Chương 5: Cửu U Tướng Quân

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1

Tôi định chạy nhưng hai chân lại không thể cử động được chút nào, vội móc ra một cái móng lừa đen, dồn sức ném lại. Lúc trước tôi có nói, trong truyền thuyết dân gian móng lừa đen chỉ dùng để ném cương thi, không đối phó nổi ác quỷ! Có điều tới nước này rồi, tôi không thể để ý nhiều thế, trên tay có gì là ném tất!

Móng lừa vừa rời khỏi tay, tôi đột nhiên nhận ra, bảo châu mà con rồng vàng đang ngậm trong miệng kia là Hiên Viên kính, tọa bên dưới đích thị là chân long thiên tử. Truyền thuyết kể rằng, rồng vàng năm móng còn gọi là "bệ", Hoàng đế ngồi ở bên dưới, vì vậy gọi là Bệ hạ. Tuy nói truyền thuyết dân gian không thực sự đáng tin, nhưng dân đạo mộ lão luyện đều biết, rồng vàng ngậm châu vốn không thể đụng vào!
Tục truyền Hiên Viên Kính hội tụ long khí, làm vỡ Hiên Viên kính không khác gì phá vỡ long mạch. Mượn ánh sáng của đèn pin và trường minh đăng phản chiếu qua Hiên Viên kính, tôi mơ hồ dõi ánh mắt thẳng vào gương mặt lão bánh chưng, cái miệng rộng kia đang ngoác ra như muốn nuốt sạch ánh sáng của đèn pin. Tôi mới nhìn qua, cảm giác toàn thân cũng giống như đang bị nó hút vào.
Hồi đó tôi vẫn còn chưa biết, theo kinh Phật truyền lại, thời cổ đại có một loại "Ma ni bảo thạch", ánh sáng và sóng điện từ chiếu vào bảo thạch sẽ luôn bị khúc xạ bởi mặt cong của nó. Hiên Viên kính có thể cũng có một viên "Ma ni bảo thạch" như vậy, người ở bên dưới rồng năm móng ngậm Hiên Viên kính, sóng điện não sẽ bị Ma ni bảo thạch hấp thu, giác quan nhanh chóng suy yếu, ngộ tưởng màu sắc xung quanh, cảm nhận về ánh sáng, mùi vị cũng dần dần mờ nhạt, cho tới lúc chỉ còn thân phơi trên đất. Lúc đó tôi cứ nghĩ rằng nguyên nhân là do đã gặp âm hồn trong huyền cung, không mảy may nghi ngờ Hiên Viên kính vung tay ném bừa móng lừa đen, chợt nghe trên đầu "Rắc" một tiếng!
Dường như cùng lúc đó, trường minh đăng trên ang rồng, ánh sáng đèn pin, tranh vẽ trên quan quách hết thảy đều khôi phục vẻ nguyên trạng. Trên đầu Hiên Viên kính trong miệng rồng vàng năm nứt ra một rãnh, thủy ngân đen từ trong đó chảy ra, rót vào quan quách, thi thể và cả minh khí. Trong mộ cổ thường có thủy ngân, thúe nhất là để phòng thối rữa, hai là chống trộm, minh khí dính thủy ngân sẽ xuất hiện những vệt đen, trắng hoặc xám, bị như vậy gọi là bị ngâm thủy ngân hay "rỉ thủy ngân", không làm sao tẩy sạch đi được. Đồ vật minh bạch đương nhiên sẽ không có vệt thủy ngân. Vật có vệt thủy ngân, không cần hỏi cũng biết, mười thứ thì có tới hai ba thứ là từ hầm đất mà ra. Vì sao lại nói là mười thì có hai ba? Vì bảy tám thứ kia là do người ta cố ý làm giả, gọi là "thủy ngân cổ" (cổ vật thủy ngân), khác với "truyền thế cổ" (cổ vật truyền đời), đa số người bình thường không muốn vớ phải "thủy ngân cổ" vì cảm thấy xui xẻo.

Rồng vàng ngậm châu trên quan quách vừa nứt ra, bụi đất, đá vụn thi nhau rơi xuống. Răng Vàng sợ vỡ mật, lăn từ trên đài xuống, đứng bật dậy định chạy nhưng lại đụng đầu vào cột trụ, trán toác ra, ngất xỉu tại chỗ. Tôi cùng với thằng béo còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì từ dưới cửa điện cẩm thạch nước đen đã "ùng ùng" trào ra, chẳng mấy chốc đã ngập quá chân tới bụng. Tôi thấy tình hình này quả thực có gì sai sai, dồn sức lay lay Răng Vàng, có điều hắn vẫn không mảy may nhúc nhích, trên đất toàn là máu. Thằng béo nói: "Nước dâng nhanh quá, đi nhanh thôi!"
Người đời đều nói trong quan quách đất dày nước sâu, nhưng không phải không có suối ngầm, có điều nước suối cực sâu. Theo mô tả từ xưa, suối một khúc dài ba mươi trượng, huyền cung chín tòa thâm sâu ít nhất cũng phải có tới ba khúc suối. Có lẽ trong huyền cung còn có thủy điện (tòa điện dưới nước), kim long ngậm châu trên nóc điện nứt ra khiến cho nước trào ra nhấn chìm quách thất. Đây chính là tử thủy trong mộ huyệt của huyền cung. Chẳng mấy nước đã dâng quá đỉnh đầu, dù anh có tài bơi lội tới đâu cuối cùng cũng khó sống.
Bọn tôi lôi Răng Vàng như lôi chó tới bảo đài bên kia. Mới có một lúc mà nước trong quách thất đã ngập tới eo. Bảo đài đặt quan quách chỉ cao ba thước, chưa kịp trèo lên đã ngập. Tôi nhớ hậu thất còn có một con bí hý * cõng tấm bia không có chữ, cao hơn nhiều so với bảo đài trong phòng, bên trên đó có đào một ám đạo. Tôi vội vàng cùng Tuyền Béo đang vác Răng Vàng trên vai, lội nước vào hậu thất.
* Bí hý: Một loại động vật trong thần thoại, giống rùa. Xưa các bệ đá thường khắc hình con này.
Tôi dùng cả tay lẫn chân leo lên con rùa cõng bia kia, lại dùng dây kéo Răng Vàng lên. Chỉ chớp mắt, nước đã dâng qua cửa động sau. Tuyền Béo bơi bì bọp trong nước, còn định quay lại quách thất lấy thêm mấy món minh khí nhưng nước dâng quá nhanh, hắn cũng không làm sao vào được, đành phải leo lên bia đá. Hai người một trước một sau chui vào cái vòm trên đỉnh hầm rồi kéo Răng Vàng bò về phía trước. Thường có câu "Nhân hữu nghịch thiên chi thì, thiên vô tuyệt nhân chi lộ" (Người có lúc nghịch thiên mà thiên thì không tuyệt đường sống của người), mặc dù ám đạo chật hẹp nhưng vẫn vừa vặn để người chui qua, xuyên qua ba tầng vòm đá lại tới một cái động đất, bò chưa được bao xa thì đất dưới chân bỗng nhiên sụp đổ. Vòm đất lén đào trong mộ cũng không hề vững chắc, phía dưới là hố sâu, sụp xuống một cái, ba người cùng rớt xuống, rơi vào một vùng nước đen mịt mờ. Tôi vừa nhận ra mình bị rơi vào nước, hàn tuyền lạnh lẽo thấu xương, vội vàng nhắm mắt trụ khí, nhờ vào áo da chuột có thể tránh nước tránh lửa ngăn khí lạnh hàn tuyền xâm nhập cơ thể, có điều túi hành trang cùng với dù kim cương trên lưng đang càng lúc càng kéo tôi chìm sâu xuống.
2.
Hàn tuyền sâu không thấy đáy, tôi không còn thấy Tuyền Béo với Răng Vàng đâu, đèn pin cũng không biết rơi mấ ở đâu, chung quanh tối mù đen kịt. Tôi thầm nghĩ: "Chắc chìm thẳng xuống tới long cung làm mồi cho ba ba mất thôi!" Tôi định giãy bung túi đồ trên lưng ra để nổi lên thì dòng nước lại cuốn lấy, hai tay tôi dần mất đi sức lực càng lúc càng chìm sâu hơn trong nước.
Đang nghĩ cách thoát thân, tôi đột nhiên cảm thấy dường như có người đang kéo căng túi trên lưng tôi, gấp gáp kéo tôi lên trên. Tôi giật mình kinh hãi: "Ai lại có tài bơi lội tốt như vậy?"
Lúc ấy trong lòng tôi vô cùng ngạc nhiên, hoảng sợ, uống mấy ngụm nước, trong lúc sinh tử, ý thức đều mơ hồ hỗn độn, vạn vật như có như không, nửa sáng nửa tối, quên mình tồn tại, cũng quên luôn bản thân đang ở nơi nào, không nhận biết được xa gần trên dưới
Đang lúc kinh hoảng tột độ, tôi bị một nguồn lực cực mạnh kéo ra khỏi mặt nước, thoát khỏi cảm giác lạnh cứng như băng bên dưới, tôi hít sâu một hơi cố làm cho mình tỉnh táo trỏ lại, lôi đèn pin dự phòng chiếu về phía sau một cái, chỉ thấy một vật giống như ngoan đà*, miệng như móc câu, lưng như thanh kiếm, không nhỏ hơn cái bàn bát tiên** bao nhiêu, nó đang ngoàm cái túi trên lưng tôi, ra sức cắn xé. Tôi thuận thế lăn một vòng cởi cái túi đeo trên lưng và dù kim cương ra, đặt dựa vào vách, hai chân đạp vào lưng ngoan đà, dồn sức sức đạp nó xuống nước.
* Ngoan đà: Một loài giống cá sấu.
* Bàn bát tiên: Bàn vuông to, mỗi phía ngồi được hai người.
Ngoan đà ở dưới nước rất khỏe nhưng ra khỏi nước lại vô cùng chậm chạp, nó vừa ngoạm cái túi hành trang lặn xuống, chợt nghe tiếng nước vang ào ào, tôi còn tưởng lại xuất hiện thêm một con nữa, thầm kêu khổ, nhặt dù kim cương, liền thấy một chùm sáng bắn tới, hóa ra là Tuyền Béo với Răng Vàng. Hồi nãy rơi xuống, Răng Vàng bị ngâm nước lạnh, khôi phục lại tri giác, hắn với Tuyền Béo ôm một khúc gỗ mục dập dềnh trên mặt nước, thấy bên này có ánh sáng đèn pin liền bơi tới tụ họp. Hố huyệt tuy sâu nhưng đỉnh núi bị nứt toác, lại bị nước lũ đánh tới, không khó tìm được đường ra. Tôi cùng với Tuyền Béo kéo Răng Vàng quay lại ám đạo đã bị sụp, chịu đựng bụi đất xộc vào mặt bò về phía trước, cùi chỏ tróc hết da, bò ra một rãnh đất dưới núi. Mưa tạnh gió ngừng, trời vừa tờ mờ sáng. Tôi nằm trên đất, miệng há to phì phò hít từng ngụm không khí. Nửa đêm Mã Lão Oa Tử đẩy chúng tôi xuống Tần vương huyền cung, mà khi chúng tôi từ động đất chui ra bên ngoài trời mới vừa sáng, mới chỉ qua vài giờ ngắn ngùi, mà dường như đã qua kiếp luân hồi. Ba người lê từng bước qua khỏi rãnh đất, sắc trời đã sáng trưng, toàn thân trên dưới toàn là máu cùng bùn đất, quần áo rách nát rê rưới.
Phía trên khe đất có mấy hộ gia đình, sau khi hỏi thăm một người chăn dê chúng tôi biết được ở đây là Bát Đạo Lương, cách cửa điện hơn ba mươi dặm đường núi.
Ba người chúng tôi bàn bạc một chút, có thù không báo không phải là quân tử, đương nhiên không thể bỏ qua cho Mã Lão Oa Tử!
Tuyền Béo nói: "Tóm lão lừa này, không nói hai lời ném hắn vào quan tài!"
Răng Vàng nói: "Mã Lão Oa tử coi minh khí quý hơn cả mạng, anh cướp minh khí của hắn tức là đoạt mạng hắn rồi!"
Tôi gật đầu đồng ý: "Đập hắn một trận, sau đó cướp đi minh khí là trị được cái miệng thối của hắn, không cần thịt hắn, chúng ta không phải thổ phỉ, đầu người cũng không phải rau hẹ, lấy đầu hắn rồi sau này khó hành sự, không thể lấy mạng hắn được."

Nói là phải tới cửa điện tóm Mã Lão Oa Tử, nhưng cóc nhảy ba bước còn phải nghỉ huống chi là người? Ba người vừa mệt vừa đói, không lấp đầy bụng không đi được đường núi, túi hành trang của Răng Vàng bị mất, tôi với Tuyền Béo cũng không có tiền trên người. Nhìn gà qué mấy hộ dân ở đây nuôi chúng tôi thèm dỏ rãi, ở sơn cốc gà không nhiều, gà trống để gáy, mái thì phải đẻ trứng, đều cần thiết cả, cho tiền người ta cũng không bán huống chi là không trả tiền.
Tuyền Béo nói với tôi: "Anh với tôi còn đỡ, bữa đói bữa no không đáng ngại, nhưng Răng Vàng đã bị dày vò mất nửa cái mạng, nhìn sắc mặt hắn thì nửa sống nửa chết thế kia, chẳng khác gì cây cà gặp mưa đá, anh còn không cho hắn chút gì ăn có lẽ hắn quy tiên mất!"
Tôi nói:"Nhìn Răng Vàng thế này không uống chào gà thì không xong, năm đó bát độ quân đánh bọn quỷ xâm lược (chỉ quân Nhật), cho dù bị thương nặng thế nào, sau khi về quê, uống xong một bát cháo gà, thương thế đều đỡ, hôm sau lại ra tiền tuyến."
Tuyền Béo nói: "Cũng không hẳn, phải nói cháo gà ấy là gà béo ở quê, hầm lên ra được một tầng mỡ chẳng phải cực phẩm sao!"
Răng Vàng lau nước miếng nói: "Ai mà chẳng biết cháo gà là tiên, có điều vấn đề không phải là không có tiền sao? Ban ngày ban mặt vào thôn cướp đoạt không sợ người trong thôn liều mạng xông ra xử chúng ta à?"
Tuyền Béo nói: "Có bị thiệt thòi cũng do anh mà ra cả, dân làng ở đây giữ gà còn hơn giữ mạng, mộ tổ dễ đào, ổ gà thì khó bới, vì chén cháo gà cho anh mà tôi phải mang tính mạng ra đùa bỡn. Nếu không thì chẳng lẽ tôi phải giả mạo cán bộ xuống thăm thôn quê, rồi nói xe bị rơi xuống rãnh hả?"
Tôi nói: "Anh thôi lèo xèo đi, hai người cùng một hố chui ra hả, rặt một mớ đầu heo, hai người mà đi đảm bảo chưa kịp vào thông đã bị thôn dân đuổi ra ngoài rồi."
Tuyền Béo nói: "Tôi còn một tuyệt chiêu, cạy răng vàng của hắn, tìm thôn dân đổi mấy con gà."
Răng Vàng vội xua tay nói: "Chưa nói đổi được hay không, răng vàng này là mạng của tôi! Răng Vàng tôi không có răng vàng còn gọi là Răng Vàng được không?"
Tuyền Béo nói: "Không ăn gà thì anh không sống nổi, anh nguyện chết ở cái khe núi chó ăn đá gà ăn sỏi này à?"
Tôi nói: "Cũng bởi nghề chúng ta hành sự không thể chọn chỗ, gặp đường chết thì đành chịu chôn xác trên đường, chết trên núi thì làm mồi cho sói, chết dưới chân núi cũng để chó ăn!"
Răng Vàng đáp lại: "Chính như vậy - thanh sơn xứ xứ mai trung cốt, thân tử y cựu hóa ba đào ( xương chôn khắp núi, liều chết như cơn sóng cả).
Tuyền Béo nói: "Làm trò! Tôi nói trước với anh, tôi cũng đói chết rồi, không có sức mà đào hố chôn anh đâu!"
Răng Vàng nói: "Hồ gia, tôi không ăn cháo gà thì không được, ba người chúng ta thiên tai nhân họa gì mà chưa từng trải, đối diện bao nhiêu sóng to gió lớn, chín chín tám mươi mốt nạn cũng qua thẳng rồi, chung quy không thể không qua nổi khiếp nạn này phải không?
3.
Tôi nói: "Sơn cùng thủy tận không giống nơi khác, khó tìm được thức ăn, mấy con dê trên sườn núi kia cũng có chăn dê trông giữ, vào thôn cướp cũng không được, có điều tình cảnh bây giờ cũng chỉ còn cách cướp gà trộm chó, có điều hai người phải nghe ta, chỉ được phép lặng lẽ vào thôn, tuyệt không được nổ súng. Lão Hồ ta cực lực phản đối mấy cái loại hành vi đê tiện này nhưng hôm nay vì Răng Vàng đành có lỗi với bà con rồi!" Hồi đó lăn lộn lên núi xuống thôn tôi đã luyện được một thân tuyệt kỹ, người khác câu cá, ta câu gà. Thật ra câu gà với câu cá cũng không khác nhau nhiều lắm. Có điều muốn câu gà cũng phải có mưu mẹo, câu không giỏi, gặp con gà khỏe bay cả qua tường chưa chắc vồ nổi, hơn nữa còn gây kinh động. Người xưa thường nói có người tay trói gà không chặt cũng không phải nói quá, vồ gà cũng không phải chỉ dùng sức, tay chân còn phải nhanh nhẹn, chẳng may có động, người dân trong nhà biết gà bị trộm chắc chắn sẽ xách gậy ra đánh.
Hồi trước không có gì ăn, tôi với Tuyền Béo hay dùng một đoạn dây thừng, phía trước buộc một mẩu gỗ, đục lỗ rồi bỏ sâu vào đó, gà thấy sâu chắc chắn sẽ mổ ăn nuốt xuống cả mẩu gỗ, khi đó bạn kéo sợi giây, mẩu gỗ kẹp trong họng gà, gà trống khỏe cũng giãy không ra, còn kêu không ra tiếng, đờ người bị bạn xách đi, thần không biết, quỷ không hay.
Khi đói bụng thường nôn nóng, chẳng làm gì nên chuyện. Ba người theo cách này đi vào thôn, thừa lúc người dân không để ý câu mấy con gà, vội vàng tìm chỗ không người, cũng không kịp vặt lông liền nhóm lửa nướng chín ăn luôn, lúc này mới thấy hoàn dương. Tôi nghĩ thầm trong bụng: "Bát Đạo Lương là nơi nghèo nàn, bọn tôi lại đi trộm gà của dân, vậy còn ra cái thể thống gì nữa?". Đi được nửa đường tôi liền lại quay lại, tháo đồng hồ đeo tay đặt trước ổ gà. Đồng hồ đeo tay kia là Shirley Dương mua cho tôi, cũng là thứ đáng tiền duy nhất mang trên người, mặc dù tôi không rõ nó đáng giá bao nhiêu nhưng chắc chắn đủ đền bù cho gà cả thôn. Tôi còn chưa nghĩ ra lúc về làm sao ăn nói với Shirley Dương, chờ đến lúc cô ấy truy hỏi, chắc cũng đành phải nói là lúc mới chui từ cổ mộ đói nổ đom đóm mắt, bí quá không biết làm thế nào nên đành đem cầm cố ở thôn quê đổi lấy gà ăn, nói như vậy cũng biết rằng hậu quả khó lường nhưng không khai cũng không xong. Cũng do tính tôi vốn thương người, nếu đổi lại là chuyện khác, tôi đã chẳng thèm mảy may quan tâm. Tôi vội vàng đuổi theo Tuyền Béo với Răng Vàng tới cửa điện, ngẩng đầu lên nhìn, nháy mắt thời gian đã tới canh ba, vừa lúc cửa sau đóng kín như chặn chó, tường bịt như giữ gà!

Chúng tôi hăm hăm hở hở đi tóm Mã Lão Oa Tử, kết quả tóm hụt, trong nhà không một bóng người, phân nửa là đã ôm minh khí chạy mất rồi, hắn là loại "chân vua treo trên bụng táo" - người đi thì nhà dọn nên tôi cũng không lấy làm lạ, đổi lại là tôi, tôi cũng chạy, còn chờ gì mà không chạy chứ?
Tuy nói "hòa thượng chạy được nhưng miếu không chạy được", vậy thì cũng phải xem cái miếu đó như thế nào, túp lều của Mã Lão Oa Tử này là loại nhà tàn phòng trống, toàn là tranh tết đầu lừa chả ai thèm, ném cây đuốc đốt cũng thấy mất công. Tuyền Béo nuốt không trôi cục tức, vào nhà lùng sục một hồi, bọ rệp thì có, đồ đáng tiền một món cũng không. Trên núi ngàn khe vạn hốc, muốn truy đuổi cũng quỷ mới biết hắn trốn nơi nào. Ba người bọn tôi không cam lòng nhưng cũng chẳng làm gì được.
Tôi nhìn một phòng tranh lừa tết kia bất thình lình bật ra một ý niệm: Phát Khâu, Mô Kim, dời núi, tráo đường, bắt nguồn từ thời Lưỡng Hán (Tây Hán và Đông Hán), chỉ nhờ đạo mộ mà phát tài lại có thể truyền qua nhiều đời như vậy! Từ đời Minh lại xuất hiện bốn dòng tộc, tất cả đều có sở trường đạo mộ, theo thứ tự là "Âm dương đoan công, Quan sơn Thái Bảo, Cửu U tướng quân, Câu Thi pháp vương", thủ lĩnh của bốn phái đều là quan tướng triều đình, được vua phong tước. Âm Dương đoan công quản lí đoàn quân đào hầm, Quan Sơn thái bảo chỉ huy việc xây lăng mộ cho vua, Cửu U tướng quân trấn thủ long mạch, sau khi Minh triều diệt vong thì đều trở thành dân đạo mộ.
Câu Thi pháp vương xuất hiện vào cuối triều Minh, đang lúc hạn hán kéo dài, vô số dân chúng bần cùng trở thành thổ phỉ, triều đình mời một vị tiên sư từ núi Long Hổ xuống núi, phong làm "Câu Thi pháp vương", phụng chỉ cầu an trừ hạn hán. Trừ hạn lúc ấy chủ yếu bằng cách móc thây khô trong cổ mộ ra thiêu hủy, Câu Thi pháp vương dùng việc này để ngụy trạng, mượn cơ hội đào trộm cổ vật trong mộ.
Cửu U tướng quân tôn lừa đen làm tổ sư, xuất đạo ở đất Tần Tấn, Cửu U tướng quân nhận tước phong, tộc nhân từng động lời thề, cho dù trộm hết mộ cũng không bao giờ đào mộ nhà Minh, nếu không trời tru đất diệt. Trước đây tôi chưa từng thấy qua phong tục dùng lừa đen để trấn cửa, Mã Lão Oa Tử treo một phòng tranh Tết toàn lừa đen, lại là kẻ chui đất diêu, hắn là truyền nhân của Cửu U tướng quân sao?
Suy nghĩ này cứ đảo đi đảo lại trong đầu tôi, thầm nghĩ nếu không tìm được tung tích Mã Lão Oa Tử cũng chẳng còn cách nào khác hơn là mò ra cửa điện rồi ra ngoài. Tuyền Béo vẫn canh cánh trong lòng: "Nếu không phải bị Mã Lão Oa Tử gài bẫy, sao có thể bị dồn tới nước này, miếng thịt béo dâng đến miệng lại bị chó tha đi! Trước kia đều là người khác bị thiệt với bọn ta, chưa từng phải chịu thua thiệt lớn như vậy!" Răng Vàng cho rằng mặc dù bị thiệt hại không ít nhưng cũng không đến nỗi ra về tay trắng, hộp sắt mạ vàng trên người cung nữ toàn thân bọc lụa treo trong huyền cung Tần vương với rất nhiều hoa văn kỳ lạ lại không một chút rỉ sét, Tuyền Béo thuận tay nhét vào túi đeo trên lưng, mãi tới lúc này hắn mới nhớ ra. Có điều ở giữa nơi chân bảo tòng táng nhiều như mây, hộp sắt mạ vàng quả thật là không chút nổi bật, bên trong lại không có đồ gì, dùng nhãn lực với kiến thức sâu rộng của Răng Vàng cũng không nhận ra lai lịch của hộp sắt này. Hắn nói: "Chuyến này tới Quan Trung để tìm một hai món đồ cầm cố, không ngờ lại được một hộp sắt mạ vàng như thế, minh khí qua tay Răng Vàng tôi còn nhiều hơn cỏ dại trên núi, nhưng anh có hỏi tôi hộp sắt mạ vàng này dùng để làm gì tôi cũng không nói được, dân trong nghề chúng tôi có một quy củ, đồ mà không ai nhận ra, cho dù lai lịch lớn thế nào cũng không có giá trị!"
Tuyền Béo vừa nghe thấy câu này, trong lòng lạnh đi phân nửa, giơ tay định ném hộp sắt mạ vàng thẳng xuống khe núi.
Răng Vàng nói: "Đừng ném! Đừng ném! Anh từ từ nghe đã, tôi còn chưa nói xong, với nhãn lực này của tôi, quả thật không nhìn ra nhưng cái mũi này của tôi cũng không phải chỉ để chưng bày, tôi vừa cầm lên mũi ngửi, hắc! Anh nói xem? Thứ đồ chơi này cũng không dưới ngàn năm, nói không chừng đáng khối tiền!
Tôi nói: "Tôi cũng nghĩ vậy, trong hộp sắt mạ vàng nhất định có bí ẩn!"
Tuyền Béo nói: "Lão Hồ anh lại nhạy cảm quá!"
Tôi nói: "Trước kia chúng ta thất bại đều là do quá chủ quan!"
Tuyền Béo nói: "Thắng bại là chuyện thường nhà binh, không phải anh thường động viên chúng tôi như vậy sao?"
Tôi nói: "Đó toàn là lời nói bậy, chẳng qua là tôi muốn tìm bậc thang đi xuống, anh còn tưởng thật? Tóm lại vật này lai lịch không rõ ràng, hoàn toàn không giống vật tòng táng trong huyền cung Tần vương, mang nó xuất thế còn chưa biết là phúc hay họa!"
4.
Trở lại Bắc Kinh, tôi bảo Tuyền Béo với Răng Vàng không nên phô trương đồ ra, đợi tôi tìm người hiểu biết hỏi trước rồi tính. Shirley Dương bận bịu xử lý chút chuyện cũng không biết chuyến đi Quan Trung mấy ngày này của tôi. Tôi định kiếm một cái cớ, nói mấy ngày trước tôi không ra khỏi cửa, lợi dụng lòng tin của cô ấy với tôi chắc sẽ không hỏi nhiều. Có điều cổ nhân có nói nếu muốn người không biết, trừ khi mình đừng làm, Răng Vàng với Tuyền Béo hai thằng cha đó là loại làm việc thành sự không thấy bại sự có thừa, bọn họ bình thường lắm mồm nhiều chuyện, nói nhiều tất lộ, sớm muộn cũng hại đến tôi, tới lúc đó Shirley Dương sẽ nghĩ tôi thế nào? Chi bằng khai trước lại còn được tiếng quang minh lỗi lạc, chỉ có điều chờ mãi cũng không tìm được cơ hội mở miệng.

Ba ngày sau, chúng tôi cùng lên đường đi Mỹ, trong tay còn một ít đồ cũ, tôi định mang tới Phan Gia Viên bán đổ bán tháo. Nơi này trước kia gọi là Phan gia diêu, toàn là lò gạch, sau đó mới bàn là từ "diêu" khó nghe nên đổi là Phan Gia Viên. Chợ này lúc ấy có nhiều hàng bán vỉa hè, người tới lui cũng không ít. Hai bên toàn là hàng quán bán cổ vật, nói trắng ra là đồ giả, bán theo cân. Từ ngọc bội Hoàng đế tới gậy đánh chó của ăn mày, cái gì cũng có, chỉ cần có người bán là có người mua. Đến nỗi có phải đồ thật hay không lúc khác hẵng bàn. Cũng có vài thứ lai lịch bất chính, hoặc là vật tòng táng moi ra từ mộ, hoặc là của trộm cướp, vàng thau lẫn lộn lấy giả tráo thật, kẻ bán không rõ, người mua cũng không chắc. Nếu bạn có nhãn lực thậm chí có thể dùng tiền mua chai dấm mà mua được bình sứ Thanh Hoa, tiền mua đồng nát cũng mua được đồ đồng xanh Tây Chu. Vật báu tuy có nhưng không dễ gặp, kinh doanh ở đây, lấy giả làm thật, đồ giả quá nhiều, tham rẻ mà mua cũng là đáng đời.
Qua trưa, người qua lại ít dần, Tuyền Béo đi mua bánh nướng, tôi ở lại xem đồ. Vừa lúc Shirley Dương tới tìm tôi, tôi mượn cơ hội này kể qua cho cô một lần, còn nói: "Đợi qua mấy ngày nữa, anh với em cao chạy xa bay, chân trời góc bể không về cũng được, anh đảm bảo với em, đây chắc chắn là lần cuối cùng!"
Shirley Dương nói: "Tạm không bàn cam đoan của anh có giá trị hay không, nhưng anh không gạt em, điều này đối với em mà nói thật sự rất có ý nghĩa."
Tôi nói: "Nếu anh không còn ý nghĩa với em nữa thì cuộc sống của anh cũng đến lúc tàn, cảm giác trống trải đến vô hạn..."
Đúng lúc thằng béo đi tới nói: "Trống trải nghe đã đủ buồn nôn rồi, lại còn vô hạn nữa?"
Tôi nói: "Lại rảnh rỗi quá nên ngứa miệng rồi phải không, mau ăn bánh của anh đi."
Tuyền Béo nói:"Suốt ngày ăn bánh nướng, ăn không ngán à? Có đoàn cố vấn từ Mỹ mà không cho được bữa ăn ngon sao?"
Lúc đang nói chuyện, Răng Vàng cũng tới. Hắn lén nói với tôi, hắn chụp hình minh khí bọn tôi lấy ra từ Tần vương huyền cung, tìm người hỏi thăm khắp nơi, nhưng rốt cục là đồ của triều đại nào, lần hỏi khắp nơi không ai nhận ra được, có điều khi tin này truyền ra ngoài, quả thật có một vị có tiếng tăm mời tôi mang đồ tới gặp.
Trước mặt Shirley Dương, tôi phải nói bọn tôi không mua bán minh khí, đưa bao nhiều tiền tôi cũng không bán, nhưng nếu đối phương tự nguyện bỏ ra một số tiền lớn thì chắc chắn phải biết lai lịch của vật này, vì tò mò, tôi quyết định tới gặp đối phương một lần, nghe thử xem người ta nói thế nào nên hỏi Răng Vàng xem gặp ở đâu.
Răng Vàng nói: "Xe lớn cũng chạy không nhanh bằng lùa cơm vào miệng, tôi đoán chừng, nhất định ở tiệm cơm lớn nào đó."
Shirley Dương không muốn gặp mấy tay buôn đồ cổ kia, tôi để cô về trước. Tôi với Tuyền Béo thu dọn đồ đạc cùng Răng Vàng tới Phan Gia Viên, có xe tới đưa chúng tôi tới đường Sùng Văn, cửa tây nam. Năm 1983, Bộ Ngoại giao có mở ở đây một tiệm ăn của Pháp, trước khi dỡ bỏ cấm vận đây cũng không phải là nơi dân chúng dễ dàng lui tới, phải có quan hệ phía sau mới được. Ở đây bên ngoài nhìn không lớn, yên tĩnh ẩn mình, nhưng vừa vào bên trong thì nguy nga lộng lẫy, tựa như đang ở trong cung điện thế kỷ 19 của Pháp, trên vách tường đều trang trí những đồ trang sức mạ vàng, với những bức hoạ La Phù cung*, đặc biệt là đèn treo, đèn tường hình lá phong cùng với tường thuỷ tinh nhìn mãi không hết, mang đậm phong vị tây hóa, cần bao nhiêu xa hoa có bấy nhiêu. Bọn tôi là hạng người quen tay ăn tay bốc, căn bản ăn xong chẳng biết mình vừa ăn gì, đối với cảnh tưởng thế này cũng chưa từng nghĩ đến.
Răng Vàng yếu thận, vừa vào cửa liền đi nhà cầu, lúc ra thổi một câu với tôi cùng Tuyền Béo:"Răng Vàng ta cũng coi là ăn nhiều thấy nhiều mà chưa từng vào chỗ nào sang như vậy, đúng thật là nhà xí đẳng cấp hoàng gia
*La phù cung ( Tiếng Pháp: Musée du Louvre): Cung điện cũ của Hoàng gia Pháp, nằm ở bờ phải sông Seine thuộc trung tâm thành phố Paris từ Nhà thờ Saint-Germain-l'Auxerrois đến vườn Tuileries. Ngày nay phần lớn diện tích cung điện được sử dụng cho bảo tàng Louvre, một trong những bảo tàng lớn nhất thế giới. (wikipedia)
Tôi nghĩ thầm trong bụng: "Cho dù muốn mua đồ cũng không cần vội như vậy chứ, chữ bát ( 八) còn có hai chân, vậy mà họ lại vộ vàng mở tiệc khoản đãi bọn ta thế này? Không lẽ nghĩ bọn ta là danh gia vọng tộc cần kết giao sao?"
5.
Ba người bọn tôi bước vào, bên trong đã có một cô gái trẻ độ hai mươi tuổi ngồi đợi, thân thể kiều diễm, giơ chân nhấc tay đều toát lên vẻ sang trọng cao quý.
Cô gái kia đứng dậy chào đón:"Dám hỏi tên tuổi của ngài?"
Tôi nói: "Vô đức không dám xưng tên, tôi họ Hồ, ở Phan Gia Viên lăn lộn kiếm cơm."
Cô gái kia nói: "Mô Kim hiệu uý, nghe danh không bằng gặp mặt, gặp được rồi hơn hẳn nghe danh!"
Răng Vàng vội đi lại giới thiệu, cô ta cũng tự giới thiệu, bản thân được mọi người gọi là "Ngọc diện hồ ly", nghề nghiệp chuyên môn là thương nhân đồ cổ.

Răng Vàng vừa cạn ba bát, uống tới phồng mang trợn mắt, hắn nói: "Hồ gia anh quá coi thường tôi, hoạn nạn mới thấy giao tình, đến lúc này tôi có thể rút lui được sao? Mất mạng thì sợ gì, mạng đáng bao nhiêu chứ? Răng Vàng tôi quyết tâm xuống nước, vì anh mà quẳng đi miệng cơm cũng đáng!"
Tôi thấy Răng Vàng sống chết muốn đi, cản cũng không được, biết chẳng qua là hắn sợ mất mối hàng ngon, đồng thời cũng thấy tôi với Tuyền Béo đủ trượng nghĩa, gặp nguy hiểm sẽ vì giao tình trước đây mà không bỏ mặc hắn. Tôi nghĩ thầm: "Quỷ đáng chết giỏi xảo biện, nói tới đây rồi còn gì để nói thêm nữa?", không làm gì hơn được đành nói với hắn: "Răng Vàng, ban đầu không phải tôi với Tuyền Béo gặp anh ở Phan Gia Viên, hai người chúng tôi cũng chưa chắc ăn được chén cơm này, giữa chúng ta không cần khách sáo, có gì đều nói thẳng, không cần vòng vo, anh có thể đi nhưng có vài câu tôi phải nói trước! Đầu tiên, bọn trộm mộ để mắt tới kho báu này không ít, vạn nhất đụng phải, chỉ sợ khó đối phó. Thứ hai, vào Ma sơn ở Tây Hạ phải đi qua đại mạc Mông Cổ, ở đó rất ít gò cát cố định, bản đồ không thể dùng được. Đáng sợ nhất là không có nước, anh cũng đừng nhìn điểm nước trên chi chít trên bản đồ mà lầm, đó đều là nước mặn, uống vào chưa chắc đã sống. Cho dù tìm được địa cung, anh có dám đi vào? Anh có nghĩ cổ mộ mai táng yêu nữ tại sao lại gọi là Mật chú phục ma điện? Tôi không nghĩ ra được, nói thật, chuyến này hung hiểm không cần nói cũng biết, cơ hội thành công hết sức mong manh!"
Mặc dù tôi trước sau đều không yên tâm về Răng Vàng nhưng những lời trên đều là lời thật, mạng là của hắn, ném chỗ nào phải do hắn tự quyết?
Ba người nói tới ngày mai lên đường, tìm cổ mộ Tây Hạ ở cuối đại mạc, kế hoạch cao chạy xa bay đành phải buông xuống. Nhưng nói thực, bọn tôi bình thường lặng gió thì lại nhớ sóng cao ba thước, đang rảnh rỗi tới phát hoảng, hiếm có cơ hội này, cũng cực kỳ phấn chấn. Ánh trăng như đao lạnh lẽo thê lương, ba người ngồi ở quán cơm nhỏ, anh một lời tôi một ý, giãi bày cõi lòng.

Lại nhắc tới bích hoạ lớn được thờ trong Mật chú điện ở Tây Hạ, Răng Vàng hỏi tôi vì sao Shirley Dương dù thế nào cũng nhất quyết phải đi? Tôi nhìn Răng Vàng một chút, lại nhìn sang Tuyền Béo, hơi trầm ngâm, thấp giọng nói với họ: "Ngọc Minh Nguyệt trong ma sơn Tây Hạ chính là thánh vật mấy đời tổ tiên Đạo phái Bàn Sơn thờ phụng!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro