MOI QUAN HE GIUA TRIET HOC DUY VAT BIEN CHUNG VOI KHOA HOC TU NHIEN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỚI KHOA HỌC TỰ NHIÊN

TÓM TẮT

Lịch sử hình thành và phát triển hơn hai nghìn năm của triết học và khoa học

tự nhiên đã cho thấy hai lĩnh vực tri thức ấy luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau mà còn

chứng minh rằng, triết học duy vật biện chứng tìm thấy ở khoa học tự nhiên những cơ sở khoa

học vững chắc để khái quát nên những nguyên lý, quy luật chung nhất của mình, còn khoa học

tự nhiên lại tìm thấy trong triết học duy vật biện chứng thế giới quan, phương pháp luận đúng

đắn, sắc bén để đi sâu nghiên cứu giới tự nhiên. Việc nghiên cứu và nắm vững mối quan

hệ này có vị trí và vai trò rất quan trọng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, đặc biệt trong

công tác giảng dạy và nghiên cứu các môn lý luận chính trị nói chung, triết học nói riêng.

1. Mở đầu

Triết học và khoa học tự nhiên là những hình thái ý thức xã hội đặc thù phản ánh

các lĩnh vực khác nhau của thế giới. Chúng xuất hiện, tồn tại, vận động và phát triển

trên cơ sở của những điều kiện kinh tế - xã hội, và chịu sự chi phối của những quy luật

nhất định. Đồng thời, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn

nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Lịch sử hình thành và phát triển hơn hai nghìn năm

của triết học và khoa học tự nhiên không những đã chứng tỏ hai lĩnh vực tri thức ấy

luôn luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau mà còn chứng minh rằng, triết học duy vật

biện chứng tìm thấy ở khoa học tự nhiên những cơ sở khoa học vững chắc của mình,

còn khoa học tự nhiên tìm thấy trong triết học duy vật biện chứng thế giới quan đúng

đắn và phương pháp luận sắc bén để đi sâu nghiên cứu giới tự nhiên. C. Mác và

Ph. Ăngghen sở dĩ có những cống hiến lớn lao cho khoa học nói chung, triết học nói

riêng là bởi vì hai ông thường xuyên theo dõi sự phát triển của khoa học tự nhiên, phát

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

120

hiện ra những vận động nảy sinh, phát hiện những biến đổi diễn ra trong xã hội, diễn ra

trong đời sống của con người bởi tác động của khoa học tự nhiên, tác động của kỹ thuật

máy móc. Như chính Ph. Ăngghen đã khẳng định: “Mỗi lần có một phát minh vạch thời

đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không

tránh khỏi thay đổi hình thức của nó”.

2. Sự tương tác giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên

Lịch sử phát triển của triết học cũng như của khoa học tự nhiên đã cho thấy,

không phải bất kỳ trào lưu triết học nào cũng giữ vai trò là thế giới quan và phương

pháp luận đúng đắn đối với khoa học tự nhiên, thúc đẩy khoa học tự nhiên phát triển, và

ngược lại, không phải các thành tựu của khoa học tự nhiên là cơ sở khoa học để chứng

minh cho những luận điểm của mọi trào lưu triết học.

Xuất phát từ hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ngày một cao hơn,

những hiểu biết về những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội ngày một phát triển,

các nguyên lý, các lý thuyết về thiên văn học, toán học, vật lý, hoá học,… dần dần được

tích luỹ với những phát triển của khoa học triết học nói chung và khoa học cụ thể nói

riêng. Thực tế đã cho thấy, càng đi sâu vào nghiên cứu các hiện tượng khác nhau của tự

nhiên, khoa học tự nhiên càng vấp phải nhiều vấn đề mà tự nó không giải quyết được vì

những vấn đề đó tuy gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên nhưng lại là những vấn đề

triết học. Điều này đã được A. Einstein khẳng định: “Những khó khăn mà vật lý hiện

nay đang vấp phải trong lĩnh vực của mình đã buộc ông ta phải đề cập đến những vấn đề

triết học nhiều hơn so với các nhà vật lý của các thế hệ trước”.

Quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên, với các khoa học chuyên biệt nói

chung trải qua quá trình lịch sử lâu dài. Vào thời cổ đại, do trình độ nhận thức còn

đang ở điểm xuất phát, tri thức khoa học còn ở tình trạng tản mạn, sơ khai, nên triết

học hầu như là dạng thức lý luận duy nhất, bao trùm, giải quyết tất cả các vấn đề về tự

nhiên, xã hội và tư duy, mà lúc ấy thực ra cũng chỉ là những phác thảo sơ lược, chưa

thấy cụ thể, chưa hoàn thiện. Tính bao trùm ấy của tri thức triết học khiến nó được

xem như “môn khoa học đặc biệt đứng trên tất cả các môn khoa học khác”. Quan

niệm này tồn tại khá lâu trong lịch sử và Ph. Ăngghen đã gọi hệ thống Hegel là “cái

thai đẻ non cuối cùng” theo nghĩa này. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, cùng với quá

trình chuyên biệt hoá tri thức, triết học, xét về tính chất của nó không còn đóng vai trò

là “khoa học của các khoa học” nữa (nghĩa trực tiếp). Trong thời đại của chúng ta các

nhà khoa học có thể trở thành những triết gia, chứ không phải ngược lại. Ý tưởng

“triết học – khoa học của các khoa học” biểu thị một truyền thống, hơn là thực chất

của vấn đề.

Ngày nay, đứng trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và

công nghệ, thì những khái niệm, những phạm trù, những tư tưởng, những phương pháp

nghiên cứu mới không ngừng ra đời. Mặt khác, cuộc cách mạng ấy cũng đang đặt ra

hàng loạt vấn đề về phong thái tư duy khoa khọc, về những bước phát triển mới của

nhận thức, của khoa học trong tương lai. Và đứng trước những đổi thay lớn lao của cách

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

121

mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là khoa học tự nhiên hiện đại, thì nhà khoa học

không còn có thể chỉ dừng lại ở những vấn đề chuyên môn hẹp của mình, họ không chỉ

vấp phải những vấn đề phương pháp luận mà cả những vấn đề triết học do chính lĩnh

vực của mình đặt ra và buộc họ phải suy nghĩa để giải quyết. Như Max Born (1882-

1970) – nhà vật lý lý thuyết người Anh, một trong những người sáng lập ra cơ học

lượng tử, đã nhận xét: “Mỗi nhà vật lý đều tin tưởng sâu sắc rằng công việc của ông ta

quyện chặt với triết học, và nếu không có sự hiểu biết nghiêm túc tài liệu triết học thì đó

sẽ là một việc làm hết sức vô ích. Bản thân tôi đã chịu sự chi phối của tư tưởng đó và tôi

cố gắng truyền nó cho học trò của mình”.

Lâu nay một số người quan tâm đến triết học đã có sự ngộ nhận rằng, triết học là

một khoa học chỉ thuộc về nội dung của phạm trù khoa học xã hội – nhân văn. Nhưng

ngược dòng thời gian, chúng ta biết rằng, ngay từ khi mới ra đời, triết học và khoa học

tự nhiên đã không tách rời nhau và được gọi bằng một tên chung: Triết học tự nhiên, bắt

đầu từ khoa học tự nhiên. Nhưng như chính C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định, việc

khôi phục triết học tự nhiên theo nghĩa đen của nó (triết học là “khoa học của mọi khoa

học”) vào thời kỳ nửa sau của thế kỷ XIX là điều không thể. Bởi vì, khoa học triết học

và các khoa học cụ thể hiện nay đã tồn tại trong môi trường mới với những yêu cầu mới

được đặt ra từ cuộc sống và từ vấn đề học thuật. Tuy vậy, mối liên hệ giữa triết học và

khoa học tự nhiên không vì thế mà giảm đi ảnh hưởng tác động lẫn nhau. Đặc biệt là

mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên là mối quan hệ qua

lại, nương tựa lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Có thể nói rằng, từ khi chủ

nghĩa duy vật biện chứng ra đời thì mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên mới

thật sự bước sang một giai đoạn mới.

Từ những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại trong thế kỷ XX như: Thuyết

tương đối hẹp của Albert Einstein (1905) và thuyết tương đối rộng (1916); thuyết lượng

tử của Planck (1900); lý thuyết kết cấu nguyên tử lượng tử hoá của Niels Bohr (1913);

lý thuyết cơ học lượng tử của Heisenberg (1925), lý thuyết thông tin, lý thuyết điều

khiển (những năm 40 của thế kỷ XX); lý thuyết cô lập, lý thuyết phân hình, lý thuyết

hỗn độn, (những năm 70, 80 của thế kỷ XX), v.v… Đã tạo nên những cuộc tranh luận

ngày càng gay gắt về sự nhận thức của con người đối với thế giới. Chính điều này đã

buộc các nhà khoa học tự nhiên phải tìm đến với một thế giới quan triết học đúng đắn

để từ đó lý giải những vấn đề cụ thể trong lý thuyết khoa học của mình. Như Albert

Einstein đã viết: “Các kết quả nghiên cứu khoa học thường gây nên những sự thay đổi

trong các quan điểm triết học đối với những vấn đề vượt ra ngoài phạm vi của những

lĩnh vực rất hạn chế của bản thân khoa học”.

Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên

chẳng những giúp cho các nhà triết học hiểu biết thêm những tri thức về khoa học tự

nhiên mà còn làm cho họ thấy rõ được cơ sở khoa học chính xác, khách quan để triết

học dựa vào đó khái quát thành những nguyên lý, những quy luật và những phạm trù

triết học. Đồng thời, nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên đã

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

122

giúp cho các nhà khoa học tự nhiên nhận thức và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo

thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận khoa học vào quá trình nghiên

cứu khoa học tự nhiên, làm cho họ luôn luôn ý thức được rằng, chỉ có cho mình một

phương pháp biện chứng duy vật thì họ mới có thể tiến xa hơn, đi sâu hơn vào các lĩnh

vực mà họ đang và sẽ nghiên cứu. Khi đưa ra nhận định về con đường phát triển phức

tạp của vật lý học V.I.Lênin đã viết: “Vật lý học hiện đại đang và sẽ đi, nhưng nó đi tới

phương pháp duy nhất đúng, đi tới triết học duy nhất đúng của khoa học tự nhiên,

không phải bằng con đường thẳng, mà bằng con đường khúc khuỷu, không phải tự giác

mà tự phát, không nhìn thấy rõ “mục đích cuối cùng” của mình, mà đi đến mục đích đó

một cách mò mẫm, ngập ngừng và thậm chí đôi khi giật lùi nữa. Vật lý học hiện đại

đang nằm trên giường đẻ. Nó đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Một cuộc sinh

đẻ đau đớn. Kèm theo sinh vật sống và có sức sống, không tránh khỏi một vài sản phẩm

chết, một vài thứ cặn bả nào đó phải vứt vào sọt rác. Toàn bộ chủ nghĩa duy tâm vật

lý học, toàn bộ triết học kinh nghiệm phê phán, cũng như thuyết kinh nghiệm tượng

trưng, v.v… đều thuộc những thứ cặn bả phải vứt bỏ đi ấy”.

Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên còn góp cho con

người thấy rõ được nguồn gốc chung của sự nảy sinh triết học và khoa học tự nhiên đó

là giới tự nhiên; giúp cho chúng ta thấy được rằng, sự liên kết giữa triết học và khoa học

tự nhiên là không thể tránh khỏi và sự hợp tác giữa các nhà triết học với các nhà khoa

học tự nhiên là một tất yếu lịch sử. Bởi, nếu không có sự liên kết và hợp tác đó thì

chẳng những triết học và khoa học tự nhiên không thể tiến lên được mà các nhà triết,

các nhà khoa học tự nhiên cũng không thể chiến thắng nổi trong cuộc đấu tranh chống

lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo vốn đã kìm hãm và trói buộc sự phát triển của triết

học và khoa học tự nhiên.

Trong mối quan hệ giữa triết học duy vật và khoa học tự nhiên, một mặt, các

khoa học cụ thể đem đến cho triết học chất liệu sống, căn cứ vào đó các nhà triết học

nêu lên và luận chứng các quan điểm của mình phù hợp (dù không bao giờ có tính tuyệt

đối) với những biến đổi của lịch sử, và góp phần cùng những lĩnh vực tri thức khác dự

báo, gợi mở những vấn đề của tương lai. Mặt khác, triết học mà tiêu biểu là chủ nghĩa

duy vật biện chứng, đóng vai trò lớn đối với các nhà khoa học, vai trò đó có thể tìm thấy

ở cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của triết học. Như Ph. Ăngghen đã viết:

“Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rằng họ thoát khỏi triết học bằng cách không để ý

đến nó hoặc phỉ báng nó… Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ

nô lệ của những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ

nhất. Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi

phối. Vấn đề là ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thứ triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ

muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử

tư tưởng và những thành tựu của nó”.

Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, sau khi nêu bật đóng góp của

R. Mayer (1814-1878), với định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng; Matthias

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

123

Schleiden (1804-1881) và Theodor Schwann (1838-1839) với việc phát hiện ra tế bào

hữu cơ; Charles Darwin (1809-1882) với thuyết tiến hoá đối với sự phát triển của khoa

học, Ph. Ăngghen nhấn mạnh ý nghĩa có tính bước ngoặt của ba phát minh đối với sự ra

đời của hình thức hiện đại của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật biện chứng,

thay cho hình thức cũ đã tỏ ra lỗi thời.

Bên cạnh các khám phá thời đại ấy trong khoa học tự nhiên, được cổ vũ bởi sự

phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của kinh tế, kỹ thuật, mỗi ngành đều để lại dấu ấn của

mình lên các trang vàng của lịch sử, nhất là từ nửa sau thế kỷ XIX. Trong vật lý học, R.

Kirchhoff (1824-1887) xác lập phương pháp phân tích quang phổ, Emanuel Clausius

(1822-1888) phổ biến thuyết cơ học về nhiệt và đưa khái niệm entropy vào môn vật lý,

Michael Faraday (1791 - 1867) đưa ra thuyết trường điện từ, sau đó J. Maxwell (1831-

1879) xây dựng thuyết điện từ và ánh sáng. Trong hoá học, D. Mendeleev (1834-1907)

tìm ra quy luật tuần hoàn của các nguyên tố hoá học, Alecxandro Mikhailovich

Butlerop (1828-1886) xây dựng học thuyết cấu trúc hoá học các tổ hợp hữu cơ. Trong

sinh vật học, E. Haeckel (1834-1919) hoàn thiện thuyết phát triển và tiến hoá, Luis

Pasteur (1822-1895) đạt được những thành quả bước đầu ở lĩnh vực vi sinh.

Những thành tựu của khoa học tự nhiên nêu trên đã chứng minh được tính chất

biện chứng của các quá trình diễn ra trong tự nhiên. Chính sự phát triển của khoa học tự

nhiên, những thành tựu mới nhất của nó đã khiến cho phương pháp tư duy siêu hình cần

phải được thay thế. Theo Ph. Ăngghen, sự phát triển của khoa học tự nhiên, những

thành tựu mới nhất của nó từ thế kỷ XVI trở đi cho thấy tính tất yếu của tư duy biện

chứng, và chứng tỏ rằng, trong tự nhiên không có những phạm trù và những quan hệ bất

biến. Cũng chính từ việc khẳng định về tính tất yếu của tư duy biện chứng như đã nêu

trên nó giúp chúng ta đi tới khẳng định: phép biện chứng chính là cơ sở phương pháp

luận đối với khoa học tự nhiên, giúp các nhà khoa học khắc phục những hạn chế trong

khi tiếp cận với các vấn đề lý luận chung. Điều này đã được Ph.Ăngghen luận giải:

“Phép biện chứng là một hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên

hiện đại, bởi vì chỉ có nó mới có thể đem lại sự tương đồng và do đó đem lại phương

pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải thích những

mối liên hệ phổ biến, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một lĩnh

vực nghiên cứu khác”.

Rõ ràng các nhà khoa học trước hết là những người đang phải giải quyết những

vấn đề cơ bản, những vấn đề có tính chất nền tảng của khoa học, dù muốn hay không

cũng buộc phải tìm đến triết học. Nhưng triết học, như chúng ta đã biết, có nhiều trường

phái khác nhau. Có triết học đúng, khoa học, cũng có triết học sai lầm, phản khoa học.

Vậy, trong tình hình phát triển như vũ bảo của khoa học như hiện nay, thì thứ triết học

nào thực sự là thứ triết thực sự khoa học có thể đóng vai trò phương pháp luận phổ biến,

đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của khoa học? Thực tiễn phát triển của khoa học hiện

đại đã chứng minh rằng, một phương pháp luận như thế chỉ có thể là phép biện chứng

duy vật.

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

124

Như chúng ta đều biết, để có thể nhận thức được sự vật, đi sâu vào nghiên cứu

chúng, khám phá những bí ẩn của chúng, thì điều quan trọng đối với người nghiên cứu

là phải có trong tay những phương pháp, tức là các hình thức nắm vững hiện thực về

mặt lý luận và thực tiễn, xuất phát từ những quy luật vận động của khách thể được

nghiên cứu. Phương pháp không phải là những quy luật vận động trình bày tùy tiện

muốn như thế nào cũng được. Ngược lại, bao giờ nó cũng được xây dựng trên cơ sở các

quy luật khách quan của sự vật mà con người đã nhận thức được. Phương pháp có nhiều

loại, tùy thuộc vào tính chất của các quy luật mà dựa vào đó phương pháp được xây

dựng. Đối với những khoa học riêng biệt chúng ta có quy luật riêng và đi cùng với nó là

phương pháp riêng. Với những quy luật chung hơn tác động trong nhiều nhóm sự vật thì

ta có phương pháp đặc thù. Nếu là quy luật mang tính phổ biến tác động trong tất cả

mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy thì chúng ta có phương pháp chung nhất, áp

dụng được cho tất cả mọi bộ môn khoa học. Một phương pháp như vậy chỉ có thể là

phương pháp biện chứng vì cơ sở khách quan của nó là quy luật chung nhất của tự

nhiên, xã hội và tư duy do phép biện chứng duy vật nghiên cứu. Điều đó có nghĩa là,

nắm được phương pháp biện chứng, tức là “phương pháp nắm sự vật và phản ánh sự vật

trong tư tưởng, chủ yếu là trong sự liên hệ, ràng buộc, vận động, phát sinh và tiêu vong

của sự vật” nhà khoa học sẽ có một công cụ hiệu nghiệm để nghiên cứu bất kỳ lĩnh vực

khoa học nào và ngược lại, trong bất kỳ lĩnh vực khoa học nào, người nghiên cứu muốn

đạt được chân lý thì cũng phải áp dụng phương pháp biện chứng. Nhà nghiên cứu cần

phải tuân theo phương pháp đó, không phải vì bị ai đó bắt buộc mà vì bản thân khách

thể nghiên cứu đòi hỏi phải như thế: Khách thể đó chỉ bộc lộ bản chất của mình cho

người nào trong quá trình nghiên cứu, sử dụng phương pháp được xây dựng trên cơ sở

quy luật khách quan.

Nói như vậy không có nghĩa là chỉ cần nắm vững và vận dụng phương pháp biện

chứng là đã đủ để đạt tới chân lý trong từng lĩnh vực nghiên cứu cụ thể. Phương pháp

biện chứng là phương pháp chung nhất, phổ biến nhất, nhưng cái chung chỉ tồn tại trong

cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình, bất cứ cái riêng nào cũng

không được bao quát hoàn toàn trong cái chung. Vì vậy, phương pháp biện chứng cần

phải được cụ thể hóa, cá biệt hóa cho từng khoa học cụ thể.

Việc áp dụng phép biện chứng duy vật có thể diễn ra một cách tự giác, cũng có

thể diễn ra một cách tự phát. Lịch sử của khoa học đã chứng minh nhiều trường hợp như

vậy. Ví như: Từ hiện tượng năng lượng tách ra từ Ra, những người theo chủ nghĩa

Makhơ và thuyết duy năng ở cuối thế kỷ XIX đã rút ra kết luận: chủ nghĩa duy vật đã bị

phá sản. Do đó, họ cho rằng không cần tìm đại biểu vật chất của các thuộc tính phóng

xạ. Nhưng M. Curie – nhà khoa học thiên tài người Pháp lại đặt vấn đề ngược lại: Khả

năng phát ra các tia phóng xạ gắn liền với cái gì? Với trạng thái vật lý tạm thời của vật

thể như sự điện phân hay đó là một thuộc tính cơ bản của các nguyên tử thuộc loại vật

chất đặc biệt? Nếu nó gắn liền với trạng thái vật lý tạm thời của vật thể thì trong trường

hợp đó việc tìm kiếm các nguyên tố phóng xạ sẽ là vô nghĩa. Nhưng nếu đó là một

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

125

thuộc tính cơ bản của các nguyên tử thuộc loại vật chất đặc biệt thì trong khi đo các

phóng xạ (vận động), cần tìm đại biểu vật chất của nó. Qua đây chúng ra thấy, với

những người theo chủ nghĩa Makhơ và thuyết duy năng, những kết luận của họ chỉ đi

tới sự kìm hãm của phát minh khoa học, phản khoa học. Còn với M. Curie, việc áp dụng

phép biện chứng một cách tự phát nhưng lại đi tới phát minh khoa học. Hay như việc

phát minh ra định luật tuần hoàn của các nguyên tố hóa học của Mendeleev và một ví dụ

điển hình khi nói về tác dụng của tư tưởng duy vật biện chứng tới nghiên cứu khoa học

tự nhiên. Điều này đã được Ph. Ăngghen khẳng định: “Nhờ áp dụng – một cách không

có ý thức – quy luật của Hegel về sự chuyển hóa lượng thành chất, Mendeleev đã hoàn

thành một kỳ công khoa học có thể tự hào đứng ngang hàng với kỳ công của Joseph Le

Verrier (1811-1877) khi ông tính ra quỹ đạo của hành tinh sao Hải vương tinh mà người

ta chưa biết”.

Như vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng nói chung, phép biện chứng duy vật nói

riêng đã góp phần giúp cho các nhà khoa học nhìn nhận được sự vật đúng như chúng

vốn có, nhờ đó giúp nhà khoa học sớm phát hiện ra được sự thật và xây dựng các lý

thuyết phản ánh sự vật một cách chính xác hơn, tránh được các sai lầm phiến diện, giản

đơn hay máy móc, giáo điều trong công tác nghiên cứu của mình. Điều này càng có ý

nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi mà khoa học đã có sự phân ngành ngày

càng sâu sắc, khi mà khoa học tự nhiên đã và đang đi vào những lĩnh vực chuyên môn

rất hẹp và do đó dễ nhìn sự vật một cách phiến diện. Đây cũng là vấn đề hết sức quan

trọng trong bối cảnh của việc tổng hợp tri thức khoa học ngày nay.

3. Kết luận

Nhìn lại tiến trình lịch sử phát triển của triết học duy vật và khoa học tự nhiên,

chúng ta thấy rằng, hai lĩnh vực tri thức này luôn có mối quan hệ qua lại mật thiết với

nhau. Mối liên hệ giữa triết học nói chung, triết học duy vật biện chứng nói riêng với

khoa học tự nhiên là một tất yếu có tính quy luật và ngày càng phát triển. Chủ nghĩa duy

vật biện chứng luôn đặt cho mình nhiệm vụ phải khái quát những thành tựu mới nhất

của khoa học tự nhiên để làm sâu sắc thêm, phong phú thêm những nguyên lý, những

quy luật của mình. Và mỗi bước ngoặt của khoa học tự nhiên, trước sự đổ vỡ của những

nguyên lý cũ và sự ra đời của những phát minh mới thì đại đa số các nhà khoa học tự

nhiên đều đứng về phía chủ nghĩa duy vật. Khoa học hiện đại ngày càng chứng tỏ mối

liên hệ mật thiết giữa nó với triết học duy vật biện chứng, chứ không phải với chủ nghĩa

duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Tuy vậy, vẫn có một số ít những nhà khoa học,

do không nắm vững phép biện chứng, còn chịu ảnh hưởng của các trào lưu triết học sai

lầm, nên thường giải thích những thành tựu mới nhất của khoa học trên lập trường của

chủ nghĩa duy tâm và đưa khoa học tự nhiên đi lệch sang phía chủ nghĩa duy tâm. Đây

chính là lực cản của sự phát triển khoa học.

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

126

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994.

[2] C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995.

[3] V.I. Lênin, Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980.

[4] Phạm Như Cương – Xa-trơ-cốp I.U.V, (Đồng chủ biên), Triết học – khoa học tự nhiên

– cách mạng khoa học-kỹ thuật, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1987.

[5.] I.. Rudavin, Một số quan điểm triết học trong Toán học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1979.

[6] N.A. Budrâykô, Những vấn đề triết học của Hóa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội,1979.

[7] Bùi Huy Đáp, Triết học Sinh vật học, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962.

[8] Werner Heisenberg, Vật lý và Triết học, Nxb Tri thức, 2009.

[9] Thomas Kuhn, Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học, Nxb Tri thức, 2008

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro