Light In August - William Faulkner (Part 7)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Bị rắc rối à?" người cha hỏi.

"Ảnh giết một tên Mễ, nó quả quyết ảnh trộm con ngựa của nó. Bác biết tụi Tây Ban Nha đối xử ra sao với người da trắng rồi chớ, ngay cả khi tụi nó không giết người Mễ." Anh chàng đưa tin uống một ngụm cà phê. "Nhưng cháu nghĩ người ta phải tỏ ra nghiêm khắc một chút chớ, trong cái đất nước đầy những tụi thanh niên khờ khạo này. Ồ, cám ơn nhiều," anh ta nói khi cô con gái đầu sang qua dĩa một chồng bánh kếp bằng bắp khác. "Được rồi cô. Tôi tự lấy lọ đường được mà. Vả lại, người ta dưới miệt đó quả quyết là con ngựa đâu phải của tên Mễ. Tên Mễ đó có bao giờ làm chủ con ngựa nào đâu, họ nói vậy. Cháu nghĩ ngay cả người Tây Ban Nha cũng phải tỏ ra nghiêm khắc đối với tất cả đám dân đến từ miền Đông đã làm miền Tây mang tiếng xấu như vậy."

Người cha càu nhàu. "Chắc thế rồi. Nếu như có chuyện lộn xộn xảy ra dưới đó, chắc chắn là có nó dính vào rồi, không chạy đâu được. Mày nói với nó," ông lên giọng một cách hung hăng, "nếu nó để cho mấy thằng linh mục trời đánh nhát như cáy đó rao giảng toàn lời bịp bợm thì chính tao sẽ bắn chết nó, như tao bắn một thằng Phiến quân[85] vậy."

"Anh nói ảnh hãy trở về nhà," cô con gái đầu nói. "Đó là điều anh cần nói với ảnh."

"Được thôi," anh chàng đưa tin nói. Chắc chắn tôi sẽ biểu ảnh. Tôi đi về phía Đông, về bang Indiana một thời gian, nhưng tôi sẽ tìm gặp ảnh ngay khi tôi quay lại. Chắc chắn tôi sẽ biểu ảnh. Được rồi, được rồi. Tôi không thể quên đâu. Ảnh biểu nói lại với bác là vợ con đều mạnh giỏi cả."

"Vợ ai, con ai?" người cha nói.

"Của ảnh chớ ai," anh ta nói. "Và chân thành cám ơn lần nữa. Xin chào mọi người."

Họ còn nghe tin đứa con trai lần thứ ba trước khi gặp lại anh. Một ngày nọ, họ nghe anh gọi to phía trước nhà, dù còn xa một quãng. Đó là vào năm 1866. Cả gia đình đã di chuyển lần nữa trước đó, một trăm dặm xa hơn về phía Tây, và người con đã mất hết hai tháng mới tìm ra họ. Anh đã đi ngược, đi xuôi cả hai bang Kansas và Missouri trên một chiếc xe bò với hai cái bao bằng da chứa đầy bột vàng và các đồng tiền và đồ nữ trang thô kệch được nhét dưới ghế ngồi như đôi giày cũ, rồi cuối cùng tìm ra căn lều vách đất và cưỡi xe đến đó, miệng la toáng lên. Một người đàn ông ngồi trên ghế trước cửa ra vào. "Cha anh đó," Nathaniel nói với người đàn bà ngồi trên ghế bên cạnh anh. "Thấy không?" Tuy chưa đầy sáu mươi tuổi nhưng mắt người cha đã bắt đầu thấy kém. Ông chỉ có thể nhận ra gương mặt của đứa con mình khi chiếc xe bò ngừng lại và các cô em gái rộn rã chạy ào ra. Rồi Calvin đứng dậy, và với tất cả sức lực của mình, hét một tiếng thật to và lâu. "Đây, đây," Nathaniel nói, "tụi con về rồi đây này."

Calvin không nói rành rọt cả câu chút nào. Ông chỉ hét lớn và chưởi thề. "Tao sẽ dần cho mày một trận nhừ tử!" ông rống lên. "Mấy con nhỏ đâu rồi? Vangie! Beck! Sarah!" Ba chị em đã ra trước nhà rồi. Họ mặc váy dài và khi chạy ào ra cửa thì họ trông như những quả bóng trên giòng thác, và họ hét toáng lên đinh cả tai, nhưng tiếng rống oang oang của người cha vẫn mạnh hơn. Cái áo khoác, tức cái áo vét có đuôi dài mà ông mặc ngày chủ nhật đó, loại áo của người giàu hay người nghỉ hưu, giờ mở toang ra và ông đưa tay lục lọi cái gì gần bên hông, trông giống điệu bộ và tư thế của một người đang tìm khẩu súng lục. Nhưng ông chỉ rút ra sợi dây nịt bằng da với bàn tay còn lại, và ông vừa vung nó lên, vừa xông đến giữa ba cô gái đang nhảy nhót như chim và kêu la inh ỏi. "Tao dạy mày cho mày biết tay! Tao dạy cho mày biết tìm đường mà bỏ nhà đi!" Cái nịt da quất hai lần xuống vai Nathaniel. Và còn hai lần quất nữa trước khi hai người đàn ông ôm chặt nhau.

Đó là một trò chơi, theo một nghĩa nào đó: một thứ giống như một trò chơi chết người, nửa nghiêm chỉnh, nửa cười cợt, trò chơi của hai con sư tử, có thể để lại dấu vết, có thể không. Cái nịt da đã ngừng quất, họ ôm ghì lấy nhau. Họ đứng đó, mặt đối mặt, ngực này ép sát ngực kia: người cha già tóc bạc, bộ mặt hốc hác, đôi mắt xanh nhợt của người miền New England, khác xa đứa con trai trẻ với cái mũi khoằm và hàm răng trắng tươi cười. "Thôi đủ rồi," Nathaniel nói. "Bộ cha không thấy ai đang nhìn từ chiếc xe đàng kia sao?"

Cả bọn họ, không ai nhìn đến chiếc xe bò cho tới giờ. Ngồi trên ghế là một người đàn bà và một đứa bé trai độ mười hai tuổi. Người cha liếc nhìn người đàn bà đó một lần; ông thậm chí không cần nhìn thằng bé. Và ông chỉ nhìn người đàn bà, miệng há hốc, như thể ông nhìn thấy một bóng ma. "Evangline!" ông nói. Cô trông giống người vợ quá cố của ông đến mức người ta có thể tưởng là hai chị em. Người con trai hầu như không thể nhớ mặt mẹ mình, vậy mà đã chọn làm vợ một cô gái giống bà gần như đúc.

"Đây là Juana," anh nói. " Và đó là Calvin bên cạnh. Tụi con về đây để cưới nhau."

Tối hôm đó, sau bữa ăn tối và vợ con đã đi ngủ, Nathaniel kể mọi chuyện cho họ nghe. Mọi người ngồi quanh ngọn đèn: người cha, các con gái, đứa con trai giờ đã trở về. Không có lấy một mục sư nơi vùng anh sống, anh giải thích, chỉ toàn là linh mục Thiên chúa giáo không à. "Vậy là khi tụi con biết ra mình sắp có thằng nhỏ[86], cổ bắt đầu nói về các cha cố. Nhưng con dứt khoát không muốn đứa con mang họ Burden ra đời mà không có đạo. Vậy là con bắt đầu tìm kiếm, để cổ yên tâm. Nhưng rồi cứ bị lu bu việc này, chuyện nọ đến nỗi con không thể vắng mặt để tìm gặp mục sư, rồi thằng bé sinh ra, và vậy là việc này thấy chẳng còn gấp gáp nữa. Nhưng cổ cứ tiếp tục lo lắng, nói lên nói xuống về mấy cha cố và đại loại như vậy, và vậy là khoảng hai năm sau con nghe nói là sẽ có một mục sư da trắng một ngày nào có thể đến Santa Fe[87]. Vậy là tụi con gói ghém đồ đạc và lên đường, và tới Santa Fe vừa kịp để nhìn theo đám bụi mù sau chiếc xe ngựa chở khách đưa ông mục sư đi xa. Vậy là tụi con ở lại đó để chờ, rồi thêm hai năm nữa, một cơ hội khác lại đến, nhưng ở tận Texas lận. Song lần này thì con lại bận rộn giúp mấy tên kiểm lâm, họ phải dàn xếp một vụ rắc rối dính líu đến một tên cảnh sát bị người ta tấn công trong buổi nhảy đầm đến nỗi phải chạy trốn. Vậy là, khi chuyện đó xong xuôi tụi con quyết định về đây để cưới nhau. Đó, tụi con về đây rồi đó."

Người cha ngồi dưới ngọn đèn, tóc bạc, hốc hác, khắc khổ. Ông đã lắng nghe, nhưng mặt ông mang vẻ suy nghĩ mông lung, dường như đang ngủ hay trầm ngâm quá sâu, cùng với một sự căm tức pha lẫn ngạc nhiên. "Lại thêm một thằng dòng họ Burden trời đánh có lông đen trên người," ông nói. "Người ta chắc sẽ nghĩ là tao đã nhảy cái với một con đàn bà miền Nam trời đánh thánh vật nào đó. Và bây giờ nó cũng đã phải nhảy cái với một con như vậy!" Đứa con trai im lặng nghe, thậm chí không tìm cách nói với cha rằng vợ mình là người Tây Ban Nha chứ không phải một Phiến quân. "Quỷ tha ma bắt cái đám dân lùn da nâu sẫm này đi cho rồi: lùn, vì sức nặng của sự nổi giận của Chúa không cho tụi nó lớn lên được, da nâu sẫm vì tội lỗi trong kiếp người đầy ràng buộc làm dơ máu huyết và da thịt tụi nó." Ánh nhìn chằm chằm của ông thì mơ hồ, cuồng tín, tin chắc mình không sai. "Nhưng hiện tại thì chúng ta đã giải phóng tụi nó rồi, đen lẫn trắng đều được tự do. Tụi nó sẽ làm phai màu da. Trong vòng một trăm năm, tụi nó sẽ trở thành dân da trắng lần nữa hết. Rồi có lẽ chúng ta sẽ để cho tụi nó trở vào lại nước Mỹ." Ông ngồi trầm ngâm, bất động, đầy vẻ suy tư. "Chúa ơi," ông đột ngột nói, "tuy nó mang màu da nâu sẫm nhưng dù sao nó vẫn có xương cốt của một thằng đàn ông. Chúa ơi, nó sẽ to cao như ông nội nó, sẽ không thành thằng còi như cha nó. Chắc chắn nó sẽ như vậy rồi, dù mẹ nó da nâu sẫm, dù chính nó cũng da nâu sẫm."

Cô kể tất cả mấy chuyện này cho Christmas nghe. Hai người ngồi trên giường, trong căn lều càng lúc càng tối, và hơn một tiếng đồng hồ trôi qua mà họ vẫn ngồi một chỗ. Christmas bây giờ không thể thấy khuôn mặt cô chút nào; y hầu như không nghe cô nói, có vẻ để giọng nói của cô đu đưa nhẹ nhàng như trên một chiếc tàu trôi giạt; y dường như hơi lắc lư một cách yếu ớt, trên một sự yên bình mơ mơ màng màng và vô cùng vô tận, không gợi lên một ý tưởng nào cả vào bất cứ lúc nào. "Ảnh tên là Calvin, giống tên ông nội, và ảnh cũng to cao như ông nội, mặc dù ảnh da nâu như gia đình phía bà nội và như mẹ ảnh. Bà này không phải mẹ tôi: ảnh chỉ là anh cùng cha khác mẹ với tôi. Ông nội là út trai trong đám mười người con, và cha tôi là thứ hai trong hai người, và Calvin là người cuối cùng trong tất cả. Anh vừa mới được hai mươi tuổi thì bị giết chết ở dưới phố, cách nhà hai dặm, bởi một tên cựu chủ nô và cựu binh miền Nam có tên là Sartoris vì cãi nhau về quyền bầu cử của người da đen."

Cô kể cho Christmas về các ngôi mộ: mộ của anh cô, ông nội, cha và hai người vợ của ông - tất cả nằm trên một gò đất có nhiều cây tuyết tùng trong cánh đồng cỏ cách nhà nửa dặm. Christmas vừa im lặng nghe, vừa nghĩ, 'A, cổ sẽ dẫn mình thăm mộ. Mình sẽ đi thôi.' Nhưng y lầm. Cô nói về những nấm mộ đó với y chỉ một lần vào đêm đó thôi, khi cô nói ra chỗ chúng nằm và y có thể tự mình đi đến đó để nhìn nếu y thích. "Dù sao, anh chắc là không thể tìm ra chúng đâu," cô nói. "Bởi vì khi người ta mang ông nội và Calvin về nhà tối hôm đó, cha tôi đã chờ tới khuya mới chôn cất hai người, rồi che giấu các cái huyệt, san phẳng mặt đất ở đó rồi phủ lên tất cả bằng các nhánh cây và nhiều thứ khác nữa."

"Che giấu họ à?" Christmas nói.

Cô nói bằng một giọng không có gì dịu dàng, không có gì nữ tính, hay đau thương và luyến tiếc quá khứ. "Để mà người ta không tìm ra họ. Để người ta không thể đào mộ bươi xác họ lên và có lẽ chặt họ ra từng khúc." Cô tiếp tục, có lẽ hơi mất kiên nhẫn trong giọng nói và nặng phần giải thích: "Ở quanh đây người ta thù ghét chúng tôi lắm. Chúng tôi là dân Yankee mà. Người nước ngoài mà. Còn tệ hại hơn cả người nước ngoài nữa đó: chúng tôi là kẻ thù của họ. Một loại cha căng chú kiết nào đó bỗng dưng lù lù sống trên đất họ[88]. Và nó - cuộc Nội chiến - vẫn còn quá gần đến nỗi ngay cả những người bại trận chưa thể trở nên biết điều lần nữa. Họ gọi đó là kích động dân da đen giết người và hãm hiếp, một nguy cơ đối với tính ưu việt của người da trắng. Vì vậy, tôi cho rằng đại tá Sartoris được xem là anh hùng của thành phố bởi vì ông ta đã giết được, bằng hai phát đạn súng lục, một ông già cụt tay và một thằng bé thậm chí chưa từng đi bỏ phiếu lần nào. Có lẽ họ có lý. Tôi làm sao biết được."

"Ồ," Christmas nói. "Họ đã có thể làm vậy sao? Đào mả moi lên hai người đã bị giết, đã chết sao? Vậy thì khi nào những con người thuộc các chủng tộc khác nhau mới thôi thù ghét nhau đây?"

"Khi nào thì họ...?" Tiếng nói cô ngưng lại. Rồi cô tiếp tục: "Tôi làm sao biết được. Tôi không biết họ có đào mả hay không. Hồi đó tôi chưa ra đời mà. Tôi chỉ sinh mười bốn năm sau khi Calvin bị giết. Tôi không biết những người đàn ông đã có thể làm gì lúc đó. Nhưng cha nghĩ rằng họ hẳn có thể làm chuyện đó. Vì vậy ông đã che giấu các nấm mộ đó. Rồi mẹ Calvin chết, và ông chôn cất bà cũng ngay chỗ đó, bên cạnh Calvin và ông nội. Và vậy là chỗ đó tự nhiên trở thành nghĩa trang của chúng tôi, mà chúng tôi lúc đầu không nghĩ là thành như vậy. Có lẽ cha đã không có ý định chôn bà ở đó. Tôi còn nhớ mẹ tôi kể (ít lâu sau khi mẹ Calvin mất, cha đã cho tìm bà tận trên New Hampshire, nơi mà một vài người bà con của chúng tôi còn sinh sống. Ông chỉ có một mình ở đây, anh thấy đó. Tôi cho rằng nếu không phải vì Calvin và ông nội được chôn ở đây thì ông hẳn đã bỏ đi lâu rồi.), mẹ tôi kể là mẹ Calvin chết ngay lúc cha sửa soạn ra đi. Nhưng bà chết vào mùa hè, và thời tiết hẳn là quá nóng để có thể đưa bà về lại gia đình bà ở Mexico. Vậy là ông chôn bà ở đây. Có lẽ đó là lý do ông quyết định ở lại đây. Hay có lẽ vì ông cũng già đi lúc đó, và tất cả đàn ông đã đánh nhau trong cuộc Nội chiến cũng già đi, và những người da đen hầu như đã không hãm hiếp hay giết người nào. Dù gì đi nữa, ông đã chôn bà ở đây. Ông cũng phải che giấu cái nấm mộ đó nữa, bởi vì ông nghĩ ai đó có thể thấy nó và tình cờ nhớ lại Calvin và ông nội. Ông không muốn đánh liều một chuyện như vậy, cho dù mọi việc đã qua rồi, đã chấm dứt, thực sự chấm dứt lúc đó. Và năm sau ông viết cho người anh họ của chúng tôi ở New Hampshire. Ông nói, 'Tôi giờ đã năm mươi tuổi. Tôi có tất cả những gì mà cô ấy sẽ cần từ trước đến nay. Hãy gởi cho tôi một người đàn bà tử tế để làm vợ. Tôi không quan tâm đến chuyện cô ấy là ai, miễn là một người nội trợ tốt và ít nhất ba mươi lăm tuổi.' Ông gởi kèm tiền vé xe lửa theo lá thư. Hai tháng sau mẹ tôi đến đây, và hai người cưới nhau ngay trong ngày đó. Đối với ông, đó là một sự kết hôn vội vã. Lần kia, ông phải mất hơn mười hai năm để cưới nhau, cái lần mà ở Kansas, ông, Calvin và mẹ Calvin cuối cùng gặp được ông nội đó. Họ về đến nhà vào giữa tuần, nhưng họ phải chờ đến chủ nhật để làm đám cưới. Họ làm tiệc ngoài trời, bên bờ suối, với nguyên một con bê quay và một thùng rượu uýt-ki và tất cả mọi người, ai được nghe mời và ai nghe tin, đều đến dự. Họ bắt đầu đến ngay từ sáng thứ bảy, và tối thứ bảy thì ông mục sư đến. Suốt ngày hôm đó, các em gái của cha cặm cụi may cho mẹ Calvin chiếc áo cưới và mạng che mặt. Họ tạo ra chiếc áo cưới từ bao bố đựng lúa mì và mạng che mặt từ cái mùng chống muỗi mà một ông chủ quán rượu đã đóng đinh phủ lên một bức tranh sau quầy. Họ đã mượn nó từ ông chủ quán. Họ thậm chí cũng may cho Calvin mặc một thứ tựa như bộ com-lê. Ảnh mười hai tuổi lúc đó, và họ bắt ảnh làm người mang hộp nhẫn cưới. Ảnh không muốn chút nào. Ảnh biết ra vào đêm trước đó chuyện họ tính bắt ảnh làm, và ngày hôm sau, (họ đã định cử hành lễ cưới vào khoảng sáu hay bảy giờ sáng hôm đó) sau khi mọi người đã dậy và ăn sáng, họ phải dời lại lễ cưới cho tới khi tìm được Calvin. Cuối cùng thì họ cũng tìm ra ảnh và bắt ảnh mặc lên người bộ com-lê và lễ cưới được cử hành, với mẹ Calvin mặc áo cưới may tại gia và đeo mạng che mặt bằng vải mùng và cha tôi, với mái tóc ép sát đầu bằng mỡ gấu và đôi ủng Tây Ban Nha bằng da thuộc ông mang về từ Mexico. Và chính ông nội hộ tống cô dâu để trao cho tân lang. Chỉ phải cái là trong khi mọi người chạy đi tìm Calvin thì ông đến chỗ thùng uýt-ki vài lần, và vậy là khi tới lúc đưa cô dâu cho tân lang, ông lại làm một bài diễn từ thay cho việc này. Ông bắt đầu nói về Lincoln[89] và chế độ nô lệ và thách thức mọi người có mặt xem ai dám phủ nhận ý kiến theo đó Lincoln và dân da đen, Moses[90] và dân Do Thái, cũng là như nhau, và Biển Đỏ chỉ là máu đã phải đổ ra để cho chủng tộc người da đen có thể vượt qua mà đi vào miền Đất hứa[91]. Phải khá lâu họ mới làm ông im miệng để buổi lễ cưới có thể tiếp tục. Hai vợ chồng còn ở lại một tháng sau khi cưới. Rồi một hôm cha và ông nội lên đường đi về miền Đông, đến thủ đô Washington và được chính phủ giao cho nhiệm vụ xuống Jefferson đây để giúp đỡ những người da đen vừa được giải phóng khỏi chế độ nô lệ. Vậy là họ đến Jefferson, tất cả mọi người trừ các cô em gái của cha. Hai người thì đã lấy chồng, và cô út thì đến ở với một trong hai chị, và ông nội, cha, Calvin và mẹ ảnh đến đây và mua cái nhà này. Và rồi, chuyện mà chắc họ luôn luôn tiên liệu đã thực sự xảy ra, và cha chỉ có một mình cho đến ngày mẹ tôi đến từ New Hampshire. Hai người chưa từng thấy nhau trước đó, ngay cả qua ảnh chụp. Họ cưới nhau ngay trong ngày mẹ tôi đến và hai năm sau thì tôi sinh ra và cha đặt tên tôi là Joanna, theo tên của mẹ anh Calvin. Tôi không nghĩ là ông muốn có thêm một đứa con trai khác. Tôi không nhớ rõ ông cho lắm. Một lần duy nhất mà tôi nhớ ông như là một người quan trọng đối với mình, như là một con người, là khi ông dẫn tôi đến và cho tôi thấy ngôi mộ của Calvin và ông nội. Đó là một ngày mùa xuân ngập nắng. Tôi nhớ là thoạt đầu mình không muốn đi, thậm chí không biết chỗ định đi là ở đâu. Tôi không muốn đi vào chỗ có những cây tuyết tùng. Tôi không biết tại sao mình lại không muốn đi. Tôi hẳn không thể biết có gì trong chỗ đó, tôi mới bốn tuổi mà. Và thậm chí nếu tôi biết thì đã không có gì khiến một đứa bé phải sợ. Tôi nghĩ đó là cái gì đó đến từ cha tôi, cái gì đó đến với tôi từ lùm cây tuyết tùng, qua ông; cái gì đó mà tôi cảm thấy là ông đã đặt trong lùm cây tuyết tùng đó, mà tôi khi đi vào trong đó thì lùm cây trùm lên tôi đến nỗi tôi sẽ không bao giờ có thể quên được nó. Tôi không biết. Nhưng ông ép tôi đi cùng. Và cả hai chúng tôi đứng đó, và ông nói, 'Con hãy nhớ điều này. Ông nội và anh con nằm dưới đó, bị giết không phải bởi một tên da trắng nhưng bởi lời nguyền rủa mà Chúa áp đặt lên toàn thể một chủng tộc rất lâu trước khi ông nội, anh con, cha và con đây bị phán xét. Một chủng tộc bị nguyền rủa, bị kết tội để mãi mãi là một phần của sự kết tội và của sự nguyền rủa mà chủng tộc da trắng phải chịu vì những tội lỗi của nó. Hãy nhớ điều này nghe con. Sự kết tội và sự nguyền rủa của Chúa. Đời đời. Mãi mãi. Cha có tội. Mẹ con. Cả con nữa, dù con chỉ là đứa bé. Sự nguyền rủa mà bất cứ đứa bé da trắng nào cũng phải chịu, đứa đã sinh ra cũng như đứa sẽ sinh ra. Không ai có thể chạy thoát được.' Và tôi nói, 'Ngay cả con nữa sao?' Và ông nói, 'Ngay cả con nữa. Con thì lại càng không thể thoát.' Tôi đã thấy và biết người da đen từ lâu, từ khi biết nhớ cái này, cái kia. Tôi chỉ nhìn họ giống như tôi nhìn trời mưa, nhìn bàn ghế, hay thức ăn hay giấc ngủ. Nhưng sau chuyện đó, tôi dường như nhìn họ lần đầu tiên không phải như con người, mà như một cái gì, một cái bóng mà trong đó tôi sống, tụi tôi, tức là mọi thứ dân da trắng đó, tức là mọi người đó, sống. Tôi nghĩ đến tất cả những đứa bé luôn luôn ra đời, những đứa bé da trắng, với cái bóng đen này đã chụp lên chúng ngay trước khi chúng bắt đầu thở. Và tôi dường như thấy cái bóng đen này có hình thánh giá. Và có vẻ như những trẻ sơ sinh da trắng đang tranh đấu, ngay cả trước khi thở, để thoát khỏi cái bóng đen này, nó không những ở trên mà còn ở dưới chúng nữa, trải rộng như hai cánh tay của chúng giang ra, như thể chúng bị đóng đinh trên thánh giá. Tôi thấy tất cả những trẻ sơ sinh bé nhỏ trên thế gian này, ngay cả những đứa chưa ra đời, sắp hàng dài với hai cánh tay giang ra trên các cây thánh giá đen. Lúc đó, tôi không thể biết là tôi thấy hay tôi nằm mộng, nhưng cảnh tượng này làm tôi kinh sợ. Tôi khóc vào ban đêm. Rồi cuối cùng tôi nói với cha, cố gắng nói với ông. Tôi muốn nói với ông là tôi phải thoát đi, rời xa từ bên dưới cái bóng này, nếu không thì tôi chết mất. 'Con không thể thoát đâu,' ông nói. 'Con phải đấu tranh, phải đứng lên. Nhưng để đứng lên thì con phải đưa cái bóng lên theo. Nhưng con không bao giờ có thể đưa nó lên ngang hàng với con. Giờ thì cha thấy điều đó, cha đã không thấy trước đó cho tới khi đến đây. Nhưng thoát khỏi nó thì không thể được đâu con. Sự nguyền rủa mà chủng tộc da đen phải chịu, chính là sự nguyền rủa của Chúa đó. Nhưng sự nguyền rủa mà chủng tộc da trắng phải chịu, chính là một người da đen sẽ được Chúa ban cho ân sủng đời đời bởi vì một ngày nọ Ngài đã nguyền rủa hắn.' " Cô ngừng nói. Những con đom đóm bay qua, bay lại trước cánh cửa hơi có dạng chữ nhật đang mở. Christmas cuối cùng lên tiếng:

"Tôi đã muốn hỏi cô một chuyện, nhưng bây giờ tôi nghĩ là tự tôi biết câu trả lời rồi."

Cô vẫn ngồi yên. Giọng cô điềm tĩnh. "Chuyện gì?"

"Tại sao cha cô không giết cái thằng đó - tên nó là gì rồi? Sartoris?"

"Ồ," cô nói. Rồi lại im lặng như trước. Trước cửa, những con đom đóm bay qua bay lại. "Anh thì... anh sẽ giết ông ta, phải không?"

"Phải," y nói ngay lập tức. "Không chờ đâu." Rồi y biết là cô nhìn về phía y, nơi phát ra tiếng nói, như thể cô muốn nhìn y trong bóng tối. Giọng nói cô giờ trở nên gần như dịu dàng. Không khí thì lặng lẽ, bình yên.

"Anh không biết gì về cha mẹ mình phải không?"

Bộ mặt y bất ngờ tối sầm lại, khép kín, nhưng cô không thể thấy. "Không, tôi không biết, trừ chuyện một trong hai người có mang dòng máu da đen. Như tôi đã kể cho cô nghe trước đây."

Cô vẫn nhìn y. Y biết cô nhìn y qua giọng nói của cô, một giọng nói điềm tĩnh, hơi vô cảm, có vẻ quan tâm nhưng không tò mò. "Làm sao anh biết được điều đó?"

Y không trả lời một lúc khá lâu. Rồi y nói: "Tôi không biết điều đó." Một lần nữa, tiếng nói bỗng im; cô biết, qua tiếng nói đó, là y quay đầu và nhìn ra cửa. Bộ mặt y thì bất động và buồn bã. Rồi y cử động một chút và lên tiếng lại. Giọng y bây giờ nghe như có thêm một âm bội, không vui nhưng hơi giễu cợt, vừa mỉa mai, vừa nghiêm trọng. "Nếu tôi không phải là da đen thì tôi đã không mất đi quá nhiều thì giờ."

Giờ thì đến lượt cô có vẻ trầm ngâm, lặng lẽ, gần như không thở nữa, nhưng không có gì là thương thân trách phận hay luyến tiếc quá khứ. "Tôi đã nghĩ đến điều đó. Tại sao cha đã không bắn đại tá Sartoris? Tôi nghĩ đó là vì ông mang dòng máu Pháp trong người."

"Dòng máu Pháp à?" Christmas nói. "Bộ ngay cả người Pháp cũng không nổi giận khi có thằng đàn ông giết cha mình và con trai mình trong cùng một ngày sao? Tôi nghĩ chắc là cha cô thấm nhuần đạo giáo hay sao đó. Có lẽ ông trở thành người giảng đạo thì cũng hay lắm đó."

Cô không trả lời trong một lát. Những con đom đóm vẫn bay qua bay lại; đâu đó có tiếng chó sủa, êm dịu, buồn bã và xa xôi. "Tôi thường nghĩ đến điều đó," cô nói. "Vào thời điểm đó thì mọi sự đã chấm dứt rồi, sự bắn giết với binh phục và cờ xí, và sự bắn giết không binh phục và cờ xí. Tất cả mấy thứ này trước đây đã không và ngày nay cũng không mang lại cái gì tốt đẹp. Thực sự không có gì tốt đẹp cả. Và chúng tôi là những người nước ngoài, những người xa lạ, chúng tôi suy nghĩ khác những người mà đất nước của họ là ngay đây, và chúng tôi đã đến đây sống giữa họ mà không được mời, không được chào đón. Và cha là người Pháp, một nửa đó. Đủ Pháp để tôn trọng tấm lòng yêu thương của bất cứ ai đối với cái đất nước này mà trên đó ông và cha mẹ ông đã sinh ra, và đủ để thấu hiểu là một con người bao giờ cũng phải hành động theo như những gì mà đất nước, nơi họ sinh ra, đã dạy họ hành động. Tôi nghĩ đó là như vậy."

12

Chính bằng cách này mà giai đoạn hai bắt đầu. Y tưởng mình như rơi xuống ống cống. Khi nhìn lại quá khứ, y có vẻ như thấy ra một cuộc đời khác, thấy mình nhớ lại sự hàng phục đầu tiên đó, cứng rắn và mạnh bạo, một sự hàng phục kinh khiếp và khắc nghiệt, giống như sự sụp đổ của một cốt cách tinh thần mà những gân cơ của nó khi gãy rắc thì tạo ra một âm thanh hầu như nghe được bằng tai. Và điều này đã làm giảm đi rất nhiều tầm quan trọng của sự hàng phục, tương tự như một tướng lãnh bại trận, ngay trong đêm sau trận chiến cuối cùng, đã cạo râu nhẵn nhụi và chùi sạch đôi ủng vấy bùn khi đánh nhau, để sáng ngày hôm sau đến trao thanh gươm cho kẻ chiến thắng trong nghi thức đầu hàng.

Cống rãnh chỉ chảy trong đêm. Và những ngày đi qua thì trước nay không đổi. Y đi làm lúc sáu giờ rưỡi sáng. Y rời căn lều mà không đưa mắt nhìn về phía ngôi nhà chút nào. Y trở về lúc sáu giờ chiều và vẫn không nhìn đến ngôi nhà. Y tắm rửa, thay quần áo, mặc sơ-mi trắng và quần đen ủi thẳng thớm, rồi y đi lên nhà bếp, bữa ăn tối chờ sẵn y ở bàn, và y ngồi xuống ăn mà vẫn không thấy bóng dáng cô đâu. Nhưng y biết là cô đang ở trong nhà, biết là bóng đêm về giữa những bức tường cũ kỹ sẽ làm đổ vỡ cái gì đó và để mặc nó hư hỏng trong sự đợi chờ. Y biết cô đã làm gì trong ngày; những ngày của cô bây giờ thì cũng không khác gì những ngày trước đó, chúng bao giờ cũng vậy, như thể, cả trong trường hợp cô nữa, có một người nào khác sống những ngày đó. Suốt ngày y hình dung cô làm việc nhà, ngồi trong một khoảng thời gian cố định ở cái bàn giấy cũ nhiều vết sước, hay nói chuyện và lắng nghe những mụ đàn bà da đen; họ đến nhà cô từ cả hai hướng ngược xuôi của con lộ hay từ những con đường mòn mà năm tháng đã tạo ra, và từ nhà cô chúng tỏa ra như những nan hoa của một bánh xe. Họ nói gì với cô thì y không biết, dù y đã thấy họ đi đến ngôi nhà theo một cách không hẳn là bí mật nhưng có chủ tâm; họ thường vào nhà từng người một, tuy thỉnh thoảng vẫn có hai hay ba người vào cùng lúc, trên người mang tạp dề và trên đầu quấn khăn bằng giẻ rách và đôi khi còn có áo khoác đàn ông vắt trên vai, rồi sau đó họ đi ra, trở về trên những con đường mòn tỏa ra từ ngôi nhà, các bước chân thì không vội vã mà cũng không chậm rãi. Y nghĩ đến họ không lâu, rồi nghĩ bây giờ cổ làm chuyện này, bây giờ cổ làm chuyện kia nhưng không nghĩ nhiều về chính cô. Y tin rằng vào ban ngày cô nghĩ về y cũng không nhiều hơn y nghĩ về cô. Ngay cả vào ban đêm, trong căn phòng chìm trong bóng tối của mình, cô khăng khăng kể cho y nghe, với tất cả những chi tiết chán ngắt, các chuyện xảy ra trong ngày của cô, dù nhỏ nhặt nhất, rồi nằn nì đòi đến phiên y kể lại ngày của y, đó là theo kiểu của các tình nhân: sự đòi hỏi cấp thiết và không thể nào thỏa mãn được phải diễn tả ra bằng lời những chi tiết không đáng kể của cả hai ngày mà người này hay người kia không nhất thiết phải nghe. Rồi y ăn xong bữa tối và đi lên gặp cô ở chỗ mà cô đợi. Thường thì y không tỏ ra vội vàng. Với thời gian qua đi, sự mới mẻ của giai đoạn hai này bắt đầu biến mất dần và trở thành một thói quen, có khi y đứng ở cửa nhà bếp và đưa mắt nhìn xuyên qua bóng hoàng hôn và thấy, có lẽ bằng linh tính và dự cảm, con đường hoang dại và cô độc mà y đã tự ý chọn lấy và nó đang chờ y, trong khi nghĩ Cuộc đời mình đâu phải như thế này. Đây có phải là chỗ của mình đâu

Thoạt đầu, điều đó gây sốc nơi y: sự cuồng nộ hèn hạ của con sông băng vùng New England đột ngột bị đặt trước giàn lửa địa ngục trong Kinh thánh của chính vùng New England này. Có lẽ y có ý thức về sự quên mình ở trong nó: sự cấp bách mãnh liệt đòi phải phục tùng này, nó che giấu một nỗi tuyệt vọng có thật sau nhiều năm tình dục không được thỏa mãn và không thể thay đổi được đến nỗi cô hình như tìm cách bù đắp mỗi đêm như thể cô tin đó là đêm cuối cùng trên mặt đất này bằng cách tự đày ải mình vĩnh viễn xuống địa ngục của cha ông cô, bằng cách sống không những trong tội lỗi mà còn trong sự bẩn thỉu. Cô khao khát tìm kiếm những biểu tượng bằng những chữ nghĩa bị cấm đoán, cô thèm nghe cái âm thanh của chúng được phát ra từ đầu lưỡi của Christmas hay của chính cô. Cô bộc lộ một sự tò mò kinh khiếp, lạnh lùng của một đứa bé trước tất cả những vấn đề và tất cả những đối tượng bị ngăn cấm; một sự quan tâm đầy đam mê, không biết mệt mỏi và bình tĩnh của một bác sĩ giải phẫu đối với thân xác và tất cả những khả năng của nó. Và vào ban ngày thì y thấy một người đàn bà khá đứng tuổi, điềm tĩnh, bộ mặt lạnh lùng, dáng vẻ đàn ông, đã từng sống một mình suốt hai mươi năm mà không mang những nỗi lo sợ thông thường của đàn bà chút nào, trong một ngôi nhà trơ trọi trong một khu phố mà một khi có ai đến sinh sống thì đó chỉ là người da đen thôi. Y thấy cô trải qua một khoảng thời gian nào đó mỗi ngày ngồi yên lặng ở bàn giấy, và lặng lẽ viết thư, cho các người trẻ cũng như các người già, gửi đến họ những lời tư vấn cụ thể của một người cùng lúc là thầy tu, chuyên gia ngân hàng và y tá được đào tạo chính qui.

Trong giai đoạn này (không thể gọi là tuần trăng mật được), Christmas nhìn cô trải qua tất cả những hóa thân của một người đàn bà đang yêu. Chẳng mấy chốc cô làm y bị sốc hay có lẽ hơn vậy nữa: cô làm y sửng sốt, cô làm y hoang mang. Cô bắt đầu làm y ngạc nhiên một cách bất ngờ bằng những cơn ghen đầy giận dữ. Cô hẳn có thể tránh được hoàn toàn chuyện đó, bởi vì trong thực tế không có lý do nào cả cũng như không có một đàn bà nào dính dáng với Christmas để mà ghen tuông: y biết là cô biết điều này. Như thể cô cố tình bịa đặt toàn bộ sự việc, với mục đích đóng nó như đóng một vở kịch. Vậy mà cô đóng nó một cách cuồng nộ, một cách tin chắc như đinh đóng cột, và bằng sức thuyết phục cao độ, đến nỗi ngay lần đầu tiên y đã nghĩ là cô bị một ảo giác ám ảnh, và lần thứ ba thì y nghĩ cô phát điên rồi. Cô bộc lộ bản năng của một người có lắm mưu mẹo vừa bất ngờ, vừa hiệu quả. Cô khăng khăng đòi có một chỗ để cô cất giấu thư từ và các tin nhắn khác. Đó là trong một cái cột rỗng ở hàng rào bên dưới cái chuồng ngựa đổ nát. Y không hề thấy cô để vào cái giấy gì ở đó, vậy mà cô cứ nằn nì bảo y đi đến đó mỗi ngày; khi y làm theo thì y như rằng có một lá thư ở đó. Khi không làm theo và nói láo với cô, y mới biết ra là cô đã giăng bẫy để bắt quả tang y nói láo; và cô la hét, cô khóc lóc.

Đôi khi, các tin nhắn bảo y phải chờ tới một giờ nào đó để đến ngôi nhà này mà từ nhiều năm nay không một người da trắng nào, ngoại trừ y, đặt chân vào, nơi mà từ hai mươi năm nay cô ngủ một mình, tất cả mỗi đêm; trong suốt một tuần lễ cô bắt y trèo qua cửa sổ để vào gặp cô. Y đã làm vậy, và thỉnh thoảng y phải đi kiếm cô khắp cả nhà, trong bóng tối, cho tới khi tìm ra cô, khi thì cô trốn trong các tủ quần áo, khi thì trong các căn phòng trống, chờ đợi, thở hổn hển, đôi mắt trong bóng tối sáng rỡ như mắt mèo. Đôi khi, cô hẹn y dưới những bụi cây trong khuôn viên nhà cô, và y tìm thấy cô ở đó, trần truồng hay áo quần rách tơi tả trên người, đang vật vã đến phát rồ vì chứng cuồng dâm đàn bà, thân thể cô ánh lên trong khi cô cử động chậm chạp, liên tiếp tạo ra những điệu bộ và tư thế gợi dục mà chỉ có một Beardsley[92] vào thời Petronius[93] mới có thể vẽ ra. Bao quanh bằng ánh sáng mờ ảo phập phồng không có bức tường nào chặn lại, cô lúc đó lăn lộn dữ dội, tóc tai rối tung, mỗi lọn tóc trông có vẻ sống động như những vòi bạch tuộc, hai bàn tay cuống cuồng, hơi thở hổn hển: "Ôi anh đen! Ôi anh đen! Ôi anh đen!"

Trong vòng sáu tháng cô trở nên bại hoại hoàn toàn. Không thể nói là y đã làm cho cô hư hỏng. Cuộc sống của chính y, với sự chung chạ bừa bãi, không tên, thì khá ước lệ, giống như bất cứ cuộc sống nào, thường mang những tội lỗi lành mạnh và bình thường. Sự sa đọa đến từ một nguồn gốc thậm chí không thể giải thích đối với y hơn là đối với cô. Trên thực tế, dường như chính cô, bằng sự sa đọa mà cô có vẻ thu thập từ trong không khí, đã bắt đầu làm y bại hoại. Y bắt đầu thấy sợ. Y không thể biết mình sợ gì. Nhưng y bắt đầu tự nhìn mình từ một khoảng cách, thấy mình như một người đang bị hút xuống một bãi lầy không đáy. Nhưng y chưa nghĩ ra chính xác như vậy. Cái mà y đang thấy bây giờ là con đường cô độc, hoang dã và mát lạnh. Đúng đó: mát lạnh. Và y nghĩ, đôi khi nói to ra với chính mình, "Tốt hơn mình nên ra đi. Tốt hơn mình nên rời khỏi đây."

Nhưng có cái gì đó giữ y lại, như một người tin vào số mệnh vẫn có thể bị giữ lại: bởi sự tò mò, sự bi quan hay hoàn toàn do quán tính. Trong khi đó mối quan hệ tình ái vẫn tiếp tục, càng lúc càng nhấn chìm y qua những đêm hoan lạc dữ dội, lúc nào cũng cấp thiết và gây kiệt sức. Có lẽ y hiểu ra là mình không thể trốn thoát. Dù sao đi nữa, y ở lại, quan sát hai con người vật lộn nhau trong cùng một thân thể như hai hình dạng dưới ánh trăng mờ cứ mãi vật lộn, thay phiên nhau lún sâu xuống dưới bề mặt một vũng nước đen đặc dưới ánh trăng hạ tuần. Lần này, đó là cái hình dạng bình tĩnh, lạnh lùng và thận trọng của giai đoạn thứ nhất, dù đã bị thất lạc và đày đọa, nhưng bằng cách này hay cách nọ vẫn trơ trơ và không thể lay chuyển được; rồi lần khác, đó là cái hình dạng kia, của giai đoạn hai, trong sự chối bỏ một cách kịch liệt cái tính cách không thể lay chuyển được đó, cố sức nhấn chìm xuống vực thẳm tối đen do chính mình tạo ra, sự trinh bạch thân xác được giữ gìn quá lâu để mà có thể biến mất được. Thỉnh thoảng, ôm chặt nhau như hai chị em, cả hai hình dạng đó lại trồi lên trên bề mặt đen; và khi đó nước đen rút đi. Rồi thực tại bất chợt xuất hiện lại: căn phòng, những bức tường, âm thanh bình yên của vô số côn trùng bên ngoài cửa sổ vào mùa hè, nơi mà chúng đã kêu rì rào từ bốn mươi năm nay. Và khi đó cô nhìn y chằm chằm với bộ mặt điên dại và tuyệt vọng của một người xa lạ; và y cũng nhìn cô khi đó, tự mình giải thích hơi dài dòng: "Cổ muốn cầu nguyện, nhưng cổ lại không biết làm sao cầu nguyện."

Cô đã bắt đầu mập ra.

***

Giai đoạn hai này không chấm dứt bằng một cái gì gay gắt, đẩy tới đỉnh điểm như giai đoạn trước. Nó nhập vào giai đoạn ba từ từ đến nỗi y đã không thể phân biệt khi nào cái này chấm dứt và cái kia bắt đầu. Tương tự như khi hè chuyển sang thu, với đợt khí lạnh đầu tiên không tránh được của mùa thu ùa đến trên mùa hè đang tàn, giống như những cái bóng khi mặt trời đi xuống; như hơi nóng của mùa hè đang chết vẫn tuôn ra sang tận mùa thu, như ngọn lửa than đang lụi tàn bất chợt bùng lên. Chuyện này kéo dài đến hai năm. Y vẫn tiếp tục làm việc ở xưởng bào, và cùng lúc y bắt đầu bán một ít rượu uýt-ki, bán một cách có suy xét, tức là chỉ giao dịch giới hạn với vài khách hàng kín đáo và không quen biết lẫn nhau. Cô không biết việc này, tuy y cất giấu kho hàng của y trong khuôn viên nhà cô và gặp các khách hàng trong khu rừng cây nằm bên kia cánh đồng cỏ. Nhưng nếu biết, chắc là cô đã không phản đối. Giống như bà McEachern đã không phản đối khi thấy sợi dây thừng được giấu trong nhà; có lẽ y có cùng một lý do để không nói với cô cũng như không nói với bà McEachern. Khi y nghĩ đến bà McEachern và sợ dây thừng, nghĩ đến cô bồi bàn mà y đã không bao giờ nói ra tiền y cho nàng ta là đến từ đâu, và bây giờ nghĩ đến cô nhân tình hiện nay và rượu uýt-ki, y gần như muốn tin rằng không phải để kiếm tiền mà y bán rượu lậu nhưng bởi vì số phận bắt y phải luôn luôn giấu giếm cái gì đó với những người đàn bà sống xung quanh y. Trong lúc đó, y thỉnh thoảng vẫn thấy cô từ xa, giữa ban ngày, ở phía sau khuôn viên nhà cô. Dưới bộ áo quần sạch sẽ và mộc mạc cô mặc trên người, sự giàu có bại hoại đó chuyển động một cách liền lạc, nhưng một khi bị đụng đến thì sẵn sàng rơi vào tình trạng thối rữa, giống như những thứ gì đó mọc trên đầm lầy; và không một lần nào cô đưa mắt nhìn về phía căn lều hay về phía y. Và khi y nghĩ đến cái nhân cách khác kia, nó có vẻ hiện hữu ở đâu đó trong bóng tối tự nhiên, và theo y, dường như cái mà y thấy bây giờ, giữa ban ngày, là bóng ma của một người nào đó đã bị cô em ruột chỉ sống về đêm giết chết và bây giờ đi lang thang không mục đích trên những nơi chốn ngày xưa yên bình, và bị tước đoạt ngay cả cái khả năng than vãn.

Dĩ nhiên, những cơn cuồng mê ban đầu trong giai đoạn hai thì không thể kéo dài. Thác nước đầu tiên giờ biến đổi thành thủy triều, khi dâng, khi rút. Khi thủy triều lên, cô còn có thể lừa y và lừa cả chính cô. Như thể từ cái dự cảm là cơn triều dâng này giờ đây phải phản ứng, đã sinh ra một sự cuồng mê dữ dội hơn, một sự chối bỏ mãnh liệt, nó đẩy cả hai người vào những cuộc thử nghiệm thân xác vượt quá sự tưởng tượng, lôi kéo họ như thể theo trớn, theo đà, mang họ đi mà không có mục đích hay ý muốn. Cô dường như biết bằng cách này hay cách nọ là thời gian thì ngắn ngủi, là mùa thu gần như ở trên người cô, dù cô không biết ý nghĩa chính xác của mùa thu này. Dường như đó chỉ là bản năng: bản năng thể xác và sự chối bỏ theo bản năng những năm tháng lãng phí đã qua đi. Rồi thủy triều hạ xuống. Khi đó, hai người bị mắc kẹt, như sau một trận gió lạnh[94] đang lụi tàn, trên một bãi biển cạn kiệt vì đầy ứ người, nhìn nhau như người lạ, bằng những con mắt chán nản và trách móc (đôi mắt người đàn ông thì mệt mỏi, đôi mắt người đàn bà thì tuyệt vọng).

Nhưng cái bóng của mùa thu đã trùm lên người cô. Cô bắt đầu nói về chuyện có con, như thể cô cảm thấy, theo bản năng, giờ của sự biện minh hay giờ của sự đền tội đã điểm. Cô nói chuyện này trong những lúc thủy triều xuống. Thoạt tiên, đêm bao giờ cũng bắt đầu bằng thủy triều lên, như thể những giờ phút xa cách ban ngày đã đắp đê ngăn dòng nước đủ để biến nó thành dòng thác, ít ra trong chốc lát. Nhưng sau một lúc, nước chảy quá yếu, không còn đủ cho sự biến đổi này: bây giờ, y đến với cô một cách miễn cưỡng, như một kẻ xa lạ cứ nhìn ra sau lưng. Và như một kẻ xa lạ, y rời cô sau khi ngồi bên cạnh cô trong căn phòng tối, nói về một kẻ xa lạ thứ ba. Y đưa ra lời nhận xét là bây giờ, dường như có mưu tính trước, hai người gặp nhau lúc nào cũng ở trong phòng ngủ, như thể là vợ chồng. Y không còn phải tìm kiếm cô khắp trong nhà. Những đêm mà y phải đi tìm cô, nấp trốn, thở hổn hển và trần truồng trong ngôi nhà chìm trong bóng tối hay giữa những bụi cây trong ngôi vườn bỏ hoang, thì bây giờ đã qua đi mãi mãi như cái cột rỗng bị bỏ quên ở hàng rào phía dưới chuồng ngựa.

Tất cả những thứ đó đã chết rồi: những hoạt cảnh được trình diễn một cách không thể chê vào đâu được, những hoạt cảnh của những lạc thú bí mật và quái dị, và của sự ghen tuông. Tuy vậy, nếu như cô mà biết thì bây giờ cô đã có lý do để ghen. Y đi xa nhà mỗi tuần hay gần như vậy, vì công việc làm ăn, theo lời y nói với cô. Cô không biết là công việc làm ăn kéo y đến Memphis, nơi mà y phản bội cô với những người đàn bà khác, y ăn bánh trả tiền sòng phẳng. Cô không biết chuyện này. Có lẽ trong giai đoạn mà cô đang sống đây, cô hẳn không để mình bị thuyết phục, không nghe những bằng cớ, không buồn để ý tới chuyện gì cả. Bởi vì cô đã có thói quen nằm dài không ngủ gần như suốt đêm, và cô ngủ bù vào buổi chiều. Cô không bị bệnh chút nào. Không phải cơ thể cô có vấn đề. Chưa bao giờ cô thấy khỏe như vậy; cô ăn thấy ngon và ăn rất nhiều, mập lên hơn mười ba ký rưỡi[95], cô chưa hề nặng đến thế trong đời. Nhưng không phải chuyện này khiến cô thao thức. Nhưng là cái gì đó đến từ bóng tối, từ mặt đất, từ chính mùa hè đang hấp hối: một cái gì đó kinh khủng, có tính đe dọa đối với cô bởi vì bản năng cô báo cho biết là cái đó sẽ không làm hại cô, là nó sẽ chế ngự cô, sẽ phản bội cô hoàn toàn nhưng nó sẽ không làm hại cô; trái lại, là cô sẽ được cứu vớt, là cuộc sống vẫn tiếp diễn giống như trước và ngay cả tốt đẹp hơn, thậm chí ít kinh khiếp hơn. Nhưng điều kinh khiếp là cô không muốn được cứu vớt. "Con chưa sẵn sàng cầu nguyện đâu," cô nói to một cách thản nhiên, cứng rắn, lặng lẽ, đôi mắt mở to, trong khi ánh trăng tuôn trào qua cửa sổ, làm đầy căn phòng với cái gì đó lạnh lẽo, không thể hủy bỏ được, cái gì đó đầy những hối tiếc không nguôi. "Đừng bắt con phải cầu nguyện lúc này. Chúa ơi, hãy để con bị đày đọa lâu hơn một chút, thêm một chút nữa." Cô có vẻ nhìn toàn bộ cuộc đời đã qua của mình, và những năm đói khát tình dục đó, như một đường hầm xám xịt mà ở đoạn cuối của nó, xa xăm và không thể thay đổi được, và không phai nhạt như một lời oán trách, bộ ngực trần trụi của cô cách đây ba năm ngắn ngủi đã đau đớn như thể đang hấp hối, vẫn còn trinh và bị đóng đinh vào cây thập tự; "Chưa đâu, Chúa ơi. Chưa đâu, Chúa ơi."

Vậy là khi y đến với cô, sau những cái ôm hôn thụ động, lạnh lùng, phù hợp với sự xúc động giờ đã thành thói quen trọn vẹn, cô bắt đầu nói về một đứa con. Thoạt đầu, cô nói một cách khách quan, nói về con cái chung chung. Có lẽ đó là sự tinh ranh hoàn toàn theo bản năng của đàn bà và sự ăn nói bóng gió, nhưng cũng có lẽ không phải vậy. Dù sao, chỉ sau một thời gian khá lâu y mới nhận ra, không phải là không bị sốc, là cô bàn thảo chuyện này như một khả năng, một ý tưởng cụ thể. Y trả lời ngay lập tức: Không!

"Tại sao không?" cô nói. Cô nhìn y, hoang mang. Y suy nghĩ nhanh, y nghĩ Cổ muốn mình cưới cổ. Đúng là như vậy. Cũng như mình, cổ không muốn có đứa con nào đâu 'Đó chỉ là một cái mưu mẹo,' y nghĩ. 'Lẽ ra mình phải biết cái mưu này chớ, phải tính trước chớ. Lẽ ra mình phải cuốn gói bỏ đi cách đây một năm rồi chớ.' Nhưng y không dám nói ra điều này với cô, y sợ cái từ ngữ hôn nhân dưới dạng âm thanh sẽ đến chắn ngang giữa hai người, y nghĩ, 'Có lẽ cổ đã không nghĩ về chuyện này, và mình lại đi nhét vào đầu cổ cái ý nghĩ này.' Cô đang quan sát y. "Tại sao không?" cô nói. Và rồi có cái gì đó trong đầu y bật lên như tia chớp Tại sao không? Chuyện này chắc có nghĩa là mày sẽ có sự thanh nhàn, sự an toàn cho tới cuối đời. Mày chắc sẽ không bao giờ lang thang chỗ này, chỗ kia lại lần nữa. Và có lẽ hay hơn cả là mày lấy cổ trong khi nghĩ, 'Không được. Nếu nhượng bộ bây giờ thì mình sẽ chối bỏ tất cả ba mươi năm mà mình đã sống để làm mình trở thành con người như mình đã chọn.' Y nói:

"Nếu chúng ta định có con thì lẽ ra, tôi nghĩ, chúng ta đã có một đứa cách đây hai năm."

"Chúng ta đã không muốn có một đứa hồi đó mà."

"Chúng ta cũng không muốn có một đứa lúc này," y nói.

Khi đó là vào tháng chín. Rồi ngay sau ngày Giáng sinh, cô bảo y là cô có thai. Cô chưa kịp nói xong thì y đã tin rằng cô nói láo. Y nhận ra lúc đó là y đã trông chờ cô nói ra điều này từ ba tháng nay. Nhưng khi nhìn thẳng vào mặt cô, y biết là cô không có thai. Y tin rằng cô cũng biết là mình không có thai. Y nghĩ, 'Có chuyện rồi đây. Cổ sắp sửa nói ra bây giờ: lấy tôi đi. Nhưng ít ra mình vẫn có thể bỏ cái nhà này mà dọt đi trước tiên.'

Nhưng cô không nói. Cô ngồi rất yên lặng trên giường, hai bàn tay đặt trên đùi, khuôn mặt của người miền New England cúi xuống (cô vẫn giữ bộ mặt gái già của mình, dài, xương gò má cao, hơi gầy, trông gần như giống đàn ông, và trái ngược với nó, thân thể béo mập của cô thì trông có vẻ thú vật một cách hào phóng và mềm mại hơn bao giờ hết). Cô nói, giọng hơi trầm ngâm, bình tĩnh, khách quan: "Vậy là trọn vẹn đó chớ. Ngay cả đối với đứa con hoang da đen. Tôi muốn thấy bộ mặt của cha và Calvin khi biết chuyện này. Và nếu anh muốn cuốn gói bỏ chạy thì bây giờ là đúng lúc lắm đấy." Nhưng dường như cô không nghe tiếng nói của chính mình, không dự định cho những từ ngữ nói ra có một ý nghĩa nào trên thực tế: ngọn lửa bùng cháy cuối cùng đó của mùa hè muộn màng và đang chết mà trên đó mùa thu, hừng đông của cái chết nửa chừng, đã đến một cách bất ngờ. 'Bây giờ thì mọi sự chấm dứt rồi,' cô nghĩ một cách thầm lặng; 'hết thật rồi.' Ngoại trừ việc chờ đợi thêm một tháng nữa, cho bảo đảm. Những người đàn bà da đen đã dạy cho cô chuyện này, là người ta không thể biết chắc trước hai tháng. Cô phải đợi thêm một tháng, theo dõi cuốn lịch. Cô đánh dấu trên cuốn lịch, để tránh mọi sai lạc; qua cửa sổ phòng ngủ cô nhìn cái tháng đó đi qua. Sương giá bắt đầu xuất hiện, và lá bắt đầu úa vàng. Và cái ngày được đánh dấu trên lịch đó rồi cũng đến và qua đi. Cô tự cho mình thêm một tuần nữa để chắc chắn gấp đôi. Cô không cảm thấy phấn chấn lắm vì cô không thấy ngạc nhiên. "Mình mang thai rồi," cô nói to, một cách bình thản.

'Mình sẽ ra đi ngày mai,' y tự nhủ, cùng ngày hôm đó. 'Mình sẽ ra đi chủ nhật,' y nghĩ. 'Mình đợi lãnh lương tuần này, rồi mình sẽ dọt lẹ.' Y trông chờ ngày thứ bảy đến, và y bắt đầu nghĩ tới nơi chốn mà y sẽ tới. Y không gặp cô suốt tuần lễ đó. Y mong đợi cô cho tìm y. Khi đi vào hay khi đi ra khỏi căn lều, y thấy mình tránh nhìn về phía ngôi nhà, như y đã làm trong tuần lễ đầu tiên sau khi đặt chân đến đây. Thậm chí y cũng không thấy cô. Thỉnh thoảng y thấy những mụ đàn bà da đen ăn mặc đủ thứ đồ khó tả để chống chọi khí lạnh mùa thu, họ đến và đi theo những con đường mòn, vào trong hay ra khỏi ngôi nhà. Nhưng tất cả chỉ có vậy thôi. Khi ngày thứ bảy đó đến, y lại không đi. 'Hay hơn cả là mình kiếm thật nhiều tiền trước đã,' y nghĩ. 'Nếu cổ không nóng ruột muốn mình cuốn gói đi sớm thì dại gì mà đi bây giờ. Mình sẽ đi thứ bảy tới.'

Y tiếp tục ở lại. Trời vẫn lạnh. Sáng và lạnh. Bây giờ, khi đi ngủ và đắp lên người cái mền bằng vải bông, trong căn lều đầy gió lùa, y lại nghĩ đến cái phòng ngủ trong ngôi nhà với lửa hồng trong lò sưởi, với những tấm mền bông có hoa in nổi và rộng rãi. Chưa bao giờ y cảm thấy muốn thương thân trách phận nhiều như vậy. 'Ít ra cổ có thể gởi cho mình một cái mền nữa chớ,' y nghĩ. Y hẳn có thể bỏ tiền ra mua một cái. Nhưng y không mua. Và cô cũng không mua. Y chờ. Y chờ một thời gian mà y cho là lâu lắm. Rồi vào một tối tháng hai, y về nhà và thấy ra một mảnh giấy nhắn tin của cô trên giường. Nó ngắn ngủi, gần như một cái lệnh, bảo y lên nhà ngay tối đó. Y không tỏ ra ngạc nhiên. Theo kinh nghiệm, y biết là do không có sẵn đàn ông nào khác, đàn bà cuối cùng thì cũng quay lại với mình thôi. Và bây giờ y hiểu là y phải ra đi vào ngày hôm sau. 'Đây chắc chắn là điều mình đã từng đợi đó,' y nghĩ; 'Mình chỉ chờ để được minh oan thôi.' Khi thay áo quần, y cũng cạo râu nữa. Tuy không để ý, y tự làm đẹp cho mình như một chú rể. Y thấy bữa ăn tối dọn sẵn cho y ở nhà bếp, như thường lệ; trong suốt thời gian không gặp cô, y đã không mất đi một bữa nào. Y ăn xong rồi leo lên lầu. Y không tỏ ra vội vàng. 'Mình và cổ có cả đêm mà,' y nghĩ. 'Cổ sẽ tha hồ suy nghĩ đêm mai và đêm mốt nữa khi thấy căn lều đó trống không.' Cô đang ngồi trước lò sưởi đã đốt. Nhưng cô không quay đầu khi y bước vào phòng. "Mang cái ghế đó tới đây luôn," cô nói.

Giai đoạn ba bắt đầu như vậy đó. Trong một lúc y thậm chí thấy còn ngạc nhiên hơn hai người kia. Y đã trông đợi một sự vồn vã, một thứ gì như sự xin lỗi ngầm, hay nếu thiếu cái này thì là một sự thuận tình mà y đang chờ cô cầu xin y. Y sẵn sàng đi đến ngay cả mức độ đó. Nhưng sự việc xảy ra là một người đàn bà xa lạ đẩy tay y ra, với sự cương quyết trầm tĩnh của đàn ông, khi cuối cùng bị thúc đẩy bởi một thứ tuyệt vọng đầy bối rối, y tới gần và đưa tay chạm vào cô. "Này," y nói, "nếu cô có gì để nói với tôi... mình bao giờ cũng trao đổi tốt hơn sau đó mà. Không làm hại tới đứa bé đâu, nếu đó là chuyện cô sợ."

Cô chặn y lại bằng một từ duy nhất; đây là lần đầu tiên y nhìn thẳng vào mặt cô: y nhìn một bộ mặt lạnh lùng, xa cách và cuồng tín. "Anh có nhận ra," cô nói, "là anh đang phung phí cuộc đời anh không?" Và y ngồi đó, nhìn cô như hóa đá, như thể y không tin chính tai mình.

Phải một lát sau y mới hiểu ra ý cô. Cô không nhìn y chút nào. Cô ngồi đó, ngắm nhìn ngọn lửa, mặt lạnh, bất động, trầm ngâm, nói chuyện với y như thể y là một kẻ xa lạ, trong khi y nghe, ngạc nhiên, tức tối. Cô muốn y đứng ra phụ trách toàn bộ công việc của cô liên quan đến các trường học da đen - thư từ trao đổi và các buổi viếng thăm thường kỳ. Cô đã lập ra cả một kế hoạch. Cô kể ra cho y một cách chi li trong khi y nghe với sự giận dữ và kinh ngạc sôi sục trong người. Y sẽ đảm nhận mọi việc và cô sẽ làm thư ký và phụ tá cho y: hai người sẽ cùng nhau đi đến các trường học, cùng nhau thăm viếng các gia đình da đen; y nghe, và dù giận dữ đến mấy, y vẫn hiểu rằng kế hoạch này thì thật là điên khùng. Và trong suốt thời gian đó, trước ánh sáng yên bình từ ngọn lửa, khuôn mặt nhìn nghiêng điềm tĩnh của cô trông nghiêm trang và lặng lẽ như một bức chân dung trong khung. Khi rời phòng, y nhớ lại là cô không một lần nào đề cập đến đứa con được trông đợi đó.

Y chưa tin là cô điên. Y nghĩ là vì cô đang mang thai, cũng như y tin là vì lý do này mà cô không cho y chạm đến người cô. Y cố gắng tranh cãi với cô. Nhưng cầm bằng tranh cãi với cái đầu gối: cô chẳng thèm bỏ công bác bỏ các ý kiến của y, chỉ im lặng nghe rồi lại bắt đầu nói với cùng cái giọng đều đều và lạnh lùng, như thể y đã không hề mở miệng. Khi y cuối cùng đứng dậy và đi ra, y thậm chí không biết là cô có nhận ra là y đã biến đi rồi không.

Trong vòng hai tháng sau đó y chỉ gặp lại cô một lần duy nhất. Y vẫn theo lề thói hàng ngày, trừ chuyện là bây giờ y không đến gần ngôi nhà nữa. Y ăn tối dưới phố, giống như ngày xưa khi y mới bắt đầu làm việc ở xưởng bào. Nhưng, vào thời đó y không thấy cần phải nghĩ đến cô vào ban ngày; y hầu như đã không bao giờ nghĩ đến cô. Giờ thì y không thể tránh được. Cô cứ liên tục hiện diện trong đầu óc y đến nỗi y dường như nhìn thấy cô ở đó, trong ngôi nhà, kiên nhẫn, trông đợi, không thể lẩn tránh, và điên rồ. Trong giai đoạn đầu, y thì như một tên đàn ông ở bên ngoài một ngôi nhà mà tuyết phủ đầy sân, tìm cách đi vào trong ngôi nhà đó; trong giai đoạn hai, y ở dưới đáy vực sâu trong bóng tối hoang dại và nóng bỏng; bây giờ y ở giữa một vùng đồng bằng không nhà cửa, ngay cả tuyết, ngay cả gió cũng không có.

Bây giờ y bắt đầu thấy sợ, y là người mà những cảm xúc cho đến nay chỉ là sự ngạc nhiên, sự dự cảm, có lẽ vậy, và sự phó mặc cho số mệnh. Y vừa có một người hợp tác trong việc mua bán uýt-ki: một kẻ xa lạ mang tên Brown đã xuất hiện một ngày đầu xuân ở xưởng bào để tìm việc làm. Y biết tên này là một thằng ngốc, nhưng thoạt đầu y nghĩ, 'Ít ra hắn cũng có chút ít đầu óc để làm theo lời mình. Hắn sẽ không phải tự mình suy nghĩ gì cả.' Chỉ sau này y mới tự nhủ: 'Giờ thì mình biết cái gì biến người ta thành một thằng ngốc, đó là sự thiếu khả năng làm theo ngay cả những lời khuyên tốt đẹp của chính hắn.' Y nhận Brown bởi vì Brown không phải là người địa phương và tính hắn thì hăng hái, vui vẻ và không theo nguyên tắc đạo đức nào cả, và nhất là y không tỏ ra can đảm lắm. Vì Christmas biết là một khi vào tay một người sáng suốt, một thằng hèn nhát cũng có thể trở thành, trong những giới hạn của chính hắn, khá có ích cho mọi người, trừ hắn ra.

Y chỉ sợ là Brown có thể biết chuyện người đàn bà trong ngôi nhà và làm cái gì đó không thể thay đổi được do cái tính ngu xuẩn không thể đoán trước được của hắn. Y sợ là người đàn bà, dạo này y tránh mặt cô, bỗng nảy ra ý đến tìm y ở căn lều một đêm nào đó. Y chỉ gặp cô một lần từ hồi tháng hai. Đó là khi y tìm gặp cô để nói là Brown sẽ đến ở chung với y trong căn lều. Một ngày chủ nhật. Y gọi cô, và cô đi ra ngoài hàng hiên sau nhà, nơi y đang đứng, và cô im lặng nghe y nói. "Anh đâu cần phải làm vậy," cô nói. Y không hiểu lúc đó cô muốn nói gì. Chỉ sau này cái ý đó mới lóe lên đầy đủ trong đầu, như một câu được in ra giấy: Cổ nghĩ mình mang hắn về đây là để gạt cổ ra. Cổ tin là mình nghĩ, với sự hiện diện của Brown, cổ sẽ không dám đi xuống căn lều, và sẽ phải để cho mình yên

Vậy là y đặt vào ngay trong đầu y niềm tin, nỗi lo sợ về chuyện cô có thể làm, bằng cách tin rằng chính y đã gợi ý với cô về chuyện này. Y tin là, bởi vì cô đã có ý này, sự có mặt của Brown không những không ngăn chặn cô mà trái lại, còn kích động cô tìm đến căn lều. Vì hơn một tháng nay cô đã không làm gì cả, đã không đi đâu cả, y tin là cô có thể làm bất cứ chuyện gì. Và y bây giờ cũng nằm suốt đêm không chợp mắt. Nhưng y nghĩ, 'Mình phải làm cái gì đó chớ. Có cái gì đó mà mình cuối cùng sẽ làm đây.'

Vậy là y tìm đủ cách để đánh lừa và tránh né Brown nhằm về đến căn lều trước tiên. Mỗi lần về, y đều mong thấy cô đợi mình ở đó. Khi về đến căn lều và thấy nó trống không thì trong lòng y nổi lên cái gì đó tựa như cơn giận dữ bất lực, trong khi y nghĩ đến sự cấp thiết, sự láo khoét, sự vội vã, y nghĩ đến người đàn bà này, một mình và rảnh rỗi cả ngày trong ngôi nhà, không có gì để làm ngoài việc quyết định có nên phản bội y ngay lập tức hay kéo dài sự tra tấn y lâu hơn chút nữa. Trong hoàn cảnh thông thường thì y đã bất cần nếu Brown có biết được quan hệ của họ hay không. Trong bản chất của mình, y không có cái gì là kín đáo hay hào hoa phong nhã đối với đàn bà. Ấy là vì lý do thực tế và vật chất. Nếu cả thành phố Jefferson biết y là người tình của cô thì y cũng tỏ ra bàng quan. Nhưng y không muốn thiên hạ bắt đầu để mắt đến đời sống riêng tư của y ở nơi chốn này bởi vì rượu uýt-ki lậu mang lại cho y từ ba chục đến bốn chục đô-la mỗi tuần. Đó là một lý do. Một lý do khác là tính kiêu căng. Thà y chết hay bị giết còn hơn là để một người nào khác, một tên đàn ông khác, biết được quan hệ của hai người bây giờ ra sao. Cô không những đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời riêng mình mà còn tìm cách thay đổi cuộc đời y nữa, muốn biến y trở thành cái gì đó ở giữa một ẩn sĩ và một nhà truyền đạo cho dân da đen. Y tin rằng, nếu Brown biết được mặt này của sự việc thì hắn, một cách tất yếu, sẽ biết được mặt kia. Vậy là y nói láo ở xưởng cưa và ba chân bốn cẳng ra về và cuối cùng thì đặt chân đến căn lều, khi y đặt tay lên cửa, nhớ lại trong đầu sự vội vã vừa qua và nghĩ rằng trong chốc lát y sẽ thấy ra là tất cả mấy thứ này thì không cần thiết chút nào, và tuy y không dám bỏ qua sự phòng xa này, y bỗng thấy thù ghét cô thậm tệ cùng với sự bộc phát mãnh liệt của một cơn giận dữ khủng khiếp và bất lực. Rồi, một buổi tối, y mở cửa và thấy một mảnh giấy nhắn tin trên giường.

Y thấy nó ngay khi bước vào, vuông, trắng và hết sức bí hiểm, nằm nổi bật trên cái mền tối tăm. Y thậm chí đứng lại để nghĩ là y tin mình biết tin nhắn đó là gì, nó hứa hẹn cái gì. Y không cảm thấy háo hức; y cảm thấy nhẹ nhõm. 'Bây giờ thì xong rồi,' y nghĩ, chưa cầm lên miếng giấy được gấp lại đó. 'Rồi sẽ bắt đầu lại như trước đây. Không còn nói chuyện về mọi đen và con cái nữa. Cổ đã đổi ý rồi. Cổ đã hiểu là cái ý riêng của cổ đó sẽ không dẫn cô đi tới đâu cả. Cổ bây giờ thấy ra là cái mà cổ muốn, cái mà cổ cần là một thằng đàn ông. Cổ muốn một thằng đàn ông, ban đêm; hắn làm gì ban ngày thì không quan trọng.' Lẽ ra y phải hiểu lúc đó tại sao y đã không ra đi. Lẽ ra y phải thấy là mảnh giấy vuông, nhỏ, chưa mở ra đó, ràng buộc y cũng chặt như ổ khóa và dây xích. Y không nghĩ đến điều này. Một lần nữa, y chỉ thấy mình ở ngưỡng cửa của lạc thú và hứa hẹn mới mẻ. Nhưng giờ thì sẽ thanh thản hơn. Cả hai sẽ muốn như vậy; vả lại, chính y sẽ có thế thượng phong mà. 'Mọi chuyện vừa qua thật là ngu ngốc,' y nghĩ, tay cầm mảnh giấy chưa mở, 'Thiệt là quá sức ngu ngốc. Cổ vẫn là cổ và mình vẫn là mình. Và bây giờ, ôi, cả mớ chuyện ngu ngốc làm sao!'; và y nghĩ là hai người sẽ cười xòa đêm nay, sau đó, sau này, khi giờ phút nói chuyện thanh thản, cười đùa thanh thản đến, họ sẽ cười mọi chuyện đã qua, cười người này lẫn người kia, cười chính họ.

Y không mở mảnh giấy ra chút nào. Y để nó qua một bên, và vừa huýt gió vừa rửa ráy, cạo râu, thay quần áo. Y chưa kịp xong thì Brown đi vào. "Lạ, lạ, lạ thật," hắn nói. Christmas không nói gì. Y đang thắt cà vạt trước mảnh gương móc trên tường. Brown đứng lại ngay giữa nhà: một thanh niên cao, rắn chắc trong bộ quần yếm dơ bẩn, với cặp mắt tò mò trên khuôn mặt đẹp trai u ám và mềm yếu. Gần miệng có một cái sẹo nhỏ, trắng như tia nước miếng. Sau một lát, Brown nói: "Trông như mày sắp đi du hí đâu đó."

"Thật à?" Christmas nói, không quay đầu lại. Y huýt gió một cách đơn điệu nhưng tình cảm: một điệu nhạc cung thứ, rầu rĩ, theo phong cách da đen.

"Tao cho là tao không phải mất công tắm rửa làm gì," Brown nói, "vì thấy mày gần như sẵn sàng rồi."

Christmas quay đầu nhìn hắn. "Sẵn sàng cho cái gì?"

"Bộ mày không đi xuống phố sao?"

"Tao có bao giờ nói vậy à?" Christmas nói. Y quay mặt lại trước tấm gương.

"Ồ!" Brown nói. Hắn nhìn gáy Christmas. "Thôi được, mày nói vậy thì tao cho là mày đi có việc riêng". Hắn nhìn Christmas. "Đêm nay trời lạnh để nằm dài trên mặt đất ướt, không có gì làm đệm ngoài một con nhỏ gầy còm."

"Bộ không phải vậy sao?" Christmas nói rồi huýt gió, lo lắng nhưng không vội vã. Y quay người lại, với tay lấy cái áo khoác và mặc vào. Brown vẫn nhìn y. Y đi ra cửa. "Gặp lại sáng mai," y nói. Cánh cửa không đóng lại sau lưng y. Y biết là Brown còn đứng đó nhìn theo. Nhưng y không tìm cách giấu giếm mục đích của mình. Y đi thẳng tới ngôi nhà. 'Cứ cho nó nhìn,' y nghĩ. "Cứ cho nó đi theo mình nếu nó muốn.'

Bữa ăn tối đã dọn sẵn trong bếp. Trước khi ngồi xuống, y lấy mảnh giấy nhắn tin chưa mở đó đặt lên bàn, bên cạnh dĩa ăn của mình. Nó không được bỏ trong một phong bì, cũng không được dán lại; nó tự bung ra, như thể mời mọc y để mắt tới. Nhưng y không nhìn. Y bắt đầu ăn. Chậm rãi. Khi ăn gần xong thì bất ngờ y ngẩng đầu lên, nghe ngóng. Rồi y đứng lên, đi về phía cửa mà qua đó y đã đi vào, và như con mèo nhẹ nhàng và êm ru, y bất ngờ giật mạnh cánh cửa. Brown đứng ngay ở ngoài, mặt dán vào cánh cửa, hay chính xác hơn, vào chỗ trước đó của cánh cửa khi nó đóng. Ánh sáng hắt vào mặt hắn. Dưới cái nhìn của Christmas, vẻ mặt cực kỳ tò mò một cách con nít của Brown biến thành vẻ ngạc nhiên. Rồi hắn trấn tĩnh và lùi lại một chút. Giọng nói hắn thì vui vẻ, nhưng nhẹ nhàng, thận trọng, nghe có vẻ thông đồng, như thể hắn đã trao cho Christmas, dù không được yêu cầu và không chờ để biết chuyện gì đang xảy ra, sự liên kết và sự thông cảm của hắn vì lòng trung thành đối với người cộng tác làm ăn hay có lẽ đối với đàn ông, theo nghĩa trừu tượng, như trái ngược với đàn bà. "Lạ, lạ, lạ thật," hắn nói. "Vậy là đây là chỗ mà chàng mèo đực tìm đến mỗi đêm. Ngay trước cửa nhà tụi mình, nếu có thể nói vậy-"

Không nói không rằng, Christmas đánh hắn. Cú đấm không được ác liệt lắm vì Brown đã lùi lại một cách vui vẻ vô tội vạ, ngay giữa tiếng cười khẩy. Cú đấm cắt ngang lời nói của hắn. Nhảy vọt ra sau, hắn biến khỏi vùng sáng và lẩn vào trong bóng tối nhưng tiếng nói hắn vang ra từ đó, căng thẳng vì lo sợ và ngạc nhiên, nhưng vẫn không to, như thể ngay cả lúc này hắn tránh làm hại đến việc riêng của tên bạn làm ăn: "Mày cả gan đánh tao à!" Giữa hai đứa, hắn to cao hơn: một bộ tịch lóng ngóng đang cố gắng chạy trốn một cách lố bịch, như thể hắn sắp ngã vật xuống đất trong sự tan rã hoàn toàn. Hắn loạng choạng lùi ra sau, trong khi Christmas cứ im lặng, đều đặn bước tới. Tiếng nói của Brown lại vang lên lần nữa, oang oang, hốt hoảng và đầy sự đe dọa giả tạo: "Mày cả gan đánh tao à!" Lần này cú đấm bay vào vai hắn, vì hắn quay người. Hắn bắt đầu chạy. Được một trăm mét thì hắn chạy chậm lại, và ngoái đầu nhìn. Rồi hắn dừng, quay người lại. "Đồ dân Ý nhát gan! Đồ trời đánh thánh vật!" hắn nói, giọng ngập ngừng, lắc đầu ngay tức khắc, như thể tiếng nói của hắn gây ra nhiều tiếng động hơn, gây ồn ào hơn mức hắn muốn. Không có một tiếng gì trong ngôi nhà; cánh cửa nhà bếp đóng lại, chìm lại trong bóng tối. Hắn lên giọng một chút: "Đồ dân Ý nhát gan! Đồ trời đánh thánh vật! Tao sẽ làm mày sáng mắt ra, biết ai đây mà mày chọc giận không." Không còn tiếng động nào nữa ở bất cứ đâu. Trời thì lạnh. Hắn quay lưng và vừa đi vào căn lều, vừa nói lẩm bẩm với chính mình.

Khi Christmas vào lại nhà bếp, y thậm chí không đưa mắt nhìn cái bàn ăn, nơi đặt mảnh giấy nhắn tin mà y chưa đọc. Y tiếp tục đi qua cái cửa dẫn vào ngôi nhà và đến chân cầu thang. Y bắt đầu bước lên, không tỏ ra vội vã. Y bước lên đều đặn; bây giờ y có thể thấy cánh cửa phòng ngủ mà bên dưới có một tia sáng trên sàn, đến từ ngọn lửa trong lò sưởi. Y tiếp tục bước và đặt bàn tay lên cửa. Rồi y mở nó và đứng sững lại. Cô đang ngồi ở bàn, dưới ngọn đèn. Y thấy cái hình dáng mà y biết, trong chiếc áo đầm đơn giản mà y biết - chiếc áo đầm trông như thể nó được may cho và mặc bởi một người đàn ông cẩu thả. Bên trên, y thấy cái đầu với mái tóc bắt đầu bạc được túm ra đằng sau thành một búi tóc lộn xộn và xấu xí như một cái bướu cây trên một cành to bị bệnh. Rồi cô ngước mắt nhìn lên y, và y thấy cô đeo kính có gọng thép mà y chưa hề thấy trước đó. Tay còn đặt trên nắm cửa, y đứng đó, bất động. Y dường như nghe ra thực sự trong đầu y lời nói Đáng lẽ mày phải đọc cái mảnh giấy nhắn tin đó chớ. Đáng lẽ mày phải đọc mảnh giấy nhắn tin đó chớ trong khi nghĩ, 'Mình sắp sửa làm cái gì đó. Làm cái gì đó.'

Y vẫn còn nghe lời nói đó trong lúc đứng bên cạnh cái bàn mà trên mặt có nhiều giấy tờ rải rác, và cô không buồn đứng lên, và y nghe những điều quá đáng mà cô nói ra một cách bình thản, bằng cái giọng lạnh lùng và nhẹ nhàng, và miệng y lập lại những từ sau khi cô nói ra trong khi y đưa mắt nhìn xuống các giấy tờ, các tài liệu khó hiểu bị vứt lung tung và các ý tưởng của y thì biến mất một cách êm ái, đầu y trở nên rảnh rang, tự hỏi cái giấy này nghĩa là gì, cái giấy kia nghĩa là gì. "Đến trường học," miệng y nói.

"Đúng đó," cô nói. "Họ sẽ nhận anh vào. Trường nào cũng nhận. Vì tôi đó. Anh có thể chọn bất cứ trường nào anh muốn trong số đó. Thậm chí chúng ta không phải trả tiền học."

"Đến trường học," miệng y nói. "Một trường dành cho mọi đen. Tôi à!"

"Đúng vậy. Rồi sau đó anh có thể đi Memphis. Anh có thể học luật ở văn phòng của ông Pebbles. Ông ta sẽ dạy luật cho anh. Rồi sau đó anh có thể phụ trách tất cả các vấn đề pháp lý. Tất cả các thứ này, tất cả mà ông ta làm, ông Pebbles đó."

"Và rồi học luật ở văn phòng một tên luật sư mọi đen," miệng y nói.

"Đúng vậy. Và sau đó tôi sẽ trao tất cả công chuyện của tôi vào tay anh, tất cả tiền bạc. Tất cả mọi thứ. Để mà khi anh cần tiền cho riêng mình thì anh có thể... anh sẽ biết làm cách nào; các luật sư biết cách làm để mà... Anh sẽ giúp đỡ họ thoát ra khỏi bóng tối và không ai có thể buộc tội hay trách cứ anh đâu, ngay cả khi họ phát hiện ra... ngay cả khi anh không trả lại... nhưng anh có thể trả lại tiền, và không ai sẽ biết được bao giờ."

"Nhưng một trường học mọi đen, một luật sư mọi đen," giọng y nói, bình thản, thậm chí không lý sự, chỉ để nhắc lại thôi. Hai người không nhìn nhau. Cô đã không nhìn lên từ khi y vào phòng.

"Anh hãy nói cho họ biết," cô nói.

"Nói cho tụi mọi đen biết là tôi cũng là mọi đen sao?" Bây giờ cô nhìn y. Bộ mặt cô thì khá bình thản. Đó là bộ mặt của một người đàn bà bây giờ đã già.

"Đúng vậy. Anh sẽ phải làm như vậy. Để khỏi bị bắt đóng tiền học. Vì tôi đó."

Rồi như thể y đột ngột nói cho cái miệng mình nghe: 'Mày câm đi. Câm những lời ngớ ngẩn này đi. Hãy để tao nói.' Y cúi người xuống. Cô không cử động. Mặt họ không cách nhau quá ba tấc: cái mặt này thì lạnh, trắng bệch, cuồng tín, điên rồ, cái mặt kia thì có màu giấy da, môi hếch lên thành cái nhếch mép gầm gừ không thành tiếng và cứng đờ. Y nói nhẹ nhàng: "Cô già rồi. Tôi không hề để ý trước đây. Cô là một bà già. Tóc cô bạc rồi." Cô đánh y ngay tức khắc, với lòng bàn tay, phần còn lại của người cô thì không động đậy. Cú đánh của cô gây ra một âm đục, trong khi cú đánh của y lập tức theo sau gây ra như một âm vang. Y đánh cô bằng nắm tay, rồi trong khi cơn gió lớn thổi, y kéo mạnh cô lên ra khỏi ghế, giữ cô trước mặt mình, bất động, không một cảm xúc thoáng qua trên bộ mặt thản nhiên của cô, trong khi cơn gió lớn của sự hiểu biết thổi mạnh xuống người y. "Cô đâu có mang thai," y nói. "Cô có bao giờ mang thai đâu. Cô không có bất cứ vấn đề nào cả, trừ chuyện cô già rồi. Cái già đã xảy đến với cô, cô già đi thật và giờ thì cô không còn ra gì nữa. Đó là tất cả những gì không ổn với cô đó." Y buông cô ra và đánh cô tiếp. Cô ngã nhào xuống giường, người co lại. Cô nhìn y, và y đấm vào mặt cô lần nữa, và khom người trên cô, y nói với cô những lời mà một thời cô đã rất thích nghe từ lưỡi y, nơi mà cô thường nói là cô có thể thưởng thức ở đó những lời thầm thì tục tĩu, mơn trớn. "Chỉ có vậy thôi. Cô thì xác xơ lắm rồi. Cô chẳng còn ra cái khỉ khô gì nữa. Chỉ có vậy thôi."

Cô nằm nghiêng trên giường, đầu quay về phía y, và ngước mắt nhìn y, phía trên cái miệng chảy máu của cô. "Có lẽ tốt hơn nếu cả hai chúng ta đều chết," cô nói.

***

Ngay khi vừa mở cửa y đã có thể thấy mảnh giấy nhắn tin nằm trên mền. Rồi y đến gần, đưa tay lấy và mở nó ra. Bây giờ, y nhớ lại cái cột rỗng ở hàng rào như một cái gì đó mà y đã nghe nói lại, như cái gì đó từng hiện hữu trong kiếp trước mà y đã không hề sống qua. Bởi vì giấy, mực, hình dạng, kích thước đều giống nhau. Các tin nhắn thì đã không bao giờ dài. Giờ thì chúng cũng không dài hơn. Nhưng giờ thì chúng không còn có cái gì có thể gợi lên những lời hứa hẹn ngầm, những lạc thú phong phú và không thể gọi tên. Chúng bây giờ thì ngắn gọn hơn lời khắc trên bia mộ, khô khan hơn mệnh lệnh.

'Không đi,' y nghĩ theo sự thôi thúc bản năng đầu tiên của mình. Y tin là y không dám đi. Rồi y hiểu ra là y không dám không đi. Nhưng bây giờ y chẳng thèm thay quần áo nữa. Trong bộ quần yếm đầy dấu vết mồ hôi, y đi xuyên qua bóng hoàng hôn tháng năm và vào trong nhà bếp. Không còn bữa ăn tối dọn sẵn cho y trên bàn nữa. Đôi khi, y nhìn cái bàn khi đi ngang qua và y nghĩ, 'Trời ơi, có khi nào mình ngồi xuống ăn mà được yên thân?' Và y không thể nhớ lại.

Y tiếp tục đi vào trong ngôi nhà và bước lên cầu thang. Chưa gì y đã nghe tiếng cô. Nó nghe to hơn khi y lên cao và tới cửa phòng ngủ. Cửa thì đóng và khóa kín. Giọng nói sau cánh cửa nghe đều đặn và đơn điệu. Y không thể phân biệt các từ, chỉ nghe được cái giọng đều đều không dứt. Y không dám thử phân biệt các từ. Y không dám tự nói với mình việc mà cô đang làm. Vậy là y đứng đó, chờ, và sau một lúc tiếng nói ngừng và cô mở cửa và y bước vào. Khi đi qua gần giường, y nhìn xuống sàn và y dường như phân biệt được dấu in của hai đầu gối và y đột ngột quay mắt sang chỗ khác như thể đó là cái chết mà y vừa nhìn.

Thường thì ngọn đèn trong phòng chưa được thắp lên. Họ không ngồi xuống. Họ lại đứng nói chuyện, giống như họ có thói quen làm vậy hai năm trước; đứng trong cảnh tranh sáng tranh tối, giọng cô lập lại câu chuyện: "...không đến trường, nếu anh không muốn đi... anh không thể không cần cái đó... linh hồn anh. Sám hối để..." Lạnh lùng, bất động, y chờ đợi cô chấm dứt: "...địa ngục... mãi mãi, mãi mãi và mãi mãi..."

"Không," y nói. Và cô cũng bình thản nghe y nói, và y biết là cô không tin chắc và cô biết là y cũng không. Vậy mà, không người nào nhượng bộ; tệ hơn nữa: họ không thể chia tay; thậm chí y không thể bỏ đi nơi khác. Và họ còn đứng đó một lúc nữa trong buổi hoàng hôn an bình mà vô số những bóng ma của tội lỗi và lạc thú, như thể đi ra từ gan ruột họ, thường lui tới; họ nhìn nhau nhưng gương mặt bất động và mờ nhạt của họ thì mệt mỏi, lụi tàn nhưng không nhượng bộ.

Sau đó y rời đi. Và trước khi cửa đóng then cài sau lưng, y nghe cái giọng đó vang lên lần nữa, đều đều, bình thản, và tuyệt vọng, và y không dám biết hay nghi ngờ những gì mà cái giọng đó nói ra, và nói với ai hay với cái gì. Và ba tháng sau, khi ngồi dưới bóng ngôi vườn bỏ hoang vào một đêm tháng tám đó và nghe tiếng chuông từ tòa thị chính cách đó hai dặm gióng lên mười tiếng rồi mười một tiếng, y tin, bằng một sự nghịch lý điềm nhiên, là mình chỉ là một người phục vụ thụ động cho số mệnh mà y tin là y không tin. Y tự nhủ Mình đã bị bắt buộc làm chuyện này đã dùng thì quá khứ khi nói Mình đã bị bắt buộc làm chuyện này. Chính cổ cũng nói vậy mà

Cô đã nói như vậy hai đêm trước. Y tìm thấy mảnh giấy nhắn tin và đến gặp cô. Khi y càng lên cao cầu thang thì cái giọng đều đều đó càng trở nên to hơn, nghe mạnh và rõ hơn thường lệ. Khi đến đầu cầu thang thì y biết tại sao. Cửa thì để mở, lần này, và cô không đứng dậy từ chỗ cô quỳ bên cạnh giường khi y vào. Cô không cử động, tiếng nói không ngừng lại. Đầu cô không cúi xuống. Cô ngửng mặt lên hầu như với sự kiêu hãnh, thái độ nhún nhường trang trọng của cô là một phần của sự kiêu hãnh này, giọng cô thì trầm tĩnh, nhẹ nhàng và cam chịu trong bóng hoàng hôn. Cô có vẻ không biết là y đã vào phòng cho đến khi cô chấm dứt một câu dài. Rồi cô quay đầu. "Quỳ xuống bên cạnh tôi," cô nói.

"Không," y nói.

"Quỳ xuống," cô nói. "Anh thậm chí không cần chính anh nói với Ngài. Chỉ cần quỳ thôi. Chỉ cần làm một bước trước thôi."

"Không," y nói. "Tôi đi đây."

Không cử động, cô quay đầu và ngước mắt nhìn lên y. "Joe này," cô nói, "Hãy ở lại! Anh hãy vui lòng làm bấy nhiêu đó thôi!"

"Được rồi," y nói. "Tôi ở lại. Nhưng hãy làm nhanh lên."

Cô bắt đầu cầu nguyện lại. Cô nói nhẹ nhàng, với sự nhún nhường đầy kiêu hãnh. Khi thấy cần dùng những từ ngữ mang tính biểu tượng mà y đã dạy cho cô, cô dùng chúng, nói chúng ra một cách thẳng thắn, không do dự, nói chuyện với Chúa như thể Ngài là một người đàn ông ở trong phòng cùng với hai người đàn ông khác. Cô nói về mình và về Christmas như hai người xa lạ, giọng cô nhẹ nhàng, đơn điệu và vô giới tính. Rồi cô ngừng lại. Lặng lẽ đứng lên. Trong cảnh tranh tối, tranh sáng, hai người đứng đối mặt nhau. Lần này, cô cũng không hỏi y gì cả; y cũng không cần trả lời. Sau một lát, cô nói nhẹ nhàng:

"Giờ thì còn một chuyện khác để làm thôi, một chuyện duy nhất."

"Còn một chuyện khác để làm thôi, một chuyện duy nhất," y nói.

' Vậy là xong xuôi cả rồi, chấm dứt cả rồi,' y nghĩ thầm, ngồi dưới bóng dày đặc những bụi cây, nghe tiếng chuông cuối cùng của cái đồng hồ từ xa vọng về rồi tắt hẳn. Ngay chỗ này đây, hai năm trước, y đã đến gặp cô, đã tìm ra cô vào một trong những đêm hoang dại, điên cuồng của họ. Nhưng chuyện đó đã thuộc vào một thời đã qua, thuộc vào một cuộc đời khác rồi. Mọi sự giờ thì bất biến, yên bình, mặt đất màu mỡ thở dài một cách lạnh nhạt. Vô số tiếng nói đến làm đầy bóng tối, những tiếng nói của mọi thời kỳ mà y đã biết, như thể toàn bộ quá khứ tạo ra một bức tranh không có nét nổi bật. Và điều đó sẽ tiếp tục: đêm mai, và tất cả những ngày mai, cũng sẽ là một phần của bức tranh đó... tiếp tục. Y suy nghĩ về điều đó với sự ngạc nhiên thầm lặng: tiếp tục... hằng hà sa số... và tất cả có lẽ đều quen thuộc đối với y, bởi vì tất cả những gì đã từng hiện hữu thì cũng giống như tất cả những gì sẽ hiện hữu, bởi vì cái ngày mai sẽ đến và cái ngày mai đã qua thì cũng giống nhau. Đúng vậy, đến lúc rồi đây.

Y đứng lên. Y ra khỏi bóng tối, đi quanh ngôi nhà rồi vào nhà bếp. Ngôi nhà thì tối đen. Từ sáng sớm đến giờ y đã không về lại căn lều nên không biết cô có để một mảnh giấy nhắn tin cho y hay không, cô có trông đợi y hay không. Tuy nhiên, y không cố gắng giữ im lặng chút nào. Như thể y không nghĩ đến chuyện ngủ nghê của người khác, không xem là quan trọng chuyện cô có đang ngủ hay không. Với bước chân chắc nịch, y leo lên cầu thang và đi vào phòng ngủ. Gần như ngay tức khắc, cô lên tiếng từ giường. "Thắp đèn lên!" cô nói.

"Tôi đâu cần ánh sáng," y nói.

"Thắp đèn lên!"

"Không," y nói. Y đứng khom người bên trên giường. Tay cầm con dao cạo râu. Nhưng y chưa mở nó ra. Cô không nói gì nữa, rồi y có cảm giác thân thể rời xa mình. Y thấy nó đi đến bên cái bàn, hai tay y đặt con dao cạo lên bàn, và tìm thấy cây đèn và quẹt diêm. Cô ngồi dậy trên giường, lưng tựa vào đầu giường. Trên chiếc áo ngủ cô khoác thêm tấm khăn choàng vai mà cô thắt lại quanh ngực. Hai cánh tay khoanh lại trên tấm khăn và hai bàn tay thì giấu không thấy được. Y đứng tựa vào bàn. Họ nhìn nhau.

"Anh có muốn quỳ xuống bên cạnh tôi không?" cô nói. "Tôi không đòi hỏi anh làm chuyện này."

"Không," y nói.

"Tôi không đòi hỏi anh. Không phải là chính tôi đòi hỏi anh. Quỳ xuống bên tôi."

"Không,"

Hai người nhìn nhau. "Joe này," cô nói, "lần chót đó nghe. Tôi không đòi hỏi anh làm chuyện này. Nhớ đó. Quỳ xuống bên tôi."

"Không," y nói. Rồi y thấy hai cánh tay cô buông ra và bàn tay mặt hiện ra từ dưới tấm khăn choàng vai. Bàn tay đó cầm một khẩu súng lục trái khế[96] kiểu cũ, bắn từng phát một, hầu như dài bằng và nặng hơn một khẩu súng trường nhỏ. Nhưng bóng của nó, của cánh tay và bàn tay cô trên tường không dao động, những cái bóng kỳ quái, và cũng kỳ quái không kém là cái kim hỏa đã kéo về sau[97], uốn cong như cái móc một cách hằn học trông giống cái đầu con rắn sắp sửa vọt tới; nó không dao động chút nào. Và cặp mắt cô cũng không dao động chút nào, chúng bất động như cái họng tròn, đen của khẩu súng lục; nhưng chúng không phản chiếu một sự căng thẳng hay giận dữ nào. Chúng thì bình thản và lặng lẽ như tất cả lòng thương xót, tất cả nỗi tuyệt vọng và tất cả niềm tin vững chắc. Nhưng y không nhìn chúng. Y đang nhìn cái bóng của khẩu súng trên tường. Y đang còn nhìn thì cái bóng của kim hỏa biến mất nhanh như chớp.

Đứng giữa đường, y giơ bàn tay mặt lên cao, ngay trước ánh chói của chiếc xe hơi đang chạy đến. Y thực sự không trông chờ nó ngừng. Vậy mà nó ngừng thật, đột ngột thắng rít và trượt dài, trông gần như tức cười. Đó là một chiếc xe hơi nhỏ, cũ, xạc xài. Khi y đến gần, trong ánh sáng phản chiếu của đèn pha, hai khuôn mặt trẻ có vẻ nổi bồng bềnh như hai quả bóng bay có màu nhạt, và hoảng sợ. Khuôn mặt gần nhất, một cô gái trẻ, giật lùi trong sự kinh hãi sâu đậm tuy cố tỏ ra điềm tĩnh. Nhưng Christmas không để ý lúc đó. "Cho tôi đi nhờ xe một đoạn được không?" y nói. Họ không lên tiếng chút nào, vẫn nhìn y với vẻ sợ hãi lặng lẽ và tò mò mà y không để ý. Vậy là y mở cửa và leo vào ngồi ở ghế sau.

Khi y làm thế thì cô gái bắt đầu buông ra một tiếng gào nghẹn ngào nhưng trong chốc lát sẽ ầm ĩ hơn, khi sự sợ hãi lấy thêm can đảm, nếu có thể nói như vậy. Chiếc xe đã chạy lại; nó có vẻ nhảy vọt về phía trước, và tên thanh niên, không thả tay lái, không quay đầu về phía cô gái, rít lên: "Suỵt! Im đi! Tụi mình chỉ có một cơ may này thôi! Giờ có im đi không?" Christmas cũng không nghe điều này. Y ngồi ở cuối xe, hoàn toàn không biết là y đang chạy ngay đằng sau một nỗi khiếp sợ liều lĩnh. Y chỉ nghĩ, với một chút lo ngại thoáng qua, là chiếc xe nhỏ này chạy với tốc độ khá bất cẩn đối với con lộ miền quê hẹp như vậy.

"Con lộ này còn dài bao xa nữa?" y nói.

Tên thanh niên nói ra tên của cùng cái thành phố mà thằng bé da đen đã nói với y vào một buổi chiều ba năm trước, khi y thấy Jefferson lần đầu tiên. Giọng tên thanh niên thì có cái gì đó khô khan, nhẹ tênh. "Ông muốn đến đó không?"

"Được rồi," Christmas nói. "Ừ. Ừ. Tới đó thì đủ rồi. Tiện cho tôi lắm. Anh bạn có đi tới đó không?"

"Chắc chắn có chớ," tên thanh niên nói, giọng nhẹ và đều. "Bất cứ chỗ nào ông muốn đi." Cô gái bên cạnh hắn lại bắt đầu rên rỉ, nghe như tiếng thầm thì nghẹn ngào của một con thú; tên thanh niên lại rít lên về phía cô, bộ mặt vẫn đăm đăm nhìn về phía trước trong khi chiếc xe nhỏ phóng nhanh, xóc lên xóc xuống: "Suỵt! Shhhhhhhhhhh! Suỵt! Suỵt!" Nhưng Christmas cũng không để ý. Y chỉ thấy hai cái đầu trẻ đăm đăm nhìn thẳng về phía trước, theo ánh đèn pha, và con lộ trông như một cái dải băng lắc lư chạy trốn. Nhưng y không tỏ ra tò mò chút nào khi nhìn cả hai người đó và con đường đang bị chiếc xe nuốt dần; y thậm chí không chú ý khi thấy ra là tên thanh niên chắc đã nói chuyện với y từ khá lâu. Y không biết khoảng cách đã đi qua hay địa điểm đang đi. Cách nói của tên thanh niên bây giờ thì chậm rãi, thận trọng, mỗi chữ có vẻ được chọn một cách đơn giản, kỹ lưỡng và được phát âm chậm rãi và rõ ràng như để cho người nước ngoài nghe: "Ông nghe này... Khi tôi quẹo ở đầu kia thì để vào một con đường tắt. Một đường tắt dẫn đến con lộ tốt hơn. Tôi sắp sửa quẹo vào con đường tắt đây. Khi tôi đến đường tắt... đến con lộ tốt hơn. Để có thể đến đó nhanh hơn. Ông hiểu không?"

"Được thôi," Christmas nói. Chiếc xe xóc lên rồi lao đi tiếp, lắc lư ở những khúc cua, leo lên những ngọn đồi rồi lại đổ dốc, như thể mặt đất đã hạ thấp xuống bên dưới họ. Những hộp thư gắn trên các cột thấp dọc bên đường hiện ra đột ngột trong ánh đèn pha rồi biến mất ngay. Thỉnh thoảng, xe chạy qua trước một ngôi nhà tối đen. Tên thanh niên lại bắt đầu nói:

"Này ông, đây là con đường tắt tôi nói hồi nãy. Ngay dưới đây. Tôi sắp quẹo vào đó. Nhưng không có nghĩa là tôi thay đổi lộ trình. Tôi chỉ tách ra một chút để chạy trên con đường tốt hơn. Ông hiểu không?"

"Được thôi," Christmas nói. Rồi không có lý do gì cả, y nói thêm: "Chắc anh bạn ở quanh đây?"

Bây giờ cô gái lên tiếng. Cô bỗng quay ngoắt mặt ra sau, tuy vẫn ngồi ở ghế. Khuôn mặt nhỏ nhắn của cô thì tái nhợt vì căng thẳng và khiếp sợ, mang một vẻ tuyệt vọng mù quáng như một con chuột phát rồ: "Tụi tôi ở đây!" cô hét lên. "Cả hai tụi tôi ở đây! Ngay đằng kia! Và khi cha và các anh tôi -" Tiếng nói cô ngừng lại, tắt nửa chừng. Christmas thấy bàn tay tên thanh niên dán chặt trên miệng cô gái và hai tay cô giật mạnh cái cổ tay, và dưới bàn tay, tiếng nói bị ngạt của cô trở nên nghẹn ngào và ấp úng. Christmas ngồi chồm tới.

"Đây này," y nói. "Tôi xuống ở đây. Anh bạn có thể để tôi xuống đây."

"Thấy chưa, em thấy điều em đã làm chưa!", tên thanh niên cũng hét lên, giọng lảnh lót đầy sự giận dữ vô vọng. "Nếu em đã im miệng thì -"

"Ngừng xe lại," Christmas nói. "Tôi không muốn làm hại hai người đâu. Tôi chỉ muốn xuống xe." Một lần nữa, chiếc xe ngừng bằng một sự trượt dài đột ngột. Nhưng động cơ vẫn quay và chiếc xe còn vọt lên phía trước, trước khi y bước xuống hẳn; y phải nhảy về phía trước và chạy vài bước mới lấy lại được thăng bằng. Ngay lúc đó, một vật gì cứng và nặng quật mạnh vào hông y. Chiếc xe phóng đi tiếp, nhanh chóng biến mất dạng, để lại tiếng gào chói tai của cô gái bay ngược trở lại. Rồi nó cũng tan biến đi; và y cảm thấy bóng tối và bụi đường giờ đây khó sờ thấy, và sự im lặng dưới những ánh sao mùa hè, bao phủ quanh người. Cái đồ vật đã quật y một cú khá mạnh trước đó là được buộc vào bàn tay mặt của y - y mới nhận ra tức thì. Giơ tay lên, y thấy bàn tay đó cầm một khẩu súng lục xưa, nặng. Y không biết là y có mang nó theo; y không nhớ chút nào là đã nhặt lấy nó, và tại sao làm vậy. Nhưng nó có đó kìa. 'Và mình đã ngoắt chiếc xe đó với bàn tay mặt,' y nghĩ. 'Không lạ gì... cô ta... cả hai...' Y kéo bàn tay mặt ra sau, giữ khẩu súng cho thăng bằng như thể y muốn ném nó. Rồi y ngừng và quẹt một que diêm và xem xét khẩu súng lục dưới ánh sáng nhỏ bé, leo lét. Que diêm cháy lụi dần rồi tắt ngấm, tuy vậy y dường như còn thấy cái vũ khí xưa cũ này với hai ổ đạn đã được nạp đạn: một ổ mà trên đó kim hỏa đã mổ xuống nhưng đạn không nổ, và ổ kia mà trên đó không có kim hỏa mổ xuống mặc dù theo dự kiến, nó đáng lẽ phải mổ xuống. "Cho mình và cho cổ," y nói. Y dang tay ra, và ném đi. Y nghe tiếng khẩu súng rơi đụng một bụi cây thấp, chỉ một lần. Rồi sự im lặng trở lại. 'Cho cổ và cho mình.'

13

Trong vòng mười lăm phút sau khi tên nhà quê phát hiện đám cháy, người ta bắt đầu tụ tập. Một số người trên đường vào thành phố bằng xe la để trải qua ngày thứ bảy trong phố cũng ngừng lại. Một số người khác đi bộ đến từ các khu lân cận. Đây là vùng của những căn lều người da đen, những cánh đồng nứt nẻ và bạc màu, nơi mà cả một tiểu đội thám tử hẳn không thể mò ra đâu cho đủ chục mạng nam phụ lão ấu, vậy mà chỉ trong vòng nửa giờ, cả vùng này thấy xuất hiện, như thể sinh ra từ không khí, hết nhóm người này đến nhóm người nọ, từ một cá nhân đơn lẻ đến cả toàn bộ gia đình đông đúc. Và người ta còn đến từ trong phố nữa chớ, trong những chiếc xe hơi chạy nhanh và kêu be be. Trong số họ có ông cò - một người to mập và giàu có, với cái đầu cứng rắn và lõi đời, với cái bộ dạng nhân từ. Ông đẩy ra xa những người tụ tập đang nhìn xuống cái xác chết nằm trên tấm ra trải giường. Họ lộ ra sự ngạc nhiên bất động giống như con nít mở mắt tròn xoe, giống như người lớn lặng nhìn cái diện mục không thể nào thoát được của riêng mình. Trong số họ có những người Yankee tình cờ đi ngang đó, có những người da trắng nghèo mạt rệp, và có ngay cả những người miền Nam đã từng sống một thời gian ở miền Bắc và nói oang oang cho mọi người nghe ra ý họ, rằng chắc chắn đó là một tội ác da đen mờ ám, không phải do một tên da đen nào đó mà do Người Da Đen ra tay phạm tội, và họ biết, tin, và hy vọng là cô cũng đã bị hãm hiếp nữa: ít nhất là một lần trước khi cô bị cắt cổ và ít nhất là một lần sau đó. Ông cò đến gần, chính ông đưa mắt nhìn một lần và cho mang xác chết đi để không ai còn nhìn cái cảnh tội nghiệp này nữa.

Rồi không còn gì để họ nhìn ngoài cái chỗ mà xác cô đã nằm và đám cháy. Và chẳng bao lâu thì không ai còn nhớ chính xác cái chỗ mà tấm ra giường đã được trải ra, phần đất nào mà nó đã phủ lên, và lúc đó thì chỉ còn đám cháy để nhìn thôi. Vậy là họ nhìn đám cháy, với cùng sự ngạc nhiên bất động và ngốc nghếch mà họ đã mang xuống từ những hang động xưa cũ hôi thối, nơi mà sự nhận thức bắt đầu, như thể, tương tự cái chết, họ chưa bao giờ thấy đám cháy trong đời. Sau một lát, một xe chữa lửa hùng hổ chạy đến, còi huýt chuông reng ầm ĩ. Nó mới toanh, sơn đỏ chói, với đường viền mạ vàng và còi hụ sử dụng bằng tay và một cái chuông màu như vàng có tiếng nghe thanh thoát, tự phụ và hãnh diện. Nó mang theo hai bên hông những tên đàn ông và thanh niên đầu để trần, bám chặt vào nó, coi thường một cách đáng ngạc nhiên các định luật vật lý mà loài ruồi sở hữu. Nó được trang bị một cái thang tự động có thể bung lên tới những độ cao phi thường khi ta đưa tay chạm đến, giống như những cái mũ lò xo của tên làm xiếc; khổ cái là bây giờ không còn gì để cái thang vươn lên. Xe chữa lửa còn có những cuộn ống dẫn nước gọn gàng và mới toanh, khiến ta nghĩ đến những hình ảnh quảng cáo của các hãng điện thoại trong các tạp chí bình dân; nhưng khổ cái là không có gì để mắc chúng vào, và lại không có gì để chảy bên trong. Vậy là những người đàn ông, đầu trần, trước đó đã rời bỏ văn phòng và quầy hàng, bây giờ leo xuống xe, kể cả cái anh chàng lo chuyện bóp còi. Họ cũng đến gần và người ta chỉ cho họ dăm ba chỗ khác nhau mà tấm ra giường đã được trải ở đó, và vài người trong bọn họ, mang sẵn súng lục trong người, bắt đầu tìm ai đó để đóng đinh lên thập giá.

Nhưng không có ai cả. Cô đã sống một cuộc đời bình lặng, chỉ chăm lo công chuyện riêng của mình, đến mức cô để lại cho thành phố, nơi mà cô đã sinh ra, đã sống và đã chết như một người nước ngoài, như một người đến từ một xứ sở khác, một thứ tựa như di sản về sự kinh ngạc và sự xúc phạm mà vì nó họ sẽ không bao giờ tha thứ cho cô, sẽ không bao giờ để cô chết trong an bình và lặng lẽ, mặc dù cuối cùng cô đã cung cấp cho họ một bữa tiệc cảm xúc ở ngoài trời với các món thịt nướng, gần giống như một cuộc truy hoan ở La Mã thời xưa. Không phải vậy đâu. Sự bình yên, ai cho mà có chớ. Vậy là họ tụ tập lại, xô đẩy nhau, họ tin rằng những ngọn lửa, máu huyết, và cái thân thể đã chết ba năm trước và bây giờ vừa bắt đầu sống lần nữa, gào thét đòi trả thù. Họ không biết là sự giận dữ cực kỳ của những ngọn lửa và sự bất động im lìm của cái tử thi chỉ là những sự khẳng định một giới hạn đã đạt tới, nếu vượt quá giới hạn này thì người ta không thể gây ra thương tích hay đau đớn nữa. Không phải vậy đâu. Bởi vì cái ý tưởng kia thì dễ chịu hơn. Dễ chịu hơn những cái kệ và những cái quầy bày đầy những đồ vật quen thuộc từ lâu, chúng được mua không phải vì người chủ ham thích hay ngưỡng mộ chúng, hay ông ta có thú vui sở hữu chúng, nhưng bởi vì ông ta muốn lừa gạt, xúi giục người khác mua chúng để kiếm lời. Và những đồ vật đã không bán được, và những người lẽ ra đã có thể mua chúng nhưng họ đã không mua, vậy là thỉnh thoảng người chủ phải ngắm nhìn chúng, với sự tức giận, có lẽ cảm thấy bị lăng nhục, có lẽ bị tuyệt vọng nữa. Dễ chịu hơn những văn phòng mốc meo, nơi mà những viên luật sư chờ đợi, rình mò giữa những bóng ma của các tính dâm đãng cũ, các lời nói dối cũ. Dễ chịu hơn những phòng khám, nơi các bác sĩ chờ đợi với các con dao bén, với thuốc men đắng ngắt, nói với người bệnh, tin là người bệnh phải tin, không cần viện đến các quảng cáo được in trên báo, là họ làm việc cho một mục đích duy nhất mà một khi đạt được mục đích này thì họ sẽ không còn bất cứ việc gì để làm nữa. Và đàn bà cũng tới nữa, những người rỗi rảnh trong những bộ đồ màu sáng và đôi khi mặc đại cho nhanh, với những ánh nhìn bí mật, đầy đam mê và sáng rỡ, với những bộ ngực bí ẩn và không được thỏa mãn (những người đàn bà này bao giờ cũng yêu cái chết hơn sự yên bình). Và bằng vô số gót giày nhỏ và cứng, họ in dấu sau những lời thầm thì liên tục Ai đã làm chuyện đó? Ai đã làm chuyện đó? các dấu chấm như thế này, có lẽ Nó chưa bị bắt à? A, Chưa à? Chưa à?

Ông cò cũng nhìn chằm chằm những ngọn lửa với sự bực tức và ngạc nhiên, bởi vì không có hiện trường để khám xét. Ông chưa có cảm tưởng là mình đã bị một tác nhân là con người làm cho thất vọng. Tác nhân ở đây là lửa. Theo ông, dường như lửa bốc cháy một cách tự phát, với một mục đích duy nhất: cháy. Theo ông, dường như cái sự việc mà nhờ nó và vì nó mà ông đã có tổ tiên khá lâu đời để chính ông có thể hiện hữu, nó đã liên kết với tội ác. Vậy là ông tiếp tục đi bộ, dáng vẻ bối rối và băn khoăn, quanh cái di tích dửng dưng này, nó mang màu sắc của cả hy vọng lẫn tai ương, cho đến khi một viên cảnh sát đến báo cáo với ông là anh ta vừa khám phá ra một căn lều đằng sau ngôi nhà có dấu vết cho thấy có người ở đó mới đây. Và ngay lập tức, tên nông dân, người đã khám phá ra đám cháy (ông chưa đi vào phố, chiếc xe la của ông đã không tiến tới một tấc từ khi ông bước xuống xe hai tiếng đồng hồ trước đó, và bây giờ ông đi ngược đi xuôi giữa đám người tụ tập đó, tóc tai bờm xờm, vung tay múa chân, bộ mặt thì mang vẻ u ám, kiệt sức, tức giận và giọng nói thì khản đến mức chỉ còn là tiếng thầm thì) nhớ lại là ông đã thấy một người đàn ông trong ngôi nhà khi ông phá cửa vào.

"Một tên da trắng?" ông cò nói.

"Dạ thưa ông, phải. Cứ lăn lộn ở phòng ngoài như thể nó vừa rớt từ trên cầu thang xuống. Tìm cách cản tui đi lên lầu đó chớ. Biểu tui là nó đã lên trển rồi, không có ai ở trển đâu. Và khi tui xuống lại thì nó đã đi đâu mất tiêu rồi."

Ông cò nhìn quanh mọi người. "Ai đã ở trong căn lều đó?"

"Tôi không biết ai ở đó," tên phụ tá cho ông cò nói. "Tụi mọi đen, tôi nghĩ vậy. Có thể bả đã cho tụi mọi đen sống trong nhà với bả, theo những gì tôi nghe được. Điều làm tôi ngạc nhiên là không một đứa nào trong đám tụi nó đã xuống tay với bả sớm hơn."

"Mang một thằng mọi đen tới đây cho tao," ông cò nói. Tên phụ tá và hai hay ba người nữa dẫn đến một người da đen. "Ai ở trong căn lều đó?" ông cò nói.

"Thưa ông Watt, tui không biết," tên da đen nói. "Tui có để ý gì đâu. Tui cũng không biết căn lều có người ở."

"Dẫn nó xuống dưới này," ông cò nói.

Những người hiếu kỳ giờ tụ tập xung quanh ông cò, tên phụ tá và tên da đen; và gần sát đôi mắt háo hức của họ là những ngọn lửa trống trải chỉ cứ tiếp tục cháy nhưng đã bắt đầu yếu dần và những khuôn mặt thì y hệt nhau. Như thể năm giác quan của tất cả những người này đã giảm xuống chỉ còn một giác quan duy nhất: thị giác, như một sự tôn vinh, và những lời nói trao đổi giữa họ với nhau dường như sinh ra từ gió hay không khí Có phải tên đó không? Có phải tên đã làm chuyện đó không? Ông cò bắt nó rồi. Ông cò đã tóm được nó rồi Ông cò nhìn họ. "Đi chỗ khác đi," ông nói. "Tất cả mọi người. Đi nhìn lửa cháy đi. Nếu tôi cần giúp, tôi sẽ cho người gọi các bạn. Đi tiếp chỗ khác đi." Ông quay người và dẫn nhóm người của mình đi xuống căn lều. Sau lưng ông, những người bị ông đuổi đi lại tụ tập và đứng nhìn ba người da trắng và một người da đen đi vào căn lều và đóng cửa lại. Sau lưng họ, những ngọn lửa đang lụi tàn lại bùng lên từng lúc, làm đầy không khí một tin đồn cũng ầm ĩ như những tiếng nói nhưng có nguồn gốc rõ ràng hơn Trời ơi, nếu là nó thật, chúng ta đang làm gì ở đây? Đứng đây à? Giết chết một người đàn bà da trắng cái thằng mọi đen chó đẻ Không ai trong bọn họ đã từng vào ngôi nhà. Khi cô còn sống, họ đã không cho phép vợ họ thăm viếng cô. Khi họ trẻ hơn, khi còn con nít (và những người cha của một số người trong bọn họ cũng đã làm chuyện này), họ gọi cô một cách thô bạo khi thấy cô ngoài đường, "Mụ mê mọi đen! Mụ mê mọi đen!"

Trong căn lều, ông cò ngồi xuống một cách nặng nề trên một trong hai chiếc giường. Ông thở dài: giống như cái thùng, ông có cái tính chậm chạp trọn vẹn và nặng nề như tảng đá của một cái thùng. "Bây giờ, tao muốn biết ai ở trong căn lều này," ông nói.

"Tui đã nói với ông tui không biết," tên da đen nói. Giọng hắn thì có chút gì cáu kỉnh nhưng cảnh giác, cảnh giác một cách kín đáo. Hắn quan sát ông cò. Hai người đàn ông da trắng thì đứng sau lưng hắn nên hắn không thể thấy họ. Hắn không quay người nhìn ra sau, dù chỉ liếc mắt. Hắn đang quan sát bộ mặt ông cò như người ta quan sát tấm gương. Và giống như trong tấm gương, có lẽ hắn thấy nó trước khi nó đến. Có lẽ hắn không thấy nó, vì nếu có một sự thay đổi, một cảm xúc thoáng qua, trên gương mặt ông cò thì đó cũng chỉ là một cảm xúc thoáng qua mà thôi. Nhưng tên da đen không nhìn ra sau. Khi chiếc dây da quất lên lưng hắn, chỉ có mặt hắn co rúm lại, một sự rùng mình đột ngột, đau nhói, lẹ làng làm co giật khóe miệng và làm lộ ra trong một khoảnh khắc những cái răng, giống như khi mỉm cười. Rồi bộ mặt hắn giãn ra, trở lại khó hiểu như trước.

"Tao cho là mày không chịu ra sức nhớ lại đó thôi," ông cò nói.

"Tui không thể nhớ được vì tui không thể biết," tên da đen nói. "Tui thậm chí không ở gần đây. Các ông da trắng này, các ông chắc phải biết tui ở đâu chớ."

"Ông Buford đây nói mày ở ngay phía dưới con lộ đằng kia đó," ông cò nói.

"Rất nhiều người ở con lộ đó. Ông Buford chắc phải biết tui ở đâu."

"Thằng này nói láo đó," tên phụ tá nói. Anh ta tên Buford. Anh ta là người sử dụng cái nịt da như cái roi bằng cách cầm nó ở đầu ngược với cái khóa. Anh ta giữ nó sẵn sàng, mắt nhìn chăm chăm mặt ông cò. Anh ta trông giống như một con chó tai cụp[98] đang chờ người ta ra lệnh nhảy xuống nước.

"Có lẽ vậy, có lẽ không phải vậy," ông cò nói. Ông vừa nhìn tên da đen, vừa nghĩ ngợi. Ông ngồi im, cả thân hình mập bự, ù lì, đè lún các lò xo của cái giường dã chiến. "Tao nghĩ nó chưa hiểu là tao không nói giỡn. Đó là không kể đám người ngoài kia không có nhà tù để giam nó, nếu có chuyện gì xảy ra mà nó không thích lắm. Tống nó vào tù thì có lẽ là không làm phiền ai cả, nếu bọn kia có nhà tù." Có lẽ có thêm một biểu hiện, một hiệu lệnh trong mắt ông; có lẽ không. Có lẽ tên da đen thấy nó; có lẽ không. Chiếc dây da lại quất mạnh, cái khóa nịt rạch lưng tên da đen. "Mày nhớ lại chưa?" ông cò nói.

"Đó là hai người đàn ông da trắng," tên da đen nói. Giọng hắn thì lạnh, không rầu rĩ, không gì cả. "Tui không biết họ là ai cũng như không biết họ làm gì. Đâu phải việc của tui. Tui chưa bao giờ tìm gặp họ. Tui chỉ nghe nói là có hai đàn ông da trắng sống ở đây. Tui đâu có quan tâm họ là ai. Tui chỉ biết tất cả vậy thôi. Ông có thể quất tui đến đổ máu. Nhưng tui chỉ biết tất cả vậy thôi."

Ông cò lại thở dài. "Thôi đủ rồi. Tao cho là nó nói thiệt."

"Đó là cái thằng có tên là Christmas, nó làm ở xưởng bào trước đây, và một thằng khác tên là Brown," một người thứ ba nói. "Ông có thể chọn ra bất cứ người đàn ông nào ở Jefferson mà hơi thở có mùi bình thường thì ông ta hẳn có thể nói với ông chừng này chuyện thôi."

"Tao cho là chuyện này cũng đúng đó," ông cò nói.

Ông quay lại phố. Khi đám đông nhận ra là ông cò đang bỏ đi, họ cũng ùn ùn kéo nhau rời bỏ hiện trường. Như thể lúc này không còn gì để nhìn nữa. Xác chết đã được mang đi chỗ khác, và bây giờ ông cò bỏ về. Như thể ông mang bên trong ông, đâu đó bên trong cái khối thịt ù lì và hay rên rĩ này, chính cái điều bí mật của sự kiện: cái điều đã làm họ xúc động và đem lại cho họ một lời hứa về cái gì đó vượt qua sự bẩn thỉu của bao tử đầy ứ và những ngày tháng đơn điệu, tẻ nhạt của họ. Vậy là không còn gì để nhìn lúc này, trừ ngọn lửa đang cháy; họ đã nhìn nó cả ba tiếng đồng hồ rồi và giờ thì họ quen mắt với nó, ngay cả quen thuộc với nó. Cuộc hỏa hoạn giờ đã trở thành một phần thường trực của những trải nghiệm cũng như của cuộc đời họ, trong khi họ đứng phía dưới cột khói bất động, cao hơn và cũng kiên cố như một đài kỷ niệm mà người ta có thể trở lại thăm viếng bất cứ khi nào. Vậy là khi đoàn xe lũ lượt về đến trung tâm thành phố thì trông họ có cái gì đó như sự long trọng kiêu căng của một đám ma đi sau xe tang, chiếc xe hơi của ông cò dẫn đầu, những chiếc xe khác còi kêu inh ỏi, tiếng máy ro ro, chạy theo sau xe ông cò, bụi đường xe này hòa lẫn với xe kia. Đến một ngã tư gần quảng trường thì đoàn xe bị chặn lại một lát bởi một chiếc xe la nhà quê đang ngừng lại để cho một người xuống. Đưa mắt nhìn ra, ông cò thấy một người đàn bà trẻ chậm chạp và thận trọng leo xuống xe, với sự vụng về dè dặt của một người bụng mang dạ chửa mà ngày sinh đẻ không còn xa. Rồi chiếc xe la tấp vào bên đường; đoàn xe đi tiếp, băng qua quảng trường, nơi mà một viên thủ quỹ của ngân hàng đã lấy ra sẵn từ hầm két một bì thư mà người đàn bà vừa tử vong đã giao cho ngân hàng giữ trước đây, nó mang hàng chữ Mở ra khi tôi chết. Joanna Burden Khi ông cò bước vào văn phòng của mình thì viên thủ quỹ đang chờ sẵn ở đó, tay cầm cái bì thư và nội dung của nó. Đó là một tờ giấy duy nhất trên đó cùng một bàn tay đã viết trên bì thư, viết Báo tin cho luật sư E.E. Peebles, - đường Beale, Memphis, bang Tennessee, và Nathaniel Burrington, - St.Exeter, bang New Hampshire. Vỏn vẹn chỉ có vậy.

"Tên Pebbles này là một thằng luật sư mọi đen," viên thủ quỹ nói.

"Thật vậy à?" ông cò nói.

"Dạ thật. Ông muốn tôi làm gì đây?"

"Tôi nghĩ là ông nên làm theo lời ghi trên tờ giấy đó," ông cò nói. "Hay tốt hơn chính tôi làm chuyện này." Ông gởi hai điện tín. Chưa đầy ba mươi phút sau, ông nhận được câu trả lời từ Memphis. Hai tiếng đồng hồ sau, câu trả lời kia đến tay ông. Và trong vòng mười phút sau đó, tiếng đồn lan ra khắp thành phố là người cháu của cô Burden ở New Hampshire hứa thưởng một ngàn đô-la cho ai bắt được kẻ sát nhân. Vào lúc chín giờ tối, một tên đàn ông xuất hiện. Đó là người mà ông nông dân đã chạm mặt trong ngôi nhà đang cháy khi ông phá cửa để vào. Lúc đó, người ta chưa biết hắn là người đó, vì hắn không nói ra với họ. Người ta chỉ biết một điều, hắn đến ở thành phố này chưa lâu, và họ biết hắn là một thằng bán rượu lậu mang tên Brown - vả lại, nó làm khá tồi trong nghề này. Hắn xuất hiện ở quảng trường trong tình trạng phấn khích cực độ, tìm gặp ông cò. Rồi các sự kiện được xâu chuỗi lại. Ông cò biết là Brown ít nhiều đã chung tay làm ăn với một tay khác, một kẻ xa lạ mang tên Christmas mà người ta biết y còn ít hơn biết Brown, dù y sống ở Jefferson cả ba năm nay. Và chỉ đến lúc này ông cò mới biết là Christmas đã trú ngụ ở căn lều nằm sau ngôi nhà của cô Burden từ ba năm nay. Brown muốn khai báo; hắn nằn nì một cách ầm ĩ để được nói, và người ta thấy ngay tức khắc là hắn thèm chảy nước miếng một ngàn đô-la tiền thưởng đó.

"Mày muốn đứng ra làm chứng chống lại cái thằng bị buộc tội đó trước tòa không?" ông cò hỏi hắn.

"Tôi không muốn làm chứng chống lại ai cả," Brown nói, giọng khàn khàn khó nghe, vẻ mặt nhớn nhác. "Tôi biết ai làm chuyện đó và khi nào nhận tiền thưởng thì tôi sẽ nói."

"Mày tóm được cái thằng đã làm chuyện đó rồi mày sẽ lãnh tiền thưởng," ông cò nói. Vậy là họ đưa Brown vào nhà tù để bảo đảm an ninh cho hắn. "Nhưng tao thấy việc này không thực sự cần thiết cho lắm," ông cò nói. "Tao nghĩ là chừng nào nó còn ngửi được một ngàn đô-la đó đâu đây thì tụi mày không thể đuổi nó đi chỗ khác chơi được đâu." Khi Brown bị dẫn đi, giọng vẫn còn khàn khàn, vẫn vung tay múa chân giận dữ thì ông cò điện thoại cho thành phố lân cận, nơi có một cặp chó cảnh sát. Chúng sẽ đến sáng hôm sau bằng chuyến tàu sớm.

Vào buổi hừng đông ảm đạm của ngày chủ nhật đó, trên sân ga buồn tẻ, ba hay bốn chục người đàn ông đang đứng chờ thì tàu đến, các cửa sổ thắp sáng đi ngang qua rồi ngừng lại một vài phút trong tiếng động ầm ĩ. Nó là tàu nhanh, không phải lúc nào cũng ngừng lại ở Jefferson. Nó chỉ ngừng tạm đủ thì giờ cho hai con chó xuống: một ngàn tấn kim loại tốn kém, phức tạp một cách lạ kỳ, sáng bóng, kêu cót két, và trong sự im lặng gần như gây sốc, đầy những tiếng động yếu ớt của con người, nó nhả ra hai cái bóng ma hốc hác và sợ hãi mà hai cái mặt dịu dàng với đôi tai cụp xuống của chúng thì nhìn chằm chằm một cách hèn hạ và buồn bã những bộ mặt mệt mỏi, tái xanh của những người đàn ông; họ đã không ngủ được bao nhiêu từ hai đêm nay, và họ vây quanh chúng bằng cái gì đó kinh khiếp, hăm hở và bất lực. Như thể sự xúc phạm ban đầu của vụ án mạng đã kéo theo sau nó và làm cho tất cả những hành động tiếp theo thành cái gì đó quái dị, nghịch lý và bậy bạ, trái ngược với cả lý trí lẫn tự nhiên.

Mặt trời vừa lên thì lực lượng cảnh sát vừa đến căn lều đằng sau ngôi nhà, giờ chỉ còn là một đống tro than nguội lạnh. Hai con chó, trở nên can đảm hoặc nhờ ánh nắng và sự ấm áp của mặt trời hoặc nhờ sự phấn khích căng thẳng của đoàn người truyền sang, bắt đầu nhảy chồm tới và sủa ăng ẳng xung quanh căn lều. Chúng sụt sịt mũi nghe thành tiếng, và khi được lệnh, chúng bắt đầu chạy, kéo theo người giữ dây dắt. Chúng chạy bên nhau được gần trăm thước thì ngừng lại và bắt đầu cào đất một cách hung dữ, làm lộ ra một cái hố nhỏ mà ai đó mới đây đã chôn những lon đồ hộp đã ăn xong. Họ phải dùng sức để kéo hai con chó đi xa căn lều một chút và để chúng săn tìm lần nữa. Trong một lúc, chúng chạy lăng xăng, gầm gừ, rồi vọt chạy hết tốc lực trở lại căn lều, lưỡi thè ra ngoài, rớt dãi, buộc những người cầm dây dắt phải chạy nhanh theo, miệng lầm bầm chửi thề. Rồi trước cánh cửa để mở, mắt đảo quanh, hai chân trước dựng đứng, đầu ngửa ra sau, chúng sủa vang trời, một cách say mê như hai ca sĩ giọng nam trung hát nhạc kịch Ý. Họ đem hai con chó về phố lại bằng xe hơi và cho chúng ăn. Khi họ đi ngang quảng trường, chuông nhà thờ đang đổ, chậm rãi và yên bình, và trên đường phố những người dáng bộ đường hoàng đi lại một cách khoan thai, tay này cầm dù đã giương ra, tay kia cầm cuốn Kinh thánh hay các sách kinh cầu nguyện khác.

Đêm đó một thanh niên, một nông dân trẻ, và cha hắn đến gặp ông cò. Tên thanh niên kể rằng trên đường về nhà bằng xe hơi khuya thứ sáu, hắn bị một tên đàn ông với khẩu súng lục chặn lại, cách nơi xảy ra vụ giết người một hay hai dặm. Hắn nghĩ rằng mình sắp sửa bị cướp, thậm chí bị giết, và hắn kể là hắn có ý lừa y bằng cách thuyết phục y để mình lái xe đến tận sân trước nhà mình, nơi mà hắn sẽ ngừng xe và nhảy ra ngoài la hét cầu cứu, nhưng tên đàn ông nghi ngờ cái gì đó, buộc hắn ngừng xe để y xuống. Người cha tỏ ý muốn biết họ sẽ lãnh được bao nhiêu tiền trong số một ngàn đô-la đó.

"Trước tiên ông hãy tóm được y đã rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau," ông cò nói. Vậy là họ đánh thức hai con chó và dắt chúng lên một chiếc xe khác, và tên thanh niên chỉ cho họ chỗ mà tên đàn ông kia đã xuống. Họ thả chó ra để sục sạo, và ngay lập tức chúng chạy thẳng vào khu rừng cây ven đường, và với khả năng đánh hơi không sai vào đâu được đối với đồ kim loại dưới mọi hình dạng, chúng tìm ra được khẩu súng lục với hai viên đạn trong ổ hầu như ngay tức khắc.

"Nó là một trong những khẩu súng lục trái khế cũ kỹ của thời Nội chiến," tên phụ tá cho ông cò nói. "Đạn đã bị kim hỏa mổ xuống nhưng nó bị kẹt lại, không bắn ra được. Bộ ông nghĩ y làm được cái gì với cái thứ súng này?"

"Thả chó ra," ông cò nói. "Có lẽ mấy cái dây dắt cản trở chúng." Họ làm theo. Hai con chó giờ được tự do; nửa giờ sau, chúng biến mất tiêu. Không phải những tên cảnh sát bị mất chó mà chó bị mất họ. Chúng đang ở bên kia con suối nhỏ, phía sau một dốc đứng, và họ có thể nghe chúng rõ ràng. Giờ thì chúng không sủa nữa, vì kiêu hãnh và tự tin, và có lẽ vì vui thú. Nhưng chúng phát ra tiếng kêu rền rĩ kéo dài và tuyệt vọng, trong khi họ cũng không ngừng la hét về phía chúng. Nhưng chắc là hai con vật này không thể nghe họ. Hai giọng của chúng thì có thể phân biệt được, nhưng tiếng kêu hèn hạ, rền rĩ như tiếng chuông thì có vẻ phát ra từ một cuống họng duy nhất, như thể hai con vật đó thu mình nằm sát sườn bên nhau. Sau một lúc, họ tìm thấy chúng nằm y như vậy, trong một cái hố. Lúc đó, giọng nói của họ nghe gần như giọng của trẻ con. Họ ngồi xổm ở đó cho đến khi trời vừa đủ sáng để tìm đường trở lại chỗ họ đậu xe. Giờ đã là sáng thứ hai rồi.

Thứ hai, nhiệt độ bắt đầu tăng lên. Thứ ba, đêm mang bóng tối đến sau một ngày nóng gắt, nhưng oi bức, bất động, ngột ngạt. Vừa mới đặt chân vào nhà Byron đã cảm thấy các góc lỗ mũi mình trắng ra và căng ra khi đụng phải cái mùi mốc meo nặng nề của căn nhà không được bảo quản tốt cho lắm bởi một người đàn ông. Và khi Hightower đến gần, mùi của da thịt béo mập tắm rửa không đủ và của áo quần cũ mèm - cái mùi của sự ngồi một chỗ quá dễ dãi, của da thịt dư thừa thiếu vận động và ít khi tắm - thì quá nồng nặc đối với anh. Vừa đi vào, Byron vừa nghĩ, như anh từng nghĩ trước đây: 'Đó là quyền của ổng. Đó không phải là lối sống của mình, nhưng là lối sống của ổng, và là quyền của ổng mà.' Và anh nhớ lại có một lần anh dường như đã tìm được câu trả lời, như thể nhờ sự ngẫu hứng hay bói toán: 'Đó là mùi của tính thiện. Dĩ nhiên, đối với những người xấu xa và tội lỗi như chúng ta thì nó có mùi hôi.'

Hai người lại ngồi đối diện nhau trong phòng làm việc, cái bàn giấy và cây đèn thắp sáng ở giữa họ. Một lần nữa Byron ngồi trên cái ghế không lót nệm, mặt cúi xuống, người bất động. Giọng nói anh nghe dịu dàng, và bướng bỉnh: giọng của một người đàn ông nói cái gì đó không những gây khó chịu mà còn không tin được. "Tôi định tìm một chỗ khác cho cổ. Một chỗ kín đáo hơn cho cổ. Một chỗ mà cổ có thể..."

Hightower quan sát gương mặt cúi xuống của Byron. "Tại sao cổ phải đi chỗ khác? Khi mà cổ được thoải mái ở đó, với một người đàn bà bên cạnh khi cần thiết?" Byron không trả lời. Anh vẫn ngồi bất động, nhìn xuống đất; mặt anh mang vẻ bướng bỉnh, không đổi sắc. Vừa nhìn mặt Byron, Hightower vừa nghĩ, 'Đó là vì có biết bao nhiêu chuyện xảy ra. Có quá nhiều chuyện xảy ra. Đúng là như vậy. Con người thực hiện, làm phát sinh ra quá nhiều chuyện hơn là nó có thể hay có lẽ phải chịu đựng. Nhờ vậy mà nó nhận thấy là nó có thể chịu đựng bất cứ chuyện gì. Đúng vậy. Và vì vậy đây mới là điều khủng khiếp: nó có thể chịu đựng bất cứ chuyện gì, bất cứ chuyện gì.' Ông quan sát Byron. "Có phải bà Beard là lý do duy nhất khiến cổ sắp đi ở chỗ khác không?"

Byron vẫn không ngẩng đầu lên, và vẫn nói với cái giọng bình thản, bướng bỉnh: "Cổ cần một chỗ mà cổ cảm thấy hơi giống như ở nhà mình. Cổ không còn nhiều thì giờ nữa đâu, và trong một nhà trọ mà phần lớn khách trọ chỉ toàn là đàn ông... Một căn phòng mà cổ sẽ được yên tĩnh khi thời điểm sinh nở đến, chứ không phải cái hành lang mà những tên lái ngựa hay mấy người bồi thẩm ở tòa án thường qua lại..."

"Tôi hiểu," Hightower nói. Ông nhìn bộ mặt của Byron. "Và bạn muốn tôi nhận cổ vào đây ở?" Byron muốn nói nhưng người kia tiếp tục, giọng lạnh lùng, đều đều: "Không thể được đâu, Byron à. Giá như có một người đàn bà nào khác tại đây, sống trong nhà này thì... Thật đáng tiếc, tất cả các căn phòng bỏ trống ở đây, lại yên tĩnh nữa. Tôi nghĩ cho cổ đó, bạn hiểu không. Chớ không cho tôi. Và người ta có nói gì, có nghĩ gì thì mặc kệ họ."

"Tôi có yêu cầu chuyện này hồi nào đâu." Byron không ngước mắt nhìn lên. Anh có thể cảm thấy là người kia đang nhìn anh. Anh nghĩ Ổng biết tỏng là mình đâu có ý nói đến chuyện này. Ổng biết chớ. Ổng chỉ nói ra chuyện này như vậy đó. Mình biết ổng đang nghĩ gì. Mình cho là mình trông đợi ổng làm vậy. Mình cho là ổng chẳng có lý do gì để mà nghĩ khác những người khác, ngay cả chuyện liên quan đến mình "Tôi cho là ông phải biết điều tôi vừa nói ra." Có lẽ ông thực sự biết. Nhưng Byron không ngước mắt lên để nhìn. Đầu vẫn cúi thấp, anh tiếp tục nói, giọng đục, đều đều, trong khi bên kia bàn, Hightower, ngồi thẳng lưng hơn một chút trong ghế bành, nhìn khuôn mặt gầy còm, mệt mỏi vì việc làm nặng nhọc, sạm lại vì nắng gió, của người đàn ông đối diện ông. "Tôi không muốn ông dính líu gì đến chuyện này. Dù sao, đó không phải là chuyện của ông. Thậm chí ông cũng chưa gặp cổ, và tôi nghĩ là ông sẽ không bao giờ gặp. Và tôi cho là ông cũng chưa hề gặp tên kia, cái tên Brown đó. Tôi chỉ nghĩ có lẽ..." Giọng anh ngừng lại. Bên kia bàn, ông mục sư cứng rắn vẫn nhìn anh, chờ, không tỏ ý giúp anh. "Khi vấn đề là không làm gì hết, tôi cho là một người có thể tự tin đi theo lời khuyên do chính mình đưa ra. Nhưng khi vấn đề là làm cái gì đó, tôi cho là người đó tốt hơn nên lắng nghe mọi lời khuyên mà mình có thể nhận được. Nhưng tôi không muốn làm ông dính líu vào chuyện này. Tôi không muốn ông bận tâm về nó."

"Tôi nghĩ tôi biết mà," Hightower nói. Ông quan sát khuôn mặt cúi xuống của người kia. 'Mình không còn thuộc về thế gian này nữa,' ông nghĩ. 'Vì vậy mà thật là vô ích nếu mình cố sức xen vào, can thiệp vào. Anh ta có lẽ không nghe mình nhiều hơn tên đàn ông và người đàn bà kia (à, còn đứa bé đó nữa chứ) nghe hay chú ý đến mình, nếu mình tìm cách trở lại thế gian này.' "Nhưng bạn nói với tôi là cổ biết hắn ở đây mà."

"Đúng vậy," Byron nói, trầm ngâm. "Ngoài kia, ở xưởng bào, nơi mà tôi những tưởng là mình không thể có cơ hội gây hại cho bất cứ ai, đàn ông, đàn bà, trẻ con. Và cổ đến đó chưa được bao lâu mà tôi đã khai ra với cổ mọi chuyện trước khi đi về nhà!"

"Tôi không có ý nói vậy. Chính bạn, vào lúc đó, đã không biết, tôi muốn nói, phần còn lại của chuyện này. Về hắn và chuyện - cái chuyện... Ba ngày rồi. Cổ phải biết chuyện này, dù bạn nói ra với cổ hay không. Giờ thì cổ chắc chắn đã nghe kể lại rồi."

"Và tên Christmas?" Byron không nhìn lên. "Tôi đã không nói gì thêm, sau khi cổ hỏi về cái sẹo trắng nhỏ bên khóe miệng hắn. Trong thời gian tôi dẫn cổ xuống phố tối hôm đó, tôi cứ sợ miết trong bụng là cổ sẽ hỏi tôi. Tôi cố gắng moi óc tìm ra cái gì đó để kể với cổ hầu ngăn cản cổ hỏi thêm nữa. Tôi cứ muốn ngăn cổ khám phá ra rằng không những hắn đã bỏ trốn, để mặc cổ bị rắc rối, mà còn thay đổi tên họ để cổ không thể tìm ra hắn, và bây giờ thì cổ đã biết là, khi cuối cùng cổ tìm ra hắn, cái người mà cổ tìm té ra là một thằng bán rượu lậu. Cổ rốt cuộc đã biết hắn là một thằng chẳng ra gì." Anh nói thêm, với một thứ ngạc nhiên pha chút đăm chiêu: "Tôi thậm chí không bao giờ cần giấu giếm chuyện đó với cổ, không cần nói láo cho nhẹ bớt cú sốc. Như thể cổ đã biết trước những gì tôi sẽ nói, biết trước là tôi sẽ nói láo với cổ. Như thể chính cổ đã nghĩ đến chuyện đó, như thể cổ đã không tin tôi từ trước, ngay cả trước khi tôi mở miệng nói ra, và như vậy thì cũng tốt thôi. Nhưng cái phần riêng của cổ, cái phần biết sự thực đó, tức là cái phần mà dù thế nào đi nữa tôi đã không thể lừa gạt cổ..." Anh dò dẫm tìm lời, trong khi người đàn ông cứng rắn bên kia bàn cứ nhìn anh, không tỏ ý giúp đỡ. "Như thể con người cổ có hai phần; phần này biết hắn là một tên vô lại, nhưng phần kia lại tin rằng một khi một người đàn ông và một người đàn bà sắp có con với nhau thì Chúa sẽ lo liệu giúp họ được ở bên nhau khi đứa bé ra đời. Như thể Chúa dõi mắt theo đàn bà để bảo vệ họ trước đàn ông. Và nếu như Chúa thấy không tiện để cho hai cái phần đó hợp lại, và so sánh lẫn nhau, nếu có thể nói vậy, thì tôi cũng sẽ không làm chuyện đó đâu."

"Vô lý!" Hightower nói. Ông nhìn qua bên kia bàn khuôn mặt bất động, bướng bỉnh và khổ hạnh: khuôn mặt của một người ẩn dật đã sống một thời gian dài ở một nơi vắng vẻ chỉ có gió thổi cát bay. "Cổ chỉ có một việc, một việc duy nhất để làm, là trở về Alabama. Trở về với gia đình cổ."

"Tôi không nghĩ vậy," Byron nói. Anh nói ngay tức khắc, bằng một sự quyết định đột ngột, như thể anh chỉ chờ lúc như thế này để nói. "Cổ sẽ không cần làm vậy đâu. Tôi cho là cổ sẽ không cần làm vậy đâu." Nhưng anh không nhìn lên. Anh có thể cảm thấy người kia đang nhìn anh.

"Tên Bu... Brown có biết cổ đang ở Jefferson không?"

Trong một khoảnh khắc, Byron hé nở một nụ cười. Môi nhếch lên: một cử động thoáng qua, gần như một cái bóng, và không vui gì lắm. "Hắn thì quá bận mà. Chạy theo một ngàn đô-la đó. Nhìn hắn thì thiệt là mắc cười. Giống như một anh chàng không thể chơi cho ra hồn một giai điệu nhưng lại cố thổi tù và thật to với hy vọng là âm nhạc sẽ đến trong vòng một phút. Hắn bị dẫn đi qua quảng trường, hai tay trong còng, mỗi mười hai hay mười lăm giờ, khi mà họ đã không thể làm hắn bỏ đi chỗ khác chơi, ngay cả thả những con chó cảnh sát này ra cắn hắn. Hắn qua đêm thứ bảy trong tù, và hắn cứ nói đi nói lại là người ta muốn ngăn cản hắn lãnh một ngàn đô-la tiền thưởng bằng cách ra sức chứng minh rằng hắn đã giúp Christmas trong vụ giết người này, cho đến khi Buck Conner cuối cùng vào tận xà lim để nói là hắn sẽ bị nhét giẻ vào miệng nếu hắn không câm cha cái miệng lại, nếu hắn cứ tiếp tục không để các tù nhân khác ngủ yên. Và hắn câm miệng lại thiệt, và đêm chủ nhật họ đi ra ngoài sục sạo với hai con chó, và hắn lại la hét ỏm tỏi đến nỗi họ phải đưa hắn ra khỏi nhà tù và dẫn hắn theo nữa. Nhưng hai con chó lại không muốn đi. Và hắn gào thét, chửi rủa mấy con chó và muốn đánh đá chúng bởi vì chúng không tìm ra dấu vết, và hắn cứ lặp đi lặp lại là chính hắn đã tố giác Christmas đầu tiên và hắn chỉ muốn một điều duy nhất, đó là công lý, cho đến khi ông cò kéo hắn ra riêng và nói chuyện với hắn. Người ta không biết ông cò nói gì với hắn. Có lẽ ông hăm dọa tống hắn vào tù lại và không cho hắn đi cùng với họ lần tới. Dù sao đi nữa, hắn tỏ ra bình tĩnh lại và họ tiếp tục cuộc săn tìm. Họ chỉ trở về phố vào khuya thứ hai. Hắn thì rất điềm tĩnh lúc đó. Có lẽ hắn đuối sức. Hắn không ngủ được bao nhiêu từ mấy hôm nay, và họ kể là hắn đã tìm cách chạy trước hai con chó đến nỗi ông cò cuối cùng buông lời hăm dọa còng tay hắn vào tay của một trong những tên cảnh sát nhằm giữ hắn lại phía sau để mà hai con chó có thể ngửi được cái gì khác hơn là mùi người hắn. Tối thứ bảy, khi họ giam hắn vào ngục, hắn đã cần cạo râu rồi. Giờ thì hắn còn cần cạo râu cấp thiết hơn nữa. Theo ý tôi, hắn chắc chắn trông như thằng sát nhân hơn cả Christmas. Và bây giờ hắn chửi rủa Christmas, như thể Christmas trốn tránh chỉ vì tính hèn hạ của y, vì muốn trêu tức hắn và ngăn cản hắn lãnh một ngàn đô-la đó. Và họ dẫn hắn về nhà ngục và tống hắn vào lại đêm đó. Rồi sáng nay, họ đem hắn ra và mọi người lại lên đường với hai con chó, tìm theo những dấu vết mới. Theo lời đồn, người ta nghe hắn la hét và nói oang oang cho tới khi họ ra khỏi thành phố."

"Và bạn nói là cổ không biết chuyện đó. Bạn nói là bạn giấu cổ chuyện đó. Bạn thích cổ biết hắn là thằng vô lại hơn là thằng ngu, phải vậy không?"

Bộ mặt Byron bây giờ thì bất động lần nữa, và không mỉm cười nữa; nó mang vẻ rất điềm đạm. "Tôi không biết. Đó là vào đêm chủ nhật vừa qua, sau khi tôi đến đây nói chuyện với ông rồi trở về nhà. Tôi tưởng cổ đã ngủ trong giường, nhưng cổ vẫn còn ngồi ở phòng khách, và cổ nói, 'Chuyện gì vậy? Chuyện gì xảy ra ở đây?' Và tôi không nhìn cổ và tôi cảm thấy cổ nhìn tôi. Tôi nói với cổ là có một tên mọi đen giết chết một bà da trắng. Lần này tôi không có nói láo. Tôi cho là tôi rất sung sướng không phải nói láo lúc đó. Bởi vì, không kịp suy nghĩ gì ráo, tôi đã buột miệng nói thêm 'tên này cũng đã châm lửa đốt ngôi nhà đó.' Và vậy là quá trễ. Vì trước đó tôi đã chỉ cổ thấy cột khói và kể với cổ về hai tên sống ngoài đó, Christmas và Brown. Tôi cảm thấy cổ nhìn tôi như tôi cảm thấy ông đang nhìn tôi bây giờ, và cổ nói: 'Thằng mọi đen đó tên gì vậy?' Như thể Chúa lo liệu để các cô nàng tìm ra điều họ cần biết trong những lời láo khoét của cánh đàn ông mà không cần hỏi. Và để các cô nàng không tìm ra điều họ không cần biết mà thậm chí họ không biết là mình đã không tìm ra điều đó. Và vậy là tôi không biết chắc chắn cổ biết điều gì và cổ không biết điều gì. Tôi chỉ biết là tôi giấu cổ chuyện này: chính tên đàn ông mà cổ tìm đã tố cáo tên sát nhân, và hắn bây giờ đang ở trong tù, trừ khi hắn được cho ra ngoài cùng với mấy con chó để đi lùng sục cái tên đàn ông trước đó đã đón tiếp hắn và xem hắn như bạn. Chuyện này, tôi đã giấu cổ."

"Và bây giờ bạn định làm gì? Cổ muốn đi đâu?"

"Cổ muốn đi ra ngoài đó để đợi hắn. Tôi biểu cổ là hắn đi làm công chuyện với ông cò. Như vậy, tôi đã không nói láo hoàn toàn. Trước đó cổ đã hỏi tôi hắn sống ở đâu và tôi đã nói ra với cổ rồi. Và cổ nói đó là nơi mà cổ phải đến để chờ hắn cho tới khi hắn trở lại, bởi vì đó là nhà hắn. Cổ nói đó là điều mà hắn muốn cổ làm. Và tôi không thể nói ngược lại, không thể nói rằng hắn chắc chắn không hề muốn cổ đến căn lều đó chút nào. Cổ muốn đi tới đó tối nay, ngay sau khi tôi từ xưởng bào về nhà. Cổ để sẵn bên mình cái bọc vải đã cột lại, và đội sẵn mũ trên đầu, đợi tôi về nhà. 'Tôi đã bắt đầu tự mình đi một lần,' cổ nói. 'Nhưng tôi không chắc mình biết đường cho lắm.' Và tôi nói 'Được rồi; có điều là hôm nay thì trễ rồi và chúng ta sẽ đi ra đó ngày mai,' và cổ nói, 'Còn một giờ nữa trời mới tối mà. Chỉ có hai dặm thôi, phải không?'Và tôi nói với cổ là phải chờ đã, vì trước tiên tôi phải hỏi thăm, và nàng nói, 'Hỏi thăm ai? Bộ đó không phải là nhà của Lucas sao?' và tôi cảm thấy cổ đang chăm chú nhìn tôi và cổ nói, 'Tôi nghĩ anh đã nói rằng đó là nơi Lucas ở mà,' và cổ đang chăm chú nhìn tôi và cổ nói, 'Ông mục sư đó là ai mà anh cứ nói chuyện với ổng về tôi?' "

"Và bạn sẽ để cổ đến sống ngoài đó chăng?"

"Có lẽ như vậy là tốt nhất. Cổ sẽ được yên tĩnh ngoài đó, và cổ sẽ được cách biệt với tất cả những chuyện ngồi lê đôi mách cho đến khi vụ việc này chấm dứt."

"Bạn muốn nói, cổ cứ khăng khăng giữ ý muốn đó trong đầu và bạn sẽ không ngăn cổ lại. Bạn không muốn ngăn cổ lại."

Byron không nhìn lên. "Dù sao, đó là nhà của hắn. Hắn sẽ không bao giờ có nhà nào khác hơn cái đó, tôi nghĩ vậy. Và hắn là... của cổ."

"Ở ngoài đó một thân, một mình, với đứa bé sắp sinh. Và nhà gần nhất, một vài căn lều của người da đen, thì cách đó đến nửa dặm." Ông quan sát nét mặt Byron.

"Tôi đã nghĩ đến chuyện này. Có cách này, cách nọ chớ không phải không, có những cái ta có thể làm được mà."

"Những cái gì? Bạn có thể làm gì để bảo vệ cổ ngoài đó chớ?"

Byron không trả lời ngay lập tức; anh không nhìn lên. Khi anh nói, giọng anh nghe cứng cỏi. "Có những cái mà con người có thể làm một cách vụng trộm mà không phải là xấu xa, thưa ông mục sư. Và người ta có nghĩ gì về chuyện này thì cũng mặc kệ họ."

"Tôi không nghĩ rằng bạn có thể làm chuyện gì rất ác, Byron à, dù người ta có thể nghĩ gì đi chăng nữa. Không biết bạn có ý định nói chính xác là cái ác mở rộng đến đâu trong cái vẻ ngoài của cái ác? Chính xác là cái ác dừng lại ở đâu giữa hành động và vẻ ngoài?"

"Không," Byron nói. Rồi anh cử động chút ít; anh nói như thể anh cũng tỉnh ngủ: "Tôi hy vọng là không. Tôi cho là tôi đang cố gắng làm chuyện tốt với những ánh sáng của riêng tôi." - 'Và điều này,' Hightower nghĩ, 'là lời nói láo đầu tiên anh ta nói với mình từ trước đến nay. Nói với bất cứ ai, đàn ông hay đàn bà, có lẽ cả chính anh ta nữa, từ trước đến nay.' Ông nhìn qua bên kia bàn khuôn mặt bướng bỉnh, cứng cỏi, khiêm tốn, trong khi nó chưa nhìn lại ông. 'Hay có lẽ điều đó chưa phải là một lời nói láo bởi vì chính anh ta không biết nó là như vậy.' Ông nói:

"Thôi được." Giờ thì ông nói với một thứ cộc cằn giả tạo, bị bác bỏ bởi chính hai cái má sệ mềm nhão và đôi mắt tối tăm như hang động của ông. "Đồng ý vậy. Bạn sẽ đưa cổ ra ngoài đó, đến nhà hắn, và bạn sẽ lo liệu cho cổ được thoải mái ở đó, bạn sẽ lo liệu cho cổ được yên ổn, không ai quấy rầy cho đến khi mọi chuyện xong xuôi. Rồi sau đó bạn sẽ nói với cái thằng đàn ông đó - Bunch, Brown - là cổ đang ở đây."

"Và hắn sẽ vắt giò lên cổ mà dông một mạch," Byron nói. Anh không nhìn lên, nhưng anh có vẻ được một con sóng hứng khởi và hân hoan tràn qua người trước khi anh có thể kiềm chế hay giấu giếm nó, và giờ thì quá trễ để cố gắng làm vậy. Trong lúc này, anh không tìm cách kiềm chế nó. Anh cũng ngã người ra đằng sau, trên ghế, và đây là lần đầu tiên anh nhìn ông mục sư với nét mặt tự tin, táo bạo, không kiềm giữ được. Hightower bắt gặp tia nhìn của anh, và không tỏ vẻ dao động.

"Có phải đó là điều bạn muốn hắn làm không?" Hightower nói. Hai người ngồi như vậy, dưới ánh đèn. Sự im lặng nóng bức và lúc nhúc côn trùng của đêm tối ngột ngạt đi vào trong nhà qua cánh cửa sổ mở. "Hãy suy nghĩ về chuyện bạn đang làm. Bạn đang tìm cách xen vào giữa vợ chồng người ta."

Byron lấy lại bình tĩnh. Vẻ mặt anh không còn hân hoan nữa. Nhưng anh nhìn chằm chằm người đàn ông già hơn mình trước mặt. Có lẽ anh cũng đã cố gắng giữ giọng nói cho bình thường, nhưng anh chưa thể làm được. "Họ chưa phải là vợ chồng mà," anh nói.

"Bộ cổ nghĩ vậy sao? Bộ bạn tin là cổ sẽ nói vậy sao?" Hai người nhìn nhau. "A, Byron, Byron này, một vài lời thầm thì trước Chúa, trước sự kiên trì trong bản tính một người đàn bà, là cái gì chớ? Trước đứa bé đó, là cái gì chớ?"

"Ồ, có thể hắn sẽ không bỏ chạy. Nếu hắn lãnh được phần thưởng đó, số tiền đó. Chắc chắn là hắn sẽ uống đủ say với một ngàn đô-la đó để làm bất cứ chuyện gì, ngay cả lấy vợ."

"A, Byron ơi, Byron ơi."

"Vậy thì ông nghĩ chúng ta - tôi phải làm gì? Ông khuyên tôi gì đây?"

"Đi khỏi đây. Rời bỏ Jefferson." Họ nhìn nhau. "Không đâu," Hightower nói, "Bạn không cần tôi giúp đỡ. Bạn đã và đang được ai đó mạnh hơn tôi giúp đỡ rồi."

Byron không nói gì trong một lát. Hai người nhìn nhau chằm chằm. "Ai giúp tôi chớ?"

"Quỷ sứ," Hightower nói.

***

'Và quỷ sứ cũng chăm lo cho anh ta nữa,' Hightower nghĩ trong khi chân đang bước dở nửa chừng; ông ở giữa đường về nhà, cái giỏ xách nhỏ đựng đồ ăn mua ở chợ trên tay. 'Cho anh ta nữa. Cho anh ta nữa,' ông vừa đi, vừa nghĩ. Trời nóng. Ông mặc áo sơ-mi trần, dáng người cao, đôi chân dài trong cái quần đen. Vai và tay ông thì ốm trơ xương, và cái bụng thì béo phị, nhẽo nhèo như cái bụng chửa quái dị. Áo sơ-mi thì trắng nhưng nó không tươi mới; cổ áo thì bẩn cũng như cái cà vạt bằng vải gai mịn màu trắng được thắt lỏng lẻo, và ông đã không cạo râu từ hai hay ba ngày nay. Chiếc mũ rơm rộng vành[99] thì lấm bẩn, và ở bên dưới nó, người ta thấy lòi ra các cạnh và góc một chiếc khăn tay dơ dáy đặt giữa mũ và sọ để chống nóng. Ông đã đi ra phố như thường lệ, hai lần mỗi tuần, để mua sắm. Hốc hác, biến dạng, với bộ râu muối tiêu và đôi mắt mang kính râm, hai bàn tay lấm đen ở mép và cái mùi hăng hắc của da thịt không vận động và ít được tắm rửa, ông đi vào cửa tiệm có mùi thơm và ngổn ngang hàng hóa, cửa tiệm duy nhất mà ông tự chọn đồ lấy, và ông trả tiền mặt những gì ông mua.

"A, họ cuối cùng thì cũng tìm ra dấu vết thằng mọi đen đó," ông chủ tiệm nói.

"Tên da đen đó à?" Hightower nói. Ông bỗng trở nên hoàn toàn bất động trong khi ông đang bỏ tiền thối lại vào túi.

"Cái... ơ... thằng đó, thằng sát nhân đó. Tôi lúc nào cũng nói rằng y có cái gì không phải. Y không là người da trắng. Rằng y có cái gì buồn cười nơi con người y. Nhưng ta không thể nói với mọi người chuyện gì hết cho tới khi..."

"Tìm được y?" Hightower nói.

"Ông nói đúng đó, họ đã tìm ra y. Cái thằng ngốc ấy thậm chí không có lấy một chút đầu óc suy nghĩ để ba chân bốn cẳng chạy ra khỏi cái quận này. Ông cò đã điện thoại khắp nơi trong tỉnh và cái thằng nhóc da đen này... ơ... lại ở ngay đây, ở suốt trước cái mũi trời đánh của ổng."

"Và họ đã..." Ông khom người trên quầy, phía trên cái giỏ xách đầy đồ. Ông cảm thấy cái gờ quầy đụng vào bụng mình. Nó cho ông cái cảm giác vững vàng, ổn định; hay đúng hơn, nó giống như cả quả đất đang đung đưa nhè nhẹ, sửa soạn chuyển động. Rồi nó, cái quầy, có vẻ đung đưa từ từ, như cái gì đó mà người ta buông ra một cách chậm rãi, không hấp tấp, và rất khéo léo trong sự sà xuống từ từ, bởi vì con mắt bị đánh lừa, tin rằng những cái kệ dơ dáy với những đồ hộp dính đầy cứt ruồi, và chính ông chủ tiệm đằng sau quầy, đã không chuyển động. Một cảm giác tai hại, gây hoang mang. Và ông nghĩ, 'Không, không! Ta đã mua sự miễn trừ rồi mà. Ta đã trả giá. Ta đã trả giá rồi mà.'

"Họ chưa bắt được y," ông chủ tiệm nói. "Nhưng trước sau gì họ cũng sẽ bắt được mà. Ông cò đã đưa chó đến ngôi nhà thờ sáng nay, trước rạng đông. Họ chỉ bị trễ sau y không quá sáu tiếng đồng hồ. Khi ta nghĩ đến cái thằng ngốc trời đánh không có tí ti đầu óc này... thì điều này đủ để chứng minh y là thằng mọi đen, ngay cả khi không có bằng chứng nào khác..."

***

Rồi ông chủ tiệm nói, "Ông mua vậy là đủ cho hôm nay?"

"Cái gì?" Hightower nói. "Cái gì?"

"Ông có tất cả những gì ông cần rồi chớ?"

"Ừ, ừ. Đó là..." Ông đưa tay sờ soạng trong túi trong khi ông chủ tiệm nhìn ông. Bàn tay ông lại ra khỏi túi, vẫn còn sờ soạng. Nó hạ xuống trên quầy, làm vung vãi những đồng tiền. Ông chủ tiệm chụp lại được hai hay ba cái sắp sửa rơi khỏi quầy.

"Tiền này để trả cho cái gì vậy?"

"Cho..." Bàn tay của Hightower sờ soạng cái giỏ xách. "Cho..."

"Ông đã trả rồi mà." Ông chủ tiệm nhìn ông, lộ vẻ tò mò. "Đó là tiền lẻ của ông, tôi vừa thối lại ông. Từ tờ một đô-la đó mà."

"Ồ," Hightower nói. "Ừ. Tôi... Tôi chỉ..." Ông tiểu thương đưa tay gom lại các đồng tiền rồi trao lại cho Hightower. Khi bàn tay của người khách hàng chạm tay mình, ông ta cảm thấy nó lạnh như băng.

"Chính là vì thời tiết nóng quá như vầy," ông chủ tiệm nói. "Nó làm kiệt sức mọi người. Ông có muốn nghỉ ngơi ở đây một chút trước khi đi về nhà không?" Nhưng chắc là Hightower không nghe ông ta. Ông đang đi về phía cửa, dưới cặp mắt nhìn theo của ông chủ tiệm. Ông ra khỏi cửa, bước xuống đường, cái giỏ xách trên tay, đi bộ một cách cứng ngắc và thận trọng, giống như ai đó đi trên băng. Trời rất nóng. Hơi nóng bốc lên từ nhựa đường, bao bọc các tòa nhà quen thuộc của quảng trường bằng một thứ quầng sáng, một cái gì đó như sự phối hợp sáng-tối sống động và hồi hộp. Một người nào đó lên tiếng với ông khi đi ngang qua nhưng ông thậm chí không biết đến. Ông vừa đi tiếp, vừa nghĩ Và cho anh ta nữa. Và cho anh ta nữa Ông bây giờ bước nhanh đến nỗi ông thở hổn hển khi đến góc con phố nhỏ vắng lặng, không sinh khí, nơi có căn nhà vắng lặng và không sinh khí đang chờ ông. 'Chắc vì trời nóng,' bề mặt của bộ óc ông thầm thì bảo ông. Tuy nhiên, ngay cả ở con đường yên tĩnh này, nơi mà những người qua lại ít ỏi giờ cũng không dừng bước để nhìn, để nhớ lại cái biển hiệu đó, và căn nhà của ông, nơi trú ẩn của ông, đã hiện ra trong tầm mắt, ông nghe, đến từ nơi sâu thẳm trong tâm trí ông, những lời lừa dối dịu ngọt: 'Không. Không. Ta đã mua sự miễn trừ rồi mà.' Như thể đó là những lời bây giờ được nói to ra, những lời được lặp đi lặp lại, kiên nhẫn, biện bạch: 'Ta đã trả giá cho chuyện đó. Ta đã không cò kè về giá cả. Không ai có thể trách ta điều này. Ta chỉ muốn sự thanh thản trong tâm hồn. Ta đã trả cho họ cái giá họ muốn mà không cò kè bớt một thêm hai.' Con đường phố run rẩy và có vẻ trôi nổi; ông đang đổ mồ hôi nhưng bây giờ, ngay cả sức nóng buổi trưa cũng tạo ra nơi ông một cảm giác tươi mát. Rồi, mồ hôi, hơi nóng, ảo ảnh, tất cả đến dồn dập, hòa lẫn với nhau thành một cứu cánh hủy bỏ toàn bộ lô-gích, toàn bộ sự biện bạch, và xóa sạch tất cả, như ngọn lửa hẳn sẽ làm: Ta không muốn! Ta không muốn!

***

Khi đêm vừa xuống, ngồi ở bàn giấy bên cửa sổ, và thấy Byron đi vào vùng ánh sáng của ngọn đèn đường rồi đi ra, ông bỗng chồm người ra trước ghế. Không phải là ông ngạc nhiên thấy Byron vào giờ này. Trước tiên, khi nhận ra dáng người, ông nghĩ A, mình đã biết trước là anh ta sẽ đến tối nay. Anh ta không phải là kẻ có thể ủng hộ đến cả cái vẻ ngoài của cái Ác Chính trong lúc nghĩ điều này mà ông bắt đầu ngồi chồm người ra trước: sau khi nhận ra dáng dấp của người đang đến gần dưới ánh đèn sáng rỡ, ông tin trong một khoảnh khắc rằng mình lầm, tuy ông lúc nào cũng biết là mình không thể lầm được, là không ai khác ngoài Byron bởi vì anh ta đã đi vào cổng.

Đêm nay Byron hoàn toàn thay đổi. Điều này có thể thấy được trong cách đi đứng, trong dáng điệu của anh. Nghiêng người ra trước, Hightower tự nhủ Như thể anh ta mới học được sự kiêu hãnh, hay sự bất chấp Byron bước nhanh, người giữ thẳng, đầu ngẩng cao; Hightower bất ngờ nói, gần như thành tiếng: 'Anh ta đã làm cái gì đó rồi. Anh ta đã bắt đầu hành động.' Ông chắc lưỡi nghe rõ, nghiêng người ở khung cửa tối tăm, đưa mắt theo dõi cái bóng dáng của người đi nhanh qua tầm nhìn từ cửa sổ, tiến tới hàng hiên, tới cửa ra vào, và trong vài khoảnh khắc Hightower nghe tiếng chân và tiếng gõ cửa. 'Và anh ta không muốn bộc bạch với mình,' ông nghĩ. 'Mình hẳn sẽ nghe, sẽ để anh ta nói ra các suy nghĩ trước mặt mình.' Chưa gì ông đã đi ngang căn phòng, ngừng lại chút xíu bên bàn giấy để bật đèn. Ông đi đến cửa trước.

"Tôi đây, ông mục sư ơi," Byron nói.

"Tôi nhận ra bạn mà," Hightower nói. "Dù lần này bạn không vấp cái bậc tam cấp sát đất. Byron này, bạn đã vào cái nhà này vào tối chủ nhật và cho tới tối nay, bạn không bao giờ vào nhà mà không vấp phải cái bậc sát đất đó." Đó là cái cung cách chào hỏi thường lệ mỗi khi Byron đến: một thái độ hơi kẻ cả, vừa nhẹ nhàng, vừa thân tình để làm người khách thấy thoải mái, và về phần người khách, sự rụt rè chậm chạp, có gốc nhà quê, là một hình thức lịch sự. Đôi khi Hightower có cảm tưởng đã kéo Byron vào nhà đơn giản bằng một luồng hơi thở được điều khiển đúng lúc, như thể Byron mang một cánh buồm trên người.

Nhưng lần này Byron đã vào trong nhà trước khi Hightower chấm dứt câu nói. Anh vào ngay lập tức, với cái dáng vẻ mới mẻ này, sinh ra ở đâu đó giữa sự tự tin và sự bất chấp. "Và tôi cho là ông sẽ nhận ra rằng ông thấy phát ghét khi tôi không vấp nhiều hơn là khi tôi vấp," Byron nói.

"Có phải đó là một hy vọng, hay là một lời hăm dọa, Byron?

"Ồ, tôi không có ý hăm dọa gì cả," Byron nói.

"A," Hightower nói. "Nói một cách khác, bạn chẳng đưa ra được một cái hy vọng nào. Thôi, ít ra là tôi được báo trước rồi đó. Tôi đã được báo trước ngay khi tôi thấy bạn dưới ánh đèn đường. Nhưng ít ra bạn nên nói ra với tôi về chuyện đó. Về chuyện bạn đã làm, dù rằng bạn đã cho là không đáng để nói với tôi trước đây." Hai người đang đi dần về phía cửa phòng làm việc. Byron dừng bước, quay người và đưa mắt nhìn lên khuôn mặt cao hơn anh.

"Vậy là ông biết," anh nói. "Ông đã nghe từ trước rồi phải không?" Và, dù đầu anh không cử động, anh không còn nhìn Hightower nữa. "Dù sao," anh nói. Anh lặp lại, "Dù sao, đàn ông nào thì cũng có cái lưỡi tự do. Cả đàn bà nữa. Nhưng tôi muốn biết ai đã nói lại với ông. Không phải vì tôi xấu hổ đâu. Không phải vì tôi tính giấu ông. Tôi đến đây để chính tôi nói ra với ông ngay khi tôi có thể đến."

Họ đứng ngay trước cánh cửa của căn phòng có ánh đèn. Hightower lúc này thấy ra là Byron mang trên tay những hộp đồ, những túi xách trông như đựng thực phẩm. "Chuyện gì?" Hightower nói. "Bạn đến để nói với tôi chuyện gì? - Nhưng vào đây đã. Có lẽ tôi thực sự biết chuyện gì rồi. Nhưng tôi muốn nhìn mặt bạn khi bạn kể ra với tôi. Bạn thấy không, tôi cũng báo trước cho bạn đó, Byron à." Hai người vào trong phòng có đèn sáng. Những túi xách đúng là đựng thực phẩm: anh đã mua và mang theo quá nhiều đồ như vậy để có thể biết rõ bao nhiêu. "Ngồi xuống đã," ông nói.

"Thôi không," Byron nói. "Tôi không ở lâu lắm đâu." Anh đứng đó, khiêm tốn, giữ gìn ý tứ, với vẻ nhân từ quen thuộc, nhưng với cái gì đó cả quyết nhưng không tự phụ, tự tin nhưng không lấn áp: cái vẻ của một người sắp sửa làm một điều mà người thân thiết của mình sẽ không hiểu, sẽ không tán thành, nhưng chính anh ta vẫn biết là đúng đắn, chẳng khác nào như anh ta biết người thân thiết đó sẽ không bao giờ nhìn nhận giống như vậy. Byron nói: "Ông sẽ không ưa chuyện này đâu. Nhưng chẳng có chuyện gì khác để làm. Tôi hy vọng rằng ông có lẽ sẽ thấy sự việc như vậy, nhưng tôi không tin lắm. Và tôi cho là tất cả chuyện này chỉ có vậy thôi."

Bên kia bàn, Hightower, giờ đã ngồi xuống, nhìn Byron một cách trầm trọng. "Byron này, bạn đã làm điều gì?"

Byron nói với cái giọng mới mẻ đó: cái giọng vắn tắt, súc tích, mỗi từ được phát âm riêng biệt, gọn gàng, không do dự. "Tôi đã đưa cổ ra ngoài đó tối nay. Trước đó, tôi đã tới quét dọn, sắp xếp lại căn lều cho ngăn nắp. Cổ giờ thì được ổn định rồi. Cổ muốn như vậy mà. Hắn chưa hề có một mái nhà nào khác, và hắn sẽ không bao giờ có được cái nào khác, nên tôi nghĩ cổ có đủ tư cách để sử dụng nó, nhất là lúc này chủ nhân nó không dùng. Bị giam ở chỗ khác, nếu tôi có thể nói vậy. Tôi biết là ông không tán thành chuyện này chút nào. Ông có thể đưa ra hàng tá lý do, những lý do đúng đắn. Ông có thể nói, bởi vì hắn đâu sở hữu căn lều đó nên làm sao tôi có thể giao nó cho cổ. Được thôi. Có lẽ đúng như vậy. Nhưng không có một người nào sống ở đây hay trong khắp bang Mississippi này mà nói rằng cổ không có quyền sử dụng căn lều đó. Ông có thể nói, với tình trạng bụng mang dạ chửa như vậy, cổ cần phải có một người đàn bà bên cạnh. Được thôi. Sống cách đó chưa đầy hai trăm thước là một mụ mọi đen, khá già để biết xoay sở chuyện này việc nọ. Cổ có thể gọi mụ ấy mà không cần rời ghế hay ra khỏi giường. Ông có thể nói, mụ ấy không phải đàn bà da trắng. Vậy thì tôi hỏi ông, cổ sẽ nhận được gì từ những người đàn bà da trắng ở Jefferson đây khi đứa bé sinh ra, trong khi cổ ở Jefferson mới được một tuần lễ, và cổ vừa mới trao đổi với một người đàn bà chưa đầy mười phút là người này biết tỏng là cổ chưa có chồng. Và ngày nào tên vô lại trời đánh đó còn trên cõi đời này, ngày nào mà cổ thỉnh thoảng còn nghe nói đến hắn, thì đừng hy vọng cổ sẽ lấy chồng. Khi giờ phút sinh nở đến, sự giúp đỡ nào mà cổ sẽ nhận được từ những bà da trắng đây chớ? Ồ, họ chắc sẽ lo liệu cho cổ có được cái giường để nằm và các bức tường để che mắt người qua đường. Đó không phải là điều tôi muốn nói. Và tôi cho là người ta có thể được tha thứ nếu nói rằng cổ chỉ được vậy thì cũng đáng đời cổ thôi, vì rằng đâu phải sau những bức tường mà cổ bụng mang dạ chửa như bây giờ. Nhưng em bé thì có bao giờ được hỏi ý kiến đâu. Và, ngay cả nếu nó được hỏi, tôi sẽ là thằng trời đánh nếu một đứa bé nhỏ nhoi đáng thương, với những gì đang chờ đợi nó trên thế gian này, xứng đáng... xứng đáng nhiều hơn... xứng đáng tốt hơn... Nhưng tôi nghĩ ông hiểu tôi muốn nói gì. Tôi nghĩ ông thậm chí có thể nói lên điều này." Bên kia bàn, Hightower quan sát anh khi anh nói với cái giọng đều đều, dè dặt, chỉ không tìm ra chữ để nói khi nào anh gặp phải cái gì đó còn quá mới, quá mù mờ để anh có thể nói ra hơn là chỉ cảm thấy. "Bây giờ tôi nói đến lý do thứ ba. Một người đàn bà da trắng ở ngoài đó một mình. Ông sẽ ghét chuyện này lắm đó. Ông sẽ ghét chuyện này còn nhiều hơn các chuyện còn lại."

"A, Byron, Byron ơi!"

Giọng Byron lúc này nghe lì lợm. Nhưng anh vẫn giữ cao đầu. "Tôi không ở chung nhà với cổ. Tôi có dựng lên một cái lều. Không gần chỗ của cổ đâu. Nhưng khá gần để tôi có thể nghe tiếng cổ gọi khi cần. Và tôi đã lắp một cái then ở cửa ra vào. Bất cứ ai cũng có thể đến, bất cứ lúc nào, và gặp tôi ở trong lều."

"A, Byron, Byron ơi!"

"Tôi biết là ông không nghĩ giống như phần lớn những người khác có thể nghĩ, hay đang nghĩ. Tôi biết là ông biết thừa đi rồi, ngay cả nếu cổ không phải là... nếu đó không phải là để... Tôi biết ông đã nói điều đó bởi vì ông biết những người khác sẽ nghĩ gì."

Hightower ngồi lại theo tư thế một tượng thần phương đông, hai tay đặt song song trên tay dựa của chiếc ghế bành. "Rời khỏi đây đi, Byron à. Đi khỏi đây. Bây giờ. Ngay lập tức. Rời bỏ nơi chốn này mãi mãi, cái nơi chốn kinh khiếp này, nơi chốn kinh khiếp, kinh khiếp này. Tôi có thể đi guốc trong bụng bạn. Bạn sẽ nói với tôi là bạn vừa mới được biết tình yêu là thế nào; tôi sẽ nói với bạn là bạn chỉ vừa mới được biết hy vọng là thế nào. Chỉ có chừng đó thôi: hy vọng. Đối tượng thì không quan trọng, cho niềm hy vọng hay ngay cả cho bạn nữa, Byron à. Chỉ có một mục đích cho tất cả chuyện này, cho con đường mà trên đó bạn đang cất bước: tội lỗi hay sự kết hôn. Và bạn, bạn không phải là con người chấp nhận tội lỗi. Đúng vậy, lạy Chúa tha cho tôi. Đối với một người như bạn, đó sẽ là, phải là sự kết hôn hay không là gì cả. Và bạn sẽ khăng khăng muốn có cho được sự kết hôn. Bạn sẽ thuyết phục cổ. Có lẽ bạn đã làm việc này rồi. Chỉ còn cần làm sao cho cổ biết ý định kết hôn này, cho cổ muốn chấp nhận nó. Không có việc này thì tại sao cổ lại bằng lòng ở lại đây mà không cố gắng chút nào để tìm cho ra cái tên đàn ông mà cổ đã cất công tới tận đây để tìm? Tôi không thể nói với bạn như vầy: hãy chọn tội lỗi đi, vì bạn không những sẽ thù ghét tôi mà sẽ còn mang thẳng sự thù ghét này tới cho cổ. Đó là tại sao tôi nói với bạn: hãy đi khỏi đây. Bây giờ. Ngay lập tức. Hãy quay mặt chỗ khác, bây giờ, và đừng nhìn ra sau nữa. Nhưng không phải chuyện đó, Byron!"

Hai người nhìn nhau. "Tôi biết ông sẽ không ưa chuyện này," Byron nói. "Tôi cho là mình đã làm đúng không ngồi xuống đây, không xử sự như một người khách. Nhưng tôi đã không trông đợi một chuyện như vậy. Tôi đã không trông đợi là ông, ông cũng chống lại một người đàn bà đã bị làm hại và bị phản bội..."

"Một người đàn bà có một đứa con thì không bao giờ bị phản bội. Đấng ông chồng của một người làm mẹ, dù ông ta là cha đứa bé hay không, thì đã là một anh chồng bị cắm sừng. Byron, hãy tự cho bạn ít ra một cơ hội trên mười đi. Nếu bạn phải lấy vợ thì có những người đàn bà độc thân, những cô gái, ngay cả những nàng trinh nữ. Thật không công bằng chút nào khi bạn hy sinh chính mình cho một người đàn bà đã từng chọn lựa một lần và bây giờ lại muốn từ bỏ sự chọn lựa đó. Thật không xứng đáng đâu. Chúa đâu có ý định như vậy khi Ngài đặt ra sự kết hôn. Nhưng thực sự có phải Ngài đặt ra không? Chính đàn bà đặt ra sự kết hôn đó."

"Tôi hy sinh sao? Tôi, tôi mà hy sinh sao? Theo tôi, dường như sự hy sinh..."

"Không phải cho cổ đâu. Đối với những Lena Grove thì bao giờ cũng có hai người đàn ông trên đời này, và số người như vậy thì nhiều vô kể: những Lucas Burch và những Byron Bunch. Nhưng không Lena nào, không đàn bà nào, xứng đáng có cả hai người. Không một đàn bà nào. Đúng là có những người đàn bà tốt bị những tên cục súc hành hạ, như khi đang say rượu, ví dụ vậy. Nhưng người đàn bà nào, tốt hay xấu, có bao giờ đau khổ vì bất cứ tên cục súc nào cho bằng những người đàn ông đã đau khổ vì những người đàn bà tốt? Trả lời tôi đi, Byron."

Họ nói chuyện nhẹ nhàng, không nóng giận, thỉnh thoảng ngừng lại để ngẫm nghĩ về lời nói của người kia, giống như hai người đàn ông đã không thể lay chuyển được trong niềm tin vững chắc riêng của mỗi người. "Tôi cho là ông nói đúng," Byron nói. "Dù sao, đó không phải là chuyện của tôi để nói là ông sai. Và tôi không nghĩ đó là chuyện của ông để nói là tôi sai, dù tôi có sai đi nữa."

"Không phải vậy," Hightower nói.

"Dù tôi có sai đi nữa," Byron nói. "Vậy thì tôi nghĩ tốt hơn tôi chúc ông ngủ ngon." Anh nói, nhẹ nhàng: "Từ đây đến ngoài đó đường xa lắm."

"Phải đó," Hightower nói. "Ngày trước, tôi thường đi bộ tới đó, thỉnh thoảng thôi. Phải khoảng ba dặm là ít."

"Hai dặm," Byron nói. "Thôi." Anh quay người. Hightower không cử động. Byron đổi tay mang các túi xách mà anh đã không bỏ xuống đất. "Thôi, chúc ông ngủ ngon," anh nói, chân bước về phía cửa. "Tôi nghĩ tôi sẽ sớm gặp lại ông lúc nào đó."

"Được thôi,"Hightower nói. "Có việc gì tôi có thể giúp không? Bạn cần gì không? Ra trải giường, mùng mền, đại loại như vậy?"

"Cám ơn ông. Tôi nghĩ cổ có nhiều rồi. Vài thứ đã có sẵn đó. Tôi cám ơn ông."

"Và bạn sẽ báo cho tôi biết, được không? Nếu có chuyện gì xảy ra. Nếu đứa bé... Bạn đã thu xếp để có bác sĩ chưa?"

"Tôi cũng sẽ lo liệu việc này mà."

"Nhưng bạn đã gặp bác sĩ nào chưa? Bạn đã mời bác sĩ nào chưa?"

"Tôi có ý định sẽ lo liệu tất cả mấy việc này. Tôi sẽ cho ông biết."

Rồi anh ra về. Từ cửa sổ, Hightower lại nhìn anh đi qua, ngược lên đầu đường để nhắm hướng ngoại ô và lội bộ cả hai dặm, các túi xách đựng đồ ăn gói trong giấy trên tay. Anh ra khỏi tầm nhìn, người giữ thẳng, bước chân nhanh, bước chân mà một ông già, đã mập phì và chưa chi đã thở hồng hộc, một ông già đã dành quá nhiều thời gian để ngồi một chỗ, hẳn sẽ không thể theo kịp. Và Hightower vẫn khom người ở cửa sổ, trong cái nóng tháng tám, quên cái mùi trong đó ông sống, cái mùi của những người không còn sống trong đời sống: cái mùi của sự béo phì bị khô héo và của áo quần, chăn màn dơ, cũ, như một điềm báo trước của cái chết. Ông lắng nghe những bước chân mà ông tưởng mình còn nghe rất lâu sau khi ông biết là ông không thể nghe được nữa. Ông nghĩ 'Chúa phù hộ anh ta! Chúa phù hộ anh ta!', trong khi nghĩ Thanh xuân. Ôi thanh xuân! Không gì như nó: không gì sánh được với nó trên cõi đời này Ông vẫn nghĩ một cách lặng lẽ: 'Đáng lẽ mình không nên bỏ thói quen cầu nguyện.' Rồi ông không còn nghe những bước chân nữa. Bây giờ ông chỉ nghe tiếng kêu bất tận của vô số côn trùng. Khom người ở cửa sổ, ông hít thở cái mùi nóng, đậm đặc, vấy bẩn của mặt đất, và nhớ lại vào thời trẻ ông đã thích bóng tối biết bao, thích đi dạo, thích ngồi một mình dưới cây cối ban đêm. Rồi mặt đất, vỏ cây lúc đó trở nên có thật, man rợ, đầy đặn, gợi ra những lạc thú nửa chừng và những nỗi kinh khiếp nửa chừng, tất cả đều lạ lùng và tai hại. Ông đâm ra lo sợ chuyện này. Ông thấy hãi. Ông thích cảm giác sợ hãi này. Rồi một ngày kia ở chủng viện, ông chợt nhận ra là mình không thấy sợ nữa. Như thể có một cánh cửa đóng lại ở đâu đó. Ông không còn sợ bóng tối. Ông chỉ ghét nó; ông trốn chạy nó, trú ẩn giữa các bức tường, dưới ánh sáng nhân tạo. 'Đúng vậy,' ông nghĩ. 'Đáng lẽ mình không nên để mất đi thói quen cầu nguyện.' Ông rời khỏi cửa sổ. Một bức tường của phòng làm việc thì đầy những hàng sách. Ông dừng lại trước chúng, đưa mắt tìm cho đến khi ông thấy cuốn sách mình muốn. Đó là của Tennyson[100]. Các trang đều bị gấp ở góc. Ông đã có nó từ hồi còn học ở chủng viện. Ông ngồi dưới ngọn đèn và mở sách ra. Không lâu lắm đâu. Chẳng mấy chốc cái ngôn ngữ đẹp đẽ với tiết điệu nhanh đó, sự ngất ngây bạc nhược đầy những cây cối không nhựa và những sự thèm khát khô héo đó, bắt đầu trôi nổi một cách dịu dàng, nhanh lẹ và yên bình. Điều này thì hay hơn là cầu nguyện, vì không phải lo lắng nói ra thành tiếng các suy nghĩ của mình. Nó giống như lắng nghe trong thánh đường một tên hoạn quan tụng kinh bằng một thứ tiếng mà ông thậm chí không cần không hiểu.

14

"Có người ở ngoài kia, trong căn lều đó," tên phụ tá nói với ông cò. "Không phải trốn đâu. Sống trong đó."

"Đi tới xem đi," ông cò nói.

Tên phụ tá đi rồi quay lại.

"Một người đàn bà. Một người đàn bà trẻ. Và cổ có vẻ như đã sắp xếp mọi thứ để sống lâu dài ở đó. Và Byron Bunch thì cắm một cái lều, cách xa căn lều đó như từ đây đến phòng bưu điện."

"Byron Bunch nào vậy ta?" ông cò nói. "Con nhỏ đó là ai vậy?"

"Tôi không biết. Cổ không phải người vùng này. Một người đàn bà trẻ. Cổ đã kể hết với tôi. Tôi chưa kịp vào hẳn trong căn lều mà cổ đã bắt đầu kể chuyện của cổ, như thể đó là một bài nói chuyện đã sửa soạn trước, một bài nói chuyện mà cổ quen đọc. Như thể cổ đã tạo thành một thói quen. Và tôi cho là cổ đã có nó từ khi cổ rời Alabama tới đây để tìm người chồng. Hắn đã ra đi trước cổ để tìm việc làm, dường như vậy, và sau một thời gian, cổ lại ra đi và dọc đường người ta nói với cổ là hắn ở đây. Và ngay lúc đó thì Byron bước vào, và anh ta nói là anh ta có thể giải thích cho tôi. Anh ta nói đã có ý định nói chuyện với ông về việc này đó."

"Byron Bunch?" ông cò nói.

"Dạ phải," tên phụ tá nói. Rồi nói thêm: "Cổ chờ ngày đẻ con. Cũng không lâu đâu."

"Đẻ con à?" ông cò nói. Ông nhìn tên phụ tá. "Và từ Alabama? Từ bất kể chỗ nào lại xách đít tới đây đẻ! Đừng nói với tao về Byron Bunch với cái chuyện đó."

"Tôi cũng không chực làm vậy," tên phụ tá nói. "Tôi có nói là con của Byron đâu. Vả lại, Byron cũng không nói là con của mình. Tôi chỉ lặp lại với ông những gì anh ta nói thôi."

"Ồ," ông cò nói. "Tao hiểu tại sao con nhỏ đó lại ra ở ngoài này rồi. Ấy là một trong hai thằng đó. Christmas phải không?"

"Không phải đâu. Byron nói với tôi như vầy nè. Anh ta kéo tôi ra ngoài và bắt đầu kể với tôi khi ra khá xa để cổ không thể nghe được. Anh ta nói đã có ý định đến gặp và nói chuyện với ông. Đó là con của Brown. Nhưng chỉ phải tên hắn không phải là Brown. Là Lucas Burch đó. Byron nói với tôi. Về chuyện Brown hay Burch đã bỏ rơi cổ ở Alabama. Hắn nói với cổ là hắn ra đi chỉ để tìm việc làm, sửa soạn đồ đạc sẵn trong nhà rồi sau đó sẽ cho gọi cổ đến. Nhưng cổ sắp đến ngày sinh rồi mà vẫn không có tin gì từ hắn, hắn ở đâu, hắn làm gì, vậy là cổ quyết định không đợi nữa. Cổ đi bộ, hỏi thăm dọc đường có ai biết một gã nào tên Lucas Burch; thỉnh thoảng cổ được người ta cho đi nhờ xe la, và hễ gặp bất cứ ai là cổ hỏi có biết hắn không. Rồi một ngày nọ, có người bảo cổ là có một gã tên là Burch, hay Bunch hay cái gì đó, làm việc ở xưởng bào ở Jefferson, và cổ tìm đến đây. Cổ đến đây ngày thứ bảy, trên chiếc xe la, vào lúc mà mọi người chúng ta đều ra ngoài này vì cái chuyện giết người đó, và cổ lần mò đến xưởng bào và tìm thấy thằng cha Bunch thay vì thằng cha Burch. Và Byron nói anh ta có tiết lộ với cổ mà không suy nghĩ trước gì cả, là chồng cổ đang ở Jefferson. Vậy là cổ buộc anh ta tiếp tục và khai ra chỗ ở của Brown. Nhưng anh ta không nói với cổ chuyện Brown, hay Burch, có dính líu đến vụ giết người này với Christmas. Anh ta chỉ nói là Brown đi xa vì chuyện làm ăn. Và tôi cho là ông có thể gọi đó là chuyện làm ăn. Dù sao, đó cũng là công việc mà. Tôi chưa hề gặp một ai ham muốn một ngàn đô-la và làm việc khổ sở để nhận số tiền đó hơn hắn ta. Và vậy là cổ nói căn nhà của Brown này hẳn là căn nhà mà Lucas Burch đã hứa để cổ tới ở một khi sẵn sàng, và vậy là cổ chuyển ra ngoài đó để chờ cho đến khi Brown trở về sau chuyến đi làm ăn. Byron nói anh ta đã không thể ngăn cản cổ bởi vì anh ta không muốn nói ra sự thật về Brown, sau khi đã nói láo với cổ, nếu có thể nói như vậy. Anh ta nói đã có ý định đến gặp và nói chuyện với ông, chỉ phải cái là ông đã khám phá ra chuyện này quá nhanh, trước khi anh ta thu xếp ổn thỏa chỗ ăn ở cho cổ."

"Lucas Burch?", ông cò nói.

"Chính tôi cũng thấy ngạc nhiên chút ít," tên phụ tá nói. Ông định làm gì đây?"

"Không gì cả," ông cò nói. "Tao cho là tụi nó sẽ không làm gì có hại ngoài này đâu. Và cái nhà này không phải của tao nên tao không thể biểu con nhỏ đó dọn đi chỗ khác. Và như Byron đã nói với con nhỏ đó, Burch hay Brown hay ông nội ơi, bất cứ cái tên gì mà nó có, thì sẽ còn bận rộn lâu hơn lắm đó."

"Ông có định nói với Brown về cổ không?"

"Tao không nghĩ vậy," ông cò nói. "Đó không phải việc của tao. Tao không quan tâm đến những con vợ nó bỏ lại ở Alabama, hay ở bất cứ đâu khác. Điều tao quan tâm là thằng chồng mà nó dường như có lấy từ ngày nó đến ở Jefferson đây."

Tên phụ tá bật cười hô hố. "Tôi nghĩ đó là một sự việc có thực," anh ta nói. Anh ta ngừng cười, lộ vẻ suy nghĩ: "Nếu hắn không lãnh được một ngàn đô-la đó thì tôi nghĩ hắn sẽ không sống nổi."

"Tao không nghĩ vậy," ông cò nói.

***

Sáng thứ tư, vào khoảng ba giờ, một tên da đen cưỡi một con la không yên vào thành phố. Nó đi đến nhà ông cò và đánh thức ông dậy. Nó đã đến thẳng một lèo từ một ngôi nhà thờ dành cho người da đen cách đây hai mươi dặm, nơi mà buổi lễ đêm nhằm gây dựng lòng mộ đạo đang diễn ra. Vào buổi tối trước đó, ngay giữa lúc hát thánh ca, người ta bỗng nghe một tiếng động kinh khiếp ở phía cuối nhà thờ, và khi quay đầu lại, các đạo hữu thấy một người đàn ông đứng ở cửa ra vào. Cửa không có cài then, hay thậm chí không đóng lại, vậy mà tên đàn ông đó chắc đã chụp lấy cái tay nắm mà xô mạnh cánh cửa vào tường đến nỗi tiếng động đi xuyên qua các giọng hát đồng ca như một phát súng lục. Rồi tiếng hát im bặt trong khi tên đàn ông bước nhanh lên theo lối đi giữa nhà thờ, về phía bục giảng, nơi mà ông thầy thuyết pháp còn đứng khom người, hai bàn tay còn giơ cao nửa chừng, miệng còn chưa khép lại. Rồi họ thấy ra tên đàn ông là da trắng. Trong khung cảnh tối mờ mờ, dày đặc như ở dưới hang động mà hai ngọn đèn dầu lửa chỉ có làm tối thêm, họ đã không thể thấy tức khắc y ra sao cho đến khi y đến được một nửa lối đi. Rồi họ thấy mặt y không phải da đen, và một người đàn bà bắt đầu la hét, và những người ngồi phía sau đứng bật dậy, bắt đầu nhào ra phía cửa ra vào; và một người đàn bà khác, ngồi ở chiếc ghế dài dành cho những người đàn bà than khóc và lúc đó đã rơi một nửa vào tình trạng cuồng loạn, đứng bật dậy và quay người hết phía này sang phía kia và nhìn y trừng trừng trong một khoảnh khắc với đôi mắt trắng dã đảo lộn và hét toáng lên: "Quỷ sứ đó bà con ơi! Quỷ Sa-tăng hiện nguyên hình đó!" Rồi bà ta bỏ chạy như một người mù. Bà ta chạy thẳng về phía y. Không dừng bước, y vung tay đấm một cú thật mạnh làm bà ta ngã sóng soài, rồi y bước qua người bà ta đi tiếp, giữa những bộ mặt có miệng há hốc để la hét nhưng biết tránh đường cho y đi thẳng tới bục giảng và đặt tay lên ông mục sư.

"Không có một mống nào nhảy ra chặn y lại, ngay cả lúc đó," tên da đen đưa tin nói. "Mọi thứ diễn ra nhanh quá, và không ai biết y, không biết y là ai, y muốn gì hay không muốn gì cả. Và đàn bà thì la hét om sòm, và y thì đứng trước bục giảng, một tay nắm cổ họng Thầy Bedenberry, cố sức kéo thầy xuống. Tụi tôi thấy Thầy Bedenberry nói chuyện với y, cố gắng làm y bình tĩnh lại, nhưng y cứ giật lắc người thầy, rồi đưa tay tát mạnh vào mặt thầy. Và tụi tôi, với cả đám đàn bà đang la hét ầm ĩ, tụi tôi không thể nghe Thầy Bedenberry nói gì, nhưng chỉ thấy thầy không hề tìm cách đánh trả lại, rồi một vài người trong đám mấy ông già, những vị trợ tế đó, đến gần y và cố gắng nói chuyện với y, và y thả Thầy Bedenberry ra rồi y quay người lại, xô ngã lão già Thompson bảy mươi tuổi xuống ngay cái ghế dài dành cho những người đàn bà than khóc, và rồi y cúi người, cầm lên một chiếc ghế và xoay tròn nó khiến mấy người khác phải lùi lại. Và người ta cứ vẫn la hét ầm ĩ, chen lấn nhau để chạy ra ngoài. Rồi y quay người lại và trèo lên trên bục giảng trong khi Thầy Bedenberry lại đi xuống từ phía bên kia, và y đứng đó, hai cánh tay giơ cao như đang giảng đạo. Người y đầy bùn, trên quần, trên áo sơ-mi, và râu ria thì mọc đen trên hai má. Và y bắt đầu to tiếng nguyền rủa đám người trước mặt, rồi y nguyền rủa Chúa, nghe to hơn tiếng kêu thét của đám đàn bà, và có vài người đàn ông đang cố giữ lại thằng Roz Thompson, cháu ngoại lão già Pappy Thompson đó, nó cao một thước tám và cầm trong tay một cái dao cạo đã mở sẵn, miệng rít lên, 'Tui sẽ giết nó. Để tui đi, cô bác ơi. Nó đánh ông ngoại tui. Tui sẽ giết nó đây. Thả tui ra. Làm ơn thả tui ra coi,' Và người ta vẫn tìm cách chạy ra ngoài, họ chen lấn, giẫm đạp nhau ở các lối đi, ở cửa ra vào, trong khi y, ở bục giảng, tiếp tục nguyền rủa Chúa, nguyền rủa những người đàn ông đang cố lôi kéo thằng Roz Thompson ra phía cửa và thằng Roz cứ mở miệng van nài họ thả nó ra. Cuối cùng thì họ cũng lôi được thằng Roz ra ngoài, và tụi tôi chạy trốn trong các bụi rậm, và y vẫn đứng ở bục giảng mà la hét và nguyền rủa. Rồi sau một lát y im miệng, và tụi tôi thấy y đi ra đứng ở ngưỡng cửa. Và họ còn phải giữ thằng Roz lại lần nữa. Y chắc chắn đã nghe tiếng ồn ào phát sinh từ chỗ thằng Roz bởi vì y bắt đầu cười. Y đứng đó, ở ngưỡng cửa, với ánh sáng sau lưng, y cười rất to một lát rồi bắt đầu nguyền rủa lại, tụi tôi thấy y chộp lấy một cái chân ghế dài và huơ lên cao. Và tụi tôi nghe tiếng một cái đèn đầu tiên bị bể, và ngôi nhà thờ trở nên tối hơn, tụi tôi nghe một cái đèn khác bị bể, vậy là bóng tối chụp xuống hoàn toàn và tụi tôi không còn thấy y nữa. Và từ chỗ thằng Roz bị giữ lại đó, nổi lên tiếng ồn kinh khiếp. Họ hét to, 'Giữ chặt nó lại! Giữ chặt nó lại! Tóm nó lại! Tóm nó lại!' Rồi ai đó la lên, 'Nó thoát ra rồi!' và tụi tôi nghe Roz chạy về lại phía nhà thờ và ông trợ tế Vines nói với tôi, 'Roz sẽ giết y. Mày nhảy lên con la đi tìm ông cò ngay đi. Kể với ổng những gì mày thấy.' "Thưa ông cò, không có ai chọc giận y cả," tên da đen nói. "Tụi tôi thậm chí không biết tên y. Thậm chí chưa bao giờ thấy y trước đó. Và tụi tôi cố sức giữ thằng Roz lại. Nhưng thằng Roz thì to con quá đi, và y đã xô ngã ông ngoại bảy chục tuổi của thằng Roz và thằng Roz, với cái dao cạo mở sẵn trong tay, không tỏ ra quan tâm tới người nào khác mà nó có lẽ phải cắt để vạch một lối đi đến tận ngôi nhà thờ, nơi mà tên da trắng đang đứng. Nhưng tôi thề trước Chúa là tụi tôi đã làm hết sức để giữ thằng Roz lại."

Đó là những gì tên da đen kể ra bởi vì đó là những gì anh ta biết. Anh ta đã lên đường vào thành phố ngay tức khắc: anh ta không biết là trong lúc anh ta kể chuyện cho ông cò thì tên da đen Roz nằm bất tỉnh trong một căn lều bên cạnh, sọ bị nứt ở chỗ mà Christmas, đứng sau cánh cửa giờ đây tối thui, nện vào đầu nó với cái chân ghế khi Roz lao vào trong nhà thờ. Christmas, canh theo tiếng chân chạy, chỉ đánh một cú duy nhất, dữ dội, dã man, vào cái hình dạng cao to đâm đầu lao qua ô cửa, và ngay sau khi ấy nghe nó đổ nhào ầm ĩ giữa các ghế dài bị lật ngược rồi nằm im. Không chờ thêm chút nào, Christmas nhảy vọt ra ngoài, hai châm chạm đất thì y đứng lại, giữ thăng bằng, điềm tĩnh, thậm chí không thở hổn hển, tay vẫn nắm chặt cái chân ghế. Y không thấy nóng, không toát mồ hôi; bóng tối mát lạnh bao phủ người y. Sân nhà thờ là một đám đất nện có hình lưỡi liềm vàng vọt được vây quanh bởi các bụi rậm và cây cối. Y biết là các bụi rậm thì đầy người da đen: y cảm thấy những cặp mắt của họ. 'Đang nhìn đó. Đang nhìn đó,' y nghĩ. 'Nhưng họ thậm chí không biết là họ không thể thấy mình.' Y thở sâu; y chợt nhận ra là y đang nhắc xem nặng nhẹ cái chân ghế, một cách tò mò, như thể để thử sự thăng bằng, như thể y chưa hề chạm đến nó trước đó. "Mình sẽ khắc một cái dấu lên nó ngày mai,' y nghĩ. Y cẩn thận dựng cái chân ghế vào bức tường bên cạnh y và móc ra từ áo sơ-mi một điếu thuốc và que diêm. Giữa lúc quẹt diêm, y ngừng một chút, và với ngọn lửa bé bỏng, vàng vọt bùng lên, y vẫn đứng tại chỗ, đầu hơi quay ra sau. Đó là tiếng móng guốc mà y nghe ra. Y nghe nó bỗng dưng vang lên, càng lúc càng nhanh rồi tắt dần. "Một con la," y thầm thì thành tiếng. "Mang tin tốt lành đi vào thành phố." Y châm lửa điếu thuốc rồi ném que diêm, và y vẫn đứng tại chỗ, hút thuốc, cảm thấy những cặp mắt da đen nhìn chằm chằm đốm lửa nhỏ xíu đang cháy. Dù đứng đó cho tới khi hút xong điếu thuốc, y vẫn tỏ ra rất cảnh giác. Y dựa lưng vào bức tường và tay mặt cầm lại cái chân ghế. Y hút đến khi điếu thuốc cháy hết, rồi y ném nó, ánh lửa lập lòe, ra xa hết sức mình, về phía những bụi rậm, nơi mà y cảm thấy đám người da đen đang núp. "Còn mẫu thuốc dành cho các bạn đó!" y nói, tiếng nói thì đột ngột và vang to trong sự im ắng chung quanh. Trong các bụi rậm mà họ đang rình rập, những người da đen thấy điếu thuốc lá mang ánh lửa rơi xuống đất và còn phát sáng thêm một lát. Nhưng họ không thấy y bỏ đi lúc nào, hay theo ngã nào.

Tám giờ sáng hôm sau ông cò đến, với một đội cảnh sát được thành lập tạm thời và hai con chó. Ngay tức khắc, họ khám phá ra một điều mà các con chó không dính dáng gì đến. Ngôi nhà thờ thì trống không. Không có lấy một bóng người da đen. Đội cảnh sát đi vào trong ngôi nhà thờ, im lặng đưa mắt nhìn các thứ đồ bị gãy đổ. Rồi họ đi ra. Các con chó đã dò thấy tức khắc cái gì đó nhưng chúng chưa kịp bày tỏ thì một tên cảnh sát tìm thấy một mảnh giấy nhét trong khe nứt của một tấm ván nằm phía bên hông nhà thờ. Rõ ràng là nó được một bàn tay con người nhét vào đó, và sau khi mở nó ra, người ta thấy đó là cái bao của gói thuốc lá được mở bung ra và được vuốt cho phẳng, ở trên cái mặt trong, màu trắng, thì có một tin nhắn viết bằng bút chì. Chữ viết rất xấu, như thể từ một bàn tay vụng về hay có lẽ được viết trong bóng tối. Tin nhắn không dài. Nó được gởi cho đích thân ông cò, và nó thì không thể lặp lại ở đây vì quá tục tĩu - chỉ một nhóm từ duy nhất - và không có ký tên. "Tôi đã bảo ông rồi mà, không phải vậy sao?" một người trong bọn họ nói. Anh ta cũng không cạo râu, da xám xịt, giống như con mồi mà họ chưa thấy bóng dáng, và bộ mặt anh ta trông mệt mỏi và hơi điên, với một vẻ thất vọng, căm tức, giọng thì khàn đục như thể dạo sau này anh ta đã không ngừng hét và nói. "Tôi lúc nào cũng bảo ông mà! Tôi đã bảo ông mà!"

"Bảo tao cái gì?" ông cò nói, giọng lạnh và đều. Ông cầm mảnh giấy có tin nhắn và ném về phía anh ta một tia nhìn chằm bằm và lạnh lẽo. "Mày đã bảo tao cái gì? Và khi nào?" Anh ta nhìn ông cò, lộ vẻ tuyệt vọng, phẫn nộ, gần như sắp tới giới hạn của sức chịu đựng; nhìn anh ta, tên phụ tá ông cò nghĩ, 'Nếu không giựt được số tiền thưởng đó thì nó chỉ có chết thôi.' Miệng anh ta mở ra, dù không phải để nói, trong khi anh ta nhìn chằm chằm ông cò với một thứ ngạc nhiên hoang mang và nghi hoặc. "Và tao cũng đã bảo mày mà," ông cò nói với giọng điềm tĩnh và lạnh lùng, "nếu mày không thích cách tao điều khiển công việc này thì mày chỉ việc quay về chờ trong phố. Có một chỗ tốt ở đó để cho mày chờ. Mát mẻ lắm, chớ mày không phải chịu đựng nắng cháy da dưới mặt trời như ở ngoài này. Có phải tao đã bảo mày vậy không? Mày nói đi."

Anh ta đành khép miệng lại. Đưa mắt nhìn chỗ khác, như thể phải ra sức lắm mới làm được vậy; và như thể ra sức lắm mới nói được, "Dạ phải." với giọng khô khốc và nghẹn ngào.

Ông cò quay người lại một cách nặng nề, tay vẫn cầm mảnh giấy. "Vậy thì ráng nhét điều đó vào trong óc mày!" ông nói. "Giả dụ là mày có óc..." Mọi người đứng vòng quanh ông. Các bộ mặt thì điềm tĩnh, đầy vẻ quan tâm, dưới nắng sớm. "Nhưng tao nghi lắm, cái chuyện mày có óc hay không đó, nếu mày hay thằng nào khác muốn biết ý tao." Ai đó bỗng bật cười hô hố. "Im đi," ông cò nói. "Bắt đầu đi nào. Bufe, mày thả chó chạy đi."

Hai con chó được thả lỏng và tìm ra ngay các dấu vết, tuy còn bị dắt dây. Các dấu vết thì rõ, dễ lần theo nhờ sương mai trên mặt đất. Chắc là kẻ chạy trốn chẳng bỏ công che giấu chúng chút nào. Họ có thể thấy ngay cả những dấu đầu gối và bàn tay ở chỗ y đã quỳ xuống bên một con suối để uống nước. "Tôi chưa từng biết một thằng sát nhân nào khôn khéo hơn thế, đối với những người truy đuổi y," tên phụ tá ông cò nói. "Nhưng cái thằng ngu trời đánh này, y thậm chí không ngờ là ta có thể dùng chó."

"Ta đã thả chó chạy tìm y mỗi ngày một lần từ chủ nhật tới giờ," ông cò nói. "Và ta vẫn chưa tóm được y."

"Những dấu vết đó đã nguội quá rồi. Ta chỉ có những dấu vết nóng hổi mới ngày hôm nay thôi. Nhưng rốt cuộc thì y cũng có sơ xuất thôi. Ta sẽ tóm y hôm nay. Có lẽ trước buổi trưa đó."

"Tao chờ để thấy đây," ông cò nói.

"Ông sẽ thấy mà," tên phụ tá nói. "Những dấu vết này nối tiếp nhau thẳng như đường xe lửa. Tôi có thể tự mình đi theo nó, gần như vậy. Ông nhìn này. Ông có thể thấy ngay cả những dấu chân của y. Cái thằng ngu trời đánh đó không đủ khôn để đi theo con lộ đầy bụi ngoài kia, nơi có nhiều người đi bộ qua lại, nơi mà mấy con chó không thể ngửi ra y được. Trước mười giờ, những con chó này sẽ tìm ra nơi mà những dấu vết này chấm dứt."

Những con chó làm đúng y vậy. Một lát sau, những dấu vết nối tiếp nhau đó đột ngột quẹo thẳng góc. Họ dò theo rồi đụng phải con lộ mà họ đi tiếp, theo sau các con chó. Đầu chúc xuống, vẻ hăm hở, hai con chó chạy được một quãng ngắn thì nhào sang phía bờ đường, nơi có một con đường chạy xuống từ một nhà kho chứa bông vải nằm trên cánh đồng sát bên. Chúng bắt đầu chạy quanh, cố sức giằng sợi dây dắt, sủa to bằng cái giọng mạnh mẽ, vui vẻ và ngân vang; rất phấn khích, chúng gầm gừ, chúng nhảy chồm tới. "Nhìn này, cái thằng ngu trời đánh!" tên phụ tá nói. "Y ngồi xuống chỗ này để nghỉ chân: đây là những dấu chân của y, có cùng gót giày bằng cao su đó. Bây giờ y ở cách đây không quá một dặm đâu! Tiến tới nào, các chàng trai!" Họ đi tiếp. Các con chó vẫn sủa, kéo căng các dây dắt, và đám đàn ông giờ thì chạy nước kiệu. Ông cò quay về phía tên đàn ông không cạo râu.

"Bây giờ là cơ hội cho mày chạy lên trước tóm y và lãnh một ngàn đô-la đó," ông nói. "Tại sao mày lại chần chờ?"

Tên đàn ông không trả lời; không ai còn nhiều hơi để nói chuyện, nhất là sau khi chạy được khoảng một dặm, các con chó, vẫn kéo căng dây dắt và sủa ăng ẳng, lại rời con lộ và đi theo một con đường hẹp chạy quanh co lên một ngọn đồi rồi chấm dứt trong một cánh đồng trồng bắp. Tại đây, chúng ngừng sủa, nhưng sự háo hức của chúng có vẻ tăng lên; đám cảnh sát bây giờ thì không đi nữa, họ chạy. Nằm đằng sau những cây bắp cao tới đầu người là một căn lều da đen. "Y ở trong đó," ông cò nói, tay rút súng lục ra. "Bây giờ thì phải cẩn thận đó nghe tụi mày. Y có súng đó."

Cuộc vây bắt được thực hiện một cách khéo léo và lành nghề: căn lều bị những tên cảnh sát ẩn nấp, tay cầm súng, bao quanh, và ông cò với tên phụ tá theo sau, ép thân hình vạm vỡ của mình vào sát tường căn lều một cách nhanh chóng và khôn khéo, ở ngoài tầm nhìn từ cửa sổ. Vẫn ép người sát tường, ông chạy đến tận cửa ra vào, giơ chân đạp tung cánh cửa và nhảy vọt vào trong căn lều, súng giơ ra đằng trước. Ông chỉ thấy một đứa bé da đen. Trần truồng như nhộng, nó ngồi trên đống tro nguội trước lò sưởi, đang ăn cái gì đó. Hình như chỉ có mình nó, nhưng một khoảnh khắc sau đó một người đàn bà xuất hiện từ cửa trong nhà, miệng há hốc, suýt buông cái nồi bằng sắt trên tay. Mụ mang một đôi giày đàn ông mà một người trong nhóm nhận ra là của cái tên đang trốn chạy. Mụ kể với họ về một tên đàn ông da trắng thuộc loại lang thang rày đây mai đó, xuất hiện vào lúc rạng đông, và y đã đổi giày với mụ, đổi lấy một đôi giày xăng đá của chồng mụ mà mụ đang mang trên chân lúc đó. Ông cò lắng tai nghe. "Chuyện đó xảy ra ngay bên nhà kho bông vải phải không?" ông nói. Mụ trả lời: "Phải đó." Ông quay ra gặp lại các nhân viên của mình, gặp lại các con chó hăm hở tuy cổ còn bị cột dây dắt. Ông nhìn xuống hai con chó trong khi các tên cảnh sát lên tiếng hỏi ông rồi ngừng nói, mắt vẫn nhìn ông. Họ nhìn ông bỏ cái súng lục vào túi lại, rồi quay người, đưa chân đá thật mạnh hai con chó, mỗi con một cú. "Mang hai cậu chó trời đánh này về lại phố," ông nói.

Nhưng ông cò là một sĩ quan giỏi. Ông biết, cũng như các nhân viên của mình, là ông sẽ trở lại nhà kho chứa bông vải, nơi mà ông tin là Christmas đã lẩn trốn suốt thời gian qua, dù ông cũng biết là Christmas sẽ không còn đó khi ông quay lại. Họ vất vả lắm mới kéo được hai con chó rời khỏi căn lều da đen và dưới ánh nắng chói lọi của mặt trời mười giờ, họ vây quanh cái nhà kho chứa bông một cách thận trọng, lành nghề và êm ru bà rù, súng lục cầm sẵn trên tay, tất cả theo đúng bài bản chiến đấu tuy không mang hy vọng gì đặc biệt. Họ chỉ tìm ra một con chuột đồng đầy vẻ kinh ngạc và sợ hãi! Tuy nhiên, ông cò bắt đem chó đến. Trước đó, chúng đã không chịu đến gần nhà kho chút nào, không chịu rời xa con lộ; chúng cứ kéo căng sợi dây dắt, tự ý ngoái cổ nhìn ra sau, mõm chỉa xuống mé dưới con lộ, về phía căn lều da đen, nơi mà chúng vừa mới bị lôi đi khỏi. Phải cần đến hai người dùng sức mới kéo được chúng đến. Ngay khi sợi dây dắt được thả dài, chúng nhảy vọt ra trước, chạy quanh cái nhà kho bông vải rồi lao đi theo các dấu vết mà đôi chân của kẻ trốn chạy đã để lại trên những ngọn cỏ cao còn ướt sương, dưới bóng nhà kho. Chúng chạy ra phía con lộ một lần nữa, vừa chạy vừa nhảy vọt, kéo căng sợi dây dắt và lôi hai tên cảnh sát chạy theo gần năm chục thước trước khi hai người này quấn được sợi dây dắt xung quanh một thân cây nhỏ để chúng không thể chạy tiếp được nữa. Lần này, ông cò không muốn nhọc sức đá chúng nữa.

***

Cuối cùng thì sự ồn ào, những hồi báo động, âm thanh và cuồng nộ của cuộc săn người cũng lụi tàn, cũng tắt ngấm, và y không nghe gì nữa. Y không ở trong nhà kho chứa bông khi đám người và hai con chó đi qua, như ông cò nghĩ. Y chỉ ngừng bước ở đó trong một lát đủ để cột lại dây đôi giày xăng đá: giày đen, giày đen mang mùi người da đen. Chúng trông như được đục đẽo từ quặng sắt bằng một cái rìu cùn. Nhìn xuống sự thô kệch không rõ hình dạng, mộc mạc và vụng về của chúng, y nói, "A" qua kẽ răng. Y có cảm tưởng thấy chính mình cuối cùng bị săn đuổi bởi dân da trắng tới tận cái vực tối đen đang đợi y, đang tìm cách nhận chìm y từ ba mươi năm nay, và bây giờ và cuối cùng thì y thực sự thâm nhập vào đó, mang xung quanh mắt cá chân của mình một cái máy đo chuẩn xác và không thể hủy hoại được của lớp thủy triều tối đen đang dâng lên này.

Trời hừng đông: ánh sáng ban ngày vào cái khoảnh khắc xam xám và cô đơn, vào lúc mà chim chóc cựa mình tỉnh giấc một cách dịu dàng. Không khí hít vào thì mát rượi như nước từ dòng suối trong veo. Y thở sâu, chậm, và với mỗi hơi thở, y cảm thấy cả con người mình tan biến trong cái màu xám không đậm, không nhạt, được đồng hóa với nỗi cô đơn này, với sự thanh thản này - cả haikhông từng biết đến nỗi cuồng nộ hay niềm tuyệt vọng. 'Đó là tất cả những gì mình muốn,' y nghĩ, với một sự ngạc nhiên thầm lặng và chậm rãi. 'Tất cả chỉ có vậy thôi, từ ba mươi năm nay. Theo mình thì đâu có gì là đòi hỏi lắm đâu, trong ba mươi năm trời.'

Y đã không ngủ được nhiều từ hôm thứ tư, và giờ đây thứ tư lại đến rồi đi, dù y không biết. Khi nghĩ về thời gian, y bây giờ có cảm tưởng rằng trong ba mươi năm y đã sống bên trong một cuộc diễu hành có thứ tự, với những ngày được đặt tên và mang số như những cái cọc hàng rào, và rằng vào một đêm đi ngủ, khi tỉnh dậy y thấy mình không còn ở trong đó nữa. Trong một khoảng thời gian sau khi trốn chạy vào đêm thứ sáu đó, y cố gắng tính toán những ngày đi qua, theo thói quen cũ. Một lần, sau khi ngủ suốt đêm trên một đống rơm, y tỉnh dậy đúng lúc để thấy cái nông trại thức giấc. Y thấy, trước khi trời sáng, cái ánh vàng vàng của một ngọn đèn trở nên sống động trong nhà bếp; rồi trong cái bóng tối đang chuyển sang xám, y nghe tiếng động chậm rãi, chát chúa của một chiếc rìu, nghe sự chuyển động trong cái chuồng bò gần đó, một sự chuyển động của con người giữa những tiếng động của đám gia súc đang thức dậy. Rồi y ngửi thấy mùi khói đến từ nhà bếp, một mùi đồ ăn nóng hổi, và y bắt đầu nói đi nói lại không dứt với chính mình Mình đã không ăn gì từ đó Mình đã không ăn gì từ đó cố gắng nhớ lại từ hôm thứ sáu, từ lúc y ăn tối trong một tiệm ăn ở Jefferson, đến nay là bao nhiêu ngày rồi. Và sau một lát, trong khi y nằm im chờ đợi cho đến khi những người đàn ông ăn xong và đi ra đồng, cái tên của ngày trong tuần đối với y có vẻ quan trọng hơn là đồ ăn. Bởi vì, khi các người đàn ông sau hết cũng ra đi và y leo xuống đống rơm và xuất hiện trước cửa nhà bếp, dưới ánh nắng chan hòa màu vàng nhạt như hoa trường thọ, y không hề xin đồ ăn. Y đã có ý định xin ăn trước đó. Y cảm thấy những lời lẽ gay gắt di chuyển qua đầu y, ngay sau cái miệng. Rồi một người đàn bà mặt mũi hốc hác, da sạm nắng, đi đến ngưỡng cửa và nhìn y, y có thể thấy rõ cú sốc và sự nhận biết và nỗi sợ hãi trong mắt bà ta, và trong khi nghĩ Mụ biết mình rồi. Mụ cũng nghe tin đồn y nghe miệng mình nói ra một cách bình thản: "Bà có thể nói cho tôi biết hôm nay là thứ mấy vậy? Tôi chỉ muốn biết hôm nay thứ mấy thôi."

"Thứ mấy à?" Mặt bà ta thì cũng hốc hác như y, thân hình thì cũng ốm, cũng không biết mệt và cũng kiệt sức như y. Bà ta nói: "Rời khỏi đây đi! Hôm nay thứ ba đó! Rời khỏi đây đi! Nếu không, tôi sẽ gọi chồng tôi ra."

Y nói, "Cám ơn," một cách bình thản khi cánh cửa đóng sập lại. Rồi y nhận ra là mình đang chạy. Y không nhớ mình đã bắt đầu chạy khi nào. Trong một lúc, y nghĩ là y chạy vì một mục tiêu và hướng đến một mục tiêu mà cái hành động chạy này bỗng dưng nhớ lại, và do đó trí óc y không cần bận tâm để nhớ ra tại sao y lại chạy, bởi vì chạy là một chuyện không khó. Trên thực tế, chạy thì dễ lắm. Y cảm thấy người mình nhẹ nhàng, không trọng lượng. Mặc dù sải chân rất dài, y có vẻ chạy không nhanh tuy nhẹ nhàng, bước chân đặt xuống một cách khi hú họa, khi cố ý, trên mặt đất không được cứng chắc cho lắm. Rồi y té xuống, dù không bị vấp gì cả. Y chỉ ngã bổ cả người, trong một khoảnh khắc tin rằng mình vẫn còn vững trên hai chân và còn đang chạy. Nhưng giờ thì y đã nằm sấp trong một cái hố cạn ở cuối một cánh đồng đã cày xong. Rồi bất ngờ y nói, "Tốt hơn mình nên đứng dậy cho rồi." Khi ngồi dậy, y thấy mặt trời đang ở lưng chừng trời nhưng chiếu đến y từ hướng ngược lại. Thoạt đầu y chỉ nghĩ là mình đã đơn giản xoay người sang hướng khác. Rồi y hiểu ra là trời đang tối, là y đã té khi chạy vào buổi sáng, và dù y có cảm tưởng mình đã ngồi dậy ngay lập tức, bây giờ là buổi tối rồi. 'Mình đã lăn ra ngủ,' y nghĩ. 'Mình đã ngủ hơn sáu tiếng đồng hồ. Mình chắc chắn đã ngủ trong khi chạy mà không biết. Chắc chắn là vậy rồi.'

Y không cảm thấy ngạc nhiên chút nào. Thời gian, sự nối tiếp của ngày và đêm đã không còn đều đặn nữa đối với y. Nó bây giờ có thể hoặc là ngày, hoặc là đêm, dường như ở ngay khoảnh khắc này, giữa hai cái chớp mắt, mà không hề báo trước. Y không bao giờ có thể biết được khi nào y trải qua từ đêm sang ngày, khi nào y nhận ra là mình đã ngủ mà không nhớ có nằm xuống hay không, hay khi nào y đi bộ mà không nhớ mình đã ngừng ngủ. Đôi khi y có cảm tưởng là một đêm ngủ, trong ổ rơm, trong một cái hố ven đường, dưới một mái nhà bỏ hoang, được theo sau tức khắc bởi một đêm khác mà không có lấy một ngày, không có ánh sáng xen vào giữa hai đêm đó để y có thể thấy đường mà chạy trốn; là ngày tiếp nối ngày, không có đêm ở giữa chúng, lúc nào cũng gấp gáp vì trốn chạy, không có cách quãng để nghỉ ngơi, như thể mặt trời, thay vì lặn xuống, lại quay lại trên bầu trời, lui về phía sau mà không chạm đến chân trời. Khi y vừa đi vừa ngủ, hay ngay cả khi quỳ xuống để vốc nước uống bên một con suối, y không bao giờ có thể biết đôi mắt mình khi mở ra sẽ gặp ánh nắng mặt trời hay các vì sao đêm.

Có một giai đoạn mà y lúc nào cũng thấy đói. Y nhặt nhạnh các trái cây ung thối hay đã có giòi để ăn. Đôi khi, y bò trong các cánh đồng, kéo thấp xuống và nhai các trái bắp đã già, cứng như cái đồ nạo khoai tây. Lúc nào y cũng nghĩ đến chuyện ăn, hình dung ra trong đầu các món ăn, các đồ ăn. Có khi y nghĩ tới bữa ăn dọn sẵn trên bàn cho y ở nhà bếp ba năm trước đây, và với cả cõi lòng tan nát không kham nổi vì hối tiếc, ân hận và giận điên người, y thấy lại những cái vung tay ra sau của mình một cách đều đặn và có tính toán để ném mạnh vào tường những dĩa đồ ăn. Rồi một ngày nọ y không thấy đói nữa. Chuyện này đến bất ngờ và thanh thản. Y cảm thấy mát mẻ và im ắng trong người. Tuy vậy, y biết rõ là y phải ăn. Y tự ép mình ăn những trái cây ung thối, những trái bắp cứng ngắt, nhai chậm rãi mà không thấy có mùi vị gì. Y ăn, ăn quá nhiều những thứ đó đến nỗi y bị xuất huyết đường ruột tới mấy lần. Vậy mà ngay tức khắc sau đó, y bị nhu cầu ăn, ham muốn ăn, ám ảnh trở lại. Không phải là đồ ăn đâu, mà là nhu cầu ăn ám ảnh y, bây giờ. Y cố gắng nhớ lại khi nào là lần cuối cùng y ăn được những đồ ăn nấu chín và tươm tất. Y có thể cảm thấy, có thể nhớ lại, ở đâu đó, một ngôi nhà, một căn lều. Ngôi nhà hay căn lều, trắng hay đen: y không thể nhớ ra. Rồi, trong khi đang ngồi im lặng, trên khuôn mặt hốc hác, bệnh hoạn, đầy râu ria không cạo, lại xuất hiện một vẻ mơ mộng ngây ngất: y ngửi ra mùi người da đen. Bất động (y đang ngồi dựa lưng vào một gốc cây bên dòng suối, đầu hơi ngã ra sau, hai bàn tay đặt trên đầu gối, gương mặt tiều tụy nhưng yên bình), y ngửi và thấy các món ăn nấu theo cách người da đen. Đó là trong một căn phòng. Y không nhớ mình đi vào bằng cách nào. Nhưng căn phòng thì đầy sự khiếp đảm đột ngột và nhộn nhạo trốn chạy, như thể người ta vừa mới bỏ trốn bất ngờ, trong sợ hãi. Y ngồi ở bàn, chờ đợi, không suy nghĩ gì hết, trong sự trống không, trong sự im lặng mang không khí trốn chạy. Rồi y thấy đồ ăn trước mặt mình, những dĩa đồ ăn được mang đến bất thình lình bởi những bàn tay da đen dài và mềm mại, chúng cũng bỏ trốn ngay sau khi đặt đồ ăn lên bàn. Y có cảm tưởng đang nghe, mà như thực sự không nghe, những lời than van của nỗi kinh hoàng và đau đớn, nhẹ hơn những tiếng thở dài xung quanh y, hòa lẫn với tiếng nhai và nuốt đồ ăn. 'Lần đó, là trong một căn lều,' y nghĩ. 'Và họ sợ. Sợ người anh em của mình!'

Đêm đó, một điều lạ lùng xuất hiện trong tâm trí y. Y nằm sẵn sàng ngủ. Nhưng y không ngủ. Y không có cảm giác mình có nhu cầu phải ngủ. Như trong trường hợp y để bao tử mình sẵn sàng tiếp nhận đồ ăn trong khi nó có vẻ không ham muốn hay không cần ăn chút nào. Đó là một cảm giác lạ lùng, theo nghĩa là y không thể khám phá ra điểm xuất phát, động cơ hay sự giải thích nào về nó. Y nhận ra là mình đang cố gắng tính toán hôm nay là thứ mấy trong tuần. Như thể y cuối cùng cảm thấy, bây giờ, một nhu cầu có thực và khẩn cấp xóa bỏ mà không sai lầm vì tính thiếu hay tính quá lố, những ngày đã qua, với một mục đích nào đó, một ngày hay một hành động rõ ràng nào đó. Thay vì ngủ, y lại rơi vào trạng thái hôn mê, vì nhu cầu ngủ giờ đã đi vào tâm trí y. Khi y tỉnh dậy trong buổi rạng đông đầy sương xám, nhu cầu này được kết tinh đến mức nó không còn có vẻ lạ lùng nữa.

Mặt trời vừa lên, ánh sáng bắt đầu lan ra. Y đứng lên và đi xuống suối, móc từ túi ra cái dao cạo, xà bông và bàn chải để quệt xà bông. Nhưng trời còn quá mờ mờ để có thể thấy rõ mặt y trên mặt nước, vậy là y ngồi xuống bên suối và chờ cho đến khi thấy rõ hơn. Rồi, một cách kiên nhẫn, y quệt xà bông lên mặt đầy râu với nước suối lạnh ngắt. Bàn tay y run rẩy; tuy rất vội, y vẫn cảm thấy chán nản và y phải tự ép mình cố gắng. Lưỡi dao cạo thì cùn; y tìm cách mài nó cho sắc trên da giày nhưng da giày thì cứng như sắt và ướt sương. Y cạo một cách tàm tạm. Bàn tay y run rẩy; việc cạo râu không được làm tốt cho lắm và y cắt da mặt đến ba hay bốn lần, và y cầm máu bằng nước suối lạnh ngắt cho đến khi máu ngừng rỉ ra. Y cất các đồ cạo râu lại và bắt đầu bước đi. Y cứ nhắm trước mắt mà đi thẳng, bỏ qua những lối nhỏ dễ đi hơn. Nhưng sau một quãng ngắn, y ra đến một con lộ và ngồi xuống bên cạnh nó. Đó là một con đường im ắng, kéo dài và biến mất một cách lặng lẽ. Bụi đường lờ mờ chỉ được nhận ra nhờ các dấu vết để lại của những bánh xe hẹp và hiếm khi đi qua, của những móng guốc các con ngựa và các con la, và ở đôi chỗ, của chân người. Y ngồi ven đường, không có áo khoác. Chiếc áo sơ-mi của y, ngày trước thì trắng tinh, và cái quần, ngày trước thì được ủi thẳng thớm, giờ thì bẩn thỉu và lấm bùn. Khuôn mặt hốc hác của y thì lởm chởm râu cạo không đều và vấy máu khô. Mặt trời lên và sưởi ấm y, nhưng y cứ rùng mình vì mệt và lạnh. Sau một lát, hai đứa bé da đen xuất hiện ở chỗ quẹo, và đến gần. Chúng không thấy y cho đến khi y lên tiếng; chúng ngừng bước, đờ người ra, và nhìn y với lòng mắt trắng dã. "Hôm nay thứ mấy vậy?" y lặp lại. Chúng không nói gì cả, cứ nhìn y chằm bằm. Y ngửng cằm lên. "Đi tiếp đi," y nói. Chúng bước tiếp. Y không nhìn hai đứa nó nữa. Y vẫn ngồi, có lẽ suy nghĩ về cái chỗ mà chúng đã đứng lại, như thể đối với y, chúng từ hai vỏ sò bước ra khi đi tiếp. Y không thấy là hai đứa bé đã bắt đầu chạy.

Vậy là, ngồi ở ven đường, được mặt trời chầm chậm sưởi ấm, y ngủ mà không biết mình ngủ, bởi vì điều đầu tiên mà y biết ra một cách có ý thức là tiếng cọt kẹt và lạch cạch kinh khủng của gỗ và kim loại và tiếng móng guốc lóc cóc. Y mở mắt vừa kịp thấy chiếc xe la quành sang một bên và biến mất ở khúc quẹo. Những người ngồi trên xe còn ngoái cổ nhìn lại y, và tên đánh xe vung lên quật xuống cái roi. 'Họ cũng nhận ra mình mà,' y nghĩ. 'Họ và người đàn bà da trắng đó. Và những người da đen mà mình ăn ở nhà họ ngày hôm đó. Bất cứ ai trong bọn họ đã có thể bắt mình, nếu họ muốn vậy. Bởi vì đó là điều tất cả bọn họ đều muốn: mình bị bắt. Nhưng họ lại bỏ chạy đầu tiên. Tất cả bọn họ đều muốn mình bị bắt, vậy mà khi mình đến, sẵn sàng nói: tôi đây này Thật đó, có lẽ mình sẽ nói Tôi đây này tôi chán tôi chán chạy lắm rồi chán phải mang cuộc đời tôi như thể nó là một giỏ trứng họ lại bỏ chạy tuốt. Như thể có một quy tắc để tóm cổ mình, và nếu bắt giữ mình theo cách đó thì sẽ không đúng với quy tắc này.'

Vậy là y trốn lại trong các bụi rậm. Lần này, y tỏ ra cảnh giác và y nghe tiếng xe la trước khi nó xuất hiện. Y không ló đầu ra cho đến khi nó đến trước mặt y. Lúc đó, y bước tới và nói, "Này, này!" Chiếc xe lắc mạnh rồi ngừng lại và cái đầu tên đánh xe da đen cũng lúc lắc theo. Trên mặt hắn hiện ra vẻ ngạc nhiên, rồi sự nhận biết và sự kinh hãi. "Hôm nay thứ mấy vậy?" Christmas nói.

Tên da đen nhìn y trừng trừng, miệng há hốc. "Ôn... Ông nói cái gì?"

"Hôm nay là thứ mấy trong tuần vậy? Thứ năm? Thứ sáu? Thứ mấy vậy? Tao không đánh đập mày đâu mà sợ."

"Hôm nay thứ sáu," tên da đen nói. "Lạy Chúa tôi, hôm nay thứ sáu mà."

"Thứ sáu," Christmas nói. Y lắc đầu một lần nữa. "Đi tiếp đi." Roi đánh xuống và hai con la rùng mình cất bước. Chiếc xe la này cũng ra khỏi tầm mắt ở chỗ quẹo, cái roi vung lên quất xuống. Nhưng Christmas đã quay người đi vào khu rừng cây.

Một lần nữa, y cứ nhắm trước mắt mà đi thẳng như cái thước băng của người đo đạc, bất chấp các ngọn đồi, các thung lũng, các bãi lầy. Thế nhưng, y không tỏ ra vội vã. Y đi như một người biết mình đang ở đâu và nơi nào mình muốn đi đến và cần bao nhiêu thời gian, tính đến từng phút, để tới đó. Như thể y ham muốn nhìn lại, lần đầu tiên hay lần cuối cùng, quê hương bản thổ của mình qua tất cả các thời kỳ của nó. Chính ở vùng đất này mà y lớn lên thành người lớn, nơi mà, như một tên thủy thủ không biết bơi, hình dạng cơ thể và sự suy nghĩ của y đã được định hình do những sức mạnh khác nhau của chính vùng đất này mà y không bao giờ biết được cái hình dạng thực sự và những cảm giác thực sự. Cả một tuần nay y rình rập và bò ngang, bò dọc giữa những địa điểm bí mật của nó, vậy mà y vẫn thấy mình xa lạ trước những quy luật bất biến mà quả đất phải tuân theo. Trong một thời gian dài đi không ngừng, y nghĩ rằng đúng là việc này, tức là việc nhìn và thấy đó, cho y sự bình an này, sự chậm rãi này, sự trầm lặng này, cho đến khi câu trả lời thực sự hiện ra trong đầu y. Y cảm thấy khát khô cổ và nhẹ nhõm cả người. 'Mình không phải bận tâm về chuyện phải ăn nữa,' y nghĩ. 'Đúng là điều này đó.'

Đến trưa thì y đã đi được tám dặm. Y đến một con lộ trải sỏi rộng rãi, một quốc lộ. Lần này chiếc xe la dừng lại bình thường khi y giơ tay ra dấu. Bộ mặt người thanh niên da đen đánh xe không tỏ ra ngạc nhiên hay nhận biết. "Con lộ này chạy đi đâu?" Christmas nói.

"Mottstown. Tui đang đi tới đó."

"Mottstown. Mày cũng đi tới Jefferson chớ?"

Tên thanh niên gãi đầu. "Tui chẳng biết nó ở đâu. Tui chỉ đi tới Mottstown thôi."

"Ồ," Christmas nói. "Tao hiểu rồi. Mày đâu sống ở miệt này, phải không?"

"Thưa ông phải. Tui sống đằng kia, cách xa đây tới hai quận lận. Tui đánh xe cả ba ngày đường rồi. Tui đi Mottstown để nhận con bê mà cha tui mua. Ông muốn đi tới Mottstown không?"

"Ừ, đi," Christmas nói. Y leo lên ngồi bên cạnh tên thanh niên. Chiếc xe la tiếp tục lăn bánh. 'Mottstown,' y nghĩ. Jefferson cách đó chỉ hai mươi dặm. 'Giờ thì mình có thể dừng chân một lát. Cả bảy ngày qua mình có nghỉ ngơi chút nào đâu, vậy thì bây giờ mình có thể nghỉ ngơi được rồi đó.' Y nghĩ có lẽ là lúc này ngồi đây, lại được đu đưa bởi chiếc xe la di chuyển chậm chạp, y sẽ chợp mắt được. Nhưng y không ngủ. Y không thấy buồn ngủ, không thấy đói, thậm chí không thấy mệt. Y ở đâu đó giữa hai nhu cầu hay nửa cái này, nửa cái kia, y như bị treo lên, thân thể đu đưa theo sự chuyển động của chiếc xe la. Y không nghĩ gì nữa, không cảm thấy gì nữa. Y đã mất đi khái niệm về thời gian và khoảng cách: y ở trên xe được một tiếng đồng hồ hay có lẽ ba tiếng. Tên thanh niên nói:

"Mottstown. Tới rồi đó."

Y nhìn. Y thấy khói bay thấp, phất phơ, bên kia một góc trời không dễ gì nhận ra; y lại đi vào nó một lần nữa, vào con đường phố chạy dài đến ba mươi năm đó. Con đường đã được lát đá trước đây, một trong những con đường người ta có thể đi nhanh. Nó đã làm thành một cái vòng tròn mà y vẫn còn ở trong đó. Mặc dù trong bảy ngày vừa qua y đã không thấy con đường lát đá nào, vậy mà y đã đi xa hơn là trong tất cả ba mươi năm qua. Và vậy mà y vẫn còn ở trong cái vòng tròn đó. 'Vậy mà mình đã đi xa trong bảy ngày này hơn là trong tất cả ba mươi năm,' y nghĩ. 'Nhưng mình đã không bao giờ ra khỏi cái vòng tròn đó. Mình đã không bao giờ bẻ gãy cái vòng tròn của những gì mình đã làm và không bao giờ mình có thể xóa bỏ chúng,' y lặng lẽ suy nghĩ, trong khi đang ngồi trên ghế chiếc xe la, và trước mặt y, trên cái chắn bùn, y thấy đôi giày của mình, đôi giày đen mang mùi người da đen: cái dấu này trên mắt cá chân y, cái máy đo chuẩn xác và không thể phá hủy được đó của thủy triều đen đang trườn lên đôi chân y, đang dâng từ hai bàn chân lên phía đầu, như cách cái chết di chuyển.

15

Ngày thứ sáu đó, ngày mà Christmas bị bắt ở Mottstown, một thị trấn mà trong số cư dân của nó thì có một cặp vợ chồng già mang họ Hines. Họ già lắm. Họ sống trong một cái "bơn-ghơ-lô" nhỏ nằm trong khu phố da đen; họ sinh hoạt ra sao, bằng cái gì, thị trấn nói chung không biết gì cả, bởi vì họ có vẻ sống trong tình trạng nghèo khổ gớm ghiếc và hoàn toàn ăn không ngồi rồi. Trong chừng mực mà thị trấn biết, lão Hines đã không làm việc, hay nói đúng hơn, không làm việc một cách đều đặn, từ hai mươi lăm năm nay.

Họ đến Mottstown cách đây ba mươi năm. Một ngày nọ, thị trấn bỗng thấy ra người đàn bà đã dọn vào ở căn nhà nhỏ đó, nơi mà họ đã sống từ ngày đó đến nay. Trong năm năm đầu tiên, Hines chỉ có mặt ở nhà một lần mỗi tháng, vào cuối tuần. Ít lâu sau, người ta biết là lão có một thứ chức vụ gì đó ở Memphis. Chính xác là cái gì, chẳng ai biết, vì ngay cả lúc đó lão đã là một con người cực kỳ kín đáo, đã có thể ở tuổi hoặc ba mươi lăm hay năm mươi. Và trong ánh nhìn của lão thì có cái gì đó cuồng tín một cách lạnh lùng, mãnh liệt, và hơi điên, khiến các câu hỏi và sự tò mò bị ngăn chặn lại. Thị trấn xem họ, cả hai người, như gàn gàn - cô độc, buồn bã, và so với phần lớn những đàn ông và đàn bà khác thì họ nhỏ con hơn một chút, như thể hai người họ thuộc về một chủng tộc khác, một giống loài khác. Tuy vậy, trong vòng năm hay sáu năm sau khi người đàn ông đó dường như trở lại định cư hẳn ở Mottstown, trong căn nhà nhỏ mà vợ lão sống, người ta vẫn thuê lão để làm các việc lặt vặt này nọ mà họ cho là không quá sức đối với lão. Nhưng rồi tới lúc lão cũng thôi làm hẳn. Thị trấn tự hỏi trong một lát, giờ đây họ sẽ sống ra sao, rồi không nghĩ tới nữa, giống như sau đó khi thị trấn biết ra là Hines đi bộ khắp trong quận tổ chức những buổi gặp gỡ nhằm gây dựng lại lòng mộ đạo trong các ngôi nhà thờ da đen, và thỉnh thoảng người ta thấy những người đàn bà da đen tay mang các thứ rõ ràng là các dĩa đồ ăn đi vào từ phía sau căn nhà nhỏ đó, nơi vợ chồng Hines sống, rồi đi ra tay không, thị trấn tỏ ra ngạc nhiên một lúc rồi cũng không nghĩ tới nữa. Bởi vì Hines thì già và vô hại, thị trấn cuối cùng thì quên đi, hay bỏ qua, nếu là một người trẻ thì nó hẳn không tha cho đâu. Thị trấn chỉ nói: "Họ khùng rồi, khùng về chuyện người da đen. Có lẽ họ là dân Yankee," và chấm dứt ở đó, không bàn thêm nữa. Hay có lẽ điều mà thị trấn tha thứ không phải là sự tận tâm cứu vớt linh hồn người da đen của Hines, mà là sự vô tri công cộng về cái sự việc là lão nhận sự bố thí từ tay người da đen, bởi vì một trong những khả năng tài tình của tâm trí là nó có thể vứt bỏ điều mà lương tâm từ chối đồng hóa.

Vậy là trong hai mươi lăm năm, cặp vợ chồng này đã không có phương tiện sinh sống rõ ràng, và thị trấn thì nhắm lại con mắt tập thể trước những người đàn bà da đen và những cái dĩa và những cái xoong được đậy kín, nhất là nhiều dĩa và xoong này chắc là đến còn nguyên từ nhà bếp của người da trắng mà những người đàn bà này nấu ăn. Có lẽ đây là một phần của những gì mà tâm trí vứt bỏ. Dù sao, thị trấn không săm soi, và từ hai mươi lăm năm nay hai người này đã sống khuất nẻo, trong sự cô lập đơn độc, như thể họ là hai con bò xạ đi lạc từ vùng Bắc Cực, hay là hai con thú chậm trễ và không có chỗ ở, từ trước cả thời kỳ sông băng.

Người ta hiếm khi thấy người đàn bà, nhưng người đàn ông - được mọi người gọi là Bác Doc - thì hầu như hiện diện thường xuyên ở quảng trường thị trấn: một ông già nhỏ con, bẩn thỉu với một bộ mặt, ngày xưa đã từng là hoặc can đảm hoặc hung bạo, bộ mặt hoặc của một người nhìn xa trông rộng, hoặc của một tên ích kỷ tột cùng. Lão không có mặc cổ cồn, áo quần bằng vải bông dệt chéo màu xanh trên người lão thì lúc nào cũng dơ dáy, và tay luôn luôn cầm một cây gậy trụi bóng bằng gỗ hồ đào Mỹ, mòn ở chỗ cầm, đen như gỗ óc chó và láng như gương. Ban đầu, khi còn có chức vụ gì đó ở Memphis, vào mỗi chuyến về nhà hàng tháng đó, lão có nói chút ít về mình, bằng sự tự tin của một người đàn ông tự do và độc lập, nhưng cũng bằng cái gì đó hơn thế nữa, như thể vào một giai đoạn trong đời lão, giai đoạn không xa đây lắm, lão đã là tốt hơn cả độc lập. Lão không có vẻ gì sợ sệt của một con chó từng bị đánh. Đúng hơn, lão mang vẻ tự tin của một người quen kiểm soát những người thua kém mình, và đã tự nguyện thay đổi đời mình vì một lý do mà lão tin rằng không ai có thể hỏi hay hiểu được. Nhưng những gì lão kể về mình và nghề nghiệp hiện tại của lão thì không có ý nghĩa gì cả, cho dù có vẻ mạch lạc. Vậy là họ tin là lão hơi bị khùng, ngay từ hồi đó rồi. Không phải là lão tìm cách giấu giếm một điều gì bằng cách nói ra một điều khác. Nhưng bởi vì những lời lẽ, những câu chuyện thuật lại của lão lại không ăn khớp với những gì mà các người nghe tin là (và phải là) ở trong khả năng của một cá nhân riêng lẻ. Đôi khi họ cả quyết lão đã từng là mục sư. Rồi lão nói về Memphis, về thành phố đó, theo một cách mơ hồ nhưng tuyệt vời, như thể lão đã trải qua cả đời mình giữ một chức vụ quan trọng tuy không tên trong một cơ quan của thành phố. "Hẳn vậy rồi," bọn đàn ông ở Mottstown nói sau lưng lão; "lão là thanh tra của hãng xe lửa trên đó chớ bộ giỡn sao, ngày nào cũng đứng ở ngã tư có đường bộ cắt ngang để phất lên phất xuống cái cờ đỏ mỗi khi có xe lửa chạy qua," hay "Lão là một nhà báo lớn chớ ít sao, chuyên đi nhặt nhạnh mấy tờ báo nằm dưới ghế đá công viên đó mà." Họ không nói các điều này thẳng vào mặt lão, ngay cả những tên bạo mồm bạo miệng nhất, ngay cả những tên mang cái tiếng tăm được giữ gìn một cách bấp bênh là có đầu óc hóm hỉnh.

Rồi lão mất cái công việc đó ở Memphis, hay lão bỏ việc. Vào một cuối tuần, lão về nhà, và khi ngày thứ hai đến, lão vẫn không đi đâu cả. Và kể từ lúc đó, người ta thấy lão suốt ngày có mặt trong trung tâm thị trấn, ở quảng trường, mặt mũi u ám, áo quần dơ bẩn, và cặp mắt mang vẻ giận dữ, thù nghịch, mà người ta cho đó là sự điên khùng: cái vẻ của bạo lực cùng kiệt đó, nó giống như một mùi thơm hay như một cái mùi thường; sự cuồng tín đó, nó giống như than hồng đang lụi tàn, gần như tắt hẳn, một thứ truyền bá Phúc âm mang hai mặt khác nhau, một phần tư là niềm tin mãnh liệt và ba phần tư là sự gan dạ thô bạo. Vì vậy họ không tỏ ra ngạc nhiên lắm khi biết lão đi ngược, đi xuôi cả quận, thường là cuốc bộ, giảng đạo trong các nhà thờ da đen; và người ta cũng không thấy ngạc nhiên một năm sau khi họ biết được cái đề tài rao giảng của lão. Bởi vì cái tên da trắng này, mà sự sống còn thì tùy thuộc hầu như hoàn toàn vào lòng rộng rãi và sự bố thí của dân da đen, lại một thân, một mình đi vào những ngôi nhà thờ da đen xa xôi, hẻo lánh. Và ở đó, lão chặn ngang buổi lễ để bước lên bục giảng, và với cái giọng khàn đục, không âm vang, đôi khi bằng những lời lẽ cực kỳ tục tĩu, lão rao giảng cho người da đen đức khiêm tốn, nhún nhường trước tất cả con người có màu da sáng hơn da họ, rao giảng tính thượng đẳng của chủng tộc da trắng, tự đưa mình ra làm một vật chứng hạng A, bất chấp cái nghịch lý cuồng tín và vô ý thức đó. Những người da đen nghĩ rằng lão điên, rằng bàn tay của Chúa đã chạm đến lão hay chính lão có một lần đã chạm tới Chúa. Họ chắc là không nghe hay không thể hiểu gì nhiều những điều lão nói. Có lẽ họ coi lão như hiện thân của Chúa, bởi vì đối với họ, Chúa cũng là một người da trắng và những chuyện Ngài làm thì bao giờ cũng ít nhiều không thể giải thích được.

Chiều hôm đó lão đang ở dưới trung tâm thị trấn thì cái tên Christmas, lần đầu tiên, bay từ đầu đến cuối con phố chính. Ngay lập tức, con nít, người lớn - các người buôn bán, các nhân viên bàn giấy, rồi bọn ăn không ngồi rồi và những kẻ tò mò, và trội hơn hẳn là những nông dân với bộ quần yếm lao động trên người - bắt đầu chạy. Hines cũng chạy nữa. Nhưng lão không thể chạy nhanh, và khi lão đến thực sự, lão lại không đủ cao để nhìn qua vai người khác đang chen chúc nhau. Tuy nhiên, lão ra sức mở một lối đi giữa đám người đang tụ tập ồn ào, cũng tỏ ra thô bạo và nóng vội như bất cứ ai khác, như thể tính khí hung dữ cũ đã từng ghi dấu trên bộ mặt lão giờ đây bỗng dưng trỗi dậy. Lão bám lưng những người đứng trước và cuối cùng thì đánh họ với cây gậy cho tới khi những người đàn ông quay người, nhận ra lão và giữ chặt lão lại. Lão vùng vẫy chống cự, miệng la hét, tay đánh họ với cây gậy nặng. "Christmas?" lão hét to. "Người ta nói là Christmas, phải không?"

"Christmas!" một trong những người đang giữ lão lại hét to trả lời, vẻ mặt căng thẳng, mắt trừng giận dữ. "Christmas! Cái thằng mọi đen da trắng giết người ở Jefferson tuần trước đó!"

Lão Hines trừng mắt nhìn lại hắn, cái miệng không còn răng của lão hơi sùi bọt. Rồi lão vùng vẫy trở lại một cách dữ dội, chửi thề liên tục: yếu đuối, xương cốt mỏng mảnh và nhẹ như trẻ con, cái ông già nhỏ con này đang tìm cách tự giải thoát bằng cây gậy, tìm cách mở một lối đi bằng những cú đánh cho tới ngay giữa một nhóm người mà tên bị bắt đang đứng, mặt chảy máu. "Thôi đi, bác Doc!" họ nói, vẫn giữ lão lại; "Thôi đi, bác Doc ơi. Người ta đã tóm được y rồi. Y sẽ không chạy thoát được đâu. Thôi đi, thôi đi chớ!"

Nhưng lão vẫn vùng vẫy chống cự, cứ chửi thề, giọng quá khàn, nghe yếu ớt, miệng chảy nước dãi, trong khi những người nắm giữ lão lại cũng ra sức không kém, giống như những người cố giữ cái vòi nước nhỏ văng lên rớt xuống vì áp lực bên trong ống nước quá mạnh đối với kích cỡ của nó. Trong cả bọn, chỉ có tên bị bắt là tỏ ra bình tĩnh. Họ giữ chặt Hines, miệng lão vẫn chửi thề. Xương cốt già nua và yếu ớt, cơ bắp thì mỏng mảnh như sợi dây đàn của lão, tất cả cứ cử động, như bị thúc đẩy bởi một sự giận dữ mềm và trơn của một con chồn. Lão thoát ra được, nhảy vọt về phía trước, xô đẩy mọi người, và đến ngay trước mặt tên bị bắt. Lúc đó, lão tạm ngừng một khoảnh khắc, mắt nhìn trừng trừng khuôn mặt tên bị bắt giữ. Đó là một sự tạm ngừng trọn vẹn, nhưng trước khi họ có thể túm lấy lão lần nữa thì lão đã giơ chiếc gậy lên và đánh tên bị bắt được một lần và khi lão đang cố đánh y lần nữa thì họ cuối cùng chụp được lão. Tức điên người, nước dãi nhẹ, mỏng, ứa ra hai bên mép, lão đành bất lực để họ kềm kẹp. Nhưng cái miệng lão thì vẫn còn tự do. "Giết thằng con hoang đó đi!" lão gào lên. "Giết nó. Giết nó đi!"

Ba mươi phút sau, hai người đàn ông đưa lão Hines về nhà trên chiếc xe hơi. Một người cầm lái, trong khi người kia giữ lão ngồi yên ở phía sau. Bây giờ mặt lão thì xanh xao, dưới bộ râu cạo qua loa và các vết bẩn, và đôi mắt thì nhắm lại. Họ nhấc cả người lão ra khỏi xe, khiêng lão qua cổng nhà và lên lối đi bằng xi-măng và gạch đã bể, đến tận bậc tam cấp ở hàng hiên. Đôi mắt lão, bây giờ mở ra, thì trống không, tròng mắt đảo lộn đến nỗi chỉ còn thấy cái tròng trắng đục và xanh nhạt. Nhưng lão vẫn còn mềm rũ cả người và không tự đi đứng được. Ngay trước khi họ đến được hàng hiên thì cửa trước mở, bà vợ lão bước ra, đóng cánh cửa lại sau lưng và đứng đó nhìn họ. Họ biết bà là vợ lão vì bà từ trong nhà đi ra, cái nhà mà họ biết là lão sống ở đó. Một trong hai người đàn ông, tuy là cư dân của thành phố, đã không hề thấy bà trước đây. "Có chuyện gì vậy?" bà nói.

"Ổng không có sao cả," tên đàn ông thứ nhất nói. "Chỉ có chuyện là dưới phố vừa mới có sự náo động lớn lắm, với trời nóng và tất cả mọi thứ khác, thì hơi quá sức đối với ổng." Bà đứng trước cửa như thể ngăn chặn họ vào nhà - một mụ đàn bà nhỏ con, thấp và béo mập, với khuôn mặt tròn trĩnh như bột nhào dơ bẩn sẵn sàng để bỏ vào lò nướng, và những lọn tóc hiếm hoi còn lại được cột túm ra đằng sau. "Họ vừa tóm được thằng mọi đen Christmas, nó đã giết cái bà ở Jefferson tuần trước đó," tên đàn ông nói. "Sự việc đã làm bác Doc hơi bị bối rối."

Bà Hines đã quay người, như thể để mở cửa. Như tên đàn ông thứ nhất giải thích sau đó với bạn đồng hành của mình, bà ngừng lại nửa chừng trong khi quay người như thể bà bị ai đó ném trúng một viên sỏi, nhẹ thôi. "Tóm được ai?" bà nói.

"Christmas," tên đàn ông nói. "Cái thằng mọi đen sát nhân đó. Christmas."

Bà đứng trên bờ hàng hiên, nhìn xuống họ với bộ mặt tái xám và bất động. "Như thể bả đã biết tao định nói với bả điều gì," tên đàn ông nói với bạn khi hai người quay lại xe. "Như thể bả muốn tao nói với bả cùng lúc là chính y đó và không phải y."

"Mặt mũi y ra sao?" bà nói.

"Tôi đã không để ý lắm," tên đàn ông nói. Người ta phải làm y đổ máu chút đỉnh mới bắt y được. Một tên trẻ lắm. Y trông đâu có vẻ mọi đen hơn tôi." Người đàn bà nhìn họ, nhìn xuống họ. Hines bây giờ đứng được trên đôi chân của mình, giữa hai tên đàn ông, miệng lẩm bẩm cái gì không rõ, như thể ông đang tỉnh ngủ. "Bà muốn tụi tôi làm gì với bác Doc đây?" tên đàn ông nói.

Bà không trả lời gì cả. Như thể bà không nhận ra ngay cả chồng mình, như tên đàn ông nói với bạn sau đó. "Họ sẽ làm gì y?" bà nói.

"Y nào?" tên đàn ông nói. "Ồ, thằng mọi đen. Việc này thì do Jefferson quyết định. Y thuộc về họ ở trên đó mà."

Bà nhìn xuống họ, vẫn với vẻ mặt xám ngắt, bất động, xa cách. "Họ có định chờ Jefferson không?"

"Họ nào?" tên đàn ông nói. "Ồ," hắn nói. "Mottstown phải chờ chớ, nếu Jefferson không chậm trễ quá." Hắn đổi cách nắm chặt cánh tay ông già Hines. "Bà muốn tụi tôi để ổng ở đâu?" Lúc đó, người đàn bà cử động. Bà bước xuống bậc tam cấp và đến gần. "Tụi tôi mang ổng vào nhà giúp bà nghe," tên đàn ông nói.

"Tôi mang ổng được mà," bà nói. Bà cao gần bằng Hines, nhưng bà mập hơn. Bà ôm lấy lão dưới hai vai. "Eupheus," bà nói khe khẽ; "Eupheus." Bà nói với hai người đàn ông, một cách điềm tĩnh: "Thả ổng ta. Tôi giữ ổng được mà." Họ buông lão ra. Bây giờ, lão bước đi được chút ít. Họ nhìn bà dìu lão bước lên bậc tam cấp và đi qua cửa. Bà không nhìn ra sau lấy một lần.

"Bả thậm chí không nói lời cám ơn tụi mình," tên đàn ông thứ hai nói. "Có lẽ tụi mình phải bắt ổng lại và tống ổng vào tù với thằng mọi đen, bởi vì ổng có vẻ biết y nhiều lắm mà."

"Eupheus," tên đàn ông thứ nhất nói. "Eupheus. Cả mười lăm năm nay tao cứ loay hoay tự hỏi không biết tên ổng là gì. Eupheus."

"Đi nào, quay lại phố đi. Tao không muốn bị hụt bất cứ chuyện gì."

Tên đàn ông đầu tiên nhìn căn nhà, nhìn cánh cửa đóng mà qua đó hai ông bà già đã biến mất. "Bả cũng biết y nữa đó."

"Biết y nào?"

"Thằng mọi đen đó. Christmas."

"Thôi đi." Họ quay lại chiếc xe hơi. "Mày nghĩ gì về cái thằng trời đánh đó, ai đời y dám xách mặt đến giữa thị trấn này đây, cách chỗ y phạm tội có hai mươi dặm chớ mấy, đi lên đi xuống ở con phố chính cho tới khi ai đó nhận ra y. Giá mà chính tao nhận ra y thì hay biết mấy. Tao đã có thể xài một ngàn đô-la đó. Nhưng khổ cái là tao không bao giờ được may mắn!" Xe đi tiếp. Tên đàn ông thứ nhất vẫn còn ngoái nhìn cái cánh cửa đóng im ỉm mà qua đó hai người già đã biến mất.

Cặp vợ chồng già bây giờ đứng trong hành lang căn nhà nhỏ, hẹp, tối tăm, bốc mùi hang động. Lão già đang ở trong tình trạng kiệt sức, gần như hôn mê, và khi bà vợ dìu lão đến bên ghế bành và giúp lão ngồi xuống, thì dường như đó chỉ còn là việc độc nhất phải làm. Nhưng không cần thiết phải quay ra khóa cửa trước; thế mà bà đã làm vậy. Sau đó, bà đến đứng bên lão một lát. Thoạt đầu, bà có vẻ theo dõi tình trạng lão, lo lắng và ân cần. Rồi, nếu có một người thứ ba thì người này hẳn thấy là bà đang run cầm cập, là bà đỡ lão ngồi vào ghế bành hoặc vì sợ để lão ngã xuống đất, hoặc nhằm giữ lão như thằng tù cho đến khi bà có thể lên tiếng. Bà khom người phía trên lão: thấp và mập phì, da tái xám, bộ mặt trông giống người chết trôi. Giọng bà run rẩy khi nói, và bà cố gắng giữ bình tĩnh tuy người còn run, hai bàn tay bấu chặt cái tay dựa của chiếc ghế bành mà trong đó lão nửa nằm, nửa ngồi. Bà nói, giọng run run, kiềm chế: "Eupheus này, ông hãy nghe tôi. Ông phải nghe tôi đây này. Tôi đã không bao giờ quấy rầy ông cho tới nay. Trong ba mươi năm tôi đã không quấy rầy ông. Nhưng bây giờ tôi định làm phiền ông đó. Tôi muốn biết. Và ông phải nói cho tôi biết. Ông đã làm gì với đứa con sơ sinh của Milly?"

***

Trong cả buổi chiều dài lê thê, đám đông tụ tập ở quảng trường và trước nhà ngục - các nhân viên văn phòng, bọn ăn không ngồi rồi, những nông dân trong bộ quần yếm lao động. Và đủ thứ chuyện được kể ra. Chúng chạy hết đầu phố này đến đầu phố kia, chết đi, sống lại, như lửa, như gió, cho đến khi, dưới bóng chiều đổ dài, những người nông dân bắt đầu quay về làng trên các chiếc xe la hay các xe hơi đầy bụi và dân thị trấn bắt đầu quay về nhà ăn tối. Rồi các câu chuyện lại trỗi lên lần nữa, được khơi lại trong chốc lát cho các mụ đàn bà, cho các gia đình trong bữa tối, bên bàn ăn, trong các căn phòng thắp sáng bằng điện cũng như trong các căn lều thắp đèn dầu lửa nằm trong các ngọn đồi hẻo lánh. Và vào ngày hôm sau, tức ngày chủ nhật ở miền quê, chậm rãi, dễ chịu, với áo sơ-mi sạch sẽ, với dải đeo quần sặc sỡ, với tẩu thuốc an nhàn, trong khi họ ngồi xung quanh các nhà thờ đồng quê hay trong các sân nhà có bóng mát, nơi mà những cỗ xe la hay xe ngựa, những chiếc xe hơi đến thăm viếng, được buộc vào, hay đậu dọc theo, hàng rào và trong các nhà bếp, các bà, các cô xúm xít nấu ăn, họ lại kể những câu chuyện một lần nữa: "Y trông đâu có vẻ mọi đen hơn tôi. Nhưng chắc chắn là vì y có cái máu da đen trong người. Dường như y đã cố tình để cho bị tóm, giống như một tên đàn ông cố tình đi lấy vợ vậy. Cả một tuần người ta đã không thấy mặt mũi y đâu. Nếu y không châm lửa đốt cái nhà đó thì cả tháng sau chưa chắc họ đã tìm ra cái chuyện giết người. Và lúc đó họ đã không nghi y là can phạm nếu không có cái thằng cha tên là Brown, mà tên mọi đen thuê để bán rượu uýt-ki đó, trong khi y ra sức giả bộ mình là người da trắng và tìm cách đổ tội cho Brown, cả chuyện uýt-ki lẫn chuyện giết người, và Brown đã nói ra sự thật.

"Rồi sáng hôm qua y đến Mottstown, giữa thanh thiên bạch nhật đó nghe, lại nhằm ngày thứ bảy, ngày mà thị trấn luôn đầy người. Y đi đến tiệm cắt tóc da trắng, như một người da trắng, và vì y trông như người da trắng nên họ không hề nghi ngờ y. Ngay cả khi tên đánh giày thấy ra đôi giày xăng đá cũ mà y đang mang thì quá to đối với y, họ cũng không nghi ngờ gì cả. Họ cạo râu, cắt tóc cho y và y trả tiền rồi đi ra, đi thẳng tới tiệm áo quần mua cho mình một cái sơ-mi mới, một cà-vạt, một mũ rơm với chính tiền bạc mà y lấy trộm từ người đàn bà y đã sát hại trước đó. Và rồi y bắt đầu đi tản bộ trên các đường phố, ngay giữa ban ngày ban mặt đó, như thể thị trấn thuộc về y. Y đi ngược, đi xuôi, và người ta đi ngang qua y cả chục lần mà không nhận ra y, cho tới khi tên Halliday chợt thấy y, chạy đến y và vừa đưa tay chộp y vừa nói: 'Tên mày là Christmas phải không?' và thằng mọi đen nói đúng vậy. Y không hề tìm cách chối bỏ điều này. Y không tìm cách làm bất cứ chuyện gì. Y không hề xử sự như một thằng mọi đen hay như một người da trắng. Đúng vậy đó. Đó là điều làm cho người ta tức bể bụng. Nghĩ thử coi, một thằng sát nhân ăn mặc đẹp đi dạo phố, như muốn thách thức mọi người đụng đến y, trong khi đáng lẽ y phải trốn chui, trốn nhủi trong bụi rậm, trong rừng cây, chạy sốt vó từ nơi này sang nơi khác, người thì bẩn thỉu và đầy bùn chớ. Y đi dạo phố như thể y thậm chí không hề biết mình là tên giết người, chưa tính đến y cũng là mọi đen nữa.

"Và vậy là tên Halliday (hắn rất là phấn khích, nghĩ về một ngàn đô-la đó, hắn đã đấm vào mặt tên mọi đen vài cú, và tên mọi đen đó lần đầu tiên cư xử như một tên mọi đen bằng cách nhận lãnh những cú đánh mà không nói gì cả: buồn rầu, im lặng, cam lòng để chảy máu) - Trong khi Halliday vừa giữ y, vừa la hét, một lão già mà họ gọi là bác Doc Hines đến gần và bắt đầu vung gậy đánh tên mọi đen cho đến khi có hai tên đàn ông cuối cùng phải giữ chặt lão lại đưa lão về nhà bằng xe hơi. Không ai biết là lão thực sự biết tên mọi đen hay không. Bước thấp, bước cao, lão tự dẫn xác đến, miệng kêu ỏm tỏi, 'Có phải tên nó là Christmas không? Các người đã gọi nó là Christmas phải không?' và lão xô lấn mọi người, nhìn tên mọi đen một lần và rồi bắt đầu đánh y bằng cây gậy chống. Lão hành động như thể bị thôi miên hay cái gì tương tự như vậy. Họ phải giữ chặt lão lại, và cặp mắt lão đảo đến nỗi chỉ thấy cái tròng màu xanh, miệng thì chảy nước dãi và lão vung gậy đánh tới tấp lên những gì trong tầm tay cho tới khi lão phần nào nằm xoài ra một cách đột ngột. Rồi hai tên đàn ông mang lão về nhà bằng xe hơi và bà vợ lão ra ngoài và dìu lão vô nhà, và hai tên đàn ông đó quay lại phố. Họ không biết có gì không ổn nơi lão, tại sao lão lại tỏ ra quá kích động sau khi tên mọi đen bị bắt, nhưng dù sao đi nữa họ nghĩ là bây giờ thì lão bình thường lại rồi. Nhưng ai ngờ là chưa đầy nửa giờ sau lão lại xuất hiện ở trung tâm thị trấn. Lần này thì lão điên hết thuốc chữa rồi, đứng ở góc đường, la hét vào mặt người qua kẻ lại, chửi họ là đồ hèn nhát vì họ không muốn xách tên mọi đen ra khỏi ngục để treo cổ y ngay lập tức, không hơn, không kém, có Jefferson hay không Jefferson. Lão có bộ mặt của một tên điên, như một ai đó trốn khỏi nhà thương điên và biết mình không có nhiều thời gian trước khi bị bắt lại. Có những người nói rằng trước đây lão cũng là một người giảng đạo.

"Lão nói lão có quyền giết tên mọi đen mà. Lão không hề nói tại sao, và lão thì quá phấn khích, quá điên rồ để có thể nói cho đúng lẽ, ngay cả khi có người chịu khó dừng lại để hỏi lão. Giờ thì có một đám người khá đông tụ tập quanh lão, và lão gào lên là chính lão mới có quyền quyết định nếu tên mọi đen phải chết hay phải sống. Và trong khi người ta bắt đầu nghĩ rằng có lẽ chỗ của lão là trong nhà tù với tên mọi đen thì bà vợ lão đến.

"Có những người sống ở Mottstown từ ba mươi năm nay màchưa bao giờ thấy bà. Họ chỉ biết bà là ai khi bà mở miệng nói chuyện với lão,bởi vì những người đã thấy bà trước đó, thì bà bao giờ cũng loanh quanh ở cănnhà nhỏ đó, trong Niggertown[101], nơi những người này sinh sống, mặc chiếc áođầm nhà quê[102] và đội một trong những cái mũ cũ rích của chồng. Nhưng lúc nàythì bà ăn vận chỉnh tề. Bà mặc một cái áo đầm lụa màu tím, đội cái mũ có gắnlông và tay cầm dù, và bà đến gần đám đông, nơi lão đang la hét và gào thét, vàbà nói, 'Eupheus.' Lão ngừng la hét rồi lão nhìn bà, cây gậy trong tay vẫn còngiơ cao thì run rẩy, miệng há hốc với nước dãi chảy ra. Bà nắm lấy cánh taylão. Nhiều người sợ đến gần lão vì cây gậy đó, vì lão có vẻ sẵn sàng vung gậyđánh bất cứ ai, bất cứ lúc nào mà không tự nhận ra hay muốn làm vậy. Nhưng bàbước thẳng đến dưới cây gậy, nắm lấy cánh tay lão và dẫn lão tới tận một cáighế có sẵn đó, trước một cửa tiệm, và bà đỡ lão ngồi xuống ghế và bà nói, 'Ôngở yên đây cho đến khi tôi trở lại. Không đi đâu cả bây giờ. Và đừng la hét nữa.'



* * *

[85] Reb viết tắt của từ Rebel, một biệt danh của binh lính miền Nam trong cuộc Nội chiến Mỹ (1861-1865). Còn gọi là South Rebel, Confederate... - ND.

[86] Chico (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên tác), có nghĩa là thằng bé hay đứa con nít...

[87] Một địa danh ở New Mexico, nay là thủ phủ của tiểu bang này - ND.

[88] Carpetbaggers: chỉ loại ứng cử viên chính trị xuất hiện tranh cử ở một khu vực mà không ai biết ông ta, và do đó làm cho cư dân ở đó bất mãn hay khó chịu - ND.

[89] Abraham Lincoln (1809-1865): được bầu làm Tổng thống Mỹ năm 1860, chủ trương chống chế độ chiếm hữu nô lệ, lãnh đạo miền Bắc trong cuộc Nội chiến (1861-1865); được tái cử năm 1864 nhưng ít lâu sau chiến thắng của miền Bắc thì bị ám sát bởi một tên cuồng tín vào tháng 4-1865 - ND.

[90] Moses (thế kỷ 13 trước Công nguyên): Theo Kinh thánh, ông là người đã mang lại cho người Do Thái tổ quốc, tôn giáo và luật pháp - ND.

[91] The Promised Land: theo Kinh thánh Do Thái (Tanakh), đó là vùng đất mà Thượng đế hứa hoặc cho người Do Thái. Về sau, từ này còn được dùng để chỉ lục địa châu Mỹ - ND.

[92] Audrey Bearsley (1872-1898): họa sĩ người Anh, nổi tiếng về tranh minh họa theo phong cách "Nghệ thuật mới" ("Art nouveau") - ND.

[93] Petronius (?27- ?66): nhà văn La Mã, tác giả cuốn "Satyricon" bằng tiếng La-tinh nổi tiếng, trong đó tả nhiều cảnh ăn chơi thác loạn - ND.

[94] Mistral: gió mùa đông, lạnh, khô và mạnh, thổi ở miền Nam nước Pháp, theo hướng Nam hay Tây Nam - ND.

[95] Thirty pounds (30 pounds): pound là một đơn vị đo trọng lượng phổ biến ở Mỹ, bằng 0,454 kg - ND.

[96] Cap-and-ball revolver: súng lục quay ổ dùng đạn có vỏ bọc bằng giấy đặc biệt tẩm chất hóa học... rất thông dụng trong cuộc Nội chiến Mỹ (chiếm trên 90% số lượng súng lục được sử dụng). Ta gọi là súng lục trái khế vì ổ đạn của nó, khi tháo ra nhìn thì nó có tiết diện của một trái khế có năm hay sáu múi, tùy theo từng khẩu súng - ND.

[97] Cocked hammer: kim hỏa đã kéo về sau (hay "chó lửa đã dựng lên"), tức là chỉ cần xiết cò súng thì kim hỏa sẽ mổ về trước, kích hỏa viên đạn - ND.

[98] Spaniel: một giống chó xù có lông dài mượt, tai to cụp thỏng xuống, được huấn luyện, kể cả nhảy xuống nước, để tha về các con chim hay vịt trời... bị người đi săn bắn được - ND.

[99] Panama hat: một loại mũ được ưa chuộng từ đầu thế kỷ 20, đàn ông thường đội nó ở các xứ nhiệt đới hay ở các bãi biển - ND.

[100] Alfred Tennyson (1809-1892), một nhà thơ lớn người Anh, và một trong những nhà thơ viết bằng tiếng Anh được ưa chuộng nhất, tác giả các thi tập danh tiếng như "In Memoriam A.H.H.", "Idylls of the King", "In the valley of Cauteretz" - ND.

[101] Có nghĩa: Khu phố Mọi đen - ND.

[102] A mother hubbard - ND.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro