Môi trường nuôi cấy - p1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Một số môi trường nuôi cấy - p1

1. Môi trường Simmons citrate

Môi trường thạch Cimmons citrate được sử dụng cho các trực khuẩn đường ruột gram âm khác nhau. Giống như nguyên lý sử dụng môi trường acetat của vi khuẩn, để phân biệt các loại vi khuẩn người ta dựa vào sự khác biệt do khả năng sử dụng citrate như là nguồn carbon duy nhất của chủng phân lập. Môi trường có pH khoảng 6,9. Ống môi trường sau khi cấy huyền dịch vi khuẩn lên mặt nghiêng, để tủ ấm 35 o C, quan sát sự thay đổi trong 4 ngày.

2. Môi trường Kligler Iron Agar (KIA)

Môi trường thạch Kligler Iron Agar được sử dụng để nuôi cấy trực tiếp cho trực khuẩn gram âm lên men đường glucose, đây là đặc điểm cơ bản trong phân loại bước đầu của các trực khuẩn gram âm. Môi trường này cũng đồng thời thử tính lên men đường lactose, sinh hơi trong quá trình lên men carbohydrat và sinh khí H2S. Tất cả những đặc điểm đó đã được sử dụng cho các trực khuẩn gram âm thuộc họ vi khuẩn đường ruột.Môi trường KIA gồm glucose và lactose (có thể lên men carbohydrat), đỏ phenol (chỉ thị pH), pepton (nguồn carbon/­nitrogen) và muối sắt cộng với thiosulfate natri. Có 3 hình thái lên men carbohydrat có thể xảy ra là:- Acid (màu vàng) phần gốc và kiềm (màu đỏ) phần nghiêng của môi trường, khi đó cho thấy vi sinh vật lên men đường glucose nhưng không lên men đường lactose.- Acid (màu vàng) phần gốc và acid (màu vàng) phần nghiêng của môi trường, khi đó cho thấy vi sinh vật lên men cả đường glucose và đường lactose.- Kiềm (màu đỏ) phần gốc và kiềm(màu đỏ) phần nghiêng môi trường, khi đó cho thấy vi sinh vật không thể lên men đường glucose và đường lactose. Các sản phẩm sinh ra không phải là sản phẩm acid.Nếu sinh hơi, có hơi ở phần gốc của ống môi trường, môi trường bị chia cắt hoặc đẩy môi trường lên khỏi đáy ống. Nếu thấy màu đen ở phần gốc ống, vi sinh vật đã sinh ra hydrogen sulfid gas từ thiosulfid. Phản ứng được đọc sau khi nuôi cấy từ 18 – 24 giờ, nếu môi trường được đọc quá sớm, vi sinh vật chỉ có thể lên men đường glucose. Nếu đọc qua muộn, các chất gây men lactose có thể dùng hết lactose và bắt đầu dị hoá pepton, phần nghiêng của môi trường trở lại màu đỏ.

3. Môi trường MacConkey Agar

Thạch MacConkey là môi trường chọn lọc cho các vi khuẩn thuộc họ vi khuẩn đường ruột và các trực khuẩn gram âm khác có trong một quần thể hỗn tạp và phân biệt chúng có lên men lactose hay không lên men lactose. Muối mật và tinh thể màu tím ức chế hầu hết các vi sinh vật gram dương nhưng cho phép cáctrực khuẩn gram âm mọc được. Đường lactose như một nguồn cung cấp carbohydrat duy nhất. Trực khuẩn gram âm, nếu lên menlactose sẽ sinh ra khuẩn lạc màu hồng hoặc đỏ. Ngược lại, nếu không lên men lactose thì khuẩn lạc không có màu hoặc khuẩn lạc có màu trong.Sau khi đã cấy vi khuẩn lên đĩa môi phân lập, đặt vào tủ ấm 35 0 C, thời gian từ 18 – 24 giờ. Vi khuẩn có thể lên men lactose mạnh hoặc yếu, sau 24 giờ nuôi cấy sinh ra những khuẩn lạc có màu hoặc xuất hiện màu hồng nhẹ sau 24 – 48 giờ. Không nuôi cấy kéo dài quá 48 giờ, như thế có thể làm đảo lộn kết quả.Thạch MacConkey Sorbitol, có chứa các thành phần giống như thạch MacConkey thông thường khác nhưng có thêm D-sorbitol. Môi trường này được dùng cho phân lập E.coli

4. Môi trường Mueller-Hinton Agar

Môi trường thạch Mueller-Hinton Agar là môi trường trong, dùng cho thử nghiệm tính nhạy cảm của vi sinh vật với kháng sinh. Môi trường cũng thường được dùng để thử nghiệm sự thuỷ phân tinh bột. Thạch Mueller-Hinton có chứahỗn dịch động vật, casamino acid và tinh bột giúp cho hầu hết các vi sinh vật phát triển. Hơn nữa, có thể cho thêm máu cừu vào công thức cơ bản để thực hiện thử nghiệm tính nhạy cảm của chủng Streptococci . Khi đun nóng máu cừu tạo thành chocolate với thạchMueller-Hinton thì có thể thử nghiệm với các vi sinh vật khó mọc, như Heamophilus và Neisseria .

5. Môi trường thử nghiệm tính di động

Mục đích của môi trường thử tính di động là để xác định một vi khuẩn có thể di động được hay không. Đây là thử nghiệm đặc biệt dùng cho định danh các thành viên của họ vi khuẩn đường ruột, thường cho 2 loại Shigella và Klebsiella luôn không di động, và các loài Yersinia chắc chắn di động ở nhiệt độ phòng nhưng không di động ở 35 0 C.Các vi khuẩn không di động là do không có lông roi, chỉ phát triển ở trong đường cấy và xung quanh môi trường trong. Các vi sinh vật di động, đã sử dụng lông roi để di chuyển ra ngoài của đường cấy và xuất hiện mờ khói trong môi trường. Lượng thạch trong môi trường thấp làm cho môi trường không lỏng, không cứng để cho phép phát hiện di động tốt nhất.Dùng đầu que cấy chọc thẳng vào môi trường, thận trọng di chuyển đầu que cấy trên 1 đường,không chọc que cấy xuông tận đáy ống. Ủ môi trường nuôi cấy ở 35 0 C. Bản chất lông roi là protein, do vậy không tạo thành tốt ở nhiệt độ cao, một số nhà sinh vật học thích ủ ở nhiệt độ từ 18 – 20 độ C.

(file tạo bởi Tuân ka ka-01672525626). Xem tiếp ở p2.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro