Light In August - William Faulkner (Part 3)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Như vậy, tấm biển mà ông đóng và vẽ chữ thì đối với ông còn có ít ý nghĩa hơn là đối với thành phố; ông không còn ý thức về nó như một tấm biển, như một lời truyền đạt. Ông quên bẵng nó cho đến khi ông ngồi vào chỗ bên cửa sổ phòng làm việc, khi đêm xuống. Lúc đó, nó chỉ là một hình dạng chữ nhật, quen thuộc và hoàn toàn vô nghĩa, được đặt thấp ở một đầu sân cỏ hẹp nằm sát đường. Nó cũng hẳn là có thể mọc ra từ lòng đất bi thảm và tất yếu, giống như những cây bụi và cây phong có nhánh trải thấp mà ông không ngăn cản hay chăm bón cho chúng nảy nở. Thậm chí ông không nhìn nó nữa, như ông thực sự không thấy cây cối phía dưới khi chăm chú nhìn ra đường xuyên qua chúng, chờ đêm tới, chờ cái thời điểm chính xác mà màn đêm buông xuống. Ngôi nhà, phòng làm việc đều tối sau lưng ông, và ông đang đợi cái khoảnh khắc mà mọi ánh sáng trong bầu trời đều biến mất và trời sụp tối ngoại trừ cái ánh sáng lờ mờ mà cỏ cây còn giữ lại và lưu luyến chia tay, làm mặt đất còn sáng chút ít dù đêm đã đến đủ đầy. Bây giờ, trong chốc lát thôi, ông nghĩ; trong chốc lát thôi, bây giờ. Ông không nói, ngay cả với chính mình: "Ở đó vẫn còn một chút danh dự và lòng tự trọng, một chút cuộc đời."

***

Khi Byron Bunch, bảy năm trước đây, lần đầu đến Jefferson và thấy tấm biển nhỏ Gail Hightower D.D. Nhận dạy vẽ, nhạc Làm thiệp Giáng sinh & Sinh nhật vẽ bằng tay Tráng, in ảnh anh nghĩ, 'D.D. là cái gì vậy cà, D.D.?" và anh đi hỏi và người ta bảo anh nó có nghĩa là Done Damned[32]. Gail Hightower D.D. ít ra là bị đọa đày ở Jefferson rồi, họ nói với anh. Và họ cũng nói rằng Hightower đã đến thẳng Jefferson từ chủng viện, sau khi từ chối tất cả những sự bổ nhiệm khác; rằng ông đã đi chạy chọt khắp nơi để được gởi đến Jefferson. Ông đến đây với cô vợ trẻ, mặt mũi lộ vẻ phấn khích ngay từ khi bước xuống tàu lửa, mở miệng chào hỏi, nói với những lão ông, lão bà, tức những cột trụ của ngôi giáo đường của ông, là ông đã hết lòng chọn Jefferson ngay từ đầu, ngay lần đầu tiên ông quyết định trở thành mục sư; và kể với họ, với một thứ gì giống như niềm vui sướng, về những lá thư ông đã viết và những nỗi lo lắng ông đã trải qua và những ảnh hưởng ông đã sử dụng để được bổ nhiệm đến Jefferson. Đối với dân chúng trong thành phố, chuyện này nghe ra giống như tên lái ngựa tỏ lòng vui sướng khi thấy có lời to trong một chuyến buôn. Có lẽ đây là điều mà các trưởng lão của nhà thờ cảm thấy lúc đó. Họ đã lắng nghe ông với chút gì đó lạnh nhạt, ngạc nhiên và nghi ngại bởi vì ông có vẻ bận tâm trước hết đến chuyện sống ở thành phố này hơn là đến nhà thờ và các con chiên mà ông muốn phục vụ. Như thể ông không quan tâm đến những con người, những con người đang sống đây, như thể ông không muốn biết đến việc họ có muốn ông giữ chức vụ này hay không. Hơn nữa, ông thì cũng trẻ và các lão ông, lão bà đã thử làm dịu bớt sự phấn khích vui sướng của ông bằng cách đề cập đến những vấn đề nghiêm trọng và trách nhiệm của nhà thờ và những trách nhiệm của riêng ông. Và họ tiếp tục kể với Byron rằng, dù sáu tháng đã qua, ông mục sư trẻ vẫn còn phấn khích, vẫn còn nói về cuộc Nội chiến và ông nội của mình, một sĩ quan kỵ binh đã tử trận, và về những kho tiếp liệu của tướng Grant[33] đã bốc cháy ở Jefferson, vẫn phát ngôn một cách ngông cuồng đến mức lời nói của ông chẳng còn nghĩa lý gì. Họ kể với Byron rằng khi đứng trên bục giảng, ông dường như cũng ăn nói kiểu đó, cũng bạt mạng không kém, nói chuyện đạo y như nói chuyện nằm mộng. Không phải là cơn mộng dữ đâu, nhưng là cái gì đó đi nhanh hơn những lời trong Kinh thánh, một thứ gió xoáy, nó thậm chí không cần chạm đến mặt đất. Và các lão ông, lão bà thì cũng chẳng ưa điều này chút nào.

Như thể, ngay cả trên bục giảng đạo, ông không đủ sức tách rời đạo giáo với sự xung phong của đoàn kỵ binh và ông nội đã chết, bị giết trên lưng ngựa phi nước đại. Và có lẽ ở nhà, ông cũng không thể phân biệt những chuyện này trong cuộc sống riêng tư của mình. Có lẽ ở nhà ông cũng chẳng thèm phân biệt làm gì, Byron nghĩ, trong khi anh đang nghĩ đó là cách thức mà cánh đàn ông cư xử với những người đàn bà thuộc về họ, và đó là lý do tại sao đàn bà phải tỏ ra mạnh mẽ và người ta không nên khiển trách họ về những gì họ làm với đàn ông, cho đàn ông và vì đàn ông, bởi vì Chúa biết rõ rằng làm vợ một người nào đó không phải là điều đơn giản. Họ kể với anh rằng người vợ của ông mục sư là một cô gái nhỏ nhắn, trông có vẻ trầm lặng, thoạt đầu gây ra cảm tưởng nơi thành phố là cô chẳng có gì đáng chú ý. Và thành phố nói rằng, giá như Hightower là loại người đáng tin cậy hơn, loại người mà một mục sư đúng ra phải là như vậy, thay vì được sinh ra khoảng ba mươi năm sau cái ngày duy nhất mà ông dường như đã sống thực sự - cái ngày mà ông nội của mình bị bắn chết trên lưng ngựa phi nước đại - thì cô hẳn đã là người tốt rồi. Nhưng ông không phải loại người đó, và các ông bà hàng xóm đã nghe cô khóc trong căn nhà riêng dành cho mục sư trong đêm khuya hay vào buổi chiều, và các người hàng xóm này biết là ông mục sư chẳng thể làm gì được về việc này bởi vì ông không biết đâu là chỗ sai, chỗ trái. Đôi khi, thậm chí ngày chủ nhật, cô không đi nhà thờ, nơi mà chồng cô giảng đạo, và người ta nhìn ông và tự hỏi không biết ông có nhận ra là vợ mình vắng mặt không, không biết ông có quên là mình có một người vợ không, một khi đứng trên cao đó, trên bục giảng, với hai bàn tay lượn đi lượn lại xung quanh mình; và các tín điều mà ông có nhiệm vụ rao giảng thì đầy những cuộc xung kích của kỵ binh, những cuộc bại trận và những nỗi vinh quang. Và cũng y chang như vậy khi ông ráng sức kể cho họ nghe, ở ngoài đường, những con ngựa phi nước đại khi tiến công thì câu chuyện của ông lại pha trộn với sự xá tội và các dàn đồng ca của những thiên thần thượng đẳng hiếu chiến. Đến nỗi mà, thì cũng tất nhiên thôi, các vị trưởng lão của nhà thờ tin rằng những gì ông rao giảng trong chính ngôi nhà của Chúa, vào chính ngày của Chúa, thì tiến quá gần sự phạm thánh.

Và họ kể với Byron rằng sau một năm ở Jefferson, cô vợ bắt đầu mang vẻ mặt đông cứng, và khi các quý bà trong giáo xứ đến gặp Hightower, chỉ một mình ông tiếp họ, mặc độc cái áo sơ-mi, không mang cổ cồn, dáng điệu thì bồn chồn, và trong một lúc ông thậm chí có vẻ không hiểu mục đích của cuộc gặp gỡ và ông phải làm gì đây. Ông mời họ vào, mở miệng xin lỗi rồi biến mất. Và họ không nghe một tiếng động nào đến từ bất cứ nơi nào trong nhà, họ ngồi đó, trong bộ cánh dành cho ngày chủ nhật, đưa mắt nhìn lẫn nhau hay nhìn quanh phòng, lắng tai nhưng chẳng nghe gì cả. Rồi ông trở lại, lần này thì mặc áo choàng và cổ cồn, ngồi xuống và chuyện trò về nhà thờ và những người bệnh, và họ trò chuyện, trả lời ông một cách hoạt bát và điềm tĩnh, nhưng họ lúc nào cũng lắng tai để nghe cái gì đó, có lẽ cũng để mắt coi chừng cửa ra vào, và có lẽ tự hỏi ông có biết những chuyện mà họ tin là họ đã biết không.

Các quý bà này ngừng hẳn việc lui tới nhà ông. Chẳng mấy chốc, họ thậm chí không còn thấy cô vợ của ông mục sư ở ngoài phố nữa. Và ông cứ xử sự như thể mọi việc đều ổn cả. Rồi, cô bắt đầu vắng mặt một hay hai ngày. Người ta thấy cô lên chuyến tàu sớm buổi sáng, khuôn mặt bắt đầu gầy đi, hốc hác hẳn ra như thể cô không bao giờ ăn uống đầy đủ, và vẫn mang cái vẻ đông cứng như thể cô không thấy những gì mà cô nhìn đến. Và ông mục sư nói là cô đi thăm gia đình ở đâu đó dưới miền Nam của tiểu bang, cho tới một ngày kia, vào một trong những lần vắng mặt của cô, có mụ đàn bà ở Jefferson đi mua sắm ở Memphis bất chợt nhận ra cô đang vội vã đi vào một khách sạn. Đó là một ngày thứ bảy, mụ đàn bà nọ quay về nhà và kể ra chuyện này. Tuy vậy, ngày hôm sau Hightower vẫn lên bục giảng, thao thao bất tuyệt về đạo giáo trộn lẫn lần nữa với những đợt xung phong của kỵ binh, và cô vợ trở về ngày thứ hai, rồi ngày chủ nhật tiếp đó thì cô lại đến dự lễ ở nhà thờ, lần đầu tiên sau sáu hay bảy tháng, ngồi một mình ở hàng ghế cuối. Sau đó, cô đến nhà thờ đều đặn mỗi chủ nhật, trong một thời gian. Rồi cô lại bỏ đi, lần này vào giữa tuần (khi đó vào tháng bảy và trời rất nóng), và Hightower nói là cô đi thăm gia đình lần nữa, ở vùng quê trời mát; các lão ông, tức là các trưởng lão của nhà thờ, và các lão bà quan sát ông đều đều nhưng họ không biết ông có tin vào những gì ông nói hay không, và đám trẻ thì mở miệng xì xào sau lưng ông.

Nhưng họ đã không thể nói chắc là chính ông có tin hay không vào những điều ông kể ra với họ, là ông có quan tâm hay không, với cái thói quen pha lẫn chuyện đạo giáo với chuyện ông nội của mình bị bắn chết trên lưng ngựa phi nước đại, như thể hạt giống mà ông nội truyền cho ông cũng ở trên lưng ngựa, vào cái đêm đó, cũng bị giết chết; và thời gian thì ngưng lại ngay ở chỗ đó, vào lúc đó đối với cái hạt giống đó; và như thể từ thời điểm đó thì vẫn không có gì nảy sinh trong thời gian, ngay cả chính ông.

Cô vợ trở về trước ngày chủ nhật. Trời thì nóng bức. Các người già bảo rằng thành phố chưa bao giờ chịu đựng một đợt nóng khủng khiếp như vậy. Cô đến nhà thờ dự lễ ngày chủ nhật và ngồi ở hàng ghế cuối, một mình. Rồi ngay giữa bài thuyết giáo, cô đứng bật dậy và bắt đầu gào thét, và vừa khoa tay, vừa hét lên cái gì đó về phía bục giảng, nơi mà chồng cô đã ngừng nói, người khom ra đằng trước, bất động, hai bàn tay còn ở giữa khoảng không. Vài người ngồi gần tìm cách giữ chặt cô lại nhưng cô vùng vẫy chống cự, và người ta kể lại với Byron là cô bây giờ đứng ở gian giữa của nhà thờ, miệng hét, tay vung về phía bục giảng, nơi mà chồng cô khom người, bàn tay còn trên cao, bộ mặt hốt hoảng, đông cứng theo hình dạng của đoạn ngụ ngôn vang như sấm mà ông đã không thể kể xong. Họ không biết cô vung tay nhắm vào người chồng hay vào Chúa. Rồi ông bước xuống, đến gần vợ và cô ngừng giãy giụa và ông đưa cô ra ngoài. Tất cả những cái đầu đều quay nhìn khi hai người đi ngang, cho đến khi viên giám thị nhà thờ bảo người nhạc công đàn ống đánh đàn lên. Ngay chiều hôm đó, các trưởng lão nhà thờ họp kín. Người ta không bao giờ biết chuyện gì xảy ra trong phòng họp, nhưng Hightower trở lại, đi vào phòng áo lễ và cũng đóng kín cánh cửa sau lưng mình.

Nhưng người ta không biết chuyện gì đã xảy ra. Họ chỉ biết là nhà thờ đã trích ra một số tiền để gởi cô vợ đến một cơ sở từ thiện, một viện điều dưỡng, và chính Hightower đã đưa vợ đi đến đó rồi quay về và giảng đạo vào ngày chủ nhật tiếp theo, như thường lệ. Những bà, những cô hàng xóm, một vài người trong bọn họ đã không đặt chân vào nhà thờ từ nhiều tháng nay, lại tỏ ra tử tế với ông, thỉnh thoảng mang các món ăn nấu sẵn cho ông, kể cho nhau hay kể lại với chồng là căn nhà dành cho ông mục sư thì bừa bãi quá cỡ và ông có vẻ ăn uống như con thú - chỉ ăn khi nào thấy đói và chỉ ăn những gì có thể tìm ra. Mỗi hai tuần ông đi thăm vợ ở viện điều dưỡng nhưng ông bao giờ cũng quay về sau một hay hai hôm; và ngày chủ nhật ông vẫn lên lại bục giảng, như thể toàn bộ sự việc đã không hề xảy ra. Dễ thương và tò mò, nhiều người hỏi thăm sức khỏe cô vợ, và ông cám ơn họ. Rồi, ngày chủ nhật, lại đứng trên bục giảng, với những điệu bộ lộn xộn tùy hứng, với giọng nói hoang dại đầy đam mê, ông oang oang trộn lẫn, giống như những bóng ma, nào Chúa và sự cứu rỗi, nào ông nội đã chết và đoàn ngựa phi nước đại trong khi ở bên dưới các trưởng lão và đám giáo dân ngồi nghe, hoang mang và bất bình. Vào mùa thu, cô vợ trở lại nhà. Cô trông khỏe mạnh hơn. Mập ra chút đỉnh. Cô thậm chí còn thay đổi sâu sắc hơn thế. Có lẽ là hiện giờ cô có vẻ bị kiềm chế, hay ít ra là tỉnh thức. Dù sao, cô giờ đây giống như người mà các quý bà đã muốn cô luôn luôn là như vậy, như họ tin rằng một người vợ mục sư phải là như vậy. Cô đều đặn đi lễ nhà thờ, dự những buổi cầu nguyện, và các quý bà thăm viếng cô và cô thăm viếng họ, ngồi im lặng và khiêm tốn ngay cả trong nhà mình trong khi họ chỉ bảo cô làm sao chăm sóc nhà cửa, mặc áo quần gì, nấu món gì cho chồng ăn.

Người ta thậm chí có thể nói là họ đã tha thứ cho cô. Không tội ác nào, không một vi phạm nào thực sự được nêu ra, và không một hình phạt nào thực sự được áp dụng. Nhưng thành phố không tin rằng các quý bà đã quên những chuyến đi bí ẩn trước đây, nơi đến là Memphis, và với mục đích gì thì ai ai cũng đồng ý dễ dàng. Tuy nhiên, không ai hé miệng nói ra bao giờ, không hề oang oang cho đầu hè cuối ngõ cùng nghe, bởi vì thành phố tin rằng những người đàn bà đứng đắn không dễ dàng quên chuyện này, chuyện nọ đâu, dù xấu hay tốt, vì sợ rằng sự nếm trải và hương vị của lòng tha thứ sẽ biến mất khỏi vòm miệng của lương tâm họ. Bởi vì thành phố tin rằng các quý bà biết rõ sự thật, bởi vì nó cũng tin rằng những người đàn bà phạm tội có thể để mình lầm lạc về mặt tội lỗi, vì họ phải tiêu tốn một số thời gian để tìm cách tránh gây ra ngờ vực, trong khi những người đàn bà đứng đắn thì ngược lại, họ không thể lầm lạc, vì chính mình đã là người đứng đắn rồi thì họ không phải lo ngại về sự đứng đắn của mình hay của bất cứ ai khác; vì vậy mà họ có dư thì giờ để đánh hơi tội lỗi. Cho nên, người ta nghĩ, cái tốt hầu như lúc nào cũng có thể đánh lừa họ bằng cách làm cho họ tin nó là cái xấu, nhưng chính cái xấu thì không thể đánh lừa họ. Như vậy, sau bốn hay năm tháng, khi cô vợ vắng mặt lần nữa và người chồng lặp lại là cô đi thăm gia đình, thành phố tin rằng lần này thì ngay cả ông cũng không còn bị lừa. Dù sao đi nữa, cô trở về và ông tiếp tục giảng đạo mỗi ngày chủ nhật cứ như chẳng có chuyện gì xảy ra, ông vẫn đi thăm viếng người này, kẻ nọ và các bệnh nhân, và vẫn nói về nhà thờ của mình. Nhưng cô vợ không còn đi nhà thờ nữa, và chẳng mấy chốc các quý bà ngừng đến thăm cô, ngừng đến hẳn căn nhà của mục sư. Và cả đến những người hàng xóm hai bên cũng không thấy cô chung quanh nhà. Chẳng bao lâu thì như thể cô không còn ở đó nữa, như thể mọi người đều đồng tình là cô không còn ở đó nữa, là ông mục sư đã không hề có vợ. Và ông vẫn giảng đạo cho họ vào mỗi chủ nhật, ông thậm chí không còn bảo họ là cô vợ đã đi thăm gia đình ở xa. Có lẽ ông vui về chuyện này, thành phố nghĩ. Có lẽ ông vui vì không phải nói láo nữa.

Vậy là không ai thấy khi cô lên tàu lửa vào ngày thứ sáu đó, hay có lẽ thứ bảy, ngày của biến cố. Chính tờ báo sáng chủ nhật mà họ đọc, nó đưa tin là trong đêm thứ bảy, cô đã nhảy, hay ngã xuống, từ cửa sổ một khách sạn ở Memphis, và cô đã chết. Và có một người đàn ông trong phòng với cô. Hắn bị bắt. Hắn say xỉn. Hai người đã đăng ký với khách sạn như vợ chồng, dưới tên giả. Cảnh sát đã tìm ra tên thật của cô được viết trên một mảnh giấy mà cô đã xé sau đó và ném vào sọt rác. Các tờ báo in đầy đủ tên cô cùng với câu chuyện: vợ của mục sư Gail Hightower, ở Jefferson, bang Mississippi. Theo câu chuyện thì tờ báo đã điện thoại cho ông chồng lúc hai giờ sáng và ông này trả lời là mình chẳng có gì để nói. Và khi các giáo dân đến nhà thờ vào sáng chủ nhật đó thì thấy trong sân đầy các phóng viên đến từ Memphis đang chụp ảnh ngôi nhà thờ và căn nhà dành cho mục sư. Rồi Hightower đến. Các phóng viên tìm cách chặn ông lại nhưng ông đi xuyên qua họ, vào thẳng trong nhà thờ, bước lên bục giảng. Những lão bà và một vài lão ông đã có mặt trong nhà thờ tỏ ra khiếp sợ và phẫn nộ, không phải vì chuyện xảy ra ở Memphis mà vì sự hiện diện của đám phóng viên. Nhưng khi Hightower vào và thực sự leo lên bục giảng, họ thậm chí không còn nghĩ đến đám phóng viên nữa. Các bà đứng dậy đầu tiên và bắt đầu bỏ đi. Rồi các ông cũng đứng dậy, và rồi nhà thờ không còn ai, ngoại trừ ông mục sư trên bục giảng, hơi nghiêng người về phía trước, hai bàn tay chống hai bên cuốn Kinh thánh đã mở, đầu giữ thẳng, và các phóng viên Memphis (họ đã theo ông vào bên trong nhà thờ) thì ngồi ngay hàng ở chiếc ghế dài cuối cùng. Họ nói là ông không nhìn các con chiên của mình bỏ đi. Ông không nhìn cái gì cả.

Người ta kể cho Byron tất cả mấy chuyện đó: cuối cùng ông mục sư cẩn trọng gập cuốn Kinh thánh lại, và bước xuống, đi dọc theo gian vách của ngôi nhà thờ giờ đây trống vắng, mắt không một lần nhìn đến đám phóng viên đang ngồi, giống như các con chiên đã ngồi trước đó, và ra khỏi cửa. Ở bên ngoài, các tên chụp ảnh đang chờ ông, sẵn sàng với máy ảnh đã mở, đầu họ đã trùm vải đen. Ông mục sư rõ ràng là đã nghĩ đến chuyện này, bởi vì ông bước ra khỏi nhà thờ với một cuốn thánh ca mở sẵn che ngang mặt. Nhưng đám chụp ảnh rõ ràng cũng nghĩ đến chuyện này, bởi vì họ qua mặt được ông. Chắc là ông không quen với trò này vì vậy ông bị qua mặt dễ dàng, người ta kể với Byron. Một trong những người chụp ảnh đã đặt máy ảnh ở một bên, và ông mục sư không thấy nó chút nào, hay thấy quá trễ. Ông đã che mặt mình đối với cái máy ảnh đằng trước thôi, và ngày hôm sau xuất hiện trên báo tấm ảnh chụp nghiêng, cho thấy ông đang bước, tay cầm cuốn thánh ca che mặt. Và, đằng sau cuốn đó, đôi môi ông hếch lên như thể ông đang mỉm cười. Nhưng hai hàm răng nghiến lại và bộ mặt ông trông giống như bộ mặt của Sa-tăng[34] trong các bức tranh khắc cổ. Ngày hôm sau ông mang vợ về chôn cất. Thành phố đến dự buổi lễ. Nhưng nó không phải là một tang lễ. Ông không mang xác vợ đến nhà thờ. Ông đem thẳng ra nghĩa địa và khi ông đang chuẩn bị cho chính mình đọc từ cuốn Kinh thánh thì một mục sư khác đến gần và giật nó từ tay ông. Rất nhiều người, nhất là những thanh niên nam nữ, ở lại lặng ngắm ngôi mộ sau khi ông bỏ đi cùng những người khác.

Sau đó, ngay cả những con chiên của những giáo phái khác cũng biết là các trưởng lão của ông đã yêu cầu ông từ chức, và ông không chấp thuận. Ngày chủ nhật tiếp theo, rất nhiều người từ các giáo phái khác đến nhà thờ ông để xem chuyện gì xảy ra. Ông đến và đi vào nhà thờ. Cả giáo đoàn đồng loạt đứng lên như một người và đi ra, bỏ lại ông mục sư và những người thuộc các giáo phái khác đã đến đây như thể đến xem một cuộc biểu diễn. Thế là ông giảng đạo cho họ, như ông từng giảng đạo xưa nay, với sự hăng hái say mê mà người ta đánh giá là phạm thánh và những con chiên các giáo phái khác cho là hoàn toàn mất trí.

Ông không chấp nhận từ chức. Các trưởng lão yêu cầu hội đồng chủ giáo gọi ông về. Nhưng sau câu chuyện đó, sau các tấm ảnh trên báo và mọi thứ khác, không một thành phố nào khác muốn nhận ông về. Mọi người đều khăng khăng là họ không có gì chống cá nhân ông cả. Ông không được may mắn, thế thôi. Ông sinh ra dưới một ngôi sao xấu, thế thôi. Và người ta ngừng đến nhà thờ, ngay cả những người của các giáo phái khác lúc trước có đến một thời gian vì tò mò: giờ đây ông không còn là cuộc biểu diễn nữa; giờ đây ông chỉ còn là một sự xúc phạm. Nhưng, vào mỗi sáng chủ nhật, đúng giờ giấc như trước, ông vẫn đến nhà thờ, và bước lên bục giảng, và cả giáo đoàn đồng loạt đứng dậy và bỏ đi ra, và những kẻ ăn không ngồi rồi và đồng bọn tụ tập trên khúc đường bên ngoài nhà thờ và lắng nghe ông giảng đạo và cầu nguyện trong ngôi giáo đường trống không của mình. Rồi vào sáng chủ nhật sau đó, khi ông đến thì cánh cửa ra vào đã bị đóng chặt, và những kẻ rỗi hơi thấy ông tìm cách mở nó rồi bỏ cuộc, nhưng ông vẫn đứng đó, đầu không cúi xuống, ngoài đường thì đầy bọn người chẳng bao giờ đi lễ nhà thờ và đám con nít không biết chính xác chuyện gì xảy ra nhưng cảm thấy là có chuyện gì đó, dừng lại và mở to mắt nhìn người đàn ông đang đứng gần như bất động trước cánh cửa đóng kín. Ngày hôm sau thành phố nghe tin là ông đã đi gặp các trưởng lão và thuận tình từ chức, vì lợi ích của giáo hội.

Rồi thành phố lúc đó thấy tiếc là đã tỏ ra hả hê, giống như có những người thỉnh thoảng lại thấy thương xót cho những kẻ mà họ đã ép buộc làm theo ý họ. Tất nhiên, người ta nghĩ là giờ đây ông sẽ bỏ đi, và giáo hội đã xuất ra một số tiền để ông ra đi định cư ở nơi khác. Nhưng ông không chịu rời thành phố. Họ kể cho Byron nghe là thành phố tỏ ra sững sờ, hơn cả bất bình nữa, khi họ biết được là ông đã mua một căn nhà nhỏ trên một con đường hẹp trong một khu phố nghèo mà ông ở hiện nay và bao giờ cũng ở đó từ dạo ấy tới nay; và các trưởng lão lại nhóm họp lần nữa vì các vị này nói là họ đã cho ông tiền để đi nơi khác, và việc ông đã nhận rồi tiêu xài số tiền đó vào chuyện khác là một sự lạm dụng tín nhiệm. Họ đến gặp ông và bảo ông như vậy. Ông xin lỗi vắng mặt một chút; rồi ông trở lại phòng với số tiền, cũng y chang những tờ bạc, và chính xác tới từng xen, mà họ đã cho ông trước đó, và ông cố nài họ lấy lại. Nhưng họ từ chối, và ông không nói ra ông đã lấy tiền ở đâu để mua nhà. Vậy là ngày hôm sau, người ta kể với Byron, có người nói là ông trước đó đã mua bảo hiểm nhân thọ cho cô vợ và rồi ông đã thuê ai đó giết cô. Nhưng mọi người đều biết chuyện này là không có thật, kể cả những kẻ đã phao hay lập lại tin này và những kẻ đã lắng nghe khi nó được kể.

Ông cứ trụ lại thành phố. Rồi một ngày kia người ta thấy tấm biển nhỏ mà chính ông đã làm ra và sơn phết và đặt ở bãi cỏ trước nhà, và họ hiểu là ông đã quyết định không đi đâu nữa. Ông vẫn giữ lại người bếp, một mụ da đen. Mụ nấu ăn cho ông từ trước đến nay. Nhưng họ kể cho Byron nghe là ngay khi vợ ông vừa chết, người ta hình như bỗng dưng nhận ra mụ đen đó là đàn bà, và ông có mụ một mình suốt ngày trong nhà với ông. Và cô vợ nằm chưa lạnh chỗ trong nấm mồ ô nhục đó thì những lời đồn bắt đầu: ông đã đẩy vợ mình vào con đường hư hỏng và cuối cùng tự sát bởi vì ông không phải là một người chồng bình thường, một đàn ông bình thường, và chính mụ da đen đó là nguyên do. Vậy là đâu cần phải thêm thắt gì nữa; chỉ thiếu độc chuyện đó thôi. Byron vừa im lặng lắng nghe, vừa nghĩ trong đầu là con người khắp nơi đều giống nhau, nhưng dường như ở thành phố nhỏ, nơi mà người ta khó phạm điều ác hơn, nơi mà đời sống riêng tư dễ bị soi mói hơn, thì người ta lại có thể bịa đặt nhiều chuyện hơn về kẻ nọ, người kia. Và đâu cần thêm thắt gì nữa: chỉ cái ý đó, chỉ cái lời nói vu vơ độc nhất đó, truyền từ đầu người này sang đầu người khác. Rồi một ngày nọ, mụ bếp bỏ đi. Người ta nghe đồn là một nhóm người chỉ bịt mặt qua loa đến nhà ông mục sư và ra lệnh ông phải đuổi việc mụ. Rồi họ nghe là ngày hôm sau, mụ kể là mụ tự ý bỏ đi vì ông chủ đòi mụ làm điều gì đó mà mụ nói là trái với Chúa và trái với tự nhiên. Và người ta quả quyết là những kẻ bịt mặt đó đã làm mụ khiếp sợ để mụ phải ra đi, bởi vì mụ được biết đến như người có màu da nâu sáng[35]; và người ta biết là có hai hay ba người trong thành phố phản đối mụ làm bất cứ việc gì mà mụ cho là nghịch lại với Chúa và tự nhiên[36], bởi vì, như vài người trẻ hơn nói, nếu một mụ đàn bà da đen cho việc đó là trái với Chúa và tự nhiên thì việc đó hẳn là khá tồi tệ. Dù gì đi nữa, ông mục sư đã không thể hay không muốn thuê người đàn bà nào khác nấu bếp. Có thể là cùng đêm đó, những kẻ bịt mặt đã làm khiếp sợ tất cả đàn bà da đen khác trong thành phố. Vậy là ông tự nấu ăn lấy trong một thời gian cho tới một ngày kia họ nghe là có một tên da đen, đực rựa, nấu bếp cho ông. Ôi, đến thế là cùng! Bởi vì ngay tối đó, vài tên đàn ông, lần này chẳng thèm bịt mặt, đến bắt tên da đen ra khỏi nhà và dùng roi dần cho nó một trận nhừ tử. Và khi Hightower thức dậy sáng hôm sau thì thấy cửa sổ phòng làm việc bị đập bể, trên sàn nhà có một cục gạch dằn một mảnh giấy với hàng chữ ra lệnh ông phải rời khỏi thành phố trước khi mặt trời lặn, và mang chữ ký của tổ chức K.K.K[37]. Và ông không bỏ đi, rồi sáng ngày hôm sau, có người tìm thấy ông trong rừng, cách thành phố độ một dặm đường. Ông bị trói vào một thân cây và bị đánh đến ngất xỉu.

Ông không chịu hé miệng nói ra kẻ nào đã ra tay. Thành phố biết là ông sai khi giữ im lặng như vậy, vài người đến gặp và một lần nữa cố gắng thuyết phục ông rời bỏ Jefferson, vì lợi ích của chính ông, nếu không thì lần tới "họ" có thể giết ông. Nhưng ông không chấp thuận ra đi. Thậm chí ông không muốn nói đến trận đòn nhừ tử ông đã lãnh, ngay cả khi họ đề nghị truy tố những kẻ đã đánh ông. Nhưng ông không muốn chuyện này lẫn chuyện kia. Ông không muốn nói ra cũng như không muốn rời đi. Rồi bỗng dưng cả sự việc có vẻ bay biến đi như một ngọn gió độc. Như thể thành phố rốt cuộc nhận ra rằng ông là một phần trong đời sống của họ cho tới ngày ông chết đi, rằng cả hai bên tốt hơn là nên hòa giải với nhau. Như thể, Byron nghĩ, toàn bộ sự việc chỉ là một tấn hài kịch do rất nhiều người thủ diễn, và bây giờ, tất cả cuối cùng đã đóng xong vai trò được giao phó cho mình, họ có thể thanh thản sống với nhau từ rày về sau. Họ để yên ông mục sư. Họ thấy ông làm việc này, việc nọ trong sân hay trong vườn, thấy ông ngoài đường và trong các cửa tiệm, tay mang giỏ xách nhỏ, và họ nói chuyện với ông. Họ biết là ông tự mình nấu ăn và làm việc nhà, và sau một thời gian, những người hàng xóm lại bắt đầu đưa sang cho ông các món ăn nấu sẵn, dù cho đó là những thứ món ăn mà họ hẳn sẽ gửi đến một gia đình sống trên tiền lương ít ỏi của xưởng cưa hay xưởng bào. Nhưng đó là thực phẩm và ý định thì tốt. Bởi vì, Byron nghĩ, con người thường quên đi rất nhiều chuyện trong hai mươi năm. 'Tại sao,' bây giờ anh nghĩ, 'Mình cho là ở Jefferson đây mình là người duy nhất biết ông ngồi đó, bên cạnh cửa sổ, từ lúc mặt trời lặn cho đến khi tối mịt, ngày nào cũng vậy; người duy nhất biết bên trong căn nhà trông ra sao. Thậm chí người ta không biết là mình biết, nếu không họ chắc sẽ nắm đầu cả hai đứa lôi ra ngoài dùng roi quất cho một trận lần nữa, vì lẽ rằng người ta dường như có thể nhớ lại những gì họ đã quên cũng nhanh chóng như họ có thể quên.' Bởi vì còn có một chuyện khác mà Byron biết được và quan sát từ ngày anh đến Jefferson đây để sống.

Hightower đọc rất nhiều. Nghĩa là Byron đã xem xét, với một thứ gì đó như là sự sững sờ đầy vẻ kính trọng và trầm ngâm, những cuốn sách để dọc theo các bức tường phòng làm việc: sách về tôn giáo, lịch sử và khoa học mà Byron đã chưa hề nghe nói đến là chúng có mặt trên đời. Một ngày kia, cách đây khoảng bốn năm, một tên da đen ba chân bốn cẳng chạy đến nhà ông mục sư. Hắn sống trong một túp lều ở ngoài rìa thành phố, ngay sau lưng căn nhà ông, và hắn nói vợ hắn sắp sửa đẻ. Hightower không có điện thoại và bảo hắn chạy sang nhà hàng xóm để gọi bác sĩ. Ông đứng nhìn tên da đen đi tới cổng ngôi nhà bên cạnh. Nhưng thay vì vào trong, tên da đen cứ đứng đó một lúc rồi đi ngược lại con đường về phía thành phố, bước đi chứ không chạy. Hightower hiểu là tên đàn ông da đen đó, thay vì hỏi một người đàn bà da trắng điện thoại bác sĩ giùm mình, sẽ lội bộ suốt cả quãng đường dài đến thành phố và chắc phải mất hết ba mươi phút nữa để tìm ra bác sĩ, theo cách lóng nga lóng ngóng, coi thì giờ chẳng ra cái thá gì của bọn đen. Rồi ông đi xuống phía cửa bếp và ông có thể nghe tiếng rên la của người đàn bà từ túp lều không xa lắm. Ông không đợi thêm nữa. Ông chạy đến túp lều và thấy người đàn bà đã ra khỏi giường, tại sao thì ông không bao giờ biết; và bà ta giờ ở dưới đất, vừa chống hai bàn tay và đầu gối cố gắng leo lại lên giường, vừa rên rĩ và la hét. Ông đỡ bà vào giường, bảo bà nằm im, ông làm cho bà sợ để bà nghe lời mình, rồi chạy vội về nhà và lấy ra một cuốn sách từ kệ và đem theo dao cạo và một đoạn dây rồi ba chân bốn cẳng chạy ngược lại túp lều và đỡ đẻ cho bà. Nhưng đứa bé đã chết rồi. Khi viên bác sĩ đến, ông ta nói là chắc chắn bà đã gây ra thương tích cho đứa bé khi bà rời khỏi giường và ở trong tư thế mà Hightower tìm thấy bà lúc nãy. Ông ta cũng tán thưởng việc đỡ đẻ của Hightower và người chồng tỏ ra bằng lòng nữa.

'Nhưng cái việc này theo sau việc kia gần quá đi,' Byron nghĩ, 'dẫu rằng mười lăm năm đã trôi qua giữa hai việc.' Bởi vì chỉ nội hai ngày thôi mà đã có người nói đứa bé là con của Hightower và ông đã cố tình để nó chết đi. Nhưng Byron tin rằng ngay cả những kẻ độc mồm độc miệng này cũng không tin chuyện đó. Anh tin rằng thành phố đã có thói quen lâu ngày quá rồi nên không thể tự ngăn mình nói ra những điều về ông mục sư bị ô nhục này mà chính họ cũng không tin. 'Bởi vì,' Byron nghĩ, 'khi cái gì đó trở thành một thói quen thì bao giờ nó cũng xoay sở sao đó để đi xa sự thật và sự việc có thật.' Anh nhớ lại một buổi tối khi Hightower và anh nói chuyện với nhau, Hightower nói: "Họ đều là những người tử tế. Họ phải tin những gì họ phải tin, nhất là chính tôi, trong một thời gian, vừa là ông chủ, vừa là đầy tớ cho niềm tin của họ. Vậy thì tôi không nên xúc phạm đến niềm tin của họ và Byron Bunch cũng không nên nói là họ sai. Vì tất cả những gì mà một con người có quyền hy vọng, chính là người ta để mình sống yên ổn giữa đồng loại của mình." Những lời này được nói ra một thời gian ngắn sau khi Byron đã nghe được câu chuyện trên, ngay sau khi bắt đầu những cuộc thăm viếng Hightower ở phòng làm việc vào buổi tối và Byron còn tự hỏi tại sao Hightower ở lại Jefferson, nơi mà ông hầu như thấy được, hầu như nghe được ngôi nhà thờ đã từ bỏ và đuổi ông đi. Một buổi tối kia, Byron hỏi ông điều đó.

"Tại sao bạn lại làm việc chiều thứ bảy ở xưởng bào trong khi những người khác thì vui chơi dưới phố?" Hightower nói.

"Tôi không biết," Byron nói. "Tôi cho là cái phận tôi nó vậy."

"Vậy thì tôi cho đó cũng là cái phận tôi," người kia nói. 'Nhưng bây giờ thì tôi biết tại sao,' Byron nghĩ. 'Chính vì con người tỏ ra sợ sự rắc rối có thể xảy ra cho họ hơn là sự rắc rối mà họ đã chịu đựng. Họ sẽ bám lấy sự rắc rối mà họ đã quen hơn là đánh liều thay đổi. Đúng vậy. Con người hay nói về ý muốn thoát khỏi những người sống của mình. Nhưng chính những người chết mới làm họ tổn thương. Chính những người chết nằm im đâu đó và không tìm cách giữ họ lại, mà họ không thể thoát khỏi.'

Tiếng vó ngựa[38] giờ đã rầm rầm chạy qua rồi lặng lẽ tan biến trong buổi hoàng hôn; đêm đã buông xuống đủ đầy. Tuy nhiên, ông còn ngồi đó, bên cửa sổ phòng làm việc; sau lưng ông, bóng tối đã tràn ngập. Ngọn đèn ở góc đường lóe lên rồi chiếu sáng, khiến cho cái bóng có hình răng cưa của những cây phong tuy đứng gió nhưng có vẻ đung đưa nhẹ nhàng trên bóng đêm tháng tám. Ông có thể nghe ở đàng xa vẳng lại những con sóng âm thanh, yếu ớt nhưng rõ ràng, của những giọng nói tập hợp trong nhà thờ: âm thanh đó, cùng lúc khắc khổ và ấm áp, đê hèn và kiêu hãnh, nở rộng ra rồi thu nhỏ lại trong bóng đêm mùa hè yên tĩnh như tiếng hòa âm của thủy triều.

Rồi ông thấy một người đàn ông ở trên đường đang đi đến gần. Vào bất cứ đêm nào khác trong tuần ông hẳn đã nhận ra dáng vẻ, hình thù, bộ tịch và tướng đi. Nhưng vào buổi tối chủ nhật, và với tiếng dội từ những móng guốc của các bóng ma còn va đập lặng lẽ trong căn phòng làm việc đầy bóng hoàng hôn, ông quan sát cái bóng người đi bộ nhỏ bé, tiến tới với sự khéo léo bấp bênh và giả tạo thường thấy ở những con thú giữ thăng bằng trên hai chân sau; sự khéo léo đó, mà bây giờ con người-thú tỏ ra hãnh diện một cách ngờ nghệch, lại liên tục phản hắn bằng các định luật tự nhiên như trọng lực, băng giá, cũng như bằng những đồ vật đến từ bên ngoài mà chính hắn ta đã sáng chế ra như xe hơi, bàn ghế tủ giường trong bóng tối, và ngay cả đồ ăn dư thừa của chính hắn vứt trên sàn nhà hay trên mặt đường; và khi nhìn tên đàn ông từ bên đường đi ngang qua tấm biển thấp, qua cánh cổng, lại gần căn nhà, ông nghĩ thầm là cổ nhân đã tỏ ra đúng đắn biết bao khi biến con ngựa thành biểu hiệu và tượng trưng cho các chiến binh và vua chúa. Ông khom người ra trước, nhìn tên đàn ông bước đến trên lối đi tối tăm về phía cánh cửa trong bóng tối; ông nghe hắn vấp phải bậc tam cấp tối tăm thứ nhất một cách nặng nề. "Byron Bunch," ông nói. "Ở lại thành phố tối chủ nhật sao! Byron Bunch mà ở lại thành phố ngày chủ nhật sao!"

4

Hai người ngồi đối diện nhau, ở hai bên bàn giấy. Căn phòng làm việc giờ được ngọn đèn đọc sách có chụp màu lục đặt trên bàn chiếu sáng. Hightower ngồi ở đằng sau bàn, trên một cái ghế quay cũ kỹ, Byron thì ngồi đối diện trên chiếc ghế lưng thẳng. Cả hai khuôn mặt thì ở ngay sát bên ngoài vũng ánh sáng xuống thẳng từ bên dưới cái chụp đèn. Cửa sổ mở, và tiếng hát từ một thánh đường ở một nơi nào xa xôi vẳng đến. Byron nói chuyện, giọng đều đều, đơn điệu.

"Thật là lạ lùng. Tôi đã nghĩ là, nếu trên thế gian này có một nơi mà cơ hội làm hại người khác không đến cám dỗ con người ta thì đó hẳn là chỗ xưởng bào vào một tối thứ bảy. Và với ngôi nhà bị cháy ở dưới đó, ngay trước mặt tôi, ông có thể nói vậy. Nó cháy suốt thời gian tôi ăn trưa đến nỗi thỉnh thoảng tôi cứ phải nhìn lên và thấy cột khói đó và tôi nghĩ, 'Thôi, dù sao thì cũng chẳng có ma nào ở đây tối nay. Ít ra thì mình không bị ai làm phiền tối nay.' Và rồi, tôi ngước mắt và tôi thấy gì đây? Cổ, đứng đó, bộ mặt lộ vẻ sẵn sàng mỉm cười, cái miệng sắp sửa nói ra cái tên của thằng cha đó, khi cổ thấy ra tôi không phải hắn. Và tôi không biết làm cái quái gì hay hơn là hở miệng bép xép ra cả câu chuyện." Byron hơi nhăn mặt lại. Anh không cười mỉm chút nào. Môi trên chỉ thoáng nhếch lên, và sự chuyển động đó, ngay cả nếp nhăn chưa định hình, không đi xa hơn và gần như biến mất tức khắc. "Thậm chí tôi không nghi ngờ lúc đó là cái tồi tệ nhất không phải là cái tôi không biết."

"Chắc chắn phải là một cái gì lạ lùng lắm mới có thể giữ chân Byron ở lại Jefferson ngày chủ nhật," Hightower nói. "Nhưng cổ đi tìm hắn. Và bạn giúp cổ tìm hắn. Bạn đã làm cái chuyện mà cổ muốn, không phải vậy sao, cái chuyện mà cổ đi suốt từ Alabama đến tận đây để tìm?"

"Đúng đó, tôi đã nói ra với cổ. Chắc chắn là tôi đã nói ra như vậy. Chỉ cần thấy cổ ngước mắt nhìn mình, ngồi đó, bụng mang dạ chửa, nhìn mình với đôi mắt mà một thằng đàn ông hẳn là không thể mở miệng nói láo được, dù có muốn đi nữa. Và tôi cứ bép xép không ngừng, với khói bốc cuồn cuộn ngay trước mặt, như thể nó được đặt ở đó để cảnh báo tôi, để làm tôi dè dặt hơn với cái lưỡi của mình, nhưng mà tôi ngu quá cha đi, không thấy ra điều đó."

"Ồ," Hightower nói. "Cái nhà cháy hôm qua đó à? Nhưng tôi chẳng thấy liên hệ gì giữa... Nhà của ai vậy? Tôi cũng thấy khói mà, và tôi có hỏi một tên da đen đi ngang qua nhưng nó không biết."

"Ngôi nhà cũ của dòng họ Burden đó," Byron nói. Anh nhìn người đối diện. Cả hai nhìn nhau. Hightower thì to con, và ngày xưa ông lại mảnh khảnh đó. Giờ thì ông không còn mảnh khảnh nữa. Da ông có màu của vải bố đựng bột mì[39] và nửa mình trên của ông thì mang hình dạng của một cái bao tải không chứa đầy chặt, treo cả sức nặng của nó từ đôi vai gầy guộc cho đến tận hai đùi. Rồi Byron nói, "Ông chưa nghe nói gì đâu." Người kia quan sát anh. Anh nói, giọng mơ màng: "Đúng là tôi sẽ làm chuyện đó. Tức là nói ra, trong hai ngày, với hai người, điều gì đó mà họ sẽ không muốn nghe, mà họ không phải nghe chút nào."

"Bạn nghĩ là tôi sẽ không muốn nghe cái gì? Vậy thì cái gì mà tôi đã không nghe nói?"

"Tôi không nói về cái hỏa hoạn đó," Byron nói. "Tụi nó đều thoát được, an toàn cả."

"Tụi nó à? Tôi tưởng cô Burden sống ở đó một mình mà."

Byron lại nhìn người đối diện một lát. Nhưng bộ mặt của Hightower chỉ lộ ra vẻ nghiêm trọng và quan tâm. "Brown và Christmas," Byron nói. Vẻ mặt Hightower vẫn không đổi. "Ông cũng không biết việc này đâu," Byron nói. "Tụi nó sống ở đó."

"Sống ở đó hả? Tụi nó ăn ở trong nhà à?"

"Không phải vậy. Trong căn lều dành cho mọi đen đằng sau nhà. Christmas đã sửa sang nó lại cách đây ba năm. Và từ đó đến nay y ở đó trong khi thiên hạ cứ tự hỏi y ngủ ở đâu ban đêm. Rồi khi làm ăn với Brown thì y để Brown vô ở chung."

"Ồ, vậy sao," Hightower nói. "Nhưng tôi không hiểu... Nếu tụi nó thấy thoải mái, và cô Burden lại không -"

"Tôi cho là hai đứa nó ăn ý với nhau lắm. Tụi nó bán uýt-ki lậu, dùng ngôi nhà cũ đó làm sào huyệt, che đậy khéo lắm. Tôi tin là cô Burden không biết chuyện đâu, cái chuyện uýt-ki đó. Ít ra là người ta không biết cổ có bao giờ biết hay không. Họ nói là Christmas đã bắt đầu một thân một mình cách đây ba năm, chỉ bán rượu cho vài khách hàng hiếm hoi, thậm chí không quen biết lẫn nhau. Nhưng rồi khi làm ăn chung với Brown, tôi cho là Brown muốn mở rộng, bán uýt-ki từng 'panh' một lấy ra từ ngực áo sơ-mi hắn, cho bất cứ ai, trong bất cứ con hẻm nào. Nghĩa là bán cái thứ mà nó không bao giờ uống đó. Và tôi cho là tốt hơn thì không nên xem xét kỹ quá cách thức mà tụi nó lấy 'hàng' để bán lại. Bởi vì hai tuần lễ sau khi rời bỏ xưởng bào để bắt đầu đi một vòng bán rượu trong chiếc xe hơi mới đó, Brown, vào một tối thứ bảy, ở dưới trung tâm thành phố, hắn say mềm, buột miệng khoe khoang trước cả đám người trong tiệm hớt tóc về chuyện gì đó xảy ra cho hắn và thằng Christmas vào một đêm ở Memphis, hay là ở một con lộ gần Memphis. Chuyện gì đó liên quan đến hai đứa nó và chiếc xe hơi mới đó giấu sau bụi rậm và Christmas tay cầm súng lục, và nhất là thêm cái chuyện chiếc xe tải với một trăm ga-lông[40] cái gì đó. Ngay lúc đó thì Christmas lẹ làng xuất hiện trong tiệm, lao đến gần và xách đầu hắn ra khỏi ghế. Và Christmas lên tiếng, với cái giọng trầm tĩnh của riêng y, không dịu dàng mà cũng không giận dữ: 'Mày phải coi chừng, chớ uống quá nhiều mấy cái thứ nước bổ tóc Jefferson[41] này. Nó chạy tuốt lên đầu mày đó. Khi tỉnh dậy thì chuyện đầu tiên mày thấy là môi mày đã sứt[42] mẹ nó rồi.' Dùng một tay kéo Brown lên, và tay kia tát hắn lia lịa. Có vẻ không mạnh tay lắm nhưng người ta vẫn thấy da mặt Brown đỏ sần lên xuyên qua hàm râu của hắn mỗi khi bàn tay Christmas rút ra giữa hai cái tát. 'Đi ra ngoài hóng gió chút coi,' Christmas ra lệnh. 'Mày không để cho mấy người này làm việc à?' "

Byron trầm ngâm một lát rồi nói tiếp: "Và cổ ở đó, ngồi đó, trên mấy tấm ván, nhìn tôi chăm chăm, và tôi thì cứ bép xép cái miệng kể ra hết cái chuyện đó trong khi cổ nhìn tôi. Rồi cổ nói, 'Có phải anh ấy có cái sẹo nhỏ, trắng, ngay đây, gần miệng không?' "

"Và Brown chính là tên đàn ông mà cổ tìm," Hightower nói. Ông ngồi im, nhìn Byron với một thứ ngạc nhiên bình lặng gì đó. Không thấy có gì hung hăng trong thái độ của ông, không lộ ra vẻ gì là đạo đức của ông bị xúc phạm. Như thể ông đang nghe kể lại các hoạt động của những người thuộc một chủng tộc khác. "Chồng cổ là một tên buôn rượu lậu. Chà chà!" Vậy mà Byron vẫn có thể thấy, sau khuôn mặt của ông mục sư, cái gì đó ngấm ngầm, sẵn sàng thức tỉnh, cái gì đó mà chính Hightower cũng không ý thức, như thể cái gì đó ở bên trong con người ông tìm cách cảnh báo hay chuẩn bị tinh thần cho ông. Nhưng Byron nghĩ, đó chỉ là sự phản ánh của cái mà chính anh đã biết và anh sắp sửa kể ra.

"Và tôi đã nói chuyện đó với cổ trước khi nhận ra là không nên làm vậy. Tôi cũng đã muốn cắn cha cái lưỡi mình đứt làm đôi cho rồi, ngay cả lúc đó, ngay cả khi tôi thấy là không còn gì khác để nói nữa." Anh bây giờ không còn nhìn viên mục sư. Đêm thì tĩnh lặng, và xuyên qua cửa sổ, âm thanh hòa lẫn của tiếng đàn ống và tiếng đồng ca, yếu ớt nhưng nghe rõ, đến từ một ngôi nhà thờ ở nơi nào xa khuất. Mình tự hỏi không biết ông cũng có nghe nó không, Byron nghĩ, hay là có lẽ ông đã nghe nhiều quá và từ lâu rồi đến nỗi ông không còn nghe nó nữa, thậm chí ông không cần nghe nữa. "Và cổ ngồi đó, cả buổi tối, trong khi tôi làm việc, và đám khói rồi cuối cùng cũng tan biến đi, và tôi, tôi tìm cách nghĩ ra cái gì tôi phải nói với cổ, nghĩ ra cái gì tôi phải làm. Cổ muốn đi thẳng tuốt xuống dưới đó, biểu tôi chỉ đường. Khi tôi nói nó xa đến hai dặm, cổ hơi nhếch mép, tuồng như mỉm cười, làm như tôi là thằng con nít hay gì đó không bằng. 'Tôi đã lội bộ từ Alabama đến tận đây mà,' cổ nói. 'Chẳng lẽ tôi lại sợ hai dặm nữa hay sao!' Và tôi nói với cổ..." Tiếng nói của Byron ngừng lại. Anh có vẻ lặng ngắm sàn nhà dưới chân mình. Anh ngước mắt lên. "Tôi nghĩ mình đã nói dối. Về mặt nào đó thì nó không phải là một lời nói dối. Chính vì tôi biết là có nhiều người tụ tập dưới đó để xem đám cháy, và cổ lại dẫn xác đến, cố tìm cho ra hắn ta... Lúc đó thì chính tôi cũng không biết phần còn lại. Phần còn lại của sự việc, phần tồi tệ nhất của sự việc. Vậy thì tôi nói với cổ là hắn rất bận rộn trong công việc của mình, và giờ giấc tốt nhất để tìm ra hắn là sau sáu giờ chiều, ở dưới trung tâm thành phố. Điều này, đúng là sự thật đó. Bởi vì tôi cho là việc mang những cái chai rượu nhỏ, lạnh, giấu trong ngực áo, hắn gọi đó là làm việc mà; và nếu năm thì mười họa hắn không có mặt quảng trường thì chính vì hắn đến đó trễ một chút, hay là hắn vừa mới biến vào trong một con hẻm, trong một lát thôi. Vậy là tôi thuyết phục cổ nên chờ, và cổ ngồi lại đó, và tôi tiếp tục làm việc, tìm cách quyết định phải làm gì đây. Bây giờ, khi tôi nghĩ đến chuyện mình đã lo ngại biết bao về những điều ít ỏi mà mình biết, bây giờ, khi tôi biết phần còn lại của sự việc, thì có vẻ như tôi không có lý do gì lúc đó mà lo ngại đến vậy. Tôi suy nghĩ suốt cả ngày hôm nay, ôi nếu tôi có thể đơn giản quay ngược lại ngày hôm qua thì mọi sự hẳn sẽ dễ dàng biết bao và không còn có chuyện làm tôi lo ngại hơn là tôi đã có lúc đó."

"Tôi vẫn không thể thấy ra chuyện gì mà bạn phải lo ngại," Hightower nói. "Đâu phải lỗi của bạn nếu hắn là hắn hay cổ là cổ. Bạn đã làm những gì bạn có thể làm. Tất cả những gì mà người ta có thể mong chờ từ một người xa lạ. Trừ phi..." Tiếng nói ông mục sư cũng ngừng lại. Rồi nó tắt dần trên cái chuyển điệu đó, như thể sự suy nghĩ vu vơ đã biến thành sự suy đoán rồi thành cái gì đó gần như nỗi lo âu. Trước mặt ông, Byron ngồi không nhúc nhích, mặt cúi xuống, lộ vẻ nghiêm trọng. Và đối diện Byron, Hightower chưa nghĩ đến hai chữ tình yêu. Ông chỉ nhớ rằng Byron thì còn trẻ, sống cuộc sống độc thân và lao động nặng nhọc, và theo lời anh kể thì người đàn bà mà ông chưa hề gặp đó sở hữu ít nhất một tố chất nào đó gây ra lo ngại, mặc dù Byron vẫn còn tin rằng đây chỉ là lòng thương hại thôi. Vậy là ông bây giờ nhìn Byron một cách hạn hẹp hơn, không lạnh nhạt, không ấm áp, trong khi Byron tiếp tục kể, vẫn với cái giọng đơn điệu: rằng đến gần sáu giờ chiều rồi mà anh cứ loay hoay không thể quyết định về chuyện gì cả; rằng khi anh và Lena đi đến quảng trường, anh vẫn còn phân vân, bất định. Và lúc này thì trên vẻ mặt lúng túng của Hightower bắt đầu có dấu hiệu ngập ngừng và linh tính về chuyện chẳng lành trong khi Byron nói chuyện một cách bình thản, kể ra là sau khi đến quảng trường anh quyết định đưa tiếp Lena đến nhà bà Beard. Và Byron nói chuyện một cách bình thản. Anh suy nghĩ, anh hồi tưởng: dường như trong không khí buổi tối hôm qua có cái gì đó khiến cho những khuôn mặt quen thuộc của mọi người trở nên lạ lẫm, và anh, anh đã chưa nghe nói gì cả, đã không cần phải biết là một biến cố đã xảy ra trước đó và đã làm cho tình trạng khó xử đầu tiên đến từ sự trong trắng của anh trở thành một trò trẻ con, để mà anh hiểu, ngay cả trước khi anh biết chuyện gì đã xảy ra, rằng tốt hơn không nên để cho Lena biết đến chuyện đó. Thậm chí anh cũng không cần nghe người ta bảo mình bằng lời nói là anh chắc chắn đã tìm ra cái tên Lucas Burch thất lạc đó rồi; anh bây giờ nghĩ là chỉ có sự dại dột hay ngu xuẩn tệ hại nhất mới có thể giữ anh trong tình trạng vô tri. Anh nghĩ là số mệnh, hoàn cảnh đã đưa ra lời cảnh báo suốt cả ngày trong bầu trời thông qua cột khói vàng đó, và anh đã tỏ ra quá ngu ngốc để nắm bắt được ý nghĩa của nó. Vậy là anh không muốn để cho họ nói ra - họ đây là những người đàn ông đi ngược chiều anh và Lena, và gió thổi trên người họ thì mang đầy lời cảnh báo đó - vì sợ nàng cũng nghe được. Có lẽ lúc đó anh biết là nàng sẽ phải biết chuyện đó, nghe chuyện đó, sớm hay muộn; và về mặt nào đó, đó là quyền được biết của nàng. Anh chỉ có cảm tưởng là, nếu anh chỉ làm mỗi chuyện đưa được nàng băng qua quảng trường và vào trong nhà ai đó thì anh đã hoàn thành trách nhiệm. Không phải trách nhiệm của anh đối với cái ác mà anh tự nhận đã gây ra chỉ vì anh đã trải qua một buổi chiều với nàng trong khi chuyện đó xảy ra chứ không vì lý do nào khác. Chính là các hoàn cảnh đã đưa đẩy anh trở thành đại diện cho thành phố Jefferson trước mắt nàng, một thân gái dặm trường không tiền bạc, chỉ có đôi chân, lội bộ suốt ba mươi ngày để đến được đây. Anh không hy vọng, cũng không tìm cách trốn tránh cái trách nhiệm đó. Đó chỉ là để cho chính anh và cho nàng có đủ thời gian để bị ngạc nhiên, để bị sửng sốt. Anh kể lại chuyện đó một cách bình thản nhưng vụng về, mặt cúi thấp, bằng cái giọng đơn điệu, không âm sắc, trong khi Hightower, ngồi bên kia bàn, nhìn anh với vẻ lưỡng lự và chối từ.

Hai người cuối cùng đến được ngôi nhà trọ của Byron và đi vào trong. Dường như cũng có linh tính về chuyện chẳng lành, nàng nhìn anh trong khi hai người đứng trong hành lang, và lần đầu tiên nàng lên tiếng: "Những người đàn ông đó, họ tìm cách nói với anh cái gì vậy? Họ nói gì về cái nhà cháy đó vậy?"

"Ồ, có gì đâu," anh nói, giọng nghe khô và nhẹ trong tai anh. " Chỉ cái chuyện cô Burden bị thương trong đám cháy."

"Bị thương làm sao? Có nặng không?"

"Tôi cho là không nặng đâu. Có lẽ cũng chẳng bị thương gì ráo. Chắc là toàn chuyện ngồi lê đôi mách thôi. Người ta thích bày đặt để nói dóc chơi lắm." Anh không thể nhìn nàng, không thể chịu nổi ánh mắt nàng chút nào. Nhưng anh cảm thấy là nàng đang nhìn anh, và anh dường như nghe ra vô số âm thanh: những tiếng nói, đó là tiếng nói đó đây trong thành phố, câm nín và căng thẳng, đó là tiếng nói đó đây trong quảng trường, nơi mà anh đã đưa nàng đi qua nhanh, nơi mà đám đàn ông gặp gỡ và tán chuyện dưới ánh sáng bảo bọc quen thuộc. Ngôi nhà trọ cũng vậy, có vẻ đầy những tiếng động quen thuộc, nhưng đúng hơn là đầy sự trì trệ, một sự chần chừ kinh khiếp, anh cứ nhìn chằm chằm cái hành lang mờ mờ tối này, trong khi nghĩ Tại sao bà ta không ra. Tại sao bà ta không ra Rồi cuối cùng bà Beard cũng ra: một người đàn bà bộ tịch thoải mái, hai cánh tay hồng hào, tóc muối tiêu hơi bù xù. "Đây là c...bà Burch," anh nói. Ánh mắt anh thì gần như trừng trừng: muốn quấy rầy, khẩn cấp. "Cổ mới đến từ Alabama. Cổ cố gắng tìm gặp chồng ở đây. Anh ta chưa đến. Vì vậy mà tôi đưa cổ đến đây, để cổ có thể nghỉ ngơi đôi chút trước khi bị lạc lõng trong đám đông nhộn nhịp ngoài kia. Cổ chưa đi xuống dưới phố hay nói chuyện với ai cả, và vậy là tôi nghĩ có lẽ bà có thể bố trí một chỗ cho cổ nghỉ ngơi chút ít trước khi cổ phải nghe người này, người kia kể chuyện này, chuyện nọ và..." Giọng nói của Byron ngừng lại, tắt đi, chần chừ, gấp gáp, nài nỉ. Rồi anh tin bà Beard đã hiểu ý anh. Sau này, anh biết là không phải vì anh yêu cầu việc trên mà bà ấy đã kiềm lại không nói ra cái chuyện mà anh biết là bà cũng đã nghe trước đó, nhưng bởi vì bà nhận ra ngay Lena đang bụng mang dạ chửa nên dù gì đi nữa thì bà cũng sẽ giữ kín sự việc. Bà nhìn Lena, một lần, từ đầu đến chân, giống như những người đàn bà xa lạ đã nhìn nàng suốt bốn tuần lễ vừa qua.

"Cổ định ở bao lâu đây?" bà Beard nói.

"Chỉ một hay hai đêm," Byron nói. "Hay có lẽ chỉ đêm nay thôi. Cổ cố gắng tìm gặp chồng ở đây. Cổ mới đến mà, chưa có thì giờ đi hỏi thăm tin tức." Giọng anh vẫn còn ngập ngừng, có ngụ ý. Bà Beard bây giờ nhìn anh. Anh nghĩ là bà đang cố gắng hiểu điều anh muốn nói. Nhưng bà chỉ nhìn anh đang dò dẫm phản ứng của bà, tin (hay sẵn sàng tin) là sự lúng túng của anh có lý do và ý nghĩa khác hẳn. Rồi bà nhìn Lena lần nữa. Đôi mắt bà thực sự không lạnh nhưng cũng không ấm.

"Tôi cho là trước mắt tốt hơn cổ không nên tìm cách đi đâu khác," bà nói.

"Tôi cũng nghĩ y chang như vậy," Byron nói nhanh, hăm hở. "Giờ thì đầy chuyện kích động với trăm điều ngồi lê đôi mách mà cổ có lẽ rồi phải nghe đó, hiện giờ thì cổ chưa nghe gì cả... Nếu như tối nay bà không còn phòng trống, tôi nghĩ cổ có thể ở tạm phòng tôi."

"Được thôi," bà Beard nói ngay lập tức. "Vả lại, ông cũng sắp đi trong vài phút nữa. Ông muốn cổ dùng phòng ông cho đến khi ông về sáng thứ hai, phải vậy không?"

"Tôi không đi tối nay," Byron nói, không đưa mắt nhìn sang chỗ khác. "Tôi không thể đi lần này." Anh nhìn thẳng vào đôi mắt lạnh lẽo, đã lộ vẻ hoài nghi; anh nhìn bà, đến lượt bà, đang tìm cách đọc các ý nghĩ trong đôi mắt anh, và tin rằng bà đọc những gì thực sự nằm ngay trong đó chứ không phải những gì mà bà tin mình thấy ở đó. Thiên hạ nói rằng chỉ có tên nói láo lành nghề mới lừa gạt người khác được. Nhưng chuyện rất thường xảy ra là tên nói láo lành nghề kinh niên chỉ lừa gạt chính mình mà thôi; chính con người cả đời có tiếng là chân thật mới có những lời nói láo được chấp nhận nhanh nhất.

"Ồ," bà Beard nói. Bà lại nhìn Lena. "Cổ không có ai quen biết ở Jefferson sao?"

"Cổ không biết ai ở đây," Byron nói. "Không một ai ở phía bên này của Alabama cả. Có thể ông Burch sẽ đến sáng mai."

"Ồ," bà Beard nói. "Ông sẽ ngủ ở đâu đây?" Nhưng bà không chờ câu trả lời. "Tôi nghĩ là đêm nay tôi có thể kéo thêm một cái giường trong phòng tôi cho cổ. Nếu cổ thấy được."

"Tốt quá," Byron nói. "Vậy thì tốt quá rồi."

Khi chuông báo hiệu giờ ăn tối, anh tỏ ra hoàn toàn sẵn sàng. Anh đã có dịp nói chuyện với bà Beard. Anh đã mất thì giờ để nghĩ ra lời nói láo đó nhiều hơn bất cứ lời nói láo nào khác cho tới lúc đó. Rồi thì cũng chẳng cần thiết nữa. Điều mà anh đang cố gắng che đậy, chính là sự bảo vệ nàng của riêng anh. "Các người đàn ông ngồi ăn sẽ nói qua, nói lại chuyện này ở bàn ăn đó," bà Beard nói. "Tôi cho là một người đàn bà bụng ễnh như vậy (lại còn phải đi tìm một anh chồng họ là Burch nữa chớ, bà nghĩ với sự mỉa mai tỉnh khô) thì đâu cần nghe thêm những trò ma mãnh của cánh đàn ông nữa. Ông mang cổ đến sau, khi mọi người đã ăn xong." Byron làm theo lời bà. Và Lena lại ăn uống ngon lành, với sự chững chạc trang nghiêm và thật lòng, nhưng nàng buồn ngủ quá, thiếu điều gục đầu vào đĩa đồ ăn trước khi xong bữa.

"Đi lại đây đó thì mệt chết luôn," nàng giải thích.

"Cô vào phòng khách ngồi đi, tôi đi sửa soạn giường ngủ cho cô đây," bà Beard nói.

"Tôi muốn giúp bà một tay," Lena nói. Nhưng Byron thấy ra là nàng không muốn làm gì cả, hai mắt đã sụp xuống rồi.

"Cô vào phòng khách ngồi đi," bà Beard nói. "Chắc ông Bunch sẽ chịu khó ngồi với cô một lát cho vui."

"Tôi không dám để cổ một mình," Byron nói. Hightower, bên kia bàn, không cử động. "Vậy là hai đứa tôi vào ngồi đó, ngay lúc mà mọi sự xảy ra ở văn phòng ông cò dưới phố, ngay lúc mà Brown mở miệng 'xổ' ra hết: nào hắn, nào Christmas, nào rượu uýt-ki, tất tần tật. Chỉ có uýt-ki là không phải mới mẻ gì đối với mọi người, từ khi Christmas nhận Brown vào làm ăn chung. Tôi cho là, điều duy nhất làm mọi người ngạc nhiên là tại sao y lại sát cánh với thằng Brown. Có lẽ vì con người ta không chỉ tìm ra người giống mình nhưng còn vì không thể tránh được người giống mình lại tìm ra mình; ngay cả khi sự giống nhau đó chỉ dựa trên một điểm thôi, bởi vì Christmas và Brown, tuy có những nét giống nhau, lại khác nhau nhiều. Christmas thách thức luật pháp để kiếm tiền, và Brown thách thức luật pháp vì hắn đến là vô tâm để biết mình làm chuyện thách thức này. Ví dụ như buổi tối trong tiệm hớt tóc đó, hắn say xỉn, ăn nói oang oang cho đến khi Christmas xông vào và kéo cổ hắn ra ngoài. Và ông Maxey nói lúc đó, 'Anh nghĩ thằng Brown sắp sửa phun ra chuyện gì về nó và thằng kia?', và đại úy cảnh sát McLendon trả lời, 'Tôi không biết chút nào cả,' và ông Maxey nói, 'Anh có cho là tụi nó thực sự chặn đường cướp xe tải chở rượu của một tên buôn lậu nào khác không?' và McLendon nói, 'Bộ anh lại ngạc nhiên nếu người ta bảo anh là cha nội Christmas này đã không hề làm chuyện gì tồi tệ hơn chuyện đó trong đời y sao?' "

"Đó là những gì Brown nói ra đêm qua. Nhưng mọi người đều biết chuyện đó cả. Từ lâu họ đã nói là ai đó cần phải báo cho cô Burden. Nhưng tôi cho là không có ai chịu đi ra ngoài đó để nói cho cổ, bởi vì không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra ngay sau đó. Tôi nghĩ là có những người sinh sống nơi đây mà chưa hề thấy cổ. Chắc chắn là tôi cũng không muốn đặt chân vào ngôi nhà cũ kỹ đó, nơi mà không ai thấy cổ bao giờ, có lẽ ngoại trừ những người ngồi trên xe la đi ngang qua thỉnh thoảng thấy cổ đứng trong sân đội cái mũ che nắng và mặc cái áo đầm không ra hình thù gì, làm cho cổ có bộ dạng kỳ dị đến nỗi những con mụ da đen mà tôi quen biết cũng không muốn mặc nữa là. Hay có lẽ cổ đã biết chuyện đó rồi. Là người Yankee, có lẽ cổ chẳng thèm bận tâm. Và rồi không một ai đã có thể biết chuyện gì sắp sửa xảy ra.

"Và vậy là tôi không dám bỏ cổ một mình cho đến khi cổ vào giường. Rồi tôi định đến gặp ông ngay tức khắc. Nhưng tôi lại không dám rời xa cổ. Những người ở trọ khác đi qua, đi lại trong hành lang, và tôi không biết khi nào thì một ai trong bọn họ cao hứng bước vào phòng khách, bắt đầu nói chuyện với cổ, và kể ra toàn bộ sự việc; tôi có thể nghe họ nói tới chuyện đó ở ngoài hàng hiên rồi, và cổ vẫn nhìn tôi với vẻ mặt sẵn sàng hỏi tôi lần nữa về cái đám cháy đó. Vì vậy mà tôi không dám rời cổ. Và hai đứa chúng tôi cứ ngồi đó, trong phòng khách và cổ hầu như không thể giữ cho đôi mắt khỏi sụp xuống, và tôi, tôi bảo cổ là tôi sẽ tìm được hắn cho cổ, nhưng trước hết tôi phải đi nói chuyện với một ông mục sư quen biết, ổng có thể giúp cổ liên lạc với hắn. Và cổ ngồi đó, hai mắt nhắm lại trong khi tôi nói chuyện, không biết là tôi đã biết là cổ với thằng cha đó chưa cưới nhau. Cổ nghĩ là cổ đã đánh lừa được mọi người. Cổ hỏi tôi người mà tôi định đến gặp để nói chuyện về cổ thuộc loại người gì. Và tôi trả lời cổ, cổ ngồi đó, hai mắt cứ nhắm, đến nỗi cuối cùng tôi nói, 'Cô không nghe tôi nói gì cả', cổ hơi tỉnh ra một chút nhưng không mở mắt và nói, 'Ông ta còn có thể làm phép cưới cho người ta không?' và tôi hỏi, 'Cái gì? Ông ta có thể làm gì?' và cổ nói, 'Ông ta có còn đủ là mục sư để làm lễ cưới cho người ta không?' "

Hihgtower không hề cử động. Ông ngồi thẳng người sau bàn làm việc, hai cẳng tay đặt song song trên chỗ tựa của chiếc ghế bành. Ông không mặc áo choàng, cổ cồn cũng không. Khuôn mặt ông thì hốc hác và mềm nhão, tuồng như có đến hai khuôn mặt chồng lên nhau đang nhìn từ bên dưới hộp sọ tái nhợt và hói được bao quanh bởi một lọn tóc hoa râm, từ phía sau hai điểm phản chiếu song sinh và bất động của cặp mắt kính. Và cái phần của thân người thấy được phía trên cái bàn thì không ra hình thù gì, gần như kỳ quái, bị chứng béo phì mềm mại và do ngồi nhiều bồi đắp. Ông ngồi đó, cứng ngắc. Trên mặt ông giờ đây lộ rõ vẻ chối bỏ và trốn chạy. "Byron này," ông nói; "Byron. Bạn đang kể tôi nghe cái gì vậy?"

Byron ngừng nói. Anh bình thản nhìn Hightower, với một vẻ thấu cảm và thương xót. "Tôi biết là ông chưa biết gì hết. Tôi biết tôi phải kể ra cho ông."

Hai người nhìn nhau. "Cái gì mà tôi chưa biết đây?"

"Chuyện tên Christmas. Chuyện ngày hôm qua và Christmas. Christmas có máu da đen trong người. Chuyện Christmas và Brown, ngày hôm qua."

"Nó lai da đen à?" Hightower nói. Giọng ông nghe nhẹ nhàng, tầm phào, như phấn hoa cúc gai rơi vào im lặng, không trọng lượng, không âm vang. Ông không cử động. Thêm một lát nữa, ông vẫn không cử động. Rồi có vẻ hiện ra, trên toàn thân ông, như thể mỗi bộ phận của nó cũng linh động như các nét mặt, cùng một sự co cụm, cùng một nỗi đau chối bỏ, Byron thấy khuôn mặt to, mềm nhẽo và yên lặng đó bỗng dưng xâm xấp mồ hôi. Nhưng giọng nói của ông thì nhẹ nhàng và điềm tĩnh. "Chuyện Christmas và Brown và ngày hôm qua là chuyện gì vậy?" ông nói.

Tiếng nhạc từ ngôi nhà thờ nơi xa đã dứt từ lâu. Bây giờ không còn tiếng động nào trong căn phòng ngoại trừ tiếng côn trùng xào xạo liên tục và tiếng nói đều đều đơn điệu của Byron. Hightower vẫn ngồi thẳng người, bên kia bàn. Phần dưới người thì bị cái bàn che khuất, và giữa hai lòng bàn tay đặt song song trên chỗ tựa, ông có tư thế của một tượng thần phương Đông.

"Đó là sáng hôm qua. Có một ông nông dân đi vào thành phố trên chiếc xe la cùng với vợ con. Chính ông là người đầu tiên thấy lửa cháy. Không, ông là người thứ hai đến chỗ đó, bởi vì ổng nói là sau khi phá cửa nhà thì thấy một người nào khác đã ở trong đó rồi. Ổng kể là khi ngôi nhà đó hiện ra trong tầm mắt, ổng bảo bà vợ là rõ ràng có khói bốc ra từ căn bếp, và chiếc xe la cứ tiếp tục đi, rồi bà vợ nói, 'Cái nhà đó đang cháy đó ông.' Tôi cho là có lẽ ổng ngừng xe lại, ngồi trên xe một lúc, nhìn khói bốc lên, và tôi nghĩ sau đó thì ổng nói, 'Trông như đang cháy nhà thật.' Và tôi cho rằng chính bà vợ đã biểu ổng xuống xe và đi xem. 'Người ta không biết có cháy nhà đó ông,' bả nói. 'Ông đi lên đó báo cho người ta biết đi.' Ổng xuống xe và đi lên tận hàng hiên và đứng đó, kêu to 'Ô này. Ô này' cả một lúc. Ổng nói ổng nghe được tiếng lửa bên trong ngôi nhà, rồi ổng dùng vai húc mạnh cánh cửa rồi đi vào, và vào lúc đó thì ông thấy cái người đã thấy ra lửa cháy đầu tiên. Chính là Brown đó. Nhưng ông nông dân không biết điều này đâu. Ổng chỉ nói đó là một tên say ở phòng ngoài, trông hắn như vừa mới rớt từ đầu cầu thang xuống, và ông nông dân nói, 'Nhà cháy đó, ông ơi,' trước khi nhận ra tên đàn ông đó say xỉn đến mức nào. Ổng kể rằng tên say cứ lặp đi lặp lại là không có ai ở trên lầu, là dù sao thì cả tầng lầu đang cháy, chạy lên tìm cách cứu vãn cái gì trên đó thì cũng vô ích thôi.

"Nhưng ông nông dân biết là trên lầu lửa không cháy to đến vậy bởi vì lửa chỉ hừng hực ở sau nhà, về phía căn bếp. Ngoài ra, tên đàn ông đó thì quá say để biết cho chính xác. Và ổng kể là ổng nghi ngờ có cái gì không ổn trong cung cách của tên say đang cố gắng ngăn chặn ổng đi lên lầu. Vậy là ổng bắt đầu bước lên và tên say tìm cách kéo ổng lại, ổng gạt hắn qua một bên và đi tiếp. Ổng kể là tên say cứ bám theo ổng, miệng cứ lặp đi lặp lại không có gì trên lầu đâu, và ổng nói là khi đã xuống lại tầng trệt và nghĩ đến tên say thì hắn đã biến mất. Nhưng tôi cho là ổng không nghĩ đến tên say đó ngay tức khắc đâu. Bởi vì ổng đi lên lầu và lại bắt đầu vừa hét to, vừa mở toang các cánh cửa, và cuối cùng thì ổng mở đúng cửa và tìm thấy cổ."

Byron ngừng nói. Không còn tiếng động nào trong phòng, trừ tiếng côn trùng. Bên ngoài cánh cửa sổ mở, đám côn trùng phát thanh không ngừng, đơn điệu, vô số. "Ổng tìm thấy cổ à?" Hightower nói. "Chính cô Burden mà ổng tìm thấy à?". Ông không cử động. Byron không nhìn ông. Có lẽ anh vừa nói, vừa nhìn hai bàn tay mình đặt trên đùi.

"Cổ nằm dài trên sàn nhà. Đầu gần như bị cắt đứt: một người đàn bà tóc bắt đầu bạc. Ông nông dân nói là ổng cứ đứng đó và ổng có thể nghe tiếng lửa cháy và bây giờ thì khói đã lan vào tận căn phòng, như thể khói đi theo ổng mà vào. Ổng nói là ổng đã không dám nâng xác cổ lên để đưa ra khỏi phòng vì sợ cái đầu rớt ra. Và sau đó, ổng kể là ổng ba chân bốn cẳng chạy xuống cầu thang, ra khỏi nhà mà không để ý là tên say đã biến đâu mất tiêu, và khi ra đến đường cái thì ổng biểu bà vợ cứ quất roi hai con la kéo xe cho tới buồng điện thoại công cộng gần nhất để báo ông cò. Về phần mình, ổng chạy vòng ra sau ngôi nhà đến bể chứa nước và ổng nói ổng đã lấy được một xô nước trước khi nhận ra làm vậy thì ngu quá đi, vì cả phần sau ngôi nhà giờ đây đã cháy hừng hực. Vậy là ổng chạy vào trong nhà, chạy lên cầu thang lần nữa, và khi vào trong căn phòng đó thì ổng chụp lấy một tấm mền trên giường, dùng nó quấn xác cổ lại rồi tay nắm chặt bốn góc mền, ổng đặt nó lên lưng như một bao bột mì, vác ra khỏi nhà, và rồi thả nó xuống dưới một gốc cây. Và ổng nói điều mà ổng lo sợ đã xảy ra. Bởi vì cái mền mở ra khi rơi xuống đất, và cổ thì nằm nghiêng người, quay về một phía, cái đầu thì quay hẳn lại phía kia như thể cổ nhìn ra đằng sau mình. Ổng nói là giá mà cổ làm được như vậy khi còn sống thì chắc là cổ đã không làm vậy bây giờ."

Byron ngừng nói, liếc nhìn người đàn ông ngồi bên kia bàn. Hightower vẫn không cử động. Xung quanh hai điểm phản chiếu song sinh và đờ đẫn của cặp mắt kính, mồ hôi cứ lặng lẽ rịn ra không ngừng trên khuôn mặt ông. "Rồi ông cò đến, và lính chữa lửa cũng đến. Nhưng họ không thể làm được gì vì không có nước cho các vòi xịt. Và ngôi nhà cũ đó cứ tiếp tục cháy suốt cả buổi tối, tôi có thể thấy khói từ xưởng bào và tôi chỉ cho cô Lena xem khi cổ đến, bởi vì vào lúc đó tôi không biết. Rồi họ đưa cô Burden xuống phố, và có một tờ di chúc giữ ở ngân hàng, cô Burden đã dặn họ trước đây, sẽ chỉ ra những gì phải làm với cô Burden sau khi cổ chết. Tờ giấy đó nói là cô Burden có một đứa cháu trai ở miền Bắc, bản quán của cổ và cha mẹ. Và họ đánh điện tín cho người cháu đó, trong vòng hai giờ đồng hồ họ nhận được hồi âm, theo đó người cháu sẽ trả một ngàn đô-la tiền thưởng cho ai tìm ra thủ phạm.

"Và cả Christmas lẫn Brown đều biến đâu mất. Ông cò khám phá ra là có người từng ở trong căn lều đó, và ngay lập tức mọi người bắt đầu mở miệng nói về Christmas và Brown, về cái bí mật đã được giữ khá lâu trước đó để bây giờ người ta nghi là một trong hai đứa hay có lẽ cả hai có thể đã giết chết người đàn bà ấy. Nhưng cho tới đêm qua, không ai có thể tìm ra chúng. Ông nông dân không biết đó là Brown mà ông thấy hắn say xỉn trong ngôi nhà. Người ta nghĩ là hắn và Christmas đã cao chạy xa bay, có lẽ vậy. Rồi đêm qua Brown xuất hiện lại. Lúc này hắn không say rượu, và hắn đến quảng trường khoảng tám giờ tối, mở miệng la hét như thằng khùng, rằng chính Christmas đã ra tay giết cổ, và đòi một ngàn đô-la tiền thưởng. Người ta báo cảnh sát và dẫn hắn tới văn phòng ông cò, và ở đó người ta bảo hắn sẽ nhận được tiền thưởng một khi hắn bắt được Christmas và chứng minh là chính hắn bắt y. Vậy là Brown khai ra. Hắn khai là Chirstmas đã sống với cô Burden như vợ chồng suốt ba năm, cho tới khi Brown và y hợp tác làm ăn. Lúc đầu, khi hắn đến ở trong căn lều với Christmas, Brown nói là Chirstmas bảo hắn là y đã luôn luôn ngủ trong căn lều này. Rồi hắn kể vào một đêm không ngủ được, hắn nghe Christmas đứng dậy ra khỏi giường và đến ngay cạnh giường Brown một lát như thể nghe động tĩnh ra sao, rồi đi nhón nhén tới cửa, mở nhẹ nhàng đi ra ngoài. Và Brown kể là hắn cũng đứng dậy đi theo Christmas và thấy y đi lên ngôi nhà lớn và đi vào bằng cửa sau, như thể nó được mở sẵn cho y hay là y có sẵn chìa khóa. Rồi Brown quay lại căn lều và leo vào giường. Nhưng hắn kể là hắn không thể chợp mắt vì cứ cười mãi về chuyện Christmas tự cho mình khôn lanh lắm. Và hắn còn nằm trong giường khi Christmas trở về sau khoảng một tiếng đồng hồ. Và hắn nói, không thể nín cười được nữa, hắn buột miệng bảo Christmas, 'Đồ chó đẻ.' Rồi hắn kể là Christmas cứ giữ im lặng trong bóng tối trong khi hắn nằm đó mà cười hoài, rồi bảo Christmas là xét cho cùng, y chẳng khôn lanh đến vậy đâu, và nói chọc Christmas về những mái tóc muối tiêu và nếu Christmas muốn, hai thằng có thể thay phiên mỗi tuần để trả tiền thuê căn lều.

"Rồi hắn kể làm sao vào đêm đó hắn hiểu ra là sớm hay muộn gì Christmas sẽ giết cô Burden, cổ hay một người nào khác. Hắn nói hắn vẫn nằm đó, vẫn cười hoài, đang nghĩ là Christmas có lẽ sẽ đi ngủ lại thì Christmas bật một que diêm. Rồi Brown nói, lúc này hắn ngừng cười, nằm đó mà nhìn Christmas thắp cái đèn xách tay và đặt nó lên thùng gỗ gần giường Brown. Brown nói là hắn không cười nữa, nằm yên, và Christmas đứng đó, bên cạnh giường, nhìn xuống hắn. 'Giờ thì mày biết chuyện để cười giỡn rồi đó,' Christmas nói. 'Tối mai tha hồ mà tán dóc với tụi nó ở tiệm hớt tóc à nghe.' Và Brown nói là hắn lúc đó không biết Christmas đang giận điên người và hắn nói cái gì đó, không có ý chọc tức Christmas, để trả lời, rồi Christmas nói, theo cung cách trầm tĩnh của y: 'Mày ngủ ít quá. Mày thức nhiều quá. Có lẽ mày phải ngủ nhiều hơn nữa,' và Brown nói, 'Nhiều hơn bao nhiêu?' và Christmas nói, 'Có lẽ ngay từ bây giờ.' Và Brown nói hắn hiểu ra lúc đó là Christmas đang tức giận và giờ là không phải lúc để cười giỡn với y, và hắn nói, 'Bộ tụi mình không phải là bạn sao? Tại sao tao phải đem đi kể cho thiên hạ nghe chuyện chẳng dính dáng gì đến tao cả? Bộ mày không tin tao à?, và Christmas nói, 'Tao không biết. Tao cũng bất cần. Nhưng mày có thể tin ở tao.' Và y nhìn Brown: 'Mày không tin ở tao sao?' và Brown nói là hắn nói 'Có chớ.'

"Rồi hắn kể là hắn sợ biết bao rằng Christmas, một đêm nào đó, sẽ ra tay giết cô Burden, và ông cò hỏi hắn tại sao hắn đã không hề báo cáo nỗi sợ này, và Brown nói là hắn nghĩ rằng, có lẽ bằng cách không nói gì cả, hắn có thể ở lại ngoài đó và ngăn cản tội ác, không cần làm phiền cảnh sát; ông cò càu nhàu đôi chút và nói Brown thiệt là chu đáo và cô Burden chắc chắn hẳn sẽ cảm kích lắm nếu cổ biết ra. Vậy rồi tôi cho là Brown bắt đầu nhận ra là ông cò phần nào đánh hơi được chuyện gì. Bởi vì hắn bắt đầu kể là chính cô Burden đã mua cho Christmas chiếc xe hơi đó, là hắn đã tìm cách thuyết phục Christmas bỏ việc bán rượu lậu trước khi cả hai đứa bị rắc rối với luật pháp; và các tên cảnh sát quan sát hắn, và hắn thì nói càng lúc càng nhanh hơn, càng lúc càng nhiều hơn, về chuyện hắn thức sớm, sáng thứ bảy, và thấy Christmas đứng dậy lúc rạng đông và đi ra ngoài. Brown biết Christmas đi đâu, và vào khoảng bảy giờ Christmas trở vào trong căn lều và đứng đó, nhìn Brown. 'Tao làm xong rồi,' Christmas nói. 'Làm xong cái gì?' Brown nói. 'Mày đi lên trên nhà mà xem,' Christmas nói. Và Brown nói hắn thấy sợ lúc đó, nhưng hắn không nghi ngờ cái sự thật vừa được nói ra. Hắn nói là trước hết hắn nghĩ quá lắm là Christmas có đánh đập cổ đôi chút. Và hắn nói Christmas đi ra ngoài lần nữa và rồi hắn ra khỏi giường, mặc quần áo và khi đang bắt lửa để nấu bữa ăn sáng, tình cờ đưa mắt nhìn ra ngoài cửa thì hắn thấy cả căn bếp của ngôi nhà lớn bốc cháy.

"'Khi đó là mấy giờ vậy?' ông cò nói.

"'Tôi nghĩ khoảng tám giờ sáng,' Brown nói. 'Giờ mà đàn ông thường dậy, trừ phi là người giàu có. Và Chúa biết tôi không thuộc loại người đó.'

"' Và lính chữa lửa chỉ được báo về đám cháy đó khi đã gần mười một giờ,' ông cò nói. 'Và lúc ba giờ chiều, ngôi nhà vẫn còn cháy. Có phải mày muốn nói là một cái nhà gỗ cũ kỹ, dù có to bự đi nữa, cần đến sáu tiếng đồng hồ để cháy rụi hay sao?'

" Và Brown ngồi đó, hết nhìn bên này lại nhìn bên kia, với đám người đứng vòng quanh quan sát hắn, bao vây hắn. 'Tôi chỉ nói ra sự thật với các ông,' Brown nói. 'Đó là điều các ông yêu cầu tôi.' Hắn nhìn, khi thì bên này, khi thì bên kia, lắc lắc cái đầu. Rồi hắn buột miệng la hét, tuy không to lắm: 'Làm sao tôi biết được mấy giờ lúc đó chớ? Bộ các ông tưởng rằng một thằng làm cái công việc dành cho bọn nô lệ da đen ở xưởng bào lại rủng rỉnh tiền bạc để mua đồng hồ đeo tay sao?'

"'Từ sáu tuần nay, mày đâu còn làm việc ở xưởng bào hay ở bất cứ nơi nào khác,' một viên đội cảnh sát nói. 'Và một thằng có đủ tiền bạc để chạy rông suốt ngày trong chiếc xe hơi mới toanh thì cũng có đủ tiền bạc để thỉnh thoảng ra hầu tòa và để nhìn đồng hồ trên tường cho biết giờ giấc chớ.'

"' Có phải xe của tôi đâu, tôi đã nói rồi mà!' Brown nói. 'Của y mà. Cổ mua và cho y cái xe đó; người đàn bà mà y giết đã cho y mà.'

"' Ôi, chẳng quan trọng gì,' ông cò nói. 'Để nó nói ra hết đi.'

"Và vậy là Brown tiếp tục nói, càng lúc càng to, càng lúc càng nhanh, như thể hắn cố sức che giấu Joe Brown đằng sau những điều hắn nói về Christmas cho đến khi Brown có thể có cơ hội rinh lấy một ngàn đô-la đó. Thật hầu như không thể tin được là con người ta có cái cung cách suy nghĩ này, nghĩa là làm tiền hay nhận tiền là một trò chơi không có phép tắc gì cả. Hắn nói là, ngay cả sau khi thấy lửa cháy, hắn đã không hề nghĩ tới là cô Burden có thể còn ở trong nhà, huống hồ chết. Hắn nói là, thậm chí hắn đã không nghĩ đến việc nhìn vào trong nhà chút nào; hắn chỉ nghĩ làm sao dập tắt ngọn lửa thôi.

"'Và bấy giờ là khoảng tám giờ sáng,' ông cò nói. 'Theo lời mày nói đó. Và mụ vợ của tên Hamp Waller chỉ điện thoại báo đám cháy khi đã gần mười một giờ. Vậy là mày đã cần rất nhiều thì giờ để hiểu ra là mày không thể dập tắt đám cháy đó với hai bàn tay không của mày. Thiệt tình!' Và Brown ngồi đó, ngay giữa họ (Cửa ra vào đã khóa nhưng các cửa sổ thì đầy những cái đầu của các người dân nhìn qua khung kính), mắt nhìn sang bên này rồi bên kia, môi vểnh lên. 'Thằng Hamp nói là sau khi phá cửa vào nhà, nó thấy một tên đàn ông đã ở sẵn trong nhà,' ông cò nói. 'Và tên đó cứ tìm cách ngăn cản nó đi lên lầu.' Và hắn ngồi đó, ngay giữa họ, hai mắt láo liên.

"Tôi cho là lúc ấy hắn mất hết hy vọng rồi. Tôi nghĩ hắn không những có thể thấy là một ngàn đô-la càng lúc càng xa vời mà còn có thể bắt đầu thấy một ai khác sẽ rinh số tiền đó. Như thể hắn thấy mình cầm trong tay một ngàn đô-la nhưng để người khác tiêu xài. Bởi vì, theo lời đồn, người ta có cảm tưởng là hắn đã giữ lại, ngay vào lúc ấy, những gì mà hắn sẽ khai báo với họ sau đó. Như thể hắn đã biết là vào giây phút quyết định, việc giữ lại đó sẽ cứu hắn, mặc dù đối với một người đàn ông da trắng, ngay cả việc bị buộc tội sát nhân thì vẫn ít tồi tệ hơn là thú nhận cái điều mà hắn sẽ phải thú nhận. 'Đúng đó,' hắn nói. 'Tiếp tục đi. Buộc tội tôi đi. Buộc tội một người da trắng đang cố gắng giúp các ông với những gì nó biết đi. Buộc tội một người da trắng và để cái thằng mọi đen tự do đi. Buộc tội một người da trắng và để cho cái thằng mọi đen đó cao chạy xa bay đi.'

"'Thằng mọi đen?' Ông cò nói. 'Thằng mọi đen nào vậy cà?'

"Lúc đó, tưởng như hắn biết là hắn đã nắm được họ. Như thể không điều gì mà họ tin hắn đã phạm lại có thể xấu xa bằng những tiết lộ, những tố cáo mà hắn có thể đưa ra về một người khác. 'Các ông bà sao khôn lanh quá đi!' hắn nói. 'Dân ở thành phố này sao khôn lanh quá. Để bị lừa suốt ba năm! Cứ cho y là người nước ngoài, cả ba năm chớ ít sao, trong khi tôi chỉ cần ba ngày nhận xét thì ra ngay là y chẳng nước ngoài hơn tôi chút nào. Tôi biết chớ, thậm chí trước khi y tự nói ra với tôi.' Và tất cả mọi người giờ đây quan sát hắn, và thỉnh thoảng nhìn lẫn nhau.

"'Tốt hơn mày nên ăn nói cẩn thận chút coi, nếu chuyện mày khai dính dáng đến một người da trắng,' viên đội cảnh sát nói. 'Nó có giết người hay không thì tao cũng bất cần.'

"'Tôi đang nói về Christmas ấy chớ,' Brown nói. 'Về cái thằng đàn ông đã giết người đàn bà da trắng đó sau khi ăn ở với bà ta trước mắt cả thành phố này, và các ông cứ để y càng ngày càng chạy xa trong khi các ông ngồi đây buộc tội cái người duy nhất có thể giúp các ông tìm ra y, cái người duy nhất biết y đã làm gì. Y có máu mọi đen trong người. Mới nhìn y lần đầu là tôi biết ngay mà. Nhưng các ông bà đây, và ông cò cùng các vị đồng nghiệp đây, quý vị tin mình khôn lanh quá à...! Có một lần y cũng thú nhận, bảo tôi là y có lai một phần da đen. Có lẽ y say khi nói ra như vậy, chớ tôi có biết đâu. Dù gì đi nữa, buổi sáng tiếp theo, sau lần thú nhận với tôi đó, y đến gặp tôi và y nói (Brown bây giờ nói nhanh, có phần nào giương mắt và nhe răng về phía mọi người có mặt, từ người này sang người kia), y nói với tôi, 'Tao đã phạm một sai lầm đêm qua. Mày đừng phạm giống vậy.' Và tôi nói, 'Một sai lầm, mày muốn nói gì vậy?' và y nói, 'Mày suy nghĩ một phút đi,' và tôi nghĩ đến chuyện y đã làm vào cái đêm y và tôi ở Memphis và tôi hiểu ra là mạng sống tôi sẽ không đáng là bao nếu có bao giờ tôi phản bội lại y và vậy là tôi nói, 'Tao cho là tao biết mày muốn nói gì. Tao sẽ không xỏ mũi vào những chuyện chẳng dính dáng gì đến tao cả. Tao chưa bao giờ làm vậy mà, theo chỗ tao biết.' Và ông có lẽ cũng nói như tôi vậy thôi,' Brown nói, 'ở ngoài đó, một mình với y trong căn lều và không có lấy một ma nào nghe ông nếu ông phải la hét kêu cứu. Ông có lẽ cũng đã run chớ không à, cho tới khi những người mà ông cố sức giúp đỡ trở mặt chống lại ông và buộc ông vào tội giết người mà ông không hề phạm.' Và hắn ngồi đó, mắt cứ láo liên nhìn ngang nhìn ngửa, và những người khác giương mắt quan sát hắn, kẻ thì ở trong phòng, người thì áp mặt vào cửa sổ từ bên ngoài.

"'Một tên mọi đen,' viên đội cảnh sát nói. 'Tôi lúc nào cũng nghĩ là thằng đó có cái gì lạ lùng nơi nó.'

"Rồi ông cò nói chuyện lại với Brown. 'Và có phải đó là lý do tại sao mày đã chờ tận đêm nay để đến khai với tụi tao cái chuyện xảy ra ở ngoài đó không?'

"Và Brown ngồi đó, ngay giữa họ, môi vểnh lên, cái sẹo nhỏ ở góc miệng trắng như hột bắp rang. 'Tôi muốn thấy một người nào đó mà không hành động như tôi xem sao,' hắn nói. 'Tôi không đòi hỏi gì hơn. Ông hãy chỉ cho tôi một người nào đó, từng sống với y khá lâu để biết y như tôi biết đây, mà hành động khác tôi xem sao.'

"'Thôi được,' ông cò nói, 'tao bắt đầu tin là mày rốt cuộc cũng nói ra sự thực. Bây giờ mày đi với thằng Buck đây, và ráng ngủ cho ngon giấc nghe. Tao sẽ lo chuyện thằng Christmas.'

"'Tôi cho là điều này có nghĩa là nhà tù,' Brown nói. 'Tôi nghĩ là ông sẽ bỏ tôi nằm queo trong tù trong khi ông lấy tiền thưởng.'

"'Câm cha cái miệng mày đi,' ông cò nói, không tỏ ra giận dữ. 'Nếu tiền thưởng đó là của mày, tao sẽ lo cho mày nhận được nó. Buck, dẫn nó đi.'

"Viên đội cảnh sát đến gần và đưa tay đụng vai Brown. Hắn đứng dậy. Khi cả hai ra khỏi cửa, những người lúc nãy đứng nhìn từ cửa sổ bây giờ tụ tập xung quanh họ: 'Ông Buck ơi, bắt được nó rồi à? Nó có phải thằng làm chuyện đó không?'

"'Không đâu,' Buck nói. 'Về nhà đi, các bạn. Đi ngủ đi, bây giờ.' "

Tiếng nói của Byron ngừng lại. Giọng nói ê a nhà quê, đơn điệu, không âm sắc lụi tàn trong im lặng. Bây giờ anh nhìn Hightower với ánh mắt thương cảm, lo âu và trầm lặng. Anh nhìn, qua bên kia bàn, người đàn ông đang ngồi đó với đôi mắt nhắm lại và mồ hôi lăn dài trên mặt như những giọt lệ. Hightower nói: "Có chắc, có chứng minh là y có máu da đen trong người không? Byron, suy nghĩ đi. Cái gì sẽ xảy ra khi người ta - nếu họ bắt được... Tội nghiệp y! Tội nghiệp loài người!"

"Brown cũng nói vậy đó," Byron nói, giọng điềm tĩnh, bướng bỉnh, tin chắc. "Và ngay cả một tên nói láo cũng có thể bị người ta làm cho khiếp sợ để nói ra sự thực, giống như một người lương thiện có thể bị tra tấn để nói ra lời láo khoét."

"Đúng đó," Hightower nói. Ông ngồi, hai mắt nhắm, lưng thẳng. "Nhưng họ chưa bắt được y. Họ chưa bắt được y mà Byron."

Byron cũng không nhìn người đối diện. "Chưa đâu. Theo tin giờ chót thì chưa. Họ đã đưa chó cảnh sát ra ngoài đó ngày hôm nay. Nhưng họ chưa bắt được y, theo tin mới nhất."

"Và Brown?"

"Brown à?" Byron nói. "Hắn thì đi với họ. Hắn có lẽ đã giúp Christmas làm chuyện đó. Nhưng tôi không tin vậy. Tôi cho là hắn chỉ châm lửa đốt nhà là cùng. Và tại sao hắn làm vậy, nếu thực sự hắn có làm, thì tôi nghĩ là ngay cả hắn cũng không biết. Trừ phi hắn nghĩ, nếu mọi thứ đều cháy rụi, thì người ta có thể coi như không có chuyện gì xảy ra, hắn và Christmas có thể tiếp tục lái chiếc xe hơi mới đó chạy đi chỗ này, chỗ kia. Tôi cho là hắn nghĩ cái chuyện mà Christmas đã phạm phải là một sai lầm nhiều hơn là một tội lỗi." Mặt anh cúi xuống, mang vẻ trầm tư; rồi nó hơi nhăn lại trong cái gì giống như sự mệt mỏi mang chút nhạo báng. "Tôi cho là bây giờ thì hắn khá an toàn rồi. Tôi nghĩ cổ có thể tìm gặp hắn khi nào cổ muốn, với điều kiện là ông cò và hắn không đi ra ngoài với các con chó. Hắn sẽ không tìm cách chạy trốn đâu - chừng nào một ngàn đô-la đó còn treo lơ lửng trên đầu hắn, hầu như vậy. Tôi cho là hắn nóng ruột muốn chộp Christmas hơn bất cứ ai khác. Hắn đi cùng họ. Họ đưa hắn ra khỏi nhà tù và hắn đi cùng họ, rồi cả đám quay trở lại thành phố và nhốt Brown vào tù lần nữa. Đúng là không bình thường chút nào. Tuồng như một tên sát nhân cố gắng tự ra tay bắt chính mình để nhận lấy tiền thưởng của riêng mình. Nhưng hắn không có vẻ bận tâm lắm, ngoài chuyện hắn bực tức vì họ mất thì giờ ngồi không đó, không đi ra ngoài để săn lùng. Được rồi. Tôi sẽ nói với cổ ngày mai. Tôi chỉ nói với cổ là trong lúc này hắn đang ở tù, hắn và hai con chó. Có lẽ tôi sẽ đưa cổ xuống phố để cổ có thể thấy tụi nó, cả ba bị những người khác cột và dắt bằng dây, dây thì căng và chó thì sủa ăng ẳng."

"Bạn chưa nói ra với cổ?" Hightower hỏi.

"Tôi đã không nói ra với cổ. Cũng không nói với hắn. Bởi vì hắn có thể bỏ trốn lần nữa, dù có tiền thưởng hay không. Và nếu hắn có thể chộp được Christmas và lãnh tiền thưởng, thì có lẽ hắn sẽ lấy cổ làm vợ kịp thời. Nhưng cổ chưa biết gì cả, cổ không biết gì hơn ngày hôm qua khi bước xuống chiếc xe la đó ở quảng trường. Bụng ễnh ra, bước xuống chậm chạp từ chiếc xe la xa lạ đó, giữa những bộ mặt xa lạ, tự nói với mình bằng một thứ ngạc nhiên thầm lặng, dù đó không phải là một sự ngạc nhiên theo như tôi nghĩ, bởi vì cổ đã tới đây một cách chậm chạp, bằng đôi chân mình, và cổ không bao giờ bận tâm suy nghĩ nhiều lắm đâu: 'Ôi trời, ôi trời. Mình từ Alabama đi thẳng tới, và bây giờ, mình rốt cuộc đang ở Jefferson đây, hẳn vậy rồi.' "

5

Sau nửa đêm. Dù đã vào giường cả hai tiếng đồng hồ rồi, Christmas vẫn chưa ngủ được. Y nghe Brown trước khi thấy hắn. Y nghe Brown đến gần cánh cửa ra vào, va phải nó, cả thân hình thẳng đứng dựa hẳn lên cửa. Brown thở hổn hển. Đứng hai tay chống nạnh, Brown bắt đầu hát, với giọng nam cao ngọt ngào và qua mũi. Và cách xướng âm kéo lê rất dài của giọng hắn có vẻ nặng mùi uýt-ki. "Câm mẹ cái họng đi," Christmas nói. Y không cử động và không lên giọng. Vậy mà Brown ngừng hát ngay tức khắc. Hắn đứng tựa cửa để giữ thẳng người thêm một lát. Rồi hắn rời cánh cửa và Christmas nghe hắn đi loạng choạng vào phòng; một lát sau hắn vấp phải cái gì đó. Sau đó thì chỉ nghe tiếng thở khó khăn và nặng nhọc. Rồi Brown té xuống sàn nhà trong một tiếng rầm khủng khiếp, đụng vào cái giường Christmas đang nằm, làm đầy căn phòng bằng những tiếng cười ồn ào và ngu ngốc.

Christmas đứng dậy. Phía dưới y, và không thể thấy được, Brown nằm dài dưới đất, cười to và không cố gắng đứng dậy chút nào. "Câm miệng," Christmas nói. Brown vẫn còn cười. Christmas bước qua người Brown, đưa tay về phía cái thùng gỗ dùng làm bàn và trên đó để cái đèn xách tay và hộp diêm. Nhưng y không thể tìm ra cái thùng gỗ, và y nhớ lại tiếng đèn vỡ khi Brown ngã xuống. Y cúi xuống, hai chân ở hai bên người Brown, tìm ra cổ áo hắn, kéo hắn ra khỏi gầm giường, rồi dựng đầu Brown lên, và y bắt đầu tát hắn, từng cú ngắn, khô khốc, hiểm hóc cho tới khi Brown ngừng cười.

Brown thì mềm nhũn. Christmas giở đầu Brown lên, nguyền rủa hắn bằng cái giọng nhỏ nhẹ như tiếng thầm thì. Y kéo Brown đến cái giường khác và đẩy hắn vào, để hắn nằm ngửa. Brown bắt đầu cười lại. Christmas đặt bàn tay mình lên miệng và mũi hắn. Y kẹp cằm Brown bằng bàn tay trái trong khi dùng bàn tay mặt tát Brown lần nữa bằng cùng những cú chậm, khô khốc, đều đặn như thể y đếm từng cú đánh một. Brown đã thôi cười. Hắn vùng vẫy. Dưới bàn tay của Christmas, hắn vừa cố sức cựa quậy rất mạnh, vừa bắt đầu phát ra tiếng kêu ồng ộc, nghẹn thở. Christmas vẫn giữ chặt cho đến khi hắn ngừng và nằm im. Rồi Christmas nới lỏng tay một chút. "Bây giờ mày có câm họng đi không?" y nói. "Câm đi không?"

Brown lại vùng vẫy. "Rút cái bàn tay mọi đen của mày ra khỏi người tao, đồ lai mọi trời đánh..." Bàn tay lại siết chặt lần nữa. Và Christmas lại tát vào mặt hắn tới tấp. Brown ngừng và nằm im. Christmas nới lỏng bàn tay. Sau một lát Brown lên tiếng, giọng nhỏ nhẹ nhưng xảo trá: "Mày là thằng mọi đen, hiểu không? Chính mày nói ra mà. Mày nói ra với tao mà. Nhưng tao, da trắng đó. Tao là dân trắ..." Bàn tay siết chặt. Brown lại vùng vẫy lần nữa, miệng phát ra tiếng rên nghẹn thở dưới bàn tay, nước dãi chảy ra trên các ngón tay. Khi hắn thôi cựa quậy, bàn tay nới lỏng. Rồi hắn nằm yên, tiếng thở nặng nhọc.

"Bây giờ mày im được chưa?" Christmas nói.

"Được rồi," Brown nói. Hắn thở hồng hộc. "Để tao thở cái đã. Tao sẽ im. Để tao thở đi."

Christmas nới lỏng thêm bàn tay nhưng không rút đi.Brown thở dễ hơn, hơi thở đến và đi dễ hơn, ít ồn hơn. Nhưng Christmas khôngrút tay ra. Y đứng trong bóng tối, phía trên cái thân thể sóng soài, với hơithở của Brown khi nóng, khi lạnh trên các ngón tay y, và một cách thầm lặng, ynghĩ Cái gì đó sắp xảy ra với mình. Mình sắp làm cái gì đó Vẫn để bàn tay tráitrên mặt Brown, y có thể với bằng bàn tay mặt tới giường của mình, tới cái gốibên dưới có cái dao cạo lưỡi dài gần 12,5 centimét[43]. Nhưng y không đưa tayra. Có lẽ y đã suy nghĩ khá xa và khá sâu từ trước khiến y tự nhủ Không, đâykhông phải đúng người Dù sao đi nữa, y không với tay lấy cái dao cạo. Sau mộtlúc, y rút tay ra khỏi mặt Brown. Nhưng y không bỏ đi. Y vẫn đứng phía trên cáigiường, hơi thở nhẹ và êm đến mức không gây ra tiếng, ngay với chính y. Khôngthể thấy được hắn trong bóng tối, Brown bây giờ thở một cách nhẹ nhàng hơn, vàsau một lúc, Christmas quay về ngồi trên giường mình, sờ soạng lấy ra một điếuthuốc và bao diêm từ trong túi quần treo ở tường. Khi diêm bật sáng thì có thểthấy Brown được. Trước khi tắt, Christmas giơ cao que diêm và nhìn Brown. Hắnườn người nằm ngửa, một cánh tay đung đưa xuống sàn. Miệng hắn mở, và trong khiChristmas quan sát, hắn bắt đầu ngáy.



* * *

[32] Kẻ thực sự sa xuống địa ngục - ND.

[33] Ulysses Grant (1822-1885): tướng lãnh và chính trị gia Mỹ. Tư lệnh quân đội liên bang (tức miền Bắc) trong hai năm cuối cùng của cuộc Nội chiến Mỹ (1864-1865), rồi Tổng thống (1869-1877) - ND.

[34] Quỷ vương, trong truyền thống Do Thái-Cơ đốc giáo - ND.

[35] High brown: một từ mang mùi kỳ thị chủng tộc, chỉ người đàn bà tuy là người da đen nhưng lại có màu da sáng, được đàn ông da trắng cho là hấp dẫn để làm tình và chỉ để làm tình - ND.

[36] Theo Kinh thánh, kê gian (sodomy, làm tình bằng đường hậu môn như gà) và đồng tính luyến ái (homosexuality) là những tội lỗi "phản tự nhiên" - ND.

[37] Viết tắt của Klu-Klux Klan, tên gọi chung của những hội kín ra đời sau cuộc Nội chiến và được phục hồi vào đầu thế kỷ 20, nhất là ở miền Nam nước Mỹ, có chủ trương đề cao chủng tộc da trắng, kỳ thị đối với người da đen, bài Do Thái... Họ thường sử dụng bạo lực khủng bố, đã gây ra rất nhiều vụ giết người da đen, đốt nhà... nhất là từ năm 1900 đến 1960 - ND.

[38] Đây là giờ phút Hightower ngồi chờ, vào mỗi buổi tối, đoàn kỵ binh phi ngựa qua, dĩ nhiên chỉ là trong trí tưởng tượng của ông - ND.

[39] Vải bố đó có màu trắng xam xám - ND.

[40] Gallon: đơn vị đo lường chất lỏng, ở Mỹ là 3,78 lít - ND.

[41] "Jefferson hair tonic": Christmas muốn nói rượu uýt ki lậu - ND.

[42] Christmas chơi chữ (đồng âm dị nghĩa) có dụng ý ở đây: hairlip (nếu Brown dùng quá nhiều "hair tonic", theo quảng cáo là rất hiệu nghiệm, thì tóc sẽ mọc cả trên môi) và harelip (nếu Brown không chịu im miệng thì Christmas sẽ đập cho sứt môi) - ND.

[43] 5 inches - ND.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro