Miền Thơ Ấu -Vũ Thư Hiên- XIII-Hết

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

XIII

Hồi ký

Chợ, ấy là cái mặt của một vùng. Tới đâu tôi cũng thích rẽ vào chợ, bởi vì chợ kể cho tôi nhiều hơn bất cứ nhà thông thái nào về vùng đất tôi vừa tới, từ sản vật bản địa, mức sống của dân cho đến cung cách chèo lái của những người cầm trịch. Thêm nữa, chợ chính là nơi mà hoạt động của loài người được phơi bày, cái hoạt động của tồn tại, thực và mạnh ở đó không có đất sống cho tâm trạng buồn. Chợ bao giờ cũng vui vẻ, tấp nập, bận rộn, bao giờ cũng mang sắc thái hội hè. Có thể ví chợ như một đõ ong ở đó người truyền hơi ấm cho người. Thành thử, nhiều khi tôi đi chợ chẳng để mua sắm gì, chỉ cốt được lây nhiễm cái tâm trạng náo nhiệt mà chợ bao giờ cũng sẵn. Nhưng đó là khi tôi đã trở thành người lớn. Trong tuổi thơ, tôi đơn giản đầm mình trong cái sôi động của quần thể người, sung sướng và háo hức thưởng ngoạn những gì chợ có thể cho thấy. Mà ở chợ thì có thể thấy rất nhiều. Chợ Lao - chợ làng tôi - là một chợ lớn ở trong vùng. Lớn về bãi chợ rộng, hàng hóa nhiều, người đi chợ, cả người mua người bán, đông. Ngày phiên chợ, cô Gái dậy rất sớm. ăn cơm xong, bà đội thúng thuốc viên lên đầu, ra khỏi ngõ khi còn tối đất, tới chợ trước khi mặt trời mọc. Cái thúng được hạ xuống đất trở thành hiệu thuốc của bà lang. Trong khi cô Gái bán hàng, tôi được phép đi chơi chợ. Tôi nói đi chơi, bởi vì tôi chẳng mua gì, mà chỉ lang thang hết dãy này tới dãy khác giữa người bán người mua trong quán và ngoài trời, dưới bóng cây và giữa nắng. Những chuyến đi chơi như thế thực thú vị. Chẳng hạn, tôi có thể ngắm hàng giờ những tác phẩm nghệ thuật dân gian bày ngổn ngang trên một manh chiếu rách. Hàng chục con hổ, không con nào giống con nào, nhe nanh múa vuốt; chúng thậm chí chẳng cần có vằn hổ để xưng mình là hổ, trên thân chúng chỉ có những vệt men nâu quệt cẩu thả. Mấy ông lão chài chống tay xuống nơm, gương mặt không góc cạnh ngửa lên trời như đang lắng nghe tiếng cá đụng bên trong nơm mình. Những cái miếu nhỏ chẳng bao giờ được hưởng đủ men, men được đổ từ trên mái dào dạt chảy xuống chân miếu làm thành những vệt dài không đều cho ta cảm giác vừa có một trận mưa rào đi qua. Những ông Lã Vọng trầm tư với chiếc cần câu vô hình. Những ông tiên bé nhỏ không mắt mũi chăm chú với nước cờ hóc hiểm, đầu hơi cúi xuống trên cái bàn cờ tí tẹo không có quân... Tất cả những thứ đó đều có trên hòn non bộ nhà bác cố Tuyển. Thời gian làm cho chúng cũ đi, già đi, và càng già, càng cũ chúng càng kích thích trí tưởng tượng. Nghệ thuật dân gian của ta là thế: bao giờ người sáng tạo cũng dành chỗ cho trí tưởng tượng của người thưởng thức. Thu hút tôi mạnh mẽ không kém là hàng nan. Đó là dãy bán đồ đan bằng tre nứa. Những nan tre đều tăm tắp đủ cỡ được tay người đan theo đủ các nống khác nhau, gò theo các khuôn khác nhau thành rá to rá nhỏ, rổ cái rổ con, thúng đại thúng tiểu, gàu sòng, gàu dai, lờ ống, lờ thả, dậm to, dậm bé... Cô Gái tôi không bao giờ mua đồ nan. Bà đan rổ rá rất khéo, đã chẳng kém gì đồ chợ, mà lại còn chắc chắn hơn nhiều. Một cái rá hoặc một cái rổ bà dùng hàng năm. Khi nó tuột cạp thì bà cạp lại, rồi cạp lại nữa, cho tới khi nó trở thành bé tí, nhưng vẫn cứ đủ dùng cho bữa ăn chỉ có hai cô cháu. Mỗi lần đốn tre già thể nào cô tôi cũng để giành mấy cây đực thật chắc để đan một số rổ rá bỏ lên ránh. Chẳng bao lâu sau chúng lên nước đen nhánh và trở thành bền vững kỳ lạ. Nhưng lôi cuốn tôi hơn hết có lẽ là khu bán gà lợn. Tôi thích ngắm những chú gà con xinh như những nắm bông vàng tíu tít lăng xăng dưới chân một mẹ gà đầy cảnh giác luôn luôn xù lông ra bảo vệ đàn con trước kẻ thù tường tượng. Những chú vịt con mượt mà nhớn nhác trong những cái quảy tròn đan thưa. Những con vịt thiếu niên không ngớt nhô lên thụt xuống những cái đầu bóng và to mồm kêu váng lên khi có một bàn tay người mua thò vào lồng tóm lấy cổ để nhấc bổng lên ước tính nặng nhẹ. Trước mặt những người chủ không phải lái buôn là những con gà nhà, vịt nhà bị trói chân giương những cặp mắt thơ ngây lên hỏi nhau quàng quạc: "Thế này là thế nào? Tại sao bà chủ lại đưa chúng ta ra đây? Họ muốn làm gì chúng ta?". Nhưng những câu hỏi lập tức tất ngấm trong mắt chúng khi người chủ rắc xuống trước mặt chúng một nắm thóc. Thế là, quên hết mọi sự, chúng mổ lấy mổ để và giành nhau chí chóe. Dãy hàng lợn, người mua người bán phát vào tay nhau bèn bẹt để trả giá. Những con lợn nằm trong rọ, bị trói chặt bốn chân nằm tơ hơ trên mặt đất bẩn thỉu, những con nái xề phơi hai hàng vú như hai hàng khuy trên chiếc áo nhem nhuốc, những chú lợn con kêu ré lên như sợ bị chọc tiết, tất cả cái đám súc vật thảm hại ấy chẳng phù hợp chút nào với không khí mua bán hừng hực, ồn ào những giọng quát tháo, thấp thoáng những bộ mặt đỏ gay với những đôi mắt lấc láo. Thói quen mua bán lợn như vậy đã có hàng trăm năm nay rồi ở chợ làng tôi cũng như ở các chợ khác trong toàn vùng đồng bằng. Thành thử người ta cứ vậy mà theo, chẳng bao giờ nghĩ xem nó có cần thiết hay không. Con lợn, dù cho nó có nhiều hơn con gà con vịt những hai chân, cũng không phải là lý do để người mua người bán phải quát tháo nhau như thế. Thử nhìn đôi mua bán kia mà xem. Nếu tách họ ra khỏi chợ, ta sẽ nghĩ rằng họ sắp sửa đánh nhau. Người mua giận dữ vì người bán không chịu giá, thẳng tay phát đen đét vào lòng bàn tay ngửa ra của đối phương, mỗi lần phát lại nhích thêm một giá nhỏ nhoi. Hai bàn tay trở thành đỏ ửng. Hai cặp mắt long lanh rõi thẳng vào mặt nhau dò hỏi, thách thức. Sau nhiều lần lườm nguýt, bỏ đi, quay lại, phát vào tay nhau đen đét kèm theo những tiếng quát lác, cuối cùng hai bên cũng ngã giá được với nhau. Người mua hể hả. Người bán cũng hể hả. Con lợn được khiêng đi. Bỏ tiền bán lợn vào túi, người bán một phút sau đã trở thành người mua ở dãy hàng khác, có khi ở chính ngay khu chợ lợn. Đến lượt mình, anh ta lại mà cả riết róng, lại chịu đựng cái nhìn miệt thị của người bán mà giá trả của người mua bao giờ cũng là quá rẻ, chỉ có ngớ ngẩn mới trả giá như vậy. Tôi ngắm nhìn không biết bao nhiêu cuộc mua bán nơi chợ làng và thấy rằng người đi chợ, cả người mua lẫn người bán, thực là ngộ. Dường như khi bước vào cuộc mua bán, hai bên liền đeo lên cho mình một cái mặt nạ. Nhưng khi cuộc mà cả chấm dứt thì họ liền quẳng ngay cái mặt nạ xuống đất và cười với nhau một cách hồn nhiên như những đứa trẻ. Thì ra, phàm là mặt nạ thì cái nào cũng vướng víu. Cô Gái tôi có một cửa hàng thuốc ở chợ làng. Cửa hàng của cô tôi là cái thúng, trong đựng đủ các thứ chai lọ với những viên thuốc các màu. Bà ngồi dưới gốc cây đề ngay lối vào chợ, tách hẳn khỏi các dãy hàng. Người mua thường là khách quen. Họ từ các làng khác tới khi chợ vào phiên. Người làng thì không cần đợi tới phiên chợ, họ vào tận nhà để mua. Cô Gái ngồi, mặt nghiêm trang, lắng nghe khách hàng kể lể dài dòng về một ông chồng trúng phong, một đứa con bị sài, một bà mẹ bị tê thấp... rồi giốc vào lòng bàn tay nhăn nheo của bà những viên thuốc to hoặc nhỏ, màu đen hoặc nâu, xám, đếm cẩn thận từng viên rồi gói gọn gàng vào trong những trang giấy vở học trò mà bà tha về sau mỗi chuyến lên thăm các cháu ở Hà nội. Bà dặn kỹ càng cách dùng thuốc, uống một lần mấy viên, ngày mấy lần, chiêu bằng gì. Khách hàng được thuốc rồi vẫn còn dùng dằng chưa đi ngay, và giữa cô tôi và khách lại có câu chuyện thăm hỏi như thể họ là những người quen lâu ngày: - Thằng cháu bị cái nhọt bọc hồi nào, giờ chơi chứ? - Dạ, thưa bà, cháu chơi ạ. Nó ăn khỏe quá sức lẽ mình. - Trẻ con ăn khỏe là tốt, nó không chịu ăn chịu chơi mới khổ. - Khốn nỗi, gạo hồi này kém quá. - Tháng sau mới hơn được. Mùa năm nay tốt. Này, sao lâu không thấy ông Khán Dậu đi chợ? - Ông Khán bị ngã trẹo chân bà không biết sao? - Lạy Chúa tôi có nặng không? - Bây giờ đi phải chốg gậy. Ông Khán bị ngã đúng vào hôm cưới vợ cho thằng nhớn. - Vậy là thằng nhớn đã lấy vợ rồi kia đấy, nhanh thật. Nó lấy con nhà ai vậy? Cái quan hệ thân tình với khách hàng làm cho cô Gái mát lòng mát ruột. Tôi đã nói về cô tôi như một người riết róng, bủn xỉn, coi trọng đồng tiền. Tôi thấy cần phải nói thêm rằng mặc dầu vậy bà là người sởi lởi đối với khách hang nghèo; nhiều bận tôi thấy bà cho thuốc không lấy tiền. Tại sao bà lại xử sự như vậy, tôi không hiểu. Có thể, bà vẫn nhớ lời khuyên của ông tôi về chuyện nghề thuốc là nghề phúc đức, có thể, bà là người có lòng tốt được giấu kín mà cũng có thể, bà thích được mọi người ca ngợi. Khía cạnh có lợi cho bà trong việc làm phúc này là ở chỗ những người được cho thuốc ca tụng bà lên tận mây xanh và hăng nái giới thiệu những khách hàng có tiền đến cho bà. Những khách hàng mới bao giờ cũng viện đến sự quen biết với người giới thiệu, chẳng bao lâu sau họ lại trở thành khách quen, và câu chuyện của cô tôi với khách lại thân tình như với người khách cũ, chỉ khác là thay vào ông Khán Dậu bây giờ là mẹ thằng cu Tễu. Cuối buổi chợ, cô tôi giao "cửa hàng" cho tôi để bà đi mua bán thức ăn. Tôi đã thuộc hết mặt hàng, biết rõ công dụng và liều lượng từng loại thuốc, cho nên sắm vai ông chủ hiệu thuốc không mấy khó khăn. Nhưng những người mua thì lại nhìn tôi bằng cặp mắt nghi ngại, tệ thế. Người thì cứ ngồi ì ra đấy đợi cho đến cô Gái về. Người còn trắng trợn chỉ vào lọ thuốc và ra lệnh cho tôi bán cho họ bao nhiêu viên. Thỉnh thoảng mới có người dám tin ở tôi: - Cậu bán cho tôi chục gói thuốc cam cho cháu. Tôi trịnh trọng đưa cho họ chục gói thuốc, dặn kỹ cách dùng, rồi nhận tiền bỏ vào dưới vỉ buồm. - Uống xong chục gói này, nếu hợp thuốc, bà đến lấy thêm. Tôi dặn với, cảm thấy mình lớn bổng hẳn lên trong lúc ấy. Khi chuông nhà thờ gióng giả đổ hồi báo mười hai giờ trưa, cô cháu tôi ra về. Trong thúng thuốc của cô Gái giờ đây nghễu nghện trên đầu tôi (dấu hiệu của sự tin cậy ở mức cao) thế nào cũng có miếng thịt (cô Gái chỉ mua thịt vào ngày phiên chợ), mấy đồng bánh đa, gói kẹo đắng (để làm nước hàng), vài con cá (chúng bao giờ cũng xúc phạm lòng tự ái của tôi). Cô Gái móm mém cũng thích bánh da nướng chẳng kém gì tôi. Chiều xuống, tôi đốt than, nướng bánh lại cho giòn rồi hai cô cháu ngồi ngoài thềm, vừa ăn bánh vừa nói chuyện. Những tầu cau đung đưa theo gió. Tiếng sáo diều vi vu Từ bên nhà bác Hai Thực, tiếng xa quay ve ve. Cô Gái hài lòng về buổi chợ. Bà giở tiền ra đếm. Những đồng tiền mới được để sang một bên, dù là tiền xu hay tiền giấy. Những đồng tiền cũ được tiêu trước, những đồng mới được tiêu sau, nếu như có lúc cô tôi phải tiêu đến chúng. Cô Gái thích những đồng bạc mới tinh còn thơm mùi mực mang hình người đàn ông gánh dừa đến nỗi nhiều khi bà sẵn sàng bán rẻ hơn cho người khách nào có đồng tiền như thế. - Tiền nào chả là tiền, bà lão rõ lẩm cẩm. Khách nói khi thấy cô tôi nần nì đòi bạc mới. Nhưng tôi thấy chính họ cũng tiếc rẻ chia tay với đồng bạc mới của mình. Những đồng bạc mới mỗi ngày một nhiều thêm ở chợ. Đồng tiền mất giá dần. Giá hàng lên. Nhưng cô Gái tôi không vì thế mà kém yêu những đồng bạc mới. Có điều tình yêu đối với những đồng bạc hoa xòe, bạc thật, thì tăng lên rõ rệt. Cô tôi cất cả chồng bạc hoa xòe trong hòm gian. Thứ bạc đồng có hình con đầm mặc váy rộng lúc ấy không còn lưu hành trên thị trường nhưng lại rất có giá. Người ta cất giữ bạc hoa xòe như cất giữ của cải. Thỉnh thoảng cô Gái mới giở chồng bạc hoa xòe ra, đếm lại từng đồng, ngắm nghía lấy vạt áo lau từng đồng cho sáng bóng, xếp thành cọc rồi mới bọc lại vào trong miếng nhiễu đỏ, bỏ vào chỗ cũ Sau khi đã kiểm tiền chợ, để các đồng mới sang một lên, cô Gái bảo tôi: - Cháu tinh mắt, cháu nom hộ cô xem có tờ giả nào không. Tôi cẩn thận soi từng tờ giấy bạc lên nền trời hoàng hôn rồi đua lại cho cô tôi từng tờ một: - Cái này thật, cái này cũng thật đấy, cô ạ. Một lần cô Gái đã lấy nhầm một đồng bạc giả và buồn xỉu mấy ngày. Rồi bằng cách nào đó bà đã tống đi được đồng bạc khốn kiếp, và tất nhiên, cả nỗi buồn của bà cho người khác. Bà xếp thật ngay ngắn những đồng bạc mới đã được thẩm tra thành từng xếp rồi gói tất cả vào trong một miếng vải cột chặt lại bằng dây gai. Chọn trong đám xu, hào một đồng xu xấu xí nhất, cô Gái cho tôi dể mua sâu bà Cơ. - ở đời này, cháu ạ, phàm thứ gì quí là y như rằng có của giả - cô Gái trầm ngâm nói với tôi - Con người ta, ai cũng coi của mình là nhất, của thiên hạ như cái rơm cái rác. Đến nỗi, Đức Chúa Giê-su phải nói "Hãy thương yêu người ta như mình vậy". Nghĩa là thế nào, cháu hiểu không? Nghĩa rằng thế vầy: Chúa biết con người ta ai cũng yêu mình nhất hạng, bảo người ta yêu người khác hơn yêu mình là điều không có được, thôi thì yêu bằng, yêu bằng cũng là khó lắm rồi. Con người ta thích cái lợi cho mình lắm lắm. Thế nên mới có người đi làm giả cái quí để thu lợi, mới có của gỉa. Tôi ngồi yên, nhưng không lắng nghe. Tôi thích nghe cô Gái kể chuyện, nhưng không thích nghe cô Gái triết lý. Cô triết lý chủng chẳng, không cái gì ăn nhập với cái gì. - Người ta cũng vậy, người thật có, mà người giả cũng có. Thiêng liêng như các thánh tông đồ của Chúa, vậy mà cũng còn có tông đồ giả đấy thây. Như cái thằng Giu-đa, được làm tông đồ của Chúa mà nó còn nỡ tâm bán Chúa cho quân dữ để lấy ba mươi đồng Đi-na - cô Gái rẽ sang Kinh Thánh - Vậy cho nên Chúa mới bị quân Phi-la-tô bắt, mới bị chúng đóng đanh câu rút, đau đớn không biết là nhường nào. Cô hỏi cháu: vậy thì còn có thể tin ai được? Tôi không trả lời. Một lát sau, cô Gái nói: - Chỉ có tin mình, chỉ có tin được mình mà thôi.        

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

XIV

Hồi ký

Có chị Liễu lên ở cùng, cô tôi cho thợ sửa lại cái khung cửi từ lâu xếp xó. Trên cái khung cửi này bà tôi và các cô tôi đã ngồi dệt trong những năm xa xưa. Ngoài việc dệt vải ra, chị Liễu còn làm hàng xáo. Cô Gái đong thóc về, chị Liễu xay, hai chúng tôi giã, chị Liễu và cô Gái sàng sẩy, rồi đem ra chợ bán. Cô Gái không thích ai ngồi không trong ngôi nhà của bà. Thế vẫn chưa đủ, bà quyết định nuôi tằm. - Một nong tằm là năm nong kén, một nong kén là chín nén tơ - bà khuyến dụ chúng tôi - nhà mình bao nhiêu là dâu, bán cho người ta, rõ hoài, tơ thì lại đang có giá. Ngôi nhà chúng tôi có một hàng rào bao quanh, trừ vài khóm tre lưu cữu còn toàn là dâu. Những người hàng bồ ít lời và cần mẫn quẩy những đôi bồ lớn có quây cót cho cao thêm lang thang trên đường làng, rẽ vào những nhà hẻo lánh nhất thậm chí chỉ có một hai cây dâu để mua lá. Không đáng trả tiền thì họ đổi kẹo mạch nha cho trẻ con, ấy thế mà đến khi ra khỏi làng họ đã có những gánh lá dâu nặng chĩu. Cô Gái thu tiền bán dâu, tiếc rẻ nhìn đống lá được trút vào bồ: - Có điều, nuôi tằm bận như chăm con mọn, các cháu ạ. Cái Liễu thấy thế nào? - Bận là mấy, ta cứ nuôi cô ạ! Chị Liễu vui vẻ tán thưởng, như bất cứ lần nào cô Gái trao thêm việc cho chị. Cô Gái mài mấy con dao bài cho thật sắc (bà mài dao tài nhất nhà) và rủa sạch những nong nia gác trên ránh. Những con sâu đen xì, bé tí tẹo và đầy lông lá, chui ra khỏi những lá trứng tròn vành vạnh trên giấy bản, chẳng mấy chốc đã trở thành những con tằm mịn màng, tròn lẳn. Chúng bò lổm ngổm, trèo cả lên nhau, tràn đầy những nia nhỏ rồi những nong lớn kê trên các giá cao ở nhà trên. Đứng bên ngoài những bức mành tre ngăn ruồi nhặng có thể nghe tiếng chúng ăn lá rào rào như một trận mưa xa. Chị Liễu và tôi đều bận. Rời khung cửi là chị đi hái dâu, thái dâu, thay nia, thay nong. Tôi phụ chị. Công việc nhà làm tôi hiếm có thời giờ để đi câu với anh Cu Nhớn. Ngôi nhà cô cháu tôi đã đỡ vắng vẻ khi có chị Liễu, nhưng lòng tôi vẫn hướng sang nhà bác Hai Thực ở đó bao giờ cũng vui vẻ hơn, vô tư lự hơn. ở nhà chúng tôi, cô Gái luôn kêu ca về chuyện thóc cao gạo kém. Những lời kêu ca của bà làm chị Liễu suy nghĩ. Chị chỉ biết đáp lại bằng cách ăn ít đi và làm nhiều thêm. Rồi tằm chín. Chúng thôi không ăn lá dâu nữa, mình chúng đỏ dần, một màu đỏ trong trẻo pha ánh vàng rất đẹp. Từ miệng chúng những sợi tơ đầu tiên rớt ra, dính vào nong. Cô Gái và chị Liễu tất bật dựng những giá tre nhồi rơm ở ngoài sân, nhặt những con tằm chín bỏ lên đó. Thoạt đầu, những con tằm cất cao đầu lắc lư như say rượu, sau đó chúng múa đầu theo một nhịp đều đặn qua phải rồi qua trái để nhả tơ đan kén. Tơ càng trút ra ngoài được nhiều bao nhiêu thì tằm càng bớt ì ạch bấy nhiêu, thân nó trở nên thanh thoát hơn, cử chỉ cũng nhanh nhẹn hơn. Những con tằm chín yếu ớt không chịu làm kén bị cô Gái nhặt riêng ra, bỏ vào xanh đem rán. - ăn giống này nhẹ mình, đỡ nhức đầu - cô Gái giảng giải - Nhưng nhớ phải để cho nó là hết cứt đã. Cứt nó độc. Những con tằm dai ngoạch vì bó tơ không nhả ra được của chúng. Tôi lén cô Gái nhả bã cho con Mực. Con Mướp chê, không thèm ăn. Không bằng lòng với giá trả của các lái tơ đi mua gom, cô tôi và chị Liễu đội tơ nhà làm ra đi bán mãi chợ Lương, một trong hai chợ nổi tiếng của đất Nam Định: "chợ Cồn muối trắng, chợ Lương tơ vàng". Tôi cũng được đi theo cô Gái, chẳng gì tôi cũng đã góp tay vào việc làm ra những bó tơ đựng trong cái thúng lớn trên đầu chị Liễu. Chợ Lương là một chợ tôi chưa từng gặp ở bất cứ đâu. Cả khu chợ rộng cả chục mẫu đất (mẫu ta) vàng óng lên một màu tơ và kén. Màu vàng rộm của những kiếp tằm viên mãn trùm lên tất cả, át hết tất cả, nhuộm lên tất cả chung quanh, làm cho những cô gái bán tơ ngồi san sát thành từng dãy giữa đám mây màu vàng tươi óng ả bồng bềnh đó tự nhiên phảng phất một cái gì của cổ tích. Cũng là chợ, nhưng ở đây người ta mua bán từ tốn, ăn nói nhỏ nhẹ. Mọi sự khúc mắc ở đây thường chỉ do cái cân. Người mua cân đi người bán cân lại, chưa đủ tin nhau thì người ta mượn cân của hàng bên để tìm một chân lý trung bình có thể chấp nhận được cho cả hai. Không mấy ai cãi vã về phẩm chất tơ. Vào thời ấy vùng tôi chỉ có một giống tằm và chúng nhả ra những sợi tơ cùng loại. Cô Gái mua cho chị Liễu một số vuông lụa đủ may áo cánh. Chị Liễu cặm cụi mấy ngày liền khâu chiếc áo đẹp của mình. Chị tôi khéo tay, chiếc áo vừa như in. Nhưng khâu xong, chị không mặc mà xếp lại ngay ngắn vào trong thúng quần áo của chị. - Sao chị lại cất đi? - tôi hỏi. - Tôi để dành. - chị đáp. - Để dành làm gì? - tôi gặng. Mặt chị Liễu của tôi vụt đỏ nhừ. Đôi mắt tươi rói, long lanh, chị ghé sát vào tai tôi: - Bao giờ đi lấy chồng, tôi mới mặc, chú ạ. Chị Liễu ngồi vào khung cửi, hai tay đều đặn ném con thoi qua lại. Con chim gỗ gật gù trên đầu chị. Tôi hình dung chị sẽ dệt vải ở một nhà khác, một nhà xa lạ, không phải nhà chị mà cũng chẳng phải nhà họ hàng thân thích, gọi là nhà chồng. Từ ngày chị Liễu về ở với cô Gái, chị xinh hẳn ra. Mỗi khi đi lễ với chị, từ trong nhà thờ bước ra, tôi bắt gặp nhiều cái nhìn ngưỡng mộ và trìu mến hướng về chị em tôi, tức là phía chị. Cô Gái không bằng lòng những cái nhìn như thế. Cô cho rằng lỗi tại chị Liễu. - Đi đứng, nhìn ngó phải đoan trang - cô lạnh lùng.nhắc chị - Con gái con đứa, nhớn rồi, phải biết giữ ý tứ. ở với tao, phải giữ phép nhà, không được buông tuồng, bả lả. Chị Liễu rơm rớm nước mắt. Đôi mắt bồ câu cụp xuống trên gương mặt bầu bĩnh, trắng hồng. Tôi cho rằng cô Gái mắng oan chị. Chị không hề luông tuồng, bả lả, còn như đi đứng thì không thể nào đoan trang hơn nữa - mặt chị nghiêm nghị và thành kính, như thể chị vẫn tiếp tục cầu nguyện sau buổi lễ. Hôm sau, chị ra đường với bộ quần áo bạc màu, xấu xí. Chị tưởng làm như vậy thì đẹp lòng cô Gái, nhưng không phải. Cô lại mắng: - Con gái lớn phải ăn vận gọn gàng, sạch sẽ, mặt mũi phải tươi như đóa hoa. ăn vận lôi thôi lếch thếch, mặt đánh chữ nãi, lúc nào cũng khó đăm đăm thì có ma nó nhìn. Gặp dịp lễ trọng, cô Gái bắt chị Liễu mặc diện để đi với cô. Bộ diện nhất của chị là tấm áo tứ thân bên ngoài áo lụa mỡ gà và dải thắt lưng màu hoa lý. Miếng trầu làm môi chị thêm tươi và má chị thêm hồng. Cô Gái hài lòng. - Cháu rồi chỉ ở với cô vài năm thôi, còn đi lấy chồng chứ. - cô Gái nói, giọng tự nhiên bồi hồi - ở với cô, cô lắm lúc cũng hay mắng mỏ, là tại cô thương cháu. Có bắt ne bắt nét cũng là muốn cho cháu nên người, chứ chẳng phải cô ác nghiệt. Cô có phải là người ác nghiệt không nào? - Thưa cô, không ạ - mặt đỏ bừng, chị Liễu lí nhí. - Vậy cho nên đừng có giận cô. - Thưa cô, vâng ạ. Chị Phương bằng tuổi chị Liễu, nhưng gầy đét và dài ngoẵng. Khác với chị Liễu, chị hoàn toàn không nghĩ tới chuyện lấy chồng. - Cô Liễu ạ, tôi tính xin phép thày mẹ tôi, tôi đi tu. - chị thỏ thẻ bàn với chị Liễu - Hôm gặp Bà Nhất trong nhà mụ, tôi đã ướm hỏi. Bà bảo: "Kẻ dốc lòng thờ phượng Chúa thì sẽ được Chúa nhận vào lòng". Chị Liễu nín lặng. Nín lặng là không tán thành, nhưng cũng không phải là phản đối. Phản đối việc đi tu để dốc lòng thờ phượng Chúa thì chẳng ai dám. - ở nhà mụ rỗi rãi phần hồn, mà phần xác cũng đỡ vất vả - chị Phương lập luận - Các cô mụ cũng phải đi làm đồng, nhưng làm gọi là thôi. Ruộng nhà mụ, ruộng nhà xứ phát canh cho cấy rẽ cũng khối của rồi. Các cô mụ làm nửa ngày, nửa ngày cầu nguyện, mưa chẳng tới mặt, nắng chẳng tới đầu, còn đi lấy chồng ấy à... Tôi ngẫm chưa có ai đi lấy chồng mà sướng, cô ạ. - Em tính, thà cứ ở vậy trọn đời đồng trinh như cô Gái còn hơn. Chứ ở nhà mụ dễ chịu thật, nhưng chẳng sao bằng ở nhà mình. - Giá tôi được như cô thì tôi cũng đi lấy chồng, đàng này mình xấu như ma, gầy như que củi... - Làm lụng vất vả quá thì nó thế. - chị Liễu an ủi - Nhàn rỗi là béo ra liền. - Cô cũng quần quật cả ngày đấy thây, mà có gầy đâu. - Tại em ăn nhiều cám đấy. Thày em bảo cám bổ lắm. Có dạo mẹ em cho chúng em ăn cứ một bữa cơm lại một bữa cám. Chị Phương trở nên tư lự: - Có dễ tại tôi ăn nhiều hạt sản quá. Người ta bảo hạt sản độc. Hai bà chị vừa sàng gạo vừa tâm sự. Tôi nằm trên ổ rơm gần đấy. Câu chuyện của họ lọt đến tai tôi cùng với tiếng gạo rơi rào rào xuống nia. - Dễ vậy thật. Cám tốt hơn nhiều. Bây giờ thỉnh thoảng em vẫn ăn cám đấy, chị ạ. - Nhà cô Gái có bao giờ ăn cám. - Em làm cám sạch, thỉnh thoảng nấu cho lợn, em bớt ra một bát. - Cô Gái biết thì chết. - Em giấu cô. Tôi bàng hoàng. Lại một bí mật trong ngôi nhà lọt đến tai tôi. Cô Gái của tôi thật quá đáng. Bà đong gạo riết róng, bữa cơm lại tự tay xới từng bát cho chúng tôi. Tôi được ăn no, nhưng chị tôi giữ ý, nên bị đói. Sáng hôm sau, tôi rủ rỉ với chị Liễu: - Chị đừng đi tu, chị ạ. Chị Liễu trố mắt nhìn tôi. - Chú nói gì vậy? - Em nghe thấy hết rồi. Chị đừng có nghe chị Phương đi tu, chị nhá. Chị đi lấy chồng rồi em đến em ở với chị, em nói thật đấy. - Tối qua chú nghe trộm hả? - Em nằm em nghe thấy hết. Nghe trộm đâu mà nghe trộm. - Đừng nói gì với cô Gái nhá! Cô biết tôi ăn cám phần lợn cô mắng đấy. Thì ra chị Liễu sợ tôi nói lộ ra chuyện chị ăn vụng cám lợn. Tôi thì lại nghĩ rằng chị sợ cô biết chị Phương rủ rê chị đi tu. Chị Phương định đi tu thật. ýđịnh của chị làm cho cả hai bác tôi buồn. Chị đi tu, nhà bác Hai Thực sẽ thiếu một người làm, lại là người làm chính. Chị gầy còm, nhưng không việc gì trong nhà không đến tay chị. Thậm chí giậm lại cái mái nhà là việc của đàn ông, nhưng khi bác Hai Thực không làm việc đó thì chị làm. Tôi đã nói, với mấy chục vó tép, chị Phương kiếm thức ăn cho cả nhà (tất nhiên, những xâu cá của anh Cu Nhớn cũng là phần quan trọng), nhưng việc trong một gia đình bao giờ cũng là trăm thứ ba dằn, thứ gì cũng cần đến bàn tay chị Phương. Ba ông anh lớn đã lên tỉnh làm ăn, nhưng không được trời chiều, họ chỉ đủ nuôi miệng, thỉnh thoảng mới gửi về nhà chút ít gọi là quà. - Em không hiểu tại sao con cái Phương nhà em lại muốn vào nhà mụ? - bác Hai Thực gái phàn nàn với các bà chị nhà chồng? - Thày nó với em quặt quẹo luôn, không có nó rồi thì biết xoay xở thế nào? Các chị khuyên cháu cho em một tiếng. Cô Oanh ngẫm nghĩ rồi thở dài: - Biết khuyên nó thế nào, thím? Bên chú thím kể cũng bấn thật, nhưng nó nghĩ thế cũng chẳng phải quấy. Ai chẳng muốn giốc lòng thờ phượng Chúa? Mà kể ra họ nhà mình có một người vào ở nhà mụ, hoặc làm cha để cầu nguyện cho cả họ cũng rất nên. Cô Gái hừm một tiếng: - Thím chớ can ngăn cái Phương. Mọi sự là do Chúa sắp đặt Chúa muốn thế thì nó mới ra thế. Cái Phương rồi nên Bà Nhất ở làng này thì chỉ có đẹp mặt cả họ thôi. Bác Hai Thực gái sụt sịt khóc. Cô Nhung không dám nói gì. Cô là người lép vế trong nhà ông em trai, lép vế trong cả chi họ, cô thường im lặng, hoặc nói sau một câu tán thành. Bác Hai Thực giai tảng lờ như không biết đến sự kiện đang làm cho cả nhà quan tâm. Nhưng bác ít nói hẳn đi và hút thuốc lào nhiều hơn. Cô Gái nhiệt tình với việc chị Phương đi tư hơn cả. Trong cả chi họ không có ai đi tu, đối với bà đó là một thiếu sót, gần như một khuyết điểm. Bà đã xúi giục cô Mỹ, em gái của bà và chị gái của bố tôi, cho hai con trai đi học trường Trung Linh. Nhưng hai anh tôi mải đá bóng quá nên không thấy cái tiền đồ làm cha hấp dẫn, họ bỏ học nửa chừng. Mà trường Trung Linh là một tiểu chủng viện không ngặt nghèo lắm. Người nào theo được thì lên đại chủng viện, thi bảy chức thánh, người nào giữa đường đứt gánh thì thôi. Với tôi, cô Gái cũng không phải là không có chút kỳ vọng cho tôi học làm cha, nhất là sau khi tôi đi thi kinh được đỗ loại đầu của xứ dạo. Bà nói xa nói gần để dụ dỗ tôi, nhưng tôi chẳng hiểu cho bà điều bà muốn, thêm nữa cái tính ngỗ nghịch của tôi ngày một bộc lộ dần dà bà cũng không còn nghĩ tới cái tương lai làm cha của tôi nữa. Tôi không hiểu cô Gái. Tôi dã thấy những bà mẹ có con đỗ cha ở trong làng. Khi người con trở về với chiếc áo chùng thâm tượng trưng cho bảy chức thánh của con đường tu hành, người mẹ khép nép "Xin phép lạy cha..." Họ đã xưng hô đúng như vậy đấy, người mẹ đối với đứa con do mình đẻ ra. Nhưng rồi chị Phương không đi tu. Những giọt nước mất của bác Hai Thực gái đã ngăn chị. Tôi hỏi Bà Nhất, bà bảo rằng đã vào nhà mụ thời không thể về nhà luôn luôn được. - chị Phương thủ thỉ với chị Liễu - Tôi vào nhà mụ, cô ạ, thì nhẹ phần mình thật, nhưng suy đi tính lại tôi thương thầy mẹ tôi... - Chị vào nhà mụ đúng là hai bác chẳng biết trông cậy vào ai. - ấy vậy cho nên tôi mới thôi. - Giá chị lấy chồng, mà lại là chồng ở rể thì hai bác thích lắm. - Ma nó lấy tôi. Tôi cũng chẳng thích lấy chồng. Chồng tôi chả thiết, nhưng giá có đứa con để mà trông nom rửa ráy cho nó, cho nó ăn, thấy nó lớn, cũng hay... Lấy chồng thì mình rồi cũng có nhà cửa của mình, tay hòm chìa khóa, tự quyền mình... muốn gì làm nấy. Tôi sẽ trồng thật nhiều cam, quít, nhãn, bưởi... - Na nữa, chị ạ. - ừ na nữa, mà phải xin được giống na dai mới ngon. - Mít nữa. - Cả mít, mùa nào thức ấy. Nhưng tôi không thích giống mít mật. ăn nhẽo nhèo. - Cũng phải có, già rồi rụng hết răng, ăn mít dai không được nữa, lúc ấy mới thấy mít mật ngon. Trồng càng nhiều thứ càng tốt. - Còn phải tùy cái vườn rộng hay là hẹp. Tôi sẽ nuôi gà, thật nhiều gà. Tôi không thích nuôi lợn. - Em cũng vậy, nuôi lợn vất vả lắm. à, chị ăn cháo cám nhá? - Cô biết thì chết. - Cô đi chầu lượt rồi. Hai chị tôi ăn cháo cám. ăn xong chị Liễu băm bèo, thái thân chuối bỏ vào nồi cháo cám ấy làm thành thức ăn cho lợn. Tôi lăn ra ngủ, không nghe tiếp những câu chuyện nhạt phèo nhảy từ đề tài này sang đề tài khác của hai chị. Chẳng bao giờ hai người nói với nhau được chuyện gì thú vị hơn. Chị Phương rồi cũng chẳng đi lấy chồng. Chị ở trọn đời đồng trinh. Họ nhà tôi thêm được một bà cô.  

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

XV

Hồi ký

Cũng từ khi có chị Liễu, mấy gian bếp nhà chúng tôi mới đỡ hiu quạnh. Nghề hàng xáo phát triển. Lái gạo trên tỉnh đổ về các chợ quê đong ầm ầm. Bên nhà bác Hai Thực cũng xoay ra làm hàng xáo. Anh Cu Nhớn, anh Cu Bé suốt ngày xay thóc. Tối đến, cái cối giã ở nhà tôi làm việc không nghỉ. Không phải tại cối nhà tôi tốt hơn, nhưng vì cô Gái không thích chị Liễu và tôi qua nhà bác Hai Thực giã gạo, nên các anh chị bên bác Hai phải sang bên tôi. Giã gạo mà vui thì cối gạo trắng hơn, giã cũng nhẹ nhàng hơn. Bên cối gạo, chuyện nở như pháo ran. Anh Cu Nhớn và chị Phương thuộc rất nhiều câu đố theo vần lục bát. Chị Liễu cũng thỉnh thoảng ra được một câu. Những câu đố thường nhiều người đã biết, nhưng với một đứa trẻ ở tỉnh về như tôi thì vẫn khó giải. Chẳng hạn: Một mẹ đẻ chín nghìn con Đến mai chết hết chẳng còn một ai Còn một ông lão chín hai Nhăn nhăn nhó nhó chẳng ai muốn nhìn Tôi, tất nhiên, không giải được và lấy làm thú vị khi hiểu ra rằng đó là trăng, sao và mặt trời. Chẳng bù với trước đây khi tôi phải giã gạo với cô Gái. Hai cô cháu giã rất chậm. Một cối gạo giã hết cả buổi tối tới khuya mới xong. Những hôm cô Gái bận khách thì còn chậm hơn nữa. Giã một mình thì tôi cứ phải đi từ từ tới đuôi chày, cố dùng sức nặng của tấm thân bé bỏng dấn đuôi chày xuống, cái đầu chày mới chịu run rẩy ngỏng lên rồi rơi xuống với một tiếng thịch nặng nề. Bây giờ cái chày kêu vui vẻ "lịch kịch - xình!" dưới năm cái chân nhịp nhàng của chị em tôi. Đôi khi, cô Gái nghe tiếng chày nhảy lên quá mạnh, có thể bung khỏi hõng, quát xuống: - Lũ quỷ, nhẹ chân chứ! Chúng tôi bấm nhau cười, dận nhẹ hơn, nhưng chỉ được một lúc. Cái đà, cái nhịp lại lôi cuốn chúng tôi, cô Gái lại phải quát. Bà thích những cối gạo xong nhanh, nhưng lại lo lắng cho sức khỏe của cái cối. Nó cũng già lão lắm rồi. Mũi chày đã vẹt một bên phơi những vân gỗ bóng loáng, tai chày cũng mòn gần hết tòn ten trong hõng. Khi sàng gạo thì bận mấy cô Gái cũng xuống với chúng tôi. Chúng tôi cần đến cái đèn, nếu cô ở trên nhà thì phải thắp thêm cái nữa dưới bếp và như thế thì tốn dầu. Cô Gái sàng gạo cùng chúng tôi. Nhưng chúng tôi không cho bà sàng lâu. Trong những buổi tối như thế chúng tôi đòi bà kể chuyện. Cô Gái ngồi xếp chân bằng tròn trên giường giát, chúng tôi ngồi dưới sàng gạo và bà kể chuyện cái nát cho chúng tôi nghe. Cái nát, theo lối nói của người quê tôi, là ma. Chuyện ma thì cô tôi không bao giờ cạn: nào ma trơi, ma bình vôi, ma gà, ma cà rồng, ma cụt đầu, ma đưa võng, quỷ nhập tràng, thần trùng, yêu tinh... - Chúng mày muốn nghe chuyện cái nát thì phải bảo cô Nhung kể cho, mới hay. - bà từ chối, bắt chúng tôi phải nài nỉ - Cô Oanh cũng vậy, cô biết nhiều chuyện cái nát lắm. - Cô Nhung kể chuyện chán chết, thôi, cô kể đi cô. - Cô Oanh có mấy chuyện đâu, kể đi kể lại, chúng cháu thích nghe cô kể cơ. Cô Gái đe: - Đừng có nói thế, cô Oanh giận. - Chúng cháu chả cần, cô Oanh không kể thì chúng cháu sang đây nghe cô kể. Cô Gái hởi lòng hởi dạ. Bà ưa nịnh như trẻ con và buồn bực nếu thiếu những lời tâng bốc của lũ cháu. Bà mỉm cười sung sướng, những nếp nhăn dãn ra trên mặt. Hai đối thủ về tài kể chuyện của bà đã nằm sóng sượt dưới chân bà rồi, bà hài lòng, và bà bắt đầu kể. Cô kể chuyện Hai Tuất nhá? - bà chớp chớp mắt, tìm câu mở đầu cho một trong những câu chuyện thú vị về cái nát ở trong làng - chúng mày biết chuyện Hai Tuất chưa nhẩy? Chưa hả? Vậy, Hai Tuất là người xóm Cố Hương, người ngụ cư chứ không phải người gốc vùng ta. - Ông Hai Tuất quét chợ, phải không cô? - Chính hắn ta đấy. Ngày trước, Hai Tuất có một cái lều vó trên đê Vàng. Cái lều vó ấy, hắn ta giữ có tới chục năm, vậy mà hắn ta bỏ. Tại sao hắn ta bỏ, thì chúng mày nghe cô dẫn tích đây. Muốn nghe không? - Thưa cô, có ạ. - chúng tôi nhao nhao. Cô Gái không kể vội. Cô đưa cho tôi cái cối răng voi và cơi trầu bảo tôi giã cho bà một cối. Có miếng trầu rồi bà mới nhẩn nha dẫn tích: - Hắn ta bỏ cái lều vó là tại ma trơi. Ma trơi là thứ ma hiền nhất hạng trong các thứ ma. Nó không hay nát người, không thích làm người ta hãi, mà lại còn hay giúp người nữa. Nhưng thiên hạ vẫn sợ - ma gì cũng là ma, ma tốt mấy vẫn là ma. Hai Tuất thì không, hắn ta tợn nhất cái làng này. Hồi còn con trai, hắn ta còn nghịch đến nước thế vầy: ở cây gạo cuối làng có con ma cụt đầu, ai cũng hãi, hắn ta mới khoác tấm màn trắng đến vai, trông ban đêm đúng là cụt đầu đi đi lại lại dọa mọi người. - Eo ơi, khiếp quá? - chị Phương kêu lên. - Ông Lý Cựu một bận đi hội tổ tôm về gặp hắn ta, rông cả xuống ao nhà ông Trùm Tịnh, lội bì bõm dưới ấy, lưỡi líu cả lại mãi mới lần về tới làng được. Người ta biết được, mới vớt lên, đốt lửa, xoa dầu đến sáng ông ấy mới hoàn hồn. Rồi ốm liệt cả tháng. Sau, mới biết là Hai Tuất. Chúng tôi cười bò ra, nhưng vẫn sởn da gà. Cô Gái tủm tỉm. Bà hài lòng nhìn thấy hiệu quả câu chuyện, đợi chúng tôi giục thêm mới thủng thẳng: - Ông Lý Cựu sai tuần nọc Hai Tuất ra giữa đình quất cho năm chục roi. Ông Lý Đương cầm triện e hắn ta lại giở trò nát mình, cho thêm năm chục roi nữa để đe trước. Hai Tuất cạch từ đấy. Lại nói chuyện cái lều vó của hắn ta trên đê Vàng. ở đấy nhiều cái nát đến nỗi những lều vó khác chỉ cất ngày, đêm bỏ, người ta hãi. Nhưng Hai Tuất thì cất cả đêm, đã bảo hắn không biết sợ là gì mà. Lũ cái nát ở đấy thường kéo đi hàng đàn, vừa đi vừa hát véo von như thể thợ gặt hay thợ cấy, vậy mà hắn mặc. Chúng nhảy xuống ngòi quẫy thì thùm ở dưới ấy, hắn cũng kệ thây. Có lần cái nát hiện thành người chết trôi, cứ nằm dưới chân lều vó mà khóc ti tỉ nhưng Hai Tuất mặc, hắn ta cứ kéo vó như thường. - Giê-su, người đâu mà tợn làm vậy - chị Phương lại kêu lên, làm dấu thánh. - Con mà gặp cái nát vậy thì con chết ngất. - chị Liễu nói. Hai Tuất hồi ấy không tin Chúa, bố mẹ hắn ta đi lương cả mãi mới đây hắn ta mới trở lại đạo. - cô Gái nói - Giờ giàu nhân đức tin lắm lắm. - Chắc hẳn Chúa đã soi đường cho hắn? - Dễ vậy. Lại nói chuyện cái nát hiện thành người chết trôi. Thấy hắn ta không sợ, nó mới đứng lên, đi trên mặt nước, thè cái lưỡi dài bằng đòn gánh mà đỏ lừ ra nát hắn ta. Hắn ta cầm cây sào đâm luôn. Thấy hắn ta tợn quá, cái nát cũng chán, nó bỏ. Chỉ có ma trơi là vẫn đến lều vó của Hai Tuất. - Ma trơi đến làm gì, hả cô? - anh Cu Bé hỏi, câu hỏi cần thiết cho người kể chuyện. - Vậy mới ra chuyện. Ma trơi đến là để giúp Hai Tuất mới lạ chứ. Chả là từ lâu rồi, Hai Tuất đánh bạn với giống ma này. Ma trơi giúp là giúp thế vầy: chúng nó cứ chập chờn suốt đêm trên mặt nước giữa bốn gọng vó, rủ cá vào cho Hai Tuất cất - cá ăn đêm chả thích ánh sáng mà. Vào hồi ấy, hắn đã nghe lời bề trên, đã học kinh để xưng tội chịu lễ. Biết chuyện hắn đánh bạn với ma, cha xứ, lúc ấy là cha Thịnh chứ không phải cha Trên bây giờ, mới gọi hắn ta vào tra hỏi. Hai Tuất có thấy ma trơi tới, nhưng chớ hề có nói chuyện với chúng. Cha làm phép trên đầu hắn ta rồi xua ve. - Cha cũng hãi, cô nhẩy? - chị Phương thắc mắc. - Cha thì việc gì mà hãi. Có lần cha Thịnh gặp cái nát hiện thành người đàn bà mặc quần áo trắng vừa đi vừa hát, giọng nó nghe lạnh thấu xương, nhưng cha có hãi đâu. Nó cứ lẽo đẽo theo cha, còn cha thì cầu nguyện "Nhân danh Cha và Con..." Nó khóc ti tỉ xin cha tha tội, xin cha cho tiền. Cha mới quăng cho nó mấy xu, nó lúi húi nhặt, còn cha thì vén áo đi một mạch về nhà xứ. - Mấy xu hả cô? - anh cu Bé hỏi. - Biết là mấy xu? Cha kể vậy. - Cô kể chuyện Hai Tuất đi kìa? - tôi giục, biết rằng nếu không hãm bà lại, bà sẽ rẽ sang chuyện con ma trẻ con ở cổng nhà chung, mà chuyện này bà kể nhiều lần rồi. - Một hôm Hai Tuất uống rượu say. Được ma trơi giúp hắn ta cất một loáng đã đầy giỏ. Hắn ta gác vó, ra về, ma trơi đi trước soi đường cho hắn ta. - Chắc ma trơi lo cho Hai Tuất ngã xuống ao. - chị Liễu bình luận - Rõ là ma mà lại tử tế quá, chu đáo quá, cô nhẩy? - Lần này Hai Tuất dở chứng. Lẽ ra, như mọi khi, ma trơi đưa hắn ta về tới nhà thì thế nào cũng được hắn ta đãi trầu cau tử tế (ma trơi, chúng nó thích trầu cau lắm, hay vậy), nhưng lần này Hai Tuất, chẳng biết có phải tại say quá không, lại gọi chó mực ra. Ma trơi kị nhất là chó mực, chúng bèn ù té bay đi. Đêm hôm sau, Hai Tuất vừa ra tới lều vó thì bị lũ ma trơi bu lại đất trụi đầu. Đấy, đến bây giờ tóc hắn ta vẫn chẳng mọc lại được, mọc được sợi nào thì sợi ấy xoăn tít như bụt ốc. Tôi đã gặp ông Hai Tuất quét chợ và đã nhìn thấy cái đầu lơ thơ những sợi tóc loăn xoăn của ông. Ngoài việc quét chợ, ông làm thuê cho mọi nhà, khi họ có việc. Ông ta có bộ mặt xám xịt, bất động. Rất ít khi có người gợi chuyện được ông. Sau câu chuyện của cô Gái, một hôm ông đến đánh đống rơm giúp cô Gái, tôi đã đánh bạo hỏi ông về ma trơi. Ông Hai Tuất cười sằng sặc, đưa hai bàn tay nháp như đá mài xoa má tôi. - Ma trơi ấy à? ở ngoài đồng, có khối ma trơi. Ông Hai Tuất không nói thêm điều gì về câu chuyện ma trơi mà cả làng đều biết, ông cũng không cải chính, cũng chẳng xác nhận. Một đêm sàng gạo khác, cô Gái đã kể câu chuyện ma ở cầu Vô Tình, câu chuyện làm tôi nhớ rất lâu. - Một hôm, có người con trai bên Thái Bình sang vùng ta làm thợ gặt. - cô Gái kể, tất nhiên, sau khi chúng tôi đã vật nài chán chê - Đến chỗ cầu Vô Tình bây giờ, anh ta mới ngồi nghỉ chân. Hồi xưa, cầu Vô Tình còn là cầu tre, mà đường cái quan đi huyện cũng chưa phải đường đá đâu, vẫn là đường đất, lội lắm. Anh con trai nghỉ chân, chả là ban đêm mà, nghe thấy dưới chân cầu có ai khóc ti tỉ. Mới bước xuống, thì thấy một người con gái ngồi úp mặt vào đầu gối mà khóc. Anh con trai hỏi mới biết cô này đi ở cho một nhà giàu từ lúc còn bé. Lớn lên, chủ ức hiếp quá, chịu không nổi, bèn cắp xống áo bỏ đi. Cô ta quyết đi là đi, chứ nào có biết đi đâu. Thân gái dặm trường, tới đây trời tối, ngồi mà khóc cho thân phận mình, vậy. Anh con trai động lòng thương, nhìn kỹ dưới ánh trăng, thấy cô ta cũng xinh gái, mới ướm nhời hỏi làm vợ. Cô con gái lúc đầu không chịu. - Đúng cô ta là cái nát rồi - anh Cu Bé nhận định - Thế nào anh chàng cũng bị với nó. - Đừng có cắt ngang, để cô kể. - chị Phương lườm em. - Nhưng rồi nghe anh chàng kể cũng chỉ có một thân một mình, cha mẹ đà chết sớm, cũng nghèo khổ như mình, cô con gái mới thuận tình lấy anh ta. Mà cũng chẳng biết đi đâu nữa bây giờ, thôi thì hai người nghèo dựa dẫm vào nhau, âu cũng là cái duyên, cái số. Ngày anh chồng đi gặt thuê, chị vợ đi mót lúa, xin cây tre, bó rơm thay tiền công, rồi kiếm cơi trầu xin với làng dựng tạm túp lều ở với nhau. - Vậy mà cô bảo chuyện ma? - anh Cu Bé càu nhàu - Cô kể chuyện khác đi, cô! - Gượm, nghe cô kể tiếp. Hai người ăn ở với nhau đã lâu anh chàng mới vỡ lẽ rằng mình ở với em gái. Chả là, nhà bố mẹ anh ta nghèo, năm đói phải dứt lòng bán đứa con gái. Bố mẹ thương nhớ con bé, lúc lâm chung một hai dặn anh ta nhớ mà tìm lấy em, nó có cái nốt ruồi sau dái tai, người mua con bé ở tỉnh Nam Định. Anh ta lần này đi gặt thuê ở Nam Định cũng có ý tìm em đấy, nhưng tìm mãi không thấy, nào ngờ người con gái mình lấy lại chính là em mình, khổ thế. Người con gái thấy một hôm chồng xem kỹ tai mình rồi sau cứ buồn phiền sầu não, đùng một cái nhảy xuống sông tự vẫn. Lúc ấy người con gái đã hồ nghi, sau rồi cũng đoán ra. Chả là, lúc bị bán đi, chị ta tuy vân còn nhỏ, nhưng vẫn nhớ mình còn một người anh trai. Giờ nghĩ lại lúc vợ chồng ăn ở với nhau, nhìn xác chồng, càng thấy đúng. Bèn nhảy xuống sông theo chồng. Đến lúc hai cái xác nổi lên, người ta thấy hai đứa quặp chặt lấy nhau không rời. Cái cầu chỗ hai vợ chồng nhà ấy nhảy xuống tự bấy giờ mới được đặt là cầu Vô Tình nghĩa rằng là họ vô tình mà gặp nhau, vô tình mà lấy nhau... - Chuyện ấy chỉ có hai người biết với nhau, sao người khác biết được mà đặt tên cho cái cầu, hả cô? - chị Liễu hỏi. Cô Gái lúng túng. Nhưng rồi bà cũng tìm được câu trả lời: - Chắc trước khi chết, anh chồng đã kể lại chuyện nhà cho ai nghe, nên mới có người biết mà nói lại. Ai mà chả có bạn bè... - Dễ vậy. - chị Liễu thấy không nên đòi cô Gái giải thích hơn, chị bằng lòng với câu chuyện được nghe - Sau, hai con ma cầu Vô Tình có hay hiện lên không, cô? Từ bấy đến nay - cô Gái kể tiếp - những đêm mưa thâm tối trời hay là sáng trăng suông hai vợ chồng lại hiện lên, người ta gặp luôn. Nhưng đôi ma này là ma hiền, hiền lắm, chúng nó chẳng nát ai, ma chồng đi trước thở dài thườn thượt ma vợ theo sau, níu áo chồng mà khóc ti tỉ. Người nào thấy, cứ lẳng lặng mà đi, có đi sát ngay bên cạnh, đôi vợ chồng ma cũng chẳng làm gì. - Chẳng làm gì cũng làm người ta hết vía? - anh Cu Nhớn rùng mình. - Những người chết oan ức hoặc giả bất đắc kỳ tử thường hóa thành cái nát. - cô Gái kết luận - Nhưng cái nát cũng dăm bảy thứ. Dữ nhất là loại chết trẻ, chúng chả ghen với người sống mà. Nói ví thử như những người chết đuối, sau hóa thành con nam. - Con nam là con gì, cô? - anh Cu Bé hỏi. - Con nam tức thị là người chết đuối hóa ra. Hình thù nó cũng như người, cơ mà nhãy nhụa trơn tuồn tuột. Con nam thường ở nơi mà nó chết đuối, rình người sống bước xuống chỗ ấy để mà dìm. Dìm chết được người khác, nó mới được đầu thai làm người, sống kiếp khác. Vậy là nó cũng chẳng xuống địa ngục mà cũng không lên Thiên Đàng? - tôi thắc mắc - Sao trong kinh bổn hay là sấm truyền chẳng nói đến con nam, mà cũng chẳng thấy nói đến cái nát, hả cô? - Trong kinh sách đâu có những chuyện ấy, mày chỉ hay nghĩ vớ vẩn. Chúng tôi im lặng. Đêm đã khuya. Làng xóm chìm đắm trong giấc ngủ. ở đâu đó, xa lắm, vẳng lại tiếng xay thóc ù của một nhà tham công tiếc việc. - Thôi đi ngủ. - cô Gái hạ lệnh. - Kể cũng lạ, - chị Phương nói, giọng ưu tư - cuộc đời con người ta ngẫm cũng chẳng sung sướng gì, vậy mà con nam nó thèm... Con cái Phương nói gì vậy? - cô Gái mắng chị - Rõ hết khôn thì dồn ra dại!        

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

XVI

Hồi ký

Tôi còn một cô nữa, là cô Mỹ. Cô Mỹ đi lấy chồng xa, cách làng quê nửa ngày đi bộ, qua một con sông lớn là sông Hồng. Khác hẳn cô Thiệp về tính cách, cô Mỹ là người không bao giờ trông đợi bất cứ điều gì ở người khác, cho dù là người thân. Bà hết sức tự tin về niềm tin ở bản thân ấy toát ra ngoài, rõ ràng và mạnh mẽ đến nỗi nó buộc mọi người kính nể. - Cô Gái trọng cô Mỹ là vì chưng cô Mỹ giàu. Cô Thiệp nói như vậy, nhưng tôi không tin cô Thiệp đúng trong nhận xét này.. Cô Gái trọng cô Mỹ trước hết ở cốt cách của bà em nổi tiếng đáo để không chỉ riêng trong họ ngoài làng mà cả ở quê chồng. Bà quyết đoán như một vị tướng, nói gì làm nấy, đồng thời lại tháo vát, nhanh nhẹn như một người đàn ông thông minh. Người ta nể bà là phải. Thỉnh thoảng bà cũng lên tỉnh thăm các ông anh, ông em của bà. Nhưng cách bà tới thăm những người ruột thịt hoàn toàn không giống cô Gái. Bà không lên để thanh tra, để kiểm soát, bà chẳng tự cho mình quyền phán xét ai, và cũng chẳng quan tâm đến chuyện người ta nhìn mình thế nào. Bà thăm anh em đúng với nghĩa của sự thăm, vui mừng vì được ruỗi ra khỏi trăm công ngàn việc bám níu bà, không cho bà được nhàn rỗi lấy vài ngày. Nhưng đến nhà anh em, bà đâu có nghỉ ngơi. Vừa bước vào nhà người thân, thí dụ như nhà tôi, bà lập tức phát hiện vô số cái không ưng ý : nhà cửa không ngăn nắp, mạng nhện chăng đây đó, bếp đầy mồ hóng, sân nhiều rêu, rãnh nước không thoát... Bà cởi áo ngoài, vớ lấy chổi, lấy dao, sửa chỗ này, đắp chỗ nọ, cho kỳ ngôi nhà sạch bong từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài. Được như thế, bà yên tâm ra về, mặt mũi và trong lòng thư thái, không hề nghĩ rằng cái sự nghỉ ngơi của mình đã làm lộn tùng phèo nếp sống bình thường ở nhà ông em. Không ai giận bà về chuyện đó. Trái lại mọi người đều cảm thấy vui vẻ khi nhìn bà hò hét đầy tớ và cùng với họ làm những việc không người khách nào làm. Tôi thích tính cô Mỹ. Mỗi lần lên tỉnh, bà thể nào cũng mang theo gạo lức và men. ở mỗi nhà bà đến thăm, bà chế tạo món quà độc đáo của mình cho các cháu. Rượu nếp của bà tuyệt vời - hạt nếp mẩy và mọng, nước rượu nếp ngọt ơi là ngọt. - Hàng rượu nếp, các cháu ạ, họ ép lấy cái nước bán riêng, vậy nên hạt nó dẹp chứ không mọng, xác mà không ngon - bà giải thích cho các cháu - Mình làm mình ăn, không pha thêm đường vào nước cái, không đổ thêm nước cho nhiều rượu lên, nên ngọt rượu đúng cách thật. Vậy đấy, các cháu ạ. Các cháu ăn hàng bát chiết yêu rượu nếp, mặt đỏ như vang, ngứa lung tung khắp người. Bà vừa gãi cho các cháu vừa cười hì hì, khoái trá với hiệu quả mà món quà bà đem lại. Chưa ở được với các cháu nhà này ít ngày, bà đã chạy tới với các cháu nhà khác. Chỉ ở Hà nội trong nửa tháng, bà đã kịp đi thăm vài chục nhà họ hàng. Tưởng chừng lúc nào cũng hối hả, tất bật như thế, nhưng hối hả, tất bật một cách thoải mái, nhẹ nhàng, với nụ cười và những câu nói đùa không bao giờ ngớt. Bà yêu chúng tôi cũng theo cách riêng của bà, không vồ vập thái quá, nhưng rất chân tình. Một chút tình yêu của bà đối với chúng tôi còn hơn rất nhiều tình yêu của cô Gái. Bà trở về nhà bố mẹ cũng không giống cô Thiệp. Bà không gọi cổng mà luồn ngón tay qua khe giữa hai cánh cửa, đẩy dần cái then khỏi hõng, rồi đi những bước nhanh nhẹn vào trong sân, hai thúng quà bánh nghễu nghện trên đầu Nhấc hai cái thúng xuống, chào chị xong bà đã ra cầu ao rửa chân, tiện thể lấy cây sào chọc mấy quả khế mang vào nhà ngồi ăn trong khi cô Gái ngồi thưởng thức món quà của bà em. Vừa ăn khế bà vừa nhận xét về cái hàng rào bị xiêu rồi chạy xuống bếp lấy nắm lạt rấp nước, đã lúi húi bên hàng rào buộc lại. Trong nháy mắt bà đã sang chào cô Oanh, cô Nhất, cô Nhung và bác Hai Thực, đã phân chia xong quà cho cả ba nhà. Khi cô Gái than phiền với bà về tính nết ngỗ nghịch của tôi, bà cười hà hà, nheo cả hai mắt lại rồi ôm lấy tôi: - Sao mà ông nghịch ra quỷ vậy ông? Ông tắm ao phải cẩn thận kẻo lại chết đuối như bố ông ngày xưa đấy nhá. Giọng bà trong và ngọt ngào, ngân dài như hát, vẫn mang những âm sắc đặc biệt giọng nói quê tôi, nhưng không lạnh lẽo như ở cô Gái, không ảo não như ở cô Thiệp. - Cô dẫn tích bố cháu chết đuối đi, cô. - Lúc bố cháu lên sáu lên bẩy ấy, bố cháu với bác Trác mới rủ nhau đi tắm ngoài ao trước kia kìa. - bà vui vẻ dẫn tích - Bác Trác thấy em chìm lỉm sợ quá, cứ ắng ngắt chạy về nhà. May có người đang vớt bèo thấy lúc xuống hai anh em mà lên chỉ mỗi bác Trác, họ mới tri hô lên. Vớt được bố cháu thì người đã tím ngắt, cầm bằng chết rồi. - Có còn thở tí nào nữa đâu. - cô Gái kể thêm - Bà mới điên lên nhá, cậu út của bà mà, bà cưng nhất nhà đấy, vậy là bà cứ giằng mà ra, cơ mà cả nhà túm chặt, không cho ra, bà la hét mấy cũng không cho ra. - Tại sao cả nhà không cho bà ra với bố cháu, hả cô? - Là vì thế vầy: người chết đuối vớt lên, cứ thấy bố mẹ hay là anh em, tức thì hộc máu ra chết hẳn, không còn cách nào cứu được nữa, lạ vậy. Người ta mới vác ngược bố cháu lên chạy vùng quanh xóm cho đến khi ộc được nước ra, lúc ấy họ mới đặt xuống giữa đường, gọi các bà đi chợ lại, các bà lấy váy quạt vào mặt bố cháu mãi mới tỉnh. - Khai chết! Tôi chun mũi lại, hình dung ra bố tôi nằm đấy, một thằng bé, còn nhỏ hơn tôi nữa, và những người đàn bà phanh váy ra mà quạt thốc vào mặt. Cô Gái tiếp lời cô Mỹ: - Rồi bà mới xoa dầu cù là khắp người, đốt lửa bốn bên sưởi cho nóng lại. Nhờ ơn Chúa, bố cháu sống. Bác Trác bị ông nện cho một trận thừa sống thiếu chết. Rồi ông cúng vào nhà thờ đúng một trăm bạch lạp để tạ ơn thánh quan thầy, tức là Đức Mẹ làng ta. Bà cấm tiệt cả hai anh em: chớ có mà bước chân ra cầu ao lần nữa. Cô Gái kể nghiêm trang. Cô Mỹ vừa kể vừa cười. Câu chuyện kể lại là để răn đe tôi, nhưng cô vẫn cười, như thể trong sự việc xảy ra cho bố tôi không có bóng dáng cái chết. Bố ông nói vậy chứ cứng đầu cứng cổ nhất hạng đấy - bà lắc tôi bằng vòng tay ôm chặt, đung đưa - Ai đời mới mười sáu tuổi đã dám một mình đi rải truyền đơn bên tỉnh Thái Bình. Người ta bắt được, tống vào nhà pha, cô phải đánh đường qua đò Bồng Tiên đội gạo sang cho bố ông đấy Nhìn thấy cô, bố ông nhe răng ra cười, chả có biết hãi là gì suất. Bây giờ lại ở nhà pha nữa, mấy lần rồi chưa chán! Cô Gái đã nín lặng câu chuyện ấy. Bà không thích nói tới nó. Cô Gái vừa yêu bố tôi lại vừa ghét ông: bà yêu người em trai út, ghét tên "cộng sản vô thần", tên hội kín làm ô nhục thanh danh một gia đình đạo gốc. Bà biết rằng cha xứ tránh nói tới ông em út của bà không phải vì ông không biết điều đó, mà vì ông tôn trọng danh tiếng của gia đình, tôn trọng dòng họ ngoan đạo của bà. Cô Mỹ không tỏ thái độ khó chịu với bố tôi. Trọng bà đã vững chắc một tình yêu với ông em trai út, một niềm tin không chuyển, rằng ông là người có trái tim tốt, ông không làm điều xấu. Còn việc ông là cộng sản hay không là cộng sản, đối với bà không thành vấn đề. Vả lại, cả cô Gái và cô Mỹ, cả bác Hai Thực uyên bác cũng như rất nhiều người khác nữa trong làng, hết thảy đều chẳng hiểu cộng sản là gì. Người ta coi cộng sản cũng như một thứ cái nát, mà những người có học nói cho họ biết rằng họ cần phải sợ. Có chị Liễu trong nhà, cô Gái một hôm hứng lên quyết định xuống thăm cô Mỹ. Gọi là xuống vì làng chồng cô Mỹ ở phía biển. Tôi được đi cùng, cô Gái không dám để tôi ở nhà, lỡ xảy chuyện gì, bố mẹ tôi sẽ trách bà. Còn tôi thì bất cứ chuyện đi nào ra khỏi làng đều thú vị, dù là đi ra chợ Cổ Lễ cách làng tôi hai cây số. Huống hồ, tôi được đến với cô Mỹ. Hai cô cháu tôi ra đi từ sáng sớm khi cỏ còn đọng sương. Sương đọng trên cỏ không thi vị như người ta thường tả trong sách. Nó làm bàn chân nhớp nháp, nhột và ngứa. Từ khi về làng, tôi không còn dùng đến dép. ở làng tôi, dép là vật trang sức chứ không phải cái để bảo vệ bàn chân. Ông lý lên huyện cũng đi đất, dép cặp nách, tới khi vào hầu quan mới xỏ chân vào. Cô Gái chỉ đi guốc vào buổi tối sau khi rửa chân lên giường. Tôi tung tăng bước theo cô, vừa đi vừa nghênh trời nghênh đất. Trước mắt tôi, hai bên đường là những cù lao màu xanh thẫm của làng nằm giữa màu xanh nhạt mênh mông của lúa. Những con chiền chiện chao đi chao lại sát đất rồi biến mất trong biển lúa. - Mùa năm nay rồi khá đấy? - Cô Gái nói. Như mọi người ở vùng tôi, cô Gái rất gần gũi với cây lúa. Phong cảnh không mấy gợi cảm đối với cô. Nhưng cây lúa, cái cây đem lại cái ăn hàng ngày, sức khỏe của nó, hình hài của nó tác động tới cô tôi rất nhiều. Tôi chỉ hiểu được điều đó khi chính tôi cắm những dẻ mạ non xuống ruộng, chính tôi phải lo lắng tới sự vơi đầy của nồi cơm. Tới gần trưa, cô cháu tôi mới tới bến đò Trà Thượng. Tôi kêu mỏi chân và kêu đói. Cô Gái mua mấy tấm bánh tẻ ở cái quán bên đường rẽ xuống bến rồi hai cô cháu bóc bánh ăn dưới chân một cây đa già. Cây đa có rất nhiều rễ lớn xù xì, cong queo. Chúng bò lổm ngổm trên mặt đất, rồi trườn xuống vệ sông, chui xuống nước. Dưới chân chúng tôi sông Hồng đục ngầu chảy cuồn cuộn và bên kia sông, con đò nan không người trắng lên màu ngà trong nắng trưa. Con đò điểm một chấm sáng lên nền nâu non tươi tắn của đất bồi. Nắng làm cho không khí ở xa run rẩy. Những hàng tre, những mái tranh và cả tháp nhà thờ bên kia sông cũng rung rinh khe khẽ, tưởng chừng chúng nhẹ bỗng đi trong nắng. Sóng vỗ oàm oạp vào những rễ đa chằng chịt nơi mép nước, như thể muốn làm bật tung gốc đa to, bằng công việc kiên trì, không phút giây ngơi nghỉ. Nhưng cây đa không chịu ngã, nó đã đứng ở đây khi con đê chưa lở tới rễ nó, và nó sẽ còn ở lâu bên sông này. Tôi rơi vào nhà cô Mỹ như rơi vào một thế giới sống động ồn ào không lúc nào ngớt. Ba cái khung cửi của cô Mỹ ầm ĩ bằng ba chục khung cửi của cô Gái. Đó là loại khung cửi máy dùng để dệt vải khổ rộng, hồi ấy vải vuông đã bắt đầu mất giá, với những cái thoi lớn bị đánh qua phải qua trái liên hồi, kêu chan chát, bầng giây giật. Hai cái cối xay thóc cũng to hơn hẳn cái cối của cô Gái, hai cối giã cũng vậy. Người làm chạy lăng xăng, băm bèo cho lợn, xay giã, dệt vải, đun nấu, cười nói ồn ào. Khi cần gọi ai đó, bác Mỹ, chồng của cô tôi, liền cất cao giọng: - Gia nhân đâu? Gia nhân dạ ran, y như trong rạp hát. Họ chạy ào ào từ dưới bếp lên nhà trên, rồi lại ào ào chạy xuống sau khi đã nhận một mệnh lệnh nhiều khi chẳng cần tới một người. Cô Gái dẫn tôi vào chào bác. Ông ngồi trên sập, quần áo trắng bốp, bộ râu ba chòm rung rung theo câu nói, gật đầu chào bà chị vợ. Tiếp đó là cuộc thẩm vấn nhất thiết phải có ở nhà quê khi họ hàng gặp nhau: bố mẹ cháu có khỏe không? chị Tường thế nào, vẫn đi lễ hàng ngày đấy chứ? các bác các chú trên Hà Hội vẫn bằng an cả đấy chứ? ông trịnh trọng gật gật đầu sau mỗi câu trả lời của tôi, tay phải mân mê vuốt mấy sợi râu thưa. Ông luôn lầm lẫn tên các cháu: - Cái Khanh rồi đến cái Phương hay cái Phương rồi mới đến cái Khanh? à, ra vậy, Phương rồi mới đến Khanh, Phương rồi Khanh. Cô Mỹ tôi nắm giữ mọi quyền hành trong nhà, nhưng đối với ông, bà tỏ ra kính nể lắm. Người ta nói rằng bà làm thế để tôn ông lên, chứ thật ra ông không hề biết trong nhà mình có mấy cọc bạc hoa xòe, đi đâu xa ông phải xin tiền của bà. Cô Gái phản đối nhận định đó, cô bảo "Khôn ngoan cũng thể đàn bà. Dẫu rằng khờ dại cũng là đàn ông" và bà tôn trọng ông em rể theo cách của bà em gái. Ông em rể làm chường bạ, một chức sắc không to bao nhiêu trong làng, trông nom việc địa bạ, nhưng dưới mắt cô Gái tôi đó là một danh giá đáng được kính nể. Ông chưởng bạ thì cố phình to mình cho xứng với cái nhìn của những người thân, ông cử động chậm chạp cho thành đường bệ, ít lời như một vĩ nhân, bắt người đối thoại với ông phải hướng mắt mình tới khoảng giữa của ba chòm râu thưa chờ đợi một tiếng nói quyết định. Người đối thoại với ông thường là người bán ruộng. ở quê, người bán ruộng bao giờ cũng là người nghèo gặp vận bĩ, nếu không chẳng bao giờ người dân cày lại chịu rời mảnh ruộng của mình. Thỉnh thoảng cũng có người giàu bán ruộng, nhưng đó là trường hợp hãn hữu, khi có một nhà giàu mới nổi muốn chuộc lại số ruộng của cha ông buộc lòng phải bán đi trong cơn túng quẫn, hoặc hứng chí mua thêm một số thửa mới cốt để được bằng vai với các chủ ruộng lớn. Nói chủ ruộng lớn là nói theo kích thước địa phương, chứ ở làng tôi cũng như ở làng bác Mỹ người giàu lắm cũng chỉ có chừng hơn chục mẫu, mà là mẫu ta. Bác Mỹ tôi, nói cho đúng, cũng là người rành công việc Bao giờ ông cũng gây khó dễ chút ít cho người bán trước đã : - Thửa này, theo địa bạ, đúng ba sào bảy thước. - Ông sai gia nhân trải bản đồ ruộng đất ra trước mặt khách, trên sập sau khi gọi "Gia nhân đâu rõ to, rõ nghiêm, làm khách giật mình - Tại sao trong văn tự viết có ba sào? - Thưa ông, thửa này từ đời cụ con để lại, chỉ có ba sào - người bán hết hoảng kêu lên, mắt chòng chọc nhìn vào mặt ông chưởng bạ, người sẽ xác nhận cuộc mua bán, người sẽ tăng hoặc giảm tiền thuế phải đóng. - Tôi cứ ở bản đồ. - Thưa ông, ông xét cho... - Ông rõ dại, dại quá? - Ông chưởng bạ lắc đầu, vẫy người thanh niên đi cùng với người bán ruộng lại gần bằng những ngón tay để móng dài - Anh kia, lại đây? Con ông, hả? Để anh ta xem có đúng không nào? Đúng chứ? Gì thì gì chứ đã ghi vào địa bạ rồi, đã có mực đen giấy trắng rồi, thì không có chạy vào đâu được nữa. Bản đồ làm từ hồi đạc điền năm nào, rành rành đây này, khốn nỗi người ta tham cứ lấn qua lấn lại mới ra sai. - Thưa ông, ông dạy đúng lắm, người nọ lấn người kia mới ra thế... - Vậy thì ông phải đòi lại, cho đúng thước đúng tấc của mình. - Khốn nỗi, họ đâu có chịu, thưa ông. - Cứ bảo họ đến tôi, tôi sẽ cho đo lại, tôi sẽ giúp ông làm cho ra nhẽ. Còn của ông, văn tự phải làm lại. Giá phỏng tôi cứ chứng bậy, thửa này còn ba sào thì ông thiệt - bảy thước đất vậy là mất không. Lại nữa, giấy tờ là giấy tờ, không thể cứ mình mà được. Người sai được, nhưng giấy quyết không được sai, hiểu chửa? - Nhưng người mua đo rồi, thưa ông, có nói theo địa bạ họ cũng không nghe. - Họ cũng dại. Một tấc đất cũng tấc vàng, các cụ nói cấm có sai. Thuế văn tự có tăng thật, nhưng mình được lợi. Cả người mua lẫn người bán đều lợi, nếu sau này họ bán đi thì cũng vưỡn cứ là ba sào bảy thước. Ông phải nghe tôi, cứ chiếu địa bạ mà đòi lấy bảy thước nữa. Người bán dường như được soi sáng: - Dạ, ông dạy chí phải, con hiểu ra rồi. - Vậy làm lại cái văn tự này rồi đưa lại cho tôi. - Tức thị con cứ đòi thêm tiền bảy thước nữa? - Đòi chứ. Cứ theo địa bạ mà đòi, tôi đã bảo rồi. Nhưng việc mua bán là của đôi bên, tôi không biết, không dây. - Con cứ nói ông dạy thế... - Phải. Nếu họ chỉ định giá ba sào thôi thì bảo họ lại tôi. Ai mua đấy nhỉ? - Dạ, có viết trong văn tự, bà Hai Giáp ở chợ Cầu đấy. - Tưởng ai, văn tự ghi Nguyễn Thị Tèo, tôi quên khuấy tên con gái của bà ấy. Vậy nhá, làm lại, đưa tôi. Tức thị, cứ bảo bà Hai lại ông? - Phải. Người mua đến, cũng sửng sốt kêu trời, cũng kiên nhẫn nghe ông chưởng bạ giảng giải, rồi xuýt xoa khen ông dạy phải. Việc mua bán thành, cả hai bên đều thấy mình mang ơn ông chưởng bạ, ông chưởng bạ hài lòng nhận lễ. Họ biết rằng nếu vì bảy thước đất hoặc mười thước đất nọ mà xảy ra đánh nhau ngoài đồng thì thể nào ông trương tuần cũng nhảy vào, rồi ông phó lý chạy tới, ông lý trưởng gọi lại phân xử, ông chưởng bạ đem thước ra đo. Đã lâm vào kiện tụng rồi thì tất phải sắm lễ mang đến nhà các bậc chức sắc, mỗi bên đều có những người cầu bầu riêng của mình, và lễ không chỉ có một lần mà xong. Cứ thế cho tới khi cả hai bên mệt nhoài tính chuyện giảng hòa, bởi vì đến lúc ấy họ mới cảm thấy cái sự thua thiệt do kiện tụng lớn đến thế nào! Có hai bên thật nhưng không phải bên nguyên bên bị mà là bên ăn lễ và bên mất lễ. Tôi hay ngồi chầu rìa, tôi nghe được đủ thứ chuyện trong một vụ. Y như thể tôi được xem một vở kịch không có sân khấu, giờ trước tôi theo dõi các diễn viên đang diễn, giờ sau tôi đã được chứng kiến họ đàng sau các cánh gà vô hình, nơi các đạo diễn và diễn viên bàn luận về vở kịch. Bác Mỹ không thích các anh tôi, con của bác, được ngồi cùng bác, nhưng không hiểu sao ông lại cho phép tôi được ngồi bên ông trong khi ông làm việc. Có lẽ, ông yêu tôi cũng nên, có điều chẳng bao giờ ông bộc lộ tình cảm đó. Vả lại dù có yêu tôi ông cũng không yêu ngang bằng những con mèo cưng của ông. Chúng bao giờ cũng nằm la liệt trên sập chung quanh ông, những con mèo béo múp míp đủ loại tam thể, nhị thể, đen và mướp. Ông yêu đàn mèo bằng một tình yêu kỳ lạ, dường như chúng là những sinh vật đáng quí nhất trên đời. Được nuông chiều, những con mèo lười biếng hết sức, chúng không bắt chuột, suốt ngày chỉ quanh quẩn bên chủ, nằm trên đùi ông khi ông tiếp khách, đến bữa cơm thì kêu ỏm tỏi chung quanh ông. Ông gắp cho chúng những khúc cá ngon, trộn cơm gạo tám thơm (quê ông có thứ gạo tám thơm nổi tiếng, trong nhà nấu, ngoài ngõ thấy mùi, dẻo và ngon hơn bất cứ thứ gạo nào mà tôi được ăn). Nhìn những con mèo của ông ăn, thú thật, hồi đó tôi quết nước bọt. Về mặt riết róng, cô Mỹ nổi tiếng trong họ dễ chỉ thua có cô Gái. Bà giàu có, nhưng không bao giờ để xổng một xu Một xu ra khỏi hầu bao của bà phải trở về dắt theo vài trinh. Cơm cho người làm, bà dọn thứ thức ăn mặn chát, mặn đến mức một con tôm giảo kho có thể ăn với cơm từ đầu bữa chí cuối, người giỏi ăn mặn lắm cũng chỉ có thể dùng làm thức ăn cho một bát. Tuy nhiên, cơm thì ăn tha hồ, bà không bao giờ để người làm đói. Tôi đã được ăn những bữa cơm dọn cho người làm của bà, bởi vì những đứa cháu xuống chơi với bà, nếu thích đi gặt hoặc đi cấy cùng với người làm, thì phải ăn sớm cùng với họ, mà người làm thì ăn cơm sáng từ lúc còn tối đất; dưới ánh sáng ngọn đèn hoa kỳ. Bữa trưa sẽ được các chị tôi gánh ra đồng, bữa tối họ mới lại ăn ở nhà, cũng vào lúc nhọ mặt người. ở vùng quê chúng tôi hồi ấy không có lệ ngày làm việc tám tiếng. Người ta làm cùng với mặt trời và đi ngủ cùng với mặt trời. Cô Gái trọng ông em rể đến nỗi khi cô Mỹ đi làm cùng với thợ thì cô Gái cũng dậy sớm đi làm, ăn cùng mâm với thợ cấy chẳng hạn, cũng với con tôm kho mặn ấy, mặc dầu bà là khách. Ông bạ Mỹ cũng coi dó là chuyện thường tình, không hề quan tâm, không hề cản bà đi làm và không nằn nì mời bà dùng cơm cùng ông. Các ông em ruột ở trên tỉnh thì khác hẳn, cả ông em rể ở Bắc Giang cũng vậy, mọi người đều trọng vọng bà, chèo kéo mời mọc bà. Tôi đã tưởng cô Gái phải tự ái, phải giận ông em rể và bà em gái, nhưng bà không giận, tuyệt nhiên không. Đã nói đến bác tôi, tôi không thể không nhắc tới cái hắt hơi nổi tiếng của ông. Đang ngồi im lặng, ra chiều suy nghĩ, bỗng ông thần ra, mắt mở to nhìn về phía trước như theo dõi vật gì, rồi bất thình lình một tiếng sấm vang dậy trong ngôi nhà gạch. Những con gà la đà kiếm ăn ở chân tường cắm đầu chạy thục mạng, người khách vừa tới cổng giật bắn mình, dừng lại; lũ chim sẻ đậu trên mái ngói đang cãi nhau ỏm tỏi vội bay vụt lên, hoảng hốt đến cực điểm, những cái khung cửi ngừng dệt, cối xay thóc ngừng quay, mọi người trong nhà ngừng tay làm việc chờ cái hắt hơi kế tiếp. Nó đến sau chừng một phút, với cường độ kém hơn nhưng cũng đủ ầm vang cả nhà. Sau đó mọi sự trở lại bình thường - những con mèo tỉnh giấc vờn nhau, người khách sửa lại khăn xếp, cụp Ô lại, vào nhà, đàn chim sẻ lại sà xuống mái, tiếp tục cuộc cãi vã bỏ dở, đàn gà lại bới rác, hai cái khung cửi lại kẽo kẹt, cối xay lại ù ì. Người trong xóm đánh thức nhau mỗi buổi sáng: - Dậy, dậy? ông bạ Mỹ hắt hơi rồi? Mọi người đều hắt hơi, nhưng không ai có thể hắt hơi to như bác Mỹ tôi, lại càng không ai hắt hơi đúng giờ đúng giấc như ông. Cả xóm không cần dùng đến đồng hồ. Tôi đã nghe thấy tiếng hắt hơi của ông cách cả một xóm, nghĩa là độ vài trăm mét. Anh Lịch, con bác, còn bắt được tiếng hắt hơi của bố cách cả nửa cây số. Đang đi chơi với tôi, anh dừng lại đột ngột: - Đến bữa rồi, chạy mau về ăn cơm. Tiếng hắt hơi của bác rể tôi sống lâu hơn ông rất nhiều. Mấy chục năm sau ở trong làng người ta còn nhắc tới cái tiếng hắt hơi kỳ lạ ấy và những sự tích liên quan với nó.  

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

XVII + XVIII

Hồi ký

Cô Mỹ nói với cô Gái: - Chị cho cháu ở lại mấy ngày, em cho nó xuống bể. Cho nó đi chơi một thí, cho rộng tầm con mắt. Bể đây tức là biển, gọi theo cách người quê tôi. Quê chồng cô Mỹ cách biển không xa. Nếu đi thuyền theo một con ngòi, mà người ta gọi phóng đại lên là sông, thời mất đúng một đêm. Khi có nước ròng đi còn mau hơn. Tôi thường theo anh Lịch ra bơi ở con ngòi này, nước đục ngầu phù sa và hai bên bờ chi chít lỗ cáy. Cá biển, tôm biển ngược con ngòi này lên chợ Cầu (chợ làng bác Mỹ) vẫn còn tươi. Nhìn những mẹt hải sản ê hề - những con cá thu béo lẳn, những con cá chim to bè nằm chen lấn với những con cá khoai trong như thạch, những đống tôm từ dưới thuyền đổ lên ngồn ngộn, cùng với những con mực trắng và không biết bao nhiêu loại cá loại tôm khác làm tôi hoa mắt. Tôi hình dung một biển giàu có, hào phóng với con người ở đó người ta không bao giờ coi một xâu cá rô ron là một niềm vui không bao giờ cảm thấy hạnh phúc nằm trong một bát canh sung nấu với vài con mương nhép. - Xuống bể, tớ với mình đi tắm, khoái lắm - anh Lịch nói với tôi. - Hai đứa không được đi tắm một mình - cô Mỹ ra lệnh - Đi đâu phải có người nhớn. Người nhớn mà chúng tôi có trách nhiệm vâng lời là một ông lái buôn nồi đất, một ông hàng nồi. Ông cất hàng ở các lò xa, mãi gần tỉnh lỵ, bán hàng ở các chợ biển. Hết hàng ông quay về làm chuyến khác. Con đường ông đi, bằng chiếc thuyền gỗ cũ kỹ đã vá víu nhiều chỗ, chạy qua nhà cô tôi. Tôi phải chờ đợi cả tuần lễ mới gặp ông. Đó là một người đàn ông đã đứng tuổi, tóc đã lốm đốm sợi bạc, ít nói, cử chỉ chậm chạp nhưng chắc chắn. Ông cho thuyền đi bằng cách lao con sào xuống nước rồi tì vai vào đầu sào, cúi đầu xuống mà đi rất chậm từ mũi xuống lái. Không bao giờ ông lao sào hai lần. Ông hàng nồi tới, ăn bữa cơm mời ở nhà cô tôi, lẳng lặng nghe lời cô tôi dặn dò rồi dẫn chúng tôi ra sông. ở đó ông kẹp chúng tôi mỗi đứa một bên nách bước xuống tấm ván bắc chênh vênh, và thả chúng tôi xuống thế giới nồi niêu và tiểu sành của ông. Thuyền của chúng tôi đi giữa hai bên đồng lúa ngút tầm mắt, thỉnh thoảng lại gặp một thôn xóm sầm uất với những cây cầu tre bắc ngang. Mùa nước dâng, mui thuyền không chui qua được những cây luồng bắc giữa cầu, ông lái phải dừng thuyền, bà vợ nhảy lên bờ, nhấc một đầu luồng lên, thuyền qua rồi lại nhảy xuống. Công việc nhấc cây luồng ấy rất thú vị đối với chúng tôi bởi cái sự được nhảy lên nhảy xuống chứ không phải ngồi bó gối cả ngày dưới thuyền, nên chúng tôi tình nguyện làm thay bà vợ cũng ít lời của ông. Lúc đầu ông hàng nồi còn sợ chúng tôi ngã xuống ngòi, nhưng thấy chúng tôi nhanh nhẹn và nhảy nhót nhẹ nhàng như những con khỉ con, ông bằng lòng. ở đoạn đường đông làng mạc, ông cho phép chúng tôi đi bộ song song với thuyền. Đi bộ cũng thích lắm. Chúng tôi gặp không biết bao nhiêu cái lạ mắt. Những người đàn ông mình trán trùng trục da đỏ như đồng hun, choãi hai chân, người ngửa hẳn về phía sau, chăm chú bện những sợi chão rất lớn một đầu cột vào cọc lim. Khi cuộn lại những sợi dây đã bện xong vào hai thanh gỗ bắt chéo, hai tay họ đánh vòng đuổi nhau như múa. Những người đàn bà chẻ những nan cót mỏng tang như giấy. Những tấm cót phơi mình trên cỏ trắng lên một màu trắng ngà, trông xa như một con đường nhỏ, sạch và đẹp kỳ lạ, chạy dài từ đầu xóm tới cuối xóm. Những cô gái se tơ để dệt lưới quay vè vè những cái sa đặc biệt không giống các loại sa tơ khác. Các cô nhích từng bước một, tay không lúc nào ngừng quay, cùng với những hàng sợi song hành mỗi lúc một xăn. Tiếng sáo diều đi theo chúng tôi ở mọi đoạn đường, những cánh diều nâu và. đen không ngừng chao đi chao lại nô rỡn với nhau trên bầu trời xanh ngắt. Diều lên rộn ràng nhất vào lúc trời chiều. Sáo vùng này đặc biệt đông đúc và nhiều loại, nhưng phần lớn là sáo ro, thứ sáo phổ cập trong trẻ nghèo. Cũng có những diều lớn hơn mang sáo bộ, tức là ba bốn sáo hoặc nhiều hơn trên một giá. Thành thử, tiếng sáo vi vu không tắt tới tận khuya. Khi trời tối hẳn, ông hàng nồi mời chúng tôi xuống thuyền ăn cơm. Ông không chống sào nữa mà ngồi bên tay lái, cánh tay trái hờ hững đặt lên trên thanh gỗ đã lên nước bóng nhãy. Bên trên chúng tôi là bầu trời sâu thẳm, lấp lánh sao. Bữa cơm nhà thuyền gồm cá câu được trong ngòi, rau mua chợ bên đường, tất cả đều tươi, rất ngon miệng. Nhà thuyền không có chạn để thức ăn, người nhà thuyền không ăn món nào để lưa cữu. ăn xong thì sẩm tối. Ông hàng nồi thấy cần phải làm vui cho chúng tôi, ông sợ chúng tôi buồn: - Các cậu có biết cách người ta nhìn trời xem sao mà biết được nước lên nước xuống hay không? Sao thì ở tít tắp trên kia, vậy mà nhìn nó lại biết con nước dưới đất, mới lạ. Các cậu nhìn lên kia, đấy, có thấy sao con vịt không? - Đâu, con vịt đâu? - Làm gì có con vịt. Là những ông sao kia kìa, đấy! Có giống con vịt không? - Cháu chả thấy giống, có phải mấy ông sao gần nhau thành cái đường cong cong kia không, ông? - tôi chỉ tay, hỏi. - Đúng đấy. Gọi là con vịt là do mình hình ra như vậy, là nói nó ang áng như vậy thôi, chứ đâu nó có giống con vịt thật. - Ông nói chậm, như thể khó nhọc vì tính ít nói của mình - Vậy, các cậu ạ, bao giờ cái đầu con vịt áp với sông Ngân, thức thị cái dải sao chi chít sang sáng kia kìa, như hôm nay, là nước lên. Nước lên thì vịt phải vào gần bờ môi kiếm được con tôm con tép. Nước mà xuống, sông cạn thì cái đầu nó xa ra khỏi dải Ngân hà, tựa nó phải kiếm cái ăn ở giữa sông. Nhìn quen, có quên ngày cũng biết được hôm nay mấy con nước. - Con nước là con gì hả ông? Ông giảng giải cho tôi thế nào là con nước. Giọng đều đều ông kể như lần giở từng trang sách. Giống bác Hai Thực, ông có một cuốn sách thú vị về bầu trời, về những chòm sao, những ngày nước lên nước xuống, những quầng những tán của trăng, từ đó ông có thể biết trước thời tiết và nhiều cái khác nữa. - Tôi buôn nồi thế vầy đã lâu lắm. - Ông nhẩn nha kể về nghề mình, mắt ưu tư nhìn về phía mũi thuyền - Mà chỉ độc buôn nồi thôi, không buôn giống gì khác. Đi buôn, ai chả bảo để lấy lãi, phải không nào? Vậy mà không phải thế cả đâu. Tôi khác, tôi đi buôn là vì cái tính tôi thích đi đây đi đó, các cậu ạ. Ngồi một chỗ cuồng cẳng lắm. Lại nữa, tôi mê cái nghề gốm này. Cậu Thư tính tò mò, cậu mà được xem cậu cũng mê luôn. Tài lắm kia, cậu ạ. Từ hòn đất người ta vật đi vật lại cho thật nhuyễn, thật mịn, thật dẻo, đưa lên bàn xoay, thoắt cái hòn đất đã thành vại thành chĩnh, thành nồi thành chum. Bà nhà tinh lắm, đố có bịt được mắt bà. Gõ vào cái nồi một tiếng, nhiều là hai tiếng, bà phân biệt ngay tốt xấu. Cái tiếng nồi, nghe được nó phải là giỏi. Có nhiều khi đun vài bận mới biết nồi có vết nứt. Xem nồi cũng như xem tướng con người ta, y vậy. Chọn đúng cái nồi, dùng cả đời người không hỏng. Chọn sai, non.thì dễ bục, già thì dễ rạn, phí tiền thì ít, bực mình thì nhiều. Bà nhà mà cả cũng riết róng phải biết, nhưng tôi biết, bà mà cả cho phải phép, ai mua mà không cả, nhưng bà biết tôi buôn toàn loại tốt, giá có nhỉnh hơn hàng khác thật, cơ mà đáng đồng tiền. Lại nữa, biết cách dùng thì nồi đất chẳng kém gì nồi đồng, có khi còn hơn. Nấu cơm gạo tám mà nấu nồi đồng thì bì thế nào được với nồi đất, vầng cháy của nó nhai đã ròn thì chớ mà còn đáo để là ngon, ăn đến đâu khoái đến đó. Rim cá cũng phải nồi đất mới hay... Ông say sưa với câu chuyện nồi của mình. Gió biển vuốt ve chúng tôi. Chúng tôi ngủ lúc nào không biết. Gần sáng, ông hàng nồi đánh thức chúng tôi dậy. Đàng lái bập bùng ánh lửa, bà hàng nồi nấu cơm sáng. Tôi nằm vắt mình qua mạn thuyền, vục nước lên rửa mặt. Những giọt nước rơi xuống cháy lên những đốm lửa xanh lục. Tôi té nước - hàng loạt đốm lửa như vậy lại hiện lên trong nước đêm, bên cạnh những vì sao bị vỡ vụn. Trò chơi cuốn hút tôi. Nhưng những đốm lửa nhạt dần. Chúng mất hẳn khi nước sông đã sóng sánh trong ánh bình minh nhợt nhạt. Cũng lúc đó tôi nghe thấy một âm thanh kỳ lạ, tường chừng rất nhiều thôn xóm quanh chúng tôi thức dậy cùng một lúc và đang hối hả xay thóc. Tôi quay mặt lại hỏi ông hàng nồi. - Cái gì vậy ông? - Bể đấy? Ông nói, giọng tự hào như khoe một vật quí, của riêng mình. Lát sau, tiếng ầm ì to dần lên, nghe trong đó như có tiếng cả một đàn chó lớn gầm gừ. - Bể nó kêu, hả ông? - tôi hỏi. - Không phải, sóng đấy! Anh Lịch tôi vẫn ngủ say sau khi chuyển chỗ. Anh ngủ nhiều. Những người ngủ nhiều thường ngủ qua mất nhiều điều thú vị. Những vì sao cuối cùng đã tắt ngấm trong màu xanh mỗi lúc một sáng thêm. Những đám mây lớn bùng cháy trên bầu trời và ở đôi nơi, chúng giống như những mảng xà cừ khổng lồ. Gió biển mát đến rùng mình. Sương đêm làm cho ván thuyền sẫm lại. Ngoài tiếng biển ra, không còn tiếng gì khác. Thuyền của ông hàng nồi cập bến chợ biển. Sau khi gánh nồi lên cho vợ bán, ông dẫn chúng tôi ra gặp biển. Trước mặt tôi, qua những mô đất và cồn cát lơ thơ cỏ gai, đột khởi một bức tường vĩ đại màu hung đỏ, trên đó giăng hàng loạt dải bông tơ màu trắng. - Bể này gọi là bể Bạch Long, - Ông hàng nồi giới thiệu - vì sóng nhiều, trông tựa vảy một con rồng trắng. Cậu thấy có giống không? Tôi có trí tưởng tượng nghèo nàn, tôi không thấy con rồng trắng ở đâu. Anh Lịch không có ý kiến. Nói chung, anh ít quan tâm tới mọi cái. Lớn hơn tôi một hoặc hai tuổi, anh biết nhiều hơn tôi, nhưng đối với cái gì anh cũng dửng dưng, không có gì làm anh chú ý, cũng chẳng có gì làm anh ngạc nhiên, y như thể anh đang sống lần thứ hai trên mặt đất. Càng đến gần biển thì bức tường càng thấp xuống, nằm nghiêng nghiêng như một đồng chiêm bao la ngập nước không thấy đâu bờ bến. Tôi lặng đi trước cảnh tượng hùng vĩ. Những cảm xúc hỗn độn, không có tên, tràn ngập tâm hồn bé bỏng của tôi. Trong lòng tôi mang mang nỗi bồi hồi của sự chờ đợi một cái gì, cái gì ấy sẽ đến với tôi, không phải ngay hôm nay hay ngày mai, nhưng nó sẽ đến, nhất định sẽ đến. Dường như biển đang nói với tôi lời tiên đoán về cuộc đời tôi, mà tôi thì lại không hiểu. Tôi cởi quần áo, đi những bước rụt rè về phía những con sóng đang chạy đuổi nhau vào bờ. Biển giang cánh tay mát rượi đón tôi vào lòng, vuốt ve tôi, tung tôi lên rồi nghịch ngợm đưa tôi ra xa. - Vào ngay, chết giờ? - anh Lịch hét lên. Từ trên bờ, ông hàng nồi cứ để nguyên quần áo hấp tấp chạy xuống. Tôi nhìn thấy ông đung đưa trên mặt nước biển đúng vào lúc một con sóng lớn ập tới, đẩy tôi ngã xuống rồi cắp lấy tôi mang đi. Tôi uống một lúc mấy ngụm nước chát, sặc sụa. Ông hàng nồi đã túm được tóc tôi, rồi quắp lấy tôi, giằng tôi ra khỏi tay biển và đưa tôi lên bờ. Tô lử lả ngồi bệt trên cát. Ông hàng nồi cởi quần áo cho tôi, vắt kiệt nước rồi bắt tôi mặc vào. Vừa làm việc đó ông vừa cằn nhằn: - Đã bảo cậu không được tắm, mà cậu cứ tắm. Lại còn giỡn sóng nữa chứ. May mà tôi vớt kịp... Cuộc gặp gỡ không êm dịu với biển, tuy nhiên, không làm tôi sợ nó. Ngược lại, cuộc gặp gỡ ấy đã đem lại cho tôi một tình yêu suốt cuộc đời đối với biển, cũng như với những khoảng không bao la. Nhưng cuộc gặp gỡ với biển đồng thời cũng làm tan vỡ trong tôi hình dung về cuộc sống no đủ và sung sướng ở những người sống bên biển. Chúng tôi theo thuyền của ông hàng nồi đi tới bốn năm chợ biển. ở đâu cũng tôm cá ê hề, đủ loại, nhưng ở đâu tôi cũng gặp những con người rách rưới, với nét mặt cam chịu, ủ ê, chẳng khác gì ở quê tôi. - Cái số con người ta nó vậy. - Ông hàng nồi trả lời khi tôi hỏi - Người số sướng thì vẫn sướng, người số khổ thì vẫn khổ ở đây cũng khối người giàu đấy, cậu ạ. Người nghèo đi biển kiếm được con tôm con cá về phải bán ngay tại bãi cho người giàu. Họ trường vốn mà, cậu. Đã giàu lại càng giàu thêm. Còn người nghèo thì làm sao giàu lên được khi vớ được cái gì cũng phải bán tống bán tháo ngay để đong gạo. Biển lặng thì chớ, biển động mấy ngày liền là đói. Lại còn cái tang ra khơi rồi gặp bão, khối người không về... ở ven biển, những người đàn bà chít khăn trắng cũng nhiều chẳng kém gì ở quê tôi. Thì ra, biển cũng chẳng hào phóng. Để giành giật miếng ăn từ lòng biển, cũng như từ lòng rừng, người ta phải trả giá không thấp, có khi bằng cả tính mạng. Ngày cuối cùng trong chuyến đi biển của tôi, tôi đã thấy biển trong cơn thịnh nộ. Những đợt sóng cao như những bức tường thành khổng lồ dâng lên ở chân trời. Sóng đập vào bờ làm thành những tiếng nổ rền. Tôi chỉ dám đứng từ xa mà nhìn. Bầu trời thấp và nhiều mây, những đám mây xám, cau có, ảm đạm; chúng biến dạng nhanh chóng với những đường viền rách rưới. Anh Lịch kéo tôi về ngôi nhà tranh nhỏ bé, nơi chúng tôi ngủ đỗ. Ông lái không để cho chúng tôi ở dưới thuyền trong cơn bão. Con thuyền đã hết hàng vật vã trên mặt nước xám đục. Nó được cột chặt bằng mấy sợi dây chão lớn. Ông hàng nồi vẫn chưa yên tâm. Chốc chốc ông lại chạy ra xem con thuyền của mình, lo lắng cho nó như thể nó là một sinh vật yếu đuối, cần được ông che chở. - Nước lên quá thể. - Ông chủ nhà ngồi xếp bằng tròn trên phản, đứa con chốc đầu ngủ nghẹo trong lòng, ngao ngán nhìn ra ngoài trời, nơi hàng tre xơ xác vặn mình, rạp hẳn xuống đất - Cứ thế này thì chẳng còn nề muối nào nguyên vẹn, cơ khổ. - Năm nay bão sớm. - Ông hàng nồi nói. - Mà dữ quá. - Ông chủ nhà nói thêm. - Thật vậy - Ông hàng nồi đồng ý - Quái, ai đi ngoài kia thế đang cơn bão? - Có cái kho tạm mới cất bị bung vách, mấy người đi kiếm hạt muối đấy. Gặp Tây Đoan thì chết. - Chúng nó ác quá. Người làm ra muối mà mang vài nắm về cũng bắt, cũng đánh. - Vậy đấy, chẳng bao giờ hết khổ đâu. Tối đến, tôi ngồi đọc kinh với nhà chủ. Gió rú rít bên ngoài ngôi nhà chốt chặt mọi cửa. "Lạy Chúa tôi, tôi ở dưới vực sâu...", tiếng đọc kinh đều đều, buồn bã đắm chìm trong tiếng gió. Trong bóng đêm, biển vẫn lồng lộn, gào thét. XVIII Một tai họa khủng khiếp bất ngờ giáng xuống cô Gái. Tôi đang lúi húi vót nan cho cái lồng bẫy chim khuyên ở thềm thì nghe trong buồng, cô tôi kêu thất thanh: - Giê-su? Tôi quăng dao, chạy vào. Cô tôi ngồi bệt trên giường, mặt méo xệch, miệng muốn kêu gì mà không kêu được, chỉ động đậy hàm dưới. Trong bóng tối, tôi thấy mặt bà bệch ra, nhợt nhạt. - Cô ơi cô làm sao vậy cô? Tôi chồm lên giường, ôm chầm lấy bà. Cô tôi nhìn tôi ngỡ ngàng, như thể bà không nhận ra tôi. Rồi trấn tĩnh lại được bà bỗng cuống quít xua xua hai tay: - Ra, ra ngay ngoài kia! Tôi sợ hãi lùi dần ra phía cửa buồng, mắt không rời bộ mặt đau đớn, kinh hoàng và ngây dại của cô tôi. - Cô ốm hay làm sao, cô? Cô tôi gắng gượng đứng lên, lập cập bước xuống đất, lẳng lặng đẩy tôi ra, khép chặt cửa buồng lại. Tôi đứng sững bên ngoài, nghe tiếng cô Gái dấm ngực thùm thụp, tiếng khóc nghẹn ngào, tiếng kêu xuýt xoa của người bị đau: - Giê-su! Giê-su? Giê-su? Không suy nghĩ, tôi lao sang cô Oanh. Tôi không sang gọi cô Nhung bởi tôi biết tính cách mềm nhũn của cô. Cô Nhung sẽ hốt hoảng cùng kêu tên Chúa nhiều lần với cô Gái, nhưng làm điều gì hơn thế cho cô Gái thì cô chịu. Cô Oanh hối hả sang ngay. Nhưng hối hả thì hối hả, bà cũng còn phải xoa chút dầu Nhị Thiên Đường lên mũi đã. Đó là thói quen cố hữu của bà, mỗi khi ra khỏi nhà bà phải xoa dầu và choàng khăn. Tôi chạy về trước, đập cửa buồng báo cho cô Gái biết cô Oanh sắp sang. Bà kêu Giê-su một lần nữa rồi quát ra: - Thằng quỷ, ai bảo mày gọi cô sang! Ai bảo? Cô Oanh đã lật đật sang tới nơi. - Lạy Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, bà làm sao vậy? - Em bị cảm xoàng thôi mà. - cô Gái đáp vọng từ trong buồng ra - Cháu nó thấy em rên, nó hãi... - Nó bảo có dễ bà ngã hay là trúng phong... Không việc gì hả? - Thưa chị, không. Em vừa xoa dầu, người chỉ ngây ngấy rét. - Phải xoa cả hai bàn chân nữa. Để tôi hái nắm lá cho bà xông. Chị cho em một nắm. Cái giống cảm mạo thế này, xông được cái là nhẹ liền. - Bảo cháu đun nước cho cô. - Thưa chị, vâng. - Mài ít quế Thanh ra mà uống. Nhà còn không hay để tôi mang sang cho. Quế cũng hay đáo để. - Thưa chị, vâng. Cô Oanh về. Lát sau, bà gọi tôi sang lấy lá xông. Bà hỏi kỹ tôi có thật tôi nghe cô Gái khóc không, còn việc cô tôi kêu Chúa liên hồi bà không quan tâm. ở làng tôi khi bị chó đuổi người ta cũng kêu tên Chúa. - Lạ nhỉ, cảm thì việc gì mà khóc? - cô Oanh thắc mắc. Tôi mang nắm lá về, đang định xuống bếp để cho vào nồi nước thì cô Gái ló ra ngoài cửa buồng: - Vào đây! Tôi len lét bước vào. Tôi sợ cô tôi sẽ trị tội tôi về chuyện láu táu sang gọi cô Oanh, bà vẫn thường rủa tôi là đồ "nhanh nhảu đoảng, thật thà hư. Nhưng cái phất trần vẫn treo ở nhà ngoài, tôi không thấy bà cầm nó trong tay. - Cháu vào đây! - cô Gái nghẹn ngào bảo tôi - Vào đây, cháu. Ngồi xuống đây với cô. Cháu nhìn xem này, mối xông hết mất rồi! Trong bóng tối mờ mờ, tôi nhìn thấy đống giấy bạc tung tóe trên giường. Khi tay tôi đụng vào những tờ giấy, chúng vụn ra. Từ đống giấy xông lên mùi giấy bạc mới quen thuộc và mùi đất ẩm. Tôi đã biết sức mạnh tàn phá của những con vật bé nhỏ tưởng chừng hiền lành này. Chúng đã ăn ruỗng nhiều chỗ trong ngôi nhà ông bà tôi, còn dữ tợn hơn cả mọt, bởi vì chúng phá phách với tốc độ vô cùng kinh khủng. Hôm nay, bức vách còn nguyên vẹn, không để ý mai đã bị đục ruỗng. Cô Gái cẩn thận kê bốn chân hòm gian lên bốn cái bát canh loại lớn đổ đầy nước. Một miếng giẻ rơi xuống đã thấm hết nước trong bát, làm thành cái cầu cho mối leo lên. Cô Gái như người mất trí, hai tay bà quờ quạng trên những tờ giấy tan nát: - Cô mất hết rồi, cháu ơi? cô đã giành dụm bao nhiêu lâu mới được từng đây, mà hết... Tôi chẳng biết làm gì hơn, tôi ôm lấy bà cô tội nghiệp của tôi, lấy bàn tay bé bỏng vuốt trên lưng bà, trên cánh tay xương xẩu của bà. - Cô chết mất, cháu ạ. Lạy Chúa tôi, sao người để con khốn khổ thế vầy? Con làm gì nên tội, lạy Thánh Mẫu Đồng Trinh? Tiền này bác Linh, bác Thông, bác Trác, bố cháu gửi cho cô đấy, tiền của cô dành dụm bao nhiêu năm đây, để cô trông nom nhà cửa đây, vậy mà nước lã đổ ra sông ráo, cháu ơi! Bà vừa kể lể vừa lẩn thẩn chắp những đồng bạc rách lại với nhau rồi tuyệt vọng quăng chúng xuống đất. Dưới chân giường chẳng mấy chốc trắng xóa giấy bạc nát. - Mà cô dành dụm cho ai? Để cho chúng mày chứ còn để cho ai, mày với lại thằng Hiếu, chỉ có hai đứa là yêu cô, muốn ở với cô. Cô nghĩ, chúng mày lớn lên đã có tiền đây tu bổ cửa nhà, giữ lấy mảnh đất tổ tiên, Lạy Chúa tôi, sao Người không rước con đi mà lại để con đến nông nổi này? Sao Người ác với con làm vậy? Bà đâm ra nói nhảm. Trong cơn đau, bà oán cả Chúa mà bà dốc lòng thờ phượng. Tôi vuốt lưng bà, nghĩ rằng nếu tôi có phép lạ, tôi sẽ làm ra một đống tiền mới to hơn nữa để bà thôi đau đớn. Tôi không chịu được bất cứ nỗi đau đớn nào mà tôi phải chứng kiến, dù nó phải hay nó trái. - Công của cô bao nhiêu năm trời thành công dã tràng, bà tiếp tục kể lể - rồi cô cháu mình đến đi ăn mày, cháu ơi? Thế là hết, hết sạch, sao mà tôi khốn khổ thế vầy? Tôi buông cô Gái, nhanh nhẹn chui vào trong hòm gian. Không, bà không thể hết sạch được, bà còn cả một gói lớn bạc hoa xòe rất cứng đối với răng của những con mối tệ hại, bà còn nhiều thứ nữa mà chúng chưa kịp đụng đến. Đống bạc mối xông đã làm cho bà quẫn trí. Tôi lục tung hòm gian, quẳng ra ngoài những công trình phá hoại khác của lũ mối mà bà chưa biết: lá cờ thêu hình Đức Mẹ ẵm Đức Chúa Giê-su Hài Đồng, bức màn gió bằng vải hoa, mấy chiếc áo dài cô tôi ít dùng tới và mấy cái quần lĩnh mới may. Cô Gái đỡ lấy chúng, soi về phía cửa sổ để nhìn cho rõ hơn những vết mối ăn lỗ chỗ, những mảng thủng lớn, rồi tàn nhẫn quẳng xuống đất, kể cả Đức mẹ bị vỡ ngực và Đức Chúa Giê-su chỉ còn nửa mặt. Nhưng lũ mối mới hoành hành bên trái hòm, đúng như tôi dự đoán. Chúng chưa kịp phá nát những gì xếp ở bên phải. Tôi chuyển ra cho cô tôi những bộ quần áo nguyên vẹn của ông bà tôi, của cô tôi. Đến khi tôi bốc cả gói bạc hoa xòe chỉ bị mối xông mấy lần vải bọc đưa cho bà thì bà tỉnh hẳn lại: - Lạy Chúa tôi lòng lành chẳng cùng! - bà kêu lên, mừng rỡ - May, còn được chỗ này! Thì ra đúng là cô tôi không nghĩ đến độ cứng không răng động vật nào có thể gặm nổi của kim loại. Bà đứng lên, thò hẳn đầu vào trong hòm gian, cổ vũ tôi tiếp tục cuộc khảo sát. Hóa ra, lũ mối chưa đụng đến một bọc giấy bạc năm đồng. Chui ra ngoài, tôi phát hiện thêm là số bạc hào đã tan nát hết, nhưng số bạc giấy một đồng còn nhiều tờ có thể cứu vãn - mối chỉ ăn lẹm một số tờ ở rìa, có tờ bị đứt đôi thì lại đứt rất ngọt, có thể dán khéo lại mà người ta không biết. Cô tôi tỉnh hẳn người, bà vớ lấy những tờ giấy bạc bị thương chạy đến bên cửa sổ để soạn lại, thỉnh thoảng lại reo lên khe khẽ: - Tờ này còn nguyên, cháu ạ! Tờ này thủng một tí, mà không sao, tiêu được. - Xấp này chỉ bị mối ăn mấy tờ ngoài, bên trong không việc gì - Lúc nãy, cô thấy toàn bạc bị xông với đất mùn, cô tưởng hết sạch rồi, cháu ạ, may quá là may? Lạy Chúa tôi lòng lành chẳng cùng! - Để cháu dán lại cho cô - tôi nói cho bà vui thêm - Dán được khối đấy, cô ạ! - Cháu dán lại cho cô nhá, chịu khó rồi cô cho một hào mua sâu bà Cơ. Cô Gái ngọt ngào nói với tôi. Nhưng rồi bà sực nhớ ra tôi đang ngồi trước hàng xấp dày giấy một đồng, trong đó có những tờ hầu như nguyên vẹn, bà vội chạy đến bên tôi, gạt tôi ra: - Cứ để đấy, cô soạn. Ra ngoài kia chơi, lúc nào cô gọi thì hãy vào. Mà này, chớ có nói với ai nhá, chớ đấy! Tôi bước ra. Cô Gái hấp tấp cài then cửa. Tôi ra vườn, trèo lên cây khế, bứt vài quả. Tôi nhai những quả khế chua lòm và ngắm nghía mấy con vành khuyên đang chuyền trong hàng rào dâm bụt. ở sâu trong vườn sau, con báo cô kêu ri ri. Tôi đã thấy nó xòe cánh ra vẫy vẫy, miệng há to, đúng là một con chim non, chờ những con chim sâu bé nhỏ mớm mồi cho nó. Tôi ghét con chim ăn bám này đến nỗi cứ thấy nó ở đâu là tôi ném, thậm chí còn dùng súng cao su bắn nó. Nhưng hôm nay, tôi mặc. Tôi đang bận với nỗi buồn của tôi. Tôi đã thật lòng thương cô tôi, muốn an ủi bà, muốn giúp bà, vậy mà bà lại ngờ vực tôi sẽ lấy cắp tiền của bà, nếu để tôi ở lại với đống tiền trước mặt. Thì ra người có của bao giờ cũng nhìn thấy trong kẻ nghèo một tên ăn cắp. Chuông trưa báo mười hai giờ được một lúc lâu tôi mới nghe tiếng cô tôi gọi. Chắc bà sực nhớ ra tôi chưa ăn cơm, mà gạo thì lại để trong buồng. - Cháu nấu cơm ăn đi. Cô hôm nay thế nào ấy, chẳng muốn ăn gì ráo - bà bảo tôi. - Cháu cũng không muốn ăn. - tôi uể oải đáp. - Sao không ăn? - Cháu đầy bụng. Tôi lại ra vườn sau, trèo lên cây sung. Tôi cảm thấy đói khi cô tôi nhắc bữa. May, mấy quả sung tôi khía gặp mưa đã nở và chín. Sung khía ăn ngọt hơn hẳn sung chín tự nhiên, lại không có bọ. Trong quả sung thường, mỗi khi bửa ra phải thổi hết bọ mới ăn được. Mà bọ nhiều lắm, những con côn trùng tí xíu lớn lên ở trong đó, được ra ngoài trời là bay liền. Về sau này, tôi mới biết quả sung chính là hoa của cây sung, nhưng tôi vẫn ngờ ngợ - khoa học giải thích thế thật, nhưng rõ nó là quả kia mà. Gần tối, cô Gái mới bước ra khỏi buồng. Nét mặt đã trở lại bình thường, nhưng bà gầy rộc đi như sau một cơn bệnh nặng. Bữa chiều rất đạm bạc. Nhà chẳng còn thức ăn, tôi không đi câu, chỉ có mỗi mớ rau muống luộc tú hù và nước mắm cáy. - Cô đắng miệng quá! - cô Gái uể oải nhai trệu trạo - Cháu ăn nhiều đi. - Mất nhiều không, cô? - Cũng khớ. - Còn may, cô nhỉ? - Nhưng vẫn tiếc đứt ruột, mồ hôi nước mắt của mình, cháu ạ. Cô dặn rồi, chớ có nói với ai, nghe không? - Vâng. Đột nhiên, bà rưng rưng nước mắt. - Cô có một mình, nghĩ cực quá. Tôi cũng thấy nao nao. Tôi cũng có một mình, như bà. Mai cô soạn những tờ nát ra, cháu dán lại cho cô, cô - ừ, cháu giúp cô với. Sáng hôm sau, tôi nghỉ học, ngồi nhà dán tiền cho cô. Anh Cu Nhớn vừa lò dò sang, bà đã quát: - Đã lại rủ em đi câu hả? Về ngay, tao cấm tiệt. Bé đi câu, nhớn đi hầu, già đi làm khách nợ. Bác Hai Thực nghe tiếng, quát vọng sang: - Thằng Nhớn, về? Không nghe cô nói đấy hử? Từ giờ, tao cấm mày không được bước chân sang bên ấy nữa. - Thì thày vừa sai con... - anh Cu Nhớn cãi lại. - Tao có sai mày sang nom cô ốm khỏe ra sao. Tao không sang được vì chưng tao cũng ốm, mới phải bảo mày. Cô đã cấm mày thì tao cũng cấm luôn, rõ chửa? Cô Gái biết sai, lặng ngắt. Cả ngày tôi cặm cụi dán tiền cho cô. Vì số tiền bị hư quá nhiều, đành phải hi sinh một số tờ để bổ sung vào chỗ thiếu của tờ khác. Công việc kéo dài, tôi cắp sách đến trường một buổi, một buổi xin nghỉ ở nhà dán tiền cho cô. Ngồi còm cọm một mình, buồn quá, thỉnh thoảng tôi vứt đấy, chạy sang với anh Cu Nhớn. Bác Hai Thực không đuổi tôi, nhưng anh Cu Nhớn nhất định không bước sang sân nhà tôi nữa: - Tôi đã buộc chỉ cổ tay rồi. Anh giơ cổ tay cho tôi xem. Anh đã buộc thật, bằng một sợi chỉ tơ chập ba. Bác Hai Thực không buộc chỉ cổ tay, nhưng ông quyết không nhắc tới bà em đanh đá. Những vụ đụng độ như vậy thỉnh thoảng lại xảy ra giữa những người cháu đã già cùng chung một ông bà. Những người chết dàn hòa họ với nhau trong những ngày giỗ, tức là những tối đọc kinh cầu hồn. Họ nhớ lại cái gia đình lớn đã chia năm xẻ bảy, quên đi nỗi bực tức hôm nào, lại chạy đi chạy lại với nhau, xin nhau tí lửa, vay nhau nhúm muối và thăm hỏi nhau như cũ. Thường thì người ta giận nhau không lâu. Sợi chỉ nơi cổ tay anh Cu Nhớn chưa đứt thì nỗi giận cũng đã tiêu tan. Chị Liễu phải đi những chợ xa đong gạo đong cám bằng những đồng tiền mối xông đã được tôi vá lại. Không thể đong ở chợ làng, bởi vì nếu phát hiện đồng tiền vá, người ta sẽ đến tận nhà tôi đòi đổi lại. Cô Gái cũng đi chợ, bỏ cả bán thuốc. Những khách hàng quen thuốc, tín nhiệm thuốc của bà, phải mò vào tận nhà để mua. Những đồng tiền vá được tiêu vào lúc tinh mơ, khi chợ vừa họp, hoàn toàn trót lọt, chẳng bị ai phát hiện. Cô tôi mừng ra mặt. Công việc dán vá cũng thu hút tôi - những con mối càng gặm giấy oái oăm bao nhiêu thì tôi lại càng phải nghĩ ra cách chữa tinh vi bấy nhiêu. Chưa một bài thủ công nào ở trường được tôi làm một cách cẩn thận đến như thế. Mỗi tờ giấy bạc dán xong lại như mới, tôi khoái trá chạy vào khoe với cô tôi: - Một đồng nữa, cô nhá! Bà giơ lên xem, bà sờ, bà ngửi, rồi xếp nó vào chỗ giấy bạc sẽ được tống đi cho nhanh: - Khéo lắm! Nếp sống bỗng nhiên đổi khác trong nhà chúng tôi làm cho cô Oanh. Cô Nhất, cô Nhung và vợ chồng bác Hai Thực chú ý. Nhưng mọi người chỉ xầm xì bàn tán, đặt ra nhiều giả thuyết, nhưng không ai đoán ra việc gì đang xảy ra trong ngôi nhà cô Gái. Tôi và chị Liễu chỉ cười xòa đáp lại những lời hỏi han thóc mách. Cái kim ở trong bọc đã lòi ra hết sức tình cờ. Một người bán đỗ xanh ngoài chợ Lễ, nhưng lại là người làng, sau buổi chợ đã phát hiện ra tờ giấy bạc vá với những đường rách ngoằn ngoèo được gắn lại rất tinh vi. Đó là một người đàn bà dữ tợn và chua ngoa. Chị Liễu đã phải kêu tên Chúa mà thề, bà ta cũng cữ vẫn khăng khăng một mực rằng đồng năm hào đó là của chị, không của ai khác. Đáng lẽ cứ mặc kệ cuộc cãi vã muốn đến đâu thì đến, cô Gái chột dạ vội vã mang một đồng khác ra đổi. Đáng lẽ phải đổi cho bà ta một đồng mới thì không sao, nhưng cái tính thích giữ tiền mới đã hại cô tôi, bà đưa cho người bán đỗ một đồng mối xông khác, sạch sẽ hơn, mối chỉ ăn lẹm một chút ngoài rìa. Người đàn bà khảo sát tờ giấy một lát, tin chắc rằng tờ này tiêu được, miễn cưỡng nhận nó và ngúng nguẩy ra về. Hôm sau tin đồn về bà Gái lắm tiền đến nỗi tiền của bà bị mối xông lan khắp làng. Chỗ nào có ba người gặp nhau, chỗ ấy người ta nói tới bà Gái. Đó là một sự kiện ghê gớm, đang được loan truyền cho nhau, người ta thổi phồng nó lên đến mức số tiền bị mối xông tới hàng nghìn. Cô tôi rụng rời chân tay. Chị Liễu tự tìm đến người đàn bà chua ngoa nọ, nhận mình sơ ý đã đưa cho bà ta đồng năm hào mối xông đó, nhưng là tiền chị nhận từ khách hàng đong gạo của chị. Người đàn bà chối bai bải, không nhận mình đã tung tin đồn nọ. Bà ta cũng kêu tên Chúa mà thề. Tất nhiên, Chúa biết bà ta đã phạm tội làm chứng dối, nhưng Chúa sẽ tha cho bà khi bà xưng tội, còn cái tin đồn tai hại đó thì giá bà ta có muốn thu về cũng không được nữa rồi. Tin đồn một khi đã ra đời, có cuộc sống riêng của nó. Như một đứa con trưởng thành đã rời nhà cha mẹ, nó ở ngoài vòng quản lý của bà ta, giờ đây nó nhởn nhơ rong chơi trong làng, rẽ vào từng nhà, làm vui cho những cuộc ngồi lê đôi mách. - Giê-su, ai ngờ bà Gái mà lấm của làm vậy! Cả một hòm gian đầy ắp, người ta bảo thế. - Thế mới là: ki ca ki cóp cho cọp nó tha. - Mối chứ đâu phải cọp. Mối còn dữ hơn cọp, nó biết chỗ có tiền nó đến. Chứ như nhà tôi thì nó chịu, gặm cái gì? Gặm gỗ chứ còn gặm gì nữa. Thôi đi, đến lúc ông lắm tiền thì mối nó cũng chẳng tha đâu. Đến lúc ấy thì tôi nuôi mối ấy chứ. Chỉ tội là không có lúc ấy thôi, gọi là đến tết. - Bà Gái rõ khổ, ăn thì độc rau lang chấm mắm cáy, bóp mồm bóp miệng. Chính mắt tôi trông thấy mà. Hôm ấy tôi vào mua thuốc, bà ấy vội lấy cái lồng bàn che đi, khốn lồng bàn rách, trong mâm có gì nom tỏ mồn một, tội nghiệp! - Tôi nghiệp gì, đáng đời? - Giê-su, sao mà ông độc miệng làm vậy! - Có tội nghiệp là tội nghiệp mấy ông em chở của về cho chị, tiếc đứt ruột. - Còn dành dụm mối còn xông. Chuyến này cả nhà ấy sạt nghiệp? Những lời bình luận ấy đến tai tôi, làm tôi giận dữ. Tôi căm ghét cái thói đời khoái trá trước nỗi đau của người khác Nó giống cái khoái trá của con chó dữ với dòng bọt mép sùi ra sau khi cắn rách tai con chó già ốm yếu không còn sức đánh trả và chẳng động gì tới nó, đơn giản chỉ vì con chó trẻ ngứa mắt và ngứa răng. Tôi thương cô Gái của tôi, trong lòng, tôi đứng về phía bà. Cô tôi không dám ra khỏi nhà. Bà phát ốm thật sự. Bất cứ tiếng động mạnh nào cũng làm bà giật mình. Tôi bỏ mọi việc, trông nom cô, nấu cháo cho bà, bóp dầu cho bà, tóm lại tôi không rời bà nửa bước. Tôi kể lại cho bà nghe những lời dồn đại làm bà sợ hãi, nhưng lại khăng khăng bắt tôi phải thu lượm chúng cho bà. Đến khi tôi thuật lại cho bà biết rằng trong làng có kẻ nói rằng cần phải trình quan huyện việc này, vì bà đã phạm tội phá hoại tờ giấy bạc của nhà nước, mà tội này được ghi rành rành bằng chữ Tây trên mỗi tờ giấy bạc, thì bà không chịu nổi nữa. Cô tôi gục xuống, hai tay ôm lấy đầu, mái tóc bạc xổ tung, bà thét lên: - Giê-su! Bác Hai Thực nghe tiếng thét vội chạy sang, quên cả dép. Cô Oanh, cô Nhất, cô Nhung, chị Phượng, anh Cu Nhớn, Cu Bé chạy sang hết. Mọi người cuống cuồng chung quanh cô Gái, xoa dầu, đốt chậu than dặt dưới gầm giường. Cô Gái mặc cho mọi người muốn làm gì thì làm, bà chỉ một mực rên rỉ: - Giê-su! Giê-su? Trong mấy ngày, cả ba nhà cuống cuồng, xốn xang, rầu rĩ, lo lắng cho cô Gái, tức tối với những lời đồn thổi bẩn thỉu của bọn thối mồm. Vụ mối xông tiền của cô Gái chỉ tắt sau khi cha xứ lên tòa giảng mắng nhiếc con chiên một trận nên thân về tội huyên truyền những lời đồn đại vô căn cứ. Bằng các điển tích rút trong Kinh Thánh, cha nhấn mạnh rằng sự ăn không nói có, sự không thấy tận mắt mà nói theo người khác là phạm mười điều răn của Đức Chúa trời, là tội trọng, đáng sa Hỏa Ngục. Những quả quít đầu mùa, những chai rượu bách nhật và những gói bánh quế của cô tôi đã mất đi không vô ích.        

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

XIX

Hồi ký

Trong làng, còn có một nhà mà tôi hay lui tới, tuy chẳng phải họ hàng, là nhà ông Nhiêu Tuất. Nhiêu là một danh vị nhỏ bé, có thể mua bằng tiền, mà không nhiều. Danh vị này cho người được mang nó quyền ngồi một chỗ, cũng nhỏ bé, gọi là chiếu dưới, khi làng họp. Nhiêu được miễn sưu thế, miễn phu phen tạp dịch. Để mua nhiêu, ngày xưa phải có một số tuổi đáng kính, nhưng về sau, danh vị này được bán nhiều, nên làng tôi có vô số anh nhiêu. Ông nhiêu Tuất đâu như trước cũng là tay chân của ông tôi. Nghĩa tay chân này rộng, hiểu thế nào cũng được, là người nhà, đàn em, hoặc người giúp việc thân cận. Chỉ biết những ngày giỗ ngày tết, cô tôi thế nào cũng mời ông nhiêu Tuất. Nghe kể lại thì ông tôi có nhiều tay chân lắm, trong số đó có cả một tên cướp, sau trở thành người nhà chúng tôi, là chú Mưu. Chuyện kể rằng chú Mưu đi ăn cướp, phá cổng vào nhà tôi không nổi, lại bị tuần đinh đuổi đánh bị thương, nằm ngất trong ruộng lúa bên đường. Ông tôi hôm ấy đi cất thuốc ở chợ Lễ về khuya, nghe tiếng rên, mới rẽ xuống xem, rồi cõng chú về nhà phục thuốc. Trong nhà biết đó là tên cướp, nhưng ông tôi không cho đi cáo quan, chăm sóc cho tới khi lành. Khi hiểu rằng mình được cứu sống bởi tay người mà mình tới nhà ăn cướp, chú Mưu xin ở lại làm con nuôi, gọi chữ là nghĩa tử. Chú ở nhà tôi tới khi ông bà tôi khuất núi mới trở về quê lập nghiệp. Ông nhiêu Tuất gần bằng tuổi cô Gái, tóc bạc trắng, tóc búi củ hành, đã nghễnh ngãng. Ông là một trong số ít người trong làng còn giữ lại lối chào thuở xưa. Khi gặp ai, ông chắp ngang hai bàn tay lại (chứ không chắp dọc như các bà đi lễ chùa) và đưa lên ngực rồi hạ xuống một chút, gặp người đáng kính trọng hoặc để tỏ lòng kính trọng ông cũng chắp tay như vậy, nhưng đưa hai tay chắp cao lên tới ngang vai rồi từ đó hạ xuống chéo sang bên phải chấm xương hông. Vái như thế gọi là vái dài. Bây giờ, nhìn lên sân khấu thấy người ta đóng trò xưa mà vái nhau theo cách lễ chùa, tôi lại nhớ tới lối chào dân tộc đã mất. Tôi đặc biệt quí ông nhiêu Tuất bởi lẽ ông là người an ủi tôi nhiều nhất kể từ khi tôi về quê. Ông tới nhà, ngồi ngoài thềm nói chuyện với cô Gái, Nhìn thấy tôi, ông hỏi cô Gái: - Con ông Tư, phải không bà? - Nó đấy. Ông đứng lên, chăm chú nhìn tôi rồi nói: - Hôm nào bà rảnh, cậu theo bà sang tôi chơi. Cô Gái chẳng bao giờ rảnh. Tôi hỏi đường anh Cu Nhớn rồi tự tới nhà ông. Tự nhiên, tôi thấy có cảm tình với ông già đã còng lưng, nhưng có đôi mắt hiền từ và giọng nói ấm áp Ông nhiêu Tuất ở xóm dưới, cũng gần. Nhà ông nhỏ, cột soan, mái rạ, vách trát nhưng sạch sẽ. Lối đi từ cổng vào hai bên trồng tóc tiên. Trước nhà là một cái ao nhỏ gây bèo cái trong một vòng dây muống lưu cữu. Thấy tôi đến, ông đang lúi húi đan rổ liền đứng lên và vái một cái dài. Tôi đỏ ửng mặt, lúng túng chào ông. Ông đặt tay lên vai tôi, nhìn sâu vào mắt tôi: - Tôi biết rồi, cậu ạ. - Ông bảo gì cơ? - Tôi biết ông Tư ở nhà pha. - Ông nói bằng giọng đơn giản điều cô Gái giấu giếm - Cậu đừng buồn. - Cháu không buồn. - Vậy là phải. Cậu ngồi xuống đây, chỗ này này, tôi kể chuyện cậu nghe. Trong nhà ông im ắng. Lúc đó tôi chưa biết ông chỉ có một mình. - Tôi biết ông Tư là cộng sản lâu rồi. Ông nói bằng giọng buồn buồn - Tôi chẳng hiểu cộng sản là cái gì, tôi là người không có học. Cơ mà tôi cứ ở ông Tư. Ông là người tốt mà ông theo cộng sản thì cộng sản tốt. Vừa nãy tôi vái cậu là tôi vái vọng ông Tư đấy. Tôi nhớ ông lắm. Ông lặng im một lát. Hình như ông suy nghĩ về điều gì đó, rất hệ trọng. - Nghe nói cộng sản bây giờ đông. Tây bỏ tù bao nhiêu cũng không xiết. Tôi mà còn trẻ như ông Tư khéo tôi cũng theo cộng sản. Tôi chẳng biết nói gì. Những lời ấm áp về bố tôi làm tôi cảm động. - Đời bây giờ khổ quá là khổ! - Ông nói. Sau vài lần đến chơi, tôi bạo dạn hơn. Tôi xin phép được câu ở ao nhà ông. Ông bằng lòng ngay, nhưng chỉ cho tôi câu một mình, không được đi với anh Cu Nhớn. Ông rất nghèo, con cá giếc trong cái ao nhỏ cũng được coi như con gà ở nhà khác. Vả lại, tiếng sát cá của anh Cu Nhớn không phải chỉ một xóm tôi biết. Khi tôi đến câu, ông đưa võng kẽo kẹt trong ngôi nhà vắng, thỉnh thoảng mới trở dậy lọc xọc một điếu thuốc lào. Khi tôi trở về, ông nhắc cái giỏ, nhìn sâu qua hom, có vẻ ông muốn đếm số cá tôi câu được. Ao nhà ông không nhiều cá, toàn loại rô cụ, mà chúng thì rất thận trọng. Cô Gái rất sợ những con cá rô cụ. Nằm trong giỏ khô, cá rô cụ sống cả ngày không cần chút nước nào mà vẫn khỏe, sơ ý là bị chúng nẻ cho sưng tay. Đổ bọn cá rô cụ ra, cô Gái phải lấy sống dao đập vỡ đầu chúng rồi mới dám đánh vẩy. Hôm nào cá không cắn, ông nhiêu Tuất ra ngồi bên cạnh tôi cả buổi, nhưng chẳng nói gì. Cô Gái nói rằng ông nhiêu Tuất dạo này đã không còn thật tính, nghĩa là ông đã trở thành dở hơi, cám hấp theo cách nói bây giờ. Cũng có hôm, ông rất vui vẻ kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện - chuyện làng, chuyện xóm, chuyện đời xưa. Có điều, chẳng bao giờ ông nói đến sự tích các thánh, như thường thấy ở những người có tuổi trong làng, những người này thường đua nhau khoe cái sự rành lẽ đạo của mình. Ông cũng chẳng mấy khi nhắc tới Chúa, chẳng bao giờ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ. Nhưng ông vẫn đi nhà thờ, đều đặn xưng tội chịu lễ. Tôi đồ rằng giữa ông và chúa có điều gì không bằng lòng nhau, nhưng ngấm ngầm. - Chúa thì phải công bằng, Chúa mà không công bằng thì không phải là Chúa! - Ông nhiêu Tuất nói bâng quơ, nhân một câu chuyện nào đấy - Mà lẽ công bằng trên đời này khó lắm thay? Ông có một người con trai duy nhất, nhưng anh ta ở bên Tây. Trong làng tôi, chẳng mấy ai biết nước Tây ở đâu, người ta nói bên Tây với ý nghĩa xa lắm lắm, không hàm khái niệm địa lý. - Cái thằng con nhà nhiêu Tuất chầu này chẳng thấy gửi gì cho bố, quân bất hiếu bất mục - cô Gái thủng thẳng nói chuyện với cô Nhung - Không biết ông lão lấy gì ăn? Dào, giời sinh voi giời sinh cỏ, rồi khắc sống được tất chị ạ! - Khốn ông ta già quá rồi. - Kể cũng cực, em nghiệm thấy già ăn còn khỏe hơn lúc trẻ, khốn nạn vậy. Cô Nhung ăn rất khỏe. Bác Hai Thực gái bao giờ cũng ngồi đầu nồi, chia cơm cho mọi người theo tiêu chuẩn đã được im lặng thỏa thuận hoặc im lặng chấp nhận. Cơm xong, cô Nhung còn ăn thêm được vài chùm sung xanh. Ông nhiêu Tuất ăn gì, tôi không biết. Chẳng bao giờ tôi thấy ông thổi nấu. Có thể, ông nấu cơm một lần vào sáng sớm rồi ăn cả ngày. Một hôm, ông nhiêu rụt rè nhờ tôi đánh hộ cái giấy, tức là viết thư cho con ông: - Cậu giúp tôi thí. Trước tôi vẫn phải nhờ cậu Mân bên xóm Đông, giờ cậu ấy lên tỉnh học rồi... Chẳng hiểu ra làm sao, cả năm nay bặt tin anh ấy, tôi nóng ruột. Cái việc viết thư hộ này tôi thỉnh thoảng vẫn phải làm. Làng tôi có quá ít người biết chữ. Ai đỗ Sơ học yếu lược cũng đã được coi là người có chữ nghĩa. Người có bằng Tiểu học có thể coi mình là trí thức rồi. Người nhờ tôi đánh cái giấy phần nhiều là các bà. Họ kể lể con cà con kê từ chuyện thằng cu bị chốc đầu, cái hôm ngã sái tay, con lợn nái bị đóng dấu cho tới cái ao bị thối và đám cá mè bị chết ngạt. Những bức thư như thế làm tôi ngán. Nó mở đầu bằng công thức muôn thuở "Nay tôi có mấy nhời gửi ra cho nhà nó. Nhà nó được bằng an trong tay Chúa thời tôi mừng. Còn về phần mẹ con tôi ở nhà, ơn Chúa, vưỡn được như thường...". - Tôi đồ rằng bận trước, cậu Mân viết điều gì, làm cho anh ấy nhà tôi giận tôi... - Ông nhiêu Tuất băn khoăn - Chứ không thì tại sao anh ấy chẳng đánh giấy về? Tôi không biết rằng lúc ấy chiến tranh thế giới đã lan ra khắp các lục địa, trên các đại dương, đến cả những tàu buôn cũng bị đánh chìm, tất nhiên những bao thư cũng chìm theo. Trong làng tôi chỉ có một tờ báo là tờ Đông Pháp, mỗi ngày một số, gửi về nhà ông Hội Dục để cháu đích tôn của ông đọc cho ông nghe. Bác Hai Thực thỉnh thoảng cũng mượn được về nhà vài số. Ông đọc và gật gù "Cái thằng Đức dữ ra quỷ, mà thằng Nhật cũng chẳng khờ, bên ý Đại Lợi khi không lại mọc mũi sủi tăm ra cái anh Mút-xô-li-ni, theo voi Hít Le hít bã mía. Thống chế Tưởng Giới Thạch sợ Thiên Hoàng vãi đái, Nhật nó đánh thật chứ nó bỡn à, cứ gọi là phen này vỡ mặt". Đấy là ông nói với những ông bạn cùng tuổi chứ không phải nói với tôi. Tôi thương ông nhiêu Tuất. Tôi biết ông buồn nhiều trong cuộc sống một thân một mình. Nghe người ta kể thì hồi còn trẻ ông chật vật lắm mới lấy được vợ, vì nghèo. Vợ ông là một cô gái đẹp trong vùng. Có rất nhiều người hỏi cô nhưng cô không ưng ai. Đến khi quá lứa mới bằng lòng lấy anh nhiêu. Cô có chồng rồi, đàn ông trong làng vẫn còn mắt la mày lém, đùa cợt lẳng lơ. Anh chồng ghen rất dữ, cô vợ thì ai chọc ghẹo gì cũng mặc. Anh chồng chẳng biết nghe ai đùng đùng kéo vợ lên làm ăn trên tỉnh, rồi lên tận Hà nội. Cô vợ đánh răng trắng, mặc quần lĩnh (đến hồi ấy đàn bà làng tôi còn nhuộm răng đen, mặc váy), thế rồi bắt đầu nhìn anh chồng nghèo bằng cặp mắt rẻ rúng. Từ rẻ rúng đến chê bai chỉ là một bước. Cô chê anh không biết làm ăn, khố rách hoàn khố rách. Bây giờ ve vẩy quanh cô là các thày cai, thày đội, thày ký. Có người đánh tiếng đưa cô về làm lẽ, cho cô một nóc nhà riêng. Hai vợ chồng cãi lộn, trước thỉnh thoảng, sau hàng ngày. Rồi cô vợ bỏ đi, để lại cho anh chồng một thằng bé ghẻ kềnh ghẻ càng, bụng ỏng. Anh chồng ngậm mối hận, ôm con về làng. Bố mẹ vợ đã chết theo nhau trong một trận dịch tả, nếu không họ sẽ khốn khổ với anh ta. Trong làng, chuyện đó thường xảy ra, cha mẹ vợ hứng chịu hậu quả mà người con gái lấy chồng gây ra. Người ta mặc, chẳng ai can. Từ đó anh Tuất đi làm thuê, làm canh điền, làm nhiều nghề linh tinh khác, nhưng không bao giờ giàu lên. Giàu hay nghèo có số, người ta nói, nhưng không ai ham làm giàu bằng anh Tuất. Anh nhìn thấy trong sự giàu có niềm kiêu hãnh với người vợ bội bạc, cách trả thù quân tử đối với cô ta. Chỉ có đứa con là lớn mau, tính nết điên điên khùng khùng. Có kẻ độc miệng nói rằng nó cũng chẳng phải con anh Tuất. - Tôi có mỗi mình nó. - Ông nhiêu Tuất nói - Tính nó không được như người ta, có khi nó giận tôi thật, chả là tôi dặn cậu Mân nhắn nó cho tôi rằng chớ có tin con vợ đầm... - Ông cứ đọc cho cháu viết. - Tôi biết viết gì. Cậu viết thay tôi đi, nói tôi chầu này yếu lấm rồi, chân tay đã run, lại đau ở ngang thắt lưng, trước chỉ chục viên thuốc của bà Gái là dứt, nhưng bây giờ uống mãi rồi vẫn cứ ngâm ngẩm. Cậu nhắn anh ấy gửi cho tôi ít tiền để sửa nhà, cái nhà trước sau rồi cũng là của anh ấy, tôi chẳng ở được bao lâu nữa... Ông nhiêu Tuất kể rất nhiều cho tôi nghe những điều ông muốn nói với người con trai ở tít tắp nơi nào và có lẽ đã quên mất người cha già yếu. Tôi đã mất ba buổi chiều cặm cụi để viết cho xong bức thư. Trong thư tôi tả thêm thắt cảnh rách nát của ngôi nhà, những đóa tóc tiên màu hoa đào ở lối vào, cái ao nhỏ và những con cá rô hiếm hoi, cây khế trong vườn (nó đã già lắm, gốc nó xù xì to bằng người lực lưỡng) quả rụng đầy dưới chân, tôi nhắc anh về sâu bà Cơ (anh không thể không ăn sâu bà Cơ như bất kỳ ai trong làng đã có lúc là trẻ con) và lời hỏi thăm của bà (mà tôi bịa ra), tôi kể chuyện những con mọt nghiến gỗ đêm khi ông già thức giấc vì nhức nhối chân tay, chúng làm cho ông buồn nẫu ruột khi nghĩ đến con trai, nỗi lo lắng của ông không được gặp anh lần nữa. Ông nhiêu Tuất chảy nước mắt lặng lẽ khi nghe tôi đọc bức thư. Ông không trách tôi viết dài hơn những gì ông nhờ tôi. Cô Gái cũng được nghe bức thư. Bà xúc động ra mặt. Tôi nắn nót chép địa chỉ của con ông từ một phong bì Pháp. Ông run run dán bức thư tôi đưa. - Cảm ơn cậu. - Ông nói, giọng đổi khác. - Ông đưa ra trạm Thần Lộ mà gửi. Mua cái tem dán vào là anh ấy khắc nhận được. - cô Gái nói - Nhận được giấy của bố, thế nào anh ấy cũng giả nhời, máu đào đâu phải là nước lã. - Có vậy - Ông Nhiêu Tuất gật đầu - Tôi đi ngay bây giờ. Tôi đưa ông ra cổng. Ông đứng lại, móc túi lấy ra một đồng năm xu bằng kền, dúi vào tay tôi: - Cậu cầm lấy mua sâu. Tôi nhất định chối từ, nhưng ông cương quyết nhét sâu vào túi tôi: - Cậu cầm lấy cho tôi bằng lòng. Tôi dành nhận. Sau đó là những ngày chờ đợi dài dằng dặc. Phải nói rằng tôi chờ bức thư trả lời của anh lính thợ nôn nóng chẳng kém gì ông nhiêu. Thậm chí, tôi tránh đến câu cá ở ao nhà ông. Tôi sợ nhìn thấy nỗi sốt ruột của ông. Bác Hai Thực nói rằng chiến tranh ngày một lan rộng, hàng hóa của Pháp cũng còn không gửi sang Đông Dương được nữa, nói gì thư. Bác biết được những tin tức đó qua tờ Đông Pháp. Tôi biết được nhờ nghe lỏm chuyện của bác. ở trường học, thày giáo treo trên tường ảnh một ông già Pháp với bộ ria mép rậm trên khuôn mặt béo tốt. Thày kẻ lên tường những chữ in bằng mực tàu "Cần lao - Gia đình - Tổ quốc, Dưới bức ảnh có in chữ đề "Thống chế Pétain". Từ trên huyện, người ta gửi về những bức tranh cổ động gồm các tranh nhỏ đủ cho một truyện "Đại úy Đỗ Hữu Vị", "Hai Bà Trưng". Đại úy Đỗ Hữu Vị là người Việt Nam đăng lính Pháp, lái máy bay đánh nhau với Đức, chết cho mẫu quốc. Bà Trưng "quê ở châu Phong, giận người Tô Định thù chồng chẳng quên" đánh nhau với quân Tàu, chết cho nước Việt. Có lẽ vì sự gắn bó của hai nước mà người ta in những bức tranh ấy. Tôi hiểu: người ta nói dối. Bố mẹ tôi sẽ nói khác về chuyện này. Ông nhiêu Tuất héo hắt đi trông thấy. Bác Hai Thực nghe ai nói kể rằng ông hầu như chẳng mấy khi ăn cơm. ăn cơm thì phải thổi, mà trên mái nhà ông không có khói. Hình như thỉnh thoảng ông mới nấu nướng một lần. Hình như ông không còn tiền đong gạo. Hình như ông chỉ ăn sung xanh và thỉnh thoảng một bữa tróc giong. Cô Gái sai tôi mang sang nhà ông một rá gạo. Ông nhận và cảm ơn, nhưng không thấy sang chơi. Phải đến bốn tháng sau đó ông phu trạm Thần Lộ mới mang tới cho ông nhiêu Tuất bức thư mong đợi. Kèm theo là một ngân phiếu hai chục đồng, một số tiền khá lớn đối với túi tiền của người nhà quê. Ông nhiêu Tuất chống gậy đi khắp làng để khoe lá thư. Ông cúng vào nhà xứ năm đồng để mua nến. Có dễ ông muốn chuộc lỗi với Chúa mà ông dám oán trách hoặc tệ hơn, dám nguyền rủa. Đó là tôi nghĩ vậy. Người làng khen ông sốt sắng sự đạo. Cô Gái lại càng khen. Tất nhiên, tôi phải là người được đọc lá thư đầu tiên. Bức thư dài bốn trang, trong đó người con trai kể lể nỗi niềm thương nhớ đói với cha. Tôi đồ rằng anh ta cũng nhờ ai viết hộ. Nét chữ trong thư quá đẹp đối với một người lính thợ Kèm theo thư là một bưu ảnh in hình một nhà thờ đồ sộ và cổ kính với đám đông đi lại tấp nập trên quảng trường trước mặt, chắc hẳn trong ngày lễ trọng. Tôi thầm ghen với con trai ông nhiêu Tuất. Hẳn anh đã tới đây đã đi lại trước nhà thờ này, giữa những người xa lạ kia. Chỉ riêng điều đó thôi cũng đã thú vị biết bao nhiêu. Tôi còn đến xem bức bưu ảnh nhiều lần, nó được đặt trên bàn thờ nhà ông nhiêu Tuất, và trong tôi bắt đầu nỗi nhớ mơ hồ những phương xa tôi chưa từng gặp, những vùng đất tôi chưa từng đến, nơi cái gì cũng khác với quê tôi - từ ngọn cỏ, mặt trời hay ánh trăng khuya. Về sau này tôi mới biết đó là nhà thờ Đức Bà ở Pa-ri. Cả thế giới biết đến nhà thờ này, không phải vì nó to hơn hay đẹp hơn các nhà thờ khác, không phải vì nơi đây đã xảy ra một sự kiện lịch sử lớn lao nào, mà đơn giản chỉ vì Vích-to Huy-gô đã nói đến nó, đã chọn nó làm tụ điểm cho cuộc gặp gỡ bi kịch của những nhân vật Huy-gô. Sự biết ơn của ông nhiêu Tuất làm phiền tôi. Ông khoe với cả làng về tác dụng bức thư tôi viết. Thế là những người đàn bà có chồng làm ăn trên tỉnh hay ở mạn ngược liền chạy đến với tôi. Ông nhiêu nghĩ rằng họ sẽ biết cảm ơn tôi như ông đã cảm ơn tôi mỗi lần họ nhờ tôi viết. Nhưng dù cho họ có rộng rãi trả tôi cả một hào tôi cũng chẳng bao giờ viết được cho họ một bức thư như tôi đã viết cho ông.  

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

XX

Hồi ký

Anh Cu Nhớn mặt tái mét chạy ra cầu ao, ngồi thụp xuống bên tôi. Tôi đang rửa bèo cho lợn. - Chú Khóa sắp chết rồi. - anh hổn hển thì thào. - Ai bảo anh thế? - Chú Bổng. Chú ấy bảo tôi về nói với cô Gái. Có nên báo tin ấy với cô tôi không nhỉ? Cô Gái đi cất thuốc. Bây giờ có dễ cô đang ở một hiệu thuốc bắc nào đó trên chợ Lễ. Từ nhà tới đó đi nhanh cũng mất hơn nửa giờ. Hơn nữa, chắc gì cô đã cho cái tin ấy là quan trọng. Có khi bà còn mắng tôi cũng nên. Tôi mang rổ bèo về, trút vào nồi cám đang sôi sùng sục trên bếp. Gì thì gì, cũng phải xong bữa cám cho lợn đã. Nếu tôi bỏ đói con lợn, bà sẽ mắng tôi, đó là cái chắc. Chú Khóa, tính theo họ, là em của cô tôi. Họ thế nào, tôi cũng chẳng biết. Tôi hình dung họ tộc như một cái cây. Bắt đầu từ một rễ cái cắm vào lòng đất, chẳng bao lâu sau đã có hàng chùm rễ con và trên thân cây lớn dần những cành lá cứ tiếp tục mọc thêm. Chú Khóa tôi là một cái cành con nào đấy trong đám cành lá xúm xuê của dòng họ. Chú tới nhà tôi, rụt rè và ngượng ngập. - Cảm ơn chú tới thăm chị. - cô Gái nói, giọng nước lã - Lâu không thấy chú. Nghe đâu chầu này chú làm ăn cũng khấm khá, phải không? - Làm gì có khấm khá, chị. - chú Khóa giãy nẩy - Em cũng chẳng biết rồi sống thế nào đây. - Dào, dễ người ta chết cả. Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. - Thưa chị, có vậy, tất cả đều do một ý Chúa. - Chú đừng đổ cho Chúa, chúa dạy mọi người phải làm lụng mà sống, chớ có há miệng chờ măn-na. - Thưa chị, vâng. - ý chú định làm gì. - Dạ, còn để xem. Em tính về đây nhờ chị. - Chị thì giúp gì được chú. - Chị cho em ở đây với chị. Rồi em kiếm việc, làm thuê. - Tay chân học trò thế kia, chú làm được gì? Ai thuê? Dạ, em không nề hà gì, có việc là làm. Người ta thuê làm gì làm nấy. Đã tính xuống biển, nhưng suy đi nghĩ lại, em về đây ở đây dù sao cũng còn có chị chỉ bảo. Cuộc đối thoại rời rạc không kéo dài. Cô Gái thẳng người lên, đầu ngẩng cao, đi xuống bếp. Chú dọn một chỗ mà nằm dưới nhà ngang. - bà nói.? chú Khóa thở phào, líu ríu bước vào nhà (từ khi tới, chú đứng ngoài cửa), mang theo cái tay nải nâu có nhiều mụn vá. Chú hạ cái giường bỏ không lâu ngày xuống, đặt giát lên, lấy manh chiếu rách trải lên trên giát, thế là đã có chỗ ngủ. Tôi hỏi cô Gái xem chú Khóa họ hàng với chúng tôi như thế nào, cô xì một tiếng: - Kể thì dài lắm, mà mày cũng chẳng hiểu. Hắn ta có họ, nhưng xa, mày phải gọi bằng chú. Khi cô Gái gọi ai bằng hắn ta, nghĩa là cô không ưa người đó. Tại sao cô không ưa thì cho tới nay tôi vẫn không hiểu. Giải thích dễ nhất là nói chú Khóa nghèo. Nhưng đối với người nghèo, cô Gái có hợm thật, nhưng cũng không đến nỗi ghét bỏ như đối với chú Khóa, cái sự ghét được gọi là "tát nước đổ đi". Sở dĩ cô Gái phải chịu đựng chú Khóa, là bởi tại trong làng ai cũng biết chú có họ, đối xử với người máu mủ quá đáng sẽ bị chê cười. Chú Khóa có một cái tên, nhưng hình như mọi người quên cái tên ấy, quen miệng gọi bằng danh hiệu. Đó là thứ danh hiệu kỳ cục nhất, tức cười nhất của một thời gian đã qua. Bất kể ai đã học chữ thánh hiền, từng vác lều chõng đi thi, bất kể thi hương hay thi hội, đều được gọi là anh khóa. Nếu cả đời người đó toàn thi trượt, cho tới già anh vẫn được vinh dự mang cái danh hiệu của người học trò đi thi - anh khóa, ông khóa, cụ khóa. Tôi viết chú Khóa với chữ K viết hoa là bởi vì chính tôi cũng không biết tên thật của chú là gì mọi người gọi thế thì tôi gọi theo. Theo lời đề nghị của chú Khóa, cô Gái cho chú ăn cơm cùng. "Em xin hầu chị tiền gạo, còn thức ăn em xin", chú nói vậy. Cô Gái hấm hứ, không ra gật, không ra lắc, nhưng tới bữa cô bảo tôi đong thêm gạo, dọn thêm cái bát đôi đũa cho chú. Chú ăn ý tứ, không bao giờ đụng đũa đụng bát, không nhai nhóp nhép, tóm lại chú cố không gây một tiếng động nào có thể gây ra sự chú ý của cô Gái, chú ngồi đấy mà như không. Khi nghĩ tới người học trò thời xưa, bao giờ tôi cũng hình đung ra chú Khóa, mặc dầu khi tôi gặp, chú đã ngoài bốn chục tuổi. Người mảnh khảnh, nước da trắng xanh, đôi tay dài, cái lưng dài, gương mặt nho nhã, mắt đậm suy tư - đó là hình ảnh chú Khóa: Hình ảnh này gắn bền với câu ca dao xưa: Ai ơi đừng lấy học trò Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm ở với cô Gái, sáng sớm chú thức dậy sớm, cắp nón ra ngồi ở chợ ở góc chợ có một cái điếm dành cho người kiếm việc làm tụ tập. Người thuê cứ ra đấy, cần bao nhiêu người thuê bấy nhiêu. Những người thợ công nhật được đưa về nhà, cơm sáng đã thổi, ăn xong họ ra đồng làm cho tới trưa, cơm trưa ăn tại chỗ, rồi làm cho tới sẩm tối thì lĩnh công rồi về nơi trọ ăn bữa tối. Khi công việc đồng áng đã vãn (nhiều việc nhất là vụ gặt), cái điếm giữa chợ vắng tanh, chỉ có vài người chờ người thuê đánh đống rơm, lợp nhà hoặc những việc linh tinh khác. Nhưng vào tháng ba ngày tám, kể cả những việc linh tinh cũng không có nữa. Chú Khóa trở nên thất nghiệp. Tuy vậy, chú cũng cứ dậy sớm, cứ đi đâu đó rồi trở về vào buổi chiều. Chú không còn cả tiền gạo để đưa cho cô Gái và thế là bát cơm chú ăn trở nên rất cay đắng. Cô gái mặt nặng chịch, đưa bát cơm cho chú mà như quăng vào mặt chú, kèm theo những lời bóng gió chì chiết. - Tôi không hiểu sao chú không lấy vợ để vợ nó nuôi, cứ ở vậy để thân làm tội đời? Chú cười méo mó: - Chị tính, ai người ta lấy em. - ừ, mà cũng phải, người ta lấy chồng thì cũng cốt để trông cậy vào chồng, chứ lấy chú nó trông cậy vào cái gì? Chẳng lẽ lấy chồng về để ngắm. Họa may có cái Chấm nó lấy chú. Chấm là cô gái dở điên dở dại, xấu xí nhất làng. Cô ta thường ra ngồi bắt rận ở sân nhà thờ. Quần áo rách rưới hở hang để lộ nước da đen đủi cóc cáy, cô ta nhe răng cười vô duyên cớ với người qua lại, thỉnh thoảng hứng lên thì nghêu ngao hát. Cha mẹ không còn, cô sống bằng lòng thương của người làng. Đối với cả làng, không trừ trẻ con, cô chỉ là cái Chấm. Không ai gọi cô là chị Chấm hay cô Chấm bao giờ. Chú Khóa rơm rớm nước mắt, quay đi. Tôi bối rối trước giọt nước mắt của chú. Nói chung, tôi thường bối rối trước nước mắt người lớn. - Chú giận cô Gái lắm nhỉ? - tôi hỏi, khi chỉ còn hai chú cháu với nhau. - Giận gì, cô bực bội trong lòng cô nói vậy thôi. Chứ cô không ghét bỏ gì chú đâu, chú biết. Tôi ngạc nhiên. Chẳng lẽ chú ngần ấy tuổi đầu mà không biết người ta ghét mình? - Với lại thời buổi khó khăn, cô cũng vất vả lắm, chú chẳng đỡ được cô thì chớ, lại còn báo hại cô. - Chú đói lắm không? - Không, chú ăn thế là vừa, ăn nhiều nó quen dạ đi, cháu ạ. Chú nói dối, tôi biết, người không đói chẳng dại gì ăn hàng chùm sung xanh. Sung xanh chát xít, ăn vào cứ tắc ở cổ họng. Tôi lén lấy gạo của cô Gái dúi cho chú khi chú cắp nón đi làm. Nếu không có ai thuê, chú Khóa có thể vơ mấy cái lá mà đốt, rang gạo trong một mảnh nồi vỡ, cũng đỡ đói lòng. Nồi vỡ thì ở bụi tre nào cũng có. Lúc đầu, chú nhất định từ chối, nhưng rồi cái đói đã thắng niềm kiêu hãnh sĩ phu, chú tránh nhìn mắt tôi, giắt gói gạo vào cạp quần. - Bây giờ kiến giả nhất phận, chú phải tìm cách nào sống, chị cũng chả giúp chú được. - cô Gái nói trong một bữa cơm tối, sau hai tháng chú Khóa không đóng tiền cho bà - Thóc gạo chầu này kém quá sức lẽ mình. Hôm sau chú Khóa vẫn về ngủ, nhưng không ăn bữa tối nữa. Chú ăn ở đâu, tôi không biết. Chú về muộn, có khi hai cô cháu tôi đọc kinh xong, đã đi ngủ, chú mới về. Tôi cũng không quấn chú lắm, mà nói chung, chẳng đứa trẻ nào trong xóm ba nhà thân thiết với chú. Chú không biết đi câu, không biết uốn lưỡi câu, không biết vót cần câu đã thế lại không biết kể chuyện. Nếu chúng tôi năn nỉ bắt kể, chú đặng hắng hồi lâu rồi mới bắt đầu cất giọng khàn khàn kể những câu chuyện khô khan đầy điển tích, giải thích điển tích này chú lại vấp phải điển tích kia và câu chuyện cứ lan man mãi, làm cho chính chú cũng thấy nó đáng ngán. Lúc ấy chú đỏ mặt lên, hay nói cho đúng hơn, mặt chú giống như cách khi người ta đỏ mặt, bởi vì nó không có đủ máu để mà đỏ. Chú cười ngượng nghịu, hẹn khi khác kể tiếp. Chúng tôi cũng ngán luôn đoạn tiếp, chẳng bắt chú trả nợ nữa. Tội nghiệp, chú Khóa tôi đã khổ còn cô đơn. Chú thuộc loại người ra đời để sống một mình. Chú chẳng hợp được với ai, không thích ứng được với môi trường nào ở đâu chú cũng là người lạ, làm việc gì cũng trật ý người khác. Nhưng lòng chú trong sáng, chú vô tư, chú chẳng làm hại ai, chú cũng chẳng biết đến cách lấy lòng người khác nữa, đừng nói đến biết cách nịnh. So với cô Thiệp chú còn nghèo hơn, nhưng cô Thiệp tuy vậy còn biết cách sống với đời hơn chú. Tuy nhiên, chú đã không sai lầm khi chọn cô Gái để nhờ vả. Bên cô Oanh, chú không thể nhờ được, vì lẽ cô Oanh chỉ là người quản gia của ông em giàu có, chứ cô không có quyền hành gì trong nhà. Nhà bác Hai Thực thì quá nghèo để có thể cưu mang một người em họ gần, chưa nói tới người em họ xa. Về tuổi tác, cô Gái nhiều hơn cả, thế tất cô là người duy nhất trong đám các ông anh bà chị họ có nhiều liên hệ nhất với một chi đã đi xa, một cành đua xa nhất trong cây dòng họ. Những người kia chỉ nghe dẫn tích mới biết họ hàng, vì vậy trong quan hệ cũng lỏng lẻo, hững hờ. Cô Gái cũng chẳng phải quá xấu đối với chú Khóa. Hà tiện là bản tính của cô, hơn nữa cô không chịu được người không biết làm, không làm được việc gì. Nết hậu đậu của chú Khóa làm cô ngứa mắt. Bằng chứng về chuyện cô cũng thương chú Khóa là bà biết việc tôi lấy gạo cho chú, nhưng không nói gì. Bà nhắc tôi: - Lấy rá úp miệng chum cho cô, kẻo chuột mò mất nhiều gạo lắm rồi. Chuột mò thì để lại cứt chuột. Tôi lấy không để lại gì. Tinh như cô Gái thì cô phải biết. ở nhà còn chị Liễu, nhưng chỉ mình tôi được phép vào buồng bà lấy gạo. Cái cách nói của cô Gái phải hiểu thế này: cô biết, nhưng thôi, cho chú ấy một ít thì được, cho nhiều thì liệu hồn. Chú Khóa ngày một yếu đi. Cô Nhung bảo chú: - Đói thì ăn rau má, chớ ăn quấy ăn quá, sinh bệnh. - Thưa chị, vâng - chú Khóa đáp. Những buổi chợ, nhà vắng cô Gái, chú lần về, mang theo một bó tướng rau má. Chú mang ra ao, rửa rất kỹ, xin chị Liễu mấy hạt muối rồi ngồi nhai trệu trạo. Đôi bận, chú lân la sang chơi bác Hai Thực, nhân tiện cả nhà đang ăn hạt sản rang, chú cũng ăn cùng. Bác Hai Thực gái rất hồ hởi mời ai chưa biết nếm thử món hạt sản rang của bác, nhưng khi chú Khóa ăn thực thà như người trong nhà bác, lại không phải một lần, thì bác cũng không thích. Rồi bẵng đi một dạo, chú không về nhà nữa. Cô Gái cũng chẳng hỏi đến. Tôi cũng quên chú luôn. Dạo ấy, tôi mải chơi diều. Đó là thú chơi truyền thống của cả làng, không trù nhà nào. Ông tôi cũng là một tay chơi diều cự phách. Gác trên mái nhà ngang là một bộ khung diều cực lớn, dài cả hai gian nhà. Bên trên nóc hòm gian của cô Gái còn một cái sáo đại, to bằng bắp đùi người lớn. Thời gian đã phủ một lớp bụi dày trên lớp sơn then của nó. Nhân một hôm dọn dẹp nhà cửa tôi đã mang cái sáo ra lau chùi. Bình thường, tôi cầm cái sáo trong tay dăng ngang mà chạy thật lực thì sáo kêu, kể cả các sáo lớn, nhưng với cái sáo này thì dù chạy nhanh tới mấy, dù có đứng tại chỗ mà quay tít người để tạo ra gió mạnh thổi vào họng sáo, nó cũng chỉ phát ra một tiếng thở dài trầm trầm, như thể nó nuối tiếc những ngày vang bóng xa xưa, khi còn được nghễu nghện trên hai cánh diều đại mà bay lượn trên trời cao. Cô Gái nói tên nó là sáo cồng, nghĩa là khi nó hát, tiếng của nó to và vang xa, tựa tiếng cồng vậy. Cô Gái cũng kể lại rằng để đưa sáo cồng lên phải có một cái diều to, sải cánh dài trên ba gian nhà và chỉ có thể thả thứ diều này trong cơn bão nhẹ với hàng chục người đưa và nhử trên cánh đồng trống. Dây diều phải làm bằng chão gai ngâm, mềm nhưng cực dai, cột chặt vào gốc cây lớn. Bà kể say sưa đến nỗi tôi hình dung ra cô tôi ngày trước - một đứa con gái nhỏ nhảy chân sáo theo người lớn ra đồng, trong gió lớn làm bay tưng mái tóc, hớn hở chờ phút cánh diều khổng lồ bay lên những tầng mây u ám. Một hôm tôi gặp chú đứng ở sân đình làng, miệng ngậm cây tăm. Chú gầy ghê gớm, hai má hóp sâu, mắt trũng. Tôi chào chú, hỏi thăm chú giờ ở đâu. Chú cười, răng vàng khè: - Chú ở ngay đây. Rỗi đến chơi với chú. Chú chỉ cho tôi cái chái của nhà đòn. Lối vào che bằng manh chiếu rách. Tôi ít khi bước vào nhà đòn. Không khí lạnh lẽo ở đây, những con rồng chỉ có đầu không có mình kè trên niễng, nước son đã tróc cùng với vàng thếp, mùi mốc và mùi đất ẩm làm tôi nghĩ tới những người đã nằm trên đòn này đi khỏi nhà họ và không bao giờ trở về. Người trông nhà đòn là một ông mõ làng, chú Bổng. Chú Bổng người tầm thước, chắc nịch, ít nói. Không rõ chú từ đâu tới, người ta chỉ biết tới chú khi chú cầm cái mõ trong tay, tối tối đi lang thang trong làng, cao giọng "Triệng quan viên... làng nước...". Không ai gọi chú bằng ông bao giờ, mõ thì có thể gọi bằng chú, dù người gọi là trẻ con hay người lớn. Chú Bổng thoạt tiên ở một chái nhà đòn, sau dựng một túp lều bên cạnh đấy, cũng với khoảnh vườn rau, vài con gà bới, một con chó gầy. Mãi về sau này, mới có một người đàn bà về làm bạn với chú Bổng và chú cũng có những đứa con khỏe mạnh. Trước đó, chú ở một mình, các cô gái làng dù nghèo mấy, xấu mấy cũng không chịu lấy mõ. Có nghĩa là chú Khóa tôi đã được chú Bổng cho ở nhờ chái nhà đòn. Nhà đòn là lãnh địa của mõ, không được chú Bổng chấp thuận chú Khóa không thể ở đấy được. Chú Khóa rủ tôi vào chơi nhà chú. Tôi lắc đầu, thoái thác. Manh chiếu rách để lộ một lỗ thủng vào một cái hang tối mò. Tôi không thích vào đó. Tôi từ biệt chú, chạy một mạch về nhà. Cho lợn ăn xong, tôi rủ anh Cu Nhớn: - Ta ra nom chú Khóa đi? - Chú ra trước, tôi nhấc mấy cái cần câu thả rồi ra sau. Tôi biết, anh không muốn đi cùng tôi, mang tiếng rủ rê. Cần câu thả, bao giờ anh chả nhấc vào sáng sớm. Tôi không thích câu bằng cần câu thả. Không thể nào gọi là câu được khi chỉ dùng một mảnh tre vót quấy quá dài bằng ba gang tay cắm chặt vào đất bờ ao, với sợi dây câu to đùng và cái lưỡi câu thô kệch có ngạnh mắc khéo vào lưng một con săn sắt sao cho nó vẫn sống. Săn sắt thường bắt cá chuối con, cho nên cá chuối mẹ đi chăn con (một đàn con lúc nhúc màu lửa bao giờ cũng quây tụ thành một hình tròn như cái mẹt gọi là đàn rồng rồng) thấy săn sắt đâu là xông tới tiêu diệt. Thế là nó bị lừa, chết vì con cá săn sắt móc vào lưỡi câu của anh Cu Nhớn. Tôi lách qua manh chiếu rách bước vào nhà chú Khóa. Chú nằm trên ổ lót rơm và lá chuối khô, mặt quay ra cửa. Dường như còn nhận ra tôi, chú mấp máy cặp môi mỏng thâm xì dán chặt vào xương hàm, nhưng không còn phát ra tiếng. Tôi ngồi xuống bên cạnh chú: - Cháu đây, chú ốm hả chú? Một lần nữa, cặp môi lại mấp máy không có tiếng. Đôi con ngươi trắng đục nằm sâu trong hố mắt đảo lia đảo lịa, nhưng không rời tôi. - Chú ốm thế nào? - tôi hỏi lại. Cái đầu đã mất hết thịt, tóc bết vào da và rất thưa, khẽ gật. Chú hiểu câu hỏi, nhưng không trả lời được nữa. - Cô Gái đi chợ Lễ. Cô về, cháu bảo cô lại nhá? Cái đầu lắc. - Chú ăn cháo được không? Cháu về lấy gạo nấu cho chú bát cháo nhá? Cái đầu gật. Tôi phóng một lèo về nhà, xúc một bát gạo gói vào lá khoai, phóng ra. Chú Khóa vẫn nằm đó, mắt nhắm. Có lẽ chú ngủ. Tôi nhìn quanh. Bốn bức tường ám khói đen ngòm trong bóng tối mờ mờ. Chung quanh ổ vương vãi những mẩu xương trắng. Trong một góc còn nhiều xương hơn, những khúc dài, khúc ngắn với củ xương ở chỗ khớp, không biết là xương trâu hay xương lợn. Quang cảnh làm tôi rùng mình. Nhất là ở giữa quang cảnh đó lại là một hình người khô đét bất động trong bộ quần áo vá bốc mùi khăn khẳn. Tôi tìm thấy mấy viên gạch đen thui thay cho ba ông đầu rau và cái nồi sứt miệng. Tôi bỏ gạo vào, chạy ra ao đình vo qua cho nước mấp mé chỗ sứt rồi đặt lên bếp, nhúm lửa. Khói rơm và lá làm cay mắt. Chú Khóa cựa quậy, rồi đôi mắt mở ra. - Cháu nấu cháo đây. - tôi nói. -ừ. Lần này tôi mới nghe chú đáp, tiếng nói yếu và thoảng qua như gió. - Cháo suông thôi, nhà chả còn gì sắt. - ừ Cháu nấu chú ăn rồi cháu chạy lên chợ Lễ gọi cô Gái. - Đừng. - Cô về lấy thuốc cho chú uống chứ. - Không. Lửa đã cháy to. Mùi khói át đi mùi khai và khắm. Hơi ấm của lửa làm cho chú Khóa tôi tỉnh lại. - Cha. - Chú bảo gì? - Cha. Chú Khóa nhắc lại, nhưng tôi không hiểu. Có ai đó bước vào, ngồi xuống bên tôi. Trong ánh lửa, tôi nhìn thấy anh Cận. Anh là anh tôi, tính theo họ, nhưng già hơn bố tôi, thấp tè, đôi mắt toét lúc nào cũng đầy nhử. Anh làm nghề hoạn lợn và các thứ nghề linh tinh khác mà nhà nông cần đến. Cô Gái thường gọi anh đến, khi thì sửa cho bà cái chuồng gà, đánh hộ đống rơm, khi thì thay một bức vách bị mọt. Anh không bao giờ lấy tiền công của cô Gái, cô dọn cơm thì anh ăn, chắc anh nghĩ cháu không được phép lấy tiền trả công của cô. Họ hàng để làm gì, nếu còn tính toán sòng phẳng với nhau như vậy. Thành thử, cô Gái gọi anh đến nhiều thì anh thiệt nhiều, nhưng nếu cô đã gọi thì thể nào anh cũng đến. Tôi không thấy anh Cận đánh bạn với chú Khóa bao giờ và ngạc nhiên thấy anh tới. - Chú thế nào? - anh hỏi khẽ. - Chú mệt lắm, em nấu cháo cho chú. Anh thở dài, gạt tôi ra rồi ngồi vào chỗ của tôi, chăm chăm nhìn ngọn lửa lem lém liếm lên hông nồi. - Cha... Chú Khóa rên khe khẽ. - Chú muốn gì? - anh Cận ghé sát vào mặt chú Khóa. - Cha... - chú Khóa mấp máy môi, giọng run run. Cháu hiểu rồi. - anh Cận nói - Cha đang thăm kẻ liệt ở họ ông thánh Vi-xăn-tê. Cháu cho chú ăn cháo rồi cháu đi rước cha đến rửa tội cho chú, chú cứ nằm yên. Chú Khóa lại gật đầu. Một người nữa bước vào. Đó là chú Bổng. Chú Bổng ngồi xuống bên anh Cận. - Sao rồi? - Vưỡn vậy. Tỉnh hơn được một thí. - Khó lắm. - Chúa sinh ra, Chúa lại rước về. - Ai chả vậy. - Gọi là sinh lão bệnh tử, chẳng trước thì sau. -Có thế. Chú Khóa nằm im lìm. Không biết chú có nghe thấy mọi người nói gì không, nhưng chú không động đậy. Tôi chạy về báo cho bác Hai Thực biết sự thể. Bác gọi anh Cu Nhớn: - Mày đi nom chú Khóa thí. - Thưa thày, vâng. Chúng tôi lại chạy ra đình. Vừa chạy, anh Cu Nhớn vừa hỏi: - Nom chú ấy có hãi lắm không? - Không. Nhưng vừa nãy sao anh bảo đi sau rồi không ra? - Tôi hãi người chết lắm. - Chú còn sống mà. - Sắp sinh thì rồi, chú Bổng nói vậy. - Bậy. Chú bảo em nấu cháo chú ăn đấy. Gần tới đình, chúng tôi đứng sững lại. Từ trong nhà đòn vẳng ra một tiếng gọi thống thiết: - Giê-su...u...u! Hãy cứu lấy linh hồn Giu-se...e...e...! Tiếng gọi lặp đi lặp lại theo một nhịp đều đặn với cách quãng rất ngắn. Nghe tiếng gọi âm u đó tôi nổi da gà. - Chú Khóa chết rồi? - anh Cu Nhớn, mặt nhợt ra, nói - Tôi về đây. - Hai chúng mình vào rồi cùng về. - Chịu thôi. Chú có vào thì vào một mình. Anh bỏ mặc tôi lưỡng lự, quay người đi thẳng. Tôi nhìn thấy chú Bổng từ trong bước ra. - Chú Bổng, chú Khóa sao rồi? - Ông Khóa á? Sắp đi. - Đi đâu? - Chết chứ còn đi đâu? Cậu vào với ông thí. Ông Cận ở trong ấy. Anh Cận đang đứng trước lối vào, hai tay giơ lên trời thành hình chữ V: - Giê-su...u...u...? Hãy cứu lấy linh hồn Giu-se...e...e...! Vậy mà tôi không nhận ra tiếng anh Cận. Bình thường anh ít nói, khi nói thì nhỏ nhẹ, nhát gừng. Nhìn thấy tôi, anh nói vội vã: - Ông sắp đi? Chú vào ngay đi để chú cháu được thấy nhau trong giờ lâm tử. Anh nói bằng giọng trang nghiêm, với lời nói trang nghiêm, làm tôi không còn cách nào khác là nghe lời. Vén manh chiếu rách lên, tôi nhìn thấy chú Khóa cởi phanh áo, hai tay quờ quạng trên ngực. Đầu ngật về đằng sau, toàn thân rướn lên từng đợt, chú thở dốc, miệng há to như muốn đớp lấy những ngụm không khí hiếm hoi. Cùng với hơi thở khó nhọc, ngực chú giật nảy, cái bụng lép dán chặt xuống chiếu phập phồng. Khi cúc áo đã mở toang tôi mới thấy chú Khóa gầy quá như thế, những cái xương sườn cụt như muốn chọc thủng làn da mỏng và cáu bẩn ra ngoài. Tôi đứng lặng trước người hấp hối. Ông chẳng nhìn ra tôi nữa. Trong hai hố mắt chỉ còn toàn lòng trắng nhày nhụa. Một bát cháo đổ lênh láng bên cạnh. Tôi lùi dần cho tới khi chạm vào manh chiếu che lối vào ở đó tôi quay ngoắt lại ù té chạy thẳng. Tiếng gọi Chúa đến rước linh hồn chú Khóa tội nghiệp của anh Cận đuổi theo tôi. Chú Khóa tội nghiệp qua đời, không đợi được cha xứ. Không ai nói chú chết vì bệnh gì, mà nói chung, thời bấy giờ ít ai nói tới cái chết có kèm theo lời giải thích về nguyên nhân. Một con người qua đời, có vậy thôi. Sau cái chết của chú mấy tháng, một hôm ông mõ làng rẽ vào nhà bác Hai Thực xin ngụm nước mưa, bác Hai Thực hỏi chuyện những ngày cuối cùng của chú Khóa thì ông mõ trả lời: - Ông Khóa nhà ta cứ cuối buổi chợ lại đi mót xương. Xương dùng vào việc xương, chẳng ai vất đi sát, nói mót là nói vậy, cho ông Khóa đỡ tủi, chứ người ta thương ông Khóa thì người ta cho. Khốn nạn, nhiều khi thịt ế, xương đã ôi rồi ông mới tha về nhà, nấu nướng qua quít rồi ăn, ông bảo không sinh bệnh sao được. Có khi còn để lại đến hôm sau nữa. Mấy phản thịt ở chợ cũng tệ, thương người ta thì cho thứ tươi đàng này thứ ôi, thứ bỏ cũng cho, chả trách ông Khóa bị. Tới lúc ấy tôi mới giải đáp được câu hỏi cứ quanh quẩn trong đầu: tại sao nơi chú Khóa lại lắm xương khô như vậy? Cô Gái đưa cho anh Cận một đồng để làm bữa cho người đi cùng với anh chôn chú Khóa. Anh Cận mua rượu thịt ăn với chú Bổng. Tối hôm ấy hai người đưa chú ra đồng. Chú Khóa không phải người giàu có để phải chôn bằng quan tài cũng chẳng phải quàn lại đến hôm sau đợi họ hàng đến viếng. Anh Cận mang đĩa trầu vào trình ông lý một tiếng là xong. Chú Khóa được bó lại trong tấm chiếu mới và sạch sẽ, do anh Cận mang tới. Thừng thì sẵn của nhà chú Bổng. Đám tang gồm có bốn người, hai người khiêng và hai người đi đưa Dưới cái đòn ống là chú Khóa bó gọn trong cái chiếu. Anh Cận đi trước chú Bổng đi sau. Cả hai người lặc lè khiêng chú Khóa. Anh Cận phàn nàn rằng người chết nào cũng thế, đều nặng hơn lúc còn sống. Đi sau cùng là tôi và cô Gái. Lúc đầu cô định không đi, nhưng sau bà đổi ý. Trời đổ mưa lâm thâm. Đường trơn, thành thử anh Cận và chú Bổng phải bấm ngón, đi rất chậm. Tôi cầm bó đuốc, giơ cao trên đầu để soi đường. Anh Cận cũng cầm một bó, nhưng vì mải khiêng, nửa đường đã để tắt. Lửa đuốc soi tỏ đôi chân gầy guộc của chú Khóa thò ra ngoài chiếu, rung rung. Cô Gái thỉnh thoảng lại làm dấu thánh và lầm rầm cầu nguyện. Những giọt mưa lớn rơi vào đuốc kêu xèo xèo. Chó ở các nhà ven đường sủa râm ran. Hôm sau, cô Gái mang hai đồng vào nhà xứ để xin một lễ Mi-sa mồ cầu cho linh hồn chú Khóa.  

Vũ Thư Hiên

Miền Thơ Ấu

XXI

Hồi ký

Không hiểu cái số tôi nó ra làm sao, mà hễ tôi rơi vào tay ai thì y như rằng người đó ngứa ngáy, muốn túm chặt tôi để nhào nặn lại theo ý họ. Cô Gái là người đầu tiên thực hiện ý muốn đó mạnh mẽ hơn cả. Bà ra sức nặn tôi từ một tên nhóc vô thần thành một con chiên ngoan. Có thể nghĩ rằng vì yêu tôi nên bà mới khổ công làm việc đó. Khổ công, bởi tôi rất khó nặn. Tôi là cục đất sét tồi, vừa nặn xong tay là nó biến dạng. Nhưng cũng có thể nghĩ rằng bà làm thế là do bản năng của kẻ cuồng tín, bản năng này bộc lộ trong khát vọng tròng vào cổ đồng loại niềm tin của họ, bắt đồng loại tin cái mà họ tin, sùng bái cái mà họ sùng bái. Kẻ cuồng tín không bao giờ chấp nhận sự tồn tại của những tư tưởng ngoài tín điều của họ, họ nổi xung khi nghe một ý kiến chống, họ tàn nhẫn đè bẹp kẻ nghĩ khác họ. Cũng có thể trong cô tôi có cả hai thứ nói trên lẫn lộn với nhau, có điều bà đã thất bại trong ý muốn của bà, còn tôi thì cũng chẳng giành được thắng lợi đầy đủ - dấu ấn của một cái gì đó, nhang nhác của cô tôi, còn lại rất sâu trong tôi. Tôi cũng tin ở tình yêu có gốc gác từ thói quen. Tôi không tin cô Gái yêu tôi ngay khi tôi từ thành phố trở về quê nội, tôi đã nói như vậy, và điều đó là sự thật. Nhưng ba năm sống với nhau, trong ngôi nhà một cô một cháu, bà đã quen với tôi đến nỗi bất thình lình phải chia tay với tôi, bà òa khóc. Tôi cũng chảy nước mắt, thút thít như khi tôi tủi thân; tôi cảm thấy thiếu bà. Cảm giác thiếu vắng ùa vào trong tôi, làm cho tôi cảm thấy vô cùng trống trải, mặc dầu bên cạnh tôi có bố, có mẹ, có các em. Những ngày đầu tiên trở về nhà mình, trở về thành phố, tôi cứ bâng khuâng như thể trong tôi có cái gì không ổn. Mẹ tôi ngạc nhiên: - Con nhớ cô Gái à? Tôi đáp vâng, nhưng tôi biết rằng không phải. Tôi nhớ một cái gì đó lớn hơn. Hà nội dường như đổi khác. Những người phu nhà rượu (công nhân nhà máy rượu) có vẻ gầy yếu đi, nhếch nhác thêm. Những chiếc xe nhà binh chở lính Nhật phóng nhanh trên đường, tung bụi vào các nhà cùng với giọng hát ông ổng. ở phố tôi xuất hiện mấy gia đình Nhật, người ta nói rằng đó là những người Nhật làm thư ký cho mấy hãng buôn ở Đông Kinh sang. Khi những sĩ quan Nhật, kiếm dài chịu bên hông đi ngang, lũ trẻ phố tôi chạy theo, chìa tay nhao nhao xin thuốc lá: -Ta-ba-cô! Ta-ba-cô. Các sĩ quan Nhật không cho trẻ con thuốc lá mà cho những cuốn sách tranh mỏng, in hình núi Phú sĩ và phong cảnh Phù Tang. Họ dạy trẻ con cảm ơn: - A-ri-ga-tô gô-da-i-ma-sừ-cạ! Ba năm liền ở với cô Gái đã biến tôi thành một đứa trẻ nhà quê hoàn toàn. Tôi cảm thấy Hà nội xa lạ. Hà nội lạnh nhạt đối với tôi. So với người làng tôi, người Hà nội lúc nào cũng tất bật, cũng hối hả, mặt người nào người nấy ngơ ngác, hớt hải. Mẹ tôi thuê xe đưa tôi lên phố Hàng Bài, vào hiệu giày quen, mua cho tôi đôi dép. Bác phu xe già vừa húng hắng ho vào lòng bàn tay vừa kéo rất chậm. Đôi chân gầy guộc thò ra ngoài hai ống quần cụt dài quá đầu gối trong khung càng xe thấp thoáng tới lui như chạy tại chỗ. Ông chủ hiệu giày xỏ vào đôi chân đen đủi của tôi đôi dép thơm nức mùi da thuộc. Đôi dép ấy, tôi đánh mất luôn trong hôm sau khi đi chơi cùng các bạn ra nhặt đá phấn ở bến Phà Đen. Tôi tháo dép ra chạy bộ - đôi dép thành phố đã kịp làm chân tôi phồng lên ở vài chỗ. Mẹ tôi tiếc của, nhưng không đánh tôi mà chỉ thở dài: Khốn khổ, thằng bé bây giờ quen đi đất mất rồi. Chỉ đến tối, trước khi vào màn tôi mới chịu rửa chân để xỏ vào đôi guốc mộc. Mẹ tôi than phiền da tôi đen nhẻm, tóc tôi cứng như rễ tre. Trước khi đi ngủ chị Tường rủ tôi đọc kinh cùng với chị. Mẹ tôi nhìn tôi, thở dài. Chủ nhật, tôi đi lễ sớm cùng với chị Tường ở nhà thờ Hàm Long. Quỳ gối trước bàn thờ Chúa trong ánh sáng điện rực rỡ, tôi nghe tiếng chuông gióng giả mà nhớ về cái gác chuông nhà thờ quê tôi. Tôi thấy gác chuông nhà thờ làng tôi đẹp hơn nhiều, đồ sộ hơn nhiều, uy nghi hơn nhiều. Nó hơn hẳn cả về dàn chuông so với nhà thờ này, là nhà thờ tỉnh. Trước mắt tôi hiện lên gác chuông nhà thân thuộc của làng tôi. Từ xa đã có thể thấy nó sừng sững in những nét như cắt trên nền trời bên trên màu xanh đậm của những lũy tre. Trên nóc gác chuông, ngay dưới chân thánh giá là một tổ quạ. Mỗi lần những cái chuông gióng giả kêu lên là đôi vợ chồng quạ bực tức quạt cánh bay lên cao tìm chỗ đỗ, đợi cho đến tiếng chuông dứt mới bay về. Lũ trẻ chúng tôi thường leo lên gác chuông, nằm lăn ra trên sàn gỗ sạch sẽ của nó mà ngủ trong gió lộng. Khi ông bõ mù lần từng bước lên tới tầng thứ hai của gác chuông, nơi lủng lẳng sợi chão kéo, chúng tôi ùa dậy kéo giúp bõ. Chúng tôi đeo vào dây chuông, lủng lẳng như một chùm quả. Sợi dây hạ xuống rồi dâng lên vài lần thì lưỡi của quả chuông lớn nhất mới đụng được vào thành chuông gây nên một tiếng dài và nhẹ của đồng thau. Sau đó đến lượt những quả chuông nhỏ kê u lên yếu ớt, rồi gần như cùng một lúc cả đàn chuông thức giấc. Chúng bắt đầu ca hát, giọng chung mỗi lúc một lớn, một hay. Tôi đánh đu trên sợi chão mềm, say sưa với hòa âm vang dội của đàn chuông, mắt ngước lên không rời những quả chuông đung đưa nhẹ nhàng, mỗi lúc mỗi nhanh thêm. Rồi đến khi cả đàn chuông ca hết giọng thì những quả chuông vui mừng đu bổng lên, chúng như muốn bứt ra khỏi giá treo để bay theo tiếng của chính mình. Chúng tôi không bao giờ kéo chuông chầu. Vào giờ đó mọi gia đình đang ăn hoặc vừa ăn xong bữa tối. Bõ phải kéo một mình. Ông đã già lắm, lại hay ốm vặt. Bõ phải đánh vật với sợi dây chão hồi lâu, chuông cái mới kêu: chuông con còn phải sau một lúc. Hồi chuông uể oải, ném những tiếng ngân run rẩy, dài và yếu, vào không gian màu tím, vào bóng tối từ đàng tây đang lê lết vạt áo đen của nó trùm lên mặt đất. Bố tôi trở về cũng khác lạ. Ông ít nói hẳn, trên trán xuất hiện những nét nhăn. Nhà tôi cũng vắng khách hơn hẳn những năm xưa. Ông hỏi tôi chuyện nhà quê, nghe tôi nói mắt bố tôi trong phúc chốc trở nên ướt, ông nói: - Thế đấy, con ạ, cái nghèo làm cho người ta thành tàn nhẫn đối với nhau. Con đã về quê nhà mình rồi, con đã thấy Mà làng mình không phải làng nghèo. - Cô Gái không nghèo đâu bố ạ. - Nhưng cô lúc nào cũng sợ trở thành nghèo. Mọi người đều sợ như cô : sau một vụ cháy là trắng tay, thêm một năm mất mùa nữa là đói. Con có nhìn thấy đám cháy nào chưa? Tôi đã nhìn thấy. ở quê tôi, cháy nhà là chuyện thường. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng bớ làng nước, cháy, cháy, tiếng trống ngũ liên thúc ầm ầm. Khói đặc bốc lên cuồn cuộn, có khi nhìn thấy cả lưỡi lửa liếm lên trời. Sau đám cháy, chỉ còn những nền nhà đỏ cạch, những đống than âm ỉ, và những người mất hồn lang thang trên nền nhà của mình tìm kiếm cái gì đó không ai biết. Tôi nghe thấy tiếng trống thúc thuế ngày và đêm không lúc nào dứt, tiếng trống gọi dân đinh đi hộ đê, phòng lụt, tiếng bớ làng đuổi cướp. - Người dân quê, con ạ, chỉ nhìn thấy cái đói, cái nghèo ở đàng trước. Họ không dám chờ đợi cái may mắn, bởi vì nó hiếm hoi như số độc đắc. Làng ta sắp gặt chưa? - Sắp bố ạ. - Lạy trời cho được mùa. Bố tôi thường nói lạy trời khi biểu lộ điều rất mong muốn, mặc dầu ông không tin cả Chúa Giê-su lẫn Phật Thích Ca. Khi mẹ tôi về làng đón tôi, cô Gái đang mài dao chẻ lạt. Khắp làng, người ta hối hả đánh trấu cho liềm, bện chão đập lúa, giặt nong nia, phơi cót. Mùa gặt sẽ vui lắm đây Khắp cánh đồng sẽ vang lên những câu hát ví, những tràng cười ròn rã của các cô thợ gặt và những chiếc đòn xóc sẽ cho những ôm lúa chín vàng ruộm nhảy nhót trên đường làng, hào phóng rắc xuống những hạt mảy chịu nặng không còn bám nổi vào bông cho lũ gà đói ăn những ngày giáp hạt được ăn giả bữa đến căng diều. Trăng sẽ soi sáng mọi sân trong những đêm đập lúa. Thóc bắn ra rào rào từ cái cối đá lỗ úp sấp, mỗi lúc một phủ kín thêm cái sân sạch bong làm vàng thêm màu của trăng. Trăng sẽ soi bóng trong mỗi bát chè tươi nghi ngút khói như một vầng trăng khác hẳn, chỉ có trong cổ tích. Nếu còn ở nhà tôi sẽ được kéo đá lăn cùng với anh Cu Nhớn và chị Phương, chị Liễu, lúc nào mệt thì cứ việc nằm lăn ra trên nệm lúa đang trở thành rơm tươi ngát. Sau đó thể nào chúng tôi cũng bị rặm chúng tôi gãi lung tung, gãi đến sướt da rồi nhảy tùm xuống ao khi trời đã khuya để tận hưởng cái mát lạnh của nó. Có ai, trong vụ mùa này sẽ cảm thấy thiếu vắng tôi? Buổi tối, Hà nội trở nên ảm đạm bởi ánh điện phòng thủ. Đèn phòng thủ là đèn trong chao nhỏ, tỏa một vòng sáng yếu ớt xuống mặt đường. Lũ châu chấu ngoại thành bay vào, xà xuống vòng tròn đó và bị người phố tôi ra vồ bắt, ngắt cổ vặt cánh bỏ vào chảo rang. Châu chấu rang ăn bùi, người phố tôi gọi nó là món tôm bay. Năm đó, tôi ăn châu chấu lần đầu. Mấy năm trước tôi không thấy người phố tôi bắt cào cào và châu chấu để rang lên làm thức ăn. Bữa cơm nhà tôi thêm một món mới nữa, ngoài châu chấu rang, là món rau muống sống chấm bỗng rượu mắm tôm. Bỗng rượu là bã thải của nhà máy rượu, một thứ bùn chua chua nồng nồng chảy theo đường ống từ trong nhà máy chảy ra, đổ vào các xe bò có quây nứa đan. Người ta chở bỗng rượu ra ngoại thành để bán cho các nhà nuôi lợn. Tôi ăn rau muống chấm bỗng rượu và nhớ tới chị Liễu ăn cháo cám. Mẹ tôi nấu cháo chim bồ câu và bưng vào buồng cho bác Cả. Bác gầy và xanh sau cuộc vượt ngục vất vả từ Sơn La về. Căn buồng dành cho bác chỉ có bố mẹ tôi và chị Tường bước vào. Trong đó còn có một máy thu thanh với một cái mắt thần xanh biếc rất đẹp. Đêm đêm tiếng máy thì thào vẳng vào trong giấc ngủ của tôi. Bố tôi gày đi. Ông vắng nhà nhiều hơn. Mẹ tôi cũng đi nhiều, phó mặc chúng tôi cho chị Tường. Những người bạn bố mẹ tôi chỉ đi thoáng qua, dưới những bộ dạng khác, khi là nhà sư đi khuyên giáo, khi là ông lang được mời tới thăm bệnh. Mọi người đều có vẻ bận rộn, hối hả. ở trường học, trong các lớp vẫn còn treo ảnh thống chế Pê-tanh. Chúng tôi được phát không những cuốn sách "Thống chế Pê-tanh đã dạy", giấy trắng tinh in rất đẹp. Người Nhật ở phố tôi cho chúng tôi những cuốn sách học vỡ lòng tiếng Nhật bằng chữ la-tinh. Bên cạnh những câu "Cần lao - Gia đình - Tổ quốc" được kẻ la liệt trên tường xuất hiện những khẩu hiệu "á Châu của người Châu á", "Khối Đại Đông á vạn tuế. Học sinh hát "Mà-rề-san, nụ voa-là..? ở trường ở nhà tập hát bài vỡ lòng tiếng Nhật "à ư ế ô... Ná ni nữ nê nổ...". Nhiều người bán hàng ở chợ biết cảm ơn theo cách Nhật "A-ri-ga-tô-gô-da-i-ma-xư. Thanh niên huýt sáo vang đường "Bài ca á-tế-á". Bố mẹ tôi tủm tỉm cười nhìn những hiện tượng ấy và tất tả đi làm công việc của mình. Bác Cả đã bình phục. Bố mẹ tôi sắm cho bác áo the thâm, quần trúc bâu trắng, Ô lục soạn, giày Gia Định. Mặc vào bác trở thành một ông lý ra tỉnh. Chúng tôi được dặn phải gọi bác bằng bác Cả Hà Đông. Bác Cả Hà Đông đi đứng lù đù, ăn nói từ tốn, ra đường vài ngày rồi biến mất, thỉnh thoảng mới quay lại. Chị Liễu ở nhà quê lên, mang theo quà của cô Gái. Bà dạo này yếu, ngại đi xa, ngại tàu xe. Nhưng cái chính là bà phải ở lại giữ nhà. Chung quanh làng tôi luôn xảy ra những đám cướp lớn, trong làng cũng đã có hai nhà giàu bị cướp. Cướp giả làm người đi đong thóc, vào đến tận nhà mới chịt cổ chủ khảo của, khi ra chúng lấy lưỡi giáo búp đa cắm vào sào gẩy rơm, bật hồng đi đàng hoàng qua các xóm mà không ai dám đuổi. ở Hà nội lan tràn tin đồn về vụ quân Nhật chặt tay những tên ăn cắp, mổ bụng những con ngựa chết vì ăn phải cám trộn mùn cưa và nhét kẻ bán cám giả vào trong đem chôn. Người Pháp ít khi ra đường. Họ đi len lét, mắt nhìn xuống đất. ở các ngã tư, lính Nhật đứng lửng lơ, không gác mà cũng không ra không gác. Người ta nói đó là chúng đứng canh chừng để giữ trật tự. Lính Nhật tập ném lựa đạn ở những khúc hè rộng và vắng. Khi tập đâm lê, chúng hò hét om xòm. Tiếng hô từ cổ họng nghe hoang dã, rùng rợn. Một cách mơ hồ, tôi cảm thấy thời gian đang đi những bước gấp. Những sự kiện xảy ra trong thế giới người lớn cũng dồn dập, tôi biết được qua những câu chuyện của người lớn. Bố tôi mang về một bản đồ thế giới. Tối tối bác Cả cùng bố mẹ tôi cúi xuống tấm bản đồ ấy, chăm chú dò tìm trên những đường nét ngoằn ngoèo của nó diễn biến chiến sự ở những phương trời xa, như thể việc xảy ra trên đất nước mình. Một buổi sáng, bố tôi viết mấy chữ rất nhỏ vào một mảnh giấy cũng rất nhỏ rồi vo viên lại, nhét vào một đầu bánh mì rồi đưa cho tôi: - Con biết nhà bác Ba chứ? - Con đến một lần với bố rồi. - Con nhớ đường không? - Con nhớ. Con cầm cái bánh mì vừa đi vừa ăn sao cho đến nhà bác thì còn lại mẩu này, đưa cho bác. Đây là việc quan trọng, con hiểu không? - Con hiểu. Nếu đến nhà bác mà thấy trong nhà có mật thám đến bắt bác thì con làm thế nào? - Con sẽ nhai miếng bánh và nuốt đi. Bố tôi xoa đầu tôi: - Thế thì được. Con đi ngay đi. Tôi hiểu đó là việc gấp. Trước đó mười phút có một người tới tìm bố tôi, đưa cho bố tôi vật gì đó rồi đi ngay. Tôi vào trong nhà lấy cái khăng ra. Vừa đi vừa đánh khăng là cách che mắt bọn mật thám tốt nhất. Thế là cái khăng lăn trước, tôi chạy theo sau, vừa chạy vừa ăn bánh mì. Hồi ấy người ta bán loại bánh mì dài bằng cái thước kẻ, tròn bằng cái độn tóc của các bà. Chiến tranh, bánh mì làm bằng bột gạo nhưng cũng ròn và thơm. Tôi thích ăn thứ bánh mì này, nó phảng phất hương vị sâu bà Cơ. Tôi rất quí bác Ba. Ông là một người cao lớn, lộc ngộc, cử chỉ vụng về, nhưng rất vui tính. Có thời gian ông đã ở nhà tôi. Ông chơi đùa với chúng tôi thoải mái ngang hàng, hệt như một đứa trẻ con to xác. Ông không biết cách gọt cam hay gọt khoai như cách chúng tôi gọt mà gọt ngược lại, tờ nhìn trái và từ ngoài vào trong. Mẹ tôi thì thầm với tôi rằng bác Ba quen gọt như thế bởi vì bác ở bên Tây quá lâu - Người Tây họ cũng gọt như vậy hả mẹ? - Họ gọt vậy. - Thế là gọt ngược, mẹ nhỉ? - Nếu họ thấy mình gọt, họ cũng bảo là mình gọt ngược. - Ngược là ngược mà xuôi là xuôi chứ. - Bao giờ con lớn lên, con sẽ hiểu được rằng không phải tất cả mọi người đều giống nhau, con sẽ phải công nhận cái mình cho là ngược có khi lại là xuôi đối với người khác Không thể nói chuyện với người lớn. Khi nào người không trả lời được thì thế nào họ cũng hứa sẽ cho mình hiểu khi nào mình lớn lên. Mà trẻ con thì cảm thấy mình lớn lên rất chậm. Mải suy nghĩ, tôi không nhìn thấy một thằng bé, lớn hơn tôi một đầu, chặn ngang đường. Tôi nhận ra nó. Thằng này cầm đầu lũ trẻ con Thọ Lão, thường phá đám chúng tôi khi chúng tôi chơi ở quanh chùa Hai Bà. Nó con nhà nghèo, cấc lấc và hung tợn. Trông thấy lũ trẻ Thọ Lão, chúng tôi tránh từ xa. Nhưng lần này tôi nhìn thấy nó thì đã muộn. Hai chân dạng, tay chống nạnh khuỳnh khuỳnh, nó hất hàm: - Ê, thằng kia, đi đâu? Tôi nhũn nhặn tránh nó, lạng qua một bên để đuổi theo cái khăng đã hết đà lăn chiêng bên gốc cây. Nhưng nó đã dịch sang, chặn tôi lại. Tôi nhìn vào mặt nó, nặn ra một nụ cười. - Tránh cho người ta đi nào - tôi nói. - Nộp mãi lộ rồi cho đi. - nó nói. Thằng này sẽ không tha mình đâu, tôi nghĩ. Mẹ tôi dạy: Không được sợ bất cứ cái gì, không được sợ bất cứ kẻ nào. sợ tức là thua ngay từ đầu, con sẽ không làm nổi việc gì hết". - Mãi lộ cái gì, tránh ra! Tiếng quát tự nó bật ra, không phải tôi cố ý. Thằng bé quắc mắt lên. Nó lao luôn vào tôi. Tôi ngã ngửa. Nó chồm tới, giật ngay cái bánh. Tôi hét lên, nhào tới giật lại. Nó giữ cái bánh rất chặt. Tôi ghé luôn miệng, cắn cho nó một cái thật đau vào tay. Nó hét lên vì đau, buông rơi miếng bánh mì xuống đất. Tôi vồ lấy, khư khư giữ chặt. Cái cắn vào tay làm cho thằng bé điên cuồng. Nó lại xông tới, đấm thẳng vào mặt tôi. Trời đất tối xầm lại nhưng tôi vẫn giữ chắc mẩu bánh mì. Đúng lúc đó, những người lớn đi qua chạy tới, can hai đứa chúng tôi ra. Mặt nó đỏ gay, miệng thở hổn hển. Tôi loạng choạng nhặt lấy cái khăng đi tiếp. Đuổi theo sau tôi là tiếng chửi rủa tục tằn và lời hứa sẽ trả hận. Bác Ba mở cửa khi nghe tôi gọi. Ông ngạc nhiên nhìn bộ mặt nhem nhuốc, thâm tím của tôi, rồi cuống quít lôi tôi vào nhà lấy cồn rửa vết thương cho tôi. Tôi không chịu, đưa ngay cho ông mẩu bánh mì và nói cho ông biết bố tôi bảo ông phải đọc ngay. May, tôi biết làm thế nào nếu không giật lại được cái bánh, nếu cái thằng kia trời đánh kia lại ngoạm mất mẩu đầu có viên giấy bố tôi nhét vào? Bác Ba đọc xong, bình thản châm diêm đốt mẩu giấy rồi lấy khăn lau mặt cho tôi. Sau đó ông dắt tôi ra ngoài cửa, hai bác cháu đi bộ một quãng. Ông gọi xe tay đi Khâm Thiên. Tôi đi bộ về nhà. Bố tôi đợi tôi. Nhìn thấy tôi, bố tôi còn sửng sốt hơn bác Ba. Nghe tôi kể chuyện xong, bố lấy cồn rửa vết thương ở đầu cho tôi, bôi thuốc và thay quần áo cho tôi. Ông lặng lẽ làm những việc đó, không nói với tôi một câu. Tôi đọc thấy trong mắt bố nỗi buồn nhưng không hiểu vì sao bố buồn, vì tôi bị đánh đau, vì vết toạc trên đầu khi bị ngã máu rớt xuống áo mà tôi không biết, hay vì tôi không biết tự vệ cho xứng đáng. Tôi leo lên giường, ngủ thiếp. Tôi nghe thấy tiếng của bác Cả lọt vào trong giấc ngủ của tôi: - Nó còn nhỏ quá. không nên đưa nó vào những công việc người lớn. Nó cũng không đến nỗi nhỏ quá đâu - bố tôi cãi - Tôi không muốn thế, nhưng nó phải bắt đầu đi thì vừa. - Nhà em nói đúng đấy, anh ạ. - mẹ tôi nói chêm vào - ở đất nước ta, lũ trẻ không thể chờ tới lớn mới làm những việc mà ở nơi khác người lớn làm. - Nhưng, dù sao thì cũng tội quá. - giọng bác Cả bùi ngùi - Tuổi chúng nó là tuổi ăn tuổi chơi. Tôi nghe thấy tiếng bác Cả cười khe khẽ. Rồi tiếng bước chân của ba người rời giường tôi. - Tin tức hôm nay thế nào, anh Cả? - tiếng mẹ tôi hỏi. Bọn Đức tiến chậm chạp. Hồng quân bắt đầu phản công trên một số mặt trận, còn bên này bọn Nhật đang lúng túng ở Trung Quốc... Anh bỏ bản đồ xuống đây. Tôi biết, không cần mở mắt, là ba người lại chụm đầu trên tấm bản đồ thế giới, mấy ngón tay trỏ lại dò dẫm tìm những địa danh chiến sự mà các đài phát thanh Đồng Minh vừa thông báo ban đêm. Tôi nằm nghe những tiếng thì thào của người lớn, chợt nhận ra rằng vận mệnh đất nước tôi và cái thế giới chằng chịt nhiều màu được vẽ trong bản đồ kia gắn bó với nhau thật là chặt chẽ. ______________________________________________ Hết

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tho#thu