Untitled part

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Trong hành trình tìm lại cội nguồn văn hóa các Việt tộc, đã có nhiều nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng như trong nước, ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ truyền thuyết đến các Thần tích, Tộc phả được phối kiểm bởi ngành Khảo cổ học, Khảo Tiền sử, Nhân chủng học, Cổ nhân học, Dân tộc và Ngôn ngữ học được phối hợp kiểm chứng bởi kết quả phân tích cấu trúc phân tử di truyền DNA của các tộc người trong khu vực đủ rộng tại châu Ấ cho phép các nghiên cứu xác định tính hiện thực của cộng đồng Bách Việt (Người Việt hiện nay là sự kết hợp của tộc Âu Việt và Lạc Việt). Khái niệm Bách Việt cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau: Thí Dụ Theo Từ Hải, danh xưng này là tiếng để chỉ "chỗ hỗn tạp gồm bảy tám ngàn dặm của trăm giống Việt từ Giao Chỉ đến Cối Khê, mỗi xứ đều có giòng họ riêng"; hoặc Ngô Thì Sỹ "Xét theo thiên Vũ Cống, nước Việt ở về phía nam đất Dương Châu. Theo sách Thiên Quan, từ sao Đẩu mười một độ qua sao Khiên Ngưu đến sao Chức Nữ bảy độ là tinh kỷ. Kể về sao thì ở về ngôi sửu, cùng một tinh phận với nước Ngô. Cõi nam là Việt môn, có rất nhiều nước như Âu Việt, Mân Việt, Lạc Việt, cho nên gọi là Bách Việt. Bởi vì miền này ở phía nam Dương Châu, nên lại gọi là Nam Việt. Vùng đất từ núi Ngũ Lĩnh xuống phía nam thuộc về Nam Việt"; hoặc Đào Duy Anh thêm một số địa điểm "U Việt ở Chiết Giang, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông, Lạc Việt ở An Nam" ;Gần đây, Lăng Thuần Thanh (Ling Shun Sheng), giáo sư đại học Đài Loan, còn ghi thêm một vùng nữa cho dân Bách Việt, đó là tỉnh Hồ Nam, nơi trước kia vào thế kỷ 3 trước Công nguyên, Tam Lư Đại Phu nước Sở là Khuất Nguyên đã bị đầy tới. Trong khi bị đầy, Khuất Nguyên đã phóng tác ra Cửu Ca (trong bộ Sở từ), và theo họ Lăng, nếu xét kỹ Cửu ca thì người ta sẽ nhận ra những hình ảnh mô tả các cuộc tế lễ tại địa phương này giống hệt hình ảnh đã được vẽ trên trống đồng Đông Sơn của dân Lạc Việt. Ông Lăng cũng chủ trương rằng "trước kia trung tâm đồng bằng Dương tử là nơi cư ngụ của giống người Indonesia mà sử sách Trung Hoa gọi là Bách Việt hay Lạc Việt."

Như vậy khái niệm Bách Việt được quan niệm khá mù mờ qua các giai đoạn và các nhà nghiên cứu khác nhau.Khái niệm Bách Việt được dùng ở đây để chỉ các cộng đồng người có địa bàn cư trú rất rộng lớn, gồm toàn bộ lưu vực phía Nam sông Hoàng Hà, tới sông Dương Tử, trải dài hết khu vực Đông Dương đến các quần đảo trên Thái Bình Dương. Do tính chất quan trọng và có phần nhậy cảm của vấn đề, bài viết ngằn này chỉ là những tóm tắt các kết luận của một số công trình nghiên cứu của các học giả Trung Quốc và các nhànghiên cứu khác và tổ chức khoa học trên thế giới.

Trước hết có vài vấn đề sử quan được coi như có tính chất tiền đề cho việc theo dõi: Sau sự bắt đầu như nhau từ xuất phát điểm là săn bắt hái lượm, các tộc người chia thành hai nhánh văn hóa là nông nghiệp và du mục.

Sự Phânbiệt giữa Văn hoá Nông nghiệp và Văn minh Du mục như sau:

-Nông nghiệp là cuộc cách mạng lớn nhất của con người đã xảy ra cách đây hàng chục ngàn năm, nó biến đổi toàn bộ đời sống và đưa ra một cách thức tồn tại mới, khác hẳn trước: lấy việc ưa thích nghệ thuật và đời sống dễ dãi thanh bình thế vào đời sống cam go và hiếu chiến ngày xưa. Đặc trưng của nền văn minh Nông nghiệp là: Tổ chức xã hội theo lối Thôn Làng, rồi đến Liên làng , Thờ Tổ tiên , Ðịa vị phụ nữ cao, Khi múa đeo lông chim, Xâm mình , Cài áo bên trái ( tứ Di tả nhậm ) Huyền thoại mang nét lưỡng hợp ( dual unit ). Văn hoá Nông nghiệp giữ phần đóng góp trội hơn trong lịch sử nhân loại.

-Nền văn minh du mục gồm mấy điểm khác biệt sau: Có vua và nhà nước; Quân đội lớn và chuyênnghiệp; Thành thị xây tường lũy bao quanh ; Pháp hình; Nghệ thuật đồ sộ, táchkhỏi vật dụng: cung điện lớn lao, mồ mả đồ sộ, có Chữ viết ,Xe ngựa . . .

Do đó mà đã thành một thứ định luật trong lịch sử là Du mục thắng Nông nghiệp để rồi bị Nông nghiệp cải hóa, trở nên văn minh thuần phục, lúc ấy lại bị Du mục đợt mới đánh quỵ Ðó là một sự kiện xẩy ra thường xuyên trong mọi nền văn minh, mọi thời đại: Người Doriens đuổi người Mycéens. Người Hyksos đuổi dân Ai Cập. Người Cro-magnon đuổi người Néanderthal... khắp trên thế giới đâu đâu văn hóa nông nghiệp cũng bị văn minh du mục tiêu diệt.

Những năm gần các nghiên cứu về Việt tộc và Hán tộc của các nghà nghiên cứu trên thế giới đem lại những kết quả bất ngờ.

Kết quả của khoa Phân tích Di truyền hoàn toàn phù hợp với thư tịch cổ Trung Hoa, Khoa Khảo cổ học, Nhân chủng học, Khảo tiền sử. Luận chứng khoa học mới nhất có tính thuyết phục nhất, một lần nữa khẳng định tộc Việt và Hán tộc là 2 tộc người khác nhau. Việt tộc có yếu tố đột biến di truyền đặc biệt của châu Á trong khi Hán tộc không có yếu tố này. Đồng thời xác định địa bàn cư trú của tộc người Malaynesian tức Malayo-Viets (Bách Việt) trải dài từ rặng Tần Lĩnh, hạ lưu sông Hoàng Hà ở Trung nguyên trải dài xuống tận vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo. Địa bàn cư trú của Việt tộc phía Bắc tới lưu vực phía Nam sông Hoàng Hà, phía Tây giáp Tây Tạng, Đông giáp Nam Hải, Nam xuống tận Bắc Trung Việt, chính là cương giới của nước Văn Lang xưa của tộc Việt.

Các nhà khoa học của Viện Pháp Á gồm bác sĩ Trần Đại Sỹ, giáo sư Tarentino người Ý và giáo sư sinh vật học người Pháp Varcilla Pascale đã ứng dụng hệ thống DNA là hệ thống sinh học mới nhất cho chúng ta kết quả có tính thuyết phục nhất. Các nhà khoa học đã khảo sát y phục, mồ mả, ră ng xương trong các ngôi mộ cổ qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất. Sau đó dùng hệ thống DNA kiểm những bộ xương, đồng thời kiểm máu của 35 dòng họ tại Hoa Nam và Việt Nam rồi so sánh với những dòng họ khác tại Hoa Bắc đã kết luận:
1. Cư dân Hoa Nam, từ miền Nam Trường Giang xuống tới miền Trung Việt Nam, Lào,Thái đều có cùng một huyết thống, một chủng tộc.
2. Cư dân này hoàn toàn khác biệt với cư dân Hán ở Hoa Bắc. Kết quả của những công trình khoa học có ý nghĩa lịch sử đã xác định vùng Đông Nam Á trải dài từ lưu vực song Dương Tử xuống tới lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long mà đồng bằng châu thổ song Hồng là trung tâm nơi phát tích của nền văn minh Hòa Bình của cư dân Malaysian.
Năm 1998, giáo sư J.Y. Chu và 13 đồng nghiệp ở Đại học Texas đã phân tích 15-30 mẫu "Vi vệ tinh" DNA (microsatelltes) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á gồm 2 nhóm thổ dân châu Mỹ, một nhóm thổ dân châu Úc và một thuộc thổ dân Tân Guinea, 4 nhóm dân da trắng Caucasian và 3 nhóm dân Phi Châu. Kết qủa của công trình nghiên cứu bằng phương pháp phân tích thống kê có tên là "Phân tích chủng loại" (Phylogetic Analysis). Nhà bác học Chu và 13 đồng nghiệp khác tại đại học Texas Hoa Kỳ và các trường đại học và viện nghiên cứu lớn nhất ở Trung Quốc đã công bố một công trình thành công về di truyền học mang tên "Genetic Relationship of Population in China" được đăng trong Tạp chí Hàn lâm viện Khoa học Quốc gia của Hoa Kỳ (The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 năm 1998) như sau:
1. Hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi Châu và các dân khác không thuộc Phi Châu".
2. Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á và Người Trung Quốc ở phía Bắc TQ có cấu trúc di truyền khác với người Trung Quốc ở phía NamTQ".
Năm 2001, giáo sư Lâm Mã Lý một nhà di truyền học công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí khoa học "Hệ thống miễn nhiễm Human Leucocytes Antigen HLA ở nhiễm sắc thể 6 (chromosoms qua máu dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ nhiều nước kết hợp được trong tổ hoạt động quốc tế về HLA năm 1998", giáo sư Lý kết luận: "Người Mân Nam Hoklo và Hakka rất gần vói người Việt, Thái và các tộc người Mongoloid Nam Á. Người Đài Loan thuộc dân tộc Mân Việt trong đại chủng Bách Việt hoàn toàn khác với Hán tộc".
Đặc biệt, các công trình nghiên cứu mới nhất của các nhà nhân chủng về cội nguồn phát tích của cư dân vùng Đông Nam Á đã làm sáng tỏ một sự thật lịch sử là tất cả cư dân Đông Nam Á đều có chung một cội nguồn chủng tộc.
Giáo sư Douglas C. Wallace ở đại học Emory, Atlanta và Georgia đã phát hiện một đột biến di truyền đặc biệt cho lục địa châu Á. Đó là sự thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII và TRNALYS).
Nhà nhân chủng học Tréjaut đã nghiên cứu về thổ dân Đài Loan, dân Đông Nam Á và dân Đa Đảo đã công bố một sự thật làm đảo lộn mọi nhân định từ trước đến nay về vấn để này:
1. Thổ dân Đài Loan đã định cư trên 15 ngàn năm.
2. Thổ dân Đài Loan cũng trải qua 3 lần đột biến đặc biệt như dân Mã Lai, dân Trung Hoa lục địa không có 3 lần đột biến này.
3. Yếu tố mtDNA B có ở vùng Đông và Đông Nam Eurasia, thổ dân châu Mỹ và dân Đa Đảo.
4. Nhà nhân chủng Melton và Redd tìm thấy cư dân Đa Đảo có một tỷ lệ cao về sự thất thoát của cặp căn bản số 9 ở hai thể di truyền COII/ TRNA.
Giáo sư Christian Pelzes chuyên nghiên cứu về Đông Nam Á học ở đại học Hawaii đã nhận định rằng trong các tiểu bang và các nền văn hóa của xã hội đa văn hóa Hoa Kỳ thì quần đảo Hawaii có quan hệ thân thuộc nhất với Việt Nam. Nhà nghiên cứu Bob Krauss đã so sánh Hawaii với Việt Nam trên các phương diện địa lý và dân tộc đã tìm ra rất nhiều điểm tương đồng và các chứng liệu cổ sử học, nhân chủng học, ngôn ngữ tỷ hiệu và nhất là Mitochondrial DNA Haloptype B cũng như sự thất thoát của các cặp cơ bản số 9 giữa hai thể di truyền CO II tRNA LYS chứng minh dân Đa Đảo (Polynesian) là hậu duệ của dân Bách Việt.
Dựa trên những công trình nghiên cứu khoa học thuyết phục, tạp chí Science Progress đã công bố kết qủa xác định thổ dân Đông Nam Á, thổ dân Đa Đảo và thổ dân châu Mỹ có cùng một ngọn nguồn phát tích, cùng chung một nền văn hoá Lapita (1500-800TC) với đồ gốm thẩm mỹ độc đáo. Hiện ở Trung tâm văn hoá Đa Đảo ở Hawai còn trưng bày một mẫu thuyền độc mộc đục khoét bọng cây làm thuyền di chuyển, khi ra biển thì ghép 2 thuyền độc mộc lại tạo thế thăng bằng trên mặt biển.
Tháng 3 năm 2007, Hàn Lâm viện Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (Proceeding of the National Academy of Science,USA) đã công bố công trình của các nhà nhân chủng thuộc đại học Durham và Oxford Anh Quốc nghiên cứu mtDNA của heo và dạng răng heo trên toàn vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo đã đi tới kết luận: "Nghiên cứu mới về DNA của heo đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng Thái Bình Dương và người Việt cổ (Bách Việt) là cư dân đầu tiên định cư trên các hải đảo Đông Nam Á rồi tới New Guinea, Hawai và Polynesia thuộc Pháp. Họ mang theo kỹ thuật làm thuyền độc mộc. Nghiên cứu mới về DNA heo đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng Thái Bình Dương và cho thấy hầu hết cư dân trong vùng có nguồn gốc từ Việt Nam.
Nhà nhân chủng Ballinger và đồng nghiệp đã nghiên cứu mtDNA của 7 dân tộc Đông Nam Á đã kết luận thuộc chủng Mongoloid phương Nam mà Việt Nam là trung tâm của mtDNA từ đó lan toả ra khắp vùng Thái Bình Dương".
Sự thật lịch sừ này đã được Khoa Đại Dương học và khảo cổ học đã chứng minh rằng người cổ Hoà Bình- Hoabinhian- do nạn biển tiến cách nay khoảng 8.500 năm đã tiến lên vùng núi cao Hòa Bình, Bắc Sơn và ngược lên hướng Tây Bắc. Khi mực nước biển dâng lên cao, cư dân khắp các nơi dồn về vùng cao nên đã tập trung nhiều phát kiến để hình thành nền văn hóa Hòa Bình, một nền văn hóa cổ đại tinh hoa của nhân loại. Mực nước dâng cao dần khiến cư dân Hoabinhian mà chúng tôi cho là những người Tiền-Việt Protoviets ở lưu vực 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long phài thiên cư theo hướng Tây Bắc lên miền cao sơn nguyên giữa 2 dãy núi Hi Mã Lạp sơn và Côn Luân. Họ mang theo đặc trưng của văn hoá Hoà Bình lên địa bàn mới vùng cao nguyên giữa hai rặng núi cao nhất là Hi Mã Lạp Sơn và cổ nhất là Côn Luân ở Tây Bắc và vùng núi cao Thái Sơn ở Sơn Đông.
Khi mực nước biển hạ xuống, những vùng biển nước mênh mông nước rút dần để lộ ra những vùng đất màu mỡ phì nhiêu. Một bộ phận của nhóm người này đã từ vùng cao nguyên Hi Mã Lạp sơn tiến xuống vùng đồng bằng, nước rút đến đâu từng đoàn người tiến tới đó để lập làng định cư khai phá đất đai. Chính sự kiện tiến về vùng sông nước này được truyền thuyết diễn tả qua việc Âu cơ cùng 50 con ở lại vùng cao, Lạc Long Quân dẫn 50 con xuống "Thủy Phủ" miền sông nước trong truyền thuyết Âu Việt và Lạc Việt. Hai Thạc sĩ sử địa người Pháp là J. Loubet và P. Gouron đã tìm ra địa danh Thủy Phủ chính là cảng Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên Phủ Trung Khánh TQ bây giờ. Hai bản đồ Pacific Ocean và Atlas 1949 ghi rõ là SUIFU=Thủy phủ. Thế là truyền thuyết từ chỗ u u đã trở nên minh minh chứ không còn u u minh minh như trước nữa.Từ truyền thuyết khởi nguyên dân tộc, đối chiếu với nguồn sách sử của Trung Quốc, kiểm chứng qua các công trình nghiên cứu Dân tộc học, Ngôn ngữ học, Văn hoá Khảo cổ, Khảo cổ học, Khảo Tiền sử, Đại dương học và kết q ủa phân tích cấu trúc mã di truyền mới nhất, thuyết phục nhất của các nhà Di Truyền học đã xác định Việt tộc hoàn toàn khác hẳn với Hán tộc. Người Việt có 1 tỷ lệ cao nhất về biến đổi di truyền trong dân tộc (Intrapopulatinal genetic divergence 0.236% và về Hinc II/ Hpal nên được xem là dân tộc cổ nhất Đông Nam Á.
Như vậy, cư dân Hoà Binh Hoabinhian đã phải thiên cư mỗi khi có nạn biển tiến mà 3 lần biển tiến cách đây khoảng 14 ngàn năm, 11.500 năm và 8.500 năm theo 2 hướng. Một nhánh theo hướng Đông Bắc qua cầu đất Béring vào Mỹ châu do nạn biển tiến cách đây khoảng 13.500 năm rồi trở thành thổ dân Bắc Mỹ.và nhánh khác theo hướng Nam xuống bán đảo Mallacca Mã Lai Malaysia) rồi vượt biển tới các hoang đảo sau này có tên là Nam Dương Indonesia, Phi Luật Tân (Philippine), Hawai, Đa Đảo, NiuZealand rồi sang tới California, Trung Mỹ và Nam Mỹ.
Việt Nam là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất có đủ 4 Haplotype chính gồm A, B, C, D và không có cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII/ tRNA.LYS mà các nhà di truyền học gọi là "Đột biến đặc biệt Á Châu= "9bp deletation bettween CO I I tRNA LYS genes" bp= base pair). Cư dân Nam Trung Hoa tức người Trung Quốc ở Hoa Nam, Đài Loan, Cư dân Đông Nam Á gồm Miến Điện, Miên, Lào, Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật tân, Brunei và Đông Timor, thổ dân Đa Đảo Polynesian, thổ dân Hawai, thổ dân Maya ở Trung và Nam Mỹ, Pima ở Bắc châu Mỹ có cùng Halogroup A, B, C, D và Thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII /tRNALYS mà các nhà Di truyền học gọi là Đột biến châu Á Mitochondrial DNA Á Châu (Asian Mitochondrial DNA) của Việt tộc. Thực tế này xác định Việt tộc là một đại chủng lớn nhất của nhân loại và Việt nam là một bộ phận của Việt tộc có lịch sử lâu đời nhất của nhân loại.

Ngay trước thềm năm 2012, tại Quảng Tây Trung Quốc đã phát hiện được chữ của người Lạc Việt. Theo tin của Lí nhĩ Chân đăng trên website news.xinhuanet.com : Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt - tỉnh Quảng Tây truyền phát tin tức là người Lạc Việt ở Trung Quốc đã sáng tạo chữ viết vào bốn nghìn năm trước, phá bỏ quan niệm tổ tiên của dân tộc Tráng là người Lạc Việt không có chữ viết. Phát hiện chữ viết của người Lạc Việt lần này sẽ viết lại lịch sử chữ viết ở Trung Quốc, chứng minh văn hóa lạc Việt là một trong những nguồn gốc trọng yếu của văn hoa Trung Hoa.

Trước thời điểm này, giới sử học Trung Quốc đều cho rằng tổ tiên của dân tộc Tráng không có chữ viết. Hội trưởng Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt là Tạ Cầu giới thiệu: chuyên gia của Hội nghiên cứu đã thu tập một số lượng lớn chứng cứ chứng thực người Lạc Việt cổ sáng tạo chữ viết biểu ý vào bốn nghìn năm trước. Chữ viết Lạc Việt này có mầm mống vào thời đầu của thời đại đồ đá mới, hình thành vào thời kí đỉnh cao của 'văn hóa xẻng đá lớn' (4000-6000 năm trước), và chắc chắn có nguồn gốc sâu xa với chữ giáp cốt cổ cùng 'chữ Thủy' của dân tộc Thủy.

Tháng 10 năm nay, tại di chỉ cúng tế xẻng đá lớn Cảm Tang - thị trấn Mã Đầu - huyện Bình Quả - thành phố Bách Sắc, chuyên gia của Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt - tỉnh Quảng Tây phát hiện mấy chục khối mảnh vỡ xẻng đá lớn và tấm đá có khắc đầy chữ viết cổ. Ngày 19 tháng 12, chuyên gia lại đi đến hiện trường tiến hành khảo sát. Nghiên cứu phát hiện, khối đá có chữ viết lớn nhất là dài 103 cm, rộng 55 cm, trên bề mặt khắc đầy mấy trăm tự phù, phần lớn là chữ cúng tế và lời chiêm bốc. Theo thống kê sơ qua, trên những phiến đá này có hơn 1000 tự phù.

Từ đây, có thể đưa ra suy đoán rằng: cho tới những thế kỷ cuối cùng trước Thiên chúa, tầng lớp ưu tú người Việt ở Đông Á, từ châu thổ Hoàng Hà tới sông Hồng đã sử dụng chữ vuông tượng hình, với mức độ hoàn chỉnh khác nhau. Vua quan và tầng lớp ưu tú ở Việt Nam đã dùng chữ tượng hình trong cúng tế, bói toán và thảo ra Luật của nước Việt. Khi xuống phương Nam, Triệu Đà nói tiếng Việt và viết chữ Việt. Khi dẹp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã Viện đã gặp ở đây Luật Việt viết bằng chữ vuông tượng hình. Bằng việc bắt hơn 300 gia đình quý tộc người Việt an trí ở Nam Dương Tử, y đã triệt hạ tầng lớp tinh hoa, xóa bỏ chữ viết của người Việt. Những thế hệ người Việt sau đó phải học chữ vuông lại từ đầu. Và chữ vuông lúc này được gọi là chữ Hán.

Nếu vậy, sau khi chứng minh "Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa" nay đã có đủ chứng cứ xác nhận "Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ Trung Hoa."

Tháng 9 năm 1998 B. Su, Y. Chu, J. Ly những tác giả người Hoa của Dự án Đa dạng di truyền người Hán (Chinese Human Genome Diversity Project) được thực hiện bằng tiền của Quỹ phát triển khoa học tự nhiên Trung Quốc đã công bố tư liệu: 70.000 năm trước, người hiện đại Homo Sapiens đã từ Trung Đông tới Việt Nam. Tại đây, hai đại chủng Mongoloid và Austrloid hoà huyết và sinh sôi nhanh. Khoảng 40.000 năm trước, người từ Đông Nam Á - mà sau này sách sử Trung Hoa gọi là Bách Việt - đi lên mở mang miền đất ngày nay có tên là Trung Quốc. Trong khoảng 40.000 năm sinh sống từ sông Hoàng Hà tới sông Dương Tử, người Bách Việt trong đó tộc Lạc Việt là chủ thể đã triển khai Văn hoá Hoà Bình, tạo dựng xã hội nông nghiệp lúa nước phát triển nhất thế giới. Trong thời gian dằng dặc ấy, người Bách Việt đã sáng tạo rìu đá cũ, những công cụ đá cuội mài, ra kinh Thi, kinh Dịch, đồ đồng... đã biết kết thừng, biết quan sát vết chân chim làm ra chữ viết! Vì vậy từ lâu nhiều người dự đoán, việc tìm ra chữ viết trên mai rùa hay đồ gốm là tất yếu. Việc phát hiện ra chữ trên mai rùa 9.000 năm ở Giả Hồ, bản văn trên bình gốm 12.000 năm ở Bán Pha là điều không thể khác. Từ bản văn Bán Pha, ta có thể tin là chữ viết có từ trước nữa!

Lịch sử cứ trôi đi như thế cho đến năm 2600 TCN, Hiên Viên Hoàng đế từ thảo nguyên Thiểm Tây, Cam Túc đưa quân tràn xuống chiếm đất của Viêm Việt (Bách Việt), mở ra cuộc hoà huyết và hoà nhập văn hoá vĩ đại giữa chủng Mongoloid phương Bắc và Bách Việt để tạo ra chủng mới là Mongoloid phương Nam, tổ tiên trực tiếp của người Hán và người Việt hôm nay.

Công trình nghiên cứu Ða dạng di truyền người Hán (Chinese Human Genome Diversity Project ) của nhóm nhà khoa học Trung Quốc và Mỹ do giáo sư Y. Chu chủ trì, được công bố cuối năm 1998 đã làm đảo lộn nhận thức của giới khoa học về nguồn gốc của người Ðông Á. Một số nhà nghiên cứu người Việt ở nước ngoài đã mau chóng chuyển tải thông tin này. Hai bài viết của luật sư Cung Ðình Thanh và giáo sư Nguyễn Văn Tuấn sống tại Úc là những khảo cứu có giá trị.

· Khi kết hợp giữa phát hiện mới của di truyền học với những kiến thức vốn có về nhân chủng học Ðông Nam Á như trên, vấn đề về thành phần nhân chủng của người tiền sử Ðông Nam Á trở nên rõ ràng:

· Ðặt chân tới Ðông Nam Á, hai đại chủng tiền sử Australoid và Mongoloid lai nhau tạo ra các chủng Indoneisen và Melanesien, Vedoid, Negritoid. Tài liệu từ thống kê sọ cổ cũng như di truyền học cho thấy ưu thế vượt trội tới mức lấn át của yếu tố Australoid trong thành phần dân cư Ðông Nam Á. Sau 10.000 năm là thời gian đủ cho họ tăng về số lượng, tràn khắp Ðông Nam Á lục địa. Do sự tăng nhân số mà nhu cầu di cư nảy sinh. Từ đây họ tỏa ra châu Úc, Newguenea cùng các hải đảo Ðông Nam Á.

· Khoảng 40.000 năm trước, nhờ băng hà tan, thời tiết ấm lên, người Ðông Nam Á đi lên khai phá lục địa Trung Hoa rồi tiếp đó vượt eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ. Suốt trong thời gian này không hề có bất kỳ đột biến (mutation) nào mà chỉ có hòa huyết tự nhiên giữa những thành phần người có mặt ở Ðông Nam Á.

· Có thể khẳng định: suốt thời gian này, thành phần chủ yếu, đa số tuyệt đối trong dân cư Ðông Á, châu Úc là Australoid với những chủng Indonesien, Melanesien, Vedoid.

· Các nghiên cứu cho rằng, trong điều kiện tự nhiên và xã hội lúc đó, người tiền sử tới Ðông Nam Á một cách riêng biệt theo từng nhóm chủng tộc khác nhau, trong hành trình dài dằng dặc. Chỉ khi tụ lại trên đồng bằng Sundaland, Nanhailand và miền Trung miền Bắc Việt Nam, hai đại chủng người tiền sử mới có sự chung đụng và lai giống (cố nhiên, không loại trừ sự lai giống ngẫu nhiên trên đường đi). Kết quả là hình thành một cộng đồng lai chiếm tuyệt đại đa số cư dân. Ðấy là bức tranh chung. Nhưng đó không phải là tất cả mà bên cạnh còn những ngoại lệ: Có thể một số nhóm Mongoloid hay Australoid suốt trên đường thiên di không hề có sự gặp gỡ nào với chủng người khác. Tới Ðông Nam Á, họ cứ sống biệt lập như vậy. Một vài nhóm Mongoloid vượt lên tây bắc Ðông Nam Á sau đó theo đường Ba Thục lên định cư ở vùng tây bắc Trung Quốc. Ở đây họ sống cách biệt với phần còn lại của nhân loại và hình thành chủng Mongoloid phương Bắc. Suốt trong nhiều ngàn năm, họ từ săn bắt rồi chuyển sang phương thức du mục trên thảo nguyên Thiểm Tây, Cam Túc và nước Mông Cổ.

· Cuộc thiên di của những nhóm người biệt lập như trên được nhiều học giả xác nhận.

· Gs. Ranjan Deka Ðại học Cincinnati Hoa Kỳ, một trong những người tham gia Dự án Ða dạng di truyền người Hán công bố: "Những quần thể từ Ðông Á tới luôn luôn bắt nguồn từ một dòng riêng rẽ, điều này tạo nên nguồn gốc riêng biệt của những quần thể đó. Sự kiện này cũng tìm được dẫn chứng trong khảo cổ học: Ðiều khó khăn nhất là rất ít sọ người được tìm ra ở đấy, dù có di chỉ đồ đá ở Mông Cổ (văn hóa Hetao) và ở bắc Trung Hoa vào hậu kỳ đá cũ. Ngoài ba sọ thuộc lớp khảo cổ trên ở trong hang Zhoukoudian xem như thuộc chủng tiền (proto) Mongoloid, người ta chỉ tìm được sọ Liujiang (Quảng Tây). Sọ này có tuổi định khá trẻ (10.000 năm trước), nhưng di vật trong Bailiandong (Bạch Liên động) gần đó lại có tuổi 30.000 năm trước. Dù rất hiếm hoi nhưng những dấu vết trên cho thấy: người Mongoloid từ Ðông Nam Á theo hành lang phía tây lên tây bắc Trung Quốc. Việc nghèo nàn di vật cũng nói lên một điều: nhóm người này tuy đi làm nhiều đợt nhưng vì số lượng không nhiều nên chỉ tạo được quần thể thiểu số Mongoloid phương Bắc.

· Quá trình Mongoloid hóa chỉ xảy ra vào thiên niên kỷ thứ III TCN khi người Hán Mông Cổ vượt Hoàng Hà xuống chiếm đất của người Bách Việt. Chính người da vàng từ Tây Bắc xuống đã lai với người da sậm màu tại chỗ tạo thành chủng Mongoloid phương nam. Ðó là quá trình lai tạo chuyển hóa lâu dài mà dấu vết còn đậm ở đời nhà Thương và sau nữa: Thang, ông vua đầu tiên của Trung Hoa được mô tả là có nước da đen bóng. Triết gia nổi tiếng Lão tử cũng có màu da đen.

· Khoảng 2800 năm TCN, khi thấy những người da ngăm đen, tóc xoăn trồng lúa nước phía Nam sông Hoàng Hà có cuộc sống sung túc, ý thức thực dân trong đầu những người Hán Mông Cổ nổi lên. Họ kiên trì cuộc lấn chiếm với vó ngựa và cung nỏ, dáo mác. Khoảng 2600 năm TCN, bằng chiến dịch lớn Trác Lộc trên sông Hoàng Hà, người Hán Mông Cổ toàn thắng, tràn xuống vùng đất vừa chiếm được. Cuộc gặp gỡ này phải chăng là định mệnh đã tạo ra một chủng người mới trên địa bàn Ðông Á: chủng Mongoloid phương Nam. Phải chăng cũng là định mệnh việc một nhóm người sống tách biệt với bầy đoàn ở tận vùng Tây Bắc xa vời đã giữ gìn vốn genes Mongoloid để khi gặp những người Indonesien, Melamesien, vedoid từ phương Nam đi lên thì xảy ra phản ứng dây chuyền của cuộc hòa huyết vĩ đại tạo nên tuyệt đại dân số Ðông Á hôm nay? Lịch sử chứng kiến một cuộc lội ngược dòng ngoạn mục: trên toàn địa bàn Ðông Á có một quá trình Mongoloid hóa mạnh mẽ. Thành phần Australoid đang là chủ thể suốt 50.000 năm thì trong ba thiên niên kỷ cuối cùng gần như biến mất khỏi địa bàn Ðông Á, nhường chỗ cho thành phần Mongoloid!

· Giáo sư Nguyễn Ðình Khoa của Ðại họcTổng hợp Hà Nội trình bày trong Nhân chủng học Ðông Nam Á: "Thời đại Ðá Mới, cư dân trên lãnh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó có Indonesien và Melanesien là hai thành phần chủ yếu... Sang thời Ðồng-sắt, người Mongoloid đã là thành phần chủ thể trong khối cư dân Việt Nam, người Australoid mất dần đi trên đất nước này, hoặc do thiên cư hoặc do đồng hóa. Ðó cũng chính là bức tranh toàn cảnh dân cư Ðông Nam Á hiện đại.

· Vấn đề về nguồn gốc người Việt nói riêng và người Ðông Á nói chung đã được xác định.

· Bách Việt trong giai đoạnTần Hán

· Vào thời này, Thục Phán, thủ lãnh Âu Việt, đã thâu gồm được cả Lạc Việt và hợp tên hai nhóm Việt này lại là Âu Lạc. Sau khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất được Trung Hoa, Tần bèn sai Đồ Thư mang quân đi chinh phục Bách Việt (214 trước Công nguyên). Trong cuộc giao tranh với quân Tần, dân Bách Việt ở Hoa Nam ngày nay đã áp dụng lối đánh du kích dai dẳng, tiêu hao dần quân địch và đã giết được tướng Đồ Thư trong một trận phục kích. Tuy nhiên về sau quân Tần vẫn thắng vì đông đảo và có tổ chức hơn. Người Bách Việt bị bại trận bèn thiên di đi nơi khác hoặc lui vào ẩn trong miền rừng núi. Chỉ có Âu Lạc ở miền cực nam nên tránh được nạn binh đao. Nam Việt (tức Việt Nam Hải) bị trực tiếp cai trị và cải là quận Nam Hải. Sau quan uý quận Nam Hải là Triệu Đà thôn tính được Âu Lạc và nhập chung cả ba xứ Việt cũ thành đế quốc Nam Việt. Lúc Đế Quốc Nam Việt thành hình thì phần lớn các xứ Việt nhỏ miền Bắc đã suy sụp, tuy nhiên chắc chắn còn lại hai nước Mân Việt và Đông Việt. Nhưng chẳng bao lâu sau, năm 135 trước Công nguyên, Mân Việt bị nhà Hán đánh chiếm, năm 111 trước Công nguyên tới lượt Nam Việt, còn Đông Việt cũng chỉ tồn tại được ít năm sau là bị thôn tính nốt (do cùng tướng Dương Bộc, người đã đánh chiếm Nam Việt).

· Như vậy sang đầu thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, không còn quốc gia Việt nào tồn tại, nhưng các tổ hợp Việt nhỏ vẫn sống rải rác đầy dẫy ở Hoa Nam và vùng Đông Nam Á. Nhiều tổ hợp vẫn tiếp tục đấu tranh và không bị Hán thôn tính. Bộ tộc Việt ở quận Chu Nhai thuộc Hải Nam đã bền vững chống Hán suốt nửa thế kỷ để giữ nền tự trị, cho đến năm 46 trước Công nguyên thì nhà Hán phải bỏ hẳn ý định xâm chiếm vùng này. Theo Hán Thư, Giả Quyên Chi đã tâu với vua Hán xin bỏ cuộc chinh phục vì "dân Lạc Việt ở quận Chu Nhai vốn còn man rợ không khác loài cầm thú, cha con quen tắm cùng sông, quen uống bằng mũi, do đó không đáng đặt đất này thành quận huyện." Kẻ thất trận nào mà chẳng nại ra được lý do chính đáng để lui quân!

· Kể từ thế kỷ 1 (sau Công nguyên), ngoài những nhóm đã thiên di xuống Đông Nam Á, các phần tử Việt còn lại ở vùng Dương Tử lần lần bị đồng hoá, còn các bộ tộc ở đông nam Trung Hoa thì bị người Hán di cư xuống chiếm mất các bình nguyên màu mỡ và đẩy vào những miền đất cằn cỗi.

· Ở tây nam Trung Hoa, tộc Lý tức Thái đã quy tụ thành Vương quốc Đại Lý. Còn ở Đông Nam Á, sau Lạc Việt hai vương quốc khác cũng lần lượt thành hình trong thế kỷ đầu Công nguyên là Phù Nam ở miền nam lục địa và Lâm Ấp (sau đổi là Chiêm Thành) ở miền Trung Việt Nam ngày nay.

· Tài liệu tham khảo

· 1.Đào Duy Anh, Việt Nam Văn Hoá Sử Cương, Huế; Quan Hải Tùng Thư, 1938.

· 2. Bài thuyết trình New Interpretation of the Decoration Designs on the Bronze Drums of Southeast Asia của Lăng Thuần Thanh tại Hội Nghị Tiền Sử Viễn Đông (Far Eastern Prehistory Congress) lần thứ tư tại Phi Luật Tân năm 1953.

· 3.Kim Định: Việt lý tố nguyên .An Tiêm SG.1970

· 4. Bowen, Hui Li, Daru Lu & đồng nghiệp: Genetic evidence supports demic diffusion of Han culture. Nature /vol 431/ 16 September 2004

· 5.Đại Việt sử ký toàn thư.

· 6. Ngô Thời Sỹ, Việt Sử Tiêu Án (bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu), Sài gòn: Văn Hoá Á Châu, 1960, trang 9.

· 7.Bài thuyết trình New Interpretation of the Decoration Designs on the Bronze Drums of Southeast Asia của Lăng Thuần Thanh tại Hội Nghị Tiền Sử Viễn Đông (Far Eastern Prehistory Congress) lần thứ tư tại Phi Luật Tân năm 1953.

· 8. Đặng Nghiêm Vạn, tập san Nghiên Cứu Lịch Sử, số 78, Hà Nội, 1965.

· 9. Lê Trọng Khánh. Phát hiện hệ thống chữ Việt cổ thuộc loại hình Khoa đẩu (NXB Từ điển bách khoa, 2010)

· 10. Hà Văn Thùy . Bản thông điệp 12000 năm của tổ tiên người Việt. – 11.水族端节:

· 12.Earliest writing'found in China. News.bbc.co.uk/1/hi/sci/tech/454594.stm

· 13.The bone age flute'. News.bbc.co.uk/2/hi/science/nature/2956925.stm

· 14. Archaeology of Writing .

· 15. J.Y. Chu & đồng nghiệp: Genetic relationship of population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 n.

· 16. Ts Nguyễn Thị Thanh- Việt Nam trung tâm nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá xưa nhất thế giới - Việtcatholic 30.9. 2001.

· 17. Vương Đồng Linh: Trung quốc dân tộc học & Chu Cốc Thành: Trung Quốc thông sử. Dẫn theo Kim Định.

· 18. Nguyễn Đình Khoa: Nhân chủng học Đông Nam ÁĐH&THCN.H.1983

· 19. J.Y. Chu & đồng nghiệp: Genetic relationship of population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 số 95.

· 20. Bing Su & đồng nghiệp: Y-chromosome evidence for a northward migration of modern human into Eastern Asia during the last Ice Age. American Jurnal of Human Genetics 1999.

· 21. W. Kim & đồng nghiệp : Y-chromosomal DNA variation in East Asia populations and its potential for inferring the peopling of Korea. Jurnal of Human Genetic.2000. số 45.

· 22. S.W. Ballinger& đồng nghiệp: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992 số 130.

· 23. Jin Li-Los Angeles Times 29.9.1998.

· 24. Peter Savolainen, Ya ping Zhang... Genetic Evidence for an East Asia origin of Dometic Dogs. Science Nov 22 2002;

· 25. Stephen Oppenheimer: Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia- Nxb Phoenix London 1998.

· 26. Vũ Hữu San Vịnh Bắc Việt tái bản 2004. Tripod.com

· 27. Encyclope'dia d'Archeologie.

· 28.. C. Sauer: Agricultural Origins and Dispersals. Newyork 1952

· 29. W.G Solheim II: Southeast Asia and the West-Đông Nam Á và phương Tây- Science 157

· 30. Wilheim G. Solheim H. Ph. D: New light on Forgotten Past. National Geographic Vol 1339 n 3 tháng 3 năm 1971.

· 31 . Đại Việt sử ký toàn thư.

· 32. Sử ký Tư Mã Thiên Nxb Văn học H.1988 tr.743.

· 33. Phủ Biên tạp lục Nxb KHXH. H. 1977 tr 31

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro