1-9

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

NĂM THÁNG TĨNH LẶNG KIẾP NÀY BÌNH YÊN

CHƯƠNG 1

   Hoa nở gặp Phật. Phật ờ nơi nao? Giữa chôn đồng không mông quạnh cỏ cây tàn tạ. một ngọn cỏ xanh non là Phật; giữa đêm tuyêt im lìm không tiêng động. một chậu than hông là Phật; giữa sông bể mênh mang vô bờ. một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối răm. đơn sơ là Phật; giữa ngày tháng loạn lạc huyên náo. bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng đợi chờ hoa nờ. giữa phù hoa giữ sự đơn thuân. trong phôn tạp tĩnh tâm dường tính, sẽ có thê gặp Phật.

Nhân sinh như một bình thiền trà

Sau này mới biết, trong lòng chúng sinh, trà có mùi vị khác nhau. Thứ trà mới dùng nước tinh khiết đun sôi trong bình đó, quẩn quanh giữa răng và môi của trà khách, uống xong, có người cảm thấy đắng như sinh mệnh, cũng có người thấy nhạt như gió mát.

Trà có đậm nhạt, có nóng lạnh, cũng có buồn vui. Dùng một trái tim trần tục để thưởng trà, khó tránh khỏi chỉ chăm chăm vào sắc, hương, vị, mà thiếu đi một phần thanh đạm và chất phác. Trà có ngàn vạn vị, thậm chí hòa lẫn với thế sự và tình cảm. Dùng một trái tim siêu thoát để thưởng trà, thì có thể ung dung tận hưởng sự tĩnh lặng tuyệt mỹ của mây bay ngang trời, nước biếc không gợn sóng.

Trà, bắt nguồn từ tự nhiên, trải tinh hoa năm tháng, tắm thử thách xuân thu, từ đó mà có linh tính như hồn phách non nước. Trà có thể dùng để gột bỏ bụi trần, gạn lọc tâm tình, rộng kết thiện duyên. Cho nên, người biết cách thưởng trà, cũng là một người tình nguyện để bản thân sống một cách giản đơn và thuần khiết. Luôn tin rằng, thiền là một cảnh ý, có những người dùng cả đời cũng không thể rũ bỏ chấp nhiệm, ngộ được bồ đề. Mà có những người chỉ dùng thời khắc của một chén trà, cũng có thể bước ra từ vạn tượng hỗn tạp, hé nở như hoa sen.

  Đời người có bảy nỗi khổ [1], chúng sinh lưu lạc trong nhân gian, nếm hết mọi đắng cay, đổi lấy vị ngọt ngào. Phồn hoa ba ngàn, nhưng cuối cùng đậu lại trần ai, giống như màn đêm trút bỏ lớp trang sức của ban ngày, trầm tĩnh mà yên lắng. Thời gian trôi qua như một cái búng tay, năm nào còn quan tâm được mất, tính toán thành bại, đều đã thành khói mây qua mắt. Bất cứ khi nào, bờ bên kia đều chỉ cách một bước chân, lạc lối biết quay lại, trời đất đều bao la.

“Tâm kinh” viết: “Vô quải ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đải mộng tưởng. Nhất thiết tùy duyên, nhất sinh tùy duyên, phương đắc tự tại” (Tâm không uế chướng, nên không sợ hãi, vượt khỏi sai lầm. Tất cả tùy duyên, một đời tùy duyên, luôn được tự tại). Một người ngoan cố níu giữ cả đời không buông, không thích hợp tu hành. Một người si mê nhân quả, cũng không thích hợp tu hành. Trà có Phật tính, giống như mây biếc tịnh thủy, vài chén trôi xuống ruột, đầu óc liền thảnh thơi. Cho nên người tu hành thường thích cả ngày chìm đắm trong trà, vứt bỏ tạp niệm, chứng ngộ tâm bồ đề.


Trời đất mênh mông, chúng ta nhỏ như cọng cỏ. Không khiến bản thân kinh động thế giới, cũng không khiến thế giới kinh động bản thân. Khi con người chào đời, vốn chẳng có hành lý, cứ đi thêm một con đường, lại mang thêm một tay nải. Mà chúng ta gói ghém thế tục thế nào, để chuyển thành hành lý Thiền. Chỉ có dùng một trái tim thanh tịnh, nhìn ngàn vạn thế thái, mới có thể xóa bỏ thiên kiến, vui vẻ giữa bình lặng

   Trà có bốn đức, từ bi hỉ xả. Cái gọi là “Vân thủy Thiền tâm”, tức là trong một chén trà trong, thưởng được chân ý có sinh ắt có tử, có tụ ắt có tán, có tươi ắt có héo. Nên biết bất cứ bi thương nào đều là vui sướng, bất cứ mất mát nào đều là có được. Một người từ bi với chính mình, mới có thể từ bi với vạn vật.

Thời gian như nước, im lặng là cái đẹp to lớn. Ngày tháng như sen, bình dị tức cực kỳ tao nhã. Thưởng trà cũng là tu Thiền, cho dù là hồng trần huyên náo, hay là núi non tĩnh lặng, đều có thể trở thành đạo tràng tu hành. Khắc chế dục vọng, đánh đuổi phiền nhiễu, không bi quan, không trốn tránh, chỉ là một cách sống giản đơn. Lập tức ở yên, cho dù là một trái tim chật hẹp, cũng có thể chuyên chở vạn vật khởi diệt [2].

Tất cả tình duyên thế gian, đều có số cả. Kẻ có tình chưa chắc có duyên, kẻ có duyên chưa chắc có tình. Tùy duyên là an, có thể ngộ đạo. Nước trà rửa tâm, tâm như gương sáng, một người chỉ cần nhìn rõ bản thân, là có thể nhận biết thế giới vô thường. Khi ý loạn tình mê, chưa đến mức hoảng loạn. Tĩnh tâm ngồi Thiền, ngày mai sẽ như hẹn mà đến. Hoa xuân vẫn đẹp như xưa, trăng thu vẫn tròn như thế.

“Kinh kim cương” viết: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc” (Tâm quá khứ không thể có, tâm hiện tại không thể có, tâm tương lai cũng không thể có) [3]. Chúng ta không nên vì một bi kịch định mệnh, mà lựa chọn đau thương. Nhưng cũng không thể vì sự viên mãn của tương lai, mà bỏ việc tu hành. Thưởng trà, là để tu tâm, hiểu thấu thiền ý trong tịnh thủy không bụi trần. Để chúng ta không bị biểu tượng mê hoặc, tránh khỏi sự trôi dạt vô nghĩa kia, kịp thời đến bờ bên thanh tịnh.

Thưởng trà có thể khiến người ta tha thứ lỗi lầm, có được sự thanh thản trong mỗi chén trà. Đời người thực sự hoàn mỹ khi chừa lại khoảng trống, khoảng trống, tức là “không minh” mà Phật gia nhắc tới. Nhân gian là một sân khấu thể hiện cái tôi tốt nhất, nếu như có một ngày kịch đến hồi kết, lựa chọn siêu thoát, nhất định cần thực sự từ bỏ, mà không phải bị đẩy vào con đường cụt. Phải tin rằng, khi không có lựa chọn khác, sẽ có lựa chọn tốt nhất.

Vô pháp vô thường, duyên khởi tính không. Vạn vật vì duyên hòa hợp mà sinh, cũng vì duyên mà diệt. “Vãn vân thu” (mây chiều ngưng lại), tức là lúc chim mỏi quay về tổ. Phật nói bể khổ vô biên, quay đầu là bờ, mỗi một lần quay lại đều là quay đầu, mỗi một lần qua sông đều là chèo thuyền. Cho dù con đường phía trước có bao xa, xóa bỏ ngã chấp, sau đó ăn gió uống sương, biển trời mênh mông, đều là chốn về.

Nước lặng chảy sâu, người đơn giản nội tâm thanh thản, càng dễ dàng thẩm thấu Thiền lý. Tu Phật cũng như thưởng trà, uống một chén trà từ đắng đến không có vị, đó là cảnh giới của Thiền. Đời người cũng nên bỏ phức tạp lấy giản đơn, nương theo thế sự, tâm trước sau như sen, yên tĩnh hé nở. Lại giống như ngàn vạn khe suối, cuối cùng đều đổ về một dòng sông, róc rách trong vắt, giản dị yên bình.

Uống trà, cần một trái tim thanh đạm, trái tim buồn thương. Cho dù là ở chốn phố chợ ngựa xe sầm uất, cũng có thể cảm nhận được sự thanh nhã của gió xuân lướt qua tai, nước thu gột bụi trần. Mây trôi ngoài cửa, chim bay qua thềm. Hương khói xoay vòng, như có như không, giải nghĩa nhân sinh hư thực tương sinh. Trên bàn, một chiếc mõ gỗ, vài quyển kinh thư nằm yên, còn có tràng hạt vương vãi, dưới ánh trăng nhàn nhạt, xa cách lạnh lẽo.

Mây gió thế gian, biến ảo khôn lường. Phật gia chú trọng nhân quả luân hồi, cho dù là vật chuyển sao dời, cát bay đá chạy, cũng có một ngày đều khói tan mây tán, trở về cát bụi. Như trà, chất chứa tinh hồn của vạn vật, rót vào trong chén, trước sau một sắc, trong vắt thấu tỏ.

Siêu thoát không cần dũng khí và quyết tâm, mà cần thiện ý và thanh tỉnh. Ngày ngày những dòng chảy hối hả, vinh nhục phàm trần mà chúng ta nhìn thấy, kỳ thực đều chỉ là một vở kịch. Một nhà tu hành chỉ có đủ thiền định, mới có thể ra khỏi con đường nhân sinh tù túng, ngắm rừng mây đồng xanh, nhạn đậu cát bằng.

Phật nói, cắt bỏ chính là đạt được, tàn khuyết chính là viên mãn. Chúng ta thường dùng vô số thời gian nhưng vẫn không thể thuộc được kinh văn, đến khi ngộ đạo, lại có thể đọc lướt không quên. Rất nhiều người cho rằng Thiền tinh thâm uyên bác, kỳ thực nó tồn tại trong thời gian một lần đọc, trong mỗi một ngày đi qua, trong mỗi một giọt nước, trong mỗi một đóa hoa, trong thế giới Sa Bà [4].

Thưởng trà, có thể dùng đồ gốm, tách sứ, chén ngọc, cũng có thể dùng chung tre, bát gỗ. Chúng sinh thưởng trà, đa phần là để xua đi thời gian nhàn rỗi, tịch liêu. Mùi vị hay sự nóng lạnh của trà, dường như không quan trọng. Còn thiền trà của tăng giả uống, cũng không cần lễ tiết, chỉ uống một cách thoải mái, mùi vị chính là vị Bát Nhã.

Thời gian lưu chuyển, mây nước ngàn năm. Trà thành thói quen trong cuộc sống, thành một tri âm không thể thiếu của người tu hành. Chỉ là bao nhiêu người, có thể đem năm tháng sôi sục bất an, uống đến mức nước lặng không gợn sóng. Bao nhiêu người có thể đem thế tượng vẩn đọc liên miên, uống đến trong vắt tinh khiết. Có lẽ chúng ta có thể lựa chọn một ngày bất kỳ, cho dù mưa nắng, không quản xuân thu, uống hết một bình thiền trà nhân sinh, quay về bản chân, tìm được chính mình thưở ban đầu.

Có lẽ sẽ có một ngày nào đó, tôi sẽ uống cạn một chén trà cuối cùng của hồng trần, rời bỏ ba ngàn thế giới, đổi lấy một đời bình an. Là lạc lối quay lại, là thiền định ngộ đạo, cũng không quan trọng. Sau đó, núi lạnh đường đá, cưỡi ngựa trắng mà đi, uống hết nước ngàn sông, thưởng thiền trà đến mây gió nhẹ bay.

[1] Phật gia thất khổ: sinh, lão, bệnh, khổ, oán hận mà phải ở cạnh nhau, yêu nhau mà phải ly biệt, cầu mà không được.

[2] Khởi diệt: Thuật ngữ Phật giáo, chỉ nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, và vì duyên hết mà tiêu diệt.

[3]

[4] Thế giới Sa Bà: Theo kinh điển Phật giáo thì các loài chúng sinh hữu tình hiện sinh luân hồi trong thế giới Sa Bà (Ta Bà, Samsara) hay còn gọi là Tam Giới: Cõi dục giới, Cõi sắc giới và Cõi vô sắc giới.

Chương 3
Mỗi bông hoa. Mỗi chiếc lá đều liên quan đèn Thiền

Cược sách pha trà. tựa lâu nghe mưa. Tháng ngày của Thiền luôn tĩnh lặng vô thanh như thế. Bên ngoài khung cửa gió chuyên mây vân. ngựa xe như nước, nội tâm lại an nhiên bình hòa. thanh khiết hư không. Đạm bạc như thê. không phải là xa cách trần thê. mà là giữa trân thê vẫn khiến bản thân thanh thản. Nhân sinh chính là một cuôn sách, chân lý được cât giâu trong; mỗi sự việc bình thường. Trở vê trạng thái ban đầu. tùy duyên mà an.

Hoa mai năm đó. không biết đã rụng dưới sân tường nhà

ai. gạch xanh ngả màu. ngói đen đẫm ướtệ Không biêt từ khi nào. những người theo đuòi giấc mộng tuôi xuân, ngưỡng mộ gió Đường trăng Tông. băt đâu cuộc sông chi cân một âm trà. một quyên sách. Thời gian vần trôi như cũ. chỉ là người đi trong thời gian ấy. chần chừ không chịu sải bước. Những thê sự biên động chẳng yên đó. đã hóa thành nước trôi khói nhạt. Naày hôm qua của trăng gió tình hoài, cũng chi là hào sảng trong giây lát.

Đối với thời gian, chúng ta không cân kính sợ. nó đem đên sự sướng khổ cho chúng sinh, bản thân chúng ta cũng già đi trong sự vô tình. Trái tim của mỗi con người đêu là một khung cửa sô nho nhỏ. Mở ra là tục thê khói lửa. đóng lại là mây nước Thiên Tàm. Có người có dũng khí thê nguyên cùng sinh cùng tử với hồng tràn, có người lại quyêt tĩnh tọa Thiền tâm không oán hận. Đi khắp vạn dặm non sông, bỗng nhiên quay đâu. chuyện ân thù hoan lạc trong giang hô đã thành chuyện vặt như mây trôi gió thoảng.

Đă biêt như thế. lại tranh giành thăng thua với thời gian một cách vô ích. Làm một người chất phác giản đơn. để cho tâm sáng thâu triệt. Phật nói: “Chớ làm điêu ác. hãy làm điêu

lành. Giữ tâm trong sạch, đây là lời chư Phật dạy”. Nhìn thì đơn giản nhưng đê làm một người lương thiện, một người thuần khiết. lại chính là tu vi lớn nhất của đời này. Thê nhưng bước đi trong hông trân cuôn cuộn sóng gió có được mây người đạt cảnh giới tột cùng như thê?

Thanh tịnh tâm ý, là Thiên ý cao thâm nhất. Sở dĩ phiên năo của chúng sinh không dứt. là vi tâm bị phù vân vọng niệm che khuất. không thê sáng rõ. Làm thê nào đẽ quét sạch trẩn ai. để tâm tinh khiết như hoa lê trong tuyết, sáng rõ như trăng sáng giữa trời quang, thỉ lại phụ thuộc vào tu vi, vào mâm thiện trong mồi người. Có lúc, chi một sát ngô, , vọng niệm tiêu tan. giác ngộ thành Phật.

“Hán thư“ viêt: “Nước trong quá thi không có cá. người xét nét quá sè chăng có bạn bè”. Cái gọi là “vật cực tât phản” mạnh mẽ quá sẽ chuôc nhục, cũng là như thê. Ngọc đẹp vẫn còn có vêt. người há lại có ké hoàn mỹ sao? Chi cân lòng độ lượng bao dung lòng kiên nhẫn, đó chính là phâm chât tôt đẹp. Nhưng trên thế gian này có một dòng sông mang tên Thiên, cho dù qua bao nhiêu năm tháng. trước sau vẫn trong vắt đên mức nhìn thây đáy. mà chúng sinh lại như

tảng đá băc qua sông, có thê yên ôn dưới lòng nước.

Hoan lạc chôn nhân gian như giấc mộng không dâu vêt. Vì đă mệt mỏi vãng lai giữa phàm trân, cho nên càng nhiêu người nguyện làm một loài cây bình thường, cho dù nhò nhoi, nhưng lại được sống cuộc sống siàn đơn. chất phác hơn loài người. Chi muôn yên ôn. tĩnh lặng cho qua ngày. không đê tâm đên duyên kiêp khi xưa hay quả báo sau này. Trong con măt của Phật, một ngọn cỏ. một nhành cây đêu có tỉnh, một bông hoa. một phiến lá hết thảy đều liên quan đến Thiền niệm. Những nơi Phật đã đi qua. cho dù là nơi sơn cùng thủy tận. cỏ cây tuyệt diệt, nhưng vỉ có sự hiện diện của Phật mà đêu có Thiên ý, đêu có từ bi.

Có người hòi. chặng đường tu Phật rôt cuộc xa đên nhường nào? Cân tiêu phí bao nhiêu thời gian? Phật Đà tu hành hàng trăm hàng nghìn năm. trải qua ngàn vạn kiểp số. ở bờ bên kia Phật quôc. vì chúng sinh trông hoa sen khăp nơi. Mà chúng ta chi vi muôn rũ bỏ nghiệp chướng. sân si, tỉm một con thuyền vượt sông, đẻ có thê lên bờ. Phật độ người hữu duyên, quá trình này. có lè là một sát na. cũng có thê là cả một đời. Con thuyền vượt sông  đó là gỉ? Là một con nhện

trước thêm điện Phật, là một làn gió thơm ở hành lang tự viên, là một ngọn rong trên ao phóng sinh, hoặc là một hạt bụi thâp thoáng lưng trời.

Phật nói: “Nauyện giải thoát vô sô chúng sinh, nauyện đoạn tuyệt vô sô phiên não. nguyện tu học Phật pháp nhiêu vô lượng, nguyện chứng đăc bò đê vô thượng” ế Con măt thanh tịnh nhìn thấu cõi đời. gió cuộn mây vẩn. cá rồng lẫn lộn. duy chi có tâm linh là mảnh đắt lành. Tâm yên sè không bị thê sự làm kinh hãi. quây rây. Phật đẻ chúng sinh sông tạm nơi hông trân mênh mana. hông trân tức là đạo tràng, ờ đày. chúng ta phải học được cách gặp sao vui vậy. Mù quáng chạy trôn sẽ chỉ đây chúng ta rơi vào cảnh khôn cùng hơn nữa mà thôi. Tâm loạn, dù mặc sức đi trên con đường lớn. cũng chỉ như đang đi giữa nơi chật hẹp bí bách. Tâm an. cho dù là nhà cũ riêng cạn. cũng vẫn như bay giữa trời cao vời vợi.

Hoa nỡ gặp Phật. Phật ờ nơi nào? Giữa chôn đồng không mông quạnh cò cây tàn tạ. một ngọn cò xanh non là Phật; giữa đêm tuyêt im lỉm không tiêng độna. một chậu than hông là Phật; giữa sông bẻ mênh mang vô bờ. một chiếc thuyền con là Phật; giữa sắc màu đan xen rối rắm. đơn sơ là Phật;

giữa ngày tháng loạn lạc huyên náo. bình an là Phật. Gặp Phật khi nào? Trong năm tháng đợi chờ hoa nờ. giữa phù hoa giữ sự đơn thuân. trong phôn tạp tĩnh tâm dường tính, sẽ có thê sặp Phật.

Phật luỏn luôn hiện hừu. độ hóa. quan tâm đên muôn vạn chúng sinh. Như mẹ hiên chong đèn vá áo. đau đáu dõi theo những đứa con đi xa; như danh tướng dõi trông sắc tròi, nhớ nhung hông nhan nơi quẻ cũ; như thôn phụ tựa cánh cửa gồ, đợi chờ tiêu phu trờ vê. Mà những thê nhàn say đăm trong: hông trán đó. có thê buông bò hay không? Đứa con đi xa liệu có thê buông bò phong cảnh non xanh nước biêc? Danh tướng có thê buông: bỏ sự nghiệp non sông đê trờ vê? Tiêu phu có thẻ buông bò cuộc sông rau cháo sinh nhai hay khỏno? Chi có buông bò. mới có thê thành Phật.

Thiên tông thời Tông chia tu hành thành ba cảnh giới. Cảnh giới thứ nhảt là “Lạc diệp mãn không sơn. hà xứ tâm phương tích” (Lá rụng đây núi văng, nơi nào tìm dâu thơm); cảnh giới thứ hai là “Không sơn vô nhân, thủy lưu hoa khai” (Núi trông không người. nước trôi hoa nở); cảnh giới thứ ba là “Vạn cò trưởng không; nhất triêu phong nguyệt” (vạn năm

đăng đẵng trăng gió mau trôi). Có lẽ chúng ta không cần hiêu thâm ý bên trong, chi biêt cho dù thời gian có trôi qua bao lâu. Phật pháp sè trường tôn cùng trời đất. Chúng ta chi là một sinh linh thuộc về chính minh giữa vũ trụ vạn vật. yên tĩnh sinh trường, bình an qua naày. Còn tu hành, thì trong những tháng ngày luân chuyên xuân hạ thu đông: tự khãc sè nhận được quả báo.

Thời gian vẫn vậy, chi tăng khòng giảm, cò cây vẫn xanh tôt như xưa. chì là chúng ta khòng còn trè nữa. Tháng năm đăn2 đẵng, mồi chặng đường chúng ta đi qua luôn có cảm giác như từng quen biêt. đó là vi các mùa trờ lại, câu chuyện tái diễn, mà đời người cuôi cùng cũng như vậy. chăng có gi khác biệt. Ròi một ngày. thời gian sè thôi bay tât cả. tât cả hoài nghi, tât cả mê lâm. và tât cả bât an đẻu ân mình, cho đến khi không vương mảy may bụi trần. Mà nhừng vò rượu cât ủ tôn tại theo nhừng tháng năm cũng sè được mở ra vào lúc thích hợp. vào một ngày trăng thanh gió mát. đẻ từu khách bình thản thưởng thức.

Ngọc thô tự nhiên cán được thời gian mài siũa. Đời người hoa lệ. cân Thiên tâm nuôi dường. Hăy đem hòa tâu rộn ràng

gửi vào tiêng trúc tiêng tơ; dùng khói lửa phàm trân đôi lây một chén băng tâm trong binh noọc. Tại thê gian vô thường; đôi diện với ngày mai không thẻ đoán định, nhừng gì noày hôm nay có thê làm được, chính là tĩnh tâm naôi Thiên, nuôi dường tính tinh. Đê bản thân từ từ bước ra khòi trân ai loạn thê. trở nên trong sạch tinh khôi.

“Lục Tổ đàn kinh” viết: “Hết thảy chúng sinh, hết thảy cây cò. có tỉnh vô tỉnh, đêu là tôi tăm. trăm sông cùng chảy, đồ về biển lớn. họp thành một thể”. Trên đá tam sinh có khắc ghi nhân quả, mỗi nhành hoa mỗi phiến lá đểu liên quan đến Thiên. Chúng ta không câu trăng sáng trong tay. không câu hoa thơm đẫm áo. chi nguyện năm tháng siản đơn hạnh phúc, bình lặng thanh tịnh. Sẽ có một ngày. Phật duyên sè tới. chính là đích đến.

  Chương 4
Một khúc Vân Thủy tỏ Thiền Tâm

Thời khăc đẹp như nước trôi, hâm một bình ánh trăng, trong sân nhỏ sâu khuât. Gảy một khúc “Vân Thủy Thiền Tâm:\ Những trần ai phiêu lãng của ban ngày. lúc này đã tiêu tán hêt. khói mây thu lại. làng quên sự đời. Son phấn hồng

trần đều hạ màn. chim tước vê hêt chốn sơn lâm. Nước chảy im lỉm. một chiếc thuyền nhỏ chèo ngang. thê giới hư ảo đă chìm nơi sóng biếc. không thê tìm được bóng dáng của những chuyện đã qua.

Mây trôi hờ hững; nước róc rách chảy, tiêng đàn tinh tang vô tỉnh, khiên ta quên đi nhân tinh thê thái, chi nghĩ tới sự trong sạch vô trân chòn đài thiêng. Sự linh hoạt kỳ ảo và véo von của ám nhạc Giang Nam mang đên cho người ta một vẻ đẹp và sự dịu êm môna lung bât định. Những ngày thána đi khăp giang hô. tiêu câm bâu bạn đó đã sớm lùi xa. Đi qua những tháng năm phong trần. tuế nguyệt chẳng còn dịu dàng nữa. chẳng mấy chốc, khách lạ vẻ cố hươngr thanh xuân đổi sang đầu bạc.

Vân là gỉ? Mây tự nhiên tự tại bay trong vạn dặm không trung, không dấu không vết, không chốn đi về, cùng với cảnh trí bôn mùa. biên ảo khó lường, sớm chiêu đôi khác. Lúc rực rờ diễm lệ như càu vông, lúc trăng muôt như tuyêt. lúc dày đặc như sương mù. lúc lại tản mát như khói. Tên của nó là Vân. ngạo nahễ trên bâu trời, trăm ngàn tư thê, vạn loại phong tình. Tùy duyên mà tụ. tùy duyên mà tan. một đời

sáng rỡ. không hề có vêt tích. Đên cũng như đi. đêu không mang theo thứ gì. ba nghin ảo cảnh, đẻu là mơ hồ.

Thủy là gỉ? Hướng thiện như nước, tự tại chảy trôi. Một đời của nước đêu khiêm nhường. sáng tạo chúng sinh, nuôi dưõng vạn vật. Không thây hình của nó. nhưng lại nghe được âm của nó. biêt được côt của nó. Nước tuy yêu ớt nhưng lại có cái mạnh mè của giọt nước xuyên đá tảng. Suôi chảy róc rách, nhưng lại có cái khí thế trăm sông hội tụ. Sông trong biêng biếc, nhưng lại sâu thẳm khó lường. Sóng cả ào ạt. nhưng lại có cái tinh tê uyển chuyển. Đây chính là nước, có thê rửa trôi vui buôn, cũng có thê xóa mọi phù hoa. Nó chảy qua ngày tháng. trang nhã ung dung. yên lặng vui vẻ. không cầu không ước.

Thiên tâm là gì? Thiên tâm là một bình trà trong dưới nắng chiều, là một cây bồ đề trong đồng nội xanh non. là một luông sáng trong những tháng năm như nước, là một khúc nhạc nền trong vỡ kịch nhàn sinh. Thiển tâm là giữa núi rừng hoang; văng nhặt nhạnh hêt nhừng cành cây lạnh lèo khăng khiu, là buông câu giữa trời tuyêt bên bờ sông trên chiếc thuyền câu nho nhò; cùng là vội vã qua qua lại lại trên con đường nhân sinh, là nỗi niềm vui sướng ân oán hận thù trong giang hô mưa gió. Trong lúc bạn tọa Thiên, tâm đê naoài trân thê. Trong lúc bạn ở trần thê. tâm vẫn có thể nhập Thiền.

Mồi người duy chi có mài giũa hêt sự sắc nhọn của bản thân, mới có thê thực sự tự tại bình thản. Khi đó. càng hiêu được cách bình tĩnh đôi đãi với sự tụ tan ly họp của đời noười. đón nhận khô nạn và tang thương mà năm tháng mang đến. Đã từng có những năm tháng rực rờ, đên nay nhìn tưởng tịch liêu thưa văng, lại có vài phân phong côt. tăng thêm ý vị. Duy chi có như thê. mới có thê có được Thiên Tâm tĩnh táo và sáng suôt. dù khói mây biên ảo. nước trôi ào ào. cũng không thay đôi sắc màu non sông.

“Lục Tô đàn kinh” viêt: “Con người ta bản tính trong sạch thanh tịnh, vạn pháp đêu sinh ra từ tự tính ; nghĩ đèn hêt thảy việc ác, thỉ sè làm chuyện ác; nghĩ đẻn hêt thảy việc thiện, thì sẽ làm điêu thiện. Chư pháp như thê, đêu từ trong tự tính, như trời luôn trong xanh, mặt trăng mặt trời luôn tòa sáng, vì mây nôi che khuât. mà trên sáng dưới tôi, bồna có gió thôi mây tan. trên dưới đẻu sáng tò, vạn tượng đêu hiện rõ”ẵ

Mỗi một con người khi sinh ra đêu lươnơ thiện, chi vi nhập thê quá lâu. trải qua quá nhiêu chuyện, tiêp xúc với quá nhiêu người. mới không còn từ bi nữa. Đây là một quá trình từ lạ lẫm đẻn quen thuộc, từ đơn giản đẻn phúc tạp. cũna là con đường mà đời người buộc phải đi qua. Có những người. vòng qua mây ngã rẽ. lại oặp lại bản thân lúc ban đầu. nhặt vê sự giản đơn vả trong sáng của quá khứ. Có những người, trăm chuyển nghìn hồi mói có thể giác ngộ tự nhận thức.

Có lẽ đợi đên ngày nào đó. thê sự như g10 nhẹ mây nhàn, chúna ta sê không cân làm rõ ràng từng giâc mộng cũ. Mà toàn bộ quá trình, chúng ta đà từng có được có mât. đã từna trải qua biêt bao họp ly ly họp. cũng đã từng có nhiêu điêu thiện ác. đêu khôna cân tính toán nừa. Bời vì trước sau chúng ta vẫn đánh mất bản ngà chân thực của chính mình, có thê sông bình thản, thoải mái trong đât trời bao la. thỉ đó chính là dũng sĩ của năm tháng. Có thê trong một đèm tĩnh mịch, ngắm vẩng trăna sáng xa xôi lưng trời, chính là sự từ bi thực sự.

Mộng ảo phù sinh, đêu là bèo bọt. như sương như sét. như mây như khói. Ngày hôm qua gió ẩm bồ để xanh, đèm nay sươna nhuộm lá phong đò. Sinh mệnh chính là một cuộc viễn hành của loài hông hạc. đợi đên khi sóno xuân lui xuông. đên ngày gió thu nổi lên. mới hiéu được phải quay về. Khi đó. bước qua hết vạn dặm aiang sơn. thăm thú hết mọi miền quê đườna dịch, sao lại không biết, sự thanh thản thực sự chính là từ bò tât cả. gặp đâu vui đó.

Giâc mộng Nam Kha . núi trông rừng già. Chôn đào nguyên mà muôn ngàn chúng sinh lao tâm khỏ tứ đi tìm. hóa ra khôna phải ỡ non cảnh tiên bông, mà là năm trong nhân gian sắc màu sặc sờ. ờ đây. hoa rơi nước chảy không thành tiêng, sớm lạnh trong khói cò lờ mờ; ờ đây. giữa rừng trúc chim hót véo von. chôn sơn tự tiêng chuỏna bảng lảno. Ba canh gió tuyẻt. đã có thê khiên núi xanh bạc đàu; một bàn cờ thê. đã có thẻ định rõ Hán Sở thăng thua; một chiếc thuyền nan. cũng đủ đê đên được bờ bên kia của Thiên.

Thế sự biết bao sóna gió, chìm nổi chỉ trong khoảnh khẳc. một suy nghĩ. Người đi nghin non xa. đêm nay chuno trăng sáno. Có một nơi như thê. cho dù chúng ta đi bao xa. lạc lôi bao lâu. lún sâu dường nào. đẻu đợi chờ tôi và bạn. Khi đó chính là chim mòi vê tô, giữ mái nhà xưa yên ôn. Không thỏ lộ tâm sự ly biệt với ngọn giÓ xuân, chi từ khung cửa sô cao cao. lặng lẽ ngăm nhin hoa tàn hoa nỡ trong sân. Nơi này. chính là bô đê của tâm linhề

Đào kép vào vai. khôno phân trên hay dưới sân khâu. Mà Thiên giả nhập thê, cũng khôna chia trong hay naoài trân thê. Bởi vỉ họ đều đã tu luyện đên một cảnh giới nhât định, sớm đà không chịu tác động của gió mây bên ngoài. Bât cứ lúc nào đêu là vai chính. Cũng đều không phải là vai chính. Họ có đủ định lực. giữ được tòa thành thuộc vê mình, không cân hứa hẹn. không: cân thê thôt. vẫn có thê trường tôn cùnơ tròi đất.

Câu chuyện sinh diệt, tình cảm lên xuông của nhân thê. vôn tươna thông với sự tươi tôt khô héo của thiẻn nhiên. Trong từ của Vương Quôc Duy có một câu như thê này: “Quần khán kim niên thụ thượng hoa. bât thị khứ niên chi thượna đóa:’ (Bông hoa chàng thây năm nay. nào phải đóa cũ cành này năm xưa). Chúncr ta cho răng hoa đã tàn. sê lại nờ tiếp. Mà không biết, hoa nở trăm ngàn lẩn. nhưna đểu khôno phải là đóa hoa trước kia. Giống như một đời của cây cỗ, Giống như một kiêp của con người. Cây côi xuân tươi thu héo. mà con người, khi tuôi tráng niên đã qua. sè không thê nào trờ lại được nừa.

Tât cả châp nhât đêu chì là vọng niệm nhảt thời, bước qua được, ảo tườna tiêu tan. vĩnh viễn khôna phục hôi. Không bước qua được, hãy coi là kiêp sô. trên con đường hông trân gặp phải một lân trăc trở. Chi có trông một cây bô đê trong tâm. tự tính tự ngộ. đôn ngộ đôn tu. coi vô thường là bình thường, coi hữu tướng là vô tướng, mới có thê được giải thoát thực sự. giống như mây tự do trôi ngang trời.

Không ai biêt cảnh giới của Thiền rôt cuộc là gỉ, cũng không biêt phải tu luyện băng phương pháp gì. Mỗi một người. chi cân trong tâm có thiện niệm, bớt đi ham muôn, tự mình có thê giảm bớt phiên nhiễu, tâm sáng tò tường. “Lục Tô đàn kinh” viêt: “Tự tính mà ngộ thì chúng sinh là Phật, tự tính mà mê thỉ Phật là chúng sinh. Tự tính mà bình đẳng thì chúng sinh là Phật. Tự tính mà ác hiêm thì Phật là chúng sinh". Phật duyên đầ đên. thì điêu kiện chín muôi, nước chảy thành sông. Khi đó. cò cây là Phật, núi đá là Phật, phàm phu là Phật, tục tử là Phật, vạn vật chúng sinh đều là Phật.

Hoa rơi đạm mạc. nước chảy lặng thinh. Trong nhừng noày thána trong trẻo siản đơn. khi nói vê tâm tính, ngòi trong rừng trúc sâu hun hút. thường thức tịnh trà lóng lánh ánh dương. Nhìn người con gấi áo trăng hơn tuyẻt đó, hàng mi thanh tú, khỏno hẻ phân son. aây một cây Thât Huyên Lục Y . hát một khúc Vân Thủy Thiên Tâm. mặc cho lá trúc xào xạc. mây trăng nhỡn nhơ. đi đi đên đên. tụ tụ tan tan.

Vân Thủy Thiền Tâm.

“Không sơn điểu ngừ hể. nhân dữ bạch vân thê. sằn sằn thah tuyên trạc naà tâm, đàm thâm ngư nhi hí. Phong xuy sơn lâm hề. nguyệt chiếu hoa ảnh di. Hồna trần như mộng; tụ hựu ly. đa tình đa bi thích. Vọng nhât phiên u minh hê. ngă dữ nguyệt tương tích. Phủ nhât khúc dao tươna kỷ. nan chiêt tương tư ý. Ngã tâm như yên vân. đương khôna vũ trường tụ. Nhân tại thiên lỷ. hôn mộng thường tương y. Hòng nhan khỏna tự hứa. Nam Kha nhât mộng tỉnh, khôno lào sơn lâm. Thính na thanh tuyền đinh đòng đinh đông tự vô ý, ánh ngă trường dạ thanh tịch”.

(Tạm dịch: Ký gửi Thiên Tâm vào mây nước

Núi văng chim véo von hê. người và mảy trăng nương tựa lẫn nhau

Suôi trong róc rách tây sạch tâm ta. bây cá nô đùa dưới đâm sâu.

Gió thổi núi rừng hể. trăng chiếu bóng hoa lay.

Hông trân như mộng hợp lại tan. đa tỉnh lăm đau thương.

Gây một khúc đàn tặna người đi xa. khó tỏ hêt nỗi lòng nhung; nhớ.

Người xa ngàn dặm. hôn vân vương trong: cõi mộng.

Uổng công tự xưng hông nhan

Giâc mộng Nam Kha khó tinh, núi trôna rừna già

Nghe tiẻng suôi trong réo răt như vô tình, soi tỏ mình ta tịch mịch giữa đêm thâu.)

    Chương 5
Tât cả hữu tình đều sẽ trôi qua

Rât nhiều năm vê trước, từng tưởng răng Phật là vô tình. Bời vì người xuất gia phải từ bỏ chấp niệm, căt đứt trần duyên, mới có thê ở nơi núi non hẻo lánh, chẳng màng thê

sự. Họ không còn qua lại với thẻ giới bên ngoài. thi thoảng có khách dâng hương: cũng chi là kêt môi Phật duyên nhàn nhạt. Thê nên. họ chi có thê hâp thu linh khí trời đât trong vạn vật tự nhiên, cảm nhận nhân gian âm lạnh trong năm tháng đôi dời. Vậy là. họ coi cây tùng già trên vách đá cheo leo là tri kỷ. coi cò xanh trên siêng cô là tâm giao. coi con kiến trên thêm đá là bạn vong niên.

Sau này mới hay. Phật là nặng tình, lây thân thử kiêp. mới có được tịnh thô liên hoa của Phật quốc Thủy Thiên . Phật ban phát tình yêu cho khăp chúng sinh, đẻ nhữna kẻ rơi vào lưới trân như tôi và bạn. có thêm một lựa chọn lương thiện, được giải thoát một cách yên lặng giữa khô đau. Còn Phật, chưa bao giỜ tham luyên phôn hoa khói lửa. luôn thanh đạm tự chủ. tĩnh tọa trên đài mây. ôn hòa an lành.

Tại sao Phật có thê buôna bò oán tỉnh cá nhân, bác ái hông trân, mà thê nhân lại đăm chim trong ái tỉnh cỏn con của mình, luôn rơi vào cảnh ngộ khôna cách nào giải thoát nổi. là vì tu vi không đủ. hay là số mệnh đã định phải trải hết trần kiêp. mới có thê tránh được vòng luân hôi nhân quả? Đời đời kiêp kiêp. dòng Vong Xuyân của năm tháng chưa từng dừng

lại mà vẫn hôi hả đên và đi.

Nhân sinh hữu tỉnh, cho nên mới có vương vân. mới có phiên não. Phật nói, ngoái đâu nhin nhau năm trăm lân mới đôi được cái lướt qua nhau của kiêp này. Cái gọi là duyên định ba kiêp, một vài cuộc gặp gỡ dường như đã được săp xêp từ kiêp trước, cho nên. kiêp này tình vương khòng dứt. Phật khiến chúng sinh hiểu được thương tiếc duyên phận, trân trọng tỉnh cảm. nhưng cũng khuyên răn chúng ta không nên mù quáng mê đăm. trên con đường năm tháng vô bờ. đánh mât bản chât chân thực của mình.

“Kinh Nghiêm Hoa” viêt: ‘;Hêt thảy chúng sinh đêu có trí tuệ và đức tướng giông Như Lai. nhưng vi vọng tường và chấp trước, cho nên khòng thể chứng ngộ”. Khỏna thể ung duna tự tại. là vỉ không thê dứt tình. Vì vậy mới gọi là bê khô vô biên, quay đâu là bờ. Có tỉnh là bê khỏ. vô tỉnh là bờ. Đại Thiên thê giới, mọi thứ đêu là khò. mà naười ỡ naoài cõi thê. coi mọi nồi khỏ thành niẻm vui: coi hữu tỉnh thành vô tình. Cho nẻn chúna ta luôn có thẻ câu được yên tĩnh giữa chôn huyên náo; đạt được vui sướng giữa mọi niêm đau.

Trước khi buông bỏ. đêu có một quá trình cô châp. Quá trình này. có lè không phải là phượng hoàna Niêt Bàn , nhưng cũng phải kinh qua vô sổ lần băi biển hóa nươna dâu. Trước khi Phật Đà A Nan xuât gia, từng gặp gỡ một thiêu nữ xinh đẹp trên đường, chi một lân như thê. từ đó mà đem lòno ngường mộ lưu luyên không nguôi. Phật Tò hòi người: “Con thích cô gái đó đên nhường nào?” A Nan đáp: “Nguyện hóa thành cây cầu đá. chịu năm trăm năm gió thôc. năm trăm năm năng đổ. năm trăm năm mưa sa. chi mong người con gái đó đi qua cầu.”

Nặng tình đến thế, bây giờ chi có thê coi là một thân thoại. Yêu đên nhường nào mới có thê chịu đựng được thời gian dài đăng đẵng? Đừna nói là năm trăm năm. cho dù là ba năm hay năm năm cũng khó mà giữ được. Khi yêu. cam tâm tình nouyện từ bỏ tu hành cả đời này kiẻp trước, chỉ nguyện tôn tại vì một người. Đẻn naày hêt yêu. lại hy vọng xóa bò mọi ký ức liên quan, toàn thân thanh tịnh.

Có lẽ rât nhiêu naười đêu muôn biêt. sau khi A Nan quy y cửa Phật, có còn nhớ lòi thê ước ban đâu hay không? Đợi đên khi thiêu nữ xinh đẹp đó thành một bà lão tóc trăng phau phau, người còn tinh sâu không đôi như cũ chứ? Người có lè có thế hóa thành cẩu đá vì nàng, hóa thành non xanh nước biếc, hóa thân ngàn vạn lẩn, người cũng có thế thanh tịnh không vướng bận gì. Nêu như A Nan và thiêu nừ ây kẻt một đoạn nhản duyên, liệu có thê trải qua ngày tháng thanh đạm sớm chiêu bên nhau. giừ cho tình sâu ỷ nặng như ban đâu hay khôna?

Không có nêu như, cũng như chúno ta không cách gi có được kêt quả chính xác từ một lời dự báo. Trong những ngày đánh mât tỉnh yêu. năm tháng vẫn yên ôn như xưa. tuê nguyệt tĩnh mịch như thuờ ban đâuệ Nhưng nhừng chuyện cũ tưỡng chừng có thẻ làng quên đó. lại không thê quên nôi dù chỉ là một chuyện, nhưnơ không thẻ tính toán, đành thuận theo tự nhiênề Thế sự rối rẩm. bạn coi một vờ kịch là thật, vậy thì tât cả thành thật. Bạn coi cuộc sông là giả, vậy thì tât cả đúng là giả.

Thái độ sống của mỗi người khác nhau, cách thức đối đăi với tình cảm cũng mỗi naười một vẻ. Phật dạy con người khôno nên có quá nhiêu châp niệm đôi với tỉnh yêu. nhưng Phật lại ban phát càng nhiêu tỉnh yêu cho chúng sinh, mà khôna câu bát cứ đên đáp nào. Trên thê gian này luôn có những người phải đợi ngàn cánh buôm qua hêt. mới nhận ra phải quay đâu; phải đợi đên lúc chia ly thât tán. mới băt đâu hiêu được trân trọng: đợi đên lúc vật còn người mât. mới băt đẩu nhớ nhung.

Ở cung Potala (Bô Đạt La) xa xôi. từng có một vị tỉnh tăng như thê. ngài tên gọi là Thương Ương Gia Thô. được vạn dân sùng bái. Cho dù Thiên Tâm thanh tịnh, thâu suôt. nhưng vì tình cảm mà không thê tự chủ. Năm đó ngài đã từng viêt câu thơ khăc côt ghi tâm: ‘Thê gian an đắc song toàn pháp, bất phụ Như Lai bất phụ khanh" (tạm dịch: Thê gian sao thể vẹn đôi đường; Không phụ Như Lai chăng phụ nàng). Ngài chính là một vị Phật nghiêm trang tĩnh tọa trên đài sen. phô độ chúng sinh, mà trong lòng không thê quên được cuộc sôno lứa đòi hạnh phúc.

Ở Tây Tạng? nơi thần bí cao thâm vời vợi, truyên thuyêt vê ngài như một bản tình ca. truyên đi hêt thảy nhừng nơi có cò cây. hô nước. Rât nhiêu người băng núi vượt sông đi tìm. đi lề bái, không chi vì tín ngưỡng: mà nguyên nhân sâu xa hơn là vị tình tăng lãng mạn này đã đem đên sự thân kỳ và tươi đẹp như mộng ảo. khiến thế nhân tin rằna. ở vùng đất thần bí đó. hoa tình mọc khăp nơi. mỗi dòng sông, mỗi ngọn núi. mỗi chú dê nơi đó. đêu được siêu độ.

Sau này lại có một vị tình tăng, người là chú nhạn cô lẻ giữa hông trân, phiêu làna nửa đời. nêm hêt tỉnh vị. Vị tăng giả được tiên đoán sô mệnh này. tên là Tô Mạn Thù. Cuộc đòi của naười. mây lân trôn vào cửa Phật, nhưng trước sau chăno quên nôi trân duyên. Khi người rời khòi nhân gian. đê lại tám chữ: Hêt thảy hữu tỉnh, đêu không vương vân. Nhưng naười thực sự đã đôn naộ, từ bò được chưa? Khi còn sôngr người đã phụ biết bao hồng nhan, mỗi lần gây ra họa. lại quay người bỏ trốn. Không phải người vô tình, mà là thực sự không thê sánh vác trách nhiệm.

Chăc chăn còn rât nhiều vị tình tăng chúng ta đã biêt. và cả những naười chúng ta chưa biết, họ có phẩm chất như hoa sen. là một hạt cải giống trước Phật, lại là một đóa hoa sóng trong biên tình. Những người này cho dù là ngôi thiên trước Phật, hay là bôn tâu nơi trân thê. sự tu hành của họ. Đều là chữ Tình. Quỳ trên nệm bô đoàn, dùng thời gian trăm nghìn năm. luân hồi mấy kiếp. đòi lây nhân duyên một đời, hay một lân tương phùng. Đợi đên một ngày được như ý nguyện. là có thê triệt đê căt bò châp niệm, tâm như pha lê. trong văt như nước.

Phật nói: “Các hành đêu vô thường, tât cả đêu là khô. Các pháp đêu vô noă. tịch diệt tức là vui” . Tronơ quá trình tu luyện, không phải một lòng cô châp vạch rõ giới hạn giữa bản thân với thê sự phôn tạp. mà là thân ở giữa khói lửa xoay vòng, vẫn có thẻ trong sána như tuyêt trăng năm xưa. Đi khắp sơn hà mênh mang. vạn vật phồn thịnh, ai vui nhân duyên thiên tính của người đó. ai cũng không thê thay thê được ai. Nhừna con đường đă qua. những người đã gặpr những chuyện đà xảy ra. giổng như nước sôna dào dạt. khôna thê naược dòng.

Rôt cuộc bạn còn cố chấp điêu gỉ? Đã biết rõ. mỗi người đêu là hạt bụi nhỏ nhoi giữa đât trời, có một ngày không biêt sẽ vê đâu. Phật Đà A Nan dù hóa thân thành cây câu đá. chịu trăm ngàn năm gió thôc nắng đổ, há chăng biêt người thiêu nữ ây đã chịu luân hồi cùng năm tháng hay không? Có lê nàng đă hóa thán thành bụi trân ờ một kiẽp nào đó. tan thành tro bụi. không hôn không phách. Có lè nàng hóa thành hoa sen ở một kiêp nào đó. tu thành chính quả trước Phật, cũng không cân chuyên thê đâu thai nừa.

Hêt thảy hữu tình đều sẽ trôi qua. Trên ngả đường mây khói nghìn trùng, lời nào cũng không cần nói. Khi cáo biệt, cũng không cân naoái nhìn. Sát na quay người, xin hăy khăc ghi. quãng thời gian chúng ta đã từng đi qua đó

Chương 6
Bô đê hoa nở hoa lại rụng

Đêu nói nhân gian là sân khâu, những chúng sinh đi xuyên qua hồng trần, mồi ngày đểu bận rộn diễn một vở kịch gọi là cuộc sống đi qua biêt bao cây câu. nhìn qua vô sô mây bay. kinh qua trăm ngàn lần tụ tán. Rồi một ngày. liệu có cân gỡ bỏ trang sức đời người. Trở lại với bản ngà thuân khiết thanh tịnh hay không? Dưới gốc bô đê bình thản tu hành, ngắm núi xanh che mặt trời, nước biêc không gợn sóng.

Bôn mùa luân chuyên, những vách đá cỏ cây đã trải qua ngàn vạn năm đó. cũng chẳng tránh nổi vòng luân hồi tháng năm. Kỳ thực, tât cả con người đêu có lựa chọn của riêng mình, mỗi một bển đồ đều là bản thân cam tâm tình nguyện dừng lại. nhân quả chưa từng nợ chúna ta điêu gỈJ chúng ta cũna không có lỷ do gi để oán trách. Tu hành là một vị thuôc. vị thuôc này có thê biên kẻ ngu muội thành người thông tuệ. khiên kẻ say sưa thành người tinh táo. khiên kẻ cuồng si sớm được giác ngộ. Vì vậy chúng sinh nên lập tức cắt bỏ trần duyên, đoạn tuyệt nợ nần. mang hành trang gọn nhẹ lên đườngr đi tìm hoa bồ đề nở đà từng thấy trong giấc mộng.

Tât cả của ngày hòm qua đều là chuyện cũ xa xưa. trút bỏ mớ trang sức thời gian. ung dung bước ra khỏi thê giới phù hoa. tâm hồn trong văt như nước. Từ đó vê sau, thuyền chài xướng họa. thưởng trăng buông cần. mặc kệ hoa lau như tuyêt. mây khói bao trùm. Dưới gốc cây bô đê. cỏ bờ vẫn như xưa. đây là một đạo tràng từ bi. vạn vật sinh linh trên thê gian đêu có thê tu hành tại đây. chăng hê phân biệt. Những câu chuyện đã từng mơ hồ, nay bắt đầu sáng tò: những tình cảm đã từng mông luna vô định, nay cùng đã châp nhận bỏ qua.

Tu hành là một sự siêu thoát tự do mà thanh cao. Cái gỌÌ là đi đên nơi sơn cùng thủy tận, naôi ngăm mây bay. chính là cảnh giới của tu Thiên. Cũng có nghĩa là tìm được vẻ đẹp giản đơn giữa thiên nhiên non nước trong lộ trình nhân sinh vôn quanh co gập shênh. Chứna ngộ thực sự. khôna chi là có được sự yên ôn giữa lúc nóng vội, cũng có được sự giải thoát từ trong nồi cô độc; không chi là phóng thích sự nhiệt tỉnh, mà còn làm bình ôn sự lạnh lùno. Điêu chúng ta cân. không phải là khiên bản thân chuyên tâm tu luyện, lĩnh hội sâu sắc như thê nào. mà là phải loại bò phỏn tạp giừ lại siàn đơn. ung dung tự tại.

Năm đó Lục Tò Huệ Năng từng có bài kệ răng: “Bô đê vốn không cây, aương sáng chẳng phải đài. Von không phải một vật. chồ nào bám bụi bặm?” Lục Tổ đang điểm hóa chúng sinh, tât cả sự vật trẻn thê gian đêu là hư ảo. Có người nói. tu hành như thế nào mới có thể quèn sạch mọi thứ của kiếp trước, thanh thản sòng ờ kiêp này. Vừa không phải tiêu cực trốn tránh, vừa khôna phải khó khăn chọn lựa. là đã có thể xóa sạch quá khứ rỏi.

Uông một chén canh Mạnh Bà. như thể có thực sự xóa bỏ được mọi ký ức. lãng quên mọi yêu hận vui buôn hay không? Có lè bản nahĩa của canh Mạnh Bà không phải là khiên mồi con người dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ như thê. mà là hy vọng mồi con người có thê táy rửa hành trang phù phiêm trên mình. Từ đây cáo biệt hoa cò tâm thường của hông trân, được phục sinh dưới gÔC cây bô đê. Vậy hãy qua đó như thê mà đi. Rời khỏi cầu đơn sóng nhỏ. mây biêc liều xanh, ở bờ bên kia của mặt sông soi bóng bẩu trời bao la. tìm được đóa hoa bồ để thuẳn khiếtế

Những điêu đã nói đó. nhừna người đồng sinh cộng tử chốn nhân gian đó. cuôi cùng chi còn lại một nụ cười cáo biệt nhau, cùng lãng quên nhau trên chôn aiang hô. Có lè một naày nào đó trên con đường câu Phật, sẽ lân nữa trùng phùnơ; nhưng nhừng lời thẻ non hẹn biên của naày hôm qua đă sớm bị lãng quên, ai vui chuyên người này. Dưới gôc cây bồ dề, biết bao sinh mệnh ngu ngơ chậm chạp đểu có thể được đốn ngộ. Họ bẳt đẩu tôn trọng mồi loại sinh linh, bắt đâu tin răng hêt thảy mọi thứ trên đời đêu là tự nhiên, không một chút cường câu.

Lưng đeo hành trang Thiền là bước ra khòi nơi phàm trần sâu thẳm nhất, núi xanh làm màn. nước chảy làm giường. Một mình buông câu trên sông Tuyêt là ta. chặt củi ở núi Nam là ta. dạo bước trong mây là ta. sôi đâu lên đá tảng cũng là ta. Chi có đồng hành cùng tự nhiên, mới có thê không bận tâm đến năm năm tháng tháng, để mặc bóng câu qua cửa. nội tám như giêng cô không gợn sóng. Nêu như lạc lối chốn đồng hoang hay say ngằ trước rừng phong, chi cẩn tìm được một gÔC bô đê là tỉm được chôn vê. Giữ một khoảng trời tinh khiết, cảm nhận tự nhiên, ngắm nhìn vầng dương lặn. gió mát lành, núi sông tĩnh mịch.

Độ lây nước là đường. sen là thuyền. Nhừna người cùng bạn chung thuyền vượt sông năm đó. không ai có thê đi với bạn đên điêm cuôi cùng. Một sô người giữa đường từ biệt, một sô người đi lướt qua nhau, một sò người vô tình tụt lại. Nhưng chúng ta nên tin răng, cho dù con đường có xa xôi bao nhiêu, chúng ta đêu có thẻ tìm được một bên bờ thuộc vê riêng minh. Cho nên. đừng bao giờ nghi ngờ sự thiện lươno trong một con người. bời vỉ đòi diện với khòn cảnh, chúng sinh sớm đà học được lòng khoan dung và tha thứ.

Tât cả duyên phận trên thê gian vôn đêu là tâm thường: và nhạt nhẽo. Vì có những câu chuyện lưu chuyền đến nahìn năm. có nhừng sự đợi chờ xoay vẩn đến vạn kiếp, mới khiến người ta cảm thây sự gặp gờ của kiêp này không dề gì có được. Những hạnh phúc và đau thươna mà chúng; ta chứng kiến cùng trôi dạt trên một dòng chảy, đên cuôi cùng đêu không tách bạch nồi ỷ nghĩa của hai bên. Tháng năm trôi qua trono câm lặng, những người những việc đã từng gặp, dân dân xa vời rồi trở nên nhạt nhòa. Chi có đóa hoa bô đề vẫn vĩnh viễn còn đó. năm tháng khôna thê mài mòn. vẫn tu luyện trong hôno trân, vẫn trong sáng thanh tịnh, vẫn an ỏn vui vây. bình yẻ=ên hiên hòa như cũ.

Phật nói: “Đời người sông trên trân thê như sôna giữa bụi gai. tâm khôno động, người cũng không làm bừa. không độna thỉ khòng bị thương:; nêu tâm động thì người sè làm bừa. tôn thương thân thế, đau đớn côt tủy. thê nẻn lĩnh hội đủ mọi đau khô trên thê gian”. Bảt cứ lúc nào đêu phải làm một bản ngã đơn giản, trong sạch, đôi đãi một cách khoan duno với cuộc sông, trân trọng bản thân và mồi người xung quanh mình. Chi có như thê. mới có thê có một trái tim sạch sè trono sáng như pha lêễ Cho dù vô tình bị bụi bặm của thời gian che phủ. cũng trong đục rõ ràng. Ba ngàn thê giới, bóng hình thoáng qua. cái chúng ta nhìn thây được chi là một hạt bụi nhò nhoi, một làn nước thu. một mảnh trăng khuyêt.

Mơ một giâc mơ thanh khiêt như nước, trong mộng không biêt bô đê đã mây độ nờ hoa. Giữa xứ Phật mênh mông vạn Phật, nahìn năm cũng chăng qua là một sát na. mà sát na lại là vĩnh viễn. Luôn I1gỜ rằng trên đòi này không có ân oán nào là không thê xóa tan. không có lòng người nào là không thê lay độnơ. nhừna chuyện trăng gió cũ. nhừng món nợ tiên duyên, qua thời gian đêu có thê khuây khòa.

Đều nói đời người là một màn kịch vĩnh viền không kết thúc, cho nên dù giang sơn đổi chủ. bãi bể nương dâu. đểu chỉ là quy luật tự nhiên. Lá rụng núi văng, đường nhỏ xanh rêu. dù cho đà từng cáo biệt thi vẫn sè khòng hẹn mà gặp. Đợi đên khi bụi bặm của tháng năm đêu được gạn lọc. hãy coi mỗi naày đêu là một naày đẹp. hãy coi mồi người đêu là lân đâu gặp gỜ trong cuộc đời. hăy đôi mỗi đóa hoa thành muôn hông naàn tía.

Sau này mới biêt một bài hát tên là “Hoa bô đê”. Thanh âm trong trẻo uyên chuyên cât lên kê hêt sự tình ngàn năm. khiến người ta quên mắt tu hành, không kìm được mà nảy sinh trân niệm. Nhưng cũng chi là sự tập trung tinh thân trono thời gian naăn ngủi, sau khi giai điệu rung động lòng noười kẻt thúc, chúna ta đêu phải từ bò. Bât cứ lưu luyên nào đêu bị đây vào vòng luân hôi của thời gian, tu luyện nhiêu năm cũng sẽ uòng hẻt công lao. Cảnh giới của tu Thiên, không  phải nước lặng chảy sau. mà là tùy duyên mà an.

   Chương 7
Hoa Bồ Đề

Ta là hoa bồ đề trên cây bồ để, lạnh lùng nhìn bụi trần ngàn năm chốn nhân thế.

Chàng lưu luyên dưới gốc cây, khoảnh khăc ngoái đầu nhìn nhau đó. Khắp đât trời chi còn lại hàng mi như tranh vẽ của chàng.

Mặt hồ in bóng chiếc áo trăng tựa tuyêt của chàng bên cạnh hoa sen. Trần niệm nồi lên. hồng đậu vỉ ai mà nỡ.

Mặt hô in ánh măt như trăng soi bóng nước của chàng. từ đây khăc côt ghi tâm. một đời vương vấn.

Ta quên mất sự tu hành nghìn năm. luân hồi thành người phàm trần.

Chi đê tìm một người trong hông trân, cùng đi đên chân trời góc bê.

Nhớ đên khi thêu rèm cửa số. bóng dáng thanh tú tĩnh lặng chìm khuât, ai người tiếp đón.

Giữa biên người mênh mông nương dâu biên ảo. lại một mùa hạ trôi qua. bước chân ta đă loạng choạng, tóc bạc trăng như tơ.

Năm xưa dưới gốc cây bô đê. ai đang uổng công than thở. trên mặt hồ thấp thoáng một đóa hoa bồ đề.

Ta là hoa bồ đề trên cây bồ đề. lạnh lùng nhìn bụi trần ngàn năm chốn nhân thế.

Chàng lưu luyên dưới gôc cây. khoảnh khăc ngoái nhìn nhau đó. khăp đât trời chi còn lại hàno mi như tranh vẽ của chàng.

Trường đình mười dặm nhớ áo choàng của chàng tuno bay đón ráng bình minh, rượu trong một chén cơn say sây tỉ bà.

Trường đỉnh mười dặm nhớ áo mòng của chàng buôna trên tuân mã. mưa dâm một trận biêt bao lời tương tư.

Ta đã quên mất tu hành ngàn năm. để đi tim chàng.

Có biêt bao nhiêu nam thanh nừ tú tỉnh sâu như biên, lại trờ thành kẻ xa lạ giữa nhân gian. Biêt bao nhiêu lòi hẹn ước dài lâu như trời đât. lại trờ thành tơ bay lả tả trong gió. Tât cả đêu khỏng quan trọng nừa. trước đức Phật từ bi. nhữna chuyện vụn vặt hông trân áy đă sớm không là gì. Ngày sau còn dài. nêu như có duyên, nguyện cho thê sian. cho bạn cho tôi. đêu có thê tụ hội dưới gốc cây bô đê. Uống vài chén Thiền trà. đọc vài chương kinh văn. naẳm hoa bồ để rụng rồi lại nờ

Chương 8
Làm một đóa sen xanh trước Phật

Có lẽ chúng ta đều biết, trong vạn vật thứ được chúng sinh coi là có Phật tính nhất, đó là sen xanh trước Phật. Làm một đóa sen xanh trước Phật, mọc lên từ giữa dòng tịnh thủy, không chỉ là mơ ước của tín đồ, mà còn là tâm nguyện của chúng sinh.

 Dường như bất cứ ai trong bất cứ lúc nào, chỉ cần là một cây sen xanh trước Phật, là có thể đem mọi loại quá khứ lưu lại trong tòa thành tên gọi là kiếp trước. Cũng bất luận đã từng nếm biết bao khói lửa nhân gian, đều có thể trở về thuần khiết chỉ trong sát na. Chúng sinh mê đắm phong cốt của hoa sen, yêu sự thanh tĩnh, mát lành độc lập

Nhiều năm trước, Phật và hoa sen đã có tình cảm thắm thiết. Thắng cảnh Linh Sơn, vạn Phật ngồi nghiêm trên đài sen, chúng sinh cúi lạy. Chư Phật ban phát yêu thương, không khước từ (những người) thấp hèn. Giảm nỗi khổ bị giày vò cho chúng sinh, tránh đi luân hồi không cần thiết. Đã từng có lúc, Phật cũng đã du lịch chốn trần ai xa thẳm của nhân gian, đã từng trải qua buồn vui tan hợp. Nhờ độ hóa cho loại sinh vật nào đó trở nên lương thiện, mới từ bỏ vọng tưởng và chấp trước, có được sự bình thản và an nhàn như ngày nay.

Làm một cây sen xanh trong nước, ở yên trong một góc trước Phật. Mỗi ngày nghe tiếng gió vi diệu, cực khẽ nơi góc thềm, nhìn ngắm bóng trăng mơ hồ thưa thớt. Cho dù ngày tháng bên ngoài lan can trôi qua chậm bao lâu, hoặc là đi nhanh bao nhiêu, sen vẫn luôn như thế. Những người từ hồng trần đến trước Phật đó, gỡ mọi trang sức của thế tục xuống, trở về với bản nguyên [1], cùng một cây sen bắt đầu cuộc đối thoại bằng tâm hồn, vừa kéo dài vừa thanh tịnh.

Sen dung sự từ bi để thanh tỉnh tự chủ, nghe quen tiếng trống chiều chuông sớm, đọc kỹ kinh kệ thi văn, sớm đã tịnh hóa thành vật thuần khiết, có linh tính. Sen trồng trong “nước Nhược ba ngàn [2]”, được một đời thanh bạch, khiến sinh linh ly tán trong nhân gian không còn âm thầm đau thương nữa. Cây sen xanh đó cũng không biết mình đã tu luyện bao nhiêu năm trước Phật, ngâm sâu trong nước, đâm thẳng lên cao, từ đây luân hồi cũng thành tươi đẹp.

Khi một người đối diện với trần thế bận rộn không cách nào thoát ra được, so với thỏa hiệp để mình ngã sâu vào bể nhuộm, chẳng thà thấu hiểu mà buông tay. Giữa bốn mùa luân chuyển, ngắm nhìn mây phiêu du bên trời, trăng treo trên ngọn cây, một cành mai xanh như có như không ngả vào sân vắng. Nếu như phàm trần thực sự có biết bao điều không nỡ từ bỏ như thế, có thể lựa chọn ở lại, chỉ cần không khăng khăng chuyện được mất. Từ đó về sau, mấy quyển kinh thư, một chén trà trong, trong tháng năm bình dị, đạm bạc, giản đơn tĩnh lặng qua ngày, không cầu gì khác.

Bắt đầu từ lúc nào, chúng sinh ngưỡng mộ sen xanh trước Phật, tuy ngâm mình giữa bùn, mà cách xa khói lửa, thanh khiết như băng như ngọc. Có lẽ trong những ngày tháng núi cao trăng nhỏ đó, sen cũng sẽ cô đơn, nhưng trước sau vẫn có thể tỉnh táo tự chủ, không kinh sợ không phiền não. Cô độc thực sự, chính là dựa vào lan can, ngắm chim én bay về nam tìm tổ cũ, hoặc quỳ trên nệm bồ đoàn, nghe Phật Đà giảng chuyện cũ bồ đề.

Bờ bên kia lửa đèn sáng rực, bờ bên này gió sớm trăng lạnh. Xưa nay hồng trần và cõi Phật đều chỉ cách nhau một bước chân, đành xem vào Phật duyên và tạo hóa của chúng sinh. Người giác ngộ, sớm đã vượt sông lên bờ, dừng lại bên hoa sen mà sống. Còn kẻ u mê, vẫn trôi nổi giữa dòng, không biết chốn về. Có người nói, đợi đến lúc đóa hoa cuối cùng rơi rụng, chén trà cuối cùng lạnh ngắt, mối tình cuối cùng đứt đoạn, là siêu thoát. Nhưng sự chờ đợi như thế, khiến tơ xanh biến thành tóc trắng. Thời gian trôi mãi trôi mãi, Phật duyên kiếp này cũng không trở lại.

Tuy nói siêu thoát càng sớm càng tốt, nhưng vạn sự trong nhân gian rốt cuộc vẫn coi trọng duyên pháp. Không phải vào trong đền miếu, là có thể tâm tĩnh vô trần, dứt bỏ lo âu. Cũng không phải rơi vào lưới trần, là vẩn đục nhiễm tục, không thể giải thoát. Chúng sinh bình đẳng, hoa sen trước Phật, hoa sen của hồng trần, không hề phân chia cao quý hay thấp hèn. Ai giác ngộ trước, là người đó có thể ra khỏi bờ bến nhân gian trước, đến cửa Niết Bàn, từ đó về sau không đến không đi, không buồn không vui.

“Hoa Nghiêm kinh” viết: “Hết thảy chúng sinh, đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước, (nên) không thể chứng ngộ”. Cùng là sen xanh, cùng nghe Phật Tổ giảng pháp, có đóa chỉ nghe một lần là giác ngộ, có đóa lại nghe ngàn vạn lần mà vẫn không hiểu. Là không chịu được sự tịch liêu lẻ bóng, hay là tham luyến khói lửa phàm trần, mọi loại tiền duyên đều tự mình gánh vác. Thiền là gương sáng, có thể soi thấu ảo tượng mơ hồ của nhân gian, khiến cho cái gì nên ở lại thì ở lại, cái gì nên đi thì sẽ đi.

Siêu thoát, không cần nhét thêm hành lý, mà là bỏ tay nải xuống, gột tẩy tâm linh, sự vật và ta cùng quên nhau. Siêu thoát là bước ra khỏi hoa rơi, không hỏi tới chuyện hồng trần, làm người đứng ngoài thế tục. Giác ngộ triệt để, là không còn mê hoặc vì thế thái, bất cứ lúc nào đều bộc lộ bản ngã chân thực. Cảnh giới của Thiền, quý giá nhất không gì hơn tự nhiên thấu tỏ. Cho dù bất đắc dĩ không thể siêu thoát, rơi vào giữa phố chợ cũng sẽ đứng ngoài cuộc, thiền tâm như nước lặng.

Tâm như sen nở, từng lá từng hoa đều là Thiền. Mọi chúng sinh yêu hoa sen chính vì sự tự tại thản nhiên một nửa nhập trần, một nửa thoát tục của nó. Hoa sen chưa bao giờ cho chúng sinh bất cứ lời hứa nào, không định bất cứ ước hẹn nào, bởi vì tất cả chờ đợi hư vô đều là vô tội như thế. Có lẽ bởi vì hoa sen có Phật tính và sự thanh khiết đặc biệt, khiến chúng sinh vừa nhìn đã say mê. Cho nên họ cầu nguyên, đời này có thể làm một cây sen xanh trước Phật, dám cô độc đếm ngày tháng tĩnh lặng tuyệt mỹ, trăng tròn trăng khuyết.

Có lẽ chúng sinh không hiểu, tại sao cây sen xanh đó kinh qua biển biếc biến thành nương dâu, vẫn có thể không hẹn mà gặp ở mùa hoa, hơn nữa vĩnh viễn gió nhẹ mây nhạt như thế, không hề bận tâm. Người tu hành giống như hoa sen, rũ bỏ hết phù hoa, nhàn nhạt mà nở, nhẹ nhàng mà rụng. Ngồi trên nệm bồ đoàn, coi vạn vật sơn hà nhất loạt đều như nhau, độ cho hết thảy những người có thể độ.

Người đời Đường Lý Cao viết một bài thơ hỏi về đạo [3] rằng: “Luyện đắc thân hình tự hạc hình, thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh. Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết, vân tại thanh thiên thủy tại bình” (Luyện được thân hình như thân hạc, Dưới ngà gốc tùng hai hòm kinh. Tôi đến hỏi đạo ngài chỉ nói, Mây tại trời xanh nước tại bình. Chọn nơi yên tĩnh chốn hoang sơ, Quanh năm chẳng đón cũng chẳng đưa. Đôi khi lên thẳng đỉnh non vắng,Dưới trăng vạch mây thét một hồi) Sự tồn tại của Thiền, chính là tự nhiên như thế này, như mây trắng trên trời, như tịnh thủy trong bình, rõ ràng trong sáng, giản đơn thuần phác. Vạn vật nhân gian luôn hướng tới Thiền, người tu thiền, chẳng chia sang hèn, chẳng màng thâm sâu, chỉ cần có một trái tim thuần khiết hướng đạo.

Vầng trăng bồ đề treo ngoài cửa sổ, đoá sen diệu tâm tĩnh lặng trồng trong nuớc. Năm tháng như tuyết, đun trên lửa lò, hết thảy bi hoan đều bị bốc hơi, chừa lại nuớc tinh khiết trong vắt cho chúng sinh thuởng thức. Thiền có thể trị thương, có thể giải độc, có thể mang ngọn gió đến cho người mong ao ước sự mát lành, đem ánh nắng đến cho nguời chờ đợi sự ấm áp. Vĩnh viễn không cần thiền tâm của một người hoài nghi, cũng vĩnh viễn không cần hỏi nên tu thiền như thế nào, bởi vì thiền là nước chảy mây trôi, tự tại thiên nhiên.

Phật nói, cực lạc của kiếp tới ngày sau, chính là hoá sinh thành liên hoa trên Thất Bảo trì [4]. Mỗi một người là một đoá tịnh liên, nếu tư chất tốt, sẽ nở sớm một chút, nếu ngộ tính kém cỏi, sẽ nở muộn một chút. Cùng trên con đuờng tu hành, cho dù là Thiền định sóng cả chẳng kinh, hay là khổ hạnh nằm suơng giãi gió, chốn về, đều là giống nhau. Dù hoá thần vạn triệu lần, cũng chìm đắm trong Công Đức thủy [5], đợi một lần gặp duyên mà bừng nở.

“Kim Cương kinh” viết: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, kiến chư tuớng phi tướng, tắc kiến Như Lai”. (Phàm cái gì có tướng, đều là hư dối, thấy mọi thứ tướng mà lại không phải là tướng, tức là thấy Phật). Có nghĩa là cảnh giới của Thiền, cho dù quá trình như thế nào, non nuớc trùng lặp hay là ngàn vách đá vạn khe sâu, đến cuối cùng, vạn dòng đồng tôn, vạn pháp quy nhất. Cho nên, trong mỗi một ngày tu hành, không cần trèo đèo lội suối, chỉ cần hiện tại an ổn, nhìn mưa phùn gió khẽ, mây đến mây đi bên ngoài cửa sổ.

Xuyên qua rừng cây nhân sinh gai góc dầy đặc, phía truớc đã là đồng bằng thẳng cánh, trời cao bể rộng. Buông bỏ chấp ngã, tuỳ duyên tự tại. Kiếp sau nguyện hoá thành đài sen, ngồi dưới thân Di Đà nghe kinh. Dùng tâm từ bi bồ đề, độ chúng sinh như hoa sen.

[1] Tức là diện mạo, chân tướng vốn có.

[2] Có câu: Nước Nhược ba ngàn bầu, chỉ lấy một bầu để uống, dùng để chỉ sự son sắt thủy chung.

[3] Bài “Tặng Dược sơn Cao Tăng Duy Nghiễm”, bài số hai.

[4] Thất Bảo trì: Thuật ngữ Phật giáo, chỉ đầm hoa sen do bảy bảo vật tạo thành ở tịnh thổ Tây phương, những người đầu sinh nơi tịnh thổ sẽ được hóa thành hoa sen trong đầm này.

[5] Công Đức thủy: Tức Bát Công Đức thủy, Trong thế giới Tây phương cực lạc của Phật giáo, nơi nơi đều có Thất Diệu Bảo trì, Bát Công Đức thủy chảy đầy trong đó. Nước này tinh khiết, lạnh buốt, ngọt lịm, mềm dịu, trơn nhuận, an hòa, khi uống ngoài giải khát, còn có thể tăng thêm thiện lương

Chương 9
Lướt qua nhau giữa hồng trần

Đời người có rất nhiều cuộc gặp gỡ. cho dù bạn lựa chọn đi trên con đường nào. đêu có những người đi đường lướt qua nhau. Hông trần như thế. đạo tràng bô đê cũng như thế. Trong sự tụ tán ly hợp tất nhiên đó. những người này sẽ có một ngày đều bỏ bạn mà đi. Duyên sầu duyên mộng. năm dài tháng ngắn. cũng chi giữa sự qua lại lại qua.

Nhân duyên lưu chuyển. khởi diệt đều không thể dự đoán. Thế gian này không ai có thế thực sự đi cùng bạn đến phút cuôi của cuộc đời. vạn cô bất biến, chi có non xanh nước biếc. Những sinh linh đã thấu hiểu Phật tính, trên chặng đường xa xôi chăc chăn sẽ không mê lạc, không cô đơn. Dòng người đi lướt qua nhau, có rất nhiêu cơ duyên nhâm lẫn. mât mát đêu trờ thành thu hoạch. Bởi vì, cho dù chi còn lại một chiếc giường lạnh, một chiếc áo cũ. một bát cháo trăng, chúng ta vẫn có thê dựa vào chính minh.

Mỗi người đều là hòn đá bãc qua sông, đêu là naòn đèn soi sáno cho chúno ta hướng vê. Gặp gỜ là mây tụ, ly biệt là mây tan. đểu sẽ không ảnh hườno đến vẻ đẹp của bẩu trời. Chẩm chậm thả bước trên đường nhò giao nhau giữa hông trần, đi cùng ai Cũng không quan trọng. Quan trọng là bản thân tìm thây con đường sáng tỏ. thông suốt. sau đó, nước biêc bờ mây. trời cao đât rộng, nhàn nhà vô cùng.

Tùy duyên tự tại. tự tại tùy duyên. Một hạt bụi chứa vạn tượngr một ỷ niệm chứa ba ngàn. Noười đời luôn thích coi oặp gỜ là kiếp số, coi danh lợi là lưới trần không thê thoát khỏi. Nhưng lại không biết. một cái tâm thiên định có thê gánh vác được phong vân biên đồi. sóng cuộn dâna trào của hết thảy nhân gian. Những con người đã từng gặp nhau đường hẹp đó đi vê đâu. Vốn đã khòng cân càu trả lời nừa.

“Kinh Viên Giác” viết: “Nhất thiết chúng sinh chủng chủng huyễn hóa. giai sinh Như Lai viên giác diệu tâm. do như không hoa. tòng không nhi hừuệ Huyền hóa tuy diệt. không tính bât bại. chúng sinh huyễn tầm. hoàn y huyễn diệt, chư huyền tận diệt, giác tâm bât động” (Tạm dịch: Tất cả chúng sinh và mọi vật huyền hóa. đêu sinh từ Viên giác diệu tâm Như Lai. ví như hoa ảo trong hư không. từ hư không mà có. Hoa ảo tuy diệt mà tính hư không không hoại, tâm ảo của chúng sinh lại y nơi pháp ảo mà diệt, pháp ảo tâm ảo diệt hết thì tính siác bât động). Đời người như ảo mộng. một người lướt qua. một người quay đâu. liên thành vật còn đó người đà khác xưa. Đôi với quá khứ. chớ nên ngoái nhìn lưu luyên. mà hãy đê nó sạch trơn như gió mát. thong thả như mây trôi.

Người tu hành, hêt thảy pháp, đêu là Phật pháp; hêt thảy tâm. đêu là Thiền tâm. Dùng đôi măt Bát Nhã nhìn thế gian Ta Bà. Mỗi một hạt bụi nhỏ đêu có định lực. mỗi một cọna cỏ đêu là thuôc lành, mỗi một tâc đât đêu nở rộ hoa sen. Nhân gian là đạo tràng tu hành hoàn mỹ nhât. trong khói lửa vân đục. có thè tìm thây một chiếc sương trong sáng, thây chân tính mà thành Phật . Từ đó trăng thanh gió mát. vui vẻ bình an. trời nước một màu. sơn hà tự tại.

Phật du hành giữa nhân gian. chúng sinh đêu có cơ duyên gặp Phặt. Có thẻ tại một ngÕ mưa. đá xanh nào đó. một bên đò ly biệt nào đó. hoặc là một con đường núi lá rụng đây nào đó. Lại hoặc là cùng uống một ấm trà. cùng hái một nhành hoa. naôi cùna một tâm nệm. Những nơi Phật đi qua đêu là quôc thô thanh tịnh. Những nơi Phật đà ban phát tinh yêu. Đều là thế giới bồ đề.

Đôi với Thiền giả, tất cả nhân duyên, tất cả vui buôn, đêu có thẻ được hona khô dưới ánh năng mặt trời. Một bậc Thiên giả. cái người đó truy câu không phải là nội tâm sâu sắc thê nào. mà là làm thê nào đê tâm trong như nước. Dù bước đi trên rừng đao núi kiêm, vẫn có thè ung dung kiên định; lạc giữa biển khói mây mù. vẫn có thề sáng lòng thấy được chân tính.

Hoa nở là hữu tình, hoa rơi là vô ỷ. Người đèn là duyên khởi, người đi là duyên tàn. Ba ngàn thế giới, mỗi một naày đêu sẽ CÓ lướt qua. mỗi một ngày đêu sè có trùng phùng. Tu Thiên không cân dôc lòng. rất nhiêu người vì một mòi tình duyên, cam tâm quay ngược lại con đườno luân hôi. cho dù phải trải qua đợi chờ hàng ngàn năm. đòi lại chi là một cái quay đâu naăn ngủi, đều khỏng oán không hận. Nhưng có lè chính trong khoảnh khăc quay đâu đó, trong thời gian năm tháno. Bỗng nhiên đốn ngộ. Bất cứ chấp ngã nào đều là phiền não. duy chi có từ bò. mới có thê tự tại.

Duyên phận giữa người và người, tuy có thuyêt định mệnh, nhưng trong cuộc đời. có rảt nhiêu sự an bài hoàn toàn là nooài ỷ muôn, chúng ta không cân vì một vài điêu ngoài ý muôn mà cô giữ gió trăng. Tu Thiên cũng vậy, không cân dôc lòngr mà côt quỷ ờ tự nhiên. Vạn vật đêu có Phật tính, tức là giữa một naày rất đồi bình thường, bạn làm thế nào để tìm được một phong cảnh thuộc vè bản thân minh.

Những quá khứ đã trôi đi thật xa đó không phải là đê quay đâu luyên tiêc. cũng không phải là đẽ quên làng, chi coi nó là sự tôn tại đơn aiản. coi nó là dòno suôi cân phải băno qua khi muôn lẻn bờ. Không đê tâm ai đà từng tới. ai đã từng đi, lướt qua nhau tuy chi khoảnh khẳc, dừng lại cũng chẳng thể một đời. Thê sự mênh mang. siâc mộng năm xưa đà sớm hóa thành vô số hoa rơi. Chúna ta không cần thiết đi nhặt lại ngày hôm qua đã mất.

Thuyền buông sông hồ, gặp sóno cả hồna trần, không cẩn sợ hãiệ Chi cân không bị tình cảm và danh lợi trói buộc, bât cứ lúc nào cũng có thể rẽ nước mà xuôi, cười gió mà chạy. Hông trần như chuyên đi naược chiêu, chúno ta đều là người đi đường, là khách vãng lai. Từ điểm xuất phát của sinh mệnh, dọc đường; lặn lội. nêm hêt phong trần, trong hành lý mang trên vai đêu là quá khứ nhiều năm. Mà đường vê, cuôi cùng năm ờ đâu? Người trong thế tục cho răna bỏ hành lý trên vai xuôna là tỉm được vê cô hương của đời mình. Nhưng người tu hành, chi cân tâm như tịnh thủy, là có thê ngộ đạo.

Chúng sinh quay vê. cho dù gặp phải kiếp sô ra sao. bât cứ cuộc du hành nhân gian nào đều sè đột naột dừng lại. Ngày ây. thê sự như nước lặn đá nhô. sóng xô phăng lặng. Người đời đi khăp vạn nước ngàn non. những gió sớm ngày tan. hoa thăm liều xanh đó. trờ thành phong cảnh dù có quay người cũnơ khó quên. Mà Phật Đà chi cân ngòi thiên dưới gôc bô đê. không dựa vào naoại vật, là có thê nhận biết tự nhiên, thu được chứng ngộ.

“Kinh Kim Cương” viết: “Nhất thiết hừu vi pháp, như mộng huyền bào ảnh. như lộ diệc như điện, ứng tác như thị quan” (Tạm dịch: Tất cả pháp hừu vi. Như mộng; huyễn, bọt, bóng. Như sương, như điện chóp. Nên quán tường như thê).

Đời người như giấc mộng, hêt thảy phàm trần đều là hư ảnh. Dùng tâm bồ đề dung nạp mọi noi khổ của chúng sinh, vạn vật đêu thuân túy hóa thiện.

Thiền là mộc mạc. không cần trang sức mỹ lệ sinh động. Thiên cũng là tâm thường? không phải thân thoại xa xôi. huyên ảo. Thiên trong cuộc sông bỉnh thường của chúng ta. trong mỗi cửa ngõ mà đời người đi đến. trong mỗi khoảnh khăc của một cái lướt qua. Chi cân dùng nội tâm sáng suốt bình hòa. bât kỳ gió mây cuôn sạch, sao tàn mộng khuyêt. cũng có thê hoa thăm trăng tròn. Châm một chén trà ngôi tĩnh lặnơ. thê sự non sông đều rơi trọn trong chén, khói lửa loạn thẻ đêu trờ thành thanh tịnh, tựa trăng sáng văng vặc. Đây chính là cảnh giới của Thiên, là sen nờ đẹp nhât ờ bờ bên kia.

Trên thê gian này không có kinh văn nào là không giải được, mỗi một sinh mệnh nhò bé như bụi trần đểu có Phật tính khồng thẻ nói rõ. Độ. vạn vật thê gian đêu là thuyền qua sông. Một chiếc lá xanh, một làn gió mát. một đóa hoa sen. một con kiên nhò cũng có thê tu luyện thành Phật. Chỉ là lúc đó. nêu tiên duyên chưa dứt. liệu có nên tiếp tục chờ đợi hay không?

Có câu nói như thê này: “Kiẻp sau. cho dù là yêu hay không yêu. đêu sè không gặp lại”. Có những người thừa nhặn câu nói này. cho nên học cách quý trọng nhân duyên. Cũng có người cho răna tỉnh yêu có sự qua lạij cho nẻn trên con đường tỉnh cảm tiếp tục đi thật xa. Tình duyẻn trẻn thê gian trôi nổi bât định, đã từng tươno phùng sâu sắc. đên phút cuôi cùng chăng qua lại chi là một khách bộ hành đi lướt qua nhau.

“Tâm kinh” viết: “Chư pháp không tướng. Bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăno bất giảm” (Tạm dịch: Các pháp không tướng. không sinh không diệt, không bán không sạch, không tăng không siàm). Tâm không uê chướng, tinh khiêt thuân nhât. Trên con đường tu Phật, không cân năm tay bên nhau, bât cứ khi nào đêu có thê cùng làm bạn trăng thanh gió mát. Những con người đã từng đi lướt qua nhau trên con đường hông trần đó. có một ngày cuỏi cùno đã gặp nhau, khi ây. chi cán dùng một trái tim lương thiện bỉnh thường đôi đầi nhau là được rồi.

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro