mmtt10a

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10



Thông tin ebook

Tên sách: Mật mã Tây Tạng 10 (10*&10**)

Tác giả: Hà Mã

Dịch giả: Lục Hương

Công ty phát hành: Nhã Nam

Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn

Ngày xuất bản: 27-10-2012

Số trang: 888

Kích thước: 14 x 20. 5 cm

Giá tiền: 90.000 VNĐ/ Quyển



Đóng gói: wjndwjng - [email protected]

Đánh máy: wjndwjng - [email protected],

chuongbom - [email protected],

nokianokia - [email protected],

baolinh0711 - [email protected],

hatuananh - [email protected],

kakami93tt - fa

[email protected] ,

soiden05 - t [email protected] .

Ngày hoàn thành: 15/12/2012

http://www.e-thuvien.com

Ebook được thực hiện bởi mục đích phi lợi nhuận.

Đề nghị mọi sao chép phải ghi nguồn cùng đội ngũ thực hiện ebook.

Nghiêm cấm mọi hành vi sao chép với mục đích thương mại.

MỤC LỤC

CHƯƠNG 70: VẠN LANG CHI VƯƠNG: TỬ KỲ LÂN.................................................3

CHƯƠNG 71: CẤM ĐỊA CỦA SÓI...............................................................................30

CHƯƠNG 72. CÁNH CỬA CHÚNG SINH...................................................................64

CHƯƠNG 73: DÒNG SÔNG PHÙ SINH.....................................................................94

CHƯƠNG 74: CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BẠC BA LA THẦN MIẾU...........................118

CHƯƠNG 75: CHÚNG THẦN TÂY TẠNG................................................................148

CHƯƠNG 76: TÂY TẠNG VẠN PHẬT CÁC.............................................................176

CHƯƠNG 77: ĐẾN TRUNG TÂM THẦN MIẾU.........................................................205

CHƯƠNG 78: BÁU VẬT CỦA NHÀ PHẬT................................................................232

CHƯƠNG 79: SỰ THẬT ĐÁNG SỢ..........................................................................257

CHƯƠNG 80: CÂU CHUYỆN NGHÌN NĂM TRƯỚC................................................285

CHƯƠNG 81: KẾT THÚC BẰNG MỘT TẤM ẢNH...................................................314

MẬT MÃ TÂY TẠNG 10

CUỘC TRUY TÌM KHO BÁU NGÀN NĂM CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG

CHƯƠNG 70: VẠN LANG CHI VƯƠNG: TỬ KỲ LÂN

VƯỜN ĐỊA ĐÀNG BỊ BỎ QUÊN

Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba dừng lại, đăm đăm nhìn về phía xa, gã chợt không kìm được

tự hỏi: “Đây là sự thật sao, không phải mình đang nằm mơ đấy chứ?”

Cỏ xanh biêng biếc, ngọn cao không quá gối, ngọn thấp không lấp gót giày, kết thành một

tấm thảm, bên trên điểm xuyết những bông hoa trắng nhỏ li ti như hạt gạo. Một vùng thảo

nguyên mênh mông trải đến tận chân trời. Cơn gió phất qua, gợn lên những đợt sóng nhẹ lăn

tăn lan xa tít tắp, tựa như từng nhánh cỏ, từng bông hoa đều đang vẫy tay với gã, reo lên, hân

hoan: “Trở về rồi... trở về rồi...trở về rồi..."

... Gió nơi này êm dịu như hơi thở tình nhân, khiến người ta thực tình không phân biệt nổi,

đó là cơn gió thổi ùa vào mặt mình, hay chỉ là dòng không khí do cơ thể mình chuyển động gây

ra. Mấy cây cột đá khổng lồ nghiêng nghiêng trên bãi cỏ, khiến không gian tĩnh lặng yên bình

ấy thêm phần trang nghiêm. Mấy chú chim ngậm hoa bay đến, đậu trên cột đá, mắt láo liên

nhìn khắp xung quanh rồi lại theo nhau cất cánh tung bay chao liệng. Trên không trung như có

ai đó đang tấu lên giai điệu sonate Ánh Trăng. Gió thổi hiu hiu, chim ca ríu rít, mặt đất hơi dập

dềnh uốn lượn, phác lên những đường cong tuyệt đẹp như đường nét trên thân thể người thiếu

nữ. Vườn Địa đàng trong Truyền thuyết chắc hẳn cũng chỉ thế này thôi, đó là ấn tượng đầu tiên

của Trác Mộc Cường Ba về cảnh tượng trước mắt.

Sau đó gã phát hiện, mình đang ở một lối ra giống như cái hốc, phía trước là thảo nguyên

bát ngát, nhưng tầm nhìn sau lưng gã lại bị bức tường đá chắn mất. Gã bước ra ngoài, xoay

người lại, phát hiện kiến trúc nơi này như một chiếc thùng thư khổng lồ, còn mình thì như vừa

chui ra khỏi lỗ nhét thư. Lùi lại thêm mấy bước nữa, gã trông thấy một bức tường cao, lùi nữa,

lủi nữa... lùi một mạch ra đến tận thảo nguyên, giẫm chân lên thảm cỏ mềm mại, gã mới nhìn

rõ toàn bộ diện mạo của nơi này. Đó là một kiến trúc thoạt trông như thể viên lâm của hoàng

gia, có tường cao vây quanh. Bức tường chạy dài miên man không thấy điểm cuối, những viên

gạch khổng lồ màu đen xám loang lổ xếp thành vô số hình tượng phong cách mosaic, dây leo

quấn chằng chịt quanh mương dẫn nước trên cao. Những cột đá cao to chống đỡ cho hành lang

chìa ra phía ngoài thoạt nhìn như một sạn đạo cheo leo lưng chừng núi.

Tường thành cao lớn chắc chắn, có vô số cửa sổ to như ô cầu vòm, những bậc thang dài

thoai thoải dần lên cao, trên bậc thang cuối cùng sừng sững một cánh cửa nguy nga. Ngoài

tường thành rải rác vài kiến trúc nhỏ, có chỗ như rừng tháp sau các chùa chiền, có cái như nắp

quan tài, cũng có kiến trúc giống ngôi miếu nhỏ hay thần điện Hy Lạp cổ đại, Trác Mộc Cường

Ba chưa bao giờ gặp quần thể kiến trúc nào quái dị đến thế, nhưng những bức bích họa khổng

lồ trên tường thành kia thì gã nhận ra khá nhiều. Phần lớn các bức tranh bắt nguồn từ thần thoại

Ấn Độ cổ: Brahma nhảy múa, Shiva cầm kiếm, vô số Thiên nữ, Thiên phi vây quanh. Ngoài ra,

còn có rất nhiều thần linh của Bản giáo cổ đại. Phong cách hội họa này rất giống các tranh

tượng bọn gã thấy trong Đảo Huyền Không tự.

Trác Mộc Cường Ba không khỏi hít sâu một hơi, thầm nhủ: “Lẽ nào mình đã đến nơi rồi?”

Có điều tòa thành lại mang đến cho gã một cảm giác rất quái dị. Nơi này hoàn toàn không

giống thánh địa được miêu tả trong các loại điển tịch, mà như một công trường đang thi công

dở dang thì bị bỏ hoang. Dường như, cổ nhân từ nghìn năm trước đang xây dựng một tòa thành

hoặc một kiến trúc vĩ đại nào đó, chưa hoàn công thì đã từ bỏ, khí thế tuy hùng vĩ nguy nga

thực đấy, nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp tàn khuyết mà tang thương, mà dùng cụm từ "vườn Địa

đàng bị bỏ quên" để hình dung nơi này có lẽ là chính xác nhất.

Sói Hai và Sói Út cũng chui ra, ngửa mặt nhìn trời xanh mây trắng, hú lên một tiếng khoan

khoái, chạy vù tới chỗ bậc thang đá leo tót lên, tiếng hú còn văng vẳng trong không trung,

phảng phất như đang nhấn đi nhấn lại: “Trở về rồi, trở về rồi, trở về rồi...”

Trác Mộc Cường Ba cũng theo hai anh em sói xám bước lên cầu thang. Đi được nửa đường,

gã ngoảng đầu đưa mắt nhìn lại hướng mình vừa đến, chỉ thấy thảm cỏ xanh trải dài đến tận

chân núi, mây mù sương khói mờ mịt. Ở cuối chân trời là một bức tường mây trắng dày đặc,

càng gần mặt đất tầng mây càng dày hơn, nặng như chì. Phải chăng, xuất phát điểm của bọn gã

chính là từ trong tầng mây ấy? Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra khái niệm hệ thống tuần hoàn

khí lưu mà Lữ Cánh Nam từng nhắc đến. Lẽ nào chính là hệ thống tuần hoàn khí lưu đã khiến

sương mù trong không khí hình thành một vòng vây, tựa như một cơn bão bao quanh toàn bộ

vùng đất Shangri-la, còn ở vùng tâm bão trái lại không có sương mù, nên mới thấy được trời

xanh? Hoặc giả, hãy còn nguyên nhân gì khác?

Còn một điểm nữa khiến Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó hiểu là nơi đây thực sự rất nóng,

cảm giác oi bức như gã đang ở giữa rừng rậm nhiệt đới vậy. Chỗ này chẳng phải ở độ cao sáu

bảy nghìn mét so với mực nước biển hay sao? Nhưng khi mang theo nghi vấn ấy lên đến cái

cổng khổng lồ phía trên, gã cảm thấy mình đã tìm thấy đáp án. Bên trong bức tường thành

khổng lồ không ngờ là một hồ nước lớn, nước hồ phản chiếu nền trời xanh, gờn gợn những vảy

vàng lấp lánh. Mặt hồ, từ giữa ra đến ven bờ, lần lượt hiện lên các màu lam, vàng, lục và xanh

biếc, chẳng những vậy, thoạt nhìn đã biết ngay là một hồ nước nhân tạo. Hồ hình tròn, những

đường kênh dẫn nước tỏa từ tâm ra khắp bốn phương tám hướng, kết cấu rất giống thôn Công

Bố ở tầng dưới, các công trình kiến trúc dành cho dân cư nằm ở khu vực hình rẻ quạt.

Sở dĩ Trác Mộc Cường Ba cho rằng mình tìm thấy đáp án, là bởi từ xa gã đã trông thấy mặt

hồ bốc lên những làn khí nóng mỏng mảnh. Sói Hai và Sói Út đã chạy đến bên cạnh một dòng

kênh khoan khoái vục mõm xuống uống nước. Trác Mộc Cường Ba thử kiểm tra nhiệt độ

nước, thấy hơi rát tay, nhưng cũng không đến nỗi không thể ngâm mình xuống được. Nhiệt độ

nước vào khoảng 450C, thoang thoảng có mùi lưu huỳnh. Địa nhiệt, đúng như những gì gã và

bọn Nhạc Dương đã thảo luận trong rừng rậm Amazon, nguồn gốc của nhiệt lượng ở nơi này,

chính là địa nhiệt!

Người Qua Ba đã dẫn nước tan chảy trên núi tuyết vào cái hồ nhân tạo này, sau đó, không

hiểu họ dùng cách gì để lợi dụng địa nhiệt làm tăng nhiệt độ của nước, đồng thời giữ ở mức

xấp xỉ 450C. Nơi này kẹp giữa hai ngọn núi lớn, về cơ bản là một không gian kín, vì vậy toàn

bộ Shangri-la đều được hun nóng, giống như ở trong phòng tắm hơi vậy. Nhờ hơi nóng ấy, một

khu vực khí hậu riêng đã dần hình thành, tạo thành vòng tuần hoàn khí lưu trên tầng bình đài

thứ ba, ngăn cản không khí lạnh bên ngoài ùa vào. Đồng thời, các khí thể độc hại cũng theo hơi

nóng bốc ra ngoài, ôxy được hút vào bên trong, giữ cho bầu không khí luôn thanh tân tươi mới.

Trác Mộc Cường Ba hiểu, ở những chỗ mình chưa đặt chân đến, nhất định vẫn còn các kiến

trúc hùng vĩ khác, muốn tạo ra cả một vùng khí hậu như vậy, tuyệt đối không phải một việc dễ

dàng mà thực hiện được.

Sói Hai và Sói Út không nghĩ ngợi nhiều như Trác Mộc Cường Ba, bọn chúng cẩn thận thử

nhiệt độ nước, chầm chậm dầm mình xuống, rồi từ từ bơi lội nhẹ nhàng trong làn nước. Sau

hành trình bôn ba vất vả qua vùng băng giá, tắm nước nóng một cái, thực sự cũng khá dễ chịu.

Sói Út táp táp chân trước làm bắn lên những đóa hoa nước nhỏ, ý chừng muốn rủ Trác Mộc

Cường Ba cùng xuống nước đùa chơi với nó.

Lúc mới xuống, nước hơi nóng rát, nhưng chẳng bao lâu sau gã đã thích ứng được. Một điều

khiến Trác Mộc Cường Ba hết sức kinh ngạc là, trong hồ nước nóng giữa vùng núi tuyết này,

không ngờ lại có những con cá nhỏ bơi lội tung tăng và cả một loài thực vật màu xanh lục

không biết tên. Chính kỳ tích khó tin của sự sống ấy, đã khiến hồ nước nóng đến 450C này tràn

đầy sức sống.

Ngâm mình trong làn nước ấm áp, ngửa đầu đếm những sợi mây trên bầu không xanh thăm

thẳm, so với lúc trước phải đội gió đạp tuyết đi trong sương mù mờ mịt, thật không khác nào

thiên đường với địa ngục. Trác Mộc Cường Ba duỗi cả tứ chi, nằm ngửa trong làn nước, chẳng

muốn nhúc nhích gì nữa.

Chẳng rõ ngâm mình dưới nước được bao lâu, mọi mệt mỏi trong người đều đã tan biến,

Trác Mộc Cường Ba mới đứng dậy. Chỉ thấy kênh dẫn nước hình tròn đó dường như được thiết

kế theo đường trôn ốc từ trên xuống dưới, dòng chảy tuôn trào, hoa nước bắn tung. Còn gã, khi

đứng dưới nước, ngước mắt lên nhìn những căn nhà dân tạo hình kỳ dị nhưng lại theo một quy

cách thống nhất, chợt có cảm giác như thể mình đang ở vùng sông nước Giang Nam, phong

cảnh nên thơ như họa. Chỉ là... làn gió ấm thổi qua, lại mang đến một hơi thở xa xăm cổ lão.

Trác Mộc Cường Ba men theo con đường nhỏ, đi từ căn nhà này sang căn nhà khác. Kiểu

dáng của các kiến trúc ấy vẫn giữ được khá hoàn hảo, dù cũng có khá nhiều căn bị mưa gió bào

mòn hay cây cối mọc lên phá hoại, nhưng đại đa số đều là các căn nhà hoàn chỉnh. Chỉ có điều,

người ở đây đâu hết cả rồi?

Trác Mộc Cường Ba đang định bước vào một căn nhà thì bị Sói Út chắn phía trước mặt,

miệng nó gầm gừ: "Không được vào đó."

Trác Mộc Cường Ba thân với Sói Út nhất, nghe tiếng kêu cảnh báo ấy của nó, gã liền ngồi

xổm xuống, nâng cằm Sói Út lên nói: "Không vào được à? Bên trong có thứ gì đó bất lợi cho

tao, đúng không?"

Sói Út nửa hiểu nửa không, gật gật đầu. Trác Mộc Cường Ba cũng khẽ gật đầu nói: "Tao

biết rồi." Gã bèn từ bỏ ý định vào nhà, chỉ đứng ngoài cửa quan sát. Đồ đạc bên trong vẫn còn

nguyên vẹn hoàn hảo, làm gã càng thêm nghi hoặc. Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, khiến cho

tòa thành khổng lồ này trở nên vườn không nhà trống, tĩnh lặng như một vùng đất chết thế này!

Đi giữa con đường vắng tanh, nghe tiếng nước chảy rào rào, nhìn những cây cầu nhỏ bắc

qua kênh dẫn nước, bức tường cao xây bằng đá xanh, trong lòng Trác Mộc Cường Ba bất chợt

dấy lên một tia sợ hãi.

Nhện giăng tơ trong góc tường, các loài sinh vật nhỏ giống như chuột, thỏ hay thằn lằn luồn

lách vun vút như thoi đưa. Chỉ là, không có người... không có một người nào... tòa thành trống

rỗng yên tĩnh một cách bất thường. Gã thậm chí còn không phát hiện ra một bộ xương khô nào

cả. Thế nhưng, những kiến trúc được bảo tồn hoàn chỉnh kia lại tựa như đang rủ rỉ kể với gã,

một người khách xa lạ, về sự phồn vinh của nơi này trong một quá khứ không quá xa xôi.

Phía trên những căn nhà, đều là các bức tượng với tạo hình khác nhau, có tượng tiên nữ tà

áo tung bay, có tượng Kim Cương nộ mục trừng mắt nhìn khắp tứ phương, có tượng thú lành

đạp mây bay đến, có nhà lại chạm khắc một lũ tiểu quỷ bò khắp trên tường. Những hình tượng

ấy hoặc lớn hoặc nhỏ, thảy đều sống động như thật. Trước cửa, bốn vách tường, ngay cả dưới

hàng hiên cũng treo từng chuỗi từng chuỗi tiểu quỷ trông như chùm nho chín.

Đây là kiến trúc thời kỳ nào? Quần thể kiến trúc hình tròn này được thiết kế dựa trên tư

tưởng của thời kỳ nào? Ai đã kiến tạo nên chúng? Chủ nhân nơi này đã đi đâu mất rồi? Trác

Mộc Cường Ba ôm đầy bụng nghi vấn, thở dài một tiếng, khoảng mười phút sau, gã bỗng chợt

nghe thấy một tiếng thở dài khác.

Gã nghi hoặc dừng bước chân thầm nhủ, "Lẽ nào nơi này có người?"

Bỗng nhiên, Sói Út đi bên cạnh gã ngửa mặt hú một tiếng dài. Mấy phút sau, hình như đâu

đó phía sau lưng gã lại vang lên tiếng hú của Sói Út. Con sói nhe răng, nhìn Trác Mộc Cường

Ba cười khùng khục đắc ý, như đang nói: "Thần kỳ không."

Thì ra, trong quần thể kiến trúc hình cung này đã hình thành nên một thứ tương tự như vách

phản âm, âm thanh vang lên, không hiểu được chuyển hướng vòng vèo thế nào, lại từ phía sau

vẳng trở lại. Đây là một sự vận dụng âm học của cổ nhân, Trác Mộc Cường Ba cũng chẳng có

thời gian đâu mà tìm hiểu cho rõ ràng. Sói Hai khẽ kêu lên một tiếng cảnh báo: "Đi thôi, phải

rời khỏi nơi này trước khi trời tối."

Không biết đến tối ở đây sẽ có thứ gì xuất hiện, có lẽ là lũ gián khổng lồ kia chăng? Trác

Mộc Cường Ba cũng không hơi đâu đi tìm hiểu, gã chỉ lấy làm lạ, nơi đây chỉ có tòa thành

trống không, thoạt trông thì dường như đã từng có một độ phồn hoa đô hội, lẽ nào đây không

phải Shangri-la? Gã thầm tính toán một hồi lâu, rồi mới phát ra tiếng hú, hỏi Sói Út: "Nhà còn

cách đây xa không?" Sói Út nheo mắt nhìn về phía xa xăm, vầng tịch dương đã biến mất,

nhưng sắc trời vẫn một màu xanh lam thăm thẳm, ráng mây cuối trời đỏ ối như ngọn lửa:

"Hẵng còn xa lắm."

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu nhìn lại đám mây dày đặc bao phủ khoảng không gian này,

nơi bị sương mù dày đặc che phủ phía đằng kia, lúc này hẳn đã chìm vào bóng tối rồi chứ nhỉ?

Trên thảo nguyên, các chủng loại sinh vật dần trở nên phong phú đa dạng hơn. Không lâu

sau, Sói Hai và Sói Út cắp về vài sinh vật có sừng, trông khá giống con thỏ, cả bọn ăn no rồi

lấy đất làm giường, trời làm chăn, ngửa mặt nhìn mây trôi lãng đãng, dòng sông Ngân từ từ

hiện lên trên bầu không lồng lộng. Bầu trời tựa như một mái vòm khổng lồ, bao trùm lên tất

thảy, cảm giác mênh mông vươn ra khắp bốn phương tám hướng, dòng suy nghĩ của Trác Mộc

Cường Ba dường như cũng bay vút ra ngoài xa nghìn dặm.

Bọn Trác Mộc Cường Ba lại đi thêm hai ngày nữa, cỏ dưới chân ngày một um tùm tươi tốt,

cây cối bắt đầu mọc san sát thành rừng. Từ thảo nguyên, gã đi vào rừng rậm, những gốc cây

khổng lồ che kín cả ánh mặt trời, cành lá thân rễ chằng chịt quấn vào nhau như bầy quái thú

đang không ngừng vật lộn. Sói Hai và Sói Út chỉ cần rùn mình một chút là có thể dễ dàng chui

qua khe hở giữa những thân cây, chỉ khổ cho Trác Mộc Cường Ba, muốn chen qua những chỗ

cây lá rậm rạp thì phải lách người thật khéo, hoặc phải leo lên trèo xuống một hồi. Cứ đi mãi đi

mãi, cuối cùng gã cũng trông thấy tòa thành thứ hai... Hay đó là một ngôi miếu?

Ngôi miếu lớn quá! Trác Mộc Cường Ba đứng trên ngọn một cây cổ thụ khổng lồ, từ đằng

xa chỉ trông thấy những đường ngang dọc giao nhau giữa trời đất, bố cục tựa như bàn cờ. Lại

gần hơn, gã mới phát hiện những đường vạch ấy hết sức vuông vắn, quây thành vô số hình chữ

nhật đồng tâm dạng chữ "hồi"(1); đến gần hơn nữa, khi chui ra khỏi hàng cây rậm rạp cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba mới nhìn thấy toàn bộ diện mạo của những đường vạch ấy.

Chính giữa khu rừng, xuất hiện một cái hồ vuông vức. Chu vi hồ phải dài mấy cây số. Giữa

hồ chính là ngôi miếu đó! Những đường vạch ngang dọc mà gã nhìn thấy lúc nãy đều là tường

bao của ngôi miếu, hoặc từng hàng từng hàng tháp cao như những cây thông mọc san sát nhau

tạo thành. Trác Mộc Cường Ba đứng ở rìa hồ nước, nhìn ngôi miếu, trong lòng trào lên một thứ

cảm giác không chân thực, tựa như đó không phải là thứ thuộc về cõi nhân gian vậy.

Mầu nhiệm ở chỗ, cái hồ nước nhân tạo này được đánh bóng mài nhẵn gần như tuyệt đối.

Mặt nước không lăn tăn dù chỉ một gợn sóng, trông như mặt gương. Nhìn xuống mặt hồ, có thể

thấy rõ ràng mây trắng trên trời đang chầm chậm trôi qua trong làn nước, bởi thế, thoáng nhìn

qua, ngôi miếu ở giữa hồ như thể đang trôi nổi bập bềnh trên không trung.

Toàn bộ con đường nhỏ thông đến ngôi miếu đều được chạm khắc thành hình dạng như lá

sen, bước lên trên đó, cảm giác như chuồn chuồn điểm nước vậy. Không hiểu mặt nước hồ ấy

phẳng lặng đến độ nào, mà lúc Trác Mộc Cường Ba bước trên những lá sen nhân tạo, lại có

cảm giác hoa mắt chóng mặt, chỉ sợ bước hụt một bước là sẽ sẩy chân rơi xuống cõi phàm trần.

Sói Hai và Sói Út dường như không có thứ ảo giác ấy, vẫn có thể nhảy nhót đùa nghịch trên

những lá sen, chạy một mạch sang phía cuối đường.

Rốt cuộc Trác Mộc Cường Ba cũng bước đến thềm phía trước của ngôi miếu, để rồi lại thêm

một lần nữa bị cảnh tượng trước mắt làm cho chấn động hoàn toàn. Ngôi miếu này, không ngờ

lại được cấu thành từ muôn vạn tượng Phật, tượng ác quỷ... Có thể hình dung thế này, cổ nhân

đã dùng những bức tượng hết sức sinh động với muôn vàn tư thái khác nhau làm gạch làm ngói

để xây dựng nên ngôi miếu; hoặc giả, người xưa đã đẽo gọt cả ngọn núi thành một hình lập

phương khổng lồ, rồi từ hình lập phương ấy lại đục ra hình dạng đại thể của ngôi miếu, cuối

cùng, mới chạm trổ, điêu khắc mái hiên, hành lang, xà, cột, tường, cửa, bậu cửa, cửa sổ, bậc

cấp, lan can... của ngôi miếu ấy thành vô số tượng thần Phật và ác quỷ. Nhìn xa xa cứ ngỡ mặt

tường bằng phẳng, lại gần mới thấy chỗ lồi chỗ lõm, bởi những bức tường ấy toàn bộ đều do

những bức tượng nhỏ bằng lòng bàn tay chen vai thích cánh xếp chồng lên nhau tạo thành. Số

lượng tượng trong cả ngôi miếu này, e rằng phải lên đến con số triệu, quả là một công trình vĩ

đại!

Trác Mộc Cường Ba lặng lẽ vuốt nhè nhẹ lên những bức tượng nhỏ. Tượng thần, tượng ác

quỷ, tượng Phật, tượng chim bay thú chạy, côn trùng sâu kiến, lại có cả cây cối hoa lá, dường

như hết thảy mọi sinh mạng có tồn tại hay không tồn tại trên cõi thế gian đều được điêu khắc

cả trong ngôi miếu rồi vậy. Những bức tượng nhỏ này chính là cơ sở để tạo nên những kiến

trúc lớn hơn. Mấy trăm nghìn tượng nhỏ đứng chen chúc chồng lên nhau, tổ hợp lại thành một

tượng Phật khổng lồ; mấy trăm nghìn tượng nhỏ khác, ghép lại thành ký hiệu văn tự khổng lồ

nổi trên mặt tường; những rừng tháp kia, cũng do mấy trăm mấy trăm nghìn bức tượng nhỏ

chồng lên nhau mà thành; đến cả nền đá xanh dưới chân gã, cũng được điêu tạc thành hình

tượng biển dục, có ức vạn tượng người nhỏ giơ tay gào thét giữa biển dục, vùng vẫy muốn

thoát ra khỏi đó. Nếu ngồi xuống xem kỹ, liền thấy rõ nét mặt khác nhau của mỗi bức tượng:

hoặc phẫn nộ, hoặc tuyệt vọng, hoặc bi thương, hoặc cuồng loạn... Hai chân Trác Mộc Cường

Ba giẫm lên biển dục vọng, mỗi lần nhấc chân lên đặt chân xuống, đều có mấy chục người nhỏ

giơ cao cánh tay, đau đớn kêu gào. Ngước mắt nhìn lên trên, gã liền trông thấy đỉnh vòm, có vô

số tiên nữ đang trút bi thương trụy lạc xuống nhân gian, những ống tay áo của họ vung lên tựa

như muốn bám lấy những áng mây hờ hững trôi trên không trung, nhưng chỉ uổng công vô ích.

Còn trên bốn vách tường, lại là những tượng Phật đầu đội vòng hào quang, biểu hiện trên mặt

giống nhau một cách dị thường, trong những ánh mắt ấy, chừng như chứa đựng lòng từ, lẫn cả

nét nghiêm nghị lạnh lùng, như thể cảm thấy bi thương cho nhân loại, song cũng tức giận thay

cho sự đớn hèn không tranh đấu của họ. Nhìn lướt qua một lượt, Trác Mộc Cường Ba chợt có

cảm giác nặng nề đè nén, "Những ánh mắt ấy, dường như đều toát lên một niềm u uất khó tả

thành lời!"

Giẫm đạp lên đám người đau đớn vật vã giữa biển dục, đi xuyên qua những vị thần minh cúi

nhìn chúng sinh, Trác Mộc Cường Ba tiến vào bên trong bức tường. Gã lập tức có một cảm

giác hoàn toàn khác biệt!

Tĩnh! Thích nghĩa ảo diệu nhất của Thiền trong Phật đạo.

Ngôi miếu vuông vắn cấu tạo từ những bức tượng nhỏ bằng bàn tay này, không ngờ lại yên

tĩnh đến thế, không có một âm thanh nhỏ nào. Trác Mộc Cường Ba nín thở, chăm chú lắng

nghe, nhưng vẫn không phát hiện ra bất cứ âm thanh nào; tiếng động duy nhất ở nơi đây chính

là do bọn họ mang đến: tiếng chân của gã, của lũ sói, tiếng thở của gã, tiếng thở của sói...

Không chỉ là yên tĩnh, Trác Mộc Cường Ba có cảm giác như mình đã đến một thế giới khác,

một thế giới bị niêm phong trong khối thủy tinh trong suốt. Dường như, một khối lập phương

hình thành từ khí ôxy bao bọc trọn lấy tòa kiến trúc, chính hơi thở của gã đã làm rối loạn sự

lưu động của không khí nơi đây, bằng không, tất thảy mọi thứ chắc hẳn đều vẫn ở trong trạng

thái tĩnh tại.

Mặt nước phẳng lặng, như một tấm gương lưu ly sáng bóng; không khí đứng yên, dưỡng khí

nồng đậm đến độ chừng như đã hóa thành thực thể, Trác Mộc Cường Ba có thể cảm nhận một

cách rõ ràng những luồng khí chảy vào lồng ngực, tuôn vào phổi, rồi hóa thành muôn ngàn sợi

tơ tản đi khắp tứ chi bách cốt. Một chiếc lá rụng xuống, nhưng không xoay vòng vòng trên

không trung như bị gió thổi rơi, mà chỉ nhẹ nhàng rơi thẳng xuống. Nếu chăm chú nhìn xuống

nước, sẽ thấy một chiếc lá dưới đáy nước chầm chậm nổi lên.

Sau khi phát hiện mọi thứ ở nơi này dường như đều im lìm bất động, Trác Mộc Cường Ba

đưa mắt nhìn lại những bức tượng đủ tư thái kỳ dị trên bốn vách tường và dưới sàn, trong lòng

lập tức cảm thấy dường như có một dòng điện chạy đi khắp cơ thể. Những bức tượng vốn đã cố

định hình thái, lẽ ra phải tĩnh tại thì lại dường như đang chuyển động! Những chúng sinh trong

biển dục, phảng phất như đang thực sự sục sôi vùng vẫy, quay cuồng giẫm đạp lên nhau giữa

biển máu, hết đợt này đến đợt khác ùa lên, dường như muốn đeo bám leo lên gót chân gã; thần

Phật trên bốn bức vách thì chầm chậm tiến lên dọc theo hành lang như nước chảy mây trôi, ánh

mắt hờ hững như thể mọi thứ đều chẳng hề liên quan đến mình, có vẻ như họ đang hành hương

về cõi thánh, hoặc muốn rời xa cõi phàm tục đầy rẫy những tranh chấp này; tiên nữ trên trời

mặc dầu không mệt mỏi cố gắng bay lên, song vẫn chầm chậm rơi xuống biển dục bên dưới

với một tốc độ khiến người ta phát rầu vì sốt ruột.

Cảm giác ấy thật khó tả, tựa như gã là một tồn tại đã thoát ra ngoài tam giới, đang ở trên cao

nhìn xuống quan sát muôn nghìn chúng sinh, thần Phật đều quy về một tay, vũ trụ nằm trong

lồng ngực. Chỉ có điều, cảm giác ấy khiến Trác Mộc Cường Ba cực kỳ khó chịu, gã biết, cổ

nhân phải nắm bắt và vận dụng các hiện tượng âm thanh, ánh sáng, không khí, thị giác đến

trình độ cực cao mới có thể tạo ra thứ ảo giác khiến người ta thấy mình đã siêu việt hết thảy

thần Phật, trong tay nắm giữ cả vũ trụ như thế. Cả đời Trác Mộc Cường Ba, chưa bao giờ gặp

qua kiến trúc nào giống ngôi miếu này. Đồng thời, thứ cảm giác siêu thoát ngoại vật này,

không hề khiến cho gã phiêu bồng lâng lâng, mà chỉ thấy một nỗi sợ hãi khôn cùng. Trong mắt

Trác Mộc Cường Ba, đây là một ngôi miếu ma quỷ, ẩn giấu vô số điều kỳ dị bên trong lớp vỏ

ngoài hùng vĩ ngút trời. Gã không sao chịu đựng nổi nữa, thậm chí không xem hết cả quảng

trường đầu tiên và chính điện, đã gọi hai anh em sói xám vội vã rời đi.

Khi Trác Mộc Cường Ba đang loanh quanh trong các thành bang bị bỏ hoang phế của

Shangri-la, thì bọn Merkin cũng đã đến được mép tầng bình đài thứ ba. Không như Trác Mộc

Cường Ba có Sói Hai và Sói Út dẫn đường đi xuống thông đạo ngầm dưới lòng đất, bọn y phải

men theo mép bình đài mà lần mò tiến lên phía trước.

Ngày hôm đó, cả bọn vẫn xếp đội hình hành quân giữa một vùng băng tuyết mênh mông,

đột nhiên phát hiện ra phía trước có mây mù mờ mịt. Lúc đầu, trong khoảng năm chục mét vẫn

còn thấy thấp thoáng bóng người, nhưng càng đi tiếp, tầm nhìn xa rút xuống chỉ còn chưa đầy

mười mét; tiếp tục tiến lên, hơi mù lại càng lúc càng dày đặc, chỉ thấy một vùng trắng xóa, như

thể cả bọn đang len vào giữa một đống sợi bông khổng lồ, thậm chí giơ thẳng cánh tay ra là đã

không thấy mười ngón đâu.

Merkin vừa hạ lệnh cho cả đám chuyển sang chế độ quan sát hồng ngoại, chợt nghe bọn lính

đánh thuê hét lên ầm ĩ, dường như đã phát hiện ra điều gì đó. Y và Soares cũng lần lượt lấy mũ

đội lên, chuyển đổi chế độ quan sát.

"Đó là gì vậy, ông chủ, chúng ta đến núi lửa rồi ạ?" Max đi bên cạnh kêu toáng lên.

Nhìn qua mắt kính hồng ngoại gắn trên mũ, Merkin thấy rất rõ ràng, cách bọn họ chưa đầy

hai trăm mét, dường như có mấy chục con quái thú đang phun ra những luồng khí nóng đỏ

hừng hực như lưỡi lửa.

"Hay quá, chúng ta đến rồi, cuối cùng cũng đến nơi rồi." Merkin mừng rỡ reo ầm lên, cũng

chẳng buồn để ý đến hình tượng uy nghiêm của mình nữa. Đám lính đánh thuê nghe được tin

tức ấy, cũng lập tức hoan hô vang dội. Có mấy tên nóng nảy đã bất chấp tất thảy lao lên phía

trước, liền bị Merkin gọi giật lại.

"Ở đây à?" Soares hỏi: "Phía trước là gì thế?"

Merkin đáp: "Trong nửa quyển sau của Cổ Cách kim thư có chép rằng, muốn đến được Bạc

Ba La thần miếu, trước tiên phải đến Bức Tường Than Thở đã. Theo những ghi chép đó, bức

tường ấy dày mấy nghìn thước, bên trong có lỗ, nuốt mây nhả mù, như là có người đang than

vắn thở dài, vậy nên mới có tên là Bức Tường Than Thở. Bức tường này không chỉ ngăn cách

Bạc Ba La thần miếu với thế giới bên ngoài, mà còn khiến cả tầng bình đài thứ ba này bao bọc

trong sương mù nữa."

"Nuốt mây nhả mù? Ý anh là, sương mù khắp tầng bình đài thứ ba này, đều bắt nguồn từ

đây sao?" Soares lấy làm khó hiểu.

Merkin bèn gỡ chiếc mũ trên đầu xuống, dẫn Soares lùi lại chừng trăm mét, chỉ tay ra phía

trước nói: "Anh nhìn mây mù kia, thấy có gì khác biệt không?"

Soares dõi mắt nhìn ra phía trước, quả nhiên, tuy bọn y đang ở giữa một vùng sương mù

trắng xóa mênh mang, nhưng sương mù ở phía trước lại như khói trắng tỏa ra từ những nhà

xưởng lớn, ngùn ngụt không ngớt, cuồn cuộn điệp trùng như đã hóa thành thực thể. Sương khói

phun trào ra như lũ xả qua đập, bốc lên cao mấy trăm mét, rồi tỏa lan đi khắp cả tầng bình đài,

tràn về phía bọn y. Thật không ngờ, sương mù che phủ khắp cả một vùng không gian rộng lớn

này, lại do con người tạo ra!

Soares phóng tầm mắt ra xa hơn, chỉ thấy biển mây mù trào dâng liên miên bất tuyệt, phỏng

chừng Bức Tường Than Thở đã chặn ngang cả tầng bình đài thứ ba, tạo ra hiệu quả thần kỳ

như thế. Trước khi tới đây, Soares vẫn luôn nghĩ rằng, sương khói mây mù là những hiện

tượng thần kỳ chỉ thiên nhiên vĩ đại mới sở hữu, thật chẳng ngờ hôm nay lại có thể thấy được

sương mù nhân tạo! Đây không phải chỉ là những cột khói nhỏ bé bốc lên từ các nhà máy, mà

là sương mù dày đặc che phủ diện tích khổng lồ lên đến mấy trăm cây số vuông!

"Làm... làm sao có thể...?" Nếu ở Đảo Huyền Không tự, Soares còn có thể nhận định đó là

kỳ quan nhân tạo, nhưng còn màn sương khói mù mịt khắp đất trời này thì y thực sự không

hiểu nổi, bằng cách nào mà cổ nhân có thể tạo ra hiệu quả kinh người đến thế, huống hồ lại kéo

dài đến cả nghìn năm vẫn không dứt.

Merkin nghiêm nghị nói: "Trước đây, tôi cũng nghĩ mãi mà vẫn chưa tìm ra lời giải đáp.

Sau này, nghe Ba Tang nói bọn hắn đã đến một nơi giống như rừng rậm nhiệt đới, tôi mới có

một chút liên tưởng, thêm vào địa mạo núi lửa nguyên thủy ở nơi này, có thể nói, suy nghĩ của

tôi đã được chứng thực."

"Đừng vòng vo tam quốc nữa, mau nói suy nghĩ của anh ra đi." Soares đã hơi sốt ruột.

Merkin thong dong giải thích: "Bạc Ba La thần miếu và các thành bang nằm rải rác xung

quanh nó được xây dựng trên một ngọn núi lửa đang hoạt động, có lẽ là một ngọn núi lửa cổ đã

có từ trăm triệu năm trước, thuở trái đất mới hình thành. Nghìn năm trước, nó vẫn phun trào

dung nham một cách không định kỳ. Những người Qua Ba kia chọn nơi này để xây dựng thần

miếu, chính là để lợi dụng năng lượng thiên nhiên của núi lửa, sử dụng hơi nóng của nham

thạch nóng chảy trong lòng đất. Bức Tường Than Thở kia, ngăn cách Bạc Ba La thần miếu với

thế giới bên ngoài, hình thành nên một không gian độc lập, cũng giống như chúng ta xây nhà

rồi lắp máy điều hòa nhiệt độ trong phòng vậy thôi. Nhiệt độ bên ngoài có thể xuống đến mấy

chục độ âm, nhưng trong nhà lại vẫn ấm áp, giữ ở mức 300C. Chỉ có điều, gian phòng này rất

lớn, diện tích phải tính bằng đơn vị hàng trăm cây số vuông. Đây chính là kỳ tích do người Qua

Ba sáng tạo nên! Họ đã lợi dụng hoàn cảnh địa lý độc đáo cùng với nguồn năng lượng kỳ lạ,

tạo lập nên một kỳ tích mà đám người đang sống trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển

như chúng ta đây cũng không dám tưởng tượng đến! Họ đã dùng sức người, để thay đổi môi

trường tự nhiên của cả một khu vực rộng mấy trăm cây số vuông đấy!"

Merkin vung tay chỉ ra, giọng nói vang vang mạnh mẽ: "Những cái lỗ trên Bức Tường Than

Thở kia, có lẽ chính là lỗ thoát khí của những cỗ máy cỡ lớn đang hoạt động dưới lòng đất sâu

mấy nghìn mét, chúng phun ra những luồng khí nhiệt độ cực cao, sau khi va chạm với không

khí nhiệt độ cực thấp bên ngoài, liền tạo nên một màn sương mù dày đặc. Người Qua Ba không

bao giờ bỏ qua bất cứ tài nguyên nào có thể lợi dụng. Bức tường này nhất định đã được thiết kế

sẵn từ trước rồi. Sương mù phun ra vừa khéo bao bọc toàn bộ Bạc Ba La thần miếu và các

thành bang vệ tinh của nó."

"Nhưng mà, nó đã hoạt động suốt một nghìn năm rồi?" Soares vẫn không thể tin nổi, tạo ra

một cái máy điều hòa không khí có thể thay đổi nhiệt độ của cả khu vực rộng mấy trăm cây số

vuông, trí tuệ của cổ nhân từ một nghìn năm trước là vậy ư?

"Anh có biết tại sao không thể chế tạo được động cơ vĩnh cửu không?" Merkin đột nhiên

hỏi, rồi lại tự mình giải đáp: "Bởi vì năng lượng luôn tiêu hao, vả lại không thể sinh ra từ cõi

hư vô được. Cùng với sự phát triển không ngừng của máy móc tự động hóa, những phần phụ

tùng tiêu hao hư tổn đều có thể dùng máy móc tự động thay thế, vậy thì, động cơ vĩnh cửu chỉ

còn cần một nguồn năng lượng vĩnh cửu nữa mà thôi. Mà trên thực tế, thiên nhiên đã cung cấp

cho chúng ta vô số nguồn năng lượng gần như vĩnh cửu rồi: ánh sáng mặt trời, thủy triều, nước,

gió, chỉ cần lợi dụng một cách thích đáng những nguồn năng lượng ấy, việc tạo ra một động cơ

vĩnh cửu cũng là điều khả thi thôi. Người bộ tộc Qua Ba chính là đã lợi dụng năng lượng của

núi lửa. Một nghìn năm nay, núi lửa không tắt, cỗ máy đó cũng hoạt động không ngừng, cho

dù không có người thao tác, nó cũng sẽ tiếp tục hoạt động cho đến khi tất cả phụ tùng linh kiện

đều hao mòn hư tổn đến mức không thể sử dụng nữa mới thôi. Đó chính là trí tuệ của cổ nhân

từ nghìn năm trước, thật may mắn là trí tuệ ấy đã bị chiến tranh vùi lấp, bằng không, tôi thật

không dám tưởng tượng trình độ phát triển của phương Đông ngày nay sẽ như thế nào nữa!"

"Nếu bức tường ấy phun ra các luồng khí nhiệt độ cực cao như thế, chúng ta làm sao vượt

qua được?" Sau khi nghe Merkin cảm khái một hồi, Soares lại nghĩ đến một vấn đề khác.

"Yên tâm, sẽ có lúc nó tạm dừng lại. Căng rồi lại chùng, chùng rồi lại căng, đây chính là tư

duy triết học truyền thống của Trung Quốc cổ đại, cũng chỉ có thế, những cỗ máy kia mới có

thể hoạt động cả nghìn năm mà không hư hỏng." Merkin tự tin đáp.

Merkin nói không sai, một lúc sau, luồng khí nóng ngùn ngụt dần dần lắng xuống. Đội ngũ

lính đánh thuê của bọn y liền nhanh chóng tiến lên, sử dụng các công cụ hiện đại leo lên Bức

Tường Than Thở. Bức tường thành dày đến cả trăm mét đó, có thể coi như một quảng trường

lớn, đứng bên trên đưa mắt nhìn trong ngoài thành, thật đúng là hai thế giới hoàn toàn khác

biệt. Bên ngoài sương trắng mênh mang, còn bên trong lại là thảm cỏ xanh ngắt trải dài đến tận

chân trời tít tắp. Nhìn sắc xanh ngút cả tầm mắt ấy, Merkin mỉm cười thốt lên: "Chúng ta... rốt

cuộc cũng đến nơi rồi!"

Trên tường thành lập tức vang dội tiếng hoan hô, đám lính đánh thuê cũng tạm thời quên đi

những bực bội tích tụ trong lòng. Dù là ai chăng nữa, sau mấy tháng đi giữa trời băng đất tuyết,

đột nhiên trông thấy một ốc đảo xanh tươi ấm áp, tâm trạng cũng đều vui vẻ thoải mái vô cùng.

Cả bọn lần lượt cởi bỏ mũ bảo hiểm trên đầu, há miệng hít hà bầu không khí thanh tân, cảm

giác như thể chỉ cần đi thêm mấy bước nữa là có thể trông thấy Bạc Ba La thần miếu rồi, thế

nhưng, tất cả đều không hay biết, con đường phía trước vẫn còn xa xăm và gian khổ. Ở nơi đó,

cái chết đang chờ đợi bọn chúng.

VƯƠNG QUỐC CỦA SÓI

Khi bọn Merkin đặt chân lên bức tường thành, trông thấy cảnh tượng xanh tươi mơn mởn

bừng bừng sức sống thì Trác Mộc Cường Ba đang chầm chậm thả bước tản bộ ở một tòa thành

khác. Những ngày này, gã đã thấy đủ các loại kiến trúc khác nhau, cơ hồ mỗi loại đều khiến gã

phải kinh ngạc và thán phục mãi không thôi. Mỗi lần đều có những rung động mới, cuối cùng,

sau khi trải qua rất nhiều rất nhiều rung động, gã bắt đầu thấy tê liệt trước những kiến trúc kỳ

lạ ấy. Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, mỗi một tòa thành hiện lên trước mắt mình đây, đều là độc

nhất vô nhị, mỗi một công trình kiến trúc đều nằm ngoài tầm tưởng tượng của gã. Trong rừng

rậm, có vô số loài sinh vật cổ quái, có khi Sói Hai và Sói Út sẽ chạy đi săn bắt làm thức ăn,

cũng có lúc bọn chúng lại dẫn gã đi đường vòng để tránh né, thế nhưng... cả tầng bình đài này,

trong mọi tòa thành mà bọn gã đi qua, đều không có bóng dáng con người! Một người cũng

không! Mọi dấu tích chứng tỏ sự tồn tại của con người đều đã bị thời gian bào mòn, dần dà

biến mất!

Từng tòa thành tinh chuẩn, đẹp đẽ tuyệt luân, những kiến trúc hình học hoàn mỹ, tựa hồ từ

trên trời rơi xuống, giống như... giống như những thành bang Maya kia vậy, lặng lẽ nằm giữa

rừng sâu, không biết đã trải qua mấy nghìn mấy vạn năm, chỉ đợi hậu nhân ở thế giới văn minh

đến mà phát hiện, mà kinh hãi thán phục trước khả năng của tiền nhân.

Đi từ tòa thành này đến tòa thành khác, ngắm những công trình kiến trúc đẹp đẽ tuyệt trần

nằm giữa cây rừng, bị dây leo quấn quanh chằng chịt, nhìn những loài động vật nhỏ không biết

tên kết thành đàn làm tổ, chạy nhảy nô đùa khắp chốn trong thành, rõ ràng là có làn gió ấm thổi

qua, song Trác Mộc Cường Ba lại cảm thấy lạnh lẽo thê lương khó tả. Trác Mộc Cường Ba

bước theo dấu chân Sói Hai và Sói Út, quan sát vẻ phồn hoa ấy với thân phận của một người xa

lạ, sâu thẳm trong lòng gã chợt dấy lên cảm giác cô độc thấu vào tâm can phế phủ. Gã đã tự hỏi

mình không chỉ một lần, tại sao, tại sao lại không có người? Những người Qua Ba ấy, đã đi đâu

rồi?

Dần dần, Trác Mộc Cường Ba phát hiện ra nhiều đầu mối hơn. Sói Hai và Sói Út không dẫn

gã đi theo đường thẳng, mà vạch một đường vòng cung trong rừng rậm, cũng có nghĩa là, bọn

họ vẫn luôn ở khu vục ngoại vi của vùng đất thần bí này. Nếu nói Shangri-la là một đồ thị phồn

hoa, vậy thì những tòa thành gã đã đi qua, hẳn chính là các thành phố vệ tinh của nó. Người

xưa đã đào kênh dẫn nước đọng trên núi tuyết xuống, tụ lại thành một đầm nước ngọt, sau đó

xây dựng các khu dân cư xung quanh đầm nước này, kế đó lại dùng khu dân cư làm cơ sở, chất

lên từng tầng từng tầng một, cuối cùng hình thành nên những thành thị lập thể kết cấu phức

tạp, tạo hình mỗi nơi mỗi khác. Mỗi tòa thành lại có một phong cách khác nhau, người Qua Ba

xưa phỏng chừng đang tiến hành một thí nghiệm, bọn họ... hình như dự định xây dựng một tòa

thành tự động hóa cao độ, song lại có thể hòa nhập vào tự nhiên một cách hoàn mỹ nhất.

Những tòa thành vệ tinh này chính là các vật mẫu của họ, vì vậy mới xuất hiện nhiều mô thức

kiến trúc mang màu sắc tôn giáo, cơ khí hóa, tự nhiên hóa như thế.

Sau khi Sói Hai và Sói Út dẫn Trác Mộc Cường Ba tham quan xong tòa thành vệ tinh cuối

cùng, bọn chúng lại theo đường cũ trở về. Trác Mộc Cường Ba để ý hành động của hai con sói,

thấy chúng dừng lại rất ít, cơ hồ đang tránh né thứ gì đố. Gã níu Sói Út lại, chỉ tay vào điểm

trung tâm đối ứng của đường vòng cung họ vừa đi qua, hỏi: “Nơi đó, có phải là nơi chúng ta sẽ

đến không?”

Sói Út dường như bị gã dọa cho giật thót mình, nghển đầu lắc lắc, cảnh giác đảo mắt một

vòng khắp bốn phía chung quanh rồi đột nhiên rón rén buớc đi, bộ dạng lén lút như chuột. Nó

dẫn Trác Mộc Cường Ba đến dưới một gốc cây lớn, lật hòn đá ở gốc cây lên, lập tức có mùi

nồng nặc xộc vào lỗ mũi. Trác Mộc Cuờng Ba ngây người, dĩ nhiên, gã biết đó là ký hiệu đánh

dấu của lũ sói, phía trước dấu hiệu ấy là lãnh địa của một đàn sói khác. Chỉ là, mùi nồng như

vậy, không hiểu rốt cuộc gia tộc sói này có bao nhiêu con?

Trác Mộc Cường Ba đã hiểu, chỉ cần bước qua đường đánh dấu vô hình này, bọn họ sẽ tiến

vào lãnh địa của một đàn sói khác. Những ngày này, Sói Hai và Sói Út đã dẫn gã đi xuyên qua

vùng đệm nằm giữa lãnh địa của các đàn sói khác nhau. Bọn họ chỉ là một nhóm lẻ cô độc, hai

con sói không biết có được những đàn sói kia chấp nhận hay không, mà bài học của vô số lần

thất bại trong quá khứ đã để lại trong chúng những dấu vết không thể xóa nhòa, chúng đã bị

xua đuổi, bị lùa đến vùng đất cực hàn giá lạnh. Trác Mộc Cường Ba đồng thời cũng hiểu, gã

chính là sói đầu đàn của chúng, nếu gã bước qua đường ranh giới này, Sói Hai và Sói út sẽ

bước qua. Chỉ là, Sói Hai và Sói Út dường như không thể được đàn sói chấp nhận và tiếp nạp,

bản thân gã liệu có thể làm được không? Gã đang do dự chưa đưa ra đưọc quyết định, thì Sói

Hai từ phía sau tiến lên, phát ra mấy tiếng ngắn cảnh báo, có vẻ như họ đã bị thứ gì đó phát

hiện rồi.

Trác Mộc Cường Ba vừa đứng thẳng người dậy, trong rừng liền vang lên tiếng sột soạt, một

đàn chín con sói lừng lững xuất hiện ở phía bên kia đường ranh giới. Sói út ư ử họng, cúp cái

đuôi xuống chỉ còn một nửa bước lên giao thiệp nhưng đối phương dường như chẳng buồn tiếp

nhận lời chào hỏi của nó, phát ra tín hiệu chuẩn bị tấn công. Thấy không hiệu quả, Sói út liền

lập tức chạy trở về, nấp sau lưng Trác Mộc Cường Ba, chỉ lộ ra nửa cái đầu, gác một chân

trước lên chân Trác Mộc Cường Ba, tựa như đang nói: “Đây là lão đại của tôi, có gì thì cứ tìm

anh ấy.”

Trác Mộc Cường Ba nắm chặt vũ khí trong tay, gã hoàn toàn không có lòng tin một lúc đối

đầu với chín con sói, chỉ là trong chốn rừng rậm này, có chạy cũng không thoát khỏi lũ sói,

phải làm sao đây? Gã bỗng nhớ ra món lợi khí duy nhất có thể đẩy lùi kẻ địch trong tay mình,

cây sáo xương! Trác Mộc Cường Ba lập tức lấy ra, đặt lên môi, thổi khe khẽ...

Nào ngờ, lần này bọn sói lại không rút đi, mà chỉ châu đầu ghé tai vào nhau, ánh mắt thấp

thoáng vẻ nghi hoặc. Trác Mộc Cường Ba bắt đầu hơi cuống, lại thổi thêm một đợt nữa, đến

lúc cảm thấy có người kéo kéo chiếc “váy da” của mình, gã mới ngoảnh đầu lại. Chỉ thấy Sói

Hai đang chằm chằm nhìn gã, khẽ lắc đầu, tựa như muốn nhắc gã đừng thổi nữa.

Thủ lĩnh của đám chín con sói ấy đứng ra, khẽ rít lên một tiếng với bọn Trác Mộc Cường

Ba. Câu này thì Trác Mộc Cường Ba hiểu được, đó là một lời mời, hoặc cũng có thể coi là

mệnh lệnh: “Đi theo chúng ta.”

Trác Mộc Cường Ba còn đang do dự thì Sói Hai và Sói Út đã lộ vẻ xốn xang náo nức không

thôi, không ngừng thúc giục gã tiến bước. Trác Mộc Cường Ba khẽ xoa đầu Sói Út, cảm nhận

được khát vọng và quyết tâm về nhà của chúng, bấy giờ mới cất bước đi theo đàn sói kia.

Dọc đường, Sói Hai không ngừng lặp đi lặp lại một từ với con sói thủ lĩnh, theo lý giải của

Trác Mộc Cường Ba, chắc từ ấy có hàm ý “thủ lĩnh” hoặc “lãnh đạo”, ngữ điệu toát lên vẻ kính

sợ, chỉ khi một con sói có địa vị thấp đối thoại với một con sói địa vị cao hơn mới phát ra

những âm thanh như thế. Nhưng trông thần sắc của chúng, kẻ được nhắc đến trong cuộc đàm

luận rõ ràng không phải con sói đứng đầu đàn chín con này, còn nữa, rốt cuộc bọn chúng định

dẫn gã đi đâu đây?

Vốn tưởng chỉ là một hành trình ngắn, không ngờ lại đi mất tận hai ngày trời, bọn Trác Mộc

Cường Ba đã tiến sâu vào khu vực trung tâm rừng rậm, mọi thứ xung quanh đều gần như hoàn

mỹ, trên đầu lá cây xanh mướt, trùng trùng điệp điệp; bên cạnh dây leo chằng chịt uốn lượn

quanh co, cỏ cao ngang người; dưới chân, rễ cây cổ thụ ngoằn ngoèo đan thành lưới. Lũ côn

trùng có cánh bay vo ve lượn lờ xuyên qua những khe hẹp giữa hoa lá cỏ cây, thi thoảng giữa

tán lá cây rậm rạp có bóng dáng những con thú nhỏ nhanh nhẹn chạy vù qua; lũ kiến kết thành

từng đàn, bận rộn chạy đi chạy lại trên những đám rêu và lá cây dày như đụn tuyết.

Hương hoa dìu dịu quẩn quanh, đâu đó ở những chỗ không thấy được trong rừng róc rách

tiếng suối reo. Gió ấm thổi qua, cánh rừng gợn lên những đợt sóng lá rào rạt, trập trùng dâng

lên hụp xuống, làm rớt ra những giọt sương trong nắng ban mai. Ánh mặt trời chiếu xạ qua

nhiều tầng, tạo thành những đốm bông rực rỡ sắc màu, hạt sương đọng trên lá tỏa ra quầng

sáng bảy màu như pha lê lấp lánh.

Trác Mộc Cường Ba giẫm lên những cành cây mềm xốp, phát hiện ra mọi thứ xung quanh

mình đều thật hài hòa. Động vật, thực vật ở nơi này tạo thành một thế giới độc lập, sinh sôi

không ngừng, luân phiên trao đổi một cách hoàn mỹ. Gã thậm chí còn có cảm giác mình có thể

vươn tay ra chạm vào những nốt nhạc vui vẻ đang nhảy nhót trên không trung. So với những

kiến trúc nguy nga tựa như của đấng siêu nhiên tạo dựng kia, nơi này còn khiến người ta sinh

lòng kính phục hơn bội phần, cảm xúc tuôn trào mãnh liệt sau vẻ ngoài tĩnh lặng. Tự nhiên,

bản thân tự nhiên đã là một kỳ tích vĩ đại rồi.

Chính ở trong khu rừng kỳ tích này, một kỳ tích khác lặng lẽ hiện lên trước mắt Trác Mộc

Cường Ba.

Tuy nói là cùng trong một khu rừng, nhưng khung cảnh nơi này hoàn toàn khác với xung

quanh. Giữa rừng cây rậm rạp san sát che ngút cả bầu trời bỗng nhiên xuất hiện một khoảng

đất rộng lớn, cỏ xanh mơn mởn như một tấm thảm, những cây cao chọc trời quây xung quanh,

mặt hồ phẳng lặng như gương phản chiếu trời xanh mây trắng, vô số kiến trúc nhân tạo hùng vĩ

chẳng khác nào thần điện chốn Thiên cung nằm rải rác trên thảm cỏ mênh mông ấy. Giữa các

tòa thần điện, rất nhiều cái bóng nối gót nhau thành hàng, qua lại vun vút, không hề ngừng

nghỉ, từ xa nhìn lại rất giống những con kiến thợ không bao giờ ngơi việc trong vương quốc

của loài kiến, lại cũng giống cảnh tượng hàng nghìn hàng vạn nô lệ đang vắt sức xây dựng một

công trình kiến trúc khổng lồ ở một thời đại nào đó trong lịch sử. Lúc đến gần, Trác Mộc

Cường Ba mới kinh ngạc nhận ra, những cái bóng ấy hóa ra là sói, còn cả chó ngao nữa, bọn

chúng ở lẫn với nhau, song lại hết sức hài hòa trật tự, chẳng khác nào các loại xe khác nhau

đang đi dọc trên đường phố giữa một đô thị phồn hoa.

Cả đời Trác Mộc Cường Ba chưa bao giờ trông thấy nhiều sói và chó ngao ở chung một chỗ

thế này, tuy gã đã quen nhìn cảnh đẹp khắp nơi, thậm chí có thể hờ hững với những kiến trúc

tựa như thần tích kia, song gã không thể nào không chấn động trước vô số con sói thình lình

xuất hiện ngay trước mắt mình như thế. Giáo sư Phương Tân nói không sai, nơi này có một

vương quốc của loài sói, lũ sói ở đây đã tiến vào hình thái xã hội phát triển mức độ cao rồi,

chúng có sự phân công lao động và địa vị xã hội nghiêm ngặt. Kết cấu xã hội này đã vượt trên

cả thời kỳ xã hội thị tộc của loài người, phỏng chừng, đã đạt đến trình độ của xã hội nô lệ, hoặc

thậm chí là một hình thái xã hội ở mức độ cao hơn.

Bọn chúng có đội tuần biên, bảo vệ an toàn lãnh địa; đằng xa, có một con mồi khổng lồ

đang được kéo về, chúng có đội săn riêng; trên trảng cỏ rộng lớn ở phía Nam, từng đàn từng

đàn cừu xếp thành hàng lối chỉnh tề bước đi, lũ sói này có cả khu chăn nuôi, chẳng trách trên

núi Tư Tất Kiệt Mạc, đàn sói do ba anh em sói xám tổ chức lại cũng có thể chăn cừu, chuyện

này đối với chúng xem ra thật dễ như cơm bữa.

Lời của giáo sư Phương Tân phảng phất như vang vọng bên tai gã, khi đàn sói di trú đạt đến

số lượng nhất định, đột phá được điểm thắt cổ chai, thu thập đủ thực phẩm, bọn chúng sẽ có

thể sản sinh ra một kết cấu xã hội riêng của mình, hoàn toàn có thể so sánh với xã hội loài

người. Từ hình thái xã hội ấy, sẽ xuất hiện sự phân công lao động hợp lý, tồn tại và phát triển

theo một mô thức giống như thị tộc hoặc quốc gia. Bọn chúng... sẽ lựa chọn vị vương của

mình! Một vị vương chân chính!

Nhưng con sói đội trưởng của đội tuần biên kia thì không để Trác Mộc Cưởng Ba có thời

gian đứng đó mà cảm khái bồi hồi, nó thúc giục gã đi nhanh về phía trước. Sói Hai và Sói Út

cũng thu lại tính cách ngang ngạnh thường ngày, ngoan ngoãn đi theo sau nó, còn khẽ đẩy Trác

Mộc Cưửng Ba, chừng như nhắc gã chớ nên làm trái ý con sói kia.

Bấy giờ Trác Mộc Cường Ba mới hiểu ra thân phận thực sự của mình, bọn họ không phải vị

khách được mời đến vương quốc của loài sói này, mà bị coi như tù binh, hoặc một loại nghi

phạm, bị đưa đến một nơi nào đó để thẩm vấn, chỉ vậy mà thôi. Trác Mộc Cường Ba thầm cười

khổ, nhưng vẫn đi theo con sói đội trưởng, có thể trông thấy một quần thể kiến trúc khí thế

ngút sơn hà thế này, lại được tận mắt mục kích vương quốc do mấy vạn, thậm chí mấy chục

vạn con sói và chó ngao tụ tập lại mà thành, cho dù ngày sau đây có phải chết đi, gã cũng

chẳng còn gì hối hận.

Thoạt trông, những kiến trúc tuởng như ở rất gần, nhưng bọn gã đi mãi mà chưa thấy đến,

điều này chỉ có thể chứng tỏ một vấn đề... những kiến trúc đó quá lớn! Khi bọn Trác Mộc

Cuờng Ba thực sự tiến vào giữa quần thể kiến trúc ấy, gã bất giác sinh lòng nghi hoặc, nơi này

có phải một tòa thành hay không? Nhìn từ đằng xa, rõ ràng trông thấy toàn những tòa kiến trúc

khổng lồ, nhưng đến gần mới phát hiện, những kiến trúc ấy đều được phủ lên một lớp áo bằng

cây 1á. Rễ cây tựa như quần áo bao bọc lấy cả quần thể kiến trúc bằng gạch đá, hoặc không thì

bên trong đại sảnh hoặc gian chính của kiến trúc mọc đầy thực vật hoa cỏ, chim rừng làm tổ,

sóc chuột xây hang... nhìn tổng thể, những kiến trúc gạch đá và cả thiên nhiên xung quanh đã

hoàn toàn dung nhập thành một thể thống nhất rồi.

Trác Mộc Cường Ba thầm thắc mắc, những khối đá đã được mài nhẵn này, những công trình

thích hợp cho loài người cư trú này, không phải do lũ sói ở đây xây dựng đấy chứ? Chắc hẳn

bọn chúng vẫn còn những vị chủ nhân thật sự, chỉ có điều, những vị chủ nhân ấy rốt cuộc đã đi

đâu rồi? Tại sao nơi này lại trở thành thủ đô của vương quốc loài sói và thiên đường của các

loài động vật hoang dã như thế?

Con sói đội trưởng đội tuần biên đưa bọn Trác Mộc Cường Ba đến gần một kiến trúc trông

tựa như một thư viện nhỏ thì dừng lại. Nó quay sang đối thoại với một con sói trẻ, sau đó, con

sói kia chạy biến đi, chẳng bao lâu lại dẫn về một con sói già, hên cạnh còn có bốn năm con sói

trung niên, trông bộ dạng có vẻ rất uy nghiêm.

Con sói già nghiêm nghị hỏi han sói đội trưởng đội tuần biên, dường như đang chất vấn nó

tại sao lại dẫn những kẻ không liên can này về vương quốc. Con sói đội trưởng trả lời với thái

độ hết sức cung kính, lại không ngừng liếc mắt về phía Trác Mộc Cường Ba, Sói Út đứng bên

cạnh gã liền khẽ cất tiếng đáp: "A U Chang, A U Chang."

Con sói già ngoẹo đầu nhìn Sói Út, gọi nó đến bên cạnh hỏi thăm, Sói Út liền xổ ra một

tràng, rủ rỉ thuật lại A U Chang thế này, A U Chang thế kia, rồi cả những chuyện bọn chúng

từng trải qua, thế này thế này... thế kia thế kia...

Nghe Sói Út thuật lại mọi chuyện xong xuôi, con sói già dường như đắm chìm vào suy nghĩ,

một con sói trung niên bên cạnh nói cái gì đó với Sói Út, nó liền chạy về bên Trác Mộc Cường

Ba, nghe ý tứ, hình như muốn thứ gì đó của gã. Trác Mộc Cường Ba vỗ vỗ nửa thân trên lõa lồ

cùa mình, xòe tay ra hỏi Sói Út muốn gì. Sói Út chẩu miệng lên thử phát âm, sau đó rít: "U...

u... u..." Đó không phải là tiếng của loài sói, Trác Mộc Cường Ba cũng nghe ra được Sói Út

đang mô phỏng âm thanh gì, gã vội lấy cây sáo bằng xương ra, Sót Út bèn gật đầu lia lịa.

Lúc này, con sói già kia bước đến, nói một câu gì đấy với Trác Mộc Cường Ba. Gã nghe

hiểu loáng thoáng, biết đối phương muốn bảo mình thổi thử một tiếng xem sao, bèn đưa cây

sáo lên miệng thổi ra âm thanh kia. Tiếng sáo lảnh lót vang khắp bầu không của vương quốc

loài sói. Lũ sói đang tiến bước ở đằng xa không ngờ đều dừng hết cả lại, ngơ ngác ngước nhìn

về phía này. Con sói đội trưởng đội tuần biên hướng về phía ấy gầm gừ một tiếng, như thể nói:

“Nhìn cái gì mà nhìn! Đi làm việc đi!” Bấy giờ, lũ sói địa vị tương đối thấp ấy mới lại tiếp tục

chầm chậm di chuyển.

Con sói già nói với sói đội trưởng đội tuần biên mấy câu, vẻ như lời khen ngợi, con sói đội

trưởng lấy làm sung sướng, quay đầu chạy về với đội ngũ của nó. Sói già lại thương lượng một

hồi với mấy con sói trung niên bên cạnh, cơ hồ quvết định việc gì đó quan trọng lắm, một con

sói trung niên tất tả chạy đi rồi tất tả chạy lại, chừng như đã nhận được câu trả lời của cấp trên.

Sau đấy, sói già quay sang nói với Trác Mộc Cường Ba, khẩu khí như đang ra lệnh. Trình độ lý

gỉải tiếng sói của Trác Mộc Cường Ba rất có hạn, chỉ biết ngơ ngác đớ người ra. Sói Út liền giơ

chân trước lên kéo kéo cái boomerang to tướng đeo trên lưng gã, luôn miệng thúc giục: “Bỏ đi,

bỏ đi.” Trác Mộc Cường Ba bấy giờ mới hiểu, thì ra sói già bảo gã giải trừ vũ trang. Xem

chừng, sắp sửa đi gặp nhân vật quan trọng rồi, à không, phải là đi gặp con sói quan trọng mới

đúng.

Càng đi về phía trước, lũ sói tụ tập càng đông, tất cả đều nhìn “con sói” đặc biệt đi bằng hai

chân là gã với ánh mắt tò mò soi mói. Trác Mộc Cường Ba cảm giác như mình đang đi vào

vườn bách thú, có điều, con vật ở trong chuồng chính là gã. Xung quanh toàn những ánh mắt

hưng phấn, hiếu kỳ, chỉ thiếu mỗi nước chúng đem thức ăn và cành cây ra trêu chọc gã nữa

thôi.

Đi tiếp chặng nữa, lũ sói dần thưa thớt, những tiếng sói rì rầm bên cạnh dần biến mất, bầu

không khí uy nghiêm trang trọng mỗi lúc một tăng, xung quanh toàn những con sói đực trưởng

thành, thể hình tráng kiện dị thường đi tuần. Sói Hai và Sói Út thậm chí không dám thở mạnh,

bước đi cũng phải nhón chân. Trác Mộc Cường Ba biết bọn gã đang tiến vào trung tâm của

vương quốc sói, chỉ không biết kẻ nào muốn gặp gã, là bậc trí giả của vương quốc sói này,

hay... vị lang vương thần bí kia?

Kiến trúc trông hơi giống kim tự tháp Maya dần dần hiện ra trước mắt. Tòa kim tự tháp ấy

cao ngất, so với các kiến trúc xung quanh còn hùng vĩ hơn mấy phần, chiếm trọn vùng cao nhất

trong khu rừng. Giữa quần thể kiến trúc tựa như trăm sao rải rác này, nó là một vầng trăng

sáng, nguy nga sừng sững, nối liền hai cõi đất trời.

Ở mỗi bình đài trên thân kim tự tháp đều có một con sói hoặc chó ngao, hoặc đứng hoặc

nằm, ánh mắt chăm chú nhìn kẻ mới đến bên dưới. Dẫu là người lần đầu tiên đặt chân đến nơi

này, Trác Mộc Cường Ba cũng hiểu, đây chính là trung tâm quyết sách của vương quốc sói.

Những con sói, con ngao đứng trên đó đều có địa vị cực cao trong vương quốc. Còn trên đỉnh

kim tự tháp... từ chỗ Trác Mộc Cường Ba đang đứng, không thể nhìn thấy bình đài ở nơi cao

nhất đó.

Giữa kim tự tháp có một cầu thang thông thẳng lên đỉnh, con sói già bước lên bậc thang, còn

bọn Trác Mộc Cường Ba đều lưu lại bên dưới. Một lúc sau, con sói già lại chạy xuống, vị trí

của nó ở phần giữa kim tự tháp. Sau đó, không khí xung quanh như trầm xuống, yên tĩnh đến lạ

thường. Phía cuối cầu thang xuất hiện hai cái bóng sói hoặc chó ngao, hướng về phía dưới gầm

lớn, âm thanh vang vọng khắp tứ phương.

Sói Hai và Sói Út cúi đầu, rạp mình bò lên cầu thang, Trác Mộc Cường Ba đi giữa hai con

sói, hứng lấy những ánh mắt sáng rực như ngọn đuốc ở xung quanh chiếu tới. Bầu không khí

trở nên nghiêm túc lạ thường, gã có thể cảm nhận đc một áp lực vô hình đang đè nặng lên

mình.

Còn cách đỉnh kim tự tháp chừng mười mấy bậc cầu thang, Sói Hai và Sói Út đều dừng lại,

nằm rạp xuống bất động, thậm chí không dám ngước mắt nhìn lên. Trác Mộc Cường Ba vẫn

đứng thẳng người, với chiều cao của gã, vừa khéo có thể trông thấy trên đỉnh kim tự tháp có

một bình đài nho nhỏ. Bình đài ấy giống như vương tọa, bên trên có một thân hình to lớn đang

nằm, bộ dạng biếng nhác ung dung.

Nó lim dim mắt, hơi hé miệng, thè lưỡi ra ngoài phơi nắng, từ chót đuôi đến đỉnh đầu phác

lên một đường nét hoàn mỹ tuyệt đối trong mắt các nhà điêu khác, phần eo hông khẽ rung đều

đặn nhịp thở, cơ hồ đó chính là trái tim của cả vương quốc sói này. Nhờ nhịp tim ấy mà cả

vương quốc tràn trề sinh lực.

Thật ra là, thứ đầu tiên đập vào mắt Trác Mộc Cường Ba khiến gã phải nín thở, tim cũng

tạm thời ngừng đập, chính là “vị” ở trên vương tọa kia. Lớp lông đen tuyền ấy, dưới ánh dương

lấp lóa ánh lên sắc tím nhàn nhạt. Cặp mắt ấy, cái miệng ấy, bốn chân ấy, thân thể ấy, không gì

là Trác Mộc Cường Ba không quen thuộc, tất cả đều đã xuất hiện trong những giấc mộng của

gã hàng trăm nghìn lần. Bóng dáng oai hùng uy phong lẫm liệt lao đi trên thảo nguyên ấy, từng

được gã hình dung ra vô số lần trong tâm trí, giờ đây đột nhiên lại sừng sững hiện ra trước mắt,

nó thực sự tồn tại. Bởi vậy, Trác Mộc Cường Ba mới ngây ngẩn cả người, như si như dại, thậm

chí quên hết mọi thứ xung quanh, trong mắt gã, chỉ còn có nó, chỉ còn... Tử kỳ lân trong truyền

thuyết!

LANG VƯƠNG TỬ KỲ LÂN

Trác Mộc Cường Ba quả thực đã quên đi hết thảy, quên bẵng thân phận của mình, quên cả

đây là nơi nào, chỉ nghe bốn phía vang lên những tiếng gầm giận dữ, Sói Hai và Sói Út không

dám ngẩng đầu lên, chỉ thận trọng lấy chân chạm khẽ vào mu bàn chân Trác Mộc Cường Ba.

Hết thảy mọi thứ xung quanh đều đang nhắc nhở gã: “Đó là Vương! Đó là đại vương chí cao

vô thượng! Thân phận ngươi là gì chứ? Còn không mau quỳ xuống, không mau thần phục đi.”

Vị ở trên vương tọa kia, mở to cặp mắt đang lim dim, ánh mắt sắc như đao kiếm xuyên suốt cả

thời không. Đó là gì chứ? Đó chính là vương đạo, là bá khí! Khi bốn chân nó duỗi thẳng, đứng

lên, tất thảy mọi sinh vật trên kim tự tháp đều cúi rạp mình xuống. Trác Mộc Cường Ba không

thể nào ngờ, mình lại giáp mặt với Tử kỳ lân trong tình huống như vậy, với thân phận như vậy.

Sau một thoáng ngạc nhiên ngây ngẩn tuy ngắn ngủi nhưng lại cũng dài tựa vĩnh cửu thiên

thu, Trác Mộc Cường Ba giật mình tỉnh ngộ. Gã sực nhớ ra thân phận của mình, gã xuất hiện ở

nơi này với thân phận một con sói, địa vị một con sói. Với bộ dạng quái dị như gã, ở trong đàn,

chỉ sợ địa vị còn không bằng được Sói Hai và Sói Út. Mà đối mặt với gã lúc này, lại là vị

vương của cả vương quốc sói, vị vương duy nhất! Nhìn những ánh mắt xung quanh, nếu gã còn

không bày tỏ gì đó, e rằng sẽ lập tức bị xé nát thành một đống thịt vụn. Gã đành chấp nhận

thân phận và địa vị của mình, chầm chậm cúi rạp xuống, tứ chi chạm đất, nhưng gã lại có dũng

khí ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào Tử kỳ lân với ánh mắt thâm tình đắm đuối.

Trác Mộc Cường Ba không khỏi chua chát thầm nghĩ, sao toàn bộ sự việc lại hoàn toàn trái

ngược với suy nghĩ ban đầu của mình thế này? Mới đây không lâu, gã còn nghĩ mình có thể

dẫn theo Tử kỳ lân chậm rãi thả bước giữa đô thị phồn hoa của loài người, tựa như dắt theo

một chú chó săn, hoặc đứng trên sân khấu ánh đèn chói lòa, giới thiệu loài vật tôn quý nhất này

với cả thế giới. Nhưng khi sự thực xuất hiện trước mắt, gã mới kinh ngạc nhận ra, đó là vương,

là vua của một nước, là đấng chí tôn ngự ở tít trên cao, còn bản thân, chẳng qua chỉ là một con

sói nhỏ địa vị thấp đến mức không thể nào thấp hơn được nữa, điểm khác biệt duy nhất chính

là gã có thể đứng lên đi lại bằng hai chân. Bản thân gã, chỉ có thể dùng ánh mắt kính ngưỡng

khôn cùng nhìn nó từ đằng xa, muốn tiếp cận cũng không thể được. Sự tương phản giữa ảo

tưởng và sự thật sao mà lớn đến thế! Gã dường như đã lý giải được nụ cười pha nét giễu cợt ấy

của cha mình. Gã vốn không hiểu gì về sói, không hiểu gì về thế giới của sói, xưa nay gã vẫn

luôn đứng ở góc độ loài người để nhận thức và quan sát loài sói, không hề thực sự hiểu rõ sói

muốn gì, tồn tại vì điều gì; giống như gã cũng không hiểu bản thân mình muốn gì, con người

tồn tại vì điều gì vậy.

Trên vương tọa, vị vương chí cao vô thượng này không hề hiểu được tâm trạng Trác Mộc

Cường Ba hiện giờ, nhưng dường như nó tỏ ra thân thiết khác thường với sinh vật có thể đi lại

trên hai chân này. Nó duỗi mình nhẹ nhàng nhảy xuống vương tọa, đến bên mép cầu thang, cúi

nhìn Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba vội vàng đón lấy ánh mắt nó, thậm chí gã còn

nghĩ không hiểu bộ dạng này của mình có hơi hốt hoảng e dè như lão nông chưa bao giờ vào

đô thành đột nhiên gặp được quốc vương hay không nữa! Bốn phía xung quanh vang lên những

tiếng xôn xao, đám đại thần vương quốc sói đều cực kỳ kinh ngạc, vương của chúng làm sao

vậy? Sao lại đích thân nhảy xuống khỏi vương tọa chỉ vì con sói quái dị đi bằng hai chân này

chứ? Lại còn đích thân đến bên mép cầu thang, chăm chú nhìn nó nữa. Niềm vinh hạnh tột bậc

này, sao lại có thể dành cho một tên dị tộc dị loại như vậy được?

Một người một chó ngao, hai giống loài khác biệt, nghiêng đầu nhìn nhau, tiến hành một

cuộc giao lưu không lời bằng ánh mắt.

Tử kỳ lân hít sâu một hơi, lỗ mũi thu nhỏ lại, chầm chậm hít ngửi, nghiền ngẫm, phân tích

thông tin đến từ sinh vật hai chân dưới bậc thang, ánh mắt thâm trầm lộ ra vẻ nghi hoặc phức

tạp: “Ngươi từ đâu tới? Loài dị tộc kia!”

“Từ thế giới bên ngoài rất xa nơi này, một quốc gia của nhân loại." Ánh mắt Trác Mộc

Cường Ba dần bình tĩnh lại, đôi mắt trong veo phản chiếu trời xanh mây trắng. "Mục đích của

ngươi là gì?" Ánh mắt của vị vương giả thân thiết hiền hòa, tựa như đã tìm lại được cảm giác

một thuở xa xăm. “Đến để hoàn thành một ước định nghìn năm, đến để chiêm ngưỡng ngươi.

Vì tìm kiếm ngươi, ta đã bỏ lại tất thảy.” Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba hết sức thành khẩn, gã

chờ đợi câu trả lời của đối phương trong tâm trạng thấp thỏm bất an. Vương nhắm mắt lại, rồi

lập tức mở bừng ra, chừng như đã phân tích xong xuôi, ánh mắt thoáng lộ vẻ thất vọng: “Ngươi

đi đi, ngươi không phải người ta đang chờ đợi, trở về đi, từ đâu đến, thì trở về nơi đó.”

“Không...” một tia bất an nhanh chóng lan rộng trong mắt Trác Mộc Cường Ba, gã vừa nôn

nóng vừa lo lắng, vội dùng động tác biểu lộ: “Xin hãy để ta ở lại, ta muốn tìm hiểu đất nước

này thêm nữa.”

Ánh mắt của vị vương bỗng trở nên sắc lạnh dữ dằn, Tử kỳ lân đổi sang vẻ trang nghiêm,

truyền đạt thông tin: “Ta ban cho ngươi, thân phận hợp pháp ở nơi này! ... Ngươi ... lùi xuống

đi!” Sau đó, Tử kỳ lân không tiếp tục trao đổi ánh mắt với Trác Mộc Cường Ba nữa, nó xoay

mình lại, lạnh lùng ra lệnh, lập tức một con sói lớn tiếng gầm vang mệnh lệnh ấy. Trác Mộc

Cường Ba không hiểu chúng nói gì, chỉ thấy nét mặt Sói Hai và Sói Út đều lộ vẻ mừng vui,

khóe mắt thoáng ánh lệ lấp lánh, rõ ràng là vương giả Tử kỳ lân đã cho chúng ở lại.

Lúc này, một con sói đột ngột lao vút tới, chạy thẳng một mạch lên bình đài cao nhất, trao

đổi gì đó với Tử kỳ lân. Tử kỳ lân gầm gừ mấy tiếng đáp lại, Trác Mộc Cường Ba chỉ nghe

được hình như có chữ “vây bắt”. Con sói ấy bèn nhận lệnh chạy đi, bên dưới kim tự tháp liền

có một đàn sói lớn, tựa như bộ đội tập kết ra trận, không biết là định đi đâu nữa.

Nhìn sắc xanh trải dài ngút mắt, Max không để lỡ thời cơ, lên tiếng hỏi: “Ông Kahn này, các

chủng loại sinh vật ở đây, hẳn phải phong phú lắm đúng không?” Soares gật đầu công nhận:

“Đúng vậy, môi trường này thích hợp cho các sinh vật nhỏ sinh sôi nảy nở, động vật lớn thì

không được, có lẽ đây là thiên hạ của lũ sói rồi.” Khafu nói: “Tiếp tục men theo mép bình đài

tiến lên, chắc không lâu nữa là có thể trông thấy Bạc Ba La thần miếu được rồi.”

“Không,” Merkin nói. “Vượt qua bức tường thành này, chúng ta phải thuận theo tường

thành tiến sâu vào trong, đi men theo chân núi tuyết, vậy mới mong tìm được Bạc Ba La thần

miếu.” Y trầm ngâm hồi tưởng lại nội dung chép trong nửa bộ Cổ Cách kim thư: “Vượt qua

Bức Tường Than Thở, men theo chân núi tuyết, đi qua mười lăm ánh sáng và bóng tối... những

thành thị dọc đường, đều chết cả rồi...” Thành thị, sao lại chết nhỉ? Merkin lắc đầu khó hiểu.

Đội ngũ dài dằng dặc của bọn chúng biến thành một chuỗi chấm đen nhỏ xíu bên dưới

tường thành khổng lồ, chầm chậm dịch chuyển giữa trời đất theo một tuyến đường ngoằn

ngoèo uốn lượn. Khi lớp sương mỏng trên đầu dần tan đi, lộ ra trời xanh mây trắng trong veo,

cả bọn đều không kìm nén được mà reo hò ầm ĩ! Bọn chúng rổt cuộc không phải chịu đựng

màn sương mù mờ mịt ấy nữa rồi. Chiều hôm đó, không hiểu Soares đã dùng cách gì, chỉ thấy

y lấy ra một đống chai lọ, chẳng bao lâu sau đã dụ được một đàn rất đông những sinh vật trông

khá giống chuột lang chạy đến, vậy là cả bọn khỏi phải ăn thứ thực phẩm vũ trụ khô khan

không mùi không vị kia nữa. Hôm sau, bọn chúng lại tiếp tục lên đường, tớì chiều tối, Merkin

và đồng bọn đã trông thấy di tích tòa thành đầu tiên nằm rải rác ở vùng tịnh thổ của đất trời

này. Bảo nó là một tòa thành, thực ra, nói là một vòi phun nước khổng lồ xem chừng còn hợp

lý hơn. Tòa thành trông hơi giống Thiên đàn ở Bắc Kinh(2), do nhiều chiếc “đĩa tròn" khổng lồ

chất lên nhau, trên những đĩa tròn ở các tầng khác nhau là các kiến trúc khác nhau. Sau khi

khảo sát, Soares và Metkin đưa ra kết luận, chỗ tiếp xúc giữa các "đĩa tròn" này đều có khe hở

và kết cấu đường ray. Theo suy đoán cửa bọn y, trước khi tòa thành này bị bỏ hoang, những

"đĩa tròn hẳn có thể độc lập xoay chuyển, giống như một bông hoa hướng dương chuyển động

theo mặt trời vậy. Còn mục đích làm vậy là gì, cảnh tượng khi các "đĩa tròn" chuyển động sẽ

như thế nào, thì mấy kẻ hậu nhân sống ở thời điểm mấy trăm mấy nghìn năm sau như bọn y

làm sao tưởng tượng được.

Bữa tối không được phong phú lắm, lần này, Soares chẳng dụ được con chuột nào đến cả,

chắc hôm qua bọn y đã xơi sạch chúng rồi. Hôm nay, chỉ có mấy con vật trông như con thỏ có

túi. Sau bữa cơm, đám lính đánh thuê lần lượt chui vào nhà dân tìm kháng đá(3), đã lâu lắm rồi bọn chúng không được ngủ trên thứ gì giông giống cái giường. Những chiếc kháng đá mát

lạnh, lại thiết kế gợn sóng theo độ cong của sống lưng người, nằm bên trên hết sức dễ chịu.

Nhưng đêm ấy, lưng chúng lại không được ngủ yên. Đội tuần đêm do Merkin cẩn thận bố trí đã

phát hiện ra có điều dị thường, dưới ánh trăng mông lung mờ ảo, vô số quái thú với những xúc

tu dài đang nhung nhúc chuyển động, lao vun vút qua các con phố trên những tầng "đĩa tròn"

với tốc độ kinh người. Bản năng sợ hãi quái thú khiến bọn lính đánh thuê tuần đệm lập tức phát

tín hiệu cảnh báo, đồng thời nổ súng bắn. Suốt đêm hôm ấy, cả tòa thành đạn bay lửa cháy,

thân thể và chất dịch của thứ quái thú chân đốt kia bung bét khắp chốn, nhưng số lượng bọn

chúng vẫn không hề giảm sút. Mãi đến khi Soares quan sát rồi đưa ra kết luận, miệng của loài

động vật chân đốt này không có bộ phận để xé và nhai thịt, chúng chỉ có thể ăn vật thể dạng

lỏng, chắc là muốn đến chỗ kênh dẫn nước trong thành uống nước, chẳng thể gây hại gì cho

người, tiếng súng mới từ từ lắng xuống.

Merkin hỏi Soares lai lịch của đám động vật chân đốt này, nhưng Soares cũng không biết,

phán đoán là một loại sinh vật tiền sử nào đó, hoặc một nhánh rẽ trên con đường tiến hóa, là

giống loài đặc hữu chỉ vùng đất này mới có.

Bọn động vật chân đốt ấy thực sự trông rất ghê rợn, đầu to tướng như quả bóng rổ, đặc biệt

là dịch thể dang keo màu xanh lục bắn tóe ra từ cơ thể chúng sau khi trúng đạn lại càng tởm

lợm, bốc lên một thứ mùi khiến nguởi ta chỉ muốn nôn ọe, rất nhiều lính đánh thuê phải gập

người nôn thốc nôn tháo. Nhưng chúng vẫn chưa biết, đó mới chỉ là khởi đầu của cơn ác mộng.

Hai ngày sau, trong đám lính đánh thuê đã có năm tên sốt cao, không chữa trị được mà chết.

Soares suy đoán, chắc là khi giết lũ động vật chân đốt, những tên này đã bị dịch thể bắn vào

đường hô hấp gây nhiễm trùng.

Ngày thứ tư từ khi bước chân vào khu rừng. Buổi sáng, cả đoàn bị một đám sinh vật bay

không rõ lai lịch tập kích, bảy người chết, mười ba người bị thương. Merkin hạ lệnh toàn bộ

đám lính đánh thuê phải nghiêm chỉnh mặc áo giáp, đội mũ bảo hiểm, không được để bất cứ bộ

phận nào lộ ra ngoài. Buổi chiều, gặp phải thằn lằn khổng lồ Shangri-la, ba người chết, ba

người trọng thương, con thằn lằn bỏ trốn mất. Bấy giờ, bọn lính đánh thuê mới nhận ra, nơi này

không phải thiên đường, mà là một thế giới đầy rẫy quái thú, mỗi bước đều nguy hiểm khôn

cùng.

Merkin thắc mắc với Soares, hỏi tại sao không gọi sói đến, Soares cười khổ đáp: “Ngày nào

tôi chẳng gọi, nhưng không hề có phản ứng, chắc tại hang sói cách nơi này vẫn còn xa quá.”

Ngoài miệng đáp vậy, song trong lòng y cũng dấy lên nghi hoặc, nếu nói môi trường ở đây

thích hợp cho lũ sói sinh sống như vậy, tại sao ở vùng đất lạnh giá bên ngoài kia vẫn có sói? Lẽ

nào, vì sinh sôi quá nhiều, không đủ không gian sinh tồn nên chúng bị buộc phải rời khỏi đây?

Nhưng dọc đường đến đây, rõ ràng là vẫn còn rất nhiều không gian trống mà!

Buổi tối hôm đó, bọn lính đánh thuê bị thương nhất loạt mất tích! Bọn chúng biến mất ngay

trong trại của mình, mà trong khu lều trại không hề có dấu vết bị phá hoại, chỉ phát hiện thất

mặt đất xốp hơi bị đùn lên. Soares đành suy đoán rằng, những tên đó đã bị một loại động vật

gặm nhấm giỏi đào hang tấn công. Chỉ có điều, không hề phát hiện ra dấu vết cắn xé ở hiện

trường, mà bọn lính đánh thuê kia cũng không hề phát ra âm thanh gì, tất cả như bị phủ lên một

tấm màn kỳ bí. Soares nói: "Có lẽ mùi máu trên người đám bị thương kia đã dụ loài sinh vật đó

đến."

Từ đó trở đi, ngay cả lúc ngủ, đám lính đánh thuê cũng đội mũ trùm kín đầu.

Thế nhưng, chỉ yên được một ngày. Sáng hôm thứ sáu, một số tên bắt đầu sốt, kế đó xuất

hiện triệu chứng bệnh dại, có tên ra sức uống nước, có tên thì cắm đầu cắm cố đào đất, cơ hồ

muốn vùi mình xuống đất lạnh cho dễ chịu.

Rồi lại có người đến báo cáo, dường như trên thân thể một tên lính đánh thuê mọc ra thứ gì

đó. Soares và Merkin đến xem, chỉ thấy tên lính đánh thuê đã bị gỡ mũ bảo hộ, đang hết sức

nóng nảy bồn chồn, phải mấy người cùng hợp sức mới giữ chặt được hắn, dưới lớp da mặt của

hắn tựa như có con giun đang vặn vẹo bò qua bò lại, bên mang tai cũng có. Merkin giật mình

kinh hãi, đưa mắt nhìn Soares hỏi: "Cái gì thế?"

Soares thản nhiên nói: "Không biết, phải rạch ra xem xem, có điều ký sinh trùng rất hiếm

khi có thể trực tiếp nhìn thấy dưới da thế này, vả lại hai ngày nay không phải tất cả đều mặc

kín mít hay sao? Sao lại có ký sinh trùng được?"

Khi da mặt tên lính đánh thuê bị rạch ra, cả bọn mới phát hiện thứ vặn vẹo bên trong là một

đám trông như thực vật thân củ xâu chuỗi lại với nhau, hai bên có những sợi trắng li ti cắm sâu

xuống dưới da, lúc kéo ra, độ dài phải gấp đôi phần có thể nhìn thấy được. Sau khi bị rứt ra,

thứ ấy nhanh chóng ngừng nhúc nhích, những sợi gân trắng bị nhiệt độ trên lòng bàn tay tên

lính đánh thuê làm cho khô héo, thoáng cái đã vàng quắt. Soares đón lấy, khẽ vặn. Thứ đó

không mềm nhũn như tưởng tượng của mọi người, chỉ hơi vặn nhẹ đã gãy làm đôi. Soares cẩn

thận quan sát một lúc, rồi đưa cho Merkin, nói bằng giọng ngờ vực: “Hình như là... một loại

thực vật ký sinh."

Merkin nhận lấy xem thử, quả nhiên là khá giống, thân củ và những đường gân li ti màu

trắng rất giống với bộ rễ của thực vật. Y lấy làm khó hiểu: “Sao lại bị ký sinh vậy nhỉ?"

Soares lắc đầu đáp: "Đối với thực vật, hiểu biết của tôi không nhiều lắm, chỉ biết có rất

nhiều loại thực vật có quả được các loài chim ăn vào, rồi mang hạt giống của chúng đi xa; một

số thực vật thậm chí còn trực tiếp chiếm cứ luôn cơ thể động vật, biến máu thịt của động vật

thành nguồn dinh dưỡng để phát triển, trong quá trình xâm chiếm ấy, chúng sẽ "huấn luyện"

vật chủ. Những động vật bị ký sinh sẽ trở nên thất thường, rốt cuộc biến thành công cụ vận

chuyển cho thực vật ký sinh, sau khi tìm được hoàn cảnh phù hợp thực vật ký sinh sinh trưởng

và phát triển, vật chủ sẽ chết ở đó, thi thể làm phân bón cho đất, hoặc trực tiếp bị hút sạch dinh

dưỡng. Giá như trong chúng ta có một tên thực ngữ giả thì tốt quá rồi."

Đi được hai ba bước, y lại như sực nhớ ra điều gì đó: “Tôi nhớ ra rồi, hôm đầu tiên tiến vào

khu rừng này, gặp phải lũ côn trùng không rõ lai lịch tập kích, tán cây trên đầu rơi xuống rất

nhiều bột như phấn hoa, chắc là bị ký sinh từ lúc đó rồi!"

Merkin nói: "Dứt ra rồi, chắc không để lại di chứng gì chứ?"

Soares chỉ biết lắc lắc đầu. Vậy là mười ba tên lính đánh thuê xuất hiện triệu chứng rõ rệt

liền bị rạch da mặt lấy thứ sinh vật ký sinh kỳ quái ấy ra. Lạ một điều là, thứ ấy dường như ký

sinh bên dưới lớp da mặt vật chủ. Soares suy đoán, chắc rằng loại thực vật ký sinh ấy trục tiếp

bám vào khoang mũi nạn nhân, sau đó theo xương lá mía (xương khoang mũi) chui vào não,

như vậy mới có thể khống chế vật chủ trong thời gian ngắn nhất. Còn tại sao chúng lại hiện

hình dưới lớp da như thế, Soares cũng không giải thích được.

Tối hôm đó, Max có ý tốt nhắc nhở Merkin: "Ông chủ, thứ này là động vật hay thực vật,

không phải chỉ đựa vào một câu của Soares mà đã nhận định được đâu."

Merkin thờ ơ hỏi: "Ý mày là sao?"

Max vội đáp: "Từ khi phát hiện có động vật đến giờ, ngày nào ta cũng bị động vật tấn công,

Soares lợi hại như thế, sao lại bó tay được chứ? Nếu như...”

Merkin mỉm cười nói: "Về mặt này thì không cồn phải lo, Soares chỉ là một học giả thôi."

Max lẩm bẩm như đang than thở với chính mình: "Nhưng càng đến gần Bạc Ba La thần

miếu, người của chúng ta lại càng ít hơn.”

Thấy Merkin trầm mặc không lên tiếng, lòng Max lại le lói một tia hy vọng, bèn nói tiếp:

"Bọn lính trinh sát trông thấy xung quanh chúng ta có đàn sói lượn lờ rình rập.

"Thật không?" Ánh mắt Merkin hơi biến đổi. Max vội thề thốt: “Ông chủ, những chuyện

này mà tôi dám nói bừa sao?"

Đêm hôm ấy, có mấy tên linh đánh thuê bị tiếng động xì xì xạt xạt đánh thức, sau đó liền

phát hiện một cảnh tượng kinh hồn bạt vía: một tên đồng bọn của chúng đã bị thực vật phủ kín,

toàn thân từ trên xuống dưới đều là những dây leo như dải lụa đen, chúng vươn từ dưới đất lên,

quấn chặt lấy kẻ xấu số rồi kéo xuống lòng đất. Trong màn đêm, phiến lá xanh phát ra ánh sáng

xanh lét nhàn nhạt đầy yêu dị. Tên lính đánh thuê bị kéo đi ấy, không hiểu sao, lại không hề có

chút phản ứng nào. Tất cả đều đã tỉnh ngủ hẳn, khi những tên lính đánh thuê khác vạch được

đám đây leo đó ra, chúng phát hiện đồng bọn của mình đã chết từ đời nào rồi. Tình hình tương

tự cũng xảy ra với bốn tên lính đánh thuê ở ba trại khác, tất cả đều là những người bị thực vật

ký sinh phải rạch mặt ra hồi sáng!

Soares kiểm tra xong, nói: "Là mùi máu tanh dẫn dụ chúng đến." Y nhón tay nhật một sợi

dày leo lên, phát hiện ra chúng vẫn có kết cấu thực vật. Những sợi dây leo nay vặn vẹo, chui

luồn dưới đất, tốc độ di chuyến rất chậm, một phút chí nhích được chừng mười xăng ti mét,

song lại lẳng lặng không hề phát ra một tiếng động nào. Merkin ra lệnh đặt một cái xác xuống

đất, y muốn xem xem những dây leo này rốt cuộc đã lẳng lẽ kéo cả một người đi như thế nào.

Dây leo vươn ra những xúc tu nhỏ xíu, không ngừng bò lên, cuối cùng nó tìm thấy một khe

hở nhỏ ở chỗ tiếp giáp giữa mũ bảo hộ và bộ quần áo liền thân, bèn luồn qua chui vào khoang

mũi nạn nhân, trực tiếp làm tê liệt trung khu thần kinh. Đầu mút sợi dây leo có đầu nhọn dạng

lông, hiệu quả gây tê rất rõ rệt. Soares lấy đầu nhọn đó đâm vào ngón tay, hoàn toàn không

cảm thấy đau đớn gì, song lại có máu rỉ ra.

Sau đó, bọn Merkin lần theo dấu vết di dộng dưới đất, tìm thấy nơi xuất phát của những dây

leo đó. Chúng quấn trên một thân cây khổng lồ, xác mấy tên lính đánh thuê xấu số đều bị treo

ngược lên cây, dần dà sẽ thối rữa ra ở đấy, hóa thành chất dinh dưỡng để dây leo hấp thụ.

Merkin đanh mặt lại nói: "Chúng ta phải nghĩ ra mới đúng, Ba Tang từng nói đến thứ này

rồi." Max cũng sực nhớ ra, đây chính loài thực vật ban đêm siết chết người, treo tử thi lên cành

cây trong câu chuyện của Ba Tang. Nếu đã biết ngọn nguồn và phương thức hành động của

loài thực vật này rồi nghĩ cách đối phó cũng không khó. Đêm hôm ấy, không xảy ra sự kiện

nào tương tự như vậy nữa.

Ngày hôm sau, Merkin và Soares chăm chú quan sát một khối nham thạch núi lửa cao

chừng ba mét, hồi lâu vẫn lặng im không nói tiếng nào. Trên tầng bình đài này, những khốỉ

nham thạch núi lửa giống như vậy có ở khắp nơi, sở dĩ khối đá này có thể khiến hai người bọn

y trầm mặc không nói, là bởi bọn lính trinh sát phát hiện bên trên đó có khắc ký hiệu văn tự.

Soares nói: “Đây... cái này... hình như hơi giống chữ Latin thì phải?”

Merkin đáp: “Chữ Rune ở Bắc Âu, thời Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Đức từng sử

dụng nó làm minh mã(4).”

Y ngây người nhìn hàng chữ ấy, nét mặt dở khóc dở cười. Max đứng bên cạnh không bỏ lỡ

dịp xun xoe: “Ông chủ hiểu biết uyên bác quá, bên trên này viết cái gì vậy?” Merkin chua chát

nói: “Theo nghĩa bề nổi, thì có thể dịch thành: 'Ai đó đã từng đến đây du lãm'.” Lời này vừa

mới thốt ra, toàn bộ những người đứng bên cạnh Merkin đều đần thối mặt, nơi này là nơi nào

chứ, cả đám bọn họ không ai là không trải qua thập tử nhất sinh mới đặt chân đến được, thử hỏi

ai lại có tâm thái đến đây du lịch? Còn để lại những lời lẽ buồn nôn đến vậy? Vả 1ại, những

hàng chữ này còn rất mới, có thể khẳng định, trong vòng mấy năm trở lại đây đã có người đi

qua nơi này! Vậy thì Bạc Ba La thần miếu mà bọn họ hằng mong mỏi, có phải cũng đã bị

người ta ghé qua rồi hay chăng? Chẳng trách Merkin hụt hẫng đến vậy, trong ánh mắt tràn đầy

vẻ đắng cay tự giễu.

NỖI BI AI CỦA THAO THÚ SƯ

Soares nói: "Những dấu vết này còn rất mới."

“Ừm,” Merkin dường như đã thoát ra khỏi tâm trạng khó chịu, tự an ủi mình: “Đã tới đây

rồi, không tận mắt nhìn một lần, chết cũng không cam tâm được.”

Khafu đứng bên cạnh quan sát, thần tình phức tạp, thầm nhủ: "Người kia không hề nhắc

đến, lẽ nào hắn gạt ta? Hay là cả hắn cũng không biết sự việc này? Nếu Bạc Ba La thần miếu

đã bị dọn sạch, vậy thì ta trả giá lớn như vậy, rốt cuộc là vì cái gì đây?"

Max dè dặt lên tiếng: "Ông chủ, kẻ đó là ai vậy?"

Merkin ảo não lắc đầu: "Không biết, hắn không để lại tên, chỉ có một ký hiệu. Chắc là biệt

hiệu gì đó."

Y đổi giọng, nói với Soares: "Nhắc đến tên mới nhớ thứ gì đã để lại dấu vết bên cạnh đó

vậy? Sói à?" Merkin muốn nói đến vết móng vuốt bên cạnh những văn tự ấy. Vết tích ấy nằm ở

một bên của hàng chữ, trông như ký tên vào vậy. Soares lắc đầu khẳng định chắc chắn: "Không

phải, bàn chân sói không to thế được, liệu có phải là... hổ hay sư tử không nhỉ?"

Trên trán Merkin xuất hiện những nếp nhăn sâu hõm, những văn tự kia tựa như được vũ khí

sắc nhọn đục đi đục lại, còn dấu vết do móng vuốt để lại thì chỉ là một đường bén ngót, xem ra

con dã thú ấy có bàn chân vừa to vừa khỏe, móng vuốt còn sắc bén dị thuờng. Nhìn vị trí của

chữ viết có thể đoán rằng, người để lại hàng chữ này phải cao ngang với y, hoặc thậm chí còn

cao hơn một chút. Còn con quái thú kìa hẳn cũng không thấp. Trong đầu Merkin phảng phất

hiện lên một hình ảnh, mấy năm trước, một người cao lớn dẫn theo một con quái thú cũng cao

lớn chẳng kém, đi lang thang không mục đích trong cánh rừng này, đến lúc mệt nhoài, họ bèn

dừng lại nghỉ chân dưới tảng đá lớn. Người kia bảo: "Chán quá, đánh dấu một cái ở đây nhé!”

Con quái thú gật gật đầu, giơ móng vuốt lên.

Những ngày này, Trác Mộc Cường Ba ở lại trong vương quốc sói. Nơi đó là một thế giới

hoàn toàn mới lạ, tất cả đều phải nhận thức lại từ đầu. Từ khi trở về vương quốc, không rõ Sói

Hai đã được sắp xếp đi đâu. Sói Út không tìm được đàn của mình, được xếp cùng Trác Mộc

Cường Ba nhập vào một đàn sói khác. Đàn sói ấy có mười mấy con, thủ lĩnh là một con sói

xám trán có đốm trắng. Sói Út luôn đi bên Trác Mộc Cường Ba, hơi giống hướng dẫn viên du

lịch kèm phiên dịch viên, bởi dẫu sao thứ tiếng sói sường sượng nửa sống nửa chín và kiểu

khua chân múa tay kỳ lạ của A U Chang cũng chỉ có nó là nghe nhiều thấy nhiều nhất mà thôi.

Được Sói Út và một con sói đen khác do Trán Trắng sắp xếp hướng dẫn, Trác Mộc Cường

Ba đã dần hiểu được hình thái xã hội của cả vương quốc, trong đó trường huấn luyện của loài

sói đã để lại cho gã ấn tượng sâu sắc nhất. Mé Tây trường huấn luyện là một bức tường có vô

số lỗ nhỏ, hai mé Nam Bắc thì có vô vàn bức tượng, mỗi con sói tham gia huấn luyện đứng bên

dưới một bức tượng, như đang ngắm nghía bức tượng, rồi thực hiện các động tác phản ứng

khác nhau, bổ tới công kích, len lén áp sát, hay vòng ra sau đánh bọc hậu.

Trác Mộc Cường Ba quan sát thần thái và ánh mắt những con sói, cảm thấy mình hình dung

nơi này là trường huấn luyện dường như có hơi sai lầm, có lẽ gọi đây là một khu vui chơi giải

trí của lũ sói thì thích hợp hơn. Nhìn bọn sói làm đi làm lại các động tác không biết chán, lại

nhìn sang cảnh những con sói đang chen chúc muốn vào và cả những con sói làm nhiệm vụ

duy trì trật tự, rất dễ khiến người ta nghĩ đến công viên chật cứng người trong ngày nghỉ lễ.

Khi Trác Mộc Cưởng Ba quan sát kỹ những bức tượng Phật, gã lại bất giác ngây ra trong giây

lát. Các bức tượng này khá giống nhau, điểm khác biệt duy nhất chính là cánh tay. Cánh tay

của các pho tượng đang làm những động tác khác nhau, rõ ràng là lũ sói phản ứng dựa theo

những động tác ấy. Trác Mộc Cường Ba nhớ lại các động tác tay bọn gã từng đề cập đến khi

thu thập những tư liệu cuối cùng. Gã còn dựa theo cách lý giải và trí tưởng tượng của mình để

luyện tập nhiều lần, song rốt cuộc vẫn không đạt được hiệu quả như mong đợi.

Lúc này, trông thấy lũ sói luyện tập với động tác tay của tượng Phật, đem so sánh ra, Trác

Mộc Cường Ba mới phát hiện sự thực không ngờ lại khác xa những gì mình tưởng tượng, Thủ

thế của tượng Phật, có lẽ là một loại động tác được gọi là "thủ ấn". Vào thời kỳ đầu, có lẽ chỉ

riêng Tạng truyền Phật giáo mới có. Khi Trác Mộc Cường Ba mô phỏng theo các "thủ ấn" ấy,

gã lập tức bị lũ sói xung quanh bao vây, rõ ràng là đã coi gã như một pho tượng Phật rồi. Có lẽ,

trong mắt lũ sói ở đây, những tượng Phật này chẳng khác nào chiếc tàu lượn siêu tốc trong

công viên dưới mắt lũ trẻ con vậy, mới lạ, kích thích, lại vui nữa.

Trác Mộc Cường Ba bị ép làm huấn luyện viên mất nửa ngày, bản thân gã cũng đã luyện

thuần thục từng động tác thủ ấn một. Vì "pho tượng" này có thể làm nhiều động tác khác nhau,

nên bọn sói lại càng bám nhẵng lấy gã, nhất quyết không chịu buông tha.

Khó khăn lắm mới đến được chân bức tường ở mé Tây, Sói Út ra hiệu bảo Trác Mộc Cường

Ba lắng tai nghe thật kỹ, không lâu sau, gã đã nhận ra ngay. Thì ra, cứ cách một khoảng thời

gian gió lại thổi qua những lỗ nhỏ trên tường, phát ra một âm thanh nào đó, khi giống tiếng sót

tru, khi lại không giống lắm. Những con sói tập trung gần đấy, nghe theo âm thanh mà thực

hiện các động tác khác nhau. Cuối cùng Trác Mộc Cường Ba cũng đã hiểu ra, đây là một hình

thức người Qua Ba sử dụng để huấn luyện, trao đổi với sói. Có một trường huấn luyện thế này

thì dẫu bộ tộc Qua Ba có biến mất, những âm thanh và động tác tay ra lệnh cho sói hành động

vẫn còn hiệu quả, bởi chúng đã hằn sâu vào trong ký ức của bọn sói ngay từ thuở nhỏ rồi.

Trác Mộc Cường Ba lần lượt lắng nghe, dù không thể phát ra những âm thanh ấy, gã cũng

muốn hỉểu từng âm thanh có ý nghĩa như thế nào. Dần dà gã phát hiện ra, dù động tác tay hay

âm thanh, thì cùng đều là chỉ lệnh chiến đấu, ngoài ra, cây sáo xương của gã vừa khéo có thể

phát ra một loại trong những âm thanh nghe được ở đây; trên tường còn có ba bốn lỗ vuông

không phát ra tiếng gì, nhưng lũ sói vẫn liên tiếp thực hiện các động tác, hiển nhiên là âm

thanh phát ra từ những lỗ đó nằm ngoài tâm nghe được của tai người, có lẽ sáo xương cũng

phát ra được, hoặc giả người Qua Ba vẫn còn dụng cụ phát âm gi khác nữa.

Ngoài ra, Trác Mộc Cuờng Ba còn phát hiện được một đường biên giới khác của vương

quốc sói. Đó là một tảng đá lớn thoạt trông hết sức bình thường. Sói Út dẫn gã đến đây, nói

một tràng dài rất nghiêm túc, tóm lại là, bất luận thế nào, bọn chúng cũng sẽ không vượt qua

ranh giới vô hình này. Còn về Tử kỳ lân, Trác Mộc Cường Ba đã dần dần từ bỏ y định ban đầu

của mình. Với địa vị trước mắt của gã, đừng nói là gặp được Tử kỳ lân, cho dù muốn đến gần

tòa kim tự tháp kia gã cũng không đủ tư cách nữa. Ở vương quốc của loài sói này, mỗi ngày

đều có những con sói tò mò quan sát gã, chỉ là, nhũng ánh nhìn ấy không đem đến cho gã cảm

giác ưu việt giống như khi mọi ánh mắt của con người đều hướng về phía mình. Chủng tộc

khác nhau, xã hội khác nhau, cuộc sống khác nhau, chỉ mang đến một áp lực khổng lồ chẳng

thể gọi tên. Trác Mộc Cường Ba thầm nghĩ: "Cha nói đùng thật, ngay từ đầu, mình đã đứng ở

lập trường của nhân loại, xuất phát từ lợi ích của bản thân, chứ chưa từng một lần nghĩ đến

cảm nhận của Tử kỳ lân bao giờ."

Sau khi nhóm người của Merkin đi qua khối đá khắc hàng chữ vô vị kia, đêm hôm ấy đã xảy

ra sự việc đáng sợ nhất từ khi chúng đến vùng đất này. Buổi tối, toàn bộ đám lính đánh thuê

đều chuyển sang chế độ nhìn đêm, bởi ở trong rừng rậm mù mịt hơi nóng, nếu để chế độ quan

sát bằng hồng ngoại, toàn bộ những gì nhìn thấy đều sẽ biến thành màu đỏ cả. Không rõ đợt tấn

công bắt đầu từ lúc nào, hoặc giả, bọn lính đi tuần sớm đã bị triệt hạ, không kịp thông báo. Thứ

tấn công bọn họ, là một đàn sói.

Một đàn sói lớn, phủ cỏ rác và cành cây lên mình ngụy trang, đột nhiên bao vây cả doanh

trại, tấn công bọn lính đánh thuê. Cũng may, đám người này đều đã trải qua thử thách hiểm

nguy trùng trùng của mấy ngày trước, giờ đây đi ngủ cũng đội mũ bảo hộ, mới không đến nỗi

toàn quân bị tiêu diệt. Có điều, bị tập kích bất thình lình, nhất thời không thể tổ chức phản kích

một cách hiệu quả, đám lính đánh thuê chỉ biết người nào lo thân kẻ ấy, rối loạn như ong vỡ tổ.

Đàn sói cực kỳ hung mãnh, vừa bổ tới là lập tức cào cấu cắn xé. Có điều, chiếc mũ bảo hộ trên

đầu đám lính đánh thuê khiến lũ sói không tìm đâu ra nơi để đớp vào, còn áo chống đạn thì khó

lòng bị móng vuốt xé rách.

Nhưng đàn sói cũng nhanh chóng phát hiện ra điểm chí mạng của bọn lính đánh thuê. Mấy

con cùng hợp tác, để một tên ngã lăn ra đất, rồi ra sức vừa lay vừa giật chỗ gần điểm tiếp giáp

giữa mũ bảo hộ và cổ áo, chẳng mấy chốc đã giật tung được cái mũ chắc chắn đó ra. Liền sau

đó, là một tiếng kêu thảm thiết khiến người ta rợn hết tóc gáy. Gặp phải trận đột kích quá bất

ngờ, bị ít nhất mấy trăm con sói vây công, Merkin và Khafu không tổ chức đánh trả được. Điều

duy nhất bọn y có thể làm chỉ là tụ tập thủ hạ, tìm nơi an toàn để phòng ngự. Cứ thế, đội ngũ

lính đánh thuê của Merkin đã bị xé nát thành mấy nhóm, từng người tự lo tìm đường chạy thoát

thân, chẳng ai kịp để ý đến người khác nữa.

Theo lý, lẽ ra Soares phải phát huy được tác dụng rất lớn, những bình thuốc đuổi sói do y tự

chế liên tiếp ném ra, nhưng ném một hồi y mới phát hiện, lũ sói này chẳng hề hấn gì trước thứ

thuốc nước ấy, vẫn tiếp tục tấn công như thường, thậm chí còn hung hãn hơn cả lúc trước.

Merkin khó khăn lắm mới tụ tập lại được khoảng hơn nửa nhân thủ, tổ chức lập lưới hỏa lực

đan xen, bấy giờ mới tạm khống chế được cục diện. Trước màn lưới dày đặc được kết bằng

súng đạn, dẫu đàn sói có ưu thế về tốc độ cũng không thể làm gì nổi, lập tức có những tiếng rú

thảm vang lên, lũ sói bắt đầu liên tiếp trúng đạn.

Đợi khi đàn sói rút lui, lúc thu dọn chiến trường Merkin đếm được hơn ba mươi xác lính

đánh thuê, hơn ba chục xác sói, không tìm thấy bất cứ con sói bị thương nào, chắc hẳn toàn bộ

đều đã triệt thoái cả rồi. Ngoài ra, còn gần một trăm người bị đàn sói lùa cho phải rời khỏi đội

ngũ, không biết đã đi đâu, không thể liên lạc được, bên cạnh Merkin giờ chỉ còn chừng bảy tám

chục người.

Chuyện này rõ ràng đã giáng một đòn nặng nề vào tất cả bọn chúng. Nơi đây không hề

giống vùng đất khắp nơi đều là vàng bạc châu bâu mà Merkin vẫn giao giảng. Ở một nơi dễ

mất mạng thế này, ai muốn làm con tốt thí cho người khác chứ? Bọn lính đánh thuê đều thầm

nghĩ, dù phải tan xác vì thuốc nổ gắn trên người cũng còn đỡ hơn bị bọn quái vật kia làm cho

dở sống dở chết. Đúng vào thời điểm này, một tin tức kinh hoàng nhanh chóng lan truyền trong

đám lính đánh thuê: lũ sói ấy là do Soares dụ đến. Hình như y muốn lợi dụng đại quân động vật

của mình, tiêu diệt tất cả mọi người ở đây.

Xét lại những tình huống bọn lính đánh thuê gặp phải từ lúc vào rừng đến giờ, lũ động vật

ấy đúng là chỉ tấn công bọn chúng, còn bọn Soares và Merkin hoàn toàn không hề hấn gì, đặc

biệt là chuyện xảy ra đêm trước, nói thế nào thì Soares cũng không thể tránh khỏi có can hệ.

Không phải y vẫn luôn gọi lũ sói đến đấy ư? Tại sao lại không gọi được con nào? Còn bảo cái

gì mà hang sói vẫn còn xa, vậy lũ sói đêm trước ở trên trời rơi xuống chắc? Vả lại, hành vi của

Soares đêm trước đã lọt vào mắt một số tên trong đám lính đánh thuê. Bình thuốc của y ném

tới chỗ nào, chỗ đó liền bị tấn công dữ dội chưa từng thấy. Bọn sói ấy như thể bị uống thuốc

kích thích vậy, bất chấp tất cả xông lên cắn xé! Đây chính là bằng chứng rành rành không thể

chối cãi! Đám lính đánh thuê đa phần đều vào sinh ra tử cùng nhau, lăn lộn hết chiến trường

này đến chiến trường khác, chiến hữu của mình đă bị lũ sói giết hại, chúng làm sao chịu để yên

cho Soares! Còn Soares có mục đích gì, làm vậy có lợi gì cho y, bọn chúng không cần biết,

cũng chẳng bao giờ nghĩ đến. Dù có bị Merkin cho nổ tan xác, thì cũng phải bắt tên quái nhân

quanh năm suốt tháng che mặt ấy giải thích rõ ràng!

“Tại sao lại như vậy?” Soares ngồi trong lều bạt, bần thần nhìn đống bình thuốc, không tài

nào hiểu nổi. Lũ sói đó không nghe theo lời triệu hoán của y thì thôi, sao ngay cả chất thuốc

vốn dùng để xua đuổi chúng đi xa, lại khiến chúng tấn công càng điên cuồng hơn chứ? Stores

xưa nay luôn hết sức tự tin với các loại thuốc mình chế ra, thứ mùi ấy có thể kích thích cực

mạnh vào khứu giác của bọn sói. khiến chúng cảm thấy sợ hãi, bất an, trong khoảng chu vi

mấy chục mét chắc chắn là có hiệu quả, nhưng đêm hôm qua...

Soares giơ một bình lên sát mũi hít thật mạnh, sau đó dùng các loại giấy sinh hóa kỉểm

nghiệm lại, rốt cuộc cũng tìm ra đáp án... những bình thuốc ấy đã bị người ta thay nhãn! Toàn

thân Soares lạnh buốt, trước khi gặp phải lũ sói, y không hề tùy tiện sử đụng những bình thuốc

này, dẫu sao đây cũng là dạng vật chất bay hơi, mỗi lần mở ra hao hụt đi một chút. Ai đã đổi

nhãn dán trên các bình thuốc? Nhất định là một kẻ thường xuyên tiếp cận được với y, người

này vừa táo tợn lại vừa cẩn mật, có thể nhìn ra những sơ hở hết sức nhỏ, lại có hiểu biết nhất

định đối với các loại thuốc nước mà y chế ra nữa.

Cuối cùng, Soares cũng nhớ ra một người... Nhạc Dương! Chỉ Nhạc Dương mới có thời

gian và cơ hội làm như vậy, vả lại Nhạc Dương cũng hiểu biết về các loại thuốc nước này. Vì

Nhạc Dương thường xuyên hỏi han, còn y thì đã coi người thanh niên ấy như một hạt giống có

thể bồi dưỡng, chứ chưa bao giờ nghĩ rằng cậu ta có thể làm vậy. Nhưng Nhạc Dương làm vậy

có mục đích gì? Đến giờ Soares vẫn chưa rõ lắm. Không sai, đây chính là quả mìn thứ hai

Nhạc Dương chôn lại trong đội ngũ của Merkin, từ khi phát hiện ra Merkin lợi dụng thiết bị

dẫn nổ trên trang phục để khống chế đám lính đánh thuê, anh đã động tay động chân, khiến

một tên lính đánh thuê bị nổ banh xác, kích động mâu thuẫn giữa Merkin và bọn thuộc hạ; còn

Soares, hiển nhiên đây chính là người duy nhất có thể khống chế động vật trong nhóm Merkin,

nếu nơi bọn họ đến có rất nhiều động vật, vậy thì năng lực của Soares tuyệt đối không thua gì

uy lực của toàn bộ đám lính đánh thuê cộng lại. “Vĩnh viễn không thể đối đầu với Thao thú sư

trong rừng rậm nguyên sinh đầy rẫy các loài động vật hoang dã.” Lời cảnh cáo ấy, Nhạc

Dương chưa bao giờ quên, mà vùng đất trong lời kể của Ba Tang, sao có thể vắng bóng động

vật hoang dã cho được?

Nhạc Dương vẫn luôn coi Soares là mối uy hiếp đáng sợ nhất, thậm chí mức độ nguy hiểm

của con người này còn cao hơn cả đám lính đánh thuê kia nữa. Nhưng khác với bọn lính đánh

thuê, quan hệ giữa Merkin và Soares không tầm thường, Nhạc Dương không thể gợi hiềm

khích chia rẽ hai con người này được. Điều duy nhất anh có thể làm, chính là để Soares nhầm

lẫn mà thất bại, đồng thời lợi dụng ác cảm củ bọn lính đánh thuê với Soares. Vả lại, anh còn có

một trợ thủ rất đắc lực! Sự bất mãn của Max đối với Soares đã không còn chôn sau trong lòng

nữa, mà lộ ra hết sức rõ rệt. Nhạc Dương tin rằng Max sẽ không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để

khiến Soares phải khốn đốn, bởi nếu không có Soares, địa vị của hắn trước mặt ông chủ sẽ

được nâng lên một bậc. Đây chính là nguyên nhân tại sao Nhạc Dương dặn Trác Mộc Cường

nhất định phải chờ đợi.

Soares vừa đoán 1à Nhạc Dương làm việc đó, còn chưa kịp hiểu lý do tại sao, thì cửa lều đã

bị giật tung. Merkin đứng bên ngoài, nét mặt đượm vẻ do dự pha lẫn nghi hoặc. Sau lưng y là

đám lính đánh thuê ánh mắt đỏ ngầu, bộ dạng hung hăng như sắp nổi điên! Merkin cũng không

biết phải làm sao, từ khi nhìn thấy mấy chục xác lính đánh thuê đêm qua, y đã biết chuyện này

không thể nào kết thúc êm đẹp được nữa, y buộc phải đưa ra quyết định sớm hơn một bước,

cần phải lựa chọn giữa Soares và bọn lính đánh thuê. Sau khi cân nhắc lợi hại, cuối cùng

Merkin nhanh chóng đưa ra quyết định, Soares có thể đối phó với động vật, bọn lính đánh thuê

cũng có thể, bọn lính đánh thuê có thể vận chuyển báu vật trong Bạc Ba La thần miếu ra ngoài

(tuy chưa chắc đã còn báu vật gì ở đó), nhưng Soares thì không; Soares là chiến hữu của y, còn

bọn lính đánh thuê là đám người bị y dùng thuốc nổ gắn trên áo chống đạn khống chế, có điều

nếu cứ nhất quyết giữ Soares lại, rất có thể bọn chúng sẽ bất chấp bị nổ tung mà nhao lên tấn

công y và Soares. Và còn một nguyên nhân quan trọng nhất là, Merkin bắt đầu nghi ngờ Soares

rồi. Trong suy nghĩ của y, dường như Soares đã quá nôn nóng muốn loại trừ một bộ phận lính

đánh thuê cho sớm, để ở nơi đầy rẫy sinh vật hoang dã hoành hành này, Merkin y chỉ có thể

dựa dẫm vào một mình Soares mà thôi! Mà đêm trước, hành vi của Soares lại càng trắng trợn

hơn nữa, bởi vậy, tuy trực giác mách bảo Merkin rằng hành vi của Soares vẫn còn có thể bàn

thảo lại, nhưng y không có thời gian suy nghĩ quá nhiều, chuyện này cần phải giải quyết càng

sớm càng tốt, trước khi lũ lính đánh thuê kia không kiềm chế được mà nổi loạn!

“Kahn, rốt cuộc anh muốn làm gì vậy?” Merkin chau mày nhìn Soares chằm chằm. Bọn lính

đánh thuê sau lưng y đều giương súng nhằm vào tên Thao thú sư, chỉ cần y hơi có hành động

khác lạ, chúng sẽ không hề do dự mà nã đạn ngay tức thì không cần đợi Merkin ra lệnh. Nghe

thấy câu hỏi ấy của Merkin, Soares lập tức hiểu ra, tại sao Nhạc Dương lại làm như vậy. Song

lúc này đã không còn cơ hội để vãn hồi thế cục nữa rồi. Merkin không hề yêu cầu y giải thích,

mà nhận định luôn rằng hành vi ấy của y là có âm mưu, có kế hoạch từ trước, nghĩa là cái chết

của tất cả bọn lính đánh thuê trong mấy ngày nay, y đều phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.

"Nhạc Dương... quả nhiên không hổ là Nhạc Dương!" Soares chua chát thầm nghĩ, lúc này giải

thích gì cũng vô dụng rồi, mà giải thích làm sao đây? Nhạc Dương đã biến mất một thời gian

dài, những sự việc xảy ra sau khi vượt qua bức tường ấy chẳng còn can hệ gì đến cậu ta nữa.

Điều khiến Soares chua chát hơn cả chính là Merkin chọn một đám lính đánh thuê không hề

quen biết mà từ bỏ người bạn già nhiều năm cùng y kề vai tác chiến này!

Không phải vì lời mời thành khẩn của Merkin, đời nào y lại tới nơi này chứ? Không ngờ đối

phương thậm chí còn không cho y cơ hội giải thích! Ngược lại còn tìm y làm con dê thế tội.

Chuyện này nằm cả trong tính toán của anh rồi phải không? "Merkin, anh... anh giỏi lắm!"

Soares rít mấy chữ qua kẽ răng nghiến chặt. "Cách cách cách..." xung quanh lập tức vang lên

tiếng mở chốt an toàn. Đúng lúc ấy, Merkin thình lình đưa tay ngăn đám lính đánh thuê ở sau

lưng lại.

"Ông chủ...” Max đứng bên cạnh nôn nóng nhắc nhở, nếu lúc này vẫn còn một mực bảo vệ

Soares, thì đúng là ông chủ hẳn phát điên rồi, chính bản thân hắn cũng sẽ xúi quẩy theo hai

người này luôn.

"Để... anh ấy đi!" Merkin đột nhiên buông một câu khiến Max rùng mình sợ hãi. "Ông chủ!"

Max cơ hồ đã cuống đến sắp bật khóc, vẻ mặt rầu rĩ hết sức.

"Ngay cả Trác Mộc Cường Ba tao còn thả đi được, chẳng lẽ Kahn lại không thể sao?"

Merkin dường như đã hạ quyết tâm.

Bọn lính đánh thuê đứng xung quanh không nói gì, nhưng không tên nào buông súng xuống,

áp lực vô hình từ bốn phía mỗi lúc một thêm nặng nề, tất cả căng ra như thể đã hóa đá. Tròng

mắt Max đảo liên hồi kỳ trận, tựa như đang tìm đường bỏ chạy nếu chẳng may xảy ra nổ súng.

Còn Khafu, y và đám lính đánh thuê thủ hạ đứng về cùng một chiến tuyến.

“Để anh ấy đi!" Merkin đột nhiên gầm lên một tiếng, sát khí hừng hực tỏa ra khắp châu

thân, không ngờ lại đè nén được áp lực vô hình hình thành bởi cả đám người lăm lăm súng ống

sau lưng xuống. Bọn lính đánh thuê dường như cũng ý thức được, người đàn ông đang đứng

trước mắt này chính là kẻ nắm quyền sinh sát đối với mình!

Soares chầm chậm đứng lên, họng súng của bọn lính đánh thuê dịch chuyển theo y, song

không ai nổ súng. Lúc này, Merkin lại buông một câu nữa: "Nhưng anh không được mang theo

bất cứ thứ gì." Y cũng nhượng bộ bọn lính đánh thuê sau lưng một chút, với sự hiểu biết của y

về Soares, Merkin đương nhiên biết rõ, một Thao thú sư toàn thân trần trùng trục sẽ rơi vào

tình cảnh như thế nào: tuy không đến nỗi chết ngay tại chỗ, song cũng chẳng cách cái chết 1à

bao.

Câu nói của Merkin vừa dứt, Soares chầm chậm gỡ cái mũ đen luôn trùm trên đầu xuống, để

lộ gương mặt ghê rợn, nát bươm như bị côn trùng cắn xé. Bọn lính đánh thuê bấy giờ mới biết,

trước giờ bên cạnh mình vẫn có một con quái vật đáng sợ đến nhường này, cả bọn đều không

kìm được khẽ lùi về sau nửa bước. Ngay cả Max, dẫu đã từng thấy gương mặt thật của Soares,

cũng bị bầu không khí kỳ dị xung quanh ảnh hưởng, hắn cúi gằm mặt xuống, gắng hết sức nấp

sau lưng Merkin, như muốn rụt đầu và tứ chi vào trong cơ thể, dẫu sao thì kẻ khích động đam

lính đánh thuê này...

Cái miệng trên gương mặt quái vật đó khẽ nhếch lên, lộ hàm răng trắng và nhọn hoắt, gằn

giọng nói từng chữ từng chữ một: “Anh sẽ hối hận đấy!”

Khafu đứng bên thì thầm bảo Merkin: “Làm vậy là thả hổ về rừng!” Song Merkin đã ngang

cánh tay ngắt lời y, biểu thị quyết tâm của mình.

Soares chầm chậm cởi bỏ áo ngoài. Trong khu rừng rậm vừa ấm vừa nóng này, y cũng

không mặc nhiều áo lắm, vì vậy lập tức lộ ra thân thể bên dưới lớp áo choàng rộng thùng thình!

Đó đâu phải thân thể con người chứ, toàn thân chi chít những con giun ngoằn ngoèo màu đỏ

thịt, từ trên xuống dưới, không có lấy một mảnh da lành lặn. Bọn lính đánh thuê trông thấy

cảnh tượng ấy, lại lùi thêm nửa bước nữa. Max run lên, thầm nhủ: “Lẽ nào, đây là cái giá phải

trả để trở thành Thao thú sư?” Y đứng khá gần, có thể thấy rõ những vết thương trên da đều là

vết tích bị các loại động vật khác nhau cắn xé.

Soares cởi hết y phục trên người, cả quần lót cũng không để lại, cứ vậy đứng lõa lồ, sau đó

liếc nhìn Merkin một cái đầy khinh miệt, sải chân bước về phía đám lính đánh thuê. Các người

không xứng đáng kết bè với ta, Mãng Xà Xám này trở về rừng sâu thuộc về ta đây! Soares

bước tới đâu, bọn lính đánh thuê tránh ra nhường đường tới đó, bọn chúng không hiểu nổi, tổn

thương đến mức nào mới có thể biến một con người thành ra như thế. Có nổ súng hay không?

Đi như vậy vào trong rừng rậm, có khác gì tự đâm đầu vào cõi chếtđâu? Bởi thế, bọn chúng chỉ

trầm mặc.

Bóng dáng Soares nhanh chóng biến mất sau một thân cây cổ thụ khổng lồ, liền ngay sau

đó, tiếng gầm giận giữ của y vẳng lại: “Merkin! Anh giỏi 1ắm!” Mặc dù Merkin rất trấn tĩnh,

song không khỏi giật nảy mình vì tiếng gầm bao hàm cả phẫn nộ và oán hận ấy của Soares,

cánh tay hơi run run, nhưng y nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, lạnh lùng hạ lệnh: “Tất cả, thu

thập hành trang, xuất phát!” Khi y bỏ đi, không cần Merkin ra lệnh, bọn lính đánh thuê đã ào

lên đập nát tất cả những gì Soares phảỉ vất vả mới thu thập được. Làm vậy vẫn chưa hả được

cơn tức bọn chúng còn dồn đống chai lọ thủy tinh và các thứ khác lại, cho một mồi lửa, khói

đen nồng nặc bốc cao ngất trời, tựa như đang kể lể nỗi oán hận vô cùng của những kẻ đã chết.

Max không khỏi thầm hụt hẫng, không ngờ Soares lại có thể bỏ đi như vậy. Mà hắn cũng

không hề có cảm giác sướng khoái lẽ ra phải có khi Soares bỏ đi, dù chỉ là một chút.

CHƯƠNG 71: CẤM ĐỊA CỦA SÓI

HUYẾT MINH

Được sói Út dẫn đi du lịch cả vương quốc sói, càng lúc Trác Mộc Cường Ba càng thêm chắc

chắn, nơi này là một vương quốc của loài sói có phân công xã hội ở trình độ khá cao. Bọn sói

phân công rõ ràng, đẳng cấp nghiêm mật không hề thua kém gì hình thái xã hội loài người.

Ngày hôm đó, sau khi cùng Sói Út đi quanh quanh một vòng, vừa trở về đến thủ phủ vương

quốc, Trác Mộc Cường Ba nhận ra bầu không khí có gì đó không ổn, dường như tất cả lũ sói

đều bận rộn hơn ngày thường rất nhiều. Gã và Sói Út nhanh chóng phát hiện ra đàn sói bị

thương đã trở về.

Hôm đó khi đàn sói xuất phát, Trác Mộc Cường Ba từng trông thấy một đợt điều động tật

kết quy mô rất lớn, gã chỉ nghĩ rằng bọn chúng định tiến hành một cuộc săn bắt lớn, thật không

ngờ lại bị thương nhiều và nặng như vậy.

Có những con sói ngậm thảo dược chạy qua chạy lại như con thoi, nhai nát nhổ ra đắp vào

vết thương, nhưng có vẻ vẫn không thể giải quyết được tận gốc vấn đề. Vả lại, những con sói

bị thương, khi trông thấy Trác Mộc Cường Ba dường như đều lộ vẻ căm ghét ra mặt. Trác

Mộc Cường Ba lại gần kiểm ta, bấy giờ mới ngạc nhiên phát hiện: Vết đạn! Những con sói

này bị trúng đạn!

Có nhiều sói bị thương thế này, tuyệt đối không thề nào do một hai người làm ra được, lẽ

nào đối tượng bọn sói này vây công kích là lũ người của Merkin? Trác Mộc Cường Ba lập tức

nghĩ ra vấn đề này, phải rồi, bọn Merkin chưa được phép mà đã đặt chân vào lãnh địa của đàn

sói, vì vậy mới bị vây công, hai bên đều có tổn thất. Lũ sói này không biết bọn Merkin được

trang bị tận răng, sợ rằng đã phải chịu nhiều thiệt thòi. Còn nữa, tên Thao thú sư kia chẳng phải

vẫn ở bên cạnh Merkin hay sao? Tại sao chúng lại nổ súng? Chẳng lẽ, Thao thú sư không

khống chế được lũ sói nơi này?

Xung quanh đột nhiên im lặng như tờ, Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu, liền trông thấy Tử

kỳ lân được bầy sói tiền hô hậu ủng ở phía xa... Vị vương giả của loài sói, chậm dãi bước đến

xem xét những con dân bị thương của nó. Sớm đã có con sói báo cáo lại toàn bộ sự tình, nó

vừa quan sát các vết thương, vừa gầm gừ ra lệnh.

Kể từ khi đặt chân đến vương quốc sói, đây là lần thứ hai Trác Mộc Cường Ba trông thấy

Tử kỳ lân ở khoảng cách như thế, sự kích động trong lòng gã đã không còn như lần đầu tiên

nữa. Sau khi nhận thức được sự ấu trĩ trong suy nghĩ cùng sự thấp kém về địa vị của mình ở

đây, gã đã hiểu ra, đứng trước hiện thực, lý tưởng có những lúc thật là xa xăm mở ảo.

Dần dần, lũ sói quanh đó đều đổ dồn ánh mắt lên người gã, cả bọn sói ở xung quanh Tử kỳ

lân dường như cũng nhìn Trác Mộc Cường Ba nói gì đó. Trác Mộc Cường Ba tuy không hoàn

toàn hiểu được tiếng sói, nhưng nửa nghe nửa đoán cũng hiểu được đại khái, lòng không khỏi

thầm kêu khổ: “Lũ sói này, không phải định trút hết giận dữ lên đầu mình chứ?”

Chỉ thấy vị Vương giả cao quý kia khe khẽ lắc đầu, từ chối đề nghị của lũ thuộc hạ. Nó tách

khỏi đàn sói ra, bước về phía Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba vội gọi Sói Út lại. Có

tên phiên dịch nửa mùa này, cộng với sự giao lưu về tinh thần giữa gã và Tử kỳ lân, rốt cuộc

Trác Mộc Cường Ba cũng dần dần suy đoán ra được ý tứ của đối phương: lần này bộ tộc sói

thương vong nặng nề chưa từng có, cả bộ tộc đều đang phẫn nộ, hậu quả vô cùng nghiêm

trọng, đối với việc này, nhân loại dị tộc, ngươi có suy nghĩ gì?

Nắm được đủ thông tin, Trác Mộc Cường Ba liền bày tỏ với lang vương Tử kỳ lân: đó là kẻ

địch chung của chúng ta. Tôi biết rõ ưu thế và khuyết điểm của bọn chúng, hãy cho tôi một

cánh quân, tôi sẵn sàng dẫn quân đi báo thù rửa hận cho bộ tộc sói.

Trác Mộc Cường Ba còn hướng về phía Tử kỳ lân thực hiện nhiều loại thủ pháp ra lệnh, trải

qua mấy ngày nghiên cứu, gã đã có thể thực hiện các động tác thủ ấn ấy một cách khá tự

nhiên. Mấy con sói già chụm đầu chụm tai thì thầm gì đó với vương giả của bộ tộc sói, tử kỳ

lân khe khẽ gật đầu. Không ngờ nó lại đáp ứng nhanh như vậy! Sói Út thấy vương gật đầu

đồng ý vội kêu “gừ gừ” với Trác Mộc Cường Ba, cơ hồ muốn gã làm gì đó. Nhưng lần này,

trong câu nói của nó có quá nhiều chỗ Trác Mộc Cường Ba không hiểu, khiến gã không tài nào

đoán được ý tứ của Sói Út.

Sói Út luống cuống nhảy lên gác chân trên vai Trác Mộc Cường Ba, đưa mõm cắn mũi gã.

Trác Mộc Cường Ba biết, mũi sói là bộ phận yếu ớt nhất của chúng, thông thường trong lúc

đùa nghịch, sói không bao giờ dùng răng chạm vào mũi đối phương. Hành động này của Sói Út

mang hàm ý: “A U Chang là đồ ngốc, đồ ngốc!”.

Lũ sói lại nhanh chóng điều binh khiển tướng, chỉ trong chốc lát đã tập kết được một cánh

quân mới, đếm không xuể quân số. Trác Mộc Cường Ba được sắp xếp vào đội quân này, đồng

thời giao cho cầm đầu một nhóm nhỏ. Bảy thuộc hạ, hai con màu đen, ba con màu xám, một

con màu trắng, ngoài ra còn có một con chó ngao màu nâu. Sói Út không thể cùng đi, bởi so

với những con sói chuyên chến đấu ấy, Sói Út quả thực quá gầy yếu, trong bộ tộc sói này cùng

lắm chỉ có thể là một thường dân mà thôi. Trác Mộc Cường Ba đã lấy lại vũ khí của mình, giờ

chỉ chờ đợi hiệu lệnh xuất phát.

Trăng cao quá đỉnh đầu, mây nhạt sao thưa, Trác Mộc Cường Ba rỗi việc, bèn tìm hiểu kĩ

hơn về các thành viên trong đội của mình, hy vọng có thể xây dựng quan hệ với lũ sói này

trong thời gian ngắn thông qua các động tác tay và tiếng kêu. Sói Út đang giúp gã phiên dịch

lần cuối cùng. Vị trí hành động và biệt danh của từng con đều đã được xác định xong xuôi. Sói

Út đột nhiên lại thúc thúc vào người Trác Mộc Cường Ba, thấy gã vẫn chưa hiểu, nó bèn ngước

nhìn vầng trăng trên trời, hất đầu gợi ý.

Một tia sáng lóe lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba, mặt trăng, đàn sói, cảnh tượng ấy lại

một lần nữa hiện lên trong óc. Minh ước (Hiệp ước đồng minh)!

Phải rồi! Chính là minh ước, lẽ nào ý của Sói Út là, muốn gã lập ra minh ước với bộ tộc sói?

Trác Mộc Cường Ba làm động tác dùng dao cắt cổ tay, Sói Út và gã tâm ý tương thông, lập

tức gật đầu lia lịa. Trác Mộc Cường Ba vào trong một gian nhà đá tìm được một món đồ trong

như cái bát rồi dùng dao cắt cổ tay mình trước ánh mắt của đàn sói vây quanh. Gã vẫn hơi căng

thẳng một chút, trích máu giữa đàn sói, quả là có phần nguy hiểm, ai biết được mùi máu tanh

có kích thích dã tính của chúng hay không chứ?

Máu đỏ tươi chảy thành dòng vào bát, đến khi bát máu đầy Trác Mộc Cường Ba mới băng

vết thương lại. Cũng may, gã vẫn chưa quên nghi thức minh ước mà cha gã từng nhắc tới.

Trích máu xong, gã bưng bát máu đi qua giữa đàn sói. Con nào con nấy đều không tự chủ

được, nhích lại gần bát máu đó, khẽ đưa mũi hít nhè nhẹ. Ánh mắt chúng nhìn Trác Mộc

Cường Ba đã hoàn toàn đổi khác: thân thiết, hảo hữu, sùng kính và ngợi khen, có con thậm chí

còn liếm viết thương cho Trác Mộc Cường Ba, hoặc bắt đầu vẫy đuôi tíu tít với gã.

Mấy con sói lớn tuổi hơn rẽ đàn bước ra, đứng quây lại phía trước bát máu, khép hờ đôi

mắt, tựa như đang tỉ mỉ thâm định mùi máu tanh tỏa ra. Chúng cùng lúc gật đầu, trao đổi ý kiến

với nhau: “ Đúng rồi, chính là mùi vị này.”

Trăm nghìn năm truyền thừa không làm nhạt đi mùi vị trong huyết mạch, thứ mùi vị đã

quen thuộc với chúng từ bao đời nay.

Được đàn sói “hộ giá”, Tử kỳ lân cũng bước đến trước bát máu, chăm chú lắng nghe mấy

con sói già thuật lại sự tình, sau đó hít sâu một hơi, nhắm mắt trầm tư. Hồi lâu sau, vị vương

giả của loài sói nheo mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba , ánh mắt lộ vẻ công nhận, đoạn ngẩng đầu

hướng về vầng trăng sáng vằng vặc, tru lên một tiếng dài. Trác Mộc Cường Ba cũng khum hai

tay lên miệng, ngẩng cao đầu, hú lên theo lang vương. Một người một sói. Hai tiếng hú trong

vắt kéo dài tựa hai con rồng cuộn vào nhau bay vút lên không, vang động khắp cả vương quốc.

Liền ngay sau đó, ngìn vạn con sói cũng hòa giọng hú lên, âm hưởng trấn động cả trời xanh.

Minh ước này coi như đã được ký kết thành công, tiếp sau đó, tất cả lũ sói trong vương quốc

đều đến trước bát máu ngửi một hơi, rồi rời đi. Nhưng ngay cả Trác Mộc Cường Ba cũng

không hiểu minh ước này rốt cục để làm gì. Gã chỉ biết cha mình từng nói, minh ước này là

một sự thể hiện cực kỳ hữu hảo thân thiện, còn sau khi ký kết thành công sẽ xảy ra chuyện gì,

thì gã chịu không trả lời được.

Toàn bộ nghi thức kéo dài đến quá nửa đêm, sau khi hoành thành nghi thức, thái độ của Tử

kỳ lân với Trác Mộc Cường Ba thay đổi hẳn, nó chỉ gầm gừ dặn dò mấy câu, rồi lại trở về

vương tọa tít trên cao kia của mình.

Song, cả đàn sói lại nhao nhao lên, thêm một cánh quân bảo vệ quê hương chúng tiếp tục

xuất phát.

Ở giữa đại quân sói đông đảo ấy, có thêm một con “sói” đi bằng hai chân, thành thử trông

hơi có vẻ như hạc giữa bầy gà. Nhìn vầng trăng sáng đang dần ngả về Tây cùng cánh rừng sâu

u ám, Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Ta đã nói rồi, ta sẽ trở lại, ngươi hãy đợi đấy, Merkin”

Đội trăng sao trên đầu, đàn sói len lỏi giữa cây rừng, có con nhảy nhót trên cành, hoặc leo tít

lên những tán cây cao vút, những ngọn đèn nhỏ ánh lên xanh biếc, chớp nháy liên hồi trong

khu rừng rậm.

Đàn sói chia làm ba đường, thượng, trung, hạ, tỏa ra như những tấm lưới đánh cá, trải rộng

trong khắp khu rừng, chỉ thấy những bóng đen kì dị rạch toang màn đem tăm tối, khiến cây

rừng bị chấn động rung lên xào xạc xào xạc, để lại hai vết sáng xanh ngọc tựa như sao băng

lướt ngang bầu trời. Trác Mộc Cường Ba cũng bị khí thế hành quân này ảnh hưởng, bèn dốc

hết bản lĩnh, đạp rừng bạt núi, dẫn theo tiểu đội của mình tiến hết tốc lực trong đầu chỉ nghĩ

“phải nhanh hơn nữa, cao hơn nữa, mạnh hơn nữa.”

Dọc đường đều có trạm tiếp ứng, thông báo trao đổi tin tức, để lại dấu hiệu khắp nơi.

Lúc bình minh, đàn sói chia thành các tiểu đội nhỏ, tiếp tục tản ra trong khu rừng rậm tự tìm

lấy thức ăn, dẫu sao thì khu rừng này cũng quá lớn, không thể tập trung lại được. Trong đội của

Trác Mộc Cường Ba, hai con sói Lưng Đen và Trán Trắng phụ trách việc dẫn đường, kiêm

luôn nhiệm vụ trinh sát, chẳng tốn mấy công sức đã lôi về một sinh vật trông như lợn rừng,

dưới cằm có vật cứng mọc ngược, không hiểu là răng nanh hay là sừng nữa.

Nghỉ ngơi một chốc, Trác Mộc Cường Ba liền đừng dậy luyện tập cho lũ sói quen với các

thủ ấn của mình. Những con sói chiến này đã làm theo thủ thế của các pho tượng Phật không

biết bao nhiêu lần rồi, động tác và phản ứng đều vượt quá tưởng tượng của Trác Mộc Cường

Ba, hai bên phối hợp mỗi lúc một thêm nhuần nhuyễn.

Hai ngày một đêm sau đó, Lưng Đen đẫn Trác Mộc Cường Ba đến bên một đầm nước, dưới

đáy đầm lắng đọng rất nhiều bùn đất màu xám trắng, quanh đó có đã có nhiều tiểu đội sói tụ

tập lại. Trác Mộc Cường Ba thấy lũ sói đang dùng móng vuốt vớt bùn đất trôi trát lên đồng bạn

bên cạnh mình những vằn vện màu trắng, làm toát lên vẻ dữ tợn.

“Đây là một dạng phù hiệu chiến đấu sao?” Mấy con sói dưới quyền Trác Mộc Cường Ba

cũng bắt đầu bôi bùn trắng lên mình, vạch ra những đường ngoằn ngoèo không theo quy chuẩn

gì cả. Trác Mộc Cường Ba thò tay sờ thử, thấy chất bùn trắng này sau khi rời khỏi đầm nước,

không ngờ lại dính kết rất chặt. Những con sói đã bôi xong bùn trắng liền ngay trong bụi rậm

hay bãi cỏ lăn lộn một hồi, thân mình dính đầy lấy cây màu xanh và đất bùn màu nâu xám. Khi

chúng nép giữa bụi cây tán lá, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy khó lòng phát hiện ra được.

“Màu ngụy trang!” Trác Mộc Cường Ba lấy làm hứng khởi, cũng bôi bùn trắng khắp toàn

thân, đồng thời nhặt cỏ và lá cây ngụy trang cho mình. Chỉ trong chốc lát, đàn sói đã biến

thành những cái cây hoặc bụi cỏ có thể di chuyển với tốc độ cực nhanh.

Ngụy trang xong xuôi, lũ sói liền nhanh hành quân đến địa điểm chỉ định, lần lượt dùng

nước tiểu đánh dấu phạm vi lãnh địa, các tiểu đội bắt đầu tìm kiếm và tiêu diệt kẻ địch trong

khu vực của đội khác. Lùng sục tìm kiếm khoảng nửa ngày Trán Trắng bỗng trở nên dè dặt cẩn

thận, chừng như đã tìm thấy tung tích của kẻ địch. Trác Mộc Cường Ba cẩn thận vén bụi cây

ngó ra, chỉ thấy các chỗ họ đứng chừng năm mươi mét về phía trước, có bốn năm tên lính đánh

thuê vũ trang toàn thân, đang dò dẫm tiến lên, đi bước nào thấp thỏm bước đó, chốc chốc lại

dùng lại đưa mắt ngó xung quanh.

“Chắc là một nhóm bị lạc khỏi đội ngũ?” Trác Mộc Cường Ba vừa nhìn đã hiểu ra tình thế.

Rõ ràng, bọn lính đánh thuê làm đàn sói bị thương vong nặng nề còn bản thân chúng cũng

chẳng tốt hơn là bao. Chắc trong trận chiến trước, bọn chúng đã bị đàn sói lùa cho chạy toán

loạn mỗi người một ngả, ai lo thân người nấy rồi. Không hiểu trong rừng còn bao nhiêu tên

đơn lẻ thế này nữa nhiệm vụ của bọn gã chắc là giải quyết những nhóm nhỏ đã bị cô lập này

trước.

Trác Mộc Cường Ba biết, giờ đây trong khắp khu rừng chỗ nào cũng có sói, chỉ cần bọn lính

đánh thuê nổ súng lập tức sẽ kinh động cả đám đông chạy tới, muốn tiêu diệt bọn chúng không

khó vấn đề là bọn chúng đều được vũ trang tới tận răng, để hạ gục chúng mà tiểu đội của mình

không hề tổn thất mảy may, cũng không phải việc đơn giản.

Trác Mộc Cường Ba thầm tính toán, ném Phi lai cốt ra có thể làm trọng thương một tên, vậy

bốn tên khác tính sao đây? Cần phải có một vị trí phục kích thích hợp. Đám sói chiến quây

thành một vòng cung sau lưng Trác Mộc Cường Ba, chờ hiệu lệnh của gã. Trác Mộc Cường Ba

quan sát hoàn cảnh xung quanh, rồi đưa tay lên kết thành thủ ấn lũ sói lập tức chia thành hai

nhóm, từ hai bên bọc lại.

Lợi dụng rừng cây rậm rạp yểm hộ, Trác Mộc Cường Ba leo lên cây, di chuyển lặng lẽ như

một con lười, nhẹ nhàng đến trên đầu năm tên lính đánh thuê. Một con sói nhận lệnh làm sột

soạt bụi cỏ, năm tên kia sớm đã thành chim sợ cành cong, lập tức nháo nhác nhìn xung quanh.

Đột nhiên, trong rừng có bóng sói thấp thoáng vụt qua. Một tên lính kêu lên bằng tiếng Nga:

“Có sói!” Những tên khác đều nhất loạt nổ súng, không cần biết mục tiêu ở hướng nào. Có hai

tên đã bắn một mạch hết cả băng đạn, khi chúng dừng lại thay băng đạn mới, ba tên lính đánh

thuê còn lại vừa khéo xây lưng về phía Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba nhảy từ trên tán cây xuống, vuốt thú sắc bén bắn ra, cộng với đà từ trên

cao xồ xuống của gã, “vù” một tiếng, đã rạch toác cả áo chống đạn trước ngực một tên, để lộ ra

phần bụng mỏng manh yếu ớt. Gã xoay cổ tay một cái, vuốt thú liền đâm thẳng vào bụng tên

lính đánh thuê như một lưỡi lê sắc bén. Tên lính đánh thuê xấu số lập tức bị rạch tung ổ bụng.

Trác Mộc Cường Ba không buồn để ý đến tên lính đã mềm nhũn xuôi lơ hai tay ấy nữa, khi

tên lính đánh thuê đứng gần đó nhất lên đạn xong, vừa toan giương súng về phía gã, thì vuốt

thú của gã từ ổ bụng tên lính đánh thuê đầu tiên đã vung theo phương ngang kéo theo một

chùm máu tươi tóe ra vung vãi. “Bụp” một tiếng, móng vuốt móc vào mũ bảo hộ của tên ấy,.

Trác Mộc Cường Ba cũng không ngờ lực đạo một cú vung tay của mình lại lớn như vậy, gã chỉ

cảm thấy đoạn phía trước vuốt thú gác vào chỗ tiếp giáp giữa mũ bảo hộ và bộ đồ chống đạn

liền thân, nhấc bồng cả tên lính đánh thuê có chiều cao, thể hình tương đương với gã lên. Gã lại

dồn sức vung mạnh, “cạch” một tiếng, mũ bảo hộ của tên kia văng ra, máu và tạp chất từ

khoang bụng tên đồng bọn bắn tung tóe vào mặt hắn. Tên lính đánh thuê ấy hoàn toàn đờ đẫn

cả người, nhất thời quên cả nổ súng bắn Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba lại xoay

người, thuận đà rút Phi lai cốt ra, “bốp” một tiếng, trúng ngay trán kẻ địch, làm trán hắn lõm

vào một vết sâu hoắm.

Toàn bộ quá trình ấy chỉ diễn ra trong chớp mắt, trước tiên Trác Mộc Cường Ba lẳng lặng từ

trên cây bổ xuống, rạch toác áo chống đạn của tên lính đánh thuê đầu tiên, chọc vào ổ bụng của

hắn, đoạn lật tay vung mạnh, từ ổ bụng tên thứ nhất tạt lên thẳng vào đầu tên thứ hai, nhấc

bổng hắn lên khỏi mặt đất, rồi lập tức xoay người tung đòn quyết định.

Sau khi gã hoàn thành một loạt những động tác ấy, lũ sói chiến phối hợp xung quanh từ

những bụi rậm bổ nhào ra. Ba tên lính đánh thuê còn lại cũng phát hiện ra con quái vật trên trời

rơi xuống này. Trong khoảng khắc đó, Trác Mộc Cường Ba buông tay ném Phi lai cốt ra như

tuyển thủ môn ném tạ xích, tên lính đánh thuê thứ ba không kịp né tránh, cả người bắn văng ra

xa theo đà bay của chiếc Phi lai cốt.

Ba con sói trên cây lao xuống đè ngã tên lính đánh thuê thứ tư. Tên cuối cùng thấy vậy liền

cuống cuồng ném bỏ cả súng lẫn ba lô mà chạy, chỉ mong chạy được nhanh chừng nào tốt

chừng ấy.

Tên lính đánh thuê thứ tư vẫn đang vũng vẫy trước nanh vuốt lũ sói, nổ súng bắn lung tung.

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên dừng xoay, nhấc thân thể còn chưa đứt hơi hẳn của tên thứ ba

ném chặn lên lòng súng, đồng thời vung tay ra hiệu cho lũ sói rút lui.

Quả nhiên, sau vài phát súng, tên lính đánh thuê kia đã bắn trúng thuốc nổ Cơn lốc đen trên

người đồng bọn. “Ầm!” một tiếng, cả hai tên đồng thời nổ tan thành thịt vụn. Tiếng nổ vừa

vang lên, trong rừng lập tức vẳng lại tiếng dã thú gầm thét, cơ hồ hưởng ứng. Trác Mộc Cường

Ba thầm kêu không ổn, âm thanh ấy gã đã từng nghe rất nhiều lần rồi, tuyệt đối không thể sai,

đó là tiếng gầm của thằn lằn khổng lồ, khốn nỗi tiếng nổ và mùi máu tanh đã lại dẫn dụ nó tới

đây.

Cây cối nghiêng ngả, con thằn lằn khổng lồ vạt cả cây rừng chui ra, ngửa mặt lên trời gầm

lớn, cơ hồ muốn trấn áp lũ sói.

Đối mặt với loại sinh vật khổng lồ này, thông thường chỉ khi đi săn tập thể, số lượng đông

đảo, lũ sói mới tiến hành tấn công, còn bình thường chúng đều cố gắng tránh né, nước sông

không phạm nước giếng. Mấy con sói chiến này tuy cường tráng mạnh mẽ, song sự chênh lệch

quá lớn về thể hình vẫn khiến chúng run lên một chập, chỉ cúi đầu gầm gừ khe khẽ. Không thể

lấy cứng chọi cứng được, Trác Mộc Cường Ba bèn ra dấu rút lui, lũ sói chiến lập tức lao vút

vào rừng đúng vào khoảng khắc trước khi bị hàm răng sắc nhọn của con thằn lằn khổng lồ đớp

trúng.

Lúc này, tên lính đánh thuê thứ 2 đã đứt hơi, còn tên thứ nhất vẫn đang rên la đau đớn. Con

thằn lằn lần theo mùi máu, huỳnh huỵch lao tới. Trác Mộc Cường Ba đảo mắt một vòng, dùng

đoạn đầu Phi lai cốt hất văng thân thể tên lính đánh thuê thứ nhất về phía con quái thú. Con

thằn lằn há to miệng, đớp luôn cả người tên đó, phối hợp xem chừng hết sức ăn ý. Trác Mộc

Cường Ba lập tức ném Phi lai cốt đi, lăn một vòng dưới đất, nhặt vũ khí của tên lính đánh thuê

thứ hai, nhả đạn liên tục vào tên lính đánh thuê trong miệng con thằn lằn, rốt cuộc cũng bắn

trúng điểm dẫn nổ trên áo chống đạn. Lại một tiếng nổ nữa vang lên, nửa đầu con quái thú

khổng lồ đã bay đi đâu mất tiêu, thân thể bồ tượng lảo đảo ngã xuống đất đánh “rầm” một

tiếng.

Mấy con sói ở chỗ ẩn nấp ló đầu ra, sau khi xác nhận con thằn lằn khổng lồ đã chết, chúng

ngạc nhiên ngước nhìn Trác Mộc Cường Ba đang cầm khẩu súng, không ngờ sinh vật khổng lồ

phải rất nhiều con sói hợp lực mới có thể triệt hạ lại bị con sói đi bằng hai chân A U Chang này

xử lý dễ như bỡn. Song Trác Mộc Cường Ba không có thời gian mà mừng rỡ, gã biết chất nổ

trên người tên lính đánh thuê đã chết kia có thể nổ tung bất cứ lúc nào.

Gã một tay cầm Phi lai cốt, tay kia nhặt một cái ba lô lên, trước lúc đi ngước mắt trông thấy

mũ bảo hộ nằm lăn lóc, liền đưa nòng súng nhấc lên, hú vang một tiếng, dẫn theo lũ sói dời xa

cái xác nguy hiểm.

Đến nơi an toàn, Trác Mộc Cường Ba mới dừng lại, cẩn thận kiểm tra cái mũ bảo hộ. Quả

nhiên, cái mũ kín mít, ở lớp giữa đầy vi mạch điện tử, căn bản không thể giấu thuốc nổ Cơn lốc

đen. Cái mũ này an toàn.

Sau đó gã lại kiểm tra các chiến lợi phẩm khác, trong ba lô có thực phẩm, băng đạn, đồ cấp

cứu và nhiều thứ khác, nhưng vũ khí thì rất ít, ngoại trừ mấy quả mìn cá nhân, thì chỉ còn khẩu

tiểu liên Scar gã đang cầm trên tay mà thôi, xem ra những vũ khí thuận tay nhất đều được tên

lính đánh thuê đeo trên người rồi.

“Ầm” tiếng nổ vang lên đúng theo dự đoán của Trác Mộc Cường Ba, trấn động cả khu rừng.

Trác Mộc Cường Ba thầm cảm thấy mình may mắn, gã từng nghĩ hệ thống tự hủy diệt trên

người bọn lính đánh thuê của Merkin chắc chắn phải nằm bên dưới lớp phòng hộ của áo chống

đạn, đạn bắn từ ngoài gần như không có khả năng gây nổ, vì vậy, khi tên lính đánh thuê thứ tư

làm nổ Cơn lốc đen trên người tên thứ ba, và lúc gã làm nổ banh xác tên đầu tiên, chắc hẳn đều

do viên đạn, bắn trúng thuốc nổ từ mé bên trong của áo chống đạn. Xem ra, nhận thức của gã

về áo chống đạn này cũng khá chính xác, đây có lẽ là loại áo chống đạn liền thân có tấm bảo

hộ. Tác dụng phòng hộ của những tấm chắn bảo hộ này đối với lực xung kích chính diện rất

mạnh, nhưng để duy trì sự linh hoạt binh sĩ, chỗ khớp xương chắc là không thể phòng hộ. Mà

lực đạo từ trên cao nhảy xuống của gã, không ngờ có thể xé toang cả tấm chắn bảo hộ, chứng

tỏ rằng bộ trang phục này không phải tuyệt đối không có kẽ hở.

Trác Mộc Cường Ba lại trầm ngâm hồi tưởng hai lần đụng độ bọn lính đánh thuê, tên lính

đánh thuê thứ tư bị lũ sói đè xuống, trước lúc vùng vẫy nổ súng được, đã gào lên đau đớn, ống

quần có máu chảy ra, có nghĩa là tấm bảo hộ không bảo vệ được cẳng chân của hắn. Trác Mộc

Cường Ba bất giác bật cười, đúng vậy áo chống đạn tốt đến mấy cũng không thể bọc kín từ đầu

đến chân người ta được. Binh sĩ phải hoạt động, vả lại áo thiết kế phải có đủ không gian để đặt

các vũ khí khác. Hoặc giả như tấm chắn chỉ bảo vệ được bắp đùi và cánh tay của chúng, hai

chỗ này rất quan trọng vì có mạch máu lớn, hơn nữa khi gặp nguy hiểm, người ta sẽ giơ cánh

tay lên chắn trước mặt theo bản năng. Sự phòng hộ ở các nơi khác trên cơ thể chưa chắc đã

được nghiêm mật như thế, khoảng từ mông đến bụng có lẽ không có phòng hộ. Ngoài ra, chỗ

khớp vai linh hoạt nhất có lẽ không được bảo vệ, chỗ tiếp giáp giữa mũ bảo hộ và bộ đồ liền

thân chắc cũng không. Những vị trì này, tuy nói dùng súng máy xạ kích từ xa e là rất khó,

nhưng lũ sói lại chẳng áp dụng chiến thuật công kích từ xa, bọn chúng là những chuyên gia cận

chiến!

Nghĩ thông được điểm này, Trác Mộc Cường Ba liền lấy mình ra làm mẫu, giúp lũ sói chiến

trong tiểu đội nắm được các nhược điểm của kẻ thù. Gã chỉ tay vào vai, mông, cổ mình, để

mấy con sói nhớ kĩ, lần sau khi chiến đấu, phải chú trọng tấn công mấy bộ vị ấy.

Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba đội chiếc mũ bảo hội lên đầu. Cái mũ này vẫn còn tương

đối nguyên vẹn, có điều dây truyền dẫn lữ liệu và dây nguyền đều đã đứt. Trong ba lô còn pin

dự trữ, Trác Mộc Cường Ba bèn nối lại dây điện trước khi vào điện, trước mắt chỉ thấy một

mảng đen kịt, cơ hồ không một chút ánh sáng. Sau khi cắm điện, chỉnh đi chỉnh lại các nút vặn,

màn hình nhiều loạn một hồi đột nhiên trước mắt Trác Mộc Cường Ba sáng bừng lên, màn

hình hiện lên đỏ rực một màu.

Trác Mộc Cường Ba tưởng có máu trên mũ chảy xuống, vội cởi ra xem thử, không thấy có

gì lạ, bèn lại đội lên, bấy giờ mới sực hiểu ra, đây là chế độ hồng ngoại. Chẳng trách những tên

lính đánh thuê dùng chế độ này phát hiện được lũ sói từ trước. Toàn bộ khu rừng có địa nhiệt

từ dưới lòng đất bốc lên, sử dụng chế độ này thì tất cả đểu biến thành màu đỏ. Muốn tìm thấy

cái bóng máu đỏ trong một thế giới toàn màu đỏ thì nhìn bằng mắt thường còn rõ hơn. Trác

Mộc Cường Ba tiếp tục điều chỉnh , tìm được chế độ nhìn ban đêm và chế độ mặc định thông

thường, rồi tìm được công năng nhìn xa bằng ống nhóm điện tử, Tuy nhiên, hình ảnh hiện thị

trên màn hình và hình ảnh quan sát được bằng mắt thường vẫn có khác biệt nhất định. Gã lại

cởi mũi ra tiếp tục nghiên cứu kỹ.

Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng phát hiện, hình ảnh hiện thị trên màn hình không phải do

mắt trực tiếp nhìn thấy, mà ở hai bên tai mũ có hai máy quay, các công năng phòng to thu nhỏ

đều do chúng thực hiện; nhìn dây nối lòng thòng trên mũ, có thể thấy loại máy quay này hẳn

không chỉ có một hai cái, có nghĩa là, ở những vị trí khác trên bộ y phục cũng có gắn máy

quay, bọn lính đánh thuê không cần ngoảnh đầu cũng có thể nhìn được ba trăm sáu mươi độ

xung quanh mình. Trác Mộc Cường Ba thầm ghi nhớ điểm này.

Còn về chức năng liên lạc, Trác Mộc Cường Ba chỉ tìm được dây nối, chứ không thấy thiết

bị tương ứng, xem ra nó được gắn trên người bọn lính. Gã lo rằng sử dụng cái mũ này sẽ bị bọn

lính đánh thuê phát hiện, mà mình lại không thể thăm dò đối phương bèn ném luôn vào trong

ba lô, chưa đến thời điểm then chốt thì không định dùng đến.

Trong rừng già âm u vang lên một loạt tiếng súng giòn tan, lại có ba tên lính đánh thuê

khác ngã xuống. Bọn chúng gục trước họng súng, tứ chi chảy máu, cổ họng sùi bọt máu đỏ

thắm. Phía sau lưng chúng, có một người ăn mặc hết sức cổ quái. Tuy người đó cũng cầm vũ

khí giống bọn lính đánh thuê, song lại không mặc bộ quần áo liền thân như chúng, y phục trên

người y dường như được ghép lại từ đủ các loại vải vụn khác nhau, vũ khí gài khắp những chỗ

có thể thuận tay rút ra bất cứ lúc nào, thoạt nhìn, cả người y giống hệt một cái giá cắm đầy vũ

khí.

Người này cũng đội mũ bảo hộ, song những máy quay kỹ thuật số vốn giấu bên trong y

phục giờ lộ hết ra ngoài, cả dây nối lẫn ống kính, mấy cái hướng về phía trước, mấy cái hướng

về phía sau, trên người như mọc thêm mấy con mắt, quả tình trông vô cùng quái đản.

Sau khi xác nhân mấy tên lính đánh thuê kia hoàn toàn không có năng lực phản kích, người

đó liền lấy hết vũ khí và ba lô của chúng, rồi lại giơ tay lên nhìn chiếc đồng hồ cướp được của

một tên lính đánh thuê khác.

Năm phút sau khi nhịp tim và sóng não đều ngừng hẳn, hệ thống tự hủy diệt sẽ khởi động,

vậy là vẫn còn thời gian. Người này hết sức thành thạo rút dao găm chiến thuật ra, rạch toang

chiếc áo chống đạn, tìm kiếm những tấm chắn và các mạch điện tử mình cần bên trong bộ đồ.

Nếu thời gian cho phép, nói không chừng y còn có thể gỡ thuốc nổ Cơn lốc đen bên trong để

sử dụng.

Đằng xa lại có tiếng súng vang tên, khu rừng hoàn toàn náo loạn, súng nổ đì đoàng khắp

nơi, không biết đã có bao nhiêu tên lính đánh thuê bị lũ sói hung dữ cắn chết rồi nữa. Người

này dường như cảm thấy chiếc mũ bảo hộ hơi nóng bức, dẫu sao thì cũng không nối được ống

thoát khí, bèn bỏ mũ xuống. Mái tóc màu đen bóng ánh lên giữa những tán cây, tựa như một

dải lụa, người này là… Lữ Cánh Nam.

CAO THỦ THẦN BÍ TRONG ĐÁM LÍNH ĐÁNH THUÊ

Kỹ thuật trinh sát và lần theo dấu vết của Nhạc Dương cực kỳ cao cường, nhưng chung quy

cũng là do Lữ Cánh Nam huấn luyện, sau khi rời khỏi Trác Mộc Cường Ba, cô một mặt từ từ

dưỡng thương, một mặt vẫn tiếp tục theo dấu bọn Merkin. Trước đấy, đội ngũ của Merkin liên

kết cực kỳ chặt chẽ, tiền hô hậu ứng hỗ trợ lẫn nhau, khi dừng lại cắm trại cũng bố trí rất hợp

lý, nên Lữ Cánh Nam chỉ có thể ngấm ngầm quan sát trong bóng tối, căn bản không tìm được

cơ hội để hạ thủ. Cô tiếp tục bám theo bọn chúng băng qua Bức Tường Than Thở, đặt chân lên

vùng đất Shangri-la trời cỏ xanh biếc, tới khi bọn chúng bị đàn sói tấn công làm cho tan rã đội

hình, Lữ Cánh Nam mới bắt đầu hành động.

Lữ Cánh Nam là quân nhân được huấn luyện chuyên nghiệp, hạng nghiệp dư gà mờ như

Trác Mộc Cường Ba làm sao so sánh được. Chẳng bao lâu, Lữ Cánh Nam đã nhanh chóng phát

hiện ra ưu khuyết điểm của bộ đồ chống đạn trên người bọn lính đánh thuê, lợi dụng ngược lại,

tự lắp ghép thành một bộ đồ thích hợp cho mình sử dụng. Đồng thời, cũng như đàn sói, cô bắt

đầu triệt hạ những tên lính đánh thuê bị lạc đội đi đơn lẻ trong rừng. Tiêu diệt được một tên,

lực lượng của bọn Merkin sẽ yếu đi một phần, không thể để cho đối thủ có bất cứ cơ hội nào

cả.

Có điều, đàn sói ở đây thực hiện chính sách tấn công không phân biệt, phàm là sinh vật đi

đứng bằng hai chân đều khó thoát. Lữ Cánh Nam không dám để lộ mùi người quá lâu, sau khi

bỏ mũ bảo hộ ra thoải mái hít thở mấy hơi, cô lại vội vã đội lên đầu. Giờ đây, toàn bộ quần áo

ngoài của cô đều trát một lớp hỗn hợp bùn đất và lá cây, chính là để che giấu mùi thân thể tỏa

ra.

Tiếng súng phía bên kia dường như đã ngừng hẳn, vẫn còn đủ thời gian chạy tới đó thu thập

thêm vũ khí, Lữ Cánh Nam nhìn đồng hồ, rồi lặng lẽ chạy thật nhanh về phía có tiếng súng vừa

vang lên.

Không ổn, còn chưa đến địa điểm vừa nổ súng khi nãy, Lữ Cánh Nam đã khựng lại. Cô phát

hiện có xác sói. Lũ sói ở nơi này trí tuệ và tính tập thể rất cao. Nếu đồng bọn bị thương hoặc tử

vong, những con sói còn sống nhất định kéo xác trở về. Giờ lại phát hiện xác sói ở đây, lẽ nào

những con sói tập kích toán lính đánh thuê này đã chết cả? Lữ Cánh Nam đề cao cảnh giác,

nhích dẫn từng bước một. Không rõ phía trước còn bao nhiêu tên nữa, có khi nào lại là cánh

quân chủ lực của Merkin?

Len lén quan sát chiến trường, Lữ Cánh Nam lại được một phen kinh hãi. Chỉ thấy giữa

rừng có mấy cái xác lính đánh thuê nằm nghiêng ngả, thêm tầm chục cái xác sói, nhưng giữa

đống thi thể ấy lại có một người, ăn mặc hệt như đám lính đánh thuê, đang ung dung thu thập

vũ khí trên người đồng bọn. Những người kia đều đã chết rồi, song người này hình như không

có lấy một vết thương nhỏ!

Lữ Cánh Nam vừa giật mình kinh hãi, hô hấp liền trở nên nặng nề hơn, tên lính đánh thuê

đang thu thập vũ khí đột nhiên dừng phắt động tác, dường như phát giác ra điều gì đó. Lữ Cánh

Nam vội nín lặng tiềm phục tại chỗ, không phát ra bất cứ âm thanh gì, hòng tránh khỏi sự chú

ý của đối phương. Sau khoảng mười giây, đoán chừng người kia đã có phần buông lỏng cảnh

giác, không thấy động tĩnh gì khác cô lại được thêm một phen kinh hãi đến hoảng hồn, tên lính

đánh thuê kia đã biến mất!

Có thể đột nhiên biến mất trong khi Lữ Cánh Nam đang ở trạng thái tập trung toàn bộ tinh

thần khóa chặt mục tiêu như thế, lính đánh thuê bình thường tuyệt đối không có khả năng này.

Tuy chiếc mũ bảo hộ có làm ảnh hưởng đến độ nhạy cảm của giác quan, nhưng Lữ Cánh Nam

vẫn khẳng định, tên này trăm phần trăm không phải một tên lính đánh thuê bình thường. Lẽ

nào, đối phương là thủ lĩnh của bọn lính đánh thuê?

Không gian xung quanh yên lặng như tờ, chỉ có một đống xác nằm dưới đất và cơn gió nóng

ẩm phơ phất thổi qua. Lữ Cánh Nam vừa cẩn thận quan sát khắp bốn phía, vừa chậm chạp

nhích người lên, không phát ra một tiếng động nào dù chỉ là nhỏ nhất. Đối phương bất thình

lính biến mất trước mặt cô, giờ đây, cục diện đã biến thành cuộc ám chiến so tài giữa trinh sát

và phản trinh sát, ai phát hiện đối phương trước, mà lại không bị đối phương phát hiện, người

đó sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối.

Lữ Cánh Nam đoán rằng đối phương nhất định sẽ không nhân cơ hội này đào tẩu. Người

dám giết sạch cả đàn sói, còn nán lại thu thập vũ khí, tuyệt đối sẽ không bị một chút động tĩnh

mà sợ hãi bỏ chạy. Đối phương cũng đang di chuyển, hắn đang tìm kiếm cô!

Thời gian trôi hết sức chậm chạp, lần đầu tiên Lữ Cánh Nam nảy sinh cảm giác nghi hoặc.

Đã lâu như vậy rồi, dẫu đối phương là Merkin và tên Thao thú sư bị đuổi đi ấy, cô cũng tự tin

rằng mình có thể phát hiện ra hành tung của chúng. Nhưng tên lính đánh thuê, cái kẻ mặc bộ

đồ lính đánh thuê bình thường ấy, lại không để lộ bất cứ dấu vết nào, đến cả tiếng thở cũng

không nghe thấy.

Lữ Cánh Nam biết rõ đối phương nhất định ở gần quanh đây, song lại không thể tìm được

hắn, điều này chỉ chứng tỏ một điều, kỹ xảo ẩn nấp của kẻ này cao hơn kỹ xảo trinh sát của cô.

Làm sao có thể như vậy được? Trừ phi, đối phương là cao thủ cấp bậc ngang với pháp sư Á

La!

Đúng vào khoảng khắc đó, Lữ Cánh Nam, theo bản năng ý thức về nguy hiểm… Chết rồi!

Bị đối phương phát hiện rồi! Tuy Lữ Cánh Nam chưa nhìn thấy người, cũng không cảm thấy

bất cứ động tĩnh gì khác lạ, nhưng cô hiểu rất rõ những gì trực giác mách bảo, đối phương chắc

hẳn đã phát hiện ra cô, đối phương đã khóa chặt cô, quan hệ giữa con mồi và kẻ săn mồi, đã

đảo ngược!

Lữ Cánh Nam kiếm một gốc cây đủ lớn, dựa lưng vào thân cây, đầu tiên phải đảm bảo

không bị đối phương tập kích từ phía sau, kế đó cần chú ý trên đỉnh đầu, sau đó mới là bốn

phía xung quanh. Cách một hồi lâu, dường như tên lính đánh thuê kia cũng cảm thấy Lữ Cánh

Nam phòng thủ hết sức kín kẽ, không tìm được cơ hội đánh lén, liền hiên ngang bước ra, xuất

hiện ngay dưới một chùm dây leo trước mặt Lữ Cánh Nam.

Lữ Cánh Nam chăm chú quan sát vẻ bề ngoài của tên lính đánh thuê kỳ lạ, thấy đối phương

thấp hơn mình một chút, thể hình xem chừng không cường tráng cho lắm. Đúng lúc đó, đối

phương bỗng thu liễm hơi thở lại, cảm giác nguy hiểm đang bủa vây Lữ Cánh Nam lập tức

biến mất.

Lữ Cánh Nam không khỏi bắt đầu đánh giá lại ý đồ của đối phương, chẳng lẽ là người

mình? Cô thử hỏi dò một tiếng: “Pháp sư… đại nhân?”

Nào ngờ, kẻ đó đột nhiên tăng tốc xông thẳng về phía cô, rõ ràng đối phương thu liễn hơi

thở lại chính là để cô nghi hoặc và đưa ra phán đoán không chính xác. Chỉ cần tinh thần cô hơi

dao động, hắn sẽ lập tức tìm cơ hội giáng cho cô một đòn chí mạng!

Lữ Cánh Nam không hề hoảng hốt, hai tay khẽ giương lên, hai khẩu súng cùng lúc khai hỏa.

Vừa nãy cô gọi một tiếng “pháp sư đại nhân” thực ra cũng là chiến thuật dụ địch. Tuy thân

hình đối phương rất giống với pháp sư Á La, nhưng pháp sư tuyệt đối không bao giờ dai dẳng

đeo bám truy kích cô như thế. Không lý nào pháp sư Á La lại không nhận ra hơi thở của cô. Lữ

Cánh Nam gọi đối phương là pháp sư đại nhân chính là để kẻ địch tượng rằng cô sở hở. Đây là

cuộc so tài đấu trí đấu dũng, về mặt trinh sát và phản trinh sát, cô đã thua đối phương một bàn,

vậy nên trận giao phong chính diện này, Lữ Cánh Nam không cho phép mình có bất cứ sai sót

gì nữa. Thắng hay bại, chỉ quyết định trong một ý nghĩ mà thôi.

Tránh được rồi… tránh được rồi… tránh được rồi…

Tên lính đánh thuê vẫn giữ nguyên tốc độ xông tới, chỉ là trong những khoảnh khắc bất ngờ,

hắn đột nhiên giơ tay, xoay người, nghiêng thân…, hoàn toàn không một chút đình trệ tránh

được hết những viên đạn bắn tới. Lữ Cánh Nam tự nhủ mình cũng có thể làm những động tác

ấy, tránh khỏi những loạt đạn như thế, nhưng nhuần nhuyễn tựa mây trôi nước chảy như đối

phương thì cô chưa làm được.

Khoảng cách giữa hai người mỗi lúc một gần, tốc độ bắn súng của Lữ Cánh Nam càng lúc

càng nhanh thêm, lưới hỏa lực càng lúc càng thêm dầy đặc, khoảng trống để xoay chuyển thân

hình dần thu hẹp, những tên lính đánh thuê vẫn bất chấp tất cả, cứ thế xông thẳng tới, liên tiếp

thực hiện những động tác mà ngay cả Lữ Cánh Nam cũng thấy kỳ dị, tránh khỏi những viên

đạn có thể khiến y bị thương.

Lữ Cánh Nam vừa xạ kích, vừa không ngừng suy nghĩ: Mình có thể làm được đến mức độ

nào, cực hạn rồi, mình đã đến cực hạn rồi. Đối phương vẫn tiếp tục xông lên trước, hắn vẫn

tiếp tục lao lên nữa! Đúng rồi, dùng động tác ấy là có thể tránh được, hắn nghĩ còn chu toàn

hơn cả mình nữa! Dùng thân thể hất văng đạn ra, không ngờ áo chống đạn còn có thể dùng như

vậy! Làm thế không ảnh hưởng đến tốc độ xông lên, tính toán còn cao minh hơn mình một

bậc! Hỏng rồi, gần quá! Lữ Cánh Nam đột nhiên ý thức được, phương thức tấn công thoạt nhìn

có vẻ gần như cực đoan này, thực ra là màn phô diễn sức mạnh của đối phương trước cô: “Cô

làm được, ta cũng có thể làm được. Ta làm được, chưa chắc cô đã làm được. Bởi vậy, ta mạnh

hơn cô!” Bất giác, về mặt khí thế cô đã bị lép vế đối phương mất rồi.

Hết đạn, Lữ Cánh Nam đã tĩnh kỹ số lượng đạn còn lại trong băng, nên không hề bị sững

lại, trong chớp mắt khi viên đạn cuối cùng rời khỏi nòng súng, cô lập tức ném khẩu tiểu liên đi,

rút hai khẩu súng lục, vẫn nguyên tốc độ xạ kích, đồng thời lùi dần về phía sau. Ưu thế của vũ

khí nóng nằm ở cự ly, nếu thực sự để đối phương áp sát, buộc phải cận chiến, sợ rằng cô cũng

không phải là đối thủ của tên lính đánh thuê này.

Một bên tiến một bên lùi, thanh thế của Lữ Cánh Nam lại yếu đi mấy phần, tên lính đánh

thuê kia nhân đà ấy tăng tốc lao đến, động tác trước họng súng của Lữ Cánh Nam cơ hồ đã

biến thành ảo ảnh, tốc độ nhanh đến đáng sợ.

Bộ áo chống đạn đặc biệt này khiến cho tên lính đánh thuê có thể trực tiếp đón hầu hết

những viên đạn Lữ Cánh Nam bắn ra. Cô luôn nhằm vào những vị trí yếu nhất trên bộ đồ đó,

nhưng động tác của đối phương thực sự quá nhanh, Lữ Cánh Nam bị ép lùi liên tiếp mười mấy

bước, mỗi bước là một phát súng, đạn cũng sắp hết đến nơi rồi. Thấy thân hình rõ ràng là lùn

thấp hơn mình đột nhiên ập tới như Thái sơn áp đỉnh, Lữ Cánh Nam hiểu rằng súng ống đã mất

hết tác dụng, đồng thời, cô không còn đường lui nữa. Khi bị ép chặt quá thời sẽ nẩy bật lại, thời

không tựa hồ sững lại trong khoảnh khắc, như cây cung đã kéo căng hết cỡ, sóng thần dâng lên

lúc nước triều vừa rút, cô đột nhiên tăng tốc, mang theo khí thế “dẫu thiên binh vạn mã, ta cũng

tiến lên” (5), bổ thẳng về phía đối phương như một ánh sao băng.

Cặp mắt tên lính đánh thuê sáng bừng lên, dường như cũng bị khí thế này thu hút, y không

tiến mà lùi, mũi chân điểm xuống đất một cái, thân hình hơi ngửa ra, tựa như chưa từng lao tới,

mà từ nãy đến giờ vẫn đang lùi nhanh về phía sau. Khí thế hừng hực này sinh trong nghịch

cảnh của Lữ Cánh Nam lập tức bị hẫng.

Ánh sáng biến ảo lóe lên, đôi dao găm rạch toang không gian, vẽ lên giữa rừng sâu một tấm

màn bạc óng ánh, mấy chục nhát dao chém ra mà tựa như mới chỉ vạch nên một đường. Tên

lính đánh thuê cũng hết sức trầm tĩnh, lùi một mạch mười mấy bước liền, trả lại đúng đoạn

đường y vừa ép Lữ Cánh Nam phải lùi lại. Đến khi Lữ Cánh Nam dứt hơi, lực cũ đã cạn, lực

mới chưa kịp sinh ra, y mới thình lình ra tay, cẳng chân dừng sững lại, thân thể biến đổi, tựa

như y chưa từng lùi bước, từ đầu chí cuối vẫn hừng hực khí thế xông thẳng lên phía trước.

Đối mặt với kiểu biến hóa tư thế và khí thế bất thình lình này của đối phương, Lữ Cánh

Nam bắt đầu cảm thấy khó nhọc. Cô tỉnh táo nhận ra, đối thủ tuyệt đối không cùng một đẳng

cấp với mình, năng lực của tên này quá cao so với Mekin, có lẽ phải ngang ngửa pháp sư Á La.

Không, e rằng pháp sư Á La đấu với người này, sợ rằng cũng thua trong gang tấc, rốt cuộc kẻ

này là ai vậy? Trong đội ngũ lính đánh thuê của Mekin, sao có thể tồn tại một tên nguy hiểm

thế này chứ?

Chỉ mấy chiêu ngắn ngủi, Lữ Cánh Nam đã phát giác ra chênh lệch giữa mình và đối thủ

thực sự quá lớn, cô dồn khí, bật ra như độc xà rời hang, đối phương liền khum tay lại thành mỏ

chim, khẽ mổ một cái, điểm trúng ngay chỗ bảy tấc(6) trên thân rắn, cô vung dao múa lên, khí thế mạnh mẽ tựa ưng vàng sải cánh, đối phương liền như rồng vàng uốn lượn, hai tay giao

nhau thành một cái kéo khổng lồ cắt đứt cánh ưng, cô phân quang hợp kích, tựa hổ nhảy qua

khe, báo xuyên qua rừng, đối phương liền nắm đuôi đè đầu, nhẹ nhàng hóa cái phức tạp thành

giản đơn như không.

Mỗi chiêu của cô còn chưa kịp phát ra, đối phương đã biết cô sẽ xuất chiêu gì. Cô vừa xuất

chiêu, đã bị đối phương áp chế cho không cựa quậy gì được. Đối thủ thế này, không thể đánh

được! Trong khoảng khắc ngắn ngủi như ánh chớp lóe lên giữa bầu trời, Lữ Cánh Nam đã tính

toán đường rút lui, đồng thời phải mạnh mẽ áp chế để ý nghĩ này không biểu lộ ra ngoài thân

thể. Chỉ cần động tác của cô hơi lơi lỏng đôi chút thôi, đối phương sẽ lập tức phát hiện ra ý đồ.

Cứ chạy khỏi đây đã, nếu tìm được những người khác, nhất định phải báo với họ, trong đội ngũ

kẻ địch còn ẩn giấu một cao thủ lợi hại hơn cả Mekin gấp bội! Lữ Cánh Nam đang nghĩ thế,

đột nhiên nghe “rầm” một tiếng, rồi lại liên tiếp mấy tiếng nổ nữa, xem ra đã đến thời điểm thi

thể đám lính đánh thuê kia tự phát nổ rồi. Hai người đang chiến đấu hoàn toàn không để ý đến

âm thanh ấy, vẫn tung chiêu, hóa giải chiêu thức của đối phương, một người tay cầm hai con

dao găm, còn người kia tay không. Lữ Cánh Nam gắng gượng ứng phó, đối phương cũng

không gia tăng áp lực, chỉ nhích dần từng bước, dồn ép cô đến vị trí y tính toán.

Nắm đấm của tên lính đánh thuê nhanh hơn cả Lữ Cánh Nam, trong trạng thái hành động

với tốc độ cực cao này, y vẫn hết sức ung dung biến thế, chém, chặn, quấn, đỡ, vòng, đẩy... vận

dụng yếu quyết chữ “đạn” (đánh bật ra) trong võ thuật đến mức cự độ. Hầu hết mọi đòn tấn

công của Lữ Cánh Nam đều bị y hất văng ra, hoặc đánh bật ngược trở lại. Còn Lữ Cánh Nam

thì vừa phải lo tấn công, vừa lo phòng thủ, đồng thời nghĩ cách làm sao có thể bất ngờ rời khỏi

cuộc chiến này.

Đột nhiên một mảnh đá vỡ to bằng viên gạch bị lực xung kích của vụ nổ hất văng tới, nhằm

thẳng về hướng Lữ Cánh Nam. Vì chiếc mũ bảo hộ đã che mất một phần tầm nhìn của cô, nên

khi phát hiện ra thì mảnh đã vụn ấy đã đến sát bên rồi. Tình huống cấp bách, Lữ Cánh Nam

định ngả mình né tránh, nhưng tên lính đánh thuê kia dường như đã dự liệu hết mọi chuyện, ý

nghĩ né tránh mảnh đá vừa lóe lên trong đầu Lữ Cánh Nam, hai tay đối phương đã đột ngột

vươn dài ra, tựa như hai con rắn quấn lấy tay Lữ Cánh Nam, thuận theo cổ tay cô vuốt lên phía

trước. Khi mũ bảo hộ của Lữ Cánh Nam bị mảnh đá vụn đập trúng, cánh tay tên lính đánh thuê

cũng đồng thời phát lực, đoạt lấy hai con dao găm trên tay Lữ Cánh Nam. Dù Lữ Cánh Nam

không bị thương, nhưng mũ bảo hộ bị đập trúng, khả năng quan sát hẳn đã bị ảnh hưởng ít

nhiều, tên lính đánh thuê kia lại nhân cơ hội ấy, rùn thấp người, xoay vào góc chết thị tuyến

của Lữ Cánh Nam, tóm lấy cánh tay, đè lên hông, quật vào đùi, mấy động tác liên tiếp hết sức

dứt khoát, không để cho cô bất cứ cơ hội phản kích nào.

Lữ Cánh Nam biết, thi thể bọn lính đánh thuê sẽ nổ tung sau khi chết năm phút. Cô đã nghĩ

đến việc lợi dụng vụ nổ mà mình nắm chắc ấy để đột nhiên gia tăng áp lực cho kẻ địch, chỉ là

không ngờ, đối thủ cũng nắm rõ vụ nổ trong lòng bàn tay. Điều khiến cô bất ngờ hơn là, đối

thủ lại có thể tính toán được lực xung kích do vụ nổ gây ra có thể làm bắn vật thể gì đến vị trí

nào. Điểm này thì dẫu cô cũng nhìn rõ vị trí của những cái xác lẫn hoàn cảnh xung quanh, cũng

chưa chắc đã tính toán chính xác và rõ ràng được như vậy. Người này rốt cuộc là ai? Thật quá

đáng sợ!

Lữ Cánh Nam định sử dụng thuật đấu vật cận chiến, có điều cánh tay tên lính đánh thuê kia

lại như một con mãng xà khổng lồ, càng siết càng chặt, rốt cuộc khiến cô không sao nhúc nhích

nổi. “Bốp bốp”, chiếc mũ bảo hộ rơi xuống đất, mái tóc dài như thác và gương mặt lạnh lùng

ngạo nghễ tức thì đã lộ ra ngoài. Bấy giờ tên lính đánh thuê kia mới bật ra tiếng cười của kẻ

thắng, tựa như đang cố gắng áp chế âm thanh của mình, tiếng cười khàn khàn, thấp trầm, nghe

như của loài dã thú chốn âm ty địa ngục.

“Ngươi rốt cục là ai? Mekin mời ngươi đến trợ giúp hắn?” Lữ Cánh Nam vùng vẫy hỏi bằng

tiếng Anh.

“Mekin?” Ngữ khí tên lính đánh thuê đó toát lên vẻ khinh miệt, “hắn chẳng qua chỉ là một

tên tiểu tốt mà thôi.” Hắn cúi người xuống, mũ bảo hộ chạm vào bên tai Lữ Cánh Nam, khẽ thì

thào: “Giống như cô vậy, Ha ha, ha ha, ha ha ha ha...”

Lữ Cánh Nam cực kì trấn động, ngoảnh đầu lại, cách một lớp thủy tinh mầu trà, dường như

có thể nhìn rõ vẻ giễu cợt trong mắt tên lính đánh thuê. Song điều khiến cô kinh hãi nhất là,

người đó nói tiếng Phổ thông chính hiệu, người nước ngoài không thể nào phát âm chuẩn xác

như vậy được, người này là ... người Trung Quốc!

Cô hơi nhếch mép lên, nhất thời không biết nên hỏi đối phương câu gì. Tên lính đánh thuê

chừng như đã nhìn thấu tâm tư của Lữ Cánh Nam, liền nói thẳng: “Không cần phải nghĩ cách

thăm dò ta làm gì, nói cho cô biết, ta biết nhiều hơn những gì cô tưởng tượng nhiều lắm!”

Trước vách đá ở chân núi tuyết là một quảng trường khổng lồ do còn người xây dựng. Trên

quảng trường rải rác rất nhiều tảng đá lớn, xem chừng sẽ là những bức tượng hoặc những cột

trụ kỷ niệm, nhưng rốt cục vẫn chưa thể hoàn thành, còn nguyên vóc dáng nguyên thủy của

những khối đá đỏ, trông gai góc cổ phác, tựa như những vệ sĩ trung thành bảo vệ nơi đây.

Quảng trường rốt cuộc rộng chừng nào, sợ rằng không ai có thể thoáng nhìn qua mà rõ

được, chỉ có thể đoán định bằng cảm giác. Những khối đá lớn cao bằng tòa nhà sáu bẩy tầng,

đặt trên quảng trường này trông như những quân cờ nhỏ lẻ loi. Nhưng nếu so với những cái hố

nhân tạo bên ngoài, thì quảng trường lại trở nên quá đỗi nhỏ bé.

Còn nếu so cái hồ với biển Sinh mệnh ở tầng bình đài thứ hai thì không nhỏ hơn là mấy. Sở

dĩ nói là hồ nhân tạo là bởi vẻ ngoài của nó có dấu vết bàn tay con người quá rõ rệt. Hồ nước

trông như một con mắt, hoặc có thể nói là rất giống hồ Sinh mệnh gần thôn Công Bố ở Mặc

Thoát. Hai phía bờ hồ hoàn toàn đối xứng, mép hồ phẳng như dao cắt, trơn bóng như ngọc.

Quảng trường nằm ở mí trên của con mắt, kích thước tính ra không bằng đồng tử của con mắt

này, cùng lắm chỉ là một cái vảy nhỏ trên mắt, hoặc cái lỗ chân lông của một sợi lông mi nào

đấy mà thôi.

Nếu cúi người nhìn xuống mép nước, có thể trông thấy lòng hồ trong vắt lại có một công

trình kiến trúc nhân tạo khổng lồ, hành lang, cầu điêu khắc tỉ mỉ, những khung cửa sổ đẽo gọt

cầu kỳ, lầu cao gác thấp… mọi thứ hiện ra rõ mồn một trước mắt, toát ra một khí thế thần bí

mà hào hùng. Vô số cá bơi lượn giữa những hành lang, cột trụ. Nước trong hồ không hề tù

đọng, tuyết tan trên đỉnh núi từ nghìn năm nay đều tuôn về đây, rồi chia thành dòng ở tuyến lệ

của con mắt khổng lồ này, hóa thành dòng chảy cuồn cuộn đổ đi khắp tầng bình đài thứ ba.

Ở một góc của quảng trường, vách núi nghiêng về phía trong, thoạt trông rất giống các sườn

dốc tự nhiên, nhưng thực ra cũng là nhân tạo. Ở chỗ giao cắt giữa sườn dốc này và các sườn

dốc tự nhiên khác có một khe hẹp, thoạt nhìn tưởng là hình thành tự nhiên, nhưng vòng qua đó

không gian bỗng nhiên mở rộng, hóa ra lại là một thạch thất khoét sâu vào lòng núi. Ở sát vách

núi, sừng sững một cánh cửa đá khổng lồ, chính giữa cánh cửa có một con nhện núi tuyết

khổng lồ, trên lưng cõng vô số thiên thần và ác ma phẫn nộ, mỗi bên chiếm một cánh cửa,

phảng phất như hàng trăm nghìn năm qua vẫn không ngừng chinh phạt lẫn nhau. Tám chân

nhện vươn ra đến mép cánh cửa, cắm vào vách núi. Mỗi cẳng chân nhện lại mọc vô số lông tơ

nhỏ, phủ khắp cánh của đá, tựa như một màng lưới. Thân thể con nhện bị ghim vào một hình

tam giác khổng lồ, trong hình tam giác ấy lại có một vòng tròn. Con nhện nằm trên đường

thẳng đi qua tâm vòng tròn giống như một con mắt nhướng lên. Ai mà biết được bức phù điêu

này có ý nghĩa gì?

Bên mé trái dưới cánh cửa, có một bồn nước nhỏ trông như chỗ rửa tay, nhưng bên trong

không có giọt nước nào. Trên bức tường bên phải cánh của có khắc ba hàng chữ lớn, vị pháp

sư gia mệt mỏi không sao giấu nổi vẻ hưng phấn trong ánh mắt đang dịch từng câu một: “Một

người huyết thống thuần chủng, một người trí tuệ tuyệt luân, một người không sợ hãi, thân thủ

tuyệt thế…”

Trước cánh cửa đá là một hành lang rộng chừng mấy mét, bên ngoài hành lang sừng sững

những cột đá khổng lồ, mỗi cột trụ phải năm người ôm mới xuể. Liền kề cây cột là năm sáu

bậc thang thoai thoải dốc xuống. Đường Mẫn sớm đã không nhấc nổi chân lên nữa rồi, cô ngồi

trên bậc thang, dựa lưng vào cột trụ, lắng nghe Pháp Sư Á La phiên dịch, không nhịn nổi lên

tiếng hỏi: “Thế nghĩa là gì ạ?”

Pháp Sư Á La đáp: “Xét theo nghĩa từng chữ thì người đến đây cần phải có huyết thống

thuần chủng, trí tuệ tuyệt đỉnh và trái tim không sợ hãi tất thẩy mọi thứ trên đời, vậy mới có thể

mở cánh cửa này ra được. Ừm, trong tiếng Tạng cổ, tràn đầy dũng khí và tự tin không gì sánh

nổi, thông thường cũng đồng nghĩa với sở hữu sức mạnh lớn lao nhất và kỹ xảo cao minh nhất,

câu cuối cùng đó có thể lý giải là, một người võ nghệ trác tuyệt, tài cao gan lớn.”

Mẫn Mẫn nghiêng nghiêng đầy nhìn ba hàng chữ to như cái xe tải, lại không ghìm được hỏi

tiếp: “Vậy chúng ta không thể mở cánh cửa này ạ?” Cô nghĩ ngợi giây lát, rồi đề nghị: “Hay

dùng thuốc nổ phá ra?”

Pháp Sư Á La lắc đầu nói: “Vữa nãy ta có thử vỗ mấy chưởng vào các khe cửa rồi, cánh cửa

này không giống như những cánh cửa bình thường, bề dày còn hơn cả bề rộng, chúng ra chỉ

còn một ít thuốc nổ, không thể nào cho nổ bật cánh cửa ra đâu, ngược lại còn phá hoại cơ quan

mở cửa không chừng.”

Hai cánh cửa này đích thực rất khác những cửa đá khác, nó cao chứng hai chục mét, nhưng

bề rộng thì lớn hơn rất nhiều, hai cánh cửa vươn dài sang hai bên, mỗi bên chừng bốn năm

chục mét, Mẫn Mẫn kinh ngạc thầm nhủ nếu đúng như Pháp Sư Á La nói, bề dày của nó còn

lớn hơn cả bề rộng, vậy thì làm sao mở ra được đây? Rõ ràng, đẩy vào trong hoặc đẩy ra ngoài

đều không thể được rồi. Lúc này, cô mới nhớ đến những sợi lông tơ trên chân con nhện, kết

cấu rất giống ở cánh cửa lớn điều khiển cả huyết trì mà họ đã từng trông thấy, bất giác khẽ thốt

lên: “A, cánh cửa này…”

Pháp Sư Á La vỗ vỗ lên cánh cửa, gật đầu nói: “Đúng vậy, cánh cửa này mở sang hai bên,

cuối cùng cũng rụt vào trong lòng núi, điều khiển bằng một loại cơ quan tương tự như huyết

trì, vì thế mới cần đến một người có huyết thống thuần chủng.” Mẫn Mẫn bấy giờ mới hiểu,

những dòng chữ kia đang khẳng định một sự thật hiển nhiên là máu của họ không thể mở cánh

cửa này ra. Cô lại hỏi tiếp: “Vậy cái giếng kia để làm gì ạ?”

Cái giếng mà Mẫn Mẫn nói đến chính là một cái hố tròn ở mé phải phía dưới cánh cửa, đối

xứng với cái bồn nước trông như chậu rửa tay ở mé trái. Kỳ thưc, không thể coi đó là giếng

nước được, vì không có thành giếng, chỉ là một cái hố hết sức tròn trịa, bên dưới tối đen như

mực nằm trên mặt sàn mà thôi. Vừa mới tới đây, Pháp Sư Á La đã thử ném đá dò đường, kết

quả là từ đường hầm bên dưới vẳng lên những tiếng “cách cách”, viên đá lăn một lúc lâu mới

dừng lại.

“Đây là giếng tế của cánh cửa này.” Pháp Sư Á La đáp

“Giếng tế?”

“Đúng vậy, thời cổ đại, rất nhiều nơi đều làm tương tự như vậy. Sau khi một công trình kiến

trúc hùng vĩ hoàn thành, hoặc trước khi khởi công xây dựng người ta đào một cái giếng tế, hiến

người sống hoặc súc vật để đảm bảo công trình sẽ yên ổn vững bền hoặc khởi công được bình

an, về sau mới phát triển thành nghi thức đặt móng, thay vì chôn người và súc vật thì chôn tảng

đá nền. Nom dạng thức của giếng tế này, thì hẳn là thiết kế sau khi công trình hoàn thành, để

đảm bảo tòa kiến trúc này nghìn vạn năm không sụp đổ, phù hộ cho con cháu đời sau mãi mãi

được hưởng thụ vinh dự và an khang.”

“Vậy ạ?” Mẫn Mẫn nhớ đến địa cung Maya ở Nam Mỹ, bèn buột miệng hỏi: “Vậy chúng ta

có thể vào trong qua đường giếng tế này không?”

Pháp Sư Á La đương nhiên đoán được suy nghĩ của cô, mà ông cũng hiểu rõ những thành

bang Maya mang rất nhiều nét đặc sắc của kiến trúc tộc Tạng, nhiều chỗ còn mô phỏng thiết kế

kiểu Mật giáo ở đất Tạng của bộ tộc Qua Ba. Pháp Sư Á La lắc đầu nói: “Giếng này khác giếng

tế ở địa cung Ahezt, mỗi giếng tế đều có đặc điểm riêng, cần phải xem nó dùng đề làm gì đã.

Có giếng tế thông thẳng xuống hố sâu, người và súc vật bị vứt xuống đó, bốn phía xung quanh

bịt kín; có giếng lại nuôi dưỡng những động vật hung dữ, thức ăn là người và súc vật, nên bên

dưới sẽ có chỗ thông khí; còn giếng tế ở địa cung Maya ngoại trừ để ném người và súc vật

xuống hiến tế, còn có một công năng khác là để thoát nước cho tầng trên, vì vậy lớp ngăn cách

giữa phần dưới giếng và tầng trên mỏng như thế, chứ thông thường lòng giếng tế đều là một

gian phòng biệt lập bị bít kín, hoàn toàn ngăn cách với xung quanh. Cứ trông viên đá lúc nãy ta

mới ném xuống mà xét, với độ cao ấy, chúng ta xuống dưới rồi tuyệt đối không thể lên được,

có tìm được lối ra hay không, hoàn toàn dựa vào vận may. Vậy đấy, cô có muốn đánh cược

một phen không?”

Mẫn Mẫn dẩu môi lên, không nói nữa. Pháp Sư Á La nói đùa kiểu gì vậy chứ, mình vẫn còn

chưa gặp được Cường Ba cơ mà. Cô không muốn một mình rơi xuống gian phòng đá kín mít

lần nữa. Tuy rằng lần này có Pháp Sư Á La, nhưng vị pháp sư này mà ngồi thiền tĩnh tọa Mật

tu thì khác gì cái xác đâu? Đi với cô một thời gian dài, cộng với tất cả những lời Pháp Sư Á La

nói lại, sợ rằng cũng không được nhiều bằng một ngày hôm nay.

Một lúc sau, cô nàng không chịu được cảnh ngồi chờ mãi, lại bắt đầu nôn nao khó chịu. Cô

cất tiếng hỏi: “Pháp sư, vậy bây giờ chúng ta làm gì được ạ?”

“Đợi” Pháp Sư Á La đáp chắc nịch, không một mảy may do dự. Ánh mắt của ông trở nên

kiên nghị, xuyên thấu qua khe hẹp giữa hai vách núi, cơ hồ đã nhìn thấy cả bờ hồ bên kia. Chỉ

nghe ông lẩm bẩm: “Ta đã bắt được tín hiệu cơn gió từ phương xa mang đến. cả khu rừng náo

động rồi, lũ sói đang gầm lên giận dữ, một cuộc đại tàn sát quy mô lớn đang diễn ra. Bọn

Merkin đã đến rồi thì chắc chắn Cường Ba thiếu gia cách chúng ta không còn xa nữa đâu.”

“Cường Ba!” Mẫn Mẫn đột nhiên thấy bao nhiêu mệt mỏi tiêu tan hết, cô đứng bật dậy, cơ

hồ cũng muốn nhìn thấy mặt hồ sang tận bờ hồ bên kia, nhìn thấy tình hình đang diễn ra trong

rừng sâu như Pháp Sư Á La. “Cường Ba nhất định sẽ tới.” Cô tràn đầy lòng tin với Trác Mộc

Cường Ba, Cường Ba của cô là Thánh sứ, hẳn phải có huyết thống thuần chủng rồi? “Đúng

vậy, nhất định sẽ tới.” Pháp Sư Á La liếc nhìn vệt máu xanh nhàn nhạt sau tai Đường Mẫn,

trong lòng thầm do dự, đã lan đến tận đây rồi cơ à, cô bé này, rốt cuộc còn kiên trì được bao

lâu nữa đây?

Đường Mẫn sực nhớ ra điều gì đó, lại thấp thỏm hỏi: “Pháp sư, ngài nói xem, đường chúng

ta đi phức tạp ngoằn ngoèo như thế, Cường Ba, họ liệu có… sao lại có nhiều sói như vậy chứ?

Chúng ta dọc đường đâu có gặp con sói nào đâu?”

Pháp Sư Á La khẽ mỉm cười, chỉ có ông trời mới hiểu rõ, mình đã phải cẩn thận chững nào

mới có thể tránh khỏi tất cả các động vật lớn, đưa cô bé này đến đây an toàn. Có điều, lũ sói

kia quả thực không được ổn cho lắm. Chỉ dựa vào mấy người bọn Merkin, làm sao có thể khiến

cả khu rừng nảy sinh biến động lớn như vậy chứ? Thủ hạ của y chẳng phải đã bị tiêu diệt sạch

rồi hay sao? Tên Merkin đó rột cuộc còn giấu bao nhiêu người nữa? Chẳng lẽ là tên Thao thú

sư kia? Vừa nghĩ đến Thao thú sư, Pháp Sư Á La không khỏi rùng mình kinh hãi. Một chức

nghiệp thật đáng sợ, không biết cậu lính trinh sát Nhạc Dương kia có thành công được hay

không?

Pháp Sư Á La xoay người lại, vuốt ve nhẹ lên bức phù điêu trên cánh cổng khổng lồ, lẩm

bẩm: “Bạc Ba La thần miếu, tầng cuối cùng của Địa ngục, bao giờ mới mở cánh cửa này ra cho

chúng ta đây?”

GẶP LẠI SOARES

Trác Mộc Cường Ba và tiểu đội sói chiến của gã lại tiêu diệt thêm mấy tên lính đánh thuê

tàn dư. Phối hợp thêm với các loại bẫy rập, đàn sói và Trác Mộc Cường Ba chẳng tốn mấy

công sức, thậm chí Trác Mộc Cường Ba còn chưa dùng đến vũ khí.

Lúc này, bọn gã gặp một con sói trinh sát của tiểu đội khác. Sau khi kiểm tra thân phận, con

sói ấy dẫn bọn Trác Mộc Cường Ba đến bên dưới một gốc cây lớn, có bẩy tám con sói xúm

quanh, xung quanh cũng có trạm canh ngầm giám sát, dường như đang bao vây con mồi.

Tuy nói rằng sói có thể leo cây, nhưng chỉ là mượn lực của cú nhảy, đeo bám leo lên những

cây tương đối thấp, có nhiều cành chĩa ra mà thôi, còn đối với các loại cây cổ thụ, từ dưới đất

leo cao mấy chục mét chỉ có mỗi thân cây trơn nhẵn thế này, đàn sói xem ra cũng không có

cách nào leo lên được.

Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên, chỉ thấy trên chạc cây cao tít, có một con vật thuộc loại

linh trưởng, toàn thân mầu hồng phấn đang ngồi chồm hỗm, chừng như muốn nhảy sang một

cành cây khác song khoảng cách lại quá xa, còn leo xuống dưới thì có cả một bầy sói đang

nhìn chằm chằm như hổ đói rình mồi. Trông thấy sinh vật ấy, Trác Mộc Cường Ba không nén

được ý nghĩ bùng lên trong đầu: “Đây là quái vật gì vậy?”

Kẻ ngồi chồm hỗm trên cành cây ấy chẳng phải ai khác mà chính là Thao thú sư Soares.

Màu hồng phấn Trác Mộc Cường Ba trông thấy là những vết sẹo lồi lõm khắp thân thể y.

Lúc này, Soares đang ngó xuống phía dưới, chỉ thấy đàn sói đang bao vây mình tách ra một

hai con chạy đi, không lâu sau dẫn về một gã đi bằng hai chân, thoạt trông như người vượn,

không biết là quấn da thú hay trên người hắn mọc đầy lông lá, râu tóc bù xù che kín cả mặt, da

bám đầy cỏ lác, bàn tay dường như cũng to lớn dị thường. Điều khiến y kinh hãi nhất là, một

kẻ bộ dạng nguyên thủy nhường ấy, nhưng trên tay lại cầm súng, trông càng quái dị bội phần.

Soares không khỏi thầm nhủ: “Đây là quái vật gì vậy?”

Hai con quái vật quan sát nhau chừng mười mấy phút đồng hồ, vẫn không nhận ra nhau.

Cuối cùng, Soares cho rằng có thể cầm súng theo tư thế ấy, đối phương quá nửa là cũng có trí

tuệ nhất định rồi, bèn thử xem có dùng thủ ngữ trao đổi hay không. Y ngồi trên cành cây, đưa

tay vạch ra mấy động tác Trác Mộc Cường Ba xem chẳng hiểu gì, Soares lại sợ sinh vật có trí

tuệ bên dưới không rõ ý, bèn kêu lên mấy tiếng “khọt khẹt, khọt khẹt”.

Trác Mộc Cường Ba ở bên dưới thấy thế, thầm nhủ: “Hả? Con khỉ trên cây kia khua chân

múa tay gì vậy? Giễu cợt ta không lên được chắc?”

Trác Mộc Cường Ba liền đeo súng trước ngực, dồn tụ đủ hơi, hít sâu vào rồi “À…hú…”

rống lên một hồi dài như sói tru, khiến lũ sói xung quanh cũng lần lượt phụ họa hòng tăng thêm

phần uy hiếp với kẻ địch trên cao.

Soares bực bội hết sức, rõ ràng y trông thấy tên người vượn kia và đàn sói có giao lưu hình

thể với nhau, mấy động tác và âm thanh vừa rồi của mình, sao đối phương lại không hiểu được

chứ? Nào ngờ lại thành ra khiêu khích khiến tên kia và lũ sói dâng trào chiến ý. Y không kìm

được buột miệng chửi: “Con bà nó!” Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình, nhảy lùi lại một bước,

hóa ra con khỉ kia biết nói tiếng người, lại còn nói cả tiếng Anh. Lũ sói cũng lùi lại theo gã, tỏa

ra theo hình tròn, sau đó Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng hỏi: “Ngươi là cái gì vậy?”

Soares cũng hoảng hồn, suýt nữa rơi thẳng từ trên cành cây xuống, người vượn không ngờ

lại lên tiếng nói tiếng người! Thật là quái dị hết sức! Y chỉ tay về phía tên vượn người, lắp bắp

hai tiếng “ngươi… ngươi…”, rồi không nên lời nữa.

Trác Mộc Cường Ba đã hết kiên nhẫn bèn lớn tiếng quát “Xuống đây cho ta, bằng không ta

sẽ nổ súng đấy!”

Đối phương đã nói ra những lời như thế, hiển nhiên khẩu súng kia không phải coi như khúc

gỗ cầm trên tay rồi, Soares tự thấy phen này khó thoát, đành ngoan ngoãn bám vào thân cây

trượt xuống. Trác Mộc Cường Ba cũng ở dưới kiềm chế đàn sói.

Lúc này, ở khoảng cách gần, Soares mới phát hiện, tên người vượn trước mặt mình, ngoại

trừ đầu tóc râu ria rậm rạp ra, còn lông lá và cỏ lác khắp người đều là ngụy trang. Những kẻ

này tuyệt đối không thể là thuộc hạ của Merkin được, lũ người ấy không thể tiếp cận với sói

như thế này. Nhìn thể hình và chiều cao của đối phương, Soares kinh hãi thốt lên: “Ngươi là

Trác Mộc Cường Ba!”

Tuy chưa lập tức nhận ra kẻ toàn thân lõa lồ khắp người đầy sẹo này là ai, nhưng vừa nghe

giọng nói ấy, Trác Mộc Cường Ba lập tức nhớ đến tên Thao thú sư lạnh lùng quái dị, bất giác

buột miệng thốt lên: “Ngươi là Soares!”

Sực nhớ đến đối phương là một Thao thú sư, Trác Mộc Cường Ba liền ra lệnh cho lũ sói

xung quanh lùi ra xa thêm một chút. Soares nở một nụ cười bất lực: “Giờ tôi chẳng còn gì cả,

không thể uy hiếp lũ sói của anh đâu.”

“Ông đúng là Soares? Kahn?” từ khi chứng thực được cái tên này thông qua Nhạc Dương,

Trác Mộc Cường Ba vẫn luôn thắc mắc, tại sao lại là Soares, tại sao y lại là đồng đảng của

Merkin được, đó là người mà cả thầy giáo cũng kính phục cơ mà!

Soares không tỏ vẻ gì, cơ hồ cảm thấy chẳng có lý do gì mà phải mạo xưng cái tên ấy cả.

Trong khi ấy, Trác Mộc Cường Ba lại tự vấn lòng mình: “Kẻ này là tử địch của ta ư? Ta

phải căm thù hắn ư?” Nhưng kẻ xuất hiện trước mắt gã đây chỉ là một ông già toàn thân đầy

thương tích, gầy guộc như con vượn. Gã nhận ra mình không thể căm thù đối phương được,

thau vào đó chỉ thấy thương hại. “Không phải ông đi cùng Merkin sao? Sao lại ra nông nỗi

này?” Bản thân Trác Mộc Cường Ba cũng lấy làm kinh ngạc trước những gì mình vừa thốt ra

khỏi miệng.

Ánh mắt Soares cuối cùng cũng thoáng lộ vẻ nhục nhã và bất lực, y thở dài đáp: “Giống như

anh thôi, tôi… cũng bị chúng xua đuổi!”

Ký ức Trác Mộc Cường Ba trong nháy mắt đã quay ngược lại cảnh tượng nhục nhã khi bị

đuổi đi trên vùng đất lạnh lẽo, toàn thân trần truồng như nhộng. Ký ức ấy, cả đời gã không thể

nào quên được, đưa mắt nhìn ông lão già nua trần truồng trước mặt, cảm xúc đồng bệnh tương

lân bỗng nhiên dân lên: “Merkin làm hả?”

Soares cúi đầu.

“Tại sao ông giúp hắn?”

“Tôi là một học giả, một kẻ có hứng thú vô biên với mọi điều huyền diệu của thế giới động

vật. Merkin nói, nơi này chính là vùng đất khởi nguyên của Thao thú sư, nơi này có các loại

động thực vật mà không đâu trên thế gian này có, nơi này có cổ độc, tóm lại, hắn đã thuyết

phục được tôi.”

“Vậy ông làm sao lại bị bọn chúng đuổi đi?”

“Nói ra, thì chuyện này cũng nhờ tên lính trinh sát ưu tú của các ngươi ban cho đấy, phải

rồi, sao Nhạc Dương lại không đi chung với anh? Thằng nhãi ấy chưa tìm được anh à?”

“Cậu ấy…đã…”Trác Mộc Cường Ba không ngờ, lại có một ngày mình có thể cùng kẻ khiến bọn gã e ngại

nhất trong đội ngũ của Merkin, một Thao thú sư thần bí, ngồi xuống bình tâm trò chuyện như

thế này.

Bọn họ trò chuyện rất lâu, nói rất nhiều chuyện, Soares giờ tự xem mình như một tên tù

binh, kể lại mọi chuyện y biết cho Trác Mộc Cường Ba nghe, bắt đầu từ cuộc điện thoại của

Merkin.

Trác Mộc Cường Ba nhờ vậy mà tháo gỡ được rất nhiều nghi vấn trong lòng, nhưng đồng

thời lại có thêm rất nhiều nghi vấn mới nảy sinh, khiến gã không thể không thể không trầm

ngâm suy nghĩ.

Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba đưa ra đề nghị: “Giúp tôi đối phó với Merkin.”

Soares lắc đầu: “Anh có yên tâm với tôi? Không, tôi không giúp anh, cũng sẽ không giúp

Merkin. Tôi chỉ muốn trở về. Trước giờ, tôi không hề hứng thú với báu vật gì hết, cũng không

hứng thú với trò chơi gián điệp và phản gián của các người, mệt mỏi lắm, tôi chỉ muốn về nhà,

tiếp tục hoàn thành nghiên cứu thôi.”

“Ông định đi thế nào?” Trác Mộc Cường Ba chau mày hỏi, “Người của Merkin và đàn sói

rải rác khắp khu rừng này, tôi không thể đưa ông ra được.”

“Cho tôi một con dao”, Soares ngẩng phắt đầu lên, nói với giọng hết sức kiên định, “tôi chỉ

cần một con dao, hoặc công cụ dùng được là có thể sống sót rời khỏi nơi này, không cần phải

đưa tiễn. Đối với tôi, rừng sâu giống như là nhà vậy, đương nhiên…” Soares nở một nụ cười tự

giễu: “Tôi không thể dùng tay tạo ra công cụ được”.

Trác Mộc Cường Ba thoáng chần chừ, nhưng vẫn đưa cho Soares một con dao đi rừng rồi

hỏi: “Đoạn đường phía trước, chưa ai đi qua cả, ông có lòng tin băng qua được thủ phủ của

vương quốc loài sói không?”

“Không, tôi đã nghe anh nói về những sinh vật viễn cổ ở tầng bình đài thứ nhất, tôi muốn

xuống dưới đó.” Soares thản nhiên trả lời.

“Ông muốn băng qua biển? Một mình ông?” Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên.

“Cho dù không thể trở về, thì cũng có thể tận mắt chứng kiến những sinh vật chưa từng

được thấy, chưa từng được nghe nói đến bao giờ ấy, tôi có chết cũng không còn gì nuối tiếc.”

Soares dường như không định trở về nữa, được nhìn thấy nhiều điều như vậy, y đã thỏa mãn

lắm rồi. Mà đối với y, những từ ngữ như “Nhân loại” hay “Chiến hữu” mới là đáng sợ nhất. Y

để lại cho Trác Mộc Cường Ba một lời cảnh báo: “Nếu gặp phải Cáo Lửa lần nữa, dù hắn nói

gì, anh cũng tuyệt đối không được tin, đừng để vẻ bề ngoài của hắn gạt. Cáo Lửa chỉ tin vào

chính bản thân mình, ngoài ra hắn không tin bất cứ ai khác.”

Nhổm đứng lên nghĩ ngợi giây lát, Soares lại nhắc nhở: “Đầu tóc râu ria của anh, tốt nhất

nên sửa sang lại một chút, bộ dạng lúc này dù là đồng bạn của anh trông thấy, sợ rằng cũng

không nhận ra được đâu.”

Trác Mộc Cường Ba cười cười: “Sống chung với bầy sói lâu ngày, tôi đã quen rồi, cũng

không cảm thấy có gì vướng víu.”

“Cạo sạch đi, đối đầu với Cáo Lửa, không thể có bất cứ sơ hở gì.” Cuối cùng, Soares nói.

Soares lom khom lê thân thể đầy thương tích bước đi. Không còn tấm áo choàng đen che

kín người, y đã không còn vẻ thần bí và mạnh mẽ như trước nữa.

Trác Mộc Cường Ba nhìn theo bóng lưng gầy guộc của y, cảm thấy đó chỉ là một lão già

lọm khọm, cơ hồ bất cứ con sói nào cũng có thể dễ dàng xé nát tấm thân ấy ra.

“Soares Kahn… cảm ơn ông đã cho tôi biết nhiều như vậy, xem ra, ông cũng chỉ là một kẻ

đáng thương bị người ta lợi dụng mà thôi.”

Lũ sói dường như hơi bực tức với hành động thả Soares của Trác Mộc Cường Ba, mấy con

sói thuộc tiểu đội khác phát ra những tiếng gầm gừ bất mãn. Còn mấy còn sói chiến thuộc đội

của Trác Mộc Cường Ba vẫn giữ im lặng, dẫu sao gã cũng là đội trưởng của chúng, trong chiến

đấu, thuộc hạ phải tuyệt đối phục tùng chỉ huy, đây là luật lệ thép của vương quốc sói.

Trác Mộc Cường Ba đành tìm đội trưởng của tiểu đội kia, một con chó ngao vàng trán rộng

miệng to, dùng phương thức chuyên biệt nói cho nó biết nhược điểm của kẻ địch, cũng như sự

đáng sợ của vũ khí trên người chúng.

Con ngao vàng dẫn đám sói chiến thuộc hạ luyện tập mấy lần với Trác Mộc Cường Ba, rồi

hài lòng gật gật đầu. Thả đi một kẻ địch, đổi lại thông tin về ưu khuyết điểm của tất cả bọn

địch thì có thể chấp nhận được. Vả lại, đối với chúng, một kẻ địch toàn thân trần truồng thì đã

không còn sự uy hiếp nữa rồi,

Sau đó hai tiểu đội cùng hành động, tiếp tục tìm kiếm tàn quân địch trong rừng.

Thi thoảng lại có những đàn sói khác đi qua chỗ bọn họ trao đổi thông tin. Với vốn tiếng sói

dở sống dở chín của mình, Trác Mộc Cường Ba cũng nghe ra được kẻ địch trong rừng càng lúc

càng ít, nhưng có một cánh quân địch rất đông đang chạy về hướng Tây Bắc, bộ chỉ huy chiến

đấu ra lệnh, tất cẩ các tiểu đội sói sau khi tiêu diệt kẻ địch trong lãnh địa được phân công của

mình, đều lập tức truy kích theo hướng Tây Bắc.

Bọn Mekin phải trốn chạy khá vất vả, kể từ sau trận phục kích, đàn sói vẫn không ngừng

truy sát bọn y. Y đã tốn không biết bao nhiêu tâm lực mới gom lại được gần nửa số nhân thủ

ban đầu. Đến tối, đàn sói lại càng hoạt động mạnh mẽ hơn, bọn lính đánh thuê căn bản không

dám ngủ. Trong rừng rậm, đâu đâu cũng thấy chập chờn những đôi mắt mầu bích lục. Lũ sói

này thực tình giảo hoạt đến phát sợ, chúng luôn luôn lượn lờ bên ngoài phạm vi xạ kích của

đám lính đánh thuê, lợi dụng ưu thế về số lượng, gây áp lực vô cùng lớn cho kẻ địch, chẳng

những vậy, nơi này còn là rừng rậm nguyên sinh, lũ sói ấy có thể ẩn mình ở bất cứ nơi nào.

Rốt cuộc Mekin cũng hiểu được tình cảnh nguy hiểm mà đội biệt động Nhện Xanh của Ba

Tang phải đối mặt, tại sao cả đội quân tinh nhuệ chỉ còn lại hai người sống sót rời khỏi nơi này.

Những gì anh ta nói tuyệt đối không phải là bịa đặt để dọa dẫm người khác. Lũ sói ở đây thực

sự quá đông đảo, chẳng những thế, vùng đất này giống như bị chúng thần nguyền rủa vậy, đến

cỏ cây hóa lá cũng biết ăn thịt người, lại có vô số loại quái thú hoang dã mà bọn y không biết

tên cũng bị mùi máu tanh của đám lính đánh thuê thu hút, xông đến tham gia vào bữa yến tiệc

thịnh soạn. Lũ sói chỉ cần ở đằng xa lặng lẽ theo bám và quan sát, thỉnh thoảng lộ mặt ra một

lát là đủ dọa cho đám lính đánh thuê của Mekin vãi đái ra quần, ngày không ăn, đêm không

ngủ được. Cứ tiếp tục như thế này, một hai ngày nữa tinh thần của đám lính đánh thuê sẽ hoàn

toàn suy sụp, bọn chúng sẽ nảy ra những hành vi ngủ xuẩn như tàn sát lẫn nhau, hoặc thậm chí

là tự sát.

“Tình hình thế nào?” Mekin đến trước mặt Khafu, giờ đây, y không thể không coi thường

tên thủ lĩnh lính đánh thuê này hơn trước. Vốn dĩ, với quan hệ từ trước, hai người hoàn toàn có

thể thân thiết hơn nữa, có trách thì chỉ trách Nhạc Dương kia đã làm lộ bí mật của y trước thời

điểm cần tiết lộ mà thôi.

Khafu giơ một khẩu súng ngắn cỡ lớn, nheo mắt ngắm về phái đàn sói ở đằng xa, hằn học

chửi: “Tiên sư chúng nó, lũ sói này giảo hoạt quá! Hơn nữa lại liên tục di chuyển, cứ như uống

phải thuốc lắc ấy.”

“Thuộc hạ của anh còn bao nhiêu người?”

“Chắc còn khoảng bảy tám chục thằng, vẫn tổ chức lại thành sáu bảy tổ được, vấn đề quan

trọng là lũ sói kia, bọn chúng càng tác chiến với chúng ta nhiều, thì lại càng giảo hoạt hơn!

Anh nhìn mà xem, giờ chúng còn không trực tiếp tấn công nữa, mà chúng nấp mở đằng xa, lùa

những động vật khác và cả những thứ quái quỷ chẳng hiểu là gì đến tiêu hao hết đạn dược của

chúng ta. Tôi dám chắc chỉ cần chúng ta bắn hết đạn, lập tực bọn sói sẽ ào ào bổ tới ngay.”

Lúc này, một tên lính trinh sạt chạy về báo cáo: “Ông chủ... tướng quân... phía... phía trước

có sói, nhiều... nhiều lắm, chúng ta không thể qua được, không thể tiến về phía trước được

nữa!”

Mekin vươn tay tóm lấy tên lính đánh thuê đó, nghiêm giọng quát: “Bảo với chúng nó, đã

đến nước này rồi, không thể quay đầu được nữa, mặc xác phía trước có bao nhiêu con sói, cũng

phải xông qua, cho dù phóng hỏa thiêu cháy cả khu rừng, hay cho nổ bom thì cũng phải mở

cho ra cho tao một con đường!”

Tên lính đánh thuê vẫn chưa hết kinh hoảng, bèn hấp tấp chạy đi. Lúc này, Max không hiểu

từ đâu chui ra, ánh mắt lóe lên một tia hung tàn, hắn hé miệng bên tai Mekin thì thầm: “Ông

chủ, nếu lũ sói này thật sự thông minh, vậy thì tôi có một cách hay, thế này... thế này...”

Khóe mắt Mekin hơi nhướng lên, cách mà Max nói quả thực có thể thực hiện được, chỉ là

dùng cách này... đúng là chỉ có hắn mới nghĩ ra được, ngay cả chính bản thân y cũng không

dám nghĩ như vậy nữa.

Mekin nghĩ ngợi giây lát, rồi đột ngột quay đầu lại, nhìn chằm chằm vào Max, lạnh lùng

cười gằn: “Nếu mày đã cảm thấy cách này hay ho, vậy để mày thực hiện đi!”

“Tôi... tôi...!” Max cả kinh, không biết phải ứng đối thế nào mới phải.

Mekin lấy trong người ra một chiếc điều khiển từ xa nhỏ, thoạt nhìn trông như khóa điện tử

xe hơi, giao cho Max, sau đó nói: “Phải, mày làm đi, tao tin mày.”

Max run cầm cập, nhận lấy cái điểu khiển từ xa, nét mặt lộ vẻ khó xử. Lúc đó hắn chỉ nghĩ

đây là một ý kiến hay, nhưng thực sự không ngờ ông chủ lại để cho mình đi thực hiện, lần này

vỗ mông ngựa thành ra vỗ phải chân ngựa rồi, đúng là lợi bất cập hại.

Nhưng khi nắm chặt cái điều khiển từ xa, nét mặt Max lại hiện lên một tia mừng rỡ: “Thế

này thì quyền khống chế sinh tử của đám lính đánh thuê toàn bộ đều nằm trong tay mình rồi,

nói không chừng còn có thể... hắc hắc...”

Mekin dường như đã đoán được trước được ý nghĩ của Max, lại lấy trong túi áo ra một cái

điều khiển từ xa giống hệt cái vừa đưa, vung vẩy trước mặt hắn: “Mày cũng đừng có ý đồ khác,

bộ điều khiển này vốn không chỉ có một cái thôi đâu.”

Max vội cười nịnh nọt” “Làm... làm gì có, ông chủ, lòng trung thành của tôi với ông, thật sự

là...”

“Được rồi! Đi mau đi!” Lúc này Mekin chẳng còn tâm tư đâu mà nghe những câu buồn nôn

ấy của hắn nữa.

Mồ hôi lạnh túa ra khắp người Max, cái mạng nhỏ của hắn vẫn còn nằm trong tay ông chủ,

nếu ông chủ hắn mà bực mình ấn cái nút nhỏ đó một cái, vậy thì...

Khafu cầm khẩu súng bắn tỉa cỡ lớn đứng lên, hỏi: “Định làm gì vậy?”

Mekin đáp: “Cách của thằng Max có thể thực hiện được, nếu lũ sói kia thật sự đủ thông

minh, thì chỉ cần hy sinh tính mạng của một hai tên lính đánh thuê có thể sẽ đổi được mạng của

toàn bộ những người còn lại.”

Khafu lập tức biến sắc: “Gì hả, anh...”

Mekin cười lạnh nói: “Đây là cách duy nhất, cứ tiếp tục để hết người này đến người khác bị

lũ sói tha đi cắn chết thế này, chi bằng đánh cược một phen. Anh không biết đấy thôi, lũ sói ở

đây không giống như sói nơi khác, sở trường nhất của chúng là tâm lý chiến. Anh vẫn chưa

đụng phải những việc khiến anh gặp ác mộng cả đời đâu.”

Mekin nhớ lại những gì Ba Tang đã trải qua, cho đến lúc này, lũ sói kia vẫn còn chưa kéo

những tên lính đánh thuê bị chúng cắn xé cho sống dở chết dở trở lại trước mặt bọn y.

Mekin bước qua trước họng súng của Khafu, hạ giọng nói: “Đi thôi, chúng ta đi xem lũ sói

ấy có rút lui hay không?”

Bọn họ đi thẳng đến phía trước đội hình lính đánh thuê, không hiểu Max dùng thủ đoạn gì

mà một tên lính đang lảo đảo bước về phái chỗ bầy sói tụ tập đông nhất trước mặt. Còn cách

khoảng gần trăm bước chân, một con sói đã lao bổ lên, tên lính đánh thuê đó như phát điên,

không lùi lại mà còn tiếp tục lao lên, xông thẳng vào giữa đàn sói hét lớn. Thoáng cái, đã có

mấy chục con sói chất lên thành một đống nhỏ, hoàn toàn che lấp cả thân thể y bên dưới. Lúc

này, Max nghiến răng, nhấn núi trên điều khiển, “ầm” một tiếng lớn, ánh lửa bốc lên ngập trời,

lũ sói lập tức bị nổ tan thành thịt vụn. Những con sói khác đều nhất loạt lùi lại phía sau, kinh

ngạc nhìn nơi vừa phát nổ, tựa hồ không hiểu tại sao kẻ đó lại trở lên đáng sợ như vậy. Lũ sói

bị thương rú gào đau đớn, nhũng con sói khác đều không dám đến gần.

Lúc này, tên lính đánh thuê thứ hai lại hét lớn xông tới, hình như hắn đã nhắm tịt mắt lại,

chẳng buồn nhìn đường, cứ thế xông một mạch rồi ngã lăn lê bò toài. Max nhanh chóng điều

chỉnh con số, trên điều khiển từ xa có một màn hình tinh thể lỏng nhỏ, những con số khác nhau

hiển thị trên ấy lần lượt tương ứng với số hiệu của bọn lính đánh thuê.

Lũ sói phía trước muốn rút lui, nhưng bọn ở đằng sau lại chen chúc quá đông, nhất thời

không tản ra được, rốt cuộc vẫn bị tên lính đánh thuê kia xông vào giữa, cầm súng bắn lia ra

khắp phía xung quanh. Max lại nhấn nút, một tiếng nổ lớn tiếp tục vang lên, sau hai vụ nổ kinh

hoàng, trong đàn sói cuối cùng cũng có con hú lên thê thiết, cả đàn sói lập tức rút đi như nước

thủy triều.

Mekin khẽ thở hắt ra: “Rốt cuộc cũng rút rồi.”

Nhưng bọn lính đánh thuê kia cũng chẳng hơn gì, tay chân nhiều tên vẫn run lẩy bẩy, tựa hồ

đang mường tượng kẻ nổ banh xác vừa rồi chúng là bản thân chúng vậy. Ánh mắt đám lính

đánh thuê nhìn Mekin lúc này tràn đầy vẻ phẫn hận.

Mekin không biết Max đã nói gì với bọn lính đánh thuê, có điều, hắn đã hoàn thành nhiệm

vụ, y cũng không nói gì nhiều, chỉ lấy lại chiếc điều khiển từ xa từ tay Max, đoạn nhanh chóng

hạ lệnh: “Nhanh lên, tất cả lập tức lên đường, phải vượt qua chỗ này trước khi đàn sói hình

thành vòng vây tiếp theo!”

Khafu ở bên cạnh nói: “Cứ thế này, e rằng có tìm được Bạc Ba La thần miếu, chúng ta cũng

chẳng còn mạng mà khuân báu vật trong đó về đâu!”

Mekin nói: “Đây là tâm nguyện cả đời của tôi, cho dù chỉ nhìn thấy chúng thôi cũng tốt, chỉ

là... có lỗi với anh rồi.”

Khafu lắc đầu: “Anh không có lỗi gì với tôi cả, chúng ta cũng vì tiền nên mới đến đây thôi.”

Ngoài miệng nói vậy, nhưng trong lòng y lại thầm cười khẩy: “Mekin à, Mekin, anh đúng là

thông minh cả đời, hồ đồ nhất thời. Kể từ khoảng cách anh đuổi Soares đi, đã không còn ai tin

tưởng anh nữa rồi! Đồng thời, anh cũng đã mất đi chiến hữu duy nhất của mình... con tốt thì

đáng thương!”

CẤM ĐỊA CỦA SÓI

Bọn Trác Mộc Cường Ba dọn dẹp lại lãnh địa được phần công của mình lần cuối, xác nhận

đã không còn tên lính đánh thuê nào lởn vởn nữa, bấy giờ mới nhằm hướng đại quân thẳng

tiến.

Khi bọn gã đến nơi, cánh quân của Mekin đã đột phá vòng vây thoát đi, có mấy con sói

trông thấy vũ khí trên tay Trác Mộc Cường Ba, đột nhiên nổi xung, lao bổ tới định cắn xé,

cũng may mấy con sói chiến trong tiểu đội của Trác Mộc Cường Ba đã chắn trước mặt gã, mới

tránh khỏi một cuộc chiến tranh nội bộ.

Vì không có Sói Út ở đây. Trác Mộc Cường Ba phải tốn rất nhiều công sức mới lý giải được

những trao đổi của lũ sói, tới lúc tận mắt nhìn thấy những mảnh xác sói và lính đánh thuê nằm

vung vãi khắp nơi, gã mới lờ mờ hiểu ý của chúng muốn biểu đạt. Bọn lính đánh thuê ấy

dường như có thể nổ tung bất cứ lúc nào, chứ không phải sau khi chết rồi mới nổ banh xác.

Trác Mộc Cường Ba lập tức hiểu ra, đúng thế, bọn Mekin nếu không dùng đến phương pháp

này, căn bản không thể đột phá được tuyến phòng thủ của lũ sói, chỉ có điều, cách này quá mức

tàn nhẫn. Mekin làm như vậy cơ hồ đã không còn nhân tính nữa rồi. Xem ra, quan hệ giữa

Mekin và bọn lính đánh thuê này cùng không lấy gì làm bền chắc. Phương pháp chia quân làm

hai đường, một đi đường sáng, một đi đường tối của hắn, tuy có thể giấu được nhóm của bọn

gã, song há chẳng phải tự cô lập mình hay sao?

Trác Mộc Cường Ba phải tốn khá nhiều thời gian trình bày tác dụng của đủ loại vũ khí với

lũ sói, dùng mấy con sói chiến trong tiểu đội của mình biểu diễn cách thức tấn công vào những

điểm yếu trên người kẻ địch, sau đó có một vài con sói khác nhảy vào, chỉ ra những điểm sơ

sót của bọn gã. Trong buổi thảo luận chiến thuật này, Trác Mộc Cường Ba đã vắt óc nghĩ ra

được cách đối phó với kiểu thí tốt của bọn Mekin. Vài con xông ra dụ địch, một con đánh lén,

đè ngã đối phương thì lập tức cắn vào cổ họng, cắn đùi hoặc cắn cánh tay, tóm lại là tung đòn

rồi tức thời rút lui, nếu kẻ địch vẫn còn khả năng hành động thì làm lại lần nữa. Điểm lợi nhất

của phương pháp này là một con sói đối đầu với một tên lính đánh thuê, dù kẻ địch có nhấn nút

nổ, thì chỉ tổn thất mội con sói thôi. Đây là cách duy nhất khả thi nhất lúc này.

Xem xong cách của Trác Mộc Cường Ba, vài con sói thuộc tầng lớp thống lĩnh cũng thể

hiện phương pháp của chúng. Một con sói dậy lũ sói đào hố, kéo những đoạn dây leo phủ lên

miệng hố, thoáng cái đã phủ kín cả xung quanh. “Đào hố bẫy, cách này có tác dụng sao?” Trác

Mộc Cường Ba nghi hoặc. Ánh mắt con sói thống lĩnh lộ vẻ giảo hoạt, ý như muốn bảo, có tác

dụng hay không thì đến lúc đó sẽ biết.

Còn có rất nhiều biện pháp khác nhau, xem ra trong khoảng thời gian này lũ sói cũng đã

nghĩ ra khá nhiều cách đối phó với đám lính đánh thuê có thể tự phát nổ kia. Tập trung trí tuệ,

ắt sẽ có ích, câu này nói chẳng sai chút nào. Đột nhiên, một con sói vẫn bám theo sau đội ngũ

của Merkin chạy về báo cáo, ngữ khí có vẻ rất gấp gáp. Cả bầy sói náo động lên, gầm rú lao

lao đi. Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra, mấy con sói chiến thuộc hạ

của gã đã nói: “Nhanh lên, bọn kia muốn đến một nơi cực kỳ nguy hiểm…” Ngoài ra gã tuyệt

đối không hiểu gì.

Trong rừng sâu, không có phương hướng, không có cột mốc chỉ đường, chỉ còn cách chạy

men theo chân núi, biết rõ rành rành là sau có lũ sói bám đuôi, song không một ai dám ngoảnh

đầu lại cả. Bọn lính đánh thuê của Merkin lúc này tựa như đàn cừu bị sói xua đuổi, dù có áo

chống đạn, vũ trang đến tận răng, kho đối mặt với sự chênh lệch quá lớn về số lượng, nhũng

thứ ấy đều chẳng có tác dụng gì nữa cả.

Chạy việt dã liên tục trong thời gian dài, ngay cả Merkin cũng bắt đầu cảm thấy không chịu

nổi. Khafu chạy bên cạnh y kêu lên: “Ben, lũ sói đằng sau càng lúc càng nhiều.”

“Vậy hả?” Merkin khẽ thở hổn hển, ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy những cái bóng thấp

thoáng hiện lên trong rừng cây, quả nhiên có vô số sói bám theo bọn y sát sạt. Chỉ có điều, sau

một lần nếm mùi đau khổ lần này chúng tản ra rất rộng. Những ý nghĩ xoay chuyển nhanh như

điện chớp trong đầu Merkin, y chợt ra lệnh: “Tiểu đội số 5, dừng lại ngăn cản lũ sói, những

người khác không được dừng lại, tiếp tục xông lên phía trước!”

“Hả?” Tên đội trưởng tiểu đội 5 thoáng ngẩn người ra, ở lại há chẳng phải tự sát hay sao?

Merkin và cả đội ngũ đều không dừng lại dặn dò gì hết, chỉ ném cho tên đội trưởng ấy một

cái điều khiển từ xa “Tự mà lo liệu lấy!” Tên đội trưởng nghiến răng kèn kẹt bắt lấy cái điều

khiển, rốt cuộc đành giơ cao nắm đấm lên hét: “Đội hình phòng thủ chiến thuật! 174,175,176,

bố trí hỏa lực; 189, 197, chiếm cứ điểm cao…”

Lũ sói từ từ quây lại, chỉ riêng số lượng xuất hiện trước mắt thôi đã đủ khiến người ta run

rẩy thần hồn rồi. Tiểu đội lính đánh thuê căng thẳng đến mức không dám thở mạnh. Tên đội

trưởng nhìn thấy Trác Mộc Cường Ba lù lù hiện ra giữa đàn sói, bỗng sực nhớ, hôm trước, có

một tên chạy thoát về báo cáo, trong đám sói có một con quái vật, có thể đứng thẳng, đi bằng

hai chân, cao ít nhất hai mét, khỏe như bò mộng, móng vuốt sắc như dao găm, tiếng gầm như

sấm, tốc độ như gió, hai mắt có thể phun lửa, áo chống đạn mà nó xé như xé tờ giấy mỏng vậy.

Tóm lại, con quái vật này cực kỳ khủng khiếp, muốn đáng sợ chừng nào thì có đáng sợ chừng

ấy. Giờ đây, lại chính mắt trông thấy quái vật xuất hiện, tên đội trưởng ấy làm sao mà không

khiếp đảm kinh hồn cho được.

Bọn Merkin chưa đi được bao xa đã nghe thấy một tiếng “ầm”. Tên nào tên nấy không khỏi

giật mình đánh thót, cả bọn đều hiểu rõ, tiểu đội số 5 thế là đã tiêu đời!

Kỳ thực thời gian chiến đầu lần này dài hơn rất nhiều so với dự kiến của Merkin. Trước đây,

lũ sói hầu như chỉ đụng độ với bọn tàn binh chạy loạn rải rác trong rừng, tinh thần đều đã suy

sụp cả rồi, còn lần này, dẫu sao cũng là một tiểu đội có tổ chức hoàn chỉnh. Có điều, may mà

Trác Mộc Cường Ba có súng, đám lính đánh thuê hiển nhiên không ngờ trong đàn sói lại có kẻ

dùng súng tiểu liên nên cuối cùng mới bị đột phá tuyến phòng thủ vững chắc. Tên đội trưởng

kia sau khi dằn lòng cho nổ một tên thuộc hạ, bản thân hắn liền lập tức bị lũ sói chú ý. Bọn sói

đã hiểu ra, kẻ địch kia có phát nổ hay không, mấu chốt nằm ở cái thử nho nhỏ như cục bùn trên

tay hắn. Lập tức có mấy con sói xông tới, tên đội trưởng dẫu có quyết liệt đến mấy, cũng

không dám nhấn nút tự hủy diệt chính mình, cái điều khiển từ xa bị một con sói đớp lấy, Trác

Mộc Cường Ba vội kêu lên: “Ấy, đừng…” Nhưng lũ sói đã bị lửa giận bốc lên che mờ cả đầu

óc, thêm nữa, chúng căn bản chẳng hiểu Trác Mộc Cường Ba đang nói gì, nên chỉ “rắc rắc”

mấy tiếng, cái điều khiển từ xa đã hóa thành mảnh vụn, bị mấy con sói chia nhau nuốt mất.

Tên đội trưởng vừa chết, những tên còn lại liền bỏ chạy tứ tán, chỉ cần nhìn số lượng sói

đuổi theo cũng biết vận mệnh của chúng rốt cuộc sẽ thế nào rồi. Trong đàn sói, đã có một con

thuộc hàng thống lĩnh hú lên: “Đuổi theo, đuổi theo!”

Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đã bắt đầu hiểu ra ý đồ của bọn Merkin, dẫu sao thì đây cùng

lã ý định ban đầu của chính gã. Trong thời gian ở vương quốc sói, Sói Út đã dẫn gã đi khắp cả

vương quốc, nhưng gã không hề phát hiện ra Bạc Ba La thần miếu, hiển nhiên, đó là nơi bọn

chúng không để kẻ khác tham quan, hoặc có thể nói, bọn Sói Út không có tư cách biết đến nơi

ấy.

"Dẫu chết cũng phải chết trước cửa Bạc Ba La thần miếu hay sao?" Trác Mộc Cường Ba

thầm nhủ.

"Hura..." những tên lính đánh thuê đi trước đột nhiên hoan hô ầm ĩ. Max cười toe toét chạy

tới báo cáo: "Ông chủ, ông chủ, chúng ta thoát rồi! Thoát ra rồi! Đến đây là hết rừng rồi!"

Merkin ngước mắt nhìn, quả nhiên phía trước tán cây đã thưa bớt dần, ánh sáng chan hòa,

bọn y đã bọ lại cây cổ thụ cao lớn cuối cùng sau lưng, bước lên một vùng cỏ xanh ngút ngàn.

Nhìn sang hai bên, những cây rừng cao lớn tựa như một hàng vệ sĩ, đứng quây thành một vòng

cung xung quanh trảng cỏ.

Khafu cũng nói: "Ổn rồi, không còn rừng cây yểm hộ bọn sói đó đến bao nhiêu, chúng ta

giết bấy nhiêu!" Merkin sực nhớ ra điều gì, vội ngồi thụp xuống, gạt cỏ xanh ra, quả nhiên, một

phiến đá lát đã bị những mầm cỏ mong manh mềm mại đội lên, làm cho vỡ vụn.

Khafu nói: "Chuyện gì vậy? Đây là công trình nhân tạo ư?"

Merkin không giấu nổi vẻ mừng rỡ trên nét mặt: "Quả nhiên không sai, trong rừng sâu lấy

đâu ra trảng có thế này cơ chứ, nơi này từng được bàn tay con người san phẳng, chỉ là giờ đã

bị rừng sâu xâm lấn trở lại mà thôi. Báo với tất cả mọi người, tăng tốc tiến lên, nếu tôi đoán

không lầm, Bạc Ba La thần miếu ở ngay trước mặt chúng ta rồi đây!"

Câu nói này của y chẳng khác nào một liều thuốc kích thích, không cần phải tốn công

chuyển lời, đám lính đánh thuê đã rì rầm truyền tai nhau, dồn hết chút sức lực còn lại tiếp tục

hăng hái tiến lên. Lũ sói ở sau lưng không còn đáng sợ nữa, Bạc Ba La thần miếu... cả một biển

đầy báu vật, một núi vàng bạc châu báu, của cải chất đầy mặt đất. Sức hút của những thứ ấy đủ

khiến đám lính đánh thuê này quên hết tất cả sự sống chết của chính bản thân chúng.

Chạy được chừng mấy trăm mét, tràng cỏ đột nhiên dốc xuống, trước mắt bọn chúng không

phải tòa thần miếu rực rõ huy hoàng, mà là một mặt hồ lớn mịt mùng hơi nước. Triền dốc cách

mặt hồ chừng năm trăm mét, dọc đường có mấy khối đá khổng lồ đứng sừng sững như thể

thiên thạch từ trên không rơi xuống.

"Ủa? Phía trước hết đường rồi?"

"Hồ, cái hồ này lớn quá!"

"Chỗ này không phải Bạc Ba La thần miếu à?"

"Những khối đá này dựng ở đây làm gì vậy? Hay là trời sinh ra đã thế này?"

"Không biết, liệu có phải hồi xưa có thần miếu, bây giờ đã chìm dưới đáy hồ rồi không?"

"Không thể nào, cách xa như vậy mà, mấy khối đá đó có giống cột trụ gì đâu."

Bọn lính đánh thuê rì rầm bàn luận, có kẻ bắt đầu nhìn chằm chằm về phía Merkin với ánh

mắt nghi ngờ. Duy chỉ có Merkin sau khi lướt qua cái hồ ấy, đột nhiên ngửa mặt phá lên cười

như điên dại: "Đến rồi! Đến rồi!"

Max thầm nhủ: "Có phải ông chủ thất vọng đến cùng cực rồi tâm trí nảy sinh vấn đề gì

không nhỉ?" Y dè dặt hỏi: "Ông chủ, đây... đây rõ ràng là một cái hồ mà, chẳng lẽ Bạc Ba La

thần miếu ở dưới đáy hồ sao?"

"Thằng ngu!" Merkin cười khẩu nói, "đấy là biển, trong tiếng tạng Cổ, chỉ có biển. Mày

tưởng tao không nhìn ra đây là cái hồ hay sao, mày có nhìn thấy đường cong kia không? Nói

thử xem, nếu đứng ở trên cao nhìn xuống cái hồ này có hình dạng gì? Không hiểu à? Con mắt,

con mắt! Con mắt của tiên nữ, tỏa chiếu cả thế gian, phân tách thật và ảo..." Merkin lầm bầm

đọc một tràng dài những câu thơ nghe như chú ngữ, đột nhiên âm điệu biến đổi, rít lên: "Gần

đây hẳn phải có lối vào, ở xung quanh cái hồ này thôi, hoặc có thể ở phía bên kia hồ, tìm cho

tao! Ngay lập tức!"

Mẫn Mẫn giật mình tỉnh giấc, ngước mắt lên, liền trông thấy con nhện khổng lồ và những

cột trụ to tướng, song không thấy pháp sư Á La đâu cả, chỉ nghe đằng xa vắng lại những âm

thanh hỗn tạp, dường như từ chỗ khe núi truyền vào.

Mẫn Mẫn ra khỏi khe hẹp giữa hai vách núi, đến bên ngoài quảng trường khổng lồ, gió từ

mặt hồ gợn lên lạnh buốt, khiến cô phải khép chặt cổ áo. Pháp sư Á La đang đứng bên bờ hồ,

nhướng mày nhìn sang phía bên kia. Mẫn Mẫn bước đến sau lưng ông, khẽ gọi một tiếng:

"Pháp sư!"

Pháp sư Á La tựa như không nghe thấy, chỉ khẽ nói: "Sao lại có nhiều người như vậy?"

"Người?" Mẫn Mẫn giật mình kinh hãi, đưa mắt nhìn sang phía bờ đối diện, chỉ thấy hơi

nước mờ mịt bốc lên khắp mặt hồ, vội hỏi, "Pháp sư, có phải anh Cường Ba và những người

khác không?"

Pháp sư Á La lắc đầu: "Không giống lắm, bọn Cường Ba thiếu gia đâu có đông đến vậy?

Đối phương sắt phát hiện lối vào rồi, nấp đi trước đã, xem tình hình thế nào rồi tính sau."

"Dưới nước có thành trì! Dưới nước có một tòa thành!" Ánh dương vừa lên, sương khói mờ

mịt trên mặt nước dần tan đi, không biết kẻ nào phát hiện ra kỳ quan dưới nước trước tiên, bèn

lớn tiếng reo hò ầm ĩ.

"Tòa thành lớn quá!"

"Chúa ơi, không phải ảo giác đấy chứ!"

"Cái bóng đen kia là gì vậy?"

"Là... là cá chăng? Lớn vậy cơ à?"

"Tìm được đường rồi! Ông chủ, tìm được đường rồi!"

Lại một tên lính đánh thuê khác kêu lên, Merkin vội chạy tới xem xét. Quả nhiên, có một

con đường thẳng tắp có thể đua ngựa được, ngập dưới mặt nước chừng nửa mét, nếu không đi

sát mép nước quan sát thật kỹ, e rằng khó bề phát hiện.

Thấy một tên chuẩn bị xuống nước, một tên khác đã cảnh giác kêu lên: "Cẩn thận đấy, dưới

nước có cá lớn." Giờ đây, bọn lính đánh thuê này tự trong bản thân nảy sinh một nỗi sợ khó có

thể gọi thành tên với tất cả sinh vật ở nơi này rồi.

"Không cần để ý đến lũ cá ấy, mau lội qua đi" Merkin ra lệnh, vừa dứt lời, bỗng nghe "véo", một viên đạn bay sượt qua mang tai y. "Thằng nào bắn đấy?" Merkin đùng đùng nổi giận, đưa

mắt nhìn quanh, chợt phát hiện thấy trên đỉnh dốc có một sinh vật đứng bằng hai chân, ánh mặt

trời rải trên thân hình góc cạnh, phác nên những đường nét cơ bắp rắn chắc mạnh mẽ.

"Là hắn..." Merkin giật ống nhòm trên tay Max, đám lính đánh thuê cũng lần lượt điều chỉnh

cự ly xa gần trên mũ bảo hộ, gương mặt của Trác Mộc Cường Ba từ từ hiện lên rõ nét trên màn

hình điện tử. Gã gần như để trần toàn thân, ung dung đứng ở tít đằng xa, song lại gây cho

người ta một áp lực vô cùng nặng nề. Lồng ngực gã phập phồng lên xuông đều đặn theo nhịp

hô hấp, lớp ngụy trang che lấp cơ bắp cuồn cuộn đã được gạt sạch, trên làn da màu tiểu mạch,

từng giọt mồ hôi lóng lánh trong như những viên pha lê. Gã cầm súng chĩa lên trời, mặt hơi

nghiêng áp vào một bên khẩu súng, trong đôi mắt ấy, đã có thêm một số thứ khó có thể diễn tả

bằng lời. Duy chỉ có Merkin hiểu được, đó là khí thế, là một thứ cảnh giới người bình thường

không thể lý giải nổi. Thật không ngờ, Trác Mộc Cường Ba vẫn còn sống, không ngờ gã lại trở

nên lợi hại như vậy, thật không ngờ...

Max thấy ông chủ kêu lên một tiếng "Là hắn... ", rồi đứng đờ ra tại chỗ, buông cả ống nhòm

trong tay xuống, hắn vội vàng đón lấy, kế đó kinh hãi kêu lên: "Trác Mộc Cường Ba! Hắn vẫn

chưa chết!"

"Trác Mộc Cường Ba..." Merkin đột nhiên dồn hơi gầm lớn, âm thanh lập tức lan xa.

"Merkin! Các ngươi đã hết đường lui rồi! Đầu hàng đi" Giọng Trác Mộc Cường Ba rền

vang mạnh mẽ, chất chứa đầy tự tin.

"Dựa vào mày ư?" Merkin liếc mắt nhìn ngang, ít nhất đã có hơn một nửa số lính đánh thuê

chĩa họng súng về phía Trác Mộc Cường Ba, trong đó không ít tên thuộc vào hàng xạ thủ bắn

tỉa, cho dù Trác Mộc Cường Ba có mọc thêm đôi cánh, cũng sẽ bị bắn cho thủng lỗ chỗ như cái

sàng.

"Đương nhiên, không chỉ có tôi, mà là... chủ nhân của nơi này!" Trác Mộc Cường Ba dứt

lời, liền giơ cánh tay trái lên, ra mấy dấu hiện mà bọn Merkin hoàn toàn không hiểu.

Ngay sau đó, bên cạnh Trác Mộc Cường Ba, liền xuất hiện một con sói, lại thêm một con

nữa, một con nữa... Hết con sói này đến con sói khác lần lượt xuất hiện, chen chúc chật ních.

Phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy sói nhiều không đếm xuể, giả như bọn Merkin đứng ở vị trí của

Trác Mộc Cường Ba lúc này, có thể trông thấy lũ sói đứng chen chúc kéo dài thành một vệt

đen ở phía sau, khắp núi khắp rừng đều là sói...

"Cách cách cách..." Không hiểu tên lính đánh thuê nào run lên trước tiên, tay cầm súng

không sao giữ chắc nổi, thân súng va vào nhau phát là những tiếng "lách cách" liên hồi. Liền

sau đó, như thể được diễn tập từ lúc trước, âm thanh ấy nhanh chóng lan truyền đi khắp xung

quanh. Nhưng, sợ run cầm cập thì sao chứ, đúng như Trác Mộc Cường Ba vừa nói, bọn chúng

hết đường lui rồi.

"Ối mẹ ơi..." không biết lại có tên nào không nén nổi sợ hãi đang quay cuồng trong tâm trí,

ném oạch khẩu súng đi, xoay người nhảy xuống nước, điên cuồng bơi ra giữa hồ. Như phản

ứng dây chuyền, lại có một loạt tiếng "tủm tủm" vang lên, thêm mấy tên nữa quay đầu nhảy

xuống nước. Những kẻ còn lại trên bờ đều là hạng tinh thần kiên định, hoặc bị uy thế của

Merkin áp bức, không dám hành động liều lĩnh. Bọn chúng mở to mắt sợ hãi nhìn cánh tay trái

đang giơ cao của Trác Mộc Cường Ba, tựa như đó là cánh tay của Tử thần chốn Địa ngục vậy.

Bọn chúng hiểu rõ, chỉ cần cánh tay ấy vung lên, đàn sói đông nhung nhúc kia sẽ cuồn cuộn ập

tới như một trận cuồng phong, cả đám bọn chúng sẽ chẳng còn lấy một khúc xương.

"Trác Mộc Cường Ba!" Merkin đột nhiên từ bỏ thái độ đối địch, dang rộng hai cánh tay ra

nói, "Anh mở to mắt ra mà nhìn rõ đi! Nơi này, chính là Bạc Ba La thần miếu! Nơi tôi và anh

đã phải đem tính mạng mình ra đánh cược mới tìm được đấy!" Y đột nhiên chỉ tay về phía sau:

"Ở ngay bờ đối diện này thôi! Một mình anh đi đến đó liệu có thoát khổi những cạm bẫy hay

không? Có thể mang đi những báu vật bên trong hay không? Tại sao chúng ta không hợp tác?

Hà tất phải đuổi tận giết tuyệt nhau như thế làm gì? Ba năm trước, tôi đã từng nói với anh!

Hôm nay! Tôi vẫn nhắc lại câu nói ấy! Chúng ta hợp tác đi!"

Merkin không nhắc đến thì thôi, vừa nghe những lời ấy, Trác Mộc Cường Ba lại giận sôi

gan: "Ba năm trước? Ông còn nhắc đến chuyện ba năm trước ư? Ông mời tôi thế nào? Tôi chỉ

nhờ lúc đó trên một cỗ xe đuổi phía sau, dùng súng tiểu liên và tên lửa xách tay để chào hỏi

làm quen thôi! Đó là lời mời của ông đấy à?"

Merkin lớn tiếng nói: "Chuyện cũ không nhắc nữa, nói đi thì cũng nói lại, có thể tìm được

nơi này, dù anh có thừa nhận hay không, đây cũng là kết quả hợp tác của chúng ta. Điều này là

sự thực."

Trác Mộc Cường Ba cười gằn không đáp, hợp tác, đó cũng gọi là hợp tác sao?

Lúc Trác Mộc Cường Ba vừa hiện thân, trong lúc hỗn loạn, không ai chú ý thấy một tên lính

đánh thuê đội mũ bảo hộ không những không kinh hãi, mà ngược lại còn lộ vẻ mừng rỡ, khẽ

thốt một tiếng "Trác Mộc Cường Ba", định bước ra, song lại bị một tên khác giữ chặt, thì thào:

"Không được kích động."

"Buông ta ra" tên lính đánh thuê đứng trước định vùng vằng giãy giụa song không thoát

được, đành nói: "Ngươi không thấy lũ sói kia à? Chỉ cần anh ấy vung tay, đàn sói sẽ tràn tới,

ngươi cho rằng mình có thể chống đỡ được mấy con?"

Tên lính đánh thuê kia cười khẩy đáp: "Cô tưởng lũ sói thực sự nghe lời Trác Mộc Cường

Ba chắc? Đừng nằm mơ, ngay cả ta cũng không khống chế được bọn chúng đâu! Vả lại, có

nhìn thấy những trụ đá kia không? ta đảm bảo với cô, lũ sói tuyệt đối không vượt qua ranh giới

ấy nửa bước đâu, giờ đây kẻ bị nguy hiểm chính là Cường Ba thiếu gia của cô đấy! Ha ha!"

Cuộc trò chuyện của hai người bị nhấn chìm giữa tiếng ồn ã của bọn lính đánh thuê xung

quanh, đột nhiên có tiếng kêu kinh hãi vang lên, không hiểu Merkin và Trác Mộc Cường Ba

nói chuyện gì, dường như cuộc đàm phán đã bị phá vỡ. Trác Mộc Cường Ba chẳng buồn để ý

đến lũ sói sau lưng nữa, đột ngột phăm phăm chạy thẳng xuống. Gã vừa di chuyển, lũ sói sau

lưng cũng ồ ạt lao theo. Cả một biển sói đen ngòm ào ào tới như cơn lũ quét, mặt đất chấn

động, bụi bay mù mịt che mờ cả ánh mặt trời. Trước trận thế ấy không ít tên trong bọn lính

đánh thuê đã đờ người ra.

Merkin lạnh lùng hạ lệnh: "Nổ súng, bắn hạ Trác Mộc Cường Ba cho tao!"

Khafu nằm rạp xuống đất, giương súng lên ngắm chuẩn nhưng Trác Mộc Cường Ba bỗng

lắc mình một cái, đang chạy bằng hai chân, đột nhiên phục người xuống, sử dụng cả tứ chi lao

tới như một con báo săn, tốc độ mỗi lúc một nhanh còn nhanh hơn cả lũ sói chiến phía sau. Gã

liên tục đổi hướng, thân hình lắc đảo linh hoạt vô cùng. Khafu liên tục điều chỉnh họng súng,

song trước sau vẫn lệch đi một đường tơ, đồng thời, trong đám lính đánh thuê, khá nhiều tên đã

nhận ra Trác Mộc Cường Ba qua tư thế chạy, lần lượt hét lên: "Là hắn, chính là hắn!" "Con

quái thú trong rừng!" "Trời đất, hóa ra là hắn!"

"Thú bộ! Lang bôn!(7)" Tên lính đánh thuê vừa đắc ý khi nãy cũng thoáng ngạc nhiên quay sang hỏi tên đang bị y khống chế, "Cô dạy hắn à?"

Tên lính đánh thuê bị khống chế lắc đầu, ngữ điệu toát nên vẻ tự hào: "Anh ấy tự lĩnh ngộ ra

đấy."

"Cường Ba thiếu gia, anh thật là, lúc nào cũng mang đến cho người ta những niềm vui bất

ngờ."

Càng xông lên trước, lưới đạn càng dày đặc. Trác Mộc Cường Ba dồn hết sức lăn lộn nhảy

nhót, tựa như một con thú giận dữ đến phát cuồng, thoắt bên trái, thoắt đã tránh sang bên phải.

Nhưng Merkin lại chỉ chằm chằm nhìn sau lưng Trác Mộc Cường Ba, đó mới là thứ khiến y lo

lắng nhất. Y lặng lẽ chuyển dịch trọng tâm cơ thể, chuẩn bị sẵn sàng lao xuống nước đào tẩu

bất cứ lúc nào. Nhưng càng quan sát, sắc mặt Merkin càng thay đổi, một tia mừng rỡ lan dần

giữa đôi hàng lông mày. Bọn lính đánh thuê đang cực kỳ hoảng loạn cũng dần dần trấn định

lại, nhìn chằm chằm sau lưng Trác Mộc Cường Ba, như mới phát hiện ra điều gì lạ lắm.

Việc đầu tiên Merkin làm sau đó là quay sang bảo Khafu: "Khafu, tôi và anh đan lưới hỏa

lực, xem hắn chạy nhanh chừng nào."

Trác Mộc Cường Ba cũng phát hiện ra có gì đó không ổn, tại sao hỏa lực của bọn lính đánh

thuê càng lúc càng dày đặc, lại chỉ nhằm vào một mình gã? Dưới làn mưa đạn dày, bất cứ lúc

nào cũng chỉ có thể bị đạn sượt qua làm bị thước, tại sao gã không nghe thấy tiếng chân chạy

của lũ sói sau lưng nữa? Không để gã kịp nghĩ ngời nhiều, bàn tay Merkin mà gã vẫn để ý từ

đầu bỗng lóe lên ánh lửa, Trác Mộc Cường Ba lập tức phát lực ngay. Đang chạy với tốc độ cao,

tứ chi gã cũng dồn sức bật lên, nhảy cao đến hơn hai mét, Trác Mộc Cường Ba xoay người trên

không trung như con cù, chiếc Phi lai cốt to tướng cơ hồ hứng lấy toàn lưới đạn, xoay tít bắn

vụt về phía ánh lửa vừa lóe lên.

Một cách bản năng, Merkin cảm thấy nguy cơ ập đến, lập tức tung mình nhảy ra phía sau.

Vừa rời khỏi vị trí y liền thấy Phi lai cốt bay tới đánh "rầm" một tiếng, ngập sâu xuống đất cả

nửa mét, phần lộ ra trên mặt đất vẫn còn rung bần bật.

Đúng vào khoảnh khắc buộc Merkin phải nhảy lùi lại, Trác Mộc Cường Ba mới tranh thủ

liếc mắt nhìn ra phía sau. Vừa đánh mắt lại, tim gã liền như rơi vào tủ đá, chỉ thấy cả lũ sói dồn

lại, hình thành một đường cong mới ở lưng chừng dốc, không tiến thêm một bước nào nữa!

Giữa những khối đá khổng lồ dường như có tấm lưới cách ly vô hình, chặn lũ sói bên ngoài.

Mấy con sói thống lĩnh cao cấp nhất trong bầy đàn đứng nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt

bất lực, cơ hồ đang nói với gã: "Chúng tôi cũng không có cách nào, tổ tiên đã quy định như vậy

rồi."

"Không phải vậy chứ!" Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, lúc này gà đã xông tới quá xa, để

ném Phi lai cốt về phía Merkin, khoảng cách giữa gã và đám lính đánh thuê gần hơn giữa gã và

lũ sói rất nhiều, hai bên cách nhau chưa gần trăm bước chân.

"Dừng lại!" Merkin vung tay lên, bọn lính đánh thuê liền dừng xạ kích. Khoảng cách giữa

Trác Mộc Cường Ba và bọn chúng quá gần, đồng thời, bọn lính đánh thuê lúc này cũng đã khôi

phục sự trầm ổn và tàn bạo thường ngày. Merkin tin rằng, nếu Trác Mộc Cường Ba muốn chạy

trở về chắc chắn sẽ bị bắn thủng lỗ chỗ. Bấy giờ, y mới chậm rãi nói bằng tiếng Trung: "Cường

Ba thiếu gia, người Trung Quốc các anh có một câu nói rất hay, có đạo thì được nhiều người

giúp, vô đạo thì cô quả một mình, hắc hắc hắc... đừng trừng mắt lên nhìn tôi như thế, tôi nhìn

ra được, không phải lũ sói không muốn giúp anh, mà thực sự ý trời là khó cãi. Cấm địa của loài

sói, ai mà biết được đây là cấm địa của loài sói bọn chúng chứ, anh nói có phải không? Hiện

giờ, tôi có nhiều súng chĩa vào anh như vậy, lại vẫn mời anh gia nhập, đã thấy tôi đủ thành ý

chưa? Haizz! tôi hy vọng anh chớ nên dùng những khẩu súng ấy, hãy đặt chúng xuống đấy,

chầm chậm thôi... chầm chậm thôi..."

HỌA TỪ TRONG NHÀ MÀ RA

Thấy cảnh tượng đó, tên lính đánh thuê bị khống chế kia liền buột miệng thốt lên: “Tại sao,

tại sao ngươi biết? Ngươi từng đến đây rồi ư?”

Tên lính đánh thuê kia cười cười nói: “Vậy thì sao chứ?”

“Rốt cuộc ngươi là ai?”

“Đến lúc đó cô khắc biết.”

Trác Mộc Cường Ba nén giận, gã thực sự không cam lòng, tại sao lại thành ra như vậy...

Merkin cười cười ra lệnh cho thuộc hạ áp giải gã đến trước mặt. Max đứng bên cạnh hỏi: "Ông

chủ, còn giữ hắn lại làm gì?"

Merkin nói: "Không hiểu tại sao, tao luôn có cảm giác tên Trác Mộc Cường Ba cũng giống

tao, đều có quan hệ sâu xa với tòa Bạc Ba La thần miếu này. Giờ chúng ta vẫn chưa nhìn thấy

thần miếu, không biết rốt cuộc tình hình ở đó sẽ thế nào. Khổ tâm tìm kiếm mấy năm nay, tao

nghĩ, nếu ngay cả cánh cửa thần miếu hắn cũng chưa được nhìn thấy, lại chết ở nơi chỉ cách

Bạc Ba La thần miếu có một cái hồ, e là có làm ma cũng không yên lòng được. Dẫn giải hắn đi

xem một chút cũng chẳng ảnh hưởng gì, trên người hắn không có vũ khí, chúng ta đông thế

này, nhiều súng thế này, còn phải sợ một mình hắn chắc?"

"Ông chủ anh minh!"

Trác Mộc Cường Ba bị trói chặt cứng, dẫn đến trước mặt Merkin, vẻ mặt hầm hầm như

muốn chọn lấy một kẻ mà lao vào cắn xé: "Merkin, chuyện pháp sư Á La và Mẫn Mẫn, có phải

thật không?”

“Không phải, tôi gạt anh đấy.” Merkin thản nhiên trả lời.

“Tại sao?”

“Tôi muốn chọc giận anh, bởi vì chỉ khi anh phẫn nộ, tôi mới tìm được sơ hở của anh, khiến

anh tự chui đầu vào lưới, tránh để anh ôm vết thương bỏ chạy, đến lúc ấy tôi lại phải mất công

lo lắng.”

“Ngươi không sợ lũ sói kia à?”

“Tôi chính là muốn đánh cược một phen đấy.”

“Cược cái gì?”

“Cược lũ sói đó sẽ không vượt qua những tảng đá kia một bước!”

“Sao ngươi biết?”

“Rốt cuộc anh đã điều tra nghiên cứu được bao nhiêu năm rồi? Anh biết được bao nhiêu

chuyện?” Ánh mắt giễu cợt của Merkin thoáng lộ vẻ tang thương. “Gia tộc chúng tôi đã tìm

kiếm mấy thế kỷ nay, những chuyện anh không biết vẫn còn nhiều lắm!”

Lúc này, bọn lính đánh thuê đã sắp xếp lại đội hình xong xuôi, chỉ cần lũ sói không xông

tới, bọn chúng vẫn là những tên lính đánh thuê cực kỳ hung hăng tàn bạo. Merkin nói: “Đi thôi,

tôi cho anh trông thấy Bạc Ba La thần miếu trước khi chết để khỏi phải ân hận.”

Đột nhiên, giữa màn sương mù bảng lảng trên mặt hồ vẳng lại mấy tiếng kêu thảm thiết,

dường như mấy tên lính đánh thuê bỏ chạy lúc đầu đã gặp phiền toái gì đó giữa hồ. Khafu nói:

“Nước hồ rất lạnh, là nước chảy thẳng từ trên núi tuyết xuống, cẩn thận kẻo đi được nửa đường

là chuột rút.”

Merkin nhìn đám lính đánh thuê đứng dưới nước, hạ lệnh: "Tăng tốc chạy qua!"

Merkin đi giữa đội hình, hơi lệch về phía sau. Y vẫn luôn lo cây cầu ngấm nước suốt một

thời gian dài sẽ đột ngột sụp đổ, may sao là nỗi lo này không hóa thành sự thực, cũng không có

quái vật gì dưới đáy hồ bỗng nhiên nhao lên tập kích. Mấy tên lính đánh thuê phía trước hình

như chỉ do bơi đến kiệt sức, rồi bị chuột rút nên chết đuối mà thôi.

Nửa tiếng đồng hồ, rồi một tiếng đồng hồ sau, mặt hồ vẫn mù mịt hơi nước, có tên bắt đầu

mất kiên nhẫn: “Con bà nó. Cái hồ này rốt cuộc rộng chừng náo đây?”

Trác Mộc Cường Ba cũng thầm kinh ngạc với diện tích mặt hồ, có lẽ nó phải rộng bằng biển

Sinh Mệnh ở tầng bình đài thứ hai. Cây cầu này làm sao mà bắc qua cả cái hồ được nhỉ? Gã cúi

đầu thử nhìn, chỉ thấy dưới cầu thấp thoáng những trụ đá khổng 1ồ, cứ đi chừng hai chục bước

lại có một cây cột chống vươn dài xuống vùng tối thăm thẳm bên dưới. Có lúc, dường như còn

có sinh vật dạng rắn quấn quanh trên trụ đá, nhưng nhìn kỹ lại chẳng thấy tăm tích gì hết, Trác

Mộc Cường Ba đoán chắc là mình nhất thời hoa mắt.

Không biết đi mất bao lâu, cuối cùng cũng trông thấy bờ hồ bên kia, cả đội ngũ liền tăng tốc

tiến lên, rốt cuộc đã đến nơi! Nhưng khi đặt chân lên bờ, thứ đầu tiên đập vào mắt bọn chúng

lại là quảng trường rộng mênh mông, và vô số những khối đá khổng lồ chưa được đục đẽo nằm

rải rác, sừng sững như những quân cờ trên bàn cờ. Cảnh tượng thoạt trông chẳng khác nào thần

điện Hy Lạp sau khi sụp đổ, hoặc vườn Viên Minh vừa bị hỏa thiêu, nền đất trống trơn trơ lại

những tàn dư đổ nát. Bọn lính đánh thuê lại gào lên: "Đùa cái gì vậy? Đây mà gọi là Bạc Ba La

thần miếu à? Thần miếu cái đít ấy!"

“Truyền thuyết con bà nhà nó, toàn là giả cả! Chúng ta bị lừa rồi!”

"Chỗ này có gì vậy? Có phải tao đang bị ảo giác không?"

"Trật tự! Trật tự!" Merkin phải tốn khá nhiều công sức mới kiềm chế được tâm trạng của

bọn lính đánh thuê chỉ nghe y gằn giọng quát: "Chúng mày thì biết cái gì? Đây là nghệ thuật

ngụy trang, quảng trường này được người ta cố ý làm ra như vậy, cánh cửa vào Bạc Ba La

thần miếu được giấu ở bên trong lòng núi, không phải ở ngoài này. Nghe lệnh tao đây, chia

thành từng tiểu đội, men theo chân núi, tìm cho tao, không được bỏ qua bất cứ khe núi nào

hết!”

Trước cửa lớn Bạc Ba La thần miếu, Mẫn Mẫn lo lắng hỏi: "Làm sao bây giờ? Pháp sư, phải

làm sao bây giờ?"

Pháp sư Á La nói: "Tìm chỗ nào ẩn nấp trước đã, bọn chúng đông quá, chỉ có thể tùy cơ ứng

biến thôi. Ta đã nghe thấy giọng Merkin, nếu có thể khống chế được hắn thì tốt rồi!” Chỉ có

điều, phía trước cánh cửa khổng lồ này, ngoại trừ mấy cột đá ra, chỉ cần lướt mắt qua là nhìn

thấy mọi ngóc ngách. Pháp sư Á La thoáng chau mày lại.

Người đông dễ làm việc, bọn lính đánh thuê không tốn mấy thời gian đã phát hiện ra khe

núi nhân tạo đó, liền gọi Merkin đến. Merkin nhướng mắt quan sát, hỏi: “Có người vào trong

rồi à?”

Khafu đứng cạnh đó lắc đầu: "Không hề."

Merkin nhặt mấy mẩu đá vụn dưới đất lên, nói: “Không ai vào trong, thì dấu chân này do ai

để lại? Lính trinh sát, vào trong lục soát, ở đây có thể dùng chế độ quan sát hồng ngoại được

rồi.”

Pháp sư Á La nấp ở mé bên trong vách núi và Đường Mẫn treo mình lơ lửng dưới giếng tế

đều không ngờ đám thuộc hạ của Merkin được trang bị đầy đủ đến thế nên chỉ một thoáng sau

đã bị phát hiện.

Merkin cười lớn, sải chân bước vào khe núi: “Bất ngờ quá nhỉ, các vị lại gặp nhau ở đây rồi,

Cường Ba thiếu gia.”

Trác Mộc Cường Ba ấp a ấp úng một hồi lâu mới thốt lên được hai chữ: "Mẫn... Mẫn..."

Đường Mẫn không sao kiềm chế được nữa, nước mắt trào ra, cô khóc òa lên gọi "Cường

Ba!" rồi lao bổ tới. Cũng không ai ngăn cản hai kẻ si tình ấy ôm chặt lấy nhau, dụi đầu dụi cổ

vào nhau.

Merkin cười hì hì bước đến trước mặt pháp sư Á La, bộ dạng đắc ý: “Sớm quá nhỉ, Đại lạt

ma, đến được mấy ngày rồi phải không? Sao hả? Không vào trong được à?”

Max cũng nhảy vào tham gia trò vui: "Ái chà chà, thèm nhỏ dãi ra mà không vào được à,

chuyện đau khổ nhất trên đời chẳng qua cũng chỉ đến vậy mà thôi.”

Merkin nhướng cặp mắt rắn lên, bảo pháp sư Á La: “Tôi rất khâm phục thân thủ của ông,

nếu có cơ hội tôi cũng rất muốn cọ xát với ông thêm lần nữa, chỉ tiếc rằng, hiện giờ cả thời

gian và địa điểm đều không thích hợp.”

Pháp sư Á la nghiêm mặt hỏi: “Đừng đắc ý sớm quá, ngươi tưởng các ngươi có thể vào

trong được chắc? Nhìn kỹ cánh cửa đó đi rồi hãy nói!”

Merkin bước tới cạnh cánh cửa, lờ đi bức phù điêu bên trên, trực tiếp ấn tay vào khe cửa,

hơi nhấc tay lên, rồi đập mạnh xuống. Một luồng gió mạnh theo khe cửa thổi vào trong, y áp cả

bàn tay vào khe hở đó, cảm nhận rung động từ phía trong truyền ra.

Rất nhanh, gương mặt Merkin lộ vẻ hoang mang, cũng khó trách, ngay cả pháp sư Á La còn

không thể thăm dò được cánh cửa đá này rốt cuộc dày chừng nào, Merkin làm sao đủ khả năng

chứ. “Dày vậy sao?” Merkin lẩm bẩm một mình, kế đó y lại phát hiện ra kết cấu đặc thù của

cánh cửa, ngạc nhiên thốt lên: “Cửa thụt vào.”

“Ông chủ, cửa thụt vào là thế nào?” Max không để lỡ thời cơ vội hỏi ngay.

"Là loại cửa không phải đẩy vào trong hay kéo ra ngoài, mà trượt theo rãnh ở hai bên. Đặc

điểm của loại cửa này chính là có thể dày không giới hạn. Mày nhìn thấy đây là cánh cửa thứ

nhất, có thể dày khoảng nửa mét hoặc hơn, bên trong nó có thể còn một trăm, một nghìn cánh

cửa y như vậy, chỉ cần người xây cửa thích thì muốn bao nhiêu cũng được.” Merkin lại thêm

một lần nữa phát ra tiếng thở dài kinh ngạc trước trí tuệ của người xưa.

Max thầm tính toán một hồi, đoạn kinh hãi thốt lên: “Vậy làm sao mở ra được? Một nghìn

cánh cửa, thuốc nổ của chúng ta làm sao mà đủ dùng chứ?”

"Cơ quan!” Merkin vuốt tay lên những đường vân trang trí trên cánh cửa. "Lực kéo mạnh

như huyết trì, vả lại, người xưa đã chọn chỗ chân núi này để xây cửa, sợ rằng có dùng thuốc nổ

cũng không hiệu quả mấy.”

“Tại sao vậy?” Khafu hỏi

Merkin đáp: "Nếu đường hầm rất sâu thì những cánh cửa này không chỉ có tác dụng đóng

mở đường hầm, mà còn phải chịu áp lực vô cùng lớn của cả ngọn núi nữa, một khi dùng thuốc

nổ, ngọn núi bên trên sụt xuống, nơi này sụp đổ, tất cả đều bị chôn sống ở đây."

"Vậy làm sao mới mở ra được?" Khafu lại hỏi.

Merkin nói: “Tìm đi, chắc chắn có cơ quan kích hoạt cánh cửa, hoặc giả phải dùng nghi

thức hiến tế gì đó.”

Max ở bên cạnh chợt nói: "Ông chủ, cái hố lớn kia để làm gì vậy?"

Merkin liếc nhìn đoạn gật đầu nói: "Giếng tế, vừa khéo dùng được." Y quay người lại, đến

bên cạnh Trác Mộc Cường Ba, bảo bọn lính đánh thuê tách gã và Mẫn Mẫn ra, rồi áp giải Trác

Mộc Cường Ba, Mẫn Mẫn, pháp sư Á La đến bên cạnh giếng tế.

Merkin ra vẻ trang trọng cất tiếng: "Ba vị, tin rằng ba vị cũng biết, tiếp sau đây sẽ xảy ra

chuyện gì, tôi rất xin lỗi, để an ủi vỗ về những sinh linh điên cuồng hoặc du hồn dã quỷ bên

trong cánh cửa kia, các vị đành phải chịu thiệt thòi rồi. Trác Mộc Cường Ba, tôi đã để anh nhìn

thấy Bạc Ba La thần miếu, cũng đã gặp được cả tình nhân, tin rằng hai người đã nói với những

lời chia ly cuối cùng rồi phải không?”

Trác Mộc Cường Ba điềm đạm nói: “Ngươi không sợ ta không ngã chết à?”

Merkin nói: "Đây chỉ là một nghi thức tôn giáo thôi mà, có điều tôi chỉ cảm thấy, mỗi một

hoạt động của cổ nhân tiến hành đều có dụng ý của họ. Tôi không phải tên điên giết người, anh

đã có thể sống sót trên băng nguyên, vậy thì lần này thoát chết cũng chẳng có gì là lạ. Chỉ có

điều, giờ đây tôi đang chiếm thế thượng phong. Vì vậy, tốt nhất cứ nghe theo số mệnh đi!"

"Để tôi xuống trước!" Mẫn Mẫn đột nhiên ré lên, hai tên lính đánh thuê bên cạnh phải dồn

sức mới giữ chặt cô lại.

Merkin cười khẩy nói: "Tình yêu cứng rắn hơn cả vàng ròng, tốt thôi, để đấy..."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Merkin, để ta đi trước, cứ yên tâm, ta sẽ giữ cho ngươi một chỗ

tốt dưới địa ngục." Gã nói câu này hết sức bình thản, dụng ý đã quá rõ ràng. Merkin nghe xong

liền nhếch mép cười khẩy, cơ mặt rúm lại, đôi mắt dần trở nên âm độc, hung tàn. Y chầm chậm

xoay người đi, Max đứng cạnh đó hiểu ý, lập tức đẩy mạnh vào Trác Mộc Cường Ba.

"Không..." Trong tiếng hét như xé gan xé ruột của Mẫn Mẫn, Trác Mộc Cường Ba đã bị cái

hố đen ngòm nuốt chửng. Cùng lúc ấy, trong đám lính đánh thuê của Merkin, cũng có một tên

hét lớn xông ra. Merkin vừa nghe âm thanh ấy vội vàng ra lệnh cho mấy tên đứng xung quanh

chặn tên lính đánh thuê đó lại. Y sợ thuộc hạ không ngăn được đối phương, vội đích thân xông

lên, nào ngờ chỉ thoáng một cái tên lính đánh thuê ấy đã bị chế phục rồi.

Mũ bảo hộ trên đầu Lữ Cánh Nam bị giật ra, Merkin lấy làm khó tin, chắt lưỡi nói: "Quả

không hổ là giáo quan của bộ đội đặc chủng, không ngờ cô có thể ẩn nhẫn đến mức này. Nếu

cô chịu trơ mắt nhìn mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, đại lạt ma lần lượt nhảy xuống mà

không phản ứng gì, nói không chừng đến lúc then chốt, cô đã có thể đánh lén thành công rồi."

Merkin sải chân bước đến trước mặt Lữ Cánh Nam, cao ngạo nhìn xuống nói: "Gần đây tôi

luôn bị cảm giác bất an quấy nhiễu, nhưng không sao tìm ra nguyên nhân, khửa khửa, thì ra lại

là cô, Lữ Cánh Nam, Lữ giáo quan."

Lữ Cánh Nam lạnh lùng nhìn Merkin, nói: "Ngươi đã chết đến đít rồi mà vẫn còn không

biết, đúng là đáng thương!” Merkin cười phá lên ha hả: "Câu nói này, phải để tôi nói với cô

mới đúng chứ, ha..." Y vừa nói vừa xoay người, nhưng mới xoay được một nửa, nụ cười đột

nhiên đông cứng lại trên gương mặt, tiếng cười bỗng chốc im bặt. Một họng súng đen ngòm

đang chĩa thẳng vào đầu y.

Tiêu điểm nhìn của Merkin lập tức thu từ xa về ngay trước mắt, nhìn rõ gương mặt kẻ to gan

dám giơ súng nhắm vào giữa trán mình, vẻ mặt cứng đờ lập tức thành phẫn nộ: “Hóa ra lại là

mày? Max!”

Cuối cùng, đã đến lượt Max cười rồi.

Lần đầu tiên ưỡn thẳng lưng lên, không ngờ cao ngang ngửa với Merkin!

Max không nén nổi niềm vui suớng dâng trào trong tâm can phế phủ, y ngoác miệng ra

không sao khép 1ại được: “Xin lỗi nhé, ông chủ.” Khi Max nói câu này, ánh mắt hắn, từng sợ

lông mao vàng nhỏ li ti trên tay hắn, tựa như đều đang cười. Dường như hắn phải tốn nhiều

công sức lắm, mới ngăn được mình không bật ra tiếng cười váng động cả không gian xung

quanh: “Xin lỗi, xin lỗi, đi theo ông chủ lâu rồi, không hiểu từ lúc nào đã học được thói quen

của ông chủ. Ông thường thích nhìn vẻ mặt kinh ngạc chấn động của kẻ khác, hôm nay tôi mới

biết, thì ra vẻ mặt ấy có thể khiến tâm trạng người ta sướng khoái đến thế, tôi... tôi xúc động

quá, ông chủ ạ!”

Tâm trạng Merkin đang ở trên mây cao đột nhiên rớt thẳng xuống hố băng sâu thẳm, y lướt

ánh mắt nhìn sang mé bên, quả nhiên, Khafu đứng cạnh Max đã giương súng nhắm vào mình;

bọn lính đánh thuê kia, dường như sau một hồi đấu tranh nội tâm khốc liệt, cuối cùng cũng đều

chĩa súng vào y!

Merkin chỉ cảm thấy cơn phẫn nộ như một con hung thú khổng lồ đang tả hữu xung đột bên

trong cơ thể mình, từng mạch máu khắp người căng tức chỉ muốn nổ tung. Thật không thể ngờ,

không thể nào ngờ được, thằng Max tối ngày chỉ biết vuốt đuôi xoen xoét nịnh hót, phục tùng

mình như nô lệ hầu hạ chủ nhân, thằng Max đầu óc ngu si tứ chi phát triển, làm chuyện gì cũng

chẳng nên hồn ấy, lại chơi xỏ y một đòn đau như vậy. Không ngờ “Merkin này lại bị một thằng

ngu như thế bỡn cợt!” Y đau đớn thầm nhủ.

Merkin lấy ra hy vọng cuối cùng của mình, ngón cái đặt lên nút bấm điều khiển, lạnh lùng

nói: “Chúng mày, không sợ cùng chết với tao ư?”

“Ông chủ, ông cứ ấn thoải mái đi...” Max càng lúc càng thêm đắc ý, trong khoảng khắc này

dường như hắn muốn đem hết những tiếng cười bị dồn nén suốt mười mấy năm nay, thỏa sức

mà cười cho thỏa. “Tôi đảm bảo là không có phản ứng gì đâu, ông quên rồi à, chính ông đã

giao nó cho cơ mà. Tần số sóng điện từ trên đó đã bị tôi dùng máy tính thay đổi rồi, ha ha ha...

mấy cái điều khiển trên tay ông, giờ chỉ là một đống đồ đồng nát thôi, ha ha ha...”

Bọn lính đánh thuê nghe nói thiết bị điều khiển từ xa trong tay Merkin đã vô tác dụng, cũng

dần lộ ra bản sắc sài lang của mình, ánh mắt chúng nhìn Merkin lập tức trở nên dữ tợn hung

hăng.

Lữ Cánh Nam ngớ người ra trong thoáng chốc, rồi ngoảng đầu lại định tìm kẻ kia, nhưng

sau lưng cô là cả một đám lính đánh thuê đầu đội mũ bảo hộ kín mít, làm sao phân biệt nổi.

Mẫn Mẫn và pháp sư Á La cũng ngây ra không sao hiểu nổi, bọn lính đánh thuê, Merkin và

Max, chỉ vì một câu nói của Lữ Cánh Nam mà trở mặt thành thù. Nhất thời, tất cả cùng im

phăng phắc, bầu không khí tĩnh mịch đến lạ lùng bao phủ khắp hiện trường.

Cuối cùng, Merkin cũng thành công trong việc áp chế con thú phẫn nộ trong lồng ngực, đầu

óc vừa tỉnh táo lại, y đã nhanh chóng phát hiện ra điểm sơ hở của đối phương. Chỉ nghe y gằn

giọng hỏi Max: “Thực lực của mày thế nào tao hiểu rất rõ, mày tuyệt đối không dám đối phó

tao trắng trợn thế này đâu. Khafu tuy có tài huấn luyện binh sĩ và dòng máu quân nhân, nhưng

lại không có đầu óc chính trị; hai người chúng mày không thể làm chuyện này được. Nói, kẻ

nào mới là chủ mưu sau lưng, hắn hứa cho chúng mày những gì rồi?"

Max cười khì khì nói: "Ông chủ quả không hổ là ông chủ, tư duy thật là mẫn tiệp, tiếc quá,

ông lại sắp phải chết rồi!"

"Max, tao tự thấy xưa nay đối xử với mày cũng không tệ... " Merkin giận dữ gầm lớn.

Max lập tức ngắt lời Merkin, chửi lại: "Đối xử không tệ? Ông còn mặt mũi nói câu đó sao!

Tôi hỏi ông, đã bao giờ ông coi tôi là con người chưa? Ông chỉ coi tôi là con chó! Một con chó

biết vẫy đuôi mừng chủ, một con chó phải luôn làm chủ vui lòng! Ngay cả Soares, cũng đối tốt

với tôi hơn ông nhiều đấy!" Nói đoạn, hắn dùng nòng súng vỗ vỗ lên má Merkin như thể khiêu

khích. Cuối cùng, hắn cũng có thể vỗ má Merkin mà không e ngại gì rồi, cảm giác này thật là

sảng khoái!

Merkin không sao tìm được cơ hội thoát thân, bàn tay Max khẽ rung lên vì giận dữ, nhưng

ánh mắt hắn chưa từng rời khỏi những chỗ yếu hại trên người y, chỉ cần y hơi có động tĩnh gì

lạ, khẩu súng trong tay Max chắc chắn sẽ không chút nương tình mà nhả đạn ngay lập tức. Y

cũng biết, tốc độ bóp cò của Max chắc chắn nhanh hơn tốc độ bình thường hắn vẫn biểu hiện

nhiều. Bên cạnh y đồng thời còn có một tên Khafu, tay vững như đúc bằng thép nguội, cặp mắt

lạnh lùng không chớp lấy một lần, xem chừng còn đáng sợ hơn cả Max. Merkin hít sâu một hơi

, gắng nén cảm xúc, nói bằng ngữ khí hòa hoãn nhất có thể: “Tao mặc xác kẻ đứng sau lưng

chủ mưu là ai, điều kiện hắn có thể đáp ứng mày, tao cũng đáp ứng được, gấp đôi!”

Max lắc đầu, nói: “Vô dụng thôi, ông chủ, người đó không phải hạng ông có thể đối địch

được đâu. Còn điều kiện mà người đó hứa với tôi...” Max không nhịn được, lại ngoác miệng ra

cười lớn: “Sau khi chết, tất cả mọi thứ của ông đều thuộc về tôi hết, ông nói xem, ông có thể

đáp ứng không? Gấp đôi? Ha ha... gấp đôi làm sao được? Ông chủ là người thông minh mà,

những lời ngu xuẩn thế này sao có thể thốt ra từ miệng ông cơ chứ? Tôi tưởng chỉ có tôi mới

hay nói kiểu ấy thôi chứ nhỉ, ha ha!”

Khafu đứng bên cạnh bực bội gắt lên: “Đừng đùa nữa, cứ theo kế hoạc mà hành động đi.”

Max thu nụ cười lại, gõ nòng súng lên trán Merkin như chim gõ kiến: “Thật ngại quá, ông

chủ, bây giờ, mời ông chầm chậm, lấy hết toàn bộ vũ khí trên người ra, nhớ lời tôi đấy nhé,

chầm chậm thôi, lấy hết vũ khí... trên người ông ra!”

Thấy Merkin nghe lời, bắt đầu nhúc nhích, Max lại tự đắc khoe khoang: “Ông chủ à, ông

biết đấy, tôi đi theo ông cũng lâu rồi, lâu đến nỗi trước mặt tôi ông chẳng còn bí mật gì nữa cả,

vì vậy đừng giở trò gì, tôi sẽ quan sát ông cẩn thận, rất cẩn thận đấy.”

CHƯƠNG 72. CÁNH CỬA CHÚNG SINH

SÓNG GIÓ LẠI NỔI

Merkin bất thình lình buông ra một câu: “Mười mấy năm nay, thật vất vả cho mày rồi,

Max.”

Max dương dương đắc ý nói: “Không vất vả so với những gì tôi giành được, miễn cưỡng

cũng xem như tương đương rồi.”

Chẳng ngờ ngữ khí của Merkin lại đột ngột biến đổi: “Ông chủ mày đi theo mười mấy năm,

mày nói phản bội là phản bội luôn, không biết mày định đi theo ông chủ mới bao lâu rồi phản

hắn hả?”.

Max giận tím mặt, giơ báng súng đập mạnh vào trán Merkin một cú, làm rách toác một

mảng lớn, máu chảy ròng ròng xuống theo gò má, liền sao đó, họng súng lại gí sát sạt vào đầu

đối phương, cánh tay hắn khẽ rung lên nhè nhẹ. Max nghiến răng kèn kẹt nói: “Ông chủ đừng

ép tôi nổ súng đấy.”

Merkin bị đau vậy mà còn phá lên cười. Mục đích của y đã đạt được rồi, Max và Khafu dám

hung hăng càn quấy như vậy chứng tỏ kẻ ở đằng sau sách động bọn chúng nhất định có mặt ở

đây, hắn ta cũng trà trộn vào đám lính đánh thuê như Lữ Cánh Nam vậy, chỉ là hiện giờ y vẫn

chưa nhận ra được mà thôi.

Merkin tiếp tục gỡ bỏ vũ khí trên người, vừa gỡ vừa nói: “Max, mày chỉ là một thằng chạy

vặt nhãi nhép, vĩnh viễn cũng chỉ có thể làm chân sai vặt mà thôi. Mày nhảy ra quá sớm, lại

không thể khống chế được cảm xúc của mình, mày hung hăng quá rồi đấy. Tao nghĩ, ông chủ

mới của mày hẳn là không vui đâu.”

Câu nói này không ngờ lại uy hiếp được Max, khóe môi hắn khẽ giật giật, như thể bị tạt cho

nguyên một chậu nước lạnh vào đầu, gương mặt lập tức tắt ngay vẻ huênh hoang ngạo nghễ.

Merkin càng thêm khẳng định, kẻ chủ sự phía sau chắc chắn ở trong đám người này. Y tiếp

tục hờ hững buông lời: “Tao cho mày một tiên đoán nhé, kết cục của mày chắc chắn còn thảm

hơn tao nhiều!”.

“Câm miệng!” Max ghìm giọng xuống thấp, nhưng vẫn không kìm được tiếng gầm gừ khản

đặc trong họng.

Merkin đã cởi hết trang bị trên người xuống, lúc này, tuy y không đến nổi trùng trục như

Soares, song cũng chẳng hơn là mấy. Hai bàn tay y co lại thành hình khẩu súng, lướt qua chỗ

bọn lính đánh thuê, chầm chậm vạch thành hai đường cong, lớn tiếng nói: “Tao biết mày đang

ở đây! Mặc kệ mày là ai, mày đã chơi được Ben Merkin này rồi đấy! Tao khâm phục! Nhưng

hãy nhớ cho kỹ! Chỉ cần tao còn một hơi thở thì cả đời này mày sẽ không được yên thân đâu!”

“Đi đi, lúc này còn nói những lời dọa dẫm ấy chỉ càng biểu lộ nỗi sợ hãi và bất lực trong

tâm anh mà thôi, giống như lũ súc sinh kêu gào thảm thiết trước lúc chết vậy, chỉ tổ làm nhục

thân phận và trí tuệ của anh chứ ích gì.” Không giống Max, Khafu từ đầu chí cuối vẫn luôn

khóa chặt Merkin , còn Merkin thì đến giờ mới nhận ra mình chưa bao giờ hiểu hết được kẻ

này. Merkin quay đầu lại, nhìn Khafu với ánh mặt thất vọng cực độ, thở dài nói: “Tôi vốn

tưởng rằng, anh là người đáng đế tôi tin tưởng.”

Khafu lắc đầu nói: “Anh tin tưởng ai chứ, Ben? Nhớ Soares chứ?”

Merkin tự cười giễu, y rốt cuộc đã hiểu, năng lực điều khiển thú vật của Soares trở nên thất

thường, hẳn có liên quan rất lớn với hai kẻ này; “Không xử bắn tôi luôn sao? Con định dẫn tôi

đi đâu nữa?”.

Max cười khì khì nói: “Cường Ba thiếu gia đã đi dò đường cho ông rồi còn gi? Giờ chúng ta

đưa ông đi đoàn tụ với hắn thôi.”

Cuối cùng Merkin cũng đổi hẳn sắc mặt. Từ đây rơi xuống không hiểu gã có chết ngay

không, hay là sống dở chết dở chờ đợi tử thần đưa đi trong bóng tối, hoặc giả bên dưới kia là

một lớp côn trùng lúc nhúc, đang đợi cắn xé máu thịt tươi rói của y. Con người ta sợ nhất

những gì mình chưa biết, Merkin cũng không phải ngoại lệ. Nhưng y là kẻ tâm tính cực kỳ kiên

cường, sau khi biết được cái chết đối phương dành cho mình, sắc mặc chỉ thoáng biến đổi

trong khoảnh khắc rồi tức khắc khôi phục lại vẻ bình thường ngay. Bên mép giếng tế, y thả

mình xuống, lưng buông về phía hố sâu, trước khi tầm nhìn hoàn toàn chìm xuống cái giếng

đen ngòm tối tăm ấy, y trừng mắt lên với Max, lớn tiếng quát: “Để tao xem mày chết như thế

nào!”.

Rốt cuộc cũng đã “tiễn đưa” Merkin xong xuôi, quả tim nãy giờ vẫn treo lửng lơ của Max

giờ mới hạ xuống được, hắn gạt mồ hôi đầm đìa trên trán, rồi phá lên một tràng cười sảng

khoái lạ thường. Mẫn Mẫn hoang mang nhìn Lữ Cánh Nam, thấp giọng hỏi: “Rốt cuộc là

chuyện gì vậy, giáo quan?”

Lòng Lữ Cánh Nam lúc này mới thật chua chát khó tả, không thể ngờ được, Max và Khafu,

hai tên trợ thủ mà Merkin tin tưởng nhất này, lại là quân cờ do kẻ ấy sắp xếp. Không hiểu sao,

trong cô bất chợt trào lên một cảm giác bất lực, tựa như chính mình cũng chỉ là một quân cờ

trong tay đối phương, số phận của pháp sư Á La, Mẫn Mẫn, bọn lính đánh thuê, kỳ thực đều

nằm trong bàn tay khống chế của kẻ đó. Chỉ là, hắn giữ cô lại phỏng có tác dụng gì? Con người

ấy, rốt cuộc hắn muốn làm gì đây? Trong đầu nghĩ ngợi vẩn vơ, Lữ Cánh Nam bất giác lại bắt

đầu đưa mắt tìm kiếm trong đám người.

Tên lính đánh thuê ấy vẫn đội mũ bảo hộ, nhưng y chỉ bước lên hai bước đã nổi bật giữa

đám người. Chỉ thấy thân hình y thấp hơn so với đám lính đánh thuê xung quanh một chút,

nhưng khí thế lạnh lẽo thì chỉ hơn chứ không kém Merkin chút nào. Max và Khafu lập tức

nhận ra đối phương. Max vội luống cuống bước lên trước, toe toét cười nói: “Thưa ngài, tôi

không hiểu tại sao người không lộ diện trước mặt hắn? Nếu hắn trông thấy ngài, tôi đảm bảo sẽ

sợ đến không nói nên lời cho mà xem.”

Người kia không trả lời, chỉ hơi nghiêng nghiêng đầu, ánh mắt xuyên qua lớp kính trên mũ

bảo hộ bắn thẳng lên người Max, Max dường như sực nhớ ra điều gì đó, hai đầu gối bỗng mềm

nhũn ra, hết sức thành thục quỳ ngay xuống, chổng mông lên cao dập đầu như giã tỏi, luôn

miệng búa xua: “Thưa ngài, thưa ngài, tôi xin thề với trời, lòng trung thành của tôi có trăng sao

làm chứng. Tên Merkin ấy chỉ toàn vu oan giá họa cho tôi thôi, hắn đố kị tôi, hắn đố kị tôi có

thể giành được sự tín nhiệm của ngài, hắn muốn chia rẽ quan hệ nô bộc và chủ nhân vĩnh viễn

không bao giờ thay đổi giữa tôi và ngài. Ngài tin tưởng tôi mà, ngài tin tưởng tôi đúng không,

tôi xưa ngay luôn thờ ngài…”

Cũng không hiểu vì tư thế của Max quá khó coi, hay những lời hắn nói quá tởm lợm buồn

nôn, tên lính đánh thuê kia đột nhiên “pằng” một tiếng, cho y một viên đạn giữa trán, động tác

hết sức dứt khoát, gọn gàng. Nụ cười thở lợ vẫn còn đông cứng trên khuôn mặt Max, chỉ có đôi

mắt kinh hoảng là hơi biến đổi, hắn chầm chậm nghiêng người lăn ra đất. Đôi mắt trống rỗng

nhìn xuyên qua khe núi, trừng lên với trời xanh mây trắng phía bên ngoài. “Sao có thể vậy

được? Sao lại như vậy? Ta vừa mới lộ mặt, ta vẫn còn cả tương lai rộng mở, vậy mà đã kết

thúc rồi sao? Đơn giản … như vậy thôi sao …” Oán niệm của Max phảng phất như hóa thành

một quầng mây xoắn xuýt nơi chân trời, dày đặc không thể nào tan đi được.

Bấy giờ, tên lính đánh thuê mới gỡ mũ bảo hộ xuống, chẳng buồn liếc mắt nhìn cái xác Max

dưới đất lấy một lần, tựa hồ cái đống thù lù trước mặt y chẳng có gì đáng để vào mắt cả, chỉ

như một đống bụi đất mà thôi. Y trầm ngâm giây lát, rồi nói với các xác ấy: “Mày nói đúng

lắm, Merkin hắn chỉ nói bừa thôi, nhưng thật đáng tiếc, trí tuệ của mày và ông chủ cũ của mày

hoàn toàn không thuộc cùng một cấp độ. Hắn chỉ cần một câu là đủ khiến giữa chúng ta nảy

sinh e dè lo ngại, đã chôn xuống hạt giống có thể nảy mầm thành oán giận rồi. Đằng nào cũng

thế…chi bằng đặt một dấu chấm hết cho đơn giản. Lần sau đầu thai làm người, tốt nhất nên

thông minh một chút.”

Dứt lời y quay sang bảo Khafu: “Hành động theo kế hoạch”. Khafu lập tức chỉ huy hai tên

lính đánh thuê thay y phục cho Max. Biến hóa xảy đến quá nhanh và bất ngờ, bọn lính đánh

thuê còn lại đều ngần ngừ do dự, vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sao Max lại bức tử

Merkin, để rồi chính hắn lập tức bị một kẻ lạ hoắc làm thịt luôn, người này là ai? Sao Khafu lại

nghe lệnh y? Lúc này, Khafu mới bảo bọn lính đánh thuê: “Đây mới là ông chủ thực sự của

chúng ta, những gì Merkin hứa cho chúng mày ông chủ sẽ trả không thiếu một xu, hơn nữa,

chúng mày cũng nên biết là, thuốc nổ trên người chúng mày, phải nhờ ông ấy mới gỡ ra được

đấy.”

Tên lính đánh thuê ấy cuối cùng cũng quay đầu lại. Mái tóc y đen bóng, cắt ngắn dựng đứng

lên, trên mặt lại bôi một lớp màu hóa trang rất dày, khiến người ta không nhìn rõ được tướng

mạo thực sự. Có điều, Lữ Cánh Nam cũng lờ mờ nhận ra, gương mặt ấy dường như còn trẻ hơn

cả Nhạc Dương và Trương Lập, có nét hoang dã thô hằn của người dân tộc du mục miền tái

ngoại. Rõ ràng y đang cười, nhưng Lữ Cánh Nam nhìn ánh mắt y lại dâng lên một thứ cảm giác

khiến cô rùng mình phát lạnh từ tận đáy lòng. Đôi mắt đen tuyền ấy toát lên một vẻ u uất nồng

đậm, dường như cô đã gặp ánh mắt ấy ở đâu rồi thì phải, nhất định là đã thấy ở đâu đó! Cô đột

nhiên nhớ đến một chuyện khác, đối phương từng nói với cô rằng: “Merkin chỉ là một con tốt

thí mà thôi…giống như cô vậy…”

Bên cạnh Merkin là Khafu và Max, còn bên cạnh cô, hoặc là bên cạnh Trác Mộc Cường

Ba…ánh mắt cô lập tức đanh lại, lạnh buốt, quay ngoắt sang Mẫn Mẫn. Mẫn Mẫn đang run lên

bần bật!

Có một người chú ý đến trạng thái của Mẫn Mẫn sớm hơn cả Lữ Cánh Nam. Đó là pháp sư

Á La. Từ khi tên lính đánh thuê đó bước ra, toàn thân Mẫn Mẫn đã không kìm chế nổi mà run

lên lẩy bẩy. Pháp sư Á La chỉ khe khẽ thở dài, song không nói gì cả.

Nhưng Lữ Cánh Nam thì khác, cô không thể đè nén cảm xúc của mình. Cô bỗng cảm thấy

thật không đáng thay cho Trác Mộc Cường Ba: “Cô! Chính là cô! Đúng là cô!” Giọng Lữ Cánh

Nam bỗng trở nên cao gắt, âm điệu pha lẫn cả vẻ điên cuồng. Mẫn Mẫn vẫn đang run lên bần

bật, chỉ là trên gương mặt đã có thêm hai vệt nước, từng giọt từng giọt lệ như hạt ngọc trai tuôn

trào ra khỏi khóe mắt.

“Ồ, ồ, ồ, làm sao vậy chứ? Đều là người nhà cả mà, hà tất phải làm cho nhau không vui vậy

chứ?” Tên lính đánh thuê ấy vung tay lên, đẩy Lữ Cánh Nam về phía pháp sư Á La và Mẫn

Mẫn.

Lữ Cánh Nam vẫn rít lên the thé: “Tại sao, tại sao cô lại làm thế? Cho dù tất cả mọi người

trong đội chúng ta phản bội anh ấy, thì cô cũng không thể nào phản bội anh ấy được! Cô có

biết không, mạng của cô chính là do anh ấy hết lần này đến lần khác, đổi về bằng tính mạng

của chính mình đấy! Cô có biết hay không hả?”

Tiếng gào the thé của Lữ Cánh Nam dội đi dội lại trong khe núi trống trải, nếu không có

pháp sư Á La đứng chắn giữa hai người, không khéo Lữ Cánh Nam đã lao lên giật tóc Mẫn

Mẫn đập đầu vào tường như một mụ đàn bà đanh đá ngoài chợ rồi. Tiếng hét phát xuất tự trong

sâu thẳm tâm hồn ấy đã xé toang những vết thương trước giờ cô vẫn lẳng lặng dùng nước mắt

hàn gắn lại. Trong khoảnh khắc này, cô chẳng còn nghĩ đến chuyện gì nữa.

Mẫn Mẫn bị khí thế cũa Lữ Cánh Nam làm cho hoảng sợ, liên tiếp giật lùi mấy bước liền,

ôm mặt nấc lên nghẹn ngào: “Đừng nói nữa, cầu xin cô đừng nói nữa!”

Tên lính đánh thuê kia lấy làm thích thú quan sát cảnh tượng ấy, nào ngờ, tình thế lại biến

đổi trong chớp mắt. Lữ Cánh Nam vừa mới nổi cơn điên loạn mắng chửi Mẫn Mẫn không tiếc

lời, bất thình lình đạp mạnh chân bật người về phía sau. Pháp sư Á La nãy giờ im lìm không

lên tiếng chợt lách người lướt lên chắn trước mặt Lữ Cánh Nam, vận tốc toàn thân làm bật tung

sợi dây thừng trói chặt hai tay mình ra, rồi tung mình như đại bàng sải cánh giữa tầng mây, lộn

nhào mấy vòng trên không trung, tăng tốc lao bổ xuống tên lính đánh thuê kia như chim ưng vồ

thỏ.

Khi kẻ thắng lợi tưởng rắng chiến thắng đã nắm chắc trong tay, chính là lúc y lơi lỏng tinh

thần, lộ ra sơ hở duy nhất. Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La phối hợp hết sức ăn ý, một người

xông lên cướp súng của tên đứng phía sau, một người yểm hộ cho người kia, cầm chân tên lính

đánh thuê lợi hại nhất ấy. Hai người đều có chung nhận định, cho rằng kẻ này chính là đối thủ

đáng sợ nhất của họ, chỉ cần có thể chế phục hoặc hạ sát hắn, bọn lính đánh thuê còn lại đều

không có gì đáng ngại.

Biến cố bất ngờ nảy sinh, tên lính đánh thuê sau lưng pháp sư Á La hoàn toàn không kịp

phản ứng gì, chỉ thấy người phụ nữ đó lao đến trước mặt mình, bóng người lóa lên rồi tức thì

biến mất, kế đó bên hông nhẹ bẫng, vũ khí đã lọt vào tay đối phương lúc nào chẳng hay.

Còn tên lính đánh thuê bị pháp sư Á La lao bổ xuống tấn công kia cũng hiểu, tuy vị sư già

này không thể thực sự làm y bị thương, song một khi ông quẩn chân trong giây lát, để Lữ Cánh

Nam cướp được súng, tạo thành thế gọng kìm kẹp chặt y thì muốn xử lý cho gọn ghẽ cũng

tương đối phiền phức. Cũng trong khoảnh khắc Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đột nhiên phát

động thế tấn công ấy, y nhìn thấy điểm đột phá duy nhất để bù đắp cho thế yếu của mình. Y

hoàn toàn không để ý đến khí thế liều mình như chẳng có của pháp sư Á La, quyết định bỏ gần

đánh xa, ngay khi Lữ Cánh Nam vừa rùn người chạm tay vào khẩu súng ngắn đeo ở thắt lưng

tên lính đánh thuê kia, pháp sư Á La vừa tung mình nhảy lên, y đã lao thẳng về phía trước,

xuyên qua dưới háng pháp sư Á La..

Lữ Cánh Nam vừa cầm được khẩu súng, lập tức điều chỉnh họng súng, bỗng thấy một bàn

tay còn nhanh nhẹn hơn mình bội phần đặt lên thân súng, khẽ vuốt một cái. Lữ Cánh Nam

cũng ngay lập tức bóp cò súng, song không nghe thấy âm thanh “lách cách” quen thuộc, mà cò

súng lỏng ra như thể gãy lìa. Cô nhìn khẩu súng, không ngờ nó đã tách ra làm bốn năm phần

khác nhau. Lữ Cánh Nam kinh hãi thốt lên: “Kỹ thuật tháo súng trong nháy mắt!”. Kết cấu của

súng ngắn không phức tạp như nhiều người bình thường vẫn nghĩ, chỉ cần vài món linh kiện là

có thể lắp thành một khẩu súng rồi, kỹ thuật tháo súng trong chớp mặt ấy Lữ Cánh Nam cũng

từng chứng kiến qua, nhưng chưa bao giờ cô thấy ai thực hiện nhanh như vậy, y mới chỉ vuốt

nhẹ một cái, là đã biến khẩu súng thành mấy món linh kiện rời rạc tóe xuống đất!

Tên lính đánh thuê dường như còn nhếch mép cười cười với Lữ Cánh Nam, rồi xoay người

đón lấy một đấm của pháp sư Á La tung ra.

Pháp sư Á La cũng bị bất ngờ, trong suy nghĩ của ông, cao thủ chân chính thì tuyệt đối

không thể chui qua dưới háng kẻ địch được, nhưng đối phương đã làm như vậy, thậm chí

không một chút chần chừ do dự. Pháp sư Á La đành đảo mình xoay chuyển trên không trung,

dồn hết sức lực vào nắm đấm, tranh thủ khoảnh khắc tên lính đánh thuê ra tay với Lữ Cánh

Nam, tung ra một đòn toàn lực, mong sao có thể gây thương tổn cho kẻ địch!

Tên lính đánh thuê cũng hiểu muốn tháo khẩu súng trên tay Lữ Cánh Nam thì chắc chắn

không thể tránh được nắm đấm của vị sư già sau lưng, mà y cũng không hề có ý định né

tránh…chỉ thấy y vận lực xoay người lại, chính diện đón lấy, một đấm đổi một đấm, quyết định

lấy cứng chọi cứng với đối phương một lần!

Kết quả của lần giao thủ này là… tên lính đánh thuê khẽ phủi bụi bám trước ngực, hờ hững

như chưa từng có chuyện gì xảy ra, còn pháp sư Á La bị một đấm của y đánh văng ngược ra

xa, loạng choạng rơi xuống cách đó ba bốn mét, cả người cuộn lại như con tôm khô.

Trông thấy cảnh tượng đó, rốt cuộc Lữ Cánh Nam cũng hoàn toàn tâm nguội ý lạnh. Cô

tuyệt đối không có năng lực đơn độc đối phó với tên lính đánh thuê thần bí này, chỉ đành lách

người lướt ra, định đỡ pháp sư Á La đứng dậy. Tên lính đánh thuê kia cũng chẳng định ngăn cô

lại. Cả quá trình ấy chỉ diễm ra trong khoảng một hai giây đồng hồ, Mẫn Mẫn vẫn ôm mặt

khóc nức nở, bọn lính đánh thuê kia vẫn chưa kịp phản ứng gì thì mọi việc đã kết thúc.

“Đại nhân Á La!” Lữ Cánh Nam đang định kéo cánh tay pháp sư Á La lên.

“Đừng chạm vào”, pháp sư Á La khó nhọc chống khuỷu tay xuống đất, tay kia ngăn Lữ

Cánh Nam lại: “Gãy rồi!”

Lữ Cánh Nam bấy giờ mới phát hiện, xương lồng ngực pháp sư Á La không ngờ đã lõm hẳn

vào, lẽ nào xương ngực của pháp sư bị một đấm của tên lính đánh thuê kia đánh gãy rồi ư? Sao

có thể chứ? Gân cốt pháp sư Á La thế nào, Lữ Cánh Nam là người hiểu rõ nhất, vượt qua bao

nhiêu cơ quan cạm bẫy nguy hiểm như thế, ông cũng chưa từng bị rạn xương lấy một lần, vậy

mà một đấm của hắn…

Hai tay pháp sư Á La đè chặt lên hai đoạn xương sườn, một ấn một bật, chỉ thấy chỗ hõm

vào thoắt cái đã bật trở ra, thoạt nhìn không phát hiện ra điều gì dị thường cả. Nhưng Lữ Cánh

Nam biết, tuy pháp sư Á La dùng thủ ấn nối xương đặc biệt của mật giả tu khiến xương lồng

ngực trở về vị trí ban đầu, song đã gãy tức là đã gãy, vết thương tuyệt đối không thể hồi phục

trong thời gian ngắn được, chỉ cần trúng thêm đòn hơi nặng một chút, nội tạng của Pháp sư Á

La sẽ không chịu được chấn động, lúc ấy ông sẽ chẳng khác nào phế nhân.

Pháp sư Á La ghé sát bên tai Lữ Cánh Nam khẽ nói: “Tay phải của hắn sở hữu thứ sức

mạnh mà con người không thể có được.” Pháp sư Á La hiểu rõ mật độ xương cốt của mình,

một người có cú đấm mạnh đến mấy cũng không thể khiến ông tổn thương đến mức này. Ông

cảm thấy rất rõ ràng, thứ đánh lên lồng ngực mình là một loại vũ khí bằng sắt thép, hoặc một

loại vật chất nào đó còn cứng hơn cả sắt thép. Lữ Cánh Nam ngạc nhiên ngoảnh đầu lại, chỉ

thấy cánh tay phải của tên lính đánh thuê đó hoàn toàn bọc bên trong bộ đồ liền thân, không

thấy có nắm đấm sắt bọc bên ngoài. Pháp sư Á La nói đó không phải là sức mạnh của con

người, vậy thì là gì nhỉ?

Lúc này tên lính đánh thuê đó đã uể oải lững thững bước đến, ánh mắt y vẫn đượm một vẻ u

uất khó hiểu!

“Thân thể ngưởi già lượng canxi bị thất thoát rất nhiều, dễ mắc phải chứng loãng xương,

không so được với thanh niên đâu, vì vậy, ông tốt nhất không nên làm bừa thì hơn.” Nói tới

đây y khẽ ho khan hai ba tiếng. Thần sắc vốn đang rất đắc ý, y bỗng bực bội lừ mắt nhìn pháp

sư Á La một cái, xem ra, cú đấm của vị pháp sư già cũng không phải hoàn toàn không ảnh

hưởng gì đến y.

Khafu bước đến nói với tên lính đánh thuê ấy: “Làm xong rồi”.

Tên lính đánh thuê liền gật đầu nói: “Ném xuống đi.” Lữ Cánh Nam nhìn hai tên lính đánh

thuê ném cái xác Max xuống giếng tế như ném một bao cát, không hiểu chúng có dụng ý gì.

Đúng lúc ấy, cô lại thấy tên lính đánh thuê đó đi tới trước mặt Mẫn Mẫn, nghiêm giọng răn đe:

“Đừng khóc nữa, Cường Ba thiếu gia của cô vẫn chưa chết đâu. Lúc nào cũng vậy, chỉ biết có

khóc thôi!”

Đường Mẫn nửa mừng nửa sợ, quả nhiên đã nín khóc, ngước mắt nhìn y lắp bắp: “Chưa…

chưa chết?”

Tên lính đánh thuê đó cười khẩy: “Bọn chúng vẫn chưa phát huy tác dụng thực sự của mình,

làm sao chết dễ dàng như vậy chứ?”

Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đều giật mình kinh hãi, lòng đột nhiên dấy lên cảm giác

mình hoàn toàn bị người khác khống chế trong lòng bàn tay, chuyện này rốt cuộc là thế nào

vậy? Kẻ này là ai? Rốt cuộc hắn muốn làm gì? Tất cả mọi sự đều do hắn ngấm ngầm thao túng

hay sao?

Chỉ nghe người trẻ tuổi ấy hướng về phía bọn lính đánh thuê còn lại nói lớn: “Tao tên là

Thomas, chúng mày có thể gọi tao là ngài Thomas.”

Lại nói đến Merkin, sau khi nhảy xuống giếng tế, toàn thân vừa chìm ngập trong bóng tối, y

liền thấy dưới chân mình vừa dốc vừa trơn, trọng tâm cơ thể thay đổi, cảm giác như thể nhảy

vào một đường ống dẫn dầu hình tròn vậy. Y trượt nhanh chóng trong đường ống, sau mấy lần

chuyển hướng, thân thể liền chạm đất, lăn mấy vòng, hoàn toàn không hề sứt mẻ gì cả!

Merkin vừa đứng dậy, đột nhiên một ý nghĩ lóe lên trong óc, vội thầm nhủ: “Chết rồi!” Bản

thân y nhảy xuống đây không tổn thương gì, vậy chứng tỏ rằng, Trác Mộc Cường Ba nhảy

xuống trước chắc cũng không sao cả. Đối phương xuống đây trước y, nói không chừng đã thích

ứng với địa hình và bóng tối ở đây rồi. Vừa nãy, lúc y rơi xuống phát ra âm thanh, chắc chắc đã

khiến đối phương chú ý đến. “Gượm đã, liệu hắn có tưởng ta là Mẫn Mẫn hay lão lạt ma già

kia hay không nhỉ? Không, nếu vậy, hắn sớm đã lên tiếng hỏi han rồi. Sao hắn đoán được kẻ

rơi xuống là ta nhỉ? Thôi chết, tiếng quát lúc nãy ta nhảy xuống hố, chắc chắn đã bị hắn nghe

thấy rồi!”

Merkin thầm kêu khổ trong lòng, giờ đây y tay không tấc sắt, sức mạnh và tốc độ đều tương

đương với Trác Mộc Cường Ba, nhưng Trác Mộc Cường Ba lại có ưu thế của kẻ đến trước,

đúng như lời gã nói trước khi bị đẩy xuống hố, gã đã dò đường trước rồi. Tim Merkin bỗng

chốc đập thình thịch.

“Trác…Trác Mộc…Cường Ba…Cường Ba thiếu gia…” Merkin hướng về phía bóng tối, dè

dặt gọi hai tiếng.

“Hừ!” Trong bóng tối vẳng lại tiếng hồi đáp, không hiểu là tiếng cười gằn lạnh lẽo, hay là

tiếng gầm gừ tức giận.

OAN GIA NGÕ HẸP

Có phản ứng, vậy thì dễ rồi, Merkin tự cảm thấy về phương diện đàm phán thì mình cũng

khá. Y vừa mở miệng thì đã buông ra một câu tục ngữ Trung Quốc, thở dài than: “Ài…oan oan

tương báo đến bao giờ mới dứt.”

Ngưng một hồi lâu, không thấy phản ứng. Không gian tăm tối chìm trong sự tĩnh lặng chết

chóc.

“Ừm, ừm,” Merkin khẽ đằng hắng mấy tiếng, đổi giọng hòa dịu hơn chút nữa, “kỳ thực,

giữa chúng ta chẳng có thù hận gì đến nỗi không thể hóa giải được, tất cả đều bắt nguồn từ một

hiểu lầm đẹp đẽ mà thôi.” Rõ ràng đây là giọng điệu Max vẫn hay xoen xoét nói ra, Merkin

vừa mở miệng, bản thân cũng cảm thấy da gà gai ốc nổi lên khắp người.

Trác Mộc Cường Ba đã không muốn nghe đối phương huyên thuyên nữa: “Nói xem, ngươi

muốn chết như thế nào đây?”

Merkin nghe giọng điệu ấy, lập tức nổi khùng lên: “Trác Mộc Cường Ba, tao đã hạ mình

thương lượng với mày rồi, mày còn muốn gì nữa chứ? Mày tưởng tao sợ mày chắc, chưa biết ai

chết trong tay ai đâu!” Ngoài miệng hung hăng như vậy, nhưng hai chân y đã lặng lẽ dịch sang

một bên.

“Trốn đi đâu chứ? Tưởng rằng có thể trốn được ta chắc?” Trác Mộc Cường Ba vạch trần ý

đồ của Merkin, gã sống chung với bầy sói một thời gian khá dài, từ lâu đã học được cách

không cần dùng mắt cũng có thể tìm kiếm mục tiêu trong bóng tối rồi.

Đối với Merkin, Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng trở nên cao thâm khó dò, trong lòng y

lấy làm kỳ quái, “Được bao lâu rồi chứ, tên Trác Mộc Cường Ba này từ một gã thương nhân lột

xác thành một tên lính đặc chủng rồi, tiến bộ dường như hơi quá nhanh thì phải!”

“Khục, khục.” Trác Mộc Cường Ba lại phát ra mấy tiếng cười gằn lạnh lẽo.

Có điều, tiếng vọng trong căn phòng tối tăm này rất lớn, căn bản không thể dựa vào tiếng

động để phán đoán vị trí của đối phương được. Merkin chỉ nghe âm thanh trong bóng tối kia

cất lên lần nữa: “Có đạo thì được nhiều người giúp, vô đạo thì cô quả một mình. Ngươi tìm

hiểu văn hóa Trung Quốc cũng tỉ mỉ lắm, không biết đã nghe qua câu nói này chưa vậy? Ấy là,

không phải không có báo ứng, mà là thời điểm chưa đến đấy thôi! Ông trời đã để ngươi lọt vào

tay ta, đây chính là báo ứng kiếp này của ngươi đó! Đừng bảo ta không nhắc nhở ngươi, ta sẽ

tấn công từ bên trái đấy!”

Lời vừa mới dứt, tiếng gió đã nổi lên, Merkin vội đưa tay phòng hộ nửa mặt bên trái, kế đó,

mạng sườn bỗng đau nhói lên. Trác Mộc Cường Ba không hề nói nhất định phải tấn công vào

mặt y. Đến khi nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba bổ xuống thân thể mình, Merkin mới bắt đầu

phản kích: chặn, gạt, đỡ, phản công, hai người trao đổi mấy cú đấm trong bóng tối, chỉ nghe

tiếng “bịch, bịch” vang lên, đòn nào cũng trúng vào da thịt. Sau đó, cả hai lại tách ra, Trác Mộc

Cường Ba lẩn vào trong bóng tối, Merkin không tìm được gã, đành nghiến răng kèn kẹt vì đau.

Dẫu sao trong gian phòng tối om này cũng không có ai khác, y khỏi sợ bị mất mặt.

Merkin biết, Trác Mộc Cường Ba cũng phải ăn mấy đấm, có điều không cú nào đánh trúng

chỗ yếu hại, mà chỉ toàn đánh vào cơ bắp, phen này đúng là y đã thiệt to.

“Lần này đổi sang bên phải!” chỗ đau của Merkin còn chưa kịp dịu đi, Trác Mộc Cường Ba

đã lại tấn công tới. Merkin vội phòng thủ phía bên phải, bỗng chân như bị khúc cây quét tới,

không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại bắt đầu tấn công từ phía dưới.

“Bốp! Bốp!” Hai người một công một thủ, Trác Mộc Cường Ba lại nhảy lùi về phía sau lặn

mất vào bóng tối. Merkin ôm chặt mặt bên phải, dường như gò má đã sưng vù.

Vốn dĩ, nếu luận về thân thủ, Merkin có mấy chục năm kinh nghiệm, nói thế nào cũng phải

mạnh hơn Trác Mộc Cường Ba một bậc. Nhưng trong gian phòng tối tăm, xòe tay không thấy

ngón này, ngay cả dòng không khí lưu động cũng khó cũng khó mà cảm nhận được. Lần nào

Merkin cũng phải đợi Trác Mộc Cường Ba đánh trúng mình trước, sau đó dựa vào tưởng tượng

mới phác ra vị trí và động tác của đối thủ trong khoảnh khắc ấy, thành thử ra, y phải chịu thiệt

thòi rất lớn.

Cũng bởi vậy, Merkin cảm thấy vô cùng khó hiểu trước năng lực cảm tri mà Trác Mộc

Cường Ba học được của lũ sói. Theo nhận định của y, tối thiểu phải đạt đến trình độ pháp sư Á

La thì mới có được năng lực ấy, chứ hạng Trác Mộc Cường Ba thì tuyệt đối không.

Tiếp đó, Trác Mộc Cường Ba lại lần lượt tập kích Merkin từ nhiều phương hướng khác

nhau: trước, sau, mé phải phía trước, mé trái phía trước, mé phải phía sau, rồi lại mé trái phía

sau, dồn cho Merkin phải áp sát lưng vào tường, không dám nhúc nhích gì, bấy giờ gã mới

ngừng công kích, ẩn mình trong bóng tối thở hổn hển, nhìn chằm chằm vào con mồi của mình.

Merkin nghe tiếng thở khò khè như của một con ác thú khổng lồ vang lên trong bóng tối ấy,

rốt cuộc cũng nảy sinh ý định lui bước. Lời đồn ở thôn Đạt Ngõa Nô Thố quả không sai:

“Ngàn vạn lần chớ nên chọc giận Cường Ba thiếu gia, anh ấy mà nổi điên lên thì cả ma quỷ

cũng phải run rẩy khiếp sợ.” Hai người bọn họ mới đầu còn công có thủ, mỗi chiêu mỗi thức

đều biến hóa tận hết sở năng, về sau dần dần thành ra một cuộc vật lộn theo đúng nghĩa đen,

móng tay, nắm đấm, khuỷu tay, đầu gối, trán, răng… những bộ phận có thể dùng được trên cơ

thể đều đem ra sử dụng hết. Hai người quấn chặt lấy nhau lăn lộn dưới đất, hoặc không thì kẻ

này ôm kẻ kia đập mạnh vào tường. Kiểu đánh nhau này khiến kẻ đã quen sử dụng các loại

súng ống kỹ thuật cao như Merkin hoàn toàn rơi vào thế hạ phong. Trác Mộc Cường Ba ở với

lũ sói, không có dịp luyện tập bắn súng, nhưng bản lĩnh đánh nhau và vật lộn nguyên thủy của

dã thú thì gã đã học được không ít.

Merkin dựa lưng vào bức tường đá băng lạnh, lớn tiếng hỏi: “Anh không sao chứ? Cường

Ba thiếu gia?” Y biết chắc mấy đòn khá nặng vừa rồi đều đã đánh trúng Trác Mộc Cường Ba,

có điều y phải trả giá đau đớn hơn đối thủ nhiều. “Giờ anh đã rõ chưa hả, tôi không giết nổi

anh, nhưng anh cũng không giết nổi tôi đâu!”

Con thú đáng sợ đang ẩn mình trong góc tối vẫn thở phì phò trong cổ họng, Merkin vội

vàng nói tiếp: “Được rồi, tôi thừa nhận ở chỗ này anh có thực lực giết tôi, nhưng anh cũng

phải thừa nhận, cho dù giết được tôi, anh cũng phải trả một cái giá hết sức nặng nề. Cái giá này

hoàn toàn không cần thiết, chẳng lẽ anh không muốn gặp lại Mẫn Mẫn, gặp lại giáo quan Lữ

Cánh Nam nữa hay sao? Nói không chừng…phía trên đã xảy ra biến cố gì đấy, nếu vị lạt ma

kia muốn xuống cứu anh, mà tôi với anh lại quần thảo nhau đến chết ở đây, há chẳng phải ngu

xuẩn lắm sao?”

“Ta không tin ngươi đâu, Merkin!” Giọng Trác Mộc Cường Ba rất khó nghe, tựa hồ như

tiếng gầm rú bản năng của một loài dã thú nguyên thủy.

“Phải, tôi biết anh không thể nào lập tức, lập tức thay đổi suy nghĩ được, nhưng anh không

có lựa chọn nào khác cả, ở nơi này, tôi và anh, nếu không phải là cả hai cùng sống sót, chỉ có

kết cục hai người cùng chết mà thôi.” Merkin lắp bắp tiếp lời, đối mặt với kẻ địch lẩn mình

trong bóng tối ấy, lần đầu tiên y có cảm giác không thể khống chế được cục diện. Tiếng gầm

gừ đáng sợ vẳng lại ấy chính là lời tuyên cáo của đối phương dành cho y, cảnh cáo rằng chủ

nhân của bóng tối này không phải là y.

Tiếng gầm gừ của loài dã thú dần lắng xuống, Trác Mộc Cường Ba đang suy nghĩ.

Merkin biết, lúc này không thể dùng lời để dụ dỗ hay uy hiếp Trác Mộc Cường Ba nữa, vì

vậy y chỉ im lặng chờ đợi câu trả lời của gã. Đúng lúc này, trên miệng hố vang lên tiếng ma sát

“bịch” một tiếng, nghe như có cái bao tải bị ném xuống, làm mấy vòng, rồi dừng lại bên cạnh

Merkin.

Merkin đứng gần miệng hố hơn, nghe thấy âm thanh ấy cũng giật mình đánh thót. Y biết rõ,

Trác Mộc Cường Ba không thể nào không nghe thấy tiếng động, nói không chừng, đối phương

đã khóa chặt mọi hành động của y rồi, chỉ cần y hơi có động tĩnh gì lạ, móng vuốt và hàm răng

của Cường Ba thiếu gia sẽ không chút do dự bập vào y ngay lập tức. Merkin dường như đã

nhìn thấy đôi mắt lóe lên sắc vàng u ám của đối thủ trong bóng tối mịt mùng.

Merkin đưa chân chọc chọc vào bao tải, thấy mềm nhũn, lại có tay có chân, hình như là một

cái xác, trên lưng còn đeo cả ba lô. Chắc không phải bọn Lữ Cánh Nam, mà là một tên lính

đánh thuê nào đấy. Merkin dỏng tai nghe ngóng, xem phía trên miệng hố có âm thanh gì nữa

ko, song rốt cuộc chỉ nghe thấy những tiếng ong ong khó chịu.

Nhân lúc Trác Mộc Cường Ba chưa phát động tấn công cướp lấy “món đồ” vừa rơi xuống,

Merkin đã lên tiếng trước: “Trác Mộc Cường Ba, thứ vừa rơi xuống hình như là xác của một

tên lính đánh thuê, có cả ba lô nữa, nói không chừng lại có thứ gì đó dùng được, tôi đá qua phía

anh nhé”.

Nói đoạn, y liền tung chân đá mạnh, cái xác mềm nhũn như bao cát lăn mấy vòng, tay chân

va xuống nền đất phát ra những tiếng lộp bộp, đoán chừng đã lăn đến trước mặt Trác Mộc

Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba sờ thấy xương yết hầu của thi thể, xác định người chết là đàn ông,

nhưng không phải là pháp sư Á La, bấy giờ mới yên tâm phần nào, lên tiếng chất vấn: “Ngươi

hảo tâm vậy sao?”

Merkin đáp: “Để bày tỏ thành ý của tôi thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ngươi không sợ ta lấy vũ khí trên người hắn, xử lý ngươi càng dễ

dàng đơn giản hơn sao?”

Merkin nói: “Nếu anh mà làm vậy thì anh không phải là Trác Mộc Cường Ba nữa rồi, tôi tin

vào con mắt nhìn người của mình.” Ngoài miệng nói vậy, nhưng trong lòng y không hề nắm

chắc, chỉ nghe tiếng Trác Mộc Cường Ba sờ mó sột sà sột soạt, không biết đã tìm được gì trên

xác tên lính đánh thuê xấu số. Merkin bắt đầu cảm thấy đắng nghét ở trong miệng.

“Hừ.” Trác Mộc Cường Ba đột nhiên dừng phắt lại. Merkin lập tức nín thở, chỉ hận không

thể khiến tim mình ngừng đập luôn. Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba lên tiếng: “Xem ra, ngươi

cũng biết thế nào là căng thẳng, tuyến mồ hôi tăng cường hoạt động rồi đó!”

“Vậy…vậy sao?” Merkin hơi nhích chân lùi vào góc, giơ cánh tay lên, ngửi thử dưới nách,

đâu có mùi gì chứ.

Trác Mộc Cường Ba kiểm tra cái xác tên lính đánh thuê, lấy được thứ gã muốn, xong xuôi

đâu đấy, mới nói với Merkin: “Cái xác vẫn còn nóng, chắc là bị bắn chết trên miệng giếng tế,

rơi thẳng xuống dưới này, trang bị vũ khí của hắn vẫn còn nguyên vẹn.”

Merkin định nói một câu chúc mừng, cười khan mấy tiếng, nhưng vừa mở miệng ra đã thấy

khô khốc, không phát ra được âm thanh gì. Lần này, không cần Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở,

y cũng biết tuyến mồ hôi của mình đã tăng cường hoạt động. Đúng là thập tử nhất sinh, nhiều

năm rồi y không đánh cược ván nào kích thích đến thế, cảm giác như đang chơi trò rullet kiểu

Nga bằng khẩu súng côn chỉ còn một viên đạn duy nhất vậy.

So với Merkin, Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thêm ung dung, gã trầm mặc một lúc lâu

cho tới khi nghe thấy những giọt mồ hôi của Merkin rơi xuống đất, gã mới cất lời: “Muốn

chứng minh thành ý, hãy nói cho tôi những điều tôi muốn biết!”

Merkin thầm thở phào nhẹ nhõm, suýt chút nữa không đứng vững, trong cuộc đọ sức trầm

lặng này, rốt cuộc y cũng thắng cược, qua được ải này, dẫu Trác Mộc Cường Ba không hoàn

toàn tin tưởng, song gã sẽ không coi y như kẻ thù truyền kiếp nữa. Nhưng y vẫn muốn tranh

thủ thêm cơ hội, bèn quay sang nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba: “Chúng ta có nên tìm thử xem,

có lối thoát khỏi đây trước hay không, nói không chừng người bên trên đã có hành động rồi

cũng nên.”

Trác Mộc Cường Ba hờ hững đáp: “Tôi cũng không vội gì, trước khi ông nói ra toàn bộ

thông tin tôi muốn biết, thì đừng hòng đi đâu cả.” Nói không nôn nóng là giả, nhưng từ sau khi

Soares kể lại những gì mà y và Merkin đã từng trải qua ở vùng đất này, Trác Mộc Cường Ba

luôn cảm thấy toàn bộ sự việc có gì đó không được đúng lắm. Đặc biệt là sự thất thế của

Merkin lần này lại càng chứng thực suy nghĩ ấy của gã. Trước khi làm rõ một số chuyện, rất có

thể kẻ địch là ai gã cũng không rõ, cho dù tìm được lối ra thì cũng chỉ là đâm đầu vào chỗ chết

mà thôi!”

Đợi một lúc vẫn không thấy Merkin trả lời, Trác Mộc Cường Ba bồi thêm: “Đừng tưởng bịa

ra một câu chuyện mà lừa được tôi, tôi biết nhiều hơn những gì ông tưởng nhiều lắm đấy.”

Merkin nghiêm túc trầm giọng nói: “Tôi chỉ đang băn khoăn không biết nên bắt đầu nói từ

đâu thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nghĩ lại thấy cũng đúng, bí mật của Merkin thực sự quá nhiều, sợ rằng

ngay cả y cũng không biết nên bắt đầu kể từ đâu, bèn nói: “Vậy được rồi, tôi hỏi, ông đáp, bắt

đầu từ lúc tôi bị đẩy xuống, trên đó đã xảy ra chuyện gì?”

Merkin liền kể về sự xuất hiện bất ngờ của Lữ Cánh Nam, kế đó là Max làm phản, Trác

Mộc Cường Ba chăm chú lắng nghe, nhưng hai tay cũng không hề nhàn rỗi, gã bắt đầu lục lọi

trong ba lô của tên lính đánh thuê đã chết kia. Vừa mở ba lô ra, gã chạm ngay phải một hình

chữ nhật mỏng dẹt, cưng cứng. Merkin đang nói đến đoạn Khafu nhắc y hãy nhớ đến Soares,

liền bị Trác Mộc Cường Ba ngắt lời: “Máy vi tính của thầy giáo tôi hình như ở trong ba lô của

Nhạc Dương đúng không, sau đó thì lọt vào tay ai vậy?”

Merkin thoáng ngẩn ra, không hiểu Trác Mộc Cường Ba hỏi câu ấy có ý gì bèn trả lời:

“Thằng Max vẫn giữ cái máy tính ấy.”

“Tách”, một ngọn đèn bật lên, nhưng chỉ chiếu sáng khoảng hai mét xung quanh Trác Mộc

Cường Ba. Chỉ thấy toàn thân gã như vừa mới giác hơi, đầy những đốm tím bầm xanh xám,

đầu tóc rối bù, khóe mắt và hai má đều hơi sưng, trên trán còn mọc lên một cục u gồ lên như

cái bánh bao nhỏ. Trước mặt gã là một cái xác lính đánh thuê nằm ngang, Trác Mộc Cường Ba

coi cái xác đó như mặt bàn, đặt cái máy tính xách tay đang mở lên trên. Vừa nhìn thấy chiếc

máy tính đó, Merkin lập tức hướng ánh mắt về phía gương mặt tên lính đánh thuê. Lúc trượt từ

trên xuống, hình như tên này cắm đầu xuống đất, nên gương mặt có hơi xây xước, rồi lại bị

Merkin đá cho một cú, dấu chân in hằn ngay chính giữa bộ mặt của hắn. Merkin bỗng cao

hứng nhảy bật lên: “Max! Max! Không ngờ lại gặp mày sớm đến vậy! Ông chủ mới của mày

tiễn mày đi đơn giản vậy thôi à? Thật hời cho mày quá đấy!”

Trác Mộc Cường Ba đã thấy khuôn mặt của Max, song không phản ứng gì, mãi đến khi

Merkin cũng xuất hiện trong quầng sáng của ngọn đèn, khóe miệng gã mới không kìm được

mà hơi nhếch lên một chút. Merkin biết, lúc này trông mình chắc chắn còn thảm hại nhếch

nhác hơn Trác Mộc Cường Ba nhiều lắm, nhưng y đang chú ý đến Max nên chỉ chăm chú nhìn

vào bộ mặt tên thuộc hạ cũ, lòng dâng lên trăm mối cảm xúc phức tạp. Trác Mộc Cường Ba lại

lo kiểm tra chiếc máy tính của giáo sư Phương Tân, đến khi chắc chắn máy tính không bị hư

tổn gì, vẫn có thể khởi động bình thường gã mới tắt máy, rồi tắt luôn cả ngọn đèn đi. Lúc này,

chắc Merkin cũng đã nhìn chán chê con chó vừa phản bội y rồi.

“Theo ông thấy chuyện này là thế nào?” Trác Mộc Cường Ba hướng về phía bóng tối bên

kia xác chết cất tiếng hỏi. Đây là một khảo nghiệm, Merkin không ra tay khi gã hoàn toàn lộ

diện dưới ánh sáng, xem chừng y thật lòng muốn tạm thời hợp tác với gã để cùng thoát khỏi

chỗ này.

Merkin ở trong bóng tối đáp: “Thằng Max này tuyệt đối không thể khống chế được Khafu,

thêm nữa, kẻ ở sau tấm màn thao túng toàn bộ âm mưu này cũng có mặt ở hiện trường, sau khi

tôi nhảy xuống, bọn chúng cho rằng tôi đã chết chắc, thằng Max tự nhiên sẽ trở nên vô dụng

với chúng thôi. Thằng ngu đáng thương này, còn vọng tưởng muốn chiếm toàn bộ tài sản của

tôi nữa chứ, hừ, hừ…”

Trác Mộc Cường Ba lại ngắt lời y: “Nói tiếp chuyện xảy ra bên trên đó đi.”

Merkin nói hai ba câu tóm tắt lại sự việc xảy ra trước khi y rơi xuống hố, rồi bình luận: “Kẻ

ẩn mình trong bóng tối thao túng tất cả, có thể mua chuộc được thằng Max bên cạnh tôi, còn có

thể khống chế được Khafu, đây tuyệt đối là một kẻ địch cực kỳ đáng sợ, tôi e rằng dù chúng ta

hợp sức đối phó hắn, cũng rất khó khăn đấy.”

Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa coi Merkin là người cùng một chiến tuyến với mình, gã tiếp

tục thẩm vấn: “Được rồi, tạm thời không nói đến sự việc bên trên nữa, giờ tôi muốn biết

chuyện về gia tộc ông, tôi muốn biết, rốt cuộc gia tộc ông và Bạc Ba La thần miếu có quan hệ

như thế nào?”

Merkin nói: “Hừ, tra xét được vài đầu mối rồi phải không? Chuyện này kể ra thì mấy ngày

mấy đêm cũng không hết…”

Trác Mộc Cường Ba lại ngắt lời: “Nói vắn tắt thôi.”

Merkin nói: “Tôi bắt đầu nói từ năm trăm năm trước vậy, anh có biết, tổ tiên gia tộc của

chúng tôi là ai không?” Không phải Merkin cố ý vòng vo tam quốc, đây chỉ là thói quen của y.

Mỗi lần ông nội y kể về lịch sử gia tộc, đều dùng câu hỏi này để mở đầu, lâu dần lâu dần,

Merkin cũng nhiễm thói quen ấy. Trong suy nghĩ của y, bí mật này cho dù bọn Trác Mộc

Cường Ba có điều tra nữa, điều tra mãi, cũng không thể nào có được kết luận chính xác.

Không ngờ, Trác Mộc Cường Ba lại trả lời ngay: “Ông là hậu duệ của hoàng hậu Hắc

Miêu!” Lời ấy vừa thoát ra khỏi miệng gã, Merkin lập tức sững người lại.

Trác Mộc Cường Ba mới đoán được bí mật này sau khi nghe Soares kể về lai lịch của

Merkin. Soares đã nhắc đến một thông tin rất quan trọng, tổ tiên của Merkin là giáo sĩ truyền

giáo Bồ Đào Nha. Vốn dĩ, bọn Trác Mộc Cường Ba đã biết được thông tin này từ trước, nhưng

lúc ấy, bọn gã có vắt óc suy nghĩ thế nào cũng không thể liên hệ thông tin này với “gia tộc Bạc

Ba La” được.

Cho đến khi Soares nhắc lại lúc họ tình cờ đụng mặt nhau ở rừng sâu, trong óc Trác Mộc

Cường Ba như có tia sét lóe lên giữa màn đêm, đánh tan mối nghi hoặc bấy lâu nay vẫn mắc

mớ trong lòng gã. Đoạn lịch sử diệt vong của vương triều Cổ Cách đột nhiên xuất hiện trong óc

gã, quốc vương cuối cùng của vương triều Cổ Cách và các vị lạt ma thời đó tranh chấp quyền

lực rất gay gắt, để cắt giảm và làm suy yếu quyền thế của Đại lạt ma, Cổ Cách Vương quyết

định để dân chúng tin theo một tôn giáo mới, nên đã cho phép Thiên chúa giáo du nhập. Giáo

sĩ truyền giáo người Bồ Đào Nha đã đến Cổ Cách vào thời điểm ấy. Còn Đại lạt ma và rất

nhiều quý tộc cũ đương nhiên cũng không thể nhẫn nhục chấp nhận quyền lực bị đoạt mất, tôn

giáo tín ngưỡng bị bóp méo, nên đã cấu kết với quân đội của Lạp Đạt Khắc, âm mưu đuổi Cổ

Cách Vương đi, giành lại quyền khống chế triều chính.

Không ngờ, hành động này đã dẫn sói ác vào nhà, Lạp Đạt Khắc không chỉ đuổi Cổ Cách

Vương đi, chúng cũng không buông tha cho Đại lạt ma và các quý tộc cựu trào. Bọn chúng

muốn nuốt gọn cả vương triều Cổ Cách. Đây chính là nguyên nhân khiến vương triều Cổ Cách

bị diệt vong trong lịch sử, còn rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, tại sao quân đội của Lạp Đai Khắc

bị tiêu diệt toàn bộ trong một đêm, chỉ để lại thành trì trống không và vô số thi thể nằm la liệt,

tất cả đã trở thành câu đố vĩnh viễn không có lời giải đáp.

Chuyện này chỉ có thể chứng tỏ rằng giáo sĩ truyền giáo người Bồ Đào Nha từng đến Cổ

Cách, nhưng Trác Mộc Cường Ba lại nhớ ra một sự kiện khác, chính là câu chuyện về hoàng

hậu Hắc Miêu mà pháp sư Á La từng nhắc tới. Cổ Cách Vương thấy vương quốc sắp bị diệt

vong, liền mời vị vu sư cao minh nhất đến, biến hoàng hậu mà ngài yêu thương nhất thành mèo

đen, dễ dàng có thể thoát ra ngoài qua đường hầm nhỏ bí mật thông vào hậu cung mà người

không chui lọt. Đồng thời quốc vương cũng giao chìa khóa và bản đồ dẫn đến kho báu cho

hoàng hậu Hắc Miêu, dặn dò nàng phải ẩn nhẫn, để sau này tìm lại kho tàng khôi phục vương

triều Cổ Cách. Vậy là hoàng hậu Hắc Miêu liền trở thành ác mộng của bọn trộm mộ trong di

tích Cổ Cách, trở thành thần bảo vệ kho báu trong lời đồn đại của dân du mục vùng A Lý.

Thế nhưng, ý nghĩa thực sự ẩn chứa đằng sau câu chuyện thần thoại ấy là gì? Trong một sát

na ngắn ngủi, Trác Mộc Cường Ba sực hiểu ra, hoàng hậu Hắc Miêu không chết, nàng ta đã tẩu

thoát thành công, mang theo chìa khóa và kho báu. Gã nhớ lại toàn bộ giai đoạn lịch sử diệt

vọng của Cổ Cách mà mình tra ra được, trong đó có nói, những người duy nhất thoát chết

chính là các giáo sĩ truyền giáo người Bồ Đào Nha tình cờ biết được tin tức ngay trước đêm Cổ

Cách bị tiêu diệt. Gã liền xâu chuỗi toàn bộ sự việc lại bằng một suy đoán hết sức mạnh dạn.

HẬU DUỆ CỦA TÂY THÁNH SỨ

Còn chuyện hoàng hậu Hắc Miêu lúc đó đã có thai hay về sau mới có thai đều không quan

trọng nữa. Quan trọng nhất là, nếu giả thiết này đúng thì người đàn ông thần bí có gương mặt

của người phương Tây đang đứng ở trước mặt gã lúc này đây, kỳ thực vẫn còn một phần huyết

thống của người Tạng! Sau khi nghĩ thông được điểm này, Trác Mộc Cường Ba cho rằng mình

đã hiểu thông được vấn đề mà pháp sư Á La trước giờ vẫn luôn lấy làm nghi hoặc: “Tại sao

Merkin cũng trở thành thánh sứ được, hắn ta rõ ràng là người ngoại quốc cơ mà?”

Sau câu nói vạch rõ chân tướng ấy của Trác Mộc Cường Ba, hai người đều đắm chìm trong

yên lặng một hồi lâu, không khí xung quanh trở nên nặng nề bức bối lạ thường. Merkin không

thể nào ngờ, bí mật gia tộc mình đã gìn giữ nghiêm ngặt suốt mấy thế kỷ, lại bị một người

ngoài nói trắng ra bằng thứ ngữ khí khẳng định như thế, nhất thời y không chấp nhận nổi. Nghĩ

thật tức cười, y vốn định khiến Trác Mộc Cường Ba phải kinh ngạc một phen, nào ngờ giờ lại

thành ra chính bản thân y phải ngạc nhiên sững sờ như phỗng đá.

Không biết bao lâu sau, Merkin mới lấy lại vẻ bình tĩnh sau pha chấn động, tuy điều Trác

Mộc Cường Ba nói đã rất gần với chân tướng sự thực, nhưng dẫu sao cũng chưa phải là toàn bộ

sự thực, bí mật của gia tộc nhà y chắc chắn sẽ khiến đối phương phải cả kinh thất sắc một

phen. Y cười khổ nói: “Các người làm sao điều tra ra được vậy?”

Trác Mộc Cường Ba thành thực trả lời: “Thực ra chúng tôi vốn chẳng điều tra được gì, đây

là do tôi đột nhiên nghĩ ra, cũng mới gần đây thôi.”

Kế đó, gã nói một lượt về liên tưởng và các giả thiết của mình. Merkin nghe mà không khỏi

lắc đầu cười khổ. Chỉ dựa vào một câu chuyện thần thoại mà đoán được chân tướng sự thực,

năng lực phân tích này thật là đáng sợ. Sự thật này ngay cả nhà phân tích xuất sắc nhất trong

đội ngũ của đối phương là Nhạc Dương cũng chẳng thể nào nghĩ đến được, Merkin dám khẳng

định như vậy! Đây mới là Trác Mộc Cường Ba, gã Trác Mộc Cường Ba tinh minh trên thương

trường, mấy năm huấn luyện thể năng đã khiến đầu óc gã bị áp chế ư? Không, trước kia xua

đuổi Trác Mộc Cường Ba trên băng nguyên, gã Trác Mộc Cường Ba vẫn ngây ngây ngốc ngốc,

chính y còn giễu cợt gã là thằng ngu xuẩn cơ mà? Nói như vậy là có nghĩa trong khoảng thời

gian này, Trác Mộc Cường Ba đã bất ngờ có những biến đổi về thể chất. Gã đã phải trải qua

những chuyện gì? Từ thể năng, kỹ năng đến trí năng, rốt cuộc Trác Mộc Cường Ba đã lột xác

như thế nào?

Nghe Trác Mộc Cường Ba phân tích mãi, cuối cùng Merkin cũng cảm thấy không chịu nổi

nữa, y ngắt lời gã: “Anh…anh rất lợi hại, lúc trước tôi đã sai lầm khi đánh giá anh. Phải rồi,

phân tích và suy đoán của anh rất hợp lý, nhưng vẫn còn cách chân tướng sự thật một khoảng

nhỏ.”

“Ừm.” Trác Mộc Cường Ba chăm chú chờ đối phương nói tiếp. Gã cũng biết, chỉ với thân

phận là hậu duệ của hoàng hậu Hắc Miêu, bọn họ vẫn chưa đủ kiêu ngạo để tuyên bố rằng Bạc

Ba La thần miếu là sản nghiệp của gia tộc mình. Gia tộc Merkin rốt cuộc còn bằng chứng gì

khác nữa?

Chỉ nghe Merkin trầm giọng nói: “Anh có biết tổ tiên của hoàng hậu Hắc Miêu là ai

không?” Trong bóng tối, một giọng nói run run cất lên như muốn xé toang tấm màn bóng tối

dày đặc. “Tổ tiên hoàng hậu Hắc Miêu là Tây Thánh sứ Bì Ương Bất Nhượng, đây chính là bí

mật lớn nhất mà gia tộc chúng tôi chưa từng công khai, tổ tiên chúng tôi chính là Bì Ương Bất

Nhượng.

“Tây Thánh sứ Bì Ương Bất Nhượng!” Mặc dù đã chuẩn bị tâm lý từ trước, Trác Mộc

Cường Ba suýt chút nữa đã nhảy dựng lên, nhân vật ngay cả trong Cố Cách kim thư cũng

không nhắc đến tên ấy, không ngờ lại có một vị hậu duệ trực hệ đang ngồi ngay trước mặt gã!

Điều này, hiển nhiên là bí mật được Merkin chôn dấu sâu nhất. Lúc Trác Mộc Cường Ba nói

chuyện với Soares, Soares rõ ràng không biết thân phận này của y.

Thuở bấy giờ, tín vật mà gã sứ giả kia mang ra là thứ gì? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì trước

khi Cổ Cách bị diệt vong? Họ có biết gì về tung tích của ba món tín vật hay không? Họ biết

được những gì về đoạn lịch sử liên quan đến Bạc Ba La thần miếu đã bị xóa nhòa kia? Nhất

thời, quá nhiều câu hỏi cùng lúc hiện lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba, khiến gã không biết

nên bắt đầu hỏi từ đâu nữa.

Merkin lại cất giọng điềm đạm nói tiếp, ngữ điệu không quá kiêu căng, song cũng không hạ

mình: “Nếu muốn nói về lịch sử gia tộc chúng tôi và quá trình gia tộc nghiên cứu Bạc Ba La

thần miếu, e rằng nói mấy ngày mấy đêm cũng không hết được. Điều tôi muốn nói với anh là,

bản đồ kho báu năm xưa Cổ Cách Vương bảo hoàng hậu Hắc Miêu mang đi ấy, kỳ thực chính

là nửa sau của Cổ Cách kim thư, ghi chép một số sự việc mà các anh không biết, bao gồm cả

hoàn cảnh địa lý của ba tầng bình đài, cái hồ anh trông thấy khi nãy và trận đồ bằng đá ở vòng

ngoài cái hồ đó. Nếu ghép nữa đầu của các anh và nửa sau của chúng tôi lại, thì sẽ hoàn

nguyên lại được một pho lịch sử Cổ Cách hoàn chỉnh.”

“Đợi chút đã!” Trác Mộc Cường Ba sắp xếp lại mạch tư duy rối loạn trong đầu, gạn lọc lại

các đầu mối, đoạn nói: “Ông cần phải kể từ lúc vị sứ giả kia tìm thấy tổ tiên Tây Thánh sứ của

gia tộc nhà ông, kể cho tỉ mỉ rõ ràng vào, lúc đó vị sứ giả đã giao vật gì cho tổ tiên của ông?

Muốn tổ tiên ông bảo tồn bí mật gì? Còn cả sự biến mất của Đạo quân Ánh sáng trong lịch sử

nữa, tổ tiên ông có biết về sự kiện này không?”

“Đạo quân ánh sáng?” Merkin thoáng ngẩn ra, nói: “Tôi không hiểu anh đang nói gì, nhưng

tôi có thể khẳng định với anh rằng, trên thực tế khi tổ tiên tôi được sứ giả tìm thấy, ngài ấy

hoàn toàn không biết thân phận Tây Thánh sứ của mình. Rõ ràng, vị tổ tiên ấy của tôi, vị tên là

Bì Ương Bất Nhượng Ấy, có ý che giấu quá khứ, hy vọng sống cuộc đời của người bình

thường. Có điều, về tín vật mà sứ giả mang tới, tôi có thể cung cấp cho anh một số nội dung

thiết thực. Theo như ghi chép trong hồi ký của tổ tiên, vị sứ giả ấy trước sau đã đến gặp ngài

hai lần, phần ghi chép trong Cổ Cách kim thư có lẽ là nội dung của lần thứ hai. Lần đầu tiên, sứ

giả mang đến chìa khóa, tặng cho tổ tiên của tôi, tương truyền, đó là chìa khóa có thể khai mở

bí mật của Bạc Ba La; lần thứ hai, thứ sứ giả mang đến chính là Đại Thiên Luân kinh. Thực ra

một phần ghi chép trong Cổ Cách kim thư có liên quan rất lớn đến Đại Thiên Luân kinh. Đại

Thiên Luân kinh có thể nói là một bộ tổng cương, cũng có thể nói là một bộ chỉ nam lữ hành.

Theo những gì ghi lại trong bút ký của tổ tiên tôi, trong đó có lẽ còn kể tỉ mỉ những vật phẩm

trân tàng bên trong Bạc Ba La thần miếu, phân loại rõ ràng, ngoài ra còn có cả ảo nghĩa đúc rút

ra từ các kinh điển nữa. Nói một cách đơn giản, pho kinh này chính là thư mục của một cuốn

sách, còn bên trong Bạc Ba La thần miếu chính là nội dung của cuốn sách ấy. Vả lại, mấy trang

cuối cùng của pho kinh thư này, có lẽ chính là bản đồ và chỉ dẫn cho bản đồ ấy dưới dạng các

câu đố ẩn.”

“Bản đồ da sói!” Trác Mộc Cường Ba lập tức nhớ đến phát hiện của bọn gã ở địa cung Cổ

Cách và Đảo Huyền Không tự.

“Đúng thế, chính là tấm bản đồ mà các anh và chúng tôi tranh đoạt ở Đảo Huyền Không

Tự.” Merkin ngưng lại giây lát, rồi tiếp lời: “Trong lần gặp thứ hai này, vị sứ giả ấy mới chỉ rõ

ra rằng, tổng cộng có ba vị Thánh sứ. Sứ giả đã giao tín vật thứ nhất ra rồi, nhưng gia tộc

chúng tôi vẫn chưa điều tra ra được tín vật ấy ở đâu. Hai món còn lại, chính là Đại Thiên Luân

kinh và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, món sau cũng chính là tấm gương đồng mà các anh

lấy được, hình như gọi là Hương Ba La mật quang bảo giám đúng không? Nhưng sau khi trao

tính vật thứ nhất, sứ giả dường như có chút do dự, thái độ không còn nhất quán nữa. Theo ghi

chép của tổ tiên chúng tôi, khi đó bọn họ đã thảo luận liền mấy ngày về chủ đề ý nghĩa của sinh

mệnh và luân hồi chuyển nghiệp. Phải biết rằng, tuy lúc đó tổ tiên chúng tôi không biết thân

phận Thánh sứ của mình, song ngài cũng là bậc đại trí giả trong dân gian được giáo hội Lạt ma

của Cổ Cách công nhận đấy. Chính vì có lần đàm luận ấy, thái độ của sứ giả cuối cùng cũng đã

thay đổi, về sau mới có chuyện Cổ Cách Vương mời sứ giả đến.” Hiển nhiên, Merkin nắm

được khá nhiều nội dung của nửa trước Cổ Cách kim thư. Nhưng Trác Mộc Cường Ba hoàn

toàn không biết gì về nửa sau của bộ sách này, gã bèn hỏi những chuyện xảy ra sau này với vị

sứ giả, thậm chí, cả sự diệt vong của vương triều Cổ Cách, gã cũng cảm thấy có liên quan đến

chuyện này.

Merkin lúc thì trầm tư, lúc thì ngừng hẳn lại, không biết là đang cố gắng giảng giải kỹ lưỡng

nội dung của nửa sau Cổ Cách kim thư cho Trác Mộc Cường Ba nghe, hay là cố gạn lọc lựa

chọn một số phần mà y cho rằng Trác Mộc Cường Ba có thể biết. Thông qua lời kể của

Merkin, Trác Mộc Cường Ba biết thêm rất nhiều bí ẩn lịch sử, rất hiển nhiên, sau khi đàm luận

với tổ tiên của Merkin, thái độ của vị sứ giả kia đã chuyển biến, song nội dung của cuộc đàm

luận kia thì không thể nào biết được. Sứ giã đã dừng hành động giao tín vật cho ba vị Thánh

sứ, ngược lại còn yêu cầu Cổ Cách Vương hiệp trợ mình phân tách tín vật ra. Từ các hành vi

này có thể thấy, dường như ông ta muốn các tín vật này vĩnh viễn không còn cơ hội thấy lại

ánh sáng mặt trời, song không hiểu sao lại vẫn để lại một chút đầu mối để hậu nhân sau này

phát hiện ra một chút dấu vết mờ nhạt trong lịch sử.

Theo lý giải của gia tộc Merkin, sứ giả làm như vậy, chính là hy vọng sau này không ai có

thể phát hiện ra Bạc Ba La thần miếu, nhưng những tín vật kia lại là vật chí cao vô thượng,

không thể đem hủy diệt. Sở dĩ phải mang tín vật đi giấu ở tận nơi chân trời góc biển, chính là

vì tâm tư thuận theo ý trời. Sứ giả đã làm đến nước này rồi mà vẫn bị người đời sau phát hiện,

vậy thì đó chính là mệnh trời xui khiến, không liên quan đến ông ta nữa. Còn sứ giả, sau khi từ

địa lục xa xôi kia trở về, liền như biến thành một con người hoàn toàn khác, ngày nào cũng say

khướt, hành vi điên rồ nổi loạn. Nguyên nhân gây ra tình trạng này không được rõ cho lắm, có

điều, Merkin lại nhắc đến câu nói mà vị sứ giả kia thường xuyên lẩm bẩm sau khi trở về: “Tất

cả mọi người đều chết rồi, mọi thành đô đều đã chết rồi.”

Còn sự diệt vong của vương triều Cổ Cách, hiển nhiên không thể nào được ghi lại trong Cổ

Cách kim thư, Merkin nhớ, dường như mấy chục ngày cuối cùng đó đều không được ghi chép

gì trong Cổ Cách kim thư cả. Có điều vị Cổ Cách Vương cuối cùng từng được nhắc đến đã

muốn mở chiếc hộp có thể hủy diệt tất cả kia ra, cùng diệt vong với quân xâm lược.

Khi Trác Mộc Cường Ba và Merkin thảo luận trong bóng tối, bọn lính đánh thuê ở trên cũng

không có hành động gì, kẻ thần bí khống chế toàn cục kia chỉ ra lệnh cho cả bọn nghỉ ngơi tại

chỗ, sau đó bật chiếc máy tính cầm tay lên, trên màn hình xuất hiện hai chấm nhỏ màu đỏ,

nhưng không thấy chuyển động gì. Y lặng lẽ chờ đợi, đến đêm khuya khi trăng đã lên cao, mới

nói khẽ một câu: “Cũng nói lắm thật đấy.”

Bọn lính đánh thuê thì thầm hỏi nhau: “Chúng ta đang đợi gì vậy?”

Khafu chuyển câu hỏi này cho gã thanh niên tên Thomas, câu trả lời bọn chúng nhận được

là: “Cánh cửa kia phải đợi đến thời điểm nhất định mới mở ra được.”

Khafu cũng thì thầm hỏi Thomas: “Tại sao còn giữ bọn chúng lại?” Y liếc nhìn về phía pháp

sư Á La và Lữ Cánh Nam.

Người trẻ tuổi ấy điềm đạm nói: “Merkin đã mất hết tất cả, trở thành nhân tố không thể

khống chế, song uy thế của tao vẫn có thể trấn nhiếp được hắn. Nhưng Trác Mộc Cường Ba thì

khác, nếu hắn cũng trở thành nhân tố không thể khống chế, có trời mới biết hắn sẽ gây ra

chuyện gì, kiềm chế được ba người này, chính là kiềm chế được Trác Mộc Cường Ba.” Khafu

gật đầu như hiểu mà cũng như chẳng hiểu gì.

Ánh trăng rải xuống mặt hồ lăn tăn gợn sóng, một tia sáng chiếu qua những khối đá nằm rải

rác như quân cờ trên quảng trường, rọi qua khe núi dài hẹp, chầm chậm nhích lên bụng con

nhện khổng lồ.

Thấy bóng sáng nhích động, người trẻ tuổi kia đứng lên, nói với cả bọn: “Cũng gần đến lúc

rồi đấy.” Y bước thẳng đến chỗ cái bồn nước trông như chậu rửa tay, nghiến răng nói: “Tốn

nhiều máu thật!” Nói đoạn y liền vén ống tay áo trái lên, để lộ cánh tay cơ bắp cuồn cuộn, từ từ

cắt vào một dao, những giọt máu lỏng tỏng nối thành dòng, chảy thẳng xuống chậu nước rửa

tay bên dưới.

Pháp sư Á La ngẩng đầu lên nhìn mấy hàng chữ cạnh cửa, nghi hoặc nói: “Sao có thể

được?”

Lữ Cánh Nam lại chú ý đến lượng máu của tên lính đánh thuê, 250 ml, 500 ml, 600 ml…

máu trong bồn dần dần dâng lên, khi dâng đến một mức nhất định, bỗng nghe “bâng” một

tiếng, tựa như có lớp vỏ nào đó bị đập vỡ. Tên lính đánh thuê trẻ tuổi ấy cười cười nói: “Xong

rồi!”. Y co tay lại, giật một mảnh băng cầm máu rồi nhanh nhẹn thắt nút, chỉ trong thoáng chốc

đã cầm máu xong xuôi. Máu trong bồn rửa tay bắt đầu thấm xuống dưới, cuối cùng thì hoàn

toàn biến mất.

Những lông mao trên chân con nhện khổng lồ đã bắt đầu hút máu như bọt biển, chuyển sang

sắc đỏ thẫm dưới ánh trăng màu ngân bạch, tựa hồ muốn sống dậy. Bọn lính đánh thuê vội

nhao nhao lùi lại, không dám đứng trước cửa lớn. Toàn bộ những sợi lông phía dưới đều bị

máu nhuộm đỏ thắm, sắc máu tiếp tục lan dần lên phía trên, phảng phất như muốn đuổi theo tia

sáng lấp lóa màu vàng nhạt. Cuối cùng, sắc máu và tia sáng gặp nhau ở chỗ gần mắt. Tám con

mắt nhện xếp thành hình cung như vành trăng khuyết chiết xạ ánh trăng màu vàng nhạt, vạt

máu đỏ thẫm đã thấm vào trong, tựa như hai tia chớp một vàng một đỏ truy đuổi nhau trong

nhãn cầu con nhện, từ con mắt này chạy sang con mắt khác.

Một lúc lâu sau, mặt đất mới bắt đầu rung, cát bụi bốc mù mịt, âm thanh như thể xe lửa

nghiến lên đường ray từ xa vẳng lại, mỗi lúc một gần hơn. Nếu lúc này có người ở bên cạnh

Bức Tường Than Thở, ắt sẽ ngạc nhiên phát hiện thấy bức tường mỗi ngày đều phun hơi mù

trắng theo giờ ấy, lúc này như thể một công xưởng đang tăng ca hết cỡ, hơi sương mù mịt trắng

xóa bốc lên cuồn cuộn, che kín toàn bộ bức tường thấp thoáng tiếng máy móc gầm rít. Pháp sư

Á La nhìn người thanh niên, chừng như không dám tin vào mắt mình nữa. Ông nhắc lại câu hỏi

lần nữa: “Rốt cuộc ngươi là ai?”

Người trẻ tuổi chỉ chăm chú nhìn hàng chữ lớn trên cửa, không rõ y đang dịch những văn tự

ấy hay là trả lời câu hỏi của pháp sư Á La: “Một người huyết thống thuần chủng! Một người trí

tuệ tuyệt luân! Một người không biết sợ hãi, thân thủ phi phàm! Ha ha ha…”

Cùng với tràng cười ngạo nghễ như thể “phóng mắt nhìn khắp thiên hạ, ngoài ta ra chẳng

còn ai nữa” đó, cánh cửa đá khổng lồ sừng sững từng khiến pháp sư Á La và Mẫn Mẫn phải

thúc thủ đã dần dần dịch sang hai bên, nhưng không mở hoàn toàn, mà chỉ nhích ra tạo thành

một đường hầm cho phép một người đi lọt. Từ đây có thể thấy, cánh cửa này quả nhiên còn có

tác dụng chịu tải nữa. Nhìn từ chính diện, đường hầm tưởng chừng như kéo dài vô tận vào lòng

núi. Thomas sai bọn lính đánh thuê đẩy ba người pháp sư Á La vô trước. “Xin mời!” Y đưa tay

làm thành động tác mời hết sức thanh nhã.

Pháp sư Á La đi đầu tiên, phía sau có tên lính đánh thuê mang thiết bị chiếu sáng rọi sáng

rực cả đường hầm. Cửa đá này quả nhiên là từng cánh cửa xếp thành hàng, mỗi cánh cửa dày

khoảng một mét, nhìn về phía trước, không biết rốt cuộc là có bao nhiêu cánh cửa như vậy nữa.

Vả lại, khi đi vào đường hầm, họ mới phát hiện hai mép cửa ở hai bên không phải là một

đường thẳng, mà hơi nghiêng nghiêng, cánh cửa bên trái nghiêng xuống dưới, cánh cửa bên

phải nghiêng chếch lên trên. Đồng thời, trên mỗi mặt cắt lại có các hình điêu khắc một lồi một

lõm. Khi chúng đóng lại mặt lồi vừa khéo ghép mộng khít vào bên trong mặt lõm. Những bức

phù điêu hết sức kỳ quái, không phải tượng Phật, mà là những vật thể tròn tròn như quả trứng,

tỉ mỉ rọi đèn vào quan sát mới phát hiện đó là các hình người đang cuộn mình, tư thế giống hệt

tư thế Mật tu mà Lữ Cánh Nam từng dạy cho Trác Mộc Cường Ba, cũng chính là tư thế của

bào thai trong bụng mẹ.

Có bức chính diện, có bức lại khắc mặt nghiêng, có bức hướng lên trên, có bức hướng

xuống dưới, nói chung là đủ loại phương vị. Những tượng người cuộn tròn thân thể ấy, toàn bộ

đều là người trưởng thành, ngũ quan rõ ràng, tướng mạo khác nhau, thoạt nhìn vừa giống

người phương Đông lại vừa giống người phương Tây. Vì toàn bộ đều không có tóc, mà tư thế

ấy lại che đi tất cả các bộ phận có thể phân biệt giới tính, nên nhìn thoáng qua vừa giống đàn

ông, lại cũng giống đàn bà, các gương mặt khác hẳn nhau, song lại khiến người ta có cảm giác

hết sức quen thuộc. Vị trí của những bức phù điêu vừa khéo cao hơn tầm nhìn một chút, nên

cho dù không muốn nhìn chúng, chúng cũng cứ lọt vào tầm mắt, mà đã trông thấy thì không

thể không kinh hãi và thán phục trước kỹ thuật điêu khắc của người xưa, đồng thời cũng không

sao kìm nén được một câu hỏi dâng lên tự trong lòng: “Hình người nhắm mắt này, hình như

mình đã thấy ở đâu rồi nhỉ.”

Còn nếu nghiêng đầu sang bên phải, tựa như trông thấy có một bóng đen ẩn bên trong mặt

lõm, cái bóng ấy hình như đã gặp ở đâu rồi.

Xung quanh các bức điêu khắc là các ký hiệu tiếng Tạng cổ, ghép lại thành một đường riềm

hoa văn, tựa như dây leo quấn chằng chịt vào nhau. Lúc nhìn thấy những ký hiệu ấy, pháp sư Á

La thoáng ngẩn người, ý nghĩa của dòng chữ là: “Tìm thấy bản thân ngươi!” Những ký hiệu

này không ngờ lại là một câu kệ cực kỳ thâm ảo như trong kinh Phật, bấy giờ khi nhìn lại

những hình khắc lồi lõm trên mép cửa, ông lập tức lại có giác ngộ mới.

“Các vị tiên hiền thời xưa, rốt cuộc muốn nói gì với chúng ta vậy?” pháp sư Á La chăm chú

nhìn những người trưởng thành trong tư thế thai nhi hiện lên trước mắt mình, đột nhiên lờ mờ

cảm ngộ được gì đó, phảng phất như có vị trí giả nào đang quát lên: “Cởi bỏ y phục ra!”

Nội tâm Lữ Cánh Nam đã dần bình lặng lại. Nhìn những hàng điêu khắc chỉnh tề hai bên

vách, cô cảm giác như mình đang xuyên qua đường hầm thời không, bất luận là bi hay hỉ, rốt

cuộc rồi cũng trở về với hư vô mà thôi. Cô có hận Mẫn Mẫn không? Hay là nên hận chính bản

thân mình? Những điều ấy không quan trọng nữa, nhìn những người này, cô chợt nhận ra, tất

cả mọi người đều đến như thế, có lẽ cũng sẽ đều ra đi theo cùng một cách như thế. Cuộc đời

con người, trải qua thế nào thì không hối hận? Đó là khi chình mình cho rằng mình đã làm hết

mọi điều nên làm, không tiếc nuối, hỉ nộ ai lạc, tự nhiên nhi nhiên.

Còn đám lính đánh thuê thì cảm thấy giống như đi vào một hành lang chật hẹp của phòng

thí nghiệm, những bức điêu khắc giống hệt như thật, hết sức sinh động, như thể hai bên xếp kín

những bình thủy tinh chứa đầy dịch thể bảo quản, ngâm toàn xác người. Tuy những hình người

đều nhắm nghiền mắt, song lại giống như có thể mở trừng mắt với chúng bất cứ lúc nào vậy.

Tại sao lại phải sợ những bức tượng ấy mở mắt ra chứ? À, nhớ ra rồi, những kẻ này hình như

đều chết dưới tay ta! Đúng! Chính là thằng đó, còn cả tên kia nữa! Đúng là ánh mắt tuyệt vọng

trước lúc chết của chúng! Tại sao lại xuất hiện ở nơi này?

“Tập trung tinh thần!” Nhìn vào gáy người đi trước! Đừng để những bức điêu khắc ấy mê

hoặc!” Dường như nhận được chỉ thị nào đó, Khafu đột nhiên hét lớn, lòng đường hầm tức

khắc tràn ngập tiếng vọng, quả nhiên đã có hiệu quả tức thời.

Chỉ mình người trẻ tuổi kia vẫn hờ hững nhìn các bức điêu khắc hai bên vách: “Hừ, tìm thấy

bản thân ngươi! Đó chỉ là việc của lũ phàm tục, liên can gì đến ta? Các ngươi định dùng muôn

vạn bộ mặt này mê hoặc người ta sao? Có bao nhiêu người thực sự nhận thức được như mình

chứ? Cánh cửa chúng sinh, chẳng qua cũng chỉ có vậy mà thôi.”

Lữ Cánh nam thì thầm hỏi pháp sư Á La đi phía trước cô: “Cánh cửa này đúng là dùng máu

có thể mở ra được sao?” Lực co giãn của huyết trì như thế nào bọn họ chưa từng được chứng

kiến, có điều nhìn không dưới một trăm cánh cửa ken két sát thành hàng trước mắt đây, chỉ sợ

rút hết máu của tên trẻ tuổi ấy cũng không đủ tạo ra lực lớn đến vậy.

Pháp sư Á La chầm chậm nói: “Không, máu của y chỉ để mở ra một cửa chặn nhỏ, giống

như kéo cầu dao diện của nhà máy vậy, những cánh cửa này được mở ta bằng một nguồn lực

khác mạnh hơn nhiều.” Bọn họ chưa trông thấy Merkin dùng một con mắt bạc nhỏ bé khởi

động toàn bộ cơ quan trong Đảo Huyền Không tự như thế nào, vì vậy không thể biết được sự

thần bí mà phức tạp của những cơ quan này.

BẠC BA LA THẦN MIẾU

Những chấn động bên trên cũng lan xuống dưới giếng tế, Trác Mộc Cường Ba và Merkin

đều cảm thấy luồng sức mạnh cuồn cuộn như thể có một con quái vật khổng lồ cựa mình thức

dậy. Đặc biệt là Merkin lại càng có cảm giác quen thuộc lạ thường, y lập tức phản ứng, nôn

nóng kêu lên: “Bọn chúng mở được cửa rồi, khốn kiếp thật! Sao lại có cảm giác này chứ?

Chẳng lẽ tất cả cơ quan trong Bạc Ba La thần miếu đều được khởi động rồi sao?”

“Thế là thế nào?” Trác Mộc Cường Ba bật đèn lên, lập tức trông thấy bộ dạng cuống cuồng

bất an của Merkin. Dáng vẻ ấy của đối phương khiến gã không khỏi hiếu kỳ, từ đầu chí cuối,

Merkin chưa hề lộ ra vẻ mặt này, ngay cả khi mình đối mặt với gã trong bóng tối, để bày tỏ

thành ý, y đã đá cái xác của Max về phía gã, lúc đó y chỉ hơi căng thẳng một chút, nhưng bên

dưới vẻ ngoài căng thẳng ấy, y vẫn giữ được sự kiên nghị và ngoan cường. Đã bao giờ thấy y

lo được lo mất thế này đâu?

Merkin lo âu cũng là hợp lẽ, những biến cố bất ngờ xuất hiện mỗi lúc một nhiều, toàn bộ sự

việc này đã không còn nằm trong sự khống chế của y nữa, ngược lại, y còn có cảm giác mình

đang bị người khác khống chế. Nghe Trác Mộc Cường Ba hỏi, Merkin mới giật mình đáp: “Tôi

không biết, nhưng tôi có cảm giác rất tệ, chúng ta phải nhanh chóng nghĩ cách rời khỏi nơi này

trước khi bọn chúng vơ vét sạch mọi thứ trong Bạc Ba La thần miếu.”

Trác Mộc Cường Ba đứng lên nói: “Cũng đến lúc rời khỏi đây rồi.” Merkin đã nói ra rất

nhiều bí mật, tuy vẫn chưa thể xác nhận xem những điều y tiết lộ có phải là sự thật trăm phần

trăm hay không, song đã giải đáp được rất nhiều mối nghi hoặc mắc mứu tích tụ trong lòng

Trác Mộc Cường Ba bấy lâu nay. Theo lời kể của Merkin, cả bộ Cổ Cách kim thư và Tòa thành

được ánh sáng tỏa chiếu – cũng chính là Hương Ba La mật quang bảo giám, có lẽ là hai món

vật bổ trợ cho nhau, một thứ chép lại bằng văn tự, một thứ biểu đạt bằng hình tượng, nhưng

đáng tiếc thông tin hai thứ này cung cấp chỉ bắt đầu từ lối vào Tu Di giới, và đến cửa lớn của

Bạc Ba La thần miếu thì đứt đoạn, không hề có chút nội dung nào liên quan đến thần miếu cả.

Trác Mộc Cường Ba thậm chí còn nghĩ, Cổ Cách kim thư và Hương Ba La mật quang bảo

giám chỉ ra tuyến đường từ tầng bình đài thứ ba đến Bạc Ba La thần miếu, còn trong hai tấm

bản đồ da sói và cả bộ Đại Thiên Luân Kinh, có lẽ ẩn chứa thông tin để từ bên ngoài tìm được

lối vào Tu Di giới. Mà khi ấy, sứ giả đã mang ra ba món tính vật này, từ đây suy ra, chắc còn

một vật gì đó khác nữa, nói không chừng chính thứ này chỉ dẫn về các cơ quan bên trong thần

miếu và nơi cất giấu báu vật kỳ trân cũng nên.

Đương nhiên, vẫn còn vô khối bí mật mà Merkin chôn giấu rất sâu, chẳng hạn như chuyện

về Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, Trác Mộc Cường Ba không hề hỏi, mà Merkin cũng không nhắc

đến một lời.

Cánh cửa khổng lồ mở ra không thể không có chút động tĩnh gì, Trác Mộc Cường Ba nãy

giờ vẫn chờ đợi thời điểm này. Đối phương mong muốn mở được cửa đá, có lẽ cần thời gian để

phá giải cơ quan, mà muốn đối phương tin rằng bọn gã rơi xuống giếng tế rồi không thể sống

sót, thì cũng cần phải im lặng không gây ra tiếng động gì lớn trong một khoảng thời gian nhất

định. Chỉ là, Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa hiểu được vì sao Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và

Mẫn Mẫn lại không bị đẩy xuống giếng tế này như gã? Lẽ nào vẫn còn biến cố khác? Trác Mộc

Cường Ba chỉ thoáng suy tư trong giây lát, rồi phủ định luôn tình huống khó có khả năng xảy

ra nhất ấy khỏi đầu.

“Đi thế nào đây?” Giọng Merkin đầy vẻ chờ mong, rõ ràng trận đánh xáp lá cà đọ thể lực

vừa rồi, cùng việc phải tính toán gạn lọc xem nên kể những việc gì khiến Trác Mộc Cường Ba

hứng thú đã xâm chiếm gần trọn đầu óc y. Thực ra y vẫn đang lấy làm lạ, không hiểu tại sao

Trác Mộc Cường Ba lại không hỏi chuyện về Mười ba kỵ sĩ bàn tròn. Y vốn đã chuẩn bị cả

một câu chuyện dài, đảm bảo có thể khiến Trác Mộc Cường Ba giật mình kinh hãi, nhưng rốt

cuộc lại coi như chẳng hề nói gì với gã cả.

Sở dĩ Trác Mộc Cường Ba không hỏi là bởi Soares từng bảo gã thế này: “Tôi biết các anh

đã điều tra tôi và Merkin, tra ra được Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, về mặt này, tôi không thể nói với

anh quá nhiều, các anh chỉ cần biết đây là một tổ chức ẩn mình rất kỹ là đủ rồi. Biết quá nhiều,

đối với các anh không có lợi gì cả, mà các anh cũng không cần phải lo Mười ba kỵ sĩ bàn tròn

sẽ gây phiền phức cho mình đâu, vì trên thực tế, hành động điều tra Bạc Ba La thần miếu này

chẳng liên quan gì tới họ cả, đây hoàn toàn là chủ ý của một mình Merkin. Để tìm tòa miếu

trong truyền thuyết này, tôi biết y đã nỗ lực rất nhiều năm, thậm chí gia tộc y đã phát điên lên

vì nó từ mấy trăm năm nay rồi, cả quá trình đó, chúng tôi tuyệt đối không thể để người cũa

Mười ba kỵ sĩ bàn tròn biết được…”

Trong tình huống đó, Soares không thể nào, cũng không có lý do gì để nói dối, Trác Mộc

Cường Ba cũng không muốn biết quá nhiều bí mật của thế giới hắc ám ấy, giải quyết vấn đề

trước mắt mới là quan trọng nhất.

Trác Mộc Cường Ba gạt mọi vấn đề làm nhiễu loạn tư duy ra khỏi đầu óc, hỏi ngược lại

Merkin: “Chúng ta ở dưới này lâu như vậy, ông có cảm thấy bức bối tức thở không?”

“Có đường thông gió?” Thể lực tiêu hao nghiêm trọng cùng cảm giác căng thẳng không hề

khiến chỉ số thông minh của Merkin sụt giảm.

Trác Mộc Cường Ba lấy ra một ngọn đèn pha khác, chỉnh cường độ sáng lên mức mạnh

nhất, quét một vòng xung quanh rồi nói: “Không gian dưới này rất lớn, tuyệt đối không thể chỉ

dùng để chôn vùi tế phẩm thôi đâu, ừm, ở kia…” Merkin nhìn theo hướng cột sáng đèn pha,

chỉ thấy chính giữa khoảng không gian dưới lòng đất này có một đồng xương trắng to tướng

nằm đó, riêng bộ khung xương đã to hơn con thằn lằn khổng lồ bọn họ từng đụng độ nhiều.

Các dẻ sườn của bộ xương chỉa thẳng lên trần nhà, tựa như cột trụ hành lang của cung điện

vậy.

“Quái vật gì đây?” Merkin lấy làm ngạc nhiên, cứ ngỡ bên cạnh còn có Soares.

Trác Mộc Cường Ba giơ đèn chiếu lên phần đầu của bộ xương, quan sát xương quai hàm

khổng lồ và bộ răng nhọn cắm đầy miệng, nói: “Một loài động vật ăn thịt khổng lồ thể hình có

thể lớn hơn cả loài Giganotosaurus phương Nam, có điều đây là việc của các nhà khảo cổ,

chúng ta chỉ cần tìm được đường thông gió là tốt rồi.”

Trác Mộc Cường Ba lấy một bộ y phục dự phòng trong ba lô của Max mặc lên người; thuộc

hạ của Merkin xưa nay vẫn được trang bị rất đầy đủ. Bọn gã cần phải chuẩn bị sẵn sàng về mọi

mặt, vì có thể nói, gã và Merkin hoàn toàn mù tịt về Bạc Ba La thần miếu này, có trời mới biết

nơi đây có phải đầy rẫy các cơ quan bẫy rập, rồi các loại độc vật gì hay không. Chỉ riêng bộ

xương khổng lồ trong giếng tế này thôi đủ khiến bọn gã phải e dè từng bước rồi. Mặc y phục

xong, Trác Mộc Cường Ba tháo luôn giày của Max đi vào, rồi lấy các vũ khí cần thiết cùng các

trang thiết bị dò đường đeo lên người. Gã nghĩ ngợi giây lát, rồi cũng ném cho Merkin một bộ

vũ khí dự phòng, trong đó có một phần chính là do Max vừa lục soát thu được trên người

Merkin. Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, đoạn hành trình tiếp sau đây sẽ là một chặng đường gã

phải ngủ chung với hổ, nằm chung với rắn, bản thân cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác đề phòng

những đòn cắn trộm có thể ập đến bất cứ lúc nào từ ngay sát bên mình. Nhưng nếu để Merkin

tay không tấc sắt tiến vào nơi cả hai cùng chưa biết gì này, chỉ cần Bạc Ba La thần miếu nguy

hiểm bằng một nửa Đảo Huyền Không tự thôi, thì tỷ lệ tử vong của Merkin sẽ đạt đến một

trăm phần trăm. Mà đúng như lời Merkin nói, ở nơi này, nếu không có trợ thủ, thì một mình

Trác Mộc Cường Ba tiến lên sẽ cực kỳ nguy hiểm.

Sau khi cân nhắc nặng nhẹ, Trác Mộc Cường Ba lựa chọn bày tỏ thiện ý với sự thỏa hiệp

của Merkin, gã biết Merkin là người thông minh, ở những nơi y có khả năng động thủ, chỉ cần

gã cảnh giác đề phòng là được. Một khi tìm được pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam, gã sẽ lập tức

sẽ tách khỏi Merkin. Xét cho cùng, cho dù đối phương có tỏ ra thân thiện thế nào chăng nữa,

gã cũng không muốn ở bên cạnh một nhân vật nguy hiểm trở mặt như trở bàn tay này.

Trác Mộc Cường Ba lấy thực phẩm nén trong ba lô ra, chia cho Merkin một phần, đảm bảo

trong mấy tháng hai người không phải lo lắng về vấn đề thức ăn. Cuộc vật lộn vừa nãy đã

khiến cả hai tiêu hao rất nhiều thể lực. Merkin không nói một lời, nhận số thực phẩm rồi bóc

ngay một miếng cho vào miệng. Lần đầu tiên y nhận ra, sau khi toàn lực vật lộn một trận, rồi

thao thao bất tuyệt nói liên tục mấy tiếng đồng hồ, thể lực đã tiêu hao hơn cả trải qua một trận

đại chiến sinh tử.

Sau khi trang bị lại đầy đủ, hai người bỏ mặc cái xác của Max ở đó, một người từ bên trái,

một người từ bên phải, bắt đầu tìm kiếm chỗ gió lùa vào. Chỉ lát sau, Merkin đã lớn tiếng gọi:

“Trác Mộc Cường Ba, trên vách tường này có chữ.” Y cũng muốn gọi Trác Mộc Cường Ba

bằng tên “Cường Ba” như những người khác, nhưng y biết Trác Mộc Cường Ba nghe vậy chắc

chắn sẽ khó chịu, gọi bằng “ông chủ Trác” thì lại tự hạ thấp bản thân của mình, thôi thì trực

tiếp gọi cả tên gã ra cho xong.

Trác Mộc Cường Ba vội chạy tới, chăm chú quan sát hồi lâu, rồi mới khẽ ậm ừ một tiếng.

Merkin vội hỏi: “Thế nào, trên đó viết gì vậy? Có phải văn tế không?” Tuy y cũng nghiên cứu

tiếng Tạng cổ, nhưng trước người được giáo viên chuyên nghiệp chỉ dạy như Trác Mộc Cường

Ba, y không thể không tự nhận mình không bằng đối phương về mặt này.

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng là văn tế, ở đây nuôi một con mãnh thú tên là Ba Âm

Ma Kha, dịch nghĩa là vương giả trên lục địa, sống lâu mấy trăm năm, tiếng gầm của nó có thể

khiến Bạc Ba La thần miếu không bị các mê hồn oán hận xâm chiếm. Như ý tứ của bài văn tế

này, cứ năm ngày lại có một lần hiến tế, tế phẩm chủ yếu là súc sinh, chỉ đến đại hiến tế mỗi

năm một lần, mới dùng người làm vật hy sinh.”

Merkin lại liếc mắt nhìn về phía đống xương trắng khổng lồ kia: “Không có mảnh xương

vụn nào khác à?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhìn kỹ xương hàm của nó mà xem, hàng phía trước là răng

nhọn, dùng để cắn xé, phía sau đã tiến hóa thành răng nghiền rồi, hiển nhiên đây là một loại ác

thú khổng lồ phàm ăn, cả xương cũng không nhả ra.”

Trong thời gian ở chung với ba anh em sói xám, Trác Mộc Cường Ba đã quá quen với cảnh

ăn không chừa cả xương rồi, bản thân gã cũng dự phần vào đó. Gã lại nhắc nhở Merkin:

“Trong mấy câu cuối cùng của bài văn tế này có nhắc đến hồ tế, lẽ nào chính là cái hồ ở bên

ngoài kia? Trong hồ có…đọc thế nào đây nhỉ? Khố…Đặc…Hưng…Bố… Đặc…Khố? Nếu

dịch theo nghĩa mặt chữ, thì hình như là Vạn xà chi vương? Nhưng ý tứ của ngữ cảnh, thì hình

như con này là do một vạn con rắn ghép thành? Nếu có pháp sư Á La ở đây thì tốt quá, trong

bài văn có rất nhiều điển cổ Mật tông mà tôi không hiểu được. Chúng ta phải đề phòng con

Khố Đặc gì gì đó kia, ở đây nói nó có thể sống được một nghìn năm hoặc thậm chí lâu hơn, nó

là bá vương dưới biển, bất cứ kẻ địch nào xâm phạm Bạc Ba La thần miếu đều trở thành thức

ăn của nó cả. Giờ đây, nó được thờ phụng thành chủ của hồ tế, quấn mình quanh đỉnh thần

miếu, cùng tồn tại với thần miếu, vĩnh viễn không phân ly. Toàn văn chỉ có vậy thôi, đi theo

tôi, tôi tìm được cửa thông gió rồi.”

Merkin hỏi: “Vậy chủ của hồ tế kia rốt cuộc là thứ gì?” Lời vừa ra khỏi miệng, y lại sực nhớ

đến mấy tên lính đánh thuê chìm xuống hồ, bấy giờ chỉ tưởng rằng đó là chuyện cỏn con ngoài

ý muốn, giờ nghe Trác Mộc Cường Ba nói vậy, y mới chột dạ, nếu con quái vật đó còn sống,

chắc hẳn sẽ trở thành một yếu tố cực kỳ nguy hiểm. Trác Mộc Cường Ba đáp: “Cụ thể là gì thì

tôi cũng không rõ lắm, nhưng chắc chắn nó phải rất to lớn, ông cứ nhìn diện tích mặt hồ là có

thể tưởng tượng ra rồi.” Vừa đi vừa nói chuyện, hai người đã đến chân tường, ở chỗ mặt đất và

bức tường giao nhau có một hàng lỗ thông gió, khe hở chỉ rộng bằng một viên gạch, nhưng có

đến bốn năm khe nằm liền kề nhau.

Merkin ngồi xổm xuống, lấy tay gõ thử: “Đây là đất nện lèn vào, nơi này vốn là một thông

đạo có thể ra vào, về sau mới bị bít lại, chắc là để ngăn con mồi chạy thoát. Có điều, thông đạo

này nhất định rất dài, chúng ta có thể nghĩ cách mở ra một con đường.

Về mặt này, Merkin thông hiểu hơn Trác Mộc Cường Ba một chút.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Trong đống dụng cụ của ông mang theo, không có thứ gì dùng để

đào đất.” Nói đoạn, gã liền dùng móng tay cào cào vào mặt tường theo thói quen, nhưng lại

quên mất rằng mình không còn vuốt thú nữa, năm ngòn tay đau điếng mà chẳng thấy chút bụi

đất nào rớt xuống, đủ thấy chỗ đất nện lèn vào cũng khá cứng.

Merkin cười cười: “Tôi không phải kiến trúc sư, tôi là cố vấn huấn luyện bộ đội đặc chủng,

tôi chỉ hiểu biết về vũ khí thôi. Anh có biết gì về thuốc nổ dẻo không?” Nói đoạn, Merkin nhè

bã kẹo cao su y vẫn nhai từ lúc ăn xong viên thực phẩm nén ra. Trác Mộc Cường Ba im lặng

gật đầu quan sát thao tác của đối phương, thấy cũng tương đối đơn giản. Chỉ thấy Merkin kéo

dài bã kẹo cao su ra, quấn thành một vòng tròn đường kính khoảng hai chục xăng ti mét, rối

dùng giấy bạc bọc quanh một phần vòng tròn ấy, sau đó ở mép tờ giấy bạc vuốt ra hai sợi dây

kim loại mảnh như sợi tóc, kéo được khoảng hơn một mét. Kế đó y lại lấy trong đống vũ khí

của mình ra một thứ màu đen chỉ lớn hơn đồng xu một chút, lần lượt buộc dây kim loại vào hai

đầu, không hiểu y ấn vào đâu mà hai ngọn đèn nhỏ một đỏ một xanh trên thiết bị màu đen đó

liền nhấp nháy chớp sáng lên. Merkin ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba lùi lại, đoạn giải thích:

“Chỉ cần vật nặng đè lên giấy bạc là có thể dẫn nổ bằng áp lực, nhưng để cho nổ các kết cấu

hẹp dài, loại này còn có thể dẫn nổ bằng dây nữa.” Một tia chớp lóe lên, trên tường liền xuất

hiện một cái hốc rộng khoảng một mét, cao hai mét, sâu cũng chừng hai mét, nham thạch hai

bên cực kỳ kiên cố, không hề bị tổn hại chút nào. “Tiếng động nhỏ thế này, tin rằng sẽ không

truyền đến bên ngoài được.” Merkin lại lấy một thanh kẹo cao su khác cho vào miệng nhai,

đồng thời Trác Mộc Cường Ba cũng bắt tay dọn sạch các tảng đá bên trong cái hốc, chuẩn bị

cho nó nổ lần thứ hai.

Hai người cứ thế tiến lên hai mét một, hai mét một, cứ tưởng rằng sẽ không thu hút sự chú ý

của người trẻ tuổi kia, không ngờ, trên màn hình máy tính bỏ túi của kẻ đứng đằng sau khống

chế toàn bộ đại cục ấy, hai chấm đỏ vẫn nhích lên từng chút một, hết sức rõ rệt. “Cuối cùng thì

cũng hành động rồi hả.” Kẻ đó nhếch mép mỉm cười, như thể mọi thứ đều nằm trong lòng bàn

tay. Lúc này, bọn họ vẫn đang ở trong cửa, thông đạo hình thành từ những cánh cửa xếp san sát

vào nhau này dài hơn rất nhiều so với tưởng tượng của tất cả mọi người. Pháp sư Á La nhẩm

tính bước chân, ít nhất họ cũng đã đi được hơn năm cây số, nhưng hai bên vẫn là kết cấu đó,

trên cửa vẫn là những hình người trưởng thành trong tư thế thai nhi, không hình nào lặp lại

hình nào. Đường hầm hơi uốn khúc, lại hơi chếch xuống dưới, tuy độ dốc rất nhỏ, độ cong

cũng rất nhỏ, song pháp sư Á La có thể nhận ra được. Thậm chí ông còn cảm nhận họ đang đi

men theo một vòng tròn khổng lồ, có chiều hướng hơi nghiêng xuống dưới. Có điều, theo cảm

giác của những người bình thường, thì chẳng khác nào đang đi theo đường thẳng cả.

Càng tiến về phía trước, khoảng cách phải lùi lại càng xa, đất đá phải mang ra càng nhiều,

Trác Mộc Cường Ba và Merkin làm việc như kiến thợ dọn nhà, cuối cùng cũng nổ được một

đường hầm dài hơn trăm mét. Merkin đang định cho nổ lần nữa, trước khi gắn thuốc nổ dẻo

lên, y vỗ vỗ lên mặt tường mấy cái, bỗng nghe tiếng vọng vang vang, liền mừng rỡ reo lên:

“Đến cửa ra rồi, nghe tiếng vọng thế này, tầng đất nện chắc mỏng lắm rồi đấy.”

Y vừa dứt lời, Trác Mộc Cường Ba đã tung chân đạp một cú thật mạnh, lớp đất nện liền vỡ

tung như vỏ trứng gà, ánh sáng mờ mờ lập tức len vào. Merkin cũng bồi thêm một cú nữa, cuối

cùng cũng trông thấy ánh sáng. Liền ngay sau đó, hai người đều lấy làm lạ, sao lại có ánh sáng

được chứ?

Hai người mặt mũi sưng vù thâm tím, đầu óc bê bết đất bẩn, trông như hai con chuột vừa

đào hang xong, dè dặt thò đầu ra ngoài quan sát. Đây không ngờ là một thông đạo bên dưới

đáy hồ, và lúc này, trời đã sáng bảnh lên rồi. Sau khi xác định con đường này không có cơ

quan cạm bẫy gì, hai người mới chui hẳn ra. Không hẹn trước, hai người đều cảm khái thốt lên:

“Thần kỳ quá!”

Thông đạo dưới đáy hồ này, hiển nhiên là một phần của tòa thành dưới nước mà họ trông

thấy lúc họ đi qua mặt hồ, vô số cửa sổ lớn hình vòng cung, phần mép dưới đất đều dùng

nguyên tấm kính lớn ghép vào, tạo thành một thông đạo trong suốt. Họ đang đứng ở lan can

một tòa kiến trúc cực cao nào đó, ngẩng đầu nhìn lên, bầu trời như một vùng biển mênh mang,

chỉ riêng những tia nắng chiếu xuống, khúc xạ qua những gợn sóng lấp lóa đã đủ khiến người

ta phải kinh ngạc sững sờ, chứ chưa cần phải nói đến lũ cá sặc sỡ sắc màu khi tụ lại khi tản ra

trong làn nước, càng không cần nói đến bản thân thông đạo tuyệt đẹp này làm gì nữa.

Thông đạo này có vẻ là một hành lang bên ngoài tường cung điện, nhìn qua ô cửa kính

xuống bên dưới, lờ mờ trông thấy núi non hùng vĩ, khe sâu hiểm trở bên dưới đáy hồ sâu. Quan

sát từ chỗ này, thần miếu tựa như một pháo đài cổ nguy nga xây bên vách đá sừng sững sâu

trăm trượng, mà tòa pháo đài ấy lại được xây bên dưới hồ nước trong vắt, ánh sáng biến ảo liên

tục, hoàn toàn khác với thế giới mà họ biết, như thể cách nhau cả một thời không vậy.

Vách bên trong của thông đạo vẽ đầy hình phi thiên thần Phật, suốt nghìn năm, những trân

phẩm nghệ thuật này cũng vẫn không gợn chút bụi trần, tất cả đều vẫn sống động y như thật.

Mà khi ánh dương xuyên qua mặt hồ, chiếu lên bức tường, những vị thần Phật trên tường cũng

phảng phất như sống dậy, đạp lên mây lành mà lướt đi, tà áo bay lên phấp phới. Nhưng của báu

thật sự phải kể đến những tấm thủy tinh lớn kia. Trác Mộc Cường Ba không nhớ rõ thủy tinh

được phát minh ra từ thời nào, nhưng ít nhất gã cũng biết, đối với công nghệ sản xuất pha lê,

khó nhất chính là khâu tinh luyện. Muốn thủy tinh trong suốt không màu, cần phải loại trừ tạp

chất trong thủy tinh cực kỳ tinh chuẩn. Thử nghĩ xem, muốn tạo ra những tấm thủy tinh thử gõ

đã thấy ít nhất dày mấy chục xăng ti mét vậy mà thoạt nhìn cảm giác trong veo như chỉ dày

khoảng hai, ba mi li mét thôi, rốt cuộc cần phải có công nghệ tinh luyện cao đến mức nào chứ?

Người thời xưa sao có thể làm được như vậy? Thế này có khác gì pha lê đâu, Trác Mộc Cường

Ba thậm chí còn ngờ vực, không hiểu công nghệ thủy tinh hiện đại có đạt được trình độ thế này

hay chưa nữa. Thêm vào đó, các tấm kính này ngâm dưới hồ bao nhiêu lâu như vậy vẫn trơn

nhẵn bóng loáng, mặt ngoài không hề bám rong rêu, không thể không nói là một kỳ tích.

“Những khối thủy tinh này, chắc phải cần đến công nghệ rất cao mới tạo ra được nhỉ?” Trác

Mộc Cường Ba bất giác hỏi một câu như thế.

“Nói một cách chính xác, có thể gọi chúng là tường lưu ly. Trong truyền thuyết về các kỹ

nghệ dân gian thời cổ đại Trung Quốc, chế tác tường lưu ly chính là cảnh giới cao nhất của

công nghệ lưu ly. Những bức tường lưu ly ở đây hiển nhiên đã dung nhập kỹ nghệ thủy tinh

mang tính nghệ thuật của Trung Quốc cổ đại. Hầu hết các kỹ thuật quan trọng của hai loại kỹ

nghệ này đều đã thất lạc trong dòng chảy dài của lịch sử, đặc biệt là kỹ nghệ chế tác lưu ly của

Trung Quốc. Thời cổ đại ở Trung Quốc, tinh phẩm lưu ly đã trân quý không thua gì phỉ thúy,

châu ngọc rồi. Từ 1000 năm trước Công nguyên, ở Trung Quốc đã có kỹ thuật chế tác lưu ly

không màu, đến cuối thời Tùy, đầu thời Đường thì đạt đến đỉnh cao. Những thứ thần kỳ được

nhắc đến trong tiểu thuyết và truyện ký như tường quang ảnh lưu ly, chén Phật lưu ly, dường

như đều là sản phẩm của thời kỳ này. Sau đó, kỹ nghệ bắt đầu xuống dốc, đến nửa cuối triều

Minh thì hoàn toàn biến mất, những trân phẩm còn sót lại trên thế gian thì ít như sừng lân lông

phượng, người đời sau chẳng mấy ai được trông thấy.”

Merkin lúc nhìn những bức bích họa phủ khắp mặt tường, lúc lại quay sang những khối thủy

tinh bị ánh sáng xuyên thấu qua ấy. Vốn là một cao thủ trộm mộ, hiển nhiên y nhận thức rõ

hơn Trác Mộc Cường Ba về giá trị của những khối thủy tinh này, vừa nhìn thoáng qua, y đã

nhận ra các khối thủy tinh và những bức họa trên tường vốn là một chỉnh thể thống nhất. Khi

ánh mặt trời khúc xạ qua nước hồ, rồi lại khúc xạ một lần nữa qua khối thủy tinh, chiếu lên

bích họa, tại sao những hình tượng trong tranh tựa như sống dậy như thế? Chỉ dựa vào bóng

nước lung linh kia thôi sao? Rõ ràng như thế chưa đủ.

Nguyên nhân thực sự chính là bản thân những khối thủy tinh ấy.

Merkin nhanh chóng xác định, những khối thủy tinh thoạt nhìn tưởng chừng như không màu

trong suốt này nhất định đã sử dụng kỹ thuật thấu ảnh và chiếu ảnh thần kỳ nhất của Trung

Quốc cổ đại, giống như chiếc gương đồng Hương Ba La mật quang bảo giám của Trác Mộc

Cường Ba vậy, khi ánh mặt trời chiếu qua, nó sẽ hắt hình ảnh lên tường khiến các hình ảnh trên

bích họa từ mặt phẳng hai chiều trở thành hình lập thể ba chiều, sau đó lại lợi dụng hiệu quả

của bóng nước, khiến họ thực sự như sống dậy. Không cần nghĩ ngợi Merkin đã thầm buột ra

một lời tán thưởng trước những ô cửa sổ to lớn này: “Chỉ có ở đây, tuyệt thế vô song.”

Những khối thủy tinh chỉ cần nứt ra một khe nhỏ cũng có thể khiến nước hồ tràn vào thông

đạo ấy, Merkin hận nỗi không thể dỡ hết toàn bộ chúng mà vác theo trở về!

TUYỆT MẬT NGŨ SẮC

Thông đạo vừa dài vừa hẹp, tuy rất cao, song lại gây cho người ta cảm giác bức bối khó chịu

cực độ, nếu không có những trận gió mang không khí trong lành từ bên ngoài thổi vào, sợ rằng

chỉ riêng đường hầm chật hẹp này cũng đủ khiến người ta phát cuồng lên rồi. Lại cả những

hình người điêu khắc thoạt trông giống hệt như nhau nhưng nhìn kỹ lại mỗi hình mỗi khác ấy,

bất luận là mặt lõm hay mặt lồi, rốt cuộc đều gây nên một cảm giác chung…quái dị! Bọn họ

hình như đang đi lòng vòng, nhìn gương mặt nào hiện ra cũng như thể đã trông thấy rồi, nhưng

cảm giác lại giống đang đi theo đường thẳng. Theo kiểu phàn nàn của bọn lính đánh thuê thì đi

thế này, không khéo đã băng qua cả dãy Himalaya từ đời nào chẳng rõ rồi.

Bọn họ không biết mình đang ở đâu, chỉ biết nơi này là một đường hầm dài, do rất nhiều

cánh cửa dày chừng một mét hợp thành, hai bên rìa cửa chạm khắc lồi và lõm những hình

người ở tư thế của thai nhi trong bụng mẹ. Thông đạo hẹp nhưng cao, càng đi về sau càng có

cảm giác không biết lối vào ở đâu, tận cùng ở nơi nào, chỉ có thể bầu bạn cùng những hình

điêu khắc, thoạt trông thì bức nào cũng như nhau, song nhìn kỹ lại khác hẳn. Nếu chẳng phải

nơi này không có lối rẽ, bọn lính đánh thuê sớm đã tưởng rằng mình đi lạc mất rồi, thậm chí có

kẻ còn hoài nghi cả bọn đã trúng thứ pháp thuật gì đó, gây ra ảo giác tập thể, rồi lại có kẻ kêu

lên đòi quay trở lại. Những tên lính đánh thuê giết người trong chớp mắt, máu bắn cao ba mét

cũng không sơ, tráng sĩ chặt tay không nhíu mày ấy, đứng trước thông đạo hẹp dài này, không

ngờ đã bắt đầu sợ hãi. Có lẽ, đầu bên kia đường hầm chẳng hề tốt đẹp như những gì chúng

tưởng tượng, là báu vật khắp nơi, hay là một cảnh tượng như Địa ngục A tỳ đây? Nhìn những

đường hầm tối tăm mù mịt đi mãi không hết trước mắt, nhìn những hình người điêu khắc ở hai

bên, ai có thể nói mình không sợ hãi?

Người trẻ tuổi kia bảo Khafu ra lệnh cho bọn lính đánh thuê không được chộn rộn lên nữa,

đồng thời cũng không ngừng hứa hẹn về vật chất để cổ vũ tinh thần cho chúng. Y hiểu rõ, một

khi xảy ra hiện tượng sụp đổ tinh thần, ở nơi chật hẹp chỉ cho phép người đi qua này, bất cứ ai

phát điên nổ súng cũng sẽ gây ra tổn thất cực kỳ lớn. Đường hầm này rõ ràng là một khảo

nghiệm của người Qua Ba dành cho hậu nhân. Người thời xưa chẳng biết đến hệ thống tâm lý

học là gì, nhưng không nghi ngờ gì nữa, họ lại chính là những bậc đại sư về tâm lý học. Đại đa

số các kiến trúc tôn giáo cổ đại đều có thể gây cho người ta những rung động về mặt tâm lý,

hoặc khiến người ta bình tâm lại, hoặc trang nghiêm điển nhã, khiến mỗi người nhìn thấy đều

bấc giác sinh lòng kính ngưỡng, hoặc khiến con người bỗng thấy hối hận giác ngộ. Những kiến

trúc ấy hòa nhập vào giữa đất trời tự nhiên, hài hòa song cũng lại độc đáo, thâm nghiêm, to lớn,

vượt qua cả không gian và thời gian, nối liền mảnh tâm linh của người xây dựng và người triều

bái lại với nhau, làm nảy sinh viễn tưởng và cảm ngộ vô cùng vô tận trong tâm tưởng.

Huống hồ tòa kiến trúc được mệnh danh là đại thành tựu tập trung kiến trúc cổ điển Trung

Quốc và Tây phương từ khi nhân loại có lịch sử đến giờ, chỉ riêng những vật thí nghiệm nằm

rải rác trên tầng bình đài thứ ba thôi, đã đủ gây cho những người đặt chân đến đây cảm giác

rung động tận đáy tâm hồn bởi sự tinh mỹ tuyệt luân của chúng rồi. Còn tòa thần miếu, tòa

thần miếu nghìn năm nay vẫn chưa có người đặt chân đến này, sẽ kể lại tâm trạng gì của người

kiến tạo ra nó đây? Gã trẻ tuổi cúi đầu trầm tư, trước đây y cũng lý giải theo mặt chữ, muốn

tiến vào Bạc Ba La thần miếu phải đi qua Cánh cửa Chúng sinh, chứ chưa từng nghĩ Cánh cửa

Chúng sinh lại là một cánh cửa tuyệt đối không đâu có thế này: dày đến chục cây số, vạn hình

người là vạn gương mặt; sau khi vượt qua Cánh cửa Chúng sinh, lại đến dòng sông Phù sinh,

dòng sông ấy sẽ như thế nào đây? Đột nhiên, phía trước chợt vang lên tiếng hô khe khẽ: “Đến

rồi!”

So ra, thông đạo chỗ Trác Mộc Cường Ba và Merkin rộng hơn, sáng sủa hơn hẳn. Lúc này,

họ nhận định, mình thực sự đã đến thánh đường của những báu vật nghệ thuật. Tuy mới ở hành

lang bên ngoài cửa thánh đường, nhưng mỗi viên gạch dưới chân, mỗi mặt tường bàn tay họ

chạm vào, đều xứng đáng được gọi là kết tinh của nghệ thuật. Bất luận là hội họa, điêu khắc,

trang trí tường, trang trí hành lang, hay hiệu quả ánh sáng, đều khiến người ta sinh ra cảm giác

mộng ảo mê ly. Theo lời Merkin, thì chỉ cần Trác Mộc Cường Ba tùy tiện nạy một viên gạch

lát sàn mang về, cũng đủ để mua lại cả tập đoàn nuôi luyện danh khuyển Thiên Sư của gã rồi.

Điều khiến Trác Mộc Cường Ba thực sự kinh ngạc là thái độ của Merkin với những món đồ

gốm sứ.

Đó là những bình sứ cao ngang tầm người, thoạt nhìn không giống như sản vật của Tây

Tạng, chắc là được đưa tờ nơi khác đến, cứ đi khoảng trăm mét lại có một cái, lặng lẽ dựng ở

chân tường. Tòa cung điện dưới đáy hồ này như thể đã bị người ta sử dụng loại ma pháp gì đó,

xung quanh không thấy một hạt bụi, tinh khiết như bầu trời. Những bức bích họa và các đồ

gốm sứ vẫn còn nguyên sắc màu tươi mới rực rỡ.

Bình sứ đầu tiên họ trông thấy có màu xanh lam, màu xanh lam như màu trời sau cơn mưa.

Có điều, theo Trác Mộc Cường Ba dạng thức của những bình gốm sứ này hết sức bình

thường, trên phố lớn của những đô thị hiện đại, trước cửa một số cửa hàng gốm sứ hoặc tranh

chữ, người ta thường thích đặt một đôi bình gốm cỡ lớn kiểu này, phần dưới tròn thon dài,

trông như mỹ nữ yểu điệu, nhưng miệng bình, cổ bình lại hành hình bát giác.

Vì vậy, gã hết sức khó hiểu trước sự kích động của Merkin, chỉ một cái bình hoa như thế,

sao có thể khiến người như Merkin kích động đến độ thất thố thế kia chứ?

Trác Mộc Cường Ba đang chầm chậm vừa bước đi vừa ngắm nhìn những bức bích họa đẹp

tuyệt trần, bỗng thấy Merkin sáng bừng hai mắt, rảo chân chạy nhanh lên phía trước, mấy lần

sém chút nữa loạng choạng ngã nhào, rồi đột nhiên dừng phắt lại trước cái bình hoa đó, nín thở

tập trung hết tinh thần nhìn chằm chằm, bàn tay run rẩy đưa lên, lúc thì dùng đầu ngón tay

phác theo đường nét của cái bình, lúc lại nhè nhẹ vuốt ve như thể đang mơn trớn làn da tình

nhân, có lúc lại đưa ống tay áo cẩn thận lau chùi bề mặt vốn đã không bám một hạt bụi, cứ như

làm vậy có thể khiến nó thêm sáng bóng.

Bộ dạng yêu mến không nỡ rời tay ấy, khác nào một người cha hiền lần đầu tiên nhìn thấy

con mình xuất hiện trên đời, khao khát được ôm lấy nó trong lòng, áp mặt vào nó, hôn một cái,

má chạm má, trán cọ vào trán.

“Quý giá lắm sao?” Đối với Trác Mộc Cường Ba, thứ duy nhất có thể thu hút sự chú ý của

gã là màu sắc bình sứ, màu xanh lam tươi sáng ấy, thực sự rất hiếm thấy.

“Đây là bình sứ lớn đấy!”Merkin kích động đến nỗi lạc cả giọng, một phát hiện trọng đại

thế này, y chỉ hận không thể cho cả thế giới này nghe thấy tiếng gào thét trong lòng mình.

Thấy bộ dạng bình thản chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì của Trác Mộc Cường Ba, lòng

Merkin bất giác trào lên một thứ cảm giác thất bại, giữa thời khắc lịch sử quan trọng nhường

này, ở bên cạnh y lại chẳng có người tri âm tri kỷ, nghĩ cũng thật buồn. Nhìn bộ dạng của Trác

Mộc Cường Ba, chắc hẳn có đặt thứ đồ gốm sứ cổ lừng danh khắp thế giới của Trung Quốc

bên cạnh đồ thủ công mỹ nghệ hiện đại, gã cũng chẳng phân biệt được thứ nào tốt thứ nào xấu

nữa. Song rốt cuộc, Merkin cũng không kìm chế được run run giọng phổ biến kiến thức cho

Trác Mộc Cường Ba. “Anh đừng nhìn mà tưởng tạo hình của nó giống với đồ phỏng chế ngày

nay, anh phải đặt nó vào trong dòng sông dài lịch sử ấy, thử tưởng tượng xem, đây là kết tinh

trí tuệ của người Trung Quốc cổ đại các anh từ một nghìn năm trước đấy! Có thể nung ra được

bình sứ lớn thế này, đòi hỏi trình độ công nghệ cao đến mức nào chứ? Anh có thể tưởng tượng

được không? Muốn nung được đồ sứ lớn thế này, cần phải có lò nung lớn hơn bản thân nó

nhiều. Cái bình này nếu không được xuất hiện trên thế gian, người đời sẽ vĩnh viễn không bao

giờ biết, người Trung Quốc các anh một nghìn năm trước đã có thể nung ra sản phẩm gốm sứ

hoàn mỹ thế này rồi.”

Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng gật đầu: “Ý ông là, đây là một tác phẩm có thể viết lại

lịch sử ngành gốm sứ?”

“Đâu chỉ đơn giản có thế!” Merkin đột nhiên cao giọng, bộ dạng càng thêm kích động:

“Anh nhìn màu sắc của nó xem, đã bao giờ anh trông thấy đồ sứ có màu sắc thế này chưa?

Hoàn mỹ quá thể! Đây chính là món đồ thuộc hàng truyền thuyết trong lịch sử ngành gốm sứ

Trung Quốc các anh đấy, tuyệt mật ngũ sắc! Tôi nằm mơ cũng không thể ngờ được chúng thực

sự tồn tại trên đời này, lại còn ở ngay trước mắt tôi nữa chứ, ha ha ha ha ha!” Nghe tiếng cười

của y, dường như bắt đầu hơi mất lý tính rồi.

Trác Mộc Cường Ba chưa từng nghe nói đến tuyệt mật ngũ sắc, đương nhiên không thể đáp

lời y, nhưng Merkin lúc này chỉ có gã là thính giả duy nhất, nên y cũng mặc kệ, chẳng quan

tâm Trác Mộc Cường Ba có muốn nghe hay không, cứ thao thao bất tuyệt: “Tuyệt mật ngũ sắc

anh chưa nghe nói bao giờ, nhưng đồ sứ bí sắc thì chắc là phải biết chứ? Không biết hả? Ok,

vậy tôi hỏi anh, anh có biết gốm Nhữ thời Tống không?”

Thứ này thì Trác Mộc Cường Ba biết, gốm Nhữ thời Tống có thể nói là tinh phẩm trong các

loại gốm sứ, bề mặt láng mịn trơn bóng, là con cưng được giới sưu tầm đồ gốm săn lùng ác liệt

nhất, có điều, ngoại trừ trong viện bảo tàng, đồ gốm Nhữ xịn ngoài đời rất ít, chỉ xuất hiện

trong các buổi đấu giá, mà thấp nhất cũng phải chi ra trên chục triệu mới mua được(8).

Thấy Trác Mộc Cường Ba gật gật, Merkin lại nói: “Thời Tống có năm lò gốm sứ lớn, Nhữ,

Quan, Ca, Định, Quân. Gốm Nhữ đứng đầu. Anh có biết, lò gốm Nhữ xây phỏng theo cái gì

không? Phỏng theo lò gốm Sài đấy! Tương truyền, trong năm lò gốm thời Tống, gốm Sài mới

là đứng hàng đầu, chỉ là giờ không còn sản phẩm nào trên thế gian, cũng không tìm được di chỉ

lò gốm, nên mới thay bằng gốm Quân cho đủ số. Lò gốm này được vị vua cuối cùng của thời

Ngũ Đại Thập Quốc, Châu Thế Tông hạ lệnh xây dựng. Theo ghi chép trong bút ký tiểu thuyết,

bấy giờ Châu Thế Tông hạ lệnh xây một lò gốm nung ra thứ đồ gốm sứ tốt nhất. Ông ta muốn

màu sắc của sản phẩm giống y như trời xanh sau cơn mưa, mang theo niềm hy vọng quốc vận

cũng như trời hửng sau mưa. Hậu thế đã đánh giá đồ gốm Sài thế này: xanh như trời, sáng như

gương, mỏng như giấy, tiếng vang như khánh. Về sau, Tống Thái Tổ xây lò gốm Nhữ, ông ta

chỉ đưa ra một yêu cầu, chính là làm sao giống được gốm Sài vậy. Nhưng rốt cuộc, các bậc sĩ

đại phu trong triều hay đám văn nhân học sĩ, bất kể là ai, đều không thể thửa nhận, so với gốm

Sài, thì gốm Nhữ thiếu đi cái linh khí của thiên địa! Thời Tống ấy, gốm Sài đã được tôn sùng là

cảnh giới cao nhất của đồ gốm, là món kỳ trân cực kỳ hiếm gặp, người đời chỉ có nghe chứ

chẳng mấy ai được tận mắt trông thấy. Từ thuở bấy giờ, người ta coi việc có thể sưu tầm được

một món đồ gốm Sài, dẫu chỉ một mảnh nhỏ thôi cũng đã là vinh hạnh lớn trong đời. Đại văn

hào Âu Dương Tu cũng từng kiếm được một mảnh vỡ của gốm Sài, anh biết ông ta gìn giữ

mảnh gốm vỡ ấy thế nào không? Ông ta dùng vàng bọc nó lại, rồi bỏ trong hộp gấm khảm bảo

thạch bên ngoài, dường như chỉ có làm như thế mới thể hiện được mức độ trân quý của mãnh

vỡ gốm Sài ấy mà thôi.”

Merkin thao thao bất tuyệt nói một hơi dài rồi mới ngưng lại giây lát. Đúng như y dự đoán,

Trác Mộc Cường Ba liền hỏi một câu: “Tuyệt mật ngũ sắc là tinh phẩm của gốm Sài? Không

đúng, Bạc Ba La thần miếu này từ đời Đường đã…”

Merkin ngắt lời nói: “Đương nhiên không phải vậy, tôi hỏi anh tiếp, anh có biết, tại sao đồ

gốm Sài được tôn làm chỉ tôn của đồ gốm thời Tống hay không? Tại sao lò gốm Nhữ sau này

không thể nung ra được sản phẩm giống như thế? Điều này không hề được ghi lại trong chính

sử và các tài liệu chính thức, chỉ từng được đề cập đến trong bút ký tiểu thuyết thôi. Đó là bởi,

trong thời loạn thế Ngũ Đại Thập Quốc, các thợ gốm đã tình cờ có được tàn quyển của một pho

sách tổng kết tinh yếu của nghề nung gốm. Dựa vào ghi chép trong tàn quyển ấy, rốt cuộc họ

đã pha được màu lam thuần như thể sắc trời sau cơn mưa, đồng thời cũng nhờ vào hướng dẫn

trong đó, họ mới nung ra được thứ gốm sứ mỏng như tờ giấy, tiếng vang như khánh đó. Về

sau, thời thế đổi thay, triều đại cải biến, các thợ gốm ấy đều muốn chiếm phương pháp bí mật

đó là của riêng, khiến cho tàn quyển biến mất, công nghệ thất truyền! Tôi nghĩ chắc anh đoán

được, trong cuốn tinh yếu đó ghi chép lại những gì. Không sai, chính là loại gốm sứ thần bí

nhất trong lịch sử đồ sứ Trung Quốc, ngay từ thời Tống đã trở thành truyền thuyết, thế nhân

không ai trông thấy…gốm sứ bí sắc!”

Hai mắt Merkin sáng rực lên như có điện, y lại chăm chú nhìn cái bình sứ, lẩm bẩm một

mình: “Đồ gốm sứ bí sắc được nung vào thời đại nào, đây cũng là câu đố nghìn năm trong lịch

sử gốm sứ Trung Quốc các anh. Giống như gốm Sài, có rất nhiều nhà sưu tầm thời cổ đại mở

mồm ra là khăng khăng khẳng định, nói như thật, nhưng không thể đưa ra vật chứng gì nên hồn

cả, cho đến ngày nay, những nhà nghiên cứu gốm sứ Trung Quốc các anh cũng vẫn chưa biết

thế nào mới gọi là tinh phẩm của gốm Sài. Còn về gốm bí sắc, đại đa số các học giả cho rằng,

đó là sản phẩm của thời Ngũ Đại, cho đến khi khai mở địa cung ở chùa Pháp Môn(9), mới dám đẩy lùi niên đại đến cuối thời Đường, nhưng có một điểm mà đa số các chuyên gia đều nhận

định giống nhau, gốm sứ bí sắc là do gốm Việt nung ra. Gốm Việt phát tích ở mạn Giang

Chiết, các vùng Thiệu Hưng, Ninh Ba xưa có người Việt cư trú, nên được gọi là lò gốm Việt,

dựa theo các di chỉ lò gốm đã phát hiện, có thể truy ngược lại thì thấy từ thời Hán, đến thời

Đường gốm bí sắc được tiến cống vào cung đình, chỉ dành riêng cho giới quyền quý. Cửu thu

phong lộ Việt dao khai, đoạt sắc thiên phong thủy sắc lai(10); Xảo uyển minh nguyệt nhiễm xuân thủy, khinh tuyển bạc băng thịnh lục vân(11), đó đều là những câu thơ của hậu nhân tán tụng vẻ đẹp của gốm sứ bí sắc.”

Càng nói càng xúc động, Merkin còn lẩy ra mấy câu thơ đường, rồi liền đó lại nghiêm mặt

nói tiếp: “Nhưng thực ra, các sản phẩm được nung vào thời sơ Đường thịnh thế, thậm chí chỉ

có triều vua khai quốc mới nung ra được. Dựa theo các bút ký tiểu thuyết ma tôi nghiên cứu,

cuối thời Tùy đầu thời Đường, thiên hạ đại loạn, nhưng trước thời loạn thế ấy, Trung Quốc các

anh có quốc lực rất vững chắc, rất nhiều ngành công nghệ đã đạt được những đột phá nhảy vọt.

Có câu, loạn thế xuất anh hùng, loạn thế xuất thần khí, chính tông của gốm sứ bí sắc, ngũ sắc

tuyệt mật, chính là xuất hiện trong thời loạn thế ấy! Các tiểu thuyết gia lại viết rằng, các sắc đó

xanh như biển, vàng như hoàng kim, đỏ tựa lửa, trắng ngang tuyết, đen hơn mực, gọi là ngũ sắc

tuyệt mật, thần khí giữa thời loạn thế. Tương truyền, chúng cực kỳ nổi bật, lung linh tuyệt thế,

óng ánh hơn cả băng tinh, chỉ nên có ở trên trời chứ không nên giáng hạ xuống cõi phàm trần

này, đến nỗi cung đình phải niêm phong, coi là tuyệt mật. Điều đáng tiếc nhất là, kỹ thuật chế

tác loại gốm sứ này chưa từng được ghi chép lại, mà chỉ truyền miệng. Mà thời bấy giờ cũng

chỉ có một người thợ gốm già có thể nung ra được đồ gốm ngũ sắc tuyệt mật, về sau tuy ông ta

cũng có nhiều đồ đệ, song chưa ai học được cốt tủy chân chính cả. Sau khi người thợ gốm già

vô danh ấy chết đi, các đồ đệ của ông ta dựa theo những gì sư phụ truyền miệng, cộng với lý

giải của bản thân, đã nung ra thứ đồ gốm sứ mà người đời sau gọi là gốm sứ bí sắc. Rồi có

người lại dựa theo phần lĩnh ngộ của các đồ đệ ấy, chỉnh lý biên soạn ra một quyển tinh yếu về

thuật nung gốm sứ bí sắc. Quyển sách này đã lưu lạc qua tay nhiều người, trải qua vô số chiến

tranh loạn lạc, trở nên tàn khuyết không còn toàn vẹn nữa. Về sau, các thợ gốm thời Ngũ Đại

chỉ dựa vào tàn quyển này mà có thể nung ra được gốm Sài. Chỉ là thứ tàn phẩm như gốm Sài,

mà đã được tôn xưng là đỉnh cao của gốm sứ đương thời rồi. Anh thử nghĩ xem, ngũ sắc tuyệt

mật rốt cuộc phải gọi bằng danh xưng gì đây? Nếu nói trong đồ gốm sứ cũng có thần khí, vậy

thì trước mắt chúng ta đây, chính là một trong số đó!”

Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng thay đổi nét mặt, nhưng nếu bảo gã bị Merkin thao thao

bất tuyệt thuyết phục thì không chính xác lắm, phải nói là gã bị nét mặt Merkin làm cho cảm

động thì đúng hơn. Khi nói đến mấy câu cuối cùng, giọng y đã trở nên nghẹn ngào, khóe mắt

rưng rưng, ánh mắt long lanh như thể sắp rơi lệ đến nơi. Ánh mắt ấy toát lên một vẻ quyết liệt,

tựa hồ “sáng nghe giảng đạo, tối chết cũng không hối tiếc” vậy, đồng thời, trong đôi mắt y

cũng không giấu nổi vẻ thỏa mãn của người trải qua bao tang thương cuộc đời, cuối cùng cũng

hoàn thành tâm nguyện. Cả tòa Bạc Ba La thần miếu rộng lớn, thậm chí còn chưa đặt chân

bước vào điện đường thực sự, mới chỉ nhìn thấy một cái bình sứ ở ven đường, Merkin đã cảm

thấy thỏa mãn, cảm thấy đáng giá, cảm thấy đủ đầy rồi. Trải qua cả hành trình đầy rẫy những

khảo nghiệm sinh tử, đầy rẫy những cuộc đấu trí đấu sức cực kỳ khó khăn, để rồi được nhìn

thấy, được chạm vào một món đồ sứ thế này thôi, y cũng thấy đủ lắm rồi.

“Hắn khóc à?” Trác Mộc Cường Ba thực sự không thể ngờ, một tên cố vấn huấn luyện lính

đặc chủng thân thủ phi phàm, lạnh lùng tàn khốc, giảo hoạt đa đoan như Merkin, lại không

kiềm chế được cảm xúc của mình trước một cái bình sứ. Chỉ riêng điểm này thôi đã khiến gã

hiểu được giá trị của cái bình này to lớn đến nhường nào rồi.

“Sao ông hiểu rõ vậy?” Trác Mộc Cường Ba hỏi bâng quơ một câu.

Merkin vẫn đang si si mê mê, tựa như nhất thời đắc ý quên đi hết thảy, không nghĩ ngợi gì

buột miệng đáp ngay: “Anh tưởng tôi là một tên lính biệt kích đặc chủng chắc, tôi lợi hại, bởi

tôi là một giám thưởng sư!” Lời vừa ra khỏi miệng, y tức thì cảm thấy không được ổn cho lắm,

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro