môi trường và con người ối giời ơi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐỀ CƯƠNG MÔI TRƯỜNG & CON NGƯỜI

 

Câu 1: Sinh vật là gì? Sinh vật gồm những loại gì?

Sinh vật là những cơ thể sống, tức là thể hiện một số đặc điểm như trao đổi vật chất và năng lượng với môi trường, sinh trưởng và phát triển, sinh sản, di chuyển (nhưng cũng nhiều sinh vật không di chuyển như thực vật, san hô... )

- Sinh vật và thế giới vô sinh xung quanh (môi trường) có quan hệ khăng khít với nhau và thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau.

- Từ trước đến nay có rất nhiều hệ thống phân loại sinh vật. Các đơn vị phân loại sinh vật nói chung và vi sinh vật nói riêng đi từ thấp lên cao là  Loài, Chi, Họ, Bộ, Lớp, Ngành, và Giới.

- Whittaker và Margulis chia thế giới sinh vật thành 5 giới, đó là: Giới khởi sinh, Giới nguyên sinh, Giới nấm, Giới thực vật, Giới động vật

a) Giới khởi sinh:

- Gồm những loài vi khuẩn là những sinh vật nhân sơ rất nhỏ bé, phần lớn có kích thước khoảng 1-5 µm, có cấu tạo rất đơn giản chỉ gồm một tế bào, chưa c0 nhân, k0 c0 chất diệp lục.

- Xuất hiện khoảng 3,5 tỷ năm trước đây

- Phân bố: trong tự nhiên, không chỗ nào là không có vi khuẩn: trong đất, nước, không khí, trên cơ thể động thực vật và cả người. Số lượng rất lớn. Trong 1g đất có tới hàng trăm triệu vi khuẩn. Ở trong không khí, vi khuẩn gặp ít hơn, nhất là không khí ở vùng núi cao còn trong mtrường ô nhiễm, nhất là ở các thành phố hoặc KCN thì trong không khí có rất nhiều vi khuẩn.

- Phương thức sống rất đa dạng: h0ai sinh, ký sinh hay 1số có khả năng tự tổng hợp chất hữu cơ nhờ năng lượng ánh sáng mặt trời hoặc từ quá trình phân giải các chất hữu cơ

b) Giới nguyên sinh gồm có:

- Tảo:  Là những sinh vật nhân thực, Đơn bào, Có sắc tố quang hợp, Có khả năng tự tổng hợp chất hữu cơ nhờ năng lượng ánh sán, Là sinh vật quang tự dưỡng, sống trong nước.

- Nấm nhầy: Là sinh vật đơn bào hoặc cộng bào, Không có lục lạp và thành xenlulôzơ, Dị dưỡng hoại sinh Cơ thể thực chất là 1 khối chất nguyên sinh đa nhân Sinh sản bằng cách hình thành bào tử

- Động vật nguyên sinh: là ngành động vật nguyên thủy nhất (Protozoa). Động vật nguyên sinh là những động vật có cấu tạo cơ thể từ một tế bào, xuất hiện sớm nhất trên hành tinh của chúng ta nhưng khoa học lại phát hiện ra chúng tương đối muộn Chúng phân bố ở khắp nơi: đất, nước, mặn, nước ngọt, ... kể cả trong cơ thể của các sinh vật khác. Động vật nguyên sinh có hơn 30 nghìn loài, chia trong 6 lớp: Trùng chân giả, Trùng roi, Trùng bào tử, Trùng bào tử gai, Trùng vi bào tử và Trùng cỏ.

c) Giới nấm

- Giới nấm gồm những sinh vật nhân thực, cơ thể đơn hoặc đa bào, có cấu trúc dạng sợi.

- Nấm khác với tảo ở chỗ không có chất diệp lục nên đời sống chúng là hoại sinh hoặc kí sinh giống như vi khuẩn.

- Các dạng nấm gồm có: nấm men, nấm sợi, nấm đảm, chúng có nhiều đặc điểm khác nhau.

- Người ta cũng xếp địa y vào giới nấm

Địa y là một dạng đặc biệt được hình thành do sự chung sống giữa một số loại tảo và nấm. Các sợi nấm hút nước và muối khoáng cung cấp cho tảo. Tảo nhờ có chất diệp lục sử dụng được những chất đó để tạo thành những chất dinh dưỡng nuôi sống cả hai bên, thành ra trong cuộc sống chung này tảo và nấm đều có vai trò nhất định, không bên nào phụ thuộc vào bên nào. Hình thức sống này được gọi là sống cộng sinh.

Về hình dạng bên ngoài, địa y có thể hình vảy, đó là những bản mỏng dính chặt vào vỏ cây hoặc hình cành trông giống như một cành cây nhỏ phân nhánh, cũng có khi như một búi sợi mắc vào cành cây.

- Một số ví dụ về nấm:

Cơm nguội hoặc ruột bánh mỳ để thiu chỉ sau vài ngày sẽ thấy trên khắp bề mặt xuất hiện những sợi nhỏ màu trắng như bông, chằng chịt lấy nhau, đó là mốc trắng. Mốc trắng ngày thuộc nhóm nấm.

Ngoài mốc trắng, trong tự nhiên ta còn hay gặp mốc rượu để ủ xôi làm rượu, mốc tương để làm tương, mốc xanh hay gặp trên vỏ cam, vỏ bưởi.

Nấm rơm thường mọc quanh chân các đống rơm, rạ mục, trên đất ẩm. Nấm rơm là loại nấm lớn. “Cây nấm” như ta vẫn quen gọi thật ra là cơ quan sinh sản của nấm, còn cơ quan sinh dưỡng thì bám trên các sợi rơm rạ, đó là những sợi nấm màu trắng. Nấm rơm cũng hoại sinh như mốc trắng: nó hút nước, chất hữu cơ có sẵn trong rơm, rạ mục mà lớn lên.

Từ lâu người ta đã biết sử dụng nấm men để sản xuất rượu bia. Nấm men sinh sôi nhanh, tế bào lại chứa nhiều vitamin, acid amin không thay thế, hàm lượng protein chiếm tới 50% trọng lượng khô của tế bào, nên nhiều loại nấm men còn được sử dụng để sản xuất protein. Ngoài ra nấm men còn được sử dụng trong công nghệ sản xuất bánh mì. Tuy nhiên, cũng có nhiều loại nấm men có hại, gây bệnh cho người và gia súc, làm hư hỏng lương thực, thực phẩm.

d) Giới thực vật

- Giới thực vật không chỉ gồm các cây xanh có hoa, quả mà còn gồm cả những dạng chưa có thân, rễ, lá. Chúng được chia thành hai nhóm lớn là thực vật không mạch và thực vật có mạch. Hai nhóm này có mức độ tổ chức cơ thể khác nhau.

- Thực vật không mạch: là những thực vật mà cơ thể của chúng chưa có thân, rễ, lá thực sự. Theo xu hướng phân loại hiện nay Tảo đơn bào được xếp vào Giới Protista (Giới Nguyên sinh vật).

Tảo đa bào được xếp vào Giới thực vật (Plantae).

Rêu: Thường mọc ở những nơi ẩm ướt như chân tường, trên đất ẩm, trên các tảng đá ở trong rừng hoặc trên thân cây to. Chúng thường mọc từng đám tạo nên một lớp thảm mềm như nhung màu lục tươi. Cấu tạo còn đơn giản, chưa có mạch dẫn và chưa có rễ thực, chưa có hoa. Sinh sản bằng bào tử.

- Thực vật có mạch: là những thực vật có thân, rễ, lá. Chúng gồm các nhóm: quyết, hạt trần, hạt kín.

Quyết: là những thực vật đã có thân, rễ, lá thực và có mạch dẫn ở bên trong, chúng sinh sản dạng bào tử. Những quyết đang sống hiện nay có dạng thân cỏ nhưng mấy trăm triệu năm trước đây có những cây quyết thân gỗ rất lớn, chúng chết đi để lại nhiều mỏ than đá khổng lồ.

Hạt trần: là nhóm thực vật đã có tổ chức cao, thân gỗ cấu tạo phức tạp, có mạch dẫn. Chúng sinh sản bằng hạt, nhưng hạt không nằm trong quả mà nằm lộ trên các vảy (lá noãn hở). Vì vậy mới có tên là hạt trần. Chúng chưa có hoa và quả. Ví dụ: Thông, samu, pơmu, kim giao, tuế, trắc bách diệp…

Hạt kín: là nhóm thực vật lớn và rất quan trọng, có thân, rễ, lá phát triển và đa dạng (thân gỗ, thân cỏ, rễ trụ, rễ chùm), có hoa. Chia thành lớp một lá mầm và hai lá mầm.

- Giới thực vật cung cấp thức ăn cho giới động vật, điều hòa khí hậu, hạn chế xói mòn, sụt lở, lũ lụt, hạn hán, giữ nguồn nước ngầm và có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái

- Cung cấp lương thực, thực phẩm, gỗ, dược liệu cho con người

e) Giới động vật

- Phân giới Động vật cận đa bào gồm một ngành Thân lỗ.

- Phân giới Động vật đa bào chính thức gồm 2 nhóm lớn:

+ Động vật có đối xứng tỏa tròn chỉ gồm ngành Ruột khoang.

+ Động vật có đối xứng hai bên lại được chia làm các nhóm:

Động vật chưa có thể xoang gồm các ngành Giun dẹp, Giun tròn.

Động vật có thể xoang còn được phân ra thành:

Động vật có miệng nguyên sinh gồm các ngành Giun đốt, Thân mềm và Chân khớp.

Động vật có miệng thứ sinh gồm 2 ngành là Da gai và Động vật có dây sống.

- Gồm những sinh vật đa bào, nhân thực, dị dưỡng, có khả năng di chuyển (nhờ có cơ quan vận động), có khả năng di chuyển

- Rất đa dạng và phong phú, cơ thể có cấu trúc phức tạp với các cơ quan và hệ cơ quan chuyên hóa cao.

- Động vật có vai trò quan trọng đối với tự nhiên (góp phần làm cân bằng hệ sinh thái) và con người (cung cấp nguyên liệu, thức ăn…)

- Sự giống nhau giữa động vật và thực vật:

Cơ thể động vật có cấu tạo tế bào, có các hoạt động sống như dinh dưỡng, hô hấp, sinh trưởng thường xuyên được diễn ra trong cơ thể như ở thực vật.

- Sự khác nhau giữa động vật và thực vật:

§      Cấu tạo tế bào động vật khác tế bào thực vật: tế bào thực vật có cấu tạo từ xenlullo và có chlorophil (diệp lục).

§      Thực vật tổng hợp được chất hữu cơ từ CO2 và H2O bằng năng lượng mặt trời còn động vật chỉ có thể dùng chất hữu cơ có sẵn lấy từ động vật và thực vật khác.

§      Ngoài ra động vật còn có cơ quan di chuyển, có hệ thần kinh, các giác quan mà ở thực vật không có.

Câu 2: Thế nào gọi là dòng vật chất, dòng năng lượng? Trong dòng vật chất có những chu trình gì?

Dòng dịch chuyển năng lượng

      Bất kỳ Hệ sinh thái nào cũng có 1 dòng dịch chuyển năng lượng từ ánh sáng mặt trời (dạng quang năng) vào cơ thể sinh vật, qua quá trình quang hợp + muối khoáng dưới lòng đất, chúng tạo thành năng lượng hoá năng dự trữ trong cây và nuôi dưỡng chúng. Khi sinh vật tiêu thụ ăn sinh vật sản xuất thì năng lượng trong sinh vật sản xuất được chuyển sang cho sinh vật tiêu thụ hấp thụ. Khi các sinh vật tiêu thụ chết đi, sinh vật phân huỷ thực hiện chức năng của mình là phân huỷ tạo thành một phần năng lượng nuôi dưỡng sinh vật sản xuất, phần còn lại phân tán vào môi trường.

      Như vậy, dòng năng lượng là dòng hở, 1 chiều, chuyển dịch từ bậc nọ sang bậc kia ( từ SVSX sang SVTT).

Dòng dịch chuyển vật chất

      Tất cả các sinh vật đều cần những chất nhất định để tồn tại. CO2 và H2O là những chất vô cơ quan trọng cho sự quang hợp ở thực vật từ đó cung cấp năng lượng thực phẩm đến sinh vật. Dưới tác dụng của ánh sáng và diệp lục, các chất vô cơ đó tạo thành đường Glucozơ (C6H12O6) nuôi dưỡng chúng. Các SVTT ăn SVSX, các chất dinh dưỡng trong SVSX được chuyển sang cho SVTT. Khi SVTT chết đi, các vi sinh vật phân giải thực hiện chức năng phân giải các chất hữu cơ thành các chất vô cơ, trong quá trình phân huỷ chúng thải ra các chất thải của mình, các chất thải này 1 phần được tái tạo phục vụ cho sự tồn tại các sinh vật trên trái đất, 1 phần phát tán trở lại môi trường.

Tóm lại: Dòng dịch chuyển năng lượng xảy ra đồng thời với dòng tuần hoàn vật chất ở Hệ sinh thái. Dòng năng lượng không được sử dụng lại mà chúng phân tán, mất đi dưới dạng nhiệt (dòng năng lượng là dòng hở), còn dòng vật chất là dòng khép kín, nhiều vòng. Dòng vật chất đã nói lên Định luật bảo toàn khối lượng: “Vật chất không tự nhiên sinh ra hoặc mất đi, mà nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác mà thôi”.

Sự vận động của vật chất

Tất cả các cơ thể đều cần những chất nhất định để sống. Cacbon dioxin và nước là vật liệu thô quan trọng cho sự quang hợp – quá trình mà qua đó tất cả các cơ thể thu được năng lượng thực phẩm. Nitro là một thành phần của chất protein, chất đặc trưng của cây cối động vật, photpho và canxi rất cần cho xương và răng.

Vậy những chất đó có từ đâu? Mặc dù trái đất có một nguồn năng lượng liên tục –mặt trời – nhưng nó không có được nguồn vật chất vô hạn. Với tất cả mục đích thực tiễn, số lượng vật chất trên trái đất là cố định và có giới hạn. Nhưng đã hàng triệu năm nay các vật chất cần thiết cho đời sống liên tục được quay vòng và tái tuần hoàn trong hệ sinh thái của trái đất. Theo cách này, cơ cơ thể sống không chỉ nhận được các chất dinh dưỡng cần thiết mà còn đóng vai trò chủ yếu trong việc tái tuần hoàn chung.

Khác với nguồn năng lượng một chiều qua các mạng lưới thực phẩm, sự vận động của các vật chất trong hệ sinh thái được hoàn thiện qua một loạt các chu trình phụ phức tạp, liên kết với nhau và giới hạn bởi trái đất.

a)                      Chu trình cácbon

Dưới tác dụng của ánh sáng, cây xanh hấp thụ khí CO2 trong khí quyển biến nó thành cacbonhydrat để cây phát triển. Động vật sống bằng thức ăn từ thực vật. Bị vùi lấp dưới đất và trong điều kiện thiếu không khí động thực vật bị phân huỷ thành than. Than gỗ khi bị đốt cháy nhả lại khí CO2 cho khí quyển.

- Sự trao đổi các bon giữa cơ thể và khí quyển. Các cây xanh nhận CO2 từ không khí rồi qua quá trình quang hợp nó tổng hợp C vào thực phẩm. Cả sinh vật sản xuất và sinh vật tiêu thụ chuyển một phần chất các bon này trong thực phẩm trở lại thành CO2 như một sản phẩm phụ của sự hô hấp.

Chất CO2 này sau đó được thải ra khí quyển. Chất C thấm vào cây cối và động vật chết cũng được quay trở về khí quyển dưới tác dụng của vi sinh vật phân huỷ. Ngoài ra  cây chết và xác động vật vùi lấp lâu năm tạo thành than đá,dầu và khí đốt. Các vật chất này khi bị đốt cháy cho năng lượng để thực hiện công việc và C có trong nhiên liệu kết hợp với oxi trong không khí tạo thành CO2 rồi đi vào khí quyển.

- Sự trao đổi chất CO2 giữa khí quyển và đại dương: Sự trao đổi xuất hiện giữa bề mặt tiếp giáp nước và không khí và sự trao đổi này tăng thêm do tác động của gió và sóng biển. Tại đây nguồn CO2 xuất hiện theo hai hướng. Một sự tăng chất CO2 trong khí quyển có khuynh hướng được làm cân bằng bởi các đại dương tăng cường hấp thụ cacbon dioxit và điều này giữ mức cacbon cân bằng trong khí quyển. Ngược lại, tức là khi hàm lượng CO2 trong khí quyển giảm thì đại dương sẽ giải phóng lượng CO2 cần thiết vào khí quyển để bù lại.

- Sự hình thành đá vôi, dolomit và đá phiến sét có chứa than: Qua nhiều quá trình hình thành đá, chất cacbon được kết hợp thành vôi các thành phần này của nền đá. Sau đó là các quá trình hoá học và lý học (sự phong hoá) có thể phân ly các chất đó và giải phóng CO2 vào khí quyển.

b. Chu trình Nitơ trong thiên nhiên

- Nitơ là một thành phần của protein, chất nitơ rất cần thiết đối với tất cả các dạng của sự sống. - Các quá trình chuyển hoá nitơ tự do thành hợp chất:

Dưới tác dụng của tia chớp (điện năng của sét) nitơ và oxi trong khí quyển kết hợp với nhau tạo thành các oxit rồi chuyển thành axit nitric, axit nitric theo nước mưa vào trong đất thành nitrat, dạng này được cây cối hấp thụ.

Một quá trình tự nhiên khác làm cho nitơ dễ bị hấp thụ bởi cây cối đó là sự hoá hợp sinh học. Ở trong đất có các loại vi sinh vật đặc biệt kết hợp được khí nitơ với hydro để tạo thành NH3. Sau đó qua sự tổng hợp sinh học của một số vi khuẩn đặc biệt khác như vi khuẩn  sống trong nốt sần ở cây họ đậu chất NH3 trở thành chất nitrat.

Các nitrat nhanh chóng bị các dễ cây hấp thụ. ở trong cây, nitrat được kết hợp trong các hợp chất hữu cơ khác nhau, kể cả các loại protein và trong các dạng này nitơ đi qua các mạng lưới thực phẩm. Khi cây cối động vật chết đi và phân huỷ, chất nitơ lại trở thành amoniac và trở về trái đất.

Kết luận: Nói đến HST là nói đến những tác động qua lại giữa các cơ thể sống tạo nên HST đó. Nói đến năng lượng, nguồn vật chất ta phải thấy được mỗi một chu trình có ảnh hưởng và tác động đối với các chu trình khác xung quanh nó. Khi ta xác định sự ổn định của môi trường thì ta phải nghiên cứu sự cân bằng của hệ sinh thái

 

Câu 3: Quần thể là gì? Đặc điểm của quần thể? Cho ví dụ

Quần thể sinh vật:Tập hợp tất cả các cá thể của cùng một loài và cùng sống chung trong một nơi khác nhau về kích thước, lứa tuổi, giới tính… phân bổ trong vùng phân bổ của loài, chúng tự giao phối với nhau để tạo nên cá thể mới.

Đặc trưng của quần thể( 6 đặc trưng)

Quần thể là một tổ chức của sinh vật cao hơn cá thể có đặc trưng riêng về cấu trúc, mức sinh sản, mức tử vong, biến động về số lượng cá thể, điều chỉnh vùng phân bổ của mình.

1.                  Kích thước quần thể:(hay số lượng cá thể, sinh khối) xác định sự “cân bằng”với khả năng “dung nạp” (chứa) của môi trường. Nghiên cứu về quần thể thì điều quan trọng nhất là phải xác định được kích thước của nó, phải tính được số lượng cá thể của nó.

2.                  Mỗi quần thể có sự phân bổ theo không gian những cá thể của nó.

Có 3 kiểu phân bổ: Phân bổ đều, phân bổ ngẫu nhiên, và phân bổ theo nhóm. Phân bổ theo nhóm là kiểu phân bổ phổ biến. Phân bổ đều thường xuất hiện trong điều kiện môi trường đồng nhất như ở nước, đồng cỏ

3.                  Mỗi quần thể đều có cấu trúc về thành phần tuổi. Cấu trúc tuổi của mỗi quần thể phản ánh tỷ lệ của từng nhóm tuổi  giữa c0n n0n, c0n tru0ng thành, c0n già yếu trong quần thể ra sao

4.                  Cấu trúc sinh sản và giới tínhlà tỷ lệ giữa số lượng cá thể đực và cá thể cái. Cấu trúc tuổi và giới tính có ảnh hưởng quan trọng đến tỷ lệ sinh tử và biến động số lượng của quần thể.

5.                  Mỗi quần thể có đặc trưng riêng về tốc độ tăng trưởng, về kích thước (số lượng) và sự biến động về số lượng cá thể theo thời gian, theo mùa, theo chu kỳ.từ đó ảnh hưởng tới mật độ của quần thể. Sự thay đổi về số lượng cá thể phụ thuộc vào hai yếu tố: tỷ lệ sinh tức là số cá thể được sinh ra (trên một kích cỡ quần thể). Có hai yếu tố khác là số cá thể di cư sang sống ở ngoài quần thể và số cá thể từ ngoài quần thể nhập vào.Một đặc trưng nữa của quần thể là sự biến động số lượng cá thể theo mùa và theo thời gian nhiều năm. Biến động theo mùa là do mùa sinh sản nhiều, và mùa tử vong nhiều và những mùa này mang tính chất chu kỳ. Biến động theo chu kỳ nhiều năm phụ thuộc vào nhiều yếu tố môi trường mà quần thể chịu tác động như kẻ địch, dịch bệnh, cơ sở thức ăn, thời tiết, khai thác bởi con người….

6.                  Sự phân dị của quần thể khác nhau về hình thái,về chất và về lu0ng của các cá thể tr0ng l0ai.

Tồn tại và phát triển trong các điều kiện môi trường nhất định , mỗi quần thể đều có những thích nghi riêng. Nếu sự thay đổi về điều kiện vẫn nằm trong giới hạn thích ứng thì quần thể tồn tại và phát triển, nếu vượt ra khỏi giới hạn đó thì quần thể sẽ đi đến tiêu diệt.

Ví dụ: quần thể cá chép trong ao

Câu 4: Thế nào là chuỗi và mạng lưới thức ăn? Có bao nhiêu kiểu quan hệ dinh dưỡng

Chuỗi thức ăn và mạng lưới thức ăn:

      Các thành phần của quần xã sinh vật gắn bó với nhau bằng những mối quan hệ và quan hệ dinh dưỡng có vai trò cực kì quan trọng được thể hiện qua chuỗi thức ăn và mạng lưới thức ăn.

      - Chuỗi thức ăn: Là một dãy nhiều loài sinh vật có quan hệ dinh dưỡng với nhau. Mỗi loài là một mắt xích, vừa là sinh vật tiêu thụ mắt xích phía trước vừa là sinh vật bị mắt xích phía sau tiêu thụ.

      Trong chuỗi thức ăn thường có: sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ và sinh vật phân huỷ

      Ví dụ: Cỏ            châu chấu           rắn            đại bàng            vsv phân huỷ

      -Mạng lưới thức ăn: Mỗi loài trong quần xã sinh vật thường là mắt xích chung của nhiều chuỗi thức ăn. Các chuỗi thức ăn có nhiều mắt xích chung tạo thành mạng lưới thức ăn.

VD:              Sâu bọ                 chim sẻ

Cỏ                châu chấu             rắn                đại bàng               vsv phân huỷ

              Thỏ                     cáo

Các kiểu quan hệ dinh dưỡng:

Tương tác giữa các quần thể sinh vật trong hệ sinh thái về nguyên tắc là tổ hợp tương tác của các cặp quần thể. Có các loại quan hệ sau đây:

·                     Quan hệ trung lập: Quan hệ của các loài sinh vật sống bên cạnh nhau nhưng loài này không làm lợi hoặc gây hại cho loài kia. Ví dụ: chim và động vật ăn cỏ.

·                     Quan hệ lợi một bên: Hai loài sinh vật sống chung trên một địa bàn, một loài lợi dụng điều kiện do loài kia đem lại nhưng không gây hại cho loài thứ hai. Ví dụ: Vi khuẩn cố định đạm, vi khuẩn sống trong đường ruột động vật lợi dụng thức ăn và môi trường sống của cơ thể động vật nhưng không gây hại hoặc ít gây hại cho vật chủ.

·                     Quan hệ ký sinh: Là quan hệ của loài sinh vật sống dựa vào cơ thể sinh vật chủ với vật chủ có thể gây hại và giết chết vật chủ: giun, sán trong cơ thể động vật và con người.

·                     Quan hệ thú dữ - con mồi: Là quan hệ giữa một loài là thú ăn thịt và loài kia là con mồi như giữa sư tử, hổ, báo và các loài động vật ăn cỏ.

·                     Quan hệ cộng sinh: Là quan hệ của hai loài sinh vật sống dựa vào nhau, loài này đem lại lợi ích cho loài kia và ngược lại. Ví dụ: Tảo và địa y, tảo cung cấp thức ăn cho địa y, còn địa y tạo ra môi trường cư trú cho tảo.

·                     Quan hệ cạnh tranh: Là quan hệ giữa hai hay nhiều loài cạnh tranh với nhau về nguồn thức ăn và không gian sống có thể dẫn tới việc loài này tiêu diệt loài kia. Ví dụ: quan hệ giữa thỏ và vật nuôi ở châu Úc trong cuộc cạnh tranh giành các đồng cỏ.

·                     Quan hệ giữa nhiều loài: Trong thực tế các loài sinh vật có thể thay đổi quan hệ theo thời gian. Ví dụ: quan hệ giữa chuột và rắn trong một quần đảo Thái bình dương trong một năm có thể thay đổi: Mùa đông - chuột bắt rắn, chuột là thú ăn thịt; Mùa hè - rắn bắt chuột, rắn là thú ăn thịt.

Trong các quan hệ trên 2 loại quan hệ giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái tự nhiên là quan hệ thú dữ - con mồi và quan hệ ký sinh. Quan hệ thú dữ - con mồi giúp cho quần thể con mồi duy trì tính chống chịu cao với thiên nhiên, không phát triển bùng nổ về số lượng cá thể. Quan hệ ký sinh giúp cho việc diệt trừ sâu bệnh và các loài có hại đối với con người giữ cho số lượng sâu bệnh nằm trong giới hạn nhất định.

Câu 5: Ô nhiễm môi trường không khí là gì?

1. Ônhiễm không khí

Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự toả mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa (do bụi).

 Ô nhiễm không khí: MT không khí bị coi là ô nhiễm khi các thành phần bị biến đổi khác với trạng thái bình thường. Chất gây ô nhiễm là chất có trong khí quyển ở nồng độ cao hơn nồng độ bình thường của nó trong không khí hoặc chất đó thường không có trong không khí

Sự ô nhiễm không khí là kết quả của việc thải ra các khí, hơi, giọt và các lượng khí khác có nồng độ vượt quá thành phần bình thường trong không khí gây nên các tác động có hại hoặc gây sự khó chịu (do mùi, do bụi…).

2. Các chất gây ô nhiễm MT không khí

a. Các loại bụi

Bụi là tập hợp nhiều hạt vật chất vô cơ hoặc hưu cơ, có kích thước nhỏ bé tồn tại trong không khí dưới dạng bụi bay, bụi lắng, hơi, khói và sương mù.

Người ta thường dựa vào các đặc tính khác nhau của bụi để phân loại

+ Theo nguồn gốc: bụi hữu cơ, bụi vô cơ, bụi tự nhiên, bụi nhân tạo

+ Theo kích thước :     > 10 mm : bụi

                                     0,1¸10 mm : sương mù

                                    < 0,1 mm : khói

+ Theo tác hại của bụi: bụi gây viêm mũi, ung thư, nhiễm trùng, xơ phổi,…

Tác hại bụi: gây bệnh phổi, bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da, bệnh ở đường tiêu hoá…

b. Các chất độc hại dạng khí

Các chất độc hại trong không khí :

Nguồn gốc: do SX công nghiệp và quá trình đốt cháy nhiên liệu thải ra MT không khí các chất độc hại

Phân loại : Dựa vào tác dụng chủ yếu của chất độc

+ Nhóm 1: gây bỏng da, kích thích da

Gây bỏng: nặng nhẹ do hoá chất đặc hay loãng. HNO3  gây bỏng nhanh làm cho người choáng, khó thở, sốt cao gây chết người.

Gây bỏng niêm mạc: hít chất độc, hoá chất dây vào mồm, mũi mắt làm bỏng rộp, sưng đỏ niêm mạc và đau đớn. Nếu ở mắt dẫn tới giảm thị lực gây mù

+ Nhóm 2: chất kích thích đường hô hấp.

        Cl2, NH3, SO3, SO2, NO, HCl...

Các chất này hoà tan trong niêm dịch tạo ra axit gây phù phổi

+ Nhóm 3: chất gây ngạt

Gây ngạt đơn thuần: CO2, CH4, C2H6....

            Gây ngạt hoá học: CO hoá hợp chất khác làm mất khả năng vận chuyển O2 của hồng cầu làm cho hô hấp bị rối loạn

            + Nhóm 4: Chất tác dụng hệ thần kinh trung ương , gây mê, gây tê như các loại rượu mạnh, H2S, CS2, xăng...

            + Nhóm 5: chất gây độc : hidrocacbua halogen, CH3Cl, CH3Br...

 Gây tổn thương cho hệ thống tạo máu: C6H6, Pb, As, Cd, Hg,...

 Các chất độc hại có thể xâm nhập vào cơ thể theo đường hô hấp, đường tiêu hoá, thấm qua da, qua các tuyến mồ hôi, lỗ lông chân..

3. Giải pháp phòng chống ô nhiễm MT không khí:

a.  Giải pháp qui hoạch:

Việc quy hoạch đô thị nông thôn, bố trí khu công nghiệp khu dân cư nói chung, hoặc quy hoạch bố trí một công trình cụ thể có ý nghĩa quan trọng đối với việc phòng chống ô nhiễm MT không khí.

Cần bố trí sắp xếp các công trình hợp lí theo mặt bằng, theo địa hình, theo không gian, phải đáp ứng các yêu cầu về MT.

Một số nguyên tắc trong việc thiết lập mặt bằng chung khu công nghiệp để phòng chống ô nhiễm MT không khí.

-  Hình thành các nhà máy với các tổ hợp công nghệ độc lập

-  Hợp khối

-  Phân khu hợp lí theo các giai đoạn phát triển mở rộng.

- Tập trung các đường ống công nghệ (nghĩa là: trong nhà máy: phân định rõ khu SX, khu phụ trợ, kho hàng, khu hành chính… Cần sắp xếp để khi mở rộng quy mô không ảnh hưởng đến SX, tạo điều kiện khai thác nhà máy thuận lợi, dễ dàng tập trung các nguồn thải, các thiết bị sạch, các hệ thống xử lí không khí, các thiết bị kiểm tra kiểm soát và báo động ô nhiễm MT.

b.  Giải pháp cách li vệ sinh làm giảm sự ô nhiễm:

        - Tuỳ theo công nghệ SX và khối lượng chất thải gây ra ô nhiễm MT không khí xung quanh mà thiết kế cách li vệ sinh giữa khu nhà máy và khu dân cư. Thường thì dải cách ly  ở trong khoảng 50 – 1000m.

        - Dải cách ly này nhằm đảm bảo để nồng độ chất độc hại ở khu vực dân cư không vượt quá nồng độ cho phép

c.  Giải pháp công nghệ kỹ thuật

Mục đích hoàn thiện công nghệ SX, sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, công nghệ SX kín, giảm các khâu thủ công, áp dụng cơ giới hoá và tự động hoá trong dây chuyền SX, tăng năng suất lao động, đảm bảo chất lượng sản phẩm, an toàn cho người lao động và vệ sinh MT.

Với giải pháp này thì chất độc hại không toả ra hoặc toả ra rất ít vào MT không khí xung quanh, các khí thải được thu gom tập trung theo đường ống kín thải ra ngoài.

d.  Giải pháp  kỹ thuật làm sạch khí thải

Căn cứ vào thành phần, tính chất, kích thước và khối lượng chất thải mà sử dụng các công nghệ làm sạch khác nhau.

Ví dụ: thu gom và lọc bụi trước khi thải khí ra ngoài thì dựa vào kích thước hạt bụi, vận tốc tách các hạt bụi ra khỏi không khí…(lọc li tâm, lưới lọc kim loại…)

e.  Giải pháp sinh thái học

 Mục đích là đảm bảo hệ sinh thái cân bằng quan trọng nhất là cây xanh (có tác dụng điều hoà khí hậu, ban ngày cây xanh hấp thụ nhiệt bức xạ mặt trời, hút CO2 và thải O2. Nơi có nhiều cây xanh nhiệt độ thấp, có tác dụng che nắng, giảm  bớt tiếng ồn gây cảm giác thoải mái dễ chịu. Ngoài ra không khí có bụi khi đi qua lùm cây thì một số bụi bị giữ lại giúp cho không khí sạch hơn. Ngoài ra cây xanh còn có phản ứng với các chất độc hại nhanh hơn người và động vật).

f.  Giải pháp quản lí, luật bảo vệ MT không khí :

- Có luật bảo vệ MT, các tiêu chuẩn vệ sinh, thành lập các cơ quan kiểm tra kiểm soát quản lí về MT cụ thể.

- Nếu đơn vị SX nào không chấp hành nghiêm chỉnh luật bảo vệ MT thì sẽ bị ngừng SX, đền bù thiệt hại.

- Khuyến khích các nhà máy áp dụng công nghệ dây chuyền hiện đại.

- Tổ chức kiểm soát chất thải.

4. Công nghệ xử lý khí thải

a. Phương pháp thiêu huỷ khí thải

Phương pháp này được sử dụng trong các trường hợp khi mà khí thải của các quá trình công nghệ không thể thu hồi hoặc tái sinh được. Phương pháp này được phân chia làm hai loại: có xúc tác và không có xúc tác.

Thiêu huỷ không có chất xúc tác được thực hiện khi dốt trực tiếp khí thải ở nhiệt độ cao: 800 đến 11000C. Phương pháp này áp dụng đối với khí thải có nồng độ độc hại cao (vượt quá giới hạn bốc cháy) và có hàm lượng oxi đủ lớn. Có thể thiêu cháy khí thải ở trong các lò đốt khi cần tận dụng lượng nhiệt khá lớn toả ra.

Thiêu huỷ không có chất xúc tác cần diện tích bề mặt tiếp xúc lớn và nhiệt độ thiêu đốt khoảng 250 đến 3000C. Trong phương pháp này thường sử dụng các bề mặt kim loại như các dải băng bạch kim, đồng, crôm, ni ken…làm chất xúc tác. Làm sạch khí thải bằng phương pháp này có giá thành rẻ hơn so với phương pháp thiêu đốt không có xúc tác. Phương pháp có chất xúc tác thương thích hợp cho các khí độc hại có nồng độ thấp gần với giới hạn bắt lửa.

b. Phương pháp hấp thụ  

Hơi và khí độc khi đi qua lớp chất hấp phụ bị giữ lại nhờ hiện tượng hấp phụ. Nếu ta chọn được các chất hấp phụ chọn lọc thì có thể loại bỏ được các chất độc hại mà không ảnh hưởng đến thành phần các khí không có hại khác.

Một thiết bị hấp phụ về cơ bản có hình dạng như hình trên. Gồm: bộ phận hóa lỏng, bộ phận than hoạt tính, dàn cấp khí fusion grate. Và khí sẽ đc lọc qua hệ thống thiết bị này. Thông thường, có hai cách để áp dụng phương pháp hấp phụ xử lý chất thải trong công nghiệp.

*Cách thứ nhất là sử dụng thiết bị hấp phụ định kỳ, tức là trên một tháp hấp phụ, người ta nhồi chất hấp phụ vào và cho chất bị hấp phụ đi qua đó. Sau một thời gian nhất định chất hấp phụ đã " no" (đã bão hoà chất bị hấp phụ) thì quá trình hấp phụ được dừng lại để tháo bỏ chất hấp phụ đã "no" và đưa lượng chất hấp phụ mới vào. Trong thực tế, ta thường dùng biện pháp tái sinh lại chất hấp phụ để sử dụng lại và thu chất bị hấp phụ.Việc tái sinh thường được thực hiện với sự có mặt của hơi nước hoặc khí nóng.

*Cách thứ hai là sử dụng thiết bị hấp phụ liên tục, trong đó chất hấp phụ được chuyển động ngược dòng với chất bị hấp phụ.

c. Phương pháp hấp phụ

Hấp phụ là một hiện tượng (quá trình) gây ra sự tăng nồng độ của một chất hoặc
một hỗn hợp chất trên bề mặt tiếp xúc giữa hai pha (rắn - khí, rắn - lỏng, lỏng - khí).

Các phần tử của cùng một chất nằm ở bề mặt và bên trong khối chất đó thường chịu mức độ tương tác khác nhau dẫn đến hành vi của chúng cũng khác nhau.

Khi bề mặt khối chất tiếp xúc với các phần tử của chất khác, các phần tử trên bề mặt khối chất đó tác dụng lên các phần tử của pha khác những lực hướng về phía mình nhằm cân bằng về lực theo mọi hướng. Đây chính là nguyên nhân của sự hấp phụ chất trên bề mặt chất khác.

Chất giữ chất khác trên bề mặt của nó thì được gọi là chất hấp phụ. Ngược lại chất được giữ lại trên bề mặt của một chất nào đó thì gọi là chất bị hấp phụ.

Trong trường hợp tương tác giữa bề mặt chất rắn với các phân tử khí hoặc lỏng khi chúng tiếp xúc với nhau mà mạnh, tương tự như tương tác trong một phản ứng hóa học, chúng sẽ tạo nên một hợp chất mới trên bề mặt tiếp xúc - hợp chất bề mặt. Như vậy thực chất có thể chia hấp phụ làm hai loại: Hấp phụ vật lý và hấp phụ hóa học.

1. Hấp phụ vật lý

Là loại hấp phụ gây ra do tương tác yếu giữa các phân tử; nó giống như tương tác trong hiện tượng ngưng tụ. Lực tương tác là lực van der Waals. Trong nhiều quá trình hấp phụ khí, sự hấp phụ có thể xảy ra dưới tác động của các lực phân tử gây ra sự vi phạm các định luật khí lý tưởng và hiện tượng ngưng tụ. Dạng hấp phụ này còn gọi là hấp phụ phân tử hay hấp phụ van der Waals.

2. Hấp phụ hóa học

Là loại hấp phụ gây ra do tương tác mạnh giữa các phân tử và tạo ra hợp chất bề mặt giữa bề mặt chất hấp phụ và các phần tử bị hấp phụ. Hấp phụ hoá học được tạo ra do áp lực hoá học. Thông thường ở nhiệt độ thấp, tộc độ hấp phụ hoá học cũng chậm. Khi tăng nhiệt độ, tốc độ hấp phụ hoá học tăng nhưng lại làm giảm quá trình hấp phụ vật lý. Sự hình thành các hợp chất bề mặt liên quan rất nhiều đến hàng rào hoạt hoá đặc trưng cho quá trình tương tác giữa các phân tử khí và các nguyên tử bề mặt chất rắn. Vì vậy hấp phụ hoá học còn được gọi là hấp phụ hoạt hoá (tuy nhiên không phải lúc nào cũng vậy). Nhiệt hấp phụ của chất khí lên chất hấp phụ rắn bao giờ cũng mang dấu dương, vì vậy để đáp ứng những yêu cầu về nhiệt động học thì giá trị cân bằng của lượng chất hấp phụ bao giờ cũng giảm khi nhiệt độ tăng.

d. Phương pháp sinh hoá - vi sinh

Phương pháp này là lợi dụng các vi sinh vật để hấp phụ, phân huỷ các khí có thành phần độc hại trong dòng khí thải. Ngoài ra các vi sinh vật còn tiêu thụ một phần đáng kể các tạp chất có trong hỗn hợp khí.

Câu 11: Các nguồn ô nhiễm nước

1)                  Nguồn nhân tạo:

a)                  Nguồn thành thị: Bao gồm nước thải ra từ các khu sinh hoạt của dân cư có thể đã được thu bởi hệ thống thoát nước, qua các trạm xử lý trước khi xả ra nguồn.

Nguồn thành thị cũng bao gồm hỗn hợp nước thải và nước mưa chảy trực tiếp ra nguồn nước mà không qua xử lý

b)                  Công nghiệp

·                         Sự phát triển công nghiệp làm tăng nhu cầu về nước, nhất là các ngành chế biến  thực phẩm, giấy, hóa chất, luyện kim, dầu mỏ…

·                         Bao gồm:

o        Nước thải bẩn

§      Tạo thành trong quá trình công nghệ

§      Có hàm lượng các chất ô nhiễm quá mức cho phép,

§      Thành phần đa dạng và phức tạp tùy thuộc loại hình sản xuất, dây chuyền công nghệ, thành phần nguyên liệu, chất lượng sản phẩm…

§      Trong nước thải sản xuất, có nhiều các loại cặn lơ lửng, các chất hữu cơ (axit, este, phenol, dầu mỡ…), các chất độc (xianua, arsen, thủy ngân, muối đồng…), các chất gây mùi, các muối khoáng và một số đồng vị phóng xạ…

o        Nước thải quy ước sạch

§      Chủ yếu là nước làm nguội máy móc, thiết bị

Có thể dùng lại trong hệ thống cung cấp nước tuần hoàn cho nhà máy.

c)                      Nông nghiệp: Bao gồm các loại phân hoá học, thuốc trừ sâu, diệt cỏ…. Là những nguồn gây ô nhiễm đáng kể. Tổng số các chất thải nông nghiệp xả vào nguồn nước khá lớn, đặc biệt là những vùng nông nghiệp đã phát triển.

d)                Hoạt động của tàu thuyền

·                         Làm tăng lượng dầu mỡ trong nước: do va chạm, do rửa tàu, bơm dầu và rơi vãi…

·                         Ô nhiễm nước do dầu mỏ và sản phẩm của chúng làm giảm tính chất hóa lý của nước, tạo lớp váng mỏng phủ lên mặt biển, ngăn cách biển và khí quyển, ngăn cản sự trao đổi oxy giữa biển và khí quyển, ngăn cản trao đổi nhiệt…

2)                  Nguồn tự nhiên: bao gồm các loại sau:

+ Nước mưa: xả vào nguồn một lượng lớn các chât hữu cơ từ quá trình phân huỷ động vật và thực vật, các chất hữu cơ từ xói mòn đất. Đôi khi trong đất mùn còn chứa nhiều chất mềm và mầu.

+ Các sinh vật nước đồng thời cũng là nguồn tự nhiên gây ô nhiễm. Thông thường, sự phát triển của động vật và thực vật trong nước phụ thuộc vào chất dinh dưỡng có trong nguồn. Khi chất dinh dưỡng trong nguồn quá nhiều thì các sinh vật sẽ phát triển mạnh và khi chết đi gây ô nhiễm cho nguồn.

Câu 12: Các vấn đề về nước:

Thiếu nước ngọt: Chỉ một phần rất nhỏ từ nguồn nước phong phú trên hành tinh mà chúng ta có thể sử dụng được là nước ngọt. Có khoảng 97% là nước biển mặn chỉ còn lại khoảng 3% nước ngọt trong đó có tới 2.997% lượng nước này bị đóng băng và chôn sâu ở  các vùng cực, chỉ còn lại 0.003% của tổng thể tích nước trên Trái đất là để sử dụng. Phần này bao gồm nước ngầm, hơi nước, nước mặt từ các sông hồ và độ ẩm từ đất. Số lượng nước ngọt có thể sử dụng luôn được tuần hoàn trong chu trình hydro. Về định lượng và định tính, nước giữ vai trò chính trong việc chuyển đổi những hệ sinh thái do con người tạo ra và trong việc ổn định hoá những hệ sinh thái này.

Có bốn nhuyên nhân của sự khan hiếm nước ngọt:

- Do khí hậu khô

- Do hạn hán

- Do sự làm khô hạn

- Do áp lực sử dụng nước

 Quá nhiều nước: Một số quốc gia có đủ nước mưa hàng năm nhưng hầu hết lại nhận được trong cùng một thời gian. Ví dụ ấn Độ, 90% cử lượng mưa hàng năm đổ xuống vào mùa mưa khoảng từ tháng bẩy đến tháng chín. Những cơn mưa kéo dài như trút xuống kéo dài làm ngập đất, lấy đi các chất dinh dưỡng của đất, làm trôi lớp đất mặt và là nguyên nhân gây ra các cơn lụt. Sự đô thị hoá làm tăng các cơn lụt là do việc thay thế cây xanh và đất bởi các công trình, đường cao tốc,…điều đó dẫn đến tăng tốc độ dòng chảy của các dòng nước mưa. Nếu mực nước biển tăng trong các thế kỉtới như dự báo thì một số vùng thấp ven biển, vùng đất ẩm ướt, các vùng đất trồng sẽ bị chìm xuống dưới mực nước biển.   

Liên hệ với VN:

Tài nguyên nước của Việt Nam có phong phú không?

Tài nguyên nước của Việt Nam nhìn chung khá phong phú. Việt Nam là nước có lượng mưa trung bình vào loại cao, khoảng 2000 mm/năm, gấp 2,6 lượng mưa trung bình của vùng lục địa trên Thế giới. Tổng lượng mưa trên toàn bộ lãnh thổ là 650 km3/năm, tạo ra dòng chảy mặt trong vùng nội địa là 324km3/năm. Vùng có lượng mưa cao là Bắc Quang 4.000-5.000mm/năm, tiếp đó là vùng núi cao Hoàng Liên Sơn, Tiên Yên, Móng Cái, Hoành Sơn, Đèo Cả, Bảo Lộc, Phú Quốc 3.000-4.000 mm/năm. Vùng mưa ít nhất là Ninh Thuận và Bình Thuận, vào khoảng 600-700 mm/năm.

Ngoài dòng chảy phát sinh trong vùng nội địa, hàng năm lãnh thổ Việt Nam nhận thêm lưu lượng từ Nam Trung Quốc và Lào, với số lượng khoảng 550 km3. Do vậy, tài nguyên nước mặt và nước ngầm có thể khai thác và sử dụng ở Việt Nam rất phong phú, khoảng 150 km3 nước mặt một năm và 10 triệu m3 nước ngầm một ngày. Tuy nhiên, do mật độ dân số vào loại cao, nên bình quân lượng nước sinh trong lãnh thổ trên đầu người là 4200m3/người, vào loại trung bình thấp trên Thế giới.

Các vấn đề môi trường liên quan với tài nguyên nước của Việt Nam gồm những nội dung gì?

Các vấn đề môi trường liên quan với tài nguyên nước của Việt Nam gồm các nội dung sau đây:

·                     Tình trạng thiếu nước mùa khô và lũ lụt mùa mưa đang xảy ra ở nhiều địa phương với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Ví dụ, giảm trữ lượng nước ở các hồ thuỷ điện lớn (Thác Bà, Trị An, Hoà Bình) hoặc lũ quét ở các tỉnh Sơn La, Tuyên Quang, Nghệ An v.v... Nguyên nhân chủ yếu là nạn chặt phá rừng.

·                     Tình trạng cạn kiệt nguồn nước ngầm, ô nhiễm nước ngầm, mặn hoá các thấu kính nước ngầm đang xảy ra ở các đô thị lớn và các tỉnh đồng bằng. Nước ngầm ở các khu dân cư tập trung đang bị ô nhiễm bởi nước thải không xử lý. Các thấu kính nước ngầm đồng bằng Nam bộ đang bị mặn hoá do khai thác quá mức.

·                     Ô nhiễm nước mặt (sông, hồ, đất ngập nước) do các nguồn thải công nghiệp và hoá chất nông nghiệp. Mức độ phú dưỡng các hồ nội địa gia tăng. Một số vùng cửa sông đang bị ô nhiễm dầu, kim loại nặng, thuốc trừ sâu.

Để giải quyết các vấn đề môi trường trên cần phải có kế hoạch nghiên cứu tổng thể và quy hoạch sử dụng tài nguyên nước một cách hợp lý. Trong đó, cần quan tâm đúng mức các vấn đề xử lý nước thải, quy hoạch các công trình thuỷ điện, thuỷ nông một cách hợp lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng.

Câu 13:  Các phương pháp xử lý nước thải: 3 pp : cơ học, hóa và hóa-lý, sinh học

1. Phương pháp xử lý cơ học

Phương pháp này thường là giai đoạn xử lý bậc 1 (giai đoạn xử lý sơ bộ), ít khi là giai đoạn kết thúc quá trình xử lý nước thải dùng để loại các tạp chất không tan trong nước. Các chất này có thể ở dạng vô cơ hay hữu cơ.

a. Phương pháp lắng

Các hạt bẩn lớn(kích thước hạt lớn hơn 10-1 mm) có trong nước sẽ lắng hoặc nổi lên mặt nước dưới tác dụng của trọng lực.

b. Phương pháp lọc

Lọc là quá trình tách các hạt rắn ra khỏi pha lỏng hoặc pha khí bằng cách cho dòng khí hoặc lỏng có chứa hạt chất rắn chảy qua lớp vật ngăn xốp. Các hạt rắn sẽ bị giữ lại trên bề mặt lớp vật ngăn còn Khí hoặc chất lỏng sẽ thấm qua vật ngăn.

c. Bể điều hoà

Vai trò của bể điều hoà nhằm hạn chế các dao động về lưu lượng, tốc độ dòng chảy, nhiệt độ, hàm lượng các chất ô nhiễm v.v... trong dòng thải. Các yếu tố này thay đổi theo thời gian làm cho quá trình xử lý bị quá tải như trường hợp lắng, lọc,... hay mất tác dụng như trường hợp phải xử lý hoá học hay sinh học

Trong những trường hợp đơn giản, có thể kết hợp nhiệm vụ xử lý sơ bộ và điều hòa dòng thải trong cùng một thiết bị.

d. Phương pháp pha loãng

Khi lưu lượng của dòng chảy trong sông lớn, khả năng tự làm sạch của sông
cao.Trong trường hợp này, nồng độ chất ô  nhiễm được pha loãng, quá trình tự làm sạch của nước diễn ra thuận lợi sẽ ít gây tổn thất đến hệ sinh thái thủy sinh.

2. Phương pháp xử lý hoá và hoá – hoá lý

Các phương pháp xử lý hoá và hoá-lý được sử dụng rộng rãi trong kiểm soát ô nhiễm nước thải công nghiệp, đặc biệt khi cần phải xử lý ở mức cao hoặc cần phải quay vòng nước. Cơ sở của các phương pháp hoá học là các phản ứng hoá học, các quá trình lý hoá diễn ra giữa chất ô nhiễm với hoá chất cho thêm vào

a. Phương pháp trung hoà

Mục đích của phương pháp này là xử lý để nước thải đạt được độ pH trung hoà theo TCVN.

Mặt khác, nếu nước thải cần xử lý bằng phương pháp sinh học thì thường trước tiên phải được xử lý bằng phương pháp trung hoà vì ở độ pH trung tính thường là điều kiện tối ưu cho các quá trình phân hủy chất ô nhiễm.

Tác nhân trung hoà thường được dùng để xử lý chất thải chứa axit là đá vôi, đá đôlomit, vôi các loại, xút, sôđa và để xử lý các chất thải chứa kiềm là khí CO2,axit sufuric. Quá trình trung hoà có thể thực hiện theo phương thức gián đoạn hoặc liên tục.

Chọn tác nhân trung hoà và phương pháp trung hoà thích hợp phải dựa trên một số yếu tố cơ bản sau:

- Lượng nước thải cần xử lý.

- Loại nước thải (nước thải chứa axít hay kiềm).

- Chất lượng nước thải (độ pH, các chất có trong nước thải và nồng độ của nó, v.v...).

- Yêu cầu cần xử lý (độ pH cần đạt).

- Tác nhân trung hoà cần rẻ tiền, dễ kiếm.

- Thiết bị đơn giản, dễ vận hành và dễ chế tạo.

- Tổng chi phí sao cho nhỏ nhất.

b.  Phương pháp keo tụ

Tạo bông là quá trình làm keo tụ các hạt keo hoặc dính các hạt nhỏ lại thành một tập hợp hạt lớn hơn để lắng bằng cách đưa vào chất lỏng các tác nhân tạo bông có tác dụng phá keo hoặc hấp phụ các hạt nhỏ lên bề mặt của nó hoặc dính các hạt nhỏ lại với nhau.

Các chất thường dùng trong phương pháp lắng và đông tụ dễ loại bỏ các chất rắn lơ lửng trong nước thải là:

- Phèn Al(SO4)nH2O (n = 13-18).

- Sôđa kết hợp với phèn Na2CO3 + Al2(SO4)3

- Sắt Sunphat FeSO4.7H2O.

- Nước vôi Ca(OH)2.

- Natrialuninat Na2Al2O4

- Sắt Clorua và sắt (III) sunphat FeSO4

c. Phương pháp oxy hoá

*. Ozon hoá:

Phương pháp này thường dùng để xử lý nước thải có chứa các chất bẩn hữu cơ dạng hoà tan và keo. Oxy hóa bằng ozon có thể dùng để làm sạch nước thải khỏi phenol, sản phẩm dầu H2S, hợp chất của As, hợp chất bề mặt, CN-, các chất màu, hyđrocacbon thơm, thuốc trừ sâu...., có khả năng tiêu diệt các vi khuẩn. Nếu kết hợp chiếu tia cực tím thì tốc độ oxy hoá bằng ozon sẽ tăng 102 - 104 lần.

Thiết bị ozon hóa có nhiều dạng loại đệm, loại tháp sủi bọt...

*. Oxy hoá bằng peroxyt H2O2

H2O2 là chất oxy hoá mạnh dùng để oxi hóa phenol, CN-, các hợp chất chứa S và các ion kim loại

*. Oxy hoá bằng pemanganat kaly (KMnO4)

KMnO4 là chất oxy hoá tương đối mạnh được dùng để oxy hoá phenol, CN và các hợp chất chứa S, độ pH của quá trình là 9,5, pH càng cao thì phản ứng xảy ra càng nhanh.

Thiết bị dùng để thực hiện quá trình oxy hoá thường là loại khuấy trộn nếu các chất phản ứng là thể lỏng hoặc rắn- lỏng và là loại tháp nếu là thể lỏng- khí.

d. Phương pháp khử

Quá trình khử cũng là thực hiện phản ứng oxy hoá khử được dùng để làm sạch nước thải khỏi các hợp chất Hg, Cr, As.

Để khử Hg và các hợp chất hữu cơ chứa Hg các chất khử thường dùng là FeS, NaHS, bột Fe, bột Al, H2S. Trong quá trình khử các hợp chất hữu cơ chứa Hg, ban đầu các hợp chất chứa Hg bị phân huỷ sau đó các ion Hg+ sẽ bị khử thành Hg kim loại và được tách ra khỏi nước bằng cách lắng, lọc...

As trong nước thải nằm ở dạng AsO2-, AsO33-, AsS2-, AsS3. Để tách As khỏi nước thải ta tiến hành khử As thành hợp chất khó tan như As2O3 và được tách ra rằng tách lọc.

CrO42- trong dung dịch thường bị khử đến Cr3+ bằng than hoạt tính, SO2, NaHSO3, NaHSO4...

e. Phương pháp trao đổi ion

 Quá trình được dùng để tách các kim loại Pb, Zn, Cu, Hg, Cr, Ni, Cd, Mn... hợp chất As, P, CN các chất lỏng phóng xạ khỏi nước thải.

f. Phương pháp hấp phụ

Hấp phụ tách các chất hữu cơ và khí hoà tan khỏi nước thải bằng cách tập trung các chất đó trên bề mặt chất rắn (hấp phụ vật lý) hay bằng cách tương tác các chất bẩn hoà tan với các chất rắn (hấp phụ hoá học).

Phương pháp hấp phụ dùng để khử mùi vị, màu, chất bẩn hữu cơ khó phân hủy, kim loại nặng,... ra khỏi nước thải công nghiệp. Phương pháp này thường được sử dụng khi nước thải cần xử lý đạt tiêu chuẩn cao hoặc tái sử dụng lại nước  thải.

Trong phần lớn các trường hợp, phương pháp hấp phụ được dùng như là phương pháp xử lý cuối cùng, sau xử lý sính học. Chất hấp phụ dùng phổ biến là than hoạt tính và các loại vật liệu khác như than bùn, gỗ, than củi, tro, xỉ.

Quá trình hấp phụ bị chi phối bởi các yếu tố sau:

- Diện tích bề mặt chất hấp phụ

- Bản chất của sự hấp phụ.

- Độ pH.

- Nồng độ dung dịch.

- Thời gian tiếp xúc.

- Bản chất của hệ tiếp xúc.

g. Phương pháp tuyển nổi

Tuyển nổi loại các tạp chất bẩn ra khỏi nước bằng cách tạo cho chúng khả năng dễ nổi lên mặt nước. Khi tuyển nổi người ta thường dùng các bọt khí nhỏ li ti phân tán và bão hoà trong nước. Những hạt chất bẩn chứa trong nước (dầu, sợi gíấy, ce11ulose, len...) sẽ dính vào các bọt không khí và cùng các bọt không khí nổi lên mặt nước, rồi được loại khỏi nước.

h. Phương pháp thẩm thấu ngược

Thẩm thấu ngược là quá trình tách nước qua màng bán thấm từ phía dung dịch đặc hơn sang phía dung dịch loãng hơn khi áp suất tác đụng lên dung dịch vượt quá áp suất thẩm thấu. Màng thường sản xuất từ vật liệu polyme.

i. Phương pháp điện hoá học

Phương pháp điện hoá học phá huỷ các tạp chất độc hại trong nước thải hoặc trong dung dịch bằng cách oxy hoá điện hoá trên điện cực anốt hoặc cũng có thể phục hồi các chất quý rồi đưa về dùng lại trong sản xuất.

k. Phương pháp hấp phụ cacbon

Hấp phụ lỏng - rắn dùng để tách các chất độc hại: Phenol, các thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, các hợp chất nào của cácbuahydro thơm, các hợp chất bề mặt, các chất màu ra khỏi nước thải.

Chất hấp phụ rắn thường dùng là than hoạt tính, tro, xỉ, silicagen... Chất hấp phụ phải thoả mãn yêu cầu:

•   Hấp phụ chọn lọc.

•   Bề mặt riêng lớn.

•   Dễ hoàn nguyên.

•   Đảm bảo độ bền cơ và nhiệt.

•   Không có hoạt tính xúc tác với các phản ứng oxy hoá Dễ kiếm, rẻ tiền.

3. Phương pháp xử lý sinh học

Xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học là dựa vào khả năng sống và hoạt động của VSV có khả năng phân hoá những hợp chất hữu cơ.

-  Các chất hữu cơ sau khi phân hoá trở thành nước, những chất vô cơ hay các khí đơn giản.

-   Có 2 loại công trình xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học:

+ Điều kiện tự nhiên.

+ Điều kiện nhân tạo.

a. Công trình xử lý sinh học tự nhiên:

*. Cánh đồng tưới công cộng và bãi lọc

Nguyên tắc hoạt động: dựa trên khả năng giữ các cặn nước ở trên mặt đất, nước thấm qua đất như đi qua lọc, nhờ có oxy trong các lỗ hỏng và mao quản của lớp đất mặt, các VSV hiếu khí hoạt động phân hủy các chất hữu cơ nhiễm bẩn.

- Nguyên tắc xây dựng: Cánh đồng tưới và bãi lọc là những mảnh đất được san phẳng hoặc tạo dốc không đáng kể và được ngăn cách tạo thành các ô bằng các bờ đất. Nước thải phân bố vào các ô bằng hệ thống mạng lưới phân phối gồm : mương chính, máng phân phối và hệ thống tưới trong các ô. Nếu khu đất chỉ dùng xử lý nước thải, hoặc chứa nước thải khi cần thiết gọi là bãi lọc.

- Cánh đồng tưới, bãi lọc thường được xây dựng ở những nơi có độ dốc tự nhiên, cách xa khu dân cư về cuối hướng gió. Xây dựng ở những nơi đất cát, á cát, cũng có thể ở nơi đất á sét, nhưng với tiêu chuẩn tưới không cao và đảm bảo đất có thể thấm kịp. Các cánh đồng tưới và bãi lọc thường được xây dựng ở những nơi có mực nước nguồn thấp hơn 1.5m so với mặt đất.

-  Diện tích mỗi ô không nhỏ hơn 3 ha, đối với những cánh đồng công cộng diện tích trung bình các ô lấy từ 5 đến 8 ha, chiều dài của ô nên lấy khoảng 300-1500 m, chiều rộng lấy căn cứ vào địa hình. Mực nước ngầm và các biện pháp tưới không vượt quá 10 -200 m.

*. Cánh đồng tưới nông nghiệp:

Khi thu hoạch, gieo hạt hoặc về mùa mưa người ta lại trữ nước thải trong các đầm hồ (hồ nuôi cá, hồ sinh học, hồ điều hòa,…) hoặc xả ra cánh đồng cỏ, cánh đồng trồng cây ưa nước hay vào vùng dự trữ.

Chọn loại cánh đồng nào là tùy thuộc vào đặc điểm thoát nước của vùng và loại cây trồng hiện có .

Trước khi đưa vào cánh đồng, nước thải phải được xử lý sơ bộ qua song chắn rác, bể lắng cát  hoặc bể lắng. Tiêu chuẩn tưới lấy thấp hơn cánh đồng công cộng và có ý kiến chuyên gia nông nghiệp.

*. Hồ sinh học:

- Cấu tạo: Hồ sinh vật là các ao hồ có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, còn gọi là hồ oxy hóa, hồ ổn định nước thải,… Trong hồ sinh vật diễn ra quá trình oxy hóa sinh hóa các chất hữu cơ nhờ các loài vi khuẩn, tảo và các loại thủy sinh vật khác.

- Nguyên tắc hoạt động: Vi sinh vật sử dụng oxy sinh ra từ rêu tảo trong quá trình quang hợp cũng như oxy hóa từ không khí để oxy hóa các chất hữu cơ, rong tảo lại tiêu thụ CO2, photphat và nitrat amon sinh ra từ sự phân hủy, oxy hóa các chất hữu cơ bởi vi sinh vật. Để hồ hoạt động bình thường cần phải giữ giá trị pH và nhiệt độ tối ưu. Nhiệt độ không được thấp hơn 60C. Theo quá trình sinh hóa, người ta chia hồ sinh vật ra các loại:hồ hiếu khí, hồ kỵ khí và hồ tùy nghi.

-  Hồ sinh học dùng xử lý nước thải bằng sinh học chủ yếu dựa vào quá trình làm sạch của hồ.

-  Ngoài việc xử lý nước thải còn có nhiệm vụ:

+ Nuôi trồng thuỷ sản.

+ Nguồn nước để tưới cho cây trồng.

+ Điều hoà dòng chảy.

-  Có các loại sau đây:

+ Hồ kỵ khí.

 + Hồ kỵ hiếu khí

 + Hồ hiếu khí.

b. Công trình xử lý sinh học nhân tạo:

Các công trình xử lý sinh học nhân tạo thường được sử sụng trong thực tế: bể lọc sinh học (biophin), bể Aerotank …

Câu 14: Đất được hình thành như thế nào. Các nguồn gây ô nhiễm đất

1, Sự hình thành đất

-                      Đất là vật thể thiên nhiên  cấu tạo độc lập lâu đời  do kết quả của quá trình hoạt động  tổng hợp của 6 yếu tố:thực vật,động vật, khí hậu,địa hình,thời gian,con người

-                      Sự hình thành đất là một quá trình phức tạp, biến đổi bởi các yếu tố nêu trên đó là nền móng của đất

a.                   Sinh vật có vai trò chủ đạo trong việc hình thành  đất:=ĐV+TV

-                      Cung cấp chất hữu cơ,tăng hàm lượng mùn,cải thiện tính chất lý,hóa và sinh học đất

-                      Tập trung dinh dưỡng ở tầng sâu lên tầng đất mặt

-                      Hút và trả lại cho đất các chất dinh dưỡng phù hợp hơn với thế hệ sau do hút dinh dưỡng có chọn lọc

-                      Che phủ mặt đất,chống sói mòn

-                      Xới xáo đất,làm cho đất tơi xốp

b.                  Địa hình: Đóng góp vào phân bố lại vật chất ,thay đổi khí hậu,quyết định tốc độ gió,làm thay đổi độ ẩm của đát

c.                   Thời gian: Từ đá phá hủy để cuối cùng thành đất phải có thời gian nhất định

d. Khí hậu có sự  tác động đến hình thành đất vừa trực tiếp (thông qua nhiệt độ, lượng mưa) vừa gián tiếp (sinh vật)

e. Con người: có tác động khác hẳn so với các yếu tố trên

- Hoạt động sản xuất của con người ngày nay đã trở thành yếu tố quyết định tới sự hình thành đất

- Sự tác động này phụ thuộc vào yếu tố xã hội và trình độ sản xuất của con người

- Con người có tác động trực tiếp vào đất như: cày bừa,bón phân,bón vôi,….gián tiếp tác dụng vào đất:phá rừng,đốt rẫy ,làm nương…

- Con người luôn tìm các tác động vào đất để khai thác tiềm năng của nó và mang lại lợi nhuận tối đa cho mình

=> Tóm lại nếu sử dụng đất có ý thức bảo vệ và cải tạo thì đất sẽ ngày một  tốt lên còn ngược lại  nếu chỉ biết bóc lột thì đất nhanh chóng nghèo kiệt,thoái hóa.

2. Các nguồn gây ô nhiễm đất:

- Do sử dụng trong nông nghiệp những sản phẩm hóa học như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ. Các chất này làm phá hủy cấu trúc của hệ sinh thái đất.

- Do thải vào đất một khối lượng lớn các chất thải công nghiệp như xỉ than, cặn khoáng,,, Các chất ô nhiễm không khí lắng đọng trên bề mặt đất sẽ gây ô nhiễm đất, tác động đến các hệ sinh thái đất.

- Do dùng phân hữu cơ trong nông nghiệp chưa qua xử lý các mầm bệnh kí sinh trùng, vi khuẩn đường ruột đã gây ra các bệnh truyền từ đất cho cây sau đó sang người và động vật.

- Do thải ra mặt đất những rác thải sinh hoạt và các chất thải công , nông nghiệp mà chưa được xử lí triệt để.

Câu 15.Phương pháp xử lý ô nhiễm MT đất

-                      Hạn chế tối đa việc sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ.

-                      Việc xây dựng bãi đổ rác thải đô thị và khu công nghiệp cần phải được lựa chọn, tính toán cẩn thận ngăn ngừa sự rò rỉ chất thải gây ra ô nhiễm. Các khâu từ thu dọn, vận chuyển, xử lí, chôn lấp chất thải cần tiến hành theo đúng tiêu chuẩn vệ sinh môi trường

Thông thường để xử lý chất thải đô thị tiến hành các bước sau:

-                      Chọn những chất thải rắn có thể sử dụng lại được như giấy, nhựa, kim loại, vỏ hộp

-                      Phân loại, tác các rác thải có nguồn gốc hữu cơ như sản phẩm từ động, thực vật để đưa vào các nhà máy chế biến phân hữu cơ

-                      Chất thải rắn chứa các mầm bệnh, vi khuẩn phai đưa vào các lò đốt

-                      Sau cùng, chất thải được mang đi chôn lấp tại các bãi rác hợp vệ sinh

-                      Các chất thải độc hại, chất nổ, chất phóng xạ cần có kĩ thuật xử lí riêng

Câu 16: So sánh sinh thái học đô thị và sinh thái học môi trường

a)      Giống nhau:đều là môn khoa học nghiên cứu các mối quan hệ tác động qua lại nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa các thành phần trong hệ sinh thái

b)      Khác nhau:

SINH THÁI HỌC MÔI TRƯỜNG

SINH THÁI HỌC ĐÔ THỊ

Gồm 2 bộ phận cấu thành:

-thành phần sống (giới hữu sinh):

+SV sản xuất

+SV tiêu thụ

+SV phân hủy

 -thành phần vô sinh

Gồm 3 thành phần:

-Thành phần hữu sinh:vi sinh,động vật,thực vật,con người

-thành phần vô sinh:đất ,nước,không khí

-thành phần công nghệ:nhà máy,trường học,bệnh viện,…

-Vật cung cấp được sản xuất tại chỗ

-đặc trưng:thực vật động vật hoang dã đóng vai trò to lớn trong việc sản xuất và việc tiêu thụ

-có khả năng tự phục hồi lại trạng thái cân bằng

-dòng vật chất là dòng khép kín.

Vật cung cấp không được sản xuất tại chỗ mà được vận chuyển từ nới khác đến

-vật tiêu thụ quan trọng nhất:con người

-vận động và phát triển theo quy luật học  phức tạp,tuân theo các quy luật của tự nhiên cũng như nhân tạo do con người tạo ra

-hoạt động của HST đô thị là do con người điều khiển,con người phải đảm bảo vòng tuần hoàn vật chất và dòng năng lượng HST

 


Câu 17: Khi dân số, mật độ gia tăng thì cần giải quyết như thế nào, hướng giải quyết

A, Thực trạng dân số:

·                     Dân số thế giới hiện nay khoảng 6.7 tỷ ng( 11/8- en.wikipedia.org)

·                     Các thành phố dông dân nhất thế giới: Tokio( 35 triệu, Mexico city- 19,4 triệu, New York 18.7 triệu, Bombay- 18.2 triệu)

·                                 Các dự báo cho tương lai:

-                                  Dân số thế giới năm 2017 là 7 tỷ ng

-                                  Dân số thế giới năm 2050 sẽ là 9 tỷ ng

-                                  Trong đó số dân tại các quốc gia kém phát triển se tăng từ 5.3 tỷ lên đến 7.8 tỷ vào năm 2050

-                                  Tuy nhiên dân số các nước phát triển sẽ gần như không thay đổi và duy trì ở mức 1.2 tỷ

-                                  Việt Nam:

+ Dân số VN tính đến 31/12/2007 là 87,565,734( 87.5 triệu ng) là nước đông dân thứ 14 trên thế giới

+ 2.4% dân số tập trung ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, thưa thớt ở vùng núi, cáo nguyên

+ Dự báo trong tương lai ( năm 2024) dân số việt nam sẽ là 100 triệu ng

+ Đến giữa thế kỉ, theo dự báo dân số VN sẽ ổn định

·                                 Nguyên nhân tăng dân số:

-                                  Quan điểm lạc hậu:

+ Ở một số nước đẵ biệt là các nước phương đông vẫn còn những quan điểm lạc hậy như trọng nam kinh nữ, trời sinh voi sinh cỏ, sinh con quý tử, muốn có con trai, muốn đông con.

+ Ở các nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nhu cầu lao động tay chân cao cũng là nguyên nhân dẫn đến việc đông con

+ Tại VN: theo điểu tra của tổng cục thống kê, tính đến hết quý 1 năm 2007, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên vẫn ở mức sấp sỉ 17%, nghía là gần 6 phụ nữ sinh con thì 1 trường hợp là con thứ 3 trở lên.

-                                  Hậu quả của việc quan hệ tình dục sớm và bừa bãi:

+ Tại VN, 20% số trường hợp nạo phá thai đang ở lứa tuổi vị thành niên. Hiện nay cả  nước có 5% e gái sinh con trước 18 tuổi, 15% sinh con trước 20 tuổi

+ Úc là nước có tỷ lệ nạo phá tahi cao trong số các nước công nghiệp : cứ mổi 1000 thiếu nữ ( có độ tuổi từ 15 đến 19) thì có khoảng 24 ng phá thai và 20 ng sinh con

+ Mỗi nam có khoảng 15 triệu phụ nữ từ 15 đến 19 tuổi sinh để, chiếm khoảng 10% tất cả các trường hợp sinh con hàng năm trên thế giới

-                                  Di cư cơ học:

+ Việc di dân cũng là nguyên nhân làm tăng dân số một số nước trên thế giới

+ Trong chiến tranh thế giới thứ 1 và thứ 2 dân các nước xảy ra chiến tranh di cư ồ ạt đến các nước ko có chiến tranh

Các tác động tiêu cực của tình trạng gia tăng dân số hiện nay trên thế giới biểu hiện ở các khía cạnh:

·                     Sức ép lớn tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường trái đất do khai thác quá mức các nguồn tài nguyên phuc vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất công nghiệp v.v...

·                     Tạo ra các nguồn thải tập trung vượt quá khả năng tự phân huỷ của môi trường tự nhiên trong các khu vực đô thị, khu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp.

·                     Sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp hoá và các nước đang phát triển gia tăng, dẫn đến sự nghèo đói ở các nước đang phát triển và sự tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hoá. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa đô thị và nông thôn, giữa các nước phát triển công nghiệp và các nước kém phát triển dẫn đến sự di dân ở mọi hình thức.

·                     Sự gia tăng dân số đô thị và sự hình thành các thành phố lớn - siêu đô thị làm cho môi trường khu vực đô thị có nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng. Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh không đáp ứng kịp cho sự phát triển dân cư. Ô nhiễm môi trường không khí, nước tăng lên. Các tệ nạn xã hội và vấn đề quản lý xã hội trong đô thị ngày càng khó khăn.

B, Giải pháp:

·                                 Ban hành các giải pháp về luật: VN quy định mỗi gia đình chỉ có 1-2 con. Trung Quốc ban hành quy định mỗi gia đình có 1 con từ năm 1979 hậu quả của biện pháp này là nhanh chóng, tức thì. Theo tính toán, nếu ko ban hành quy định trên , trung quốc đã có thể them 400 triệu dân thế hệ trẻ ngày nay đã có sự thay đổi về quan niệm sinh con, chấp nhận có ít con để nuôi dạy cho tốt

·                                 Tuyên truyền các biện pháp tránh thai:quy định cho phép  ng trên 18 tuổi mua thuộc tránh thai khẩn cấp năm 2007 đã khiến cho doanh số loại thuốc này tăng gấp đôi

·                                 Các biện pháp dài hạn:với hệ thống tuyên truyền viên đến tận cơ sở , việt nam hy vọng nâng cao ý thức ng dân trong việc hạn chế gia tăng dân số, tổ chức phát bao cao su miễn phí cho thanh niên, gái bán hoa tại các khu vực nhạy cảm, vừa hạn chế gia tăng dân số, vừa giảm thiểu lây truyền các bệnh xã hội, giúp gia tăng chất lượng dân số, vấn đề ý thức của ng dân cần có sự quan tâm, định hướng của chính phủ.

Câu liên hệ 1: Vì sao nói con người cũng là một nguồn ô nhiễm?

Con người sống trên Trái đất chủ yếu sử dụng không khí, nước và thực phẩm để nuôi dưỡng cơ thể. Mỗi người lớn một ngày hít vào 100 lít không khí và thở ra lượng khí cacbonic cũng nhiều như vậy. Khí cacbonic là khí thải, tụ lại nhiều một chỗ sẽ làm vẩn đục không khí trong phòng, gây khó chịu. Nếu buổi tối đi ngủ đóng kín cửa phòng, khí cacbonic sẽ vẩn đục khắp phòng. Bởi vậy buổi sáng ngủ dậy phải mở cửa để không khí lưu thông, phòng ở mới sạch.

Khi người ta ăn các thức ăc để bổ sung dinh dưỡng, sẽ thải ra cặn bã. Chất cặn bã (phân và nước tiểu) xuất hiện ở môi trường sinh hoạt nếu không được xử lý tốt sẽ gây ô nhiễm môi trường, gây hại cho sức khoẻ con người (như gây bệnh giun sán).

Trong quá trình thay đổi tế bào trong cơ thể con người thường toả ra nhiệt lượng và mùi vị. Mùi vị của cơ thể mỗi người khác nhau, trong đó có một mùi rất nặng kích thích hệ thần kinh khứu giác, đó là mùi hôi nách. Ðây cũng là một nguồn ô nhiễm của cơ thể con người.

Trong sinh hoạt hàng ngày, cơ thể con người luôn luôn toả nhiệt để điều tiết cân bằng nhiệt độ cơ thể. Nhiệt lượng này toả ra môi trường xung quanh nên chúng ta không thấy ảnh hưởng xấu của hiện tượng này. Ví dụ trong một toa xe đóng kín cửa chật ních người, nhiệt độ sẽ cao dần và những người bên trong sẽ cảm thấy khó chịu, vì nhiệt lượng toả ra từ cơ thể người đã làm tăng nhiệt độ trong xe.

Cơ thể chúng ta là một nguồn ô nhiễm. Nêu vấn đề này ra có thể có một số người chưa nhận thức được. Nhưng chúng ta sẽ phát hiện ra điều này khi tập trung một số đông người trong một môi trường nhỏ hẹp. Bởi vậy, chúng ta không những cần phòng ngừa ô nhiễm công nghiệp mà còn cần phòng ngừa cơ thể gây ô nhiễm, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ chúng ta.

Câu liên hệ 2: Vấn đề ô nhiễm ở nơi em sống

 Em đang sống và học tập tại khu vực Mai Động- Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Ô nhiễm không khí, nước ngầm, tiếng ồn.

-Ô nhiễm không khí: Có hai tác nhân trên làm cho không khí khu vực bị ô nhiễm

+ Chủ yếu là ô nhiễm bụi do: Hiện nay đang có 2 công trình xây dựng khu đô thị hoạt động tại đây là: Time City và Green City, cả 2 công trường này đều đang ngày đêm đào xới đất để xây các tào nhà làm cho khu vực xung quanh luôn bị bụi bao phủ, các loại xe tải chở vật liệu, phế thải ra vào liên tục cũng làm tăng lượng bụi thải ra môi trường, đặc biệt là vào các ngày khô nóng và ít gió thì bụi như một màn sương mù bao phủ làm cản trở tầm nhìn của xe cộ nguy cơ tai nạn cao, người dân hít phải bụi dễ gây bệnh hô hấp , nhà cửa, cây cối, xe cộ, đường xá đều bị bụi phủ mờ.

+ Do trong khu vực này có nhiều mương thoát nước thải của nhà máy và khu dân cư không qua xử lý nên bị ô nhiễm nặng, nước chuyển màu đen, cặn rác chèn tắc hết cả dòng chảy không lưu thông được, lâu ngày rác thải phân hủy bốc mùi hôi thối khó chịu, đặc biệt có chợ họp ngay bên mương các loại thức ăn chín, sống bị ruồi nhặng bu kín đem theo nhiều vi khuẩn nếu ăn vào rất dễ bị bệnh tiêu hóa. Sông Kim Ngưu, một trong 2 sông chảy qua nội thành hiện cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, bôc mùi khó chịu ảnh hưởng tới dân cư xung quanh và cả những ai đi lại dọc các tuyến đường 2 bên.

-Ô nhiễm nguồn nước ngầm: Hiện tại dân cư tại đây phần đông vẫn sử dụng nước ngầm phục vụ sinh hoạt nhưng chất lượng ngày càng giảm sút do: Các dòng mương thoát nước kể trên không chảy được đang tích tụ nhiều chất bẩn, độc hại lâu ngày sẽ ngấm xuống đất thâm nhập vào hệ thống nước ngầm gây ô nhiễm.

-Ô nhiễm tiếng ồn: Các công trường xây dựng, nhà máy, phương tiện giao thông lưu hành đông, liên tục gây ra những tiếng ồn lớn, liên tục nhất là giờ cao điểm gây ảnh hưởng lớn tới người dân đặc biệt những người sống gần các công trường, đường Minh Khai, cầu Vĩnh Tuy.

Phải làm gì để bảo vệ môi trường ở mỗi gia đình, khu dân cư và nơi công cộng?

·                     Không vứt rác bừa bãi. Phải thu gom, đổ rác đúng nơi quy định.

·                     Không đổ nước thải ra đường, phố, các nơi công cộng. Mỗi gia đình phải thu gom nước thải vào hệ thống bể tự hoại, hầm chứa hoặc cho nước thải vào hệ thống thoát nước công cộng.

·                     Sử dụng hố xí hợp vệ sinh. Không phóng uế bừa bãi.

·                     Trồng cây xanh góm phần giảm ô nhiễm môi trường và tạo cảnh quan.

·                     Không hút thuốc là nơi công cộng.

·                     Tự giác chấp hành các quy định của các cấp chính quyền địa phương về giữ gìn vệ sinh, xây dựng gia đình văn hoá.

·                     Đóng góp đầy đủ lệ phí thu dọn vệ sinh.

·                     Vận động mọi người cùng tham gia các công việc trên.

Du lịch tác động tích cực đến môi trường như thế nào?

Tác động môi trường là những ảnh hưởng (xấu hay tốt) do hoạt động phát triển du lịch gây ra cho môi trường, bao gồm các yếu tố môi trường tự nhiên cũng như các yếu tố môi trường xã hội - nhân văn. Tác động của du lịch lên các yếu tố sinh thái tự nhiên có thể là tác động tích cực hoặc tiêu cực. Các tác động tích cực có thể gồm:

·                     Bảo tồn thiên nhiên: Du lịch góp phần khẳng định giá trị và góp phần vào việc bảo tồn các diện tích tự nhiên quan trọng, phát triển các Khu Bảo tồn và Vườn Quốc gia.

·                     Tăng cường chất lượng môi trường: Du lịch có thể cung cấp những sáng kiến cho việc làm sạch môi trường thông qua kiểm soát chất lượng không khí, nước, đất, ô nhiễm tiếng ồn, thải rác và các vấn đề môi trường khác thông qua các chương trình quy hoạch cảnh quan, thiết kế xây dựng và duy tu bảo dưỡng các công trình kiến trúc.

·                     Đề cao môi trường: Việc phát triển các cơ sở du lịch được thiết kế tốt có thể đề cao giá trị các cảnh quan.

·                     Cải thiện hạ tầng cơ sở: Các cơ sở hạ tầng của địa phương như sân bay, đường sá, hệ thống cấp thoát nước, xử lý chất thải, thông tin liên lạc có thể được cải thiện thông qua hoạt động du lịch.

·                     Tăng cường hiểu biết về môi trường của cộng đồng địa phương thông qua việc trao đổi và học tập với du khách.

Du lịch tác động tiêu cực đến môi trường như thế nào?

·                     Ảnh hưởng tới nhu cầu và chất lượng nước: Du lịch là ngành công nghiệp tiêu thụ nước nhiều, thậm chí tiêu hao nguồn nước sinh hoạt hơn cả nhu cầu nước sinh hoạt của địa phương.

·                     Nước thải: Nếu như không có hệ thống thu gom nước thải cho khách sạn, nhà hàng thì nước thải sẽ ngấm xuống bồn nước ngầm hoặc các thuỷ vực lân cận (sông, hồ, biển), làm lan truyền nhiều loại dịch bệnh như giun sán, đường ruột, bệnh ngoài da, bệnh mắt hoặc làm ô nhiễm các thuỷ vực gây hại cho cảnh quan và nuôi trồng thủy sản.

·                     Rác thải: Vứt rác thải bừa bãi là vấn đề chung của mọi khu du lịch. Đây là nguyên nhân gây mất cảnh quan, mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và nảy sinh xung đột xã hội.

·                     Ô nhiễm không khí: Tuy được coi là ngành "công nghiệp không khói", nhưng du lịch có thể gây ô nhiễm khí thông qua phát xả khí thải động cơ xe máy và tàu thuyền, đặc biệt là ở các trọng điểm và trục giao thông chính, gây hại cho cây cối, động vật hoang dại và các công trình xây dựng bằng đá vôi và bê tông.

·                     Năng lượng: Tiêu thụ năng lượng trong khu du lịch thường không hiệu quả và lãng phí.

·                     Ô nhiễm tiếng ồn: Tiếng ồn từ các phương tiện giao thông và du khách có thể gây phiền hà cho cư dân địa phương và các du khách khác kể cả động vật hoang dại.

·                     Ô nhiễm phong cảnh: Ô nhiễm phong cảnh có thể được gây ra do khách sạn nhà hàng có kiến trúc xấu xí thô kệch, vật liệu ốp lát không phù hợp, bố trí các dịch vụ thiếu khoa học, sử dụng quá nhiều phương tiện quảng cáo nhất là các phương tiện xấu xí, dây điện, cột điện tràn lan, bảo dưỡng kém đối với các công trình xây dựng và cảnh quan. Phát triển du lịch hỗn độn, pha tạp, lộn xộn là một trong những hoạt động gây suy thoái môi trường tệ hại nhất.

·                     Làm nhiễu loạn sinh thái: Việc phát triển hoạt động du lịch thiếu kiểm soát có thể tác động lên đất (xói mòn, trượt lở), làm biến động các nơi cư trú, đe doạ các loài động thực vật hoang dại (tiếng ồn, săn bắt, cung ứng thịt thú rừng, thú nhồi bông, côn trùng...). Xây dựng đường giao thông và khu cắm trại gây cản trở động vật hoang dại di chuyển tìm mồi, kết đôi hoặc sinh sản, phá hoại rạn san hô do khai thác mẫu vật, cá cảnh hoặc neo đậu tàu thuyền...

·                     Không khí trong thành phố và làng quê khác nhau như thế nào?

·                     Vào mùa hè, khi đi từ thành phố về làng quê, ta cảm thấy không khí ở hai vùng khác nhau rất rõ rệt. Những người thường sống ở thôn quê cũng rất tự hào về không khí trong lành nơi mình cư trú. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và chỉ ra những khác nhau cơ bản trong không khí hai vùng là:

·                     Thứ nhất: Không khí thành phố thường có nhiều vi khuẩn, vi trùng gây bệnh hơn ở nông thôn, bởi vì trong thành phố mật độ dân cao, trao đổi hàng hoá nhiều, sản xuất và xây dựng phát triển, tạo ra lượng rác lớn, phân tán, khó thu gom kịp thời, gây ô nhiễm môi trường. Người từ các vùng khác nhau qua lại nhiều, mang mầm bệnh từ nhiều nơi đến. Không khí lưu thông kém vì vướng nhà cao tầng, cũng tạo cơ hội cho vi trùng gây bệnh tập trung và tồn tại lâu hơn.

·                     Ở nông thôn, mật độ dân, lưu lượng người và hàng hoá qua lại đều thấp, nên chất thải ít, chủ yếu là chất hữu cơ, một loại rác thải có thể dùng làm phân bón ruộng. Nông thôn người thưa, nhiều cây xanh tạo cảm giác tươi mát, dễ chịu, lại có khả năng tiết ra được những chất kháng khuẩn thực vật, nên lượng vi trùng gây bệnh trong không khí cũng ít hơn.

·                     Thứ hai: Nhiệt độ không khí thành phố cao hơn ở nông thôn, còn độ ẩm lại thấp hơn. Vào mùa hè, nhiệt độ không khí thành phố có thể cao hơn các vùng nông thôn từ 2 đến 60C, nhiệt độ tại những bề mặt phủ gạch, bê tông cao hơn nhiệt độ không khí từ 5 đến 80C. Đó là do ở thành phố không khí lưu thông kém, làm giảm sự phân tán nhiệt. Nhiều xe máy, ô tô đi lại, nhiều nhà máy, xí nghiệp sản xuất dùng lò đốt, thải nhiều nhiệt vào không khí. Gạch, bê tông, đường nhựa hấp thụ bức xạ mặt trời rất tốt, nóng lên và toả nhiệt vào không khí. Mặt nước ao hồ lại ít, đất bị phủ gạch, nhựa, bê tông không cho nước trong đất bốc hơi, vừa không tiêu hao được nhiệt, vừa làm không khí khô hơn.

·                     Ở nông thôn, ngược lại, không khí không bị che chắn nên lưu thông tốt hơn. Các nguồn thải nhiệt nhân tạo như ở thành phố ít hơn nhiều. Cây cối lại nhiều, tạo một lớp phủ tốt chắn không cho ánh sáng mặt trời trực tiếp đốt nóng đất và còn tiêu thụ một phần năng lượng mặt trời cho quang hợp. Mặt đất và mặt nước đều bốc hơi tốt, tiêu thụ bớt năng lượng từ ánh nắng mặt trời.

·                     Thứ ba: Không khí thành phố nhiều bụi bẩn hơn không khí nông thôn do trong thành phố tập trung nhiều nhà máy xí nghiệp, thải nhiều khói, bụi, khí độc. Việc xây dựng, đào đất, chuyên chở vật liệu diễn ra thường xuyên, rác thải không dọn kịp, là nguồn tạo ra bụi bẩn đáng kể. Trên đường phố xe máy, ô tô thường xuyên đi lại, nghiền vụn đất cát và cuốn bụi bay lên. Không khí khô nóng, làm cho bụi lơ lửng nhiều và lâu hơn. Bề mặt thành phố không bằng phẳng, nhiều nhà cao thấp khác nhau, cũng dễ tạo các vùng gió xoáy, cuốn bụi bay lên.

·                     Thứ tư: Trong thành phố, động cơ ô tô, xe máy, các hoạt động sản xuất, buôn bán, giải trí tạo ra nhiều tiếng ồn. Thành phố lại không có nhiều các dải cây xanh cản tiếng ồn, mà chỉ có nhiều nhà xây, bê tông, làm cho sóng âm dội đi, dội lại, hỗn độn và khó chịu hơn.

·                     Thứ năm: Không khí thành phố, nhất là những vùng công nghiệp và giao thông phát triển, thường có chứa rất nhiều khí độc hại như ôxit của lưu huỳnh, nitơ, cacbon, chì... Các chất này có tác động xấu tới sức khoẻ con người và môi trường gây nên các bệnh phát sinh từ ô nhiễm không khí.

·                     Tóm lại, không khí thành phố thường bị ô nhiễm nặng nề hơn nhiều so với không khí nông thôn, do đó không có lợi cho tâm lý và sức khoẻ con người. Nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang đầu tư nhiều công sức và tiền của cho việc nghiên cứu tìm ra những giải pháp khắc phục hiện trạng ô nhiễm môi trường nặng nề tại các thành phố lớn. Tuy nhiên vấn đề vẫn chưa thể giải quyết ngay được. Những người đang sống trong các thành phố, đô thị đông dân cần hiểu rõ những nhược điểm của môi trường nơi đây, để tự có biện pháp bảo vệ và tham gia vào sự nghiệp bảo vệ môi trường chung của cả cộng đồng.

Những vấn đề môi trường bức bách của Việt Nam cần được ưu tiên giải quyết là những vấn đề nào?

Chính phủ Việt Nam được sự giúp đỡ của các tổ chức Quốc tế đã xác định 8 vấn đề môi trường bức bách nhất cần được ưu tiên giải quyết là:

·                     Nguy cơ mất rừng và tài nguyên rừng đang đe doạ cả nước, và trong thực tế tai hoạ mất rừng và cạn kiệt tài nguyên rừng đã xảy ra ở nhiều vùng, mất rừng là một thảm hoạ quốc gia.

·                     Sự suy thoái nhanh của chất lượng đất và diện tích đất canh tác theo đầu người, việc sử dụng lãng phí tài nguyên đất đang tiếp diễn.

·                     Tài nguyên biển, đặc biệt là tài nguyên sinh vật biển ở ven bờ đã bị suy giảm đáng kể, môi trường biển bắt đầu bị ô nhiễm, trước hết do dầu mỏ.

·                     Tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên sinh vật, các hệ sinh thái v.v... đang được sử dụng không hợp lý, dẫn đến sự cạn kiệt và làm nghèo tài nguyên thiên nhiên.

·                     Ô nhiễm môi trường, trước hết là môi trường nước, không khí và đất đã xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều lúc đến mức trầm trọng, nhiều vấn đề về vệ sinh môi trường phức tạp đã phát sinh ở các khu vực thành thị, nông thôn.

·                     Tác hại của chiến tranh, đặc biệt là các hoá chất độc hại đã và đang gây ra những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng đối với môi trường thiên nhiên và con người Việt Nam.

·                     Việc gia tăng quá nhanh dân số cả nước, sự phân bố không đồng đều và không hợp lý lực lượng lao động giữa các vùng và các ngành khai thác tài nguyên là những vấn đề phức tạp nhất trong quan hệ dân số và môi trường.

·                     Thiếu nhiều cơ sở vật chất - kỹ thuật, cán bộ, luật pháp để giải quyết các vấn đề môi trường, trong khi nhu cầu sử dụng hợp lý tài nguyên không ngừng tăng lên, yêu cầu về cải thiện môi trường và chống ô nhiễm môi trường ngày một lớn và phức tạp.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#denui