Chương 1 - 10

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Tháng ba cuối xuân, nắng ấm gió trong, tiếng chim oanh ríu rít Trường An.

Sắc trời dần nổi, sao Hôm dần nấp, trên lầu canh cổng chính hoàng thành nguy nga cao vút vang lên tiếng trống báo sáng đầu tiên, các lầu canh đầu phố lần lượt cộng hưởng, tiếng trống rền vang lan tỏa ngang dọc qua hơn trăm tòa phường thành sắp xếp chỉnh tề, đánh thức đế đô hùng vĩ đang ngủ.

Giờ giới nghiêm đã hết, cửa phường mở toang, trên đường phố trong lạnh rất nhanh ngập tiếng người hỗn tạp, xe bò xe ngựa từ từng cánh cửa chính đại viện được bảo vệ nghiêm mật phóng ra, hòa vào dòng người đông đúc chen nhau trên đường Chu Tước.

Ráng mây tía nơi chân trời dần tản, tia nắng sớm vàng óng ánh xé tầng mây nghiêng chiếu, ngàn vạn ngôi nhà tắm trong ánh nắng chói chang rực rỡ, cảnh tượng thật yên bình trù phú.

Trong cung Thái Cực, thị nữ bưng chậu đồng mạ vàng và hoa tươi hái trước khi mặt trời mọc đi qua dãy hành lang.

Mép váy tươi sáng phết qua mặt đất màu gạch mới được tu chỉnh không lâu, phát ra tiếng sột soạt nhẹ như mưa phùn.

Xuân Như xốc màn, bước vào phòng đặt chậu đồng xuống. Đổi một thanh hương trong lư hương vừa hết, bỗng từ sau tấm bình phong sơn mài khảm nạm các đại nhân vật của núi sông vọng ra vài tiếng rên đau đớn.

"Anh... anh à..."

Xuân Như chuyển bước qua bình phong, treo màn lụa lên, đưa mắt nhìn mặt Thất công chúa, chau mày.

"Công chúa?"

Cô vắt khăn lau mặt cho Thất công chúa Lý Dao Anh, nhẹ gọi tên nàng.

Thất công chúa vốn mảnh mai, thường xuyên gặp ác mộng, đã mời không ít đại phu đến chẩn trị nhưng chưa thấy tốt hơn, bọn thị nữ nhìn đã quen.

Nghe tiếng Xuân Như nhẹ nhàng gọi, Lý Dao Anh choàng tỉnh từ ác mộng. Nước mắt nhỏ xuống từ hàng mi thắm, trượt ven bờ tai ngọt.

Xuân Như đau lòng hỏi: "Người lại thấy ác mộng ạ? Có phải vì đêm qua dự đại yến trong cung mệt quá không?"

Đôi mắt Lý Dao Anh ngấn lệ mông lung, nhìn bóng nắng loang lổ từ sân trước xuyên qua tấm bình phong rọi khắp phòng, run rẩy hồi lâu.

Cảnh trước mắt là tẩm điện tráng lệ, không phải chiến trường địa ngục nhân gian. Cảnh tượng máu chảy thành sông, thây bay tứ tung đáng sợ trong giấc mơ dần dần mờ nhạt đi.

Lý Dao Anh từ từ tỉnh táo lại, cười cười, tiện tay quệt cặp mắt ướt sũng, đứng dậy rửa mặt.

Ác mộng thôi.

Xuân Như cầm lấy cây lược vàng chạm Già Lăng tần già* chải tóc cho nàng, cười nói: "Bệ hạ và Tần Vương đã thắng một trận lớn, hịch tin chiến thắng truyền khắp nơi, chẳng bao lâu nữa Tần Vương có thể khải hoàn rồi ạ."

*Già Lăng tần già ( tiếng Phạn: कलविङ्क, IAST: Kalaviṅka ), dịch ý "Diệu âm điểu", "Hảo thanh điểu", hay "Ca la tần già điểu", là một sinh vật trong truyền thuyết Phật giáo, đầu người thân chim, đuôi rất dài, trong kinh Phật nói tiếng của nó rất hay, có thể niệm kinh Phật.

Thất công chúa gọi anh nàng trong mơ, chắc là đang lo cho Nhị hoàng tử Tần Vương chinh chiến ngoài kia cùng với Thánh nhân.

Mỗi lần Tần Vương xuất chinh, Thất công chúa đều gặp ác mộng.

Lý Dao Anh nhặt một cây trâm mẫu đơn chớm nở cài lên tóc, soi vào tấm gương đồng tám cạnh khảm trai, mỉm cười: "Ta biết, Nhị ca nhất định sẽ bình an trở về."

Trong mơ nàng không thấy xảy ra chuyện gì.

Môi thiếu nữ trong gương mỉm cười, dù chưa son phấn, còn có dấu tích vừa khóc, nhưng vẫn sắc nước hương trời, rực rỡ như dâm bụt nở. Hốc mắt ửng đỏ càng tăng thêm vài phần phong tình quyến rũ không từ nào tả xiết.

Xuân Như nhìn đến mất hồn, cả người nhũn ra. Hận không thể thịt nát xương tan chỉ để vuốt lên hàng mày nhẹ chau của công chúa.

Lý Dao Anh mỉm cười nhìn thị nữ trong gương, sóng mắt lóng lánh, thêm phần hồn nhiên. Nét quyến rũ lúc này đã thu lại, như sen trên nước trong, như cảnh thiên nhiên chạm khắc trên trang sức, vừa lạnh vừa trong, vừa dịu dàng động lòng người.

Xuân Như tỉnh táo lại, cúi đầu chuyên tâm búi tóc cho Thất công chúa.

...

Sau nửa canh giờ, phố xá càng thêm náo nhiệt.

Lý Dao Anh mặc một bộ xanh lục dệt vàng hoa văn liên châu đoàn khoa* Hồi Hột, đầu đội mũ rèm, cưỡi ngựa xuyên qua con phố dài huyên náo, dừng lại trước một tòa nhà vắng lặng, gỡ mũ xuống, quay đầu nhìn lại phố xá náo nhiệt sau lưng.

*Hoa văn trang trí các hình tròn nối tiếp, chu vi điểm liên châu, bên trong có hình chim hay thú, không gian mở bốn phía cân đối, chịu ảnh hưởng của vương triều Ba Tư, thịnh hành vào thời Bắc triều đến giữa thời Đường.

Mấy tháng trước ai mà ngờ rằng toà nhà huy hoàng hơn trăm năm phố thị này lại là nơi đổ nát thê lương, tan hoang loạn thế?

Lý Dao Anh tung người xuống ngựa, tiện tay rút roi mềm, gõ phủi bụi đất trên đôi ủng da, nghe mùi thơm nồng của bánh Hồ* bay trong không khí, mỉm cười.

Chẳng mấy chốc sẽ thái bình.

Thà làm chó thời thái bình hơn làm người thời loạn!

Mạt đế tiền triều xa hoa dâm đãng, tàn khốc bạo ngược, thường xuyên phát động chiến tranh, chèn ép trăm họ, ngồi trên ngôi vị hơn mười năm đã dẫn đến thiên hạ đại loạn, khởi nghĩa bùng nổ khắp nơi, quý tộc thế gia liên tiếp phản loạn. Mở màn cho mấy năm thời loạn này.

Trung Nguyên đại loạn, dân du mục thừa cơ xuôi Nam xâm lấn, lửa chiến tán loạn, khói lửa ngập trời.

Năm Lý Dao Anh ra đời, Lý Đức cha nàng mượn nhờ thế gia đại tộc ủng hộ, trở thành bá chủ một phương được binh ủng hộ.

Nhoáng một cái mười bốn năm trôi qua, Lý Đức Nam chinh Bắc chiến, lần lượt đánh bại các vùng phương Bắc bị chiếm cứ, cuối cùng tháng chạp năm ngoái dẫn binh chiếm lĩnh Trường An.

Vài năm trước Mạt đế đã chết do phản quân trên đường trốn tới Giang Nam, trong mấy năm qua thành Trường An lần lượt đổi chủ, ngay cả dị tộc cũng đã từng xưng vương xưng bá nơi này, cướp bóc đốt giết. Nhiều lần chiến hỏa, toà đô thành to lớn này vốn đã không còn hưng thịnh như trước.

Sau khi Ngụy quân về làm chủ Trường An, quân kỷ nghiêm minh, không mảy may xâm phạm đến dân lành. Lý Đức không ngừng phái người đưa tin giao hảo với dị tộc phương Bắc, thu phục những thế lực nhỏ khắp nơi, lôi kéo thế gia đại tộc bản địa, dần dần ổn định lòng người.

Thiên hạ đại thế, chia lâu ắt hợp, trải qua mấy tháng, yên ổn lòng dân, bộ tộc các nơi tìm tới, thành Trường An bắt đầu khôi phục từng tí một, phồn hoa hưng thịnh xưa kia đã ở trong tầm tay.

Thế gia đại tộc, danh sĩ liêm khiết và các lão giả già trong dân mấy lần cùng dâng sớ thỉnh cầu Lý Đức xưng đế.

Sau khi Lý Đức liên tục thối thoát, chọn lấy ngày lành chính thức đăng cơ, thành lập triều Ngụy.

Lý Dao Anh là con gái thứ bảy của Lý Đức, cha lên Hoàng đế, nàng trở thành Thất công chúa kim tôn ngọc quý.

Gặp nhiều sinh linh đồ thán trôi dạt thời loạn, cuối cùng thấy được cảnh thái bình, Lý Dao Anh cảm thấy mình rất may mắn.

Thân là con gái Lý gia, áo cơm không lo, ra vào có hào nô giáp sĩ bảo vệ, có thể bình yên trôi chảy trong thời loạn mà lớn lên đã là cực kỳ may mắn.

Mẹ dịu dàng hiền từ, anh trai thương yêu bảo vệ.

Từ thời hiện đại yên ổn không hiểu sao rơi vào thế giới xa lạ này, trở thành Thất nương Lý gia cũng không quá tệ.

Nhưng rất không may, Lý Dao Anh rất nhanh phát hiện mình có một anh trai khác mẹ là Lý Huyền Trinh.

Đại danh đỉnh đỉnh Lý Huyền Trinh Thái Tông Hoàng Đế nước Ngụy.

Lý Dao Anh đã đọc quyển "Đại Ngụy Lý Huyền Trinh" rồi.

Cuối sách, nam chính Lý Huyền Trinh mang binh công phá Nam Sở, Tây Càng và mười mấy chính quyền nhỏ, sau khi thắng lợi lập tức trở về Trường An bức cha ruột Lý Đức thoái vị, đăng cơ làm vua, dẫn binh bình định thảo nguyên, hoàn toàn thống nhất Nam Bắc, chèn ép thế gia, cất nhắc họ nghèo, văn trị vũ công, đặt cơ sở vững chắc cho Đại Ngụy giàu mạnh.

Liên tục xác nhận Lý Huyền Trinh đúng là anh mình, Lý Dao Anh run lẩy bẩy.

Nàng và nam chính Lý Huyền Trinh, đâu phải chỉ đơn giản là khác mẹ.

Bọn họ là kẻ thù.

Đời Lý gia trấn thủ quận Ngụy, là thế gia ở quận Ngụy*. Lý Đức là con thứ trong nhà, lúc còn bé cơ khổ, hai mươi lăm tuổi mới cưới Đường thị con gái nhà buôn làm vợ, hai mươi tám tuổi dấn thân vào binh nghiệp, dần dần bộc lộ tài năng trong quân đội, rất nhanh thay thế đích huynh trưởng trở thành chủ của Lý gia, được phong Binh Mã Sứ quận Ngụy.

*quận hành chính thời Tây Hán, Hà Nam Hà Bắc nay.

Sau bốn bề báo hiệu bất ổn, các nơi nổi loạn, Lý Đức thuận theo thời thế, lấy danh nghĩa chiêu binh mãi mã bảo vệ quê nhà, dẫn người trong tộc khởi nghĩa, tập hợp được mấy vạn dân, thắng vài trận nhỏ.

Lý Đức thường xuyên lãnh binh bên ngoài, Đường thị ở lại quê nhà chăm sóc con trai Lý Huyền Trinh.

Năm Lý Huyền Trinh hai tuổi, có loạn binh tháo chạy đến quận Ngụy, thừa dịp không ai canh giữ, thẳng vào thành quận, cướp sạch. Người giữ nhà ở quận Ngụy tung tin: mẹ con Đường thị chết thảm dưới đao của loạn quân.

Lý Đức tức điên người, trong lúc tác chiến trúng bẫy kẻ khác, hao binh tổn tướng, thân binh bên cạnh toàn bộ chết trận, bản thân cũng bị thương nặng, trong một tháng mất mấy tòa thành trì.

Thấy Ngụy quân binh bại như núi đổ, cơ nghiệp Lý gia nhiều năm lập tức trôi theo dòng, người trong tộc khuyên Lý Đức liên hợp với thế gia củng cố thế lực.

Lý gia là thế gia nhưng không được coi là thế gia, luôn không được thế gia tiếp nhận.

Sau khi Lý Đức lành thương, tiếp thu ý kiến của mưu sĩ, bước vào Tạ gia là thế gia môn phiệt có thực lực lớn mạnh nhất cầu thân, hứa hẹn sau này nếu thành đại nghiệp nhất định sắc phong đích nữ của Tạ gia làm hậu.

Tạ gia có tiền có danh, chỉ thiếu mỗi tướng tài có thể lãnh binh tác chiến, đồng ý gả đích nữ cho Lý Đức, hai nhà định xong hôn sự, đạt ước định cùng chung phú quý.

Nào ngờ Đường thị còn sống.

Bà một phụ nữ yếu đuối, dẫn theo Lý Huyền Trinh trốn khỏi vây chặn của loạn binh, lang bạt khắp nơi chịu nhiều đau khổ, cuối cùng tìm được Lý Đức, vừa vặn chứng kiến đích nữ Tạ gia mười dặm đỏ thắm, rạng rạng rỡ rỡ gả cho trượng phu của bà. Đường thị náo loạn một trận, nhưng đại lễ đã thành, Lý Đức không thể hối hôn.

Lý Đức đạt được ủng hộ của Tạ gia, thế lực lớn mạnh rất nhanh, cờ trống có sức nặng.

Trên chiến trường đánh đâu thắng đó, ở hậu viện lại dấy lên chiến hỏa.

Tạ thị xuất thân danh môn, xem thường dòng họ Đường thị giàu từ buôn bán gỗ, còn Đường thị hận Tạ gia cướp chồng bà, suốt ngày nguyền rủa Tạ thị.

Một bên là đích nữ Tạ gia, bên kia là thê tử kết tóc, cả hai bà Lý Đức đều không thể đắc tội, trong phút chốc sứt đầu mẻ trán.

Lý Đức khó xử, bọn hạ nhân càng khó xử hơn, trời xui đất khiến hai vị phu nhân đều xem như là chính thất mà Lý Đức tam môi sáu lễ cưới về, xưng hô thế nào đây?

Cuối cùng đành hàm hồ gọi một người là Đường phu nhân, một người là Tạ phu nhân. Hai vị tranh giành nhiều năm, Đại Lang Lý Huyền Trinh và Nhị Lang Lý Trọng Kiền do Tạ thị sinh ra dần dần lớn lên, chiến hỏa kéo dài đến ngôi vị thế tử.

Dòng dõi Tạ gia thanh quý, trải qua mấy đời triều không giảm, Lý Đức lớn mạnh không thể tách rời ủng hộ hết mình của Tạ gia, trưởng bối Lý gia cho rằng thân phận Đường thị thấp, Nhị lang Lý Trọng Kiền tử vì mẫu quý, hẳn nên được kế thừa ngôi vị thế tử.

Nhìn con trai không tranh nổi với Lý Trọng Kiền, Đường thị nóng tính tự mặc áo cưới năm đó gả cho Lý Đức tự thiêu mà chết. Trước khi chết, bà cười to mấy tiếng: "Lang quân, Lang quân, là chàng phụ thiếp!"

Lúc ấy Lý Đức đang ở Quan Trung, tin Đường thị bỏ mình đưa đến đại trướng, ngài hộc máu tươi tại chỗ, ngã xuống đất ngất đi. Trong nửa tháng, vị hùng chủ bậc nhất rong ruổi chiến trường nhiều năm già đi hơn mười tuổi, một đầu tóc đen bạc đi một nửa.

Người đời thế mới biết Lý Đức đối với vợ cả Đường thị thâm tình cỡ nào.

Lý Huyền Trinh thành thế tử.

Tạ thị lòng như tro nguội.

Người không giết Bá Nhân, Bá Nhân lại vì người mà chết. Lý Huyền Trinh cho rằng Tạ thị là kẻ đầu sỏ bức tử Đường thị, đối với Tạ thị và con ruột của bà hận thấu xương.

Mẹ ruột của Lý Dao Anh chính là Tạ thị, Nhị lang Lý Trọng Kiền là anh trai cùng mẹ của nàng.

Trước khi lâm chung Đường thị căn dặn con trai sau này phải báo thù cho bà. Lý Huyền Trinh trong sách vô cùng vô cùng nhớ kỹ lời mẹ dặn, mượn tay người khác bức tử Tạ thị, bố trí cạm bẫy hại chết Lý Trọng Kiền, ngay cả họ xa dòng thứ của Tạ gia cũng không bỏ qua.

Về phần con gái nhỏ của Tạ thị, trong sách chỉ sơ lược, đến cái tên cũng không có, khả năng chết yểu từ khi còn rất nhỏ.

...

Lý Dao Anh nghẹn ngào.

Phát hiện mình là một nhân vật chết yểu không tên, mà người anh tay cầm binh quyền giờ giờ phút phút đều nghĩ cách làm sao tra tấn mẹ và anh mình, hẳn sẽ còn thuận tay giết mình, nên làm gì đây?

Lý Dao Anh từng thử hòa giải với Lý Huyền Trinh, phát hiện đường này không thông. Hận thù của Lý Huyền Trinh đối với Tạ gia căn bản là không thể hóa giải.

Nàng chỉ có thể tiên hạ thủ vi cường.

Kết quả con đường này càng đi không suôn.

Lý Huyền Trinh là nam chính, có vận mệnh tốt, cơ hội lớn, rõ ràng thường xuyên rơi vào hiểm cảnh, nhưng phút cuối vẫn luôn có thể biến nguy thành an, như có thần trợ giúp. Mấy lần Lý Dao Anh ra tay, không chỉ không thể làm Lý Huyền Trinh bị thương mảy may, còn từng lần một rơi vào cảnh người đầy thương tích.

Đôi khi nàng chỉ yên lặng tính toán trong lòng làm sao làm khó Lý Huyền Trinh, lập tức đầu đau đến muốn nứt, toàn thân khó chịu.

Lý Dao Anh nhớ tới hai luật sắt to đùng trong sách:

Nam chính dù bị đao đâm thủng đầy người, vẫn không chết được.

Ai tổn thương nam chính, người đó sẽ bị trời phạt, không phải không báo ngay mà là chưa tới lúc.

Lý Dao Anh liếc mắt nhìn trời. Chả nhẽ chịu số phận, đợi khi Lý Huyền Trinh cầm quyền vung đao giết mình và Nhị ca chăng?

Lý Dao Anh không phục, vừa đề phòng Lý Huyền Trinh, vừa nghĩ kế sách bảo toàn tính mạng.

Lâu nay nàng vẫn cẩn thận đối phó với thủ đoạn của Lý Huyền Trinh, bảo vệ tính mạng mẹ Tạ thị và Nhị ca.

Theo sách viết, Lý Trọng Kiền vốn chết vào một năm trước, không lâu sau Tạ thị uống thuốc độc tự vận, Lý Dao Anh tạm thời thay đổi số mạng của họ. Nàng biết mình không sửa được kết cục, chỉ giúp mẹ và anh sống lâu hơn mấy năm thôi.

Vậy thì sao chứ?

Sống lâu thêm ngày nào hay ngày đó.

...

Góc phố ẩm thực người người nhốn nháo, bánh Hồ ra lò, mùi càng thơm nồng, tiếng hò hét ầm ĩ xa xa vọng đến, cuộc sống an ổn.

Lý Dao Anh thu lại suy nghĩ, bước vào thềm đá.

Thân binh tiến lên gõ vang cửa sân.

Bên trong truyền ra một giọng nói hùng hùng hổ hổ, một thanh niên hơn hai mươi tuổi, trắng nõn gầy gò kéo mở cửa sân, quét mắt một vòng qua thân binh đang đứng nghiêm sau lưng Lý Dao Anh, chau mày: "Quý chủ đến nhà, có gì chỉ giáo?"

Lý Dao Anh cười sáng rỡ: "Xuân ấm vẫn còn lạnh, nghe nói mấy nay Đỗ lang ho khan, ta tới thăm chút."

Thanh niên nghèo trước mắt này là Đỗ Tư Nam, vốn sẽ trở thành phụ tá đắc lực của Lý Huyền Trinh, độc kế hãm hại Nhị ca Lý Trọng Kiền là chủ ý của y.

Hai năm trước Lý Dao Anh tìm tới thư sinh thất bại ủ dột này, ngăn cản y trở thành mưu sĩ của Lý Huyền Trinh, để Lý Trọng Kiền sống lâu hơn trong sách một năm.

Thần sắc Đỗ Tư Nam lạnh như băng, ánh mắt rơi xuống lúm đồng tiền lấp lửng trên má Lý Dao Anh, một hơi nghẹn phân nửa trong cổ, cười lạnh liên tục. "Đỗ mỗ thân phận nghèo hèn, không nhận nổi chiếu cố của quý chủ."

Lý Dao Anh cũng không thèm để ý đến ý mỉa mai không thèm che giấu trong giọng nói của Đỗ Tư Nam, đứng trước bậc, mỉm cười liếc vào trong ngõ nhỏ hẻo lánh.

Một bóng người lén lén lút lút đứng đó quan sát một lúc rồi quay vào chỗ khuất nắng.

Là người của Lý Huyền Trinh.

Khóe môi Lý Dao Anh hơi vểnh lên.

Nàng không giết được mưu sĩ đắc lực của Lý Huyền Trinh, làm loạn chút vẫn được.

|

*Mai: nhân vật xuyên qua một trẻ mới sinh, sách gốc không có.

Thất công chúa dung mạo thanh tú, rực rỡ như hoa xuân. Nhi lang các thế gia Trường An tranh nhau cầu hôn, con em môn phiệt bảy dòng năm họ xưa nay không để quý nữ hoàng thất vào mắt lại ẩu đả vì nàng.

Giai nhân như thế chủ động đến nhà thăm mình, gặp người khác tất nhiên vô cùng mừng rỡ.

Đỗ Tư Nam một chút cũng không vui. Không chỉ không vui, mà còn một bụng lửa không có chỗ phát tiết.

Y nhìn Thất công chúa Lý Dao Anh cười nhẹ nhàng trước ngõ, tức giận đến hai mắt đỏ máu.

...

Ranh giới giàu nghèo đương thời rất rõ, dù mấy năm nay chiến tranh thảm họa liên miên vẫn không thể dao động ranh giới địa vị giữa thế gia đại tộc, nhà giàu và nghèo khó. Đừng thấy anh tài xuất thân bình dân xuất hiện lớp lớp, đợi thiên hạ bình định rồi, nắm giữ triều đình và thế cuộc thiên hạ vẫn là thế gia đại tộc.

Đỗ Tư Nam là người Nam Sở, tự phụ tài hoa, từ nhỏ lập chí muốn làm nên sự nghiệp lẫy lừng, đáng tiếc xuất thân hàn vi, nghe nói Lý Đức Ngụy Vương phương Bắc và trưởng tử Lý Huyền Trinh chiêu hiền đãi sĩ, chỉ cần có tài là cất nhắc, dùng người chỉ nhìn tài năng không xem dòng dõi, cố ý gom hành lý đến tìm nơi nương tựa.

Vốn tưởng có được Lý Huyền Trinh thưởng thức thì một bước lên mây, mở ra chí khí, ai ngờ đột nhiên giữa đường chui ra một Thất nương Lý gia, triệt để đảo loạn kế hoạch của mình.

Để tìm chỗ dựa vào Lý Huyền Trinh y lên phía Bắc tìm Ngụy quân. Lý Huyền Trinh thân là thế tử, dưới trướng đã có nhiều dị sĩ tài giỏi, y không muốn bị Lý Huyền Trinh xem nhẹ, cố ý đuổi tới Quan Trung của Ngụy quân, kết giao danh sĩ bản địa đánh lấy danh tiếng, chờ Lý Huyền Trinh ba lần đến mời*. Chắc mẩm có thể ổn thỏa ngồi câu cá**, ai ngờ Lý Huyền Trinh không mắc câu mà cần câu còn bị Lý Dao Anh kéo xuống nước.

*tích Gia Cát Lượng và Lưu Bị; Khương Tử Nha và Chu Văn Vương.

Khi đó Ngụy quân còn chưa tiến vào đất Quan Trung, Đỗ Tư Nam mỗi ngày đóng cửa đọc sách, ngẫu nhiên ra ngoài thăm bạn, đột nhiên gặp một đám giặc cỏ bị trói vào núi sâu, may mắn gặp một đội buôn đi ngang qua cứu mới bình yên thoát hiểm.

Đội trưởng của đội buôn tự xưng là gia nô của Lý gia quận Ngụy, an ủi Đỗ Tư Nam rất nhiều, cách mỗi ba ngày phái người đến nhà thăm, còn phái thị nữ nô bộc chiếu cố sinh hoạt thường ngày của y.

Đỗ Tư Nam vừa vặn muốn hóng chuyện nhà Lý gia, lui tới với thủ lĩnh đội buôn ít lâu. Đến khi phát hiện người này là gia nô của Lý Dao Anh, lập tức phân rõ ranh giới với đối phương.

Lúc đó y nghĩ Lý Dao Anh cùng lắm chỉ là cô bé khuê phòng mười hai mười ba tuổi, hẳn mọi việc chỉ là trùng hợp, cũng không để trong lòng.

Ai ngờ tâm cơ Lý Dao Anh rất sâu, mỗi lần điều động người đến thăm đều gánh mấy gánh lụa đỏ chót rêu rao khắp phố, có người hiếu kì hỏi thăm, mấy tên này liền trả lời mình là nô bộc của Lý Trọng Kiền.

Đỗ Tư Nam chưa kịp phản ứng, tin đồn y về dưới trướng Lý Trọng Kiền đã truyền khắp Quan Trung.

Đến khi Ngụy quân tiến vào chiếm giữ Quan Trung, Lý Huyền Trinh bắt đầu tìm kiếm hỏi thăm danh sĩ Quan Trung thì Đỗ Tư Nam đã bị trở thành người của Lý Trọng Kiền.

Đỗ Tư Nam đợi trái đợi phải, từ đầu đến cuối đợi không được Lý Huyền Trinh, đã rõ Lý Huyền Trinh hẳn đã có lòng nghi ngờ mình, không muốn chiêu dụ về làm mưu thần bên cạnh.

Trong mắt người đời, Lý Trọng Kiền có ân cứu mạng y, còn có phần coi trọng y, vàng bạc tiền tài chảy như nước vào nhà y, hỏi han ân cần, từng li từng tí. Nếu y đổi qua tìm đến Lý Huyền Trinh, chưa cần nói Lý Huyền Trinh có tin lòng trung thành của y hay không, trước tiên y phải gánh bêu danh "vong ân phụ nghĩa" đã!

Đỗ Tư Nam co được dãn được, nghĩ rõ ràng tiền căn hậu quả, quyết định lùi lại mà cầu việc khác, chủ động tìm Lý Huyền Trinh cho thấy tâm chí của mình.

Y hào hứng đi đến Trường An.

Lúc này Lý Dao Anh lại nhảy ra, tự mình đến nhà bái phỏng Đỗ Tư Nam. Dù y tránh mặt, nàng vẫn dăm ngày mười bữa thỉnh thoảng lượn lờ trước cửa nhà họ, mỗi lần đều nghênh ngang rầm rộ, mang theo mười mấy giáp sĩ trùng trùng điệp điệp xuyên qua nửa tòa thành Trường An.

Thất Nương Lý gia hoa dung nguyệt mạo có một không hai ở Trung Nguyên, mỗi lần xuất cung, thiếu niên lang của Trường An Ngũ Lăng đều cưỡi ngựa đuổi theo chỉ để nhìn nàng thêm một lát. Nàng cố ý ra cung thăm viếng Đỗ Tư Nam, không cần mấy ngày đã truyền đi xôn xao.

Đỗ Tư Nam tức hộc cả máu: cô ta khiến nghi ngờ của Lý Huyền Trinh với y còn nặng hơn!

Càng làm Đỗ Tư Nam chán nản hơn là, Lý Dao Anh hủy con đường mây xanh của y nhưng từ đầu đến cuối cũng không thấy ý mời chào từ Lý Trọng Kiền. Cô ta vốn xem thường y, hững hờ đứng ở cửa nhà, mỉm cười nói mấy câu rồi quay đi, không có một chút thành ý thật lòng cầu tài.

Trong mắt đám người xung quanh, thì lại là mắt xanh của Thất công chúa cao quý đã nhìn trúng lang quân tài hoa Đỗ gia, tự hạ thấp địa vị, khiêm tốn thỉnh giáo.

Đỗ Tư Nam có nỗi khổ không nói được, còn bị thiếu gia ăn chơi trong kinh ghen ghét trào phúng chế nhạo.

...

Toàn bộ phẫn nộ buồn bực hai năm qua xông lên đầu, Đỗ Tư Nam nghiến răng ken két.

Lý Dao Anh cười ra hiệu người gánh hàng, gánh mấy gánh lớn đầy củi gạo thịt dê rau xanh rảo bước vào viện.

Đỗ Tư Nam cười lạnh: "Vô công bất thụ lộc."

Dao Anh cười khẽ: "Đỗ lang tài cao, đáng mà."

Lồng ngực Đỗ Tư Nam lên xuống kịch liệt, rất muốn phun vào mặt Thất công chúa một ngụm máu.

"Khí sắc Đỗ lang không tốt, nên nằm trên giường nghỉ ngơi, ta không quấy rầy ngươi nữa."

Như mọi khi, người gánh hàng vừa mới buông gánh, Dao Anh liền cáo từ, roi mềm trong tay còn không gõ vào lòng bàn tay cái nào, hiển nhiên không quan tâm. Trên mặt ý cười vẫn chuyển, trong mắt tràn đầy ân cần.

Tuổi nhỏ đã có tâm kế thế này, còn đẹp nhường kia, sau này hẳn là đại họa của mình.

Mặt Đỗ Tư Nam tái xanh.

Dao Anh quay người đi xuống thềm đá. Gia tướng Tạ Thanh dắt ngựa tiến lên đón, trầm giọng hỏi: "Quý chủ, muốn hồi cung ạ?"

Dao Anh phóng lên, quay đầu ngựa: "Đi dạo chợ Tây tí, Nhị ca sắp về, ta chọn cho huynh ấy chiếc yên ngựa mới."

Lý Đức vừa xưng đế đã dẫn theo Thái tử Lý Huyền Trinh và con thứ Lý Trọng Kiền xuất chinh, cách đây không lâu tin chiến thắng truyền về, tính cước trình thì năm sáu ngày nữa có lẽ đại quân về tới Trường An.

Tạ Thanh thưa vâng, quay đầu thoáng nhìn Đỗ Tư Nam, đánh ngựa đi theo sau lưng Dao Anh.

Dao Anh biết Tạ Thanh rất lạ vì sao nàng lại có thái độ kỳ cục đối với Đỗ Tư Nam, không trọng dụng lại không dứt khoát giết đi chấm dứt hậu hoạn.

Nàng không thể động vào Đỗ Tư Nam. Y vốn nên là mưu thần đệ nhất dưới trướng Lý Huyền Trinh, nàng mà làm khó y thì cả người sẽ khó chịu.

Đành phải tìm cách khác, ngăn cản y đầu quân Lý Huyền Trinh.

Hiện xem ra cách này không tệ, Nhị ca thành công tránh được Đỗ Tư Nam sát hại.

Về phần chiêu nạp Đỗ Tư Nam, để bản thân sử dụng y...

Dao Anh lắc đầu.

...

Ánh mắt Đỗ Tư Nam độc ác, giỏi xem tướng, lúc còn ở Nam Sở, từng lấy bốn chữ đánh giá Lý Đức: Nhất đại hùng chủ.

Với Lý Huyền Trinh cũng là bốn chữ: Cũng là anh chủ.

Đến phiên Lý Trọng Kiền, thì là tám chữ: Hữu dũng vô mưu, khó thành việc lớn.

Khát vọng y rộng lớn, ánh mắt lâu dài, vì đạt được mục đích không từ thủ đoạn, tuyệt không thoả mãn là mưu thần dưới trướng Lý Trọng Kiền, dù ép y chịu thua thì y cũng sẽ không thực lòng bày mưu tính kế cho Lý Trọng Kiền, nói không chừng sẽ còn âm thầm cấu kết với Lý Huyền Trinh nữa.

Giữ người này bên cạnh khác nào tự triệt đường lui.

Cho nên, Dao Anh không thể dùng Đỗ Tư Nam.

Không thể giết, không thể dùng, cứ đặt ngay dưới mắt coi ngó, cũng không tệ.

Lý Huyền Trinh thưởng thức tài hoa của Đỗ Tư Nam, không cam tâm bỏ lỡ nhân tài, luôn phái người quan sát hắn.

Mỗi lần Dao Anh đến nhà, Đông cung sẽ có tin báo.

Hiện giờ mưu sĩ Đông cung coi trọng nhất là Ngụy Minh, người Hà Đông, người này bụng dạ hẹp hòi, thích thù vặt, ghen ghét người hiền có năng lực, Đỗ Tư Nam nổi tiếng từ thiếu niên, Ngụy Minh đã nghe từ lâu, có phần kiêng kị y.

Tin báo đưa tới tay Ngụy Minh, tin chắc gã sẽ nhân cơ hội này nói bậy mấy lời, cản Lý Huyền Trinh dùng Đỗ Tư Nam.

Bởi vậy, mỗi lần xuất cung, Dao Anh đều sẽ đến nhà Đỗ Tư Nam vòng vo.

Dù sao cũng rảnh.

Hôm nay đến, cũng vì tiện đường đi chợ phố Tây thôi.

...

Đang lúc náo nhiệt nhất ở phố chợ, dòng người như dệt, chen chúc sát cánh.

Sau khi Lý Đức đăng cơ đã ban bố chính lệnh, thiết lập lại thị thự quản lý buôn bán, vì quản lý tốt, đánh thuế cực thấp nên thu hút dân buôn các nơi tụ về.

Cửa hàng san sát, tiếng rao hàng nối tiếp, người Nam người Bắc, người Thổ Hỏa La*, người Thiên Trúc, người Hồ dùng tiếng phổ thông nửa sống nửa chín cò kè mặc cả.

*nguyên thủy gốc Ấn đến từ nam Siberia và núi Ural.

Dao Anh đội mũ rèm, giải tán bớt người hầu, chỉ dẫn theo vài kiện bộc tìm đến hàng bán yên ngựa, chọn lấy một bộ.

Chủ tiệm khoác lác rằng yên ngựa trong tiệm đều từ Bắc Đình, không chỉ nhẹ nhàng đơn giản bền chắc mà còn được quét mỡ dê, không dễ bị mục bởi nước mưa và mồ hôi ngựa.

Trung Nguyên đại loạn, Tây Vực cũng không yên ổn, mấy mươi năm qua mấy mươi bộ tộc lớn nhỏ tuần tự xưng Vương, phía Nam phía Bắc Tây Vực bị từng bộ lạc lớn nhỏ chia cắt, con đường tơ lụa sớm đã bị cắt đứt mấy mươi năm. Buôn bán Bắc Đình và Trung Nguyên muốn thông thương thường vừa mới lên đường đã bị bộ lạc trên đường cướp bóc, những đội buôn Trung Nguyên từng lui tới vãng lai tại Tây Vực gần như tuyệt tích.

Vật vì hiếm mà quý, chủ tiệm vừa vớ được một mớ yên ngựa Bắc Đình thị trường khó tìm, có vẻ tự đắc.

Dao Anh hỏi vài câu về Tây Vực.

Dù nàng che giấu thân phận còn đội mũ rèm che khuất khuôn mặt, nhưng cử chỉ không tầm thường, khí độ xuất chúng. Chủ tiệm lường trước nàng hẳn là quý nhân cải trang vi hành, muốn phô trương, phàm biết chuyện cũng không e dè nói ra.

Ra khỏi tiệm yên ngựa, Dao Anh nhẹ chau mày.

Dị tộc phương Bắc thường xuyên xuôi Nam quấy nhiễu, một vùng đất lớn phía Bắc Trường An còn chưa thu phục. Lý Đức muốn lấy Hồ chế Hồ, mượn nhờ bộ lạc người Hồ thu phục hành lang Hà Tây, nên đã đưa ra một lượng lớn của cải, có vài bộ lạc Đột Quyết đồng ý quy thuận, tù trưởng và Vương tử bộ lạc đã đến Trường An.

Không lâu sau nữa, có thể Lý Đức sẽ phái Lý Trọng Kiền dẫn binh đi Tây Vực dẹp loạn.

Tây Vực thoát ly khỏi khống chế của Trung Nguyên mấy chục năm, nghe chủ tiệm nói, bây giờ Trung Nguyên dần dần ổn định, Tây Vực vẫn chiến loạn khắp nơi, hơn nữa trước sau mấy bộ lạc có thực lực lớn đã quật khởi, trong đó hai bộ lạc có thế mạnh càn quét Tây Vực, thu phục nói dễ vậy chăng?

Trong sách, là Lý Trọng Kiền chết trong bão cát Tây Vực mênh mông.

Tính anh ấy lỗ mãng dễ xúc động, bị Lý Huyền Trinh và Đỗ Tư Nam phái kẻ gian mê hoặc, một mình tiến sâu vào, người bị bủa vây, chiến đấu đến kiệt sức mà chết. Lý Huyền Trinh không cho phép binh sĩ nhặt xác anh ấy, mặc cho kền kền mổ xác.

Mười năm chinh chiến, vì xây dựng nước Đại Ngụy lập bao công lao hiển hách Nhị hoàng tử, đã chết không còn thây.

...

Ác mộng nhiều năm dây dưa Lý Dao Anh đó là cảnh Lý Trọng Kiền chết thảm ở đại mạc.

Dao Anh cưỡi ngựa ra khỏi cửa phường chợ phía Tây.

Người chân chính muốn giết Lý Trọng Kiền là Lý Huyền Trinh, không có Đỗ Tư Nam, sẽ có người khác bày mưu tính kế cho y.

Huynh trưởng sẽ không bỏ qua ba mẹ con họ. Chờ Nhị ca về, sẽ tìm anh ấy nói rõ.

Vó ngựa Ô Tôn* vòng qua góc đường, đột nhiên phía trước một tiếng quát lớn của hào nô. Người đi đường rối rít né tránh.

*Nước Ô Tôn ở vùng thảo nguyên, vùng giao thông Đông Tây quan trọng nhất thời Hán.

Dao Anh từ trong trầm tư lấy lại tinh thần, nhìn theo tiếng kêu.

Mấy kiện nô cưỡi ngựa cao to xuyên phá đám người chen lấn, vây quanh một cỗ xe ngựa có lọng che, từ góc Tây Bắc Nghĩa Ninh phường chạy tới.

Gió xuân thổi qua, phất lên màn xe, một gương mặt thanh tú căng thẳng chợt hiện.

Tạ Thanh thị lực hơn người, nhìn chằm chằm xe ngựa một hồi, thúc ngựa tiến lên nửa thân, thấp giọng nói: "Quý chủ, là Phúc Khang công chúa."

Mày Dao Anh nhẹ nhíu.

...

Phúc Khang công chúa Chu Lục Vân, con gái của Mạt Đế tiền triều, là nữ chính trong "Đại Ngụy Lý Huyền Trinh", là nữ tử định sẵn dây dưa nửa đời với Lý Huyền Trinh.

Mấy năm trước, Lý Đức vì mua chuộc lòng người, cho người tìm công chúa tiền triều Chu Lục Vân, nuôi lớn, sau khi lên ngôi lập tức sắc phong cô ta thành Phúc Khang công chúa. Lý Đức xem Chu Lục Vân như con ruột. Chu Lục Vân thì lại cho rằng năm đó Lý Đức cố ý chậm trễ không đi cứu giá, hại chết phụ hoàng, giả vờ theo Lý Đức, thật ra là âm thầm mưu đồ báo thù.

Đàn ông Lý gia tâm ngoan thủ lạt, trên chiến trường giết địch vô số, dũng mãnh quả cảm, mỗi người đều là kiêu tướng dũng mãnh thiện chiến, và cũng đều có một cọng lông bệnh: dễ dàng bại trên người phụ nữ.

Tật xấu này ở Lý Huyền Trinh nghiêm trọng nhất.

Y và Chu Lục Vân yêu hận gút mắc, quấn quýt si mê mấy mươi năm, hôm nay nàng đâm ta một đao, mai ta chặt nàng một kiếm, chia chia hợp hợp, giày vò nửa đời người. Cuối cùng hai người bình an sống đến già, người thân cận bên cạnh vì họ kẻ chết người bị thương, còn phải chúc mừng hai người cuối cùng cũng đã hóa giải ân oán hai nhà, vui kết liền cành.

Tóm lại, nơi nào có Chu Lục Vân, gà bay chó chạy, người ngã ngựa đổ.

Thái tử phi Trịnh thị ba bữa bốn bận triền miên trên giường bệnh, một nửa trong đó là bị Lý Huyền Trinh và Chu Lục Vân chọc tức.

...

Chu Lục Vân cậy thân phận mình, sao lại đi Nghĩa Ninh phường?

Nghĩa Ninh phường là xóm người Hồ. Xưa nay Chu Lục Vân xem thường người Hồ, khinh thường lui tới với họ.

Trong lòng Dao Anh hơi động, bảo Tạ Thanh: "Phái người theo dõi."

Tạ Thanh nghe theo, ra hiệu cho thuộc hạ.

Kiện bộc thả người nhảy xuống ngựa, lẫn vào đám người rộn ràng.

Sáng sớm hôm sau, Tạ Thanh vào gặp Lý Dao Anh bẩm báo: "Quý chủ, sai phường của Nghĩa Ninh phường nói gần đây Phúc Khang công chúa thường xuyên đi Nghĩa Ninh phường, trong nửa tháng qua đã tới ba lần."

Dao Anh đã trang điểm xong, ngắm mình trong gương, đầu ngón tay đè lên hoa điền* bằng vàng hình lá màu xanh biếc điểm ở mi tâm, hỏi: "Cô ta đi Nghĩa Ninh phường làm gì?"

Tạ Thanh đứng ngoài tấm bình phong mười hai phiến, lưng thẳng tắp, đáp: "Nghe nói là đi từ đường Hỏa giáo xem nghi thức so tài Tiên*."

*Hoả giáo [Zoroastrianism]. Quốc giáo do người Ba Tư cổ Tỏa La Á Tư sáng lập, sùng bái lửa.

Phần lớn thương nhân người Hồ thờ phụng Hỏa giáo, ở Nghĩa Ninh phường có xây một từ đường Hỏa giáo, người Hồ thường xuyên cử hành nghi thức cúng bái ở từ đường.

Dao Anh thả chiếc gương đồng khảm cừ hình hoa hướng dương xuống, nghi ngờ trong lòng càng lớn.

Chu Lục Vân một lòng báo thù, tuyệt không rảnh rỗi đi từ đường xem giáo đồ Hỏa giáo phun lửa đùa đao.

Xem so tài chỉ là ngụy trang che tai mắt người.

Đột nhiên cô ta hạ mình qua lại với người Hồ, đến cùng là vì cái gì nhỉ?

Lẽ nào cô ta muốn thu dùng người Hồ để ám sát Lý Đức?

Trong sách Chu Lục Vân nhiều lần hành thích, nhiều lần sắp thành lại bại.

Ngay từ đầu Chu Lục Vân tưởng Lý Huyền Trinh trong tối cản trở kế hoạch báo thù của mình, sau mới hiểu thật ra Lý Đức đã biết cô ta muốn ám sát mình từ lâu. Lý Đức giả vờ không biết rõ tình hình, giữ cô bên người, vì muốn một mẻ hốt gọn dư nghiệt tiền triều.

Dao Anh bảo Tạ Thanh tiếp tục phái người theo dõi Chu Lục Vân.

Nàng không lo lắng an nguy của Lý Đức, chỉ sợ liên luỵ đến Tạ Quý phi và Lý Trọng Kiền.

Tạ Thanh cáo lui.

Thị nữ Xuân Như bước vào, cười bưng đến một chiếc áo khoác lụa nhuộm thủ công màu xanh thêu hình chim.

Lý Dao Anh nhận lấy khoác lên cánh tay, mảnh lụa dùng bột bạc vẽ lấm tấm đầy sao, phản xạ ánh nắng, hoa văn hình chim như đang xuôi giữa dòng sông sao, sinh động như thật, rực rỡ chói lọi.

Xuân Như cười nói: "Tháng sau thưởng xuân yến, quý chủ chắc chắn là bông hoa rực rỡ cả chốn kinh thành."

Theo thường lệ trong tiệc thưởng xuân sẽ đấu hoa mẫu đơn, nhưng người người đều biết thi hoa cuối cùng vẫn là xem người.

Thất công chúa cực kỳ tao nhã, lại có y phục gấm vóc mới lạ độc đáo tương xứng, cộng thêm Nhị hoàng tử tốn mấy vạn kim mua hoa mẫu đơn vua từ Đông Đô Lạc Dương, đến lúc đó người vận áo đẹp hoa tươi thắm, ai qua được công chúa?

Dao Anh gói lại tấm áo lụa: "Không vội, năm nay ta không đi tiệc thưởng xuân."

Nàng và Lý Trọng Kiền đã nói sẽ cùng đi Khúc Giang cưỡi ngựa du xuân.

Xuân Như ngẩn ngơ, ra chiều tiếc nuối: "Tỳ nữ của Tể tướng phu nhân gặp ai cũng nói năm nay nhất định người sẽ có mặt thưởng xuân yến, đám binh sĩ Kinh Triệu phủ rất vui sướng nhảy nhót. Nô nghe người ta nói, cả đám từng người họ đều bận rộn cắt may đồ mới, gấm vóc ngoài chợ suýt thì bị họ mua hết, hương phấn thoa mặt, đai lưng khảm ngọc đá quý cũng lên giá, để buôn lái người Hồ lưu manh kiếm lời một buổi."

Thất công chúa dung mạo như tiên trên trời, thân phận cao quý, con em thế gia trong kinh ngưỡng mộ nàng đã lâu, khổ sở vì không có cơ hội tiếp cận nàng.

Nghe nói nàng sẽ tham dự thưởng xuân yến của phủ Tể tướng, cửa phủ tể tướng suýt thì bị người tới xin thiếp mời đạp đổ.

Nhóm thiếu niên lang kích động không thôi, nửa tháng trước đã bắt đầu chuẩn bị, huân hương tắm rửa, chuẩn bị son phấn, thề phải áp đảo đám người cạnh tranh trong bữa tiệc thưởng xuân.

Thất công chúa không đi, đến lúc đó e là một nửa người dự tiệc thất vọng.

Nghe Xuân Như miêu tả sống động về đám con cháu vọng tộc trong kinh tô son điểm phấn, Lý Dao Anh không khỏi bật cười: Nam tử đương thời xem thoa phấn là đẹp, nàng thực sự không thể thưởng thức.

"Quý chủ không đi, thật là đáng tiếc..."

Xuân Như nhớ tới một chuyện, con ngươi xoay chuyển.

"Nghe nói Tam lang Trịnh gia cũng đi thưởng xuân yến, còn muốn cùng với con cháu Vương gia, Thôi gia, Lư gia tranh tài làm thơ ấy!"

Dao Anh nhíu mày.

...

Tam lang Trịnh gia Trịnh Cảnh, là người đã định chọn làm phò mã.

Người người đều biết Trịnh Cảnh là trai trưởng đích tôn của Trịnh gia nhưng kém xa thứ huynh Trịnh Đại Lang.

Lý Đức từng nhiều lần trước mặt mọi người tán thưởng Trịnh Đại Lang. Trong kinh có lời đồn, sau này Trịnh Đại Lang sẽ tiếp nhận chức quan của cha Trịnh, còn người tài hoa bình thường Trịnh Cảnh thì ở lại trong tộc quản lý tộc vụ của Trịnh thị.

Chỉ có Lý Dao Anh biết, Trịnh Cảnh tốt đẹp bên trong, nhìn thì bất hiển sơn bất lộ thủy*, tương lai lại thẳng tới mây xanh, đứng hàng Tể tướng.

*làm việc không phô trương, nói chuyện không lộ vẻ.

Về sau, Lý Huyền Trinh vào tuổi trung niên hoa mắt ù tai dễ giận, mấy lần viễn chinh suýt nữa kéo sập Đại Ngụy. Sau khi hắn chết, trong triều trải qua rung chuyển, nhờ Trịnh Cảnh lão luyện dầy dạn mới có thể ổn định thế cục.

Trịnh Cảnh cả đời phụ tá ba đời đế vương, quyền khuynh triều chính, thậm chí có một lần chi phối phế lập Quân Vương.

Cha Trịnh từng quyết định một mối hôn sự cho Trịnh Cảnh.

Được mấy năm, người nhà đó bất hạnh chết trong chiến loạn. Theo sách viết, Trịnh Cảnh dựng mộ cho vị hôn thê, sau đó cả đời không lập chính thê, chỉ nạp rất nhiều cơ thiếp, con cái hết đứa này tiếp đứa khác, đến mức không thể không xây thêm hậu viện, nếu không không đủ ở.

...

Lý Dao Anh gặp Trịnh Cảnh mấy lần, đối với cậu không có gì đặc biệt ấn tượng.

Giờ nghe Xuân Như nhắc đến, nàng không nhớ nổi vẻ mặt của Trịnh Cảnh, chỉ mang máng cậu ta cao gầy, nhã nhặn, không khác con em thế gia khác.

Mấy năm nay Dao Anh một mực nơm nớp lo sợ đề phòng Lý Huyền Trinh, tuổi lại nhỏ, không nghĩ tới chuyện lấy chồng.

Chuyện làm thân với Trịnh gia này là do Lý Trọng Kiền quyết định thay nàng, trước khi hắn xuất chinh đã lập minh ước bằng miệng với cha Trịnh.

Việc này không giấu Lý Đức, tin là từ chỗ hầu cận Lý Đức truyền tới.

Nhớ tới, Dao Anh không nhịn được hừ nhẹ.

Nhị ca rảnh quá không nói câu nào định cho nàng một tấm chồng nhỉ!

Chờ ổng về, nhất định phải nện ổng một trận!

Xuân Như thầm thở dài.

Cô đã hết sức nhắc tên Tam Lang của Trịnh gia rồi mà công chúa vẫn thờ ơ, xem ra thưởng xuân yến năm nay đúng là để những người khác hưởng rồi.

...

Thời tiết ngày càng tươi đẹp, anh đào trong biệt viện nở rộ, ý xuân càng nồng, liễu xanh vườn ngự uyển tỏa bóng, hoa hạnh như tuyết.

Mỗi ngày Tạ Thanh đều tới chỗ Lý Dao Anh báo cáo động tĩnh của Chu Lục Vân.

Chu Lục Vân có vẻ không hứng thú gì với cuộc so tài Hỏa giáo, kể từ ngày đó không ra phủ.

Thế nhưng tôi tớ cô ta thì lại mỗi ngày lui tới giữa phủ Công chúa và Nghĩa Ninh phường truyền tin, hành tung quỷ bí.

Dao Anh thầm nghĩ: Chu Lục Vân có lẽ đang lên kế hoạch ám sát thật.

Nàng một mặt bảo Tạ Thanh tiếp tục lưu ý Chu Lục Vân, một mặt lo lắng ngóng trông Lý Trọng Kiền sớm ngày bình an trở về.

Phía trước đưa chiến báo về, trên đường Lý Đức dẫn đoàn Vương sư khải hoàn gặp một chút biến cố, ngày về không ước chừng.

Dao Anh mong mỏi ngóng trông, không ngừng phái người tìm hiểu tình huống.

Trước thì nói cuối tháng có thể hồi kinh, đến giữa tháng tư, Lý Trọng Kiền vẫn chậm chạp chưa về.

Sáng sớm hôm đó, Dao Anh dùng một chung sữa đậu anh đào trên chiếc ghế xéo bên cạnh hiên, nghiêng dựa vào gối mềm, lật xem sổ sách các nơi đưa tới.

Gió nhẹ thổi ấm áp dễ chịu, trước hiên hoa rụng rực rỡ.

Bỗng từ chỗ sâu hành lang truyền đến một tràng bước chân dồn dập.

Tỳ nữ trong cung Tạ Quý phi vội vội vàng vàng tìm tới.

"Quý chủ, nương tử lại phát bệnh!"

Dao Anh lập tức buông sổ sách, xỏ guốc gỗ bước xuống hành lang, đi đến tẩm cung chính điện.

Vừa qua hành lang, tiếng người phía trước lộn xộn, một phụ nữ trung niên tóc tai bù xù, khuôn mặt tiều tụy đang bước đi phía đối diện nàng, lảo đảo, xiêu vẹo qua lại.

Bảy tám cung nữ vây quanh một bên, muốn đỡ bà, lại sợ dọa bà.

Dao Anh bước nhanh lên trước, hàng mi cau lại, nói khẽ: "Mẹ, là con."

Giọng như gió xuân, dịu dàng như có thể nhỏ ra mật hoa.

Tạ Quý phi lung tung vén mớ tóc rối bù, ánh mắt mê man, thần sắc ngây thơ: "Minh Nguyệt nô... Nhị Lang đâu? Nó bảo hôm nay đến thăm ta..."

Dao Anh nhẹ nhàng đỡ lấy cánh tay bà, giọng êm dịu: "Mẹ, anh viết thư về nói trên đường có việc chậm trễ, chắc vài ngày nữa mới về."

Tạ Quý phi ngây ngẩn cả người, cẩn thật hỏi: "Thật à?"

Dao Anh dìu mẹ về, kiên nhẫn dỗ: "Thật ạ, hai ngày nữa anh về rồi ạ."

Ánh mắt Tạ Quý phi mờ mờ mịt mịt, miệng vẫn lặp đi lặp lại: Nhị lang, về.

Dao Anh không phiền ai khác cam đoan với bà: "Nhị ca sẽ về mà." Vừa dỗ vừa lừa, đưa Tạ Quý phi về tẩm cung.

Cung nữ đưa tới chén thuốc vừa mới sắc xong.

Dao Anh rửa tay, nhận cây lược chải tóc cho Tạ Quý phi, giúp bà rửa mặt, tự tay đút bà uống thuốc.

Trong thuốc bỏ thêm ô mai, ngọt lịm.

Tạ Quý phi ngoan ngoãn uống thuốc, bỗng đưa tay sờ cổ tay lạnh buốt của Dao Anh.

Thời tiết ấm dần, Dao Anh sợ nóng, hôm nay mặc bộ váy tay ngắn điểm ít hoa lựu đỏ, cánh tay áo rộng như khinh bạc, bên ngoài khoác một mảnh gấm quá nửa cánh tay, lúc đưa tay ra tay áo trượt xuống, lộ cổ tay trắng ngưng sương.

Tạ Quý phi yêu thương hỏi: "Minh Nguyệt nô, có lạnh không?"

Vừa nói vừa tiện tay kéo lên mảnh lụa trên vai con gái bên cạnh giường.

Trong miệng căn dặn tới lui: "Đừng để bị lạnh... Minh Nguyệt nô đừng để bị cảm lạnh... Mỗi ngày phải uống thuốc..."

Dịu dàng hiền từ, giống như trước đây.

Đáy lòng Dao Anh trào ra vị chua, lắc đầu: "Mẹ, con không lạnh." Tiếp tục đút cho Tạ Quý phi uống thuốc.

Dù điên dại, mẹ vẫn nhớ quan tâm nàng.

...

Năm đó Tạ Quý phi tranh chấp với Đường thị, Đường thị bỏ mình, Lý Đức giận lây sang bà, bà cực kỳ thất vọng, rồi lâm bệnh.

Sau đó không lâu Tạ gia che chắn cho dân chúng qua sông, tử thủ thành trống, cả nhà oanh liệt.

Tạ Quý phi đau lòng mất đi người thân, cũng đã mất đi chỗ dựa duy nhất, thái độ của Lý Đức đối với bà càng thêm lạnh nhạt, từ đó bà điên điên khùng khùng, si si ngốc ngốc.

Bà chưa từng nổi lên lòng hãm hại Đường thị, rơi xuống kết cục này, Lý Huyền Trinh vẫn chưa thấy hết giận. Mãi khi bà nuốt vàng tự vận, hắn còn nói với người bên cạnh: "Độc phụ chết chưa hết tội!"

...

Lý Dao Anh nhìn Tạ Quý phi nằm ngủ, ra khỏi tẩm cung, khẽ cau mày.

Mấy năm nay Tạ Quý phi lúc tốt lúc xấu, nàng tìm danh y khắp thiên hạ chẩn trị cho bà, dù có chút khởi sắc nhưng bệnh của Tạ Quý phi xét ra vẫn là tâm bệnh.

Nhiều năm trước, Tạ Quý phi được huynh trưởng Tạ Cữu phụ yêu thương, khăng khăng muốn gả cho Lý Đức.

Tạ Cữu phụ bất đắc dĩ, đưa nàng xuất giá, dốc hết lực toàn tộc phụ tá chồng bà.

Cuối cùng dâng toàn bộ Tạ gia.

Đổi lấy là sự thờ ơ đối đãi từ Lý Đức.

Đôi khi Dao Anh nghĩ, Tạ Quý phi thần trí mơ hồ chưa hẳn là chuyện xấu.

Lý Trọng Kiền cũng cho là vậy.

Trước mặt Tạ Quý phi hai anh em không nhắc tới Tạ Cữu phụ sớm đã bỏ mình giữ thành, Tạ Quý phi vẫn nghĩ người Tạ gia còn sống trên cõi đời, chỉ là không muốn lui tới với bà.

Ngự y vội vã chạy tới, bắt mạch cho Tạ Quý phi, viết một đơn thuốc.

Cung tỳ quạt lò sắc nước trà, Dao Anh mời ngự y ra hiên ngồi dùng chén trà nhỏ.

Hương trà lượn lờ, ngự y nhìn vào bột trà trắng tuyết trong chén trà ngọc, cân nhắc một lát, nói với Dao Anh: "Quý chủ, mỗ tài sơ học thiển, đã phụ quý chủ nhờ vả."

Dao Anh cười một tiếng, ngồi dậy, trịnh trọng hành lễ với ngự y: "Phụng ngự nói quá lời, bệnh mẹ thật ra là tâm bệnh. Mấy năm nay đã ỷ lại vào tấm lòng của Phụng ngự y chăm sóc mẹ, ta và huynh còn chưa đa tạ Phụng ngự."

Ngự y được sủng mà sợ, không dám nhận lễ của Dao Anh, quỳ không đứng dậy, chờ Dao Anh nghỉ ngơi rồi mới dám ngồi.

Thảo luận vài câu về bệnh tình của Tạ Quý phi, Ngự y nghĩ tới một chuyện: "Danh y Thiên Trúc mà Quý chủ có lần nhờ mỗ hỏi thăm giờ đã tới trong kinh, đang ở nhờ tại chùa Đại Từ Ân Tấn Xương phường."

Dao Anh lộ vẻ vui mừng.

Những năm cuối tiền triều thiên hạ đại loạn, vì tránh né chiến hỏa, các sư Trung Nguyên rối rít trốn về đất Thục tương đối thái bình.

Về sau Lý Đức đăng cơ, phái binh đi đất Thục thuyết phục cao tăng hồi kinh.

Trong đó có vị cao tăng Thiên Trúc, nghe nói không chỉ tinh thông Phật lý, còn là một vị hạnh lâm thánh thủ*. Ông từ Thiên Trúc đi đường biển đến Quảng Châu, du lịch hơn phân nửa Trung Nguyên, trăn trở đi đất Thục, lần này sẽ cùng những cao tăng Trung Nguyên khác về Trường An.

*chỉ người có y đức cao, không kể thù lao, y thuật cao siêu.

Dao Anh đã sớm nghe thanh danh của vị cao tăng, ngóng trông ngày ông sớm vào kinh.

Ngự y lại nói: "Quý chủ nếu muốn mời ngài xem mạch cho Quý phi, hay là càng sớm càng tốt, mỗ nghe nói ngài ấy vội đi Tây Vực, lần này tới Trường An, chỉ vì muốn chiêm ngưỡng xá lợi Phật thờ trong chùa Từ Ân thôi."

Dao Anh nghĩ nghĩ, đưa tiễn ngự y xong sai nô bộc chuẩn bị xe ngựa, quyết định lập tức xuất cung.

Chùa Đại Từ Ân do Đường Cao Tông Lý Trị vì tưởng nhớ mẹ Trưởng tôn Hoàng hậu hạ lệnh xây dựng, cao tăng Huyền Trang từng trụ trì nơi đây, tổ chức dịch kinh, phát dương Phật pháp. Huyền Trang và đệ tử khai sáng ra Phật giáo Duy Thức Tông Hán truyền, bởi vậy chùa Đại Từ Ân được coi là tổ đình của Duy Thức Tông.

*Mai + baike: Duy Thức Tông: một tông phái Phật giáo Trung Quốc, pháp sư Đường Huyền Trang và đệ tử sáng lập, còn gọi Pháp Tướng Tông, Từ Ân Tông (*khởi nguồn từ chùa Đại Từ Ân, Tây An, Thiểm Tây), theo đạo tông đẳng tròn vẹn. (tương đối cao thâm, nhập môn yêu cầu cao, đơn giản mà nói quá khó, người tu không nhiều, về sau Huyền Trang và đệ tử ngài truyền mấy đời rồi suy.) (>> lúc nhỏ đọc Tây Du Ký thấy dịch là Duy Tông)

Vì nghênh đón cao tăng từ phương Bắc về, chùa Đại Từ Ân đã sửa chữa đổi mới hoàn toàn, mái chùa tráng lệ, bảo điện hùng vĩ, tháp Đại Nhạn được xây lại sừng sững bên bờ Khúc Giang, cung kính trang nghiêm.

Nhóm tăng nhân đất Thục đầu tiên đã đến, trong chùa bận rộn.

Giám viện một đêm không ngủ, loay hoay chân không chạm đất, nhìn thấy khách tăng vào nhà, khẽ cau mày.

Khách tăng trình thiếp mời, giám viện nhận lấy nhìn mấy bận, lập tức quăng việc trong tay, bước ra đường viện.

Mới vừa tới cửa, nghe tiếng bước chân lao xao trong hành lang.

Mấy tên thân binh mặc áo tay hẹp vây quanh một vị nữ lang nhỏ tuổi vẻ ngoài bức người đi tới.

Nữ lang mắt ngọc mày ngài, phong thái như tiên như ngọc, lụa mỏng phiêu dật, tay áo tung bay, phảng phất như tấm bích hoạ Ngô mang đương phong* trong chùa, một nữ tôn giả xinh đẹp phú quý đoan chính thanh nhã.

*ý như họa gia Ngô Đạo Tử thời Đường vẽ tượng Phật, thế bút linh động, vẽ đai lưng như được gió thổi phất; người đời sau dùng để tả phong cách vẽ cao siêu đẹp đến phiêu dật.

Nơi nàng đi qua, tiểu sa di không nhịn được ngẩng đầu nhìn, bị tì khưu lớn tuổi trừng mấy lần, vội cúi đầu thầm niệm kinh văn.

*cơn giận của ông anh mê em gái

Trong tiền đường nhang khói lượn lờ, cờ kinh khẽ phất.

Giám viện từ tốn bước lên nghênh đón Lý Dao Anh, chắp tay trước ngực: "Không biết công chúa đại giá quang lâm, bần tăng thất lễ."

Ra hiệu các sư chuẩn bị Pháp sự, mời nàng đi chính viện.

Lý Dao Anh cười lắc đầu: "Pháp sư không cần đa lễ, ta không có chuyện không lên điện Tam Bảo, quấy rầy thanh tịnh của Pháp sư."

Trong thời loạn, dân chúng trôi dạt khắp nơi, ăn bữa hôm lo bữa mai, rối rít tìm an ủi và giải thoát trong đạo Phật.

Danh gia vọng tộc sùng Phật, tên huý của Tạ Cữu phụ và Tạ Quý phi cũng từ tiếng Phạn, một người là Vô Lượng, một người là Mãn Nguyện.

Lý gia không có truyền thống này, Dao Anh không rành Phật pháp, toàn bộ kiến thức về sa môn chỉ có một bộ tiểu thuyết thông tục lưu truyền hậu thế.

Hôm nay nàng không phải tới dâng hương cầu nguyện. Khách khí vài câu, nàng nói thẳng ý đồ đến đây.

Giám viện nhẹ nhàng thở ra, cười nói: "Công chúa chờ một lát, vừa vặn hôm nay Pháp sư Đề Bà Mông Đạt ở trong chùa."

*Đề Bà, âm tiếng Phạn: Deva, dịch ý là ông trời (trời trong người trời chứ không phải bầu trời), còn gọi là Thánh trời. Trong Phật giáo Ấn Độ xem người sáng lập là đệ tử của rồng, đại tổ sư Thiền tông Tây Thiên thứ 15, người Sri Lanka ngày nay, dòng giống Bà La Môn, sinh hoạt tầm thế kỷ III.

Dao Anh cười cười, "Vậy, cực khổ nhờ Pháp sư phái tì khưu dẫn ta gặp mặt ạ."

Giám viện sửng sốt, chợt mỉm cười.

Mấy hôm nay ông tiếp đãi không ít quý nhân. Tân triều thành lập không lâu, hoàng thất quý thích kiêu căng ngang ngược, ông lo lắng, còn tưởng Thất công chúa cũng khó nhằn, không ngờ dù công chúa không tin Phật, lại khiêm tốn lễ độ, thật hiếm có.

Giám viện tìm một khách tăng dẫn Lý Dao Anh đi gặp Đề Bà Mông Đạt.

Khách tăng vào viện thông báo trước, đưa bái thiếp Lý Dao Anh đích thân viết.

Không bao lâu, nô bộc của Đề Bà Mông Đạt từ trong đi ra, cung cung kính kính mời Lý Dao Anh vào.

Đề Bà Mông Đạt vừa xong giờ tảo khóa*, ngồi ngay ngắn trên đệm hương bồ, chào hỏi Lý Dao Anh.

*tảo khóa: giờ học/tụng kinh của các vị sư, ngày 2 bận

Ông là người Thiên Trúc, mũi cao mắt sâu, mặt rộng miệng vuông, nhìn bề ngoài chừng trên dưới năm mươi, một đôi mắt màu nâu nhạt tỏa ra tia ôn hòa, người mặc phẩn tảo y*, khí chất không tầm thường, giọng Hán vô cùng trôi chảy.

*trang phục tăng lữ dùng vải vụn chắp ghép thành. Phật giáo Ấn Độ quy định, có 5 cấp: đạo lộ khí y, phẩn tảo xử y, hà biên khí y, nghĩ xuyên phá y, phá toái y.

Dao Anh rất hiếm khi giao thiệp với giới nhà sư, đối phương lại là người ngoại quốc, trù trừ một lát.

Đề Bà Mông Đạt hỏi: "Công chúa phiền muộn vì lệnh đường à?"

Ông đi lại trong thời loạn, thường lui tới với quan lại quyền quý, cũng không phải là người không rõ tục.

Dao Anh gật đầu, trên thiếp đã viết nguyên nhân lần này nàng bái phỏng: "Được nghe Pháp sư y thuật tuyệt diệu, xin được mời Pháp sư dời bước xem mạch cho mẫu thân."

Tạ Vô Lượng và các tử đệ Tạ gia khác không thể đã chết mà sống lại, tâm bệnh Tạ Quý phi không có thuốc nào chữa được, nàng mời thầy thuốc là vì một chuyện khác.

Đề Bà Mông Đạt lại cười nói: "Phật lấy lòng từ bi, công chúa đã mời, ta không dám thoái thác."

Tảng đá trong lòng Dao Anh rơi xuống, hẹn Đề Bà Mông Đạt hôm sau phái người đến chùa Đại Từ Ân đón người vào cung, để lại hậu lễ rồi cáo từ rời đi.

Một đệ tử người Hán của Đề Bà Mông Đạt đưa Lý Dao Anh ra chùa, mấy lần muốn nói lại thôi.

Ánh mắt Dao Anh dõi theo vẻ mặt vòng vo của người đệ tử, khẽ cười: "Pháp sư bớt chút thì giờ chẩn trị cho mẹ ta, cảm kích khôn cùng, nếu có thể giải nỗi lo cho Pháp sư, xin cho biết."

Đệ tử như trút được gánh nặng, chắp tay trước ngực nói: "Không gạt công chúa, Pháp sư sắp đi về phía Tây, lần này đến Kinh Triệu phủ, ngoài chiêm ngưỡng Xá Lợi, còn vì giấy thông quan."

Dao Anh bừng tỉnh. Chả trách Đề Bà Mông Đạt khách khí thế, thì ra có chỗ nhờ vả.

Nhà Ngụy lập quốc, biên giới nghiêm ngặt, Đề Bà Mông Đạt muốn yên yên ổn ổn lên đường tiến về phía Tây chắc chắn phải có giấy thông quan, nếu không vừa ra Kim Thành sẽ bị tướng sĩ giữ thành bắn giết.

Nàng cười nói: "Chuyện này cũng không khó, mai ta cho người đưa tới giấy tờ Pháp sư cần."

Lấy một phần giấy tờ thông quan đối với nàng mà nói chỉ là cái nhấc tay.

Đệ tử rối rít bái tạ không ngừng.

Dao Anh tò mò hỏi: "Sao Pháp sư muốn đi Tây Vực ạ?"

Tây Vực rối loạn mấy chục năm, Thổ Phiên, Đột Quyết, Tiên Ti, Hồi Hột, Khiết Đan, Thát Đát... các thế lực to nhỏ cài răng lược, chinh chiến suốt, sao phải đến một ngôi chùa loạn.

Con đường tơ lụa phồn hoa xưa kia trải rộng xương khô, dân buôn cần tiền không cần mạng cũng không dám đặt chân nơi Tây Vực.

Đề Bà Mông Đạt không sợ vừa bước ra Trung Nguyên đã bỏ mạng dưới đao giặc cỏ sao?

Đệ tử đáp: "Tây Vực có một Phật quốc, giấu vạn cuốn kinh thư, xây hơn trăm tòa Già lam, từ Quốc chủ đến người dân đều là người sùng Phật. Nghe đồn đời Quân chủ này của họ vừa là Quốc Vương vừa là cao tăng, thiếu niên thông minh từ nhỏ, ba tuổi biết chữ, bảy tuổi thông thạo kinh văn, hơn mười tuổi ngồi tòa thuyết pháp danh chấn khắp Tây Vực. Pháp sư từ lâu muốn đến đó dạo chơi, nghiên cứu thảo luận Phật pháp với vị cao tăng ấy. Pháp sư nói, ngài một lòng hướng Phật, nhất định Phật sẽ phù hộ ngài bình an không sao."

Phật quốc Tây Vực?

Sơ Lặc, Quy Tư, Cao Xương, Vu Điền, hay Yên Kỳ?

Cao tăng Quân chủ danh chấn Tây Vực...

Xẹt qua trong đầu Dao Anh một cái tên.

Nếu nàng đoán không sai, vị cao tăng Đề Bà Mông Đạt muốn gặp hẳn là người đó.

Một người khiến Lý Huyền Trinh không thể an gối.

Một tráng niên mất sớm, khi tin chết truyền đi, Ngụy triều Trung Nguyên, Thổ Phiên, Hãn quốc Kim trướng phương Bắc, Khiết Đan, văn võ đại thần mười mấy quốc gia bộ tộc lớn nhỏ đồng thời thở phào.

Trên đường hồi cung, Lý Dao Anh thầm tính.

Lúc này Đề Bà Mông Đạt lên đường xuất phát, hẳn là có thể kịp tìm tới Phật quốc kịp gặp cao tăng trước khi qua đời, cùng nghiên cứu thảo luận Phật pháp.

...

Tiếng người huyên náo bên tai, trong cơn gió thổi đến mặt nàng pha trộn hỗn tạp mùi rượu, son phấn, mùi mì, mùi thơm bánh Hồ nướng. Xe ngựa nghịt đường, chuông đồng kêu vang, càng gần đến hoàng thành, người đi xe ngựa ngày càng nhiều.

Ngựa Ô Tôn hiền lành ngoan ngoãn, giảm dần tốc độ.

Người hai bên đường đua nhau ném tới những ánh mắt kinh ngạc, ở xe bò xe la phía trước phụ nữ vén rèm nhìn lại, ánh mắt rơi lên khuôn mặt Lý Dao Anh, bận rộn bảo nô bộc né qua ven đường.

Lý Dao Anh tỉnh táo lại, lúc này mới phát hiện mình đang suy nghĩ đến nhập thần, từ lúc ra khỏi chùa Từ Ân quên đội mũ rèm.

Tạ Thanh dâng lên chiếc mũ gấm đoàn khoa, nàng nhận lấy, ngẩng đầu liếc qua hai bên tường phường, mới phát hiện đã đi tới Tuyên Dương phường, đang hướng đến phía trước mặt kia là Bình Khang phường tần lâu sở quán* san sát và Sùng Nhân phường nơi ở của nhiều hoạn quan giàu có hiển hách.

*ý nói nơi ca vũ, kỹ viện.

Bất kể chiến loạn hay thái bình, nơi đây đều là chỗ sầm uất bậc nhất Trường An.

Thảo nào phía trước chen lấn nước chảy không lọt.

Tạ Thanh quét mắt sau lưng một vòng: "Quý chủ, có cần xua bọn họ đi không?"

Ánh mắt Dao Anh liếc chỗ sau lưng cách đó không xa, đội mũ rèm lên, cúi đầu chỉnh lại thắt lưng buông rũ: "Không cần để ý."

Mỗi lần xuất cung, đám con cháu nhà giàu trong kinh ỷ vào gia tộc che chở chơi bời lêu lổng cứ như bầy ong nghe được hương mật hoa, phần phật vây quanh, hứng thú bừng bừng lởn vởn quanh nàng.

Nàng chưa từng để ý đến họ.

Cách sau lưng họ mười mấy trượng, đám thiếu niên lang mặc cẩm y, nga quan bác đái* bắt được ánh mắt Lý Dao Anh trước khi đội mũ rèm, máu nóng toàn thân sôi lên, líu ríu: "Thất công chúa nhìn bọn mình!"

*mũ cao thắt lưng rộng, tả y phục đại sĩ phu.

"Thất công chúa cười với ta!"

"Ngươi cao trắng như cái bảng hiệu vậy, sao Thất công chúa cười với ngươi được? Đừng tự mình đa tình!"

Nhóm thiếu niên lang kích động đỏ bừng mặt.

Có điều không ai dám tiến lên.

Không ai muốn trở thành Tiết Ngũ Lang thứ hai.

...

Tiết Thượng Nguyên* năm nay, muôn người thành Trường An đều đổ xô ra đường, hoa đăng sáng như ban ngày.

*Tết Nguyên Tiêu, còn gọi là tiết Thượng Nguyên, hoặc tết hoa đăng, rằm tháng giêng âm lịch, có tục thắp đèn cầu phúc.

Con em thế gia trong kinh thăm dò được Thất công chúa đang ngắm đèn ở Tuyên Dương phường, mà vị Nhị hoàng tử Tiểu Bá Vương thì không có mặt, lập tức đánh ngựa chạy tới.

Thất công chúa đầu búi tóc tròn, đội mũ hoa sen vàng, người mặc áo gấm cổ tròn bẻ hoa văn thạch lựu nhỏ xinh, tay áo bó dệt kim, chân mang ủng da, eo thắt đai da, một bộ quần áo thanh niên phú quý bình thường hay mặc, không trang điểm tỉ mỉ, nhưng vẫn không che được quốc sắc, dưới ánh đèn rực rỡ tóc mai như mây, gò má như tuyết, nói cười với tỳ nữ lúm đồng tiền nhẹ nhún, tăng thêm mấy phần thướt tha tươi đẹp.

Đám thiếu niên lang lòng như nổi trống, xa xa ở phía sau tô điểm.

Ai ngờ Ngũ lang Tiết gia trước khi ra cửa uống chút Kiếm Nam thiêu xuân, men say lên đầu, xuống ngựa bước tới, gật gù đắc ý đọc mấy câu thơ tình khó nghe cho Thất công chúa!

Đám thiếu niên không kiềm được cơn giận, đang định lên đuổi Tiết Ngũ thì Thất công chúa ngước mắt, nhàn nhạt liếc qua Tiết Ngũ lang.

Một chớp mắt tiếp đó, gia tướng bên cạnh công chúa lập tức ra tay, trường đao ra khỏi vỏ.

Xoẹt xoẹt mấy tiếng, mặt nạ quỷ Tiết Ngũ đang đeo vỡ thành mấy mảnh.

Lưỡi đao sáng như tuyết cách chóp mũi Tiết Ngũ chỉ một lóng tay, gã run cầm cập, lảo đảo ngã xuống đất, tè cả trong quần.

Thất công chúa không ngó Tiết Ngũ một cái, chọn lấy một chiếc mặt nạ dạ xoa mặt xanh nanh vàng che mặt, nhẹ nhàng bước đi, tiếp tục xem rước đèn.

Đám thiếu niên lang trợn mắt há mồm, mồ hôi kinh hoàng chảy lạnh ướt sũng cả người.

Ba ngày sau, Nhị hoàng tử hồi kinh nghe được, giận tím mặt, chiến bào nhuốm máu còn chưa cởi, trực tiếp xách song chùy giết tới Tiết phủ.

Một chùy đánh xuống, Tiết Ngũ ngay tại chỗ không còn nửa mạng, còn phải ráng gượng đứng lên dập đầu xin tội.

Tiết Thái úy và lão phu nhân ra mặt cầu tình cho Tiết Ngũ.

Trịnh Tể tướng sát vách cũng tới nói vào.

Nhị hoàng tử mặc kệ.

Nếu không phải Thất công chúa cho người ngăn đón Nhị hoàng tử, Tiết Ngũ đã thành phế nhân.

...

Từ đó về sau, Thất công chúa xuất cung, nhóm thiếu niên lang vẫn sẽ tranh nhau đánh ngựa đuổi theo, nhưng tuyệt không dám mở lời cười nói.

Nếu Thất công chúa đi cùng Nhị hoàng tử, kẻ nhát gan đến mặt cũng không dám lộ.

...

Trước mặt không biết đã xảy ra chuyện gì, đường chật ních, phu xe không nhịn được quơ roi, chỗ ngã giao người qua lại nhốn nháo.

Xe cộ qua lại bị ngăn giữa đường, tiếng phàn nàn nối tiếp.

Lý Dao Anh chờ giây lát, bảo Tạ Thanh đi lên trước xem vì sao đường bị chặn.

Chỉ sau chốc lát, Tạ Thanh trở về, sắc mặt cổ quái.

Dao Anh hỏi: "Chuyện gì thế?"

Tạ Thanh trợn mắt không nói.

Trong lòng Dao Anh chợt động.

Không đợi nàng hỏi tiếp, đám đông chen lấn phía trước bỗng tản ra, nhường ra một lối đi.

Một tiếng khóc thảm thiết từ xa lại gần, mấy tên lính Hán mặc giáp đen xua ba thiếu nữ, từ hướng chợ phía đông nghênh ngang đi tới, trực tiếp về phía Sùng Nhân phường.

Mấy thiếu nữ đều tuổi mười lăm mười sáu, vừa đi vừa quay đầu nhìn quanh, khóc đến hết hơi.

Lính Hán nghiêm nghị quát lớn, mấy thiếu nữ bị dọa sợ run, thu lại tiếng khóc, ba người co rúm lại một chỗ, nước mắt rơi đầy mặt.

Người đi đường xì xào bàn tán: "Nghiệp chướng! Mấy cô này phạm vào chuyện gì thế?"

Trong đám người truyền ra một tiếng cười lạnh: "Mấy cô gái nhỏ, sao phạm tội gì được?"

"Vậy sao họ bị lính Hán bắt nhỉ?"

Người cười lạnh kia nói: "Mấy cô này không phải bị bắt —— đấy là hộ vệ của Nhị hoàng tử, mấy cô này được Nhị hoàng tử coi trọng! Lính Hán đoạt về làm cơ thiếp cho quý nhân."

Lòng người đầy căm phẫn, mắng chửi: "Ban ngày ban mặt trắng trợn cướp đoạt gái nhà lành, có còn vương pháp không?"

Người kia tiếp tục cười lạnh: "Dưới chân thiên tử, quý nhân là vương pháp. Tần Vương là con ruột của Thánh thượng, ai dám đắc tội Tần Vương chứ?"

Trong phút chốc, tiếng mắng chửi Lý Trọng Kiền không dứt bên tai.

Sắc mặt Dao Anh lập tức trầm xuống.

Nhị ca không ở kinh thành, đám người ở Vương phủ kia không thể coi trời bằng vung vậy!

Nàng đạp yên ngựa, giục ngựa quay đầu, đuổi theo mấy tên lính Hán.

Tạ Thanh vội vàng thúc ngựa đuổi theo.

Lính Hán dẫn đám thiếu nữ quẹo vào một đầu hẻm, nghe tiếng vó ngựa vang sau lưng, nghĩ là người qua đường rảnh rỗi xen vào việc người khác, há miệng gầm thét.

Ba thiếu nữ run lẩy bẩy.

Tiếng vó ngựa tiến gần.

Lính Hán chau mày, con ngựa dưới người Lý Dao Anh cốt cách rất đẹp, nhìn là biết một thần câu, mấy hộ vệ vây quanh Tạ Thanh ai cũng to con tráng kiện, khí thế uy nghiêm, mặc cẩm bào, vác trường đao, hiển nhiên là kiện bộc nhà giàu nuôi dưỡng, trong lòng bực dọc, nhưng ỷ bản thân là hộ vệ Vương phủ, không thể sợ hãi, ưỡn ngực rút bội đao, chặn trước người mấy thiếu nữ.

"Ai đó? Muốn đụng chạm Tần Vương phủ sao?"

Dao Anh phi đến gần, không nói lời nào, rút dây roi, một roi vung tới trước mặt lính Hán, rồi lại một roi.

Lính Hán bị quất đến ngẩn ngơ, giận dữ, giơ đao định cản.

Tạ Thanh ngăn trước mặt gã, rút đao chém xuống: "Thất công chúa ở đây, không được càn rỡ."

Giọng bình tĩnh không lay động, đao pháp lại bá đạo mạnh mẽ.

Lính Hán thấy hai tay run lên, đầu váng mắt hoa, không cầm nổi bội đao trong tay.

Đợi gã lấy lại tinh thần, bội đao đã rơi, bản thân và mấy tên khác bị mấy kiện bộc đè xuống đất.

Lính Hán vùng vẫy mấy lần, nhớ lại câu Tạ Thanh vừa mới nói... gượm đã, Thất công chúa?

Em gái cùng mẹ của Tần Vương ư?

Hèn chi con ngựa Ô Tôn kia nhìn thật quen, mấy năm trước Tần Vương dẫn binh diệt mấy bộ lạc nhỏ gần Kim Thành thu được mấy con thần câu, một con trong đó chính là ngựa Ô Tôn này.

Lính Hán ngạc nhiên ngẩng đầu, nhìn Lý Dao Anh đầu đội mũ rèm, run run: "Quý chủ thứ tội, quý chủ thứ tội!"

Dao Anh giận không kiềm được: "Ai bảo các ngươi trắng trợn cướp đoạt con gái nhà lành đấy?"

Lính Hán cười gượng: "Quý chủ hiểu lầm rồi, trên có quốc pháp, sao bộc dám công khai bắt cóc gái nhà lành chứ? Là mấy cô ấy tự nguyện bán mình làm tỳ, văn thư khế ước đều đủ, còn có người bảo lãnh đồng ý..."

Ba thiếu nữ ôm đầu khóc rống.

Không đợi lính Hán nói hết, Lý Dao Anh vung một roi.

Lính Hán co rúm lại.

Dao Anh thu roi, gỡ mũ: "Đừng vờ ngớ ngẩn với ta, các ngươi vốn quen tay rồi, biết quan phủ không cho phép trắng trợn đoạt gái nhà lành mới bức cha mẹ họ ký tên đồng ý, bảo rằng họ tự nguyện bán mình làm tỳ, dù người nhà họ bẩm báo quan phủ cũng không thể bắt ngươi chứ gì."

Lính Hán nghe nàng nói thẳng thừng, không dám lên tiếng.

Dao Anh từng chữ hỏi: "Ai hạ lệnh?"

Lính Hán mồ hôi tuôn như nước, quỳ xuống đất nói: "Trung lang tướng Từ Bưu ạ."

Trung lang tướng Vương phủ, là thuộc hạ một tay Lý Trọng Kiền đề bạt.

Khuôn mặt xinh đẹp của Dao Anh không chút cảm xúc: "Từ Bưu đâu?"

"Ở... Ở Bình Khang phường... Hồ Tứ..."

Dao Anh quay đầu ngựa.

"Đi Bình Khang phường."

Từ Bưu đang uống rượu ở Trung khúc Bình Khang phường.

Bắc khúc giáp tường phường là chỗ tụ tập của kỹ nữ hạ đẳng, trả tiền là làm việc.

Ở khu đường chữ thập Trung khúc có nhiều lầu các vũ, người đẹp lấy thân mình làm kỹ nghệ, tròn béo mỏng gầy, đều tài tình, hấp dẫn công tử phong lưu trong kinh, thiếu niên quần là áo lụa lưu luyến dạo quanh, đông như trẩy hội, như thuồng luồng lội nước.

Còn Nam khúc thì trạch viện thật sâu, kim ốc tàng kiều, không phải quan lại quyền quý không có cửa vào.

Tân triều thành lập, thời cuộc dần ổn, Trịnh Tể tướng lấy danh Lý Đức ban lệnh cầu hiền, tuyên bố mở lại khoa thi. Thí sinh không hạn chế quê quán xuất thân, không câu nệ dòng dõi, sĩ tử thiên hạ có tài đều có thể đến thi. Chiếu thư một khi ban bố, khắp thế gian đều kinh ngạc. Văn sĩ Nam Bắc rối rít đi Bắc ứng chiếu, danh môn thế gia tản mác khắp nơi tránh họa chiến tranh cũng lần lượt trở về kinh, Bình Khang phường ngày càng náo nhiệt rộn rã.

Trong ba khúc, hưng vượng nhất dĩ nhiên thuộc về Trung khúc.

Mặt trời còn chưa lặn, cửa trước rộng rãi của tửu quán trước Lâu đã treo từng dãy đèn lồng.

Màn che trùng điệp không thể che hết tiếng cười nói hoan ca trong Lâu.

Tì bà réo rắt, Hồ cầm sục sôi, chuông vàng to rõ, đàn Không mượt mà.

Trong tiếng nhạc du dương uyển chuyển, mấy Hồ cơ mặc áo ngắn mỏng sặc sỡ, áo lưới tím trên thân, hông buộc váy dài hai chân trần trụi đứng trên quả cầu trên thảm, nhẹ lắc eo nhỏ, nhanh nhẹn nhảy múa.

Nhạc khúc lúc nhanh lúc chậm, dáng múa cũng lúc nhanh lúc chậm. Khi nhanh thì thanh thoát xinh đẹp, mạnh mẽ dứt khoát. Lúc chậm thì thướt tha uyển chuyển, nhẹ nhàng quyến rũ.

Chỉ sau chốc lát, mồ hôi Hồ cơ túa đầy quần áo, da thịt tuyết trắng như ẩn như hiện. Xinh đẹp mềm mại không tả xiết.

Một khúc kết thúc, Hồ cơ đứng thẳng eo lượn vòng, hai mắt xanh biếc đưa tình, từ từ trút bỏ quần áo.

Khách uống rượu trong lầu trợn mắt há mồm.

Cả Lâu lặng ngắt như tờ, trên lầu dưới lầu, tất cả ánh mắt đều ngừng trên ngón tay của Hồ cơ từ từ cởi đồ.

Từ Bưu há to mồm, kích động nuốt ngụm nước miếng.

Đột nhiên, rầm một tiếng lớn, cửa chính bị phá tan. Vài người cầm vỏ trường đao gạt màn che ra, nắng vàng óng ánh tràn vào đại đường. Mùi nồng nặc không rõ hương son phấn hay mùi rượu bị gió tràn vào thổi phai nhạt đi chút.

Tạ Thanh đứng trước sảnh, quét mắt một vòng.

Mấy Hồ cơ bị dọa ré lên sợ hãi, ôm mớ quần áo, hốt hoảng lui ra.

Bầu không khí đẹp đẽ vừa mới mập mờ lập tức bị quét sạch.

Tiếng than phiền nổi lên khắp.

"Đừng ngừng! Tiếp tục cởi đi!"

"Mẹ nó! Lão tử đang đã mắt!"

Từ Bưu gầm thét theo, vỗ bàn đứng dậy: "Ở đâu ra đám xấu xa vậy!"

Lông mày Tạ Thanh bỗng nhúc nhích, nhìn Từ Bưu. Gã đang chửi bới ầm ĩ.

Tạ Thanh không nói lời nào, mấy bước nhảy lên lầu, bàn tay xòe ra như quạt hương bồ siết chặt cổ áo Từ Bưu giật người xuống Lâu.

Từ Bưu cao bảy thước, thể trạng cường tráng, người không nhẹ. Động tác Tạ Thanh lại lưu loát, dễ dàng như xách con gà con ra khỏi tửu quán, ném xuống đất.

Đám đồng liêu uống cùng Từ Bưu kịp phản ứng, tay chân luống cuống buông chén rượu xuống, đuổi theo ra tửu quán, mang theo men say hét lớn: "Buông ra! Hắn là Trung lang tướng dưới trướng Tần Vương đó! Ngươi..."

Một câu còn chưa dứt, thoáng thấy trước cửa đám hào nô kiện bộc vây quanh một thân ảnh yểu điệu cưỡi ngựa mà đến, lập tức câm nín.

Trong khoảnh khắc, đám này tỉnh rượu hơn phân nửa, liếc nhau. Sao Thất công chúa lại đến chỗ như Bình Khang phường này nhỉ?

Lý Dao Anh tung người xuống ngựa, nhướng mày. Ánh mắt quét qua đám thuộc hạ uống rượu mặt đỏ bừng, bước chân lảo đảo của Vương phủ.

Cả đám sợ khiếp vía, chột dạ rũ mắt.

Nhị hoàng tử người hời hợt, chỉ biết đánh trận, chưa từng quản lý chuyện trong khu, tất cả chuyện lớn nhỏ trong Vương phủ đều do Thất công chúa xử lý.

Dù họ là tôi tớ của Nhị hoàng tử, nhưng quyết định đi hay ở lại là Thất công chúa. Thất công chúa không vừa mắt ai, Nhị hoàng tử cũng sẽ không hỏi một tiếng, lập tức đuổi khỏi Vương phủ, dù người đó có là nô bộc được Hoàng đế Lý Đức ban thưởng đi nữa.

Cả đám nói thầm trong lòng: Tìm vui mua say... Chắc không phải tội rất nặng đâu nhỉ?

Từ Bưu bị ném xuống đất, miệng ngập đất cát, không nhìn thấy Lý Dao Anh xuống ngựa, chỉ nghe tiếng móng ngựa đạp vang, chung quanh yên tĩnh lạ thường, tất cả mọi người không dám thở mạnh một tiếng, ngay cả tiếng nhạc trong tửu quán và tiếng cười nói mắng chửi của khách uống rượu cũng ngừng lại.

Men say dâng lên, gã không nghĩ nhiều, xoay người đứng dậy, tức giận mắng: "Muốn chết hả!"

Bốn phía có tiếng hít một hơi khẩn trương.

Lý Dao Anh mặt không đổi nhìn hắn, đuôi mắt soi mói: "Còn chưa tỉnh?"

Vẻ dữ tợn tức giận của Từ Bưu đóng băng trên mặt, miệng mãi không khép được.

Sớm có mấy người làm nhanh nhẹn đem hai thùng nước lạnh lớn, rào mấy tiếng, tạt vào mặt Từ Bưu.

Thời tiết ấm dần, nước cũng không lạnh thấu xương, Từ Bưu nhịn không được run lên, ý lạnh từ lòng bàn chân xông thẳng lên.

Gã nhận ra Thất công chúa.

Thần tướng trong nhà Nhị hoàng tử, ai dám không nhận ra Thất công chúa?

Dao Anh biết gã đã tỉnh táo, đưa mắt ra hiệu hộ vệ.

Hộ vệ dẫn ra mấy hán tử bị trói gô đến.

Mấy tên này lăn đến dưới chân Dao Anh, dập đầu xin tha: "Quý chủ tha mạng! Quý chủ tha mạng! Bộc cũng chỉ là theo lệnh mà làm việc, là Từ Bưu sai bọn tôi! Từ Bưu có tòa nhà ở Thái Bình phường, tất cả các cô gái hắn giành được đều nhốt ở đó!"

Chính là đám lính vừa rồi trắng trợn cướp đoạt dân nữ nhà lành.

Cả bọn trên đường tới đây đã sợ vỡ mật, không đợi Dao Anh đặt câu hỏi, quỳ xuống, triệt để nói hết chuyện Từ Bưu phái họ ép buộc mấy nhà lành ký giấy đồng ý.

Từ Bưu tỉnh hoàn toàn, sắc mặt tái xanh.

Những người khác thấy thế, hiểu rõ Lý Dao Anh đến vì Từ Bưu, lặng lẽ thở phào.

Trong yên ắng, ở cổng vang lên một trận vó ngựa dồn dập, một gã hộ vệ phi thân xuống ngựa, khiêng một người trung niên ăn mặc như nho sĩ chạy như bay đến đình viện, thả người xuống: "Quý chủ, đã mang Trưởng sử đến!"

Trưởng sử Vương phủ xóc nảy một đường, khăn vấn đầu bị lệch, quần áo xộc xệch, không dám thở mạnh, cũng không dám oán trách, đứng chưa vững đã cúi người hành lễ với Lý Dao Anh.

Dao Anh đáp lễ lại, nói: "Chuyện khẩn cấp, mệt nhọc trưởng sử."

Trưởng sử bận bịu không dám xưng.

Hộ vệ lại móc từ ngực ra một chồng khế sách xộc xệch: "Đây là khế sách vừa rồi lục được từ trên người bọn họ."

Trưởng sử nhận khế sách nhìn kỹ, lắc đầu thở dài.

Ông ngẩng đầu nhìn Từ Bưu: "Tần Vương luôn ra nghiêm lệnh cấm chỉ trong quân đánh cướp nhà lành, ngươi cưỡng bức con gái nhà lành bán mình làm tỳ, nhân chứng vật chứng đều ở đây, ngươi còn lời gì để nói?"

Mặt Từ Bưu đỏ đỏ trắng trắng, thần sắc biến ảo không chừng. Cuối cùng, ồm ồm nói: "Lão tử theo Điện hạ ra sống vào chết, cùng lắm chỉ là đoạt mấy tỳ nữ thôi mà..."

Gã cắn răng, ưỡn ngực. "Điện hạ không ở kinh thành, ta đã rơi vào tay công chúa, muốn chém giết muốn róc thịt, cứ tự nhiên!"

Đám người mắt nhìn mũi mũi nhìn tim, không dám lên tiếng.

Trưởng sử nhìn Lý Dao Anh.

Thực ra Nhị hoàng tử cũng không ban lệnh cấm, người chân chính hạ lệnh cấm là Thất công chúa. Nhị hoàng tử không câu nệ tiểu tiết, dưới trướng nhiều chuyện cướp gà trộm chó, đám đó cao ngạo không thuận, sau mỗi lần đánh giặc xong chuyện đầu tiên là mang binh càn quét, thường xuyên quấy rối bách tính.

Bởi thế, thanh danh Nhị hoàng tử không tốt. Thất công chúa khuyên Nhị hoàng tử quản thúc thuộc hạ, Nhị hoàng tử quay lưng đã quăng ra sau ót.

Năm ngoái một Giáo úy dưới trướng Nhị hoàng tử đùa giỡn phụ nữ, cô ta ôm hận tự vận. Chuyện ồn ào đến trước mặt Lý Đức, Lý Đức giận dữ, trước mặt mọi người trách cứ Nhị hoàng tử.

Thất công chúa cũng rất tức giận, triệu tập tất cả gia tướng hầu cận Nhị hoàng tử, nghiêm ngặt cảnh cáo: Quân quy như núi, người trái với quân quy, xử theo quân pháp!

Lúc ấy Nhị hoàng tử đứng cạnh Thất công chúa, cúi đầu nhỏ bé, dè dặt, Thất công chúa nói gì hắn ừ đó.

Trước khi Nhị hoàng tử xuất chinh đã thông báo, dù là chuyện trong quân sự hay quỹ trong Vương phủ, toàn bộ do Thất công chúa phán quyết.

Trưởng sử chờ Lý Dao Anh chỉ thị.

Từ Bưu cứng cổ hừ nhẹ vài tiếng, mặt đầy giễu cợt.

Kiềm trong yên lặng, xung quanh truyền đến tiếng nghị luận vo ve, dân chúng vây xem ngày càng nhiều.

Lý Dao Anh không hạ lệnh giữ yên lặng, bọn hộ vệ liền không xua đuổi dân chúng.

Sắc mặt Trưởng sử cứng lại.

Dao Anh nhàn nhạt liếc ông: "Đã có chứng cứ vô cùng xác thực, Từ Bưu cũng đã nhận tội, vậy xử theo quân quy."

Trưởng sử giật mình trong lòng.

Xử theo quân quy thật sao? Thất công chúa đối xử với mọi người hiền hoà, tha thứ rộng lượng, xưa nay chưa từng quở trách thị nữ cung nhân...

Mày Dao Anh nhẹ chau.

Trưởng sử dấu đi kinh ngạc trong lòng, không do dự nữa, "Hành hình!"

Hai hộ vệ lên tiếng đáp lại tiến lên hai bước, ấn Từ Bưu quỳ xuống.

Tạ Thanh đi đến trước mặt Từ Bưu, trường đao ra khỏi vỏ.

Từ Bưu hoàn toàn không còn say, sắc mặt trắng bệch.

Bề tôi Vương phủ không ngờ Lý Dao Anh muốn hành hình thật, quá sợ hãi, run run rẩy rẩy mở miệng: "Công chúa, tha Từ Bưu lần này đi, tính tình gã lỗ mãng..."

Dao Anh đưa tay.

Động tác rút đao của Tạ Thanh lập tức dừng lại. Đám bề tôi Vương phủ thở phào.

Dao Anh nhìn Từ Bưu: "Ngươi thuận tay trái hay tay phải?"

Từ Bưu hoàn toàn mất hết dũng khí, sửng sốt một lát, nói: "Tay phải."

Dao Anh gật gật đầu, bảo Tạ Thanh, "Chém tay trái gã."

Tạ Thanh vâng dạ, trường đao chém xuống. Tia sáng lạnh chợt lóe. Trường đao chặt đứt hai ngón bàn tay trái, máu tươi trào ra. Từ Bưu kêu lên thảm thiết.

Mấy bề tôi Vương phủ bị dọa run rẩy mấy lần, vô thức nắm chặt hai tay mình. Đám người vây xem an tĩnh trong chớp mắt, tiếp theo lại rộ lên tiếng bàn luận.

"Công chúa dùng quân quy xử trí tên ác tặc!"

"Ngụy quân trị quân nghiêm minh, Nhị hoàng tử là hoàng tử cao quý, sao có thể trắng trợn cướp bóc nhà lành? Đều là do đám tiểu nhân này tác quái!"

"Thất công chúa thưởng phạt phân minh!"

Bên ngoài tửu quán, tiếng khen lớn lẫn tiếng than thở không dứt.

Từ Bưu được người dẫn đi băng bó vết thương.

Dao Anh tê cả da đầu, thân thể hơi rung động.

Tạ Thanh liếc nhìn nàng, nhấc chân một bước, che bãi máu trên mặt đất.

Không thấy máu tươi đổ, Dao Anh dễ chịu hơn, nhẹ nhàng thở phào.

Trưởng sử nhìn Lý Dao Anh lớn lên, thấy thần sắc nàng không ổn, biết nàng nhớ đến chuyện hồi năm tuổi, thương tiếc dâng lên trong lòng, thở dài: "Mấy thứ bẩn thỉu này để lão nô làm... Công chúa kiều quý, không thể nhìn mấy thứ máu tanh này."

Dao Anh lắc đầu: "Chuyện ngày nào, rào ngày đó. Hôm nay không xử trí Từ Bưu, thanh danh của Nhị ca bị bôi nhọ."

Lý Đức không cho phép Lý Trọng Kiền uy hiếp địa vị của Lý Huyền Trinh nên rất nhiều lần chèn ép anh ấy.

Lý Trọng Kiền cam chịu, không trói buộc bộ hạ. Bộ hạ thường mượn tên anh làm xằng làm bậy, tai tiếng anh ngày càng kém.

Lý Đức chê anh lơ mơ, thế gia thấy anh lỗ mãng lãnh khốc, dân chúng mắng anh tàn bạo ngoan độc.

Lúc anh ấy một mình kẹt giữa trùng vây, không ai cứu giúp.

Thời niên thiếu anh theo Lý Đức xông pha chiến đấu, chinh chiến nhiều năm vì nước.

Tuổi còn trẻ chôn xương nơi cát vàng.

Sau khi chết, ngay cả một tấm bia còn không có.

Vì đâu mà Lý Huyền Trinh hận bọn họ đến thế?

Dao Anh xuất thần một lúc, dặn dò: "Phái người lưu ý động tĩnh trên phố, đừng để người mượn lý do này bôi đen Nhị ca ta."

"Sau này nếu bộ hạ của Nhị ca có kẻ xúc phạm quân quy, theo lệ xử lý, quyết không thể coi nhẹ. Nhớ kỹ phái người đi Thái Bình phường, tìm những cô gái nhà lạnh bị Từ Bưu giam cầm, thả về nhà."

"Lão nô đã rõ." Trưởng sử gật đầu, dừng một chút, "Công chúa, đối với điện hạ mà nói, thanh danh của ngài ấy cũng không quan trọng như người, người tuyệt đối phải bảo trọng thân thể, lần sau có gặp chuyện này hãy để lão nô đến xử lý."

Trước khi Nhị hoàng tử xuất chinh dặn đi dặn lại, câu nào cũng đều là dặn dò ông chăm sóc tốt cho Thất công chúa, mấy chuyện khác không đả động một câu.

Dao Anh cười cười: "Ta hiểu."

Vừa rồi nhìn nàng có vẻ bình tĩnh thong dong, mắt còn không nháy nhưng thật ra trong lòng có phần sợ hãi.

Đám đông xem náo nhiệt dần dần tản đi. Quan viên bản phường chạy tới bẩm báo, mấy cô gái đã được sắp xếp đưa về nhà thỏa đáng.

Dao Anh ừm một tiếng.

Quay người lên ngựa, nghe tiếng cổ vũ cách đó không xa. Đám thiếu niên lang kia theo nàng từ nãy thân cưỡi tuấn mã, vây quanh trước cửa đình.

"Công chúa anh minh!"

"Công chúa uy vũ!"

"Công chúa, về sau mấy chuyện này để Lư Hằng Sinh ta làm đi! Đừng ô uế mắt của người!"

Khóe miệng Dao Anh nhẹ nhoẻn. Còn tưởng rằng bọn họ bị hù chạy hết rồi. Nàng nhìn cửa trước bị chắn muỗi không bay lọt: "Đi theo cửa hông thôi."

Tạ Thanh đáp lời, theo nàng rời đi từ cửa hông.

Hộ vệ đi đầu bỗng siết cương dừng ngựa, rút đao chỉ lên trên, la lên: "Ai đó? !"

Dao Anh theo hướng mũi đao nhìn đến.

Trước cửa hông gặp một đoạn tường cao, bên tường mở cửa sổ, một bóng người gầy gò ghé vào cửa sổ lầu hai, hai tay vịn lan can, hơn nửa người chật vật treo bên ngoài, áo gấm bay trong gió, lật phật.

Người của tửu quán cuống quít chạy tới: "Ngài ấy không phải thích khách..."

"Đúng, ngài ấy không phải thích khách."

Hộ vệ nhìn thanh niên treo trên lan can, thu hồi trường đao, ranh mãnh thấp giọng tiếp một câu, "Cậu ta là khách làng chơi."

Vừa dứt lời, thanh niên giữ hết nổi, thả tay ngã xuống.

Bụi đất tung tóe.

Tạ Thanh che chắn cho Dao Anh lui lại.

Dao Anh sờ ngựa Ô Tôn, hững hờ quét mắt một vòng đến thanh niên ngã trước móng ngựa.

Thanh niên quẫn bách hết sức nói, vùng vẫy định bò dậy, ánh mặt đối mặt với nàng, một khuôn mặt thoáng chốc đỏ bừng, xấu hổ không ngóc đầu lên được.

Dao Anh như có thể cảm nhận được mặt cậu ta nóng như thiêu đốt.

Lòng nàng khẽ động. Chả nhẽ quen biết nhau?

Đang định nhìn kỹ, từ Nam đến Bắc tiếng trống ầm ầm dội tới, một người cưỡi ngựa đỏ xuyên qua phố dài, thẳng đến hoàng thành.

"Thánh nhân khải hoàn! Thánh nhân khải hoàn!"

Dao Anh ngạc nhiên ngẩng đầu.

Đây là tiếng trống báo tin nàng chờ từ rất lâu, đại quân khải hoàn, Nhị ca trở về!

Nàng nhẹ nhàng thúc vào bụng ngựa, quay đầu phi nhanh về hướng thành Nam.

Tạ Thanh và đám hộ vệ cũng quay đầu đi theo.

Tiếng vó ngựa lộn xộn, bụi bay đầy trời.

Thanh niên nằm trên mặt đất, đầy bụi đất, sặc đến ho khan.

Hầu cận từ góc khuất chui ra, tới đỡ Trịnh Cảnh lên: "Tam Lang, ngài bị ngã có sao không?"

Trịnh Cảnh ho đến nước mắt giàn giụa, cười khổ lắc đầu, đứng dậy nhìn theo hướng Lý Dao Anh rời đi. Máu nóng trên mặt từ từ tan, trái tim vẫn thẳng thắn đập nhanh.

Mỗi một lần gặp nàng đều chật vật xấu hổ.

Nàng không nhớ rõ mình.

Trong giây lát cậu cảm thấy may mắn. Ngẫu nhiên gặp nhau nơi bướm hoa này, không bị nhận ra, là may mắn. Sở dĩ hốt hoảng nhảy cửa sổ đào tẩu vì sợ bị nàng trông thấy.

Tự dưng cảm thấy mất mát.

Lúc tôi tớ báo tin Thất công chúa tới, cậu kinh ngạc bối rối, vô thức nhấc chân chạy luôn. Đáy lòng lại có niềm vui mừng bí ẩn.

Còn tưởng nàng vì mình mà tới.

Thì ra không phải. Thất công chúa không phải tới vì cậu. Còn cậu, vì nàng, mới nghe bạn bè khuyến khích tới Bình Khang phường sẵn xem đám múa Thác chi vũ chấn động kinh thành.

*một điệu múa của Thạch quốc Tây Vực.

Thắt lưng khảm hoa nặng rũ bên eo, mũ đội treo chuông vàng nổi khuôn mặt tuyết. Mỹ nhân múa điệu Thác chi vũ đúng là rất đẹp.

Có điều dù Hồ cơ nhảy thì đẹp đấy nhưng so với nàng, vẫn thiếu phần ý vị cao quý xinh đẹp động lòng người.

...

Ngụy quân trị quân nghiêm minh, trước nay rất được lòng dân chúng.

Lý Dao Anh một đường phi nhanh, lúc đuổi tới trước cửa thành hai bên đường đã đen thui một mảng lớn, nam nữ già trẻ chật ních tự đến đây nghênh đón tướng sĩ.

Quan Lễ Bộ nhận tin từ trước đã chuẩn bị rượu ngon ngọt say.

Vì thể hiện quân uy, ổn định lòng dân, mỗi lần Lý Đức thắng trận đều sai Lý Huyền Trinh dẫn đội phi kỵ từ cửa chính vào thành.

Đại quân khải hoàn, vốn không nên đi cửa Nam.

Đội phi kỵ được chọn từ tam quân làm hộ vệ bên người Hoàng đế, người người ngàn dặm chọn một, cao lớn uy mãnh. Ba trăm tám mươi nhi lang đang tuổi khỏe mạnh thân cưỡi tuấn mã, trường thương trong tay, hông đeo cung tên, giáp y khôi mạo đen tuyền một màu, trùng trùng điệp điệp mà đến, vó ngựa đạp vang như sấm dội.

Tràn đầy oai hùng, khí thế bừng bừng.

Đây gần như là đội ngũ bách chiến bách thắng.

Dân chúng nhìn đội phi kỵ uy vũ khoẻ mạnh trước mắt, nước mắt vui mừng.

Thiếu niên lang du xuân thấy đội phi kị quân dung tề chỉnh không nhịn được reo hò thành tiếng, các nữ lang cười ném hoa tươi, cành liễu, túi thơm trong tay.

Luồng gió mát thổi qua, như mưa hoa rơi xuống.

Từng nhóm từng nhóm đi qua, Dao Anh xốc mũ rèm, chờ đợi ngóng trông, nhìn thấy trên cờ xí phần phật bay ở chân trời một chữ Tần quen thuộc, nở nụ cười xinh đẹp.

Cuối cùng Nhị ca đã về.

Trong âm thanh vui sướng ồn ào, một ánh mắt lạnh như băng quét tới.

Dao Anh thầm cảm giác được, sóng mắt thay đổi, nhìn thẳng đụng vào tầm mắt đối phương.

Một loạt phi kỵ chậm rãi chạy qua trước mặt nàng, trong đó một Thân Vương đầu đội mũ vàng, thân mặc giáp bạc, áo choàng vai mỏng trắng như tuyết, mạnh mẽ cao lớn, nét mặt sắc sảo đoan chính, không giống võ tướng mang binh đánh giặc mà như nho sĩ bày mưu hơn.

Quan Lễ Bộ tươi cười trên mặt, tiến lên đón hắn hàn huyên.

Hắn siết cương dừng ngựa, khách sáo với đám quan viên mấy câu, đôi mắt trầm tĩnh vừa như cố ý lại như vô tình mà nhìn Dao Anh, ánh mắt hờ hững, lạnh như lưỡi đao.

Dao Anh cụp mi, vẫn còn thấy tay người kia nắm chặt cương, toàn thân phát lạnh.

Đôi tay kia rất gầy, từ mu đến lòng bàn tay đầy sẹo, khớp xương nổi lên, ngón tay có lực, lạnh lẽo thô ráp, khi bóp cổ nàng, vết chai thô như có thể rạch nát cổ họng nàng.

Đến cả sức để giãy dụa nàng còn không có.

Một lần đó Dao Anh thật nghĩ Lý Huyền Trinh sẽ giết nàng.

Hắn ra tay được.

Lý Huyền Trinh giờ đây có văn có võ, trí dũng song toàn, là Hoàng thái tử tài đức sáng suốt người đời tán thưởng.

Không một ai tin hắn sẽ ám hại Lý Trọng Kiền và Tạ Quý phi.

Ngay cả Dao Anh ngay từ đầu cũng không tin, nghĩ huynh trưởng chỉ giận chó đánh mèo trong một lúc, chỉ cần ở chung cho tốt, hẳn anh ta có thể buông xuống thù hận.

Sau nàng đã hiểu, Lý Huyền Trinh không bỏ xuống được.

Tâm hắn gắn với thiên hạ, lòng có kiến thức rộng rãi, biết rõ dân gian khó khăn, bảo vệ bách tính, yêu mến thuộc hạ, biết nghe lời can gián, đối với bạn tốt lời hứa ngàn vàng... Một Hoàng thái tử đáng để vô số anh hùng hào kiệt nguyện ý khom lưng đi theo như vậy, mà lần lượt một mực rúc vào trong sừng trâu, không bỏ được thù mẹ.

Nhiều năm sau, hắn mang binh vây đánh Thái Cực cung.

Khi đó Lý Đức khi đó đã bị hắn tước quyền, nằm trên giường bệnh, bình tĩnh hỏi: "Sao con của ta lại đến đây?"

Lý Huyền Trinh từng chữ đáp: "Báo thù cho mẹ."

Hắn bức Lý Đức thoái vị, tru sát thân tộc của Lý thị, không để ý thiên hạ chỉ trích, đào mộ tổ họ cha mình.

Hắn muốn tất cả mọi người chôn cùng Đường thị.

Năm đó đến cùng đã xảy ra chuyện gì nhỉ?

Dao Anh kinh ngạc nhìn đến thất thần.

Lý Huyền Trinh đã dời tầm mắt, cùng quan viên Lễ Bộ vào thành.

Dao Anh thu lại tinh thần, nhìn cờ xí Tần Vương ngày càng gần, nhoẻn khóe miệng.

Thân binh của Lý Trọng Kiền không thuộc về đội phi kỵ, mặc giáp vàng, còn chưa tới gần đã sáng lập lòe chói mắt.

Dao Anh không khỏi bật cười, nhìn người anh ruột ngồi trên ngựa giữa đám thân binh vây quanh đi tới, đáy lòng như chảy ra một dòng nước ấm, xua tan lạnh lẽo Lý Huyền Trinh mang tới.

Nàng tháo mũ rèm, giục ngựa tiến lên đón.

Lý Trọng Kiền lớn hơn Dao Anh sáu tuổi, thân hình cao lớn, vai rộng, dưới lớp áo giáp nặng nề hoa lệ cơ bắp cuồn cuộn, nét mặt gọn gàng, chợt nhìn giống Lý Huyền Trinh đến mấy phần.

Hai anh em trai giống Lý Đức, vẻ ngoài sáng sủa, đôi mắt phượng hẹp dài trời sinh.

Lý Huyền Trinh trầm tĩnh nội liễm, mắt phượng không giận tự uy.

Lý Trọng Kiền góc cạnh rõ ràng, giữa hai lông mày quanh quẩn một vẻ lệ khí quanh quẩn không thoát được, vui giận vô thường, âm u lạnh lẽo, lười biếng cưỡi trên lưng ngựa, hững hờ quay đầu quét mắt một vòng sau lưng, gảy nhẹ đuôi mắt, ánh mắt như đao.

Đến tiểu nương tử bên đường định ném cánh hoa về phía khải giáp của hắn cũng bị dọa đến lùi bước.

Dao Anh tới gần hơn, thân binh rối rít nhường đường.

Nàng xoay người, cười đưa tay chạm ngựa của Lý Trọng Kiền.

"Anh!"

Nghe được giọng em gái, Lý Trọng Kiền bỗng quay đầu, vừa mừng vừa sợ, lập tức vẻ hào hùng tài hoa toả sáng đổi thành một vẻ hiền hòa mà người khác bình thường tuyệt không bao giờ nhìn thấy, "Sao em lại tới đây?"

Hắn vừa nói vừa thả chậm tốc độ, giống lúc dạy Dao Anh cưỡi ngựa lúc còn bé, đưa tay đỡ cánh tay để nàng khỏi ngã, mỉm cười tỉ mỉ quan sát nàng.

Dao Anh là một tay hắn nuôi nấng, hắn dạy nàng đọc sách viết chữ, dạy nàng cưỡi ngựa kéo cung, quyển sách đầu tiên nàng đọc, tờ thiếp thứ nhất nàng viết, cây cung nhỏ đầu tiên nàng kéo, đều là hắn tự mình chọn.

Nếu không phải người nàng không khỏe, hắn sẽ không để nàng ở lại Trường An.

Thiên hạ còn chưa bình định, hắn thường xuyên chinh chiến bên ngoài, Dao Anh đang tuổi lớn, mỗi một lần chia xa gặp lại, cô gái bé nhỏ thay đổi càng lúc càng nhiều.

Tiểu Thất nương mỗi ngày quấn quýt chạy sau lưng hắn, chớp mắt đã trưởng thành.

Thêm vài năm nữa, nàng đã xuất các lấy chồng.

Trước khi xuất chinh, hắn đã nhắc chuyện này với Trịnh Tể tướng.

Ý cười giữa hàng mày Lý Trọng Kiền ảm đạm đi.

Dao Anh cũng đang nhìn Lý Trọng Kiền.

Từ nhỏ nàng ốm yếu, trước ba tuổi chưa từng bước xuống đất. Tạ Quý phi càng lúc càng hồ đồ, năm đó mớm nàng uống thuốc, lỡ cầm nhầm một chén trà nóng hổi đổ ập vào người nàng, nàng sợ dọa đến Tạ Quý phi, không dám khóc thành tiếng, chờ tỳ nữ vào dọn dẹp giúp.

Rồi trên đùi nàng để lại một vết sẹo.

Khi Lý Trọng Kiền biết chuyện, đưa nàng về cạnh bên tự mình chăm sóc.

Khi đó Lý Trọng Kiền cũng chỉ là một đứa bé, rõ là tuổi lông bông, lại mỗi ngày đâu ra đấy đốc thúc nàng uống thuốc, mỗi ngày ôm nàng đi viện luyện Ngũ cầm hí, buộc nàng uống mấy thứ thuốc bổ hương vị kỳ cục, thấy sắc trời âm u đã mặc thêm áo cho nàng, vừa làm cha vừa làm mẹ, như ông cụ non.

Dao Anh từ từ lớn lên, thân thể tốt hơn, có thể xuống đất, trước mặt hắn ngang ngược nhất đời, nhảy nhót tưng bừng, khi đó hắn mới hơi buông lỏng, dần dần có dáng vẻ của thiếu niên.

Rồi hắn ra chiến trường.

Tạ gia diệt môn, Tạ Quý phi thần trí mơ hồ, ca ca mới chín tuổi đã dùng bả vai non nớt của mình gánh vác tất cả áp lực, vì nàng chống lên một mảnh trời trong, để nàng có thể tự tự tại tại, không lo không buồn lớn lên.

Hai năm sau, vì nàng, năm gần mười một tuổi ca ca lại không chút do dự bỏ văn theo võ, cầm lên lôi cổ ung kim chùy* mà hắn từng thề sẽ không chạm thử.

*đứng đầu trong tứ mãnh bát đại chùy

Ca ca tốt với nàng như vậy.

Nàng không thể nhìn ca ca bị Lý Huyền Trinh hại chết.

Ca ca cũng chưa từng hại ai.

Nhớ lại cảnh trong mơ, Dao Anh rất đau đớn trong lòng, nhẹ nhàng kéo cánh tay Lý Trọng Kiền.

Lý Trọng Kiền khẽ giật mình, cười cười.

...

Lúc Dao Anh còn nhỏ thường quấn lấy nhõng nhẽo với Lý Trọng Kiền thế này.

Đến khi ôm con bé vào người, em thật ngoan ngoãn yên tĩnh, không nói không rằng, chỉ khi đói bụng khát nước mới chớp mắt nhìn hắn chằm chằm.

Chờ anh trai chú ý tới mình, con bé mới dè dặt gọi hắn: "Anh ơi."

Giọng êm ái mềm mại, không tự chủ có phần lấy lòng, sợ đòi hỏi làm anh phiền chán.

Khi hắn không có chú ý tới con bé, em vẫn lặng thinh nhìn hắn, chờ hắn mở miệng hỏi mình.

Mới ba tuổi, đã ngoan vậy.

Lý Trọng Kiền biết, Dao Anh rất hiểu chuyện.

Phụ thân Lý Đức chưa từng nhìn con bé, Mẹ Tạ thị lúc điên lúc ngốc, em ốm yếu nhiều bệnh, tuổi còn nhỏ đã tự ép mình không gây phiền người khác, một mình bên cửa sổ ngắm cảnh ngoài vườn cũng có thể nhìn một ngày.

Em biết mình không thể bước đi, cũng không khóc không quấy, cho uống thuốc gì cũng ngoan ngoãn uống hết, không kêu đắng một tiếng.

Lý Trọng Kiền không muốn để muội muội cả đời cô đơn trong phòng dưỡng bệnh, đi tìm danh y trong thiên hạ điều trị cho em mình.

Dao Anh không thể ra cửa, hắn liền dạy em đọc sách viết chữ, giúp em ở trong nhà một mình cũng có thể giết thời gian.

Em không thể xuống đất, hắn sai người hầu trải chiếu nỉ ở toàn bộ hành lang và đình viện, bế em ra ngoài phơi nắng, theo em lăn lộn xoay người trên chiếu, từ đầu này hành lang lăn đến đầu kia, cả người đầy cánh hoa hạnh.

Mặt Dao Anh ngày càng tươi tắn, ánh mắt ngày càng sáng trong.

Từ từ đã dám nhõng nhẽo với hắn, cố ý kéo dài âm điệu gọi hắn: "Anh—-à—- "

Sai hắn làm thứ này thứ kia.

Muốn ra ngoài, thì trợn tròn mắt nhìn hắn, giang cánh tay: "Anh bế."

Đến lúc con bé không cần ai bế cũng có thể tự mình xuống đất, tính tình càng lớn hơn, hắn ngồi xếp bằng trước thư án đọc sách, con bé trực tiếp nhào lên đong đưa hắn: "Anh à, em muốn cưỡi ngựa! Phải là ngựa Ô Tôn vừa đẹp vừa biết nghe lời nha!"

Hắn không để ý đến, con bé vẫn lúc lắc cánh tay hắn.

Lắc mệt rồi thì gối đầu lên trên đầu gối hắn, bắt chéo chân, thẳng thắn bàn điều kiện với hắn: "Ngựa con cũng được, em sẽ cưỡi một vòng ngay trong vườn."

"Nửa vòng?"

"Được rồi, không cưỡi nữa, nuôi một con ngựa xinh đẹp trước... lớn lên em sẽ cưỡi..."

Chỉ lát sau đã vẹo qua ngủ thiếp trên đùi hắn, xoay người, quệt nước dãi lên tay áo hắn.

Lý Trọng Kiền đọc xong sách, cúi đầu nhìn, thấy Dao Anh bấu chặt tay áo hắn, ngủ không biết trời trăng.

Hắn cười khẽ.

Hôm sau dẫn em đi chuồng ngựa chọn ngựa, em rất tự giác, chỉ chọn một con ngựa con.

Mấy năm trước, lúc Lý Trọng Kiền đánh Kim Thành, thu được một số ngựa tốt Tây Vực.

Hắn chọn lấy con ngựa Ô Tôn đẹp nhất cho Dao Anh cưỡi.

Thứ con bé muốn, hắn luôn nhớ.

...

Dao Anh lôi kéo Lý Trọng Kiền không buông.

"Vừa vặn hôm nay em xuất cung, nghe thấy tiếng trống, nên tới."

Lý Trọng Kiền chỉnh dây cương lại cho nàng, nhẹ nhàng nói: "Tiểu Thất gầy đi nhỉ." Giọng nói mang theo ý cười hiền hòa dịu dàng. Hắn không phải người có kiên nhẫn, nhưng luôn luôn rất nhẫn nại với em gái.

Dao Anh thu lại vẻ phiền muộn, giang tay ra, ưỡn ngực: "Còn rất cao nhé!"

Mấy anh chị em nhà Lý gia đều cao gầy thẳng tắp, từ khi sinh ra nàng luôn phải uống thuốc, biết đi chậm, tới đầu năm ngoái mới bắt đầu trổ mã.

Lý Trọng Kiền cười khẽ: "Ồ anh không nhìn ra đấy, về đo mới tính."

Dao Anh cười nguýt hắn.

Vào hoàng thành rồi, bọn họ và đội phi kỵ Lý Huyền Trinh suất lĩnh tách ra, trực tiếp về Vương phủ.

Dao Anh hỏi: "Anh à, anh không cần đi Binh Bộ trước à?"

Theo lý, hẳn hắn phải cùng Lý Huyền Trinh đi Binh Bộ trước đã.

Lý Trọng Kiền không hề lo lắng nói: "Không cần phải để ý đến họ, về trước, cho em xem mấy món bảo bối hịn đã."

Dao Anh hiểu ý, thăm dò túi da dê treo cạnh yên ngựa hắn, hạ giọng: "Anh, anh lại đoạt được thứ tốt gì thế?"

Lý Trọng Kiền đánh trận, không thèm để ý đến danh tiếng chiến công, chỉ cầu lợi ích thực tế: Vàng bạc của cải, châu ngọc hiếm có, thư hoạ của danh nhân... Tóm lại là món bảo bối gì tốt đáng tiền lại dễ cầm.

Hai anh em biết rõ họ ăn bữa hôm lo bữa mai, hẳn phải chuẩn bị kỹ, từ rất sớm đã bắt đầu tích góp của cải cho cuộc chạy trốn sau này.

Từ Nam đến Bắc, bọn họ đã giấu không ít thứ đáng giá.

Lý Trọng Kiền cười xoa xoa tóc Dao Anh: "Về đã rồi nói."

Dao Anh nhíu nhíu mày.

Vừa vặn, nàng muốn hỏi chuyện Lý Đức cưới Tạ Quý phi, khi anh còn bé được Tạ Cữu Cữu Tạ Vô Lượng nuôi nấng bên cạnh, hẳn đã có nghe Tạ Vô Lượng nói qua chuyện năm đó.

...

Hoàng hôn dần dần buông.

Lúc Lý Huyền Trinh từ Binh bộ đi ra, trời đã tối.

Người hầu cầm đèn lồng soi đường cho hắn, hắn bước mấy bước lên thềm đá, nhận lấy văn thư trưởng sử Đông cung Ngụy Minh sai người đưa tới, mượn ánh đèn yếu ớt vội vàng lật hết.

Thái giám ở lại Trường An rập khuôn từng bước đi sau lưng hắn, báo xong chuyện lớn nhỏ gần đây phát sinh trong hoàng thành.

Cuối cùng dừng lại một lát, nói: "Điện hạ... phủ Phúc Khang công chúa gần đây có động tĩnh lạ."

Trên dưới Đông cung, từ Thái Tử Phi Trịnh thị đến chân chạy tạp dịch, ai cũng không muốn nhắc tới Phúc Khang công chúa.

Nhưng không thể, Thái tử gia thương hương tiếc ngọc, đời người thích nhất là giải cứu quý nữ danh môn gặp rủi, giờ mà giấu không nói cho Thái tử gia, đến khi Phúc Khang công chúa quậy ra lớn chuyện, còn phải bắt Thái tử gia giúp dọn dẹp!

Lý Huyền Trinh khẽ cau mày.

Gió đêm mát lạnh vuốt qua hàng đèn hành lang trước cung đình, một mảnh trăng lưỡi liềm treo trên ngọn liễu, ánh trăng như nước.

Nhớ đến mấy kế hoạch ám sát đầy rẫy kẻ hở kia của Chu Lục Vân, đáy lòng Lý Huyền Trinh dâng lên mỏi mệt thật sâu.

Hắn xoa mi tâm, hỏi: "Nàng ấy lại mời chào tử sĩ à?"

Thái giám lắc đầu, nói: "Gần đây Phúc Khang công chúa rất thường lui tới với người Hồ quy thuận trong kinh."

Phúc Khang công chúa chán ghét người Hồ, ai cũng biết. Nên việc công chúa lui tới với người Hồ rất khả nghi.

Thái giám từ chỗ thị nữ hầu cận công chúa có được một tin, lúc công chúa trò chuyện với người Hồ có nhắc đến một cái tên: Trưởng công chúa Nghĩa Khánh .

Trưởng công chúa Nghĩa Khánh của tiền triều, cũng chính là cô của Chu Lục Vân, mười tám tuổi hòa thân gả cho một tù trưởng già của bộ lạc Đột Quyết Tây Bắc.

Mấy năm trước, người hầu của Trưởng công chúa mang theo huyết thư của bà liều chết trốn về Trung Nguyên, khóc cầu Mạt đế đón Trưởng công chúa về.

Khi đó Mạt đế sớm đã chết thảm dưới đao của phản thần, Quan Trung do các phiên trấn chiếm cứ, không ai để ý đến người hầu nọ.

Sau đó người ấy khó khăn tìm gặp Chu Lục Vân, kể hết mọi bi thảm trải qua của Trưởng công chúa Nghĩa Khánh cho cô ta.

Chu Lục Vân mới biết, thì ra bộ lạc người Hồ có một phong tục rất man rợ: Cha chết thì lấy mẹ, anh chết thì lấy chị dâu.

Tù trưởng già chết đi, Trưởng công chúa Nghĩa Khánh thành phu nhân tù trưởng mới.

Tù trưởng mới cũng chết, Trưởng công chúa Nghĩa Khánh lại gả cho em trai của tù trưởng mới.

Không lâu sau người em cũng chết trong nội chiến, Trưởng công chúa Nghĩa Khánh bị cháu trai của tù trưởng già nạp làm thị thiếp.

Ngắn ngủi trong mười năm, Trưởng công chúa Nghĩa Khánh tuần tự gả cho tổ tôn ba đời người.

Với một trưởng công chúa xuất thân cao quý, nhục nhã đến nhường nào!

Chu Lục Vân rất đồng tình với vị Tố Muội kia đã ra mặt cho cô mình, bèn xin Lý Đức phái binh đón Trưởng công chúa Nghĩa Khánh về.

Lý Đức lúc ấy không đồng ý.

Thái giám nói ra suy đoán của mình: "Điện hạ, có phải công chúa muốn liên hợp với người Hồ, sau đó xin Thánh nhân mượn binh cứu Trưởng công chúa Nghĩa Khánh về không ạ?"

Lý Huyền Trinh nhếch khóe miệng.

Trưởng công chúa tiền triều thì còn tính Trưởng công chúa gì chứ?

Lý Đức làm chuyện gì trước tiên đều nghĩ đến giá trị và hồi đáp, ông sắc phong Chu Lục Vân là vì giữ lại Chu Lục Vân hữu dụng.

Ông ấy sẽ không vì một quý nữ tiền triều mà để tướng sĩ chết uổng công.

Giờ Trung Nguyên mới vừa ổn định, thế lực dị tộc của Tây Bắc rất mạnh, hậu duệ Bắc Nhung tự xưng là Thần Lang khống chế mười vạn tay cung, càn quét Bắc Đình. Nếu không phải được vị cao tăng Quân chủ Phật quốc của Tây Vực kia ngăn lại, Bắc Nhung đã chiếm toàn bộ Bắc Tây Vực từ lâu.

Kỵ binh Bắc Nhung đánh đâu thắng đó, một khi Bắc Nhung xuôi Nam, chắc chắn Trường An thất thủ.

Thế nên Lý Đức mới luôn đem của cải, quan to lộc hậu để lung lạc bộ lạc người Hồ, một mặt thanh trừ các thế lực bộ lạc nhỏ rải rác ở Quan Trung, chia rẽ nội bộ người Hồ, để họ thù hận nhau, không còn tâm trí xuống phía Nam, giảm bớt áp lực quân phòng thủ Tây Bắc, đồng thời lựa thời cơ nắm giữ từng động tĩnh của các bộ tộc.

Lúc này, mấy tính toán vặt của Chu Lục Vân cơ bản sẽ không thành công.

Lý Huyền Trinh dừng bước, do dự một lát, nói: "Chuẩn bị ngựa, Cô đi phủ Công chúa một chuyến."

Vân Nương tính tình bướng bỉnh, một lòng báo thù, điên lên thì không còn quan tâm gì nữa, phải nói rõ thế cục với nàng ấy.

Thái giám khó xử: "Điện hạ, nương tử đã chuẩn bị xong phong yến đợi ngài..."

Đêm đầu Thái tử hồi kinh đã chạy đi tìm Phúc Khang công chúa, truyền ra ngoài, mặt mũi Thái Tử Phi đặt ở đâu đây?

Lý Huyền Trinh đã quay người đi xa: "Bảo nàng đừng chờ Cô."

Thái giám yên lặng thở dài, đến viện báo tin.

Nến sáng rực rỡ, trong đình tiền đã chuẩn bị bữa tiệc thịnh soạn, sơn trân hải vị, rượu ngon món ngọt, dê nướng non nướng lửa than, hiện lên bóng loáng, dưới hiên còn một gánh nhạc kỹ nước Quy Tư*.

*một nước lớn ở Tây Vực, dân gốc từ Ấn Âu sau lai với Hồi Hột, con đường tơ lụa phía sa mạc Bắc là ở đây, tôn giáo, văn hóa, kinh tế chờ cực kỳ phát đạt, người Quy Tư am hiểu âm nhạc.

Thái Tử Phi Trịnh Bích Ngọc diện bộ hoa phục thật đẹp, dẫn đám nữ quyến Đông cung đợi một canh giờ.

Thái giám bẩm lại Lý Huyền Trinh đã đi phủ Công chúa.

Trịnh Bích Ngọc không nói một lời.

Mấy vị Lương đễ*, Lương viện* lập tức thu nụ cười, mặt hiện lên vẻ tức giận, ghen tỵ coi thường.

*Lương đễ, Lương viện, thiếp của Thái tử, vị trí Lương đễ cao chỉ xếp sau Thái tử phi.

Phúc Khang công chúa và Thái tử gia tình đầu ý hợp, các nàng không lời nào để nói.

Đến Thái Tử Phi còn chưa so đo, các nàng là thứ tần có tư cách gì muốn ăn dấm?

Nhưng là Phúc Khang công chúa hết lần này tới lần khác không muốn gả cho Thái tử, dù Thái Tử Phi đã có hảo ý khuyên giải, ả vẫn không gả.

Không gả thì không gả, ả không gả, các nàng còn mừng thầm.

Nhưng Phúc Khang công chúa lại cứ phải cùng Lý Huyền Trinh vấn vương không dứt.

Tôi tớ của phủ công chúa cứ ba ngày hai lần chạy đến Đông cung: Công chúa bệnh, Công chúa khóc, Công chúa nổi giận không ăn cơm, Công chúa gây gổ với người ta bị làm nhục...

Không có danh cũng không có phân rõ, thật không rõ ràng.

Cứ thế biến thành đề tài cho dân chúng trà dư tửu hậu.

"Nương tử, không thể tiếp tục thế này nữa!" Lương đễ nhịn không được chửi ầm lên.

"Thiên hạ này đã đổi tên đổi họ rồi! Thánh thượng thương hại, sắc phong cô ta làm công chúa, vậy mà còn không biết liêm sỉ, làm bại hoại danh tiếng của Thái tử, cứ mãi ôm dĩ vãng thế thì đến đâu chứ!" Lương đễ từ lâu đã không ưa Chu Lục Vân.

Hoặc là gả, hoặc là đoạn tuyệt với Thái tử đi, đã không muốn lấy chồng lại cứ phải dây dưa với Thái tử, tự chịu hạ tiện!

Mấy thứ tần kia cũng lao nhao oán trách: "Nương tử, trong kinh đã đồn khắp, còn có người biết chuyện đem việc này viết thành khúc diễn, ồn ào ầm ĩ ngoài phố, thật bất lợi cho thanh danh của Thái tử."

"Thánh thượng hiền từ, Thái tử gia chung tình, Điện hạ rộng lượng vậy mà ả còn quái đản thế kia?"

"Còn tưởng mình còn là công chúa ấy! Nếu thật không muốn gả thì cũng đừng tìm đến Thái tử chứ!"

Sắc mặt Trịnh Bích Ngọc bình tĩnh, khoát tay áo.

Tiếng nói chuyện lập tức ngưng bặt.

Trịnh Bích Ngọc nhìn một vòng, thấy các vị thứ phi đều cúi đầu.

Sắc mặt nàng vẫn như thường, ra hiệu vú già: "Điện hạ không về cũng đừng phí thức ngon, mở yến đi."

Nhạc kỹ lập tức tấu lên nhạc khúc vui vẻ.

Trong lòng mọi người thầm hận, ấm ức về chỗ.

...

Lúc Thái tử Lý Huyền Trinh cưỡi ngựa xuất cung, vừa vặn lướt qua anh em Lý Trọng Kiền, Lý Dao Anh cùng đi.

Cung thành tĩnh mịch, bóng đêm nhẹ lạnh.

Lý Trọng Kiền sợ Dao Anh cảm lạnh, cởi áo khoác trên người phủ thêm cho nàng.

Tay Dao Anh vuốt ve một hộp ngọc, cười khanh khách: "Anh à, em không lạnh."

Hai anh em vừa mới giấu một rương của cải trong Vương phủ, Lý Trọng Kiền đưa hộp ngọc này cho nàng, nàng đang vui niềm vui mới.

Lý Trọng Kiền nói: "Mặc vào."

Giọng rất nhẹ nhàng, Lý Huyền Trinh nghe vào, tưởng như so với hắn ta lúc bình thường là hai người.

Lý Dao Anh ngoan ngoãn cất hộp ngọc, nhận áo lông cừu mặc vào.

Chỉ sau chốc lát, giơ tay lên, lắc ống tay áo rộng lớn trống trải cho Lý Trọng Kiền nhìn, múa may nói: "Anh nhìn xem, em thật sự cao lên mà! Hồi trước mặc áo khoác da của anh, tay áo rộng hơn nhiều..."

Trong ánh lửa chập chờn truyền đến tiếng cười khẽ trầm thấp của Lý Trọng Kiền.

Lý Huyền Trinh mặt không đổi đi qua bên cạnh hai người.

Cả hai anh em đều không nhìn hắn, cười nói phi vào đường luồng cửa dài hẹp.

Lý Dao Anh mang mũ rèm, Lý Huyền Trinh không thấy rõ mặt nàng, chỉ nghe tiếng cười dịu dàng rớt sau lưng mà tưởng tượng được ra cảm xúc trên mặt nàng.

Khóe miệng hắn móc lên, mặt lộ vẻ mỉa mai.

Nếu Lý Dao Anh nhìn thấy Lý Trọng Kiền trên chiến trường tàn nhẫn thế nào, biết Lý Trọng Kiền vì muốn thắng một tòa lại một tòa thành, đến cả trẻ con cũng xuống tay được, còn dám thân mật làm nũng với Lý Trọng Kiền vậy sao?

Cái danh Tiểu bá Vương Lý Trọng Kiền, không phải tự nhiên mà có.

...

Tẩm điện của Tạ Quý phi ở góc Đông Bắc Thái Cực cung, cách rất xa các phi tần khác.

Bình thường hiếm có người đến Thúy Phương cung, hôm nay trong điện lại sáng đèn, trước thềm một đám người hầu vây quanh một chiếc kiệu liễn hoa lệ đỉnh chạm vàng màn lụa đang chờ nơi đó.

Dao Anh xuống ngựa, nhíu mày hỏi thái giám ra đón: "Kiệu ai thế?"

Thái giám khom người đáp: "Là kiệu của Vinh phi."

Sắc mặt Dao Anh trầm xuống: "Ai để Vinh phi vào điện vậy?"

Vinh phi vốn là thị nữ của Tạ gia, những năm gần đây được sủng ái, sau khi Lý Đức đăng cơ sắc phong bà ta thành Vinh phi.

Mấy phi tần khác phần lớn là con nhà thế gia, không coi trọng Vinh phi.

Bản thân Vinh phi cũng tự ti xuất thân tỳ nữ, tìm cơ hội liền trước mặt mọi người khó xử Tạ Quý phi, lấy thủ đoạn chủ tử xưa kia làm nhục để ra uy.

Đương nhiên Dao Anh sẽ không ngồi nhìn Vinh phi khi dễ mẹ mình.

Vinh phi đã ăn mấy lần thua thiệt của nàng ở chỗ này, không dám tiếp tục tùy tiện.

Dao Anh bước nhanh hơn.

Tạ Quý phi chịu không nổi kích thích, nàng không ở bên cạnh người, ai biết Vinh phi sẽ nói với Tạ Quý phi những gì?

Thái giám nói một tràng xin tội: "Buổi chiều Quý phi tỉnh lại, nói muốn ngắm mẫu đơn trong vườn, ai ngờ Vinh phi cũng ở đó, Quý phi không nhớ rõ chuyện cũ, mới lôi kéo Vinh phi nói chuyện, nô chờ sốt ruột, lại sợ dọa tới Quý phi, không dám lên tiếng. Sau đó Vinh phi đưa Quý phi về, ở mãi đến giờ..."

"Quý chủ yên tâm, A Vi vẫn ở cạnh trông chừng, Vinh phi điện hạ không dám nói hươu nói vượn đâu ạ."

Thái giám đi vào thông báo, Vinh phi biết Dao Anh đã về, không muốn có chuyện, cũng không dám ở lâu, cáo từ đi ra.

Gặp Dao Anh đối diện đi tới, bà ta dừng bước, cười cười.

"Nghe nói công chúa đến chùa Đại Từ Ân chùa mời thầy thuốc cho Quý phi? Công chúa đúng là có tấm lòng hiếu thảo thành khẩn."

Vừa nói vừa thở dài.

"Quý phi đáng thương thật... Vừa rồi Quý phi còn hỏi bản cung sao Đại công tử không đến thăm người, bản cung không dám nói cho quý phi rằng Đại công tử đã chết mười một năm..."

Dao Anh cong khóe miệng, mỉm cười ngắt lời mèo khóc chuột của Vinh phi: "Ta không chỉ hiếu thuận, mà còn nhỏ mọn, thích thù dai, ghét nhất là người khác khi dễ mẹ ta."

Một câu rất sâu xa.

Ngữ điệu thì nhẹ nhàng nhưng lại tràn đầy ý cảnh cáo lạnh lùng.

Vinh phi đổi sắc mặt: "Là Quý phi lôi kéo bản cung tới..."

Dao Anh mỉm cười, môi son dưới ánh đèn chiếu rọi sáng lên ánh sắc sảo, sóng sánh mông lung, gương mặt kiều diễm như tỏa ra ánh sáng lạnh lùng, như hoa quỳnh ngọc ngà nở rộ nhất, vẻ trong suốt rực rỡ mà không ai dám lại gần.

Trong phút chốc khí thế Vinh phi nhụt đi mấy phần, chột dạ dời tầm mắt.

Tạ Quý phi lôi kéo bà ta, giật tay là tránh được, nhưng bà không.

Chủ tử xưa kia thành kẻ ngốc, sao bà ta bỏ được cơ hội xem kịch vui?

Bà ta thích chọc nghe Tạ Quý phi nói, nhìn bộ dáng của Tạ Quý phi bây giờ, trong lòng cảm thấy rất vui sướng.

Dao Anh nói: "Nếu Vinh phi biết ta rất hiếu thuận thì cũng biết cái gì nên làm, cái gì không nên làm."

Vinh phi ngượng ngùng, ra nội điện.

Ngồi lên kiệu liễn, bà càng nghĩ càng giận, hừ lạnh.

"Xem ngươi có thể đắc ý đến chừng nào! Ai mà không biết Đường hoàng hậu do Tạ gia bức tử? Thái tử nhớ kỹ cả! Đợi khi Thái tử ngồi vững vàng ngôi vị Thái tử, ba mẹ con các ngươi sẽ không được chết tử tế!"

Cung nữ đứng gần nhất run cả bả vai, không dám hó hé.

...

Lý Trọng Kiền là Quận vương đã trưởng thành, cố ý tránh mặt Vinh phi, chờ kiệu liễn Vinh phi đi xa mới vào Thúy Phương cung.

Hành lang trước người quỳ đầy đất.

Lý Trọng Kiền nhíu mày, bước vào phòng.

Lý Dao Anh vịn Tạ quý phi ra, "Mẹ, anh về rồi đấy."

Tạ quý phi vẫn vẻ ngây thơ, nhìn chằm chằm Lý Trọng Kiền một hồi, nghi hoặc nói: "Đâu phải là anh..."

Dao Anh kiên nhẫn nói: "Mẹ, là Nhị ca Hổ Nô trở về."

Hổ Nô là nhũ danh của Lý Trọng Kiền.

Lý Trọng Kiền tiến lên, chắp tay với Tạ Quý phi: "Mẹ, con đã về."

Tạ Quý phi ngơ ngác nhìn hắn, mặt mũi mờ mịt, lẩm bẩm: "Anh đâu? Ngươi không phải anh ta. Sao anh ta không đến thăm ta? Có phải anh giận ta rồi không?"

"Anh à, em sai rồi..." Bà lã chã chực khóc, "Em không lấy chồng nữa, em nghe lời anh, đừng giận em nữa..."

Dao Anh thở dài, ra hiệu cung nữ tới đỡ Tạ quý phi đi nội thất đi ngủ.

Lý Trọng Kiền đứng dậy, nhìn bóng lưng Tạ Quý phi đi xa, trên mặt không lộ cảm xúc gì.

Từ nhỏ hắn được đưa đến Tạ Vô Lượng nuôi dạy, mãi đến năm chín tuổi, Tạ gia cả nhà oanh liệt.

Lý Đức đón hắn về Lý gia, khi đó Tạ Quý phi vì cái chết huynh trưởng bị kích động, điên điên ngốc ngốc, không nhận ra hắn.

Hắn và Dao Anh sống nương tựa lẫn nhau, với Tạ Quý phi cũng không gọi là gần gũi.

Dao Anh nói khẽ: "Anh, gần đây mẹ thường xuyên thế này, đôi khi đến cả em còn không nhận ra."

Lý Trọng Kiền nhàn nhạt ừm một tiếng, cúi đầu nhìn Dao Anh: "Lúc ta không ở kinh thành có phải Vinh phi làm nhục muội không?"

Tính nàng vốn hiền hoà, rất ít khi chán ghét người nào.

Dao Anh nói: "Vinh phi có tính toán trong lòng."

Trong sách nói người khiến Tạ Quý phi tự vẫn, là Vinh phi. Tạ Quý phi còn sống, tất cả mọi người ai cũng biết bà ta từng là tỳ nữ Tạ gia, bà ta muốn từ bỏ xuất thân, lại lấy lòng Đông cung, mỗi ngày chạy tới nói năng kích thích Tạ Quý phi, cuối cùng bức tử người.

Lý Trọng Kiền nói: "Ta đi giết bà ta."

Dao Anh giật mình, lắc đầu: "Anh đừng xúc động, em đã phái người đi thăm dò rồi, chờ thu thập đủ chứng cứ lại nói."

Vinh phi dù sao cũng là sủng phi của Lý Đức, không thể nói giết là giết.

Lý Trọng Kiền từ chối cho ý kiến.

Dao Anh sợ hắn thật sự chạy tới chém Vinh phi, mới nhắc tới Mông Đạt Đề Bà: "Ngày mai pháp sư sẽ đến bắt mạch cho mẹ."

Lý Trọng Kiền gật gật đầu, ngón tay nâng cằm Dao Anh.

Nhìn ban ngày khí sắc nàng vẫn tốt, lên ngựa xuống ngựa lưu loát, chỉ hơi gầy.

Dưới ánh đèn đêm, gò má nàng trắng như tuyết mới rơi, rất có mấy phần không khỏi yếu ớt.

Hắn nói: "Y thuật vị pháp sư đó nếu đã cao minh thì nhờ ông ấy xem qua mạch cho em đi, dạo này có uống thuốc đúng giờ không đấy?"

Dao Anh gật đầu, ra vẻ rất kiêu ngạo: "Năm nay thân thể em tốt hơn nhiều, có thể chạy có thể nhảy, anh đừng lo."

Lý Trọng Kiền không hỏi tới nữa.

Một năm trước, Dao Anh đột nhiên vô duyên vô cớ nôn ra máu, bảo tỳ nữ giấu đừng nói cho hắn.

Đến khi hắn biết thì nàng đã ngất xỉu, không còn biết trời trăng.

Lý Trọng Kiền chăm nàng, nhìn nàng bị giày vò đến chết đi sống lại, lòng như đao cắt.

Ba hôm sau, nàng tỉnh lại, nhìn thấy hắn, khuôn mặt nhỏ tiều tụy lập tức cười tươi tắn tràn đầy vui vẻ: "Anh còn sống!"

Một khắc này, Lý Trọng Kiền muốn rơi nước mắt.

Nghe tiếng bước chân vang nơi hành lang, cung nhân đưa tới một thiếp mời đính vàng niêm phong: "Đại Vương, trưởng sử nói bọn Triệu tướng quân đã bao Diệu Âm các, đợi ngài đến ạ!"

Lý Trọng Kiền tỉnh táo lại, nhận thiếp mời.

Dao Anh nhếch miệng.

Tính Lý Trọng Kiền thích tận hưởng lạc thú trước mắt, cưỡi ngựa Chương Đài*, ngàn vàng mua nụ cười, thêm nữa còn chưa cưới chính phi, khi không chinh chiến ngoài kia thì thường xuyên yến ẩm cùng bộ hạ thâu đêm suốt sáng.

*dạo kỹ viện

Đàn ông Lý gia ai cũng tràn đầy tinh lực.

Đại quân khải hoàn, tiếp theo Lý Trọng Kiền không thể thiếu xã giao.

Dao Anh căn dặn anh: "Anh à, đừng để bụng trống uống rượu, dùng ít bánh canh trước khi uống nhé, còn nữa, uống ít rượu chút, uống nhiều hại người."

Hắn uống rượu là kiểu thả cửa ngàn chén, nhiều lần uống đến say không còn biết trời trăng.

Lý Trọng Kiền nghe nàng dặn dò, ngón tay cong lên, cười quệt chóp mũi nàng.

"Nhớ kỹ, thưa bà quản gia."

Dao Anh đưa hắn ra ngoài.

Lý Trọng Kiền đẩy nàng vào trong điện: "Đừng quản ta nữa, hôm nay em mệt mỏi cả ngày, nghỉ ngơi sớm đi. Mai anh mang về bánh Hồ nướng thịt dê Sùng Nhân phường mà em thích ăn nhất."

Mắt Dao Anh lúng liếng, thừa cơ ghé vào trên vai hắn đòi hỏi, nũng nịu nói: "Thêm bánh xốp ngàn tầng Chương bà ở tiệm trái cây đối diện tự làm nữa nhé."

Lý Trọng Kiền không chút nghĩ ngợi nói: "Được."

Giọng Dao Anh càng thêm ngọt ngào nhão nhoẹt: "Anh giúp em một bình Lục Nghĩ nữa, em thích rượu đục."

Lý Trọng Kiền nhíu mày.

Dao Anh đu cánh tay hắn, kéo dài giọng: "Anh, xin anh á!"

Lý Trọng Kiền cúi đầu vặn chóp mũi nàng: "Đừng hòng!"

Dao Anh bĩu môi.

Lý Trọng Kiền đối nàng chiều chuộng tuyệt đối, nàng muốn gì hắn cho nấy, riêng chỉ có điểm này quản rất nghiêm, ngay cả hộ vệ đều nghe lời hắn cảnh cáo, theo dõi rất sát sao.

Không cho phép nàng uống rượu.

Lần uống rượu trước đã là chuyện năm ngoái.

Hôm nay có rượu hôm nay say, cũng không biết bọn họ có thể sống đến bao lâu, thống thống khoái khoái uống chút rượu thì sao chứ?

Hắn uống rượu như nước, lại không cho phép nàng uống rượu.

Dao Anh tức giận buồn bực buông tay áo Lý Trọng Kiền, quay người đi vào.

Vừa bước hai bước, bên tai một tiếng cười khẽ, cánh tay kiên cố của Lý Trọng Kiền vòng tới, nhẹ nhàng nắm hông nàng.

Hắn quen dùng song chùy, lực khỏe như trâu, Dao Anh cả người bị xoay theo, đầu đụng vào phiến giáp mỏng trước ngực hắn.

Lý Trọng Kiền đỡ lấy Dao Anh, sờ lên cái đầu nhỏ trước ngực.

"Đúng là có cao thật."

Trước kia chỉ cao tới đầu hổ chỗ giáp ngực, giờ đã đến bả vai hắn.

Dao Anh lập tức chuyển giận thành vui.

Lý gia quận Ngụy là nhà võ tướng có tiếng, nhi lang cao lớn cường tráng, nữ lang cao gầy to lớn.

Ca ca Lý Trọng Kiền cao tám thước, Lý Huyền Trinh cũng dáng người mạnh mẽ. Nàng từ khi trổ mã luôn mong mình được cao hơn, mỗi lần Lý Trọng Kiền xuất chinh trở về liền lôi hắn đo xem mình cao tới đâu của anh.

Dao Anh đưa tay so đỉnh đầu mình đến chỗ giáp ngực của Lý Trọng Kiền, thỏa mãn nhoẻn miệng khẽ cười, nhón chân lên tiếp tục so: "Em còn cao nữa nhé."

Lý Trọng Kiền vẻ mặt trêu chọc, duỗi hai ngón tay quơ quơ trước mắt nàng, ấn bờ vai nàng thấp xuống, để nàng trung thực đứng.

"Muốn cao thì phải ngoan ngoãn nghe lời ngự y, uống thuốc đúng giờ, không cho phép uống rượu."

Dao Anh khí khái khoát tay: "Không đụng là không đụng."

Nàng biết Lý Trọng Kiền là vì tốt cho mình.

Lý Trọng Kiền mỉm cười đưa mắt nhìn nàng đi vào, xoay người ra cung.

Đã đến giờ giới nghiêm, nhà nhà đốt đèn, bóng đêm mông lung, ánh trăng như bạc vẩy đầy xuống phố dài yên tĩnh, trên nóc cung điện cao thấp đan xen là một mảnh trời đêm vô ngần. Đầy sao lấp lóe, như khảm vạn vảy bạc.

Trưởng sử đã chờ từ sớm ngoài cửa cung, trong vắng vẻ bỗng nghe tiếng vó dồn dập ngựa hí, thúc ngựa lên đón.

Lý Trọng Kiền khoác áo bào trắng mỏng ngang vai, một ngựa lao vùn vụt mà ra.

Trưởng sử đuổi theo hắn, báo cáo mấy chuyện quan trọng, nói: "Đại vương, Từ Bưu mới cầu kiến, lão nô đã đuổi hắn."

Trong bóng đêm, đường nét gương mặt sáng lên của Lý Trọng Kiền như đao tạc: "Gã gặp ta làm gì?"

Dao Anh đã nhắc chuyện ban ngày rồi.

Trưởng sử nói: "Gã đến chịu đòn xin tội."

Lý Trọng Kiền cười lạnh: "Xin tội gì?"

Trưởng sử đáp: "Từ Bưu nói, gã cố tình vi phạm, đánh cướp nhà lương thiện, là tội thứ nhất, tội thứ hai, gã làm công chúa bị doạ."

Thất công chúa không thể thấy máu.

Lý Trọng Kiền kéo nhẹ khóe miệng: "Mất hai ngón tay, giọng điệu gã có oán giận không?"

Trưởng sử cười đáp: "Không ạ, sau khi Từ Bưu tỉnh rượu, không chỉ không một lời oán giận, còn cười lớn mấy tiếng, nói Thất công chúa không hổ là em cùng mẹ ngài, gã tâm phục khẩu phục. Từ Bưu từng lập được quân lệnh trạng, nếu không phải công chúa lưu tình, gã không phải mất ngón tay, mà là đầu trên cổ, tuy gã là kẻ thô kệch nhưng vẫn hiểu chút phân tấc."

Lý Trọng Kiền lạnh nhạt ừ, nói: "Coi như gã thức thời."

Trưởng sử hiểu, mạng Từ Bưu đã giữ được.

Nếu Từ Bưu đứt mất hai ngón tay mà dám phàn nàn công chúa, Lý Trọng Kiền tuyệt sẽ không giữ lại thứ tai hoạ này.

Mấy tên thân binh xách đèn xa xa rọi ở phía sau, từ chỗ sâu bức tường phường tối thui văng vẳng tiếng ca múa cười vui.

Trưởng sử nói tiếp: "Đại Vương, các cô gái bị cướp đã được đưa về nhà, Công chúa còn hạ lệnh tra rõ trong quân và quan tướng trong Vương phủ ai trái lệnh cấm, quấy rối bách tính..."

Ông ngừng lại, muốn nói lại thôi.

Lý Trọng Kiền không nhịn được nói: "Cứ nói."

Trưởng sử thở dài, thành khẩn nói: "Đại Vương, dưới trướng ngài như Từ Bưu, Lữ Hằng, Tôn Tử Nghi đều là hạng cỏ cây một chữ lớn không biết, cao ngạo không nghe lời, lỗ mãng ngang ngược, thường xuyên ngang nhiên trái lệnh cấm, trở ngại danh tiếng ngài, sao không nhân cơ hội này chỉnh đốn quân kỷ? Mượn chuyện Từ Bưu kinh sợ họ, để bọn họ bớt phóng túng một hai phần?"

Mấy lời này trưởng sử đã muốn nói từ lâu.

...

Mấy đời Tạ gia nắm giữ Kinh Nam, tứ thế tam công*, dòng dõi có tiếng. Trong tộc nhân tài xuất hiện lớp lớp, con em đều là chi lan ngọc thụ, làm tướng làm tể**, văn võ đều tinh.

*nhiều thế hệ giữ chức quan cao.

**nhập tắc vi tương, xuất tắc vi tướng: ý tứ là xuất chinh làm tướng soái, vào triều làm Tể tướng

Đến thời tiền triều, phiên trấn cát cứ, quần hùng cùng nổi lên, thiên hạ chia năm xẻ bảy, Trường An dễ dàng thay đổi qua nhiều tay, ở đất Quan Trung sinh linh đồ thán.

Để đuổi dị tộc hung ác tàn bạo ra Trung Nguyên, mấy thế lực lớn của Trung Nguyên ngắn ngủi liên minh.

Kinh Nam lúc ấy không ngại, nhưng Thái gia Tạ gia vì nghĩ tới đại cục, dứt khoát dẫn con cháu trong tộc tiến Bắc chống địch.

Khi đó trong tộc tất cả già trẻ, khỏe mạnh, thanh niên ba đời đều không do dự dũng cảm tiến lên ra chiến trường, thiếu niên để tóc trái đào cũng không ngoại lệ.

Con cháu Tạ gia, đời đời kiếp kiếp đều là như thế.

Văn võ họ đều giỏi, từ nhỏ một bên học thi thư, một bên luyện võ nghệ, mười một mười hai tuổi đã theo cha anh chinh chiến sa trường, bảo vệ quốc gia, kẻ trước ngã xuống, kẻ sau tiến lên.

Danh vọng của Tạ gia không dựa vào quyền mưu giở trò, mà là do từng đời một, từng người con cháu anh dũng chiến đấu nơi sa trường, da ngựa bọc thây Tạ gia lấy về!

Lúc thái bình, Tạ gia lui về Kinh Nam, bảo vệ bá tánh.

Gặp loạn thế, binh sĩ Tạ gia lao ra chiến trường, tuyệt không hai lời.

Non sông tươi đẹp, một tấc không nhượng!

Một lần Tạ lão thái gia đi, mang tất cả con cháu kiệt xuất Tạ gia và quân đội tinh nhuệ, chỉ để lại gia tướng ở lại giữ Kinh Nam.

Mười vạn người.

Từ lão thái gia, Đại tướng quân, đại công tử, đến Tạ Thập Bát Lang quân mười một tuổi, từ lão binh trui luyện trải qua gió mưa bão tố, đến tiểu tốt mới nhập ngũ.

Một đi không trở lại.

Mười vạn anh linh, chôn xương tha hương.

Một trận thảm liệt quyết chiến bảo vệ Trường An, để Chu thị có thể chiếm cứ Quan Trung địa thế hiểm yếu nhất mấy châu.

Sau Chu thị xưng đế, Quan Trung thái bình, nhưng thế lực các nơi khác sớm tự lập Vương, thế cục rung chuyển.

Chờ Chu thị Mạt đế lên ngôi, thiên hạ đại loạn.

Trong loạn thế, Tạ gia tàn lụi mất đi quân đội chống đỡ, cả nhà quả phụ không chỗ nương tựa, thế lực thu nhỏ chỉ còn một huyện.

Đến thế hệ Tạ Vô Lượng, chi chính chỉ còn lại ông và Tạ Mãn Nguyện hai anh em nương tựa nhau.

Tạ Vô Lượng muốn theo gương tổ tông rong ruổi chiến trường, thu phục non sông, nhưng từ nhỏ ông ốm yếu nhiều bệnh, kéo không được cung, cưỡi không được ngựa.

Tạ Mãn Nguyện thì, lại là nữ lang.

Tạ Vô Lượng mở ra lối riêng, dùng hết sức kinh doanh sản nghiệp Tạ gia, dựa vào thủy lợi Kinh Nam phát triển thông suốt cùng các thế lực lớn khai triển thương mậu, rất nhanh giúp Tạ gia tích lũy tài sản thành phú khả địch quốc, còn trữ được lượng lương thực lớn trong loạn thế.

Lúc này, Lý tướng quân quận Ngụy ba mươi trận thắng hai mươi mốt lọt vào tầm mắt Tạ Vô Lượng.

Tạ gia có tiền, có danh vọng, có lương thực, thiếu tướng, thiếu binh.

Lý gia có tướng, có binh, thiếu lương thực, thiếu tiền, thiếu danh vọng.

Lý Tạ hai nhà thông gia, sinh ra Lý Trọng Kiền.

Tạ Vô Lượng biết muội muội Tạ Mãn Nguyện đơn thuần ngây thơ, bèn đem cháu trai Lý Trọng Kiền về cạnh tự mình nuôi dạy.

Lúc bé Lý Trọng Kiền, thông minh cơ trí, thấu hiểu lễ nghi, tuổi nhỏ phong thái đã bất phàm, văn có thể xuất khẩu thành thơ, võ có thể nâng lên kim chùy trăm cân.

Người trong họ Lý thị ai không khen Lý Trọng Kiền?

Chính vì Lý Trọng Kiền thiên tư thông minh hơn người, rất được trưởng bối Lý thị yêu thích, mới có chuyện tranh thế tử.

Lúc ấy ngay cả Lý Đức cũng không có cách nào đưa ra lựa chọn giữa Lý Huyền Trinh và Lý Trọng Kiền, chỉ kéo dài thời gian sắc lập thế tử.

Sau Đường thị chết đi, Lý Đức sắc lập Lý Huyền Trinh làm thế tử.

Tạ Vô Lượng mưu tính sâu xa, lập tức lấy đi cặp kim chùy của Lý Trọng Kiền, không cho phép hắn tập võ nữa, muốn hắn toàn tâm toàn ý ra sức học hành thi thư, sau này làm một hiền quan trung với quân vương, bảo vệ bách tính.

"Hổ Nô, tuyệt đối nhớ kỹ cho cậu, trong mạng con có hung, tội lỗi quá nặng, nếu một lòng nghiên cứu thi thư, có thể bình an đến già, còn một khi theo võ, e sống không quá ba mươi tuổi."

"Hổ Nô, con nhớ kỹ, không được theo võ!"

Lý Trọng Kiền lập lời thề độc.

Ba năm sau, Tạ gia diệt môn. Lý Trọng Kiền vẫn tuân theo nguyện vọng của Tạ Vô Lượng, tiếp tục khổ tâm nghiên cứu sách vở. Mãi đến năm Lý Dao Anh năm tuổi, hắn không thể không vi phạm lời thề lập trước mặt cậu, bỏ văn theo võ.

Dù là hắn biết trả giá bởi sống không qua ba mươi.

...

Trưởng sử nhìn Lý Trọng Kiền lớn lên.

Ông nhìn thấy lúc Lý Đức sắc lập Lý Huyền Trinh thành thế tử, Nhị công tử sáu tuổi chỉ cười một tiếng cho qua, vùi đầu nghiên cứu sách vở.

Nhìn cả nhà Tạ gia cả nhà oanh liệt rồi, Nhị công tử chín tuổi lau khô nước mắt, quay lại Lý gia, tự mình chăm sóc đứa em gái nhỏ chưa thể đi bộ Lý Dao Anh.

Lại nhìn Nhị công tử mười một tuổi hai mắt đỏ như máu, cắn răng đập ra những cú nặng nề, hai tay be bét đầy máu nắm lên cây kim chùy mang đến bất hạnh cho mình trong chú định.

Người đời đều nói Lý Trọng Kiền giết người như ngóe, hành vi phóng túng.

Ngài bị coi thường, dân chúng chán ghét, bị đồng ngũ khinh bỉ, bộ hạ Thái Tử giễu cợt.

Lính xin gia nhập với ngài đều là tam giáo cửu lưu Thái tử chướng mắt.

Tỷ như Đỗ Tư Nam mưu sĩ xuất thân nghèo hèn cũng dám công khai nói: Nhị lang Lý gia, ngốc như vậy. Ta khinh thường kết bạn.

Trưởng sử hận đau đớn đến rút cả tim.

Họ nào hiểu được, Nhị hoàng tử từ bé đã đọc sách nhiều đến vậy, do Tạ Vô Lượng tài học có một không hai tự mình dạy dỗ, sao là người lỗ mãng không hiểu chuyện gì được?

Nhị hoàng tử vì thứ gì mà không tình nguyện chỉnh đốn quân vụ?

Vì thứ gì sa vào tửu sắc?

Vì thứ gì hoàn toàn không để ý thanh danh?

Gió đêm trong mát lạnh lẽo, bầu trời đầy sao.

Tuấn mã cao lớn từ từ đi dưới ánh trăng lờ mờ, Lý Trọng Kiền rủ mắt, hững hờ vỗ vỗ tọa kỵ, không nói gì.

Trưởng sử đau xót nói: "Đại Vương, dù huyết mạch Tạ gia đã đứt, nhưng khí khái vẫn còn, ngài kế tục Tạ gia, không thể bôi xấu danh tiếng Tạ gia chứ!"

Lý Trọng Kiền bỗng nhiên quay đầu.

Ánh mắt sắc bén như đao.

"Đừng nhắc Tạ gia trước mặt ta!"

Trưởng sử dọa đến khẽ run rẩy.

"Hồ bá cho rằng, ta nên làm như thế nào?"

Trong mắt phượng dài hẹp của Lý Trọng Kiền đầy ý hung ác, tiếng nói lại rất bình tĩnh.

"Ta nên giống Thái tử, chỉnh đốn quân vụ, mời chào năng nhân dị sĩ, tìm hỏi danh sĩ hiền giả, chiêu hiền đãi sĩ, đối tốt với bộ hạ, lung lạc lòng người, làm một hiền Vương người đời tán thưởng phải không?"

Trưởng sử trong lòng đồng ý, nhưng không dám lên tiếng.

Lý Trọng Kiền cười một tiếng: "Hồ bá, bác đừng quên, chỉ chút nữa ta đã thành thế tử."

Trưởng sử sửng sốt.

Một lát sau, trưởng sử kịp phản ứng, chợt thấy rùng mình.

Lý Trọng Kiền thản nhiên nói: "Nếu như ta thật làm như vậy, sẽ chỉ chết sớm hơn, chết nhanh nữa."

Chỉ thiếu chút nữa ngài trở thành thế tử, lại là cháu ngoại Tạ gia, vẻn vẹn vậy thôi, Lý Huyền Trinh sẽ không buông tha cho kẻ uy hiếp như ngài.

Huống chi giữa họ còn có cái chết của Đường thị.

Còn có cha họ, một đế vương sát phạt quyết đoán, tâm tư khó dò, lý trí đến gần như vô tình.

Thân phận có đổi, ngài cũng sẽ như thế.

Từ một khắc Tạ gia bị hủy diệt, Lý Trọng Kiền đã hiểu, mình sống không được bao lâu.

Chết có gì đáng sợ? Hắn không sợ chết.

Chỉ sợ chết được không đủ oanh liệt.

Trăng lưỡi liềm chẳng biết trốn trong tầng mây tự khi nào, ánh sao ảm đạm nhẹ chiếu.

Lý Trọng Kiền ngẩng mặt lên, ánh sao lấp lánh rơi vào đáy mắt.

Hắn nhớ tới hộp ngọc đưa cho Dao Anh, khóe miệng từ từ nhoẻn, không kiềm được mỉm cười.

Sống không chỗ nhận, chết cũng không sợ. Nhưng nếu hắn chết, Tiểu Thất làm sao?

Lý Trọng Kiền sợ.

Nên hắn muốn trước khi ngày đó đến, có thể tìm được người che chở cho Tiểu Thất.

Lý Trọng Kiền thu lại ý nghĩ, thúc ngựa nhanh một chút. Hắn ra cung không phải là để mua vui, Trịnh Tể tướng đang ở Diệu Âm các chờ hắn. Mau chóng định hôn sự cho Tiểu Thất, hắn mới có thể an tâm xuất chinh.

Trưởng sử theo sát sau lưng Lý Trọng Kiền, nước mắt tuôn đầy.

Ông đã rõ điểm then chốt.

Nhị hoàng tử biết mình hẳn phải chết, nên mới cà lơ phất phơ, cam chịu.

Trưởng sử không cam lòng!

Tạ gia nhiều đời trung liệt, con cháu đời đời đẫm máu sa trường, binh sĩ hi sinh vì nước, huyết mạch chi chính duy nhất cuối cùng Tạ Vô Lượng thủ thành mà chết, trước khi chết sai bộ hạ cắt đầu mình giao cho quân địch, chỉ vì bảo toàn bách tính.

Trăm năm khí phách, không hỗ với Quân vương, không thẹn với thái bình trong họ.

Càng không thẹn với Lý thị!

Cuối cùng lại rơi vào kết cục như vậy.

Nếu Tạ gia vẫn còn, Thánh nhân làm sao dám đối đãi Quý phi và Nhị hoàng tử như thế?

Sáng hôm sau, Lý Trọng Kiền say mèm.

Có điều hắn vẫn nhớ mua cho Lý Dao Anh bánh xốp ngàn tầng nhà Chương bà.

Dao Anh nhận bánh, đưa một bát nước mía tỉnh rượu cho hắn: "Anh à, em đã phái người đón Pháp sư Đề Bà Mông Đạt vào cung, ông đang xem mạch cho mẹ."

Lý Trọng Kiền hàm hồ ừm một tiếng rồi ngửa cổ uống một hơi sạch bát, lăn đùng ra chiếu nỉ, nằm ngáy o o.

Dao Anh vừa tức vừa buồn cười, ngồi quỳ chân trước mặt anh, đập mấy phát. Không tỉnh.

"Lần nào cũng vậy, nói cho ngon rồi vẫn nốc như trâu..."

Dao Anh nhỏ giọng lầm bầm dăm câu, vắt khăn nóng, lau mặt lau tay cho tên xỉn Lý Trọng Kiền.

Lý Trọng Kiền bình thường không rời kim chùy, tay sần sùi chai sạn, lòng bàn tay còn cả một vết sẹo cắt ngang. Đã nhiều năm rồi, mỗi lần nhìn vẫn giật mình.

Dao Anh cầm bàn tay dày rộng của Lý Trọng Kiền, đầu ngón tay phớt qua vết sẹo dữ tợn do đao cắt kia.

Đôi tay này lúc cầm bút dạy nàng vẫn còn là một đôi tay thanh mảnh, ngón tay thon dài.

Khi đó Lý Trọng Kiền hòa nhã trầm tính, đoan chính thanh tú, mỗi ngày theo đại nho đọc những quyển sách rất dày, có thể chép sách chữ triện nét gầy mạnh mẽ, còn vẽ cả tranh thủy mặc.

Khí hậu quận Ngụy ấm áp, mùa xuân trăm hoa đua nở, trước đình hoa mận như tuyết, hoa đào mảnh mai. Gió nhẹ lướt qua, trước thềm hoa rụng đầy đất.

Lý Trọng Kiền viết chữ đọc sách, Dao Anh bò qua bò lại trên chiếu nỉ ngay bên cạnh anh mình.

Lúc thì ngồi nhìn hoa bay đầy trời trước hiên, lúc lại bò qua thư án, tò mò nhìn Lý Trọng Kiền vẩy mực.

Lý Trọng Kiền ôm lấy Dao Anh, để bé ngồi lên chân mình, nắm bàn tay mũm mĩm nhỏ xíu dạy em cầm bút.

Anh đã dạy nàng viết tên mình, dạy nàng vẽ hoa lan thanh nhã.

Năm ấy Dao Anh năm tuổi, lúc đó vào cuối xuân, Lý Trọng Kiền chỉ vào hoa rơi rực rỡ trước hiên, từng chữ từng chữ dạy nàng: "Cao các khách cánh khứ, tiểu viên hoa loạn phi."

*Các du khách lầu cao kia đã rời đi; hoa ở trong vườn nhỏ theo gió điêu tàn bay lả tả.

Sau hôm dạy xong bài Hoa rơi này, Lý Trọng Kiền về Kinh Nam tảo mộ. Dao Anh ở lại cạnh Lý Đức.

Anh em gặp lại trời đã thu.

Lý Trọng Kiền vác một đôi kim chùy nặng trăm cân, một mình ngàn dặm, xuyên qua chiến trường núi thây biển máu, tìm tới Dao Anh thoi thóp.

Vết thương hắn chồng chất, máu me khắp người, ôm chặt lấy em gái.

"Tiểu Thất, đừng sợ, anh tới đón em."

Vết đao trong lòng bàn tay này chính là lúc đó lưu lại.

Bắt đầu từ hôm đó, hắn không còn chạm tới sách bút nữa. Ngày ngày hắn luyện chùy, nghe theo lời Tạ Vô Lượng, lệ khí ngày càng nặng, tính tình ngày càng u ám cáu kỉnh. Thân thể thì ngày càng rắn chắc cường tráng, đôi tay từng cả ngày cầm sách kia, bàn tay từng cầm hoa chấp bút dần dần không còn thon dài quý phái như quý công tử thế gia, thành dáng vẻ bây giờ.

Tay Tạ Thanh còn đẹp hơn cả Lý Trọng Kiền.

Dao Anh ngồi thẫn thờ một hồi.

Nàng biết người ngoài nhìn Lý Trọng Kiền thế nào.

Họ nói anh giết người như ngóe, bạo ngược tàn nhẫn, tàn sát một tòa rồi đến một tòa thành.

Dao Anh từng khuyên Lý Trọng Kiền.

Đối địch trên chiến trường ngươi không chết thì ta vong, đương nhiên không thể lòng dạ đàn bà, nhưng tàn sát cả thành thì quá máu lạnh.

Lý Trọng Kiền cười khẽ, xoa xoa đầu Dao Anh.

Dao Anh nghĩ anh đã nghe lọt tai, kết quả hôm sau phát hiện đám người hầu bên cạnh mình đã đổi một nhóm.

Người hầu Giáp nói: Nữ lang, Nhị công tử rất được bá tánh kính yêu!

Người hầu Ất nói: Nữ lang, ngài đừng buồn, dân chúng không hề mắng chửi Nhị công tử.

Dao Anh giận đến ngã ngửa: Cách bịt tai trộm chuông này mà Lý Trọng Kiền cũng uổng công nghĩ ra!

Đang ngủ say Lý Trọng Kiền bỗng trở mình, siết bàn tay, bắt chặt cổ tay Dao Anh.

Dao Anh bị kéo đến giật nảy, tỉnh táo lại, đẩy tay Lý Trọng Kiền ra, nhỏ giọng mắng: "Chỉ cho phép phóng hỏa Châu quan, không cho đốt đèn trăm họ!"

Màn ngủ khẽ động, nghe tiếng Xuân Như bên ngoài: "Quý chủ, Pháp sư đi ạ."

Dao Anh để lại cung nữ chăm cho Lý Trọng Kiền, đứng dậy đi về sương phòng phía Tây.

Hôm nay Đề Bà Mông Đạt mặc một bộ truy y mà các sư Bắc Trung Nguyên đang thịnh hành, điệu dáng nghiêm túc, pháp tướng trang nghiêm, từ nội đường bước ra, chắp tay trước ngực: "Công chúa, Quý phi đúng là đã dùng thuốc của Bà La Môn."

Phụng ngự đứng một bên cúi đầu, mồ hôi lạnh nhễ nhại.

Dao Anh trầm mặt.

Nàng biết bệnh điên của Tạ Quý phi không có thuốc chữa, mời Đề Bà Mông Đạt vào cung không phải chữa bệnh mà là tra rõ nguyên nhân bệnh.

Bệnh Tạ Quý phi rất lạ, lúc Dao Anh ra đời bà đã ngây ngây dại dại, khi đó Đường thị đã chết, Tạ gia vẫn cường thịnh, không có dấu hiệu gì sắp bị hủy diệt.

Mấy tháng trước, có vị đạo sĩ xem mạch cho Tạ Quý phi đoán: có thể Tạ Quý phi dùng thuốc Bà La Môn, tâm trí thất thường.

Phụng ngự trong cung không mấy hiểu biết về thuốc của Bà La Môn, Dao Anh sợ bứt dây động rừng, không để lộ chuyện này. Nàng mời Đề Bà Mông Đạt vào cung chính là xác nhận suy đoán của vị đạo sĩ là thật hay giả.

Đề Bà Mông Đạt vẻ như hoàn toàn không để ý tới bầu không khí thoáng chốc trở nên nặng nề, ung dung nói: "Thuốc Bà La Môn mà Quý phi đã uống hẳn là một tiên dược trường sinh ghi lại trong Phương thuốc chư tiên Bà La Môn. Bần tăng đã từng thấy qua người dùng thuốc này lâu dài, họ đêm không an giấc, ngày không tỉnh táo, thần trí rối loạn, ký ức điên đảo, triệu chứng không khác với Quý phi."

Dao Anh tỉnh táo hỏi: "Pháp sư, vậy có cách trị liệu không ạ?"

Đề Bà Mông Đạt lắc đầu, vẻ mặt thương xót: "Độc tố của tiên dược Trường sinh không cách nào loại bỏ, mà bệnh của Quý phi lại rất nặng so với người bần tăng từng gặp, tâm bệnh khó giải."

Dao Anh trong lòng rõ ràng.

Tạ Quý phi không tiếp nhận sự thật Tạ Vô Lượng đã chết, thuốc Bà La Môn là nguyên nhân gây bệnh, mà tin dữ của Tạ gia đã khiến bà triệt để điên.

Bà điên rồi, Tạ Vô Lượng vẫn còn sống.

Dao Anh nhắm mắt, bình tĩnh lại

Cung nhân theo mệnh lệnh của nàng đã chuẩn bị vàng bạc, tơ lụa, dược liệu, còn cả mấy thớt ngựa làm tạ lễ tạ ơn Đề Bà Mông Đạt.

Tạ Thanh đã đi Chính sự đường, lấy giấy thông quan do Tể tướng kí mà phát xuống.

Dao Anh biết Đề Bà Mông Đạt không thể chờ đợi phải lên đường đi Tây Vực, không giữ ông lâu, đưa văn thư tiễn ông xuất cung.

Đề Bà Mông Đạt giật mình.

Thật ra ông cũng đâu muốn tiến cung chẩn trị cho Tạ Quý phi.

Lúc còn trên đất Thục, Đề Bà Mông Đạt thường qua lại với quan lại quý nhân, phần đông lễ phép chu đáo, cử chỉ thanh tao, tự xưng là cư sĩ tu hành, vô cùng chuộng lễ Phật luận bàn kinh Phật, nhưng làm việc lại ngang ngược bá đạo, ích kỷ lãnh khốc, căn bản không để ý sống chết của dân chúng tầng lớp dưới. Khi Đề Bà Mông Đạt rời đất Thục, kẻ quyền quý từng tôn sùng ông làm thượng khách lập tức trở mặt, cưỡng ép tạm giam ông và đệ tử, còn giết cả người hầu của ông để uy hiếp.

Ông chạy khỏi đất Thục, quyết tâm đi Tây Vực càng thêm mãnh liệt, nhưng giám viện chùa Đại Từ Ân nói rằng nếu không có giấy thông quan thì ông sẽ chết ở Kim Thành.

Để có giấy, Đề Bà Mông Đạt đành mạo hiểm vào cung chịu Thất công chúa giam giữ.

Lúc Thất công chúa hỏi bệnh Tạ Quý phi có thể chữa không, ông đã do dự trong chớp mắt, nhưng vẫn nói thật. Bệnh Tạ Quý phi đúng là không thể trị.

Đề Bà Mông Đạt thấp thỏm trong lòng.

Ngoài dự liệu của ông, Thất công chúa không giống mấy kẻ quyền quý ông từng gặp, nàng không nổi trận lôi đình, không giận chó đánh mèo, cũng không ép giữ ông lại chẩn trị cho mẹ mình. Nàng giữ lời hứa, sảng khoái thả ông lại còn chuẩn bị hậu lễ.

Tảng đá lớn đè lên tim Đề Bà Mông Đạt cuối cùng cũng rơi xuống.

Thở phào rồi lại cảm thấy tiếc hận.

Thất công chúa tướng mạo ung dung, ánh mắt lấp lánh, giống mây tan mặt trời mọc, hào quang sáng chói nghiêng chiếu.

Thật có duyên với cửa Phật. Đáng tiếc công chúa không tin Phật.

Đề Bà Mông Đạt an ủi Dao Anh: "Công chúa, tất cả đều là số mệnh, Quý phi như vậy trái lại cũng không phải chuyện xấu. Tốt xấu đều có tương hỗ nhân quả, thế sự vô thường, thuận theo nhân duyên."

Dao Anh cười cười.

Nàng không hiểu thiện ý trong lời của Pháp sư song có chuyện nàng rất rõ, nhất định nàng sẽ tra ra ai đã hạ độc.

Ra cửa cung, Đề Bà Mông Đạt trịnh trọng hướng về Dao Anh từ biệt.

Dao Anh học theo ông chắp tay trước ngực: "Đường đi Tây gian nan hiểm trở, chúc Pháp sư lên đường bình an, mọi chuyện trôi chảy."

Đề Bà Mông Đạt nói: "Đa tạ công chúa."

Dao Anh nghĩ tới một chuyện: "Vị Phật tử Pháp sư muốn gặp kia, có phải là Đàm Ma La Già* Quân chủ của Vương Đình Tây Vực không ạ?"

*chắc là phiên âm, Dharma-raja

Đề Bà Mông Đạt hơi kinh ngạc, khẽ gật nói: "Đúng vậy."

...

Vương Đình Tây Vực khác với Trung Nguyên, Thần quyền nặng ngang Vương quyền, Đàm Ma La Già vừa là Phật Tử được sùng kính, vừa là Quân Vương của thế tục, là thần trong lòng trăm họ người Tây Vực.

Ngài đăng cơ tuổi thiếu niên, mới đầu chỉ là hoàng đế bù nhìn bị các thế tộc khống chế, bị đại thần cầm tù trong Phật tự tu tập Phật pháp.

Năm Đàm Ma La Già mười ba tuổi, Khả Hãn* Bắc Nhung dẫn ba vạn đại quân tập kích Vương Thành. Quân của các thế gia không phải đối thủ của Bắc Nhung, vứt mũ khí giới áo giáp, hốt hoảng chạy trốn.

*hakan: thủ lĩnh về mặt chính trị của các dân tộc Bắc Á sau thế kỷ IV

Đàm Ma La Già đang lặng lẽ tu trong Phật Tự, lúc biết tin Phật Tự đã bị bao vây trùng điệp.

Tăng nhân khuyên Đàm Ma La Già đầu hàng, ngài là Phật Tử, Khả Hãn Bắc Nhung tiến đánh Vương Thành, vì muốn bắt sống ngài lấy hiệu lệnh toàn Tây Vực.

Đàm Ma La Già không muốn làm tù binh của Bắc Nhung, trầm tĩnh chỉ huy tăng binh* trung thành với mình, chạy ra Vương Thành, sau đó triệu tập quân đội Vương Đình bị cô lập quay lại đánh đại quân Bắc Nhung.

*chữ tăng trong nghĩa người tu hành

Lúc hai quân tác chiến, Phật Tử Đàm Ma La Già người mặc tăng bào màu đỏ, một người một ngựa, đi trước trận.

Áo bào phần phật, thê lương tráng lệ.

Thoáng như một vị thần cô độc giáng thế.

Tăng binh và quân đội nhận sự cổ vũ, bộc phát ra sức chiến đấu kinh người, không hề sợ chết xông lên trước.

Chỉ hơn hai ngàn người, đã đánh đuổi đại quân Bắc Nhung khí thế hừng hực khỏi Vương Đình.

Khả Hãn bách chiến bách thắng của Bắc Nhung không ngờ mình đã bại trong tay một thiếu niên, nhớ lại những truyền thuyết ly kỳ lúc Phật Tử vừa sinh, lòng sợ hãi, quay đầu đi tiếp hướng Đông tiếp tục thâu tóm các bộ lạc thảo nguyên khác, không dám tuỳ tiện khiêu khích Vương Đình nữa.

Đàm Ma La Già mười ba tuổi lấy ít thắng nhiều, chiến thắng Bắc Nhung không ai bì kịp, uy vọng chưa từng có, thừa cơ đoạt lại Vương quyền, xác lập lại quyền thống trị Vương Đình của mình.

Từ đó, con đường phía Bắc Tây Vực thái bình mười năm.

...

Mấy năm trước, có vị sư Tây Vực nhân duyên trùng hợp cũng lưu lạc đến đất Thục, Đề Bà Mông Đạt qua lại với ông ta một thời gian, nghe ông ta miêu tả cặn kẽ một Phật quốc bên trong cát vàng Tây Vực, biết đến cuộc đời của Đàm Ma La Già.

Nhiều năm chiến loạn liên tục, Trung Nguyên Tây Vực hai vùng cách trở mấy mươi năm, các nước Tây Vực giờ đây vẫn nghĩ Trung Nguyên là một Vương triều thống trị thống nhất.

Hiểu biết của Trung Nguyên về Tây Vực thì càng ít hơn.

Đề Bà Mông Đạt không ngờ rằng Lý Dao Anh cũng nghe tới tên của Đàm Ma La Già.

Trên thực tế Dao Anh không chỉ biết Đàm Ma La Già, còn biết vị hòa thượng này sống không được mấy năm nữa.

Có lẽ là kiểm chứng cho câu tuệ cực tất thương*, Đàm Ma La Già từ nhỏ người không khỏe, mười mấy tuổi ngài có thể tự thân ra trận, suất lĩnh tăng binh tác chiến, nhưng không bao lâu liền triền miên nằm trên giường bệnh, không xuống được đất, không cưỡi được ngựa.

*người quá thông minh ắt sẽ bị tổn thương

Ngài là một hòa thượng thành kính, vẫn ở lại Phật tự, dùng thân phận Phật Tử áp chế dã tâm bừng bừng của các nhà quyền thế, cân bằng thế lực khắp nơi, uy hiếp Bắc Nhung.

Khả Hãn Bắc Nhung e ngại Đàm Ma La Già. Vài năm sau Lý Huyền Trinh cũng sợ.

Họ đều muốn một đường đoạt lấy con đường phía Bắc Tây Vực, người trước thì bị Đàm Ma La Già dọa đến mười năm không dám tiến đánh Vương Đình, còn người sau cũng nhiều lần bị đánh bại.

Như trong truyền thuyết, Đàm Ma La Già là Phật Tử, có Thần Phật phù hộ, đánh không thể không thắng.

Bắc Nhung và Ngụy triều không còn kế sách khả thi, chỉ còn chờ ngày Đàm Ma La Già chết bệnh.

Đàm Ma La Già biết mình sống một ngày, Vương Đình có thể thái bình một ngày, một khi ngài chết đi, dân chúng Tây Vực chắc chắn sẽ bị gót sắt Bắc Nhung chà đạp, thanh niên trai tráng bị tàn sát, đàn bà, người già, trẻ con đày thành nô lệ.

Ngài chịu đựng nỗi dày vò đau đớn, lấy một thân ốm yếu bệnh tật chống đỡ lấy Vương Đình bấp bênh, cuối cùng vẫn bất hạnh chết bệnh.

Nghe nói lúc ngài chết đã là bị bệnh dày vò đến không còn hình người.

Một tháng sau, Vương Đình diệt quốc.

Dao Anh có phần đồng tình với Đàm Ma La Già.

Cũng là người hay bệnh tật, nàng được anh trai dốc lòng chăm sóc, không ăn mấy đau đớn, Đàm Ma La Già đã bệnh còn khổ tu, hai mươi mấy năm ngắn ngủi, ngày ngày đều dày vò.

Chắc cũng chỉ có ngài một đại cao tăng ý chí mạnh mẽ thế mới chịu được nỗi đau tra tấn mà người thường khó chịu đựng nổi..

Trong lòng nàng yên lặng bùi ngùi, không tiếp tục hỏi nữa, chia tay Đề Bà Mông Đạt rồi vẫn dõi theo Pháp sư lẫn vào đám đệ tử đi xa.

Không biết Pháp sư có thể thuận lợi gặp Đàm Ma La Già hay không.

...

Phủ công chúa.

Đêm qua sau khi Lý Huyền Trinh đi, Chu Lục Vân khóc một đêm, sáng ra soi gương, hai con mắt sưng như quả đào nát.

Người hầu nhỏ giọng nói: "Công chúa, đêm qua Thái tử đứng trong sân đến nửa đêm mới đi."

Cặp mắt sưng đỏ của Chu Lục Vân lại nước mắt rưng rưng, khóc ròng: "Hắn chờ đến nửa đêm thì có ích lợi gì? Ta xin hắn mang binh đi cứu cô của ta, nói sao cũng không chịu!"

Người hầu dè dặt khuyên nhủ, nói nhăng nói cuội một xe lời đẹp.

Chu Lục Vân quệt nước mắt: "Cô là người thân duy nhất còn trên đời này của ta, nhất định ta phải cứu bà về!"

Cô ta lật mẩu thư mà người bộc trung thành đưa đến tay mình, xem lần nữa, quyết định. "Ngươi đi Nghĩa Ninh phường một chuyến, báo cho người bộ lạc Diệp Lỗ, ta đồng ý gả!"

Người hầu cúi đầu vâng dạ, nhẹ nhếch miệng.

Lý Trọng Kiền say một giấc, tỉnh dậy phòng đã tối đen.

Màn giường buông xuống, ánh sáng mờ mịt.

Trong bóng tối có tiếng váy áo sột soạt, một bóng người yểu điệu quay lưng về phía hắn ngồi xếp bằng trước bàn trà, hai tay chống cằm, khóe môi hơi kéo, đang tập trung chăm chú nhìn chiếc hộp thơm trên bàn.

Đó là một chiếc hộp dạng vỏ sò nạm vàng hình chim phượng, nắp hộp nửa mở, những tia sáng màu xanh nhạt ẩn hiện phát ra.

Cô gái nhỏ nhìn đến nhập thần, không khỏi đưa tay nhẹ nhàng đẩy mở nắp hộp.

Thoáng chốc, ánh sáng dìu dịu tràn ra nhanh như nước đổ, chiếu sáng một phòng, dịu nhẹ sáng như ánh nến. Thì ra trong chiếc hộp thơm chứa một viên ngọc châu tròn sáng, màu xanh to như trứng bồ câu của nước Phật Lâm*.

(*) đế chế Byzantine (Đông La Mã)

Lý Trọng Kiền ngồi dậy, vuốt vuốt bả vai.

"Thích không?" Hắn mỉm cười hỏi, vẻ mặt có mấy phần tự đắc.

Viên ngọc ánh xanh còn có tên là Minh Nguyệt châu, lúc hắn nhìn thấy hạt châu này lập tức nghĩ đến em gái, nhũ danh của nàng là Minh Nguyệt nô, do Tạ Vô Lượng đặt.

Lý Dao Anh tươi cười gật đầu, mi mắt đen nhánh: "Dạ thích."

Châu ngọc bình thường, khó có màu sắc mượt mà như viên Minh Nguyệt châu này, hình dáng lại đẹp hoàn hảo.

Ánh sáng nhạt đẹp đẽ chiếu lên khuôn mặt tuyết trắng của nàng, vốn đã vô cùng xinh đẹp lại sáng rọi lung linh, càng thêm như vẽ, dịu dàng quyến rũ. Lý Trọng Kiền giật mình, như mới tỉnh sau cơn mơ dài, nheo mắt phượng quan sát Dao Anh tỉ mỉ.

Dao Anh sợ nóng, mái tóc dài đen nhánh búi cao, cài một vòng hoa mẫu đơn ngọc bích, giữa lông mày điểm phỉ thúy hình chim, đôi môi mềm mại, trên người mặc một bộ áo sa mỏng như cánh ve nhẹ bay, bên dưới là váy dài tám miếng lụa năm màu, trên cánh tay choàng khăn lụa dệt thêu chim anh lạc, lông mày mỏng nhẹ chau, một tay chống lên chiếc bàn con, mỉm cười ngồi đó.

Ở chỗ riêng tư nàng sẽ thế này, lười biếng tùy ý, có thể ngồi thì tuyệt không đứng, có thể dựa thì sẽ không thành thành thật thật ngồi quỳ, tư thái tùy tiện, không có một chút thái độ hiền thục đoan trang mà quý nữ vọng tộc vốn có.

Lý Trọng Kiền đã nhắc nhở mấy lần. Dao Anh rất nghe lời, nhiều lần đồng ý sửa nhưng chỉ sau một chốc lại lặng lẽ sửa lại tư thế quỳ thành khoanh chân lại thô lỗ, hoặc là dứt khoát lười biếng dựa vào bằng ỷ* phía sau.

*đồ tựa lưng thời cổ đại.

Nói nàng mấy câu thì nàng hững hờ cười hì, thành thành thật thật ngồi quỳ chân, rồi lại chứng nào tật nấy.

Lý Trọng Kiền chiều chuộng Dao Anh, không quản nàng.

Nàng là em gái hắn, không cần kiềm chế bản tính. Trong mắt hắn, Dao Anh vẫn là đứa bé ngây thơ hồn nhiên, run rẩy sau lưng hắn, muốn hắn bế đi đình tiền hái quả mận chín đầu cành.

Ngay lúc này, Lý Trọng Kiền ngắm Dao Anh tắm trong ánh châu đột nhiên ý thức được: Thấm thoắt, muội muội đã trưởng thành.

Con bé vẫn tùy tiện thế, ngồi xếp bằng, nhưng không thấy thô tục chút nào, nhìn vừa đúng tạo một bầu không khí động lòng người khó miêu tả bằng lời. Khuôn mặt thanh tú, dáng vẻ cao quý, lại quyến rũ mềm mại không xương. Thêm vào tuổi thanh xuân vừa vặn, khí sắc trẻ trung, không cần trang sức son phấn, chỉ cần mi mắt hơi cong nhoẻn một nụ cười, là có thể khiến lãng tử một nửa kinh thành nhũn người.

Lông mày Lý Trọng Kiền nhẹ nhíu, bỗng nhớ đến mấy câu thơ Tiết Ngũ đã đọc kia. Thái nùng ý viễn thục thả chân, cơ lý tế nị cốt nhục quân.*

* Mỹ nhân hành – Đỗ Phủ, đại ý tư thái mặn mà, biểu lộ cao xa mà không cần làm ra vẻ, làn da bóng bẩy mịn màng dáng người nở nang cân đối..

Thật, đáng nhẽ khi đó phải đập gãy luôn chân kia của tên Tiết Ngũ!

Ánh mắt sắc sảo của Lý Trọng Kiền hơi chùng xuống, tà hỏa trong lòng tứa ra.

Mười mấy tuổi hắn đã hình hài phóng lãng, cưỡi ngựa Chương Đài*, biết dạng phụ nữ nào có thể làm đàn ông ham muốn nhất, cũng biết trong lòng đám Tiết Ngũ nghĩ gì.

*cưỡi ngựa qua Chương Đài, sau này ám chỉ từng đi kỹ gian.

Dao Anh khó hiểu nhìn Lý Trọng Kiền, lo lắng hỏi: "Anh bị nhức đầu à?"

Lý Trọng Kiền mơ hồ ờ đáp.

Dao Anh vỗ nhè nhẹ lên cánh tay hắn: "Đã bảo uống ít chút, lại không nghe!"

Nàng cất giọng gọi Xuân Như.

Cung nữ lên tiếng đáp lại vén màn cửa lên, bưng tới nước nóng và khăn lau phục vụ Lý Trọng Kiền rửa mặt, dần dần thắp đèn mạ vàng bốn góc phòng.

Dao Anh cẩn thận cất lại viên ngọc xanh, gọi cung nhân dọn cơm.

Nàng đã ăn rồi, vốn định chờ Lý Trọng Kiền dậy dùng bữa chung nhưng thấy anh chau mày trong mơ, vô cùng mệt mỏi nên không gọi nữa.

Thang canh luôn hâm nóng trên lò, thịt dê hầm nhuyễn, Lý Trọng Kiền lặng thinh ăn hai bát, hỏi chuyện Đề Bà Mông Đạt.

Dao Anh đã cân nhắc trước, không nói rõ chuyện tiên dược Bà La Môn mà chỉ đề cập rằng Đề Bà Mông Đạt không thể trị bệnh điên của Tạ Quý phi.

Lý Trọng Kiền không hỏi nhiều, lại hỏi: "Ông ấy có bắt mạch cho em không? Nói sao?"

Dao Anh cười nói: "Pháp sư nói em yếu bẩm sinh, nhưng chỉ cần điều dưỡng thoả đáng, rồi kiên trì rèn luyện, không có gì đáng ngại."

Lúc Tạ Quý phi tỉnh táo, bà khổ nhọc ngày đêm, không nghỉ ngơi chăm sóc nàng. Từ đầu đến chân cả người nàng đều sạch sẽ thoải mái. Đến khi Lý Trọng Kiền dẫn về cạnh mình chăm sóc, tìm danh y khắp nơi cho em mình. Chỉ cần lang trung kê phương thuốc, dù có kỳ cục chừng nào, dược liệu hiếm có đắt đỏ đến đâu, hắn đều nghĩ cách gom về cho lang trung điều phối thành thuốc viên cho nàng dùng.

Nàng được chăm sóc rất tốt, cơ thể khỏe hơn lúc bé nhiều, có thể chạy có thể nhảy có thể cưỡi ngựa, đầu cũng cao vọt lên.

Lý Trọng Kiền không yên lòng, gọi người đem đơn thuốc của Đề Bà Mông Đạt đến, ngồi dưới đèn xem kỹ.

Chẳng qua chỉ là đơn thuốc bổ ấm người điều hòa, hắn xem từng thứ, gật gật đầu.

"Minh Nguyệt nô, em lại đây." Lý Trọng Kiền đuổi cung nhân đi, ra hiệu Dao Anh ngồi cạnh mình, trịnh trọng nói: "Đêm qua anh đã nói chuyện với Trịnh tướng công, mua một hôn sự cho em rồi."

Dao Anh sửng sốt thật lâu, dở khóc dở cười.

Quá gấp rồi này?

Trong một vài phương diện Lý Trọng Kiền rất cố chấp, nhất định phải tìm cho em mình một cuộc hôn nhân thích hợp.

Nàng đã nói mình tuổi còn nhỏ, chưa muốn gả. Từ nhỏ trên đầu luôn treo một thanh đao, nàng thật không có tâm tư nói chuyện cưới gả.

Thái độ Lý Trọng Kiền cũng rất kiên quyết, lựa chọn mãi cuối cùng cũng chọn ra Trịnh gia. Trước khi xuất chinh hắn có nhắc việc này nàng đã không chịu.

Dao Anh nghĩ nghĩ, vẫn kiên trì quyết định của mình: "Anh à, qua hai năm nữa rồi nói."

Nàng còn chưa điều tra rõ chân tướng Đường thị phẫn nộ đến tự vẫn, chưa tìm được kẻ xấu hạ độc hại Tạ Quý phi nổi điên, thực sự không còn tâm tư chọn phò mã.

Lý Trọng Kiền đưa tay xoa xoa đầu Dao Anh: "Đừng sợ, chỉ là đính hôn trước, chờ đến khi em cập kê lại thương lượng. Tam Lang Trịnh gia là con vợ cả, nhân phẩm đoan chính, tướng mạo đường đường, người cũng ôn hòa, từ nhỏ thuộc lòng văn thơ, điển chương, dù bây giờ chỉ nhận một chân rảnh rỗi ở Hồng Lư Tự nhưng không lâu nữa nhất định có thể lên chức."

Trịnh Cảnh thật à?

Dao Anh ngẩn ngơ.

Sau khi rời Bình Khang phường, Tạ Thanh bình ổn nói cho nàng, thanh niên chật vật leo cửa sổ bỏ trốn kia chính là Tam Lang Trịnh gia.

Dao Anh không nhớ rõ mặt của Trịnh Cảnh, lúc ấy hoàn toàn không nhận ra, chỉ coi đối phương là thư sinh lần đầu dạo nơi bướm hoa, nghe thấy tiếng người ồn ào ngoài tửu quán, tưởng quan sai tới bắt người, xấu hổ định nhảy cửa sổ trốn, vừa vặn ngã xuống trước mặt nàng.

Nhớ lại lúc ấy Trịnh Cảnh đầy bụi đất, dáng vẻ thẹn đến mức muốn chui xuống đất, Dao Anh không khỏi mỉm cười.

Ai sẽ ngờ được Trịnh Cảnh bình thường xấu hổ sau này một bước lên mây, trở thành Tể phụ quyền khuynh một thời, gan lớn đến mức cầm hốt bản đánh miệng Tiểu Hoàng đế?

Nàng nghiêng người dựa vào bằng ỷ, cười đến cánh hoa run rẩy, ánh nến trong phòng trong nháy mắt sáng hơn mấy lần.

Lý Trọng Kiền lập tức cảnh giác nhíu mày: "Em cười gì?"

Dao Anh khoát tay, điệu bộ qua loa: "Không có gì."

Mắt phượng hẹp dài của Lý Trọng Kiền hơi nheo, bỗng nhiên sấn lên túm lấy bờ vai nàng, ép hỏi một tràng: "Tiểu Thất, em gặp Trịnh Cảnh rồi phải không? Hai đứa nói gì rồi? Cuối cùng thì em cười gì chứ?"

Dao Anh cười không nói, hai gò má ửng đỏ. Nàng không dám kể cho anh chuyện gặp Trịnh Cảnh dạo thanh lâu, ngộ nhỡ lên cơn nóng giận đập chết Trịnh Cảnh mất thì làm sao?

Sắc mặt Lý Trọng Kiền u ám, tưởng tượng đến một khả năng, đáy mắt ám có dòng nước ngầm mãnh liệt.

"Em thích Trịnh Cảnh hả?"

Nhìn dáng vẻ này của con bé, hẳn là có tư tình với Trịnh Cảnh?

Dao Anh sửng sốt, vội giải thích: "Em mới gặp y có mấy lần à..."

Giọng Lý Trọng Kiền lạnh run: "Nói vậy, đúng là em gặp rồi hả? Gặp mấy lần? Trịnh Tam với em nói chuyện gì rồi?"

Dao Anh nhịn không được lườm hắn, thu nụ cười, đẩy hắn ra: "Gặp thì có gặp mấy lần nhưng cũng không nói gì."

Ổng tự tác định hôn nhân cho nàng rồi, còn quan tâm làm gì? Nàng còn chưa phát cáu đây, ông nổi điên làm gì?

Lý Trọng Kiền lặng thinh mãi, biết mình phản ứng quá độ, hậm hực buông tay ra.

Hắn thở dài, đưa tay chỉnh khăn choàng rớt khỏi đầu vai cho Dao Anh, cử chỉ thận trọng như lấy lòng.

Dao Anh nghiêm mặt hừ nhẹ, rút khăn không cho hắn đụng.

Lý Trọng Kiền cười khổ, nắm khăn chặt không buông, giọng không còn lưu loát: "Tiểu Thất, em nhớ kỹ, đừng giống như mẹ..."

Đừng vì rung động một lúc thuở thiếu thời mà nỗ lực dâng lên toàn bộ chân tình của mình, thiêu thân lao đầu vào lửa, chỉ đổi đến công dã tràng.

Dù thích một người, cũng phải bảo vệ mình cho tốt, ích kỷ một chút, nguội lạnh một chút.

Đừng ngu ngốc đâm đầu vào.

Dao Anh ngơ ngẩn.

Lý Trọng Kiền cười cười, không nói tiếp nữa.

Thật ra hắn đâu cần khẩn trương vậy, Tiểu Thất chưa từng giống Tạ Quý phi.

Nhưng hắn vẫn không nhịn được lo lắng.

Dao Anh thở dài, nhẹ nhàng nắm chặt cánh tay cứng ngắc của Lý Trọng Kiền..

"Anh à, cứ yên tâm."

Nàng đột nhiên hiểu ra vì sao Lý Trọng Kiền một mực không muốn lấy vợ.

Hắn nhìn như cẩu thả, thật ra tâm tư mẫn cảm.

Lúc hắn sinh ra là lúc Lý Đức và Tạ Quý phi ân ái nhất, chính mắt thấy Đường thị và Tạ Quý phi phân tranh, nhìn Tạ Quý phi tỉnh từ ảo mộng, thất vọng đến cuối cùng lòng như tro nguội, nhìn Tạ gia từ cường thịnh đến hủy diệt.

Trải qua nhiều chuyện như vậy, hắn không quan tâm gì nữa.

...

Hai anh em cãi một trận nho nhỏ không thấy tự nhiên, Lý Trọng Kiền tự biết đuối lý, đồng ý với Dao Anh không đề cập tới chuyện Trịnh gia nữa.

Dao Anh thở phào.

Kể từ khi biết mình là em gái Lý Huyền Trinh, nàng để ý quan sát, phát hiện có một số việc giống với những gì nàng biết: Đường thị chết trước khi nàng ra đời, về sau Lý Đức đăng cơ truy phong Đường thị là hoàng hậu, tất cả công chúa Lý gia đều không có phong hào, chỉ một mình Chu Lục Vân có phong hào Phúc Khang, Lý Huyền Trinh và Chu Lục Vân đúng là dây dưa không rõ.

Nhưng cũng có những chuyện không giống: tỉ như so với kiếp đó Lý Đức xưng đế sớm hai năm, còn nhiều hơn ba đứa con trai, hai đứa con gái...

Bản thân Dao Anh cũng là một biến số.

Giờ nàng chỉ muốn điều tra rõ gút mắc xưa kia giữa Đường thị và Tạ Quý phi, không muốn gợi lại chi tiết, kéo nhiều người không quan hệ liên luỵ vào.

...

Đông cung.

Lý Huyền Trinh một đêm không ngủ, trở lại Đông cung, người hầu bẩm báo đêm qua Thái Tử Phi Trịnh Bích Ngọc một mực chờ đến nửa đêm.

Hắn xoa mi tâm, biết Trịnh Bích Ngọc hẳn đã chuẩn bị một bụng khuyên can, không muốn nghe vợ dạy, quay người đi thư phòng.

Ngụy Minh chỉnh lý tin tức trong khoảng thời gian này thành điều trần, mời Lý Huyền Trinh xem qua. Lý Huyền Trinh đọc nhanh như gió, xong một nửa, chau mày: "Đỗ Tư Nam sao rồi?"

Đỗ Tư Nam là nhân tài hiếm có, hắn đã dặn dò thuộc hạ Đông cung bảo bọn họ nghĩ cách mời chào Đỗ Tư Nam, đã mấy tháng, sao không hề có một chút tin tức nào?

Ngụy Minh vẫn bơ mặt đáp: "Điện hạ, trong kinh có lời đồn, Đỗ Tư Nam đã theo Nhị hoàng tử."

Lý Huyền Trinh cười một tiếng: "Đỗ Tư Nam sẽ không đi theo Lý Trọng Kiền, lại phái người đi mời hắn..."

Hắn suy tư một lát. "Không, đừng phái người, Cô tự đi mời y, tỏ điều trịnh trọng."

Mi tâm Ngụy Minh nhảy lên, mặt lộ vẻ khó xử: "Điện hạ, Đỗ Tư Nam có lẽ chưa theo Nhị hoàng tử... Có điều trong kinh còn lời đồn... có liên quan Thất công chúa."

Lý Huyền Trinh không nói.

Ngụy Minh liếc hắn, nói tiếp: "Đồn rằng Thất công chúa ái mộ tài hoa Đỗ Tư Nam, thường tới cửa bái phỏng, Đỗ Tư Nam bị cưng mà sợ, đã quỳ dưới váy Thất công chúa."

Lý Huyền Trinh chậm rãi nhướng mày, mắt phượng dài nhỏ che dấu ánh sắc bén.

Ngụy Minh nói: "Điện hạ, nếu Đỗ Tư Nam thật sự thần phục dưới váy Thất công chúa, nhất định là họa lớn trong lòng, người này giữ lại không được."

Lý Huyền Trinh nhàn nhạt hỏi: "Tin tức là thật à?"

Ngụy Minh gật đầu.

Lý Huyền Trinh không nói gì, cúi đầu tiếp tục xem văn thư.

Ngụy Minh cũng không sốt ruột, khom người lùi ra ngoài bình phong. Lát sau, gã nhìn thấy Lý Huyền Trinh triệu kiến ám vệ.

Trong thư phòng an tĩnh truyền ra một tiếng sai bảo bình thản: "Giết."

Một chữ đơn giản vô cùng, lẫm liệt lạnh thấu xương.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#truyện