Một số câu hỏi và trả lời luật hình sự.

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

LUẬT HÌNH SỰ (Câu 6 –8 dưới )

Câu 2: Các nguyên tắc pháp lý chung trong Luật Hình sự Việt Nam và các nguyên tắc chuyên ngành của Luật Hình sự Việt Nam? (31-40)

    ĐN: Các nguyên tắc của Luật Hình sự Việt Nam được hiểu là những tư tưởng, nguyên lý cơ bản được ghi nhận, thể hiện trong các quy phạm pháp luật hình sự, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự phản ánh những quy luật kinh tế-chính trị-văn hóa-xã hội và những quan niệm về đạo đức và pháp luật của nhân dân đối với việc quy định tội phạm và hình phạt và những vấn đề khác liên quan đến TộI PHạM và HÌNH PHạT.

* Các nguyên tắc chung trong Luật hình sự bao gồm: nguyên tắc dân chủ XHCN; nguyên tắc nhân đạo XHCN; nguyên tắc pháp chế XHCN; nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa yêu nước và đoàn kết quốc tế; nguyên tắc chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội cụ thể; nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

1- Nguyên tắc dân chủ XHCN: nguyên tắc này xuyên suốt các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực pháp luật. Trong Luật Hình sự Việt Nam nguyên tắc này thể hiện:  - Luật Hình sự Việt Nam bảo vệ chế độ xã hội và nhà nước của nhân dân lao động, thể hiện ý chí của nhân dân.

  - Luật Hình sự Việt Nam tôn trọng và bảo vệ các quyền dân chủ của công dân trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mọi hành vi xâm hại các quyền đó đều bị nghiêm trị.

   - Luật Hình sự Việt Nam bảo đảm mọi công dân tự mình hoặc thông qua các cơ quan, tổ chức khác nhau tham gia xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Những điều luật quan trọng lấy ý kiến rộng rãi.

 - Luật Hình sự Việt Nam coi việc đấu tranh phòng ngừa và chống tình hình TộI PHạM, việc giáo dục người phạm tội là sự nghiệp của toàn dân, mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, …

2- Nguyên tắc nhân đạo XHCN:

 - Xuất phát từ quan điểm đạo lý XHCN và tình thương con người trong truyền thống của dân tộc ta.

- Luôn được thể hiện rõ nét trong chính sách hình sự của nhà nước ta qua mọi giai đoạn phát triển. Đó là 1 nguyên tắc nhất quán của pháp luật hình sự nước ta.   Trước hết nguyên tắc này thể hiện đối với người phạm tội, nhà nước không có mục đích trả thù, mà ngược lại tạo điều kiện cho người phạm tội trở thành người tốt, có ích cho xã hội.

   Hình phạt không làm đau đớn thể xác, hạ thấp phẩm giá, áp dụng mức độ cần thiết, khoan hồng với người nhất thời phạm tội ít nghiêm trọng, người tự thú, thật thà khai báo, lập công chuộc tội; tạo cho phạm tội tự cải tạo, miễn hình phạt, giảm thời gian chấp hành … hình phạt chung than, tử hình chỉ áp dụng đối với trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và với những điều kiện chặt chẽ …

3- Nguyên tắc pháp chế XHCN:

   Là nguyên tắc quan trọng trong sinh hoạt xã hội và tổ chức, hoạt động của nhà nước. Đây là nguyên tắc kiên định (điều 12-HÌNH PHạT 1992) “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân  phài nghiêm chỉnh chấp hành HÌNH PHạT và PL, phòng ngừa và chống các TộI PHạM, các vi phạm HÌNH PHạT và PL”.

   Trong lĩnh vực hình sự, nguyên tắc được thể hiện trước hết ở chỗ việc quy định 1 tội mới, sửa đổi, bổ sung 1 TộI PHạM hoặc hủy bỏ 1 TộI PHạM cần phải được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật. Chỉ có cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất  mới có thẩm quyền quy định TộI PHạM và hình phạt.

   - TộI PHạM và HÌNH PHạT đối với người phạm tội phải được quy định trong pháp luật hình sự. Chỉ người nào phạm 1 tội đã được Luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

  - Nguyên tắc này đòi hỏi pháp luật hình sự phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, xây dựng 1 cách hoàn thiện đáp ứng các nhu cầu, đấu tranh phòng ngừa và chống TộI PHạM.

  - Nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi các cơ quan tư pháp hình sự phải triệt để tuân thủ pháp luật hình sự khi ra quyết định có liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự, đến việc quyết định hình phạt và các biện pháp tác động pháp lý hình sự khác. Việc điều tra, truy tố, xét xử phải đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt TộI PHạM, không làm oan người vô tội. Mọi việc áp dụng pháp luật hình sự 1 cách tùy tiện đều bị coi là vi phạm nguyên tắc này.

4- Nguyên tắc kết hợp hài hòa chủ nghĩa yêu nước và đoàn kết quốc tế:

 - Luật Hình sự Việt Nam đấu tranh không khoan nhượng, trừng trị 1 cách nghiêm khắc mọi hành vi phạm tội xâm hại chế độ xã hội và chế độ nhà nước, an ninh quốc gia và khả năng phòng thủ đất nước.

  - Luật Hình sự Việt Nam trừng trị nghiêm khắc các hành vi phạm tội, phá hoại hòa bình, chống loài người và chống lại cuộc chiến tranh chính nghĩa của các dân tộc bị áp bức bóc lột, những hành vi gây chiến tranh phi nghĩa.  - Những hành vi vi phạm tài sản của các nước khác, các tổ chức quốc tế, xâm phạm tài sản nước ngoài đều bị trừng trị nghiêm khắc.

   - Luật Hình sự Việt Nam ghi nhận và bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của nhà nước trong cuộc đấu tranh chung của loài người.  Nguyên tắc chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế thể hiện sự đoàn kết, hợp tác hữu nghị, tương trợ tư pháp trong chính sách đối ngoại của Luật Hình sự Việt Nam.

5- Nguyên tắc chịu trách nhiệm chỉ đối với hành vi phạm tội cụ thể:

   Pháp luật nước ta chỉ quy định trách nhiệm pháp lý đối với hành vi cụ thể xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.

   Trong lĩnh vực Luật hình sự, nguyên tắc này thể hiện ở chỗ chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội cụ thể của con người xâm hại đến các quan hệ xã hội. Có 1 luận điểm mang tính nguyên tắc: những gì chưa thể hiện bằng hành vi, các tư tưởng, suy nghĩ, ý muốn … của con người, dù rằng các tư tưởng, suy nghĩ, ý muốn đó có nguy hiểm đến đâu vẫn không được coi là TộI PHạM và phải chịu trách nhiệm TRÁCH NHIệM HÌNH Sự nếu như chúng không thể hiện trong hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội.

6- Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật:

   Đây là nguyên tắc chung của pháp luật. Trong pháp luật hình sự, nguyên tắc này đòi hỏi xử lý công minh, theo đúng pháp luật (điều 3 Bộ Luật hình sự). Nội dung nguyên tắc này thể hiện tập trung ở chỗ những người thực hiện TộI PHạM bình đẳng với nhau trước pháp luật hình sự và phải chịu trách nhiệm hình sự không phân biệt dân tộc, nam, nữ thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, …

* Các nguyên tắc chuyên ngành của Luật Hình sự Việt Nam:

1- Nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Còn được gọi là  nguyên tắc “mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện và xử lý kịp thời và nghiêm minh”, hoặc còn có cách nói khác “không để sót, không để lọt”. Nguyên tắc này gắn liền với nguyên tắc pháp chế và nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

Pháp luật hình sự nước ta, xuất phát từ luận điểm cho rằng người có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm tội buộc phải chịu trách nhiệm hình sự. Do đó trong các quy phạm của phần các TộI PHạM đối với từng loại TộI PHạM, nhà làm luật quy định loại và mức hình phạt cụ thể với tính cách là kết quả pháp lý tất yếu của việc thực hiện phạm tội đó.

2- Nguyên tắc trách nhiệm cá nhân:

   Nguyên tắc này có nghĩa là người phạm tội chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mà chính người đó chứ không phải do người khác hoặc tập thể gây ra. Chỉ người nào phạm tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự (điều 2 BLHS).

3- Nguyên tắc trách nhiệm cơ sở lỗi:

   Xuất phát từ nội dung điều 8 BLHS về khái niệm và các dấu hiệu của TộI PHạM.

  Nội dung nguyên tắc này thể hiện ở chỗ chỉ người nào có lỗi trong việc thực hiện TộI PHạM, tức là cố ý hoặc vô ý thực hiện TộI PHạM mới phải chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt. Không thể truy cứu 1 người nào đó trách nhiệm về hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu không xác định được rằng người đó có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó.

4- Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm tùy thuộc vào các tình tiết của việc thực hiện tội phạm.

   TộI PHạM có thể được thực hiện trong những tình tiết rất khác nhau. Những tình tiết cơ bản trong số đó ảnh hưởng đến việc xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và trách nhiệm của người phạm tội. Thông thường các tình tiết đó đặc trưng cho phương pháp thực hiện TộI PHạM hoặc hậu quả của nó, cho nhân than của người phạm tội, động cơ phạm tội, …

            Tùy thuộc vào các tình tiết sẽ quy định trách nhiệm hình sự khác nhau. Nguyên tắc này xuyên suốt toàn bộ phần các TộI PHạM của BLHS và được thể hiện trong cơ cấu của phần lớn các điều luật.

5- Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình phạt:

  Mọi TộI PHạM, ngay cả phạm tội cùng loại (tội trộm cắp, tội cướp tài sản, tội giết người) theo hoàn cảnh của việc thực hiện và các dấu hiệu thực tế của nó bao giờ cũng có tính xác định cá thể của nó. Người thực hiện phạm tội cũng có đặc điểm cá nhân mình (thể lực, tâm lý, xã hội, đạo đức). Chính vì vậy, trong từng trường hợp phạm tội cụ thể cần phải có cách tiếp cận phân hóa đối với việc xác định trách nhiệm và hình phạt.

6- Nguyên tắc công bằng:

  Nguyên tắc này thể hiện sự tiếp diễn và bổ sung cho nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào các tình tiết của việc thực hiện TộI PHạM và nguyên tắccá thể hóa trách nhiệm hình phạt. Nguyên tắc này thể hiện:+ Xác định rõ giới hạn giữa hành vi bị coi là tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật khác để từ đó quy định các bước xử lý tương ứng. + Thực hiện nhất quán quan điểm phân hóa trách nhiệm hình sự đối với TộI PHạM.

  + Hệ thống hóa các hình phạt được quy định phải có các thang bậc (mức độ) nghiêm khắc (loại và mức hình phạt) tương ứng với các thang bậc (mức độ) nghiêm trọng của các loại TộI PHạM.

* Ý nghĩa: Việc nghiên cứu các nguyên tắc của Luật Hình sự có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Vấn đề về các nguyên tắc của Luật Hình sự không chỉ bao hàm những khía cạnh lịch sử, triết học, đạo đức mà còn cả những khía cạnh chính trị - xã hội rộng lớn. Bởi vậy, cần phải nghiên cứu để xây dựng 1 lý luận nền tảng, hoàn chỉng về các nguyên tắc của Luật Hình sự, trong đó bao gồm những vấn đề cơ bản như: các cơ sở của việc hình thành các nguyên tắc của Luật Hình sự; khái niệm, giá trị và hệ thống các nguyên tắc của Luật Hình sự; cơ chế thể hiện (tác động) các nguyên tắc của Luật Hình sự; lý luận đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn, tạo điều kiện cho việc xây dựng các mô hình lý luận của các QPPL hình sự, làm cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật hình sự và áp dụng nó 1 cách đúng đắn trong thực tiễn.



Câu 5: Hiệu lực của đạo luật hình sự Việt Nam về không gian và thời gian (93-98)

   Hiệu lực của đạo luật hình sự là hoạt động hiện thực của những QPPL được thể hiện trong đạo luật đó, là sự biểu hiện trong thực tế năng lực pháp lý của chúng. Sự hoạt động hiện thực, sự biểu hiện trong thực tế năng lực pháp lý đó của các đạo luật hình sự. Khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự về cơ bản bao hàm của đạo luật về không gian và hiệu lực của đạo luật về thời gian, tức là làm sáng tỏ các giới hạn về không gian và giới hạn về thời gian của việc áp dụng đạo luật hình sự.

  - Điều 5 BLHS quy định hiệu lực của BLHS đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước CHXHCNVN.

 + Những người có thể chịu trách nhiệm hình sự đối với người tội phạm đã thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam là: người Việt Nam; người nước ngoài, trừ những người được hưởng đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự; và không có quốc tịch.

   Theo pháp luật nước ta và luật quốc tế thì lãnh thổ của nước CHXHCNVN là 1 phần của trái đất bao gồm đất liền; vùng nước; các hải đảo và quần đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam; vùng nước của các hải đảo đó, vùng trời của chúng và vùng đất dưới chúng.

   Hành vi phạm tội được coi là thực hiện trên lãnh thổ CHXHCNVN trong những trường hợp.

 + Đối với các TộI PHạM có cấu thành hình thức, tức là những TộI PHạM mà dấu hiệu gây ra không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với chúng, thì nơi thực hiện TộI PHạM được coi là đã xảy ra hành vi phạm tội hoặc nơi kết thúc việc thực hiện hành vi phạm tội đó (ví dụ hành vi điều khiển tàu, thuyền hay phương tiện hằng hải đi vào hoặc ra khỏi Việt Nam hoặc đi qua lãnh hải Việt Nam vi phạm các quy định về hằng hải của nước ta coi là hành vi phạm tội ở nước ta).

  Đối với các TộI PHạM khác có cấu thành vật chất tức là đối với các TộI PHạM nhất thiết phải có dấu hiệu bắt buộc và gây ra hậu quả nghiêm trọng (như chết người, gây thương tích, vi phạm về an toàn giao thong gây hậu quả nghiêm trọng …) thì nơi thực hiện TộI PHạM, theo nguyên tắc chung được coi là nơi xảy ra hậu quả được quy định đối với TộI PHạM đó (ví dụ đầu độc nạn nhân bằng cách cho uống thuốc độc trên máy bay hoặc tàu thủy hay trên xe lửa được thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam và hậu quả làm nạn nhân chết ở trên lãnh thổ Việt Nam)

(cũng có ngoại lệ)

2- Điều 6 BLHS quy định hiệu lực của BLHS đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước CHXHCNVN.

   Việc quy định công dân Việt Nam thực hiện TộI PHạM ở ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo pháp luật hình sự Việt Nam là dựa trên nguyên tắc quốc tịch và xuất phát từ nghĩa vụ tuân theo pháp luật của mọi công dân Việt Nam.

  Công dân Việt Nam chỉ có thể chịu trách nhiệm về những hành vi phạm tội do họ thực hiện khi những hành vi đó được BLHS nước ta quy định là TộI PHạM. Ví dụ nếu công dân Việt Nam phạm tội trên tàu thuyền không quân sự của Việt Nam trong thời gian đậu ở cảng hay ở vùng nội thủy hoặc lãnh hải nước ngoài, thì họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam (trừ những trường hợp ở điều 5).

  Người không có quốc tịch thường trú ở nước CHXHCNVN nếu phạm tội ở trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam, thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam.

Người nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước CHXHCNVN có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam chỉ trong những trường hợp được quy định trong các hiệp định quốc tế mà nước CHXHCNVN ký kết hoặc tham gia.

* Điều 7 BLHS nước ta quy định:

1- Điều luật áp dụng đối với 1 hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội đó thực hiện.

2- Điều luật quy định 1 tội phạm mới, 1 hình phạt nặng hơn, 1tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án hình sự và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

3- Điều luật xóa bỏ 1 tội phạm hoặc 1 hình phạt nhẹ, 1 tình tiết tăng nặng, hay quy định 1 hình phạt nhẹ hơn, 1 tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với mọi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

*Văn bản QPPL hình sự có hiệu lực thi hành là văn bản đã có hiệu lực thi hành và chưa mất hiệu lực đó (chưa bị bãi bỏ, thay thế, hết thời gian hiệu lực đã được xác định trước.

  - Khi 1 văn bản pháp luật hình sự mới bãi bỏ hoặc thay thế 1(hay nhiều) văn bản pháp luật hình sự cũ thì thời điểm mất hiệu lực thi hành của văn bản pháp luật hình sự cũ là thời điểm của văn bản pháp luật hình sự mới có hiệu lực.

  Văn bản pháp luật hình sự mất hiệu lực thi hành là văn bản mà các quy định của nó không được áp dụng đối với những hành vi phạm tội do văn bản ấy quy định được thực hiện sau khi văn bản ấy mất hiệu lực thi hành.

  - Theo HÌNH PHạT1992, các đạo luật phải được công bố chậm nhất là 15 ngày sau khi QH thong qua và căn cứ vào quyết định của Quốc hội, Chủ tịch nước công bố đạo luật đó. Nếu trong văn bản công bố không ghi rõ thời gian có hiệu lực của đạo luật đó, thì văn bản đó hiệu lực thi hành kể từ ngày Chủ tịch nước công bố.

  - Đối với việc xác định áp dụng văn bản pháp luật hình sự nào để truy tố và xét xử hành vi phạm tội cũng như việc xác định đúng TộI PHạM được thực hiện có ý nghĩa rất lớn.

  + Đối với TộI PHạM có cấu thành hình thức, thực hiện TộI PHạM được coi là thực hiện hành vi phạm tội. Trong hành vi đó được thực hiện, văn bản pháp luật nào đang có hiệu lực thi hành thì áp dụng văn bản pháp luật đó để truy tố xét xử.

 + Đối với TộI PHạM có cấu thành vật chất thực hiện TộI PHạM được coi là thi hành hành vi phạm tội gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Trong trường hợp này, thời điểm gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với việc áp dụng pháp luật hình sự. Ví dụ người phạm tội thực hiện hành vi giết người trước ngày 1/7/2000 nếu hậu quả xày ra nạn nhân chết trước ngày đó thì áp dụng BLHS 1985; nếu chết sau ngày đó thì áp dụng BLHS 2000.

 + Đối với TộI PHạM do đồng phạm có tổ chức thực hiện, thì TộI PHạM được coi là khi người thực hiện hành vi có dấu hiệu của cấu thành TộI PHạM mà họ đã bàn bạc, dự định thực hiện. Vì thế, người thực hiện TộI PHạM lúc văn bản pháp luật nào đang có hiệu lực thi hành thì áp dụng.

  + TộI PHạM liên tục được coi là hòan thành từ thời điểm thực hiện hành vi phạm tội đầu tiên, do vậy trong trường hợp phạm tội liên tục, người phạm tội lien tục chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình theo văn bản pháp luật hình sự đang có hiệu lực thi hành ở thời điểm thực hiện hành vi phạm tội đầu tiên.

  - Tội phạm kéo dài bao gồm những hành vi riêng biệt và mỗi hành vi đó đều có đầy đủ dấu hiệu của cùng 1 tội danh. Do vậy người thực hiện phạm tội kéo dài chịu trách nhiệm hình sự theo văn bản pháp luật hình sự đang có hiệu lực thi hành khi TộI PHạM đó được phát hiện.

* Điều luật quy định 1 TộI PHạM mới là điều luật quy định 1 hành vi TộI PHạM mà trước đó không bị coi là TộI PHạM hoặc mở rộng phạm vi bị coi là TộI PHạM.

  Theo khoản 2 điều 7 BLHS hiện hành thì điều luật quy định 1 TộI PHạM mới, 1hình phạt nặng hơn, 1 tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, không thể áp dụng trở về trước đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi các điều luật đó có hiệu lực, tức là không có hiệu lực hồi tố.

* Điều luật xóa bỏ 1 TộI PHạM là điều luật loại trừ hành vi mà trước đó bị coi là TộI PHạM.

  Theo khoản 3 điều 7 BLHS hiện hành, điều luật xóa bỏ 1 TộI PHạM hoặc quy định 1 hình phạt nhẹ hơn như nêu ở trên được áp dụng đối với những hành vi phạm tội đã được thực hiện trước khi điều luật đó ban hành, tức là có hiệu lực hồi tố.

* Ngoài ra, cac điều luật của BLHS quy định thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự, thi hành án và xóa án cũng có hiệu lực hồi tố


.



Câu 6: khái niệm và cơ sở trách nhiệm hình sự Việt Nam?

  Cũng như mọi hình thức trách nhiệm pháp luật khác, trách nhiệm hình sự thể hiện thái độ, sự   của nhà nước, của xã hội đối với hành vi vi phạm pháp luật và thông qua hoạt động đàm phán của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chủ thể của hành vi phải chấp nhận chế tài nhất định. Tuy nhiên đối với trách nhiệm hình sự thì chế tài này có thể là hình phạt cũng có thể là những biện pháp cưỡng chế khác. Nhưng đây là loại chế tài đặc biệt nghiêm khắc và chỉ được áp dụng đối với những hành vi gây nguy hiểm lớn cho xã hội mà Luật Hình sự quy định, thong qua hoạt động của một cơ quan duy nhất có thẩm quyền là Tòa án.

   Trách nhiệm hình sự, cũng như trách nhiệm pháp lý, luôn lien quan với những cưỡng chế nhà nước. Khi vi phạm pháp luật xảy ra, giữa chủ thể vi phạm pháp luật và nhà nước xuất hiện 1 quan hệ đặc biệt, trong đó nhà nước thong qua các cơ quan có thẩm quyền xác định chế tài được áp dụng đối với người vi phạm và những biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm việc áp dụng chế tài đó.

  Cơ sở pháp luật của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là quy định có hiệu lực pháp lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Riêng đối với trách nhiệm hình sự thì có thể là bản án quy định đã hiệu lực pháp luật của tòa án, cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử hình sự và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

  Như vậy, trách nhiệm hình sự là 1 loại quan hệ pháp luật đặc biệt phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra giữa 1 bên là nhà nước và bên kia là người phạm tội, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền áp dụng bằng biện pháp cưỡng chế chế tài hình sự đối với người phạm tội có nghĩa vụ phải chịu hậu quả bất lợi (được quy định trong chế tài hình sự) do việc thực hiện hành vi phạm tội.

  Trách nhiệm hình sự và hình phạt tuy có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng là 2 khái niệm riêng biệt.

  Trách nhiệm hình sự với tính cách là quan hệ đặc biệt giữa nhà nước và người phạm tội từ thời điểm TộI PHạM thực hiện, nghĩa là     trước thời điểm của người tuyên án và hình phạt. Còn hình phạt với tính cách là chế tài hình sự chỉ xuất hiện sau khi tòa án tuyên bản án và hình phạt và chỉ khi bản án đó có hiệu lực pháp luật. Mặt khác mặc dù trong phần lớn các trường hợp, trách nhiệm hình sự được thực hiện thông qua việc áp dụng hình phạt, nhưng cũng có những hình phạt trách nhiệm hình sự được thông qua các biện pháp khác có tính chất cưỡng chế hình sự.

* Cơ sở của trách nhiệm hình sự:

   Là những vấn đề trung tâm nhất của pháp luật hình sự. Việc giải quyết những vấn đề này như thế nào sẽ có tác động lớn đến chính sách hình sự của nhà nước, đến việc thực hiện các nguyên tắc quan trọng như pháp chế XHCN, nguyên tắc tôn trọng, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của công dân …

   Theo Luật Hình sự Việt Nam “chỉ người nào phạm 1 tội để BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” (điều 2 BLHS). Quy định này bao hàm 2 nội dung. Thứ nhất, là chỉ người nào phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự và điều đó cũng có nghĩa là 2 phạm tội cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Thứ hai là tội phạm đó phải được BLHS quy định.

  Như vậy cơ sở duy nhất làm FS trách nhiệm hình sự chỉ có thể là TộI PHạM nhưng TộI PHạM hiểu theo pháp lý hình sự, là hành vi có yếu tố cấu thành do luật định. Các dấu hiệu pháp lý cần và đủ của mỗi TộI PHạM được quy định trong BLHS được gọi là dấu hiệu của CấU THÀNHTộI PHạM. Bởi vì trước hết đó là những dấu hiệu mà luật hình sự quy định, hai là, cần phải có đủ những dấu hiệu đó thì hành vi mới bị coi là TộI PHạM, và ba là, chỉ cần có đủ những dấu hiệu đó thì hành vi đó mới coi là TộI PHạM. Như vậy, suy cho cùng thì cơ sở trách nhiệm hình sự là CấU THÀNHTộI PHạM và chỉ dấu hiệu đó mới là cơ sở của trách nhiệm hình sự.

  Đặc trưng cơ bản của TộI PHạM cho phép phân định nó với các vi phạm pháp luật khác là tính chất nguy hiểm cho xã hội của nó.

  Tính nguy hiểm cho xã hội được xác định, trước hết bởi thiệt hại mà hành vi tội phạm gây ra cho các quan hệ xã hội mà Luật Hình sự bảo vệ. Nói cách khác là khách thể của tội phạm, các quan hệ xã hội với giá trị và tầm quan trọng của nó là yếu tố không thể thiếu được của TộI PHạM. Mặt khác các quan hệ xã hội khách thể của TộI PHạM chỉ có thể bị xâm hại thông qua hành vi cụ thể bằng hành động hoặc không hành động, nhưng nhất thiết phải là sự biểu hiện bên ngoài thế giới khách quan. Hai nữa, thiệt hại do hành vi gây ra hoặc gây ra những thông số biểu hiện hậu quả đã xảy ra hoặc có khả năng xảy ra. Bởi vậy, cũng không thể có TộI PHạM nếu không có hành vi và không có hậu quả, những dấu hiệu thuộc về phương diện khách quan của TộI PHạM.

  Một hành vi chỉ bị coi là nguy hiểm cho xã hội khi nó không phù hợp với lợi ích của nhà nước và xã hội, khi nó đi ngược lợi ích của nhà nước và xã hội thì ngay cả khi chúng gây ra thiệt hại nhất định nào đó, về khách quan các quan hệ xã hội mà Luật Hình sự bảo vệ thì cũng không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội (theo quan điểm của giai cấp thống trị). Chẳng hạn những hành vi được thực hiện trong trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết … Chỉ có thể nói đến tính chất nguy hiểm cho xã hội khi hành vi đó có lỗi, lỗi là phương diện chủ quan của TộI PHạM. Do đó không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mọi hành vi nào nếu không xét được yếu tố có lỗi.

  Việc truy cứu trách nhiệm hình sự thông qua việc chế tài hình sự nhằm mục đích: trừng trị, phòng ngừa TộI PHạM và giáo dục, cải tạo người phạm tội. Tuy nhiên, mục đích này chỉ có thể đạt được nếu người thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức, có khả năng kiểm soát hành vi của mình, tức là có năng lực trách nhiệm hình sự. Năng lực trách nhiệm hình sự ở 1 mức độ nào đó còn phụ thuộc vào độ tuổi (mức độ phát triển về tâm – sinh học của con người). Đối với những người không có khả năng nhận thức hành vi hoặc khả năng kiểm soát hành vi của mình vì những lý do nhất định, thì việc áp dụng chế tài hình sự là vô nghĩa, không đạt mục đích. Vì thế những dấu hiệu về chủ thể cũng không thể thiếu được trong CấU THÀNHTộI PHạM.

  Một hành vi hội đủ những dấu hiệu trên sẽ được coi là TộI PHạM khi và chỉ khi các dấu hiệu này được quy định cụ thể trong BLHS. Điều đó có nghĩa là chỉ những yếu tố CấU THÀNHTộI PHạM được BLHS quy định mới là cơ sở của trách nhiệm hình sự. Luật Hình sự của nước ta khẳng định 1 cách dứt khoát việc bát bỏ nguyên tắc tương tự và quy định nguyên tắc “không có tội và không có

hình phạt, nếu Luật Hình sự không quy định”. Theo nguyên tắc này thì TộI PHạM và các khả năng pháp lý khác của TộI PHạM đều phải được Luật Hình sự quy định.

Tóm lại, cơ sở duy nhất của Luật Hình sự là cấu thành TộI PHạM

với mọi dấu hiệu của nó mà BLHS quy định.

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



Câu 7: Khái niệm TộI PHạM, phân loại TộI PHạM theo Luật Hình sự Việt Nam?

  Đến nay trong lý luận về Luật Hình sự trong pháp luật hình sự ở các nước khác nhau có những định nghĩa khác nhau về TộI PHạM, nhưng có thể khái quát các định nghĩa đó thành 3 loại như sau: định nghĩa hình thức, định nghĩa vật chất, định nghĩa vật chất giả luận.

  - Định nghĩa hình thức, TộI PHạM là hình thức bị đạo luật hình sự trừng trị (BLHS pháp 1791). Định nghĩa hình thức về TộI PHạM có hạn chế là không làm sáng tỏ được bản chất giai cấp xã hội của TộI PHạM, không đưa ra cơ sở của việc TộI PHạM hóa hành vi.

- Định nghĩa vật chất về TộI PHạM làm sáng tỏ hơn bản chất xã hội đích thực của nó chỉ ra những lợi ích giai cấp bị TộI PHạM xâm phạm, tác hại mà do TộI PHạM gây ra cho các quan hệ xã hội. Luật Hình sự cộng hòa Liên bang Nga 1919 định nghĩa “TộI PHạM là sự vi phạm trật tự các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Sau đó định nghĩa vật chất về TộI PHạM được tiếp nhận và ghi nhận trong pháp luật hình sự của các nước XHCN khác.

  Ở nước ta điều 8 BLHS quy định “TộI PHạM là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện 1 cách có ý hoặc vô ý, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức làm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN”.

  Định nghĩa nêu trên được gọi là định nghĩa đầy đủ của TộI PHạM, có tính khoa học phản ánh đầy đủ các dấu hiệu về nội dung và hình thức pháp lý của TộI PHạM. Nó thể hiện tập trung, rõ nét nhất quan điểm của nhà nước ta về TộI PHạM, là cơ sở xuất phát điểm cho việc quy định những TộI PHạM cụ thể trong phần các TộI PHạM và việc áp dụng đúng đắn những định luật quy định về từng tội TộI PHạM trong điều tra, truy tố và xét xử.

  Đối với vật chất giả biện về TộI PHạM có ý nghĩa xác định nội dung xã hội của TộI PHạM trên cơ sở lẫn tránh bản chất giai cấp của nó. Người ta thay đổi giai cấp xã hội và nội dung TộI PHạM bằng những khái niệm phi giai cấp như “đạo đức xã hội”, “lợi ích của đạo đức chung”, “lợi ích của nhà nước pháp quyền”. Về thực chất, việc “vật chất hóa” khái niệm TộI PHạM kiểu đó không làm sáng tỏ được nội dung đích thực của nó, mà ngược lại nó mang tính giả hiện núp dưới dấu hiệu “vật chất”, “lợi ích chung của xã hội”. Xét về bản chất định nghĩa vật chất giả hiện về TộI PHạM nguy hiểm và phản động hơn so với định nghĩa hình thức về TộI PHạM. Tuy rằng, định nghĩa vật chất giả hiện về TộI PHạM chưa được ghi nhận trong pháp luật hình sự của nhà nước tư sản nhưng nó rất phổ biến trong sách báo pháp lý hình sự ở cácc nước đó.

* Phân loại TộI PHạM:

  Phân loại TộI PHạM và những quy định cụ thể hậu quả pháp lý tương ứng đối với từng loại TộI PHạM đó trong pháp luật là 1 trong những nội dung, biểu hiện của việc tiếp tục phân hóa trách nhiệm hình sự. Do đó, pháp luật hình sự nước ta phân loại TộI PHạM thành các loại khác nhau: phân loại TộI PHạM phần chung và phần các TộI PHạM của BLHS.

  - Phân loại TộI PHạM ở phần chung của pháp luật hình sự được hiểu là việc phân chia tất cả các TộI PHạM được quy định trong pháp luật hình sự thành các nhóm (phạm vi) dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của các TộI PHạM với việc quy định rõ hậu quả pháp lý đối với các nhóm TộI PHạM đó.

  - Phân loại TộI PHạM ở phần các TộI PHạM của pháp luật hình sự được hiểu là việc phân chia tất cả các TộI PHạM dựa trên khách thể loại của chúng và được hệ thống hóa theo các chương với 1 trật tự logic nhất định và với việc quy định rõ hậu quả pháp lý đối với từng TộI PHạM cụ thể.

  BLHS nước ta, ở phần chung đã phân các TộI PHạM thành 4 loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

  Khoản 3 điều 8 BLHS hiện hành quy định “tội ít nghiêm trọng là TộI PHạM gây nguy hại không lớn cho xã hội và mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù; TộI PHạM nghiêm trọng là TộI PHạM gây nguy hại  lớn cho xã hội và mức cao nhất của khung hình phạt đối với TộI PHạM đó là đến 7 năm tù; TộI PHạM rất nghiêm trọng là Tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

  Mức độ của mức nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM được thể hiện trong pháp luật thông qua đơn vị đo lường chính là loại và mức hình phạt.

  Ngoài cách phân loại nói trên trong phần chúng và phần các TộI PHạM của pháp luật hình sự Việt Nam (BLHS) dựa vào các căn cứ khác, các TộI PHạM còn được phân thành các loại khác nhau. Chẳng hạn dựa vào các hình thức lỗi: cố ý và vô ý, dựa vào các giai đoạn thực hiện TộI PHạM chưa bị phạm tội, TộI PHạM chưa đạt, TộI PHạM hình thành; dựa vào khách thể TộI PHạM 4 nhóm tội khác nhau.

  Việc phân loại các TộI PHạM có ý nghĩa lớn về chính trị văn hóa,pháp lý và đạo đức.

  - Đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai thực hiện chính sách hình sự của nhà nước ta. Việc phân loại TộI PHạM là cơ sở cho việc xây dựng các chế định khác về TộI PHạM và hình phạt. Điều đó thể hiện:

  + Đối với việc xây dựng chế định khi phạm tội, căn cứ vào việc phân loại, BLHS quy định: chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi chuẩn bị thực hiện 1 tội rất nghiêm trọng, 1 tội đặc biệt nghiêm trọng (điều 17).

 + Đối với việc xây dựng hệ thống hình phạt và điều kiện áp dụng các hình phạt cụ thể, BLHS nước ta quy định: hình phạt cảnh cáo chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng (điều 29 BLHS), hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc TộI PHạM nghiêm trọng (điều 31). Bộ phận tư pháp giáo dục tại xã phường thị trấn chỉ được áp dụng đối với người chưa phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Đồng thời BLHS cũng quy định rõ những hình phạt nào được áp dụng đối với những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

+ Đối với việc quy định chế định thời hiệu, cũng phải căn cứ vào các TộI PHạM cụ thể. BLHS nước ta quy định: đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 5 năm; đối với các TộI PHạM nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 10 năm; đối với các TộI PHạM rất nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 15 năm và đối với các TộI PHạM đặc biệt nghiêm trọng thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 20 năm (khoản 2 điều 23).

- Đối với việc xác định tái phạm và tái phạm nguy hiểm cũng căn cứ vào việc phân loại TộI PHạM (điều 49 BLHS).

   Việc phân loại TộI PHạM trong phần chung của các pháp luật hình sự là cơ sở quy định 1 số chế định trong pháp luật thi hành hình sự như chế định tạm giam, chế định về thẩm quyền xét xử của tòa án các cấp, việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, việc quy định thời hạn chuẩn bị xét xử …


 


 


Câu 8: Tội phạm và các vi phạm pháp luật khác nhau như thế nào? (139-141)

- Định nghĩa:

 - TộI PHạM?

- Vi phạm pháp luật?

  - Dựa vào điều 8 BLHS “TộI PHạM là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện 1 cách vô ý hoặc cố ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích của tổ chức, xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN”.

* TộI PHạM là 1 loại vi phạm pháp luật, do vậy TộI PHạM và các vi phạm pháp luật khác có những đặc điểm và dấu hiệu giống nhau. Nhưng đồng thời, giữa TộI PHạM và các vi phạm pháp luật khác cũng có sự khác nhau.

   Vấn đề đặt ra cho các lý luận hình sự là chỉ cần các căn cứ, tiêu chí để phân biệt TộI PHạM với các hành vi vi phạm pháp luật đó. Việc phân biệt có ý nghĩa lớn đối với việc xác định giới hạn của trách nhiệm hình sự, xây dựng cơ sở lý luận cho hoạt động xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật hình sự.

Việc phân biệt TộI PHạM và các vi phạm pháp luật khác dựa vào các căn cứ:

* Giống nhau:

 - Đều gây ra những hành vi nguy hiểm cho xã hội

 - Đều do pháp luật quy định

- Đều phải chịu trách nhiệm pháp lý.

*Khác nhau:

 - Xét về nội dung, TộI PHạM và các hành vi vi phạm pháp luật khác đều có tính nguy hiểm cho xã hội nhưng các loại hành vi này khác nhau ở mức độ nguy hiểm cho xã hội.

   Do đó tiêu chuẩn cơ bản của việc phân biệt là: mức độ nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM là đáng kể, còn mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật khác là không đáng kể. Điều 8 BLHS hiện hành quy định “những hành vi tuy có dấu hiệu của TộI PHạM nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là TộI PHạM (khoản 4). Ranh giới này trong nhiều trường hợp được chỉ ra cụ thể trong pháp luật hình sự, khi chưa cụ thể cần phải giải thích khi áp dụng pháp luật hình sự.

  Ví dụ:  những trường hợp cụ thể được chỉ ra trong luật như sau thì chắc chắn là TộI PHạM: hành vi phản bội tổ quốc, hành vi giết người, hành vi hiếp dâm, hành vi cướp tài sản …

  Trường hợp ranh giới TộI PHạM và các vi phạm pháp luật không chỉ rõ trong luật thì những người áp dụng pháp luật hình sự phải đánh giá mức độ nguy hiểm đáng kể hay không đáng kể. Ví dụ: Tội làm nhục người khác được quy định là hành vi “xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác” (điều 121).

  - Xét về hình thức pháp lý, TộI PHạM được quy định trong pháp luật hình sự, còn các vi phạm pháp luật khác được quy định trong các văn bản pháp luật khác.

  Dấu hiệu này mang tính hình thức song nó phản ánh dấu hiệu nội dung đã nói ở trên. Một hành vi chỉ có thể được coi là TộI PHạM nếu đã được quy định trong pháp luật hình sự. Nếu 1 hành vi chưa được hoặc không được quy định trong pháp luật hình sự thì không thể coi hành vi đó là TộI PHạM. Trong trường hợp này cần phải xác định hành vi đó phải là vi phạm pháp luật khác hay không chứ không đặt vấn đề xác định có phải là TộI PHạM hay không?

  - Xét về hậu quả pháp lý TộI PHạM bị xử lý bằng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước là hình phạt (chịu trách nhiệm hình sự) còn có các loại vi phạm pháp luật khác bị xử lý bằng các biện pháp ít nghiêm khắc hơn của nhà nước, là các chế tài khác (dân sự, hành chính, kỷ luật …). Việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội hậu quả người đó có án tích, còn vi phạm pháp luật khác khi bị xử lý không mang hậu quả đó.

  Chủ thể của TộI PHạM là con người cụ thể (thể nhân) chủ thể của vi phạm pháp luật khác có thể là thể nhân, có thể là pháp nhân.


 

 



Câu 9: cấu thành TộI PHạM, các yếu tố cấu thành TộI PHạM, các loại cấu thành TộI PHạM (143-158)

  ĐN: Cấu thành TộI PHạM là hệ thống các dấu hiệu khách quan và chủ quan được quy định trong pháp luật hình sự đặc trưng cho hành vi nguy hiểm cho xã hội là TộI PHạM.

   Những dấu hiệu cấu thành TộI PHạM trở thành các căn cứ để xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội là TộI PHạM, là cơ sở pháp lý thống nhất để truy cứu trách nhiệm hình sự và thực hiện TộI PHạM. BLHS hiện hành ở điều 2 quy định “chỉ người nào phạm 1 tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Nghĩa là theo pháp luật hình sự Việt Nam để truy cứu trách nhiệm hình sự và thừa nhận 1 người nào đó là có lỗi cần phải xác định rằng trong hành  vi của người đó có cấu thành TộI PHạM nhất định.

   Các dấu hiệu của cấu thành TộI PHạM có mối quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, mỗi dấu hiệu tồn tại trong 1 chỉnh thể với các dấu hiệu khác và là 1 bộ phận cần thiết không thể thiếu của chỉnh thể thống nhất, thiếu 1 dấu hiệu nào đó sẽ không có cấu thành TộI PHạM. Cấu thành TộI PHạM là 1 hệ thống các dấu hiệu cần và đủ cho việc thừa nhận rằng 1 người nào đó đã thực hiện 1 TộI PHạM nhất định và phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trong lý luận pháp luật hình sự sử dụng 2 khái niệm cấu thành TộI PHạM. Thứ nhất cấu thành TộI PHạM là sự trìu tượng về lập pháp, sự mô tả của điều luật hình sự về các dấu hiệu đặc trưng và cơ bản của TộI PHạM; Thứ hai, cấu thành TộI PHạM là hành vi chứa đựng các dấu hiệu cơ bản của TộI PHạM được mô tả trong pháp luật hình sự.

  Trước hết cấu thành TộI PHạM là hệ thống các dấu hiệu khách quan và chủ quan tồn tại 1 cách hiện thực, cấu thành và cấu tạo nên tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi (cấu thành hành vi nguy hiểm cho xã hội).

  Cấu thành TộI PHạM là 1 trong những chế định quan trọng nhất của luật hình sự Việt Nam. Ý nghĩa của nó trước hết thể hiện ở chỗ việc có các dấu hiệu của 1 cấu thành TộI PHạM cụ thể trong hành vi đã được thực hiện là cơ sở duy nhất của trách nhiệm hình sự. Cấu thành TộI PHạM có ý nghĩa hàng đầu trong sự bảo đảm việc tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự.

  + Việc xác lập phù hợp các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của 1 cấu thành TộI PHạM đã được pháp luật hình sự quy định gọi là định tội danh và bao giờ cũng phải dẫn đến điều luật (khoản) của BLHS quy định trách nhiệm đối với TộI PHạM đó.

 +Việc định tội danh đúng nghĩa nguyên tắc đối với việc đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi của người phạm tội, đối với việc xác lập mức độ nguy hiểm cho xã hội cuả nó, xác định hậu quả pháp lý hình sự, loại và mức hình phạt.

+ Việc đánh giá đúng đắn về mặt pháp lý hình sự và mặt chính trị xã hội của hành vi xâm hại đến cơ thể đạt được trên cơ sở hiểu biết sâu sắc pháp luật hình sự của việc nhận htức đúng đắn ý nghĩa của cấu thành TộI PHạM, khả năng phân biệt 1 cách rõ rang các dấu hiệu của nó của việc giải quyết toàn diện các tình tiết thực tế của hành vi.

  Khái niệm yếu tố với tư cách là 1 bộ phận hợp thành của các chỉnh thể khoa học luật hình sự sử dụng trong việc phân tích lý luận về TộI PHạM. Với sự hỗ trợ cảu khái niệm “yếu tố” chúng ta tách ra các biện pháp hợp thành của TộI PHạM như: khách thể và mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan.

* Các yếu tố cấu thành TộI PHạM được hiểu là các bộ phận cấu thành TộI PHạM. Theo lý luận về luật hình sự Việt Nam, các yếu tố cấu thành TộI PHạM bao gồm: khách thể của TộI PHạM, mặt khách quan cuả TộI PHạM, chủ thể của TộI PHạM, mặt chủ quan của TộI PHạM. Khi yếu tố đầu là 2 yếu tố khách quan; 2 yếu tố sau là 2 yếu tố chủ quan của TộI PHạM.

 - Khách thể của TộI PHạM là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và bị TộI PHạM xâm hại.

  Bất cứ hành vi phạm tội nào cũng gây ra thiệt hại hoặc dọa gây ra thiệt hại đối với các mối quan hệ xã hội nhất định. Trong lý luận về luật hình sự việc gây ra thiệt hại đối với khách thể đã được quy định trong pháp luật hình sự gọi là hậu quả. Giữa hành vi phạm tội đã được thực hiện và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra tồn tại mối quan hệ nhân quả.

  Khách thể của TộI PHạM là yếu tố bắt buộc của TộI PHạM. Không có khách thể bị xâm hại thì không thể có TộI PHạM. Khách thể của TộI PHạM có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội danh, đối với việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

  - Mặt khách quan của TộI PHạM là mặt biểu hiện bên ngoài của TộI PHạM, là những biểu hiện của TộI PHạM ra thế giới khách quan: hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành động và không hành động), hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hện nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã  hội và hậu quả do hành vi đó gây ra, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công cụ, thủ đọan, phương tiện … Bất cứ TộI PHạM nào cũng đều có biểu hiện bên ngoài thế giới khách quan, không có biểu hiện bên ngoài thì không thể có TộI PHạM (mô tả khái quát trong QPPL).

  - Chủ thể của TộI PHạM là con người cụ thể đã thực hiện TộI PHạM, đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự.

  Các dấu hiệu đặc trưng cho chủ thể của TộI PHạM được quy định trong phần chung của BLHS, còn các dấu hiệu đặc thù của các chủ thể đặc biệt và của các chủ thể từng TộI PHạM đã chỉ ra trong phần các TộI PHạM của BLHS. Bất cứ TộI PHạM cụ thể nào cũng phải có chủ thể không có chủ thể của TộI PHạM không có TộI PHạM.

  - Mặt chủ quan của TộI PHạM là mặt bên trong của TộI PHạM là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội, bao gồm các dấu hiệu lỗi, động cơ phạm tội, mục đích phạm tội.

   Bất cứ TộI PHạM nào cũng có biểu hiện bên trong của nó. Mọi TộI PHạM đều là những hành vi có lỗi. Lỗi của TộI PHạM thường được chỉ rõ trong phần quy định của QPPL quy định TộI PHạM tương ứng. Tuy vậy, cũng có những trường hợp luật không nêu trực tiếp. Hình thức lỗi của TộI PHạM trong điều luật, trong những trường hợp đó việc xác định phải được giải thích. Bất cứ TộI PHạM nào cũng có dấu hiệu lỗi, không có dấu hiệu lỗi sẽ không có TộI PHạM. Động cơ và mục đích TộI PHạM là nội dung biểu hiện của mặt chủ quan ở 1 số TộI PHạM nhất định.

  Trong sự thống nhất 4 yếu tố nêu trên thể hiện đầy đủ bản chất, nội dung chính trị xã hội của TộI PHạM. Nếu các TộI PHạM có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì 4 yếu tố đó cũng có những nội dung biểu hiện khác nhau. Mỗi 1 yếu tố trên có ý nghĩa khác nhau trong việc xác định  tính nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM, nhưng TộI PHạM không thể thiếu bất kỳ yếu tố nào. 4 yếu tố cấu thành TộI PHạM có liên quan với nhau và tổng hợp lại cùng quyết định tính nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM.

Căn cứ vào vai trò của các dấu hiệu đối với cấu thành TộI PHạM, có thể phân tất cả các dấu hiệu thuộc nội dung các yếu tố cấu thành TộI PHạM thành 2 loại:

   + Các dấu hiệu bắt buộc phải có trong cấu thành TộI PHạM: hành vi nguy hiểm cho xã hội (yếu tố khách quan),lỗi (yếu tố mặt chủ quan) đạt 1 độ tuổi nhất định và năng lực trách nhiệm hình sự (yếu tố chủ thể của TộI PHạM).

  + Các dấu hiệu không bắt buộc phải có trong mọi cấu thành TộI PHạM: hậu quả nguy hiểm cho xã hội; địa điểm phạm tội; thời gian phạm tội; mức độ phạm tội, … Các dấu hiệu này có thể bắt buộc đối với 1 số loại cấu thành TộI PHạM nhất định, nhưng không phải là bắt buộc với mọi cấu thành TộI PHạM.

* Việc phân loại cấu thành TộI PHạM theo những tiêu chuẩn khác nhau có ý nghĩa rất lớn đối với việc nhận thức 1 cách sâu sắc và toàn diện hơn nội dung của các cấu thành TộI PHạM cụ thể, của các nhóm cấu thành riêng biệt, đối với việc làm sáng tỏ các dấu hiệu cơ bản của cấu thành TộI PHạM đó.

1- Dựa vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Tùy thuộc vào các tình tiết đặc trưng cho khách thể TộI PHạM, mặt khách quan chủ thể và mặt chủ quan, TộI PHạM có thể có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau … ta chia ra: cấu thành TộI PHạM cơ bản, cấu thành TộI PHạM tăng nặng, cấu thành TộI PHạM giảm nhẹ.

  - cấu thành TộI PHạM cơ bản là hệ thống các dấu hiệu đặc trưng, bắt buộc đối với mọi trường hợp phạm tội của 1 loại tội, phản ánh bản chất của loại TộI PHạM đó và cho phép phân biệt TộI PHạM này với TộI PHạM khác. Nội dung cấu thành TộI PHạM cơ bản chỉ bao gồm những dấu hiệu định tội.

  Ví dụ: Khoản 1 điều 133 BLHS quy định cấu thành cơ bàn của tội cướp tài sản như sau: “ người nào dung vũ lực, đe dọa dung vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản …” Trong cấu thành cơ bản đó của tội cướp không có tình tiết định khung tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Có 1 số loại TộI PHạM, nhà làm luật chỉ quy định 1 cấu thành TộI PHạM cơ bản. Ví dụ: tội giết con mới đẻ (điều 94); tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ (điều 130); tội cưỡng ép kết hôn hoặc hôn nhân tự nguyện tiến bộ (điều 146) là những TộI PHạM có cấu thành TộI PHạM cơ bản.

  - cấu thành TộI PHạM tăng nặng là hệ thống các dấu hiệu định tội (các dấu hiệu của cấu thành TộI PHạM cơ bản) và các dấu hiệu làm tăng 1 cách đáng kể mứcđộ nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM đó (các dấu hiệu định khung tăng nặng. Ví dụ tội cướp tài sản  được nêu ở khoản 1 điều 133 BLHS hiện hành, nếu kèm theo 1 trong số các dấu hiệu được quy định  ở khoản 2 điều luật đó là cấu thành tăng nặng của tội cướp tài sản. Đó là dấu hiệu như: có tổ chức,có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm, sử dụng vũ khí, gây thương tích, …

  Trong 1 số trường hợp nhà làm luật tách ra và quy định cấu thành TộI PHạM tăng nặng đặc biệt. Cấu thành đó bao gồm hệ thống các dấu hiệu định tội (các dấu hiệu cấu thành cơ bản) và các dấu hiệu làm tăng nặng 1 cách đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ cướp tài sản có giá trị >500 triệu hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác (khoản 4 điều 278 BLHS).

  - cấu thành TộI PHạM giảm nhẹ là hện thống các dấu hiệu định tội (cấu thành TộI PHạM cơ bản) và các dấu hiệu làm giảm 1 cách đáng kể  mức độ nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM đó (có dấu hiệu giảm nhẹ). Ví dụ: vi phạm quy định về ATGT mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời (khoàn 4 điều 202 BLHS). Rõ ràng là hậu quả tình tiết đặc biệt nghiêm trọng chưa xảy ra làm giảm 1 cách đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM đó.

  Trong các dấu hiệu của cấu thành TộI PHạM tăng nặng hoặc cấu thành TộI PHạM giảm nhẹ các dấu hiệu làm tăng nặng 1 cách đáng kể hoặc làm tăng 1 cách đặc biệt nghiêm trọng mức độ nguy hiểm cho xã hội hoặc làm giảm nhẹ 1 cách đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM so với cấu thành TộI PHạM cơ bản gọi là dấu hiệu định khung. Tùy theo trường hợp mà nhà làm luật quy định loại và mức hình phạt. Do đó 1 trong những biểu hiện của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự.

2- Dựa vào đặc điểm về cấu trúc của cấu thành TộI PHạM. Theo căn cứ này người ta phân cấu thành TộI PHạM thành: cấu thành TộI PHạM vật chất và cấu thành TộI PHạM hình thức.

  - cấu thành TộI PHạM vật chất: là cấu thành TộI PHạM mà nội dung mặt khách quan của nó luật quy định các dấu hiệu hành vi hậu quả và mối lien hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.

  Trong những trường hợp nếu hành vi nguy hiểm chưa thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội đến mức coi là TộI PHạM mà           phải có việc gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội mới đủ mức coi là TộI PHạM.

  + Dấu hiệu hậu quả (mối quan hệ nhân quả) được thể hiện ở 2 mức độ khác nhau. Thứ nhất, nếu hành vi đã gây ra hậu quả mà điều luật đã quy định thì mới cấu thành TộI PHạM. Ví dụ tội vô ý gây hậu quả nghiêm trọng đến tài sản (điều 145). Đối với TộI PHạM này, nếu hành vi hành vi phạm tội vô ý đã gây ra thiệt hại có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên mới cấu thành TộI PHạM. Thứ hai, nếu hành vi đã gây ra hậu quả mà điều luật quy định thì TộI PHạM mới được coi là hoàn thành. Do vậy, nếu hậu quả chưa xảy ra hoặc xả ra nhưng chưa thỏa mãn quy định của điều luật thì TộI PHạM không được coi là hình thức mà là TộI PHạM chưa đạt. Ví dụ: hành vi cố ý gây ra hậu quả người bị chết thì cấu thành tội giết người hoàn toàn (điều 93), còn hành vi cố ý giết người, nhưng nạn nhân chưa chết thì cấu thành tội giết người chưa đạt.

  - cấu thành TộI PHạM hình thức: là cấu thành TộI PHạM mà nội dung mặt khách quan của nó luật chỉ định dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội.

  Trong những trường hợp, nếu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội đến mức được coi là tội phạm mà không cần phải có hậu quả hay hậu quả nguy hiểm cho xã hội khó xác định thì khi đó nhà làm luật thường xây dựng cấu thành TộI PHạM đó là cấu thành TộI PHạM hình thức.

   Đối với cấu thành TộI PHạM hình thức thì chỉ cần có việc đã thực hiện hành vi khách quan được quy định trong điều luật QĐTộI PHạM thì hành vi đó được coi là TộI PHạM và TộI PHạM đã hình thành.

  Dựa vào điểm cấu trúc của TộI PHạM, người còn phân cấu thành TộI PHạM thành 1 loại cấu thành khác nữa là cấu thành TộI PHạM cắt xén. Đây là 1 dạng đặc biệt của cấu thành TộI PHạM hình thức, trong mặt khách quan của cấu thành TộI PHạM cắt xén luật chỉ quy định dấu hiệu hành vi, không quy định dấu hiệu hậu quả. Nhưng hành vi trong cấu thành TộI PHạM cắt xén khác với hành vi trong cấu thành TộI PHạM hình thức thể hiện ở chỗ hành vi được mô tả chỉ là 1 bộ phận hay 1 giai đoạn của hành vi mà người phạm tội mong muốn thực hiện để gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhằm đạt được mục đích nhất định.

 Đối với cấu thành TộI PHạM cắt xén, thì chỉ cần có hành vi “cắt xén” đã được mô tả trong điều luật tương ứng, mà không đòi hỏi phải có việc thực hiện đầy đủ hành vi mà người phạm tội mong muốn thì hành vi phạm tội đó đã được coi là hoàn toàn. Ví dụ cấu thành tội cướp tài sản (điều 133) là cấu thành TộI PHạM cắt xén. Đối với TộI PHạM này chỉ cần có thực hiện hành vi dung vũ lực, đe dọa dung vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản là đã cấu thành TộI PHạM và TộI PHạM đã hình thành mà không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã thực hiện hành vi vũ lực như mong muốn hay chưa (hành vi đe dọa dung vũ lực) và đã chiếm đoạt được tài sản hay chưa.

  - Dựa vào phương thức mô tả các dấu hiệu của cấu thành TộI PHạM chỉ mô tả 1 hành vi phạm tội xâm hại đến 1 khách thể. Ví dụ: cấu thành tội trộm cắp tài sản (điều 138).

            cấu thành TộI PHạM phức hợp là cấu thành TộI PHạM mô tả nhiều dấu hiệu, yếu tố nào đó. Đó là cấu thành có khách thể trực tiếp bị xâm hại, có 2 loại hành vi, có 2 hình thức lỗi, có 2 hậu quả. Ví dụ tội cướp tài sản (điều 133 BLHS) xâm hại đến khách thể là quan hệ sở hữu về tài sản và quan hệ nhân thân. Cấu thành tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người. có 2 hình thức lỗi là của chủ thể đối với thương tích là cố ý, còn lỗi với hậu quả chết người là vô ý. Cấu thành TộI PHạM có 2 hành vi là CấU THÀNHTộI PHạM nhận hối lộ …

  CấU THÀNHộI PHạMP tùy nghi là 1 dạng của CấU THÀNHTộI PHạM phức hợp. Đặc điểm về cấu trúc của CấU THÀNHTộI PHạM loại này là ở chỗ đối với các cấu thành đó luật không phải chỉ ra 1 hành vi phạm tội, 1 hậu quả hoặc 1 phương thức thực hiện mà là chỉ ra 1 số hành vi hậu qủa, phương thức thực hiện. Ví dụ: cấu thành tội gián điệp (điểu 80) Trong điều luật đó, việc thực hiện 1 trong những hành vi sâu đây đều bị coi là gián điệp.

   + Hoạt động tình báo, phá hoại hoặc gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại chống nước CHXH …;

  + Gây cơ sở để hoạt động tình báo, phá hoại theo sự chỉ đạo của nước ngoài; hoạt động thám báo, chỉ điểm, chứa chấp, dẫn đường hoặc thực hiện hành vi khác giúp người nước ngoài hoạt động tình báo, phá hoại;

+ Cung cấp hoặc thu nhận nhằm cung cấp bí mật nhà nước cho người nước ngoài; thu nhập, cung cấp tri thức, tài liệu khác để nước ngoài sử dụng chống nước CHXH …

 




Câu 12: Khái niệm và các loại khách thể của TộI PHạM, phân biệt khách thể của TộI PHạM với đối tượng tác động của TộI PHạM? (164-176)

  ĐN:

   - Khách thể của TộI PHạM là các quan hệ xã hội được PLHS bảo vệ và bị tội xâm hại.

   - Khách thể bảo vệ của pháp luật hình sự là hệ thống các quan hệ xã hội được nhà nước xác lập và bảo vệ bằng các QPPL hình sự.

Việc nhận thức như vậy về khách thể của hành vi phạm tội, về bản chất chính trị xã hội của nó lien quan hữu cơ với khái niệm vật chất về TộI PHạM. PLHS xác lập bảo vệ các quan hệ đó, góp phần phát triển và củng cố các quan hệ đó bằng cách đấu tranh với các hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội nói trên. Tư tưởng đó được thể hiện 1 cách nhất quán rõ nét trong PLHS của nước ta từ trước đến nay.

  Tuy nhiên không phải tất cả các quan hệ xã hội tồn tại trong xã hội nước ta đều được PLHS xác lập và bảo vệ. Chẳng hạn, các quan hệ xã hội được xác lập giữa con nợ và chủ nợ được pháp luật dân sự bảo vệ, nhưng các quan hệ đó cũng nhận được PLHS bảo vệ, có thể trở thành khách thể của TộI PHạM chỉ trong từng trường hợp sự xâm hại đã được thực hiện đến các quan hệ đó có tính nguy hiểm cao cho xã hội.

Nhóm các QUAN Hệ XÃ HộI được pháp luật hình sự bảo vệ không phải bất biến mà có sự thay đổi. Nhóm các quan hệ đó được thay đổi tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Theo cơ cấu cuả mình các quan hệ xã hội phức tạp. Không thể có các quan hệ đó nếu thiếu các chủ thể của chúng. Chủ thể của quan hệ đó có thể là nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước, tính chất xã hội, các tập thể lao động, cá nhân. Các quan hệ xã hội cũng bao gồm cả mối liên hệ của những người tham gia các quan hệ xã hội đó hoạt động cảu họ, các quyền và nghĩa vụ nhất định. Bộ phận hợp thành chúng cũng bao gồm cả lĩnh vực lợi ích hoặc giá trị xã hội nhất định.

Cần phân biệt khách thể của TộI PHạM với đối tượng điều chỉnh của luật hình sự. Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là quan hệ xã hội nảy sinh giữa nhà nước và người phạm tội do có việc thực hiện TộI PHạM, quan hệ pháp luật hình sự.

  Cũng không nên coi QPPL hình sự bị TộI PHạM vi phạm la khách thể của TộI PHạM. Khi nói rằng TộI PHạM xâm phạm PLHS là muốn chỉ nhấn mạnh rằng TộI PHạM trái với PLHS. Tuy vậy, QPPL hình sự không chịu thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật hình sự gây ra. Còn khách thể của TộI PHạM là các QUAN Hệ XÃ HộI bị TộI PHạM gây ra thiệt hại hoặc đe dọa trực tiếp gây ra thiệt hại.

 Khách thể của TộI PHạM có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc làm sáng tỏ bản chất giai cấp của hệ thống pháp luật này hay hệ thống pháp luật khác. Bản chất của luật hình sự Việt Nam thể hiện rất rõ trong khách thể được luật hình sự xác nhận và bảo vệ. PLHS nước ta quy định rõ các quan hệ xã hội bị hành vi nguy hiểm cho xã hội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Đó là TộI PHạM (điều 8 BLHS). Đó là độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quy phạm trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và trật tự pháp luật XHCN. Tính chất của khách thể ở 1 mức độ lớn quy định nội dung chính trị xã hội của TộI PHạM và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm phạm khách thể đó. Khách thể của TộI PHạM càng quan trọng thì hành vi xâm phạm khách thể đó càng nguy hiểm cho xã hội, do vậy biện pháp bảo vệ càng nghiêm khắc.

  Khách thể của TộI PHạM có ý nghĩa lớn đối với việc định tội danh hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với việc quy định hình phạt. Khách thể cũng ảnh hưởng đến cơ cấu (cấu trúc) của CấU THÀNHTộI PHạM. Khách thể của TộI PHạM là căn cứ phân biệt TộI PHạM với những hành vi không phải là TộI PHạM. Trong phần các TộI PHạM của luật hình sự, khách thể của TộI PHạM là căn cứ quan trọng, cơ bản để phân loại và xây dựng các chương, mục của BLHS. Như vậy, nghiên cứu khái niệm khách thể của TộI PHạM giúp chúng ta nhận thức đầy đủ sâu sắc hơn bản chất, nhiệm vụ của luật hình sự, nội dung vật chất của TộI PHạM và những vấn đề khác của luật hình sự.

* Để nhận thức 1 cách sâu sắc toàn diện nội dung của khách thể TộI PHạM, lý luận luật hình sự phân chia khách thể TộI PHạM làm 3 loại: khách thể chung, khách thể loại, khách thể trực tiếp.

- khách thể chung của TộI PHạM là hệ thống các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị các TộI PHạM xâm hại.

Mỗi Tội phạm khi xâm hại đến lĩnh vực QUAN Hệ XÃ HộI này hay QUAN Hệ XÃ HộI khác được pháp luật hình sự bảo vệ, các quan hệ cá nhân quan hệ tài sản suy cho cùng gián tiếp hoặc trực tiếp đều xâm hại tổng thể đến hệ thống cá thề QUAN Hệ XÃ HộI được pháp luật hình sự bảo vệ. Như vậy khách thể chung của TộI PHạM là thống nhất  đối với tất cả các TộI PHạM. Điều đó có nghĩa rằng các TộI PHạM đều có khách thể chung giống nhau (điều 8 BLHS).

 Việc xác định khách thể chung của TộI PHạM với tư cách là 1 hệ thống các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị các TộI PHạM xâm hại có ý nghĩa nguyên tắc. Bởi lẽ điều đó tạo ra khả năng cho việc xác định các tiêu chí rõ ràng, cụ thể cho việc tiếp tục cụ thể hóa các khách thể của sự xâm hại thành khách thể loại và khách thể trực tiếp của TộI PHạM.

  - Khách thể loại của TộI PHạM là 1 nhóm các QUAN Hệ XÃ HộI có cùng tính chất được 1 nhóm các QPPL hình sự bảo vệ và bị 1 nhóm TộI PHạM xâm hại. Đặc trưng của khách thể loại là tính cùng loại và có mối lien hệ lẫn nhau tạo thành 1 bộ phận nhất định trong hệ thống các QUAN Hệ XÃ HộI được pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của các TộI PHạM. Ví dụ: khách thể loại của các TộI PHạM thuộc các tội chiếm đoạt tài sản (tội cướp tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản …) là quan hệ sở hữu. Bất  cứ TộI PHạM cụ thể nào đều xâm hại đến 1 nhóm QUAN Hệ XÃ HộI nhất định.

  - Khách thể loại: khách thể loại của TộI PHạM có ý nghĩa rất lớn đối với việc xây dựng hệ thống phần các TộI PHạM của BLHS. Căn cứ vào khách thể loại nhà làm luật chia các TộI PHạM thành các chương khác nhau. Các TộI PHạM cùng xâm hại đến 1 nhóm xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ, được hệ thống và xây dựng thành 1 chương. Ví dụ cá nhân con người là 1 khách thể loại của các tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người. Do vậy được nhóm thành 1 chương (chương XII).

  Khách thể loại xác định tính chất của các QUAN Hệ XÃ HộI và là 1 trong những dấu hiệu cơ bản để phân biệt TộI PHạM có dấu hiệu hình thức giống nhau (ví du tội khủng bố và tội giết người).

Danh mục các khách thể loại được nhà làm luật xác lập và quy định tùy thuộc vào ý nghĩa của nhóm QUAN Hệ XÃ HộI này hay QUAN Hệ XÃ HộI khác. Ý nghĩa đó của nhóm QUAN Hệ XÃ HộI nhất định ngày càng lớn lên có thể trở thành khách thể độc lập. Chẳng hạn như nhóm các TộI PHạM về ma túy trước đây được quy định ở 1 số điều ở các chương khác nhau, sau đó được tách thành 1 chương độc lập (chương VII A).

  Từng TộI PHạM trong số các TộI PHạM được nhóm thành 1 loại có khách thể giống nhau bao giờ cũng có khách thể trực tiếp của mình.

Việc xác định khách thể trực tiếp có ý nghĩa quan trọng đối với việc đánh giá đúng đắn về mặt chính trị xã hội và việc xác định tội danh hành vi phạm tội.

  Việc làm sáng tỏ khách thể trực tiếp của TộI PHạM giúp cho chúng ta hiểu được tính chất của các QUAN Hệ XÃ HộI cụ thể, xác định được các đặc điểm đặc trưng của từng TộI PHạM là cơ sở cho việc định tội danh đúng hành vi phạm tội.

 - Khách thể trực tiếp cuả TộI PHạM là QUAN Hệ XÃ HộI cụ thể hoặc 1 nhóm QUAN Hệ XÃ HộI cụ thể được 1 quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị  1TộI PHạM trực tiếp xâm hại. Ví dụ khách thể trực tiếp của tội giết người là tính mạng của con người; khách thể trực tiếp của tội cướp tài sản là sở hữu về tài sản, sức khỏe, an ninh cá nhân.

  Nhà làm luật coi là khách thể trực tiếp của TộI PHạM chỉ các QUAN Hệ XÃ HộI bị TộI PHạM trực tiếp xâm hại. Các QUAN Hệ XÃ HộI là khách thể trực tiếp của TộI PHạM thực hiện 1 cách đầy đủ nhất bản chất của TộI PHạM, các dấu hiệu đặc trưng của nó. Khách thể trực tiếp của TộI PHạM có ý nghĩa quyết định đối với việc định tội danh đúng các TộI PHạM. Xuất phát từ khách thể trực tiếp của TộI PHạM, các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử xác định TộI PHạM nào đã được thực hiện.

Việc gây ra thiệt hại đối với cácc QUAN Hệ XÃ HộI ngoài khách thể trực tiếp dù rằng không ảnh hưởng đến việc định tội danh hành vi phạm tội, nhưng có ý nghĩa đối với việc đánh giá hành vi phạm tội, việc xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó.

  Khi xây dựng các cấu thành TộI PHạM cụ thể trong luật đã chỉ ra không chỉ 1 mà là 1 số khách thể trực tiếp độc lập khác nhau với tư cách là bắt buộc. Chẳng hạn, cấu thành TộI PHạM như: tội hoạt động phi pháp, tội cướp …

  Việc phân loại các khách thể của TộI PHạMcần phải dựa vào các đòi hỏi mang tính chất phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng để khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp của TộI PHạM trong mối tương quan của “cái chung” “cái riêng”, “cái đơn nhất”. Điều đó có ý nghĩa rằng nếu như khách thể chung và khách thể trực tiếp ở trong mối tương quan với nhau như của cái chung và cái riêng thì cũng từ đó về mặt logic có thể rút ra kết luận rằng khách thể trực tiếp cần phải có các thuộc tính như các thuộc tính mà khách thể chung của TộI PHạM có. Nếu khách thể chung của TộI PHạM là các QUAN Hệ XÃ HộI thì khách thể trực tiếp của TộI PHạM cũng phải là các QUAN Hệ XÃ HộI.

* Phân biệt khách thể của TộI PHạM với đối tượng tác động của TộI PHạM?

 Khi 1 TộI PHạM đã thực hiện thì nó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các QUAN Hệ XÃ HộI được luật hình sự bảo vệ, từc là gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể của TộI PHạM. Với tư cách là 1 loại QUAN Hệ XÃ HộI khách thể của TộI PHạM được hợp thành bởi 3 bộ phận:

1- Chủ thể của các QUAN Hệ XÃ HộI

2- Hoạt động của các chủ thể tham gia QUAN Hệ XÃ HộI hay trạng thái của các chủ thể trong QUAN Hệ XÃ HộI.

3- Các vật, hiện tượng của thế giới khách quan có lien quan đến hoạt động của chủ thể QUAN Hệ XÃ HộI có nhu cầu thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của con người.

  QUAN Hệ XÃ HộI không thể tồn tại bên ngoài các bộ phận hợp thành của nó, do vậy QUAN Hệ XÃ HộI chỉ có thể bị xâm hại nếu có sự tác động nào đó đến các bộ phận hợp thành QUAN Hệ XÃ HộI. Các bộ phận hợp thành QUAN Hệ XÃ HộI được luật hình sự bảo vệ bị TộI PHạM trực tiếp tác động vào gọi là “đối tượng tác động cuả TộI PHạM”.

  Như vậy, đối tượng tác động của TộI PHạM là 1 bộ phận của khách thể TộI PHạM mà khi tác động đến bộ phận này người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho QUAN Hệ XÃ HộI được luật hình sự bảo vệ.

Như vậy, ta thấy khách thể của TộI PHạM và đối tượng tác động của TộI PHạM đều có điểm chung là: 1 loại QUAN Hệ XÃ HộI được pháp luật hình sự bảo vệ. Tuy nhiên để phân biệt đâu là khách thể của TộI PHạM và đâu là đối tượng tác động của TộI PHạM ta đi vào các mặt thể hiện sau đây:

- Khi nói đến khách thể của TộI PHạM là luôn nói về các quyền, các giá trị xã hội còn 1 bên đối tượng tác động là tài sản, thực thể.

Ví dụ: tội trộm cắp tài sản: khách thể của TộI PHạM là quyền sở hữ hợp pháp, đối tượng tác động là 1 vật thể đó là tài sản. Tội xâm phạm tính mạng, giết người thì khách thể của TộI PHạM là quyền được sống, đối tượng tác động là cái chết về mặt sinh học.

- Ở các CấU THÀNHTộI PHạM được quy định trong phần các TộI PHạM của BLHS, đối tượng tác động của TộI PHạM được các nhà làm luật thiết kế và thể hiện khác nhau. Trong 1 số CấU THÀNHTộI PHạM các nhà làm luật quy định cụ thể đối tượng tác động của TộI PHạM với tính cách là bắt buộc các CấU THÀNHTộI PHạM đó. Ví dụ: điều 180 BLHS quy định tội làm, tàng trữ, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả … đã trực tiếp nêu ra đối tượng tác động cuả TộI PHạM đó là tiền giả, ngân phiếu giả …

  - Trong mọi trường hợp TộI PHạM bao giờ cũng gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các QUAN Hệ XÃ HộI là khách thể của nó, còn ở đó đối tượng tác động của TộI PHạM có thể bị gây hư hại, cũng có thể không bị gây hư hại. Ví dụ: người phạm tội chiếm đoạt 1 vật tài sản nào đó là tài sản của người khác. Sau đó cất giữ, bảo quản cẩn thận không gây ra hư hại gì cho vật đó. Trường hợp này chỉ gây ra thiệt hại cho QUAN Hệ XÃ HộI là khách thể của TộI PHạM. Trường hợp khác là gây thiệt hại cho các QUAN Hệ XÃ HộI là khách thể của TộI PHạM và đồng thời cũng gây thiệt hại cho đối tượng tác động. Ví du: người phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản người khác.

   - Đối tượng tác động của TộI PHạM có thể là sự thể hiện vật chất của các QUAN Hệ XÃ HộI tương ứng là tiền đề vật chất hoặc điều kiện cần thiết của sự tồn tại hoặc phát triển của các QUAN Hệ XÃ HộI nhất định (ví dụ: tài sản được hiểu ở ý nghĩa của cải là sự thể hiện vật chất của các quan hệ sinh học). Đối tượng của TộI PHạM có thể là bằng chứng của sự hiện diện các QUAN Hệ XÃ HộI với tư cách là khách thể của TộI PHạM (ví dụ: các giấy tờ, tài liệu thể hiện sự hiện có của các QUAN Hệ XÃ HộI nhất định được pháp luật chi nhận: di chúc, hợp đồng mua bán …).

 - Đối tượng tác động của TộI PHạM có mối liên hệ chặt chẽ với khách thể của 1 số TộI PHạM do đó trong nhiều trường hợp 1 số QUAN Hệ XÃ HộI không thể tồn tại nếu thiếu đối tượng vật chất của mình. Chẳng hạn trong tội trộm cắp tài sản, đối tượng tác động của TộI PHạM có giá trị vật chất nhất định. Cùng với điều đó nó không thuộc quyền sở hữu của người phạm tội.


 



Câu 14: khái niệm, ý nghĩa, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của TộI PHạM, định tội danh theo mặt khách quan của TộI PHạM.

  TộI PHạM là hành vi của con người (hành vi nguy hiểm cho xã hội), do vậy cũng có các dấu hiệu bên ngoài và các dấu hiệu bên trong. Những biểu hiện bên ngoài của hành vi nguy hiểm cho xã hội cấu thành mặt khách quan của nó.

  Mặt khách quan là mặt bên ngoài của hành vi phạm tội do luật hình sự quy định. Theo quan điểm truyền thống, mặt khách quan của TộI PHạM bao gồm: hành vi phạm tội; hậu quả nguy hại.

Mối quan hệ nhân quả hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra. Ngoài ra còn có 1 số dấu hiệu khác cũng đặc trưng cho mặt khách quan của TộI PHạM, đó là hòan cành, thời gian, công cụ, phương tiện phạm tội

Các tình tiết của mặt khách quan được diễn ra bên ngoài thế giới khách quan, người ta có thể trong thấy, nghe được … tức là có thể trị giá được 1 cách trực tiếp các tình tiết ấy … Mặt khách quan còn được gọi là mặt bên ngoài của 1 TộI PHạM tương xứng với mặt bên trong là mặt chủ quan diễn ra trong nội tâm của người phạm tội.

Mặt khách quan là 1 yếu tố quan trọng của TộI PHạM. Tính nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM do tất cả các yếu tố của nó quy định. Nhưng nếu phân tích kỷ từng yếu tố ta thấy chỉ khi nào người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội thì thái độ chủ quan của họ mới có ý nghĩa về mặt hình sự, khách thể mới bị xâm phạm hoặc bị đe dọa xâm phạm và chủ thể mới trở thành người nguy hiểm cho xã hội. Việc nghiên cứu 1 TộI PHạM cụ thể thường bắt đầu từ mặt khách quan. Chỉ sau khi xác định hành vi của 1 người có những dấu hiệu khách quan của TộI PHạM, người mới cung cấp thái độ tâm lý của họ. Nếu hành vi không nguy hiểm cho xã hội thì việc nghiên cứu mặt khách quan mới được đặt ra.

   Để chỉ rõ biểu hiện bên ngoài của TộI PHạM. Điều 8 BLHS hiện hành nước sử dụng thuật ngữ tổng hợp “hành vi”, nhà làm luật đưa vào thuật ngữ đó 2 hình thức của hành vi nguy hiểm cho xã hội có sự khác nhau về sự thể hiện bên ngoài: hành động và không hành động. Dưới dạng chung nhất, hành động được hiểu là hình thức chủ động của hành vi con người, còn không hành động là hình thức bị động của hành vi con người.

            Phần lớn các TộI PHạM được pháp luật hình sự nước ta quy định có thể thực hiện được bằng phương thức hành động. Một số không  nhiều các TộI PHạM có thể thực hiện bằng phương thức không hành động hoặc cả 2 phương thức (ví dụ: tội giết người).

  Pháp luật hình sự Việt Nam nhận thức hành vi là hành vi cụ  thể nguy hiểm cho xã hội của con người. Việc cụ thể hóa biểu hiện bên ngoài của hành vi nguy hiểm cho xã hội được tiến hành không chỉ bằng việc phân hành vi thành hành động và không hành động mà còn cả việc chỉ ra trong luật 2 phương thức thể hiện bên ngoài của hành vi đó.

  Khi cụ thể hóa khái niệm hành vi, nhà làm luật xác định nó 2 cách khác nhau. Trong 1 số trường hợp, nhà làm luật chỉ quy định thời điểm đầu tiên của hành vi nguy hiểm cho xã hội; trong 1 số trường hợp khác lại quy định thời điểm đầu tiên và cả các hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả của nó.

  Hoàn cảnh, thời gian, địa điểm, công cụ, thủ đoạn phạm tội và việc định tội danh:

 Bất kỳ hành vi phạm tội nào cũng được thực hiện trong 1 địa điểm, thời gian, hoàn cảnh nhất định, bằng những phương tiện, công cụ này hoặc công cụ khác, các yếu tố này đều thuộc về mặt khách quan của TộI PHạM, nhưng ý nghĩa pháp lý của chúng về mặt định tội danh có khác với những dấu hiệu đã trình bày ở trên.

            - Phương tiện phạm tội là những vật được chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Trong cấu thành cơ bản của 1 TộI PHạM, phương tiện phạm tội được coi là dấu hiệu bắt buộc, vì những tội này đòi hỏi phải đi với những phương tiện nhất định.

Như vậy, việc xác định phương tiện phạm tội trong 1 số trường hợp có ý nghĩa về mặt định tội danh hoặc trong việc định khung tăng nặng.

  - Thủ đoạn phạm tội là cách thức thực hiện hành vi phạm tội trong đó bao gồm cả cách thức sử dụng công cụ, phương tiện. Ở 1 số TộI PHạM nội dung biểu hiện này có thể được coi là dấu hiệu của CấU THÀNHTộI PHạM cơ bản hoặc của CấU THÀNHTộI PHạM tăng nặng. Ví dụ điều 146 quy định thù đọan phạm tội là dấu hiệu của CấU THÀNHTộI PHạM cơ bản của tội cưỡng ép kết hôn.

  Đối với những tội mà thủ đoạn phạm tội không được quy định trong CấU THÀNHTộI PHạM co bản cũng như trong CấU THÀNHTộI PHạM tăng nặng, việc xác định tính chất của thủ đoạn phạm tội vẫn cần thiết (ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi).

- Thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội theo luật hình sự nước ta cũng có ý nghĩa trong định tội danh, định khung hình phạt hoặc được đánh giá để quyết định hình phạt. Ví du: về địa điểm phạm tội: tội hoạt động (điều 83).

* Những dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan thường được mô tả trong phần quy định của QPPL quy định về TộI PHạM của BLHS. Một phần vì các dấu hiệu khách quan biểu hiện ra ngoài dễ nhận biết hơn các yếu tố khác, mặt khác vì sự khác nhau giữa các TộI PHạM, phần lớn là ở mặt khách quan người phạm tội muốn đạt hậu quả phạm tội gì, cái đó thể hiện ở hành vi của họ, ở thủ đọan công cụ, phương tiện mà họ sử dụng.

  Trong khi tiến hành định tội danh không bao giờ tuyệt đối hóa bất kỳ 1 yếu tố nào của TộI PHạM.

  Trong lý luận luật hình sự Việt Nam căn cứ vào ý nghĩa pháp lý, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan được phân chia thành những dấu hiệu bắt buộc và những dấu hiệu không bắt buộc.

+ Những dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan hành vi luôn là dấu hiệu của CấU THÀNHTộI PHạM có ý nghĩa định tội. Do đó để định tội danh đúng, người định tội danh phải xác định được các dấu hiệu đó.

 + Các dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả của TộI PHạM, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra (cấu thành vật chất).

+ Những dấu hiệu không bắt buộc của mặt khách quan là những tình tiết không đặc trưng cho tất cả các TộI PHạM nên chúng không được coi là dấu hiệu bắt buộc của mọi CấU THÀNHTộI PHạM nào. Đó là, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, công cụ, phương tiện thực hiện TộI PHạM. Các dấu hiệu này có ý nghĩa pháp lý khác nhau đối với việc quyết định 1 vụ án hình sự. Đối với 1 số TộI PHạM đó là các yếu tố định tội.

Trong phần lớn các trường  hợp pháp luật hình sự hiện hành nước ta thừa nhận hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội chỉ là giai đoạn đầu tiên trong hành vi của con người. Ví dụ: hành vi cướp tài sản là hành vi đó.

 Trong những trường hợp khác, nhà làm luật coi là hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội không chỉ thời điểm đầu tiên trong hành vi của con người, mà còn cả hậu quả do hành vi đó gây ra. Ví dụ: tội hủy hoại hoặc cố ý  làm hư hỏng tài sản; hành vi có 2 đặc điểm được thực hiện bằng hành động, tức là hành vi chủ động; được thể hiện bằng hành động, tức là hành vi chủ động; được thể hiện ở việc hủy hoại hoặc cố ý làm hỏng tài sản của người khác; giữa việc hủy hoại hoặc cố ý làm hỏng tài sản và thiệt hại gây ra có tồn tại mối quan hệ nhân quả.

Trong 1 số trường hợp, khi mô tả hành vi nguy hiểm cho xã hội nhà làm luật chỉ chỉ ra hình thức và phương thức biểu hiện của hành vi mà không chỉ ra hậu quả dù rằng hậu quả là 1 cấu thành tất yếu trong mặt khách quan của TộI PHạM đó. Ví dụ: tội trộm cắp tài sản.

  Trong pháp luật hình sự nước ta, có 1 số điều luật trong đó hành vi cụ thể được coi là các biểu hiện bên ngoài chỉ chứa đựng khả năng hiện thực gây ra hậu quả có hại.

Khi quy định các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của các TộI PHạM cụ thể, trong 1 số trường hợp pháp luật hình sự nước ta chỉ ra công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội với tư cách là các dấu hiệu bắt buộc của TộI PHạM cụ thể nhất định.

   Từ những phân tích nêu trên ta thấy rằng: mặt khách quan của TộI PHạM được hiểu là mặt bên ngoài của TộI PHạM bao gồm các biểu hiện của TộI PHạM diễn ra trong thế giới khách quan. Các biểu hiện đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã  và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các dấu hiệu khách quan gắn liền với hành vi phạm tội như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đọan, tình tiết, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội.

Mặt khách quan của TộI PHạM có ý nghĩa quan trọng đối với việc định tội danh. Phần lớn các loại TộI PHạM được pháp luật hình sự quy định khác nhau theo tính chất của hành động hoặc không hành động hoặc theo phương thức biểu hiện của nó, theo hậu quả, hoàn cảnh thực hiện TộI PHạM và các dấu hiệu bên ngoài khác.

Điều đó được giải thích rằng các yếu tố khác của CấU THÀNHTộI PHạM ví dụ: chủ thể và mặt chủ quan trong nhiều trường hợp trùng hợp với nhau ớ các dấu hiệu cơ bản của mình. Có nhiều nhóm TộI PHạM trùng hợp với nhau về khách thể loại và khách thể trực tiếp. Do đó, yếu tố CấU THÀNHTộI PHạM theo đó trong nhiều trường hợp có thể phân biệt các TộI PHạM cụ thể với nhau là mặt khách quan.

  Mặt khách quan của TộI PHạM còn có ý nghĩa như là 1 dấu hiệu (1 yếu tố) xác định nội dung TộI PHạM. Điều đó thể hiện ở chỗ mặt khách quan phát họa ra ranh giới của sự xâm hại. Trách nhiệm hình sự được xác định trong ranh giới đó đối với TộI PHạM đã được thực hiện. Việc giải thích các dấu hiệu khách quan đã được quy định trong luật có ý nghĩa rất lớn đối với việc tiến hành các biện pháp phòng ngừa TộI PHạM.

  Quy định chọn địa điểm phạm tội vùng rừng núi, vùng biển, vùng hiểm yếu khác là dấu hiệu bắt buộc của CấU THÀNHTộI PHạM. Điều 245 BLHS quy định địa điểm phạm tội ở những nơi công cộng là dấu hiệu bắt buộc CấU THÀNHTộI PHạM gây rối TTCC.

- Về hoàn cảnh phạm tội: thường ảnh hưởng đáng kể đến tính chất tội phạm, như lợi dụng cơ hội có khó khăn để phạm tội.

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án phải thu thập, kiểm tra, đánh giá các tình tiết như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương pháp, phương tiện thực hiện TộI PHạM vì các tình tiết đó trong 1 số trường hợp là dấu hiệu cơ bản của CấU THÀNHTộI PHạM hoặc cấu thành tăng nặng hoặc cấu thành giảm nhẹ để áp dụng các điểm, khoản, điều luật cần áp dụng. Trong những trường hợp không được luật quy định là dấu hiệu bắt buộc của CấU THÀNHTộI PHạM, thì các tình tiết đó cũng có ý nghĩa quan trọng đối với việc cá thể hóa hình phạt. Khi cân nhắc các tình tiết đó để định tội danh, quy định hình phạt, các thành phần cần lưu ý rằng không phải mọi trường hợp các tình tiết đó đều có ý nghĩa, mức độ giống nhau đối với việc lựa chọn các quy phạm và mức hình phạt mà còn phải tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể, vào các điều kiện cụ thể khác.

* Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội trong quá trình định tội danh:

 Hành vi phạm tội là hoạt động khách quan bên ngoài của người phạm tội. Hành vi được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động. Nghiên cứu phần lớn các TộI PHạM của BLHS nước ta qua thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự thấy rằng đa số các TộI PHạM được thực hiện bằng hành động, 1 số TộI PHạM chỉ được thực hiện không hành động (tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (điều 102); tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (điều 259) …)

  Để định tội danh đúng việc xác định phân loại được CấU THÀNHTộI PHạM: cấu thành nào chỉ có hành vi chỉ là hành động, cấu thành nào có hành vi chỉ là không hành động, cấu thành nào có cả hành động và không hành động.

            Trong quy định đơn giản, nhà làm luật chỉ đưa ra hành vi mà không miêu tả các dấu hiệu hành vi. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan trong trường hợp này cần phải giải thích. Để định tội danh đúng trong những trường hợp đó, người định tội danh phải có kinh nghiệm, nghiên cứu, tham khảo …

  Trong quá trình định tội danh khi nghiên cứu hành vi trong mặt khách quan của TộI PHạM cần lưu ý rằng tính chất của không hành động phức tạp hơn hành động.

* Xác định hậu quả của TộI PHạM trong quá trình định tội danh:

  Hậu quả của TộI PHạM là những thay đổi trong thế giới khách quan do hành vi phạm tội gây ra đối với các QUAN Hệ XÃ HộI do luật hình sự bảo vệ. Hậu quả của TộI PHạM có thể ở dạng vật chất, tức là con người biết được bằng giác quan (như thiệt hại tài sản, về tình trạng sức khỏe) … Hậu quả cũng có thể ở dạng phi vật chất, con người có thể nhận được bằng con đường tư duy (như làm thiệt hại quyền tự do công dân, gây mất trật tự, trị an, làm ảnh hưởng đến an ninh …).

  Trong lý luận luật hình sự Việt Nam người ta căn cứ vào ý nghĩa của hậu quả phạm tội đối với định tội danh và hình thức cấu tạo của QPPL để phân chia CấU THÀNHTộI PHạM thành cấu thành vật chất và cấu thành hình thức.

Quá trình định tội danh việc phân chia CấU THÀNHTộI PHạM thành cấu thành hình thức và cấu thành vật chất có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên việc xác định TộI PHạM nào đó cấu thành hình thức; TộI PHạM nào cấu thành vật chất trên thực tế không phải lúc nào  cũng thống nhất.

* Xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra trong quá trình định tội danh.

 Để xác định quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả nguy hiểm xảy ra cần phải xác định những dấu hiệu:

   - Nguyên nhân bao giờ cũng có trước, hậu quả có sau. Dấu hiệu này tuy không quy định nhưng là dấu hiệu cần thiết cho việc kiểm tra sự tồn tại của quan hệ nhân quả.

  - Hành vi trái pháp luật độc lập hoặc trong mối tổng hợp mới với 1 hoặc nhiều hiện tượng khác có nguy hiểm cho xã hội. Được coi là quan hệ có tính chất nội tại khi hậu quả có cơ sở ngay trong hành vi, hành vi mang trong bản thân nó mầm móng sinh ra hậu quả.

Được coi là quan hệ có tính tất nhiên khi 1 hành vi trong những điều kiện nhất định sẽ làm phát sinh hậu quả ấy chứ không thể hậu quả khác được.

Hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hóa khả năng thực tế nói trên của hành vi trái pháp luật.


 



Câu 15: Khái niệm, ý nghĩa và các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của TộI PHạM. Định tội danh theo mặt chủ quan của TộI PHạM (227-263)

  Tội phạm là 1 thể thống nhất của 2 mặt khách quan và chủ quan. Nếu mặt khách quan cảu TộI PHạM là những biểu hiện bên ngoài của TộI PHạM thì mặt chủ quan của TộI PHạM là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội liên quan với việc thực hiện TộI PHạM. Với tư cách là 1 mặt của hành vi thống nhất – TộI PHạM, mặt chủ quan của TộI PHạM không tồn tại 1 cách độc lập là luôn gắn liền với mặt khách quan của TộI PHạM. Hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội luôn gắn liền với các biểu hiện bên ngoài của TộI PHạM. Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được coi là tội phạm, nếu như hành vi đó được thể hiện trong 1 thái độ tâm lý nhất định của con người. đối với hành vi phạm tội của mình và hậu quả phạm tội đã gây ra hoặc đối với khả năng gây ra hậu quả phạm tội đó.

Như vây, mặt chủ quan của TộI PHạM là mặt bên trong của TộI PHạM, là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ thực hiện  với hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc đối với khả năng gây ra hậu quả đó.

Nội dung của mặt chủ quan của TộI PHạM được làm sáng tỏ và thể hiện thông qua các dấu hiệu pháp lý: lỗi, động cơ và mục đích. Các dấu hiệu pháp lý đó là hình thức khác nhau của hoạt động tâm lý của người phạm tội, có mối lien hệ chặt chẽ với nhau và phụ thuộc lẫn nhau; đồng thời, lỗi động cơ và mục đích là những hiện tượng tâm lý độc lập.

Từng dấu hiệu của mặt khách quan có ý nghĩa khác nhau. Dấu hiệu lỗi cho biết thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả đó gây ra hoặc khả năng gây ra như thế nào? Dấu hiệu động cơ lý giải điều gì thúc đẩy người phạm tội thực hiện? dấu hiệu mục đích khi rõ rang thông quan hành vi nhằm đạt được điều gì?

Lỗi là hạt nhân của mặt chủ quan của TộI PHạM, dù rằng nó không bao quát hết mặt chủ quan nhưng lỗi là dấu hiệu bắt buộc đối với mọi TộI PHạM. Động cơ, mục đích không phải là những dấu hiệu chủ quan bắt buộc. Trong 1 số trường hợp được nhà làm luật quy định là dấu hiệu định tội của 1 số CấU THÀNHTộI PHạM. Trong 1 số trường hợp khác, là dấu hiệu CấU THÀNHTộI PHạM tăng nặng hoặc giảm nhẹ.

  Trong mặt chù quan của   người 1 thực hiện phạm tội trải qua đóng vai trò đặc biệt: thỏa mãn, ân hận, sợ hãi … không phải là yếu tố của hoạt động tâm lý được trải qua ở thời điểm thực hiện TộI PHạM thì không thể thấy yếu tố của hoạt động tâm lý.

   Mặt chủ quan của TộI PHạM có ý nghĩa pháp lý quan trọng.

  - Thứ nhất, với tư cách là 1 bộ phận cấu thành của cơ sở trách nhiệm pháp lý nó phân biệt hành vi phạm tội với hành vi không phải tội phạm. Chẳng hạn, việc gây ra hậu quả nghiêm trọng, nhưng không có lỗi không phải là TộI PHạM, việc thực hiện hành vi đã được luật hình sự quy định nhưng không có mục đích đã được nêu ra trong điều luật đó cũng không phải là TộI PHạM.

  - Thứ hai, mặt chủ quan của TộI PHạM là cơ sở phân biệt các CấU THÀNHTộI PHạM được quy định ở điều 93 và 98 BLHS hiện hành được phân biệt với nhau bằng hình thức lỗi. (Điều 93 tội giết người, điều 98 tội vô ý làm chết người).

  Trong trường hợp nêu trên việc phân tích các chi tiết cụ thể mặt chủ quan của TộI PHạM là tiền đề của việc định tội danh đúng.

- Thứ ba, nội dung chủ quan ở 1 mức độ đáng kể xác định mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của cả hành vi phạm tội lẫn của người thực hiện tội phạm và điều đó có nghĩa là ảnh hưởng đến tính chất của trách nhiệm hình sự và mức hình phạt.

Khi tiến hành định tội danh dựa vào mặt chủ quan của TộI PHạM cần phải hiểu rằng pháp luật hình sự nước ta chỉ coi mối quan hệ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi do người đó thực hiện được biểu hiện dưới 1 hình thức nhất định là mặt chủ quan của TộI PHạM.

   Trong khi tiến hành định tội danh chỉ có những hình thức quan hệ tâm lý đối với hành vi phạm tội như cố ý, vô ý động cơ và mục đích phạm tội mới được xem xét.

  Trong các trường hợp riêng biệt nhà làm luật xây dựng mặt chủ quan của TộI PHạM bằng cách đề cập đến 1 số dạng khác của quan hệ tâm lý của 1 người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ: điều 250 quy định người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp,     tài sản biết rõ là do người phạm tội mà có thì …

            Khái niệm “biết rõ” được thể hiện trong nhiều điều luật khác (ví dụ: điều 122 tội vu khống, điều 307 tội khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật …) đối với những trường hợp này trong quá trình định tội danh cần chứng minh là đã có quan hệ tâm lý như vậy của 1 người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đối với người đó thực hiện. Hình thức và tính chất quan hệ tâm lý của bị cáo đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do bị cáo thực hiện được nêu trong QPPL hình sự như 1 dấu hiệu cần thiết của cấu thành án về chủ quan của TộI PHạM.

            Cũng như trong mặt khách quan của TộI PHạM, theo quy định của BLHS, các dấu hiệu chủ quan của TộI PHạM được chia thành 2 nhóm: các dấu hiệu bắt buộc và các dấu hiệu không bắt buộc. Các dấu hiệu bắt buộc đối với mọi TộI PHạM là lỗi (vô ý và cố ý), các dấu hiệu không bắt buộc là động cơ và mục địch. Trong khi định tội danh theo mặt chủ quan của TộI PHạM. Các quy phạm phần các TộI PHạM cũng như các quy phạm thuộc phần chung của BLHS nước ta đều áp dụng. Tuy nhiên trong phần chung BLHS chỉ có định nghĩa chung, đề cập đến những điểm chung nhất về khái niệm và những nội dung lỗi cố ý và vô ý. Trong khi đó các điều luật thuộc phần các TộI PHạM của BLHS không phải khi nào cũng trực tiếp quy định  có khả năng thực hiện 1 TộI PHạM cụ thể có khả năng thực hiện dưới hình thức lỗi xác định cụ thể. Do đó trong quá trình định tội danh đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cần xác định 1 cách chính xác là phần quy định của QPPL hình sự chỉ đề cập đến hành vi cố ý hoặc hành vi vô ý hoặc pháp luật đó cần được áp dụng cả khi thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội 1 cách cố ý hoặc vô ý. Ngoài ra để định tội danh được chính xác cần phải làm sáng tỏ nội dung của lỗi cố ý hoặc vô ý đối với CấU THÀNHTộI PHạM đang xem xét.

  Khi định tội danh theo mặt chủ quan bằng cách phân tích phần quy định của 1 điều luật tương ứng thuộc phần các TộI PHạM của BLHS cần xác định bằng hình thức lỗi nào TộI PHạM đó có thể thực hiện, nội dung đã cho phép định vào trong khái niệm yếu tố lý trí và ý chí. Trong quá trình định danh theo mặt chủ quan sẽ xác định được mối tương quan giữa nội dung thực tế của quan hệ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và các dấu hiệu của CấU THÀNHTộI PHạM nói về mặt chủ quan của 1 loại TộI PHạM nhất định. Khi định tội danh theo mặt chủ quan cần xác định nội dung yếu tố lý trí và ý chí đối với loại hành vi TộI PHạM cụ thể . Ví dụ khi định tội danh hành vi giết người theo điều 93 BLHS nước ta cần xác định rằng nội dung của yếu tố lý trí bao hàm ý thức và sự bắt trước việc tước đoạt sinh mệnh của con người, còn nội dung của yếu tố ý chí thể hiện trong ý muốn hoặc có ý thức bỏ mặt đối với việc xảy ra hậu quả đó.

Khi xây dựng CấU THÀNHTộI PHạM loại này hay loại khác, nhà làm luật đưa vào nội dung mặt chù quan của TộI PHạM quan hệ tâm lý của người phạm tội đối với tất cả tình tiết thực tế mà những tình tiết ấy cũng được nêu trong nội dung của khách thể và mặt khách quan của TộI PHạM. Nếu khi định tội danh không có sự trùng hợp trên cơ sở ấy giữa các tình tiết thực tế với các hành vi nguy hiểm cho xã hội với các dấu hiệu nói về mặt chủ quan của TộI PHạM thì không được định tội danh hành vi đó như 1 TộI PHạM thuộc dạng trên. Quan hệ tâm lý của người phạm tội đối với tất cả các tình tiết khác của TộI PHạM không có ý nghĩa để định tội danh nhưng có thể được xem xét khi giải quyết các vấn đề có tính pháp khác, chẳng hạn, khi quy định biện pháp hình phạt cụ thể đối với bị cáo. Nội dung của mặt chủ quan như 1 thành phần của TộI PHạM hoàn toàn quy định bởi nội dung của khách thể và mặt khách quan của TộI PHạM. Tất cả những gì được nêu trong cơ cấu khách thể và mặt khách quan của TộI PHạM cần được phản ánh trong nội dung chủ quan của TộI PHạM. Bởi vì xuất phát từ sự thống nhất giữa mặt chủ quan và khách quan của cấu thành mọi tội nào vấn đề về nội dung của lỗi cố ý và vô ý trong 1 TộI PHạM được xem xét cần được giải quyết sao cho phù hợp với những đặc điểm của mặt khách quan CấU THÀNHTộI PHạM đó. Cùng với những dấu hiệu của khách thể và mặt khách quan của TộI PHạM nội dung của mặt chủ quan của TộI PHạM bao gồm cả quan hện tâm lý của người phạm tội với những dấu hiệu tăng nặng của CấU THÀNHTộI PHạM.

* ý nghĩa của động cơ và mục đích phạm tội đối với quá trình định tội danh.

  Mỗi loại hành vi của con người trong xã hội đều do những động cơ hoặc mục đích nào đó quy định. Là những dấu hiệu bắt buộc của 1 hành động có ý chí động cơ và mục đích phạm tội là những yếu tố nằm trong mặt chủ quan của TộI PHạM.

   Nhà làm luật sử dụng khái niệm động cơ và mục đích không phải để xây dựng mô hình pháp luật của mọi các TộI PHạM. Những dấu hiệu này không phải khi nào cũng được nêu trong pháp luật khi những dấu hiệu cần thiết CấU THÀNHTộI PHạM. Vì vậy trong lý luận hình sự động cơ và mục địch phạm tội được coi là những dấu hiệu không bắt buộc của CấU THÀNHTộI PHạM.

  Trong quá trình định tội danh, động cơ và mục địch phạm tội chỉ được xem xét trong các tội cố ý. Trong các tội vô ý động cơ và mục đích cơ bản được xác định trong giai đoạn quy định biện pháp hình phạt cụ thể đối với bị cáo  trong việc     tìm hiểu những nguyên nhân và điều kiện thúc đẩy hành vi phạm tội và để tìm hiểu về nhân thân người phạm tội.

   Như vậy, trong các tội vô ý động cơ và mục đích không có ảnh hưởng đến quá trình định tội danh. Nhưng động cơ và mục đích có thể có ý nghĩa pháp lý trong cácc tội vô ý. Nếu động cơ và mục đích là 1 dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của TộI PHạM thì điều kiện đó chứng tỏ rằng hành vi nguy hiểm cho xã hội ấy được nhà làm luật xếp vào tội cố ý.

   Cùng với các quy phạm đã được quy định 1 cách chính xác về động cơ và mục đích phạm tội, trong BLHS của nước ta cũng đề cập tới các CấU THÀNHTộI PHạM trong khi xác định TộI PHạM thuộc loại       nhà làm luật không trực tiếp đề cập tới động cơ và mục đích phạm tội. Tuy nhiên, trách nhiệm xác định động cơ và mục đích phạm tội như 1 yếu tố cần thiết của TộI PHạM được xác định và xuất phát từ cơ cấu pháp luật của CấU THÀNHTộI PHạM ấy.

  Ví dụ: mặc dù trong điều 138 BLHS (tội trộm cắp tài sản) không quy định hành văn mục đích vụ lợi của hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản, nhưng lý luận luật hình sự nước ta thực tế xét xử coi mục đích vụ lợi là dấu hiệu bắt buộc của CấU THÀNHTộI PHạM này. Kết luận trên xuất phát từ thuật ngữ “trộm cắp”. Theo phương diện ngữ nghĩa thuật ngữ này luôn luôn được hiểu là chiếm đoạt tài sản hoặc vật dụng 1 cách bất hợp pháp làm của riêng.

  Qua giải thích ý nghĩa “trộm cắp” chúng ta có được chứng cứ đầy đủ, chính xác kết luận về bắt buộc phải có mục đích vụ lợi trong từng tội trộm cắp tài sản.

   Như vậy, nếu động cơ và mục đích được đề cập trực tiếp trong các phần quy định của các điều luật thuộc phần các TộI PHạM BLHS thì việc định tội danh trở nên đơn giản hơn. Lúc đó chỉ cần xác định sự phù hợp của động cơ và mục đích phạm tội của người phạm tội trong phần quy định của điều luật thuộc phần các TộI PHạM của BLHS.

   Mặt khác, nếu động cơ và mục đích phạm tội không được quy định bằng lời trong phần quy định của điều luật thuộc phần của các thành phần của BLHS, những người làm luật có ý coi chúng là dấu hiệu cần thiết của CấU THÀNHTộI PHạM đó,thì ở đây điều tra viên, KS viên và TộI PHạM các cơ quan tìm hiểu ý nghĩa logic về mặt cơ quan của TộI PHạM đó. Tức là cần phải biết nhà làm luật có coi động cơ và mục đích là dấu hiệu bắt buộc của CấU THÀNHTộI PHạM đó hay không ? việc tìm hiểu tình tiết cũng được tiến hành theo các quy định chung về giải thích BLHS.


 



Câu 16: Chủ thể của TộI PHạM; các dấu hiệu và sự phân loại định tội danh theo chủ thể của TộI PHạM.

Chủ thể của TộI PHạM là 1 trong những yếu tố bắt buộc của TộI PHạM. Pháp luật nước ta không trực tiếp sử dụng khái niện “chủ thể của TộI PHạM”. Nhưng để thể hiện khái niệm đó trong các điều luật của BLHS đã sử dụng khái niệm “người nào phạm tội”, “người phạm tội”, “người bị kết án”..

   Theo PLHS Việt Nam (điều 2, 8, 9, 10, 12, 68 BLHS) chỉ người nào phạm 1 tội được luật hình sự quy định mới phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự và chỉ chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự trong giới hạn đã được luật hình sự quy định.

  Chủ thể của TộI PHạM là người có khả năng chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự trong trường hợp người đó thực hiện 1 cách cố ý hoặc vô ý hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là TộI PHạM.

   Năng lực TRÁCH NHIệM HÌNH Sự và đạt độ tuổi nhất định theo luật là các dấu hiệu bắt buộc để coi 1 người là chủ thể của TộI PHạM. Theo pháp luật HSVN chủ thể của TộI PHạM chỉ là thể nhân, là con người cụ thể đang sống. Pháp nhân không thể coi là chủ thể của TộI PHạM và không thể bị truy cứu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự, vì rằng trong hành vi của chúng thiếu điều kiện chủ quan của TRÁCH NHIệM HÌNH Sự là thái độ tâm lý và hành vi. Nếu như các TộI PHạM do những người đại diện cho pháp nhân thực hiện, thì chính những người đại diện đó phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự chứ không phải các pháp nhân. Người đã chết không thể là chủ thể của TộI PHạM.

  Như vậy, theo luật HSVN, chủ thể của TộI PHạM là con người cụ thể đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là TộI PHạM trong tình trạng có năng lực TRÁCH NHIệM HÌNH Sự và đạt độ tuổi nhất định do luật định và trong 1 số trường hợp khác có các dấu hiệu đặc biệt chỉ ra trong điều luật tương ứng.

Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho chủ thể TộI PHạM có mối lien quan chặt chẽ với các yếu tố khác của CấU THÀNHTộI PHạM. Chính bằng hành vi nguy hiểm cho xã hội (mặt khách quan) và việc thực hiện hành vi đó 1 cách cố ý hoặc vô ý (mặt chủ quan) chủ thể gây ra cho khách thể bị xâm hại.

   Cần lưu ý rằng các dấu hiệu pháp lý của chủ thể của TộI PHạM và thể hiện hết các đặc điểm của người thực hiện phạm tội. Do vậy, trong luật HSVN cùng với khái niệm chủ thể của TộI PHạM còn sử dụng khái niệm nhân thân người phạm tội. Đây là 2 khái niệm có nhiều nội dung giống nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Chủ thể của TộI PHạM là tổng hợp các dấu hiệu bắt buộc phải có thuộc về cá nhân người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà thiếu chúng thì không có CấU THÀNHTộI PHạM. Nhân thân người phạm tội là tổng hợp mọi dấu hiệu xã hội đặc trưng cho người phạm tội có ý nghĩa giải quyết đúng đắn vấn đề TRÁCH NHIệM HÌNH Sự. Khái niệm nhân thân người phạm tội rộng hơn khái niệm chủ thể của TộI PHạM bởi vì nó bao gồm các dấu hiệu khác.

   Những dấu hiệu và đặc điểm của chủ thể của TộI PHạM có thể được chia thành 2 nhóm: những đặc điểm tội phạm học và những dấu hiệu pháp lý hình sự.

   - Những đặc điểm tội phạm học (đặc điểm chính trị, đạo đức, đặc điểm tâm sinh lý của người phạm tội …) nghiên cứu đặc điểm tội phạm học giúp ta tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện thúc đẩy việc thực hiện TộI PHạM và đề ra các biện pháp phòng ngừa. Cùng với các điều kiện đó các đặc điểm tội phạm học của chủ thể TộI PHạM có thể có ý nghĩa rất lớn để quy định biện pháp hình phạt cụ thể.

  - Nhóm đặc điểm thứ hai về nhân thân và phạm tội gồm những dấu hiệu có tính chất pháp lý hình sự. Nhóm này bao gồm 1 số không lớn các dấu hiệu. Trong nhóm này chỉ có những đặc điểm của chủ thể TộI PHạM có ý nghĩa truy cứu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự đối với 1 người. Những dấu hiệu này gắn liền với việc làm sáng tỏ nội dung của các QPPL hình sự.

   Theo luật hình sự, chủ thể của TộI PHạM là người thực hiện TộI PHạM và có những dấu hiệu (đặc điểm) được nêu trong PLHS. Một người được coi là thực hiện TộI PHạM nếu người đó tự mình bằng sức lực của mình (trong đó có cả việc sử dụng lực lượng của nhân thân, của súc vật, thú rừng …) thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ dấu hiệu của CấU THÀNHTộI PHạM nhất định. Một người được coi chủ thể của TộI PHạM cả trong trường hợp nếu để đạt được kết quả TộI PHạM người đó đã sử dụng việc làm của những người không có năng lực chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự; người chưa đủ tuổi chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự và của những người khác không hiểu được ý nghĩa thực tế của công việc họ làm, như 1 công cụ phạm tội.

   Người thực hiện TộI PHạM và tất cả những người đồng phạm khác (người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức) đều coi là chủ thể của TộI PHạM. Chủ thể của TộI PHạM không chỉ là người thực hiện hoàn toàn hành vi TộI PHạM mà cả những người có lỗi trong hoạt động chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.

    Muốn coi 1 người là chủ thể của TộI PHạM thì người đó phải có những dấu hiệu (đặc điểm) nhất định. Trong PLHS nước ta những đặc điểm này thể hiện như những dấu hiệu của cấu thành nói về chủ thể TộI PHạM. Việc xác định những dấu hiệu này là hết sức bắt buộc để tiến hành quá trình định tội danh đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội. Những dấu hiệu pháp lý của chủ thể của TộI PHạM có 1 số đặc điểm đặc biệt so với các dấu hiệu cấu thành nói về phương diện chủ quan và phương diện khách quan của TộI PHạM.

   Các dấu hiệu của chủ thể của TộI PHạM không nhiều. Nguyên tắc này thể hiện bản chất nhân đạo của Luật HSVN. Chẳng hạn, “ở đây thể hiện nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”.

   Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là nguyên tắc rất quan trọng. Thực hiện nguyên tắc này có nghĩa là mọi công dân Việt Nam nào trong trường hợp khi họ phạm tội cần phải chịu trách nhiệm theo cùng pháp luật hình sự hiện hành trên lãnh thổ ở nước ta.Luật hình sự và luật TTHS nước ta không đề ra 1 đặc quyền hoặc 1 sự ưu đãi nào cho công dân phụ thuộc vào TộI PHạMXH, tôn giáo, chủng tộc, dân tộc của họ.Việc định tội danh đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội được tiến hành chỉ phụ thuộc vào tính chất và những đặc điểm của TộI PHạM được thực hiện.

   Các dấu hiệu pháp lý hình sự của chủ thể của TộI PHạM được xen xét trong quá trình định tội danh không nhằm những dấu hiệu đó là: năng lực TRÁCH NHIệM HÌNH Sự, lứa tuổi, chủ thể đặc biệt. Trong quy định chung về các dấu hiệu chủ thể của TộI PHạM có những trường hợp ngoại lệ. Ví dụ: trong 1 số trường hợp trong khi tiến hành định tội danh cần phải xem xét cả 1 số dấu hiệu  khác của người phạm tội. Trong điều 78 BLHS của nước ta có quy định rằng chủ thể của tội phản bội tổ quốc chỉ có thể là công dân Việt Nam. Quốc tịch của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể có ý nghĩa nhất định cả trong trường hợp định tội danh theo 1 số điều luật của chương “các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân”. Trong các TộI PHạM về tình dục như tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm, tội giao cấu với người dưới 16 tuổi (điều 111, 113, 115 BLHS) chỉ có nam giới mới có thể bị coi là chủ thể của TộI PHạM. Trong các TộI PHạM này, phụ nữ chỉ có thể tham gia như người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức. Như vậy, trong các CấU THÀNHTộI PHạM trên, giới tính của người phạm tội là dấu hiệu cuả chủ thể TộI PHạM.

  Năng lực TRÁCH NHIệM HÌNH Sự: 1 trong những điều kiện tiên quyết mà PLHS nêu ra để coi 1 người là chủ thể của TộI PHạM. PLHS nước ta quy định khái niệm năng lực TRÁCH NHIệM HÌNH Sự 1 cách gián tiếp. Hầu hết những người không có những đặc điểm nêu trong điều 13 của BLHS được coi là những người  không có năng lực TRÁCH NHIệM HÌNH Sự, những người thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng không có NLHSTRÁCH NHIệM HÌNH Sự không nằm trong số các chủ thể TộI PHạM. Hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ thực hiện không phải là đối tượng của quá trình định tội danh. Những hành vi nguy hiểm cho xã hội đó không coi là TộI PHạM. Nhưng người không có năng lực TRÁCH NHIệM HÌNH Sự không phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự. Đối với họ chỉ có thể áp dụng các biện pháp tư pháp được quy định trong chương VI phần chung BLHS nước ta.

  Có 1vài nguyên tắc khác được áp dụng trong các trường hợp khi 1 người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong trạng thái có năng lực TRÁCH NHIệM HÌNH Sự nhưng tới thời điểm điều tra, truy tố xét xử lại bị bệnh tâm thần, do vậy được coi là không có năng lực TRÁCH NHIệM HÌNH Sự. Trong các trường hợp tương tự 1 người bị coi là chủ thể của TộI PHạM thì những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người đó thực hiện được coi là TộI PHạM. Những vấn đề trên cần được đánh giá về mặt phương hướng, nghĩa là cần tiến hànhviệc định tội danh đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội.

* Cân nhắc lứa tuổi của người phạm tội trong quá trình định tội ddanh.

   BLHS của nước ta quy định: người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự về mọi TộI PHạM (khoản 1 điều 2). Đây là nguyên tắc chung. Tuy nhiên, về thực tế TRÁCH NHIệM HÌNH Sự về 1 số loại TộI PHạM chỉ xuất hiện khi người phạm tội ở vào lứa tuổi từ đủ 18 tuổi trở lên. Ví dụ: tội trốn nghĩa vụ quân sự (điều 259), tội dụ dổ, ép buộc hoặc chứa chấp người phạm pháp (điều 252) và 1 số TộI PHạM khác.

  Khoản 1 điều 13 BLHS quy định “người từ chỉ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt rất nghiêm trọng. Đó là trường hợp ngoại lệ từ nguyên tắc chung.

   Như vậy, theo PLHS nước ta người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự về các hành vi nguy hiểm do họ thực hiện thuộc TộI PHạM gây nguy hại không lớn cho xã hội, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý.

   Tóm lại, việc xác định đúng lứa tuổi của người chưa thành niên bị truy cứu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc định tội danh đúng hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ thực hiện.

* Định tội danh các TộI PHạM do chủ thể đặc biệt thực hiện trong PLHS nước ta không có định nghĩa  chung về chủ thể đặc biệt của TộI PHạM. Trong BLHS chỉ có những định nghĩa cụ thể về 2 loại chủ thể đặc biệt của TộI PHạM: khái niệm người có chức vụ (điều 277 BLHS) và khái niệm về những người phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự về các xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân (điều 315).

Trong các trường hợp khác, ở phần quy định hóa các điều luật thuộc phần các TộI PHạM của BLHS chỉ đề cập tới những dấu hiệu riêng biệt có tính chất điển hình của chủ thể đặc biệt này hay chủ thể đặc biệt khác. Ví dụ: từ nội dung của điều 222 BLHS có thể rút ra kết luận rằng chỉ có những nhân viên của ngành giao thông hang không mới có thể là chủ thể của TộI PHạM này.

Định nghĩa vể chủ thể đặc biệt của TộI PHạM được đề cập tới trong thực tiễn xét xử trong khoa học hình sự nước ta được áp dụng đối với những loại chủ thể đặc biệt cụ thể: nhân viên ngành giao thông, nhân viên ngành y tế, chủ thể của các TộI PHạM xâm phạm hoạt động tư pháp, chủ thể các tội KT …

  Chúng tôi cho rằng chủ thể đặc biệt của TộI PHạM là những người không chỉ có các dấu hiệu chung của chủ thể phạm tội mà còn có dấu hiệu bổ sung khác mà về cơ bản các dấu hiệu này có liên quan tới nghề nghiệp, chức vụ công tác của họ. Trong đó các chức vụ được nêu trong các     của các Bộ như điều lệ, thông tư, chỉ thị, quy định thẩm quyền, trách nhiệm của các cán bộ này hay cán bộ khác của các cơ quan nhà nước … Khi xác định chủ thể ĐB cần tha, khảo các văn bản nói trên.

  Những dấu hiệu chung và những dấu hiệu đặc biệt của chủ thể của TộI PHạM có ý nghĩa khác nhau. Nếu chỉ thiếu 1 dấu hiệu chung của chủ thể nghĩa là không có hành vi TộI PHạM. Ví dụ: nếu nghĩa vụ của ngành giao thông đang trong trạng thái không có năng lực TRÁCH NHIệM HÌNH Sự bằng hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình đã làm đổ, hỏng hoặc gây ra những hậu quả nghiêm trọng khác thì trong mọi điều kiện nào và đó cũng không phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự trong hành vi của người đó không cấu thành TộI PHạM. Vấn đề định tội danh cũng được giải quyết tương tự trong các trường hợp khi trẻ em dưới 14 tuổi thể hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội.

  Khi không có các dấu hiệu của CấU THÀNHĐB của TộI PHạM thì xuất hiện1 nguyên tắc: trong 1 số trườnghợp khi không có các dấu hiệu đó thì hòan toàn loại trừ trách nhiệm hình sự, còn trong các trường hợp khác lại chỉ thay đổi việc định tội danh.

 Như vậy, từ việc giải thích trên có thể đi tới 1 kết luận là khi không có các dấu hiệu của CấU THÀNHĐB của TộI PHạM trong rất nhiều trường hợp nói chung. TRÁCH NHIệM HÌNH Sự của bị cáo không được loại trừ mà chỉ loại trừ việc định tội danh theo điều luật hình sự mà ở đó đề cấp CấU THÀNH ĐB của TộI PHạM.

 




Câu 17:  Các giai đoạn thực hiện TộI PHạM ? ( 263 – 277 )

TộI PHạM có thể được thể hiện trong 1 hành vi phạm tội xãy ra cùng 1 lúc hợp thành CấU THÀNHTộI PHạM. Nhưng trong hàng loạt trường hợp hoạt động phạm tội diễn ra trong 1 khoảng tương đối dài hoặc ngắn.

  Hoạt động cố ý phạm tội cũng như với mọi hoạt động nào của con người trong XH đều diễn ra theo 1 quá trình nhất định. Không phải mọi TộI PHạM đều diễn ra theo những giai đoạn nhất định.

   Vì những lý do trên trong lý luận luật HS, chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt còn gọi chung là tội phạmchưa hình thành hoặc hoạt động phạm tội sơ bộ. Trách nhiệm hình sự được nhà làm luật đặt ra chỉ đối với việc chuẩn bị thực hiện những loại TộI PHạM nhất định, còn mọi trường hợp phạm tội chưa đạt đều phải chịu trách nhiệm HS.

  Trong luật HS, các giai đoạn thực hiện TộI PHạM được hiểu là những bước trong tiến trình thực hiện 1 TộI PHạM cố ý gồm chuẩn bị PT, PT chưa đạt và TộI PHạM ht. Như vậy, lý luận PLHS và PLHS phân biệt 3 giai đoạn của quá trình thực hiện tội phạm cố ý: chuẩn bị PT; phạm tội chưa đạt; TộI PHạM hoàn thành.

  PLHS nước ta đã đặt ra trách nhiệm HS đối việc chuẩn bị thực hiện 1 số TộI PHạM nhất định. Những gì xãy ra trước đó chỉ có thể là ĐT nghiên cứu của luật HS hay của một số ngành khoa học khác, chứ không thể là cơ sở của việc truy cứu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự. Bởi vì, ý định thực hiện TộI PHạM chưa được khách quan hóa vào trong các hành vi nguy hiểm cho XH cụ thể nào đó được luật hình sự coi là TộI PHạM. Do vậy, phát hiện ra những ý định phạm tội không thể là 1 giai đoạn của việc thực hiện TộI PHạM

  Điều 17, 18 BLHS chỉ đưa ra ĐN 2 giai đoạn thực hiện TộI PHạM: chuẩn bị PT và PT chưa đạt, còn việc ĐN từng TộI PHạM ht cụ thể chỉ được chỉ ra trong phần qui định của các điều luật tương ứng ở phần các TộI PHạM của BLHS.

  - Chuẩn bị PT, với tư cách là 1 gđ thực hiện TộI PHạM được hiểu là việc tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc tiếp tục thực hiện TộI PHạM.

- PT chưa đạt thể hiện ở các hành động trực tiếp hướng đếu việc thực hiện TộI PHạM.

- PT ht là trường hợp khi hành động do 1 người thực hiện chứa đựng tất cả những dấu hiệu của 1 CấU THÀNHTộI PHạM cụ thể được qui định trong qui phạm pháp luật tương ứng của phàn các TộI PHạM của BLHS.

  Trong 1 số trường hợp, 3 giai đoạn nói trên có thể được thực hiện liên tục trong 1 TộI PHạM. Tuy nhiên cũng còn có không ít trường hợp phạm tội ngay lập tức. (thực hiện ngay ý định, hành vi CấU THÀNHTộI PHạM). Đôi khi, người phạm tội thực hiện chỉ là gđ thứ 1 hoặc gđ thứ 2 rồi thôi vì những nguyên nhân ngoài ý muốn.

- Nếu như TộI PHạM ht đã thực hiện mà ở TộI PHạM đó có việc chuẩn bị PT vả PT chưa đạt được t/hiện liên tục, thì 2 giai đoạn đầu đó bị thu hút vào gđ thứ 3 và chỉ truy cứu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự về TộI PHạM đã ht.

- Vấn đề TRÁCH NHIệM HÌNH Sự cũng được giải quyết tương tự trong trường hợp việc thực hiện TộI PHạM được diễn ra qua 2 gđ: chuẩn bị PT và PT chưa đạt; gđ thứ 1 được thu hút còn gđ thứ 2

  Việc xác định đúng các giai đoạn thực hiện TộI PHạM có ý nghĩa quan trọng đối với việc phân biệt TộI PHạM ht và TộI PHạM chưa ht, đối với việc định tội danh hành vi ptội, cũng như đvới việc xđ mức độ nguy hiểm cho XH của hành vi được thực hiện và nhân thân người phạm tội, bởi vì thông thường TộI PHạM ht nguy hiểm hơn ptội chưa đạt, còn ptội chưa đạt nguy hiểm hơn cbị pt.

   Ngoài ra, việc xđ gđ cụ thể của việv thực hiện TộI PHạM là cơ sở cho việc cơ thể hóa hình phạt đối với người phạm tội.

   Việc phát hiện, làm sáng tỏ các gđ thực hiện TộI PHạM, trước hết là chuẩn bị PT và PT chưa đạt có ý nghĩa quan trọng đvới việc ngăn chặn gây ra hậu quả thực tế cho các quyền và lợi ích của Nhà nước và cá nhân được PL bảo vệ. Việc ngăn chặn TộI PHạM ở gđ chuẩn bị hoặc ở thời điểm bắt đầu thực hiện, nhưng chưa ht sẽ khắc phục được việc gây ra  hậu quả thực tế.

 * Chuẩn bị PT:

Bộ luật HS hiện hành nước ta định nghĩa Cbị PT là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những đkiện cần thiết khác để thực hiện TộI PHạM (Đ 17)

  Trong thực tế, các hành vi cbị pt được thể hiện rất đa dạng, do vậy nhà làm luật không liệt kê hết các hình thức cụ thể của việc cbị pt, mà chỉ liệt kê các hành vi đặt trưng mang tính khách quan. Theo qui định của luật (điều 17 BLHS), các dấu hiệu khách quan chuẩn bị PT có thể được thể hiện dưới các hình thức sau: tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những đkiện cần thiết khác để thực hiện TộI PHạM.

  Các hành vi cbị pt bao giờ cũng xãy ra trước việc trực tiếp t/hiện TộI PHạM và không phải là các dấu hiệu của mặt t/quan của CấU THÀNHTộI PHạM cụ thể. Điều đó thể hiện mức độ nguy hiểm thấp cho XH so với các gđ sau đó.

  Theo các dấu hiệu chủ quan, việc chuẩn bị PT chỉ có thể được thực hiện bằng cố ý trực tiếp (tìm kiếm, sửa soạn công cụ), hành vi cbị chưa trực tiếp xâm hại đến khách thể của TộI PHạM mà chủ thế có ý định thực hiện, chưa trực tiếp làm biến đổi trạng thái bình thường của đối tượng tác động…

  Dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho XH của hành vi cbị PT, pháp luật HS nước ta không qui định TRÁCH NHIệM HÌNH Sự đvới mọi hành vi cbị pt mà chỉ qui định đvới  1 số hành vi cbị thực hiện 1 số tội nhất định.

  Điều 17 BLHS: “người chuẩn bị pt rất nghiêm trọng hoặc 1 tội đặt biệt nghiêm trọng, thì phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự”. Trong nhiều trường hợp chút hành vi cbị pt, về mặt thực tế đã cấu thành 1 TộI PHạM hoàn thành khác. Vd chị giết người, người phạm tội đã chiếm đoạt vũ khí quân dụng để làm công cụ thực hiện TộI PHạM, thì bị phát hiện bắt giử…

  * Phạm tội chưa đạt:

  Là gđ thứ 2 của quá trình thực hiện TộI PHạM cố ý. Theo điều 18 BLHS hh, pt chưa đạt là cố ý thực hiện TộI PHạM nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốm của người PT.

   Về mặt bản chất PT chưa đạt đã thể hiện sự bắt đầu xâm phạm đến khách thể được PLHS bảo vệ, ở gđ này người phạm tội thực hiện sự xâm hại, đã thực hiện 1 phần hành vi được qui định trong mặt khách quan của CấU THÀNHTộI PHạM được dự định thực hiện nhưng không thực hiện được đến cùng do những nguyên nhân ngoài ý muốn. Mặt khách quan của ptội chưa đạt thể hiện các điểm sau:

  - Hành vi của người PT trực tiếp và bắt đầu hướng đến việc thực hiện TộI PHạM. Khác với cbị pt chính bằng việc t/hiện hvi của 1 CấU THÀNHTộI PHạM cụ thể, còn ở cbị pt chỉ tạo ra khả năng thực tế cho việc xâm hại tiếp theo.

- Tính chưa ht của pt. Ở gđ này mặt khách quan của pt được thực hiện chưa đầy đủ, có 1 bộ phận    dấu hiệu bắt buộc của hành vi được mô tả trong phần qui phạm phần các tội phạm của BLHS chưa được thực hiện. Ở đây cần phân biệt các tội phạm cơ cấu thành v/c với các tội phạm cơ cấu thành hình thức. Đvới Tội phạm có cấu thành v/c chỉ số của tính chưa ht của TộI PHạM là chưa gây ra hậu quả ptội là dấu hiệu bắt buộc của CấU THÀNHTộI PHạM đó. Nhưng đồng thời điều đó không có nghĩa rằng mọi trường hợp giai đoạn ptội này không gây ra hậu quả. Chẳng hạn, ở trường hợp phạm tội giết người chưa đạt có thể gây ra hậu quả là thiệt hại sức khỏe cho người bị hại. Ở các tội phạm có cấu thành hình thức, tính chưa hình thành của tội phạm thể hiện ở việc chưa t/hiện hết với mọi các hành vi được mô tả trong QPPL hình sự về TộI PHạM ht.

  Việc thực hiện chưa hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của TộI PHạM được t/hiện là dấu hiệu phân biệt rõ nét nhất ptội chưa đạt với pt ht: hoặc là người pt không đạt được hậu quả Pt mà mình mong muốn, hoặc không thực hiện siết được các hvi của 1 TộI PHạM ht. Chính việc t/hiện chưa hết hành vi, chưa thực hiện dù chỉ 1 trong số các dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của TộI PHạM là cơ sở để tách PT chưa đạt thành 1 gđ độc lập. Vd: Khi đã đột nhập được vào nhà của người khác với mđ t/hiện tội trộm cắp TS, nhưng người PT chưa thể chiếm đoạt được TS, thì đã bị phát hiện và bắt giử.

  Việc chưa ht của TộI PHạM là vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người ptội. Nguyên nhân thì có nhiều và rất khác nhau như: bị phát hiện và ngăn chặn, người bị hại chống cự,… nhưng nhìn chung các nguyên nhân đều do ngoài ý muốn của người ptội, người Ptội không lường trước được…Đó là những tình tiết làm cơ sở quyết định phân biệt Tội phạmhạm chưa đạt với tự ý nữa chừng chấm dứt việc PTội.

  * Về mặt chủ quan: PTội chưa đạt đặc trưng bởi lỗi cố ý trực tiếp. Điều đó có nghĩa rằng người PTội nhận thức được việc mình t/hiện hành vi trực tiếp hướng tới t/hiện TộI PHạM, việc t/hiện sự xâm hại đến khách thể được PLuật HS bảo vệ.

  Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta phân PTội chưa đạt thành các loại khác nhau:

 - Căn cứ vào t/chất của các hvi đã được thực hiện, mức độ gần gũi với thời điểm ht của TộI PHạM và mức độ t/hiện ý định PT đến PT chưa đạt chưa ht và PT chưa đạt đã ht.

  + PT chưa đạt chưa ht:

  - Là dạng PT chưa đạt thể hiện ở chỗ người phạm tội chưa t/hiện hết tất cả các hvi thuộc mặt khách quan của CấU THÀNHTộI PHạM và hậu quả của TộI PHạM chưa xãy ra.

  - Đặc điểm là chưa t/hiện hết các hvi, mới t/hiện (phần mặt khách quan của CấU THÀNHTộI PHạM).

  + PT chưa đạt đã ht:

- Là 1 dạng PT chưa đạt đã  t/hiện tất cả những gđ mà họ cho là cần thiết để đạt được mđích mà họ dự định trước, đã thực hiện đầy đủ nội dung của mọi k/quan được mô tả trong CấU THÀNHTộI PHạM, nhưng do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội, hậu quả PL, thuộc phần các TộI PHạM của BLHS. Vd: tội gây rối TTCC (Điều 245) được coi là ht khi người PT có hvi gây rối ở nơi công cộng.

 Các TộI PHạM có cấu thành cắt xén được coi là ht từ thời điểm thực hiện xong các hvi khách quan được mô tả trong mặt khách quan của CấU THÀNHTộI PHạM.

  Cần phân biệt TộI PHạM ht với TộI PHạM kết thúc. TộI PHạM ht là 1 phạm trù của luật HS. Trong nhiều trường hợp TộI PHạM đã ht những hvi phạm tội vẫn tiếp tục diễn ra, người phạm tội chưa kết thúc hành vi của mình. Đồng thời cũng có những trường hợp TộI PHạM đã kết thúc trên thực tế, những vi phạm tội được thực hiện vẫn chưa có đầy đủ, các dấu hiệu của 1 CấU THÀNHTộI PHạM cụ thể, tức là TộI PHạM chưa ht. Mặt khác, cũng có trường hợp khi TộI PHạM ht, thì đồng thời người phạm tội cũng đạt được mđích của mình, nhưng cũng có những trường hợp mđích phạm tội của họ chưa đạt được. Do vậy, cần phân biệt TộI PHạM hậu quả với TộI PHạM kết thúc.

  TộI PHạM kết thúc là hvi PTội đã chấm dứt thực sự, thời điểm TộI PHạM chấm dứt gọi là thời điểm phạm tội kết thúc. Thời điểm TộI PHạM ht và thời điểm phạm tội nt có thể trùng nhau, có trường hợp thời điểm phạm tội kết thúc xuất hiện sau. TộI PHạM cũng có thể kết thúc ở thời điểm nào đó thuộc giai đoạn cbị phạm tội hoặc PTội chưa đạt, tức là trước thời điểm TộI PHạM ht.

  Xđịnh đúng thời điểm TộI PHạM ht, thời điểm TộI PHạM kết thúc và phân biệt giữa chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc xđ đồng phạm, xđ phòng vệ chính đáng, áp dụng các qui định của BLHS về thời hiện truy cứu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự. Chẳng hạn, đồng phạm có thể xuất hiện khi TộI PHạM ht nhưng chưa kết thúc; phòng vệ chính đáng được t/hiện khi hành vi tán công (trong trường hợp CấU THÀNHTộI PHạM) chưa kết thúc, thời hiện truy cứu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự được tách từ ngày TộI PHạM kết thúc.


 

 



Câu 18:  Khái niệm đồng phạm, các dấu hiệu đồng phạm, các hình thức đồng phạm ( 279 –

  Một tội phạm cụ thể có thể do 1 người thực hiện hoặc có thể do nhiều người thực hiện. Khi TộI PHạM do nhiều người thực hiện sẽ xãy ra 2 trường hợp.

  - Những người thực hiện TộI PHạM đã hành động trong sự độc lập hoàn toàn với nhau; không có sự liên hệ về khách quan và chu quan trong quá trình t/hiện hvi phạm tội.

 - Những người thực hiện TộI PHạM đã hành động trong sự liên hệ phối hợp và tác động lẫn nhau.

  Trường hợp phạm tội thứ 2 được gọi là đồng phạm. ĐP là 1 hình thức phạm tội đặc biệt, cơ sở xđ TRÁCH NHIệM HÌNH Sự đvới người ĐP có 1 số điểm khác với trường hợp phạm tội riêng lẻ, vì vậy nhà làm luật đưa ra những qui định bổ sung về đk và phạm vi TRÁCH NHIệM HÌNH Sự đvới trường hợp này.

Trong ĐP có trường hợp những người cùng thực hiện TộI PHạM đều có vai trò như nhau trong việc thực hiện TộI PHạM, hvi mà họ thực hiện nằm trong giới hạn của mặt khách quan của CấU THÀNHTộI PHạM, song cũng có trường hợp những người ĐP có vai trò khác nhau trong việc t/hiện TộI PHạM và hvi của 1 số người vượt ra ngoài phạm vi mặt khách quan của CấU THÀNHTộI PHạM cụ thể. Những đặc điểm đa dạng đó của ĐP cho ta thấy ĐP là 1 hiện tượng phức tạp và đó cũng là vđề phức tạp khi xđịnh trách nhiệm Hsự Đvới ĐP.

Khoản 1 điều 20 BLHS hh qui định: “ĐP là trường hợp có 2 người trở lên cố ý cùng thực hiện 1 TộI PHạM”.

Qui định trên đây đã chỉ ra các dấu hiệu khách quan và chủ quan của ĐP.

 - Dấu hiệu khách quan của ĐP là phải có từ 2 người trở lên và dấu hiệu cùng t/hiện TộI PHạM

  - Dấu hiệu chủ quan của ĐP là phải có sự củng cố ý của những người tham gia t/hiện TộI PHạM.

 - Số người PT ít nhất là 2. Nhưng chỉ 2 người hiểu ở đây là những người phải có đủ điều kiện của chủ thể TộI PHạM tức là mỗi người trong số họ phải đạt độ tuổi chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự và có năng lực TRÁCH NHIệM HÌNH Sự theo điều 12 – 13 BLHS.

  - Cùng thực hiện TộI PHạM là mỗi người trong ĐP đều có hành vi tham gia vào t/hiện TộI PHạM, hvi của mỗi người được t/hiện không biệt lập nhau mà trong sự lien kết với nhau, hvi của người này hỗ trợ, bổ sung cho hành vi của người khác và ngược lại, hvi của mọi người là bộ phận của hoạt động phạm tội chung, nhằm thực hiện 1 TộI PHạM nhất định và để đạt được 1 kết quả phạm tội thống nhất. Hiệu quả của TộI PHạM là kết quả do hvi với những người tham gia vào TộI PHạM gây ra, hvi của mỗi người đều có quan hệ nhân quả với nhân quả chung của TộI PHạM do ĐP thực hiện. Vì vậy, không coi ĐP khi 1 số người đã t/hiện hvi phạm tội 1 cách cố ý và đồng thời nhau về mặt khác, những hành vi của từng người t/hiện 1 cách độc lập, không liên hệ, không hỗ trợ nhau. Ví dụ: A biết cửa kho TộI PHạM của XN mở nhưng thủ kho không có mặt ở đó, đã lén vào lấy TS. Cùng thời điểm ấy B cũng biết vậy và đã vào kho lấy trộm TS.

Việc cùng t/hiện TộI PHạM có thể là trực tiếp t/hiện hvi được mô tả trong CấU THÀNHTộI PHạM, có thể là t/hiện hvi xúi giục, hvi giúp sức hoặc tổ chức. Trong đó, nguyên nhân trực tiếp sinh ra hậu quả của TộI PHạM là hvi đuợc mô tả trong CấU THÀNHTộI PHạM.

  Nhưng ĐP là hiện tượng phức tạp nên quan hệ trong ĐP cũng có đặc điểm riêng khác với trường hợp phạm tội riêng lẻ. Khi với mọi người đồng phạm đều hành động với tư cách là người thực hành, thì hvi của họ tạo thành nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả của TộI PHạM. Đều này không có nghĩa là hvi tham gia của mỗi người t/thành đều có tác dụng hoàn toàn giống nhau trong việc sinh ra hậu quả TộI PHạM, tác dụng gây ra hậu quả của TộI PHạM ở hvi của mỗi người t/hành có thể khác nhau nhưng hvi của họ đều nằm trong giới hạn thuộc mặt khách quan của CấU THÀNHTộI PHạM được đluật qui định.

  Vd:  Điều 160 BLHS qui định tội đầu cơ với các dấu hiệu “lợi dụng t/hình khan hiếm hoặc tạo ra sự khan hiếm giả tạo trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, cấu thànhranh mua vét hàng hóa nhằm bán lại thu lợi bất chính…”, nếu có 2 người cùng thực hiện đầu cơ, trong đó có 1 người mua vét hàng hóa và người kia đem bán hàng hóa để thu lợi bất chính, thì hvi của 2 người đều là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả TộI PHạM, hvi của họ đều nằm trong giới hạn của mặt khách quan của cấu thành tội đàu cơ. Có trường hợp những người ĐP có vai trò khác nhau trong vỉệc t/hiện TộI PHạM, có người trực tiếp t/hiện TộI PHạM và có người tổ chức, người giúp sức hoặc người xúi giục… thì hvi của những người này gây ra hậu quả TộI PHạM thông qua người thực hành.

 - Dấu hiệu chủ quan của ĐP là sự cũng cố ý của những người tham gia t/hiện TộI PHạM. Thiếu dấu hiệu cùng cố ý, thì mặc dù hvi của người phạm tội thỏa mãn dấu hiệu khách quan, vẫn không có ĐP mà chỉ có là hình thức nhiều người cùng phạm tội.

  ĐP là sự t/hiện TộI PHạM của nhiều người trong sự thống nhất về ý chí và với ý định thống nhất. Do đó, không thể có ĐP về tội vô ý.

  Cùng cố ý là mỗi người ĐP đều cố ý đvới hvi tham gia t/hiện TộI PHạM của mình, đều biết và mong muốn những người ĐP cùng hành động với mình. Sự cùng cố ý thể hiện sự lien kết thống nhất về mặt chủ quan giữa những người ĐP, đó chính là mối lien hệ, tác động tương bổ và ảnh hưởng lẫn nhau về mặt tâm lý giữa những người ĐP.

  Như vậy, sự cùng cố ý ĐP thể hiện sự hiểu biết qua lại (lẫn nhau) giữa những người đồng phạm về hoạt động phạm tội mà sự cùng thực hiện và có ý định phạm tội chung thống nhất.

    Cố ý trong ĐP thể hiện ở các nội dung sau:

  - Về lý trí, mỗi người ĐP đều nhận thức được tính chất nguy hiểm của hvi của mình, nhận thức được tính chất nguy hiểm của người ĐP khác (những người ĐP khác) thấy trước việc gây ra hậu quả chung.

  - Về ý chí, những người ĐP đều mong muốn cùng thực hiện TộI PHạM và đều mong muốn hậu quả chung của TộI PHạM xảy ra. Có ý kiến cho rằng ĐP cũng có hình thức lỗi cố ý gián tiếp trong trường hợp những người ĐP đều có ý thức để có hậu quả của TộI PHạM xảy ra. Nhìn chung hình thức lỗi cố ý của những người ĐP là cố ý trực tiếp.

  Đvới các tội phạm pháp luật hs qui định mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của CấU THÀNHTộI PHạM, thì những người ĐP về tội đó phải có cùng mđích. Vd:  những ĐP về tội xâm phạm ANQG phải có cùng mục đích chống chính quyền nhân dân. Nếu 1 người biết người khác t/hiện TộI PHạM với mđích chống chính quyền nhân dân nhưng đã cùng thực hiện hành vi (khách quan) với người đó, thì cũng coi là có cùng mđích.

  Đvới các TộI PHạM Pluật Hs qui định động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của CấU THÀNHTộI PHạM, thì những người ĐP về tội đó phải có cùng động cơ phạm tội. Vd: Đvới tội buộc người lao động, CBCC thôi việc trái PL, tội sử dụng trái phép TS, tội báo cáo sai trong qlý KT, động cơ vụ lợi được BLHS hiện hành qui định là dấu hiệu định tội, thì những người ĐP các tội đó phải có cùng động cơ vụ lợi.

  Yếu tố có ý nghĩa liên kết hành vi của những người cùng t/hiện TộI PHạM để đạt tới kết quả phạm tội chung là mong muốn t/hiện, sự mong muốn ấy có thể xuất phát từ những động cơ và với những mđích khác nhau ở những người ĐP.

  Chế định đồng phạm nói chung và khái niệm ĐP nói riêng có ý nghĩa lý luận, lập pháp và thực tiễn quan trọng.

  * Các hình thức ĐP

  Mối liên hệ giữa những người ĐP, sự phối hợp hoạt động ptội của những người đó diễn ra rất phứt tạp, đa dạng. Vì vậy, việc phân loại các hình thức ĐP thành nhóm theo 1 trật tự nhất định là phương pháp để nhận thức hệ thống các hình thức ĐP.

  Phân loại các hình thức ĐP là việc phân chia các hình thức ĐP thành các nhóm khác nhau dựa trên 1 căn cứ nhất định nhằm những mđích nhất định.

* Căn cứ vào những đặc điểm về mặt chủ quan giữa những người đồng phạm: ĐP có thông mưu trước và không có thông mưu trước.

    - ĐP có thông mưu trước là h/thức ĐP trong đó giữa những người ĐP không có bàn bạc, trao đổi với nhau trước về việc t/hiện TộI PHạM.

   Tuy những người ĐP không có sự bàn bạc, trao đổi trước với nhau V/v t/hiện TộI PHạM, nhưng mỗi người đều nhận thức được họ cùng với những người ĐP khác đang thực hiện 1 tội phạm nhất định, hoạt động ptội của mỗi người trong số họ tiến hành trong sự liên kết với nhau.

  Chia 2 loại: ĐP có 1 người thực hành không có thông mưu trước và ĐP có 2 người t/hành trở lên không có thông mưu trước.

  1) ĐP có 1 người thực hành là hình thức ĐP trong đó giữa người thực hành với người ĐP hoặc với những người ĐP khác có sự thỏa thuận, bàn bạc trước với nhau V/v cùng t/hiện 1 tội

  2) ĐP có 2 người cùng t/hành trở lên là h/thức ĐP giữa 2 người đồng thực hành hay giữa nhiều người đồng thực hành hay giữa họ với những người ĐP khác không có sự thỏa thuận, bàn bạc trước với nhau v/v cùng t/hiện TộI PHạM.

  So với ĐP thông mưu trước, thì   ĐP không có thông mưu trước nói chung ít nguy hiểm hơn vì những người ĐP chưa có thời gian bàn bạc kế hoạch phối hợp hành động với nhau.

  - ĐP có thông mưu trước là hình thức ĐP trong đó giữa những người ĐP có sự bàn bạc, thỏa thuận trước với nhau về TộI PHạM cùng thực hiện.

  Sự bàn bạc, thỏa thuận … cùng thực hiện TộI PHạM có thể diễn ra ngay trước khi bắt tay vào thực hiện TộI PHạM hoặc ở 1 thời điểm cách xa thời điểm thực hiện TộI PHạM. Sự bàn bạc thỏa thuận trước có thể chỉ liên quan đến 1 số khía cạnh cụ thể của việc thực hiện TộI PHạM hay che dấu TộI PHạM mà không nhất thiết phải thỏa thuận về toàn bộ hoạt động phạm tội. Sự thông mưu trước cũng có thể rất chi tiết, cụ thể về thực hiện, có kế hoạch chi tiết từng phần. Cách thức trao đổi, thỏa thuận giữa những người ĐP có thể từng lời nói, bằng thủ từ, tín hiệu riêng … Với những điểm này, ĐP có thông mưu trước có mức độ nguy hiểm cho xã  hội cao hơn ĐP không có thông mưu trước.

* Căn cứ vào đặc điểm về mặt khách quan 2 loại: ĐP giản đơn và ĐP phức tạp.

  1- ĐP giản đơn là hình thức ĐP trong đó tất cả những người tham gia vào cùng thực hiện TộI PHạM đều có vai trò là người thực hành.

  Ở hình thức này, mỗi người ĐP đều thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành TộI PHạM của điều luật của phần các TộI PHạM, gọi họ là những người đồng thực hành. Ở đây các hành vi khách quan được mô tả trong CấU THÀNHTộI PHạM có thể do những người ĐP đồng thực hành vào cùng 1 thời điểm hoặc vào những kế tiếp nhau và tổng thể tất cả các hành vi phạm tội đã thực hiện chính là hành vi được mô tả trong CấU THÀNHTộI PHạM đã thực hiện.

  2- ĐP phức tạp là hình thức ĐP trong đó ngoài 1 hoặc 1 số người có vai trò là người thực hành còn có người tổ chức người xúi giục hoặc người giúp sức.

  Ở hình thức ĐP này, hành vi phạm tội của những người ĐP không những khác nhau ở nội dung phạm tội và hình thức biểu hiện mà còn có thể khác nhau về thời gian, địa điểm phạm tội. Phần lớn hình thức ĐP phức tạp đều có thông mưu trước, bởi lẽ hành vi tổ chức, hành vi xúi giục, hành vi giúp sức thường được tiến hành trước thời điểm người thực hành TộI PHạM. Sự thỏa thuận giữa những người ĐP ở hình thức này có thể có trước thời điểm thực hiện TộI PHạM.

  Sự khác nhau cơ bản giữa ĐP phức tạp và ĐP giản đơn để thể hiện ở chỗ ĐP phức tạp chỉ có 1 hoặc 1 số người ĐP thực hiện hành vi được mô tả trong CấU THÀNHTộI PHạM (tức là người thực hành), còn trong ĐP giản đơn thì tất cả những người ĐP đều cùng trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong CấU THÀNHTộI PHạM.

* Căn cứ vào những đặc điểm cả về mặt khách quan lẫn về mặt chủ quan, ĐP phân thành: ĐP phân thành: ĐP thường và ĐP có tổ chức. ĐP có tổ chức là hình thức ĐP có sự câu kết chặt chẽ những người cùng thực hiện TộI PHạM (khoản 3 điều 20).

  Nói chung, trong các trường hợp ĐP những người phạm tội thường có sự bàn bạc trước và có sự phân công thực hiện TộI PHạM nhưng không phải trường hợp nào cũng có sự bàn bạc trước và có sự phân công thực hiện TộI PHạM đều là phạm tội có tổ chức. Phạm tội có tổ chức phải có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện TộI PHạM. Sự câu kết này theo hướng dẫn của HTộI PHạM TĐ NDTcao có thể thể hiện dưới các dạng sau:

 - Những người ĐP đã tham gia 1 tổ chức phạm tội như đảng phái, hội, đoàn phản động, băng ổ trộm cướp … có người chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là tập hợp những người chuyên phạm tội đã thống nhấ nhau cùng nhau hoạt động phạm tội.

- Những người ĐP đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo kế hoạch đã thống nhất trước.

- Những người ĐP chỉ thực hiện TộI PHạM 1 lần nhưng đã tổ chức thực hiện TộI PHạM theo 1 kế hoạch được tính toán kỹ lưỡng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che dấu TộI PHạM.

  Ở khía cạnh lý luận cùng những thực tiễn, đấu tranh chống TộI PHạM cho thấy rằng: phạm tội có tổ chức là 1 dạng ĐP có thông mưu trước, 1 nhóm tội phạm có từ 2 người trở lên sự lien hệ giữa những người đồng phạm thể hiện tính bền vững thống nhất được hình thành thường là để thể hiện 1 số lượng TộI PHạM không xác định, phạm tội có tổ chức có thể là hình thức đồng phạm giản đơn, hầu hết những người tham gia thể hiện TộI PHạM đã hành động với vai trò là người thực hành. Phạm tội có tổ chức có thể là hình thức đồng phạm phức tạp tức là có sự phân chia vai trò giữa những người tham gia thực hiện TộI PHạM.

  Với những đặc điểm của phạm tội có tổ chức trình bày trên, hình thức ĐP có tổ chức có thể thực hiện TộI PHạM nhiều lần, lien tục, gây ra những hậu quả nghiêm trọng, công tác đấu tranh chống TộI PHạM gặp nhiều khó khăn, tốn kém. Vì vậy luật HSVN quy định phạm tội có tổ chức là 1 tình tiết quan trọng trách nhiệm hình sự tại điều 48 BLHS. Trong hàng loạt cấu thành TộI PHạM, phạm tội có tổ chức được quy định là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt (dấu hiệu của CấU THÀNHTộI PHạM tăng nặng).


 

 



Câu 19: Khái niệm bản chất pháp lý và các biện pháp loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Phân biệt phòng vệ chính đáng với tình thế cấp thiết (312 -321)

+ Khái niệm phòng vệ chính đáng (PVCĐ)

   PVCĐ là hành vi của người bảo vệ lợi ích của nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả 1 cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích trên. PVCĐ không phải là TộI PHạM (điều 15 BLHS).

PVCĐ không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội mặc dù thực tế nó gây ra những thiệt hại nhất định nào đó bởi nó phù hợp với lợi ích xã hội và là sự trợ giúp của nhà nước trong việc   trật tự kết quả    của xã hội chống lại những hành vi trái pháp luật xâm hại các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ.

  PVCĐ là quyền của công dân nhưng không phải là nghĩa vụ pháp lý của họ, việc sử dụng hoặc không sử dụng thuộc nhiều điều kiện và khả năng của người được quyền bảo vệ.

  Ý nghĩa pháp lý trên xã hội: mặt dù luật hình sự và TRÁCH NHIệM HÌNH Sự quy định nhiều hình thức, biện pháp và phương diện khác nhau nhằm xử lý các hành vi trái pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp nhưng những quy định đó cũng không thể thay thế quyền phòng vệ của công dân trước những hành vi trái pháp luật. PVCĐ 1 mặt tạo điều kiện để kịp thời ngăn ngừa thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra, mặt khác nên tính tích cực của công dân tham gia bảo vệ TTXH, đấu tranh phòng ngừa TộI PHạM.

* Điều kiện của PVCĐ:

Chỉ đấu tranh PVCĐ cho phép và khuyến khích công dân, khi có điều kiện tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, của người khác, của nhà nước. Nhưng điều đó không có nghĩa là công dân có quyền xử lý các hành vi trái pháp luật mà vấn đề này thuộc thẩm quyền của nhà nước. Vì thế PVCĐ được pháp luật giới hạn trong 1 phạm vi nhất định, và hành động phòng vệ chỉ được coi là chính đáng khi không vượt khỏi phạm vi này,luật hình sự quy định cụ thể thông qua các điều kiện.

a- Cơ sở FS quyền PVCĐ:

 Điều 15 BLHS: FS trên cơ sở có sự tấn công xâm phạm các lợi úch của nhà nước, của tổ chức hoặc của quyền, lợi ích chính đáng của công dân.

  Quyền và lợi ích ở đây không nhất thiết phải quyền và lợi ích của người phòng vệ. Điều đó có ý nghĩa là quyền phòng vệ FS trên cơ sở có hành vi xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp mà luật hình sự bảo vệ không chỉ là quyền của người có quyền, lợi ích bị xâm hại mà còn là quyền của mọi công dân. Quyền, lợi ích bị xâm hại ở đây có thể là quyền, lợi ích    , quyền và lợi ích nhân thân (tính mạng, sức khỏe, tự do, nhân phẩm) hoặc những lợi ích khác.

  Hành vi xâm hại trong PVCĐ thường được thực hiện bằng hành động nhưng cũng có trường hợp không hành động. Ví dụ: hành vi của người không đưa vợ đi cấp cứu khi người vơ đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, mặc dù người đó có điều kiện thực hiện 1 số người cho rằng khi xem xét cơ sở FS chỉ nhấn mạnh tính trái pháp luật, hành vi tấn công thường là TộI PHạM. Tuy nhiên, trong thực tế có những hành vikhông CấU THÀNHTộI PHạM nhưng vẫn được xem là PVCĐ đòi hỏi phải được ngăn chặn (hành vi của người bị bệnh tâm thần).

  Nếu sự xâm hại đó bất hợp pháp, thì dù hành vi xâm hại có phải là TộI PHạM hoặc không phải là TộI PHạM, có lỗi hay không có lỗi đều làm FS PVCĐ.

  Hành vi xâm hại phải tồn tại thực tế, nghĩa là đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra tức khắc. Hành vi đang xảy ra là hành vi đã được thực hiện và chưa kết thúc. Hành vi sẽ ngay tức khắc hoặc chưa bắt đầu nhưng sẽ xảy ra ngay tức khắc nếu không có biện pháp ngăn chặn.

   Khi hành vi đã thực sự chấm dứt thì không cần thiết phải có hành vi ngăn chặn và do đó không còn có ý nghĩa phòng vệ.Tuy nhiên, với những trường hợp mà hành động ngăn chặn xảy ra sau khi hành động tấn công chấm dứt, nếu hành động ngăn chặn đi liền ngay sau khi hành động tấn công hoặc có khả năng khắc phục thiệt hại cũng được coi là PVCĐ. Ví dụ: người bị cướp giật tài sản đó đuổi đánh người phạm tội để lấy lại tài sản.

  b- Phạm vi PVCĐ:

 PVCĐ trong luật hình sự không hạn chế việc lựa chọn bằng chống trả. Nhưng sự chống trả trong PVCĐ phản ánh là hành vi chống trả cần thiết:

- Phải nhằm vào chính người đang gây ran guy hiểm cho xã hội. Sự chống trả có thể trực tiếp nhằm vào người tấn công hoặc nhằm vào phương tiện, công cụ của người đó và có thể  gây những thiệt hại nhất định cho người đó.

- Hành vi phải là cần thiết. Trên cơ sở tự đánh giá về tính chất xã hội bị xâm hại, tính chất và mức độ nguy hiểm của công cụ, phương tiện phạm tội, nhân thân người có hành vi xâm hại, cường độ của sự tấn công cũng như những yếu tố khác để quy định biện pháp chống trả, mức độ chống trả.

  c- Vượt quá giới hạn PVCĐ:

  Khoản 2 điều 15 BLHS quy định: vượt quá giới hạn PVCĐ là hành vi chống trả rõ rang quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

  Người có hành vi vượt quá PVCĐ là những trường hợp mà trong hoàn cảnh cụ thể người phòng vệ nhận thức hoặc phải nhận thức được đủ điều kiện để nhận thức được là phương tiện, phương pháp, công cụ hoặc cường độ phòng vệ vượt quá 1 cách rõ rang mức cần thiết để ngăn chặn hành vi xâm hại ngăn ngừa, hạn chế thiệt hại xảy ra. Do đó, người phòng vệ phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự về sự vượt quá giới hạn mà luật cho phép. Nhưng mức độ hình sự hoàn toàn không giống như trường hợp bình thường. Vượt quá giới hạn CĐ được coi là 1 trong những tình tiết giảm nhẹ.

  Để đánh giá hành vi có vượt quá giới hạn PVCĐ hay không còn xem xét tổng hợp toàn bộ các tình tiết liên quan đến sự việc, trong đó cần chú ý so sánh khách thể được bảo vệ và khách thể bị hành vi phòng vệ gây thiệt hại mức độ gây ra … tương quan lực lượng, công cụ bên tấn công và bên phòng vệ.

  Theo quy định điều 15 BLHS thì chỉ những hành vi chống trả rõ rang là quá mức cần thiết không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi tấn công thì mới bị coi là vượt quá giới hạn PVCĐ. Vì vậy, không thể truy cứu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự đối với những trường hợp hành vi phòng vệ không thật tương xứng với hành vi tấn công, gây thiệt hại lớn hơn không nhiều so với thiệt hại cần ngăn chặn.

* Khái niệm tình thế cấp thiết ()

   Điều 16 BLHS quy định “tình thế cấp thiết là tình thế của người muốn tránh 1 nguy cơ thực tế đe dọa lợi ích của nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây 1 thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết           không phải là TộI PHạM.

- Điều kiện của TTCấU THÀNH:

a- Phải có sự nguy hiểm thực tế đe dọa lợi ích của nhà nước, tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của công dân.

    Cũng như phòng vệ chính đáng, cơ sở làm phát sinh quyền hành động trong TTCấU THÀNH là có sự đe dọa lợi ích được luật hình sự bảo vệ. Lợi ích này có thể là của nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của công dân. Và sự nguy hiểm đang đe dọa lợi ích kể trên phải tồn tại trong thực tế, nghĩa là đang xảy ra chưa kết thúc hoặc tuy chưa xảy ra nhưng nhất định sẽ xảy ra trong khoảnh khắc nếu không sự ngăn chặn kịp thời. Nếu sự nguy hiểm cho xảy ra và không thể xảy ran gay tức khắc hoặc xảy ra nhưng không đáng kể thì đó không phải là TTCấU THÀNH.

   Khác với PVCĐ là trường hợp mà người nguy hiểm chỉ có thể do con người gây ra, trong đó TTCấU THÀNH nguồn có thể do con người  cũng có thể do những nguyên nhân khác như do thiên nhiên, do súcvật gây ra …

b- Trong TTCấU THÀNH việc gây thiệt hại cho 1 lợi ích nào đó để bảo vệ lợi ích khác phải là biện pháp chung nhất. Nghĩa là, trong tình huống cụ thể không biện pháp nào khác ít gây thiệt hại lớn có khả năng ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do sự nguy hiểm đe dọa gây ra.

Đối với PVCĐ luật cho phép phòng vệ áp dụng biện pháp thích hợp theo sự lựa chọn của người đó để chứng tỏ hành động tấn công, vì sự chống trả này nhằm vào chính người có hành vi xâm hại trước pháp luật.

  Còn trong TTCấU THÀNH, thiệt hại gây ra không phải cho người có lỗi trong việc tạo ra sự nguy hiểm đó, mà là cho lợi ích hợp pháp của 1 chủ thể khác. Vì thế, nếu còn biện pháp ngăn chặn đuợc thiệt hại do sự nguy hiểm gây ra mà không cần hy sinh lợi ích chính đáng của người khác, thì đó không phải là TTCấU THÀNH.

c- Trong TTCấU THÀNH, việc bảo vệ 1 lợi ích nào đó được thực hiện bằng việc hy sinh 1 lợi ích khác cùng được pháp luật bảo vệ, vì thế điều đó chỉ có nghĩa khi lợi ích phải hy sinh nhỏ hơn, ít quan trọng hơn so với lợi ích bảo vệ. Hy sinh 1 lợi ích hợp pháp để cứu 1 lợi ích khác nhỏ hơn, thậm chí tương đương là hoàn toàn không cần thiết, thậm chí có hại luật hình sự không coi đó là TTCấU THÀNH.

  Việc so sánh tương quan giữa 2 lợi ích trong 1 tình huống cụ thể là hết sức phức tạp, đòi hỏi phải xem xét 1cách toàn diện  hầu hết các tình tiết lien quan đến sự việc, các yếu tố tác động tâm lý người hành động … mới có thể rút ra kết luận đúng đắn.

* Vượt quá TTCấU THÀNH:

 Theo khoản 2 điều 17 BLHS, vượt quá giới hạn của TTCấU THÀNH là những trường hợp thiệt hại gây ra rõ rang vượt quá  của TTCấU THÀNH, tức là lớn hơn 1 cách rõ rệt so với thiệt hại cần ngăn chặn. Tuy nhiên, TRÁCH NHIệM HÌNH Sự đối với những trường hợp này được luật hình sự xem xét giảm nhẹ, vì hành vi vượt quá yêu cầu của TTCấU THÀNH là xuất phát từ động cơ, mục đích tích cực, mặt khác, hành vi này có thể ngăn chặn được 1 thiệt hại nào đó trong thực tế


.

 

 



Câu 21: Khái niệm, bản chất mục đích hình phạt? (341-359)

 Trong quá trình đấu tranh với TộI PHạM, nhà nước ta sử dụng rất nhiều loại biện pháp khác nhau: kinh tế, tổ chức, văn hóa, xã hội, giáo dục. Các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội dành sự chú ý đặc biệt đến việc phòng ngừa TộI PHạM. Nhưng đồng thời, nhà nước cũng sử dụng các biện pháp cưỡng chế khác nhau đấu tranh với TộI PHạM . Hình phạt (HÌNH PHạT) là biện pháp quan trọng được nhà nước sử dụng để đấu tranh với TộI PHạM là 1 trong những biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện TộI PHạM.

  HÌNH PHạT và TộI PHạM có quan hệ chặt chẽ. Khi quy định TộI PHạM thì bao giờ cũng quy định HÌNH PHạT đối với từng TộI PHạM tương ứng. Mối quan hệ giữa TộI PHạM và HÌNH PHạT chính là biểu hiện mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả, tức là người phạm tội phải chịu 1 hình phạt nhất định vì đã thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, việc coi hành vi này hay là hành vi khác là TộI PHạM không chỉ chung quy đến việc xác định và đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của nó. Đó là những điều kiện cần nhưng chưa đủ. Việc coi 1 hành vi nhất định là TộI PHạM đòi hỏi nhà nước phải có sự chuẩn bị nhất định trong việc đấu tranh với những hành vi đó bằng các biện pháp đặc trưng của luật hình sự.

  Điều 26 BLHS: HÌNH PHạT là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. HÌNH PHạT được quy định trong BLHS do tòa án quy định.

* Các dấu hiệu của HÌNH PHạT:

 - Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của nhà nước: Với tính cách là 1 biện pháp cưỡng chế của nhà nước, hình phạt khác với các biện pháp của các tổ chức xã hội. Sự khác nhau đó thể hiện ở chỗ biện pháp cưỡng chế nhà nước và được đảm bảo bằng sức mạnh quyền lực nhà nước còn các biện pháp cưỡng chế các tính chất xã hội dựa vào và bảo đảm bằng sức mạnh khác dư luận xã hội, sức mạnh, áp lực, uy tín các tổ chức. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng mọi biện pháp cưỡng chế do nhà nước áp dụng đều là hình phạt (tập trung cải tạo, xử phạt hình sự, các biện pháp kỹ thuật …).

 - Hình phạt được áp dụng theo 1 trình tự rất chặt chẽ: được quy định trong BLHS, do tòa án nhân danh nhà nước áp dụng, chỉ áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm.

  - HÌNH PHạT là biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLHS cũng như TộI PHạM, HÌNH PHạT chỉ được quy định trong BLHS. Điều 26 BLHS “hình phạt được quy định trong BLHS …” HÌNH PHạT quy định 1 cách đầy đủ từ điều 28 -40 BLHS.

  - HÌNH PHạT là biện pháp cưỡng chế của nhà nước chỉ do tòa  án nhân danh nhà nước áp dụng:

  Điều 26 BLHS “ HÌNH PHạT do tòa án quy định”. Điều đó có nghĩa là việc quy định 1 loại và mức hình phạt cụ thể thẩm quyền do tòa án chứ không phải cơ quan, tổ chức nào khác.

- HÌNH PHạT chỉ được áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện TộI PHạM.

  Điều 2 BLHS: “chỉ người nào phạm tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự”, ở nghĩa này HÌNH PHạT được thể hiện là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi phạm tội.

- HÌNH PHạT làm cho người bị án có án tích:

  Án tích là hậu quả tất yếu của HÌNH PHạT. Đó là dấu hiệu pháp lý rất đặc trưng của HÌNH PHạT, án tích có thể làm cho người bị kết án chịu 1 số hạn chế nhất định. Chẳng hạn, hạn chế trong việc chọn chỗ ở, tiền công án việc làm trong các cơ quan nhà nước, phải tình báo, trình diện, phải chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng, là cơ sở để coi là tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

Từ những điều trình bày trên có thể hiểu khái niệm HÌNH PHạT như sau:

  Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất được BLHS quy định do tòa án nhân danh nhà nước áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện TộI PHạM và việc thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền lợi và lợi ích khác do pháp luật quy định đối với người bị kết án.

* Bản chất:  HÌNH PHạT là 1 trong những công cụ của giai cấp thống trị dung để đấu tranh với thực hiện TộI PHạM. Do đó nó mang tính giai cấp. Bản chất giai cấp, ý nghĩa chính trị xã hội, vai trò của HÌNH PHạT do bản chất giai cấp kiểu nhà nước mà nhân danh nhà nước đó HÌNH PHạT được áp dụng quyết định. Tính giai cấp của HÌNH PHạT được thể hiện ở chỗ nó bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị. Giai cấp nào, nhà nước nào quy định và áp dụng HÌNH PHạT cũng vì quyền và lợi ích của giai cấp đó, của nhà nước đó.

  Trong các xã hội bóc lột, HÌNH PHạT được các giai cấp thống trị sử dụng như 1 công cụ chính, cơ bản để đấu tranh với TộI PHạM, để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình.

  - Trong các xã hội phong kiến các HÌNH PHạT như tử hình, gây thương tật, gán nợ và thêm đó là các HÌNH PHạT như đánh đập, đi đày, tù khổ sai. Nhưng HÌNH PHạT đó được thi hành dưới những hình thức tàn khốc nhất. Ở xã hội phong kiến Việt Nam nhà nước phong kiến đã áp dụng hệ thống hình phạt ngũ hình với 5 hình phạt: xung, tượng, đồ, lưu, tử (đánh voi, đánh gậy, tù khổ sai, đày, giết chết).

  Trong xã hội tư bản, HÌNH PHạT là 1 trong những       chủ yếu mà giai cấp TS dung để đấu tranh với TộI PHạM, nhằm bảo vệ chế độ TBCN, bảo vệ chế độ sở hữu và tư liệu chung sản xuất, bảo vệ chế độ người bóc lột người, bảo vệ các nguyên tắc xử sự trong xã hội có lợi cho giai cấp TS. Khuynh hướng của việc sử dụng HÌNH PHạT trong XHTBCN là trong thời kỳ căng thẳng của cuộc đấu tranh giai cấp các HÌNH PHạT được quy định và trở nên tàn khốc hơn và lĩnh vực của chúng được mở rộng, có những HÌNH PHạT mới bổ sung và đôi khi được thay thế bằng những biện pháp đàn áp HC, quân sự đới với những HÌNH PHạT tiến bộ. Đặc điểm khác của việc áp dụng HÌNH PHạT còn tùy thuộc địa vị xã hội, tùy vào       và các mối quan hệ khác của người PT. Đó là sự bất bình đẳng trước PL. Rõ rang bản chất giai cấp của HÌNH PHạT trong CNTB biểu hiện rất rõ nét chẳng những ở nội dung, mục đích mà còn ở việc áp dụng nó trong thực tế đấu tranh TộI PHạM.

  - Khác với các nhà nước bóc lột, nhà nước XHCN tiến hành đấu tranh với tình tiết TộI PHạM bằng nhiều cách, nhiều biện pháp khác nhau: kinh tế, xã hội, tổ chức và giáo dục; đồng thời lôi cuốn riêng    mọi người vào việc bảo vệ trật tự pháp luật. Các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội quan tâm đặc biệt đến phòng ngừa TộI PHạM. Trong xã hội các biện pháp kinh tế, xã hội, tổ chức và giáo dục tư tưởng có ý nghĩa quyết định trong việc đấu tranh phòng ngừa và chống TộI PHạM.

  Mặt khác, tuy không phải là biện pháp chính, biện pháp cơ bản song HÌNH PHạT trong CNXHđóng 1 vai trò quan trọng trong đấu tranh với TộI PHạM. Đó là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất được nhà nước áp dụng đối với những người có lỗi trong việc thực hiện TộI PHạM nằm mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội và phòng ngừaTộI PHạM. Về vấn đề này cần chỉ rõ “chúng ta cần có nhà nước, chúng ta cần có cưỡng bức. Các  tòa án xô viết phải là những cơ quan của nhà nước vô sản thực hiện sự cưỡng bức đó. Và nhiệm vụ to lớn của tòa án là phải giáo dục dân chúng về kỷ luật”.

  Trong CNXH, HÌNH PHạT vẫn mang tính giai cấp, nhưng nó hoàn toàn khác với tính giai cấp của HÌNH PHạT trong các xã hội bóc lột là ở chỗ XHCN HÌNH PHạT áp dụng để bảo vệ thành quả và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động. Ở nước ta, HÌNH PHạT được quy định và áp dụng để bảo vệ chế độ kinh tế,chế độ chính trị, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự PLXHCN, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật đấu tranh chống và phòng ngừa TộI PHạM (điều 1 BLHS).

* Mục đích của HÌNH PHạT:

  PLHS nước ta và lý luận luật hình sự dành sự chú ý đặc biệt với việc xác định các mục đích của HÌNH PHạT. Đó là 1 trong những vấn đề quan trọng của Luật HSVN. Việc nhận thức đúng đắn các mục đích của HÌNH PHạT sẽ tạo điều kiện cho việc làm sáng tỏ bản chất xã hội của HÌNH PHạT và việc áp dụng đúng đắn nó trong thực tiễn.

  Mục đích của HÌNH PHạT là kết quả thực tế cuối cùng mà nhà nước mong muốn đạt được khi quy định HÌNH PHạT đối với TộI PHạM và áp dụng HÌNH PHạT đối với cá nhân và phạm tội.

  Điều 27 BLHS chỉ rõ “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo PL và các quy tắc của cuộc sống XHCN,ngăn ngừa họ phạm tội mới. HÌNH PHạT còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng PL, đấu tranh phòng ngừa và chống TộI PHạM”.

  Theo luật HSVN, HÌNH PHạT có các mục đích như sau: giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo PL và quy tắc của cuộc sống XHCN; ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới; phòng ngừa (phòng ngừa riêng) người khác phạm tội (phòng ngừa chung).  - Cải tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo PL và các quy tắc của cuộc sống XHCN, có nghĩa là làm cho người bị kết tội hiểu được sai trái, lỗi lầm và tính chất TộI PHạM của hành vi do mình gây ra; cho phép người đó trở lại với môi trường xã hội bình thường. Đó vừa là mục đích giáo dục riêng của HÌNH PHạT, vừa là yêu cầu đặt ra đối với tòa án khi quy định HÌNH PHạT cụ thể đối với cơ quan làm nhiệm quản lý trại giam, các cơ quan thực hiện việc chấp hành án nói chung. - Ngăn ngừa tội phạm mới: nếu như mục đích cải tạo như đã nói ở trên là mục đích giáo dục riêng, thì mục đích phòng ngừa riêng, tức là giáo dục và phòng ngừa bản thân người phạm tội mới có ý nghĩa đối với các đối tượng như những người tái phạm nguy hiểm, những người từ trước tới nay chuyên sống bằng nghề phạm tội; đồng thời mục đíc này cũng có ý nghĩa đối với trường hợp phạm tội vô ý mà nguyên nhân do sự coi thường kỷ luật, thiếu thận trọng, kém hiểu biết về kỹ thuật, chuyên môn …   - HÌNH PHạT nhằm giáo dục người khác tôn trọng PL, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Như vậy, đó là mục đích giáo dục phòng ngừa chung. Những Hình phạt như tù chung thân (điều 34), tử hình (điều 35). Chủ yếu mang tính giáo dục  và phòng ngừa người khác; còn các HÌNH PHạT khác có những mức độ phòng ngừa và giáo dục chung không giống nhau.

  Tuy nhiên, nếu so sánh mục đích giáo dục phòng ngừa chung của HÌNH PHạT, thì phải khẳng định vai trò chức năng chính là thuộc về những mục đích giáo dục và phòng ngừa riêng, các nguyên tắc của luật HS như pháp chế XHCN … không cho phép chúng ta lấy việc trừng trị người này làm phương tiện chính để răn đe đối với người khác.


 

Câu 22: Hệ thống HÌNH PHạT, các loại HÌNH PHạT chính, các loại HÌNH PHạT bổ sung theo luật HSVN (359-380)

  HT HÌNH PHạT là danh mục các loại HÌNH PHạT do nhà nước quy định trong PLHS và được sắp xếp theo 1 trật tự nhất định tùy thuộc vào mức độ nghiêm khắc của mỗi loại HÌNH PHạT.

  Danh mục các HÌNH PHạT được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng. Việc sắp xếp HÌNH PHạT theo thứ tự có ý nghiã to lớn về nguyên tắc và thực tiễn.-  Thứ nhất, người hiểu được sự đánh giá chính thức của nhà nước về tính chất nghiêm khắc của mỗi loại HÌNH PHạT. - Thứ hai, tòa án có thể lựa chọn Hình phạt nào khi giải quyết vấn đề chuyển sang 1 hình thức khác thuộc loại nhẹ hơn. Hệ thống pháp luật đó kế thừa và phát triển các HÌNH PHạT được áp dụng từ CNTS đến nay và được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự nước ta.

   Đặc điểm của HTHÌNH PHạT trong BLHS hiện hành nước ta là đa dạng, trong mọi trường hợp thực hiện các nguyên tắc của việc quy định HÌNH PHạT. Hệ thống đó thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, không có những HÌNH PHạT nhằm khủng bố, trả thù, làm nhục hình, đày đọa thể xác và chà đạp phẩm giá của con người. danh mục các HÌNH PHạT trong luật HS nước ta và nội dung của chúng có thể được nhà làm luật sửa đổi để phù hợp với tình hình đấu tranh phòng ngừa và chống TộI PHạM qua các thời kỳ phát triển củ 1 xã hội. Ngoài PL, không 1 ai có quyền thay đổi, bổ sung.

  Hệ thống HÌNH PHạT nước tá có 2 loại: HÌNH PHạTchính và HÌNH PHạT bổ sung.

   - HÌNH PHạT chính là HÌNH PHạT được áp dụng chính cho 1 TộI PHạM và được tuyên độc lập.

  Đối với mỗi TộI PHạM tòa chỉ có thể tuyên 1 hình phạt chính. Nội dung và điều kiện áp dụng các HÌNH PHạT chính đó được PL quy định rất chặt chẽ, rõ rang. Đối với mỗi Tội phạm cụ thể ở phần các TộI PHạM, nhà làm luật quy định 1 hoặc nhiều loại HÌNH PHạT chính để tòa án lựa chọn. Việc luật chỉ rõ rang đối với người phạm tội chỉ áp dụng 1 trong những hình phạt chính đã được nêu trên không có nghĩa là tòa án có thể quy định mọi HÌNH PHạT nào trong số đối với hầu hết người thực hiện hầu hết tội nào. Việc chỉ rõ đó được hiểu rằng đối với người thực hiện phạm tội có thể quy định HÌNH PHạT nằm trong danh mục được quy định trong chế tài của điều luật quy định TRÁCH NHIệM HÌNH Sự đối với TộI PHạM người đó thực hiện. Bởi vậy, khi áp dụng các HÌNH PHạT chính nào đó, dù rằng thuộc danh mục các HÌNH PHạT chính, nhưng không được quy định trong điều luật về TộI PHạM mà người đó đã thực hiện (trừ trường hợp chuyển sang 1 HÌNH PHạT khác thuộc loại nhẹ hơn theo quy định tại điều 47 BLHS). -  Danh mục HÌNH PHạT chính bao gồm: cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; trục xuất; tú có thời hạn; tù chung thân; tử hình.- Như phần trên đã đề cập tính nhân đạo sâu sắc trong HTHÌNH PHạT của pháp luật nước ta. Có thể chứng minh trong 1 số trường hợp áp dụng Hình phạt chính như:  - Trong trường hợp áp dụng tù chung thân. Trong thực tế đối với TộI PHạM được xét ân giảm    tử hình, thì tù chung thân được coi là “hình phạt đệm” để thay thế hình phạt tử hình, hạn chế việc áp dụng HÌNH PHạT đặc biệt này. Tù chung thân không được áp dụng đối với ngừoi chưa thành niên phạm tội. Quy định này biểu hiện nguyên tắc nhân đạo và là bước phát triển mới của PLHS nước ta. Người đang chấp. Hành hình phạt tù chung thân có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt khi có những điều kiện nhất định (nguyên tắc này cũng được áp dụng trong các HÌNH PHạT khác).  Đối với hình phạt tử hình, BLHS nước ta chẳng những quy định cụ thể các TộI PHạM mà tòa án có thể áp dụng mà còn hạn chế đến mức tối đa khả năng áp dụng Hình phạt đó trong phạm vi những tội đặc biệt nghiêm trọng. Ngay cả khi có đủ điều kiện này, tử hình cũng không phải là HÌNH PHạT duy nhất mà là khả năng cuối cùng, khi tòa án xét thấy không thể áp dụng loại HÌNH PHạT khác được quy định trong chế tài vì tính chất đặc biệt nghiêm trọng của TộI PHạM.

    Tính chất Hc của HÌNH PHạT còn thể hiện ở chỗ PL nghiêm cấm HÌNH PHạT này đối với những người phạm tội chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này, HÌNH PHạT tử hình chuyển thành tù chung thân.

* HÌNH PHạT bổ sung là những Hình phạt thêm vào HÌNH PHạT chính và không được tuyên độc lập mà chỉ có thể tuyên kèm theo 1 HÌNH PHạT chính.  Theo BLHS hiện hành nước ta, các HÌNH PHạT bổ sung gồm: cấm đảm nhiệm những     , cấm hành nghề hoặc làm việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước 1 số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền khi không áp dụng HÌNH PHạT chính; trục xuất; khi không áp dụng HÌNH PHạT chính.

   Tùy theo từng điều luật cụ thể quy định HÌNH PHạT bổ sung đối với TộI PHạM mà bị cáo đã thực hiện, tòa án có thể tuyên 1 hoặc vài HÌNH PHạT bổ sung kèm theo với 1 HÌNH PHạT chính. Nếu 1 HÌNH PHạT được áp dụng với tính cách là 1 HÌNH PHạT chính thì không được áp dụng với tính cách là 1 HÌNH PHạT bổ sung (như Hình phạt trên). Ở phần các TộI PHạM của BLHS HÌNH PHạT bổ sung được quy định với 2 cách: 1- bắt buộc phải áp dụng; và 2- tùy nghi. Trong trường hợp đối với TộI PHạM mà bị cáo đã thực hiện có quy luật HÌNH PHạT bổ sung là tùy nghi thì tòa án có quyền căn cứ vào các tình tiết cụ thể của vụ án mà quy định Hình phạt bổ sung đối với họ. Trong trường hợp đối với TộI PHạM mà bị cáo đã thực hiện không quy định Hình phạt bổ sung thì tòa án không được áp dụng.

Câu 24: QuyẾt định hình phạt theo luật hình sự Việt nam (396-426)

  - Định nghĩa: Quyết định HÌNH PHạT là 1 giai đoạn, 1 nội dung áp dụng PLHS thể hiện ở việc tòa án lựa chọn loại và mức HÌNH PHạT cụ thể được quy định trong điều luật (khoản điều luật) theo 1 thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội.

  - Ý nghĩa: Quyết định HÌNH PHạT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị và PL. Chỉ khi HÌNH PHạT được quyết định 1 cách chính xác và công bằng thì mục đích HÌNH PHạT mới đạt được, tức là có tác động giáo dục và cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa phạm tôi mới và giáo dục người khác. HÌNH PHạT được quyết định quá nhẹ so với tính chất và mức độ nguy hiểm của TộI PHạM đã được thực hiện sẽ sinh ra ở người phạm tội và ở những người khác thái độ xem thường PL, ngược lại được quyết định quá nặng sẽ gây ra ở người bị án sự không tin tưởng vào tính công bằng của pháp luật và sự công minh của các cơ quan tiến hành tố tụng. Cả 2 trường hợp đó đều gây hậu quả làm giảm ý nghĩa phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của HÌNH PHạT. Quyết định HÌNH PHạT đúng đắn sẽ góp phần làm tăng cường pháp chế XHCN, trật tự và kỷ cương XH.

* Các nguyên tắc quy định HÌNH PHạT là những tư tưởng xuất phát, tư tưởng chủ đạo được quy định trong pháp luật hình sựvà do giải thích mà có, xác định và định hướng của hoạt động của tòa án khi áp dụng chế tài luật HS đối với người phạm tội.

  Dựa vào các tiêu chuẩn: phải là tư tưởng chỉ đạo đầu tiên; phải được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp trong luật hình sự; phải là tư tưởng chỉ đạo định hướng hoạt động tòa án trong lĩnh vực quy định hình phạt; những tư tưởng đó phải phù hợp với chính sách hình sự trong từng giai đoạn phát triển của nhà nước.

  Dựa vào những tiêu chuẩn trên giúp ta tránh khỏi   là thu hẹp hoặc là quá mở rộng ghi đưa ra các nguyên tắc quy định hình phạt. Đó là các nguyên tắc như sau:

1. Nguyên tắc pháp chế XHCN

2.      Nguyên tắc nhân đạo XHCN;

3.      nguyên tắc cá thể hóa hình phạt;

4.      nguyên tắc công bằng (công minh).

Các nguyên tắc này có tính độc lập tương đối hoặc cùng tồn tại, nhưng mặt khác, các nguyên tắc quy định hình phạt luôn có những phần, những nội dung xâm nhập nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, tác động qua lại lẫn nhau và ở dạng tổng thể tạo thành 1 hệ thống nhất. Tính hệ thống và tính thống nhất khác cho phép đồng nhất chúng. Bên cạnh, mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau xâm nhập với nhau, các nguyên tắc QĐHÌNH PHạT vẫn có nội dung và tính độc lập của chúng. Những nội dung đó không mâu thuẩn với nhau. Điều đó nói lên mối liên hệ biện chứng các nguyên tắc QĐHÌNH PHạT. Bở vậy, khi áp dụng các nguyên tắc phải nhận thức được điều đó để tránh hoặc là đồng nhất chúng hoặc là áp dụng 1 cách đơn lẻ.

   Như vậy, hê thống các nguyên tắc QĐHÌNH PHạT là hệ thống logic; biện chứng các tư tưởng xuất phát , những tư tưởng chỉ đạo được quy định trong PLHS và do giải thích luật mà có buộc tòa án phải tuân theo ở thể thống nhất khi áp dụng các chế tài luật hình sự đối với tội phạm.

  - Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc pháp chế XHCN thể hiện khi QĐHÌNH PHạT là ở chỗ khi áp dụng HÌNH PHạT đối với người bị kết án tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của luật HS. Đây là nguyên tắc cực kỳ quan trọng vì có thể áp dụng các nguyên tắc khác của chế định QĐHÌNH PHạT vào thực tiễn xét xử, chỉ khi tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc này.

Nội dung nguyên tắc này thể hiện trước hết ở chỗ có thể áp dụng HÌNH PHạT chỉ đối với hành vi phạm tội được quy định cụ thể trong luật. Điều 2 BLHS “chỉ người nào phạm 1 tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự”. Điều đó khẳng định cơ số của việc áp dụng hình phạt là việc thực hiện TộI PHạM của người có lỗi.

  Theo nguyên tắc pháp chế XHCN, QĐHÌNH PHạT là thẩm quyền của tòa án.

  Nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi khi tuyên 1 hình phạt phải có tính xác định, có căn cứ lập luận và bắt buộc có lý do. Tính xác định của HÌNH PHạT trong bản án buộc tội thể hiện ở chỗ HÌNH PHạT được quy định đối với bị cáo phải cụ thể về loại Hình phạt và thời hạn. Tính có căn cứ, lập luận và bắt buộc có lý do trong bản án đòi hỏi tòa án phải nghiên cứu kỹ và làm sáng tỏ các tình tiết có trong vụ án làm căn cứ cho QĐHÌNH PHạT.

  Đòi hỏi khác của nguyên tắc pháp chế là tính hợp lý của việc QĐHÌNH PHạT thể hiện ở chỗ trong số những phương án giải quyết khác nhau mà luật cho phép, tòa án phải lựa chọn 1 loại và mức HÌNH PHạT 1 mặt phải đúng luật, mặt khác phù hợp với các nguyên tắc khác, phù hợp với tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TRÁCH NHIệM HÌNH Sự.

  - Nguyên tắc nhân đạo của việc QĐHÌNH PHạT thể hiện tập trung nhất ở chỗ khi QĐHÌNH PHạT, tòa án phải cân nhắc lợi ích xã hội của nhà nước và người phạm tội trong 1 tổng thể thống nhất biện chứng, hài hòa và hợp lý. Nhân đạo XHCN đòi hỏi phải có thái độ đúng đắn cả đối với lợi ích của toàn xã hội và nhà nước.lẫn đối với lợi ích của người bị cáo. Bởi lẻ, không thể nói đến nhân đạo được nếu khi QĐHÌNH PHạT mà quá đề cao lợi ích của nhà nước, của xã hội mà hạ thấp, xem thường lợi ích của bị cáo hoặc ngược lại.

  Tuy nhiên nét nổi bật nhất của nguyên tắc nhân đạo khi QĐHÌNH PHạT thể hiện ở chỗ luật HS nước ta quy định các quy phạm giảm nhẹ TRÁCH NHIệM HÌNH Sự và hình phạt đối với những người phạm tội ít nguy hiểm cho xã hội và cho những người phạm tội lần đầu, những người thật thà khai báo, ăn năn hối cải … khi QĐHÌNH PHạT tòa án có thể cho bị cáo hưởng án treo hoặc quy định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật … Mặt khác, luật hình sự có những quy định QĐHÌNH PHạT rất nghiêm khắc đối với những người phạm tội đặc biệt nguy hiểm, tái phạm, phạm tội có tổ chức … nhưng khi quy định HÌNH PHạT, nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi phải chọn 1 biện pháp nghiêm khắc thích hợp, phải tuân theo 1 nguyên lý cơ bản là người bị kết án cũng là con người và mọi người lầm đường lạc lối có thể được giáo dục, cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội.

  Nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện ở việc hạn chế sự trừng trị. Tức là trong 1 vụ án có thể tuyên 1 trong những mức cho phép đối với bị cáo: cần thiết tối thiểu; mứccao hơn cần thiết tối thiểu; mức tối đa thì ở góc độ của việc hạn chế trừng trị tòa án nên tuyên mức hình phạt cần thiết tối thiểu. Trong mọi trường hợp không cho phép QĐHÌNH PHạT với mức độ “dự trữ” tức là quá mức cần thiết.

- Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc cá thể hóa khi QĐHÌNH PHạT thể hiện ở chỗ tòa án phải căn cứ vào các QPPL HS và ý thức PL XHCN, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nhẹ TRÁCH NHIệM HÌNH Sự để QĐ đối với bị cáo 1 loại và mức hình phạt cụ thể ở mức độ lớn nhất tạo điều kiện cho việc đạt được các mục đích của HÌNH PHạT.

Nguyên tắc đó được NLL thể hiện trước hết ở điều 8 BLHS HÌNH PHạT được áp dụng với những tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng là khác nhau. Nội dung cá thể hóa HÌNH PHạT cũng được thể hiện ở các điều luật quy định các giai đoạn phạm tội, đồng phạm, các hình phạt và các điều kiện áp dụng chúng, cũng như việc quy định việc QĐHÌNH PHạT đối với 1 số người phạm tội như chưa thành niên, người già yếu, phụ nữ có thai.

   Tư tưởng cá thể hóa HÌNH PHạT được thể hiện rõ nhất ở việc quy định các chế tài (chế tài tương đối và chế tài tùy nghi). Nguyên tắc cá thể hóa HÌNH PHạT đòi hỏi phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TRÁCH NHIệM HÌNH Sự.

  - Tư tưởng cơ bản cảu nguyên tắc công bằng xã hội của việc QĐHÌNH PHạT thể hiện ở chỗ loại và mức HÌNH PHạT do tòa án tuyên phải tương xứng với TộI PHạM đã thực hiện và nhân thân người phạm tội.

  Đòi hỏi thứ nhất là hình phạt đã tuyên phải tương xứng với TộI PHạM nghĩa là tội đã phạm cùng nghiêm trọng trong những điều kiện khác nhau, thì hình phạt càng nghiêm khắc và ngược lại.

 Ngoài TộI PHạM nguyên tắc công bằng xã hội đòi hỏi khi QĐHÌNH PHạT còn phải cân nhắc cả nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác có trong vụ án. Vì rằng HÌNH PHạT bao giờ cũng được áp dụng đối với những người phạm tội cụ thể, mà những người đó tất yếu có những đặc điểm, tính cách giữ những địa vị không giống nhau trong xã hội … do đó, để đảm bảo nguyên tắc công bằng xã hội, khi QĐHÌNH PHạT tòa án phải cân nhắc các địa điểm, tính cách, địa vị trong xã hội của người đó.

  Việc cân nhắc Tội phạm đã thực hiện (tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội) và các đặc điểm nhân thân của người phạm tội và các tình tiết khác có trong vụ án phải đặt trong chủ thể thống nhất biện chứng mới đảm bảo được tính công bằng của HÌNH PHạT. Nếu quá nhấn mạnh, coi trọng đến yếu tố này mà xem thường yếu tố kia thì không thể tuy6en được  1 HÌNH PHạT công bằng.

  Nguyên tắc công bằng xã hội còn đòi hỏi HÌNH PHạT được tuyên cần phải phản ánh 1 cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật và đạo đức của xã hội chúnh ta, phải có đủ tính thuyết phục mọi người ở tính đúng đắn, tính công bằng  của chính sách xét xử của nhà nước ta.

* Các căn cứ QĐHÌNH PHạT (5 căn cứ):

  Các căn cứ QĐHÌNH PHạT là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do luật HS quy định hoặc do giải thích luật mà có buộc tòa án phải tuân theo khi QĐHÌNH PHạT đối với người thực hiện TộI PHạM.

  Trên cơ sở phân tích nội dung điều 45 BLHS có thể rút ra kết luận: khi QĐHÌNH PHạT, tòa án phải tuân theo những đòi hỏi quan trọng có tính nguyên tắc sau:

 - căn cứ các quy định của BLHS

 - cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

 - cân nhắc nhân thân người phạm tội.

- cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TRÁCH NHIệM HÌNH Sự.

 - ý thức PL (trình độ nghiệp vụ người thẩm phán)

1- căn cứ vào các quy định cuả BLHS tức là căn cứ vào các quy định cuả phần chung và phần các TộI PHạM.

Khi QĐHÌNH PHạT tòa án ngoài việc căn cứ vào hầu hết những quy định của phần chung BLHS, tòa án còn phải căn cứ vào các chế tài của điều luật quy định đối với TộI PHạM mà bị cáo đã thực hiện.

  Đối với mỗi loại TộI PHạM được chỉ ra ở phần quy định của điều luật hoặc khoản của điều luật có 1 số loại HÌNH PHạT tương ứng được quy định ở chế tài của điều luật đó hoặc khoản của điều luật đó. Do đó, khi QĐHÌNH PHạT tòa án phải căn cứ vào khung HÌNH PHạT được quy định đối với tội mà bị cáo đã thực hiện. Khi QĐHÌNH PHạT tòa án phải căn cứ vào những chế tài cụ thể được quy định đối với TộI PHạM cụ thể, để chọn 1 loại và mức HÌNH PHạT hợp lý, công bắng và nhân đạo nhất.

  Các quy định của BLHS là căn cứ cơ bản nhất của việc QĐHÌNH PHạT, đó cũng là đòi hỏi quan trọng của nguyên tắc pháp chế XHCN khi QĐHÌNH PHạT.

 2- Khi QĐHÌNH PHạT tòa án phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM đã thực hiện.

  Tính nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM được thể hiện ở tổng  thể của 2 khái niệm “tính chất”và “mức độ” nguy hiểm cho xã hội cuả TộI PHạM.

Tính chất nguy hiểm cho xã hội là thuộc tính khách quan của 1 loại TộI PHạM nhất định được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu thuộc CấU THÀNHTộI PHạM, trong đó quan trọng nhất là ý nghĩa, tính chất tầm quan trọng và giá trị của những quan hệ bị hành vi phạm tội xâm hại, tức là khách thể TộI PHạM.

  Những Tội phạm giống nhau về tính chất nguy hiểm cho xã hội có thể khác nhau về mức độ nguy hiểm cho xã hội. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM cũng được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu của CấU THÀNHTộI PHạM và đó cũng là thuộc tính khách quan của TộI PHạM.

Khái niệm “tính chất” và “mức độ” nguy hiểm cho XH không tách rời nhau, chúng tồn tại cùng nhau, bổ sung cho nhau và xâm nhập vào nhau.

   Khi QĐHÌNH PHạT, Tòa án phải chỉ ra trong bản án những tình tiết cụ thể chứng minh t/chất và mức độ nguy hiểm cho XH của TộI PHạM cụ thể mà Tòa án dựa vào đó và cùng với các tình tiết khác để chọn loại và mức HÌNH PHạT cụ thể đối với bị cáo. Khi xđ t/chất và mức độ nguy hiểm cho XH của TộI PHạM cụ thể đã được thực hiện phải xuất phát từ tổng thể các tình tiết mà ở đó TộI PHạM cụ thể đã được thực hiện. Chỉ khi bảo đảm được sự cân nhắc tổng thể các tình tiết đó và với việc dựa vào các căn cứ khác (nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và các tình tiết tăng nặng), Tóa án mới có đầy đủ căn cứ để QĐ được 1 loại và mức HÌNH PHạT đúng PL, công bằng, hợp lý.

  3)- Các đặc điểm đặc trưng cho nhân thân người phạm tội cũng ảnh hưởng đến mức độ lỗi, bởi vì các đặc điểm đó được thể hiện cụ thể ở lỗi của chủ thể.

  Để có căn cứ đầy đủ cho việc QĐHÌNH PHạT đúng PL công bằng và hợp lý, phù hợp với TộI PHạM đã thực hiện, tạo điều kiện cho việc đạt được các mđ của HÌNH PHạT, theo luật, ngoài việc cân nhắc t/chất và mức độ nguy hiểm cho XH của TộI PHạM thực hiện. Tòa án còn phải cân nhắc nhân thân người phạm tội. Đây là 1 trong những biểu hiện nhân đạo, công bằng và cá thể hóa HÌNH PHạT được thể hiện rõ trong luật HS nước ta, để thực tiễn xét xử khẳng định và ghi nhận. Việc áp dụng đúng qui định này có ý nghĩa cải tạo, giáo dục và phòng ngừa rất lớn.

  Ở dạng khái quát nhất, có thể hiểu nhân thân đó là 1 khái niệm nhiều mặt, bao gồm những đặc điểm, đặc tính khác nhau thể hiện bản chất XH, thể hiện tính cá biệt và tính không lập lại của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho XH bị PLHS coi là TộI PHạM. Những đặc điểm, đặc tính đó mang tính chất CấU THÀNH-XH, tâm lý, đạo đức, sinh lý. Luật qui định, khi QĐHÌNH PHạT, Tòa án phải cân nhắc những đặc điểm, đặc tính nói trên, làm cơ sở cho việc xđ và đánh giá mức độ nguy hiểm cho XH của người đó.

  Những đặc điểm, đặc tính nhân thân người phạm tội được Tòa án nghiên cứu cân nhắc đánh giá dưới 2 khía cạnh: khía cạnh PLHS và khía cạnh TộI PHạM học

   Khi QĐHÌNH PHạT, luật qui định (điều 45-BLHS) Tòa án không những phải cân nhắc t/chất và mức độ nguy hiểm cho XH của TộI PHạM đã được thực hiện, nhân thân người phạm tội, mà còn phải cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TRÁCH NHIệM HÌNH Sự là 1 trong những căn cứ của QĐHÌNH PHạT, tức là 1 trong những đk quan trọng của việc cá thể hóa HÌNH PHạT.

   4)- Cân nhắc tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TRÁCH NHIệM HÌNH Sự là 1 trong những căn cứ QĐHÌNH PHạT.

  Luật không qui định cụ thể các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TRÁCH NHIệM HÌNH Sự có ảnh hưởng đến mức nào đối với việc QĐHÌNH PHạT (không thể QĐ được), ý nghĩa của từng tình tiết xét giảm nhẹ và tăng nặng TRÁCH NHIệM HÌNH Sự tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể, vào từng người phạm tội cụ thể. Bởi vậy, tòa án có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá cân nhắc về vấn đề này. Luật quy định việc đánh giá các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng đến mức nào cho việc quy định hình phạt là thẩm quyền của tòa án, thể hiện tính hợp lý, mềm dẻo và tính xác định tương đối của luật. Rõ rang luật đã dành cho tòa án quyền tự phán xét trong khi cân nhắc, đánh giá các tình tiết đó nhưng phải trong phạm vi của luật.

  Do đó, khi cân nhắc các tình tiết đó, tòa án phải tuân thủ nghiêm túc các quy định có tính nguyên tắc rằng các tình tiết tăng nặng chỉ là những tình tiết được quy định rõ trong luật (điều 48 BLHS), còn các tình tiết giảm nhẹ có thể là những tình tiết được quy định trong luật nhưng được tòa án coi là tình tiết giảm nhẹ và cần nói rõ lý do khi ghi trong bản án.

5- Ý thức pháp luật:

  Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn xét xử cho thấy ý thức pháp luật XHCN của TộI PHạM và HTND có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc quy định pháp luật. Bởi lẽ, trong mọi trường hợp khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM đã được thực hiện, cân nhắc các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TRÁCH NHIệM HÌNH Sự để QĐHÌNH PHạT đối với bị cáo, TộI PHạM và HTND phải dựa vào ý thức của mình.

  Do đó, cần xem xét lại trình độ nghiệp vụ người thẩm phán.


 



Câu 25: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, phạm nhiều tội hoặc có nhiều bản án (436-447)

   Khi QĐHÌNH PHạT đối với TộI PHạM được thực hiện bằng đồng phạm ngoài việc tuân thủ theo quy định điều 45 BLHS tòa án cần phải căn cứ vào điều 53 BLHS hiện hành và cần phải ghi rõ điều đó trong bản án.

   Theo điều 53 BLHS, hình phạt được quy định đối với đồng phạm dựa vào: tính chất đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm, những tình tiết giảm nhẹ tăng nặng riêng của từng người đồng phạm.

  Trước khi QĐHÌNH PHạT đối với những người đồng phạm, tòa án phải cân nhắc tính chất đồng phạm. Quy định đó thể hiện tư tưởng rằng TộI PHạM được thực hiện bằng đồng phạm trong những điều kiện khác tương tự, bao giờ cũng nguy hiểm cho xã hội hơn TộI PHạM do 1 người thực hiện. Vì rằng đồng phạm là sự lien hiệp hành động của 1 số người do vậy làm cho TộI PHạM có tính chất nguy hiểm hơn. Tính chất đó thể hiện ở chỗ: thường gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng hơn trường hợp 1 người phạm tội riêng lẻ; số người tham gia nhiều hơn; những người càng phạm tội có điều kiện giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần, do đó làm cho hoạt động phạm tội kiên quyết hơn, táo bạo hơn …

  Tính nguy hiểm cao cho xã hội của TộI PHạM được thực hiện dưới hình thức đồng phạm quyết định tính nguy hiểm cao cho xã hội của hầu hết ngừoi tham gia vào việc thực hiện TộI PHạM, do vậy luật quy định tòa án phải cân nhắc tính chất đồng phạm khi quyết định hình phạt đối với từng người đồng phạm hòan toàn công bằng.

  Theo luật khi QĐHÌNH PHạT đối với từng người đồng phạm tòa án phải cân nhắc tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.

  Tính chất tham gia phạm tội của từng người đồng phạm được quyết định bởi vai trò mà người đồng phạm thực hiện, bởi đặc thù về chức năng của người đó trong hoạt động cùng chung phạm tội. Việc đánh giá tính chất tham gia của người đồng phạm phải tùy thuộc vào từng TộI PHạM cụ thể đã được thực hiện, vào các tình tiết cụ thể có trong vụ án, vào các đặc điểm nhân thân và người phạm tội.

  Khi quy định hình phạt đối với từng người đồng phạm, tòa án phải cân nhắc tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ riêng của người đó. Điều đó có nghĩa rằng những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ đề cập riêng với từng người đồng phạm nào đó, thì chỉ được cân nhắc khi QĐHÌNH PHạT đối với người đó, chứ không được cân nhắc để quy định hình phạt đối với những người đồng phạm khác. Điều đó thể hiện tư tưởng cá thể hóa sâu sắc khi quy định hình phạt đối với những người đồng phạm. Chẳng hạn, người thực hành có án tích hoặc tái phạm thì những tình tiết đó chỉ được cân nhắc khi QĐHÌNH PHạT đối với người đó chứ không được cân nhắc để QĐHÌNH PHạT đối với những người khác.

* QĐHÌNH PHạT trong trường hợp phạm nhiều tội:

  Theo điều 50 BLHS hiện hành khi xét xử cùng 1 lần người phạm nhiều tội, tòa án QĐHÌNH PHạT đối với từng tội sau đó quy định hình phạt chung cho các tội.

  Những nguyên tắc QĐHÌNH PHạT do điều 50 BLHS quy định:

1- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là có lỗi trong việc thực hiện, 2 TộI PHạM trở lên;

2- Những TộI PHạM đó do những điều luật khác nhau (các khoản khác nhau của 1 điều luật) của phần các TộI PHạM của BLHS quy định;

3- Đối với các TộI PHạM đã được thực hiện chưa hết thời hiệu truy cứu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự và việc ban hành đại tá không ảnh hưởng đến việc áp dụng HÌNH PHạT;

4- Người phạm tội chưa bị kết án về 1 trong những tội do họ đã thực hiện.

  - Để có cơ sở áp dụng điều luật này trước hết cần làm sáng tỏ hành vi phạm tội đã thực hiện cấu thành 1 hay nhiều tội và những TộI PHạM đó được định tội danh theo 1 điều hay nhiều điều của BLHS.

  Phạm nhiều tội là trường hợp thực hiện 1 số hành vi phạm tội cấu thành những TộI PHạM khác nhau được BLHS quy định (tổng hợp thực tế) hoặc trường hợp thực hiện 1 hành vi cấu thành TộI PHạM khác nhau được BLHS quy định (tổng hợp ý thức). Đặc trưng của việc tổng hợp thực tế là giữa việc thực hiện TộI PHạM này với TộI PHạM kia có 1 khoảng cách thời gian ngắn hoặc dài.

Ví dụ: 1 người phạm tội trộm cắp tài sản và sau đó vài giờ hoặc vài ngày phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác. Trong tổng hợp ý thức các TộI PHạM được thực hiện cùng 1 lúc. Ví dụ: hành vi chiếm đoạt tài sản của người có chức vụ quyền hạn để đưa hối lộ cho người khác cấu thành dấu hiệu của các tội được quy định ở điều 278, 289 BLHS.

  - Những trường hợp phạm tội kéo dài và phạm tội liên tục không cấu thành trường hợp phạm nhiều tội (tổng hợp TộI PHạM). Đối với phạm tội liên tục có đặc trưng là việc thực hiện cấu thành của 1 hành vi phạm tội nhất định. TộI PHạM kéo dài là TộI PHạM bao gồm 1 số hành vi phạm tội cùng loại cấu thành 1 tội danh.

 - Cần phải phân biệt trường hợp phạm tội nhiều lần với trường hợp phạm nhiều tội.

  Do đó, cũng cần lưu ý rằng trong 1 số trường hợp chỉ có việc thực hiện nhiều lần cùng 1 hành vi mới cấu thành TộI PHạM. Ví dụ: hành vi kinh doanh trái phép CấU THÀNHTộI PHạM theo điều 159 BLHS chỉ có trong trường hợp kinh doanh không đăng ký, kinh doanh không đăng ký với nội dung đăng ký hoặc kinh doanh không có giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy phép đã bị xử lý hành chính về việc kinh doanh trái phép mà còn vi phạm.

  Phạm tội nhiều lần theo khoản 1 điều 48 BLHS có thể được xem là 1 tình tiết tăng nặng và được cân nhắc trong khi QĐHÌNH PHạT trong giới hạn chế tài của điều luật áp dụng.

 Trong 1 số trường hợp việc phạm tội nhiều lần được luật coi là dấu hiệu định khung tăng nặng trong 1 điều luật. ví dụ: hành vi buôn lậu nhiều lần được định tội danh theo khoản 2 điều 279 BLHS.

  Khi khẳng định rằng hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nhiều tội, căn cứ vào những quy định QĐHÌNH PHạT tòa án QĐHÌNH PHạT cụ thể đối với từng tội mà bị cáo đã phạm phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của TộI PHạM. Trong bản án phải chỉ rõ và mức hình phạt chính và hình phạt bổ sung đối với từng TộI PHạM.

  Sau khi QĐHÌNH PHạT đối với từng tội, tòa án quy định hình phạt cho các tội được quy định trên cơ sở tổng hợp các hình phạt đối với từng tội. BLHS hiện hành nước ta quy định 2 phương pháp tổng hợp hình phạt: phương pháp thu hút và phương pháp cộng hình phạt. Việc lựa chọn phương pháp nào tùy tòa án, căn cứ vào từng vụ án cụ thể.

  - Trong thực tiễn xét xử nhiều khi có trường hợp 1 người thực hiện 3 tội trở lên. Trong trường hợp đó, việc QĐHÌNH PHạT cũng được tiến hành theo những nguyên tắc đã nêu trên.

  Theo các nguyên tắc nói trên BLHS nước ta quy định rõ việc tổng hợp hình phạt chính đối với trường hợp phạm nhiều tội tại khoản 1 điều 50 như sau:

a- Nếu các hành vi đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ và cũng là tù có thời hạn thì các HÌNH PHạT đó được cộng lại thành hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt quá 3 năm đối với HÌNH PHạT cải tạo không giam giữ; 30 năm đối với HÌNH PHạT tù có thời hạn;

b- Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn thì hình phạt cải tạo không giam giữ chuyển thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 3 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 1 ngày tù để tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 điều này.

c- Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân.

d- Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình.

đ- Phạt tiền không được tổng hợp với các loại hình phạt khác các khoản tiền được cộng lại thành hình phạt chung.

e- Trục xuất không được tổng hợp với các loại hình phạt khác.

  - Hình phạt bổ sung là những biện pháp quan trọng đảm bảo hiệu quả cho công tác phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng đồng thời tạo điều kiện cho việc thực hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội. Hình phạt bổ sung chỉ có thể áp dụng kèm theo hình phạt chính và phải phù hợp với đặc điểm của tội đã phạm và nhân thân cũng như hoàn cảnh bị cáo.

* Quyết định hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án. Điều 51 BLHS hiện hành quy định:

  1- Trong trường hợp 1 người đang phải chấp hành 1 bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này thì tòa án QĐHÌNH PHạT đối với tội đang xét xử, sau đó quy định hình phạt chung theo quy định điều 50 của BLHS.

  Thời gian chấp hành bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

 2- Khi xét xử 1 người đang phải chấp hành 1 bản án mà lại phạm tội mới, tòa án QĐHÌNH PHạT đối với tội mới, sau đó cộng với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước đó rồi QĐHÌNH PHạT chung theo quy định tại điều 50 của BLHS này.

 3- Trong trường hợp 1 người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của bản án chưa được tổng hợp thì chánh án ra quyết định tổng hợp các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều này.

 Điều luật này quy định các nguyên tắc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án. Theo điều 51 BLHS thì tổng hợp hình phạt nhiều bản án nảy sinh 3 loại trường hợp :

 1- khi 1 người đang phải chấp hành 1 bản án mà lại bị đưa ra xét xử về TộI PHạM khác xảy ra trước khi có bản án này; 2- Trong thời gian chấp hành HÌNH PHạT người bị kết án lại phạm tội mới; 3- Trong trường hợp 1 người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp.

“Tổng hợp HÌNH PHạT trong trường hợp khi 1 người đang phải chấp hành 1 bản án mà lại bị đưa ra xét xử về TộI PHạM khác xảy ra trước khi có bản án này”.

 Trình tự tiến hành:

 - Tóa án QĐHÌNH PHạT đối với TộI PHạM được phát hiện sau, tức là TộI PHạM được thực hiện trước khi có bản án thứ nhất. Việc QĐHÌNH PHạT đối với tội phạm này dựa vào các quy định ở điều 45,46,47 và 48 của BLHS.

 - Căn cứ vào HÌNH PHạT đã tuyên ở bản án trước và HÌNH PHạT đối với TộI PHạM đang xét xử hoặc là bằng phương pháp thu hút hình phạt nhẹ vào hình phạt nặng lớn hơn hoặc bằng phương pháp cộng 1 phần hay cộng toàn bộ các HÌNH PHạT đã tuyên tòa án quyết định hình phạt chung cho các tội.

  - Sau đó quy định HÌNH PHạT chung xong, tòa án lấy HÌNH PHạT chung trừ đi thời gian mà bị cáo đã chấp hành của bản án trước, phần còn tại tuyên buộc bị cáo phải tiếp tục chấp hành.

  - Hình phạt chung mà tòa án tuyên cho các tội được thực hiện là tổng của phần hình phạt của bản án trước mà bị cáo đã chấp hành và phần mà tòa án yêu cầu buộc bị cáo phải tiếp tục chấp hành.

  Đối với việc QĐHÌNH PHạT bổ sung đối với các tội thì cũng áp dụng những nguyên tắc như khi quyết định hình phạt chính trên cơ sở tuân thủ những quy định ở khoản 2 điều 50 của Bộ luật này.

  Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án trong trường hợp 1 người đang phải chấp hành 1 bản án mà phạm tội mới.

  - Theo quy định của khoản 1 và 2 điều 51 BLHS ta thấy các trường hợp phạm tội được quy định ở các khoản đó có 1 số điểm giống nhau và thể hiện ở chỗ: 1- Chúng đều là những hình thức phạm tội thuộc chế định nhiều tội phạm; 2- đã có ít nhất 1 bản án về 1 trong các tội đã thực hiện; 3- người bị kết án bị đưa ra xét xử về TộI PHạM khác trong khi người đó đang phải chấp hành 1 bản án nhưng đồng thời chúng có 1 điểm khác nhau rất cơ bản quy định bản chất của chúng là thời điểm phạm tội. Trong trường hợp phạm tội nói ở khoản 1 điều 51 BLHS các TộI PHạM được thực hiện trước khi có bản án, nhưng vì lý do nào đó mà chúng chưa được phát hiện để xét xử cùng 1 lần. Còn trường hợp phạm tội nói ở khoản 2 điều 51 BLHS thì TộI PHạM mới được thực hiện trong khi đang phải chấp hành bản án cần nhận thấy rằng phạm tội trong thời gian đang phải chấp hành bản án là thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội, chứng tỏ tác dụng giáo dục phòng ngừa của hình phạt đối với người phạm tội chưa được phát huy. Do vậy, pháp luật hình sự đã quy định những nguyên tắc QĐHÌNH PHạT bảo đảm sự trừng trị nghiêm khắc đối với trường hợp phạm tội này.

- Việc QĐHÌNH PHạT trong trường hợp 1 người đang phải chấp hành 1 bản án mà lại phạm tội mới được tiến hành tuần tự như sau:

+ QĐHÌNH PHạT đối với người phạm tội mới;

+ Cộng hình phạt đó với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước đó;

+ QĐHÌNH PHạT chung theo quy định tại điều 50 BLHS, QĐHÌNH PHạT chung đối với TộI PHạM mới được tiến hành theo các quy định về QĐHÌNH PHạT (điều 45, 46, 47, 48 BLHS). Hình phạt ở đây bao hàm cả hình phạt chính lẫn hình phạt bổ sung. Sau khi quy định hình phạt cho tội mới xong, tòa án tiến hành tổng hợp các hình phạt bằng cách cộng hình phạt đối với tội mới với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước. Điều đó, có nghĩa là phần HÌNH PHạT của bản án trước mà bị cáo đã chấp hành không được tính đến.

   Có 2 cách cộng các hình phạt: cộng toàn bộ hoặc cộng 1 phần. Cộng toàn bộ có nghĩa là hình phạt chung phải bằng tổng các hình phạt đối với tội mới và phần hình phạt chưa được chấp hành của bản án trước. Việc chọn cách nào là tùy thuộc vào tòa án căn cứ vào từng trường hợp cụ thể trên cơ sở cân nhắc tính chất nghiêm trọng của TộI PHạM, nhân thân và phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ có trong vụ án. Nhưng để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống TộI PHạM nên nói chung cần áp dụng phương pháp cộng toàn bộ các hình phạt. Chỉ khi nào khả năng đó không thể thực hiện được (vì hình phạt chung vượt quá mức cao nhất mà luật quy định đối với trường hợp phạm nhiều tội) tòa án mới áp dụng phương pháp cộng 1 phần.

   Sau khi tổng hợp các hình phạt, tòa án QĐHÌNH PHạT chung cho bị cáo và hình phạt chung không được vượt mức cao nhất mà luật quy định đối với trường hợp phạm nhiền tội. ví dụ: nếu là tù có thời hạn thì không vượt quá 30 năm; nếu là cải tạo không giam giữ thì không được vượt quá 3 năm.

  - Trong thực tế đôi khi gặp trường hợp 1 người đang phải chấp hành 1 bản án lại phạm không chỉ 1 mà 2 tội trở lên. Đây là trường hợp hỗn hợp: vừa phạm nhiều tội (điều 50 BLHS), vừa có nhiền bản án (khoản 2 điều 51 BLHS). Trong trường hợp đó nên tiến hành QĐHÌNH PHạT chung cho tất cả tội đã phạm theo tuần tự sau:

   Trước hết nên áp dụng các nguyên tắc QĐHÌNH PHạT trong trường hợp phạm nhiều tội được quy định ở điều 50 BLHS để QĐHÌNH PHạT chung cho các tội phạm mới.

  Sau đó tổng hợp các hình phạt chung này với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước theo các nguyên tắc quy định ở khoản 2 điều 51 BLHS.  - Trong trường hợp tổng hợp hình phạt bổ sung của nhiều bản án, có ít nhất 1 hình phạt bổ sung đã được xác định (của bản án trước), do đó tòa án QĐHÌNH PHạT bổ sung đối với tội mới, sau đó tiến hành tổng hợp theo khoản 2 điều 50 BLHS.  Tổng hợp hình phạt trong trường hợp 1 người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của bản án chưa được tổng hợp.

  Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp này được tiến hành theo các nguyên tắc như đã nói ở các trường hợp nói trên và do chánh án tòa án quy định.


 


Câu 27+28: Khái niệm, bản chất pháp lý của án treo, các điều kiện để cho hưởng án treo. Thời gian thử thách và cách tính + thử thách án treo (điều kiện thử thách của án treo) (475-491)

  Án treo là 1 chế định của pháp luật hình sự nước ta được hình thành ngay từ đầu mới hình thành nước VNDCCH và ngày nay được quy định trong BLHS nước ta, án treo cũng được tòa án áp dụng tương đối phổ biến trong thực tiễn xét xử. Điều 60 BLHS hiện hành nước ta quy định chế định án treo như sau:

 1- Khi xử phạt không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải cấu hình hình phạt tù thì tòa án cho hưởng án treo và ấn định thử thách từ 1 đến 5 năm.

 2- trước thử thách, tòa án giao cho người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc cơ quan địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình và người bị kết án treo có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

 3- Người bị hưởng án treo có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm những chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm việc nhất định theo quy định tại điều 30 và điều 36 của Bộ luật này.

 4- Người được hưởng án treo đã chấp hành được ½ thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tính chất có trách nhiệm giám sát, giáo dục tòa án có thể rút ngắn thử thách.

 5- Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách thì tòa án quyết định phải buộc chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại điều 51 bộ luật.

  Như vậy, các quy định trên cho thấy thực chất án treo là biện pháp không buộc người bị phạt tù phải tách khỏi xã hội. Họ được tự cải tạo, giáo dục ở môi trường xã hội trong thời gian thử thách nhất định, với sự giám sát của cơ quan hoặc chính quyền địa phương. Nếu người vi phạm tội không vi phạm điều kiện của án treo trong thời gian thử thách, thì điều đó đã chứng tỏ họ trở thành người lương thiện nên họ không phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên.

  Biện pháp tác động hình sự này là cần thiết, nó thể hiện rõ phương châm “trừng trị kết hợp với cải tạo, giáo dục”, thể hiện rõ nội dung khoan hồng, bản chất nhân đạo của chính sách hình sự của nhà nước ta.

  Từ những phân tích trên, có thể hiểu án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được áp dụng đối với người bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần phải chấp hành hình phạt tù.

* Bản chất pháp lý của án treo theo luật hình sự Việt Nam:

  Trong quá trình hình thành và phát triển của chế định án treo gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của pháp luật hình sự nói chung. Xung quanh vấn đề bản chất pháp lý của án, các nhà luật học cũng có những ý kiến khác nhau. Nhận thức về quần chúng nhân dân cũng không thống nhất. Mặt khác, theo các văn bản pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì án treo có bản chất pháp lý khác nhau cơ bản trong các giai đoạn phát triển khác nhau của pháp luật hình sự.

  Lúc đầu, án treo được quy định và được hiểu là biện pháp  miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Nhưng trong quá trình áp dụng án treo đã có thời kỳ án treo được hiểu và áp dụng như hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù giam. Theo BLHS năm 1995 và BLHS hiện hành, án treo được quy định và áp dụng với tư cách là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.

* Các điều kiện (căn cứ) cho hưởng án treo:

  Khoản 1 điều 60 BLHS quy định cụ thể các căn cứ cho người bị phạt tù được hưởng án treo bao gồm: về mức hình phạt tù; về nhân thân người phạm tội; về các tình tiết giảm nhẹ; thuộc trường hợp không cần phải chấp hành hình phạt tù.

1- Về mức hình phạt tù:

Mức hình phạt tù là căn cứ đầu tiên để tòa án xét xho người bị kết án được hưởng án treo hay không. Vì căn cứ này, BLHS quy định mức xử phạt tù không quá 3 năm (khoản 1 điều 60 BLHS).

   Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng án treo chỉ áp dụng đối với hình phạt tù đến 3 năm là tội phạm thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và đương nhiên không phải hầu hết các hình phạt mà tòa án đã tuyên đối với bị cáo không quá 3 năm đều được hưởng án treo. Mức hình phạt tù mới chỉ là điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ, cần phải xem xét cùng với những căn cứ tiếp theo.

2- Về nhân thân:

  Theo luật HSVN, những tình tiết về nhân thân có ý nghĩa đối với QĐHÌNH PHạT cũng như căn cứ xem xét, áp dụng án treo là: phạm tội lần đầu, đã có tiền án tiền sự; tái phạm hay tái phạm nguy hiểm; phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không; là người chưa thành niên phạm tội hay đã thành niên; có thái độ tự thú, hối cải … là người thuộc đối tượng của các chính sách lớn của Đảng và nhà nước hay có hoàn cảnh đặc biệt. Người được hưởng án treo phải là người có quyền nhân thân được cơ quan quản lý nhận xét tốt ở việc chấp hành các chính sách pháp luật của nhà nước, làm đầy đủ nhiệm vụ bản thân với tư cách là 1 thành viên xã hội, người chưa bị kết án, chưa bị xử lý hành chính …

3- Các tình tiết giảm nhẹ:

  Các tình tiết giảm nhẹ được xem xét cho hưởng án treo theo quy định của điều 46 và thực tiễn áp dụng luật hình sự có thể thuộc 3 nhóm sau: nhóm các tình tiết giảm nhẹ được ghi nhận trong các văn bản hướng dẫn thực hiện xét xử; nhóm các tình tiết giảm nhẹ được tòa án nêu trong từng trường hợp cụ thể theo luật định hay không. Chỉ khi nào người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ mới xét  cho họ được hưởng án treo.

4- Xét thấy không cần phải chấp hành hình phạt tù. Để nhận định rằng không bắt bị cáo cách ly khỏi xã hội mà vẫn đảm bảo được việc cải tạo, giáo dục người phạm tội. Tòa án phải dựa trên những cơ sở sau:

  - Thứ nhất: nếu không cần bắt chấp hành hình phạt tù, bị cáo cũng có thể tự cải tạo, giáo dục được và không ảnh hưởng đến yêu cầu đảm bảo trật tự xã hội ở địa phương.

  - Thứ hai: nếu không cần cách ly khỏi xã hội thì những phần tử xấu khác ở địa phương cũng không làm ảnh hưởng đến người phạm tội. Chỉ cần có sự giám sát, giáo dục của cơ quan nhà nước hay tổ chức xã hội là họ có thể tự cải tạo mình thành công dân hữu ích cho xã hội.

  Tóm lại, chỉ trong trường hợp có đủ căn cứ và mức phạt tù, nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ là những căn cứ cần “xét không cần bắt chấp hành hình phạt tù …” là căn cứ đủ thì tòa án mới quyết định cho hưởng án treo. Mọi quyết định cho hưởng án treo thiếu căn cứ, thiếu đánh giá khách quan toàn diện đều không được nhân dân đồng tình và làm giảm tác dụng của án treo đối với giáo dục riêng và phòng ngừa chung.


 



Câu 30: trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội?

“1 người chưa thành niên phạm tội” là 1 dạng đặc thù của “người phạm tội” nói chung. Khái niệm này tồn tại như 1 mặt đối lập của khái niệm “người thành niên (hay người đã trưởng thành) phạm tội”. Ranh giới “18 tuổi tròn” ngăn cách và phân biệt họ.

Đối với người chưa thành niên từ đủ 17 tuổi đến 18 tuổi, nhà làm luật cũng đã phân biệt khả năng và mức độ chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự của họ. Người đủ từ 14 tuổi đến 16 tuổi phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự về những TộI PHạM rất nghiêm trọng do cố ý hoặc TộI PHạM đặc biệt quan trọng. Còn những người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự về mọi TộI PHạM. Ở đây, vấn đề không được nhầm lẫn là: tuy phải chịu trách nhiệm toàn phần nhưng người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi vẫn nằm trong khung “người chưa thành niên”, bởi vậy những ưu đãi biến cố mà pháp luật “dành cho” người chưa thành niên phạm tội vẫn được áp dụng đầy đủ với họ.

Những nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội được tập hợp 1 cách khá đầy đủ và có hệ thống tại điều 69 BLHS hiện hành. Thấm nhuần 1 tinh thần nhân đạo, coi trọng vai trò giáo dục, tiết kiệm các biện pháp cưỡng chế và hình phạt, nhà làm luật đưa ra 1 loạt những quy định tiến bộ, hiện đại, nhân đạo – bao trùm phần điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đến việc áp dụng biện pháp có tính chất phòng ngừa. Đó là việc khuyến khích áp dụng rộng rãi chế định mà truy cứu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự, miễn hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, hạn chế chưa xét xử và hạn chế hình phạt đối với họ, cấm xử tù chung thân và tử hình người chưa thành niên, áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Còn riêng với hình phạt tù có thời hạn, nếu đem so sánh với trách nhiệm phạm tội, thì người chưa thành niên vẫn được hưởng chiếu cố đáng kể như: hạ mức tối đa hình phạt, nếu bị xử tù thì được giam riêng và được đối xử giảm nhẹ, được xét giảm án sớm hơn và mức giảm cao hơn, được tòa án nhanh hơn và nếu đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm …

Tóm lại, BLHS hiện hành có 1 loạt quy định để thể hiện rõ rang, đầy đủ chính sách hình sự nhất quán đối với người chưa thành niên phạm tội. Phân tích các quy phạm ở chương X BLHS hiện hành, có thể rút ra 1 số khái niệm sau đây:

- Một là, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội tuy xuất phát từ chính sách hình sự chung của Đảng và Nhà nước ta, nhưng đã có những điều chỉnh cơ bản căn cứ vào tính chất đặc thù của lứa tuổi quy định và vào yêu cầu riêng của chiến lược đấu tranh phòng ngừa và chống tử hình người chưa thành niên phạm tội trong XHCN.

- Hai là, biện pháp xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội nặng về giáo dục, văn hóa và nhẹ về cưỡng bức áp dụng hình phạt. Trường hợp buộc phải cưỡng bức thì phải có những hạn chế, giảm nhẹ đặc biệt.

- Ba là, nêu cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tư pháp cũng như các cơ quan, tở chức khác trong việc lựa chọn, áp dụng và thi hành các biện pháp xử lý mang tính chất hình sự, bảo đảm cho các biện pháp này được vận dụng hợp lý, thực thi và đúng tư tưởng nhất quán của nhà làm luật là đối với người chưa thành niên phạm tội thì phòng ngừa, giáo dục bao giờ cũng đặt lên hàng đầu.

Có thể nói đường lối chung trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là hạn chế đến mức thấp nhất việc áp dụng các chế tài hình sự và dạng bất đắc dĩ buộc phải áp dụng chúng thì phải theo hướng giảm nhẹ đáng kể so với người đã thành niên trong trường hợp tương tự. Đường lối này được quán xuyến, được thể hiện bằng các nguyên tắc cụ thể ở các giai đoạn truy cứu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự, đặc biệt nổi rõ qua việc quy định thẩm quyền, đồng thời là trách nhiệm cảu 2 loại cơ quan: viện kiểm sát và tòa án.

Theo khoản 2 điều 69 thì người thành niên phạm tội có thể được miễn TRÁCH NHIệM HÌNH Sự khi có các điều kiện sau:

- Họ phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trong.

- Gây hại của TộI PHạM không lớn.

- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

- Được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.

Khoản 3 điều 69 BLHS cũng quy định việc truy cứu TRÁCH NHIệM HÌNH Sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào:

- Tính chất của hành vi phạm tội.

- Những đặc điểm về nhân thân của người chưa thành niên.

- Yêu cầu của việc phòng ngừa TộI PHạM.

Khi QĐHÌNH PHạT đối với người chưa thành niên phạm tội. Tòa án phải tuân thủ những quy định có tính nguyên tắc sau đây:

+ Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình người chưa thành niên phạm tội (khoản 5 điều 69 BLHS.

+ Không xử phạt tiền người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi và không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội (khoản 5 điều 69 BLHS).

+ Khi xử phạt tù có thời hạn, tòa án cho người thành niên được hưởng mức án nhẹ hơn mức án đã áp dụng đối với đã thành niên phạm tội tương ứng (khoản 5 điều 69 BLHS).

+ Án đã tuyên đối với người phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm (khoản 6 điều 69 BLHS). Quy định này được hiểu là sau khi bị kết án và tuy chưa được xóa án nếu người chưa thành niên (có thể nay đã trưởng thành) phạm tội mới thì bản án đã tuyên đối với tội do người đó thực hiện khi chưa đủ 16 tuổi không có ý nghĩa trong việc xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm theo điều 49 BLHS.

* Các biện pháp tư pháp và hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên:

1- Các biện pháp tư pháp:

Theo khoản 1 điều 70 BLHS hiện hành, đối với người chưa thành niên phạm tội tòa án có thể quy định áp dụng 1 trong các biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa sau đây:

a- giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

b- đưa vào trường giáo dưỡng:

Theo khoản 2 điều 70 BLHS tòa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 1-2 năm đối với phạm tội ít nghiêm trọng.

2- Các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên

+ Cảnh cáo

+ Phạt tiền

+ Cải tạo không giam giữ

+ Tù có thời hạn.

* cảnh cáo:

Theo điều 29 và 71 BLHS thì cảnh cáo được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.

* Phạt tiền:

Được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.

Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định theo tính chất, mức độ nghiêm trọng của TộI PHạM thì tài chính của người chưa thành niên và sự biến động giá cả. Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội là không quá ½ mức phạt tiền mà luật quy định và mức tối thiểu không được thấp hơn 1 triệu đồng.

* Cải tạo không giam giữ:

Điều 73 BLHS quy định:

+ Khi áp dụng thì không khấu trừ thu nhập của người đó.

+ Thời hạn cải tạo không quá 1/25 thời hạn do điều luật quy định.

* Tù có thời hạn:

Điều 74 BLHS

1- Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật quy định hình phạt tù là tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ¾ mức phạt tù mà điều luật quy định.

2- Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ½ mức phạt tù mà điều luật quy định.


 



Câu 3: các giai đoạn phát triển của luật HSVN từ sau CMT8 đến nay?

Căn cứ vào những luận điểm của các nhà phân tích, nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam từ 1945 đến nay bao gồm các giai đoạn phát triển như sau:

- Từ tháng 9/1945 – 5/1954

- Từ 1954 – 1975

- Từ 1975 – 1985

- Từ 1985-1999

- Từ 1999 – nay.

1- Pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từ 9/1945 đến tháng 5/1954.

Hoạt động về lập pháp hình sự từ CMT8 thành công đến ngày toàn quốc kháng chiến rất phong phú. Trong thời kỳ này tồn tại 2 loại văn bản pháp luật hình sự mới và cũ cấu thành nên 1 hệ thống văn bản pháp luật mới được ban hành đã được thể hiện chính sách hình sự có phân hóa của nhà nước ta.

Hàng loạt các sắc lệnh được ban hành, đáng chú ý là sắc lệnh thiết lập tòa án quân sự để xét xử những ai thực hiện 1 việc gì đó gây hại đến nền độc lập của nước VNDC cộng hòa.

Ngoài những văn bản pháp luật hình sự mới Chính phủ cho phép áp dụng 1 số điều khoản của pháp luật hình sự cũ nhằm duy trì ổn định trật tự xã hội, trong lúc chưa xây dựng kịp các văn bản mới.

Trong thời kỳ này phải nhắc đến sắc lệnh đại xá ngày 20/10/1945.

2- Pháp luật HSVN trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (từ 12/1946 – 5/19554)

Đến năm 1953 căn cứ tình hình và nhiệm vụ mới dựa trên cơ sở sơ kết rút kinh nghiệm đấu tranh với bọn phản cách mạng nhà nước ra sắc lệnh 113 ngày 20/1/1953. Đây là sắc lệnh tương đối hoàn chỉnh nó đề ra 1 số điểm mới thể hiện quan điểm đấu tranh có phân hóa của nhà nước ta.

Sau chiến thắng Điện Biên phủ, ngày 12/10/1954 nhân dịp giải phóng thủ đô, nhà nước đã quyết định đại xá đối với những người lầm đường lạc lối, tích cực sửa chữa.

Trong thời kỳ này để phục vụ yêu cầu cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, luật hình sự đã kịp thời quy định những biện pháp xử phạt phong phú nhằm trấn áp bọn phản cách mạng trong nước và ngoài nước, bảo vệ nền kinh tế, tài chính mới. Hình thức văn bản rất phong phú đa dạng và về cơ bản là các sắc lệnh, các nghị định và các văn bản khác của Chính phủ. Đường lối xử lý hình sự thể hiện rõ quan điểm có phân hóa sâu sắc.

2- Pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn CMXHCN từ 1954 – 1975.

- Trong số văn bản pháp luật hình sự được ban hành từ 1955 đến 1964 để trấn áp, trừng trị những hành vi phản cách mạng văn bản có ý nghĩa quan trọng nhất là sắc lệnh 267 ngày 15/6/1956 sắc lệnh ban hành nhằm bảo vệ việc khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, cải tạo XHCN, trừng trị những âm mưu hành động phá hoại làm thiệt hại đến tài sản nhà nước, hợp tác xã và nhân dân.

- Đầu năm 1957 quốc hội thông qua 1 số đạo luật về tự do báo chí, tự do lập hội, tự do hội họp.

- Ngày 30/7/1967 UBTVQH ban hành pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng. Đó là sự kiện pháp lý chính trị quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta. Nó là công cụ sắc bén để tăng cường pháp chế XHCN, tăng cường      đối với kẻ thù của nhân dân ta, dân tộc ta. Đây là 1 văn bản pháp luật tương đối hoàn chỉnh thể chế hóa đầy đủ nhất tinh thần, nội dung nghị quyết và chỉ thị của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại – chính trị.

- Ngày 21/10/1970 UBTVQH ban hành pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN. Pháp lệnh này thể hiện 1 cách đầy đủ, toàn diện chính sách hình sự của Đảng và nhà nước ta đối với tội xâm phạm sở hữu trong giai đoạn đó. Pháp lệnh quy định 1 cách cụ thể các tội phạm và hình phạt và chính sách xử lý đối với từng loại tội và thể hiện thái độ nghiêm khắc hơn của Đảng và nhà nước ta đối với loại tội phạm này.

Như vậy, khi chuyển sang giai đoạn CMXHCN, do số văn bản pháp luật về hình sự được nhà nước ban hành đã tương đối nhiều, chính sách hình sự đối với 1 số loại TộI PHạM đã rõ ràng hơn, cụ thể hơn, kinh nghiệm xét xử về hình sự tích lũy được khá phong phú, yếu tố pháp luật chứng minh của thẩm phán và HĐND được nâng cao, cho nên việc cấm viện dẫn pháp luật hình sự cũ để xét xử là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết.

3- Pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn CMXHCN từ 1975 – 1985.

Năm 1975, về hình thức ở đất nước ta tạm thời tồn tại 2 nhà nước: nhà nước VNDCCH và nhà nước CHMNVN. Mỗi nhà nước có pháp luật riêng . CHMNVN ban hành những chính sách, những văn bản pháp luật cần thiết để góp phần thực hiện 1 trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách là trấn áp bọn phản cách mạng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an ninh xã hội ở nửa đất nước mới được giải phóng. Song song với việc chính thức thành lập tòa án nhân dân và việc kiểm sát nhân dân, chính phủ cách mạng lâm thời  CHMNVN ban hành sắc lệnh 03 SL/76 ngày 15/3/1976 quy định các TộI PHạM và các HÌNH PHạT.

- Ngày 25/4/1976 nhân dân ta tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Cuối tháng 6 đầu tháng 7/1976 QH họp kỳ đầu, đây là kỳ họp hoàn toàn thống nhất đất nước về mặt nhà nước, chính thức hóa việc thống nhất này. Nghị quyết ngày 2/7/1976 của QH quyết định đổi tên nước ta là CHXHCNVN. Trong khi chưa có Hiến pháp mới, nhà nước CHXHCNVN tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp 1959 của nước VNDCCH. Nghị quyết này giao cho hội đồng chính phủ xúc tiến dự thảo các luật, pháp lệnh cần thiết và hướng dẫn thi hành các pháp luật hiện hành của VNDCCH và CHMNVN cho sát thực tế.

Thi hành nghị quyết nói trên, trên cơ sở của việc hệ thống hóa pháp luật hiện hành của 2 miền, chính phủ đã công bố hơn 2 danh mục gồm gần 700 văn bản pháp luật trong đó đã có nhiều văn bản pháp luật hình sự được thi hành thống nhất trong cả nước. Như vậy, sau khi thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, vấn đề thống nhất pháp luật trong cả nước, trong đó có pháp luật hình sự đã được giải quyết cơ bản và phương hướng hoàn chỉnh sự thống nhất đó cũng được quy định.

4- Pháp luật HSVN giai đoạn CNXH từ năm 1985 – 1999.

Giai đoạn này nhà nước ta ban hành BLHS năm 1985 là 1 sự kiện chính trị pháp lý quan trọng, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện HTộI PHạML nước ta và tăng cường pháp chế XHCN. BLHS là 1 trong những công cụ của Nhà nước để bảo vệ sự nghiệp CM, sự lãnh đạo của Đảng, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và bảo đảm hiệu lực quản lý của nhà nước. Trong hệ thống pháp luật của Nhà nước, BLHS giử 1 vị trí quan trọng.

            Từ khi BLHS có hiệu lực đến nay do yêu cầu của công tác đấu tranh với tình hình tội phạm trong giai đoạn mới – giai đoạn đổi mới Đất nước, Nhà nước ta đã 4 lần ban hành luật sửa đổi, bổ sung 1 số điều của BLHS đã được nước CHXHCNVN thông qua ngày 28/12/1989, ngày 12/8/1991, ngày 22/2/1992 và ngày 10/5/1997.

            Qua các lần sửa đổi, bổ sung cho thấp PLHS nước ta đang được phát triển theo khuynh hướng tội phạm hóa và hình sự hóa. Khuynh hướng phát triển đó do quy luật khách quan của XH và nhu cầu sử dụng PLHS để đấu tranh với tình hình tội phạm ở nước ta qui định.

            5- PLuật HS VN giai đoạn CMXHCN từ năm 1999 đến nay:

            BLHS năm 1999 được ban hành đánh dấu các đặc điểm của PLHS nước ta ở giai đoạn này. Việc ban hành BLHS năm 1999 là xuất phát từ nhu cầu của sự phát triển XH, nhu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong thời kỳ đổi mới Đất nước.

            Đó là những thay đổi XH to lớn đã và đang diễn ra ở nước ta từ khi có Đảng ta khởi xướng sự nghiệp đổi mới Đất nước đến nay. Những thay đổi đó nằm trong tất cả các lĩnh vực khác nhau trong đời sống XH, đó là trong lĩnh vực KT-CấU THÀNH-VH-XH-tư tưởng-đạo đức, khoa học và công nghệ… Những thay đổi đó đã và đang tác động đến sự thay đổi về tính chất, nội dung giai trò và chức năng của PLHS trong XH ta.

            Tóm lại, từ việc phân tích những thay đổi diễn ra trong đời sống XH, đặc điểm của tình hình tội phạm ở nước ta trong thời gian qua, những hạn chế của BLHS năm 1985 và 4 luật sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985 cho thấy việc ban hành BLHS năm 1999 là 1 tất yếu khách quan, có cơ sở khoa học và thực tiễn, đáp ứng kịp thời nhu cầu đấu tranh phòng chống TộI PHạM ở nước ta hiện nay. BLHS ban hành 1999 đánh dấu 1 giai đoạn phát triển mới của PLHS nước ta, làm cho lịch sử hình thành và phát triển của PLHS trở nên phong phú hơn.

            BLHS năm 1999 được ban hành thể chế hóa CS của Đảng và nước ta trong giai đoạn mới hiện nay mà nét đặc trưng nổi bậc nhất của nó là điều chỉnh tối đa về mặt lập pháp những chế định cơ bản quan trọng của LHS, phân hóa 1 cách tối đa hơn, nhân đạo nhiều hơn, những đặc trưng đó nói lên các khuynh hướng phát triển của PLHS nước ta.

BLHS năm 1999 có nhiều nội dung mới được thể hiện trong tất cả các chế định của phần chung và trong tất cả các chương quy định về các nhóm tội cụ thể. Nội dung mới của BLHS còn được thể hiện khá đậm nét cả ở cơ cấu, logic, cách trình bày của nó.

Việc làm sáng tỏ những nội dung mới của BLHS năm 1999 nhằm đảm bảo thi hành BLHS đó 1 cách có hiệu quả là công việc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay.




Câu hỏi ( 8 )(trùng) : tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.

 

* Định nghĩa : tội phạm là hành vi nguy hiểm của XH được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ Nhà nước XHCN, chế độ kinh tế và sở hữu XHCN, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm đến những lĩnh vực khác nhau của trật tự pháp luật XHCN.

* Các dấu hiệu đặc trưng của tội phạm :

 Căn cứ vào định nghĩa tội phạm được nêu ra ở Điều 8 Bộ Luật hình sự nước ta, tội phạm khác với những hành vi không phải là tội phạm bằng bốn dấu hiệu sau đây:

- Tính nguy hiểm cho XH của hành vi:

Tính nguy hiểm cho XH là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị quy định trong Luật hình sự là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự vì có tính nguy hiểm cho XH. Đây là điểm khác so với quan điểm trong Luật hình sự của Việt Nam Cộng hòa trước đây.

Nguy hiểm cho XH, về khách quan có nghĩa là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ XH được Luât hình sự bảo vệ. Đó là những quan hệ XH có tính tương đối quan trọng và một khi có sự xâm hại có thể gây ra những thiệt hại hoặc những ảnh hưởng đáng kể cho điều kiện tồn tại và phát triển của chế độ XHCN.

Nguy hiểm cho XH với nội dung đầy đủ còn có nghĩa hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ XH phải có lỗi. Nhưng để nhấn mạnh sự thừa nhận nguyên tắc có lỗi là một nguyên tắc cơ bản, Luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay vẫn coi lỗi là một dấu hiệu của tội phạm.

Tính nguy hiểm cho XH có tính khách quan này của tội phạm không những là căn cứ để phân biệt hành vi là tội phạm với những hành vi vi phạm khác mà còn là cơ sở để đánh giá mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của một hành vi phạm tội và qua đó giúp cho việc cá thể hóa biện pháp trách nhiệm hình sự được chính xác. Tính nguy hiểm cho XH hoàn toàn có tính khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà làm luật.

- Tính có lỗi của tội phạm:

Lỗi là thái độ chủ quan của một người đối với hành vi nguy hiểm cho XH của mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi gây thiệt hại cho XH, nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ điều kiện lựa chọn và quyết định một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của XH.

Hành vi pháp luật khác với hành vi khác là ở chỗ hành vi pháp lý bao giờ cũng là hành vi có ý thức, có ý chí- dấu hiệu tâm lý của hành vi pháp lý. Tội phạm là một dạng của hành vi pháp luật, do vậy tội phạm phải là hành vi có ý thức, có ý chí. Hành vi có tính nguy hiểm cho XH chỉ bị coi là tội phạm nếu hành vi đó được thực hiện một cách có ý thức, tức là có lỗi (cố ý hoặc vô ý).

Với tư cách là một dấu hiệu độc lập của tội phạm, tính có lỗi của hành vi khẳng định một nguyên tắc quan trọng của Luật hình sự XHCN là không chấp nhận việc qui tội khách quan, tức là buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi gây thiệt hại cho XH mà không xem xét đến lỗi của họ. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước có mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội, phòng ngừa tội phạm mới, nhưng các mục đích đó chỉ có thể đạt được nếu hình phạt được áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho XH.

- Tính trái pháp luật hình sự :

Hành vi nguy hiểm cho XH và có lỗi không thể coi là tội phạm, nếu ở thời điểm thực hiện hành vi đó không được đạo luật hình sự quy định là tội phạm. Điều đó có nghĩa rằng một hành vi nào đó bị coi là tội phạm nếu nó có tính nguy hiểm cho XH, có lỗi và phải được quy định trong pháp luật hình sự.

TÍnh trái pháp luật hình sự của hành vi được thể hiện ở chỗ hành vi đó vi phạm điều cấm thực hiện hành động gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đáng kể cho khách thể được Luật hình sự bảo vệ đã được ghi nhận trong quy phạm của đạo luật hình sự.

Tính trái pháp luật hình sự của hành vi có thể được thể hiện cả ở chỗ người nào đó không thực hiện nghĩa vụ của mình.

Tính nguy hiểm cho XH và tính trái pháp luật hình sự của tội phạm có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau làm cho khái niệm tội phạm được thể hiện và nhận thức đầy đủ từ khía cạnh nội dung, bản chất và hình thức pháp lý của nó. Tính trái pháp luật hình sự là sự thể hiện về mặt pháp lý của nó. Tính trái pháp luật hình sự là sự thể hiện về mặt pháp lý của tính nguy hiểm cho XH trong pháp luật hình sự.

Việc xác định đúng đắn mối quan hệ của dấu hiệu XH và dấu hiệu qui phạm của tội phạm có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động xây dựng pháp luật hình sự. Pháp luật hình sự được ban hành phải được lập luận đầy đủ về mặt XH, phải xuất phát từ nhu cầu KT-XH, chính trị – tư tưởng, pháp lý XH.

- Tính chịu hình phạt :

Tính chịu hình phạt là một dấu hiệu của tội phạm nhưng không phải là một thuộc tính bên trong của tội phạm như hai dấu hiệu trên. Dấu hiệu bắt buộc khác của tội phạm là tính chịu hình phạt. Khi qui định hành vi này hay hành vi khác là tội phạm, đạo luật hình sự qui định hình phạt tương ứng đối với việc thực hiện tội phạm đó.

Khi một hành vi phạm tội nào đó đã được thực hiện thì chủ thể của hành vi đó đều bị đe dọa phải chịu hình phạt là loại biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Việc thừa nhận tính chịu hình phạt là một dấu hiệu bắt buộc của tội phạm chứng minh rằng hình phạt luôn luôn gắn liền với tội phạm.

Tính chịu hình phạt là một dấu hiệu của tội phạm, nhưng dấu hiệu đó không phải là dấu hiệu nằm trong bản thân nội dung của tội phạm như tính nguy hiểm cho XH, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự.

Nói tội phạm có tính chịu hình phạt, có ý nghĩa, bất cứ một hành vi tội phạm nào, do tính nguy hiểm cho XH cũng đều bị đe dọa phải chịu một hình phạt, là một loại biện pháp cưỡng chế Nhà nước có tính nghiêm khắc nhất trong hệ thống những biện pháp cưỡng chế Nhà nước.

Như vậy, nói tội phạm có tính chịu hình phạt có nghĩa: Bất cứ một hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa có thể phải chịu một biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là hình phạt.

* Vi phạm pháp luật là gì? Các đặc trưng của chúng.

Tội phạm, xét về bản chất pháp lý, cũng là một loại vi phạm pháp luật. Do vậy, giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, trước hết là vi phạm hành chánh và vi phạm kỉ luật, có những điểm gần giống nhau. Vấn đề đặt ra là cần phải phân biệt và phân biệt ranh giới giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Việc phân biệt này không chỉ có ý nghĩa trong khi áp dụng pháp luật mà có ý nghĩa ngay cả khi xây dựng và giải thích luật.

Nhận thức đầy đủ về tội phạm cũng như về ranh giới giữa tội phạm với các vi phạm pháp luật khác là cơ sở cần thiết đảm bảo cho việc xây dựng, giải thích và áp dụng luật hình sự được đúng đắn.

* Những điểm giống nhau và khác nhau giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác:

     + Những điểm giống nhau :

     . Đều nguy hiểm;

     . Do pháp luật qui định;

     . Đều bị xử lý.

     + Những điểm khác nhau :

     . Về mặt nội dung chính trị, XH, tội phạm là những hành vi có tính nguy hiểm cho XH khác các hành vi vi phạm pháp luật khác. Các vi phạm pháp luật khác tuy cũng có tính nguy hiểm cho XH nhưng còn ở mức độ hạn chếchưa đáng kể. Tội phạm là những hành vi có tính nguy hiểm cho XH ở mức độ đáng kể. Ranh giới giữa “nguy hiểm đáng kể” và “nguy hiểm chưa đáng kể”là ranh giới cần được xác định khi xây dựng luật cũng như khi giải thích và áp dụng luật hình sự.

     . Về mặt hình thức pháp lý, tội phạm được qui định trong luật hình sự, các vi phạm pháp luật khác được qui định trong các văn bản của các ngành luật khác. Tuy chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lý nhưng dấu hiệu được qui định trong luật hình sự hay trong các ngành luật khác có ý nghĩa quan trọng đối với những người áp dụng pháp luật. Đây là căn cứ đầu tiên mà người áp dụng phải dựa vào để xác định một hành vi có phải là tội phạm không. Một hành vi chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu đã được qui định trong luật hình sự. Một hành vi chưa được hoặc không được qui định trong luật hình sự thì đối với người áp dụng , vấn đề xác định có phải là tội phạm hay không không được đặt ra, vì hành vi đó đã rõ ràng không phải là tội phạm.

     . Về mặt hậu quả pháp lý, tội phạm bị xử lý bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là hình phạt; các vi phạm pháp luật khác chỉ có thể bị xử lý bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước ít nghiêm khắc hơn.




Câu 6: Khái niệm và cơ sở của Trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam

         Cũng như mọi hình thức TNPL khác, TNHS thể hiện thái độ, sự lên lên án của nhà nước, của XH đối với người vi phạm pháp luật và thông qua hoạt động tài phá của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chủ thể của hành vi phải chấp hành một chế tài nhất định .Tuy nhiên đối với TNHS thì chế tài này có thể là hình phạt cũng có thể là biện pháp cưỡng chế khác, nhưng đây là lọai chế tài đặc biệt nghiêm khắc và chế độ áp dụng đối với những hành vi gây nguy hiểm lớn cho xã hội mà luật hình sự quy định, thông qua họat động của một cơ quan duy nhất có thẩm quyền là tòa án.

            TNHS, cũng như TN pháp lý, luôn liên quan cưỡng chế nhà nước. Khi vi phạm pháp luật xảy ra, giữa chủ thể vi phạm pháp luật và nhà nước xuất hiện 1 quan hệ đặc biệt, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan thẩm quyền xác định chế tài để áp dụng đối với người vi phạm và những biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm việc áp dụng chế tài đó.

            Cơ sở pháp luật của việc truy cứu TNP lý là quyết định có hiệu lực pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Riêng đối với TNHS, thì có thể là bản án quyết định đã hiệu lực pháp luật của tòa án, cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử hình sự và truy cứu TNHS đối với người phạm tội.

Như vậy, khái niệm hình sự là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra giữa một bên là Nhà nước và bên kia là nguời phạm tội, trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền áp dụng bằng biện pháp cưỡng chế chế tài hình sự đối với người phạm tội và người phạm tội có trách nhiệm phải chịu ….. bất lợi (được quy định trong chế tài hình sự) do việc thực hiện hành vi phạm tội.

            Trách nhiệm hình sự và hình phạt tuy có mối quan hệ mật thiết với nhau, nhưng là 2 khái niệm riêng biệt.

            Trách nhiệm hình sự với tính cách là quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước và người phạm tội phát sinh từ thời điểm tội phạm thực hiện, nghĩa là phát sinh trước thời điểm tòa án tuyên bản án và hình phạt. Còn tội phạm với tính cách là chế tài hình sự, chỉ xuất hiện sau khi tòa án tuyên bản án và hình phạt người chỉ khi bản án đó đã có hiệu lực pháp luật. Mặt khác, mặc dù trong phần lớn các trưòng hợp, trách nhiệm hình sự  để thực hiện thông qua việc áp dụng Hiến pháp, nhưng cũng có những trường hợp trách nhiệm hình sự được thông qua các biện pháp khác có tính chất cưỡng chế hình sự.

·                     Cơ sở của trách nhiệm hình sự Là những vấn đề trung tâm nhất của Pháp luật hình sự. Việc giải quyết những vấn đề này như thế nào sẽ có tác động lớn đến chính sách hình sự của Nhà nước, đến việc thực hiện các nguyên tắc quan trọng như thế nào như pháp chế XHCN, nguyên tắc tôn trọng, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của công dân…

Theo luật hình sự Việt Nam, chỉ người nào phạm tội được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 2 Bộ luật hình sự). Quyết định này bao hàm những nội dung: Thứ nhất, là chỉ người nào phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng điều đó cũng có nghĩa là … phạm tội cũng cùng phải chịu trách nhiệm hình sự. Thứ hai là tội phạm đó phải được bộ luật hình sự quy định.

Như vậy. cơ sở duy nhất làm phát sinh trách nhiệm hình sự chỉ có thể là tội phạm, Nhưng tội phạm, hiểu theo phép lịch sự, là hành vi có đủ yếu tố cấu thành do luật định. Các dấu hiệu pháp lý cần và đủ của mỗi tội phạm được quy định trong bộ luật hình sự được gọi là dấu hiệu cầu thành tội phạm. Bởi vì, trước hết đó là những dấu hiệu mà bộ luật hình sự quy định, hai là cần phải có đủ những dấu hiệu đó, thì hành vi mới bị coi là tội phạm, và ba là chỉ cần có đủ những dấu hiệu đó, thì hành vi đó mới coi là tội phạm. Như vậy, suy cho cùng, thì cơ sở trách nhiệm hình sự là cấu thành tội phạm, và chỉ có dấu hiệu đó mới là cơ sở của trách nhiệm hình sự.

Đặc trưng cơ bản của tội phạm cho phép phân định nó với các vi phạm pháp luật khác là tính chất nguy hiểm cho xã hội của nó.Tính nguy hiểm cho xã hội được xác định, trước hết bởi thiệt hại mà hành vi tội phạm gây ra hoặc có khả năng gây ra cho các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ. Nói cách khác, là khách thể của tội phạm – các quan hệ xã hội - với giá trị và tầm quan trọng của nó – là yếu tố không thể thiếu được của tội phạm. Mặt khác, các quan hệ xã hội khách thể của tội phạm, chỉ có thể bị xâm hại thông qua hành vi cụ thể, bằng hành động hoặc không hành động, nhưng nhất thiết phải là sự biểu hiện bên ngoài thế giới khách quan. Hơn nữa, thiệt hại do hành vi gây ra hoặc có khả năng gây ra những thông số biểu hiện hậu quả đã gây ra hoặc có khả năng xảy ra. Bởi vậy, cũng không thể có tội phạm nếu không có hành vi và không có hậu quả - những dấu hiệu thuộc về phương diện khách quan của tội phạm.

Một hành vi chỉ bị coi là nguy hiểm cho xã hội khi nó không phù hợp với lợi ích của Nhà nước và xã hội, khi nó đi ngược lợi ích Nhà nước và xã hội. Còn những hành vi phù hợp với lợi ích của Nhà nước và xã hội, thì ngay cả khi chúng gây ra những thiệt hại nhất định nào đó, về khách quan, các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ, thì cũng không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội (theo quan hệ của giai cấp thống trị). Chẳng hạn, những hành vi được thực hiện trong trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết v..v… chỉ có thể nói đến tính chát nguy hiểm cho xã hội khi hành vi đó có lỗi, lỗi là phương diện chủ quan của tội phạm. Do đó không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mọi hành vi nào nếu không xác định được yếu tố có lỗi.

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự thông qua chế tài hình sự nhằm mục đích: trừng trị, phòng ngừa tội phạm và giáo dục người phạm tội. Tuy nhiên, mục đích này chỉ có thể đạt được nếu người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức. có khả năng kiểm soát hành vi của mình - tức là có năng lực trách nhiệm hình sự. Năng lực trách nhiệm hình sự ở 1 mức độ nào đó còn phụ thuộc vào độ tuổi (mức độ phát triển về tâm – sinh học của con người) đối với những người không có khả năng nhận thức hành vi, hoặc khả năng kiểm soát hành vi của mình vì những lý do nhất định, thì việc áp dụng chế tài hình sự là vô nghĩa, không đạt mục đích. Vì thế, những dấu hiệu về chủ thể cũgn không thể thiếu được trong chế tài tội phạm.

Một hành vi hội đủ những dấu hiệu trên sẽ bị coi là tội phạm khi và chỉ khi các dấu hiệu này được quy định cụ thể trong bộ luật hình sự. Điều đó có nghĩa là chỉ những yếu tố cấu thành tội phạm được bộ luật hình sự quy định mới là cơ sở của trách nhiệm hình sự. Luật hình sự của nước ta khẳng định 1 cách dứt khoát việc bác bỏ nguyên tắc tương tự và quy định nguyên tắc :”không có tội và không có hình phạt, nếu luật hình sự không quy định”. Theo nguyên tắc này, thì tội phạm và các khả năng phảp lý khác của tội phạm đều phải được luật hình sự quy định.

Tóm lại, cơ sở duy nhất của luật hình sự là cấu thành tội phạm với mỗi dấu hiệu của nó mà bộ luật hình sự quy định.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro