NAMHUNGWWW HKKS

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Sau bao năm ấp ủ nhưng lần lựa mãi hôm nay tôi mới bắt đầu viếtù hồi ký (7/11/2002)

Tôi sinh ra (1994) và lớn lên trong một gia đình trung lưu ở thành phố có giòng sông Hàn thơ mộng và thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, đó là 2 biểu tượng của quê hương tôi.

Tôi họ Phan, quê nội tôi ở làng Bảo An – Gò Nổi (Điện Quang – Điện Bàn – Quảng Nam). Nơi đây khi xưa nổi tiếng về quay tơ và dệt lụa và cũng nổi tiếng là vùng địa linh nhân kiệt.

Quê ngoại tôi ở làng Nai Hậu .

Ba tôi làm thư ký cho Ngân hàng Công thương, Mẹ tôi bán tạp hóa ở nhà và nội trợ.

Gia đình tôi không mấy êm ấm, bởi thành kiến và mâu thuẫn giữa gia đình bên chồng và mẹ tôi từ thuở chị em tôi chưa sinh ra đời.

Theo lời mẹ tôi kể lại: Ông nội tôi hồi còn làm xây dựng trên Bà Nà, ông ngoại tôi cũng làm kiểm lâm trên ấy. Tình bạn thân thiết nảy ra giữa 2 người xa nhà, rồi hứa hẹn làm thông gia, cho nên ba mẹ tôi theo lời ông bà “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” mới thành vợ chồng, chứ thật ra 2 người đã có người yêu.

Bà nội quá phong kiến và khắc nghiệt, mẹ tôi bản lĩnh cứng rắn và ngang ngạnh. Bà nội và chú Phu đã dùng bạo lực để ức hiếp, nhưng mẹ tôi đều chống lại. Bên đàn áp không được càng cố đàn áp dưới mọi hình thức. Có lần mẹ tôi kể thừa lúc mẹ đang lui hui lấy chén bát trong tủ thờ để chuẩn bị cho đám giỗ ngày mai thình lình bà nội lấy cây đập mẹ tôi túi bụi, rồi túm  lấy tóc mẹ lay. Một lần đang lúc mang thai bà chị đầu (Chị Bân), mẹ đã bị chú Phụ đánh té xuống ao ngất xỉu, hàng xóm chạy ra cấp cứu đem vào xoa dầu hơ lửa, mẹ mới tỉnh lại. Ba tôi vì quá hiền và nhu nhược, xem chữ hiếu rất trọng, nên chẳng hề an ủi chút nào. Từ đấy mẹ tôi âm mối hận trong lòng: cô đơn và tủi nhục.

Gia đình gồm 9 chị em: 3 trai – 6 gái, chị hai tôi là chị Bân, tôi thứ 3. Sau đó mẹ tôi sinh loạt 4 đứa con trai, nhưng đều chết từ trong bụng, hoặc sinh ra được mấy tháng thì chết. Nghe theo thầy bói, mẹ tôi xin một bé trai mấy tháng về nuôi, nhưng cuối cùng thằng bé cũng ra đi. Ba mẹ tôi rất buồn rầu.

9 năm sau, mẹ tôi sinh tiếp tục cứ 2 năm 2 đứa, sinh liền 3 đứa con gái: Xê – Xang – Xự.

Ba mẹ tôi khao khát con trai biết chừng nào. Đã đi khắp chùa để cầu khẩn, cuối cùng mẹ tôi cũng sinh được 3 đứa con trai: Tuấn, Dũng và Hùng, một cô gái út là Tuyết Nga.

Nói về tính cách, ba mẹ tôi rất khác nhau:

Ba tôi sống có kỹ cương: tiết kiệm, còn mẹ tôi lại tỏ ra hào phóng, cho nên tính tình mỗi đứa con: đứa giống cha, đứa giống mẹ, tôi lại hòa hợp cả hai.

Thời trung niên, ba mẹ tôi cũng vất vả bởi chiến tranh (thời kỳ chống pháp loạn đến đâu mẹ tôi cũng mở ra buôn. Nhưng kiếm tiền trong thời loạn không ăn uống rất kham khổ. Mẹ tôi kể 1 cá chuồn kho kèm cả một nồi mít ăn mít, cá chuồn vẫn còn để tiếp tục kho. Tôi thì ăn rồi cứ khóc nhà cho nên hoài, bà cho ở trọ thấy thương bồng về ngồi trong nia lấy khoai sắn cho ăn hàng ngày (hèn gì bây giờ tôi rất khoái khoai).

Ba mẹ tôi hồi cư về Đà Nẵng năm 19... sau này ba mẹ tôi có tìm về thăm chốn cũ nhưng ông bà cho ở trọ đã qua đời thật tội nghiệp. Những địa danh: Quán – Rường – Đờn – Cây – Trâm mãi ăn sâu vào tâm khảm cho đến bây giờ.

Sau khi hồi cư về, ba tôi xin được việc làm ở Công thương Ngân hàng, gặp một đồng nghiệp tốt bụng, khá giả, đã cho gia đình tôi tá túc một thời gian. Lúc ấy ba mẹ tôi mới có chị tôi.

Tôi còn nhớ cứ ra mẹ tôi bán bún bò ngồi bán bên hông nhà gia đình ông chủ nhà có 2 người con : 1 trai và 1 người con gái trắng trẻo xinh đẹp giống mẹ. Tôi cứ nhớ mãi con búp bê của chị đã làm cho chị tôi và tôi phải thèm thuồng, chỉ chờ chị ấy đi vắng là 2 đứa lại rón rén lên nhà trên để bắt ghế thay phiên nhau trèo lên nhìn vào con búp bê trong phòng mãi không chán có lần tôi vì mãi ham xem hơi lâu đã bị chị Bân níu áo kéo xuống suýt ngã, rồi sinh ra ra cãi cọ và cuối cùng thì đã bị chị ấy bắt gặp, hai đứa hết hồn nhưng may thay chị chẳng nói gì chỉ vào phòng, đóng của lại, chị thật tốt bụng.

Sau một thời gian dành dụm, ba mẹ tôi đã có đủ tiền mua một miếng đất và cất nhà. Từ đấy gia đình tôi định cư tại 93 Triệu Nữ Vương – Đà Nẵng.

Trong ký ức về tuổi thơ, tôi còn có hình ảnh bà ngoại với dáng người nhỏ nhắn, gương mặt hiền hòa. Cứ mỗi chiều thứ bảy tôi nghỉ học, bà ngoại dẫn tôi về nhà tại Nại Hiên ở lại, chiều chủ nhật lại trả tôi về.

Tôi còn nhớ, mái nhà tranh với liếp cửa lá, mỗi sáng chống lên, tối đi ngủ lại sập xuống, chung quanh nhà trồng rau và ngãi cứu. Sau khi ăn cơm chiều xong hai bà cháu dắt nhau đi quanh xóm, ghé lại quán bà uống một ly rượu thuốc và mua bánh kẹo cho tôi, ban đêm bà giăng mùng và vỗ về tôi ngủ. Thương cảnh bà ngoại đơn chiếc, tôi cứ muốn ở luôn với bà, đâu biết vì nghèo bà phải gởi dì Minh và cậu Huệ cho ba mẹ tôi nuôi.

Cuộc đời bà ngoại tôi cũng lắm gian truân, ông ngoại có vợ bé, khổ và hận đã làm cho bà tôi ngày một quéo quắt lại.

Ngày bà Ngoại mất, tôi đã tới tuổi hiểu biết, nên vô cùng thương tiếc. Đó là các cái tang đầu đời của tôi.

Năm 18 tuổi tôi tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp (bây giờ gọi là trung học cơ sở ) tôi đi dạy kèm rồi thi đậu vào làm thư ký cho dơn vị không quân Đà Nẵng.

Trong thời gian này, tình cờ tôi quen được với Bình, đang là sinh viên Đại học khi học Sài Gòn tại nhà cô Dư (em ba tôi). Tiếng sét ái tình đã nổ ra làm tôi choáng ngợp và hoang mang.

Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

Ngàn năm nào dễ mấy ai quên

Bình, người con trai của đất Bồng Sơn thuộc tỉnh Bình Định, có đôi mắt sâu lắng khuôn mặt hơi gầy và dáng vấp thư sinh.

Sau vài lần gặp gỡ, chuyện trò vu vơ, Bình vào Sài Gòn tiếp tục học năm 3. Chúng tôi liên hệ với nhau qua những bức thư tình màu xanh đầy vẻ lãng mạn và dễ thương, cứ mỗi lần gửi thư đi, tôi lại mong chờ hồi âm trong tâm trạng khắc khoải và mỗi lần nhận được thư tôi sung sướng đến ngộp thở để tránh ánh mắt của mẹ, tôi đã vào phòng vệ sinh để đọc. Nét chữ bay bướm lung linh của Bình đã mở ra trong tâm hồn tôi cánh cửa mộng mơ.

Năm 1965 do nhu cầu của đơn vị không quân Nha Trang, tôi được điều vào đó làm việc.

Một ngày, Bình về thăm tôi tại Nha Trang. Đêm đó Bình đưa tôi xuống biển ngồi chơi, trong lúc chuyện trò bất chợt Bình ôm tôi hôn thắm thiết. Đó là lần đầu tiên tôi được hưởng hương vị ngọt ngào của tình yêu. Biển đêm ấy đẹp quá; gió mơn man, trời đầy sao lấp lánh và sóng thì vỗ về như đưa tôi vào cõi không thật. Sau một hồi đắn đo, Bình cho tôi biết anh đã tham gia phong trào đấu tranh chống chế độ đang mạnh mẽ trong sinh viên. Lúc bấy giờ với trí óc ngây thơ, tôi chưa có ý niệm gì về những người tham gia chống Mỹ cả lúc ngồi trên ghế nhà trường, học những bài lịch sử về những vị anh hùng yêu nước, dám đứng lên làm cuộc cách mạng chống ngoại xâm qua từng giai đoạn, tôi đã vô cùng ngưỡng mộ. Thế mà hiện nay tôi bỗng sợ hãi cái từ “Việt Cộng” nghe xa lạ và kinh dị.

Sau đó, Bình vào lại Sài Gòn, chúng tôi vẫn giữ liên lạc với nhau, nhưng Bình lại thay đổi địa chỉ liên tục. Đầu tiên ở ký túc xá Minh Mạng, rồi đường Vĩnh Viễn Chợ Lớn, Khánh Hội v.v... vài tháng sau đó tôi nhận được thư anh bảo vào dạy trường Trung học Xuân Lực - Long Khánh.

Bẳng đi một thời gian, không nhận được thư anh, linh tính mách bảo có điều gì đó không ổn. Thật thế, sau thời gian mất liên lạc, anh đã gửi lại cho tôi với lời lẽ của một người say mê lý tưởng. Anh viết “Với những người sinh viên như anh, bây giờ muốn vá núi lấp sông, lấy mây che trời và lấy lòng người để cảm hóa lòng người. Em ơi! Một ngày anh không dấn thân trên bước đường đã định, ngày ấy anh cảm thấy vô nghĩa và có tội với đất nước dân tộc. Trước mặt anh là hình ảnh người con gái ngây ngây mà anh hằng yêu dấu. Anh chợt nghĩ nếu những thành công sau này mà không có em trong cuộc sống, đời anh cũng chỉ là con số không”. Anh đã tặng bài thơ, tôi chỉ nhớ được mấy câu.

Áo trắng học trò đành xếp lại

Chinh y một tấm khoác lên mình

Ngày nào sông núi thôi chinh chiến

Ngày ấy anh về say ái ân.

Đó là lời tạ từ tôi nhận được của anh sau cùng, và cũng là lần đầu tiên con tim tôi bị một vết thương rướm máu. Ray rứt, đau khổ và cộng thêm nỗi nhớ nhà, người tôi suy sụp hẳn.

Từ đó, mỗi chiều tan sở, tôi lại thích đi lang thang dọc bờ biển để tìm dư âm ngày cũ. Gió vẫn mơn man, sóng vẫn thì thầm và trời vẫn đầy sao lấp lánh, nhưng tâm hồn tôi thì nát tan từng mảnh. Ôi tình ơi!

Từ một vùng nào ta đã qua

Chợt nghe từ một vùng biển động

Ngoảnh mặt nhìn đã thấy tình xa

Trong lúc quá cô đơn và tuyệt vọng, tôi thấy mình bị xúc phạm bởi mặc cảm bị bỏ rơi. Mỗi lần như vậy, tôi đầu ngước mắt nhìn bầu trời xanh để tìm hy vọng và như tuyệt vọng.

Thời gian cứ lặng lẽ trôi, vết thương tôi chưa lành hẳn nhưng cũng đỡ nhức nhối phần nào cho đến một chiều kia khi tan sở thật bất ngờ khi thấy anh đã ngồi sẵn đó tự bao giờ, như là một giấc mơ. Vẫn ánh mắt sâu thẳm và đắm đuối nhìn tôi như tạ lỗi. Sau giây phút kinh hoàng, bản tính cao ngạo trong tôi bừng dậy, tôi bỗng nhiên thấy lạnh giá tâm hồn và bình thản một cách lạ lùng. Thái độ đó cho mãi đến sau này mỗi khi nghĩ lại tôi đều hối tiếc và ân hận. Giá như ngày ấy tôi cứ để cho tình cảm dẫn dắt ngã vào vòng tay anh, cho bỏ đi những ngày thương nhớ thì hay biết mấy. Thôi cũng đành.

Thấy tôi như vậy, anh cũng chẳng nói được gì nhiều ngoài những câu hỏi thăm về sức khỏe và cuộc sống, rồi anh từ giã ra đi. Nhìn dáng anh thất thiểu, tôi những muốn chạy ra giữ chân anh lại, nhưng đôi chân lại như chôn tại chỗ. Sau đó tôi phải vịn vào ghế cho khỏi khụy xuống. Thế là anh đã xa tôi thật rồi.

Tôi ray rứt dằn vặt tự trách mình đã xem cái tôi quá lớn để vuột mất tình yêu.

Mấy tháng sau, nhận được thư anh, tôi vô cùng mừng rỡ, nhưng khi đọc xong tôi không khỏi thất vọng. Trong thư anh viết đầy trách móc và đau khổ. Anh làm tặng mấy bài thơ tôi không nhớ nhưng đại khái anh bảo: “Tôi là người đi trong đêm tối, giữa cuộc đời trên những bước phiêu linh. Tôi không van xin tình yêu nhưng mong em đừng nhìn tôi bằng ánh mắt lạnh giá. Tôi sợ lắm. Hiện giờ tôi như một chiếc xe đang trượt dốc thắng đứt rồi nay biết tựa vào đâu. Từng đêm sầu, từng đêm sầu”.

Cùng sự đổ vỡ của tình yêu, con tim anh cùng lúc có thể nhận thêm một sự đổ vỡ khác về mặt lý tưởng xã hội chủ nghĩa? Đáng ra lúc này là lúc tôi cần phải ở bên anh, để an ủi, vỗ về, nhưng tôi lại không thể vì anh không để lại địa chỉ. Thế là hết hy vọng. Tôi thật sự thảng thốt quay quắt. Vết thương những tưởng đã lành bây giờ lại rớm máu. Tôi không mong gì còn cơ hội bày tỏ nỗi lòng mình “Tình trong giây phút mà thành thiên thu”.

Mỗi chiều tan sở, tôi lại lang thang ra biển. Ngồi trên bãi cát, tôi tâm sự cùng biển, cùng gió. Sóng thì cứ dạt vào, lòng tôi cũng cuộn lên dào dạt bởi niềm đau và nỗi nhớ. Ơi! Tình ơi! (năm 1966) vào một ............, tôi đang lang thang bỗng giật mình bởi một ô tô đổ bên cạnh. Bước xuống xe là một trung úy phi công cao ráo, đẹp trai cúi đầu chào lịch sự: “Cô về đâu, tôi xin đưa cô về?” tôi như bị thôi miên bởi vẽ ngoài đầy vẽ lãng tử của anh. Tôi lên xe nhờ anh chở tôi về nhà bà con ở đường Hòa Thạnh.

Từ đó, mỗi chiều tan sở, anh lại đón tôi về. Một tình cảm mới mẻ đã hình thành trong tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn mơ hồ không hiểu tình tôi với Cẩn (tên anh) là tình yêu thật sự hay chỉ là nỗi đam mê nhất thời.

Đến một hôm, anh mời tôi đi ăn, rồi chúng tôi đưa nhau đi uống cà phê ở một quán ven biển (ở Nha Trang đường nào cũng dẫn xuống biển, vì biển chạy dọc theo thành phố). Trong ánh đèn mờ ảo, anh nắm tay tôi và tỏ tình. Tôi lại bị cuốn hút vào vòng xoáy tình yêu.

Từ đó, ngoài những hẹn hò sau khi tan sở, chúng tôi lại đưa nhau đi chơi vào những dịp cuối tuần, nào: Cầu đá, Tháp Bà, Hòn Chồng v.v.... Anh thường bảo: “Nhất nhật bất kiến là tam thu sầu”. Tôi như bị lạc vào mê hồn trận của tình yêu: đắm đuối, hoang mang.

Tôi không còn nhớ ngày tháng gì cả. Ngày nào gặp anh cũng là ngày hội.

Tình cờ một hôm, từ từ phát hiện trong ví của anh tấm hình một người con gái. Anh bảo đó là người tình cũ khi còn du học bên Mỹ. Bây giờ đã là quá khứ. Trong lời nói của anh có linh tính có gì đó không thật. Nhưng lúc bấy giờ tôi như con thuyền chẳng biết đâu là bờ bến để dừng, tôi đành mặc cho gió cứ đẩy đi đâu về đâu? Cứ tận hưởng những giây phút êm đềm bên nhau, được ngày nào hay ngày ấy chứ thật lòng tôi không có can đảm để dứt bỏ.

Một ngày, Hạnh - cô bạn cùng sở đến chơi báo tin anh đã đính hôn và tháng tới sẽ kết hôn. Điều này tôi đã chuẩn bị tinh thần từ trước, nhưng khi nghe xong tôi thấy người như nhũn ra.

Cuộc tình thứ 2 kết thúc sau hơn 1 năm.

Ngày anh về Sài Gòn làm đám cưới. Tôi như người mất hồn. Trong cơn phẫn hận tôi đã lấy ảnh của anh, cùng những di vật anh tặng đem đốt để chôn vùi kỷ niệm. Nhưng đống tro tàn vẫn còn ngùn ngụt, có thể làm cháy bỏng trái tim ta.

Thấy tôi suy sụp tinh thần, Hạnh đề nghị tôi cùng với cô lên thăm bà ở Đà Lạt để thay đổi không khí. Tôi đồng ý ngay.

Đà Lạt, một thành phố phủ đầy sương quanh năm. Chúng tôi lên đây vào những ngày cuối năm nên không khí càng thêm ảm đạm. Trời như thấp xuống, mây xám từng cuộn dật dờ bay lãng đảng, núi đồi chập chùng trong sương khói với những sắs màu rực rỡ của đủ loại hoa ẩn hiện.

Một ngày Hạnh bệnh, tôi lang thang khắp nơi bên hồ Xuân Hương êm đềm với sương khói mù khơi. Tôi ngồi xuống ghế đá lạnh giá với nỗi cô đơn trống vắng.

Chiều cao nguyên âm u

Đồi thông reo vi vu

Ngồi đây mà thương nhớ

Biết đến thuở nào nguôi

Ôi! Đà Lạt sương mù

Mây giăng mờ khắp lối

Một chiếc lá vàng trôi

Hồn khách luống bồi hồi

Sao cho về dĩ vãng

Hỡi cố nhân xa xôi.

Trời đã bắt đầu mưa lất phất. Mưa và lạnh ngoài trời thẩm thấu vào hồn làm tim tôi thêm buốt giá “Từng người tình bỏ tôi đi như những dòng sông nhỏ. Ôi! Những dòng sông nhỏ, cuộc hẹn hò là những cơn mê “(nhạc TCS).

Tôi lê gót vào một quán cà phê để sưởi ấm. Nhìn những giọt cà phê rơi lách tách như những giọt sầu rớt xuống cuộc đời mình, tôi lại nhớ về những chuỗi ngày đã qua. Ôi! Biết bao kỷ niệm với những hẹn hò không mệt mỏi. Thế mà bây giờ tôi ngồi đây với thân xác rã rời . Với trái tim nhiều vết chai. Ôi tình ơi.

Ngoài kia phố đã lên đèn, mưa càng nặng hạt, tôi âm thầm đi trong mưa lạnh. Ánh đèn vàng mờ ảo, quạnh hiu, hắt xuống làn mưa trắng xóa khắp lối mịt mùng, hồn tôi lãng đãng không biết nẻo về.

Cuối cùng tôi cũng tìm được lối về. Hạnh nhìn tôi ái ngại, rồi bỗng ôm tôi “Tao thương mày quá”.

Trở lại nhiệm sở, tôi thờ thẩn không  muốn làm việc. Người sếp trực tiếp của tôi là trung úy Thạch, một người trẻ tuổi hiền hậu. Hình như biết rõ chuyện, ông ấy nhìn tôi thông cảm bảo “nếu cô mệt cứ nghỉ vài hôm cho khỏe”. Tôi cảm ơn và từ chối. Tôi thà ngồi đây nhìn kẻ ra vào còn hơn nằm nghe sầu hận gặm nhấm tâm hồn.

Ngày lại ngày qua đi. Một lần ghé vào một tiệm vẽ bởi đây toàn những người đồng hương Quảng Nam – Đà Nẵng. Họ vui vẻ nhiệt tình khi biết tôi có ý định học vẽ, tôi học và lúc ấy cũng chỉ là giải pháp tình thế để quên đi quá khứ đau buồn.

Thế là sau giờ tan sở, tôi đến đây miệt mài học vẽ chân dung. Tình cảm của các anh ấy đối với tôi hết sức chân tình đã làm dịu phần nào buồn khổ trong tôi.

Thời gia sau đó trong lúc ngồi vẽ, bất chợt tôi bắt gặp nhiều lần ánh mắt của anh Thanh (chủ tiệm vẽ) nhìn tôi không bình thường.

Những người đến xem tranh, có người bảo những thiếu nữ trong tranh có nét hao hao giống tôi. Kết hợp những điều đó kèm theo linh tính mách bảo tôi cảm thấy sợ hãi con tim tôi đã hai lần rướm máu, vết thương chưa lành hẳn. Tôi như con chim bị thương đang tìm nơi trú ẩn, chốn này chưa thật bình yên. Tôi đang trốn chạy.

Tôi gặp lại chị Diệp (bạn học cũ của bà dì họ) vào đây làm việc. Hai chị em có dịp lui tới và đi chơi với nhau, an ủi nhau trong những lúc nhớ nhà.

Trong những đêm ngồi dưới biển với chị Diệp, nghe tiếng sóng rì rầm và gió mơn man trên tóc, tôi lại nhớ về những kỷ niệm xưa trong nỗi buồn man mác chứ không còn đau khổ dữ dội như thuở nào. Tôi rất mừng khi thấy mình đã tạm thời tìm thấy sự bình an.

Một chiều đi làm về nhận được tin em Lùng mất, tôi như nhũn hẳn người, nhớ đến khuôn mặt bầu bỉnh của cậu em 4 tuổi, lòng tôi bồi hồi đau đớn.

Sáng hôm sau, tôi xin phép về bằng chuyến bay sớm nhất. Vừa bước vào cửa, tôi đã thấy những chiếc khăn tang phủ trên đầu những người thân. Ba mẹ và của em trên bàn thờ, tôi không khỏi xót xa vì đã không gặp được mặt em lần cuối. Dũng ơi! Chị xin tạ tội cùng em.

Sau bao năm sống xa gia đình, sau những vết thương lòng chưa xóa hết, chưa bao giờ tôi thấy cần gia đình bằng lúc này. Ôi! Những vòng tay của mẹ và các em, ánh mắt trìu mến của ba, tôi mới hiểu rằng “chỉ có gia đình mới là mái ấm thật sự” .

Nghe lời ba mẹ, hết hạn nghỉ phép trở về nhiệm sở, tôi làm đơn xin chuyển về ĐN làm việc: Xét hoàn cảnh, thân gái xa nhà cấp trên đã chuẩn y.

Trước khi trở về quê hương, đêm nào tôi cũng xuống biển. Biển Nha Trang đã ghi không biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn của đời tôi mà nó còn có sức cuốn hút làm đam mê lòng người. Thời gian ở đây, ngày nào hầu như tôi cũng ghé thăm biển. Trước giờ chia tay nhìn cái gì chung quanh biển, tôi cũng thấy thân thương lạ. Từ những hàng dừa rũ bóng đến những quán cà phê. Tiếng rì rào của dương liễu, những đợt sóng ì ầm vỗ bờ cùng tiếng gió vi vu và những bước chân tôi trên cát trắng thấm vào đến tận đáy lòng, làm tôi thấy bồi hồi không nỡ về.

“Ngày mai em đi biển nhớ tên em gọi về, gọi hồn liễu rũ lê thê, gọi bờ cát trắng đêm khuya, ngày mai em đi đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ, sỏi đá trông em từng giờ, nghe ngoài biển động buồn hơn”, tôi lặng lẽ hát bài Biển nhớ của Trịnh Công Sơn như một lời tạ từ cùng biển.

Tôi trở về quê hương năm 1967. Sau hơn 2 năm tha hương. Tuổi 23 với hai mối tình dang dở, tôi không còn vui tươi nhí nhảnh như những cô gái xuân thì, nhiều khi ngắm mình trong gương tôi thấy đó là một thiếu nữ với đôi mắt sáng, nhưng man mác buồn với ánh mắt nhìn dè dặt và nụ cười không rạng rỡ.

Ông sếp trực tiếp đơn vị mới của tôi là một Đại Úy người Huế, cao ráo, đẹp trai tuy đã có gia đình nhưng cũng rất ga lăng với phái đẹp.

Sau khi trình diện, ông phân công tôi làm kế toán tiếp liệu. Ông cũng tỏ ưu ái khi cho tôi được nghỉ 1 tuần lễ để chuẩn bị tinh thần nhận nhiệm vụ mới, chính điểm này đã làm tôi phải dè chừng.

Suốt thời gian làm việc ở đây cũng chẳng có gì quan trọng với cuộc đời tôi ngoài sự tán tỉnh của ông sếp và sự đeo đuổi của vài người mà tôi hầu như lạnh giá.

Năm 1968 năm chiến tranh xảy ra ác liệt, cho đến thời điểm này tôi mới nghe và mục kích chiến tranh. Năm ấy là năm Mậu thân, từng dòng ngươì từ Quảng Trị – Huế đổ xô về ĐN tỵ nạn (ở nơi này đã xảy ra chiến tranh) trước khi quân cách mạng đánh vào thành phố ĐN. Ba tôi thuê người xây hầm trú ẩn. Đêm đêm nghe tiếng còi hụ pháo kích, cả nhà đều tuôn chạy xuống hầm trú. Sáng ra đã nghe tin chỗ này người chết, chỗ kia bị thương, không khí thật ngột ngạt và xáo trộn. Việt Nam với 2 miền chia cắt, bên nào cũng hô hào có lý tưởng, nhưng tôi thì chưa biết cái lý tưởng thật sự nằm ở đâu? Mà chỉ thấy dân mình đau khổ bởi chết chóc và hận thù. Vào lúc này đây, tôi chưa ý thức lắm về điểm này, nhưng một khi nghe những bài ca phản chiến của TCS: “Hãy sống dùm tôi, hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôi, thịt da này dành cho lửa đạn, cho hận thù cho tham vọng của một lũ điên. Ai có nghe tiếng nói của người Việt Nam, chờ mong hòa bình trong đêm tăm tối, chờ mong một ngày tay nắm trong tay “ hay bài Đại bác ru đêm, hát trên những xác người” tôi thật sự phẫn nộ và căm ghét chiến tranh.

Năm này tôi được ông chú (em cô cậu với ba tôi) đưa vào làm kế toán cho ty ngân khố ĐN, tôi lại bước sang ngã rẽ cuộc đời. Làm việc ở đây tôi thấy an tâm hơn khi làm việc trong môi trường quân đội.

Cuộc đời công chức thật an nhàn. Chiều chiều khi tan sở, tôi lại hay bách bộ dọc sông Hàn, giòng sông thật êm ả, lắng dịu như chính hồn tôi bây giờ.

Một thời gian sau đó, tôi bỗng dưng nhớ về Bình. Tôi đã nhờ những người trước kia anh từng ở trọ nhà tìm, nhưng anh như bóng chim tăm cá, thôi cũng đành.

Không hiểu sao bây giờ tôi lại cảm thấy mê nhạc và thơ lạ lùng. Đêm đêm đều nhờ vào những bản tình ca ru ngủ, thời gian rảnh lại đọc sách.

Cùng sở thích với tôi có Nở (bạn Xê) hơn tôi 9 tuổi, nhưng hai chị em lại rất hợp sở thích với nhau. Nở đang học đệ nhất trường nữ Hồng Đức tôi lại có thêm một người bạn thích đi lang lang yêu thơ, nhạc, văn chương. Vài năm sau đó, Nở thi đậu Đại học sư phạm Huế. Hai chị em phải chia tay.

Sau này, tôi có quen với một vài người bạn đồng sở thích, nhưng lang thang mãi với những cuộc rong chơi và quán cà phê, tôi lại nhàm chán. Có một vài chàng trai đeo đuổi nhờ mai mối. Thấy mình không có tình cảm, tôi lại thôi.

Năm 1970 gia đình chị Bân ở Ban Mê Thuột làm ăn thất bại đã đem 4 đứa con về nương náu với gia đình tôi. Nhà trở nên ồn ào và chật chội. Nhưng có mấy đứa nhỏ cũng vui lắm.

Càng ngày, mẹ tôi càng đổi tính. Sau một quá trình bị bạc đãi, dồn nén, hôm nay lấy lại quyền uy mẹ lại đi quá đà. Những chuyện bé xé ra to để có dịp là bà Nội (nay đã 75 tuổi) và ba lúc nào cũng nhu nhược, còn Bà Nội già cả nên ai cũm im re không có ý kiến. Âu cũng là cái nghiệp phải trả.

Mẹ càng lúc càng dấn thân vào thói hư tật xấu mê số đề, cùng chị Bên và mấy bà hàng xóm ngày nào cũng tụ tập đánh bài tứ sắc.

Ba vẫn làm ở ngân hàng không được ai nhắc bảo. Các em lần lượt bỏ học, ham chơi, anh Khởi (chồng chị Bân) thì nghỉ toàn những chuyện xa vời, phi thực tế.

Mỗi lần về nhà, tôi lại thấy không khí ngột ngạt khó thở. Nói ra thì sợ hiểu lầm, thấy gia đình chị sa cơ thất thế về nương nhờ nên khó khăn. Nhìn cảnh gia đình rối rắm, tôi không biết làm sao để vãn hồi trật tự. Đúng là “Lực bất tòng tâm” .

Một hôm, Nga (bạn cùng cơ quan) về thu mấy băng (cassette mới ra của Elvis Phương) nhà này có anh Thại cậu của Nga cùng chị Nguyệt vợ anh Hối cùng làm chung sở với tôi. Khi về tôi gặp Đại úy dáng người bệ vệ, đó là cậu út của Nga. Hôm sau Nga bảo cậu Mên (tức cậu Út) chưa có gia đình muốn làm quen với chị. Trong dịp nghỉ cuối tuần, nga và chị Nguyệt cùng rủ tôi đi chơi trên chiếc xe Jeep của cậu Mân. Đó là một thanh niên đã đứng tuổi (30 tuổi nét mặt hiền hậu. Từ đó chúng tôi thường hay gặp nhau vào dịp cuối tuần. Quen với người này tôi có cảm giác được an toàn, được che chở (năm đó tôi đã 26 tuổi).

Gia đình của anh là một gia đình dòng dõi có danh thế ở Hội An. Ba anh là một nhà nho đã từng làm quan với phẩm hàm : Hộ Lộ Tự Khanh dưới triều Khải Định. Mẹ anh là con của một tri phủ. Ba anh có 3 vợ. Mẹ lớn sinh đến người thứ 8 thì mất, mẹ hai (tức mẹ của anh Mân) sinh từ chị 9 đến anh Mân thứ 19 là út, kể luôn chị thứ 6 con của bà Hầu (Ba anh mất năm 196...)

Anh Hối (Anh của anh Mân) là giám đốc Cty xuất nhập khẩu có giao dịch với ngân hàng nơi ba tôi làm việc nên hai người quen nhau. Anh có mấy anh chị (vì mẹ ) đã già có điện thăm nhà tôi và ngỏ lời để chúng tôi được lui tới tìm hiểu nhau. Ba mẹ tôi rất bằng lòng đám này. Thời gian này vì quá túng thiếu, anh Khởi và chị Bân do ai chỉ dẫn đã buôn ma túy (lúc đó tôi thật ơ thờ và không ý thức được sự tác hại của chất độc này) sau thời gian làm ăn khấm khá anh chị đã mua nhà và dọn ra ở riêng. Gia đình tôi đã bớt ngột ngạt vì cảnh bài bạc và ồn ào. Tôi cũng được thư giãn.

Nhưng tai ương lại ập đến với gia đình khi chị Bân và anh Khởi bị bắt về tội buôn ma túy. Tôi phụ trách về phần chi ngân khố nên quen biết rất nhiều. Tôi đã nhờ ông biện lý và dự thẩm xin cho chị Bân được tại ngoại hầu tra, không bị giam vì con út mới 5 tháng. Anh Khởi thì bị 6 tháng tù giam. Sau đó anh chị dọn về Sài Gòn sống.

Xê em gái thua tôi 9 tuổi đã có người yêu là 1 trung úy tên Thới, một thanh niên ăn chơi, dáng dấp bụi đời. Ba mẹ tôi không bằng lòng, nhưng Xê vốn có cá tính mạnh và ương ngạnh muốn gì là làm cho bằng được. Sau những lần can gián la mắng nhưng không có kết quả ba mẹï tôi đành chấp nhận. Đám cưới Xê trước đám cưới của tôi 1 năm.

Đầu năm 1973 chúng tôi tổ chức đám cưới sau bao năm lận đận, tình duyên, hôm nay tôi đã tìm thấy một bến đỗ tương đối ổn định. Năm ấy tôi đã 29 tuổi và anh 33 tuổi, cái tuổi đã đủ chín chắn để bước vào hôn nhân.

Đám cưới chúng tôi tổ chức khá chu đáo đãi họ hàng nội ngoại, cơ quan của tôi, cơ quan của Ba tôi cùng bạn bè thân thuộc cũng mất 3 ngày. Bên anh ấy cũng tiến hành như vậy. Nhìn vẻ mặt hân hoan của ba mẹ, tôi cũng thấy vui.

Cuối năm ấy, tôi sinh được một bé trai bụ bẫm ngày 26/10/1973, nặng 3kg300 đặt tên Tăng Thiên Nhân, ở nhà còn có tên Tino. Tôi thấy đã bị quấy rầy bởi giấc ăn ngủ không yên với cậu bé, nhưng tình thương con khiến tôi khắc phục không nề hà gì.

Tino càng lớn càng dễ thương ai thấy cũng khen. Mỗi lần như vậy tôi thấy thật hạnh phúc. Sau 3 tháng, cho bú sữa mẹ khi bắt đầu đi làm lại, tôi đành phải cho con bú sữa ngoài và nhờ một cô giúp việc giữ hộ.

Thời gian này là thời gian tôi thấy hạnh phúc nhất. Anh Mân là một người chồng hiền hậu biết lo cho gia đình và rất thương con. Thu nhập vợ chồng cộng lại khoảng 100.000đ/ 1 tháng, vàng khi ấy khoảng mười mấy ngàn một lượng, cuộc sống kinh tế không có gì phải lo nghĩ. Chúng tôi trích ra mỗi tháng 25.000đ mua cổ phiếu để dành.

Đơn vị tiếp vận của anh Mân cấp cho gia đình một cư xá (chiều ngang 6m, dài 20m) ở trong hẻm của đường Độc Lập (bây giờ là đường Trần Phú) vì tình hình lúc bấy giờ không yên ổn, ảnh lại là chỉ huy phó của trung tâm tiếp vận phải cắm trại 100% tại đó, nên chúng tôi dọn vào trong trại làm việc ở, khóa cửa nhà ở cư xá.

Một ngày anh Mân nói chuyện với tôi về gia đình người anh thứ 13 (Anh Bửu) đang ở nhà thờ tại Hội An và làm việc tại Ty Hành chánh Quảng Nam. gia đình anh có 8 người con (4 trai + 4 gái), Dũng người con trai đầu lòng mới bị xe đụng chết. Buồn quá anh không thể ở lại Hội An với bao nhiêu kỷ niệm cứ vây lấy, anh xin chỗ nào cũng hiện lên hình ảnh của con. Anh đã xin thuyên chuyển về Đà Nẵng và đề nghị chúng tôi cho mượn nhà cư xá cho gia đình ở, khi nào cần anh chị sẽ trả lại.

Xúc động trước hoàn cảnh của anh, chúng tôi đã dốc toàn bộ số tiền dành dụm được 250.000đ sửa sang ngăn từng phòng đàng hoàng, công trình phụ và đem điện nước vào để cho gia đình anh vào ở.

Để chính quyền địa phương chấp nhận gia đình anh về cư ngụ tại đó, chúng tôi đã tiến hành cho nhập hộ khẩu gia đình anh vào với gia đình chúng tôi. Sự giúp đỡ của chúng tôi thật vô tư chỉ là sự chia sẻ những bất hạnh với những người thân, cứ nghĩ “lá lành đùm lá rách, anh ngã em nâng” vì gia đình anh Bửu là gia đình khó khăn nhất trong các gia đình của các anh chị em hiện giờ.

Tấm lòng thương người của chúng tôi đã đặt không đúng chỗ. Sau này nhân cơ hội anh Mân đi cải tạo (1975) hai vợ chồng anh Bửu có gặp tôi và dặn: “Ai có hỏi nhà cư xá đó thì bảo không phải của Mân, chứ không nhà nước sẽ tịch thu” .

Quá ngây thơ tôi tin vào lời nói đó, nghĩ rằng anh chị có ý giữ cho mình. Đâu ngờ đó là âm mưu của 2 vợ chồng tiến hành gạch tên gia đình chúng tôi trong hộ khẩu và ngang nhiên chiếm nhà. Khi anh Mân đi cải tạo về chúng tôi không có nhà, tuyệt nhiên 2 vợ chồng vẫn không mời về ở. Vì muốn bảo đảm danh dự của gia đình, hơn nữa anh Mân mới đi cải tạo về rất sợ rắc rối nên chúng tô đành im lặng. Đúng là “cháy nhà mới ra mặt chuột” .

Trở lại năm 1973 cùng với sự mê số đề và vung tay quá trán của mẹ, gia đình tôi bắt đầu suy sụp. Mẹ mở quán bàn chè nhưng thu nhập không được bao nhiêu. Ba ngoài công việc ở ngân hàng còn mở “hô thai” một nghệ thuật hát truyền thống của vùng Quảng Nam - Đà Nãng. Trong những ngày lễ tết, ba và các bạn cùng sở thích tổ chức “Bài chòi” nhìn ba đứng ca trong ngọt ngào với gương mặt đẹp, tôi nghĩ nếu ba được đào tạo bài bản đàng hoàng cũng thành nghệ sĩ chứ chẳng chơi. Bấy giờ tôi mới biết máu nghệ sĩ đã có trong ông từ đời nào. Không thế mà những đứa con sau này toàn mang tên những nốt nhạc cổ: Xê, Xang, Xự.

Xê và Thời đã mua nhà cạnh cư xá của tôi cũng vướng vào đường dây buôn bán ma túy. Thời bị bắt ra Huế. Anh Mân phải nhờ đến một người bạn (thiếu tá He, cảnh sát chuyên trách về bài trừ tệ nạn này) nhờ gỡ tội cho Thời chỉ bị 6 tháng tù.

Cuộc đời không mãi trôi êm đềm như thế, đầu năm 1975, đã có dấu hiệu xôn xao về những trận đánh ở Tây Nguyên rồi Bình Long, Phước Long từng đoàn người bồng bế nhau chạy về thành phố Đà Nẵng. Tôi nghĩ trận chiến đã đến hồi quyết liệt. Quân đội thì cắm trại 100%, lệnh giới nghiêm từ 22g đêm. Ngoài đường thì hỗn loạn, đã thấy xuất hiện những bộ mặt du đãng chờ thời cơ để hành sự. Đến sở tôi phải đi vào cổng sau thế mà cũng có nhiều người nhận ra bao quanh đòi nhận tiền công khố phiếu. Tất cả mọi cửa sắt đều đóng chặt khi nhân viên đã vào phòng làm việc đầy đủ. Tất cả mọi người đều làm việc trong không khí căng thẳng và hồi hộp. Bên ngoài cửa sắt là hàng trăm, hàng ngàn cánh tay đưa vào cầm những lá phiếu trên tay đòi lãnh tiền. Cảnh chen lấn, xô đẩy, chửi bới của những thương phế binh cứ hăm he đòi liệng lựu đạn nếu không lãnh được tiền. Lượng công việc trở nên quá tải, từ 7g sáng đến 17 giờ chiều, nghỉ ăn trưa 30’. Chúng tôi làm việc trong tâm trạng không ổn với bao đe dọa chực chờ. Có lần đang làm việc bỗng nghe”nó ném lựu đạn” thế là từ trưởng đến nhân viên ai cũng chui xuống gầm bàn nấp. Thì ra có kẻ thích đùa. Bất chợt tôi nghỉ đến câu chuyện mẹ kể trong giai đoạn chống Pháp: Khi nghe còi báo động máy bay Pháp đến tất cả dân làng đều đổ xô tìm nơi trú ẩn. Một tiếng nổ dữ dội, mọi người đều nằm rạp xuống, riêng có ông nọ gặp được ống cống chui ngay đầu vào, còn đít lại trơ ra, qua cơn đó ai trông thấy cũng buồn cười.

Ở cơ quan làm việc bù đầu không biết gì, nhưng về nhà nghe anh Mân bảo tình hình càng ngày càng xấu. Radio thì cứ phát đi phát lại lời Tổng Thống Thiệu bảo: đồng bào hãy bình tĩnh, còn 45 ngày nữa để di tản. Hàng ngày đều nghe thấy cảnh chết chóc dưới bến sông khi tranh nhau lên tàu chạy vào Nam. Ngoài đường lính tráng, du đảng đã bắt đầu cướp bóc chém giết trả thù cá nhân. Chúng tôi muốn ra đường đều phải nhờ những người lính áp tải.

Vào những ngày cuối tháng 3/1975 tôi đi làm thêm vài ngày nữa rồi nghỉ vì tình hình quá lộn xộn.

Một hôm lính đi lãnh lương về báo cho chúng tôi biết phòng đại tá Châu đã bỏ ngũ, Đại tá Châu là chỉ huy trưởng bộ chỉ huy: “Tiếp vận” các người lính còn báo: nếu gia đình Đại úy có đi đâu để tụi em áp tải chứ tình hình bên ngoài không đảm bảo an toàn.

Buổi chiều một đại úy bạn thân của anh Mân đem xe đến rủ đi di tản. Thấy Tiânô còn nhỏ dại quá may ít rủi nhiều chúng tôi từ chối không đi.

Hôm sau chúng tôi gom một ít đồ đạc tư trang còn bao nhiêu để lại hết, và nhờ lính áp tải về nhà ông ngoại lánh nạn.

Ngày 29/3/1975 từng đoàn xe chở quân giải phóng với cờ vẫy trên tay bộ mặt hân hoan tiến vào thành phố. Dân chúng hòa reo vui. Đứng trước thềm nhà ba tôi cũng nô nức hô hào, đưa tay vẫy những đoàn quân về tiếp quản thành phố (bởi những ảo tưởng về hình ảnh những anh bộ đội thời chống Pháp còn sót lại trong tâm trí ông). Riêng chúng tôi thì bàng hoàng lo sợ.

Rồi lệnh tập trung những quân nhân chế độ cũ. Anh Mân đi trình diện từ sáng, chiều không trở về, thêm những tin đồn họ chở đi thủ tiêu, làm tôi hoang mang lo sợ quá. Tôi sống trong bất an chực chờ tin dữ đến. Khoảng 3, 4 ngày sau có một người đi xe thồ đến đưa cho tôi một tờ giấy anh nhắn tin: họ chở anh đến Vĩnh Điện tiến hành lập trại và tập trung tại đấy, chủ nhật mới cho thân nhân vào thăm, an toàn anh vẫn còn sống.

Chủ nhật đến tôi cùng Nỡ lên thăm anh, đó là một trại tập trung rộng lớn bao bọc bởi những cánh đồng bát ngát và hồ sen.

Trước khi vào trại, chúng tôi phải xuất trình giấy tờ cho những người du kích mặt còn non choẹt nhưng lại rất muốn bày tỏ uy quyền bằng những lời xét hỏi nạt nộ thiếu văn hóa.

Đã bắt đầu hình thành một chế độ CM thật sự rồi.

Tôi và anh gặp nhau mừng như muốn khóc. Anh bảo các cán bộ chính trị về nói chuyện rất hay. Họ kể chuyện vua Lê bình định giặc Minh, có một ông quan dâng sớ xin chém đầu những kẻ theo giặc, vua Lê đã xé tờ sớ và bảo “Ở đây không có ai là giặc cả. Chẳng qua người ta ở trong thế bị giặc buộc phải theo”. Cuộc chiến thắng này không phải của người miền Bắc chiến thắng người miền Nam, mà của cả dân tộc Việt Nam chiến thắng người Mỹ”. Sở dĩ chúng tôi tập trung các anh ở đây là muốn bảo vệ các anh khỏi những phần tử xấu, lợi dụng thời cơ để trả thù cá nhân.”

Từ giã anh, chúng tôi ra về với nỗi buồn man mác. Hoàng hôn đã xuống, nhìn những cánh sen nở lẻ loi trong hồ rộng lớn, bao bọc bởi những cánh đồng mông mênh. Tôi thấy thật cô đơn.

Thế là chủ nhật nào tôi cũng lên thăm anh. Mấy lần sau nầy các ổng chuẩn bị rất kỹ để đón người thân lên thăm mỗi anh từ chiều thứ bảy. Chúng tôi tự an ủi thế cũng may lắm rồi mỗi tuần gặp một lần. Còn hơn Ngưu Lang Chức Nữ mỗi năm được gặp nhau mỗi 1 lần mà có lúc buồn buồn đàn chim ô thước không bắt cầu cũng đành chịu. Thấy anh lạc quan tôi cũng mừng.

Để hình thành nhà nước cách mạng ở địa phương người ta bố trí những người trước đây sinh sống bằng lao động chân tay (họ gọi những người này là tầng lớp bị bóc lột) vào những cơ sở hạ tầng như tổ dân phố, khu phố, lại thêm một công an phụ trách về an ninh khu vực, trong số những người này không ít kẻ đã thừa cơ lên mặt hống hách hạch sách những người trước đây vì một lý do gì đã làm họ không bằng lòng rồi họ kê khai hộ khẩu. Nói chung người ta quản lý con người rất chặt chẽ, đó là chưa kể đi học, đi làm đều phải làm bản lý lịch kê khai rõ ràng đến 3 đời: Đời ông, đời cha, đời mình và họ hàng 2 bên nội ngoại đều phải rành mạch.

Đọc những khẩu hiệu tôi nghe mâu thuẫn: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, dân làm chủ” dân làm chủ chỗ nào khi Đảng đã lãnh đạo, Nhà nước quản lý chặt chẽ, còn cửa nào để dân làm chủ? Còn "cán bộ là đầy tớ của nhân dân” trong khi làm gì, đi đâu chủ (dân) cũng phải báo cáo với đầy tớ có cho phép chủ mới được làm. Rồi “Bệnh viện là nhà, bệnh nhân là chủ” mà mỗi khi có bệnh chủ đến nhà của mình để chữa đều bị đầy tớ đối xử khiếm nhã, thậm chí có khi còn nạt nộ làm cho phát khiếp (thật là mâu thuẫn và nghịch lý).

Ở những trường học người ta gở bỏ những khẩu hiệu: “Tiên học lễ, hậu học văn", "Tôn sư trọng đạo” theo tôi nghĩ đó là chân lý, là nền tảng của đạo đức mà trẻ con cần phải hiểu khi bước chân vào ngưỡng cửa học đường để sau này trở thành những công dân tốt cho xã hội. Thay vào đó người ta trương lên những bảng hiệu “Đời đời nhớ ơn bác Hồ, Đảng cộng sản Việt Nam muôn năm” .

Trong thời gian này, lần lượt bà con 2 bên nội ngoại tập kết từ miền Bắc trở về. Trước tiên là gia đình chú Phụ, bà nội và ba mừng khôn xiết, riêng mẹ tôi thì chào hỏi chứ trong lòng vẫn còn hậm hực lắm. Gia đình chú gồm vợ và 3 con – 2 trai, 1 gái chú công tác tại bệnh viện đa khoa, còn thím phụ trách Cửa hàng Dược ở đường Phan Đình Phùng.

Chú tôi mỗi lần bàn chuyện đều ca ngợi chế độ và cũng không quên ca tụng những chiến tích về những trận đánh ở Điện Biện Phủ mà chú đã từng tham gia. Gia đình chú tạm trú tại nhà tôi một thời gian để chờ nhà nước bố trí chỗ ở.

Đùng một cái, chồng tôi lại bị thuyên chuyển đi nơi khác, chẳng nghe tin tức gì, tôi lại sống trong tâm trạng lo sợ, hồi hộp bởi những suy diễn vẩn vơ. Mãi đến tháng sau tôi mới nhận được tin tức anh qua mẫu giấy anh gửi người đi xe thồ đem về. Ơn trời anh vẫn còn sống.

Người ta đưa anh lên Kỳ Sơn, một vùng núi thuộc Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam cách Đà Nẵng 80Km. Anh bảo các anh đang làm trại và làm đường vì chưa có đường đi. Khi nào thông đường và được cán bộ trên đó cho phép anh sẽ báo về để lên thăm.

Ngân hàng nhà nước đã gởi giấy cho tôi đi làm việc lại. Ngân hàng khi xưa đẹp đẽ sạch sẽ là thế, bây giờ trông nhếch nhác với những cán bộ mặt mày xanh lét khô cằn. Đàn ông mặc đồ bộ đội mũ tai bèo, còn đàn bà chỉ độc một chiếc quần đen, áo chemise vải thường, ngoài khoác những chiếc áo bộ đội, chúng tôi còn có những nhân viên lưu ban khi xưa với những tà áo dài tha thướt đủ màu.

Họ bố trí cho tôi làm ở Nam Việt Ngân hàng trên đường Lý Thái Tổ, phụ trách việc đếm tiền. Công việc này không thích hợp nhưng tôi cũng cố gắng làm tròn trách nhiệm, sau đó có phong trào vận động toàn dân gởi tiền tiết kiệm, họ phân công tôi đi theo phong trào.

Ngoài giờ hành chánh, chúng tôi còn phải đi dự những buổi họp tối ở phường, khối tổ chức để vận động tiết kiệm. Tôi thật bù đầu với công việc. Thêm vào đó là những cuộc họp của cơ quan, với những lời lẽ xỉa xói, lên án của những kẻ chiến thắng, tôi thật mệt mỏi và chán nản. Tối đến lại không yên với những buổi họp tổ, khối, Đảng là dịp để các chị em phụ nữ trước kia là người giúp việc, những thành phần long bong thể hiện quyền làm chủ (hầu hết những người này cho gọi là giai cấp bị áp bức bóc lột) đều đã lên vị trí lãnh đạo, mà tổ trưởng phụ nữ, khối trưởng phụ nữ, chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ phường. Trong buổi họp họ lên giọng “các chị trước đây ở vùng tạm chiếm, hôm nay đất nước thống nhất, các chị đã được giải phóng, đã được bình đẳng với nam giới, vì thế mình phải thể hiện vai trò làm chủ của mình, không nô lệ cho ai hết, không ai là chủ, chẳng ai là tớ chỉ có mình làm chủ mình thôi” họ có còn nhớ những người chủ mà các cô giúp việc mới có cơm ăn, áo mặc và tiền gửi về cho gia đình ở quê. Cũng nhờ những người chủ đã giải quyết công ăn việc làm cho biết bao nhiêu lao động thất nghiệp để tránh cho họ khỏi rơi vào tệ nạn xã hội.

Bây giờ so sánh với đời sống trước đây thật kham khổ, hàng hóa khan hiếm lương tháng của tôi được 45 đồng, phụ cấp thêm được 10 kg gạo, 1 lạng mì chính, vài lạng thịt heo. Mỗi lần đi mua thực phẩm xếp hàng đến rã chân, cộng thêm nỗi ê chề của sự nhục nhã vì miếng cơm manh áo mà trước đây mình cho là phàm phu tục tử. Chưa bao giờ tôi thấy giá trị con người lại bị tổn thương đến vậy.

Lại chứng kiến một số ít phần tử lưu ban xu thời nịnh hót chuyên dòm ngó vào đời tư của người khác để có thông tin trình đấu lấy điểm và những cán bộ cũng rất muốn nhận quả của những phần tử này họ đều được bố trí làm việc tại ngân hàng. Thời điểm này là thời điểm của chủ nghĩa cơ hội bành trướng. Tôi thật ghê tởm, mệt mỏi về thân xác và suy sụp về tinh thần với bao nỗi lo toan triền miên, chỉ mỗi khi đi làm về nhìn thấy con với gương mặt sáng tuổi thần tiên, tôi mới thấy lòng dịu đi.

Ngủ đi con mẹ ru con ngủ

Ôi môi hồng mắt sáng tuổi thần tiên

Nhưng đừng lớn khôn thêm con nhé!

Trong vòng tay mẹ hãy ngủ yên

Ngủ đi con chờ đất nước chuyển mình.

Cả rừng cây đồi núi rung rinh.

Con lớn dậy như anh hùng Phù Đổng

Trong những cán bộ làm ở ngân hàng, tôi chỉ có cảm tình với một người nữ cán bộ, chị tên Nguyệt là một thiếu úy bộ đội phục viên, về làm Ngân hàng 40 tuổi với dáng người hơi thấp, nhưng gương mặt thì thật dễ thương với đôi mắt to chan chứa tình cảm, mũi thẳng còn miệng thì hơi cười chúm chím với 2 lúm đồng tiền nhỏ xíu ở 2 bên khóe môi (sau này lãnh đạo bố trí cho tôi làm kế toán và chị làm thủ quỹ ở Hàn Tiết Luận, phường Thạch Gián). Trong những lúc rãnh rỗi, chị hay tâm tình với tôi về cuộc đời của chị: sinh ra ở một làng chài lưới phía đông sông Hàn tên là Hà Thân, gia đình chị rất nghèo, từ bé chị phải đi mò cua, bắt ốc. Rồi bộ đội về làng tuyên truyền về một tương lai sáng một xã hội công bằng không có kẻ giàu, người nghèo, muốn vậy phải chiến đấu diệt Mỹ, Ngụy mới có được một tương lai tốt đẹp. Chị tham gia cách mạng lúc mới 15 – 16 tuổi. Chị kể khi băng rừng vượt suối, trên vai mang nặng những gùi thực phẩm, súng đạn, vào mùa nước lũ đang cố gắng nhảy qua những tảng đá, vượt qua suối sông nghe ầm tiếng khi ngoảnh lại thì thấy đồng đội đã bị nước lũ cuốn phăng đi rồi, trong hoảng hốt nhưng tất cả đều phải tiếp tục đi. Đêm nằm căng thẳng chờ trận chiến xảy ra, trong cái im lặng của núi rừng, chị chỉ mong ước 1 điều duy nhất bấy giờ là được nằm trong vòng tay ấm áp của mẹ. Rồi những lúc giặt dùm quần áo của các anh bộ đội nhìn những khoảng trắng trắng giống sữa trong các quần lót, chị thấy tội nghiệp mấy anh, bởi sự dồn nén những khát vọng yêu đương. Ngay cả ban thân chị khi chứng kiến cái chết và cái sống cận kề, chị cũng muốn buông thả cho những cảm xúc cứ việc tuôn trào, nhưng rồi những kỹ luật sắt ở đây rồi những ngày chuyển quân liên tục, sự cực khổ đói khát, sự sợ hãi phải vật lộn với cái chết đã làm cho chị phải làm ngơ trước những mối tình qua ánh mắt và gần như trở thành vô cảm.

Khi đất nước thống nhất, chị trở về quê hương với niềm phấn khởi tột cùng và cũng đau đớn tột cùng với cha mẹ đều mất hết, còn người em thì chưa biết lưu lạc phương nào. Trong một dịp tình cờ chị đã quen và yêu một thanh niên trước đây là lính chế độ cũ, vì việc này chị đã bị kiểm điểm. Trước ngày chị bị đưa ra xét xử trong một cuộc họp Đảng gồm toàn những Đảng Viên (chị có tuổi Đảng được 20 năm), chị đưa tôi xem bảng kiểm điểm tự tay chị viết đại ý chị bảo: “Tôi đã tham gia CM từ ngày tóc còn để chỏm, bây giờ trở về quê gương với niềm hân hoan và mong ước trở thành người đàn bà bình thường như bao người đàn bà khác là được làm vợ và làm mẹ. Bây giờ tôi đã gặp gỡ người tôi yêu, người tôi quyết định sẽ thành hôn tuy rằng anh ấy trước đây là lính của chế độ cũ, nhưng tôi tin vào chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc mà Đảng đã đề ra, tôi mong các đồng chí nghĩ đến sự đóng góp cả tuổi xuân và xương máu cho sự thống nhất đất nước ngày hôm nay, cầu mong các đồng chí hãy xét và chấp nhận cho tôi được thực hiện điều ước cuối cùng của đời người thiếu nữ là được làm vợ, làm mẹ” .

Tôi không phải là đồng chí của chị, nhưng khi đọc bảng kiểm điểm của chị, tôi rất xúc động, cuối cùng chị đã bị khai trừ khỏi Đảng. Tôi thật sự ngưỡng mộ chị bởi sự dũng cảm dám hy sinh sự nghiệp để chọn lấy tình yêu. Nhiều khi nghe chị nói mĩa mai, cay đắng: “Tranh đấu là trâu đánh, trâu đánh tránh đâu trâu cũng đánh” với gương mặt chán chường thể hiện nỗi ê chề bởi sự thất vọng vì khi đặt đến mục đích của lý tưởng là chỉ con số 0 to tướng.

Thời gian này người ta tiến hành đánh tư sản, cứ mỗi chiều về thấy mấy ông bà cán bộ mang rất nhiều vàng bạc, châu báu đem bỏ vào kho đó là mồ hôi, nước mắt suốt cuộc đời người mà họ bảo những người giàu có là những kẻ hút máu nhân dân.

Nhiều hôm đi vận động gửi tiền tiết kiệm vào những thôn xóm, mới nhìn thấy chúng tôi từ xa họ đã đóng cửa hoặc không đóng cửa kịpø thì họ chỉ vào những đứa con, bảo đó là những quyển sổ TK gởi vào và không bao giờ rút ra được đã làm khánh kiệt gia đình. Cũng có người lo sợ, họ cũng mở sổ TK với mệnh giá 2đ cho có lệ. Trừ trường hợp những người giàu có họ gởi vào vài trăm ngàn cho đến vài triệu để lấy lòng cách mạng.

Một hôm, có người xe thồ mang đến cho tôi một thư anh gửi chỉ đường để lên thăm. Đó là một vùng núi cách ĐN 65 Km và 16Km đường đèo. Mỗi lần thăm anh tôi phải thức dậy từ 12 giờ khuya để lo bới xách nào thịt kho ruốc sả, muối mè, cơm sấy, thuốc tây. Đến bến xe Vĩnh Trung 3 giờ sáng để đón xe đi Tam Kỳ. Vào đến Tam Kỳ trời đã mờ sáng. Ở đây chỉ có 1 chuyến xe duy nhất đi Kỳ Sơn. Ai đi trễ đành đi xe thồ, xe thồ họ cột 1 cây gỗ quang  chở 2 người ngồi 2 bên phía sau, còn quà họ cho vào gió phía dưới cây gỗ, cứ thế mà leo đèo. Lần đầu tiên đi bộ rất sợ hãi không dám nhìn xuống vực sâu, cứ tưởng nếu lỡ rớt xuống thì tiêu đời. Đến một con suối cắt ngang không có cầu, chúng tôi tay xách nách mang xắn quấn lên lội qua suối, mùa nắng nước chỉ lên đến bắp chân, còn mùa mưa ngang thắt lưng, sợ nhất là mùa nước lớn, nước cứ băng băng, đi không vững là ngã liền. Nhờ trời suốt thời gian thăm nuôi không ai bị gì cả.

Sau hơn một tháng gặp nhau vợ chồng mừng mừng tủi tủi. Anh bây giờ đen và suy sụp hẳn. Anh bảo hằng ngày phải xuống sông gánh nước tưới rau, có hôm vào rừng đốn gỗ, thế là bàn tay cầm bút máy bây giờ đã cầm cuốc cầm rựa và gồng gánh.Thời đã thế thế thời phải thế. Đến Bác sỹ, kỹ sư cũng làm vậy nữa là mình, tôi an ủi anh đấy cũng là cách rèn luyện thân thể, gia đình mình còn toàn vẹn cũng là may lắm rồi.

Mỗi lần lên thăm anh về là mỗi lần cả tinh thần và thể xác càng suy sụp. Chiều thứ bảy được nghỉ lo đi chợ mua đồ tiếp tế, khuya phải dậy thật sớm đi, chiều tối chủ nhật mới về đến nhà, sáng thứ hai lại phải đi làm. Tino dạo này hay bị viêm Amidal cứ phải vào viện mà nhiều khi nhìn con tôi lại thấy xót xa vô cùng.

Ra đi khi trời còn mờ sương

Mắt mờ ngấn lệ tưởng mây vương

Giòng sông khuya ánh nỗi thê lương

Đường lên núi sao nghe cách trở

Từng đoàn người lặn lội thăm chồng

Vai mang nặng mà không nghe nặng

Chỉ nghe lòng một nỗi trông mong

Róc rách suối rừng lên tiếng gọi

Nỗi thương đau tràn ngập con tim

Tiếng thở dài gửi làn gió thoảng.

Núi rừng ơi sao mãi im lìm

Câu nguyện ước đã mờ thoáng hiện

Ngọc Hoàng ơi đầu đàn chim thước

Không bắc cầu cho Chức Nữ gặp Ngưu Lang

Mắt nhìn mắt ta trao nhau vội vã

Lời tâm tình thưa thớt được mấy câu

Mà tiếng trống tàn giữ đã điểm

Tay siết tay uất nghẹn niềm đau.

Một lần lên thăm anh, chờ mãi mới có một người bạn cõng anh ra. Tôi hốt hoảng khi thấy thần sắc anh thay đổi, bạc nhược, u sầu, hai chân hãy còn yếu không thể đi lại được, phân công ở nhà nom trại và nấu ăn. Anh bảo “các anh đã bị lừa”. Khi mới giải phóng, người ta sợ các anh chống đối đã trấn an bằng những lời lẽ mị dân, sở dĩ đưa các anh vào trại tập trung là để tránh tình trạng trả thù cá nhân, các anh chỉ là nạn nhân của chế độ cũ, chỉ một thời gian ngắn các anh sẽ về thôi, yên tâm đi” bây giờ người ta đối xử với các anh như những tên tội phạm người ta không đem ra xử, cho nên không biết mức án của mỗi người là bao nhiêu năm? Người ta chỉ bảo “Nếu anh nào trong quá trình cải tạo tốt và không có nợ máu với nhân dân, thì về sớm, còn không thì tùy?” Đó là mức án vô hình cứ treo lơ lửng trên đầu các anh. Anh cho biết tuần rồi Bác sĩ Lương bị bắn vì trốn trại, nhưng người ta bảo đó là tai nạn lao động (BS Lương  là thiếu tá quân y rất giỏi, nổi tiếng nhờ hành động dũng cảm đến trước quốc hội của Việt Nam Cộng Hòa để phản đối về những chính sách mà ông cho là không dân chủ. Giải phóng về người ta tung hô anh. Ủy ban CM lâm thời của thành phố ĐN mời anh vào vị trí giám đốc bệnh viện đa khoa ĐN. Khi mọi việc đã tổ chức xong đâu vào đấy người ta lại hạ bệ anh bằng cách đưa anh đi cải tạo.

Thăm anh Mân lần này về tôi càng hoang mang, sợ hãi.

Lượng công việc ở Ngân hàng ngày càng nhiều. Bây giờ tôi về làm tiết kiệm ở phường Thạc Gián rồi đến phường Tân Chính. Cơ sở là một nhà lầu của một gia đình vượt biên. Dưới là phòng làm việc còn trên dành cho gia đình cán bộ cư ngụ. Chúng tôi làm việc trong sự ức chế vô hình bởi những cặp mắt luôn theo dõi và giám sát. Vốn có tinh thần trách nhiệm tôi chỉ chú ý giải quyết công việc, chẳng có thì giờ để ý đến những chuyện khác.

Bây giờ làm việc không có luật lao động với châm ngôn “Làm hết việc không làm hết giờ” càng kiệt quệ theo những lập thành tích chỉ tiêu chào mừng những ngày lễ sinh nhật Bác Hồ, ngày Bác Hồ mất, chiến thắng Điện Biên Phủ, Quốc khánh, giải phóng Đà Nẵng, giải phóng Sài Gòn... không biết bao nhiêu ngày mà kể hết.

Lần lượt bên mẹ tôi có gia đình cậu Trình Phẩm đã về tá túc nhà tôi  3 – 4 tháng trong khi chờ đợi nhà nước phân nhà. Cậu Trình theo CM khi tôi còn bé, chỉ nghe kể cậu về thăm bà ngoại (hồi kháng chiến chống Pháp) thì bị bắt. Sau nhờ hiệp định Genève trao đổi tù binh mới được thả ra. Bây giờ đang công tác trong ngành đường sắt, vợ là mợ út công tác ở trung tâm y tế. Còn cậu Phẩm là con bà ngoại, trước giải phóng có sống với gia đình một thời gian tuổi cậu bằng tuổi tôi, hai cậu cháu cũng thân nhau lắm. Nhớ lại cậu ở Túy Loan mới xuống, cầm đèn pin không biết táy máy thế nào đụng vào nút bật làm lóa mắt, cậu hoảng hồn đập vào mặt kêu cứu thế mà giờ cậu là 1 trong 72 dũng sĩ diệt Mỹ. Sau khi bị thương cần phải chịu cưa một khúc chân, được về Hà Nội học đã tốt nghiệp Đại học kinh tế, hiện công tác ở Sở Kế hoạch của tỉnh, vợ cậu là Bác sỹ về mắt tên Hải người Hà Nội về công tác ở bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng. Họ cho biết đời sống ở ngoài đó rất kham khổ.

Bên chồng tôi thì có gia đình anh Tắc (cùng cha khác mẹ với anh Mân) Anh Tắc công tác ở Sở Giáo dục, vợ là chị Tảo làm ở Ngân hàng Ngoại thương Đà Nẵng. Còn gia đình anh Tư: Anh Tư dạy ở trường Đại học Bách Khoa, vợ là chị Nga dạy ở khoa Sinh trường Cao đẳng Sư phạm ĐN. Sau làm phòng tổ chức của Đại học Ngoại ngữ ĐN.

Những lần lên thăm anh Mân sau này lần lượt đều có anh Tư, cậu Phẩm và mợ Bình cũng đi, thấy những bà con là cán bộ lên thăm độâng viên, anh cũng mừng và yên tâm.

Sau thời gian tìm hiểu thấy anh Mân trong chế độ cũ không gây oán với ai và chủ yếu làm việc ở văn phòng, anh Tư đã viết giấy bão lãnh cho anh, nhưng vẫn phải chờ người ta xét.

Một ngày khoảng cuối tháng 8 dương lịch năm 1976 vừa đi làm về Vân (con cô Dứ) bảo với tôi có người muốn gặp đang ở nhà Vân.

Thật bất ngờ, từ xa tôi đã thấy đôi mắt nhìn tôi sâu thẳm, đắm đuối. Làm sao tôi quên được ánh mắt ấy. Đó là Bình người tình cũ đã 10 năm không gặp lại. Giây phút xúc động Bình hỏi tôi còn sợ Việt Cộng nữa không? Không kềm chế được tôi bỗng khóc lúc nào không hay. Bình xin phép cô Dư được lên gác để nói chuyện với tôi. Trong phút sắp sửa xiêu lòng bỗng Tinô chạy vào ôm tôi “Đã về rồi”. Ôi cám ơn, cám ơn con tôi đã chạy vào đúng giờ phút tôi sắp đổ, đã vực tôi ra khỏi cơn mê. Nhìn mặt ngây thơ, dễ thương của con, tôi từ chối không lên gác cùng anh và xin phép về nhà.

Chưa kịp thay quần áo Bình đã sang nhà, nhìn cánh tay còn băng bột, đó là chiến tích của anh ở mặt trận Tây Nam, Campuchia. Tôi cảm thấy ái ngại. Nếu ở một hoàn cảnh khác chắc tôi sẽ suy tôn anh là anh hùng, nhưng trong hoàn cảnh này tôi chỉ thấy một niềm thương cảm bởi mối quan hệ đã có giữa tôi và Bình trong quá khứ. Tình yêu đã chết rồi chăng? Cũng không biết nữa, trong giờ phút này tôi cố sức vận dụng lý trí để chỉ nghĩ về chồng và con thôi.

Bình nói rất nhiều, ý trách móc sao anh đã đi trên cả ngàn cây số với cánh tay bị thương chỉ để về gặp lại tôi, sao tôi không muốn tiếp anh? Trong thời gian chiến đấu, những tấm hình của tôi trong hành trang anh luôn mang theo người để an ủi lúc cô đơn và là niềm hy vọng của cuộc đời mai sau. Anh nhờ những người bạn về công tác tại ĐN thăm dò tôi đã lập gia đình chưa? Cứ mỗi năm qua đi biết tôi chưa có gia đình là mỗi năm anh hy vọng. Nhưng đến năm 1973 thì hỡi ôi!

Năm năm rồi không gặp

Từ khi em có chồng

Anh dặm trường mê mải

Đời chia những nhánh sông

Ngày nhà em pháo nổ

Anh gục đầu trong chăn

Như con sâu làm tổ

Trong trái vải cô đơn

Ngày nhà em pháo nổ

Tâm hồn anh buốt giá

Ôi! nhát chém hư vô

Ôi! nhát chém hư vô

Bỗng dưng tôi nhớ đến bài thơ của Phạm Văn Bình cùng tên họ với anh (Phạm Duy Phổ nhạc). Thật là một sự trùng hợp cả về tâm trạng.

Tôi cố nén những cơn sóng tình cứ ào ạt dâng lên trong lòng, mà mong mỏi nó qua đi càng nhanh càng tốt .

Bình còn nói rất nhiều nữa, tôi chỉ biết im lặng và thở dài. Còn gì nữa đâu khi ván đã đóng thuyền rồi.

Cuối cùng, anh cũng đứng dậy từ giã và để lại địa chỉ bảo “Nếu có dịp vào Sài Gòn nhớ ghé đến nhà anh chơi”. Tôi cũng ậm ừ, nhưng sau đó đã đốt địa chỉ, tôi muốn dứt khoát với quá khứ khi nghĩ về anh Mân một người chồng tốt và nhất là Tino, đứa con yêu kháu khỉnh của tôi. Tôi thấy dáng anh lảo đảo và chân tôi thì chôn chặt như tái diễn cảnh chúng tôi chia tay nhau, cách nay đã 10 năm.

Ngày hôm ấy thật là một ngày trọng đại ghi một dấu ấn không bao giờ phai trong suốt cuộc đời tôi. Đó là sự trở về của 2 người đàn ông yêu tôi. Buổi sáng vừa tiễn anh Bình từ Sài Gòn ra, buổi chiều anh Mân được trở về, nhân dịp Quốc khánh 2/4 sắp đến.

Cả nhà tôi đều mừng rỡ đón anh, Tino lúc đầu còn ngập ngừng, sau nó bám riết anh, đúng là tình phụ tử có khác.

Sự trở về của anh Mân giống như một sự hồi hộp. Đêm ấy anh ôm tôi trong vòng tay và bảo “Bây giờ anh mới tin thật sự là không mất em”. Hồi đó những bà vợ có chồng làm sĩ quan đi cải tạo có một số người bỏ chồng đi theo người khác, trước đây họ lấy nhau vì tiền tài danh vọng. Bây giờ những thứ ấy không còn tồn tại nữa, tương lai của mấy ông chỉ là một màu đen bi thảm, thì chuyện chia tay là lẽ thường tình. Còn nhớ câu nói của một đứa bạn khi biết anh Mân đi cải tạo: “Mầy định chờ sầu riêng trổ bông hả”.

Đêm ấy chúng tôi đang tâm tình trong niềm hoan hỉ của ngày hội ngộ thì công an phường xộc vào kiểm tra bảo “Sao anh về mà không trình diện?” họ làm biên bản và bắt anh viết tờ kiểm điểm đem ra phường nộp cho dù lúc chiều vừa về đến anh đã báo cáo với tổ trưởng. Đó là cái mặc cảm và nỗi chán chường đầu tiên anh gặp khi trở về với cuộc sống đời thường.

Mỗi tuần anh đều phải ra trình diện ở phường. Đi đâu cũng phải báo cáo. Sau 3 tháng kể từ ngày trở về, họ tổ chức họp dân bắt mấy anh đi cải tạo về làm bản kiểm điểm tự phê và cam kết. Sau khi các anh đã đọc bản kiểm điểm về những tội lỗi của mình cho dù có nhiều người không biết là tội gì? Họ nhân danh nhân dân trao trả quyền công dân cho các anh.

Về tinh thần đã như vậy, chúng tôi còn phải đối diện với cuộc sống đầy khó khăn, anh đã xin đi kéo xe bò chở vật liệu cho những công trình xây dựng. Sau một ngày lao động vất vã, buổi chiều trở về trông anh phờ phạc rã rời, anh càng ngày càng đen đúa gầy rộc trông thật tội nghiệp.

Do điều kiện kinh tế ngày một khó khăn và lầm tưởng chính sách đi vùng kinh tế mới là một giải pháp tốt đẹp, thêm vào những tác động mọi mặt về tinh thần trong đó có ông phường trưởng phường chúng tôi đang ở phường Hải Châu khi mới từ miền Bắc về ông ta tá túc nhà người em cạnh nhà tôi, đã nhận ba tôi là bà con cùng tộc họ nhau ở Bảo An. Ông bảo “Đi vô vùng kinh tế mới là một nhận định đúng đắn, bởi Nhà nước rất quan tâm, trong tương lai sẽ trở thành những vùng trọng điểm về mọi mặt". Bản chất thật thà ba tôi cả tin vào những lời của người đồng hương đã bán cho ông gian nhà với giá rẻ mạt (sau này mới vỡ lẽ thì ra đó là ý đồ ông muốn mua lại nhà của ba tôi). Ba tôi để lại nhà nhỏ phía sau cho mẹ và 2 đứa em nhỏ, còn ba tôi theo lời mách bảo của 1 người quen trên Phương Lâm thuộc huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai, sang lại mấy ngàn m2 đất mặt tiền đường đi Lâm Đồng.

Bị áp lực từ nhiều phía của cuộc sống tôi cũng xin nghỉ phép cùng anh Mân làm chuyến xuống Phương Lâm để xem có định cư được ở đây không. Miếng đất ba tôi mua rất rộng, phía sau là núi rừng bao phủ. Vườn rất nhiều bơ, xoài, mãng cầu, chôm chôm. Dọc hàng rào là sắn cây nào cũng bự chảng. Ở vùng này duy nhất vườn tôi mới có 1 cái giếng. Ở đây mỗi năm người canh tác 1 vụ vào mùa mưa, mùa nắng thiếu nước không trồng cây gì được. Đất ở đây xốp và ba tôi nhổ thử một cây đậu phụng hột lon sữa bò, còn cây sắn củ cân nặng gần 10kg.

Ba tôi che tạm một cái nhà bằng lá vách trét bằng đất sình, chợ cách khoảng 1km.

Lúc chúng tôi lên đây vào mùa mưa. Đêm đầu tiên nghe mưa trút từ trên núi xuống ầm ầm, không khỏi kinh hoàng có cảm tưởng cái nhà như bị nước cuốn phăng đi.

Chúng tôi ở đây khoảng 1 tuần cũng nghĩ định cư tại đây trong tương lai, nhưng khi nghe người dân trong vùng kể về những đêm (một nhóm người dân tộc ly khai) về bắt đàn ông, con trai lên rừng theo họ, ai chống đối thì họ giết, chúng tôi nghe tình hình như thế thấy không ổn nên từ bỏ ý định ở lại lập nghiệp. Tội nghiệp ba tôi đành nhượng lại đất với giá rẻ.

Trong giai đoạn gian khổ và khó khăn thế này, tôi lại mang thai đứa con thứ hai. Từ nhà đến chỗ làm việc cách 2km, ngày tôi đi bộ 2 vòng, buổi trưa ở lại. Cùng làm việc với tôi có cô Hồng (chồng là sĩ quan cảnh sát đi cải tạo chưa về đồng cảnh ngộ nên 2 chị em rất thông cảm).

Một buổi chiều Hồng từ ngoài đi bảo: “Ông Lễ (phó phòng tổ chức NH thành phố) ngủ trên lầu bỏ quên cái ví trong phòng vệ sinh, xuống tìm lại không thấy, ông nghi chị (vì hồi nảy tôi mới vừa vào phòng vệ sinh)”. Đây là lần đầu tiên tôi bị xúc phạm. Suốt mấy ngày liền tôi buồn rầu nghĩ vẫn vơ nhưng không có cách gì thanh minh được. Khoảng 3, 4 ngày sau, Hồng được tin họ đã tìm ra thủ phạm, đó là con bé giữ con bà Dung (cũng cán bộ) đã lấy hết tiền, trong lúc lén đem ví bỏ lại phòng vệ sinh thì bị tóm.

Những ngày sau đó, mỗi lần giáp mặt với ông Lê tôi cố gắng tìm trên nét mặt ông có biểu lộ một chút hối hận nào về sự nghĩ sai cho người khác không? Nhưng tuyệt nhiên tôi không tìm thấy gì ngoài bộ mặt căng căng. Thế đấy đó là cách xử sự của cấp lãnh đạo đối với thuộc cấp, họ không có đủ dũng cảm để sửa sai. Tôi thật nghi ngờ về đạo đức CM của những người này? Bây giờ là thời của kẻ chiến thắng, họ áp dụng luật rừng mạnh được yếu thua, toàn quyền phán xét không có tính nhân bản.

Với tâm trạng không thoải mái và đi bộ nhiều, tôi sinh đứa con thứ 2 bị thiếu tháng (mới 8 tháng rưỡi) chỉ cân nặng 2kg50 vào ngày 1/10 âm lịch năm Đinh Tỵ tức ngày 27/10/1977, tuy vậy Tăng Thiên Vũ (tên cháu bé) cũng ngày càng kháu khỉnh, nước da trắng, môi đỏ duy chỉ cặp mắt là buồn và luôn mọng nước. Lần sinh này tôi vào bệnh viện đa khoa cũng nhờ chị Anh (Chị anh Mân) đỡ nên mẹ tròn con vuông cũng mừng. Sau này Thiên Vũ còn có một tên nữa là Susu do chị Đường, chị anh Mân đặt và bảo: “trông nó ngon như Suflein)

Chúng tôi phải xin ở tạm nhà chị Anh chờ chuyển hộ khẩu, vì nhà ba mẹ tôi người ta đã dọn đến. Khu vực này từ đường vào đầu tiên là nhà chị Anh, rồi chị Thắm, anh Lương cả 4 nhà đều là anh của trú tại đây còn có mẹ của anh Mân nữa. Ngân hàng lại phân công tôi về làm tiết kiệm tại trụ sở Trung Việt Ngân hàng cũ (đến gần tới bến xe Vĩnh Trung đường Lý Thái Tổ). Ở đây lượng công việc gấp 5 lần chỗ cũ, riêng người gởi tiết kiệm đã lên đến 4,5 ngàn họ bố trí thêm 1 kế toán nữa.

Một ngày thật bất ngờ Nhà nước tiến hành đổi tiền. Từ 4 giờ sáng, tất cả mọi phương tiện truyền thống đều đưa tin về việc đổi tiền, mỗi hộ chỉ đổi được ?

Giá trị của đồng tiền giải phóng cao gấp mấy lần đồng tiền cũ. Tất cả mọi người đều phập phồng lo sợ, bao nhiêu người đã đem những bao tiền đổ xuống sông, xuống biển như đổ cả mồ hôi và nước mắt đi. Sau vụ đổi tiền có nhiều người điên đảo vì khánh kiệt, cuộc sống càng kham khổ thêm. Nhà nước đã bần cùng hóa nhân dân.

Chúng tôi làm việc trong không khí khẩn trương dưới sự giám sát của công an. Để tiện việc đổi tiền nhanh và tránh khả năng thất thoát, ngân hàng toàn đổi bạc 50đ (là đơn vị tiền lớn nhất bây giờ) ngoại trừ tiền lẻ, cho nên khi lưu hành trên thị trường đã xảy ra rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt dân chúng, nhiều người chỉ mua một món hàng nhỏ, phải cầm tờ 50đ đi đổi quanh.

Một hôm anh Mân lên phường Hải châu II (nơi đăng ký hộ khẩu của gia đình ba mẹ và gia đình tôi) xin xuất hộ khẩu về phường Thạnh Than (chỗ ở hiện giờ) nơi này đã đồng ý cho chúng tôi nhập hộ khẩu thì được ông Đại úy Trưởng công an phường phê cho 1 cái giấy trong đó ghi “Được sự đồng ý của nhân dân, gia đình anh Tăng Thiên Mân, nguyên đại úy của chính quyền cũ, phải rời khỏi thành phố đi xây dựng quê hương ở vùng Kinh tế mới do nhà nước chỉ định hoặc tự túc. Lệnh nầy có hiệu lực kể từ ngày ký cho đến 3 tháng phải thi hành nếu không sẽ xử theo pháp luật hiện hành".

Gia đình tôi lại một phen đảo lộn, điêu đứng. Người ta lại nhân danh nhân dân để đẩy những phần tử như chúng tôi đi càng xa thành phố càng tốt, tránh mọi sự bất trắc, phản động có thể xảy ra, chúng tôi hiểu đây là lệnh có tính cưỡng bách, không thể không thi hành.

Sau khi mấy anh chị em họp bàn luận đi đến một giải pháp: Anh Mân sẽ đi một chuyến vào Nam, đến địa chỉ chị Cương (chị ruột của anh) ở huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang, gia đình chị đang sinh sống ở đấy xem sao.

Tôi gom góp một ít tiền vàng còn lại cộng thêm mẹ anh cho 2 chỉ và ba mẹ tôi cho chỉ đưa cho anh vào lo công việc.

Sau hơn nửa tháng anh trở về với cái giấy nhập hộ khẩu vào những địa danh lạ hoắc là : Khối Mỹ Thạnh A, xã Long Tiên, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (cách Sài Gòn 100Km) anh bảo thị trấn Cai Lậy (chỗ chị Cương đang sống) không cho thành phần chúng tôi nhập hộ khẩu. Có xã vùng xa dân cư thưa thớt họ mới nhận. Trong một thời gian ngắn mà giá trị con người chúng tôi bỗng dưng bị hạ thấp đến vậy. Xem chúng tôi như những phần tử bất hảo trong xã hội. Trong nỗi đắng cay tột cùng chúng tôi chỉ biết nhìn nhau lặng lẽ.

Anh cho biết đã mua 300m2 đất do người ta khai phá thành vườn bán lại.

Tôi tiến hành lo thủ tục làm đơn xin nghỉ, bạn bè và những người có kinh nghiệm đều an ủi. Họ bảo hãy để anh Mân đi một mình một thời gian tình hình hết căng thẳng rồi về chứ mang 2 đứa con còn nhỏ dại biết trong đó  khí hậu đất đai có lành không? Tôi thật rối rắm cứ suy nghĩ: Anh Mân bây giờ mọi thứ đều mất hết: Tiền tài, danh vọng chỉ còn một chỗ dựa là gia đình, nếu để anh bơ vơ một mình nơi xứ lạ, chắc anh sẽ buồn và mặc cảm lắm. Tôi không đành!

Trong quá trình làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, tôi đã hoàn thành công việc không có gì sai sót. Cho nên nhìn từ góc độ đó, khi nghe tin tôi nghỉ việc, từ thủ trưởng đến cán bộ và nhân viên cũng có nhiều người nuối tiếc.

Một buổi chiều, tôi lặng lẽ đi dọc sông Hàn nhìn những cảnh tượng quen thuộc, để rồi mai đây sẽ không còn nhìn được nữa. Giòng sông vẫn êm ả xuôi giòng. Những tán bàng xòa nón che rợp, tôi ngồi xuống ghế đá mát lạnh nhìn nhà hàng Kim Đình nổi bập bềnh trên sông nước xa xa là dãy Sơn Trà mây phủ mù sương, trên trời mây xanh lững lờ trôi, gió mơn man lạnh. Thì ra thu đã về. Nước vẫn vô tình trôi mặc cho vài con đò cô đơn tách bến. Lòng tôi thì chan chứa biết bao nổi niềm của một kẻ sắp ly hương, quê hương ơi!.

Lần đầu khi vào Nha Trang, tôi xa quê trong tâm trạng háo hức của tuổi trẻ muốn biết những phương trời xa và cũng muốn tự lập để tự khẳng định mình. 

Còn lần này tôi ra đi với tâm trạng bị bắt buộc, bị xua đuổi chính ngay trên quê hương chôn nhau cắt rốn của mình và linh tính báo cho tôi biết có thể là mãi mãi.

Tôi rời xa quê vào một ngày cuối tháng 7 âm lịch, trời thì cứ mưa rả rích, mưa tháng bảy mưa ngâu. Lúc ấy Thiên Nhân 4 tuổi, còn Thiên Vũ 9 tháng.

Tiễn chúng tôi lên đường ngoài gia đình anh Mân còn có Nở và Dung 2 người bạn thân, còn ba mẹ tôi sợ cảnh chia ly nên không đến. Tội nghiệp nội mấy đứa khóc nức nở, các anh chị và chúng tôi trấn an là sẽ về trong nay mai. Nhưng đâu ngờ đây là lần cuối cùng được gần mẹ. Khi bước chân tới đây tôi biết là đã bắt đầu cuộc đời trôi dạt từ đây. Giơ tay vẫy những người thân, nước mắt tôi chợt ào ra, tim nghe như nhói đau như muốn vỡ khỏi lồng ngực. Đám trẻ thì tươi cười, háo hức. Chúng đâu biết bắt đầu một cuộc đời vô định.

Ngang qua cầu đỏ, nhìn giòng sông Cẩm Lệ hiền hòa, êm đềm trôi giữa hai hàng lau lách, rồi lặng câm. Tôi buồn bã ngắm nhìn quê hương càng ngày càng lùi xa dần với biết bao tâm trạng ngổn ngang.

Sau 2 ngày 1 đêm xe đưa chúng tôi vào Sàigòn, thủ đô của miền Nam phồn hoa đô hội là thế nay trông cũng hoang tàn. Đường sá khi trước ồn ào nhộn nhịp người xe, bây giờ trông vắng ngắt, hàng hóa dọc đường lúc trước tấp nập nay đã đóng cửa gần hết. Bất chợt gợi cho tôi nghĩ đến bài thơ “Trăng Long Thành hoài cổ” của bà Huyện Thanh Quan .

Tạo hóa gây chi cuộc hý trường

Đến nay thấm thoát mấy tinh sương

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Nước còn cau mặt với tang thương

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ

Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường.

“Luống đoạn trường” lòng tôi cũng đang đau thắt từng cơn, khi nhớ lại cảnh Sài Gòn xưa với người xe đi như trẫy hội và hàng hóa thì chất ngất: “Tạo hóa gây chi cuộc hý trường”

Chúng tôi ghé về nhà Xê (em tôi) ở tại đường vào cư xá Thanh Đa, cách Đài liệt sĩ khoảng hơn 1 Km, gia đình Xê gồm có 2 vợ chồng và 2 đứa con: Lộc con trai bằng tuổi Tinô và bé Trúc thua 1 tuổi. Ở chung với gia đình Xê còn có gia đình người em là Phương và Xaung có 1 con gái tên Thục Quyên bằng tuổi.

Căn hộ không rộng lắm nhưng đất còn bên hông trồng cây ăn trái.

Gia đình các em đang sống bằng nghề buôn bán giấy. Phượng (chồng Xang) đang làm cho 1 tổ hợp gia đình chị Bân ở đường Nguyễn Duy, Khánh các nhà Xê khoảng 2km. Chị Bân có con gái đầu là Bé Dung, còn 3 trai là : Cầm, Kỳ, Thơ, gia đình chị Bân cũng còn khá giả, đang ở trong một căn nhà lầu, đầy đủ tiện nghi hoặc máy nước nóng lạnh, điện thoại, tính ra những tiện nghi mà vào thời điểm đó rất ít nhà có được.

Sau khi ở lại Sài gòn chơi vài hôm, anh Mân lên Long Tiên lo làm nhà. Một tuần sau anh lên rước mẹ con tôi về.

Rời khỏi Sài Gòn, đến vùng ngoại ô của thành phố, tôi bắt đầu nhìn thấy những cánh đồng mênh mông, bất tận, thẳng cánh cò bay 2 bên sông. Qua khỏi Cần Giờ, Long An đến Trung An, rồi Nhị Bình, Nhị Quý với những vườn cây trái xanh ngắt sum sê.

Đến Cai Lậy, nơi có gia đình chị Cương chúng tôi ghé vào thăm và ở lại 1 đêm.

Nhìn chị Cương và anh Chung, tôi không khỏi ngạc nhiên, với lối ăn mặc rặt những người dân Nam bộ, chị mặc bộ đồ bà ba, còn anh chỉ mặc độc một chiếc quần đùi với tay chân đen. Ai ngờ được khi xưa chị là tiểu thư khuê cát, còn anh là trưởng đoàn văn nghệ. Gia đình chị có 2 người con: 2 trai, 2 gái. Nga con gái đầu có gia đình tại Đà Nẵng, Son con trai đầu có gia đình ở Mỹ – còn Lâm và Mai ở với anh chị. Anh Chung Đại úy của chính quyền cũ nhưng đã giải ngũ trước 1975 nên không bị đi cải tạo. Hiện anh đang sống nhờ vào quán hàng tạp hóa, nuôi thêm bò và mấy công ruộng.

Sáng hôm sau, chúng tôi từ giã anh chị về nhà ở xã Long Tiên cách Cai Lậy 8 Km. Tôi lên xe theo con đường đất đỏ bên phải là ruộng mênh mông với vườn cây ăn trái xanh rì, còn bên trái là con kênh xanh dọc theo dưới chảy vòng vèo qua thôn xóm, với những mái nhà lợp bằng lá dừa nước, đặc sản của miền Tây Nam Bộ.

Tôi sững người khi nhìn thấy căn nhà mới phải gọi đó là một túp lều thì đúng hơn. Một túp lều bằng lá dừa, nền đất vách cũng bằng đất chạy bao bọc chung quanh vườn là những con mương. Tôi lúng túng không biết phải qua cầu vào nhà bằng cách nào khi chiếc cầu chỉ là cây so đũa to bằng bắp chân người bình thường vắt qua mương không có tay cầm. Các trẻ thơ và người địa phương nhìn tôi cười. Đó là khó khăn đầu tiên tôi vấp phải khi cố vượt qua cầu để hòa nhập vào cuộc đời mới đang chờ gia đình tôi ở phía trước đúng là: “đoạn trường có thấu, qua cầu mới hay” .

Đêm ấy tôi ngủ trong mơ mơ, màng màng với những thực hư lẫn lộn. Cuộc đời quá khứ đã thuộc vào hư vô rồi. Còn hiện tại, tôi đang nằm trong túp lều lá, nghe tiếng côn trùng rên rỉ tiếng tắc kè đâu đây thật cô đơn lạc lõng, ngoài vườn cây lá xào xạc, nhìn ra chỉ thấy một màu đêm tối đen như chính cuộc đời của tôi bây giờ vậy.

Tôi thiếp đi trong mệt mỏi, khi tỉnh dậy cứ ngỡ mình còn ở nhà với ba mẹ đến khi tay chạm vào vách lá mới hay.

Giấc Nam Kha khéo bất bình

Bừng con mắt dậy thấy mình tay không .

Sáng hôm sau thức dậy tôi mới xác định rằng mình đã bắt đầu một ngày mới, trong một túp lều mới ở một địa danh mới cách quê hơn cả ngàn cây số với một cuộc đời mới. Tôi nhìn 2 đứa con trẻ vô tư còn đang thiêm thiếp mà thấy xót lòng. Tương lai nào dành cho chúng đây?

Thế đấy thời cuộc đã đẩy chúng tôi xuống tận cùng bằng số, giờ đây không nghề nghiệp, không tiền bạc. Nhiều đêm nằm cứ nghĩ về vận nước, vận mình mà lòng cứ mang mang không ngủ được.

Vườn nhà tôi rất nhiều cây: mãng cầu, mận, mít, xoài, vú sữa. Trồng dọc theo mé mương là những hàng dừa, chỉ có chuối đã chõ quả còn những loại kia chưa có quả.

Sau khi làm 1 chầu ra mắt địa phương theo sự chỉ dẫn của anh Năm Mùng, người chủ bán đất cũng là người đồng hương quê ở Duy Xuyên – Quãng Nam) chúng tô còn đúng 50đ,.

Để giải quyết cái ăn, anh Mân đi suốt lúa mướn bằng máy đạp chân (do Thành chồng Xự thiết kế tặng) .

Vào một buổi khoảng 8g sáng, tôi thấy anh hớt hải chạy về, đau đớn vật vã lăn lộn trên giường trong khi ôm lúa bị con gì cắn, bàn tay đã sưng lên đau không chịu nổi. Tôi hoảng hốát chạy khắp hỏi han những người hàng xóm. Có người bảo coi chừng bị rắn độc cắn thì tiêu đời, tôi càng hãi hùng. Có người bày tìm mục măng gai nhai nhỏ giã đắp vào chỗ bị cắn. Nghe vậy tôi tìm bụi tre gai trước nhà cố gắng chặt cho được một mắt cho gai đâm xước khắp người mà không thấy đau đớn gì. Mãi thấy anh chẳng thuyên giảm tôi lại chạy tìm anh Năm Mừng nhờ kiếm dùm thầy trị rắn cắn. Một hồi lâu ông thầy đến xem bảo là do rết rất lớn cắn. Ông chỉ 2 dấu như kim đâm cách nhau 1 lóng tay. Ông cho thuốc thoa nhưng bảo phải đúng cử (đúng thời hạn) thì mới khỏi đến khoảng 13g trưa thì cơn đau mới dịu dần. Hú hồn!

Anh Mân lại tiếp tục đi suốt lúa để kiếm gạo ăn, tôi ở nhà trông con và trồng một ít rau.

Mỗi buổi chiều đi làm về thấy anh phờ phạc đen đủi vì phải phơi nắng cả ngày ngoài ruộng, tôi thật xót xa.

Anh đi làm được 15 ngày thì tiểu ra máu vì công việc quá sức anh, đành phải nghỉ chỉ cho mướn máy.

Thực phẩm của chúng tôi còn được một ít của chị Bân, Xê và chị Cương viện trợ bột mì, bo bo, mì sợi và gạo. Tuy rằng những thực phẩm này chắc đã quá hạn, hôi, mùi ẩm mốc nhưng dù sao cũng giúp qua cơn đói. Tôi rán thu vén dành dụm ăn theo tiêu chuẩn. Tội nghiệp Tinô cứ bảo sao hồi ở ông bà ngoại mẹ cứ ép con ăn. Bây giờ con đói mẹ lại chẳng cho con ăn. Biết nói thế nào với con trẻ.

Bột mì hết làm bánh bèo đến bánh canh, bo bo hầm giống bắp và mì sợi luộc ăn với nước mắm, canh thì chế biến từ cải tàu bay, bông so đũa với mì chính (tiêu chuẩn hồi làm ngân hàng còn) hòa với nước sôi, không hề biết đến miếng thịt miếng mỡ ăn toàn cá đồng nhỏ không gia vị, hôi mùi rong rêu rất khó ăn nhưng cũng tạm qua ngày.

Anh Mân bắt đầu ra vườn cuốc đất trồng một ít cà tím, cà trắng rau cải để cải thiện đời sống. Những lần cuốc đất đầu chưa quen, anh đều cuốc nhầm vào ngón chân cái.

Bây giờ là tháng 9 âm lịch, mùa mưa vào đỉnh điểm, những cơn mưa ào ào, xối xả nhưng không dai dẳng như mưa ở miền Trung. Đường sá thì lầy lội vì đất ở đây giống như đất thịt mỗi lần ra ngoài dính dép chọp chẹp. Ở đây người ta rất ít đi giày dép, chỉ trừ khi sắp lên giường đi ngủ họ mới rửa chân đi dép. Tôi chứng kiến cảnh đám cưới giữa ngày mưa, cô dâu đã phải cuộn áo cưới, xăn quần xách giày, còn chú rể thì quần xoắn lên tận đầu gối xách giày trông thật buồn cười.

Ở đây vấn đề vệ sinh cũng thật phức tạp, người ta làm hầm nuôi cá tra dọc theo con kênh nên gác 2 cây so đũa làm chỗ đi vệ sinh, chung quanh che chắn bằng những tấm lá dừa chỉ cao ngang cổ, mặt quay ra đường, nên mỗi lần vệ sinh ai cũng đều nhìn thấy. Ở đây người ta xem đấy là chuyện bình thường. Có người vừa vệ sinh vừa chuyện trò với người đứng ngoài vui vẻ tự nhiên. Tôi thật xấu hổ nên luôn chờ chiều tối mới dám đi.

Còn nước ăn uống phải chờ khi nước lớn xách dưới mương lên lóng phèn cho trong mới dùng được, nước ở đây hầu hết đục ngầu phù sa, giếng thì bị nhiễm phèn đỏ lòm nên không ai đào giếng. Những nhà khá giả họ mua lu hàng loạt chứa nước mưa dự trữ uống quanh năm.

Về ngôn ngữ, chúng tôi cũng bị trục trặc với một ít từ đặc biệt của địa phương. Ví dụ cái giỏ đi chợ người ta gọi là cái tụng, cho nên có người hỏi mượn cái tụng, tôi nghĩ hoài không ra, đến khi họ chỉ cái giỏ mới hay, còn cái mùng thì họ gọi cái màn, cho nên chúng tôi hay hát đùa “Quê hương ta cái mùng mà kêu cái màn” còn từ r người ta phát âm thành g. Chúng tôi gọi đùa : “đi ga guộng, lấy cái gỗ dựng con cá gô.”...

Lại còn những cái tên cho người thì thật ấn tượng: nào Hai Hèm, Bảy Sả, Năm Cu. Nhiều khi nói lên thấy ngượng mồm mà họ cứ tuồn tuột.

Sau những ngày mưa xối xả không ngớt, sáng thức dậy đã thấy nước vào sân. Rồi ngày hôm sau nước đã vào nhà. Những ông bà lão ở đây bảo từ cha sinh mẹ đẻ chưa từng thấy bao giờ. Một hiện tượng thật kỳ quặc. Đúng là thời mạt vận của mình. Chúng tôi nhờ người kê giường, kê đồ đạc. Chỉ trừ khi ngủ mới lên giường, còn không thì lội nước suốt.

Một buổi tôi đang ngồi trên ghế nấu cơm, 2 chân dưới nước bỗng thấy một con rắn bò vào, tôi sợ quá tót lên giường. Thật khủng khiếp khi thấy rắn lục bò qua cửa sổ, nằm trên trần nhà bắt chuột, cứ lâu lâu lại nghe có người bị rắn cắn chết, tôi thật hãi hùng nhưng cũng phải tự trấn an vì đã cùng đường rồi.

Sinh nhật của Thiên Vũ đúng vào ngày nước lụt lớn nhất (27/10/1978).. Tôi cùng Mân làm một mâm cơm cúng. Thật tội nghiệp cho con.

Mưa to liên tục trong mấy hôm vừa rồi mới ngưng, nhưng nước rút chậm, vì biển ở rất xa hệ thống kênh rạch chằng chịt lại thêm đất sét, nên trông chờ nước rút hằng ngày thấy thật lâu. Mặt trời lên, dưới nước bốc lên toàn mùi hôi thối của rác rưỡi, xác súc vật chết trôi về thật khó chịu, lại thêm dầm nước lụt anh Mân và tôi về vải muốn nhuốm màu. Thiên Vũ bị sốt và ho, ở đây lại không một trạm y tế nào cả. Tôi thật lo sợ. Nhưng cũng may trước khi vào đây tôi đã nhờ chú mua dùm một ít thuốc dự trữ (hồi đó thuốc rất hiếm phải có giấy của BS bệnh viện) nhờ kinh nghiệm của chị Anh (chị anh Mân làm nữ hộ sinh) chỉ dẫn thêm kinh nghiệm nuôi con hồi bé, tôi nghi ngờ Thiên Vũ bị viêm phế quản, khi áp tai sau lưng nghe nó thở rào rào. Tôi đã dùng thuốc kháng sinh và paracetamone để tự chữa cho con. Ơn trời khoảng 1 tuần liền sau đó khỏi bệnh, hàng xóm biết chuyện từ đó ai nhức đầu, sổ mũi, đau bụng, đều đến tôi xin thuốc. Người dân quê ở đây sẵn có thể lực tốt, lại chưa bao giờ dùng thuốc Tây cho nên uống vào là có hiệu nghiệm ngay. Tôi còn nhớ một lần tôi làm thầy thuốc bất đắc dĩ: vào khoảng 1-2g sáng, chị Ba Tèo kêu cửa bảo thằng út nóng quá giật tay chân tôi chạy qua kẹp mạch thì thấy hơn 39oC tôi nhét vào đít nó một viên thuốc hạ sốt rồi bảo chị quậy nước chanh cho nó uống, khoảng nửa giờ sau nó hạ sốt, chị mừng quá cảm ơn rối rít. Sáng hôm sau chị chở lên trạm xá ở Cai Lậy, người ta bảo khi hôm qua không nhét thuốc chắc thằng nhỏ bị liệt rồi. Từ đó hễ đau gì người ta cũng đều đến tôi. Riêng tôi sau ca cấp cứu đó tôi thấy mình gan cùng cực và tự hứa với mình xin chừa. Chỉ trừ nhức đầu sổ mũi không thì tôi mới đưa thuốc, còn không thì từ chối.

Một tháng sau nước vẫn chưa rút hẳn, chúng tôi bàn nhau không thể ở mãi như thế này vì tiền đã gần cạn, lại sống trong môi trường ô nhiễm: Ăn uống, vệ sinh cùng một nguồn nước. Hàng ngày nhìn những súc vật chết từ đâu trôi về cùng rác rưỡi bốc mùi hôi thối, chung quanh là một biển nước mênh mông không còn thấy ruộng vườn.

Chúng tôi quyết định gởi nhà cho anh Năm Mùng rồi bồng bế nhau lên thành phố.

Gia đình Xê hiện giờ làm ăn có vẻ khấm khá hơn, còn gia đình chị Bân có vẻ suy sụp.

Chúng tôi đến thăm gia đình anh Tài (anh của anh Mân) ở làng báo chí tại Thủ Đức, vợ chồng anh Tài đều tốt nghiệp khóa điện ảnh đầu tiên, đã làm việc tại trung tâm điện ảnh quốc gia Sài Gòn trước giải phóng. Hiện anh vẫn còn làm việc tại Cục điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ đã nghỉ, gia đình anh không bị ảnh hưởng bởi thời cuộc bao nhiêu, nên nhà cửa vẫn còn khang trang. Anh chị có hai trai và một gái nghe chúng tôi chạy lụt, anh chị viện trợ cho chúng tôi một ít thực phẩm.

Chúng tôi tá túc tại nhà Xê, gặp lại dì Hằng (anh em cô cậu với ba tôi) chồng dì là Thiếu Tá của chế độ cũ đi cải tạo tận miền Bắc, trong 1 lần lên rừng đốn gỗ, lội qua suối gặp mùa nước lớn đã bị nước cuốn đi mất tích, để lại cho dì 4 đứa con (3 trai – 1 gái). Trước kia dì là y tá bệnh viện đa khoa Đà Nẵng, nhờ ông chú chống “Cách mạng” đem vào phụ trách về y tế cho nhà máy Thủy Tinh tại Sài Gòn. Ngoài giờ làm việc dì phải đi chích thuốc kiếm thêm tiền để nuôi con. Mấy đứa con của dì ngoài giờ học ở trường phải chạy theo tàu bán bánh mì (nhà dì gần ga Bình Triệu). Dì kể nhiều khi mệt quá thêm mấy đứa con cải cọ đánh nhau dì hăm sẽ có ngày nấu cháo bỏ thuốc chuột vào ăn chết hết cho khỏe. Một hôm cậu Thống anh dì ở Đà Nẵng vào thăm, dì bắt con gà nấu cháo đãi khách khi dọn lên chả đứa  nào dám ăn cả. Cậu Thống hỏi tại sao. Bọn nhỏ trả lời: “má hăm bỏ thuốc chuột vào nồi cháo nên không đứa nào dám ăn cả”, có mấy ngày dì bị bệnh, sốt mê man. Thằng Nhân anh đầu chạy vào lay dì khóc: “ Má ơi! Má có chết nhớ để lại sổ hộ khẩu cho anh em con mua gạo ăn nhe má", tôi nghe kể mà cười ra nước mắt và thầm phục dì, người đàn bà đầy bản lĩnh mới vượt qua khỏi bao nỗi nhọc nhằn và đau khổ của cuộc đời này. Tôi dù sao cũng còn có anh Mân để chia sẻ. Từ đó không nói ra nhưng lúc nào tôi cũng tôn trọng và mến thương dì.

Sau khi nước rút, chúng tôi lại bồng bế nhau trở về nhà, gia đình anh Tài, chị Bên và Xê đã hỗ trợ một ít tiền và thực phẩm.

Trên đường về nhìn 2 bên đường những hàng cây ăn quả xanh um trước kia, đã biến thành màu vàng vì ngâm trong nước quá lâu. Ruộng đồng với hàng loạt những cây lúa nằm quặt quẹo bê bết sình lầy. Khung cảnh thật hoang tàn.

Bùn ngập từ ngoài đường vào nhà, lầy lội nhếch nhác và trơn trợt, nhìn cây cối héo úa tàn rũ sắp chết. Đâu đâu cũng thấy một màu thê lương ảm đạm, thật không khỏi xót lòng. Vào nhà mới hay ăn trộm đã cuổm hết mùng mền từ Đà Nẵng đem vào. Nghèo lại gặp eo.

Tino và Susu suốt ngày ngồi trên giường, chúng tôi tìm cây lót từ sàn vào đi cho đỡ trơn trợt. Cá và tôm theo nước lũ biển hồ Campuchia tràn về vô số kể nên giá rất rẻ, có ngày chúng tôi ăn độn tôm mà gạo lại thiếu, lũ về làm mùa màng hư hại hết. Những đồng lúa mênh mông chưa kịp gặt đã bị lũ cuốn trôi, hoa màu không trồng được. Lũ đã gây kinh hoàng cho hầu hết các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Bây giờ người ta phải chờ nước rút hết mới gieo sạ lại. Máy suốt lúa của chúng tôi đành bỏ không. Hàng ngày chúng tôi chi tiêu hạn chế trong 2đ tiến hành trồng rau, trồng cà. Có thời gian vì ăn cá nhiều quá làm Susu bú mẹ bị ảnh hưởng đã mọc chốc lở cả người, thật tội nghiệp.

Trong cơn khốn khó như vậy thì Tết lại đến.

Chúng tôi đón cái Tết đầu tiên nơi xứ lạ quê người, với vài thứ quà bánh tráng, mứt của chị Cương cho.

Đêm giao thừa ngồi đối mặt với ngọn đèn dầu leo lắt, nghe pháo nổ đì đùng đây đó, tôi lại nhớ đến cái Tết ở quê nhà; Mẹ chuẩn bị một mâm hoa quả, bánh mứt. Đúng 12 giờ khuya ba đánh chuông, thắp nhang đèn. Trong giờ phút thiêng liêng của buổi giao mùa, trong tiếng chuông ngân vang cùng khói trầm hương lan tỏa, năm nào tôi cũng thấy lòng lâng lâng, nôn nao đến lạ. Đêm nay nơi đất khách quê người, tôi thắp 3 nén nhang vọng về quê hương với cõi lòng tan nát. Ba mẹ ơi!

Chúng tôi bàn ráng sống ở đây khoảng 2-3 tháng nữa, lương thực và tiền đã gần cạn. Không biết làm gì để sống. Ngay ở địa phương chỉ trừ một vài nhà khá giả còn lúa, hầu hết dân đói khổ đều tỏa đi khắp nơi để kiếm sống.

Trong cơn nguy biến anh Mân chợt chớ đến chị Tám (chị cùng cha khác mẹ) ở Đà Lạt đã bao lần nhắn anh nhưng chưa đi được. Anh bèn lên Đà Lạt xem sao?

Ngày về anh bảo hai vợ chồng chị Tám đang làm thủ tục đi Mỹ (con của anh chị du học ở Mỹ trước năm 1975) do con bảo lãnh. Anh chị đưa cho anh Mân một số tiền, cho thêm một số bát chén đĩa kiểu, một ít rượu dâu và mứt hồng do chị làm (anh chị ở Đà Lạt có mấy mẫu vườn trồng hồng).Đó là những thứ xa xỉ mà chúng tôi hưởng được sau bao ngày đói khổ.

Nghe tin gia đình chị Bân và Xê chuẩn bị vượt biên, anh Mân lên Sài Gòn gửi cho anh Tài đi và tiễn đưa. Trước khi đi anh Khởi đã trao cho anh Mân một ít tiền. Mấy hôm sau nghe tin chuyến đi bất thành, do bị chủ tàu mà mình mua lừa. Chuyến đi đó đã làm cho gia đình anh chị Bân xà Xê khánh kiệt.

Với số tiền chị Tám và anh Khởi cho, cùng số chén bát của mẹ, tôi và chị tám cho, tôi bán được 250đ, chúng tôi quyết định lên Sài Gòn tìm kế sinh nhai.

Tino đã đến tuổi vào lớp 1, chúng tôi nhờ anh chị Cương nuôi để đi học. Đêm đó nó cứ quấn quít xin theo, ôm con trong vòng tay mà lòng tôi đau thắt, nước mắt cứ trào ra. Tôi phải dối nó chỉ đi vài ngày rồi về. Đêm đó tôi cứ trằn trọc mãi bởi đây là lần đầu tiên phải xa con, không thể nào tả hết được nỗi niềm của một người người mẹ trước lúc chia tay đứa con yêu thơ dại. Sáng dậy chúng tôi ra xe thật sớm để tránh phải gặp mặt con.

Lên đến Sài Gòn chúng tôi mới hay tin Công an đã bắt anh Khởi về tội tổ chức vượt biên. Chị Bân bán nhà lớn ở đường Nguyễn Duy Khang mua lại một nhà nhỏ trong hẻm ở Hàng Xanh. Thời đó Xê đang làm thuốc lá Đà Lạt giả của nhà nước (thời bao cấp thuốc Lá Nhà nước ra có hạn nên khan hiếm) chúng tôi đến đây thì vừa lúc Xê có ý định về lại Đà Nẵng.

Trước khi về Đà Nẵng, Thời và Xê truyền nghề làm thuốc lại cho chúng tôi. Theo lời chỉ dẫn, anh Mẫn và tôi lên Chợ Lớn mua thuốc, giấy bao bì, nhãn hiệu tất cả đều là hàng lậu, hàng giả. Mỗi lần như vậy chúng tôi đều hồi hộp và lo sợ bị công an bắt. Vì quá bần cùng mới sinh ra gian lận. Nhiều lúc cảm thấy hổ thẹn và cứ nghĩ mình là tên tội phạm.

Chúng tôi làm việc trong phòng kín rũ màn cả ngày. Anh Mẫn thì tẩm thuốc, còn tôi phụ trách khâu vấn thuốc trên cái bàn làm bằng gỗ. Lần đầu vấn tôi cho ra những sản phẩm thật tệ, những điếu thuốc không đều, đầu nhỏ, đầu to. Khi thì lỏng, lúc thì chặt quá hút không ra khói. Nhưng với nỗ lực tìm cho mình con đường sống, dần dà sản phẩm cũng được hoàn chỉnh. Gay nhất là khâu bỏ thuốc, chiều lại anh Mân phải đạp xe ra tận Hóc Môn, Bà Điểm, những vùng ngoại ô xa thành phố vì sợ bị phát hiện thuốc giả. Khi họ chịu mua, lấy tiền xong thì vù thật lẹ. Có nhiều hôm đạp xe hàng mấy chục cây số, nhưng không bán được đồng nào vì họ phát hiện, cũng may là họ không báo công an.

Dì Hoằng cũng lấy thuốc giả của chúng tôi đi bỏ mối. Một buổi tối khoảng 22h đêm dì kêu cửa, bảo mai cố gắng làm cho dì 10 cây thuốc, số hàng hôm qua họ đã mua hết rồi., Thật tội nghiệp cho dì từ Bình Triệu đạp xe băng qua những con đường vắng với những ruộng mía tối om để báo tin. Chúng tôi cũng vô cùng mừng rỡ, thế là thức đêm và cả ngày hôm sau làm việc không ngơi nghỉ, cốt cho đủ số hàng để buổi chiều giao cho dì. Giao hàng cho dì xong chúng tôi vô cùng phấn khích, nghĩ rằng từ nay đã có mối bỏ hàng, anh Mân đỡ phải vất vã tìm kiếm thị trường. Đâu ngờ khoảng mấy tiếng đồng hồ sau, dì quay lại với số thuốc còn trên giỏ xe và gương mặt thì ỉu xìu. Dì bảo họ phát hiện thuốc giả, đã không mua còn trả lại số thuốc hôm qua. Chúng tôi cũng không hơn gì mặt người nào cũng méo xẹo. Dì chán nản bỏ luôn không lấy thuốc nữa. Chúng tôi cũng cố gắng tiêu thụ số thuốc còn lại rồi dẹp tiệm luôn. Cái gì giả dối chẳng bao giờ bền cả. Sau này tôi cứ mãi ray rứt về chuyện này.

Sau khi Thời và Xê dọn về Đà Nẵng. Ở lại đây còn lại gia đình Phương Xang và gia đình tôi. Thục Quyên cùng tuổi nên Susu cũng có bạn chơi, nó bấy giờ đã 2 tuổi, từ khi nhận thức được thấy gì cũng hỏi, thấy đèn điện và quạt máy nó trố mắt nhìn có vẻ xa lạ lắm.

Theo lời gởi gắm của dì Hoằng cho một bà quen bán giày dép ở đường Trương Minh Giảng (bà này có chồng là thiếu tá chế độ cũ đã chết, bạn với dượng của chồng dì) vợ chồng tôi chuyển nghề bán thuốc lá, trà đá gần hàng bà ấy. Ở đây người ta bày ra cái chợ trời bán đủ thứ: nào thuốc Tây, giày dép, quần áo, vải, phụ tùng xe.

Sáng ra, tôi nấu một ấm trà thật đầy, anh Mân chở xe đạp xuống dọn hàng gồm tủ thuốc lá nhỏ, 1 thùng đựng đá và mấy cái ly rồi trở về nhà với thằng Su.

Hồi đó 1 ly trà đá lớn 1 hào, không đá 50xu, ngày bán khoảng vài chục ly, mấy gói thuốc cũng gọi là tàm tạm. Những người buôn bán ở đây hầu hết bị ảnh hưởng của thời cuộc nên họ thấy tôi suốt ngày ngồi dang nắng ngoài trời không có dù che họ cũng ái ngại. Tôi thấy nhiều khi cũng nhức đầu, chóng mặt nhưng gượng mãi rồi cũng qua, chỉ sợ nhất là bị công an đuổi nếu không dọn kịp là bị tịch thu ngay.

Một buổi sáng mãi bán không để ý, công an đã ập đến đầu đường, tôi hoảng hồn dọn đại vào bến của một nhà lầu luôn đóng cửa. Sau đó bà chủ nhà trạc 60 tuổi mở cửa quét dọn và bảo tôi dọn nhà chỗ khác. Nghe giọng Quảng Nam tôi mừng thầm, năn nỉ bà cho tôi ngồi đỡ, công an đi tôi sẽ bưng ra. Thật bất ngờ chỉ nghe bà từ chối với lời lẽ cay độc: “Cô dọn đi, tưởng bán cái chi, chớ bán trà đá, thuốc lá ngồi trước mặt nhà người ta coi răng được”. Tự nhiên tôi thấy nghẹn ở cổ, thế mà từ lâu tôi vẫn nghĩ: những người giàu tiền giàu bạc chắc họ cũng giàu cả lòng nhân ái, sẵn sàng hào phóng lòng nhân vì những người có hoàn cảnh như tôi.

Chiều ấy anh Mân đến dọn hàng về thì gặp chồng của cô bán thuốc Tây, trước đây là lính của anh Mân tay bắt mặt mừng. Cô bán thuốc tây bảo tôi nên chuyển sang bán quần áo cũ có lời và gọn nhẹ, khi gặp Công an đuổi chỉ cần túm tấm ni lông hàng lại xách đi là xong. Tôi bảo không quen việc chào mời, tôi thật ngượng khi ai đi qua lại cũng hỏi mua, bán gì không? Cô ấy bảo: “Việc chào mời để tôi, hễ ai bán thuốc lá thì tôi mua, còn bán quần áo thì chị mua.” Cô ấy cũng chỉ cho tôi cách định giá các mặt hàng. Từ đấy tôi chuyển qua bán quần áo cũ.

Để có mặt hàng trưng bày, tôi phải đem mấy cái áo dài hồi còn đi làm và vài bộ đồ mới của Tino hồi còn bé. Hàng ngày trải một tấm nylon bày hàng trên đó, nhìn những kẻ qua người lại chào mời mua bán, những lần đầu tôi thật ngượng, nhưng riết rồi cũng quen. Ngoài việc mua bán quần áo cũ, tôi còn để ý xem cửa hàng nào bán vải hoặc quần áo là đến xếp hàng mua bán lại kiếm lời thêm chút đỉnh. Bán hàng này rất gọn, mỗi lần thấy công an chỉ cần cuộn tấm nylon lại và đi chỗ khác, chứ không cồng kềnh như bán trà đá, thuốc lá, mà lại có lời hơn.

Tôi bán thêm được mấy tháng thì có chiến dịch truy quét những người bán hàng vĩa hè gắt quá, đành nghỉ mấy ngày xem sao. Tôi gặp lại chị Mai (bạn chị Bân) chỉ cho tôi ra bán ở đường Hàm Nghi. Ở đó chị có quen 1 người là dì Tám, đang bán quần áo cũ tại đó.

Ngày hôm sau tôi ôm tấm nylon gói quần áo theo chị Mai và chị Bân ra đường Hàm Nghi, được chị giới thiệu với dì Tám tôi là em chị ra bán ở đây, có gì nhờ dì Tám giúp đỡ dùm. Dì Tám là người Sài Gòn, mặt mày phúc hậu tôi cũng yên tâm. Con đường này cũng bán đủ mặt hàng như ở Trương Minh Giảng, nhưng phức tạp hơn bởi những thành phần bất hảo thường tụ tập tại đây.

Tôi vừa bày hàng ra bán bên cạnh dì Tám, lập tức có 4 người đến xáo hàng, hỏi han đủ thứ. Tôi thấy dì Tám kêu họ nói gì đó, một lát họ tản mác hết. Dì Tám bảo tôi xem có mất gì không. Dì cho tôi biết ở đường này có bằng gia đình Bác Tám, từ vợ chồng đến con cháu đều chuyên ăn cắp đồ của người ta với thủ thuật là kéo đến 1 loạt mấy người xáo trộn tùm lum để nạn nhân khó kiểm soát được, rồi chuyển hàng cho đồng bọn. Hết hồn tôi nhìn lại chưa thấy mất gì hết. Họ sẽ hành nghề thì dì Tám nhận tôi là cháu dì mới ra bán nên họ bỏ đi, vì dì Tám bán ở đây đã lâu năm rồi nên họ cũng nể. (cũng có quý nhân giúp đỡ đấy chứ!)

Bây giờ tôi mới biết rõ hơn, con đường này tập trung toàn dân ma túy, trộm cắp, đĩ điếm. Thời đã thế thế thời phải thế. Dù không muốn chúng tôi cũng phải chung đụng với những con người của xã hội đen này. Hàng ngày phải chứng kiến những cảnh cướp giật, chém giết, đánh chửi nhau. Tôi thật hãi hùng. Đúng là địa ngục trần gian.

Một hôm có một thanh niên mặt mày tái mét, năn nỉ tôi mua dùm chiếc áo chemise đang mặc. Tôi bảo có mỗi cái áo em bán lấy gì mặc. Người đó trả lời đến cơn rồi chịu không nỗi, vừa nói anh vừa cởi phăng áo ra. Tôi khiếp đảm khi nhìn cả mình người đó đầy ghẻ lở loét. Tôi cúi đầu từ chối. Tôi thật ngao ngán đến tận cổ với cảm giác buồn nôn khi phải nhìn thấy những cảnh đời diễn ra chung quanh.

Trong cái thế giới phức tạp kinh dị như vậy tôi cũng tìm ra được một người bạn chưa bị đồng bộ hóa. Đó là vợ chồng anh Phước, gia đình anh có khách sạn ở Đà Lạt trước năm 1975. Sau khi giải phóng về bị đánh tư sản trắng tay, gửi con cho ông bà nội nuôi, lưu lạc xuống Sài Gòn kiếm sống. Anh mua bán phụ tùng xe đạp, còn chị bán giày dép và mũ nón cũ. Nhìn gương mặt của chị với đôi mắt to đen viền đôi hàng mi cong, nước da trắng kết hợp với mũi miệng trên gương mặt hài hòa, tôi nghĩ là người tốt. Thế là từ đấy chúng tôi ngồi gần nhau để hỗ trợ và tâm sự với nhau, hòng bớt nhìn thấy những cảnh đời ô trượt.

Cứ mỗi lần công an đuổi, 2 đứa lại cuốn gói chạy ra công viên ngồi hàng mấy giờ liền (ngày xưa công viên ghế đá nghe thơ mộng là thế) nhiều khi thấy tình hình căng thẳng quá lại lại xếp hàng mua đồ thương nghiệp. Chị thường cổ vũ tinh thần tôi. Kệ ráng cho qua cơn này đi, nhiều gia đình của cải không còn mà mạng người cũng tiêu, hoặc tụi mình ăn mặc xuềnh xoàng như vậy còn hơn khối đứa ăn mặc sang trọng, chứ bên trong thối rửa hết. Chị chỉ cho tôi nào con Dung lấy chồng họ mới bị tạt axít (hèn gì cứ thấy cô ấy quấn khăn che cổ). Rồi vợ chồng ngồi bán Radio Cassette là dân xã hội đen. Chúng tôi như những bông hoa súng ngoi lên giữa bùn lầy, nước đọng, cô đơn và lạc lõng. Lúc ấy tình hình an ninh còn chưa ổn định, những băng cướp giật lộng hành, chúng chia nhau hùng cứ từng chợ, nhưng chúng cũng kiềng mặt nhau. Không ai xâm lấn ai, theo châm ngôn : “nước sông không phạm nước giếng”.

Một hôm, tôi đi lên Chợ Tân Bình mua hàng nhờ chị Bân đi theo cầm xách hàng vì mua hàng cũ rất công phu sơ hở là lỗ vốn như chơi. Đang lúc loay hoay trả giá một món hàng, bỗng bị một đứa con gái xô ngã, còn đứa kia giật gói tiền. Trong cơn nguy khốn tôi bỗng nhớ lại lời dì Tám dặn: nếu có sự cố hãy nói: “Tao là dân Hàm Nghi đây” nó sẽ nể. Tôi cũng ráng làm ra vẻ dân giang hồ bảo: “Tao cũng là dân Hàm Nghi đây”. Lập tức chúng liệng lại ví tiền và bảo: “Xin lỗi chị em trả” Hú hồn, bao nhiêu vốn liếng đều nằm trong ví cả. Sau khi diễn xuất đạt, tôi như muốn xỉu, tay chân run bắn, lạnh ngắt, trống ngực đập loạn xạ vì vai diễn quá sức tôi, chị Bân phải đến dìu tôi ngồi xuống một hồi lâu mới tiếp tục đi mua hàng. Bây giờ nghĩ lại không ngờ mình đã có thời lăn lóc bụi đời đến thế.

Tình cờ một hôm dì Hoàng ghé lại, mới hay bây giờ dì đã dọn về nhà tập thể trong hẻm đường Trần Bình Trọng. Dì vẫn còn làm nhà máy thủy tinh, các em vẫn khỏe, nhưng cuộc sống còn cơ cực lắm. Từ đó mỗi lần chiều đi làm về dì hay ghé hỏi han. Thật tội nghiệp, trong cơn bỉ cực có những tấm lòng như vậy làm tôi cảm kích và được an ủi vô cùng.

Gặp những ngày công an vây bắt căng quá, chúng tôi cứ ôm hàng chạy hết công viên này đến công viên khác. Đến khi không còn bóng dáng công an thì trời sẩm tối. Hai vợ chồng đón xe buýt về, vừa xuống xe thì trời đổ mưa, chúng tôi trú vào một mái hiên. Nhìn mưa rơi, trong đêm tối lòng tôi lại trào dâng bao nỗi niềm: chợt nhớ Tino ở Cai Lậy không biết giờ này đang làm gì? Tội nghiệp mới tí tuổi đã phải xa cha mẹ. Rồi Susu giờ này chắc đang trông ngóng cha mẹ,. Lòng tôi lại thấy nôn nao nhưng trời mưa càng lúc càng dai dẳng. Hai vợ chồng bụng đói cồn cào lại phải ngửi mùi thức ăn tỏa ra từ những cửa hàng ăn uống. Rồi mưa cũng ngớt, hai chúng tôi lại lầm lũi trong đêm, mang hai túi xách lê gót trên con đường gần 2 km, hai bên ruộng mía tối om. Chẳng ai nói với nhau một lời, nhưng trong thâm tâm mỗi người đều đồng cảm các nỗi thống khổ khi nghĩ về một tiền đồ chẳng sáng sủa gì? Bất chợt tôi nhớ đến hai câu cuối của bản Đêm Đông: “Đêm đông ta lê bước chân phong trần tha phương, có ai thấu tình cô lữ đêm đông không nhà”.

Về đến nhà đã 8g tối, Susu mừng quá chạy ra và khóc làm tôi cũng muốn khóc theo.

Được tin chị Tám, anh Biểu sắp đi Mỹ, đang ở nhà anh Tài, chúng tôi ghé thăm. Được anh hứa trước khi đi Mỹ sẽ giúp chúng tôi một lượng vàng để làm vốn, vợ chồng tôi mừng không kể xiết, cứ ngỡ trong mơ nhưng trước khi lên sân bay, chị gọi Tinô vào phòng bảo: hứa với cậu mợ như vậy, nhưng giờ phút cuối có đám cưới của Soan cháu ruột anh Biểu nên không còn gì, thôi cậu mợ cầm đỡ 50đ rồi chúng tôi qua Mỹ sẽ tính sau. Vợ chồng tôi thất vọng ra về mà lòng nặng trĩu. Hy vọng và thất vọng chỉ trong khoảnh khắc.

Sau đó anh Tài cũng vượt biên qua được Úc.

Lại tiếp tục buôn bán lây lất bên vĩa hè Hàm Nghi với những nỗi lo âu sợ hãi càng ngày càng gia tăng bởi những cuộc bố ráp gay gắt của công an. Chúng tôi liên tục dời địa điểm từ đường này sang đường khác, nhưng ở đâu cũng gặp những thành phần xã hội đen, rừng nào cọp nấy, chúng không cho chúng tôi bán ở đây.

Sau những ngày quá căng thẳng, những người bán ở Hàm Nghi tản mác hết. Chúng tôi thì không còn đường sống đành tính đến chuyện về nhà ở quê. Từ đó tôi cũng không gặp lại Phước nữa. Sau này có dịp trở lại Hàm Nghi, bao phen dò hỏi, nhưng ai cũng đều không biết (cái duyên tình của chúng tôi cũng chỉ đến đây). Thỉnh toảng hình ảnh Phước cũng hiện lên trong trí nhớ của tôi những kỷ niệm của một thời phong trần.

Trong lúc khủng hoảng anh Mân gặp Giao (chồng của Liên con cậu của anh Mân) đang buôn thuốc Tây. Từ đấy anh Mân chuyển qua đứng đón người bán thuốc tây để mua cho Giao. Tôi trông nom nhà cửa và 2 đứa trẻ để Xang đi buôn bán với anh Mân.

Chị Bân làm ăn suy sụp, bán luôn nhà nhỏ, gửi mấy đứa con sang nhà Xê tá túc để chị đi buôn bán. Bây giờ nhà rất đông đúc.

Thời gian nầy, chúng tôi đã bắt đầu nhận được vài món quà của anh Tứ (anh của Mân) và Thiếp (cháu gọi anh Mân bằng chú) ở Mỹ gởi về. Những thùng thuốc Tây ở thời điểm đó cũng được 2 chỉ vàng, nên chúng tôi cũng đỡ cơn ngặt nghèo.

Buôn bán thốc Tây cũng đình chỉ bởi bố ráp của công an. Lại thêm tạm trú khó khăn. Công an khu vực đã để mắt đến nhà Xê, chúng tôi đành khăn gói trở về quê.

Quá nhớ Tino, chúng tôi ghé lại nhà chị Cương ở qua đêm để gần gũi con. Nghe anh Chung bảo tối nó tự treo mùng ngủ, sáng dậy xếp lại gọn gàng, học giỏi. Khi nhìn nó đi học về trông cu cậu cũng chững chạc lắm, nhìn ba mạ vẻ bỡ ngỡ rồi chạy vào ôm tôi mừng rối rít, nhưng giữa năm học không thể đem con về được, đành để lại anh chị Cương. Cứ thứ bảy anh Mân rước, chiều chủ nhật lên lại Cai Lậy.

Sau những ngày tháng sống vất vưởng, đầu tường xó chợ, tâm trạng lúc nào cũng nơm nớp sợ bị công an bắt, được về nhà, tuy rằng chỉ là một túp lều lá, nhưng tôi thật sự thoải mái. Ôi tự do ta yêu mi!

Bên phía tay phải nhà tôi là gia đình một trung úy bộ đội (người miền Bắc) là người địa phương, còn phía kia là gia đình dì Tư Lìn lúc trước sống Sài Gòn, bây giờ về đây đi buôn thịt heo lên Chợ Lớn với con gái. Bà con ở đây hầu hết sống rất phóng khoáng chân thành. Mùa nào thức ấy, họ hay đem biếu chúng tôi những món quà theo thời vụ như khoai lang, sắn, trái cây...

Chúng tôi hay giao du với nhà dì Tư Lìn và anh Năm Mùng. Ở những miền quê người ta không gọi bằng tên mà gọi theo tên thứ tự ba mẹ sinh ra. Cho nên chúng tôi không còn tên Mân – Lê nữa, mà người ta gọi là dượng út, cô út (vì anh Mân con út) nghe cũng thân thương lắm.

Một ngày chúng tôi nhận được thư tay của chị Tám, trong thư chị nói : “Chị và Hoa (cháu gọi anh bằng chú) lo cho anh vượt biên. Bên này chị đã liên hệ với vợ người sẽ đưa anh Mân đi. Ông ta tên Hồng Bún người Hoa. Theo lời chỉ dẫn của chị Tám, ông Hồng Bún đã liên hệ với anh Mân. Ông ta đã tổ chức vượt biên trót lọt bao nhiêu người rồi. Hiện vợ con ông đang ở bên Mỹ, bắt mối cho những ai có nhu cầu vượt biên tại Việt Nam sang Mỹ. Nếu đưa được người đến đất Mỹ, thân nhân bên đó sẽ chung tiền cho vợ ông ta.

Ngày anh Mân theo ông Hồng Bún xuống Bạc Liêu để đi tôi ăn ngủ không yên, cứ van vái trời phật phù hộ cho tai qua nạn khỏi. Một mình với vườn tược mênh mông, vách, cửa đều làm bằng lá dừa thô sơ, Susu còn nhỏ dại, chiều mới vừa đến là trời đã sập tối rồi. Còn nhiều đêm còn nghe tiếng cú kêu rời rạc từng tiếng một vang trong đêm vắng, tôi nghe rùng rợn cứ nghĩ rằng tai ương sẽ ập đến lúc nào? Bởi chuyến tàu anh về miền đất hứa tôi thấy giống như những chuyến tàu “về miền đất hứa” của người Do Thái trong thế chiến thứ II. Tuy hoàn cảnh 2 đất nước có khác nhau, nhưng số phận những thuyền nhân vượt biên đều giống nhau ở điểm: “thập tử nhất sinh” vì những nguy cơ hãi hùng luôn luôn rình rập chờ đợi họ ngoài biển cả.

Chuyến tàu đưa anh về miền đất hứa bất thành bởi đa phần người ta không dám đi. Sau nghe chị Tám nhắn về là Ông Hồng Bún đi cùng cô vợ nhỏ sang Hồng Kông, nên không qua Mỹ nữa âu cũng là số mạng.

Sau chuyện này sức khỏe tôi suy yếu, chỉ cân nặng 35 kg. Ho kéo dài ngày, chiều lại bị ho. Lúc chụp phim mới hay tôi bị nám phổi trái.

Trở về cuộc sống đời thường, anh Mân được anh Chung làm xuất khẩu chuối nhận cho theo xe chuối lên Sài Gòn giao cho họ xuất khẩu. Bản chất thật thà chậm chạp nên không qua nổi bọn lái vừa lanh lợi vừa mạnh khóe, nên không kiểm soát được, bị thất thoát nhiều đành nghỉ việc.

Anh Mân lại được anh Tư Lượng (hàng xóm) lên chở hàng ở bến sông Cai Lậy. Nơi đây người ta tập trung hàng hóa từ Cái Bè và các miệt vườn xa, họ bán trứng gà, vịt ... nhưng nhiều nhất là trái cây đủ thứ miền, nay là miền trái cây xuất khẩu nổi tiếng. Từ đây người ta mua bán trao đổi kẻ chở lên thành phố, người ra chợ Cai Lậy. Mỗi lần được mướn anh Mân và anh Tư Lượng chất lên xe bò đầy, rồi kẻ kéo trước người đẩy sau, làm kiếp ngựa người dưới cái nóng oi bức mùa hè của miền Nam 37o – 38o, chở đến xe đò chất lên, rồi lại tiếp tục chuyến khác.

Được thời gian ngắn, anh lại không kham nổi nên sang lấy thịt heo lên bỏ ở chợ Lớn. 1 giờ sáng, tôi lo dậy sửa soạn, anh Mân ra chợ lấy thịt về, tôi phụ trách khâu gói thịt, trước hết gói một lớp vải ngoài cho khỏi thấm, rồi một lớp giấy cho vào cái ba lô bộ đội (mỗi lần đi khoảng 20kg), đến 4 giờ sáng anh Mân đón xe lam đi Cai Lậy. Từ đó mới sắp hàng mua vé đi Chợ Lớn bỏ cho bạn hàng, ngồi đó chờ họ bán hết mới lấy tiền đem về. Lúc bấy giờ còn chính sách ngăn sông cấm chợ nên việc buôn bán từ tỉnh này sang tỉnh khác được xem như buôn lậu, có nhiều người bị tịch thu hết vốn rất khổ sở. Mỗi sáng anh Mân đi tôi đứng ngồi không yên, cứ cầu nguyện ơn trên che chở, đến chiều anh về mới thấy yên tâm. Ơn trời trong thời gian buôn bán thịt diễn ra êm xuôi trót lọt.

Chúng tôi lại đón cái tết thứ hai trong sự khốn khổ, nhưng mức độ có vẻ đỡ hơn năm ngoái. Đêm giao thừa, pháo nổ râm ran tôi lại nằm tưởng tượng đến dáng mẹ đang loay hoay bày mâm hoa quả, còn ba sửa soạn mặc quần áo chỉnh tề cúng giao thừa, tôi còn nghe rõ cả tiếng chuông nhà rồi tiếng chuông chùa Bát Nhã gần đấy, cứ âm vang mãi trong lòng tôi. Thắp 3 nén nhang vọng về quê hương van vái Tổ tiên, ông bà lòng tôi lại ngậm ngùi chan chứa. Quê hương ơi! Ba mẹ ơi!.

Rồi những ngày Tết lại qua đi, anh Mân đưa Tino lên Cai Lậy để nhập học. Nhìn nó cứ dùng dằng mãi xin mẹ cho ở nhà mấy hôm, tôi thấy xốn xang trong lòng nhưng nhất định không đáp ứng.

Khoảng 9 giờ sáng thấy nó ôm cặp khệ đi vào, tôi ngạc nhiên khi không thấy anh. Té ra nó đã bỏ học một mình ôm cặp đi về. Tôi không hiểu tại sao với thân hình gầy thêm mang một cặp sách vở nặng ì nó có thể vượt đường xa hằng 18km để về nhà được. Tôi la mắng đánh cho nó mấy roi mà lòng đau như cắt khi nghe nó bảo trong nước mắt: Nhớ ba mẹ và em quá. Anh Mân về thấy vậy phải chở nó ra.

Mấy tháng sau nghỉ hè, chúng tôi xin cho Tino về trường ở đây học lớp 2.

Một ngày có gia đình Trinh (má trinh và Mân là 2 chị em chú bác) vào xin nhập hộ khẩu ở đây, vì chồng Trinh là Đằng, thiếu tá hải quân chế độ cũ đi cải tạo về, cũng bị buộc đi vùng kinh tế mới. Chúng tôi có thêm bà con ở gần càng mừng rỡ vì đỡ cô đơn.

Gia đình Trinh có 2 con là cu Minh (1976), Sẽ (1978).

Tôi và Trinh bàn nhau hùn vốn bán quần áo cũ, còn anh Mân và Đăng đi suốt lúa kiếm gạo.

Sau khi lên Tân Bình, Sài Gòn mua hàng. Hai mợ cháu ra chợ bày hàng lên tấm nylon ngồi bán. Chợ ở đây đông rất sớm từ 3-4 giờ sáng (vì người ta lo đi chợ sớm, còn về ăn uống ra đồng làm ruộng), chúng tôi đeo trên vai mỗi người mỗi xách hàng, tay kia thì quơ đuốc làm bằng lá dừa để soi đường nhìn về phía những cánh đồng sâu, những ánh đuốc của người đi chợ cứ chập chùng như ma trơi.

Thấy những bà mẹ giữ trên vai nặng trĩu những gánh dừa, trái cây cùng những hàng hóa khác, từ những vùng xa, mới thấy hết được nỗi vất vả của những người nông dân, làm ra của cải vật chất nhưng chẳng hưởng được bao nhiêu, bởi hàng hóa quá rẻ.

Cuộc sống chúng tôi cũng chẳng cải thiện được bao nhiêu, bởi bán quần áo cũ tân trang nên lời không nhiều. Trong khi anh Mân và Đằng đưa máy lên Kinh (thuộc tỉnh Đồng Tháp), đồng lúa ở đây rộng lớn, nhưng vì sức khỏe 2 người có hạn nên kiếm gạo qua ngày là đỡ rồi.

Năm 1980 được tin bà Nội mấy đứa mất, anh Mân không có tiền về chịu tang. Thấy anh không khóc nhưng người cứ rũ ra, tôi biết anh buồn lắm, còn gì buồn hơn nỗi đau mất mẹ?

Chúng tôi ra nhà chị Cương lập bàn thờ chịu tang cứ nhớ lại gương mặt phúc hậu của mẹ, tôi không khỏi chạnh lòng khi nghĩ không được cận kề mẹ trong những ngày cuối đời.

Thời gian này chúng tôi quen được gia đình chị Tư Đực, người Duy Xuyên, Quảng Nam. Chồng chị quê ở địa phương. Trước 1975 anh là sĩ quan chế độ cũ, còn chị làm ở ty Giáo dục Pleiku. Nhà anh chị ở cầu Thầy Cai cách chúng tôi 2km, nhà vườn cây trái đầy đủ, gia đình có 1 trai và 3 gái. Hiện bán khô, nấm tại chợ Ba Dừa, sau chuyển qua bán quần áo ở Ngũ Hiệp. Chúng tôi qua lại thăm viếng nhau, càng ngày tình bạn càng thắm thiết, chúng tôi là những kẻ trôi sông lạc chợ xin cảm ơn trời phật đã vun rủi cho tôi gặp được những người bạn tốt như thế này.

Đằng và Trinh được một người tổ chức vượt biên cho đi không tốn tiền (vì Đằng biết lái tàu). Sau nhiều lần nằm gai nếm mật không thành, cuối cùng Đằng vượt một mình, đã đến được Úc. Trinh ở nơi này một thời gian rồi cũng lên Sài Gòn học Anh văn để chuẩn bị đi do Đằng bảo lãnh. Thế là gia đình Đằng và Trinh đã có cơ hội đổi đời.

Sau khi Đằng và Trinh đi, chúng tôi tiếp tục buôn bán như cũ. Vì không có tiền đóng thuế, chúng tôi không được ngồi trong nhà lồng chợ nữa. Chúng tôi ngồi ở nhà của một tiệm bán thuốc Bắc (nằm bên phải của Chợ, ngôi nhà này cao ráo sạch sẽ) xin ngồi bán bên hiên. Ông bà chủ tiệm người Hoa lớn tuổi rồi, đồng ý ngay, hàng ngày mỗi khi rãnh rỗi, ông bà thường hay ra chuyện trò khi biết xuất thân của chúng tôi, bà tỏ ra cảm mến. Từ đó nhà có đám tiệc ông bà hay mời chúng tôi đến dự và giới thiệu với mọi người trong gia đình, bà lại thường hay gửi quà bánh về cho mấy đứa nhỏ, nhiều khi thấy ngại, tôi từ chối thì ông bà la rầy: “Cứ xem chúng tôi như những người thân thích, cô chú đừng ngại gì cả. Gia đình ông bà có 2 người con trai bán hàng tạp hóa tại chợ và 2 người con gái là giáo viên cấp 2 đều lập gia đình tại đây.

Ông bà đang chờ phỏng vấn để đi Mỹ do 2 người con trai định cư tại Mỹ bão lãnh. Suốt cuộc đời này tôi vô cùng biết ơn những tấm lòng nhân ái đó, bên cạnh chúng tôi luôn có những vòng tay thân ái ôm chúng tôi vào lòng. Đó là ngọn lửa tôi luôn giữ ấm lòng trong những giờ phút tuyệt vọng nhất.

Năm 1984, bị vỡ kế hoạch tôi lại mang thai đứa con thứ 3. Thật là nỗi kinh hoàng cho vợ chồng tôi. Bởi lẽ cuộc sống chưa ổn định, còn quá khó khăn, càng nghĩ càng thêm rối rắm, nếu con tôi ra đời trong hoàn cảnh này thì thật tội nghiệp cho con. Anh Mân bảo tôi nên lên BV Từ Dũ làm kế hoạch.

Ngày tôi đón xe lên BV Từ Dũ, tâm trạng rối bời cứ đi lang thang van vái Phật Bà Quan Âm. Nhưng rồi tôi cũng đành vô bệnh viện. Sau khi khám xong, về nhà  đinh ninh là đã mất con, nhiều đêm tôi khóc thầm trong đau khổ và hối tiếc. Sau này tôi mới phát hiện, khi người ta khám và làm thủ tục xong, đáng lý người nữ hộ sinh phụ trách phải hướng dẫn tôi qua bên kia đường để làm nốt kế hoạch. Nhưng không hiểu vì kiệm lời hay một phép màu nhiệm nào đó cô ấy đã không nói một lời. Cho nên về đến nhà vài ngày sau tôi vẫn còn thấy triệu chứng của người mang thai (nôn thốc và mệt rã rời) Đi khám lại mới hay con tôi vẫn còn. Đội ơn Trời Phật, tôi vô cùng sung sướng.

Để chuẩn bị cho đứa con ra đời, anh Mân phải đi bán thêm vé số ở chợ Ngũ Hiệp, cách nhà khoảng 7km, phải qua sông bằng xuồng, tôi hàng ngày cứ 4 giờ sáng vai mang 2 xách quần áo; tay trái chống gậy, tay phải cầm đuốc soi đường, những ngày nắng ráo còn đỡ, những ngày mưa gió đường sá trơn trợt rất dễ ngã. Vì mang bầu nên không dám đi nhanh, ra đến chợ thì trời đã mờ sáng. Việc nhà tôi giao cho Tino (11 tuổi) trước khi đi học quét dọn nhà cửa và dẫn Su đi học.

Đêm rằm tháng giêng năm Ất Sửu (tức ngày 5.2.1985) tôi chuyển bụng từ 12 giờ khuya. Đến 1 giờ sáng tôi kêu anh Mân dậy nhờ cô Dung hàng xóm dẫn đi. Đến trạm xá gõ cửa, thấy cô hộ sinh thắp lên ngọn đèn leo lắt, không  khỏi lo sợ.

Nhớ lại 2 lần trước sinh ở Thành phố đầy đủ tiện  nghi lại thêm có chị Anh đỡ thật an tâm. Bây giờ đi biển mồ côi một mình, tôi chỉ biết cầu Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn. Sau những cơn đau quằn quại tôi hạ sanh được một  em bé gái. Một điều kỳ lạ so với những lần sinh trước, là lần này tôi sinh rất nhanh. Xin cảm ơn Trời Phật.

Sau 3 ngày nằm trạm xá, tôi được chị Tư Phô (chồng chị là người Quảng Nam cũng rất thân) bơi xuồng cùng chị Tư Đức đón về nhà.

Tôi đặt tên con gái là Quỳnh Như, nhân vật nữ chính trong “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” của Khái Hưng, người yêu của Phạm Thái, tác phẩm này tôi đọc hồi còn đi học, tôi rất ngưỡng mộ tính cách và tài năng của nhân vật nữ chính, rất có sức lôi cuốn, đã gây ấn tượng cho tôi, nên đặt tên con là Quỳnh Như, chỉ là cách để gợi nhớ về nhân vật mà mình yêu thích (cũng còn lãng mạn đấy chứ!)

Từ sự cấp bách trong mưu sinh, con mới được 1 tháng, tôi và anh Mân phải lên Sài Gòn mua hàng về bán, gửi Quỳnh Như cho chị Tư Đức trông hộ.

Trên đường từ Sài Gòn trở về, xe bị hư dọc đường chờ sửa. Hai bầu vú căng lên nhức nhối lại nghĩ đến con khát sữa đói mẹ, tôi nôn nao trong lòng. Về đến nhà đã 10g khuya. Tội nghiệp Quỳnh Như đã được chị Tư Đức cho uống sữa bò và ngủ. Nhờ ơn trên gia hộ, con bé chỉ nhờ vào 2 bầu sữa mẹ cũng mũm mĩm dễ thương.

Anh Mân phải ở nhà trông con. Tino phụ với tôi mang hàng ra dọn, rồi về nhà mới đi học.

Vào mùa mưa, hai mẹ con thật khổ sở bởi đường sá trơn trợt, có nhiều hôm mưa quá lớn, 2 mẹ con ướt chẹp nhẹp. Nhìn con, tôi cảm thương, mới bấy nhiêu tuổi đã nếm đủ mùi cay đắng.

Bất thình lình anh Mân bị bệnh nhức đầu, chóng mặt kinh khủng. Lên Sài Gòn khám mới hay anh bị viêm xương chủm (anh đã bị lũng 2 màng nhỉ, trong thời kỳ tham chiến trước năm 70), bác sĩ bảo phải mổ gấp, nếu chậm sẽ lên não rất nguy hiểm. Anh Hai- anh cả của Mân hay tin vận động bà con bên Mỹ gửi về được 2 chỉ để mổ.

Ngày anh Mân lên BV, Quỳnh Như mới được 11 tháng tuổi nhưng đành phải bỏ bú, nhờ chị Cương xuống trông dùm để tôi cùng đi với anh Mân.

Tôi lên Sài Gòn tá túc tại nhà dì Hoằng ở hẽm Trần Bình Trọng để lo cơm nước cho anh Mân, sau mấy ngày thử máu, xét nghiệm, người ta lên lịch để mổ.

Hôm anh lên bàn phẫu thuật, tôi túc trực ngoài cửa từ sáng đến chiều tối, với bao nỗi lo âu hồi hộp. Đến 7h tối anh bắt đầu tỉnh, người ta cho tôi vào, xung quanh còn nhiều người chưa tỉnh. Tôi rất mừng khi nghe anh đòi uống nước. Sau 5 ngày sức khỏe anh dần hồi phục, tôi sốt ruột quá đành gửi anh cho dì Hoằng trông hộ.

Khi tôi về đến nhà, mới hay anh Chung lên dì Hoằng tìm tôi, vì Quỳnh Như nhớ bố mẹ cứ khóc hoài, không chịu ăn uống gì hết. Nhìn các con nheo nhóc, tôi lại bồi hồi xúc động.

Anh Mân nằm viện 15 ngày thì về nhà trong tình trạng sức khỏe khả quan.

Nhà chúng tôi ở đã bắt đầu dột nát, vì lá dừa lợp nhà 3 năm phải thay, đến nay đã 6-7 năm vì không tiền nên đành ở vậy. Cứ mỗi lần mưa xuống chúng tôi lại trưng dụng mọi cái có thể hứng nước được, tuy vậy vẫn không đủ vì dột quá nhiều.

Một lần lên Sài Gòn mua hàng, Xê đã bán nhà cũ, mua lại một căn nhà nhỏ trong hẻm ở gần chợ Thị Nghè. Phương và Xang đã vào Đà Nẵng. Bây giờ Thời và Xê kinh tế cũng khó khăn. Lại được tin ba mẹ tôi đã bán nốt cái nhà sau. Bây giờ Ba đang làm bảo vệ cho Sở Thể dục Thể thao Đà Nẵng, mẹ thì bán thuốc lá trước Sở, bé Nga đi lao động ở Liên Xô. Chỉ còn Hùng sống với ba mẹ trong 1 phòng 4m2 chật hẹp của Sở phân cho ở.

Cuộc đời dâu bể, gia đình tôi từ ba mẹ đến con cái đều suy sụp. Sau này đọc sách Phật tôi mới biết đó là cái nghiệp, mà gia đình tôi phải trả giá cho việc chị Bân và Xê buôn ma túy, biết mà không ngăn chặn. Nhiều đêm nằm nghĩ về vận mình ,vận nhà lòng cứ mang mang không sao ngủ được.

Thời gian sau, tôi lại được tin Xê và Thời đã ly dị bán nhà chia 2, Xê đi thuê nhà ở với 2 con. chị Bân cũng đã bán nhà nhỏ.

Chị Bân sau những ngày bôn ba đi buôn đủ thứ đã xuống rủ chúng tôi đem hàng lên kinh bán, chị bảo: tháng này là mùa lúa, người ta bán lúa mua sắm nhiều lắm. Chúng tôi kết hợp với anh Tư Phô vào vườn mua trái cây lên bán ở trên tỉnh Đồng Tháp, vào mùa nước nổi ngâm hàng mấy tháng nên cây ăn trái không trồng được chớ lúa thì vô vàn.

Mấy ngày sau anh Tư gom đủ thứ trái cây, còn chị Bân và tôi cũng ráng nhét đầy ắp 2 xách quần áo.

Sáng hôm sau, khởi hành nơi bến Hầm Cầu, chiếc xuồng chất đầy ắp trái cây và quần áo. Làn xuồng chỉ còn mấp mé nước. Tôi, anh Mân và chị Bân thấy xuồng đầy quá nói anh Tư Phô bỏ bớt trái cây lại nhưng anh bảo hèn gì, tôi đã đi kinh nhiều lần rồi, không sao đâu, rồi chiếc xuồng rời bến.  Tôi đưa tay vẫy từ biệt mà lòng không yên tâm bởi xuồng chở quá tải.

Khoảng 5 giờ chiều, tôi đang sửa soạn nấu cơm, thì nghe tiếng chị Bân gọi. Tôi chạy ra thấy thì quần áo ướt đẫm từ đầu xuống chân, mang hai 2 xách quần áo đầy nước từ một xuồng lạ bước lên bờ. Mới hay xuồng quá khẳm, chạy ra sông lớn bị sóng do các tàu, ghe chạy ngang qua gây nên đã làm đắm xuồng, cũng may chỗ đó còn cạn nên kéo xuồng vào bờ được. Anh Mân và anh Tư phải ở lại tìm người sang trái cây. Chiều đến trời lại đổ mưa, hai chị em phải xổ quần áo ra phơi, từ nhà trên xuống nhà dưới, ra vĩa hè. Vì là đồ cũ tân trang nên màu mè lem nhem từ cái này qua cái kia tùm lum. Trông thật hoa mắt, giống như những bức tranh lập thể của Picaso. Chuyến ấy, chúng tôi lỗ mất một vố hơi nặng, lại thêm anh Mân và anh Tư bị cảm nặng bởi mặc quần áo ướt ngồi bán đến hôm sau mới về. Thật khổ thân.

Mỗi lần nhắc đến chuyện này, chúng tôi nói đùa: Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước ở Bến Nhà Rồng nên thành công, còn mình ra đi tìm đường cứu nhỏ ở bến Hầm Cầu nên thất bại là đúng.

Chị Bân lại xuống tá túc nhà tôi để buôn trái cây, gạo, gà vịt lên Sài Gòn bán buôn. Bán một thời gian, chị lại trở về Sài Gòn.

Một hôm, thấy Xê xuống với thần sắc kém tươi, cho biết anh Khởi đã bị bắt vì công an tình nghi có quan hệ với tổ chức phản động. Còn Xê đang bị truy nã nên xuống đây lánh nạn.

Tôi thật sự sợ hãi, nhưng chẳng biết tính sao đành để Xê tạm trú.

Trong mấy chị em, chị Bân và Xê ưa chưng diện, chạy theo thời trang. Trước giải phóng ba mẹ đã nhiều lần phàn nàn bởi sự chạy theo mốt quá lố lăng của 2 người. Nhưng chị Bân còn tùy hoàn cảnh, bây giờ chị chẳng hề để ý đến sắc đẹp mà lo bươn chải. Còn Xê lúc nào cũng quan niệm sắc đẹp muôn năm. Sau giải phóng vẫn còn đi sửa sắc đẹp. Bây giờ xuống đây lánh nạn mà vẫn còn ăn mặc theo mốt. Trong lúc ở đây người ta chân lắm tay bùn, nhìn Xê cứ ăn mặc phơi phới váy ngủ hở hang, mọi cặp mắt cứ đổ dồn về nó, cứ như người hành tinh khác xuống. Bao nhiêu lần góp ý nhưng nó nói: kệ thây người ta muốn nói gì thì nói, mình có gì mặc nấy. Tôi thật khổ sở với tính tình ngang bướng của nó.

Vì sống nơi vắng vẻ, khổ cực này không quen, mấy tháng sau Xê trở lên Sài Gòn.

Một ngày lên Sài Gòn ở lại qua đêm, tôi ghé lại nhà dì Minh (em Mẹ) ở hẻm đường Nguyễn Trọng Tuyển quận Phú Nhuận, mới hay chị Bân và Dung con chị đang học trường Sư phạm Mầm non đang ở nhà dì Minh, còn anh Khởi sau 1 năm bị giam giữ không có chứng cớ người ta thả anh ra, nhưng lang thang không có nơi nào dám cho anh trú ngụ, bởi sợ công an theo dõi. Nghe chị Bân kể anh cứ đi ngoài đường suốt ngày như một người điên, thỉnh thoảng ghé qua nhà người quen để kiếm cơm ăn, tối về ngủ ngoài hiên nhà người ta, có hôm còn bị bọn bụi đời giành chỗ. Ba đứa con trai tứ tán cả: Cầm xin ở nhà bạn phụ bán phở, Kỳ ra Đà Nẵng học nghề điện xe hơi, Thành (chồng Xự) dạy và ở lại luôn nhà Xự, còn Thơ học sửa xe đạp. Xê và 2 đứa con đã ra Long Thành tị nạn.

Không ngờ gia đình chị Bân và Xê tan hoang hết. So ra, gia đình tôi còn hạnh phúc hơn gia đình chị Bân và Xê nhiều: lúc cùng cực nhất cũng có vợ chồng, con cái ở bên, và một túp lều để nghỉ ngơi trong lúc nhọc nhằn.

Một hôm, nhận được tin mẹ tôi bị viêm gan nặng, sức khỏe rất yếu. Tôi rất buồn, nhưng tài chính eo hẹp không về thăm mẹ được. Vợ chồng tôi đành gom ít tiền gửi về để mẹ thêm vào thuốc thang. Ơn trời, sau vài tháng tôi được tin mẹ đã khỏi bệnh.

Anh Mân lên Sài Gòn đưa chị Tài đi Úc do anh Tài Bảo lãnh, (1986) được chị hứa đến nơi chị sẽ nói anh Tài gửi tiền về sửa nhà. Chị để lại cho anh Mân chiếc xe đạp. Lần đầu tiên Nô và Su mới thấy xe đạp mừng quá, đòi chở đi chơi liền.

Mấy tháng sau, chúng tôi nhận được 200 USD anh Tài gởi về. Lần đầu tiên chúng tôi nhận được một  số tiền lớn như thế (hồi ấy 100 USD hơn 3 chỉ vàng). Không sao kể hết được sự vui mừng sung sướng. Chúng tôi tiến hành làm lại nhà mới, vì nhà cũ đã dột nát lại thêm quá nhỏ. Còn lại chúng tôi mua thêm một ít quần áo mới để bán.

Lần lượt chúng tôi cũng nhận được quà của các anh chị và các cháu bên Mỹ gửi về hỗ trợ (nhất là chị Tám và Hoa). Những tấm lòng vàng mà không bao giờ tôi quên.

Điện cũng đã về đến thôn xóm chúng tôi ở. Ngay ngày đầu điện kéo về, người lớn cùng trẻ con đều ra reo hò mừng rỡ, cái ánh sáng văn minh đã soi rọi vào nơi tối tăm, làm sáng cuộc đời họ và những thế hệ con cháu họ sau này. Rõ tội nghiệp.

Bây giờ nhà cửa đã rộng rãi hơn, và việc buôn bán có phần thuận lợi hơn trước (tôi đã đăng ký vào chợ bán)

Cuộc sống có vẻ dể chịu, nó lại phát sinh ra những cái khó chịu chung quanh. Trước hết là các ông cán bộ Ấp, Xã cứ tìm cách đòi ăn nhậu, mỗi lần phải tiếp mấy ông là mỗi lần như bị tra tấn bởi lối cư xử thiếu văn hóa, khi rượu vào rồi đụng đâu phẹt đó, rồi tuôn ra những lời lẽ tục tỉu, coi trời như vung, vừa như hăm dọa. Các ông từng tuyên bố: nhất địa phương nhì mới đến trung ương, thằng nào loạng quạng bắn bỏ. Có lần Tư Hự (Trưởng Công an xã) đến nhậu mang theo súng lục. Đến khi quá đà nằm tại chỗ với khẩu súng bên hông, chúng tôi quá sợ hãi phải nhờ hàng xóm dìu ông về nhà (đây cũng giống như những cường hào ác bá thời phong kiến).

Phía bên tay phải nhà tôi, là nhà ông trung úy bộ đội người Bắc, vợ là người địa phương tên Bảy. Sau khi bị đình chỉ công tác bởi tham ô của Nhà nước, về nhà ông bắt đầu ăn nhậu quậy phá, chuyên môn ăn trộm cây trái trong vườn và bắt gà. Chúng tôi đã gầy nên đàn gà 50 con, chúng đã bắn lần hồi bằng súng giảm thanh (vào buổi sáng chúng tôi còn ngoài chợ). Đất của tôi bên hông trồng cây cách mương khoảng mấy mét, nhưng sau những lần vét mương, ông đã vét đất bên tôi để bồi bên đất nhà ông, cho đến lúc những cây trốc rễ ngã hết. Quá bức xúc chúng tôi phân trần thì 2 vợ chồng bảo: “Đồ tụi bay là thứ trôi sông lạc chợ, tha hương cầu thực, là thằng ngụy, lộn xộn tao bắn bỏ”. Chúng tôi ngậm đắng nuốt cay, uất ức nhưng đành chịu. Được niềm an ủi là bà con lối xóm ai cũng cảm tình với chúng tôi cả.

Sống gần với những người như vậy, chúng tôi không sao chịu nổi, nên có ý định bán đất nhà. Người dân thấy vậy cũng không ai dám mua. Cuối cùng chúng tôi bán cho con ông Ba Nghề (Bí thư huyện Cai Lậy) có người anh là Bí thư xã Long Tiên, và anh ta đang công tác tại ngân hàng huyện Cai Lậy với giá rẻ (1 cây 2).

Ngay ngày đầu nhận đất, hai vợ chồng mua nhà mướn người gánh đất đổ lại bên mương cho bằng vị trí cũ của đất. Gia đình ông trung úy không dám hó hé. Đúng 49 gặp 50.

Chúng tôi được anh chị Tư phô (người Tam Kỳ Quảng Nam) đi lính vào đây gặp chị người địa phương, anh làm nhà ở trên đất của anh chị còn 5m x 12m mà không có một điều kiện nào cả. Làm nhà lần này chúng tôi có được vách bằng ván và cửa bằng gỗ mái vẫn lợp lá dừa và nền đất (cái nền gạch đỏ mơ ước mãi mà không thực hiện được). Tuy vậy vẫn thấy khang trang hơn nhà cũ.

Năm 1988 Tino đã học cấp III trường Tam Bình (cách nhà 7Km) Susu đã học cấp II, Quỳnh Như được 4 tuổi.

Cuộc sống có vẻ khởi sắc nhờ buôn bán phát đạt và thỉnh thoảng được nhận quà. Chúng tôi cố dành dụm gởi về cho ba mẹ mỗi năm 200.000đ. Được như vậy tôi rất vui và chắc ba mẹ tôi cũng thế.

Đời sống tốt hơn nhiều so với trước kia, nhưng mỗi khi chiều xuống nhìn đám lục bình theo giòng nước trôi dật dờ, tôi cảm thấy nhớ quê hương, gia đình, bạn bè da diết. Ngày trở về nghe sao vô vọng quá?

Mỏi mòn chiều thu đến não lòng

Thuyền ai đơn lẻ một bến sông

Lục bình trôi dạt nơi vô định

Viễn xứ ngậm ngùi nỗi nhớ mong

Bao năm xa xứ không về được

Tình quê chan chứa biết bao ngày

Chiều nay trên bến sông xứ lạ

Lòng hồi hương tưởng đến ngỡ như say.

Bây giờ ở đây người ta biết đến chúng tôi rất nhiều bởi buôn bán ngoài chợ. Họ gọi tôi là Bắc Kỳ (người nào không nói giọng Nam họ gọi là người ngoại quốc hay Bắc Kỳ), có lần ngồi trên xe đi Sài Gòn nghe bà Tám Rỗ (Chủ xe Chợ Lớn – Cai Lậy) phát biểu: “Đ mẹ, người Diệt (Việt) hết hay sao mà chúng đưa toàn mấy thằng ngoại quốc Miền Bắc dìa (về) làm ban Giám đốc xí nghiệp ô tô dận (vận) tải dậy (vậy) hổng biết nữa”. Lớp thế hệ chúng tôi rất ít người biết chữ, quan niệm còn lạc hậu và rất mê tín dị đoan, những đứa trẻ chỉ học biết chữ, hoặc hết cấp 2 là ở nhà đi làm thuê, chỉ trừ những gia đình khá giả, có truyền thống học mới cho con học đến cấp III và thi vào đại học. Nhưng bà con ở đây họ sống rất có tình người và rộng rãi (có thể do hình thành địa lý nơi đây không có núi cao, biển rộng, sông dài) cho nên lòng người cũng phóng khoáng.

Chúng tôi đã mua được 1 cái tivi, tối thứ bảy, chủ nhật nào bà con đều tụ tập trước hiên nhà để xem truyền hình rất đông vui. Chúng tôi lại tậu thêm được một chiếc xe Lambretta cũ, họ để lại 3 chỉ vàng. Bây giờ mỗi khi lấy hàng ở Cai Lậy hoặc thăm anh chị Cương, chúng tôi chở nhau bằng xe này cũng tiện lắm.

Năm 1991 Tino thi rớt đại học. Điều này chúng tôi không ngạc nhiên  tí nào, vì vào thời điểm bấy giờ Nhà nước hầu như không muốn những con em có lý lịch xấu như gia đình chúng tôi vào đại học. Họ ưu tiên cho những thành phần nòng cốt cách mạng con liệt sĩ, thương binh, những người có công với cách mạng đều được cộng thêm mấy điểm. Ngay cả Dung con chị Bân là học sinh giỏi của trường nổi tiếng của Sài Gòn từ xưa đến nay cũng bị đánh trượt. Tino vào học trường trung cấp cơ điện lạnh tại Sài Gòn, Su lớp 9, còn Quỳnh Như đã vào lớp 1.

Được tin gia đình chị Đường vào Sài Gòn phỏng vấn chuẩn bị đi Mỹ. Anh Mân lên Sài Gòn đưa gia đình chị xuống chơi. Chị Đường lớn hơn anh Mân 6 tuổi, chồng chị là anh Linh, là sĩ quan trước năm 75 đi cải tạo 7 năm, bây giờ đi Mỹ theo diện HO. Gia đình chị gồm 2 đứa con trai và 2 đứa con gái.

Gia đình chị xuống đây vào mùa mưa, thấy đường sá trơn trượt, lầy lội, chị đề nghị chúng tôi nên về lại Đà Nẵng, chị qua Mỹ sẽ hỗ trợ.

Sau khi bàn tính, chúng tôi quyết định về Đà Nẵng trước thăm gia đình, sau xem tình hình thế nào? Đang dịp hè nên cũng không trở ngại gì cho việc học của bọn trẻ.

Thế là chúng tôi theo gia đình chị Đường về Đà Nẵng.

Sau 13 năm lưu lạc, lần đầu tiên chúng tôi được bước lên chuyến tàu xuôi về quê hương làm sao nói hết được những cảm xúc cứ trào dâng, choáng ngợp bởi biển xanh và cát trắng, ngút ngàn của những tỉnh duyên hải miền Trung. Ôi! Biển xanh và cát trắng, suốt 13 năm ròng mới nhìn lại được. Hồn tôi lâng lâng cứ ngồi tựa cửa nhìn ngắm mà không biết chán. Tiếng tàu cứ xập xình xập xình nghe như một bản nhạc rộn ràng ca vang ngày hồi hương. Thỉnh thoảng còi tàu lại thúc lên như báo hiệu ngày về của những đứa con xa xứ. Tôi lại tưởng tượng đến cảnh ba mẹ và các em vui sướng khi nhìn thấy chúng tôi về.

Cuối cùng, con tàu cũng dừng lại miền đất hứa. Đặt chân xuống mảnh đất quê hương tôi cứ ngỡ trong mơ. Lòng háo hức vui như mở hội. Tôi muốn cúi xuống hôn lên miền đất này giống như nàng Scarlette đã cúi xuống hôn lên miền đất Tara khi trở lại quê hương sau bao năm xa cách (trong tác phẩm: cuốn theo chiều gió, đã được biến thể thành phim, rất nổi tiếng).

Tôi cố gắng kềm chế xúc động khi nhìn thấy nơi ba mẹ cư ngụ là một căn phòng tối tăm, chật hẹp khoảng 4m2. Tôi cũng không ngờ đến ba mẹ tôi suy sụp như vậy. Nhất là mẹ 13 năm trước là một người đàn bà trung niên, mập mạp, giờ đây là một bà lão gầy yếu với gương mặt nhăn nheo, hằn lên những nét thời gian và đau khổ. Mẹ cứng rắn là thế cũng rưng rưng nước mắt khi đón con về. Tôi hỏi thăm về chú Phụ và những ông Cậu cách mạng có hay thăm viếng? Ba mẹ cho hay từ ngày nhà tôi suy sụp ít ai lai vãng đến thăm. Ba tôi  thì tỏ ra thất vọng, không còn ảo tưởng về những hình ảnh đẹp của cách mạng.

Hùng, em trai út hàng ngày ra chợ Cồn mua bán đồ phụ tùng xe đạp với mấy người bạn, còn Nga, gái Út đi lao động ở Liên Xô chưa về.

Nghe tin tôi về, chiều lại các em tôi tụ tập làm bữa liên hoan sum họp. Tôi lại được nhìn thấy ba mẹ tôi cười sung sướng như ngày xưa mỗi chiều thứ bảy mẹ đều làm món ăn chờ các con về sum họp.

Xê bây giờ làm đậu phụng da cá và mặn. Vợ chồng Phương – Xang mở tiệm lưu niệm bằng đá tại nhà ở Non nước. Vợ chồng Xự sửa honda và buôn bán, còn vợ chồng Dưỡng lấy hàng quần áo ở Sài Gòn về bỏ mối.

Gia đình chồng tôi, ngoài chị Đường Thanh, Duyên, còn 3 gia đình ở đường Nguyễn Du là anh Hối, chị Chín và chị Anh – gia đình anh Tư ở đường Trần Phú.

Sau khi được chị Nga (vợ anh Tư) hứa sẽ lo cho nhập hộ khẩu về Đà Nẵng. Lúc bấy giờ người em của chị là ông Hồ Việt đang làm Chủ tịch thành phố hộ khẩu gốc của chúng tôi ở Đà Nẵng, nên công việc tiến hành cũng dễ dàng.

Tôi nhờ mợ Tình (vợ cậu Tình) quen với ông Lưu Sở giáo dục xin cho Su vào học lớp 10 Phan Chu Trinh (Su thi tốt nghiệp cấp II loại giỏi nên được tuyển thẳng).

Khi công việc đâu vào đấy, chúng tôi gửi Su ở nhà chị Đường, cùng Quỳnh Như về để thu xếp cho kịp nhập học mấy đứa.

Về lại Ba Dừa, Long Tiên chúng tôi lo tìm người sang lại hàng hóa và chiếc xe.

Những ngày còn lại nơi đây bỗng dưng tôi cảm thấy buồn lạ. Tình cảm gắn liền với mảnh đất này càng ngày càng sâu đậm. Tôi xem đây như là quê hương thứ 2 của mình, đã ôm ấp bảo bọc tôi trong những ngày gian khổ. Tôi cứ nghĩ đến ngày phải chia xa thật không dễ vì một phần đời tôi đã gửi lại nơi này.

Nhớ đến gia đình anh chị Tư Đức, nhớ gương mặt thiên thần của Minh Thư, cứ mỗi chiều thứ bảy là dẫn Quỳnh Như về sửa soạn chải tóc, quần áo, dạy hát, dạy ca. Có phải có duyên từ tiền kiếp hay sao, mà tôi lại thấy trong lòng thương Minh Thư lạ?

Những ngày cuối ra chợ từ giã tôi thấy luyến tiếc từ dì Ba bán thuốc rê, đến bạn hàng quần áo, vải vóc, tạp hóa, tất cả mọi người đều thân thương, có như vậy tôi mới thấy rõ hình tình cảm sâu đậm của mình gắn liền với mảnh đất nơi đây biết chừng nào.

Chúng tôi để lại căn nhà và điện lại cho anh chị Tư Phô gọi là chút tình.

Ngày chia tay chị Tư Phô khóc sướt mướt, còn chị Tư Đức không dám tiễn, chỉ có anh Tư Đức và Minh Thư cầm Tay Quỳnh Như khóc mãi. Tôi ôm siết Minh Thư vào lòng không muốn dứt.

Tôi nhìn lại căn nhà lá với niềm luyến tiếc. Tôi lại nhớ đến câu văn của thời tiểu học: Ôi! Cảnh biệt ly sao buồn vậy!

Ngồi trên xe đưa tay vẫy chào mà lòng tôi quặn thắt, không khác gì lần từ giã quê hương ra đi. Những vườn cây ruộng lúa mênh mông và con kênh xanh cứ giật lùi mãi cho đến khi khuất bóng. Thế là hết. Tôi hy vọng một ngày trở lại miền quê này không? Hay chỉ là ký ức.

Ghé Cai Lậy ở lại gia đình chị Cương 1 đêm, sáng hôm sau chúng tôi thẳng tiến Sài Gòn.

Đến Sài Gòn chúng tôi ghé từ giã gia đình dì Hằng, dì Minh và chị Bân (Chị Bân bây giờ đã thuê nhà ỏ riêng với mấy đứa con), Tino ở lại học 2 năm nữa mới ra trường.

Về quê lần này tôi không còn có tâm trạng háo hức như lần đầu nữa, nói thế không có nghĩa là tôi không vui, nhưng tôi đang ở trong trạng thái ổn định tinh thần, khi biết chắc rằng lần này trở về tôi sẽ được sống mãi với quê hương và những người thân. Ngồi trên tàu xuôi về Đà Nẵng nhiều khi tôi tự hỏi: lần này quyết định trở về quê có nóng vội không? Khi mà cuộc sống của chúng tôi đã dần ổn định vớiù thu nhập từ buôn bán hàng ngày trừ chi phí, thuế cũng kiếm được 30.000đ cũng đủ chi phí cho gia đình. Còn tháng Tết bán rất đắt, chỉ một tháng Tết chi phí mọi khoảng xong cũng còn dư chút đỉnh. Cho nên lần quyết định này, chúng tôi thấy giống như làm lại cuộc đời, và cùng với sự thôi thúc tìm về quê cha, đất tổ. Đó là vào năm 1992, sau 14 năm lưu lạc, chấm dứt những chuổi ngày tha hương cầu thực.

Trước khi về, chúng tôi đã nhờ Hương vợ Dũng thuê dùm nhà bên cạnh với giá 40.000đ/1tháng cho nên khi về chúng tôi có nhà dọn ở ngay. Nhà này nằm trong hẻm đường Hải Phòng gần bệnh viện đa khoa và chợ Tam Giác. Nhà có 2 phòng, nhà bếp đặt phía trước đã mục nát. Chúng tôi phải mua tấm bạt lợp sửa sang lại mới ở được. Là nơi thấp nên mùa mưa nước ngập vào nhà, ngày nào cũng phải tát. Nhiều đêm mưa to quá lại dột, nước ở trên đổ xuống, còn dưới dâng lên, cả đêm 2 vợ chồng vừa tát, vừa hứng nước.

Chưa có công ăn việc làm nên khi Hương đề nghị mượn vốn làm ăn, mỗi tháng sẽ đưa tiền lời, chúng tôi đồng ý ngay.

Xê lại chỉ cho tôi làm mực sấy để bỏ cho các quán. Mực mua về ép cho mỏng, ngâm với nước sốt tỏi, bột ngọt, đường rồi đem sấy khô cho vào bao nylon.

Xê đang ở Hòa Cường (nhà do dượng Sơn, dì Minh mua cho ba mẹ tôi), nhưng vì xa quá để cho mẹ con Xê ở, một hôm Sơn ghé bảo thằng Lộc (con Xê) uống rượu về quậy, Xê xin tá túc nhà tôi và đề nghị hùn vốn làm đậu phụng.

Sau khi bàn bạc với anh Mân góp vào 3 chỉ vàng (trước đó tôi đã cho Xê mượn 3 chỉ) Xự cũng hùn vào. Tất cả giao cho Xê mua sắm dụng cụ hành nghề.

Làm thời gian tôi thấy không tiến bộ, vì vốn gối đầu quá nặng. Rồi chúng tôi lại nghe theo lời Xự đưa thêm 1 cây 2 vàng để Thành buôn xe chia lời. Trong thế chúng tôi chưa có công ăn việc làm đành phải thế để giải quyết chi tiêu trong gia đình và con ăn học.

Gần Tết thấy đậu phụng bán chạy, tôi chưa kịp mừng, thì được Xê cho biết Trúc (con Xê) thu tiền đậu phụng ôm đi 500.000đ. Tôi bắt đầu nản và linh tính không ổn. Tết xong chờ hoài cho đến hết tháng giêng cũng không thấy Xê thu hồi tiền nợ. Mới hay Xê đã ăn tiêu thâm vào vốn và lời. Giữa chị em tôi xảy ra cãi vã rồi nghỉ không làm đậu nữa. Bước đầu tôi đã thấy thất bại ê chề.

Một hôm Dũng (rễ anh Tư) gọi anh Mân đi trông coi công trình xây dựng, mỗi tháng được 300.000đ. Chúng tôi cũng tạm ổn thời gian, rồi anh Mân theo công trình ra Huế theo thợ đổ trụ đèn. Được mấy tháng anh về đen thui và gầy rộc. Hết công trình đó anh Mân lại thất nghiệp.

Hương đã lộ ra bộ mặt lừa đảo khi mượn của chúng tôi 9 chỉ vàng không trả. Tôi thật khủng khiếp vì không lường trước lòng người. Chúng tôi vô cùng tuyệt vọng, tiến thối lưỡng nan, có muốn trở lại miền Nam cũng không được vì hộ khẩu đã cắt và tiền bạc thì không còn nữa.

May thay anh Tài nghe chúng tôi trở về quê nhà đã gửi cho 200USD, và các bạn anh Mân cùng khóa 20 Đà Lạt ở Mỹ gởi về 500US.

Năm 1994, gia đình chị Anh xuất cảnh sang Mỹ, chị bảo gia đình tôi dọn về nhà chị ở. Nhà chị rộng rãi, khang trang chỉ còn gia đình vợ chồng bé Thanh và Misa (con bé Thanh)

Chúng tôi dọn về nhà chị Anh ở đường Nguyễn Du. Anh Mân đã được Dũng gọi đi làm. Tôi ở nhà đi chợ nấu ăn cho cả 2 gia đình.

Năm ấy Su học lớp 12 và Quỳnh Như lớp 5. Ở đấy chúng tôi hay qua lại với gia đình Quỳnh Nga (con chị Cương) ở đường Lê Lai và gia đình Nở, cô bạn nhỏ thân thiết ngày xưa.

Tino con trai đầu đã tốt nghiệp ra trường, trở về nhà, chưa có việc tạm thời làm gia sư cho 2 đứa trẻ ở lại ăn uống nhà người ta, tháng được 20.000đ. Được mấy tháng nhờ một người quen giới thiệu vào làm bảo vệ cho khách sạn Royal được 600.000đ mỗi tháng.

Nhờ sự nỗ lực của 2 cha con, sự cần kiệm và sự hỗ trợ của các anh chị ở Mỹ. Chúng tôi đã dành dụm được một số tiền, cộng thêm Xự mượn 1 cây 2, chúng tôi bắt đầu nhen nhúm chuyện mua đất mua nhà.

Trước tiên, chúng tôi có ý định mua miếng đất trên Khê Trung của chị Kỳ, người quen thân với gia đình anh Mân khi xưa, nhưng rốt cuộc không mua được vì ở đấy nằm trong diện giải tỏa. Chúng tôi lùng sục nhiều nơi, cuối cùng mua được miếng đất ở phường Bắc Mỹ An, quận 3 vào năm 1995 diện tích đất ruộng 400m2 giá 3 cây rưỡi, vì không đủ tiền làm nhà, chúng tôi rũ Quỳnh Như cùng mua chia 2.

Để chuẩn bị vàng trả cho họ, tôi đòi lại vàng cho Xự mượn. Vài hôm sau nó cho bé Nga lên trả lời: đã bị họ giựt hết rồi. Hỡi ơi, tôi kêu trời không thấu. Trong cơn bức xúc tôi đã khóc, nghe vậy, sau đó nó đưa cho Bé Nga trả lại tôi 5 chỉ.

Đây là một quá khứ nhục nhã và đau buồn cho gia đình và cuộc đời tôi.

Nơi đất khách quê người, cứ mỗi chiều về đứng bên giòng kinh, nhìn lục bình trôi về nơi vô định tôi cứ liên tưởng cuộc đời mình cũng giống như vậy và mong ước biết bao ngày về lại cố hương, ở gần cha mẹ và anh chị em để được hưởng những tình cảm yêu thương, an ủi, nương tựa nhau. Đâu ngờ, đâu ngờ tôi nghe đau đớn như các em tôi đang xé tôi ra từng mảnh. Sau này Hương đem chiếc Yamaha đưa chúng tôi trừ nợ.

Cuối cùng chúng tôi cũng mua được miếng đất ở quận 3.

Sau một thời gian sống trong cơ chế bao cấp, dân ngày càng khổ, kinh tế đất nước kiệt quệ, bị tụt hậu rất nhiều so với các nước trong khu vực. Nhìn ra thế giới bên ngoài : Liên Xô một nước lớn đi đầu trong chủ nghĩa xã hội và một loạt các nước Đông Âu chủ trương xét lại đã thay đổi chuyển sang kinh tế thị trường cho nên nhà nước Việt Nam cũng đổi mới sang kinh tế thị trường, bang giao với các nước trong khu vực và các nước Tư Bản. Hàng hóa lưu thông tự do từ tỉnh này sang tỉnh khác, không còn tình trạng ngăn sông, cấm chợ. Hàng hóa tràn ngập người dân có thể chọn mua thoải mái, thâm vào đó là sự đầu tư của các nước vào Việt Nam, dân có công ăn việc làm, hạn chế tỷ lệ thất nghiệp. Kinh tế dần hồi phục thấy rõ, đời sống của người dân cũng thoải mái, dễ thở hơn. Hy vọng đất nước Việt Nam đã vượt qua được cơn bão lũ trên một con thuyền mà vị thuyền trưởng đầy bản lĩnh và sáng suốt sẽ đưa con thuyền đến bờ bến vinh quang mong thay!

Nhìn con cái trưởng thành trong một xã hội phát triển tôi cũng mừng. Nhưng cái gì cũng có cái giá của nó, con chúng tôi cũng giống như lớp thanh niên thế hệ trẻ bây giờ, hầu như đều bị cuốn vào vòng xoáy của kinh tế thị trường; đua nhau kiếm tiền, địa vị danh vọng. Bằng sự trải nghiệm cuộc đời tôi chỉ biết nói với con: Làm thế nào cũng đừng bao giờ phá vỡ cái giềng mối của đạo đức. Có thể, đời ba mẹ nó đã trắng tay, bây giờ chúng nó phải cố để bằng bè bạn.

Năm 73 tuổi mẹ tôi đã thấy yếu đi rõ rệt sau bao năm bị bệnh đại tràng và nhiều bệnh khác hành hạ.

Một sáng nghe tin mẹ đi tiêu ra máu. Phải truyền máu và nước biển không thấy thuyên giảm. Rồi một ngày mẹ hôn mê phải thở bằng oxy, mấy hôm sau thấy tình trạng không tiến triển, bệnh viện cho về nhà. Chị em tôi đưa mẹ về nhà mà trong lòng ai cũng xốn xang. Chúng tôi vẫn tiếp tục nhờ cô y tá thân với gia đình đến truyền đạm và cho thở oxy.

Được vài hôm mẹ tôi tự nhiên tỉnh lại. Mừng quá chị em tôi lại đưa mẹ vào viện, chúng tôi thay phiên nhau túc trực, riêng người con dâu (vợ Dũng) thì dững dưng, mỗi lần đến bệnh viện đều đứng xa xa hỏi thăm, không dám đến gần.

Nằm khoảng 2 tuần nữa, bệnh mẹ tôi cũng không thuyên giảm. Bệnh viện lại yêu cầu chúng tôi đem về nhà. Chúng tôi đánh điện báo chị Bân và anh Khởi về.

Mẹ tôi luc tỉnh lúc mê, chúng tôi vẫn nhờ người truyền đạm và thở oxy cho mẹ. Kể từ mẹ bịnh đến nay đã 2 tháng, lưng đã bắt đầu lỡ loét đau đớn thật tội. Bây giờ là tháng 5 cái năng, cái nóng lại thêm những cơn gió Lào rát rạt như thiêu đốt nhìn mẹ nằm co ro với thân thể hao gầy, trong gian phòng trống hoác che tạm dưới mái khán đài của sân bóng đá của sở TDTT mỗi cơn gió xuống làm khô khóc mọi nguiờ nhớ khi xưa nhà cửa rộng rãi với đầy đủ tiện nghi. Bây giờ cuối đời mẹ lại phải chịu cảnh như thế này. Tôi ngậm ngùi chua xót.

Chiều ngày 4/5 âm lịch, cô y tá đến kiểm tra và đo huyết áp, huyết áp hạ dưới mức bình thường, cô cho gia đình biết tình trạng mẹ tôi chắc không qua khỏi đêm nay.

Đêm ấy tôi và Xang nằm với mẹ, mẹ đã bắt đầu nói nhảm. Trong cơn mê như có ai đến níu kéo nghe mẹ đòi đánh đuổi. Tôi và Xang đã đọc sách Phật dạy: trước lúc lâm chung, người sắp chết thường hay bị người chết của những cảnh giới khác níu đi theo. Cho nên chúng tôi cứ nhắc mẹ lắng tai nghe đọc kinh và hướng tâm về Phật.

Trong đêm tiếng tụng kinh từ máy phát ra vang lên đều đều, càng tăng sự phiền não.

Một giờ sáng, ba tôi từ khu mộc cách đó không xa về xem chừng. Ba bảo sợ mẹ đi trong ngày 4/5 không tốt. Bây giờ đã qua ngày 5/5 rồi. Nhìn gương mặt ba hốc hác với quầng mắt thâm sâu đầy lo âu thật tội nghiệp.

Hôm sau, hơi thở mẹ tôi đã bắt đầu nặng, bà con hay tin kéo đến chuẩn bị chuyện hậu sự. Vào buổi chiều mẹ thở hơi lên và yếu dần. Chị em tôi ngồi quây quần bên mẹ, niệm kinh: A di Đà Phật, và bảo ban nhau hãy nén thương đau, đừng khóc ầm ỉ, để mẹ ra đi trong thanh thản. 18g ngày 5/5 âm lịch mẹ tôi trút hơi thở cuối cùng. Thế là hết, mẹ đã trả nợ đời và nợ người. Tôi âm thầm khóc.

Đêm ấy chúng tôi cùng thức với mẹ đêm cuối vì ngày mai là liệm rồi. Nhìn mẹ trong chiếc áo choàng Quan Âm, đôi mắt nhắm nghiền thanh thản. Đây là những giây phút cuối tôi được nhìn thấy và kề cận mẹ. Mẹ ơi! Hãy ra đi cho thanh thản, vì cuộc đời mẹ đã quá khổ đau, hãy dứt bỏ tất cả nghe mẹ. Tôi nghe nghèn nghẹn và nước mắt chực trào ra.

Đã biết sinh tử là chuyện thường tình nhưng sao tôi vẫn thấy mất mát lớn quá. Nhìn bầu trời lấp lánh đầy sao, nhưng ánh sao bổn mạng của mẹ đã rụng rồi.

9 giờ sáng hôm sau, tức ngày 6/5 âm lịch, sau khi các thầy làm lễ tụng kinh, xác mẹ tôi đã được đưa vào quan tài liệm. Nhìn người ta khiêng mẹ bỏ vào quan tài đậy nắp. Không kìm nén được chúng tôi đồng loạt nấc lên nghẹn ngào. Từ đây vĩnh viễn tôi không còn được nhìn thấy mẹ nữa.

Ba tôi xem ngày 8/5 âm lịch là ngày tốt mới an táng được. Theo ý nguyện mẹ miếng đất trong chùa Vạn Đức ở Hội An để chôn cất mẹ. Dẫu sao chúng tôi cũng còn gần mẹ thêm được mấy ngày nữa, tuy rằng đã cách trở âm dương. Mẹ mất năm 37 tuổi.

Mấy đêm liền, dì Bảy tôi (em của mẹ) kể lại lời tâm sự của mẹ, khi dì ở lại với mẹ trong bệnh viện mẹ nói với dì: “Kể từ khi tôi khôn lớn, vú (bà ngoại) cho hay tôi không phải là con của cha, hồi còn con gái vú bị ông Lý Trưởng dùng quyền lực bắt ép, nên khi về với cha vú đã mang thai. Biết vậy, nhưng cha vẫn cưới và đứa bé đó chính là tôi. Sau này bao nhiêu lần bên nội nhìn nhưng tôi không nhận, tôi chỉ biết có một cha nuôi dưỡng mình thôi.”  Đây cũng là nỗi bất hạnh trong cuộc đời mẹ, bấy lâu nay mẹ đã chôn chặt trong lòng, gần đến ngày lìa đời mẹ mới thổ lộ. Càng nghĩ đến tôi càng thương mẹ. Nhìn những ngọn đèn leo lét trên quan tài, tôi có cảm tưởng linh hồn mẹ còn lãng vãng đâu đây.

Rồi cũng đến ngày đưa tiễn mẹ về nơi an nghĩ cuối cùng. Dưới cái nóng oi bức tháng 5, sao tôi thấy người ớn lạnh, chân đi lão đảo như muốn khụy, đầu óc thì lãng đãng, mơ hồ.

Chùa Vạn Phước là ngôi chùa cổ, bề thế với những cây đa, cây đề cổ thụ và những hàng dương. Tôi đi theo đoàn người nối đuôi nhau như người mộng du. Khi đặt quan tài mẹ xuống huyệt sâu, tôi cố gắng đưa tay bỏ xuống những nắm đất tiễn đưa bổng nghe chân tay bủn rủn. Hỡi ơi! Tôi đã mất mẹ thật rồi. Trong giây phút đau thương tôi bổng nhớ đến bài thơ: Mất mẹ của thầy Nhất Hạnh.

Hoàng hôn phủ trên mộ

Chuông chùa nhẹ rơi rơi

Tôi thấy tôi mất mẹ

Là mất cả cuộc đời

Sau khi an táng mẹ, anh Khởi về Ninh Hòa trước, còn chị Bân làm tuần 7 ngày xong chị cũng về lại nhà thăm ba. Giữa khoảng không gian rộng lớn của sân vận động, chung quanh bao phủ bởi những loại cỏ dại ngút ngàn. Ba nằm trên ghế bố ngoài trời, tôi thấy ba cô đơn, quạnh quẽ quá. Nhìn gương mặt hốc hác gầy sọp, không nói ra nhưng tôi biết ba đau đớn lắm với cái tang của mẹ. Hơn nữa cuộc đời vào ra chia sẽ với nhau, bây giờ mẹ lại bỏ ba đi. Còn con cái lớn khôn ai có phần nấy, riêng mình ba thui thủi chiếc bóng vào ra, gậm nhấm nỗi đau mất mát trong buổi xế chiều. Tôi thấy thương ba quá! Từ đấy, tối nào tôi cũng ghé thăm ba, để xua tan bớt nỗi trống vắng.

Một chiều mưa tháng 8 tôi b83ng dưng thấy nhớ mẹ. Tôi và anh Mân vào thăm mộ mẹ. Giữa những ngôi mộ im lìm, những hàng dương nghiêng ngã trong màn mưa trắng xóa, nhìn di ảnh của mẹ tôi bồi hồi xúc động:

Trong chiều mưa con vào thăm mộ mẹ.

Đốt nén nhang để sưởi ấm linh hồn.

Lòng đất lạnh mẹ nằm trong cô quạnh

Giữa ngàn thông mưa trắng cả hoàng hôn

Con đứng đây với muôn vàn nỗi nhớ

Nước mắt rơi mà lòng chẳng thấy vơi

Hình bóng mẹ gợi con bao nỗi nhớ

Tiếng chuông chùa, vọng lại giữa chiều rơi

Từ giã mẹ thôi con về mẹ nhé

Lời tạ từ tắt nghẹn giữa buồng tim

Đường con về mưa vẫn rơi tầm tả

Trên cành cây đơn lẻ một cành chim

Tháng 8/95 con trai thứ của tôi (Tăng Thiên Vũ) thi đỗ đại học ngoại ngữ, gia đình tôi rất vui mừng. Tuy rằng lo tiền học trong 4 năm dài là cả vấn đề khó khăn. Trong hoàn cảnh kinh kế còn eo hẹp. Dù sao chúng tôi cũng có một đứa con vào được đại học, đó là điều mong ước từ lâu.

Năm 1996, nghe chúng tôi đã mua được miếng đất, mấy anh chị anh Mân ở Mỹ gửi tiền về hỗ trợ để làm nhà. Ở Việt Nam cũng có chị chín, chị Cương và anh Tư. Chúng tôi được Nga cho mượn 2 cây thế là anh Mân tiến hành làm nhà.

Với số tiền có được, tôi chỉ mong làm được một cái nhà tạm tạm. Thế mà hai vợ chồng cứ chở nhau đi xem nhà kiểu này, kiểu nọ với tâm trạng nôn nao.

Đất chúng tôi nằm trên đồi cao, nhìn xuống trước mặt là một khu đất trồng toàn dương liễu trông giống như thung lũng Đà Lạt. Ở đây dân cư còn thưa thớt lắm.

Tháng 9/96 anh Mân khởi sự làm nhà trước mùa mưa gió. Làm được khoảng tháng rưỡi, anh chở tôi qua xem. Tuy chưa xong, nhưng ngôi nhà đã thành hình. Nhà có chiều ngang 4m, dài trong lòng 11m. Dưới gồm 1 phòng khách, 2 phòng ngủ, thêm 1 phòng lối 4m x 4m, trong bố trí phòng ăn nhà bếp và công trình phụ. Trên có thêm 1 gác đúc giả 1 phòng thờ và 1 phòng ngủ. Ngoài hiên rộng 2m x 4 và sân trước 3 m x 4 m.

Tôi thật bất ngờ trong mơ tôi cũng không nghĩ mình sẽ có được một ngôi nhà như thế.

Ngày dọn về nhà mới, bà con anh em, bạn bè ai cũng mừng cho chúng tôi có được một tổ ấm. Nhất là ba tôi cứ đi lên đi xuống nhìn chổ này chổ kia.

Đêm ấy nằm ngủ trong ngôi nhà mới, ngửi thấy mùi thơm của tường vôi, tôi thấy lòng hân hoan lạ. Ôi! Tự do, ta yêu mi! nếu còn mẹ tôi chắc bà cũng sung sướng lắm

Khách sạn Royal ngày một làm ăn thua lỗ, con trai trưởng là Nhân phải xin vào Tam Kỳ làm tại công ty xây lắp điện Quảng Nam (do Thông con chị chín xin hộ). Từ đó chỉ có thứ bảy nó mới về, sáng thứ 2 vào lại.

Thiên Nhân đã có bạn gái tên Hòa, thua nó 2 tuổi, đang làm việc tại Tòa án quận Hải Châu. Cha là Huyện ủy Tiên Phước, mẹ là giáo viên nghỉ hưu. Tôi bảo với Nhân nên nói rõ lý lịch về gia đình mình kẻo sau này rất khó. Nó cho biết Hòa đã nói rõ với ba má, nhưng ông bà bảo không thành vấn đề, miễn sao 2 đứa yêu thương nhau là được. Con trai tôi thấy công việc chưa ổn định, nên chưa đặt vấn đề hôn nhân với Hòa. Tuy rằng 2 đứa đã quen nhau 2-3 năm rồi.

Một hôm nghe dì Bé Nga kể lại: Hòa có đến gặp em khóc và phân trần là Nhân khó tính. Trong dịp dự đám cưới ở Tam Kỳ với bạn gái, xin vào phòng Nhân thay đổi quần áo, thế mà ảnh bảo con là gái vô duyên. Chắc con với ảnh không thành dì Bé ơi! Đã bao lần rồi.

Tôi gạn hỏi thì nó bảo: “Chỉ khi nào Hòa đến xin lỗi thì mới bỏ qua”. Tôi nói thế này: “Con có bao bao giờ đứng trước ba mẹ xin lỗi về những lầm lỗi của con chưa? Huống gì Hòa và con cùng trang lứa sao con cố chấp như vậy. Hơn nữa mẹ cũng thấy chuyện đó cũng bình thường có đáng gì, mình nên xử sự cho ra dáng đàn ông” nhưng nó không nghe. Rõ là mộ người có tính gia trưởng.

Bẵng đi 3-4 tháng. Một hôm Nhân về cho biết Hòa nằm bệnh viện. Tôi và anh Mân đi thăm mới hay Hòa bị rồi loạn thần kinh não.

Mấy tháng sau nghe tin Hòa đi lấy chồng. Đó cũng là bài học đích đáng cho thằng con trai tôi đã xem nhẹ tình yêu. Tuy không nói ra bởi bản tính cao ngạo, nhưng tôi biết trong lòng nó cũng dậy sóng. Chấm dứt cuộc tình đầu của thằng con trai sao tôi thấy lòng buồn man mác. Tôi nhớ lại một buổi chiều mưa, Hòa đã đội mưa đến thăm Nhân. Nhìn cô gái co ro trong chiếc áo mưa tôi thấy thương lạ. Tôi bất ngờ khi thấy Nhân chỉ chạy ra nhìn chớ không săn đón hỏi han gì cả. Khi Hòa về rồi, tôi nói đùa: “Sao em đến them anh một chiều mưa, đáng ra phải say đắm nồng nàn lắm, sao mẹ thấy con ơ hờ quá”. Sự thể xảy ra thế này cũng là một kỷ niệm buồn đáng nhớ cho nó.

Khoảng tháng 7/97, trong mùa nóng nực cực điểm ba tôi nhuốm bệnh, Ban đầu thấy ăn không tiêu, đi khám BS bảo vì già nên yếu dạ dày. Ba tôi uống hết toa thuốc của BS kê cũng không thấy hết. Đi khám BS chuyên về nội khoa, siêu âm mới biết ba tôi bị xơ gan nặng. Một BS quen khuyên ba tôi đừng mổ, vì ba đã già (79 tuổi) sợ không đủ sức, hơn nữa mổ chưa chắc đã lành, vì bệnh này thuộc dạng nan y, chỉ uống thuốc cầm chừng. Bác sĩ dự đoán ba tôi chỉ còn sống khoảng 5-6 tháng nữa.

Tất cả chị em chúng tôi nghe tin này ai cũng bàng hoàng. Mới mãn tang mẹ chưa được bao lâu, bây giờ ba lại sắp sửa. Tuy chưa có đứa nào giàu có gì, nhưng chị em chúng tôi cũng ráng đáp ứng mọi nhu cầu của ba trong điều kiện có thể.

Chúng tôi không cho ba biết sự thật về bệnh tình, nhưng làm như có linh tính, ông bảo muốn về lại Bảo An (quê nội) ở đó ít lâu rồi chết. Chúng tôi bảo ở đó đâu còn ai thân thích, con cái ở ngoài này hết ba về làmgì. Ba tôi từ bỏ ý định đó nhưng tôi biết còn tiếc nuối lắm.

Mấy ngày ba qua tôi ở lại, chị em tôi đều tổ chức hội họp, ăn uống. Ba thấy cảnh con cái quây quần chung quanh vui vẻ lắm, cứ cười hoài.

Một hôm trời sáng trăng hai cho con ngồi trò chuyện tình thời trai trẻ của ông. Trước khi cưới mẹ tôi, ông nội khi ấy đang trông coi thợ xây dựng trên Bà Nà, ba ở với ông nội trên ấy. Có một cô gái ông nội thuê gánh lương thực từ Đà Nẵng lên (khi ấy chưa có đường xe chạy) mỗi tháng 2 lần. Sau những lần gặp chuyện trò, ba và cô ấy đã yêu nhau. Cứ mỗi lần đến kỳ cô ấy gánh lương thực lên là ba tôi cuống cuồng, từ rất sớm ba đã lo tắm rữa diện bộ đồ Tây vào rồi lên đỉnh đồi đứng ngóng. Giữa đêm, trăng vằng vặc trên vai, nắm tay nhau đi về trại, cách đó khoảng 7-8km mà sao thấy mau đến quá. Tuy yêu nhau say đắm nhưng chưa bao giờ ba dám vượt qua vòng kỷ cương của đạo lý. Thật lãng mạn. Tôi hỏi sao ba yêu cô ấy sao không cưới lại cưới mẹ con. Ba bảo lúc ấy ông ngoại làm kiểm lâm trên ấy. Tình bạn thân thiết nảy ra giữa hai ông già xa nhà, trong những lúc trà dư tửu hậu, 2 người hứa làm thông gia. Thời ba mẹ là thời phong kiến theo quan niệm: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, nên đã thành vợ chồng sau này tôi mưới biết người yêu của ba là cô Đào (em bạn dì với mẹ). Lúc ba tôi bệnh cô cũng ghé thăm mấy lần.

Những ngày tháng cuối đời, ba muốn đi từ nhà đứa này sang đứa khác, nhưng không chỗ nào ở được lậu. Nhìn ba hao gầy, sa sút từng ngày tôi thấy mà xót lòng. Ước gì thần chết nương tay để ba tôi sống với chúng tôi thêm một thời gian nữa.

Rồi một hôm ba tôi bị té, chỉ ngồi và nằm chứ không đi được nữa, mỗi bữa ăn lưng bát cháu. Từ đó ba tôi hay dặn dò chuyện này, chuyện nọ, ý nguyện của Ba khi chết cũng muốn nằm gần mẹ trong chùa Vạn Đức.

Một đêm tôi ngủ cạnh ba, giữa khuya bổng nghe ba gọi Bé thật to, tỉnh lại bao bảo thấy ma cho bánh dẫn đi. Tôi bảo: “nhà mình thờ phật, không có ma nào dám vào đâu, ba đừng sợ, cứ niệm phật và yên tâm ngủ”

Chị Bân và anh Khởi đã về mấy hôm nay rồi vào hôm sau ba tôi bắt đầu hôn mê, chị em tôi lặng lẽ chuẩn bị chuyện hậu sự cho ba. Khoảng 10 ngày sau đó ba tôi thở nặng nhọc như ngáp cá. Rồi một buổi chiều đông lạnh giá, ba tôi từ giã cõi đời vào ngày 20/12 âm lịch năm 1997. Thọ 79 tuổi.

Đám tang ba tôi cử hành sau đó 3 ngày, trong một sáng buốt giá. Trời như thấp xuống xám xịt buồn tê tái. Ngồi trên xe tang nhìn di ảnh ba, tôi âm thầm rơi lệ. Một con người sống tận tụy, quá đổi thật thà, tiết kiệm gần như khổ hạnh. Cũng nhờ đức tính ấy mà ba tôi đã được cảm tình của hầu hết những người trong cơ quan, cho nên từ ngày ngã bệnh cho đến lúc lâm chung, tháng nào lãnh đạo cũng đến viếng và trao lương. Khi nghe tin ba tôi mất họ vô cùng thương tiếc, đã nhận con trai tôi là Hoàng vào làm việc thế chỗ ba, còn bố trí xe hơi đưa đám tang cho ba. Đó là cách người ta bày tỏ sự mến thương với người đã khuất. Gia đình tôi vô cùng tri ân.

Từ đấy, mỗi lần về thăm mấy em, tôi không còn được cái vui sướng gặp lại ba mẹ và trông lòng tôi lại thấy một nỗi tủi thân giống như một đứa trẻ mồ côi bơ vơ lạc lõng.

Do chính sách đổi mới của nhà nước. Những Việt Kiều từ các nước đều về thăm viếng những người thân. Tôi nhớ hồi còn ở Ba Dừa ai có người thân đi nước ngoài đều phải giấu. Lúc ấy người ta gán cho những người di tản ra nước ngoài là : “Phản động”. Còn bây giờ người ta gọi những Việt Kiều trở về quê hương bằng những từ trân trọng “việt kiều yêu nước”. Đúng là “lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Nhà nước kêu gọi những Việt kiều về đầu tư, gửi ngoại tệ về cho người thân, cho nên sau một thời gian Việt Nam đã thu hút được một lượng ngoại tệ đáng kể, mà khỏi phải đóng thuế. Năm 1998 lần lượt bên nhà anh Mân có gia đình chị Đường, Chị Anh, anh Tư, anh Tài về...

Đón gia đình chị Đường về trong sự mừng rỡ đến ngỡ ngàng, chị đường bây giờ nước da trắng hồng, mập mạp, khác với lúc còn cơ cực nhiều lắm. Phượng con gái thứ chị đã có gia đình và 1 đứa con trai Nam Trân, Nam Hải vẫn còn độc thân. Tất cả đều trắng trẻ đẹp hơn lúc còn ở Việt Nam (có tiền thành Tiên thành Phật)

Có một điều tôi thấy ở bà con gần xa đều đón những Việt Kiều một cách niềm nở quá mức bình thường. Hình như những đồng Dollas đã nâng giá trị của họ lên. Cho nên Việt kiều đều nhìn bạn bè, người thân với đôi mắt của những người ở tầng lớp cao hơn.

Sau này được tiếp xúc với nhiều Việt kiều về nước, nghe người ta thổ lộ thì cuộc sống bên đó cũng không dễ dàng gì. Làm việc cật lực chứ không lơ mơ như ở Việt Nam. (giờ hành chánh mà những quán nhậu, quán cà phê vẫn đầy người) nhưng lương rất cao: lao động phổ thông từ 7 USD – 10 USD/1 giờ. Còn những người học hành đỗ đại học ra làm việc lương phải từ 4.000 – 5.000 USD trở lên, bù lại họ cũng chịu áp lực từ nhiều phía; mỗi tháng họ phải thanh toán tiền nhà (trả góp) điện, điện thoại, nước, bảo hiểm xe hơi, bảo hiểm y tế... Những món tiền này gộp lại không phải ít.

Có một số người thuộc thành phần trí thức, vì hoàn cảnh qua Mỹ dễ bị sốc vì bằng cấp tại Việt Nam không được quốc tế công nhận, đành phải làm việc phổ thông như bán hàng, chạy bàn... dễ gây mặc cảm và chán nản. Những người già qua đây rất buồn vì con cái đi làm cả ngày. Hơn nữa ở xã hội Mỹ củ nghĩa cá nhân được tôn vinh đưa lên hàng đầu (tên đứng trước họ), cho nên con người có tính độc lập, tự chủ rất cao, vì thế tình cảm gia đình giòng họ không khắng khít như ở Việt Nam (giòng họ gia đình rồi mới đến mình). Ở xã hội Mỹ luật pháp rất nghiêm minh, danh dự con người được đề cao và chính sách an sinh xã hội rất tuyệt. Những người hết tuổi lao động được trợ cấp từ 700-1000USD một tháng. Tất cả các khoản về y tế đều được miễn phí, thất nghiệp cũng được trợ cấp.

Tháng 9/2001, chúng tôi được Nga từ Mỹ về mời dự đám cưới đứa con gái đầu tổ chức tại Sài Gòn. Sau 9 năm về quê hương, đây là dịp chúng tôi trở lại Ba Dừa, Cai Lậy, nơi quê hương thứ 2 đã cưu mang chúng tôi trong những ngày gian khổ.

Đến ga Sài Gòn, đã thấy Tâm (con chị Tư Đức) đưa tay vẫy. Tâm giờ đã ra người lớn cao và đẫy người. Chúng tôi ở nhà dì Minh một đêm sáng hôm sau đến nhà Bé Tý ở Gò Vấp. Chiều dự đám cưới rồi về luôn Cai Lậy. Ở nhà Bé (con chị Cương) đêm. Sáng hôm sau đã thấy 2 vợ chồng chị Tư Đức lên đón.

Sau 9 năm mới gặp lại chúng tôi mừng không kể xiết. Nhìn đôi vợ chồng máy tóc đã hoa râm giống mình, tôi không khỏi bùi ngùi.

Chúng tôi theo xe anh chị về Ba Dừa. Dọc theo con kênh, thay vào con đường đất đỏ là con đường tráng nhựa êm ru. Những ngôi nhà lá đã bớt dần thay vào đó là nhà ngói, nhà đúc. Nhà chúng tôi ở khi xưa, bây giờ đã mọc lên ngôi nhà lầu.

Cơ ngơi của anh chị Tư Đức là một cửa hàng bán vật liệu xây cất làm trên nền nhà cũ. Thằng Đạt con trai trưởng đã có vợ và 1 đứa con gái, có cửa hàng cắt kiếng riêng. Vào trong vườn của anh chị tư thăm ba má anh. Tôi rất cảm động khi  thấy 2 ông bà đón chúng tôi mừng rỡ như đón những đứa con xa nhà trở về. Nhất là bà má miền nam của anh, tôi cứ nhớ mãi tâm sự của Má kể về cuộc đời của má cho tôi nghe. Vườn mùa này đầy chôm chôm và nhãn trông rất thích.

Men theo con đường ruộng vào thăm anh chị tư phô. Đó là căn nhà tôn nằm sâu vào trong, bao bọc chung quanh nhà là một khu vườn rộng, mát rợp những cây ăn quả.

Chị thật bất ngờ và mừng rỡ, cho biết anh Tư đã đi bán vé số, còn Tuyết con chị đã đi lên Sài Gòn phụ bán với bà cô họ. Chị bảo bây giờ chị phụ rửa chén bát cho quán cà phê buổi sáng, còn buổi chiều cho quán phở. Nhìn chị gầy đét như ngày nào, suốt cuộc đời tất bật, tôi thấy ái ngại quá. Lúc về tôi dúi vào tay chị 200.000đ, chị không nhận nhưng tôi cố nài.

Chiều và đêm ấy mưa thật lớn, làm tôi nhớ lại những cơn mưa của ngày xưa: Đường sá lầy lội, mỗi lần đi ra ngoài dính dép chẹp nhẹp. Bây giờ nhìn đường tráng nhựa lóng lánh dưới cơn mưa, tôi thật sự mừng cho bà con ở đây.

Sáng hôm sau, sáng hôm sau chúng tôi theo anh chị Tư Đức ra chợ thăm bạn hàng. Đường ra chợ vẫn còn lầy lội nhếch nhác. Những phố nhà hai bên cũng không thay đổi mấy. Ngoài trừ một vài nhà lên lầu. Thăm những bạn hàng buôn bán toàn nghe than thở chuyện bán ế, mà thuế thì cứ lên vùn vụt.

Chúng tôi thăm lại trường trung học Long Trung, nơi các con tôi đã học và một vài thầy cô thân quen. Về thăm lại cảnh cũ người xưa, chỗ nào nơi đâu tôi cũng nghe bồi hồi lạ.

Sáng hôm sau từ giã gia đình anh chị Tư Đức. Từ giã ba dừa quê hương thứ hai lần này tôi cũng không nén được nỗi buồn như lần ra đi cách nay 9 năm. Con kênh xanh vẫn lặng lờ trôi mang theo những bè lục bình vô định. Bây giờ tôi lại mong ước có dịp sẽ trở về thăm lại chốn này nhiều lần nữa.

Chúng tôi lên xe về Mỹ Tho thăm gia đình chị Cương (chị đã bán nhà ở Cai Lậy lên đây mua đất làm nhà).

Tối hôm 11/9/2001, chúng tôi chứng kiến một sự kiện lịch sử của thế giới: 19 giờ trong bản tin thời sự trên màn hình tivi, chúng tôi mục kích diễn biến cảnh nước Mỹ Bị tấn công bởi bọn khủng bố Hồi giáo cực đoan. Những chiếc máy bay cảm tử đâm vào tòa tháp đôi trung tâm thương mại thế giới của Mỹ. Những tiếng nổ, những cột khói cao ngất trời. Rồi những hình người thi nhau nhảy xuống. Những chiếc máy bay  khác lại tấn công tiếp. Tôi bàng hoàng như tê dại cả cơ thể, có cảm tưởng sắp xảy ra chiến tranh thế giới lần III. Nước Mỹ là một nước mạnh về mọi mặt: Kinh tế, quân sự, chính trị... có thể gọi là bất khả xâm phạm. Thế nhưng sau sự kiện này, đã làm cho thế giới thay đổi cách nhìn, cách nghĩ: cái gì cũng có thể xảy ra!

Mấy hôm sau trong bản tin người ta cho biết số thiệt hại về người và vật chất không kể xiết chưa thể kiểm tra hết thật kinh hoàng.

Ở Mỹ Tho 2 ngày, chúng tôi lên lại Sài Gòn thăm Minh Thu và Minh Thư (con chị Tư Đức). Thu đang làm chủ một hiệu uốn tóc, còn Thu đang học Ngoại ngữ năm thứ 2. Thu và Thư cũng không thay đổi gì so với những nét khi xưa, vẫn đẹp và dễ thương, riêng Thu tôi rất thương ngay từ thuở nó còn bé; cho nên không nén nỗi xúc động tôi ôm nó khóc ròng.

Trở về nhà sau bao ngày du Nam, tâm trạng tôi vui buồn lẫn lộn. Vui vì đã thực hiện được mơ ước về thăm lại chốn cũ. Nhưng cũng buồn khi phải chia xa.

Thiên Vũ ra trường đã xin vào làm việc tại Furama, phần hành kiểm toán.

Anh Mẫn bị bệnh tiểu đường từ năm 95 đến nay, ngày nào cũng uống thuốc cầm chừng, còn biến chứng ra nhiều bệnh khác như cao huyết áp, động mạch vành và nhất là bị điếc nặng. Tuy thế anh vẫn phải đi làm vì kinh tế còn eo hẹp.

Anh Mân càng có công việc càng tự hào về mình. Một ngày Tết chúng tôi xuống thắp hương cho ba mẹ. Trong lúc nói chuyện với Xê và Bé bảo: “Xang tính kỹ quá, còn Xê thì lại quá rộng rãi phóng khoáng” tôi đùa: “chỉ có tôi là cân bằng” anh Mân bảo: “Lê mà không có Mân cũng như cứt”. Tôi như bị một gáo nước lạnh tạt vào mặt, tê buốt. Bực tức bởi sự xúc phạm quá đáng tôi không kìm được, khi về đến nhà đã bảo: “thần đồng, bác học, vĩ nhân, người nào cũng đầy cứt cả. Anh chỉ thằng, con nào không có cứt tôi xem.” Anh bảo nói giỡn.

Từ đó tình cảm vợ chồng bổng nhiên tôi thấy lạnh giá, có chăng cũng chỉ là gắng gượng. Đó là điều làm tôi đau khổ khi phát hiện tình yêu và lòng tôn trọng chồng bị sút giảm tệ còn chăng là cái nghĩa vợ chồng hơn 30 năm gắn bó, sướng khổ có nhau thế thôi. Đó là điều bất hạnh trong tuổi xế chiều của tôi.

Một thời gian sau, nhờ một cơ duyên tôi đọc được nhiều sách Phật, ngộ ra được nhiều điều để tự giải bớt phiền não trong lòng. Mỗi buổi sáng tập thể dục, nằm áp mình xuống nền đất trong tư thế thư giãn, tôi nghe mát rượi thanh thản đến kỳ lạ.

Mỗi khi đặt mình nằm dưới đất

Tôi lại nghe thanh thản cả tâm hồn

Nếu được chết giữa giờ phút này thì tuyệt

Chân không còn rong ruỗi kiếp long đong

Ôi bình yên, hai tiếng diệu kỳ

Trong khoảnh khắc tôi nghe hoa lòng nở

Ôi bình yên, hai tiếng diệu kỳ.

Càng lớn tuổi tôi càng đổ ra nhiều bệnh: sỏi mật, viêm đại tràng co thắt, dạ dày, rồi loạn tiền đình. Nhiều đêm viêm ống mật lên cơn đau quằn quại, tôi mò mẫm đi tìm thuốc uống, van vái Trời Phật được chết như một đều bình thường, không tiếc nuối bởi cuộc đời của mình cũng chẳng vinh quang. Sung sướng gì.

Tình yêu ở tuổi này tôi đem chan hòa cùng thiên nhiên và cây cỏ. Tôi bắt đầu trồng hoa, cây cảnh.

Trong sự bất ngờ tôi phát hiện những cảm xúc của tôi vẫn còn nguyên vẹn, không bị xơ cứng, hầu như quên lãng bởi cuộc sống bôn ba vì miếng cơm manh áo, sau bao nhiêu năm bây giờ đã được đánh thức. Tôi xin cám ơn đời, còn cho tôi được những niềm vui tìm thấy trong sách vỡ, trong thơ nhạc và trong những cuộc hành trình phiêu lãng đây đó. Tôi chưa bị trắng tay, khi mỗi sáng thức dậy nhìn những nụ hoa hé nở, hay những khi chiều xuống  ngồi ngoài vườn được nghe những bản nhạc mình yêu thích, tôi lại tìm thấy một niềm hoan lạc, như được tiếp thêm sinh lực.

Một đêm nhìn hoa quỳnh nở, màu hoa trắng muốt, tinh khôi lung linh theo làn gió thoảng, hương thơm lan tỏa khắp phòng. Lòng tôi thấy nao nao khi nghĩ còn vài giờ nữa Quỳnh sã tàn úa. Tiô đã thức chờ giờ tiễn đưa Quỳnh, nhưng lại sợ thấy cảnh tàn phai nên đã đi nằm, nhưng lòng thì cứ mang mang sáng ra đã thấy Quỳnh héo rũ, tôi ngậm ngùi, tiếc nuối

Nhìn Quỳnh nở, đêm nay ta thổn thức

Kiếp chóng tàn, hương sắc để mà chi?

Ta mãi ngắm chỉ sợ Quỳnh héo úa

Lại ngại ngùng phải thấy cảnh hoa đi

Thoang thoảng mùi hương lan tỏa khắp phòng

Ta hít thở cả không gian thơm ngát

Xót thương Quỳnh ta đứng lặng bên song

Sáng thức dậy thấy Quỳnh héo rũ

Ngậm ngùi thay ta tiếc một đời hoa

Ngẩn ngơ nhặt từng nụ hoa tàn rũ

Hương phai rồi em hỡi, hỡi Quỳnh hoa

Bây giờ nhìn sự việc gì tôi cũng muốn nhìn ở mặt tích cực để lòng nhẹ đi. Cho nên những tổn thương mà anh đã gây cho tôi trước đây và có thể sau này, tôi nghĩ là do trong quá trình cuộc đời bị vùi dập và bị tổn thương quá nhiều. Do đó anh bị ức chế về mặt tâm lý, đó cũng là một các để xả stresse cho nên tôi tự bằng lòng với hoàn cảnh của mình, nếu đem lên bàn cân, những cái tốt của anh vẫn nhỉnh hơn. Thôi thì “cuộc đời sắc sắc không không, còn chăng chỉ một tấm lòng mà thôi” Nhiều khi nhìn anh đất thuốc trong sáng vẻ buồn chán, tôi lại thấy thương.”

Nhìn anh đốt thuốc

Như đốt cuộc đời

Ánh lên đóm lửa

Lụi tàn khói bay

Nhìn anh đốt thuốc

Vàng năm ngón tay

Vàng theo ánh mắt

Vàng cả tháng ngày

Nhìn anh đốt thuốc

Dáng vẻ suy tư

Kiếm tìm dĩ vãng

Một thời hư vô

Nhìn anh đốt thuốc

Như đốt cuộc đời

Ngậm ngùi cay đắng

Ngoài trời mưa rơi

Nhìn mình ngày một tàn phai tôi biết đó là quy luật của trời đất, nhưng sao vẫn thấy buồn và chán.

Soi gương nhổ tóc bạc

Để kéo dài tuổi xuân

Nào ngờ đâu Xuân chẳng

Đến trên làm da nhăn!

Rốt cuộc đời tôi thấy mình là người yếu hèn không dám đấu tranh đến nơi đến chốn với những cái xấu, cái ác của chính bản thân, gia đình và những người xung quanh. Lúc nào cũng cầu một chữ hòa luôn mang trong lòng một nỗi nhục, bởi không được độc lập về kinh tế, làm việc gì cũng khó đạt kết quả như mong muốn.

Những buổi chiều ngồi ngắm cảnh hoàng hôn, với cơn gió thoảng qua mà se lạnh, tôi lại tiếc nuối:

Rồi ra nhan sắc cũng phai từng chiều

Ngồi buồn giữa cảnh tịch liêu

Gió heo may thổi lòng hiu hắt lòng.

Viết lại tháng 9/2009

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro