mmtt10b

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

có điều, tâm trí y nhanh chóng lại bị món đồ gốm ngũ sắc tuyệt mật kia xâm chiếm, thiết tưởng

Trác Mộc Cường Ba cũng không thể nghe ra điều gì từ câu nói ấy cả.

“Nào, đến đây mà xem!” Bộ dạng của Merkin lúc này giống hệt như một gã nhà giàu mới

nổi được thừa kế một món tài sản khổng lồ, chỉ nao nức muốn khoe khoang với người đời các

vật báu mà mình sở hữu: “Nhìn thấy chưa?” Y chỉ ngón tay cách bề mặt bình sứ chừng mười

xăng ti mét, hỏi Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba bèn gí mắt vào quan sát, cảm giác

lớp men sáng trong lạ thường, như bọc bên trong một lớp băng mỏng, thậm chí có thể soi

gương được. Song phía trên lớp băng tinh này lại tựa hồ như có một làn hơi sương mông lung

mỏng mảnh, cảm giác như những luồng không khí biến ảo bốc ngùn ngụt trên sa mạc nóng

giãy.

Merkin giải thích: “Xưa vốn có câu, ‘châu quang bảo khí’, phàm là bảo vật chân chính, bên

ngoài đều hình thành một tầng khí trường thần bí, phảng phất có thể nhìn thấy, nhưng quan sát

kỹ lại chẳng thấy gì, trong nghề gọi đó là “tôi hỏa”. Một món bảo vật quý giá, hỏa khí thu vào

bên trong, ngưng tụ mà không phát ra, ấy mới là cảnh giới cao nhất.” Nói đoạn, y khẽ thở hắt

ra một hơi, cũng thật lạ lùng, hơi thở phả ra từ miệng Merkin hoàn toàn không có hình sắc,

nhưng vừa đến gần cái bình sứ, liền bắt đầu biến thành một quầng hơi sương trắng nhàn nhạt

có thể trông thấy được, ẩn ẩn hiện hiện, rồi lại hóa thành vô hình vô ảnh.

“Nhìn thấy chưa!” Merkin hoan hỉ như sắp phát cuồng, lại nói tiếp: “Đây gọi là Ngưng khí

thăng hàn yên, kỹ thuật cao nhất trong công nghệ nung gốm thứ thời cổ đại. Món đồ sứ này

mùa đông thì ấm áp, mùa hè lại mát lạnh. Anh sờ thử mà xem, sờ đi, cứ sờ đi, có cảm giác gì

không? Có phải như thể chạm vào mỡ đặc, trơn láng như mặt trẻ con hay không? Cảm giác mát

rượi như thấm vào tận tâm can ấy có lan dần từ đầu ngón tay đi khắp toàn thân anh hay

không?”

Merkin nhẹ nhàng áp tay vào hai bên chiếc bình, hít sâu một hơi, cực kỳ cẩn thận nâng lên

một chút, sau đó nhè nhẹ đặt xuống, đoạn nói với Trác Mộc Cường Ba: “Anh thử xem sau đó

cho tôi biết, có giống với mấy cái bình sứ chế tác bằng công nghệ hiện đại mà anh hay gặp trên

phố hay không, cẩn thận…cẩn thận chứ!”

Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa dồn chút sức nào, cái bình đã được nhấc bổng lên khỏi mặt

đất, cảm giác như thể trên tay gã không phải là cái bình to tướng cao ngang người trưởng thành

vậy, gã cũng biết những bình sứ chế tác theo công nghệ hiện đại, muốn cao thế này ít nhất cũng

phải hai đến ba chục cân chứ chẳng chơi. Gã ngạc nhiên liếc Merkin, chỉ thấy y nhếch mép

cười cười nói: “Mỏng như giấy, tiếng vang như khánh”. Dứt lời y cong đốt thứ hai của ngón trỏ

lại, khẽ gõ nhẹ một tiếng vào chỗ dày nhất trên bình.

“Coong…” âm thanh ngân dài, người xưa nói tiếng vang như khánh. Khánh là một loại nhạc

cụ bằng đá, âm thanh phát ra trong vắt mà tao nhã vô cùng. Nhưng theo cú gõ nhẹ ấy của

Merkin, bên tai Trác Mộc Cường Ba vang lên một thứ âm thanh mà đá không thể nào phát ra

được, tưởng chừng như có ai lướt nhẹ trên sợi tơ đàn bằng kim loại, tiếng rung mảnh mai mà

cao vút lên như tiếng rồng ngâm, ngân suốt hồi lâu chưa dứt. Càng lúc âm thanh đó càng cao,

khí thế chừng như muốn vút lên tận mây trời. Dần dần, âm thanh từ khắp bốn phía vọng về, cả

hành lang dài tựa như có rất nhiều con rồng đang ẩn mình tiềm phục lần lượt giật mình thức

giấc khỏi giấc ngủ nghìn năm, tiếng ngân vang vang khắp các cõi đất trời.

Tiếng rồng ngâm ấy, từ khắp bốn phía trước sau phải trái vọng vào tai người ta, ánh dương

lấp lóa, những nhân vật thần tiên trên các bích bức họa cũng nhờ tiếng rồng ngâm hổ gầm đó

mà càng thêm sống động, đạp mây muốn bay vút ra khỏi bức tường, Trác Mộc Cường Ba và

Merkin đưa mắt nhìn nhau, cả hai đều đã nhận ra được chút manh mối từ tiếng ngân vang vọng

khắp bốn phía xung quanh ấy. Đó là …cộng hưởng!

Không thể tin đây là sự thật. Trên đời này, còn có thứ gì kích động lòng người hơn một nhà

giám thưởng tác phẩm nghệ thuật nhìn thấy một tác phẩm tuyệt thế chứ? Đó chính là, một nhà

giám thưởng tác phẩm nghệ thuật, nhìn thấy một tác phẩm tuyệt thế!

Trác Mộc Cường Ba bám sát theo Merkin chạy lên phía trước. Bọn họ đã trông thấy chiếc

bình tuyệt mật ngũ sắc thứ hai…đỏ như lửa…

CHƯƠNG 73: DÒNG SÔNG PHÙ SINH

TẾ ĐÀN MẠN ĐÀ LA

Màu đỏ tươi ấy dường như không bám trên bình sứ, mà bao bọc lấy cái bình, như ngọn lửa

cháy bùng bùng vậy. Nhìn thấy món đồ sứ này, ngay cả kẻ ngoại đạo như Trác Mộc Cường Ba

cũng có thể lập tức nhận ra ngay. Bảo vật là gì chứ, đây chính là bảo vật! Hai chân Merkin

mềm nhũn, suýt chút nữa thì quỳ sụp xuống đất. Chỉ nghe y kinh ngạc thốt lên: “Gốm đại hồng

đấy, gốm đại hồng đấy!”

Trác Mộc Cường Ba vừa nhích lại gần, đã bị Merkin níu tay giữ lại, nét mặt y cực kỳ kích

động, trông bộ dạng như cầu khẩn Trác Mộc Cường Ba hãy nghe y trình bày vậy: “Anh biết

không? Anh biết không? Màu đỏ rực này, là màu sắc tượng trưng cho điềm lành, cho việc vui

mừng ở đại đa số các nước trên thế giới, Trung Quốc các anh cũng không phải là ngoại lệ. Lúc

kết hôn, người ta dán chữ song hỷ màu đỏ, đốt nến màu đỏ, không phải cũng là ý này sao?

Việc trải thảm đỏ trong các buổi lễ lớn, cũng cùng một lẽ đó. Vì vậy, ở đất nước Trung Quốc

khởi nguồn của đồ sứ các anh, cơ hồ như mỗi triều đại đều không ngừng theo đuổi thứ gốm sứ

có màu đỏ rực. Nhưng ngay trong giới chơi đồ gốm sứ cổ cũng phổ biến nhận định rằng, gốm

đại hồng màu đỏ rực chưa bao giờ nung thành công cả! Bởi tất cả các chuyên gia đều cho rằng,

chỉ cần trên đời này xuất hiện gốm đại hồng thì chắc chắn sẽ được chế tác với số lượng lớn,

chắc chắn sẽ được ghi vào sử sách, mà họ chưa từng phát hiện ra bất cứ món vật mẫu nào, ngay

cả một mảnh vụn cũng không, thậm chí không tìm thấy bất cứ ghi chép nào trong sử sách.

Huống hồ, những chuyên gia ấy còn cho rằng trước thế kỷ 20, người ta chưa từng phối chế

được màu men có thể tạo ra thứ thành phẩm màu đỏ rực. Cho dù là gốm Tế Hồng thời Minh

được xưng là đỏ như máu gà, trơn mịn như ngọc, sử chép cũng chỉ nung được chín món, mà

đều đã tuyệt tích trên đời rồi. Một hai chục năm trở lại đây mới có chuyên gia nung được thứ

gốm đại hồng đỏ rực. Thứ này, rốt cuộc được chế tác từ bao giờ vậy?

Muốn biết năm bao nhiêu hả? Đây là cái gì chứ? Của hồi môn của Văn Thành công chúa

mang vào đất Tạng! Khoảng những năm 600 sau Công nguyên, anh nhìn xem, nhìn mà xem!

Sớm hơn so với thời điểm các nhà sử học cho là gốm đại hồng xuất hiện chênh lệch tận gần

1500 năm, gần 1500 năm cơ đấy!”

“Tại sao trong danh sách của hồi môn của Văn Thành công chúa, không thấy ghi chép nào

liên quan đến những món đồ gốm sứ này nhỉ?” Bọn Trác Mộc Cường Ba từng tốn vô số tâm

huyết, tìm được mấy phiên bản danh sách các món hồi môn của Văn Thành công chúa mang

theo vào đất Tạng, nhưng đều không thấy nhắc đến những món này.

Merkin chỉ nói một câu đã khiến Trác Mộc Cường Ba cứng họng: “Mấy danh sách mà các

anh tìm được đều là do người đời sau viết lại theo trí tưởng tượng mà thôi, danh sách chính xác

thời bấy giờ chỉ sợ đã thất lạc trong chiến loạn rồi, đến cả lịch sử còn bị xóa nhòa, huống hồ là

một bản danh sách vớ vẩn như thế?”

Rốt cuộc, Trác Mộc Cường Ba đành thở dài cảm khái: “Lại là một món hàng độc tuyệt thế!”

Merkin lặp lại mấy chữ “hàng độc tuyệt thế” đồng thời chầm chậm tiến lại gần, chầm chậm

đưa tay ra, tựa hồ muốn chạm vào ngọn lửa rực cháy bao bọc lấy chiếc bình, vừa chạm vào rìa

ngoài của ngọn lửa ấy, y đã lắp bắp thốt lên: “Công nghệ trong truyền thuyết… băng hỏa!”

Thấy Trác Mộc Cường Ba không hiểu gì, Merkin lại cất công giải thích: “Tôi cũng có sưu

tầm đồ gốm đại hồng chế tác bằng công nghệ hiện đại, màu đỏ ấy chỉ là phủ lên bề mặt gốm sứ

một lớp đỏ rực, tuy cũng bóng mịn, nhưng so với công nghệ “bang hỏa” trong truyền thuyết

thì…” Y lắc đầu nói: “Anh cũng thấy rồi đấy, toàn thân cái bình này như được bọc trong lửa

đỏ, từ xa cũng có thể trông thấy ánh lửa ngùn ngụt bốc lên. Trong các bút ký tiểu thuyết thời

xưa có ghi, khi người ta đến gần loại đồ gốm sứ này, thậm chí có thể bị bỏng, nhưng nếu có

lòng thành, ngọn lửa này chẳng những không nóng, ngược lại còn hơi man mát dìu dịu nữa.”

Trác Mộc Cường Ba khẽ đưa tay lại gần, thấy cũng không khác chiếc bình màu xanh da trời

lúc nãy, cảm giác mát lạnh tự nhiên như chạm tay vào một lớp băng mỏng, nhưng chỉ dìu dịu

không thấm vào xương, mát mà không lạnh. Nhìn bộ dạng chuyên chú của Merkin, gã lên tiếng

nhắc nhở: “Phía trước chắc còn nữa chứ nhỉ?”

“Dĩ nhiên rồi, để tôi xem một chút đã nào.” Trong mắt Merkin đã hoàn toàn không còn Trác

Mộc Cường Ba nữa.

Trác Mộc Cường Ba đành một mình tiếp tục đi lên phía trước, được khoảng trăm bước chân,

lại thấy một cái bình cao bằng người nữa. Có điều, cái bình này hơi khác với hai cái đằng

trước, hình như được đẽo từ ngọc phỉ thúy, nhưng so với phỉ thúy lại có thêm chất óng ánh như

hạt băng trong không khí, gần như trong suốt, sắc xanh thuần vô cùng. Điều đặc biệt nhất là,

nhìn qua thân bình có thể thấy đồ vật chứa bên trong, trông như quả cầu pha lê tròn tròn, to

bằng nắm đấm.

“Merkin, ông lại đây xem, cái này là gì?” Trác Mộc Cường Ba lờ mờ cảm nhận được đầu

mối, dường như đã nhìn thấy vật phẩm giống thế này ở đâu đó rồi, nhưng nhất thời không sao

nhớ ra được.

Merkin rời khỏi cái bình sứ đỏ như lửa, nét mặt xem chừng ấm ức. Trác Mộc Cường Ba nói:

“Cái này thì gọi thế nào? Xanh như ngọc bích à?”

Merkin lắc đầu: “Kỳ quái thật, cái này không phải đồ gốm sứ, mà là bình ngọc lưu ly, có

biết tại sao người Trung Quốc cổ đại không gọi là thủy tinh, mà gọi là lưu ly không?” Là bởi

đa phần chúng đều là hàng mỹ nghệ có màu sắc, chứ không phải đồ thủy tinh không màu mang

tính thực dụng ở lưu vực Lưỡng Hà. Ở Trung Quốc cổ đại, lưu ly được coi như một loại châu

ngọc nhân tạo có thể chế luyện được. Có điều, cái bình lưu ly này khí chất cao nhã, toàn thân

không tì vết, sắc độ chẳng thua gì phỉ thúy cả, màu xanh biếc như muốn chảy ra vậy. Tôi dám

khẳng định, các món đồ bằng ngọc lưu ly ở thế giới ngoài kia, tuyệt đối không có thứ nào so bì

được với nó đâu.”

Trác Mộc Cường Ba chẳng muốn nghe mấy điều này, gã chỉ hỏi: “Có thấy thứ ở bên trong

bình không, ông thấy có gì đặc biệt không?”

Merkin hít sâu một hơi, phát ra tiếng “xì xì”, rốt cuộc vẫn không thể nói được đó là thứ gì.

Xem ra hiểu biết của y đối với đồ ngọc lưu ly không được sâu như đồ gốm sứ cổ. Trác Mộc

Cường Ba định thử lấy đồ vật bên trong ra xem, nào ngờ đường kính của thứ trông giống quả

cầu pha lê ấy to hơn đường kính của miệng bình, không dốc ra được, đành thò tay vào lần mò,

đúng là khá giống quả cầu pha lê, nhưng lại không có cảm giác như chạm vào pha lê, có lẽ bảo

là những quả cầu bằng đá thì đúng hơn, có điều cầm lên tay lại thấy nhẹ bỗng.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chẳng lẽ trong những cái bình kia cũng đựng mấy thứ này sao?”

Gã không khỏi lấy làm kinh ngạc, vừa nãy gã nâng cái bình đó lên đã thấy nhẹ lắm rồi, nếu

trong bình đúng là đựng những quả cầu đá này nữa, vậy thì trọng lượng của riêng cái bình há

chẳng phải là nhẹ như lông hồng rồi hay sao?

“Xem thì biết ngay thôi!” Merkin lại chạy lên phía trước, cái bình tiếp theo xuất hiện ở

trước mắt họ, hiển nhiên chính là “trắng hơn tuyết” rồi.

“Công nghệ trong truyền thuyết… lưu vân phi bộc(12).” Còn chưa đến gần cái bình sứ trắng, Merkin đã đột ngột kêu toáng lên. Cả cái bình sứ tưởng như được điêu khắc từ bạch ngọc

nguyên khối, trắng hơn tuyết sương, xung quanh tỏa ra một quầng sang trắng lóa. Màu sắc ấy

như thể màu của dòng sông băng khổng lồ xưa nay chưa từng có người đặt chân đến ở Nam

Cực, trong sắc trắng thuần khiết lại thấp thoáng ẩn một chút sắc lam cực nhạt, vô cùng nhạt.

Merkin không biết nên thể hiện tâm trạng của mình thế nào nữa, cứ luôn miệng lẩm bẩm về

thứ công nghệ trong truyền thuyết đó: “Lưu vân phi bộc, một thác chín tầng, loại đồ sứ này

nhìn xa thì giống như mây trắng tràn xuống khe núi, cuồn cuộn sôi trào, khí tượng ngút ngàn;

nếu chăm chú nhìn ở cự ly gần, anh sẽ phát hiện thấy, tựa hồ tiết trời đã lạnh, có thể trông thấy

cánh hoa lả tả rơi trên thân bình, rồi vô số đóa hoa tuyết bay giăng giăng khắp trời. Lấy ý cảnh

từ thiên nhiên, trở về với thiên nhiên, đây chính là cảnh giới mà các thợ gốm thời xưa theo đuổi

cả đời. Đám người châu Âu đến tận thế kỷ 18 mới nung được gốm trong xưởng, tưởng rằng đã

vượt qua công nghệ của Trung Quốc, nhưng sắc màu trắng nhợt ấy làm sao có thể so sánh

được với sắc trắng tự nhiên chân chính này cơ chứ. Công nghệ của bọn họ, so với công nghệ

trong truyền thuyết này có đáng là gì, chẳng đáng là gì cả!”

Điều khiến Merkin càng kích động hơn là, từ vị trí này nhìn về phía trước, cả hành lang dài

ngun ngút tưởng chừng vô tận này xếp đầy những bình sứ đứng lặng lẽ, trông ngợp cả mắt…

Merkin như biến thành đứa trẻ ba tuổi, rảo chân chạy đi chạy lại khắp chốn trên hành lang,

nhìn thứ này rồi lại sờ thứ kia…

“Công nghệ trong truyền thuyết!”

“Công nghệ trong truyền thuyết!”

“Công nghệ trong truyền thuyết!”

Y kích động đến nỗi hai hàng lệ nóng rưng rưng tuôn từ khóe mắt. Y đứng giữa đống bình

sứ, xòe hai tay, cơ hồ muốn đón lấy những món bảo vật vô hình trên trời rơi xuống, nước mắt

thỏa sức chảy dài trên má, trong miệng phát ra tiếng cười dài sảng khoái: “Ha ha ha ha…”

Càng cười, nước mắt y càng tuôn, toàn thân run bần bật. Trác Mộc Cường Ba thấy thế, biết

ngay trạng thái tâm lý của Merkin lúc này đã vượt quá phạm vi khống chế của y rồi, sợ rằng để

y thấy thêm một hai món bảo vật, thần trí sẽ không còn tỉnh táo nữa.

Không thể để Merkin mê man giữa đống bảo vật thế này được, Trác Mộc Cường Ba không

chút do dự, khép bàn tay chặt mạnh một cú vào gáy đối phương, Merkin lập tức ngã vật ra. Sự

thực là, dù Trác Mộc Cường Ba có không đánh ý, Merkin cũng đã vừa khóc vừa cười đến độ

đứng còn chẳng vững nữa rồi.

Trác Mộc Cường Ba đỡ Merkin dậy, chẳng buồn để ý đến những chiếc bình sứ phát ra ánh

sáng lóa mắt kia nữa, một lòng chỉ muốn tìm đường ra khỏi hành lang dài tít tắp này. Không

bao lâu sau, Merkin đã dần tỉnh lại, nhưng trận cười điên đảo vừa nãy cơ hồ đã rút sạch thể lực

của y. Y rũ người dựa vào Trác Mộc Cường Ba, nói: “Anh biết không, mỗi một tác phẩm nghệ

thuật ở đây, dẫu là gạch lát sàn, bích họa, hay tường thủy tinh, đều chỉ có thể dùng bốn chữ

‘tuyệt không đâu có’ để hình dung, càng không cần phải nhắc đến những đồ gốm sứ kia làm gì,

toàn bộ đều là những món nằm ngoài tầm tưởng tượng của người đời. Tôi có thể nói thế này,

cứ cho là trước mắt chúng ta đây không phải những món đồ còn nguyên vẹn hoàn chỉnh, mà

chỉ là một đống mảnh vỡ chăng nữa, anh tùy tiện nhặt một mảnh vỡ ấy mang ra ngoài, cũng đủ

để ném một quả bom nguyên tử xuống giới nghiên cứu và sưu tầm đồ sứ rồi. Cách nhìn của họ

đối với lịch sử ngành gốm sứ, nhận thức và lý giải của họ về kỹ nghệ truyền thừa gốm sứ cổ

đại của thế giới, sẽ hoàn toàn bị lật nhào.”

Trác Mộc Cường Ba không buồn để ý đến Merkin nữa, chỉ xốc cánh tay, lôi y về phía trước,

nhưng Merkin vẫn tiếp tục nói thao thao: “Anh tả lại những món đồ sứ anh vừa nhìn thấy cho

bất cứ chuyên gia đồ sứ nào trên thế giới, hỏi họ xem có thứ như vậy hay không, tôi dám khẳng

định, họ chắc chắn sẽ trả lời cho anh rằng: tuyệt đối không thể có! Bởi vì những chuyên gia

giám định ấy chỉ xem các ghi chép trong cung đình, chỉ xem danh sách của các nhà sưu tầm,

bọn họ làm sao biết đến những món đồ chỉ có trong truyền thuyết! Những ghi chép của cung

đình trải qua nghìn năm, hủy hoại mất bao nhiêu, còn bảo tồn được bao nhiêu chứ? Những thứ

tuyệt mật trong cung, liệu được ghi chép lại mấy phần trong sổ sách? Rồi thử hỏi, có được bao

nhiêu món lưu lạc vào tay các nhà sưu tầm! Trong bọn họ, có bao nhiêu người đi nghiên cứu

các tiểu thuyết thần quái từ sau thời nhà Đường trở đi, rồi bỏ công nghe ngóng những câu

chuyện truyền miệng trong dân gian? Hừ…! Nếu không tận mắt nhìn thấy, bọn họ sẽ tuyệt đối

không bao giờ tin đâu!”

Tâm trạng Merkin lại kích động, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy rõ thân thể y đang khẽ run

từng chặp: “Bất cứ công nghệ cổ đại nào, hầu như đều trải qua một quá trình thế này: dần dần

phát triển đến đỉnh cao, sau đó bắt đầu xuống dốc, cho tới khi thất truyền. Trong lịch sử đồ

gốm sứ của Trung Quốc các anh, các nhà nghiên cứu lớn đều nhận định rằng thời Tống là đỉnh

cao của kỹ nghệ gốm sứ, sau này mới dần xuống dốc, chỉ có mình tôi tin rằng gốm sứ thời

Đường mới là các tác phẩm đỉnh cao của gốm sứ Trung Quốc! Cơ hồ tất cả các món đồ gốm sứ

trong truyền thuyết đều xuất hiện ở thời Đại Đường thịnh thế. Lực lượng sản xuất của đế quốc

Đại Đường thời bấy giờ có thể nói là đứng ở đỉnh cao toàn thế giới, rất nhiều ngành công nghệ

phát triển tới đỉnh điểm. Chỉ tiếc rằng sau đại loạn Ngũ Đại Thập Quốc, các công nghệ Đại

Đường lưu truyền hậu thế không còn được một phần mười, cho dù nói chỉ còn một phần trăm,

một phần nghìn thôi cũng không hề quá đáng. Chính vì vậy, sau này, khi hậu thế muốn tìm

hiểu, có rất nhiều kỹ nghệ phải đến các nước như Nhật Bản, hay vùng Trung Á để khảo chứng.

Thực ra thì, đất nước ở gần Đại Đường nhất, kế thừa được nhiều kỹ nghệ nhất, có lẽ là Thổ

Phồn. Bên trong tòa thần miếu này, chính là những tác phẩm đỉnh cao của thời kỳ đó rồi còn

gì! Những tác phẩm kết tinh của trí tuệ cổ nhân ấy… đều ở nơi đây… tất cả đều ở nơi đây…”

Dọc đường đi, nước mắt không ngừng chảy xuống cằm Merkin, nhỏ xuống đất, phát ra

những âm thanh tí tách tí tách. Để Merkin giữ được lý trí tỉnh táo, Trác Mộc Cường Ba không

thể không nhấn mạnh: “Đừng kích động quá, chớ quên rằng, những thứ này chỉ là rặng san hô,

rặng san hô thôi!”

Gọi là rặng san hô, là cách nói của Merkin khi kể lại những gì y biết với Trác Mộc Cường

Ba. Theo nghiên cứu của gia tộc nhà y, bảo vật ở Shangri-la có thể chia làm ba cấp bậc. Những

thứ nằm rải rác bên ngoài Shangri-la, giá trị có lẽ ngang với những bảo vật mà Morgan Stanley

phát hiện, nên họ cũng dùng luôn cách nói của Morgan Stanley, gọi chúng là những hạt cát trên

bờ biển; còn các vật bày biện ven đường trong Bạc Ba La thần miếu, được gọi là những rặng

san hô dưới biển, giá trị cao hơn các món bảo vật Morgan Stanley phát hiện một bậc; còn

những thứ cất giấu ở trung tâm của Bạc Ba La thần miếu, phải dùng chìa khóa mà sứ giả mang

ra mới mở được, mới là kỳ tích mà biển cả thai nghén ra… trân châu! Có điều, xét những gì

trước mắt họ đây, chỉ “rặng san hô” thôi đã thế này rồi, trân châu không hiểu sẽ thế nào nữa,

thực tình Trác Mộc Cường Ba không tưởng tượng nổi. Quả nhiên, nghe Trác Mộc Cường Ba

nhắc nhở, Merkin bật cười tự giễu, có thể nhìn thấy mấy “rặng san hô” này thôi, y đã thỏa mãn

lắm rồi, chẳng mong cầu gì “trân châu” nữa.

Đỡ Merkin đi cả một quãng đường khá dài, Trác Mộc Cường Ba cơ hồ đã hiểu được đôi

chút về tòa thần miếu. Bạc Ba La thần miếu, kết cấu có vẻ giống một kim tự tháp, đáy lớn đỉnh

nhỏ, từ các ô cửa kính có thể nhìn thấy kiến trúc dạng pháo đài thành trì bên dưới. Dĩ nhiên,

cũng không thể khẳng định kiến trúc pháo đài duới đáy hồ chính là phần đáy của thần miếu.

Tòa thần miếu này to lớn đến mức không theo một chuẩn mực nào, vị trí của bọn gã lúc này có

lẽ ở trên đỉnh của thần miếu. Từ độ cong của hành lang có thể thấy, đỉnh thần miếu hình chóp

nhọn, chỉ là hình tròn này lớn quá, nên gần như không nhận ra được độ cong của nó. Hành lang

hình tròn, một nửa lộ ra ngoài đáy hồ, nửa còn lại thì ẩn bên trong lòng núi. Trác Mộc Cường

Ba không hề biết rằng, tuyến đường bọn gã đi và tuyến đường bọn lính đánh thuê kia đi, vừa

khéo vạch nên hai vòng xoáy đồng tâm theo hai hướng ngược chiều nhau, một bên xoáy vào

trong, một bên lại xoáy ra ngoài.

Thậm chí Trác Mộc Cường Ba còn nghĩ, không hiểu có phải tòa thần miếu này có lối vào

trên đỉnh ở tầng bình đài thứ ba, rồi thông xuống cả ba tầng bình đài hay không? Xây một tòa

thần miếu dựa theo mạch núi Himalaya, từ đỉnh xuống đáy cách nhau gần 7000 mét! Nếu đúng

thế thì không còn nghi ngờ gì nữa, tòa Bạc Ba La thần miếu này sẽ là kiến trúc nhân tạo vĩ đại

nhất mà Trác Mộc Cường Ba có thể tưởng tượng ra được. Gã đột nhiên nghĩ đến lúc bọn gã từ

tầng thứ nhất bám vách đá leo lên tầng thứ hai, tại sao lại có một con dốc nghiêng như thế?

Liệu có phải đó là đường đáy của thần miếu hay không? Nói như vậy, há chẳng phải cả ba tầng

bình đài Tu Di sơn này chỉ là ba cái lan can của Bạc Ba La thần miếu hay sao? Còn biển ngầm

dưới lòng đất kia, chính là hồ trữ nước của thần miếu? Chính bản thân Trác Mộc Cường Ba

cũng giật bắn cả người vì suy nghĩ này sắc mặt tái đi. Nếu đúng là có kiến trúc như vậy, e rằng

tất cả những thứ gọi là kỳ quan thế giới cộng lại, chưa chắc đã bằng một phần mười của tòa

thần miếu này!

Trác Mộc Cường Ba gạt những suy nghĩ vẩn vơ ấy ra khỏi đầu, hiển nhiên không thể nào có

công trình kiến trúc khổng lồ như thế được, nhân lực vật lực ở nơi này đều không thể thảo mãn

điều kiện để xây dựng công trình trong tưởng tượng ấy của gã. Gã lại tập trung suy nghĩ vào

việc tìm lối ra, nếu hành lang này chỉ là một vòng tròn hoàn chỉnh, vậy thì đúng là hỏng bét.

Merkin đã hồi phục một chút thể lực, lại tập trung chú ý vào đống bình sứ, chỉ là sau khi được

Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở, y không dừng lại săm soi từng cái bình một, mãi không chịu

nhấc chân đi như lúc đầu nữa. Cứ đi như vậy, y cũng phát hiện ra một đặc điểm: những bình sứ

này không phải toàn bộ đều là cực phẩm, những loại tinh phẩm từ trên xuống dưới đều như thể

phủ một quầng ánh sáng, hiển nhiên là của hồi môn của công chúa Văn Thành mang vào đất

Tạng, số lượng rất ít, đi lâu như vậy cũng chỉ thấy có năm chiếc; kém hơn một chút, có lẽ là do

các thợ giỏi đi theo công chúa sử dụng nguyên liệu tại chỗ nung thêm, không có ánh sáng rõ rệt

lắm, nhưng cũng là hàng cực phẩm trong các loại cực phẩm rồi; loại cuối cùng, hiển nhiên là

sản phẩm của đời sau, kỹ thuật cũng như trình độ đều không thể so sánh với hai loại trên, song

số lượng lại nhiều nhất, có vẻ như đem ra để góp cho đủ số, chỉ có thể coi là hàng cực phẩm

thôi. Merkin vừa xem xét, vừa giải thích cho Trác Mộc Cường Ba.

Mắt thấy đoạn hành lang ngoài sáng sắp đi đến tận cùng, phía trước đã là bóng tối như mực,

Trác Mộc Cường Ba bỗng giật thót mình, nhớ ra rồi! Những bình sứ và các quả cầu trong bình

ấy, gã từng đọc về chúng khi nghiên cứu tài liệu, đây là một tế đàn Mạn đà la! Tùy theo số

lượng và phương vị các bình sứ khác nhau, vị chủ thần được bái tế ở đây cũng khác nhau,

nhưng có một điểm có thể khẳng định chắc chắn, trong kinh điển Mật giáo, các vị thần phật ấy

đều sở hữu sức mạnh cực kỳ đáng sợ! Sâu thẳm bên trong Trác Mộc Cường Ba lập tức dâng

lên một dự cảm chẳng lành, theo kinh nghiệm của gã, vẻ hùng vĩ của kiến trúc cùng vẽ tinh xảo

đẹp đẽ của nội thất bên trong xưa nay đều tỷ lệ thuận với mức độ nguy hiểm của kiến trúc ấy!

Tòa thần miếu này không chỉ là nơi tập trung của các món báu vật trong truyền thuyết, mà còn

tập hợp cả những thành tựu vĩ đại nhất trong các lĩnh vực cơ quan học, cổ độc, nuôi dưỡng sinh

vật! Vừa nhớ đến đoạn ghi chép tìm thấy trong làng của người Qua Ba, Trác Mộc Cường Ba

không khỏi rùng mình ớn lạnh.

“Thần kỳ quá!” Đội ngũ lính đánh thuê đông đảo cũng phát ra tiếng thở dài cảm khái hệt

như Trác Mộc Cường Ba và Merkin, có điều, cảnh tượng mà bọn chúng trông thấy khác hẳn

với hai người bọn Trác Mộc Cường Ba.

Những bức điêu khắc cuối cùng của Cánh cửa Chúng sinh càng lúc càng nhỏ dần, hình

người cuối cùng đã thu nhỏ lại chỉ bằng hạt đậu. Bước qua cánh cửa này là một hành lang dài

tràn ngập ánh sáng, so với bên trong cánh cửa đã chật hẹp, không gian đột nhiên rộng mở, ánh

sáng chiếu khắp phòng khiến tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn lên.

Chắn ngang trước mắt bọn lính đánh thuê là một đường hầm khoét vào lòng núi, trông như

thể ống thoát nước được phóng to. Đường hầm này rất tròn, chính giữa lại có một dòng nước

nhỏ chảy róc rách, khiến nó trông càng giống đường cống ngầm hơn. Sở dĩ, không ai cho rằng

đây là đường cống ngầm, là bởi ánh sáng chói lòa ở khắp mọi nơi.

Phía trên đường hầm ngầm treo hai hàng gương đồng lớn, không hiểu người xưa đã dẫn ánh

sáng từ chỗ nào, ánh mặt trời chói lóa được những tấm gương đồng chuyển tiếp lan đi khắp

chốn, một nhóm gương phản xạ, một nhóm gương khúc xạ, có tia sáng chiếu xuống mặt song

rồi lại phản xạ hắt lên, giao nhau chằng chịt, tạo thành một mạng lưới ánh sáng phủ khắp bên

trong đường hầm. Nhìn lưới ánh sáng đó, tất cả đều thấy dâng lên một cảm giác thần kỳ khôn

tả, tựa như đang đứng trước con đường thông lên cõi Thiên đường vậy!

Chỉ riêng người thanh niên kia là thoáng thất vọng, so với Cánh cửa Chúng sinh, mạng lưới

ánh sáng này cùng lắm cũng chỉ có thể coi là một tác phẩm nghệ thuật thị giác, vẫn chưa thể

khiến người ta rung động đến tận sâu thẳm tâm linh. Y lặng lẽ nhìn con sông chảy ngang trước

mắt, vì có ánh sáng phản xạ, mặt sông lấp lánh ánh vàng, có thể thấy những vệt sóng lăn tăn

gợn nhẹ, nước chảy không xiết, song cũng không quá chậm. Có một điều hơi lạ là trong không

gian có hiệu quả vọng âm rất cao thế này, dòng sông ấy lại không hề phát ra bất cứ âm thanh

nào. Người trẻ tuổi đó nghiêng tai lắng nghe một hồi, không sai, y chỉ nghe thấy toàn tiếng bàn

tán xì xào của bọn lính đánh thuê, dòng sông này không hề có tiếng nước chảy.

“Đây là sông Phù sinh sao? Chẳng qua cũng có vậy mà thôi, cùng lắm chỉ có thể coi là một

cái kênh lớn.” Trong lòng y không khỏi có chút bất mãn, “Gượm đã, đó là gì vậy?”

Y hơi khom người xuống, đôi mắt cơ hồ muốn nhìn xuyên qua mặt nước, nhưng dòng sông

này không ngờ lại sâu hơn y tưởng, dưới đáy sông dường như có thứ gì đó, nhờ ánh sáng phản

xạ hắt lên, có thể thấy được mấy mảng màu sắc mơ hồ. “Hình vẽ à? Chẳng lẽ cổ nhân đã đục

đẽo đáy sông thành các hình khắc? Điêu khắc dưới đáy sông để cho ai xem chứ?” Người trẻ

tuổi lấy làm thắc mắc, bèn ngồi xổm hẳn xuống, nhô người ra phía mặt sông xem thử. Quả

nhiên, dưới đáy sông có những hình khắc lồi lõm, vả lại, không biết người xưa đã tận dụng

màu sắc thiên nhiên của đá núi lửa hay sử dụng phương thức đặc thù gì khác, mà các hình khắc

ấy đều lên màu. Lòng sông không hề bằng phẳng, mặt sông liên tục nổi sóng, khoảng cách quá

xa, lại thêm sóng nước dập dềnh, căn bản không thể nhìn rõ được dưới đáy sông khắc những

gì. Tuy nhiên, người thanh niên ít nhất cũng hiểu được hai vấn đề, một là đường hầm này

không phải hình tròn, mà là hình số 8; không gian phía trên và phía dưới mặt nước hoàn toàn

đối xứng, chỗ bọn họ đang đứng chính là phần thắt eo của số 8 ấy. Thứ hai, nhiệt độ của nước

sông khác nước hồ bên ngoài, nước hồ bên ngoài do nước tuyết đọng trên núi chảy xuống, tuy

được địa nhiệt trung hòa, song vẫn hơi lạnh, còn dòng sông này lại chịu ảnh hưởng của địa

nhiệt, nước sông nóng hơn một chút so với nước sông hồ bình thường ngoài kia. Vừa bước

chân vào đường hầm này, y đã cảm thấy ẩm thấp, hiển nhiên là do hơi nước từ mặt sông bốc

lên, đồng thời, cũng vì trong đường hầm mù mịt hơi nước, nên các cột ánh sáng kia mới để lại

những dấu vết rõ rệt trong không trung, đan thành mạng lưới ánh sáng hiện lên trước mặt cả

bọn như thế.

“Hừ, sông Phù sinh, đây cũng gọi là sông Phù sinh à?” Người trẻ tuổi lạnh lùng cười, ra

lệnh: “Đừng nhìn nữa, mau đi theo hướng dòng sông chảy.”

DÒNG SÔNG PHÙ SINH

Đi trong đường hầm đầy ánh sáng không được bao xa, liền nghe những tên lính đánh thuê ở

phía sau kêu toáng lên: “Nhìn kìa! Đó là gì thế? Đó là gì thế?” Nhiều tên lính đánh thuê khác

dường như cũng chú ý, nhao nhao thốt lên những tiếng kêu kinh ngạc, hiển nhiên là đã thấy sự

vật kỳ diệu gì đó, thậm chí, một số tên còn đắm chìm mê muội, vẻ mặt thẫn thờ si dại.

Nghe thấy những tiếng kêu thảng thốt vang lên mỗi lúc một nhiều, pháp sư Á La đi đầu tiên

cũng không thể không dừng bước ngoảnh đầu lại, liền nghe người phía sau hét váng: “Biến đổi

rồi, lại biến đổi rồi!”

Chỉ thấy trên vách của đường hầm đầy những cột ánh sáng đan xen nhau ấy, dường như bị

đèn tụ quang chiếu lên, xuất hiện một quầng sáng hơn hẳn, đường kính khoảng hai mét. Quầng

sáng dịch chuyển thuận theo dòng nước chảy, chầm chậm di động trên vách tường.

Khi quầng sáng đó nhích đến gần, pháp sư À La mới ngạc nhiên phát hiện, quầng sáng ấy

giống như có một máy chiếu phim đang chiếu một hình ảnh lên trên vách tường, nhân vật trong

ảnh phản chiếu quần áo rực rỡ, thần thái động tác đều cực kì vi diệu, thậm chí cả lông bờm trên

mình động vật cũng rõ đến mức có thể phân biệt được từng sợi. Chẳng những thế, nhân vật

trong ảnh chiếu còn đổ bóng xuống, rồi có cả cảm giác gồ ghề lồi lõm! Nếu ở bất cứ một nơi

bình thường nào khác, trông thấy một máy chiếu hình đang chiếu phim lên tường thì cũng

chẳng có gì lạ, nhưng trong tòa thần miếu nghìn năm lại đột nhiên xuất hiện cảnh tượng này,

thì chẳng khác gì hiện tượng siêu nhiên. Quầng sáng kia chẳng phải vật phàm, mà dường như

trở thành một thứ kết nối hai cõi âm dương; những hình ảnh kia cũng không còn giống hình

ảnh do ánh sáng tổ hợp được chiếu ra từ máy chiếu nữa, mà như đã thành một thứ thực thể; rồi

trên hình ảnh không ngừng xuất hiện những đường vặn vẹo như dòng nước gợn sóng lăn tăn,

tựa hồ tín hiệu giữa linh giới và dương gian không được thông thuận cho lắm vậy. Đám lính

đánh thuê thấy thế, lại càng thêm tin tưởng vào ý nghĩ của mình.

Từ thời cổ đại, mặt nước đã được coi là cánh cửa lớn thông đến thế giới khác, trong một

khoảng thời gian dài đằng đẵng, đại đa số các quốc gia và tôn giáo đều tin rằng đó là chân lý.

Giờ đây, trong đám lính đánh thuê cũng có khá nhiều tên bị ảnh hưởng, thậm chí đã có kẻ định

quỳ xuống bái lạy rồi. Bởi vì, ngoại trừ tin rằng đó là ảnh chiếu của thế giới khác ra, thực sự

không có cách nào giải thích được hiện tượng kỳ quái này. Bọn lính đánh thuê đều trợn tròn

mắt lên, chăm chú quan sát mặt nước và bức vách nơi quầng sáng kia xuất hiện, nhưng không

phát hiện ra bất cứ điều dị thường gì. Quầng sáng ấy chỉ thình lình hiện ra ở đó! Lẽ nào, cánh

cửa dẫn sang thế giới bên kia đã hé mở?

Người thanh niên kia khẽ nhếch mép cười, thầm nhủ: “Dòng sông Phù sinh, thì ra đây mới

là diện mạo thực sự của ngươi. Phù sinh, phù sinh, lẽ nào ngươi đã khắc họa hết thảy ngàn vạn

cuộc đời chốn phàm trần này sao?” Y sớm đã chú ý thấy, ở chính giữa mặt sông có một vệt

váng dầu trong suốt không màu, bề ngang ước chừng to bằng miệng bát, nếu không có con mắt

tinh tường thì tuyệt đối chẳng thể nào phát hiện ra được.

Dầu nhẹ hơn nước, nổi trên mặt nước, tự nhiên hình thành một thấu kính lồi, những luồng

sáng kia không biết trải qua phản xạ, khúc xạ như thế nào, cuối cùng được thấu kính váng dầu

phóng lớn, hắt lên vách tường tạo thành quầng sáng. Hình ảnh trên đốm sáng, chẳng qua chỉ là

những hình khắc bên dưới lòng sông mà thôi.

Nếu ảnh chiếu đều đúng chiều, có nghĩa, những hình điêu khắc dưới lòng sông kia đều là

bóng ngược.

Một bức điêu khắc chính diện muốn làm đến mức sống động như thật thì chỉ cần một người

thợ cả tay nghề thâm hậu là đủ, nhưng muốn để bóng ngược thành thuận, đồng thời cũng sống

động như thật, lại không chỉ một hai bức, mà là toàn bộ bên dưới lòng sông đều khắc đầy

những bức hình như thế, thử hỏi, phải tốn công sức đến chừng nào!

Những bức họa hiện lên trước mắt người đời bằng phương thức phù quang lược ảnh này, rốt

cuộc còn bao hàm tư tưởng triết học gì của người xưa đây? Khóe miệng người trẻ tuổi hơi vểnh

nhếch lên, hé ra một nụ cười khá dễ coi.

Còn một người nữa cũng phát hiện ra điều bí ẩn này, đó là pháp sư Á La. Chỉ cần lần theo vị

trí của quầng sáng và điểm tụ của cột sáng, là có thể phát hiện ra điểm khác biệt giữa mặt sông,

tiếp tục lần theo đầu mối ấy, sẽ nhìn thấy những hình điêu khắc bên dưới lòng sông. Điều khiến

pháp sư Á La chú ý, không phải là sự sáng tạo độc đáo của người xưa, mà là bản thân những

bức họa chiếu lên tường ấy. Quầng sáng đó từ từ dịch chuyển, hình ảnh hiện lên bức vách cứ

thế nối tiếp nhau, không khó để nhận thấy, sắc da của nhân vật trong tranh rất khác nhau, y

phục cũng có điểm độc đáo riêng, từ Đại Đường đến Thổ Phồn, rồi tới Trung Á, châu Âu, châu

Phi, thảy đều xuất hiện trong tranh. Quan sát kỹ hơn, thậm chí còn phát hiện, mỗi bức tranh

đều kể lại một câu chuyện, ngụ ngôn Easop, Nghìn lẻ một đêm, thần thoại Ai Cập, thần thoại

Maya, ngoài ra cũng không hiếm những điển cố trong Đạo giáo, Phật giáo và Nho giáo.

Dòng sông Phù sinh này không ngờ lại là dòng chảy hội tụ các nền văn minh cổ đại.

Những bức họa tinh diệu tuyệt luân ấy đã phơi bày trước mắt bọn họ tất thảy tinh hoa trí tuệ

của các nền văn minh trước thời Thịnh Đường, trong lòng pháp sư Á La không khỏi trào dâng

xúc cảm. Những hình ảnh ông từng thấy, chưa từng thấy, đang lẳng lặng mở dần ra trước mắt

ông, thủ thỉ kệ lại câu chuyện về những nền văn minh đã thất lạc.

“Không sai, đây chính là Bạc Ba La thần miếu, vùng đất tồn lưu hoàn mỹ nhất của những

nền văn minh thất lạc,” pháp sư Á La thầm nhủ.

“Tõm!” một tiếng, không biết tên lính đánh thuê nào mải nhìn đến xuất thần, suýt chút nữa

ngã xuống sông, may mà có người kịp với tay giữ hắn lại, nhưng hai tay tên lính đánh thuê ấy

đã chống xuống mặt sông, làm nước bẩn tóe lên. Chỉ nghe “xẹt” một tiếng, quầng sáng trên

tường nhạt hẳn rồi tan biến.

Bọn lính đánh thuê đột nhiên ngây hết người ra, không biết có phải đã chọc giận đến thần

linh hay không. Người trẻ tuổi lắc đầu, bọt nước bắn tung lên làm thấu kính váng dầu vỡ tan ra

rồi, tự nhiên không thể hình thành được quầng sáng hoàn chỉnh nữa. Ý nghĩ ấy vừa hiện lên

trong óc, bên tai y lại vang lên những tiếng trầm trồ xuýt xoa mới. Chỉ thấy, quầng sáng kia ảm

đạm tan đi, nhưng không hoàn toàn biến mất, mà dường như lại nhanh chóng thích ứng được,

thoáng chốc đã tụ thành rất nhiều đốm sáng nhỏ. Trong mỗi đốm sáng ấy đều hiện lên một hình

ảnh, chỉ là đã thu nhỏ đi rất nhiều. Những hình ảnh ấy, tựa như ánh đèn trên sân khấu, không

ngừng đưa qua đưa lại giữa các luồng sáng chằng chịt, lại mang đến cho người ta những ngạc

nhiên mới.

Các đốm sáng nhỏ giống như bầy con nghịch ngợm của quầng sáng lớn ban đầu, vừa có

được tự do liền chạy tản đi khắp chốn. Chỉ là, sau khi chúng khuếch tán ra một phạm vi nhất

định, dường như lại nghe thấy một lời triệu gọi nào đó, bắt đầu tụ về một phía. Dần dần, hình

ảnh này đè lên hình ảnh khác, đốm sáng này chồng lên đốm sáng kia, cuối cùng lại tự ghép

thành một quầng sáng to y như ban đầu. Trọn vẹn quá trình ấy, bọn lính đánh thuê cứ trợn mắt

há mồm ra nhìn.

Cả bọn lại tiếp tục men theo bờ sông, xuôi theo dòng nước đi giữa mạng lưới ánh sáng, chốc

chốc lại hiện lên những hình ảnh ly kỳ. Nếu nói đường hầm chật hẹp kia mang đến cho con

người cảm giác ức chế đến mức gần suy sụp tinh thần, thì hành lang ánh sáng này lại khiến bọn

lính đánh thuê như được một lần rửa tội, tẩy sạch mùi máu tanh nồng nặc, trở nên an phận hơn

rất nhiều.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin cũng trở nên an phận hơn. Merkin không cần Trác Mộc

Cường Ba phải dìu đi, bởi nơi này đã không còn những món đồ sứ khiến y kích động nữa rồi.

Sau khi rời khỏi mặt sáng lộ ra dưới đáy hồ, chuyển vào đường hầm trong lòng núi tối tăm thì

không còn đồ sứ gì nữa, cứ đi mãi đi mãi, cả bích họa trên tường cũng không thấy đâu. Tiếp

tục tiến lên phía trước, mặt đất không còn dấu vết đục đẽo, càng không cần phải nói đến đá lát

sàn gì đó. Mới đi được một lúc, họ đã từ hành lang bên ngoài thánh đường của các tác phẩm

nghệ thuật đi vào hang động nguyên thủy nào đấy, vách tường như thể do một loài dã thú nào

đó đào bới, trông thô kệch hết sức. Merkin không thể chấp nhận được sự biến đổi đột ngột như

thế, cứ một mực truy vấn Trác Mộc Cường Ba xem có phải đã đi nhầm đường hay không!

Trác Mộc Cường Ba lại nhấn mạnh điều đó tuyệt đối không có khả năng xảy ra, chỉ có một

con đường, cứ đi mãi đi mãi, nó liền biến ra như vậy, Merkin nhíu mày nói: “Chẳng lẽ, Bạc Ba

La thần miếu vẫn chưa xây xong?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không giống như chưa xây xong, tôi cảm thấy dường như họ

cố ý xây thành như thế này đó.”

“Hả?” Merkin đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba dò hỏi. Trác Mộc Cường Ba bèn tiếp lời:

“Ông chỉ nhìn thấy giá trị của bản thân những món đồ sứ ấy, mà không lưu ý xem tại sao

chúng lại được sắp đặt như thế. Theo những gì tôi được biết từ pháp sư Á La, Mật tu giả bọn

họ có một loại tế đàn Mạn đà la rất đặc biệt, cần đến những cái bình đựng đầy các quả cầu

giống như chúng ta vừa trông thấy. Những bình này phải đặt ở vị trí hướng về phía mặt trời,

tượng trưng cho thần lực của thần Mặt trời truyền tới, có thể thay đổi vị trí của các quả cầu và

bình chứa để thay đổi vị chủ thần mà một tế đàn Mạn đà la đang thờ phụng. Số lượng bình và

hạt châu khác nhau đại diện cho những vị chủ thần khác nhau. Dựa theo những tài liệu trong

tay chúng tôi, trong các thần linh mà người Qua Ba cổ đại thờ phụng, có một phần rất lớn là

những loài động vật hoang dã sở hữu sức mạnh cực kỳ đáng sợ, và đích thực có tồn tại trong

thực tế!”

“Hả!” Merkin trợn tròn hai mắt, nhìn chằm chằm vào hang động tối om, sắc mặt cũng hơi

tái đi.

Trác Mộc Cường Ba vẫn giữ nguyên nét mặt cứng rắn, nói tiếp: “Tôi nghĩ, hang động sở dĩ

được đào thế này, bởi đây là môi trường thích hợp cho vị thần linh được tế đàn Mạn đà la thờ

phụng.”

“Anh bảo liệu có phải, có phải là… con quái vật nghìn năm ‘kukububu’ gì đó mà bài văn tế

kia nhắc đến hay không?” Merkin nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba khe khẽ gật đầu, nói: “Hồ tế và giếng tế theo lẽ là phải dựa vào nhau

cùng tồn tại, xét theo quan hệ liên đới, chủ nhân của hồ tế được coi là chủ thần của tế đàn Mạn

đà la cũng là điều dễ giải thích, đúng là rất có khả năng này.”

Trong lúc nói chuyện, họ để ý thấy trên vách bắt đầu xuất hiện một số lỗ hổng, vách tường

cũng trở nên ướt nhơm nhớp, một số loài thủy tảo hay thực vật trông như rêu mọc bám đầy trên

đó.. Đây rõ là điềm chẳng lành, Trác Mộc Cường Ba lập tức liên tưởng đến thành tựu trong

lĩnh vực nuôi dưỡng sinh vật của người Qua Ba! Mà môi trường âm u ẩm thấp này, lại cực kỳ

thích hợp để nuôi dưỡng một số loại… côn trùng!

Trác Mộc Cường Ba chiếu đèn pha vào một cái hốc trên vách tường, thấy bên trong trống

không, có điều chẳng ai dám đảm bảo mỗi cái hốc ở đây đều trống không cả, càng tiến lên phía

trước, những khe hở và hốc nhỏ trên vách sẽ càng lúc càng nhiều hơn.

Merkin có phát hiện mới trước Trác Mộc Cường Ba. Y tìm thấy một sợi dây leo to tướng ở

chỗ giao nhau giữa vách tường phía bên kia và mặt đất dưới chân. Mới đầu, Merkin tưởng đó

là một khúc cây, đường kính ít nhất cũng phải khoảng ba mươi xăng ti mét, nhưng bước lại gần

xem kỹ y mới nhận ra mình đã nhầm.

Phần đuôi thứ đó đâm vào trong khe nham thạch, đoạn lộ ra ngoài ít nhất cũng chừng ba

mươi mét. Nếu là cành cây đường kính khoảng ba mươi xăng ti mét, thì rất hiếm khi mọc dài

đến tận ba mươi mét, vả lại chắc chắn phần ngập trong khe đá cũng không phải ngắn, vì vậy

Merkin chỉ có thể cho rằng nó là một đoạn dây leo mà thôi.

Bảo nó là một loại thực vật dạng dây leo là bởi lớp vỏ ngoài của thứ này trông giống như vỏ

cây, vừa khô nứt khô nẻ vừa đen đúa, lại lồi lồi lõm lõm không được nhẵn nhụi. Merkin đưa

chân đá vào mấy cái, thấy rất cứng, vẫn giống cành cây hơn, nhưng khi y đá mạnh một cú, lại

cũng thấy có lực đàn hồi, giống như một loại cao su đặc vậy.

Thứ này vốn nằm trong góc tường, chẳng hề nổi bật, cái thu hút sự chú ý của Merkin là một

loài hoa nhỏ sống ký sinh trên thân nó kia. Loài hoa này cao khoảng mười xăng ti mét, cánh

hoa xòe rộng ra cũng chỉ bằng đồng xu, vấn đề là nó lại có sắc đỏ tươi của thịt sống, giống như

môi vừa thoa son vậy, trong bóng tối dường như còn phát ra một quầng sáng nhàn nhạt.

Merkin gọi Trác Mộc Cường Ba lại gần quan sát, mới phát hiện trên lớp biểu bì của cái

khúc đen đúa khô cong trông như cành cây ấy còn mọc đầy gai nhọn, loại gai vốn vẫn thường

thấy trên thân cành của các loài thực vật có gai. Merkin hỏi: “Đây là giống thực vật gì vậy?

Dây leo hay là một cái cây mọc ngang? Anh nhìn mấy bông hoa kia xem, hình như sinh trưởng

cũng rất tốt, chúng hút dưỡng chất từ đâu nhỉ?”

Trác Mộc Cường Ba giẫm lên khúc cây đen đúa, dồn sức đè thử: “Nếu cành cây đen này

thuộc về gốc cây cái thì bộ rễ của nó có thể luồn qua các khe hở trực tiếp hút dưỡng chất trong

hồ nước, vậy những bông hoa nhỏ kia có lẽ là một loài thực vật ký sinh, bọn chúng hút dưỡng

chất từ thân gỗ đen để sinh trưởng và phát triển. Những khúc cây thế này hẳn có tác dụng như

một loại ống truyền dẫn chất dinh dưỡng. Ngoài ra, cánh của mấy bông hoa kia thoạt nhìn khá

dày dặn, mà nơi này lại rất thích hợp để nuôi dưỡng các sinh vật hệ côn trùng, phỏng chừng,

loài hoa này chính là thức ăn của bọn côn trùng ấy.”

Nghe Trác Mộc Cường Ba phân tích khá hợp lý, Merkin gật gật đầu, ngồi xổm xuống xem

xét kỹ những bông ha, đồng thời nói: “Nói như vậy, đây vẫn có thể coi là một loại cây, vì hình

như rất hiếm khi gặp loại dây leo nào có gai. Có điều, nói vậy cũng không ổn lắm, anh nhìn mà

xem, nếu những bông hoa này muốn tìm kiếm sự bảo vệ thì chúng phải mọc sát cạnh những cái

gai kia mới phải chứ sao lại toàn mọc ở chỗ thoáng thế…”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Những cái gai này hẳn là để bảo vệ thân cây cái không bị lũ côn

trùng ăn mất, không thể bảo vệ được hoa.”

Thực ra, cả Trác Mộc Cường Ba lẫn Merkin đều không hiểu biết mấy về thực vật. Bọn họ

không hề nhận ra, những cái gai ấy không mọc lộn xộn trên khúc cây, mà hoàn toàn đối xứng

nhau qua một đường trung tuyến nào đó.

Merkin vê nhẹ cánh hoa, khẽ “ồ” một tiếng, quan sát ở khoảng cách gần, những cánh hoa ấy

càng không giống cánh hoa chút nào, mà giống như một lát thịt đo đỏ, chạm tay vào có cảm

giác như thể sờ vào da thịt vậy, Merkin vân vê cánh hoa mà thấy như đang vân vê thùy tai của

người nào đó. Y hơi vận sức vò mạnh, cánh hoa nhỏ như bị đau, những nếp uốn liền co vào

trong, cuối cùng rụt hẳn vào trong khúc cây, chỉ chừa lại một cái núm gồ lên trông như ống

khói nhỏ. Trác Mộc Cường Ba hiển nhiên cũng chú ý đến cảnh ấy, nghi hoặc “hả” lên một

tiếng. Merkin nói: “Rốt cuộc là cái gì vậy? Anh bảo nó là động vật hay thực vật nhỉ?”

Trác Mộc Cường Ba nhìn Merkin hỏi: “Ông cảm thấy giống cái gì hơn?”

“San hô!” Hai người không hẹn mà cùng thốt lên, những bông hoa nhỏ màu thịt tươi ấy thực

chẳng khác nào san hô bám trên rặng đá ngầm, hễ có động tĩnh gì là lập tức rụt ngay vào. Thể

sống giống thịt mà không phải thịt trước mắt họ đây, có thể coi như phiên bản trên lục địa của

san hô.

Thoáng sau đó, miếng thịt kia chừng như cảm thấy không còn gì nguy hiểm nữa, lại chầm

chậm ló đầu, trải những nếp uốn ra, nở thành một đóa hoa nhỏ như trước. “Sinh vật bậc thấp.”

Merkin đưa ra phán đoán.

Trác Mộc Cường Ba đưa tay lên phía trên cánh hoa phe phẩy mấy cái, cánh hoa vừa né vừa

rung rinh nhè nhẹ, tựa như đang cười khúc khích vì ngứa. Nhìn những cánh hoa mềm mại,

Trác Mộc Cường Ba cũng không nhịn được khẽ bật cười, có điều, gã lại nghĩ ngay, những

bông hoa này có thể rụt vào trong khúc cây, chắc không phải là thức ăn cho lũ côn trùng rồi.

Chúng mọc ở đây là ngoài ý muốn của cổ nhân, hay còn có tác dụng gì khác? Gã lắc đầu đứng

dậy, thuật nuôi dưỡng sinh vật của người Qua Ba rất khó lý giải.

Hai người ngẫm nghĩ hồi lâu cũng không nghĩ ra được mấy thứ thực vật này rốt cuộc có tác

dụng gì, bỏ mặc chúng ở đó, tiếp tục tìm đường. Dọc đường đâu đâu cũng trông thấy những

khúc cây có gai ấy, hai đầu mọc đâm vào vác tường, phần lộ ra bên ngoài dài tứ mấy mét đến

mấy chục mét. Càng lúc Trác Mộc Cường Ba và Merkin càng thêm tò mò, người Qua Ba chôn

mấy khúc cây này ở đây rốt cuộc để làm gì?

Những hang hốc trên vách tường bên trái mỗi lúc một nhiều, kích thước càng lúc càng lớn

hơn, nếu chăm chú lắng nghe sẽ không khó nhận ra, trong hang động văng vẳng tiếng động khi

di chuyển của động vật nhiều chân. Có điều những động vật này đều náu mình trong chỗ tối,

không hề có ý bò ra tấn công người, Trác Mộc Cường Ba và Merkin cũng quyết định không

trêu vào chúng, nếu có thể bình yên tìm được đường ra khỏi đây là tốt nhất.

Khốn nỗi ý trời lại không chịu chiều lòng người, đi thêm chừng mấy trăm mét về phía trước

là hết đường, vách núi phẳng lì chắn ngay trước mặt, Merkin không nhịn được cất lời cằn nhằn:

“Tôi đã bảo là đi sai đường mà lại, giờ thì hay rồi, đành phải quay lại thôi.”

Trác Mộc Cường Ba không đồng ý với Merkin: “Hẳn không thể sai được, thông đạo của

người Qua Ba xây dựng nhất định là đi ngược chiều kim đồng hồ, vả lại, ông nhìn đường hầm

này mà xem, bốn phía đều đục đẽo hết sức gồ ghề lồi lõm, còn vách đá trước mặt chúng ta lại

phẳng như bàn là vậy, chắc chắn có vấn đề.”

Merkin liếc mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, hỏi: “Ý anh là, đây có thể là một thông đạo bị bít

lại?”

“Ừm, đúng vậy, con đường chúng ta đi vốn đã không phải thông đạo bình thường rồi. Nếu

là lối thông với giếng tế, hồ tế, sau khi xây dựng xong bị bít lại cũng không có gì lạ, nói không

chừng, hai bên đều bị bít lại, cả đây rất có thể là một đường cong khép kín.” Trác Mộc Cường

Ba khẳng định thêm.

Merkin nói: “Vậy còn không khí mà chúng ta hít thở? Thực vật và động vật kia thì sao?”

Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại, rồi lập tức mở bừng ra, đi thẳng đến chỗ vách đá trơn

nhẵn: “Có gió.”

Bước đến gần, Trác Mộc Cường Ba mới phát hiện, thì ra đó không phải vách đá mà là một

bức tường ghép bằng những viên gạch rất lớn, có điều khe hơ giữa những viên gạch này cực

nhỏ, đứng xa không thể nhìn thấy được. Khi chiếu đèn pha lên phía trái bức tường ấy, Trác

Mộc Cường Ba còn phát hiện một hàng chữ nhỏ. Merkin cũng ghé đầu lại hỏi: “Nô lệ, tuyệt

vọng… viết gì vậy?”

“Đây là lời khuyên răn dành cho những phạm nhân và nô lệ bị đem làm vật tế, nếu bọn họ

có thể may mắn thoát khỏi miệng của Ba Âm Ma Kha, thì khi nhìn thấy những hàng chữ này,

bọn họ hãy tuyệt vọng đi.” Trác Mộc Cường Ba đáp, gương mặt không biểu lộ chút biểu cảm

nào. Câu cuối cùng “Khi các ngươi nhìn thấy hàng chữ này, hãy tuyệt vọng”, chẳng khác nào

một đòn giáng mạnh vào tim gã. Hiển nhiên, khi xây dựng giếng tế, người xưa đã nghĩ cả đến

trường hợp những nô lệ hoặc phạm nhân thông minh có thể sẽ lợi dụng lối thông gió được bít

bằng đất dầm để thoát thân, nên đã đi trước một bước, chặn luôn lối thoát này lại. Vật tế tức là

vật tế, lễ vật hiến tế nhất định phải bị ăn thịt, nếu thoát khỏi Ba Âm Ma Kha, họ sẽ phải nhận

lấy kết cục chôn thây trong bụng lũ côn trùng ở nơi này.

Hai người đều hiểu, sở dĩ đến giờ vẫn chưa thấy lũ côn trùng xuất hiện, hiển nhiên là vì theo

đồng hồ sinh học, lúc này vẫn chưa đến giờ ăn của bọn chúng. Merkin lấy làm khó hiểu: “Theo

cách nói của anh lúc trước, nếu không phải con Ba Âm gì gì đó, thì phải là con ‘Kubukubu’,

còn lớn mạnh hơn, khủng khiếp hơn cả đống xương trắng trong giếng tế mới đúng chứ? Sao lại

biến thành côn trùng vậy?”

“Hoặc giả, bài văn tế ấy nói nó rất to lớn, không phải chỉ thể tích, mà là chỉ thực lực của

chúng rất mạnh, bọn côn trùng quần cư xưa nay đều hợp tác săn mồi mà.”

“Không thể nào.” Merkin và Trác Mộc Cường Ba vừa thảo luận, vừa tiếp tục tìm kiếm lối

ra. Merkin dò tìm xung quanh bức tường đá xem có phát hiện gì mới không, còn Trác Mộc

Cường Ba lần lượt gõ lên mặt tường, xem có thể dùng thuốc nổ phá hủy được hay không

TƯỜNG KHỔNG MINH

Trác Mộc Cường Ba nói: “Hay là cho nổ tường giống như đã làm với đường thông gió?”

“Không được,” Merkin tức khắc gạt ý kiến của gã đi: “Đây là tường gạch, không phải đất

dầm, cho nổ sẽ gây ra chấn động, có thể chọc giận lũ côn trùng kia, nói không chừng những

người xây dựng Bạc Ba La thần miếu cũng đã tính toán đến khả năng này rồi. Thời bấy giờ,

hẳn phải có hỏa dược rồi chứ?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu, trước khi Đạo quân Ánh sáng biến mất, hỏa dược đã xuất hiện

từ rất lâu, có trời mới biết bọn họ đã nghiên cứu ứng dụng thuốc súng đến trình độ nào rồi.

Merkin nói: “Vậy thì phải rồi, các nghệ nhân thời xưa còn hiểu tâm lý con người hơn cả anh

và tôi, trong các kiến trúc cổ, chúng ta thường hay gặp phải tình trạng như vậy, khi anh tưởng

rằng mình đã phá giải được cơ quan cạm bẫy, thực ra lại chính là lúc anh khởi động bẫy rập.”

Về mặt này, kinh nghiệm thực chiến của Merkin phong phú hơn Trác Mộc Cường Ba nhiều. Y

bước đến phía bên phải bức tường, đột nhiên kêu lên: “Ủa, bên này cũng có chữ.”

“Trí tuệ là con đường sống duy nhất.” Trác Mộc Cường Ba dịch một cách máy móc.

Merkin lấy làm khó hiểu: “Thế là ý gì? Vừa mới nói tuyệt vọng xong, lại bảo có đường

sống? Anh dịch có đúng không vậy?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đại ý chắc không sai đâu, tôi nghĩ, ý của cổ nhân là, thân là vật tế

dâng lên thần linh, bị ăn thịt là lựa chọn chính xác duy nhất, nhưng nếu tế phẩm ấy đủ thông

minh, vậy thì trí tuệ ấy sẽ có thể bù đắp được những lỗi lầm y mắc phải, hoặc gả lấp đầy sự bất

công của số phận, khiến y có được cơ hội sống lại làm người. Nếu đã như vậy, nói không

chừng còn có phương pháp đặc thù nào khác để vượt qua bức tường này cũng nên.”

“Tường Khổng Minh! Ngu xuẩn quá!” Câu nói cuối cùng của Trác Mộc Cường Ba đã nhắc

nhở Merkin, y đột nhiên, áp sát hai bàn tay lên mặt tường xòe năm ngón tay rờ rẫm một hồi.

“Ông nói gì vậy?”

Merkin vừa rờ rẫm từng viên gạch một, vừa giải thích: “Anh đã bao giờ chơi trò mở khóa gỗ

của Trung Quốc chưa, hình như còn gọi là khóa Lỗ Ban hay gì đó ấy, không có móc ngầm nào,

mà chỉ là từng khối từng khối linh kiện ghép lại với nhau. Bức tường Khổng Minh này cũng

dùng nguyên lý đó, những viên gạch ghép vuông này, nhìn bề ngoài thì giống nhau hết, nhưng

kết cấu bên trong lại khác nhau hoàn toàn, chỉ cần tìm được viên gạch đầu tiên, những viên

gạch còn lại sẽ dịch chuyển theo các hướng trên dưới trái phải, mở ra một cánh cửa cho chúng

ta thoát khỏi đây. Kết cấu này xuất hiện rất sớm, tôi nghe người ta gọi nó là tường Khổng

Minh. Loại tường này ẩn mật hơn các kiểu cửa ngầm thông thường nhiều. Lẽ ra ta phải chú ý

đến nó từ đầu mới đúng. Anh nhìn xem, mặt hướng về phía chúng ta, toàn bộ đều là những

hình vuông chắc chắn, có biết tại sao phải làm thành hình vuông không? Chỉ có vậy mới đảm

bảo được, khi người ở bên ngoài di chuyển chúng, sẽ không thể nhìn thấy biến hóa của kết cấu

bên trong!” Nói tới đây, y chừng như đã phát giác được gì đó, bèn lấy ngón tay ấn lên, trên

viên gạch liền xuất hiện một lỗ nhỏ, vừa đủ để đút ngón tay vào trong. Merkin đặt ngón giữa

vào, ấn ấn, không thấy nhúc nhích gì, lại nhấc lên móc ra phía ngoài, cũng vẫn không có phản

ứng.

Merkin lắc lắc đầu, tiếp tục rờ rẫm những viên gạch khác, không lâu sau, y lại tìm được một

viên nữa, thọc vào lỗ nhỏ, ấn vào trong không được lại móc ra ngoài, viên gạch ấy tức thời lồi

ra nửa lóng tay, kế đó, Merkin tiếp tục ấn thử các viên gạch xung quanh, nhưng đều không thấy

nhúc nhích gì. Y nghĩ ngợi giây lát rồi ghé sát mặt vào chỗ viên gạch lồi lên tiếp giáp với các

viên gạch xung quanh, thổi lớp bụi bám trong khe hở đi, chợt hai mắt sáng bừng lên, tựa hồ đã

hiểu ra chuyện gì đó, liếm liếm môi, nắm tay vào phần gồ lên ấy, dùng sức vặn một cái. Không

ngờ viên gạch ấy lại xoay được chín mươi độ, Merkin thử đẩy nhẹ, viên gạch liền trượt về vị trí

ban đầu, mặt tường lại phẳng nhẵn. Y đẩy thêm chút nữa, viên gạch lại lõm vào chừng nửa

lóng tay. Merkin dường như đã tìm được phương pháp, bắt đầu thử di động những viên gạch

cạnh đó, kéo viên bên phải ra, ấn viên bên trái vào, đẩy viên phía dưới lên, cũng có lúc các viên

xung quanh đều không thể nhúc nhích, y lại phải phục nguyên trạng thái ban đầu, đổi hướng

làm lại, cứ tiếp tục lần mò như vậy, càng về sau độ khó càng cao, nhưng dần dần, trên bức

tường cũng thấp thoáng hiện ra hình dáng một cánh cửa.

Chỉ là, thời gian không còn nhiều nữa, Trác Mộc Cường Ba đứng bên cạnh lặng lẽ quan sát,

bỗng nghe thấy những âm thanh lạo xạo vang lên, lũ côn trùng trong các hang hốc ở vách

tường bên trái cơ hồ đã náo động lên rồi. Gã vội nhắc nhở: “Có thể nhanh hơn chút nữa được

không? Hình như lũ côn trùng kia đói rồi thì phải.”

Merin đang tập trung toàn bộ tinh thần vào những viên gạch trước mặt, bực bội gắt: “Đừng

quấy rầy tôi nữa, thứ này chỉ cần sai một bước là phải làm lại từ đầu đấy, nếu bọn chúng có

chui ra, anh phải nghĩ cách mà chặn chúng lại chứ.”

Trác Mộc Cường Ba cũng biết Merkin lúc này không thể phân tâm, nếu y nhớ nhầm bước

nào, không thể đưa bức tường về vị trí ban đầu, khiến một viên gạch nào đó bị mắc kẹt thì họ

rất khó sắp xếp để biến bức tường này thành một cánh cửa. Chỉ hiềm nỗi, lũ côn trùng kia cũng

không cần biết lý lẽ gì, cứ ùn ùn chui ra. Trác Mộc Cường Ba thoáng giật bắn mình, nhưng

cũng lập tức yên tâm lại ngay, bởi chúng không phải giống gì khác, mà chính là lũ gián lớn gã

đã quen thuộc. Trác Mộc Cường Ba biết rõ, phần miệng của sinh vật ngoại hình xấu xí hung

tợn này không lớn lắm, chúng chỉ có thể ăn được chút địa y hay bùn đất gì đó mà thôi, không

thể gây tổn hại đến con người được.

Trác Mộc Cường Ba lấy làm lạ, sao người ta lại nuôi dưỡng thứ côn trùng không thể gây tổn

hại gì cho con người thế này chứ? Trừ phi, bọn chúng chỉ là một mắt xích trong chuỗi thức ăn,

nếu bọn chúng không phải kẻ ăn thịt, vậy thì, chúng chính là kẻ bị ăn thịt!

Lũ gián to tướng ấy mau chóng bò khắp cả hang động. Merkin hoàn toàn không để ý, coi

như không nhìn thấy cũng không nghe thấy. Trác Mộc Cường Ba cảnh giác nhìn chằm chằm

bọn gián, thấy trên cẳng chân chúng vẫn có gai nhọn hoắt, ai biết được bọn chúng có đột nhiên

nổi xung lên tấn công hay không?

Chỉ thấy bọn gián đó như trúng phải một thứ tà thuật gì đó, sau khi bò ra khỏi hang hốc trên

tường, liền ngoan ngoãn đứng yên dưới đất, kế đó bắt đầu nối đuôi nhau thành từng hàng, lần

lượt tiến theo một hướng.

Trác Mộc Cường Ba cực kỳ kinh ngạc, nhất định đã có chuyện gì đó xảy ra, mới khiến hành

vi của lũ gián này trở nên bất thường như thế. Gã liếc nhìn sang Merkin đang dồn toàn bộ tinh

thần vào việc sắp xếp điều chỉnh các viên gạch trên tường, lũ gián này hẳn sẽ không gây nguy

hại gì cho Merkin, mà cho dù có nguy hiểm, chắc hẳn Merkin cũng có thể một mình đối phó

được chứ? Vả lại, đối với thành ý mà Merkin biểu lộ, Trác Mộc Cường Ba vẫn không thể hoàn

toàn tin tưởng, gã quyết định lần theo hướng đi của bọn gián này xem sao, chuyện này mà

không làm cho rõ ràng, không khéo lại dẫn đến tai họa bất ngờ gì ập xuống đầu chứ chẳng

chơi.

Nghĩ vậy, Trác Mộc Cường Ba liền bảo Merkin: “Là lũ gián, không ảnh hưởng gì đến chúng

ta cả, nhưng hành vi của chúng rất quái dị, tôi đi xem thế nào, ông cẩn thận đấy.” Merkin xua

xua tay, ý bảo Trác Mộc Cường Ba không cần lo cho y.

Trác Mộc Cường Ba dè dặt đi theo lũ gián, mới đi được vài bước, gã đã ngạc nhiên nhận ra,

thứ thu hút bọn gián này chính là những bông hoa nhỏ màu thịt tươi trông có vẻ yếu ớt kia.

Những bông hoa nhỏ nhịp nhàng xòe ra cụp vào, mỗi lần như thế lại phun ra một làn hơi sương

mỏng mảnh. Bông hoa phía trước vừa phun ra, bông phía sau lại tiếp nối, lũ gián cứ thế men

theo làn hơi sương đó lần lượt chầm chậm tiến về phía trước. Dựa theo phương pháp nhận biết

chất độc của Lữ Cánh Nam truyền dạy, Trác Mộc Cường Ba sơ bộ phán đoán làn hơi sương kia

không có độc, gã khẽ hít nhẹ một hơi, chỉ thấy một mùi hương ngòn ngọt bay vào mũi. Trác

Mộc Cường Ba vội lắc lắc đầu, thứ hơi sương này có lẽ không độc, nhưng hiển nhiên có thể

khiến người ta nảy sinh ảo giác. Trác Mộc Cường Ba còn chú ý thấy, khi những bông hoa xòe

ra cụp vào, cánh hoa không ngừng run lên, chắc hẳn còn phát ra một âm vực gì đó mà tai người

không thể nghe được. Sau khi biết được nguyên nhân lũ gián lần lượt bám đuôi nhau đi về một

phía, Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng sợ hãi sinh vật có hình dạng giống như khúc cây kia,

nếu lũ gián này không phải kẻ săn mồi mà là kẻ bị săn, hành vi của chúng lại kỳ lạ như vậy, lẽ

nào khúc cây và những bông hoa nhỏ kia mới là kẻ săn mồi? Lại là một loài thực vật ăn thịt?

Hay giữa bọn chúng có quan hệ cộng sinh?

Trác Mộc Cường Ba chẳng buồn để ý đến mấy hông hoa dưới chân nữa chỉ rảo chân bước

nhanh, sau khi đi qua hai khúc ngoặt, vượt qua lũ gián đến chỗ gã và Merkin phát hiện ra khúc

cây đầu tiên, Trác Mộc Cường Ba liền trông thấy một cảnh tượng rợn người. Trong đời, Trác

Mộc Cường Ba đã gặp khá nhiều quái vật, giờ đây những thứ có thể dọa khiếp gã cũng chẳng

còn mấy, cho dù thằn lằn khổng lồ đột nhiên xuất hiện trước mặt, gã vẫn có thể ung dung đối

phó được. Nhưng giống sinh vật ở trước mắt này thực sự khiến Trác Mộc Cường Ba không thể

tưởng tượng nổi, thực sự không hiểu tại sao trên đời này lại có giống vật quái dị đến thế.

Khúc cây mới rồi còn nằm im lìm dưới đất, lúc này đang chầm chậm nhúc nhích, hai hàng

gai nhọn đối xứng ở hai bên, tựa như những mái chèo hai bên mạn thuyền rồng, đều đặn gạt về

phía sau. Tầng biểu bì sờ vào thấy khô ráp như vỏ cây, giờ lại cuộn lên từng đợt sóng nhu

động, một đầu của khúc cây ấy đã rút ra khỏi vách đá, lộ ra đầu nhọn hoắt như hình thoi.

Phần biểu bì của đầu nhọn ấy có vằn xoắn, thoạt trông như mũi khoan, sau khi rút ra khỏi

vách đá liền nghển cao lên, chẳng khác nào một con rắn. Thứ này làm sao có thể coi là thực vật

được chứ, đây rõ ràng là mô thức hành vi của động vật. Tiếp sau đó, mới là màn để lại ấn

tượng sâu sắc nhất cho Trác Mộc Cường Ba. Cái đầu nhọn đó nghển cao trước mặt gã, xòe ra

bốn năm cánh như một bông hoa nở, mỗi cánh đều giống như một lưỡi kiếm bản rộng, hai bên

có răng cưa. Mỗi lưỡi kiếm ấy phải dài cả mét, giữa các lưỡi kiếm có một lớp mô thịt phủ đầy

những mạch máu li ti. Mé bên trong của lưỡi kiếm ấy, lần lượt có bốn ngạnh cứng, những cái

ngạnh ấy lại vươn dài ra như con dao gấp. Nhìn thoáng qua, những ngạnh cứng đó rất giống

chi trước của con gián, phía bên trong cũng có răng cưa sắc nhọn, khiến mảng thịt lại càng

banh rộng thêm ra.

Cả quá trình ấy kỳ thực diễn ra rất nhanh, thứ trông như khúc cây khô kia chỉ thoáng cái đã

xòe ra trước mặt Trác Mộc Cường Ba, biến thành một cái lồng chụp bằng thịt bán kính gần hai

mét, bốn ngạnh cứng không ngừng khép ra đóng vào, trông quái đản tột cùng.

Cái lồng chụp ấy nghển cao, xoay chuyển mấy góc độ trên không trung như hệ thống ra đa

bắt tín hiệu, cơ hồ đã dò được lũ gián kia đang tiến đến. Tấm thân như khúc cây của nó liền vắt

ngang đường, hạ cái lồng chụp đó chênh chếch xuống mặt đất. Động tác của nó lúc này bảo

linh hoạt như rắn cũng không ngoa chút nào. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba mới nhìn được bên

trong cái lồng chụp bằng thịt đó, chỉ thấy ở phần trung tâm ra đa là một hang động đen ngòm

sâu không thấy đáy, bên trong vươn ra rất nhiều móc ngược, không ngừng thò ra rụt vào như

pít tông. Giữa những móc ngược nhỏ ấy còn có rất nhiều xúc tu mềm mại, thoạt nhìn trông như

nhụy hoa, hoặc thứ gì đấy khác, sợi nào sợi ấy y hệt những con sâu đỏ, không ngừng nhu động

theo những móc câu kia.

Đây là thứ gì chứ, hiển nhiên không thể gọi là phần đầu của thứ sinh vật nào đó được rồi,

con quái vật này không có đầu, đây cùng lắm cũng chỉ có thể coi là một cái miệng, một cái

miệng dạng túi cực kỳ lớn mà thôi. Lẽ nào, thứ này đã tiến hóa đến độ không cần đại não,

không cần ngũ quan, chỉ cần một cái miệng và cái bụng đủ lớn để tiêu hóa thức ăn? Đây hiển

nhiên là mô thức tiến hóa cuối cùng để đáp ứng nỗi khát khao được ăn uống rồi. Một luồng khí

lạnh chạy từ gót chân lên đỉnh đầu, lan tỏa khắp châu thân Trác Mộc Cường Ba, bản năng cho

gã biết, tốt nhất là không nên đụng đến con quái vật này làm gì. Nhìn những con gián như bị

trúng phải bùa mê xung quanh, Trác Mộc Cường Ba bắt đầu suy nghĩ tìm đường rút lui.

Lũ gián ấy, như đã được hẹn trước, thảy đều bò đến chỗ cái lồng chụp kia. Không biết cái

lồng chụp ấy làm sao cảm nhận được sự tồn tại của lũ gián, chỉ thấy nó dường như càng thêm

hung phấn, những cái móc câu nhỏ và các xúc tu đều hân hoan ve vẩy nhung nhúc. Con gián

đầu tiên bò vào bên trong cái lồng chụp, những cái móc câu đó liền giữ chặt con mồi, rồi như

cái máy nghiền, ép nát con gián thành một bãi nước xanh lục, nuốt cả vỏ vào trong. Thân thể

trông như khúc cây kia lại rung lên nhè nhẹ, tạo thành những đợt sóng nhu động. Cả một thân

hình dài chừng ấy, phải nhét vào bao nhiêu con gián mới đầy được đây?

Hết con gián này đến con gián khác chui đầu vào cái lồng chụp to tướng, miệng con quái vật

kia như thể một hang động không đáy, bất kể bao nhiêu gián nhét vào cũng không thấy biến

đổi gì, đồng thời, màn sương do những bông hoa nhỏ kia tỏa ra cũng nhạt dần rồi biến mất, lũ

gián dường như sắp hồi phục lại sự tỉnh táo đến nơi. Thi thoảng gặp con gián nào không chịu

ngoan ngoãn chui đầu vào rọ, bốn cái càng kia cũng không bỏ qua, trong phạm vi của lồng

chụp, chúng chỉ cần khẽ co duỗi một cái, hệt như bốn cánh tay máy chuyên bốc gắp đồ vật,

không ngừng bắt lấy lũ gián nhồi vào trong miệng. Dường như cái lồng chụp bằng màng thịt ấy

cũng biết, thời gian ăn uống thỏa thuê của nó sắp kết thúc nên càng lúc càng thêm cuồng loạn,

không đợi lũ gián bò vào chỗ mình nữa, bốn ngàm cứng bên trong bắt đầu tăng tốc thò ra thụt

vào, đồng thời những xúc tu nhỏ ở chính giữa “nhụy hoa” của nó cũng phát huy tác dụng:

chúng bắn mạnh ra như lưỡi tắc kè, mười mấy sợi xúc tu quấn lấy một con gián rồi lập tức rụt

trở về, chỉ trong chớp mắt, con gián đã biến mất. Mỗi lần đám xúc tu bắn ra như thế, đều cuốn

vào được bốn năm con gián lớn, cộng với những ngàm cứng không ngừng vươn ra vơ vào, con

quái vật liên tiếp nhồi thêm thức ăn vào miệng nó.

Trác Mộc Cường Ba để ý thấy những con gián ở phía sau đã bắt đầu chạy tán loạn rồi. Gã

cũng hiểu, còn không chạy cho mau e rằng sẽ muộn mất, nhưng gã vừa mới nhấc chân lùi lại

một bước, hai cái ngàm cứng ở mé trên trong cái miệng quái vật kia lập tức như hai đầu dò,

khóa chặt gã lại. Đồng thời, cả cái lồng chụp cũng xoay về phía gã đang đứng. Các ý nghĩ liên

tục xoay chuyển trong đầu Trác Mộc Cường Ba: “Làm sao nó phát hiện được mình nhỉ? Con

quái vật này không có mắt, chiếu đèn pha vào nó cũng không biết, song nó lại cảm giác được

lũ gián kia, phải rồi, chuyển động, nó có thể cảm nhận được những chuyển động rất nhỏ.” Trác

Mộc Cường Ba đoán không sai, lúc này, trong sự cảm tri của cái lồng chụp bằng màng thịt kia,

gã chính là một con gián cực lớn. Dựa vào thể hình và trọng lượng cảm ứng được, nó đưa ra

phán đoán, “con gián” Trác Mộc Cường Ba này thuộc loại thịt nhiều mỡ béo. Vậy là, nó lập

tức nhắm vào “con gián” khổng lồ này mà truy kích như con sói đói quanh năm chỉ được ăn

chay bỗng ngửi thấy mùi thịt.

Trác Mộc Cường Ba thấy con quái vật có ý đồ với mình, lập tức quay người bỏ chạy. Tuy

trên tay có súng và các thứ vũ khí khác, nhưng chỉ cần liếc nhìn độ dài và thể hình của “khúc

cây” đó, gã thực tình chẳng hứng thú chiến đấu với nó chút nào cả.

Trác Mộc Cường Ba bỏ chạy trước, ngay lập tức, con quái vật dị hợm kia cũng cuồn cuộn

thân hình như mãng xà khổng lồ đuổi theo, bốn cái ngàm cứng cọ sát vào nhau, phát ra âm

thanh xoèn xoẹt như mài dao, nghe rởn cả gai ốc. Tốc độ chạy của Trác Mộc Cường Ba lại

thua thân thể to tướng đó, xem chừng gã sắp bị nó đuổi kịp đến nơi.

Bốn ngàm cứng bên trong xòe rộng hết cỡ, chụp thẳng xuống đầu Trác Mộc Cường Ba như

một cái ruột tượng khổng lồ. Đúng vào khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc ấy, Trác Mộc Cường

Ba thình lình nghiêng người sang mé bên, rồi lăn tròn một vòng dưới đất theo thế Lăn lư dã

cổn(13), đòn tấn công của con quái vật liền chụp vào khoảng không.

Một đòn không trúng, cái lồng chụp lại xòe ra rộng ngoác. Trác Mộc Cường Ba bò dậy chạy

tiếp, được khoảng năm sáu mét, cái lồng chụp bằng màng thịt kia cuối cùng cũng dừng lại cách

gã khoảng bốn mét. Trác Mộc Cường Ba nghiêng đầu quan sát, liền phát hiện ra thân thể như

khúc cây của con quái vật đã kẹt vào trong vách đá, không nhúc nhích được nữa. Bấy giờ, gã

mới yên tâm thở hắt ra một tiếng. Nhưng cái lồng chụp kia dường như không từ bỏ ý định. Nó

gấp bốn ngàm cứng lại, khép bốn cánh hoa như bốn lưỡi kiếm vào, trở lại thành đầu nhọn như

mũi khoan lúc ban đầu, rồi rụt trở lại đầy bất mãn. Có điều, hai hàng chân giả trông như gai

nhọn trên thân thể nó vẫn co vào duỗi ra, cơ hồ muốn chen ra khỏi vách đá. Ánh mắt Trác Mộc

Cường Ba chợt hướng về phía một khúc cây khác, quả nhiên, khúc cây ấy cũng co duỗi theo

một tiết tấu nhất định, phối hợp với cái lồng chụp ở đầu. Liên tưởng đến những bông hoa nối

tiếp nhau phun ra làn sương mờ mờ kia, Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình kinh hãi: rõ rang,

những khúc cây nửa chôn trong vách đá, nửa lộ ra bên ngoài thông đạo này đều thuộc về nó,

con quái vật này không ngờ lại dài đến cả mấy trăm mét!

Hiển nhiên, tốc độ xông lên trước của con quái vật tởm lợm này rất nhanh, nhưng lại không

quen trườn giật lùi, chỉ thấy toàn bộ gai của nó đều ra sức bám chặt lấy mặt đất, thân thể to

đùng mới nhích về phía sau được một chút xíu. Xem tình hình này, nó muốn hoàn toàn rụt ra

khỏi vách đá, có lẽ cũng cần một khoảng thời gian nhất định nữa.

Trác Mộc Cường Ba liền bỏ mặc cái đầu như mũi khoan ấy lại, chạy thẳng ra chỗ Merkin

bên bức tường Khổng Minh.

Merkin quả nhiên không nói sai, chỉ thấy y chuyển viên gạch này lên, ấn viên gạch kia

xuống, mặt tường bằng phẳng đã bị y xếp thành hình dạng một cánh cửa, lõm vào bên trong

khoảng nửa mét, có điều không biết bức tường rốt cuộc dày đến chừng nào?

“Tôi tìm ra bí quyết rồi, sẽ nhanh chóng mở được bức tường Khổng Minh này thôi.” Thấy

Trác Mộc Cường Ba chạy lại, Merkin lập tức nói.

Trong miệng Trác Mộc Cường Ba không biết từ lúc nào đã nhét mấy miếng kẹo cao su kiêm

chất nổ dẻo, gã thở hổn hển, nghiêm túc nói: “Tốt nhất là nhanh lên một chút, ngoài ra, cái thiết

bị dẫn nổ của anh sử dụng thế nào vậy?”

Merkin đáp: “Gặp phải quái vật gì à?”

Trác Mộc Cường Ba vội tóm lược tình hình: “Khúc cây mà chúng ta nhìn thấy đó là vật thể

sống, nó chính là kẻ săn mồi, lũ gián ở đây đều là thức ăn của nó. Tất cả những khúc cây mọc

chòi ra thụt vào trên vách đá, thực ra đều là thân thể của con quái vật ấy. Nhân lúc nó còn chưa

thoát hẳn khỏi vách đá, tôi định cho nó nổ tung thành mấy khúc.”

Merkin lắc đầu đáp: “Thiết bị điều khiển nổ này hơi đặc biệt một chút, trong mấy phút ngắn

ngủi tôi rất khó giải thích rõ. Anh cứ dùng giấy bạc bọc bên ngoài bã kẹo cao su, chỉ cần có áp

lực khoảng mười kí lô gam đè lên là có thể dẫn nổ được rồi. Có điều… loại sinh vật hình thể

dài kiểu này, đa số đều có hệ thần kinh dạng vòng, giống như con giun đất ấy, anh phải cẩn

thận, không khéo một con lại biến thành hai con thì khốn.” Merkin ít nhiều cũng từng nghe

Soares nói về một số đặc tính sinh vật cổ quái.

Cơ hàm đang nhai kẹo cao su của Trác Mộc Cường Ba tức thì cứng đơ, nếu đúng như

Merkin nói, thân thể con quái vật này giống như đuôi thằn lằn, sau khi đứt lìa vẫn có thể cựa

quậy một lúc lâu thì quả là hỏng bét. Đó hiển nhiên là tình cảnh mà gã không hy vọng gặp phải

nhất. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, gã nói tiếp: “Bức tường này còn dày không, hay là dùng

thuốc nổ hủy nó đi luôn, đằng nào cũng bị con quái vật kia chú ý đến rồi.”

Merkin lắc đầu phản đối: “Tốt nhất là không nên, tôi xem kỹ rồi, phía trên bức tường này là

một tảng đá nghìn cân, nếu cho nổ tường, khối đá ấy sẽ rơi xuống, lúc ấy thì chẳng còn đường

nào thoát cả. Đừng giục cuống lên nữa, nếu con quái vật kia đuổi đến thật, thì nghĩ cách ngăn

nó lại một lúc đi.”

“Ngăn?” Trác Mộc Cường Ba thầm cười khổ, làm sao ngăn được nó bây giờ? Nhìn thân thể

dài thượt to gấp đôi con trăn khổng lồ Nam Mỹ ấy, nếu bị nó quấn phải….

Người trẻ tuổi vừa bước đi, vừa quan sát hai chấm đỏ trên màn hình PDA, lòng lấy làm kỳ

quái: “Sao vậy, lâu thế rồi vẫn không có động tĩnh à? Đang nghỉ ngơi hay bị thứ gì chắn

đường? Không phải bị ăn thịt rồi chứ? Đã cấp cho chúng đầy đủ vũ khí thế rồi mà, với năng

lực của chúng, lẽ ra phải không có chuyện gì chứ nhỉ?”

Bấy giờ, Khafu đang đi phía trước áp giải ba người bọn pháp sư Á La đột nhiên lên tiếng:

“Ngài Thomas, chúng ta đi ra rồi.”

Bọn lính đánh thuê lại ồ lên đầy kinh ngạc: “Đó là gì vậy?”

“Sao lại thế này?”

“Đó… đó là gì chứ?”

HỒ TẾ

Đi hết dòng sông, ánh sáng đã yếu dần, cảnh tượng trước mắt bọn lính đánh thuê bị bao phủ

trong một tấm màn u ám mông lung. Thứ đầu tiên đập vào mắt là một cái hồ. Tòa thần miếu ở

giữa hồ, trong miếu lại có hồ, chẳng trách đám lính đánh thuê đều ồ lên kinh ngạc như thế. Có

điều, thứ khiến bọn chúng kinh ngạc hơn bội phần, là kiến trúc xung quanh hồ nước và cảnh

tượng kỳ lạ ở giữa hồ.

Ven bờ hồ có các cột đá, nhìn theo những cột đá này, liền phát hiện ra hẵng còn bảy tám

dòng sông phát ra ánh sáng mờ mờ chảy vào trong hồ nước. Đưa mắt nhìn lên phía trên thác

nước, dưới ánh sáng chập chờn, diện mạo của kiến trúc dần dần hiện ra từng chút từng chút

một, cảm giác như thể đang quan sát con báo qua ống vậy.

Cái hồ này, hoặc nên gọi là một bể chứa nước cực lớn, vì nó nằm trọn trong một gian đại

sảnh khổng lồ. Những cột đá nhân tạo, hành lang đá, bệ đá, mái vòm… tạo thành một điện

đường vĩ đại hình tròn cao ba tầng, mỗi tầng có bảy tám dòng sông chảy ra, thậm chí nhiều

hơn. Dòng nước phẳng lì tựa như tấm khăn lụa nối ba tầng bình đài với hồ nước bên dưới. Có

điều, kiến trúc này hầu như ẩn bên trong bóng tối, không nhìn rõ được, chỉ gây ấn tượng hết

sức kỳ vĩ, một sự kỳ vĩ khiến người ta phải chấn động và kinh hãi.

Nếu nói kiến trúc hùng vĩ này mang đến cho con người ta cảm giác sững sờ chấn động, thì

ánh sáng kỳ dị ở giữa hồ lại khiến người ta kinh ngạc, mừng rỡ và cảm thấy huyền diệu khó

tin.

Vốn dĩ, giữa hồ lẽ ra phải bị bóng tối bao trùm, nhưng trong bóng tối ấy lại sinh ra những

vệt ánh sáng. Những vệt sáng ấy tựa như tinh linh nhảy múa, lại gần một chút thì thấy giống

như ngọn lửa, ở xa thì nhìn như ánh đom đóm lướt qua lướt lại rất nhanh trên mặt hồ. Bảo là

cá, thì không giống lắm, bởi những vệt sáng lơ lửng phía trên mặt hồ, thoắt cái đã tắt phụt, rồi

không hiểu ở đâu, lại thình lình sinh ra một vệt sáng mới.

Dưới ánh sáng lờ mờ của những vệt sáng di động, có thể thấy giữa hồ có rất nhiều cột. Nhìn

những cái bóng lồi lõm đều đặn, có thể đoán rằng, các cột trụ giữa hồ hẳn phải có chạm trổ.

Người trẻ tuổi bình tĩnh ra lệnh: “Tìm kiếm ven bờ hồ xem chắc phải có thuyền bè gì đó,

chúng ta cần ra giữa hồ.” Kế đó, y lại cảnh cáo bọn lính đánh thuê đang trầm trồ không ngớt:

“Nhỏ tiếng thôi, đừng trách tao không nhắc nhở chúng mày, chủ nhân của cái hồ này không

thích ồn ào quá đâu, tuy đã qua một nghìn năm, nhưng tao cũng không thể xác định nó còn

sống hay đã chết. Nếu ghi chép trong cổ thư không sai thì con quái này có thể dựa vào chấn

động sóng âm để bắt mồi đấy.” Quả nhiên, bọn lính đánh thuê từng sống sót thoát khỏi rừng

rậm ấy hết sức mẫn cảm với những từ ngữ như “quái vật, quái thú”, vừa nghe câu đó, lập tức

không tên nào dám lớn tiếng nữa. Khafu thì thầm hỏi nhỏ: “Chủ nhân của cái hồ này là quái

vật gì vậy?”

Người trẻ tuổi ấy cũng thấp giọng đáp: “Ma Long Tán lớn mạnh nhất đến từ phương Bắc,

trong truyền thuyết, ngay cả Cách Tát Nhĩ vương cũng không thể hoàn toàn tiêu diệt được nó,

Khổ Cáp Nhân Đức Duy Ngõa Khổ…” Nói đoạn, y dừng lại quay sang hỏi pháp sư Á La:

“Đọc như thế phải không nhỉ? Giống như là tên ngoại lai, phát âm theo tiếng Phạn, tôi cũng

không đọc được chính xác.”

Pháp sư Á La thoáng ngẩn người ra, tên đầy đủ của Ma Long Tân trong truyền thuyết ấy rất

dài, nó lại có rất nhiều tên khác nhau, phát âm cực kỳ phức tạp. Có điều, cái tên mà gã Thomas

này vừa đọc ra hình như rất giống tên của Ma Long thần trong Mật tông, một vị thần linh lớn

mạnh nhưng cực kỳ tàn bạo!

Người trẻ tuổi tiếp tục giải thích với bọn lính đánh thuê: “Người Tạng thời cổ đại đã sùng

bái rồng từ rất sớm, có điều, rồng thời bấy giờ và rồng trong suy nghĩ của người hiện đại chúng

ta không giống nhau cho lắm. Ếch xanh, cá, rắn… đều được coi là hóa thân của rồng, về sau,

chịu ảnh hưởng của những miêu tả về rồng truyền từ Ấn Độ và Trung Thổ tới, rồng trong tâm

thức người Tạng mới trở thành vị thần linh cư trú dưới nước, có khả năng tạo mây tạo mưa.

Còn Tán, là thần linh của Bản giáo cổ đại, vua Thổ Phồn thời xưa đều được gọi là Tán Phổ,

cũng chính là vì lẽ vậy. Long thần và Tán thần kết hợp lại, sinh ra hậu đại, gọi là Long Tán,

trong đó lớn mạnh nhất phải kể đến Ma Long Tán. Trong thánh điển của Bản giáo, Thập Vạn

Long kinh, có giải thích rằng, chúng sở hữu sức mạnh kết hợp của Long thần và Tán thần, đồng

thời còn sinh ra ma lực của bản thân nữa. Sách cũng có một phần miêu tả về Ma Long Tán

phương Bắc, nói rằng nó có pháp lực vô biên, có thể nuốt cả đất trời, diện mạo cực kỳ dữ tợn,

đầu có chín sừng, mặt có chín mắt, cơ thể mọc ra chín cánh tay. Về điểm này, tao nhớ có một

học giả chuyên nghiên cứu Thập Vạn Long kinh từng chỉ ra, số chín ở đây, do ảnh hưởng của

truyền thừa từ Trung Nguyên, có lẽ mang ý nghĩa là số lớn nhất, tức là chỉ nhiều vô số. Nói

vậy có nghĩa là, trên thân thể Ma Long Tán mọc ra vô số sừng, vô số mắt và vô số cánh tay.

Nếu Ma Long Tán đúng là chủ nhân của hồ tế, thì sinh vật sống dưới nước ấy hẳn phải là một

thứ có nhiều xúc tu hay chân mềm như sứa hoặc bạch tuộc, tôi nói vậy có đúng không hả pháp

sư Á La?” Lúc này, hình như có tên lính đánh thuê đã tìm được dụng cụ để băng qua mặt hồ,

nhưng lại không dám khẳng định, bèn nhờ Thomas đến xem thử.

Đi được mấy bước, bên bờ hồ hiện ra một vật hình tròn nổi dập dềnh, không đầu không

đuôi, chẳng có cạnh bên, cũng không có bánh lái, hơi giống như một cái nệm cói lớn, phỏng

chừng còn mỏng hơn. Cũng có người cảm thấy nó giống như một lá bèo lớn nổi trên mặt nước,

chất liệu rất kỳ quái, giống như là… đá!

Nếu Trác Mộc Cường Ba và Merkin ở đây, nhất định sẽ phát hiện, loại chất liệu nhân tạo

nổi trên mặt nước này, gần như giống hệt chất liệu của những quả cầu đá hai người họ nhìn

thấy trong các bình sứ. Tên lính đánh thuê đầu tiên phát hiện ra thứ này còn tưởng nó là một bệ

đá nhô ra ven hồ. Trong suy nghĩ của chúng, đá chẳng thể nào nổi trên mặt nước được. Về sau

có người đẩy một cái, cả bọn mới phát hiện ra thứ ấy có thể chuyển động, nổi dập dềnh trên

mặt nước.

Một phiến đá ấy áng chừng đủ chỗ cho bảy tám người đứng lên trên, người trẻ tuổi sai một

gã lính đánh thuê leo lên thử, cánh bèo bằng đá ấy không hề đung đưa dao động mà hết sức

vững chãi. Bấy giờ, người trẻ tuổi mới gật gật đầu, nói: “Đúng nó rồi đấy.”

“Xung quanh còn rất nhiều.” Lại một tên lính đánh thuê khác báo cáo.

Người trẻ tuổi nói: “Tốt lắm, sáu người một nhóm, vừa khéo có thể ngồi thành hai hàng, tao

sẽ dẫn đường, chúng mày cứ đi theo tao là được.”

Y và ba người bọn pháp sư Á La cùng lên một cánh bèo đá, mũi bàn chân đẩy nhẹ vào bờ

hồ một cái, cánh bèo liền dập dềnh trôi về phía giữa hồ. Người trẻ tuổi ấy cảnh cáo Lữ Cánh

Nam: “Cô chớ nên có ý định gì, nhiệt độ của nước hồ này lên tới hơn tám mươi độ, rơi xuống

chắc chắn sẽ bị bỏng nặng đấy, cho dù sống sót cũng bị hủy dung nhan.” Lữ Cánh Nam nghe

xong vẫn hờ hững, nét mặt thoáng vẻ khinh thường, còn Mẫn Mẫn thì tái mét cả mặt mày.

Bọn lính đánh thuê còn lại cũng chẳng nhàn rỗi, tên thì học theo người trẻ tuổi dùng chân

đạp vào bờ, tên lại lấy bang súng làm mái chèo, nhưng cánh bèo bằng đá cứ xoay mòng mòng,

thậm chí còn có mấy tên suýt chút nữa ngã lăn kềnh xuống nước, khó khăn lắm mới nắm được

cách điều khiển thứ tròn tròn này tiến lên phía trước.

Sóng gợn lăn tăn trên mặt hồ nóng bỏng, hơi nước nghi ngút cũng theo làn sóng mà lúc tụ

lúc tan. Vì có lời cảnh cáo lúc nãy của người trẻ tuổi kia, không gian tăm tối rộng mênh mông

ấy giờ đã chìm vào tĩnh lặng, càng gần đến giữa hồ lại càng yên tĩnh, vô số cánh bèo đá cứ thế

trôi dập dềnh trên mặt hồ nước trong gian đại sảnh khổng lồ.

Đến gần những đốm sáng hơn, bọn lính đánh thuê mới kinh ngạc nhận ra, những đốm sáng

ấy chính là từ đáy hồ vọt lên. Những bong bóng nước thỉnh thoảng sủi lên từ đáy hồ, cuồn cuộn

nổi lên mặt hồ rồi vỡ tung. Đúng vào khoảnh khắc ấy, tựa hồ có một sinh mạng mới được đản

sinh, hóa thành một đốm sáng màu vàng như ngọn lửa pháo hoa đốt đêm giao thừa, không phát

ra những tia sáng nhàn nhạt dìu dịu, mà liên tục bắn những tia lửa nhỏ ra xung quanh. Những

tia lửa nhỏ tựa như những cái chân của đốm sáng, đẩy cho nó bay qua chạy lại, lượn lờ như

tinh linh trên mặt hồ. Tinh linh màu vàng lướt vù ra đằng xa, đột nhiên sau lung họ lại xuất

hiện một tinh linh màu lam nhạt, thoáng dừng lại trên mép một cánh bèo đá, vạch nên một vệt

sáng hình số 8 trên không trung, rồi mới lướt đi chỗ khác.

Càng đến gần trung tâm hồ nước, những tinh linh đủ sắc màu ấy lại càng nhiều, nhiều nhất

là màu đỏ, màu vàng kim, màu xanh lam, có cả những đốm sáng màu tím, màu hoa hồng hiếm

gặp nữa, chúng không ngừng phát sáng lập lòe, bắn tóe tia lửa nhỏ ra xung quanh nên nhìn đẹp

hơn những đốm sắc màu bình thường gấp bội. Có lúc, chúng như những chú bé nghịch ngợm

tò mò xúm lại chỗ cánh bèo đá, lúc lại như cô bé thẹn thùng chạy túa ra xung quanh, nhưng

phần nhiều chúng đều xoay chuyển, múa lượn trên không trung, vạch nên vô số vệt sáng đẹp

mắt, khiến mặt hồ bị bóng đen bao phủ này thêm phần sống động. Mãi tới khi những tia lửa

nhỏ không còn tóe ra nữa, ánh sáng mờ đi, các đốm sáng mới tắt lụi, tan biến vào không khí,

song chỉ giây lát sau, bọt nước dưới đáy hồ lại nổi lên bắt đầu một màn trình diễn mới.

Bọn lính đánh thuê trông thấy cảnh tượng kỳ ảo, nhất thời quên khuấy mất mình đang ở đâu,

ánh mắt mải dõi theo bóng dáng những tinh linh ánh sáng ấy, nhìn chúng sinh ra, nhảy múa, rồi

tan biến, trong lòng cũng theo đó mà dâng lên hy vọng, hưng phấn, sau cùng chỉ còn lại nỗi

buồn thương. Không hiểu sao, những kẻ giết người không chớp mắt này lại thấy chua xót trong

lòng, khóe mắt rưng rưng… Cảnh tượng kỳ dị trước mắt không ngờ lại khiến chúng rung động

hơn cả những bức tranh tập trung hết tinh hoa của văn minh nhân loại thời xưa dọc theo dòng

sông khi nãy.

Kỳ dị hơn là, tên lính đánh thuê đầu tiên phát hiện cánh bèo đá không tiếp tục tiến lên nữa,

bởi lúc y dùng báng súng làm mái chèo khua xuống nước, nước hồ bắn lên, không ngờ lại hóa

thành những đốm lửa nhỏ li ti, cái báng súng kia cũng như thể vừa được nhúng xuống sông

ngân, bên trên dính đầy ngôi sao nhỏ, chớp chớp lóe lóe rồi phụt tắt trong nháy mắt.

“A!” Mặc dù người trẻ tuổi kia đã cảnh cáo, tên lính đánh thuê đó vẫn sững sờ trước vẻ đẹp

ấy, không kìm được phát ra một tiếng kêu kinh ngạc. Trên mặt hồ, vạn vật đều tĩnh lặng, tiếng

kêu thảng thốt ấy của y vang đi rất xa. Một tên lính đánh thuê trên cánh bèo đá khác chợt cảm

thấy cây cột đá đằng trước hình như hơi nhúc nhích, nhưng ngay sau đó, hắn lại cho rằng mình

đã hoa mắt, cột đá làm sao nhúc nhích chứ.

“Không phải ngạc nhiên,” người trẻ tuổi kia điềm đạm giải thích, “là thực vật thích nhiệt độ

cao, một loài tảo có thể sống ở 90°C, bọn chúng lợi dụng khoáng chất trong hồ để tạo ra một

loại enzyme huỳnh quang. Vật chất này hễ bị chấn động và tiếp xúc với không khí sẽ bị oxy

hóa rồi phát ra ánh sáng, giống như pháo hoa vậy, đẹp lắm phải không?” Câu cuối cùng của y,

hiển nhiên là dành cho Mẫn Mẫn.

Pháp sư Á La không khỏi ngấm ngầm kinh ngạc, nghe giọng điệu của người trẻ tuổi này có

thể thấy kiến thức của y rất uyên bác, tuyệt đối không kém gì thân thủ siêu phàm mà y từng thể

hiện. Ông lấy làm khó hiểu, ở đâu ra một gã trẻ tuổi lợi hại như vậy nhỉ?

Bọn lính đánh thuê lại bắt đầu khua mái chèo, phần lớn là vì muốn nhìn thấy những đốm lửa

nhảy lên khỏi mặt nước sinh ra trên tay mình, rồi lại trở về với nước, vạch ra một vệt sáng như

ánh sao băng.

Khi bọn họ vượt qua cây cột đá thứ nhất, đám lính đánh thuê ấy mới phát hiện, những cột đá

này quả nhiên không nhẵn nhụi bằng phẳng, có chỗ hõm vào một mảng lớn, lại có chỗ lồi hẳn

ra, phải chăng là bị nước hồ xâm thực? Không giống lắm, rõ rang là có dấu vết bàn tay con

người điêu khắc.

Tiếp tục tiến lên, lai có người phát hiện, bên dưới mặt nước không chỉ có cột đá, mà còn có

rất nhiều cọc đá, lại gần hơn nữa mới nhìn rõ những cọc đá ấy hóa ra lại là đầu Phật, còn cả

tượng Phật bán thân, có lớn có nhỏ, có cao có thấp, quanh các tượng Phật còn quấn đầy thứ gì

đó, trông như dây leo.

Khoảng mười phút sau, cánh bèo đá của người trẻ tuổi kia đã đến trung tâm hồ nước, sừng

sững trước mắt họ là cây cột đá lớn nhất hình tứ giác, mỗi cạnh dài khoảng một trăm mét, có lẽ

không nên gọi là cột đá, mà là một tòa kiến trúc dựng giữa lòng hồ thì đúng hơn. Đúng là một

kiểu lồng vào nhau kỳ quái, cả tòa thần miếu được xây bên dưới hồ, trong miếu lại có hồ, trong

hồ lại có kiến trúc khác. Bốn mặt cây cột này đều là mặt tường phẳng lì, người trẻ tuổi bám hai

tay vào tường để cánh bèo dưới chân dịch chuyển xung quanh cây cột khổng lồ, lẩm bẩm: “Kỳ

lạ thật, lẽ ra phải có chỗ đốt lửa chứ? Khafu, chú ý quan sát xem trên mặt tường có chỗ nào

khác biệt, thứ gì đó giống như nến hay dầu mỡ gì đó.”

“Ngài Thomas, có phải người muốn nói đến thứ này không?” Khafu chỉ ngón tay lên trên,

người trẻ tuổi ấy ngẩng đầu, liền thấy trên tường có bám một đống trong nhờ nhờ như dầu mỡ,

cách cánh bèo khoảng năm sáu mét.

“Cao vậy à?” Người trẻ tuổi lẩm bẩm một câu, đoạn lại cất tiếng gọi: “Khafu.” Khafu lập

tức hiểu ý, khuỵu chân xuống tấn, hai tay bắt lại như đang nâng súng, người trẻ tuổi kia khẽ

nhún mũi chân giẫm lên đầu gối Khafu, kế đó lại giẫm lên cánh tay y, tung mình lên cao. Toàn

bộ đều là các động tác chuẩn mực, hệt như những gì Lữ Cánh Nam từng dạy bọn Trác Mộc

Cường Ba, chỉ là khi thân thể ở trên không, hai tay người trẻ tuổi đó dang rộng như cánh chim,

mũi chân liên tiếp giẫm lên tường năm sáu lần, đẩy thân thể lên độ cao mà đám biệt kính đặc

chủng thông thường khó thể nào với tới.

Nhìn cảnh tượng ấy, Lữ Cánh Nam không khỏi rầu rĩ trong lòng. Cô biết, bản thân mình sau

khi giẫm năm bước lên tường, đến bước thứ sáu thì không tài nào dồn được sức xuống chân

nữa, thoạt nhìn thì chỉ tưởng kém nhau có một bước chân, nhưng thực tế lại là một nút thắt cực

kỳ khó đột phá. “Xoẹt”, trong bóng tối lóe lên một ánh lửa, ngọn lửa lập lòe liếm lên khoảng

mặt tường trong nhờ nhờ, thoáng cái không gian đã sáng bừng lên, ngọn lửa theo vệt dầu trên

tường lan đi khắp xung quanh, tựa như những quân bài domino.

Nhìn động tác đảo lộn trên không một cách hết sức tự nhiên của người trẻ tuổi, Lữ Cánh

Nam nặng nề liếc nhìn pháp sư Á La, pháp sư Á La chỉ gật đầu rất khẽ, không để ý thì khó

lòng phát hiện, biểu thị mình cũng có thể làm được, nhưng khi thấy người trẻ tuổi đó hạ xuống

mà cả cánh bèo đã không hề rung rinh dao động chút nào pháp sư cũng không khỏi nhíu mày.

Khác với pháp sư Á La, những người còn lại đều ngẩng đầu nhìn vệt lửa trên mặt tường.

Vệt lửa bám theo vách tường, lượn vòng lên trên như một con rắn khổng lồ, ở những phương

vị khác nhau, người ta lại có thể trông thấy những cảnh tượng hoàn toàn khác nhau. Con rắn

lửa bắt đầu khuếch tán, tựa như cây sinh mệnh đâm chồi sinh ra cành mới, một tách thành hai,

hai phân thành bốn, mỗi lúc một nhiều hơn. Bốn mặt cột đá khổng lồ tựa như một chiếc màn

quay đầy khói lửa đã được chôn dây dẫn hỏa từ trước. Những con rắn lửa lúc thì quấn vào nhau

bốc lên cao, lúc lại chia tách như con sông rẽ dòng, dần dần hình thành nên một tấm lưới lửa

khổng lồ. Chỉ có điều, lớp vật chất cháy bám trên mặt tường rất mỏng, thoáng cái đã cháy hết,

nên nhìn vệt lửa lại càng giống vô số con rắn đang không ngừng trườn về phía trước. Cuối

cùng, ở cả bốn mặt cột đá đều có thể trông thấy vô số rồng vàng lao vút lên trên, tốc độ cực

nhanh, dần dần lên đến độ cao mắt thường khó lòng nhìn thấy được, hồ nước trong gian đại

sảnh khổng lồ lại chìm vào bóng đêm mịt mùng. Đúng lúc cả bọn nghĩ rằng ánh lửa đã lụi tàn,

thì bỗng một luồng sáng chói mắt bùng lên trên đỉnh cột đá khổng lồ, ngọn lửa bùng bùng phát

ra một tiếng “bùm” lớn, khiến cả đám người vây quanh ngước nhìn đều thót tim nghẹt thở,

tưởng chừng toàn bộ không khí trong không gian đều bị hút sạch về phía đỉnh cột đá trong

khoảnh khắc tiếng nổ vừa vang lên đó.

Ngọn lửa hừng hực ấy cơ hồ cháy lên đến đỉnh vòm bên trên, trên trần lập tức lại sinh ra vô

số con rắn lửa, tỏa ra khắp bốn phía như những tia nắng, cuối cùng rơi xuống phía rìa gian đại

sảnh vĩ đại, đốt cháy lên vô số chậu lửa, hoặc quấn quanh chạy xuống bên dưới những trụ đá

khác, đốt cháy lên hết trụ đá này đến trụ đá khác; thậm chí còn có những ngọn lửa nhỏ rơi

xuống như giọt nước, đốt cháy những trụ đá vốn không đủ cao để tiếp xúc với đỉnh vòm. Cả

quá trình ấy như ở một trung tâm thương mại khổng lồ, trước tiên thắp sáng ngọn đèn trần

bằng pha lê ở giữa, sau đó những ngọn đèn trang trí nhỏ hơn cũng lần lượt sáng lên. Các loại

gương phản quang trong khu thương mại cũng góp phần khiến không gian càng thêm rực rỡ,

những ngọn đèn trang trí tạo hình khác nhau liên tục sáng bừng lên khiến người ta hoa hết cả

mắt.

Bọn lính đánh thuê trên mặt hồ lúc này đều có chung một cảm giác, mỗi nơi được thắp sáng

lên đều khiến người ta phải kinh ngạc trầm trồ. Thì ra, gian đại sảnh này không chỉ có ba tầng,

mà là bốn tầng, những dòng thác cao thấp không đều nhưng lại phẳng lì như mặt gương quay

thành một tấm màn nước xung quanh gian đại sảnh. Những chỗ bị trụ đá tách lìa ra, vốn chẳng

phải hành lang mà là những khảm thờ Phật. Tranh Phật được vẽ lên tường, giữa hai cây cột lại

có một bức tranh, chỉ là niên đại đã quá lâu, rất nhiều bức bị bong tróc không còn màu sắc nữa.

Trên mặt hồ, cũng chỉ có trụ đá trung tâm chỗ bọn họ đang đứng là bốn mặt nhẵn nhụi, còn

những trụ đá khác thảy đều được điêu khắc thành tượng Phật với đủ loại tạo hình khác nhau.

Nhiều bức bám vào trụ đá theo nhiều tư thế, nhưng chủ yếu vẫn là những bức tượng đứng sừng

sững dưới hồ, cao một chút thì lộ ra đầu và vai, thấp hơn chút nữa thì chỉ ló lên mỗi chỏm mũ.

Những bức tượng Phật ấy và các khảm thờ xung quanh đều bám đầy một loại dây leo kỳ

quái, rễ trắng muốt, vừa mảnh vừa dài, như tầng lông trắng mọc ra trên tượng Phật và cột đá

vậy. Ngoài ra, còn có một loài thực vật, thoạt nhìn đen đúa to lớn như khúc cây, đường kính cỡ

bằng cái thùng nước, dường như trên vỏ cây còn mọc rất nhiều gai nhọn và những đóa hoa nhỏ

màu đỏ. Loài thực vật màu đen ấy hiển nhiên rất thích mọc trong khe hốc, chúng đã đâm xuyên

qua khá nhiều tượng Phật, thậm chí một số bức tượng còn bị quấn chặt hằn cả vết. Người duy

nhất cảm thấy thứ màu đen đó không giống thực vật là Mẫn Mẫn. Không hiểu tại sao, cảm giác

đầu tiên của cô khi nhìn thấy thứ ấy, chính là nó không phải thực vật, nếu bỏ đi những đóa hoa

nhỏ màu đỏ, thoạt trông nó khá giống cái vòi của con sao biển, chỉ to gấp vạn số lần mà thôi.

Có điều, cô cũng không nói ra cảm giác của mình với bất cứ ai.

“Ủa? Chúng mày nhìn kìa!” Một tên lính đánh thuê khác chỉ vào tượng Phật kêu lên, cùng

với tiếng kêu ấy, cả bọn đều chú ý thấy những bức tượng vốn nhô một phần lên mặt nước đang

chìm xuống.

Không chỉ một hai pho tượng, mà tất cả các bức tượng Phật đều đang chìm xuống, nhưng

ngay lập tức bọn lính đánh thuê lại phát hiện ra, không phải tượng Phật chìm xuống, mà là mực

nước hồ đang dâng lên! Lượng nước ở sông Phù sinh đổ vào không hề tăng, sao nước hồ lại

đột nhiên nhiên dâng lên thế này?

“Đây là cơ quan gì thế?”

“Thần kỳ quá!” Bọn lính đánh thuê bắt đầu xì xào bàn luận.

CHƯƠNG 74: CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI BẠC BA LA THẦN MIẾU

CHỦ CỦA HỒ TẾ (1)

“Ít gặp thì thấy lạ thôi,” người trẻ tuổi có vẻ rất không hài lòng với tố chất của đám lính

đánh thuê. "Cái hồ này thông với hồ nước lớn bên ngoài kia, chúng mày có thể mường tượng

thế này, lấy một cái bát lớn úp ngược vào trong vũng nước, phần đáy bát hướng lên trên vẫn

còn lại một ít không khí, giờ đây chúng ta đang ở trong phần không gian ấy, ngọn lửa cháy lên

làm tiêu hao hết ôxy, nước ở đáy hồ tự nhiên sẽ tràn vào thôi. Chúng mày không thấy những

bồn lửa kia chỉ cháy đến tầng thứ hai thôi sao, tầng dưới cùng không có lửa, hiển nhiên là sẽ bị

nhấn chìm hoàn toàn rồi. Đến khi nào lượng ôxy tiêu hao bởi những ngọn lửa kia đạt đến độ

cân bằng với lượng ôxy được hút vào khoảng không gian này, mực nước tự nhiên sẽ không

dâng lên nữa. Cái này có phải cơ quan gì đâu, chẳng qua chỉ là một ứng dụng đơn giản nhất

của nguyên lý tự nhiên mà thôi."

“Ôxy được hút vào từ đâu?" pháp sư Á La hỏi, như thể thầy giáo đang khảo vấn người trẻ

tuổi trong kỳ thi vấn đáp.

Khóe miệng người trẻ tuổi khẽ nhếch lên, y đưa mắt nhìn sang các dòng sông Phù sinh, nói:

"Đó chẳng phải là ống thông khí hay sao? Lúc đi men theo dòng sông, tôi đã nhận ra rồi,

hướng gió thổi trùng với hướng chảy của dòng sông, tại sao hồ bên trong và hồ bên ngoài

thông nhau, vậy mà nhiệt độ nước hồ bên trong cao như thế, trong khi hồ bên ngoài lại gần như

đóng băng? Hiển nhiên, vẫn còn một vòng nội tuần hoàn nữa, chắc hẳn người ta đã lợi dụng

một loại cơ quan nào đó, có lẽ phần đáy của cây trụ này có thứ gì đó tương tự như máy bơm

hút nước hồ vào, tiến hành trao đổi nhiệt ở chỗ nào đó, biến thành nước sôi, rồi đưa trở ra theo

sông Phù sinh, nuôi sống các loài tảo thích nhiệt độ cao ở đây, đồng thời duy trì không khí ở

không gian này. Còn nữa, rễ của các loài thực vật và tảo này cũng có thể tạo ra một lượng

dưỡng khí lớn. Hệ thống nội tuần hoàn sẽ giữ cho lượng ôxy bão hòa trong không gian được

cân bằng, không đến nỗi quá nồng hoặc quá thấp." Dường như để chứng minh cách giải thích

của người trẻ tuổi ấy là chính xác, tầng dưới cùng, chỗ mấy dòng sông Phù sinh chảy ra bắt đầu

sủi lên những bong bóng nước lớn, bọt nước sùng sục cơ hồ làm mặt hồ sôi lên, cả cánh bèo đá

cũng khẽ lắc lư dao động.

Người trẻ tuổi giải thích câu nào câu nấy đều hết sức hợp lý, nhưng từ đó pháp sư Á La lại

nhận ra một thông tin khác: "Người trẻ tuổi rốt cuộc vẫn là người trẻ tuổi, gã này dường như

chỉ nôn nóng muốn người ta biết rằng, học thức của y uyên bác đến đâu, võ công của y cao

thâm chừng nào. Nói không chừng, còn có thể moi ra một số thông tin hữu ích. Mẫn Mẫn và y

rốt cuộc có quan hệ gì nhỉ?” Pháp sư từng nghe Trác Mộc Cường Ba nói, Mẫn Mẫn có người

anh trai tên là Đường Thọ, vì chụp ảnh Tử kỳ lân mà đã phát điên nhưng xem xét trải nghiệm

và cuốn sổ tay của anh ta để lại có thể thấy người trẻ tuổi tên là Đường Thọ ấy tương đối lợi

hại, vì vậy khi kẻ này vừa xuất hiện, pháp sư Á La đã nghĩ ngay đến Đường Thọ. Nhưng nhìn

quan hệ của Mẫn Mẫn và người trẻ tuổi này, dường như không giống anh trai và em gái cho

lắm. Từ khi thân phận bị vạch trần, Mẫn Mẫn vẫn không nói một lời, còn người trẻ tuổi kia

cũng không hề chú ý đặc biệt đến cô, ngược lại còn hơi đề phòng nữa, điều này khiến pháp sư

Á La lấy làm khó hiểu.

Pháp sư Á La đưa mắt ra hiệu cho Lữ Cánh Nam, ý bảo cô nếu có cơ hội thì hãy khơi gợi

cho người trẻ tuổi kia mở miệng. Lữ Cánh Nam cũng đưa mắt đáp lại, ý rằng đã hiểu. Mực

nước dâng lên, bọn họ mới phát hiện đình trụ đá ấy không phải là một chậu lửa lớn, mà ở bốn

góc có bốn chỗ khuyết, ngọn lửa cháy trong đó, thoạt nhìn giống như cả phần đỉnh trụ đá đều

đang cháy hừng hực. Thực ra, cây trụ đá khổng lồ này vẫn chống đỡ cả đỉnh vòm như cột chính

trong một căn lều vậy. Cây trụ cũng không phải hoàn toàn trơ trọi, bên dưới ngọn lửa, ba mặt

của cây trụ lần lượt có ba bức phù điêu totem quái thú, chỉ có một mặt để trống. Cả ba con quái

vật ấy đều có một thân hai đầu, trong đó hai con là thú, một con là chim, hình dạng quái dị

khôn cùng, bọn lính đánh thuê đương nhiên chẳng kẻ nào nhận ra được.

Chỉ có pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam mới biết, những totem này chính là đại biểu Tứ

phương thụy thú của Bạc Ba La thần miếu. Chỉ là... tại sao lại thiếu mất một phương? Pháp sư

Á La lẳng lặng đưa mắt liếc nhìn người trẻ tuổi. Hiển nhiên y cũng nhận ra những con thú lành

này, vả lại còn biết tại sao lại có một mặt để trống nữa.

"Tự nhận mình là tội nhân, vì vậy không muốn để lại bất cứ dấu tích nào hả? Suy nghĩ giống

vua Maya quá, thật đáng thương thay cho Đại Bản Ba của bộ tộc Qua Ba hừ, các ngươi căn bản

không lý giải được ý nghĩa đích thực của sự tồn tại!" Người trẻ tuổi thầm cười khẩy giễu cợt,

rồi tập trung sự chú ý vào bốn chỗ khuyết ở gần bọn họ nhất.

Bên dưới bốn bức phù điêu khổng lồ, cách tấm bèo đá chỉ khoảng xấp xỉ mười mét, trên bốn

mặt trụ đá còn có bốn chỗ khuyết nữa. Từ khoảng cách gần như vậy, họ có thể nhìn rõ bốn chỗ

khuyết vào ấy chính là bốn cánh cửa. Từ sau khi ngọn lửa bùng lên, người trẻ tuổi không

ngừng điều khiển cánh bèo đá xoay chuyển xung quanh trụ đá khổng lồ, hiển nhiên đang nghĩ

xem nên chọn cánh của nào mới là thích hợp nhất. Lần đầu tiên pháp sư Á La để ý thấy y lộ ra

thần sắc do dự. Rõ ràng, y cũng chưa từng đến Bạc Ba La thần miếu, chẳng qua chỉ nắm được

một số đầu mối nào đấy mà bọn họ không biết, đồng thời, dường như đã biết một phần tuyến

đường bên trong tòa thần miếu này nữa.

Người trẻ tuổi dừng lại ở mé phải mặt có bức phù điêu hình con chim hai đầu, chỗ này vừa

khéo có một đoạn dây leo đen xuyên qua vách đá, bám vào bề mặt cột trụ. Chỉ nghe y nói:

"Tao lên trên đó xem sao, chúng mày ở đây đợi.” Dứt lời, y liền bám vào mép cột leo lên.

Chỉ thoáng cái người trẻ tuổi ấy đã lên đến chỗ cửa kia rồi. Pháp sư Á La khẽ đảo mắt, Lữ

Cánh Nam đứng lên. Khafu lập tức căng thẳng gắt: "Làm gì đó? Ngồi xuống!”

Lữ Cánh Nam vừa đứng lên lập tức lắc người né sang một bên, họng súng của Khafu dịch

chuyển, không ngờ cũng theo kịp tốc độ của Lữ Cánh Nam, khẩu súng vẫn chặn ngay phía

trước cô. Cô đưa tay ra gạt, song Khafu lại khéo léo đưa đẩy, nòng súng xoay một vòng quanh

cổ tay Lữ Cánh Nam, rồi vẫn chắn ngay trước mặt cô. Trong một tích tắc, hai người đã lần lượt

thay đổi năm sáu động tác, Lữ Cánh Nam không thể xông lên, nhưng Khafu cũng chẳng thể ép

được cô lùi lại. Trước khi những tên lính đánh thuê kịp phản ứng, một bàn tay gầy gò đã đặt

lên nòng nòng súng của Khafu. Khafu tức khắc cảm thấy khẩu súng trên tay nặng tựa khối đá

nghìn cân, y kinh hoảng liếc nhìn pháp sư Á La, cơ hồ không dám tin ông già gầy guộc trước

mắt mình sau khi bị thương như thế, vẫn còn sức mạnh đến nhường này!

Nhân cơ hội ấy, Lữ Cánh Nam đã lách người tránh khỏi nòng súng củ Khafu, nhanh nhẹn

bám vào sợi dây đen leo lên, được chừng hai mét, cô ngoảng mặt xuống nói với Khafu: “Sợ ta

bỏ chạy thì cứ việc nổ súng.” Khafu ngẩng đầu nhìn Lữ Cánh Nam, rồi lại nhìn pháp sư Á La,

cuối cùng ngước mắt nhìn người trẻ tuổi đứng ở chỗ khuyết bên trên, hừ mạnh một tiếng, rồi

trơ mắt ra nhìn Lữ Cánh Nam leo lên chỗ người trẻ tuổi đang đứng.

Người trẻ tuổi dường như không hề để tâm chuyện Lữ Cánh Nam có thể leo lên, thong dong

cất tiếng như đang hỏi một người bạn cũ: "Cô nghĩ thế nào về những totem và cánh cửa này?"

Lữ Cánh Nam cũng điềm nhiên đáp: "Chúng là thần tế hộ của Tân Nhiêu. Trong truyền

thuyết Bản giáo cổ xưa, tổ sư Bản giáo Tân Nhiêu cư trú ở Thiên giới, một hôm ngài đột nhiên

nhận được thần khải, nói rằng khi thời cơ tới, hãy đến vùng cao nguyên tuyết truyền bá giáo lý

Mật giáo cho vị Thất Xích vương đầu tiên, và hãy giúp đỡ cho vương triều, tăng lữ và giáo lý ở

nơi đó. Khi tổ sư Tân Nhiêu cảm thấy thời cơ đã đến, ngài bèn quyết định đến Tây Tạng giúp

đỡ Nhiếp Xích tán phổ. Bốn vị nữ thần tiễn ngài rời khỏi Thiên giới, ngài dẫn theo một con

rồng, một con chim cánh vàng, một con sư tử, cũng có thuyết nói là một con rồng, một con

chim ưng và một con sư tử. Ba loại thần thú này chính là tế hộ thần của Tân Nhiêu, hay còn gọi

là chiến thần hộ thân, về sau, chịu ảnh hưởng của tư tưởng thú lành từ Trung Nguyên, cuối

cùng đã hình thành ba loại tế hộ thần đặc biệt của Mật giáo: Tỳ Hưu, Kỳ Lân và Phượng

Hoàng."

Người trẻ tuổi gật gật đầu tỏ vẻ tán đồng, lại bổ sung thêm: "Trong truyền thuyết Tượng

Hùng, tổ sư Bản giáo giúp đỡ cho Tượng Hùng vương, đồng thời, chiến thần hộ thân của Tân

Nhiêu cũng không phải rồng, mà là voi.”

“Hình lập phương? Thế nghĩa là sao?" Có lẽ khi ngọn lửa cháy lên, cửa đá ở chỗ khuyết này

đã mở ra, từ chỗ Lữ Cánh Nam đứng có thể nhìn thấy những bậc thang đi xuống và những hình

lập phương điêu khắc trên khung cửa.

Người trẻ tuổi nói: "Trứng ánh sáng, quả trứng đản sinh ra vị vương của hiện tại, tượng

trưng cho sinh tồn, ánh sáng và hy vọng, thông đạo dẫn xuống dưới kia hình xoắn ốc theo

chiều bên phải hoặc chữ Vạn ngược, ừm, xem ra đúng là đường này rồi. Khafu, bảo tất cả lên

đây, tiến vào cánh cửa này, xuống đến cuối cầu thang này có thể nghỉ ngơi một chút."

Người trẻ tuổi gọi với xuống dưới, đột nhiên chau mày, dịch chân mình ra, nhìn chằm chằm

xuống đất. Chỗ dưới chân y đứng đã bị thứ dây leo màu đen kia xuyên thủng, một khúc dây leo

to tướng thay thế vị trí của nham thạch.

Vừa nãy y dường như cảm thấy dưới chân mình có gì đó nhích động, nhưng dịch bàn chân

ra, lại chỉ thấy khúc dây leo đen sì sì, ngoài ra chẳng có gì khác. y cảnh giác liếc mắt nhìn sang

Lữ Cánh Nam, song chỉ thấy cô cũng đang nhìn y chằm chằm với ánh mắt tò mò.

Người trẻ tuổi không hề biết, tuy y đã nắm bắt được các cơ quan bày ra trước mắt mình,

nhưng vẫn đánh giá quá thấp trí tuệ của người Qua Ba cổ, tất cả các cơ quan cạm bẫy đều móc

nối với nhau một cách chặt chẽ, gỡ được mối này, nhất định sẽ làm kinh động đến mắt xích

tiếp theo.

Dưới đáy hồ, nơi tất cả không thể nhìn thấu được, vị chủ nhân của hồ tế đang lặng lẽ nằm

yên. Vốn dĩ, nó vẫn đang chìm đắm trong giấc mộng nghìn năm dưới đáy hồ ấm áp, chấn động

lớn lúc Cánh cửa Chúng sinh mở ra đã khiến nó khó chịu rồi; giờ đây ngọn lửa bùng lên, nước

hồ lạnh buốt tràn vào, càng khiến cho vị chủ nhân ấy run cả lên! Chủ nhân hồ tế bừng bừng nổi

giận! Có điều, giấc ngủ kéo dài cả nghìn năm và hệ thống thần kinh quá nguyên thủy khiến nó

cần một thời gian tương đối để khôi phục hoàn toàn cơ năng sinh lý. Chỉ là, thời gian đó, chắc

hẳn cũng không quá lâu!

Đối với vấn đề này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đã có trải nghiệm hết sức sâu sắc!

Merkin vẫn cẩn trọng làm việc một cách rành mạch và chậm rãi, như thể một ông thợ sửa

đồng hồ già, còn Trác Mộc Cường Ba thì căng thẳng tột bậc nhìn sợi dây leo màu đen đang rút

dần ra khỏi kẽ đá, từng đoạn, từng đoạn một...

Mỗi lần rút ra được một đoạn, phạm vi hoạt động của nó lại lớn thêm một chút, khoảng cách

từ chỗ nó vươn xa nhất đến chỗ Trác Mộc Cường Ba và Merkin lại rút ngắn thêm một chút.

Sau khi nghe Merkin tuyên bố, Trác Mộc Cường Ba không dám tấn công nữa, lại cũng không

thể trốn tránh đi đâu được, chỉ biết trơ mắt trân trân nhìn thứ quái dị ấy mỗi lúc một nhích đến

gần, cảm giác căng thẳng trong lòng cứ dâng lên từng nấc một. "Này, vẫn chưa xong à?" Trác

Mộc Cường Ba không biết mình đã nhắc nhờ Merkin đến lần thứ mấy nhưng câu trả lời của

Merkin thì lần nào cũng như lần nào: "Còn một chút nữa thôi." Không biết một chút ấy của y

rốt cuộc là bao lâu.

"Đã đến rồi." Trác Mộc Cường Ba nói.

Merkin không buồn ngoảnh đầu lại, chỉ đáp gọn lỏn: "Ngăn nó lại!"

Trác Mộc Cường Ba nhìn khẩu súng trên tay, ước lượng độ dài, không được, vẫn không to

bằng cái miệng ấy, không thể bạnh nó ra được, phải lấy thứ gì ngăn nó lại đây?

Cái miệng con quái vật hình dáng giống sợi dây leo khổng lồ màu đen đã vươn tới chỗ Trác

Mộc Cường Ba, dường như nó cũng nhận biết được điều này, liền không rút mình ra nữa mà

oằn oèo thân thể dài thượt, vươn cái đầu nhọn hoắt như đầu thăm dò tới. Khi còn cách Trác

Mộc Cường Ba khoảng dăm mét, nó liền dựng lên như con rắn, “bành” một tiếng, cái miệng to

tướng xòe rộng ra như tán ô, bốn cái càng bên trong hung hăng vung vẩy, những móc nhỏ và

đầu lưỡi giống hệt xúc tu ra sức nhu động, chừng như muốn dọa Trác Mộc Cường Ba chết

khiếp.

Trác Mộc Cường Ba đã có chuẩn bị tâm lý từ trước, thấy cái miệng vừa ngoác ra, gã liền

giương súng tọng vào trong đó một loạt đạn, dù cái miệng ấy có là máy nghiền bằng kim loại

thì cũng bị đạn của gã bắn cho thành một đống sắt thép phế thải, cả màng thịt do bốn cái càng

kia căng ra cũng bị bắn cho thủng lỗ chỗ.

Món ngon đến miệng không ăn được lại xơi phải nguyên một băng đạn vào giữa mõm, con

quái vật đùng đùng nổi giận, oằn mình một cái, vòng sang mé bên, động tác linh hoạt dị

thường. Loạt đạn sau của Trác Mộc Cường Ba xả hết vào thân nó, tuy thân thể giống như khúc

dây leo có thủng thêm vài lỗ, nhưng với tấm thân bồ tượng thì mấy viên đạn ấy chẳng khác nào

vết kim châm, không tổn thương gì mấy.

Trác Mộc Cường Ba vội vàng điều chỉnh họng súng, nhưng con quái vật còn nhanh hơn, cái

chụp màng thịt bị bắn rách thoắt cái đã vươn đến cạnh gã, bốn cái càng ngoe nguẩy vụt đến

như lưỡi liềm.

Trác Mộc Cường Ba né được cú móc của "lưỡi liềm", nhưng con quái vật tởm lợm vẫn còn

lưỡi, những cái lưỡi có thể bắn vụt ra dài đến mấy mét giống lưỡi thằn lằn. Trong chớp mắt, cái

lưỡi dài thượt ấy đã quấn lấy cánh tay và súng của Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba

chẳng kháng cự nổi sức mạnh của mười mấy sợi xúc tu, vội buông khẩu súng ra, cánh tay chưa

bị quấn nhanh chóng rút dao chém mạnh xuống. Chẳng ngờ, những sợi xúc tu này cực kỳ bền

chắc, chém không đứt, chỉ có thể cắt dần. Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng đưa đi đưa lại lưỡi

dao mấy lượt, rốt cuộc cũng cắt được ba sợi xúc tu, kịp thời thoát thân khỏi cái lồng chụp bằng

thịt trước khi bốn cái càng khép lại, nhưng cánh tay vẫn bị một cái móc nhỏ rạch cho một vệt

dài. Gã không sao ngờ được rằng, cả những cái móc cũng có thể vươn dài chừng ấy!

Trác Mộc Cường Ba xoay mình nhảy tránh, những con quái thú không thừa thắng truy kích,

ngược lại còn khép lông chụp của nó lại, dường như đang chem chép miệng, cẩn thận nếm thử

mùi vị máu tươi. Chà, ngon hon lũ gián kia nhiều, quái vật hung phấn đến độ toàn thân run lên

nhè nhẹ. Trác Mộc Cường Ba lấy làm khổ sở, rõ ràng đã bắn trúng không biết bao nhiêu phát

vào giữa miệng con quái, vô số móc câu và xúc tu bị bắn nát, nhưng nó dường như chẳng có

cảm giác gì. Xem chừng, hệ thống thần kinh của loài sinh vật này đúng là không hề phát triển.

Một con quái vật không biết đau đớn là gì, hiển nhiên còn đáng sợ hơn trong dự liệu của gã bội

phần. Sắc mặt Trác Mộc Cường Ba trở nên cực kỳ khó coi, gã hét toáng lên: "Vẫn chưa xong

à?"

Merkin hân hoan reo lên: “Thấy ánh sáng rồi, thấy ánh sáng rồi!” Có ánh sáng từ phía bên

kia bức tường Khổng Minh rọi qua. Trác Mộc Cường Ba lại lớn tiếng hỏi: “Có thể xô đổ được

không, tôi sắp không chặn nổi nó rồi!”

Chỉ thấy con quái vật kia lại xòe rộng cái miệng to tướng của nó, “cạch” một tiếng, nôn

khẩu súng của Trác Mộc Cường Ba ra, món này nó nhai không được, cộm răng. Trác Mộc

Cường Ba đã rút ra một khẩu súng khác, mắt không ngừng lia qua lia lại tìm kiếm, rốt cuộc chỗ

chí mạng của con quái này nằm ở đâu chứ? Loạt đạn vừa nãy bắn trúng cả miệng lẫn thân thể

nó rồi, nhưng quái vật vẫn hoàn toàn vô sự, chẳng lẽ con khốn kiếp này không có nhược điểm

nào chí mạng sao?

Lúc này tâm trạng Merkin rất thoải mái, chỉ còn một chút nữa là mở được bức tường Khổng

Minh ra, y bèn ngoảnh đầu lại buông một câu: "Thế không được..." rồi thình lình sững sờ im

bặt. Hóa ra y vừa khéo trông thấy cảnh tượng con quái vật xòe rộng cái miệng phun khẩu súng

ra. Từ nãy đến giờ, y chỉ biết Trác Mộc Cường Ba đang chiến đấu với thứ gì đó, nhưng chưa

từng nghĩ xem thứ đó rốt cuộc trông như thế nào, hoàn toàn không có chuẩn bị tâm lý, bèn lập

tức kêu lên thành tiếng: "Đó là cái gì thế?"

Giọng Merkin lớn hơn một chút, con quái vật tức thì chuyển hướng cái lồng chụp nhằm

thẳng về phía y. Nhìn rõ bốn cái càng cùng với những xúc tu và móc câu nhỏ trong cái miệng

tởm lợm, Merkin lại thêm một phen kinh hãi! Trác Mộc Cường Ba nhân một thoáng rảnh tay

ấy, nhanh chóng giải thích: "Tôi đã bảo với ông rồi còn gì? Đây chính là thứ giống như dây leo

mà chúng ta nhìn thấy, lũ gián kia là thực phẩm của nó. Bọn gián ăn rong nước, ăn vi sinh vật,

còn con quái vật này xơi lũ gián, kỹ thuật chăn nuôi sinh vật theo chuỗi thức án điển hình!"

Trác Mộc Cường Ba vừa mở miệng nói chuyện, cái lồng chụp bằng màng thịt ấy lại nghiêng

nghiêng chĩa về phía gã.

Merkin bấy giờ mới hiểu ra: "À! Đây chính là cái con ‘kubukubu’ kia!"

“Đúng thế!” Trác Mộc Cường Ba chán chường nhếch mép lặp lại: "Nó chính là con

'kubukubu' đấy!"

Cái lồng chụp bằng thịt cứ đảo qua đảo lại giữa Trác Môc Cường Ba và Merkin, rốt cuộc

vẫn lựa chọn Trác Mộc Cường Ba. Chút máu tươi vừa nãy còn đọng lại đầy dư vị trong miệng

nó, mà cánh tay đang chảy máu của Trác Mộc Cường Ba chính là cội nguồn tỏa ra hương vị ấy.

Hiển nhiên, những bông hoa nhỏ trông như miếng thịt trên thân nó không chỉ có mỗi một công

năng phun ra màn sương mỏng mảnh.

Trác Mộc Cường Ba lại quần thảo một trận với cái lồng chụp, thấy Merkin vẫn đứng bần

thần, gã liền quát lớn: “Còn không mau mở cửa đi!”

Merkin vội tiếp tục điều chuyển vị trí các viên gạch trên tường. Trác Mộc Cường Ba lách

người trượt sang ngang, một tay vung dao lên chém mạnh, "soạt soạt", rạch toác một mảng lớn

trên màng thịt của cái lồng chụp. Nhưng kết quả ngược lại chỉ khiến những cái càng kia linh

hoạt thêm. Cổ tay gã xoay một vòng, lại chém xuống một cái càng, chẳng ngờ lớp vỏ trông như

càng cua ấy cứng hơn gã tưởng nhiều, nhát dao của Trác Mộc Cường Ba nảy bật lên. Cùng lúc

ấy, cánh tay kia của gã vẫn cầm súng nhả đạn không ngừng, song cũng không gây ra tổn

thương gì lớn cho con quái vật cả.

Con quái vật này quá đỗi linh hoạt, lại bám đuổi rất ráo riết, Trác Mộc Cường Ba đã mấy

lần định rút lựu đạn ra ném mà không tìm được cơ hội. Đột nhiên, trong hốc tường có ánh sáng

chiếu sang. Thì ra Merkin đã dịch được một viên gạch nữa. Gã liền đổ người ra đất lăn hai

vòng, nhìn rõ tình hình trong hang động lúc này. Merkin lại dịch chuyển thêm được hai viên

gạch khác, mở rộng lỗ hổng trên tường ra khoảng ba mươi xăng ti mét vuông. Thân thể dài

thượt của con quái vật cuộn tới, Trác Mộc Cường Ba bật người vọt ra khỏi vòng vây, lúc đang

ở trên không gã liền vứt dao đi, bây giờ mới rảnh tay ném được một quả lựu đạn. Trong lúc ấy,

Merkin dịch chuyển được viên gạch thư tư và thứ năm, lỗ hổng rộng ra chừng năm mươi xăng

ti mét.

Trác Mộc Cường Ba ném xong quả lựu đạn, thực tình không muốn dây dưa thêm với con

quái vật đáng sợ này một giây một phút nào nữa, lập tức nhún người lên chui qua bức tường

Khổng Minh còn chưa mở ra hết, đồng thời hét gọi Merkin: "Chạy mau!"

Merkin không ngờ tình thế đã khẩn cấp đến độ không đợi y mở hết cả bức tường, ngoảnh

đầu nhìn lại, chỉ thấy cái miệng của con quái vật mở ngoác, khoảng hơn chục mét phía sau bị

nổ ra một cái lỗ lớn, để lộ rất nhiều sợi màu trắng trông như sợi gân, song cái lỗ kia hoàn toàn

không ảnh hưởng gì đến năng lực hoạt động của nó. Mắt thấy cái miệng mở lớn ấy nhao về

phía mình, Merkin cũng nhún người, chui qua lỗ hổng vừa mở ra trên tường như tuyển thủ bơi

lội lao xuống nước.

Cái miệng quái vật bị kẹt bên ngoài lỗ hổng trên tường, chỉ bắn ra được hơn chục cái lưỡi

như xúc tu, song cũng chẳng ích gì, đành hậm hực rụt trở về bên kia bức tường. Merkin thở

phào nhẹ nhõm, nói: "Xong rồi.”

"Ai bảo thế?" Trác Mộc Cường Ba bên cạnh nói với ngữ khí vừa băng lạnh lại vừa nghiêm

túc, “Hình như vẫn chưa xong đâu!”

CHỦ CỦA HỒ TẾ (2)

Merkin bấy giờ mới ngoảnh đầu nhìn hoàn cảnh mới. Trước mắt y là một đại sảnh khổng lồ

hình bầu dục, giống như sân vận động tổ chức Thế vận hội, nhưng lớn hơn bất cứ sân vận động

tổ chức Thế vận hội nào mà Merkin từng trông thấy không biết bao nhiêu lần. Chính giữa đại

sảnh khổng lồ này, không ngờ lại có một hồ nước!

Đại sảnh cao bốn tầng, mỗi tầng đều có một hành lang hình vòng cung uốn lượn, ở rìa hành

lang, cứ mỗi mười mét lại có một cái cột to hai người ôm, khiến cả gian đại sảnh thoạt nhìn

giống một nhà hát ca kịch vĩ đại. Đỉnh vòm của đại sảnh được xây dựng theo thế mặt trời tỏa

nắng, do một cây cột ở chính giữa, ước tính sơ bộ cao khoảng sái mươi đến bảy mươi mét

chống đỡ. Nước đã dâng ngập hết tầng dưới cùng. Trong hồ lại có rất nhiều tượng Phật với đủ

tạo hình khác nhau đứng sừng sững, trên mặt nước dập dềnh một lớp rong tảo, đa phần đã dung

nhập làm một với những bức tượng Phật kia.

Phần đỉnh của cây trụ chính ở giữa, tất cả mảng tường bên trong các hành lang cùng một số

vị trí trên các tượng Phật đều đang có lửa cháy phừng phừng, cả gian đại sảnh được ánh sáng

bập bùng ấy chiếu rọi. Ánh sáng cũng khiến những sợi dây leo khổng lồ màu đen đang vung

vẩy trên không tựa như nổi trận lôi đình kia hiện lên rõ mồn một trong mắt Merkin và Trác

Mộc Cường Ba.

"Ừ, chó chết thật!" Merkin đần thối mặt, chỉ riêng ở trước mắt hai người bọn họ thôi, ít ra

cũng phải có đến hai ba chục sợi dây leo khổng lồ khua quất loạn xạ, mà vẫn còn nhiều hơn thế

nữa đang chầm chậm nhu động chừng như muốn rút ra khỏi các bức tường và tượng Phật.

Không biết kẻ nào đã chọc giận bọn chúng, lũ quái vật ấy dường như đang ngó nghiêng khắp

nơi tìm kiếm thứ để trút giận.

Chỉ một sợi đã khó đối phó như vậy rồi, trưóc mắt lại thình lình xuất hiện cả một bầy đàn,

chẳng trách giọng nói của Trác Mộc Cường Ba lại băng lạnh đến thế. Những con quái vật dài

thượt kia cũng ngay lập tức tìm được chỗ trút giận, chính là hai con côn trùng nhỏ đột nhiên

chui từ trong tường ra, Trác Mộc Cường Ba và Merkin. Bọn chúng đã cảm tri được chấn động

do hai người gây ra, hệ thần kinh đơn giản chỉ đưa ra một mệnh lệnh duy nhất: tiêu diệt!

Merkin nhìn Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Anh có cách gì không?"

"Cách gì?" Trác Mộc Cường Ba trừng mắt với Merkin, rồi lại nhìn sang mười mấy sợi dây

leo đen đúa đang từ từ quây lại. Chỉ thấy, bọn chúng gần như cùng lúc xòe rộng màng thịt, để

lộ cái miệng to tướng hung dữ, nhất tề lao bổ tới. Trác Mộc Cường Ba vội hét lớn: "Chạy

mau!"

Hai người bắt đầu guồng chân lao đi trên hành lang hình bầu dục khổng lồ, xông qua

khoảng cách mười nghìn mét với tốc độ của người chạy cự ly một trăm mét.

Những con quái vật dây leo đen đúa vươn thân hình ướt sũng lên khỏi hồ nước, phát động

hết đợt tấn công này đến đợt tấn công khác, tựa như rắn bắt mồi, khiến Trác Mộc Cường Ba và

Merkin khốn đốn hết nhảy lên rồi lại thụp xuống. Mới đầu, Merkin vẫn còn tràn trề hy vọng

bảo Trác Mộc Cường Ba: "Nói không chừng chúng sẽ tự tàn sát lẫn nhau để tranh cướp chúng

ta, đến lúc ấy hai chúng ta có thể thừa cơ tẩu thoát được, các loài sinh vật bậc thấp luôn luôn

phạm phải sai lầm bậc thấp như thế." Nhưng sau đó, Merkin nhanh chóng nhận ra mình đã sai.

Những sợi dây leo đen kia phối hợp với nhau một cách hết sức chặt chẽ, cơ hồ không có kẽ hở,

sợi này vừa tấn công xong, sợi khác đã bập đến ngay lập tức, phía trước chặn đánh, phía sau

bám sát không buông. Hai nguời đạp tường, trượt sàn, ôm cột vòng qua, thậm chí còn nhảy cả

xuống hồ, những chiêu trò có thể nghĩ ra được đều nghĩ hết cả rồi, nhưng vẫn không tài nào

thoát được những đợt công kích dồn dập đợt sau hùng hậu hơn đợt trước của lũ quái vật.

Chẳng mấy chốc, công kích lại tăng thêm một bậc nữa, những sợi dây leo phá tường chui ra,

vươn đầu khỏi vách tường gia nhập vào đội ngũ tấn công hai người. Merkin vừa không ngừng

né tránh những cái càng như lưỡi liềm vung vẩy và những sợi xúc tu liên tiếp bắn ra, vừa càu

nhàu: "Sao lại nhiều vậy? Đám người Qua Ba kia rốt cuộc đã nuôi bao nhiêu con quái vật kiểu

này ở đây?"

Trác Mộc Cường Ba vừa chạy vừa nghĩ thầm: "Hồ tế, hồ tế, lẽ nào là chỉ cái hồ bên trong

này. Phải rồi, vị trí của các tượng Phật trong hồ kia chẳng phải đúng như sắp xếp của một đàn

tràng hay sao? Nhưng chủ của hồ tế không phải chỉ có một thôi sao? Lẽ nào trải qua nghìn

năm, nó đã sinh sôi nảy nở, số lượng tăng lên?"

Cả gã và Merkin đều vắt óc suy nghĩ xem làm cách nào mới thoát khỏi được những đợt

công kích liên tu bất tận đang ập đến kia.

Trong khi Trác Mộc Cường Ba và Merkin cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng, đội ngũ lính

đánh thuê đã đi hết các bậc thang, xuống đến tầng dưới cùng. Những bậc thang đi xuống dưới

rất dài, mấy vòng trước đều phải đi chừng trăm mét mới có một chỗ ngoặt chín mươi độ, kế đó

lại xuống bậc thang, rồi vòng sang trái, sang trái, sang trái, mỗi lần rẽ ngoặt, bậc thang lại ngắn

hơn một chút. Cả bọn có cảm giác như thể đang đi bên trong vỏ một con ốc biển. Khi đến điểm

thắt trung tâm, chẳng ai nhớ nổi mình đã rẽ ngoặt bao nhiêu vòng nữa. Sau đó, cả bọn lại bắt

đầu ngoặt sang phải, rồi mỗi lần ngoặt bậc thang lại tương ứng dài ra một chút, nếu không

phải các bậc thang luôn theo một chiều đi xuống, có lẽ cả đám đã cho rằng mình lại vòng theo

đường cũ trở về rồi cũng nên.

Người trẻ tuổi thầm tính toán trong đầu: “Từ khởi điểm của vòng luân hồi chữ Vạn ngược,

đi đến điểm cuối, hoàn thành quá trình vô tướng chuyển thân, chúng ta đã tiếp nhận tất cả các

thử thách rồi, thần miếu cũng nên xuất hiện đi thôi.”

Ánh đèn đuốc bên ngoài chiếu xuống những bậc thang, nghĩ tới tầng đáy là có thể nghỉ ngơi

bọn lính đánh thuê đều rảo chân bước rất nhanh, thoắt cái đã đến chân cầu thang. Nơi này là

một gian phòng đá không rộng mấy, chỉ khoảng hai trăm mét vuông, sáu bảy chục tên lính

đánh thuê đứng đã thấy hơi chen chúc. Chính giữa gian phòng đá đặt bốn hình hộp chữ nhật

ghép từ các phiến đá, trông như thể bốn cỗ quan tài, bốn vách tường đều có bích họa vẽ toàn

những quái thú và ác ma mà bọn lính đánh thuê chưa từng trông thấy bao giờ. Tám cây cột đen

nhọn hoắt như con thoi vươn xuống từ đỉnh phòng. Ngoài cánh của đá để đi vào, bốn vách gian

phòng này đều bít kín, xem chừng không còn lối ra vào nào khác.

Bọn lính đánh thuê lấy làm thất vọng, nhốn nháo đổ dồn ánh mắt nghi hoặc về phía người

trẻ tuổi. Đây chính là Bạc Ba La thần miếu hay sao? Một căn phòng đá tồi tàn chẳng có thứ gì

hết? So với những gì bọn họ trông thấy lúc trước, nơi nay chẳng thể nào so sánh được. Chỉ có

một khả năng duy nhất, đó là lúc ở trước bốn cánh cửa, người trẻ tuổi đã chọn nhầm đường! Cả

pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam cũng đồng quan điểm này, những hình vẽ trên tường và cả khối

hộp chữ nhật ghép từ các phiến đá kia, rõ ràng không thuộc về giáo phái của họ.

Trái với những người khác, người trẻ tuổi lại có vẻ mừng rỡ ra mặt, y nhìn những bức họa

trên tuờng đá, hân hoan nói: "Chính là đây rồi, không sai được." Nói đoạn, y bắt đầu giải thích

với bọn lính đánh thuê: "Đây là hình thức mộ táng của Tượng Hùng." Y chỉ tay vào bốn khối

hộp chữ nhật nói tiếp: "Ở đất Tạng và Tuợng Hùng cổ xưa, vẫn luôn dùng cách thần hóa những

linh hồn đã chết, an táng những nhân vật lớn mạnh lúc sinh tiền vào các kiến trúc thần thánh,

nhằm bảo vệ, phù hộ cho người đời sau. Hiển nhiên, khi người Qua Ba cổ xây dựng Bạc Ba La

thần miếu cũng đã áp dụng cách làm này." Nói tới đây, y lại chỉ vào những bức bích họa trên

bốn vách tường: "Đây đều là các thần linh của Bản giáo cổ đại và Tượng Hùng, phỏng chừng,

số chuyên gia từng được nhìn thấy chúng tính trên toàn thế giới cũng chỉ đếm trên đầu ngón

tay mà thôi. Những bức họa này lần lượt đại diện cho sự trung thành, dũng cảm, trí tuệ..., toàn

bộ đều là các thần linh bảo vệ, phù hộ cho người trong gian phòng đá này có thể an toàn đến bờ

bên kia.

Một tên lính đánh thuê chỉ tám cây cột màu đen trên trần nhà hỏi: "Đây là cái gì vậy?

Totem?”

Người trẻ tuổỉ lắc đầu đáp: “Sao lại là totem được? Tao thấy khá giống với đám dây leo màu

đen ngoài kia, nhìn thấy những bông hoa nhỏ màu đỏ kia không? Chắc là đầu mút của mấy sợi

dây leo thôi. Đám dây leo này hiển nhiên rất thích mọc men theo những kẽ hở, không ngờ lại

chọc cho chỗ này thủng lỗ chỗ khắp nơi.”

"Nhưng ở đây làm quái gì có gì?" Một tên lính đánh thuê khác kêu lẽn, đây mới là vấn đề

mà bọn chúng quan tâm nhất.

Người trẻ tuổi cười khẩy nói: "Cả gian phòng này chính là một cơ quan."

"Cơ quan ở đâu?" Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La không dễ bị gạt như đám lính đánh thuê

đầu đất kia.

Người trẻ tuổi thần bí chỉ tay vào mấy cỗ quan tài đá trước mặt, buông một tiếng: "Ừm."

Thấy Lữ Cánh Nam chừng như muốn lập túc bửa ngay khối hình hộp chữ nhật ấy ra, y vội nói

tiếp: "Ở yên đấy đã, đây là loại cơ quan chọn một trong bốn, chọn sai là hết cách, chỉ có thể

quay ngược trở ra mà đi vào một cánh cửa khác."

Pháp sư Á La chau mày, cả bốn cỗ quan tài bít bùng kín mít, nghe lối nói của người trẻ tuổi,

hiển nhiẻn, mỗi phiến đá đều có khả năng phá hoại toàn bộ cơ quan, phải làm sao mới tìm được

cỗ quan tài chính xác đây chứ? Bốn chọn một, vận may chiếm có hai mươi lăm phần trăm mà

thôi.

Người trẻ tuổi lại thong dong nói: "Cũng may chúng ta có kỹ thuật hiện đại trợ giúp, không

bao giờ đánh trận mà không chuẩn bị." Nói đoạn, y đón từ tay Khafu một thiết bị nhỏ, trông

khá giống chiếc máy siêu âm xách tay, lần lượt hướng về phía các cỗ quan tài đá tiến hành

kiểm tra.

Mới kiểm tra được một nửa, chợt nghe có tiếng kêu lên: “Đó là cái gì thế?” Cả đám lính

đánh thuê đều giật bắn mình, âm thanh ấy rõ ràng là giọng của Merkin.

Liền ngay sau đó lại vang lên một câu khác: "Ừm, nó chính là con 'kubukubu' đó!"

Giọng nói vang lên hết sức rõ ràng, cơ hồ lơ lửng ngay trên đầu cả bọn, người trẻ tuổi cũng

không thể không dừng công việc dang dở lại, tìm kiếm nguồn gổc của âm thanh lạ.

Thoáng sau, cả bọn lại nghe thấy Trác Mộc Cuờng Ba kêu lên: "Chạy mau!" Lữ Cánh Nam,

pháp sư Á La và Mẫn Mẫn đều biến sắc, nửa mừng nửa lo. Người trẻ tuổi cũng lập tức chú ý

đến những bông hoa nhỏ màu đỏ bám trên lớp vỏ xù xì của những dây leo đen, không khỏi tái

mặt thốt lên: "Âm thanh mô phỏng!"

"Gì cơ?" Khafu từ đầu chí cuối vẫn luôn theo sát bên cạnh người trẻ tuổi.

"Tương tự như màu sắc ngụy trang vậy. Màu sắc ngụy trang là cách một số động vật hoặc

thực vật hòa mình vào không gian xung quanh để tránh né các kẻ địch tự nhiên, còn âm thanh

mô phỏng lại là thủ đoạn dẫn dụ vật săn của một số loài động thực vật săn mồi, chúng nắm bắt

và ghi nhận những chấn động mạnh mẽ nhất trong không khí, sau đó tự rung động bản thân để

mô phỏng chấn động không khí ấy, giống như một cái máy photocopy âm thanh vậy. Đây là

một dạng hành vi vô thức, bản thân loài động thực vật săn mồi kia cũng không phải loại cao

cấp gì, nhưng có thể phát ra âm thanh mô phỏng rõ ràng thế này, chỉ sợ là bọn chúng thuộc loài

ăn thịt...” Người trẻ tuổi chợt giật mình hiểu ra, vội nhắc nhở đám lính đánh thuê đang đứng

chen chúc "Cẩn thận, những sợi dây leo kia có thể cử động đấy!"

Có điều, lời nhắc nhở ấy dường như hơi muộn, người trẻ tuổi vừa mở miệng nói xong, mấy

sợi dây leo đen đã "bụp, bụp, bụp, bụp”, lần lượt mở to cái lồng chụp bằng màng thịt, vươn ra

bốn cái càng như càng gián, bổ nhào tới chỗ bọn lính đánh thuê.

Chỗ này vốn đã chật hẹp, bọn lính đánh thuê đứng ríu sát vào nhau lại không có sự chuẩn

bị, những sợi dây leo đen kia chụp một phát ăn ngay, tức thì đã có tám tên lính đánh thuê bị cái

lồng ấy úp lên đầu, cả người quấn trong màng thịt, không kịp kêu một tiếng. Những tên còn lại

vẫn đang kinh hãi, chỉ thấy tám tên lính đánh thuê đó, có tên thì bị bọc kín toàn bộ, có tên lòi

được hai cái chân ra ngoài giãy đạp mấy cái rồi cả bọn lần lượt bị những dây leo đen đúa ấy

nhấc lên không trung, sau đó “sụt” một cái, thân thể biến mất toàn bộ cứ như người ta hút cọng

mì vào miệng vậy.

Những sinh vật bậc thấp ấy cực kỳ phàm ăn, tám tên lính đánh thuê vào bụng xong lại lập

tức xòe rộng màng thịt, vươn xuống như những cánh tay máy trong dây chuyền sán xuất. Lúc

này, bọn lính đánh thuê đã định thần, nhao nhao nổ súng xạ kích, đồng thời áp sát vào nhau,

tránh để những cái miệng to tướng đáng sợ kia hút vào. Nhất thời, tiếng súng vang lên không

ngớt, tình thế cực kỳ hỗn loạn. Cơ hội! Lữ Cánh Nam liếc mắt nhìn sang phía pháp sư Á La,

hỏi ông xem có nên nhân lúc rối ren này thoát đi hay không? Pháp sư Á La khẽ lắc đầu, ý nói

vết thương của mình không cho phép vận động mạnh, chi bằng cứ đi theo người trẻ tuổi, xem

xem thần miếu mà y nói rốt cuộc như thế nào.

Đôi mày ngài của Lữ Cánh Nam hơi nhíu lại, một ý nghĩ đột nhiên lóe lên trong đầu: "Lẽ

nào người này đấu với pháp sư Á La một chiêu ấy, cũng là có ý đồ từ trước? Khiến pháp sư Á

La trọng thương không thể hành động, từ đó cũng hạn chế hành động của mình? Tất cả mọi sự

đều đã nằm trong tính toán của y hay sao? Nếu vậy thì tâm tư của kẻ này thực quá đáng sợ!"

Mổi một bước đi y đều đã tính toán cẩn mật, căn bản không hề sợ cô bỏ trốn hay có ý đồ gì

khác, thậm chí cả những khả năng mà đối thủ chưa nghĩ ra, y cũng đã đưa vào trong tính toán

của mình rồi. Đối đầu với một kẻ như vậy, sẽ khiến người ta nảy sinh một thứ cảm giác bất lực,

như thể dù giãy giụa vùng vằng thế nào, cũng vẫn bị đối thủ khống chế trong tay vậy. Nguời có

thể khiến Lũ Cánh Nam có cảm giác này, cũng chỉ có tên lùn ở thành Tước Mẫu kia nữa mà

thôi.

Những cái lồng chụp bằng màng thịt chẳng hề sợ súng đạn, mặc cho bọn lính đánh thuê xả

đạn bắn thủng lỗ chỗ như cái sàng, chúng vẫn cứ bổ nhào đến xơi tái đối thủ không ngần ngại.

Về điểm này thì Trác Mộc Cường Ba đã có trải nghiệm hết sức sâu sắc, giờ đến lựợt đám lính

đánh thuê nếm mùi. Thoắt cái, đã lại có thêm ba tên lính đánh thuê nữa bị nuốt chửng. Một

trong ba tên ấy còn suýt nữa đã thoát dược, sau khi ngã bổ nhào mới bị lôi ngược trở lại, chỉ

nghe hắn rú gào thảm thiết, hai tay cào xuống nền đất, cảnh tượng khủng khiếp đó khiến đám

lính đánh thuê còn lại tên nào tên nấy tái mét mặt mày.

Có một sợi dây leo bị bắn liên tiếp vào cùng một vị trí; cộng thêm vừa liên tiếp nuốt chửng

hai tên lính đánh thuê còn chưa kịp tiêu hóa hết rốt cuộc không chịu nổi trọng lượng của chính

mình, bắt đầu toác ra ở chỗ lỗ đạn, tên lính đánh thuê bị nuốt đầu tiên rơi "bịch" xuống đất như

một bao xi măng. Mấy tên đồng bọn đứng quanh đấy vội nháo nhác lùi lại liền mấy bước. Cái

chết của tên lính đánh thuê kia thực sự quá thảm thiết, toàn thân dính đẫm chất nhầy nhơn

nhớt, hai mắt lồi ra, đáng sợ nhất là toàn bộ cơ thể hắn, cả áo chống đạn lẫn da thịt bên trong bị

rạch vô số vết dài, sâu tận xương, sau đó lại bị nén ép cho vừa kích cỡ khoang miệng con quái

vật, xương cốt bị ép cho vặn vẹo không còn nhận ra hình dạng ban đầu nữa.

Khafu nổi giận, giật khẩu súng của tên đứng bên cạnh, quét một loạt đạn dữ dội vào sợi dây

leo sắp đứt lìa ra ấy. Đoạn dây leo đen đúa bị bắn rơi xuống, chẳng ngờ vẫn không chết hẳn,

vừa chạm đất liền bật tung lên, lao bổ về phía tên lính đánh thuê đứng gần nó nhất, động tác

linh hoạt như một con cá trạch. Tên lính đánh thuê kia còn chưa bị đoạn dây leo chạm vào đã

sợ hãi kêu toáng lên. Mắt thấy đoạn dây leo đen bắn ra mấy sợi xúc tu quấn lấy hai chân minh,

tên lính đánh thuê xui xẻo càng thêm hoảng loạn, đang định giơ súng lên bắn nhầu thì bị người

trẻ tuổi kia vung tay đánh bay khẩu súng đi, kế đó hai tay y vuốt vào chỗ eo hông tên lính đánh

thuê một cái, lúc rút tay ra, mỗi bàn tay đã móc vào hai quả lựu đạn, quăng thẳng xuống chỗ

“con cá trạch” đang quẫy loạn dưới đất.

Lữ Cánh Nam để ý thấy, không hiểu nguởi trẻ tuổi kia sử dụng thủ pháp gì, khi lựu đạn trên

tay rõ ràng vẫn chưa rút chốt, nhưng trong khoảnh khắc quả lựu đạn rời khỏi lòng bàn tay y,

chốt khóa lại tự động tuột ra, kỹ thuật thực thần kỳ hết sức. “Thuật ném lựu đạn một tay!” Lữ

Cánh Nam nhủ thầm trong óc.

Bốn quả lựu đạn nối thành một đường thẳng, lần lượt rơi vào cái miệng to tướng ghê tởm,

kế đó là một loạt tiếng "bùm bùm" vang lên, con "cá trạch" bị nổ thành một đống thịt vụn, không thể tấn công ai được nữa. Có điều những miếng thịt vụn ấy vẫn không ngừng ngọ nguậy.

Bọn lính đánh thuê bị nước thịt nhầy nhụa bắn đầy đầu đầy mặt đều kinh hoàng đến sững sờ,

đây rốt cuộc là thứ quái vật gì vậy!

Người trẻ tuổi quát: "Đồ ngu, đừng bắn bọn chúng rơi xuống, không thấy rễ của chúng đều

kẹt trong đá, không thể nhúc nhích được hả? Tránh xa ra, đừng để chúng tóm được là xong.

Những sinh vật bậc thấp này chỉ bắt mồi theo bản nảng, hệ thống thần kinh chậm chạp khiến

chúng không hề biết đau đớn là gì đâu. Vả lại, chi cần nhìn hình dạng dài thượt này của nó, đủ

biết đây là sinh vật có hệ thần kinh dạng vòng, mày bắn nó xuống, ngược lại còn giải phóng

nó. Dựa vào phản ứng thần kinh bản năng, đoạn dây leo đứt ra vẫn có thể ăn thịt được mày như

thuờng.”

Khafu lấy làm khó hiểu hỏi: "Sao lại thế?"

Người trẻ tuổi nói: "Sinh vật bậc thấp không cần bộ não, mỗi bộ phận trên thân thể đều có

thể vận động nhờ vào hệ thống thần kinh riêng biệt, giống như cái đuôi của con thạch sùng

vậy, đứt rồi vẫn có thể ngọ nguậy; chân của một số loài nhện bị cắt lìa khỏi cơ thể vẫn co duỗi

được; đầu rắn bị chặt xuống cũng vẫn có thể nhảy bật lên cắn người. Điều tao lấy làm lạ là âm

thanh lúc nãy, tại sao tất cả các dây leo này đều biết phát ra những âm thanh giống nhau như

thế?"

Nói tới đây, y bỗng sực hiểu ra, không khỏi hít vào một hơi khí lạnh: “Tao hiểu rồi, những

dây leo này không phải những sinh thể tồn tại đơn độc, bọn chúng chỉ là một số xúc tu, là cơ

quan săn mồi, con quái vật này có vô số cánh tay xúc tu, kiểu như con hải quỳ vậy, những dây

leo màu đen kia có chung một thân thể, tất cả dinh dưỡng được chia đều! Ma Long Tán của

phương Bắc thì ra là thế này, cũng may lúc chúng ta đi qua mặt hồ không làm nó thức tỉnh.”

“Kubukubu”, nghĩ đến cái tên Merkin đặt cho con quái vật này, khóe miệng người trẻ tuổi hơi

nhếch lên một chút. Thấy bọn lính đánh thuê đã ổn định trở lại, y lại bắt đầu thăm dò những cỗ

quan tài đá.

Bọn lính đánh thuê nghe theo mệnh lệnh của người trẻ tuối, nhốn nháo chen chúc vào những

góc mà đám dây leo không vươn tới được. Tên nào tránh không đủ xa, bị dây leo bắn xúc tu ra

quấn lấy, lập tức có bảy tám tên khác tràn lên giúp sức, kẻ thì kéo lại, kẻ rút dao ra cắt những

sợi xúc tu dai nhách, quyết liệt giằng co với đám dây leo quái dị, rốt cuộc cũng không có thêm

thuơng vong nào nữa.

Ở khu vực trung tâm, chỉ có mình người trẻ tuổi cầm thiết bị thăm dò, mỗi lần có dây leo tấn

công, không để ai kịp thấy y có động tác gì, y đã nhẹ nhàng thoát ra khỏi phạm vi tấn công của

chúng rồi. Sau mấy lần liên tiếp, không hiểu người trẻ tuổi đã phát hiện ra bí mật của đám dây

leo đen, hay chúng đã từ bỏ tấn công y, tóm lại, dường như những sợi dây leo hoàn toàn không

cảm giác được sự tồn tại của y nữa, mà dồn hết sự chú ý lên đám lính đánh thuê đang ẩn nấp

trong góc.

"Tìm được rồi" Người trẻ tuổi vừa thốt lên, những sợi dây leo lại bổ tới tấn công. Y thậm

chí không buồn ngẩng đầu lên, đã giật chốt quả lựu đạn cầm trên tay, nhanh chóng ném vút ra.

Thời gian phát nổ được y tính toán rất chuẩn xác, quả lựu đạn vừa khéo làm nổ tung cả đoạn

trước sợi dây leo cùng toàn bộ màng thịt đang xòe rộng, phần còn lại tự nhiên không thể gây

tổn thương gì cho y được nữa.

Sau mấy lần tấn công vô ích, đám dây leo đen dường như đã quyết định rút lui. Bọn lính

đánh thuê thấy trên bề mặt dây leo xuất hiện những đợt sóng nhu động cuồn cuộn, rồi nó từ từ

rút vào bên trong kẽ đá. Người tré tuổi lúc này đang đứng bên cạnh cỗ quan tài đá được chọn,

gõ gõ đập đập, chừng như đã phát hiện ra chốt lẫy phát động cơ quan. Y tìm ra một phiến đá,

đưa tay kéo ra ngoài, cả cỗ quan tài liền rời ra thành từng mảnh, các phiến đá rơi vung vãi duới

đất. Bên trong quan tài không có xương cốt mà đặt một thứ hình trụ tròn, hai đầu phình to, ở

giữa hơi thắt lại, đường kính khoảng hai muơi đến ba mươi xăng ti mét, hình dạng rất giống

quân xe trong môn cờ vua. Trên đỉnh hình trụ ấy có một lỗ hình tròn theo phương ngang,

phỏng chừng có thể xuyên một cây trúc qua.

"Mày, mày, qua đây." Người trẻ tuổi gọi hai tên lính đánh thuê thể hình cuờng tráng bước

lên, xuyên nòng súng qua cái lỗ tròn, rồi bảo hai tên lần lượt đứng ở hai đầu chỉ tay vào cái lỗ

nói: "Đẩy đi!"

Pháp sư Á La thấy Lữ Cánh Nam đứng bên cạnh nhíu chặt hai hàng lông mày lại, liền nói

với cô: "Bạc Ba La thần miếu là nơi cất giữ báu vật, để tránh bị người bên ngoài làm vấy bẩn,

thiết kế cơ quan có phức tạp một chút cũng là chuyện hết sức bình thường."

Lữ Cánh Nam lắc đầu: "Có thể tìm ra cái chốt duy nhất chống đỡ toàn bộ cỗ quan tài đá

giữa bao nhiêu phiến đá như vậy, nhãn lực của kẻ này còn lợi hại hơn những gì con nghĩ nữa."

Pháp sư Á La giờ mới hiểu tại sao Lữ Cánh Nam lại lo lắng, cũng không nén được tiếng thở

dài: "Đúng thế, nếu có pháp sư Tháp Tây ở đây thì tốt biết mấy."

Hai tên lính đánh thuê đẩy cái trụ tròn như người ta đẩy cối xay. Nào ngờ, khi cái trụ chầm

chậm nhích động, cả gian phòng bắt đầu nghiêng đi. Bọn lính đánh thuê đều hơi hoảng loạn,

đám dây leo màu đen dường như cũng cảm giác được gì đó, lại càng rụt về nhanh hơn.

TIẾN VÀO BẠC BA LA THẦN MIẾU

Người trẻ tuổi dường như sực nhớ ra gì đó, bèn rút máy tính bỏ túi ra sắc mặt trầm xuống,

thầm nhủ: "Bị cầm chân lại đó rồi hả? Hy vọng đừng xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, tao rất

coi trọng hai chúng mày đấy, đừng để tao thất vọng nhé, Merkin, Trác Mộc Cường Ba."

Cả gian phòng đá đã nghiêng đi được chừng ba muơi độ, một số tên lính đánh thuê buộc

phải bám vào tuờng hoặc quan tài đá để trụ vững. Gian phòng bắt đầu rung lên khe khẽ, tựa

như có thứ gì to lớn và nặng nề lắm cuối cùng cũng được đặt xuống đất. Tiếp đó, lại thêm một

trận rung động nữa, gian phòng đá dường như bắt đầu trượt xuống theo mặt phẳng nghiêng, hai

tên lính đánh thuê đang đẩy cái trụ tròn dừng lại hỏi: "Có tiếp tục đẩy nữa không, thưa ngài?"

Người trẻ tuổi lắc đầu: "Tạm thời không cần nữa, nhớ kỹ, tiếp sau đây sẽ là quá trình gia

tốc, chúng mày cảm thấy tốc độ nhanh đến mấy cũng tuyệt đối không được buông tay ra, ba cỗ

quan tài đá còn lại hẳn dùng để theo dõi chuyển động của gian phòng đá này, nếu phát hiện

chúng bị vỡ tung ra vì chấn động do gia tốc gây nên, chúng mày phải phải lập tức nghĩ cách

đẩy cái trụ đá theo huớng ngược lại, đã hiểu chưa?"

Hai tên lính đánh thuê gật đầu tỏ ý đã hiểu. Gian phòng đá chuyển động rất chậm chạp, bảy

sợi dây leo đen trên trần nhà chưa rụt hết về, vẫn đang kiên trì, vùng vẫy, nhưng sức lực của

chúng làm sao bì được với trọng lượng của cả gian phòng đá cộng thêm đám người lúc nhúc ở

bên trong. Dưới súc kéo của gian phòng đá, từng sợi dây leo bị giật đứt, phần đầu nhọn như

mũi khoan rơi bình bịch xuống sàn, khiến bọn lính đánh thuê đều kinh hoảng nhảy lùi ra sau né

tránh. Có điều, lần này những đoạn dày leo đen bị nghiến cho đứt đoạn rơi xuống dường như

đã bị thương tổn đến các đốt thần kinh, không còn thấy nhúc nhích gì nữa.

Thể lực của Merkin đã tiêu hao quá nửa lúc quần thảo với Trác Mộc Cường Ba trong hầm

tối, vẫn chưa kịp hoàn toàn hồi phục, lần ruợt đuổi này khiến y có cảm giác, đến chút tiềm lực

cuối cùng mình cũng sắp dùng hết rồi. Nghĩ đoạn, y lại đưa mắt liếc nhìn bộ dạng Trác Mộc

Cường Ba, vừa nhìn là biết Trác Mộc Cuờng Ba hẳn cũng đã chịu đựng đến cực hạn. Bọn họ

đã chạy xung quanh hành lang hình tròn này không biết đến vòng thứ ba hay vòng thứ tư nữa,

căn bản là không biết rốt cuộc đã chạy được bao xa, còn sức lực của những dây leo đen quái

quỷ kia thì dường như vô cùng tận.

Trác Mộc Cường Ba vừa nghiến răng cầm cự, vừa nghĩ xem làm cách nào thoát khỏi nguy

cơ. Huớng tấn công của đám dây leo khốn kiếp này không có góc chết, chúng có thể quấn trên

cột trụ, có thể chui từ trong vách tường ra, sức mạnh vô cùng, thân thể lỉnh hoạt, khuyết điểm

duy nhất chính là thể hình quá lớn, vậy mới để gã và Merkin có cơ hội hết lần này đến lần khác

thoát hiểm trong gang tấc. Thể hình quá lớn! Gượm đã, Trác Mộc Cường Ba dường như đã

nhìn ra được sơ hở gì đó từ thể hình khổng 1ồ của đối phương, gã đột nhiên nói với Merkin:

"Nghĩ cách lên trên, đi trên tầng trên rồi, thể hình chúng lớn quá, trọng lượng quá nặng, không

lên được.”

Merkin lập tức hiểu ý, loại dây leo khổng lồ này quá kềnh càng nặng nề, chỉ có thể nghển

lên khỏi mặt đất một độ cao nhất định, ở dưới hồ, nhờ vào lực đẩy củ nước chúng mới có thể

co duỗi linh hoạt như vậy, còn trên mặt đất, chúng không thể không quấn vào một số loại cột

đá, hoặc men theo các lỗ hổng trên tường để mượn lực bò lên. Y nghiến răng nói: "Chẳng trách

bọn này lại thích chui rúc trong tường như thế."

Nói là một chuyện, làm lại là một chuyện khác, những dây leo to tướng đã vây kín bên

ngoài hành lang, cơ hồ giọt nước cũng khó mà lọt qua được, muốn lên được tầng trên, hai

người bọn họ gần như sẽ phải lướt qua sát sàn sạt trước vô số cái miệng khổng lồ đang há to,

chỉ cần bị bất cứ cái móc nào móc phải là có thể nói "bye bye" với Bạc Ba La thần miếu dược

rồi.

Trác Mộc Cuờng Ba lo lắng, cứ tiếp tục chạy thế này, thể lực của họ sẽ không đủ để chạy

lên tầng trên nữa, vội hét lớn: "Lên", rồi xông về phía một cây cột hành lang, còn Merkin cũng

xoay người lao về phía một cây cột khác.

Động tác của hai người gần như giống hệt nhau, đều là một chân đạp mạnh vào cột, mượn

sức bật lên, vươn tay móc vào mép hành lang tầng trên, rồi lộn nguời là có thể leo lên. Trác

Mộc Cường Ba tuơng đối may mắn, lúc gã lộn người lên không bị những sợi dây leo tóm

trúng, nhưng Merkin thì không được tốt số như vậy, giữa không trung, một sợi dây leo đen đúa

vung mạnh thân thể to tướng, quất mạnh vào Merkin, quét y bật ngược trở về.

Merkin chỉ kịp cảm thấy một luồng sức mạnh khổng lồ ập đến, thân thể đã bị nhấc bổng lên

không, mắt thấy mình sắp bị quăng về phía một sợi dây leo khác đang há ngoác miệng, y vội

vàng rút dao ra, cắm thẳng vào thân sợi dây leo vừa quét trúng mình, sau đó mặc cho sợi dây

leo ấy vùng vẫy quằn quại thế nào, y cũng nắm chặt cán dao, nhất quyết không chịu buông tay.

Trác Mộc Cường Ba vừa lên được tầng trên, lại nhảy bật lên một cú nữa, lộn người lên tầng

cao nhất, ngoảnh đầu nhìn lại liền thấy Merkin bị quăng qua quăng lại giữa lưng chừng không,

tình thế hết sức nguy cấp. Gã vội rút vũ khí, vừa bắn hạ những sợi dây leo đang có ý đồ tiếp

cận Merkin, đồng thời hét lớn: "Mau lên đây, Merkin!"

"Tôi lên được chắc!" Merkin thầm kêu khổ không thôi, nhắm chuẩn một cơ hội, mượn sức

quăng quật của dây leo, buông tay bay vút ra, loạng choạng rơi xuống hành lang tầng thứ tư

thở hổn hển.

Những gai nhọn trên thân dây leo kia hiển nhiên cũng không đơn giản chỉ là chân giả, trên

áo chống đạn của Merkin chúng đã để lại một hàng vết cào sâu hoắm.

“An toàn chưa?" Merkin ngồi phệt duới đất hỏi Trác Mộc Cường Ba.

“Hy vọng là thế." Câu trả lời của Trác Mộc Cường Ba chẳng khiến người nghe hài lòng chút

nào.

Merkin đến bên mép hành lang, chỉ thấy đám dây leo đen đúa đang nhao nhao quấn lên cột

đá, khí thế như thể không bắt được bọn họ thì quyết không buông tha.

Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó hiểu hỏi: "Rốt cuộc là chuyện gì vậy?"

Merkin đáp: "Hình thái sống nguyên thủy, bắt mồi, ăn, bài tiết."

Trác Mộc Cường Ba đáp: "Không, bọn chúng có nguồn thức ăn cố định, nếu không thì đã

chết từ lâu rồi, không có lẽ nào lại nhất quyết đuổi giết không tha chúng ta như thế. Vừa nãy,

chúng ta đang ở trong phạm vi tấn công của chúng thì còn lý giải được, giờ hai ta đã thoát khỏi

phạm vi tấn công ấy rồi, bọn chúng phải buông tha mới phải chứ. Còn nữa, ông xem đi, nếu

chúng thực sự muốn bám theo cột đá bò lên trên này, với khả năng cơ động cúa chúng, chắc

cũng không đến nổi chậm như vậy, phải không?"

Merkin nghĩ lại, tốc độ của những sợi dây leo kia quả hết sức chậm chạp, so với những đợt

tấn công như bão táp vừa nãy thì khác nhau một trời một vực. Cảm giác như thể bên duới

những sợi-dây leo kia bị đeo vào thứ gì đó hết sức nặng nề vậy. Y ngẫm nghĩ một thoáng rồi

mừng rỡ nói: “Tôi hiểu rồi, người Qua Ba cổ đại đã xích những thứ này dưới đáy hồ, khiến

chúng không thể tự do hoạt động được.”

Trác Mộc Cường Ba khe khẽ gật đầu, có lẽ Merkin có lý, chỉ có một điểm gã vẫn chưa hiểu

cho lắm, lẽ nào một nghìn năm truớc, người Qua Ba cổ đại đã xích từng ấy sợi dây leo quái dị

này xuống đáy hồ rồi ư? Theo như đoạn văn bia kia ghi lại, chủ của hồ tế chỉ có một thôi mà!

Hai người dĩ nhiên không thể biết được, những đoạn dây leo quấn chặt lấy cột hành lang,

hoàn toàn không phải vì muốn bắt bọn họ xơi tái, mà vì một lượng lớn nước lạnh tràn vào duới

đáy hồ đã khiến vị chủ nhân của hồ tế lạnh đến không thế chịu nổi và muốn trồi lên mặt nước

theo bản năng mà thôi. Chỉ là, thân thể của nó quá khổng lồ, cho dù muốn dịch chuyển trong

nước cũng cực kỳ khó khăn.

Thấy nguy cơ đã tạm thời qua đi, Trác Mộc Cường Ba và Merkin tranh thủ khôi phục lại thể

lực, đồng thời bắt đầu quan sát gian sảnh lớn. Gian sảnh này so với hành lang dưới đáy hồ lúc

nãy hiển nhiên là tàn tạ hơn rất nhiều, vách tuờng và mái vòm bị nước hồ xối rửa trơ trốc, để lộ

ra dấu vết nhân công đục đẽo hang đá nguyên thủy. Có điều, nó rất lớn, rất hùng vĩ! Dù là bản

thân đại sảnh hay những tuợng Phật lớn san sát dưới hồ, tất cả đều toát lên khí phách ngùn ngụt

khiến người ta phải sững sờ. Nghĩ đến cảnh tượng năm xưa khi đại sảnh này mới hoàn thành,

các bức Phật họa trên vách vẫn còn nguyên vẹn, tượng Phật sơn son thếp vàng, đèn đuốc sáng

ngời phản chiếu xuống nước hồ, nếu không có những quái vật đang quằn quại vùng vẫy kia,

thử hỏi khí thế phải lớn đến chừng nào! Huống hồ, lại còn cả cây cột ở giữa hồ kia nữa. Cũng

chỉ có trong gian đại đại sảnh khổng lồ cỡ này mới có thể nhìn thấy một cây cột vĩ đại chu vi

đến gần trăm mét như thế. Nếu khoét các lỗ nhỏ trên bốn mặt trơn nhẵn của nó, thoạt nhìn có

khác gì tòa nhà cao chọc trời đâu chứ?

Những sợi dây leo được gọi là "kubukubu" đâm chọc khắp nơi, bốn vách tường và các

tượng Phật đều bị chúng đâm xuyên qua, trông chẳng còn hình dạng ban đầu nữa. Nếu không

có ánh lửa chiếu sáng, Trác Mộc Cuờng Ba và Merkin đều đoán định, chắc chắn mình không

thể thoát chết.

Merkin tò mò bước lại gần một bát lửa, xem bên trong rốt cuộc là vật chất gì đang cháy. Chỉ

thấy trong bát là một khối chất rắn, trông như một cục sáp nến chưa tan hay một thứ vật chất

dạng keo. Từ trong vách đá, có một lỗ nhỏ đang không ngừng tiết ra thứ vật chất này. Merkin

lấy mũi súng khêu lấy một tí, chất keo sệt lập túc bùng cháy ngay trên mũi súng. Lúc y nhấc

mũi súng lên, thấy kéo ra những sợi tơ mảnh, thoạt trông như sợi bông thuốc súng đang cháy.

Cùng với quá trình đốt cháy, thứ vật chất ấy không ngừng tan ra, một phần hóa thành chất

lỏng, vừa cháy vừa rơi xuống đất, tạo ra một mảng lửa nhỏ cháy bừng bừng.

“Đây là gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Merkin lắc đầu: "Tôi cũng không biết. Chắc là một loại thể rắn cháy được nào đấy, có lẽ

hình thành do ảnh hưởng của địa nhiệt và núi lửa, kiểu như loại băng có thể cháy được dưới

đáy biển ấy, trải qua đè nén biến dạng, trong điều kiện thích hợp liền tạo nên một loại năng

lượng rắn cháy được."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Nếu không biết thì đừng nghiên cứu nữa, giờ chúng ta cần phải

nghĩ xem làm thế nào để thoát khỏi đây?”

"Tìm thấy đuờng ra rồi à?" Merkin đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, vừa nãy bọn họ chạy

vòng quanh hành lang, phát hiện thấy nơi này ngoài đường sông thì không còn lối ra nào khác.

Sở dĩ bọn họ từ đầu chí cuối vẫn không rời khỏi gian đại sảnh này, chính vì những dòng sông

kia đều chảy vào đây, nếu cứ men theo bờ sông đi ngược lên hiển nhiên là sẽ trở ra ngoài, nói

không chừng sẽ không bao giờ có cơ hội tiến vào trung tâm Bạc Ba La thần miếu nữa cũng

nên.

Trác Mộc Cường Ba chỉ vào cây cột lớn nhất nói: "Xem ra chỉ còn chỗ kia thôi." Suy nghĩ

của gã cũng rất đơn giản, tại sao người xưa phải xây một cái cột to như vậy? Hiển nhiên là bên

trong cây cột ấy có bố trí đường hầm. Trong gian đại sảnh này, ngoại trừ qua cây cột đó, chỉ

còn cách lặn xuống đáy hồ tìm lối ra, mà đáy hồ này thì... Trác Mộc Cường Ba thậm chí còn

không muốn nghĩ đến. Ý nghĩ ấy lóe lên trong đầu, Trác Mộc Cường Ba bèn giơ ống nhòm

điện tử lên quan sát, kết quả đúng như gã dự đoán, chỉ là bên trên có thêm ba cánh cửa khác

nữa.

Merkin cũng nghĩ đến khả năng này, y đón lấy ống nhòm trên tay Trác Mộc Cường Ba, băn

khoản hỏi: "Nhưng chúng ta làm sao qua bên đó được?"

Lúc nãy, khi chạy thục mạng, trông thấy những phiến đá nổi dập dềnh mà đám lính đánh

thuê chưa sử dụng, hai người đã nghĩ đây là phương tiện để đi ra giữa hồ rồi, nhưng cho dù biết

thì sao? Trong tình hình lúc đó, dừng nói là ra giữa hồ, chỉ riêng chuyện đến gần bờ hồ đối với

họ đã là chí mạng rồi. Tình thế trước mắt cũng vậy, tuy có rất nhiều dây leo đã quấn lên cột

hành lang, nhưng dưới nước vẫn tua tủa không biết bao nhiêu sợi dây leo khác, thoạt trông như

vô số những cây cọc màu đen lờ mờ đâm qua xuyên lại, chốc chốc lại có một cây cọc đột nhiên

xòe rộng cái miệng to tướng của nó ra, cảnh tượng cực kỳ quái dị. Trác Mộc Cường Ba ngẩng

đầu nhìn lên những đường tỏa ra như tia nắng trên trần, hỏi ý kiến Merkin: "Đi phía bên trên

được không?"

Merkin cả kinh, thốt lên: "Ý anh là, đeo người lơ lửng bám trần leo qua đó?" Đây là phương

pháp cực đoan nhất, nguy hiểm nhất trong các kỹ thuật leo bám vách đá, thân thể hoàn toàn lơ

lửng trên không trung, chỉ dựa vào Sức lực của các ngón tay bám vào khe nứt trên đỉnh đầu,

cho dù là cao thủ leo núi đỉnh cao có sức ngón tay mạnh đến mấy, dùng phương pháp này mà

dịch chuyển được tầm trăm mét là đã giỏi lắm rồi. Phỏng chừng khoảng cách từ chỗ họ đến

giữa hồ cũng tương đối xa. Merkin lắc đầu nói: "Không được, với thể lực hiện nay của tôi,

không đủ để cầm cự ra đến giữa hồ. Nếu để rơi xuống dưới..." Y liếc nhìn những cái miệng

đang há ngoác ra dưới nước, lo lắng nói: “Thì không hay lắm đâu.”

"Chẳng lẽ chúng ta chỉ biết nhìn thế này thôi à?” Trác Mộc Cường Ba hơi bực bội, gã tháo

ba lô xuống hỏi Merkin, “Các người có chuẩn bị công cụ gì không?”

Merkin cười khổ hỏi lại: “Vậy các anh đã chuẩn bị những công cụ gì rồi?”

Cả hai tắc tị, không nói được gì nữa. Họ đều chưa từng đến Bạc Ba La thần miếu, căn bản

không thể tưởng tượng nổi quang cảnh bên trong thế nào. Những thứ công cụ mà họ chuẩn bị,

dùng để thăm dò các kiến trúc cổ bình thường thì hoàn toàn đủ, nhưng ai có thể nghĩ ra trong

Bạc Ba La thần miếu lại có một gian đại sảnh khổng lồ như thế này? Lớn đến mức chứa được

cả một hồ nước bên trong. Mà đám người cổ đại ấy lại còn nuôi dưỡng ra thứ sinh vật kỳ quái

cả vũ khí hiện đại cũng chẳng thể làm gì nổi dưới kia nữa. Merkin có chuẩn bị súng bắn dây

nhưng độ dài dây thừng cùng lắm cũng chỉ được hai trăm mét, mà khẩu súng ấy lại không để

trong cái ba lô này. Trác Mộc Cuờng Ba có dây móc, nhưng sử dụng thiết bị này ở trần phẳng

đã cần kỹ xảo cực cao rồi, huống hồ nơi này lại là mái vòm hình bán cầu, dây móc bắn ra, thu

về, rồi bắn ra lần nữa căn bản không thể chạm tới đỉnh vòm.

"Anh chọn đi đường nào chưa?" Merkin đi vòng một đoạn hành lang, cũng chú ý đến bốn

cánh cửa ấy, liền chuyển sang chủ đề khác.

"Ừm," Trác Mộc Cường Ba khẳng định, "ông nhìn cái cột đá đó xem, ba mặt đều có dã thú,

chỉ có mặt kia là không, chọn cánh cửa ở mé bên phải mặt tường không có gì ấy." Giác quan

thứ sáu của Trác Mộc Cường Ba có thể nói là không tồi, gã không chút do dự chọn ngay cánh

cửa Đền Tội.

Có lẽ bị vẻ quả quyết của Trác Mộc Cường Ba tác động, hơn nữa đằng nào cũng phải chọn

một cánh cửa. Merkin cũng tán đồng luôn. Quái thú trên ba mặt tường kia to lớn như thế, trông

lại hung dữ cuồng loạn như thế, chẳng cần dùng ống nhòm vẫn đập vào mắt rõ mồn một, nói

không chừng thật sự tượng trưng cho thứ lực lượng tà ác nào đấy cũng nên. Trác Mộc Cường

Ba cảm thấy có một bức điêu khắc trông khá quen thuộc, nhưng gã lại cho rằng đó là tại mình

nghiên cứu quá nhiều tượng Phật của Mật giáo, mà những tượng Phật và quái thú trong Mật

giáo đều tương đối hung dữ, nhìn cũng giống giống nhau. Merkin cũng có cùng một cảm giác

như thế.

Gian phòng đá trượt xuống trên mặt phẳng dốc khoảng gần ba mươi độ, mới đầu còn tương

đối chậm, sau đó, tốc độ mỗi lúc một nhanh, người bên trong như đứng trong một cái thang

máy khổng lồ, cùng với gia tốc rơi, tim họ đều như sắp nhảy lên đến cổ họng. Ma sát do gia tốc

gây ra khiến mặt sàn gian phòng rung lên bần bật, mới đầu còn trông thấy một số viên đá nhỏ

nảy lật bật, nhưng rồi mức chấn động tăng dần không thấy những viên đá ấy chuyên động nữa,

thay vào đó là một thứ âm thanh xoáy tròn gần giống như lúc máy bay khởi động.

Đường hầm trượt xuống dường như kéo dài vô tận, chỉ có một vài cá nhân cảm nhận được

họ lại đi xuống theo đuờng xoáy ốc. Chỉ những người này mới cảm thấy sự nghiêng lệch rất

nhỏ do quán tính gây ra. Pháp Sư Á La lẳng lặng đếm số lần hít thở và mạch đập của mình,

cộng với sự phụ trợ của sóng âm để phán toán tốc độ. Một trăm km/h, hai trăm, ba trăm, ba

trăm năm mươi, và vẫn đang tiếp tục tăng nhanh. Tốc độ truợt xuống của gian phòng đá mỗi

lúc một nhanh, pháp sư Á La nhận ra nhịp tim và mạch đập của mình cũng đang gia tốc, hiển

nhiên, tốc độ này đã vượt quá giới hạn mà trình độ tu luyện và thương thế của ông có thể chịu

đựng nổi. Pháp sư liếc sang phía Lữ Cánh Nam, thấy sắc mặt cô đanh lại, hiển nhiên cũng đang

điều chỉnh nhịp thở hòng chống chọi tốc độ không ngừng tăng lên chóng mặt đó. Ồng lại nhìn

sang phía bọn lính đánh thuê, sắc mặt chúng càng khó coi hơn nữa, đã có mấy tên sắp nôn ọe,

dường như chỉ có một mình người trẻ tuổi là trông như chẳng có chuyện gì xảy ra vậy. Thực ra

sắc mặt người trẻ tuổi cũng chẳng dễ chịu gì, nhưng khác với những người còn lại, y không hề

kinh hoảng, chỉ căm tức và giận dữ. Vì đám dây leo đen đâm thủng mấy lỗ trên trần, trong lúc

gian phòng tăng tốc tiến lên, chốc chốc lại có một ít cát mịn rơi xuống lả tả. Người trẻ tuổi bắt

lấy những hạt cát mịn đó, khe khẽ miết trên đầu ngón tay. Cát rất mịn, rất trơn, giống như phấn

trang điểm thoa mặt vậy, hiển nhiên nguời xưa đã dùng thứ cát này làm chất bôi trơn giúp gian

phòng đá chuyến động được dễ dàng hơn. Có điều, trong mắt người trẻ tuổi, việc xuất hiện thứ

cát nhân tạo cực mịn chỉ chứng tỏ rằng, trong tòa kiến trúc này sẽ xuất hiện rất nhiều những cơ

quan cạm bẫy mà y không hề muốn gặp phải. Đối với những cạm bẫy đó, ngay cả y cũng đành

bó tay, hoàn toàn không có cách gì ứng phó. Y rủa thầm trong bụng: “Tại sao ở Trung Quốc lại

xuất hiện lão Gia Cát Lượng chứ?”

Gian phòng đá vẫn không ngừng tăng tốc, tiếng rít sắc nhọn mỗi lúc một cao hơn, cảm giác

như thể đang ngồi trên xe trượt siêu tốc lao xuống con dốc thẳng đứng vậy, có điều là con dốc

này quá dài. Những cỗ quan tài ghép từ đá phiến kia cuối cùng cũng không chịu nổi chấn động

tốc độ cao, lần lượt gồ ra ngoài, mà không chỉ quan tài đá, dường như cả gian phòng đá kín mít

này cũng sắp bị lực ma sát làm cho rời ra đến nơi. Tim mỗi người đều treo ngược cả lên, đang

lao đi với tốc độ cao như vậy, nếu gian phòng vỡ tung ra, chỉ sợ tất cả những nguời ở đây

không ai có thể thoát chết.

Hai tên lính đánh thuê giữ hai đầu khẩu súng đã bị rung động khiến cho tê chồn cả tay lẫn

chân, nhìn ba cỗ quan tài đá có thể long ra từng mảnh bất cứ lúc nào, chúng sợ hãi nói: "Đã, đã

xoay được chưa ạ? Ngài Thomas?"

Người trẻ tuổi nhìn không chớp mắt vào ba cỗ quan tài còn lại, trầm giọng nói: "Đợi thêm

chút nữa, đợi đã...” Đồng thời, hai tai y dỏng lên, chăm chú lắng nghe tiếng rít chói tai, rốt

cuộc cũng là bọn họ may mắn, khi quan tải đá gần như vỡ tung ra, tiếng rít lại bắt đầu yếu dần,

còn mặt phẳng dốc ba mươi độ cũng từ từ biến đổi, chỉ thoáng sau độ dốc đã giảm xuống còn

không độ.

Cả bọn vừa thở phào nhẹ nhõm, bỗng nghe “cạch cạch” một tiếng, cả ba cỗ quan tài đá cùng

lúc vỡ tung ra, phỏng chừng đang nhắc nhở bọn họ, tuy đã đến đoạn đường phẳng, nhưng gian

phòng đá này vẫn lao vụt đi với tốc độ như một viên đạn.

Người trẻ tuổi nhắc nhở những tên lính đánh thuê phía trước: "Đứng lùi lại một chút đề

phòng có va chạm mạnh." Bọn lính đánh thuê vừa nghe vậy, vội nhao nhao lùi ra sau, chỉ nghe

tiếng "bịch bịch", đã có mấy tên ngã bổ nhào bổ ngửa, nhưng là vì đứng lâu quá, hai chân bị

ảnh huởng của chấn động thành ra mất cảm giác. Pháp sư Á La nhắm mắt lắng nghe, trong

tiếng rít đang không ngừng yếu dần, chốc chốc lại vẳng lên một tiếng "coong", nghe như đá

tảng ma sát với kim loại. Người trẻ tuổi cũng chú ý lắng nghe âm thanh ấy, đồng thời thầm

đếm: "Mười, chín, tám, ba, hai, một!"

Y vừa đếm dứt số một, bỗng nghe "ầm" một tiếng, vách tuờng phía trước gian phòng đá

thình lình vỡ tung ra, cả gian phòng chấn động dữ dội, dừng sững lại. Người bên trong đều ngả

nghiêng ngã ngửa, thậm chí cả pháp sư Á La cũng không tránh khỏi, duy chỉ có người trẻ tuổi

đã chuẩn bị sẵn từ trước là đứng được, song y cũng không thể trụ vững, liên tiếp lùi bảy tám

bước, lưng đập vào vách sau của gian phòng đá.

Bọn lính đánh thuê rên rỉ bò dậy, chỉ thấy một cái bánh xe hình con thoi khổng lồ lộ ra ở

chỗ tường vỡ. Vừa rồi, gian phòng đá đã va đập chính diện với nó, khiến cả bức tường sập

xuống, cú va chạm mạnh mẽ đồng thời cũng phá hoại chốt lẫy gì đó của bánh xe, sau khi gian

phòng đá dừng lại, chiếc bánh xe khổng lồ ấy liền chầm chậm tăng tốc chuyển động theo một

quỹ đạo khác.

Khi bánh xe khổng lồ đó lăn đi, người trẻ tuổi lập tức rảo chân bước ra phía trước bức tường

bị đổ sập, đưa mắt liếc nhìn xung quanh rồi quay đầu lại nói: "Các vị, hoan nghênh đến với Bạc

Ba La thần miếu!" Kế đó, y cũng dịch người theo hướng chuyển động của bánh xe, nhường ra

một lối.

CÁNH CỬA CHUỘC TỘI

Cảnh tượng trước mặt cả bọn đột ngột biến đổi, một tòa cung điện hùng vĩ nguy nga bằng đá

tảng xuất hiện ngay trước mắt. Cảm giác đầu tiên nó đem đến cho bọn họ là "to lớn", như thể

họ vừa chui từ trong hang động ra thảo nguyên mênh mông vậy, hiệu ứng thị giác trời đất bao

la trải dài vô tận khiến quả tim vừa nãy vẫn còn treo lơ lửng của mọi người lập tức trầm xuống,

tựa hồ rơi vào một nơi vô cùng dễ chịu.

Những cây cột khổng lồ, những tượng Phật khổng lồ, những phiến đá lát sàn khổng lồ, khi

mỗi người nhìn thấy diện mạo thực sự của tòa thần miếu dưới lòng đất này, cảm giác đầu tiên

là thấy mình thật nhỏ bé. Họ giống như một lũ kiến ở bên trong hộp diêm được đưa đến một

phòng khách thật sự vậy. Những ngọn lửa cháy bừng bừng khắp nơi kia, có lẽ được đốt lên từ

lúc họ ở phía hồ tế, hoặc được đốt lên khi gian phòng đá va chạm với bánh xe, song điều này

đã không còn quan trọng nữa, chi riêng những phiến đá lát sàn trơn bóng như guơng dưới chan

cũng đã đủ thu hút ánh mắt bọn họ rồi. Chẳng những vậy, xung quanh họ còn vô số tượng Phật

trang nghiêm, uy vũ đứng sừng sững.

Trong lúc cả đám lính đánh thuê vẫn đang chìm đắm trong cảm giác hoan hỉ đến sững sờ ấy,

người trẻ tuổi đã nhanh nhạy phát hiện được cú va chạm của bánh xe vừa nãy sau khi nó dịch

chuyển sang một quỹ đạo khác. Liền ngay sau đó, từ phía sau lưng bọn họ bỗng truyền lại

những chấn động mạnh mẽ. Y vội hét lên với bọn lính đánh thuê còn đang ngay người ra trong

gian phòng đá: "Mau chạy ra, lối thoát này sắp bị bít kín rồi."

Khi toàn bộ bọn lính đánh thuê vừa ra khỏi gian phòng đá, lại xảy ra một trận va chạm cực

mạnh, phía trên dốc nghiêng trượt xuống không biết bao nhiêu khối đá thể tích tương đương

với gian phòng, nghiền nát gian phòng đá thành một đống đá vụn, đồng thời bít kín con đường

bọn họ dùng để tiến vào nơi này.

Đại đa số lính đánh thuê đều đắm chìm trong sự chấn động khiến người ta tưởng chừng

nghẹt thở ấy, chỉ một bộ phận nhỏ bắt đầu hoảng loạn. Người trẻ tuổi nói: "Không cần lo lắng,

tất sẽ có lối ra khác, người xưa làm vậy chỉ là để khiến bọn trộm vặt thèm muốn bảo vật nảy

sinh lòng tuyệt vọng mà thôi. Giờ tất cả có thể nghỉ ngơi tại chỗ, nếu thấy thứ gì vừa mắt cứ

thoải mái mà lấy, chẳng ai ngăn cản chúng mày cả, nhưng tao cũng phải nhắc nhở chúng mày

một câu, chúng ta càng tiến sâu vào bên trong, những thứ chúng mày trông thấy sẽ càng tốt hơn

gấp bội, đến lúc ấy không tìm được thứ gì để chứa thì đừng trách tao không nói trước đấy nhé."

Bọn lính đánh thuê hân hoan nhận lệnh, tên nào tên nấy còn hưng phấn hơn cả uống thuốc

kích thích, toàn bộ vẻ mệt mỏi ủ rũ đã bay biến đi đâu mất. Lữ Cánh Nam khinh miệt liếc nhìn

bọn lính ô hợp, rồi bước đến bên cạnh pháp sư Á La, cùng pháp sư ngước lên quan sát tòa

thánh điện của các bậc tiền nhân để lại với ánh mắt sùng kính. Người trẻ tuổi đứng cách bọn họ

không xa lắm, ánh mắt cũng nhìn về cùng một hướng với pháp sư Á La, trên một chiếc bàn cao

lớn, có khắc mấy hàng chữ.

"Những kẻ mê đắm trong tham lam, sẽ rơi vào vực sâu vô tận." Người trẻ tuổi đọc lên bằng

tiếng Trung, cười khẩy một tiếng.

Cùng lúc bánh xe khởi động cơ quan và gian phòng đá bị nghiền nát, phía trên hồ tế cũng

xảy ra một vài biến cố. Đầu tiên, chấn động dữ dội lan tới, không chỉ Trác Mộc Cường Ba và

Merkin cảm thấy không ổn, mà ngay cả vị chủ nhân dưới đáy hồ cũng thấy không ổn, nó càng

cuồng loạn vung vẩy hơn hòng nhanh chóng rời khỏi đáy hồ băng lạnh. Nhưng thể tích của nó

dường như quá lớn, làm vậy chỉ khiến một số tượng đá khổng lồ ló lên mặt nước bị đẩy ngã, đổ

vật về phía hành lang tròn xung quanh hồ, cộng với chấn động dưới đáy hồ, làm cả đại sảnh

khổng 1ồ rung lên bần bật, cảm giác như thể đất long núi lở đến nơi. Trác Mộc Cường Ba và

Merkin cẩn thận vịn tay vào vách tường, không hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Đến khi chấn động yếu dần, Merkin và Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn ra giữa hồ quan

sát. “Trời đất, anh có nhìn thấy không?” Merkin kinh hãi thốt lên.

Trác Mộc Cường Ba nói: "Lớn như vậy, ai mà không nhìn thấy chứ."

Lúc này, một vật thể khổng lồ lù lù xuất hiện ở chính giữa hồ tế, thể tích của nó áng chừng

chiếm khoảng một phần tư hồ nước, thân thể mập mạp, phần lộ ra khỏi mặt nước là một lớp

biểu bì mọc đầy xúc tu. Thân thể nó quá to lớn, thành thử rất nhiều chỗ bị kẹt giữa các tượng

Phật bằng đá, nhưng vì nó quá khỏe, nên các tượng đá đều bị lèn cho ngã nghiêng ngã ngửa.

Cái thứ ấy, bảo là sao biển, nhím biển, hải sâm, hải quỳ hay san hô, cá mực, bạch tuộc, cũng

đều không sai, dẫu sao Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới chỉ nhìn thấy một phần thân thể nó

mà thôi. Lớp biểu bì ấy không ngừng phồng lên xẹp xuống như một con cá nóc đang tức giận,

nối liền với rất nhiều dây leo đen đúa. Đến giờ, Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới hiểu, thứ

trước đó họ trông thấy chỉ là xúc tu của con quái vật mà thôi. Độ dài những xúc tu này không

đồng đều, từ mấy chục mét đến mấy trăm mét. Xúc tu màu đen hiển nhiên là những phần đã

trưởng thành, bên cạnh chúng còn rất nhiều xúc tu khác màu trắng sữa hay trong nhờ, ngắn hơn

nhiều, từng cụm từng cụm trong như xúc tu của hải quỳ; bên trong những xúc tu trong nhờ kia,

lại loáng thoáng trông thấy những sợi đen nhu động không theo quy luật nào cả, như một loại

ký sinh trùng đang sống ký sinh trong đó, hoặc cũng có thể những xúc tu đó có công dụng

khác; lại có một số xúc tu khác vừa nhỏ vừa dài, nhìn bề ngoài hơi giống hải sâm, lúc thò ra lúc

thụt vào. Nói một cách tương đối hình tượng, con quái vật này giống như một đàn đủ các

chủng loại thuộc họ rắn, đuôi mọc dính vào nhau, nhưng mỗi con rắn lại đều có thể hành động

độc lập.

Trông thấy con quái vật chưa từng gặp bao giờ, Trác Mộc Cường Ba và Merkin kinh ngạc

đến nỗi không thốt nên lời.

Liên tưởng đến đoạn văn khác trong hầm mộ, Trác Mộc Cường Ba mới sực hiểu ra: "Hồ tế

chỉ có một chủ nhân duy nhất, cái hồ này có lẽ thông với hồ lớn bên ngoài, con quái này chui

vào đây, ăn đến nỗi béo ú ra, nên không chui ra được nữa."

Merkin lại chú ý đến một sự kiện khác, vội nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba: ”Nhìn xem, có

đường rồi!”

Thì ra, những bức tượng Phật bị chủ nhân hồ tế chèn cho đổ nghiêng ngả dồn đống, không

ngờ đã nối lại thành một cây cầu, tuy rằng cây cầu này tạo thành bởi rất nhiều tượng Phật và

cột trụ mọc đầy rêu xanh trơn nhấy, nhưng cả Trác Mộc Cường Ba lẫn Merkin chỉ liếc một cái

đã phác ngay trong đầu tuyến đường ra cây cột lớn ở giữa hồ,

"Đi thôi." Trác Mộc Cường Ba bắt đầu hít thở sâu, chuẩn bị cho một loạt các cú nhảy liên

hoàn tiếp sau đố. Bọn họ cần phải rời khỏi nơi này trước khi con quái vật bò lên khỏi đáy hồ.

Bọn họ men theo các tượng Phật đạp tường nhảy lên, bước chân uyển chuyển như mèo,

động tác nhanh như vượn, Trác Mộc Cường Ba thậm chí còn dùng cả dây móc để dẫn dụ xúc

tu đang bổ về phía Merkin. Sau một loạt những động tác như chạy Parkour, hai người rốt cuộc

cũng đến được giữa hồ, tới trước cánh cửa Trác Mộc Cường Ba đã chọn từ trước, chỉ bị mấy

phen kinh hãi chứ không gặp hung hiểm gì.

Các bậc thang vươn dài xuống dưới, những ngọn lửa nhảy nhót không ngừng hân hoan dẫn

đường cho bọn họ, chỗ cạnh cửa gồ lên một ký hiệu hình như mũi dùi. Trác Mộc Cuờng Ba

trông thấy ký hiệu đó, thoáng ngẩn người, gã chưa từng thấy ký hiệu nào giống như thế cả.

Trên khung cửa màu vàng kim còn có một hàng chữ nhỏ, Trác Mộc Cuờng Ba ngẫm nghĩ giây

lát rồi dịch ra thành: "Cần mang theo trái tim thành kính tiến về phía trước." Nhưng gã lại bỏ

qua mất một ý nghĩa khác của hàng chữ ấy: "Con đuờng chuộc tội."

Merkin nghi hoặc nhìn khung cửa màu vàng kim trước mặt, lờ mờ nhớ hồi nhỏ dường như y

đã nhìn thấy thứ tương tự như vậy ở đâu đó rồi, ông nội y từng nói, khung cửa màu vàng kim

này có một hàm nghĩa đặc biệt, dù là ở quốc gia nào, dân tộc nào, ý nghĩa đó cũng tương thông

với nhau.

Hai người đi xuống cầu thang hình xoắn ốc theo chiều từ phải sang trái, đoạn đường đầu

tiên gần như giống với nhóm lính đánh thuê, chỉ là ở cuối cầu thang không phải một gian

phòng đá rộng hai trăm mét vuông. mà là một kiến trúc kiểu như điện thờ lớn. Tòa đại điện này

cao khoảng mười mét, hẹp và dài, ở giữa là một con đường đá xanh rộng chừng vài mét, hai

bên có các loại tượng tạo hình khác nhau, tuy so với cung điện mà bọn lính đánh thuê trông

thấy thì nhỏ bé hơn nhiều, nhưng đối với Trác Mộc Cường Ba và Merkin, đây vẫn là một điện

thờ trang nghiêm hùng vĩ.

“Đây chính là Bạc Ba La thần miếu?” Giọng Merkin không giấu nổi vẻ thất vọng, so với

đoaạn hành lang dưới đáy hồ hai người đi qua lúc trước, nơi này không khỏi có hơi quá đơn sơ

tầm thường.

Tượng đá, mặt sàn và cột hành lang đều điêu khắc trần, không tô màu, thậm chí vẫn còn dấu

vết đục đẽo khá rõ rệt, ngoài ra cũng không bày biện bất cứ đồ trang trí đẹp đẽ tinh xảo gì, duy

chỉ có hai hàng ngọn lửa nhảy nhót không ngừng, làm cả gian đại điện càng toát lên vẻ âm u

tăm tối.

Trác Mộc Cường Ba chú ý đến những bức tượng cao bảy tám mét ở hai bên con đường lát

đá. Không thể nói những bức tượng này là tượng Phật được, Trác Mộc Cường Ba đã tìm hiểu

đại thể về hệ thống tượng Phật của Mật giáo, tuy đa số tượng Phật trong hệ thống này đều

mang tướng mạo phẫn nộ, bộ dạng cực kỳ hung ác, nhưng gã vẫn có thể dựa trên những tạo

hình ấy mà phán đoán được dụng ý của người xưa. Còn những bức tượng này, đều là những tạo

hình Trác Mộc Cường Ba chưa từng gặp bao giờ. Toàn bộ các bức tượng trong gian điện này

có bụng to, mặt nung núc thịt, hơi giống với Phật Di Lặc đang toét miệng cười nhưng hiển

nhiên không phải là tuợng Phật Di Lặc. Y phục của các bức tượng rất quái dị, đa phần có tóc,

một số còn đội những chiếc mũ kỳ lạ, hoặc mọc sừng, hoặc mũi lợn miệng rắn, đường nét đơn

giản mà thô lậu vụng về.

Thứ khiến gian đại điện trở nên âm u, chính là bụng của những bức tượng ấy.

Những cái bụng phình lên trông như bụng bà chửa mười tháng, bên trên còn được người

xưa điêu khắc những hình tượng ghê rợn. Có cái bụng mọc ra một cái miệng đang há ngoác

nhe răng cười, có cái lại vươn ra ba bốn cánh tay trẻ con, có cái mọc đầy những con mắt, có cái

thì vỡ toác, để lộ một động vật nửa người nửa thú bên trong.

Trác Mộc Cuờng Ba lấy máy tính của giáo sư Phương Tân ra, chụp ảnh một số bức tượng

rồi tiến hành so sánh đối chiếu với các hình ảnh lưu sẵn trong máy, không ngờ lại tìm được một

bức ảnh tuơng tụ. Đó là ảnh chụp tượng điêu khắc khai quật được ở khu vực A Lý, theo khảo

chứng thì có lẽ thuộc về thời kỳ văn minh Tượng Hùng. Có điều, bức tượng này nhỏ hơn nhiều

so với những bức ở trước mắt họ lúc này, chiều cao không đến sáu muơi xăng ti mét, song

đường nét cũng thô kệch và quái dị như thế, đầu lợn, bụng phình to, trông như yêu quái lợn

thành tinh vậy. Ở phần ghi chú của bức ảnh có viết: "Nghi là thần linh của thời kỳ cổ đại mông

muội, hoặc có liên quan đến Bản giáo cổ đại, trước mắt vẫn chưa phát hiện tác phẩm điêu khắc

nào tương tự." Còn ở hàng ý nghĩa tượng trưng và ý nghĩa thờ cúng chỉ thấy ghi: "Chờ khảo

chứng."

Trác Mộc Cường Ba nói với Merkin: "Đây có lẽ là những thần linh cổ đại nửa người nửa

thú ở thời kỳ văn minh Tượng Hùng, nói không chừng chỉ là một con đường dẫn đến Bạc Ba

La thần miếu, không thể coi là thần miếu được."

"Ừm." Merkin cũng cho là vậy.

Hai người men theo con đường lát đá ở giữa, nhận thấy đại điện này tổng cộng có hai mươi

mấy tượng thần. Cảm giác bị những thần linh quái dị ở hai bên đường cúi nhìn chằm chằm thật

chẳng dễ chịu chút nào, may mà hai người cũng đã đi đến cuối gian điện. Sâu bên trong đại

điện chỉ có một cánh cửa nhỏ bị khóa chặt, hai bên là tường cao sừng sững. Trác Mộc Cường

Ba nhìn hàng chữ lớn trên bức tường, lại càng thêm khẳng định con đuờng mình chọn là đúng.

Những chữ khác trên bức tường này giống hệt như chữ khắc phía bên ngoài thần miếu: "Một

người huyết thống thuần chủng, một nguời trí tuệ tuyệt luân, một người không sợ hãi, thân thủ

tuyệt thế!

"Thấy chưa?” Trác Mộc Cường Ba chỉ hàng chữ lớn đó, nói với Merkin.

Merkin gật đầu, vuốt tay lên mép cửa nói: "Thần miếu này..." Y chợt trông thấy bên cạnh

cửa có một lỗ nhỏ hình vuông, vừa khéo ở ngay bên dưới mấy chữ "một người huyết thống

thuần chính", Merkin giơ đèn lên chiếu thử, rồi thò tay vào trong thì Mộc Cường Ba nhắc nhở:

"Cẩn thận có bẫy."

Merkin ngoảnh đầu lại liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba, đây là lần đầu tiên gã nhắc nhở y cẩn

thận, thoáng sau đó, y rụt tay: "Bên trong có một cái tay nắm, nhưng tôi không sao nhúc nhích

nó được."

Trác Mộc Cường Ba cũng thò tay vào trong xem thử chợt nghe "cách cách" một tiếng, kế đó

là âm thanh "ù ù", cánh cửa đá đã từ từ nâng lên. Merkin ngạc nhiên thốt: "Anh làm thế nào

vậy?"

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu đáp: "Tôi cũng không lung lay được, không hiểu chuyện gì

nữa." Song cả hai người cũng khỏng muốn tìm hiểu kỹ thêm, chỉ nhìn ra phía ngoài cánh cửa,

bên ngoài không có đèn đuốc gì, chỉ thấy một mảng tối om như mực, làn gió ấm kèm theo mùi

đất ẩm thổi táp vào mặt.

“Thế này là sao?” Trác Mộc Cuông Ba bước lên hai bước, đột nhiên bị Merkin vươn tay kéo

lại. Merkin dường như vẫn chưa hết kinh hoảng, trầm giọng nói: "Hết đường rồi."

Trác Mộc Cuờng Ba chiếu đèn pha xuống dưới, cũng không khỏi toát cả mồ hôi lạnh, bên

ngoài cánh cửa kia chẳng ngờ lại là một khoảng không, gã chỉ cần bước thêm một bước nữa

thôi là không biết ngã lăn xuống đâu rồi. Trác Mộc Cường Ba vịn tay vào khung cửa nhìn

xuống dưới, chỉ thấy một vùng tăm tối mịt mùng, không biết sâu đến bao nhiêu. Gã lại thò đầu

nhìn sang hai bên trái phải, không ngờ cũng trống rỗng, cánh cửa này mở ra ở giữa vách đá

dựng đứng, mà vách đá này dường như lại ở trong bụng một ngọn núi nào đó.

Sao lại hết đường? Gã đang nửa kinh hãi nửa nghi hoặc, phía đối diện bỗng vẳng lại tiếng

“cách cách”, tựa như có thứ gì dó đang tiến lại phía này. Merkin ủ rũ nói: “Là cơ quan liên

hoàn, đều tại chúng ta nóng nảy quá."

Phía đối diện có một chiếc cầu vươn tới. Chiếc cầu này, có lẽ gọi là cái thang thì hợp lý hơn.

Kết cấu của nó giống như đường ray xe lửa, được chế tạo từ vật liệu không phải kim loại, cũng

không phải đá, vươn ra từng bậc từng bậc một. Loại cơ quan này Trác Mộc Cường Ba cùng

biết, gã buột miệng thốt lên: "Công nghệ thang máy của Lỗ Ban."

Merkin nói: "Ừm, bên trên hình như có chữ." Phía trước thang máy còn có hai cây cột

không lớn lắm, trông giống như cột đá kỷ niệm lúc xây cầu, Trác Mộc Cuờng Ba cẩn thận đọc

hàng chữ khắc trên đó, rồi dịch ra: "Người bước lên con đường này, đừng bao giờ... đừng bao

giờ bỏ cuộc? Ừm, ý là phía trước có thể gặp khó khăn, nhưng chỉ cần kiên trì ắt sẽ giành được

thắng lợi."

Merkin đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, vẻ mặt đầy nghi hoặc, đối với trình độ dịch thuật

của Trác Mộc Cường Ba, y không khỏi nảy sinh lòng ngờ vực. Bản thân Trác Mộc Cường Ba

cũng đang nghĩ: "Hình như không phải từ bỏ? Đừng bao giờ gì đây nhỉ? Ừm, tư liệu về mặt

này trong máy tính của thầy giáo ít quá."

Hai nguời hết sức dè dặt bước lên thang máy, giữa các bậc thang này trống không, hai bên

lại không có tay vịn, bước hụt một bước là tiêu đời ngay.

Đi trên thang máy, đèn pha mới miễn cưỡng chiếu được sang tới vách đá đối diện, chắn

ngang trước mặt họ, 1ờ mờ có thể trông thấy một sạn đạo(14), còn mé bên trái và mé bên phải đều là núi đá. Hiển nhiên, địa hình này cũng được hình thành trong tự nhiên, giống như khe nứt

lớn dưới lòng đất ở Cổ Cách vậy, chẳng qua những khe nứt ngầm này không chỉ có một, mà

đan xen nhau chằng chịt tỏa ra khắp bốn phía như một mạng nhện khổng lồ, bên dưới sâu thăm

thẳm, không biết là gì. Người Qua Ba cổ đại đã xây dựng các sạn đạo ruột dê men theo vách đá

dựng đứng, đuờng đi quanh co, không rõ là thông đến nơi nào.

Phía trên sạn đạo có ánh sáng, nhưng không sáng rõ như đèn đuốc, mà chỉ là ánh huỳnh

quang leo lét. Vì khoảng cách xa, ánh sáng lại quá mờ nhạt, nên bọn Trác Mộc Cường Ba và

Merkin dùng ống nhòm cũng không nhìn rõ được thứ gì đang phát sáng, chỉ biết là không có

phản ứng hồng ngoại. Sang đến đầu bên kia của thang máy, Trác Mộc Cường Ba và Merkin

mới phát hiện, thứ phát ra ánh sáng ấy hóa ra là những viên đá nhỏ khảm trên vách đá, cũng

không biết do con ngưởi khảm lên hay tự hình thành nữa. Những viên đá nhỏ này phát ra ánh

sáng dìu dịu màu xanh nhạt, độ sáng thực ra rất thấp, ánh sáng của viên đá lớn nhất cũng chỉ

chiếu được trong vòng bốn mươi xăng ti mét quanh nó, có điều số lượng những viên đá phát

sáng này rất nhiều, cả một vách đá khảm đầy những viên đá lớn nhỏ tựa như một bầu trời đầy

sao, thoắt sáng thoắt tối, nhấp nháy không theo một quy luật nào. Thi thoảng lại thấy phía dưới

khe nứt dâng lên một màn sương mỏng, tựa như phủ lên những ngôi sao màu xanh nhạt này

một tầng sa nhẹ, hình thành nên những quầng sáng mong manh, nhạt dần rồi tan biến.

“Đây là...” Kiến thức về mặt địa chất mà Lữ Cánh Nam truyền thụ cho bọn Trác Mộc

Cường Ba có thể nói là không nhiều lắm.

“Đây chắc là một loại fluorite, nghe nói loại đá này hình thành trong miệng núi lửa, có thể

phát ra ánh huỳnh quang nhàn nhạt trong thời gian dài, độ cứng không cao lắm, nhưng vì số

lượng quá ít nên không nhiều người biết đến, xưa nay vẫn chưa chính thức được liệt vào hàng

ngũ các loại đá quý." Merkin đưa ra nhận xét từ góc độ của một chuyên gia về đá quý, sau đó

lại thở dài cảm thán; "Đây tuyệt đối có thể coi là một kỳ quan của tự nhiên, thật nhiều quá đi

mất."

Hai người một trước một sau đi trên con đường ruột dê, vì phần dưới sạn đạo này không

được chống đỡ theo góc nghiêng tạo thành hình tam giác, mà do những thanh rường đá trực

tiếp cắm thẳng vào lỗ khoét trên vách đá, mới đầu Trác Mộc Cường Ba và Merkin còn lo

chúng không đủ chắc chắn, đi được vài bước cảm thấy dưới chân vững như bàn thạch, bèn rảo

chân bước nhanh hơn. Những viên bảo thạch màu xanh lam lập lòe chớp sáng kia như một sự

dụ hoặc thần bí, dẫn đường cho bọn họ tiến lên phía trước.

Có điều hai nguời không biết, lúc này cánh cửa đá bọn họ mở ra kia đang chầm chậm hạ

xuống như đồng hồ cát chảy, còn các tuợng thần quái dị trong gian đại điện cũng bắt đầu lần

lượt chuyển động, những cái miệng ngoác to trông như đang cười nghiêng ngả.

Đi được một đoạn đường, Merkin dần sinh lòng nghi hoặc với con đường nhỏ nhuốm sắc

lam nhàn nhạt này, y cảm thấy có gì đó không ổn, song lại không tìm ra nguyèn nhân. Trác

Mộc Cuờng Ba vẫn là người có phản ứng trước, xem chừng, những viên đá chớp sáng lập lòe

này dường như có thể mang đến một số ảo ảnh thị giác, đồng thời sạn đạo nhỏ không có tay vịn

và vực sâu vô tận tối tăm phía dưới cũng tạo thành một dạng hiệu ứng đặc biệt. Cơ thể bọn họ

đang tự điều chỉnh một cách vô thức, Trác Mộc Cường Ba phát giác, thân thể mình dường như

trở nên nhẹ hơn, rõ ràng là hiệu ứng thị giác kia đã khiến gã có cảm giác không thực chất.

"Đi nhanh lên," Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở, "khi não bộ hoàn toàn cho rằng chúng ta

đang bay, chúng ta sẽ không thể khống chế được cơ thể này nữa đâu."

Merkin đấm mạnh vào mấy viên đá phát sáng trên vách núi, sự đau đớn kích thích y hồi

phục lại một phần cảm giác chân thực, kế đó, y bỗng giơ tay ra chỗ ánh sáng nhìn chăm chú.

“Sao thế hả?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Merkin lắc đầu: “Không có gì, tay tôi không hiểu bị thương từ lúc nào, có một vết thương

rất nhỏ. Kích thích có thể khiến anh thoát khỏi ảo giác, thử xem.”

Trác Mộc Cường Ba vẫn tiếp tục tiến lên, nói: “Tôi không cần.” Gã nghĩ đến bàn tay bị

thương của Merkin, cũng không kìm được xòe tay ra xem thử. Kỳ lạ, lòng bàn tay gã cũng có

một vết thương rất nhỏ, nhưng không thấy đau đớn gì, đến giờ nhìn thấy mới có cảm giác hơi

tê tê. Trác Mộc Cường Ba bỗng nảy sinh liên tưởng: “Chẳng lẽ là do lúc nãy mở cửa?”

CON ĐƯỜNG KHÔNG THỂ QUAY ĐẦU

Một đợt chấn động lan đến làm nhiễu loạn dòng suy nghĩ của Trác Mộc Cường Ba, gã dừng

lại đưa mắt quan sát xung quanh, nhưng không thấy gì khác thường cả. Trác Mộc Cường Ba

bất giác tự nhủ: "Chẳng lẽ lại là ảo giác?" Ngoảnh đầu ra phía sau, gã thấy Merkin đang ngạc

nhiên hỏi mình: "Anh có cảm thấy chấn động không?"

"Không phải ảo giác à?" Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm.

"Liệu có phải con đường này có vấn đề?" Merkin nhắc nhở.

“Đường?” Trác Mộc Cuờng Ba thoáng trầm ngâm bỗng sực hiểu ra: "Tôi nghĩ ra rồi, ý của

câu đó là, đặt chân lên con đuờng này, đừng bao giờ quay đầu lại!"

"À, anh...!" Merkin rốt cuộc cũng không nhịn nổi tức tối gắt lên: "Trác Mộc Cường Ba, anh

là đồ con lừa!" Y vội lấy ống nhòm ra, chỉnh chế độ dạ quang lên mức cao nhất, rồi đưa lên

mắt quan sát. Sạn đạo do những trụ tròn ghép lại dưới chân hai người đang bị thứ gì đó đẩy ra

ngoài, từng cây từng cây trụ lần luợt tuột khỏi hốc khoét trên vách đá. Con đường sau lưng họ

đã hoàn toàn bị cắt đứt, hơn nữa tốc độ sụp đổ cũng cực nhanh, chỉ trong giây lát sẽ đuổi kịp

hai người bọn họ.

"Mau, mau lên," Merkin luôn miệng thúc giục, "những trụ tròn dưới chân chúng ta sẽ tự

động bị đẩy ra khỏi hốc đá rơi xuống, sắp tới đây rồi."

Hai nguời bắt đầu chạy thục mạng trên con đường ruột dê chật hẹp. Họa vô đơn chí, khi

những trụ đá rơi nhanh sắp đuổi kịp bọn họ, phía truớc lại hết đường, Trác Mộc Cuởng Ba

dừng phắt lại làm Merkin suýt chút nữa thì huých gã rơi xuống. “Ông làm cái gì vậy?” “Anh

làm gì đấy?” Hai người đều nổi cáu gầm lên, nhưng tình thế đương khi khấn cấp, Merkin nhìn

rõ tình hình phía trước, cơn tức liền xẹp xuống tắp lự: "Tính sao giờ?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Người xưa có để lại một con đường, giờ chỉ xem chúng ta có

vượt qua được không thôi." Trác Mộc Cường Ba giơ đèn pha lên, chỉ thấy mấy cây gậy có vẻ

bằng kim loại, thoạt trông như chiếc đòn gánh cắm vào vách núi, mỗi cây gậy cách nhau

khoảng chừng mấy mét, có điều, vị trí của những cây gậy này lại thấp dần xuống.

“Giờ làm sao?” Merkin chau mày hỏi.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông đã xem tiết mục xiếc đu cầu vồng Vô Tích bao giờ chưa?”

Nói dứt lời, gã cũng không kịp giải thích gì nhiều, lập tức làm mẫu cho Merkin. Chỉ thấy hai

tay gã bám vào cây gậy, mượn lực lao xuống lộn một vòng, rồi buông tay, cong người lộn ba

vòng rưỡi trên không, duỗi người ra, bám vào cây gậy tiếp theo, cứ thế lặp đi lặp lại, nhanh

chóng nhảy xuống bên dưới.

“Chơi trò người bay hả!” Merkin chắt lưỡi, có điều tình thế cấp bách, y cũng không nghĩ

ngợi được nhiều, vội nhảy theo Trác Mộc Cường Ba xuống dưới. Y vừa rời khỏi sạn đạo, cây

trụ đá cuối cùng cũng vừa khéo bị đùn ra khỏi vách đá, rơi xuống vực sâu tăm tối.

Cây gậy nhỏ cắm vào vách đá đó quả nhiên được đúc bằng kim loại. Tuy người xưa đã xử lý

chống ôxy hóa rất tốt, nhưng trải qua nghìn năm bị hơi sương ăn mòn, những cây gậy này sớm

đã không thể chịu nổi sức nặng, lúc truớc đã bị Trác Mộc Cường Ba đu người lên, đến lượt

Merkin mới lộn được nửa vòng, cây gậy kim loại đã từ từ uốn cong lại, khiến y giật bắn mình,

vội vàng buông tay, may mà trong lúc hoảng loạn vẫn kịp bám được vào cây gậy thứ hai, tinh

huống cũng giống hệt như vậy. Song Merkin lại cho rằng người xưa có ý thiết kế như vậy, đã

gọi là con đuờng không thể quay đầu, vậy thì hiển nhiên những cây gậy kim loại này chỉ có thể

sử dụng một lần mà thôi.

Khóa huấn luyện đặc biệt Lữ Cánh Nam dành cho bọn Trác Mộc Cường Ba đã dần dần phát

huy tác dụng, trình độ đu xà của Trác Mộc Cường Ba cao hơn Merkin hẳn mấy bậc, chỉ thấy gã

lộn một vòng rồi lại một vòng, động tác thuần thục vô cùng, khi xoay mình trên không trung

vẫn còn nhìn rõ được vị trí của cây gậy tiếp theo. Sau khi đu qua mười mấy cây gậy, gã phát

hiện khoảng cách đến cây gậy tiếp theo quá xa, đang lấy làm kinh hãi thì bỗng liếc thấy trên

vách đá có một chỗ gồ lên rất nhỏ, rõ ràng dùng để đạp chân lên, liền không kịp nghĩ nhiều, lập

tức hạ xuống điểm đạp chân đó một cách chuẩn xác, đồng thời chân kia cũng không dừng

bước, sử dụng kỹ thuật chạy trên tường nghiêng người lao xuống dưới, sau bảy tám bước, đà

lao giảm dần, rốt cuộc cũng với được đến cây gậy ở đằng xa.

Hai người cứ lao một mạch không ngừng như thế, có lúc vách núi bỗng thu hẹp lại, hai vách

áp sát nhau tạo thành một khe nhỏ, ở giữa lại không có cây gậy nào, chỉ có mấy kẽ nứt nhỏ xíu

đến độ gần như không nhìn thấy trên vách đá. Khi ấy, Trác Mộc Cường Ba buộc phải dùng kỹ

thuật nhảy lật người trong môn Parkour, mũi chân áp sát vào vách đá, ngón tay phải móc được

vào khe nứt một cách chuẩn xác, sau đó cả tay và chân phát lực, xoay người bật sang phía vách

đá đối diện, cứ lặp đi lặp lại, hoặc lên hoặc xuống, cơ bắp toàn thân căng cứng, tuyệt đối không

được phép để xảy ra bất cứ sai sót nào.

Trác Mộc Cường Ba cứ thế đu xà lao đi vun vút, sau mười mấy lần lộn nhào lại chạy đạp

tường khoảng bảy tám mét, rồi nhảy lật người, sau đó lại phải xoay người bám vào những cây

gậy kim loại cắm vào vách đá, đu lên, lộn nhào trên không. Cứ lặp đi lặp lại như vậy không

biết bao lâu sau, gã mới tìm được một điểm đặt chân ở không gian tăm tối phía bên dưới. Chỗ

đặt chân này giống như một cái rường đá bị gãy, nằm vắt vẻo giữa không trung. Trác Mộc

Cường Ba lộn người phóng xuống, lăn mấy vòng trên rường đá rồi mới dừng lại. Gã duỗi tứ

chi mỏi nhừ, ngoảnh đầu nhìn lại xem Merkin có ở phía sau không. Gã cũng từng lo lắng

không biết Merkin có thể theo kịp mình hay không, nhưng rồi lại nghĩ, mình không cần phải lo

chuyện sống chết cho loại người như Merkin làm gì. Có điều, từ đầu chí cuối không nghe thấy

tiếng kêu thảm của Merkin, Trác Mộc Cường Ba cũng thầm yên tâm phần nào. Giữa bóng tối

mịt mùng trong không gian lạ lẫm đầy rẫy những cạm bẫy chưa biết và bóng tối mịt mùng này,

có một kẻ địch bên cạnh bầu bạn cũng còn đỡ hơn phải đơn độc một mình.

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu, chỉ thấy không gian phía sau tối đen như mực, không thấy

bóng dáng Merkin đâu cả, lẽ nào y đã rơi xuống rồi sao? Gã đang băn khoăn, chợt thấy

Merkin xuất hiện ở chỗ nhảy lật người giữa hai vách đá, rồi cũng đu qua từng cây kim lịa phi

xuống, tuy động tác còn hơi vụng về hoảng loạn, song cũng không sẩy tay lần nào.

Merkin ở trong bóng tối trông thấy Trác Mộc Cường Ba trước cả khi Trác Mộc Cường Ba

trông thấy y, vội luôn miệng hô lớn: “Còn ngẩn ra đó làm gì? Đi mau, mau lên, đừng dừng

lại!”

Thì ra, Merkin ở phía sau nên nắm rõ những biến hóa trên con đường độc đạo này hơn Trác

Mộc Cường Ba nhiều, những cơ quan kia vẫn luôn đuổi miết sau lưng y. Y vừa buông tay khỏi

cây gậy kim loại nào, cây gậy ấy liền bị đẩy ra khỏi vách đá, hệt như những trụ đá tạo thành

sạn đạo phía trên kia vậy; y vừa nhún người rời khỏi điểm đặt chân, giẫm lên mặt tường thì

điểm đặt chân ấy lập tức sụt ra; lúc y nhảy lật người giữa hai vách đá, kẽ đá để móc tay vào

cũng lần luợt biến mất cùng với một trận chấn động nhỏ. Merkin chỉ liếc nhìn ra phía sau một

cái đã hiểu ngay, nơi này tuyệt đối không được dừng lại dù chỉ một giây lát, lại càng không có

cơ hội để làm lại lần thứ hai.

Trác Mộc Cường Ba cũng đã trông thấy, hễ Merkin chụp phải cây gậy kim loại nào, sau khi

y buông tay ra, cây gậy đó liền như bị thứ gì đó vô hình đùn ra ngoài, rơi xuống. Mỗi lần liếc

về phía sau như thế, Merkin thậm chí không dám chần chừ dù chỉ một giây, y tức thì lộn nhào

trên không bổ tới chỗ cây gậy tiếp theo. Trác Mộc Cường Ba nhìn về phía Merkin, lùi lại mấy

bước, kế đó liền xoay người tăng tốc ngay tức thì, ai biết được loại cơ quan kia có lan đến cái

rường đá này hay không chứ?

Merkin cũng nhảy xuống rường đá, nhanh chóng đuổi kịp Trác Mộc Cường Ba, nhưng

không phải vì Trác Mộc Cường Ba chạy không nhanh, mà vì đường tiến lên phía trước của họ

lại bị cắt mất lần nữa.

Lần này không giống như vừa nãy nữa, xung quanh đều là vách đá dựng đứng, thậm chí

không có lấy một khe hở chứ đừng nói gì đến những cây gậy bằng kim loại. Bọn họ như thể rơi

xuống một cái lưỡi dài đang thè ra, chạy từ đầu lưỡi đến gốc lưỡi rồi hết đường, hết đường một

cách triệt để.

Chấn động quả nhiên đã lan truyền đến rường đá này, phỏng chừng nó cũng sẽ bị long ra và

rơi xuống khỏi vách đá giống những cây trụ phía trên kia. Trác Mộc Cường Ba vẫn luôn bình

tĩnh, giờ cũng không khỏi có chút hoảng hốt, không ngờ vượt qua bao gian khổ khó khăn, rốt

cuộc lại đâm đầu vào tuyệt lộ thế này.

"Không đúng!" Merkin nói vói giọng khẳng dịnh chắc chắn, “Không đúng!" Nếu nói về

những trải nghiệm thập tử nhất sinh, kinh nghiệm của y phong phú hơn Trác Mộc Cường Ba

rất nhiều, không phải vô cớ mà lần nào y cũng có thể sống sót trở về. Trong khoảnh khắc nguy

ngập ấy, Merkin chợt nhớ lại hàng chữ khắc trên cửa: "Một người trí tuệ tuyệt luân..." Trác

Mộc Cường Ba từng dịch ra cho y như thế, đồng thời, sự kiện gặp phải bức tuờng Khổng Minh

lúc ở cuối hành lang dưới đáy hồ cũng hiện lên trong óc y. Những người Qua Ba cổ đại kia rõ

ràng rất thích thiết kế những cơ quan cạm bẫy khiến người ta cảm thấy tuyệt vọng. Giờ đây,

trước mặt họ lại là một con đường cụt, trường hợp này chỉ có hai khả năng, một là Trác Mộc

Cường Ba chọn sai đường, nhưng từ đầu tới giờ, y cũng có để ý, hình như không có ngã rẽ nào

khác, vậy thì chỉ có một khả năng nữa, đây là một loại cơ quan cạm bẫy do đám nguời Qua Ba

kia thiết kế, một cơ quan khiến người ta nảy sinh cảm giác tuyệt vọng!

Trong chớp mắt, không biết đã có bao nhiêu ý nghĩ xoay chuyển trong đầu Merkin, y đột

nhiên đẩy Trác Mộc Cường Ba sang một bên, dồn sức đạp mạnh vào vách đá trước mặt. "Báp"

một tiếng, cẳng chân Merkin bị vách đá cứng rắn phản chấn lại tê rần, nhưng y đã nghe được

âm thanh vẳng ra từ bên trong... Vách đá này, chỉ dày chưa đến ba mươi xăng ti mét, vẫn còn

hy vọng! Chấn động mỗi lúc một dữ dội, chỗ mép rường đá bụi bắt đầu rơi xuống lả tả, không

ngừng có những viên đá nhỏ nảy bật lên. Merkin lấy ra mấy miếng kẹo cao su, bỏ vào miệng

nhai nhồm nhoàm, lẩm bẩm nói: "Đánh cược một ván thôi vậy."

Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Ông nói gì cơ?"

Merkin đẩy Trác Mộc Cường Ba ra, dính kẹo cao su lên giấy bạc rồi ấn lên vách đá, đoạn

rút một quả lựu đạn, nói với gã: “Lùi lại, nằm xuống! Chuẩn bị sẵn sàng để nhảy!" Dứt lời, bản

thân y cũng lùi lại mấy bước, ném lựu đạn vào chỗ dán giấy bạc, rồi lập tức thụp người xuống

rường đá.

"Ầm!", ánh lửa còn chưa tắt, Merkin đã nảy bật người lên như một con cá, lao thẳng vào

miệng hang vừa bị phá vỡ ra. Cùng lúc ấy, chấn động mãnh liệt khiến cho rường đá gãy lìa từ

gốc. Trác Mộc Cường Ba tuy chưa kịp chui vào trong, nhưng cũng chuẩn bị sẵn, đúng vào

khoảnh khắc ruờng đá trầm xuống, gã đã kịp thời nhổm lên bám vào mép hang động. Khi Trác

Mộc Cường Ba đã an toàn, đang định đu người lên chui vào hang, bỗng thấy Merkin tái mặt

xoay người chui ra, học theo gã đeo người phía bên ngoài miệng hang, y lại chỉ dùng một cánh

tay.

"Sao hả..." Trác Mộc Cường Ba còn chưa dứt lời, đã nghe tiếng “ầm ầm” vang tới, một quả

cầu đá lớn đường kính ít nhất cũng phải ba mét 1ao vụt ra ngoài, rơi xuống vực sâu tối om như

mực bên dưới. Cũng may là cửa hang nổ ra đủ lớn, mà hai người đều bám vào chỗ khe hở giữa

quả cầu đá và cửa hang, nên không bị nghiến phải. Rất có thể, chấn động vừa nãy chính là do

quả cầu đá này gây nên.

Hai người đều treo mình lơ lửng bên ngoài mép hang động, nhìn sắc mặt tái mét của đối

phương, há miệng thở hổn hển. Merkin dường như vẫn chưa dám tin đó là sự thật, lẩm bẩm

nói: "Cạm bẫy liên hoàn đáng sợ thật, tôi đã đi nhiều nơi, vậy mà cũng chỉ mới gặp lần đầu

tiên."

Dứt lời, Merkin chừng như định bò lên, nhưng lại bị Trác Mộc Cường Ba kéo tay giữ lại:

"Đừng gấp."

Tuy chấn động mãnh liệt đã qua đi, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm thấy vách đá

dường như đang rung lên nhè nhẹ, ở nơi này tuyệt đối không thể lơ là dù chỉ một mảy may,

bọn họ đã có mấy lần suýt toi mạng rồi. Hai nguời đợi thêm khoảng bảy tám phút, cánh tay đeo

lơ lửng đã bắt đầu tê dại mà vẫn không thấy gì bất thường. Cả hai thở phào nhẹ nhõm, đang

chuẩn bị trèo lên, đột nhiên vách đá lại rung lên một chập, chỉ nghe từ rất sâu bên trong hang

động truyền ra một tiếng "thình", dường như có vật nặng nào đó rơi từ trên cao xuống, kế đó là

một loạt tiếng "uỳnh uỳnh uỳnh uỳnh" nặng nề vẳng tới.

Quả nhiên, quả cầu đá khổng lồ thứ hai đã lao ra theo quỹ tích của quả cầu trước, Trác Mộc

Cường Ba và Merkin đều nhìn thấy vẻ kinh hoảng trong mắt nhau, không biết có còn quả cầu

đá thứ ba nữa hay không. Ánh mắt hai nguời gặp nhau, ngay tức thì, cả hai gần như cùng lúc

dồn sức bật người trèo vào hang động, không dám dừng lại, lập tức guồng chân chạy một

mạch! Bên trong miệng hang do Merkin phá vỡ là một thông đạo hình tròn cao khoảng ba mét,

nếu có quả cầu đá nào lăn xuống nữa, thông đạo này sẽ kín mít, không có khe hở nào, cũng

không có đường nào khác. Hai người chạy men theo con dốc, cảm giác như thể đang ở trong

đuờng tàu điện ngầm vậy.

Cả hai không dừng lại lấy hơi, cũng mặc kệ mình đang kiệt sức, chạy được nhanh chừng

nào thì nhanh chừng ấy, cho đến khi leo lên đỉnh dốc, tới điểm cuối cùng của thông đạo hình

ống đó, họ mới nhìn thấy một thông đạo khác ở phía trên, cách mặt đất chừng bảy tám mét.

Quả cầu đá hiển nhiên là lăn từ trên đường hầm kia xuống. Sau khi chắc chắn vị trí hiện tại của

họ không thể bị quả cầu đá đụng trúng, hai người mới dừng lại, một người dựa vào vách đá,

người kia hai tay chống gối thở hổn hển, thậm chí không còn sức nói chuyện nữa. Tim họ lúc

này đập mạnh hơn bao giờ hết, nước bọt trong cổ họng tiết ra rớt xuống thành dòng nơi khóe

miệng.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin cứ đứng thở hồng hộc như vậy mười mấy phút đồng hồ,

không thấy có quả cầu đá nào lăn xuống nữa. Bấy giờ hai người mới dần bĩnh tĩnh trở lại, Trác

Mộc Cường Ba hỏi: “Đi bên nào?” Cuối đường hầm hình ống ấy là một đường hầm khác cắt

ngang, họ đang đứng ở chính giữa ngã ba hình chữ “T”, hai bên đều đi được. Trác Mộc Cường

Ba giờ đã không dám dẫn đường bậy nữa, vì vậy mới quay sang trưng cầu ý kiến Merkin.

Merkin trợn trừng đôi mắt xanh lên, hết ngó bên trái rồi lại ngó bên phải, đường đi hai bên

giống hệt nhau, hơi dốc xuống dưới, y cũng không biết nên đi huớng nào, nhìn qua nhìn lại,

cuối cùng lại nhìn sang phía Trác Mộc Cường Ba, mà Trác Mộc Cường Ba cũng đang trố mắt

ra nhìn y. Hai người lồng ngực phập phồng, cứ vậy đuỗn mặt ra nhìn nhau, không nói một lời

nào. Rốt cuộc, vẫn là Trác Mộc Cường Ba lên tiếng trước: "Đi bên phải vậy, găp đường nhánh

thì rẽ phải, đây cũng là một thông lệ trong Mật giáo."

Hai người đi vào lối bên phải, không bao lâu liền gặp một đại điện đèn đuốc sáng trưng, kỳ

lạ nhất là cả đại điện này lại chỉ có một khung cửa nhỏ, không lớn hơn cửa chống trộm bình

thường là mấy, bức tường ngăn cách giữa đại điện với đường hầm hình ống bên ngoài rất dày.

Merkin cẩn thận xem xét cửa đá phía trên khung cửa ấy, sau đó lo lắng bảo Trác Mộc Cường

Ba, nếu cánh cửa đá này sập xuống, sợ rằng khó lòng mà mở ra được.

Hai ngươi nhìn qua khung cửa vào bên trong, chỉ thấy bốn vách tường đều lấm tấm vết máu,

chính giữa đại điện là vô số bộ xuơng người. Trông thấy cảnh tượng ấy, cả hai càng thêm dè

dặt.

Mặt sàn đại điện có một rãnh lớn hình tròn, bên trong hình tròn lại có rất nhiều rãnh nhỏ,

hình thành nên các ký hiệu và đồ hình của Mật giáo. Phần còn lại, dường như dùng vật liệu gì

đó đắp lên, trải qua nhiều năm tháng những thứ này đều đã mục nát, giẫm chân lên phát ra

tiếng "lạo xạo" như đang đi trên đống cành cây khô mục, đồng thời cũng làm vẩn lên vô số bụi

đất.

Ở bốn huớng Đông Tảy Nam Bắc của hình tròn ấy dựng rất nhiều cây cột to bằng miệng

bát, trên thân cột lại có các nhánh kim loại đâm ra theo phương ngang lởm chởm gai nhọn.

Trên những gai nhọn đó treo lơ lửng những bộ xương người, không biết đã trải qua bao nhiêu

năm tháng, vậy mà đều còn nguyên vẹn, không hề rời ra, chẳng qua có một vài bộ bị treo

ngược, đầu cắm xuống đất chân chổng lên trời, nhìn xa, trông như vô số xác kiến treo trên cành

cây. Lúc đến gần, hai người mới phát hiện, chỗ nối giữa các khớp xuơng đều được buộc bằng

sợi vàng sợi bạc, chẳng trách vẫn giữ được nguyên vẹn hình người. Bên trong hình tròn, cũng

có rất nhiều giá đỡ nhỏ, cao khoảng hai mét. Mỗi giá gồm một cây cột chống và một vật thể

hình chữ Vạn ngược, trên chữ Vạn ngược ấy cũng đầy những gai nhọn, nhưng không có bộ

xương nào. Trác Mộc Cường Ba để ý thấy bên dưới những giá đỡ nhỏ ấy đều có máng dẫn, kết

cấu rất giống vơi skeets cấu huyết trì.

Phỏng chừng đại điện này được xây dựng để phục vụ cho lại hình tế bái nào đó, một trận gió

âm thổi đến, những bộ xương trắng treo lơ lửng trên cao đung đưa qua lại, những khúc xương

va chạm vào nhau, phát ra những tiếng "kẽo kẹt" rợn người. Lại một trận gió nữa phất qua, âm

thanh lớn dần, văng vẳng trong đại điện rộng lớn, tựa hồ mỗi bộ xương trắng kia đều hồi phục

sức sống, đang ngoác miệng ra cười khành khạch.

Trác Mộc Cường Ba và Merkm vừa mới trải qua một phen thập tử nhất sinh, giờ lại gặp

phải gian đại điện này, trong lòng không khỏi dâng lên cảm giác bất an, chỉ sợ bước sai một

bước sẽ lại phát động cơ quan cạm bẫy nào đó, nên cũng chỉ đi vài bước phía bên ngoài vòng

tròn, không dám tiến vào trung tâm.

"Hay là chúng ta đi lối kia vậy.” Merkin đề nghị, Trác Mộc Cường Ba lập tức đồng ý ngay:

"Được."

Hai người bèn quay ngược trở lại ngã ba, đi vào lối rẽ phía bên trái. Ở cuối đường, họ cũng

thấy một gian đại điện khác, cũng chỉ có một khung cửa nhỏ. So sánh ra đại điện này sạch sẽ

hơn gian điện phía bên kia nhiều, có điều lại sạch sẽ đến mức hơi bất bình thuờng. Sàn bên

trong đại điện lát bằng đá phiến, không có cây cột nào, cũng không có tượng Phật hoặc bất cứ

đồ đạc, hình thù điêu khắc gì khác, trống rỗng như thể một nhà kho bỏ hoang.

Từ đầu bên này đến đầu bên kia đại điện khoảng tầm bốn năm trăm mét, Trác Mộc Cường

Ba ngồi xổm xuống rờ tay lên một phiến đá lát sàn, nói: "Sàn nhà này rất có thể có vấn đề."

Khoảng cách xa như vậy, nếu là sàn nhà lật, bên dưới đầy gai nhọn thì rất khó vượt qua được.

"Đúng vậy, sạch sẽ quá!" Merkin cũng đồng tình, chợt nghe Trác Mộc Cường Ba kêu lên:

"Nhìn phía trên kia xem!"

Merkin ngẩng đầu lên, chỉ thấy toàn bộ phần trần đại điện điêu khắc chi chít hình đầu của

một loại thú nào đó, nhìn qua ống nhòm, hai người sơ bộ phán đoán đây là đầu rồng, mang

đậm phong cách thời Đuờng. Merkin biết rõ dân Tạng thời kỳ Thổ Phồn cũng cực kỳ sùng bái

rồng, có điều, chạm trổ nhiều đầu rồng thế này trên trần một gian đại điện kiểu như vậy không

thể nào chỉ để trang sức! Trác Mộc Cường Ba cũng đang quan sát những đầu rồng, chưa phát

hiện ra điểm gì đặc biệt, tạo hình của chúng giống hệt nhau, áng chừng chỉ to cỡ nắm tay,

nhưng lại tỏa ra nhiều huớng khác nhau, Đổng Tây Nam Bắc, hướng nào cũng có.

"Miệng rồng có thể sẽ phun ra thứ gì đó." Merkin ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba, bảo gã

ném ba lô ra thử xem sao. Trác Mộc Cường Ba lấy máy tính và một số đồ không tiện va đập ra,

rồi cầm ba lô lăng vào phía trong khung cửa, không thấy có phản ứng gì. Gã lắc lắc đầu.

Merkin lại nói: "Dùng dây thừng."

Trác Mộc Cường Ba hiểu ý, lấy dây thừng buộc vào ba lô, ném ra xa hơn nữa. "Bịch!"

Chiếc ba lô rơi xuống đất, vẫn không có phản ứng gì. Trác Mộc Cường Ba nói: "Hay vì thời

gian đã quá lâu, cạm bẫy mất tác dụng rồi?"

Merkin lắc đầu: “Những cạm bẫy chúng ta gặp phải từ truớc đến giờ, có cái nào mất tác

dụng chưa?”

Trác Mộc Cường Ba đã đứng trên một phiến đá lát sàn, gã dợm chân bước lên trên hai

bước, ngoảng đầu lại nói: “An toàn.” Merkin chau mày, nếu đi tới giữa điện những cơ quan

cạm bẫy kia mới khởi động thì thực sự không có cách nào tránh được, vả lại, dựa trên kinh

nghiệm hai lần trước đó, rất có khả năng đám người Qua Ba cổ đại kia sẽ thiết kế kiểu bẫy này.

Mặc dù nghĩ vậy, nhưng Merkin vẫn giẫm chân lên sàn đại điện đi lại hai vòng. Bọn họ đã

kiểm tra kỹ lưỡng, phần rìa bên ngoài này không bị chìm xuống, lật ngược, hay có hệ thống

cảm ứng áp lực, nhưng đi ra giữa đại diện tình hình ra sao thì rất khó nói.

Hai người vẫn quyết định tiến lên phía trước, dẫu sao cũng không thể ở mãi trong đường

hầm này được, vả lại nếu những đầu rồng kia có phun ra thứ gì, hai người cần bảo vệ đầu và

tay là được. Bộ đồ do Merkin thiết kế có thể chống đạn, cũng không đến nỗi không ngăn được

ám khí hay cung nỏ của người xưa. Merkin thầm nhủ: "Nếu có cả mũ bảo hiểm thì hoàn toàn

có thể đi thẳng một mạch sang đầu bên kia rồi." Hai nguời áp sát chân tuờng tiến lên, thầm tính

nếu xảy ra sự cố thì có thể nấp vào góc chết của những đầu rồng ấy. Dù sao thì hai người đều

đã quan sát kỹ phương vị cũng như góc nghiêng của chúng, chi cần men theo bờ tường leo lên

cao là có thể tránh được các thứ phun ra từ trong miệng rồng. Dọc theo bờ tường có một hàng

lỗ nhỏ, phỏng chừng có thể bắn ra tên hay phi tiêu gì đó, song chỉ cần họ có thể cố định thân

người trên tường, thì cũng tránh được ám tiễn do những lỗ nhỏ này bắn ra. Hai người bọn Trác

Mộc Cường Ba đã đi được nửa đường, vẫn không thấy gì khác lạ, nhưng không ai dám lơ là,

mỗi khi giẫm lên một phiến đá lát sàn mới, họ đều phải kiểm tra trước xem chỗ mép nối có

lung lay không, rồi dùng lực ấn lên xem có biến cố gì không, sau đó mới dám tiếp tục tiến

bước. Khi gần đến chính giữa đại điện, Trác Mộc Cường Ba để ý thấy trên tường có hai vòng

tròn, nhỏ hơn vòng tròn lớn trong gian đại điện phía bên kia, nhưng đường kính cũng đến năm

sáu mét, bên trong vòng tròn là các ký hiệu và đồ hình Mật giáo, nhìn kỹ lại thấy rất giống hình

vẽ Thái cực Bát quái. Hai vòng tròn này đối xứng nhau ở giữa gian đại điện, không biết có tác

dụng gì. Merkin đứng bên cạnh Trác Mộc Cường Ba thúc giục: "Đi được chưa?"

"Ừm." Trác Mộc Cường Ba đáp một tiếng. Gã đột nhiên phát hiện vòng tròn trên bức tường

đối diện dường như đang chuyển động, bèn vô thức ngoảnh lại nhìn bức tường mình đang áp

vào. Quả nhiên, vòng tròn trên bức tường bên này cũng đang chuyển động. Không phải là ảo

giác, Trác Mộc Cường Ba mặc dù không biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng gã tỉnh táo ý thức

được rằng, đây không phải chuyện tốt đẹp gì cho cam. Ý nghĩ ấy vừa lóe lên trong đầu, gã đã

buột miệng thốt lên: "Cẩn thận!"

Merkin vừa nghe Trác Mộc Cường Ba kêu lên, liền biết ngay có chuyện chẳng lành! Chỉ

nghe hai tiếng "thịch thịch", hai cánh cửa ở hai đầu đại điện cùng lúc hạ xuống, bít chặt lối vào và lối ra. Merkin chua chát thầm nhủ: “Lần này toi đời rồi!"

CHƯƠNG 75: CHÚNG THẦN TÂY TẠNG

TRẬN ĐỊA CƠ QUAN ĐẦU RỒNG

Hai người gần như cùng lúc bật ra câu hỏi: “Rốt cuộc anh/ ông đã chạm phải cái gì?”

Nhưng ngay sau đó họ lập tức nhớ ra, cả gian đại điện này trống rỗng, cho dù có va phải thứ

gì cũng tuyệt đối không thể không phát giác ra được, như vậy nghĩa là hai người họ đều không

đụng phải bất cứ gì cả!

Trong khoảng khắc Trác Mộc Cường Ba và Merkin ngần ra, hai vòng tròn trên tường cơ hồ

như đã tăng tốc độ, nhưng ngay sau đó, họ đã nhận ra, không phải đồ án hình tròn đang chuyển

động, hình tròn trên tường ấy không hề nhúc nhích, mà là...cả gian đại điện này đang chuyển

động.

Cả gian đại điện hình chữ nhật đột nhiên xoay một trăm tám mươi độ theo trục giữa, Trác

Mộc Cường Ba và Merkin còn chưa kịp hiểu đầu cua tai nheo gì, cả người đã thình lình lơ lửng

giữa không trung, sau một thoáng mất trọng lực ngắn ngủi, họ liền rơi từ độ cao ba bốn mét

xuống mặt đất, lăn lông lốc bảy tám vòng, không còn phân biệt được phương hướng nào nữa.

Trác Mộc Cường Ba thấy đau, vị trí tiếp xúc với mặt đất trước tiên là eo lưng dường như bị

thứ gì đó cộm lên, hai tay chống xuống, bàn tay cũng sờ thấy thứ gì đó gồ ghề, lòng bàn tay

cũng hơi đau đau. Trác Mộc Cường Ba cúi đầu nhìn, liên đờ người ra, sao lại thế này? Mặt đất

không phải là sàn nhà phẳng phiu hay sao? Trần nhà đều là những đầu rồng chi chít, tại sao?

Tại sao mình lại giẫm lên đầu rồng? Ngẩng đầu nhìn lên, trời đất... sàn nhà sao lại trở thành

trần nhà vậy chứ?

Đầu óc Merkin cũng trống rỗng, trước đó y đã thầm sự đoán về các loại cạm bẫy ở đây. Y

đã nghĩ đến rất nhiều khả năng, chẳng hạn như đầu rồng có thể phun ra tên, phun nước hoặc

chất dộc... chì là không thể ngờ cả gian đại điện bằng đá lại hoàn toàn đảo ngược lộn tùng phèo

như thế này. Nhưng những người thiết kế ra cạm bẫy không định để cho hai kẻ hồ đồ như bọn

họ nhiều thời gian mà nghĩ ngợi, cả hai còn chưa kịp đứng lên, những đầu rồng bên cạnh họ đã

bắt đầu chuyển động.

Chỉ thấy vô số các đầu rồng kia nhô lên từng cái từng cái một, có cao có thấp, hệt như

những mẩu chữ chì dùng trong in ấn thời xưa. Toàn bộ các đầu rồng nhô lên đều xoay về phía

Trác Mộc Cường Ba và Merkin vẫn ngây ra chưa kịp phản ứng gì. "Không ổn!" Hai người đều

phản ứng cực nhanh, cùng lúc bật người lên, lăn về phía không có đầu rồng chĩa vào.

Ban đầu họ tính là đi men theo bờ tường, sẽ có góc chết mà đầu rồng không thể bắn tới, giờ

cả gian đại điện đã lộn ngược, đầu rồng đều ở dưới chân, thêm vào đó, những đầu rồng này có

thể dịch chuyển lên cao hoặc xuống thấp, khiến cho toàn bộ cạm bẫy này không còn bất cứ góc

chết nào nữa. Hai người bọn Trác Mộc Cường Ba chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ mà chạy giữa

trận địa toàn những đầu rồng quái dị ấy.

Khốn nỗi, hai cánh cửa ở hai đầu đã bị bít kín họ có chạy thế nào thì cũng không thể thoát

khỏi gian đại điện bằng đá này. Tuy tốc độ cả hai đều rất nhanh, nhưng những đầu rồng kia

cũng không ngừng tăng tốc theo, mỗi khi một trong hai người đặt chân xuống, xung quanh liền

có đầu rồng bật lên ngay tắp lự, cái cao cái thấp, phun ra một trận mưa kim châm rồi lại tụt

xuống trở về vị trí ban đầu.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin kẻ lăn người bò hết nhảy lên lại thụp xuống, giở đủ mười

tám ban võ nghệ, chỉ nghe trên không trung toàn những tiếng kim bay "vù vù vù", bỗng Merkin

loạng choạng bổ về phía trước, hiển nhiên là đã trúng chiêu. Vai phải Trác Mộc Cường Ba nhói

lên, gã hít vào một hơi khí lạnh, thầm chửi áo chống đạn của tên Merkin này không chắc chắn.

Kỳ thực chuyện này cũng không thể trách Merkin được, ngoại trừ đạn phá giáp, đại đa số các

loại đạn đều không hạ gục đối phương bằng sự bén nhọn của đầu đạn, mà những mũi kim này

lại vừa nhọn vừa sắc, đầu kim nhỏ như lông trâu, thậm chí còn phát ra ánh sáng lành lạnh, áo

chống đạn chặn được thân kim, chứ không thể ngăn được đầu mũi kim. Thực ra, cũng may là

có bộ áo chống đạn này, nên những mũi kim bắn trúng người họ chỉ đâm vào thịt được chừng

hai ba mi li mét. Chỉ khốn nỗi, chính vì cách da hai ba mi li mét ấy là chỗ đau nhất khi bị kim

chích vào. Mỗi lần trúng kim châm, cơ thể hai người đều không tự chủ được mà vặn vẹo cả đi,

nhất thời, bao nhiêu tư thế quái dị nhất đều bày ra hết, chốc chốc lại vang lên những âm thanh

“hự”, “ối”, “á” kỳ dị.

Hai người nhanh chóng phát hiện ra, dù họ có né tránh thế nào cũng vô dụng, họ nhảy càng

nhanh, tốc độ bật lên và bắn kim châm của các đầu rồng cũng nhanh theo, hy vọng duy nhất

của họ là mỗi cái đầu rồng ấy đều không lớn lắm, chắc cũng không chứa được nhiều kim châm,

bắn ra hai ba cái là hết. Đương nhiên, tốt nhất là không bắn ra cái nào. Cuối cùng, hai người

mới phát hiện ra, chỉ cần đứng yên bất động, những đầu rồng kia bắn hết một đợt kim châm

đầu tiên sẽ không bật lên nữa, ở những chỗ xa hơn cũng không có đầu rồng nhô lên tấn công.

Chỉ có điều, khi Trác Mộc Cường Ba và Merkin phát hiện ra điều này, cả hai đã bị bắn cho

không còn ra hình người nữa. Merkin chỉ lo chắn đỡ mặt trước, bỏ mặc phía sau, kết quả là số

kim châm ghim trên lưng y ít nhất cũng phải nặng đến mấy cân, nhìn từ vị trí của Trác Mộc

Cường Ba, trông y thực chẳng khác nào một con nhím khổng lồ đang xù lông. Tình hình Trác

Mộc Cường Ba đỡ hơn một chút, gã có ba lô trên lưng che chắn phía sau, song cũng vì đeo ba

lô nên động tác của gã không thể nhanh nhẹn bằng Merkin, phía trước phía sau đều bị kim

châm bắn trúng. Trên ngực gã có hơn trăm mũi kim xếp thành hình tam giác ngược, trông như

một đám lông ngực rậm rạp. Còn bộ mặt, gã đã phải giở hết mọi cách, tung mọi chiêu trò, cũng

coi như là giữ được dung nhan toàn vẹn.

Hai người phát hiện ra sự ảo diệu của cơ quan, rốt cuộc cũng có chút thời gian rảnh rang

nhổ những kim châm cắm chi chít trên người mình.

Merkin đau đến nỗi nghiến răng kèn kẹt, mỗi lần rút một cây kim ra lại làu bàu chửi một

câu.

"Cơ quan chó chết gì thế này!"

"Thằng chó chết nào thiết kế ra cái cơ quan này thế!"

"Bọn người Qua Ba là đồ con lừa!"

Merkin từng xâm nhập không ít mộ cổ, số lượng cơ quan cạm bẫy mà y đã gặp nhiều không

đếm xuể, nhưng y chưa từng gặp phải loại cơ quan nào như thế này. Chỉ cần ngoan ngoãn đứng

yên bất động, để đợt kim châm đầu tiên chích cho vài phát thì không sao, nếu dám nhảy tránh,

càng nhảy sẽ càng trúng nhiều kim châm. Trên đời này sao lại có loại cạm bẫy thất đức như thế

chứ!

Trác Mộc Cuờng Ba lặng lẽ nhổ kim ra, những cây kim này dài khoảng mười xăng ti mét,

hai đầu nhọn hoắt, cũng không hiểu những đầu rồng này bắn chúng ra như thế nào nữa. Thấy

Merkin chửi bới càng lúc càng khó nghe, gã không nhịn được bèn nói: “Bớt bớt lời đi, theo tôi

thấy, những người Qua Ba cổ đại đối xử với chúng ta thế này là cũng khá lắm rồi."

"Hả?" Merkin ngạc nhiên ngẩng đầu lên, muốn xem có phải Trác Mộc Cường Ba bị kim bắn

trúng nhiều quá đâm ra lú mề hay không.

Trác Mộc Cường Ba nhón tay nhổ một cây kim ra, nói: “Ông xem, trên mũi kim không tẩm

độc, cũng không có móc ngược, thế này đã là phúc tổ mười tám đời nhà chúng ta rồi đấy.”

Merkin nghiến răng cúi đầu, bụng tầm rủa luôn cả Trác Mộc Cường Ba. "Lại còn muốn trên

mũi kim có móc ngược nữa hả?"

Trác Mộc Cường Ba chẳng có tâm tư đâu tính toán với y, lại cất tiếng hỏi: "Giờ làm sao?”

"Làm sao? Hỏi tôi làm sao hả?" Merkin vẫn chưa hết tức tối. "Tôi làm sao biết phải làm sao

chứ? Từ lúc theo anh đi ra khỏi cái giếng tế chết tiệt đó là đã chẳng có chuyện gì tốt đẹp cả.”

"Sao lại không có?" Trác Mộc Cường Ba nói: “Lúc trông thấy mấy cái bình sứ, không phải

ông đã mừng rớt nước mắt đấy sao?"

Merkin nghẹn họng, nhưng ngay sau đó lại phản pháo: "Khổ nhiều hơn vui." "Nếu không có

khổ sở, làm sao ông biết đến niềm vui?" Những câu nói mang đậm chất thiền này Trác Mộc

Cường Ba từng nghe cha gã nói đi nói lại rất nhiều, mặc dù đã lâu không dùng đến, nhưng giờ

chỉ cần mở miệng là lời tự tuôn ra, Merkin tuyệt đối không phải là đối thủ của gã.

Tiếng Trung của Merkin vốn đã không lưu loát cho lắm, không nói lại được với Trác Mộc

Cường Ba, chỉ biết lầm bẩm chửi rủa mấy câu tiếng Anh rồi lại mấy câu tiếng Trung, thi

thoảng còn chêm vào tiếng của mấy nước khác nữa.

Hai người nhổ hết những cây kim có thế nhổ ra được trên người, rồi quay sang nhổ giúp

nhau ở những chỗ không thể tự với tay đến, sau đó đứng trên đám đầu rồng nhất thời cũng

không biết phải làm gì tiếp theo. Nếu tiếp tục xông ra cửa, sẽ không tránh khỏi phải "xơi" thêm

vô số kim châm nữa, ra đến đó rồi, lại cũng chưa chắc có thể tìm được cơ quan mở cửa hay

không?

Đang trầm ngâm suy nghĩ, Merkin đột nhiên thốt lên: "Tôi hiểu rồi!"

"Gì vậy?"

"Tôi biết cái bẫy được khởi động như thế nào rồi! Chính là những lỗ nhỏ kia!" Merkin chỉ

ngón tay vào hàng lỗ nhỏ giờ đây đã đáo vị trí lên sát với trần nhà, nói: "Là kỹ thuật lợi dụng

ánh sáng và bóng ảnh! Những người thợ thời xưa khi thiết kế gian đại điện này đã tính toán hết

sức chu đáo, họ đoán bọn trộm mộ e ngại cạm bẫy dưới sàn không dám đi ra giữa, vì vậy đã để

lại một hàng lỗ nhỏ dưới chân tường. Chúng ta vừa nãy đi sát vào tường, đã chắn mất tia sáng

chiếu vào trong lỗ nhỏ ấy, tới khi ra đến giữa đại điện, cạm bẫy tự nhiên sẽ được kích phát!"

Trác Mộc Cường Ba lấy làm nghi hoặc: "Thời xưa đã có kỹ thuật này rồi sao? Làm thế nào

mà cảm ứng được?"

Merkin lắc đầu: “Tôi không phải kỹ sư thiết kế, tôi cũng không rõ lắm, nghe nói là nhờ một

loài thực vật cực kỳ mẫn cảm với ánh sáng, loại cơ quan này tôi mới gặp một lần, chỉ có trong

mộ thời Đường ở Trung Quốc. Khả năng lợi dụng ánh sáng và bóng ảnh của người thời Đường

quả thực đã đạt đến đỉnh cao, nhưng sau này lại thất truyền gần như toàn bộ.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không ngờ lại có công nghệ thần kỳ như thế.”

Merkin nói: “Cái đáng sợ không chỉ là công nghệ, mà là việc người thiết kế cơ quan này có

thể tính toán được hành động của chúng ta cả nghìn năm sau đó, tâm tư ấy mới gọi là đáng sợ.”

Y liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba, kỳ quái, đột nhiên nói: “Có lẽ anh nói không sai, nếu chẳng

nhờ may mắn, có khi chúng ta đã chết mấy lần rồi cũng nên.”

Trong đầu Trác Mộc Cường Ba lại hiện ra mấy hàng chữ khắc trên cửa: "Một người huyết

thống thuần chủng... tại sao lại nói vậy? Chẳng lẽ nếu người khác tiến vào đây, sẽ là một loại

cạm bẫy khác?"

Đột nhiên, một đợt rung động truyền đến, hai người đứng không vững, loạng choạng lùi lại

mấy bước, nhưng lần này không thấy có đầu rồng nào bắn kim châm ra nữa, chỉ thấy những

đầu rồng như con chữ chì dưới chân bắt đầu trồi lên sụp xuống theo hình sóng. Trác Mộc

Cường Ba kinh hãi kêu lên: "Lại gì nữa đây?"

Merkin nghĩ ngợi trong giây lát, rồi giật mình thốt lên: "Không xong, gian đại điện này sắp

vỡ ra rồi!"

"Thế là sao?"

"Là sắp sụp đổ chứ còn sao!" Merkin còn chưa dứt lời đầu rồng ở giữa đã tụt xuống, để lại

một lỗ nhỏ dưới sàn, ngay sau đó lập tức xảy ra phản ứng dây chuyền, những đầu rồng xung

quanh nó cũng đua nhau tụt xuống. Trác Mộc Cuờng Ba và Merkin vốn chẳng còn chỗ nào để

chạy, xem chừng cũng sắp rơi xuống theo những đầu rồng ấy. Đúng lúc ấy, cả gian đại điện lại

xoay chuyển một lần nữa. Mặt sàn đang theo phương ngang, đột nhiên nghiêng di, cuối cùng

dựng đứng lên một góc chín mươi độ so với mặt đất. Trác Mộc Cường Ba và Merkin vội bám

tay vào các đầu rồng đu người lên, khốn nỗi những đầu rồng ấy cũng không ngừng lìa ra, buộc

cả hai phải liên tục di chuyển xuống phía duới.

Cuối cùng, khi không còn chỗ nào để di chuyển nữa, cả bức vách ở phía duới cũng bung hết

ra, thân thể Trác Mộc Cường Ba và Merkin hẫng một cái, lập tức rơi tự do xuống dưới.

Đang luống cuống, Trác Mộc Cường Ba liếc thấy ánh sáng, có cây cột! Gã không kịp nghĩ

ngợi gì nhiều, cổ tay hất lên, dây móc bắn vút ra. Thân hình khôi vĩ của gã vạch trên không

trung nửa vòng tròn rồi chầm chậm đu xuống.

Merkin thì không được may mắn như vậy, y rơi thẳng xuống mặt sàn tầng bên dưới. Dẫu có

mình đồng da sắt thì cú ngả này cũng khiến cho y xây xẩm mặt mày, hồi lâu vẫn chưa bò dậy

nổi. Độ cao của cú rơi tự do này lớn hơn lúc toàn bộ gian đại điện xoay một trăm tám mươi độ

nhiều. Trong tình huống hết sức cấp bách đó, Merkin vẫn kịp sử dụng phương pháp nhảy của

lính nhảy dù,vừa chạm đất liền cuộn người lăn tròn về phía trước để hóa giải bớt lực phản

chấn, nhưng rốt cuộc y vẫn bị những cái đầu rồng rơi vung vãi dưới sàn đập cho thâm tím mình

mẩy, may mà không gãy cái chân cái tay nào. Trác Mộc Cường Ba nương theo dây móc từ từ

hạ xuống, đến bên cạnh Merkin hỏi: “Ông không sao chứ?”

Merkin ngẩng đầu lên, nói: “Anh xem tôi có sao không?" Trên đầu y bị đầu rồng “thơm”

cho một phát, giờ sưng phồng lên to tướng, thoạt trông cứ tưởng mọc ra một cái bướu thịt.

“Bỏ đi,” Trác Mộc Cường Ba nói, “xem xem chỗ này là nơi nào.”

Gã ngửa đầu nhìn lên, chỉ thấy bên trên là một khay tròn khổng lồ rỗng ở giữa. Gian đại

điện mà bọn họ tiến vào ấy, chính là xoay chuyển một trăm tám mươi độ bên trong lỗ tròn này.

Giờ đây, các vách tường của gian điện đều đã sụp đổ, chỉ còn lại sàn nhà vẫn dập dềnh như bập

bênh bên trong lỗ tròn.

Chỗ họ vừa rơi xuống là một mỏm đá trơ trọi, diện tích lớn hơn lỗ tròn phía bên trên, có cột

đá thô sơ nối liền với bên trên, hiển nhiên đây là phần đáy của cái bẫy, mặt đất gồ ghề, không

được gia công mài đục, vẫn còn giữ nguyèn bế mặt đá núi xù xì. Lúc này, đầu rồng rơi vung

vãi khắp nơi, ngoài ra còn vô số những vật thể trông như cành cây gãy. Mấy ngọn đèn vốn gắn

trên tường đại điện cũng rơi xuống, nhưng còn chưa tắt hẳn, ngọn lửa vẫn bập bùng nhảy múa

chiếu sáng xung quanh. Bốn bề nổi lèn từng trận gió ấm, hệt như lúc trước khi hai người chui

vào trong hang động. Bên ngoài mỏm đá toàn là những khe nứt khổng 1ồ, có điều thứ ánh sáng

dịu dàng màu lam nhạt ấy giờ đây đã trở nên mờ mờ ảo ảo, xa xăm như thể những ngôi sao

trên trời.

Trác Mộc Cường Ba nói: "Hình như chúng ta rơi xuống bên dưới của cơ quan rồi. Chẳng lẽ

vì niên đại quá lâu nên cái bẫy này mới bung ra thành từng mảnh như thế?"

"Không giống lắm." Merkin cẩn thận kiểm tra những vật thể giống như cành cây, đầu rồng

và một số khối đá lớn khác, đưa ra kết luận: "Bản thân cơ quan được thiết kế như vậy, nếu có

người phát hiện đứng yên sẽ không có kim châm bắn ra nữa, nhất định sẽ đứng yên tại chỗ,

nguời xưa đã tính đến khả năng này khi thiết kế ra cơ quan, chỉ cần đứng yên bất động, toàn bộ

phần dưới gian đại điện sẽ từ từ bung ra không ai thoát được hết." Nói đoạn, Merkin ngước

nhìn vị trí ban đầu của gian đại điện, ánh mắt dường như vẫn chưa hết kinh hoảng. Nếu không

phải gian đại điện ấy dựng đứng lên, mà cứ thế vỡ bung ra, bọn họ sẽ rơi từ độ cao mấy trăm

mét xuống, lúc ấy dù là người thép cũng nát bấy.

Trác Mộc Cuờng Ba thắc mắc: “Cả gian đại điện lớn như vậy, họ làm thế nào mà khiến nó

đột ngột xoay một trăm tám mươi độ được nhỉ?”

Merkin không lên tiếng, chỉ cắm cúi tìm kiếm gì đó trên mỏm đá.

Lúc nãy khi rơi xuống, hai người họ đều nhìn thấy gian đại điện phía trên lại xoay một vòng

nữa, vách tường ở đầu bên kia cũng rơi xuống, tưởng chừng sắp biến hai người họ thành miếng

thịt kẹp trong bánh xăng uých tới nơi, nhưng rồi hai vách tường đá ấy không hiểu sao lại đột

nhiên biến mất. Lúc đó, thân thể Merkin đang lộn nhào giữa không trung, không nhìn rõ được,

giờ đây nghxi kỹ lại, mới thấy tình hình lúc đó thực sự là tột cùng hung hiểm. Sau đó, trước khi

y chạm đất, lại nghe thấy một vật thể nặng nề đập xuống nền đá bên dưới, rồi không còn âm

thanh gì nữa. Merkin suy đoán, vật nặng ấy đã trượt từ mép mỏm đá xuống bên dưới rồi.

Quả nhiên, y tìm được một chỗ vỡ mới trên mép vách đá. Nham thạch cứng như vậy không

ngờ cũng bị va đập làm vạt đi một mảng lớn, từ diểm này có thể thấy thứ kia nặng nề đến

chừng nào. Kế đó, Merkin lại quan sát tỉ mỉ kết cấu của mâm tròn có 1ỗ thủng ở giữa kia, đặc

biệt là hai vách tường của cái "cầu bập bênh" còn sót lại sau khi gian đại điện vỡ tung. Hồi lâu sau, y bỗng reo lên: "Tôi hiểu rồi!"

"Thế nào?" Trác Mộc Cường Ba cũng hết sức quan tâm chuyện này.

Merkin nói: "Hai bức tường trước và sau của đại điện kia chắc rằng mỗi bên đều gắn một

khối đá nam châm khổng lồ, đồng thời ở điểm đối ứng với hai khối đá ấy trên mâm tròn kia,

cũng có hai khối đá nam châm lớn tương đương như thế. Bốn khối nam châm này hút lẫn nhau,

khiến cả gian đại điện được cố định ở vị trí song song với mặt đất. Một khi cơ quan được kích

hoạt, liền có một lực lớn hơn làm thay đổi khối đá nam châm gắn ở bên trong mâm tròn, có lẽ

là đảo chiều hai cực Nam Bắc. Khi ấy khối nam châm ở hai đầu gian đại điện sẽ đồng thời chịu

tác động của lực đẩy và lực hút, tất nhiên sẽ xoay một trăm tám mươi độ. Còn khi chúng ta

đứng yên bất động, sàn đại điện bát đầu vỡ ra, cũng chính nguồn lực đó đã đổi khối đá nam

châm bên trong mâm tròn đi, lần này hẳn là đổi thành một khối đá bình thường. Trọng tâm của

gian đại điện ấy nằm ở hai khối nam châm hai đầu, khi phần sụp đổ không đều, đại điện tự

nhiên sẽ chầm chậm nghiêng đi. Khi khối nam châm ở một đầu rơi xuống, trọng tâm của gian

đại điện liền thay đổi lần nữa, đầu bên kia cũng lập tức xoay ngược lại. Hai khối nam châm

khổng lồ hút lẫn nhau giữa không trung, một trong hai khối xoay tròn một vòng, lực đạo khổng

lồ đó khiến cả hai cùng thay đổi hướng rơi ban đầu, cuối cùng lăn xuống vách đá kia. Hai

người chúng ta sém chút nữa là bị kẹp vào giữa!"

Trác Mộc Cường Ba bất giác nghĩ thầm: "Toàn bộ cạm bẫy này được thiết kế tinh vi như

vậy, tại sao cuối cùng lại thay hai khối đá nam châm kia đi?" Nghĩ tới đây, gã không kìm được

đưa mắt nhìn sang Merkin, đồng thời nhẩm lại trong đầu: "Một người huyết thống thuần

chủng...”

Merkin vừa giải được bí mật kết cấu của cạm bẫy trong gian đại điện phía trên, không khỏi

thầm hoan hỉ, chẳng ngờ ngẩng đầu nhìn lên, lại phát hiện ra một sự lạ, liền buột miệng thốt:

"Này, Cường Ba, anh nhìn chỗ kia xem...”

Hai người vừa trải qua một phen thập tử nhất sinh, Trác Mộc Cường Ba cũng không để tâm

đến tiếng gọi “Cường Ba” Ngượng ngịu ấy của Merkin, bước đến đứng cạnh y bên rìa vách đá,

dõi mắt nhìn ra phía xa.

Xa xa chỉ thấy một mảng tối đen, Trác Mộc Cường Ba căng hết cả mắt cũng không nhìn

thấy gì, đang định chất vấn Merkin, chợt trong bóng tối lóe lên một tia chớp xé toanh tấm màn

đêm mịt mù, chiếu sáng một dải phía xa, khiến tòa cung điện ở thế giới dưới lòng đất này bỗng

hiện lên trước mắt họ!

ĐẠI DIỄN LUÂN HỒI ĐÀI

Ánh sáng màu tím đỏ lóe lên một cái rồi biến mắt ngay, trong chớp mắt ngắn ngủi đó, Trác

Mộc Cường Ba và Merkin đều nhìn thấy, nơi được ánh sáng chiếu rọi ấy tươi sáng rực rỡ muôn

phần, trên dốc núi hiện lên một tòa cung điện, đường nét góc cạnh rõ ràng, tầng tầng lớp lớp

nhô cao, giữa các mỏm núi có cầu treo nối với nhau. Trọn vẹn một quần thể kiến trúc quanh co

uốn lượn như rồng chầu, kéo dài liên miên không dứt, cảnh tượng vô cùng tráng lệ huy hoàng.

Sau khi ánh chớp lóe tắt phụt đi, phía xa xa lại chìm vào màn tối mênh mang. Hai người bọn

Trác Mộc Cường Ba đứng trong bóng tối đó, ngưng thần nín thở, mắt mở to không chớp.

Chẳng rõ bao lâu sau, ánh sáng đó lại lóe lên, cung điện nguy nga hùng vĩ ẩn mình trong bóng

tối thấp thoáng hiện lên, mái cao mái thấp, kiểu cách độc đáo, rường cột san sát, Phật tháp chen

chúc. Trên vách núi dựng đứng còn thoáng thấy một hàng bậc thang nhỏ, hoặc quanh co uốn

lượn, lúc ẩn lúc hiện, hoặc vươn thẳng lên cao, dựng dứng nghìn thước. Có điều ánh sáng chỉ

chớp lên trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, khoảng cách lại ở quá xa, hai người chỉ có thể

thoáng lướt qua cảnh quan ấy một chút rồi trước mắt lại tối sầm.

Ánh sáng xung quanh họ cũng dần ảm đạm, những ngọn lửa trên đại điện rơi xuống đã sắp

tàn, Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở: "Phải nghĩ cách rời khỏi chỗ này thôi."

Merkin hỏi ngược lại gã: "Anh nói xem đó là cái gì?"

Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Ông hỏi những chùa chiền cung điện đó ư?"

Merkin lắc đầu: "Không, thứ ánh sáng đó cơ".

Trác Mộc Cuông Ba nói: "Ừm, khoảng cách xa quá, hay là ánh chớp?"

Merkin phản đối: "Ánh chớp? Trong lòng núi thì lấy đâu ra sấm với chẳng chớp?"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ánh sáng ấy lóe lên rồi phụt tắt, không phải ánh chớp thì là gì?

Chớp, chính là rất nhiều positron va đập với electron, điện tích nén lại hình thành hồ quang

điện và phát ra ánh sáng. Người Qua Ba cổ đại đã có thể dùng những khối đá nam châm nặng

hàng trăm tấn để cố định một gian đại điện bằng đá, thử hỏi còn chuyện gì họ không làm được

nữa chứ?"

Merkin vẫn lắc đầu nói: "Thần miếu, thì ra là như vậy!" Đến tận lúc này hai người họ mới

biết, thì ra thần miếu chỉ là một tên gọi chung, không phải là một ngôi chùa miếu, mà là một

quần thể kiến trúc. Mạch núi khổng lồ ở đây không biết chịu tác dụng của ngoại lực gì, khiến

cả ngọn núi nhìn bề ngoài vẫn hoàn hảo, nhưng bên trong lại đỡ vỡ toác, rãnh vực chằng chịt,

người Qua Ba cổ đại đã lợi dụng lòng núi trống rỗng này để xây dựng nên vô số kiến trúc vô

tiền khoáng hậu, diện tích rộng lớn vô cùng, muốn đi hết toàn bộ thần miếu không biết phải

mất bao nhiêu ngày nữa.

Ánh sáng ấy phải một lúc thật lâu mới lóe lên một lần, hai người căng mắt ra vẫn không thể

nhìn rõ được những kiến trúc mờ mờ hư ảo ở phía xa, mãi hồi lâu sau mới định thần lại, bắt

đầu tìm kiếm lối thoát. Mỏm đá trơ trọi này cũng lơ lửng chìa ra giữa khoảng không, hệt như

cái rường đá ban nãy, trên không chạm trời, dưới không chạm đất, ngoại trừ diện tích lớn hơn

cái rường đá nhiều lần ra thì cũng không có lối thoát nào cả. Hai người tìm cả buổi, tuy uổng

công vô ích, song lại tìm được một rãnh nước. Trên vách đá có nước chảy ri rỉ từ trên cao

xuống, đến đây tụ lại thành dòng, trải qua trăm nghìn năm, không ngờ đã tạo thành một rãnh

nước nhỏ sâu chừng ba ngón tay.

Từ lúc rời khỏi hồ nước đến giờ, hai người đều chưa uống giọt nước nào, dọc đường chạy

nhảy liên hồi, miệng đã khát khô hết cả. Mới đầu, họ còn lo lắng trong nước có tạp chất dị vật

gì, sau khi uống mấy ngụm, chỉ thấy ôn nhuận ngọt mát, nước miếng trào ra, liền vục đầu uống

thỏa thuê.

Trác Mộc Cường Ba thấy mấy đốm lửa sắp tắt lụi, bèn nói: "Xem ra, người xưa không hề

lưu lại lối thoát để ra khỏi mỏm đá này, chẳng lẽ phải bám lên vách đá leo qua đó?”

Trong hoàn cảnh bình thường, leo vách đá cũng không là gì với hai người bọn họ, nhưng leo

vách đá ở trong lòng núi xòe tay không thấy ngón như thế này, có thể coi là đã sáng tạo ra một

môn thể thao mới rồi. Đèn pha của Merkin cho dù vẫn còn đầy pin, thì cũng cầm cự được bao

lâu? Ai biết đến lúc nào họ mới leo qua hết vách đá khổng lồ này? Nếu được nửa chừng đã hết

pin, vậy phải làm sao? Khe rãnh ở đâu, điểm đạt chân ở chỗ nào, chẳng lẽ phải sờ mó bằng

tay?

"Leo vách đá? Đúng rồi, sao tôi không nghĩ đến nhỉ!" Câu nói ấy của Trác Mộc Cường Ba

đã nhắc nhở Merkin, y lớn tiếng kêu lên: "Nhớ gian đại điện trên kia như thế nào không? Hai

đầu đều có cửa, tức là, chúng ta chỉ cần leo một lúc thôi, phía trước liền có một thông đạo

khác, nói không chừng leo ra phía mé bên vách đá này là trông thấy luôn cũng nên."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Vậy thì leo lên thôi."

Bỗng Merkin lại lo lắng nói: "Nếu leo lên mà không thấy lối vào thông đạo đó thì sao?"

Trác Mộc Cường Ba cười khổ đáp: "Giờ không nghĩ được nhiều như vậy đâu."

Hai người đi đến dưới chân vách đá, bật đèn pha lên, Trác Mộc Cường Ba tinh mắt, lập tức

phát hiện dưới chân vách đá có khắc một hàng chữ nhỏ: "Kẻ không tìm thấy lối ra, hãy tự tuyệt

tại đây."

Merkin nghe Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm trong miệng, liền hỏi: “Nghĩa là gì thế?”

Trác Mộc Cường Ba bực bội nói: “Ý là, nếu không tìm thấy đường thì từ đây nhảy xuống

cho xong.”

Merkin tức giận gầm gừ: “Đám cổ nhân này cũng coi thường nguwowfita quá!”

Trác Mộc Cường Ba lại chợt nghĩ: “Rốt cuộc là sao nhỉ? Người thiết kế cơ quan này rất am

hiểu tâm lý của kẻ xâm nhập, mỗi lần bọn họ lâm vào tuyệt cảnh, người này đều để lại các dấu

hiệu, toàn là những lời khiến người ta phải tuyệt vọng. Muốn dọa khiếp kẻ xâm nhập ư? Nếu

chỉ là vậy, tại sao những cạm bẫy đó lại không thực sự đẩy người ta vào chỗ chết chứ?” Trong

lòng gã hiểu rất rõ, mặc dù gã và Merkin đều đã dốc hết toàn lực, mấy lần thập tử nhất sinh,

nhưng cũng phải thừa nhận, những cơ quan cạm bẫy đó căn bản chưa hề triển khai toàn bộ,

dường như người thiết kế cơ quan đã cố ý nương tay một chút. Cạm bẫy giống như một kẻ lúc

nào cũng ở phía sau truy đuổi bọn họ, nhưng từ đầu chí cuối vẫn không hạ sát thủ. Trác Mộc

Cường Ba càng lúc càng có cảm giác, những cạm bẫy này dường như không phải dùng để giết

người, ít nhất thì cũng không dùng để giết chết hai người bọn họ, mà là một khảo nghiệm,

giống như trong Đảo Huyền Không tự vậy. Họ phải vuợt qua khảo nghiệm này mới có tư cách

tiếp tục tiến lên phía trước, bằng không sẽ bị vây khốn ở đây cho đến chết. Người thiết kế cơ

quan không để cho những kẻ không thể vượt qua khảo nghiệm bất cứ cơ hội lùi bước nào.

Nghĩ vậy, tư duy Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thêm rành mạch, để lại văn tự ở nơi

tưởng chừng là tuyệt lộ này, thoạt trông thì có vẻ khiến người ta suy sụp tinh thần mất đi ý chí,

nhưng sự thực, nếu đúng là cùng đường tuyệt lộ rồi thì cớ gì phải để lại những lời đó nữa? Vậy

chẳng phải là vẽ rắn thêm chân hay sao? Nếu không phải là tuyệt lộ thì hàng chữ để lại ấy lại

hơi có chút giấu đầu hở đuôi, càng cố che đậy càng lộ ra ý đồ. Vậy tức là, mấy chữ đó chỉ có

thể ngăn được những người tâm trí không kiên định, còn đối với những người một lòng muốn

phá giải bí mật của thần miếu như bọn gã, ngược lại còn là một sự cổ vũ tinh thần nữa. Trác

Mộc Cường Ba bừng tỉnh ngộ, thì ra là vậy, những người Qua Ba cổ đại kia sớm đã để lại yếu

quyết để tiến vào Bạc Ba La thần miếu ngay ở ngoài cửa lớn rồi.

Một người huyết thống thuần chính!

Một người trí tuệ tuyệt luân!

Một người không biết sợ hãi, thân thủ phi phàm!

Tất cả mọi thứ đều xoay chuyển xung quanh ba câu này, nếu thiếu bất cứ điều kiện nào

trong ba điều kiện trên, ở trong thần miếu này ắt hắn sẽ khó lòng tiến bước. Trác Mộc Cường

Ba bất giác thầm nghĩ, không ngờ mình lại được ăn theo Merkin, nếu không có y, không hiểu

mình có thể đi được bao xa trong Bạc Ba La thần miếu này? Nghĩ tới đây, gã lại không khỏi

nhớ đến pháp sư Á La, Lữ Cánh Nam và Mẫn Mẫn, không hiểu tình hình của họ lúc này ra sao

rồi?

"Tôi lên trước." Merkin xung phong.

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu phản đối: “Ông đang bị thương, để tôi đi trước, ông đi sau.”

Tuy lúc hai người rơi xuống, gian đại điện đã dựng đứng lên, nhưng độ cao từ điểm rơi xuống

mỏm đá cũng phải hai ba chục mét, cho dù đã sử dụng phương pháp cuộn người lộn vòng trong

môn nhảy dù thì ngã từ độ cao ấy xuống cũng không phải chuyện chơi.

Hai người liền xuất phát ở chỗ hàng chữ nhỏ ấy, sử dụng ánh sáng có hạn của ngọn đèn pha

tìm đường trong bóng tối, áp mình vào vách đá, nhích từng chút một, cũng không xảy ra

chuyện gì ngoài ý muốn. Merkin suy đoán rất chính xác, leo qua chỗ ngoặt trên vách đá, phía

trước liền xuất hiện một chiếc cầu đá.

Hai người yên ổn lên cầu, phía sau là một con dốc, bậc thang kéo thẳng lên trên, hiển nhiên

nó nối liền với lối ra của gian đại điện. Phía trước là cây cầu đá rộng chừng ba mét, bắc qua hai

bên khe nứt. Cây cầu này cũng giống như mọi con đường ở nơi này, không có lan can, vươn

thẳng sang phía đối diện, bên dưới là vực sâu. Đầu cầu bên kia là một vách đá khác, cửa lớn

rộng mở, khêng biết ẩn chứa huyền cơ gì bên trong.

"Đi thôi." Trác Mộc Cường Ba hít sâu một hơi, hai người đưa mắt nhìn nhau, rồi sải chân

bước lên cầu.

Trong đại điện đèn đuốc sáng rực, pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam sớm đã không còn để ý

đến đám lính đánh thuê kia nữa, mà dồn sự chú ý lên những tác phẩm điêu khắc ở đây.

"Sợ hãi gấp ba!" Vừa nhìn thấy những bức tượng này, Lữ Cánh Nam tức thì liên tưởng đến

một thuật ngữ trong ngành tâm lý học. Không biết là trùng hợp, hay là người xưa đã cố ý làm

vậy, song nhìn những bức tượng này, có lẽ vế sau chiếm khả năng lớn hơn. Nếu đúng như vậy,

chứng tỏ rằng nguời Qua Ba cổ đại cũng nghiên cứu rất sâu về tâm lý học rồi.

"Sợ hãi gấp ba" là một hiện tượng tâm lý. Con người ở thời thơ ấu, tâm trí vẫn chưa hoàn

toàn thành thục, có một độ tuổi ký ức mơ hồ, khoảng ba bốn tuổi gì đó, cũng có trường hợp

sớm hơn, khoảng hai ba tuổi. Khi đó, trẻ con trông thấy người lớn, liền có cám giác như đó là

thiên thần, bởi người lớn dù là thể hình hay sức mạnh đều hơn xa một đứa trẻ con ba bốn tuổi.

Đứa trẻ khi ấy, vì hoàn toàn không có năng lực chống cự lại người lớn, nên chúng sợ hãi nhất

chính lả người lớn, mà thể hình của một người lớn bình thường, so ra thì vừa khéo bằng

khoảng ba lần một đứa trẻ ba bốn tuổi bình thường.

Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, nỗi sợ này đã bén rễ vào sâu thẳm trong tâm trí

con người, dù là khi đã trưởng thành, trong mỗi người đều tồn tại nỗi sợ hãi gấp ba này. Nói

cách khác, khi một người trưởng thành gặp phải một sinh vật có thể hình to gấp ba lần bản

thân, ắt sẽ sinh ra một cảm giác sợ hãi mang tính bản năng.

Những bức tượng này, nhỏ nhất cũng cao chừng năm sáu mét, vừa khéo bằng khoảng ba lần

một người trưởng thành, lại được điêu khắc giống hệt như người thật, bước đi giữa chúng,

người ta không khỏi thấy dâng lên thứ cảm giác sợ hãi vì không thể phản kháng đó. Dĩ nhiên,

thu hút nhất vẫn là những bức tượng lớn, cao mấy chục mét, nổi lên như một tòa nhà đồ sộ,

thần thái uy nghi, khiến ai ai cũng có cảm giác kính sợ. Điều khiến bọn họ kinh ngạc nhất là,

hình dạng những bức tượng này hoàn toàn không giống tạo hình của tượng trong Phật giáo.

Tượng Phật bình thường đa số đều đứng thằng, dáng điệu trang nghiêm, sắc mặt từ ái hoặc

phẫn nộ, hai mắt khép hờ nhìn xuống; còn những bức tượng ở đây lại thiên về tả thực, nét mặt

của những người khổng lồ cao hai ba chục mét ấy thảy đều khác nhay, tư thế cũng khác nhau,

thoạt nhìn như thể một đám người khổng lồ vẫn đang sống sờ sờ ra đó vậy.

Phía đông có một nhóm tượng năm bức, đều cao khoảng hai lăm mét, trong dó có một pho

ngồi xổm, hai mắt chăm chú nhìn xuống đất, như muốn nhìn rõ xem đám người tí hon bên dưới

rốt cuộc muốn làm gì. Một pho tượng khác xem dáng vẻ như thể đang nhón chân bước tới sau

lưng y, chuẩn bị vỗ vai một cái, nét mặt cẩn trọng pha lẫn đùa cợt; hai pho tượng khác đang

châu đầu vào nhau, một người ghé miệng vào tai người kia, ánh mắt lại liếc sang hướng khác,

còn một người thì nhoẻn miệng nở một nụ cười hiểu ý; người còn lại bên cạnh chỉ một ngón

tay xuống đất, tựa như đang chỉ vào đám kẻ trộm báu vật này, tay kia kéo kéo vạt áo của người

đang chăm chú lắng nghe kia, môi hơi hé ra, hình như chuẩn bị nói với người kia: "Có khách

đến."

Nhóm tượng này tuyệt đối không phải tượng Phật. Hình dạng các pho tuợng rất giống thật,

động tác tự nhiên y như một đám diễn viên khổng lồ đang diễn kịch nói. Phục sức của tượng

cũng là áo rộng vạt lớn, thắt eo, tương tự như dân Tạng bình thường. Nếu nói họ là các vị anh

hùng, thì những người khổng lồ này có cả nam cả nữ, không giống võ sĩ cũng khỏng giống văn

thần; còn bảo họ là thần Phật thì trong ấn tượng của Lữ Cánh Nam, không hề có vị thần Phật

nào trông như thế cả. "Lẽ nào là anh hùng của bộ tộc Qua Ba?" Lữ Cánh Nam ngẫm nghĩ, rồi

buột miệng hỏi thành tiếng.

Pháp sư Á La mỉm cười thản nhiên nói: "Đây là các vị thần."

"Thần?" Lữ Cánh Nam nhíu đôi lông mày thanh tú lại.

Pháp sư Á La giải thích: "Đúng, không phải các vị thần trong Phật giáo, cũng không phải

thần trong Bản giáo, mà là thần trong tín ngưỡng dân gian của Tây Tạng, nhưng trong Phật

giáo và Bản giáo cũng có ghi chép về họ, chỉ là lời lẽ khác nhau mà thôi. Nếu ta không lầm,

năm pho tuợng nay là năm vị thần núi, nhưng rốt cuộc là năm vị nào thì cũng không rõ. Vì Tây

Tạng chúng ta có rất nhiều thần núi, miêu tả về các vị thần đều từa tựa nhau, không có thú cưỡi

và pháp khí thì khó lòng xác nhận được."

Nét mặt Lữ Cánh Nam liền trở nên nghiêm trang kính cẩn: “Những bức tượng lớn nhỏ ở

đây, toàn bộ đều là thần linh sao? Tại sao lại giống như người bình thường vậy?"

Pháp sư Á La mìm cười: “Bình thường hóa các vị thần linh, vừa khéo hợp với áo nghĩa Phật

chúng bình đẳng, ta tức là Phật của Thánh giáo chúng ta.”

“Các người xem những vị thần này, giống như đang làm gì vậy?” Người trẻ tuổi dột nhiên

xen vào hỏi.

Nghe người trẻ tuổi ấy nhắc nhở, Lữ Cánh Nam mới phóng tầm mắt ra rộng hơn, không tập

trung vào một hai pho tượng hay một nhóm tượng nào đó nữa, mà cố gắng có một cái nhìn

tổng thể về tất cả các pho tượng trong gian rộng lớn này. Chỉ thấy những vị thần linh ấy tụm

năm tụm ba, đằng này một nhóm, đằng kia một nhóm, đều đang đàm luận gì đó, cũng có người

nhíu mày trầm ngâm suy nghĩ. Xa hơn chút nữa, không ngờ cũng có tượng của Tạng truyền

Phật giáo, chỉ là khoảng cách quá xa, nhìn không được rõ lắm. Nhưng nhìn mấy pho tượng lớn

nhất, Lữ Cánh Nam vẫn có thể khẳng định, các tượng Phật ấy trang nghiêm hơn tượng thần

này nhiều, tuy cũng đang trò chuyện, nhưng chỉ hơi nghiêng đầu, liếc mắt, không giống các

tượng thần linh ở phía này, kẻ đứng người ngồi, tư thế hết sức tùy tiện.

Thị lực của pháp sư Á La tốt hơn của Lữ Cánh Nam, ông nhìn thấy đằng phía sau các bức

tượng Phật ấy, ở mé phía Tây có một số bức tượng khác nữa, tạo hình độc đáo kỳ dị, nửa người

nửa yêu, một sừng, một mắt. Một tia chớp lóe lên trong đầu pháp sư, ông lập tức hiểu ra, đại

điện khổng lồ này quy mô thực sự vĩ đại, đã dung nạp hết mọi lực lượng về một mối. Các thần

linh trong truyền thuyết thần thoại dân gian của Tây Tạng cổ chiếm cứ một phương, các vị Phật

trong Tạng truyền Phật giáo chiếm một phương, các Tán, Ma, Niên trong Bản giáo cổ đại

chiếm một phương, ngoài ra còn một số bức tượng khác mà ngay cả pháp sư Á La cũng không

biết lai lịch từ đâu. Các loại thần Phật của Tây Tạng cổ đại đều tề tựu về đại sảnh này, từ

những vị người đời đã biết, cho đến những vị xưa nay không được nhắc đến trong kinh sách

nào. Quy mô hùng vĩ, số lượng đầy đủ, chỉ riêng một đại điện này thôi, cũng đã ẩn chứa không

biết bao nhiêu bí mật và tri thức đủ khiến người đời phải sững sờ kinh hãi rồi! Nếu có thể để

các chuyên gia học giả đến khảo chứng, thực không biết sẽ phát hiện ra được bao nhiêu thứ có

giá trị văn hóa lịch sử to lớn nữa!

"Hình như đang hội đàm thảo luận gì đó?" Lúc này, Lữ Cánh Nam đã trả lời được câu hỏi

của người trẻ tuổi kia. Không sai chút nào, những tuợng thần này ghé đầu ghé tai vào nhau,

túm năm tụm ba, thực giống như đang tham gia một buổi thảo luận. Nguời Qua Ba cổ đại đã

lợi dụng những mỏ đá khổng lồ duới lòng đất, đẽo gọt ra vô số bức tượng cỡ lớn, rồi thỉnh tất

cả các vị thần Phật ấy về một gian đại điện. Sắp xếp theo hình thức tương tự như đàn tràng

Mạn đà la, chính là để bọn họ tham gia hội thảo ư? Người xưa rốt cuộc muốn thông qua những

pho tuợng này nói gì với chúng ta? Các vị Phật này thuộc về nhiều giáo phái khác nhau, rốt

cuộc đang thảo luận luận điều gì?

Người trẻ tuổi cũng đang hỏi Lữ Cánh Nam đúng câu hỏi ấy: “Đúng vậy, đúng là đang hội

thảo, vậy các người có biết, bọn họ đang thảo luận vấn đề gì không?” Câu hỏi này Lữ Cánh

Nam không trả lời được, thần linh đang thảo luận vấn đề gì, người trần mắt thịt làm sao có thể

biết được chứ?

“Ừm, đáp án ở đằng kia.” Người trẻ tuổi vươn thẳng cánh tay, chỉ về phía đằng xa.

Lữ Cánh Nam nhìn theo hướng đó, chỉ thấy ở chỗ xa nhất dường như có một bức điêu khắc

rất lớn, những người khổng lồ cao hai ba chục mét kia vẫn còn chưa cao bằng một phần bức

tượng này. Thứ ấy, có lẽ là tác phẩm điêu khắc lớn nhất trong đại điện này rồi, chỉ có điều

khoảng cách quá xa, lại bị vô số các tượng thần lớn nhỏ chắn mất tầm mắt, không dễ gì nhận ra

được. Nhìn từ xa, trông vật ấy tựa như một quả đào, có điều phần chóp đỉnh lại không nhọn,

hơi giống quả táo. Lữ Cánh Nam lắc đầu, sợ rằng đi đến được đó cũng phải mất rất nhiều thời

gian, chỉ đành chờ khi nào lại gần hơn chút nữa, ra chỗ thoáng đãng rộng rãi mới nhìn rõ được.

Tuy Pháp sư Á La từ đầu đến cuối không nói không rằng, nhưng cũng muốn tìm hiểu cho rõ

ràng. Người trẻ tuổi đề nghị: "Đi xem đi, để vén lên tấm màn bí mật che phủ trong lòng các

người." Nghe giọng điệu ấy, dường như y vốn không hề lo lắng bọn họ sẽ bỏ chạy. Pháp sư Á

La không khỏi thầm than: "Kẻ này tự tin quá."

Ý NGHĨA CỦA SỰ TỒN TẠI

Lữ Cánh Nam dìu pháp sư Á La, cùng tiến về phía bức điêu khắc khổng lồ. Dọc đường toàn

là các tượng thần Phật cao lớn, trước mặt một số vị thần Phật quan trọng có kê một chiếc bàn

đá khổng lồ. Đồ vật bày trên những bàn đá ấy đã không thể gọi là đồ thờ cúng được, toàn bộ

đều là châu báu sáng lấp lánh, chất thành đống như quả núi nhỏ. Bọn lính đánh thuê đang mải

mê leo lên leo xuống, qua qua lại lại giữa những ngọn núi báu vật. Chúng cứ hết hơi hết sức,

khó khăn lắm mới leo lên được một cái bàn, trong đầu chỉ còn biết đống báu vật rực rỡ, sáng

mắt lên lao bổ vào giữa một rừng pháp khí và châu báu, bị va đập mạnh cũng chẳng hề đau

đớn. Nhưng khi chúng leo lên đến đỉnh một ngọn núi châu báu, nhìn sang bàn khác, lại phát

hiện ra đống châu báu ở cái bàn đằng xa ấy to hơn đống bên này, bảo vật nhiều hơn, tinh xảo

đẹp đẽ hơn, vậy là lại nhao nhao leo xuống, lao về phía cái bàn kia, đợi khi leo được lên đến

đỉnh, lại có phát hiện mới, vậy là lại hùng hục xông đến một chỗ khác.

Bọn lính đánh thuê nhảy nhót leo trèo như khỉ, hùng hục lao như sói, túi quần túi áo nhét

căng các loại đồ trang sức vàng bạc, có tên nhét đầy túi, hai tay cũng không cầm hết được, liền

dùng miệng cắn, dùng đầu đội. Nhiều tên khác thì dùng túi da rắn cỡ lớn đã chuẩn bị từ trước,

nhét đầy hai túi, buộc dây thừng vào lối đi xềnh xệch, rõ ràng đã nặng đến nỗi không kéo nổi

nữa, mà vẫn ra sức nhét vào, trông thấy thứ gì trân kỳ là lại bất chấp tất cả lao xồng xộc tới, lại

bỏ những thứ đã nhét vào vung vãi ra ngoài, trông bừa bãi hết sức.

Thi thoảng cũng có tranh chấp, nhưng Khafu trị thuộc hạ rất nghiêm khắc, luôn có một nhân

vật kiểu như tiểu đội trưởng đứng ra hòa giải, hai bên lập tức ngừng ngay lại, càng không nói

đến việc phải đụng dao đụng súng. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là báu vật ở đây quá nhiều, cho

dù bọn lính đánh thuê này có dốc hết tâm lực ra cũng chỉ mang đi được một phần không đáng

kể mà thôi.

Kim cương xử, Thập tự kim cương xử, Phản vạn tự kim phù, Kim cương quyết, Hoàng kim

cô lâu bổng, Cốt bổng, Thiên yết kiếm, Thiên yết mâu, Thiên yết câu, Hoàng kim lâu cốt, Thất

bảo hải loa, Kim dực điểu, Ma yết, voi, hổ, ngựa, Hoa mạn cung, Câu hồn bài, Thổ bảo thử...

Các loại pháp khí và bảo vật Mật giáo nằm lăn lóc vương vãi khắp nơi, pháp sư Á La nhìn

mà lắc đầu suốt, ông rảo chân bước nhanh ra phía xa, ít nhất cũng coi như khuất mắt trông coi.

Chẳng rõ đi được bao lâu, nhữmg tiếng cười the thé náo động, tiếng gào hét đã không còn

lọt vào tai họ nữa, hai người dần rút ngắn khoảng cách với bức điêu khắc lớn nhất ở trung tâm,

càng đến gần, lại càng thấy kinh hãi. Bức điêu khắc này quả thật rất lớn, cao chừng trăm mét,

gần như chạm đến trần đại điện, khi đến gần họ mới phát hiện, hình như đây là một cái đầu

người, phần họ trông thấy có lẽ là cái gáy.

Một cái đầu người cao cả trăm mét, đặt chính giữa các loại thần Phật của nhiều tôn giáo

khác nhau, người Qua Ba cổ đại rốt cuộc muốn biểu đạt điều gì? Cả pháp sư Á La lẫn Lữ Cánh

Nam đều hiểu rõ, bức điêu khắc lớn thế này, đến quá gần sẽ chỉ có thể nhìn thấy một bộ phận,

hai người bèn quyết định không tiến lên nữa, mà xuyên qua các tượng thần Phật, đi vòng ra

phía chính diện bức tượng đầu người khổng lồ.

Đi mất gần một tiếng, Lữ Cánh Nam đột nhiên dừng lại, tò mò nhìn xuống mặt đất xung

quanh. Pháp sư Á La lướt ánh mắt qua, lập tức hiểu Lữ Cánh Nam phát hiện ra điều gì. Mặt đất

chỗ họ đang đi có màu sắc hơi khác với mặt đất chỗ đằng xa kia, có điều, vì diện tích quá lớn

nên không dễ gì phát hiện được. Màu sắc dưới đất lại vẽ nên những đường tròn đồng tâm xung

quanh tượng đầu người, để ý quan sát sẽ thấy các tượng thần Phật phân bố trên mỗi vòng tròn

ấy đều khác nhau. Pháp sư Á La ngẫm nghĩ hồi lâu, thầm nhủ: "Bố cục này, kết cấu này, lẽ nào

là Đại diễn Luân hồi đài trong truyền thuyết?" Ông bất giác nhớ lại miêu tả về Luân hồi đài

trong kinh điển Mật giáo: “Các vị thần Phật, đưa mắt nhìn vào, sinh tử luân hồi, mãi không

chấm dứt...”

Lữ Cánh Nam xem xét một lúc rồi nói với pháp sư A La: "Chỗ này cũng có cơ quan, chỉ là

chưa khởi động thôi." Pháp sư Á La chầm chậm gật đầu. Hai người càng thêm dè dặt, các

tượng đá ở đây cái nhỏ nhất cũng cao năm sáu mét, cái lớn thì cao đến hai ba chục mét, nếu cơ

quan khởi động thật, tuyệt đối chẳng phải chuyện chơi. Không biết bao lâu sau, hai người rốt

cuộc cũng đến được phía trước tượng đầu người đó, cảnh tượng đạp vào mắt không khỏi khiến

họ sững sờ. Đây chính xác là một bức tượng đầu người khổng lồ, ngũ quan rõ nét, đầu không

có tóc, nhưng không liên quan gì đến hình tượng Phật hay La hán trong tôn giáo mà lại hơi

giống những hình người ở chỗ Cánh cửa Chúng sinh: không có tóc, cũng không phân biệt nam

nữ. Không thể phân biệt được các đường nét trên gương mặt pho tượng đầu người này, bởi

toàn bộ phần mặt bò lúc nhúc các loại trùng kiến, toàn là những loài sinh vật hung dữ, có độc,

khiến người ta nhìn mà phát sợ. Các loại sinh vật có độc bò ngang dọc khắp trên bộ mặt khổng

1ồ ấy, mỗi con đều được điêu khắc tinh xảo giống hệt vật sống, nhìn từ xa thậm chí còn có cảm

giác như chúng đang nhung nhúc di động.

Bản thân gương mặt của tượng đầu người ấy vốn đã rất hung dữ, cái miệng há to, lỗ mũi

hếch lên, bộ dạng như thể đang chọn người để cắn nuốt, hai mắt lồi hẳn ra ngoài, tròng mắt tựa

hồ đang trừng lên nhìn sinh vật trước mặt mình. Nhãn cầu được điêu khắc như mắt của đứa trẻ

bị não úng thủy, chỗ lông mày tuy bị độc trùng phủ kín, song vẫn nhìn ra được hai hàng lông

mày chau lại như thể đang trầm ngâm nghĩ ngợi điều gì đó. Nhìn từ xa, đây là một bức tượng

đầu nguời bị buộc phải banh miệng ra, hai mắt hết sức kinh hãi, đồng thời lại lộ ra dáng vẻ lo

lắng trầm tư. Thị lực của pháp sư Á La rất tốt, ông còn trông thấy trong cặp mắt trũng xuống

và cái miệng khổng lồ đang há to ra ấy dường như còn thứ gì khác, bèn cùng Lữ Cánh Nam

tiến lại gần hơn để nhìn cho rõ.

Khi khoảng cách rút ngắn lại, những sự vật trong miệng và trong nhãn cầu của tượng đầu

người cũng dần trở nên rõ ràng hơn. Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La càng lúc càng thêm kinh

ngạc. Chỉ thấy trên cặp mắt của pho tuợng đầu người khống lồ ấy toàn là những hình chạm

khắc các tư thế giao hợp của nam và nữ, còn trong cái miệng há to kia lại có cả chim bay thú

chạy, cây cỏ hoa lá, đủ các loại người, thần Phật yêu ma... không gì là không có. Quan sát ở cự

ly gần mới thấy, lũ độc trùng trên gương mặt kia không chỉ đang cắn xé bộ mặt người khổng

lồ, mà đồng thời cũng đang cắn xé lẫn nhau. Phần xương đầu phía trên trán một chút đã bị bọn

độc trùng cắn thủng một lỗ, cơ hồ tất cả lũ độc địa ấy đều chen chúc, tranh nhau bò về phía cái

lỗ ấy, cũng có rất nhiều độc trùng bò ra từ trong tai, lỗ mũi và khóe mắt của pho tượng, song số

nhiều hơn lại muốn chui vào... Pháp sư Á La và Lử Cánh Nam chưa bao giờ gặp tác phẩm điêu

khắc nào giống thế này, không có trong Mật giáo, Phật giáo hay Bản giáo, thậm chí cả trong

các truyền thuyết thần thoại lưu truyền trong dân gian cũng không có thứ kỳ dị đặt giữa trung

tâm của chư thần chư Phật này rốt cuộc là gì?

“Pháp sư đại nhân, thứ... thứ này... trong điển tịch có nhắc đến không?” Lữ Cánh Nam hỏi

với vẻ đầy nghi ngại.

Pháp sư Á La khẳng định: “Không có, tuyệt đối không có! Có lẽ, người Qua Ba sau khi tới

đây mới điêu khắc ra thứ này. Ta tin chắc ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, cũng không thể tìm

được một bức điêu khắc tương tự. Thứ này rốt cuộc tượng trưng cho điều gì? Đặt nó ở vùng

trung tâm của tất cả tượng thần Phật, để các vị thần linh suy tư, rốt cuộc là suy tư vấn đề gì?”

“Tồn tại!” Giọng nói của người trẻ tuổi kia vang lên ở đằng trước, kế đó, hai người liền thấy

y bước ra từ phía sau một pho tuợng đá lớn. Thì ra, sau khi Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đi,

người trẻ tuổi ấy cũng tò mò đến xem xét bức điêu khắc trung tâm đại điện. Y đi lối tắt, nên

đến phía dưới bức tượng đầu người khổng lồ trước Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La, và đã ở đây

quan sát được một lúc lâu rồi.

“Tồn tại?” pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam thực sự không thể liên hệ tác phẩm điêu khắc

trước mắt với lời người trẻ tuổi kia vừa nói.

"Đúng thế, sự tồn tại." Người trẻ tuổi chắp hai tay sau lưng bước tới, nét mặt lộ vẻ đắc ý, bộ

dạng tựa như một hướng dẫn viên thâm niên trong viện bảo tàng, chậm rãi giải thích cho hai

người: "Trong tất cả các sinh vật, những loài sở hữu ý thức tự ngã cực kỳ hiếm hoi, voi, cá heo,

tinh tinh, gorilla... đếm được trên đầu ngón tay, đại đa số các sinh vật còn lại đều chỉ hành

động theo bản năng. Mục đích tư duy của chúng cũng chỉ là để thỏa mãn nhu cầu mang tính

bản năng: lãnh địa, ăn, giao phối. Những sinh vật cấp thấp hơn nữa còn không có năng lực tư

duy, ngay cả phương thức hành vi của chúng cũng đều được di truyền trực tiếp từ đời cha ông.

Bọn chúng chỉ là một bản sao của chính mình, không ngừng lặp lại bản thân trong dòng thời

gian vô tận. Chỉ có con người các ngươi, mới thực sự học được và có khả năng sử dụng tư duy

để sáng tạo."

Nói đoạn, người trẻ tuổi giơ tay chỉ về phía bức tượng đầu người khổng lồ. Điểm này thì Lữ

Cánh Nam và pháp sư Á La chỉ có thể gật đầu thừa nhận, xét cho cùng, ngoại trừ sinh vật

ngoài hiành tinh có trí tuệ cao xưa nay vẫn luôn nằm trong vòng nghi vấn, con nguời có thể

xem là vạn vật chi linh, là loài duy nhất trên địa cầu nắm được năng lực tư duy và vận dụng nó

một cách thành thục. Đây là sự thật đã được công nhận rộng rãi.

Nhưng pháp sư Á La lại để ý thấy, người trẻ tuổi kia không nói "con người chúng ta", mà là

"con người các ngươi", nhìn vẻ mặt khinh khỉnh của y, tựa như không thèm tự nhận mình là

con người vậy.

"Rất rõ ràng, người Qua Ba cổ đại từ hơn một nghìn năm trước đã nhận thức được đại não,

chứ không phải trái tim, mới là hạt nhân của tư tưởng, sớm hơn châu Âu cả mấy trăm năm,"

người trẻ tuổi cười gàn lạnh lẽo, nói: "Vì vậy bản thân bức tượng đầu người này hẳn là đại diện

cho một con ngườỉ. Trung khu của năng lực hành vi, năng lực phán đoán, năng lực tư duy đều

nằm ở đại não, đó cũng là điểm duy nhất khác biệt giữa nhân loại và các loài sinh vật khác. Khi

quan sát từ xa, các người có nhận ra gương mặt này hơi quen quen không? Không tính đến thể

tích khổng lồ và những loài độc trùng bò đầy mặt kia, trông nó có giống bức “Người suy

tưởng” của Rodin hay không? Nếu không xét tới bộ mặt kinh khủng như vậy, cũng không xét

tới cái miệng há to, mà chỉ nhìn vào hai hàng chân mày nhíu chặt kia, rõ ràng những người Qua

Ba cổ đại đó đã nắm bắt được cách biểu đạt hai chữ “suy tưởng” một cách rất hoàn mỹ” Nghe

người trẻ tuổi chỉ ra vậy, Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đều chau mày, nghxi kỹ lại cũng thấy

hơi giống thật. Hiển nhiên năng lực quan sát của người trẻ tuổi này sắc bén hơn họ rất nhiều,

nhưng càng như vậy, hai người lại càng thêm lo lắng, đồng thời cũng không khỏi run sợ trong

lòng. Họ cảm thấy có điều gì đó không ổn, nhưng lại không sao nói ra được.

“Trong cặp mắt toàn là dục vọng.” người trẻ tuổi thu nụ cười lại, ngước nhìn hai mắt pho

tượng, "có lẽ các người cho là vậy, nhưng thực ra không phải, tin rằng cả hai đều không lạ lẫm

gì với Hoan hỉ thiền trong Tạng truyền Phật giáo, chắc cũng từng gặp vô số các bức điêu khắc

miêu tả cảnh quan hệ nam nữ. Hai người xem những hình khắc nam nữ giao cấu trong đôi mắt

này, so với những bức điêu khắc ấy, có chút khác biệt nào không? Những hình khắc này kỳ

thực chỉ là những bức tranh giao phối rất nguyên thủy, rất bình thường mà thôi, chúng tượng

trưng cho sự sinh sản. Bất cứ loài nào muốn duy trì sự tồn tại của mình, cho dù sử dụng

phương thức nào chăng nữa, cũng không thể tách khỏi hai chữ 'sinh sản' được. Sinh sản là

phương pháp duy nhất để mọi thể sống hữu hạn bảo tồn được hệ thống tự thân của chúng, nhân

loại các người cũng không ngoại lệ.”

Nghe đối phương giải thích, Lữ Cánh Nam mới ngẩng lên nhìn lại cặp mắt của bức tượng

đầu người, quả nhiên, những hình tượng nam nữ trong đó tuy đang tiến hành giao phối với

nhiều phương vị, tư thế khác nhau, nhưng thứ được nhấn mạnh ở đây đích thực không phải tính

dục, thậm chí người xưa còn cố ý ẩn đi vẻ hoan lạc của hai bên. Nét mặt của các cặp nam nữ

đều nghiêm túc dị thường, giống như những cặp khổ sai đang lao động vất vả vậy. Lột bỏ đi

tấm áo ngoài văn minh, thực ra hành vi mà nhân loại phê phán, ngợi ca, cảm thấy thần bí, cảm

thấy tò mò, cảm thấy hổ thẹn, cảm thấy khinh thường ấy, chẳng qua chỉ vì một mục đích cực

kỳ đơn giản... sinh sản!

Không dừng lại ở đó, người trẻ tuổi tiếp tục cất tiếng: "Mắt nhìn xa hơn, vì vậy nó nhìn thấy

ý nghĩa bản chất của sự tiếp diễn giống nòi... sinh sản, còn miệng, trong cái miệng lớn này có

vô số thứ, bao la vạn tượng, nhưng bất luận thế nào cũng không thể thoát ra khỏi phạm trù vật

chất hữu cơ. Nó tượng trưng cho sự tuần hoàn của năng lượng, ừm, nói vậy có vẻ hơi thâm ảo

quá, có lẽ người xưa biểu đạt đơn giản hơn một chút, nhưng tôi cảm thấy, nó chính là tượng

trưng cho sự tuần hoàn của năng lượng. Một giống loài muốn tiếp tục tồn tại thì không thể tách

rời khỏi sự sinh sản, còn một cá thể sinh vật muốn tiếp tục tồn tại thì không thể không có tuần

hoàn năng lượng. Đối với nhân loại bình thường, đó cũng chính là... ăn. mọi thứ điêu khắc bên

trong cái miệng này, đều có thể ăn được.” Người trẻ tuổi nhếch mép lên, như cười mà không

phải cười, liếc nhìn cái miệng khổng lồ đó.

“Những... những tượng Phật ấy...” Lữ Cánh Nam kinh ngạc chỉ vào phía trong cùng, trong

đó còn có cả tượng thần Phật yêu ma cơ mà!

Người trẻ tuổi nhìn có vẻ giễu cợt, đoạn quay sang pháp sư Á La nói: “Nếu trên đời này có

yêu ma thần Phật, con người lại trong tình trạng đói không thể chịu nổi nữa, nói không chừng

cũng đành bắt lấy mà ăn thôi, phải vậy không?”

Pháp sư Á La ớn lạnh cả sống lưng, đối với tôn giáo, câu nói này thực sự là một điều đại bất

kính, nhưng ông lại nhất thời quên cả phản bác, trong lòng ngấm ngầm cảm thấy, có lẽ người

trẻ tuổi này đã nói đúng! Trong các thần thoại truyền thuyết khác nhau, chuyện ăn thịt thần, ăn

thịt ma cũng không hiếm, thí dụ như trong Tây Du Ký, bất kể là yêu ma quỷ quái hay những kẻ

xấu bình thường, chẳng phải đều muốn bắt Đường Tăng ăn thịt đấy hay sao?

Người trẻ tuổi lại đưa ánh mắt thương hại liếc nhìn Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La, châm

biếm: "Phàm những thứ có thể tìm được, có thể bỏ vào miệng, có loại nào mà con người chưa

từng ăn chứ? Có điều, những người Qua Ba cổ đại này cũng không phê bình hành vi đó, họ

chẳng qua chỉ biểu đạt một thứ bản năng bằng phương pháp đơn giản và nguyên thủy nhất mà

thôi, một con người muốn tồn tại, ắt phái có sự trao đỏi náng lượng, ăn chinh là điéu kiện cơ

bán nhất để nhân loại duy trì sự tồn tại của mình."

Nói tới đây, người trẻ tuổi mới dừng lại, quay đầu tiếp tục quan sát bức tượng đầu người

khổng lồ. Pháp sư Á La liếc nhìn bóng lưng của y, thầm thắc mắc, người trẻ tuổi này nhắc đến

cặp mắt, đến cái miệng, nhưng điểm đặc biệt, rõ ràng nhất của pho tượng này thì y lại không hề

nhắc đến. Ông rốt cuộc cũng không nén được, cất tiếng hỏi: "Những độc trùng trên mặt, tượng

trưng cho thứ gì?"

Người trẻ tuổi quay đầu lại, bộ dạng như một ông cụ đang dạy đời cho lũ trẻ con: "Tượng

trưng cho vấn đề mà tất cả thần Phật trong đại điện này đều đang suy tư... ý nghĩa của sự tồn

tại," nét mặt y lúc này tựa hồ một vị trí giả đã nếm trải đủ ngọt bùi đắng cay của cuộc đời,

trong mắt toát lên niềm cảm ngộ cùng sự xót thương trước thế sự đa đoan. Pháp sư Á La thầm

kinh hãi, mỗi cử động dù là nhỏ nhặt nhất của người trẻ tuổi này, không ngờ đều mang theo ám

thị tâm lý rất mạnh mẽ, khiến người ta chấp nhận quan điểm của y một cách vô thức, thủ đoạn

này... đáng sợ, thật sự quá đáng sợ!

Nhân lúc người trẻ tuổi ấy không để ý đến mình, pháp sư Á La khẽ nói với Lữ Cánh Nam:

"Nghe y nói, chớ nhìn vào mắt y." Lữ Cánh Nam cơ hồ đột nhiên tỉnh ngộ, làm một động tác

nhỏ, biểu thị ý "đã biết" với ông, mắt vẫn nhìn về phía người trẻ tuổi kia, nhưng ánh mắt thì đã chếch ra tít đằng xa.

Người trẻ tuổi kia hoàn toàn không phát giác ra động tác nhỏ của hai người, hoặc giả đối với

y, kiểu cách nói chuyện đầy ám thị này sớm đã trở thành một thosiquen rồi cũng nên. Y tiếp

tục giải thích: “Ý thức của trẻ con lúc mới sinh ra là một mảng trống rỗng, như một tờ giấy

trắng vậy, khi nó phát ra tiếng khóc đầu tiên, nghe thấy âm thanh đầu tiên của thế giới này,

cũng giống như vạch lên tờ giấy trắng ấy một nét bút, khi nó mở mắt ra, bắt được tia sáng đầu

tiên, cũng giống như vạch thêm một nét bút nữa lên tờ giấy trắng ấy, cứ thế trải qua một đời

người, những gì nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nếm được, tiếp xúc được, cảm tri được, tất

thảy mọi thứ đều vạch lên vô số đường nét khác nhau trên tờ giấy trắng ấy. Đối với bức tượng

này, mỗi sự vật trên thế gian, đều được biểu đạt bằng một con độc trùng, có lẽ ẩn hàm đạo lý

‘Ngũ sắc khiến mắt người ta mù lòa, ngũ âm khiến người ta điếc lác’ của Đạo gia. Cuối cùng,

đời người sẽ giống như bức tượng này vậy, bị các loại độc trùng bò khắp nơi, chui vào trong

óc, bụp...” Người trẻ tuổi phát ra âm thanh như thể tên lửa bắn vút lên, tay làm động tác biểu

thị mọi thứ dều kết thúc.

Pháp sư Á La thấp giọng nói: "Lời từ một phía, không thể tin hết được."

Lữ Cánh Nam hỏi: "Ngươi nói các vị thần Phật ở đây đều đang suy nghĩ, suy nghĩ cái gì?

Trên mặt bò đầy sâu bọ, tượng trưng cho ý nghĩa của sự tồn tại ư?"

Người trẻ tuổi đáp: "Toàn bộ bức tượng này biểu đạt một sự mâu thuẫn của tồn tại, cặp mặt

tượng trưng cho sự tồn tại của giống loài, cái miệng tượng trưng cho sự tồn tại của cá nhân,

còn các loại sâu độc bò khắp mặt tượng trưng cho mâu thuẫn của hai sự tồn tại này, đây là một

cuộc giao tranh rất dữ dội. Ai cũng biết, một sinh mệnh sinh ra trên đời này, kết quả cuối cùng

là cái chết, chưa bao giờ có ngoại lệ, từ đó suy rộng ra, kết quả cuối cùng của bất cứ loại vật

chất nào xuất hiện trên thế gian này cũng đều là diệt vong, tiêu vong. Kể từ ngày bắt đầu sự tồn

tại của mình, nó đã bước trên con đường dẫn đến sự không tồn tại. Ngay cả chúng ta, trong vũ

trụ này, chúng ta cũng chỉ sinh ra từ một điểm đơn lẻ, cuối cùng lại trở về một điểm đơn lẻ,

sinh ra trong hư vô, rồi lại trở về với hư vô. Đây chính là điểm quy tụ cuối cùng của toàn bộ

vật chất mà thời gian và không gian có thể bao hàm. Như vậy, sẽ nảy sinh một vấn đề nếu sinh

ra chỉ là bắt đầu của chết đi, mục đích cuối cùng của sự tồn tại đều là hủy diệt, vậy thì, ý nghĩa

của sự tồn tại rốt cuộc là ở đâu? Vì cớ gì mà phải tồn tại? Kể từ khi nhân loại sở hữu ý thức tư

tưởng có hệ thống đến nay, ngoài việc tìm hiểu xem bản thân là ai, thì vấn đề này cũng là một

mệnh đề triết học chung cục. Kỳ thực, cả hai cũng có thể coi là một vấn đề. Kể từ khi con

người biết ghi chép lịch sử, đã xuất hiện vô số triết gia, vĩ nhân, nhưng chưa một ai làm rõ

được vấn đề này. Nói một cách đơn giản là, ta từ đâu đến? Sau này sẽ đi đâu? Gần như mọi tôn

giáo đều được sinh ra để giải quyết vấn đề này. Những tôn giáo thâm ảo một chút thì cố trình

bày cho rõ, tại sao con người lại sống, tại sao con người lại chết. Những tôn giáo nông cạn hơn

thì trực tiếp nói với ta, con người nên sống như thế nào, và phải đối mặt với cái chết như thế

nào. Nhưng sự thực là không có tôn giáo nào tìm được một đáp án chính xác, những câu trả lời

mơ hồ nửa nạc nửa mỡ cuối cùng sẽ dẫn đến kết quả, những người khác nhau đọc giáo lý của

cùng một tôn giáo, lại có được những câu trả lời khác nhau, thậm chí còn có nhân sinh quan và

thế giới quan khác nhau nữa." Nói tới đây, y nghiêng mặt nhìn Lữ Cánh Nam nói: “Cô có biết

cô tồn tại vì cái gì không?”

Lữ Cánh Nam không cần nghĩ ngợi, lập tức đáp ngay: "Đương nhiên."

Người trẻ tuổi lộ vẻ mặt như thể mình đã hỏi sai người, vỗ vỗ trán nói: “À, quên mất, cô là

kẻ sống gửi.”

Lữ Cánh Nam biến sắc, không tự chủ được giơ tay lên chỉ mặt người trẻ tuổi nói: “Ngươi...

ngươi...”

Pháp sư Á La cũng ngầm kinh hãi, cả chuyện bí mật như vậy mà đối phương cũng biết,

người trẻ tuổi này rốt cuộc đã nắm trong tay bao nhiêu bí mật?

Người trẻ tuổi cười cười nói tiếp: "Đối với một kẻ sống gửi đã quên đi bản thân mình, chỉ

tồn tại vì người khác như cô, hỏi vấn đề này thành ra lại thừa thãi mất rồi."

Người trẻ tuổi lại hướng ánh mắt dò hòi sang phía pháp sư Á La, pháp sư bèn đáp lại bằng

một câu kệ: "Làm theo tâm mình, cả đời không hối."

Chỉ nghe đối phương bật cười châm biếm: "Ta hỏi ông tồn tại vì cái gì, còn câu trả lời của

ông lại là một phương thức tồn tại." Y lắc lắc đầu, nói tiếp: "Nói gì thì nói, điều pho tượng

khổng lồ trước mặt chúng ta đây muốn biểu đạt, chính là ý này, nó đang chất vấn mọi vị thần

Phật, nếu mục đích của tồn tại là để hủy diệt, vậy thì ý nghĩa của sự tồn tại rốt cuộc nằm ở

đâu?"

Đôi mắt u uất của người trẻ tuổi bất ngờ ngước lên, trong mắt lóe sáng, pháp sư Á La và Lữ

Cánh Nam không hẹn mà cùng chìm vào suy tư. Chỉ là, điều pháp sư Á La băn khoăn không

phải ý nghĩa của sự tồn tại, mà là: "Câu cuối cùng của người trẻ tuổi này hình như có nhầm lẫn,

không nên nói mục đích của tồn tại là để hủy diệt, mà phải nói kết quả cuối cùng của sự tồn tại

đều là hủy diệt mới đúng chứ nhỉ?"

Cả ba dường như đều đắm chìm trong suy nghĩ của riêng mình, nhất thời không ai lên tiếng.

Lúc này, Lữ Cánh Nam nhìn lại bức tượng đầu người khổng lồ ấy, tức thì có cảm giác khác

biệt hẳn ban đầu. Nếu không có người trẻ tuổi này giải thích, ai có thể nghĩ ra bức tượng đầu

nguời thoạt trông thì xấu xí, dữ tợn và đáng sợ này, lại ẩn hàm ý nghĩa sâu xa đến thế? Nhìn

mãi, nhìn mãi, cô trông thấy bên dưới cái miệng khổng lồ ấy, hình như có mấy bóng người!

VÙNG ĐẤT LINH HỒN

Bọn lính đánh thuê ấy không phải toàn bộ đều là hạng tầm thường dung tục, trong nhóm

cũng có một số không bị các thứ vàng bạc châu báu chất đống lên như núi trên những bán đá

khổng lồ ấy làm mê hoặc tâm trí. Bọn chúng đã quan sát, đồng thời nhanh chóng nhận ra, trên

những bàn đá ấy chẳng qua chỉ là các món đồ thờ dùng để cung phụng cho những vị thần Phật

phía sau, rõ ràng đẳng cấp của vị thần phía sau càng cao thì đồ vật bày trên bàn sẽ càng phong

phú, châu báu càng tinh xảo đẹp đẽ hơn. Vì vậy, những tên lính đánh thuê ấy bắt đầu tìm kiếm

xem trong cả đại điện này pho tượng nào có đẳng cấp cao nhất, tìm qua tìm lại, rốt cuộc chúng

tìm được pho tượng lớn nhất ở chính giữa này. Tuy không biết đó là gì, nhưng nhìn thể tích của

pho tượng, cả mấy tên đều khẳng định đẳng cấp của đồ vật bên trong chắc chắn không thể kém

được.

Bởi vậy, khi người trẻ tuổi ra lệnh giải tán, mấy tên lính đánh thuê rất biết nhìn hàng không

nói lời nào, đã chạy thẳng đến chỗ pho tượng khổng 1ồ ở chính giữa luôn. Bọn chúng đến bên

dưới pho tượng còn trước cả Lữ Cánh Nam lẫn người trẻ tuổi.

Để những người ở xa cũng nhìn thấy các hình điêu khắc trong mắt và trong miệng, phần mặt

của pho tượng hơi nghiêng đi một chút. Mấy tên lính đánh thuê kia vốn chẳng quan tâm đến ý

nghĩa của hình khắc, chỉ một lòng tìm kiếm xem bên trong có bảo bối gì không, ngay từ đầu đã

thấy trong miệng pho tượng có đủ thứ khác nhau, lại thấp thoáng lóe lên ánh sáng riêng của các

loại đá quý. Cả bọn nhận định cái miệng khổng lồ ấy chính là nơi chúng cần tìm, bèn hưng

phấn chạy một mạch đến bên dưới chỗ đó. Đến khi tới trước mặt pho tượng, bọn chúng mới

phát hiện pho tượng đầu nguởi này quả thực quá lớn, nhìn từ xa thì thấy phần môi dưới chạm

đất, nhưng đến gần mới biết muốn leo lên cũng phải tốn khá nhiều công sức. Mấy tên bèn dùng

cả tay lẫn chân, dốc hết sức lực leo vào bên trong miệng bức tượng.

Thực ra, bọn Lữ Cánh Nam vẫn còn cách bức tượng đầu người ấy khá xa, nếu không quan

sát kỹ, khó lòng phát hiện ra mấy tên lính đánh thuê đang đeo bám nhau leo vào trong cái

miệng khổng lồ ấy. Hiển nhiên, người trẻ tuổi cũng đã nhận ra mấy kẻ này, chỉ nghe y hoảng

hốt gọi lớn: "Này! Mấy thằng kia, mau trở lại!" Có điều, khoảng cách quá xa, không gian lại

quá rộng lớn, tiếng kêu ấy không thể truyền đến tai mấy tên lính đánh thuê đó. Người trẻ tuổi

vội vàng lấy thiết bị liên lạc ra, điều chỉnh tần số, tiếc rằng đã muộn mất một bước, còn chưa

chỉnh xong Lữ Cánh Nam đã trông thấy tên lính đánh thuê nhanh nhất leo lên đến chỗ mép môi

của bức tượng đầu người ấy rồi.

Tên lính đánh thuê đó còn chưa kịp vẫy tay hoan hô, thì đã bị một lực hút khổng lồ hút tuột

vào bên trong. Lữ Cánh Nam thoáng ngẩn người, ngay sau đó mặt đất đột nhiên rung lên, tiếng

ầm ầm vang dội như có một vật thể khổng lồ nặng cả vạn tấn đập mạnh xuống sàn. Cô đưa mắt

nhìn bức tượng đầu người kia, chỉ thấy cái miệng đang ngoác to không ngờ đã ngậm lại! Mấy

tên lính đánh thuê con đang đeo bám ở mép môi bức tượng cũng bị chấn động vừa rồi làm cho

rơi xuống hết. Từ độ cao ấy ngã xuống, hẳn khó có tên nào sống nổi. Chỉ nghe người trẻ tuổi

thấp giọng lầm bầm: “Một lũ ngu xuẩn, lại tốn thêm không ít thời gian của tao rồi!”

Sau khi cái miệng lớn ấy khép lại, cả bức tượng đầu người khổng lồ đó cũng nảy sinh tiến

hóa, trước tiên là đôi mắt dần chuyển thành màu đỏ, vô số hình điêu khắc nam nữ giao phối

trên con ngươi cũng nhuốm lên một sắc đỏ yêu dị, kế đó sắc đỏ lan dẫn ra phía ngoài mắt, tựa

như vết nẻ trên mặt vậy. Những con độc trùng kia cũng lần lượt bị phủ lên màu đỏ, tựa như

đang không ngừng vùng vẫy uốn éo, trông lại càng thêm phần sống động. Những vệt đỏ chằng

chịt như mạng nhện ấy rời khỏi bức tượng, tiếp tục vươn ra khắp sàn đại điện. Máu của tên lính

đánh thuê đó dù sao cũng có hạn, tuyệt đối không thể nhuộm đỏ cả một diện tích lớn như vậy

được, hiển nhiên ở bên trong còn có cơ quan khác nữa. Diện tích bị nhuộm đỏ càng lủc càng

lớn, toàn bộ Luân hồi đài bắt đầu từ từ chuyển động.

Lấy pho tượng đầu người khổng lồ làm trung tâm, mặt sàn đại điện tỏa ra thành nhiều vòng

tròn đồng tâm lồng vào nhau, hiện giờ, các vòng tròn ấy đều đang chuyển động. Pho tượng đầu

người ở giữa xoay ngược chiều kim đồng hồ, vòng bên ngoài lại chuyển động thuận chiều kim

đồng hồ, vòng ngoài nữa lại xoay chuyển ngược chiều kim đồng hồ, cứ vậy tiếp nối nhau, tốc

độ chuyển động của mỗi vòng cũng khác biệt. Vòng ngoài cùng chuyển động nhanh nhất, bàn

đá ở đó cũng nhiều nhất, còn rất nhiều lính đánh thuê đang lăn lê bò toài trong đám châu báu ở

trên đó. Từ lúc bắt đầu có chấn động, bọn chúng đã cảm thấy bất ổn rồi, nhưng bàn đá rất cao,

không phải nói xuống là xuống ngay được, nhiều tên chưa kịp nhảy xuống thì cả vòng tròn đã

bắt đầu tăng tốc. Mấy giây sau, tốc độ xoay chuyển đã làm đống đồ cung phụng chất như núi

trên bàn đá chuyển động, vài tên lính đánh thuê xấu số bị vùi mình giữa đống vàng bạc châu

báu cũng coi như là chết có ý nghĩa, một số tên khác đứng không vững, liền bị hất văng khỏi

bán đá rơi xuống đất.

Khi tốc độ xoay chuyển tăng dần, chỉ thấy các vòng tròn cũng bắt đầu tách ra, những vòng

xoay ngược chiều kim đồng hồ từ từ chìm xuống, ngược lại, những vòng xoay thuận chiều kim

đồng hồ lại dâng lên cao. Mỗi vòng này đều rộng khoảng năm mươi mét, vậy là, trong đại điện

đột nhiên dựng lên vô số bức tường dày.

Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La để ý thấy những tượng Phật toàn bộ đều nằm trên các vòng

xoay ngược chiều kim đồng hồ, còn trên các vòng xoay thuận chiều thì hoàn toàn không có vật

gì. Khá nhiều tên lính đánh thuê vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra, đứng ở vòng tròn đang

dâng lên cao, nhìn vòng tròn đang hạ xuống mỗi lúc một thấp ở trước mặt sau lưng, muốn nhảy

lại không dám nhảy, chỉ biết cuống cuồng chạy qua chạy lại.

Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và người trẻ tuổi kia đều đứng ở giữa các tượng thần Phật,

thấy vòng tròn nơi mình đứng chầm chậm chìm xuống, Lữ Cánh Nam ngầm ra hiệu hỏi pháp

sư Á La có nên tranh thủ cơ hội nhảy lên vòng tròn đang dâng lên cao không? Nhưng pháp sư

lại lắc đầu từ chối, bọn họ hoàn toàn không biết gì về kết cấu cơ quan trong đại điện này, còn

người trẻ tuổi trước mắt dường như lại biết khá nhiều, nếu y vẫn đứng yên giữa những tượng

thần Phật này, chắc chắn là có nguyên nhân.

Đối với những người đứng giữa các pho tượng thần Phật như Lữ Cánh Nam, những vòng

tròn không ngừng dâng lên kia giống như các vòng tường vây đang vươn cao vậy. Cùng lúc đó,

một bức bích họa khổng lồ tinh xảo cũng từ từ hiện lên trước mắt họ. Kèm theo đó, còn có vô

số những ô của chạm trổ đẹp đẽ. Qua các ô cửa này, có thể nhìn thấy các cầu thang hình tròn

đan xen chằng chịt bên trong, lên lên xuống xuống phức tạp vô cùng.

Những vòng tròn dâng lên cao đã sắp chạm tới đỉnh vòm mà vẫn không có dấu hiệu dừng

lại, khiến bọn lính đánh thuê không may đứng trên những vòng ấy đều phát hoảng, cuống

cuồng gào thét ầm ĩ. Lữ Cánh Nam không khỏi thầm khen pháp sư Á La sáng suốt, phỏng

chừng những vòng tròn ấy không chạm trần đại điện thì sẽ không dừng lại. Bấy giờ, mấy tên

lính đánh thuê bị kẹt trên các vòng tròn ấy mới có phản ứng, cuống cuồng tìm trong ba lô xem

có thứ gì dùng thay cho dù để nhảy xuống không, tiếc rằng ba lô của bọn chúng lúc này đều

nhét đầy vàng bạc châu báu, những thứ vô dụng như dù diếc đều đã vứt bỏ ở đâu chẳng rõ nữa

rồi.

Tiếng kêu thảm thiết văng vẳng vang lên trong đại điện rộng lớn, đã có một số tên đen đủi

bị nghiền nát trong cái cối xay khổng lồ. Người trẻ tuổi liên lạc với đám lính đánh thuê còn lại,

bảo chúng đứng yên tại chỗ, không được chạy lung tung, y sẽ đến tiếp ứng.

Người trẻ tuổi ngoẹo đầu, cất tiếng hỏi pháp sư Á La: "Đi cùng tôi không?" Nói dứt lời, y

liền nhấc chân đi luôn. Pháp sư Á La ra hiệu, rồi cùng Lữ Cánh Nam theo sau. Lúc này các

vòng tròn đá biến thành vô số bức tường vây hình tròn, khắp nơi trên tường đều có các lỗ lớn,

trông nửa giống cửa sổ nửa giống cửa ra vào, một số ở sát mặt đất, còn đa phần đều lơ lửng

trên cao.

Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam theo người trẻ tuổi vào một cánh cửa, cuối hành lang bên

trong là một cầu thang dẫn lên trên, đi được một đoạn, cầu thang tách ra làm hai nhánh, lại xuất

hiện một cầu thang dẫn xuống dưới. Người trẻ tuổi dẫn bọn họ đi vòng vèo lúc lên lúc xuống

trên các cầu thang như mê cung này, không lâu sau đã bước ra từ một cánh cửa khác.

Hai người quan sát, thấy mình đã đến một vòng tròn có tượng Phật khác, đi thêm chừng

trăm mét, liền thấy một pho tượng Phật chắn ngang đường. Những tượng thần Phật khổng lồ

kia lúc này đã trở thành những khối đá cản đuờng, chắn ngang thông lộ. Người trẻ tuổi chẳng

buồn để mắt, liền chui vào một cánh cửa khác. Ba người cứ vậy thoắt lên thoắt xuống giữa vô

số cầu thang, hành lang.

Mặt khác, Trác Mộc Cường Ba và Merkin cũng bắt đầu một cuộc tìm kiếm mới. Sau khi

qua cầu, xác nhận tạm thời không có gì nguy hiểm, hai người bèn dừng chân nghỉ ngơi ở đầu

cầu, đợi cho thể lực hồi phục. Ngoài ra, còn một nguyên nhân rất quan trọng nữa, họ phát hiện

ở đầu cầu có một hàng chữ nhỏ. Giờ đây hai người đã đi đến một sự đồng thuận, phàm là chỗ

nào xuất hiện chữ, đều chẳng hay ho gì cả. Trước khi thể lực hồi phục tương đối, cả hai đều

không dám mạo hiểm xông vào trong. Nghĩa đen của hàng chữ này được Trác Mộc Cường Ba

dịch ra là: “Vùng đất linh hồn quẩn quanh, đến chết không thôi.” Nhưng đến giờ thì Merkin

không còn dám tin lời Trác Mộc Cường Ba nữa, qua mấy lần trước đó, có thể thấy trình độ

dịch thuật của gã này rất có vấn đề.

Rời khỏi chỗ đầu cầu, hai người liền chui vào một hang đá, mới đầu động huyệt rất lớn,

nhưng càng đi sâu vào trong, thông đạo càng hẹp dần lại. Trong động lại có động, liên hoàn nối

tiếp, khiến cả hai nảy sinh cảm giác như đang lần mò bước trong tổ kiến vậy. Merkin nhìn vách

hang ẩm ướt, bỗng sực nhớ lại những gì trải qua trước đó không khỏi lẩm bẩm: "Nơi này..."

"Thích hợp để nuôi dưỡng sinh vật" Trác Mộc Cường Ba bổ sung nốt phần còn lại.

Đây là câu mà Merkin không muốn nghe nhất lúc này, hai người bọn họ không phải Thao

thú sư, vả lại những thứ mà đám người Qua Ba cổ đại kia nuôi dưỡng, thực sự đều rất khó

tưởng tượng.

Trong thông đạo âm u ẩm thấp xộc lên mùi mốc meo, cả bốn mặt thông đạo đều ướt rườn

rượt, dưới đất có nước đọng thành vũng, hai người một trước một sau giẫm chân lên các vũng

nước phát ra những âm thanh ì oạp. Vũ khí cầm trên tay, cả hai đều tập trung toàn bộ tinh thần

cảnh giác. Càng đi sâu vào trong, không gian lại càng tăm tối, chỉ thấy một vùng đen kịt, đèn

pha của họ chỉ chiếu được khoảng ba bốn mét phía trước. Tiếng chân giẫm nước trong hang

động mỗi lúc một vang hơn. Không lâu sau, hai người hợ chợt nghe thấy những tiếng "táp táp

táp" từ trong hang động vẳng ra, Merkin nói: "Động vật nhiều chân, thể hình lớn hơn lũ gián ở

ngoài kia."

Trác Mộc Cường Ba cũng nói: "Số lượng không ít, cũng phát ra tiếng giẫm nước, bọn chúng

có thể leo bám trên tường." Không biết có phải do ngọn đèn pha hay vì nguyên nhân gì khác,

những sinh vật đó không chịu lộ diện mà chỉ ẩn mình sâu trong bóng tối, chốc chốc lại phát ra

những tiếng "táp táp táp" khi chuyển động, sau khi đi được một quãng, bọn chúng cũng không

bám theo hai người nữa, như thể tiếng bước chân của Trác Mộc Cường Ba và Merkin đã quấy

rầy chúng nghỉ ngơi vậy. Merkin luôn miệng thúc giục: "Nhanh lên, nhanh lên!" Giờ đây bọn

họ đã không còn đường quay lại nữa, cũng chỉ biết hy vọng cái hang động tối om này không

dài lắm, có khi ra khỏi đây là thoát nợ không chừng.

Trác Mộc Cường Ba chọn đường thẳng, đi một mạch khoảng hai ba mươi phút là ra khỏi

hang tối, có điều cảnh tượng trước mắt lại khiến hai người chẳng thể nào hân hoan nổi.

Phía trước, tình cảnh cũng không khác mấy so với lúc ha người phải leo thang mây. Họ

đang đứng trên một mỏm đá chìa ra như mỏ chim ưng, lơ lửng giữa từng không, leo lên không

được leo xuống cũng chẳng xong, đằng trước là khe sâu không đáy. Chỉ có một điểm khác biệt

duy nhất, đối diện họ không phải là vách đá, mà là một dãy cột đá chỉnh tề ngay ngắn.

Những cột đá ấy to nhỏ không đều, cái nhỏ chu vi khoảng một hai mét, cái lớn chu vi đến

mấy chục mét, đều vươn từ đáy vực sâu lên, rồi mất hút trong khoảng không gian đen kịt trên

đỉnh đầu. Giữa các cột đá chìa ra các thanh ngang, kết cấu tương tự như cầu thăng bằng, nhưng

khoảng cách và độ rộng hẹp khác nhau. Trên những cột đá lớn có ánh lửa bập bùng, còn những

cột đá nhỏ thì được khảm đá phát quang. Từng hàng từng dãy cột vươn ra, toát lên một khí thế

mênh mông.

Trong mắt Merkin, trận địa cột đá này tựa như một giàn cốp pha khổng lồ. Y bất giác lẩm

bẩm: “Khốn kiếp, chẳng trách vừa nãy bắt chúng ta luyện tập leo trèo.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Xem ra phải leo qua những cột đá này rồi, có điều, phỏng chừng

có vẻ dễ hơn leo vách đá.”

Merkin lầm bầm: “Tôi lo ở giữa những cái cột kia có vấn đề.”

“Vùng đất linh hồn quẩn quanh, đến chết không thôi...” Trác Mộc Cường Ba lặp lại câu

cảnh báo ở đầu cầu, tự hỏi: “Tại sao lại xây thành thế này nhỉ?”

“Ê, nhìn phía kia xem!" Merkin chi lên đỉnh đầu Trác Mộc Cường Ba liền ngửa mặt ngó lên,

chỉ thấy bề mặt đá phía trên đầu họ phủ lớp vật chất trông như một đám sợi bông mỏng. Từ

đám sợi buông xuống những sợi tơ mảnh treo lơ lửng hai vật trông như cái túi, thoạt nhìn thấy

giống túi tơ nhện, có điều, kích thước hơi lớn. Theo tính toán sơ bộ của Trác Mộc Cường Ba,

thể tích của hai vật hình túi ấy không thể nhỏ hơn người gã được.

"Chẳng lẽ là nhện?" Merkin đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, tựa như đang hỏi gã.

Trác Mộc Cường Ba nói: "Chúng tôi quả thực đã gặp phải một số loại nhện thể hình rất lớn,

có điều...” Gã nhìn chằm chằm lên phía trên đầu, đoạn nói tiếp: "Muốn treo được vật lớn như

vậy lên, lũ nhện ở đây, chắc hắn còn lớn hơn cả những con mà chúng tôi từng gặp nữa."

"Mang hai cái kia xuống xem là gì." Merkin đề nghị.

Thấy Trác Mộc Cường Ba trố mắt nhìn mình, Merkin liền giải thích: "Ít nhất chúng ta cũng

phải biết chỗ này rốt cuộc có thứ gì, mới quyết định xem bước tiếp theo sẽ đi như thế nào được

chứ."

Trác Mộc Cường Ba nghĩ lại thấy cũng phải, liền gật đầu đồng ý, Merkin bảo gã dùng dây

móc bắn xuyên qua vật thể trông như cái túi ấy, sau đó dồn sức giật xuống. Chỉ nghe “bịch”,

một vật thể dạng túi bọc kín trong tơ nhện rơi xuống đất.

Merkin lấy dao cắt ra, mùi ẩm mốc liền xộc thẳng lên mũi. Y lập tức đưa tay che kín mũi

miệng, Trác Mộc Cường Ba đứng xa hơn một chút, thấy vật đó hơi ngả về phía sau, liền buột

miệng thốt lên: “Thứ này... giống như loài linh trưởng vậy.”

Chỉ thấy trong túi tơ nhện ấy là một cái xác đã phân hủy được một nửa, bị họ giật từ trên

cao xuống, nhiều chỗ lòi cả xương trắng ra ngoài, nhưng vẫn có thể nhận ra đầu mình chân tay,

trông rất giống con người.

“Xác người đấy...” Giọng Merkin trở nên lạnh lẽo, số xác chết y từng thấy nhiều hơn Trác

Mộc Cường Ba không biết bao nhiêu lần, vừa liếc mắt là đã nhận ra ngay tắp lự, bên trong cái

túi tơ nhện này là xác người.

“Xác người hả!” Vừa nghe Merkin nói ra chữ “người”, Trác Mộc Cường Ba cũng giật mình

kinh ngạc.

Merkin không phải Thao thú sư, nhưng đã ở cùng Soares một thời gian dài, cũng biết được

một số điều, chỉ nghe y gật đầu khẳng định: "Phương thức bắt mồi điển hình của loài nhện, nhả

tơ quấn con mồi chưa ăn hết lại, bơm chất độc vào đề phòng thối rữa, đồng thời cũng tiêu hóa

con mồi từ bên trong, sau đó, con nhện chỉ cần hút nước chảy ra là đủ. Nhìn mức dộ phân hủy

của cái xác này, có thể thấy nó đã ở đây gần một tháng rồi, nơi này sao lại có người được nhỉ?

Chẳng lẽ, người Qua Ba vẫn còn trong thần miếu? Nhưng nếu thế, sao bọn họ lại bị lũ nhện

này bắt làm thức ăn chứ? Hay là tế phẩm?”

Đáng tiếc, vì cả hai đều không phải Thao thú sư, nên họ không hề biết nhện là loài cực kỳ

mẫn cảm với thức ăn của mình, ở chỗ treo thức ăn bao giờ nó cũng để lại một sợi tơ kéo ra xa,

chỉ cần hơi có động tĩnh một chút thôi là bọn chúng sẽ lập tức cảm ứng được, dù đang ở rất xa.

Trác Mộc Cường Ba vừa mới nhớ ra điều gì đó, đã nghe tiếng chân chạy gấp gáp vang lên

bên tai gã. Những âm thanh rào rào ấy khiến lông tóc gã dựng đứng hết cả lên, không kịp giải

thích gì, gã vội vàng kéo tay Merkin, hét toáng lên: "Chạy mau!"

Trác Mộc Cường Ba cuống quýt chạy đà, dồn sức nhảy ra khoảng không, trước khi chộp

được vào giá đỡ giữa hai cột đá ấy, một tay gã hơi giơ lên, sẵn sàng bắn ra dây móc bất cứ lúc

nào, tay kia lại hơi co lại, chuẩn bị vươn ra tóm lấy Merkin. Gã chỉ lo cái cầu thăng bằng nhỏ

ấy không đủ kiên cố, trải qua nghìn năm giờ đã mục nát rồi. Có điều, khi cả hai tay chụp vào

rồi, mới biết giá đỡ này tương đối chắc chắn. Merkin cũng nhảy qua theo gã, cảm giác như thể

rơi xuống một thanh sắt chữ I rất chắc chắn vậy, không hề thấy đung đưa lắc lư chút nào. Hai

người ngoảnh đầu lại, chỉ thấy trong hang động họ vừa đi ra khi nãy tràn ra vô số sinh vật trông

giống nhền nhện.

Thể hình của những sinh vật này phải ngang với bánh xe tải, có lẽ vì sống trong bóng tối

quá lâu, dưới ánh đèn yếu ớt, toàn thân chúng hiện lên màu trắng bợt bạt như thịt thối rữa. Sở

dĩ nói bọn chúng giống nhện là bởi tám cái chân của lũ này to khỏe hơn nhện bình thường rất

nhiều, phần đầu không có tám con mắt như nhện, mà gồ lên hai con mắt bóng đèn giống như

loài cua, trong mắt chỉ thấy màu trắng đục nhờ nhờ lưu động, có lẽ thị lực đã thoái hóa từ lâu.

Phía trước miệng chúng mọc ra một đôi hàm thịt to khỏe, không ngừng đưa lên đưa xuống,

đằng trước hàm thịt là hai cái nanh độc to tường, bên trong đầy dịch thể đen bóng.

“Chó chết.” Merkin vừa nhìn thấy lũ quái vật này đã lạnh toát người, những thứ đám người

Qua Ba cổ đại kia nuôi dưỡng quả nhiên đều chẳng dễ đụng vào. Trác Mộc Cường Ba lại lập

tức nhớ đến loài nhện trắng trong truyền thuyết, "Tuyết sơn có nhện, to như bánh xe, màu trắng

như ngọc, gặp sẽ vong hồn.” Tuyết sơn tam thánh: rắn trắng, bò cạp trắng, nhện trắng, đều

được gọi là thần hộ vệ của núi tuyết, là thánh vật của núi tuyết, nhưng trong những câu chuyện

thần thoại ấy, bọn chúng đều là vật kịch độc, bất cứ kẻ nào dám khinh nhờn thần linh trên núi

tuyết, ắt đều trúng độc mà vong mạng.

Giờ đây, những thánh vật của núi tuyết này đang bừng bừng nổi giận, thả cho các ngươi di

qua rồi thì thôi, không ngờ lại dám động đến kho lương thực của bọn ta, không cho các ngươi

nếm mùi lợi hại thì các ngươi vẫn còn chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Tám cẳng chân to khỏe

của lũ quái vật này không phải để trang trí, chúng chỉ khẽ nhún một cái đã nhảy lên rào rào,

cũng có một số con leo lên vách ngoài hang động rồi bật người nhảy ra. Nhất thời, như có vô

số chiếc ô nhỏ màu trắng xòe ra trên không, trông cũng khá đẹp mắt. Chỉ có điều, vẻ đẹp ấy lại

mang theo sự nguy hiểm chết người. Trác Mộc Cường Ba và Merkin chẳng có tâm trạng nào

mà thưởng thức. Hai người lại một lần nữa bỏ chạy thục mạng, mả chạy trên cái giá đỡ nhỏ

như cái cầu thăng bằng này đâu phải chuyện dễ dàng.

Hai người dang rộng cánh tay để giữ thăng bằng, chạy bước nhỏ, mỗi khi nhìn thấy một giá

đỡ khác lại tung mình nhảy lên, cũng may những chiếc "cầu thăng bằng" này không thích hợp

với bọn quái vật tám chân kia lắm, bọn nhện trắng đành phải bò trên những cột đá khổng 1ồ,

rổi từ trên cao bổ nhào xuống chỗ hai người.

Vậy là bọn họ vừa phải cẩn thận giữ thăng bằng, chạy trên những chiếc cầu thăng bằng bắc

ở giữa vực sâu thăm thẳm với tốc độ nhanh nhất có thể, vừa phải né tránh lũ nhện trắng từ trên

lao bổ xuống. Mới đầu, Merkin còn nổ súng bắn mấy con, nhưng y nhanh chóng nhận ra, nổ

súng sẽ rất khó giữ thăng bằng. Bọn nhện bị bắn trúng, song bản thân y cũng suýt rơi xuống.

Vì thế, y không dám làm bừa nữa, chỉ tập trung tinh thần vào việc giữ thăng bằng, di chuyển,

né tránh.

Lũ nhện trắng này tấn công tương đối đơn giản, chỉ nhảy chồm lên rồi lao bổ tới, muốn

tránh cũng rất dễ, khốn nỗi bọn chúng lại quá nhiều, cứ nhảy tanh tách như châu chấu, mà

không gian để né tránh quá nhỏ, hai người thực chẳng khác nào đang đi trên dây thép. Trác

Mộc Cường Ba và Merkin dường như đã trông thấy thần Chết đang mỉm cười vẫy tay với mình

ở phía trước.

NHỆN TUYẾT

Tránh được mấy lần, đột nhiên Trác Mộc Cường Ba bước hụt chân, cả người thụt xuống, cái

ba lô sau lưng đập mạnh lên mặt “cầu thăng bằng”, cũng may bên dưới còn một “cầu thằng

bằng” khác nằm vắt ngang, trong lúc hoảng loạn gã vẫn kịp thời ôm lấy được. Lúc gã ngẩng

lên nhìn, bọn nhện đã nhao nhao bổ nhào xuống chỗ gã vừa đứng. Dĩ nhiên, lũ nhện chỉ bổ vào

khoảng trống, rốt cuộc đều va vào nhau, rơi xuống lả tả. Trác Mộc Cường Ba nói: “Bọn này

cũng giống như lũ gián ngoài kia, dựa vào năng lực cảm tri chấn động để khóa chặt mục tiêu.”

Chỉ nghe Merkin ở phía sau đáp: "Biết rồi." Sau đó, y lại kinh hoảng thốt lên: "Hả? Không

đúng! Không đúng!" Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại nhìn, chỉ thấy Merkin ở "cầu thăng

bằng" phía trên đang đung đưa lảo đảo, thân thể không ngừng lắc lư, mãi vẫn chưa đứng vững

được, rốt cuộc lộn nhào rơi xuống. Hai chân Trác Mộc Cường Ba liền móc lại, đu người ra

ngoéo lấy hai tay Merkin. Hai người xoay hơn nửa vòng trên không, rồi Trác Mộc Cường Ba

văng Merkin ra. Merkin bay người bám vào được một cây cầu thăng bằng phía trước, bản thân

Trác Mộc Cường Ba cũng leo lên một cầu thăng bằng khác, đoạn cất tiếng hỏi: "Chuyện gì

thế?"

Merkin nói: “Thứ này... thứ này chuyển dộng được!” Trác Mộc Cường Ba sực tỉnh ngộ, vừa

nãy gã rõ ràng nhìn kỹ rồi mới đặt chân xuống, sao có thế bước hụt được, hiển nhiên là do

thanh ngang ấy đã di chuyển. Hai người đứng vững rồi nhìn lại, mới thấy những thanh gỗ đó,

thanh thì rụt về sau, thanh nhô lên trước, lại có thanh lăn sang trái hoặc sang phải. Những thanh

gỗ này đều gác trên cột đá hiển nhiên là những cột đá kia có vấn đề. Ánh mắt Trác Mộc Cuờng

Ba luớt về phía cột đá, quả nhiên phát hiện ra, những cột đá này giống như vô số chiếc hòm

chất chồng lên nhau. Không hiểu cơ quan bị phát động từ lúc nào, giờ đây các cột đá bắt đầu

phân đốt, mỗi đốt lại xoay chuyển theo một hướng khác nhau.

Như vậy, toàn bộ các giá cố định đều đang chuyển động. Một thanh ngang giờ tách ra làm

hai, nối với nửa thanh ngang khác, tạo thành một lối đi mới. Không bao lâu sau, tất cả lại thay

đổi một lượt. Muốn tìm được lối đi trên những cầu thăng bằng không ngừng dịch qua dịch lại

này thực không hề dễ dàng chút nào. Thêm một điều khiến hai người càng rầu rĩ hơn là lũ nhện

trắng vẫn nhao nhao đuổi theo. Không có thời gian nghĩ ngợi, lại càng không có nhiều lựa

chọn, bọn họ chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ nhìn chỗ nào gần nhất, lại ít nhện nhất thì nhảy sang.

Sau khi tránh được mấy đợt tấn công của lũ nhện, hai người cũng lần mò ra một chút bí quyết

để di chuyển trên giàn giáo khổng 1ồ di dộng được này.

Khoảng cách giữa một số thanh gá là tương đương, đều chĩa về phía trước và thấp dần

xuống, có thể sử dụng lực chân giống nhau để nhảy liên tiếp, chỉ cần nắm vững thời cơ đồng

thời hoàn toàn quên mình đang nhảy nhót trên độ cao mấy nghìn mét, bọn họ thậm chí có thể

lao một mạch không dừng lại. Một số thanh gá lại cao hơn hẳn, càng lúc càng cao dần lên. Họ

liền vận dụng cách thức của môn đu xà lệch, hai tay vừa bám vào thanh gá lập tức bật cả người

lên. Khi các thanh gá bắt đầu xoay chuyển, họ bèn đeo mình lơ lửng bằng hai tay, dồn sức vào

eo lưng đu qua đu lại, chỉ cần thanh gá dừng lại là lập tức lộn người lên trên, hoặc mượn lực

lộn vòng trên không, vươn người ra chộp lấy thanh gá phía trước.

Dần dần hai người cũng tìm được cảm giác phối hợp, khi khoảng cách giữa hai thanh gá quá

xa, một người khó lòng vượt qua được, họ liền giở ra chiêu tiếp lực trên không trung. Hoặc là

Trác Mộc Cường Ba một tay bám vào thanh gá, một tay giữ tay Merkin, mượn lực vung mạnh

ném cả người Merkin ra xa, kế đó Merkin lại chộp lấy thanh gá tiếp theo, còn Trác Mộc Cường

Ba thì leo lên thanh gá nhảy tới, tóm lấy hai chân Merkin. Merkin mượn thế đu người, dồn sức

vào hông, hất Trác Mộc Cường Ba văng ra phía trước. Hai người cứ bắt rồi lại ném nhau như

ném bao cát, rất nhiều chỗ không có đường, hai người cũng có thể đu qua, tuy có chút kinh

hoảng song không nguy hiểm gì.

Lũ nhện kia cũng phải lựa đường để đi, có những cột đá cách nhau quá xa, không thể nhảy

bật qua được, bọn chúng buộc lòng phải dịch chuyển theo phương ngang, rồi nhảy sang cột đá

khác bên cạnh. Một số con nhện đã dần dần mất hứng với hai con mồi vừa khó bắt lại vừa chạy

nhanh này, chán nản lui về phía sau. Cứ như vậy, Trác Mộc Cường Ba và Merkin cũng dần dần

kéo dãn được khoảng cách với 1ũ nhện.

Chỉ là, hai người cũng chẳng hoan hỉ được lâu. Họ nhanh chóng nhận ra, kết quả của việc

cắm đầu cắm cổ chạy bừa chính là... phía trước không còn đường nữa! Họ không ngờ lại bị lũ

nhện lùa vào góc chết. Lúc này, hai người giống như đang đi trên cây cầu độc mộc, bốn bề đều

không có thanh gá nào, khoảng cách giữa các cột đá đều hơn hai chục mét. Merkin thấy tình

thế không ổn, lập tức nói: "Chạy ngược lại!"

Vừa quay người, một con nhện trắng to tướng liền xồ tới trước mặt. Merkin không kịp nghĩ

ngợi gì, vung tay lên đấm mạnh, đánh văng con nhện ấy xuống vực sâu vạn trượng. Nhưng

phía sau con nhện đó vẫn còn rất nhiều con khác không chịu bỏ cuộc, một con bị hất ra, lại có

hai con nhẩy tới. Merkin vừa đưa tay gạt chúng ra, liền có thêm hai con khác...

Trác Mộc Cường Ba mở ba lô, lớn tiếng nói: "Dùng vũ khí!" Nhưng dùng vũ khí gì bây giờ?

Lúc này, gã sực nhớ ra, bọn nhện này nhờ vào cảm tri chấn động để phát hiện ra sự tồn tại của

bọn họ, vậy thì, cho chúng một chút chấn động mạnh là được.

Gã giật chốt một quả lựu đạn sáng, ném thẳng lên không trung. Có lẽ vì không gian quá lớn,

ánh chớp lóe lên ấy cũng không sáng chói gì lắm. Chỉ là, ở những chỗ ánh sáng chiếu tới, có

thể thấy trên các cột đá nhung nhúc toàn lũ nhện trắng ởn. Tiếng nổ vang như sấm ngay sau đó

làm Trác Mộc Cường Ba giật thót mình. Chấn động khởi nguồn từ giữa không trung không

ngờ lại khiến những cột đá xung quanh rung lên, rung động lan sang cả các thanh gá, khiến

Trác Mộc Cường Ba và Merkin còn tưởng toàn bộ giàn giáo khổng lồ này sắp sập xuống đến

nơi.

Sau khi lựu đạn nổ, lũ nhện trắng rơi xuống lả tả. Trác Mộc Cường Ba thấy có hiệu quả, lại

móc ra thêm quả nữa, nhưng Merkin vội ngăn lại: “Đừng, đừng ném nữa, hình như lại có cơ

quan gì bị khởi động rồi.” Trác Mộc Cường Ba liền dừng lại ngay tắp lự, nếu đám người Qua

Ba cổ đại ấy thiết kế cơ quan cạm bẫy gì khác nữa, khiến các cột đá và thanh gá rời nhau ra

gioonsg gian đại điện gắn đầy đầu rồng kia thì chẳng phải là toi đời sao?

Tuy nhiên, dù sao hai người cũng đã ngăn được bọn nhện trong giây lát, lập tức xoay người

chạy ngược trở lại. Đột nhiên, thanh gá rời ra, Trác Mộc Cường Ba và Merkin vội chia nhau

nhảy sang hai phía. Khốn nỗi, khoảng cách đến những thanh gá gần đó đều quá xa, cả hai liền

song song rơi xuống theo phương thẳng đứng. "Tiêu đời rồi!" Ý nghĩ đó vừa lóe lên trong óc,

Merkin bỗng thấy thân thể chùng xuống, rồi lại nảy lên, tưởng như rơi xuống tấm nệm nhảy

vậy. Y toan nhổm người lên, liền phát hiện ra thân thể mình đã bị dính chặt. Merkin ngoảnh

đầu quan sát, mới nhận ra giữa không trung có một tấm lưới khổng lồ, còn y thì đang bị dính

trên tấm lưới nhện ấy! Merkin ngoảnh sang phía khác, liền trông thấy Trác Mộc Cường Ba

cũng chung số phận, cả người bị dính chặt vào mặt lưới, lơ lửng giữa từng không.

Không thể ngờ, lũ nhện kia lại dồn bọn họ vào một cái bẫy được thiết kế tinh vi đến vậy.

Những con nhện còn lại từ khắp bốn phương tám hướng ùa tới, chuẩn bị hưởng thụ một bữa

yến tiệc no nê.

Trác Mộc Cường Ba liếc thấy tay phải Merkin co vào duỗi ra một cái, chớp mắt đã rút ra

khỏi bộ áo liền quần, kế đó tay trái y cũng nhanh chóng rút ra được. Chỉ nghe y cuống quýt

nói: "Dùng lửa."

Nhện sợ lửa, điều này thì Merkin biết. Nhưng khi đưa mắt nhìn lại, y mới nhận ra vị trí của

tấm lưới này hết sức độc địa, lưới được đan giữa bốn cột đá, bên dưới hình như không thấy có

thanh gá nào, vội vàng xua tay: "Đốt là rơi xuống luôn!" Nhưng nếu không đốt thì lũ nhện kia

đã ùn ùn kéo tới chỗ này rồi, mà bọn chúng bò trên lưới lại càng linh hoạt hơn bội phần.

Trong khoảnh khắc nghìn cân treo sợi tóc, Trác Mộc Cường Ba bỗng nhớ ra, loài nhện phán

đoán thể trọng kích cỡ của con vật nằm trong lưới như thế nào. Gã vội dồn hết sức, giật được

hai tay khỏi tấm lưới nhện dính nhớp, kế đó dang rộng hai tay ra, bám vào mép lưới, bắt đầu

làm động tác như bươm bướm đập cánh. Merkin nhất thời vẫn chưa hiểu ra, tròn mắt kinh ngạc

nhìn gã. Trác Mộc Cường Ba vội giục: "Lắc, lắc đi!"

Merkin bấy giờ mới có phản ứng, cùng Trác Mộc Cường Ba cật lực lắc lư mành lưới, sau

mấy lần đung đưa, nhịp lắc của hai người dần trở nên đều đặn, phần giữa tấm lưới nhện bắt đầu

rung rinh dữ dội.

Lũ nhện không hiểu gì, bắt đầu dừng dại, cẩn thận tra xét chấn động truyền tới. Những rung

động đó khiến chúng cảm thấy đối phương là một kẻ săn mồi to khỏe đủ sức xé toang lưới

nhện làm thịt ngược lại mình. Vậy là, đàn nhện lập tức nháo nhác lùi lại, thoáng cái đã không

thấy bóng dáng đâu nữa.

Merkin giơ một ngón tay cái lên với Trác Mộc Cường Ba, ý bảo gã làm rất tốt. Trác Mộc

Cường Ba hơi nhếch mép mỉm cười, hỏi: “Ban nãy làm thế nào vậy?” Nói đoạn, gã đưa tay lên

thọc vào trong áo.

Merkin hiểu ý, liền chập hai tay lại, loáng cái đã rụt trở vào trong bộ đồ liền thân, giải thích:

“Kỹ thuật cởi áo kiểu Houdini, đây là tuyệt chiêu của đặc công Mỹ, rất có tác dụng trong

những thời điểm then chốt. Chắc Lữ Cánh Nam không biết chiêu này, nên không dạy cho các

anh được" Ngừng lại một chút, y thở dài tiếp lời: "Nếu có Soares ở đây thì tốt, chúng ta cũng

không đến nỗi phải khổ sở chạy trốn thế này."

"Soares? Không phải y bị ông đuổi đi sao?"

Merkin ủ rũ nói: "Đó là do bị bọn tiểu nhân chia rẽ, không phải ý của tôi."

Mành lưới nhện mềm mại lại bền chắc, chẳng khác nào giường của hãng Simmons. Hai

người nằm trên đó, cá thân thể lẫn tinh thần đều mệt mỏi cực độ. Từng đợt sóng không khí

nóng hổi từ bên dưới cuồn cuộn dâng lên. Những luồng không khí lưu động ấy khiến lưới nhện

dập dềnh như sóng, nằm bên trên tựa như đang trôi nổi bồng bềnh trên mặt biển Chết vậy. Trác

Mộc Cường Ba và Merkin cảm thấy xương cốt rã rời, tứ chi mỏi rũ, chẳng muốn nhúc nhích

lấy một ngón tay.

May thay, Trác Mộc Cường Ba vẫn còn chút tỉnh táo vội nhắc nhở: “Bọn nhện ấy không lâu

sau sẽ trở lại, không thể nằm mãi ở đây được.”

Merkin tỏ vẻ đã hiểu, đoạn lại hỏi: "Đi thế nào đây?" Tấm lưới này được lũ nhện đan ở giữa

lưng chừng không, chỉ nối với bốn cột đá lớn, mà lại không tìm thấy khe hở nào, hai người làm

sao leo lên được? Còn leo xuống ư? Bọn họ đã men theo giàn giáo khổng lồ này đi xuống lâu

như vậy rồi vẫn chưa xuống tới đáy, có trời mới biết phía dưới kia sâu đến chừng nào.

Trác Mộc Cường Ba nói: "Ra bên cạnh cột đá xem thử coi sao." Gã thầm nhủ, dù không tìm

được khe hở nào để bám vào thì cũng có thể dùng dây móc cầm cự thêm một quãng thời gian,

dẫu sao cũng đỡ hơn nằm trên tấm lưới này thành cá nằm trên thớt. Tuy nhiên, nói là một

chuyện, làm lại là một chuyện hoàn toàn khác.

Tấm lưới nhện này thoạt nhìn mỏng mảnh, song thực ra lại rất bền chắc, tựa như dùng tơ

tằm xoắn lại thành sợi to như đầu ngón tay vậy, độ dính cũng rất cao, hai người phải dồn hết

sức mới đứng lên được. Khi bước đi, thực chẳng khác nào con ruồi trên tấm dính, mỗi bước

đều phải dồn sức nhấc chân lên, đồng thời 1ại phải giữ thăng bằng cơ thể, bằng không chỉ hơi

bất cẩn một chút, người nghiêng đi, sẽ lại bị dính chặt vào lưới.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin mỗi người giơ một cánh tay nắm vào vai đối phương, cùng

nhấc chân lên, cùng cất bước, chỉ có như vậy mới không bị nghiêng người ngã nhào ra. Mới đi

được mấy bước, mảng lưới nhện phía trước bị rách toác một lỗ lớn, trông như thể bị sinh vật gì

to lớn lắm vùng vẫy xé ra, hai người đành phải cẩn thận đi vòng qua. Trác Mộc Cường Ba lấy

làm lạ, nói: “Mành lưới này có phải hơi to quá không nhỉ, do bọn nhện lúc nãy kết phải

không?"

Merkin đưa mắt nhìn, nếu tấm lưới này do một con nhện kết ra, vậy thì con nhện ấy quả

thực quá lớn. Y ngẫn nghĩ, đột nhiên nhớ ra một chuyện, lắc đầu nói: "Tôi nhớ Soares từng kể,

có một loại nhện sống thành đàn, chúng cùng kết lưới, sau đó con mồi bắt được cũng chia nhau

ăn, tấm lưới này, có lẽ là do cả đàn nhện ấy cùng hoàn thành."

Trác Mộc Cường Ba không nói gì, đối với những thứ này thực ra gã cũng không hiểu lắm.

Khi hai nguời đến gần chỗ cột đá, liền trông thấy ở rìa cột đá có mấy con nhện bám vào. Bọn

chúng không tiến lại gần hai người, cũng không leo lên trên cột, mà cứ chạy qua chạy lại chỗ

mành lưới tiếp xúc với cột đá. "Bọn chúng đang làm gì vậy?" Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Merkin sực hiểu ra, thốt lên: "Không ổn, chúng đang nhai lưới!" Trác Mộc Cường Ba cũng

nhớ ra, lũ nhện hình như có thói quen ăn lưới do mình kết ra. Bụng chúng giống như một lò tôi

luyện, phân giải tơ nhện nuốt vào, rồi 1ại phun ra từ lỗ ở đuôi. Hai người biết rõ là vậy, nhưng

không sao tăng tốc lên được. Merkin rút súng ra định bắn, đột nhiên một đầu lưới trầm hẳn

xuống, tiếp đó là cả tấm lưới trôi tuột vào khoảng không vô tận bên dưới. Bọn nhện kia không

ngờ lại cắn đứt toàn bộ lưới nhện trên bốn cột đá.

Hai người Trác Mộc Cường Ba và Merkin tức thì mất thăng bằng, khi lộn nhào giữa không

trung, chẳng rõ đã bị bao nhiêu lưới nhện mắc phải. Trác Mộc Cường Ba toan bắn dây móc ra,

song cánh tay lại bị quấn chặt, gã định vận sức giật bung ra, nhưng lại va phải gì đó. Gã vừa

nghĩ ra thứ ấy hình như giống tấm lưng người, thì đột nhiên trán đau nhói lên một cái, chỉ nghe

Merkin nói: "Xin lỗi, xin lỗi." Thì ra, hai người vốn chẳng cách xa nhau lắm, cả hai đều vùng

vẫy loạn xạ, bị lưới nhện quấn phải, dồn sức giằng ra lại hóa thành giơ người hứng lấy tay đấm

chân đạp của nhau.

Trong khi hai người vùng vẫy vung tay vung chân, tấm lưới nhện bất thình lình sững lại

giữa không trung! Cả hai vội ngoảnh đầu nhìn, chỉ thấy bốn phía lại có rất nhiều thanh gá nhỏ

chìa ra, tấm lưới hiển nhiên đã bị những thanh gá này ngoác vào, tách hai người họ ra. Hai

người như bị treo trong hai cái kén, trố mắt nhìn nhau qua mành lưới, bộ dạng nhếch nhác

thảm hại hết sức. Trác Mộc Cường Ba gắng sức vươn tay ra, nắm lấy một thanh gá phía trên

đầu, nói: "Dùng lửa!"

Merkin vội lấy bật lửa ra. Lưới nhện này quả nhiên không khác gì tơ nhện thông thường,

gặp lửa liền cháy ngay, phát ra những âm thanh lách tách như khi đốt lông tóc người hoặc súc

vật. Thoáng sau, hai người họ đã thoát khỏi tấm lưới, leo lên trên thanh gá.

"Giờ đang ở đâu đây?" Đây là vấn đề Merkin quan tâm nhất, bọn họ lộn nhào vô số lần trên

không, giờ vẫn còn váng vất chóng mặt.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chắc là vẫn ở giữa đám cột đá, nhưng rơi lâu như thế. chắc

chúng ta đã gần đến đáy rồi.”

Bên dưới rất tối tăm, chỉ phía trên cột đá mới có đèn đuốc, ngẩng đầu nhìn, trông như tinh tú

lập lòe vậy, Merkin bật đèn pha lên, quả nhiên, những cột đá này đều sừng sững trên mặt nham

thạch, chỉ là không biết nơi đây có phải phần đáy của toàn bộ lòng núi này hay không nữa. Họ

nhanh chóng nhận ra là không phải. Vì ở đầu bên kia mặt nham thạch, các cột đá xuất hiện

đường ranh giới rõ rệt, bên dưới vẫn còn vực sâu. Trác Mộc Cuòmg Ba ngẫm nghĩ giây lát, rốt

cuộc cũng hiểu ra kết cấu địa lý nơi này giống như hai cái bàn chải úp vào nhau, những cột đá

này chính là lông bàn chải. Đoạn đường họ vừa đi, cột đá mọc từ trên chĩa xuống, còn đoạn

đường phía sau, cột đá lại dựng từ dưới lên, mà hai cái bàn chải này cũng chia ra lơ lửng giữa

lưng chừng vách đá.

"Xuống dưới trước xem sao," Trác Mộc Cường Ba đề nghị, hai người đã chịu đựng lũ nhện

đủ quá rồi, liền lợi dụng các thanh gá leo dần xuống, chỉ chốc lát sau đã chạm đất. Bấy giờ, tâm

trạng họ mới ổn định lại phần nào. Song vẫn chưa kịp thở, Merkin đã kinh hãi thốt lên: "Nhện."

Chỉ thấy ở phía sau xuất hiện một con nhện trắng đại tướng, nhanh chóng lướt qua phía trên

đầu bọn họ. Hai nguời chưa kịp định thần lại, trong bóng tối lại lao ra mấy bóng đen, chớp mắt

đã bổ nhào tới chỗ con nhện trên cột đá. Hình dáng mấy cái bóng này cũng khá giống nhện,

nhưng chỉ có bốn chân. Hai chân trước của bóng đen này dường như rất linh hoạt, loáng cái đã

tóm được chân con nhện. Mấy bóng đen cùng lúc vận sức, giật tung cả tám chân nhện ra. Con

nhện mất hết chân không ngừng giãy giụa, nhưng rốt cuộc cũng không nhúc nhích được gì.

Mấy bóng đen ấy cũng chẳng vội vàng, thụp xuống tại chỗ dường như đang nhai sống chân

nhện. Nhìn cách ăn của mấy bóng đen, Merkin càng lúc càng khẳng định đó là một loại động

vật bốn chân nào đó. Chỉ có điều, bốn chân loài này đều thon dài, không giống chó săn. Bảo là

lừa ngựa cũng không phải, tứ chi và thân thể của sinh vật này tỷ lệ rất không cân đối. Merkin

chưa từng gặp loài sinh vật bốn chân nào có cách chạy kiểu như thế. Y chiếu đèn pha qua chỗ

đó, mấy bóng đen dường như bị ánh sáng mạnh thình lình xuất hiện làm cho kinh hãi, vội nháo

nhác giơ chi trước lên chắn cột sáng lại. Chi trước ấy, không ngờ lại có năm ngón tay! Merkin

và Trác Mộc Cường Ba cũng bị sinh vật xuất hiện trong ánh đèn pha ấy làm cho kinh hãi đến

ngẩn ra, đó... đó là con người mà!

Lúc này dưới ánh đèn là sáu người trưởng thành đang lom khom dưới đất, đi bằng cả tứ chi.

Bốn nam hai nữ trần như nhộng, trên người không có một sợi lông tóc, cánh tay và cẳng chân

họ gần như dài bằng nhau, to bằng nhau, đều khẳng khiu dài ngoãng, trông chẳng khác nào dân

chết đói ở Châu Phi. Họ chỉ còn da bọc xương, đúng theo nghĩa đen, chẳng trách trong tối nhìn

giống như lũ nhện bốn chân. Những người này bất luận nam hay nữ, trước ngực đều lộ rõ hai

hàng xương sườn gồ lên, bụng lõm xuống. Dù là ai nhìn thấy họ, trước tiên ắt sẽ liên tưởng đến

từ "đói khát". Vì sống quanh năm ở đáy huyệt động không ánh mặt trời, chỉ dựa vào chút ánh

sáng mờ nhạt của mấy viên đá huỳnh quang, nên da sáu người này trắng nhợt một cách dị

thường. Giống như lũ nhện kia, làn da họ có màu trắng của thịt thối bị ngâm nước lâu ngày.

Kỳ dị hơn nữa là, bộ mặt bốn nam hai nữ này gầy quắt lại, cằm nhọn hoắt, nhưng bộ răng

chuyên dùng để cắn xé trong miệng lại vừa to vừa dài. Có hai người thậm chí răng còn mọc

chìa ra ngoài môi, biến thành răng nanh. Lúc này, khóe miệng họ vẫn còn vương máu nhện

màu xanh nhạt. Còn trong hốc mắt hõm sâu vào của họ, là đôi mắt trông hệt như mắt chuột,

tròng đen to khác thường, gần như không thấy tròng trắng.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin ngẩn người ra, cảnh tượng trước mắt đã tạo thành một làn

sóng xung kích mạnh mẽ ập vào tâm linh mỗi người. Đầu óc cả hai đều trống rỗng, bọn họ đã

gặp đủ loài sinh vật quái dị xấu xí, nhưng không có loài nào ghê rợn như những gì đang đập

vào mắt họ lúc này đây. Đó, đó là người sao? Nếu không phải, tại sao lại có ngũ quan và tứ chi

hệt như con người? Nhưng nếu là người, tại sao hành vi của họ lại chẳng khác gì dã thú?

Sau một lát hai bên gằm ghè nhìn nhau, mấy người ở đáy huyệt động kia dần dần thích ứng

với ánh sáng của ngọn đèn pha, rốt cuộc cũng nhìn rõ bộ dạng của Trác Mộc Cường Ba và

Merkin. Tuy hai người cao hơn bọn họ nhiều, song cả sáu đều không có vẻ gì khiếp sợ, ngược

lại, Trác Mộc Cường Ba còn nhận thấy vẻ đói khát và tham lam trong mắt họ. Mấy người ở

đáy huyệt động ấy đưa mắt nhìn nhau, chừng như muốn làm rõ chênh lệch về số lượng giữa hai

bên, khóe miệng nhếch lên, lộ ra mấy chiếc răng to tướng, vẻ như đang cười. Kế đó, chỉ thấy

chân sau họ đạp mạnh, chi trước chồm lên, lần lượt ba nam một nữ bò tới chỗ Trác Mộc Cường

Ba và Merkin. Một nam một nữ còn lại thì cảnh giác canh chừng con mồi họ vừa săn được lúc

nãy. Tư thế lao tới của mấy người này, khiến Trác Mộc Cường Ba nhớ đến bước chạy kiểu sói

của gã.

CHƯƠNG 76: TÂY TẠNG VẠN PHẬT CÁC

NGƯỜI Ở ĐÁY HANG

Đòn bổ nhào tấn công của đám người ở đáy hang cực kỳ nhanh, mạnh, hiệu quả, có điều chỉ

dùng được với đám nhện hoang thôi. Lần này, bọn họ lại gặp phải hai cao thủ quyền thuật. Hai

chân Trác Mộc Cường Ba bất động, thân trên ngả ra sau, tránh được bốn cánh tay dài thòng, kế

đó hai tay gã cùng lúc vươn tới, tóm lấy đầu hai người đàn ông, đập mạnh vào nhau. Hai người

lập tức gục xuống, không kịp kêu tiếng nào. Merkin hơi rùn người xuống, một chân móc ngược

ra sau như đuôi bọ cạp, đá văng người đàn bà đi, kế đó vươn tay thuận theo cú chộp của người

đàn ông kéo mạnh, ném hắn ra xa mấy mét, đoạn nói: "Đây là cái gì vậy!"

Trác Mộc Cường Ba nhìn hai người đàn ông nằm trước mặt mình, chỉ thấy năm ngón tay họ

rất dài, bàn tay nổi chai sần sùi, bộ mặt gầy tóp gồ lên hai cục, chính là cơ hàm khỏe mạnh. Gã

ngán ngẩm thở dài: “Họ là người có lẽ chính là người Qua Ba cổ đại!”

Một nam một nữ còn lại vừa thấy bốn đồng bạn đều ngã xuống, liền bỏ lại con mồi, mỗi

người ngoạm một cái đùi nhện bỏ trốn. Họ chạy loạn dưới đất một lúc, rồi phi thân bám vào

thanh gá trên cột, động tác leo trèo cực kỳ nhanh nhẹn, chẳng kém gì lũ khỉ, thoắt cái đã không

thấy bóng dáng đâu nữa.

"Anh bảo cái gì?" Merkin trợn tròn mắt, nhìn chằm chằm đám "người" gầy như que củi,

không thể tin nổi. Người đàn ông vừa bị Merkin ném văng ra muốn chạy trốn, nhưng bị y đuổi

theo, chỉ mấy bước đã tóm lại được. Người đàn bà thân thể gầy gò bị Merkin đá cho một cước

thì gần như đã ngất xỉu tại trận. Merkin giữ chặt hai tay người đàn ông, mặc hắn giẫy giụa liên

tục, chân đá miệng cắn. Merkin bẻ ngoặt tay kẻ này ra sau lưng, bóp chặt vào cằm hắn cho mở

miệng ra, nhìn vào bên trong. Người đàn ông ấy liền rít lên như lợn bị chọc tíết.

' Sao lại gầy thế này?" Merkin chau mày, một tay giữ chặt người đàn ông, tay kia luồn dưới

eo người đàn bà nhấc bổng lên, áng thử trọng lượng, thấy nhẹ như bấc.

Trác Mộc Cường Ba nói: "Chắc là họ quanh năm sổng ở dưới này, lấy lũ nhện làm thức ăn."

Merkin ném người đàn bà tới trước mặt Trác Mộc Cường Ba, lăn lóc bên cạnh hai người bị

gã đánh ngất, rồi giơ người đàn ông chưa

hôn mê lên cho gã xem, đồng thời hỏi: "Vừa nãy

anh nói gì? Anh bảo họ có thể là người Qua Ba ấy à?"

"Đúng thế," trán Trác Mộc Cường Ba nhăn tít lại, “ngoài người Qua Ba cư trú ở đây từ thời

xưa, còn có thể là ai khác nữa? Chúng ta chỉ có thể suy đoán như vậy, không biết ở đây đã xảy

ra chuyện gì, nhưng rõ ràng, những người này, những sinh vật giống hệt như con người này, đã

không còn trí tuệ nữa, họ đã thoái hóa thành dã thú rồi, chỉ giữ lại được bản năng nguyên thủy

nhất của sinh vật mà thôi.”

Merkin nghe mà lạnh cả sống lưng, lẩm bẩm nói: “Chuyện, chuyện gì đã khiến đám người

Qua Ba ấy đến nông nỗi này?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không biết, có điều khả năng sinh tồn và thích ứng của con

người thực đáng ngạc nhiên. Trong hoàn cảnh như vậy, không ngờ bọn họ vẫn có thể sống

được."

Merkin lại nói: "Thế còn tóc của họ thì sao, cả lông nữa? Sống dưới lòng đất thì không mọc

lông tóc hả?" Trác Mộc Cường Ba cẩn thận quan sát lại, chỉ thấy da người đàn ông đã trơn

bóng nhẵn nhụi, không có lấy một sợi lông sợi tóc nào, đang không hiểu vì sao, bỗng thấy kẻ

đó đột ngột ngoảnh đầu lại định cắn vào vai Merkin. Merkin buông tay ra, người đàn ông kia

được thả lỏng hai tay, liền tiện đà chụp lên đầu Merkin một cái, giật đứt mấy sợi tóc vàng, bỏ

tọt vào miệng.

Merkin cả giận, bàn tay to bè kẹp chặt vai người đàn ông, y chỉ hơi vặn sức một chút đã

khiến đối phương trật khớp, kế đó dồn thêm hai phần sức đấm một cú vào bụng. Trác Mộc

Cường Ba thấy vậy, liền sực hiểu ra: “Lông tóc của họ chắc đã bi họ tự ăn hết rồi.”

Merkin lạnh lùng nhìn người đàn ông đang há ngoác miệng ra, nói: "Để sinh tồn, bọn chúng

ăn tất cả mọt thứ, sao vẫn gầy đến thế này?"

Người kia bị Merkin đấm cho một cú, lồng ngực chợt phình lên dữ dội, đường như không

hô hấp được, có thể tắc thở bất cứ lúc nào. Merkin vội nới lỏng tay ra, đồng thời phân bua:

"Tôi không hề dùng sức."

Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ lại, cảnh tượng này rất quen thuộc, dường như gã đã thấy ở

đâu đó, phải rồi, Sean trước lúc chết cũng giống như thế này! Gã còn đang nghĩ ngợi, đã thấy

người đàn ông kia oằn người xuống nôn ọe, dịch mật và chất dịch dạ dày ộc ra, kèm theo đó là

vô số con giun nhiều chân, toàn thân trắng nhờ nhờ!

Lũ giun mình mẩy trơn bóng, chia thành nhiều đốt, dài chưa đến mười xăng ti mét, hai bên

mọc hai hàng chân thịt, vừa chạm đất liền bò lung tung khắp nơi, có mấy con nhân lúc hỗn

loạn đã chui ngay vào mũi miệng mấy người nằm dưới đất, đại đa số còn lại đều bị Trác Mộc

Cường Ba và Merkin giẫm lia lịa một hồi, gần như chết sạch. Lúc này, hai người mới nhìn lại

người đàn ông kia, càng lúc càng lấy làm quái dị, hắn ta nôn ra thứ sâu bọ gì thế này? Rốt cuộc

chuyện này là thế nào đây?

Merkin sực nhớ đến một chuyện, vội nói: "Đây... đây là... dị thể noãn hóa! Ký sinh hai vật

chủ! Rất nhiều ký sinh trùng sử dụng phương thức này để sinh sản!" Y nhớ lại, Soares từng

nói, ví dụ điển hình nhất trong các loại ký sinh trùng hai vật chủ là ký sinh trùng sốt rét. Bào tử

của ký sinh trùng sốt rét ký sinh, phát dục trong tế bào gan và tế bào hồng cầu của cơ thể

người, sau khi trưởng thành liền phân tách thành rất nhiều giao tử đực cái xâm nhập vào máu.

Sau khi muỗi hút máu của những người mang ký sinh trùng sốt rét, giao tử đực và giao tử cái

sẽ kết hợp thành hợp tử trong cơ thể muối, rồi phát triển thành túi bào tử, trong túi là hàng

nghìn hàng vạn bào tử, khi muỗi đốt một người khác, bào tử sẽ xâm nhập vào cơ thể người đó,

cứ vậy tuần hoàn liên tục, sổ lượng ký sinh trùng sẽ ngày một tăng lên.

Đến lúc này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin mới hiểu ra, chẳng trách đám người này lại

gầy tong teo như vậỵ chắc hẳn đại đa số chất dinh dưỡng từ những thứ họ ăn vào đều bị thứ ký

sinh trùng này hấp thu hết, người ăn nhện, nhện lại ăn người, thứ ký sinh trùng này truyền qua

truyền lại giữa người và nhện, ba bên cứ như vậy hình thành một hệ thống cộng sinh phức tạp.

"Ngạ quỷ cổ!" Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng nhớ ra, trong cuốn sổ ghi chép ở thôn

Công Bố có viết, kẻ nào phạm tội tham ăn tham uống, liền bị đày xuống Địa ngục đói khát, cấy

Ngạ quỷ cổ vào cơ thế, người gầy giơ xương, bụng hõm vào như cái thuyền, cả ngày không

ngừng ăn, vĩnh viễn bị cảm giác đói khát hành hạ.

Gã còn chưa kịp giải thích cho Merkin thì người đàn ông vừa ọc ra vô số ký sinh trùng kia

đột nhiên kêu ré lên, tiếng rít nghe như tiếng chuột, nhức cả lỗ tai nhưng lại truyền đi rất xa.

Merkin giật mình kêu lên: “Ngăn hắn lại!”

Cùng lúc y mở miệng, Trác Mộc Cường Ba sớm đã nhảy tới, khép bàn tay thành lưỡi đao

đánh cho kẻ đó ngất xỉu tại chỗ. Gã từng sống chung với đàn sói nhiều ngày, tự nhiên hiểu rất

rõ ý nghĩa của tiếng rít này 1à gì. Tuy âm thanh của người đàn ông này phát ra khác với lũ sói,

nhưng tiếng rít gào sắc nhọn truyền đi rất xa này khiến Trác Mộc Cường Ba lập tức nghĩ đến

tiếng tru tập hợp của bầy sói.

Trác Mộc Cường Ra vội kéo tay Merkin nói: "Mặc kệ bọn họ, mau nghĩ cách rời khỏi chỗ

này đi."

Cơ mặt Merkin giật giật, chỉ nghe y trầm giọng đáp: “E rằng hơi khó.” Phía ngọn đèn pha

chiếu tới, đã thấy từng đôi mắt như mắt chuột ẩn hiện giữa đám cột đá, chớp sáng trong bóng

đêm đen kịt.

Một nam một nữ vừa chạy đi lúc nãy quay lại, không biết đã dẫn theo bao nhiêu người sống

dưới đáy hang sêu giống họ, người nào người nấy cao không đến mét rưỡi, nhưng tay chân thì

cơ hồ dài cả mét. Đám người này leo bám nhảy nhót trên các thanh gá như đi trên đất bằng. Vì

thân thể họ rất nhẹ, nên sức bật của cánh tay cẳng chân gầy nhẳng đó cũng đủ khiến họ nhảy

được một quãng khá xa.

Song quyền nan địch tứ thủ, hai ba người thì Trác Mộc Cường Ba và Merkin còn đối phó

được, nhưng giờ đây đối phương kéo đến cả đám, khép chặt vòng vây, hai nguời bọn họ cũng

không thể chống đỡ nổi. Hai người nắm tay lại, đứng dựa lưng vào nhau, đảo mắt nhìn khu vực

tăm tối xung quanh. Merkin hỏi: “Tính sao giờ?”

Trác Mộc Cường Ba nói: "Xông thẳng ra thôi."

Merkin lại hỏi: “Đi hướng nào?”

Trác Mộc Cường Ba đáp: “Cứ men theo rìa vực, chắc chắn có đường!”

Đám người ở đáy hang nhao nhao bổ tới. Trác Mộc Cường Ba hét lớn: “Ra tay!” Hai người

cùng lúc tay đấm chân đá như xua ruồi nhặng, đánh ngã những kẻ áp sát mình. Nhưng đám đáy

hang ấy càng đánh càng mạnh, cứ bổ tới như thể bất cần cả tính mạng. Lấy răng và móng vuốt

làm vũ khí, người nào người nấy gầm gừ như loài dã thú, trừng mắt giận dữ nhìn Trác Mộc

Cường Ba và Merkin, đồng thời không ngừng tấn công hết đợt này đến đợt khác.

Xét về kỹ xảo chiến đấu, Trác Mộc Cường Ba và Merkin cao hơn đám người này không biết

bao nhiêu lần, nhưng đối mặt với cuộc tấn công của vô số hàm răng và móng vuốt sắc nhọn,

mình mẩy hai người cũng đầỵ những thương tích, vết thương đa phần ở những chỗ lộ ra ngoài

như mặt hay mu bàn tay. Hai người vừa đánh vừa tiến lên, men theo mép vực mờ mờ trong

bóng tối, đi từ Tây sang Đông.

Một người đáy hang từ trên cao nhảy xuống, toan cưỡi lên đầu Merkin, song y đã kịp lách

người né tránh. Người đó liền nhắm vào mũi y, há cái miệng đầy máu định cắn, một con cổ

trùng bò ra khỏi khoang mũi hắn đeo lơ lửng phía bên ngoài, uốn éo thân thể. Merkin nhìn thấy

phát lợm lên, liền vung tay tát một cú hất văng kẻ đó ra xa. Con cổ trùng bay lên, dính vào mặt

Trác Mộc Cường Ba, hai hàng chân thịt nhung nhúc, thấy có lỗ hổng, nó liền ngọ nguậy định

chui vào. Trác Mộc Cường Ba vội đưa tay tóm lấy nó, bóp nát, đồng thời lách người né tránh

đòn tấn công từ bốn phía trước sau trái phải, đá bay người ở trước mặt đi, tiếp tục xông lên.

Một lúc sau, trên trán Merkin đã bị cào rách ba vết, thịt tét ra, đau nhức khôn tả. Y bắt đầu cảm

thấy không thể chịu nổi nữa, bèn đề nghị: “Dùng súng đi.”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Nhưng bọn họ là con người!”

Merkin né tránh một đòn tán công, lẩm bẩm: "Như thế này còn có thể coi là người sao?"

Trác Mộc Cường Ba húc mạnh hất văng ba người trước mặt ra xa, lạnh lùng lừ mắt nhìn

Merkin thầm nhủ: “Năm đó thực dân Tây Ban Nha chính vì không coi người Anh điêng là

người nên mới dẫn đến vô số cuộc thảm sát và nạn buôn bán nô lệ kéo dài cả trăm năm.” Nghĩ

tới đây, gã chợt thấy kinh ngạc: "Kỳ lạ thật, sao mình lại đột nhiên liên tưởng tới châu Mỹ, còn

so sánh những người ở đáy hang này với cư dân nguyên thủy của châu Mỹ vậy chứ? Phải rồi,

có lẽ vì họ đều từng sáng tạo ra một quá khứ huy hoàng, sau đó đột nhiên biến mất trong lịch

sử, để lại một khoảng trống hư vô. Khi tái xuất hiện, họ đều trở thành những người nguyên

thủy chưa được khai hóa, sống trong xã hội thị tộc nguyên thủy khép kín của riêng mình.

Chẳng những vậy, những người ở đáy hang này có thể nói là không khác gì dã thú, phỏng

chừng chỉ còn lại bản năng sinh tồn nguyên thủy điều khiển hành động mà thôi, thậm chí còn

không có cả quan niệm đẳng cấp cơ bản nhất, chứ đừng nói gì đến hình thành thị tộc. Chuyện

này rốt cuộc là sao chứ?"

Thình lình, một người đáy hang đập mạnh đầu vào đầu Trác Mộc Cường Ba. Người đó lập

tức ngất xỉu sụm xuống, đồng thời, trong óc Trác Mộc Cường Ba cũng lóe lên một ý nghĩ:

Đúng rồi! Số lượng của họ! Số lượng những người này không đủ, vẫn chưa đạt đến điểm tới

hạn của trí tuệ tập thể! Vả lại, họ sống ở đáy hang sâu này, ngoài việc săn bắt nhện ra, e rằng

không còn việc gì khác nữa, không đủ lực lượng lao động, cũng không thể khiến họ nảy sinh trí

tuệ!

Trác Mộc Cường Ba lại nghĩ tiếp, vậy thì trước khi thực dân Tây Ban Nha đặt chân lên vùng

đất Maya, những người Maya còn sống sót sau thảm họa diệt quốc kia, phải chăng cũng đã trải

qua một thời đại luân lạc thành dã thú, không có chút trí tuệ nào? Gã lại nhớ đến sử thi của bộ

tộc Kukuer và những tư liệu về Maya mà bọn gã thu thập được.

Một khi máu tanh làm vấy bẩn bậc thang Thánh miếu, vô số tai họa sẽ liên tiếp giáng xuống

khắp nơi như thể cơn mưa đá khủng khiếp, thành thị sẽ trở thành tòa thành chết, không người

sống sót...

Tai họa đáng sợ sẽ như cơn hồng thủy nhấn chìm cả mặt đất, mặt trời biến mất, thế giới

chìm vào bóng đêm, thiên hạ đại loạn, con người sống trong trạng thái hỗn độn, trần truồng

như lũ dã nhân. Ngoài các hang động trên núi, họ không còn nơi nào để náu thân. Hàng ngày

họ chui ra khỏi hang, đi khắp núi rừng tìm kiếm thức ăn...

Những ý nghĩ khiến người ta phải rùng mình ấy liên tục hiện lên trong đầu Trác Mộc Cường

Ba, lời nguyền của bộ tộc Qua Ba, sử thi của người Kukuer, lịch sử Maya, lịch sử Cổ Cách, sự

biến mất của Đạo quân Ánh sáng, Đảo Huyền Không tự bị phong bế, dường như mọi thứ đang

được xâu chuỗi lại. Một cảm giác lạnh lẽo dâng lên từ gan bàn chân gã, nơi này dường như ẩn

giấu một bí rnật động trời, giờ đây, bí mật ấy sắp sửa phá kén chui ra rồi. Trác Mộc Cường Ba

không dám nghĩ sâu xa hơn nữa, gã cuống cuồng chấn chỉnh lại tinh thần, chuyên tâm đối phó

với cục diện trước mắt.

Chỉ nghe Merkin ở sau lưng gã nói: "Bọn này hình như không biết đau đớn gì, đánh ngã lại

xông lên, chết tiệt thật, cứt! Cút hết cho tao!"

Trác Mộc Cường Ba chợt giật bắn mình: “Điều khiển vật chủ!” Gã tóm lấy cánh tay một

người đáy hang, coi thân thể đối phương như một thứ vũ khí, vung mạnh mấy vòng, rồi buông

tay ném ra xa.

"Anh nói cái gì!" Merkin tránh khỏi ba người đáy hang khác, vung nắm đấm đánh ngã hai

người.

Trác Mộc Cường Ba nhớ lại những lời Sean từng nói, bèn thuật lại: "Ông biết ký sinh trùng

hai vật chủ mà không biết loại ký sinh trùng điều khiển vật chủ à? Có những người nghiện ăn

các thứ quái lạ, như là đinh sắt, thủy tinh, bùn đất, thực ra không phải họ có vấn đề, mà là

những ký sinh trùng trong cơ thể họ đòi hỏi bổ sung một số vật chất đặc thù. Bọn ký sinh trùng

ấy tiết ra các chất ảnh hưởng đến não bộ con người, khiến những người ấy nảy sinh cảm giác

thèm ăn những thứ quái đản kia, đây gọi là điều khiển vật chủ.” Trong lúc nói chuyện, gã đã

đổi hơi hai ba lần, tránh được mấy lượt công kích, đồng thời đánh ngã bảy tám người đáy hang

nhào tới.

Merkin kinh ngạc thốt: “Ý anh là... bọn chúng... bọn chúng cảm thấy đói khát, phát động tấn

công, thực ra đều do ký sinh trùng trong cơ thể khống chế?” Y vừa ngẩn nguời ra một thoáng,

đã suýt bị cắn phải.

Trác Mộc Cường Ba cân nhắc câu chữ, đoạn gật đầu: “Xét ở một khía cạnh nào đó... có lẽ...

có thể nói là vậy.”

Merkin nói: "Hình như càng lúc... tránh xa tôi ra một chút... càng nhiều rồi!"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Là phúc không phải họa, là họa thì không tránh được." Gã vụt

ngẩng đầu, bổ sung thêm: "Lần này, hình như không tránh được rồi!" Chỉ thấy trên không

trung xòe ra vô số cái ô nhỏ màu trắng, lũ nhện từ trên cao nhảy xuống, ồ ạt gia nhập vào cuộc

chiến.

Merkin bực bội oán trách: “Đã bảo dùng súng từ trước, giờ thì hay ho rồi.”

Trác Mộc Cường Ba quát: “Sao ông không dùng đi!”

Merkin hơi ngần ngừ một thoáng, rồi mới nói: “Ừm... truyền thống của gia tộc, chúng tôi

tuyệt đối không giết người.” Mặc dù đang bận rộn ứng phó đòn tấn công từ mọi phía, Trác

Mộc Cường Ba vẫn tranh thủ xoay người, trợn tròn mắt lên bày tỏ sự kinh ngạc cảu mình.

Merkin nói y chưa từng giết người! Trác Mộc Cường Ba sao có thể tin được chuyện này chứ:

“Vậy ai trong rừng chĩa súng vào bọn tôi?”

Merkin nói: “Ừm, lúc đó tôi chỉ muốn dọa các người, đồng thời tự bảo vệ thôi, không hề có

ý muốn giết chết các người. Chạy mau...”

Bọn nhện trắng vừa tham chiến, tình thế lập tức trở nên hỗn loạn, đa số người đáy hang bỏ

qua Trác Mộc Cường Ba và Merkin, đua nhau xông lên nghênh chiên với lũ nhện, máu đỏ,

máu xanh tung tóe khắp nơi, mùi tanh lợm nồng nặc bốc lên, khu vực dưới chân cột đá lập tức

biến thành một lò giết mổ đẫm máu.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin thừa cơ bỏ chạy, tuy thỉnh thoảng cũng gặp kẻ cản đường,

nhưng dù là nhện hay người cũng không gây được nhiều uy hiếp tới họ. Hai người cứ thế chạy

một mạch từ đầu này sang đầu kia trận địa cột đá. Dọc đường, họ đã bàn tính, nếu vẫn không

tìm thấy lối thoát nào, sẽ men theo vách núi chạy thêm một vòng nữa.

Có điều, rõ ràng họ không cần phải làm vậy, mặc dù cách khá xa, nhưng hai người vẫn nhìn

thấy được ánh đèn đuốc rực rỡ chiếu ra từ ô cửa của đình đài lầu các nào đó ở đầu bên kia.

Trong khi ở phía bên này, có một phiến đá treo lơ lửng bên mép vách đá, trông như con đò

ngang chở khách qua sông. Hai đầu phiến đá có hai sợi kim loại to bằng ngón tay cái buộc

chặt, đầu còn lại của hai sợi dây kéo dài lên trên rồi mất hút trong bóng tối thăm thẳm.

Trông thấy phiến đá này, Trác Mộc Cường Ba và Merkin thoáng ngẩn người ra, đây chẳng

phải một cái xích đu cỡ siêu lớn hay sao? Có lẽ phải nhờ vào cái xích đu này để vượt qua khe

sâu rộng trên trăm mét trước mắt rồi. Chỗ họ đang đứng đã nằm ngoài phạm vi của trận địa cột

đá, cũng không biết đầu kia của sợi dây kim loại buộc bàn du khổng 1ồ này gắn vào chỗ nào

nữa. Bao nhiêu năm nay, bàn xích đu này vẫn luôn bị cố định ở rìa vách đá. Nó không bị người

đáy hang đẩy ra, là bởi phần đáy phiến đá được tán vào rất nhiều vòng sắt lớn, to như cánh tay

trẻ con, đồng thời trên vách đá lại đúc thêm hai vòng hình bầu dục, các vòng sắt và vòng bầu

dục móc vào nhau, cố định phiến đá lại.

Kiểu móc nối giữa vòng sắt và vòng hình bầu dục, kỳ thực chính là kiểu cửu liên hoàn thời

cổ, có điều người xưa đã tăng thêm số vòng, hai bên phiến đá đều cố định bằng mười tám vòng

sắt. Thập bát liên hoàn, có lẽ không khó phá giải, chỉ cần tốn thêm chút thời gian và nhớ được

trình tự gỡ vòng của mình là được. Những người đáy hang kia tuy cũng từng động tay động

chân vào những vòng này, có điều đám dã nhân không có trí tuệ chỉ càng làm các vòng sắt rối

loạn thêm, gần như không có dấu hiệu gì chứng tỏ có thể mở ra được. Merkin và Trác Mộc

Cường Ba tuy đều có năng lực phá giải thứ đơn giản này, nhưng họ lại không đủ thời gian,

cuộc chiến giữa đám người ở đáy hang và lũ nhện sắp kết thúc tới nơi, đám người ấy lại rú rít

ầm ĩ nhao nhao xông thằng tới.

Merkin thấy không đủ thời gian, bèn liền lấy một thanh kẹo cao su cho vào miệng, nói với

Trác Mộc Cường Ba: "Chặn bọn chúng lại!"

Trác Mộc Cường Ba cười khổ: "Ông cũng khéo chọn nhỉ. Chỉ sợ tôi không cầm cự được lâu

đâu."

Merkin giơ ngón tay lên: "Một phút."

Trác Mộc Cường Ba bèn xông thẳng vào giữa đám người đáy hang, thầm nhủ kéo dài được

giây nào thì hay giây ấy. Gã dồn thêm sức vào nắm đấm và cú đá, lần lượt hạ gục những kẻ lao

tới trước mặt, nhưng đám người đáy hang vẫn ùn ùn kéo tới mỗi lúc một nhiều. Lần này, bọn

họ dường như đã thay đổi sách lược, giở chiến thuật đàn kiến ăn sâu, hễ tiếp cận đượcc Trác

Mộc Cường Ba lập tức ôm chặt, cắn chặt, hai tay hai chân kẹp chặt tay chân gã, nhất quyết

không chịu buông. Động tác của Trác Mộc Cường Ba tức thì chậm lại, chỉ một thoáng sau đã

lại có thêm mấy người đáy hang nhao tới đè lên. Trác Mộc Cường Ba như gánh cả ngọn núi

trên vai, vận sức hất mạnh, ném văng mấy kẻ đang đeo bám trên người mình ra. Nhưng chỉ

trong chớp mắt, những kẻ khác lại xông tới. Gã kêu lớn: "Xong chưa vậy, tôi không cầm cự nổi

nữa đâu!"

Merkin vội vàng chạy trở lại, hiệp trợ Trác Mộc Cường Ba xua đám người đáy hang quanh

bọn họ lùi ra xa, sau đó không chạy ra phía mép vách đá mà xông thẳng vào giữa đám dã nhân

kia. Những người đáy hang ấy không ngờ hai con mồi này lại dũng cảm như vậy, vừa ngẩn ra

một giây, hai người kia đã lướt qua bên cạnh.

Chạy được khoảng năm chục mét, Merkin nói: “Chúng ta lao trở lại, dùng tốc độ nhanh nhất

của anh đi!” Nói đoạn, hai người lập tức chuyển hướng, xông thẳng về phía cái bàn xích đu

bằng đá. Cả bọn người đáy hang vẫn chưa kịp định thần, phải một lúc lâu sau mới gầm gừ lên,

người nào người nấy đua nhau truy kích hai kẻ ngoại lai.

Dọc đường chạy, Merkin nhấc cánh tay lên, hai khẩu súng đã nằm trên tay. Y bắn liên tiếp

mấy phát, ánh lửa chớp lóe. Trong bóng tối, hồ quang ánh lên ven bờ vực, đá núi dưới chân

rung lên khe khẽ, rồi tiếng ầm ầm như sấm lan tỏa dần ra theo các cột đá. Merkin can thời gian

nổ hết sức chuẩn xác, hai người vừa khéo ở ngay bên ngoài phạm vi ảnh hưởng của sóng xung

kích, liền xông thẳng vào phạm vi sóng xung kích đã yếu đi, tung mình nhảy lên tấm ván xích

đu đã rời khỏi vách đá, đu về phía cung điện dưới màn đêm đen kịt kia.

TẠM THOÁT NGUY CƠ

Hết vòng này đến vòng khác, Lữ Cánh Nam dìu pháp sư Á La đi theo người trẻ tuổi, không

biết đi đã đi qua bao nhiêu vòng trong những bức vách quây thành hình tròn này. Các bậc

thang không ngừng xuất hiện trước mặt họ, lên rồi xuống, xuống xong lại lên, có lúc lỗi ra lại

lơ lửng tít trên cao. Bờ vai, thắt lưng, cánh tay, đầu gối các pho tượng cao lớn đó đều có khả

năng trở thành thông đạo nối liền hai vòng tròn. Nếu không có người trẻ tuổi dẫn đường, hai

người họ thực tình cũng không biết phải làm sao mới đi qua được mê cung quanh co vòng vèo

này nữa.

Mỗi lần qua một vòng, người trẻ tuổi lại dừng chân nghĩ ngợi giây lát. Pháp sư Á La càng

lúc càng chắc chắn, kẻ này chưa từng đến đây, nhưng tại sao y lại nắm được bí mật cảu nơi

này, nhớ được mọi thông đạo ở đây?

Không biết bao lâu sau, người trẻ tuổi đã tìm được hơn nửa số lính đánh thuê, nối đuôi nhau

thành một hàng dài. Trông đám người lố nhố, Lữ Cánh Nam lại trông thấy Mẫn Mẫn, từ khi

thân phận bi vạch trần, cô luôn lặng lẽ đi phía sau đội ngũ. Lữ Cánh Nam nghĩ rằng Mẫn Mẫn

sẽ một mình bỏ đi, không ngờ cô vẫn lẽo đẽo bám theo nhóm người này như thế. Bọn lính đánh

thuê đã có tên không nhịn nổi, bước tới trêu đùa cợt nhả, nhưng Mẫn Mẫn chẳng khóc cũng

chẳng cười, tựa như một cái xác biết đi vậy. Khi mới xác nhận thân phận của Mẫn Mẫn, Lữ

Cánh Nam chỉ hận không thể ăn tươi nuốt sống Mẫn Mẫn ngay tại chỗ, nhưng nhìn bộ dạng

sống mà như chết ấy, cô lại thấy hơi mềm lòng. “Nên để cho Cường Ba quyết định, cô ấy tuy

đáng giận thật, nhưng cũng không thể để mặc cho bọn lính đánh thuê này làm nhục cô ấy

được.” Nghĩ vậy, Lữ Cánh Nam liền đi về phía sau đội ngũ, tới bên cạnh Mẫn Mẫn, không nói

một lời, đột nhiên giơ tay chỉ thẳng vào mấy tên vừa giở trò hạ lưu với Mẫn Mẫn, ánh mắt dữ

dội, trong vẻ điềm tĩnh lại toát lên sự uy nghiêm khôn tả.

Mấy tên lính đánh thuê ấy ngượng ngập lùi lại, bọn chúng hiểu rất rõ, người phụ nữ này cực

kỳ lợi hại, một khi người trẻ tuổi kia và Khafu không đứng ra, bọn chúng cũng không dám làm

bừa. Mẫn Mẫn hướng ánh mắt cảm kích về phía Lữ Cánh Nam, song lại thất vọng nhận ra, từ

đầu chí cuối, Lữ Cánh Nam không buồn liếc nhìn cô lấy một lần.

Lữ Cánh Nam trở về chỗ, tâm trạng lẫn lộn đan xen ba phần tức giận, ba phần oán than,

cộng với ba phần mâu thuẫn. Pháp sư Á La nở một nụ cười từ ái gật đầu với cô, tỏ ý khen cô

làm rất tốt. Lữ Cánh Nam vẫn không nói một lời, cẩn thận dìu đỡ ông. Pháp sư Á La biết cô

vẫn chưa bình tĩnh lại, cũng không nói gì thêm nữa.

Người trẻ tuổi rót cuộc cũng từ bỏ việc tìm kiếm những tên lính đánh thuê bị thất lạc, y quay

lại dặn dò đám còn lại: "Nhớ cho kỹ, nơi này không chỉ là một tòa cung điện hoa lệ, mà còn là

một mê động đầy rẫy những cơ quan cạm bẫy. Mỗi gian đại điên đều ê hề châu báu, chỉ sợ

chúng mày không mang đi hết được thôi, nhưng nhất định phải giữ lấy cái mạng nhỏ của mình

thì mới có cơ hội tiêu tiền được, đừng có giống như lời cảnh cáo ngoài kia, chỉ nhìn thấy châu

báu trước mắt, rồi chết không có đất chôn thây"

Dứt1ời, y lại quay sang bảo Khafu: "Phải quản chặt bọn chúng đấy." Nhưng lúc này, đã

không còn ai đủ nhẫn nại nghe y nói tiếp nữa rồi, trong đầu tất cả mọi người chỉ còn bốn chữ

“mỗi gian đại điện” bay lởn và lởn vởn. Bọn lính đánh thuê chấn động, Khafu kinh ngạc, ngay

cả Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La cũng thầm rung động trong lòng. Mọi người vốn tưởng rằng,

nơi này chính là chủ thể của thần miếu, là khu vưc hạch tâm lớn nhất, đẹp đẽ nhất rồi, nhưng

nghe người trẻ tuổi kia nói, dường như đây mới chỉ là một gian điện đường trong Bạc Ba La

thần miếu mà thôi. Rốt cuộc Bạc Ba La thần miếu có bao nhiêu gian đại điện như thế này?

Trông thấy phản ứng của cả bọn, người trẻ tuổi kia nhếch mép cười khinh bỉ: "Có gì đáng

ngạc nhiên đâu chứ? Đại điện này tuy lớn, nhưng cũng không đến nỗi mấy triệu con người,

tổng cộng sáu đời tốn mất hơn trăm năm mới xây dựng xong, phải không? Đây chẳng qua chỉ

là một gian đại điện bên trong thần miếu mà thôi, toàn bộ Bạc Ba La thần miếu là một tòa đàn

thành. Đàn thành là cái gì? Pháp sư đại nhân, các người là Mật tu giả, chắc hẳn phải rõ hơn tôi

chứ nhỉ?"

Pháp sư Á La tuy vẫn giữ vẻ trấn định, nhưng trong đầu cũng không khỏi "oong oong” một

chập, tim đập gấp gáp. Đàn thành được chia làm rất nhiều loại, phổ biến nhất là đàn thành Mật

tông, thường thấy nhất là Thai tạng giới Mạn đà la, Kim cương giới Mạn đà la(15), đều có hơn bốn trăm vị chủ tôn Phật, mỗi vị một gian điện đường, nếu gian nào cũng có quy mô gỉống đại

điện này, vậy thì miếu phải lớn chừng nào? Đương nhiên, điều tiên ông nghĩ tới là Thời luân

Kim cương đàn thành, nhưng pháp sư Á La cũng biết, đó là do người đời sau dựa vào các

truyền thuyết về Shangri-la tạo ra. Khả năng lớn nhất là nơi này vẫn được xây dựng theo mô

hình Thai tạng Mạn đà la hoặc Kim cương giới Mạn đà la được miêu tả trong Đại Nhật kinh và

Kim Cương Đỉnh kinh.

Có điều, sau khi nghe người trẻ tuổi kia nói vậy, vẫn có không ít lính đánh thuê liếc mắt

nhìn ba lô và túi của mình, trên mặt lộ rõ vẻ tiến thoái lưỡng nan. Hiển nhiên, bọn chúng đã

thỏa mãn, tin rằng chỉ cần mình mang đống châu báu này trở về, mấy đởi sau cũng không phải

lo thiếu thốn rồi. Những tên này muốn rời đi ngay lập tức.

Người trẻ tuổi cũng nhìn ra tâm tư ấy, lại nói tiếp: “Đương nhiên, những kẻ nào cảm thấy

mình đã giàu có rồi, muốn rời khỏi đây thì cứ tự tiện. Nhưng tao vẫn muốn tiến vào sâu hơn

nữa thăm dò, không thể dẫn đường cho chúng mày được. Ai muốn có nhiều hơn nữa thì đi theo

tao.”

Bọn lính đánh thuê đã nếm mùi lợi hại của mê cung vòng tròn này, lại biết đường vào đã bị

bít kín, nếu không có người trẻ tuổi dẫn đường, kẻ nào có thể ra khỏi đây được chứ? Đối mặt

với kiểu uy hiếp biến tướng này, bọn chúng đành bất lực, hoàn toàn không thể phản kháng.

Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn nhau, rõ ràng, người trẻ tuổi này cũng giống như

hai người họ, hoàn toàn không động tâm với những thứ châu báu rực rỡ chói mắt ở đây. Vậy y

muốn tìm kiếm thứ gì? Chẳng lẽ mục đích của y cũng giống họ, muốn tìm kiếm Thánh điển ư?

Nhưng Thánh điển có tác dụng gì với y chứ? Vả lại, nếu cũng muốn tìm kiếm Thánh điển, chắc

chắn y sẽ không giữ hai người họ lại làm gì.

Khafu đứng bên cạnh hỏi: “Đàn thành rốt cuộc là thế nào?”

Người trẻ tuổi tiện tay vạch lên bức tường một hình “ ”, đoạn nói: "Đàn thành trông như

thế này, đã được vẽ rất nhiều trên các bức Thangka và bích họa, chỉ có điều, chúng đều là mặt

phẳng nên không thể thể hiện hoàn toàn hình dáng của đàn thành thôi. Không biết bọn chúng

mày đã thằng nào đến Thiên đàn ở Bắc Kinh chưa, đại điện của đàn thành cũng khá giống nơi

đó, từng tầng từng tầng một, các giai tầng khác nhau thì bái phỏng các điện Phật khác nhau.

Kết cấu của toàn bộ đàn thành và mỗi gian điện về cơ bản là giống nhau, trong vuông co tròn,

trong tròn có vuông, bao la vạn tượng, hết thảy đều quán thông."

Khafu lập tức hiểu ra: "Giống như Kim tự tháp."

Người trẻ tuổi gật đầu: “Đúng thế, chỉ có một điểm khác biệt, phải nói là giống bánh ga tô

nhiều tầng thì đúng hơn. Đàn thành là sự kết hợp giữa vuông và tròn, còn Kim tự tháp thì chỉ

thuần hình vuông, pháp sư đại nhân, ông cảm thấy tòa đàn thành này sẽ thế nào đây nhỉ?”

Pháp sư Á La chắp tay bắt ấn không nói gì, ông vẫn chìm trong dòng suy tư. Chỉ nghe người

trẻ tuổi kia tiếp lời: “Thực ra đạo vuông tròn của phật gia và đạo âm dương của Đạo gia có rất

nhiều điểm tương đồng. Đại đạo trong thiên hạ, xét cho cùng đều quy về một mối. Vạn vật cấu

thành đều là một âm một dương; quỹ đạo của vạn vật, đều là một cong một thẳng; luân hồi của

vạn vật, thảy đều một vuông một tròn; đạo lý trên thế gian này cũng chỉ có thế mà thôi."

Pháp sư Á La giật mình sực tỉnh, bất giác ngẩng đầu lên nhìn người trẻ tuổi kia, thầm nhủ:

“Mới chừng này tuổi không ngờ đã có thể nói ra những lời như thế, tâm tính và ngộ tính của

người này cao hơn ta rất nhiều. Không đúng, nhất định là y đã đọc được câu này từ đâu đó, tuy

giọng điệu ấy đượm vẻ khinh bạc, nhưng sự lĩnh ngộ của y với câu này rõ ràng vẫn cao hơn ta

một bậc.”

Trong lúc pháp sư Á La ngẫm nghĩ, người trẻ tuổi đã dẫn cả đội ngũ tiến lên phía trước. Chỉ

nghe loáng thoáng y nói với Khafu: “Thứ này... rất khó giải thích... chúng ta đang đi bên trong,

không thể nhìn toàn bộ diện mạo của nơi này từ bên ngoài... mày coi nó như một quả thông

vậy... đại khái là thế, một đàn thành, một bóng ngược, bóng ngược trong nước ấy, mày hiểu

không? Đạo âm dương... thôi bỏ đi, có nói mày cũng không thể hiểu đươc đâu.”

“Đạo âm dương, bóng ngược.” pháp sư Á La cúi đầu trầm ngầm, đột nhiên thốt lên. “ta hiểu

rồi.”

Lữ Cánh Nam bên cạnh vội hỏi: "Pháp sư đại nhân?" Pháp sư Á La vẽ thêm một hình “ ”

lên chỗ mảng tường người trẻ tuổi kia vừa vẽ, có điều hình này ngược hướng với hình phía

trên, đầu nhỏ chúc xuống dưới, hai hình ghép lại với nhau thành một hình thoi. Pháp sư Á La

chỉ tay lên tường nói: "Đây chính là toàn bộ diện mạo của đàn thành, một chính một phản, một

âm một dương, chúng ta đang ở đây." Ngón tay ông dịch lên đầu nhỏ của hình phía trên, sau đó

lại chỉ xuồng đầu mút của hình phía dưới nói tiếp: “Y muốn đến chỗ này.”

Lữ Cánh Nam bừng tỉnh ngộ, liền gật đầu rồi đỡ pháp sư Á La đi theo đội lính đánh thuê.

Cái xích đu khổng lồ chuyển trạng thái từ tĩnh sang động, từ từ tăng tốc, gió lớn dần, Trác

Mộc Cường Ba và Merkin như thể đang đạp trên tấm ván lướt sóng, lao một mạch về phía

trước. Nửa chặng đầu, cảm giác như lướt trên mây, nửa chặng sau, tim hai người đều trầm

xuống, trọng tâm dồn hết xuống chân.

Mắt thấy vách đá ở ngay trước mắt, ánh đèn lấp loáng đã hiện lên rõ mồn một nhưng xích

đu đã hết đà, bắt đầu lăng trở về phía bên kia. Merkin kinh ngạc hỏi: “Chuyện gì thế này?”

Theo thiết kế, bàn xích đu này lẽ ra phải trực tiếp đưa họ sang bình đài phía đối diện mới

đúng chứ? Sao vẫn còn cách đến một hai chục mét, dây móc của Trác Mộc Cường Ba bắn ra

cũng không tới, đã bắt đầu giật ngược trở về? Hai người vội tìm kiếm nguyên nhân, cúi đầu

nhìn xuống, lập tức giật nẩy mình. Thì ra, khi hai người họ nhảy lên xích du, một đám người

đáy hang cũng tung người bổ tới, tuy không kẻ nào lên được bàn đu, song lại chộp được vòng

sắt ở phía dưới. Người đầu tiên nắm lấy vòng sắt, người phía sau lại ôm chặt hai chân người

phía trước, cứ như bầy khỉ bám đuôi nhau đu qua khe núi, xâu thành một chuỗi dài.

Bàn xích đu này rất lớn, Trác Mộc Cường Ba và Merkin lúc xông tới đã dùng hết toàn lực,

sau khi lên được, tầm nhìn lại bị cản trở, thêm ánh sáng mập mờ nên vẫn không phát hiện ra.

Đến khi đu sang phía bên này, đầy đủ ánh sáng, hai người mới trông thấy.

Mỗi chuỗi dài như vậy có khoảng bốn năm người đáy hang bám vào, dưới chân Trác Mộc

Cường Ba có một chuỗi, bên phía Merkin có hai chuỗi. Đám người này làm thay đổi trọng tâm

của xích đu, chẳng trách chưa sang đến bờ vực bên kia, nó đã bắt đầu văng ngược trở về rồi.

“Tính sao đây?” Merkin hỏi.

Nếu không xua những người đáy hang đang bám bên dưới xuống, sợ rằng xích đu sẽ càng

lúc càng chậm lại, cuối cùng dừng lơ lửng giữa không trung. Có điều, phía dưới kia là vực

thẳm sâu hun hút, những người này rơi xuống, e là cũng khó sống nổi. Tuy trước đây, Trác

Mộc Cường Ba đã chiến đấu với quân du kích, bọn buôn ma túy, về sau lại nhiều lần xung đột

với bọn lính đánh thuê dưới trướng Merkin, nhưng đó đều là kẻ địch, gã nã súng chỉ để tự bảo

vệ mình, cũng không hổ thẹn với lòng. Nhưng đám người đáy hang này thì khác, trí tuệ của họ

chẳng khác nào đứa trẻ sơ sinh, hành vi thì như loài dã thú, họ hành động chỉ vì miếng ăn, vì

sinh tồn. Vả lại sức tấn công của họ cũng rất yếu ớt, nếu không chiếm ưu thế vế số lượng, có

thể nói là hoàn toàn không uy hiếp gì được Merkin và Trác Mộc Cường Ba cả. Lúc này, họ

cũng khó lòng leo lên được phía trên bàn xích đu để làm gì hai người bọn gã. Đồng thời, dưới

ánh sáng từ phía bên kia hắt sang, Trác Mộc Cường Ba còn phát hiện có hai phụ nữ bụng hơi

gồ lên, rõ ràng là đang mang thai. Lẽ nào, giết chết một người hành vi điên cuồng, trí lực thấp

kém, lại không có năng lực phản kháng, không phải là giết người hay sao?

Có điều, đúng lúc ấy, những người đáy hang kia cũng không cầm cự được thêm nữa, người

đầu tiên bám vào vòng sắt tuột tay ra, tất cả những người bám phía sau liền rơi xuống vực sâu,

tiếng kêu thảm vang lên không khác gì loài dã thú. Bàn xích đu văng trở lại chưa được nửa

chặng đường, ba chuỗi người bám bên dưới đều đã lần lượt rơi rụng, chỉ còn lại tiếng kêu rít

văng vẳng trong không gian.

Người đáy hang bám bên dưới đã rơi xuống, song bàn đu vẫn mỗi lúc một chậm lại, lần thứ

hai còn cách xa bờ đối diện xa hơn lần thứ nhất. Merkin và Trác Mộc Cường Ba ngoảnh lại

nhìn nhau, cùng bật ra tiếng hỏi: “Anh... ông biết đu cái này không?”

“Anh cũng không biết đu xích đu à?”

Câu hỏi vừa thốt ra khỏi miệng, hai người lập tức tắc tị. Hai cao thủ am tường cơ quan cạm

bẫy, không ngờ lại bị rnột cái xích đu vớ vẩn làm khó. Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều

hiểu rất rõ, cứ đứng trên phiến đá mà không có động tác gì, biên độ dao động của xích đu chắc

chắn sẽ càng lúc càng thu hẹp lại. Nhưng khốn nỗi, cả hai đều không biết phải hành động thế

nào. Thứ vô cùng đơn giản này rõ ràng không hề được đưa vào trong giáo trình huấn luyện của

bọn họ.

Merkin còn đưa ra một vấn đề nghiêm trọng hơn: "Anh có phát hiện, lần áp mạn này vị trí

của chúng ta cao hơn lần đầu một chút không?"

"Ý ông là, dây thừng có vấn đề?"

“Phía trên chắc chắn có thứ gì đó đang cuộn dây thừng buộc hai bên phiến đá này, biên độ

dao động của bàn xích đu sẽ nhỏ dần, nếu không nghĩ ra cách, chúng ta sẽ bị kẹt ở giữa vực sâu

đấy.”

“Thử xem, thế nào cũng có cách. Thử cách trượt tuyết xem.” Trác Mộc Cường Ba đề nghị.

Merkin gật đầu đồng ý, khi bàn đu lên đến điểm cao nhất bắt đầu rơi xuống, hai người chia

nhau nắm lấy một sợi dây thừng, đầu gối rùn xuống, dồn trọng tâm cơ thể ra phía trước, tư thế

như đang trượt tuyết. Lực cản giảm đi, tốc độ rơi xuống của bàn đu tăng lên rõ rêt, nhưng sau

khi qua điểm giữa, tư thế này dường như lại không ổn định. Hai người tiếp tục lần mò, cuối

cùng cũng tìm ra cách tối ưu. Khi bàn đu lên đến điểm cao nhất, họ liền giậm mạnh chân, dồn

sức đè mạnh xuống, sau đó giữ tư thế trượt tuyết đến khi qua điểm giữa, Lúc ấy, Trác Mộc

Cường Ba hét lớn: "Lên". Hai người lại cùng lúc bật người, dồn sức vào hai chân đẩy cho bàn

đu lên cao hơn chút nữa. Họ cứ lặp đi lặp lại như thế, bàn đu rốt cuộc cũng tăng dần biên độ

dao đông, đến lần áp ngạn thứ mười ba, bàn du đã đạt đến biên độ lớn nhất. Có điều, luc snayf,

họ đã ở cao hơn bình đài kia đến mười mấy mét. Trác Mộc Cường Ba bắn dây móc ra, Merkin

cũng lao bổ theo, tay người này bám chặt vào cánh tay người kia. Trác Mộc Cường Ba vung

tay ném Merkin lên bình đài, còn mình thì trượt tường leo xuống.

Sau khi chạm đất, Trác Mộc Cường Ba mới phát hiện, đây không phải một bình đài, mà là

một bệ hõm xuống ở giữa, kiểu như ban công chìa ra của tòa nhà vậy. Chỉ có điều, tỷ lệ được

phóng to lên vô số lần, bọn họ chẳng qua chỉ đáp xuống thành lan can của ban công khổng lồ

ấy, giống như hai con kiến nhỏ mà thôi.

Đứng từ đây nhìn vào bên trong, chỉ thấy đèn đuốc sáng trưng, không gian mở rộng ra vô

hạn, ngước nhìn lên trên, chỉ thấy một mảng lam sẫm nhấp nháy như dòng ngân hà chảy trên

bầu trời đêm. Một sáng một tối giao hòa vào nhau, như thể bọn họ đang nhìn hai thế giới hoàn

toàn khác biệt.

Chỗ mép tường có cầu thang, hai người cẩn thận leo xuống chừng mấy chục mét, rồi bước

vào khoảng không gian sáng sủa ấy, cùng lúc hít sâu một hơi, rồi lại cùng lúc cảm thán thốt

lên: “A!” Hệt như nhóm người của pháp sư Á La lúc bước vào gian đại điện có ngàn vạn vị

thần Phật, đang nghĩ ngợi về ý nghĩa của sự tồn tại kia, hai người đều có cảm giác lạc vào một

vùng bát ngát, tầm nhìn đột ngột mở rộng ra tít tắp.

Một từ “rộng lớn” làm sao có thể hình dung được nơi này? Chỗ này không thể gọi là cung

điện hay đại sảnh gì được. Trác Mộc Cường Ba có cảm giác như mình vừa lạc bứoc vào chốn

đào nguyên tiên cảnh, chỉ thấy một vùng xanh mướt tràn ngập ý xuân, đập vào mắt toàn cây

rừng tươoi tốt, tán lá xào xạc. Hai người dụi mắt liên tục không hiểu có phải mình gặp ảo giác

hay không nữa. Chỗ này nằm sâu dưới lòng đất, chiếu sáng bằng ánh lửa, sao lại có rừng cây

được? Rốt cuộc đây là một đại điện, hay là một mảng rừng rậm đây?

Dưới chân họ là một bãi cỏ xanh mướt, những đóa hoa nhỏ màu trắng, màu đỏ nở xen kẽ

giửa cỏ xanh, mềm mại như tấm thảm trải dài. Cách đó không xa là những cây lớn san sát,

cành lá rậm rạp, đường kính thân cây mấy người ôm, cao đến cả trăm mét, dường như còn có

suối chảy qua bụi cỏ, chỉ nghe tiếng róc rách, không thấy dòng nước.

Merkin không dám tin vào mắt mình, liền ngồi xổm xuống, vân vê một cọng cỏ, ngay sau

đó ngẩng đầu lên, cười khổ, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Đồ giả.” Cọng cỏ ấy trơn nhẵn, bẻ

mà không gãy, chỉ phát ra tiếng sột soạt như giấy bóng kính. Không biết những bông hoa trắng,

hoa đỏ kia làm bằng thứ gì mà cũng giống hệt như thật, cũng không biết người xưa đi tốn bao

nhiêu công sức mới cắt ra được hàng triệu cọng cỏ như vậy, phủ kín toàn bộ đại điện này.

Trác Mộc Cường Ba lặng lẽ gật đầu, những thứ này đương nhiên là đồ giả rồi. Nơi này ở

sâu dưới lòng đất, nếu chẳng phải do cơ quan đã khởi động thì thậm chí còn không có cả ánh

sáng, làm sao có rừng rậm được chứ? Trên các thân cây lớn kia, từ khoảng hai phần ba chiều

cao trở lên, đều có gắn bồn lửa cháy bập bùng. Nếu 1à cây thật, làm sao có thể cho lửa cháy

như vậy được?

Thế nhưng, làm giả mà có khí phách này, làm giả mà giống thật đến nhường này, khiến

người ta như rơi vào giữa đám mây mù ảo ảnh, Trác Mộc Cường Ba cũng không thể không

cảm thán trước kỹ thuật tinh xảo của các nghệ nhân nghìn năm trước. Suy nghĩ của họ thực kỳ

diệu, khiến người ta chỉ biết thở dài thán phục. Gã ngẩng đầu nhìn lên trên, ở độ cao hơn trăm

mét, nơi tường và vòm trần tiếp xúc, có vô số tượng thần Phật cúi xuống theo góc bốn nhăm

độ, chân đạp mây lành, mắt nhìn chăm chú.

Merkin đứng choãi hai chân, chầm chậm đảo mắt một vòng. Sự biến đổi to lớn về không

gian và màu sắc này khiến tâm thái con người lập tức từ chỗ nơm nớp nguy cơ chuyển thành

hào hùng ngùn ngụt, như thể vừa lên đến đỉnh cao của ngọn núi. Chỉ một thế đứng đơn giản

như vậy thôi, y đã có cảm giác mình đang sừng sững giữa đất trời bao la. Y từng đến vô số mộ

cổ, ghé qua vô số di tích, nhưng chưa gặp nơi nào thế này bao giờ. Trong cung điện có hồ

nước, trong cung điện có rừng sâu. Đây không đơn giản là một thứ nghệ thuật, mà là một thứ

cảnh giới bao hàm tư tưởng chí cao vô thượng của Thiền tông. Hai người chậm rãi thả bước

trong rừng, thả hồn theo gió, lớp cỏ dưới chân phát ra những tiếng rì rào như lời thỏ thẻ của

tình nhân, như dòng suối ngầm hòa nhịp, tràn ngập thiền ý. Những cây lớn này không hiểu làm

từ chất liệu gì, trong ánh lửa cháy hừng hực, trong không khí tràn ngập một mùi hương tươi

mới, thoang thoảng như hương lan, lại hơi giống mùi đàn hương, khiến tinh thần người ta trở

nên thư thái, từ đầu đến chân cơ hồ được tắm trong một vòng sáng thánh khiết.

Không rõ đi được bao lâu, Trác Mộc Cường Ba chợt ngẩn người, chầm chậm giơ tay lên chỉ

ra phía xa. Không hiểu sao Merkin lại chợt thấy bồi hồi xúc cảm. sống mũi cay cay. Y vội vàng

quẹt quẹt mũi, áp chế xúc cảm bất chợt dâng tràn ấy.

Cái cây lớn quá?

Thân cây tựa như đâm thủng bầu không, đội trời đạp đất, tán cây xòe rộng như cái ô khổng

lồ che phủ mặt đất. Những cây lớn xung quanh chỉ tựa như đàn con cháu xúm xít quanh nó mà

thôi. Những hình Phi Thiên(16) vẽ trên vòm trần đều đang chên lấn xô đẩy tràn về phía tán cây thần này.

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên có cảm ngộ, một thứ cảm ngộ không thể nói bằng lời, gã chỉ

thấy đất trời tĩnh lặng, giả là thật mà thật cũng là giả, tựa hồ như nghe thấy được cả tiếng của

loài sâu kiến, bao nhiêu phiền não thảy đều tiêu tan.

Còn Merkin thì tựa như nhìn thấy cây cổ thụ trước căn nhà tổ của y, trong đầu hiện lên hình

ảnh hai ông cháu đang ngồi dưới gốc cây luận đạo.

BẠCH TƯỢNG CHI CẢNH

Bên dưới gốc cây thần đó còn có một điềm trắng nhỏ, thoạt trông giống như chú ngựa con.

Không hiểu sao, lúc ngước mắt lên nhìn cái cây ấy, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều không

hẹn mà cùng tiến đến gần gốc cây. Mới đầu, hai người còn đề phòng cơ quan, sau khi thấp

thỏm đi được một đoạn, mới bắt đầu sải rộng bước chân, càng đi càng nhanh.

Lúc đến gần, họ mới phát hiện, thứ màu trắng kia hóa ra chẳng phải ngựa con, mà là một

con voi trắng sáu ngà, cao mười mấy mét. Bên dưới cái cây cao chọc trời, những cây nhỏ hơn

trong rừng xếp thành hai hàng, tựa hồ chừa ra một con đường cho voi trắng tiến bước, một

dòng nước trong vắt như gương roognj chừng bốn, năm mét lặng lẽ dập dờn chảy qua phía

trước mặt con voi.

Con voi trắng đó đầu đội mũ miện, lưng chở tòa sen không tâm, bộ dạng hân hoan sung

sướng, tựa như đang nghỉ giấc trưa, lại giống như đang hút nước tắm rửa vào buổi sáng sớm, ở

nó toát lên một vẻ khoan khoái nhẹ nhàng khó tả. Voi trắng, suối nước, rừng cây, kết hợp với

nhau một cách hài hòa, hoàn toàn tự nhiên. Cảm ngộ phát xuất tự nội tâm Trác Mộc Cường Ba

càng lúc càng trở nên rõ rêt. Cảnh giới này, thật tự do tự tại, vô ưu vô lự biết bao!

Chợt nghe Merkin lẩm bẩm đọc: "Độc bộ thiên hạ, tâm ta sách trong, không cầu không dục,

như voi trong rừng!"

Trác Mộc Cường Ba tức thì đốn ngộ trong khoảnh khắc, đúng vậy, chính là thứ cảm giác

này, một mình sải bước giữa đất trời, không cầu không dục, con voi trắng và nơi này, tạo thành

một không gian khiến người ta không còn ham muốn, không còn sở cầu gì nữa. Cảm giác nâng

chén đứng trước gió, vinh nhục thấy đều quên, hẳn cũng chỉ như vậy mà thôi, thậm chí dường

như cảnh giới ở đây còn cao hơn một bậc. Trác Mộc Cường Ba hơi ngạc nhiên nhìn Merkin, gã

thực không thể ngờ, Merkin cũng đạt đến cảnh giới này, một lời đã chỉ ra được.

“Đây là một câu kệ trong Nam Truyền Ngũ Bộ kinh bằng tiếng Pali(17), Merkin bị Trác Mộc Cường Ba nhìn như vậy cũng thấy ngượng ngùng, bèn giải thích: “Voi là thánh vật trong Phật

giáo, trước nay vẫn được coi là thần thú có đại pháp lực và đại từ bi, chúng có thể hình to lớn,

không dễ bị các sinh vật khác làm thương tổn, cũng không bao giờ chủ động làm tổn thương

các sinh vật khác. Ngoại trừ con người, voi không có thiên địch, một mình một cõi trong chốn

rừng sâu. Voi là loài động vật đầu tiên có tư cách ấy!”

Cách giải thích này của Merkin, Trác Mộc Cường Ba chỉ chấp nhận được phần đầu, còn câu

cuối cùng lại cho rằng y đã lý giải hơi lệch lạc. Gã cũng nhớ lại một câu trong Đại Tạng kinh:

"Tốt hơn sống độc hành, hơn chung bước bạn xấu, một mình không ác hạnh, sống tự tại thong

dong, như voi giữa rừng già.”(18) Nghĩ đoạn gã bèn nói: “Voi có uy lực vô biên mà tính cách lại ôn hò, khi làm tọa kỵ cho Bồ tát, voi tượng trưng cho pháp thân có thể gánh vác trách nhiệm,

khi làm hóa thân của Bồ tát, voi tượng trưng cho đại từ bi và đại thế lực. Phật có tám mươi

tướng lành, tiến bước và dừng lại như Tượng vương, bước đi như Hạc vương, dung mạo như

Sư tử vương, vô lậu vô nhiễm, tựa như thân voi trắng ngần tinh khiết. Sáu ngà biểu thị cho lục

độ: bố thí, giữ giới, ẩn nhẫn, thiền định, tinh tiến, trí tuệ. Người nào có được lục độ, thời có thể

vượt qua biển sinh tử, đến được bờ vĩnh sinh bất từ; đồng thời cũng chỉ sáu loại thần thông siêu

độ nhân gian của Bồ tát.”

Merkin không hứng thú lắm với những thứ thuộc về kinh kệ đó, y hướng ánh mắt lên chiếc

mũ miện đội trên đầu con voi trắng. Bên trên chiếc mũ miện đó khảm vàng dát bạc, châu ngọc

bảo thạch gắn chi chít, viên nhỏ như trứng cút, viên lớn phải to bằng quả trứng gà. Merkin đã

quen nhìn vàng bạc châu báu, vậy mà vừa liếc thấy chiếc mũ miện này, đã không thể rời được

ánh mắt đi đâu được nữa.

Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba cũng rời khỏi thân voi, dịch chuyển xuống dòng nước lặng lẽ

phía trước. Nước suối sáng như gương, dòng chảy chậm rãi như dải lụa, chỉ gờn gợn lên một

chút như nếp nhăn trên mặt. Lần ngược lên nguồn, Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên nhận ra,

dòng suối nông không ngờ lại chảy từ gốc cây thần kia ra.

Lúc này, do khoảng cách quá gần, thân cây thần đã không còn giống như thân cây nữa, mà

giống một bức tường hơn. Bề mặt của thân cây, song hình dáng lại giống như tường, muốn đi

vòng quanh bức tường này e phải mất mấy trăm bước. Lại gần nhìn kỹ hơn nữa, sẽ phát hiện

ra, các cục u, các đốt cây, những chỗ gồ ghề lồi lõm trên thân cây, đều là các sinh vật khác

nhau do người xưa điêu khắc, ngoài ra con có cả thần tiên chư Phật nữa. Họ hòa lẫn vào các

đường vân trên vỏ cây, nhìn lướt qua sẽ thấy Phi Thiên hiện hình, nét mặt mỗi vị mỗi khác,

nhưng nếu chăm chú nhìn, trước mắt sẽ chỉ thấy thân cây mà thôi.

Trác Mộc Cường Ba đi một vòng quanh thân cây, rốt cuộc cũng nhận ra chỗ ảo diệu của cây

thần này. Khi nhìn lên thân cây, không thể tập trung vào một điểm, mà phải phóng mắt nhìn

toàn thể, để tầm nhìn rộng mở, các vị thần Phật sẽ tự hiện lên trong chốn mông lung mờ ảo, cứ

quan sát như vậy một lúc, những hình điêu khắc thần Phật và các loại sinh vật sẽ càng lúc càng

trở nên rõ ràng, tựa như sống lại giữa chốn hư không, người quan sát cũng có cảm giác như thể

mình đang ở giữa khung cảnh đó vậy. Nếu chớp mắt, hoặc tập trung tinh thần, những hình ảnh

thần Phật và muông thú ấy sẽ lại đột nhiên biến mất, lẩn khuất vào trong thân cây.

Dòng suối trong vắt ấy chảy ra từ ngọn cây thần, nơi cành lá um tùm rậm rạp. Tổng cộng có

bốn mạch suối, người xưa đã khoét bốn rãnh ngầm hình xoáy ốc trên thân cây, chĩa ra làm bốn

hướng, cắt ngang cắt đọc toàn bộ đại sảnh. Hay là... những dòng nước này tạo thành một hình

chữ vạn ngược khổng lồ? Trác Mộc Cường Ba chỉ có thể suy đoán. Bốn đường rãnh ngầm này

giống như bốn dòng sông chảy qua cây thần, hai bên bờ là đủ loại sinh vật ẩn hình. Kỳ quái

nhất là những sinh vật ẩn hình này, người xưa không chỉ điêu khắc một loại hình thái duy nhất,

mà đa số đều biểu thị bằng ba hình thái: sinh ra, lớn lên và già đi. Men theo dòng nước từ trên

xuống, hình thái của các sinh vật càng lúc càng phức tạp Còn những hình khác thần Phật lại ở

xa dòng nước hơn một chút, như thể lơ lửng giữa chốn hư không, lặng lẽ quan sát quá trình

sinh lão bệnh tử của tất thảy sinh vật trên đời vậy. Có tượng trầm tư, có tượng hờ hững, có

tượng thiền định, có tượng mỉm cười, hình thái đều rất phức tạp đa dạng.

Trác Mộc Cường Ba đến giờ vẫn chưa hiểu được ảo nghĩa của Mật tông, dĩ nhiên cũng

không thể lý giải được hàm nghĩa mà những hình ảnh thoạt ẩn thoạt hiện này biểu đạt. Gã chỉ

cảm thấy hết sức huyền diệu, không sao diễn tả được bằng lời.

Hai người đều tĩnh tâm ngẫm nghĩ về những gì trông thấy, đều chìm vào cảnh giới vô nhân

vô ngã(19), thậm chí quên cả sự tồn tại của thời gian, không biết bao lâu sau, một âm thanh đột nhiên bật lên từ tận sâu đáy lòng Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba, giờ không phải lúc mày mê

đắm với kỹ nghệ tinh xảo của người xưa, việc quan trọng trước

mắt là tìm thấy Pháp sư,

Cánh Nam và Mẫn Mẫn!”

Trác

Mộc

Cường Ba giật thót mình, lập tức không còn cảm giác ngờ ngợ như ngộ

ra được điều gì đó nữa, nhìn lại gian đại điện, thấy hùng vĩ thì hùng vĩ thật đấy, song đã

không thể đưa tinh thần gã vào thế giới cảm quan thần hồn phiêu diêu được nữa. Đây có phải

nơi pháp sư Á La muốn tìm kiếm hay không nhỉ?

“Ông nói xem, chỗ nãy có phải là đại diện trung tâm của Bạc Ba La thần miếu không nhỉ?"

Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Merkin lập tức phủ định: "Sao có thể được! Dù là thần thoại truyền thuyết hay ghi chép

trong lịch sử, hoặc chỉ là chúng ta nghiên cứu suy luận ra, trong thần miếu phải chất đống như

núi đủ thứ báu vật tuyệt thế, càng không cần nhắc đến những món vàng bạc châu báu thông

thường, nhưng đây là thứ quái gì chứ?” Tuy châu ngọc gắn trên mình con voi trắng đều rất lớn,

lại không chút tì vết, nhưng dù sao cũng là khoáng vật tự nhiên, chỉ được con người gia công

mài giũa thêm một chút, so với những thứ báu vật trong long Merkin mơ tưởng vẫn còn kém

xa. Vả lại, con voi trắng kia uy nghi tự tại, các thứ châu ngọc và tượng voi đã dung hợp thành

một thể thống nhất, chỉ cần bong ra một viên thôi cũng đã khiến con voi trắng này có tì vết rồi.

Merkin không muốn mà cũng không dám đụng vào những viên đá có sức hấp dẫn mê người ấy.

Ngoài ra, đối với Merkin, đại điện này chỉ có một rừng cây rậm rạp, mà lại còn là đồ giả nữa.

Trác Mộc Cường Ba chau mày, lấy làm lạ tại sao Merkin không cảm nhận được sự huyền

diệu của nơi này? Lẽ nào y không cảm thấy thần hồn phiêu diêu đặng như thoát ra khỏi thân

thể giống gã? Nghxi đoạn, gã bèn hỏi: “Nếu nơi này không phải đại điện trung tâm,vậy còn nơi

nào khác nữa ư?”

Merkin gật đầu, Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Vậy chúng ta phải tìm lối ra thôi, chắc chắn

có cửa thông sang nơi khác nữa.”

Merkin thoáng do dự, nhưng rốt cuộc vẫn gật đầu nói: “Được.”

Mặc dù không trực tiếp nắm bắt được ý cảnh siêu phàm ấy, song Merkin cũng lờ mờ có chút

cảm giác. Khi đứng dưới cây thần và tượng voi trắng, y chỉ thấy trời đất bao la, vạn vật nhỏ bé,

dòng không khí lưu động chừng như hóa thành thực thể, từ đó cũng nảy sinh một tâm trạng

khó tả, chỉ là cảm giác ấy của y không được rõ ràng như Trác Mộc Cường Ba mà thôi. Sợ rằng

ngay cả pháp sư Á la và Lữ Cánh Nam cũng không ngờ được, chỉ trong khoảng thời gian ngắn

ngủi như vậy, Trác Mộc Cường Ba lại có thể tự lĩnh ngộ được quá trình xuất thế và nhập thế.

Có rất nhiều chuyện, nói dễ hơn làm rất nhiều. Hai người rốt cuộc cũng đạt được sự đồng

thuận, bắt đầu tìm kiếm lối ra khỏi rừng rậm bên trong đại sảnh dường như không có cạm bẫy

này. Thế nhưng, vừa bắt đầu tìm kiếm, cơ quan liền lập tức hiện ra.

Hai người nhanh chóng phát hiện, dù họ đi thế nào thì cũng chỉ vòng vèo trong đại điện

hoặc có thể nói là trong khu rừng này. Những cây cối bố trí so le nhau, ngăn cản tầm nhìn của

họ, khiến hai người chỉ có thể quan sát được khoảng một hai chục mét phía trước. Họ vòng qua

những thân cây lớn ấy, tự nhủ rằng mình đang đi theo đường thẳng, song dù đi thế nào, cuối

cùng nhất định vẫn trở lại phía trước thân cây thần và tượng con voi trắng kia.

Merkin bắt đầu cáu tiết. Họ đã đánh dấu lên thân cây, song vẫn không thấy hiệu quả. Y định

lấy lựu đạn ra cho nổ tung đám cây cối này lên, nhưng Trác Mộc Cường Ba đã ngăn lại: “Đừng

lặp lại sai lầm, chúng ta không rõ tình hình ở đây, ông mà cho nổ, có trời mới biết sẽ dẫn dộng

cơ quan cạm bẫy gì nữa.”

Merkin nổi giận gầm lên: “Tôi không tin, chẳng lẽ mấy cái cây này biết chuyển động? Dù là

mê cung thì cũng có quy tắc tay phải chứ!”

Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm nghĩ ngợi, những thân cây lớn này và mặt sàn dưới chân họ

là một thể, được điêu khắc từ nham thạch thiên nhiên, hai đầu trên dưới đều mọc rễ, chắc chắn

không thể chuyển động được. Vấn đề mấu chốt là ở vị trí của những thân cây này, thoạt nhìn

tưởng chừng như đi thế nào cũng có đường thênh thang rộng mở, song trên thực tế những cái

cây này có lớn có nhỏ. muốn tiến lên nhất định phải đi vòng vèo qua các thân cây. Kỳ diệu

nhất chính là, bọn họ đi kiểu gì thì cũng vòng một vòng trong rừng, cuối cùng lại trở về. Thêm

vào đó, thân cây đều có hình trụ tròn, quy tắc tay phải trong mê cung căn bản không thể áp

dụng ở đây được.

Mới đầu họ còn gửi gắm hy vọng vào bốn dòng chảy kia. Không ngờ mấy dòng nước đó

chảy được nửa chừng liền lặn xuống đi ngầm dưới đất, không thấy bóng dáng đâu nữa. Merkin

tự tin thính lực hơn người, liền dẫn đường theo tiếng động, khi nghe tiếng nước chảy thay đổi,

y mừng ra mặt thốt lên: “Ra rồi!”, rồi ngước mắt nhìn lên, liền trông thấy cây thần uy nghi

hùng vĩ, voi trắng ung dung tự tại lù lù trước mắt. Trác Mộc Cường Ba cũng chán chẳng buồn

nói câu nào nữa.

Sau mấy vòng, Trác Mộc Cường Ba đề nghị nghỉ ngơi giây lát, đằng nào thì đi kiểu gì cũng

vẫn trở lại dưới gốc cây thần này, tại sao không thử tìm đầu mối ở xung quanh đây xem, hà tất

phải đi bừa trong rừng như thầy bói xem voi cho mất công. Merkin vui vẻ đồng tình, bắt đầu

tìm kiếm manh mối xung quanh cây thần và tuợng voi trắng, tìm một hồi cũng không phát hiện

được gì cả, một chữ hay ký hiệu để lại cũng không. Trác Mộc Cường Ba lại nói cho y biết cách

làm cho hình ảnh thần Phật điêu khắc ẩn trên thân cây hiện hình, rồi chia nhau tìm kiếm đầu

mối trên những hình ảnh phiêu hốt bất định đó. Hai người nhìn đến hoa mắt, cũng nhận ra

được khá nhiều chủng loại sinh vật và tên các vị thần Phật, song đầu mối thì vẫn chẳng thấy

đâu.

Merkin không khỏi cằn nhằn oán trách: “Không phải đến chỗ nào cũng có vài lời của người

xưa để lại à? Ở đây sao không thấy có?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Những chỗ người xưa để lại lời cảnh báo đều là chốn hiểm nguy

tột cùng, thà không có còn hơn.”

Merkin nói: “Tuy là hiểm nguy tột cùng, nhưng ít nhất chúng ta cũng dựa vào những lời đó

mà suy đoán ra được một chút ý đồ của họ, còn thế này là thế nào? Chẳng lẽ bảo chúng ta ở

đây mãi với con voi này à?”

“Voi trắng!” Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra điều gì đó, câu nói “nếu cậu muốn có thứ gì,

cậu mới tìm thấy được thứ ấy.” của đội trưởng Hồ Dương chợt lóe lên trong óc gã. Gã bất giác

hồi tưởng lại những phần liên quan đến voi trắng trong các tư liệu về Mật tông mấy năm nay

gã và mọi người thu thập được, phần nào không nhớ ra nổi, gã liền mở máy tính của giáo sư

Phương Tân ra tìm. Thập lực hương tượng(20)? Bạch tượng bồ tát? Hương tượng độ hà(21)? Thần trí tuệ của Ấn Độ giáo? Long tượng(22)? Cuồng tượng? Tượng chủ? Từng đoạn thông tin hiện lên trên màn hình máy tính, rồi lần lượt bị Trác Mộc Cường Ba loại bỏ, thình lình, một đoạn

thông tin về Tượng vương đập vào mắt gã. Trác Mộc Cường Ba kiểm tra lại rồi cả mừng reo

lên: “Thì ra là vậy, tìm được đường rồi!”

Merkin vốn không hiểu ngữ nghĩa tiếng Trung cho lắm, đối với các thuật ngữ của Phật gia,

Đạo gia lại càng dốt đặc cán mai, vội vàng hỏi gã: “Đường ở đâu vậy?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đường ở dưới chân.”

Merkinc có cảm giác mình đang bị bỡn cợt, mặt hầm hầm tức giận, nhưng ngay sau đó Trác

Mộc Cường Ba đã giải thích: “Trong Kinh Nghiêm hoa có một câu rằng ‘Tượng vương hành

xứ hoa lạc hồng’(23), chúng ta đã bỏ qua mất những bông hoa đỏ kia, ông nhìn phía sau lưng voi trắng xem.”

Merkin nhìn về phía đó, trên thảm cỏ hoa trắng hoa đỏ đan xen điểm xuyết, chỗ nào cũng

có, thoạt nhìn chẳng có gì khác biệt, nhưng nếu nhìn kỹ lại sẽ thấy, ở sau lưng voi trắng, một số

hoa đỏ dường như ghép lại thành hình hoa sen, từng đóa từng đóa, khoảng cách vừa khéo khớp

với bước chân voi. Nếu Trác Mộc Cường Ba không nhắc, chẳng ai có thể nghĩ những bông hoa

đỏ này lại có gì khác vớ những bông hoa đỏ khác ở quanh chúng cả.

“Thần đi tới đâu, mỗi bước đều có sen nở dưới chân.” Trác Mộc Cường Ba nói, "chính là

đây rồi."

Hai người cẩn thận lần ngược theo những bông sen ấy, chỉ thấy từng đốm hoa đỏ khi ở bên

trái, lúc lại ở bên phải, lúc thì theo hình chữ chi(24), lúc lại quay ngoắt gần một trăm tám mươi độ, không lâu sau, rốt cuộc họ cũng ra khỏi khu rừng. Hai người đều ngấm ngầm lấy làm lạ.

Lúc này, trước mắt hợ, thảm cỏ đã biến mất, trên nền nham thạch xuất hiện một bàn cờ.

Không phải là mặt đất nứt nẻ, rãnh ngang rãnh dọc như bàn cờ, mà là một bàn cờ khổng lồ

thực sự. Trác Mộc Cường Ba và Merkin dùng bước chân ước lượng, bàn cờ này mỗi bên dài

khoảng trăm bước, quân cờ sừng sững bên trên, nhưng chưa được điêu khắc, toàn là những

hình khối lập phương mỗi cạnh dài chừng một mét. Bốn mặt dựng đứng của mỗi khối lập

phương này đều có khắc ký hiệu biểu thị thân phận của chúng trên bàn cờ. Hai mặt phía trên và

phía dưới cũng có ký hiệu tương đồng, chỉ khác là không đục lõm vào, mà lại chạm nổi gồ lên.

Hai người không biết bàn cờ khổng lồ này nằm ở đây để làm gì, bèn vòng qua tìm cửa.

Cánh cửa lớn đó nằm ở ngay sau bàn cờ, đóng kín tựa như một bông sen đang khép, nhưng

nhìn đường trượt ở hai bên cánh cửa và các cánh hoa sen, hiển nhiên cánh cửa này có thể mở ra

được. Hai bên cửa vẫn là câu "một người trí tuệ tuyệt luân, một người thân thủ tuyệt thế” kia,

nhưng lại thiếu mất câu đầu. Bên dưới hai hàng chữ ấy là một câu kệ khác.

Câu ở bên dưới hàng “một người trí tuệ tuyệt luân” được Trác Mộc Cường Ba dịch ra thành

“mười loại thông minh”, còn câu bên dưới "một người thân thủ tuyệt thế” là “mười con voi

lớn”. Sau đó, hai người đối chiếu với thông tin trên máy tính, mới hiểu ra, đó lần lượt là “thần

chỉ thập lực” và “tượng chi thập lực” trong tôn giáo.

“Thần chi thập lục” là mười loại trí tuệ thần lực của Như Lai, gồm: biết cổ kim, hành vi

không có sai sót, biết số mệnh, biết hết thảy mọi thứ trên đời..., còn “tượng chi thập lực” hẳn là

chỉ sức mạnh của mười con voi, tượng trưng cho sự uy mãnh vô song. lần này, tư duy cả hai

đều hết sức nhạy bén, không hẹn mà cùng thốt lên: “Bàn cờ kia có liên quan gì không?”

Hai người liền quay lại xem xét, chỉ thấy những đường ngang dọc trên bàn cờ đều thấp hơn

mặt đất chừng mười xăng ti mét, cơ hồ có rãnh kim loại. ở một số chỗ các đường ngang dọc cắt

nhau, còn có một khay kim loại hình tròn, xem chừng có thể chuyển động được. Trên khay tròn

có ký hiệu được chạm lõm vào. Merkin vừa liếc nhìn những khay kim loại hình tròn ấy liền lập

tức hiểu ra, lẩm bẩm: “Thì ra là vậy!”

Trác Mộc Cường Ba chư từng gặp loại cơ quan này bao giờ, vội hỏi: "Ông biết loại cơ quan

này à?"

Merkin không đáp mà hỏi ngược lại: “Anh... đã bao giờ chơi trò đẩy thùng bao giờ chưa?

Trò chơi điện tử ấy.”

“Đẩy thùng?” Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, rồi ngập ngừng nói, “ý ông là, cái trò trong

điện thoại di động ấy hả?”

“Đúng, đúng.” Merkin gật đầu.

“Sao có thể được? Từ xưa người ta đã chơi trò ấy rồi à?” Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó

tin.

Merkin nói: “Tuy đẩy thùng là phần mềm trò chơi do người Nhật lập trình ra, nhưng anh có

biết phần mềm này lấy cảm hứng từ đâu không? Nó là sự kết hợp của trò ‘Hoa Dung Đạo’ (25)

của Trung Quốc với một số trò chơi cổ khác. Mà trò ‘Hoa Dung đạo’ ấy, là một biến thể của

Suy diễn Cửu Cung rồi. Chó chết, chẳng trách lại yêu cầu cái gì mà thập thần chi lực với cả

thập tượng chi lực.”

Trác Mộc Cường Ba nhớ lại, Lữ Cánh Nam đúng là đã từng nhắc đến sách Cửu Cung Suy

diễn thời Đường, nhưng lúc đó cô cũng nói, vì Suy diễn Cửu Cung quá phức tạp, nên chỉ thịnh

hành một thời gian rồi dần thất truyền. Hiện giờ, dựa vào sách vở điển tịch chưa thể hoàn

nguyên được Suy diễn Cửu Cung. Đồng thời, các nhà khảo cổ học Trung Quốc đến nay cũng

chưa phát hiện được hiện vật nào có giá trị tham chiếu, nên vẫn chưa thể khảo chứng.

Merkin giải thích qua loa cho Trác Mộc Cường Ba "Những khay kim loại trên các giao

điểm này có thể chuyển động, nhưng chúng nằm ngang với rãnh kim loại, mà bên trong lại

khắc lõm xuống, đường khắc trơn tuột, với sức hai tay của chúng ta, thực sự không thể nào

chuyển động được các khay tròn này vì không dồn sức xuống được. Còn các hình lập phương

kia, phần gồ ra ở mặt trên và mặt dưới..."

Nói tới đây, Trác Mộc Cường Ba đã hiểu ra, bèn tiếp lời: “Phần gồ lên vừa khéo khớp với

phần đục lõm trên mặt khay tròn, cũng có nghĩa là, chỉ cần chúng ta đẩy những khối lập

phương này lên trên khay tròn, liền giống như dùng chìa khóa tra vào lỗ khóa vậy. Chúng ta

chuyển động các khối lập phương, cũng bằng như chuyển động khay tròn! Thì ra đây chính là

Suy diễn Cửu Cung!”

Merkin bổ sung thêm: "Làm gì có chuyện đơn giản như vậy chứ! Anh nhìn cho rõ đi, ký

hiệu trên mỗi khay tròn đều khác nhau, một khay chỉ có thể khớp với một khối lập phương mà

thôi. Một khi khối lập phương khớp vào trên khay tròn, nó sẽ chặn những đường rãnh cắt nhau

trên bàn này lại, các khối lập phương ở phía sau cũng không thể đi qua điểm này được nữa.

Đây mới chính là tinh yếu của Suy diễn Cửu Cung. Anh cần phải tính toán kỹ càng trước khi

dịch chuyển những khối lập phương này, khối nào đẩy trước, khối nào đẩy sau, chỉ cần sai một

bước thôi là phiền phức to rồi. Nếu may mắn, có thể chỉ bít kín 1ối đi này, nếu xúi quẩy, có thể

sẽ khiến các cơ quan cạm bẫy khác khởi động cũng không chừng."

Trác Mộc Cường Ba hiểu ra, chẳng trách Merkin lại nói cơ quan này giống trò chơi đẩy

hòm, quả đúng là như vậy.

Merkin lại tiếp lời: “Ở đây bao hàm lý luận về số đối chiếu trong tô pô học, đồng thời cũng

chứa cả thuật vu hồi trong trò chơi Hoa Dung đạo, anh coi nó như phiên bản nâng cao của trò

đẩy hòm và Hoa Dung đạo là thấy dễ hiểu ngay thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi hiểu rồi, chỉ là bàn cờ này lớn như vậy, chúng ta sao có thể

nhìn được toàn cảnh, không nhìn được toàn cảnh thì biết bắt đầu từ đâu đây?”

Merkin chỉ vào cánh cửa như nụ sen chưa nở kia nói: "Chúng ta leo lên cánh cửa đó là nhìn

được toàn cảnh thôi. Nhưng điều tôi lo là, dù nhìn được toàn cảnh, sợ rằng cũng khó lòng suy

diễn ra được. Chính vì quá phức tạp nên suy diễn Cửu Cung chỉ thịnh hành một thời gian rồi

sau đó thất truyền."

"Vậy sao ông lại khẳng định đây bàn cờ này phải áp dụng Suy diễn Cửu Cung mới giải

được?"

"Ừm, chuyện này... chúng tôi từng gặp thứ tương tự trong một ngôi mộ cổ thời Đường.”

Merkin vò vò mái tóc vàng, bộ dạng không được tự nhiên lắm: "Có điều, lần đó hết sức đơn

giản, dù có năm sáu toán tử cần suy diễn, ừm, những khối lập phương kia gọi là toán tử, tạo

hình của các toán tử mỗi nơi mỗi khác, nếu không tôi đã nhận ra ngay từ đầu rồi. Anh xem bàn

cờ này đi, sợ rằng phải có đến mấy chục toán tử cần suy diễn ấy chứ, không khéo lên đến hàng

trăm, dù chúng ta tính toán đến bạc đầu cũng chưa chắc ra được kết quả đâu."

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát. rồi nói: "Không ngại, chúng ta cứ trèo lên xem sao,

nói không chừng lại rất đơn giản cũng nên." Dứt lời. gã vỗ vỗ lên ba lô, nói: "Dù chúng ta

không tính toán ra được, thì vẫn còn máy tính mà."

BÁT TRƯỜNG AN VÀ VẠN PHẬT CÁC

Người trẻ tuổi lấy chiếc PDA ra, liếc nhìn chấm đỏ trên đó, “Có tín hiệu rồi, hả? Ở phía

dưới chúng ta à? Hai tên này cũng nhanh thật. Không được, còn một số thứ vẫn chưa sắp xếp

xong, phải nhanh lên vượt trước chúng mới được” Y thầm nghĩ, rồi rảo chân bước nhanh hơn.

Đi hết vòng này đến vòng khác, qua vô số cánh cửa và cửa sổ, người trẻ tuổi dẫn cả nhóm

người đến đầu bên kia đại điện, một đường hầm hình tròn rộng rãi hiện ra trước mắt họ. Bên

trong đường hầm tối om như mực, không biết là thông đến đâu.

Đi được một đoạn, đường hầm hoàn toàn đen kịt, đèn gắn trên mũ của bọn lính đánh thuê

chỉ có thể chiếu sáng khoảng một hai mét trước mặt. Khafu đề nghị: “Hay là, bật đèn pha công

suất lớn lên, ngài Thomas?”

“Không cần,” người trẻ tuổi cười khẩy, giơ tay lên vỗ vỗ hai cái. Lữ Cánh Nam ở sau lưng

y, cảm giác âm thanh qua lớp bao tay không giống người đang vỗ tay, mà như thể một người

đang đập bàn tay vào cọc gỗ vậy. Có điều, mỗi nghi hoặc của cô không có căn cứ gì cả, Lữ

Cánh Nam nhanh chóng bị sự việc xảy ra sau đó làm cho sững sờ, nên cũng không nghĩ sâu

hơn về vấn đề này.

Sau hai tiếng vỗ tay ấy, toàn bộ đường hầm bừng sáng như đã được lắp sẵn vô số ngọn đèn

điều khiển bằng âm thanh vậy. Xung quanh họ, dường như có rất nhiều đèn neon uốn thành

hình tròn. Không phải, chúng không sáng lên từng ngọn từng ngọn một, mà là từng đám từng

đám như ngọn lửa, nhanh chóng lan xa.

Cả đường hầm lập tức nhuộm đầy ánh sáng rực rỡ đủ màu, hồng rực đỏ, xanh huỳnh quang,

lam bảo thạch, ... từng vòng từng vòng sáng lan ra, nhấp nháy đây đó tựa ngàn sao trên bầu trời

đêm, hay như mặt nước gợn sóng lăn tăn hắt lên ánh sáng lấp lóa.

Ánh sáng lan đến đâu, chỗ ấy liền vang lên tiếng trầm trồ kinh ngạc của bọn lính đánh thuê.

Khafu thở hắt ra đầy cảm thán: “Kỹ thuật thần kỳ thật, làm như thế nào vậy?”

Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La cũng cảm thấy rất tò mò.

Người trẻ tuổi cười khẩy đáp: “Nói toạc ra thì chẳng đáng một xu nữa, cổ nhân đã nuôi

dưỡng ở chỗ này một lượng rất lớn các vi sinh vật phát ra ánh sáng huỳnh quang, giống như

thứ rong trong hồ nước kia vậy. Những vi sinh vật này khi chịu tác động của âm thanh, sẽ phát

ra ánh sáng. Phỏng chừng hơn nghìn năm nay, những vi sinh vật này đã sinh sôi nảy nở rất

nhiều, quả không hổ là kỹ thuật nuôi dưỡng sinh vật lợi hại nhất.” Vừa nói, y vừa thầm so sánh

với năng lực của chính mình, lòng cũng không khỏi khâm phục trí tuệ và kỹ thuật của cổ nhân

một nghìn năm về trước.

Mặc dù người trẻ tuổi đã nói vậy, song những người có mặt trong đường hầm vẫn trầm trồ

kinh ngạc. Ánh sáng thần kỳ ấy tựa như một dòng điện lưu nhìn thấy được, lan truyền đi theo

hình sóng, lại giống như kỹ thuật nhuộm màu trong tranh quốc họa(26), khuếch tán ra bốn phía xung quanh. Một đợt sóng ùa tới, những màu sắc biến ảo qua đi, lại thêm một đợt sóng nữa,

những màu sắc biến ảo khác cấp tập đuổi theo nhau. Bất giác, tất cả mọi người đều có chung

một cảm giác đường hầm càng lúc càng rộng rãi ra. Bọn họ giống như đang men theo một

đường xoáy trôn ốc từ bên trong vỏ ốc đi ra thế giới rộng lớn bên ngoài vậy.

Phía trước đã thấy có ánh sáng, những cái bóng so le vạch ra đường ranh giới nơi ánh sáng

và bóng tối giao nhau.

Ánh sáng rất mạnh, tựa như mặt trời ban trưa chiếu thẳng vào cửa sổ. Người trẻ tuổi thầm

ngạc nhiên, tự nhủ: “Sao có thể lấy được ánh sáng tốt vậy nhỉ?” Mặc dù tài liệu y sở hữu đã

miêu tả khá nhiều, nhưng xét cho cùng, đây cũng là lần đầu tiên y tận mắt chứng kiến. Rất

nhanh sau đó, y liền phát hiện ra, con đường dưới chân họ không phải là bề mặt nham thạch

thô ráp xù xì nữa, mà thay vào đó là mặt đường trơn nhẵn phẳng lì như gương, lại hơi ẩm ướt.

Hiển nhiên, người xưa đã đổ lên bề mặt nham thạch một lớp gì đó kiểu như sáp nến chẳng hạn.

“Đây có lẽ là một loại pha lê phản quang rất mạnh.” Người trẻ tuổi thầm nhủ, quả nhiên,

vòng qua một chỗ rẽ, tuy không thấy nguồn sáng, nhưng cả đường hầm đã được chiếu sáng rõ

như ban ngày.

Chỉ thoáng sau, mọi người liền phát hiện ra một chuyện kỳ quái. Ở hai bên đường hầm bắt

đầu xuất hiện một số vật bày biện, có bình, có ấm, có bát, …, nhưng điều khiến người ta kinh

ngạc là những thứ này toàn bộ đều lơ lửng giữa không trung, giống như bị ai dùng ma thuật ếm

lên vậy.

Vài tên lính đánh thuê tò mò bước tới gần, định bụng xem cho rõ rốt cuộc là thứ ma thuật gì,

nhưng mới đi được vài bước, đã nghe bọn chúng “a” lên một tiếng, dường như đụng phải một

bức tường vô hình, tên nào tên nấy đưa tay lên ôm chặt mũi, có tên còn đau đến nỗi ngồi thụp

cả xuống.

Lúc này, cả bọn mới phát hiện ra, các vật bày trên đó được đặt trên những kệ pha lê trong

suốt. Những cái kệ này gần như lẫn vào không khí, nếu không lại gần nhìn thật kỹ thì chịu

không tài nào phân biệt nổi. Liền sau đó, họ lại phát hiện, những chiếc kệ này gắn liền với mặt

đất, mà không chỉ mặt đất, toàn bộ đường hầm này đều bị phủ lên một lớp vật chất giống như

pha lê vậy. Ánh sáng, chính là được khúc xạ vào đường hầm thông qua thứ vật chất này.

Một tên lính đánh thuê dính đòn đau muốn trút giận lên cái bát khiến hắn bị thương ấy, giơ

báng súng lên định phang, song giữa chừng lại bị ngăn lại. Pháp sư Á La đã vươn cánh tay

khẳng khiu của ông ra đỡ lấy báng súng ấy.

Người trẻ tuổi đứng bên cạnh cầm cái bát trắng lên nói với tên lính đánh thuê định đập phá

để trút giận ấy: “Mày có biết đập một cái thế này là đốt mất bao nhiêu tiền không?”

“Hả! Thứ này cũng đáng tiền sao?” Tên lính đánh thuê vốn không hiểu gì về đồ sứ, huống

hồ cái bát sứ này chỉ trắng tuyền một màu, bên trên thậm chí còn chẳng vẽ bông hoa nào, mà

cũng không đẹp cho lắm, tùy tiện mua một cái trên phố trông còn đẹp hơn.

“Hừ!” Người trẻ tuổi ngắm nghía cái bát trên tay, tựa như trong lòng bát có thể nở ra một

đóa hoa vậy. Chỉ nghe miệng y khẽ lẩm bẩm đọc: “Mỏng như cánh ve nhẹ như lông hồng,

chưa được Phật quang lẫn mộng phù sinh. Công nghệ thần kỳ này còn cao hơn cả công nghệ đồ

sứ mỏng như giấy trong truyền thuyết một cảnh giới. Để tao mở mắt cho chúng mày vậy!

Mang đèn lại đây!”

Một tên lính đánh thuê giơ chiếc đèn gắn trên mũ tới, người trẻ tuổi để cái bát lên ngọn đèn.

Sau một tiếng “cách”, sự lạ liền xảy ra. Cái bát trắng ấy giống như một chiếc chụp đèn thủy

tinh màu trắng sữa, ánh đèn hoàn toàn chiếu xuyên qua nó, không chỉ nhìn rõ được hình dáng

bóng đèn bên trong, mà cả dây điện dưới bóng đèn cũng hiện lên rõ mồn một. Đó rõ ràng là

một cái bát sứ kia mà.

Người trẻ tuổi cười khẩy nói: “Thấy chưa hả, kỹ thuật thấu quang này là tuyệt kỹ của lò

gốm Hình Châu thời Tùy Đường, đến giai đoạn đầu của thời Đại Đường thịnh thế, kỹ thuật này

đã được phát huy đến đỉnh cao, trở thành công nghệ trong truyền thuyết… là thấu quang hắt

bóng. Chúng mày tản ra một chút!” Cả bọn liền xôn xao lùi lại, để trống ra một khoảng. Người

trẻ tuổi tăng độ sáng của bóng đèn lên, những tiếng “ồ!” kinh ngạc lại đồng loạt vang lên.

Chỉ thấy ở chỗ ánh sáng không mạnh lắm trên vách đường hầm, ánh đèn hắt qua bát sứ

trắng để lại trên tường pha lê một hình ảnh tương đối rõ nét khiến pháp sư Á La và Lữ Cánh

Nam tưởng chừng như đang thấy lại hình ảnh của Hương Ba La mật quang bảo giám, chỉ có

điều, hình chiếu này là hình đen trắng. Bóng ảnh hắt lên chỗ sáng chỗ tối, lần lượt phơi bày các

kiến trúc cổ đại san sát cạnh nhau như bát úp, đường phố thênh thang rộng rãi, hàng quán đẹp

đẽ rộn ràng, ngựa xe nườm nượp, nước chảy qua cầu… giống như một bức “Thanh minh

thượng hà đồ”(27) được tạo thành từ bóng ảnh.

“Đây … ruốt cuộc là…”

“Không thể tin được!”

“Thần kỳ, ma thuật phương Đông!”

Trước những tiếng kêu đầy kinh ngạc ấy, người trẻ tuổi cũng không khỏi cảm khái trong

lòng. Mặc dù y biết lai lịch của cái bát này, cũng biết sẽ xảy ra chuyện gì, nhưng khi mọi thứ

diễn ra, sự thực hiển nhiên trước mắt còn hơn cả những gì y tưởng tượng. Y lớn tiếng nói:

“Trông thấy chưa hả? Đây chính là trung tâm của thế giới hơn một nghìn năm về trước…

Trường An!” Ngừng lại giây lát, y tiếp lời: “Đây là kỹ thuật nung đồ gốm sứ cao nhất toàn thế

giới thời bây giờ… Thấu quang hắt bóng. Tao sẽ cho chúng mày xem điều thần kỳ hơn nữa.

Mang nước lại đây!”

Một bình nước được đưa tới tay người trẻ tuổi. Y cầm bình nghiêng đi, một dòng nước

trong vắt chầm chậm đổ vào đầy bát, rồi dập dềnh tràn ra, phủ lên mặt bát như một lớp sa

mỏng. Lúc này, nhìn lại bóng ảnh trên tường, cả bọn mới nhận ra, trên kỳ tích, lại có kỳ tích

nữa. Khi nước tràn ra, cũng chính là lúc bóng ảnh trên tường sống dậy. Đột nhiên, toàn bộ bức

tranh hắt bóng trên tường đang ở trạng thái tĩnh, tựa như trở mình sống lại. Những người tiểu

thương, hàng rong chừng như đang đi dọc phố sá rao hàng; gã hầu bàn mới mở cửa tiệm dường

như vừa thò đầu ra, ngó nghiêng quanh quất, một chiếc xe song mã cuối bụi đất lên, băng qua

phố lớn; nước sông dưới chân cầu đang cuồn cuộn chảy.

Người trẻ tuổi vừa đổ nước, vừa nhìn cảnh tượng chuyển động, lẩm bẩm: “Công nghệ đã đạt

đến tầm ma thuật, ngay cả khoa học kỹ thuật hiện tại cũng không thể phục nguyên tái hiện.

Hơn một nghìn năm rồi, đây chính là trí tuệ của tổ tiên các người từ hơn một nghìn năm trước

đấy.”

Lữ Cánh Nam quan sát sự thần kỳ của cái bát, rồi lại đưa mắt nhìn vị trí bày biện của nó. Cô

cũng biết một số nghi thức tế bái của Mật giáo, bèn khẽ hỏi pháp sư Á La: “Cái bát này, chắc

hẳn phải có lai lịch gì đó?”

Pháp sư Á La khẽ lắc đầu, ý bảo nhất thời ông cũng không nghĩ ra được nhiều.

Người trẻ tuổi ngoảnh đầu lại nói: “Khi Văn Thành công chúa vào đất Tạng, có mấy món đồ

nàng mang theo không được ghi vào danh sách, các ngươi biết chuyện này chứ.”

Pháp sư Á La biến sắc, ông nhớ ra rồi, khi Văn Thành công chúa vào đất Tạng, có mấy món

đồ cực kỳ tinh xảo, đều là vật phẩm tùy thân của nàng, bấy giờ không được ghi vào trong danh

sách. Nhưng trong các truyền thuyết, mấy món bảo vật đó lại được miêu tả hết sức tỉ mỉ tận

tường, chẳng hạn như có một chiếc Ma kính(28), dọc đường Văn Thành công chúa gặp phải rất nhiều yêu ma quỷ quái cản trở, nàng chỉ cần dùng Ma kính chiếu một cái, đám yêu ma ấy sẽ

lập hiện nguyên hình. Thần kỳ hơn nữa là, khi Văn Thành công chúa nhớ nhung người thân,

nàng chỉ cần nghiêng tấm gương ấy đón ánh sáng từ các hướng khác nhau, trên tường sẽ hiện

ra hình bóng những người thân khác nhau của nàng.

Chỉ nghe người trẻ tuổi ấy lại tiếp lời: “Văn Thành công chúa từ Trường An đến Thổ Phồn,

đường đi vừa xa xôi vừa gian khổ, vì sợ nàng nhớ nhung quê hương, nên bấy giờ triều đình đã

làm riêng cho nàng mấy món đồ đặc biệt. Ý tứ của mấy món đồ này chính là để khi nàng nhớ

quê, có thể lấy ra xem, nhìn lại hình ảnh quê hương.”

Pháp sư Á La giật mình hiểu ra, thốt lên: “Đây chính là bát Trường An.”

Người trẻ tuổi không trả lời, giơ ngón tay chỉ vào mấy tên lính đánh thuê, bảo chúng: “Mày,

mày, cả mấy đứa chúng mày, trong mắt các chuyên gia, có mười cái bao tải chứa đầy những

thứ như ở trong ba lô chúng mày cũng không bằng một cái bát này đâu.” Nói thì nói vậy,

nhưng y vẫn tùy tiện quăng cái bát đi, cơ hồ không nghĩ đến hậu quả, cũng có nghĩa là, trong

mắt y, đã không còn để ý đến truyền thống văn hóa và giá trị lịch sử nữa, đồ vật đáng tiền mấy

cũng chỉ như không mà thôi. Vậy thì, kẻ này đến Bạc Ba La thần miếu, rốt cuộc là muốn là gì

chứ?

Một cái bát nhìn có vẻ tầm thường mà đã giá trị nhường ấy, vậy những thứ đặt trên kệ

ngang hàng với nó, chắc chắn cũng không phải vật tầm thường. Người trẻ tuổi vừa quay người

đi, bọn lính đánh thuê đã tràn lên quét sạch mấy món đồ còn lại. Có tên không cướp được món

nào, đỏ mặt tía tai định xông vào liều mạng. Nhưng Khafu đã lập tức quát lên ngăn lại, bọn

lính đánh thuê ồn ào huyên náo một hồi lâu rồi mới từ từ lắng xuống. Bấy giờ, bọn chúng mới

nhận ra, người trẻ tuổi và pháp sư Á La đã đi qua chỗ ngoặt tiến vào đại điện.

Ánh sáng bập bùng biến ảo tỏa ra từ phía trung tâm đại điện. Đại điện này khác hẳn với gian

trước đó. Gian điện họ vừa đi qua hình vuông, bên trong có vô số đường vòng tròn, còn nơi

này lại là một đại điện hình tròn. Cảm giác đầu tiên của người bước vào đây là, chỗ này giống

như một cái chụp đèn bằng giấy khổng lồ, hoặc có thể nói là một cái chuông lớn trong đền

chùa nào đó, kết cấu dạng tháp, chiều cao lớn hơn đường kính đáy.

Trong đại điện có hai cây cột đá lớn, cao bằng nhau, trông như tim đèn của bóng đèn chân

không. Từ đằng xa, cũng có thể thấy rất rõ, chính là hai cây cột này phát ra ánh sáng cực mạnh

chiếu rọi toàn bộ đại điện. Ngoài ra, không cần bất cứ nguồn sáng nào khác nữa.

“Đây chính là Vạn Phật điện.” Tuy họ vẫn ở cửa đường hầm, bị ánh sáng mạnh che mất tầm

nhìn, không thể nhìn rõ được toàn bộ điện mạo của Vạn Phật điện này, nhưng khí thế hừng hực

tỏa ra cũng đủ khiến người ta tưởng tượng ra vô số thứ rồi.

Người trẻ tuổi đưa bàn tay lên che mắt, quan sát nguồn sáng qua các kẽ ngón tay. Chỉ thấy

hai cột đá kia tựa như hai cây thông Noel, phân ra rất nhiều nhánh nhỏ, mỗi nhánh nhỏ lại phân

ra rất nhiều nhánh con, ở chỏm đầu mỗi nhánh con ấy đều bùng lên một ngọn lửa cháy hừng

hực. Không, không phải lửa, ngọn lửa phát ra ánh sáng đỏ, còn thứ đang cháy kia lại phát ra

những tia sáng màu trắng bạc. Người trẻ tuổi cẩn thận xem xét một hồi, phát hiện chỗ bùng

cháy còn cách đầu mút của nhánh cây nhỏ một khoảng. Tới đây, y đã hiểu được ánh sáng chói

mắt ấy là từ đâu. Cổ nhân đã sử dụng kỹ thuật nào đó, làm nhiên liệu bốc hơi thành khí thể, sau

đó sử dụng áp lực mạnh phun khí thể ấy ra. Cũng chỉ có chất khí bốc cháy, mới phát ra được

ánh sáng chói mắt màu trắng bạc như thế. Hỏa thư ngân hoa(29), dùng cụm từ này để miêu tả

cảnh tượng trước mắt cũng thật hợp lý.

Sau khi dần thích ứng với ánh sáng mạnh mẽ ấy, đoàn người cũng bước ra khỏi đường hầm

xoáy ốc, tiến vào bên trong gian đại sảnh hình dạng như cái chuông khổng lồ. “Chà chà”,

những tiếng kêu kinh ngạc lại lần nữa vang lên dồn dập như nước thủy truyền. Ngoài nguồn

sáng màu trắng bạc ở chính giữa, toàn bộ đại điện hình tròn này ánh lên sắc hoàng kim lấp lóa,

chính là thứ màu sắc mà người phàm xưa nay vẫn ưa thích nhất.

Không biết người xưa đã đổ vào đại điện này bao nhiêu thứ vật chất dạng pha lê kia nữa,

toàn bộ bức tường phủ kín một lớp pha lê trong suốt. Trên bức tường pha lê khảm vô số các

khám thờ lớn nhỏ, mỗi khám thờ đặt một pho tượng Phật vàng. Màu sắc sáng rực đó, không thể

nào sai được, ngay cả bọn lính đánh thuê không phải dân trong nghề cũng chỉ liếc qua là nhận

ra ngay tức khắc, đó tuyệt đối là vàng nguyên chất. Bức tường pha lê trong suốt gần như dung

nhập với không khí, nên các pho tượng trông như đang bay lơ lửng trên không vậy. Thoạt nhìn

qua tưởng như bọn họ đang ở trong một gian đại điện đầy những pho tượng Phật bằng vàng

bay lơ lửng, số lượng nhiều không kể xiết, khiến người ta nhìn mà mắt hoa đầu váng.

Pháp sư Á la ngẩng đầu ngước nhìn, phát hiện ra có đến quá nửa số tượng Phật đặt ở đây

ông không nhận ra được, hiển nhiên nơi này không chỉ có tượng phật của Đại Đường và Thổ

Phồn, cũng không chỉ có tượng Phật của Ấn Độ. Tạo hình và y phục của một số bức tượng còn

có đặc điểm rất rõ rệt của vùng Trung Á, thậm chí là cả Tây Âu nữa.

Pháp sư Á La nhớ lại lịch sử, phải rồi, các tượng Phật ở đây hẳn còn có cả tượng do mấy

chục quốc gia nhỏ ở Tây Vực thời bấy giờ thờ cúng. Người xưa không đem thánh vật của các

giáo phái dị đoan ấy đi nung chảy đúc lại, mà còn bao dung, bảo lưu lại thánh vật của các tôn

giáo khác. Mỗi pho tượng, mỗi vật phẩm, đều là một đoạn lịch sử của dân tộc, là những câu

chuyện xưa phủ bụi thời gian.

Người trẻ tuổi cũng đưa mắt nhìn quanh quất, có điều thứ y nhìn không phải những pho

tượng Phật bằng vàng ròng tinh xảo đẹp đẽ kia, mà y đang tìm kiếm lối ra và cơ quan cạm bẫy

trong đại điện này. Trong tư liệu mà y nắm được, Vạn Phật các này dường như không có cơ

quan cạm bẫy nào, chỉ có hai câu khắc trên Luận hồi đài: “ Những kẻ mê đắm trong tham lam,

sẽ rơi vào vực sâu vô tận.”

“Đương nhiên, không có cạm bẫy là tốt nhất, nhưng lối ra đặt ở đâu nhỉ? Hay là ở phía sau

cột đèn kia?” Người trẻ tuổi đang ngẫm nghĩ, đột nhiên liếc thấy mặt đất dưới chân không

dưng nứt toác, chỉ cần bước thêm một bước nữa thôi, y sẽ rơi xuống vực sâu không đáy.

Thân hình người trẻ tuổi đột ngột sững lại, một chân như bị đinh ghim chặt lên mặt đất, bàn

chân nhấc lên kia cũng chầm chậm thu về, đồng thời hai cánh tay dang ra, định ngăn cản đám

lính đánh thuê ở sau lưng.

Nhưng bọn lính đánh thuê ngay từ đầu đã bị những bức tượng Phật ánh vàng chói lọi kia

làm cho hoa mắt, đang ồ ạt ào lên, mặt đất lại trơn nhẵn, nhất thời làm sao có thể thu chân về

kịp. Thấy trước mặt mình lù lù hiện ra một hang sâu không đáy đen ngòm, mấy tên đi trước lập

tức rú lên thảm thiết.

Sau tiếng rú đó, mấy tên lính đánh thuê lại cảm thấy dường như mình không rơi xuống,

ngạc nhiên ngoảnh lại nhìn đồng bọn đang đứng bên rìa vực. Bọn lính đánh thuê đứng bên bờ

vực lại càng kinh ngạc hơn, mấy tên lẽ ra phải rơi xuống kia sao cứ ngây thộn mặt ra đứng lơ

lửng giữa chừng không, chẳng khác nào những pho tượng Phật trên cao vậy. Cảnh tượng quả

thực quái dị hết sức.

Người trẻ tuổi thầm thở phào, thì ra chỉ là lo hão một phen, ngay sau đó, y lại ngấm ngầm

tán thưởng. Chơi sang thật, quả nhiên là rất bạo tay. Thì ra, người xưa không chỉ phủ thứ vật

chất dạng như pha lê ấy lên bốn vách núi xung quanh, khiến tượng Phật trông như đang lơ lửng

giữa chừng không, mà họ còn tạo ra một cái lồng pha lê trong suốt khổng lồ, chèn vào giữa

lòng núi, phần đáy của cái lồng ấy, toàn bộ cũng đều bằng thứ pha lê trong suốt như không khí,

khiến người ta có cảm giác cả đại điện này đang trôi nổi giữa không trung.

Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn nhau cùng lúc nhớ đến Nam Cực miếu ở giữa

sông băng và những khe băng ở đó. Xem ra, thông đạo pha lê giữa các khe rãnh ấy không phải

do hàn băng đông kết tạo thành mà được tạo ra bởi một công nghệ chế tác của người xưa.

Thấy đồng bọn không rơi xuống, lại có mấy tên khác bạo gan thử bước chân lên, cảm nhận

cảm giác đứng lơ lửng giữa không trung. Sau khi người trẻ tuổi kia cũng đặt chân trên lớp pha

lê trong suốt, những tên còn lại mới yên tâm tiếp tục cất bước.

Thân thể đứng giữa không trung, mắt ngước nhìn những tượng Phật trang nghiêm lơ lửng

xung quanh, cảm giác của mỗi người đều cực kỳ lạ lẫm, tựa như đang đứng trong Đại Lôi Âm

tự ở Tây Thiên, chỉ một bước đã lên Tiên giới vậy. Bọn lính đánh thuê hết sức hưng phấn,

những pho tượng Phật bằng vàng ròng lấp lánh thoạt nhìn như gần trong gang tấc, chỉ cần vươn

tay ra là với được. Trong tiếng hoan hô ầm ĩ, có mấy tên còn nổi hứng chơi trò trượt băng trên

mặt sàn trơn bóng. Những tên còn lại đa phần chạy ùa ra chỗ chân tường pha lê trong suốt,

nhao nhao lấy dây móc định trèo lên bức tường vô hình lấy xuống vài bức tượng không lớn

lắm. Vách tường pha lê trơn nhẵn vô cùng, dây móc không sao bám vào được, thi nhau rơi

xuống. Bọn lính đánh thuê vẫn không cam tâm, lại tràn sang một bức tường khác, rốt cuộc

cũng có tên móc được vào mép khám thờ, tiếng hoan hô váng động cả đại sảnh. Bọn chúng bị

sắc vàng chói lóa làm mê hoặc, sớm đã quên đi tình cảnh gặp phải ở Đại diễn Luân hồi đài rồi.

Thế nhưng, tiếng hoan hô không kéo dài được bao lâu, thoáng sau đó đã nghe trong tiếng

reo mừng pha lẫn mấy tiếng rú thảm thiết không được du dương cho lắm.

MÊ CUNG VÔ HÌNH

Mới đầu, tiếng kêu thảm thiết còn hòa lẫn trong tiếng hoan hô, nghe không rõ lắm, nhưng

văng vẳng mãi không dứt, lại được gian đại điện hình dạng như chiếc chuông khổng lồ này

cộng hưởng, âm thanh càng lúc càng lớn hơn. Tiếng hoan hô nhỏ dần rồi tắt hẳn, nhưng tiếng

kêu thảm vẫn lởn vởn bên tại tựa như âm hồn không tan.

Đến khi ai nấy dựng hết cả tóc gáy lên, bọn lính đánh thuê mới chịu an phận một chút.

Khafu kiểm tra quân số, thấy thiếu mất ba người. Có điều, trong lúc chen chúc hỗn loạn, không

ai trông thấy ba tên đó biến mất như thế nào, đúng là gặp ma giữa ban ngày.

Giữa lúc cả bọn còn đang ngờ vực lẫn nhau, lại có một tên lính đánh thuê đột nhiên khua

chân múa tay rơi xuống, giây lát đã biến mất trong bóng tối mịt mùng, chỉ để lại tiếng rú gào

thê thảm cứ vẩn vít mãi bên tai những người còn lại.

Bọn lính đánh thuê bắt đầu hoảng loạn, chuyện này là thế nào? Rốt cuộc mình đang giẫm

chân lên sàn nhà bằng pha lê trong suốt, hay lơ lửng giữa không trung?

Khafu lớn tiếng ra lệnh cho tất cả bọn lính đánh thuê không được hành động bừa bãi, rồi

cùng người trẻ tuổi đi xuống, cẩn thận xem xét mặt sàn trong suốt. Người trẻ tuổi đột nhiên

đứng bật dậy, đấm tay nọ vào tay kia, chửi thầm trong bụng: “Chó thật!”

Thì ra, mặt sàn pha lê thoạt nhìn chẳng khác gì không khí này, lại không phải là một khối

hoàn chỉnh, giữa sàn có rất nhiều lỗ hổng, hoặc vuông hoặc tròn, hoặc hình chữ nhật dài. Dưới

ánh sáng chói lóa tỏa ra từ hai cây cột, nếu không ghé sát cẩn thận quan sát thì không thể nào

phân biệt được những chỗ hổng bằng mắt thường. Người bước đi trong gian đại sảnh này, bất

cứ lúc nào cũng có nguy cơ hụt chân, rơi xuống vực sâu bên dưới.

Người trẻ tuổi thất vọng nhìn quanh, trong cuộc đấu trí với cổ nhân từ hơn nghìn năm trước,

xét cho cùng, y vẫn thua họ một bậc.

Từ khi đặt chân vào Cánh cửa Chúng sinh, Bạc Ba La thần miếu này đã lẳng lặng thay đổi

tâm thái, tiềm thức và các giác quan của mỗi người, khiến họ hưng phấn, khiến họ kinh ngạc,

khiến họ run rẩy. Trong quá trình hết kinh hãi rồi lại đến mừng rỡ điên cuồng ấy, người ta

không còn phân biệt được trời đất gì cả, mọi thứ nhìn thấy đều giống ảo giác, các giác quan trở

nên không còn đáng tin cậy nữa.

Người trẻ tuổi nghiêm khắc cảnh cáo bọn lính đánh thuê: “Đừng nhìn tượng Phật nữa, tìm

đường ra rồi tính sau.”

Kế đó, y điểm ra hai tên lính đánh thuê đi trước dò đường như lính dò mìn, cầm cây gậy, đi

một bước lại đập đập xuống đất một cái như người mù. Nhưng chúng nhanh chóng nhận ra,

nếu cứ đi theo gậy dò đường như vậy, sẽ chỉ quay mòng mòng một chỗ, còn nếu ngẩng đầu lên

nhìn các tượng Phật xung quanh, thì lại càng hoa mắt chóng mặt. Những tượng Phật đó, thoạt

nhìn thì không sao, nhưng chỉ hơi tập trung một chút thôi, sẽ thấy mỗi bức dường như đang

xoay chuyển theo những hướng khác nhau.

Thì ra những lỗ hổng ấy không phải tùy tiện mở ra, mà đã biến mặt sàn của đại điện thành

một lối đi ngoằn ngoèo như mê cung, một mê cung vô hình! Sắc mặt người trẻ tuổi càng lúc

càng khó coi hơn.

Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam nhìn nhau mỉm cười, không ngờ người xưa có kỹ xảo cao

minh đến vậy, lại tạo ra được một mê cung kỳ bí phức tạp nhường ấy. Nơi này không giống

như mê cung băng ở Nam Cực miếu. Tòa mê cung băng kia cùng lắm chỉ khiến người ta đập

đầu vào tường mà thôi, còn nếu rơi xuống khe sâu vô hình này, tỷ lệ sống sót hẳn là 0%. Cứ đi

như vậy một lúc lâu, mấy tên đi trước dò đường phát hiện dường như chúng đã thích ứng hơn

với ánh sáng mạnh ở đây, rất nhiều chỗ nhìn không rõ là lỗ trống hay là mặt sàn pha lê, giờ lại

có thể phân biệt được bằng mắt thường. Một tên thậm chí còn mừng rỡ reo toáng lên: “Tôi

nhìn thấy đường rồi, nhìn thấy đường rồi!”

Bọn lính đánh thuê liền tập trung quan sát, quả nhiên giữa chừng không xuất hiện rất nhiều

cái bóng mờ mờ phác ra một con đường. Tên nào tên nấy mừng rỡ hết sức, chỉ có hai ba người

vẫn giữ nguyên thái độ hờ hững, chẳng giận cũng chẳng vui.

“Tại sao lại thế? Không, không phải là thị lực đã thích ứng với ánh sáng mạnh.” Người trẻ

tuổi ngẩng đầu lên, lập tức cảm thấy không ổn. Ánh sáng, vốn mầu trắng bạc như tuyết, lúc này

ở đầu ngọn lửa lại bắt đầu chuyển sang sắc vàng nhạt. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu y, muốn

chiếu sáng cho cả đại điện lớn nhường này, phải phun ra bao nhiêu khí thể, người xưa rốt cuộc

tồn trữ bao nhiêu nhiên liệu ở đây? Từ khi Cánh cửa Chúng sinh mở ra, hoặc từ lúc lửa ở hồ tế

được đốt lên, đã là bao nhiêu thời gian rồi? Lượng tiêu hao lớn như vậy, chắc chắn phải có lúc

hết nhiên liệu, mà thứ nhiên liệu được hóa khí này hiển nhiên không giống với loại thông

thường, hết là sẽ hết luôn.

Nghĩ đến đây, người trẻ tuổi biết không thể thong thả dò đường được nữa. Y xông lên phía

trước, lớn tiếng hét: “Đi theo tao, một hàng nhiều nhất ba người, bằng không rơi xuống thì

đừng trách!”

Khafu thắc mắc: “Ngài Thomas, sao phải gấp vậy?”

Người trẻ tuổi liếc nhìn hai cái cột đá giống như tim đèn: “Lửa sắp tắt rồi!” Ánh sáng quá

mạnh và bóng tối tuyệt đối, ở mê cung pha lê vô hình đều là chí mạng, duy nhất chỉ có quá

trình ngắn ngủi khi ngọn lửa tối dần rồi hoàn toàn tắt lụi là có thể dùng mắt thường để đi qua

chốn này.

Ngọn lửa cháy bằng nhiên liệu khí thể tắt lụi rất nhanh. Ánh sáng màu trắng bạc trong chớp

mắt đã biến thành vàng nhạt, vàng kim, vàng sẫm, da cam, đỏ sẫm, xanh lục, xanh thẫm… Mặt

sàn pha lê phản chiếu ánh sáng biến đổi như bảy sắc cầu vồng, vô cùng đẹp mắt, nhưng những

người đi trên đó đều vội vội vàng vàng, chẳng ai có tâm tư dừng lại thưởng thức những màu

sắc đẹp đẽ đó cả.

Ánh sáng càng lúc càng biến ảo rực rỡ, tốc độc của người trẻ tuổi càng lúc càng nhanh, ở

phía sau, bọn lính đánh thuê chân trước giẫm chân sau, loạng choạng, rốt cuộc cũng có tên

không thể theo kịp. Tiếng kêu thảm thiết bắt đầu vang lên cách quãng. Pháp sư Á La và Lữ

Cánh Nam đi giữa đội ngũ, nhưng hơi thiên về phía trước. Nhìn ngọn lửa biến ảo, hai hàng

lông mày pháp sư nhíu chặt lại. Chỉ từ việc một tên lính đánh thuê có thể mơ hồ nhìn thấy

đường đi, đã liên tưởng đến ngọn lửa sắp tắt lụi, khả năng phản ứng của người trẻ tuổi này thực

sự nhanh đến đáng sợ. Chẳng những vậy, nhìn bộ dạng đi trước dẫn đường của y, dường như

tuyến đường ngoằn ngoèo như mê cung hoàn toàn không có tác dụng gì với kẻ này cả. Tầm

nhìn của y, tầm nhìn của y rốt cuộc là xa đến chừng nào?

Khi người trẻ tuổi đặt chân đến đầu bên kia của con đường pha lê, ánh sáng trong đại điện

đã mờ nhạt đến mức không thể phân biệt được đâu là mặt đất, đâu là hang sâu nữa. Những

người sốt sót ngẩng đầu ngó quanh, bấy giờ mới nhìn rõ, vật thể giống cây thông Noel treo lộn

ngược ở chính giữa đại điện kia, ở đầu mút mỗi nhánh cây, đều có một ngọn lửa màu lam đang

nhảy múa, thướt tha uốn éo như những đốm lửa ma, diễm lệ nhưng lại khiến người ta dựng hết

tóc gáy.

“Nhìn kìa! Tượng Phật!”

Cả đám người lại ồ lên xôn xao, những tượng phật nét mặt vốn nhân từ trang nghiêm, dưới

ánh sáng hiu hắt của những đốm lửa màu lam ma quái đã biến thành màu tím sậm. Chẳng

những vậy, trong ánh sáng mờ mờ, dung mạo hiền hòa của các bức tượng đã thành ra nhạt

nhòa, đường nét chỉ còn lờ mờ đại khái. Mà những đường nét ấy, thoạt nhìn lại toát lên một vẻ

hung dữ khủng bố lạ thường. Nhớ lại những đồng bọn vừa sẩy chân lọt xuống vực sâu, tiếng

kêu thảm vẫn còn văng vẳng bên tai, bọn lính đánh thuê càng rởn gai ốc khắp người.

“Rốt cuộc là…” Tạo hình của tượng Phật trong bóng tối khiến cả Lữ Cánh Nam cũng phải

ngạc nhiên. Khi nãy đèn đuốc sáng rực, rõ ràng là tạo hình đại từ đại bi, phổ độ chúng sinh, sao

khi bóng tối bắt đầu trùm lên, tất cả đều biến thành tạo hình phẫn nộ như hàng yêu phục ma

vậy?

Pháp sư Á La ngập ngừng nói: “Lẽ nào, đây chính là … Quang ảnh song thân Phật trong

truyền thuyết?”

“Quang ảnh song thân Phật?”

“Đúng vậy,” pháp sư Á La nói, “con có biết chiếc cốc Moras không? Đó là lễ vật đại sư đồ

gốm Moras tặng cho William III nhân kỷ niệm năm mươi năm ngày cưới. Thoạt nhìn, nó chỉ là

một chiếc cốc sứ thông thường, nhưng nếu quan sát kỹ sẽ phát hiện, những đường nét trên

chiếc cốc chính là phác ra gương mặt nghiêng của William III và phu nhân của ông ấy. Nếu

nhìn cái bóng hắt ra bên ngoài chiếc cốc, sẽ trông thấy một đôi nam nữ đang ghé đầu thì thầm

hoặc hôn nhau. Đại sư Moras với kỹ thuật tinh xảo của mình đã tạo ra được hiệu quả thị giác

thần kỳ. Còn Quang ảnh song thân Phật cũng vậy, khi đủ ánh sáng, chúng ta nhìn thấy ngũ

quan của tượng Phật, từ bi, nghiêm túc, còn khi ánh sáng nhạt nhòa, không nhìn rõ được nét

mặt các pho tượng, sự chú ý của mắt người sẽ chuyển sang đường nét của cái bóng, lúc ấy, sẽ

nhận ra sự tương phản rất lớn.”

Lữ Cánh Nam đã hiểu, nhưng Khafu đứng cạnh đó chỉ nghe hiểu lõm bõm tiếng Trung thì

không sao lĩnh hội được. Y lấy làm nghi hoặc, hỏi: “Thật chẳng hiểu người phương Đông các

ngươi nữa, tại sao phải bày lắm trò vậy làm gì? Tại sao lại làm cho tạo hình của tượng Phật khi

bật đèn và tắt đèn toàn toàn tương phản?”

Người trẻ tuổi trả lời y: “Mày đã đến Maya, hẳn cũng biết các truyền thuyết thần thoại ở

vùng đó, ý nghĩa của những tượng Phật này rất giống với thần thoại Maya. Khi thần đi lại ở

nhân gian và thiên giới, họ là hóa thân của ánh sáng, từ bi và nhân ái. Khi họ ở chốn địa ngục,

họ là hóa thân của Ma vương, điên cuồng và tàn bạo. Nói theo cách của Thiền tông bọn họ, thì

gọi là bản ngã và siêu ngã. Bản ngã là dục vọng nguyên thủy của con người, chưa trải qua bất

kỳ sự đè nén hay uốn nắn nào, cũng có thể gọi là thú tính. Chẳng hạn như giao phối, ăn uống.

Mày thử nghĩ xem, không có sự ước thúc của văn hóa, đạo đức và lý tính, việc giao phối và ăn

uống của nhân loại sẽ như thế nào? Vì vậy các bức tượng biểu thị bản ngã thông thường đều

hung ác và dữ tợn. Còn siêu ngã, Đạo gia nói xuất thế nhập thế, Phật gia nói viên thông, viên

mãn, đều là để chỉ cái siêu ngã này. Khi đạt đến cảnh giới đó, mỗi lời nói mỗi cử chỉ, mỗi nụ

cười, mỗi cái nheo mắt của mày, toàn bộ đều trở thành tiêu chuẩn quy phạm, phù hợp với mọi

hệ thống đạo đức và văn minh khác nhau, khiến người ta ngưỡng vọng, nảy sinh một tình cảm

ngưỡng mộ tự nhiên. Vì vậy, hình tượng siêu ngã đều toát lên vẻ trang nghiêm, đại từ đại bi.

Trong Thiền tông, bản ngã và siêu ngã giống như hai mặt của một đồng xu, không thể tách rời,

tượng Phật của bọn họ cũng phân ra làm Bán tôn và Hiển thánh kim tôn, đại diện cho bản ngã

và siêu ngã. Ở giữa bản ngã và siêu ngã, còn có tự ngã, cũng chính là bản thân loài người

chúng mày. Chúng mày vừa muốn thỏa mãn dục vọng nguyên thủy của mình, lại vừa muốn

chấp nhận sự ước thúc của đạo đức và pháp luật, vì vậy, mỗi người đều đang bước đi giữa bản

ngã và siêu ngã. Đồng thời, cảnh giới tinh thần của một người cũng theo đuổi hai thứ này. Một

là đi xuống, đọa lạc địa ngục, cũng tức là mặc kệ ước thúc, đạt đến bản ngã. Hai là hướng lên,

thăng nhập thiên đường, cũng tức là yêu cầu bản thân đạt đến tiêu chuẩn của những kẻ thế tục

gọi là thánh nhân, bỏ hết tạp niệm, một lòng hướng Phật. Cả đời con người luôn vùng vẫy

quanh quẩn giữa ước thúc và tự do, vì vậy chúng sinh mới đau khổ, hy vọng được giải thoát.

Đây chính là cái mà người ta vẫn gọi là phàm tâm.”

Nói một tràng dài những lời Khafu nghe nửa hiểu nửa không, người trẻ tuổi lại lấy chiếc

PDA ra xem xét. Lữ Cánh Nam đã mấy lần thấy y nhìn vào chiếc PDA ấy, không khỏi lấy làm

nghi hoặc: “Rốt cuộc đó là thứ gì? Chẳng lẽ là bản đồ số hóa của tòa thần miếu này ư?”

Đương nhiên, cô không thể ngờ rằng người trẻ tuổi ấy cũng đang ngờ vực: “Kỳ lạ thật, hai

tên kia sao vẫn không chuyển động? Lâu như vậy rồi, chẳng lẽ chúng đang ngủ? Mặc kệ, đây

là cơ hội tốt.” Nghĩ đoạn, y cất máy PDA, ra lệnh cho bọn lính đánh thuê xuất phát đến đại

điện tiếp theo.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin không phải đang đứng im tại chỗ, mà ngược lại, đang

chuyển động không ngừng. Hai người đang chơi trò đẩy hòm, đã đẩy đi đẩy lại đến phát ngán.

Hai người leo lên đỉnh cánh cửa hình nụ sen chưa nở, dùng máy ảnh chụp toàn bộ bàn cờ và

bố cục các quân chờ vào máy tính. Trác Mộc Cường Ba dùng chương trình tìm kiếm trong

máy, tìm ra một phần mềm chuyên dùng để phá giải các cơ quan dạng sắp xếp theo trình tự

này, bên trong đã cài đặt sẵn các mô thức mẫu để phá giải Hoa Dung đạo, Cửu liên hoàn, ma

phương…

Tìm hiểu xong cách sử dụng phần mềm, Trác Mộc Cường Ba nhập vị trí của các quân cờ

vào, máy tính bắt đầu mô phỏng tính toán, đẩy những khối vuông có khắc ký hiệu vào vị trí

tương ứng, chỉ thoáng sau đã có kết quả. Máy tính đưa ra phương án tối ưu, tổng cộng cần chín

trăm chín mươi chín bước.

Nhìn máy tính chỉ cần hai ba giây đồng hồ đã tính ra kết quả và các bước thực hiện, Merkin

đang nơm nớp lo âu mới yên tâm phần nào. Chín trăm chín mươi chín bước, nếu tính bằng sức

người, không biết phải bao lâu mới xong nữa. Vậy là, hai người bèn làm từng bước một, bắt

đầu công cuộc đẩy hòm. Mặc dù bên dưới các khối đá là những rãnh kim loại trơn nhẵn, song

trọng lượng của chúng và lực ma sát của hình khắc gồ lên cũng khiến hai người tốn rất nhiều

sức lực. Trông cả hai như hai con trâu mộng cày ruộng, cắm đầu cắm cổ, bốn cánh tay lực

lưỡng gồng lên, bốn cẳng chân đạp mạnh, mồ hôi túa ra như tắm trên trán, chảy thành dòng

trên má, rồi nhỏ tong tong xuống cằm. Mỗi lần hoàn thành một bước, hai gương mặt nhem

nhuốc mồ hôi lẫn máu lại cùng chụm lại trước màn hình máy tính xách tay, xem bước tiếp theo

phải đẩy như thế nào. Về sau, Merkin nói làm kiểu này quá chậm, đề nghị mỗi người đẩy một

khối đá, như vậy có thể cùng lúc tiến hành hai bước một. Trác Mộc Cường Ba đẩy bước trước,

y đẩy bước sau, cứ được khoảng mười khối đá vào vị trí thì lại dừng tay nghỉ một lúc. Nói theo

cách của Merkin thì đây không phải việc dành cho con người làm… Lúc ấy, Trác Mộc Cường

Ba mới nói cho y biết, câu “một người thân thủ tuyệt thế” cũng có có thể dịch thành “một

người sức khỏe vô cùng”, cũng may sức lực hai người họ đều thuộc hàng khá, bằng không e

khó lòng mà đẩy nổi mấy khối đá này.

Khi họ đẩy được năm trăm sáu mươi ba khối đá thì xảy ra sai sót. Họ nhận ra, bước tiếp

theo của mình không khớp với máy tính, lúc cẩn thận đối chiếu lại mới biết, thì ra đã đẩy

nhầm.

Vốn là Trác Mộc Cường Ba qua trước, rồi đến lượt Merkin, sau đó Trác Mộc Cường Ba sẽ

đẩy một khối đá khác tới, đồng thời khối đá Merkin đẩy cũng có thể đến vị trí chỉ định. Nhưng

quá trình đẩy của hai người lại là, khối đá của Merkin đã đến vị trí chỉ định, bị cố định tại chỗ

đó mà khối đá của Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa đẩy qua, bị khối đá của Merkin chặn mất

đường.

Hai gương mặt lem luốc thẫn thờ nhìn nhau, tính sao đây?

Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba nghiến răng nói: “Lật nó ra!”

Merkin trố mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, cơ hồ không tin tưởng lắm. Đây không phải hòm

gỗ, mà là một khối lập phương bằng đá mỗi cạnh dài một mét. Một khối đá lớn chừng này, e

rằng trọng lượng phải đến một hai tấn, có điều, ngoài trừ cách nhấc nó ra khỏi đường ray, hình

như cũng không còn cách nào khác nữa.

“Ày ah! Lên…” Cùng với tiếng gầm của Trác Mộc Cường Ba, cơ bắp trên cánh tay hai

người gồ hẳn lên. Hai vị “mãnh nam” này không ngờ lại có thể lật cả tảng đá nặng nề ra khỏi

đường ray. Sợ rằng cổ nhân nghìn năm trước khi bố trí bàn cờ này cũng không ngờ có người

dùng cách trái lẽ thường như thế, quả là sức mạnh dời non lấp bể!

Có điều, sau khi bẩy khối đá ra khỏi đường ray, hai người phải ngồi dựa vào nó thở hồng

hộc, Merkin xua tay lia lịa nói: “Việc này… không thể lặp lại nữa.”

Sau khi mọi khối lập phương đã vào vị trí, thể lực của Trác Mộc Cường Ba và Merkin cũng

tiêu hao toàn bộ. Merkin đề nghị nghỉ ngơi tại chỗ một lúc. Dẫu sao, bọn họ cũng đã ở thế giới

dưới lòng đất đèn đuốc sáng ngời này không biết bao lâu rồi. Từ đầu đến giờ, hai người vẫn

luôn bị các loại cơ quan cạm bẫy làm cho chạy trối chết, khó khăn lắm mới được chút thời gian

nghỉ ngơi, nếu không điều dưỡng hồi phục thể lực, có trời mới biết sau khi cánh cửa hoa sen

kia mở ra sẽ có thứ gì.

Lúc này, bên ngoài địa cung đang ngập tràn ánh sáng. Hôm nay đã là ngày thứ ba kể từ khi

bọn Trác Mộc Cường Ba xuống địa cung Bạc Ba la thần miếu. Một động vật linh trưởng toàn

thân trần truồng đang lao đi giữa rừng già, tắm mình trong ánh dương buổi sớm, hít thở bầu

không khí tự do.

Toàn thân y nhằng nhịt vết thương và sẹo lồi màu đỏ thịt, đầu tóc bù xù rối loạn. Điều khiến

người ta kinh hãi nhất là, phía sau y có hai con dã thú vốn chỉ cần thấy mặt nhau là sẽ lao vào

cắn xé đến một sống một chết. Bên trái là một con sói xám trưởng thành, thể hình to lớn; bên

phải là một người Lỗ Mặc, cao bằng một người trưởng thành.

Đúng vậy, y chính là Soares. Vì tầng bình đài thứ ba đã được xác nhận là không có người, y

cũng lấy làm hoan hỉ ở lại đây, mang lòng thành ra đối đãi với thiên nhiên. Sau cuộc nói

chuyện với Trác Mộc Cường Ba, y đột nhiên lĩnh ngộ được, thì ra, dù không có các loại thuốc

và chất thông tin, không dựa vào cạm bẫy và khoa học kỹ thuật hiện đại, con người và các loài

vật khác cũng có thể chung sống một cách hòa thuận.

Mấy ngày nay, y luôn quanh quẩn trong khu rừng rậm này, bất ngờ gặp được một con sói và

con mãnh thú, sau mấy lần tiếp xúc mang tính thăm dò, Soares đã khiến con sói và con mãnh

thú kia đồng thời chấp nhận sự tồn tại của mình. Y khác với Trác Mộc Cường Ba, thân là một

Thao thú sư hiểu rõ đặc tính của các loài sinh vật, và lại còn rất giỏi nghiên cứu tìm tòi, y đã

nhanh chóng phán đoán chính xác về trí lực và tập tính sinh hoạt của hai con vật này, đồng thời

dẫn đạo chúng một cách thích đáng. Chỉ sau một thời gian ngắn, y đã khiến hai con dã thú nghe

lệnh mình. Trong toàn bộ quá trình đó, Soares không sử dụng bất cứ loại thuốc hay kỹ xảo thao

thú nào. Ở Trác Mộc Cường Ba, y đã học được sự trao đổi tâm linh giữa các loài động vật,

dùng ánh mắt và ngôn ngữ cơ thể để biểu đạt ý nghĩa của mình, đồng thời cũng nhờ vào ánh

mắt và ngôn ngữ cơ thể để đọc hiểu ý tứ mà đối phương biểu đạt.

Một người, một sói và một người Lỗ Mặc, tiểu đội săn bắt tổ hợp từ ba loài động vật khác

nhau hợp tác với nhau hết sức vui vẻ. Có điều, Soares dần dần nảy sinh ý muốn rời khỏi đây.

Mỗi lần nhìn thấy những kiến trúc hùng vĩ lạ thường và môi trường hoang dã xung quanh, y

liền cảm thấy run rẩy. Nơi này dẫu sao cũng là vương quốc của sinh vật hoang dã, mặc dù vẫn

còn lưu lại rất nhiều ký hiệu của nền văn minh nhân loại, nhưng không có lấy một dấu vết của

người sống. Nỗi sợ hãi và cô đơn phát xuất từ sâu thẳm nội tâm khiến y khao khát được trông

thấy một người sống, cho dù là kẻ địch cũng được. Giờ đây, y đã hiểu sự cô độc mà Trác Mộc

Cường Ba phải chịu đựng. Chỉ có điều, y cũng biết, với tình trạng hiện tại của mình, muốn

vượt qua vùng sương mù bị băng tuyết bao phủ kia, thực không có chút hy vọng nào cả. Y cần

phải chuẩn bị đẩy đủ hơn nữa.

Vì vậy, khi trông thấy cỗ thi thể và cái dù động lực còn chưa bị hư hại treo lơ lửng trên cành

cây, Soares không sao nén nổi cảm giác kích động trào dâng trong tâm khảm.

“Đại Khôi, tao phải đi rồi.” Soares đặt tay lên đầu con sói, ngón cái vuốt nhè nhẹ dọc theo

bộ lông nó, chạm vào trán nó, khiến con sói cảm thấy yên tâm và dễ chịu. Sói xám hài lòng

nheo nheo mắt. Ý nói lời tạm biệt với người bạn bốn chân, rồi lại nắm chặt chi trước của người

Lỗ Mặc, bắt tay một cách tượng trưng. Soares đứng ở mép tầng bình đài thứ ba, ngước nhìn

màn sương mù mờ mịt, ngoái đầu nhìn về phía rừng rậm, lớn tiếng tuyên bố: “Tạm biệt,

Shangri-la! Ta sẽ trở lại! Tạm biệt, Đại Khôi! Tạm biệt, Tiểu Cường! Trở lại cuộc sống vốn có

của chúng mày đi, tao chỉ là một kẻ qua đường thôi.” Dứt lời, Soares tung mình nhảy xuống,

biến mất dưới làn mây mù bao phủ. Y nhớ lại chuyện Trác Mộc Cường Ba kể, Nhạc Dương

ngày đó cũng nhảy xuống dưới như thế này. Ta sẽ rơi xuống đâu? Có lẽ là tầng bình đài thứ

hai, đến lúc đó có thể nghiên cứu một chút về cổ độc của người xưa, nếu rơi thẳng xuống tầng

bình đài thứ nhất, vậy thì có thể nhìn thấy những loài sinh vật tiền sử kia rồi. “Bùng!” dù động

lực mở bung ra, đưa Soares lướt về phía xa.

CHƯƠNG 77: ĐẾN TRUNG TÂM THẦN MIẾU

GẶP LẠI NHẠC DƯƠNG

Vượt qua khu vực sương mù, Soares mới phát hiện ra mình đang lơ lửng phía trên mặt biển,

cách tầng bình đài thứ hai một khoảng rất xa. Bấy giờ, y mới hiểu, Tu Di giới này là một hình

nón úp ngược, giờ có muốn lợi dụng dù lượn động lực cũng không được nữa rồi, y đành cố

gắng khống chế phương hướng, lướt về phía đường bờ biển của tầng bình đài thứ nhất.

Trước khi tiếp đất, Soares bất ngờ khóa chặt một mục tiêu phía dưới, một con thuyền ba lá,

phải chăng là thuyền của bọn Trác Mộc Cường Ba ? Không đúng, y còn nhớ Trác Mộc Cường

Ba kể, con thuyền của bọn gã sau khi đến nơi này đã bị phá hủy rồi, đây có thể là thuyền của ai

chứ ?

Soares hiểu rõ, nếu trên thuyền có người, mình lại từ trên trời nhảy dù xuống, trông cực kỳ

nổi bật, chắc chắn đã bị đối phương trông thấy, bèn quyết định điều chỉnh dù đáp xuống gần

con thuyền nhỏ ấy luôn.

Y vừa tiếp đất, liền nghe có người hỏi bằng tiếng Anh: “Ngươi là ai? Ở đâu đến?”

Soares ngoảnh đầu, trông thấy một lão già mặt đầy nếp nhăn, mái tóc hoa râm, nhưng tinh

thần hãy còn quắc thước, có lẽ là một người gốc châu Á. Mức độ kinh ngạc của Soares hiển

nhiên cũng không kém lão già ấy, y vốn nghĩ nơi này là vùng đất cách biệt thế gian, rồi lại

nghe Trác Mộc Cường Ba kể, vượt qua biển ngầm đến đây càng gian nan nguy hiểm vạn phần.

Tại sao ở đây lại có một lão già ở tuổi này, lão ta cũng vượt qua biển ngầm tới nơi này ư? Nhìn

thần thái và giọng tiếng Anh của lão, hiển nhiên đối phương cũng giống như y, là người ở bên

ngoài đến. Sao lão ta có thể làm được? Gượm đã, lão già này, dường như cũng hơi quen mặt thì

phải!

Lão già thấy Soares chau mày không đáp, hiển nhiên là hiểu những được những gì mình nói

mà không trả lời, bất thình lình nhún người lao lên, lướt qua đầu Soares, đồng thời rải xuống

một nắm gì đó. Soares giật bắn mình, lão già này phỏng chừng còn cao tuổi hơn cả y, không

ngờ thân thủ cũng linh hoạt hơn một bậc. Y vội ngã người lăn một vòng, tránh khỏi thế công

của đối phương, đồng thời cũng sực nhớ ra, lớn tiếng gọi: “Ông Sasaki!”

Lão già quay đầu lại, gương mặt lộ vẻ nghi hoặc, bây giờ mới mở miệng nói bằng tiếng

Nhật: “Anh là...”

Soares đáp: “Tôi ở tổ T, Soares Kahn, chúng ta từng gặp nhau một lần, trong lần hành động

liên hợp ở Ai Cập’’ Vẻ mặt Soares trở nên cung kính, Sasaki là tổng chỉ huy của hành động lần

đó, nghe nói, sự lý giải và lĩnh ngộ đối với thực vật của lão già diện mạo bình thường này đã

đạt đến trình độ đại sư, thực rất đáng kính trọng.

Lão già cũng nhớ ra, gương mặt nhăn nheo nở nụ cười hòa nhã: “Soares phải không, thật

không ngờ lại gặp anh ở nơi này, à, đúng rồi, anh... mau lên, lập tức làm theo tôi” Sasaki lấy

tay bịt chặt mũi rồi đột nhiên thả ra, thở phụt ra ngoài kiểu như đang xì cục đờm trong khoang

mũi, phát ra những tiếng ‘’khẹt khẹt’’

Soares không hiểu gì, nhưng vẫn làm theo động tác ấy, đến lần thứ ba liền phát hiện thứ gì

đó bắn ra lòng bàn tay, xòe ra xem thử thì thấy đó là một thứ có hai cánh mỏng mỏng như

chiếc lá, to cỡ chừng hạt gạo, bên trên còn dính tơ màu, hiển nhiên là ở trong khoang mũi mình

phọt ra.

Sasaki vỗ vỗ lên vai Soares, nói: “Được rồi, giờ thì ổn rồi, vừa nãy không biết là địch hay là

bạn, mới dùng một chút hạt giống Đại Hồng Liên.”

Soares không khỏi biến sắc, y từng nghe nói đến thứ Đại Hồng Liên này, tương truyền đó là

một loại thực vật có thể trồng trong cơ thể người, hút sạch chất dinh dưỡng từ trong máu, sinh

trưởng dọc theo mạch máu và xương tủy, cuối cùng sẽ phá vỡ đầu nạn nhân chui ra ngoài, khai

hoa kết quả, có thể biến một người thành một cái cây.

Sasaki lại hỏi: “Sao anh lại có thể ở đây? Sao lại...” Ông ta chỉ tay vào thân thể trần truồng

của Soares.

Soares cười khổ một tiếng, kể vắn tắt một lượt chuyện Merkin mời mình gia nhập, cuối

cùng lại đuổi mình như thế nào, Sasaki cười cười, rồi nói: “Cáo lửa à, tôi cũng khá có ấn tượng

với con người này.”

Soares hỏi: “Ông Sasaki, tại sao ông lại đến nơi này? Ông cũng đang tìm kiếm Bạc Ba La

thần miếu sao?”

Sasaki nói: “Bạc Ba La thần miếu? Tôi chưa từng nghe nói đến, tôi tới đây chỉ để thu thập

hạt giống của một số loài thôi. Nơi này có một số thực vật nguyên sinh chỉ có thể sinh trưởng ở

đây, gieo trồng ở môi trường bên ngoài rất khó thành công. Lần trước tôi đến đây, hình như

cũng được mười năm rồi. Tôi đã dùng phương pháp biến đổi gene gây trồng một ruộng thực

vập tạp giao trong khu rừng ở trước mặt, lần này đến đây là để thu hoạch.” Soares ngẩn người,

mười năm trước đã đến đây rồi ư? Y không khỏi cảm thán, vùng đất mà đám người bọn y tốn

bao nhiêu công sức trải qua bao nhiêu gian khổ mới đến được, đối với những kẻ có thực lực

cao cường như lão già trước mắt này chẳng khác nào như cơm bữa, muốn đến thì đến, muốn đi

thì đi. Đây mới gọi là khoảng cách về thực lực chứ.

Dường như đọc được suy nghĩ của Soares, Sasaki cười cười nói: “Đương nhiên, nơi này

cũng không phải nói đến là được, đoạn đường sông ngầm không có lấy một chút ánh sáng ấy

đã mấy lần khiến tôi sém chút nữa là toi mạng. Lần này đến đây, tôi đã cảm thấy lực bất tòng

tâm rồi, sợ rằng khó lòng có lần sau lắm.”

Sasaki vừa nói, vừa dẫn Soares đi tới chỗ ông ta neo thuyền.

“Vậy, ông có muốn đến Bạc Ba La thần miếu xem thử không?” Soares dò thử hỏi.

Sasaki cười cười đáp: “Tôi đến đó làm gì chứ? Tôi là một ông già, người cao tuổi rồi, không

nên làm mấy việc leo trèo nguy hiểm như thế, anh không biết sao? Vả lại, tôi chẳng hứng thú

gì với cái thần miếu mà anh nói đến cả, tôi chỉ tới đây xem các loại cây cối thôi, giống như anh

thích thú với đám động vật vậy. Mỗi loài thực vật ở đây đều khiến tôi vô cùng hoan hỉ. Thêm

nữa, riêng vùng ven biển này thôi đã rộng lớn lắm rồi, sợ rằng tôi cũng khó tìm hiểu hết được

các chủng loài thực vật ở đây. Con người không nên tham lam quá, cứ làm tốt công việc mình

cần phải làm trước đi đã.’’

Nói đoạn, hai người đã đi tới bên cạnh con thuyền ba lá, Sasaki nhiệt tình bảo Soares: “Anh

là người khách thứ hai của tôi đấy.”

“Ông còn một người khách nữa?” Soares kinh ngạc hỏi.

“Đúng vậy, mấy ngày trước khi tôi vừa đến đây, một quả bóng lớn từ trên trời rơi xuống,

đập mạnh xuống mặt nước, suýt nữa làm lật cả thuyền.” Sasaki nói, “Anh bạn trẻ này trông

cũng khá phết, có phải đến cùng với các anh không?”

Soares nhìn gương mặt thanh tú điển trai nằm trong con thuyền nhỏ, lúc này, y đã không

còn căm hận gương mặt ấy nữa, mà chỉ cảm thấy vừa tức vừa buồn cười, lòng thầm tự giễu:

“Có lẽ, đây chính là vận mệnh mà người Trung Quốc các cậu vẫn hay nói.”. Nghĩ đoạn, Soares

ngoảnh sang phía Sasaki nói: “Là... bạn. Chúng tôi cứ tưởng cậu ta ngã từ trên cao xuống, đã

hy sinh rồi, giờ cậu ta thế nào.”

Sasaki đáp: “Rơi từ độ cao đó xuống, tuy túi khí cứu sinh đã ngăn lại hầu hết xung kích,

nhưng phần đầu cậu ta vẫn bị chấn động, nghiêm trọng. Mấy ngày nay, tôi đã dùng một số thực

vật có tác dụng an thần để điều dưỡng cho cậu ta, song mãi vẫn chưa thấy tỉnh lại. Anh chàng

này có vẻ nhanh nhẹn đáng yêu, tôi có một thằng cháu nội, chắc cũng tầm tuổi cậu ta. Anh biết

đấy, ở nơi này chẳng có gì đáng sợ cả, chỉ sợ cô đơn. Một người dập đềnh nổi trôi trên vùng

nước đen tối mịt đó mấy tháng ròng, điều khó chịu nhất chính là cảm giác cô tịch. Có người

bên cạnh nói chuyện, mặc dù cậu ta không thể trả lời, song như vậy cũng là tốt lắm rồi. À, gần

đây tôi cũng bắt đầu ít nói hẳn đi, không biết có phải là triệu chứng của tuổi già không nữa.’’

“Phiêu bạt mấy tháng trời!” Soares hít sâu một hơi khí lạnh, tuy Trác Mộc Cường Ba chỉ kể

qua loa hành trình trên dòng sông ngầm của bọn gã, nhưng y cũng cảm nhận được tình cảnh

hiểm nguy chừng như bất cứ lúc nào cũng phải giáp mặt với tử thần ấy. Vậy mà, ông già này

phiêu bạt trên dòng sông đen tối đó mấy tháng ròng. Ngay sau đó, y liền hiểu ra, đúng vậy, ông

già này không hề có bản đồ gì cả, ông chỉ xuôi theo dòng nước mà tiến tới, khống chế hướng đi

của thuyền khi nước triều dâng lên, đi kiểu như vậy, đương nhiên là phải mất mấy tháng rồi!

Sasaki lại nói: “Anh đã đến đây rồi thì ở lại với tôi một thời gian nữa đi, chúng ta có thể đi

xa hơn một chút, quan sát và thu thập thêm mấy loài thực vật, rồi cùng trở về.”

Soares gật đầu, rồi nhìn lại Nhạc Dương đang say ngủ, nhếch miệng mỉm cười.

Không biết ngủ được bao lâu, Merkin mới từ từ tỉnh giấc. Còn Trác Mộc Cường Ba, vì có

tâm sự trong lòng nên chỉ ngủ một lúc đã tỉnh. Hai người hợp lực chuyển động mấy chục khối

lập phương, mở cánh cửa hình hoa sen ra, kế đó, họ đi qua Tỳ Na Dạ Ca điện, Chuyển Kim

Diệu điện, Ô Ba Na Nam Đà Vương điện, Ma Hầu La Gia điện... đến Uông Ba Li điện, Gia Du

Đà La điện, Bảo Chàng điện... cũng không biết đã vòng vèo ở trong mất bao lâu, tóm lại là họ

vẫn có thức ăn và nước uống, đồng thời đi qua những cung điện khiến người ta phải trầm trồ

thán phục và những cơ quan cạm bẫy khó bề tưởng tượng nổi.

Nhóm người của pháp sư Á La thì đi từ Vạn Phật các tới A Nhĩ Đa điện, Nhã Gia điện, Nhật

Diệu điện, Khẩn Na điện... đến Giáng Tam Thế Phẫn Nộ Minh Vương điện, Hư Không Tàng

điện, Bất Không Thành Tựu Điện...

Có người trẻ tuổi dẫn đường, số lượng cơ quan cạm bẫy họ gặp phải dọc đường ít hơn hai

người bọn Trác Mộc Cường Ba rất nhiều, nên có thể tập trung nhiều tinh lực hơn vào các món

đồ thờ cúng. Sau một thời gian, đến cả bọn lính dánh thuê kia cũng bắt đầu kén chọn, không

phải tinh phẩm thì không thèm đụng tay mó chân đến, những món vàng bạc binh thường mà

chúng tranh nhau vét đầy trong ba lô kia sớm đã bị vứt hết đi đâu không biết. Dọc dường, câu

bọn chúng hỏi nhiều nhất chính là tòa thần miếu này rốt cuộc lớn chừng nào. Người trẻ tuổi đã

trả lời rằng: “Nếu không có cơ quan cạm bẫy và mê cung, mà chúng mày cũng không cần để ý

đến mấy thứ đó, chúng ta đi kiểu cưỡi ngựa xem hoa thế này, chưa đến một tháng, chúng ta sẽ

tham quan hết các gian đại điện ở tầng ngoài cùng thần miếu.”

Nghe y trả lời như vậy, cả bọn về cơ bản đã nắm được quy mô của Bạc Ba La thần miếu;

pháp sư Á Lá thầm tính toán, những ngày này bọn họ tổng cộng đã đi qua một trăm tám mươi

gian đại điện. Tuyến đường người trẻ tuổi dẫn họ đi chắc hẳn là tuyến đường an toàn và ngắn

nhất, bởi vậy, có thể khẳng định, bọn họ mới chỉ đi qua một phần nhỏ của thần miếu mà thôi.

Những nơi họ đi qua, cả thảy đều nguy nga đẹp đẽ, điện đường hoa lệ, thiết kế xảo diệu, cơ

quan phức tạp khôn cùng, dùng ngôn ngữ để biểu đạt lại quả thực không thể hình dung được

đến một phần vạn.

Lại một ngày nữa trôi qua, người trẻ tuổi dẫn đội ngũ lính đánh thuê đi qua cánh tay dang

rộng của Ma Kha Bát La Để Tát La Bồ Tát, nghe thấy tiếng ầm ầm ở phía trước tựa như một

nhà máy đang hoạt động hết công suất, y liền lộ vẻ mừng rỡ. “Sắp đến trung tâm của thần miếu

rồi.”

Cả bọn theo y đi hết con đường nhỏ tối tăm u ám, khoảng không trước mắt bỗng rộng mở.

Mọi người đều biết, họ lại đặt chân vào đại điện tiếp theo rồi. Có người thở dài một tiếng: “Lại

là mê cung...”

Phía trước là một không gian rộng lớn thông thoáng, đặc biệt, trong gian đại điện này không

có tượng Phật nào cả, thay vào đó là vô số tấm ván treo. Những tấm ván treo rộng chừng năm

mét, dài năm sáu mươi mét gì ấy, bốn góc đều được treo bằng dây kim loại chống gỉ to ngang

cổ tay người lớn, đầu kia của dây kim loại buộc vào một thanh treo không ngừng nghịch

chuyển qua lại, những tấm ván cũng liên tục thay đổi vị trí và phương hướng. Thoạt nhìn qua,

đại diện này rất giống một bến cảng tập kết container nhộn nhịp chuyển hàng qua lại.

Người trẻ tuổi dẫn đầu bước lên một tấm ván treo, rồi lại nhảy sang một tấm khác. Vì thời

gian các tấm ván giao nhau rất ngắn, lần nào cả bọn cũng phải đợi một lúc lâu mới lên được hết

một tấm ván. Sau khoảng mười mấy lần như vậy, bọn họ đến được một bình đài treo lơ lửng

trên không.

Người trẻ tuổi đưa mắt nhìn quanh, rồi gọi Khafu đến bên cạnh: “Khafu, nơi này dễ thủ khó

công, mày dẫn theo một nhóm canh gác ở đây. Tao sẽ để lại một số ký hiệu trên tấm ván treo,

nếu sau hai mươi tư tiếng đồng hồ sau mà bọn chúng chưa đến, mày hãy đi theo tìm bọn tao.’’

“Có cần giết chúng không?” Khafu hỏi.

Người trẻ tuổi lắc đầu: “Không, tao muốn mày cầm chân chúng, hai mươi tư tiếng, làm

được không?”

Khafu nhe răng cười: “Ngài Thomas, ngài coi thường tôi quá rồi đấy.”

Người trẻ tuổi nắm tay Khafu: “Tự tin là tốt, nhưng đừng tự kiêu.”

Nói xong, y dẫn đám còn lại bước trên tấm ván treo đang chuyển sang một hướng khác, lại

một tấm ván khác dịch chuyển tới trước mặt. Khafu ra lệnh: “Luc, Hughes, chúng mày lên đi,

chiếm lĩnh cao điểm góc phía Nam. Pru, Chek, tao muốn chúng mày leo lên thanh ngang kia,

làm được không? Anton...”

Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đi theo người trẻ tuổi bước từ tám ván treo này sang tấm ván

treo khác, chỉ thấy khắp bốn phương tám hướng đều là lối ra, cấu trúc hoàn toàn không giống

những gian Phật điện trước đó. Hai người thầm thấy làm lạ. Người trẻ tuổi nhìn thấu được ý

nghĩ của họ, liền cười khẩy châm chọc: “Khu vực trung tâm này không giống với kiến trúc Mật

tông mà các người tưởng tượng, phải không?”

Lữ Cánh Nam thắc mắc: “Sao lại như thế này?”

Người trẻ tuổi liền đáp: “Toàn bộ Bạc Ba La thần miếu này có nhiều cơ quan như vậy, nhờ

đâu mà chúng có thể hoạt động được?” Y ngừng lại một chút, rồi tiếp lời: “Cả một công trình

lớn như vậy, mọi cơ quan cạm bẫy đều được kết nối với nhau. Kỳ thực, các người có thể coi nó

như một cỗ máy khổng lồ, muốn cho nó hoạt động nhất thiết phải có một nguồn năng lượng

lớn vô cùng. Khu vực trung tâm này chính là phân xưởng cung cấp động lực cho cỗ máy ấy.

Nơi chúng ta đang đứng đây có thể xem là trạm trung chuyển, những thanh treo này đưa những

người thợ đến những nơi khác nhau. Đối với chúng ta, những thanh treo chuyển qua dịch lại

này chẳng khác nào mê cung, nhưng trong mắt những người thợ đã quen thuộc đường đi lối lại,

chúng lại chính là con đường ngắn nhất, tiện lợi nhất.”

Di chuyển qua mấy tấm ván treo nữa, người trẻ tuổi rốt cuộc cũng dẫn bọn họ đi vào một

đường hầm. Sau khi ra khỏi đường hầm ấy, tất cả lại lại được một phen ngẩn người ra.

Phía trước xuất hiện một hố sâu hình tròn, giống như một tháp ống khói khổng lồ. Bọn họ

đứng bên mép ống khói, có đường dốc thoai thoải hình xoáy trôn ốc đi xuống. Dưới đáy ống

khói là một lò lửa, không khí nóng hừng hực lan tỏa trong ống khói. Đứng bên mép đường dốc

nhìn xuống, có thể thấy rõ dòng nham tương màu vàng đỏ cuồn cuộn sôi trào. Khó tin nhất là,

ở phía ngoài đường dốc là những cánh tay kim loại sừng sững chỉnh tề. Những cánh tay kim

loại ấy đang vận động theo một quy luật dưới tác dộng của một nguồn lực nào đó, ngoài ra còn

có vô số cánh tay nhỏ đang đưa qua đưa lại, động năng khổng lồ này chính là nhờ những cánh

tay máy này mà được truyền đến từng ngóc ngách của Bạc Ba La thần miếu.

Mỗi người đều cảm nhận được, nơi này không phải điện đường thờ cúng, mà là một công

xưởng, một công xưởng khổng lồ chưa từng có trong lịch sử. Giọng nói người trẻ tuổi toát lên

một vẻ kính nể: “Kinh hãi lắm phải không! Đây chính là trung tâm thần miếu, một động cơ

vĩnh cửu!” Thấy cả bọn đều há hốc miệng, nét mặt y thoáng hiện lên một nụ cười khinh khỉnh.

“Không thể nào!” Lữ Cánh Nam lập tức phản bác: “Khoa học đã chứng minh, động cơ vĩnh

cửu không thể nào tồn tại được!”

“Vậy phải xem định nghĩa động cơ vĩnh cửu là thế nào đã,” người trẻ tuổi thong dong giải

thích: “máy móc có thể vận hành vĩnh viễn không ngừng, điều đó là không thể, nhưng đối với

sinh mạng hữu hạn của nhân loại, bao nhiêu lâu đã có thể xem là vĩnh viễn rồi? Mười vạn năm,

mười vạn năm đã đủ chưa? Toàn bộ lịch sử văn minh nhân loại, kể cả văn minh tiền sử, cũng

chưa đến một vạn năm. Đám nhà khoa học kia không phải muốn chế tạo động cơ vĩnh cửu, mà

muốn chế tạo một cái máy có thể sinh ra năng lượng từ hư vô, đi ngược lại định luật bảo toàn

năng lượng. Một cỗ máy như thế, đương nhiên không thể có trong hiện thực. Trên thực tế, mấu

chốt của việc chế tạo động cơ vĩnh cửu không nằm ở chỗ máy móc phức tạp thế nào, mà là có

thể cung cấp cho nó một nguồn năng lượng vĩnh cửu hay không.”

Người trẻ tuổi dang rộng cánh tay, lớn tiếng nói như thể một giáo sư đang truyền đạo: “Thử

nghĩ mà xem, tiền nhân của các người, tổ tiên của các người, từ thuở mình mới ra đời, đã học

được cách lợi dụng những nguồn động năng vĩnh cửu rồi. Nước sông cuồn cuộn, trăm năm mới

thay dòng, gió núi lồng lộng, vòng qua vòng lại, thứ bọn họ thiếu, chỉ là những linh kiện có thể

chịu được sự ăn mòn thời gian mà thôi. Năng lượng thủy triều, một vạn năm không thay đổi,

vậy có thể coi là năng lượng vĩnh cửu không? Năng lượng mặt trời, chiếu sang bốn tỷ năm, vậy

có coi là lâu không? Chỉ cần lợi dụng những nguồn năng lượng đó làm nguyên động lực, về lí

thuyết, khiến một cỗ máy hoạt động vĩnh viễn là điều hoàn toàn có thể.”

Người trẻ tuổi hơi nghiêng người ra phía trước, chỉ những máy móc đang hoạt động ầm ầm

bên dưới: “Bánh răng, ròng rọc, ổ trục, đòn bẩy, những thứ này đã được người xưa phát minh

ra từ rất sớm rồi, cho đến ngày nay, các máy móc hiện đại vẫn sử dụng những thứ ấy. Máy móc

sở dĩ không thể duy trì hoạt động được lâu dài, vấn đề mấu chốt là do các linh kiện phụ bị tiêu

hao trong quá trình sử dụng. Nếu nói có một cỗ máy, có thể tự động thay mới và tu sửa những

phụ kiện bị hao mòn, đồng thời sử dụng một nguồn động năng vĩnh cữu, vậy thì, tại sao không

thể gọi nó là động cơ vĩnh cửu chứ?”

Pháp sư Á La nhìn ngọn lửa bên dưới, ngần ngừ nói: “Ý anh là... nó luôn hoạt động? Không

phải lúc mở cửa mới hoạt động cơ quan à?”

“Mở cửa, chẳng qua chỉ khởi động hệ thống phòng ngự của nó mà thôi. Trên thực tế, nó vẫn

luôn hoạt động cả ngìn năm nay, nếu không phải vậy ông cho rằng sương mù bao phủ mấy

trăm cây số vuông quanh khu vực này là từ đâu ra? Những con người thông minh ấy đã hàng

phục núi lửa, lợi dụng trung tâm núi lửa làm nguồn năng lượng, chế tạo ra một chiếc máy điều

hòa nhiệt độ có thể ảnh hưởng đến khí hậu của một khu vực rộng lớn mấy trăm cây số. Đồng

thời, cũng triệt để ẩn giấu vùng đất tựa như chốn Đào Nguyên thế ngoại này. Các người đừng

quên, đây là công nghệ thời Đường. Công nghệ ấy đã siêu việt thời đại, thậm chí, có rất nhiều

nguyên lí khoa học của thời đó đủ khiến các nhà khoa học hiện đại cũng phải thở dài ngao

ngán. Nhưng sự thực là, những điều này, người xưa cũng chỉ học được từ thiên nhiên mà thôi.

Trên thế gian, từ lâu lắm đã có động cơ vĩnh cửu rồi, vả lại, những động cơ vĩnh cửu ấy còn ở

khắp mọi nơi nữa, các người có biết đó là gì không?”

Lữ Cánh Nam trầm ngâm suy nghĩ, rồi sực ngộ ra: ”Là con người!”

Người trẻ tuổi cười cười, rồi gật đầu nói: “Là sinh mệnh, trên thế giới này, bất kể là động

thực vật hay sinh vật nguyên sinh, cũng đều có một đặc điểm chung. Đó là, bọn chúng có

phương thức tuần hoàn trao đổi năng lượng, có phương thức sinh sản tiếp diễn riêng. Quá trình

sinh trưởng, phát dục của chúng, đều có thể coi là một loại vận động. Vả lại các cá thể đời con

đều có thể sao chép lại một cách hoàn mĩ những đặc trưng của đời cha, đồng thời tiến hóa lại

khiến chúng có thể loại bỏ những gì không tốt, và chỉ để lại những cá thể thích hợp tồn tại với

thế giới này. Đó không phải là động cơ vĩnh cửu thì là gì chứ? Con người tại sao lại phải chế

tạo ra máy móc? Không phải là để bổ sung cho sự thiếu sót của thân thể hay sao? Mà máy móc

được chế tạo căn cứ vào đâu chứ? Há chẳng phải là căn cứ vào những cá thể sống khác nhau

đang không ngừng tiến hóa biến đổi trên thế gian này sao?”

KHAFU ĐẤU MERKIN

Chinh phục núi lửa, máy điều hòa nhiệt độ khổng lồ thay đổi khí hậu của cả khu vực rộng

mấy trăm cây số vuông? Toàn là những điều các nhà khoa học mơ tới chứ không sao thực hiện,

vậy mà từ thời Đường, tổ tiên chúng ta đã làm được rồi sao? Những sự thật khó tin được người

trẻ tuổi ấy nói ra, khiến pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam sững người kinh ngạc, chỉ biết ngây

ngẩn nhìn những cánh tay máy khổng lồ nằm ngoài phạm trù thời đại này, bất giác không biết

đã men theo con dốc thoai thoải đi xuống bao nhiêu vòng rồi.

Đột nhiên, người trẻ tuổi tức giận gầm lên, kéo bọn họ ra khỏi trạng thái trầm tư: “Chết tiệt!

Quả nhiên là có thứ này!”

Lữ Cánh Nam ngước mắt nhìn, lúc này họ đã xuống đến hết con đường dốc hình xoáy ốc

đó. Nơi này còn cách ngọn lửa bên dưới khoảng hơn nghìn mét, khắp trên vách đá là vô số

bánh răng đang từ từ chuyển động, giống như ở bên trong một chiếc đồng hồ tinh xảo vậy. Bên

cạnh vách đá có một sảnh đường lớn, bên trong cũng toàn các bánh răng cỡ lớn đang chuyển

động. Một cây cầu kim loại bắc qua khoảng không phía trên đại điện, đầu bên kia là con dốc

lớn, tạo thành một góc bốn mươi lăm độ so với mặt đất. Người trẻ tuổi ấy đang nhìn con dốc

này lầm bầm chửi rủa, song Lữ Cánh Nam cũng không nhận ra có gì đặc biệt cả.

Cô đang nghĩ ngợi, bỗng nghe bên dưới con dốc vang lên những âm thanh nghe như thể một

đoàn tàu hỏa vừa chạy qua, liền sau đó, một phiến đá trên con dốc thụt xuống, để lộ một miệng

hang hình chữ nhật dài chừng hai mét, có ánh sáng từ bên trong lối ra.

“Xin mời.” người trẻ tuổi đưa tay ra hiệu với pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam, không ngờ lại

yêu cầu bọn họ xuống trước. Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn pháp sư, ông khẽ gật đầu, hai người

liền lần lượt lách người chui vào trong miệng hang hình chữ nhật đó. Tiếp theo, người trẻ tuổi

cũng bảo Mẫn Mẫn: “Cô cũng xuống đi.”

Cuối cùng, y nhìn đám lính đánh thuê còn lại nói: “Cũng hết cách rồi, muốn tiến vào khu

vực trung tâm thật sự, nhất thiết phải đi qua chỗ này, nghe theo mệnh trời vậy, thằng nào thích

thì đi theo tao.” Nói đoạn, y cũng nhảy xuống miệng hang, có tiếng sột soạt vẳng lên, dường

như sau khi nhảy xuống, sẽ phải trượt một đoạn dài theo con dốc.

Bọn lính dánh thuê không có chủ kiến, sau khi mấy tên bạo gan nhất nhảy xuống, lại có mấy

tên khác nhảy theo. Những tên còn lại đang do dự không biết có nên nhảy xuống hay không,

phiến đá vừa thụt xuống ấy lại từ từ khít lại, ngăn cách bọn chúng ở bên ngoài.

Lại mấy ngày trôi qua, Trác Mộc Cường Ba và Merkin rốt cuộc cũng đến được chỗ ván treo.

Lúc này, bọn Khafu cũng đã rời khỏi đây từ lâu rồi.

Nhìn những tấm ván khổng lồ không ngừng chuyển động, Merkin trầm trồ cảm thán mãi

không thôi. Y nói với Trác Mộc Cường Ba: “Xem ra chúng ta sắp đến được trung tâm điều

khiển của cơ quan thần miếu rồi, anh xem nơi này đi, nó làm tôi nghĩ đến một công xưởng với

trí năng nhân tạo...”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chỗ này đâu đâu cũng là cửa ra, chúng ta nên đi lối nào đây?”

Merkin đề nghị: “Chọn bừa một trong hai cánh cửa thử xem, không mở được thì quay trở

lại.”

Hai người hoàn toàn không có mục đích, cứ thuận theo sự di động của ván treo, chọn lấy hai

lối ra ngẫu nhiên, phát hiện chúng lại dẫn đến những gian điện khác, bèn quay trở về. Đến lần

thứ ba trở lại gian điện toàn ván treo lơ lửng ấy, Trác Mộc Cường Ba bỗng chỉ vào một tấm

ván treo: “Đây là...”

Merkin nói: “Là ký hiệu! Bọn chúng đã đến đây, xem chừngbọn chúng cũng đã bị tách ra,

thế nên mới không thể không để lại ký hiệu đánh dấu đường.” Hai người lần theo những tấm

ván treo có ký hiệu di chuyển một lúc, Merkin bỗng nhhiên sực nhớ ra gì đó, lại nói: “Liệu có

gì gian trá ở đây không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi nghĩ là không, vì nguyên nhân gì đó, bọn chúng từng để lại

đây một nhóm người. Những ký hiệu này chắc là cho bọn lưu lại đây lần theo nhóm đi trước.”

Merkin hồ nghi hỏi: “Sao anh biết?”

Trác Mộc Cường Ba cười nhạt, nói: “Tôi tự có cách.”

Merkin nhìn theo ánh mắt gã, cẩn thận quan sát kỹ một lượt, chỉ thấy bên cạnh ký hiệu đó,

còn một ký hiệu khác rất mờ nhạt, như thể dấu móng tay ấn vào vậy, liền hiểu ra ngay: “Đồng

bọn của anh cũng để lại ký hiệu.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Cũng không biết đã bao lâu rồi, chúng ta phải nhanh lên mới

được.” Hai người đi theo những ký hiệu đó đến chỗ con dốc bên bờ miệng núi lửa. Khi thình

lình trông thấy “ống khói” khổng lồ cùng dòng dung nham đỏ rực bên dưới, cả hai đều sững

người kinh ngạc.

Người Qua Ba cổ đại đã đào khoét đường hầm trong lòng nham thạch, dẫn nước tuyết tan từ

trên đỉnh núi xuống đây, đổ vào dung nham, tạo một lượng lớn hơi nước, thúc đẩy những cánh

tay máy khổng lồ chuyển động như pít tông. Những tiếng “phù... phù...” vang lên liên tiếp,

từng khối sương mù phun ra bên dưới các cánh tay kim loại.

Merkin trợn tròn mắt lớn tiếng nói: “Trời đất, máy hơi nước, không ngờ bọn họ đã phát

minh ra máy hơi nước... thế này... thế này... không biết là sớm hơn châu Âu bao nhiêu năm

nữa, chỉ là... cỗ máy vẫn luôn bị giấu kín ở đây, không bị người đời phát hiện.”

Trác Mộc Cường Ba không có thời gian để cảm khái trước những cánh tay máy khổng lồ

đó, trong đầu gã chỉ nghĩ đến việc tập hợp với pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam. Hai người chạy

men theo con đường dốc, chỉ thoáng sau đã đến được đại điện đầy những bánh răng đang

không ngừng chuyển động.

Vừa vào bên trong, Trác Mộc Cường Ba liền cảm thấy không ổn, liền vội kéo Merkin lùi lại

một bước. Mặt sàn kim loại dưới chân họ bắn tóe lên mấy đóa hoa lửa.

“Ha ha ha ha,” một tràng cười điên dại vang lên từ trên cao, “Merkin, tao đợi mày lâu lắm

rồi.”

Merkin ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy Khafu đang ngồi trên trục giữa của một chiếc bánh

răng, tay cầm súng. Xung quanh y, lấp ló mấy tên lính đánh thuê giương súng, dường như cũng

giật mình phản ứng.

Merkin hít sâu một hơi, giận dữ gầm lên: “Khafu, tao không ngờ mày còn mặt mũi gặp tao

nữa đấy!”

“Khục khục khục, ha ha ha,” Khafu cười rộ lên một tràng: “Tại sao không dám gặp mày,

thắng làm vua, thua làm giặc, mày chẳng qua chỉ là một kẻ thất bại đáng thương mà thôi.”

“Khafu, tao không hiểu, từ đời ông nội, hai nhà chúng ta đã hợp tác rất vui vẻ, tại sao mày

lại phản bội tao? Trước khi chết, tao cho mày một cơ hội giải thích!” Mặc dù các bánh răng

khổng lồ chuyển động ngấu ngiến vào nhau phát ra những âm thanh ken két, nhưng những gì

bọn họ nói vẫn nghe rõ mồn một.

Khafu nói: “Đúng thế, trước đây chúng ta hợp tác rất vui vẻ, nhưng mày cũng biết đó, đó chỉ

là hợp tác mà thôi. Lần này, chẳng qua tao lựa chọn một đồng minh mạnh mẽ hơn, bởi thế

đành phải khiến mày chịu thiệt thòi vậy.”

Merkin đáp: “Mày nhầm rồi, Khafu, tao sẽ chứng minh cho mày thấy, tao mới là mạnh nhất.

Đáng tiếc, có lẽ này không thấy được lúc đó. Hẳn là mày hiểu rõ, tao không giờ khoan thứ cho

kẻ phản bội. Hôm nay, cho dù làm trái lời thề của gia tộc, tao cũng phải kết liễu mày ở nơi

đây!”

Khafu nói: “Câu này phải để tao nói mới đúng, tao cũng muốn chiến đấu với mày một trận

đường đường chính chính từ lâu rồi. Cược bằng cái mạng của chính mình, Merkin, lên đi!” Dứt

lời, y liền tung mình nhảy lên, trực tiếp đáp xuống mặt cầu phủ lưới kim loại, làm mặt cầu rung

lên một chặp.

Merkin ngăn Trác Mộc Cường Ba đang định xông lên, nói với giọng thành khẩn: “Đây là

cuộc chiến giữa tôi với hắn, anh đừng nhúng tay vào,”

Khafu cũng ra lệnh cho mấy tên lính đánh thuê: “Mấy thằng chúng mày không được ra tay

lúc tao với nó chiến đấu, bằng không, tao sẽ tự tay làm thịt chúng mày!”

Merkin và Khafu song song bước lên mặt cầu kim loại chỉ cho phép một người bước qua,

đứng mặt đối mặt. Hai người cao bằng nhau, chỉ khác là, thể hình Khafu to lớn hơn Merkin

một chút, đồng thời, tuổi tác của y cũng lớn hơn Merkin nhiều. Nhìn mái tóc và số nép nhăn,

phỏng chừng y cũng sáu mươi tuổi rồi.

Hai người nhìn nhau chằm chằm, ánh mắt lạnh lẽo, sát khí tỏa ra ngùn ngụt. Nhất thời, cả

gian phòng tĩnh lặng như tờ, chỉ nghe thấy tiếng những cái bánh răng chuyển động suốt ngàn

năm phát ra những tiếng”két két, két két” theo một nhịp điệu nhất định.

Không thể phân biệt được ai ra tay trước, có lẽ là cả hai cùng động thủ. Merkin làm động tác

như rút súng ra, Khafu liền vươn tay chộp tới, tức thì Merkin biến thế giương cánh tay lên đấm

mạnh. Khafu lập tức nắm bàn tay lại, tóm lấy nắm đấm của Merkin. Liền ngay sau đó, nắm

đấm còn lại của Merkin và đòn đánh chân cùng lúc phát động. Hai người đều hiểu rõ, đã đến

tốc độ như họ rồi, chỉ cần hơi chậm lại một chút sẽ lập tức lộ sơ hở. Lúc rút súng ra, rất có thể

đã ăn một cú đấm của đối phương rồi, vì lấy công đối công, dùng quyền đỡ quyền, dùng cước

chặn cước. Chân hai người ngoắc vào nhau như hai cái cung, một tay giữ chặt tay kia của đối

phương, sau đó gần như cùng một lúc, hai cái đầu thình lình ngửa ra sau đập mạnh tới trước.

“Bốp” một tiếng, cả hai cùng lùi bước.

Lần này lấy cứng chọi cứng, không ai chiếm được lợi thế.

Nhưng Merkin dù sao cũng ở tuổi tráng niên, tốc độ phản ứng cũng nhanh lẹ hơn, vừa bị

chấn động bật lùi về sau, y đã lập tức tỉnh táo lại. Ngay trong bước đầu tiên, y đã rút súng ra,

còn Khafu phải đợi đến bước thứ hai mới bắt đầu rút súng. Lúc này, mặc dù vẫn ở trong trạng

thái mơ hồ, song họng súng của Merkin đã nhắm vào thân hình của Khafu rồi.

“Roẹt... roẹt...” trên không trung lóe lên hai tia lửa, kế đó chỉ nghe thấy “pằng” một tiếng.

Merkin đã giở ra bản lĩnh đặc biệt của mình... bắn nhanh, một khẩu súng bắn ra hai viên đạn,

nhưng những người xung quanh chỉ nghe thấy một tiếng nổ.

Tiếc rằng đối phương là Khafu chứ không phải ai khác. Y đã cực kì quen thuộc phong cách

chiến đấu của Merkin, tuy vẫn chưa kịp rút súng ra, nhưng cả người y đã bật lên không trung.

Đang ngả người giật lùi thình lình lại xông tới phía trước, Khafu xoay ngang trên không, tựa

như con cá măng quẫy mình trong nước, kế đó xoay tròn mấy vòng cực nhanh, tránh được hai

viên đạn của Merkin trong gang tấc.

Có điều, Merkin một khi đã cầm khẩu súng trên tay thì tuyệt đối không dừng lại trước khi

hết đạn. Vô số viên đạn lần lượt rít lên, như mọc mắt lao vun vút về phía Khafu, phong tỏa mọi

đường tấn công và rút lui của y. Vấn đề này cũng không nằm tầm dự tính của Khafu, thân hình

y xoay chuyển trên không trung, không ngờ đã nhảy ra khỏi phạm vi của mặt cầu kim loại, thả

mình rơi xuống phía dưới. Bánh răng khổng lồ bên dưới cách mặt cầu treo này phải đến mấy

chục mét, mắt thấy Khafu sắp rơi tự do, thì y lại khéo vươn tay, bám vào mép cầu, lợi dụng

trọng lực đảo một vòng phía bên dưởi rồi lại lao lên từ phía mép cầu bên kia. Thật không ai có

thể ngờ một lão già sáu mươi lại có thân thủ nhanh nhẹn nhường này.

Khafu lộn người lên, cũng là lúc Merkin bắn hết một băng đạn, đang chuẩn bị dùng kỹ thuật

thay băng đạn trong chớp mắt đổi một băng đạn khác. Nhưng Khafu không chỉ lao lên, mà

cùng với y là những tia lửa lóe lên liên tiếp. Trác Mộc Cường Ba chưa từng thấy Khafu nổ

súng lần nào, nhưng vừa nhìn thấy những tia lửa đó, gã biết Merkin gặp phải kình địch rồi.

Những tia lửa xẹt qua không trung ấy cơ hồ xuất hiện cùng một lúc, lại hoàn toàn song song

nhau, cho dù dùng thước kẻ mà vẽ sợ rằng cũng không được thẳng như thế. Từ điểm này, có

thể thấy độ trầm ổn của cánh tay cũng như kỹ thuật bắn súng của ông già này đều hết sức ghê

gớm!

Kỹ thuật bắn súng đáng sợ khiến Merkin không kịp thay băng đạn, nhưng y cũng không hề

hoảng hốt. Chỉ thấy cổ tay y rung lên, ném luôn cả khẩu súng ra, đánh chệch phát súng vốn dĩ

đã nhắm vào người y của Khafu. Đồng thời, cú va đập ấy đã làm khẩu súng bật ngược trở lại.

Merkin vươn tay bắt lấy, băng đạn mới cầm trên tay cũng được lắp vào trong chớp mắt. Tiếp

sau đó, liên tiếp có những tia lửa lóe lên, hai người lao vào cận chiến, vừa vung tay múa chân

đá, vừa vươn súng xạ kích, cùng lúc lại né tránh những viên đạn xẹt qua chỉ trong gang tấc.

Sau mấy lượt vừa tấn công vừa né đòn, trên người cả hai đã xuất hiện những vết đạn sướt

qua với mức độ nặng nhẹ khác nhau, nhưng cũng đều không ảnh hưởng gì lắm. Bắn hết đạn, họ

lấy súng làm vũ khí nện lên đối thủ, kế đó là lao vào vật nhau, rồi tách ra. Hai người như đang

làm ảo thuật, không biết từ đâu lại rút ra một khẩu súng khác, lại bắt đầu so tài xạ kích cận

chiến.

“Bốp”, hai người lại tách nhau ra, hai tay Merkin bám vào lan can cầu, lồng nhực phập

phồng lên xuống. Khafu nhe răng cười nói: “Vô dụng thôi, những thứ mày biết đa số đều học

của tao, từ nhỏ mày đã luôn muốn chiến thắng tao nhưng chưa bao giờ thành công cả, trong

lòng mày luôn sợ hãi tao! Mày vĩnh viễn không bao giờ thắng được tao đâu!”

“Vậy sao.” Merkin lạnh lùng cười gằn, bất ngờ ngửa cổ gầm như dã thú, bất chấp tất thảy

lao tới chỗ Khafu, chỉ nghe tiếng chân giẫm lên mặt cầu kim loại “đang, đang, đang, đang,

đang, đang...” cả mặt cầu rung lên bần bật.

Khafu đấm ngực đánh “thình” một cái, cũng gầm lên giận dữ, xông tới đón đầu Merkin. Hai

người lại quấn rít vào nhau, nhưng vì thể lực đã tiêu hao gần hết, động tác của họ không còn

nhanh nhẹn linh hoạt như lúc đầu, súng cũng đã hết đạn từ lâu, vốn là tỷ đấu kỹ xảo, giờ đây lại

biến thành đấu sức. Nếu đã không thể đánh trúng đối thủ khi nghiêng người né tránh, vậy thì

dứt khoát không né nữa, cứ ngươi một đấm, ta một đấm, lấy cứng chọi cứng trên cây cầu hẹp.

Khafu đấm trúng mặt Merkin một cú, Merkin nghiêng đầu đi, lật cánh tay đấm lại một đấm.

Khafu giơ tay lên chặn, kế đó là nhắm vào bụng Merkin, một đấm, một đấm, lại một đấm nữa.

Merkin gồng cơ bụng lên chịu đòn, lồng ngực phát ra những tiếng gầm gừ khe khẽ, hai tay

kẹp chặt đầu Khafu, dồn hết sức mạnh xuống, đồng thời húc mạnh đầu gối lên. Khi Khafu lùi

về sau, y lại bổ thêm một cú đấm giữa trán. Khafu chỉ lùi hai bước, rồi lại lao lên, đấm một

đấm vào trán Merkin, kế đó tay kia ngoặt ra, tung một đấm nữa vào má đối thủ. Merkin bị đánh

lệch cả đầu sang một bên, lập tức ngoảnh mặt lại, cũng trả một cú đấm cho Khafu lệch mặt.

Hai người đòn nào đòn nấy đều trúng đích, mồ hôi lẫn máu văng tung tóe, đến cả Trác Mộc

Cường Ba cũng cảm thấy hơi tàn khốc. Đúng lúc ấy, một biến bất ngờ xảy ra, Merkin gồng

mình đón đỡ một đòn trời giáng của Khafu, cả người cong lại, rồi tựa như một con trâu điên

ôm chặt lấy thân thể còn to lớn hơn cả y của Khafu, hai chân chống mạnh xuống sàn, vặn

người phát lực, không ngờ dùng cách đánh ngọc đá cùng tan, muốn ôm Khafu nhảy xuống bên

dưới.

Khafu dồn sức vào hai cánh tay vùng ra thoát được. Nhưng Merkin vẫn ôm eo y đẩy ra bên

ngoài. Bàn tay to bè của Khafu liền nhằm vào hai bên tai của Merkin vỗ mạnh tới. Đây là chiêu

cực kỳ tàn bạo nhưng cũng cực kỳ thực dụng trong chiến đấu cận thân. Bàn tay Khafu còn to

hơn tay Merkin một cỡ, gần như hai cái quạt tai voi, sau cú vỗ mạnh đó, Merkin chỉ thấy

choáng váng mặt mày, suýt nữa ngất xỉu tại chỗ. Có điều, y vẫn nghiến răng chịu đựng, dồn

sức phát lực một lần nữa. Nửa thân trên của Khafu bị dồn ra ngoài lan can, lơ lửng giữa không

trung, giờ lại bị thúc thêm lần nữa, liền bị mất thăng bằng ngay lập tức.

Một chút bất ngờ ngoài dự tính này không làm khó được Khafu, một tay y vươn ra níu chặt

Merkin, tay kia rút dây móc đeo bên người móc vào lan can cầu. Hai người cùng lúc lộn ra

ngoài, rơi xuống phía dưới. Nhìn bề ngoài có vẻ Khafu khống chế được Merkin, nhưng dù sao

tay kia của y vẫn phải giữ lấy dây móc, Merkin liền lợi dụng ưu thế một tay rảnh rang, nhanh

chóng triển khai thế tấn công với Khafu. Y dùng đầu, khuỷu tay, cánh tay nhiều hơn là nắm

đấm, hai người cứ thế quấn chặt nhau mà rơi xuống. Đúng vào khoảnh khắc sắp chạm đất,

Merkin nắm bắt cơ hội, đẩy mạnh Khafu xuống dưới, rồi lợi dụng cơ hội, dùng sức nhảy vọt

lên. Tuy phải ăn một đấm của Khafu, song Merkin giảm được phần lớn lực xung kích của đà

rơi từ trên cao xuống, lộn vài vòng trên không, hơi loạng choạng, rồi nhẹ nhàng tiếp đất.

Ngược lại, Khafu phải gánh cả trọng lực cộng với lực đẩy của Merkin, dây móc cũng không

chịu được, sau khi căng hết cỡ liền đứt phựt một tiếng. Mặc dù đã cố gắng điều chỉnh thân hình

trên không, nhưng y vẫn ngã vào bề mặt của bánh răng khổng lồ.

Khafu bật người dậy, chỉ thấy Merkin đang đứng ở đầu bên kia của bánh răng, hai người

nhìn nhau chằm chằm, bánh răng chuyển động đều đều, cảnh tượng sau lưng không hề biến

đổi. Đây là kết quả mà Merkin mong muốn. Y đem thân mình ra hứng đòn của Khafu, chính là

để đổi lấy lợi thế địa hình. Y rất hiểu rõ, dầu Khafu đã hơn sáu mươi tuổi rồi, dù tinh thần và

sức khỏe của y vẫn còn rất mạnh mẽ, nhưng giác quan cũng không thể tránh khỏi suy yếu. Cảm

giác của Khafu tuyệt đối không thể bằng một người ở tuổi tráng niên được. Từ việc lúc nãy

Khafu ngã xuống không thể đứng vững Merkin có thể nhận ra, ưu thế của mình chính là tuổi

tác và sự nhạy bén của các giác quan. Đồng thời, thể lực y cũng phục hồi nhanh hơn Khafu,

cho dù chỉ nhanh hơn một chút chút thôi thì trong cuộc đấu sinh tử này đó sẽ là nhân tố quyết

định thắng bại. Vì vậy, y nhất thiết phải tranh thủ thêm thời gian và không gian để hồi phục,

mà ở dưới này, nơi các bánh răng lớn nhỏ chuyển động theo các hướng khác nhau hoặc nhanh

hay chậm, ưu thế ấy của y sẽ càng lớn hơn nữa.

Khafu cười điên loạn, bổ nhào đến chỗ Merkin. Nhưng lần này Merkin không lấy cứng chọi

cứng nữa, y lách người sang một bước, lập tức đứng lên một bánh răng khác. Bánh răng này

chuyển động ngược chiều, chỉ thấy Merkin xoay một vòng, chớp mắt đã ra phía sau trục giữa

của bánh răng ấy. Khafu cũng giẫm một chân lên bánh răng đó, chẳng ngờ là bánh răng đó

chuyển động ngược chiều khiến trọng tâm cơ thể thay đổi ngay lập tức. Khafu lảo đảo, suýt

nữa là ngã nhào, khó khăn lắm y mới điều khiển được trọng tâm, trụ vững lại. Đến lúc này, y

mới bắt đầu cảnh giác.

Phải biết rằng, dọc đường tới đây, số lượng cơ quan mà Merkin và Trác Mộc Cường Ba gặp

ít nhất cũng nhiều gấp đôi so với bọn Khafu, nhất là sau khi Merkin học được kỹ thuật luồn

lách của bộ đội đặc chủng Trung Quốc, lĩnh ngộ của y đối với kỹ thuật tránh né đầy màu sắc

phương Đông này đã khiến kỹ xảo chiến đấu và né tránh của y tiến bộ một bước dài.

Cứ như vậy, thoạt nhìn Khafu có vẻ đang truy đuổi Merkin, nhưng kỳ thực Merkin đang dẫn

dụ Khafu xông tới. Y nhảy từ bánh răng này sang bánh răng khác, như thể rảo bộ trong sân,

thung dung tự tại, vận dụng bộ pháp biến ảo dẫn dụ Khafu. Thể lực Merkin đang từ từ hồi

phục, ngược lại, thể lực Khafu lại dần dần tiêu hao sau mỗi lần đối mặt với sự thay đổi trọng

tâm. Cứ kéo dài như vậy, sau khi Khafu nhảy qua mười mấy bánh răng, trọng tâm Khafu bắt

đầu xuất hiện dấu hiệu bất ổn, y ngã nhào lên bánh răng. Y cũng nhận ra có điều không ổn, liền

dứt khoát ngồi luôn trên đó, không đuổi theo Merkin nữa.

CỬU CUNG BIẾN (1)

Bán kính của những bánh răng này khoảng từ bốn đến năm mét trở lên, hoàn toàn có thể coi

như là một sàn đấu. Chỉ là, Khafu vừa dừng lại, di động thuận theo vòng quay của bánh răng,

Merkin thoắt đã biến mất khỏi tầm mắt. Khafu xoay một vòng, đảo mắt tìm kiếm Merkin một

vòng, không phát hiện ra bóng dáng đối thủ ở đâu, liền giận dữ ra lệnh: “Ra đây, đồ chuột

nhắt!”

Merkin vẫn không lộ tăm tích.

“Đồ chết nhát, mày chỉ biết trốn thôi sao?”

Merkin vẫn không hiện thân.

“Ha ha, còn nhớ năm ấy, tao với mẹ mày...”

Merkin vẫn im lìm lặng lẽ.

“Ông già mày là một thằng hèn, một thằng hèn không được gia tộc thừa nhận, nó...”

Khafu bắt đầu dùng những ngôn từ độc ác công kích, nhưng Merkin dường như vẫn không

hề tiếp chiêu, đột nhiên, Khafu nhớ ra một chuyện, lớn tiếng hét: “Tao nghe nói, gia tộc

Merkin, thực ra không bằng cứt chó...” Lần này, lời còn chưa dứt, Merkin đột nhiên xuất hiện

từ trên đỉnh đầu Khafu, bổ nhào xuống từ một trục bánh răng. Khafu đã có chuẩn bị trước, liền

thuận thế tóm lấy tay Merkin, ném cả người y ra xa. Nhưng cũng trong khoảnh khắc ấy,

Merkin đã tóm chặt cánh tay Khafu, đồng thời hai chân móc lại. Người y ngã lăn, đồng thời

cũng kéo theo Khafu lăn tròn dưới đất, sau đó y đạp mạnh chân, đá văng Khafu qua đầu. Khafu

kéo cánh tay Merkin giật mạnh, lại kéo thân thể Merkin lộn môt vòng.

Hai người cứ như vậy lăn lông lốc mấy vòng, đã đến mép bánh răng, Khafu thấy tình hình

không ổn, liền dồn sức bật lên, kéo Merkin lăn về trục giữa. Hai người đồng loạt tung về phía

đối thủ một đấm, bấy giờ mới tách ra. “Hây... a...” Khafu gầm lên, bật người lao tới, khí thế

cực kỳ hùng hổ. Merkin trầm tĩnh đối phó, trong mắt thoáng vẻ cười cợt, Khafu, lần này mày

tiêu rồi!

Song phương lại lấy cứng chọi cứng, nắm đấm của hai người cứ nhắm vào nhau mà nện

nhiệt tình. Ngươi đánh ra một cú, ta lùi một bước, dồn sức trả ngươi một đấm, ngươi không thể

không không lùi một bước. Cuộc chiến của hai người đến cuối cùng đã không còn là so đấu

thực lực nữa, mà biến thành một dạng so đấu ý chí. Nhưng trong cuộc đấu ngang tay này,

Merkin vẫn còn giấu một chiêu sát thủ khác.

Merkin tích tụ sức toàn thân, lại đấm ra một cú thật mạnh, đẩy Khafu lùi hai bước. Khafu

đang chuẩn bị công kích, đột nhiên cơ thể sững lại, kế đó liền nghe thấy một loạt tiếng “két

két”. Y trợn tròn mắt lên nhìn Merkin, vẻ mặt tựa hồ không dám tin, hai hàm răng nghiến chặt

vào nhau. Cuối cùng, một tiếng “rắc”, y đã nghiến vỡ cả răng. Chỉ thấy chân sau của y đã giẫm

vào khe hở giữa hai bánh răng khổng lồ. Lực nghiến khủng khiếp của hai bánh răng lập tức

khiến cẳng chân y nát bét. Cảm giác đau đớn khi xương cốt bị nghiền thành bột vụn trong nháy

mắt ấy lan truyền khắp thâu chân, dù là hạng người thép như Khafu, sau khi nghiến đến vỡ

răng cũng không thể kìm nén được mà bật ra tiếng thét thật thê thảm: “Á... á...”.

Sau tiếng kêu thảm thiết, thân thể y lập tức nghiêng đi, cánh tay cũng bị nghiến vào trong.

Bánh răng khổng lồ vẫn chuyển động đều đều, trong chớp mắt đã biến cánh tay Khafu thành vô

số mảnh vụn, một chút lực cản nhỏ bé ấy hoàn toàn không thể ảnh hưởng đến chuyển động của

bánh răng. Sắc mặt Khafu tái nhợt, nhưng không ngờ y vẫn chưa ngất xỉu tại chỗ.

Merkin ngồi xổm xuống trước mặt Khafu, đồng thời chập hai khẩu súng lúc nãy họ đánh

nhau làm rơi xuống lại, nhét vào khe hở của bánh răng. Thân súng lập tức bị nghiến cho oằn

lại, nhưng chuyển động của bánh răng cũng chậm lại, cứ nhích lên rồi lại thụt xuống, như thể

muốn lấy đà để tiếp tục vòng quay.

Mỗi bánh răng nhích lên nhích xuống như thế, thân thể Khafu lại run lên bần bật, cơn đau

dữ dội khiến toàn thân y không còn chịu sự điều khiển của ý thức nữa. Y vẫn trợn mắt trừng

trừng mắt nhìn Merkin, vừa run rẩy vừa nói: “Thằng nhãi, ha ha ha... tao... ha ha... không thua!

Tao... haha... chỉ là kém may mắn... kém may mắn... ha ha....”

Merkin lạnh lùng nói: “Thật là kém may mắn sao? Tại sao tao lại chịu hứng đòn để đẩy mày

xuống chứ? Kể từ khi mày rớt xuống dưới này, mày đã xác định phải đón nhận lấy nỗi đau mà

người bình thường không thể chịu đựng được đó rồi! Tao ít nhất cũng có mười cách để mày kẹt

vào trong bánh răng! Bây giờ, tao cho mày một cơ hội, nói ra kẻ hợp tác với mày là ai, tao có

thể cho mày một cái chết nhẹ nhàng!”

“Ha, ha, ha” Khafu run giọng cười rú lên: “Mày không đấu lại được y... vĩnh viễn mày

không bao giờ thắng được y.” Miệng Khafu đầy máu tươi, cánh tay còn lại đột nhiên vươn tay

chộp lấy cổ áo Merkin, định kéo theo y vào khe bánh răng. Merkin giật mình lùi lại, Khafu liền

thừa cơ hất khẩu súng Merkin kẹt vào giữa hai bánh răng.

Bánh răng tiếp tục chuyển động, chân còn lại của Khafu trầm xuống, cả nửa người y kẹt vào

trong. Máu từ thất khiếu trên mặt y trào ra, trước lúc chết, y vẫn gào lên: “Mày không thắng

được người đó đâu!” Merkin loạng choạng lùi lại, bấy giờ y mới nhận ra, chút sức lực cuối

cùng của mình đã tiêu hao hết, thậm chí ngồi cũng rất tốn sức, chỉ thấy hông mềm nhũng ra, y

ngã người nằm luôn xuống.

“Bang, bang.” Có người gõ vào lan can cầu kim loại, Merkin đảo mắt nhìn lên, thấy Trác

Mộc Cường Ba đứng trên cầu, hỏi vọng xuống: “Có lên đây không?”

Merkin đảo mắt, chỉ thấy trên các trục giữa bánh răng vất vưởng mấy tên lính đánh thuê

mềm nhũn. Thì ra, khi y và Khafu đối chiến, Trác Mộc Cường Ba cũng hoạt động một chút,

tránh để xảy ra những chuyện ngoài tầm kiểm soát. Vốn dĩ, với biểu hiện lúc đầu của Merkin,

Trác Mộc Cường Ba cảm thấy y cũng khá được, nhưng biến cố bất ngờ nảy sinh vào phút cuối

cùng kia, lại khiến gã cảm thấy người này thực sự quá tàn khốc. Vốn dĩ là cuộc đối đầu đường

đường chính chính giữa hai võ sĩ, rốt cuộc lại không đường đường chính chính đánh bại đối

thủ, Merkin, vẫn thích sử dụng những phương thức riêng của y để kết thúc.

Merkin buộc dây thừng vào thắt lưng để Trác Mộc Cường Ba kéo lên. Gã đỡ y đến chỗ con

dốc, đoạn nói: “Tôi xem rồi, chỗ này không có lối ra nào cả, kỳ lạ thật, ký hiệu rõ ràng là chỉ

đến nơi này, Khafu cũng ở lại đây canh gác, vậy mà không có đường nào để đi.” Merkin đẩy

Trác Mộc Cường Ba ra, cả người mềm nhũn, lảo đảo ngã xuống con dốc. Con dốc bốn mươi

lăm độ này dường như khiến y nhớ ra điều gì đó. Y áp tai xuống đất, tập trung toàn bộ tinh

thần chăm chú lắng nghe.

“Sao rồi?” Trác Mộc Cường Ba cũng áp tai xuống sàn, chỉ nghe bên dưới dường như có rất

nhiều máy móc đang hoạt động, còn có cả tiếng bánh răng chuyển động và những tiếng nghe

như những vật thể khổng lồ đang cọ sát vào nhau.

Merkin lắng nghe một lúc, rồi bò lên thêm mấy bước, sau đó lấy ngón tay phủi bụi bám trên

con dốc. Chỉ thấy y nhìn lên một nhúm bụi nhỏ, gầm gừ tức giận: “Chó chết, con bà nó, Cửu

Cung biến!” Trên mặt y nở một nụ cười thê thảm.

“Cửu cung biến là trò gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, những ngày này gã và Merkin

đã vượt qua vô số cạm bẫy trong Bạc Ba La thần miếu, những lần thập tử nhất sinh cũng nhiều

không đếm xuể, thứ cơ quan cạm bẫy gì có thể khiến Merkin nở một nụ cười tuyệt vọng thế

này, chắc chắn không thể tầm thường được.

Merkin lật người lại, ngửa mặt lên trần nhà, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Có biết khối

rubic không? Chính là cái thứ bọn trẻ con hay chơi ấy, vặn qua vặn lại, biết phải không? Đặc

điểm lớn nhất của nó chính là chiều dài, chiều rộng, chiều cao của nó đều là do ba khối lập

phương nhỏ ghép lại mà thành, mỗi mặt đều là chín khối lập phương chồng lên ba tầng, tất cả

hợp thành một khối lập phương lớn. Kết cấu như vậy, chúng ta gọi là Tam Cung biến. Sau đó,

hãy tưởng tượng khối lập phương kết cấu Tam Cung biến đó là một khối lập phương nhỏ, chín

khối lập phương như vậy hợp thành lại một mặt, chồng lên ba tầng, hình thành một khối lập

phương lớn hơn, gọi là Lục Cung biến. Tương tự như vậy, chín khối lập phương Lục Cung

biến lại hợp thành một mặt, chồng lên ba tầng, đây là Cửu Cung biến. Đây là một khối lập

phương Cửu Cung biến hoàn chỉnh, cạnh đáy của nó do hai mươi bảy căn phòng nhỏ mà hợp

thành, gồm hai mươi bảy tầng, tổng cộng một vạn chín ngìn tám trăm sáu mươi ba gian phòng,

mỗi gian mở sáu cánh cửa, lần lượt là trước, sau, trái, phải, trên dưới!”

“Cũng có nghĩa là, đây là một mê cung lập thể do hơn một vạn gian phòng nhỏ hợp lại?”

Trác Mộc Cường Ba dò hỏi.

“Không...” Merkin lắc đầu, “chỉ là hơn một vạn gian phòng thì vẫn còn đỡ! Vấn đề mấu

chốt là chữ biến trong Cửu Cung biến cơ.” Merkin rất muốn giải thích rõ ràng cho Trác Mộc

Cường Ba biết Cửu Cung biến là thế nào, nhưng lại không tìm được ngôn từ thích hợp, ngẫm

nghĩ một lúc, liền giơ đám bụi mà mình vừa nhón được cho Trác Mộc Cường Ba xem, đồng

thời nói: “Sờ thử coi!”

Trác Mộc Cường Ba nhón tay vân vê đám bụi ấy, chỉ thấy rất mịn, gã cũng không ngờ

những hạt bụi ấy lại mịn hơn cả phấn trang điểm của phụ nữ nữa. Vì vậy, cổ nhân thường sử

dụng loại cát này làm chất bôi trơn cho các cơ quan máy móc cỡ lớn, có thể giảm thiểu rất

nhiều ma sát. Thông thường, ở trong các mộ cổ hay kiến trúc cổ của Trung Quốc, nếu xuất

hiện loại cát này thì điều đáng lo nhất chính là gặp phải Cửu Cung biến. Bởi vì, loại chất bôi

trơn này có thể khiến hơn một vạn căn phòng trong Cửu Cung biến chuyển động toàn bộ!”

“Chuyển động?” Trác Mộc Cường Ba nhíu mày.

Merkin đột nhiên nghĩ ra điều gì đó, vội nói: “Có rồi, thử tưởng tượng xem, trong một cái lu

nước bịt kín, bỏ vào rất nhiều bóng bàn. Do tác dụng của lực nổi, bóng bàn sẽ nổi lên mặt nước

đúng không?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng vậy.”

Merkin lại tiếp lời: “Nhưng vì lu nước này bị bịt kín, những quả bóng bàn ấy chất chồng lên

nhau rất nhiều tầng, toàn bộ đều ngâm trong nước, phải không? Lúc này, nếu thêm một chút gì

đó lên một trong những quả bóng bàn ấy, thay đổi trọng lượng ban đầu của nó, vậy thì sẽ như

thế nào?”

“Nó sẽ chìm xuống.” Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát rồi trả lời.

Merkin lắc đầu: “Không đúng, nếu trọng lượng thêm vào quả bóng bàn không lớn hơn tác

động của lực nổi lên nó thì sao? Nó sẽ không chìm xuống, mà chỉ thay đổi hướng chịu lực thôi.

Vốn dĩ, những quả bóng bàn này chen chúc nahy trong vật chứa, lực tác động lên các phía đều

đạt đến một dạng cân bằng. Nếu trọng lượng của một quả đột nhiên thay đổi, cân bằng này sẽ

bị phá vỡ, nó có thể bị những quả bóng bàn xung quang chèn sang bên trái, cũng có khả năng

bị đẩy sang mọi hướng. Mà một quả bón bàn này chuyển động, toàn bộ những quả bóng còn lại

cũng sẽ chuyển động theo.

Trác Mộc Cường Ba chợt thấy lạnh cả sống lưng, lẩm bẩm: “Ý ông là, những gian phòng

này...” Merkin lạnh lùng nói: “Đúng vậy, tuy bên trong còn các cơ quan và nguyên lý khác

nữa, nhưng tôi không phải người chuyên nghiên cứu thứ này, cũng không thể giải thích rõ ràng

hơn với anh được. Tóm lại, một khi chúng ta bước vào trong, dù rơi vào gian phòng nào chăng

nữa, quỹ tích di động của các gian phòng cũng sẽ hoàn toàn ngẫu nhiên, đây chính là Cửu cung

biến! Đây là cảnh giới cao nhất của thuật bố trí cơ quan cạm bẫy cổ đại Trung Quốc, à không,

phải nói là thế giới mới đúng. Đến nay, tính cả anh nữa, thì những người biết đến sự tồn tại của

nó cũng không quá con số chín. Chỉ cần biết được kết cấu và nguyên lý, ắt sẽ tìm ra được

phương pháp phá giải bất cứ loại cơ quan cạm bẫy nào trên đời, chỉ riêng Cửu Cung biến, duy

nhất có Cửu Cung biến, dù có nghiên cứu thấu triệt nguyên lý của nó, thì khi đối mặt, dẫu là vị

đại sư phụ cơ quan thuật cao minh nhất cũng chỉ còn biết bó tay. Sau khi tiến vào, chỉ còn nước

nghe theo mệnh trời mà thôi.”

Tới đây, Merkin méo miệng cười khổ một tiếng, nói: “Có biết tại sao tôi phải tìm đủ mọi

cách để kiếm được loại thực phẩm nén mà người Mỹ mới nghiên cứu ra này hay không?

Không chỉ để ăn trên đường thôi đâu, loại cơ quan như Cửu Cung biến này, một khi tiến vào

trong, nếu may mắn thì không chừng chỉ cần xuyên qua mấy chục gian phòng đã thoát ra được

rồi, còn nếu không may thì có ở trong đó đi vòng vòng cả năm trời cũng vẫn giẫm chân tại chỗ.

Chính bởi sự khó lường này của nó, nên cổ nhân vẫn thường đặt Cửu Cung biến trên con

đường nhất thiết phải đi qua nếu muốn tiến vào kho báu quan trọng nhất. Chúng ta đúng là xúi

quẩy hết mức, tôi tưởng sẽ không đụng phải thứ này nữa chứ.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Sao ông biết rõ vậy? Đã từng gặp rồi à?”

Merkin gật đầu đáp: “Trước đây chúng tôi từng khai quật ba tòa kiến trúc dưới lòng đất thời

Nam Bắc triều, đều gặp phải thứ này. Có điều, do hạn chế về địa thế, những nơi đó đều tương

đối nhỏ, không đạt được yêu cầu của Cửu Cung biến. Mặc dù vậy, chúng cũng khiến chúng tôi

nếm đủ mùi đau khổ rồi. Thứ này tương truyền do Gia Cát Lượng phát minh ra, trong các mộ

cổ thời Tùy Đường đều không có, chứng tỏ tại thời điểm ấy nó đã thất truyền, mà trước thời

Nam Bắc triều cũng không thấy có, nên chúng tôi có thể khẳng định điều đó đúng đến 70%.

Không ngờ thứ đã thất truyền từ thời Đường này, lại xuất hiện ở nơi đây. Rốt cuộc bọn họ làm

cách nào vậy? Với quy mô của Bạc Ba La thần miếu, giờ chúng ta chỉ có thể cầu nguyện,

mong sao cổ nhân dựa theo đồ án thiết kế mà xây dựng nên Cửu Cung biến, chứ đừng làm ra

thứ gì lớn hơn nữa mà thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu thứ này thực sự không có cách phá giải, nghãi là người thiết

kế dường như không có ý định để bất cứ ai vượt qua nơi này, vậy tại sao không trực tiếp bít kín

luôn đi cho đỡ phiền phức.”

Merkin nói: “Thực ra, cũng không phải không có cách phá giải. Chỉ là, phương pháp phá

giải này vô cùng huyền bí, phức tạp, chúng ta không thể hiểu nổi. Anh có biết Gia Cát Lượng

sở trường gì nhất không? Bát Quái, Bát Quái trận, Cửu Cung biến này cũng vậy, nghe nói,

trong sự dịch chuyển ngẫu nhiên của các gian phòng cũng có quy luật của sự ngẫu nhiên, ngầm

hợp với thiên ý, phàm là người tính thông quẻ tượng Chu dịch đều có thể phá giải. Mỗi khi tiến

vào một gian phòng, phải quăng ra một quẻ, dựa theo thiên thời địa lợi nhân hòa và quẻ tượng

để tìm kiếm lối ra. Mà Chu Dịch ấy rốt cuộc là trò gì chứ? Ném đồng tiền, lại còn phải thành

tâm thành ý mới linh nghiệm, anh nói xem, chúng ta dựa vào căn cứ khoa học nào đây? Làm

sao mà phá giải được?”

Trác Mộc Cường Ba lập tức nghẹn họng, mặc dù cơ quan cổ thuật cổ đại của Trung Quốc đa

phần chịu ảnh hưởng của Chu Dịch, rất nhiều mê cung và bố cục kiến trúc dựa theo phân bổ

trong Bát Quái đồ, nhưng những học vấn về bốc quẻ Chu Dịch này, bọn họ hoàn toàn không

hiểu gì cả. Thêm nữa, đối với họ, thứ này đích thực không có căn cứ khoa học. Trác Mộc

Cường Ba trầm ngâm giây lát, đoạn nói: “Ra sao thì ra, tôi nhất định phải tiến vào. Thêm nữa,

ông thấy đấy, chỉ có mấy tên lính đánh thuê ở lại bên ngoài canh giữ, còn phần đông đều đã

vào trong rồi, nói không chừng trong đó cũng không đáng sợ như ông nói đâu.”

Merkin cười khan một tiếng, đột nhiên ngồi bật dậy, nghiêm sắc mặt nói: “Cửa sắp mở rồi.”

Chấn động ngầm bên dưới dần lan lên phía trên, một phiến đá ở chính giữa con dốc đột

nhiên thụt xuống, rồi rụt vào bên trong, để lộ ra một cửa hang hình chữ nhật dài chừng hai mét,

bên trong có ánh sáng hắt ra. Trác Mộc Cường Ba liếc nhìn Merkin, nói: “Tôi sẽ xuống dưới

đó,

ông

đi

không?”

“Hừ!” Merkin cười chua chát, “hai người chết, dẫu sao cũng tốt hơn là một.”

Hai người lần lượt nhảy xuống cửa hàng, phía trước là một đoạn dốc, sau đó đến một chỗ rẽ

ngoặt. Merkin nói, đoạn dốc ấy là đường nối, sau chỗ rẽ chính là Cửu Cung biến.

Hai người ngoặt qua chỗ rẽ rồi trượt vào một gian phòng nhỏ vuông vắn, dài rộng cao bằng

nhau, đều khoảng chừng mười mét, nhưng đối với hai người họ, thế này vẫn là một gian phòng

lớn lắm rồi. Bảy trong tám góc nơi ba mặt phẳng giao nhau có đúc hình đầu thú, hình dạng

quái dị, mỗi đầu thú ngậm một viên đá phát sáng to tướng, có lẽ giống như dạ minh châu, chất

liệu quái dị, lớn hơn nắm đấm nhưng nhỏ hơn đầu người. Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều

chưa từng thấy loại vật chất này bao giờ. nó phát ra ánh sáng nhàn nhạt, miễn cưỡng chiếu

sáng được cho cả gian phòng.

Trác Mộc Cường Ba mắt sáng như đuốc, thoáng cái đã nhìn rõ kết cấu bên trong cả gian

phòng, quả nhiên không khác gì những điều Merkin nói. Lối ra vào của gian phòng này đều mở

ngay chính giữa bốn mặt tường xung quanh, chính giữa trần nhà và sàn nhà cũng mở ra hai lỗ

hình vuông mỗi bề dài một mét. Giữa các lỗ vuông, đều có thang treo nối nhau. Ngoài chỗ có

thang ra, cả gian phòng, bốn vách, trần nhà, sàn nhà, gần như đều phủ kín bằng những phiến đá

hình vuông dài rộng năm mươi xăng ti mét, giống một thạch thất vuông vức không có gì đặc

biệt, không có các hình trang trí hoa mỹ đẹp đẽ, cũng không có phù điêu phức tạp gì. À, không

phải, có hình đầu thú ở bảy góc phòng, cả góc không có hình đầu thú kia cũng gồ lên một hình

lập phương nhỏ, thoạt nhìn giống như cái bệ bếp lò trong gia đình nông dân bình thường.

Có điều, trong gian phòng Trác Mộc Cường Ba và Merkin rơi vào này, cái bệ bếp lò ấy lại

đeo ngược trên góc mé phía Tây, ánh sáng quá ảm đảm, gã cũng không nhìn rõ được đó là thứ

gì.

Sau khi rơi xuống, Merkin liền nhao thẳng tới cái lỗ hình vuông ở chính giữa sàn nhà, thầm

tính toán khoảng cách giữa gian phòng này và gian phòng bên dưới, sau đó y cũng nhìn thấy

cái bệ bếp lò đeo ngược ở góc mé phía Tây, sắc mặt liền trầm xuống, gượng gạo nhe răng ra

cười chua chát: “Ha ha... Cửu Cung biến lồng ghép... khặc khặc... Cửu Cung biến lồng ghép...

hắc hắc...” Dường như y muốn dùng tiếng cười để làm dịu bớt tâm trạng đang dậy sóng, chỉ có

điều, điệu cười ấy thật đờ đẫn, dưới ánh sáng mờ mịt này, ngay cả Trác Mộc Cường Ba trông

thấy cũng không khỏi rùng mình.

“Này!” Trác Mộc Cường Ba chộp lấy Merkin lắc lắc, hỏi: “Chuyện gì vậy? Cửu Cung biến

lồng ghép có gì đặc biệt?”

“Đặc biệt... phải, rất đặc biệt,” Merkin nhìn chòng chọc vào cái bệ bếp lò kia, thẫn thờ nói:

“còn nhớ ví dụ về quả bóng bàn mà tôi nói lúc trước không? Giờ đổi lại một chút, mỗi quả

bóng bàn không đơn giản là một quả bóng bàn nữa, mà là một quả bóng bàn lớn, giờ đây chúng

ta đang ở bên trong quả bóng bàn nhỏ nằm trong quả bóng bàn lớn ấy. Giữa quả bóng bàn lớn

và bóng bàn nhỏ có một khoản gko. Anh biết làm vậy có tác dụng gì không?”

“Để làm gì?”

“Hừ hừ, nói cách khác, những gian phòng nhỏ này cũng giống các đại điện mà chúng ta đi

qua, mỗi gian phòng đều có bố trí cơ quan!” Merkin nghiến chặt hai hàm, âm thanh rít lên qua

kẽ răng, ngữ điệu âm u lạnh lẽo. Trác Mộc Cường Ba nghe mà thấy gai cả người.

CỬU CUNG BIẾN (2)

Trác Mộc Cường Ba nhìn theo ánh mắt Merkin, nói: “Đó chính là then chốt của cơ quan hả?

Treo ở tít trên cao kia, chúng ta không với tới, làm sao mà phá giải?”

Merkin nói: “Đây là may mắn của chúng ta, khi bệ cơ quan treo ngược phía trên, cổ nhân sẽ

không để cơ quan cạm bẫy trong gian phòng này khởi động. Khi anh trông thấy cái bệ kia xuất

hiện ở một trong bốn góc bên dưới, các loại cạm bẫy trong phòng sẽ nhất loạt khởi động.”

Trác Mộc Cường Ba nhất thời vẫn chưa hiểu ra, thầm nghĩ: “Kỳ quái thật, vậy đặt bệ cơ

quan lên trần nhà để làm gì chứ? Chẳng lẽ dùng để chỉ đường ra khỏi gian phòng này sao?”

Nghĩ ngợi giây lát, gã lại bước đến quan sát lỗ vuông kia. Cái lỗ hình vuông nối liền hai

gian phòng này không đơn giản chỉ là một lỗ hổng, mà là một thông đạo hình chữ nhật. Trác

Mộc Cường Ba dùng ánh mắt áng chừng chiều dai của thông đạo, thấy ít nhất cũng phải tầm

mười mét. Chẳng trách Merkin lại nói đây là Cửu Cung biến lồng ghép, cũng có nghĩa là, bên

ngoài gian phòng nhỏ này, ít nhất còn một gian phòng lớn mỗi bề chừng hai chục mét nữa.

Trác Mộc Cường Ba leo lên cầu thang, nhìn vào lỗ hổng hình vuông phía trên, cũng thấy

một thông đạo dài, đầu bên kia cũng chỉ thấy một lỗ vuông, bên trong lỗ vuông ấy lại là thông

đạo, bên trong nữa cũng lại như thế, dường như kéo dài vô tận. Trác Mộc Cường Ba nhảy

xuống, nói với Merkin: “Còn đợi gì nữa? Không sang gian phòng tiếp theo sao?”

“Đợi chút đãm anh xem chỗ kia kìa.” Merkin chỉ vào phần giữa thông đạo hình vuông dưới

sàn nhà: “Khi các gian phòng chuyển động, sẽ có tấm ngăn chắn ngang những thông đạo này,

nếu lúc này chúng ta đang xuống dở chừng, sẽ bị chia tách ra.”

Trác Mộc Cường Ba nheo mắt quan sát, quả nhiên, giữa hai cầu thang có một kẽ hở, xem ra

đó chính là chỗ phân cách hai gian phòng. Gã bèn nói: “Bao lâu thì những gian phòng này sẽ di

động một lần?”

Merkin nói: “Không biết, cái này phải xem quy mô của Cửu Cung biến, thời gian giữa mỗi

lần di động càng lâu, chứng tỏ rằng quy mô của Cửu Cung biến càng lớn, vả lại kiểu di động

này cũng không theo quy luật gì, có lúc chỉ di động trong một phạm vi nhỏ, cũng có lúc toàn

bộ các gian phòng đều di động. Hẳn anh có thể tưởng tượng được, khi trọng lượng bên trong

một quả bóng bàn thay đổi, nó sẽ chèn ép những quả bóng bàn xung quanh chuyển động như

thế nào. Vì vậy, chúng ta ít nhất phải đợi ba lần di động mới có thể tính toán được một cách đại

khải thời gian giữa các lần di động.”

Hai người đang nói chuyện, bỗng nghe “choeng” một tiếng, tựa như bảo kiếm rời vỏ, Trác

Mộc Cường Ba cúi đầu ngó xuống dưới, rồi ngẩng đầu nhìn lên trên, chỉ thấy cả hai thông đạo

đều bị hai tấm bảng kim loại sáng bóng bật ra chắn mất. Thiết tưởng, bốn thông đạo trên bốn

vách tường cũng vậy. Nghĩ lại âm thanh vừa nghe thấy lúc nãy và tốc độ đóng kín thông đạo

chỉ trong chớp mắt ấy, Trác Mộc Cường Ba không khỏi giật thót người: “Nhanh như vậy sao!”

Merkin nói: “Vì vậy chúng ta mới phải đợi, sơ sẩy một chút là bị chém ngang lưng thành hai

đoạn ngay.” Liền ngay sau đó, cả gian phòng bắt đầu run rẩy, nhè nhẹ đung đưa. Merkin bảo

Trác Mộc Cường Ba đứng sát vào một bên tường. Trác Mộc Cường Ba nói: “Chuyện gì vậy?”

Merkin đảo mắt khắp xung quanh gian phòng, lẩm bẩm nói: “Cửu Cung bắt đầu biến đổi!”

Thoáng sau, Trác Mộc Cường Ba liền hiểu được ý nghĩa thực sự Cửu Cung biến. Ban đầu

gã ngỡ rằng, chỉ là cả gian phòng thay đổi vị trí, nào ngờ, không chỉ thay đổi vị trí, mà toàn bộ

gian phòng cũng đảo lộn, chẳng trách Merkin lại đem hình ảnh khối rubic ra để so sánh. Chỉ

thấy sàn nhà bắt đầu chầm chậm nghiêng đi, nâng lên, gian phòng giống như một khối lập

phương to lớn bị người khổng lỗ xoay chuyển, lăn về phía trước chín mươi độ, kế đó lại lăn

thêm chín mươi độ về mé phía Tây, rồi xoay chín mươi độ theo phương ngang...

Cũng may sự thay đổi này diễn ra không nhanh lắm, hai người men theo sàn nhà nghiêng

dốc đi về phía chân tường, rồi lại men theo tường dốc đi lên trần nhà, sau đó từ trần nhà bước

sang một bức tường khác. Có điều, cứ xoay chuyển như vậy mấy lần, họ cũng không phân biệt

được mặt nào là sàn nhà, mặt nào là tường, mặt nào là trần nhà nữa, đừng nói gì đến chuyện

nhận biết được phương vị Đông Tây Nam Bắc. Đồng thời Trác Mộc Cường Ba cũng hiểu ra,

tại sao bệ cơ quan kia lại treo ngược ở trên cao. Tức làm khi cái bệ đó lăn xuống góc bên dưới,

tất cả cơ quan sẽ khởi động. Có điều, gã và Merkin vẫn còn may, bệ cơ quan vốn ở góc phía

trên hướng Tây Bắc, giờ đây đã chuyển sang góc Đông Nam, vẫn ở phía trên.

Đợi cho chuyển động dừng lại, Trác Mộc Cường Ba nôn nóng hỏi: “Rốt cuộc là thế nào

vậy? Ông có nói cả gian phòng cũng lăn lông lốc thế này đâu?”

Merkin nhăn mặt nói với giọng bất lực: “Tôi đã bảo rồi, không ai có thể hiểu hết được các

cơ quan và nguyên lý thiết kế trong Cửu Cung biến, tôi không chuyên nghiên cứu môn cơ quan

học, chỉ có thể giải thích một cách đại khái cho anh hiểu thôi. Vả lại, những thứ này tôi nghe

được từ các cao thủ chế tạo cơ quan cạm bẫy, bọn họ cũng chỉ có thể suy diễn ra một dạng thức

gần với nguyên lý của cơ quan này mà thôi. nếu dễ dàng hiểu được như thế, thì nó đã không

được gọi là cảnh giới cao nhất của thuật cơ quan cổ đại rồi.”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Giờ tôi hoàn toàn không còn cảm giác phương hướng nữa,

không thể biết chúng ta đã bị di chuyển đến chỗ nào rồi.”

Merkin nuốt nước bọt nói: “Dù cho căn phòng không xoay chuyển, anh ở trong không gian

bít kín thế này cũng không thể biết được mình đã bị đẩy đến đâu đâu. Đây chính là Cửu Cung

biến, mà mới chỉ là lần biến hóa đâu tiên thôi, thử tưởng tượng xem, nếu bị giam cầm ở nơi

này nửa năm hoặc lâu hơn, mỗi ngày đều phải trải qua mấy chục, mấy trăm thậm chí mấy

nghìn lần biến hóa như vậy, anh sẽ...”

Trác Mộc Cường Ba vội nói tiếp: “Tôi sẽ phát điên!”

Merkin sắc mặt nặng nề gật đầu, nói: “Đúng thế, trước đây bọn tôi cũng có người bị vây

hãm trong Cửu Cung biến, đợi mấy tháng sau được giải cứu ra, đều phát điên cả. Những gian

phòng thoạt nhìn hết sức bình thường, nhưng khi đi qua hơn một vạn gian phòng như thế, rất

nhiều người sẽ tuyệt vọng. Đây là một khảo nghiệm cực lớn đối với sức mạnh tinh thần và ý

chí của con người. Vì vậy, tôi mới nói, những người tiến vào Cửu Cung biến, chỉ có thể nghe

theo mệnh trời mà thôi.”

Sau đó, hai người tiếp tục chờ đợi, căn phòng lại chuyển động và xoay mấy lần, Merkin âm

thầm tính toán, thấy cứ khoảng trung bình hai mươi phút căn phòng mới thay đổi phương vị

một lần, lần ngắn nhất là cách nhau mười lăm phút, cũng có nghĩa là, chỉ cần bọn họ di chuyển

trong khoảng mười phút sau khi vách ngăn giữa các gian phòng mở ra, thì đại khái có thể an

toàn.

Tiếp đó, hai người liền thương thảo đến vấn đề tiếp tục đi như thế nào. Merkin đã nói, từng

gian phòng dịch chuyển không theo trật tự gì cả, sau khi chuyển động, người ở bên trong

không thể phân biệt được trước sau phải trái, chỉ có thể xác định được hai phương vị trên và

dưới. Nếu cứ đi mãi xuống dưới hoặc lên trên thì cũng không khả thi, vì khi các gian phòng

dịch chuyển vị trí, chúng cũng có thể trồi lên hoặc thụp xuống, cứ đi theo một hướng, rất có

khả năng chỉ giậm chân tại chỗ. Vì vây, phương pháp duy nhất chính là... dựa vào cảm giác,

cảm thấy hướng nào thuận mắt thfi đi theo hướng đó!

Chặng đường phía trước đã cho thấy, cảm giác của Cường Ba thiếu gia thực sự quá :tốt”, cứ

chỗ nào có bẫy là gã đâm đầu vào, vì vậy kết quả thảo luận của hai người là lần này để Merkin

dẫn đường.

Đối với hai người có thân thủ cao cường như bọn họ, trong mười phút có thể nhẹ nhàng đi

qua hai mươi gian phòng. Mặc dù thể lực của Merkin chưa hồi phuc, nhưng vượt qua mười

gian phòng cũng không phải vấn đề lớn lắm. Y đi trước dẫm Trác Mộc Cường Ba lúc rẽ trái,

lúc ngoạt sang phải, khi leo lên, lúc lại leo xuống, sau khi qua mười gian phòng họ liền dừng

lại, chờ các gian phòng chuyển động. Họ cứ đi như vậy được ba lần, có thể nói, cảm giác của

Merkin tốt hơn Trác Mộc Cường Ba rất nhiều, trong ba mươi gian phòng nayfm họ không gặp

phải cơ quan nào cả. Chỉ là, muốn tìm được lối ra chính xác, họ nhất thiết phải xem xét toàn bộ

các lỗ vuông ở cả sáu mặt trong gian phòng. Đây cũng là nguyên nhân khiến họ không thể di

chuyển nhanh được, xem tình hình này, cửa ra vẫn còn ở xa xôi lắm.

Lần di chuyển thứ tư bắt đầu, sau khi qua ba gian phòng, đến gian phòng thứ tư, họ chui ra

khỏi thông đạo mé bên trái, hai chân Trác Mộc Cường Ba vừa chạm đất, bỗng nghe “choeng”

một tiếng, sáu tấm kim loại đồng loạt bật ra. Trác Mộc Cường Ba giật nẩy mình, thảng thốt

hỏi: “Chuyện gì vậy? Vẫn chưa hết thời gian mà?”

Merkin ủ rũ chỉ vào góc tường, thở dài nói: “Vận may của chúng ta chấm dứt rồi.”

Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn theo hướng y chỉ, bệ cơ quan, bệ cơ quan đã xuất hiện

ở góc phía dưới. Gã vội hỏi: “Sẽ xuất hiện cạm bẫy gì đây? Chúng ta cứ vậy tiến vào chứ?” Gã

đưa mắt nhìn những phiến đá vuông vắn lát dưới chân, gã rất không thích loại đá lát sàn này,

nó khiến gã nhớ lại thạch thất cơ quan trong Đảo Huyền Không tự.

Merkin cũng lấy làm khó xử, kiểu đá lát sàn này rất dễ khiến người ta liên tưởng đến hậu

quả chỉ cần đặt chân sai một bước là cạm bẫy sẽ lập tức khởi động, nhưng nếu không bước qua

thì thậm chí còn không nhìn rõ được bệ cơ quan trông như thế nào. Mà những tấm chắn kim

loại kia có mở ra lần nữa hay không? Sau khi gian phòng này chuyển động liệu chúng có mở ra

nữa không?

Đang suy tính, những âm thanh “lách cách lách cách...” đã từ trên đỉnh đầu vẳng xuống.

Merkin ngẩng mặt lên nhìn, chỉ thấy trần nhà đang chầm chậm đè xuống với tốc độ thế này, chỉ

sợ bọn họ khó mà đợi được đến lúc gian phòng chuyển dịch phương vị lần thứ hai.

Cơ quan đã khởi động, hai người cũng bớt đi nhiều điều e ngại, Trác Mộc Cường Ba sải

bước chân chạy đến trước bệ cơ quan, bới cảnh tượng trước mắt không chỉ khiến gã nhớ lại

lưỡi dao trong địa cung Maya, mà còn gợi lại trong tâm trí gã gian phòng đã vùi thây Đa Cát.

Đấu trường hạn chế thời gian, hiển nhiên cơ quan cạm bẫy trong những gian phòng này cũng là

loại hạn chế thời gian!

Bệ cơ quan là một khối lập phương nhỏ cao khoảng một mét, trên bề mặt là một bàn cơ dọc

ngang chằng chịt, không xếp quân cờ, có điềum những hình vuông nhỏ trong bàn cờ ấy lại

giống như bàn phím máy tính, một số ô lõm xuống, một số ô nhô lên, bên cạnh có một hàng

chữ nhỏ chú giải. Trác Mộc Cường Ba dịch đi dịch lại hai lần mà vẫn thấy mâu thuẫn, không

sao hiểu được, gã cuống lên, vội lấy máy tính ra tra, cách dịch hợp lý nhất có lẽ là: “Làm cho

tất cả ô vuông lõm xuống, cơ quan sẽ tự động hóa giải.”

Merkin cũng đã đến bên cạnh bệ cơ quan, nghe Trác Mộc Cường Ba phiên dịch, y chợt nhớ

ra điều gì đó, liền thò tay ấn một ô vuông lõm xuống, quả nhiên, những ô vuông này giống như

công tắc điện vậy, ấn một cái thì lõm xuống, ấn thêm cái nữa nó lại tự bật lên. Có điều, kho ô

vuông Merkin ấn tay vào bật lên, bốn ô vuông tiếp giáp với nó cũng đồng thời bật lên theo.

Merkin liền gật đầu khẳng định: “Bài toán đốt đèn kiểu Hy Lạp cổ đại!”

Trác Mộc Cường Ba lập tức thắc mắc: “Là thứ gì vậy?” Lữ Cánh Nam không truyền thị cho

bọn gã nhiều kiến thức về cơ quan của nước ngoài. Merkin nói nhanh: “Bài toán đốt đèn kiểu

Hy Lạp cổ đại này nổi tiếng ngang với bài toán xoay vòng của Ai Cập cổ và bài toán xếp gạch

của Trung Quốc cổ đại, nghe nói đều là nan đề trí tuệ có từ thời đại nô lệ. Thời bấy giờ, chỉ

những người sở hữu đại trí tuệ mới phá giải được. Đề mục sớm nhất là, khi đèn trong một gian

phòng được thắp sáng, thì có thể đồng thời chiếu sang cả bốn gian phòng tiếp giáp với nó, mà

khi ngọn đèn tắt đi, bốn gian phòng kia cũng cùng lúc tối tăm. Vậy thì, trong ma trận vuông

xếp bới số gian phòng, cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn mới có thể chiêu sáng toàn bộ các gian

phòng ấy. Về sau, liền diễn biến thành ra như vậy, khi một ô vuông bị ấn xuống, bốn ô vuôn

tiếp giáp với nó cũng sẽ lõm xuống theo. Tương tự như vậy, khi nó bật lên, bốn ô vuông quanh

nó cũng sẽ bật lên. Đây thực ra là một câu đố logic, tôi cũng không biết nó được truyền vào

Trung Quốc từ khi nào nữa. Dầu sao những trò chơi trí tuệ cổ xưa này cũng xuất hiện từ rất lâu

rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: "Đừng nói lảm nhảm nữa, giờ phải phá giải như thế nào đây?"

Merkin nói: "Cần phải có thời gian suy nghĩ, bên trên bàn cờ này vốn đã có các ô lồi lên và

lõm xuống, chứng tỏ cổ nhân đã thiết định sẵn rồi, muốn phá giải cục thế này sợ rằng còn khó

hơn là bàn cờ toàn lồi hoặc toàn lõm. Nhưng chẳng phải chúng ta vẫn còn máy tính sao? Dùng

máy tính để giải câu đố logic nho nhỏ này, thực sự chẳng tốn chút công sức nào."

"Đúng vậy!" Merkin vừa nhắc nhở, Trác Mộc Cường Ba liền vội vàng quét hình dạng bàn

cờ này vào, rồi tìm phần mềm phá giải. Merkin ngẩng đầu nhìn trần nhà, nói: "Với tốc độ này,

chúng ta còn khoảng mười phút nữa, tôi lấy làm tò mò, bệ cơ quan này dường như không thể

thụt vào trong tường được, vậy thì trần và sàn nhà còn cách nhau khoảng một mét, như vậy thì

sao có thể làm gì chúng ta được nhỉ?"

Lời vừa mới dứt, một đám bụi đã lả tả rơi xuống, Merkin phẩy phẩy những hạt bụi lơ lửng

trên không, nheo mắt nhìn lên, đột nhiên hai mắt bỗng trợn trừng: "Thì ra là vậy." Chỉ thấy

trong khe hở giữa các phiến đá kia, lấp ló lộ ra những bánh răng cưa đang xoay chuyển với tốc

độ cực nhanh. Trần nhà càng hạ xuống, những bánh răng ấy cũng lộ ra càng nhiều, khoảng

cách giữa các bánh răng hiển nhiên không đủ cho một người né tránh.

Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên nhìn, cũng trông thấy những lưỡi cưa ấy, song lúc này

gã đã không cần lo lắng quá, chỉ buông một câu: "Xong rồi."

Theo thứ tự hiển thị trên máy tính, gã lần lượt ấn từng ô vuông, chỉ thoáng cái toàn bộ các ô

vuông trên bàn cờ đã lõm xuống. Cổ nhàn rõ ràng không thể tiên lượng được hậu thế lại chế

tạo ra cái thứ gọi là máy vi tính này, trần nhà mới chỉ hạ được chừng một hai mét rung rung

nâng lên, vẻ vô cùng miễn cưỡng.

Nhưng Trác Mộc Cường Ba cũng thầm hiểu, nếu không có sự giúp sức của máy tính, chỉ

dựa vào hai người bọn gã, trong mười phút đồng hồ, phá giải cho được bàn cờ lồi lồi lõm lõm

thoạt nhìn có vẻ đơn gỉản này cũng là việc hết sức khó khăn. Gã bất giác tò mò với hai loại trò

chơi trí tuệ cùng tề danh với bài toán đốt đèn kiểu Hy Lạp cổ đại, liền hỏi Merkin: "Bài toán

xoay vòng kiểu Ai Cập cổ và bài toán xếp gạch kiểu Trung Quốc mà ông nói, rốt cuộc là thế

nào vậy?"

Merkin nhìn trần nhà đang từ từ dâng lên, biết nguy cơ đã được giải trừ, bèn thở phào nói:

“Bài toán xoay vòng kiểu Ai Cập cổ đại cũng giống thế này, trong một gian phòng, bốn bức

tường có bốn hình vẽ khác nhau, sau đó dựng bốn ống tròn chuyển động được ở giữa phòng

hoặc một mé tường, giống như chuyển luân kinh của Tây Tạng vậy, trên mỗi ống tròn ấy đều

vẽ những hình giống với bốn bức tường, mỗi bức chiếm một phần tư ống tròn. Quá trình tiếp

sau tương tự trò đốt đèn này, khi anh chuyển động một ống tròn, hai ống tròn tiếp giáp với nó

cũng sẽ chuyển động theo. Mục đích đề ra là, hình vẽ trên ống tròn đồng nhất với hình vẽ trên

bức tường đằng sau nó, tạo thành bốn cặp, cơ quan sẽ mở ra.”

Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây 1át, rồi gật đầu tỏ ý đã hiểu. Merkin lại nói tiếp: "Còn

bài toán xếp gạch kiểu Trung Quốc cổ thì tôi chưa gặp bao giờ, chỉ biết hình như đã có từ trước

thời Thương Chu, cũng là một dạng câu đố logic, hình như là... liên quan gì đó đến các con số

thì phải."

Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Liên quan đến các con số? Chẳng lẽ là bài toán viên gạch

logic mà Lữ Cánh Nam từng nhắc đến?” Tấm kim 1oại chắn giữa lối đi đã mở ra, hai người

cũng không muốn mất quá nhiều thời gian, liền tranh thủ đi qua hai gian phòng nữa. Trác Mộc

Cường Ba chợt nêu ý kiến: “Liệu có khả năng, khi hệ cơ quan trong phòng ở góc trên, gian

phòng ấy sẽ an toàn, cứ men theo những gian phòng an toàn này mà tiến tới, sẽ tìm ra được lối

ra chính xác?”

Merkin lắc đầu, y cho rằng khả năng này còn nhỏ hơn cả tỷ lệ trúng số độc đắc. Phải biết

rằng, những gian phòng này đều có thể mặc tình xoay chuyển, cho dù thoạt tiên có vẻ an toàn,

nhưng sau khi chuyển động, làm sao chắc chắn được bệ cơ quan sẽ không chuyển xuống góc

dưới. Thêm nữa, nếu vào một gian phòng, mà ở đầu bên kia cả năm lối ra đều là các gian

phòng có bệ cơ quan ở góc phía dưới thì tính sao? Lùi lại chắc? Nếu cũng vẫn không được, thì

lạị lùi nữa chắc? Nếu Cửu Cung biến mà dễ dàng vượt qua như vậy, thì nó cũng không gọi là

Cửu Cung biến rồi.

Trác Mộc Cường Ba ngần ngừ, cứ dựa vào cảm giác mà đi thế này, có khác gì con mèo mù

đi loanh quanh xem có đụng chết con chuột nào không? Merkin cười nhạt đáp rằng đúng là

chẳng có gì khác, có điều, vận động cũng có lợi cho sức khỏe, vả lại nếu cứ ở trong một gian

phòng không chịu đi, bệ cơ quan sớm muộn gì cũng chuyển xuống phía dưới. Mà cũng đừng

mong những cơ quan cạm bẫy ấy sẽ lặp lại, chẳng hạn như trò đốt đèn kiểu Hy Lạp cổ kia, mỗi

lần bệ cơ quan chuyển xuống góc dưới, vị trí của những ô vuông lồi lõm trên bề mặt nhất định

sẽ thay đổi. Nếu hai người họ không có máy tính trợ giúp, chắc chắn không bao lâu sẽ bị loại

cơ quan hạn chế thời gian này ép cho tâm trí suy kiệt.

Hai người vừa thảo luận vừa tiếp tục tiến lên, đi qua hai gian phòng nữa, họ liền phát hiện

một số vết máu vẫn chưa khô, còn cả mảnh vụn quần áo, tóc... Merkin cảnh giác nói: “Đã có

người đi qua những gian phòng này.”

Trác Mộc Cường Ba quẹt tay vào vết máu, gật đầu nói: “Mới đi qua không lâu.”

Merkin lần theo vết máu đến trước một cửa thông đạo, hỏi: “Có đi theo không?” Nói đoạn,

y thò đầu vào bên trong lắng nghe.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không ích gì đâu, ông không chú ý thấy bề mặt bên trong thông

đạo không hề bằng phẳng à? Cổ nhân đã đục những đường rãnh trên đó, chúng tôi gọi đây là

vách giảm thanh, chúng có thể hấp thu tiếng nói của chúng ta một cách hết sức hiệu quả. Chỉ

cách khoảng ba đến năm phòng, là ông không thể nghe thấy âm thanh gì đâu. Trên một số

phương diện, trình độ nghiên cứu và vận dụng âm học của người Qua Ba cổ đại còn vượt qua

cả khoa học hiện đại ngày nay ấy chứ. Không phải chúng ta đã bàn rồi sao? Cứ dựa theo cảm

giác mà đi. Ông cảm thấy nên đi hướng nào, chúng ta sẽ đi hướng đó.”

Merkin nhảy xuống thang, nói: “Được, vậy đi bên này, tránh bọn chúng ra.” Y bước đến cửa

một thông đạo ở mé bên, ngoái đầu nói tiếp: "Nhưng tôi cũng phải nhắc anh trước, mỗi gian

phòng này áng chừng chỉ khoảng một trăm mét vuông, không thể chứa được toàn bộ đám lính

đánh thuê, vì vậy tôi dám khẳng định, bọn chúng sẽ tách nhau ra, cả bọn đi bừa đi bậy trong

này, sớm muộn gì cũng đến lúc chúng ta giáp mặt trực diện với chúng.”

Trác Mộc Cường Ba ở phía sau hỏi: “Vậy thì sao?”

Merkin nói: “Ý tôi là, bọn lính đánh thuê đó đều đã trải qua huấn luyện đặc biệt, giết người

không chớp mắt, bàn tay ít nhiều cũng đã nhuốm máu người...Ý của tôi chính là, nếu chúng ta

gặp phải bọn chúng, anh tuyệt đối không thể nương tay. Còn nhớ lúc tôi quyết đấu với Khafu,

anh không hề giết một tên thủ hạ nào của hắn, nếu lúc ấy bọn chúng đột nhiên tỉnh lại thì hậu

quả thật khó mà tưởng tượng.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn Merkin với ánh mắt cổ quái, thầm nhủ thế này là thế nào? Bản

thân ông không giết người, lại cứ xúi giục tôi đi giết người? Nghĩ đoạn, gã lạnh lùng đáp lại:

“Tôi tự biết cân nhắc.”

Merkin nhận ra thái độ khó chịu trong ngữ khí của Trác Mộc Cường Ba, ngoảnh đầu lại lầm

bầm: "Tóm lại, gặp kẻ địch thì phải thẳng tay, tôi có hại anh đâu."

Hai người tiến vào thông đạo, song song bò sang đầu bên kia, để đề phòng tấm ván kim loại

đột nhiên chia cắt hai người ra, hoặc giết chết một trong hai bọn họ. Cần biết một điều rằng, ở

nơi như thế này, đáng sợ nhất chính là chỉ có một mình, cho dù bên cạnh là kẻ địch khiến ta lúc

nào cũng phải nơm nớp đề phòng thì cũng vẫn hơn một mình lẻ bóng.

Hai người vừa bò đến cửa ra, đột nhiên thấy trong phòng thấp thoáng có bóng người. Trong

màn sáng mờ mờ, một tên lính đánh thuê đang chuẩn bị chui vào cửa thông đạo đối diện với

họ. Kẻ này dường như cũng nghe được động tĩnh, ngoảnh đầu lại nhìn về phía này, ba cặp mắt

giao nhau tại một điểm...

NGƯỜI LẠ

Trên tay tên lính đánh thuê đó có súng, hắn bất thình lình thấy Trác Mộc Cường Ba và

Merkin 1ó đầu ra, liền thoáng ngẩn người. Trác Mộc Cường Ba và Merkin phản ứng cực

nhanh, hai người cùng lúc ấn mạnh tay vào mép thông đạo, hai bóng nguòi "soạt" một tiếng lao

vút ra bên ngoài, chỉ trong chớp mắt, đã đáp xuống mặt đất. Trong khi ấy, tên lính đánh thuê

kia vẫn đang thần người ra.

Trác Mộc Cường Ba và Merkin đưa mắt nhìn nhau. Ý đang hỏi nhau xem có nên làm thịt

tên này không thì tên lính đánh thuê ấy đã lập tức có phản ứng...

Chỉ thấy tên lính đánh thuê râu ria xồm xoàm cao lớn như con tinh tinh đột nhiên nước mắt

đầm đìa, ném súng chạy tới, được nửa chừng liền quỳ sụp xuống, mượn đà trượt thêm một

quãng dài đến trước mặt hai người, vừa ôm chân Trác Mộc Cường Ba vừa gào lên như một

người đàn bà bị vu oan giá họa: “Đừng... đừng bỏ lại tôi... đừng bỏ lại tôi một mình ở đây...”

Vì tên này nói tiếng Nga, Trác Mộc Cường Ba nghe không hiểu, thêm nữa gã cũng không

quen bị một người đàn ông tướng tá kềnh càng ôm chân khóc ròng thế này, liền giậm giậm

chân, hất tên lính đánh thuê kia ra xa một chút.

Đối với biến cố bất ngờ này, hai người đều chưa chuẩn bị tâm lý, cũng may Merkin rất giỏi

tiếng Nga, y lập tức hỏi tên lính đánh thuê kia: "Chúng mày vào đây bao lâu rồi? Chỉ còn lại

một mình mày thôi à?" Tên lính đánh thuê bị Trác Mộc Cường Ba đạp văng ra, cứ thế quỳ một

chân dưới đất, nước mắt nước mũi dầm dề nhem nhuốc. Hình như đã lâu lắm rồi không có ai

nói chuyện với hắn, vừa nghe Merkin hỏi, hai cánh môi hắn không ngừng mấp máy, nói liền

một mạch không nghỉ.

Sau khi nghe Merkin phiên dịch, Trác Mộc Cường Ba mới biết, tên lính đánh thuê này tên là

Boris, hắn theo đội số 3 vào đây từ mười lăm ngày trước. Sau khi tiến vào nơi quỷ quái này,

bọn hắn mới phát hiện có điều bất ổn, không thể nào liên lạc được với đội ngũ đi trước, mà

những gian phòng này cái nào cũng giống cái nào, cứ lặp đi lặp lại vô cùng vô tận.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro