Môn CNXH: CƠ CẤU XÃ HỘI - GIAI CẤP

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Quan niệm về cơ cấu xã hội - giai cấp : Quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình từng bước xoá bỏ cơ bản các quan hệ đối kháng giai cấp, hình thành một cơ cấu xã hội - giai cấp mới, trong đó liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức là nền tảng của xã hội mới, chế độ mới. Trong xã hội có giai cấp, thì cơ cấu xã hội - giai cấp là loại hình cơ bản và có vị trí quyết định nhất, chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác, vì trong quan hệ về mặt giai cấp của một xã hội quy định sự khác nhau về địa vị kinh tế, về quyền sở hữu tư liệu sản xuất, mối quan hệ xã hội giữa người với người trong hệ thống sản xuất, tổ chức lao động và phân phối thu nhập.

Cơ cấu xã hội – giai cấp là tổng thể các cộng đồng tương đối ổn định, bền vững và có những mối quan hệ nhất định giữa các công đồng đó. Trong đó, cơ cấu XH- giai cấp là hệ thống các giai cấp và các tầng lớp XH có mối quan hệ trực tiếp với các giai cấp được gắn kết vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau bởi những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Đó là các mối quan hệ về sở hữu, quản lý, địa vị chính trị - xã hội,... Cơ cấu xã hội - giai cấp vừa phản ánh sự tồn tại xã hội và vừa tác động lại sự phát triển của xã hội. C. Mác đã từng nói rằng: "lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp" và V.I. Lênin cũng nói: kết cấu xã hội và chính quyền có nhiều biến đổi, nếu không tìm hiểu những biến đổi này thì không thể tiến được một bước trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào".

- Xuất phát từ cơ cấu xã hội - giai cấp mà người ta xây dựng các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá của mỗi xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp là có ý nghĩa quan trọng, song không được tuyệt đối hoá, tức là chỉ thấy và dựa vào cơ cấu xã hội - giai cấp, coi nhẹ các loại cơ cấu xã hội khác; cũng không thể tuỳ tiện xoá bỏ nhanh chóng các giai cấp, tầng lớp xã hội bằng biện pháp giản đơn theo ý muốn chủ quan.

2. Địa vị, thực trạng, quan điểm, chính sách

a. Giai cấp công nhân : GCCN vừa là chủ thể trực tiếp nhất, vừa là sp của nền sx hiện đại. Khi sx càng hiện đại thì vai trò cải biến toàn diện các mặt đời sống xh thể hiện càng rõ hơn, nhất là cải tạo kt-kĩ thuật đặc biệt đối với các gc và tầng lớp XH khác. Cùng với sự phát triển của KHCN, xu hướng đội ngũ công nhân kỹ thuật cao, CN trí tuệ ngàng càng tăng lên. GCCN là gc có bản chất quốc tế và bản sắc dân tộc. GCCN là gc gắn với LLSX tiên tiến nhất dưới CNTB, là lực lượng quyết định phá vỡ QHSX TBCN. Với tư cách là gc tự giác, gccn có hệ tư tưởng riêng của mình, đó là CN M-L, tổ chức riêng là ĐCS và có sứ mệnh lịch sử là giải phóng xh, xóa bỏ áp bức, bóc lột.

GCCN Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh dơanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.

Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những yếu tố của giai cấp công nhân hiện đại và còn có những đặc điểm riêng của mình. Đó là do ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam nên giai cấp công nhân Việt Nam có điều kiện sớm giữ vai trò lãnh đạo và giành ưu thế ngay từ khi có Đảng của mình. Hơn nữa, sự gắn bó giữa công nhân và nông dân đã hình thành một cách tự nhiên, phần lớn xuất thân từ nông dân nên giai cấp công nhân Việt Nam đã mang sẵn trong mình mối liên minh với nông dân và luôn giữ được vai trò lãnh đạo trong quá trình cách mạng Việt Nam.

Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Thực trạng: Ñaùnh giaù veà giai caáp coâng nhaân vieät nam Baùc Hoà ñaõ noùi: “chæ coù giai caáp coâng nhaân laø duõng caûm nhaát, CM nhaát, luoân luoân gan goùc, ñöông ñaàu vôùi boïn ñeá quoác thöïc daân”.

NQ TW 6 KX chỉ rõ: Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa đạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là ĐCSVN, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; có nhiều cố gắng để phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp trực tiếp to lớn vào quá trình phát triển của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội khác, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện.

Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Nhìn tổng quát, lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và nhưng đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Quan điểm, chính sách của Đảng đối với GCCN: Để thực hiện thắng lợi mục tiêu “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020 là: 1- Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, của tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc - động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước, đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân trên toàn thế giới.

3- Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài hoà lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân.

4- Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hoá giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân.

5- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vuơn lên của bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động; trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong giai cấp công nhân vững mạnh.

+ Giải pháp:

1- Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. 2- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá giai cấp công nhân. 3- Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho giai cấp công nhân. 4- Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân. 5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân

b. Giai cấp nông dân: GC nông dân là gc của những người lđ sxvc trong lĩnh vực nông nghiệp. Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng riêng mà tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Họ vốn có cơ cấu không thuần nhất, không có sự liên kết chặt chẽ cả về kinh tế và cả về tư tưởng, tổ chức. Trong một nước nông nghiệp thì họ là lực lượng chính trị - xã hội đông đảo nhất và khi được giác ngộ họ trở thành lực lượng CM to lớn nhất trong CM XHCN.

Giai cấp nông dân VN là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... trực tiếp sử dụng một tư liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản xuất ra nông sản.

Nông dân nước ta là một lực lượng CM to lớn, chiếm hơn 85% dân số, sớm có ý thức dân tộc và dân chủ. Nông dân việt nam chưa từng đi theo giai cấp tư sản việt nam vì giai cấp tư sản không thể đáp ứng được yêu cầu độc lập dân tộc và ruộng đất của nông dân. Nông dân việt nam có tinh thần CM nhưng không thể lãnh đạo CM dân tộc dân chủ vì họ không gắn liền với một phương thức SX mới và không có hệ tư tưởng độc lập, họ cũng không có khả năng xây dựng một XH mới. Giai cấp nông dân việt nam chỉ có thể đi với giai cấp công nhân, chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mới phát huy được khả năng CM của mình..

Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của đảng, nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sx hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sx tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kt xh được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. HTCT ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, TTATXH được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.

Tuy nhiên, thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng điều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sx; nghiên cứu, chuyển giao KHCN và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sx trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sx nhỏ, phân tán; n/s, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. CN, D vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu k tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sx chậm đổi mới, chưa đáp ứng y/c phát triển mạnh sx hàng hóa. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu ktxh còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vc và tinh thần của người nông dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu vùng xa; chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.

- Quan điểm, giải pháp: Một là, Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước

Hai là, các vấn đề NNNDNT phải được giải quyết đồng bộ, gắn với qt đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. CNH-HĐH NNNT là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của qt CNH-HĐH đất nước. Trong mqh mật thiết giữa NNNDNT, ND là chủ thể của qt phát triển với xd cơ sở CN, D vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.

Ba là, phát triển NN NT và nâng cao đời sống vc và tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế k tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với đk của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sd có hiệu quả các nguồn lực XH, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các đk thuận lợi trong hội nhập kt quốc tế cho phát triển LLSX trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của NN và XH, ứng dụng nhanh các thành tựu KHCN tiên tiến cho NN NT, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí cho nông dân.

Bốn là, giải quyết vấn đề NN ND NT là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn XH; trước hết phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xd XH nông thôn ổn định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xd nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân.

+ Giải pháp: 1/ Xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. 2/ Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị. 3/ Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, nhất là vùng khó khăn. 4/ Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn. 5/ Phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn. 6/ Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao các nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân. 7/ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân

c. Đội ngũ Trí thức: - Vị trí: - Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sp tinh thần và vật chất có giá trị đối với XH.

Trí thức không có hệ tư tưởng riêng vì không có phương thức sản xuất riêng và địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ phụ thuộc vào giai cấp thống trị xã hội. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp thống trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.

Trong các chế độ tư hữu đa số trí thức là những người lao động bị áp bức, bóc lột. Khi được sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trí thức trở thành người làm chủ xã hội và đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. ở Việt Nam, trí thức đã có nhiều đóng góp trong quá trình đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đại bộ phận được đào tạo trong chế độ mới. Họ xuất thân chủ yếu từ nông dân, công nhân và các tầng lớp lao động khác. Do vậy họ có mối liên hệ gần gũi với công nhân, nông dân và luôn là lực lượng cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và trí thức ngày càng có vai trò, vị trí quan trọng, nhất là trong quá trình xây dựng kinh tế tri thức và quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.

Trí thức VN xuất thân từ nhiều gc, tầng lớp XH, nhất là từ công nhân và nông dân; phần lớn trưởng thành từ trong XH mói, đc hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau, trong đó có bộ phận trí thức người VN ở nước ngoài. Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp CM do Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh XHCB, DC, VM. Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn trên tất cả các lĩnh vực xd, bảo vệ TQ.

Đội ngũ trí thức đều có điểm chung là đại diện cho trí tuệ đương thời, cho trình độ lao động trí óc và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ xh, họ là những người tìm tòi, khám phá, sáng tạo, hướng tới chân, thiện, mỹ đồng thời cũng vận dụng những kết quả ấy để phục vụ cho con người và xh cũng theo hướng chân, thiện, mỹ. Họ có vai trò rất to lớn trong việc ncứu phát hiện, khám phá và sáng tạo ra cái mới để thúc đẩy xh ptriển tiến bộ. Bất cứ thời đại nào hay chế độ chính trị nào đi nữa thì trí thức cũng là trụ cột chính của nền văn minh. Vì vậy, CNXH cần đội ngũ trí thức nhiều hơn, ko có họ thì CNXH cũng khó thành công. Trong công cuộc xd CNXH, trí thức có vai trò đặc biệt quan trọng, sự gắn bó giữa trí thức và CNXH là một yêu cầu khách quan, bời vì, CNXH mang lại cho trí thức chân trời sáng tạo vô tận, CNXH coi trọng trí thức vì họ là những ng lính xung kích trong việc tạo ra năng suất lao động xh cao hơn CNTB trên cơ sở một nền KH hiện đại và công nghệ tiên tiến.

- Thực trạng đội ngũ trí thức (NQTW7) Cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng; góp phần trực tiếp cùng toàn dân đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng KT-XH, XĐGN, nâng cao chất lượng cuộc sống; đóng góp tích cực vào xd luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, NN; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng tạo những công trình có giá trị; bộ phận trí thức tham gia công tác LĐQL, QPAN, trí thức trẻ, VN ở nước ngoài đã phát huy tốt vai trò và khả năng, có những đóng góp thiết thực vào sự phát triển đất nước.

Đội ngũ trí thức nước ta hiện nay đang chứa đựng một tiềm năng to lớn về văn hóa-khoa học, về kỹ thuật-công nghệ; sự kết hợp trí tuệ dân tộc với trí tuệ thời đại đã giúp họ nhạy bén với cái mới, tiếp cận nhanh với xu thế thời đại, có khả năng tiếp cận với nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật của thế giới hiện đại, đủ sức thực hiện những công trình nghiên cứu lớn ko chỉ về ứng dụng hay triển khai mà còn cả về phương diện sáng tạo, phát minh nới cũng như về dự báo khoa học...

Trong những năm qua, đội ngũ trí thức nước ta đã tạo ra những giá trị tinh thần và vật chất có hàm lượng trí tuệ cao, truyền bá những trí thức khoa học, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa của dân tộc, góp phần quan trọng vào việc bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Từ chỗ 95% dân số VN mù chữ năm 1945, đến nay, ở VN có khoảng 2,6 triệu người có trình độ ĐH và trên ĐH, đưa nước ta trở thành nước có nguồn nhân lực trí thức chiếm tỷ lệ khá cao so với các nước đang phát triển; Kỳ thi nho học đầu tiên từ năm 1075 đến năm 1919 chế độ phong kiến đào tạo được 2.896 nhà khoa bảng, năm học 1943-1944 toàn cõi Đông Dương có 7 trường ĐH với 1.259 sinh viên, cho đến nay nước ta có 312 trường ĐH và CĐ. Cùng với sự tăng nhanh về số lượng, chất lượng đội ngũ trí thức cũng được nâng cao. Nhiều đề tài công trình khoa học của trí thức VN được các hội đồng thế giới đánh giá cao, một số trí thứcVN được các Viện hàn lâm khoa học nước ngoài phong tặng Viện sỹ hàn lâm và mới hợp tác. Trong các kỳ thi quốc tế về trí tuệ, học sinh VN cũng giành được các thành tích lớn. Đại bộ phận đội ngũ trí thức trưởng thành có hoài bão, tâm huyết, say sưa với sự nghiệp nghiên cứu khoa học đã phát huy được vai trò quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, xã hội…đáp ứng được yêu cầu CNH – HDH đất nước.

+ Những hạn chế yếu kém: Số lượng và chất lượng chưa đáp ứng đc y/c của sự phát triển đất nước. Cơ cấu đội ngũ trí thức có những bất hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới tính ... Trí thức tinh hoa và hiền tài còn ít, chuyên gia đầu ngành thiếu nghiêm trọng, đội ngũ kế cận hẫng hụt; chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín ở khu vực và quốc tế. Nhìn chung, hoạt động n/c khoa học chưa xuất phát và gắn bó mật thiết với thực tiễn sx, kinh doanh và đời sống.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, đội ngũ trí thức nước ta cũng đã bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục, đó là: Trong đk CMKHCN phát triển nhanh, tri thức loài người đã được nâng lên trình độ cao tạo nên sự hoàn thiện năng lực tư duy và năng lực hoạt động thực tiễn, KH-CN đã trở thành LLSX trực tiếp ... thì một bộ phận trí thức thiếu năng lực trong việc giải quyết những nhiệm vụ do thực tế sx, đời sống đặt ra. Một số đề tài, công trình n/c, những luận án thiên về hướng lý thuyết, ít kết hợp với thực tiễn dẫn đến việc hạn chế tác dụng phục vụ thực tiễn của công trình, đề tài khoa học, đồng thời cũng hạn chế sự phát triển năng lực hoạt động thực tiễn của một số cán bộ khoa học...

Trình độ của trí thức ở nhiều cơ quan n/c, trường đại học tụt hậu so với y/c phát triển đất nước. Một bộ phận trí thức còn thiếu tự tin, e ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan đến chính trị. Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm. Một số trí thức không thường xuyên học hỏi, thiếu ý chí, hoài bão. Nhiều trí thức trẻ có tâm trạng thiếu phấn khởi, chạy theo lợi ích trước mắt, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên.

- Quan điểm, giải pháp: + Quan điểm: Một là, Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xd đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của HTCT. Đầu tư xd đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.

Hai là, Xd đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xh, của cả HTCT, trong đó trách nhiệm của Đảng và NN giữ vai trò quyết định. Trí thức có vinh dự và bổn phận trước TQ và d tộc. không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo vệ tổ quốc.

Ba là, thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động n/c, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh XHCBDCVM. Tạo môi tường và đk thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước.

+ Nhiệm vụ, giải pháp:

1/ Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức.

2/ Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức.

3/ Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức.

4/ Đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức.

5/ Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức

Phần Liên hệ:

Môn CNXH a. GCCN: Ngành CN chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu k tế địa phương, đội ngũ công nhân chiếm 3,8% dân số toàn tỉnh và đang đứng trước khó khăn thách thức về đời sống và việc làm. Một số DNNN sx kinh doanh kém hiệu quả. DN ngoài quốc doanh đang tăng nhanh, thu hút thêm lao động. nhưng lợi ích của công nhân và người lao động chưa đảm bảo. Từ tình hình trên đòi hỏi cần đẩy mạnh đổi mới và sắp xếp lại các DN, ưu tiên giải quyết việc làm, thực hiện chế độ BHXH, y tế cho công nhân lao động. Từng bước mở rộng các hình thức đào tạo nghề, bồi dưỡng tác phong công nghiệp cho công nhân.

Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đoàn trong các cq va DNNN; có kế hoạch mở rộng việc thành lập tổ chức công đoàn thích hợp với các loại hình DN ngoài quốc doanh. Phối hợp với chính quyền và chủ doanh nghiệp thực hiện tốt Luật Công đoàn, Luật LĐ nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao giác ngộ cách mạng và bản chất gccn cho gccn và lao động. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong LL công nhân làm nòng cốt trong liên minh giữa gccn, nd và đội ngũ trí thức.

b. GCND: LL nông dân trong tỉnh chiếm 78% dân số, với 70% LL lao động xh, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xd nông thôn mới, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển sản xuất hàng hóa, Mặt khác, nông dân đang đứng trước những khó khăn thách thức, hộ đói nghèo còn cao, thời gian lao động nhàn rỗi còn nhiều, mức hưởng thụ các dịch vụ và phúc lợi xh thấp.

Để phát huy tốt vai trò nông dân trong sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn cần vận dụng cơ chế khuyến khích tiêu thụ sp cho nông dân, xd các cơ sở chế biến hàng tiêu dùng và xk; đưa công nghệ sx tiên tiến vào NN, nông thôn. Tiếp tục mở rộng dự án đă máy nông nghiệp vào cho nông dân; thực hiện tốt chủ trương “đồn điền đổi thửa” đẩy nhanh tiến độ cấp GCN QSD đất để tạo đk cho nông dân trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, sd đất có hiệu quả.

Mở rộng các loại hình đ tạo nghề, chuyển giao KHKT và CN thông qua hoạt động khuyến nông, khuyến lâm ngư, các trung tâm học tập và sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Hỗ trợ và khuyến khích nông dân phát triển các ngành nghề dịch vụ thu hút lao động, tăng thu nhập. Quan tâm đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng cho phát triển k tế và VHXH, tạo các đk để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân.

Phát huy vai trò của Hội ND làm trung tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xd nông thôn mới. Thường xuyên đi sâu củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức hội cơ sở, thu hút đông đảo nông dân vào tổ chức hội. Tuyên truyền vận động phong trào thi đua phát triển k tế, xd đời sống văn hóa. Phát huy tinh thần tương thân tương ái giúp nhau trong sx, XĐGN.

c. Đội ngũ trí thức: Trí thức trong tỉnh chiếm 2,9% lđ xh, nhưng là lực lượng đóng vai trò nòng cốt trong sự nghiệp CNH-HĐH của địa phương. Cần quan tâm phát triển nhanh lực lượng trí thức thông qua việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sd và đãi ngộ xứng đáng để khuyến khích tài năng. Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật của tỉnh và thu hút các nhà khoa học, những chuyên gia giỏi, các sinh viên tốt nghiệp loại khá giỏi về công tác ở địa phương. Tăng cường đầu tư các cơ sở vật chất và phương tiện cho việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Mở rộng dân chủ, tạo cơ chế để đội ngũ trí thức tham gia tích cực vào việc hoạt định các chính sách, xd các đề án về ktxh của tỉnh. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, quan tâm phát triển đoàn viện, đảng viên trong đội ngũ trí thức. Xác định rõ trách nhiệm để đội ngũ trí thức tích cực lao động sáng tạo đóng góp xd quê hương.

Cơ cấu xã hội – giai cấp nước ta biến đổi theo xu hướng tiến bộ, được phản ánh ở sự thay đổi tích cực của các giai cấp tầng lớp xã hội (công nhân, nông dân, trí thức...). Do tính chất chưa ổn định về mặt xã hội, mới chỉ là định hướng xã hội chủ nghĩa nên trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, các giai cấp, tầng lớp phát triển đa dạng. Sự ổn định dần của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa sẽ tạo điều kiện hình thành từng bước một cơ cấu xã hội – giai cấp định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến giai đoạn cuối của thời kỳ quá độ, các giai cấp, tầng lớp xích lại gần nhau hơn, liên minh, hợp tác chặt chẽ, ổn định hơn. Trong suốt thời kỳ quá độ, liên minh công – nông – trí thức là lực lượng chính trị – xã hội cơ bản, là nền tảng của nhà nước pháp quyền XHCN mà tinh thần Đại hội X của Đảng đã khẳng định “Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam”./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro