nam hoa kinh2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

IV. HỌC THUYẾT CỦA TRANG TỬ:

A. Đạo và Đức:

Triết học của Trang tử cùng với Lão tử có nhiều điểm không đồng, nhưng rất đồng về quan niệm Đạo và Đức.

Bàn về Đạo, sách Trang tử ở thiên Trí- Bắc- Du có giải rất rõ ràng:

" Đông- Quách- Tử hỏi Trang tử:

Cái gọi là Đạo ở đâu?

Không có chỗ nào là không có Nó.

Xin chỉ ra mới được!

Trong con kiến.

Thấp hơn nữa!

Trong cọng cỏ.

Thấp hơn nữa!

Trong miếng sành vỡ.

Thấp hơn nữa!

Trong cục phân.

Đông- Quách- Tử không hỏi nữa.

Trang tử nói:" Lời hỏi của ông, không đi đến đâu cả. Nó giống cách người giám thị dùng để trị dùng để trị giá heo: mỗi lần đạp trên lưng heo là mỗi lần ấn mạnh cẳng xuống thêm. Ông đừng có chỉ hẳn vào một vật nào có Nó, vì không có vật nào là không có Nó. Đạo là thế, mà lời nói cao cả cũng thế. Như ba tiếng nầy:" đều", " cùng", " cả thảy" tuy danh từ gọi có khác, mà tựu trung đều hàm cùng một ý."

***

Đạo là Nguyên- Lý tuyệt đối sinh ra Trời Đất Vạn- vật. Cho nên hễ có Vật, tức là có Đạo, nghĩa là" không có chỗ nào là không có Đạo".

***

Thiên Đại- Tông- Sư nói:" Kìa Đạo thì có tình, có tin, không làm, không hiện, có thể nhận được mà không thể thấy được. Đạo thì tự bản tự căn, khi chưa có Trời Đất vốn đã tồn tại từ xưa. Nó làm ra các đấng thiêng liêng qủy thần, cùng Thượng đế; Nó sinh ra Trời, Đất; Nó ở trước Thái Cực mà không xem là cao, ở dưới lục- cực mà chẳng thấy là sâu; Nó sinh trước Trời Đất mà chẳng gọi là lâu, dài hơn Thượng Cổ mà chẳng gọi là già". (Phù Đạo hữu tình, hữu tín, vô vi vô hình; khả truyền nhi bất khả thụ, khả đắc nhi bất khả kiến; tự bản tự căn, vị hữu thiên địa, tự cổ dĩ cố tồn; thần quỷ thần đề, sinh thiên sinh địa, tại thái cực chi tiên nhi bất vi cao, tại lục cực nhi hạ chi bất vi thâm, tiên thiên địa sinh nhi bất vi cửu, trường ứ thượng cổ nhi bất vi lão)

Đạo là Nguyên- lý sinh ra Trời Đất Vạn- Vật nên gọi là" tự bản tự căn", nghĩa là tự mình là gốc, là rễ của mình, chứ không phải do một gốc hay một rễ nào khác ngoài mình tạo ra. Đạo cũng là" vô thủy vô chung", " thường tồn bất biến" và vạn vật dựa vào đó mà sinh sinh không dừng vậy.

***

Đạo, như ta đã thấy, biểu- hiện nơi vạn sự vạn vật, bởi vậy, không sự vật nào là không có cái tính" tự sinh", " tự trưởng", " tự hủy", " tự diệt" của nó. Như thế, ta có thể nói rằng sự" tự sinh, tự trưởng, tự hủy, tự diệt" của vạn- sự vạn vật chính là những hành động" tự vi, tự hóa" của mỗi sự vật trong đời, mà ta cũng có thể gọi đó là" chỗ tác- vi của Đạo" mà không sai, vì" không có vật nào là không có Đạo" ở trong cả. Hai chữ" tự- hóa" của Trang, chính là thuyết" vô- vi nhi vô bất vi" của Lão tử.

***

Còn quan niệm về chữ Đức của Trang tử như thế nào?

Thiên Thiên- Địa có nói:" Thuở thái- sơ của Trời Đất thì đã có cái Vô. Cái Vô ấy không có tên, và là nơi phát sinh ra cái Một, nhưng cái Một ấy cũng chưa có hình. Khi mà vạn vật" được cái Một ấy (2) cái đó gọi là Đức". " Thái sơ hữu Vô, Vô hữu Vô danh. Nhất chi sở khởi, hữu Nhất nhi vị hình. Vật đắc dĩ sinh, vị chi Đức."

Trong câu" thái sơ hữu Vô", chữ Vô đây là chỉ về Đạo. Câu" nhất chi sở khởi" của Trang tử " Vô là chỗ phát sinh ra cái Một" thì đồng với câu" Đạo sinh Nhất" của Lão tử trong Đạo- Đức- Kinh. Còn Đức tức là chỗ mà "vật đắc dĩ sinh" (vật nhận được mà sống) . Cho nên mới nói" Đức là chỗ" tự đắc của con người". " Tự đắc" là tự mình đã được của Tạo Hóa, của Tự- nhiên, của Đạo (3) . Hay nói một cách khác: Đức là cái Đạo biểu hiện nơi mỗi người mỗi vật, là những năng khiếu tự nhiên, không vậy không được, của mọi sự vật trên đời.

Đạo và Đức, tuy danh từ dùng để gọi có khác, nhưng vẫn là một. Có kẻ đã ví Đạo như nước. Nước là sông, biển, ao, hồ... cũng như ở bầu tròn, ống thẳng, dù có hình thức động tịnh khác nhau, nhưng đâu đâu cũng là nước cả.

***

B. Thuyết Thiên- Quân:

Trang tử, trong thiên Tề- Vật- Luận, dùng hai chữ Thiên- Quân để chỉ cái tác dụng của Đạo, là có ý chỉ cho ta thấy nó là một thứ triết học biến động nghĩa là" vận hành bất tức"

" Quân" là cái bánh xe quay tròn mà người thợ nung dùng để chế tạo những đồ vật có hình tròn. Chữ" Thiên- Quân" lại có chỗ viết là có ý nói về sự quân- bình, tùy cái bánh xe lưu chuyển, vòng bán kính của bánh xe bao giờ cũng bằng nhau, tự nhiên luôn luôn vẫn quân bình. ở thiên Ngụ- Ngôn có nói:" Vạn vật đều là một giống cả, không cùng hình mà thay nhau, trước sau như những cái vòng tròn, không thể phân biệt luân loại. Nên gọi là Thiên- quân. Thiên- quân, là Thiên- Nghê". " Vạn vật giai chủng dã, dĩ bất đồng hình tương thiện thủy tốt nhược hoàn, mặc đắc kỳ luân. Thị vị Thiên- quân. Thiên- quân giả, Thiên- Nghê dã".

Thiên Thiên Địa lại nói:" Trời Đất tuy lớn, mà sự biến hóa đều quân bình cả" (Thiên địa tuy đại, kỳ hóa quân dã.)

Như thế thì, Thiên- quân của Trang tử là nói về sự đắp đổi nhau của các giống vật mà biến hóa, " đồng hình" biến làm" bất đồng hình". Nhưng ở đâu mà lại, rồi sẽ đi đến đâu, thời sau cùng cũng không biết đâu là manh mối. Sự biến hóa giống như cái bánh xe quay tròn, nên gọi là Thiên- quân.

***

C. Thuyết Vạn- Hóa:

Cứ theo phép ấy thì sự biến thiên của các giống vật đều không có mục đích, không có phương hướng... con đường đó của vạn sự vạn vật là một cái vòng tròn:" châu nhi phục thủy", chứ không phải là một con đường thẳng đi đến một mục tiêu nào. Trang tử không chủ trương Tiến- hóa, mà chủ trương Vạn hóa, hay là Tự-hóa.

Thiên Thu- Thủy nói:" Vạn- vật sinh ra, như đuổi như chạy; hễ động là có biến, không lúc nào mà không xê dịch. Sao lại như thế, mà sao lại chẳng như thế? ấy là vì cái lẽ" tự hóa" vậy! (Vật chi sinh giả, nhược sậu nhược tri, vô động nhi bất biến, vô thời nhi bất di, hà vi hồ, hà bất vi hồ. Phù cố tương tự hóa) .

Thiên Tại- Hựu nói:" Anh hãy chỉ cứ ngồi đây, không cần làm gì cả mà vạn vật tự hóa... vạn vật phồn thịnh, giống nào cũng trở lại nguồn gốc của mình. Vật nào cũng trở lại gốc của mình mà không biết". Trong câu văn này, quan trọng nhất là ở chữ" Phục".

ở thiên Thiên- Thụy trong sách Liệt- tử cũng có câu nói:" Tự sinh, tự hóa, tự có hình, tự có sắc, tự có tri, tự có lực, tự giảm, tự tăng". Thế là đều" tự nhiên nhi nhiên", " bất kỳ nhirn nhi nhiên", không có sự nhất định phải bảo tồn những hình thức cá biệt nào có ích, tiêu diệt những hình thức cá biệt nào có hại như cách tác dụng của luật Thiên- trạch (4) có mục đích, có phương hướng của thuyết Tiến- hóa Tây phương (5) .

Sở dĩ Trang tử không chủ trương Tiến- hóa, mà lại chủ trương Vạn- Hóa là vì theo sự nhận xét của ông, ông cho rằng không thể nào xét biết được lẽ chung thủy của Đạo, nghĩa là không thể nào biết được rằng Đạo bát đầu như thế nào, và sự cùng tận của nó như thế nào. Như vậy, thì làm thế nào mà nhận thấy được cái phương hướng của nó theo chiều nào mà chủ trương Tiến- hóa được? Tiến- hóa chỉ là một ức thuyết của Tạo- Hóa, trong khi sự thật Trời Đất không thể biết đâu là khởi điểm, đâu là cùng tận, mà chỉ là một cái" vòng tròn" (Thiên- Quân) .

Thiên Tắc- Dương nói:" Vạn vật có sống mà không thấy đâu là cái gốc của nó, có chỗ xuất ra mà không thấy đâu là cái cửa của nó". Lại nói:" Người xét Đạo, không theo cho đến chỗ đã phế, cũng không suy cho đến chỗ chưa khởi: hễ bàn đến nó là phải thôi đi. Ta xét cái gốc của nó, ta thấy nó đi đến vô cùng, ta cầu đến cái ngọn của nó, ta lại thấy nó không bao giờ đứt. Không cùng, không dứt, thì còn bàn nói vào đâu được nữa. Vật, thì cũng một lẽ đó".

ở thiên Sơn- Mộc cũng nói:" Hóa muôn vật mà không biết nó thay đổi như thế nào, thời biết nó bắt đầu ra làm sao, mà cùng tận ra làm sao?"

***

Đối với nhân- sự cũng thế: phải biến thành quấy, quấy biến thành phải... không biết đâu là khởi điểm, không biết đâu là cùng tận... như trên một cái" vòng tròn"; Lớn; Nhỏ; Sanh; Tử; Dài; Ngắn; Có; Không; Cao; Thấp; Thành Hoại đều không sao phân biệt được (6) , không sao biết được đâu là chỗ khởi đầu của nó.

Thiên Thu- Thủy nói:" Lấy Đạo mà xem thì vật không có chi gọi là quý, là tiện, là ít, là nhiều cả. Chỉ có Một mà thôi. Lấy chỗ sai biệt mà xét, nhận thấy lớn mà cho là lớn, thì vạn vật không vật nào là không lớn, nhận thấy nhỏ mà cho là nhỏ, thì vạn vật không vật nào là không nhỏ... Lấy xu hướng mà xét, nhận cho phải là phải, thì vạn vật không vật gì là không phải, nhận cho quấy là quấy, thì vạn vật không vật gì là không quấy."

Thiên Đức- Sung- Phù nói:" Lấy chỗ khác nhau mà xét, thì gan và mật cách nhau như nước Sở nước Việt, nhưng mà lấy chỗ tổng mà xét, thì vạn vật đều là Một cả.

Cứ xem cái thuyết Tương đối ngày nay mà xem, ta sẽ thấy cũng không xa gì những điều nhận xét trên đây của Trang tử. Theo Tương- đối- luận thì quyết không có gì là cao, là thấp tuyệt đối; không có gì là dài, là ngắn tuyệt đối; không có gì là lớn, là nhỏ tuyệt đối: những tiếng như" thành"," hủy", " quý", " tiện", " thị", " phi", " hữu"," vô" toàn là những danh- từ tương đối, không phải là tuyệt đối. Cho nên cho rằng Trang tử là tị- tồ của thuyết" tương đối" không phải là quá đáng.

Cái luật Thiên- Quân của Trang tử lại bao hàm cả con người trong đó:" Cho nên Thánh- nhân hòa lẽ Thị- phi, và rốt cuộc ở trong Thiên- Quân".

Thiên Đại- Tông- Sư nói:" Như cái hình của người ta, thật là biến hóa muôn lần, mà chưa thấy đâu là cùng tận vậy". Lại cũng nói:" Giá như cánh tay trái tôi hóa làm con gà, thì tôi sẽ nhân đó mà gáy canh. Giá như lại hóa cánh tay phải tôi làm hòn đạn, tôi sẽ nhân đó mà kiếm chim quay; giá như lại hóa cái xương cùn của tôi làm bánh xe, lấy cái thân hồn tôi làm con ngựa, thì tôi sẽ nhân đó mà cưỡi lên, há còn phải đợi xe ngựa nào nữa!..." Lớn lao thay! Tạo hóa muốn anh làm vật gì bây giờ? Muốn đi đến đâu bây giờ? Hay là biến anh làm gan con chuột? Hay làm cánh trùng?" (...) " Nay có người thợ đúc vàng, vàng nhảy lên đòi: tôi muốn được làm thanh gươm mạc- da, người thợ đúc tất cho nó là vàng quái gở. Nay có kẻ ngẫu nhiên muốn được hình người, nhảy lên nói: Tôi muốn làm người... tạo hóa tất cho người ấy là người quái gở. Nay lấy Trời Đất làm lò lớn, Tạo- hóa làm người thợ đúc lớn, thời tha hồ muốn biến hóa ra sao thì biến hóa, đâu mà chẳng được."

Loài người biến hóa vô cùng, nhưng không có phương hướng nào nhất định cả: Phàm vật, hễ" cùng tắc phản" " chung tắc thủy" loay quay mãi theo" vòng tròn" vô tận.

Tuy Trang tử chủ trương" tự hóa" và" vạn hóa", không chủ trương sự biến hóa có phương hướng như thuyết" luân hồi" của Phật giáo tiểu- thừam hay thuyết" thiên trạch" của Darwin, nhưng lại nói đến sự biến hóa theo một cái" Cơ". Thiên Chí- Lạc nói:" Các giống đều có Cơ" và kết luận rằng:" Vạn vật đều ra nơi Cơ, và vào nơi Cơ. Theo Trang tử thì" Cơ" là cái nguồn gốc của sự biến đổi, và rút lại, quy kết vào hai chữ" đức tính".

Lấy theo thuyết Thiên- Quân mà xét việc đời thì thấy các sự vật đều chằng chịt dính líu với nhau, nhân rồi quả, quả rồi nhân tiếp tục nhau không biết đâu là khởi điểm, đâu là cùng tận, như trên một cái" vòng tròn".

Để chỉ sự phức tạp trong các mối quan hệ, thiên Sơn- Mộc nói:" Trang Châu đi chơi ở rừng Điêu- Lăng, thấy một con chim tước lạ ở phương Nam lại, cánh rộng bảy thước, mắt tròn một tấc, đụng ở trán Châu mà đậu ở bụi cây lật. Trang Châu nói: chim này là chim gì vậy? Cánh to mà không bay, mắt lớn mà không nhìn. bèn dùng dằng dừng bước, lấy đạn ra nhắm bắn. Bỗng thấy một con ve, vừa được bóng mát mà quên cả thân. Một con bọ ngựa, lấy lá che thân, chờm đến muốn bắt lấy mà quên cả thân. Còn phía sau, con tước đang vồ bắt nó mà quên cả thân mình...

Trang Châu giật mình: Ôi! Giống vật vốn làm lụy nhau... hai loài như gọi lẫn nhau.

Rồi bỏ viên đạn mà chạy trở về..."

Xem đó, tuy là một câu chuyện ngụ ngôn, nhưng mà ý vị sâu sắc miêu tả được những mối quan hệ trong vũ trụ phức tạp là chừng nào, thật là điều khó thể tư- nghị được.

Trang tử nói:" Bớt, thêm; đầy, vơi; một tối, một sáng" là muốn bảo luật Thiên- Quân bao- quát cả hai cõi tối, sáng ấy. Câu nói này của Liệt- tử:" một vật thể, khi đầy, khi vơi, khi thêm, khi bớt, khi sáng, khi tối đều có cảm thông với Trời, Đất, ứng với vật loại" có thể bao- quát và cai quản cả cái luật Thiên- Quân.

Theo luật Tiến- hóa, hay tử- trạch thì các giống vật càng biến, càng không bình đẳng. Còn theo luật Thiên- quân thì các giống vật càng biến lại càng theo về bình đẳng, dù cho hình chất không bình đẳng, địa vị không bình đẳng mà Tánh và Phận vẫn bình đẳng. (Xem Tiêu- Diêu- Du và Tề- Vật- Luận) .

Đó là sự phân biệt quan trọng nhất trong hai thuyết Tiến- hóa và Vạn- hóa.

***

Tóm lại, ta có thể lấy câu này của Trang tử đLão chỉ luật Thiên- Quân " trước sau như cái vòng ".

***

Với hai chữ " tự hóa", Trang tử không thừa nhận có một" Đấng tạo hóa " đứng ngoài và làm chúa tể Vũ Trụ Vạn Vởt, mà lại cho rằng ngay ở mỗi vật, từ cực nhỏ tới cực lớn, đều có cái sức " tự sinh", "tự hóa" có thể được xem như một đấng" tiểu tạo hóa" hay" tiểu hóa công". Cho nên trong thiên Tề- Vởt- Luận mới nói:" Trời Đất cùng ta đồng sinh, vạn vật cùng ta đồng nhất". Vạn vật đồng nhất thế, đó là danh từ tổng quát để chỉ Vũ- trụ- quan của Trang tử.

Thuyết Vạn- hóa Thiên- quân của Trang tử, như trên đây đã nói có thể tượng trưng bằng một cái" vòng ốc" không thể lẫn lộn với thuyết Luân- Hồi của Nhà Phật (tiểu- thừa) .

Thuyết Luân- Hồi của Phật- giáo tiểu thừa, tựu trung là một hình thức của thuyết Tiến Hóa, cho nên người ta quan trọng về vấn đề quả trị cao thấp: một ảo vọng của Bản Ngã. Vì vậy, đứng về phương diện Giải thoát, thì thuyết Luân- Hồi phải thua xa thuyết Vịn- Hóa Bình- đẳng của Trang tửNhân

Thật vậy, con người sở dĩ nô lệ, là vì còn bị cái Sợ chi phối tinh thần. Sợ đủ thứ, nhưng cái đáng sợ nhất của con người là sợ chết, và cái cảnh sau khi chết. Thuyết Luân- Hồi của tiểu thừa Phật giáo an ủi được lòng thắc mắc băn khoăn ấy, và bảo đảm được rằng loài người sẽ tiến mãi: hết loài thú, đến loài người, rồi đến loài tiên, loài phật... Con người càng" tiến" chừng nào, thì lòng khao khát lên" cao" lại càng tăng và lòng" nô lệ", ngôi vị đẳng cấp sẽ càng nặng chừng ấy, nghĩa là lòng giải thoát cái Sợ sẽ không bao giờ giảm bớt và dứt được.

Trái lại, với thuyết Bình- đẳng của Trang tử, căn cứ vào thuyết Vạn- hóa Thiên- Quân cho rằng người là Đạo, người mà thực hiện được cái Đạo nơi mình rồi, thì nó sẽ" tự sinh", " Tự Hóa" như Trời Đất, nên" toàn mãn" mà không còn cái bụng đèo bòng tham muốn những gì khác ngoài cái Tánh- Phận của mình nữa:" Vạn vật dữ ngã đồng nhất". Miễn giữ gìn được Thiên- chân, ngoài ra cuộc đời hãy nên xử như Trang Châu hóa bướm". Trang Châu chiêm bao thấy mình là Bướm. Trong khi làm bướm, quên lửng mình là người, và vi thích với phận bướm. Nếu đứng theo Trang Châu mà luận, và thử hỏi Trang Châu có chịu đổi cái kiếp người của mình để làm phận con bướm, thì Trang Châu ắt không chịu. Nhưng, nếu đứng theo con bướm mà xem, và xin đem đổi cái kiếp con bướm làm phận con người như Trang Châu, ắt con bướm cũng không muốn. Làm người chưa ắt là vui hơn làm Vởt, và như thế Vởt và Ta là bình đẳng vậy." Giá cánh tay trái ta la con gà, thì ta nhân đó mà gáy canh..." Mình là Đạo, thì Đạo nơi ta hóa ra cái gì thì hóa, sao mà phải lo sợ? Ta có thể tự nói với mình:" Lớn lao thay! Tạo hóa nơi ta. Ngươi muốn ta đi đến đâu bây giờ? Hay là ngươi muốn biến ta làm gan con chuột, hay làm cánh trùng?" Với một nhân- sinh- quan như thế, thì làm gì còn nô lệ lấy những cái sợ hão huyền để mà tranh giành Cao Thấp, Lớn Nhỏ, Vinh Nhục...? Cho nên giải thoát tinh thần con người khỏi cái" sợ" thiên niên giam hãm đời mình trong dục vọng và bóng tối, quả thuyết Luân- hồi của Phật giáo tiểu thừa phải kém xa thuyết Thiên- Quân Vạn- Hóa ct Trang tử nếu không nói rằng bất- lực.

***

D. Hạnh- Phúc Cá- Nhân và Xã- Hội:

Trang tử cho rằng" hết thảy vạn vật đều do Đạo mà ra, và mỗi vật đều có cái Đức của nó, nghĩa là, hết thảy vạn vật, mỗi vật đều có cái tánh tự nhiên của nó. Nếu biết thụân theo tánh tự nhiên mà sống, thì hạnh phúc có ngay trong lúc đó, không phải cầu cạnh đâu khác ở ngoài."

Được phát triển tự do bản tánh là điều kiện đầu tiên đưa ta đến hạnh phúc, một thứ hạnh phúc tương đối dĩ nhiên. Muốn đạt đến Hạnh phúc tuyệt đối phải cần đến một thứ tri thức siêu nhiên huyền diệu hơn, tức là cái mà Lão tử gọi" tri bất tri, thượng".

Thường thìm sở dĩ bản tánh con người không được tự do phát triển là do sự ràng buộc, uốn nắn của chế độ, giáo dục, luân lý giả tạo của xã hội bên ngoài. Bởi vậy Trang học, cũng như Lão học hết sức phản đối nhân tạo mà đề cao cái sống cận với thiên nhiên.

ở thiên Thu- Thủy Trang tử nói:" Thiên tại nội, nhơn tại ngoại (...) Ngưu mã tứ túc thị vị Thiên; lạc mã thủ, xuyên ngưu tỉ thi vị Nhơn" (Trời ở bên trong, người ở bên ngoài (...) Bò ngựa bốn chân, đó là Trời, khớp đầu ngựa, xỏ mũi bò, đó là Người) ông lại nói:" Chớ lấy người mà giết Trời! Chớ lấy nhân tạo mà giết Thiên Mạng! Chớ lấy được mà chết theo danh! Giữ cẩn thận, đừng làm mất Thiên chân! đó là trở về cái Chân của mình!"

***

" Trở về cái Chân của mình!" (" phản kỳ chân") hay là" phục kỳ bổn" tức là đạo" Giải thoát: trở về Bản tánh như Nhà Phật khuyên ta" minh tâm, kiên tánh" vậy. Cho nên, không thể hiểu một cách quá giản lược và sai ngoa rằng thuyết" thuận Thiên, an Mạng" của ông là thái độ tiêu cực, nhy nhược, phó mặc cho số phận mà xã hội đã an bài cho ta, ra sao hay vậy. " trở về cái Chân của mình" phải là một cuộc đại- cách- mạng mới thoát khỏi gọng kềm xã hội càng ngày càng phủ lập và mai một Thiên- Chân. Cho nên Trang tử mới khuyên ta:" Chớ có lấy cái Ta xã hội, cái Ta nhân tạo do luân lý, giáo dục, chế độ cầu thành mà giết chết Thiên- tính!" (Vô dĩ nhơn diệt Thiên)

***

Vạn vật, vật nào cũng có cái tánh tự nhiên của nó, và nói về năng khiếu tự nhiên thì không vật nào là giống vật nào cả. Có điều là, nếu mỗi vật, vật nào cũng được phát triển tự do năng khiếu tự nhiên của mình thì vật ấy được ngay hạnh phúc.

Trong thiên Tiêu- Diêu- Du, Trang tử mượn cớ tạo ra một vật cực đại (là cá Côn, chim Bằng) và vật cực tiểu (con ve và con cưu) để chứng minh rằng năng khiếu tự nhiên của mỗi vật hoàn toàn khác nhau. Vật cực đại như chim Bằng, mỗi khi muốn đến biển Nam phải" đập trên mặt nước ba nghìn dặm dài, lên theo gió trốt chín muôn dặm cao, và bay trọn sáu tháng không nghỉ" (...) " Con chim cưu và con ve, thấy vậy, cười nói: Ta thích bay vụt lên cây du, cây phương... nếu có lúc bay không tới mà có rớt xuống đất thì cũng không sao. Sao lại phải lên chi tới chín muôn dặm cao, bay qua biển Nam mà làm gì?"

Nếu mỗi vật đều biết đủ với Tánh Trời của mình, thì tuy Đại Bằng, không xem mình là cao quý hơn chim nhỏ mà tự cao, mà chim nhỏ như chim cưu cũng không xem mình là thấp hèn mà đèo bòng ham muốn đến Ao Trời làm gì như chim Bằng! Lớn, nhỏ tuy khác nhau, nhưng mỗi vật nếu biết thuận theo cái tánh tự nhiên của mình, biết an theo cái phận của mình, thì đều được tiêu diêu (tự do) không sai cả.

Sự vật trên đời không giống nhau, nhưng cũng không nên cầu cho hết thảy đều giống với nhau. Là vì không thể nào cầu cho được. Sự bình đẳng tự nhiên không có và không bao giờ có trên đời này. Thiên Biền Mẫu có nói:" Cẳng vịt thì ngắn, cố mà nối dài, nó khổ. Dò hạc thì dài, cố mà làm cho ngắn, nó đau. Cho nên Tánh mà dài, không phải cái nên chặt bớt; tánh mà ngắn, không phải cái nên kéo dài, thì sao có đau khổ!"

***

Đ. Quan niệm về Xã- hội và Chính- trị:

" Đừng mong kéo cẳng vịt cho dài, thu dò hạc ngắn lại" nhưng đó lại là công việc làm của các nhà xã hội chính trị" hữu vi" từ ngàn xưa vậy.

Mục tiêu chính của các nhà làm luật pháp, các luân lý gia, các chế độ chính trị... phải chăng đều có tham vọng san bằng mọi cá tính đặc biệt, bình đẳng hóa tất cả mọi bất bình đẳng tự nhiên trong thiên hạ... biến mỗi cá nhân thành một con người sống theo xã hội, theo chế độ," thích theo cái thích của mọi người mà không biết thích theo cái thích của mình" (7)

Theo Trang tử, Tánh (tự nhiên) của vạn vật, thì không đồng nhau: mỗi vật đều có chỗ nhận cho là đẹp, là hay, là phải, riêng của vật ấy. Cho nên không cần phải cưỡng ép cho tất cả đều đồng nhau, mà cũng không sao cưỡng ép cho đồng được. Chỗ không đồng của vạn vật, ta phải biết nhận lãnh nó, biết" chịu" nó, đó tức là dùng chỗ" không đồng" mà làm cho" đồng" vậy. Trái lại tất cả mọi chế độ chính trị, xã hội theo hữu vi đêù định ra" một cái tốt" để làm tiêu- chuẩn chung cho mọi tư tưởng hành vi, khiến người người đều phải theo nó mà hành động. đó là ép những chỗ không đồng phải đồng nhau. Yêu, mà yêu theo chỗ thích riêng của mình, là làm đau khổ cho vật mình yêu vậy. Cho nên các bậc thánh nhân lập ra " quy củ chuẩn thằng" cùng các thứ quy tắc chế độ để định chế chánh trị xã hội, khiến cho người người trong thiên hạ đều phải phục tùng theo, chỗ dụng tâm, tuy chưa phải là không có lý do chánh đáng và tốt đẹp, và chỗ dụng ý tuy không phải là không thực yêu người... nhưng, kết quả thì lại như Lỗ- Hầu nuôi chim...

" Xưa kia, có con chim biển đậu ở cửa thành nước Lỗ... Lỗ hầu ngự ra ra nghinh tiếp, rước về chuốc rượu ở đền Thái- miếu, cho tấu nhạc Cửu thiều cho nó vui, giết trâu bò mời nó ăn... Chim ấy ngó dớn dác, bộ sầu bi không dám ăn, dám uống. Cách ba hôm thì chết. đó là dùng cách nuôi người mà nuôi chim. Nếu như muốn dùng cách nuôi chim mà nuôi chim, thì phải để cho nó đậu ở rừng sâu, dạo ngoài gò đất, trôi nổi sông hồ, kiếm ăn lươn cá, đỗ theo hàng liệt, ung dung tự đắc, thích đâu ở đó. Cứ nghe người nói là nó không ưa rồi, lựa là còn đem tiếng nhạc mà làm cho nó kinh tâm. Nếu đem nhạc Hàm trì, Cửu thiều mà đánh lên ở Động- đình, thì chim nghe phải bay, thú nghe phải chạy, cá nghe phải lặn... nhưng người ta thì lại kéo nhau đến đó mà nghe. Cá ở dưới nước thì sống, người ở dưới nước thì chết. Đó và đây đã khác nhau, thì sự ưa ghét cũng khác nhau. Bởi vậy, bậc thánh ngày xưa không giống nhau về sở năng, nên không giống nhau về sự nghiệp". (Chí- Lạc)

Như vậy, ta thấy rằng không phải Lỗ Hỗu không có thiện ý, nhưng kết quả thì lại khác hẳn với ý muốn của mình: hại mà không có lợi. đó cũng là hậu quả của những kẻ muốn dùng luật pháp, luân lý để mà điền chế tư tưởng hành vi của thiên hạ.

Bởi thế, Trang học cực lực phản đối cái cách " lấy trị mà trị thiên hạ" (dĩ trị, trị thiên hạ) . Muốn khiến cho thiên hạ được trị, không chi bằng" lấy sự không trị, mà trị thiên hạ" (dĩ bất trị, trị thiên hạ) . Thiên Tại- Hựu nói:" Ta nghe phòng và giữ thiên hạ, chứ không nghe chuyện trị thiên hạ. Phòng, là sợ thiên hạ đắm đuối mà mất tánh; giữ là sợ thiên hạ dời đổi mà mất đức. Thiên hạ mà không đắm đuối đến mất TánThiên, không dời đổi đến mất Đức, thì sao lại có chuyện trị thiên hạ?" Dù sao đi nữa, bất đắc dĩ mà phải dùng đến luật pháp, luân lý, chính trị, chế độ... thì luật pháp, luân- lý, chính trị, chế độ cũng phải có mục đích duy nhất nầy là phụng sự cho cá nhân, chứ không được đem" Người mà giết Trời, đem nhân tạo mà giết thiên nhiên..."

Lão tử và Trang tử đều chủ trương" Vô vi nhi trị", một chế độ không có chế độ, một chánh thế không có chánh thế, nhưng mỗi người theo những lý do riêng.

Lão tử thì nhấn mạnh về Đạo, và vấn đề phản- phục:" Phản giả Đạo chi động". Còn Trang tử thì nhấn mạnh về sự phân biệt giữa thiên nhiên và nhân tạo:" người không được giết Trời, nhân tạo không được lấn thiên nhiên", vì làm thế là làm cho nhân dân thống khổ: không phát triển được tự do Bản tánh của mình.

***

E. Vấn đề Hạnh- Phúc tương đối và tuyệt đối:

Cái hạnh phúc nói trên đây, chỉ là một thứ hạnh phúc tương đôi, vì nó còn phải có điều kiện, nghĩa là còn phải tùy thuộc vào cái gì. Thật vậy, người ta sở dĩ có được hạnh phúc là khi nào được tự do sống theo bản tánh của mình.

Như vậy, xã hội, chế độ... như đã nói trên, chỉ là một trong những điều kiện không thuận tiện cho sự phát triển tự do bản tánh con người trên con đường hạnh phúc.

Cũng có nhiều trở ngại khác không kém quan trọng khiến cho ta khó thực hiện được hạnh phúc, là vấn đề" lão", "bệnh", và "tử". Như vậy, ta thấy rằng Phật giáo không phải là không có ký, khi họ đề xướng thuyết" sanh, lão, bệnh, tử: khổ" người tự do không những không bị ràng buộc về pháp luật, luân lý, chế độ, xã hội bên ngoài, mà cũng là người không còn sợ già, sợ bệnh, sợ chết nữa.

Già không đáng sợ. đáng sợ là nên sợ cái già mà đầy bệnh tật. Vì vậy, người ta muốn được hạnh phúc, cũng phải biết lo đến phép dưỡng sinh. Người mạnh khỏe không sợ già, cũng không sợ chết nữa. Trong mọi tai họa, tai họa đáng sợ nhất của con người là tật- bệnh. Người hay đau yếu, bệnh tật là người dễ sa vào ích kỷ: thường săn sóc săm soi đến thân thể nên dễ đem lòng quyến luyến và yêu thương. Lão tử cũng đã có nói:" Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn!" (Chương 13 Đạo- Đức- Kinh) . Cho nên, dưỡng sinh là thuật làm cho mình luôn luôn mạnh khỏe, để mà không có cơ hội thiết tha nghĩ đến thân thể của mình.

Người xưa có nói:" Một thân thể không đau, một tinh thần không loạn, đó là chân hạnh phúc của con người. Có được một thân thể không đau, thì tinh thần mới không loạn; nhưng thường khi, nhờ có một tinh thần không loạn, mới có được một thân thể không đau. đó là hai điều không thể rời nhau: ảnh hưởng của vật chất đối với tinh thần va ảnh hưởng của tinh thầ đối với vật chất. Nhưng bàn về phần cao nhất của phép dưỡng sinh thì người Đông phương coi trọng phần ảnh hưởng của tinh thần hơn.

"Điềm đạm hư vô,

Chân khí tùng chi,

Tinh thần nội thủ,

Bệnh an tùng lai."

(Hoàng- Đế Nội- Kinh)

(Chương Đạo- Sinh)

Thượng- Cổ Thiên- chân luận

***

Ở thiên Dưỡng- sinh- Chủ, Trang tử nói:" Ngô sinh đã hữu nhai, nhi tri đã vô nhai. Dĩ hữu nhai tùy vô nhai, đãi dĩ!" (Sinh lực của ta thì có hạn, mà nỗi lo nghĩ ưu lự thì vô hạn, là nguy vậy!) . Vì vậy mà phép dưỡng sinh chiếm địa vị khá quan trọng trong học thuyết Trang tử và về sau phái Đạo gia lại khai thác nó lập ra thành một học phái đặc biệt là phái" trường sinh cửu thị".

***

Nhưng, mối băn khoăn lo sợ nhất làm cho con người thương- sinh (8) và đã biến con người thành con vật đau khổ nhất đời là lòng ham sống sợ chết (tham sinh úy tử) .

Ta hãy nhìn kỹ chung quanh, xem sự bành trướng mạnh mẽ của tôn giáo thì đủ rõ vấn đề sinh tử là quan trọng đến bực nào! Người hoàn toàn tự do là người thoát khỏi cái tâm trạng" tham sinh úy tử", người biết nhìn thấy sinh tử là Một. Sự băn khoăn lo sợ sự sống chết sẽ giảm được hoặc dứt đi nếu ta hiểu rõ được cái lý của sống chết. đó là cái phép" lấy Lý mà hóa Tình" của Trang tử.

***

Thiên Dưỡng- sinh- chủ nói:" Lão Đam chết. Tần Thất đến điếu, khóc ba tiếng, rồi đi ra. đệ tử hỏi:" Ông không phải là bạn của phu tử hay sao?

Phải.

Vậy thì, điếu như thế là phải hay sao?

Phải. Trước kia ta xem Lão Đam là bạn ta. Nay xem lại đó, thì không phải nữa. Lúc ta vào điếu, thấy có già khóc đó như cha khóc con; trẻ khóc đó như con khóc mẹ. đó là tròn thiên tánh, già thêm tình và quên chỗ mình tọ lãnh của tạo hóa. Cổ nhơn gọi đó là hình- khổ của sự trốn thiên tánh. Phụ tử vui mà đến, là thời; vui mà đi, là thuận. An thời xử thuận thì buồn vui làm sao vào đặng cõi lòng. Cổ nhơn gọi đó là" huyền giải".

Trong Trời Đất, chỉ có một cái" Sống", cái" Sống" không sinh không tử. Sống Chết chỉ là cái hình thức của một cuộc biến hóa của cơ Đại Hóa của Trời Đất. Cái" Sống" ấy chính là cái mà Lão tử gọi"tử nhi bất vong giả thọ" (chết mà không mất) .

Hình thức này mà có mất đi, thì cái" Sống" ấy lại đi về một chỗ khác. Cũng như trong một thân cây, lá này rụng, thì cái sống trong lá cây" trở về" trong thân cây mà sanh ra lá khác, cùng hoa trái khác...cái mà ta gọi là sống chết đây, chỉ là một sự " thành, hủy" của một trạng thái trong vạn hóa của Trời Đất Vạn vật mà thôi. Trang tử đã ví sự sống chết như một bó củi" cột lại" và " mở ra". Sinh là Huyền, tử là Giải. Huyền là cột lại, Giải là tháo ra.

Sống chết chẳng qua là" một đi một lại" nối tiếp nhau, còn cái Sống, tức là Chân- thế của ta, thì luôn luôn như thế mãi, không thay đôỉ.

Cái Sống của Chân thế, đối với hình thể của ta, ví như" lửa" mà đối với" củi": từ hình thể này truyền qua hình thể kia như" lửa" truyền từ bó củi này sang bó củi kia:" không khác nào hỏa cứ truyền mãi mà không tắt, cái sống truyền mãi mà không bao giờ tuyệt".

Chết, là từ một cảnh nầy, đổi qua một cảnh khác... Từ cảnh nầy đổi qua cảnh khác mà lo sợ, thì là một việc lo sợ hão như cảnh nàng Lệ Cơ..." Nàng Lệ Cơ, con một vị quan trấn thủ phong cương xứ Ngại, gả về cho Vua nước Tần. Lúc xuất giá, rơi lụy dầm bâu. Khi tới hoàng cung, cùng Vua đồng sàng, nếm mùi sô- hoạn, rồi nàng lại hối hận giọt lệ ngày xưa" (Tề- Vật- Luận) .

Chết mà lo sợ thì có khác nào ta sợ trước cái cảnh mà mình chưa biết. biết đâu rằng, sau nầy ta lại giống như nàng Lệ Cơ, sau khi đến hoàng cung bấy giờ lại hối hận giọt lệ ngày xưa mà không chịu trở về quê cũ. Nếu ta cho hình thức hiện có đây là đáng vui, thì sau khi chết, chỗ ta đặng hình thức mới khác, sao lại biết là không có chỗ đáng vui như bây giờ? nghĩ lại lúc mà ta chưa là người như ngày nay, có lẽ lúc lìa cảnh đó để sang qua cảnh đây, biết đâu ta cũng đã" rơi lụy đầm bâu", quyến luyến dùng dằng, và cho sự thay đổi hoàn cảnh là một tai họa. Và hiện nay, nghĩ lại cái" giọt lệ ngày trước" ta cũng sẽ lấy làm hối hận." Trong muôn vàn hình thức của vạn vật, hình thức của người là một. Gặp được hình thức ấy, chưa đủ riêng vui với nó, bởi trong vô cực, chỗ" gặp mới" của vạn vật thì vô cùng... Một chỗ" gặp mới" như đây mà còn biết vui, há chỉ có một chỗ này mà thôi sao?" Lời chú đây của Quách Tượng thật rõ ràng hết sức.

Hình thức con người là một trong muôn vàn hình thức của vạn vật. Như vậy, gặp hình thức nào cũng đáng vui mừng cả, há chỉ có hình thức con người đáng vui mừng mà thôi sao? " Giá như cánh tay trái ta biến thánh con gà thì ta nhân đó mà gáy canh. Giá như cánh tay mặt ta hóa làm hòn đạn thì ta nhân đó mà kiếm chim quay. Giá như hóa cái xương cùng của ta làm bánh xe, hóa thần hồn ta làm con ngựa thì ta nhân đó mà cưỡi, há còn đợi xe ngựa nào nữa? Vả" đắc" là thời," thất" là thuận. An thời xử thuận thì buồn vui làm sao vào đặng cõi lòng!" Vì vậy, bậc chân- nhân xưa" không ham sống, không ghét chết, ra không vui, vào không sợ, thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi. (Đại- Tông- Sư) .

"Xưa, Trang Châu chiêm bao, thấy mình là bướm, vui phận làm bướm: tự nhiên thích chí không còn biết Châu. Chợt tỉnh giấc, thấy mình là Châu. Không biết Châu lúc chiêm bao là bướm, hay bướm lúc chiêm bao là Châu? Châu cùng bướm ắt có phận định" (Tề- Vật- Luận) .

Bàn về vấn đề sinh tử mà lại dùng đến Thực và Mộng như chuyện Trang Châu mộng hồ- điệp mà nói, thì thâm trầm sâu sắc không biết chừng nào! Thật là văn chương huyễn- tướng lạ thường.

***

Theo Trang tử, muốn trấn tĩnh lòng cảm xúc của con người trước vấn đề sinh tử, cũng như đối với tất cả mọi xúc cảm khác dễ làm cho ta thương sinh, thì phải dùng đến phép" lấy Lý mà hóa Tình". Người trí thức, biết rõ được chân tướng của Vũ Trụ, biết được chỗ phát sinh của sự vật là việc tất nhiên... thì khi gặp việc sẽ không động cảm mà giữ được vẻ thản nhiên trầm tĩnh bên ngoài cũng như bên trong. Không động cảm, là không bị trói buộc, nghĩa là được tự do và hạnh phúc vậy. Tỉ như gió thổi ngói bay, rớt nhằm một đứa trẻ hoặc một kẻ lớn. Đứa trẻ nóng giận, nguyền rủa và quy tội cho miếng ngói vô tình; còn kẻ lớn, trái lại, biết là không lỗi nơi đâu cả, cho nên không động cảm, không bực tức và nhờ đó mà chỗ đau cũng bớt đau. Là vì, tri thức của người lớn biết rõ cái lý do của miếng ngói rớt, nên" lấy Lý mà hóa Tình"," buồn vui vì đó mà không vào đặng cõi lòng!"

Trở lên là bàn đến hạnh phúc tương đối.

***

Còn muốn bàn đến hạnh- phúc tuyệt đối, thì phải bàn đến Tự- Do tuyệt đối.

Muốn đi đến hạnh phúc tuyệt đối, tức là Tự Do tuyệt đối, thì cần phải dùng đến một thứ tri thức siêu đẳng để mà đạt đến chỗ Huyền- đồng cùng vạn vật.

Thiên Tiêu- Diêu- Du, sau khi bàn về hạnh phúc tiêu diêu của chim Bằng, cũng như của chim cưu, có nói đến Liệt- tử cỡi gió mà đi..." Liệt- tử cỡi gió mà đi, đi một cách êm ái nhẹ nhàng, đi trọn mười lăm hôm mới về. Đó sống trong chỗ chí phúc và người như ông dễ thường thấy có. Tuy khỏi phải đi, nhưng còn phải chờ..." Chờ cái gì? Gió.

Như vậy, thì cái hạnh phúc của Liệt- tử cũng chưa được gọi là tuyệt đối, là vì còn phải tùy một điều kiện khác ở ngoài.

Chỉ có những ai" thuận theo cái chánh của Trời Đất, nương theo cái biến của lục- khí mà rong chơi trong cõi vô cùng; thì đó đâu còn phải đợi cái gì nữa. Cho nên nói rằng: bậc chí nhân không thấy có mình, bậc thần nhân không nhớ đến công trạng của mình, bậc thánh nhân không nghĩ đến tên tuổi của mình." (Tiêu- Diêu- Du)

Trang tử, trên đây, tả hạng người hoàn toàn giải thoát, tức là người đã đạt đến hạnh phúc tuyệt đối, bậc chí nhân đã huyền- đồng cùng tạo vật, nên không còn thấy mình nữa. Họ là người đã vượt lên trên những cặp mâu thuẫn mà thế nhân thường nhận thấy: phải quấy, vinh nhục, trước sau, cao thấtử, lớn nhỏ, sanh tử... Họ là người đã giải quyết được sự mâu thuẫn to tát nhất nơi họ: tình và lý, tâm và trí, nội và ngoại, nhĩ ngã. Không còn thấy có" nhĩ", tức là không còn thấy có" ngã", họ là người đã đạt đến trạng thái" vô- ngã". " Vô ngã", nên cũng" vô- công" và " vô danh".

Đã là" vô- kỷ", " vô công"," vô danh" nên họ đã là Một với Đạo." Đạo thì không làm mà không có gì là không làm". Và nhân đó mà hành động của họ không còn gọi là hành động của tư tâm tư dục nữa, mà là hành động của Đạo, của Chân- thế, của Vô- Ngã. Hành động ấy là hành động" Vô- vi" của Đạo nơi ta vậy.

***

Để đi đến sự Huyền- Đồng, bậc Chân- nhân phải" biết quên thị phi" (tri vong thị phi) .

Theo nghĩa thông thường của thế nhân thì" biết" là " biết" bằng sự phân biệt. Phải dứt bỏ lối nhận thức ấy để đi đến một thứ nhận thức siêu- đẳng khác mà các nhà Đạo- học gọi là" tri bất tri, thượng" (9) .

Phùng hữu Lan gọi đó là" kinh nghiệm thuần túy" tức là kinh nghiệm của Vô Tri Thức, và cũng là chỗ mà nhà Phật gọi là Hiện- lượng, Thiên- định, Thiển- tọa, và về sau phái Thần- tiên của Đạo- giáo gọi là Tĩnh- tọa. Thuần túy kinh nghiệm, là sự thực nghiệm Đạo ở bản thân, trong đó không còn cần đến suy lụân, đối đãi... mà nhận thức trực tiếp Thực tại không chủ khách, không nội ngoại vì những cặp đối đãi ấy đã đồng nhất, và đã biến mất trong tâm mình rồi.

***

Thiên Đại- Tông- Sư có đoạn văn này:

" Nhan Hồi nói: Hồi được thêm!

Trọng- Ni hỏi: Là nghĩa gì?

Nhan Hồi nói: Tôi quên Nhân Nghĩa.

Trọng Ni nói: Được, nhưng mà chưa trọn.

Một hôm khác, lại ra mắt và nói:

Hồi được thêm.

Là nghĩa gì thế?

Hồi quân Lễ Nhạc.

Được, nhưng chưa trọn.

Một hôm khác nữa, lại ra mắt mà rằng:

Hồi được thêm.

Là nghĩa gì?

Hồi" ngồi mà quên" rồi.

Trọng Ni ngạc nhiên hỏi:

Ngồi mà quên, là thế làm sao?

Nhan Hồi nói: Giải thể, bỏ thông minh, lìa hình, bỏ trí, đồng với Đạo lớn. đó gọi là" ngồi mà quên" (tọa vong) .

Trọng Ni nói:" Đồng, thì không còn tham muốn nữa; hóa, thì không thường nữa. Quả Hồi là người hiền. Khưu nầy nguyện theo sau đó."

***

Chương đầu thiên Tề- Vật- Luận cũng có nói:

" Quách Tử- Kỳ ngồi dựa ghế, ngửa mặt hà hơi, bơ phờ như người mất bạn.

Nhan- Thành Tử- Du đứng hầu trước mặt, thấy vậy, hỏi:" Sao mà hình hài có thể khiến được như cây khô, còn lòng thì có thể khiến được như tro lạnh. Nay người ngồi trên ghế có phải là người ngồi trên ghế trước đây nữa không?

Tử- Kỳ nói:" Yển, câu hỏi của ngươi đâu phải là không đúng! Ta nay đã mất bản ngã rồi, ngươi có biết không?..."

Đây cũng là phép" tọa vong" để mà thực hiện sự huyền đồng với bản thể của Đạo và đó cũng là cứu cánh của Trang học: hễ" đồng" với cái Sống chung của Vũ Trụ vạn vật thì sẽ không còn thương ghét riêng tư, sẽ không còn tham muốn đèo bòng những Tánh Phận ngoài mình nữa. Cho nên mới nói rằng" đồng tắc vô hiếu dã" (10)

Đạo học, theo Trang tử, không phải chỉ là một lối triết lý suông của lý trí, mà là một cuộc thực hiện hay thực nghiệm bản thân về Chân- Lý. Lời nói của Nhan- Hồi trong câu chuyện" tọa vong" trên đây có nghĩa là Hồi đã được cái Đạo bên trong bằng phép" truất- phế thông minh" và" bỏ lý trí". Nên để ý phân biệt điều này: bỏ sự hiểu biết không phải là khuyên ta đừng hiểu biết. Có hai trình độ hiểu biết: biết cái biết thông thường, cái biết của giới nhị nguyên, cái biết trong vòng tương đối của thị phi, thiện ác và biết về cái lẽ" bất khả tri", biết về bản thể, tức là cái biết về Tuyệt đối. Cái biết thông thường của lý trí, của giới nhị nguyên về thị phi, thiện ác đâu phải là không cần, trong khi ta vẫn còn hoạt động trong vòng" sắc tướng", nhưng, khi muốn nắm được Đạo, ta cần phải vượt lên khỏi nó. Trang tử gọi cái phép" vượt lên" ấy bằng một chữ" Vong", nghĩa là " Quên". ông nói:" Trí vong thị phi, tâm chi thích dã". Người được Đạo, không phải là người không biết thị phi, mà là người đã vượt lên trên cả thị phi. Không biết thị phi, với vượt lên thị phi là hai điều khác nhau xa. Cái" không biết" (bất tri) của đứa hài nhi, với cái" không biết" của bậc đạt Đạo cũng khác nhau rất xa vậy. Cái" không biết" ấy, mà Lão tử gọi là" Xích tử chi tâm" đừng có hiểu lầm đó là tâm trạng hỗn độn của đứa trẻ sơ sinh. Cho nên không nên hiểu cho đó là cái học" ngu dân".

Bởi không nhận thấy rõ ràng sự phân biệt đó mà phần đông học giả chuyên về Trang học mới đề xướng thuyết" phục cổ" như ở Thiên Đạo Chích trong sách Trang tử (Xem Trang tử tinh- hoa) .

Cái tri thức thông thường về sắc giới không làm sao hiểu được chân lý tuyệt đối, vì vậy Trang tử đề xướng sự" khử- tri" và" phế bỏ thông minh".

Ở thiên Thiên Địa có đoạn:" Hoàng đế đi chơi đến phía Bắc Xích Thủy, lên gò Côn- lôn, trông về hướng Nam tìm đường trở về, thì bỏ rơi ngọc Huyền- châu. Sai Trí đi tìm, nhưng không tìm ra. Sai Ly- Châu (rất tinh con mắt) đi tìm, nhưng cũng không tìm ra. Sai Khiết- Cờu (người có tài hùng biện) đi tìm, nhưng cũng tìm không ra. Bèn sai Tượng- Võng. Tượng- Võng tìm ra. Hoàng đế nói: Lạ thay, chỉ có Tượng Võng mới tìm ra được ngọc Huyền- châu sao!"

Tượng- Võng là cái "có hình mà thực ra không có hình" tức là ám chỉ cái" Tâm hư không" trừu tượng siêu hình.

Cũng không thể dùng đến sách vở kinh điển mà tìm được Đạo, vì theo Trang tử, đó cũng chỉ là những" cặn bã của cá nhân" (11) mà thôi.

Lý luận, biện thuyết đều vô ích cả, nó chỉ làm cho lòng ta thêm tăm tối, cho thần minh mờ ám.

" Nhiễm Cầu hỏi Trọng Ni:

Có thể nào biết được cái có trước Trời Đất không?

Trọng Ni nói: Được! Xưa cũng như bây giờ (12)

Nhiễm Cầu rút lui, không hỏi nữa.

Qua ngày hôm sau, lại ra mắt mà rằng:

Hôm trước tôi hỏi: có thể nào biết được cái có trước Trời Đất chăng? Thì thầy dạy rằng: Được. Xưa cũng như nay. Trước kia, tôi tưởng là tôi đã hiểu, nhưng hôm nay thì lại cảm thấy mù mịt. Dám xin hỏi ý Thầy nói như thế nào?

Trọng Ni nói: Hôm trước ngươi hiểu rõ là vì đã dùng đến cái thần minh mà nghe. Nay lại cảm thấy mịt mù là vì đã dùng đến cái không phải thần minh mà cầu hiểu. (Trí Bắc Du)

Cái mà Trang tử gọi" Thần" là ám chỉ cái khiếu biết tự nhiên (một thứ trực giác phát tự cái tâm" hư") , cho nên mới hiểu rõ liền. Về sau, vì dùng cái lý luận giả tạo chấp nối của lý trí, nên lòng thông cảm tự nhiên của trực giác mờ đi. " Học giả, học kỳ sở bất năng học (...) ; biện giả, biện kỳ sở bất năng biện" (13) . Cái học mà Trang tử khuyên ta là" cái học mà không sao học được"; còn có biện luận thì" hãy biện luận cái không sao biện luận được". Đó là cái học về thuần túy siêu hình, một thứ Tâm- học hoàn toàn.

Cho nên chỉ có thực hiện được cái đời sống tâm linh của ta, là mục đích tối cao của đời sống con người. Trong sách Trang tử dẫy đầy những câu chuyện" thần- hóa" ấy.

" Nhan Thành Tử- Du nói với Nam- Quách Tử- Kỳ:

Từ ngày tôi nghe lời dạy của Thầy được một năm, thì tôi thấy lòng tôi trở về mộc mạc đơn thuần; được hai năm, thì chạy theo Đạo; được ba năm, thì thông lẽ Đạo; được bốn năm, thì thấy tôi như một vật ngoại; được năm năm, thì tiến đến mực; được sáu năm, thì thấy dường như có thần minh nhập thể; được bảy năm, thì được thần hóa (thiên thành) ; được tám năm, thì không biết mình còn sống hay chết; được chín năm, thì đã đến chỗ Đại Huyền- diệu" (Ngụ Ngôn) .

Đó là những giai đoạn phải trải qua để đi đến một cuộc "thần hóa" hoàn toàn.

Một đoạn khác ở thiên Đại- Tông- Sư lại nói rõ ràng hơn:

" Ba ngày, thì bỏ được việc thiên hạ ra ngoài; (...) bảy ngày, thì bỏ được sự thấy có ngoại vật bên ngoài; (...) chín ngày, thì bỏ được cái sống của mình ra ngoài (14) . Bỏ được cái sống của mình ra ngoài thì mới được" triêu triệt" (15) . " Triêu triệt" rồi, mới nhận thấy được cái Một. Thấy được cái Một rồi, mới không còn thấy có Xưa có Nay. Không còn thấy có Xưa có Nay rồi, mới vào được cõi không chết không sống."

Cái trạng thái" hốt nhiên, đắc ngộ" ấy, có khi chỉ nhờ một lời nói mà được:" nhứt ngôi nhi năng ngộ" (16) . Công phu dự bị thì lâu dài trong Vô thức, nhưng lúc" đắc ngộ" thì thật là mau lẹ như chớp nháng và làm biến đổi hẳn tâm thần trí não con người.

" Nhan Hồi nói: Khi chưa thần hóa, thì rõ là có Hồi thật. Nhưng khi đã được thần hóa rồi, thì thấy chưa hề có Hồi. Có thể gọi đó là" hư" chưa? (Nhơn- Gian- Thế) .

Cái thời kỳ" đắc ngộ" thì mau lẹ như thế, nhưng cần phải có một thời kỳ chuẩn bị, tức là tu luyện. Thời kỳ ấy, Trang tử gọi là" tâm trai", tức là sự chay tịnh của lòng.

ở thiên Nhơn- Gian- Thế, Trang tử miêu tả rất rõ lẽ ấy:

Hồi nói: Dám xin hỏi thế nào là" chay tịnh của lòng?"

Trọng Ni đáp: Hãy chuyên tâm nhất chí. đừng nghe bằng tai, mà nghe bằng lòng. Đừng nghe bằng lòng, mà nghe bằng khí. Điều gì mình nghe, thì hãy để nó ở ngoài tai, còn lòng thì hợp nhất nó lại. Thần khí phải hư, hư mới nhận được Đạo; hư tức là" chay lòng" đấy!"

Đó là cả một chương trình" chay tịnh": từ bỏ tất cả ngoại vật, sống giản dị, làm cho tâm trí đồng nhất với mọi sự mọi vật, " chuyên tâm bão nhất" cho lòng được trống không hư tịnh, không còn bị ảnh hưởng gì của vật ngoài nữa cả. Như vậy mới mong đạt đến trạng thái huyền- đồng với chân thế tuyệt đối của mình. Cốt yếu là để cho lòng đạt đến" chân không" mới mong thần hóa được (17) .

Và, nhân thế mà phần đông những kẻ theo về với Đạo- học, bao giờ cũng khởi đầu bằng cách lánh xa cuộc sống phồn hoa xã hội, thích ở những nơi tịch- mịch thiên nhiên:

" Khổng- tử bèn từ biệt bè bạn, từ bỏ học trò, trốn vào chẩm lớn, mặc áo cừu, áo vải, ăn hạt gắm, hạt dẻ. Chen vào đám muông mà không làm lọan đàn, chen vào đám chim mà không làm lọan hàng (tức là hòa đồng với vạn vật) . Chim muông còn không ghét bỏ, huống chi la con người (Sơn- Mộc) .

Tuy nhiên, lánh đời có khi cũng chưa đủ để gọi là thoát được khỏi ảnh hưởng của đời. ở trong đời mà không để cho thân tâm lụy vì đời, mới thật là người làm chủ được hoàn cảnh, mới thật là người tự do. Sự thản nhiên dứt bỏ đối với thế sự khởi nơi lòng giác ngộ của mình trước nhất: đâu cần phải xa lánh cuộc đời mới dứt được lòng nô lệ quyến luyến.

ở thiên ứng- Đế- Vương, Trang tử có nói:" (...) Liệt- tử ba năm không ra ngoài. ở nhà nấu cơm cho vợ, nuôi heo cung kính như nuôi người, và không thiết đến việc gì nữa cả (để mà tiêu diệt cái lòng tự kiêu tự ái của mình đi) . Phá bỏ tất cả mọi trang sức giả tạo để cho tấm lòng trở về cõi thuần phác tự nhiên. Thành như cục đất, giữa cảnh náo nhiệt mà lòng vẫn không náo động. Như thế đến trọn đời mình..."

Trong con đường" huyền học", giai đoạn" tâm trai" nầy là khó khăn gay go nhất vì mình phải chịu đựng một cuộc tranh chấp khổng lồ ở nội tâm giữa cái" ta xã hội" và cái" Chân thế" của ta, nghĩa là giữa cái mà Trang tử gọi là Thiên và Nhơn (Trời và người) .

Cắt nghĩa chữ Thiên và Nhơn, Trang tử có nói:" Bò ngựa bốn chân, đó là Trời (Thiên) (18) . Khớp đầu ngựa, xỏ mũi trâu, đó là người (Nhơn) (19) (...) đừng lấy người mà giết trời (...) Giữ cẩn thận, đừng để mất thiên chân, thế gọi là trở về cái Chân của mình." (Thu- Thủy)

Nhơn, tức là nhơn- tạo, là ám chỉ những ước lệ giả tạo của xã hội để ràng buộc con người vào một khuôn khổ, tức là những cái mà Khổng- học gọi là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín... luân- lý, Đạo đức, pháp độ, dù rấ có lợi cho con người trong giai đoạn" tri thị phi, tri thiện ác", nó trở lại thành một chướng ngại vật cho giai đọan giải thóat", tức là giai đoạn" vong thị phi, vong thiện ác", giai đoạn mà " Chân thế" đã đến lúc trưởng thành, đủ sức" tự sinh, tự hóa.' Vì thế Trang tử mới có nói:" Tri vong thị phi, tâm chi thích dã". biết quên sự phải quấy, đó là cái tâm của mình thông suốt rồi vậy. Bảo rằng: biết quên, tức là phải có biết, rồi sau mới vượt lên sự hiểu biết mà quên đi. Muốn giải thoát, con người trước hết phải trải qua giai đoạn nhận thức rõ ràng cái Bản ngã của mình: không bao giờ đi đến giải thoát mà chưa từng nhận thức và sống trong Bản Ngã một cách sâu xa. Bản ngã là nguồn gốc của đau khổ, vì nó cố gắng sống riêng ngoài cái Sống- một cuả tâm hồn. Nhưng bản tánh của nó là "hữu- thức", vì có " hữu thức" mới có thể chia phân. Hữu thức phải đến trình độ cùng cực của nó, mới có thể đi vào cái Sống của Vô thức. Bản ngã là Âm, hễ Âm cực mới Dượng sinh. Dương là ám chỉ cái Chân thế của mình. Như trên đã nói: Bản ngã là nguồn gốc của đau khổ. Muốn đi đén trạng thái Vô- thức, phải làm cho tan vỡ cái vỏ bao ngoài, là Bản ngã. Làm tan vỡ nó, sẽ phải đau khổ để mà thoát xác, " phải chết, rồi mới được Phục sinh:, đó là ý nghĩa của câu chuyện Đấng Cứu- Thế (Jésus) phải chịu chết đóng đinh trên cây Thập- giá, để rồi được phục sinh và lên trời. Vì vậy mới có câu khẩu hiệu này của các nhà huyền học Thiên chúa giáo:" chết trên cây thập giá của mình". Triết học Đông phương bảo" vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản", " chết để mà sống lại", đó là điều ám chỉ đến việc làm cho" chết" bản ngã đi, để phục hồi chân tính.

Nhà Đạo học ấn độ hiện đại là J. Krisnamutri cũng có nói rõ ràng hiện trạng ấy:" Tiếng nói của tôi là tiếng nói của sự Hiểu biết thâm sâu, do một sự đau khổ tuyệt vọng mà có"

Bản ngã chưa chín mùi, chưa có thể rụng. đau khổ chưa đến chỗ tuyệt vời, khó mà giác ngộ (20) .

Bản- ngã (cả cái bản ngã xã hội un đúc nó) có thể ví như cái vỏ trứng gà, đối với con gà con đang thời kỳ chưa nở. Cái vỏ bao ngoài là cần thiết cho cái sống của con gà trong khi nó chưa thành hình đầy đủ, nhưng khi con gà con đã đến độ trưởng thành, có thể sống tiếp xúc ngay với ánh sáng và không khí bên ngoài, thì cái vỏ bao ngoài kia lại trở thành một chướng ngại vật mà nó phải phá vỡ ra, vì đó là tất cả vấn đề sanh tử của nó lúc bấy giờ.

Hột lúa chỉ làm xong sứ mạng của nó khi nào nó trở thành cây lúa, nghĩa là để có thể trở thành cây lúa, nó phải" chết" cái đời sống hột giống của nó đi, thì nó mới hoàn thành được sứ mạng của nó.

Bởi vậy, trước đây Trang tử mới có bảo:" Phá bỏ tất cả mọi trang sức giả tạo bên ngoài để cho tấm lòng trở về cõi thuần phác tự nhiên" (ứng- Đế- Vương) . Và" đừng lấy người mà giết Trời" (Thu- Thủy) . Người đây là cái" ta xã hội" tạo thành, còn Trời tức là chân thế.

Nhận rõ được như thế, ta sẽ không lấy gì làm lạ mà thấy rằng suốt bộ Nam- Hoa- Kinh, Trang tử bao giờ cũng cực lực phản đối cái học của Khổng, Mặc, và đề cao thiên nhiên mà đả kích" nhân vi hay nhân tạo". Cái học của Trang tử, cũng như của Lão tử, là cái học giải thóat, tiêu diệt Bản ngã để thực hiện con người " vô kỷ, vô cùng, và vô danh", tức là cái học thuyết về giai đoạn thứ hai trong cuộc thiên diễn của đời người để hoàn thành sứ mạng con người của mình trong Trời Đất:" Ta nay đã mất Bản ngã rồi, ngươi có biết chăng?" (Tề- Vật- Luận) .

Tóm lại, sự chống đối, đả kích của Trang tử chẳng qua là việc làm của" con gà con" đã đến thời kỳ nở: phá vỡ cái vỏ bọc ngoài của quả trứng để giải thoát. chỉ có thế thôi.

***

Đi ra, rồi trở lại, đó là con đường của Đạo mà Lão tử đã nói:" Phản giả, Đạo chi động". Đi ra, là con đường trong giai đoạn đầu để đi đến sự tạo thành một Bản- ngã đầy đủ; đi về, là con đường" phục kỳ bản", " phản kỳ chân", tiêu diệt bản ngã.

Con đường trước là con đường sống chia phân của nội tâm: Tâm Trí, Nhi Ngã, Thị Phi, Thiện ác...

Con đường thứ hai, là con đường" trở về" nguồn Sống Một, con đường hợp nhất lại những gì đã bị chia chẻ...Đó là con đường giải thoát. Hai con đường trên đây trong đời sống của con người là cat hai thế giới riêng biệt và nghịch hẳn nhau. Con đường trước người ta gọi là con đường" tiến" thì con đường sau phải gọi là con đường" thối". Lão tử có nói:" Vi học nhật ích, vi Đạo nhật tồn..." Từ bên thế giới nầy sang qua thế giới bên kia, nhà Phật gọi là" đáo bỉ ngạn" (đến bờ bên kia) .

Hai thế giới đã khác nhau, thì sự hoạt động tri thức trên những vùng tinh thần ấy cũng phải khác nhau: ở giới nhị nguyên thì phải dùng lý trí, nhưng khi bước chân vào ngưỡng cửa của giới nhất nguyên thì không còn dùng đến dụng cụ tri thức kia, là lý trí được nữa, mà phải dùng đến một năng khiếu đặc biệt khác là trực giác (21) . Trang tử gọi là" đại tri" và nhà Phật gọi là Trí" Bát nhã", hay là Trí- huệ bát nhã.

Như vậy, nhãn quang của người bước qua giai đoạn giải thoát là nhãn quang nghịch hẳn với nhãn quang của người còn sống trong giai đoạn chấp có một cái ta riêng biệt (nhị nguyên) .

Giai đoạn nầy (giai đoạn nhị nguyên) có hai thời kỳ: thời kỳ phôi thai của bản ngã và thời kỳ trưởng thành của bản ngã.

Trong thời kỳ thứ nhất, con người còn sống theo quần đoàn, sống theo tạp quán, theo ảnh hưởng của người chung quanh, chưa có cá tánh đặc biệt. Họ chỉ biết bắt chước và không dám suy nghĩ khác hơn những giáo lý, tôn giáo hay chế độ giáo dục đương thời: họ hoàn toàn là sản phẩm của xã hội chung quanh.

Thời kỳ thứ hai là thời kỳ trưởng thành của bản ngã. Bắt đầu cá nhân có những tư cách chống đối xã hội, không chịu mù quáng thuận theo một cách nô lệ bất cứ một mạng- lệnh nào, một lề lối cựu ước nào của chế độ luân- lý, tôn giáo, xã hội đã qua hoặc đương thời chi phối. Họ có những tư tưởng cách mạng và độc đoán. Vách thành của truyền thống, của tạp tục bắt đầu rạn nứt. Họ dám suy nghĩ theo mình, bắt đầu hoài nghi, và can đảm đem tất cả mọi vấn đề mà đặt lại. Họ không thụ động nữa, trái lại đề cao đến tột độ chủ nghĩa cá nhân đủ mọi phương diện. Họ tìm đủ mọi cách để đề cao đời sống độc lập tinh thần, không chịu tôn thờ một quyền thế vật chất tinh thần nào cả ngoài mình. Độc lập, tân- kỳ, sáng tạo, tự do, đó là bốn đặc điểm của con người tinh thần của họ.

Nhưng, một ngày kia, bản ngã của họ phát triển đến mức cùng tột, họ lại cảm thấy họ bọ ràng buộc trong những công trình sáng tạo của họ, nghĩa là họ cảm thấy họ bị nô lệ lấy những giá trị giả tạo mà chính họ đã bày ra. Tất cả những giá trị của xã hội văn minh ngày nay, như những giá trị về luân- lý, đạo đức, văn hóa, xã hội mà họ đã bày ra, phải chăng đều có công dụng là trói buộc họ vào những khuôn khổ quá chật hẹp của một ảo vọng đầu tiên vô cùng quan trọng: Bản ngã. Bấy giờ, họ bắt đầu đi qua giai đoạn thứ ba, là vượt lên trên cái Bản ngã ảo tưởng ấy, tức là họ bước qua con đường Giải thoát.

Giai đoạn nầy không phải là giai đoạn đi đến sự thực hiện siêu nhân, mà để thực hiện trạng thái tự nhiên của một con người " viên mãn", một con người " vô ngã", hay nói theo Trang tử, con người" chân- nhân". Giai đoạn này " phản" lại giai đoạn trên: Cách nhận thức, suy luận đều nghịch hẳn với những cách nhận thức, suy luận nhị nguyên như trong giai đoạn trước. Cách lập ngôn vì thế cũng khác hẳn. Cũng như bên Thiền- tông Phật giáo, người ta dùng đến phép lập ngôn vô cùng đặc biệt nầy là hay nói ngược lại tất cả những lối suy nghĩ thông thường để mà phá tan cái" tập niệm nhị nguyên". Phải có trải qua một cuộc đại cách mạng tư tưởng, xáo trộn và lật ngược tất cả mọi vấn đề thường thức trong đời, mới mong" phá tan" được cái ác- tập suy nghĩ theo nhị nguyên, mới nhận rõ được cái Chân- tướng của sự vật.

Như vậy, phần đông người ta, nếu sở dĩ còn trách cái giọng văn" khinh thế ngạo vật" của nhóm Trang học, cho rằng lời văn nhiều khi trịch thượng và quá bạo, không có vẻ dịu dàng hòa nhã và khiêm tốn đối với tư tưởng của Nho Mặc, đại diện tư tưởng nhị nguyên, là vì người ta chưa ý thức được phép lập ngôn của các nhà Đạo học Đông phương, của Lão Trang và nhất là của Thiền- tông, thường vụ lấy chỗ làm cho thức tỉnh, chứ không còn phải vụ lấy sự ru- ngủ cái bản ngã của con người nữa. Sự va chạm nặng nề đối với thành kiến là một trong những phương pháp để giúp cho người dễ tỉnh ngộ.

***

Tóm lại, ba mươi ba thiên của sách Trang tử, tuy nghĩa lý sâu rộng, nhưng chỉ có sáu thiên đầu, là Tiêu- Diêu- Du, Tề- Vật- Luận, Dưỡng- Sinh- Chủ, Đức- Sung- Phù, Đại- Tông- Sư và ứng- Đế- Vương của Nội thiên là bao quát được tất cả yếu chỉ của toàn thể bộ sách. Các thiên chương trong Ngoại và Tạp- thiên rất có thể có một số ít do tay Trang tử viết ra, kỳ dư đều do các bậc hậu học của phái Lão Trang thuật lại để diễn đạt thêm cái đại nghĩa của sáu thiên đầu.

Tiêu- Diêu- Du thì bàn về tự do tuyệt đối; còn Tề- Vật- Luận thì nói về bình đẳng tuyệt đối. Thật ra thì chỉ có hai thiên nầy là nền tảng của cả học thuyết Trang tử mà thôi. Các thiên khác trong Nội thiên cũng đều là những ý tưởng phụ thuộc dùng để diễn đạt cái đại ý của hai thiên nầy mà thôi.

Chú thích:

(1) Tự là Tứ- Huyền (mất vào khoảng 312 TL Kỷ- nguyên) .

(2) đắc Nhất

(3) Chứ không phải của mình thụ lãnh nơi xã hội, luân lý, chế độ, nơi văn minh giả tạo của con người bày ra.

(4) Thiên- trạch là chọn lọc thiên nhiên, thuyết của Darwin trong bộ" Vật chủng Nguyên thủy"

(5) Tiến- Hoá là một sự Biến, một sự Động- và thêm vào một thực trạng ấy là một ý kiến chủ quan là đi theo một khuynh hướng nào.

(6) Đức Sung Phù có câu:" Sanh tử, tồn vong, cùng đạt, bần phú, hiền dữ bất tiếu, hủy dự cơ khát, hán thử: thì sự vi biến, mạng chi hình dã. Nhật dạ tương đại hồ tiền, nhi tri bất năng giai hồ kỳ thủy giả dã ". (Chết sống, còn hết, cùng đạt, nghèo giàu, hiền và bất tiếu, chê khen, đói khát, nóng lạnh: đó là cái biến của vật, cái chuyển của Mạng. Ngày đêm thay phiên tiếp nối trước mặt ta mà trí thông minh của ta không sao nhận thấy được đâu là chỗ khởi đầu. "

(7) thích nhơn chi thích, nhi bất tự thích kỳ thích dã: chạy theo cáo thích của người mà không tự mình chạy theo cái thích của mình.

(8) Thương sinh: làm tổn hại đến sinh mạng.

(9) Tri bất tri, thượng: biết cái không thể biết được (" bất khả trí") , tức là Đạo. (Đạo- Đức- Kinh) .

(10) Đồng với Đạo, nên không còn tham muốn nữa.

(11) Trang- tử: Thiên Thiên Đạo (cổ nhơn chi tao phách)

(12) Cổ du kim dã: cái xưa, thì cũng như cái bây giờ (ám chỉ Đạo vĩnh viễn, bất biến... có từ vị thủy và hiện nay cũng không thay đổi) , người Pháp gọi là" Présent Eternel Immuàble".

(13) Canh Tang Sở.

(14) Nghĩa là không còn biết có mình nữa.

(15) Triêu- triệt: một sự thông hiểu thấu triệt sự vật như ánh sáng buổi ban mai, tức là một thứ" trực quan kiến độc", nhận thấy được cái Chân Thế (Sống Một) .

(16) Liệt- tử, thiên Lực- Mạng.

(17) Xem cái Dũng của thánh nhân (cùng một tác giả) phép tĩnh tọa của Cương- Điền (Phụ- Lục) .

(18) Thiên: thiên nhiên

(19) Nhơn: nhơn tạo, là của người bày ra.

(20) Dịch- kinh:" vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản" và Liệt tử ở thiên Trọng Ni cũng nói:" vật bất cai giả, tắc bất phản". Vật mà không đến mức cùng của nó thì không biến trở lại. Hai câu cùng đồng một ý nghĩa. Muốn" trở về" (phản) phải để cho bản ngã phát triển đến cực độ của nó, thì nó mới" phản biến" mà mất đi (âm cực Dương sinh ở quẻ Phục) .

(21) Trực giác: là dùng theo danh từ ngày nay, nó không phải là một thứ giác quan như người ta thường gọi là " giác quan thứ sáu", hay thứ trực giác theo Bergson. Thứ trực giác theo Bergson cũng chỉ họat động trong" dòng" sắc tướng (nói theo danh từ nhà Phật) chưa thật là cái trực giác của Đại- tri, của Bát- Nhã.

NAM- HOA- KINH

NỘI- THIÊN

TIÊU- DIÊU- DU

A. Bắc minh(1) hữu ngư, kỳ danh vi Côn(2). Côn chi đại, bất tri kỳ kỷ thiên lý dã. Hóa nhi vi điểu, kỳ danh vi Bằng(3). Bằng chi bối, bất tri kỳ kỷ thiên lý dã. Nộ nhi phi, kỳ dực nhược thùy thiên chi vân. Thị điểu dã, hải vận tắc tương tỷ ư Nam minh. Nam minh giả, thiên trì dã. Tề Hài(4) giả, chí quái giả dã. Hài chi ngôn viết: Bằng chi tỷ ư Nam Minh dã, thủy kích tam thiên lý, đoàn phù diêu(5) nhi thượng giả cửu vạn lý, khứ dĩ lục nguyệt tức giả dã.

Dã mã(6) dã, trần ai dã, sinh vật chi dĩ tức tương xuy dã. Thiên chi thương thương, kỳ chính sắc da, kỳ viễn nhi vô sở chí cực da? Kỳ thị hạ dã, diệc nhược thị tắc dĩ hĩ.

Thả phù thuỷ chi tích dã bất hậu, tắc phụ đại châu dã vô lực. Phúc bôi thủy ư ao đường chi thượng, tắc giới vi chi châu, trí bôi yên tắc giao, thủy thiển nhi châu đại dã. Phong chi tích dã bất hậu, tắc kỳ phụ đại dực dã vô lực, cố cửu vạn lý, tắc phong tư tại hạ hĩ, nhi hậu nãi kim bồi(7) phong, bồi phụ thanh thiên, nhi mạc chi yểu ứ(8) giả, nhi hậu nãi kim tương đồ Nam.

Điêu (9) dữ học cưu(10) tiếu chi viết: Ngã quyết khởi nhi phi thương du phương, thời tắc bất chí, nhị khống ư địa nhi dĩ hĩ. Hề dĩ chi cửu vạn lý nhi nam vi. thích mảng thương(11) giả, tam xan nhi phản, phúc du quả nhiên. Thích bách lý giả, túc thung lương. Thích thiên lý giả, tam nguyệt tụ lương.

Chi nhị trùng, hựu hà tri?

Tiểu trí bất cập đại trí.

Tiểu niên bất cập đại niên.

Hề dĩ tri kỳ nhiên dã?

Triêu khuẩn(12) bất tri hối sóc(13) huệ cô(14) bất tri xuân thu. Thử tiểu niên dã. Sở chi nam hữu minh linh(15) giả, dĩ ngũ bách tuế vi xuân, ngũ bách tuế vĩ thu. Thượng cổ hữu đại xuân(16) giả, dĩ bát thiên tuế vi xuân, bát thiên tuế vi thu. (Thử đại niên dã). Nhi Bành tổ(17) nãi kim dĩ cửu đặc văn, chúng nhơn thất chi, bất diệc bi hồ!

***

Chú thích:

(1) Bắc minh, cũng viết là bắc hải: biển Bắc.

(2) Côn: gốc là tên một thứ cá nhỏ, nhưng Trang- tử lại dùng để chỉ một thứ cá hết sức lớn.

(3) Bằng: gốc là tên loài chim phụng, Trang- tử lại dùng để chỉ một thứ chim rất lớn.

(4) Tề- Hài: Tên của một quyển sách, chép những việc kỳ quái.

(5) Dã mã: là một thứ hơi đất ngoài đồng ruộng. Theo Thích Văn: mùa xuân, hơi nước trên mặt ao đầm. Trên cao nhìn xuống, thấy như bầy ngựa rừng, nên gọi là dã- mã. Trần ai: Trần, là bụi đất; Ai, là bụi nhỏ.

(6) Phù dao(diêu): một thứ gió rất mạnh từ dưới hốt lên trên không trung(gió trốt).

(7) Bồi: cũng đọc là bằng. Bằng, tức là cỡi lên. Chim Bằng ở trên lớp gió lớn kia, nên gọi là cỡi gió(bằng phong).

(8) Yểu ứ: yểu là gãy; ứ là dừng lại, ngăn lại. Yếu ứ tức là trở ngại.

(9) Điêu là con ve(thiền) hay là ve núi.

(10) Học cưu: Theo Tư- Mã- Bưu là một thứ chim nhỏ, nhỏ hơn con chim cưu

(11) Mãng thương: cánh đồng kề cận.

(12) Triêu khuẩn: một thứ nấm sớm nở chiều tàn.

(13) Hồi sóc: sóc, là ngày đầu tháng; hối, là ngày cuối tháng. ở đây hồi là buổi tối, sóc là buổi mai.

(14) Huệ cô: là con ve trên núi mùa xuân sanh ra, mùa hạ chết, mùa hạ sinh ra, mùa thu chết.

(15) Minh linh: tên một thứ cây mọc ở Giang Nam(Từ- Nguyên). Bản của Nhượng Tông lại dịch là" giống rùa Minh- linh" là sai.

(16) Đại- Xuân: tên một thứ cây mọc ở Giang- Nam.

(17) Tương truyền Bành tổ, tên là Khanh, tôi của vua Nghiêu, sống từ đời Ngu- Hạ, đến đời Thương, và thọ 700 năm.

DỊCH NGHĨA:

TIÊU- DIÊU- DU

A. Tại biển Bắc có con cá Côn, lớn không biết mấy nghìn dặm. Cá này hóa ra chim Bằng: lưng của chim Bằng lớn cũng không biết mấy nghìn dặm. Vỗ cánh mà bay, cánh nó sè ra như mây che rợp một phương trời. Biển động, Bằng bèn bay sang biển Nam: biển Nam là Ao- Trời.

Tề Hải, sách chép các việc kỳ quái nói: chim Bằng, lúc bay qua biển Nam, cánh đập làm cho sóng nước nổi lên ba nghìn dặm dài; nó nương theo gió trốt mà cất lên chín muôn dặm cao, và bay luôn sáu tháng mới nghỉ.

Cái mà ta thấy trên không kia có phải là bầy" ngựa rừng" chăng, hay là bụi trần? Hay là cái hơi thở của muôn vật nổi lên? Còn màu trời xanh xanh kia có phải là màu thật của nó không, hay chỉ là màu của vô cùng thăm thẳm? Thì cái thấy của con chim Bằng bay trên mây xanh dòm xuống dưới đây cũng chỉ như thế mà thôi.

Vả lại, nước không sâu thì không sức chở thuyền lớn. đổ một chung nước nhỏ vô một cái hủng nhỏ trong nhà, lấy một cọng cỏ thả lên làm thuyền, thì thuyền tự nổi; nếu lại lấy cái chung ấy làm thuyền mà thả lên, thì thuyền phải trịt. Là tại sao? trị nước không sâu mà thuyền thì lớn. Cũng như lớp gió không dầy thì không đủ sức chở nổi cánh lớn của chim Bằng. Bởi vậy chim Bằng khi bay lên chín muôn dặm cao là cỡi lên lớp gió ở dưới nó. Chừng ấy, lưng vác trời xanh, không gì ngăn trở, nó bay thẳng qua Nam.

***

Một con ve và một con chim cưu nhỏ thấy vậy, cười nói:" Ta quyết bay vụt lên cây du, cây phương. Như bay không tới mà có rơi xuống đất thì thôi, chứ không sao! Bay cao chín muôn dặm, sang qua Nam mà làm gì? Ta thích bay đến mấy cánh đồng gần đây, ăn ba miếng no bụng, rồi về. Nếu ta đến chỗ xa trăm dặm, thì ta có lương thực mỗi ngày. Còn nếu ta đến chỗ xa nghìn dặm, thì ta có ba tháng lương thực."

***

Hai con vật ấy, mà biết gì?

Kẻ tiểu trí sao kịp người đại trí. Kẻ tuổi nhỏ sao kịp người tuổi lớn.

Sao mà biết được thế? nấm mai biết gì được hồi sóc, ve sầu biết sao được xuân, thu! Đó đều là hạng tuổi nhỏ cả. Phương Nam nước Sở có cây minh- linh, sống một xuân là năm trăm năm ; một thu là năm trăm năm. Thượng cổ có cây đại- xuân sống một xuân là tám nghìn năm, một thu là tám nghìn năm.(đó là hạng tuổi lớn). Lâu nay từng nghe danh sống lâu của Bành tổ. Hễ nói đến sống lâu, thì người đời thường đem đó mà so sánh, như thế không đáng buồn sao?

B. Thang chi vấn Cấc dã thị dĩ. Cùng phát chi bắc, hữu minh hải giả, thiên trì dã. Hữu ngư yên, kỳ quảng sổ thiên lý, vị hữu tri kỳ tu giả, kỳ danh vi Côn. Hữu điểu yên, kỳ danh vi Bằng, bối nhược Thái Sơn, dực nhược thùy thiên chi vân, đoàn phù diêu dương giác nhi thượng giả cửu vạn lý, tuyệt vân khí, phụ thanh thiên, nhiên hậu đồ Nam thả thích Nam minh dã. Xích yển[ii] tiếu chi viết: Bỉ thả hề thích dã. Ngã đằng dược nhi thượng bất quá sổ nhẫn chi hạ, ngao tường bồng hao chi gian, thử diệc phi chi chí dã. Nhi bỉ thả hề thích dã. Thử tiểu đại chi biện[iii] dã.

DỊCH NGHĨA:

B. Lời ông Thang hỏi ông Cấc, cũng thế. Miền Bắc hoang lạnh có cái biển gọi là Minh- hải, tức là Ao Trời. Có con cá lớn tới mấy nghìn dặm, chưa ai biết nó dài đến bao nhiêu, tên là Côn. Có con chim, tên là Bằng, lưng như núi Thái, cánh tợ vừng mây che một phương trời. Chim nầy theo gió trốt cuộn như sừng dê mà lên chín muôn dặm cao, tuyệt bóng mây- mù, đội trời xanh biếc, bấy giờ nó mới bay về biển Nam. Một con chim ở hồ nhỏ cười nói: đó bay chi cao xa lắm vậy? Ta bay nhảy bất quá vài chục thước cao, ngao du trong đám cỏ bồng cỏ hao. Bay đến thế cũng là đúng mực lắm rồi. Còn đó bay chi cao xa lắm vậy?

Đó là chỗ phân biệt giữa lớn và nhỏ.

C. Cố phù trí hiệu nhất quan, hạnh tỉ nhất hương, đức hợp nhất quân năng trưng[iv] nhất quốc giả, kỳ tự thị dã, diệc nhược thử hĩ. Nhi Tống Vinh tử du nhiên tiếu chi, nhi bất gia khuyến, cử thế nhi phi chi, nhi bất gia thư, định hồ nội ngoại chi phận[v], biện hồ vinh nhục chi cảnh[vi], tư dĩ hĩ. Bỉ kỳ ư thế, vị sát sát nhiên dã, tuy nhiên du hữu vị thọ[vii] dã.

Phù Liệt tử[viii] ngự phong nhi hành lãnh nhiên[ix] thiện dã, tuần hữu ngũ nhật nhi hậu phản. Bỉ ư trí phúc[x] giả, vị sát sát nhiên dã. Thử tuy miễn hò hành du hữu sở đãi giả dã[xi].

Nhược phù thừa thiên địa chi chánh nhi ngự lục khí chi biến[xii], dĩ du vô cùng giả, bỉ thả ô hồ đãi tai. Cố viết: chí nhơn vô kỷ, thần nhơn vô công, thánh nhơn vô danh[xiii].

DỊCH NGHĨA:

C. Cho nên, kẻ có tài trí đủ làm nổi một tước quan, hanh hơn cả một làng, (thì) đức (sẽ) không khác nào một vị vua được lòng tin của cả nước, (nếu biết) tự xem như đấng làm vua kia vậy.

Nhưng Vinh- tử nước Tống lại còn cười chê đó. Vả, đời có khen cũng không khích lệ, mà đời có chê cũng không ngăn đón được: họ đã định rõ cái phận của trong ngoài, phân biệt cái cảnh của vinh nhục rồi đấy. Trong đời, hạng người như thế cũng dễ thường thấy có. Tuy vậy, đức của họ cũng chưa được vững.

Liệt- tử cưỡi gió mà đi, đi một cách êm ái nhẹ nhàng, đi trọn mười lăm hôm mới về. Đó sống trong chỗ chí phúc và người như ông dễ thường thấy có. Tuy khỏi phải đi, nhưng còn chỗ phải chờ.

Đến như thuận theo cái chánh của Trời Đất, nương theo cái biến của lục khí mà dong chơi trong cõi vô cùng: thì đó đâu còn phải chờ đợi cái gì nữa. Cho nên nói rằng: bậc chí nhơn không thấy có mình, bậc thần nhơn không nhớ đến công mình, bậc thánh nhơn không nghĩ đến tên mình.

D. Nghiêu nhượng thiên hạ ư Hứa Do, viết: Nhật Nguyệt xuất hĩ, nhi tước hỏa[xiv] bất tức, kỳ ư quang dã bất diệc nan hồ? Thời vũ giáng hĩ nhi du tẩm quán, kỳ ư trạch dã bất diệc lao hồ? Phu tử lập nhi thiên hạ trị, nhi ngã du thi[xv] chi, ngô tự thị khuyết nhiên. Thỉnh trí thiên hạ.

Hứa Do viết: Tử trị thiên hạ, thiên hạ ký dĩ trị dã, nhi ngã du đại[xvi] tử, ngô tương vi danh hồ? Danh giả, thật chi tân dã. Ngô tương vi tân hồ? Tiêu liêu[xvii] sào ư thâm lâm, bất quá nhất chi. Yển thử[xviii] ẩm hà, bất quá mãn phúc. Quy hưu hồ quân. Dư vô sở dụng thiên hạ vi. Bào nhơn tuy bất trị bào, thi chúc bất việt tôn trở nhi đại chi hĩ.

DỊCH NGHĨA:

D.Vua Nghiêu muốn nhường thiên hạ cho Hứa- Do, nói: Mặt trời mặt trăng đã mọc, mà không dụt đuốc, nhìn bóng đuốc há chẳng khó coi lắm sao? Mưa mùa đã đổ xuống, mà còn đi tưới nước, thế là chẳng lao công vô ích hay sao? Nay nếu phu tử lên ngôi, thiên hạ ắt được trị. Tôi còn ngồi làm thần tượng chi nữa. Tôi tự thấy rất kém. Vậy, xin mời ngài lên trị thiên hạ.

Hứa Do nói: Ngài trị thiên hạ, thì thiên hạ được trị. Tôi còn thế Ngài làm chi, tôi cầu danh hay sao? Danh là khách của Thật. Tôi muốn làm khách sao? Chim tiêu liêu đậu ở rừng sâu, chẳng qua một nhánh là vừa. Chuột đồng xuống nước sông dài, chẳng qua đầy bụng là đủ. Xin trả lại cho ngài đó. Thiên hạ ấy, tôi không dùng làm gì cả. Người đầu bếp dù không xong việc bếp, người chủ tế cũng không vượt phận mà thế cho đó được.

E. Kiên Ngô vấn ư Liên Thúc viết: Ngô văn ngôn ư Tiếp Dư đại nhi vô đương[xix], vãng nhi bất phản. Ngô kinh bố[xx] kỳ ngôn, du Hà Hán nhi vô cực dã, đại hữu kính thính[xxi] bất cận nhơn tình yên. Liên Thúc viết:" kỳ ngôn vị hà tai". Viết: Diễu Cô Xạ chi sơn, hữu thần nhơn cư yên, cơ phu nhược băng tuyết, náo ước[xxii] nhược xử nữ[xxiii] bất thực ngũ cốc, hấp phong ẩm lộ, thừa vân khí, ngự phi long nhi du hồ, tứ hải chi ngoại, kỳ thần ngưng, sử vật bất tì lệ, nhi niên cốc thục. Ngô dĩ thị cuồng nhi bất tín dã.

Liên Thúc viết: Nhiên. Cổ giả vô dĩ hồ văn chương chi quan, lung giả vô dĩ dữ hồ chung cổ chi thinh. Khởi duy hình hài hữu lung manh tai, phù tri diệc hữu chi, thị kỳ ngôn dã, du thời nhữ[xxiv] dã. Chi nhơn dã, chi đức dã, tương bang bạc vạn vật dĩ vi nhất, thế ky hồ loạn, thục tệ tệ yên dĩ thiên hạ vi sự. Chi nhơn dã, vật mạc chi thương. đại tẩm khể thiên nhi bất nịch. đại hạn, kim thạch lưu, thổ sơn tiêu, nhi bất nhiệt. thị, kỳ trấn cấu tỉ khương[xxv] tương du đào chú Nghiêu Thuấn giả dã. Thục khẳng dĩ vật vi sự!

Tống nhơn tư chương phủ nhi thích chư Việt. Việt nhơn đoạn phát văn thân, vô sở dụng chi. Nghiêu tự thiên hạ chi dân, bình hải nội chi chánh, vãng kiến tứ tử Diễu Cô Tạ chi sơn phần thủy chi dương, yểu nhiên[xxvi] táng kỳ thiên hạ yên."

DỊCH NGHĨA:

E. Kiến Ngô nói với Liên- Thúc: Tôi nghe Tiếp Dư nói chuyện lớn lác không tưởng, có lối đi mà không có lối về... khiến tôi kinh sợ, ông nói như sông Hà sông Hán không cùng tận, rất là xa xôi, không cận với nhân- tình...Liên Thúc hỏi:" Nối những gì?"- " Nói rằng trên núi Diễu- Cô Tạ có thần nhơn ở, da thịt như băng tuyết, dáng điệu mềm yếu như người con gái chưa chồng. Không ăn năm loài thóc, chỉ hớp gió, uống sương, nương theo hơi mây, cỡi rồng mà bay ngao du ngoài bốn biển. Ngưng thần lại thì có thể làm cho vạn vật không đau ốm hư hoại, lúa thóc lại được mùa. Tôi cho đó là lời nói cuồng, nên không tin."

Liên Thúc nói:" Phải! Kẻ đui lấy gì để xem thấy được cái đẹp của văn- hoa: kẻ điếc lấy gì để nghe được tiếng chuông tiếng trống. Há chỉ có hình hài mới có đui điếc đâu... trí cũng có đui điếc. Theo lời nói ấy thì ngươi nay cũng thế. Kể như người ấy, đức ấy cùng vạn vật hỗ chụy đi làm cái việc của thiên hạ. Người ấy không vật nào hại đặng. Nước cả đụng trời mà không làm họ chết chìm được, nắng cả chảy mềm sắt đá, cháy núi thiêu đất cũng không làm cho họ chết nóng được. Đồ bụi bặm. Cặn bã của thần nhơn ấy cũng đúc thành được hạng người của Nghiêu Thuấn. Ai đâu lại khứng đi làm công việc cho ngoại vật!

Người nước Tống buôn mũ Chương phủ, sang nước Việt. Người nước Việt thì cắt tóc ngắn và xăm mình, không dùng mũ ấy làm gì. Nghiêu trị trăm họ trong thiên hạ, bình trị được trong nước, bèn sang qua núi Diễu- Cô Tạ để ra mắt bốn Thầy. Họ có cái vẻ sâu xa làm sao mà Nghiêu Thuấn quên mất thiên hạ của mình.

G. Huệ- tử vị Trang tử viết: Ngụy vương di ngã đại hố chi chủng, ngã thọ chi thành, nhi thật ngũ thạch. dĩ thạnh thủy tương, kỳ kiên bất năng tự cử dã. Phẫu chi dĩ vi biều, tắc hồ lạc vô sở dung. Phi bất hiêu nhiên đại dã. Ngô vi kỳ vô dụng nhi phẫu chi. Trang tử viết: Phu tử cố chuyết ư dụng đại hĩ. Tống nhơn hữu thiện vi bất quy thủ[xxvii] chi dược giả, thế thế dĩ bình tích khoáng vi sự. Khách văn chi, thỉnh mãi kỳ phương bách kim. Tụ tộc nhi mưu viết: ngã thế thế vi bình tích khoáng bất quá sổ kim, kim nhất triêu nhi chúc kỹ bách kim, thỉnh dữ chi."

Khách đắc chi, dĩ thuyết Ngô vương. Việt hữu nạn, Ngô vương sử chi tướng... Đông dữ Việt nhơn thủy chiến, đại bại Việt nhơn, liệt địa nhi phong chí.

Năng bất quy thủ nhất dã. Hoặc dĩ phong, hoặc bất nhiên ư bình tích khoáng, tắc sở dung chi dị dã. Kim tử hữu ngũ thạch chi hồ, hà bất lự dĩ vi đại tôn nhi phù hồ lạc vô sở dung. Tắc phu tử du hữu bồng[xxviii] chi tâm dã phù.

G. Huệ- tử gọi Trang tử, nói: Ngụy vương tặng tôi một giống dưa to. Tôi trồng nó có trái nặng đến năm thạch. Dùng nó đựng nước, nó nặng, không cất nhắc được. Bổ nó ra làm cái bầu, thì lại không còn dùng được chỗ nào. Đâu phải nó không to lớn, nhưng vì cho nó là vô dụng nên tôi đập bỏ nó.

Trang tử nói: Thế là phu tử vụng về chỗ đại dụng nó. Nước Tống có người khéo chế được môn thuốc chữa răn nứt da tay, đời đời chuyên làm nghề ươm tơ. Có người hay biết, đến xin mua phương thuốc đó một trăm lượng vàng. Anh ta bèn nhóm thân- tộc bàn rằng:" Nhà ta đời đời làm nghề ươm tơ, lợi không hơn số vàng đó. Nay một mai mà được trăm vàng, xin để cho bán."

Người khách được phương thuốc, đem thuyết vua Ngô. Nước Việt có nạn, vua Ngô sai anh làm tướng. Nhằm mùa đông, thủy chiến với người Việt, người Việt đại bại. Vua Ngô bèn cắt đất mà phong thưởng anh ta.

Cũng thời cùng một phương thuốc trị răn nứt da tay mà một người được thưởng phong, một người không ta khỏi cái nghề ươm tơ: đó là tại chỗ biết dùng mà khác nhau vậy.

Nay phu tử có trái dưa nặng đến năm thạch, sao không tính dùng nó làm trái nổi thả qua sông qua hồ, mà lo chi hồ vỡ bầu tan, không có chỗ dùng? Thì ra vì cái lòng của phu tử hẹp hòi chưa thông đạt đó.

H. Huệ tử vị Trang tử viết: Ngô hữu đại thọ, nhơn vị chi Vu. Kỳ đại bổn ủng thũng[xxix] nhi bất trúng thằng mặc. Kỳ tiểu chi quyện khúc, nhi bất trúng quy củ. Lâph chi đồ, tượng giả bất cố. Kim tử chi ngôn đại nhi vô dụng, chúng sở đồng khử dã.

Trang tử viết: Tử độc bất kiến lỳ tinh[xxx] hồ, ti thân nhi phục, dĩ hậu ngao giả, đông tây điệu lương, bất tị cao hạ, trúng ư cơ tịch, tử ư võng vổ. Kim phù thai ngưu, kỳ đại nhược thuỷ thiên chi vân, thử năng vi đại hĩ, nhi bất năng chấp thử. Kim tử hữu đại thọ, hoạn kỳ vô dụng. Hà bất thọ chi ư vô hà hữu chi hương[xxxi], quảng mạc[xxxii] chi dã, bàng hoàng hỗ vô vi kỳ trắc, tiêu diêu hồ tẩm ngọa[xxxiii] kỳ hạ, bất yểu cản phủ, vật vô hại giả. Vô sở khả dụng, an sở khốn khổ tai!

I. Huệ- tử gọi Trang tử, nói:" Tôi có côi cây to, người ta gọi nó là cây Vu. Gốc nó lồi lõm không đúng dây mực. Nhánh nhóc nó thì cong queo không đúng quy củ. đem trồng nó ở đường cái, người thợ mộc cũng không thèm nhìn. Nay lời nói của ông to lớn mà vô dụng, nên người người đều không thèm nghe."

Trang tử nói:" Ông riêng chẳng thấy con mèo rừng đó sao? Con người mình đứng núp, rình vật đi rong, nhảy tây nhảy đông, không hiềm cao thấp, kẹt trong dò bẫy, chết nơi lưới rập. Đến như con thai- ngưu, lớn như vầng mây che một phương trời, kể ra cũng là to thật, nhưng cũng không bắt được chuột. Nay ông có cây to, lại sợ nó vô dụng. Sao không đem nó trồng nơi tịch mịch, giữa cánh đồng rộng bao la. Khách ngao du không làm gì, ngồi nghỉ dưới gốc nó, khách tiêu diêu nằm ngũ dưới bóng nó. Nó sẽ không chết yểu vì búa rìu, cũng không sợ vật nào làm hại. Không có chỗ nào có thể dùng được, thì khốn khổ từ đâu mà đến được?"

________________

Phù diêu dương giác: gió trốt lớn, xoáy tròn như hình cái sừng dê rừng.

[ii] Xích yển: Xích, là cái hồ nhỏ; yển, là loại chim sẻ.

[iii] Biện: ở đây là sự phân biệt. Quách Tượng chú đoạn nầy, cho rằng không có lớn nhỏ, vì nếu" mỗi vật đều biết yên với cái Tánh của Trời phú cho mình, thì sao có buồn lo vì chỗ không đồng nhau." Đó là ông giảng sai với bản ý của Trang- tử.

Xem kỹ văn mạch của chương nầy, ta thấy rằng chỗ mà Trang- tử bảo" con ve và con chim cưu nhỏ không làm sao hiểu được cái hành động của chim Bằng", thì cũng như ở thiên Thu Thủy ông bảo" con ếch nằm đáy giếng làm gì thấy được cái rộng lớn của bể Đông".

Một đoạn văn sau trong thiên nầy, chỗ mà Kiên- Ngô kể chuyện của Tiếp- Dư bảo rằng" đại nhi vô- đương", chỗ mà Huệ- tử chê lời nói của Trang- tử " đại nhi vô dụng", tức cũng là chỗ mà Lão tử trong Đạo- Đức- Kinh bảo" hạ sĩ văn Đạo, đại tiếu chi" vậy.

Huống chi trước đây ông cũng đã nói: tiểu trí bất cập đại trí ; tiểu niên bất cập đại niên, triêu khuẩn bất tri hối sóc ; huệ cô bất tri xuân thu, thì thật là chủ ý của ông rõ ràng hết sức. Cho nên, lời chú của Quách Tượng, thật là một sự sai lầm to tát vậy, vì đã giảng nghịch lại với ý chánh của họ Trang. Câu nói nầy của Lão tử rất cần để cho ta tự nhắc nhở lấy khi cầm bút bình giảng tư tưởng trong Nam- Hoa- Kinh:" càng muốn làm cho thật sáng, lại càng làm cho ra tồi!" Vì vậy, ít bình giảng chừng nào càng tốt, mà đừng bình giảng gì cả, càng hay! đọc Trang- tử cần nhất là đọc ngay Trang- tử mà đừng đi qua các nhà bình giảng trước, hoặc nếu đi qua các nhà bình giảng trước, hãy quên phứt họ đi, để đi ngay vào chánh văn của Trang- tử.

[iv] Nhi đọc là Năng: cổ tự hai chữ này dùng lẫn nhau.

Trưng: là tin cậy được, được tín nhiệm.

[v] Nội Ngoại chi phận: đây là chỉ về cái Ta bên trong, và ngoại vật bên ngoài.

[vi] Vinh của ta, nhục của người: Vinh cho ta, tức là nhục cho người.

[vii] Thọ, là đứng vững: chỗ gọi là" chí đức cũng chưa được vững". đây là muốn nói rằng: người như Vinh tử chưa đủ cho ta ngưỡng mộ vậy.

[viii] Liệt- tử: người nước Trịnh, tên là Ngự- Khấu.

[ix] Lãnh- nhiên: nhẹ nhàng êm ái

[x] Phúc: tức là không có gì trở ngại cả. trí phúc, là muốn nói rằng Liệt- tử cỡi gió mà tuyệt không có vật nào trở ngại sự họat động của ông cả, ông tha hồ tới lui thong thả.

[xi] Câu này" thử tuy miễn hồ hành, du hữu sở đãi giả dã" cùng với câu trên" tuy nhiên du hữu vị thọ dã" đều cùng một dụng ý: chưa phải là đáng ngưỡng mộ, là đã đến mức hoàn toàn.

[xii] Lục khí: là khí Âm, khí Dương, Gió, Mưa, Tối, Sáng(Âm, Dương, Phong, Vũ, Hồi, Minh). Biện phải đọc là Biến. Xưa hai chữ này dùng lẫn nhau. Chữ" Chánh" đây, là của Âm, Dương(Thiên- Địa; Càn- khôn) đứng chỉ huy cái biến của lục khí...(nắm giềng mối của tất cả hiện tượng trong Trời Đất).

[xiii] Vô kỷ, vô công, vô danh: Thôi- tuyền cho rằng" Vô công, vô danh" là " không lập công, không lập danh". Giảng giải như thế, không ổn nếu không nói là sai. Nhân thế mới có người hiểu theo đó và cho rằng cái học của Trang- tử là cái học yếm thế, hay xuất thế.

Nếu hiểu câu" vô công" là " không lập công", thì câu" vô kỷ" cũng phải có nghĩa là " không lập mình" hay sao và như thế nghĩa nó là gì? khí văn phải nhất quán, và câu nầy phải hiểu là" không có mình", " không có công", " không có danh", nghĩa là không nghĩ đến mình. Bậc được Đạo, không còn có thấy mình nữa(tức là cái tiểu ngã của mình); không còn thấy có mình nữa, thì làm sao còn nghĩ đến công mình, và danh mình.

Lão tử cũng có nói" công toại nhân thoái", " vi như bất thị", " công thành phất cư"...(nên việc, lui thân, làm mà không cậy công, thành công rồi không ở lại...tức là không nghĩ đến sự lưu danh).

Như vậy, không thể gọi Lão học là cái học yếm thế hay xuất thế... vì" không lập công", " không lập danh".

Nên biết rõ rằng chủ trương cứu cánh của hai học thuyết ấy là cái học" huyền đồng vật ngã", không còn thấy có Trong có Ngoài, có Ta có Người nữa. Cho nên không thể hoịi người đắc Đạo là người xuất thế hay yếm thế, là vì đối với họ người với ta là một, Ngoại và nội là một, xã hội và cá nhân là một. Cũng như cá và nước là một, không thể không có nước mà cá sống. Cho nên sở dĩ con người phải lo cho xã hội là vì không có xã hội, cá nhân không sao phát triển được cái sống của mình. Lo cho xã hội không phải là phận sự mà là lẽ tất nhiên phải lo, không lo không đặng, hai lẽ ấy chằng chịt dính líu với nhau, không sao rời nhau được. Cho nên có thể hiểu rằng: nói là lo cho đời, mà chính làlo cho mình; hoặc trái lại, nói là lo cho mình, mà chính là lo cho đời đó.

Cho nên, nói rằng cái học của Lão Trang là cái học yếm thế, tức là chưa hiểu rõ cái chủ trương" huyền- đồng vật ngã" của các ông- vậy chớ phản- đối chế độ hiện hành của thời đại, phản đối Nho Mặc, phản đối cái Đạo hữu- vi đã làm thống khổ nhân dân...không phải đó là một cách tiêu cực lo khang- kiện- hóa xã hội là gì?

Vấn đề nhập thế xuất thế ở đây đã được đặt ra. Và dĩ nhiên, tương đối mà nói thì Lão cũng như Trang đều chủ trương sự thực hiện cái Đạo nơi mình trước hết, trước khi nghĩ đến việc ra lo giúp đời. Sự thực hiện bản thân là một vấn đề cần có sự cô lập và tĩnh tâm, cho nên dĩ nhiên là phải thiên về đời sống cá nhân nhiều hơn. " Tự giác nhi giác tha" của Nhà Phật, cũng như" dĩ tu nhân vi bồn" của Nho gia, phải nặng về sự yên tĩnh và lo về đời sống bản thân trước vấn đề xã hội.

Giáo sư A.W. Watts, trong quyển The Way of Zen lại cho rằng:" Đạo giáo là công việc của những người lớn tuổi, đặc biệt là những kẻ đã từ bỏ cái đời hoạt động xã hội. Sự từ bỏ đời sống họat động xã hội ấy chứng tỏ rằng họ đã có đi đến được một sự giải thoát nội tâm rồi đối với những lề lối suy tư cùng hành động giả tạo của xã hội bên ngoài. Đạo giáo, vì vậy là một sự đeo đuổi theo một thứ hiểu biết tự nhiên, chứ không còn thuộc về cái hiểu biết ước lệ giả tạo theo xã hội nữa, cái thông hiểu trực tiếp với lẽ sống thật, mà không phải trải qua sự trung gian của một ý tượng tinh thần theo nét gạch và tượng trưng."

[xiv] Tước hỏa: cây đuốc, một đóm lửa nhỏ.

[xv] Thi: là làm chủ. Lại cũng có nghĩa là tượng thần, là người có chức nhiệm nhưng không làm gì cả.

ở đây ta có thể hiểu là hư- vị, một địa vị tượng trưng như một pho tượng thần vậy thôi.

[xvi] Đại: thay thế.

[xvii] Tiêu liêu: chim nhỏ.

[xviii] Yển thử: chuột đồng.

[xix] Đại nhi vô- đương: lớn mà không đúng với thực tế. Đại ngôn, tức là lời nói khoác.

[xx] Kinh- bố: Bố nghĩa là sợ; kinh- bố là kinh sợ.

[xxi] Kính- thính: chữ đình ở đây, phải đọc là thính, có nghĩa là xa xôi, diệu vợi.

[xxii] Náo- ước: diện mạo đẹp đẽ, lại cũng có nghĩa là vẻ người yểu điệu, mềm mại, dịu dàng.

Chữ náo cũng viết là xước.

[xxiii] Xử tử: đọc là xử nữ(tức là người con gái chưa chồng).

[xxiv] đọc là nhữ(thay vì nữ).

[xxv] Tỉ- khương: bã lúa, trầu. Tức là cặn bã.

[xxvi] Yểu- nhiên: phong thái sâu xa.

[xxvii] Bất quy thủ: không làm răn nứt da tay.

[xxviii] Bồng: Bồng chi tâm là cái lòng hẹp hòi chưa thông đạt.

[xxix] ủng thủng: lồi lõm, gồ ghề, gút mắt.

[xxx] Ly tinh: tức là một thứ mèo rừng.

[xxxi] Vô hà hữu chi hương: tức là chỗ tịch mịch.

[xxxii] Quảng mạc: rộng lớn

[xxxiii] Tẩm ngọa: nằm ngủ.

Về quan niệm Đạo và Đức thì Trang tử và Lão tử đồng với nhau. Nhưng về quan niệm hạnh phúc, thì Trang tử giản minh một cách rõ ràng khúc chiết hơn trong thiên Tiêu Diêu Du này.

Trang tử cho rằng tất cả muôn vật, vật nào cũng có cái Đức của nó, do cái Đạo nơi mình mà phát huy ra. Chữ Đức ở đây không có cái nghĩa thông thường về luân lý như phái Nho gia đã dùng, mà nó dùng để ám chỉ cái Tánh tự nhiên của mỗi vật, tức là chỗ mà Lão tử gọi là" kiến Tố" và Nhà Phật gọi là " kiến Tánh"." Tánh tự nhiên" đây, tức là chỗ mà Quách Tượng bảo " bất đắc bất nhiên"(không vậy không được), nghĩa là cái" bất đắc dĩ" của mọi sự mọi vật... như lửa không thể không nóng, giá không thể không lạnh. Cái động tác của Đức rất tự nhiên, không cố cưỡng, nên gọi nó là " Vô vi".

Nếu biết thuận theo tánh tự nhiên ấy mà sống, thì hạnh phúc có ngay liền trước mắt, không cần cầu cạnh đâu khác ngoài mình.

***

Tiêu- diêu, là "tự do tự tại", là " tự do sống theo cái sống tự nhiên của mình" mà không phải mô phỏng theo ai khác, đèo bòng tham muốn cái ngoài Tánh Phận của mình. Tiêu Diêu Du, là rong chơi vui thích theo ý mình, vì đã biết" thích kỷ tự an", chứ không như người đời " xá ký thích nhơn"[ii], điều mà Trang tử rất cực lực phản đối ở thiên Đại- Tông- Sư[iii].

Như vậy, ta thấy rằng, cái Tự Do mà Trang tử đề xướng là một thứ tự do tuyệt đối, không lệ thuộc vào một điều kiện nào ngoài cái Bản Tánh của mình cả. Sống theo mình là Tự Do, là Hạnh phúc; sống theo kẻ khác, là Nô lệ, là Đau khổ.

Đại ý thiên Tiêu- Diêu- Du, có thể tạm chia làm năm điểm chánh như sau đây: ***

I. Lớn và Nhỏ không thường:

Nghĩa là cái Lớn cái Nhỏ không phải là điều tuyệt đối, bất biến, mà thực ra, là một lẽ tương đối: lớn hơn cái nhỏ, nhỏ hơn cái lớn. Lớn và Nhỏ đều là những lẽ vô thường.

Như cá Côn, vốn là một thứ cá nhỏ mà Trang tử cho nó là một giống cá lớn không biết mấy nghìn dặm; chim Bằng, vốn là chim Phụng, cũng đâu phải là một vật cực đại, thế mà Trang tử lại cho nó là một vật cực đại, có cái lưng lớn không biết mấy nghìn dặm, còn cánh của nó thì như vầng mây che khuất một phương trời. Đó là chỗ dụng ý đặc biệt của Trang tử dùng một bút pháp cực kỳ huyễn tướng, biến hóa bất thường để chỉ rõ sự vô thường của cái Lớn và cái Nhỏ. Đó là chỗ mà ở thiên Thu- Thủy nói:" lấy chỗ bất tề mà xem, thì sẽ thấy vật nào cũng lớn cả(đối với vật nhỏ hơn nó) và vật nào cũng nhỏ cả(đối với vật lớn hơn nó); biết Trời Đất như một hột thóc, biết mảy lông là hòn núi." Như vậy, thì Nhỏ sao lại thường chẳng Lớn, mà lớn sao lại thường chẳng nhỏ được. Nhận thấy cái chỗ nhỏ của mình, mà ham muốn đèo bòng mãi cái phận ngoài mình, sao bằng nhận thấy chỗ lớn của mình và cho nó là đủ để mà" thích kỷ tự an"? biết rõ được lẽ ấy, thì sẽ bỏ được cái lòng tham- dục của sự phân biệt trong ngoài, bỏ được cái lòng tham muốn những gì ngoài mình và không tùng mình nữa[iv].

II. Lớn, thì hợp với chỗ lớn, nên không thấy mình là lớn;

Nhỏ, thì hợp với chỗ Nhỏ, nên không thấy mình là nhỏ.

Tức như chim Bằng, một con vật rất lớn, tất phải dời sang biển Nam, bay lên cao chín muôn dặm và bay trọn sáu tháng trường không nghỉ... Trang tử đã nói:: Nước không sâu thì không sức chở thuyền lớn, đổ một chung nước xuống cái hố nhỏ, lấy một cộng cỏ mà làm thuyền thả lên thì thuyền tự nổi, nếu lại lấy cái chung nước ấy mà thả lên làm thuyền, thì thuyền ấy phải mắc cạn. Là tại sao? Tại nước không sâu, mà thuyền thì lớn. Lớp gió không dày, thì không sức chở nổi cánh lớn của chim Bằng."

Quách tử Huyền luận về điểm nầy có nói:" Nếu không phải là minh hải thì không đủ chỗ cho thân con cá Côn day trở, nếu không có chín muôn dặm cao thì sao đủ chở cái cánh to tướng của chim Bằng. Há phải đó vì hiếu kỳ mà vẽ cho ra chuyện thêm đâu! Hễ vật lớn, phải sanh ra nơi chỗ lớn, và chỗ lớn tất nhiên cũng sanh ra nơi chỗ lớn, và chỗ lớn tất nhiên cũng sanh ra vật lớn đó. Lý cố tự nhiên, đâu phải cần lo cho nó không được như vậy!" ông lại nói: "Cánh lớn nên khó cử động trong chỗ hẹp, cho nên phải vượt trên chín muôn dặm cao, mới có đủ chỗ mà cử động. Đã có cánh ấy mà lại quyết ở dưới thấp, hay bay lên vài chục thước cao như con chim cưu, có được không? Đó đều là chỗ" bất đắc bất nhiên"(không vậy không đặng), chứ đâu phải vui sướng gì mà làm ra như thế đâu!"

Vậy, lớn thì thuận theo chỗ lớn, không tự xem là lớn mà sinh kiêu; nhỏ thì thuận theo chỗ nhỏ, không tự xem là nhỏ mà đèo bòng ham muốn, như " con chim cưu... bay vụt lên du cây phương, dù bay không tới thì rơi xuống đất" đâu cần phải ham muốn cái rộng lớn của chim Bằng. Nghĩa thật rõ ràng!

Quách- Tử- Huyền nói: "Nếu biết đủ với tánh phận của mình, thì tuy mình lớn như chim Bằng, cũng không tự cho là lớn mà cho mình quý hơn chim nhỏ kia, mà con chim nhỏ kia cũng không cho mình là nhỏ mà ham muốn bay đến Ao Trời(thiên- trì) làm gì. Nên chỉ nói đến cái Vinh của chim Bằng, hay nói đến cái thèm muốn của con chim nhỏ(để kịp với chim Bằng) đều là nói thừa cả. Lớn, Nhỏ, tuy khác nhau, nhưng tâm trạng tiêu- du(nghĩa là tự do) vẫn một.

Tóm lại, chim Bằng ở thiên trì, thì chính cũng như chim cưu ở cây du, cây phương..." đâu vừa với đó". Chim bằng, không tự xem mình là lớn, chim cưu không tự xem mình là nhỏ, nên lớn không kiêu với nhỏ, nhỏ không đèo bòng ham muốn cái lớn. Tham dục nhờ đó, tự nhiên không còn nữa. Tham dục mà không còn có nữa, thì hạnh phúc có ngay liền đó, vì hạnh phúc là sống được cái sống của mình, sống toại sinh trong cái tự tánh của mình vậy.

III. Thọ và Yếu:

Điều mong ước lớn nhất của người đời, là được sống lâu. Cho nên mới cho cái sống bảy tám trăm năm của Bành Tổ là thọ, mà ao ước, thèm thuồng! Là tại sao? Là tại cái số kiếp của con người, chỉ trăm năm là hạn, nên mới đèo bòng ham muốn sống được như Bành Tổ và cho đó là thọ. Giả sử mà ai ai cũng đều sống được như Bành Tổ, thì cái khoảng bảy trăm năm lại sẽ không còn đủ cho là thọ nữa. Như ta đã thấy, lòng ham muốn con người sở dĩ có, là khi nào không biết an theo số phận của mình mà đem tâm đeo đuổi theo số phận của những vật ngoài mình và khác mình.

Thật vậy, vì không ai sống đến được cái tuổi của Bành Tổ, nên mới cho cái sống ấy là thọ mà thèm muốn. Bành Tổ, trái lại, nếu cũng bắt chước như ta mà không biết an với Tánh Phận của mình là sống bảy trăm năm, lại đèo bòng muốn sống được cái sống của cây minh linh thì tất cũng cho cái hạn bảy trăm năm của mình không đủ cho là thọ, mà sống được như cây minh linh mới là thọ. Cây minh linh, nếu lại bắt chước Bành Tổ, không tự xem mình là thọ, lại đèo bòng ham muốn sống theo cái sống của cây đại xuân; cây đại xuân lại muốn sống được như cái sống của Trời Đất...thì ra vật nào cũng không thọ cả, mà vật nào cũng đều yểu cả! Cho nên nói rằng, nếu cứ tham muốn sống ngoài cái tánh phần của mình, thì cái sống của Bành Tổ đối với cây đại xuân, không khác nào" cái sống của đứa trẻ chết trong nôi" vậy.

Nếu lấy cái sống trăm năm là hạn của ta làm mực thước, thì con ve sầu mùa xuân sanh, mùa hạ chết, tai nấm mai sớm nở tối tàn... đều là vật yểu cả! Cái sống một mùa của con ve sầu, và cái sống có một buổi của tai nấm mai, đối với ta tuy chỉ là cái sống trong khoảng khắc rất ngắn ngủi, mà đối với nó, vẫn cũng là một kiếp sống, như một kiếp sống trăm năm của ta vậy. Đối với con người, được sống trăm năm là thọ; thì đối với tai nấm mai, sống được một buổi cũng là thọ, mà đối với con ve sầu, sống được một mùa, đều là thọ cả: chúng nó được sống đến cái mức cùng của kiếp sống của chúng. Còn như cây đại xuân sống một xuân là tám nghìn năm, một thu là tám nghìn năm, giá như nó chỉ sống được có bốn mùa, nghĩa là ba muôn hai nghìn năm, thì đối với ta, sao không cho đó là thọ được, nhưng đối với cái kiếp sống của nó thì nó chỉ sống được có một tuổi mà thôi, nghĩa là chỉ sống được có bốn mùa; sống được tám nghìn năm, phải chăng đối với ta, là rất thọ, nhưng đối với chính cây đại xuân, thì nó chỉ sống được có một mùa mà thôi, sống rất yểu vậy!

Thế thì căn cứ vào sự dài ngắn của thời gian không thể được xem là thọ hay yểu. Chẳng qua như vật lớn ở chỗ lớn, vật nhỏ ở chỗ nhỏ. Vậy, thọ, yểu cũng như lớn, nhỏ chỉ là một danh từ đối đãi, tự nó không có nghĩa gì là thật cả, thật một cách tuyệt đối. Không nhìn ra ngoài, mà chỉ nhìn vào trong, nghĩa là mỗi vật, nếu biết "các an kỳ phận", "thích kỷ tự an", thì vấn đề lớn nhỏ, thọ yểu sẽ không còn thành vấn đề làm cho lòng mình thắc mắc nữa.

***

IV. Huyền nghĩa của Tiêu- Diêu:

Mỗi vật, nếu đều biết tự đủ với cái tánh phận của mình, thì dù ở trong xã hội, phải ở vào địa vị nào, cũng không tự xem là không đủ, để đèo bòng tham muốn cái Tánh Phận ngoài mình. Như " kẻ có tài trí đủ để làm nổi một tước quan, hạnh hơn cả một làng, thì đức sẽ không khác nào một vị vua được lòng tin của cả nước, nếu biết tự xem mình như đấng làm vua kia vậy." Tuy phận giống nhau, nếu mỗi người đều tròn với cái phận của mình. Chí và Hành của hai bên, bất quá như vật lớn nhỏ, thọ yểu mà thôi.

kẻ biết nhận thấy đức của mình ngang với bậc Vua chúa như chức quan nhỏ kia, tuy là kẻ sáng suốt " thích kỷ tự an", hơn người đời một bực, nhưng chỗ " lập đức" chưa vững. Là vì hãy còn thấy có công.

Vinh tử nước Tống, " đời khen cũng không khích lệ, đời chê cũng không ngăn đón được", tức là người vượt lên trên dư luận, không còn nô lệ đến thị phi bên ngoài nữa, thế mà chỗ lập đức của ông cũng chưa được vững. Là vì tuy đã biết thản nhiên đối với dư luận, nhưng còn để cho đời biết được mà khen với chê. Đó là hạng người còn để lại " danh". ấy là hạng người như vua Nghiêu, và Hứa Do.

Trê hai hạng đó, lại còn một hạng nữa, là hạng người như Liệt tử, hạng" cỡi gió mà đi, đi một cách êm ái nhẹ nhàng". ở đây Trang tử muốn ám chỉ những bậc tu đạo đã đạt đến trạng thái huyền hóa trong những lúc thiền tọa hay tĩnh tọa. Trong những lúc ấy, họ đã đạt đến trạng thái" tiêu diêu" vì đã huyền đồng cùng với cái sống thiêng liêng của họ, tức là Đạo. Nhưng, chỉ có một lúc thôi, nên mới nói" tuy phải đi, nhưng còn phải có chỗ chờ". Liệt- tử tuy" cỡi gió mà bay, thong thả tự do", nhưng còn phải đợi có gió mới bay được, như chim Bằng đợi có gió trốt nổi lên, mới" nương theo đó mà bay lên chín muôn dặm cao". Kẻ như Liệt tử, được huyền đồng cùng Đạo, tuy tiêu diêu được, mà cũng phải đợi lúc huyền hóa mới được tiêu diêu. Tự do(tiêu diêu) mà còn đợi lúc huyền hóa mới tiêu diêu thì chưa phải thật là người đã đạt đến cõi tiêu diêu tuyệt đối(tự do tuyệt đối). Là vì họ không phải luôn luôn" không còn thấy có mình"(vô kỷ) nữa. Chỉ có bực" chí nhơn vô kỷ, thần nhơn vô công, thánh nhơn vô danh" mới thật là kẻ đã đạt đến cái trạng thái huyền đồng một cách vĩnh viễn mà không còn phải chờ đợi một điều kiện gì khác.

***

Làm cách nào để đạt đến trạng thái huyền hóa? Phải biết " thuận theo cái chánh của Trời Đất, nương theo cái biến của lục khí mà lại qua trong cõi vô cùng."

Nghĩa là gì thế? Trời Đất là nói về Âm Dương. Âm Dương cọ sát nhau, tranh đấu nhau, nhưng khi được cái Chánh của nó, tức là Đạo, thì nó sẽ được điều hòa. Đạo, tức là cái Chánh của Trời Đất, đứng trên Âm Dương, và bao giờ cũng có cái phận sự điều chỉnh lại những gì thái quá do sự tranh chấp của cặp mâu thuẫn ấy gây nên, và không cho cái nào lẫn cái nào cả. Thuận theo cái Chánh của Trời Đất được rồi, thì tha hồ" nương theo cái biến của lục khí" nghĩa là biết " dĩ bất biến"(Đạo) để mà " ứng vạn biến" trong cuộc" vạn hóa" của Trời Đất. Cái Chánh(Đạo) ấy nơi ta, nhà Phật gọi là tánh, Lão tử gọi là Tố và ở đây gọi là Tánh Tự nhiên.

Quách Tượng giải nghĩa câu nấy nói:" Trời Đất lấy vạn vật làm cái thế, còn vạn vật lấy cái tự nhiên(tức là Đạo) làm cái chánh. Không làm mà vẫn được tự nhiên, mới gọi là Tự Nhiên. Tức như chim Bằng, bay cao là sở năng của nó; chim cưu, bay thấp là sở năng của nó; tai nấm mai, sống trong một buổi mai, là sở năng của nó; cây đại xuân, sống dài dằng dặc, là sở năng của nó. Bấy nhiêu cái đó, đều là " sở năng" của tự nhiên, không phải" sở năng" của sự làm của mình; không làm mà tự nhiên được cái sở năng ấy, đó gọi là Chánh. Bởi vậy, " thuận theo cái Chánh của Trời Đất", tức là thuận theo cái Tánh tự nhiên(Đạo) của vạn vật, thì đâu phải cần chờ đợi cái gì nữa mà huyền hóa với tạo vật. Được như thế, mới gọi là người chí đức, tức là người đã được tiêu diêu trong sự huyền đồng của Đây và Đó. Nếu còn nhờ (cái gì ở ngoài) nữa, rồi sau mới được tiêu diêu, tức như Liệt tử tuy" cỡi gió mà đi một cách êm ái dịu dàng" nhưng còn phải đợi có gió mới bay đi được, thì Đức chưa hoàn toàn. Huống chi là chim Bằng. Duy, cùng với vạn vật hỗn hợp làm một rồi, và nương theo cuộc đại biến của Trời Đất mà rong chơi trong cõi vô cùng thì mới gọi được là bậc" thường thông" hay là " đại thông".

Lời chú giải trên đây của Quách Tượng, thật rõ ràng hết sức. Bậc chí nhân là kẻ đã huyền đồng cùng tạo vật rồi, cho nên bản ngã không còn nữa. ở thiên Tề- Vật- Luận, Trang tử mượn lời của Tử- Kỳ để nói lên chân lý ấy:" Ta đã mất bản ngã rồi!" Bản ngã mà không còn thì Thiên- Tánh hiện ra[v], có khác nào Mặt trời (Thiên Tánh hay Đạo) bị mây(Bản ngã) che mờ: hễ mây tan đi thì tự nhiên Mặt trời hiện ra sáng tỏ. Khi Thiên Tánh hiện ra là vì Bản ngã đã mất, nên gọi là "chi nhơn vô kỷ", đó là được chỗ "đại thuận", hay là "được cái Chánh của tánh mạng".

"Thuận theo cái Chánh của Trời Đất", tức là " thuận theo cái Tánh tự nhiên của mình"[vi]. Quan trọng nhất, là gìn giữ cái tánh ấy, đừng để nó lu mờ vì tư dục, đừng để cho hoàn cảnh huyễn hoặc, thay đổi... Một cái cây, từ lúc đâm mộng, nẩy chồi, trổ lá, đơm bông... những cuộc biến động tuy nhiều, nhưng cái Sống của cây vẫn luôn luôn có một, và toàn mãn từ đầu chí cuối.

Bậc chí nhân vì đã thực hiện được trạng thái " vô kỷ" nên " thuận với Tánh tự nhiên của mình" và dù lưu chuyển theo cuộc biến động bất tận của Trời Đất, vẫn không làm mất Bản- tánh duy nhất của mình.[vii]

Bởi vậy, nơi mình, thì lo mà thực hiện sự huyền đồng cùng tạo vật, không phân trong và ngoài, ta và người nữa, không thấy lớn nhỏ, thọ yểu; còn nơi vật, thì biết để cho vạn vật, vật nào cũng được " an theo chỗ đã an bài của chúng" nên không ép buộc ai phải theo mình, nghĩa là lấy mình mà đánh giá sự phải quấy của người. Đó gọi là " chi nhơn vô kỷ".

***

V. Hữu dụng và vô dụng:

Trời Đất sinh vạn vật, để cho mỗi vật sống cái sống của nó, chứ không phải sinh ra để cho người dùng nó. Dùng được thì dùng, không dùng được thì bỏ. Gọi là hữu dụng hay vô dụng là sai. Thực ra, tự nó, không có vật gì gọi là hữu dụng hay vô dụng cả.

Như mão Chương- phủ, người nước Tống thì đại dụng, mà người nước Việt không dùng, bởi nó không đáp với nhu cầu. Hữu dụng hay vô dụng là việc không thường cũng như lớn nhỏ vậy." Một trái dưa to, nặng năm thạch" mà "bổ nó ra để làm cái bầu" thì lại hỏng cả, không dùng gì được nữa(vô dụng); trái lại, nếu để nó như vậy mà làm phao, đeo lội qua sông, thì nó là hữu dụng.

Ta thấy rằng nếu biết dùng, thì không có vật gì là không vô dụng, như cũng thời món thuốc" bất quy thủ" mà kẻ thì được phong hầu, còn người thì suốt đời chỉ làm cái nghề quay tơ. Đó là Trang tử trả lời cho Hụê- tử (cùng những ai chê cái học của ông là vô dụng) rằng: nếu biết dùng thì không có cái học nào là vô dụng cả: "là vì lòng của phu tử còn hẹp hòi chưa thông đạt"!

Vật nào cũng có cái Tánh tự nhiên của nó, không vật nào giống vật nào cả. Bởi vậy, ta phải biết chịu chỗ khác biệt nhau đó, nghĩa là phải biết nhìn nhận sự " bất bình đẳng tự nhiên" của sự vật mà đừng đem tư tâm mong bình đẳng nhất loại tất cả làm một. Biết nhận sự " bất bình đẳng tự nhiên" giữa vạn vật, tức phải biết kính trọng chỗ riêng biệt của mỗi vật, nghĩa là cái tánh tự nhiên của mỗi vật mà không xen vào làm trở ngại sự phát triển tự nhiên của nó hay sửa đổi uốn nắn nó theo một công thức giả tạo nào khác. Không xen vào làm trở ngại hay làm hư hoại tánh tự nhiên của mỗi vật, là để cho mỗi vật được sống " tiêu diêu" (tự do) theo cái sống của nó, tự do phát triển theo cái tánh tự nhiên của nó.

***

Tóm lại, tiêu diêu là tự do. Tự do là sống được theo tánh tự nhiên, tức là theo bản tánh của mình. Một hành động được gọi là hành động tự do, khi nào trong hành động ấy, ta biểu lộ được cái Người thâm sâu, thành thực của ta, theo ta, chứ không phải theo kẻ khác, theo một giáo lý hay một mẫu người lý tưởng nào ngoài ta. Và nếu mỗi vật, vật nào cũng được sống theo mình, thì sẽ không còn lớn, nhỏ, quý, tiện nữa, mà thảy đều tiêu diêu như nhau cả. Tiêu diêu như nhau cả, đó là bình đẳng tuyệt đối, mà bình đẳng tuyệt đối là nhờ có tự do tuyệt đối. Thiên Tề- Vật- Luận sẽ bàn về cái Bình đẳng tuyệt đối ấy.

THU- GIANG

NGUYỄN- DUY- CẨN

dịch và bình chú

---------------------------------

Lão tử nói:" kiến Tố, bão Phác"; Phật gia bảo:" kiến tánh, thành Phật".

[ii] Xá kỷ thích nhơn: là bỏ mình mà theo người.

[iii] Đại- Tông- Sư:" Hành danh thất kỷ, phi sĩ dã vong thân bất chân, phi dịch nhơn dã. Nhược hồ Bất- Giai, Vụ Quang, Bá Di, Thúc tề, Cơ tử, Tử du, Kỷ thu, Thân đố địch, thị dịch nhơn chi dịch, thích nhơn chi thích, nhi bất tự thích kỳ thích giả dã. Làm theo danh, mà bỏ mất cái của mình, không phải là kẻ dĩ; làm cho mất mạng mình, không rõ chân lý, đó chẳng phải là kẻ sai khiến được người. Như Hồ Bất Giai, Vụ Quang, Bá Di, Thúc Tề, Cơ Tử, Tử Dư, Kỷ Tha, Thân Đố Địch, là hạng làm cái làm của kẻ khác, theo cái phải của kẻ khác mà không biết theo cái phải của mình.

[iv] Nếu so sánh với câu nói nầy của hiền giả Epiclète(Hy Lạp):" Phàm sự vật, có cái thuộc ta, có cái không thuộc ta. Thuộc ta là những sự phán đoán, những khuynh hướng, những dục vọng, những ưu- ghét của ta, tóm lại là mọi tác dụng của linh- tính ta; không thuộc ta, là thân thể ta, của cải, danh vọng, tước phận, nói tóm lại là mọi sự không còn phải là tác dụng của linh- tính ta.

" Cái thuộc ta thời bản tánh nó tự do, không gì ngăn trở, không gì trái nghịch lại được; cái không thuộc ta thời không được chắc chắn, không được tự do, thường bị ngăn trở, là cái ở ngoài ta mà thôi.

Vậy, ta phải nhớ rằng cái gì vốn nó không được tự do mà cho là tự do, cái gì của người ngoài, vật ngoài mà cho là của mình, thời sẽ phải phiền lòng, sẽ phải buồn bực, sẽ phải bối rối, sẽ đem lòng oán trời, trách người, nhưng nếu cái gì thật của ta mới coi của ta, cái gì của người, coi là của người, thời không ai ép uổng mình được nữa, không ai ngăn cấm mình được nữa, không phải oán ai, không phải trách ai, không phải miễn cưỡng làm việc gì, không ai hại mình, không có kẻ thù, vì không phải chịu sự gì thiệt hại."(bản dịch của Phạm Quỳnh, 1929).

[v] đừng lẫn lộn thiên tánh với tánh tình của bản ngã, như những tánh nóng, tánh keo kiệt, tánh thích xa hoa, tánh ham vui, thích buồn của con người. Đó là chỗ mà Lão tử gọi " thượng đức bất đắc, thị dĩ hữu đắc..."(chương 38 Đạo Đức Kinh).

[vi] Các chánh giả, đắc ư hữu sanh chi sơ bảo hợp giả, toán ư đi sanh chi hậu(Dịch- Kinh). " Các chánh", là nhận được từ khi mới sanh; "bảo hợp", là giữ được trọn vẹn sau khi đã sanh. Cái mà ta gọi là Chánh đó, tức là chỗ mà Lão tử gọi" tử nhi bất vong".

[vii] " Bản tánh duy nhất" ấy, Pháp- ngữ gọi là " unisité individuelle" hoặc là " personne humaine". Đồng một nghĩa với câu nầy trong Dịch- Kinh:" Tri tiến thoái tồn vong nhi bất thất kỳ chánh, kỳ duy thánh nhơn hồ?" (biết tiến, biết thối, biết giữ cho còn, biết làm cho mất, mà không làm mất cái Chánh của mình, chỉ có bậc thánh nhơn mà thôi ư?). chữ chánh đây, tức là Tánh Tự nhiên mà ta đã thọ lãnh của Trời Đất.

Đấng ấy có tình mà không có hình. Trăm xương chín khiếu, sáu tạng, riêng biệt ra thì không thành một thân thể; nên phải có cái " hiệp" nó lại kia mới thành một thân thể được. Thần thiếp riêng biệt ra, không đủ sức trị lẫn nhau nên không thể thành một môn hộ; nên phải có cái hiệp nó lại, mới thành một môn hộ, quân thần riêng biệt ra thì không thành một quốc gia, nên phải có cái " hiệp" cả hai lại mới thành một quốc gia. Cá mà hiệp đặng làm nên một thân thể, một môn hộ, một quốc gia, " cái đó" không bớt, cũng không thêm cho thân thể, cho môn hộ, cho quốc gia, ta gọi nó là "Tình". Có kẻ nhạn cái " hình" do đó gây ra, không quên cho đến ngày cùng tận của nó, rồi đâm chém nhau, hại lẫn nhau, mà không biết dừng, chẳng cũng đáng buồn sao? Có kẻ trọn đời làm mãi mà không thấy thành công, mệt mỏi mà không biết đâu là chỗ về, cũng chẳng đáng thương xót sao? Người ta bảo như thế mà không chết có ích gì không? Hình nó hóa đi, tâm nó cũng một thế, cũng chẳng đáng xót xa lắm sao?

Đời người mờ mịt, há phải riêng ta mờ mịt, còn kẻ khác không mờ mịt hay sao? Như biết lấy cái tâm đã thành của mình làm Thầy, thì ai là chẳng có Thầy? Cái tâm thành đã sẵn có, sao còn tìm cái chi nữa mà thế nó? kẻ ngu cũng có nó. Chưa thành được mà lòng đã có chứa thị phi, thì có khác nào hôm nay sang nước Việt mà đã đến từ hôm trước rồi! Như vậy, tức là lấy cái không có làm cái có. Lấy cái không có làm cái có. Thì tuy có Thần Võ cũng không biết được, riêng ta có làm thế nào được!

C. Phù ngôn phi xuy dã. Ngôn giả hữu ngôn[xix], kỳ sở ngôn giả, đặc vị định dã. Quả hữu ngôn da? Kỳ vị thường hữu ngôn da? Kỳ dĩ vi dị ư khấu âm[xx], diệc hữu biện hồ? Kỳ vô biện hồ? Đạo ô hồ ẩn nhi hữu chân ngụy? Ngôn ô hồ ẩn nhi hữu thị phi[xxi]? Đạo ô hồ vãng nhi bất tồn? Ngôn ô hồ tồn nhi bất khả[xxii]?

Đạo ẩn ư tiểu thành[xxiii]; ngôn ẩn ư vinh hoa[xxiv]. Cố hữu Nhu Mặc chi thị phi; dĩ thị kỳ sở phi, nhi phi kỳ sở thị. Dục thị kỳ sở phi, nhi phi kỳ sở thị, tắc mạc nhược dĩ minh. Vật vô phi bỉ, vật vô phi thị. Tự bỉ tắc bất kiến tự tri tắc tri chi. Cố viết: Bỉ xuất ư thị, thị diệc nhơn bỉ. Bỉ thị, phương sinh chi thuyết dã. Tuy nhiên, phương sinh phương tử, phương tử phương sinh. Phương khả phương bất khả, phương bất khả phương khả. Nhân thị nhân phi, nhân phi nhân thị.

Thị dĩ Thánh nhân bất do nhi chiếu chi vu thiên, diệc nhân thị dã. thị diệc bỉ dã. Bỉ diệc thị dã. Bỉ diệc nhất thị phi. Thử diệc nhất thị phi. Quả thả hữu bỉ thị hồ tai? Quả thả vô bỉ thị hồ tai? Bỉ thị, mặc đắc kỳ ngẫu[xxv] vị chi Đạo Xu[xxvi]. Xu thủy đắc kỳ hoàn trung[xxvii], dĩ ứng vô cùng. Thị diệc nhất vô cùng, phi diệc nhất vô cùng dã. Cố viết: Mạc nhược dĩ minh.

Dĩ chỉ dụ chỉ chi phi chỉ, bất nhược dĩ phi chỉ dụ chỉ chi phi chỉ dã. Dỉ mã dụ mã chi phi mã, bất nhược dĩ phi mã dụ mã chi phi mã dã, vạn vật nhất mã dã.

Khả hồ khả, bất khả hồ bất khả. Đạo hành chi nhi thành, vật vị chi nhi nhiên. ô hồ nhiên? Nhiên ư nhiên. ô hồ bất nhiên? Bất nhiên ư bất nhiên. Vật cố hữu sở thiên, vật cố hữu sở khả. Vô vật bất nhiên, vô vật bất khả. Cố vi thị cử đình dữ dinh, lệ dữ Tây thi, khôi nguy quyệt quái, Đạo thông vi nhất.

Kỳ phân dã thành dã. Kỳ thành dã, hủy dã. Phàm vật vô thành dữ hủy, phục thông vi nhất. Duy đạt giả tri thông vi nhất. Vi thị chi bất dụng nhi ngụ chư dung. Dung dã giả, dụng dã; dụng dã giả, thông dã; thông dã giả, đắc[xxviii] dã. Thích đắc nhi cơ[xxix] hĩ. Nhân thị dĩ[xxx]. Dĩ nhi bất tri kỳ nhiên, vị chi Đạo. Lao thần minh vi nhất nhi bất tri kỳ đồng dã, vị chi triêu tam.

Hà vị triêu tam? Viết: Thư công phú vu[xxxi] viết: triêu tam nhi mộ[xxxii] tứ. Chúng thư giai nộ. Viết: nhiên tắc triêu tứ nhi mộ tam. Chúng thư giai duyệt. Danh thật vị khuy, nhi hỉ nộ vi dụng, diệc nhơn thị dã. Thị dĩ Thánh nhân hòa chi dĩ thị phi, nhi hưu hồ thiên quân[xxxiii], thị chi vị lưỡng hành[xxxiv].

DỊCH NGHĨA:

C. Lời, không phải như gió thổi: Lời phải có nói lên một cái gì. Nếu chỗ nói của nó mà chưa định, thì lời nói ấy quả đã có nói không. Hay là chưa có nói gì cả? Lời nói chưa định ấy, khác nào tiếng chim con: chưa có biết biện biệt hay không biện biệt? Đạo, sao dựa vào chân hay ngụy; lời, sao dựa vào thị hay phi? Đạo, sao qua mà không còn; lời, sao còn mà chẳng nói được? Đạo, ẩn trong tiểu thành; lời, ẩn nơi vinh hoa. Bởi vậy mới có cái phải, quấy của Nhu Mặc. Nhu Mặc thì lấy Phải làm Quấy, lấy Quấy làm Phải.(Nhưng) nếu muốn thấy được cái Phải trong cái Quấy, cái Quấy trong cái Phải, thì không có gì bằng dùng đến ánh sáng(của Đạo). Vật, không vật nào là không phải" đó", không vật nào là không phải" đây"[xxxv]. Lấy chỗ nhận thấy của người mà thấy, thì không thấy; lấy chỗ biết của mình mà biết, thì mới biết. Nên mới có nói rằng:" Đó", do đây mà ra; " đây", nhân "đó" mà có. " Đó đây", ấy là thuốc của "phương sinh". Nên mới có nói Sống, nói Chết, nói Chết, nói Sống, nói được, nói không được, nói không được, nói được. Nhân có Phải, nhân có Quấy; nhân có Quấy, nhân có Phải(mà cãi nhau).

Thánh nhân thì không căn cứ vào Phải Quấy, mà căn cứ vào khiếu biết tự nhiên của mình để hiểu mọi vật. Và cũng do"đây" trước. " Đây", cũng là "Đó", mà "Đó" cũng là "Đây". "Đó" cũng có một lẽ Phải Quấy của "Đó"; mà "Đây" cũng có một cái lẽ phải quấy của "Đây". Quả có "đó đây" chăng? Quả chẳng có "đó đây" chăng? Đó và Đây mà không gặp chỗ lứa đôi(đối- đãi) của nó, thì gọi là Cốt Đạo (Đạo Xu). Cốt ấy khởi đầu nơi trung tâm của cái vòng tròn(hoàn trung), và căn cứ vào đó để mà ứng đối vô cùng(với Thị Phi). Phải, cũng là một cái lẽ vô cùng. Quấy, cũng là một cái lẽ vô cùng[xxxvi]. Bởi vậy mới nói: đâu bằng dùng lấy ánh sáng của Đạo.

Lấy ngón tay mà thí dụ rằng ngón tay không phải là ngón tay, sao bằng lấy cái không phải là ngón tay để mà thí dụ rằng ngón tay không phải là ngón tay.

Lấy con ngựa mà thí dụ rằng con ngựa không phải là con ngựa, sao bằng lấy cái không phải là con ngựa để mà thí dụ rằng con ngựa không phải là con ngựa. Trời Đất khác nào ngón tay nói trên. Vạn vật khác nào con ngựa nói trên.

Được là được. Không được là không được. Con đường có đi mới thành đường đi, vật có gọi được tên mới thành là vật. Sao là phải vậy? Phải vậy là vì phải vậy. Sao là không phải vậy? Không phải vậy, là vì không phải vậy. Vật, có chỗ là phải vậy. Vật, có chỗ là được vậy. Không vật nào là không phải vậy; không vật nào là không được vậy. Cho nên mới có so sánh cọng cỏ với cột trụ, một người đàn bà xấu xí với Tây Thi; khoan đại, kỳ biến, gian trá, quái dị, thảy đều là một.

Có phản" nó" ra thì "nó" mới "thành". Có "thành" thì mới có "hoại". Phàm vật mà không "thành", nên không "hoại" thì mới có thể "trở về" mà cùng thông với lẽ Một(của Đạo). Chỉ có bậc đạt Đạo mới thông hiểu được lẽ Một ấy mà thôi: Họ dìng đỡ cái dung mạo (bên ngoài) để hòa với mọi người. "Dung", tức là "dụng"; "dụng", tức là "thông". Mà "thông", tức là "đắc" vậy. Vui trong chỗ "đắc" ấy, ít ai được. Nhân tới đó mà "thôi đi". "Thôi đi", mà cũng không cần phải biết vì sao mà phải vậy, thì gọi là Đạo. Lao nhọc thần minh vì chấp nhất (trong một cái Phải hay cái Quấy nào) mà không biết trông thảy đều đồng nhau. Nên mới gọi là "sớm ba".

Sao gọi là " sớm ba"? Có lão nuôi khỉ, phát khoai cho khỉ, nói: "Sớm ba, mà chiều bốn!" Khỉ đều giận. Lão lại nói: "Thôi, sớm bốn mà chiều ba"! Khỉ đều mừng. Số cho không thay đổi, danh và thực không thiếu, vậy mà, cái dụng ý của nó lại có mừng có giận. Bởi vậy, bậc Thánh nhân, vì sự hòa bình mà phải nói đến thị hay phi, rồi đứng yên ở cốt trục của "bánh xe Trời" (Thiên Quân): đó gọi là "lưỡng hành".

D. Cổ chi nhân, kỳ tri hữu sở chí[xxxvii] hĩ.

Ô hồ chí? Hữu di vi vị thủy hữu vật giả chí hĩ, tận hĩ, bất khả dĩ giả hĩ. Kỳ thứ dĩ vi hữu vật hĩ, nhi vị thủy hữu phong[xxxviii] dã. Kỳ thứ dĩ vi hữu phong yên, nhi vị thủy hữu thị phi dã. thị phi chi chương dã, Đạo chi sở dĩ khuy dã. Đạo chi sở dĩ khuy, áu chi sở dĩ thành[xxxix]. Quả thả hữu thành dữ khuy hồ tai? Quả thả vô thành dữ khuy hồ tai? Hữu thành dữ khuy, cố Chiêu thị[xl] chi cổ cầm dã. Vô thành dữ khuy, cố Chiêu thị chi bất cổ cầm dã. Chiêu văn chi cổ cầm dã, Sư Khoáng[xli] chi chi sách dã, Huệ tử[xlii] chi cứ ngộ dã, tam tử chi tri cơ hồ? Giai kỳ thạnh giả dã, cố tải chi mạt niên. Duy kỳ háo chi dã, dĩ dị ư bỉ ; kỳ háo chi dã, dục dĩ minh chi, bỉ phi sở minh nhi minh chi. Cố dĩ kiên bạch[xliii] chi muội chung, nhi kỳ tử hựu dĩ vấn chi luân chung, chung thân vô thành. Nhược thị nhi khả vị thành hồ? Tuy ngã diệc thành dã. Nhược thị nhi bất khả vị thành hồ? Vật dữ ngã vô thành dã. thị cố hoạt nghi chi diệu[xliv], Thánh nhân chi sở đồ dã. Vi thị bất dụng, nhi ngụ chư dung[xlv], thử chi vị dĩ minh[xlvi].

DỊCH NGHĨA:

D. Người xưa, cái biết của họ có chỗ cùng cực. Sao gọi là cùng cực? Có kẻ cho rằng thuở ban đầu chưa hề có vật gì cả, đó là một chủ trương cực đoan cùng tận, không thể còn nói gì thêm được nữa. Có kẻ thì cho rằng đã có vật rồi, nhưng vật ấy chưa từng chia phân. Lại cũng có kẻ cho rằng đã có vật rồi, nhưng vật ấy đã lại có chia phân. Thị Phi mà bị chia phân rõ rệt ra rồi, thì Đạo mới có chỗ khuyết. Đạo mà có chỗ "khuyết" (vì không đủ) mới có tạo thành ra chữ "ái" (để mà hòa hợp lại). Quả có "khuyết" có "ái" chăng? Quả không có "khuyết", không có "ái" chăng? Bởi thấy có "khuyết" có "ái", họ Chiêu mới khảy cầm. Không có "khuyết" có "ái" thì họ Chiêu khảy cầm làm chi?

Có Chiêu văn khảy cầm, Sư Khoáng mới lập luật định ngũ âm, Huệ tử mới giảng âm luật. Chỗ biết của ba người này có là bao nhiêu mà thiên hạ đều hoan nghênh cho đến đời cuối cùng này mà luật ấy hãy còn thịnh hành? Chỗ ưa thích của họ đâu có giống với chỗ ưa thích của chúng nhân. Muốn đem cái chỗ không sáng của mình mà soi sáng cho kẻ khác, nên suốt đời cam chịu tối tăm vì câu chuyện "kiên bạch". Họ thử đem ngón đàn hay của họ mà truyền dạy cho con họ, trọn đời biết có truyền dạy được không! Nếu mà họ truyền đạt được, thị ta đây cũng truyền dạy được. Bằng họ truyền dạy không đặng, thì ta đây cũng truyền dạy không được. Cho nên chỗ mà bậc thánh nhân mong mỏi là được ở trong cái ánh sáng mập mờ (của cái nhìn tổng quát hỗn hợp), không dùng phép tắc của ai cả, chỉ dùng cái lý thông thường của mọi người để xử sự với đời. Đó gọi là mượn lấy ánh sáng của người vậy.

Đ. Kim thả hữu ngôn ư "thử", bất tri kỳ dữ "thị" loại hồ[xlvii], kỳ dữ thị bất loại hồ? Loại dữ bất loại, tương dữ vi loại, tắc dữ bỉ vô dĩ dị hĩ. Tuy nhiên, thỉnh thường ngôn chi: "hữu thủy", dã giả, "hữu vị thủy hữu thủy" dã giả, "hữu vị thủy hữu phù vị thủy hữu thủy", dã giả, "hữu hữu" dã giả, "hữu vô", dã giả, "hữu vị thủy hữu vô" dả giã, "hữu vị thủy hữu phù vị thủy hữu vô" dã giả[xlviii]. Nga nhi hữu vô hĩ, nhi vị tri hữu vô chi quả, thục hữu thục vô dã? Kim ngã tắc dĩ hữu vị hĩ, nhi vị tri ngô sở vị chi, kỳ quả hữu vị hồ, kỳ quả hữu vô vị hồ?

Thiện hạ mạc đại ư thu hào chi mạt, nhi đại sơn vi tiểu. Mạc thọ hồ thương tử nhi Bành tổ vi yểu.

Thiên địa dữ ngã tịnh sanh, nhi vạn vật dữ ngã vi nhất. Ký dĩ vi nhất hĩ, thả đắc hữu ngôn hồ? Ký dĩ vị chi nhất hĩ, thả đắc vô ngôn hồ? Nhất dữ ngôn vi nhị, nhị dữ nhất vi tam[xlix]. Tự thử dĩ vãng, xảo lịch bất năng đắc nhi huống kỳ phàm hồ? Cố tự vô thích hữu, dĩ chí ư tam, nhi huống tự hữu thích hữu hồ? Vô thích yên, nhân thị dĩ[l].

Phù Đạo vị thủy hữu phong[li], ngôn vị thủy hữu thường[lii]. Vi thị nhi hữu chân[liii] dã. thỉnh ngôn kỳ chân: hữu tả hữu hữu, hữu luân hữu nghĩa, hữu phản hữu biện, hữu cạnh hữu tranh, thử chi vị bát đức, lục hợp chi ngoại[liv]. Thánh nhân tồn nhi bất luận. Lục hợp chi nội, thánh nhân luận nhi bất nghị. Xuân thu kinh thế tiên vương chi chí, thánh nhơn nghị nhi bất biện[lv]. Cố phận dã giả hữu bất phân dã, biện dã giả, hữu bất biện dã[lvi]. Viết: hà dã? Thánh nhân hoài chi, chúng nhân biện chi. Dĩ tương thị dã. Cố viết: biện dã giả, hữu bất kiến dã[lvii]. Phù đại Đạo bất xưng, đại biện bất ngôn, đại nhân bất nhân, đại liêm bất khiêm, đại dũng bất kỵ. Đạo chiêu nhi bất Đạo[lviii], ngôn biện nhi bất cập[lix], nhân thường nhi bất thành, liêm thanh nhi bất tín, dũng kỵ nhi bất thành, ngũ giả ngoan nhi cơ hướng phương hĩ. Cố tri chỉ kỳ sở, bất tri, chí hĩ[lx]. Thục tri bất ngôn chi biện, bất Đạo chi Đạo? Nhược hữu năng tri, thử chi vị thiên phủ, chú yên nhi bất mãn, chước yên nhi bất kiệt, nhi bất tri kỳ sở do lai, thử chi vị bảo quang[lxi].

Cố tích giả Nghiêu vấn ư Thuấn viết: ngã dục phạt Tông, Khoái, Tự Ngao; nam diện nhi bất thích nhiên, kỳ hà tố dã? Thuấn viết: Phù tam tử giả, du tồn hồ, bồng ngải chi gian? Nhược bất thích nhiên, hà tai? Tích giả thập nhật tịnh xuất, vạn vật giai chiếu nhi huống đức chi tiến hồ nhật giả hồ!

DỊCH NGHĨA:

Đ. Ví như nay có người hỏi rằng: không rõ chữ "đó" có giống với chữ "đây" chăng; hay không giống với chữ "đây" chăng? Giống và không giống, hay cùng là một giống với nhau, thì là bên này không có gì khác với bên kia nữa. Tuy vậy, còn có nhiều danh từ thông thường mà ý nghĩa tương phản, ta cũng cho nó giống nhau được nữa chăng? Như những danh từ sau đây: 'hữu thủy", "hữu vị thủy hữu thủy", 'hữu vị thủy hữu phù vị thủy", "hữu hữu", 'hữu vô", 'hữu vị thủy hữu vô", "hữu vị thủy hữu phù vị thủy hữu vô". Thoạt trông qua mà "có" là đã "không" rồi, nhưng cũng chưa rõ là có hay không? Và quả có cái gì là có, có cái gì là không hay chăng? Nay thì ta cũng đã có nói rồi, nhưng chưa biết rõ điều ta nói đó quả đã có nói không, hay chưa có nói không?

Dưới trời không có gì lớn bằng cọng lông mùa thu, mà không có gì nhỏ bằng núi Thái; không có gì thọ bằng đứa bé chết yểu, mà không có gì yểu bằng ông Bành Tổ.

Trời Đất cùng ta đồng sinh, và vạn vật cùng ta là một. Đã là một rồi, thì nói ra có được không? Đã gọi là một rồi, thì không nói ra có được không? Một và lời là hai. Hai với một là ba. Từ ba trở lại một, bậc gọi là xảo lịch còn không hiểu được thay, huống chi là kẻ tầm thường! Cho nên, từ chỗ "không" mà sang chỗ "có", còn phải đến số ba, huống chi từ chỗ có mà sang chỗ có? Không phải sang qua đâu cả, chỉ nên theo chỗ có đấy là đủ.

Vả, Đạo chưa hề có khu vực; lời nói chưa hề có định thức. Có cho đây là Thị, thì mới có sự chia phân thị với phi thành từng khu vực. Vậy, xin bàn về khu vực ấy: có mặt, có trái, có luận, có nghĩa, có phân, có chia, có cạnh, có tranh, đó gọi là "bát thức". Phần ngoài của "lục hợp", thánh nhân để yên mà không luận đến. Phần trong của "lục hợp", thánh nhân luận đến mà không bàn. Lịch sử đời Xuân Thu của các Tiên vương, thánh nhân bàn đến mà không chê khen biện luận. Cho nên tuy có phan chia mà không phân chia; biện bác mà không biện bác. Sao vậy? Là vì thánh nhân thì ôm giữ, chúng nhân thì biện bác để mà khoe khoang. Nên mới có lời nói này: "hay biện phân, thì có chỗ không thấy rõ được". Vả, "đại Đạo" thì không xưng tên; "đại biện" thì không có lời; "đại nhân" thì không thương ai; 'đại liêm" thì không nhún nhường; 'đại dũng" thì không làm hại ai. Đạo mà sáng thì không phải Đạo; lời mà rõ ràng thì không tới chốn, nhan mà thường thì không nên việc; liêm mà thanh thì không thể tin; dũng mà hại người thì không nên việc. Năm điều ấy tròn mà thành vuông. Cho nên, biết dừng chỗ mà mình không thể biết, là đến chốn rồi vậy. Có ai biết được cách biện biệt mà không dùng đến lời, nói mà không cần phải nói ra lời? Nếu có kẻ biết được, kẻ ấy gọi là Thiên phủ (kho trời) đổ vô mãi mà không đầy, rót ra mãi mà không cạn, nhưng không biết do đâu mà đến. Nên mới gọi là "che ánh sáng" (bảo quang).

Cho nên ngày xưa Nghiêu hỏi Thuấn:

"Ta muốn phạt Tông, Khoái, Tư Ngao, ngảnh mặt sang Nam mà không thấy lòng khoan khoái. Như thế là cớ làm sao?"

Thuấn nói:

"Như ba người ấy (vua của ba nước ấy) khác nào sống ở giữa cỏ bông cỏ ngãi. Nhà Vua sao lại không thấy lòng khoan khoái? Xưa kia, mười mặt trời cùng mọc, muôn vật đều được soi sáng, huống chi cái Đức của người còn hơn mặt trời!"

E. Khiết Khuyết vấn hồ Vương Nghê[lxii] viết:

Tử tri vật chi sở đồng thị hồ?

Viết: ngô ô hồ tri chi.

Tử trí tử chi sở bất tri da?

Viết: ngô ô hồ tri chi.

Nhiên tắc vật vô tri da?

Viết: ngô ô hồ tri chi. Tuy nhiên, thường thí ngôn chi. Dung cự tri ngô sở vị tri chi phi bất tri da? dung cự tri ngô sở vị bất tri chi phi tri da? Thả ngô thường thí vấn hồ nhữ[lxiii]: dân thấp tẩm, tắc yêu tật thiên tử[lxiv], thu thiên hồ tai[lxv]? Mộc xử tắc chủy lật tuân cụ[lxvi], viên hầu nhiên hồ tai? tam giả thục tri chánh xử? Dân thực sô hoạn[lxvii], mê lộc thực tiến[lxviii], lương thư cam đái[lxix], xi nha thị thử[lxx]: tứ giả thục nhi tri chánh vị? viên biên thư dĩ vi thư[lxxi] mê dữ lộc giao, thu dữ ngư du. Mao tường Lệ Cơ nhơn chi sở mỹ dã, ngư kiến chi thâm nhập, điểu kiến chi cao phi, mê lộc kiến chi quyết sậu[lxxii]. Tứ giả thục tri thiên hạ chi chánh sắc tai?

Tự ngã quan chi, nhân nghĩa chi đoan, thị phi chi đồ, phiền nhiên hào loạn, ngô ô năng tri kỳ biện.

Khiết- Khuyết viết: tử bất tri lợi hại, tắc chí nhân cố bất tri lợi hại hồ?

Vương Nghê viết: chí nhân thần hĩ! đại trạch phần nhi bất năng nhiệt, hà hán hộ nhi bất năng hàn. Tật lôi phá sơn, phong chấn hải, nhi bất năng kinh. Nhược nhiên giả, thừa vân khí, kỵ nhật nguyệt, nhi du hồ tứ hải chi ngoại, tử sinh vô biến ư kỳ, nhi huống lợi hại chi đoan hồ?

DỊCH NGHĨA:

E. Khiết Khuyết hỏi Vương Nghê:

ông biết chỗ đồng phải giống nhau của mọi vật không?

Ta biết đâu việc đó.

ông biết chỗ mà ông không biết không?

Ta biết đâu việc đó.

Vậy thì, mọi vật, cũng không biết gì cả hay sao?

Ta biết đâu việc đó. Tuy vậy, ta thử nói xem sao. biết đâu cái mà ta gọi là biết, lại chẳng phải là cái mà ta không biết? Biết đâu cái mà ta gọi là không biết lại chẳng phải là cái mà ta biết? Vả, ta đã từng thử hỏi ngươi: người nằm trong chỗ ẩm thấp thì sanh ra đau lưng và tê liệt một bên mình; con cá chạch thì có sao không? Người ở trên cây run rẩy sợ sệt; còn loài khỉ vượn thì có sao không? Ba loài ấy, ai biết chỗ ở nào là chỗ ở chính? Con người thì ưa ăn thịt thà, hươu nai thì thích ăn cỏ non; rết thì cho rắn con là ngon; chim mèo chim cú thì nghiện ăn chuột bọ. Bốn loài ấy, ai biết vị ăn nào là chính vị? Vượn và khỉ theo với nhau, nai và hươu cùng với nhau, chạch và cá lội với nhau. Mao Tường, Lệ Cơ, người thấy thì cho là đẹp, mà cá thấy thì lặn sâu, chim thấy thì bay cao, hươu nai thấy thì chạy dài. Bốn loài ấy, ai biết sắc đẹp nào là chính sắc trong thiên hạ?

Tự mà xem, thì đầu mối của nhân nghĩa, đường nẻo của thị phi rối loạn lung tung, ta làm sao biết đâu mà phân biện.

Khiết Khuyết nói: ông không biết lợi hại, còn bậc chí nhân cũng không biết lợi hại nữa hay sao?

Vương Nghê nói: chí nhân là bậc thần: chầm lớn cháy, không thể làm cho đó nóng, sông Hà sông Hán đặc mà không thể làm cho đó lạnh; sét đánh vỡ núi; gió dậy biển cả cũng không làm cho đó sợ. Người như thế thì theo hơi mây, cỡi mặt trời mặt trăng mà rong chơi ngoài bốn biển, chết sống còn không làm cho người họ điên đảo phương chi là mối lợi hại?

G. Cù Thước tử[lxxiii], vấn hồ Trường Ngô tử viết:

Ngô văn chư[lxxiv] phu tử thánh nhân bất tùng sự ư vụ, bất tựu lợi, bất vi hại, bất hỉ cầu, bất duyên đạo[lxxv], vô vị hữu vị[lxxvi], hữu vị vô vị[lxxvii] nhi du hồ trần cấu chi ngoại[lxxviii]. Phu tử[lxxix] dĩ vị mạn lãng[lxxx] chi ngôn, nhi ngã dĩ vi diệu đạo chi hạnh[lxxxi] dã. Ngô tử dĩ vi hề nhược?

Trường Ngô tử viết:

Thị Hoàng đế chi sở thinh uỷnh dã, nhi Khưu[lxxxii] dã hà túc dĩ tri chi. Thả nhữ diệc đại tảo kế, kiến noãn nhi cầu thời dạ[lxxxiii], kiến đàn nhi cầu hiêu chích. Dư thường vị nhữ võng ngôn chi, nhữ dĩ võng thính chi. Hề[lxxxiv] bàng[lxxxv] nhật nguyệt, hiệp vũ trụ, vi kỳ thần hợp[lxxxvi] trí kỳ hoạt hôn[lxxxvii] dĩ lệ tương tôn[lxxxviii]. Chúng nhân dịch dịch[lxxxix], thánh nhân ngu xuân[xc] tham vạn tuế nhi nhất thành thuần[xci].

DỊCH NGHĨA:

G. Cù Thước hỏi Trường Ngô:

Tôi nghe nơi ông rằng thánh nhân không bận đến việc đời; không tìm lợi; không lánh hại; không tha thiết đến việc gì; cũng không quấn quít với Đạo; có nói (mà như) không có nói; không nói mà như đã nói; tha hồ rong chơi ngoài bụi bặm (của cuộc đời). Thầy tôi cho đó là lời nói vu vơ, còn tôi, thì lại cho đó là cái hạnh của kẻ đã nhập diện nơi Đạo rồi vậy. í ông như thế nào?

Trường Ngô nói:

Đó là điều mà Hoàng đế nghe còn nghi ngờ thay, ông Khưu làm gì đủ để mà hiểu được. Vả, ngươi cũng đoán hơi sớm lắm: vừa thấy trứng gà là đã mong được nghe tiếng gà gáy, vừa thấy viên đạn là đã mong được ăn chim nướng. Nay ta thử vì ngươi nói bậy mà nghe, còn ngươi cũng nghe bậy mà chơi. Làm thế nào để dựa kề nhật nguyệt, nhập cùng vũ trụ, xáo trộn cả thị phi, quý tiện, vượt muôn tuổi mà ôm giữ cái chỗ thuần nhất bất biến.

H. Vạn vật tận nhiên nhi dĩ thị tương uẩn[xcii]. Dư ô hồ tri duyệt sinh chi phi hoặc da? Dư ô hồ tri ố tử chi phi nhược táng nhi bất tri quy giả da?

Lệ chi cơ, Ngại phong nhân chi tử dã. Tấn quốc chi thủy đắc chi dã, thế khấp thiêm câm. Cập kỳ chí ư vương sở, dữ vương đồng khuông sàng, thực sô hoạn[xciii], nhi hậu hối kỳ khấp dã.

Dư ô hồ tri phù tử giả bất hối kỳ thủy chi ky sinh hồ?

Mộng ẩm tửu giả, đán nhi khốc khấp, mộng khấp khốc giả, đán nhi điền liệp[xciv]. Phương kỳ mộng dã, bất tri kỳ mộng dã. Mộng chi trung, hựu chiêm kỳ mộng yên, giác nhi hậu tri kỳ mộng dã. Thả hữu đại giác, nhi hậu tri thử kỳ đại mộng dã. Nhi ngu giả tự dĩ vi giác, thiết thiết nhi tri chi quân hồ mục hồ?

Cố tai! Khưu dã dữ nhữ, giai mộng dã. Dư vị nhữ mộng diệc mộng dã. Thị kỳ ngôn dã, kỳ danh vi điếu quỷ. Vạn thế chi hậu nhi nhất ngộ đại thánh, tri kỳ giải giả, thị đán mộ ngộ chi dã.

Ký sử ngã dữ nhược biện hĩ nhược thắng ngã, ngã bất nhược thắng. Nhược quả thị dã, ngã quả phi dã da? Ngã thắng nhược, nhược bất ngô thắng, ngã quả thị dã, nhi quả phi dã da? Kỳ hoặc thị dã, kỳ hoặc phi dã da? Kỳ câu thị dã, kỳ câu phi dã da? Ngã dữ nhược, bất năng tương tri dã, tắc nhân cố thọ kỳ đảm ám, ngô thùy sử chánh chi? Sử đồng hồ nhược giả chánh chi, ký dữ nhược đồng hĩ, ô năng chánh chi? Sử đồng hồ ngã giả chánh chi, kú đồng hồ ngã hĩ, ô năng chánh chi? Sử dị hồ ngã dữ nhược giả chánh chi, ký dị hồ ngã dữ nhược hĩ, ô năng chánh chi? Sử đồng hồ ngã dữ nhược giả chánh chi, ký đồng hồ ngã dữ nhược hĩ, ô năng chánh chi? Nhiên tắc ngã dữ nhược dữ nhân câu bất năng tương tri dã, nhi đãi bỉ dã da? Hà vị hòa chi dĩ thiên nghê[xcv]. Viết: thị bất thị, nhiên bất nhiên.

Thị nhược quả thị dã, tắc thị chi dị hồ bất thị dã, diệc vô biện. Nhiên nhược quả nhiên dã, tắc nhiên chi dị hồ bất nhiên dã, diệc vô biện. Hóa thinh chi tương đãi, nhược kỳ bất tương đãi, hòa chi dĩ thiên nghê, nhơn chi dĩ mạn diễn, sở dĩ cùng niên dã. Vong niên vong nghĩa[xcvi] chấn[xcvii] ư vô cảnh, cố ngụ chư vô cảnh[xcviii].

DỊCH NGHĨA:

H. Hiểu tận vạn vật rồi, mới thấy nó thuần nhất. Ta sao biết ham sống chẳng phải là lầm? Ta sao biết sợ chết lại chẳng là mê, mà không biết cho đó là con đường về?

Lệ Cơ, con của một vị phong nhân xứ Ngại, gả cho Vua nước Tấn. Khi về nhà chồng, lụy ướt dầm bầu. Kịp khi đến hoàng cung, cùng vua đồng sàng, nếm mùi dô hoạn, rồi lại hối hận giọt lệ ngày xưa. Ta biết đâu kẻ chết lại không hối hận vì mình đã mong được sống thêm?

Có kẻ chiêm bao cười giữa tiệc, tỉnh giấc khóc trong lòng. hoặc chiêm bao buồn khóc, khi tỉnh giấc như vui săn. Lúc chiêm bao không biết chiêm bao, khi tỉnh giấc mới hay là mộng cả. Chỏ có bậc đại giác mới biết cuộc đại mộng đó thôi. Nhưng mà kẻ ngu lại tự cho họ là tỉnh, rồi họ cũng tin thật rằng họ là bậc vua chúa, hay họ là kẻ chăn ngựa! Gàn thay, ông Khưu cùng ngươi đều chiêm bao cả! Lời nói ấy, gọi là lời "điếu quỷ" (quái gở)! Sau muôn đời, may mà gặp được bậc đại thánh biết cách giải nghĩa của nó ra, thì trong một sớm một chiều sẽ ngộ nó được vậy.

Nếu ta nói với ngươi, cùng tranh biện: ngươi không được ta, ta không thắng được ngươi, vậy ngươi hẳn là đã phải, mà ta hẳn là đã quấy chưa? Nếu ta thắng được ngươi; ngươi không thắng được ta, vậy ta hẳn là đã phải, mà ngươi hẳn đã là quấy chưa? Hay là, khi thì phải, khi thì quấy hay sao? Hay là, cả hai chúng ta đều phải cả, hoặc cùng quấy cả hay sao? Ta và ngươi không thể biết được nhau, thì người người đành phải chịu tối tăm rồi! Ta phải nhờ ai chính lại việc ấy? Nhờ kẻ đồng với ngươi thì làm sao chính được việc đó! Cậy người khác với ta và ngươi, để chính lại việc đó ư? Nó đã khác với ta và khác với ngươi, thì làm sao chính lại được việc đó? Cậy người đồng với ta và đồng với ngươi thì làm sao chính được việc đó? Vậy thì ta với ngươi cùng với người đó đều không thể biết nhau được, sao phải chờ người đó làm gì?

Sao gọi là hòa hợp với thiên nghê? Là phải mà cũng là chẳng phải; phải vậy mà cũng là chẳng phải vậy. Cái phải của ngươi, nếu quả thực là phải, thì cái phải đó có khác gì cái không phải, cho nên cũng không biện được. Cái phải vậy của ngươi, nếu quả thực là phải vậy, thì cái phải vậy đó có khác gì cái không phải vậy, thành ra cũng không biện được. Hóa ra thảy đều là đối đãi, nếu muốn không đối đãi chi bằng hòa hợp với tự nhiên (thiên nghê), nhân đó mà lời nói của ta đặng vĩnh cửu. Quên sống chết, quên phải quấy là suốt thông lẽ hư vô (vô cảnh), nên gửi mình vào cõi hư vô (vô cảnh).

I. Vọng lượng vấn cảnh viết: Nãng tử hành, kim tử chỉ. Nãng tử tọa, kim tử khởi. Hà kỳ vu, đặc tháo dư?

Cảnh viết: Ngô hữu đãi nhi nhiên giả da? Ngô sở đãi hựu hữu đãi nhi nhiên giả da? Ngô đãi xà phù điêu dực da? ô thức sở dĩ nhiên, ô thức sở dĩ bất nhiên?

DỊCH NGHĨA:

I. Bóng lu hỏi bóng tỏ: "Nãy anh đi, giờ anh đứng. Nãy anh ngồi, giờ anh dậy. Sao anh không có nết riêng?"

Bóng tỏ nói: ta có phải nương chờ mà như thế chăng? Hay là chỗ ta nương chờ lại còn phải nương chờ nơi chỗ khác mà như thế chăng? Ta phải nương chờ, như vảy rắn cánh ve chăng? Sao biết sở dĩ nó là thế? Sao biết sở dĩ nó không phải là thế?

K. Tích giả Trang Châu mộng vi hồ điệp, hủ hủ nhiên hồ điệp dã, tự dụ thích chí dữ bất tri Châu dã. Nga nhiên giác, tắc cừ cừ nhiên Châu dã. Bất tri Châu chi mộng vi hồ điệp dư? Hồ điệp chi mộng vi Châu dư? Châu dữ hồ điệp, tắc tất hữu phận hĩ. Thử chi vị Vật hóa.

DỊCH NGHĨA:

Xưa Trang Châu chiêm bao thấy mình là bướm vui phận làm bướm, tự thấy thích chí, không còn biết có Châu nữa. Chợt tỉnh giấc, thì lại thấy mình là Châu. Không biết Châu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Châu? Châu và bướm ắt phải có tánh phận khác nhau. Đó gọi là Vật hóa.

TỔNG BÌNH:

Như ta đã thấy ở thiên Tiêu Diêu Du, mục đích của học thuyết Trang tử là tự do tuyệt đối.

Muốn đạt đến "tự do tuyệt đối", việc cần thiết đầu tiên là giải thoát tâm trí ra khỏi cái vòng nhận định sai lầm của nhãn thức nhị nguyên chia phân cái Sống Một làm hai phần rất phân biệt: tâm vật, thị phi, thiện ác, sanh tử, vinh nhục...

Tề- Vật- Luận là phương pháp luận của Trang tử để đạt đến Tiêu diêu tự tại. Tề- Vật tức là "nhất thiết bình đẳng" nghĩa là vạn vật đều ngang bằng nhau cả, ngang nhau về phẩm, như ta đã thấy ở Tiêu Diêu Du.

Thật vậy, nếu không có được cái nhãn quang nhìn thấy sự "nhất thiết bình đẳng" trong các sự vật thì ắt phải có chỗ chọn lựa, nghĩa là còn có chỗ "lấy bỏ"[xcix], có chỗ ưa ghét. Lấy cái gì, bỏ cái gì? Lấy cái tốt, bỏ cái xấu; ưa cái hay, ghét cái dở. Và nhân thế mới có sự thiên lệch và nô lệ theo một bảng giá trị chủ quan nào về sự vật. Có cái "phải" đối với ta ngày nay, nhưng qua ngày mai nó sẽ không còn "phải" nữa. Có món hợp với ta, nhưng lại không hợp với người khác. Có việc hợp với người này, lại không hợp với người kia. Một vấn đề tương đối và tạm thời. Nhưng sai lầm và nguy hiểm là khi nào ta lại nhận nó là một chân lý tuyệt đối, nghĩa là một chân lý bất di bất dịch và chung cho bất cứ ở thời gian hay không gian nào. Cho nên mới nói rằng: 'có chỗ ưa ghét, có chỗ lấy bỏ, thì không còn gọi là tự do tuyệt đối nữa."[c]

Tóm lại, người thật là tự do, biết trong sự tiêu diêu tự tại trong bản tính là người phải biết "xem bằng"[ci] thị phi, thiện ác... không chịu sống nô lệ bất cứ một bảng giá trị về thị phi, thiện ác của một chế độ luân- lý nào cả. Nên biết rằng họ không phải là người "vô luân- lý" như người ta đã hiểu lắm mà là một hạng người đã vượt lên trên tất cả mọi thứ luân- lý tầm thường chật hẹp: họ là hạng người không còn tư tâm tư dục nữa, nghĩa là hạng người "vô kỷ", "vô công" và "vô danh"[cii]

-----------------------------------------------------

Nam- Quách Tử Kỳ

Chữ(Cơ) ở đây, phải đọc là kỳ. Nam- Quách là thành phía Nam, nhân lấy chỗ ở mà đặt hiệu.

[ii] Hư: hơi thổi ra (bằng miệng). Theo phép hô hấp của Đạo gia, thì hít vô bằng mũi, thở ra bằng miệng.

[iii] Tháp yên là hình dáng như kẻ mất hồn, bơ phờ, ngơ ngác. Sắc thái của người nhập định tham thiền, xuất thần giải thế.

[iv] Táng kỳ ngẫu: mất bạn. Câu này, do câu " ngô táng ngã" phần dưới mà suy ra. Bạn của Xác, là Hồn. Cho nên thay vì dịch là "mất bạn ", tưởng cần dịch là " mất hồn".

[v] Nhan- Thành Tử Du: họ Nhan, tên là Yển, thụy là Thành, tự là Tử Du.

[vi] Nhi: đồng với chữ Nhĩ(người, mi, anh). Đọc là " nhữ chi vấn" (câu hỏi của anh).

[vii] Nữ: ở đây, đọc là nhữ (anh).

[viii] Lại: ống tiêu (gọi là sáo). Địa lại, là sáo đất.

Nhơn lại: sáo người. Tiếng sáo tuy có dài có ngắn, có cao có thấp... tựu trung chỉ do một hơi thở thổi vào ống trúc mà gây ra, tùy lỗ hổng gần xa mà sinh những âm thanh khác biệt và muôn điệu.

[ix] Hàn hàn: rộng lớn, bao gồm, trùm lấp

Nhàn nhàn: phân tích đến chỗ nhỏ mọn, ưa chỗ tế nhị, phân tích.

[x] Viêm viêm: đồng thấy thị phi là một.

Chiêm chiêm: phân biệt việc nhỏ.

[xi] Hồn- giao: lúc ngủ thì tinh thần hợp nhau làm một, vì không bị ngoại vật làm cho xao lãng, khi thức, thì bị ngoại cảnh kích động làm cho tinh thần bị xao lãng tán ra ngoài nên nhận thấy chia lìa "vật ngã", nghĩa là thấy sự chia phân trong vạn sự vạn vật.

[xii] Cấu: là hợp lại

Tâm đấu: lòng bị tranh chấp giữa vấn đề nội- ngoại

[xiii] Mạn: lòng rộng rãi

[xiv] Giáo: âm là giáo, có nghĩa là sâu sắc, chỗ sâu thẳm của lòng.

[xv] Mật: dè dặt, cẩn thận.

[xvi] Mạn mạn: Nhìn tử như sanh, cả hai là một.

Chủy chủy: dáng cẩn thận, tỉ mỉ, tế tâm, chú ý.

Tiểu khủng chủy chủy, đại khủng mạn mạn: dè dặt cái nhỏ, là phân biệt sanh tử, dè dặt cái lớn là xem tử sanh là một.

[xvii] Lự: lo nghĩ nhiều

Thán: thương xót

Biến: hay phản phúc

Nhiệt: kinh hãi

Diêu: phù phiếm, khinh phù

Dật: phóng túng

Khải: tình dục mở rộng

Thái: chỉ tánh tình dung mạo do trời phú cho.

[xviii] Không cho Thiên Tánh xuất hiện.

[xix] Ngôn giả hữu ngôn:

Chữ ngôn trước, là lời nói; chữ ngôn sau là nói lên một cái gì, tức là có một ý nghĩa.

Có một ý nghĩa, thì dĩ nhiên lời nói đã bị hạn định, vì có hạn định thì nghĩa nó mới rõ ràng. Và như vậy, lời nói không thể dùng để nói về Đạo, cái mà không thể nào miêu tả được: Đạo khả Đạo, phi thường Đạo.

Chữ xuy ở đây là cùng một chữ dùng ở đọan văn trên:" xuy vạn bất đồng". Gió thổi(như Đạo) thì không có tiếng, trỗi lên muôn tiếng khác nhau là vì gặp các lỗ hổng lớn nhỏ bất đồng mà sanh ra. Cho nên mới nói:" ngôn phi xuy dã"

[xx] Khấu âm: Tiếng kêu của con chim con vừa nở, ám chỉ lời nói vô nghĩa.

[xxi] Đạo thì chứa cả Chân và Ngụy; lời, cũng chứa cả Thị Phi. Như vậy, trong ngôn từ, nếu nói đến Phải là có hàm chứa bên trong cái Quấy. Thế thì dựa vào đâu mà biết rằng lời nói nào là thật Phải(phải tuyệt đối), lời nói nào là thật Quấy(quấy tuyệt đối)? Bởi vậy mới nói: "Đạo sao lại dựa vào Chân hay Ngụy; lời, sao lại dựa vào Thị với Phi".

[xxii] Đạo ô hổ vãng nhi bất tổn

(Đạo sao qua mà không còn)

Qua mà không còn, là chỉ về cái biến động của Đạo rất mau lẹ, trong một cái chớp là đã biến mất không còn như trước nữa. Hạn chế Đạo vào một ngôn từ " tịnh" và " bất biến" không thể được, vì vậy, Đạo không thể dùng lời mà nói được. Cho nên mới nói" ngôn ô hồ tồn nhi bất khả". "Bất khả" là không nói được(bất khả đạo). Lời hạn định biến thành một lẽ " tịnh", một cái gì không biến được nữa, trong khi Đạo biến không ngừng.

[xxiii] Đạo ẩn ư, tiểu thành:

Chữ "ẩn" đây, có nghĩa là " dựa vào". "Tiểu thành", là sự vật chưa được đầy đủ, như Nhân, Nghĩa...

Câu nầy muốn nói: "Chân Ngụy thì dựa vào chỗ chưa đầy đủ mà khởi phát". Nếu sự vật mà đầy đủ, thì sao có sinh ra Chân Ngụy? Có Chân có Ngụy thì chỉ thấy được có một phần chân lý mà thôi.

[xxiv] Ngôn ẩn ư vinh hoa:

" Vinh hoa" tức là lời nói hoa mỹ, phù phiến và biện biệt của nhị nguyên không thể dùng để miêu tả được chân lý. Lời nói " bất toàn" của giới nhị nguyên, không sao dùng được để bàn đến Đạo. Cho nên mới nói: "lời nói là dựa vào thị phi mà khởi". So sánh với câu:" mỹ ngôn bất tín; Tín ngôn bất mỹ" của Lão tử.

[xxv] Ngẫu: là chỗ đối đãi của nó, như Âm thì Dương là ngẫu của nó, Dương thì Âm là ngẫu của nó.

[xxvi] Xu: nơi cốt yếu.

[xxvii] Hoàn trung:

Hoàn: Thị và Phi " phản phúc", thị do phi mà có, phi do thị mà sinh, thị biến ra phi, phi biến ra thị... tiếp nối nhau, tìm kiếm nhau không biết đâu là cùng, như trên một cái vòng tròn, cho nên mới gọi là "hoàn" (vòng tròn). "Hoàn trung" là trung tâm của cái vòng tròn cũng để ám chỉ luật Thiên Quân.

[xxviii] Đắc: là " tự đắc" nghĩa là tự mình nắm được cái Đạo và ung dung hạnh phúc, không cần gì đến ngoại vật nữa.

[xxix] Cơ: là đã đến được tới chỗ cùng lý.

[xxx] Nhân thị dĩ: là nói kẻ đạt Đạo, vô vi, vô tâm, cho nên nhân chỗ Thị Phi mà vượt lên, không còn thấy có thị phi nữa.

[xxxi] Vu: khoai lang, theo Tư- Mã.

[xxxii] đọc là Mộ

[xxxiii] Thiên- Quân:

Thôi Tuyền nói: Quân là cái bánh xe xoay tròn để người thợ bắt đồ sành. Lại có chỗ viết là có ý nói về sự quân bình, vòng bán kính cuả bánh xe bao giờ cũng bằng nhau, luôn luôn quân bình. Cũng gọi là Thiên Nghê. (Ngụ ngôn)

ở thiên Thiên Địa viết:" Thiên Địa tuy đại, kỷ hóa quân dã" (Trời Đất tuy lớn mà sự biến hóa đều quân bình cả). đó là ông giải cái nghĩa của Thiên Quân và đây là yếu chỉ của toàn thiên Tề Vật.

[xxxiv] Lưỡng hành: không lìa khỏi thị phi mà lại được đến chỗ không có thị phi.

So sánh câu "tri vong thị phi" của Trang- tử:" vong thị phi" đâu phải là không biết thị phi, mà thật ra, là vượt lên trên thị phi, sau khi thật biết rõ thế nào là thị phi.

Bực đạt Đạo không phải là người không phân biệt thị phi(như kẻ ngu) mà là kẻ đã rành lẽ thị phi, hg đẫ vượt lên cả thị phi để mà điều khiển nó. Cũng như Đạo gồm cả Âm Dương và vượt lên cả Âm Dương để điều khiển cả Âm Dương. Cho nên mới nói " Thánh nhân hòa chi dĩ thị phi, nhi hưu hồ Thiên Quân "

Daisetz T. Suzuki nói rằng:" Đây là một thứ nghịch thuyết về triết học sâu sắc nhất: "biện bất biện, và bất biện biện... " D.T.Suzuki nói đây là nói về thuyết Bát- Nhã Bình- Đẳng của Phật giáo, nhưng nó cũng đồng một nghĩa với thuyết Tề Vật của Trang- tử.

[xxxv] Tức là thuyết" Huyền đồng vật ngã" của Lão tử.

[xxxvi] đó là phép "dĩ bất biến ứng vạn biến": thị phi nối đuôi nhau mà sinh ra, không biết đâu là đầu mối, như trên một cái vòng tròn. Nhân thị mà sanh phi, nhân phi mà sanh thị, miên miên bất tuyệt.

[xxxvii] Chí: đến nơi, đến chốn (cùng tận).

[xxxviii] Phong: có cảnh giới. Tuy thấy là có cảnh giới, nhưng chưa bị phân đây đó.

[xxxix] Đạo, thì gồm cả thị phi và vượt lên trên cả Thụ với Phi. Nếu lại chia- phân Thị Phi thì Đạo như giảm bớt(khuy). Nhân thế người ta mới bày ra Nhân, Nghĩa, Lễ... tức là" ái" nghĩa là lòng Nhân- ái(yêu thương) để hòa hợp lại những gì đã bị chia phân. Lão tử cũng nói: Đại Đạo phề, hữu Nhân Nghĩa... Theo Trang- tử, cũng như Lão tử, đó là công việc miễn cưỡng giả tạo: không bao giờ nối lại Vật Ngã(hay Nhi Ngã) một khi đã bị chia phân. Cho nên mới nói: "Đạo chi sở dĩ khuy, ái chi sở dĩ thành"

[xl] Chiêu- thị: tức là Chiêu- văn, tên người xưa đờn cầm rất giỏi.

Dùng âm nhạc để hòa lại những âm thanh đã bị chia phân, đó là dụng ý của Trang- tử trong thiên Tề Vật khi ông bàn đến "nhân lại"

[xli] Sư Khoáng: một nhạc công đời xưa, rất sành âm luật.

[xlii] Huệ tử: một tay sành biện luận.

Có nhà bình luận cho rằng Trang- tử ở đây khi nói đến Chiêu văn là muốn ám chỉ Hoàng đế; Sư Khoáng, ám chỉ Nghiêu Thuấn, và Huệ tử, ám chỉ Khổng tử.

[xliii] Kiên- bạch: tức là nói về biện thuyết" kiên bạch" và "bạch mã" của Công tôn Long đời Chiến quốc, một thứ ngụy biện mà rốt cuộc mọi người không ai hiểu gì được cả.

[xliv] Hoạt nghi chi diệu: ánh sáng mập mờ, Trang- tử muốn ám chỉ Đạo, bao gồm thị phi, không thiên hẳn bên Thị hay bên Phi: có Âm mà cũng có Dương, có Dương mà cũng có Âm (Âm trung chi Dương; Dương trung chi Âm), tức là cái nhãn quang của người nhận thấy cả thảy các cặp mâu thuẫn trên đời đều là một cả.

[xlv] Dung: "Ngụ chư dung", tức là dựa theo cái lý thông thường của người đời. Xem lại đọan trên: thuyết "triêu tam, mộ tứ" của người nuôi khỉ. Bậc thánh trí đối với mình thì dùng cái sáng mập mờ (hoạt nghi chi diệu) tức là cái ánh sáng của Đạo mà đối xử; nhưng đối với đời, thì lại khác, lấy cái lý thông thường của mọi người mà đối xử, khi thì bàn đến Thị, khi luận đến Phi để mà hòa với mọi người, rồi "đứng yên ở cốt trục của bánh xe Trời (Thiên Quân) đó gọi là lưỡng hành". "Ngụ chư dung", tức cùng một ý với "triêu tam nhi mộ tứ" vậy.

[xlvi] Minh: "dĩ minh", tức là lấy cái ánh sáng phân biệt Thị Phi của người đời để mà xử sự với người đời.

[xlvii] Thử và Thị: có nghĩa là "đó" và "đây", nghĩa là "vật" và "ngã".

[xlviii] Hữu thủy: nguồn gốc của cái hữu (có): origine de l'Être.

Hữu vị thủy hữu thủy: cái hữu không nguồn gốc: l'Être sans origine.

Hữu vị thủy hữu phù vị thủy hữu thủy: nguồn gốc của cái hữu không nguồn gốc: origine de l'Être sans origine.

Hữu hữu: cái Có (hữu): l'Être

Hữu vô: cái không (vô): le Néant (Non- Être)

Hữu vị thủy hữu vô: cái có có trước cái không.

Hữu vị thủy hữu phù vị thủy hữu vô: cái không có trước cái có

[xlix] Nhất dữ ngôn vi nhị: "một" và "lời" là "hai việc khác nhau": Đạo không thể còn dùng được lời nói mà miêu tả được. Tức là cùng một ý với Lão tử khi ông nói: "Đạo khả Đạo phi thường Đạo..." và "tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri".

Nhị dữ nhất vi Tam: nhị: ám chỉ Âm Dương tương đối ; một: ám chỉ Đạo. Cùng nghĩa với câu này của Lão tử: Nhất sanh nhị, Nhị sanh Tam, Tam sanh vạn vật. Nhất, là Đạo tịnh; Tam, là Đạo động, Đạo sinh sinh hóa hóa, tức là số một (Đạo) cộng với số hai (Âm Dương). Cho nên mới nói tới số Ba là trở về số Một.

Thánh nhân thì biết "trở về" với số một; chúng nhân thì chạy mãi đi ra và lưu tán vô cùng.

[l] thị: thị, là "đây", là ám chỉ cái hiện tại tuyệt đối, bao gồm cả thời gian. Nhận thấy Đạo một rồi, thì không còn thấy thời gian chia phân làm ba giai đoạn giả tạo nữa là quá khứ, hiện tại và vị tại nữa, mà thấy, bất cứ ở vào lúc nào, một cái hiện tại vô thủy vô chung.

[li] Phong: là khu vực, là chia ranh. Đạo không hề có chia phân thành từng khu vực hạn định của một cái thị hay phi, của một cái Âm hay Dương.

[lii] Thường: định thức. Lời dùng để bàn về lẽ Đạo cũng không thể hạn định theo một định thức nào, là vì như thế dễ bị hạn chế trong một cái thị hay phi mà thành mất Đạo.

[liii] Vi thị: cũng như nói thị phi sinh ra.

Chân: chia thành từng khu vực.

[liv] Lục hạp chi ngoại; nói về bên ngoài Tính và Phận của vạn vật.

Lục hạp chi nội: nói về bên trong Tính và Phận của vạn vật.

[lv] Biện: phân biệt thị phi mà để bình phẩm theo một chiều nào.

[lvi] Phân dã giả, hữu bất phân dĩ: phân, là phân biệt thị phi; bất phân, là không thiên hẳn bên nào, mà chỉ gìn giữ thế quân bình của thị hay phi.

Biện dã giả, hữu bất biện dã: biện, đây là biện bác (tranh luận). Tranh luận, là có phân thị phi; nhưng tranh luận mà không tranh luận, là tranh luận để làm sáng tỏ lập trường của mình chứ không phải để tranh luận phần phải cho mình. Người đạt Đạo không bao giờ tranh lụân để thuyết phục ai, hay dẫn dụ ai theo mình cả, vì theo Trang- tử người hiểu Đạo không bắt chước ai cả mà trở về sống cái sống của mình, sống yên với cái mà tạo hóa đã an bài, không đèo bòng ham muốn cái ngoài tánh phận của mình.

[lvii] Biện dã giả, hữu bất kiến dã: biện là phân biệt thị phi để mà biện luận biện bác, vì vậy không thể nhận thấy được Đạo tuyệt đối là cái lẽ gồm nắm bao trùm và vượt lên trên thị phi, thiện ác. Nên mới nói: 'hay biện phân, thì có chỗ không thấy rõ được", vì chỉ thấy có một bề: bề mặt hay bề trái của sự thật mà thôi.

[lviii] Đạo chiêu nhi bất Đạo: Đạo mà chói sáng, nghĩa là rõ ràng, thì là Đạo theo hẳn một bên nào rồi, thị hay phi. Cho nên Đạo mà như thế, không phải Đạo. Đạo, dường như mịt mờ, nửa tối nửa sáng, lẫn lộn Âm Dương, thị phi. Trang- tử đã dùng trước đây danh từ như "hoạt nghi chi diệu" và tiếp sau đây danh từ "bảo quang" để ám chỉ Đạo. So sánh câu này của Lão tử: "tục nhân chiêu chiêu; ngã độc hôn hôn" (chương 20 Đạo Đức Kinh).

[lix] Ngôn biện nhi bất cập: cùng một ý với câu trên "Đạo chiêu nhi bất Đạo". Biện đây là phân biệt thị phi. Bất cập là không đầy đủ, còn thiếu thốn, vì thế hễ nói thị thì lại còn thiếu phi, chỉ nói có cái bề mặt mà không nói đến bề trái của một sự vật nào, cho nên mới nói "lời mà rõ ràng thì không tới chốn".

[lx] Tri chỉ kỳ sở bất tri: tức là biết dừng lại chỗ mà lý trí và lời nói không làm sao hiểu và nói được, đó mới thật khôn ngoan, thượng trí. Dừng lại, là không đi đâu nữa, ở lại đó. So snáh với câu: "tri bất tri, thượng" của Lão tử (chương 71).

"Chí hĩ" là đã đến nơi đến chốn, tức là đã đến chỗ cùng cực của sự hiểu biết vậy.

[lxi] Bảo quang: che đậy ánh sáng. Lại cũng có người cho rằng "bảo quang" có nghĩa là 'như có như không". Thì cũng cùng một nghĩa như "che đậy ánh sáng".

So sánh câu "bất ngôn chi biện" với câu "bất ngôn chi giáo" và 'thiện giả bất biện; biện giả bất thiện" (chương 51 của Lão tử).

[lxii] Vương Nghê: một bậc hiền thời Vua Nghiêu. ở thiên Thiên địa thì cho rằng ông là thầy của Khiết Khuyết.

[lxiii] đọc là "nhữ".

[lxiv] Thiên tử: chết một bên thân mình (tê liệt).

[lxv] Thu: âm là thu, tức là "nê thu", một thứ cá có thể sống trong bùn, lúc nước cạn. Ta gọi là cá chạch. Bản Nhượng Tông dịch là loài nhái, không đúng.

[lxvi] Tuân, âm là huyện, cùng với huyền (thông dụng).

[lxvii] Sô hoạn

Sô: loài thú ăn cỏ. Hoạn: loài gia súc, ăn cùng với người ta. Nói chung là ăn thịt, cỗ bàn.

[lxviii] Tiến: cỏ non.

[lxix] Lương thư là con rết.

[lxx] Chữ "thị"

[lxxi] Thư: con cái, giống cái (đối với chữ hùng).

[lxxii] Quyết sậu: cúi đầu mà chạy, không ngó lại sau.

[lxxiii] Cù- Thước tử: tên của một môn đệ của Khổng tử. Giả thác, không có thật.

[lxxiv] Chư: đồng nghĩa với chữ ư

[lxxv] Duyên: cột lại với nhau, ở đây có nghĩa là quyến luyến, ràng buộc, quấn quít. Câu "bất duyên đạo", ý muốn nói: bậc thánh nhơn cũng còn phải đeo đuổi, quấn quýt theo Đạo nữa, nghĩa là không còn chạy theo Đạo, còn mến Đạo, còn cầu Đạo nữa... vì như thế là còn chưa được Đạo, vì người và Đạo còn là hai mà chưa là một (thành thuần). Hợp nhất với Đạo, thì không còn thấy có Đạo để mà theo đuổi, quấn quít nữa.

[lxxvi] Vô vị hữu vị: không nói mà đã nói. Cùng nghĩa với "vô vi nhi vô bất vi": không làm mà không có gì là không làm. Tức là nói về công dụng của chứ Hư Vô trong lời nói: tuy không dùng đến lời nói, nhưng ý nghĩa lại nhiều hơn là đã nói nhiều; tức là "bất ngôn chi giáo" của Lão tử.

[lxxvii] Hữu vị vô vị: nói, mà như không có nói gì cả. đồng nghĩa với câu "hữu ngôn vô ngôn". Cái điều mà thánh nhân đắc Đạo nói, thường chỉ là dùng đến lời nói của giới nhị nguyên, nên chỉ có giá trị "nửa chừng" mà thôi; trong khi Chân lý gồm cả hai mặt (trái và mặt, âm và dương). Cho nên dù là có nói mà dường như chưa hề có nói, vì không thể nói ra được cái Chân lý Toàn diện với những danh từ hạn định của Nhị Nguyên.

[lxxviii] Trần cấu chi ngoại: trần, là bụi; cấu, là bụi nhỏ. ám chỉ sự vô thường của sự vật trên đời: rốt cuộc thảy đều trở thành tro bụi. "trần cấu chi ngoại" là ngoài sự tiêu vong và bất thường của sự vật, tức ám chỉ cái lẽ thường tồn nơi ta là Đạo.

[lxxix] Phu tử: ám chỉ Khổng tử.

[lxxx] Mạnh lãng: âm là mạn lãng, nghĩa là vu vơ không đúng với thực tế.

[lxxxi] Hành: đọc là hạnh, tức là tư cách.

[lxxxii] Khưu: tên của Khổng tử.

Võng: nghĩa là bậy bạ, bướng.

[lxxxiii] Thời dạ: ám chỉ con gà (thường gọi là tư dạ).

[lxxxiv] Hề: làm thế nào, làm sao.

[lxxxv] Bàng: dựa vào.

[lxxxvi] Thần hợp: không phân biệt nhau.

[lxxxvii] trí: phó mặc cho

Hoạt: lộn xộn, hỗn loạn.

Hôn: không phân biệt, tối tăm, ngu độn, sâu kín.

[lxxxviii] Di lệ tương tôn: lệ, là chỉ về sự thấp hèn; tôn, là cao quý. í muốn nói: quý tiện cùng xem như nhau.

[lxxxix] dịch dịch: bôn ba, chạy theo hấp tấp. Câu "chúng nhân dịch dịch" là muốn nói người đến đua theo thị phi, ồ ạt chạy theo thị phi.

[xc] Ngu xuân: không nghiên cứu, không chia phân sự vật làm hai. Không nhận thấy sự khác nhau giữa các mâu thuẫn.

[xci] Tham vạn tuế nhi nhất thành thuần: chen vào cuộc thiên biến vạn hóa của Trời Đất, mà luôn luôn ôm giữ được cái Đạo một bất biến và thuần nhất.

[xcii] Uẩn: tích tụ lại, liên hợp lại. chỉ sự không thể chia lìa giữa vạn vật.

[xciii] Sô hoạn: sô là thịt các con vật ăn cỏ; hoạn là htịt các con vật nhà: món ăn cao lương, cỗ bàn...

[xciv] Mộng ẩm tửu giả, đán nhi khốc khấp: chiêm bao vui vẻ (dự tiệc rượu) nên không muốn dứt; tỉnh dậy thì tiếc cảnh vui nên rầu buồn khóc lóc. Cũng như, chiêm bao buồn khổ khóc lóc, tỉnh dậy là thoát được cảnh đau khổ nên vui mừng như được đi săn bắn. Tóm lại, mộng mà vui thì tỉnh buồn, mộng mà buồn thì tỉnh vui. được cái này thì mất cái kia.

[xcv] Thiên nghê: tức là tự nhiên, Thiên quân.

[xcvi] Vong niên, vong nghĩa

Vong niên, là muốn nói về sự đồng nhau của Sống, Chết. (Chữ niên là chỉ về thời gian). Còn chữ nghĩa là chỉ về vấn đề giá trị, ám chỉ vấn đề thị phi, thiện ác, nên vong nghĩa, là nói về sự đồng nhau của thị phi.

[xcvii] Mạn diễn: cái biến của Vô cực (tức là của Đạo)

Chấn: là thông sướng.

[xcviii] Vô cảnh: ám chỉ cảnh của Hư Vô, hay là Đạo. Có nhà chú giả cho Vô cảnh, tức là vô cực, như thế cũng đồng một nghĩa như trên.

[xcix] Khứ, tựu: tức là có sự bỏ lấy, nghĩa là chọn lựa.

[c] Hữu sở hiếu ố, hữu sở khử tựu, tắc bất năng tuyệt đối tự do hĩ.

[ci] "Nhất thiết bình đẳng" cả thảy vạn vật bằng nhau cả.

[cii] Chí nhơn vô kỷ, thần nhơn vô công, thánh nhơn vô danh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro