất, tìm "hàng" trong khoang máy bay. Trước đó, đội thám hiểm được thông báo: "hàng" trong khoang máy bay vô cùng nguy hiểm. Trước khi xuất phát, cả đội lại nhận được một bức mật hàm niêm phong dấu đỏ, kèm theo chỉ thị, chỉ khi nào tìm thấy chiếc tiêm kích bị mất tích, đồng thời xác định chính xác số hiệu hàng hóa, mới được phép mở bức mật hàm và giải quyết "hàng" theo phương thức nói trong thư. Thông tin trong bức mật hàm được viết bằng chất dịch của cá mực, vết chữ sau khi gặp không khí sẽ lập tức bốc hơi biến mất, không để lại chút dấu tích nào.

Ngọc Phi Yến tìm thấy khoang hàng, xem rõ chỉ thị trong mật hàm, mới biết mục đích của chuyến mạo hiểm này là phải dẫn nổ quả bom địa chấn, còn về chuyện bảo vật Miến Điện chứa trong máy bay tiêm kích, chẳng qua chỉ là cái bóng nhằm che đậy chân tướng sự thật mà thôi.

Về tình hình "khách hàng", Ngọc Phi Yến chỉ biết đó là một vị tài phiệt trong thế giới ngầm, được gọi bằng biệt danh "Nấm mồ xanh". Tiền thân của tổ chức này có thể truy ngược về những năm thế kỷ mười sáu, nó được thành lập bắt đầu từ Công ty Britain – Đông Ấn. Công ty Đông Ấn tiến hành các hoạt động thương mại viễn dương ở Nam Á, chuyên buôn bán nha phiến, buôn lậu thuốc lá, thỏa sức cướp đoạt tài nguyên kinh tế, tiến hành khuếch trương chủ nghĩa thực dân cho đế quốc Anh, đồng thời âm mưu chiếm nguồn lợi nhuận khổng lồ. Chính phủ Anh ủy quyền cho công ty Đông Ấn tất cả mọi quyền lực, như quyền lũng đoạn thị trường, quyền huấn luyện quân đội, quyền tuyên chiến - giảng hòa, quyền lập tòa án phán quyết cư dân các nước thuộc địa và bản quốc, nên nó dường như trở thành đại diện chính thức ở nước ngoài của chính phủ Anh.

Thế nhưng quy luật ở đời: cực thịnh tất sẽ suy, cùng với sự phát triển rực rỡ của nền tư bản công nghiệp, công ty Đông Ấn vốn dựa vào sự lũng đoạn của nền tư bản thương mại, cuối cùng cũng không tránh khỏi vận mệnh phá sản giải thể. Nhưng sự biến mất về thể xác chẳng qua chỉ là lớp vỏ ngoài của công ty Đông Ấn, còn kẻ thao túng đích thực đứng sau lưng thì ngược lại có thể nhờ đó mà gỡ bỏ được cái xác ung nhọt nặng nề, rồi lợi dụng mạng lưới quan hệ mà công ty Đông Ấn để lại, ngấm ngầm cấu thành một thế lực mới. Thế lực này đồng thời buôn bán tin tình báo, vũ khí và thuốc phiện, rồi dựa vào cơ hội chiến tranh để gặt hái tiền của, khống chế rất nhiều đội quân phụng mệnh như con rối. Thế lực của nó bám rễ sâu rộng ở khắp nơi, nhưng hành sự vô cùng kín tiếng bí mật, nên thế giới bên ngoài phần lớn đều không biết đến sự tồn tại của nó.

HỒI 4: BOM ĐỊA CHẤN (2)

Tuy rằng những điều Ngọc Phi Yến biết chỉ giới hạn đến đây, nhưng cô ta nhìn kí hiệu đặc thù trên thân quả bom nặng cả tấn thì cũng không khó khi suy đoán tiền nhân hậu quả của toàn bộ sự việc: chiếc máy bay tiêm kích vận tải và quả bom địa chấn chứa bên trong, quá nửa đều thuộc về kẻ có biệt danh là " Nấm mồ xanh". Địa thế khe sâu núi Dã Nhân rất đặc biệt, dưới lòng đất không chỉ có sương mù che khuất tầm nhìn, mà còn có dòng khí lưu thông cực mạnh, nếu lợi dụng loại máy bay chiến đấu đến thả bom từ trên không, thì căn bản không thể phán đoán được độ sâu thẳng đứng của huyệt động, từ đó khó lòng phá nổ chính xác, mà nếu lỡ khe núi bị sụt lở, thì sự việc càng trở nên dở hơn mà thôi. Phương tiện duy nhất có thể đi vào khe núi sâu hút là chiếc máy bay tiêm kích vận tải với thiết kế độc đáo. Bởi vậy "Nấm mồ xanh" mới phái người lái chiếc "tiêm kích", mang theo quả bom địa chấn vào lòng khe núi, nhưng có lẽ họ không ngờ được mối hiểm họa đến từ đám sương mù, nên khi phi hành đoàn trên chiếc máy bay chưa kịp kích nổ quả bom, thì đã gặp tai nạn bất trắc, thế là họ lại phải lợi dụng các đội cảm tử khác, tiếp tục hoàn thành kế hoạch ban đầu, chỉ có điều không rõ trong đó còn ẩn chứa nguyên do gì chưa thể tiết lộ nữa không.

Sau khi Ngọc Phi Yến kể lại toàn bộ câu chuyện, cô ta lại lần nữa nhấn mạnh với hội Tư Mã Khôi: dù sao chuyến này vào núi thực hiện "phi vụ liều mạng" là lấy tiền của người, thay người chịu nạn, nên cho dù hàng trong khoang là bảo vật Miến Điện, thì cũng không đến tay chúng ta, giờ đây lâm vào tình cảnh này, đương nhiên không thể ra về tay không, chỉ đành tiếp tục hành sự theo chỉ thị, kích nổ quả bom địa chấn.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, cơn bão nhiệt đới Buddha với cấp độ và sức mạnh hiếm có, mấy chục năm mới xuất hiện, nếu không nhờ cơ duyên này, đội thám hiểm chắc cũng không thể né tránh khỏi màn sương mù đoạt mệnh mà an toàn xâm nhập vào khe núi, giờ đây phải kích nổ quả bom địa chấn nặng ngàn cân, thì cũng dễ như trở bàn tay. Có điều, chuyện này vẫn có nhiều uẩn khúc đáng ngờ. Tuy rằng chiếc máy bay tiêm kích vận tải nhờ vào kết cấu đặc biệt của nó, có thể thâm nhập nơi sâu nhất dưới khe núi, nhưng cụ thể hạ cánh xuống khu vực nào thì khó lòng phán đoán trước được. Còn quả bom địa chấn trong khoang cũng không thể dịch chuyển sang chỗ khác một lần nữa, mà với khoảng không gian mênh mông vô bờ bến dưới lòng đất này, thì cho dù sức công phá của nó có mạnh hơn nữa, rốt cục vẫn rất khó bao trùm toàn bộ khe núi. Kết quả của kế hoạch này căn bản sẽ không thể thực hiện đúng như dự tính, vậy thì tại sao lại có người chủ định cho nổ tung mạch núi Dã Nhân? Trộm nghĩ căn nguyên gốc rễ của việc này chắn hẳn không hề đơn giản, chỉ e hệ lụy khôn lường.

Tư Mã Khôi lại suy nghĩ: vậy kẻ có biệt danh là "Nấm mồ xanh" rốt cục muốn làm gì, nên có liên quan đến bí mật cổ xưa vùi chôn dưới lòng núi Dã Nhân không? Việc này rốt cục đâu có liên quan đến bốn thành viên của đội du kích, sao mình phải nghĩ nhiều? Anh quan sát xung quanh, thấy sắc mặt Ngọc Phi Yến dường như chẳng còn điều gì giấu giếm đối phương, hơn nữa theo quy tắc trong giới, việc này vốn dĩ không được nói ra, nên bây giờ cũng chẳng còn gì để truy hỏi thêm nữa.

Hội La Đại Hải cũng nghĩ như Tư Mã Khôi, chẳng buồn điều tra gốc gác, cũng không muốn hỏi nhiều nữa, chỉ mong nhanh chóng hoàn thành phi vụ này, sau đó nghĩ cách thoát ra khỏi núi, trước mắt chỉ còn đợi thời cơ đến là bảo gã Gấu trắng người Nga kích hoạt ngòi nổ quả bom.

Nào ngờ giữa lúc ấy lại xuất hiện một biến cố ngoài dự liệu, gã Gấu trắng sau khi quan sát tỉ mỉ quả bom địa chấn, lấy tay ra hiệu bảo mọi người: "Quả bom này có cài đặt thiết bị hẹn giờ, muốn kích nổ nó cũng rất đơn giản. Nhưng có lẽ do ảnh hưởng của quá trình rung lắc dữ dội nên thiết bị kích nổ đã bị hư hại, không thể phục hồi, cho nên sau khi kích hoạt, mọi người chỉ còn khoảng thời gian mấy chục phút để di rời. Uy lực trái bom này lại quá lớn, phạm vi sóng xung chấn bao phủ rất rộng, nên bây giờ chỉ còn cách để một người lại phụ trách kích nổ, những người khác phải rời đi trước, nếu không tất cả sẽ cùng chết chung một hố; thế nhưng người ở lại sau cùng kích hoạt trái bom, chắc chắn sẽ không còn đường thoát thân".

Sự thực tàn khốc này, giống như một gáo nước lạnh đột ngột hắt thẳng vào mặt mọi người. Mạng sống của ai cũng chẳng phải từ trên trời tự nhiên rơi xuống, làm gì có người nào chịu ở lại làm xác pháo thế mạng? Tư Mã Khôi càng biết rõ hơn nữa uy lực của bom địa chấn, bây giờ trên lãnh thổ Miến Điện vẫn còn rất nhiều hố bom rộng không gì sánh nổi, mà đa phần đều do máy bay ném bom của Anh năm đó để lại khi phá hủy lá chắn của quân Nhật. Những hố bom đó thật chẳng khác chi hố nham thạch, được hình thành do mảnh thiên thạch từ trên trời rơi xuống, vì lớp bề mặt trong hố hình thành các quầng sóng khuếch tán thành từng vòng tròn, bao nhiêu năm sau vẫn chẳng có cọng cỏ nào mọc lên nổi. Những nơi sóng địa chấn lan đến, đất đá bị nung nóng bỏng, chạm vào là chết, dính vào là tử.

Tư Mã Khôi thầm tính toán trong lòng, thấy chẳng ai đáng phải chết cả, liền nói với Ngọc Phi Yến: "Vật cố định, còn con người phải chuyển động, người sống cần biết biến hóa ứng phó. Nếu thực sự không xong, thì chúng ta hãy mặc kệ quả bom đó. Sau khi trở về, cô cứ nói là đã cố gắng phụng mệnh hết sức, kích nổ trái bom địa chấn, nhưng tiếc thay quả bom xịt này chẳng thèm phát nổ, hoặc có thể đổ lỗi rằng: đã kích nổ, nhưng uy lực của nó chưa đủ, nên không thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Dù sao thì chỉ cần da môi trên chạm da môi dưới một chút thôi mà, tùy cô muốn nói thế nào chẳng được. Sau khi cơn bão nhiệt đới qua đi, lòng đất lại bị sương mù bủa vây, lẽ nào họ lại dám xuống đây để tiến hành điều tra hiện trường chắc?

Ngọc Phi Yến lập tức lắc đầu: "Tuyệt đối không được, anh không biết gì về Nấm mồ xanh đâu, mấy ngón ma thổi đèn như bọt khói này thì giấu nổi ai chứ"?

Tư Mã Khôi vẫn điềm nhiên như không: "Trong thời đại này, người nào càng nghiêm túc thì càng dễ trở thành kẻ ngốc. Làm người không nên thật thà quá, đừng quên trên thế giới chẳng bao giờ tồn tại loại mắt nhìn xa vạn dặm, tai nghe xa vạn lý, người ngoài làm sao biết chuyện gì đã xảy ra trong khe núi núi Dã Nhân? Chúng ta ở đây có sáu người, tôi, La Đại Hải và Tuyệt sau khi rời khỏi núi Dã Nhân, sẽ bơi qua sông Mungkoe trở về Trung Quốc, cả đời này có lẽ chẳng còn cơ hội gặp lại nhau. Gã người Nga thì là câm dở, hơn nữa gã cũng chẳng sợ chết quá đi chứ? Hay lẽ nào cô sợ thằng oắt con không hiểu chuyện như Karaweik lỡ lời nói ra? Tôi thấy chỉ cần cô không tiết lộ, thì tuyệt đối thần không hay, quỷ không biết".

Hải ngọng cũng nói, không có quy tắc, chẳng thành vuông tròn, nhưng quy tắc đều do con người đặt ra, cho nên chúng ta làm người thì không thể cứ ngồi ôm mãi một quy tắc cứng nhắc, mà phải biết tránh nặng đón nhẹ. Chỉ cần thằng cha địa chấn này phát nổ, trời rung đất chuyển vẫn là nhẹ, đầm lầy bùn nhão như thế, dựa vào hai cái cẳng, chắc chắn chẳng kịp trốn chạy, thế chẳng phải tất cả chúng ta tự dưng đều khỏe re mãi mãi dưới âm tào địa phủ sao?

Ngọc Phi Yến nghe mọi người khuyên giải, cũng bắt đầu động lòng, đang định đồng ý, thì chợt nghe thấy một giọng nói lạnh băng, trầm đục từ sau lưng vọng tới: "I’m staring at you!"

HỒI 5: CON MẮT NGOÀI KHOANG LÁI (1)

Tư Mã Khôi cũng nghe thấy vô cùng chính xác. Âm thanh đó vừa rất đỗi xa lạ, lại vừa có vài phần quen tai, anh và những người còn lại đều ngầm cảm thấy rùng rợn trong lòng, đồng thời quay đầu lại nhìn.

Trong khoang máy bay tối mù mù, làm gì có bóng người nào thừa ra, chỉ có chiếc máy ghi âm cầm tay vừa phát hiện được trong chiếc Rắn đen II khi nãy là vẫn ngang nhiên nằm trên mặt đất, thì ra đây chính là nguyên nhân khiến mọi người đều cảm thấy âm thanh nghe quen tai.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ: đây đúng là gặp ma thật, anh vẫn nhớ lúc ở trong chiếc Rắn đen II, không nghe thấy đoạn ghi âm vừa rồi, hơn nữa âm thanh lúc này khàn đục, trầm thấp, hoàn toàn khác với giọng của Wilson trong đội thám hiểm Anh. Có thể khẳng định, giọng nói này vô cùng xa lạ, không biết ai đã nhấn nút bật của chiếc máy ghi âm nhỉ? Khi nãy sự chú ý của tất cả mọi người đều tập trung vào trái bom địa chấn, nên không ai để ý đến tình tiết này.

Ngọc Phi Yến nhặt chiếc máy ghi âm lên xem lại, phát hiện nội dung ghi âm ban đầu đều bị xóa sạch, tua đi tua lại mấy lần, đều chỉ có duy nhất một câu: "I’m staring at you…", nghe mãi đến cuối cùng pin yếu, âm thanh càng lúc càng kéo dài, nghe rất quái dị. Hải ngọng hỏi: "Câu nói đó có nghĩa gì vậy?". Tuyệt dịch lại cho anh: "Có nghĩa là "Ta đang nhìn các người". Hải ngọng cảm thấy vô cùng kỳ quái, nhìn trước nhìn sau rồi nói: "Ai đang nhìn chúng ta hả?"

Lúc rời khỏi chiếc Rắn đen II, mọi người khá vội vàng, chẳng ai còn nhớ sau khi nghe xong cuộn băng ghi âm, ai là người cuối cùng cầm nó, nhưng trong khoang máy bay, ngoại trừ sáu người sống ra, thì chẳng còn kẻ may mắn nào sống sót nữa cả. Vậy thì ai là kẻ đã xóa trộm nội dung trước đây trong băng rồi để lại lời cảnh cáo này?

Mọi người thì vậy, nhưng Ngọc Phi Yến lại cực kỳ quen thuộc với âm thanh này. Tuy từ trước đến giờ, nhóm của cô ta đều liên lạc thông qua người phụ trách trung gian, nhưng cô ta cũng từng vài lần nói chuyện công việc chi tiết bằng điện thoại với kẻ đầu não phía sau của tổ chức mang tên "Nấm mồ xanh", biết giọng đối phương khàn đục, sống sượng, nghe rất khác người bình thường, nên chỉ cần nghe qua một lần thì sẽ không thể quên được. Bởi vậy, nghe thấy âm thanh vọng ra từ băng ghi âm, cô ta lập tức biết đây chính là "Nầm mồ xanh" – người đã phân công nhiệm vụ cho đội thám hiểm. Cũng vì ngoại trừ giọng nói của người này ra, thì tên tuổi, tướng mạo, thân phận v.v... cô ta đều không biết chút nào, do đó mà cô ta đành phải gọi hắn bằng cái tên "Nấm mồ xanh".

Ngọc Phi Yến ngẫm kỹ lại việc này, càng nghĩ càng thấy lạnh sống lưng, sự việc đúng là quá đỗi kỳ quái khiến người ta khó lòng định liệu. Rốt cục ai là kẻ đã mở cuốn băng ghi âm? Lời ghi âm trong đó vốn dĩ không hề tồn tại, chắc chắn nó không thể nào tự nhiên xuất hiện, lẽ nào Nấm mồ xanh thực sự có khả năng sử lý xự việc cách xa ngàn dặm bằng cảm giác? Trộm nghĩ trên thế giới này không thể có loại tà thuật nào kỳ dị đến thế.

Ngọc Phi Yến cầm máy ghi âm nhìn đi nhìn lại, rồi quay sang nói với Tư Mã Khôi, nếu trên thế giới quả thực không có mắt nhìn vạn dặm, tai nghe vạn lý, thì chỉ có một khả năng: đó là vào thời khắc này, Nấm mồ xanh đang ẩn trốn trong chiếc tiêm kích vận tải, có thể một trong sáu kẻ may mắn sống sót chúng ta, có một kẻ là "quỷ biển", nên nhất cử nhất động của đội thám hiểm trong khe núi đều không thoát khỏi tầm mắt của Nấm mồ xanh.

Lời này thốt ra đã khiến mọi người đều cảm thấy dường như có một bóng đen âm u vụt lướt qua tim. Khi nãy, mọi người còn đang bàn bạc từ bỏ kế hoạch hành động, thì đột nhiên từ máy ghi âm lại vọng ra một câu nói, sự thật hiện ra trước mắt hết sức rõ ràng: Nấm mồ xanh đang muốn cảnh cáo đội thám hiểm: "Đừng hòng ôm bất kỳ mơ tưởng, ảo vọng nào, phải mau chóng kích nổ bom địa chấn".

"Quỷ biển" mà Ngọc Phi Yến nhắc đến, cũng là một cách gọi trong ngôn ngữ cũ của giới lục lâm, bây giờ từ này được dùng để chỉ "tai mắt", "gián điệp". "Biển" ý muốn chỉ bí mật, "quỷ" có nghĩa là ngầm theo dõi, cách xưng hô này cũng có lai lịch hẳn hoi. Trước đây, những ám ngữ mà giới lục lâm thường dùng, được gọi chung là "Mắt giang hồ đáy biển", tương truyền hàng ngàn năm trước, có một người đánh cá trên biển, nhưng anh ta liên tục quăng ba mẻ lưới, đều chẳng thu được gì, mẻ lưới cuối cùng lại vớt phải một chiếc hộp sắt, trong hộp sắt đựng một phần của tập sách cổ. Người ngư dân đó liền mang ra chợ cho mọi người xem, những người có học vấn cao đều đọc được tất cả các chữ trong cuốn sách, nhưng câu từ lắp ghép lại thì đầy ẩn ý và rất khó lý giải, đọc xong như hiểu mà lại như không, chẳng ai biết rõ rốt cục nó ghi chép nội dung gì. Sau đó, cuốn tàn thư đã rơi vào tay một sư phụ lục lâm, ông ta đã đặt tên cho nó là "Đáy biển", mượn nguyên tác đồng thời cộng thêm đôi chút sửa chữa thêm thắt, dần dần đã biến thành ám ngữ ngầm được giới giang hồ sử dụng rộng rãi sau này. Cuốn tàn thư được mệnh danh là cuốn "Kinh kim cương" lừng danh khắp năm hồ bốn bể. Đây chính là lai lịch của "mắt giang hồ đáy bể".

Tư Mã Khôi nhận ra câu nói vừa rồi của Ngọc Phi Yến, là lời đồng âm đa nghĩa, cô ta đang muốn ám chỉ cho mình biết tên "quỷ biển" kia ẩn thân rất kỹ, chẳng có tung tích nào mà tìm kiếm. Nấm mồ xanh để lại lời cảnh cáo trong cuốn băng ghi âm, cũng chưa chắc là "người", bởi vì nếu là người, thì sao lại vô hình vô ảnh, mà có thể nói rõ ràng rạch ròi đến thế? Đối phương đã nắm rõ mọi tình hình, thì khoảng cách tất phải ở gần ngay trước mắt mọi người, ngoài ra, khoang máy bay nhỏ hẹp, kín mít, làm gì có chỗ nào ẩn giấu người được?

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, bất luận Nấm mồ xanh là người hay là ma, đối phương chắc chắn đang trốn trong khoang máy bay, nhưng trong khoang tất cả chỉ có sáu người mà thôi. Anh biết rõ bản thân mình hoàn toàn không liên quan đến Nấm mồ xanh, còn năm người còn lại, giơ bàn tay ra đếm cũng có thể đếm rất rõ ràng: La Đại Hải và Tuyệt đương nhiên không cần nói, Karaweik tuy là người Miến Điện bản địa, nhưng một cậu thiếu niên vùng sơn cước mới mười mấy tuổi đầu thì làm được được trò trống gì? Sao có thể là đầu não tổ chức thương mại lớn nhất trong thế giới ngầm ở Đông Nam Á. Huống hồ, thời gian Karaweik theo chân đội du kích *** Miến Điện cũng không phải là ngắn, trong khi việc gặp đội thám hiểm ở núi Dã Nhân là việc mới chỉ xảy ra khoảng hai, ba ngày, bởi thế chắc chắn cậu bé cũng chẳng liên can gì đến Nấm mồ xanh.

Lại nghĩ Ngọc Phi Yến là thủ lĩnh đội thám hiểm, nếu cô ta quả thực không cần biết đến hậu quả, mà cho kích nổ quả bom địa chấn trong khoang máy bay, thì những người còn lại cũng không cố sống cố chết ngăn cản làm chi, mà việc gì cô phải giả thần giả quỷ với chính mình, bởi thế Ngọc Phi Yến cũng có thể loại trừ ra ngoài.

Theo lý mà nói, nếu thực sự có một gã "quỷ biển" ngấm ngầm theo dõi hành động của đội thám hiểm trong bóng tối, thì đó phải là kẻ ẩn mình dưới lớp vỏ thuộc hạ của Ngọc Phi Yến; nhưng từ khi đội thám hiểm vào núi đến giờ, các thành viên gần như đều bị chết hết, chỉ có hai người may mắn sống sót là Ngọc Phi Yến và gã Ciglovaski người Nga.

Tư Mã Khôi cảm thấy gã khọm người Nga tuy tính tình lạnh lùng, tàn nhẫn, giết người không ghê tay, tuyệt đối không phải hạng lương thiện gì, nhưng vẫn có một điểm không thể bỏ qua: gã mũi to này là chuyên gia bom mìn, chất nổ, nên đối với quả bom địa chấn hạng nặng trong khoang máy bay, chắc chắn chẳng ai có thể hiểu về nó hơn gã. Nếu không phải là gã đã chỉ ra thời hạn kích nổ quả bom, thì những người xung quanh nào biết nguy hiểm ẩn chứa bên trong. Bởi vậy, qua chi tiết này cũng có thể thấy Ciglovaski không phải là kẻ có biệt danh Nấm mồ xanh.

Tư Mã Khôi suy đoán loạn xạ một hồi, đầu óc mau lẹ sắp xếp mọi người thành hàng dọc, xem xét liền mấy lượt, về cơ bản, anh phủ định phán đoán trong sáu người có một kẻ là Nấm mồ xanh. Thế nhưng kẻ được gọi là Nấm mồ xanh chắc chắn vẫn đang trốn trong khoang, chỉ có điều hắn trốn ở "góc chết" mà mọi người không ai nhìn thấy được. Mà cũng không hẳn đó là "góc chết" về mặt thị giác, bởi rất có khả năng là "góc chết" trên trường nghĩa tâm lý, nghĩa là "góc chết" mà người ta không thể tưởng tượng được bằng tư duy thông thường.

HỒI 5: CON MẮT NGOÀI KHOANG LÁI (2)Những người còn lại đều giống như Tư Mã Khôi, xoay vần sự việc mấy lượt trong đầu, càng nghĩ càng cảm thấy kinh hoàng bất an, nhưng giờ khắc này, chẳng ai dám mở lời bàn bạc. Bởi vì lời càng nhiều họ càng dễ lỡ miệng, biết rõ trong khoang có một Nấm mồ xanh giống như vong hồn đang đứng cạnh ngầm theo dõi, nó đã có thể sử dụng máy ghi âm để phát lời cảnh cáo trong lúc mọi người không hề phát hiện ra, nên nếu như nó ngấm ngầm ám hại, thì cũng đủ khiến người ta có đề phòng cũng như không.

Hải ngọng đột nhiên nảy ra suy một nghĩ kỳ lạ: nói cuốn băng ghi âm này xuất hiện một cách kỳ quái, không khéo bên trong có ma, thì nhân lúc sớm sủa, mau chân giẫm nát nó cho xong, tránh khỏi sau này món đồ chơi kia lại tự mình giở trò quái quỷ nào đó, khiến chúng ta ở nơi tối lửa tắt đèn này màn còn phải nơm nớp đề phòng nó. Nghĩ đi nghĩ lại có khi đây chẳng qua là tâm bệnh. Nói xong, anh liền ném nó xuống đất, dùng cán súng gõ đập không thương tiếc. Chiếc máy ghi âm của đội thám hiểm Anh để lại, vỡ vụn thành từng mảnh, cuộn băng bên trong cũng vỡ hỏng hoàn toàn.

Mọi người nhất thời im lặng, chẳng ai nói với ai lời nào. Tư Mã Khôi thấy dường như khó có thể nhìn thấy dấu tích gì từ vẻ bề ngoài, nên cũng không muốn rút dây động rừng. Để tiết kiệm nhiên liệu, anh liền tắt đèn halogen đang cầm trên tay, chỉ dùng chút ánh sáng tỏa ra từ chiếc đèn pin. Loại ánh sáng này vô cùng ảm đạm, nhưng năng lượng tiêu hao tương đối nhỏ, có thể duy trì chiếu sáng trong thời gian rất lâu. Khoang máy bay phút chốc chập chờn bóng sáng, người hay ma khó mà phân biệt nổi.

Tư Mã Khôi quanh năm lảng vảng ở nơi đầu súng mũi gươm, xem sự sống cái chết đều nhẹ tựa lông hồng, thêm vào đó lại có tâm lý phản nghịch thiên bẩm rất mạnh, thì làm gì có chuyện chịu để yên mặc cho người khác xoay vần? Tuy anh không biết tình hình cụ thể về kẻ được gọi là Nấm mồ xanh, nhưng thấy kiểu hành sự của hắn đầy bí hiểm, quái dị, thì đoán ngay tên này chắc chắn thuộc loại tà môn ngoại đạo, việc gì mình phải bán mạng cho những hạng người như thế? Ông mày bảo không làm là không làm, đứa nào làm gì được ông? Nghĩ đến đây, anh một lần nữa lại gọi mấy anh em trong đội du kích *** Miến Điện đến, chuẩn bị "phủi đít ra về".

Nhưng Tư Mã Khôi vừa nhìn thấy cái đầu băng bó trắng xóa của Karaweik thì lập tức lại nhớ ra: "Lúc đội du kích *** Miến Điện tan rã, Karaweik đã không quản nguy hiểm, dẫn bọn mình từ con đường U Linh đi xuyên qua núi Dã Nhân, giờ đây làm sao mình có thể mặc kệ sự sống chết của cậu bé?". Có điều, hoàn cảnh trước mắt của hội Tư Mã Khôi ngay cả cái mạng của bản thân cũng khó bảo toàn, còn người có thể dẫn Karaweik chạy trốn khỏi Miến Điện chỉ có một mình Ngọc Phi Yến, nên anh lại đành ghìm lòng lại, hỏi Ngọc Phi Yến bây giờ dự định làm thế nào, hay là phải để một người ở lại kích hoạt quả bom địa chấn?

Ngọc Phi Yến trong lòng rõ hơn ai hết, người nào ở lại người đấy sẽ cầm chắc lệnh bài tử hình. Thực ra cô ta chẳng buồn bận tâm đến điều này, bởi vì trong mắt cô ta, sinh mệnh và giá trị sinh mệnh là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, bởi thế cô ta cũng dễ dàng đưa ra quyết định về cái được cái mất. Trong lòng Ngọc Phi Yến sớm đã có sự tính toán so sánh thiệt hơn, liền nói với mọi người: "Bây giờ chúng ta sẽ rút thăm phán định sống chết, ai rút phải quân bài đen sẽ phải ở lại kích nổ quả bom, kẻ ở lại sống hay chết đành phải tuân theo mệnh trời vậy…"

Tư Mã Khôi nghe xong, trong lòng ngầm phán đoán: "Tổ tiên Ngọc Phi Yến xuất thân là dân trộm mộ Quan Đông, kỹ thuật ngửa bài này chắc chẳng ai thắng nổi cô ả, vì xem ra mọi người có vẻ đều bình đẳng như nhau, nhưng trên thực tế, tất cả quyền định đoạt đều do cô ả ngầm nắm giữ". Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, đang định lên tiếng vạch trần thủ đoạn, nhưng lời chưa kịp thốt ra khỏi miệng thì đã nghe Tuyệt nói trước với Ngọc Phi Yến: thời gian hẹn giờ của quả bom địa chấn chỉ có hạn, trong khi Nấm mồ xanh khi nãy vừa lợi dụng máy ghi âm để cảnh cáo mọi người, mà hắn lại thật sự đang ẩn nấp giữa chúng ta, vậy thì hắn cũng có khả năng rút phải quân bài đen, bị bom nổ thịt nát xương tan, nói không chừng thời gian mấy chục phút đó cũng chẳng đủ để hắn chạy thoát. Ngọc Phi Yến cúi đầu đáp: "Cũng mong như vậy".

Tư Mã Khôi và La Đại Hải ngược lại không thể nào chấp nhận suy đoán này. Tuy ngoài miệng chẳng nói gì, nhưng trong lòng họ đều nghĩ: "Trên thế giới này, kẻ điên nào mà không có chứ? Có thể đúng là chúng ta gặp phải tên không sợ chết, huống hồ đối phương trốn trong chỗ tối, u hồn tựa bóng ma vô hình vô ảnh, hắn có phải người sống hay không còn khó nói nữa là".

Tư Mã Khôi nghe thấy âm thanh bò trườn của bọn thằn lằn cỏ bên ngoài khoang cửa đã có phần suy yếu, cùng lúc Hải ngọng lại ngồi khuyên can Ngọc Phi Yến, bảo cô hãy từ bỏ ý niệm kích nổ quả bom: "Xem ra cô cũng không có vẻ là người cứng nhắc, bảo thủ. Cô cứ nghĩ kỹ lại mà xem, thằng cha địa lôi này đủ sức phá nổ cả dãy núi Dã Nhân khiến trời rung đất chuyển. Hơn nữa ở khu vực sâu hút dưới đáy này, sương mù vẫn chưa tan hết, cho dù chỉ để lại một người kích nổ thì biết đâu là sau khi bom nổ, sương mù dày đặc lại đột nhiên từ dưới lòng đất ùn ùn trào lên, khi đó ngay cả những người đã tháo chạy trước đó cũng tuyệt đường sống luôn. Hơn nữa, lúc chúng ta phát hiện ra cuốn băng ghi âm trong chiếc Rắn đen II, quả thực cũng bị nó làm cho mất hồn mất vía, sau đó mới biết chẳng qua chỉ là sợ bóng sợ gió vớ vẩn. Có khả năng lời cảnh cáo vừa rồi xuất hiện trong máy ghi âm cũng chỉ do mọi người nhất thời hoảng loạn, không thể phân biệt rõ chân tướng thật sự mà thôi, hết nghi thần nghi quỷ, lại nghi người, cứ ngồi đó nghi nghi hoặc hoặc mà tự mình giết mình…"

Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều tự tìm những lý do mà ngay cả bản thân mình cũng khó tin nổi, hòng đánh tan ý niệm của Ngọc Phi Yến. Nhưng lúc lời mới nói được một nửa, thì đã thấy sắc mặt Ngọc Phi Yến trở nên vô cùng khó coi. Họ phát hiện hướng nhìn của cô là nhằm vào vị trí khoang lái ở ngay sau lưng mình, nên trong phút chốc đều cảm thấy khí lạnh xâm chiếm da thịt, vội vàng quay người xem rốt cục là thứ gì. Vừa mới ngoảnh đầu lại thì thấy trong bóng tối có một con mắt khổng lồ ám đầy ma khí, ánh mắt nhấp nháy như ánh nến, đang im lặng bất động nhìn chằm chằm vào những người ở trong khoang

HỒI 6: KINH HOÀNG (1)

~*~

Tư Mã Khôi thấy hiện tượng lạ, không kịp đi tìm đèn halogen, trong lúc hấp tấp, đành vội xách đèn pin, mượn ánh sáng yếu ớt của nó nhìn về phía trước, chỉ thấy bên ngoài khoang lái có một con mắt khổng lồ nhìn chằm chằm không rời. Mắt to như cái bánh xe, hai mí mắt chầm chậm khép mở, thần sắc vô định, dường như nó đang nhìn xuyên thấu qua ô cửa sổ khoang lái, bám dính vào sáu người sống đứng bên trong.

Sau khi quan sát rõ ràng, Tư Mã Khôi biết đây là mắt của một con rồng Komodo to lớn khác thường. Do quanh năm sống ở nơi huyệt động tối tăm ẩm ướt, thường xuyên bắt các loại côn trùng có lân quang làm thức ăn, nên phần mắt của nó không những không bị lớp vẩy che mờ, mà ngược lại thị lực càng được tiến hóa hơn, hai mắt lồi hẳn ra phía ngoài. Không tính cái đuôi, thân thể của nó vẫn dài đến năm, sáu mét, da cứng thịt dày; bình thường nó có thể nằm im bất động như tượng gỗ hàng mấy tháng ròng, nhưng lúc này nó bị ánh đèn trong chiếc tiêm kích vận tải dẫn dụ đến.

Tuy rằng trên người ai nấy đều có súng và dao săn, nhưng rồng Komodo sống trong núi sâu Miến Điện, bất phân lớn nhỏ, trên mình đều mang chất kịch độc, có thể dùng mắt khống chế người trong vòng trăm bước, rất khó phòng bị, nên chẳng ai dám chọc giận chúng. Một khi rồng Komodo triển khai tấn công, nó sẽ trở nên đáng sợ hơn cả cá sấu đầm lầy.

Tư Mã Khôi thấy tình thế không ổn, vội vàng tắt đèn pin đang cầm trong tay, nhỏ giọng nói với mọi người: "Đừng động đậy!"

Hội Ngọc Phi Yến không ai không biết rồng Komodo có thị giác linh động với mọi trạng thái, nó vô cùng nhạy cảm với vật thể di động và ánh sáng, nên chẳng ai dám cử động dù rất nhỏ. Tai họ nghe thấy trên nóc máy bay như có vật thể gì rất nặng chậm chạp ngọ ngoạy, đoán chắc đó là một con rồng Komodo khác, đang bò lồm ngồm trên nóc, mọi người liền lập tức tắt hết mọi nguồn ánh sáng bên mình.

Cả khoang máy bay trong khoảnh khắc đã trở nên đen quánh như sơn, chỉ có vảy lân quang lấp lánh cứ chập chờn nhấp nháy, đó là vảy lân quang của những con bướm đêm bị ánh đèn thu hút đâm loạn xạ vào người lúc ở lùm cỏ - trước khi đội thám hiểm vào trong máy bay. Tuy đi dưới màn mưa, nhưng họ vẫn bị khá nhiều bụi lân quang bám dính, đồng thời còn có không ít con bướm đêm theo chân bay vào bên trong.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ, mấy con rồng Komodo vẫn còn luẩn quẩn ở đây chưa chịu bỏ đi, nguyên nhân chắc là do đám bướm đêm còn lại này, anh đang định phủi sạch bụi lân quang trên mình, thì đột nhiên thấy nóc máy bay phát ra âm thanh kêu "răng rắc".

Chiếc máy bay ngủ im trong đầm lầy dưới lòng đất suốt một thời gian dài, kết cấu chất gỗ đã sớm bị mối mọt mục nát bởi không khí ẩm ướt xâm hại thì làm sao có thể chịu được thân thể khổng lồ nặng nề của rồng Komodo, chỗ lúc trước bị súng săn voi bắn thủng, bây giờ đều bị ép xuống đến nứt toác.

Chi sau của con rồng Komodo khổng lồ thụt xuống khe nứt. Trong lúc khẩn thiết khó lòng thoát thân, nó vắt kiệt sức dùng đuôi quẫy đạp, khiến chiếc máy bay bị rung lắc gần như tan ra thành từng mảnh. Hằng hà sa số những con thằn lằn nhỏ nhân cơ hội này đã lẻn chui vào bên trong qua các kẽ nứt.

Mọi người đứng trong bóng tối, hai mắt không nhìn thấy gì, chỉ cảm thấy lũ thằn lằn bò từ chân lần ngược lên người, nhưng ai nấy không thể không giơ tay hay đạp chân để giãy chúng ra.

Đúng lúc này, đột nhiên từ quả bom địa chấn bỗng vang lên một tiếng "kịch" , âm thanh tuy không lớn, nhưng hai tai Tư Mã Khôi rất nhạy cảm nên từ vị trí đang đứng anh phán đoán: hình như nút kích hoạt của quả bom địa chấn đã được mở. Trong lòng anh bỗng chốc buốt lạnh, biết chắc Nấm mồ xanh đang trốn trong khoang máy bay đã giở trò quỷ, phen này rắc rối to rồi, quả bom địa chấn hạng nặng với uy lực vô biên sắp phát nổ trong vòng vài phút nữa, mà hậu quả thật không dám nghĩ tới.

Tư Mã Khôi nóng lòng muốn biết, gã Nấm mồ xanh kia rốt cục đã dùng cách gì, để trốn dưới con mắt của mọi người mà không hề bị phát hiện. Anh chẳng còn bận tâm đến mấy con rồng khổng lồ Komodo đang lởn vởn ngoài khoang lái, lập tức huơ huơ chiếc đèn pin trong tay, quét một đường: ngoại trừ sáu kẻ may mắn sống sót ra thì làm gì còn người nào thừa, thế nhưng nút kích hoạt ở phần đuôi quả bom địa chấn đúng thực là đã bị "người" trong bóng tối âm thầm khởi động.

Hội Ngọc Phi Yến thấy tình hình khác lạ, ai nấy đều kinh ngạc không thốt nên lời, biết chắc chuyến này sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa. Quả bom chứa trong chiếc tiêm kích số hiệu Rắn đen, tuy không thể sánh với quả "Grand Slam" đã san phẳng cả dãy núi, nhưng khối lượng của nó cũng đủ để người ta khiếp vía, vì gần như vượt qua cả cực giới hạn tải trọng của chiếc tiêm kích vận tải. Giờ phút này, cho dù mọi người có mọc thêm vài cái chân, cũng không thể chạy trốn khỏi phạm vi bao trùm nguy hiểm của sóng xung chấn phát nổ trong thời gian ngắn như vậy.

Đám sương mù bí ẩn ngàn năm không tan ở núi Dã Nhân, cơn bão nhiệt đới Buddha hoành hành, động huyệt không đáy giống như kính viễn vọng địa cầu, rồng Komodo, cá sấu, mãng xà Miến Điện mai phục dưới đầm lầy, quả bom địa chấn hạng nặng chứa trong khoang hàng chiếc Rắn đen, và cả "ngôi mộ màu xanh" ẩn chốn giữa bóng tối ngấm ngầm theo dõi hành động của mọi người, vòng sóng nguy hiểm này nối tiếp vòng sóng nguy hiểm khác, vô số ẩn số khó lòng giải thích không ngừng xuất hiện, khiến thể xác và thần kinh của mấy kẻ may mắn sống sót trong đội thám hiểm, đều bị đẩy đến gần mép vực suy sụp.

Mọi người biết giờ đây chỉ còn đường chết, không còn đường sống, nhất thời đều thất sắc, ai nấy ngẩn người bất động, nhưng sau giây phút ngắn ngủi đó, trong đầu không hẹn mà cùng xuất hiện một ý niệm: "Chạy! có thể chạy bao xa thì chạy!", tâm lý này được gọi là "chó cùng dứt dậu", ngồi đây đợi chết, cùng chiếc máy bay nổ tan xác thành khói bụi tro tàn, chi bằng hãy cố gắng chạy trốn đi thật xa, nói không chừng vẫn còn bảo toàn được thi thể nguyên lành.

Tư Mã Khôi hét gọi những người còn lại: "Đừng ngẩn tò te ra thế, mau rút thôi!"

Ngọc Phi Yến nhắc nhở: "Vùng đất ẩm ướt phía nam, cỏ mọc um tùm, có thể làm giảm sóng xung chấn của vụ nổ, sau khi rời khỏi máy bay, mọi người hãy cùng chạy về phía đó nhé!"

Mắt nhìn thời gian trôi chảy từng giây từng phút, mọi người chỉ mong rời khỏi trái bom địa chấn càng xa càng tốt; nhưng muốn rời khỏi chiếc máy bay, trước hết phải giải quyết xong hai con rồng Komodo khổng lồ đang quần đảo ngoài khoang lái, lúc này không thể không hạ quyết tâm lao ra chiến đấu trực diện với nó.

Hải ngọng xung phong mở màn, anh giương khẩu súng săn bốn nòng, chĩa lên lỗ hổng trên nóc máy bay, ngắm chuẩn vào bụng con rồng Komodo đang nằm ệp ở ngoài, rồi bắn một phát. Khẩu súng săn này tuy không bằng súng bắn tỉa công phá, nhưng nếu hạ gục mục tiêu gần, thì uy lực của nó lại không loại vũ khí nào có thể sánh kịp. Chỉ nghe "đoàng" một tiếng rồi khói trắng tỏa ra mù mịt như sương mây, con rồng Komodo khổng lồ thoáng chốc đã ngã vật ra đất, bụng thủng ruột lòi, máu chảy lênh láng.

Cùng lúc này, con rồng Komodo ở ngoài khoang lái, cũng bị gã Gấu trắng người Nga ném quả lựu đạn tan thành hai mảnh. Nó tuy chết mà không phục, hai mắt vẫn đỏ au au tựa máu nhìn trừng trừng như muốn lồi hẳn ra ngoài, rồi mí mắt lộn mạnh một cái, một tia máu từ hốc mắt bắn vọt ra, xuyên phụt qua khe nứt máy bay.

Rồng Komodo rất giỏi ngụy trang, bình thường nó có thể nằm im bất động giống như phiến đá hoặc thân cây khô, đợi khi con mồi đến gần mới bất ngờ vùng dậy, phun máu độc từ hốc mắt tấn công đối thủ. Chất dịch máu trong nang mắt của nó kịch độc không gì sánh nổi, hơn nữa tốc độ lại nhanh thần kỳ, khiến người ta khó lòng tránh được.

Gã Gấu trắng người Nga không ngờ con rồng bị tan xác thành hai mảnh, mà vẫn có thể lén tấn công, nên cho dù phản ứng của gã rất đỗi nhanh nhạy, nhưng vẫn bị máu độc bắn vào mắt trái. Gã đau đớn gào rú thảm thiết như một con mãnh thú bị chọc tiết. Tuy thể xác đau đớn bội phần nhưng đầu óc hãy còn tỉnh táo, gã biết rằng một khi bị chất độc từ mắt chạy vào não, thì coi như hoàn toàn xong đời, hết thuốc cứu chữa; dưới sự thôi thúc của khao khát sinh tồn mãnh liệt, gã cố nén cơn đau thấu đến tận tim, gắng gượng móc con mắt bên trái của mình ra.

Phần dịch độc mà gã người Nga tránh được, đều bắn vào thân thể mấy người ở phía sau. Khoang máy bay chứa một quả bom khổng lồ, sáu người còn lại phải chen chúc nhau trong một khoảng không gian nhỏ hẹp còn lại. Mọi người chỉ còn cách đứng nghiêng, vì ngay cả xoay người cũng rất khó khăn, làm sao có thể né tránh nổi, kết quả người nào cũng bị máu độc bắn vào.

May mà chất độc chỉ bám vào ba lô hoặc quần áo, không tiếp xúc với da thịt, nhưng gã Ciglovski cao to ngoại cỡ kia lăn lộn giãy giụa, dùng sức quá mạnh, nên chạm cả vào Tuyệt đứng ngay sau lưng. Tuyệt bị gã xô đẩy, gáy đập vào vỏ sắt cứng đanh của quả bom địa chấn, phút chốc máu tươi chảy ra đầm đìa, trong lúc hoảng loạn, cũng chẳng rõ vết thương nặng nhẹ thế nào.

Mọi người chưa kịp rời khỏi chiếc tiêm kích vận tải thì trong thời gian chớp mắt, liên tiếp hai thành viên nữa lại bị trọng thương, có điều vì nguy cơ cấp bách trước mắt, không cho phép trù trừ nấn ná lâu thêm, nên chẳng ai dám chậm chễ. Ngọc Phi Yến giơ chân đạp tung cánh cửa, giương khẩu súng xung phong Uzi đi trước mở đường. Hải ngọng cõng Tuyệt trên lưng, Tư Mã Khôi gọi Karaweik cùng xách nách dìu gã Gấu trắng mặt đầm đìa máu, mỗi người cầm một cây nến tín hiệu, bám sát sau lưng Ngọc Phi Yến. Không quản đường dưới chân gập ghềnh lồi lõm, họ liều mạng băng băng tháo chạy về phía đầm lầy um tùm cây cối.

Gã Gấu trắng tuy thân thể khỏe như bò mộng, nhưng vừa bị mất một mắt, vết thương quả không nhẹ, lại bị vài phần chất độc ngấm vào não nên thần trí bắt đầu nhiễu loạn, phút chốc mất hết lý trí như kẻ điên dại, rồi thú tính khát máu chợt trỗi dậy, trong lòng chỉ muốn giết người. Gã phát hiện hai cánh tay đều bị người khác kẹp chặt, liền thuận thế cuốn một vòng, hai bàn tay to phàm phạp như hai cánh quạt, định bóp chặt yết hầu của Tư Mã Khôi và Karaweik.

Tư Mã Khôi và Karaweik xả thân lôi gã tháo chạy khỏi chiếc tiêm kích vận tải, còn thần kinh mạch mệnh đều đổ dồn về quả bom hạng nặng ở phía sau, thì làm sao kịp đề phòng biến cố xảy ra ngay bên cạnh. Thế nhưng Tư Mã Khôi do suốt ngày lăn lộn nơi đường biên sống chết, từ trước đến giờ vẫn vô cùng nhanh nhạy, còn Karaweik tuy rằng tuổi còn nhỏ, nhưng vì cả ngày trèo cây xuyên núi nên thân thủ cũng lanh lẹ như khỉ, hai người đều ứng biến thần tốc, phát hiện thấy bàn tay to lớn của gã người Nga như hai gọng kìm đang nhằm vào cổ họng mình, liền vội vã lùi người lại, né sang một bên.

Ciglovaski thấy mình vồ trượt, liền lập tức rút dao săn ra, quay người lại chém. Tư Mã Khôi không kịp đứng dậy, vội lăn mấy vòng trên mặt đất, tránh đường dao chém. Anh thấy mặt gã Gấu trắng máu thịt hỗn độn, chỉ lộ ra mỗi con mắt hung quang sáng quắc, liền biết gã này đã mất hết lý trí, giống như một con chó dại, một khi nó đã lên cơn, thì chắc chắn sẽ không chịu buông tha, bèn hét lớn bảo Karaweik mau mau tháo chạy, tuyệt đối không được dừng lại.

Karaweik nhìn thấy gã khọm người Nga đột nhiên trở nên hung tợn như ác quỷ, đã sớm kinh hồn thất tán, toàn thân mềm nhèo nhẹo, không biết phải làm thế nào, mãi đến lúc nghe tiếng hét của Tư Mã Khôi, mới giật mình bừng tỉnh, thục mạng lao về phía hội La Đại Hải.

Ai ngờ gã Ciglovaski tuy rằng thần trí đang hoảng loạn, nhưng bình sinh giết người như giết rận, chẳng khác nào cỗ máy giết người do Liên Xô chế tạo, thủ đoạn giết người dường như trở thành bản năng, phát hiện có người chạy trốn, gã không thèm đuổi theo, mà "hừ" lên một tiếng rồi ra sức ném con dao săn trong tay về phía đó.

Con dao săn quân dụng hình vòng cung mà đội thám hiểm sử dụng trong rừng rậm, còn gọi là "dao mở núi", sống dao dày, nhưng lưỡi rất mỏng và sắc, cán ngắn, thân dài, trước rộng sau hẹp, được làm bằng thép lò xo, là loại dao cực kỳ sắc bén. Con dao săn từ tay Ciglovaski phóng đi, gấp như sấm đánh, nhanh như chớp giật, chỉ thấy tiếng u u của kim loại vọng lại, nó lượn vòng trên không trung, rồi tiện ngang cổ Karaweik, nghe sắc lẻm, cái đầu người lập tức bị cắt ngang rời ra khỏi thân. Thế bay của con dao vẫn không hề suy yếu, tiếp tục lượn tiếp vài mét nữa mới chịu rơi xuống đất.

Karaweik đang chạy điên loạn về phía trước, đột nhiên bị con dao sắc từ phía sau cắt một đường vừa nhanh vừa mạnh, tuy đầu đã lìa khỏi thân, nhưng theo quán tính, chân vẫn không dừng lại ngay được, mà tiếp tục chạy thêm dăm ba bước nữa thì thi thể không đầu mới đổ rầm xuống đất.

Màn thảm kịch đột ngột xảy đến quả thực quá nhanh. Tư Mã Khôi thấy Karaweik chết đứng dưới lưỡi dao của gã Gấu trắng, bản thân lại không kịp đến ứng cứu, tuy nói sinh tử vô thường, chẳng ai đoán trước được, nhưng anh vẫn không thể kìm chế nổi cơn thịnh nộ bốc cháy phừng phừng trong lòng, làm ánh mắt xung huyết đỏ lòm. Trong lòng dội lên ý niệm giết người, anh ngẩng đầu nhìn gã Gấu trắng cũng đang quay người nhào đến, thầm nghĩ: "Hôm nay không phải tao chết thì mày phải chết", rồi lập tức tránh sang một bên thủ thế, hai tay nắm chặt hai cán con dao săn.

Tuy trong lòng Tư Mã Khôi vừa giận vừa hận, nhưng đối mặt với cường địch, anh vẫn không hề mất bình tĩnh. Tư Mã Khôi biết gã người Nga cao lớn tay dài, chẳng khác nào loài dã thú, hơn nữa gã từng phục vụ trong quân đội Xô Viết nhiều năm, xem tư thế vung tay đá chân của gã thì biết chắc chắn gã này giỏi đấm bốc. Nên cho dù trên vai anh không bị thương, mà trực diện bổ nhào vào đối phương, thì e rằng cũng không chiếm được nửa phần lợi thế, huống hồ quyết đấu sinh tử, cần phải tốc chiến tốc thắng.

HỒI 6: KINH HOÀNG (2)

Trong lòng Tư Mã Khôi ngầm định giới hạn, nên anh không giằng co chính diện với gã người Nga, mà chỉ bắn một phát đạn hú họa, rồi tránh sang bên trái đối phương. Gã Gấu trắng nhào lên không trúng, bèn quay người lại tóm, nào ngờ bước chân Tư Mã Khôi di chuyển nhanh như sóc, tuyệt đối không tiếp xúc mặt đối mặt với gã, anh lui lại, quay người lẻn sang phía phải đối phương. Gã Gấu trắng thân hình to lớn lực lưỡng, nên khi phải liên tục xoay chuyển hết bên trái lại sang bên phải, tất có đôi chút lóng ngóng, mới chạy được hai ba vòng, bước chân đã bắt đầu loạng choạng, trọng tâm không vững, Tư Mã Khôi nhanh như cắt chớp cơ hội, vật ngửa gã ra đất.

Tuy gã người Nga bị ngã mạnh, nhưng vẫn kịp đạp Tư Mã Khôi một cái. Tư Mã Khôi không ngờ đối phương ra tay nhanh như vậy, bị đạp loạng choạng, anh cũng ngã nhào xuống đất theo gã. Tự biết mình phải chạm trán với kẻ thù hiểm ác nhất từ trước đến nay, nhưng lòng quyết tâm báo thù còn mạnh hơn nên anh chẳng hề có ý sợ hãi rút lui. Vừa ngã, anh liền lập tức đứng bật dậy, tiếp tục cầm con dao săn nhào lên.

Không ngờ, lúc đó mùi máu tanh nồng nặc bốc ra từ cơ thể gã Gấu trắng đã dẫn dụ một con cá sấu đang nằm mai phục dưới đầm lầy. Nó há to cái miệng đỏ lòm rộng ngoác ngoạm mạnh vào hai chân Ciglovaski, chậm chạp kéo gã về phía sau. Hàm cá sấu chi chít những chiếc răng nhọn hoắt như lưỡi cưa, lực ngoạm lại rất lớn, nên quá nửa thân người của gã Gấu trắng bị nó nuốt chửng. Gã bất giác cảm thấy đau buốt đến tận xương tủy, gã cố giãy giụa nhưng không thể thoát ra nổi.

Dưới cơn đau dữ dội, cổ họng gã phát ra những tiếng nghe "khặc khặc". Rồi thần trí cuối cùng cũng minh mẫn trở lại, gã tự biết thân rơi vào cảnh ngộ này, chắc chắn chẳng còn đường sống, lại sợ bị cá sấu lôi xuống đầm lầy, phải chịu cái đau đớn do bị xé xác nuốt chửng, bèn tự mình kết liễu cuộc đời. Gã sờ cuộn thuốc nổ mang theo bên mình, rồi giật mạnh dây dẫn lửa.

Cùng với tiếng nổ lớn vang khắp đầm lầy là xương thịt máu me bay ra tứ phía. Tư Mã Khôi vội vàng tránh qua một bên, tuy anh từng chứng kiến tận mắt vô số cái chết trên chiến trường Miến Điện, nhưng nhìn cảnh tượng này, anh vẫn thấy bàng hoàng sững sờ, lòng cảm nhận sâu sắc sự bi thảm của thế gian, dường như cũng chỉ đến thế là cùng. Anh ngẩng đầu lên nhìn, thấy phía trước pháo tín hiệu vụt lóe sáng. Thì ra La Đại Hải cõng Tuyệt bị thương ở đầu, gấp gáp chạy theo Ngọc Phi Yến vào đồng cỏ sâu, nên không hề biết biến cố xảy ra phía sau. Mãi cho đến khi nghe thấy tiếng nổ do gã Gấu trắng tự kết liễu đời mình, mới biết có chuyện chẳng lành, anh liền bước chậm lại, ngoái đầu nghe ngóng.

Tư Mã Khôi tự hỏi: "Không biết thời gian đã qua bao lâu, dường như vượt cả thời hạn ấn định, sao trái bom địa chấn trên chiếc tiêm kích đến bây giờ vẫn chưa phát nổ?". Nhưng không kịp nghĩ nhiều, anh vội vàng đuổi theo hội La Đại Hải. Ngọc Phi Yến và La Đại Hải chỉ thấy có một mình anh đi đến, trong lòng đều cảm thấy kỳ lạ, bèn hỏi nguyên do, nhưng lời còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng, bỗng nhiên nghe thấy một tiếng nổ long trời lở đất, đáy khe núi Dã Nhân sâu vạn trượng đột nhiên xảy ra vụ nổ dữ dội, đúng chẳng khác gì "tinh cầu tương kích, càn khôn vỡ vụn".

Quả bom địa chấn nặng ngàn cân trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải, cuối cùng củng phát nổ, năng lượng giải phóng do khí nén cao áp giản nở đúng là rung trời chuyển đất,đổ biển trút sông. Tiếng vang lớn động cả khe núi sâu hun hút. Sóng xung chấn và sức ép dữ dội từ trung tâm vụ nổ lan truyền ra, mạnh như cơn lốc, nhanh chóng phủ khắp đầm lầy dưới lòng đất.

Bốn kẻ may mắn tháo chạy khỏi càn tay thần chết đó là Tư Mã Khôi, La Đại Hải, Ngọc Phi Yến và Tuyệt, vừa mới bỏ trốn chẳng bao xa đã bị cơn bão xung chấn cuốn vào vòng xoáy của nó. Do vụ nổ xảy ra quá nhanh, sấm nổ bịt tai còn chẳng kịp làm gì còn thời gian tìm chỗ ẩn náu,khiến thân thể dường như bị một bức tường xi măng dày nặng đột ngột đâm sầm vào với tốc độ khủng khiếp, nên họ chẳng khác nào cánh hạc giấy bị đứt dây, lật nhào xuống bùn đất

Trước mắt Tư Mã Khôi là một khoảng đỏ đen lẫn lộn,hai tai anh bị chấn động không nghe một tiếng gì ngoài tiếng "ong ong" còn trong đầu chỉ là một dải hỗn loạn, sau đó mất hết toàn bộ ý thức.

Không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, những giọt nước mưa lạnh buốt thấu xương không ngừng tạt vào mặt

Làm Tư Mã Khôi dần dần tỉnh lại . Anh chỉ cảm thấy đầu đau như muốn vỡ tung,mọi thứ trước mắt mờ ảo dập dềnh,không hề nhìn thấy một chút ánh sáng nào. Trong lòng anh còn lờ mờ nhớ lúc trước trái bom địa chấn vừa phát nổ, quả bom địa chấn do nước Anh chế tạo tuy rằng vẫn thuộc phạm trù vũ khi thông thường, không thể so sánh được với bom hạt nhân, nhưng sức phá hoại của nó đúng là có thể dời non lấp biển.

Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe người dân bản địa nói,năm đó lúc phản công Miến Điện, tình hình vô cùng ác liệt, chỉ cần ban ngày,ngẩng đầu nhìn lên trời sẽ thấy máy bay quân Đồng Minh quần thảo hết phi đội này đến phi đội khác, nghìn thịt như chim én, rồi ném những quả bom còn to hơn cả cái nhà, quả nọ tiếp quả kia,phạt đứt bay cả đỉnh núi. Kích thước loại bom địa chấn này thuộc hàng khủng,trọng lượng cũng nặng khác thường nếu là cấp Grand Slam, thì nhất loạt đều phải do máy bay Lancaster thả xuống. Qủa bom với cấu tạo hình giọt nước với bề mặt tuyệt đối nhẵn nhụi không nếp gấp này, lúc thả xuống sẽ xoay vòng với tốc độ cao giữa không trung,khi tiếp đất nó có thể xuyên thấu hố công sự với độ sâu rất lớn, rồi hủy diệt vụn nát mọi mục tiêu chiến lược

Có điều,nhìn tổng quan cả quá trình lịch sử chiến tranh thế giới thứ hai,toàn bộ số bom Grand Slam mà quân Anh sử dụng chưa tới một trăm quả,hơn nửa tuyệt đại đa số dùng trong các chiến trường châu Âu. Trong thời kì chiến đấu với quân Nhật ở Miến Điện,bom địa chấn quân Anh sử dụng tuy thể tích nhỏ hơn một chút nhưng bên trong được nhồi thuốc pháo tiên tiến có độ phát nổ rất cao nên so với Grand Slam ,uy lực của nó cũng khủng khiếp không kém, thậm chí ngang ngửa về mọi điểm.

Bom địa chấn trong khu vực sâu núi Dã Nhân được đặt trong khoang hàng chiếc tiêm kích vận tải, đồng thời lại không có xung chấn tốc độ cao khi thả từ không trung xuống,một khi kích hoạt kíp nổ tại chỗ,tuy không thể đâm sâu nhưng vẫn có thể hình thành hố bom với đường kính gần trăm mét, hơn nữa phạm vi bao phủ của sóng địa chấn,có tác dụng hủy diệt, còn trải rộng hơn. Môi trường trong đầm lầy dưới lòng đất rất khắc nghiệt, chỉ dựa vào đôi chân,thì chạy nổi bao xa,bởi thế hội Tư Mã Khôi đã liệu định trước là trong thời gian có hạn,căn bản không thể chạy đến khu vực an toàn. Mọi người còn cho rằng chắc chắn là sẽ chết chứ không thể khác được. Lúc này, Tư Mã Khôi đã bắt đầu tỉnh lại, tâm thần hoảng loạn, anh cảm thấy như cơ thể bị vụn nát thành từng mảnh, nhưng đột nhiên thấy cuống họng có vị ngọt liền hộc ra một ngụm máu đen, liền sau đó thấy tứ chi, trăm xương đều đau buốt, mới biết,mình vẫn còn sống

Tư Mã Khôi thoát khỏi đại nạn , hai kiếp vẫn được làm người, nhưng trong lòng lại không hề cảm thấy may mắn chút nào , mà ngược lại còn thấy rất đỗi hoang mang cho dù anh có mệnh lớn phúc dày , đoạt quyền tạo hoá , thì vẫn chỉ là người trần mắt thịt, dẫu không thịt nát xương tan ngay tại chỗ , thì cũng bị sóng xung chấn ép cho dập nát lục phủ ngũ tạng mà chết , vậy mà không hiểu tại sao vẫn có thể sống đến bây giờ?

Anh thấy rằng mọi hiện tượng kì dị trong khe núi Dã Nhân đều không thể giải thích nổi. Tư Mã Khôi bị sóng xung chấn của quả bom làm cho khí huyết chấn động cả lên,tai trái không nghe thấy gì, tai phải không ngớt "ù ù",sau gáy ùa gió lạnh , thị giác , thíng giác đều hỏng cả,dường như chỉ còn mỗi hồn phách là vẫn chưa lià khỏi xác mà thôi. Anh nằm vật trên đất , trăm mối không thể giải thích thấu đáo , cũng không rõ ba người còn lại sống chết ra sao , trong lòng vừa tuyệt vọng , vưà bất an , khi thấy mình mẩy chân tay mềm nhũn , không thể động đậy nổi.

Tư Mã Khôi lúc mơ lúc tỉnh , cứ như vậy không biết bao lâu trong đêm tối. Cuối cùng khí huyết như thủy triều dềnh lên tụt xuống trong lồng ngực anh cũng dần bình lặng , tay chân đã có thể cử động,anh hít sâu một hơi , giãy đạp giữa đám cỏ hoang bùn lầy rồi mãi mới nhỏm dậy được. May mà lúc chạy trốn khỏi chiếc máy bay tiêm kích , chiếc ba lô chất đầy các thiết bị chiếu sáng không bị rơi mất, nen sờ thấy nến tín hiệu , anh quăng nó ra xa. Rồi qua màn ánh sáng , anh nhìn thấy hội La Đại Hải đang nằm vật trên đám cỏ răng cưa , cách mình chẳng bao xa. Họ cũng bị sóng xung chấn làm ngất đi , tai mũi họng đều rỉ máu,nhưng chẳng ai bị thương ngoài da cả.

Tư Mã Khôi bước tới lần lượt gọi ba người kia dậy. Mọi người giành giật sự sống sau kiếp nạn , trên mặt toàn là máu và bùn. Ai nấy tự kiểm tra vết thương của mình , nội tạng bên trong dường như không có gì đáng ngại lắm,chỉ có điều tinh thần đang hoảng loạn,chưa thể ổn định ngay được , màng nhĩ cũng bị rung động mạnh , mãi lâu sau mới có thể nghe được chút âm thanh.

Vết thương đằng sau đầu của tuyệt tương đối nặng , sau khi thay băn khác vẫn không ngừng chảy máu , cô chợt nhớ đến tung tích của Karaweik , liền nóng lòng gạn hỏi Tư Mã Khôi.

Tư Mã Khôi cũng chẳng giấu giếm , kể lại toàn bộ cho Tuyệt nghe , thi thể của Karaweik và gã Gấu trắng người Nga , một người bị mất đầu , một kẻ tan xác thành trăm mảnh , sau khi bom địa chấn phát nổ lại càng chẳng biết chỗ nào mà lượm lặt nữa.

Tuyệt và La Đại Hải nghe tin dữ , thần sắc u ám ảm đạm , im lặng mãi một hồi lâu. Ngọc Phi Yến cũng lặng lẽ không nói , bất kể do chủ động hay bị động , giờ đây quả bom điạ chấn cũng đã bị kích hoạt phát nổ theo chỉ thị của Nấm mồ xanh. Hội ba người Tư Mã Khôi đã sớm dự tính , tiếp theo đây đương nhiên sẽ vượt biên giới trở về đất nước , không còn gì liên quan đến đội thám hiểm nữa. Nhưng núi Dã Nhân vô cùng hiểm trở , cơn bão nhiệt đới Buddha lại vẫn chưa lắng xuống , giờ đây muốn đi đến được vùng trời của sự sống , tất phải nương tựa vào nhau.

Lúc này bốn người sức cùng lực kiệt , tuy biết rõ nguy hiểm mai phục tứ bề dưới đầm lầy , nhưng cũng không thể mau chóng rời khỏi đây , đành phải đến một chỗ khô ráo hơn gần đó , tạm thời nghỉ ngơi , chỉnh đốn hành lý.

Ngọc Phi Yến gắng hết sức trấn tĩnh tâm thần đang hoảng loạn cực độ , quan sát tứ phía , nhưng càng nhìn càng cảm thấy bất an. Từ lúc tận mắt thấy hàng trong chiếc máy bay tiêm kích , đến khi Nấm mồ xanh hiện thân theo dõi hành động của đội thám hiểm trong bóng tối , rồi cuối cùng kích nổ quả bom hạng nặng... Tất cả đều xảy ra quá nhanh , chẳng để lại chút thời gian cho người ta suy nghĩ. Bây giờ ngẫm kĩ lại , trong toàn bộ sự việc quả thực có nhiều điểm quái dị.

Mọi người nghĩ rằng Nấm mồ xanh muốn lợi dụng bom địa chấn để phá hủy mạch đất trong khe núi Dã Nhân , áp chế sương mù đậm đặc bên trong. Thế nhưng lòng huyệt động rộng rãi thênh thang thế này , mà chỉ dựa vào một trái bom hạng nặng đời cũ , thì căn bản không thể phát huy tác dụng mang tính quyết định , hơn nữa bốn kẻ may mắn sống sót đều không chạy thoát khỏi phạm vi sóng xung chấn bao phủ , nhưng tại sao vẫn bảo toàn tính mạng? Ngoài ra, lũ cá sấu, mẵng xà dưới đầm lầy nhiều như thế, trong lúc bốn người bọn họ hôn mê bất tỉnh, sao không tấn công

Trong lúc Ngọc Phi Yến còn đang mơ hồ , thì đột nhiên Tư Mã Khôi ngửi thấy thoảng mùi khí rất lạ từ trong làn không khí âm u , ẩm ướt bốc ra dưới lòng đất . Nó giống với mùi long não , lại tữa như 1 chất hoá học nào đó đang xảy ra phản ứng mãnh liệt . Nhìn sang đám cỏ răng cưa vốn mọc um tùm xung quanh nay đã chết rụi , mà chẳng biết chết khi nào .

Tư Mã Khôi cảm thấy trên da thịt ran rát như bị bỏng , trong lòng anh bừng tỉnh ngộ , anh nói với Ngọc Phi Yến:'đừng suy đoán lung tung , đó là quả bom địa chấn trong máy bay tiêm kích vận tải đã bị cải tiến lại rồi,đó có khả năng là quả bom hạt nhân thể lỏng'

Ngọc Phi Yến chưa từng nghe thấy 'bom hạt nhân thể lỏng' , nên cho rằng Tư Mã Khôi đang khoác lác để mọi người phải kinh ngạc , liền cau mày nói:'lúc này là lúc nào mà anh còn nói nhăng nói cuội , núi Dã Nhân làm gì có bom hạt nhân được?'

La Đại Hải và Tuyệt năm đó đều là chiến hữu cùng Tư Mã Khôi nam tiến Miến Điện nên hiểu được cái nguy hiểm của vũ khí hạt nhân thể lỏng. Cả hai đều thất kinh hỏi lại:'vũ khí hạt nhân thể lỏng? Đó chẳng phải bom chứa chất độc màu da cam gây rụng lá sao'

Thì ra mấy năm trước hội Tư Mã Khôi theo anh Thiết Đông sang xin gia nhập quân đội ở Việt Nam. Trên đường tiến về phiá nam, đến biên giới Bắc Việt , do lúc đó không trung bị tấn công không ngớt , nên mọi người phải đi hành quân theo con đường nhỏ , những gì họ thấy ven đường là những quả đồi trọc , mặt đất không mọc nổi một ngọn cỏ , thực vật cả một dải rộng lớn đều chết hết. Trước đây chưa thấy hiện tượng kì lạ này nên ai nấy đều đánh trống ngực thình thịch

Trong đoàn, anh Triết Đông là người có kiến thức quân sự phong phú nhất , anh nói :'rừng rậm Việt Nam,đại bộ phận được phủ bởi rừng cây nhiệt đới và rừng cây rụng lá bán nhiệt đới rậm rạp giúp bộ đội hành quân không lo kẻ địch phát hiện,vì vậy không quân Mĩ rải một lượng lớn chất độc màu da cam xuống hậu phương Bắc Việt để mục tiêu quân sự bí mật ở Bắc Việt không còn ẩn dấu được và đồng thời cắt đứt tuyến đường mòn bí mật *** . Chất độc này dùng để diệt cỏ rụng lá, bất kì loài thực vật nào sinh sống trên trái đất đều không thể sống sót khi tiếp xúc với chất này.

Đó là lần đầu tiên hội Tư Mã Khôi lĩnh giáo sự tàn khốc và đáng sợ của chiến tranh hiện đại. Đến Miến Điện, mọi người cũng nghe nói tới loại vũ khí hoá học này,mà được phát minh đầu tiên là bọn Đức Quốc Xã,sau đó quân đồng minh Anh-Mĩ tiếp tục sáng chế và bí mật chuyển một lượn lớn bom mìm chứa chất độc màu da cam đến các chiến trường ở Thái Bình Dương để chiến đấu với quân Nhật. Chất độc màu da cam không chỉ có khả năng giết chết thực vật, mà còn có khả năng giết chết con người. Tuy nhiên, người bị nhiễm chất này tại thời điểm ấy không hề xuất hiện biểu hiện khác thường, nhiều năm sau mới phát bệnh, nguy hiểm trực tiếp hoặc gián tiếp đều rất nguy hại. May mà khi ấy, quân Nhật tan rã thảm bại đã được dự đoán trước, nên quân đồng minh không có cơ hội sử dụng nó trên diện rộng

Tư Mã Khôi phát hiện sau khi bom địa chấn nổ , hệ thực vật trong đầm lầy trở nên dị thường,bầy cá sấu và thằn lằn ở gần đó cũng bỏ đi chạy trốn mất tăm, lúc này anh mới kinh hoàng nhớ ra loại chất độc anh mới nghe tên chứ chưa bao giờ trải nghiệm. Quả bom địa chấn đã được cải tiến đến chín phần , mục đích thực sự không phải là phá hủy mạch đất ở khe núi Dã Nhân, mà phá hủy hệ thực vật dưới đáy động

Ngọc Phi Yến cũng là người nhanh mắt sáng dạ, khi nghe Tư Mã Khôi giải thích bí mật của quả bom địa chấn cô ta liền lập tức xâu chuỗi các sự kiện và có ngay lời giải. Trong lòng khe núi quanh năm không thấy mặt trời,phần đáy lại bị hệ thực vật um tùm che phủ đó chắc chắn không phải hệ động thực vật thông thường dưới lòng đất. Ngoài ra, lòng đất không ngừng phun ra một lượng lớn sương mù dày đặc, những việc đó có liên quan đến nhau. Quả bom địa chấn, trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải được cài loại chất độc gây rụng lá đặc biệt nào đó, có thể chuyên dùng để hủy diệt hệ thực vật dưới lòng đất bởi vì vậy Nấm mồ xanh mới không ngừng phái người liều chết thâm nhập vào khe núi kích hoạt quả bom, nhưng không hiểu hắn hành động như vậy, rốt cục là nhằm mục đích gì?

Ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt từ lâu đã khôn màng tới sự sống chết của bản thân. Sau khi phát hiện trong bom địa chấn có chứa chất độc màu da cam, lúc đầu ai nấy đều khó tránh khỏi hoảng loạn, nhưng nghĩ lại họ thấy rằng thế cũng chẳng sao. Tuy nói di chứng hậu hoạ của loại vũ khí hoá học này là vô cùng vô tận, lúc đó ở tại hiện trường phát nổ,thì dù có mặt nạ phòng độc nhưng với tình trạng không mặc trang phục đặc biệt phòng chống hóa chất, e rằng cũng không bảo vệ được hòan toàn. Nhưng dù sao thì chất độc chẳng thể phát tác ngay tức thì, vì thời kì ủ bệnh có thể kéo dài tới 3 năm,cũng có thể 7 hoặc 8 năm,thậm chí có thể lâu hơn, ai mà nói chính xác được. Lúc này Karaweik đã chết, trong lòng mọi người đều đau buồn, nên chẳng muốn bất kì liên quan gì đến núi Dã Nhân này nữa, họ chỉ mong cơn giông tố tạm ngớt là lập tức lên đường

Tuyệt thấy Ngọc Phi Yến thần trí bất định, cho rằng cô ta sợ di chứng để lại do chất độc màu da cam mang đến,liền nói:'Việc này đúng là rất khó chấp nhận,chúng ta chẳng ai thấy dễ chịu cả, nhưng dù sao việc cũng đã xảy ra rồi,cô nghĩ nhiều cũng vô ích thôi'

La Đại Hải trong lòng đang sẵn bực mình, thấy Ngọc Phi Yến cau mày thiểu não,thì càng được thể cười vui trước nỗi đau kẻ khác:'gặp phải chuyện đen đủi này,với cô có thể là địa ngục, nhưng với chúng tôi,nó chẳng qua chỉ là cơm bữa thường ngày thôi'

Tuyệt đẩy Hải ngọng sang một bên,tiếp tục khuyên giải:'từ khi đội thám hiểm vào núi đến nay,trên đường đi bị tổn thất thương vong rất nặng nề,thoát khỏi thiên la lại rơi vào điạ võng,những hung hiểm của núi Dã Nhân dường như vô cùng vô tận,chỉ sợ là rơi vào cái hố không đáy, chớp mắt vô tình,còn quay đầu là kế sách, hay là cô cùng chúng tôi trốn khỏi núi cho xong?'

Kì thực sau khi hội Xuyên Sơn Giáp gặp phải bất trắc,Ngọc Phi Yến đã suy tính tới việc rút tay không làm nữa,nhưng tâm trạng của cô lúc đó chẳng khác nào tâm trạng của kẻ đánh bạc. Vì phi vụ làm ăn này mà bọn cô đã bỏ ra bao nhiêu tiền của,nếu giờ đứt gánh giữa đường,chằng phải tất cả công sức đều đổ xuống sông,xuống bể cả hay sao?Cuối cùng càng lún,càng sâu,càng lúc càng thua đậm,đến khi thực sự muốn dừng chân,thì tất cả đã quá muộn.

Lúc này Ngọc Phi Yến nghe Tuyệt nói,thực sự như người mù được chữa sáng mắt,lời nói đã khiến cô giác ngộ triệt để. Cô ngẫm lại thấy quả không sai,sau khi quả bom địa chấn phát nổ, núi Dã Nhân không biết xảy ra những hiểm hoạ gì nữa,thế là cô gật đầu chấp nhận cùng ba người sống sót của đội du kích, nghĩ cách tháo chạy khỏi núi Dã Nhân.

Ai ngờ đúng lúc đó, mặt đất dưới chân sụt lở dữ dội làm mọi người cuống quýt. Cho rằng sóng địa chấn chưa hoàn toàn dứt hẳn,người nào người nấy hấp tấp gắng sức đứng lên,thi nhau lùi ra sau né tránh. Đến khi dẫm chân lên được chỗ đất rắn chắc liền bật đèn halogen lên chiếu sáng bốn hướng xung quanh,họ chỉ thấy cả đầm lầy xung quan sụt lún nhanh đến chóng mặt. Quần sáng của đèn chiếu tuy rằng không thể rọi đến nơi xa,nhưng cũng có thể phán đoán được tình hình sụt lún đất này chắc là điểm trung tâm phát nổ đang khuếch tán rộng ra bên ngoài.

Tại khu vực bị lún xuống,đầu tiên là mặt nước không ngừng xuất hiện bọt khí, sau đó hiện ra một vũng xoáy hình trôn ốc, nước tù và bùn lầy trong đầm dường như liên tiếp bị hút xuống dưới, cuối cùng cũng lộ ra một đường vực thẳm, cúi đầu xuống nhìn chỉ thấy tối mịt, không rõ đáy sâu bao nhiêu. Thì ra dưới vùng đầm lầy trong khe núi Dã Nhân còn tồn tại vực sâu hút không thể lường được như vậy.

Ngọc Phi Yến thấy sự việc này ẩn chứa nhiều quá uẩn khúc, kì bí,bất giát nghĩ đến tầng đất lúc trước nhìn thấy ở đáy động: chúng đều là hợp chất silicat,màu vàng như gan chó,trông rất khác thường. Lúc đó gã Gấu trắng từng giải thích loại vật chất này tiềm tàng ở tầng giữa lớp vỏ địa lý và quyển Manti,chỉ có nơi vực thẳm dựng đứng với độ sâu trên chục ngàn mét mới xuất hiện, nhưng với độ sâu của khe núi Dã Nhân chắc chỉ khoảng hơn hai ngàn mét,nên căn bản không thể chạm tới điểm gián đoạn Moho.

Giờ đây xem ra thực sự không phải như vậy,gã Liên Xô đó quá nửa là hoa mắt nhìn nhầm,vật chất đặc biệt ở dưới đầm lầy chắc là do một loại thực vật bào tử nào đó sinh tồn trong lòng đất,hình thành một tầng 'KÉN' dày bì giữa lòng khe núi. Trải qua bao năm dài tháng rộng,kén trầm tích thành vũng bùn, lúc này tầng kén bị chất độc màu da cam trong quả bom địa chấn phá hủy, nên đang nhanh chóng héo rụng,chết rũ.

Mọi người hít ngược một hơi khí lạnh vào phổi nếu cả khu vực đáy sơn cốc như vậy thì quả thực không thể tưởng tượng được thực vật bào tử,giống hình chiếc ô kia,rốt cục có thể sinh trưởng to lớn cỡ nào, chỉ thấy vực sâu không đáy bị tầng kén niêm phong kín mít từ hàng chục triệu năm nay,đột nhiên bửa đôi ra. Đường nứt sâu hút đột ngột xuất hiện trước mắt mọi người,dường như là đường hầm đi xuyên vào tâm trái đất,nó vừa sặc sỡ quái dị,vừa mờ mịt thần bí,vươn dài xuống lòng đất vô cùng vô tận. Nó mang đến người ta cảm giác âm u,ghê rợn,bởi vì bên trong nó tràn ngập bóng tối chưa hề được biết đến,thứ bóng tối mà mắt thường và tâm linh con người vĩnh viễn không thể nào nhìn thấu được,mà nơi tận cùng của bóng tối lại càng là điều bí ẩn lớn nhất trong các bí ẩn

Sau khi đáy động xảy ra vụ nổ khủng khiếp, cỏ răng cưa trong đầm lầy đều bị chất độc da cam phá hủy,trong khi đó dưới vùng đầm lầy còn có cả 1 tầng thực vật loại bào tử đặc biệt,tạo thành bức bình phong giống như kén nhộng,rồi tất cả hệ thực vật và động vật lưỡng cư bò sát đều sống kí sinh trên lớp kén đó. Tác dụng ghê gớm của chất độc da cam khiến lớp kén trở nên khô héo , chết rũ rồi tốc độ phân rã diễn ra quá nhanh , khiến vực sâu không đáy bất ngờ hiện ra ngoài dự liệu. Cùng với sự hủy diệt của lớp phủ thực vật , sương mù dày đặc từ dưới vực sâu cũng ùn ùn phun trào , dần dần lan toả khắp không gian tối đen như mực.

Mọi người cúi xuống nhìn , phát hiện hệ thực vật trong lòng đất núi Dã Nhân dường như là gốc rễ của sương mù, nhưng đầm lầy ở đó đang không ngừng sụt lở , không cho phép họ nán lại lâu hơn, thế là cả hội đành phải nhanh chóng rút lui ra xa.

Trải qua hàng loạt biến cố bất ngờ xảy đến, trong lòng Tư Mã Khôi đã sắp xếp được toàn bộ sự việc: đây chắc chắn là nơi sâu nhất của núi Dã Nhân, cũng là nơi chôn giấu 1 bí mật kinh người nào đó, thế nhưng lại bị đám sương mù bí ẩn không tiêu tan bủa vây cả ngàn năm, biến nơi này thành chốn cách biệt đối với thế giới bên ngoài, hình thành nên một rào cản không thể nào phá vỡ. Vậy nên, chỉ có cách sử dụng chất độc hóa học đặc chế gây rụng lá, thì mới có thể hủy hoại đám thực vật tạo ra sương mù dưới lòng đất đó. Từ hai mươi mấy năm trước, người ta đã sớm chế tạo bom địa chấn chứa chất độc hoá học này, đồng thời cũng liều chết lái chiếc tiêm kích vận tải thâm nhập đáy động, thế nhưng lần hành động đó hoàn toàn thất bại, những thành viên phi hành đoàn may mắn sống sót, sau đó bị tan biến trong sương mù

Nhưng lớp sương mù phủ thực vật khổng lồ sản sinh trong sương rốt cục là giống cây gì? Hội Tư Mã Khôi hoàn toàn không biết. Động thực vật ở núi sâu rừng già Bắc Miến có đến hàng chục triệu loài,giờ đây những loài đã phân chi phân họ biết được chỉ chiếm một phần mười,số còn lại đều thuộc phạm trù thế giới chưa từng nhìn,thấy chưa từng nghe thấy.

Ngoài ra, các hiện tượng quái dị trong sưông mù, những hà thám hiểm biến mất không tung tích, thực vật bào tử che phủ vực sâu dưới lòng đất, tất cả những ẩn số ấy rốt cuộc chôn giấu bí mật gì? Bao nhiêu nghi vấn đặt ra không thể giải thích,hơn nữa còn hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của mọi người.

Tư Mã Khôi suy ngẫm có lẽ nên đi sâu vào đáy động sẽ giải được câu đố. Với tính cách thường ngày của Tư Mã Khôi, chắc chắn anh cũng rất hiếu kì,muốn tìm hiểu mọi nguồn,đồng thới xuống thám thính một chuyến. Thế nhưng giờ đây anh lại chẳng có tâm trạng đó,mấy năm ở Miến Điện,kí ức tàn khốc còn lưu trong bộ nhớ,tất cả dường như một cơn ác mộng không thể phai nhoà. Bây giờ,anh chỉ muốn rời khỏi chốn qủy quái này càng xa càng tốt.

Bốn người không quản cảm giác mệt mỏi và đau đớn đang lan toả khắp cơ thể,cùng lôi kéo nhau đạp bùn , rẽ nước đi về phía khu vực đường viền đáy khe sâu. Khe núi Dã Nhân là một huyệt động dựng đứng ,trên hẹp dưới rộng, phần đáy vô cùng thênh thang thoáng đạt. Cuồng phong giông tố do cơn bão Buddha mang tới, khiến lòng đất lênh láng nước tụ, nước mưa thuận theo khe nứt tầng đá trong khe sâu không ngừng thẩm thấu vào trong,làm cho nơi lòng núi trước đây bị cát sỏi, bùn đất chèn kín, giờ đều được xuyên thông. Bởi vậy bọn họ suy đoán, bốn phiá huyệt động chắc chắn không phải bức tường thép bao vây kín mít, khi đã có một lượng lớn nước mưa nhỏ xuống thì chân núi sẽ xuất hiện rất nhiều đường nứt, giờ đây sương mù cũng đã tan hết, chỉ cần đợi mưa lớn ngớt cơn là có thể lần mò mạch đất, rút quân khỏi núi Dã Nhân.

Nhưng trời đã không chịu chiều lòng người thì biết làm sao. Bốn người đang cuống cuồng chạy trốn,chân sau đá chân trước,đi chẳng được bao xa, bỗng cảm thấy dưới chân hẫng xuống đột ngột làm cả hội ngã lăn ra đất,thì ra thực vật dạng kén dưới đầm lầy khô héo quá nhanh, khiến vực sâu nhanh chóng sụt lở, nuốt chửng chỗ đặt chân của mọi người

Hội Tư Mã Khôi ngã trên mặt đất, khắp nơi đều là bùn lầy, dù tay giãy chân đạp như thế nào, họ cũng không thể thoát thân ra nổi, tất cả đều theo đám bùn đất nát trượt xuống đáy động sâu thẳm dưới đầm lầy

Phần đáy động như thể vực sâu không đáy này, lại có cây cổ thụ chằng chịt quấn quýt ,đan xen vào nhau,tuy tất cả đã khô héo,nhưng tàn tích để lại chưa hoàn toàn mục nát, hình hài vẫn còn nguyên, cành cây thậm chí vẫn giữ được những nhánh xiên nhỏ. Loại cây cổ thụ này dày đặc tầng lớp như thể một cánh rừng rậm dưới lòng đất, có lẽ mạch nước chảy xuống bào mòn từ bao nhiêu năm trước khiến tầng địa bì lỗ chỗ này sụt xuống. Hội Tư Mã Khôi lực bất tòng tâm, đành thuận thế trượt đến nơi thoai thoải. May mà chỗ nào cũng toàn bùn đất gỗ mục, nên chẳng ai bị thương nặng. Mọi người tập hợp nhau lại, giơ đèn chiếu lên, chỉ thấy mình bị rơi vào một tán cây có dạng như nấm đá, phần thân dưới là một thân cổ thụ to cỡ mười vòng ôm, bên trong rỗng ruột, người có thể chui vào trú chân, thế là mọi người liền chui vào bên trong khi tai vẫn còn nghe tiến bùn đất liên tiếp cuộn chảy không ngớt, còn bộ rễ của thực vật bào tử rủ xuống lòng đất,cũng nối nhau trút xuống. Lúc này cho dù họ có bản lĩnh lớn bằng trời cũng không trèo lên được, ai nấy đều liên miệng than vãn. Hải ngọng tức giận đá chân một hốc cây, lớn tiếng chửi:'bận này thì đúng là mẹ nhà nó đi đời thật rồi, có biến thành chim cũng chẳng bay ra nổi" Tư Mã Khôi thầm ước lượng , thể tích sụt lở này là rất lớn, nhưng lối ra chưa hẳn đạ bị bùn đất lấp kín, thực vật bào tử kia tuy bị chất độc da cam hủy hoại, nhưng vô số rễ của nó đều bám chắc vào lòng đất, không chừng vẫn có thể bám vào những cái rễ chưa bị đứt, trèo ngược lên trên. Có điều, anh thấy mọi người đều sức cùng lực kiệt, hơn nữa vết thương trên đầu Tuyệt cũng không nhẹ, nếu hành động vội quá , chỉ sợ sẽ xảy ra bất trắc, thế là anh bèn nói:' không ngờ nơi sâu nhất dưới khe núi lại thế này. Tôi thấy nơi đây cũng tạm coi là chốn đào nguyên nho nhỏ, chi bằng cứ nghỉ ngơi một vài tiếng, rồi nghĩ cách sau'. Ngọc Phi Yến khẽ than:' hàng nghìn năm không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, hằng nghìn năm chẳng có người nào lui tới, nơi đây quả là chốn đào nguyên để cô hồn dạ qủy mai danh ẩn tích ,né tránh thế sự'. Nói xong cô rút lương khô ra, chia cho mọi người ăn, rồi tập hợp, kiểm đếm hành lý còn sót lại, phát hiện thấy các thiết bị chiếu sáng cùng thuốc súng bị rơi rớt nghiêm trọng, số lương thực còn lại chỉ đủ 4 người ăn trong vòng nửa ngày, trong lòng không khỏi lo lắng.

Vết thương trên đầu Tuyệt tuy đã khép miệng, nhưng vì mất máu quá nhiều khiến thân thể cô vốn đã yếu ớt,giờ lại càng không thể tiếp tục gắng gượng, cô gối đầu lên ba lô rồi mau chóng thiếp đi.

Tư Mã Khôi nhìn thấy giọt nước mắt đọng trên khoé mắt Tuyệt, biết là cô đang đau lòng vì cái chết đột ngột thảm thương của Karaweik, nên trong giấc ngủ mộng mị vẫn day dứt không nguôi, anh bèn dùng tay giúp cô khẽ quệt vệt nước mắt. Đến lúc đến lượt mình phải ngủ một lát , thì anh mãi vẫn không thể chợp mắt.

Hải ngọng và Ngọc Phi Yến cũng vậy, thần kinh ba người bọn họ rơi vào trạng thái căng thẳng cao độ suốt một thời gian dài, huống hồ giờ đây thân vẫn đang trong vòng nguy hiểm, tia hi vọng sống sót thật mong manh, bởi vậy họ rất khó đột ngột thả lỏng cơ thể,đành ngồi thức bên cạnh ngọn đèn mờ ảo.

Tư Mã Khôi thầm nghĩ:"Nếu lúc này mà bà giáo dạy toáng hồi cấp 1 của mình có mặt ở đây thì tốt biết mấy,bà ấy không chỉ giỏi toán mà có khả năng đặc biệt là chỉ cần giảng bài trên bục giảng thì học sinh trong lớp mí mắt trên dính với mí mắt dưới

,thần kì như thuật thôi miên,nói ngủ là ngủ được ngay,trời có sấm cũng chẳng dậy nổi".

Anh đang nghĩ lung mung rốt cục vì mệt mỏi quá nên mắt cũng díp lại, ý thức dần chập chờn mơ hồ. Đúng lúc anh đang nửa tỉnh nửa mơ, thì cảm giác dường như cạnh mình có điều gì khác thường. Đội thám hiểm có tất cả hơn ba mươi người, những người sống sót đi vào khe núi chỉ còn 6 người. Sau khi bom địa chấn trong chiếc máy bay tiêm kích phát nổ, chất độc da cam phát tán khiến cả vùng đầm lầy sụt xuống nhốt những kẻ sống sót ở nơi này, kể cả bản thân, bây giờ chỉ có 4 người mà thôi, thế nhưng không biết tự lúc nào, dưới bóng đèn yếu ớt,thấp thoáng thừa ra một bóng người.

Tư Mã Khôi thấy người đó ôm hai đầu gối,bất động ngồi xuống cạnh mình, không biết đang nhìn cái gì, anh cảm thấy rất đỗi quái dị:'mình gặp ma sao? người này là ai vậy'. Anh rất muốn gắng gượng xem rõ thân hình, mặt mũi người đó, có điều ánh đèn mờ ảo đến nỗi khiến người ta dường như chẳng thể mở nổi mắt ra, tuy rằng khoảng cách rất gần, nhưng anh chỉ thấy hình hình, bóng bóng, không thể nhìn một cách xác thực.

Tư Mã Khôi lòng đầy nghi hoặc. Anh nhớ trong khoang máy bay tiêm kích vận tải, mọi người phát hiện nấm mồ xanh trà trộn vào đội thám hiểm nhưng chỉ nghe thấy tiếng, chẳng lẽ giờ đây nấm mồ xanh lại quyết định hiện thân. Tư Mã Khôi chẳng nói chẳng rằng quyết định giơ tay bóp chặt vai người đó để xem mặt mủi đối phương như thế nào! Chẳng ngờ người đó cũng quyết định đứng dậy, trong chốc lát đường như mặt đối mặt với Tư Mã Khôi, do khoảng cách quá gần nên ngũ quan khó phân biệt, trong thời khắc đó anh chỉ thấy đôi mắt giống như cặp hố đen.

Khi nhìn thấy ánh mắt đó, thì anh giống như bị một cục đá băng lạnh buốt ném thẩmg vào ngực, phút chốc cơn hàn khí ác nghiệt bất giác ùa đến, khiến mỗi lỗ chân lông của anh đều tê cóng thấu xương. Anh định rút con dao săn ra thì ngọn đèn đặt trong hốc cây vụt tắt, không gian xung quanh trở nên tối đen, xung quanh chẳng còn động tĩnh gì nữa.

Khi Tư Mã Khôi bật được chiếc đèn pin giắt theo người, thì chỉ thấy 3 người bạn đồng hành đang ngủ rất say, gần đó chẳng có bóng dáng ai khác. Khắp người anh từ trên xuống đều ướt sũng mồ hôi lạnh, trong lòng không khỏi hoài nghi chuyện ban nãi chỉ là một giấc mộng.

Lúc đó hội Ngọc Phi Yến và Tuyệt bị ánh đèn pin đánh thức dậy, Tư Mã Khôi kể lại chuyện mới xảy ra cho bọn họ nghe, cuối cùng nói:"nếu không phải áp lực thần kinh của tôi quá lớn,mà tưởng tượng ra âm hồn thì cũng là do cánh rừng già dưới lòng đất rất quái dị, không nên nán lại lâu'.

Mọi người suy đoán:' cánh rừng già này quá nửa là tầng sâu nhất trong khe núi Dã Nhân, chắc chôn dấu nhiều bí mật còn độ nguy hiểm thì miễn bàn, giờ đây nghe Tư Mã Khôi kể lại ,ai nấy đều cảm thấy kinh sợ, rợn tóc gáy, chẳng người nào muốn lưu lại lâu hơn. Sau ít phút nghỉ ngơi, họ thay pin đèn, lấy lại tinh thần, tiếp tục khởi hành.

Tư Mả khôi giơ cao đèn Halogen mở đường. Ngọc Phi Yến vác khẩu súng xung phong Uzi cùng Tuyệt đi ở giữa. Hải ngọng ôm khẩu săn voi ngoại cỡ đi sau cùng. Bốn người bám sát nhau, lấy la bàn phân biệt phương hướng, họ đi xuyên qua cánh rừng um tùm, lần mò đến khu đất địa thế cao hơn. Trong rừng rậm vùi sâu dưới lòng đất, chỗ nào cũng yên ắng khác thường, mọi người đi loạng choạng trong lớp sương mù giăng mắc mờ ảo. Đến chỗ phiá trước có cây cổ thụ đổ rạp chắn ngang đường. Tư Mã Khôi tiến lên, giơ cao đèn halogen quét một đường, rồi đang định đi vòng qua nó thì bất ngờ nhìn thấy trong lùm gỗ mục khẳng khiu trơ cành, ẩn hiện một đôi mắt đỏ lòm như máu, tà khí phát ra từ ánh mắt hung ác rợn người.

Tư Mã Khôi loé lên suy nghĩ :"thì ra ở đây có mai phục". Anh tự biết nếu hạ thủ trước chưa chắc đã tốt, nhưng ra tay sau chắc chắn sẽ lãnh đủ hậu quả, nên không do dự nửa giây, anh liền băm mạnh con dao săn trong tay xuống. Chỗ dao cắm xuống chỉ nghe "keng" một tiếng, như chặt phải vật gì rất cứng, tay cầm dao bị tác động run lên bần bật.

Lúc này ba người còn lại cũng đuổi kịp đến ngay sau lưng Tư Mã Khôi, mọi người đều nắm chắc vũ khí và định thần lại quan sát, chỉ thấy ánh vàng loé lên chói cả mắt, thì ra đây là tượng một con mẵng xà được đúc bằng vàng. Đôi mắt của mẵng xà vàng được nạm đá Rubi bị ánh sáng chiếu vào, phát ra từng lớp sóng quái dị làm cho đôi mắt như đang không ngừng đảo qua đảo lại , thần thái giống y như con rắn sống. Phạt mấy cành khô cạnh con mẵng xà, họ phát hiện nó là một bức tượng được khắc trên thỏi vàng, mà thể tích thỏi vàng này là rất lớn, khác hẳn những thỏi vàng thông thường.

Nhìn cảnh tượng này, mọi người kinh ngạc, và càng kì lạ hơn vì không biết tại sao thỏi vàng lại nằm ở đây. Tiện tay gạt mấy cành cây và bùn đất ở gần đó sang một bên, họ lại phát hiện trên dưới trái phải thỏi vàng, là vô số thỏi vàng khác, không nghờ đó là một bức tường thành được lắp ghép bằng những thỏi vàng.

Bức tường thành bằng vàng cao vút, đúc tầng tầng lớp lớp các bức phù điêu, mỗi bức phù điêu được khảm nạm những viên đá quý với màu sắc khác nhau. Tất cả sinh linh trời đất, uy nghiêm của thần phật, truyền thuyết trong sử thi, thánh chiến vinh quang, đều được chuyển hoá bằng những dấu tích huy hoàng rực rỡ, rồi vĩnh viễn ngưng tụ lại ở bức tường. Sự diễm lệ, hùng vĩ siêu nhiên của nó đã đủ khiến trí tưởng tượng mong manh và nhợt nhạt của loài người sụp đỗ nặng nề.

CHƯƠNG 5: THÀNH NHỆN VÀNG HỒI THỨ 1: TOÀ THÀNH BỐN TRIỆU BẢO THÁP(1)

"Vận may" - cái thứ ấy có thể là bà mẹ đẻ đối với người này nhưng lại là mụ dì ghẻ đối với kẻ khác.

Tư Mã Khôi cảm thấy mấy người của anh chắc đang được mụ dì ghẻ nuôi dưỡng, bởi họ rơi vào nơi sâu nhất dưới đáy núi Dã Nhân cùng với loài thực vật dạng kén. Địa hình nơi này rất đặc biệt, không biết bao nhiêu năm trước đã trải qua những kiếp nạn long trời lở đất nào, mà khiến mạch nước lún sâu đến như vậy, lòng nui dần trống hoác, từ đó cả cánh rừng rậm nguyên sinh rộng lớn bị thụt xuống đáy động.

Lòng khe núi ngay sau đó liền phát triển loài thực vật bào tử giống hình chiếc ô, che phủ hoàn toàn cánh rừng nguyên sinh dưới lòng đất, ngày dài tháng rộng chẳng ngờ lại tích bùn thành đầm. Huyệt động thâm u sâu hơn hai ngàn mét theo chiều đứng này, mải mãi chẳng bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời, bởi thế tốc độ phân hủy mục nát của cây cối diễn ra rất chậm chạp, màu sắc nhợt nhạt, đập vào mắt chỉ thấy toàn như gấm dệt đen sì sì, nếu như không hề xảy ra biến cố gì, thì chỉ sợ mấy chục ngàn năm nữa, hình hài của nó vẫn giử nguyên như cũ.

Mãi đến khi quả bom địa chấn trong chiếc tiêm kích vận tải phát nổ, chất độc màu da cam khuyếch tán khắp nơi , hủy hoại lớp phủ thực vật dày đặc kín trong không gian kín mít dưới đáy cốc, rồi đầm lầy theo đó sụt lở xuống dưới, thì khu vực cấm địa này bởi vậy mới bị lộ ra ngoài.

Do điểm phát nổ không xảy ra ở nơi trung tâm sơn cốc, nên lớp phủ thực vật xa nhất tuy cũng tận số diệt vong nhưng mức độ hủy hoại không nghiêm trọng lắm , vẫn còn vô số những chiếc rễ đen sì, to lừng lững như cột đình đâm rủ xuống lòng đất . Bốn kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm di chuyển dần xuống hi vọng tìm thấy khu vực có thể bò ngược lên trên.

Ai ngờ , trong cánh rừng sâu dưới lòng đất âm u này , lại ẩn dấu bức tường thành được xếp bằng vàng. Thân tường cao vút dựng đứng bị che phủ bởi bùn đất và rể khô, gạt bỏ lớp bụi đất che phủ bên ngoài , liền lỗ ra ánh vàng kim chói mắt . Bóng tối dày đặc và màn sương mù mỏng tang bủa vây tứ bề khiến mọi người không thể nhìn rõ quy mô của bức tường vàng , chỉ thấy phù điêu khắc trên thỏi vàng trùng trùng điệp điệp , vô cùng vô tận, tuy dày đặc nhưng vẫn có thứ bậc, trình tự tinh ảo tuyệt luân, kĩ thuật chế tác hoàn mĩ như thể không phải vật chốn trần gian.

Hội Tư Mã Khôi giơ cao đèn chiếu halogen quan sát một hồi lâu, người nào người nấy đều tròn mắt kinh ngạc , chỉ thấy mỗi thỏi vàng trước mắt đều được đúc thành một tầng khung tháp cổ khắc hình mặt người , bảy thỏi hợp thành một thể , quấn quanh chân tháp là mẵng xà , hình thái mỗi con một khác , thiên biến vạn hoá , chẳng bức nào giống bức nào . Các bức phù điêu trong chân tháp lại vẽ trời đất bao la mênh mông , bên trên là trăng sao nhật nguyệt , bên dưới là sinh linh , muông thú , tiên nữ phiêu bồng , mẵng xà dữ tợn , dũng sĩ đầu người mình voi , thậm chí cả cuộc chiến tranh huy hoàng giáo vàng ngựa sắt và cả chư vị thần phật đang cúi nhìn chúng sinh đang chen chúc dưới phàm trần . Có thể nói , thiên địa vạn vật không gì không bao hàm trong đó.

Miến Điện chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn hoá Ấn Độ cổ, ngàn năm nay, Phật pháp cực thịnh chẳng ngày suy vong ,nơi nào cũng có đền đài, miếu mạo nổi tiếng, nhưng thần phật trong những bức phù điêu vàng này hình thái vô cùng đặc biệt, nhuốm đầy màu sắc tôn giáo li kì nơi đất khách, thậm chí nó còn khác biệt rất lớn với hình tượng thần phật ở bất kì nơi nào trên thế giới. Dường như từ bản thân bức vẽ, người ta có thể nhìn thấy bóng dáng thần bí đã sớm biến mất của một vương triều cổ đại.

Bốn người nằm mơ cũng không thể ngờ tới trong cánh rừng già núi sâu Bắc Miến, lại có nhiều vàng thỏi đến như vậy. Họ lần lượt gỡ bỏ lá cành mục nát hai bên sa, những thỏi vàng khảm nạm đầy đá quý và phù điêu lần lượt hiện ra trước mắt. Không biết tường thành này có điểm tẫn cùng hay không, bởi càng nhìn càng hoa mắt chóng mặt, trong khi ánh sáng của đèn chiếu chỉ soi rõ được khoảng cách trong vòng năm đến mười bước chân. Cảm giác này chẳng khác nào thầy bói mù xem voi, gần đó lại không hề có vật tham chiếu, nên hoàn toàn không thể phán đoán tình hình thực tế.

Mọi người không ngớt bàng hoàng, kinh ngạc, chỉ thấy một cảm giác chật chội, bí ách rất mãnh liệt chợt ùa giội vào mặt. Bức tường thành cao vút đúc đầy phù điêu vàng giống như một vị thần Kim Cương lạnh lùng, tàn khốc, nó im lặng điềm nhiên chấp nhận sự kinh sợ và kính nể của kẻ phàm trần. Hội Tư Mã Khôi nhìn hồi lâu, trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, xương sống gai lạnh. Sức mạnh của tôn giáo có thể khiến con người điên cuồng rồ dại, chắc cũng chỉ có nguyên nhân này, mới tạo ra được một kì tích hiển hách và rạng rỡ như vậy. Tận mắt chứng kiến sự tồn tại của những bức phù điêu bằng vàng, lập tức sẽ khiến con người bật lên một cụm từ xuất thân từ Phật pháp : bất khả tư nghị , ý nói đến sự thần thông và trí tuệ của phật tổ cao siêu huyền diệu đến mức người phàm trần không thể nào bàn luận thấu đáo được.

Tư Mã Khôi vừa nhìn vừa đánh trống ngực vì quy mô của bức tường thành rộng lớn khó lường, nó ngang nhiên ngủ yên dưới lòng đất, dường như không thể đi vòng qua nổi. Chỉ có trời mới biết người ta đã dùng bao nhiêu thỏi vàng để tạo ra nó. Móng tường nằm sâu dưới đất một đoạn khá lớn, phần còn lại ẩn mình trong bóng tối, những gì thấy được trước mắt chỉ là một khúc thôi. Thực không thể tưởng tượng nổi cổ nhân hàng ngàn năm trước rốt cục đã xây nó bằng cách nào. Sơn cốc núi Dã Nhân bị sương mù trầm tích không tan bủa vây, nuốt chửng vô số sinh mạng, vì sao lại vùi chôn một lượng vàng nhiều đến thế? Chúng do triều đại nào để lại? Và những thỏi vàng tạc kín phù điêu ăn khớp hoàn toàn với nhau, tạo nên bức tường thành giống như một công trình kiến trúc này, rốt cục có hình dạng như thế nào?

Trong khắp năm châu bốn bể, những điều kì quái lạ lùng chưa tận mắt trông thấy, chưa tận tai nghe thấy không biết còn bao nhiêu nữa. Tuy hội ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt, lưu lạc ở nơi tha hương rừng già núi thẳm đã không ít năm, nhưng hiểu biết về lịch sử và văn hóa của Miến Điện chỉ có hạn, nên chẳng ai nói được nguồn gốc, lai lịch của nó.

Tuyệt nhìn sởn đến nỗi da nổi cả gai ốc, cô quay sang nói với Tư Mã Khôi:" những bức phù điêu dát vàng này dường như có điểm gì không giống lắm với những vị bồ tát thường thấy trong đền chùa ở Miến Điện, chúng cứ cổ quái thế nào ấy".

HỒI THỨ 1(2) TOÀ THÀNH BỐN TRIỆU BẢO THÁP

Miến Điện chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn hoá Ấn Độ cổ, ngàn năm nay, Phật pháp cực thịnh chẳng ngày suy vong ,nơi nào cũng có đền đài, miếu mạo nổi tiếng, nhưng thần phật trong những bức phù điêu vàng này hình thái vô cùng đặc biệt, nhuốm đầy màu sắc tôn giáo li kì nơi đất khách, thậm chí nó còn khác biệt rất lớn với hình tượng thần phật ở bất kì nơi nào trên thế giới. Dường như từ bản thân bức vẽ, người ta có thể nhìn thấy bóng dáng thần bí đã sớm biến mất của một vương triều cổ đại.

Bốn người nằm mơ cũng không thể ngờ tới trong cánh rừng già núi sâu Bắc Miến, lại có nhiều vàng thỏi đến như vậy. Họ lần lượt gỡ bỏ lá cành mục nát hai bên sa, những thỏi vàng khảm nạm đầy đá quý và phù điêu lần lượt hiện ra trước mắt. Không biết tường thành này có điểm tẫn cùng hay không, bởi càng nhìn càng hoa mắt chóng mặt, trong khi ánh sáng của đèn chiếu chỉ soi rõ được khoảng cách trong vòng năm đến mười bước chân. Cảm giác này chẳng khác nào thầy bói mù xem voi, gần đó lại không hề có vật tham chiếu, nên hoàn toàn không thể phán đoán tình hình thực tế.

Mọi người không ngớt bàng hoàng, kinh ngạc, chỉ thấy một cảm giác chật chội, bí ách rất mãnh liệt chợt ùa giội vào mặt. Bức tường thành cao vút đúc đầy phù điêu vàng giống như một vị thần Kim Cương lạnh lùng, tàn khốc, nó im lặng điềm nhiên chấp nhận sự kinh sợ và kính nể của kẻ phàm trần. Hội Tư Mã Khôi nhìn hồi lâu, trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, xương sống gai lạnh. Sức mạnh của tôn giáo có thể khiến con người điên cuồng rồ dại, chắc cũng chỉ có nguyên nhân này, mới tạo ra được một kì tích hiển hách và rạng rỡ như vậy. Tận mắt chứng kiến sự tồn tại của những bức phù điêu bằng vàng, lập tức sẽ khiến con người bật lên một cụm từ xuất thân từ Phật pháp : bất khả tư nghị , ý nói đến sự thần thông và trí tuệ của phật tổ cao siêu huyền diệu đến mức người phàm trần không thể nào bàn luận thấu đáo được.

Tư Mã Khôi vừa nhìn vừa đánh trống ngực vì quy mô của bức tường thành rộng lớn khó lường, nó ngang nhiên ngủ yên dưới lòng đất, dường như không thể đi vòng qua nổi. Chỉ có trời mới biết người ta đã dùng bao nhiêu thỏi vàng để tạo ra nó. Móng tường nằm sâu dưới đất một đoạn khá lớn, phần còn lại ẩn mình trong bóng tối, những gì thấy được trước mắt chỉ là một khúc thôi. Thực không thể tưởng tượng nổi cổ nhân hàng ngàn năm trước rốt cục đã xây nó bằng cách nào. Sơn cốc núi Dã Nhân bị sương mù trầm tích không tan bủa vây, nuốt chửng vô số sinh mạng, vì sao lại vùi chôn một lượng vàng nhiều đến thế? Chúng do triều đại nào để lại? Và những thỏi vàng tạc kín phù điêu ăn khớp hoàn toàn với nhau, tạo nên bức tường thành giống như một công trình kiến trúc này, rốt cục có hình dạng như thế nào?

Trong khắp năm châu bốn bể, những điều kì quái lạ lùng chưa tận mắt trông thấy, chưa tận tai nghe thấy không biết còn bao nhiêu nữa. Tuy hội ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt, lưu lạc ở nơi tha hương rừng già núi thẳm đã không ít năm, nhưng hiểu biết về lịch sử và văn hóa của Miến Điện chỉ có hạn, nên chẳng ai nói được nguồn gốc, lai lịch của nó.

Tuyệt nhìn sởn đến nỗi da nổi cả gai ốc, cô quay sang nói với Tư Mã Khôi:" những bức phù điêu dát vàng này dường như có điểm gì không giống lắm với những vị bồ tát thường thấy trong đền chùa ở Miến Điện, chúng cứ cổ quái thế nào ấy"

* * *

Tư Mã Khôi gật đầu:"tôi từng nghe phật tổ Thích Ca Mâu Ni được hạ giáng trong một gia đình hoàng tộc, là con vua Tịnh Phạn nước Ca Tì La Vệ(kapilavastu thuộc Nepal ngày nay). Khi mới sinh, ngài đứng trên bông sen vàng , hào quang trí tuệ toả khắp bốn phương, một tay chỉ trời một tay chỉ đất. Thân mình ngài màu vàng kim, cao một trượng sáu, biến hoá thần thông, không có gì không hiểu, không có gì không thông, phổ độ chúng sinh thiên hạ, tướng ngọc trang nghiêm, diệu pháp vô biên, được người đời mệnh danh là Thiên Nhân Sư. Nhưng thần phật trên bức phù điêu này có chút dữ tợn quái dị, tôi thấy mấy hình người ngợm này nhìn chẳng phải loại lương thiện gì, chỗ nào cũng bốc mùi tà khí....".

Hải ngọng kinh ngạc nhìn khốj vàng khổng lồ, không khỏj nảy sinh cảm giác thán phục, anh lấy tay vỗ bồm bộp vào mặt một vị thần trên bức phù điêu, miệng nhắc nhở Tư Mã Khôi:" thằng ôn nhà cậu mồm mép ý tứ một chút đi, đừng thất đức như thế được không hả? Dù sao thì cả đời tớ đây, đây là lần đầu tiên cảm thấy vàng nó lại thường như thế này, không ngờ có thể dùng vàng làm vật liệu xây dựng, chẳng khác gì gạch đá sỏi. Nếu vận chuyển hết số vàng này ra ngoài núi, đổi lấy vũ khí, không biết có thể trang bị cho bao nhiêu quân đội nhỉ? Đừng nói đánh chiếm lại Yangon chỉ là chuyện nhỏ, mà nếu biết dùng tiết kiệm một tý có thể phát động thế chiến thứ 3 không chừng. Hải ngọng tớ bình sinh chỉ có một mong muốn, đó là trở thành bộ trưởng Bộ quốc phòng. Lúc lựa mua vũ khí, tớ nhất quyết không thèm mua đồ của bọn khọm Mĩ, tuy đồ hiện đại thật , nhưng tần suất xảy ra sự cố là rất lớn. Đồ của Tiệp Khắc, Canada và Liên Xô chế tạo vẫn da thật thịt thật hơn, cho dù dính mưa lớn hay ngâm dưới sông sâu vẫn bòm bòm giòn tan như thường...".

Tuyệt khuyên La Đại Hải đừng nổi lòng tham cạo vàng trước mặt phật mà chuốc họa vào thân, huống hồ từ lúc mọi người chạy trốn khỏi hiện trường quả bom địa chấn phát nổ, họ đều bị dính chất độc da cam gây bỏng ty không rõ bom chứa loại chất độc gì? Nhưng hậu qủa nó để lại chẳng có kết cục gì tốt đẹp. Giờ đây, họ vừa thoát kiếp nạn để hồi sinh, đã là vạn hạnh trong bất hạnh rồi, điều nên nghĩ lúc này là thoát khỏi núi Dã Nhân trước khi đại nạn xảy ra, làm gì còn tâm tư mà động lòng tham nữa?

Tư Mã Khôi nói:"Tuyệt nói rất phải! Có điều khiến ai ai cũng động lòng, ai ai cũng yêu thích không chỉ mỗi người Trung Quốc ta thích đâu mà nhân dân trên toàn thế giới đều thích cả, vì nó tượng trưng cho hoà bình. Tôi thấy nếu vì nền hoà bình toàn nhân loại mà khuâng hết số vàng bạc, châu báu này ra ngoài, cho dù Phật tổ có biết, thì người cũng cảm thấy hãnh diện mà thôi..."

Tư Mã Khôi vừa nói chuyện với Tuyệt và La Đại Hải vừa liếc mắt nhìn trộm Ngọc Phi Yến, phát hiện thần sắc cô ả rất bất an, thậm chí có vài phần khiếp sợ, không biết là vì lí do gì. Từng có một vĩ nhân đã nói rất hay thế này:"một tên trộm mộ không muốn phát tài, thì không thể coi là một tên trộm mộ đạt tiêu chuẩn". Tư Mã Khôi cảm thấy việc này hết sức khác thường liền hỏi Ngọc Phi Yến xem cô nàng đã phát hiện ra điều gì.

Ngọc Phi Yến rốt cục vẫn là một nhân vật xuất chúng hàng đầu trong giới trộm mộ, nhìn thấy trên những bức phù điêu vàng có rất nhiều tháp cổ, trong đầu đại thể đã phác hoạ ra nét khái quát sự việc, chỉ có điều biết chừng ấy cũng như ếch ngồi đáy giếng mà chê trời bằng vung, tức thời chưa thể nói chính xác hoàn toàn được, nên chưa dám khẳng định chắc chắn. Thấy Tư Mã Khôi hỏi nên mới định thần lại trả lời:"tôi thấy màu sắc của mấy thỏi vàng kia hơi kì quái, không giống vàng thật nhưng rốt cục là loại vật liệu gì, thì hiện thời tôi chưa đoán ra. Ngoài ra dãy phù điêu đồ sộ này không phải là thành trì cũng không phải đền chùa miếu mạo, chỉ sợ nó chẳng phải công trình kiến trúc nào mà chúng ta có thể tưởng tượng, hơn nữa đáng lẽ nó không xuất hiện ở núi Dã Nhân mới phải..."

Mọi người nghe xong cảm thấy mơ hồ khó hiểu, tuy rằng họ quanh năm chiến đấu ở vùng núi Bắc Miến, nhưng chưa từng nghe qua chuyện này, câu hỏi chứa đầy trong bụng nhưng chẳng biết hỏi từ đâu.

Thần sắc Ngọc Phi Yến rất nghiêm trọng nói:" Rất có khả năng đây chính là toà thành Nhện Vàng do quốc vương Anagaya của nước Chăm pa cổ xây dựng, còn được biết dưới cái tên toà thành bốn triệu bảo tháp"

.........

Cô liền kể tóm tắt với mọi người đầu đuôi sự việc,thì ra cái gọi là thành Nhện Vàng là một truyền thuyết cổ xưa được lưu truyền từ hàng ngàn năm. Trước đây,ChămPa từng tồn tại một vương triều vô cùng lớn mạnh và hiển hách,lịch sử gọi là vương triều BaGan, phạm vi lãnh thổ vượt sang cả phần đất phía nam Đại Việt(nước Việt cổ) và phía bắc của Lào,tín ngưỡng theo hệ tôn giáo thần thú Vệ Đà(VeDa) của Ấn Độ giáo cổ đại. Họ chuyên sản xuất vàng, ngọc đẹp,đá qúy,và đó là một vương triều hùng mạnh,thịnh vượng và bị các chư quốc xung quanh nhòm ngó thế nhưng người Champa cổ đại đã đánh tan các vương triều từ Trung Nguyên,phía nam dẹp tan các vương triều Phù Nam (quốc gia phía nam Đại Việt), Lào trước sau không bao giờ mất thế thượng phong,... Mãi đến khi Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đem quân chinh phạt mới khiến đất nước này dần suy yếu. Thành trì của người Cham Pa cổ đa số bị khói lửa chiến tranh phá hoại, số ít còn lại cũng sớm trở thành sào huyệt cho dơi,chuột ẩn mình. Hiện ở Việt Nam vẫn còn một số truyền thuyết liên quan đến toà thành Nhện Vàng, giờ tuy các nhà khảo cổ phát hiện ra các di tích kỳ vĩ như Angco Wat ở Campuchia, Buddha Bà La Môn ở Indonesia w... Nhưng tất cả đều kém xa so với toà thành này,chỉ là chưa tìm đủ chứng cứ chứng minh toà thành này thật sự tồn tại.

Tương truyền ở phía tây có tháp Thông Thiên do vua Babylon xây dựng còn ở phương Đông có toà thành nhện vàng đối sánh. Dưới thời vua Anagaya cai trị ông đã rút kiệt ngân khố đúc một toà thành bàng vàng khảm nạm các loại đá quý và ngọc phỉ thuý,các bức phù điêu trên tòa thành có vô số hình bảo tháp bởi vậy nó mới có tên này. Nó lộng lẫy tuyệt đỉnh,có thể sánh ngang nhật nguyệt.

Người Chăm pa cổ rút kiệt ngân khố quốc gia đổ dồn vào toà thành Nhện Vàng từ đó quốc gia dần lụn bại,không thể chấn hưng,rồi cuối cùng mang đến vận đen suy bại diệt vong cho hậu thế. Các vương triều từng xâm lăng chinh phục Chăm Pa cổ lại không thể phát hiện tung tích toà thành này nên nhiều người cho rầng đây chỉ là một giai đoạn lịch sử thần thoại li kì,cùng toà thành Nhện vàng bí ẩn khôn lường này chỉ là truyền thuyết hoang đường mà thôi, chưa chắc đã có thật trên đời.

Mãi cho đến khi đại chiến thế giới thứ hai bùng nổ,kẻ xâm lược đã cướp bóc một lượng lớn văn vật cổ từ Việt Nam và Lào, trong đó có cả mấy bức bích họa của nước Chăm Pa còn lưu truyền lại,miêu tả hình của bốn triệu bảo tháp,và điều này đã cung cấp cho những nhà ngiên cứu hậu thế rất nhiều thông tin quý giá. Từ đó,người ta mới phát hiện ra tên gọi toà thành bốn triệu bảo tháp,bởi vì con số bốn triệu kì thực không được chuẩn xác lắm,còn bảo tháp trong bức phù điêu vàng rốt cục có bao nhiêu thì không thể nói chính xác.

Từ màu sắc mấy bức bích hoạ người ta có thể thấy hình thù kì quái của nó,đại thể đó là 1 kiến trúc hình bánh răng do nhiều thỏj vàng xếp khít vào nhau,phần giữa hình bầu dục phía ngoài có 8 chân dài ngắn khác nhau vươn ra tứ phía, cấu tạo chỉnh thể giống hình con nhện nên các nhà khoa học phương Tây gọi là toà thành Nhện Vàng và họ cho rằng đây chỉ là phù hiệu hoặc Tôtem cổ của vương triều Chăm Pa,chứ chưa hẳ là một vật thể có thực.

Cho dù toà thành Nhện vàng có thực cũng phải nằm trong lãnh thổ phiá bắc Lào mới đúng. Không ngờ nó lại bị chôn vùi dưới sơn cốc khổng lò của núi Dã Nhân Bắc Miến,nên chẳng trách trước giờ chẳng ai tìm thấy tung tích của toà thành này. Nhận thức của thế giới với toà thành này rất hạn chế, chỉ biết người ta dùng vàng thỏi đúc thành phù điêu rồi ghép lại mà thôi. Chẳng ai biết vì sao người xưa lại muốn đắp nó. Ngoài ra,thần thú Vệ Đà mà người Chămpa cổ thờ phụng chẳng có thân thể thực nhưng lại có vô số hình thể tượng trưng rất kì quái,mà mẵng xà và tháp cổ là đáng sợ nhất vì nó dự báo cho kết thúc và cái chết.

Ngọc Phi Yến cảm thấy trên những bức phù điêu vàng kia toả mùi tử khí rất nặng nề. Có quỷ mới biết vì sao vua Anagaya cho xây dựng con quái vật ấy hơn nữa Nấm mồ xanh bất chấp mọi giá để đi tìm. Lẽ nào chỉ đơn giản là vì vàng thôi sao?Phải chăng trong toà thành ẩn dấu một bí mật khác?Cô nói với mọi người:"Nếu chúng ta muốn giữ mạng sống tốt nhất là nên rời khỏi nơi này càng xa càng tốt"

Giữa lúc cô đang nói, trong bóng tối lại xuất hiện âm thanh của cành cây khô di chuyển cọ xát nghe ken két rợn người.

HÔI THƯ 2 CHAP 1 SONG ĐIÊN TRONG ĐÔNG TÔI

Hội Tư Mã Khôi nghe Ngọc Phi Yến nhắc đến truyền thuyết vua Anagaya nước Chăm pa xây dựng toà thành nhện vàng, ai nấy đều cảm thấy vô cùng kinh ngạc, từ khi khai thiên lập địa tới nay chưa bao giờ nghe nói thấy trên thế giới lại có chỗ kì dị như vậy, kì dị ở chỗ lấy đâu ra nhiều vàng như vậy, lại còn ghép với nhau hoàn toàn ăn khớp với nhau, rung lắc thế nào cũng ko đổ. Mọi người tuy thắc mắc nhưng không có tâm trí đâu đi tìm hiểu sâu về nó, bản thân họ còn đang nằm trong vòng nguy hiểm, mà trước tiên họ phải tìm đường thoát ra khỏi núi, bởi vậy họ cũng chỉ thuận miệng bàn bạc mà thôi. Nào ngờ lời của Ngọc Phi Yến chưa dứt lại nghe thấy tiếng ''ken két'' dị thường.

Ban đầu, mọi người cho rằng màng nhĩ bị chấn động bởi sóng địa chấn do qủa bom địa chấn phát nổ, sinh ra ảo giác. Nhưng liền sau đó cả hội cảm thấy hình như ko đúng, tai ù cũng ko có hiện tượng như vậy, lại phát hiện âm thanh cành cây khô di chuyển trên đỉnh đầu, thế là mọi người liền xách đèn halogen lên xem rốt cục có đang xảy ra điều gì bất thường. Thế nhưng ở đáy vực sâu hun hút này, do chịu ảnh hường của môi trường nên ăcquy tiêu hao rất mau, ánh sáng nhợt nhạt toả ra hầu như ko có tác dụng gì, đến đâu cũng là một dải đen sì sì, chẳng thấy gì hết.

Mọi người nghe tiếng động càng lúc càng dồn dập dường như có rất nhiều cây cổ thụ ngàn năm đang giãy giụa rạch đất, làm xuất hiện âm thanh rất chói tai khiến người ta cảm thấy dường như có luồng điện xẹt qua đầu, cơ thể tê giật hết cơn này sang cơn khác. Tư Mã Khôi nhớ lại lúc Chiếc Rắn đen 2 bị tấn công trong đám sương mù, khi ấy cũng phát ra kiểu âm thanh này. Thông tin mà Wilson- thàng viên đội thám hiểm để lại trước khi chết cũng nói là trong đám sương mù có tồn tại một '' vật thể sống'' rất to lớn và đáng sợ, nhưng màn sương bí ẩn đã bị mưa lớn trấn áp nên khi rơi xuống đầm lầy dưới lòng đất nên không có chuyện gì xảy ra đặc biệt . Lúc đó anh đóan, nguồn gốc của đám sương này rất có thể do lớp phủ thực vật trong không gian khép kín tạo ra, mải sau này chất độc màu da cam phá hủy hệ thực vật nơi đây mới không còn sự uy hiếp đáng sợ của đám sương mù giết người nữa, vậy tại sao lại xuất hiện tiếng động này? Lẽ nào sâu dưới đáy sơn cốc lại xuất hiện sương mù?.

continue......

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro