Nạp thiếp ký

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Dương Thu Trì nói với hai người: "Phu quân Lỗ Học Nho của hai ngươi hôm nay đã chết trong khi tham gia khảo thí ở cống viện Ứng Thiên phủ rồi."

A! Hai người đều kêu lên thảng thốt, lão phu nhân nguyên phố Phạm thị run giọng hỏi: "Lão gia chúng tôi vì sao mà chết vậy?"

"Bị người ta hạ độc chết!"

Tiểu thiếp Trầm thị vừa nghe thế, liền che mặt khóc rống lên: "Chồng của tôi a...! Chàng sao lại đành lòng bỏ chúng thiếp lại như vậy chứ, chàng bảo chúng thiếp làm sao mà sống đây a...!" Tiếng khóc có âm có luật, âm thanh uyển chuyển du dương, cổ họng có vẻ không tệ!

"Đừng khóc nữa!" Hồ Giang rống lên.

Tiếng khóc của Tiểu thiếp Trầm thị đột nhiên nín bặt, giống như con vịt kêu quang quát đột nhiên bị chặt ngang cuốn họng vậy. Cánh tay che mặt từ từ hạ xuống, trên mặt chặt có chút nước mắt nào.

Mặt Hồ Giang dài ra: "Chúng ta còn có lời muốn hỏi các ngươi, chờ chúng ta đi rồi thì ngươi muốn khóc muốn gào gì mặc kệ!"

Lão thái thái đó lúc này cũng bắt đầu lệ nhệ sụt sùi, Hồ Giang còn muốn quát bảo dừng, nhưng bị Dương Thu Trì ngăn lại. Gã rút ra một bình sứ nhỏ, hỏi: "Cái bình đựng mật ong này là ai đưa cho lão gia Lỗ Học Nho của các người?"

Tiểu thiếp Trầm thị chớp mắt nhìn cái bình, xong rồi chu mỏ nhìn về phía vợ chính Phạm thị.

Phạm thị ngẩng đầu, mắt mũi kèm nhèm nhìn không rõ, Dương Thu Trì phải đưa cái bình đến gần, Phạm thị tiếp lấy nhìn kỹ đáp: "Là do lão thân đưa cho lão gia, trong đó đựng toàn mật ong."

Hồ Giang nghe thế, thì ra là lão thái thái này hạ độ giết chết Lỗ Học Nho, không khỏi đột nhiên phừng giận, máng: "Giỏi cho lão bà khốn nạn này, vừa rồi ta có nghe lý chánh nói, năm xưa ngươi bệnh súyt chết, là do Lỗ Học Nho khuynh gia bại sản trị bệnh cho ngươi, ngươi sao lại lấy oán báo ân, hạ độ hại chết lão chứ? Thật đúng là không bằng giống trâu giống chó! Người đâu, mau trói lão bà khốn này lại cho ta!"

Các nha dịch ở cửa đồng thanh đáp ứng, xích sắt trong tay khua lên rổn rảng, bước đến định bắt người.

Vị nguyên phối Phạm thị sợ điếng người, khóc lóc hoảng hốt thưa: "Đại lão gia, cái đó từ đâu mà nói vậy. Tôi không có a, không có hạ độc hại lão gia chúng tôi, lão thân oan uổng quá mà!"

"Ngươi còn dám kêu oan?" Hồ Giang lạnh giọng nói, "Lão gia Lỗ Học Nho các ngươi bị trúng độc chết. Chúng ta đã tra ra trong mật ong có độc, và bình mật ong này là do ngươi đưa cho Lỗ Học Nho. Chứng cứ rõ ràng, còn tưởng chối cải hay sao?"

Vị tiểu thiếp Trầm thị vừa nghe thế, kêu lên chói lói nhào tới Phạm thị, vừa cào cấu vừa mắng chửi: "Thì ra là cái lão chết bầm ngươi hại chết lão gia. Ta phải giết ngươi!"

Vị nguyên phối Phạm thị già cả yếu ớt, làm sao là đối thủ của ả, chỉ biết ôm đầu khóc lóc kêu oan, mặt đã bị quào hết mấy dấu máu.

Dương Thu Trì đưa mắt ra hiệu cho Tống Vân Nhi, nàng lập tức giữ chặt tay của tiểu thiếp Trầm thị, quặc ra phía sau quát: "Đại lão gia có ở đây, không được vô lý!"

Trầm thị bị Tống Vân Nhi vặn tay kéo khiến loạng choạng lùi lại mấy bước, suýt chút nữa ngã ngữa ra sau, không dám lo lối om sòm nữa.

Bộ khoái định bước lên bắt Phạm thị, Dương Thu Trì giơ tay lên, ra hiệu khoan động thủ. Hồ Giang hơi nghi họac, cũng ra dấu bảo bọn nha dịch ngưng lại, ngồi xuống hỏi: "Dương công tử, chân hung chẳng phải đã tìm được rồi sao? Sao lại...."

Dương Thu Trì không trả lời câu hỏi của y, hỏi Phạm thị: "Ngươi vì sao đưa mật ong cho lão gia các ngươi?"

Phạm thị đã sợ chết khiếp, thấy Dương Thu Trì mặt mày hòa hoãn, bọn nha dịch có vẻ rất nghe lời hắn, xem ra nếu như có thể nói chuyện rõ ràng rành mạch với vị công tử này, có thể có hy vọng tẩy được oan khuất, bèn van cầu: "Công tử, lão thân oan uổng, lão thân thiệt không có hạ độ a."

"Lão phu nhân, bà không cần gấp, cứ từ từ nói, chưa làm rõ trắng đen, chúng ta sẽ không bắt người loạn lên đâu."

Nghe lời này, Phạm thị lúc này mới hơi an tâm, đáp: "Lão gia chúng tôi càng thi càng rớt, tâm tình phiền muộn, nội hỏa rất nặng, thường sinh nóng gắt lỡ miệng, có lúc đau đến ăn uống không được, ngay cả uống nước cũng đau đến không chịu được. Chúng tôi tìm thầy lang cũng không thể trị triệt để, sau đó tôi tìm được một phương thuốc dân gian, án theo đó đem mật ong thoa lên chỗ vết thương trong miệng của lão gia, kết quả rất hữu hiệu, do đó lão gia cứ nhất mực mang theo bình mật ong này theo người."

Thì ra Lỗ Học Nho bị bệnh loét khoang miệng, hèn gì trong lúc ở khách sạn hàng ngày chỉ có thể ăn cháo với cải muối, nửa cái bánh bao ăn mãi cũng không xong, nhất định là lúc bị lỡ loét miệng, cố ăn bánh bao mà nhai nuốt mãi không trôi, ăn được nửa cái rồi thì không thể nào ăn tiếp được, chỉ có thể húp cháo mà thôi. Còn bình mật ong này thì ra là vợ cả đưa cho mang theo người để lão dùng trị bệnh!

Nhìn thần tình của Phạm thị, nhất định không biết trong mật ong đã bị hạ độc. Chẳng lẽ trước lúc bà ta mua nó, mật ong đã bị người ta hạ độc rồi? Dương Thu Trì hỏi Phạm thị: "Hủ mật ong này tự tay bà điều chế hả?"

"Không phải, là lão thân mua từ chỗ nuôi ong của Vương lão thái."

"Nuôi ong? Trong thôn có người nuôi ong sao?"

Mễ lý chánh ở cạnh đó chen lời: "Đúng, trong thôn có mấy nhà nuôi ong, xung quanh thôn chúng tôi đều là núi cao, ruộng thì ít, nếu dựa vào nó không mà nói thì thật khó sống. Do đó có một số nhà nuôi ong, bán mật ong kiếm tiền nuôi các miệng ăn trong nhà."

Dương Thu Trì hỏi Phạm thị: "Vậy lúc bà mua mật ong thì tự chọn hay là do Vương lão thái mang cho bà? Bà hãy nhớ lại cho chính xác, kể tường tận một chút."

Phạm thị gật gật đầu, nghĩ một chút rồi nói: "Thường thì đều do con của Vương lão thái dùng gùi hạ sơn đến thành Trừ châu bán, trên đường ngang qua thôn chúng tôi sẽ rao lên, tôi thường tùy lúc cần mà mua. 

Trong gùi có một bình sứ lớn, trong chứa đầy mật ong, muốn mua thì phải tự mang đồ đựng theo. Lúc tôi mua còn nhớ vào khoảng giữa tháng chín."

Dương Thu Trì thầm nghĩ, phải chăng con của Vương lão thái hay thậm chí Vương lão thái hạ độc đây? Tuy không có chứng cứ gì, nhưng cũng cần phải đi tra xét một chút, xem có đầu mối gì hay không.

Cần phải biết, phần lớn đầu mối phá án đều thu được thông qua quá trình điều tra từ đáy lên, không phải tự ngồi ở nhà mà suy tưởng ra được. Dương Thu Trì hỏi: "Vương lão thái ngụ ở nơi nào?"

Mễ lý chánh lại chen lời: "Ở giữa sườn núi phía đông."

"Đưa chúng ta đến đó tìm lão!" Dương Thu Trì bảo.

Mễ lý chánh hơi chần chờ, nói: "Hiện giờ đã canh ba rồi, đến chỗ của họ còn những mười dặm đường núi nữa, trong trời đêm âm u này, đường núi rất khó đi..."

Hồ Giang nhìn Dương Thu Trì, rồi quay lại nói: "Chuyện không thể chần chờ, nhân phạm nếu trốn thì ngươi có phụ trách được không?"

Mễ lý chánh giật mình kinh sợ, luôn miệng nói không dám, chạy vội ra ngoài chuẩn bị đèn đuốc, gọi mấy dân tráng trong thôn chuẩn bị ổn thỏa đâu vào đó. Hồ Giang hạ lệnh lưu hại bộ khoái lại canh chừng Phạm thị và Trầm thị, sau đó dưới sự dẫn đường của lý chánh, đoàn người lên núi đến nhà nuôi ong của Vương lão thái.

Đường núi quả nhiên rất khó đi, dốc núi khá đứng, có những đoạn không thể cưỡi ngựa, chỉ có thể xuống ngựa dắt bộ tiến lên.

Giờ đèn cử đuối, đi suốt mười dặm đường núi mà mất đến hai canh giờ mọi người mới đến nơi, lúc đó đã vào khoảng canh năm.

Nhà Vương lão thái nuôi ong này dựa sát vào sườn núi, xây mấy căn phòng gỗ, cạnh các nhà gỗ này dựng mấy thùng nuôi ong thật chỉnh tề. Những con ong mật này cũng không bay loạn, chỉ tụ tập trong tổ, thỉnh thoảng bị ánh đèn khuấy động mới bay lên kêu o o, nhưng nhanh chóng bay trở về tổ.

Bộ khoái, dân tráng và hộ vệ của Dương Thu Trì nhanh chóng bao vây mấy căn nhà gỗ này lại.

Mễ lý chánh gõ cửa, bộ khoái nhanh chóng phóng vào khống chế Vương lão thái, con trai và con dâu, sau đó tiến hành tra xét trong khắp nơi.

Vương lão thái, con trai và con dâu bị đám người đột nhiên xuất hiện tra xét này dọa sợ chết khiếp. Nhưng khi nhìn rõ bọn họ là bộ khoái của nha môn, biết không phải là cường đạo nên mới có phần an tâm.

Sau khi điều tra, mọi người phát hiện trong một phòng có tám hủ sành lớn, trong đó đựng đầy mật ong.

Vương lão thái thấy các bộ khoái tìm kiếm khắp nơi, có phần không hiểu, dè dặt hỏi: "Các vị đại gia, các vị tìm cái gì đó a?"

Hồ Giang nói với Mễ lý chánh: "Ngươi nói với hắn là được rồi."

Mễ lý chánh dạ một tiếng, đáp lời Vương lão thái: "Mật ong các người bán cho Lỗ lão phu tử ở trong thôn có vấn đề, Lỗ lão phu tử dùng chỗ mật ong đó rồi bị trúng độc chết!"

"A....!" Vương lão thái, con trai và con dâu đều tái mặt. Vương lão thái nói: "Không thể nào, chúng tôi, chúng tôi bán mật ong nhiều năm rồi, chưa bao giờ có người ăn mật ong của chúng tôi mà có chuyện cả, đừng nói gì bị trúng độc chết."

Hồ Giang nói: "Đó là vì các ngươi cố ý hạ độc hại chết Lỗ lão phu tử!"

"Oan uổng rồi...!" Vương lão thái rên lên một tiếng quỳ xuống đất, dập đầu liên tục, "Chúng tôi với Lỗ lão phu tử đâu có oán cừu gì, sao lại muốn hại người ta chứ." Con trai Vương lão thái và con dâu cũng quỳ xuống dập đầu theo.

Hồ Giang cười lạnh: "Đó chính là nguyên nhân chúng ta tìm các ngươi tra hỏi, các ngươi hãy ngoan ngoãn khai ra các ngươi hạ độc giết chết như thế nào? Cứ như thật mà khai, nếu không sẽ chịu cái khổ hành hạ da thịt!" Các bộ khoái luôn miệng quát nạt dọa dẫm.

"Dân phụ đúng là oan uổng a, chúng tôi bán mật ong kiếm tiền nuôi các miệng ăn thôi mà, tại sao lại vô cớ hạ độc hại người khác để làm gì chứ. Cầu thanh thiên đại lão gia minh xét, phân xử dùm dân phụ a!"

"Ngươi còn dám cãi!" Hồ Giang rống lên, trước đây y đã nhìn thấy Dương Thu Trì dùng cách cho vịt uống mật ong trong bình để nghiệm độc, bèn muốn dùng cách này, quát bảo: "Người đâu, mau đi bắt một con vịt vào đây cho ta!"

Sau nhà Vương lão thái có nuôi một ít gia cầm, một bộ khoái vâng dạ chạy ra sau bắt một con.

Hồ Giang chỉ vào vài chum mật ở trong phòng phân công: "Múc ít mật ong cho nó uống!"

Bộ khoái lấy ra một cái gáo to, múc đầy cho con vịt uống, nhiều quá khiến nó cứ giãy giụa liên tục, qua một lúc sau mà vẫn kêu quang quác, chẳng có chuyện gì xảy ra.

Hồ Giang hơi thất vọng, bẻn lẻn nhìn Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì cười khổ, thầm nghĩ nếu như Vương lão thái này thật muốn hạ độ Lỗ lão phu tử, thì trực tiếp hạ độc vào chỗ mật bán cho Lỗ lão phu tử là được, làm gì đi bỏ độc toàn bộ số mật này được. Hơn nữa, căn cứ vào lời Phạm thị khai, thì mật ong được mua vào tháng chín, như vậy đã trải qua ba tháng rồi, mật bị hạ độc nhất định đã sớm bị tiêu hủy, sao còn chờ bọn họ đến điều tra được chứ?

Vương lão thái không thừa nhận hạ độc, xem dáng vẻ không phải là người nói láo, hiện giờ không có chứng cứ chứng minh lão hạ độc trong mật ong, như vậy là không có lý do bắt người rồi. Nếu như không phát hiện được đầu mối gì, chi bằng xuống núi trở về trước cố nghĩ coi rốt cuộc xuất hiện vấn đề ở chỗ nào.

Từ tình huống trước mắt mà xét, khả năng kẻ hạ độc lớn nhất chính là vợ cả của Lỗ Học Nho. Nhưng Dương Thu Trì có cảm giác Phạm thị không phải là người làm chuyện đó, mạng của bà ta do Lỗ Học Nho cứu, bà ta lại già cả rồi, giết chết lão để làm được chuyện gì? Hắn không nghĩ ra lý do để Phạm thị giết Lỗ Học Nho, trong lòng lại nghĩ đến hành vi của ả tiểu thiếp đó quai quái thế nào ấy, nhưng lại không có bất kỳ chứng cớ gì.

Ngay cả Dương Thu Trì cũng không có chủ ý, thì Hồ Giang và mọi người hẳn nhiên là không. Mọi người tiu ngỉu xuống núi quay trở về.

Tuy suốt đêm không ngủ, nhưng Dương Thu Trì không mệt mỏi tí nào. Cái thứ thức suốt đêm này ở xã hội hiện đại hắn đã làm như ăn cơm bữa, thậm chí nửa đêm đang ngủ bị người ta gọi dậy đi khám nghiệm hiện trường. Trong khi đó, án này hiện đã rơi vào thế bế tắc, cần phải nghĩ coi bước kế tiếp phải làm gì. Hiện giờ trong đầu hắn chẳng có thứ gì, trong lòng có chuyện, thì làm gì có ý mệt mỏi ngủ nghê gì chứ?

Tống Vân Nhi cầm một cành nhỏ tùy ý bẻ bên đường, khe khẽ đung đưa, thấy Dương Thu Trì buồn buồn cúi đầu vừa đi vừa nghĩ ngợi, còn bản thân nàng thì chẳng giúp được gì, muốn đánh tan lực chú ý của hắn, liền chỉ tay vào sườn núi xa xa: "Ca, huynh coi, núi này phong cảnh đẹp quá."

Bọn họ đã hạ sơn được một lúc, hiện trời đã sáng, ánh Thái dương lộ qua khe núi đỏ hồng, dốc núi đầy tuyết trắng nhưng đã bị dung hóa rất nhiều, lộ ra từng thảm cỏ cây xanh mướt.

Khói sương mờ ảo dâng lên như một sợi thắt lưng ngọc, uốn lượn quanh sườn núi. Từng đám ruộng bậc thang dọc triền núi phản xạ ánh sáng chập chờn cực kỳ đẹp. Trời sáng, đã xuất hiện người đi trên đường nhỏ giữa núi, vài tiếng chim hót líu lo, càng làm cho sơn cốc thêm phần u nhã.

Dương Thu Trì dừng chân lại, hít sâu một hơi, thở dài: "Đúng a, quả là một cảnh ruộng vường thanh nhã, nếu như hai chúng ta có thể ở chỗ này hưởng những ngày hái cúc lúc khi mùa đông đi, an nhàn nhìn cảnh núi nam thì hay biết mấy."

Tống Vân Nhi khẽ đỏ mặt, khẽ dẫu môi: "Ai thèm ở một chỗ với huynh, huynh có nhiều tiểu thiếp như vậy, kêu họ đến ở với huynh là được rồi." Nói xong nàng khẽ giơ nhánh cây trên tay lên, kéo một chiếc lá trên đó ra khẽ cắn nhẹ, cảm nhận sự tươi mắt của chiếc lá xanh mang lại.

Dương Thu Trì quay đầu lại nhìn nàng khẽ mỉm cười, nhìn nhìn Tống Vân Nhi, đột nhiên sửng người kêu lên: "Vân Nhi, mau nhổ cái lá đó ra!"

Tống Vân Nhi giật mình, cứ nghĩ trên chiếc lá có sâu hay con vật gì đó, liền vội phun bắn ra.

Dương Thu Trì nhặt chiếc lá lên, bảo: "cô nương ơi là cô nương, tiểu thơ đài các như cô mới vào núi rừng chơi, mấy thứ không biết thì làm ơn đừng có đụng vào!" Tống Vân Nhi đỏ mặt, không hiểu hỏi: "Lá cây này bị sao vậy? Vì sao lại không được đụng vào? Chẳng lẽ lá cây mà cũng ăn thịt được muội sao?"

"Không sai, lá cây này có thể xơi tái muội luôn đấy!" Dương Thu Trì chẳng có chút cười cợt gì, đưa chiếc lá lên ngắm nghìa, "Đây là lá trúc đào, có độc!"(*)

A? Tống Vân Nhi giật phắt người, vội vã quẳng cành cây trong tay, lòng vẫn còn sợ hỏi, hỏi: "Ca, huynh không phải đang muốn dọa khiếp muội chớ hả?" Nàng chợt đanh mặt, mắt hạnh trừng ra: "Nếu mà huynh dám làm muội sợ đó hả, thì... hừ!"

Dương Thu Trì không nói gì, vẫn ngẩn ngơ nhìn lá trúc đào trong tay, lại ngẩng đầu nhìn xung quanh, thấy đâu đâu cũng có trúc đào. Có thể tưởng tượng, đến cuối mùa xuân đến hết mùa hè, toàn bộ trúc đào ở đây đều khai họa, nếu thế thì mỹ lệ đến cỡ nào.

Nhưng Dương Thu Trì hiện giờ không có thời gian nghĩ đến cái vẻ đẹp đó, nhân vì hắn phát hiện được một vấn đề vô cùng nghiêm trọng, vội quay sang hỏi Mễ lý chánh: "Trên núi này vì sao có nhiều trúc đào như thế?"

Mễ lý chánh ngẩng đầu nhìn xung quanh, đáp: "Mọc hoang đấy, suốt từ cuối mùa xuân đến cuối hè, toàn núi đều là hoa trúc đào, có màu hồng, vàng, trắng, rất đẹp."

Dương Thu Trì quay đầu trở lại nhìn con đường vừa đi từ sườn núi chỗ nhà Vương lão thái xuống, mấy gian nhà gỗ đã biến thành vài điểm đen nhỏ xíu, hơi trầm ngâm một chút, rồi nói: "Chúng ta sai lầm rồi, cần phải nhanh chóng trở lại ngay!"

Hồ Giang ở phía sau ngớ cả người, hỏi: "Dương công tử, sai cái gì?"

"Đến nơi rồi nói, phải nhanh chóng trở lại nhà của Vương lão thái gia ngay." Nói rồi hắn chuyển thân quay ngược trở lên núi. Hồ Giang và mọi người thấy thần sắc của Dương Thu Trì vô cùng trịnh trọng, không giống giởn chơi, liền đều quay trở lại theo.

Vương lão thái gia thấy Dương Thu Trì đi rồi quay trở lại, hơi bất ngờ và khẩn trương, không biết đã phát sinh chuyện gì.

Dương Thu Trì trực tiếp đến căn phòng có chứa các bình mật ong, cho bộ khoái đi bắt thêm một con vịt nữa, rồi lấy cái bát đã múc mật kiểm nghiệm lúc nãy múc một bát đầy đem đổ cho con vịt đó.

Vịt uống mật ong vào tuy không hề bị gì, nhưng đã bắt đầu láp cáp lạp cạp đi đứng không ổn định, đụng đầu này té đầu kia. Dương Thu Trì lại múc thêm một chén mật nữa, bảo mọi người đem đổ cho con vịt đó. Liên tục uống liền thật nhiều mật như vậy, con vịt miễn cưỡng chống chịu một hồi rồi ngã phịch ra đất co giật chết.

Sau khi bắt gần hết vịt của Vương lão thái ra làm thí nghiệm, Dương Thu Trì xác định trong tám bình sứ lớn đựng mật, có tới sáu bình có chứa mật ong độc.

Hồ Giang quát hỏi Vương lão thái đây là thế nào? Vương lão thái và con trai, con dâu đều sợ điếng người, không biết làm sao lại bị như vậy, bọn họ nuôi ong mật rất nhiều năm rồi, chưa bao giờ xảy ra chuyện như vậy. Vừa rồi bọn họ cũng tận mắt chứng kiến vịt bị cho uống mật ong vào một lúc thì đi đời nhà ma, không biết lý giải làm sao cho rõ ràng được.

Hồ Giang phất tay, định cho nha dịch bước lên bắt người, nhưng Dương Thu Trì lại hươ tay ngăn lại, nói: "Không cần bắt bọn họ, và không cần truy cứu trách nhiệm của họ, vì bọn họ cũng không biết trong mật ong này có độc."

Hồ Giang nghi hoặc nhìn Dương Thu Trì, Dương Thu Trì chỉ vào hai bình mật không có độc hỏi Vương lão thái: "Hai bình mật này lấy vào từ giữa tháng chín âm lịch năm nay trở về sau đúng không?"

Con dâu của Vương lão thái vô cùng kinh ngạc hỏi: "Đúng a, đại nhân ngài sao lại biết vậy?"

Dương Thu Trì không trả lời, thần sắc ngưng trọng nhìn sáu bình mật còn lại, hỏi: "Sáu bình mật ong này nhất định là lấy vào trước tháng 8 năm nay phải không?"

Vương lão thái lại càng kinh ngạc hơn, gật đầu đáp: "Đúng vậy, đại nhân nói thật không sai."

Tống Vân Nhi cũng rất kỳ quái, ngạc nhiên nhìn Dương Thu Trì hỏi: "Ca, trước đây huynh cũng nuôi ong mật sao?"

Dương Thu Trì lắc lắc đầu, thở dài nói: "Kẻ chân chính giết Lỗ Học Nho đã tìm thấy rồi."

Hồ Giang vui mừng hỏi Dương Thu Trì: "Chính là cả nhà Vương lão thái này, đúng không?"

Dương Thu Trì lắc đầu: "Không phải, hung thủ hạ độc giết chết Lỗ Học Nho không phải là người."

Cái câu "hung thủ không phải là người" này làm mọi người vô cùng sợ hãi, đặc biệt là càng làm Tống Vân Nhi nhớ lại lúc ở Vân Nhai Sơn, Dương Thu Trì đã từng nói Bạch Tiểu Muội chính là quỷ hồn giết người, tức thời cảm thấy ớn lạnh xương sống, nhìn tả nhìn hữu rùn mình một cái, hỏi: 'Chẳng lẽ lại là quỷ hồn hạ độc thủ nữa?"

"Coi muội nhát gan chưa kìa," Dương Thu Trì thương xót mắng nhẹ một câu rồi tiếp, "Hạ độc không phải là quỷ, mà là ong mật!"

"Cái gì?" Câu này khiến mọi người ở đó đều trở nên hồ đồ. Tống Vân Nhi cả kinh hỏi: "Ong mật? Ong mật sao có thể hạ độc giết người?"

Dương Thu Trì đáp: "Muội có chú ý không, núi đồi quanh đây đều có rất nhiều trúc đào. Thứ trúc đào này toàn thân đều có độc, lá, cành, rễ đều có độc, ngay cả cánh hoa và phấn hoa cũng có độc. Vương lão thái gia nuôi mật ong. Ong mật lấy mật từ trong rừng trúc đào này, do đó, mật ong lấy đem về có độc!"

Con dâu của Vương lão thái lập tức tranh cãi: "Vậy, vậy những bình mật khác vì sao không có độc?"

"Hoa Trúc đào thường nỡ vào tháng 5 đến tháng 8 âm lịch, sau tháng 8 thì hoa đã tàn. Ong mật đi thu mật trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 8, do chúng đậu hút mật trên hoa có độc, do đó tích tụ độc theo mật. Còn mật ong thu được vào thời điểm sau tháng 8, nhất định không có độc, các bình sứ mật ong lớn ở phía sau không có độc là vì cớ này."

Chuyện đến giờ thì Hồ Giang và mọi người đều rõ. Cực khổ cả nửa ngày, cuối cùng thì tìm được kẻ giết Lỗ Học Nho không phải là người, mà là ong mật, quả thật khiến người ta nghĩ vỡ cã óc cũng không đoán ra được.

Chú thích:

Trúc đào: Một loại hoa có màu đỏ rất đẹp thường được trồng làm kiểng nhưng toàn thân đều chứa chất độc. Cây trúc đào, hay đào lê, có tên khoa học Nerium Oleander L, thuộc họ trúc đào (Apocynaceae). Trong các bộ phận của cây đều chứa chất nhựa màu kem, vàng ngà rồi hóa lục. Trong nhựa này có các glucosid độc, chủ yếu là oleandrin (còn gọi là neriolin) với tỷ lệ 0,7- 1 phần nghìn. Đây là chất có tác dụng mạnh đối với tim, nếu dùng đúng liều quy định thì có tác dụng trợ tim, nếu dùng quá liều thì sẽ ngộ độc. Trẻ em chỉ cần ăn 1 chiếc lá trúc đào cũng gây tử vong, không cần phải dính mủ trúc đào mà chỉ cần vô tình hít phải khói từ cây trúc đào bị đốt cũng gây ra vấn đề. Rắc rối cũng xảy ra khi sử dụng cành cây để xỉa răng hoặc uống nguồn nước mà các bông hoa đã rụng xuống... Ngộ độc và các phản ứng đối với trúc đào rất là nhanh, đòi hỏi phải có sự chăm sóc y tế ngay lập tức khi nghi ngờ (hoặc đã biết) là ngộ độc trúc đào ở cả người lẫn động vật.

Sau khi chất độc vào cơ thể sẽ gây ra các triệu chứng: Nôn mửa dữ dội, sau đó người mệt lả không muốn nói năng cử động gì, có khi nhức đầu, chóng mặt đau bụng. Ngộ độc nặng hơn thì có thể trụy tim, tụt huyết áp, hôn mê rối loạn nhịp tim. Ngộ độc quá nặng sẽ dần dần thiếu ôxy lên não. Nếu không xử lý kịp thời sẽ dẫn đến tử vong. Do đó cần cẩn thận khi tiếp xúc với Trúc Đào! Dương Thu Trì bảo con trai của Vương lão thái nhớ kỹ lại coi vợ cả Phạm thị của Lỗ Lão phu tử mua mật ong của cậu ta từ khi nào.

Lỗ lão phu tử xem ra rất có danh ở Nam Tiếu thôn, lão tú tài năm chục tuổi thi mãi không đậu, còn cưới được một vợ một thiếp, để rồi gia đạo bần hàn, không muốn nổi danh cũng không được a. Con của Vương lão thái bình quân mỗi tháng xuống núi bán mật ong một lần, do đó lập tức nhớ ngay lần Phạm thị mua mật ong là vào tết trùng cửu ngày 9 tháng 9 âm lịch. Lời đáp này nhất trí với lời khai của Phạm thị, như vậy là Phạm thị đã mua phải mật ong có độc.

Hồ Giang nghĩ, nếu như ong tạo ra mật độc như vậy thì không còn cách nào, chẳng thể nào bắt mấy con ong về trị tội a. Cả nhà Vương lão thái cũng không biết hoa mà ong lấy về làm mật có độc, coi như điều ngoài ý muốn, bắt họ cũng không thỏa đáng. Suy đi nghĩ lại, cuối cùng y quyết định kiếm một bình sứ nhỏ lấy mật có độc mang về báo cáo kết án.

Hồ Giang tìm bình lấy mật, Dương Thu Trì ngẩn ngơ nhìn đến phát ngốc.

Tống Vân Nhi thấy Dương Thu Trì đứng đó ngẩn ngơ nhìn mấy hủ mật, vỗ vỗ vai hắn bảo: "Ca, còn đứng đờ ở đó làm gì? Án coi như phá rồi, chúng ta mau hạ sơn về ngủ đi thôi, suốt đêm không ngủ, mọi người đều mệt mỏi lắm rồi."

Dương Thu Trì nhíu mày phất phất tay: "Không đúng!"

"Cái gì không đúng?" Tống Vân Nhi hỏi.

"Án này không ổn! Ong mật không phải là hung thủ, Lỗ học nho chẳng phải chỉ ăn mật ong có độc không mà chết."

Hồ Giang nghe thế cả kinh hỏi: "Dương công tử, công tử nói gì? Công tử vừa rồi không phải nói...."

Dương Thu Trì ngắt lời y: "Lúc nãy ta đoán nhầm," rồi vừa chỉ vào mật trong hủ tiếp: "Mọi người nhìn coi, những mật ong có độc này đã được bán gần hết rồi. Nếu mật có thể làm chết Lỗ Học Nho, thì phải làm chết người khác, vì sao không nghe nói có ai ăn mật ong trúng độc chết vậy?" Hắn chuyển thân hỏi Mễ lý chánh: "Hai năm qua trong thôn có người chết không?"

Lý chánh lắc đầu. "Không có." Y ngẫm nghĩ một chút rồi tiếp, "Mật ong của Vương lão thái này kể ra cũng rất tốt, trong thôn có nhiều người mua mật của lão, tôi cũng có mua qua, nhưng ăn vào chẳng có chuyện gì cả. Bọn họ còn đến càng thôn kế cận bán, cũng không nghe nói ai ăn mật ong xong rồi chết a."

Thông phán Hồ Giang hỏi: "Vậy con vịt ăn vào rồi giãy chết đó giải thích làm sao?"

Mễ lý chánh gãi đầu: "Cái đó, cái đó..."

Dương Thu Trì tiếp lời: "Cái đó cũng dễ giải thích, chẳng phải ăn cái gì có độc cũng trúng độc chết ngay, cần phải ăn đủ lượng mới được, hơn nữa, những người khác nhau hoặc trong những tình huống khác nhau đều có thể ảnh hưởng đến khả năng trúng độc hay không. Cùng một lượng độc chất, người lớn ăn vào không nhất định trúng độc, nhưng em bé dùng rồi có thể sẽ tím tái mà chết. Thậm chí có thứ em bé ăn vào chả sao, nhưng vịt ăn vào sẽ trúng độc."

Tống Vân Nhi có vẻ hơi hiểu, hỏi: "Ca, ý của huynh nói có phải là lượng độc trong mật ong này vẫn chưa đủ làm chết người, nhưng vẫn có thể làm chết con vịt?"

"Thông minh!" Dương Thu Trì khen.

Tống Vân Nhi cười hì hì.

Mễ lý chánh cũng phát hiện một chuyện khác, hỏi: "Vậy em bé và vịt chẳng chênh lệch nhau bao nhiêu, sao không nghe nói có em bé nào ăn mật ong chết vậy?"

Dương Thu Trì ngớ người, vấn đề này hắn chưa nghĩ tới, đáp: "Cũng có thể, có thể liên quan đến lượng sử dụng trong thôn này. Em bé thường ăn rất ít, dùng một cái đầu đũa chấm một chút khuấy vào nước là xong, trong khi đó lúc nãy chúng ta đổ cho con vịt những hai chén mật, đủ cho một em bé ăn nhiều ngày, như vậy nếu chia ra mỗi ngày thì liều lượng ra thì rất ít." Hắn chỉ con vịt đó, nói: "Hơn nữa em bé dù có nhỏ, cũng lớn hơn vịt nhiều!"

Vương lão thái cũng chen lời: "Trẻ sơ sinh không thể cho dùng mật ong được đâu."

"Vì sao?" Dương Thu Trì và Mễ lý chánh đều kỳ quái hỏi.

"Em bé chưa cử bú mà uống mật ong sẽ kêu khóc không ngừng, hơn nữa tiếng khóc rất yếu ớt, không có sức bú sữa. Nếu em bé uống mật ong nhiều quá sẽ chết đấy. Do đó khi chúng tôi bán mật ong đều nhắc nhở mọi người về vấn đề này."

Vị Vương lão thái nói không sai, căn cứ vào kiểm nghiệm của y học hiện đại, người ta phát hiện trong bụi đất có một loại tế khuẩn gọi là "Nhục độc can khuẩn"(Clostridium botulinum). Khi ong mật đi thu hái phấn hoa và hút mật, rất có khả năng sẽ đem phấn hoa và mật ô nhiễm về tổ. Từ đó trong mật ong thường có chứa một lượng độc tố nhỏ, người lớn ăn vào không sao, nhưng em bé uống vào sẽ bị trúng độc, thậm chí tử vong. Do đó, em bé dưới một tuổi thường không được phép uống mật ong (*).

Chuyện em bé sơ sinh không dùng được mật ong, Dương Thu Trì thật ra không hề biết. Trong xã hội hiện đại, hắn ngay cả một mối tình vác vai cũng không có, thì làm gì có cơ hội có em bé, nên lại càng không cần phải quan tâm đến vấn đề này. Hiện giờ nghe Vương lão thái nói vậy, hắn coi như mở mắt thêm ra.

Dương Thu Trì thấy Tống Vân Nhi và Hồ Giang cùng mọi người vẫn còn chưa tin luận điểm về chuyện chất độc có thể làm chết vịt nhưng không thể làm chết người, lại mệt và lười giải thích, bèn bảo Nam Cung Hùng: "Ngươi mang theo hai người đi ra chuồng heo của Vương lão thái bắt một con vào đây, nếu lớn hơn trăm cân càng tốt."

Nam Cung Hùng dạ một tiếng, không thèm kêu ai khác, một mình xâm xâm vào chuồng heo, tức thời gây ra hàng loạt tiếng en ét ụt ịt. Chẳng mấy chốc sau, Nam Cung Hùng ẵm một con lợn béo núc nít ra, to gần bằng người của y. Nam Cung Hùng quả thật là mạnh, con heo bị y ôm chặt, cái mũi ngoại trừ hì hì khịt khịt, còn thì chẳng động đậy giãy giụa được gì.

Dương Thu Trì gọi một bộ khoái mang hai tô mật có độc đến cho con heo đó ăn, sau đó thả nó về chuồng. Mọi người vây quanh chuồng heo chờ cả nửa ngày, chỉ thấy con heo đó ụt ịt lắc đuôi liếc mắt sống nhăn răng, chẳng có triệu chứng trúng độc gì cả.

Đến lúc này thì Hồ Giang và mọi người đều tin cả rồi. Cùng là hai chén mật, nhưng làm chết vịt mà chẳng làm chết heo. Xem ra, Dương Thu Trì nói đến việc để hạ độc chết người cần phải có một liều lượng nhất định quả thật là chính xác.

Và nếu như chỗ mật ong độc này không làm chết một con heo lớn, thì đương nhiên sẽ không độc chết Lỗ Học Nho. Hơn nữa, con vịt bị độc chết là vì bị người ta đổ liên tục cho hai bát mật to, còn Lỗ Học Nho chỉ dùng mật để thoa xức vết loét trong miệng, một con dùng thẳng vào trong bụng còn một kẻ dùng ngoài, do đó thân thể Lỗ Học Nho hấp thụ lượng độc chất từ mật càng ít hơn, không thể nào bị chất độc trong mật ong làm chết được.

Dương Thu Trì vừa rồi đứng ngẩn ra là vì phát hiện vấn đề này.

Như vậy có thể nói, hạ độc giết chết Lỗ Học Nho không phải là ong mật đi lấy hoa độc về tạo mật độc. Nếu thì, hung thủ thực sự là ai đây? Đang lúc Dương Thu Trì suy nghĩ xem bước tiếp theo đó phải làm gì, thì Tống Vân Nhi vô cùng hưng phấn, nhân vì nàng học được không ít tri thức về độc vật. Nàng học võ công chính là để một ngày nào đó có thể hành tẩu giang hồ, hành hiệp trượng nghĩa, nhưng giang hồ hiểm ác, nếu biết được chút tri thức hạ độc và phòng độc, sau này đi lại trên giang hồ biết đâu có thể có dịp cần dùng.

Tống Vân Nhi cao hứng hỏi: "Ca, ngoại trừ những thứ huynh nói vừa rồi, còn có thứ gì có thể khiến một người nào đó ăn uống phải độc dược mà không trúng độc?"

Dương Thu Trì đối với sự ham học hỏi của nàng rất vừa ý, gật đầu khen ngợi, đáp: "Trừ liều lượng ít nhiều và sự khác biệt về cá thể có thể quyết định có trúng độc hay không, phương pháp sử dụng cũng ảnh hưởng không ít, ví dụ như nọc độc của rắn nếu uống vào thì không sao, nhưng ngấm vào huyết dịch của con người có thể làm chết người ta."

"Lỗ Học Nho dùng mật ong trộn thuốc này xức lộn vết thương trong miệng, chứ không phải trực tiếp uống vào..."

Nói đế đấy, Dương Thu Trì đột nhiên dừng lại, tự lẫm nhẫm: "Mật ong trộn thuốc...."

Một tia linh quang chợt lóe lên trong đầu hắn, khiến hắn chợt vỗ đùi đánh đét, luôn miệng nói đáng chết, vì sao lại bỏ quên manh mối này chứ? Vợ cả của Lỗ Học Nho là Phạm thi đã từng khai là bà ta có được một phương thuốc, dùng ong mật phối trộn với thuốc cho Lỗ Học Nho xức trị miệng lưỡi bị nóng lở, nhưng bản thân chí chú ý đến mật ong để phối dược, còn thuốc để phối như thế nào lại vô tình bỏ qua! Rất có khả năng thuốc dùng để trộn với mật ong có vấn đề, hoặc phương thuốc có vấn đề, hay nói khác đi là người đưa cho Phạm thi phương thuốc đó có vấn đề!

Dương Thu Trì nhớ lại lúc làm thí nghiệm trên sinh vật ở khách sạn nhỏ, con vịt sau khi ăn số mật từ trong bình thuốc của Lỗ Học Nho là ngã ra đất giãy đành đạch chết ngay, trong khi vừa lúc nãy vịt phải ăn tới hay chén mật, chịu được thời gian tàn hai nén nhang mới chết. Như vậy có thể thấy, chất độc trong bình thuốc của Vương lão thái độc hơn nhiều so với độc trong mật ong.

Vừa rồi đã chứng thực mật ong của Lỗ Học Nho là mua từ mật ong độc của Vương lão thái, vậy cùng một loại mật mà có độc tinh không giống nhau, chứng tỏ trong mật ong đó có khả năng là có thêm độc do người khác hạ vào! Hơn nữa, vấn đề rất có khả năng xuất phát từ phương thuốc hoặc là bản thân thuốc dùng để phối dược.

Hiện giờ nhất định phải tìm ngay Phạm thị, tra cho rõ phối dược là gì, phương thuốc này do ai cho...

Những chuyện như trên nói ra thì nhiều, nhưng chỉ diễn ra trong đầu Dương Thu Trì có một tích tắc. Hắn bảo: "Phải trở về Bắc Tiếu thôn tìm Phạm thị ngay."

Hồ Giang hỏi: "Sao? Chẳng lẽ vẫn là Phạm thị hạ độc à?"

"Không, rất có thể là thuốc dùng để trộn chung với mật ong có vấn đề!" Dương Thu Trì chỉ hé lột một chút, Hồ Giang và mọi người liền minh bạch, họ cùng vội vã xuống núi.

Trước khi ra đi, Dương Thu Trì báo cho cả nhà Vương lão thái là tuy độc trong mật ong không hại chết người, nhưng dù gì cũng là có độc, ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe con người, bảo bọn họ hủy số mật đó đi, hơn nữa phải đi chặt bỏ toàn bộ trúc đào trong vùng phụ cận để tránh cho mật sáp tạo ra lại có độc nữa. Ngoài ra, hắn còn dặn sau này nếu lấy được mật mới rồi, tốt nhất nên dùng gà vịt thực nghiệm qua thử coi có độc hay không.

Cả nhà Vương lão thái suýt chút nữa bị ghép vào tội hạ độc rồi bị bắt trị tội, quả thật khiếp sợ vô cùng, nhưng khi được Dương Thu Trì điều tra ra chân tướng, trả lại sự thanh bạch cho họ, nên vô cùng cảm kích đối với hắn, đương nhiên vâng dạ chấp hành ngay lời hắn dặn. Hơn nữa, dù Dương Thu Trì không yêu cầu như thế, bọn họ cũng phải hủy đi số mật và trúc đào xung quanh, bỡi vì dù sao họ cũng là những người có trách nhiệm, bán rẻ lương tâm để kiếm tiền là điều mà họ tuyệt đối không làm.

Dương Thu Trì cùng mọi người gấp rút hạ sơn trở lại Nam Tiếu thôn, đến thẳng nhà Lỗ Học nho. Phạm thị và Trầm thị hiện đang bị giữ ở nơi đó.

Dương Thu Trì không thèm nghỉ ngơi, lập tức thẩm vấn Phạm thị: "Phương thuốc mà bà dùng để phối trị bệnh lỡ miệng của lão gia nhà bà là gì?" Dừng lại một chút, hắn hỏi tiếp: "Có phải là dùng cánh hoa trúc đào nghiền nát hòa trộn vào mật ong không?"

Sở dĩ Dương Thu Trì đoán như thế, nhân vì trúc đào là loại trung dược khá thông dụng, có tác dụng giải độc giảm đau nhức, rất nhiều thuốc trung y trị ung nhọt đều có trúc đào ở trong đó (đều là thuốc thoa ngoài da). Tuy nhiên, trúc đào là một loại độc dược, nên có thể nói, trung y là một thứ học vấn khá huyền diệu, nhiều một chút là độc, ít một chút là thuốc, đánh đúng chỗ thì trị được bách bệnh.

Gần Nam Tiếu thôn đều có trúc đào, và chút tri thức về trúc đào có độc được được người dân trong vùng biết. Trong các làng xóm thôn quê thường phát sinh những trường hợp trâu dê ăn phải trúc đào ngộ độc tử vong. Nhưng do lão bá tính thiếu các khiến thức về trung y, hay các bài thuốc dân gian đều là truyền miệng, nên việc dùng trúc đào để làm thuốc kỳ thật rất nguy hiểm.

Phạm thị ngạc nhiên hỏi lại: "Đại nhân, ngài cũng biết phối phương này sao? Bài thuốc này rất hữu dụng đấy."

"Hữu dụng? Dùng để đi chầu diêm vương thì có!" Dương Thu Trì tức giận bảo. "Ngươi không biết thì đừng có tin thầy tin bà loạn lên hết chứ. Thứ trúc đào này tuy có tác dụng giải độc giảm đau giảm sưng tấy, nhưng nó là chất kịch độc, sử dụng không đúng cách sẽ làm chết người đấy! Lão gia của ngươi rất có thể là dùng bài thuốc của ngươi chết rồi!"

Phạm thị lập tức sợ hãi khóc rống lên: "Đại nhân, tôi thiệt không biết a, trước đây có người dùng trúc đào làm thuốc đều không sao cả, tôi cho rằng... tôi thật không biết a."

Mật ong vốn đã có độc, Phạm thị lại nghe theo phương thuốc dân gian, bỏ thêm cánh hoa trúc đào vào đó, coi như đã có độc mà còn cho thêm độc, thì làm sao lão tú tài Lỗ Học Nho chịu nổi chứ, không chết mới là lạ!

Tin bừa theo thuốc lạ, sự ngu muội đã hại chết người! Dương Thu Trì thầm thở dài.

Hồ Giang cũng than thở: "Thì ra ong mật và nguyên phối phu nhân hợp mưu giết lão tú tài Lỗ Học Nho này, ta nghĩ nát óc cũng không ra kết quả như vậy!"

Các bộ khoái bước lên dùng xích trói Phạm thị lại.

Tiểu thiếp Trầm thị lại bắt đầu gào khóc cào cấu Phạm thị, đòi giết bà ta báo thù cho lão gia, nhưng bị Tống Vân Nhi kéo ra.

Xong rồi, án coi như đã phá, trở về nhà thôi!

Tâm tình của Dương Thu Trì thật trầm trọng. Hắn bước ra khỏi phòng mà cảm thấy án này có gì đó không thõa. Bước đi mấy bước, hắn đột nhiên dừng lại, nhìn vào sườn núi đối diện không chớp mắt.

Tống Vân Nhi hỏi: "Ca, huynh nghĩ gì nữa vậy?"

Dương Thu Trì không trả lời, quay đầu lại nhìn bụi trúc đào ở cạnh nhà Lỗ học nho, nhìn lên nhìn xuống một hồi, bước lại hái một chiếc lá đặt lên bàn tay xem, chân mày nhíu tít lại.

Tống Vân Nhi biết những khi ca ca của nàng đứng thẩn thờ ra như thế, thì có nghĩa là ca ca đang suy nghĩ điều gì đó thật kỳ quái. Vì vậy, nàng thấy lạ riết thành quen, không dám làm phiền, chỉ đứng bên cạnh đó chờ hắn ngẫm nghĩ xong.

Dương Thu Trì đột nhiên vò nát chiếc lá trúc đào trong tay, sau đó đưa các phần lá nát lên xem kỹ, đôi mày càng nhíu chặt hơn nữa.

Sau khi trầm tư một lúc lâu, Dương Thu Trì bước đến trước mặt Phạm thị, hỏi: "Ngoại trừ ngươi cho thêm cánh hoa trúc đào vào mật ong, còn cho cái gì khác nữa không?"

Phạm thị lắc đầu khóc lóc, mái tóc bạc xõa tung ra, khiến cho mọi người đều cảm thấy đáng thương.

Dương Thu Trì lại hỏi: "Phương thuốc này ai chỉ cho ngươi?"

"Là lão thầy bói Triệu Bán Tiên ở cửa thôn chỉ."

"Thầy bói à?" Dương Thu Trì hơi ngạc nhiên, "Thầy bói mà sao biết xem bệnh?"

Phạm thị gật gật đầu, khóc thút thít.

Mễ lý chánh ở cạnh đó chen lời: "Dương công tử, thầy bói Triệu Bán Tiên trong thôn của chúng tôi thật là có bản lĩnh, xem bệnh chỉ là thứ yếu, khiến người ta bội phục chính là ông ta xem bói rất chính xác." Tống Vân Nhi nghe thế lập tức cảm thấy vô cùng hứng thứ, hỏi: "Ai! Ngươi nói cái tên Triệu Bán Tiên đó coi bói chuẩn lắm hả?"

Phụ nữ đối với bói toán, đoán mệnh, tướng tinh, số phận đều rất mê muội, từ cổ chí kim đều không có ngoại lệ!

Mễ lý chánh đáp: "Đương nhiên chuẩn, ba làng tám xóm quanh đây đâu đâu cũng tìm y coi bói, người ta còn tặng cho y ngoại hiệu là Triệu Bán Tiến." Ngừng một chút, y tiếp, "Vị Triệu Bán Tiến này không những coi bói giỏi, mà còn có thể bát quỷ trừ tà, đạo pháp lợi hại vô cùng."

"Đúng rồi, mấy ngày trước nghe nói tiểu thiếp Trầm thị của Lỗ lão phu tử đã đưa lão đi tìm Triệu Bán Tiên xem bói, Triệu Bán Tiên nói Lỗ lão phu tử năm nay có kiếp nạn, chỉ sợ khó thoát. Lúc đó tuy y đã giải xong, nhưng Triệu Bán Tiên có nói, kiếp số này rất kho có thể giải trừ hết, quả nhiên hiện giờ đúng như thế, Triệu Bán Tiên đoán thật là linh!"

Dương Thu Trì nhớ lại đêm hôm qua khi bọn họ vừa đến Bắc Tiếu thôn tìm Mễ lý chánh báo cho y biết Lỗ học nho đã chết, lúc đó lý chánh đã từng lẫm bẫm "Thiệt là linh", Dương Thu Trì nghe mà cảm thấy kỳ lạ cho câu nói này, không hiểu tại sao, sau đó do bận đi tìm người nhà của Lỗ Học Nho để tra hỏi nên cũng không để ý. Hiện giờ, hắn mới hiểu Mễ lý chánh lúc đó có ý bảo Triệu Bán Tiên đoán mệnh linh nghiệm.

Dương Thu Trì hỏi: "Ngươi làm sao biết Trầm thị dẫn Lỗ Học Nho đi tìm Triệu Bán Tiên đoán mệnh?"

"Triệu Bán Tiên nói a, y cảm thán và nói với mọi người rằng Lỗ lão phu tử năm nay có kiếp nạn, rất hung hiểm, chỉ sợ ngay cả ông ta cũng giải không nổi, bảo mọi người cẩn phải để ý Lỗ lão phu tử, có chuyện gì xảy ra cần phải báo ngay cho ông ta để kịp thời xử lý."

Dương Thu Trì ừ à, cúi đầu trầm ngâm một chút rồi đột nhiên chuyển thân trở vào trong nhà của Lỗ Học Nho.

Tống Vân Nhi, Hồ Giang, Mễ Lý Chánh không biết Dương Thu Trì định làm gì, chỉ đành đi vào theo.

Tiểu thiếp Trầm thị cứ nghĩ bọn họ đã đi rồi, nên trở vào ngồi trong khuê phòng hát hò nho nhỏ xâm soi trang điểm. Ả thấy Dương Thu Trì tiến vào liền hơi bối rối, kéo tay áo lên lau nước mắt.

Dương Thu Trì cảm thấy rất tức cười, hỏi Trầm thị: "Ngươi dẫn lão gia của các ngươi đi tìm Triệu Bán Tiên trong thôn coi bói, đúng không?"

Tiểu thiếp Trầm thị lén nhìn Dương Thu Trì một cái, từ từ thả tay áo xuống, mắt đã bị dụi đỏ hồng nhưng không hề có một giọt lệ nào, rầu rầu đáp: "Đúng a, vốn là muốn đến đó để thầy bói đoán coi trong kỳ thi ân khoa năm nay lão gia có thể trúng tuyển hay không, thật không ngờ vừa gặp mặt nhà Triệu Bán Tiên ấy đã nhìn được là lão gia của chúng tôi năm nay bị kiếp nạn. Hu hu hu, không ngờ Triệu Bán Tiên coi trúng rồi, hu hu, sau này tôi làm sao mà sống đây a, hu hu hu hu hu." Nói rồi lớn tiếng khóc rống lên.

Dương Thu Trì chờ cho cái còi hơi của ả xả bớt một chút mới hỏi tiếp: "Nhưng ta nghe Mễ lý chánh nói Triệu Bán Tiên đã giải kiếp nạn này cho lão gia các ngươi rồi, sao lại không hữu hiệu vậy?"

"Giải thì giải rồi, nhưng Triệu Bán Tiên nói lão gia chúng tôi gặp kiếp nạn rất lớn, nếu như không thể qua khỏi thì đó là ý trời mà thôi. Hu hu hu" Tiểu thiếp Trầm thị lại bắt đầu sụt sịt dùng tới còi hơi.

"Vị Triệu Bán Tiên đó giải kiếp nạn cho lão gia các ngươi như thế nào?"

"Lập pháp đàn bắt quỷ trừ tà."

Hai mắt Tống Vân Nhi sáng bừng, hiếu kỳ chen lời: "Vị Triệu Bán Tiên đó còn biết bắt quỷ trừ tà? Đạo thuật của y lợi hại như vậy sao?"

Mễ lý chánh ở bên cạnh nghe thế liền chen ngay vào: "Cái đó thì đương nhiên rồi, Triệu Bán Tiên ở Bắc Tiếu thôn chúng tôi chẳng những coi bói chuẩn, mà còn thỉnh thần bắt quỷ rất tuyệt, ba làng bảy xóm xung quanh ai mà không biết? Chỉ nói riêng về bắt quỷ trừ tà trị bệnh, tôi đã từng tận mắt chứng kiến, Triệu Bán Tiên niệm động chú ngữ trói quỷ trên người bệnh nhân vào một tờ giấy trên pháp đàn, sau đó ngậm nước phun một cái, con quỷ đó tức thời hiện nguyên hình, thường đó là một con quỷ đầu to mắt lồi, máu huyết lâm ly a."

Tống Vân Nhi nghe thế cô cùng thích thú, hỏi: "Có thật không?"

Mễ lý chánh càng lên tinh thần: "Cái đó thì đương nhiên, tôi còn tự thân chứng kiến Triệu Bán Tiên dùng dầu sôi diệt quỷ nữa đấy."

"Dầu sôi chiên quỷ?" Tống Vân Nhi kinh dị hỏi.

"Không sai, trước hết nấu một nồi dầu sôi, rồi Triệu Bán Tiên thò tay vào trong đó coi dầu đã thực sự sôi chưa, có thể chiên chết quỷ hay không - đó là một nồi dầu sôi sung sục đó a, y đưa tay vào trong ấy mà chẳng bị sao cả, cô nói y có lợi hại hay không chứ hả?"

Mễ lý chánh khoe khoan đến sùi bọt mép, trong thôn của y có một nhân vật như vậy sao y không cảm thấy nở mày nở mặt cho được? Y còn hưng phấn tiếp tục kể: "Thử coi dầu sôi chưa rồi, Triệu Bán Tiên thi pháp bắt tà quỷ trên người bệnh nhân, dùng pháp thuật cấm cố quỷ đó vào một khúc xương, sau đó bỏ khúc xương vào trong dầu sôi mà nấu. Tiểu quỷ bên trong khúc xương đó không ngừng phát ra tiếng kêu thảm, giãy dụa lên xuống, cuối cùng bị chiên chín luôn! Bệnh nhân lập tức khỏe ngay. Cô nói coi thần kỳ hay không?"

Dương Thu Trì cũng xen vào: "Quả là thần kỳ a." Rồi hắn cười cười hỏi, "Vị Triệu Bán Tiên này có thể trị bệnh?"

"Đương nhiên rồi, bắt quỷ trị bệnh cái gì Triệu Bán Tiên cũng biết, nếu là bệnh nhẹ thì dùng phương thuốc của y là khỏi, còn bệnh nặng thì phải bắt quỷ trừ tà mới được."

Dương Thu Trì ngẫm nghĩ một chút, nói: "Ta thường hay đau răng, đau lên rồi ăn cái gì cũng không ngon. Hơn nữa ta còn ngủ không được, cứ ngủ là gặp ác mộng, ngươi dẫn ta đi tìm Triệu Bán Tiên coi thử coi sao, được không?"

"Sao lại không á" Mễ lý chánh sốt sắng đáp ngay: "Tôi dẫn mọi người đi."

Dương Thu Trì nói với tiểu thiếp Trầm thị: "Ngươi cũng đi theo chúng ta đi, đi xem náo nhiệt."

Trầm thị vốn muốn cự tuyệt, nhưng thấy thần sắc Dương Thu Trì vô cùng lạnh lùng, hoảng kinh không dám nói gì, gật gật đầu đi theo họ ra khỏi cửa.

Mọi người được Mễ lý chánh dẫn đường ra đến nhà Triệu Bán Tiên ở gần cửa thôn.

Nhà Triệu Bán Tiên nhìn có vẻ giàu có so với những nhà khác trong thôn, bao gồm mấy gian phòng lớn lợp ngói, trước cửa lớn có treo một biển trên có đề bốn chữ đại tự vàng chóe: "Bán tiên hạ phàm".

Nhà y có một hầu gái già họ Tôn chuyên môn nghênh đón khách nhân. Khi nghe nói có các đại gia trong Ứng Thiên phủ nha môn đến tìm Triệu Bán Tiên trừ tà xem bệnh, Tôn lão mụ tử mừng đến nỗi cười không thể khép miệng, vội vã mời Dương Thu Trì cùng mọi người vào nhà, sau đó chạy ra ngoài nói oang oang, trong thôn tức thời chấn động, rất nhiều người kéo đến xem náo nhiệt.

Vị Triệu Bán Tiên này tuổi ngoài năm mươi, một con mắt nhỏ xíu, mắt còn lại bị mù, khi nghe nói có các lão gia từ Ứng Thiên phủ đến, y liền đứng dậy chấp tay khom người: "Tham kiến các vị lão gia, Triệu hạt tử (mù) tôi xin ra mắt các vị." Nói rồi dẫn họ đến mời ngồi trong phòng khách.

Dương Thu Trì chấp tay xá xá, nói: "Triệu Bán Tiên, tại hạ và thông phán Hồ Giang Hồ đại nhân của Ứng Thiên phủ nha môn đến quý thô tra án Lỗ lão phu tử bị giết, nghe nói tiên sinh pháp thuật cao cường, cũng vừa lúc tại hạ đang có chút khó ở, nên muốn thỉnh tiên sinh coi bệnh xem sao."

Triệu Bán Tiên nghe nói Lỗ lão phu tử bị giết, thở dài: "Ai...! Thật là trời không ưa người tài, lão phu tử này vốn là người có học vấn nhất trong thôn chúng tôi a! Ai....! Thật đáng tiếc a...! Pháp lực của ta không đủ, không thể cứu được ông ta."

Những thôn dân đang đứng chật ngoài vườn đều gật đầu than thở.

Triệu Bán Tiên thở dài phẫy phẫy tay, nghe thôn dân ngoài cửa kính phục thở than, khóe miệng lộ ra nụ cười đắc ý. Qua một lúc sau, y mới chớp chớp con mắt mông lung lệ còn lại duy nhất ấy, cất tiếng hỏi Dương Thu Trì: "Xin hỏi vị đại gia này không thoải mái ở chỗ nào?" "Răng ta đau, đêm ngủ không được vì răng cứ đau buốt hoài, ai da...! Khi đau lên rồi thì muốn chết phứt cho xong, chẳng muốn trà rượu cơm nước gì cả, khó chịu lắm."

Triệu Bán Tiên bảo Dương Thu Trì há miệng ra, giả vờ nhìn trên nhìn dưới trong vòm răng một hồi, rồi bảo: "Không có vấn đề gì lớn, để tôi cấp cho ngài một phương thuốc, lúc đau răng thì dùng lập tức sẽ hiệu nghiệm."

"Vậy à? Đa tạ tiên sinh, phương thuốc gì vậy?"

Triệu Bán Tiên cười cười: "Phương thuốc này nếu nói ra thì chẳng có gì kỳ lạ cả," y chỉ ra bụi trúc đào ngoài cửa, "Chính là dùng lá trúc đào này, chỉ một lá là đủ, đem ngâm trong nước, khi đau răng thì ngậm nước đó vào miệng sẽ thấy hiệu nghiệm ngay, bảo đảm ngài không đau nữa."

"Thật không? Phương thuốc này hiệu nghiệm thật sao?"

Triệu Bán Tiến chỉ vào bảng hiệu trên cửa: "Ha ha ha, sao lại không hữu hiệu? Không hữu hiệu mọi người có thể để hủy chiêu bài của tôi!" Dừng lại một chút, y đắc ý huyên hoang nói: "Quý vị từ xa đến chắc là chưa rõ, nếu như quý vị còn chưa tin thì có thể hỏi hàng xóm chung quanh đây, không biết bao nhiêu người đã dùng thuốc của tôi trị khỏi bệnh rồi." Nói xong y cười hì hì nâng chung trà lên nhấp một ngụm thấm giọng.

"Vậy à?" Dương Thu Trì mỉm cười, "Vậy bệnh đau răng của Lỗ lão phu tử là do Bán tiên ngài trị lành đấy à?"

Nước trà trong miệng của Triệu Bán Tiên sắp nuốt trôi qua cổ họng, bị Dương Thu Trì đột nhiên hỏi câu này, lập tức trào ngược trở lên chặn cả khí quản, khiến y bị sặc ho sù sụ.

"Bán tiên, ông không sao chứ?" Dương Thu Trì quan tâm hỏi, "Ta chỉ thuận miệng hỏi thôi, không ngờ ông kinh hải như vậy." Nói xong quay sang tiểu thiếp Phạm thị hỏi: "Lão gia của ngươi có phải bị đau răng thường xuyên không?"

Phạm thị gật gật đầu: "Đúng vậy, đại gia ngài làm sao mà biết vậy?"

"Ta kiểm tra thi thế phát hiện răng của lão gia ngươi bị sâu thủng rất nhiều chỗ, cái chứng đau răng này không phải một ngày một bữa đâu." Dương Thu Trì quay sang nhìn Triệu Bán Tiên chằm chằm: "Triệu bán tiên y thuật như thần, lại có phương thuốc này, sao Lỗ lão phu tử không đi tìm ông xem bệnh được. Ta nói có đúng không, Triệu Bán Tiên?"

Triệu Bán Tiên gật đầu lia lịa: "Đúng, Lỗ lão phu tử có đến tìm tại hạ xem bệnh đau răng, tại hạ cũng cấp cho y bài thuốc này."

"Vậy bệnh răng của Lỗ lão phu tử hết rồi sao?" Dương Thu Trì lại nhìn châm châm vào Triệu Bán Tiên.

"Cái đó, cái đó tại hạ cũng không rõ." Triệu bán tiên ho khan vài tiếng, sau đó dừng lại ngay.

Dương Thu Trì quay sang hỏi Trầm thị: "Lão gia của ngươi tìm Triệu bán tiên để xem bệnh đau răng, ngươi có biết không?"

Trầm thị gật đầu: "La tôi đưa lão gia tới, chính là lần trước đi tìm Triệu bán tiên xem bói xong rồi coi bệnh luôn một thể." Trong lúc nói, Trầm thị liếc mắt nhìn về phía Triệu Bán tiên, vừa đúng lúc thấy Triệu Bán Tiên nheo mắt nhìn mình, Trầm thị liền trợn mắt nhìn lại, nghênh mặt quay sang chổ khác.

Dương Thu Trì dường như không chú ý đến biểu hiện đó, hỏi tiếp: "Trước đó các ngươi có đến đây không?"

Trầm thị ngẫm nghĩ, đỏ mặt gật đầu: "Có đến."

"Cũng là ngươi đưa lão gia của ngươi đến?"

"Vâng."

"Có thường không?"

Tiểu thiếp Phạm thị đỏ mặt, lại liếc mắt về phía Triệu Bán Tiên.

Triệu Bán tiên không vui cất giọng chen lời: "Vị đại gia này, ngài đến xem bệnh hay là đến chỗ tôi điều tra án vậy?"

Dương Thu Trì không hề bực mình, vẫn một mực mỉm cười: "Đúng đúng, Triệu Bán tiên nói rất đúng, coi ta kìa, cái bệnh nghề nghiệp cứ phạm vào mãi, hỏi cái gì cũng như tra án vậy, thỉnh Triệu Bán Tiên đừng lấy làm lạ." Dừng lại một chút, hắn lại thở dài, "Lỗ lão phu tử dù sao cũng chết rồi, bệnh đau răng có trị lành hay không không còn quan trọng nữa."

Triệu Bán tiên vừa nghe tin đó liền ho khúc khắc vài tiếng rồi dừng lại ngay, hỏi Dương Thu Trì: "Đại gia ngài vừa nói ngoại trừ đau răng còn bị chứng ngủ không được, đúng không?"

Dương Thu Trì gật đầu: "Đúng vậy, có lúc ngủ trên giường mà cảm thấy mông lung như có gì chèn lên cổ vậy, khi giãy giụa giật mình tĩnh dậy thì cái gì cũng không có, hơn nữa lại thường hay bị ác mộng. Bán tiên, ông nói coi có phải là ta bị trúng tà không?"

Triệu Bán tiên ngưng thần tử tế quan sát Dương Thu Trì, sau đó nói: "Đại gia, ngài xác thật là bị trúng tà rồi. Coi nè, ấn đường của ngài tối đen, hai mắt vô thần, nếu như không chịu sớm khu ma trục tà, chỉ sợ chẳng mấy chốc đại nạn của ngài sẽ tới nơi a."

Dương Thu Trì trợn trừng mắt, vô cùng kinh sợ hỏi: "Vậy, vậy phải làm sao bây giờ?"

Tống Vân Nhi cũng gấp lên, rối rít hỏi: "Tiên sinh, ca ca của tôi gặp phải tà gì mà lợi hại quá vậy?"

Bộ dạng của Triệu Bán tiên hiện giờ giống như đã chắc ăn như bắp rang, mỉm cười nói: "Đừng có gấp, có Triệu bán tiên ta ở đây đảm bảo ngài không có gì. Tôi sẽ lập tức lập đàn làm phép khu tù trị bệnh, lập tức sẽ không có vấn đề gì cả." Nói đến đây, Triệu Bán tiên nâng nửa chung trà còn lại lên uống một hơi cạn sạch, dài giọng nói: 'Nhưng mà lập đàn thi pháp rất tổn thương tinh thần..."

Dương Thu Trì lập tức hội ý, móc từ trong người ra một đĩnh bạc gần mười lượng: "Tiên sinh, điểm đó mà hề gì, chỉ cần ông lập đàn thi pháp giải tà cho ta, cái này quy về chỗ ông."

Triệu bán tiên vừa nhìn thấy đĩnh bạc ấy hai mắt liền phát quang, suýt chút nữa thì con mắt đã mù kia mở hẳn cả ra luôn.

Trong sơn thôn lão bá tánh có thể có đồ ăn thức uống, nhưng ngân lượng thì hiếm vô cùng. Mỗi khi dân trong thôn đi khám bệnh coi bói, thường họ xách theo một gỉo trứng hay giỏi lắm là một cái đùi heo là hậu hĩnh lắm rồi, còn nếu tiền công được một hai xâu tiền thì đã là trọng lễ, chứ chưa bao giờ có ai dâng lên một lúc cả mười lượng bạc như thế cả.

Triệu Bán tiên nở mày híp mắt đưa tay định chộp lấy đĩnh bạc đó, Dương Thu Trì vụt tay ra chặn lại, khe khẽ lắc đầu: "Tiên sinh, không cần gấp, đĩnh bạc này cứ để đây, chờ ông giúp ta lập đàn thi pháp trừ tà giải bệnh xong thì nói là của ông."

Triệu Bán tiên hơi ngượng, cười đáp: "Cái đó đương nhiên!" Rồi y đứng dậy nói với Tôn lão mụ tử: "Mau chuẩn bị vật dụng lập pháp đàn trong vườn." Y bước đến cửa, thấy trong vườn ồn ào náo nhiệt đầy cả người trong thôn, thấy đây là cơ hội khoe bản lĩnh nên tâm tình sướng khoái vô cùng.

Lão mụ tử đó bày ra trong vườn một cái pháp đàn, Triệu Bán Tiên bảo Dương Thu Trì ngồi lên một cái ghế gần đó, Tôn lão mụ tử bắt đầu bày biện mọi thứ.

Dương Thu Trì ngoắc tay gọi Tống Vân Nhi đến gần, kề tai nàng nói xì xào gì đó. Tống Vân Nhi nghi hoặc nhìn hắn, hắn lại thì thầm thêm vài câu nữa, Tống Vân Nhi cười hì hì gật gật đầu.

Tôn lão mụ tử đang bận bịu chuẩn bị pháp đàn, Tống Vân Nhi chạy lại nói: "Đại nương, bà cực khổ quá, để tôi giúp bà!"

Tôn lão mụ tử thấy Tống Vân Nhi cực kỳ xinh đẹp, miệng nói ngọt ngào, liền cười ha ha đáp: "Không cần đâu, ta bận một chút thôi mà, cảm ơn cô nghe!" Nói xong chuyển người đi vào nhà dưới lấy đồ.

"Không hề gì, tôi giúp bà được mà!" Tống Vân Nhi thoăn thoắt vào nhà trong theo lão mụ tử.

Chẳng mấy chốc sau, lão mụ tử và Tống Vân Nhi đã chuẩn bị mọi thức cho pháp đàn, ngoài ra còn đặt một lò lữa, trên đó có một nồi dầu lớn, bên dưới chất đầy củi khô.

Triệu bán tiên thay đạo bào, cầm mộc kiếm từ pháp đài lên, chân đạp thất tinh, bước theo hình bát quái, miệng lầm rầm niệm chú, mộc kiếm trong tay không ngừng múa may trên đầu Dương Thu Trì. Dương Thu Trì thở dài nói: "Xem ra hôm nay Bán Tiên không may, gặp phải ác quỷ vô cùng hung mãnh trênngười của ta. Ai, chúng ta không làm khó tiên sinh nữa, đành phải quay về Ứng thiên phủ thôi." Nói xong hắn chuyển người định đi, đột nhiên nhớ tới điều gì đó, bước vào trong nhà lượm nén bạc lên bỏ vào túi, "Đúng rồi, ngươi không trừ được tà bệnh cho ta, đĩnh bạc này không thể trao cho ngươi được, sau này ta sẽ quay trở lại."

Dương Thu Trì nhờ Mễ lý chánh tiễn khách, còn mình thì dẫn Tống Vân Nhi và các hộ vệ đi về phía cửa thôn.

Hồ Giang cũng chẳng hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, tại sao vị tiên sinh kia dùng dầu nấu quỷ để rồi nấu chín cả tay mình. Thấy Dương Thu Trì rời khỏi đó, y cũng nhanh chóng dẫn theo bộ khoái áp giải Phạm thị bám theo Dương Thu Trì cùng rời khỏi cửa thôn.

Tiểu thiếp Trầm thị nhìn thấy Dương Thu Trì và những người khác đã khuất bóng, lại nhìn Triệu Bán Tiên đang lăn lộn kêu la trên mặt đất, khóe miệng lộ ra nụ cười mỉm, ư ử một vài lời hát nho nhỏ trở về nhà.

Tôn lão mụ tử lúc này mới lấy lại tinh thần, nhanh chóng đưa Triệu Bán Tiên vào phòng trong, tìm thuốc băng bó vết thương cho y.

Các thôn dân chờ suốt cả buổi chỉ nghe Triệu Bán Tiên không ngừng phát ra từng tiếng kêu gào chói lói, không khỏi kinh dị vô cùng.

Những thôn dân lần này coi như đã sáng mắt, không những tận mắt chứng kiến mộc kiếm của Triệu bán tiên không chém được quỷ, mà còn thấy y nấu dầu giết quỷ ngược lại bị luộc chín tay. Thì ra là sau khi thụ thương, y vẫn giống như lão bách tính bình thường kêu gào khóc thảm, không hề dùng pháp thuật chữa trị gì hết.

Tinh tức này nhanh chóng truyền khắp toàn thôn, rồi truyền đi các thôn xóm khác, và những người nghe tin đều kinh ngạc ngẩn người.

Thần tượng của bọn họ đã sụp đổ, triệt để bị đánh toàn. Hơn nữa bọn họ còn không biết y vì sao mà lại như thế.

Và các loại đoán già đoán non bắt đầu lưu hành khắp nơi. Có người đoán Triệu bán tiên trước đây bắt nhiều quỷ quá, đến giờ đây quỷ quay về báo phục. Có người nói pháp thuật của Triệu Bán tiên không còn linh nữa, không thể nào thu phục quỷ được. Thậm chí còn có người nói gã thiếu niên vừa rồi mới là cao nhân chân chính, là gã cố ý đạp đổ pháp đàn của Triệu Bán tiên, hai người đấu pháp lực, kết quả là triệu bán tiên thảm bại.

-----o0o------

Trời tối, Trầm thi ở nhà một mình. Lão Lỗ học nho đã chết, bà lớn Phạm thị bị bắt rồi. Nhưng tiểu thiếp Trầm thị không hề quan tâm đến điều này. Ăn cơm tối xong, ả đã sớm lên giường nằm sảy tay nghĩ ngợi.

Bên ngoài nhà không ngừng truyền lại tiếng chó sủa, tiếng gió lạnh thổi xào xạt qua ngọn cây, Trầm thị cảm thấy toàn thân phát lãnh, nằm co rúc trong mền, dường như như vậy an toàn hơn vậy.

Trong lúc này, Trầm thị chợt nghe một loạt tiếng bước chân nhè nhạ trên mặt tuyết đến dưới cửa sổ nhà mình.

Trầm thị càng khẩn trương hơn, ả hiện giờ coi như là một tiểu quả phụ, liệu có kẻ lưu manh nào đó trong thôn nhân cơ hội này đến hiếp đáp ả không? Trong thâm tâm ả thầm cầu mong những bước chân này chỉ là đi ngang nhà ả để đến nhà hàng xóm, nhưng suy nghĩ đó quá khiên cưỡng, bỡi vì nhà hàng xóm khá xa, và đường đi không hề ngang cửa nhà.

Đúng lúc này, tiếng bước chân đã dừng lại dưới cửa sổ, ngay sau đó là mấy tiếng gõ cốc cốc.

Trầm thị sợ đến biến cả sắc mặt, rúc sâu vào mền hơn, nhìn cái đèn cách ả mấy bước định thổi nó tắt đi giả vờ đã ngủ, nhưng điều này rõ ràng là bịt tay rung chuông.

Đúng lúc này, tiếng gõ cửa lại vang thêm mấy tiếng nữa.

Trầm thị biết không còn cách nào giả vờ, cuối cùng thu hết dũng khí run giọng hỏi: "Ai vậy?"

Ngoài cửa có tiếng người thì thào: "Là ta, mau mở cửa a."

Nghe thanh âm này, Trầm thị khẽ thở dài nhẹ nhõm, nhưng sau đó khẽ nhíu mày không thèm để ý.

Tiếng gõ cửa càng vang lên rõ hơn: "Tiểu mỹ nhân, nàng cần phải biết lão già dịch đó chết đi chính là công lao của ta đó nghe."

Trầm thị ngồi bật phắt dậy, nhìn ra ngoài cửa sổ một lát, sau đó bước xuống giường khóac áo lên người, bước ra gian ngoài mở khoen cửa, rồi chuyển thân bước vào trong.

Cửa lớn cót két mở ra, một bóng người lẻn vào rồi xoay người đóng cửa lại, vòng hai tay ôm vòng eo thon của Trầm thị từ sau lưng, trong đó có một tay bị băng chặt bằng vải trắng.

Trầm thị vỗ mạnh lên cánh tay băng vải trắng của kẻ kia, khiến y đau đớn kêu thảm một tiếng, nhưng giữa chừng dừng lại nhịn đau ôm cánh tay đó oằn mình, qua một lúc sau mới khẽ kêu: "Tiểu mỹ nhân, nàng định lấy mạng ta sao?"

Người này chính là Triệu Bán tiên lúc ban ngày dùng dầu nấu quỷ bị bỏng tay. Cái tay bị phỏng lột da lòi thịt kia hiện giờ được băng bó bằng vải trắng, sưng phù như cây chùy.

Trầm thị không lý gì đến y, ngồi xuống cạnh giường từ từ nằm dựa xuống đầu giường, khinh thường nhìn Triệu Bán tiên: "Sao vậy, không bị đốt chết chạy đến chỗ ta làm gì?"

Triệu Bán tiên ôm cái tay sưng phù đó đến ngồi bên giường, trơ mặt dày nói: "Cục cưng à, ta thi pháp thuật giết lão già dịch đó xong, nàng hiện giờ có thể danh chánh ngôn thuận cải giá rồi, nàng còn không biết đa tạ ta sao?"

Tiểu thiếp Trầm thị hừ mũi, nhấc đùi ngọc lên đá cho Triệu bán tiên một cước: "Ngồi qua bên kia, đừng đến gần tôi." Ngay sau đó ả hỏi tiếp: "Lão già thiệt đúng là bị ngươi giết?"

Triệu Bán tiên bị đá súyt chút nữa rớt xuống giường, nhanh chóng đứng dậy nhưng không hề tức giận, vẫn mặt dày mày dạn nói: "Ngoại trừ ta còn ai vào đây nữa? Nếu không phải Triệu bán tiên ta ra tay, lão hồ ly đó có thể tin phương thuốc đó sao?" Nói xong, hắn bước đến cạnh giường giương đôi mắt háo hức nhìn Trầm thị: "Cục cưng nhỏ xíu ơi, hiện giờ nàng nên theo ta đi thôi?" Nói rồi liền chồm tới định hôn Trầm thị.

Trầm thị chợt lăn người tránh vào bên trong, hỏi: "Có thật là ngươi giết không?"

Triệu Bán tiên cười ha ha: "Đương nhiên, đấy không phải là điều nàng hy vọng hay sao?"

"Phì...!" Trầm thị phun một ngụm nước bọt, "Ta chẳng muốn ngươi hại lão chết. Ta chỉ nhờ ngươi coi một quẻ cho lão xem lão có mệnh làm cử nhân hay không thôi."

"Ta coi rồi, lão không có cái mạng đó đâu a."

"Vậy ta cũng chưa hề nhờ ngươi giết lão, ta không có lòng dạ độc ác như ngươi."

Triệu Bán tiên cười cười: "Cái này là vì ta muốn có nàng, ai bảo nàng cứ ưỡn ẹo trước mặt ta, khiến ta tâm tình bức rứt, cứ một mực muốn chạy theo nàng."

'Hi hi hi," Trầm thị phì cười, "Coi đức tính của ngươi kìa! Ta biết mà. Ngươi chẳng hề tốt lành gì! Cố ý không giúp lão gia nhà ta trị hết bệnh."

Triệu Bán tiên ghé mông ngồi cạnh giường: "Nếu ta giúp lão trị hết bệnh, nàng còn đến ổ chó nhà ta để làm gì?" Nói xong y thò tay trái không thụ thương ra sờ mặt của Trầm thị.

Trầm thị đập tay hất hắn ra, tức giận quát: "Vừa thôi chứ! Ngươi hại chết lão gia nhà ta, còn muốn ăn hiếp đàn bà góa này. Nếu sớm biết thế lúc ban ngày ta đã tố cáo ngươi để cho nha môn bắt ngươi đi!"

"Coi nàng nói giống như liệt nữ trinh khiết chưa kìa," Triệu Bán tiên quỳ nửa người lên giường, "Trong lòng nàng chẳng phải là cầu cho lão quỷ đó mau chết sớm hay sao. Nàng còn có người nào khác giúp hay sao? Ta thi pháp thuật giết lão, chẳng phải là thuận với tâm nguyện của nàng đấy sao?" Ngừng một chút, hắn lại đắc ý dươngdương nói, "Triệu Bán tiên ta một mình một bóng, nàng nếu theo ta thì chẳng phải ăn ngon mặc đẹp không thiếu thứ gì nữa sao?"

"Là ngươi cam tâm tình nguyện giết lão, chứ bộ ngươi không biết ta biết rõ lòng người ra sao hay sao? Ngươi chỉ mong cho lão chết đi để ta phải theo ngươi? Đúng không? Phì!" Trầm thị lại phun một bãi nước bọt, "Đừng có mơ! Ta tuy nhiên không muốn sống cùng lão quỷ nghèo đó nữa, nhưng sẽ không theo ngươI đâu!"

"Vì sao?" Triệu Bán tiên hỏi.

Trầm thị ngồi bật dậy, lạnh mặt đáp: "Lão quỷ nghèo tuy cùng thật, nhưng biết yêu thương người, ngươi làm được không? Bản thân lão có thể ăn cực ăn khổ, để đồ ngon thức bổ lại cho ta, ngươi làm được không? Lão khuynh gia bại sản để trị bịnh cho người đàn bà của mình, ngươi có làm được không?"

Triệu Bán tiên há hốc mồm nhìn Trầm thị, bị mấy lời nói của ả làm cho cứng họng.

Trầm thị khinh bỉ nhìn Triệu Bán tiên, "Ngươi cho dù có cơ hội coi bói sờ xương, để rồi lợi dụng con dâu nhà người ta, khinh bạc con gái nhà lành, nhưng... hừ! Ngươi lại đối với nữ nhân của chính ngươi chẳng ra gì cả, ngay cả một đồng một cắc cũng không cho. Hai nữ nhân trước đây của người chẳng phải vì thói bủn xỉn đó mà bỏ trốn hay sao? Ngươi còn hy vọng ta trở thành kẻ thứ 3 y như vậy? Đừng có mơ!"

Triệu Bán tiên bị lời nói đốp chát của ả làm cho mặt hết đỏ lại trắng, không khỏi thẹn quá hóa giận, cười lạnh nói: "Như vậy thì xem ra những cái gì ta làm cho nàng đều uổng công cả?"

"Vì ta?" Trầm thị cũng hừ lạnh đáp lại, "Ngươi tưởng ta không biết tâm tư của ngươi hay sao? Ngươi say mê ta, biết ta không hải lòng lão bất tử không có tiền cũng chẳng có tài, liền cố ý bói cho lão năm nay có kiếp nạn, sau đó dùng pháp thuật gêết lão, vừa chứng minh ngươi đoán hay, vừa làm hài lòng ta." Trầm thị lại phun ra một ngụm nước bọt: "Phì...! Ngươi tán tận lương tâm lại còn muốn ta lên giường với ngươi hay sao?"

Triệu Bán tiên quỳ bứơc vài nấc tới sát cạnh Trầm thị: "Tiểu mỹ nhân, nếu như nàng biết hết lòng ta rồi, sao lại còn không theo ta?" Hắn đưa tay ra định vuốt má Trầm thị.

Trầm thị ngồi dậy dựa sát tượng, kinh tởm kêu lên: "Ngươi mà còn làm vậy ta kêu lên bây giờ!"

Triệu Bán tiên hơi ngẩn người, cũng quỳ hẳn lêngiường, lạnh giọng nói: "Nàng đừng có quên ta nếu như có thể làm phép giết chết lão già đó, thì vẫn có thể giết nàng! Nàng biết nhiều chuyện như vậy, nếu như không chịu lấy ta, nàng tưởng ta sẽ tha cho nàng sống hay sao?"

Trầm thị chợt rùn mình, chộp gối che trước ngực: "Ngươi.... ngươi muốn làm cái gì?"

"Muốn nàng làm người đàn bà của ta! Hắc hắc, người không gả cho ta ta không ép, nhưng sau này mỗi khi ta đến, nàng phải ngoan ngoãn nghe lời ta, chiều chuộng ta!" Triệu Bán tiên nheo con mắt còn lại nhìn gương mặt và chiếc cổ trắng mịn của Trầm thị, giống như hoàn toàn biến ả thành một con dê non bị lột sạch da lông, không khỏi không nuốt nước bọt khan thèm muốn.

Trầm thị chợt uốn con người nhào về phía méo giường, muốn mở màn ra bỏ chạy.

Tay trái của Triệu Bán tiên chợt chụp lấy cánh tay của Trầm thị kéo mạnh, khiến ả ngã lăn quay ra giường, rồi há miệng ra định kêu. Không ngờ mấy cái bạt tay của Triệu Bán tiên phóng đến, khiến Trầm thị mặt mày nổ đom đóm, đầu óc quay cuồng.

Triệu Bán tiên chộp lấy vạt áo trước ngực của Trầm thị giật mạnh, một tiếng roẹt vang lên, lộ ra nửa bầu ngực trắng như tuyết của ả.

Trầm thị kêu thét một tiếng chói lói, nhúc nhích lếch về phía cuối giường, kinh khủng nhìn Triệu Bán Tiên.

Triệu bán tiên cũng không cần gấp, cười nham nhở từ từ đưa tay đến trước gò ngực của Trầm thị. Đột nhiên, một đạo bạch quang lóe lên chặt đứt bàn tay vừa thò ra đó của Triệu Bán tiên. Triệu Bán tiên kêu thảm ngã vật ra giường, cánh tay phún ra một vòi máu. Triệu bán tiên kêu thảm lăn lộn trên giường, sự đau đớn tột cùng khiến hắn gần như ngất đi.

Bốn người chợt bước vào, đó chính là Dương Thu Trì, Tống Vân Nhi, Hồ Gian và Mễ Lý chánh. Sau đó, một nhóm người khác từ bên ngoài tiến vào, chính là hộ vệ Nam Cung Hùng của Dương Thu Trì và các bộ khoái, họ còn áp giải theo phu nhân nguyên phối Phạm thị của Lỗ Học Nho.

Thanh đoản kíêm vừa rồi dĩ nhiên là do Tống Vân Nhi phóng ra.

Đột nhiên thấy có nhiều người tiến vào như thế, Trầm thị còn cho đó là thổ phỉ, sợ hãi kêu lên kinh hãi. Chờ đến khi nhìn rõ đó là Dương Thu Trì cùng mọi người mới ổn định tâm thần, thút thít bật khóc.

Triệu Bán tiên đã đau đến chết đi sống lại, không ngừng lăn lộn trên giường. Bọn bộ khoái cùng xông lên kéo cổ hắn xuống.

Triệu Bán tiến bị chém đứt tay, không thể dùng xích sắt trói lại được, hơn nữa nếu như để máu chảy hết không kịp cứu, nhất định sẽ bị chết.

Bọn bộ khoái cuối cùng vẫn phát dương tinh thần của chủ nghĩa nhân đào, móc thuốc kim sang ra băng bó cho Triệu bán tiên rồi mới trói hắn lại.

Những lời nói chuyện giữa Triệu Bán tiên và Trầm thị vừa rồi đều được Hồ Giang và những người khác nghe hết, do đó Hồ Giang khen: "Dương công tử, công tử đoán đúng rồi, chính là Triệu Bán tiên này giết Lỗ Học nho. Xem ra chúng ta thực hiện cú hồi mà thương này đúng rồi."

Tống Vân Nhi vừa thu hồi đoản kiếm vừa cười nói: "Đoán cái gì, ca ca của ta đã tra rõ đây là tên cái gì mà bán tiên này làm trò quỷ giết Lỗ Học nho, cái này gọi là dẫn xà xuất động, dục cầm cố túng ấy mà!"

Thì ra, Dương Thu Trì nhờ Mễ lý chánh đưa bọn họ ra khỏi thôn, sau khi đi một đoạn Lý chánh định quay về, thì bị Dương Thu Trì kéo lại, nói bọn họ cần phải chờ đến trời tối còn phải quay lại thôn. Mễ lý chánh và Hồ Giang hỏi bọn họ vì sau còn phải quay trở lại, nhưng Dương Thu Trì chỉ mỉm cười không trả lời.

Chọn một nơi kín đáo chờ đến trời tối, Dương Thu Trì mới cho họ biết, hung thủ chân chính chính là Triệu Bán tiên, đêm nay y sẽ đến nhà Lỗ học Nho tìm Trầm thị, bọn họ đến bắt ngay tại trận là được.

Mọi người bán tín bán nghi, lén lén lút lút trở về Bắc Tiếu thôn, vòng qua sau vườn của Lỗ Học nho phục sẳn. Chẳng mấy chốc sau, quả nhiên họ thấy Triệu Bán tiên lấp ló lẻn đến, gọi mở cửa tiến vào trong.

Tống Vân Nhi dùng đoản kiếm khoét một lỗ nhỏ rồi lách mở được cửa cho Dương Thu Trì, Hồ Giang, Mễ Lý chánh lén tiền vào phòng ngoài, những người còn lại chờ ở ngoài.

Hồ Giang cùng mọi người nghe hết lời đối thoại của hai người, sau đó phát hiện Triệu Bán tiên chuẩn bị cưỡng hiếp Trầm thị, Tống Vân Nhi mới nhịn không được xuất thủ chém đứt cánh tay của Triệu bán tiên.

Triệu Bán tiên đã thừa nhận là đã ra tay giết chết Lỗ Học Nho, tội phạm tự nhận có tội, án mạng này kể như hoàn tất. Nhưng Hồ Giang và mọi người vẫn còn chưa hiểu tại sao, hỏi Dương Thu Trì: "Dương công tử, công tử sao lại biết Triệu Bán tiên mới là chân hung, hắn dùng pháp thuật gì giết chết Lỗ Học nho?"

Tống Vân Nhi cũng rất hiếu kỳ, hy vọng Dương Thu Trì có thể vạch ra điều bí ẩn này. Dương Thu Trì nói: "Ta nghe nguyên phối Phạm thị của Lỗ Học nho nói phương thuốc dùng mật ong ngâm hoa trúc đào để trị bệnh lỡ miệng là do Triệu bán tiên cấp cho. Ta còn nghe Mễ lý chánh nói tiểu thiếp Trầm thị có dẫn Lỗ học nho đi tìm Triệu Bán tiên để xem mệnh, còn Triệu Bán tiên lại đoán rất đúng, đúng ở chỗ năm nay Lỗ học nho sẽ gặp kiếp nạn, ngay cả Tiệu Bán tiên hắn cũng không thể giải được. Ngoài ra Triệu Bán tiên còn đem chuyện này rêu rao khắp nơi, dường như sợ người ta không biết là không được vậy. Ta liền hoài nghi trong chuyện này nhất định có mắc mứu gì đây."

"Trầm thị chẳng có cảm tình gì với Lỗ học nho, lão chết rồi ả chỉ khóc dối. Ả mới ba chục tuổi đầu, Lỗ học nho lại không tiền không địa vị, đương nhiên ả chẳng cam tâm. Đến lúc đến chỗ Triệu Bán tiên coi bệnh ta mới biết ả Trầm thị này ba lần năm lượt đưa Lỗ Học Nho đi đến nhà hắn xem và trị bệnh mà vẫn không bớt, tuy vậy cứ đến xem hoài, trong chuyện này tất có trò gì đây."

"Lúc coi bói, ta nhận ra ánh mắt của Triệu Bán tiên nhìn Trầm thị rất ái muội, còn Trầm thị thì đẩy đẩy đưa đưa, không hề cự tuyệt cũng chẳng tiếp nhận, dường như là đang bỡn cợt với y, rõ ràng là trong lúc lòng trống vắng đi tìm thú vui trong chốc lát."

"Còn Triệu Bán tiên thì dường như cho rằng Trầm thị thật tâm để ý đến hắn. Hắn cũng biết Trầm thị không an tâm thủ tiết với Lỗ Học nho, nhưng không tự nguyện nhận tiếng cười chê là phụ rẫy Lỗ học nho lúc khốn cùng, đành sống dở chết dở như vậy. Và thế là, Triệu Bán tiên quyết định dùng việc giết chết Lỗ Học nho để làm vừa lòng Trầm thị. Có như vậy, một mặt vừa làm cho Trầm thị vui lòng vì thoát cục nợ, mặt khác lại chứng minh bản thân xem bói rất chuẩn xác. Đây là thế một viên đá ném hai chim."

"Thế là ta đoán Triệu Bán tiên sau khi biết Lỗ học nho chết rồi, nhất định ngay trong đêm sẽ đi tìm Trầm thị để lấy công cầu lợi, dù tay của y đã bị thương, nhưng y vẫn nhất định nhân cơ hội lửa còn nóng đem nung sắt để tiếp cận Trầm thị. Do đó, chúng ta ôm cây đợi thỏ, nhất định sẽ có thu hoạch. Không ngờ ta đoán đúng, nếu không thì chúng ta mất công phí sức suốt cả đêm rồi."

Hồ Giang và mọi người đến lúc này mới rõ tên Triệu Bán tiên này đã để lộ nhiều chỗ hở đến như vậy mà họ chẳng phát hiện được gì, trong lòng không khỏi kính nễ và bộ phục Dương Thu Trì hơn.

Tống Vân Nhi nghĩ đến một chuyện, hỏi: "Ca, tên Triệu Bán tiên này tự xưng là dùng pháp thuật giết chết Lỗ học nho, hắn làm sao mà giết được vậy?"

Dương Thu Trì nghe thế, sắc mặt hơi biến, bất an nói: "Cái đó ta cũng không biết - đúng a, tên Triệu Bán Tiên này có phép thuật, có thể dùng để giết Lỗ Học nho, y có khi nào dùng phép thuật chạy trốn không?"

Hồ Giang cả kinh, vội hỏi: "Vậy làm sao bây giờ?"

Tống Vân Nhi đáp: "Dùng máu chó mực thì y sẽ không còn ẩn hình được đâu."

Cô nhóc này quả là biết nhiều! Nàng còn nói tiếp: "Chúng ta hiện giờ đi tìm người trong thôn mua con chó về cắt cổ lấy máu tưới lên người y, chỉ có điều chó vừa thấy người đã sủa loạn, thật phiền!"

Mễ lý chánh khóac tay liên hồi: "Như vậy không được, người trong thôn coi chó là bạn coi nhà canh vườn, chưa bao giờ giết chó ăn thịt cả, sẽ không ai đồng ý bán chó cho chúng ta giết đâu."

Tống Vân Nhi gãy gãy đầu, không biết phải làm sao cả.

Dương Thu Trì trầm ngâm nói: "Ta nghe nói người bị xuyên xương tì bà (xương quai xanh) rồi, thì cho dù có pháp thuật lợi hại đến đâu cũng không sử dụng được. Hay là chúng ta lấy đao xuyên hai lổ trên xương tì bà của hắn, chia ra dùng xích sắt xỏ qua cột lại.

Hồ Giang gật đầu tán đồng, lớn tiếng ra lệnh: "Xỏ xương tỳ bà rồi trói hắn lại cho ta!"

Mấy bộ khoái dạ vang đáp ứng, rút đao ra định động thủ.

Triệu bán tiên vốn đang đau đến chết lên chết xuống, vừa nghe Hồ Giang nói thế liền sợ đến hồn bay ra khỏi chín tầng trời, vội vã kêu gào liên tục: "Đại gia tha mạng, tôi không biết pháp thuật, là tôi gạt người ta thôi, cầu xin ngài đừng xuyên xương tỳ bà của tôi."

Mặt Dương Thu Trì bạnh ra: "Ngươi nói dối! Rất nhiều người thấy ngươi biết pháp thuật, hơn nữa lại còn rất cao minh, cái gì là kiếm chém quỷe, cái gì là dầu nấu quỷ, lợi hại quá đi chứ," hắn quay sang hỏi Mễ lý chánh đang đứng sau lưng, Lý chánh đại nhân, ta nói có đúng không?"

Lý chánh theo bản năng gật đầu, nhưng rồi nhìn lại cánh tay của Triệu Bán tiên bị dầu sôi làm bỏng, lại bẻn lẻn lắc đầu. Lão không biết rốt cuộc pháp thuật của Triệu Bán Tiên có phải là cao minh hay không.

Hai cánh tay của Triệu bán tiên hiện giờ đau khiến mồ hôi lạnh, giờ không thể để xương tỳ bà bị xuyên thủng nữa, vôi vã kêu gào: "Đại nhân tha mạng a! Tôi chỉ làm trò gạt người thôi, không phải là pháp thuật gì cả!"

Nghe đến đây, Mễ lý chánh và những người khác đều cả kinh, duy chỉ có Dương Thu Trì không hề cảm thấy bất ngờ, cười cười hỏi: "Bán tiên bất tất khiêm nhường nữa, rất nhiều người tận mắt chứng kiến như vậy, sao có thể gạt người ta được? Cha ta cứ xuyên xương tỳ bà đi cho an tâm."

Triệu Bán tiên bị dây thừng trói không thể nào chống trả được, nhưng chẳng hiểu bằng cách nào mà vụt một cái ngồi ngay được dậy, kêu to: "Đại nhân, đại nhân, xin tha cho tôi. Tôi thiệt là gạt người đó mà."

Mễ lý chánh kỳ quái hỏi: "Ngươi khăng khăng nói là gạt người, vậy hãy nói rõ coi gạt làm sao?"

Triệu Bán tiên lúc này nào dám ẩn man, đáp: "Cái gọi là dầu nấu quỷ chỉ là trò lừa, là tôi để cho Tôn lão mụ tử bỏ vào trong nồi một lớp dấm, trên lớp dấm đó mới đổ một lớp dầu. Sau khi đốt lửa, dấm ở phía dưới sôi lên rất mau, nhìn vào rất giống như dầu đã sôi, kỳ thật chỉ mới hơi âm ấm, ai cũng có thể thò tay vào." Nói đến đây mặt mày y đỏ au, cũng không biết là vì đau hay là vì thẹn.

Mễ lý chánh đột nhiên hiểu ra, phẫn nộ nhìn Triệu Bán tiên, cảm thấy mình già như vậy mà vẫn bị lừa, thật là căm phẫn quá đi đó mà. Nhưng ngay lập tức, y hiếu kỳ hỏi: "Không đúng a, ta trước đây thấy người bỏ cục xương có quỷ hồn vào trong nồi dầu nấu, con tiểu quỷ đó còn kêu thảm lăn lộn lung tung, cái đó là vì sao?"

"Cái đó, cái đó là tôi đổ vào trong tủy của khúc xương một chút thủy ngân, chờ khi dầu sôi thật sự, bỏ cục xương này vào sẽ phát ra tiếng chít chít giống như quỷ đang kêu gào giãy giụa vậy."

"Giỏi cho thằng chột nhà ngươi, dám lừa ta đó hả!" Mễ lý chánh tức khí không chịu được, tát một cái thật mạnh, khóe miệng Triệu bán tiên lập tức lưu huyết nhưng không dám rên rĩ tiếng nào.

Hồ Giang nghe mà cảm thấy rất tức cười, nhưng cũng rất kỳ quái, hỏi: "Sao lần này ngươi lại bị dấm sôi làm nấu chính vậy?"

Triệu Bán tiên ráng nhịn cơn đau, đáp: "Tôi, tôi cũng không biết tại làm sao nữa. Khi các đại gia đi rồi tôi có hỏi Tôn lão mụ tử, bà ta cũng không biết."

Tống Vân Nhi cười hi hi nói: "Chuyện này ta biết rõ nhất!" Nói rồi quay sang liếc Dương Thu Trì cười, xong quay lại nhìn Triệu Bán tiên hỏi: "Ngươi không biết à? Đó là vì đấy là một nồi dầu chân chính, hi hi, đó chính là ca ca của ta bảo ta đi đánh tráo nồi dầu của ngươi."

Mễ lý chánh kỳ quái hỏi: "Đổi? Đổi làm sao?"

"Ta chạy vào trong giúp đỡ nhưng Tôn lão mụ tử không cho, nhưng ta vẫn thừa lúc bà ta ra ngoài sắp xếp, đem nồi dầu đó đổ đi, sau đó lấy dầu trong bếp đổ trả lại. hi hi..."

Triệu Bán tiên lúc này mới biết cả hai bàn tay của mình đều bị hủy về tay con tiểu nha đầu này! Mễ lý chánh lúc này mới biết nguyên nhân vì sao pháp thuật của Triệu bán tiên không linh, thì ra là dấm và dầu trong nồi bị cô nhóc này lén đổi thành dầu tinh (*)!

Hồ Giang càng kỳ quái, hỏi Dương Thu Trì: "Dương công tử, công tử sao lại biết hắn đang làm trò quỷ, và vì sao biết trong dầu có vấn đề?"

Dương Thu Trì đáp: "Ta trước giờ chẳng tin vào trò bói toán, đa phần là lừa người, đương nhiên rất có khả năng là có phép thuật, ví dụ như vị Triệu bán này đây!" Nói xong quay sang nhìn đầu vai của Triệu Bán tiên như đang nghiên cứu xương tỳ bà nên xuyên qua làm sao cho gọn, khiến cho Triệu Bán tiên sợ rúm ró người.

Dương Thu Trì nói tiếp: "Ta nghe Mễ lý chánh nói đã từng nhiều lần tận mắt chứng kiến Triệu Bán tiên thi pháp nấu dầu giết quỷ, ta liền phán đoán Triệu Bán tiên này đang làm trò. Nhưng mà phương pháp làm trò này có rất nhiều, ta cũng không biết Triệu bán tiên dùng loại nào. Nhưng vạn biến bất ly kỳ tông, du cho thay đổi đến muôn lần thì bản chất vẫn không thay đổi, đa phần là dùng dầu làm trò, do đó ta bảo Vân Nhi tìm cơ hội đánh tráo nồi dầu đó đi."

Dương Thu Trì nhìn Triệu Bán Tiên cười cười, tiếp, "Ta cố ý đánh lạc hướng sự chú ý của vị bán tiên này, dây dưa thời gian với y chính là chờ cho nồi dầu sôi lên chân chánh, dù sao thì vị Triệu Bán tiên này cũng có pháp thuật, nếu như có thể đưa tay vào trong đó, thì dù dầu có sôi hay không sôi cũng chẳng có gì khác biệt đâu đó hả?"

Mọi người đều bật cười lớn, Tống Vân Nhi hì hì nói: "Không ngờ vị Triệu bán tiên này hiệu xưng là bán tiên mà chẳng có chút tiên thuật nào, bản thân lại bị dầu biến thành chân heo luột!" Mọi người lại tiếp tục cười.

Mễ lý chánh lại hỏi Triệu bán tiên: "Vậy cái đào mộc kiếm chém tiểu quỷ, tiểu quỷ máu chảy đầy mình hiện lên trên giấy đó lừa gạt thế nào?"

Triệu bán tiên vừa thẹn vừa đau, cố gắng cất giọng trầm thấp: "Trước hết tôi dùng bút chấm nước muối vẻ hình quỷ lên trên giấy, sau đó phơi khô, hình quỷ này biến mất. Chén thánh thủy trên pháp đoàn chính là nước nghệ do tôi chuẩn bị từ trước. Nước nghệ phun lên tấm giấy đó, nước muối sẽ biến thành màu đỏ, do đó sẽ hiện lên hình quỷ máu me chảy khắp người." Dương Thu Trì nghe thế thở dài, về mặt nào đó tên Triệu Bán tiên này còn biết chút xíu về phản ứng hóa học nữa!

Nghi vấn này xem ra chỉ có Triệu Bán Tiên mới có thể nói cho rõ ràng. Vì thế, Dương Thu Trì bảo y: "Ngươi nếu như thành thật khai báo, ta còn có thể bẩm báo phủ doãn đại nhân cấp cho ngươi cái chết toàn thây. Còn không thì ngươi cứ chờ bị lăng trì rồi đốt xác ra tro đi."

Triệu Bán tiên kinh khủng vô cùng vội nói: "Tôi khai, cái gì tôi cũng khai hết. Vợ chính của Lỗ Lão phu tử là Phạm thị có lần đưa lão đến tìm tôi trị bệnh loét miệng, tôi có cấp cho lão một bài thuốc. Sau đó răng của Lỗ học nho bị đau, tiểu thiếp Trầm thị của lão đưa lão đến tìm tôi. Tôi, tôi..."

Triệu bán tiên quay đầu lại nhìn Trầm thị vẫn đang ngồi khóc ở trên giường, cúi đầu nói tiếp: "Thế là tôi si mệ vẻ đẹp của Trầm thị, muốn hại chết Lỗ học nho, liền bày cho lão một bài thuốc, bảo lão dùng nước uống cùng một lúc hơn mười lá trúc đào."

"Lão nói lá trúc đào có độc, lo là sẽ bị trúng độc. Tôi liền trước mặt lão dùng pháp thuật dầu nấu quỷ, đương nhiên là trò lừa gạt, nói độc quỷ trong những lá trúc đào này đã bị tôi dùng dầu nấu chín rồi, và thế là lão tin."

"Tôi lo là nếu như lão nuốt ngay số lá này chết đi thì tôi sẽ bị hoài nghi, bèn nói hoang rằng nhất định phải chờ đến khi thi xong kỳ ân khoa mới được uống vào. Trong lúc khảo thí, có thể mượn hồng phúc thọ thần của hoàng thượng vốn là thứ có thể trấn nhiếp ác ma trong lá trúc đào, mới có thể trị lành bệnh đau răng của lão và không bị trúng độc. Tôi căn dặn trong lúc thi phải nhai nuốt hơn mười lá trúc đào, như vậy bệnh đau răng mới khỏi."

Hiện giờ đã rõ, thì ra Triệu bán tiên lợi dụng việc giả thần giả quỷ gạt người, lường gạt Lỗ học nho, để lão nuốt vào hơn mười lá trúc đào mà chết.

Nhưng vị Lỗ học nho này vẫn còn lo ngại sẽ bị trúng độc, do đó lão đã chờ đến ngày thi cuối cùng mới dùng. Một mặt là bệnh đau răng ảnh hưởng đến kỳ thi rất lớn, mặt khác là cuối cùng lão cũng tin lời Triệu bán tiên, lo là để lỡ dịp may nương nhờ uy lực hồng phúc của hoàng thượng trong kỳ ân khoa này để chửa khỏi bệnh. Bệnh đau răng không thể trị tiệt ở thời bấy giờ, nên vào ngày cuối cùng trước khi ra khỏi cống viện, lão đã nhai nát hơn mười lá trúc đào dùng nước trắng uống vào. Dương Thu Trì đã tìm thấy trên bàn trong phòng thi của lão nửa chén nước trắng, có thể chứng minh được nhận định này.

Do độc của trúc đào tiềm phục trong cơ thể tới hai mươi bốn giờ, do đó Lỗ học nho dùng xong tiếp tục thi cho đến khi cơ tim bị sưng cấp tính, đột tử.

Nếu như hoán thành người khác cho lão phương thuốc này, Lỗ học nho sẽ không tin. Nhưng người trong thôn đều vô cùng tin tưởng đối với pháp thuật của Triệu Bán tiên, và đã từng chứng kiến y dùng thuốc trị hết bệnh cho nhiều người, nên Lỗ học nho cuối cùng mới tin. Còn Triệu bán tiên lợi dụng thứ tín nhiệm này, dùng lá trúc đào làm độc giết chết Lỗ học nho.

Sau khi tra rõ mọi nguyên ủy của án mạng, bắt được chân hung, Hồ Giang vô cùng cao hứng. Nhưng y không biết đối đãi làm sao với Trầm thị và Phạm thị, nên hỏi ý Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì nói: "Vợ chính Phạm thị tuy dùng mật ong có tẩm hoa trúc đào có độc để trị bệnh răng miệng cho Lỗ học nho, nhưng do liều lượng dùng rất ít, lại là dùng dưới dạng xức, nên suốt cả ba tháng mà không gây trúng độc cho Lỗ học nho. Do đó hành vi của Phạm thị không thể coi là nguyên nhân gây hiện tượng đột tử cho Lỗ học nho, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự... à không, trách nhiệm giết người của bà ta."

"Còn về tiểu thiếp Trầm thị, chúng ta vừa rồi đã nghe lén xong, thật ra ả không hề chỉ bảo cho Triệu Bán tiên giết người. Tên Triệu Bán tiên này trước hết dùng biện pháp hạ độc giết chết Lỗ học nho thuần túy để làm vui lòng Trầm thị, muốn mượn dịp để chứng minh bản thân coi tướng chính xác. Do đó, tuy Trầm thị trêu đùa Triệu Bán tiên, gây cho y ý nghĩ giết người, nhưng quy ra tận gốc thì Trầm thị không hề có quan hệ trực tiếp tới án mạnh, do đó không thể trúy cứu trách nhiệm của Trầm thị."

Hồ Giang nghe Dương Thu Trì phân tích, thập phần tán đồng, cho người đi thả Phạm thị.

Phạm thị vừa rồi chứng kiến hết mọi chuyện, biết mình lần này quả là tìm cái sống trong cái chết. Sau khi được mở xích, Phạm thị khóc lóc quỳ lạy ta Dương Thu Trì, Tống Vân Nhi đứng kế đó giúp Dương Thu Trì đỡ bà ta lên.

Tiểu thiếp Trầm thị cũng biết, nếu như vừa rồi mọi người không đến kịp, nói không chừng ả còn bị người ta cưỡng gian rồi giết chết diệt khẩu. Không những như thế, Dương Thu Trì còn giúp ả tẩy sạch hiềm nghị giết người, có thể coi là ân nhân cứu mạng của ả, nên khóc lóc bước xuống giường quỳ dập đầu lạy tạ hắn.

Mệt mỏi cả hai ngày hai đêm, liên tục tác chiến, cuối cùng phá được án lão tú tài chết trong trường thi. Tuy liên tục tác chiến, mọi người đều rất cực khổ, nhưng cuối cùng cũng có thu hoạch, khiến họ cảm thấy cái khổ này rất đáng.

Vấn đề tiếp theo chính là ngủ ở đâu. Hiện giờ dù sao cũng là canh hai, Mễ lý chánh đề xuất mọi người ngụ ở dịch trạm tại Bắt Tiếu thôn một đêm.

Mễ lý chánh giới thiệu, Bắc Tiếu thôn này trong chiến dịch Tĩnh nạn mấy năm trước là một cứ điểm quân sự, chính là yếu đạo yết hầu nối với cửa bắc kinh thành, do đó có rất nhiều công trình phòng ngự, hơn nữa còn có dịch sở. Nhưng chiến tranh đã kết thúc mấy này, dịch sở hiện giờ đã lâu không có người ở và sửa sang gì.

Dương Thu Trì chẳng để tâm, nhưng Hồ Giang hiềm nơi này quá giản lậu, muốn áp giải hung thủ Triệu Bán tiên trở về Trừ châu ngay trong đêm. Nhưng hiện giờ cửa thành Trừ châu nhất định đã đóng kín không thể tiến thành, hơn nữa cực khổ hai ngày hai đêm, dù sao cũng không thể để Dương Thu Trì và mọi người chịu cái khổ đi suốt đêm nữa.

Và thế là, họ chỉ có thể miễn cưỡng ngủ tạm tại Bắc Tiếu thôn một đêm.

Đến dịch sở, Hồ Giang càng kêu khổ không ngớt. Do nhiều năm không chinh chiến, ý nghĩa quân sự của Bắc Tiếu thôn dường như đã bị quên sạch, cho nên dù dịch sở vẫn còn, nhưng đã lâu năm không quét dọn tu bổ, so với nha môn của Quảng Đức huyện còn thê thảm hơn.

Dịch sở này có tổng cộng năm gian phòng, nhưng trong đó có hai phòng đã sập, không thể nào ở được. Cửa một phòng hai gian lớn không biết đã bị ai lấy đi làm củi rồi, chỉ còn hai phòng nhỏ tạm coi là hoàn chỉnh.

Hiện giờ là mùa đông, trời về đêm thật lạnh, Mễ lý chánh vốn đề nghị để cho Dương Thu Trì cùng mọi người phân táng vào trong các nhà dân ngủ nhờ. Nhưng Hồ Giang và Dương Thu Trì thấy trời đã tối, phần lớn thôn dân đều đi ngủ cả rồi, làm phiền họ thật không hay, nên quyết định ở tạm trong dịch sở một đêm.

Mễ lý chánh phân phó bọn tráng đi đi lấy mền gối sạch đến, treo vài cái đèn trước dịch sở, dùng giấy dầu che kín các cửa lại để che gió lạnh, đồng thời đốt một lò sưởi để trong phòng, khiến chúng ấm áp hẳn lên.

Bộ khoái và hộ vệ của Dương Thu Trì phần nhiều là thường xuyên hành tẩu giang hồ, phong sơn lộ hiểm đều coi rất thường, do đó ở trong phòng lớn không có cửa, Triệu Bán tiên đương nhiên bị giam trong phòng này.

Hồ Giang chính là thông phán của Ứng thiên phủ, hàm lục phẩm, là đại lão gia chính tông. Chức vị của y tương đương với phó giám đốc cấp sở, do đó đáng phải ở một mình một phòng.

Nhưng Hồ Giang cảm kích Dương Thu Trì trợ giúp phá án, liền đề nghị để Dương Thu Trì ngụ ở gian phòng đó. Dương Thu Trì thầm nghĩ, người ta chính là quan gia, hơn nữa tuổi tác lớn hơn mình nhiều, để cho y nhường quả là không hay, nên kiên quyết từ chối.

Căn phòng ấy chỉ có cái giường nhỏ, Hồ Giang liền đề nghị kê thêm một giường nữa để Dương Thu Trì ngủ chung. Dương Thu Trì hiềm phiền phức, dù sao ngủ có một đêm thì tùy tiện nằm chỗ nào cũng chẳng sao.

Hồ Giang cũng không ép, gãy gãy đầu áy náy nói: "Kỳ thật ta ngủ ngày dữ lắm, tiếng ngáy như tiếng sấm vang, do đó ta thường ngủ một mình, ngay cả nương tử của ta cũng không có cách nào ngủ chung với ta được. Công tử không muốn ngủ chung phòng với ta cũng đúng, nếu không chỉ sợ cậu chẳng thể nào chợp mắt được đâu, ha ha ha."

Dương Thu Trì ngủ không sâu, hơi động một cái là thức, điều này có liên quan đến sinh hoạt bất thường và thức ngủ chẳng ra quy luật nào trong nghề pháp y thời hiện đại, nên nghe được lời này liền không thể nào ngủ chung với Hồ Giang được.

Còn lại một gian phòng, Dương Thu Trì để Tống Vân Nhi ngủ, còn bản thân thì ra ngủ cùng các hộ vệ.

Chỉ có điều, về mặt tâm lý, Dương Thu Trì không muốn ngủ chung với những người này, bỡi vì mười lăm hộ vệ, các bộ khoái cộng thêm Triệu bán tiên đã hơn hai mươi người. Mỗi phòng đều đã có hơn mười người ngủ, trong đó còn đặt lò sưởi, nhìn qua là đủ thấy người người xếp lớp như cá mòi, tiếng ngáy và nghiến răng cựa quậy đánh đập loạn cả lên, như vậy đừng nói chi ngủ, ngay cả chịu được mùi chân và mùi hôi miệng cũng giỏi lắm rồi.

Nghe Dương Thu Trì nói muốn đi ngủ chung với bọn hộ vệ, Tống Vân Nhi không vui, kéo Dương Thu Trì lại hỏi: "Ca, sao huynh không chịu ngủ chung với muội? Muội là muội muội của ca mà!" Không biết trải qua bao lâu, trong giấc mộng, Dương Thu Trì thấy tiểu thiếp đầu tiên của gã là Tần Chỉ Tuệ đứng trên đỉnh núi tại Quảng Đức huyện ngoắc tay gọi hắn. Tuy là cách rất xa, nhưng chẳng hiểu sao gã có thể nhìn nụ cười xinh xắn trên môi nàng rất rõ. 

Dương Thu Trì vừa định chạy về phía nàng, thì từ phía sau có một nữ nhân chạy lên trước hắn, vượt qua hắn rồi phóng tới Tần Chỉ Tuệ, nhìn bóng lưng thì đó là tiểu thiếp thứ hai - Tống Tình.

Tần Chỉ Tuệ cầm chặt tay Tống Tình, hai người quay lại nhìn Dương Thu Trì mỉm cười ngọt ngào, rồi từ từ bay lên tầng mây.

Dương Thu Trì lớn tiếng gọi: "Chỉ Tuệ! Tình Tình!"

Lúc này hắn chợt cảm thấy thân thể mình chấn động giống như đang lọt vào giữa dòng sông, khiến hắn hoảng hốt phi thân lên ôm chầm lấy sau lưng Tống Tình. Tống Tình định giãy tránh, nhưng Dương Thu Trì ôm chặt nàng vào lòng, thoảng thốt van nài: "Tình Tình, nàng đừng đi, đừng rời xa ta! Tình Tình."

Đột nhiên đầu hắn nhói đau, bị cốc một cái rõ ta, đâu đến nổi Dương Thu Trì kêu lên chói lói giật mình choàng tỉnh, lòng hắn rõ ràng là vẫn còn thân hình mềm mại đượm hương của một người. Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, hắn vẫn tưởng là Tống Tình, không kịp nghĩ Tống Tình sao tự nhiên lại xuất hiện ở đây, vội vã ôm chặt nàng bảo: "Tình Tình, đừng rời xa ta!"

Băng....! Đầu lại bị một cốc một cái nữa, Dương Thu Trì ối cha kêu lên, lúc này triệt để tỉnh ngủ, bỏ tay ra, cô gái trong lòng cố vùng ngồi dậy, tức giận quát: "Phát điên hả ngươi!"

Lò sưởi trong phòng đã sắp tàn, chỉ còn lại một ít than phát ra vài tia sáng yếu ớt, Dương Thu Trì lúc này mới nhìn rõ người vừa rồi mình ôm chẳng phải Tống Tình, mà là Tống Vân Nhi.

Dương Thu Trì ngơ ngẩn nhìn Tống Vân Nhi, không biết vì sao nàng lại chạy lại nằm trong lòng mình chứ?

Tống Vân Nhi có chút bẽn lẽn, vội vã giải thích: "Người ta thấy mền của huynh bị tuột ra, bèn đến đắp lại, không ngờ huynh quả thật nói mớ, cái gì mà cứ gọi búp bê bùn liên tục. Huynh gọi tỷ ấy thì cứ gọi đi, ôm người ta làm cái gì?"

Dương Thu Trì cười bối rối, lòng thầm nghĩ cô thân có võ công, đừng nói gì ta trong lúc đang ngủ, cho dù có tỉnh như sáo mà muốn ôm cô, cô không chịu thì dù có mọc thêm hai cánh tay nữa cũng ôm chẳng được. Gã biết nha đầu này đối tốt với mình, nhưng không thể nói phá ra tránh cho cho hai người cùng khó xử.

Dương Thu Trì định lên tiếng, nhưng đột nhiên ngẩn ra, nụ cười trên mặt từ từ biến hẳn, dỏng lỗ tai lên nghe ngóng và cảm thấy kỳ quái vô cùng. Ở bên ngoài, ngoại trừ tiếng ngáy của Hồ Giang và các hộ vệ, bốn phía đều vắng lặng, ngay cả tiếng chó kêu cũng không có.

Không ổn rồi, bọn họ ngụ ở dịch sở nằm ở phía đầu Bắc Tiếu thôn, khi họ đến đây hôm qua, trong thôn chó sủa vang trời, trước lúc họ ngủ chó cũng sủa loạn khắp nơi. Hiện giờ không nghe được tiếng chó sủa nào, vậy là cớ làm sao?

Tống Vân Nhi thấy thần sắc của gã chợt trở nên nghiêm trọng, vừa định lên tiếng hỏi, thì Dương Thu Trì đã đưa ngón tay lên ngăn trước môi của nàng lại, ra hiệu bảo nàng đừng lên tiếng. Tống Vân Nhi đỏ mặt, đánh tay hắn ra, dỏng tai lên nghe nhưng không phát hiện được gì.

Dương Thu Trì lăn mình trở dậy, bước nhanh lại cửa sổ, khe khẽ mở hé ra, đứng lắng nghe một lúc vẫn không có tiếng cho sủa nào, ngược lại còn ẩn ước nghe tiếng phần phật, bèn chong mắt nhìn ra, thấy trong ánh trăng vằng vặc của trời đêm, ở khoảng cách khá xa có một đám đen từ từ di động.

Tống Vân Nhi cũng đến bên cạnh Dương Thu Trì, gã chỉ vào đám đen ở trời xa, hỏi: "Vân nhi, mắt muội tốt, hãy nhìn xem đó là cái gì?"

Tống Vân Nhi ngưng thần quan sát: "Dường như là một bầy chim."

Dương Thu Trì nghe thế sắc mặt liền biến, khẽ hô lên: "Không xong!"

"Lại chuyện gì nữa?" Tống Vân Nhi cả kinh hỏi.

"Rất có khả năng cường địch đang đến đánh!"

"A...!" Tống Vân Nhi kêu lên cả kinh, "Ở đâu?"

"Trong thôn không có tiếng chó sủa nào, rất có thể là bị những địch nhân cho trinh sát tiềm nhập vào trước giết sạch. Việc làm này là để cho đại đội nhân mã tiến vào mà không làm chúng ta cảnh giác. Ở bầu trời phía đó có bầy chimm bay, nhất định là có đại đội nhân mã đi ngang qua gây kinh động. Phương hướng đó chính là quan đạo chúng ta đã đi từ Trừ châu tiến về thôn này!"

"Có khi nào những người từ Trừ châu kết thành đội ngũ đi chung không?"

"Không đâu, hiện giờ đã vào khoảng canh tư, nếu xuất phát trước khi cổng thành Trừ châu đóng, thì đã sớm tới đây rồi, sao lại đến giờ này vẫn chưa tới?"

"Có khi nào quan binh đi tuần tiễu không?"

"Sao muội "ngu đột xuất" (*) thế?" Dương Thu Trì cuối cùng cũng không nhịn được sử dụng một câu hiện đại mắng nàng, "Chiến dịch Tĩnh Nạn đã trải qua lâu năm rồi, lại không phải thời chiến, quan binh đi tuần tiễu làm gì?"

Tống Vân Nhi tuy không hiểu từ "ngu đột xuất" là ý nghĩa cụ thể gì, nhưng biết Dương Thu Trì đang cười nàng, liền nghinh mặt khẽ đấm vào người gã một đấm.

Chỉ có điều Dương Thu Trì hiện giờ không còn tâm tình nào ve vãn tán tỉnh nàng, hạ giọng nói: "Báo cho mọi người biết, lập tức rời khỏi chỗ này."

Tống Vân Nhi cười đáp: "Đồ nhát gan, sợ cái gì? Binh tới thì tướng ngăn..."

"Ngăn không nổi đâu! Địch nhân đến có chuẩn bị, quyết ý thành công, do đó chỉ sợ hai mươi mấy người chúng ta ứng phó không nổi đâu. Không nói đâu xa, muội chỉ cần nhìn đám chim hoảng hốt bay đi kia thì biết, nhất định nhiều hơn nhân số của chúng ta nhiều."

Đúng lúc này cửa phòng mở ra, Nam Cung Hùng lách người tiến vào, nhỏ giọng nói: "Thiếu gia! Không ổn, dường như có địch nhân!"

Tống Vân Nhi cả kinh hỏi: "Ngươi phát hiện được gì?"

"Người phái đi thay gác và những người của phiên gác trước đều không trở về!"

A...! Tống Vân Nhi hô lên cả kinh.

Dương Thu Trì nói: "Nhất định là có cường địch đến đánh! Xem ra là từ phía nam Trừ châu đánh tới. Mau gọi Hồ đại nhân dậy, lên ngựa lập tức triệt thối!"

Nam Cung Hùng xuất thân từ con nhà võ, các cẩm y vệ khác đều được huấn luyện bài bản, nên nghe hiệu lệnh xong không hoảng loạng gì cả lập tức ra ngoài vườn cảnh giới. Những bộ khoái khác cũng rất trấn tĩnh, áp giải Triệu Bán Tiên ra ngoài vườn chuẩn bị lên ngựa.

Sau khi Hồ Giang bị gọi dậy vẫn còn chưa biết chuyện gì, vừa định lên tiếng hỏi thì đã nghe ngoài vườn có tiếng động.

"Người nào đó?" Dường như là hộ vệ của Dương Thu Trì hỏi.

Tiếp theo đó là tiếng đinh đinh đang đang giao nhau, cùng mấy tiếng kêu thảm cùng phát ra.

Một hộ vệ chạy vào báo cáo với Dương Thu Trì: "Thiếu gia, phía ngoài có hai kẻ bịt mặt mai phục, bị chúng ta phát hiện đã xuất thủ tập kích, bị chúng tôi giết chết rồi."

Mọi người đều thở phào, chỉ có thần sắc của Dương Thu Trì càng ngưng trọng: "Không đúng, hai người này rất có thể là quân tiên phong lén đột nhập vào tìm kiếm và quan sát chúng ta trước. Đại đội của địch chớp mắt sẽ đến, mau lui!" 

Hồ Giang có khi nào kinh qua tình thế như vầy, sợ đến tái hẳn mặt, cả kinh hỏi: "Dương công tử, cái này, cái này làm sao bây giờ?"

Mặt phía nam đã bị địch quân không chế, chạy về Trừ châu là không thể, hai phía đông tây đều là đồi núi chập chùng, chỉ có thể chạy hướng bắc, do đó Dương Thu Trì ra lệnh lên ngựa men theo đường hướng bắc mà triệt thối.

Đến lúc này các thớt ngựa đã chuẩn bị xong, Dương Thu Trì ra lệnh đưa Hồ Giang lên ngựa, mọi người cũng lên theo.

Nam Cung Hùng và vài hộ vệ đi trước dẫn đường, Tống Vân Nhi đi sát bảo vệ cho Dương Thu Trì, các bộ khoái bảo hộ Hồ Gian và áp giải Triệu Bán tiên, các hộ vệ còn lại đoạn hậu. Mọi người quất ngựa ra roi, hướng bắc mà chạy.

Ngoại trừ hai tên bịt mặt bị giết chết, trên đường không gặp phải tên địch nào, hiển nhiên là địch nhân còn chưa kịp bao vậy thì hành tung đã bị Dương Thu Trì biết được, đồng thời nhanh chóng thoát khỏi vòng nguy hiểm.

Nhưng mà bọn họ nhanh chóng nghe được tiếng vó ngựa vang lên dồn dập ở sau lưng, rõ ràng là đang đuổi theo ráo riết, số lượng hơn cả trăm tên. Vó ngựa dập dồn trong đêm vắng, khiến dân trong thôn nghe mà sợ rúm cả người.

Chạy được mấy chục dặm, tiếng vó ngựa truy binh càng lúc càng gấp, càng lúc càng gần. Tống Vân Nhi vừa chạy vừa nói với Dương Thu Trì: "Ca, huynh đi trước, muội ở lại ngăn bọn chúng."

"Điên khùng!" Dương Thu Trì quát lên, "Một mình muội làm sao ngăn được nhiều tên như vậy chứ?"

"Vậy thì làm thế nào bây giờ? Chạy không mục tiêu như vầy sớm muộn gì rồi cũng bị đuổi kịp! Nếu không thì chúng ta phân tán ra chạy a, muội bảo hộ huynh vào trong núi rừng!"

"Đừng có lo, ta tự có biện pháp!" Dương Thu Trì nói với giọng rất khẳng định.

Hắn đã tự có biện pháp, nhưng vẫn còn chưa biết biện pháp này có hữu dụng hay không, nhưng phải nói ra để ổn định "quân tâm".

Chạy thêm vài dặm nữa, thế núi hai bên càng lúc càng hiểm trở, Dương Thu Trì ra hiệu dừng lại, sau đó quay ngựa quan sát bốn phía.

Hắn hạ lệnh cho hai bộ khoái bảo hộ Hồ Giang và áp giải Triệu Bán tiên tiếp tục đi về phía trước, những người còn lại xuống ngựa. 

Nhóm Hồ Giang được bảo đi về trước năm dặm trốn vào rừng chờ bọn họ. Các cẩm y vệ và bộ khoái còn lại chia ra leo lên hai vách núi.

Tống Vân Nhi hỏi: "Ca, chủ ý này được đấy, chúng ta tiềm nhập núi rừng, bọn chúng không tìm được đâu."

"Không phải!" Dương Thu Trì đáp, "Mọi người lên vách nói tra xem có đá lăn gỗ tròn gì không!"

Thì ra sau khi phát hiện có cường địch tập kích, Dương Thu Trì đã nghĩ đến kế sách lui binh. Căn cứ vào lời Mễ lý chánh nói, Bắc Tiếu thôn này chính là yếu đạo yết hầu phía băc Trừ châu trên đường tiến về kinh thành, hai bên địa thế núi hiểm trở. Với địa hình như vậy, thời cổ đại nhất định sẽ bố trí những công trình công kích địch nhân, thậm chí là đá và gỗ để bít đường đi. Chỉ có điều hắn không biết qua nhiều năm rồi, những công trình này còn hay không, nhưng chuyện đến nước này chỉ có thể đánh liều một ván mà thôi.

Nghe Dương Thu Trì nói thế, Nam Cung Hùng vốn là con nhà võ, biết ngay đạo dụng binh, liền nhìn hai bên vách núi, thấy đây chính là địa thế tuyệt hảo để thiết kế mai phục, nhất định năm xưa sẽ có người bố trí gỗ tròn đá lăn ở trên, vui mừng nói: "Đúng a! Thiếu gia nói không sai." Nói xong phất tay, mọi người chia ra hai bên trèo lên.

Nam Cung Hùng và Tống Vân Nhi đi kèm bảo vệ cho Dương Thu Trì, dẫn theo người trèo lên vách đá. Quả nhiên, những công trình phòng ngự năm xưa vẫn còn, khiến họ hưng phấn dị thường.

Thì ra, năm xưa khi Yến vương Chu Lệ đánh chiếm Ứng Thiên phủ, đã tránh địa thế hiểm trở bất lợi cho tiến công của Bắc Tiếu thôn, đi vòng qua đường khác tập kích kinh thành. Do đó cây và đá lăn thiết kế sẵn chưa hề được sử dụng, và đó là hạnh vận của họ.

Nam Cung Hùng vô cùng quen thuộc với cách thiết kế và sử dụng cây đá lăn này, nên lập tức dẫn người đi bố trí.

Sau khi an bài đâu ra đó, vó ngựa truy binh đã ùng ùng kéo đến chen chặt hẽm núi. Dựa vào ánh trăng mờ mò, mọi người đã có thể nhìn rõ những bóng đen của truy binh.

Truy binh căn bản không nghĩ đến chỉ bằng hơn hai mươi người của Dương Thu Trì mà dám thiết kế mai phục hơn một trăm tên bọn chúng. Do sắc trời hôn ám, hơn nữa không đủ thời gian phát hiện địa thế hai bên hiểm trở, địch nhân có thể thiết kế mai phục, và càng không ngờ những cây lăn đá tảng mà quân triều đình trước kia sắp đặt còn nguyên ở đó, hộ vệ của Dương Thu Trì lại biết cách bố trí và sử dụng những thứ này.... Mang theo tất cả nhưng cái không ngờ đó, chờ cho đến khi bọn họ phát hiện hai bên núi quá nguy hiểm, nếu lỡ rượt vào trong gặp phải mai phục thì đã muộn rồi! Hồ Giang chưa hết kinh hồn, thấy tử thi đầy mặt đất mới biết thật là thoát chết trong gan tất. Rất may Dương Thu Trì có phong độ của bậc chỉ huy, chẳng những hóa nguy thành an, mà còn lập được đại công, chẳng những phá được án lão tú tài chết trong cống viện, mà còn diệt được một số loạn đảng, công lao không nhỏ.

Sau khi áp giải tù binh trở về Nam Tiếu thôn, họ tìm kiếm hai hộ vệ được cử canh gác và đi dò la, phát hiện họ đã bị dư đảng của Kiến Văn đánh lén giết chết rồi.

Hồ Giang lệnh cho Mễ lý chánh phái bọn tráng dân đi gom góp xác của các Kiên Văn dư đảng đem êề, sau đó chỉnh lý quan đạo khôi phục lại giao thông. Mọi việc xong xuôi, Dương Thu Trì cùng mọi người theo đường Trừ châu trở về kinh thành Ứng Thiên phủ.

Trên đường đi, có thêm hai tên dư đảng bị thương nặng chết. Trở về tới Ứng Thiên phủ, Dương Thu Trì cho Nam Cung Hùng dẫn người giải các dư đảng còn lại đi giao cho Mã Độ xử lý, lại thông tri cho họ đến Bắc Tiếu thôn thu hồi xác của những dư đảng bị chết.

Mã Độ và Ngưu Bách hộ biết Dương Thu Trì soái lĩnh một nhóm cẩm y vệ nhỏ mà diệt được hơn trăm bộ hạ tàn dư của Kiến Văn đế, vui mừng không xiếc, đều đến chúc mừng hắn lại lập thêm công mới.

Hồ Giang áp giải Triệu Bán tiên đến nha môn Ứng thiên phủ phục mệnh. Phủ doãn của Ứng Thiên phủ là Cố đại nhân không ngờ

Dương Thu Trì chỉ dùng có hai ngày mà có thể phá được án như vậy. Về chuyện lão tú tài chết ở trường thi, hoàng thượng đã để ý hỏi đến, lão đang phiền não không biết giải bày thế nào, không ngờ như vầy coi như mọi chuyện êm đẹp, không khỏi cảm kích Dương Thu Trì vô cùng.

Cố phủ doãn lập tức đem tin này báo cho chủ khảo kỳ thi hương là Cổ Hàn Lâm. Cổ Hàn Lâm thở phào nhẹ nhõm, án này coi như đã giải quyết chu toàn.

Hai người còn từ miệng Hồ Giang mà biết Dương Thu Trì dẫn đầu đội nhóm tiêu diệt tàn dư của Kiến Văn đế, liền cao hứng có thừa, đối với Dương Thu Trì thập phần bội phục.

Lần này Dương Thu Trì có thể kể là giúp cho phủ doãn Cố đại nhân của Ứng Thiên phủ rất nhiều, do đó lão bày yến tiệc khoản đãi hắn. Cổ Hàn lâm cũng đến dự, còn định mời những quý nhân quan viên của Ứng Thiên phủ tham gia, nhưng Dương Thu Trì nhớ tới lời Lý công công dặn là phải hết sức giữ cho bản thân đừng nổi trổi, ít nhất là cho tới khi Kiến Văn dư đảng bị diệt hết. Nếu như vậy, hắn nhất mực phải giữ mình, không được huênh hoang phô trương quá đáng.

Dưới sự yêu cầu kiên quyết của Dương Thu Trì, yến tiệc chỉ mời thêm Mã Độ và Ngưu Bách hộ, len lén chúc mừng nho nhỏ với nhau mà thôi.

Án mạng được phá xong, Dương Thu Trì trở thành khách quen của Cổ Hàn Lâm và Cố đại nhân. Họ thường say sưa chè chén với nhau, không say không về.

Vào một đêm mấy ngày sau, Lý công công dẫn theo tùy tùng thăm viếng Dương Thu Trì tận giữa khuya, tán thưởng việc Dương Thu Trì tiêu diệt những tên chạy thoát trong vụ tập kích bắt cóc Hiền phi, lại nói hoàng thượng vô cùng vừa ý. Nhưng do Dương Thu Trì cần phải tiếp tục ẩn giấu hành tung phá án Kiến Văn dư đảng, do đó tạm thời không gia quan tấn tước, nhưng hoàng thượng đã ghi lại công lao của hắn. Chờ đến khi bắt được Kiến Văn, triệt để phá tan bọn dư đảng, nhất định sẽ phong thưởng trọng hậu.

Tuy không thể thăng quan, nhưng hoàng thượng ban thưởng cho Dương Thu Trì rất nhiều vàng bạc châu báu, mã não phỉ thúy, tơ lụa gắm vóc và những vật quý giá rất nhiều, coi đã là tạm thời tưởng thưởng nhằm an ủi.

Trận này khiến hộ vệ đội của Dương Thu Trì chết mất hai người, Lý công công lại phái thêm hai người bổ sung, lại giao con chim bồ câu đưa thư lúc trước hắn dùng để truyền tin lại cho hắn, nhằm đảm bảo cho hắn có đủ hai con dự phòng.

Lý công công còn báo cho Dương Thu Trì biết, mấy ngày sau sẽ treo bảng vàng, đến lúc đó có thể tiến hành kén chọn cử nhân, nhưng Dương Thu Trì không cần tham gia, tự Lý công công sẽ có an bài. Dương Thu Trì chỉ cần chờ đi nhậm chức là được, đó là vào dịp xuân về, tiết trời vừa ấm là hắn lên đường.

Dương Thu Trì rất muốn hỏi bản thân sẽ nhậm chức quan gì, ở đâu để xác định coi cách bao xa với địa điểm đày hai mẹ con Bạch phu nhân và Bạch Tố Mai. Nhưng hắn hiện đã học được tính nhẫn nại, nếu như Lý công công không nói, thì hắn tốt nhất đừng hỏi, dù gì mấy ngày nữa cũng biết.

Những ngày còn lại này rất nhẹ nhàng, hắn suốt ngày cứ no say túy lúy, đêm đêm ca hát vui vầy.

Sáng sớm ngày ấy khi Dương Thu Trì còn đang ngủ, chợt nghe ngoài cửa pháo nổ vang trời, chấn điếc cả tai, càng kèm theo tiếng kèn nhạc du dương, khiến cho hắn giật mình tỉnh giấc, tức giận mắng một câu rồi lấy gối trùm lên đầu định ngủ tiếp.

Dương Thu Trì vốn nghĩ là pháo kèn rước dâu của ai đó, nhưng lập tức biết là không phải. Trong thời gian này hắn nhất mục ngụ ở nội trạch đại viện tại thiên hộ sở nha môn của Mã Độ, cưới vợ sao lại cưới đến nha môn của cẩm y vệ chứ, chẳng lẽ....

Dương Thu Trì chợt ngồi bật dậy, tiếng pháo và nhạc càng lúc càng gần, thẳng tới nơi ở của hắn. Tiếng reo hò, tiếng trống, tiếng kèn hòa nhịp vào nhau inh ỏi.

Đúng lúc này, Tống Vân Nhi vén cửa chạy vào, nhảy phốc lên giường của Dương Thu Trì, hưng phấn kêu lên: "Ca! Huynh trúng cử nhân rồi!" Nói rồi đưa hai tay chộp lấy vai Dương Thu Trì, cao hứng lắc lia lắc lịa.

Thấy nha đầu điên này chẳng thèm kiêng dè gì chạy thẳng vào phòng mình, phản ứng đầu tiên của Dương Thu Trì là cúi xuống coi mình đã mặc quần áo gì không.

Hắn đơn giản là bó tay với Tống Vân Nhi, cô nàng này chẳng cần biết nam nữ hữu biệt gì, suốt ngày cứ tùy tiện chạy loạn vào phòng của hắn. Du sao thì Dương Thu Trì củng biết Tống Vân Nhi rất thích đảo loạn, hơn nữa thê thiếp của hắn không có một bên, không cần cởi hết quần áo, chỉ mặc đồ ngắn mà ngủ.

Sau khi hắn phát hiện bản thân không bộc lộ thân thể gì mấy, nên thở phào, nhớ lại lời vừa rồi của Tống Vân Nhi - trúng cử nhân? Ha ha, mấy cáy kèn trống pháo mừng này là dùng để báo hỉ mình trúng cử nhân đó à? Quả nhiên nằm ngoài ý liệu! Ha ha ha.

Tuy Dương Thu Trì biết bản thân sẽ nằm trên bảng vàng, nhưng chuyện tới trước mắt, khi biết mình trúng cử nhân rồi vẫn không thể tránh được sự vui mừng.

Hắn xuống giường mặc y phục, Tống Vân Nhi vẫn chẳng thèm tránh đi, lại còn cao hứng kêu rối kêu rít: "Ca, huynh thật là lợi hại đó nha! Chẳng đọc sách ngày nào mà thi trúng cử nhân, thiệt là thần thông quá đi đó mà!"

Dương Thu Trì méo miệng cười, nháy nháy mắt bảo nàng: "Vân nhi, đừng có quên vụ cá cược của chúng ta đó nghe!"

Tống Vân Nhi cười hi hi: "Yên tâm, nói là giữ lời mà! Ca thi trúng cử nhân rồi, tiểu muội giúp huynh làm một chuyện là lẽ thường đó mà!" Nói đến đây, nàng khuỳnh khuỳnh hai tay ngông nghênh, xoắn tay áo lộ ra đôi tay dài thon thả: "Được, huynh nói đi, là muốn cánh tay của muội, hay là muốn đầu của muội?"

Dương Thu Trì chỉnh lý y phục, bước lại cạnh nàng, cười gian bảo: "Ta muốn người của muội!"

"A...?" Tống Vân Nhi kinh ngạc kêu lên: "Cái gì? Huynh muốn người này.... của muội à?" Lặp lại câu hỏi lần nửa, nàng chợt đỏ ửng mặt lên, cúi đầu bẻn lẻn.

Dương Thu Trì thấy thần tình của nàng, biết nàng hiểu lầm, không thể đùa được, bèn nhanh chóng giải thích: "Vân nhi, ý của ta là muốn muội làm bảo tiêu, cùng đi với ta đi nhậm chức quan, thiếp thân bảo hộ cho ta. Được không?"

Tống Vân Nhi lúc này mới hiệu ý tứ muốn "người" của Dương Thu Trì là gì, trừng mắt nhìn hắn, nhưng trong lòng hơi thất vọng, rồi lại nghĩ, hắn để nàng bảo hộ bên người, cùng đi nhậm chức quan, như vậy là có thể luôn ở bên hắn. Có như vậy cũng đủ lắm rồi, nên nàng vui mừng trở lại.

Nghĩ thông điểm này, Tống Vân Nhi gật đầu, giả vờ thở dài nói: "Được thôi. Ai bảo muội đánh cuộc thua huynh làm chi, nếu như huynh đã yêu cầu muội làm bảo phiêu thì.... nói phải giữ lời, đành phải đáp ứng thôi!"

Dương Thu Trì mừng rỡ, cầm tay Tống Vân Nhi nói: "Đừng lo, Vân Nhi, ta sẽ luôn đối xử tốt với muọi, không để muội khổ đây." Nói tới đây hắn nghĩ lại, cảm thấy cây ấy quai quái, giống như là đang nói với tình nhân vậy, nên vội cải chính: "Ý của ta là, muội làm bảo tiêu cho ta sẽ không cực khổ lắm đâu."

Tống Vân Nhi đã nghe rõ ý trong lời của hắn, lòng cảm thấy rất ngọt ngào, mỉm cười rất vũ mị: "Được thì được, nhưng mà không biết cha mẹ của muội có cho phép không." Nghe nàng nói thế, Dương Thu Trì hơi sửng người. Điểm này thì hắn chưa hề nghĩ qua cho tử tế, hắn chỉ cảm thấy nếu như bản thân làm quan mà không gặp được Vân Nhi thì lòng sẽ cảm thấy rất khó chịu. Những ngày tháng gần đây khi ở chung với nàng, hắn cảm thấy thập phần vừa ý, không muốn phân khai nên mới cố ý đánh cá chuyện này.

Tống Vân Nhi mỉm cười nói: "Ca, tuy muội đã đáp ứng rồi, nhưng nếu cha mẹ muội không chịu thì muội cũng không còn cách nào khác đâu nha?" Nhưng nàng thấy sắc mặt Dương Thu Trì rất khó coi, lòng vui mừng nói tiếp, "Nhưng mà, cha mẹ muội rất xem trọng ca ca huynh đó, muội cũng lớn rồi, huynh thỉnh muội làm bảo tiêu, hai người sẽ đáp ứng thôi."

Dương Thu Trì cao hứng gật gật đầu, thầm nghĩ chỉ mong là như vậy, còn hiện giờ có gấp cũng vô dụng, "công tác tư tưởng" đối với hai vợ chồng lão Tống tri huyện, à không, Tống đồng tri, phải đợi quay về từ từ tính.

Dương Thu Trì chỉnh lý y phục xong bước ra cửa, thấy ngoài vườn đã đầy người, Mã Độ và Ngưu Bách hộ thấy Dương Thu Trì đi ra lập tức bước lên cung tay chúc mừng.

Người chuyên môn báo tin mừng thi đậu thấy Dương Thu Trì vừa bước ra thì hai vị cẩm y vệ đại lão gia chúc mừng, lập tức đoán ngay vị này là cử nhân lão gia, liền quỳ ngay xuống đệ trình báo thiếp, luôn miệng nói cung hỉ đại gia.

Dương Thu Trì cười ha ha tiếp lấy báo thiếp, thấy trên đó có ghi: "Vui mừng báo cho lão gia Dương Thu Trì của quý phủ là trong kỳ thi hương ân khoa ở kinh thành Ứng Thiên phủ, đã trúng cử nhân vào bậc hai trăm năm mươi."

Dương Thu Trì ngẩn người, khóc cười đều không được, thầm mắng: "Cái lão quỷ Lý công công này chơi kiểu gì kỳ vậy, sao lại cho mình trúng vào con số nhị bách ngũ thập (hai trăm năm mươi) a, nhị bách ngũ? Ông mới là nhị bách ngũ(*) á!

Thưởng cho người báo tin xong, mọi người đều bàn luận xem làm sao để ăn mừng. Mã Độ và Ngưu Bách hộ chưa bao giờ thi đến cử nhân, nên không biết đạo lý và quy củ trong chuyện này thế nào. Dương Thu Trì nhớ lại bài học "Thăng liền ba cấp" ở thời trung học có nói là thi đỗ cử nhân dường như phải bái quan chủ khảo làm thầy, coi như là học sinh của y, Trương Hảo Cổ thi xong không đến bái sư, kết quả hai vị chủ khảo liền đòi gặp y ngay.

Nếu là như thế, thì tốt nhất là đi tìm quan chủ khảo Cổ Hàn Lâm bái sư cho rồi. Lão năm nay cũng lớn tuổi, là ở bậc hàn lâm, tri thức và học vấn nếu làm thầy hắn cũng không oan gì cho hắn cả. Mấy ngày nay hắn hầu như ở cùng một chỗ với lão, cũng coi như chỗ quen biết, nếu giờ trở thành sư đồ thì quả là tuyệt.

Dương Thu Trì chuẩn bị hậu lễ, gọi Nam Cung Hùng cùng các hộ vệ mang theo đến nhà Cổ hàn lâm bái sư.

Đối với Mã Độc và Ngưu Bách Hộ, chuyện Dương Thu Trì thi trúng cử nhân có thể nói là chuyện lớn. Hai người đương nhiên muốn giúp làm cho chuyện vui cho toàn vẹn, nên khi nghe Dương Thu Trì nói muốn bái lão Cổ hàn lâm làm thầy, đương nhiên liền tháp tùng theo ngay.

Dương Thu Trì muốn đến cói bảng kết quả thi hương trước. Món này có thể nói là giấy trúng tuyển đại học, nhất định phải xem qua cho biết.

Các kỳ thi hương thường diễn ra vào tháng chính, khi niêm yết danh sách người thi đỗ thì đúng vào lúc hoa quế nở rộ, cho nên bảng danh sách này được gọi là "Quế bảng". Nhưng lần ân khoa này được tổ chức vào tháng mười hai, chẳng biết tên gọi của bảng danh sách này là gì.

Bảng niêm yết được đặt ở cửa cống viện. Dương Thu trì không phí sức lực mấy đã tìm thấy tên mình ở vị trí hai trăm năm mươi. Tuy vị trí này nghe rất kỳ, nhưng dù sao cũng là cử nhân.

Kỳ thi hương có độ khó hơn nhiều so với thi đại học ở thời hiện đại, mỗi tỉnh chỉ có số lượng tiêu chuẩn rất hạn chế. Vì thế,

Dương Thu Trì xem bảng thi đỗ này liền cảm thấy vui mừng hơn cả lúc nhận giấy trúng tuyển đại học y khoa.

Xem bảng xong, Dương Thu Trì cùng mọi người đến nhà Cổ hàn lâm, ngoài cửa đã chật ních người, đều là những người trúng cử nhân đến bái sư. Gặp mặt nhau, họ đều vui mừng hớn hở, vì dù sao cũng đã là bạn đồng niên, nên ai nấy đều tỏ ra thân mật.

Tuy nhiên, sau khi khách sáo xong rồi, họ lại bằng đầu so sánh vị trí của nhau, rất giống với việc so sánh vị trị coi ai là thủ khoa hay á khoa, top mười trong kỳ thi vào đại học ở thời hiện đại vậy.

Nhưng người này đều đã đưa bái thiếp đệ trình vào phủ của Cổ hàn lâm, đang chờ được bái kiến từng người một.

Mấy ngày nay Dương Thu Trì thường đến nhà của Cổ hàn lâm, không cần dùng bái thiếp nữa. Nhưng hắn hiếm khi thấy được cảnh tượng này, hơn nữa cũng không cần gấp, nên ở lại cửa trước cùng nói chuyện với mọi người, nghe bọn thư sinh khoe chữ khoa văn, cảm thấy quả là thú vị.

Những người này có vài người có mặt tại cống viện lúc lão tú tài Lỗ Học Nho bị trúng độc chết, nên nhận ra Dương Thu Trì. Sau khi dò hỏi một lúc, họ biết Dương Thu Trì là một giám sinh quyên tiền để được dự thi mà vẫn trúng cử nhân, vừa kinh ngạc vừa bội phục. Hơn nữa, ngày ấy họ biết Dương Thu Trì và quan chủ khảo Cổ Hàn Lâm có quan hệ không phải tầm thường, nên cố gắng tiếp cận, trao đổi bái thiếp cho nhau.

Những bái thiếp này tương đương với danh thiếp thời hiện đại. Dương Thu Trì lúc này cũng thường đi giao tiếp khắp nơi, nên cũng chuẩn bị bái thiếp khá nhiều, do hộ vệ đầu lĩnh Nam Cung Hùng bảo quản.

Sau khi trao đổi cho nhau một số lượng lớn bái thiếp, họ lại bắt đầu so sánh thứ bậc trúng tuyển. Điểm này quả thật làm Dương Thu Trì khó chịu, tuy biết người thời cổ đại không có ý kiến gì về câu nói "nhị bách ngũ", nhưng vị trí của hắn có vẻ tụt xa ở phía sau, nên có phần không vui. Chỉ có điều, khi nghĩ đến bản thân chẳng hề viết một chữ nào khi thi, tứ thư ngũ kiinh cũng chẳng hề coi quá thế mà trúng được cử nhân, đem so sánh với những người miệt mài ít nhất mười năm đèn sách thì hắn cảm thấy đủ và may lắm rồi.

Dương Thu Trì và mọi người trục tiếp tiến vào nhà của Cổ Hàn lâm, thậ chí không cần phải xếp hàng, khiến cho những cử nhân ở đó vừa hâm mộ vừa đố kỵ.

Lính gác đưa Dương Thu Trì và mọi người đến đại sảnh, sau đó chạy đi thông báo.

Chờ một chút, Cổ Hàn lâm cười khà khà bước ra, vừa nhìn thấy Dương Thu Trì đã cung tay chúc mừng từ xa. Dương Thu Trì vội vả hoàn lễ, rồi bảo Nam Cung Hùng dâng lễ vật lên.

Cổ Hàn lâm cũng không hề từ chối, vì đây là quy củ. Nhưng Cổ Hàn lâm lại đề nghị hôm nay để lão chủ động, thiết yến tiệc chúc mừng cho Dương Thu Trì. Và hắn đương nhiên tán đồng.

Cổ Hàn lâm cho lính gác đi thông báo cho bọn cử nhân, nói hôm nay quan chủ khảo đại nhân không tiếp khách, ngày mai hãy đến.

Cổ Hàn lâm mời phủ doãn của Ứng thiên phủ là Cố đại nhân đến cùng vui, cộng thêm Ngưu Bách Hộ, Mã Độ vốn là hai phó thiên hộ của cẩm y vệ, cùng Tống Vân Nhi cùng nhập tiệc chúc mừng cho Dương Thu Trì cao trúng cử nhân. Trong tửu yến, mọi người nói đến về đại hội mừng cho các cử nhân tiến hành vào vài ngày sau, đó chính là Lộc Minh yến, lúc đó cần phải xướng "Lộc Minh" thi, nhảy múa ca hát, làm thơ tác phú. Mọi người đều nói Dương Thu Trì cần phải sớm chuẩn bị, đến lúc đó ra tay một phen để mọi người có một phen náo nhiệt.

Dương Thu Trì nghe mà muốn xỉu, nhưng miệng vẫn đáp ứng , vì thầm nghĩ ngoài kia thiếu gì tú tài, nhà giàu nhà nghèo gì cũng có, dùng tiền mua vài bài thi từ của họ chẳng phải là ổn hay sao?

Nhưng suy đi nghĩ lại, trước hết phải phí đầu óc mà làm, làm không nổi thì mang mấy bài thơ của Mao chủ tịch (tức Mao Trạch Đông) ra xài là được rồi! Nhưng mà thơ của Mao chủ tịch quá phách khí, không thể dùng bừa, nếu không sẽ xảy ra chuyện. “Xã hội hiện đại chẳng ai làm thơ cổ giỏi hết, làm sao bây giờ đây, phải suy nghĩ kỹ mới được!” Gã nghĩ thầm.

Cổ hàn lâm và Cố phủ doãn lại nói chờ cho Dương Thu Trì thi hội, thi điện được kim bảng đề danh rồi thì cần phải chúc mừng cho thật lớn.

Đề cập đến vấn đề này, Dương Thu Trì thưa: "Các vị đại nhân, càng vị đừng cười tôi nữa. Tại hạ bản lãnh ra sao trong lòng tự biết, kỳ thi hội và thi điện này tôi không thể tham gia nổi đâu. Tôi chuẩn bị nhờ người đến lại bộ đăng ký tham gia tuyển chọn, nếu như may mắn được tuyển làm chức quan nhỏ gì đó là vừa lòng thỏa nguyện lắm rồi."

Thông qua đoạn thời gian tiếp xúc nhau này, Cổ hàn lâm và mọi người đều biết lời Dương Thu Trì nói đây là lời thật, nên không thèm khách sáo làm chi nữa.

Cố phủ doàn tự nói lão có nhiều bằng hữu, nếu như sau này Dương Thu Trì làm quan, nếu có đến địa phương của bằng hữu của lão, thì nhất định có thể chiếu cố. Cổ hàn lâm cũng đề xuất ý sẵn lòng giúp.

Dương Thu Trì động tâm, đúng a, hai lão gia hỏa này có thể coi là lãnh đạo cao tầng ở Minh triều, đặc biệt là phủ doãn của Ứng Thiên phủ, chức vị xem ra tương đương với chức thị trưởng Bắc Kinh thời hiện đại, hay là cục trưởng Cục Chính trị hay bí thư thành ủy gì đó, nhất định là có không ít quan hệ với các địa phương, không thể lãng phí cái lợi này.

Tuy hắn không biết sẽ đi làm quan ở đâu, nhưng có thể lợi dụng mối quan hệ này để chiếu cố mẹ con Bạch phu nhân là quá tốt rồi. Đương nhiên, nếu như chỗ hắn làm quan cùng một địa phương với hai mẹ con họ Bạch thì càng hay biết mấy.

Nghĩ đến điều này, Dương Thu Trì hỏi: "Cố đại nhân, không biết ngài có mối quan hệ tốt nào ở Vân Nam không?" Có việc cầu người, câu nói này bất tri bất giác khách khí hẳn lên.

Cố phủ doãn mỉm cười: "Đề hình án sát sứ ở Vân Nam ở Khang Hoài là đồng môn của ta ngày xưa, lại là tiến sĩ đồng bảng, giao tình xưa nay không tệ."

Dương Thu Trì nghe thế vui mừng ra mặt.

Cố phủ doãn không hiểu, hỏi: "Dương công tử đột nhiên hỏi đến Vân Nam, không biết là nguyên nhân gì?"

Dương Thu Trì cười nhìn Mã Độ.

Mã Độ hội ý chen lời: "Cố đại nhân, mấy người trước có vợ và con gái của Bạch thiên hộ thuộc Kinh doanh binh bị liên lụy phải tội chết, rất may là Dương công tử cầu xin, hoàng ân rộng rãi đã miễn cho tội chết, cải phán thành lưu đày ở Vân Nam. Bạch thiên hộ trước khi chết có giao tình với Dương công tử. Dương công tử tâm địa thiện lương, thương xót cho hai mẹ con họ, do đó đã đáp ứng Bạch thiên hộ chiếu cố cho."

Nói đến chuyện này, Cố phủ doãn lập tức biết ngay. Lần mưu phản vừa rồi hoàng thượng tự thân xử đoán, ngoại trừ những người trực tiếp bị xử quyết ra, những hình phạt dành cho người có liên quan không bị xử tử được giao cho nha môn ở Ứng Thiên phủ chấp hành, do đó Cố phủ doãn là người phụ trách trực tiếp.

Cố phủ doãn cảm thán nói: "Hai mẹ con họ có thể gặp người tốt như Dương công tử đây là phúc phận kiếp trước. Dương công tử yên tâm, chuyện áp giải họ đến Vân Nam do Ứng Thiên phủ của ta phụ trách, đến lúc đó ta sẽ có an bài cụ thể, tuyệt không để mẹ con họ chịu khổ đâu."

Dương Thu Trì ôm quyền thi lễ: "Đa tạ Cố đại nhân!" Dừng một chút, hắn lại tiếp, "Chỉ có điều là tôi đã đáp ứng với Bạch thiên tổng tự thân đưa họ đến Vân Nam an bày đâu ra đó rồi mới li khai."

Cố phủ doãn giơ ngón tay cái lên khen: "Dương công tử nghĩa tựa mây trời, thật đúng là khiến người thập phần bội phục. Nếu như là như vậy, đến lúc đó ta sẽ an bài cho công tử cùng đi hộ tống, và gửi kèm một phong thư gửi cho quan đề hình án sát sứ ở Vân Nam là Khang Hoài, bảo y tiếp đãi mọi người thật tốt."

Dương Thu Trì mừng rỡ, cung thân thi lễ: "Tôi thế hai mẹ con họ cảm tạ ân đức của đại nhân."

Cố phủ doãn cười nói: "Dương công tử bất tất khách khí, cậu giúp ta nhiều việc như vậy, chuyện này bất quá chỉ là chuyện động ngón tay, kể mà làm gì."

Sự tình như vậy là định xong, tâm tình của Dương Thu Trì vô cùng khoan khoái. Hắn nguyên nhất mực lo là đến Vân Nam rồi đất lạ quê người, cho dù có bạc cũng không biết dùng ở đâu. Hiện giờ có Cố phủ doãn dân kiến, có Vân Nam đề hình án sát sứ tiếp ứng, mọi chuyện coi như dễ hơn nhiều.

Chức đề hình án sát sứ này không phải tầm thường. Trong chế độ tư pháp ở địa phương ở Minh triều, các tỉnh đều có thiết lập đề hình án sát ty, phụ trách hình luật trong toàn tỉnh, trong khi đó ở châu huyện thì lại do tri phủ và tri huyện kiêm luôn mặt tư pháp. Chức đề hình án sát sứ tương đương chức viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp cao, vừa kiêm giám đốc sở giám sát của tỉnh, vừa kiêm cục trưởng cục phản gián .... ở thời hiện đại.

Nếu như sau này hắn được phái đến Vân Nam làm quan, có mối quan hệ với cấp bậc cao cấp này làm hậu đài để tra án, xem ra mọi việc thuận lợi hơn nhiều. Chỉ không biết có hay không có chuyện tốt đẹp như thế này không.

Mọi người uống rất cao hứng, nhất mực cho đến nửa đêm mới tan.

Ngày hôm sau, Dương Thu Trì còn chưa tỉnh rượu, đầu óc mông lung, thì Tống Vân Nhi chạy vào vén mền ra gọi rối rít: "Ca, mau dậy đi, không xong rồi!"

Dương Thu Trì nghe vậy giật nãy mình, ngồi dậy hỏi: "Có chuyện gì?"

"Nữ hộ vệ Hạ Bình nhà huynh đến rồi, đang chờ ở ngoài kia kìa, nói là có chuyện gấp, dường như là, là..."

Dương Thu Trì gấp lên: "Là cái gì à? Muội học cái tính rề rà chậm chạp từ khi nào vậy?"

"Là búp bê bùn không thấy đâu nữa rồi!"

"A...!" Dương Thu Trì cả kinh kêu lên, "Muội nói cái gì? Búp bê bùn mất tích rồi? Làm sao mất tích?"

"Muội làm sao biết được, huynh đi hỏi nữ hộ vệ nhà huynh đi, đang chờ ở phòng khách ngoài kia kìa."

Dương Thu Trì phốc xuống giường mặc vội quần áo, chạy vụt khỏi phòng lao đến phòng khách.

Tống Vân Nhi và Nam Cung Hùng hộ vệ của Dương Thu Trì cũng chạy theo vào đại sảnh.

Hạ Bình vừa thấy Dương Thu Trì đã quỳ xuống thưa: "Thuộc hạ vô năng, thỉnh thiếu gia trách phạt!"

Tay phải của Hạ Bình lúc này quấn băng treo lê cổ, cánh tay thấm máu đỏ cả một vệt lớn, hiển nhiên thụ thương không nhẹ.

"Có chuyện gì? Nói mau!" Dương Thu Trì vội hỏi.

"Rạng sáng ngay hôm trước có một nữ tặc che mặt trung niên cướp tam thiếu phu nhân Tống Tình đi, chúc hạ và ba hộ vệ còn lại phát hiện ngăn lại. Nữ tặc này còn tam thiếu phu nhân đấu cùng chúng tôi. Ả có thân thủ thập phần cao cường, còn chúng tôi sợ làm bị thương tam thiếu phu nhân nên xuất thủ có phần cố kỵ. Sau khi nữ tặc làm bị thương ba người chúng tôi đã ung dung bỏ đi. Chúng tôi vô dụng không cứu lại được tam thiếu phu nhân, thỉnh thiếu gia trách phạt."

Dương Thu Trì nghe vậy trợn mắt ngớ người. Lần trước Tần Chỉ Tuệ cũng bị bắt cóc như thế, chẳng lẽ cũng là người này sao? Nếu là như thế, nhất định ả sẽ lưu lại một mảnh giấy gì đó. Nghĩ đến đó, Dương Thu Trì hỏi dồn: "Nữ tặc này lưu lại mảnh giấy nói gì ?"

Hạ Bình ngạc nhiên, thầm nghĩ sao tôi chưa nói thiếu gia đã biết rồi, bèn gật đầu móc từ trong người ra một mảnh giấy trình lên, nói: "Dây là thứ nữ tặc trước khi đào tẩu quẳng nói cho chúng thuộc hạ, nói cứ chuyển giao cho thiếu gia người."

Dương Thu Trì tiếp lấy mảnh giấy mở ra xem, quả nhiên trên đó có nét chữ quen thuộc: "Cô tiểu thiếp này của tôn giá lão thân cũng mang đi luôn. Không bị gì, tự lo cho bản thân đi." Nét chữ tròn trịa, nét mựa rõ ràng, hiển nhiên là mới viết không lâu.

Lại là nữ võ lâm tiền bối đó nữa! Lần trước bắt cóc tiểu thiếp Tần Chỉ Tuệ ngay bênh cạnh hắn, giờ là bắt cóc Búp bê bùn Tống Tình, hơn nữa còn bắt đi trước mắt ba cẩm y vệ cao thủ.

Tuy hắn không biết Hạ Bình có võ công thế nào, nhưng Lý công công nói những người này là do Cẩm y vệ chỉ huy sứ Kỷ cương tự thân chọn lựa, võ công không dám nói là nhất lưu nhưng cũng không tệ. Ba người thế mà giữ không được một người, hơn nữa người ta còn cõng trên lưng một người, vậy võ công người đó cao thâm như thế nào khỏi nghĩ cũng biết. Hơn nữa, vị nữ tiền bối này rất có khả năng là đã hạ thủ lưu tình, nếu không muốn lấy tính mạng ba người không phải là chuyện khó.

Vị nữ tiền bối này vì sao lại cướp đi hai tiểu thiếp của hắn? Chẳng lẽ bà ta nhìn trúng hắn, ghen, muốn gả cho hắn? Ta mà chịu bà già khọm nhà ngươi à! Dương Thu Trì tức anh ách nghĩ.

Tuy không biết nữ tiền bối vì cớ gì mà cướp hai tiểu thiếp của hắn đi, nhưng hiển nhiên bà ta không làm hại hắn hay tiểu thiếp của hắn, vì nói cho cùng chuyện đó dễ như trở bàn tay.

Vậy bà ta cướp tiểu thiếp của hắn rốt cuộc gì mục đích gì? Chẳng lẽ muốn dạy họ võ công để họ trở vệ bảo hộ hắn? Dương Thu Trì cảm thấy ý nghĩ này rất tức cười. Hai tiểu thiếp của hắn tuy mới mười lăm mười sáu tuổi, nhưng đối với người học võ mà nói thì vẫn còn quá sớm. Hơn nữa, nếu bà ta muốn cho người bảo hộ hắn, tại sao không tự đến bảo hộ? Làm chuyện thừa này để làm gì?

Khẳng định là không muốn bắt chẹt tống tiền hắn, vì nếu như thế sau khi cướp Tần Chỉ Tuệ đi xong, ứng ra là phải liên hệ vòi tiền rồi.

Bà ta lại càng không phải là người của Kiến Văn đế. Bọn chúng muốn báo thù hắn, chém một đao chết là được, không thể nào dùng cái chiêu cướp tới cướp lui hết sạch tiểu thiếp của hắn. Chẳng lẽ chúng hy vọng làm thế sẽ khiến hắn tuyệt tử tuyệt tôn? Nếu thế thì quá trẻ con rồi, hơn nữa, nếu bọn chúng thật muốn làm như vậy, trực tiếp giết hay thiến hắn là xong, chẳng phải làm vậy triệt để và sạch sẽ hơn sao?

Dương Thu Trì nghĩ không ra lẽ, ngồi đó ngơ ngẩn đến phát ngốc.

Hạ Bình biết Dương Thu Trì là cẩm y vệ chỉ huy sứ đặc sứ, có quyền tiền trảm hậu tấu, chức trách của nàng là bao vệ cho sự an toàn của hắn và gia đình, nhưng hiện giờ nàng đã để cho thiếu phu nhân bị người bắt đi, Dương Thu Trì nếu như hiện giờ chém trước nàng rồi tâu sau cũng chẳng có ai nói hai lời. Cho dù Dương Thu Trì không chém đầu nàng, kỷ luật của cẩm y vệ nghiêm minh, sự sai lầm này trăm phần trăm là bị xử phạt.

Hạ Bình thấy Dương Thu Trì không nói gì ngồi thừ ở đó, nghĩ là hắn đang nghĩ coi làm cách nào để đày đọa nàng giải hận, lòng không khỏi run sợ, mồ hôi lạnh ứa ra khắp người.

Nam Cung Hùng nhất mực theo sau Dương Thu Trì, thấy tình cảnh này bước lên ôm quyền thưa: "Thiếu gia, Hạ Bình đã thất trách, tội có thể chém, xử phạt thế nào thỉnh thiếu gia định đoạt." Nam Cung Hùng tuy có giao tình không tệ với Hạ Bình, nhưng Hạ Bình phạm phải tội lớn thế này, hắn không dám lên tiếng cầu xin. Tay hắn để lên cán đao, chỉ cần Dương Thu Trì ra ý động thủ, nói không chừng sẽ lập tức xử tử Hạ Bình ngay.

Dương Thu Trì nhất mực ngẫm nghĩ lý do vì sao võ lâm nữ tiền bối bắt tiểu thiếp của mình, căn bản không hề nghĩ xử phạt tội bảo hộ bất lực của ba người bọn Hạ Bình như thế nào, giờ nghe Nam Cung Hùng lên tiếng mới phản ứng, nhìn Hạ Bình chầm chầm mà không nói gì.

Hạ Bình cười thảm: "Thuộc hạ biết tội, cam nguyện chịu chết, cầu đại nhân có thể tha cho người nhà của thuộc hạ. Thuộc hạ tự vẫn ta tội." Nói xong dập đầu liền ba cái, do tay phải đã thụ thương, nên dùng tay trái ngoặc lại định rút trường kiếm ở eo lưng ra.

"Ngươi điên rồi!" Tống Vân Nhi quát lên cả kinh, bước lại giữ chặt tay Hạ Bình, quay đầu nhìn Dương Thu Trì, gương mặt vô cùng bất nhẫn.

Ngưu thiên hộ và Mã Độ lúc này cũng vừa đến, do họ đã biết thân phận của Dương Thu Trì nên không dám can dự loạn vào. Hơn nữa, bọn họ biết kỷ luật của cẩm y vệ, Hạ Bình có tội không làm tròn bổn phận, tội chết có thừa. Trong tình huống này có thể linh hoạt xử phạt, và xử phạt như thế nào tùy thuộc vào quyết định của Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì thật tình rất bực tức với việc không làm hết chức trách của Hạ Bình, nhưng hắn đã tính tới việc nữ tiền bối không muốn giết hắn và tiểu thiếp của hắn, Tần Chỉ Tuệ và Tống Tình xem ra không có gì nguy hiểm, do đó không nhất định vì tội thất chức mà xử tử Hạ Bình.

Nhưng Dương Thu Trì cũng biết, kỷ luật của cẩm y vệ rất nghiêm minh, nếu như lòng hắn quá mềm, sau này chỉ sợ không trấn áp được ai.

Dương Thu Trì hừ lạnh: "Ngươi cho là ngươi chết xong là hết sao?"

Chồng của Hạ Bình chiến tử trong chiến dịch Tĩnh Nạn, còn để lại hai hài tử và song thân. Hiện giờ nghe Dương Thu Trì nói thế, biến hẳn sắc mặt, toàn thân run bần bật, cho rằng Dương Thu Trì không những muốn giết nàng, mà còn muốn giết toàn gia của nàng. Trong lúc kinh khủng, nàng sụp xuống đất, khóc nấc lên: "Thuộc hạ đáng chết vạn lần, cầu xin ngài tha cho người nhà của tôi, kiếp sau thuộc hạ nguyện là trâu làm ngựa báo đáp đại ân của thiếu gia."

Nam Cung Hùng có giao tình không tệ với Hạ Bình, thấy Dương Thu Trì muốn trị tội liên lụy luôn người thân của Hạ Bình, cố lấy hết can đảm quỳ xuống ôm quyền xin: "Thiếu gia, Hạ Bình tuy có tội thất chức, dẫn đến việc tam thiếu phu nhân bị nữ tặc bắt đi, sinh tử bất minh, tội đáng xử tử. Nhưng cầu thiếu gia niệm tình nàng ta liều mạng bảo hộ chủ thụ thương, tội thất chức này chỉ là do lực bất tòng tâm, xin tha cho người thân của nàng."

Dương Thu Trì làm mặt lạnh như tiền: "Lực bất tòng tâm? Võ công của nữ tặc đó cao vậy sao?"

Hạ Bình dập đầu thưa: "Nữ tặc đó võ công rất cao, trước giờ thuộc hạ mới gặp lần đầu. Nếu như không phải thuộc hạ tận mắt chứng kiến, tuyệt không dám tin trên thế gian này còn có cao thủ như vậy. Thuộc hạ tuyệt không có ý đổ thừa, cam nguyện lãnh cái chết, chỉ bẩm báo như thật để thiếu gia có sự chuẩn bị."

Dương Thu Trì có chút hiếu kỳ, hỏi: "Nếu như ngươi và hai người kia toàn lực ngăn chặn, ngươi cảm thấy ngăn được ả mấy chiêu?"

"Không thể quá mười chiêu." Hạ Bình dập đầu thưa.

Dương Thu Trì chưa bao giờ thấy võ công của Hạ Bình, nhưng vào đêm phục kích truy binh của Kiến Văn, hắn có chút hiểu biết đối với võ công của Nam Cung Hùng, nên quay đầu lại hỏi y: "Võ công của ngươi so với Hạ Bình thế nào?"

Nam Cung Hùng biết Dương Thu Trì đang tìm hiểu võ công của nữ tặc, không dám che giấu, ôm quyền thưa: "Trong vòng một trăm chiêu, thuộc hạ có thể thắng Hạ Bình."

Chỉ bằng con số mà xét, thì nữ tặc này ít nhất hơn gấp mười Nam Cung Hùng, như vậy có thể nói cho dù Nam Cung Hùng cùng toàn bộ hộ vệ có mặt, chỉ sợ rất khó ngăn được sự tiến công của nữ tặc, do đó hắn không khỏi ủ rũ: "Nếu Kiến Văn dư đảng có nhân vật như vậy, e rằng chúng ta không thể...."

Nam Cung Hùng thưa: "Thỉnh thiếu gia yên tâm, theo thiển ý của thuộc hạ, trên đời này sợ khó có kẻ thứ hai có võ công như nữ tặc này, hơn nữa tuyệt không thể nào phục vụ cho Kiến văn, nếu không ả sẽ không chỉ bắt thiếu phu nhân đi thôi."

Lời này ngầm có ý là cậu đừng có sợ, trên đời này chỉ sợ chẳng có ai lợi hại như nữ tặc kia đâu, còn mấy cẩm y vệ hộ vệ chúng tôi đây chẳng phải là nuôi ăn tốn cơm không thôi, trừ nữ tặc kia, nhưng tên khác có đến thì không đến nổi bất lực thế này đâu.

Dương Thu Trì đương nhiên biết nữ tạc không có thể là người của Kiến Văn đế. Hơn nữa, hiện giờ có sợ cũng chẳng có ích gì, và hắn lại còn có cây súng không người, nếu hiện tại hết cách thì lấy ra nói chuyện với ả, võ công ả dù có cao cường, nhưng cao cường sao bằng súng đạn được?

Dương Thu Trì lạnh lùng nói: "Được thôi, nếu đã như vậy, ta không tìm người nhà của ngươi làm phiền chi nữa." Dừng lại một chút, hắn vẫn lạnh lùng nhìn Hạ Bình: "Ngày ấy Lý công công nói gì ngươi cũng nghe rồi, ngươi biết nên làm thế nào rồi chứ?"

Ngày ấy Lý công công có nói, nếu như bọn họ bất lực trong việc hộ vệ cho Dương Thu Trì và gia đình hắn, thì tự chém đầu tạ tội.

Hạ Bình biết lời này của Dương Thu Trì là có ý để nàng tự sát, và không truy cứu đến người trong nhà, liền cảm kích dập đầu mấy cái nói với Tống Vân Nhi: "Tống cô nương, cảm ta cô, tội của tội đáng phải trừng phạt, phiền cô bỏ tay ra, để tôi tự sát tạ tội."

Tống Vân Nhi vẫn còn giữ chặt Hạ Bình, vội hỏi: "Tự sát? Mạng của ngươi không đáng tiền hả? Ngươi chết rồi có ích gì cho chuyện này? Hơn nữa, nữ tặc đó hiển nhiên không muốn giết búp bê bùn. Búp bê bùng sẽ không có chuyện gì, tội của ngươi không đáng chết." Nói xong chuyển sang Dương Thu Trì: "Ca, muội cầu xin cho nàng ấy, huynh tha cho nàng ấy trước, để nàng ấy lập công chuộc tội có được không? Coi như Vân nhi cầu xin huynh vậy!"

Dương Thu Trì đương nhiên không thật tâm muốn Hạ Bình tự sát, chỉ muốn lợi dụng chuyện này tự lập uy tín cho mình, và thầm đoán Tống Vân Nhi sẽ xin tội, hiện giờ chính là lúc mượn thềm xuống lừa, nên nói: "Được thôi, nếu như Nam Cung Hùng và Vân nhi đều cầu xin cho ngươi, ta tạm thời giữ cái đầu trên cổ ngươi lại, để ngươi đái tội lập công, nếu như còn có lần sau, hoặc cứng minh nữ tặc đã giết chết thiếu phu nhân, hừ! Ngươi biết nên làm thế nào rồi đó!"

Hắn nói lời này thật ra là lời tâm lý, bản thân hiện đang đấu với Kiến Văn dư đảng, đối phương đã từng tổ chức đại đội nhân mã tiến hành đánh lén ám sát hắn, nếu như sau này những hộ vệ không liều mạng bảo hộ, đâu của bản thân và người trong nhà dù có mọc thêm chín cái nữa cũng không giữ được. Do đó cần phải để cho bọn họ có cảm giác khẩn bách, nếu như sau này bọn họ bảo hộ không hiệu quả, dẫn đến bản thân hay người trong nhà thụ thương hay xảy ra chuyện, Dương Thu Trì đành phải ngoan tâm giết vài người để lập uy.

Hạ Bình thoát chết không khỏi cảm kích vô cùng, dập đầu mấy cái: "Thuộc hạ minh bạch, nếu như sau này phạm phải tội này nữa, hay sau này chứng minh tam thiếu phu nhân đã bị hại, thuộc hạ lập tức tự vẫn tạ tội!"

"Ừ...! Đứng lên đi. Cùng ta trở về Ninh quốc phủ!" Dương Thu Trì ủy thác Ngưu thiên hô (vốn là Ngưu bách hộ Ngưu Đại Hải đã được thăng cấp) cùng Mã Độ phát ra văn thư thông tập trên toàn quốc, và tổ chức cho cẩm y vệ truy tìm Tống Tình khắp nước.

Đặc sứ có lệnh, ai dám không theo? Ngưu thiên hộ, Mã Độ thỉnh Dương Thu Trì yên tâm. Bọn họ lập tức an bài việc vẽ hình rồi phát văn thư tìm búp bê bùn Tống Tình trên toàn quốc.

Hai tiểu thiếp trước sau đều bị mất, lại bị cùng một người cướp đi, tuy đã nhờ cẩm y vệ tìm kiếm, nhưng Dương Thu Trì biết nếu như lần trước họ tìm Tần Chỉ Tuệ không được, thì lần này chỉ sợ cũng không thể nào tìm ra.

Búp bê bùn Tống Tình không còn nữa, Dương Thu Trì còn lòng nào ở lỳ tại kinh thành? Hắn liền thỉnh Mã Độ nói với Cố phủ doãn và Cổ hàn lâm rằng mình không thể nào tham gia Lộc Minh yến được, rồi ngay sau đó dẫn Tống Vân Nhi và tùy tùng trở về ngay Ninh Quốc phủ.

Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết thấy Dương Thu Trì trở về liền yên lòng đem mọi chuyện kể ra hết, chẳng khác mấy so với lời thuật của Hạ Bình. mẹ của Tống Tình và Tống đồng tri nghe tin cũng nhanh chóng đến, đặc biệt là mẹ của Tống Tình đang gấp đến phát điên.

Dương Thu Trì đến phòng của búp bê bùn tra xét một hồi, lại nhờ Tống Vân Nhi đưa lên trên nóc phòng, phát hiện giống như lần trước lớp ngói có bị di động, có dấu giày và dấu tay. Khi mang về so sánh với dấu hài dấu tay lần trước, phát hiện tuy hoa văn trên giày bất đồng, nhưng dấu giày phản ánh đặc trưng thân thể phù hợp với nhau, và dấu tay cũng hoàn toàn phù hợp. Như vậy có thể nói người cướp hai tiểu thiếp là một.

Dương Thu Trì đem kết quả quan sát và phán đoán nói với Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết và mẹ của Tống Tình, Tống đồng tri, bốn người cũng rất nghi hoặc, không hiểu võ lâm nữ tiền bối vì cớ gì mà trước sau bát cóc hai tiểu thiếp Tần Chỉ Tuệ và Tống Tình của Dương Thu Trì.

Mẹ của Tống Tình biết người bắt con gái là võ lâm nữ tiền bối, nghe Dương Thu Trì phân tích cảm thấy có đạo lý, biết sinh mệnh con gái sẽ không bị nguy hiểm nên hơi an tâm.

Dương Thu Trì lại cho gọi Nam Cung Hùng, Hạ Bình và hai nữ hộ vệ lại cùng phân tích khả năng người bắt cóc Tần Chỉ Tuệ và Tống Tình là ai.

Dương Thu Trì phán đoán, người này võ công cao như thế, trên giang hồ xem ra phải có danh phận. Hạ Bình và hai nữ hộ vệ nói lúc đó nữ tặc che mặt, trời lại tối nên chỉ nhận ra bóng dáng và âm thanh của ả, và nếu chỉ dựa vào hai điều đó thì hoàn toàn không có cách gì đoán ả là ai.

Hạ Bình và Nam Cung Hùng tiến hành tra xét trong các cao thủ võ lâm vang danh hiện thời, đều cảm thấy không có người nào có võ công lộ số và công năng như nữ tặc cả.

Dương Thu Trì đối với mấy trò võ công một khiếu chẳng thông, chẳng hề biết số võ lâm cao thủ trong thời Minh triều Vĩnh Lạc gồm những ai, chỉ nghe bọn họ phân tích rồi đưa ra một kết luận: Trong số võ lâm nữ cao thủ hiện thời, chẳng có ai có lộ số võ công phù hợp với nữ tặc. Và điều đáng đau đầu hơn nữa là, rõ ràng là nữ tặc này có võ công cao hơn hẳn một bậc so với các võ lâm nữ cao thủ hiện tại.

Xem ra đây là một cao thủ tịch mịch, thậm chí chưa hề xuất hiện trên giang hồ.

Dương Thu Trì cười khổ, bản thân làm sao mà thu hút sự chú ý của đệ nhất võ lâm nữ cao thủ hiện thời như vậy? Cho dù là rất đáng "nở mày nở mặt", nhưng hắn thà không thèm cái bản mặt nở to như cái đấu này, để hai vị tiểu thiếp trở về trong vòng tay, thậm chí phải tốn bao nhiêu tiền bạc cũng được.

Lần trước vì để tìm Tần Chỉ Tuệ đã kinh động để cẩm y vệ tiến hành truy tra trong phạm vi toàn quốc, đến hiện giờ đã mấy tháng rồi mà không có tin tức gì. Hiện giờ Tống Tình bị cướp đi, nữ tặc tuy lưu lại dấu tay, nhưng ở Minh triều chẳng có cơ sở dữ liệu lưu dấu tay, nếu tiến hành so sánh trên phạm vi toàn quốc thì biết tới chừng nào? Trừ khi phát hiện người hiềm nghi, còn không thì dấu tay này chẳng có chút lợi ích gì.

Dương Thu Trì vô cùng ũ rũ, chẳng có biện pháp nào, chỉ còn biết chờ tin tức từ chỗ cẩm y vệ.

Tiểu thiếp chẳng còn, nhưng hắn buộc phải sống qua ngày mà thôi.

Dương mẫu cùng mọi người biết Dương Thu Trì thi trúng cử nhân rồi thì vô cùng cao hứng, nhưng do tiểu thiếp Tống Tình bị bắt, nên tiệc mừng gì gì đó đương nhiên miễn luôn.

Tống đồng tri (vốn là Tống tri huyện trước kia) biết Dương Thu Trì thi đổ thì vô cùng bất ngờ và vui sướng, nhưng sự bất ngờ mà hắn mang đến chẳng phải chỉ có bấy nhiêu.

Tống đồng tri cùng mọi người vốn muốn Dương Thu Trì tiếp tục tham gia thi hội và thi đình, tranh thủ kim bảng đề danh quang tông diệu tổ. Nhưng Dương Thu Trì nói đã báo danh tham gia tuyển chọn ở Lại bộ để hy vọng có chỗ nào đó còn khuyết để ra làm quan. Điều này khiến choTống đồng tri cùng mọi người vô cùng cả kinh.

Minh triều nếu đậu cử nhân là có thể làm quan, nhưng so với bậc tiế sĩ ra quan thì khó hơn nhiều. Tống đồng tri lo ngại Dương Thu Trì sẽ không được chọn, mà cho dù có được chọn thì để tìm ra một chỗ còn trống cũng đã đau đầu. Nhưng mà dù sao thì làm quan cũng tốt hơn là không làm.

Dương Thu Trì thưa với Tống đồng tri, lần trước hắn cá cược với Tống Vân Nhi, và Dương Thu Trì thắng, kết quả yêu cầu là Tống Vân Nhi làm thiếp thân bảo tiêu cho hắn, cùng hắn đi nhậm chức quan.

Dương Thu Trì rất lo là Tống đồng tri sẽ không đáp ứng, không ngờ lão thống khoái ừ ngay, hơn nữa lại còn rất cao hứng. Dù Dương Thu Trì hết sức vui mừng, nhưng có điểm không hiểu lão hồ ly này đang tính trò gì vậy.

Nếu như Tống đồng tri đã đáp ứng, thì mẹ Tống Vân Nhi đương nhiên không tiện cự tuyệt, hơn nữa, Hàn thị tuy nhiên không muốn rời xa con gái, nhưng biết Dương Thu Trì đối với Tống gia có tính trọng yếu như thế nào.

Chớp mắt đã tới ngày 23 tháng chạp, tức là ngày táo quân bồ tát lên trời báo cáo mọi chuyện, và giấy nhiệm mệnh từ Lại bộ đã đến. Dương Thu Trì lầnnày được bổ nhiệm ở Thanh Khê huyện Hồ Quảng trấn Viễn Châu làm quan tri huyện thuộc hàng thất phẩm.

Dương Thu Trì nhìn tờ bổ nhiệm cảm thấy rất buồn lòng, vì Bạch Tố Mai bị đày ở Vân Nam, còn hắn thì phải đến Hồ Quảng làm quan, không ở cùng một nơi thì làm sao mà chiếu cố.

Tờ bổ nhiệm Dương Thu Trì này là thông qua tri phủ để truyền tới, do đó Tống đồng tri đã biết nội dung của nó, liền mang theo Tống Vân Nhi đến Dương phủ chúc mừng.

Dương Thu Trì được bổ nhiệm làm quan ở Hồ Quảng trấn, Viễn châu, chính là thuộc vùng núi ở tỉnh Quý châu ngày nay. Quý châu tới nam Vĩnh Lạc thứ 11 (tức năm 1413) mới lập tỉnh. Trước lúc này đại giới của Quý châu phân cho Vân Nam, Tứ Xuyên, Hồ Quảng. Trong đó Trấn Viễn châu thuộc Hồ Quảng.

Tống đồng tri làm quan nhiều năm, đương nhiên biết chỗ mà Dương Thu Trì đạt được đương nhiên chẳng ngon lành gì. Trấn Viễn châu này chính là chỗ khỉ ho cò gái ở Minh triều, núi cao vực sâu, dân tình bưu hãn. Thanh Khê huyện là một huyện nằm phía sâu trong trấn Viễn châu, đương nhiên càng khổ hơn.

Tống đồng tri cho Dương Thu Trì biết địa phương mà hắnd được phái tới làm quan chẳng những chẳng có mấy béo bở, mà còn ảnh hưởng đến đường hoạn lộ trong tương lai, bảo Dương Thu Trì bỏ ít tiền đi tìm người trong Lại bộ đổi chỗ khác.

Dương Thu Trì biết chuyện này đều đã dựa vào việc điều tra kỹ Kiến Văn dư đảng mà xác định được, tuyệt không thể đổi chỗ nào khác cả. Địa phương này núi cao rừng thẫm, là chỗ đất cùng hẽm cụt, nếu như vậy thì đúng với chỗ ẩn tàng của các nhân vật trọng yếu của Kiến Văn dư đảng, thậm chí còn có thể có cả bản thân Kiến Văn đế. Chứ nếu như Kiến Văn đế chạy đến Dương Châu thành ẩn náo thì chỉ cần một khắc là bị nhận ra ngay.

Hơn nữa bản thân hắn là một giám sinh đóng tiền mới được vào học, cử nhân đậu vào hàng "nhị bách ngũ", có thể trực tiếp làm thất phẩm tri huyện là đã vượt ngoài ý liệu của mọi người rồi. Tuy làm quan ở chỗ khá "bèo", nhưng xét cho cùng thì phù hợp với thường quy. Nếu như ở chỗ nào khác tốt hơn, biết đâu sẽ dễ dẫn đến sự chú ý của người.

Thời gian gần đây Tống Vân Nhi nhất mực bám quấn quít theo Dương Thu Trì, đương nhiên biết nguyên nhân không vui của Dương Thu Trì không phải vì bị điều đến địa phương nghèo khó, mà là do hắn lo cho chuyện của Bạch Tố Mai, bèn hỏi cha nàng là Tống đồng tri xem Thanh khê huyện trấn Viễn châu ở vùng Hồ Quảng cách Vân Nam bao xa. Tống đồng tri đáp là Hồ Quảng ở sát biên giới Vân Nam, chỉ cần đi một khoảng là tới.

Dương Thu Trì nghe thế vô cùng cao hứng, chỉ cần nhờ quan đề hình án sát sứ ở Vân Nam là Khang Hoài đem an trí mẹ con Bạch Tố Mai ở gần Hồ Quang thì coi như ở cạnh bên nhau rồi!

Hiện giờ hắn có thư dẫn kiến của phủ doãn Cố đại nhân ở Ứng Thiên phủ, đến lúc đó bỏ thêm ít tiền thì xem ra mọi chuyện đều ổn, trong lòng không khỏi thăng lên niềm hy vọng.

Dương mẫu cũng cao hứng phi thường, con trai làm quan rồi, tuy bị điều đến tận Tây nam, nhưng cũng gọi là xuất nhân đầu địa, quang tông diệu tổ. Dương lão thái gia là trưởng bối của Dương Thu trì, do đó, khi mọi người tiến vào thôn xong, hắn liền xuống ngựa tiến đến đại viện của Dương gia.

Bàng quản gia đã biết Dương Thu Trì bị mất ký ức, ưừ ánh mắt mê man của hắn cũng phát hiện hắn không nhận ra Dương lão thái gia, vội vã khom người giới thiệu cho Dương Thu Trì: "Lão nhân mặc trường bào bằng hồng cẩm đó chính là Dương lão thái gia của chúng ta."

Dương Thu Trì nhìn về phía đám người đó, quả nhiên thấy ở giữa có một lão giả mặc hồng cẩm trường bào, đầu tóc bạc phơ, râu cũng bạc, xem ra tuổi tác có phần lớn hơn Tống đồng tri.

Dương Thu Trì bước lên chỉnh lý y phục định quỳ lạy. Dương lão thái gia vội vã đỡ lên: "Hiền điệt, cháu hiện giờ là tri huyện đại lão gia rồi, sao lại hành đại lễ này được, định giết bá phụ ta sao! Ha ha ha."

Dương Thu Trì đương nhiên không phải muốn quỳ lại thật, bụng và lưng chỉ hơi uốn cong tí thôi, nghe nói vậy liền đứng thẳng lên ngay.

Dương Thu Trì dẫn kiến Tống đồng tri cho Dương lão thái gia. Dương lão thái gia quả nhiên vui mừng khôn xiết. Lão không ngờ Tống đồng tri của Ninh quốc phủ cũng cùng theo Dương Thu Trì mà đến, thật là niềm vui bất ngời, lại biết hai người là cử nhân đồng niên đồng bảng, Tống đồng tri còn thông qua mối quan hệ này mà nhận thân với Dương Thu Trì, liền tuyên xưng đó là duyên phận.

Dương lão thái gia đưa mọi người vào Dương gia đại viện, phân chủ khách mời ngồi.

Dương Thu Trì trước hết cho Nam Cung Hùng đưa lễ vật lên, đầy cả mấy rương, khi mở ra toàn là châu báu, lụa là gấm vóc, chói ngời lóe mắt.

Cả nhà lớn bé của Dương lão thái gia thấy Dương Thu Trì ra tay rộng rãi như vậy đều thập phần mừng rỡ, cho nên khoảng cách giữa họ gần gũi và nồng nhiệt lên mấy phần.

Cả phòng khách đầy người nhưng Dương Thu Trì chẳng nhận ra ai, trong khi đó những nam phụ lão ấu này đối với hắn ra vẻ vô cùng quen thuộc và nhiệt tình, tuy sự nhiệt tình đó có mấy phần khoa trương.

Thấy Dương Thu Trì ngơ ngẩn chẳng nhân ra ai, Dương lão thái gia có phần kỳ quái. Dương mẫu vội vã giải thích, nói con trai đã từng bị gió lạ cuốn đi, trở về đã quên hết mọi chuyện lúc trước.

Dương lão thái gia lúc này mội ngộ ra, luôn miệng nói đại nạn không chết tất có hậu phúc, hiện giờ Dương Thu Trì trúng cử làm quan, chính là phúc khí sau trận đại nạn này, mọi người đều cả cười gật đầu khen phải.

Nếu như Dương Thu Trì đã mất ký ức, thì Dương lão thái gia đành nhất nhất giới thiệu mọi người cho hắn làm lễ ra mắt.

Trước hết là nguyên phối Phan thị của Dương lão thái gia. Đấy là một lão phụ nhân đầu tóc bạc phơ, thân hình mập mạp phát phúc, trên mặt có tô một lớn phấn trơn giống như có bôi một lớp mỡ heo vậy. Dương Thu Trì chấp tay thi lễ, Phạn thị cũng biết quy củ, hiểu Dương Thu Trì hiện giờ là huyện thái lão gia, chẳng phải là tên lưu mạnh trong thôn lúc trước, cho nên bà dù là trưởng bối, cũng phải xưng một câu vạn phúc hoàn lễ.

Tiếp theo đó là con trai Dương Thanh Thủy của Phan thị cùng con dâu Chu thị ôm con gái năm tuổi Thảo nhi lên làm lễ ra mắt.

Dương Thanh Thủy lớn hơn Dương Thu Trì vài tuổi, là đường huynh của hắn. Dương Thanh Thủy mặc một trường bào, người giống như tên, thân người cao ốm, ra vẻ văn nhã vô cùng.

Dương lão thái gia giới thiệu là từ khi bà ba Quách thị treo cổ tự tử cho đến nay, Dương Thanh Thủy cũng li khai Dương gia thôn đi du học, cho đến mấy ngày trước mới đặc biệt trở về tế tổ.

Vợ của Dương Thanh Thủy tên Chu thị là một thiếu nữ văn nhã, sinh được con gái đã năm tuổi tên là Thải nhi. Do chưa sinh con trai, Dương lão thái gia nguyên thúc giục Dương Thanh Thủy nạp thiếp, nhưng y ra ngoài du học mãi không về nhà, nên chuyện này đành gác lại.

Bà hai Trương thị bước ra làm lễ kiến diện. Bà ta là tiểu thiếp đầu tiên của Dương lão thái gia, thân hình vẫn còn không tệ, tuy đã bốn mươi nhưng điểm trang vẫn còn mặn mà, áo quần màu xanh có đính thêm một thắt lưng hoa bằng lụa hồng, mặt tô một lớp phấ dày, khi ra mắt mỉm cười như tiểu cô nương vậy, chỉ có điều phấn trên mặt rơi xuống lã chã.

Dương Thu Trì than thầm, tuy chất lượng yên chi thủy phấn của Minh triều không mấy tốt, nhưng bà hai này trát hơi bị nhiều, chẳng hiểu có bị phản ứng gì không.

Bà hai sinh được một cô gái, đặt tên là Dương Ngải Tiểu, nam nay mười bảy tuổi, là đường muội của Dương Thu Trì, vẫn còn chưa xuất giá, cũng bước lên ra mắt Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì nghe Dương lão thái gia giới thiệu, không biết là do giọng nói của lão hay là do hắn nghe lầm, mà nghe từ Dương Ngải Tiểu rất giống với Dương Ái Tiếu (Chú: Chơi chữ, nghĩa là nhột thích cười).

Trong lúc cô gái này bước lên làm lễ với Dương Thu Trì, eo lưng uốn éo loạn cả lên, cái mông tròn lẳn cứ quay mòng mòng theo miêu bộ (catwalk), so với người mẫu còn ra dáng hơn. Chưa kịp nói gì, cô bé đã cười hi hí không ngừng, lúc cười lên rất giống mẹ cô, chỉ có điều không che miệng nên lộ ra hàm rằng xiên đông xiên tây chìa loạn ra như cá trê sứt mép, thậm chí còn có mấy cái răng đã biến thành màu vàng, nhìn không khỏi khiến người ta chua chua nơi cổ. Chỉ có điều, bản thân Ngải Tiểu tự cảm thấy như vậy là tuyệt vời lắm, mắt lúng liếng như điện.

Cuối cùng, bà mụ Lữ thị ẵm một cậu bé khoảng hai ba tuổi ra làm lễ.

Lữ thị tuổi khoảng ba mươi, tay to chân lớn, mới nhìn là biết thuộc loại thiếu phụ sơn thôn. Sau khi nghe Dương lão gia tử giới thiệu, Dương Thu Trì mới biết đứa bé mà Lữ thị ẵm trong nguời chính là đứa con để lại của bà ba Quách thị mới mất từ hai năm trước, tên là Sơn nhi.

Dương lão thái gia giới thiệu hết người trong nhà, lại chuyển sang giới thiệu những trưởng bối có công danh trong thôn.

Sau khi dẫn kiến hoàn tất, Dương lão thái gia trịnh trọng xin lỗi về chuyện trước đây không cho Dương Thu Trì tiến vào nhà từ đường tế tổ, nói hiện giờ hắn đã trúng cử nhân làm quan, lại nạp xong tiểu thiếp, tuy còn chưa sanh con nhưng đã vượt qua những quy định trong tộc như lúc đầu.

Tộc trưởng xin lỗi, Dương mẫu sao dám nhận. Hơn nữa, lúc trước đích xác con bà không ra gì, không có người kế thừa hương hỏa, sao có thể trách tộc trưởng không cho tiến vào từ đường.

Mọi chuyện một khi đã thông, mọi người đều nói cười vui vẻ trở lại.

Dương lão thái gia đêm đó bày yến tiệc tẩy trần Dương Thu Trì và mọi người. Các vị hương thân trong tộc đều đến kính rượu Dương Thu TRì, hắn không từ chối một ai, do đó uống có hơi chếnh choáng.

Trên tiệc rượu khi bàn đến chuyện nạp thiếp, Dương lão thái gia biết Dương Thu Trì nạp liền hai tiểu thiếp rồi bị một nữ nhân thần bí bắt đi, cảm thấy kỳ quái vô cùng. Lão kiến nghị Dương Thu Trì lần sau có nạp thiếp thì hãy đến trốn ở Dương gia thôn, sanh con xong rồi hẳn hay.

Chủ ý này xem ra khá cao minh, Dương Thu Trì ngầm than, nếu không cương được với ả kia thì đành nhu thôi, trốn là thượng sách! Thần bí nữ nhân hết bắt tiểu thiếp này đến tiểu thiếp khác, nếu như vậy có nạp mấy chục cô cũng vô dụng. Nếu thực tế không xong, chỉ còn biết trốn sinh con trước cái đã! Thiên hạ rộng lớn như vậy, tùy tiện trốn chỗ nào đó, bà già kia sao mà tìm được. Có điều như vậy thật là vướng tay vướng chân quá đi mất!

Tiệc rượu tàn, trời đã khuya. Dương lão thái gia tự thân an bày Dương Thu TRì và mọi người nghỉ ở nội trạch.

Dương gia đại viện chia làm hai phần nội và ngoại, dùng một bức tường cao hơn trượng ngăn lại, chỉ có một cửa lớn tiến vào, gần với lối kiến trúc của nha môn chia ra nội và ngoại nha vậy.

Nhà phía ngoài dành cho người hầu, gia đinh cư trú. Nội trạch dành cho Dương lão gia tử và những người trong gia đình cùng các nha hoàn hầu cận ở. Nội trạch có rất nhiều nhà vườn nhỏ, mỗi vị phu nhân, vợ lẽ, thiếu gia và tiểu thư đều có tiểu viện độc lập của mình.

Phòng dành cho khách của Dương gia đại viện cũng phân làm nội và ngoại, quý khách được an bày ở trong nội trạch.

Dương Thu Trì và mọi người nghỉ trong phòng dành cho quý khách ở một tiểu viện đơn độc có hai tầng lầu.

Sau khi ban bài thỏa đương, mọi người đến phòng khách ở lầu hai ngồi nói chuyện phiếm.

Dương lão thái gia thấy Dương Thu Trì và Tống đồng tri cùng mọi người có hơi say, nên phân phù Bàng quản gia đi thông tri cho nha hoàn nấu cháo đậu xanh để mọi người ăn giải rượu.

Dương Thu Trì và mọi người uống vào mỗi người một chén chè đậu xanh đường mật, quả nhiên tỉnh hẳn lên.

Ngồi nói chuyện một hồi, Tống đồng tri cùng mọi người cáo từ trở về phòng ngủ. Dương lão thái gia nói có chuyện muốn nói với Dương Thu Trì. Dương Thu Trì tuy có hơi say, nhưng vẫn ráng lấy tinh thần cùng lão đi ra hành lang.

Từ hành lang nhìn ra ngoài, ở xa có một tòa lầu nhỏ, dưới ánh trăng lạnh xuyên qua tầng mây nhìn mờ ảo phập phù trong gió tựa như một tòa quỷ lầu âm sâm.

Trời đêm ở xóm núi vô cùng tịch mịch. Dương lão thái gia nhìn về phía tòa lầu đó, thở dài sườn sượt, một lúc lâu sao mới cất tiếng nói với Dương Thu Trì: "Hiền điệt, vợ ba của ta, cũng chính là dì ba của cháu, đã sanh cho ta một đứa con trai, ai...!"

Dương lão thái gia lại thở dài một hơi, lúc sau mới nói tiếp: "Cháu có thể đã nghe rồi đó, Dì Quách của cháu trước khi chết đã từng bị nổi điên. Ta sợ chính là điều này, ta không biết trước đây nàng ta có bị như vậy không khi không có ta, nếu là như thế, vậy thì đứa bé này.... ai...!"

Dương Thu Trì đã thoáng đoán được ý nghĩ của Dương lão thái gia, nhưng không lên tiếng, tiếp tục nghe lão nói tiếp. Dương lão thái gia quay lại nhìn Dương Thu Trì, chòm râu bạc hơi rung rinh, tiếp tục nói: "Do đó ta cứ mãi hoài nghi đứa bé này không phải con ruột của ta. Nghe nói cháu là cao thủ phá án, đã phá nhiều đại án đến nổi truyền khắp Quảng Đức huyện, ai ai đều xem cháu như thần tiên. Ta vẫn luôn muốn thỉnh cháu về giúp bá phụ, nhưng mãi vẫn chưa có cơ hội, cuối cùng giờ mới thỉnh được cháu đến."

Dương Thu Trì khom người thi lễ: "Bá phụ quá tưởng rồi, Thu Trì nào dám đương. Nếu như có điều gì Thu Trì có thể giúp được, bá phụ cứ mở lời, Thu Trì nguyện làm tận tâm kiệt lực."

Dương lão thái gia gật gật đầu, chần chờ một chút, cuối cùng lên tiếng: "Bá phụ chính là muốn, muốn thỉnh hiền điệt cháu giúp, giúp ta tra xem hài tử này rốt cuộc có phải là con của ta hay không!"

"Quả nhiên không ngoài ý liệu," Dương Thu Trì thầm nghĩ, "thì ra Dương lão thái gia này thỉnh mình về Dương gia thôn không chỉ đơn thuần để chúc mừng mình trúng cử nhân quang tông diệu tổ, cấp thêm cho lão tiếng thơm lây, mà còn vì chính bản thân lão, muốn điều tra xem đứa nhỏ đó có phải là con ruột của lão không."

Đối với hắn, giám định không phải là chuyện khó, chỉ có điều nó cần máy giám định DNA ở trên tạp xa kia, ngoài ra còn cần phải có đủ nguồn điện.

Nhưng giờ mọi thứ cần đó đều không có, như thế thì hơi khó đây! Hắn hiện giờ chỉ có thể tiến hành giám định nhóm máu, hơn nữa các dụng cụ giám định và thuốc thử đều để ở Ninh Quốc phủ, cần ngay không thể được.

Trong giám định thân nhân, các biện pháp xác định nhóm máu chỉ có thể dùng để bài trừ mối quan hệ thân thuộc, ví dụ như, nếu cha có nhóm máu A, mẹ có nhóm máu AB, thì con cái không thể nào có nhóm máu O được, nếu đứa trẻ có nhóm máu O, thì nó tuyệt đối không phải là con của hai người họ. Như vậy có thể nói, dựa nhóm máu có thể xác định cậu bé đó không phải là con của hai người, nhưng không thể khẳng định đứa bé đó là con ruột của họ hay không (*).

Nhưng mà, nếu như có thể bài trừ mối quan hệ thân thuộc giựa chú bé Sơn nhi và Dương lão gia tử, thì coi như hắn đã đạt được mục đích rồi.

Dương Thu Trì gật đầu đáp: "Tiểu điệt nhất định tận lực." Nghĩ một chút, hắn tiếp: "Để tra rõ vấn đề này, tiểu điệt cần một chút máu của bá phụ, Sơn nhi tiểu đường đệ, ngoài ra còn chút huyết của dì Quách."

Nói đến đây, Dương Thu Trì lập tức nghĩ đến việc Quách di nương đã chết hai năm rồi, còn đâu mà "xin tí huyết" bây giờ?

Dương lão thái gia tuy không biết chuyện giám định nhóm máu của thời hiện đại, hưng ở cổ đại có tục "nhỏ máu nhận thân", vì thế khi Dương Thu Trì đề xuất lấy huyết của ba người, lão cho rằng nó hợp tình lý, đáp: "Ta và tiểu đường đệ của cháu thì không vấn đề gì, chỉ độc có máu của Quách di nương thì khó, vì nàng ấy đã chết rồi, còn đâu nữa mà lấy?"

Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, dè dặt nói: "Nếu không có máu thì có thể ... khai quan nghiệm thi, lấy một ít tóc của Quách di nương hoặc là chút da gì đó cũng được." Tuy Quách di nương đã chết hai năm, rất có khả năng đã hóa thành bạch cốt, nhưng từ xương hoặc lông tóc có thể tra ra nhóm máu, chứ không cần phải có máu tươi.

"Khai quan kiểm nghiệm?" Dương lão thái gia nhíu mày, đây là một chuyện rất kỵ húy, nhưng dù sao thì chuyện Sơn nhi có phải là con của lão hay không trọng yếu hơn nhiều. Nếu như đứa bé không phải là con của lão, lão đã từng đội mũ xanh (bị cho cắm sừng), lại còn nuôi con không cho người khác, thì sự sỉ nhục này Dương lão thái gia quyết không thể chịu được.

Dương lão thái gia hỏi Dương Thu Trì: "KHai quan kiểm nghiệm có thể tra rõ được không?"

Không có DNA để xác định chính xác thì làm sao dám đảm bảo? Dương Thu Trì chỉ dám nói: "Có hy vọng, dù không dám nói nhất định sẽ tra ra cho rõ, nhưng tiểu điệt sẽ tận hết năng lực."

"Có hy vọng thì tốt rồi!" Dương lão thái gia gật đầu, hạ quyết tâm, "Sáng ngày mai chúng ta đi khai quan kiểm nghiệm vậy."

Dương Thu Trì gật đầu đồng ý, hai người lại nói chuyện phiếm một hồi, trời vào khuya, ánh trang đã khuất sau tầng mây, ngôi lầu nhỏ xa xa tối hẳn lại, dưới bóng núi đen sì không phân ra được đâu là núi, đâu là lầu.

Đến lúc này Dương Thu Trì mới phát hiện căn lầu đó không hề có đèn, chìm ngập trong bóng tối dày đặc, cảm thấy rất kỳ quái, hỏi: "Bá phụ, căn lầu đó không có ai ở hay sao? Sao lại tối thui như thế?"

Dương lão thái gia nhướn mắt nhìn về phía ngôi lầu, đáp: "Quách di nương của cháu chính ngụ trong lầu đó, và cũng treo cổ ở cột nhà trên đó. Từ đó về sau không ai ngụ ở đó nữa. Ta nhất mực muốn phá bỏ nó đi, nhưng không nhẫn tâm, nên cứ để thế."

Dương Thu Trì lập tức nhớ đến lời Dương mẫu nói, chẳng lẽ đây là ngôi lầu thường hiệnquỷ hay sao? Dương Thu Trì không tin vào quỷ thần, cũng không quan tâm đến điều đó nhiều, chỉ tùy tiện hỏi: "Bá phụ, tiểu điệt nghe nói ngôi lầu đó thường có quỷ, phải không?"

Thông qua ánh đèn truyền từ nhà phía sau, Dương Thu Trì rõ ràng cảm giác được sắc mặt của Dương lão thái gia tái nhợt, hai con mắt đầy vẻ sợ hãi tránh tòa lầu đó, ấp úng nói: "Muộn quá rồi, cháu ngủ đi, ta cũng đi đây."

Không chờ Dương Thu Trì phản ứng, Dương lão thái gia đã vội xoay người đi xuống lầu, dường như sợ Dương Thu Trì sẽ tiếp tục hỏi thêm điều gì nữa vậy.

Đêm đã về khuya, Dương Thu Trì cũng buồn ngủ, bước vào phòng đóng cửa lại. Phùng Tiểu Tuyết giúp Dương Thu Trì rửa chân, hai người cởi đồ lên giường ôm nhau ngủ.

Không biết bao lâu, Dương Thu Trì chợt giật mình tỉnh giấc, miệng khát cháy cả cổ họng. Nếu mà ở nhà, thì hắn đã gọi nha hoàn Tiểu Điệp của Phùng Tiểu Tuyết rót trà bưng lên. Nhưng đây là phòng dành cho khách ở Dương gia đại viện, lại chỉ có một gian, do đó Tiểu Điệp và ba nha hoàn khác đều không thể ở cùng, được an bày ngủ ở phòng kế bên.

Không còn cách nào khác, Dương Thu Trì chỉ còn biết tự xuống giường quờ quạng đến bên bàn dốc bình trà lên tu ừng ực một hơi hết cả nửa bình.

Dương Thu Trì chuyển thân định quay về giường ngủ tiếp, đột nhiên ấn ước nghe phía ngoài có tiếng nữ nhân khóc, liền nghĩ ngay đến căn lầu nháo quỷ đó, cơn buồn ngủ liền bay mất.

Tiếng khóc từ hướng căn lầu truyền lại, Dương Thu Trì dỏng tai lên nghe kỹ, tiếng khóc này thút thít nghẹn ngào, lúc có lúc không, không thể nào xác định cho rõ, nhưng tuyệt không phải là ảo giác. Chẳng lẽ bản thân hắn đang nằm mộng? Dương Thu Trì tự nhéo tay, rất đau, không phải mộng!

Hắn là pháp y, từ xưa tới giờ không tin có quỷ thần, nhưng mà trong đêm khuya canh vắng như thế này mà ở căn lầu có quỷ kia chợt truyền đến tiếng khóc của nữ nhân, ít nhiều cảm thấy sởn gai ốc, vừa cảm thấy hiếu kỳ.

Hắn không gọi Phùng Tiểu Tuyết dậy, sợ nàng nghe xong sẽ sợ hãi, len lén đến bên cửa sổ, rút chốt, khe khẽ mở một khe nhỏ rồi nhìn ra ngoài.

Vầng trăng không biết đã chui khỏi tầng mây từ hi nào, vẫn lạnh lùng chiều lên các mái ngói đỏ tường hồng, tạo nên màu sắc giống như vô số thi thể mà hắn đã từng giải phẩu, nhợt nhạt, ỷ ôi.

Tiếng khóc rõ ràng là truyền từ căn lầu đó lại, tuy không lớn nhưng rất rõ ràng, lúc mất lúc có.

Căn lầu đó chẳng phải đã khóa chặt, không có ai ở qua từ khi Tam di thái Quách thị treo cổ tự vẫn rồi hay sao? Như vậy, người khóc lóc trong căn lầu tối đó là ai? Chẳng lẽ là ma quỷ thật?

Dương Thu Trì không tin vào quỷ, do đó hắn mở mở cửa bước ra ngoài hành lang, tay nắm chặt lan can chong mắt nhìn về phía lầu.

Tiếng khóc đó đã dừng, chỉ còn ánh trăng vời vợi.

Dương Thu Trì chờ một lúc, nữ nhân đang khóc dường như biết Dương Thu Trì chú ý, nên đã dừng hẳn tiếng khóc.

Thấy không có động tĩnh, Dương Thu Trì xoay người định quay về phòng, không ngờ tiếng khóc đó lại vang lên, rất thê lương, chẳng ai giúp, chẳng biết vì sao Dương Thu Trì cảm thấy tiếng khóc này càng lúc càng quen thuộc.

Đột nhiên, trái tim của hắn giống như bị một cái búa tạ đập mạnh, toàn thân sững sờ, bỡi vì hắn phát hiện tiếng khóc này rất giống búp bê bùn Tống Tình!

Dương Thu Trì lại chồm tới lan can, định kêu, nhưng tiếng khóc đã dừng lại. Hắn không dám xác định phán đoán của mình, búp bê bùn Tống Tình sao lại đến nhà của Dương lão thái gia? Chẳng lẽ Dương lão thái gia phái nữ tặc đó đến cướp búp bê bùn?

Không đúng, nữ tặc ấy chẳng phải là người mà một địa chủ như Dương lão thái gia có thể chỉ huy hay sử dụng. Chẳng lẽ nữ tặc tha cho Tống Tình, rồi Dương lão thái gia đột nhiên gặp Tống Tình, đưa nàng về nhốt trong Dương gia đại viện, lại nói dối với mình là trong lầu đó có quỷ?

Không thể trả lời cho thông được! Nếu là như thế, Dương lão thái gia nhất định sẽ không nhốt Tống Tình trong căn lầu đối diện với hắn, cái lão có chính là nhiều đất!

Đầu óc của Dương Thu Trì chuyển biến rất nhanh, nếu như người đang khóc trên lầu kia chính là Búp bê bùn Tống Tình, như vậy có thể là hiểu lầm gì đó, nếu không trong chuyện này nhất định có một âm mưu động trời!

Tuy hiện tại hắn không dám khẳng định cô gái khóc lóc kia là tiểu thiếp búp bê bùn Tống Tình của hắn, nhưng nếu như đã phát hiện tung tích của búp bê bùn, cho dù chỉ một chút đầu dây mối nhợ, Dương Thu Trì cũng tuyệt không thể bỏ qua.

Do đó, hắn quyết định đi xem coi rốt cuộc đó là ai. Do cô gái ấy rất có thể là Tống Tình, lại liên quan đến trưởng bối của hắn - Dương gia thôn tộc trưởng, hơn nữa lại không rõ chân tướng của câu chuyện, nên trước khi làm rõ có phải là Dương lão thái gia giam giữ Tống Tình ở căn lầu đó hay không, và với mục đích gì, Dương Thu Trì không muốn làm lớn chuyện. Do đó, hắn quyết định không gọi người khác, thậm chí không gọi cả Tống Vân Nhi và đội trưởng đội hộ vệ Nam Cung Hùng.

Dù gì thì cây súng ngắn vẫn nhất mực đeo ở bắp chân hắn. Thứ đồ chơi này có thể nói là cao thủ của cao thủ, đủ để bảo hộ cho sự an toàn của hắn rồi. Hơn nữa đây là Dương gia đại viện, không có người ngoài, cửa nội trạch đã đóng, ngay cả gia đinh cũng không vào trong được, hơn nữa hắn không phát hiện Dương lão gia tử và người nhà lão có gì ác ý với bản thân hắn.

Dương Thu Trì nhanh chóng xuống lầu, đến cửa viện, thật kỳ là là cửa của viện này lại mở hé ra.

Dương lão gia tử chẳng phải nói là cửa vườn vào căn lầu này luôn khóa hay sao? Chẳng lẽ vừa có người tiến vào trong?

Dương Thu Trì cẩn thận quan sát cửa lớn, tuy có ánh trăng nhưng hôn ám phi thường, căn bản chẳng thấy gì cả.

Đành lấy cẩn thận làm đầu vậy! Dương Thu Trì rùn người xuống, nhìn phải nhìn trái thấy không có độn tĩnh gì, bèn rút súng ngắn ra lên đạn, gạt chốt bảo hiểm sẵn. Có như thế trong tình huống khẩn cấp, hắn có thể bắn được ngay.

Dương Thu Trì đút súng vào bao, thẳng lưng đẩy cửa vườn bước vào trong.

Trong vườn cỏ mọc đầy, cỏ xanh cây thắm còn đọng lại tuyết trắng chưa tan hết.

Mượn ánh trăng, hắn từ từ tiến vào vườn, bước lên bậc thang.

Các phòng trên lầu đều có xích sắt khóa lại. Dương Thu Trì cầm khóa sắt lên xem, thấy đã bị khóa chặt bèn bỏ xuống, áp tai vào cửa nghe ngóng, bên trong chẳng có âm thanh gì.

Chính vào lúc này, tiếng khóc lại cất lên, lại còn rên rên rỉ rỉ như có như không. Âm thanh này truyền xuống từ trên lầu.

Đang lúc Dương Thu Trì muốn cẩn thận nhận ra xem tiếng khóc đó có phải là của Búp bê bùn Tống Tình hay không, thì nó vụt biến mất.

Dương Thu Trì bước lên thang lần lên lầu. Tiếng kót két vang lên điết tai trong trời đêm tĩnh lặng.

Đến tầng 2, hắn thấy lầu này rất giống lầu hắn ở, có một hành lang dài, ngoài ra còn có một hàng khung cửa sổ. Hắn vừa nhìn dãy cửa sổ này, vừa thẳng tiến dọc theo hành lang.

Giấy dầu trên cửa sổ đã hư nát, Dương Thu Trì mượn một lổ trống trên đó nhìn vào trong phòng, thấp thoáng thấy giường, bàn ghế và đồ đạc, chỉ có điều tối om không nhìn sao cho rõ được.

Hắn bước lên trước vài bước, thấy có một cửa không hề khóa, vừa bất ngờ vừa cao hứng, khe khẽ đẩy vào, cửa phòng kêu két một tiếng mở ra. Âm thanh này rất khô khóc nghe buốt tận cả răng, nhưng cũng từ đó Dương Thu Trì phán đoán cửa này đã lâu chưa có ai mở.

Căn phòng khá rộng, nhưng tối om không thấy gì. Dương Thu Trì đứng ở cửa gọi: "Búp bê bùn....!' Dừng lại một chút, hắn lại gọi tiếp: "Tình Tình...!"

Âm thanh vang vọng trong căn phòng tối, không có tiếng trả lời.

Chẳng lẽ hắn nghe lầm? Dương Thu Trì không gấp tiến vào phòng, tiếp tục dọc theo hành lang mà tiến, lát sau đã đến tận đầu, không phát hiện được cửa phòng nào nữa.

Cả lầu hai này chỉ có một cửa!

Một luồng gió lạnh từ trong thổi ra, Dương Thu Trì hơi kinh dị, trong phòng làm gì có gió? Luồng gió ấy giống như có người núp từ trong đó thổi thốc về phía hắn vậy.

Dương Thu Trì cảm thấy sau lưng ớn lạnh, chợt quay ngoắt lại, các lớp giấy dầu trên cửa sổ cũ nát quả nhiên hơi rung rinh như thật có gió từ trong thổi ra vậy!

"Ai...!" Dương Thu Trì quát lên một tiếng.

Luồng gió ấy đột nhiên ngừng hẳn lại.

Trong phòng có người!

"Ai....! Bước ra đi! Đừng giả thần giả quỷ nữa!" Dương Thu Trì lớn tiếng hô.

Không ai trả lời, nhưng lại nghe được tràng cười khe khẽ, dường như là của một tiểu cô nương tinh nghịch đang đắc ý làm trò. Tiếng cười này rõ ràng là phát ra từ sau cửa sổ.

"Tình Tình, là nàng phải không?" Dương Thu Trì lấy hai tay chụp lên cửa sổ, cất tiếng hỏi.

Tiếng cười vẫn rất rõ, vẫn ở sau cửa sổ.

Dương Thu Trì đột nhiên xé bỏ lớp giấy dầu trên cửa sổ, roẹt một cái, một khoảng trống lớn đã lộ ra.

Mượn ánh trăng mờ ảo, quả nhiên hắn nhìn thấy có một nữ nhân đứng trong phòng đang nhìn hắn cười, tuy nhiên lại không quen.

Nữ nhân này tuổi rất nhỏ, đôi mắt rất to, nụ cười rất ngọt ngào.

Chẳng lẽ nữ quyến nào đó của Dương lão thái gia ban đêm chạy vào đây? Chẳng thể đường đột, Dương Thu Trì nhanh chóng khom người làm lễ: "Xin lỗi, ta nghe trên lầu có người, nên lên đây xem thử..."

Vừa nói đến đây, Dương Thu Trì đột nhiên cảm thấy không đúng. Dương lão thái gia nói ngôi tiểu lâu này không có ai ở từ khi tiểu thiếp đó treo cổ chất, hiện giờ ở đâu ra nữ nhân này?

Dương Thu Trì đột nhiên ngẩng đầu nhìn, nữ nhân kia không còn thấy đâu nữa!

Điều này suýt khiến hắn giật nảy người, thật đúng là gặp quỷ rồi!

Chẳng lẽ hắn đang gặp mộng? Dương Thu Trì nhéo mạnh vào tay, cảm giác thật đau, xác định không phải là mộng!

Vậy cô gái kia trốn rồi sao? Vào trong coi sao.

Dương Thu Trì xoay người định đi vào trong, nhưng chợt đứng sửng lại, bởi vì hắn thấy có một bóng trắng đứng ở cửa, à không, nói đúng ra là bay ra cửa, bỡi vì cô ta không có chân, dưới quần trống hươ trống hoắc, cả người cách sàn nhà hơn xích, bay là là trên không.

Nữ tử đó đang nhìn hắn cười khì khì.

Dương Thu Trì sợ đến nỗi lùi lại hai bước, vừa lùi vừa kêu lên một tiếng cả kinh. Hán cúi người định rút súng, nhưng chợt nhớ ra đối với quỷ thì dù có dùng súng cũng bắn không chết! Chỉ có thể dùng pháp thuật, nhưng pháp thuật hắn có thể lấy ở đâu ra?

Đột nhiên hắn nhớ đến lúc nhỏ, mỗi khi mẹ kể chuyện về quỷ, có nói đi ban đêm khi đi đường gặp vật gì kỳ quái, cứ niệm câu "Nam mô cứu khổ cứu nạn bạch y quan thế âm bồ tát", tay bắt ấn giơ ra, quỷ sẽ biến mất không còn tung tích nữa.

Chuyển về quỷ sao có thể coi là thật được, nhưng mà hiện giờ thà tin là có còn hơn là không, vì Dương Thu Trì không nghĩ ra được biện pháp đối phó nào hay.

Dương Thu Trì nhắm mắt lại, niệm thần chú, tay bắt pháp ấn quát lên một tiếng đưa ra.

Tiếng cười đột nhiên dừng hẳn!

Dương Thu Trì mở mắt ra, nữ tử kia đã biến mất. Hiệu nghiệm! Xem ra hiệu nghiệm thật! Dương Thu Trì trước giờ không tin quỷ tin thần, hiện giờ bắt đầu có phần bán tín bán nghi.

Có cái hộ thân phù đó, gan của Dương Thu Trì bắt đầu phình to, tay bắt pháp ấn, mượn ánh trăng mờ ảo bước lại mở cửa tiến vào phòng.

Căn phòng lớn này quả nhiên là phòng khách, hai bên có hai cánh cửa đều khép hờ, trên cửa có treo hai cái màn màu trắng.

Dương Thu Trì bước đến trước gian phòng lúc nãy có nghe tiếng nữ nhân khóc lóc đó, tay phải bắt pháp ấn, tay trái vén màn chong mắt nhìn vào trong. Dương Thu Trì bước đến trước gian phòng lúc nãy có nghe tiếng nữ nhân khóc lóc đó, tay phải bắt pháp ấn, tay trái vén màn chong mắt nhìn vào trong.

Bên trong không người, mượn ánh sáng từ cửa sổ bị xé rách, Dương Thu Trì từ từ tiến vào trong.

Đây là một phòng ngủ, bên cạnh cửa sổ là bàn trang điểm có để một đồng kính phản xạ ánh sáng xanh lạnh.

Bên cạnh đó dường như có một xích đủ đặt sát một trà kỷ nhỏ.

Sát góc phòng có một giường lớn, đây là một giường gỗ theo kiểu cổ, trên có điêu khắc hoa văn. Màn được để rũ thấp, che rất kín. Cạnh giường để một cái nôi đưa em nhỏ, trên đó có trải một tấm vải bố màu đem.

Trong nội tâm Dương Thu Trì đột nhiên dậy lên một ý nghĩ, cái nôi này nhất định đang có một đứa bé đặt trong đó, hắn muốn nhìn thấy mặt đứa bé, hắn muốn đến xem.

Từ từ bước lại cạnh nôi, hắn đứa tay kéo một góc tấm bố lên, rồi chợt giật mạnh.

Vụt một cái, một bóng đen phóng ra ngoài, khiến Dương Thu Trì giật mình một tiếng kêu lên hoảng hốt tránh né.

Bóng đen đó dừng lại dưới đất, rồi từ từ di chuyển mà chẳng có âm thanh nào phát ra. Sau đó, nó nhảy lên bàn trang điểm, đứng đó kêu "ngao...!" một tiếng dài, thì ra là một con mèo mun!

Dương Thu Trì thở dài nhẹ nhõm, đột nhiên nhớ ra người xưa từng nói ở chỗ có tà ma thường thấy mèo, đặc biệt là mèo đen, vì quỷ hồn của người chết thường tụ hợp lại trên người của mèo!

Dương Thu Trì là pháp y, suốt ngày tiếp xúc với thi thể, thậm chí đã từng một mình trong nhà xác giải phẩu rất nhiều bộ phận cở thể người, bên cạnh bàn giải phẩu không biết để cơ man nào là nội tạng của thi thể đã trống rỗng, bền ngoài còn để vài xác chết chưa tẩm liệm.

Hắn sinh hoạt giữa "đống" người chết đó, cho nên hắn chưa hề biết sợ người chết, hắn nhìn người chết giống như nhìn hoa cỏ củ cà, cảm thấy vô cùng bình thường, thậm chí còn lấy làm kỳ vì sao người ta lại sợ người chết.

Nhưng hôm nay lại bất đồng, thứ hắn nhìn thấy không phải là thi thể, mà là một nữ nhân, là một nữ nhân trốn trong lầu quỷ khóc lóc, là một nữ nhân biết bay trong không trung, không có chân, và biết nhìn hắn cười!

Hơn nữa đây không phải là giấc mộng.

Do đó hắn thật sự cảm thấy sợ, thứ sợ này không phải đến từ người chết, mà đến từ sự tử vong.

Hắn nhìn con mèo trừng trừng, con mèo như một bức tượng, đứng bất động ở đó.

Dương Thu Trì quyết định không để ý đến nó nữa, chuyển thân nhìn cái giường gỗ điêu khắc bị màn che phủ, phảng phất như nhìn thấy bạch y nữ tử vừa rồi đang nằm trong đó, trên gối còn lòa xòa mấy lọn tóc.

Sự tình vừa rồi quả thật là quỷ dị, Dương Thu Trì quyết định tìm cho tới xem rốt cuộc là cái gì.

Miệng hắn lầm thầm niệm chú, tay phải bắt ấn, tay trái đưa ra vén màn kéo mạnh ra, pháp ấn đánh vụt tới...

Cái mà hắn mong đợi giống như trong phim ảnh vậy, đó là bóng tối chợt xuất hiện hỏa quang, trong đó có tiếng quỷ kêu thảm để rồi hóa thành tro bụi. Nhưng bên trong màn chẳng có tiếng động gì, tối đen nhìn không ra gì cả.

Dương Thu Trì thò đầu vào xem, trên giường không có quỷ hồn, cũng chẳng có nữ nhân, mà chỉ là một giường trống hoác, mền gối được xếp rất chỉnh tề, trên giường có một cặp gối cũng xếp ngay ngắn kề liền nhau như một đôi uyên ương vậy.

Đúng là gà mái mấp máy gà cồ, Dương Thu Trì thầm mắng và bỏ màn xuống, quay người bước ra ngoài, con mèo đen trên bàn trang điểm chợt kêu ngao một tiếng thật to, nhảy phốc xuống chạy vút ra ngoài cửa.

Dương Thu Trì đứng trong căn phòng tối đen âm sầm này, cứ cảm thấy sau lưng có một đôi mắt đang nhìn mình, khi quay đầu lại nhìn thì chẳng thấy gì cả.

Phía bên kia phòng khách còn một phòng khác nữa, Dương Thu Trì quyết định đi xem, nếu như không có gì thì quay về. Hắn không muốn nhìn bạch y nữ nhân bay là là ở không trung nhìn hắn cười lần nào nữa, không cần biết ả là quỷ hay là người.

Dương Thu Trì cúi đầu dò đường lần ra ngoài, ra cửa bước vào phòng khác.

Đột nhiên, hắn sửng người, cửa lớn kia không biết bị đóng từ khia nào. Ánh trăng soi qua các lổ hổng trên cửa sổ, lạnh lùng bày ra luồn ánh sáng trắng lốp đốp như vô số cặp mắt đang nhìn hắn.

Không chờ Dương Thu Trì hiểu rõ là ai đã đóng cửa, khóe mắt hắn chợt cảm thấy có điều gì đó không ổn, quay đầu lại nhìn, đột nhiên hai mắt hắn nhìn sửng vào rường nhà giữa phòng khách, lông tóc toàn thân đều dựng ngược cả lên: trên xà nhà kia đang có một người bị treo cổ, áo trắng quần trắng, đầu gục xuống, sắc mặt trắng nhợt, hai con mắt đang nhìn hắn cười khịt khịt!

Dương Thu Trì sợ hãi kêu thét lên một tiếng, chân loạng choạng lùi lại sau mấy bước, chợt trượt chân ngã xuống, hậu não đập mạnh vào vật gì khá cứng, tức thì ngất đi. "Phu quân...! Phu quân....!" Bên tai truyền đến tiếng gọi xen lẫn tiếng nghẹn ngào của Phùng Tiểu Tuyết, đầu nhức buốt, Dương Thu Trì từ từ mở mắt, cảm thấy ánh sáng quá chói!

Hắn lập tức nhắm mắt lại.

"Ca...! Huynh tỉnh rồi, hay quá!" Đó là tiếng reo mừng của "nha đầu điên" Tống Vân Nhi.

"Con à...!" Tiếng Dương mẫu sụt sùi gọi.

Ta ở đâu thế này? Dương Thu Trì cố gắng nhớ lại, đầu đau như dần.

Hắn đưa tay đặt lên trán, từ từ mở mắt ra, dần thích ứng với ánh sáng chói mắt mới bỏ tay ra.

Trời đã sáng hẳn, bốn bên đều là người. Thê thiếp của Dương lão thái gia, con trai con gái, quản gia đều vây lấy hắn. Tống đồng tri và Nam Cung Hùng cùng các hộ vệ đều ở sát bên giường.

Phùng Tiểu Tuyết quỳ cạnh Dương Thu Trì ôm đầu hắn, mắt lệ nhạt nhòa, thấy hắn tỉnh lại vui mừng reo lên: "Phu quân..." Rồi đứa tay gạt lệ hỏi, "Chàng cảm thấy thế nào rồi?"

"Đầu đau quá, ta đang ở đâu thế này?" Dương Thu Trì muốn gượng ngồi dậy, Tống Vân Nhi đang ở cạnh đó thấy vậy giúp Phùng Tiểu Tuyết đỡ hắn lên, nói: "Ca, đầu huynh bị ngã toát ra rồi, chảy máu nhiều lắm, đương nhiên là đau rồi."

Dương lão thái gia đứng cạnh đó thở phào: "Tỉnh rồi, tốt, Thu Trì không có gì là may rồi!"

Dương mẫu cũng vui vẻ nói: "Đúng a, nhờ ơn tổ tông phù hộ." Xong ứa lệ nhìn Dương Thu Trì: "Con à, con sao lại chạy đến đây làm chi vậy, làm chúng ta lo muốn chết luôn!"

Dương Thu Trì nhìn bốn phía, thấy mình vẫn còn ở trong sương phòng ở tầng hai tòa tiểu lâu lúc tối, liền vụt đứng dậy chạy ra phòng khách nhìn, thấy trên xà nhà trống không chẳng có gì cả, bạch y nữ nhân treo cổ dọa cho hắn té ngã ngất đi không thấy đâu nữa.

Dương Thu Trì dùng tay chỉ lên xà ngang, nghi hoặc hỏi: "Nữ nhân đó đâu?"

"Nữ nhân nào?" Dương mẫu hỏi.

"Bạch y nữ nhân treo cổ trên xà nhà đó? Lúc tối con nhìn thấy mà. Ở chỗ đó đó!"

Mọi người đều cảm thấy lạnh người.

Dương lão thái gia miễn cưỡng cười, khẽ ho mấy tiếng, phân phó nha hoàn và người hầu đưa Dương công tử quay trở về nghỉ ngơi.

Dương Thu Trì đẩy bọn nha hoàn ra, quay lại nhìn Dương lão thái gia hỏi: "Chẳng lẽ là cháu bị hoa mắt? Không đúng. Cháu nhìn thấy rất rõ, lại không phải nằm mộng, cháu đã từng tự véo người và cảm thấy rất đau, tuyệt đối là thật đấy!"

Tống Vân Nhi cười: "Ca, coi huynh nói xạo mà y như là thật vậy kìa."

Dương Thu Trì biết chuyện này vô cùng rắc rối, không thể nào bằng hai ba câu mà nói rõ được, bèn hỏi: "Vân nhi, mọi người làm sao phát hiện được ta ở đây?"

Tống Vân Nhi đáp: "Trời hừng hừng sáng là muội nghe tẩu tử (chị dâu) ra hành lang gọi huynh. Muội vội dậy bước ra cửa hỏi, chị dâu nói huynh đi đâu rồi không thấy nữa, tìm khắp hết mà không thấy."

"Muội nghe thế hoảng hồn, vội vả chạy khắp nơi tìm một lần nữa. Sau đó Dương lão thái gia cùng mọi người biết chuyện cùng phân ra tìm, cuối cùng phát hiện cửa vườn mở, dưới tuyết còn dấu chân dẫn lên lầu, bèn theo lên thì thấy huynh ngã chỏng vó lên trời á. Ca, huynh rốt cuộc là bị sao vậy?" Ngẫm nghĩ một lát, Tống Vân Nhi chớp chớp mắt hỏi, "Ca, chẳng lẽ huynh bị mộng du thật hả?"

Dương Thu Trì không lý gì đến nàng, chuyện này quá phức tạp, cần phải yên tĩnh suy nghĩ cho thật kỹ.

Hắn cảm thấy sau đầu rất đau, đưa tay lên sờ, phát hiện da đầu bị rách một lổ nhỏ, tóc bị máu ướt bệt lại, vết thương đã khép miệng không chảy máu nữa.

Hắn xoay người lại nhìn chỗ mình vừa nằm lúc nãy, phát hiện dưới đất có một vũng máu nhỏ. Điều kỳ quái là sàn gỗ kia giỏi lắm là làm đầu sưng lên một cục là quá lắm rồi, không ngờ lại phá rách một lổ, rõ ràng là đầu hắn bị vật gì đó góc cạnh chạm mạnh vào. 

Tống Vân Nhi thấy Dương Thu Trì nhìn máu ở dưới sàn xong quay kiếm khắp nơi, liền bước qua một bên lấy một cái ghế thấp đưa cho Dương Thu Trì hỏi: "Ca, huynh tìm cái này hả? Lúc mọi người phát hiện ra huynh, thì cạnh đầu huynh có cái ghế đã bị ngã này."

Dương Thu Trì cầm lấy nhìn, quả nhiên bên cạnh của cái ghế có dấu máu mới, xem ra hắn đã bị nữ quỷ treo cổ đó dọa ngã, hậu não té đập nhằm vào góc của chiếc ghế này nên hôn mê đi.

Một tiểu nha hoàn nhìn thấy chiếc ghế này, liền run giọng họ: "Cái đó, cái đó chẳng phải là chiếc ghế dùng để chống chân khi tam phu nhân treo cổ tự tử..."

Tống Vân Nhi giật mình sợ toát mồ hôi, hỏi: "Người đừng có dọa người ta có được không vậy hả? Ngươi là ai? Sao lại biết?"

Vợ hai Trương thị của Dương lão thái gia khịt mũi một tiếng đáp thay: "Nó là tiểu nha hoàn Tri Xuân của con hồ ly thối treo cổ chết trong phòng này, lúc con hồ ly thối đó treo cổ chết, nó đang ở trong phòng, đương nhiên là biết."

Dương Thu Trì rất không ưa giọng điệu như vậy của Trương thị, liền cố ý nhìn bà ta trừng trừng, bảo: "Dì Trương, tối hôm qua cháu thấy con hồ ly thối Quách thị mà dì nói đó nha," Nói xong chỉ vào xà nhà, "Dì ấy treo cổ ở đây này....!"

Trương thị sợ hãi vội ngẩng đầu nhìn lên xà nhà, tức thời nhớ đến tình cảnh Quách thị treo cổ chết năm xưa, vội cười khan nói: "Dương thiếu gia, ngài, ngài đừng có dọa ta nha."

Tống Vân Nhi hiếu kỳ hỏi: "Ca, nửa đêm nửa hôm huynh chạy tới đây làm cái gì?"

"Ta nghe có tiếng nữ nhân khóc trong lầu này, tưởng đó là Búp bê bùn nên đi vào tra cho rõ, phát hiện trên xà nhà phòng khách có một nữ nhân bị treo cổ."

Con trai của Dương lão thái gia là Dương Thanh Thủy đột nhiên chen lời: "Đường đệ, có thật đệ nhìn thấy một nữ nhân treo cổ trên xà nhà phòng này không?"

Dương Thu Trì đáp với giọng chắc nịch: "Đúng vậy, đệ nhìn rất rõ."

Đại thiếu gia Dương Thanh Thủy liền tái hẳn mặt, miệng run bần bật lầm bầm điều gì đó.

Nha hoàn Tri Xuân run giọng nói: "Nhất định là quỷ hồn của Tam di thái quay về rồi."

"Nói bậy!" Nguyên phối Phan thị nhúc nhích thân người đầy thịt, lớp phấn trơn trên mặt bóng lưỡng như có luồng bạch quang, "Quỷ hồn cái gì, quỷ hồn ở đâu ra? Con quỷ cái ấy chết còn chưa hết tội! Sao nó không đến tìm ta? Nó mà dám đến dọa ta, coi ta mắng đổ máu chó lên đầu nó!..."

Dương lão thái gia nhíu mày ngắt lời bà ta: "Được rồi! Kêu la cái gì! Dương tri huyện Dương đại nhân, Tống đồng tri Tống đại nhân đều ở đây, bà bát nháo như vậy còn ra thể thống gì?"

Phan thị lúc này mới im miệng, chùi méo rồi còn phun một bãi về phía xà nhà. Phan thị lúc này mới im miệng, chùi méo rồi còn phun một bãi về phía xà nhà.

Nhị di thái kéo tay của Dương thái gia, nói: "Ai yêu, để tôi nói vậy, có người không coi lão gia ra gì, có các vị đại nhân ở đây cũng không thèm nể mặt lão gia, bảo sao người ta không cười thầm cho được."

"Ngươi nói cái gì?" Nguyên phối Phan thị đột nhiên nổi khùng, rống lên: "Đến lượt ngươi lên tiếng khi nào vậy? Con tiện nhân, con hồ ly thối kia, ta phải xé nát cái mồm thối của ngươi mới được!" Phan thị nhào tới, một tay nắm tóc của tiểu thiếp Trương thị kéo ghị ra sau, một tay đánh thẳng vào mặt bà ta.

Trương thị có thân hình nhỏ thó, làm sao trở thành đối thủ của Phan thị, do đó dù hết sức phản kháng nhưng vẫn không chống được, chỉ còn biết bảo vệ mặt mà thôi.

Con gái Dương Ngải Tiểu của Trương thị vội xông lên bảo hộ cho mẹ, cô nàng không dám đối đầu với nguyên phối Phan thị, nên chỉ còn hết sức bảo hộ mặt của mẹ mình, kết quả bản thân bị vài cú tát. Căn phòng chẳng mấy chốc loạn cả lên.

"Đủ rồi!" Dương lão thái gia rống lên, "Các ngươi muốn đánh thì ra ngoài mà đánh! Đánh chết luôn càng tốt! Đỡ phải làm mất mặt ta!"

Ba nữ nhân đến lúc này mới dừng tay. Trương thị thút thít lần lại gần Dương lão thái gia y như con mèo nhỏ thụ thương vậy. Dương lão thái gia tức giận hất tay một cái, khiến cho Trương thị loạng choạng lùi lại mấy bước.

Dương lão thái gia rống lên: "Cút...! Hai ngươi đều cút hết đi cho ta!"

Thấy Dương lão thái gia quả nhiên đã nổi nóng, Bàng quản gia vội bước lên khuyên giải và đưa hai thái thái ra ngoài.

Đây là chuyện trong nhà của họ, Dương Thu Trì không tiện chen lời, lấy mắt bàng quan. Xem ra, quan hệ giữa các thê thiếp của Dương lão thái gia không hòa hợp lắm.

Dương Thu Trì lại nhìn lên xà nhà, đêm qua hắn tận mắt chứng kiến bạch y nữ nhân treo cổ ở đó, chẳng lẽ đó là tiểu thiếp Quách thị chết trước đây hai năm? Nàng ta không phải đã chết sao? Vì sao hắn có thể nhìn thấy được? Chẳng lẽ trên thế gian này quả thật có quỷ hồn?

Dương Thu Trì không tin có quỷ, cho dù đã xảy ra bao nhiêu chuyện như vậy hắn vẫn không thể tin. Những người làm nghề như hắn không thể tin quỷ, bởi vì nếu tin, thì họ sẽ sớm bị sợ chết mất hồn vía mà thôi. Nhưng... thứ mà hắn tận mắt chứng kiến đêm qua giải thích như thế nào bây giờ?

Dương Thu Trì quay nhìn giấy dầu trên cửa sổ, cái lổ to kia cùng miếng giấy lừa thừa rõ ràng là thứ tối qua hắn xé ra, chứng minh tất cả không phải là mộng.

Nhưng làm sao người lại có thể bay trong không trung? Sao lại có thể nhanh như thiểm điện, chớp mắt đã xuyên qua khoảng cách từ cửa sổ đến cửa chính? Rồi sao lại có thể nhân lúc hắn tiến vào phòng ngủ ở sương phòng vốn chỉ có mấy phút để vô thanh vô tức treo cổ lên xà nhà ngoài phòng khách này? Cổ đã bị dây thừng thít chặt, vì sao ả lại có thể mở mắt nhìn hắn cười khì khì?

Hơn nữa, bản thân hắn căn bản chẳng biết chút pháp thuật gì, chỉ niệm loạn mấy câu chú ngữ bắt rồi đánh ra vài cái pháp ấn thì đã hiệu nghiệm, sao mà kỳ quái quá như vậy?

Tuy không thể giải thích những chuyện nhìn thấy tối qua, nhưng hắn tự biết những gì trông thấy vị tất đã là sự tật, ví dụ như đối với các trò ảo thuật người ta tuy biết nó là ảo thuật, nhưng vẫn cảm thấy nó rất thần kỳ và không hiểu tại sao.

Trong chuyện này nhất định có điều gì đó ảo bí mà hắn chưa biết được. Dương Thu Trì đoán rằng, điều bí ẩn này có hai khả năng giải thích: Một là có võ lâm cao thủ gì đó có khinh công rất cao giở trò để dọa hắn, hai là tự bản thân hắn xuất hiện một loại ảo giác gì đó.

Đối với khả năng thứ nhất, Dương Thu Trì cảm thấy dường như không thể xảy ra. Võ công có cao cường cách mấy cũng không thể vượt qua được giới hạn của điều kiện thân thể con người. Ví dụ như nói về tốc độ, khoa học gia cho rằng con người có thể chạy khoảng cách 100m nhanh lắm là ở 7.4 giây, nếu như có thể chạy nhanh hơn mức này, thì trong quá trình chuyện động đó thân thể không thể nào chịu được áp lực mà xuất hiện hiện tượng bị chia cắt. Tuy con số cực hạn này không nhất định là chính xác, nhưng tốc độ chạy của con người nhất định là có giới hạn, dù sao cũng không thể vượt quá tốc độ ánh sáng!

Bản thân hắn chỉ cúi đầu rồi lại ngẩng đầu trong tích tắc , tối đa là một giây, thế mà bạch y nữ tử đã từ cửa sổ bay tới khoảng không tại cửa lớn. Hắn khẽ dùng mắt ước lượng cự li giữa hai nơi, thấy nó phải gần hai mươi mét, nếu án chiếu theo kỷ lục thế giới hiện nay là 9 giây 77 thì không thể nào bằng thời gian ngắn như vậy mà đến được. Hơn nữa trong phòng còn có bậc cửa, còn có chỗ quẹo, lại thêm phải từ vị trí bất động đột nhiên đạt đến thứ tốc độ như thế.... nói chung là không thể tưởng tượng!

Đương nhiên không thể bài trừ những công năng đặc dị mà hắn chưa hề biết từ các cao thủ võ lâm. Chỉ có điều vấn đề này không phải là phạm vi nghiên cứu của pháp y học rồi!

Cho dù điểm này một cao thủ võ lâm có thể thực hiện được, nhưng một vấn đề khác nhất định chẳng có võ lâm cao thủ nào làm được, đó là không mượn vật nào khác mà đứng yên bất động trong không trung - lực hấp dẫn của trái đất tồn tại với bất kỳ người nào, cho dù đó là cao thủ võ lâm, không có ai có thể thoát khỏi trọng lực để tự làm nhẹ cơ thể đi. Đấy là vấn đề thuộc về định luật phản vật lý, hay còn gọi là ngụy khoa học.

Võ công đích xác là rất kỳ diệu, nhưng cho dù võ công có kỳ diệu thế nào cũng không thể phản lại quy luật tự nhiên. Nếu không chỉ là ảo tưởng tồn tại trong các tiểu thuyết võ hiệp, hoặc là dựa vào ma thuật mà làm trò lừa đảo mà thôi.

Dương Thu Trì là một pháp y. Pháp y chú trọng đến phân tích lý tính. Do đó, Dương Thu Trì không thể lý giải quỷ hồn mà hắn nhìn thấy là một cao thủ võ lâm, nhân vì hành vi của ả ta phản lại quy luật tự nhiên, trừ khi đó là một cao thủ võ lâm biết làm trò ảo thuật lừa người.

Nếu là như thế thì quả thật rắc rối, bỡi vì vũ lâm cao thủ đó giả quỷ nhát hắn để làm gì? Khẳng định không phải muốn dọa hắn chết, vì một chưởng đánh chết hắn chẳng phải sạch sẽ gọn nhẹ hơn sao, vì sao lại bày trò ra như thế?

Một ý nghĩ chợt dậy lên trong đầu hắn, chẳng lẽ là y muốn dọa hắn sợ để hắn bỏ đi? Vì sao lại phải dọa hắn bỏ đi? Có phải là sợ hắn phát hiện bí mật gì đó không thể phơi bày ra chăng? Chẳng lẽ trong chuyện Tam di thái Quách thị treo cổ chết này có ẩn tình gì đó?

Khả năng lý giải thứ hai cho chuyện gặp quỷ hôm qua của hắn là hắn bị ảo giác nên mới thấy quỷ hồn bay nhảy trong không trung như vậy. Đối với thứ khả năng này, Dương Thu Trì chưa tìm được giải thích hợp lý nào để bản thân hắn sản sinh ra ảo giác cả.

Phùng Tiểu Tuyết bị chuyện Dương Thu Trì gặp quỷ thụ thương sợ chết khiếp, tuy hiện giờ là trời sáng mà cảm thấy căn lầu này đâu đâu cũng có gió lạnh, khiến toàn thân nàng phát rét. Nàng thấy Dương Thu Trì hờ hững ra ở đó, bèn kề sát tay hắn nói nhỏ: "Phu quân, thiếp sợ quá, hay là chúng ta trở về Ninh Quốc phủ đi."

Dương mẫu nghe được lời của Phùng Tiểu Tuyết gật đầu tán đồng, vì bà cũng đang rất khẩn trương.

Dương Thu Trì ôm nhẹ bờ vai của Phùng Tiểu Tuyết, dỗ dành: "Đừng sợ, Tiểu Tuyết, không có sao đâu, chúng ta nhiều người thế này, quỷ không làm gì được chúng ta đâu."

"Vậy tối hôm qua chàng...."

"Đấy là điều bất ngờ thôi, đêm nay sẽ không có nữa đâu. Nàng nếu còn không yên tâm thì cứ ngồi trên giường canh cho ta ngủ, được không?"

Phùng Tiểu Tuyết cười cười gật đầu. Dương lão thái gia lệnh cho Bàng quản gia: "Mau đi gọi lang trung trị thương cho Dương thiếu gia." Bàng quản gia vâng lời định chạy đi.

Dương Thu Trì khoát tay ngăn lại, thưa: "Bá phụ, vết thương của cháu không sao đâu, không cần nhờ thầy lang xem."

Dương Thu Trì vốn hơi hiếu kỳ với chuyện Quách thị phát rồ, nhưng kinh qua chuyện đêm qua ở ngôi lầu quỷ, hắn có một dự cảm, một dự cảm bất tường rằng có người không muốn hắn biết cái gì đó, không tiếc dùng thủ đoạn để làm hắn sợ mà bỏ đi, do đó có khả năng là có gì mờ ám trong cái chết của Quách thị.

Hiện giờ chuyện khai quan nghiệm thi đối với Dương Thu Trì không chỉ đơn thuần là kiểm nghiệm coi Sơn nhi có phải là con ruột của Dương lão thái gia hay không, mà thông qua đó hắn còn muốn kiểm chứng dự cảm của mình.

Dương Thu Trì nói với Dương lão thái gia, "Bá phụ, chuyện chúng ta nói tối qua giờ làm liền đi thôi."

Đối với chuyện Dương Thu Trì té ngã bị thương hôn mê trên lầu, Dương lão thái gia có phần áy náy, giờ thấy Dương Thu Trì không để ý gì, ngược lại lại quan tâm đến sự tình mà lão tâm sự tối qua, nên vô cùng cảm kích, đáp: "Nếu như là vậy thì chúng ta ăn sáng xong rồi khai quan nghiệm thi thôi."

Dương Thanh Thủy - con trai của Dương lão thái gia hỏi: "Cha, khai quan nghiệm thi? Nghiệm thây ai?"

"Quách di nương của con."

"A?" Dương Thanh Thủy hô lên cả kinh, "Dì.. dì ấy chẳng phải treo cổ chết rồi sao? Chết những hai năm rồi, còn nghiệm cái gì nữa?"

Dương lão thái gia đương nhiên không thể nói nghiệm thây là để kiểm tra xem con trai Sơn nhi của tam di thái rốt cuộc có phải là con ruột của lão hay không. Tuy lão muốn khai quan nghiệm thây, người khác không dám nói hai lời, nhưng không ngăn được người ta nghị luận sau lưng, do đó cần phải tìm cớ nào đó che lắp đi, nhưng trong nhất thời lão không tìm được lý do thích hợp nào.

Dương Thu Trì chen lời: "Đường huynh, tối hôm qua đệ và bá phụ có bàn đến chuyện ngôi lầu này cứ có quỷ phá hoài, chúng tôi đoán là có liên quan đến việc an táng Quách di nương đã mất, nên quyết định khai quan xem coi có vấn đề gì hay không."

Dương Thanh Thủy hỏi: "Còn có vấn đề gì nữa? Năm xưa Trương di nương có nói, Quách di nương treo cổ chết là điềm bất lợi, nhất định có ác quỷ nhập vào người, nên đã thỉnh pháp sư về làm phép, rồi chọn một khối âm địa để an táng, chẳng lẽ như vậy vẫn còn không trấn nổi ác quỷ trên người của dì ấy hay sao?"

Dương Thu Trì nhìn lên xà nhà phòng khách, hỏi với ý tứ thâm trầm: "Đường huynh nhận thấy đã trấn trụ rồi sao?"

"Cho dù là chưa trấn được, nhưng đường đệ chẳng lẽ có thể nhìn ra âm trạch phong thủy hay sao?"

"Không thể, nhưng trước đây đệ đã từng làm ngỗ tác học đồ, do đó đệ có thể kiểm tra người chết, xem coi người chết chết vì cớ gì." Nói xong lời này, Dương Thu Trì nhìn Dương Thanh Thủy chằm chằm, khiến y rợn tóc gáy.

Bàng quản gia nói với Dương lão thái gia: "Lão gia, khai quan nghiệm thi không phải là chuyện thường, có cần phải mời pháp sư coi ngày hay không rồi quyết định lại?"

Dương lão thái gia biết Dương Thu Trì sẽ đi nhậm chức ở Hồ Quảng đầu năm sau, thời gian không cho phép chần chờ nữa. Hơn nữa, lão cũng gấp muốn biết coi tiểu hài Sơn nhi có phải là con ruột của lão hay không. Một khi nghĩ đến chuyện mình có khả năng mình là tu hú nuôi con, đeo hai chiếc sừng to tướng mà lại con còng lưng nuôi nghiệt chủng của kẻ khác, lòng lão phiền toái không yên, do đó liền phất tay: "Không cần nữa! Không gì phải kiêng kỵ, ăn sáng xong rồi lập tức khai quan nghiệm thi!"

Thấy Dương lão thái gia bực mình, không còn ai dám lên tiếng nữa.

Ăn cho xong bửa sáng, cho người gọi thêm các ngã tác và người làm công trong thôn, cả nhà lớn nhỏ Dương gia xuất hành đi đến phần mộ của tam di thái Quách thị tiến hành khai quan nghiệm thi.

Phần mộ của Quách thị chôn ở dưới thôn, ở khoảnh đất sát dòng suối. Khi Dương Thu Trì tiến vào thôn, ở cửa thôn có nhìn thấy mấy gò mả, và một trong những cái đó là của Quách thị.

Quách thị là tiểu thiếp của Dương lão thái gia, án chiếu theo quy củ thì tiểu thiếp chết rồi không thể an táng trong khu mộ tổ, hơn nữa Quách thị phát rồ rồi treo cổ, làm mất mặt Dương gia, không cát lợi nên phải chôn ở đây.

Sau khi Quách thị treo cổ chết, người nhà có thỉnh pháp sư làm phép và xem phong thủy. Pháp sư nói Quách thị thuộc mạng hỏa, lại phát rồ treo lê cây, ứng với việc trúng phải tà hỏa, do đó cần phải chọn một khu đất ngập nước ẩm ướt quanh nam để mai táng mới có thể trấn áp tà hỏa này.

Khi đến phần đất chôn Quách thị, chân Dương Thu Trì đạp lên đám cỏ quanh mộ phần, cảm thấy ướt nhẹp, lòng hơi mừng vì phần đất này ẩm ướt như vậy, thi thể mai táng ở bên dưới có thể đã hình thành thi chá (xác không rữa, xác chết còn giữ nguyên hình không bị nát đi), như vậy có thể phát hiện rất nhiều dấu vết có giá trị.

Dương lão thái gia, Tống đồng tri cùng mọi người sợ tà khí ô uế, cho nên đứng xa mấy chục bước để chờ, để mặc Dương Thu Trì chỉ huy các ngỗ tác khai quật phần mộ.

Phùng Tiểu Tuyết muốn đứng cùng một chổ với phu quân, nhưng lại sợ nhìn thấy tử thi. Dương Thu trì uyển chuyển và ôn tồn bảo nàng đứng chờ bên cạnh Dương mẫu.

Tống Vân Nhi thì ngược lại, nàng không thể nào bỏ qua cơ hội sính cường này, nên bám sát sau lưng Dương Thu Trì xem náo nhiệt.

Ngỗ tác đào lớp đất phủ phía trên xong, bắt đầu đào xuống dưới, càng đào sâu thì nước càng tích tụ nhiều, khi đào đến quan tài thì chung quanh đã tích đầy nước.

Các ngỗ tác đều nhíu mày, nhưng Dương Thu Trì lộ vẻ rất vui. Nếu như mùa đông mà tích nhiều nước thế này, thì mùa hè mưa nhiều nhất định sẽ còn nhiều nước hơn. Hoàn cảnh càng ẩm ướt, thì càng dễ phát sinh hiện tượng "thi chá".

Trong hố toàn nước, làm sao bây giờ? Ngỗ tác và các thợ phụ đều e ngại nhìn Dương Thu Trì. Hắn cho đào hai bên quan tài, sau đó dùng dây thừng vòng qua hai đầu rồi kéo quan tài lên.

Tốn thêm khoảng một giờ nữa, quan tài cuối cùng cũng được đưa lên từ cái hố đầy nước ấy, sau đó được ngỗ tác cùng các thợ phụ khiêng đưa đến hai cây gỗ lớn đã bày sẳn.

Nước trong quan tài thuận theo các lổ nhỏ chảy xì xì ra ngoài. Dương Thu Trì sau đó cho ngỗ tác mở nắp quan tài. Do quan tài đã bắt đầu mục, nên họ tốn không mấy công sức đã mở ra được ngay.

Trong quan tài toàn là nước bùn đục ngầu, nhìn không rõ trong đó là gì. Một khối chăn đệm màu đỏ ướt sủng lộ lên ở một góc.

Dương Thu Trì nhờ Ngỗ tác nghĩ biện pháp làm cho nước trong quan tài rút cạn đi. Một ngỗ tác lấy búa khẽ lách vào vách của quan tài nạy ra một kẻ hở lớn, nước trong quan tài theo đó chảy vọt ra, không bao lâu thì rút cạn.

Xương thây người chết trong quan tài bị bùn và mền gối che kín.

Dương Thu Trì đeo một đôi bao tay bông hai lớp thật dày lên. Nó sẽ ảnh hưởng thao tác, nhưng không còn cách nào khác, vì không có bao tay cao su ở thời này, và hắn cũng không muốn tay của mình dính đầy các dịch thể hay bộ phận cơ thể đã thối rửa. Xem ra sau này chuyện kiểm nghiệm thi thể thối rửa này không thiếu được, khi về rồi hắn nhất định nghĩ cách thiết kê một loại bao tay chuyên dụng mới.

Dương Thu Trì dùng một cây thiết côn khều mền gối che xác chết lên, lộ ra thây cốt ở bên dưới. Đúng như sự dự đoán và hi vọng của Dương Thu Trì, xác của Quách thị chưa bị rửa nát, hơn nữa còn hình thành thi ché màu xám trắng, lại còn là thi chá mang tính toàn thân.

Thi chá là hiện tượng do thi thể bị ngâm trường kỳ trong nước hoặc bị chôn trong chổ đất ẩm ướt không đủ không khí, các a xít béo của các tổ chức cơ thịt dưới da bị xà phòng hóa và hydro hóa làm chúng đông đặc lại mà tạo thành. Cái gọi là thi chá thực ra là vì khi dùng tay tiếp xúc vào thi thể này sẽ gây cảm giác trơn mịn, thậm chí có thể đè vào, so với việc chạm tay vào sáp nến đã chảy ra hoặc mỡ nấu đông không khác là bao.

Hoàn cảnh để hình thành thi chá có thể ức chế các vi khuẩn gây thối rữa sản sinh, do đó ngăn cản thi thể bị hủ bại, có thể bảo lưu những biểu hiện tổng thương ngoài da, thậm chí cả những dấu vết như "nổ da gà sởn gai ốc"... đều có thể nhìn rõ. Hoàn cảnh môi trường này còn ức chế các vi khuẩn gây thối rửa trong đường tiêu hóa, do đó bảo tồn khá tốt các vật trong bao tử hay ruột, có giá trị pháp y rất cao.

Thi chá thường mang tính cục bộ. Thứ thi chá toàn thân như của Quách thị đây rất hiếm. Tuy thi thể hình thành thi chá không bị mục ruỗng, nhưng do bị ngâm trong nước thường trực những hai năm, đã hoàn toàn khác với những thi thể khác, thậm chí có thể nói không nhân rõ mặt mũi nữa. Nếu lúc còn sống mà Quách thị có gương mặt thế này, thì cho dù trên thế gian này không có nữ nhân, Dương lão thái gia có chết cũng không dám cưới nàng.

Quách thị không phải treo cổ tự tử! Từ dấu vết trên cổ có thể nhận ra điều đó. Quách thị không phải treo cổ tự tử! Từ dấu vết trên cổ có thể nhận ra điều đó.

Dương Thu Trì cúi đầu cẩn thận tra xét dấu vết trên cổ của Quách thị, tuy đã chết hai năm, nhưng do thi thể đã hình thành thi chá nên dấu vết trên cổ vẫn có thể nhận định được.

Dương Thu Trì nhìn một hồi chợt hô lên một tiếng nhỏ, rút cái khăn trong người ra cẩn thận thấm sạch nước trên cổ xác chết.

Sau khi cẩn thận phân biệt một hồi, Dương Thu Trì phát hiện trên cổ của thi thể có hai dấu thừng xiết cổ:

Dấu vết thứ nhất là ở xương sụn dưới tuyến giáp kéo dài xuống, bắt đầu từ dưới mép tai trái vòng qua cổ tới phía phải cổ, gáy, rồi quay về mép tai trái, hình thành một cái vòng thắt. Dưới da chỗ dấu xiết có dấu hiệu xuất huyết tím xanh. Dùng tay chạm vào có thể cảm giác được sương sụn trong tuyến giáp bị gãy vỡ. Điều kỳ quái là ở phía gáy bên phải có một côỗ trống, không hề có da xanh tím do bị xuất huyết.

Dấu vết thứ hai là ở phía trên tuyến giáp, từ trước cổ vòng qua hai bên đên gáy cho đến xương chẩm, không có chỗ nào gián đoạn.

Hai dấu xiết giao nhau ở bên gáy phải, cái sau đè lên cái trước.

Như vậy có thể nói Quách thị bị xiết cổ hai lần!

Lần thứ nhất chính là dấu xiết hình tròn còn trống một lổ, hai dấu xiết có độ đậm gần đều nhau, không hề có hiện tượng bị xiết nhẹ chút xíu để lại dấu ấn rồi thít chặt hẳn trong khi treo chổ. Từ sự giới thiệu của Dương lão thái gia, Quách thị năm xưa tự treo cổ lên xà nhà tự tử, nhưng vết thắt ở cổ không phù hợp với điều này.

Treo cổ tự tử thường để lại vết khớp chéo, trong khí vết xiết này lại bình bình. Vết xiết trên cổ người chết này thường rất sâu và đậm ở dưới cổ, nhạt dần về hai bên cho tới nút thắt ở trên, còn vết thắt này thì ngược lại. Vết xiết cổ của người chết treo khi lê đến chỗ thắt ở trên sẽ không còn nữa, hình thành một vệt giống hình móng ngựa, hay còn gọi là hiện trượng"chữ bát (八) không giao nhau", trong khi đó dấu vết trên cổ Quách thị có hình tròn, không có dấu gì là có khoảng hở lớn.

Như vậy là rất rõ, vết thắt thứ hai không phải là do treo cổ mà hình thành, mà là do bị xiết mà hình thành.

Hoa văn của hai dấu xiết cổ không tương đồng, vết thứ nhất là do dây tạo ra, nhỏ và sâu, bên rìa có hoa văn, có thể là do dây thừng bằng gai tạo ra. Vòng xiết thứ hai rộng mà cạn, không có loại hoa văn như cái trước, rất có khả năng là dây dài bằng vải hay lụa gì đó.

Từ đặc trưng của hai vết trên cổ, có thể nhân thấy trước sau Quách thị bị hai loại dây thít cổ. Lần thứ nhất bị thít bằng loại dây hơi cứng , dấu vết cho thấy là dấu xiết. Lần thứ hai bị thít bằng loại dây mềm, dấu vết cho thấy là dấu treo.

Từ chỗ giao nhau của hai vết thít, cho thấy vết thứ hai đè lên vết thứ nhất, như vậy là bị xiết cổ chết trước rồi bị treo lên sau.

Dấu xiết cổ này cho thấy rõ ràng là bị người khác giết, có thể từ những điểm sau mà đưa ra kết luận:

- Từ những phân tích tổng quát ở trên mà xét, do dấu xiết cổ gây ra hiện tượng vỡ xương sụn, để lại dấu xiết rất sâu, chứng tỏ dụng lực rất mạnh, hơn nữa thời gian diễn tiến kéo dài.

- Khi cổ người bị chèn ép, máu huyết bị ngăn trở tuần hoàn, não vừa thiếu huyết mang oxi vừa ứ huyết chứa CO2, nên trong vòng một phút có thể gây mất ý thức, năm phút có thể gây tử vong. Từ dấu xiết này phán đoán, thời gian xiết có thể kéo dài hơn mười phút mới có thể hình thành dấu vết như thế này. Do đó nếu như Quách thị tự sát, vết xiết này đủ để nàng ta tử vong, nàng ta không còn biện pháp nào thực hiện hành vu tự treo cổ.

- Từ chứng cứ pháp y mà xét, ở rìa dấu xiết thứ nhất có hiện tượng xuất huyết dưới da, còn ở dấu treo cổ lại không có hiện tượng này, cho thấy vết xiết cổ thứ nhất là "sinh tiền thương", còn dấu treo cổ là "tử hậu thương. (Tuy lý luận gần đây nhất cho rằng người chết rồi máu huyết chạy xuống dưới hình thành tĩnh áp thể lưu (không định hình), khiến cho người chết rồi nhưng khi bị quấn dây xiết chạt vẫn gây hiện tượng xuất huyết dưới da và vết rộp, do đó chỉ bằng điểm này không đủ phán đoán đâu là sinh tiền thương (tổn thương lúc còn sống) hay tử hậu thương (chết rồi mới bị tổn thương), nhưng trong án này còn những tham khảo có giá trị trọng yếu khác.)

- Từ phân tích theo thường lý, nếu như người ta muốn tự sát, ý thức sẽ tự tuyển chọn phương pháp ít đau đớn hơn. Như vậy nếu người đó chọn treo cổ, thì họ sẽ dùng dây treo mềm mịn dễ có hơn như là vải lụa chẳng hạn, chứ không chọn dây gai. Điều này càng đặc biệt đúng với nữ nhân. Nếu như chỉ có dây thừng cứng hay dây cước sắt, người tự tử vẫn thường dùng khăn tay hay tấm lót gì đó bao lại để giảm nhẹ thống khổ. Dấu xiết trên cổ Quách thị cho thấy được gây ra từ một loại thừng cứng, không phù hợp chút nào với lý lẽ thường tình.

- Ngoài ra, nếu như nàng ta chọn treo cổ tự tử với dây mềm như vải chẳng hạn, thì nếu xiết cổ cũng là hành vi tự sát, nàng ta sẽ dùng cùng một thứ để xiết cổ, chứ không thể nào dùng dây gai cứng để xiết. Điều này cũng không hợp với lẽ thường.

- Từ góc độ phủ định mà xét, dấu xiết cổ phản ánh một dấu giao kết ở dưới tai trái, sau đó hai tay kéo hai đầu dây thừng qua hai bên để khiến nạn nhân tử vong. Dấu vết thít chéo nằm ở vị trí dưới tay trái, phương hướng hai tay dùng lực xem ra là hai phía trước sau của thân thể, động tác này nếu là tự sát thì rất không phù hợp và rất khó hoàn thành.

Từ đó phán đoán, Quách thị có khả năng là bị người ta xiết cổ chết, sau đó ngụy trang đưa lên treo cổ tự sát!

Dương Thu Trì gạt tay áo trên cánh tay trái của Quách thị ra, đưa lên quan sát, không hề phát hiện dấu vết đề kháng. Nhưng không có vết thương do đề kháng không có nghĩa là nạn nhân không đề kháng, nếu như trong hoàn cảnh mền gối đầy trên giường hoặc trong nước mà xiết cổ Quách thị chết, sẽ không hình thành dấu vết trầy tụa do đề kháng.

Kiểm tra tay phải của Quách thị, hắn phát hiện phía trong ngón trỏ có dấu sây sát và xuất huyết dưới da.

Dương Thu Trì hơi cảm thấy kỳ quái, nhưng lập tức nhớ ra dấu thít ở vách cổ bên phải Quách thị có chỗ hỡ bằng lóng tay không có dấu xanh do xuất huyết. Kết hợp hai điểm này có thể suy ra khi hung thủ xiết cổ Quách thị, Quách thị có tiến hành đề kháng bằng cách nỗ lực đưa ngón tay kéo dây thừng ra, từ đó ngón tay bị lưu lại vết xước này.

Vết thương do đề kháng này đã chứng tỏ chắc nịt rằng Quách thị bị người ta xiết cổ chết, là bị người khác giết!

Như vậy thì ai là người xiết cổ chết Quách thị? Dương Thu Trì đứng cạnh quan tài trầm tư. Sợi dây xiết chết Quách thị nhất định là do hung thủ mang đến, gây án xong rồi xử lý luôn, nhất định không để lại hiện trường tránh bị hoài nghi. Còn sợi dây vải kia nhất định vẫn còn, có thể từ đó còn phát hiện thêm điều gì nữa.

Tống Vân Nhi nhất mực đứng cạnh quan sát Dương Thu Trì bận rộn, không dám tùy ý chen lời, thấy hắn bân bịu xong rồi đứng đó phát ngây, liền lên tiếng hỏi: "Ca, sao rồi? Huynh sao lại làm lâu dữ vậy a?"

"Muội đi gọi họ đến đây, ta có chuyện cần nói." Thần sắc của Dương Thu Trì vô cùng nghiêm trọng.

Tống Vân Nhi từ thần sắc đó đoán ra nhất định là có vấn đề, liền hứng phấn gật đầu lia lịa, chuyển thân chạy đi nói với Dương lão thái gia cùng mọi người vài câu, sau đó ai cũng kéo đến bên cạnh Dương Thu Trì.

Dương lão thái gia nghi hoặc hỏi Dương Thu Trì: "Hiền điệt, có chuyện gì vậy, có vấn đề gì sao?"

Dương Thu Trì hỏi: "Sợi dây Quách di nương dùng treo cổ ở đâu ạ?"

Nguyên phối Phan thị đáp: "Đốt rồi, đốt cùng mọi vật dụng của con hồ ly thối đó hết rồi, thứ yêu tinh gây hại cho người này còn để lại những thứ nó dùng lại làm gì!"

Dương lão thái gia hỏi: "Hiền điệt, cháu hỏi đến sợi vải đó làm gì?"

Dương Thu Trì quét mắt nhìn mọi người, đáp: "Dùng để tra án tử."

"Tra án tử?" Dương lão thái gia dường như cảm thấy có gì không đúng, vội hỏi, "Tra án tử gì?"

"Án Quách di nương bị người ta xiết cổ chết, dì ấy không phải treo cổ tự sát, mà bị người dùng dây xiết cổ chết!"

Mọi người ở đó đều sửng sờ, Dương lão thái gia cả kinh hỏi: "Cháu nói cái gì? Nàng ấy bị người ta hại chết sao?"

"Đúng, Quách di nương trước tiên bị người ta tròng dây xiết cổ chết, sau đó nguy trang treo lên trên xà ngang, chứ không phải tự sát."

Tống Vân Nhi và Tống đồng tri cha nằng đương nhiên biết lời này có ý gì, liền hỏi: "Hiền điệt, cháu, cháu không nhận định lầm chứ?"

Đại thiếu gia Dương Thanh Thủy cũng lộ thần tình rất kích động, hỏi: "Đường đệ, Quách di nương có thật là bị người ta sát hại không? Hung thủ là ai?"

Nguyên phối Phan thị và nhị di thái Trương thị cùng các nữ quyến trong nhà cùng sợ hãi không dám tiến lên, đứng ở xa nghe nói Quách thị không phải tự sát mà bị người ta hại chết, đều bắt đầu kinh ngạc tranh luận loạn cả lên.

Dương lão thái gia hỏi Dương Thu Trì: "Hiền điệt, làm sao cháu biết được dì Quách của cháu bị người ta giết vậy?"

Dương Thu Trì chỉ hai dấu thít cổ trên thi thể nạn nhân, đem những phát hiện và phân tích vừa rồi trình bày lại một lượt, còn vạch ra chỉ vết thương do đề kháng trên ngón trỏ nơi tay phải của Trương thị.

Đối với treo cổ chết và xiết cổ chết, "Tẩy oan lục" có lý giải rất rõ ràng. Người thời cổ thường dùng hai phương pháp này để giết người hoặc tự sát, nên có sự nhận thức khá sâu sắc. Do đó khi nghe Dương Thu Trì phân tích, lại tự thân quan sát thêm một chút, Dương lão thái gia và Tống đồng tri cùng mọi người đều đồng ý với phán đoán của Dương Thu Trì.

Bọn họ khá bất ngờ về chuyện thi thể của Quách thị không bị rửa nát. Bàng quản gia thậm chí còn hỏi có phải thi thể bị trúng tà không, có cần thỉnh pháp sư về khu tà cản quỷ hay không. Dương Thu Trì dùng hết khả năng sử dụng từ ngữ thông tục để giải thích với họ, rốt cuộc cũng khiến mọi người hiểu ra.

Vấn đề tiếp sau đó khiến người ta rất nghi hoặc, án theo lý mà nói, thì hai laọi dấu vết này không khó phát hiện cũng như lý giải manh mối ẩn giấu bên trong đó, nhưng tại sao không có ai phát hiện hết vậy? Sau khi hỏi Dương lão thái gia biết khi Quách thị phát khùng rồi treo cổ, mọi người đều nhận ra điều đó là thuận lý thành chương, không ai hoài nghi cũng không ai báo quan. Do nàng ta chết rất thảm, nên lập tức nhập quan thỉnh pháp sư làm phép, nên không hề kiếm tra dấu vết ở cổ một cách cẩn thận.

Ngoại trừ điềunày ra, còn có một nguyên nhân trọng yếu khác, đó là chẳng những cửa viện khóa chặt, cửa phòng khách ở lầu hai cũng khóa chặt, không phát hiện có dấu vết người ngoài lẻn vào phòng. Hơn nữa bà mụ và nha hoàn cũng không nghe động tĩnh hay tiếng đánh nhau gì, do đó không hoài nghi Quách thị bị người ta giết.

Hiện giờ đã khẳng định Quách thị bị người giết, lại nằm trong phạm vi quản hạt của Ninh Quốc phủ, Tống đồng tri ở đây quyết định lập tức lập án điều tra cho rõ ngọn ngành. Chỉ có điều, án này sẽ được phá thế nào thì Tống đồng tri vẫn còn mù tịt, chỉ biết cầu cứu Dương Thu Trì, để hắn trợ giúp phá án.

Dương Thu Trì lần nữa được nhà phá án, liền thu mẫu tóc của Quách thị về để kiểm tra nhóm máu, sau đó nhờ các ngỗ tác liệm xác Quách thị vào quan tài đóng kỹ lại rồi hạ xuống hầm mộ đầy nước lấp đất lại.

Nếu như cần phải phá án này, các dụng cụ khám nghiệm pháp y của hắn cần phải có mối được, hơn nữa lại còn phải giám định nhóm máu xác định xem Sơn nhi có không phải là con của Dương lão thái gia hay không. Những thứ này có thể nói là bảo bối của Dương Thu Trì, nếu để người khác lấy hắn không an tâm, nên đã đã chìa khóa tủ hợp kim cho Phùng Tiểu Tuyết, nhờ nàng dẫn theo năm nữ cẩm y vệ trở về nhà lấy giúp, lại phái thêm năm nam hộ vệ đi theo bảo hộ.

Dương Thu Trì cho Phùng Tiểu Tuyết biết là chỉ cần lấy cái rương nhỏ trong tủ hợp kim đó là được. Cái rương nhỏ này chính là rương đựng các vật khám xét pháp y, trên đó có khóa mật mã, nên không lo Phùng Tiểu Tuyết phát hiện bên trong đó có gì mà bất ngờ.

Nhưng Phùng Tiểu Tuyết lo Dương Thu Trì sẽ gặp quỷ vào ban đêm nữa, không muốn rời xa hắn. Hắn an ủi cả buổi vẫn không được, cuối cùng Tống Vân Nhi nói buổi tối nàng sẽ theo sát Dương Thu Trì, thiếp thân bảo hộ cho hắn, Phùng tiểu Tuyết bấy giờ mới yên tâm, lại dặn dò thật kỹ đâu vào đó rồi mới dẫn các hộ vệ lên đường.

Bọn họ đại khái cần phải mất hai ngày đi về. Trong thời gian này, Dương Thu Trì cần tiến hành những điều tra tất yếu khác để hiểu và phát hiện đủ các manh mối phạm tội.

Dương Thu Trì không ngờ lần này về quê tế tổ lại gặp sự tình như thế này, xem ra, nếu như án này không được nhanh chóng phá giải, năm này coi như sống không yên.

Nếu như căn lầu sau khi có quỷ ám không ai dám ở, thì có thể sẽ có những dấu vết còn lưu lại. Dương Thu Trì quyết định đến tiểu lâu đó khám tra một hồi hiện trường án mạng hai năm về trước, hy vọng bản thân gặ vận may có thể phát hiện điều gì đó.

Sau khi tuân vấn mọi người, hắn biết kẻ đầu tiên phát hiện Quách thị treo cổ chính là thiếp thân nha hoàn Tri Xuân của nàng, sau đó là bà mụ Lữ thị. Lúc tam di thái chết, cửa đóng chặt. Trong phòng chỉ có nha hoàn Tri Xuân và bà mụ Lữ thị. Do đó hai người họ đương nhiên là người bị hiềm nghi phạm tội, Dương Thu Trì phân phù đem bà mụ Lữ thị nhốt lại, sau đó cho gọi nha hoàn Tri Xuân lên, cùng Tống đồng tri, Tống Vân Nhi cùng đến ngôi lầu nhỏ đó khám tra hiện trường.

Sau khi Quách thị treo cổ chết xong, ngoại trừ Dương lão thái gia hoài niệm nàng ngụ lại một đêm, nhưng vì đêm đó nhìn thấy Quách thị đứng bên giường nhìn lão cười làm lão sợ gần chết, thì ngôi tiểu lâu này hoàn toàn bị phong bế, do đó cho tới giờ vẫn bảo quản đương tình cảnh đương thời.

Dương Thu Trì trước hết kiểm tra tử tế mọi cửa sổ, phát hiện giống như Tri Xuân nói, cửa bị đóng rất chặt, không phí khá nhiều sức lực căn bản mở không ra.

Hắn lại tử tế kiểm tra cửa lớn, dù sao đây cùng là nhà giàu, cửa được làm rất tốt, hai bên đều có cánh vừa khít vào nhau, đóng vào thật chặt, không thể nào dùng đao lách vào mở ra được. Hơn nữa, cánh cửa lớn này chẳng những có chốt, mà vào ban đêm khi ngủ còn dùng cây gài cửa cài chặt.

Dương Thu Trì yêu cầu Tri Xuân trước hết kể lại tình huống thi thể bị treo cổ. Căn cứ vào lời của cô bé, Quách thị nhất định là đứng lên cái ghế gỗ tròng dây vào cổ sau đó đạp ghế tự tử.

Dương Thu Trì phán đoán, cái ghế gỗ này đại khái cao khoảng 50 cm, hung thủ sau khi xiết cổ Quách thị chết xong, do người sau chết sẽ rất nặng mà lại mềm nhũn, do đó muốn ôm thi thể lên tròng dây vào cổ thật ra rất khó khăn. Biện pháp tốt nhất chính là đem dây tròng vào cổ của thi thể, đầu còn lại thòng qua trên xà nhà, sau đó kéo thi thể lên. Nếu là như thế, ở xà nhà nhất định có lưu lại dấu ma sát với dây treo cổ, và dấu vết này thường rất rõ, không thể nào bị phai đi trong vòng hai năm.

Dương Thu Trì tìm hai cái ghế cao đặt dưới xà nhà rồi đứng lên quan sát, sau khi tẩy đi lớp bụi dầy trên đó, hắn kỳ quái thấy xà nhà không có gì, trên phiến gỗ chỉnh tề góc cạnh kia không hề có dấu ma sát rõ ràng nào.

Kỳ quái! Chẳng lẽ phán đoán của mình có vấn đề? Dương Thu Trì ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi nha hoàn Tri Xuân: "Tam di nương của các ngươi dùng dây gì treo cổ?"

Tri Xuân đáp: "Là một sợi vải trắng, thòng qua xà nhà, cột gút lại một gút, sau đó tròng vào trong cổ."

"Sợi vải đó dài bao nhiêu?"

Tri Xuân so đo một hồi, Dương Thu Trì nhìn mà không hiểu, bèn hỏi bổ sung: "Thế này vậy, ngươi thử ước lượng xem sợi vải trắng đó sau khi vòng qua xà nha thòng xuống gút lại thì có thòng xuống tới đất không?"

"Không hề, sau khi cột gút lại còn dài ra một chút," Tri Xuân đứng dưới xà nhà nhìn lên, dùng tay ra dấu, "Chỉ có thể thòng đến khoảng đỉnh đầu tôi thôi."

Tiểu nha hoàn Tri Xuân đứng trước mặt Dương Thu Trì, thấp hơn hắn nửa cái đầu, đột nhiên hắn phát hiện ở sau cổ của cô bé có vài vết thương lợt màu, nhìn có vẻ là đã rất lâu. Dương Thu Trì thầm cảm thán, tiểu nha hoàn mệnh khổ này nhất định đã bị đánh không ít, nghĩ đến điều này lòng hắn chợt động, nghĩ đến một chuyện gì đó.

Tri Xuân chờ một lúc không nghe Dương Thu Trì hỏi gì, hơi kỳ quái quay lại nhìn hắn, thấy hắn đang nhìn sửng vào cổ mình, mặt liền đỏ hồng cúi đầu e thẹn.

Dương Thu Trì không hề phát hiện mình đã thất thái, cho đến khi Tống Vân Nhi nhéo hong hắn nhắc"Ê! Nhìn cái gì?"

Dương Thu Trì lúc này mới hồi lại thần, cố gắng cười cười chữa thẹn, ngâng đầu ước lượng cự li từ xà nhà đến đầu Tri Xuân, rút ra một kết luận: Dùng một sợi dây vải trắng dài thể này để tròng qua cổ thi thể nạn nhân dưới đất thì đầu kia nhất định không tới được xà nhà, đừng nói gì tới vòng qua đó, do đó phán đoán ban đầu của hắn không thể thành lập.

Như vậy xem ra hung thủ trước hết vòng sợi vải cho kỹ càng trước, sau đó ôm thi thể tròng cổ vào rồi. Dương Thu Trì hỏi nha hoàn Tri Xuân: "Lúc đó chân dì ấy cách đất cao bao nhiêu?"

Tri Xuân đưa hai tay so đo một hồi, cảm thấy điều này không dễ trả lời, liếc mắt nhìn thấy cái ghế trong sương phòng, liền chạy đến lấy ra đặt xuống rồi nhìn nhìn, đáp: "Gần như cao bằng cái ghế này."

Như vậy có thể nói hung thủ đã ôm thi thể lên đứng trên cái ghế này tròng cổ vào rồi.

Sau khi khai quan nghiệm thi, Dương Thu Trì có một ấn tượng tổng quát về thân thể của Quách thị. Quách thị thuộc về dạng người nhỏ nhắn thanh mảnh của thiếu nữ vùng Giang Nam, thể trọng nhất định không quá 50 kg, trong khi đó chiếc ghế này khá rộng, gần giống như cái ghế để người ta ngồi chơi đàn dương cầm, nếu hung thủ ôm thi thể đưa lên thòng lọng, vẫn có thể bảo trị sự cân bằng.

Nếu như hung thủ có khả năng là đứng trên cái ghế thấp này đưa thi thể vào thòng lọng, có khi nào y để lại dấu giày hay không? Dương Thu Trì cẩn thận kiểm tra chiếc ghế, tuy ở trên đầy bụi, lại còn dính chút máu của hắn hôm trước, nhưng hắn vẫn hy vọng có thể phát hiện điểm gì đó.

Dương Thu Trì thổi bay bụi trên ghế đi tìm dấu chân còn lưu lại từ hai nam trước. Nhưng hắn đành chịu, thời gian hai năm đích xác quá dài, lớp bụi trần này tầng tầng điệp điệp, đã ngưng kết trên mặt ghế một lớp dày, phải dùng nước sạch và xà phòng cùng bàn chảy chà mới sạch hết bụi được. Nhưng nếu bụi này bị thanh trừ hết, thì dấu chân trên đó coi như cũng xong.

Khám nghiệm hiện trường coi như đã xong, tiếp theo là bắt đầu phỏng vấn điều tra. Dương Thu Trì cho nha hoàn Tri Xuân lui xuống lầu, sau đó bàn với Tống đồng tri làm cách nào để phá án.

Quách thị treo cổ trong phòng bị khóa chặt, và trong phòng này ngoại trừ bà mụ và cậu bé mới sinh Sơn nhỉ, thì chỉ còn có một người khác nữa chính là nha hoàn Tri Xuân. Sơn nhi mới ba tuổi, không thể là hung thủ. Vì thế, án này có hai người bị hiềm nhi nhất là bà vú Lữ thị và tiểu nha hoàn Tri Xuân. Đương nhiên, những người khác trong Dương gia đại viện không thể được bài trừ khả năng trong ứng ngoại hợp cùng gây án mạng.

Người đầu tiên phát hiện Quách thị treo cổ là tiểu nha hoàn Tri Xuân, kẻ cắp già mồm là chuyện thường tình, do đó Dương Thu Trì và Tống đồng tri quyết định thẩm vấn Tri Xuân trước. Thẩm vấn được tiến hành tại căn lầu nhỏ này, có mặt Tống đồng tri đại diện quan trên này đơn giản khai đường thẩm lý luôn.

Đại đường lâm thời được thiết đặt ở phòng khách căn lầu có quỷ, bàn ghế được dọn đi, bày ra ở giữa một thư án dài, Tống đồng tri ngồi giữa, Dương Thu Trì ngồi ở ghế đẩu bên góc coi như là một vị hình danh sư gia lâm thời. Tống Vân Nhi mặt dày bám riết bên cạnh nghe thẩm vấn, Tống đồng tri và Dương Thu Trì không có cách nào bảo nàng đi, bèn để nàng ngồi cạnh Dương Thu Trì, chỉ có điều căn dặn không được lên tiếng.

Tống đồng tri và Dương Thu Trì lần này cùng về quê hắn chơi tết, nên chỉ mang theo vài nha hoàn và người hầu, không mang bộ khoái đứng chầu, nên Dương Thu Trì gọi Nam Cung Hùng mang theo ba hộ vệ tạm thời thay thế, mang mấy cây thủy hỏa côn đứng hai bên.

Sau khi tiểu nha hoàn Tri Xuân được gọi vào, tiểu cô nương này thấy Dương Thu Trì và Tống đồng tri lúc này đã hoàn toàn khác khi nãy, dường như biến thành người khác vậy. Tuy đây chỉ là đại đường lâm thời, so với đại đường của nha môn kém uy nghiêm hơn nhiều, nhưng dù sao thì cô nàng cũng lần đầu tiện gặp phải chuyện này, sắc mặt liền tái nhợt, ú ớ một tiếng quỵ xuống đất, không biết nên nói thế nào cho phải.

Nha hoàn Tri Xuân chỉ mới mười bốn mười lăm tuổi, thân thể thanh mảnh nhỏ nhắn, trong tình huống bình thường, thể lực như vậy hoàn toàn không thể xiết cổ một người lớn chết được. Nhưng Quách thị vốn cũng nhỏ bé thanh mảnh, so với Tri Xuân chẳng mạnh hơn bao nhiêu, hơn nữa lúc đó Quách thị đang ngủ mê, sau khi phát cuồng đầu óc đã hỗn loạn. Nếu là như vậy, muốn xiết cổ Quách thị chết không phí mấy sức lực.

Sự sợ hãi của Tri Xuân không phải là thứ Dương Thu Trì hy vọng. COn người trong lúc khẩn trương hay sợ hãi sẽ quên hay bỏ qua một số điều. Hắn trước hết an ủi cô bé một hồi, sau đó nhờ Tống Vân Nhi đưa cho ly nước, nói với cô bé vài chuyện bình thường, từ từ mới khiến Tri Xuân bình tĩnh trở lại.

Tuy giữa đại đường có Tống đồng tri, nhưng thẩm vấn cụ thể thế nào do Dương Thu Trì phụ trách, Tống đồng tri không hề chen lời ngang, để khỏi làm loạn mạch suy nghĩ của hắn.

Dương Thu Trì trước hết bảo Tri Xuân cẩn thận hồi ức lại những điều đã kinh qua khi phát hiện thi thể của tam di thái Quách thị.

Tri Xuân nói: "Tôi nhớ rất rõ là tam di nương treo cổ vào ngày hai mươi tháng 3. Trưa ngày đó không biết tam di nương vì lẽ gì mà nổi điên, sau đó bị kéo đưa về trên lầu, nhất mực rất hưng phấn, cưỡi hết quần áo đi khắp nơi trong lầu. Tôi và bà vú Lữ thị phải dùng sức kéo người về phòng đóng cửa lại, cho người uống nước, náo loạn tới canh ba mới nằm ra giường từ từ ngủ. Bà vú đi coi sóc tiểu thiếu gia, còn một mình tôi nhất mực hầu hạ bên cạnh tam di nương cho tới khi người ngủ hẳn."

Dương Thu Trì chen lời hỏi: "Dương lão thái gia đâu? Người sao không đến thăm Quách di nương?"

"Tam di nương phát rồ nên lão thái gia bực bội vô cùng, mắng người là thương phong bại tục, do đó không thèm đến thăm. Sau đó khi Quách di nương chết rồi, lão thái gia khóc lóc hối hận, nói nếu như đêm đó lão thái gia đến, tam di nương sẽ không treo cổ tự tử."

Nói đến đây, Dương Thu Trì có chút hiếu kỳ hỏi: "Chuyện lão thái gặp quỷ ngươi biết không?"

"Biết, chính là vào đêm sau khi Tam di nương chết. Lão thái gia nói người tưởng niệm tam di nương, muốn đến ngủ trong phòng tam di nương một đêm nữa, hy vọng tam di nương sẽ hiện về báo mộng. Nhưng ngủ đến nửa khuya, lão thái gia đột nhiên kêu la thát lớn, nói là thấy tam di nương đứng bên giường nhìn người cười, khiến cho lão thái gia giật mình sợ chết khiếp. Do căn tiểu lâu đó hiện quỷ, nên từ ngày đó trở đi toàn bộ chúng tôi dời khỏi đó, toàn bộ căn lầu bị khóa lại."

Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, hỏi: "Lúc lão thái gia nói nhìn thấy quỷ, các ngươi có thấy không?"

"Không hề, tôi và bà vú nghe lão thái gia la thét trong phòng của tam di nương, vội vã chạy đến, thấy người đang ngồi dưới đất, sắc mặt đã sợ không còn hạt máu nào, tay chỉ vào phía trước, nói tam di thái ở đó, nhưng tôi và bà mụ chẳng thấy gì cả."

Dương Thu Trì như ngộ ra điều gì đó gật gật đầu: "Ngươi tiếp theo lời vừa kể đi, Quách di nương ngủ xong rồi thì sao?"

"Tam di nương ngủ rồi thì tôi quay về phòng ngủ."

"Phòng ngủ của các ngươi ở đâu?"

Tri Xuân chỉ vào sương phòng cạnh phòng khách: "Chính là ở đây. Sương phòng bên trái có tôi, bà vú và tiểu thiếu gia ngụ, sương phòng bên phải là phòng ngủ của tam di nuơng, trước khi tam di nương chưa có chuyện, Dương lão thái gia cũng thường đến ngủ."

Dương Thu Trì lúc này đã hiểu là căn phòng hắn xé rách cửa sổ nhìn vào thấy nữ nhân đứng đó nhìn hắn cười, và cùng là căn phòng hắn tiến vào thấy có cái nôi trong đó có con mèo đen nhảy ra chính là phòng ngủ của Quách thị. Chẳng lẽ nữ nhân mà hắn nhìn thấy chính là Quách thị? Hay là quỷ hồn của Quách thị?

Trên thế giới này làm gì có quỷ hồn! Dương Thu Trì tin chắn như vậy, và quay sang Tri Xuân ra ý để cô bé kể tiếp.

Tri Xuân nói: "Tôi trở về phòng ngủ, ngủ rất say, nhất mực cho đến sáng sơm hôm sau mới bị tiếng khóc của Sơn nhi làm giật mình tỉnh giấc, liền ngồi dậy nhìn Sơn nhi."

Cái này cũng chẳng trách, cô bé mười bốn tuổi chính là lúc thân thể đang phát triển, tuổi ăn tuổi ngủ, nhưng Dương Thu Trì vẫn thuận miệng hỏi: "Lúc thường ngươi ngủ say vậy sao?"

"Không phải," Tri Xuân đỏ mặt lắc đầu, "Tôi ngủ rất thẻ thức, bỡi vì lúc đó tam di nương thường đi tiểu tiện hoặc uống nước, hơn nữa lại còn phải cho tiểu thiếu gia tiêu tiểu, nên tôi rất sợ ngủ quên, thường uống rất nhiều nước, khi ngủ chỉ cởi áo ngoài."

Tiểu nhà đầu này đúng là khổ, Dương Thu Trì cảm thán, ngay sau đó nghĩ đến một chuyện, hỏi: "Vậy đêm đó ngươi sao ngủ say đến vậy?"

"Tôi cũng cảm thấy rất kỳ quái, tôi thấy tiểu thiếu gia khóc rất lớn ở trên giường, nhưng bà vú vẫn ngủ khò khò, tôi phải dùng sức lắc mạnh bà ấy mới tỉnh."

Dương Thu Trì và Tống đồng tri đưa mắt nhìn nhau, lòng đều nghĩ nếu như lời Tri Xuân kể là thật, thì rất có khả năng là hai người họ bị người ta dùng mông hãn dược hay thuốc an thần gì đó cho uống hoặc đốt khói ngửi phải.

Dương Thu Trì ra dấu cho Tri Xuân kể tiếp.

Tri Xuân nói: "Tôi gọi bà vú dậy lo cho tiểu thiếu gia, sau đó định đi phục thị cho tam di nương dậy, nhưng vừa đến cửa thì đã thấy tam di nương treo cổ trên xà ngang phòng khách rồi."

Nói đến đây, toàn thân Tri Xuân hơi run, dường như vẫn còn kinh khủng vì chuyện năm xưa.

Dương Thu Trì hỏi: "Ngươi nhớ kỹ lại coi lúc đó đại khái là canh mấy?"

"Lúc đó khoảng giờ mão, nhân vì sau đó có nghe Bàng quản gia nói, khi nghe tin tức thì bọn họ đang ăn sáng. Chúng tôi ăn sáng khoảng giờ mão."

"Ngươi nói tiếp đi."

"Tôi chạy vào nói với bà vú, bà vú chạy ra xem cũng sợ hãi kêu rú lên. Sau đó tôi mở cửa phòng ra hành lang kêu lớn, mọi người đều đến, sau đó đại gia...."

"Chờ chút!" Dương Thu Trì ngắt lời Tri Xuân, "Lúc ngươi mở cửa có chú ý đến cửa có cài chắc không?"

Tri Xuân gật đầu khẳng định: "Cài rất chắc, đầu hôm là do tôi cài, sáng ra khi mở ra thấy cửa vẫn còn cài rất chắc."

"Ngươi chẳng phải vội vội vàng vàng nhớ sai chứ?"

"Không đâu, nhân vị cửa phòng không những được cài chặt lại, mà còn dùng một cây song chặn chặt lại. Tôi nhớ rất rõ là cây song này vẫn còn nguyên vị trí, lúc tôi lấy ra quá gấp không kịp đạt ngay ngắn đã bỏ đại trên mặt đất kêu lên một tiếng lớn, còn khiến bản thân giật mình kinh hãi. Do quá gấp, cửa cài quá chặt, tôi mở cây song ra không được mới gọi bà vú ra giúp, sau đó mới mở được cửa."

Tri Xuyên khẳng định như thế xem ra không phải là giả. Xem ra một lát cần phải tra hỏi bà vú rồi so lại lời khai xem có vấn đề gì hay không.

Dương Thu Trì hỏi tiếp: "Tối hôm đó tam di nương có nói với ngươi lời nào khả nghi hay không?"

Tri Xuân ngẫm nghĩ, xong lắc đầu đáp: "Không có, sau khi tam di nương nổi cơn bị chúng tôi kéo về, nhất mực không nói gì, chỉ cười cười ngu ngơ cửi y phục, cho đến tối khi người đã ngủ rồi mà chưa từng nói một tiếng nào."

"Ngươi phục thị tam di nương của các ngươi bao lâu?"

"Lúc tam di nương đến Dương gia thì Dương lão thái gia đã sai tôi đi phục thị người."

"Vậy trước đây ngươi đã từng thấy tam di nương phát cơn như vậy chưa?"

Tri Xuân nhớ lại, đáp: "Không hề, trước đó chưa hề có lần nào."

"Ngươi đem chuyện tam di nương phát cơn kể ra hết một lượt xem sao." Tri Xuân khẽ ửng đỏ hai gò má, cúi thấp đầu bẻn lẻn kể: "Ngày đó sau khi ăn cơm chiều xong, tôi đang ở phòng cùng bà vú chơi đùa với tiểu thiếu gia thì nghe tam di nương cười cười chạy xuống dưới lầu, tiếng cười rất kỳ quái, hơi ngu ngu thế nào ấy."

"Tôi liền vội chạy theo gọi tam di nương, thì thấy tam di nương vừa cười khì khì vừa cởi quần áo chạy thẳng một mạch tới vườn nhà của đại thiếu gia. Đại thiếu gia nghe tiếng tôi hô, liền chạy từ trong phòng ra, lúc này tam di nương đã cởi gần hết rồi, một mạch nhảy vào ôm chặt đại thiếu già, còn đòi... đòi đại thiếu gia phải tức thời cùng người..."

Tri Xuân cúi thấp đầu hơn, mắc cỡ dừng lời kể lại, nhưng ai cũng biết ý cô bé nói về cái gì.

Dương Thu Trì cũng cảm thấy ngượng, không tự chủ được quay sang nhìn Tống Vân Nhi. Tống Vân Nhi tuy không biết ý tứ đích xác của Tri Xuân là gì, nhưng nghe Quách thị cởi quần áo ôm nam nhân, hai má cũng đỏ hồng.

Dương Thu Trì vội quay đầu lại hỏi: "Sau đó thì sao? Nói rõ một chút."

"Đại thiếu gia sợ quá kêu to lên, nhưng không dám đẩy Tam di nương ra, đành để tam di nương ôm chặt. Tôi vội kéo ra nhưng không biết tam di nương lấy đâu ra sức lực cực mạnh, tôi căn bản chẳng thể kéo ra được."

"Đến lúc này thì lão thái gia, đại phu nhân, nhị di nương và còn có Bàng quản gia đều đến, cùng động thủ mới tách được Tam di nương. Kết quả là Tam di nương ôm lấy Bàng quản gia, khiến Bàng quản gia sợ té xuống đất. Đại phu nhân đánh tam di nương mấy bạt tai, tam di nương cứ cười khì khì như không hề biết đau vậy."

"Nhị di nương cũng muốn đánh tam di nương vài cái tát, nhưng bị tam di nương xô té dưới đất. Nhị tiểu thư liền bước lên đạp cho tam di nương một cái vào ngực, khiến tam di nương bị té ngồi xuống đất, mọi người định nhào lên bắt lại để mặc y phục cho người, không ngờ tam di nương thoắt cái vụt dậy chạy ra khỏi vườn, chảy ra cửa lớn mới bị gia đinh bắt lại."

"Lão thái gia tức giận luôn miệng mắng tam di nương không biết liêm sĩ, làm thương phong bại tục, trói người lại định trị tội. Mấy nha hoàn chúng tôi vội kéo lại giúp tam di nương mặc y phục rồi đưa về lại lầu rồi khóa cổng vườn lại."

Dương Thu Trì kỳ quái hỏi: "Tối hôm đó cửa vườn được khóa lại sao?"

"Khóa lại. Trước đó chỉ cài then từ bên trong là được, nhưng hôm đó sợ tam di nương nhân lúc chúng tôi không chú ý lại chạy ra ngoài phát cuồng nữa, nên Dương lão thái gia gọi mọi người khóa cửa vườn từ bên ngoài luôn."

Dương Thu Trì cảm thấy thật không còn gì nói nữa, tam di nương này thật là đáng thương. Từ sự mô tả triệu chứng của Tri Xuân, tam di nương hiển nhiên không phải uống phải xuân dược phát tình - uống thuốc kích dục đương nhiên sẽ cảm thấy hưng phấn, nhưng là một thứ hưng phấn có lý trí, hay có thể nói là dù có sự thúc đẩy dục tình, nhưng còn không đến nổi phải cởi bỏ quần áo chạy rông khắp nơi.

Tam di nương có thể là đã bị một chứng bệnh tinh thần phân liệt theo loại thanh xuân. Nếu mắc phải thứ bệnh này, nữ bệnh nhân thường thể hiện kịch liệt hơn nam nhân, lại rất dễ phát vào tuổi thiếu thời đẹp như hoa như ngọc, nên mới gọi là chứng "hoa điên" hay "hoa si" trong Trung y.

Nói cho đơn giản, Hoa si là một loại bệnh về tinh thần, là hiện tượng khi tinh thần hoạt động có xuất hiện những chướng ngại về tư duy, biểu hiện chủ yếu là khi xuất hiện hiện tượng vọng tưởng về tiếng sét ái tình, vừa gặp đã say mê, hay là tính đố kỵ ... Về ý thức, trong tình huống thông thường, bệnh nhân thường xuất hiện các ảo giác về nghe, ngửi, thấy liên quan đến những vấn đề tính giao, cụ thể là nhìn thấy người ta đang quan hệ, nghe thấy tiếng rên rĩ... dù thực tế không hề xảy ra.

Tam di nương cởi quần áo chạy đi tìm đại thiếu gia, trước mặt nhiều người ôm đại thiếu gia đòi hỏi... chính là điển hình của hiện tượng tinh thần phân liệt do ảo tưởng, là một thứ ảo tưởng "bị chung tình", ảo tưởng cho rằng nam nhân mà mình ái mộ cũng yêu mình, và trong tình huống bị chi phối do thần kinh bị kích động quá mạnh mới dẫn đến hành vi mà người thường không thể nào thực hiện như thế.

Cơ lý phát bệnh "hoa si" còn chưa được xác định rõ, đó là thứ cải biến không rõ ràng về hình thái học ở đại não, thường được cho rằng nó thuộc về sự bất ổn trong dịch tiết nội tiết thần kinh của bất kỳ thiếu niên nam nữ nào. Những người có khuynh hướng ảo tưởng càng mạnh, thì khả năng chịu đựng đả kích càng kém. Và một khi sự đả kích quá mạnh khiến cho hóc môn chống stress của thần kinh suy kiệt, nó sẽ phát sinh những phản ứng tổng hợp tạo thành bệnh hoa si.

Và những kích thích dẫn đến việc nam nữ thanh niên phát bệnh hoa si nàythường phát sinh từ sinh hoạt xã hội, sinh hoạt tình cảm, và thậm chí từ tác dụng phụ của một số loại thuốc nào đó.

Tam di nương rốt cuộc là gặp phải sự đả kích gì mà phát bên hoa si? Hiện giờ hắn vẫn còn chưa biết.

Dương Thu Trì lại hỏi: "Sau khi phát hiện tam di nương treo cổ chết, ai là người đỡ dì ấy xuống?"

"Là tôi," Tri Xuân đáp, "Đại phu nhân bảo tôi đỡ thi thể của tam di nương xuống, gọi Bàng quản gia gỡ dây treo ra. Lúc đó tôi rất sợ, không dám leo lên, bị đại phu nhân đánh cho ba bạt tai, không còn cách nào khác mới bước lên ôm đùi của tam phu nhân. Bàng quản gia đỡ cái ghế ngã cạnh đó định bước lên gỡ dây ra, thì đại thiếu gia đã nhanh nhẹn nhảy lên ghế mở dây ra trước. Tam di nương rất nặng, tôi ôm không nổi suýt té, rất may là bà vú bước lên phụ tôi, mới từ từ đặt được tam di nương xuống đất."

Nghe đến đây, Dương Thu Trì chợt động tâm, tam di nương phát hoa si thì chạy đi ôm người đầu tiên là đại thiếu gia Dương Thanh Thủy, cho thấy nàng ta đã bị ảo tưởng về sự chung tình, ý trúng nhân trong nội tâm nhất định là đại thiếu gia Dương Thanh Thủy. Hiện giờ đại thiếu gia là người đầu tiên đến cởi dây treo cổ, xem ra quan hệ của hai người không đơn giản chút nào.

Nếu như án này là trong ứng ngoại hợp, thì Dương Thanh Thủy là người bị hiềm nghi nhiều nhất.

Phá án liên quan đến tính mạng thì vấn đề trọng yếu nhất là thời gian người bị hại có liên quan gì đến người bị hiềm nghi hay không.

Dương Thu Trì hỏi nha hoàn Tri Xuân: "Lúc ngươi ôm dì ấy, thân hình dì ấy còn nóng không?"

"Đã lạnh ngắt rồi."

Tay người cảm giác lạnh thì nhiệt độ ứng với khoảng dưới ba mươi độ C. Quách thị chết vào lúc trời vào xuân, hoa nở, khí hậu hơi ấm, do đó án chiếu thiếu tốc độ thi thể lạnh đi trong điều kiện bình thường mà xét, thì thời gian chết đại khái đã hết khoảng sáu tiếng đồng hồ.

Chỉ dựa vào nhiệt độ thi thể không đủ để phán đoán, Dương Thu Trì truy vấn: "Lúc ngươi đỡ thi thể của tam di thái xuống, cảm giác tay chân của dì ấy có cứng không? Nhớ cho thật kỹ xem, lấy hết khả năng kể cho rõ từng chút một."

"Đã cứng ngắt rồi, nhưng lúc tôi đỡ người xuống đất thì chân vẫn còn mềm, có thể gấp lại, lúc bắt mạch thì phát hiện tay của người không thể co lại, lúc cởi dây tròng cổ của người ra có ôm nâng đầu lên, cần cổ của người không thể co dũi được, cả người đều ưỡn lên."

Dương Thu Trì nghe lời thuật lại của Tri Xuân, lập tức biết hiện tượng thi cương của Quách thị mang tính chuyển xuống dưới, cổ và tay đều đã không uốn cong được, nhưng chân có thể uốn cong, từ trên phát triển xuống dưới chính là biểu hiện của hiện tượng thi cương hạ hành (xuôi dòng, chuyển xuống dưới).

Do vẫn chưa hình thành hiện tượng thi cương cao cường độ ở toàn thân, như vậy có thể nói thân trên đã có thi cương nhưng ở thân dưới thì chưa. Nếu chiếu theo điều này mà xét, thì thời gian chết ứng vào khoảng bốn giờ, như vậy chính vào khoảng 2 giờ đêm.

Tri Xuân tiếp tục kể: "Sau đó khi nhập liệm Dương lão thái gia có bảo chúng tôi rửa toàn thân cho tam di thái và thay y phục, lúc đó phải phí rất nhiều sức lực mới làm cho tay cong lại. Mặc quần áo xong rồi, chờ đến khi đưa vào trong quan tài, tay của người cứng lại không gập vào nữa.

Nghe đến đây, Dương Thu Trì chợt động tâm: cứng trở lại? Cái gọi là cứng trỡ lại này chính là sau khi thi thể xuất hiện thi cương, dùng ngoại lực cường hành giải trừ hiện tượng cứng của các bộ phân cơ thể rồi thì sau đó sẽ cứng trở lại, chỉ có điều hiện tượng này chỉ xuất hiện sau khi chết từ năm đến sáu giờ. Điều này rất hữu dụng cho sự phán đoán về thời gian tử vong.

Dương Thu Trì truy vấn: "Tam di nương của các ngươi sau khi được đưa vào quan tài rồi đại khái cách thời gian phát hiện bao lâu?"

"Đại khái khoảng một canh giờ, nhân vì sau khi phát hiện tam di nương treo cổ chết, đại phu nhân sợ sẽ tụ khí tà, nên lệnh cho Bàng quản gia lập tức đến nhà hòm họ Vương trong thôn mua một cái quan tài. Quan tài đó còn chưa kịp trang trí, nhập quan tẫm liệm xong rồi mới gắn hoa văn vào."

"Lúc ngươi đỡ tam di nương xuống đất, có phát hiện tay chân của dì ấy có dị dạng gì không?" Dương Thu Trì hỏi vậy là vì nếu bị treo đứng thì hiện tượng thi ban sẽ xuất hiện rất nhiều ở tay chân và bụng dưới.

Ti Xuân cúi đầu trầm tư một lúc, đáp: "Tay chân tam di nương vốn rất trắng và mịn, nhưng khi chúng tôi đỡ người xuống, bắt mạch của người thì phát hiện tay đen tím rất đáng sợ. Sau đó khi thay quần áo và vệ sinh thân thể, phát hiện bụng dưới và gan bàn chân tím đen."

Như vậy có thể nói lúc Tri Xuân phát hiện thi thể thì đã xuất hiện thi ban, do đó thời gian tử vong phải từ hai giờ trở lên.

Lúc nãy Tri Xuân nói tam di nương ngủ vào khoảng canh ba, chính là vào khoảng mười hai giờ đêm. Phát hiện thi thể vào giờ mão, tức là khoảng sáu giờ sáng. Phát hiện hiện tượng cứng trở lại vào khoảng một canh giờ nữa, ứng vào khoảng tám giờ. Hiện tượng cứng trở lại thường phát sinh sau khi chết khoảng sáu giờ, kết hợp thêm với nhiệt độ cơ thể mà phán đoán, thì thời gian tử vong của Quách thị là vào lúc 2 giờ đêm.

Hỏi xong mấy điều này, Dương Thu Trì đột nhiên đanh mặt, lạnh lùng bảo: "Được rồi, chúng ta quanh đi quẩn lại cả buổi, hiện giờ nên nói vào chính sự đây. Tri Xuân, ngươi hãy thành thật khai ra, ngươi làm cách nào xiết cổ chết tam di nương của các ngươi, sau đó đem dì ấy ngụy trang thành treo cổ tự sát vậy? Thành thật khai ra, nếu không sẽ phải chịu cái khổ đau đớn da thịt!" Tống đồng tri nghe thế, cả kinh hỏi: "Vì sao có thể nhận định như vậy?"

Dương Thu Trì chỉ vào xà ngang cao cao ở trên: "Hai năm trước tiểu nha hoàn này mới mười hai tuổi, đại nhân cảm thấy ả lúc đó có thể nào ôm thi thể nặng như thể đưa lên dây thòng lọng được hay không, hay kéo thi thể lên được hay không?"

Do người mới chết thường vừa nặng vừa mềm oặt, tuy Quách thị hơi nhẹ, nhưng để ôm một thi thể mềm oặt như thế đưa lên dây thòng lọng thì phải cần người có chút thể lực, Tri Xuân mới mười hai tuổi, là một cô bé bình thường, thì dĩ nhiên không thể làm được như vậy (Tống Vân Nhi có võ công cao cường thì lại khác.)

Tống đồng tri và Tống Vân Nhi đều chợt ngộ ra, gật đầu tán đồng.

Tống Vân Nhi ngẫm nghĩ chút lại hỏi: "Vậy Tri Xuân này có khả năng là nội ứng không, mở cửa cho người khác vào, để người khác giết người rồi treo cổ?"

Dương Thu Trì nhìn Tống Vân Nhi tán thưởng, gật gật đầu: "Còn có khả năng này nữa, và như thế thì Tri Xuân chính là tòng phạm, chân hung còn có người khác, nhưng mà," Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, "Còn có khả năng khác, đó là Tri Xuân và bà vú hợp mưu giết người, nếu không thì không thể tránh được chuyện bà vú phát giác tiếng động gì đó."

Tống đồng tri cũng chen lời: "Nếu, nếu như bà vú bị đánh thuốc mê thì sao? Nếu vậy ả đâu thể biết được."

Dương Thu Trì lại gật đầu: "Khả năng này cũng lớn, vừa rồi nha hoàn Tri Xuân còn nói, bà mụ ngủ rất say, đứa bé khóc to mà không nghe, trong tình huống bình thường thì vú em sẽ không như vậy. Do đó chúng ta cần phải thẩm vấn bà vú Lữ thị xong rồi mới phán đoán được."

Nói đến đây, Dương Thu Trì thưa với Tống đồng tri: "Bá phụ, Lữ thị này do người thẩm vấn đi thôi."

"Cái đó....!" Tống đồng tri hơi chần chờ, "Nói thật, hiền điệt à, trước, trước đây ta thẩm án còn hơi tự tin, chứ từ, từ khi thấy cháu phá án như thần, ta, ta không dám tra hỏi án nữa. Chỉ sợ sẽ có gì sai, hay, hay là cháu cứ thẩm vấn đi."

Dương Thu Trì mỉm cười: "Bá phụ quá khiêm nhường rồi, lão gia ngài thẩm án biết bao nhiêu năm rồi, ăn muối còn nhiều hơn cháu ăn gạo, kinh nghiệm phong phú quá rồi, sao tiểu điệt có thể sánh được chứ."

Chỉ mấy câu vuốt mông ngựa mà đã khiến Tống đồng tri như bay lên tận mây xanh, lão cảm thấy rất vừa ý.

Dương Thu Trì lại nói tiếp: "Tiểu điệt hoài nghi bà vú là hung thủ chân chính, hơn nữa bà vú sẽ cứng đầu không chịu khai. Bá phụ người đối với thứ điêu dân này rất có biện pháp. Người ra tay thẩm vấn càng chắc ăn hơn."

Hắn lại vuốt mông ngựa tiếp, khiến Tống đồng tri gật đầu liên tục, cười hì hì nói: "Nếu như đã thế, để ta, ta thẩm vấn coi sao."

Dương Thu Trì muốn nhường cho Tống đồng tri thẩm vấn là vì trong hai người hiềm nghi trong án này, nha hoàn Tri Xuân khó có khả năng là hung thủ, do đó bà vú Lữ thị chính là kẻ bị hiềm nghi phạm tội lớn nhất. Nhưng bản thân hắn không có chứng cứ gì chứng minh Lữ thị phạm tội, chỉ dùng phương pháp bài trừ để đưa ra kết luận này. Hắn đề nghị Tống đồng tri tự thân thẩm vấn, chính là muốn coi xem việc dùng phương pháp đoán định phạm tội có dẫn tới đột phá gì hay không, hơn nữa dù sao đó cũng là phương cách hợp pháp ở Minh triều.

Đến lúc này thì bà vú đã được giải vào, quỳ phịch xuống đất khấu đầu.

"Tính danh của phạm phụ!" Câu đầu tiên Tống đồng tri đã tặng cho người ta cái mác "phạm phụ", nói rõ "đoán định phạm tội" đã ăn sâu thâm căn cố đế trong lòng của các quan lại Minh triều như Tống đồng tri rồi.

"Dân phụ Lữ thị."

"Ngươi trước hết đem sự tình đã trải qua đêm đó kể lại hết một lượt, nếu có nói sai câu nào, tức thời sẽ chịu cái khổ da thịt!"

"Vâng! Dân phụ không dám." Lữ thị đem chuyện đêm đó kể lại một lượt, so với lời kể của Tiểu nha hoàn Tri Xuân không khác bao nhiêu, có những tình tiết quan trọng được hai người kể lại giống y như nhau, ví dụ như đêm đó cửa và cửa sổ được đóng chặt, trong phòng họ không còn có ai khác, không có dấu vết người ngừoi đột nhập vào.

Lữ thị kể xong, Tống đồng tri lạnh lùng nói: "Phạm phụ Lữ thị, ngươi xiết cổ chết tam di nương của các ngươi như thế nào hãy tình thật khai ra!"

Bà vú giật mình sợ hãi, vội vã khấu đầu kêu: "Dân phụ oan uổng, tôi không có giết tam di nương a."

"Nói láo!" Tống đồng tri quát lên, "Trong phòng chỉ có ngươi và nha hoàn Tri xuân, Tri Xuân lúc đó mới mười hai tuổi, tuyệt đối không có cách gì ôm thi thể tròng vào dây thòng lọng."

Tống đồng tri hiện giờ vừa học vừa áp dụng ngay, nhìn thân thể chắc nịch của Lữ thị: "Ngươi vốn là một nông phụ, thứ chuyện nặng nề này đối với ngươi chẳng khó gì, không phải ngươi thì còn là ai?" Những lời sau đó thì là tự lão lý giải, xem ra Tống đồng tri chẳng phải là người chỉ dựa và đánh đập mà phán loạn, cũng có để tâm chú ý quan sát mà phân tích ra nữa.

Lữ thị càng sợ hãi hơn, đáp: "Dân phụ oan uổng a, Hôm đó sau khi để Tri Xuân hầu hạ tam di nương, tôi mang tiểu thiếu gia đi và ngủ rất sớm, không biết vì sao mà đêm đó tôi ngủ rất say, nhất mực tới trời sáng khi Tri Xuân gọi mới tỉnh dậy."

"Toàn là lời nói láo! Rõ ràng là ngươi nhân lúc tiểu nha hoàn tuổi đang lớn ngủ say, xiết cổ tam di thái còn đang ngủ mê, sau đó treo ả lên xà nhà ngụy trang treo cổ tự sát."

"Tôi không có a, đại nhân, tôi bị oan a."

"Oan uổng? Trong phòng chỉ có hai ngươi, không phải nó thì là ngươi! Ngươi nói ngươi oan uổng, nếu như ngươi có thể đưa ra chứng cứ chứng minh ngươi oan uổng, bổn quan sẽ tha cho ngươi."

Không hiểu sao chứng cà lăm của Tống đồng tri khi tra án biến đi đâu mất. Lữ thị làm gì trưng ra được chứng cứ nào, chỉ có thể nói: "Tôi lúc đó đang ngủ a, tôi thật không biết gì hết."

"Còn dám cãi bướng, người đâu, kéo ra ngoài đánh ba chục hèo cho ta!" Tống đồng tri quát lên.

Vốn ra đối với nữ phạm thì khi dùng hình theo luật là phải dùng dụng cụ kẹp ngón tay, nhưng hiện giờ không có nên chỉ có thể dùng hèo đánh.

Dương Thu Trì không hề ngăn trở, nhân vì hắn không còn biện pháp nào khác. Hơn nữa, hiện giờ Tống đồng tri đang thẩm án, nhưng thật ra là đã dùng biện pháp của hắn. Hơn nữa, phân tích của Tống đồng tri rất có đạo lý, trong phòng chỉ có hai người họ, không phải người này thì người kia, ngươi không nhận tội thì theo Đại Minh luật đương nhiên có thể dùng hình.

Ba hộ vệ kéo Lữ thị ra ngoài hành lang kiếm một ghế dài cho nằm lên đánh lịch bịch một hồi, mặc cho Lữ thị luôn miệng kêu gào thảm thiết.

Ba chục hèo được đánh xong, họ kéo Lữ thị vào quẳng phục xuống đất.

Tống đồng tri hỏi: "Lữ thị, hiện giờ có khai hay không?"

Lữ thị đau đến nỗi mồ hôi ướt bệt cả người, dưới đùi đầy máu, thở hồng hộc thưa: "Đại nhân, dân phụ đúng là oan uổng mà."

"Điêu dân đại đảm, ngươi cho là thân thể ngươi cứng có thể chống nổi thiết bảng của ta hay sao? Người đâu, đem ả đi đánh ba mươi hèo nữa!"

Bọn hộ vệ lại kéo Lữ thị ra đánh thêm ba mươi roi, sau đó lại kéo vào quẳng đó.

Sáu mươi hèo này đánh xong thì Lữ thị suýt hôn mê đến nơi, nhưng vẫn còn chưa chịu khai.

Tống đồng tri còn muốn dùng hình tiếp, Dương Thu Trì đưa tay ngăn lại, lòng nghĩ chỉ sợ đánh tiếp sẽ dẫn đến sợ đánh mà khai thôi. Chẳng lẽ chẳng phải Lữ thị và Tri Xuân làm? Không phải họ thì là ai? Dù sao thì Sơn nhi ba tuổi không thể làm được chuyện này.

Dương Thu Trì cảm thấy đầu bắt đầu to lên, thứ án lâu năm này thật là phiền, thời gian đã quá trưa rồi mà chẳng điều tra ra thứ gì. Án này tuy có hai người bị hiềm nghi, nhưng độ khó vẫn không ít.

Tống đồng tri không biết vì sao Dương Thu Trì ngăn không cho lão dùng hình, hỏi: "Hiền điệt,..."

Dương Thu Trì vội đáp: "Trưa rồi, ăn cơm trước đã."

Tống Vân Nhi cũng chen lời: "Đúng a, cha, hãy cho Lữ thị ăn chút gì đó, hơn nữa phải để ả chiếu cố Sơn nhi, nếu đánh dữ quá thì Sơn nhi sẽ làm sao?"

Dương Thu Trì thầm nghĩ, cô nói giờ đã muộn rồi, đánh người ta những sáu chục hèo, còn bắt người ta chiếu cố tiểu hài thì có thánh mới làm nổi.

Quả nhiên, Lữ thị chẳng thể nào đứng nổi. Tống đồng tri chỉ còn biết cho người báo nha hoàn khác đỡ ả xuống nhà rồi giam lại. Ả hiện giờ là kẻ hiềm nghi trọng điểm, không thể để xảy ra vấn đề gì. Lúc dùng cơm, Dương lão thái gia ngồi tiếp một bên. Trong nhà xày ra án mạng, vừa là khổ chủ vừa là hiềm phạm, thân phận song trọng khiến cho Dương lão thái gia vô cùng áy náy.

Dương Thu Trì ngược lại luôn miệng an ủi Dương lão thái gia. Phạm vi của án này rất nhỏ, nhất định sẽ nhanh chóng phá được, thậm chí chẳng ảnh hưởng đến chuyện mừng năm mới. Nghe nói thế, Dương lão thái gia mới hơi an tâm.

Lão an tâm rồi thì đến lượt Dương Thu Trì lòng nặng như đeo đó. Tri Xuân và Lữ thị đều không nhận tội. Yếu tố thân thể của Tri Xuân bài trừ khả năng phạm tội của cô bé, lại không có chứng cứ chứng minh cô bé mở cửa cho người khác vào thực thi hành động phạm tội, còn Lữ thị thì dùng hìh cụ rồi mà không chịu nhận, do đó án này rơi vào ngõ cụt, khiến hắn an tâm sao được?

Tống Vân Nhi thì cứ lo cho Sơn nhi, hỏi bọn người hầu mới biết Bàng quản gia đã an bài cho Tri Xuân tạm thời chiếu cố Sơn nhi, nhưng Tống Vân Nhi không an tâm, muốn tự thân đế xem coi sao.

Dương Thu Trì cảm thấy Tống Vân Nhi đối rất tốt với trẻ con, xem ra bản năng làm mẹ người nữ nào cũng có, mặc cho cô là vũ hiệp nữ anh hào hay là nông phụ phổ thông.

Tống Vân Nhi thấy Dương Thu Trì rầu rầu không vui, bèn kéo hắn cùng đến xem em bé để giải khuây.

Dương Thu Trì muốn đi xem con trai Dương lão thái gia, lão đương nhiên muốn theo cùng. Tống đồng tri không có chuyện gì làm, cũng đi cùng đến phòng của Tri Xuân xem cậu bé.

Bọn họ đến phòng của Tri Xuân thì thấy cô bé đang cho Sơn nhi ăn.

Ngày trước Dương Thu Trì đã từng thấy qua Sơn nhi, nhưng lần đó cậu bé bị Lữ thị bao trong lớp chăn dày nhìn không rõ, hiện giờ nhìn kỹ khiến hắn giật nãy cả mình.

Sơn nhi đã hai tuổi, theo đạo lý thì sống trong nhà giàu như Dương lão thái gia, điều kiện sinh hoạt đều tốt thì cậu bé phải mập mạp khỏe mạnh, đằng này Sơn nhi mạt mũi vàng khè, đầu chỉ mọc mấy cọng tóc vàng hoe khô như rễ tre, mặt không có chút huyết sắc nào, màu vàng lẫn lộn màu đen, ăn uống rõ ràng là không tốt, ăn một chút mà đã ói ra gần hết, cứ khóc mãi dỗ không nín.

Tống Vân Nhi ẵm Sơn nhi lên làm ma nhát, Sơn nhi liền nín khóc, đưa bàn tay nhỏ nhắn ra chộp vào mũi Tống Vân Nhi. Tống Vân Nhi cầm tay cậu bé, cảm giác bàn tay nhỏ bé gầy khô giống như que củi vậy.

Nhìn tình cảnh này, Tống Vân Nhi tức giận không sao kể xiết, cầm tay Sơn nhi lên trách Dương lão thái gia: "Các ngươi chiếu cố hài tử như vậy sao? Ông coi nè!" Dương Thu Trì cùng mọi người nhón người lên xem, lại giật thót người thêm cái nữa, thấy bàn tay nhỏ nhắn của Sơn nhi xem ra còn khô và xấu hơn của một ông lão, lại có thêm rất nhiều chấm đỏ nhỏ trên da.

Dương lão thái gia nhân vì tam di thái phát bệnh hoa si mà nghi ngờ đứa bé này không phải là con mình, từ đó lão chẳng thèm ngó ngàng đến hài tử, nói gì đến việc quan tâm chăm sóc.

Hiện giờ nghe Tống Vân Nhi hỏi như vậy, Dương lão thái gia mới chú ý nhìn kỹ Sơn nhi, cả kinh hỏi: "Nó làm sao mà ốm quá như vậy? Đã xảy ra chuyện gì?"

Bàng quản gia ở bên cạnh vội vã thưa: "Hồi bẩm lão ga, tiểu thiếu gia từ khi sinh tới giờ thể trạng yếu ớt nhiều bệnh, đã tìm rất nhiều lang trung bốc thuốc nhưng mãi không hết."

"Đồ phế vật vô dụng!" Dương lão thái gia mắng.

Dương Thu Trì nãy giờ cứ nhíu mày nhìn Sơn nhi, đến lúc này mới bảo: "Để ta coi coi." Nói xong sắc mặt ngưng trọng ăm Sơn nhi từ tay của Tống Vân Nhi.

Tống Vân Nhi mừng rỡ: "Ca, huynh biết coi bịnh nữa sao? Sao mà muội lại không biết vậy cà."

Dương Thu Trì không trả lời, ôm Sơn nhi đi đến bên cạnh giường, đặt câu bé xuống rồi cởi giày ra, cầm bàn chân nhỏ xíu của cậu bé lên xem, thấy nó cũng khô khan ốm yếu giống như bàn tay vậy, thập chí còn đầy da sần còn hơn cả dân công đi chân không nữa.

Tống Vân Nhi tức giận, quát hỏi Bàng quản gia: "Thế là làm sao? Ngươi coi đứa bé này nè, bộ các ngươi mỗi ngày bắt nó chân không chạy trên đá suốt hay sao vậy?"

"Không có a!" Bàng quan gia trước giờ không chú ý bàn chân không của đứa bé, giờ nhìn mà điếng người, cúi xuống sờ sờ chân cậu bé, khủng hoảng nói, "Tôi thấy bà vú Lữ thị chiếu cố tiểu thiếu gia rất tốt, rất cẩn thận a, tôi chỉ nghĩ tiểu thiếu gia yếu ớt nhiều bệnh, thật không ngờ.... Tôi đi kéo con Lữ thị độc phụ đó lên đây hỏi cho ra lẽ!"

"Không cần hỏi!" Dương Thu Trì phất tay. "Ta biết vì sao rồi."

Bàng quản gia cùng mọi người nghi hoặc nhìn Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì vuốt ve bàn chân của cậu bé, cất giọng trầm trọng nói: "Sơn nhi rất có khả năng là đã bị trúng độc rồi! Theo dạng này thì cậu bé không sống đến mùa hè năm sau!"

Dương lão thái gia cùng mọi người đều kinh hãi ngẫn ra. Bàng quan gia vội lên tiếng hỏi: "Dương công tử, thiếu gia của chúng tôi thật là bị trúng độc sao? Công tử làm sao biết được?" Dương lão thái gia, Tống đồng tri, Tống Vân Nhi, bao gồm cả nha hoàn Tri Xuân đều khẩn trương nhìn Dương Thu Trì chờ câu trả lời của hắn.

Dương Thu Trì nói: "Tuy ta vẫn còn chưa dám khẳng định, nhưng cũng hết tám chín phần mười là đã bị trúng độc rồi." Dương Thu Trì nâng chân của Sơn nhi chỉ cho mọi người xem, sau đó sờ tay và mặt cậu bé, nói: "Các người xem da của một đứa bé ba tuổi có khi nào khô ráp như thế này chưa? Cái này chính là bị sừng hóa quá độ."

Hắn lại chỉ vào vài cọng tóc le hoe trên đầu Sơn nhi: "Mọi người xem tóc đã vàng cháy trên đầu Sơn nhi, sắc mặt lại vàng vọt xấu xa, trong màu vàg có lẫn màu đen, theo như ta tính không lầm, thì da trên người của Sơn nhi cũng có màu vàng xen lẫn màu đen." Nói xong hắn cởi y phục của Sơn nhi ra, quả nhiên da của cậu bé bọc xương và có màu vàng đen.

Dương Thu Trì ngầm hiểu rõ đây là sắc tố dưới da bị xạm lại, nhưng không có cách gì nói rõ với họ được.

Dương Thu Trì lại hỏi nha hoàn Tri Xuân: "Có phải Sơn nhi cứ ăn vào lại nôn ra? Và thường đi tiêu chảy không?"

Nha hoàn Tri Xuân gật đầu: "Đúng vậy, lang trung đã bốc thuốc cầm tiêu chảy và chống nôn, nhưng không có hiệu quả gì."

"Đương nhiên không hiệu dụng," Dương Thu Trì nói, "Sơn nhi bị trúng độc mạn tính, nguồn độc dược chưa bị cắt thì cậu bé cứ đi tiêu chảy và ói mửa hoài, chừng nào chết thì thôi!"

Thứ thuốc độc mạn tính này rất dễ bị chuẩn đoán thành những bệnh liên quan đến đường tiêu hóa hoặc bệnh về da, và các lang trung nhìn không ra không có gì là lạ.

Tống Vân Nhi hậm hực bảo: "Thật là táng tận lương tâm! Ca, Sơn nhi bị trúng độc gì vậy?"

"Tỳ sương, rất có thể là bỏ trong thứ ăn, mỗi ngày cho một chút, khiến Sơn nhi từ từ trúng độc, từ từ tích tụ càng nhiều, cho đến khi phát độc mà chết."

"Đúng là ác độc! Người này là ai?" Hai mắt Tống Vân Nhi như phát hỏa, quay lại chộp lấy Tri Xuân hỏi: "Có phải là ngươi không?"

Tiểu nha hoàn sợ đến mềm nhũn người, run bần bật kêu lên: "Không, không, không phải tôi, tôi sao lại đi hạ thứ độc thủ này. Không phải đâu a."

"Không phải ngươi thì còn là ai?" Tống Vân Nhi trừng mắt nhìn nha hoàn Tri Xuân, "Chẳng lẽ là bà vú Lữ thị?"

Dương Thu Trì tiếp lời: "Rất có khả năng, chỉ có ả ta mới có cơ hội hạ độc mỗi ngày mà không bị phát giác. Nếu như ta đoán không lầm, ở chỗ ả nhất định còn cất giấu tì sương. Hôm nay ả đột nhiên bị bắt, nhất định chưa kịp tiêu hủy tội chứng."

Dương lão thái gia tức giận quát: "Con ác phụ này, lão phu phải chặt thây nó ra làm vạn đoạn! Đi, đi khám xét phòng của nó!" Tuy còn chưa xác định Sơn nhi rốt cuộc có phải là con trai của lão hay không, nhưng dùng thứ thủ đoạn này để đối phó với một đứa bé, phàm là người có lương tri đều không thể chịu được.

Mọi người cùng đến phòng của bà vú Lữ thị, lật tử lật giường bắt đầu tìm kiếm.

Gian phòng này trang trí rất đơn giản, nên cuối cùng Tống Vân Nhi phát hiện được ở đầu giường của Lữ thị có một cái ô kín, từ đó có thể tìm thấy mấy đĩnh bạc và một gói nhỏ chứa bột màu trắng.

Lượng bạc tìm được càng làm rõ vấn đề hơn. Số bạc này ít nhất cũng năm sáu chục lượng. Bà vú Lữ thị là một nông phụ ở hương thôn, là một người nghèo quá mới bán thân vào làm vú ở Dương gia, mỗi tháng chỉ hưởng được khoảng hai ba trăm văn tiền, làm gì có số bạc nhiều như vậy? Nhất định là được người xúi giục đưa cho để làm chuyện xấu.

Tống đồng tri ra lệnh đem bà vú Lữ thị lên phòng, Lữ thị vừa vào thấy đầu giường bị mở toát ra, hộc kín bị lộ, gói bột phấn và mấy đĩnh bạc đặt ở bên cạnh, tức thời dịu oặt xuống đất.

Tống đồng tri lạnh giọng quát: "Lữ thị, nhân chứng vật chứng đều đã rõ, còn không chịu khai, chẳng lẽ còn muốn chịu đại hình hay sao?"

Mặt mày Lữ thị tái ngắt, run run đáp: "Đại nhân tha mạng a, tôi xin khai, tôi hạ độc thiếu gia, đại nhân, lão thái gia tha mạng a."

Dương lão thái gia tức giận đến nỗi râu vễnh cả lên: "Ngươi, ngươi là kẻ mặt người lòng dạ như súc sanh...!" Quát xong lão rối rít ra lệnh cho Bàng quản gia lấy hèo trừng trị theo gia pháp đánh chết Lữ thị.

Bàng quản gia cũng tức đến mắt đỏ hồng, kêu lên: "Lão gia, không cần phí sức như vậy, để tội bóp chết con tặc phụ này là được rồi!" Nói xong xoắn tay áo lên định động thủ.

Tống đồng tri quát: "Khoan đã! Lữ, lữ thị này là bà vú, không có lý do, do bỏ độc chết thiếu gia, nhất, nhất định là có người đứng, đứng sau lưng, hỏi cho ra lẽ rồi, rồi hẳn hay."

Dương Thu Trì thầm khen ngợi, Tống đồng tri quả thật là có kinh nghiệm, dù gì cũng là người nhiều năm thực thi tư pháp, điểm thường thức này hẳn nhiên là có.

Dương lão thái gia gật đầu lia lịa, quát hỏi: "Ngươi, ngươi còn không thành thật khai ra, là ai, ai chỉ sử ngươi làm?"

Lữ thị run rẫy đánh răng bò cạp, không dám lên tiếng.

Dương lão thái gia phóng một chân đá ra, trúng vào mũi Lữ thị khiến máu tươi phún ra, hai cái răng cửa cũng gãy vụn.

Dương lão thái gia rống lên: "Nếu ả không chịu nói, thì mau, mau mang đao đến đây, ta muốn một đao chém chết con độc phụ này báo thù cho con trai ta!" Bàng quản gia lên tiếng đáp ứng, định chạy đi lấy đao.

Dương lão thái gia thật ra không phải dọa suôn, ở Minh triều, án chiếu theo "Đại Minh luật", thì gia trưởng nếu cố giết nô tỳ, thì giỏi lăm chỉ chịu "Trượng thất thập, đồ nhất niên bán" (Đánh 70 trượng, phạt đi đày/lính 1.5 năm) mà thôi, hơn nữa còn có thể nộp tiền miễn hình phạt. Do đó, chuyện gia trưởng đánh chết nô tỳ trong thời này cũng là chuyện thường. Lữ thị đương nhiên biết lợi hại, dập đầu run rẫy thưa: "Tôi khai, tôi khai. Là, là nhị di nương Trương thị sai khiến tôi làm, số tỳ sương này cũng là bà ta cấp cho tôi. Quách di nương chết không lâu thì Trương di nương nói Sơn nhi là nghiệt chủng, không thể để lại, đưa tôi gói tỳ sương đó bảo tôi mỗi ngày cho tiểu thiếu gia ăn một chút, từ từ sẽ độc chết tiểu thiếu gia, người khác không hề phát hiện được. Số bạc đó là do bà ta đưa cho tôi. Nói chuyện thành xong rồi sẽ cho tôi hai mươi lượng bạc tiền thưởng nữa."

Dương Thu Trì hỏi Lữ thị: "Nhị di nương đưa tỳ sương nhiều ít cho ngươi?"

Lữ thị ra dấu: "Đại khái khoảng một lượng."

Dương Thu Trì cầm gói tỳ sương lên nhìn, cảm thấy còn khoảng ba bốn chỉ, liền hỏi: "Ngươi bắt đầu hạ độc từ khi nào?"

"Tam di nương chết không lâu thì làm."

"Vậy gần hai năm rồi, sao còn nhiều vậy?"

"Tôi không dám bỏ độc nhiều, sợ lập tức độc chết thiếu gia rồi hoài nghi cho tôi, do đó mỗi lần chỉ bỏ có một lóng tay, có lúc thấy tiểu thiếu gia sắp không xong đến nơi thì tôi không dám bỏ nữa. Chờ tiểu thiếu gia hồi phục rồi mới tiếp tục hạ độc. Vì chuyện này mà nhị di nương nói tôi vô dụng, giục tôi mau hạ độc chết Sơn nhi, nhưng tôi không xuống tay được a." Bà vú khóc rống lên.

Dương lão thái gia nghe thế tức đến nổi suýt ngất đi, rống lên: "Phản rồi...! Thiệt đúng là phản rồi...!" Xong lại bảo Bàng quản gia đi bắt Nhị di thái.

Bàng quản gia mang theo gia đinh chạy ra ngoài, chốc lát sau nắm đầu tóc nhị di thái lôi sềnh sệt quay lại, con gái của nhị di thái là Dương Ngải Tiểu khóc lóc theo sau cầu xin.

Nhị di thái Trương thị nhìn thấy mụ vú Lữ thị và bao tỳ sương cũng mấy đĩnh bạc ở đó, sắc mặt liền tái ngắt, nhưng vẫn một mực không nhận, còn ngược lại bảo là mụ vú phản cung khai bậy.

Dương lão thái gia thấy Trương thị chống chế, càng tức giận hơn, bèn ra lệnh cho Bàng quản gia dùng gia pháp. Bàng quản gia chạy đi lấy một cái roi da dài, mím mày mím miệng đánh mạnh nhị di thái. Đây cũng là điều Tống đồng tri hi vọng, có Dương lão thái ra ra tay đương nhiên lão thích chí vì nhẹ gánh nặng, nên chẳng can thiệp gì.

Xem ra Bàng quản gia thường xuyên chấp hành gia pháp, roi da đánh vừa chuẩn vừa mạnh, không hề trúng chỗ yếu hại, khiến cho nhị di thái lăn lộn liên hồi, kêu thảm không thôi.

Con gái Dương Ngải Tiểu của nhị di thái năm phủ lên người ả, dụng thân thể ngăn trở roi da, khổ cầu Dương lão thái gia tha cho mẹ mình. Dương lão thái gia tức giận điên lên rồi, nên ra lệnh cứ đánh. Kết quả là sau khi Dương Ngải Tiểu bị trúng mấy roi, xem ra bản thân làm vậy cũng chẳng ích gì, nên vội vã tránh ra quỳ xuống đất khóc lóc cầu xin cha.

Nhị di thái cuối cùng bị đánh hôn mê đi, được gia đinh dùng nước dội cho tỉnh, nhưng vẫn một mực không nhận tội.

Dương lão thái gia lệnh cho hai gia đinh cùng lên đánh. Roi da của ba người vụt xuống như mưa, nhanh chóng khiến nhị di thái hôn mê đi tiếp, khi tạt nước cho tỉnh lại vẫn không nhận tội.

Cũng có thể nhị di thái đã nhìn thấy rõ, chuyện này chỉ có ả và mụ vú biết, khẩu cung một đối một, nên chỉ cần ả không nhận thì không có biện pháp nào định tội ả.

Tuy hình tấn bức cung ở Minh triều là hợp pháp, nhưng Dương Thu Trì thấy đánh như vậy chỉ sợ sẽ làm ả chết đi. Nếu như sử dụng bức cung đại pháp kẹp đứt từng lóng tay mà cẩm y vệ Ngư thiên hộ đã từng sử dụng, chỉ có mấy người là chịu được, thì có thể còn hữu dụng. Nhưng mà không đến lúc vạn bất đắc dĩ, không đủ chứng cứ đầy đủ chứng minh phạm tội, Dương Thu Trì vẫn không hi vọng sử dụng phương thức bức cung này để lấy khẩu cung.

Dương Thu Trì phân tích, Lữ thị đem bạc giấu mãi trong ngăn bí mật mà không sử dụng chỉ vì sợ sẽ gây sự chú ý cho người. Hơn nữa ả vẫn còn chưa bỏ độc chết đứa bé, nhiệm vụ chưa hoàn thành, số bạc này không thể dùng. Do đó, số bạc này sau khi giấu trong ngăn kính rồi xem ra chưa hề có người động qua, như vậy có thể nói, nếu như bạc là do nhị di thái cấp cho, thì khẳng định sẽ còn có dấu vân tay của nhị di thái. Thứ dấu tay lưu lại trên kim loại này thường tồn tại rất nhiều năm.

Nhưng giám định dấu vân tay chỉ giúp bản thân hắn xác định hung thủ, không thể dùng làm chứng cứ ở Minh triều, nên không có ý nghĩa buộc tội gì nhiều.

Còn có một biện pháp khác, đó là điều tra nguồn gốc độc chất.

Dương Thu Trì bảo Bàng quản gia không cần đánh nữa, trước hết đem nhị di thái nhốt lại. Chờ Trương thị bị giải đi, Dương Thu Trì hỏi Bàng quản gia: "Dương gia thôn chúng ta có bán tỳ sương không?"

Bàng quản gia đánh đến xuất hạn mồ hôi đầy người, cung thân đáp: "Hồi bẩm Dương công tử, thôn chúng ta không bán tỳ sương, muốn mua tỳ sương thì phải đến tiệm thuốc ở huyện thành Quảng Đức mới mua được."

DƯơng Thu Trì gật gật đầu, lại hỏi Tống đồng tri: "Bá phụ, ở Quảng Đức huyện có mấy tiệm thuốc bán tỳ sương?"

"Có ba nhà." Tống đồng tri rất rành Quảng Đức huyện, nhưng lão không hiểu Dương Thu Trì hỏi như vậy là nhằm ý gì.

Tống Vân Nhi ngược lại đã đoán ra, vui mừng nói: "Ca, muội hiểu rồi, có phải là huynh đoán số tỳ sương này là được Trương di nương mua từ Quảng Đức huyện sau đó đem về giao lại cho mụ vú Lữ thị?"

Dương Thu Trì mỉm cười gật đầu khen ngợi: "Thông minh! Nhưng mà không biết đã trải qua hai năm rồi, những tiệm thuốc này có còn nhớ nhị di nương đã từng đến mua tỳ sương hay không."

Tống đồng tri đã rõ, cao hứng bảo: "Cái, cái này không cần lo, chỉ, chỉ cần ả mua ở Quảng Đức huyện là có thể tra ra ngay, nhân, nhân vì các hiệu thuốc khi bán thứ độc dược này đều phải ghi nhận rõ ràng tình huống người mua. Nếu như dùng làm thuốc thì phải có lang trung kê toa, còn nếu muốn diệt chuột thì phải dùng thân phận chân chính chứng minh. Nếu không, bán, bán tỳ sương ra mà có vấn đề, hiệu thuốc, lang trung, và lý chánh đều bị quy trách nhiệm."

Thì ra Minh triều đã có chế đô quản lý rất nghiêm đối với độc dược (nhưng mà không bằng ở thời hiện tại, trong luật quy định tự động buôn bán độc chất là coi như phạm tội). Nếu là như vậy thì dễ xử rồi! Chỉ cần tra ra sổ đăng ký sẽ biết ai đã từng mua.

Tống Vân Nhi lại nghĩ đến vấn đề khác: "Nếu ả cho người khác đi mua thì sao? Như vậy chẳng phải là tra không thể nào ra hay sao?"

Dương Thu Trì lắc đầu: "Chuyện đầu độc giết người này càng ít người biết càng tốt, không thể có khả năng có thêm người chen vào."

Có đầu mối phá án, Tống đồng tri rất cao hứng, quyết định tự thân trở về Quảng Đức huyện điều tra, thuận tiện gọi huyện nha của Quảng Đức cùng đến điều tra án này bắt giữ phạm nhân. Dương lão thái gia phái vài gia đinh bảo hộ Tống đồng tri cùng đến Quảng Đức huyện.

Trước khi lên đường, Tống đồng tri dặn Dương Thu Trì tiếp tục tra án Quách thị bị xiết cổ, nói bản thân sau khi tra được kết quả sẽ lập tức quay về. Nhưng dù sao thì nhanh nhất cũng đến đêm mới trở lại được Dương gia thôn.

Không ngờ lại gặp án trong án, tra Sơn nhi có phải là con ruột của Dương lão thái gia hay không thì ra Tam di thái bị giết, tra tam di thái bị giết thì lòi ra tiếp Sơn nhi bị đầu độc.

Nhưng trong ba án trên, Dương lão thái gian quan tâm nhất là án đầu tiên. Nếu từ đây tra ra Sơn nhi là con lão, và mẹ của con bị người ta giết chết, con thì bị đầu độc... nhất định sẽ làm lão quan tâm hết mình. Nếu không, Sơn nhi xét ra chỉ là nghiệt chủng, nó dù có bị đầu độc hay mẹ nó có bị người khác giết thì có liên quan gì đến Duơng lão thái gia, biết đâu họ chết đi còn quá tốt cho lão!

Hiện giờ xem ra người ra lệnh cho mụ vú đầu độc Sơn nhi rất có khả năng là nhị di thái Trương thị, động cơ đương nhiên là ghét đắng hờn ghen, sợ con trai của tam di thái có địa vị cao hơn ả trong Dương gia. Nếu như ả đã có lòng gian ác muốn giết chết đứa bé, thì cũng đủ ác ra lệnh cho bà vú giết chết mẹ đứa bé. Do đó tam di thái rất có khả năng là bị nhị di thái ra lệnh cho bà vú xiết cổ chết.

Nhưng bà vú cứ nhất mực không thừa nhận là mình đã giết tam di thái. Dương Thu Trì quyết định lợi dụng sự ảnh hưởng tâm lý của án hạ độc đối với Lữ thị, tra hỏi Lữ thị lần nữa, hy vọng có chút đột phá đối với án Quách thị bị xiết cổ chết.

Nếu như dùng biện pháp mạnh không được thì dùng biện pháp nhẹ, do đó lần này Dương Thu Trì không dùng hình tấn bức cung, mà đánh đòn tâm lý.

Nhưng không ngờ là dù cho DƯơng Thu Trì có dùng lời chân thành khổ ải khuyên nhủ Lữ thị, dù gì thì giết một người cũng chết, giết hai người cũng chết mà thôi, vì sao lại không nhận? Thậm chí hắn còn dùng những chuyện như "hảo hán dám làm dám nhận" nói ra hết, nhưng Lữ thị vẫn một mực không nhận tội, cứ mãi kêu oan, nói rõ là mình không hề xiết cổ chết tam di thái.

Đến lúc này thì Dương Thu Trì không còn cách nào khác, Lữ thị này thà chết không nhận, chẳng lẽ là ả nói thật? Nếu như vậy thì thật kỳ quái, chẳng lẽ kẻ giết chết tam di thái là người có thể đến không dấu, đi vô tung hay sao?

Nếu như bà vú không nhận tội, thì đành quay lại tra hỏi nhị di thái Trương thị, xem coi ả có bị lương tâm cắn rứt thừa nhận tội này hay không. Nhưng mà cho dù nhị di thái có sai khiến bà vú xiết cổ chết tam di thái đi nữa, ả nếu như không thừa nhận án hạ độc, thì làm gì lại thừa nhận án giết tam di thái?

Sau khi thẩm tra nhị di thái lần nữa, kết quả quả nhiên không nằm ngoài ý liệu, nhị di thái chẳng những phủ nhận ra lệnh cho bà vú hạ độc, còn thẳng thừng phủ nhận bản thân bảo bà vú xiết cổ chết tam di thái.

Như vậy án tam di thái bị giết đi vào ngõ cụ t! 

Dương Thu Trì muốn suy nghĩ kỹ xem vấn đề là ở chỗ nào, nếu như hai người ở trong lầu đó cùng đều không phải là nghi phạm sát nhân thì tam di thái bị ai giết đây? Người ngoài làm sao lẻn vào được căn phòng khóa chặt cửa để giết Quách thị?

Dương Thu Trì tản bộ trong Dương gia đại viện vắt óc suy nghĩ, Tống Vân Nhi không dám quấy nhiễu, nhưng nhất mực bám theo sau.

Trưởng hộ vệ Nam Cung Hùng thì như ảnh tùy hình theo sau hai người họ. Từ đêm Dương Thu Trì gặp quỷ té ngã hôn mê trở đi, Nam Cung Hùng không hề rời hắn nửa bước. Trước đã có vết xe đổ của Hạ Bình, hắn không dám nối gót theo sau để chịu hậu quả hơn cả thế.

Tuy tối hôm đó Dương Thu Trì không hề gọi mà tự động li khai phạm vi bảo hộ để đến căn lầu quỷ, nói cho đúng thì không thể trách Nam Cung Hùng, và Dương Thu Trì cũng không hề quái trách hắn, nhưng tự Nam CUng Hùng biết rõ, Dương Thu Trì là Kỷ đại nhân và thâm chí là hoàng thượng hy vọng dựa vào để phá hủy dư đảng của Kiến Văn, cần bảo chứng sự an toàn tuyệt đối.

Bản thân y sỡ dĩ hiện giờ không sao, là vì đêm đó Dương Thu Trì có kinh mà không hiểm. Nếu như Dương Thu Trì chân chánh có mệnh hệ nào, thì y tuyệt đối không thể trốn tránh. Dương Thu Trì có chết, thì y trăm phần trăm là bị chôn sống theo, đấy chính là quy củ đã được Lý công công đề ra.

Do đó, Nam Cung Hùng lấy làm may là Dương Thu Trì không bị sao, và y cũng không dám sơ xuất gì nữa, cùng Tống Vân Nhi như cái đuôi bám theo Dương Thu Trì.

Dương lão thái gia và Bàng quản gia cũng đi sau họ, mong mỏi là linh quang của hắn chợt chói ngời mà phát hiện ra điều gì đó.

Dương Thu Trì không phải là người xuất chúng chỉ cần nhăn trán suy nghĩ là đã thông suốt mọi chuyện gì, hắn đi vòng vòng Dương gia đại viện, suy nghĩ đến nát óc mà chẳng ra được ý gì hay cả.

Hắn lại vô tình quay lại tầng hai của căn lầu quỷ đó, không nói tiếng nào với những người đi sau, dựa vào lan can nhìn bầu trời u ám đến phát ngốc.

Trời bắt đầu đổ tuyết nữa.

Từ sáng sớm là trời đã âm trầm, đến bây giờ cuối cùng cũng đổ tuyết lớn.

Tuyết rơi rất nặng, gió lạnh mang theo hoa tuyết cuốn bay khắp trời, chỉ trong chốc lát mà trên mái nhà, trong vườn... đâu đâu cũng đọng tuyết trắng.

Dương Thu Trì nghĩ không thông về cách phá án, thấy tuyết đã rơi bèn bỏ mặc không thèm nghĩ nữa, dựa vào lan can ngắm tuyết.

Tống Vân Nhi cũng tì tay vào lan can cùng ngắm với hắn. Dương lạo thái gia và Bàng quản gia đứng phía sau họ, không biết họ định làm gì, nhưng thấy họ không nói nên cũng không lên tiếng, chỉ tĩnh lặng nhìn tuyết rơi.

Kỳ thật họ không thể nào yên tĩnh, bỡi vì gió lạnh cứ thổi thốc vào mặt, u u rất rạt.

Dương Thu Trì cảm thán: "Tuyết lớn quá, gió cũng mạnh!"

"Đúng a," Dương lão thái gia giờ đã đứng cạnh Dương Thu Trì nhìn tuyết đổ bên ngoài, tiếp lời, "Dương gia thôn của chúng ta ở cạnh sườn núi, phía trước thông thoáng không có gì che chở, quanh nóng gió tuyết bốn mùa đều rất dữ dội, đặc biệt là mấy tháng đông xuân, gió lạnh thậm chí thổi lăn cả đá cuội."

Bàng quản gia ở cạnh đó phụ họa: "Đúng vậy, thôn chúng ta nằm ở đầu ngọn gió, gió nổi lên thì lão bá tánh ai cũng chịu khổ, những cỏ rơm lợp mái nhà chỉ cần một trận gió là bay tốc hết, dùng đá cũng không dằn được, thật là đáng thương."

Dương Thu Trì thở dài cảm thông: "Thì vậy, một ngày lạnh lẽo như thế này, cỏ lợp trên nóc bị tốc hết, vốn đã không tiền mua than sưởi, giờ bị gió lạnh mang theo tuyết thổi thốc vào phòng, thì hỏi sao người ta sống vui cho được."

Nói đến lạnh, Dương Thu Trì chợt rùn mình. Hắn rất sợ lạnh, tuy mặc quần áo rất dầy nhưng gió lạnh giống như từ địa ngục thốc ra vậy, bao nhiều quần áo dày cách mấy cũng không ngăn được cái lạnh.

Tống Vân Nhi thân có võ công, không sợ lạnh, thấy Dương Thu Trì bị rét run như vậy liền cười hì hì: "Ca, chúng ta trở về phòng sưởi âm đi, nếu không huynh bị rét rụm luôn bây giờ, chị dâu trở về rồi lại nhìn muội trợn mắt trợn mày nữa."

Dương lão thái gia cũng cười: "Đúng a, hiền điệt, chúng ta đến chỗ khô sưởi một chút, rồi hâm thêm hai bình rượu nóng, làm thêm mấy món vừa uống rượu vừa ngắm tuyết, cháu thấy sao?"

Dương Thu Trì là một tên tửu quỷ, vừa nghe Dương lão thái ra nói đến thứ mê người này liền không khỏi nuốt nước bọt ừng ực, gật đầu lia lịa bằng lòng.

Dương lão thái gia dẫn Dương Thu Trì và mọi người về lại buồng có lò sưởi ấm cúng trong Dương gia đại viện, từ đó có thể nhìn thấy cả nửa thôn, xa xa là ruộng vườn vời vợi.

Trong phòng có mấy bồn than, được đốt rất nóng treo ở cửa sổ, chỉ mở ra chút xíu để thông khí, thứ gió ấm này giống như hơi xuân mơn ma thịt da người trong phòng vậy.

Tống Vân Nhi luôn miệng khen đây là chỗ tốt, ngồi sát vào Dương Thu Trì. Trong phòng ấm áp, Dương Thu Trì cảm thấy hơi nóng, Tống Vân Nhi lập tức giúp hắn cởi bớt áo lông ra.

Vào thời bấy giờ không hề có bông cách nhiệt, thứ áo bông và da này chính là thứ làm từ bông vải, tuy ấm áp nhưng rất nặng. Vừa cởi áo ra, Dương Thu Trì cảm thấy thân thể nhẹ nhỏm hẳn đi, không khỏi uốn người vươn vai hít hà thoải mái, khiến cho Tống Vân Nhi ha hả cả cười.

Tống Vân Nhi vừa cười vừa bảo: "Ca, huynh đừng có ở đó mà múa loạn lên như thế, nếu huynh muốn học võ công muội có thể dạy huynh đó nha."

Dương Thu Trì vừa nghe thế liền lắc đầu quầy quậy: "Ta không học, cái gì mà mùa đông luyện tam cửu, mùa hè luyện tam phục (ý chỉ ngay cả ngày lạnh nhất mùa đông, nóng nhất mùa hè cũng luyện võ), mệt chết đi được. Hơn nữa dù gì cũng có muội làm bảo tiêu cho ta, ta tự nhiên đi chịu tội làm cái gì chứ hả?"

"Vậy khi muội không có bên huynh thì sao? Ví dụ như tối qua vậy."

"Vậy muội lúc nào cũng ở cạnh bên ta, không rời một bước, thì chẳng phải là ổn thỏa hết sao chứ à?" Dương Thu Trì chọc nàng.

"Không rời một bước?" Tống Vân Nhi cười hì hì, "Muội không phải là thế thiếp của huynh, làm sao bám riết theo huynh được?" Nói đến đây, Tống Vân Nhi mới cảm thấy đây là loại thoại trung hữu thoại, dễ dàng khiến người ta hiểu lầm, liền không khỏi ửng hồng hai má.

Dương Thu Trì cũng không dám dùng giọng điệu này đùa cợt với nàng, lỡ đâu người ta nghĩ thật thì... thích, à không, ... dù sao không phải là thứ nói chơi. Tuy Tống Vân Nhi quả thật không tệ, người đẹp, võ công cao, nhưng lại giống như một cậu con trai vậy, chứ không phải là nữ nhân lý tưởng của hắn. Vì thế, Dương Thu Trì mong muốn coi nàng như em gái ruột hay là bạn tốt hơn là nghĩ sâu hơn.

Hơn nữa, hiện giờ hắn không thể tùy tiện nạp thiếp. Nữ tặc kia xuất thần nhập quỷ, võ công chẳng ai có thể địch, hơn nữa lại có thị hiếu chuyên môn đi chôm chộp tiểu thiếp của hắn. Biết đâu đến lúc ả bắt Tống Vân Nhi đi luôn thì mặt cũng chẳng còn được nhìn, nói gì đến sinh con đẻ cái.

Dương Thu Trì nói: "Muội là em gái ta, làm sao không thể thốn bộ bất ly được? Ngày đó chúng ta còn ngủ chung một phòng nữa chi."

"Đó là tình huống đặc biệt, không có phòng nào khác, rất may là hôm đó chúng ta ở chung phòng, nếu không thì đã bị địch nhân chém rụng đầu rồi mà không biết chuyện gì." Nói đến sự nguy hiểm của ngày đó tại Bắc Tiếu thôn, Tống Vân Nhi có chút bồi hồi, do đó sự chú ý của nàng bị lái đi chỗ khác.

Dương lão thái gia nghe thế liền hứng thú hỏi: "Gặp phải địch nhân? Chuyện đó rốt cuộc là sao?"

Tống Vân Nhi liền thao thao bất tuyệt kể lại chuyện gặp địch nhân ngày trước.

Bọn nha hoàn đã hâm nóng rượu lên, chuẩn bị thêm một ít món nhắm. Dương Thu Trì cùng Dương lão thái gia vừa uống rượu vừa nghe Tống Vân hi bày long môn trận huênh hoang loạn cả lên.

Nói đến lúc cao hứng, Tống Vân Nhi cũng cầm chén rượu lên uống. Mấy chén vào bụng, máu nóng của nàng liền bốc lên, kể càng hay và thần kỳ như trời đất, tâng bốc Dương Thu Trì thành một bị thần tiên biết trước mọi việc, thậm chí Dương Thu Trì nghe xong mà còn bội phục chính mình.

Gió bấc ngoài phòng càn quét bừa bãi, nhưng trong phòng thì xuân ý miên man, bất tri bất giác đã đến hoàng hôn.

Trời tối chưa lâu, Tống đồng tri cùng mọi người đã đội tuyết trở về. Cùng đến còn có La huyện thừa của Quảng Đức huyện cùng các bộ khoái, ngoài ra còn có một tiểu lão đầu, thấy ai cũng cười tủm tỉm, vừa nhìn thì biết đó là người làm nghề buôn bán.

Tống đồng tri thăng quan nhận nhiệm sở tại Ninh Quốc phủ rồi, Quảng Đức huyện vẫn còn chưa có huyện lệnh, tạm thời do La huyện thừa làm người tạm quyền.

Bàng quản gia và người hầu đưa Tống đồng tri, La huyện thừa cùng mọi người đến phòng sưởi.

Tống đồng tri tuy đầu đầy tuyết, mặt bị lạnh cóng cả ra, nhưng vô cùng hớn hở, vừa nhìn thần tình của lão là Dương Thu Trì đoán ngay mọi chuyện vô cùng thuận lợi.

Quả nhiên, Tống đồng tri không kịp phủi hết tuyết dính trên người là đã rút trong người ra một quyển sổ, đưa cho Dương Thu Trì: "Tìm, tìm được quyển sổ này rồi! Nhị di nương Trương thị quả, quả có mua tỳ sương ở chỗ Khương chưởng quỹ. Ta, ta đưa Khương chưởng quỷ đến đây luôn rồi." Dương Thu Trì tiếp lấy cuốn sổ ghi chép, nhưng không vội xem, hỏi Khương chưởng quỹ: "Ngươi có nhớ kỹ chuyện Trương thị đến tiệm thuốc của ngươi mua tỳ sương hay không?"

"Tiểu nhân nhớ rõ." Khương chương quỹ khom người đáp.

Dương Thu Trì cảm thấy hơi kỳ quái, hỏi: "Mỗi năm nhiều người mua thuốc như vậy, ngươi sao nhớ nổi?"

Khương chưởng quỹ cười cầu tài đáp: "Làm gì mà có thể được thế, chỉ vì mua bán tỳ sương rất khác với những thứ khác, một là do quan phủ yêu cầu chú ý đến việc mua bán món độc chất này, hai là người mua tỳ sương mỗi năm không nhiều, và ba nữa là, hì hì..." Nói đến đây, y liếc nhìn về phía Dương lão thái gia không nói nữa.

Dương lão thái gia hừ mũi, không không lên tiếng.

Dương Thu Trì nhíu mày: "Làm gì mà úp úp mở mở vậy?"

Khương chưởng quỹ hơi ngượng, mở miệng định nói nhưng rồi lại thôi. Y lại thấy mạt Dương Thu Trì bắt đầu thể hiện vẻ ôn thần, liền không dám ẩn dấu nữa, bước lên một bước ghé tai Dương Thu Trì thì thầm: "Trương thị này trước vốn là cô đào đắc hàng ở thanh lâu tại Ứng Thiên Phủ, tiểu nhân đi mua bán có qua Ứng Thiên Phủ, có thấy qua cô ta nên nhận biết."

Thanh âm tuy nhỏ, nhưng Dương lão thái gia vẫn nghe thấy rõ, lại hừ mũi thêm lần nữa, nét mặt có vẻ không vui, nhưng không nói gì.

Dương Thu Trì bấy giờ mới rõ thì ra là nhị di thái Trương thị xuất thân từ thanh lâu, hơn nữa lại là hàng đắt khách, Dương lão thái gia thích bà ta nên mới chuộc thân nạp làm thiếp. Hèn gì Khương chưởng quỹ biết bà ta, nói không chừng năm xưa còn dây dưa qua lại nữa.

Dương Thu Trì mở cuốn sổ ra xem, thấy nó có vẻ cũ, bìa đã rách nát hết rồi. Khương chưởng quỹ giúp Dương Thu Trì lật đến một trang ở giữa, chỉ vào một hàng trên đó nói: "Thỉnh đại nhân xem."

Dương Thu Trì định thần nhìn, thấy trên đó có ghi: "Trưa ngày 18 tháng 3, vợ lẻ của Dương gia thôn Dương lão thái gia tên là Trương thị mua hai lượng tỳ sương."

Dương Thu Trì hơi động tâm, hai lượng? Bà vú Lữ thị nói nhị di nương Trương thị chỉ đưa cho mụ ta một lượng tỳ sương, như vậy còn một lượng nữa đâu?

Dương lão thái gia cùng chồm người tới xem, hơi bất ngờ ơ lên một tiếng.

Dương Thu Trì vội hỏi: "Lão thái gia, có gì không đúng sao?"

"Không, không phải," Dương lão thái gia đáp. "Tam di nương của cháu treo cổ vào ngày 20 tháng 3, chỉ sau đó 2 ngày, quả thật là tấu xảo."

Nghe Dương lão thái gia nói thế, Dương Thu Trì quả thật cảm thấy tấu xảo, hắn không tiến hành lấy vật trong dạ dày Quách thị tiến hành hóa nghiệm, hơn nữa cũng không có điều kiện để hóa nghiệm điều này, không có cách nào xác định Quách thị có phải bị người ta hạ độc tỳ sương hay không.

Trương thị mua tỳ sương rất có thể là muốn hạ độc hại chết Quách thị, nhưng sau đó về nghĩ một khi hại chết Quách thị rồi, nhất định sẽ dẫn đến sự chú ý và nhúng tay vào của quan phủ, và sẽ nhanh chóng hoài nghi đến mụ ta, nên không hạ độc thủ, đổi lại thành việc xúi giục mụ vú xiết cổ chết Quách thị xong rồi đưa độc dược cho mụ ta, bảo mụ ta hạ độc dần dần hại chết Sơn nhi!

Đó chỉ là sự phán đoán của Dương Thu Trì, còn vì nguyên nhân gì thì cần phải cạy miệng Trương thị mới biết rõ trắng đen.

Trương thị mua hai lượng tỳ sương tính ra hơi nhiều. Bỏ độc hại chết một người không cần nhiều tỳ sương như vậy, nhưng có lẽ Trương thị không biết liều lượng chết người là bao nhiêu nên mới mua hai lượng.

Kỳ thật lượng tỳ sương thuần đủ để hại chết một người lớn chỉ vào khoảng 0.1 đến 0.2 gam, nếu không thuần thì có cao hơn một chút. Tỳ sương ở thời cổ đại hầu hết đều không thuần, có tạp chất, do đó liều lượng chết người nhất định cao hơn tiêu chuẩn này.

Trương thị đưa cho mụ vú Lữ thị một lượng tỳ sương, vậy lượng còn lại có thể vẫn còn tàng trữ ở phòng của Trương thị. Vì sao bà ta muốn lưu lại một lượng mà không đưa hết cho Lữ thị? Điểm này cần phải chính miệng mụ ta nói ra thì mới rõ được.

Dương Thu Trì đem phân tích của mình nói cho Tống đồng tri và Dương lão thái gia, mọi người đều cảm thấy khả năng này rất lớn, liền quyết định lập tức tiến hành tra xét phòng của Trương thị.

Thê thiếp của Dương lão thái gia đều có khu nhà vườn nhỏ của mình. Sau khi Trương thị bị bắt, Dương Thu Trì hạ lệnh cho hộ vệ của mình mang theo gia đinh phong tửa khu nhà của Trương thị lại, không cho ai vào ra hết.

Cả đoàn người đến khu nhà của Trương thị, bắt đầu tìm kiếm cẩn thận phòng của mụ ta, nhưng tìm cả nửa ngày vẫn không thấy gì.

Dương Thu Trì hơi cảm thấy nản lòng, chẳng lẽ phán đoán của hắn bị sai sót gì sao? Hay là Lữ thị nói dối? Không đúng, Lữ thị không có lý do gì nói dối trong chuyện này, cứ nghĩ Lữ thị được cấp cho độc dược khá nhiều, nhưng mụ ta lại dùng rất ít, như vậy càng làm giảm nhẹ tội trạng của mình, do đó mụ ta không thể nào cố ý nói giảm xuống lượng độc dược mà Trương thị đã đưa. Trương thị nhất định chỉ đưa cho mụ vú một lượng, số còn lại rõ ràng đã thể hiện rõ trên sổ sách của Khương chương quỹ của tiệm thuốc.

Nói như vậy, một lượng tỳ sương này nếu như chưa được dùng, thì nhất định phải được giấu ở trong phòng của Trương thị. Nhưng sau khi đã tìm kiếm trong ngoài vẫn không thấy đâu, mụ ta giấu ở chỗ nào chứ?

Một lượng tỳ sương quá ít, có thể giấu ở rất nhiều chỗ. Dương Thu Trì nhìn căn phòng bị đảo lộn tùng phèo, nhíu mày suy nghĩ.

Nếu như là ta, ta sẽ đem giấu nó ở đâu? Dương Thu trì thiết nghĩ, nơi cất giấu này khẳng định là không thể để cho người thường có thể vô tình vớ được. Nhị di thái có nha hoàn thiếp thân và người hầu làm vệ sinh phòng óc, xem ra thuốc độc phải được giấu ở những chỗ mà những người đầy tớ này không dễ dàng gì phát hiện. Chỗ này xem ra không thể nào ở trong tủ hay bàn trang điểm có thể tùy tiện mở hoặc lật tung lên.

Số tỳ sương còn lại suốt một năm không đụng đến, vậy có bị vứt đị rồi hay không?

Không đâu, mụ ta không biết lượng trí tử của tỳ sương, trước khi Sơn nhi chết nhất định mụ sẽ không thản nhiên vứt đi, vạn nhất không đủ thì làm sao? Hơn nữa, trước giờ không ai hoài nghi Sơn nhi trúng độc, do đó mụ không có nguy cơ bị bại lộ, do đó sẽ không nhất thiết phải tiêu hủy tội chứng.

Toàn bộ vật dụng trong phòng đều đã được lục tìm. Can cứ vào phán đoán vừa rồi, thuốc độc không có khả năng bị để ở mặt đất, hoặc đặt trong phòng của người khác, vì thứ quan trọng như thế này đem để ở phòng của người ta, chỉ sợ bản thân mụ sẽ ngủ chẳng yên giấc. Do đó, chỉ còn có hai chỗ có khả năng cất giấu, một là ở trên không, hai là ở dưới đất!

Tìm ở nóc nhà trước xem! Dương Thu Trì bảo người hầu lấy thang bắc lên nóc phòng. Tống Vân Nhi lập tức đoán ngay được ý nghĩ của Dương Thu Trì, cao hứng reo lên: "Ca, để muội lên tìm cho, xem coi nhị di thái có đem giấu tỳ sương trên nóc nhà không."

"Ngoài ra còn ở trong các vách hay hốc cột nữa!"

"Dạ...!" Tống Vân Nhi gật gật đầu, như con mèo nhanh nhẹn phóng lên trên trần nhà cẩn thận tìm kiếm, không ngừng dùng tay đập đập gõ gõ.

Một lúc sau, nàng tiu ngỉu tuột xuống thang lắc đầu thất vọng.

Trên nóc không có, như vậy chỉ còn ở dưới đất mà thôi.

Dưới đất? Một lượng tỳ suơng nhỏ như thế có thể tùy tiện chôn chỗ nào đó, không dễ gì tìm. Nhưng mà dù sao thì cũng phải có đầu mối để theo. Tỳ sương ở dạng bột, không thể nào dùng giấy hay vải bao lại chôn trực tiếp xuống đất được. Khả năng lớn nhất là bọ vào trong một cái hủ nhỏ gì đó rồi mới chôn.

Như vậy mụ ta sẽ chôn ở chỗ nào? Nhị di nương ở trong nhà trệt, mặt đất được lát bằng từng khối đá xanh rất chỉnh tề. Dương Thu Trì cúi xuống đất tìm kiếm từng khối đá một.

Toàn bộ đá lát nền đều đã được tra xong, chỉ còn ở dưới giường là chưa kiểm tới.

Nếu như muốn chôn xuống đất, thì chỗ này có khả năng được chọn lớn nhất, vì người hầu dù có thể quét dọn vệ sinh, nhưng sẽ khó mà chui xuống giường quét dọn.

Dương Thu Trì lệnh cho xê dịch cái giường lớn đi. Cái giường này làm bằng gỗ tốt, lại có điêu khắc bông hoa nên rất nặng. Bảy tám người hầu cùng động thủ, phí tận hết lực khí mới dịch được giường qua một bên.

Không phí bao nhiêu sức, Dương Thu Trì đã phát hiện ở đầu giường có một phiến đá lát hơi đặc biệt. Chỗ này nằm ở trên giường là có thể với tay tới được, khả năng rất lớn.

Kẽ hở giữa hai khối đá lát khá lớn, nhưng dùng đầu ngón tay cho vào không được. Đá lát nền ở thời cổ đại rất chắc và nặng, nếu như chọc đao vào nạy lên, thì do khe hở giữa các viên đá rất hẹp, khiến chúng khích vào nhau khó có thể nạy lên.

Số đá lát có kẻ nứt lớn đạt tới vài tấm, diện tích lớn như thế không thể nào chỉ giấu có một bao nhỏ tỳ sương, rất có thể còn giấu nhiều thứ khác.

Nếu như các thứ gì đó được giấu dưới này, thì làm cách nào mà lấy lên? Nhất định phải có công cụ, và thứ công cụ này không thể nào cách đây quá xa.

Dưới đáy giường! Dương Thu Trì lập tức phản ứng ngay. Hắn đến sờ dưới phần gỗ chạm trổ dưới đầu nằm một lúc, đột nhiên dùng lại, sắc mặt lộ vẻ mừng, từ từ rút ra một cái móc quai bằng sắt . Dương Thu Trì quan sát nó kỹ một lúc, gật gật đầu như đã hiểu ra.

Hắn lấy móc quai đó đến bên hàng gạch, đưa hai mép sắt của móc quay vào hai phiến đá, sau đó dùng tay dụng lực nắm kéo mạnh hai khối gạch lên.

Tống Vân Nhi vui mừng nói: "Ca, huynh thật là thông minh, huynh sao lại phát hiện được cơ quan này?"

Thứ cơ quan nhỏ nhoi này chỉ cần quan sát một chút là phát hiện được. Dương Thu Trì không đủ hơi giải thích cho nàng, hắn gở mấy khối đá lát nền lên, lộ ra một cái rương nhỏ hình vuông ở dưới, trên có cái quay xách.

Dương Thu Trì xách cái rương lên để qua một bên. Cái rương nhỏ này không hề có khóa, được giấu kỹ như vậy tự nhiên không cần khóa làm gì.

Mở ra nhìn, mọi người đều cả kinh, bên trong đầy kim ngân châu báo, xem ra nhị di nương để dành không ít tiền riêng.

Sau khi lấy những thứ này ra, ở dưới rương còn lại một cái bao nhỏ dùng giấy dầu gói lại. Dương Thu Trì mừng thầm, từ từ mở ra, bên trong là một gói nhỏ nữa. Hắn mở ra tiếp, quả nhiên bên trong là một gói bột phấn trắng xen lẫn sắc hồng. Tỳ sương ở thời cổ đại đều không thuần, thường lẫn tạp chất, và thường có màu trắng chen lẫn sắc hồng! Dương Thu Trì đem so sánh gói bột phấn đó với gói tỳ sương ở phòng Lữ thị, phát hiện màu sắc và độ mịn đều tương đồng, rất tiếc là không thể tiến hành phân tích hóa học, chỉ có thể chứng minh hai gói tỳ sương có hàm lượng tạp chất và số lượng tạp chất tương đồng, trong thực tế chỉ có thể chứng minh hai gói có quan hệ đồng nhất, chứ không thể chứng minh tỳ sương của Lữ thị là do Trương thị chiết ra từ bao này mà đưa cho.

Nhưng hiện giờ đã có đủ chứng cứ để nhận định Trương thị sai bảo người khác hạ độc mưu sát rồi.

Dương lão thái gia sầm mặt lệnh cho Bàng quản gia áp giải Trương thị tới.

Chẳng mấy chốc sau, Trương thị bị áp giải tới, thấy giường đã bị đẩy bật ra, mấy phiến đá xanh bị kéo lên, cái tủ chuyên chứa đồ riêng của mình bị mở ra, một gói tỳ sương nhỏ được đặt trên mặt đất, liền không khỏi rung rẫy toàn thân, sắc mặt trắng bạch.

Tống đồng tri khiến Khương chưởng quỹ đưa cuốn sổ ghi chép cho Trương thị xem, mụ ta lập tức tứa mồ hôi ra như tắm, quỵ xuống đất.

Tống đồng tri cười lạnh hỏi: "Phạm, phạm phụ trương thị, nhân chứng vật chứng đều có, lại bắt quả tang và có người khai nhận hẳn hoi, ngươi, ngươi còn chối cãi nữa thôi?"

Trương thị mọp xuống đất thưa: "Tôi xin khai. Tiểu thiếu gia chính là do tôi bảo mụ vú hạ độc." Nói tới đây, Trương thị quỳ lếch tới trước mặt Dương lão thái gia, dập đầu liên tục: "Lão gia tha cho tôi đi, tôi sai rồi, tôi ganh ghét Quách muội muội sinh con trai được người sủng ái, tôi không dám nữa đầu, xin người tha cho tôi đi, hu hu hu."

Nói đến đây, Nhị di nương Trương thị tồ tồ khóc rống lên.

Dương Thu Trì hỏi: "Người sao lại không mang toàn bộ tỳ sương đưa cho mụ vú Lữ thị?"

Trương thị thút thít đáp: "Tôi nghe Khương chưởng quỹ nói muốn dùng tỳ sương để gài độc chết chuột thì chỉ cần dùng vài móng tay là được, do đó tôi nghĩ để hại chết một đứa bé thì chỉ cần phân một nửa là đủ, nên không đưa toàn bộ cho mụ vú.

Thì ra là thế, bỏ độc chết một đứa bé đương nhiên không cần nhiều. Trương thị thậm chí nghĩ số tỳ sương còn lại này biết đâu sau này còn có chỗ dùng, nên không vứt bỏ đi, quả thật là thông minh quá trở thành quá thông minh, để lại chứng cứ trí mệnh này.

Con gái Dương Ngải Tiểu của mụ thấy mẫu thân đã nhận tội, liền khóc lóc quỳ xuống đất cầu xin cho mẹ mình.

Dương lão thái gia trước đó đã đánh Trương thị một trận, cái giận đã tiêu đi hết phânnửa, giờ chỉ biết thở dài: "Nếu như biết có kết quả này, sao lúc xưa không nghĩ? Ngươi hạ độc mưu sát, xúc phạm vương pháp, ta tha làm sao cho ngươi được?" Nói rồi quay lại thưa với Tống đồng tri: "Đồng tri đại nhân, tiện nhânnày xin giao cho ngài. Ngài muốn xử lý thế nào thì cứ tùy ý thế ấy."

Án chiếu theo Đại minh luật, đầu độc giết người khác biệt hoàn toàn với tội mưu sát, và thường được ghép và luận tội nặng hơn. Trong mục "Tạo cổ độc giết người" có quy định: "Nếu dùng độc dược giết người, chém." Hình thứ tử hình theo kiểu trảm (chết) thường nặng hơn thắt cổ cho chết, bỡi vì thắt cổ dù sao vẫn giữ được toàn thây). Đầu độc giết người không có sự khác biệt về hành vi phạm tội chưa hoàn thành và tội đã thành, cũng không có sự phân biệt về chủ tớ.

Vào lúc này, điều Tống đồng tri quan tâm chính là án tam di nương bị giết chưa được phá, bèn hỏi: "Trương thị, Tam di thái Quách thị có phải là người giết hay không?"

Trương thị nghe thế liền hoảng loạn lắc đầu phủ nhận: "Không phải, thật không phải tôi! Tôi vốn định mua tỳ sương hạ độc giết chết Quách muội muội, nhưng tôi vẫn còn chưa tìm được cơ hội thích hợp để hạ độc. Lúc tỳ sương mua về chưa được ba ngày, ả lại phát hoa si, sau đó lại treo cổ chết. Ả chết rồi, tôi mới quyết định dùng tỳ sương hạ độc tiểu thiếu gia. Do đó tôi không biết Quách muội muội rốt cuộc là bị ai xiết cổ chết."

"Còn dám giảo biện, dùng hình cho ta!" Đánh chó còn phải xem mặt chủ nhà, Tống đồng tri vốn ngại về thái độ của Dương lão thái gia, nhưng hiện giờ Dương lão thái gia đã nói thế rồi, Tống đồng tri không cần e dè gì nữa, ra lệnh cho dùng hình tấn bức cung ngay.

Lần này Tống đồng tri đã dẫn theo bọn bộ khoái từ Quảng Đức huyện theo, đặc biệt có mang theo các dụng cụ chuyên môn tra tấn nữ phạm nhân, nên họ nhanh chóng cho mười ngón tay dài của Trương thị vào dàn dây kẹp tay, hai bộ khoái ra sức kéo mạnh, do mười ngón tay đều có thần kinh thông đến tâm, nên nhị di thái đau như cào như xé tim ruột, gào khóc liên hồi. Âm thanh của mụ vừa the thé vừa thê thảm, chỉ sợ người dân ở khắp thôn đều nghe thấy.

Dương Thu Trì không hề ngăn trở. Hắn muốn coi xem rốt cuộc Trương thị có nói thật hay không.

Hiện giờ Trương thị khăng khăng phủ nhận mụ đã ra lệnh cho mụ vú xiết cổ chết tam di thái Quách thị. Những lời Trương thị nói chẳng lẽ đều là thật sao? Dương Thu Trì hơi mê hoặc.

Nếu như nói Trương thị lợi dụng cơ hội tam di thái Quách thị phát hoa si lệnh cho mụ vú ra tay xiết cổ nàng ta, thì do bị xiết cổ và treo cổ có sự khác biệt rất lớn, người cổ đại lại nắm khá rành về hai kiểu chết này, nênchỉ cần ngỗ tác có kinh nghiệm tiến hành nghiệm thi là sẽ phát hiện ngay, rất dễ bị bại lộ.

Và một khi đã bại lộ, trong phòng chỉ có mụ vú và nha hoàn, nhị di thái Trương thị sẽ nhanh chóng tự dẫn lửa thiêu người.

Vì thế, Trương thị nếu muốn giết tam di thái Quách thị, thì sử dụng phương pháp này mạo hiểm rất lớn. Nếu như mụ ta đã mua độc dược chuẩn bị hạ độc, bọn họ lại cùng ở trong một đại viện lớn, cơ hội hạ độc quá nhiều, chỉ có có chút nhẫn nại sẽ có cơ hội thành công.

Nhưng hạ độc cũng có một nguy hiểm rất lớn, đó là người bị trúng độc chết thường rất dễ bị nhận định là có người mưu sát. Nếu như thế thì quan phủ sẽ nhún tay vào, rất dễ bị phát hiện. Còn giả trang thành treo cổ tự sát, nếu như thành công thì chẳng ai tra cả.

Do đó, chẳng có gì bảo đảm nhị di thái Trương thị không dùng phương pháp nguy hiểm này. Hơn nữa, chỉ cần làm cho tình trạng tử vong của tam di thái khủng bố lên một chút, liên hệ với quỷ dữ tà hồn, thì có thể che mắt được nhiều người, một khi qua được của ải này thì coi như vạn sự đại cát. Do đó, không thể loại trừ mụ ta đã sử dụng chiêu hiểm này.

Nhị di thái đề xuất tam di thái bị trúng tà ma, thỉnh pháp sư về đuổi quỷ, chọn một chỗ thuộc về đất âm có khí âm nặng để mai táng... rất có khả năng là nhằm mục đích này.

Suy đi nghĩ lại, Dương Thu Trì cũng vẫn chưa nắm rõ được sự thể thế nào, nên liên trơ mắt bàng quan, xem coi có đột phá gì hay không.

Xem ra hôm nay chính là ngày gặp khổ nạn của Trương thị, trước hết là ăn đòn roi da của Dương lão thái gia, sau đến là bị đưa lên bàn kẹp ngón tay. Nhưng dù sao thì khi nghĩ đến mụ ta hạ lệnh cho mụ vú hạ độc một em bé, ngoan độc cực kỳ, nên chẳng có ai ở hiện trường thấy mụ đáng thương cả.

Trương thị tuy là xuất thân từ thanh lâu, nhưng dù sao cũng đã được Dương lão thái gia rước về chăm sóc cẩn thận ăn sung mặc sướng hơn hai chục năm, nên thứ khốc hình này làm sao chịu nổi. Hơn nữa, mụ ta đã thừa nhận hạ độc giết chết tiểu hài, đã bị rơi vào tử tội, thì cần chi phải chịu khổ thêm? Do đó, ý chí đề kháng của mụ nhanh chóng bị tan nát, chẳng mấy chốc sau rối rít lên tiếng xin khai.

Sau khi thả lỏng hình cụ ra, La huyện thừa ra lệnh cho người ghi lại khẩu cung của Trương thị. Trương thị thừa nhận mụ đã lệnh cho mụ vú nhân lúc tam di thái Quách thị bị mê mang đi xiết cổ nàng ta chết, sau đó giả thành treo cổ tự tử.

Thừa thắng truy kích, Tống đồng tri lại cho giải mụ vú Lữ thị lên tiến hành hình tấn bức cung.

Lữ thị lúc đầu không thừa nhận. Tống đồng tri bảo ả hạ độc giết người, chiếu theo luật là phải chịu chặt đầu, Lữ thị có nhân hay không nhận án này đều không thể chạy khỏi tội chết. Tinh thần của Lữ thị bị bẻ gãy triệt để, cộng thêm nghe nói nhị di thái đã nhận tội, còn khốc hình bàn kẹp tay thì ở ngay trên người, sự đau đớn kịch liệt không thể nào nhẫn chịu đã khiến chẳng mấy chốc sau mụ ta kêu thảm nhận tội.

Sau khi cho hai người ký vào khẩu cung, án này coi như được phá, Tống đồng tri cùng mọi người cao hứng phi thường, đều cho rằng Dương Thu Trì phá án như thần. Nhưng hắn chỉ cười cười không nói gì, khiến Tống đồng tri hơi kỳ quái, dường như Dương Thu Trì chẳng có vẻ vừa lòng, phảng phất như lòng chất chứa đầy tâm sự.

Dương Thu Trì quả thật có tâm sự: hắn chẳng thấy tự tin chút nào, vì tuy án hạ độc giết người chẳng có vấn đề gì, người và vật chứng đều có đủ, hai người lại tự nguyện khai nhận, nhưng còn án tam di thái treo cổ chết, Dương Thu Trì lấy con mắt bàng quan lạnh lùng mà xét, thì cảm thấy hai người kia có thể bị hình tấn bức cung chịu không nổi khai ra, chứ hung thủ chân chính vẫn có thể còn tiêu diêu ở ngoài vòng pháp luật.

Dương Thu Trì tuy không vui, nhưng không có manh mối để phá án này.

Nhưng vào lúc này chính là lúc hung thủ thả lỏng và sơ hở nhất, vì y đã nhận định bản thân an toàn rồi, có thể dễ dàng lộ ra dấu vết. Do đó, Dương Thu Trì không gấp, hắn chờ đến thời điểm tìm được hi vọng duy nhất trong hoàn cảnh khốn khó đang dần dần đến. Moi ra hai hung thủ giấu kỹ bên người, Dương lão thái gia không biết là nên cao hứng hay là khó ở, bởi vì trong hai hung thủ đó có một người là tiểu thiếp của lão.

HIện giờ lão và Dương Thu Trì đều giống nhau, đều hào xưng là một thê hai thiếp, nhưng hai người thiếp một chết một bị bắt, chỉ còn lại một nguyên phối vô cùng hung hãn. Hơn nữa, điều mà lão quan tâm nhất là Sơn nhi có phải là con trai của lão hay không thì đến hiện giờ vẫn chưa có kết quả.

Đối với điểm này thì lão cũng hiểu, chỉ có thể an tâm chờ Phùng Tiểu Tuyết mang những món Dương Thu Trì cần đến rồi mới có thể biết được kết quả.

Dương lão thái gia thiết yến đãi Tống đồng tri, La huyện thừa và các bộ khoái. Theo như lý giải của Tống đồng tri, loại án như thế này coi như đã được phá ở mức độ tương đối hoàn mỹ, do đó lão thả cửa no say. Dương Thu Trì cũng ra vẻ rất cao hứng, nâng chén liên tục, tựa hồ uống cho đầu óc quay cuồng.

Sau tửu yến, Tống Vân Nhi đưa Dương Thu Trì trở về phòng khách. Dương lão thái gia lại cho nha hoàn mang chè đậu xanh đến cho mọi người ăn giải rượu. Dương Thu Trì chỉ uống nửa chén rồi ngưng, ngồi nói chuyện với Tống Vân Nhi và Nam Cung Hùng trong phòng khách, sau đó chia nhau đi ngủ.

Tống Vân Nhi tuy đáp ứng Phùng Tiểu Tuyết chiếu cố cho Dương Thu Trì, nhưng không tiện chung phòng với hắn, chỉ chọn ngủ sát vách.

Đêm đó, Dương Thu Trì khát quá dậy tìm trà uống, rồi giống như đêm đầu lại nghe tiếp tiếng nữ nhân khóc, hơn nữa tiếng khóc càng giống với Búp bê bùn Tống Tình hơn.

Lần này Dương Thu Trì không hề bất ngờ, giống như mọi chuyện nằm trong dự liệu của hắn vậy. Hắn mở cửa phòng, sau đó xuống lầu. Do lúc ban ngày Dương Thu Trì khám xét và thẩm vấn phạm nhân, nên cửa vườn không khóa.

Trận tuyết lớn ban ngày khiến cho khu vườn như khoác thêm một cái áo trắng. Dương Thu Trì đạp tuyết sột soạt, đi lần lên tầng hai.

Mọi thứ đều chìm trong im lặng. Vừa đến hành lang tầng hai, vật đầu tiên hắn nhìn thấy là con mèo đen hôm trước. Con mèo ấy rất to, giống như một con trâu con vậy, hai mắt như hai ngọn đèn nhìn hắn, mũi khịt khịt đầy khí nóng.

Dương Thu Trì lần này cũng không kinh ngạc gì, cũng không hề sợ sệt, mà đổi lại vui mừng nhìn con mèo to tướng đó.

Con mèo đen không ngờ lại lùi vài bước, uốn người bay vào khung trung, từ từ biến mất trong trời đêm.

Dương Thu Trì không cho đó là kỳ quái, chỉ khe khẽ mỉm cười tiếp tục bước. Khi bước ngang qua phòng khách, trong đó tối đen, Dương Thu Trì không hề tiến vào mà đi thẳng đến cuối hành lang. Hắn đứng trước cửa sổ hôm trước, đó vốn chính là cánh cửa mà bạch y nữ tử đứng phía sau nhìn hắn cười.

Quả nhiên, hắn lại nghe tiếng cười khì khì của Quách di thái truyền ra từ phòng ngủ, nhưng âm thanh lần này có vẻ bén nhọn chát chúa hơn nhiều, giống như lệ quỷ đang khóc gào vậy.

Dương Thu Trì quả nhiên lại làm mặt quỷ nháy nhó vào cửa sổ, thậm chí thò đầu vào trong cái lỗ bị hắn xé rách hôm trước, nhìn nhìn ngó ngó mọi vật bên trong.

Cái lỗ trên cửa sổ vốn khá nhỏ, DƯơng Thu Trì thò đầu vào khiến nó rách toác to ra thêm. Đầu hắn chợt đụng mạnh vào một thanh gỗ xuyên ngang, khiến nó rớt mạnh xuống đất bên trong phòng, và đầu Dương Thu Trì thò hẳn vào trong.

Quả nhiên, lần này hắn lại nhìn thấy bạch y nữ nhân lúc trước, giống y hệt, và lại còn đang nhìn hắn cười. Chỉ có điều, lần này nụ cười của ả chỉ có thể dùng từ khủng bố để hình dung, bởi vì toàn bộ da thịt trên mặt ả giờ đã thối nát rã ra hết, thậm chí đang rơi xuống từng mảnh một.

Đối với những thi thể thối nát, Dương Thu Trì đã nhìn nhiều rồi, so với quỷ nữ này còn khủng bố hơn nhiều. Do đó hắn cười hì hì nói với ả: "Ê! Cái mũi ngươi rớt xuống rồi kìa, khó coi quá đi hà, kìa kìa, lỗ tai ngươi cũng đang rớt ra, a, còn mắt nữa, mắt cũng sắp rớt rồi! Ai da, ta đã sớm nhắc ngươi hết rồi đó mà!"

Nữ quỷ chợt nhào lên phía trước, dường như áp sát vào mũi Dương Thu Trì, một mùi hôi thối bốc lên, da mặt và cơ thịt đều đã rã ra hết, ngoại trừ một con ngươi con dính trên hốc mắt, những cơ quan khác đều trở thành những cái lỗ đầy máu, lộ ra hàm răng trắng nhởn.

Không ngờ Dương Thu Trì lại nhìn cảnh này như là nhìn một tác phẩm nghệ thuật hiếm có, tặc lưỡi vài cái, than: "Xem ngươi kìa, còn ra thể thống nào nữa, mặc thì đẹp như vậy, mà trên chỉ có cái đầu lâu, thiệt là ghớm quá đi mà!"

Bạch y nữ quỷ lùi về sau một bước, chạm chân xuống đất rồi nhanh như thiểm điện phóng ra ngoài phòng.

"Được a, chúng ta chơi trốn tìm!" Dương Thu Trì nhắm mắt, rụt đầu ra khỏi lỗ, xé thêm một khối giấy lớn trên cửa sổ nữa.

Hắn quay người lại, đi về phía cửa, vừa cười ha ha vừa nói: "Không cần đoán ta cũng biết người sẽ bay trên không ngay trước cửa lớn."

Mở mắt ra, trước cửa không có bạch y nữ quỷ, mà là ba ác ma mặt xanh nanh vàng. Một tên trong đó là ngưu ma vương với hai mắt đỏ ngầu. Tên thứ hai là bạch cốt tinh, xương cốt kêu rộn rạo. Tên thứ ba là hắc sơn lão yêu. Ba tên đều có thân hình cao to, đầu chạm đến nóc phòng, từ từ bước tới.

Dương Thu Trì cười nói: "Không cần gấp, chờ ở đó, ta đang cùng bạch y khô lâu chơi trò trốn tìm mà. Lát nữa sẽ tìm các ngươi."

Dương Thu Trì lách qua cạnh bên người bạch cốt tinh. Ba ác ma quả nhiên không hề ngăn chặn hắn.

Hắn từ từ bước vào đại đường, vừa ngẩng đầu đã nhìn thấy bạch y khô lâu đang treo cổ trên xà nhà, con mắt còn lại duy nhất đang nhìn hắn trừng trừng, thịt da rữa nát không ngừng rơi xuống khỏi bộ đồ màu trắng, vun thành một đống dưới đất.

Dương Thu Trì cười cười: "Ngươi không còn trò nào mới hơn sao? Cứ dùng cái kiểu treo cổ lên xà nhà thế, ngươi không mệt ta nhìn cũng mệt quá rồi đây!"

Bạch y khô lâu đó đột nhiên biến to ra, càng lúc càng lớn, rời khỏi xà nhà, từ từ áp lại Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì đưa tay chắp sau lưng, bảo: "Ngươi không cần dọa ta, có bản lãnh thì dùng minh đao minh thương quyết đấu!" Nói xong hắn đưa tay chộp về phía bạch y khô lâu.

Khô lâu đó chợt kêu xì một tiếng, té quỵ xuống đất, da thịt thối rữa văng tung tóe khắp nơi, dính đầy mặt mũi Dương Thu Trì thối tha không chịu nổi. Cái lưỡi của ả còn bay ra, từ từ cuốn tới Dương Thu Trì định liếm.

Dương Thu Trì lùi lại vài bước, nhíu mày nói: "Làm cái quỷ gì thế, thối muốn chết luôn hà, không chơi nữa." Nói xong quay người lại gọi to: "Vân nhi cứu ta!" Nói xong ngồi xuống đất, nhắm chặt mắt lại.

Tiếp ngay sau đó là từng gáo nước muối đổ vào miệng hắn, khiến bụng hắn ngày càng phình to. Dương Thu Trì ọc ọc vài cái, thò tay đưa vào miệng cạo cạo, lập tức nôn thốc nôn tháo. Nôn xong hắn lại uống tiếp, uống xong lại ói ra, lặp đi lặp lại như vậy khoảng thời gian chừng tàn một nén nhang thì dùng.

Dương Thu Trì phẩy phẩy tay: "Được rồi, Vân nhi, không cần đổ nước cho ta nữa. Ta không sao rồi."

Dương Thu Trì mở mắt, thấy trong phòng khách có đèn đuốc sáng trưng. Tống Vân Nhi, Nam Cung Hùng cùng Tống đồng tri mỗi người cầm một cái đèn đang nhìn hắn lo lắng.

Dương Thu Trì lấy đèn lồng từ tay Tống Vân Nhi ra, soi lên trên vách. Hiện giờ bạch y khô lâu chẳng còn đâu nữa, Dương Thu Trì hỏi Tống Vân Nhi cùng mọi người: "Các người không thấy gì hết phải không?"

Tiểu lâu vô cùng âm sâm, khủng bố, tuy có bốn người ở đây, đèn đuốc sáng ngời, nhưng Tống Vân Nhi vẫn rất khẩn trương, miễn cưỡng cười nói: "Nhìn thấy huynh phát điên, lúc thì cầm cái ghế, lúc thì chui đầu qua cửa sổ, tự nói tự cười, lại còn chỉ lên xà nhà nói nói cười cười nữa chứ. Ca, huynh nhờ chúng tôi theo huynh, là đi coi huynh mộng du hay sao?" Lời nàng tuy rất nhẹ nhàng, nhưng vẫn không giấu được vẻ sợ hãi vì hành vi và lời nói kỳ quái của Dương Thu Trì lúc nãy.

Dương Thu Trì phản vấn: "Mọi người không nhìn thấy gì hết hay sao? Bạch y nữ quỷ trên phòng này?"

Nam Cung Hùng hồi đáp: "Thiếu gia, căn cứ vào sự phân công của ngài, ngài vừa ra khỏi phòng là ba người chúng tôi bám theo sau, đến trên lầu này thì ngoại trừ thiếu gia ra chúng tôi không còn nhìn thấy ai khác nữa." Tống đồng tri cũng gật đầu tán đồng.

Dương Thu Trì vỗ tay cười nói: "Ha ha, quả nhiên như ta dự tính!" Thì ra, Dương Thu Trì đoán rằng ngày hôm trước con quỷ kia muốn dọa cho hắn sợ để bỏ đi nhất định sẽ không hy vọng hắn biết thêm gì nữa. Còn nếu như "nó" làm vậy là vì sợ hắn biết được chân tướng của vụ tam di thái bị giết, và nếu chân hung ấy chính là nhị di thái, thì đêm nay do nhị di thái bị bắt rồi, nên ban đêm sẽ không có quỷ ám nữa.

Nhưng nếu như giả quỷ không phải là vì tam di thái, hay là chân hung là một kẻ khác, thì để sớm dọa cho hắn bỏ đi, đêm nay nhất định sẽ tiếp tục hiện quỷ, và thậm chí còn có khả năng là đến nhát chính hắn.

Do đó, trước khi ngủ Dương Thu Trì an bài Tống Vân Nhi và Nam Cung Hùng cùng đưa Tống đồng tri theo tận mặt chứng kiến mọi động tĩnh của hắn, xem coi có kẻ nào đó giả quỷ nhát người hay không.

Tống Vân Nhi và hai người còn lại chỉ thấy Dương Thu Trì như một kẻ mộng du đi lại nói xàm trong đêm, cho đến khi hắn kêu lên câu ám ngữ "Vân Nhi cứu ta" thì Tống Vân Nhi mới sực tỉnh, đem nước muối đã mang sẵn theo giúp Dương Thu Trì uống vào tẩy ruột. 

Sau khi tẩy rửa ruột xong, ảo dược trong thân thể của Dương Thu Trì cũng bị nôn ra theo, do đó từ từ khôi phục lại vẻ bình thường.

Vừa rồi Tống Vân Nhi và mọi người cùng bám sát theo hắn nhưng không thấy gì, chứng minh những thứ mà Dương Thu Trì thấy chỉ toàn là từ ảo giác trong đại não mà ra!

Dương Thu Trì vốn đã đoán bản thân có khả năng là bị ảo giác mới thấy quỷ. Hắn còn từ lời kể của nha hoàn Tri Xuân biết được Dương lão thái gia đã từng nửa đêm thức giấc thấy tam di thái đứng trước đầu giường cười, lại kết hợp với những gì nhìn thấy đêm đầu mà suy đoán như thế, chỉ có điều là hắn cần chứng minh.

Vào đêm qua, sau khi chứng kiến tiếp sự tình kỳ quái kia nữa, hắn chẳng hề cảm thấy kinh ngạc hay sợ hãi, bởi vì hắn đã đoán được những thứ này đều là ảo giác.

Vì sao Dương Thu Trì bị ảo giác mà cùng nhìn thấy Tam di nương treo cổ? Đó là vì trước hết hắn nghe nhiều người và Dương lão thái gia nói đi nói lại về việc tam di nương treo cổ ở phòng ấy, thậm chí biết được địa điểm treo cổ ở chỗ nào, và hắn đối với chuyện này cảm thấy vô cùng hứng thú giống như ám thị tâm lý cực mạnh ẩn giấu trong lòng vậy, cho nên cả hai lần ảo giác đều thấy cùng một đối tượng.

Tại sao hắn đợi tới giữa đêm mới xuất hiện ảo giác? Rất có khả năng là có người cho hắn ăn món gì đó gây ảo giác. Món gì thì hắn chưa nghĩ ra, nhưng nhất định là thứ hắn đã ăn tối qua. Và ai hạ độc thì hắn còn chưa biết.

Người có thể tiếp xúc với món mà hắn ăn quá nhiều, nếu như hiện giờ gióng trống phất cờ đả thảo kinh xà, chi bằng cứ ôm cây đợi thỏ! Do đó hiện giờ không thể tra ra, nhưng cũng không để thấu lộ tin tức, và khi thấy hắn không sao, người hạ thuốc gây ảo giác đó sẽ tiếp tục hạ dược, và lần này hắn phải cho người bắt tại trận kẻ đó mới được.

Nhưng Dương Thu Trì cảm thấy rất rõ là thuốc gây ảo giác lần này mạnh hơn lần trước nhiều, khiến cho quỷ và người không khác nhau là bao, nhưng quỷ đều đã biến thành lệ quỷ gớm ghiếc.

Không thể để xảy ra lần sau nữa! Lần này hắn đã nôn mửa ra gần hết, sự nguy hại gây ra cho thân thể không lớn, nhưng nếu có lần sau, nói không chừng hắn không còn vận khí tốt như vậy nữa.

Và chiếu theo lý mà xét, thì tam di thái phát bệnh hoa si rất có thể là do bị người ta hạ thuốc gây ảo giác. Tam di thái có thể chất đặc thù, dưới tác dụng phụ của món thuốc này, khiến nàng ta sản sinh ảo tưởng có tính tinh thần phân liệt, nên dẫn đến hiện tượng hoa si.

Dương Thu Trì quyết định trước hết khoan báo cho Tống Vân Nhi và mọi người biết, để tránh khỏi phải đả thảo kinh xà.

Tống Vân Nhi hỏi đi hỏi lại mấy lần, Dương Thu Trì cứ cười trừ đáp rằng sẽ nói cho nàng biết sau, rồi lập tức trở về phòng ngủ.

Đêm ấy không có chuyện gì xảy ra nữa, Dương Thu Trì ngủ cho đến khi trời sáng hẳn.

Khi hắn còn nằm trên giường, Tống Vân Nhi đã đẩy cửa chạy vào, ngồi ở đầu giường nói: "Ca, anh chàng sâu con làm biếng, mau dậy đi, đêm thì mộng du, ngày lại ngủ bù hay sao?"

Dương Thu Trì đáp: "Được được, ta dậy!" Nhưng thấy Tống Vân Nhi cứ mở to mắt nhìn hắn, bèn cười khổ bảo: "Muội kêu ta dậy mà cứ ngồi đó không chịu lui ra một chút, ta sao mặc quần được chứ a?"

Tống Vân Nhi ngượng ngùng cả cười, cầm quần áo trên bàn đưa tới cho Dương Thu Trì, vừa định đi ra, chợt ớ lên một tiếng chỉ vào đầu hắn hỏi: "Ca, đầu huynh sao mà bụi đất mạng nhện không vậy? Hi hi, chui vào đáy giường bắt chuột hay sao?"

Dương Thu Trì sờ đầu, sau đó đưa tay xuống nhìn, thấy trên đó toàn là bụi, bèn chồm dậy nhìn xuống gối, cũng thấy toàn bụi và mạng nhện, bèn nói: "Ừ ha, vì sao thế nhỉ?" Hắn hơi trầm ngâm, sau đó nghĩ ra ngay, cười hà hà bảo: "Là đêm qua ta chui đầu vào cái lỗ trên cửa sổ nhìn bạch y nữ quỷ. Ta nhớ còn khiến một cây gỗ ngăn vách rớt xuống nữa, giấy trên cửa sổ đó toàn là bụi, nên đầu ta mới...."

Đột nhiên, mắt Dương Thu Trì sáng rực lên, đưa tay lên vuốt lỗ tai, thấy cũng đầy bụi. Hắn ngưng thần ngẫm nghĩ, chợt mừng rỡ reo thật to, vụt tốc mền gối cầm quần áo mặc nhanh vào.

Tống Vân Nhi tức thời đỏ bừng mặt, trề môi quay mặt đi chỗ khác: "Huynh làm cái gì thế?"

"Có vấn đề!" Dương thu Trì vừa mặc quần áo vừa tự ngôn tự ngữ.

"Muội thấy đầu óc huynh mới có vấn đề ấy!" Tống Vân Nhi bực mình gắt.

"Đừng có ngắt lời!" Dương Thu Trì vội vã nói, "Cú thò đầu vào của ta nhất định không mạnh đến nỗi làm đổ gãy cây song, khi rụt đầu lại không có khả năng tạo ra cái lỗ lớn cùng nhiều bụi bặm đến như vậy, trừ khi...." Linh quang trong óc hắn chợt lóe lên, liền đoán gần trọn mọi chuyện. Hắn kéo tay Tống Vân Nhi: "Chứng ta đến tòa lầu đó!"

Tống Vân Nhi không biết Dương Thu Trì lại phát khùng giả vờ thần thần bí bí gì nữa đây, nên hỏi: "Làm gì nữa đây? Một lần muội tởn tới già rồi! Nơi đó có quỷ, muội không đến nữa đâu." Tống Vân Nhi hơi gay gắt, nhưng miệng nói vậy mà chân vẫn chạy theo Dương Thu Trì tới căn lầu nọ.

Nam Cung Hùng nghe Dương Thu Trì rời khỏi cửa, tức thời không rời nửa bước, bám sát theo hai người.

Dương Thu Trì kéo Tống vân Nhi thẳng tới ngoài hành lang căn phòng ngủ của tam di thái Quách thị, quan sát kỹ cửa sổ một hồi, vui mừng gật đầu lẩm bẩm: "Thì ra là như thế! Ta thật đúng là hồ đồ, vầy mà không phát hiện được!"

Tống Vân Nhi ngạc nhiên hỏi: "Phát hiện được gì? Ca, huynh đang nói gì thế a?"

Dương Thu Trì không lý gì đến nàng, xoay người chạy vào trong phòng, đến phía sau cửa sổ, lấy từ dưới đất thanh gỗ ngang bị hắn đụng rớt lúc khuya. Tống Vân Nhi và Nam Cung Hùng cùng tiến vào, cũng bước lại gần quan sát.

Tống Vân Nhi định lên tiếng hỏi, thì Dương Thu Trì đã phân công: "Vân nhi, muội đi gọi cha muội cùng Dương lão thái gia đến đây."

Tống Vân Nhi không hỏi gì thêm, dạ một tiếng rồi chạy đi ngay. Chẳng mấy chốc sau, Dương lão thái gia và Tống đồng tri cùng đến phòng ngủ của tam di thái ở căn lầu nhỏ.

Tống đồng tri hỏi: "Sao rồi? Hiền điệt, có, có phát hiện gì mới sao?"

Dương Thu Trì cầm cây then ngang đưa cho Dương lão thái gia: "Bá phụ, mọi người xem, một đầu của cây song cửa này bị người ta cắt đứt, dấu này rất cũ, rõ ràng là nó nằm phía trên."

Tống đồng tri tiếp lấy quan sát cẩn thật, thấy quả nhiên là cây song cửa này có một đầu bị cắt đi hết phân nửa, chỉ còn lại một đầu nhọn nhỏ, có chút không hiểu nhìn Dương Thu Trì dò hỏi.

Dương Thu Trì lấy cây song lại, bước lại cửa sổ, dùng tay phải đặt cây then vào chỗ lõm ở một bên, tay trái giữ đầu cây song bên kia khẽ dùng lực, đưa thanh chèn ngang vào trong chỗ lõm giữ phía bên kia. Hắn dùng tay phủi phủi, cây thanh ngang nằm yên ổn ngay ngắn ở đó. 

Những thanh gỗ ngang này nằm ở giữa một khoảng khá rộng, nếu lấy đi một thanh thì coi như khoảng không đó không có trở ngại gì, vừa chỗ cho một người lớn chui lọt!

Đến lúc này thì mọi người đều đã rõ, Tống Vân Nhi vui mừng reo lên: "Ca, muội biết rồi, chân hung kỳ thật là tiến vào ngõ cửa sổ: y trước hết gỡ bỏ thanh ngang này xuống, chui qua song cửa vào trong, xiết cổ chết tam di thái Quách thị, sau đó ngụy trang treo cổ chết, rồi sau đó chui ra, cài thanh ngang trở lại!"

"Thông minh!" Dương Thu Trì giơ ngón tay cái lên khen.

Tống Vân Nhi cười hì hì, thập phần đắc ý. Tống đồng tri vuốt vuốt chòm râu dê, cười rạng rỡ gật đầu.

Tống Vân Nhi đang đắc ý, đột nhiên nghĩ ra một chuyện, hỏi: 'Ca, có điểm không đúng! Tuy chân hung có thể chui vào chui ra, nhưng còn giấy che cửa thì sao? Y ở trong phòng dán kín giấy che cửa rồi thì còn chui ra làm sao được?"

Dương Thu Trì cười đáp: "Muội đi xem kỹ giấy dán cửa sổ đi, sẽ biết được đáp án của vấn đề này ngay."

Tống Vân Nhi nghi hoặc đến bên cửa sổ, cúi đầu nhìn, ơ lên một tiếng chạy ra ngoài phòng, đến trước cửa sổ nhìn lên nhìn xuống.

Mọi người không biết nàng phát hiện được gì, đều chạy ra theo.

Tống đồng tri hỏi: "Vân nhi, con, con ơ ơ cái gì đó a?"

"Cha, cha xem nè," Tống Vân Nhi chỉ vào cửa sổ, "Giấy dán cửa sổ này là áp từ bên ngoài vào!"

Tống đồng tri nghe được lời này liền kinh ngạc vô cùng, cúi xuống quan sát ngay. Quả nhiên, giấy dầu dùng để dán che cửa sổ được áp từ bên ngoài vào, lại được sắp xếp rất chỉnh tề, nên nếu không chú ý thì căn bản không thể phát hiện được.

Giấy dán cửa thời cổ đại đều được dán từ bên trong. Thứ dán từ bên ngoài như thế này Tống đồng tri mới thấy lần đầu. Lão nghi hoặc đi một vòng quanh hành lang, thấy cửa sổ nào cũng có giấy dán từ phía ngoài cả.

Tống đồng tri nghi hoặc hỏi Dương lão thái gia: "Dương huynh đài, giấy dán cửa này tại sao lại được áp từ phía ngoài? Đây rốt cuộc là chuyện gì?" Dương lão thái gia nói: "Dương gia thôn chúng ta ở giữa núi, phía trước không có núi ngăn trở, địa thế rộng rãi, gió mà nổi lên thì rất khó chịu, có thể thổi tan hết cỏ rơm che trên mái nhà, do đó cần phải dán giấy ở phía ngoài cửa sổ.

Tống Vân Nhi nhớ lại chiều qua khi ở ngoài hành lang xem gió tuyết, Dương lão thái gia và Bàng quản gia đã nói là Dương gia thôn có gió lớn tuyết lớn, đặc biệt là vào tiết đông xuân, thậm chí có thể thổi bay cả đá, nhưng điều đó thì có liên quan gì đến mớ giấy dán này?

Dương Thu Trì thấy Tống Vân Nhi còn ra vẻ không hiểu, cười bảo: "Vừa khen muội thông minh, sao lại ngu bất ngờ nữa rồi. Giấy dán cửa sổ này nếu dán bên trong song cửa, gió mạnh thổi tới sẽ rất dễ bị bong ra, nếu như kẹp dán ở ngoài, gió thổi áp vào thì có song cửa cản lại, nên sẽ không bị gió thổi bay."

"Đúng vậy," Dương lão thái gia nói, "Ngoại trừ chắn gió, còn phải chống sương tuyết và nhiệt nữa. Vào mùa đông nhà lão bá tánh đều không tiền mua than sưởi, chỉ có thể trốn trong giường gạch nung ấm. Những cái giường này thường đều ở gần cửa sổ, nếu như bị nhiệt khí bốc lên, các giấy dán ở đó đều bị hanh khô, bong trốc rơi xuống rất dễ dàng."

"Mùa đông ở đây tuyết rất lớn, rất lạnh, nếu như giấy dán từ bên trong, sương tuyết sẽ đóng lên song cửa, sẽ làm ướt giấy, khiến cho nhăn nheo thủng lổ chẳng dễ coi chút nào, lại hay bị rơi ra. Do đó, trong Dương gia thôn chúng ta, nhà nào cũng dán giấy từ bên ngoài, được song cửa bảo hộ che chắn bên trong, nên đạo tặc không thể tiến vào.

Tống vân Nhi và Tống đồng tri giờ mới hiểu rõ. Tống đồng tri hỏi: "Hiền điệt, như, như vậy xem ra ý tứ của cháu là, là chân hung là người khác, hơn nữa lại từ của sổ tiến vào sao?"

Tống đồng tri đối với việc phát hiện hung thủ thực sự là một kẻ khác của Dương Thu Trì không cảm thấy bất ngờ gì, vì vốn đã có tiền lệ xảy ra trước đây. Hiện giờ phát hiện so với định xong án rồi mới phát hiện ra thì dễ chịu hơn nhiều.

"Đúng vậy," Dương Thu Trì chỉ vào mảnh giấy ở cửa sổ, "Mọi người có chú ý không, khối giấy này không giống giấy chỗ khác, xem ra là được dán đơn độc ra."

Điểm này thì Tống Vân Nhi cũng không chú ý đến. Nàng chồm người tới quan sát, sau đó lùi lại vài bước nhìn, quả nhiên thấy màu sắc các mẫu giấy ở cửa sổ và chỗ khác hơi có chút khác biệt, nếu không nhìn cẩn thận không thể phát hiện được.

Dương Thu Trì sờ sờ mảnh giấy dán cửa sổ, nói: "Ngày hai bốn quét dọn nhà cửa, ngày hai lăm dán giấy cửa sổ. Các cửa sổ ngôi tiểu lâu này xem ra được dán vào ngày hai mươi lăm, án phát ra vào ngày hai mươi tháng ba, cách nhau ba tháng. Mọi người nhìn xem, giấy dán ở đây dán chắc hơn nhiều, có lột cũng rất khó bong ra."

"Do đó, xem ra hung thủ trước hết xé bỏ giấy cũ đi, sau đó dùng dao nhọn gọt nhỏ đầu của song cửa sổ, mở nó ra rồi lẻn vào, sau khi phạm tội xong lại leo trở ra, gắn thanh song lại, sau đó dùng giấy dán kín. Giấy dán cửa sổ chỉ cách nhau ba tháng, không nhìn cẩn thận không nhìn ra được đâu."

Đúng a! Nói đến đây, Dương Thu Trì đột nhiên nghĩ, nếu như hung thủ dán giấy che cửa sổ trở lại, trong lúc xảy ra án mang thì căn lầu bị khóa, không có người ngoài ra vào, nên những dấu vân tay trên lớp giấy này rất có thể là do hung thủ lưu lại, và có thể có vết hồ dính dấu vân tay trên đó nữa.

Dương Thu Trì cẩn thận thổi bụi bám trên giấy dán cửa sổ, lợi dung ánh sáng xiên quan sát, nhưng vẫn không thể nào nhìn rõ được, bỡi vì có mạng nhện và bụi vẫn còn bám trên đó.

Dương Thu Trì lấy một cái ghế kê cạnh cửa sổ, nhờ Tống Vân Nhi đứng lên ghế quay lưng về phía cửa sổ. Tống Vân Nhi tuy không biết Dương Thu Trì làm vậy để làm gì, nhưng vẫn ngoan ngoãn nghe theo.

Tóc của nàng rất dài, Dương Thu Trì cầm tóc nàng lên, cẩn thận dùng nó quét đi bụi bậm trên giấy dán cửa.

Bụi bặm bị quét xong, thì tóc của Tống Vân Nhi đã dính bẩn cả. Dương Thu Trì xin lỗi: "Vân nhi, xin lỗi, làm dơ tóc của muội rồi."

Tống Vân Nhi rộng lượng: "Không sao, lát nữa muội sẽ đi gội. Ca, huynh làm vậy để làm gì?"

"Hiện giờ còn không thể báo cho muội được, sau này sẽ biết." Dương Thu Trì đưa đầu áp sát vào lớp giấy đó, chăm chú quan sát, đặc biệt là những vị trí ráp mối giữa giấy dán và khung cửa sổ.

Muốn dán kín cửa sổ thì những chỗ như trên phải dùng chổi ấn cho đều. Hung thủ đã tính toán rất cẩn thận khi gây án, để giữ bí mật thì nhất định không thể chuẩn bị những thứ linh tinh này, rất có khả năng dùng tay dán và lưu lại vân tay trên giấy.

Quả nhiên, ở bờ rìa giấy dán, Dương Thu Trì phát hiện mấy dấu tay mờ nhạt, nêu không chú ý kỹ sẽ không phát hiện được.

Nhất định là lúc dán giấy lên cửa sổ, hung thủ đã dùng tay phếch hồ. Giấy dán cửa sổ và vách tường sát bên mép cửa sổ thường hơi cũ và nhiều bụi hơn ở ngoại. Sự ẩm ướt cộng thêm bụi nữa khiến ngón tay đè lên lưu lại dấu vết hơi nhạt.

Do dấu vân tay quá mờ, căn bản chẳng nhìn thấy đường vân, xem ra hắn phải kiên nhẫn chờ Phùng Tiểu Tuyết mang dụng cụ khám nghiệm hiện trường đến rồi dùng dụng cụ lấy vân tay bằng từ tính mới có thể xác định rõ được.

Nhưng Dương Thu Trì vẫn tận hết khả năng quan sát hết những dấu vân tay này, hy vọng từ đó có thể phát hiện được điều gì.

Tống Vân Nhi cùng cúi sát xuống giấy dán cửa nhìn lung tung, nhưng nàng chẳng nhìn ra điểm chính, vì những dấu vân tay đó mờ nhạt vô cùng, cần phải dùng ánh sáng và giác độ nhất định mới phát hiện được, nên Tống Vân Nhi chẳng phát hiện điều gì không ổn. Hơn nữa, cho dù chỉ cho nàng nhìn, nàng cũng không biết dấu vân tay này có ý nghĩa gì đối với việc xác định phạm tội, nhân vì thời bấy giờ chưa có bất kỳ nhận thức gì về dấu vân tay.

Tống Vân Nhi không biết Dương Thu Trì nhìn cái gì, nhưng khi thấy hắn dùng hết tinh thần ra nghiên cứu cái gì đó, nàng không dám hỏi loạn, sợ làm nhiễu dòng suy nghĩ của hắn.

Dương Thu Trì nhìn một hồi, cảm thấy những dấu vân tay này hơi kỳ quái, nhưng cũng không rõ kỳ quái ở chỗ nào. Hắn bèn nhìn từ dưới lên, cuối cùng phát hiện ra điều đó, chính là trong số vân tay ấy có mấy dấu không nhìn thấy hình dáng đường vân, có thể là ngón tay này đã dính đầy hồ hoặc đất nên không để lại dấu vân tay. Trong tình huống này, chỉ có thể dùng chổi quét vân tay từ tính hoặc là bộ phấn vàng hoặc bạc để làm vật hiển hiện thì mới có thể thu được dấu vết.

Phát hiện về dấu vân tay khiến Dương Thu Trì vô cùng hưng phấn, đây chính là một điểm đột phát trọng đại, chỉ cần Phùng Tiểu Tuyết mang dụng cụ pháp y của hắn tới, lấy được dấu tay này, sau đó đem so sánh các dấu tay của mọi người trong Dương gia đại viện thì coi như đã dễ dàng phát hiện ra chân hung rồi.

La huyện thừa và Tống đồng tri đến căn lầu nhỏ cùng một lúc. Hiện giờ hai người đang cùng Dương lão thái gia cảm thán cho kế hoạch chu toàn và ẩn mật của hung thủ. Cái này có thể coi là dụng tâm đến khổ. Rất may là Dương Thu Trì minh xét chắc chắn, phát hiện hung thủ vào phòng qua đường cửa sổ, từ đó có thể thấy, kẻ có khả năng là hung thủ không chỉ khoanh vùng trong hai người là mụ vú và Tri Xuân không thôi!

Cho đến giờ, Tống đồng tri cũng tự cảm thấy hoài nghi là tối qua nhị di thái Trương thị và mụ vú đều kêu gào oan uổng, chẳng lẽ họ không làm thật sao? Hèn gì Dương Thu Trì tối qua chẳng lên tiếng, thì ra gã đã sớm phát hiện ở đây có vấn đề rồi.

Tống đồng tri nhìn Dương Thu Trì, hơi ngượng hỏi: "Hiền điệt, vậy, thế cháu xem là nên làm thế nào?"

"Tiếp tục tra!" Dương Thu Trì đáp một cách dứt khoát.

Án này có phạm vi điều tra khá nhỏ, lại xày ra trong đêm khuya, Dương gia đại viện là có tường cao và gia đinh hộ vệ. Lúc ấy không phát hiện có người ngoài đột nhập vào, một loạt hành động từ xé giấy dán cửa sổ, làm lỏng song cửa ra, chui vào phòng, trở ra lại cẩn thận xóa bỏ mọi dấu vết... xem ra ở đây hung thủ có dự mưu trước, có kế hoạch có chuẩn bị, lại vô cùng quen với hoàn cảnh chung quanh, rất có khả năng là người trong Dương gia đại viện.

Người này nhất định là dùng mê hương gì đó khiến mụ vú và tiểu nha hoàn hôn mê, sau đó lẻn vào trong giết người.

Do trong nội trạch của đại viện bị khóa ngăn cách với bên ngoài, thời gian phát án là khoảng 2 giờ khuya, như vậy cửa lớn đã sớm đóng từ bên trong rời, các gia đinh hộ viện bên ngoài cùng người hầu không thể tiến vào được. Do đó, phạm vi phá án xem ra chỉ nên tập trung vào người ở nội trạch lúc đó mà thôi.

Dương lão thái gia đem quyết định tíêp tục tra án báo cho Bàng quản gia để y cho người trên kẻ dưới trong nhà họ Dương biết, lại yêu cầu ai ai cũng phải phối hợp cho tốt để phá án.

Nghe nói còn tiếp tục điều tra, mọi người trên dưới ở Dương gia tức thời khẩn trương hết cả lên. Tuy nhiên họ vẫn y theo quy củ, tự động trở về phòng, không cho phép tùy ý lưu động. Tống đồng tri mang theo một số bộ khoái làm nhiệm vụ cảnh giới, đại đường lâm thời vẫn đặt ở trên lầu.

Tống đồng tri ngồi giữa đại đường hỏi án, La huyện thừa và Dương Thu Trì ngồi hai bên phải trái làm bồi thẩm. Tống Vân Nhi còn kéo một cái ghế ngồi cạnh Dương Thu Trì nghe thẩm vấn.

Tống đồng tri và Dương Thu Trì cùng thương lượng, và người mà họ muốn tra án đầu tiến chính là đại thiếu gia Dương Thanh Thủy! Đối với việc tiếp tục tra án này như thế nào, Tống đồng tri chẳng có chút ý tưởng, nên lại cầu cứu Dương Thu Trì. Hắn không từ chối, đáp ứng trở thành người chủ thẩm trong lần này. 

Sau khi cho đưa Dương Thanh thủy lên đại đường, Dương Thu Trì nhấc một cái ghế cho y ngồi. Dù sao thì vẫn chưa chứng minh được y là hung thủ, Dương Thu Trì không dám làm loạn, nếu không án này phá xong rồi, thân thích coi như đắc tội gần hết, vậy thật chẳng ra thể thống gì. 

Trên đại đường hiện giờ có quan ngũ phẩm Đồng tri đại nhân ngồi, Dương Thanh Thủy lại không có công danh, án theo đạo lý phải quỳ xuống. Nhưng Dương Thu Trì lại mang cái ghế cho y ngồi, Dương Thanh Thủy có chút thụ sủng mà kinh, thấy Tống đồng tri không nói gì, nên mới ngồi nép xuống một bên ghế. 

Dương Thu Trì bảo: "Đường huynh, đệ hiện giờ thân là tri huyện, chịu sự ủy thác của Tống đồng tri Tống đại nhân, phụ trách phá án này. Đệ muốn hỏi huynh vài vấn đề, nếu như có chỗ nào đắc tội, thỉnh đường huynh lượng thứ cho." 

Dương Thanh Thủy vội vã đứng lên cung thân thi lễ: "Không dám, đường đệ, à không, Dương đại nhân quá lời rồi." Sau đó ngồi xuống. 

Dương Thu trì hiện giờ có thể thăng đường hỏi án, thì đó là thấy thân phận của đại nhân triều đình, Dương Thanh Thủy dù sao cũng biết chừng mực này. 

Dương Thu Trì hỏi: "Đường huynh, đêm tam di nương chết đó, huynh là cái gì?" Tuy là đã cách hai nam, nhưng Dương Thu Trì tin là với chuyện lớn như vậy, trên dưới nhà họ Dương đều nhớ rất rõ. 

Quả nhiên, Dương Thanh thủy không hề do dự đáp: "Đêm đó ta đi ngủ sớm." 

"Có nhân chứng không?" 

"Có vợ và hài tử của ta có thể làm chứng, ngoài ra còn có nha hoàn và người hầu trong vườn." 

"Ban đêm huynh có ra ngoài không?" 

"Không có. Vườn trong đóng cửa từ rất sớm, và có người gác cửa." 

"Đường huynh," Dương Thu Trì ra vẻ rất hiếu kỳ hỏi: "Hôm trước khi đệ đến thôn, bá phụ đã từng dẫn đi xem các nơi trong Dương gia đại viện, đệ thấy tiểu viện của huynh có tường vây không cao lắm, chỉ bằng khoảng đầu người, có đúng không?" 

"Đúng vậy, ngoại trách có tường cao, nội trạch cũng có, nhưng các tiểu viện không cần xây tường cao như vậy, nếu không sẽ quá ngột ngạt." 

"Ạ....! Thì ra là như vậy, vậy có thể nói, tuy cửa tiểu viện của huynh đã đóng, nhưng chỉ cẩn dùng thang hoặc ghế cao là có thể trèo ra ngoài tường, xem ra không khó chút nào ha?" 

"Không khó, rất dễ dàng. Đơờng đệ, à không, Dương đại nhân nói lời này là có ý gì?" Dương Thanh Thủy đến lúc này mới phản ứng trở lại. 

"Không có gì, tùy tiện hỏi thôi, huynh không cần phải khẩn trương." Dương Thu Trì cười ra vẻ rất thâm, tiếp theo đó mặt đanh lại: "Phòng ngủ của các người đều có cửa, tường lại không cao, ngươi nửa đêm nửa hôm treo tường ra ngoài nha hoàn và người hầu sẽ không hay không biết. Bổn quan bây giờ hỏi ngươi, đêm hôm đó có phải là ngươi lẻn ra ngoài tường đi giết tam di nương hay không?" 

Dương Thu Trì dùng cái uy của nhà quan này quả thật không tệ, lời vừa rồi khiến Dương Thanh Thủy hoảng cả lên, mặt biến hẳn, luôn miệng thưa: "Dương đại nhân, tôi không có, tam di nương không phải do tôi giết, tôi và tam di nương vô oán vô cừu, giết người ta để làm gì?" 

"Vô oán vô cừu?" Dương Thu Trì lạnh lùng cười. "Tam di nương phát hoa si rồi thì người đầu tiên dì ta chạy đi tìm chính là ngươi? Vì sao nhiều nam nhân như thế mà không chịu đi tìm ôm, lại cứ đi tìm ngươi mà ôm?" 

Dương Thanh Thủy cúi đầu: "Tôi làm sao, làm sao biết được." 

"Ngươi không biết à?" Dương Thu Trì hỏi dồn. "Vậy ta hỏi ngươi thêm, ngày đó tam di nương phát hoa si ôm ngươi rồi, có nói những lời gì?" 

Dương Thanh Thủy tái xám mặt, ấp úng đáp: "Tôi, tôi không còn nhớ nữa." 

"Sẽ không đâu, tam di nương nói xong khiến người sợ kêu oai oái lên, ngươi sao lại không nhớ được chứ? Ngươi không cần giấu giếm làm gì, kỳ thật nha hoàn Tri Xuân đã cho ta biết, tam di nương nói với ngươi là 'Cái gì cũng đáp ứng ngươi'", Dương Thu Trì quay sang hỏi Tống đồng tri: "Tống đại nhân, hạ quan nói có chỗ nào sai không?" 

Tống đồng tri gật gật đầu: "Nha, nha hoàn Tri Xuên đích xác là có nói như thế." 

Dương Thu Trì hỏi Dương Thanh Thủy: "Đường huynh, tam di nương vì sao lại nói như vậy, dì ta nói đáp ứng huynh, vậy dì ta muốn đáp ứng huynh cái gì?" 

Dương Thu Thủy cúi đầu thấp hơn, không nói không rằng. 

Dương Thu Trì lại bảo: "Nếu như đường huynh không muốn nói đến chuyện này, thì trước hết khoan hãy nói tới. Nhưng nếu như huynh không muốn nói đến chuyện đó, thì đệ cũng không cho huynh biết một chuyện khác liên quan đến tam di nương." Nói đến đây, Dương Thu trì cầm chung trà lên từ từ nhấp nháp. 

Người ai cũng có lòng hiếu kỳ, Dương Thanh Thủy cũng không ngoại lệ, cuối cùng nhịn không được hỏi: "Dương đại nhân nói chuyện liên quan đến tam di nương đó chẳng hay là chuyện gì?" 

Dương Thu Trì nhìn Dương Thanh Thủy, thấy y tỏ vẻ khẩn thiết, chỉ từ điểm này cho dù có ngốc cách mấy cũng nhận ra quan hệ giữa y và tam di nương không tầm thường. Hắn vờ thở dài một hơi, nói: "Thôi được rồi, đệ vẫn cứ cho huynh biết, ngày hôm trước đệ lại nhìn thấy quỷ hồn của tam di nương ở ngôi lầu đó, điều này thì huynh biết, nhưng huynh có biết dì ta nói với đệ cái gì không?" 

Dương Thanh Thủy gật đầu rồi lại lắc đầu, ngày trước khi y nghe Dương Thu trì thấy quỷ hồn của Tam di nương, thần tình rất khẩn trương, nhất mực muốn hỏi diễn biến Dương Thu trì gặp phải tam di nương như thế nào, nhưng không tiện lên tiếng. Hiện giờ Dương Thu Trì chủ động nói đến chuyện này, Dương Thanh Thủy liền chồm người tới, suýt chút nữa là dỏng cả hai lổ tai lên. 

Dương Thu Trì bước tới cạnh Dương Thanh Thủy, khom người kề sát tay y, khẽ bảo: "Quỷ hồn của tam di thái nói, nàng ta ở dưới đó rất lạnh, nàng rta rất hối hận là đã cự tuyệt huynh." 

Bầu mắt của Dương Thanh Thủy giờ ướt nhòe, hỏi: "Thật không? Tam di nương nói như thế thật chứ?" 

Dương Thu Trì gật gật đầu: "Thật, vốn ngày đó đệ phải cho huynh biết ngay, nhưng lúc đó quá nhiều người, không tiện...." Dương Thu Trì đối với việc sử dụng quỷ hồn ra dụ cung cảm thấy bức rức không yên, xem ra không có thiết bị hiện đại, bản thân gã pháp y như hắn chẳng hơn gì người thời cổ bao nhiêu. 

Tuyệt đại đa số cổ nhân đều tin vào quỷ hồn, đêm đó Dương Thu Trì bị ảo giác nhưng kể ra lại vô cùng thật, khiến cho Dương Thanh Thủy tin ngay, nói: "Đều là do ta không tốt, là ta đã hại nàng ấy." 

Vừa nghe đến lợi này, Dương Thu Trì và Tống đồng tri đều cảm thấy đã có lối thoát. Xem ra, việc phán đoán đã đúng, chính là Dương Thanh Thủy hại chết tam di thái Quách thị. Trong lòng hai người đều phán đoán, rất có khả năng là Dương Thanh Thủy và tam di thái thông gian, bị Dương lão thái gia hát giác được manh mối, Dương Thanh Thủy vì đề phòng sự tình bại lộ hẳn nên đã giết người diệt khẩu... Và cũng có thể là Dương Thanh Thủy bức gian tam di nương không thành, nên nổi sát niệm. 

Dương Thu Trì không lên tiếng, vì hắn biết nếu như Dương Thanh thủy đã mở lời thì nhất định sẽ nói tiếp. 

Quả nhiên, Dương Thanh Thủy cất tiếng: "Tống đại nhân, Dương đại nhân, nếu như hai ngài đều cho rằng tôi giết tam di nương, thì tôi tất phải đem quan hệ của tôi và nàng ta nói ra cho rõ mới được." 

Dương Thu Trì và Tống đồng tri đều mở cờ trong bụng, tĩnh lặng chờ y chiêu cung. 

Dương Thanh Thủy dừng lại một lúc mới lấy hết dũng khí ra nói: "Kỳ thật, tam di nương là tôi mang về nhà, vốn là sẽ làm tiểu thiếp của tôi." 

Vừa nghe lời này, Dương ThuTrì và Tống đồng tri cùng trợn mắt, thì ra là còn có ẩn tình lớn lao như vậy. 

Dương Thanh Thủy tiếp tục nói: "Tam di nương là người tôi quen lúc đi Ứng thiên phủ du học. Tuy nhà của nàng ta bần hàn, nhưng người rất thiện lương hiền diệu, lại đẹp vô cùng. Lúc đó tôi đang tìm kiếm một tiểu thiếp, nên nói với người nhà của nàng, và nhà nàng đã đáp ứng. Tuy nhiên tôi phải mang nàng về nhà để ra mắt mẹ cha, nếu trúng ý mới chính thức nạp thiếp." 

"Nhưng khi tôi mang nàng ta về nhà rồi, thì cha tôi lập tức sai tôi đến Dương châu thu một khoản nợ. Bảo là người nợ này sẽ lập tức đi về nam buôn bán không biết bao giờ về, nếu như không kịp thu món nợ đó coi như mất trắng một món tiền lớn." 

"Cha tôi giục tôi phải động thân ngay, nếu không sẽ lỡ mất dịp. Tôi không dám không nghe, chỉ biết lên đường lập tức, vì tôi biết nếu chuyện này làm không tốt, cha mẹ tôi sẽ không đáp ứng cho tôi nạp thiếp." 

Dương Thu Trì hiếu kỳ hỏi: "Làm sao có thể thế được? Nạp thiếp là để cho nhà huynh có thể truyền tông tiếp đại mà." Dương Thanh Thủy thảm não nói: "Dương đại nhân, ngài không biết nguyên nhân bên trong. Vợ chính Chu thị của tôi chính là con gái của Chu Đề Cử đại nhân phó ti thuế muối của Dương châu. Lúc kết hôn, Chu Đề Cử đại nhân đã nói trước, nếu như con gái của người sanh con trai cho Dương gia, thì tôi không thể nạp thiếp được nữa. Cho dù là không sinh con trai, sau bốn chục tuổi mới được nạp thiếp."

"Trời ơi, quy cũ cái rấm thối gì thế kia!" Dương Thu Trì bất bình, "Gả con gái thì gả con gái cho rồi, làm gì mà ước thúc thế, có cần chứng tỏ với "cục cưng" như vậy không?"

Dương Thanh Thủy tuy chẳng hiểu chữ "cục cưng" nghĩa là gì, nhưng đoán là nói cho mình, tức thời có cảm giác gặp người tri kỹ, cảm động lên tiếng phụ họa: "Chính vậy, nhưng chuyện này do cha mẹ định ra, cha mẹ đáp ứng rồi, huynh cũng chảng còn cách nào."

Tống đồng tri chen lời: 'Nếu, nếu như hai nhà đã nói rõ với nhau rồi, thì ngươi, ngươi đưa Quách thị về nhà, chẳng phải là, là phản lại lời ước định của hai nhà, vậy là ngươi sai, sai rồi."

"Tống đại nhân có chỗ chưa rõ," Dương Thanh Thủy nói, "Tôi và Chu thị thành thân không được bao lâu, nhạc phụ Chu Đề Cử Chu đại nhân của tôi đã bị bãi quan rồi."

Thì ra là như thế, cha của Chu thị làm quan, phó đề cử của Diêm khóa ti (Quan chuyên thu thuế muối, rất có uy thời nhà Minh) chính là quan thất phẩm ở Minh triều. Dù nhỏ dù lớn gì cũng là quan, hai nhà có ước hẹn rồi thì Dương gia không dám sai ước. Nhưng nếu như cha của Chu thị hiện giờ bãi quan rồi, sau lưng không có thế lực, Dương gia muốn hủy ước thì Chu gia cũng chẳng có biện pháp gì.

Nhân vì ước định của Chu gia thái quá hà khắc và thậm chí chẳng có tình lý, Dương gia nếu muốn hủy ước sẽ không bị thế tục chỉ trích gì nhiều. Chỉ có điều hủy hay không hủy chỉ cần Dương lão thái gia nói một tiếng là xong. Cha còn sống sờ sờ ở đó, Dương Thanh Thủy cho dù có muốn cũng chẳng có quyền tự chủ gì.

Dương Thu Trì giờ đã hiểu, hỏi: "Ngươi muốn dùng chuyện thu hồi nợ để làm vui lòng cha, để ông ấy đồng ý cho ngươi nạp thiếp?"

Dương Thanh Thủy gật đầu: "Đúng vậy, tôi là trưởng tử của Dương gia. Vợ tôi Chu thị sinh lần đầu là một bé gái, sau đó không sinh dục nữa. Cha mẹ tôi hi vọng sẽ sớm có cháu để giữ hưởng hỏa, do đó tôi nghĩ cha mẹ tôi sẽ đồng ý thôi. Thật không ngờ.... thật không ngờ...." Nói đến đây, Dương Thanh Thủy có chút thương cảm, không nói tiếp được nữa.

Dương Thu Trì chờ y bình tĩnh trở lại, mới hỏi: "Không ngờ cái gì?"

"Không ngờ là tôi thu nợ từ Dương châu trở về, Quách thị, Quách thị đã trở thành tam di nương của tôi rồi."

Kết quả này tuy Dương Thu Trì đã sớm biết, nhưng vẫn kinh ngạc vô cùng: "Cha ngươi sao lại nạp Quách thị do ngươi đưa về làm tiểu thiếp được, thật là..." Đề cập đến trưởng bối, hắn không tiện đưa ra lời bình gì nhiều.

Dương Thanh Thủy hiện thần sắc thê lương, đắm chìm trong thương cảm chuyện xưa.

Tống đồng tri nghe qua cũng có chút bất ngờ, Dương lão thái gia không chịu hủy ước, không đồng ý cho con trai nạp thiếp thì thôi đi, sao lại lấy luồn nữ nhân do con trai đưa về làm tiểu thiếp chứ!

Nhưng mà nói đi còn nói lại, nếu như Dương Thanh Thủy ngươi đã không thể nạp Quách thị làm thiếp, Dương lão thái gia nạp thì vừa đúng với câu "không đủ miệng mo có đâu tới bồ đề rách, nước ngọt không dành cho ruộng hàng xóm". Chỉ có điều cha mà giành nữ nhân của con thì không tránh khỏi bị miệng thế chán ghét chê cười.

Dương Thanh Thủy lại nói tiếp: "Tôi quay về biết chuyện này rồi òa khóc một trận, cha tôi thấy tôi đáng thương, nên chủ động nói thệ ước với Chu gia không cần giữ nữa, tôi lúc nào cũng có thể nạp tiểu thiếp. Nhưng một là tôi chán ghét Quách thị phản lại lời hứa, đổi lại gả cho phụ thân tôi, khiến tôi lòng nguội ý lạnh chẳng còn tâm tư đâu mà nạp thiếp, hai là nương tử của tôi cứ cứng rắn mãi, nên cho đến giờ chuyện nạp thiếp vẫn không thành."

La huyện thừa giờ đã hơi hiểu về án này, có mặt trưởng quan ở đây nên y nhất mực không dám tùy ý chen lời. Y lại quan tâm đến án giết tam di thái hơn, nghe đến đây liền nhịn không được nói: "Xem ra ngươi tức giận Quách thị phản lại lời thề, đi lấy cha ngươi, nên ngươi giết nàng ta cho hả giận!"

Dương Thu Trì giật nảy mình, La huyện thừa này thật là quá chủ quan, suýt chút nữa hơn cả hắn trong vụ này. Hắn bèn lên tiếng: "La đại nhân nói lời này chưa có lý lắm, Dương Thanh Thủy nếu muốn báo phục, không có khả năng chờ đến một năm cho Quách thị sinh con rồi mới báo phục a."

Lời tuy nói như thế, nhưng trong lòng hắn nghĩ, thứ khả năng này không phải là không có. Nếu như Dương Thanh Thủy thù hận khắc cốt ghi tâm, lớn cho đến nổi phải giết người mới hả giận, thì thời cơ không thành thục vẫn có thể nhẫn nại được. Tuy nhiên, có thể để cừu hận trải qua một năm mới thực hiện báo cừu, lòng thâm như vậy chỉ sợ thế gian này khó kiếm.

La huyện thừa đối với sự phản ban của Dương Thu Trì không dám biện giải, nhưng cách nghĩ trong lòng không thể nói ra bức rức khó chịu vô cùng, nên mặt đỏ bừng lên.

Dương Thu Trì cười hỏi La huyệnthừa: "Có phải là ông nghĩ hắn không chừng thấy con của Quách thị và phụ thân mình rồi cuồng tính đại phát, nên giết người hả giận?"

Đây chính là điều La huyện thừa nghĩ, nên không khỏi vô thức gật đầu. Dương Thu Trì quay sáng Dương Thanh Thủy bảo: "Vấn đề này do ngươi tự hồi đáp vậy."

Dương Thanh Thủy nói: "Ba vị đại nhân, kỳ thật tuy tôi giận nàng ta, nhưng không hề hận. Tôi biết nàng ta không còn cách nào khác. Hơn nữa, tôi và nàng ấy chẳng hề biết nhau lâu, cũng không dám nói là có cảm tình sâu đậm. Đối với nàng mà nói, có thể gả cho người nhà phú quý là được rồi, tuổi tác lớn nhỏ không trọng yếu, vì dù gì cũng là làm tiểu thiếp. Có thể nàng ta nghĩ, trong nhà này, gả cho cha tôi thậm chí còn tốt hơn là gả cho tôi."

Dương Thu Trì tán đồng: "Đúng a, nhưng mà, dì ta không hề nghĩ đến đại phụ nhân và nhị di nương sẽ không để cho dì ta sống qua những ngày tháng hạnh phúc."

"Kỳ thật, cho dù là gả cho tôi cũng không nhất định là sống khỏe. Vợ Chu thị của tôi...." Nói đến đây, Dương Thanh Thủy nín bặt.

"Chị dâu Chu thị? Chị ấy làm sao?" Dương Thu Trì hỏi dồn, "Chẳng lẽ chị ấy cũng không dung cho tam di nương?"

Nói đến đây rồi, Dương Thanh Thủy đành nói tiếp thôi: "Mẹ tôi biết tôi xưa kia khi mang Quách thị về là định nạp làm tiểu thiếp, nên người cứ nhất mực cảnh giác, có chuyện gì cũng tìm tam di nương tra xét, mẹ tôi và nhị di nương, còn có Ngải tiểu nữa, đều tìm cách đày đọa nàng ta."

"Khi tam di nương mang thai rồi, bọn họ sợ tam di nương sinh ra một tiểu thiếu gia, nên chuyên môn đá vào bụng nàng ấy, muốn làm cho nàng ấy trụy thai. Tam di nương báo cho cha tôi hay, cha tôi không tin. Rất may là Bàng quản gia cũng biết trượng nghĩa, một lần nhìn thấy họ đánh đá tam di nương, nên lén báo cho Dương lão thái gia, bắt bọn họ tại trận."

"Dương lão thái gia rất tức giận, nói nếu như tam di nương bị lưu sản, thì không những dùng gia pháp trị tội họ, còn báo quan bắt họ trị luôn. Bọn họ vì thế mới bớt lại một chút."

"Sau đó bọn họ ngoài mặt thì nói nói cười cười, nhưng sau lưng cha tôi thì không coi nàng ấy là người nữa. Rất may là cha tôi có nói trước, nên họ không dám đánh vào bụng nàng, Sơn nhi mới được sinh ra bình an. Không ngờ cuối cùng cũng không thoát khỏi độc thủ của nhị di nương Trương thị. Phụ nhân này quả thật là ngoan độc."

"Bọn họ đánh tam di nương, mới đầu tôi không chịu được ra mặt nói hộ cho tam di nương. Không ngờ nhị di nương lại đem chuyện tôi bênh vực tam di nương báo cho cha tôi biết, hại cha tôi dùng gia pháp đánh tôi một trận, cả tháng sau mới dậy nổi. Từ đó về sau, tôi không dám quản đến chuyện của họ nữa."

Tống Vân Nhi là người không chịu nổi cảnh này, liền hỏi: "Vậy chẳng lẽ lão thái gia không biết tí gì về chuyện bọn họ làm trò quỷ sau lưng sau?"

"Làm sao mà lại không biết chứ, nhưng cha tôi làm sao được bây giờ? Người không thể ngày nào cũng thủ bên người tam di nương a. Hơn nữa, người đối làm sao với mẹ tôi và nhị di nương bây giờ? Lưng bàn tay hay lòng bàn tay đều là thịt da của mình, đánh bề nào cũng đau cả!"

Thì đành vậy, nhưng Tống Vấn Nhi vẫn còn có chút phẫn phẫn bất bình, khinh miệt nhìn y: "Chẳng lẽ ngươi cứ để mặc cho họ đày đọa tam di nương hay sao? Dù gì thì nàng ta cũng là do ngươi mang về nhà a."

"Tôi làm gì có biện pháp nào? Nhưng sau đó tôi thấy nàng ta bị khinh khi quá lắm rồi, đã từng lén nói với nàng là muốn thả cho nàng ta đào tẩu, nhưng nàng ta không chịu, nói nếu như đã gả về cho cha tôi rồi, sinh tử gì đều nhận cả."

Dương Thu Trì hỏi: "Tam di nương phát hoa si ôm ngươi nói cái gì cũng đáp ứng ngươi, chẳng hay là chỉ chuyện ngươi thả cho nàng ta trốn đi?" Nghe đến đây mọi người như hiểu như không, nên hắn hỏi tiếp: "Ngươi thả nàng ấy đi, nàng ấy đi là được rồi, cần gì phải nói cái gì cũng đáp ứng hết a!"

Gương mặt gầy ốm của Dương Thanh Thủy hơi đỏ, đáp: "Vì để giúp mọi người có thể bắt được chân hung báo thù cho tam di nương, tôi đành khai thật hết vậy."

Dừng lại một chút, y tiếp: "Lúc đó tôi nói với tam di nương rằng chẳng những muốn để cho tam di nương đi, mà còn cấp cho nàng ta ít tiền đế Ứng thiên phủ trốn một thời gian, tôi sẽ mượn cớ đi du học đến cùng nàng lén lấy nhau. Nhưng mà nàng ta không chịu, nói là thà để cho họ đánh chết, chứ không chịu mất tính người. Hơn nữa, nàng hy vọng nếu như có thể sinh cho cha tôi một đứa con, nàng sẽ không bị khổ như thế nữa."

Hiểu rồi, nhất định là tam di thái bị khi phụ thảm thương trong nhà họ Dương rồi, nên cho dù nghe Dương Thanh Thủy nói muốn đưa nàng trốn đi, về mặt biểu hiện thì không đáp ứng, nhưng trong lòng đã ngầm chịu rồi. Cho nên đến lúc phát hoa si, mất hết lý trí, nên mọi ý nghĩa trong lòng đều nói hết ra.

Dương Thu Trì nói: "Có một vấn không tiện nói ra, nhưng ta không thể không hỏi, hỵ vọng đường huynh đừng cho là lạ."

Dương Thanh Thủy hơi khom người: "Dương đại nhân nói quá rồi, tại hạ nhất định như thật bẩm báo."

"Tam di nương gả về cho lão thái gia rồi, ngươi và nàng ấy còn... còn có thứ quan hệ đó nữa không?" Dương Thu Trì thật tế không tìm được từ nào dễ nghe hơn để hỏi, nên đành hàm hồ như vậy. Rất may là loại sự tình này rất dễ lý giải.

Dương Thanh Thủy đỏ phừng mặt, lập tức trịnh trọng đáp ngay: "Đương nhiên không có, thứ luân thường đạo lý, lễ nghĩa liêm sĩ này Dương Thanh Thủy tôi vẫn mười phần hiểu rõ, làm sao có thể làm chuyện heo chó đó chứ! Tôi đối với tam di nương nhất mực kính trọng, không dám vượt quá giới hạn nửa phân!"

Tống đồng tri hừ lạnh một tiếng: "Nói dễ nghe quá, nhưng, nhưng người làm sao lại còn muốn kim ốc tàng kiều vậy?"

Mặt Dương Thanh Thủy càng đỏ hơn. Y cúi đầu đáp: "Đó là vì, là vì tôi thấy tam di nương bị họ đày đọa muốn chết tới nơi, nên mới đột nhiên đề xuất như vậy. Nhưng mà tôi chỉ nói như vậy thôi, tuyệt đối không hề phát sinh chuyện cầm thú với nàng ta!"

"Nếu như, nếu như nàng ta đáp ứng cùng tư bôn với ngươi, vậy, vậy chẳng phải là có rồi sao?" Tống đồng tri vẫn túm áo không buông.

"Là tôi nhất thời hồ đồ, rất may là nàng ta không đồng ý lúc đó, nếu không tôi, tôi sẽ hãm nhập vào con đường vạn kiếp bất phục. Nhưng mà tôi và nàng ta thật không hề phát sinh chuyện gì phản luân thường đạo lý, là thật đấy, xin đại nhân minh xét!"

Dương Thanh Thủy nói chuyện này xem ra là thật, vì cùng ở chung một nhà, nếu y dám cùng tiểu thiếp của cha có chuyện gì mờ áp, Dương lão thái gia là người tinh minh vậy, tuyệt đối không có chuyện gì thóat được cặp mắt của lão.

Thiên hạ chẳng phải là chết hết chẳng còn nữ nhân nào, Dương Thanh Thủy là trưởng tử của Duơng gia, là người kế thừa của Dương thị gia tộc, cái gì nặng cái gì nhẹ y tự biết rất rõ, làm sao lại phạm phải sai lầm ấu trĩ thế này?

Do đó, chuyện trường kỳ thông gian của hai người tuyệt không thể có, nhưng không thể loại trừ hoàn toàn khả năng hai người nhân lúc lão thái gia không có mặt, xảy ra chuyện kích tình một đêm hai khắc gì đó, do đó, Sơn nhi còn có khả năng là con trai của Dương Thanh Thủy và tam di thái.

Tống đồng tri còn có một vấn đề chưa rõ, nên lên tiếng hỏi: "Nếu, nếu như ngươi nói tam di nương không phải là do ngươi giết, vậy, vậy khi tam di nương chết rồi, ngươi lại chạy đi đâu?"

Dương Thanh Thủy đáp: "Không phải tôi chạy, mà là tránh đi."

Người này nói sao lộn xộn bừa bãi thế kia? Chạy và tránh làm gì có sự khác biệt thực chất nào? Nếu như không thừa nhận giết người, nên không thể dùng từ chạy mà thạy bằng tránh đi vậy thôi a! Tống đồng tri cũng kỳ quái hỏi: "Vậy, vậy vì sao ngươi phải tránh đi?"

"Tôi cũng thấy quỷ!" Cách nhau đã hai năm mà khi Dương Thanh Thủy nói đến chuyện này, vẻ mặt còn lộ sự khủng khiếp, cho thấy trình độ đáng sợ mà y thấy dữ dội đến cỡ nào. "Tam di nương treo cổ tự tử, không, là bị người ta xiết cổ chết, thì vào đêm sao đúng vào lúc cha tôi gặp quỷ, tôi cũng thấy!"

Tống Vân Nhi bị chuyện ám quỷ hai ngày nay dọa cho biến thành con chim bị tên, giờ phút này nghe Dương Thanh Thủy nói gặp quỷ khiến nàng kinh tâm hơn, hỏi: "Chẳng lẽ, chẳng lẽ ngươi cũng thấy quỷ hồn của tam di nương đứng cạnh giường nhìn ngươi cười?"

Dương Thanh Thủy lác đầu: "Nếu mà thế thì tốt rồi, tôi lúc đó cũng hy vọng nhìn thấy quỷ hồn của nàng ta đấy."

Ánh mắt của y nhìn mơ màng về phía trước, con ngươi thu nhỏ lại giống như lại nhìn thấy chuyện khủng bố kia nữa, "Ngày đó tôi ngủ không được, gương mặt và nụ cười của tam di nương vẫn phảng phất trước mặt. Nàng ta chết rồi tôi mới phát hiện là tôi quan tâm đến nàng ấy thế nào.

"Nhưng quỷ hồn của nàng ta không đến tìm tôi, mà ngày ấy thứ tôi thấy chính là lệ quỷ chân chính! Tuy cũng giống như tam di thái vận bạch y, nhưng đó là một lệ quỷ, da thịt trên mặt giống như chảy rớt ra, từng mảng từng mảng xuống đất. Mũi, miệng, lỗ tai, mắt, từng thứ từng thứ một bị rơi ra. Cuối cùng trở thành một đầu lâu đầy máu. Cuối cùng tôi bị sợ quá hôn mê đi."

Nghe Dương Thanh Thủy miêu tả lại như thế, Dương Thu Trì chợt động lòng, vì sao lại giống hiện tượng huyễn giác mà hắn gặp quá vậy? Chẳng lẽ Dương Thanh Thủy cũng bị người ta hạ Trí huyễn dược? Như vậy thì rõ ràng là y bị hạ với lượng thuốc nhiều hơn Dương lão thái gia, vì Dương lão thái gia nhìn thấy chính là tam di thái bình thường, cũng giống như lần đầu tiên hắn trúng trí huyễn dược vậy. Còn Dương Thanh Thủy và lần thứ hai hắn bị hạ trí huyễn dược có lượng thuốc lớn hơn, nên mới thấy luôn lệ quỷ do lực tác động cực mạnh của thuốc.

Xem ra có người muốn hại Dương Thanh Thủy, không phải dùng độc mà dùng Trí huyễn dược, khiến cho Dương Thanh Thủy sản sinh ảo giác thật khủng bố, để khiến y bị sợ chết khiếp đi luôn (*).

Dương Thu Trì truy vấn Dương Thanh Thủy: "Vậy sau đó ngươi còn thấy lệ quỷ nữa không?"

"Không còn nữa, bỡi vì từ đó trở đi tôi không còn dám ở đây nữa, nếu bị lần nữa nhất định tôi sẽ sợ chết mất. Cộng thêm chuyện tam di thái chết rồi, tôi đi đâu trong nhà này cũng nhìn thấy thân ảnh của nàng. Mỗi một trường cảnh như vậy đều làm tôi thống khổ vô cùng. Tôi không thể chịu nổi thứ dày vò như thế nữa, nên mượn cớ du học rời khỏi thôn này. Rất may là sau khi rời khỏi thôn, tôi không còn nhìn thấy lệ quỷ khủng bố đó lần nào nữa."

Quả thật là đáng chúc mừng, Dương Thanh Thủy rời khỏi thôn là tránh đi được kiếp nạn. Nhưng mà, hiện giờ y đã quay về rồi, người năm xưa phục thuốc gây ảo giác cho y sao không tiếp tục ra tay nữa? Rất có thể là do Dương Thu Trì hắn đến, người kia cần phải đối phó với hắn trước, vì dù sao thì Dương Thanh Thủy cũng là người trong nhà này, không chạy đâu cho thoát được.

Nếu như những điều Dương Thanh Thủy nói trước đây đều là thật, y lúc nào cũng la nghĩ cho tam di nương, thậm chí còn vì nàng ta mà bị cha đánh cho một trận, thì y không có đủ động cơ để giết chết nàng.

Xem ra, người hạ trí huyễn dược là một người khác. Mục đích của người đó khi hạ thuốc vào hắn là muốn khiến hắn sợ mà bỏ đi, còn hạ dược vào tam di nương là khiến cho nàng thần trí hôn mê rồi nhân cơ hội đó hạ sát thủ (không ngờ dẫn đến tác dụng phụ là khiến nàng ta phát bệnh thần kinh), hạ dược vào Dương lão thái gia cho đến giờ vẫn chưa rõ mục đích.

Nhưng người này vì sao lại muốn hại Dương Thanh Thủy? Dương Thanh Thủy nếu chết có lợi gì cho người này?

Gia sản? Chẳng lẽ là vì tranh đoạt gia sản?

Giết Thanh Thủy chết rồi, xong lại giết tiểu thiếu gia Sơn nhi, vậy phần gia sản này sẽ về tay ai? Chỉ còn con gái của nhị di thái là Dương Ngải Tiểu thôi. Chẳng lẽ nhất thiết mọi chuyện là do Dương Ngải Tiểu và mẹ ả làm hay sao?

Dương Ngải Tiểu vì sao đã mười bảy tuổi rồi mà chưa gả đi? Chẳng lẽ vì để chờ hưởng gia sản? Linh quang của Dương Thu Trì chợt lóe lên, phảng phất như nhìn thấy hi vọng phá án trước mắt.

Hiện giờ cần phải nắm bắt linh cảm này, trước hết xác định coi Dương Ngải Tiểu có hay không có hiểm nghi phạm tội, sau đó quay lại thẩm vấn chị dâu Chu thị để điều tra xem đêm đó Dương Thanh Thủy có ở nhà hay là không.

Dương Thu Trì cho Dương Thanh Thủy lui ra, và bảo bộ khoái đưa Dương Ngải Tiểu vào.

Mẹ của Dương Ngải Tiểu đã bị bắt, ả không còn lòng nào để cười nữa. Hiện giờ các quan lão gia lại kêu ả lên hỏi chuyện, ả vô cùng khẩn trương, không biết là có phải chuyện của mẹ có liên hệ tới ả hay không, nên trong thâm tâm vô cùng sợ sệt, thấy Tống đồng tri ngồi trong đại sảnh oai nghiêm lại càng sợ hơn, hai đầu gối mềm nhũn quỵ xuống.

Dương Thu Trì giờ tay ra dấu ngăn ả lại: "Ở đây không phải là nha môn chân chính, do đó đường muội bất tất phải hành đại lễ." Rồi khiến ả ngồi trên ghế lúc nãy Dương Thanh Thủy đã ngồi.

Dương Ngải Tiểu là đường muội của Dương Thu Trì, không nhất thiết phải khách khí gì, nên hắn hỏi thẳng vào vấn đề: "Đường muội, đêm tam di nương chết đó, muội đang làm gì?"

"Muội ngủ trong phòng của mẹ muội a." Dương Ngải Tiểu lí nhí đáp.

"Ở phòng của mẹ muội? Tự muội chẳng phải có một tiểu viện riêng hay sao?"

Thần tình của Dương Ngải Tiểu hơi hoảng loạn, cúi đầu không đáp.

Dương Thu Trì không tiện nổi nóng với nàng, quay nhìn Tống đồng tri. Tống đồng tri hội ý, mặt sầm xuống, quát: "Dương Ngải Tiểu, bổn quan hỏi, vì, vì sao không đáp?"

Dương Ngải Tiểu ngẩn người, vừa rồi rõ ràng là đường ca Dương Thu Trì hỏi, sao lại thành ông hỏi chứ? Nhưng lão gia nhà quan đã phát nộ, ả không dám nói chữ không nữa câu, vội vã hồi đáp: "Dạ, đêm đó tôi đến phòng của mẹ ruột nói chuyện, sau đó đêm khuya nên không về lại phòng."

"Nói chuyện? Nói, nói chuyện quái gì thế?"

Dương Ngải Tiểu ú ớ không đáp. Tống đồng tri muốn phát tác, Dương Thu Trì chợt giơ tay ra ngăn, nói: "Ta biết các ngươi nói cái gì, các ngươi chính là cười chê tam di thái phát hoa si lúc ban ngày, cười vì nàng ta lòi mặt xấu, lại đoán xem lão thái gia sẽ xử trí như thế nào. Đúng hay không?"

Dương Thu Trì đoán đúng khiến cho Dương Ngải Tiểu hơi bất ngờ. Trong giọng nói của hắn có vẻ trào phúng, khiến ả cảm thấy rất khó chịu, chỉ gật gật đầu.

Dương Thu Trì hỏi: "Trong phòng nhị di nương còn có đại phu nhân nữa, đúng không?"

Dương Ngải Tiểu gật đầu, lòng càng kinh ngạc Dương Thu Trì sao lại nói chính xác như vậy, giống như đứng ở một bên mà nhìn ả ấy.

Ả không biết vừa rồi Dương Thanh Thủy đem chuyện bọn họ chì chiết tam di nương như thế nào nói hết ra. Tam di thái để xảy ra chuyện xấu xa lớn như vậy, mấy người họ sao lại không tu tập lại mà sướng vui trên nổi đau của người khác chứ.

"Ngoại trừ ba người ngươi, còn có ai khác nữa?" Dương Thu Trì hỏi.

"Còn có chi dâu Chu thị."

Chị dâu Chu thị cũng có mặt? Dương Thu Trì cả kinh quay đầu lại nhìn Tống đồng tri, lão cũng phát hiện ra vấn đề này, nghi hoặc nhìn Dương Thu Trì. Hai người đều nghĩ, vừa rồi Dương Thanh Thủy chẳng phải nói rõ là y có vợ làm chứng cho đêm đó y ở nhà hay sao? Chẳng lẽ Dương Thanh Thủy nói dối? Xem ra Dương Thanh Thủy còn giấu diếm điều gì nữa ấy, lát đây nhất định phải đề thẩm y lại lần nữa.

Dương Thu Trì tiếp đó cười hỏi: "Bốn người ngươi nhất mực ở trong phòng nhị di nương nói chuyện phiếm suốt đêm luôn hay sao?"

"Không có, dường như nói chuyện đến canh năm thôi. Tôi nhớ đại phu nhân nói nếu như không chịu về ngủ trời sẽ sáng luôn ấy, nên mọi người mới tán."

"Ngươi khẳng định là canh năm tàn cuộc?"

Dương Ngải Tiểu gật đầu: "Có thể khẳng định, khi nói chuyện đến đó nghe tiếng mõ canh năm vang lên, mọi người mới biết quá trể rồi. Đại phụ nhân thì phải quay về, chị dâu thì nói mọi người nói chuyện cao hứng, đói bụng rồi, hay là ăn món gì đó hẳn về. Đại phu nhân đáp ứng, phân công Bàng quản gia đế trù phòng lấy mấy món cho chúng tôi, ăn xong rồi mọi người rời đi."

"Bàng quản gia? Bàng quản gia cũng ở cùng các ngươi sao?"

"Đúng, lão cũng ghét tam di nương, nói tam di nương thương phong bại tục, do đó chúng tôi bảo lão ở lại cùng nói chuyện, còn tùy lúc chăm sóc rót trà này nọ. Tôi nhớ mẹ tôi còn chọc lão, rằng lão không có vợ, lúc trưa tam di nương cởi truồng ôm lão thì lão có cảm giác thế nào? mọi người đều cười to lên, khiến gương mặt già của lão là thế mà cũng đỏ ửng lên."

"Bàng quản gia không thành thân sao?"

"Không có, nghe nói năm xưa có cưới một người vợ, nhưng sau đó đi thuyền ra biển, khi quay về thì vợ đã theo người khác trốn rồi, nên không có vợ luôn từ đó."

"Ra biển?" Dương Thu Trì có chút hiếu kỳ, "Ra biển gì? Quảng Đức đâu có biển đâu?"

"Tôi cũng không biết, đó là do lúc trước Bàng quản gia uống rượu say rồi, người ta định mai mối giới thiệu cho lão, lão lại đáp thà là cùng... cùng ngủ với heo nái còn hơn là tìm cưới nữ nhân, còn nói lão rất hận nữ nhân."

Xem ra Bàng quản gia này sau khi vợ bỏ đi ngoại tình với người khác, trong lòng đã có một vết thương cực lớn, do đó đặc biệt hận nữ nhân, hèn gì ngày kia khi đánh nhị di nương Trương thị, lão hạ thủ rất ác độc.

Dương Thu Trì lại hỏi: "Mấy người các ngươi cứ ở trong phòng mẹ ngươi nói chuyện, nửa chừng không ra ngoài hay sao? Ví dụ như đi tiêu tiểu chẳng hạn?"

Dương Ngải Tiểu nhíu mày nghĩ một hồi, rồi lắc đầu đáp: "Đã lâu lắm rồi tôi không nhớ rõ nữa. Hơn nữa ai lại đi chú ý mấy chuyện đại loại như thế. Nhưng mà nhất định sẽ có người đi vệ sinh, vì dù sao nói chuyện gần cả một đêm, lại uống trà ăn bánh nhiều như thế, nhất định là sẽ có."

Dương Thu trì cũng tính toán, hung thủ xiết cổ chết tam di nương, sau đó treo lên trên xà nhà... toàn bộ quá trình mất khoảng 20 phút, hơn nữa phải ra vào cửa sổ, dánh giấy cửa sổ lại mất cũng mười phút nữa, cho dù đó là đã sớm chuận bị giấy dán cửa vâng vân ở gần đó.

Từ nhà vườn của nhị di nương đến lầu của tam di nương khá xa, nếu chạy nhanh đại khái mất năm phút, đi về mất mười phút. Nếu như trong bốn người họ có người là hung thủ, tính đi tính lại phải mất bốn chục phút mới hoàn thành việc sát hại. Đấy không phải là thời gian ngắn, nếu một trong bọn họ vắng mặt quá lâu, bọn họ nhất định có ấn tượng.

Nếu như Dương Ngải Tiểu nói nhớ không được,, như vậy rất có thể là trong bọn họ không có ai ra ngoài với thời gian lâu. Nếu là như thế, thì bốn người này không có đủ thời gian tác án, có thể bài trừ.

Còn Bàng quản gia thì sao? Bàng quan gia là một nam nhân, không có thể ở cùng bốn người họ suốt đêm được. Dương Thu Trì hỏi: "Bàng quản gia cũng không ra ngoài sao? Ta muốn nói là ra ngoài với thời gian khá dài, khoảng chừng hai khắc ấy?"

Dương Ngải Tiểu ngẫm nghĩ, lắc đầu khẳng định: "Không có, tôi có nhớ là lúc chúng tôi đàm luận về tam di nuơng, Bàng quản gia nhất mừng ngồi ở dưới, thỉnh thoảng chen vài lời, thế những lại khiến mọi người cười bò. Tôi còn nhớ mọi người đều tán thán là lão không vừa gì. Sau đó thì đêm khuya rồi lão định về, mẹ không cho, bắt lão cứ ở lại hầu chuyện. Do đó tới mãi tận canh năm lão mới li khai."

Xem ra Bàng quản gia này cũng biết nịnh nọt, nếu như lão không có đủ thời gian tác án, có thể bài trừ luôn.

Nhưng mà, cho dù lão có thời gian gây án, lão cũng không có đủ động cơ phạm tội a, chẳng lẽ lão lại đi thông gian với tam di nương?

Bàng quan gia tuy nhìn cũng khỏe mạnh, nhưng dù sao cũng là một lão đầu khô quát, hình dạng ốm o, so với Dương lão thái gia tệ hơn một trời một vực, thì tam di thái sao lại có thể tìm lão thông gian? Để thụ tội sao? Hơn nữa Bàng quản gia thống hận nữ nhân cực kỳ, nếu như lão còn có hứng thú cùng nữ nhân thông gian, thì sẽ không cự tuyệt đi cưới thêm vợ rồi.

Dương Thu Trì hỏi tiếp: "Còn ngươi thì sao? Ngươi dù sao cũng nhớ ngươi có đi nhà vệ sinh hay không a?"

Một đại cô nương bị hỏi về chuyện nhà xí, dù gì cũng chẳng cảm thấy dễ chịu. Dương Ngải Tiểu đỏ mặt đáp: "Không nhớ được nữa rồi, gần hai năm rồi, ai lại đi nhớ mấy chuyện đó."

"Ngươi không nhớ được chuyện đó, nhưng phải nhớ chuyện ngươi đi xiết cổ tam di nương chứ?"

Dương Ngải Tiểu cả kinh: "Tôi không có! Tam di nương không phải do tôi giết."

"Vậy thì ai giết?"

"Làm sao tôi biết!"

"Không phải ngươi thì còn ai? Ngươi trước hết xiết cổ chết tam di nương, mẹ ngươi giúp ngươi hạ độc giết chết tiểu thiếu gia Sơn nhi. Các ngươi còn tính toán hạ thuốc khiến đại thiếu gia sảnh sinh ảo giác thấy quỷ sợ chết. Nhưng, các ngươi không ngờ đại thiếu gia rời khỏi thôn, quỷ kế của các ngươi không đạt được. Do đó, nhất thiết mọi chuyện từ đầu đến chân đều do ngươi và mẹ ngươi tham dự bày mưu mà ra!"

Tống đồng tri và La huyện thừa đều cả kinh, can bản chảng hề nghĩ đến loại kết quả như thế này. Chỉ có Tống Vân Nhi hưng phấn nhìn Dương Thu Trì, thầm mừng cho vị thần thám ca ca lại phá thêm một án nữa. Tuy nhiên, nàng cũng không nghe ra án này tại sao bị phá như vậy.

Dương Ngải Tiểu càng sửng sờ hơn, một lúc sau mới phản ứng, hỏi lại: "Không phải, không phải là chúng tôi. Chúng tôi làm vậy đề làm gì?"

"Rất đơn giản, là vì gia sản!" Dương Thu Trì lão luyện cười, tự mừng cho năng lực suy đoán rất hiệu nghiệm của mình, "Mẹ ngươi độc chết tiểu thiếu gia, đồng thời hạ dược khiến đại thiếu gia sợ chết, rồi đem tam di nương xiết cổ cho chết đi. Nếu thế thì không còn ai tranh gia sản của Dương gia nữa, đúng không?"

Tống Vân Nhi càng cảm thấy khó hiểu, hỏi: "Còn có con gái của đại thiếu gia là Thảo nhi và vợ đại thiếu gia Chu thị nữa a."

"Thảo nhi là cháu gái, có thể tranh với con gái là Dương Ngải Tiểu sao? Chu thị chỉ là vợ của con, không thể có quyền thừa kế được." Dương Thu Trì đưa ra kết luận này, chủ yếu là căn cứ vào luật pháp quy định về kế thừa hiện hành tại Trung Quốc. Con dâu thường không có quyền kế thừa, trừ khi đã lãnh nhận nhiệm vụ phụng dưỡng cha mẹ chồng đến già. Cổ đại còn không cần nói nữa.

"vậy, vậy còn đại phu nhân chi!" Tống Vân Nhi xem ra vẫn muốn gây to chuyện.

"Đại phu nhân là con dâu..." À không, đại phu nhân là chánh phòng nguyên phối của Dương lão thái gia, thuộc về người phối ngẫu, khác với con dâu, nếu chiếu theo pháp luật quy định thì thuộc về người kế thừa theo cấp thứ nhất, có quyền hưởng di sản của chồng. Không biết pháp luật ở Minh triều có như vậy không. Dương Thu Trì nghĩ qua một lượt, cảm giác dường như không ổn. Trung Quốc cổ đại áp dụng quyền kế thừa của con trai trưởng, cho dù vợ hay con dâu có cải giá thì ngay cả đồ vật trang điểm cũng không thể mang đi, đừng nói gì gia sản của trượng phu.

Án chiếu theo lý thì như thế, nhưng dù sao cũng nên hỏi qua một lần cho chắc ăn. Dương Thu Trì quay sang nhìn Dương lão thái gia, hỏi: "Bá phụ, vợ có quyền kế thừa gia sản của phu quân không?"

Dương lão thái gia tuy là khoa cử xuất sanh, đọc toàn những sách thuộc về tứ thư nghũ kinh, đối với pháp luật đại Minh không rành lắm, nhưng vẫn hiểu biết về chút ít thường thức này. Lão đáp: "Nữ chồng chết mà không con đi cải giá, thì của hồi môn phải tuân theo sự sắp xếp của nhà chồng trước. Còn bà góa thủ tiết thờ chồng thì thích hợp thừa kế."

Dương Thu Trì tuy không rành nhiều về quy định thời cổ, nhưng cũng nghe ra là chồng ở Minh triều nếu chết, vợ nếu đi lấy chồng khác thì chẳng thể mang theo gì, cái này phù hợp với ký ức của hắn, còn nếu như quả phụ thủ tiết thờ chồng, thì có thể tiếp quản tài sản của trượng phu. Đương nhiên ý nghĩa chân chính của chuyện kế thừa này là nàng ta có quyền sử dụng, chứ không có quyền phân xử hay mang đi.

Xem ra, nếu như mọi thứ đều do mẹ con Dương Ngải Tiểu làm, thì họ vẫn không đụng được tới gia sản, mà tất cả đều quy về quyền chưởng quản của đại phu nhân.

Hắn lại xoay chuyển ý nghĩ, đại phu nhân niên tuế đã cao, dù sao cũng sẽ chết, đến lúc đó sẽ lọt tới tay Dương Ngải Tiểu thôi. Nghĩ thế, hắn cao hứng nói: "Tuổi tác của đại phu nhân đã cao, khi khứ thế rồi chẳng phải là quy về cho Dương Ngải Tiểu sao?"

Dương Ngải Tiểu bị Dương Thu Trì nói thế liền sắp khóc tới nơi: "Tôi không có a, tôi không có thật mà, tôi sau này nếu đi cưới chồng thì nhà chồng giàu có có tiền là đủ rồi. Hơn nữa lão thái gia sẽ là người cho tôi của hồi môn, tôi có ý đồ với gia sản bên này làm cái gì?"

Đúng a, Dương Thu Trì khẽ chấn động, Dương Ngải Tiểu này nói dường như cũng có đạo lý, ả ta cần gia sản của Dương gia gia để làm gì? Rốt cuộc thì ả cũng đi lấy chồng, khi gả về nhà chồng thì của hồi môn cũng không thể tự định đoạt, làm sao mang cả gia sản của Dương gia qua được, chẳng lẽ làm thế để cống hiến cho chồng để chồng yêu thêm hay sao? Giải thích không thông. Hơn nữa, hiện giờ ngay chồng của ả ta cũng chưa xác định được là ai, thì đi bày vẽ này nọ làm gì.

Tống đồng tri chợt chenn vào: "Cho, cho dù đại phu nhân không còn nữa, gia, gia sản này cũng, cũng không lạc vào tay Dương Ngải Tiểu."

A? Dương Thu Trì càng kinh ngạc hơn: "Vì sao?"

Tống đồng tri đã thẩm qua loại án này không ít, nên những kiến thức liên quan rất rành, bèn lên tiếng tụng đọc: "Đại Minh luật quy định: 'Quả vô đồng tông ứng kế, sở sanh thân nữ thừa phân, vô nữ giả, nhập quan.'"

Câu này Dương Thu Trì nghe cũng hơi hiểu, chính là nói, ở Minh triều con gái muốn kế thừa di sản thì trừ khi nam đinh trong tộc đều chết hết rồi, trường hợp này là rơi vào thế "tuyệt hộ", thì mới có thể kế thừa.

Dương lão thái gia là tộc trưởng của Dương gia thôn, nam đinh trong tộc hưng vượng vô cùng. Dương Thu Trì cũng là người đồng tông với Dương lão thái gia, đừng nói gì người khác, chỉ cần Dương Thu Trì không chết, thì Dương Ngải Tiểu không có biện pháp gì kế thừa. Ngoài ra, nam định hưng vượng, thì Dương Ngải Tiểu muốn thông qua sát nhân để lấy gia sản thì chí ít phải giết hết đàn ông con trai trong thôn này mới được.

Dương Thu Trì hơi ngượng, xem ra sự suy đoán của hắn đã có chỗ không thông.

Kỳ thật, nếu án này phát sinh trong thời hiện đại, thì sự suy đoán của hắn có thể thành lập.

Các luật pháp về quyền kế thừa đều có quy định rõ ràng về sự bình đẳng nam nữ. Dương Ngải Tiểu và đại thiếu gia, tiểu thiếu gia đều là con ruột sinh từ hôn nhân chính thức của Dương lão thái gia, và đều là người kế thừa cấp I cùng với nhị di thái hay đại phu nhân. Nếu tam di thái, đại thiếu gia và tiểu thiếu gia đều chết, sau này tới khi Dương lão thái gia chết, thì Dương Ngải Tiểu và mẹ ả bình quyền trong việc hưởng di sản của Dương lão thái gia cùng với đại phu nhân. Nếu như đại phu nhân chết trước Dương lão thái gia, thì toàn bộ tài sản đều quy về hai mẹ con họ sau khi Dương lão thái gia chết.

Căn cứ vào những lập luận như vậy, thì Dương Ngải Tiểu và mẹ ả định hạ độc giết chết tiểu thiếu gia là cùng vì tranh đoạt gia sản. Đồng dạng như vậy, hạ trí huyễn dược để làm chết đại thiếu gia hay sai khiến mụ vú xiết cổ chết tam di thái, bỏ độc Sơn nhi... đều là vì mục đích này.

Điều đáng tiếc chính là, những mục đích suy đoán trên không thể thành lập.

Kỳ thật, đây không phải là do năng lực suy đoán của Dương Thu Trì có vấn đề, mà là do sự lý giải về luật pháp của Minh triều ở hắn không đủ. Hắn dùng luật Trung Quốc của thời hiện đại để xét quyền kế thừa thời Minh triều, đương nhiên là có sai sót rồi.

Nếu như Dương Ngải Tiểu không có đủ động cơ sát nhân, Dương Thu Trì đành để cho ả xuống, quyết định tiếp tục thẩm vấn người khác.

Tiếp theo đó hắn cần hỏi vợ của đại thiếu gia Dương Thanh Thủy là Chu thị, tra xem những lời Dương Thanh thủy khai có thật không. Đồng thời Chu thị còn là một trong bốn người năm xưa bức hại tam di thái Quách thị, có sự hiềm nghi phạm tội rất lớn, nên cần phải tiến hành tra hỏi thật kỹ.

Chu thị bị đưa đến, trông vẫn ra vẻ văn nhã vô cùng, thật khó tưởng tượng là cô gái này năm xưa đã từng làm khó dễ tam di thái Quách thị một cách cùng cực, thậm chí trong thời gian Quách thị mang thai, còn đánh đấm vào bụng nàng để cho trụy thai.

Dương Thu Trì vốn rất có hảo cảm với Chu thị, nhưng sau khi biết rõ sự tình rồi, không kềm chế được nổi chán ghét trong lòng. Do đó, hắn chẳng thèm khách khí gì, ngay cả tiếng gọi chị dâu cũng không thèm, trực tiếp hỏi ngay: "Chu thị, đêm tam di nương Quách thị chết đó, ngươi đang làm gì?"

Chu thị thấy Dương Thu Trì ra vẻ quan trên, lại còn có mặt của Tống đồng tri của Ninh quốc phủ cùng huyện thừa La đại nhân của Quảng Đức huyện, nên không dám chậm trễ thưa thốt. Chỉ có điều, cha ả năm xưa dù gì cũng là Phó đề cử Sở muối vốn là quan thất phẩm, nên căn bản không có chuyện sợ hãi quan trên, chỉ đơn giản đáp: "Ngủ ở nhà."

"Thật không? Ai có thể làm chứng?"

"Có phu quân của tôi, nha hoàn và người hầu đều có thể."

"Chu thị, ngươi hãy nhớ kỹ lại coi, đừng có trách ta không nhắc ngươi trước, nếu như có gì gian dối giấu giếm, bức lão gia phải trở mặt dùng hình, thì thật không tốt đâu."

"Tôi có sao nói vậy," Chu thị cười lạnh, "Nếu như đường đệ ngươi chuẩn bị dụng hình đối với chị dâu ngươi, thì ta cũng đành chịu mà thôi."

Tống đồng tri trầm giọng nói: "Ngươi, ngươi tuy là chị dâu của Dương đại nhân, nhưng nếu như, như không chịu hồi, hồi đáp câu hỏi của đại nhân, thậm chi phạp phải vương pháp, Dương, Dương đại nhân vẫn có thể dùng hình với ngươi!"

Thấy Tống đồng tri nổi đóa, Chu thị đương nhiên biết quan phủ lợi hại, có câu là "dân không được đấu với quan", hơn nữa cha của ả đã bị cách chức, hiện giờ chỉ là người thường mặc áo bố mà thôi, cho nên tức thời thu liễm sự kiêu căng, thấp giọng đáp: "Dân phụ cứ sự thật mà trình bày."

Tống đồng tri vỗ bàn quát: "To gan! Còn dám điêu ngoa! Đêm đó rõ ràng là ngươi cùng mẹ chồng, nhị di nương, còn có Dương Ngải Tiểu ba người tụ tập ở phòng nhị di nương đàm luận về chuyện xấu mặt của tam di nương, ngươi hiện giờ còn dám nói nhăng nói càng, có phải là muốn bổn quan dùng hình với ngươi thật? Hả?"

Chu thị nghe thế, tức thời biết người ta đã rõ hết mọi chuyện rồi, có muốn ẩn man cũng không được, cố gượng cười nói: "Đại nhân, là dân phụ nhớ lầm rồi. Đêm đó tôi cùng ở chung với họ, thời gian lâu quá quên rồi, thỉnh đại nhân tha tội."

Dương Thu Trì hỏi: "Đêm đó, phu quân của ngươi ở đâu?"

Chu thị không dám đáp loạn nữa, thành thật khai: "Dân phụ cũng không biết rõ, ăn cơm xong thì dân phụ đến phòng của nhị di nương nói chuyện, Dương Ngải Tiểu và đại phu nhân đã ở đó rồi. Chúng tôi nói mãi đến canh năm. Đại phu nhân khiến Bàng quản gia dọn đồ ăn khuya, ăn xong rồi tôi về phòng."

"Phu quân của ngươi lúc đó có ở trong phòng không?"

"Dạ có, lúc đó chàng ấy ngủ trong phòng."

Như vậy có thể nói, Dương Thanh Thủy rất có thể là nhân lúc Chu thị đến phòng của nhị di thái nói chuyện rồi lén nhảy tường ra ngoài đến căn lầu nhỏ kia xiết cổ chết tam di thái.

Dương Thanh Thủy có đủ thời gian gây án, lại có động cơ giết người nhất định, lại còn giấu sự thật trọng yếu, hiềm nghi phạm tội trở nên nặng hơn.

Dương Thu Trì tiếp tục hỏi Chu thị: "Bốn người ngươi suốt đêm ở trong phòng hay sao? Có ai nửa chừng ra ngoài không? Ví dụ như đi nhà vệ sinh chẳng hạn."

Chu thì hồi ức một lúc, đáp: "Tôi thật là không nhớ rõ, nhưng dường như là không, mọi người nói chuyện rất vui, trong quá trình đó chẳng ai ra ngoài lâu cả, cho dù có đị về sinh, thì trong nhà của nhị di nương cũng có, cần chi phải đi xa."

Lời của Chu thị khá hợp tình lý, mấy người họ ban ngày nhìn chuyện tày trời của tam di thái, ban đêm dĩ nhiên là cười trên nỗi đau của người khác còn không kịp, làm gì có chuyện bỏ lỡ khoảng khắc nào? Vậy là còn cần phải đối chứng với lời khai của đại phu nhân và nhị di nương, nếu tất cả cùng nhất trí, thì có thể sơ bộ phán đoán mấy người này đều có chứng cứ không có mặt tại hiện trường.

Dương Thu Trì lại hỏi: "Phu quân của ngươi đã từng ra mặt bênh cho tam di nương, rồi bị lão công công (bố chồng) của ngươi đánh khiến cả tháng không dậy nổi, có chuyện đó không?"

Nói đến chuyện này, Chu thị hậm hực đáp: "Con hồ ly tinh đó suốt ngày cứ câu dẫn nam nhân, năm xưa muốn làm tiểu thiếp của phu quân tôi, khi vào Dương gia của chúng tôi rồi nhân lúc phu quân tôi đi ra ngoài thu nợ đã quyến rũ cha chồng tôi trở thành di nương. Sau đó lại còn muốn rù quyến chồng tôi nữa, con hồ lý bỉ ổi, rách rưới, trời sinh ra là bẩn thỉu hôi thối này có bán đi làm điếm xứ người cũng không hết tội..."

Chu thị nghiến răng nghiến lợi mắng liền một hơi, ngực dồn dập thở khì khì không dứt, thế mà vẫn còn chưa hết hận, lầm bầm rủa tiếp.

Dương Thu Trì cùng mọi người chứng kiến vậy đều hoảng kinh. Bọn họ đều không thể lý giải vì sao một thiếu phụ ôn nhu nho nhã như thế mà trước mặt nam nhân có thể phát ra những lời ô uế độc mồm độc miệng thế kia. Do "Tật đố" là một trong bảy lý do "Thất xuất" để thôi vợ, nên các nữ nhân thời cổ đại không hề dám biểu hiện ra ngoài, nhưng người có danh trong chuyện này cũng không ít.

Ví dụ như đại thi nhân Tô Đông Pha có một bằng hữu tên là Trần Quý Thường. Y có một người vợ có lòng ghen rất dữ dội, mỗi khi Trần Quý Thường thết tiệc đãi khách, có ca nữ hầu rượu, thì đều dùng gậy gỗ gõ mạnh vào tường, mắng nhiếc cho khách bỏ đi. Sau chuyện này Tô Đông Pha dùng tiếng sư tử hống để ngầm chỉ tiếng rống quát của những người vợ hung dữ, còn làm một bài thơ dài nhan đề "Nhân chuyện Ngô Đức kể về Trần Quy Thường", trong đó có hai câu:

"Chợt nghe sư tử Hà Đông rống

Gậy chống rời tay lòng ngẩn ngơ"

"Hà Đông" ở đây là mượn câu thơ "Hà Đông nữ nhân thân tính liễu" của Đỗ Phủ ám chỉ vợ Liễu thị của họ Trần, người đời sau liền mượn câu "Hà Đông sư hống" để làm danh xưng của những bà vợ dữ. Vì thế có thể thấy, thời cổ đại thuộc vào loại hủ dấm chua (hay ghen) này vẫn có, nhưng ác động như vợ của Dương Thanh Thủy quả thật là vô cùng hiếm có.

Tống đồng tri nghe Chu thị mắng quá ác độc, liền quát: "Trên đại đường, không được phát ra những lời ô uế, nếu không vả miệng."

Chu thị lúc này mới ngậm miệng.

Căn cứ vào chứng minh của Chu thị, Dương Thanh Thủy đích xác đã vì tam di thái mà bị Dương lão thái gia đánh qua.

Dương Thu Trì cho ả lui, bắt đầu thẩm vấn tiếp Dương Thanh Thủy.

Dương Thanh Thủy không biết vì sao lại bị đề thẩm tiếp, vô cùng khẩn trương, vừa tiến vào trong thấy Tống đồng tri, Dương Thu Trì và La huyện thừa mặt trầm như thủy, nên càng khủng hoảng hơn. Y ngồi phịch xuống ghế, không dám hỏi loạn.

Dương Thu Trì hỏi: "Ngươi vừa rồi nói trong đêm tam di nương chết đó, ngươi nhất mực ở nhà, có nương tử và nha hoàn làm chứng, đúng như vậy không?"

Dương Thanh Thủy nghe câu hỏi này, lòng liền rúng động, đã đoán là trước đó đã có chỗ hở gì đó rồi, chỉ biết cúi đầu dạ nhỏ.

Tống đồng tri vỗ bàn quát: "Nói bậy! Nương, nương tử Chu thị của người suốt, suốt đêm rõ ràng là đến phòng của nhị di nương nói chuyện phiếm, hùa nhau nói về chuyện tam di nương làm chuyện mất mặt lúc ban ngày, thì, thì còn đâu mà làm chứng cho ngươi?"

Dương Thanh Thủy tức thời tái mặt, ấp úng không biết đáp như thế nào.

Lúc này trong đại đường không có búa gỗ để vỗ bàn, Tống đồng tri chỉ biết dùng tay, nên có phần hơi đau. Lão lại quát: "Giấu đầu lòi đuôi, người đâu, kéo hắn ra ngoài đánh ba mươi hèo cho ta!"

Các bộ khoái đồng thanh đáp ứng, bước lên định kéo Dương Thanh Thủy ra ngoài.

Dương Thanh Thủy sợ đến nổi té luôn xuống ghế, quỳ mọp dưới đất luôn miệng thưa: "Đại nhân tha tội! Tôi khai, tôi khai, đêm đó tôi đã trèo tường ra ngoài."

Tống đồng tri hỏi dồn: "Có cửa chính ngươi không đi, trèo tường để làm gì? Chẳng phải gian cũng là đạo tặc, nói mau! Có phải là ngươi chạy đến lầu nhỏ đó giết tam di thái hay không?"

"Không có, không có, tôi không có giết tam di thái. Những lời tôi khai trước đây đều là sự thực, tôi tuy giận nàng bội tín khí nghĩa, gả cho cha tôi, nhưng dù gì thì chỉ tức trong lòng mà thôi, sau đó thì coi nó như số mạng. Nếu như tôi hận nàng ta, sẽ không nói giúp cho nàng, lại còn bị cha tôi đánh cho một trận, suốt cả tháng không ngồi dậy nổi."

Đây quả là lời thật, nếu như y hận tam di nương, căn bản không không quản gì đến chuyện của nàng, thậm chí còn mượn đạo giết người, khiến cho nhị di thái hay mấy người khác đối phó với tam di thái, còn bản thân thì tọa sơn quan hổ đấu chẳng phải là thống khoái hay sao?

Dương Thu Trì hỏi: "Vậy rốt cuộc ngươi treo tường ra ngoài làm gì? Chẳng phải là đến căn lầu nhỏ đó sao?"

Dương Thanh Thủy cúi đầu, hơi có chút thương cảm: "Không sai, thật ra tôi đến chỗ của tam di thái, nhân vì tôi thật lo cho nàng, lo là xảy ra chuyện lớn như vậy nàng ta sẽ nghĩ không thông."

Dương Thu Trì nghe thế liền cảm thấy hứng thú, hỏi: "Người đến đó lúc nào?"

"Gần canh tư."

Tim Dương Thu Trì đột nhiên đập mạnh, canh bốn sao? Đó chẳng phải là thời gian tam di thái bị giết hay sao? Nghĩ vậy hắn liền hỏi gấp: "Ngươi lúc đó ở đâu, nhìn thấy cái gì?"

"Tôi chỉ đến cửa vườn, không tiến vào, chỉ đứng nhìn nhìn một lúc rồi đi."

"Cửa vườn của căn lầu đó chẳng phải là bị khóa hay sao?"

"Lúc tôi đến thì đã bị mở rồi."

Dương Thu Trì cả kinh: "Cái gì? Cửa vườn bị mở? Ai mở?"

Dương Thanh Thủy hơi trì nghi, thấp giọng đáp: "Tôi không rõ."

Y nhất định là biết! Chỉ có điều không thể nói ra tên người này được! Tâm Dương Thu Trì liền sáng lên, hơi ngẫm nghĩ một chút, sau đó tưởng ngay tới một người. Chỉ có điều, hắn không gấp truy ra vấn đề này, trước hết khẽ đánh lạc hướng một chút, chuyển sang hỏi: "Cửa vườn được ai khóa từ bên ngoài, ngươi có biết không?"

"Là lão thái gia bảo Bàng quản gia khóa lại." Dương Thanh Thủy ngẫm nghĩ, rồi bổ sung: "Nhưng chìa khóa nằm,... nằm trong tay cha tôi."

"Vậy ngươi đứng ở ngoài lâu không?"

"Đi qua lại một chút rồi về ngay." Lời Dương Thanh Thủy nói rất nhỏ, có vẻ rất cẩn thận.

"Ngươi không phải chuẩn bị đi xem tam di thái có chuyện gì hay sao? Sao vừa đến đã quay về?" Dương Thu Trì truy vấn, "Có phải là nhìn thấy ai đó ở trên lầu phải không?"

Tống đồng tri đã nghe ra vấn đề, nếu như Dương Thanh Thủy lúc đó thấy có người xuất hiện trong tiểu lâu, thì người đó rất có khả năng là hung thủ! Xem ra đây là đột phá trọng đại rồi, tim lão không khỏi đập rộn lên, quát: "Mau nói ra! Ngươi, người rốt cuộc đã nhìn thấy ai?"

Dương Thanh Thủy lúc này vô cùng hoảng loạn: "Không, không nhìn thấy ai cả."

Tống đồng tri phất tay định cho dùng hình phạt, Dương Thu Trì liền ngăn lại, hỏi Dương Thanh Thủy: "Ngươi cố ý đến xem tam di nương, cửa vườn vốn là được khóa lại không ngờ lại bị mở ra, trước đây ngươi nói rất quan tâm nàng ta, thậm chí muốn chuẩn bị đem nàng ta đi trốn, phải không nào? Sao bây giờ không chịu nhìn xem ai đã tiến lên trên lầu là đi ngay? Dường như nhưng lời ngươi nói trước đây chẳng phù hợp chút nào."

Dương Thanh Thủy đỏ mặt xong rồi lại tái mặt, không biết đáp như thế nào.

Dương Thu Trì mỉm cười nói: "Kỳ thật ta biết ngươi rất khó xử, bỡi vì người ấy xuất hiện vào lúc đó rõ ràng là có ý đồ bất lợi đối với tam di nương, và lúc này người hận tam di thái nhất ngoại trừ bốn người trong phòng nhị di thái ra, chỉ sợ chỉ còn có lão thái gia nữa mà thôi."

"Và chỉ có lão thái gia mới khiến ngươi nhìn thấy rồi giống như chuột thấy mèo, vội vã bỏ đi không dám dừng lại. Nhân vì nếu như để cho lão thái gia biết ngươi ban đêm ban hôm chạy đến lầu của tam di thái, chỉ sợ tiếp theo đó không phải là một tháng không xuống giường nổi mà thôi đâu. Ta nói có đúng không nào?"

Dương Thanh Thủy lúc này ngẩn ra, vị đường đệ này sao cái gì cũng biết hết vậy, dường như không gì có thể giấu giếm gã được cả vậy.

Từ biểu tình trên mặt của Dương Thanh Thủy, Tống đồng tri và Tống Vân Nhi đều biết Dương Thu Trì đã đoán đúng, không khỏi nghệch người ra, chẳng lẽ quanh đi quẩn lại cả nửa ngày, lão thái gia rốt cuộc là người giết tam di thái?

Rất có khả năng! Dương lão thái gia sủng ái tam di thái phi thường, nếu như lão không yêu thích nàng, sẽ không đi tranh nàng với con trai. Nhưng tam di thái sau khi phát hoa si làm mất mặt cả đám, làm hại đến gia phong của nhà họ Dương, khi Dương lão thái gia bình tĩnh lại nhất định là cảm thấy chuyện này khó xử vô cùng. Nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có thể để tam di thái tự sát mới có thể miễn cưỡng hoán trờ về chút thể diện.

Và thế là Dương lão thái gia đương đêm đã đến tiểu các lâu, dùng thuốc mê khiến bà vú Lữ thị và nha hoàn Tri Xuân ngủ say, sau đó từ cửa sổ tiềm nhập vào trong phòng, xiết cổ chết tam di nương, rồi ngụy trang thành treo cổ tự sát! Tống Vân Nhi hơi hiếu kỳ, hỏi: "Tam di nương ngủ cũng ngáy nữa sao?"

Dương lão thái gia gật đầu.

Dương Thu Trì hỏi thêm: "Bá phụ, bá phụ có thể xác định tiếng ngáy đó là của tam di nương sao?" Lời này nói ra là Dương Thu Trì đã lập tức hối hận. Lão thái gia và tam di nương đầu ấp tay gối bao nhiêu năm làm sao mà không biết cho được.

Quả nhiên, Dương lão thái gia đáp: "là tiếng ngáy của nàng ấy, không sai đâu." Dừng lại một chút, lão tiếp, "Hôm sau khi nàng ấy chết, ta đến phòng nàng ấy ngủ, thiên hạ nói người chết trong vòng bảy ngày đều có thể hồi hồn, nên ta nghĩ nàng ấy sẽ cảm thấy ta đáng thương, thác vào mộng về gặp ta. Ta cũng muốn nói với nàng ấy một câu xin lỗi..."

Nói đến đây, lời của Dương lão thái gia có phần nghẹn ngào. Xem ra, Dương lão thái gia đối với tiểu thiếp này có cảm tình rất sâu đậm.

Dương Thu Trì len lén nhìn đại phụ nhân, thấy sắc mặt của bà ta đạm bạc, dường như không hề nghe lời của Dương lão thái gia nói vậy, thậm chí khóe miệng còn lộ ra nụ cười lạnh khinh bỉ.

Dương lão thái gia dừng lại một lúc lâu mới nói tiếp: "Đêm đó ta nằm nghiêng trên giường, mơ mơ hồ hồ ngủ thiếp đi, đột nhiên nghe tiếng ngáy rất nhẹ, nhưng rất quen, rõ ràng là của nàng ấy. Ta vô cùng vui mừng, tỉnh dậy thấy nàng ta đang vận bạch y vốn là thứ nàng ấy thích mặc nằm kế bên người ta.

"Ta mừng rỡ kêu lên, đưa tay sờ mặt nàng ấy, không ngờ sờ vào chỗ trống không. Toàn thân nàng ấy từ từ bay lên, sau đó đứng trước giường. Ta ngồi dậy vừa định đi tới, thì nhìn thấy mặt nàng ta đang chảy ra, từng khối từng khối thịt rơi xuống đất, biến thành cái đầu lâu đầy máu tươi!"

"Ta sợ hãi kêu thét lên, bạch y khô lâu đó càng lúc càng lớn, máu chảy đầm đìa, từ từ bước về phía ta, sau đó ta bị sợ quá hôn mê đi, khi tỉnh lại thì trời đã sáng rồi."

Dương Thu Trì nghe xong quá trình thấy quỷ của Dương lão thái gia, lòng chợt động, vì tình cảnh ấy tương tự với lần thứ hai mà hắn gặp quỷ. Như vậy cho thấy Dương lão thái gia cũng bị hạ trí huyễn dược.

Dương Thu Trì hỏi: "Bá phụ, đêm tam di nương chết đó, lúc người đến tiểu các lâu đó đại khái là vào canh mấy rồi?"

"Canh tư!' Dương lão thái gia khẳng định: "Ta nghe bên ngoài đánh kẻng canh tư, nghĩ đến lúc Sơn nhi xuất thế cũng canh tư, nên mới muốn đi gặp nàng ấy."

Canh tư là thời gian tác án dự đoán. Lúc đó Duơng lão thái gia còn nghe được tiếng ngáy của tam di thái, cho thấy tam di thái lúc đó còn chưa chết. Nói không chừng Dương lão thái gia bước cửa trước, hung thủ đã bước cửa sau tiến vào tiểu các lâu giết chết tam di thái, Dương lão thái gia không thể chứng kiến điểm cuối cùng này.

Đại phu nhân chợt chen lời: "Lão gia, chúng ta đừng nói tới chuyện đó nữa, sao lại nói không mà không ăn gì, đồ ăn nguội lạnh hết rồi."

"Đúng đúng, ăn cơm, ăn cơm!" Dương lão thái gia mời gọi, sau đó lệnh cho Bàng quản gia an bài người hầu đem hâm đồ. Trong thời tiết giá lạnh này, đồ ăn rất dễ lạnh.

Bàng quản gia quay trước quay sau sắp xếp, bận đầu tắc mặt tối. Dương Thu Trì cảm khái: "Bàng quản gia thật là người quán xuyến cả trong ngoài."

Đại phu nhân cũng khen: "Đúng a, nhà này nha hoàn bà mụ đông, nhưng không có người nào có thể tin dùng, cháu cứ nhìn xem, chẳng mấy chốc sẽ trốn đi hết. Không có Bàng quản gia thật không xong, bên ngoài thì đi thu tô thu trướng, tiếp khách tiễn khách, thậm chí một ngày ba bữa cơm đều do Bàng quản gia lo liệu."

Bàng quản gia nghe đại phu nhân khen ngợi, hơi ngượng ngập khẽ cười, tiếp đó lại cuốn vào công việc.

Dươnng lão thái gia không nói đến chuyện thương tâm nữa, mọi người nâng chén đổi lý ăn uống vui vầy. Mùa đông uống rượu nóng, giãn gân nóng máu, khiến mọi người ăn đến nhiệt huyết phi đằng.

Trong lúc uống rượu ấy, Nam Cung Hùng đã quay trở lại, kề sát tai Dương Thu Trì nói vài câu. Mặt Dương Thu Trì nở nụ cười hiểu ý, cũng nói nhỏ vào tai Nam Cung Hùng vài câu. Nam Cung Hùng gật gật đầu, lùi về sau lưng Dương Thu Trì vài bước khoanh tay đứng hầu.

Tiệc rượu tan, Dương Thu Trì cùng mọi người hơi say, chiếu theo lệ, Dương lão thái gia cho người bưng cháo đậu xanh lên ăn để mọi người tỉnh rượu.

Chẳng mấy chốc sau, nha hoàn dùng một cái bàn lớn xếp món cháo tỉnh rượu lên. Bàn quản gia lại tự thân xếp dọn từng bát ra trước mặt Dương Thu Trì cùng mọi người.

Tống Vân Nhi múc một chút lên nhấp nháp, nhíu mày nói: "Nhạt quá, chẳng có chút mùi vị nào." Rồi quay lại nói với Bàng quản gia: "Ai! Giúp ta lấy chút đường mật đi."

Thiên kiêm tiểu thư của Đồng tri đại nhân có ý chỉ, Bàng quản gia sao lại chậm trễ không tuân, lập tức bảo nha hoàn đi lấy. Mặt Tống Vân Nhi hơi trầm: "Sao vậy, ta kêu ngươi đi lấy, ngươi lại sai người khác đi, kiểu cách quan liêu của ngươi thật là lớn a!"

Tống đồng tri quát: "Vân nhi không được vô lý!"

Tống Vân Nhi dẫu môi giẫy nẫy, hừ lạnh một tiếng, rõ ràng là không chịu phục.

Thấy thiên kim của đồng tri đại nhân bực mình, Bàng quản gia hoảng hốt, vội khom người chạy đi lấy đường mật.

Đúng lúc này, cái đèn lồng ở cửa phòng chợt rơi xuống đất đánh phịch, bốc cháy phừng phừng.

Đại phu nhân và Chu thị, Dương Ngải Tiểu cùng vài người kêu thé lên, hoảng loạn đứng tránh qua một phía. Dương lão thái gia hơi hoảng, đứng dậy kêu người hầu đi dập lửa.

Cái đèn lồng đó không lớn, nhưng đột nhiên rơi xuống khiến mọi người đều giật nãy mình, hơi có chút hoảng loạn. Người hầu nhanh chóng chạy đến dập tắt lửa đi.

Một trận hoảng kinh nhưng không nguy hiểm gì, một người hầu khác đã đem đèn khác lại thay.

Đến lúc này, Bàng quản gia đã lấy một chén đường mật quay trở lại. Tống Vân Nhi tiếp lý, múc một muỗng to bỏ vào chén, lại múc một muỗng bỏ vào chén Dương Thu Trì, xong rồi húp lấy húp để.

Dương Thu Trì kề tai Tống đồng tri nói nhỏ vài lời, Tống đồng tri gật gật đầu, kêu Bàng quản gia lại, cầm chén cháo đậu xanh của mình đứng dậy: "Bàng quản gia, ngươi, ngươi có thể được coi là phụ tá đắc lực của Dương lão thái gia, ta nghe Dương lão thái gia nói, ông ấy, ông ấy nhất mực coi ngươi như huynh, huynh đệ vậy. Vừa rồi tiểu nữ có lời không phải, Bàng quản gia đừng để ý làm gì. Bàng quản gia cực khổ rồi, thỉnh, thỉnh uống chén canh giải rượu này, coi như bổn, bổn quan khao thưởng ngươi a."

Tống đồng tri là quan ngũ phẩm của triều đình, tương đương chức vụ phó bí thư thường vụ khu ủy, mời một tên tiểu quản gia bát canh xem ra là nễ mặt cho lão lắm rồi. Bàng quản gia thụ sủng nhược kinh, luôn miệng nói không dám. Nhưng vẫn khom lưng cung cung kính khính tiếp lấy chén cháo đậu xanh, uống một hơi cạn sạch, sau đó cảm ơn rối rít.

Nha hoàn lại mang cho Tống đồng tri một chén cháo khác.

Dương Thu Trì cùng mọi người cùng nâng chén lên húp, xong định chia tay về nghỉ, thì nhìn thấy một bóng đen phóng vào. Nó chui xuống gầm bàn, vọt tới chân của Dương Thu Trì. Dương Thu Trì cúi đầu hô lên cả kinh: "Tiêu hắc! Sao ngươi lại đến đây!"

Bóng đen đó thì ra là chú chó Tiểu Hắc yêu quý của Dương Thu Trì.

Cả nhà Dương Thu Trì lần này về quê chính là để thăm nhà, không có nhiệm vụ phá án, nên không mang tiểu hắc theo. Hơn nữa, hiện giờ Dương Thu Trì có thể coi là huyện lão thái gia rồi, sao có thể đi đâu cũng mang chú chó nhỏ theo, mất cả uy nhà quan hết!

Tiểu Hắc cẩu quấn quít loạn quanh chân Dương Thu Trì, thậm chí cái đuôi nhỏ lắc nghe phịt phịt liên hồi. Dương Thu Trì cúi người xuống ẵm nó lên, hỏi: "Tiểu hắc, sao ngươii đến đây được?"

Tiểu hắc cẩu sủa uông uông hai tiếng, coi như trả lời, xong rồi thè cái lưỡi thô ráp ra liếm lên mặt hắn, khiến hắn nhột nhạt vô cùng.

Chính vào lúc này, một người hầu chạy vội vào báo: "Lão thái gia, các vị đại nhân, Dương phu nhân đã từ Ninh quốc phủ trở về."

A, tiểu Tuyết đã về rồi sao? Dương Thu Trì và Dương mẫu đều mừng rỡ, vì cứ ngỡ ngày mai họ mới về tới. Tiểu Hắc nhất định là do Phùng Tiểu Tuyết mang tới.

Dương Thu Trì ôm tiểu hắc cẩu ra ngoài cửa đón, thấy từ xa có một đám người đang tới, trong đó có vợ Phùng Tiểu Tuyết của hắn.

"Tiểu Tuyết....!" Dương Thu Trì mừng rỡ gọi, đặt tiểu hắc cẩu xuống đất.

"Phu quân!" Phùng Tiểu Tuyết chạy tới ôm chầm lấy tay hắn, mặt lộ vẻ vui mừng rạng rỡ, giống như hai người đã xa nhau lâu ngày vậy. Tiểu Hắc cẩu luồn qua luồn lại giữa hai người họ, ngoắc đuôi sủa loạn, vui mừng còn hơn bắt được chuột con.

"Sao mọi người mới hôm nay là đến rồi, ta cứ nghĩ ngài mai mới đến cơ."

Nữ hộ vệ đầu lĩnh Hạ Bình đứng sau Phùng Tiểu Tuyết lên tiếng thưa: "Phu nhân nói thiếu gia đang gấp dùng món bảo bối này, nên chúng tôi đi liền trong đêm, do đó tới sớm một chút."

Dương Thu Trì đau lòng xót dạ phủi tuyết trắng bám trên người Phùng Tiểu Tuyết, khẽ bảo: "Coi nàng kìa, làm gì gấp dữ vậy, trời tối đen, đường núi khó đi, lỡ bị té thì làm sao?"

Lúc này Tống Vân Nhi cũng đỡ Dương mẫu ra, Dương mẫu nói: "Tiểu Tuyết, trời tối như bưng thế này mà con gấp làm chi vậy, để ngày mai hễ tới có phải là hơn không a."

Phùng Tiểu Tuyết bước lại đỡ Dương mẫu, thưa: "mẹ, con lo phu quân cần dùng gấp, chúng con chẳng phải là không việc gì hay sao, mẹ đừng lo mà."

Tống Vân Nhi bước lại thân mật cầm tay Phùng Tiểu Tuyết: "chị dâu, mau vào nhà đi, bên ngoài lạnh lắm."

"Đúng đúng, mau vào nhà!" Dương mẫu cũng nói, rồi bên trái thì cầm tay Tống Vân Nhi, bên phải thì dựa vào Phùng Tiểu Tuyết, bỏ Dương Thu Trì lại phía sau, ba người cùng sóng vai bước vào đại sảnh.

Dương Thu Trì lần này biến thành kẻ bám đuôi, chỉ biết lửng thửng đi sau họ.

Phùng Tiểu Tuyết và mọi người chưa ăn cơm, đại phu nhân nhanh chóng phân công Bàng quản gia dọn bàn tiệc mới.

Trong lúc Phùng Tiểu Tuyết cùng mọi người ăn cơm, Dương Thu Trì hướng dẫn Bàng quản gia chuẫn bị một cái bàn sạch sẽ, bày lên đó nhang đèn và bát hương, lại chuẩn bị thêm một cái chén sứ dùng để "tích huyết nhận thân" (nhỏ máu nhận người thân thích).

Lúc Phùng Tiểu Tuyết ăn cơm, Dương Thu Trì tắm rửa thay áo, chuẩn bị thật kỹ. Khi bọn họ vẫn còn an chưa xong, thì mọi thứ đã chuẩn bị hoàn tất, tiếp đó là rửa tay đốt nhang, bắt đầu nhỏ máu nhận thân.

Tiểu nha hoàn Tri Xuân ẵm Sơn nhi ra, Dương Thu Trì từ cái rương đựng các vật khám sát vật chứng của pháp y lấy ra hai dụng cụ lấy máu, đưa lên đèn đốt để tiêu độc xong thì phân ra cắt vào ngón tay của Dương lão thái gia và tiểu thiếu gia Sơn nhi. Máu tươi từ từ ứa ra.

Sơn nhi khóc oa oa, khiến cho cuộc tích huyết nhận thân này bị bao phủ một màu xám xịt.

Dương Thu Trì lấy ra hai ống hút thủy tinh từ rương pháp y, chia ra trích lấy huyết của hai người, rồi đặt ra một khay, sau đó lấy chén sứ dùng để tích huyết nhận thân đặt luôn lên mâm này. Hắn lấy cớ phải một mình cầu đảo thần linh chứng giám, sau đó tiến hành tích huyết nhận thân mới linh nghiệm, nên mang toàn bộ rương đựng vật khám nghiệm pháp y và mâm vào trong sương phòng đóng cửa lại.

Một lúc lâu sau, với thần sắc nghiêm túc, hắn cẩn thận bưng mâm có chứa hai ống máu và cái chén sứ ra, cung kính đặt lên trên bàn, đốt thêm một nén hương, lầm rầm khấn váy một hồi mới xoay ra nói: "Hiện giờ ta cần kiểm nghiệm xem Sơn nhi rốt cuộc có phải là con ruột của lão thái gia hay không, ta sẽ nhỏ huyết của hai người vào trong chén này, nếu như là đúng, thì hai giọt máu sẽ hòa vào nhau, nếu không thì không thể dung hợp!" Đối với người sống và người chết nếu có mối quan hệ ruột thịt, thì ngay từ thời Tam Quốc đã có ghi lại chuyện Tích Cốt nhận thân: Lúc đó huynh đệ của Trần nghiệp qua biển mất mạng, đồng thời ngộ hại còn có năm sáu chục người nữa. Lúc phát hiện được họ thì thi thể đã thối rữa cực độ rồi, không thể nhận ra được. Trần Nghiệp thầm nghĩ, nếu như là thân nhân nhất định sẽ khác biệt, bèn vén bào cắt máu vẫy lên xương, quả nhiên có một bộ hài cốt cho máu thấm vào, những hài cốt khác thì không.

Tống từ Tẩy Oan Lục cũng ghi lại cách kiểm tra xương người thân: "Ví như người kia tìm cha mẹ, muốn biết có thật không, làm sao thực hiện? Vị ấy bèn rải chút máu lên hài cốt, nếu là cha mẹ ruột thì xương sẽ đeể huyết thấm vào, còn không thì không thấm. Tục này gọi là 'Tích cốt nhận thân' vậy", rồi quy định rõ phương pháp tiến hành.

Đối với kiểm nghiệm quan hệ ruột thịt trên người sống, người ta có Hợp huyết pháp, hay còn gọi là Tích huyết nhận thân được thể hiện trong phim Cửu phẩm chi ma quan (Quan tép riu cửu phẩm) do Châu Tinh Trì đóng, và cách này xuất hiện vào thời nhà Minh.

Các sách "Kiểm nghiệm thi thương chỉ nam" thời Minh mạt, "Phúc huệ toàn thư" thời Thanh sơ, và "Giáo chánh bổn Tẩy oan tập lục" đều có ghi lại biện pháp tương đồng: "Huynh đệ ruột thịt hoặc là từ nhỏ phân li, hoặc là vì lý do gì đó không thể xác nhận chân giả, thì có thể cắt máu nhỏ vào nhau, trong vòng một khắc nếu cùng hòa vào nhau thì là ruột thịt, còn không thì là người dưng."

Do đó, Dương lão thái gia và mọi người đều nghe về chuyện hợp huyết nhận thân này, nhưng chưa hề thấy qua.

Vừa rồi Dương Thu Trì trịnh trọng tắm gội thay áo, rửa tay đốt nhang, một mình cầu khấn, đã khiến bọn họ cảm thấy được một thứ lực lượng thần bí. Chờ đến khi Dương Thu Trì đem ra hai dụng cụ hút máu bằng thủy tinh, càng khiến họ cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Bọn họ chưa từng thấy pha ly trong suốt, và cũng chưa từng thấy cao su. Khi thấy Dương Thu Trì khẽ vuốt một cái, cái ống trong suốt kia tự nhiên hút máu chạy vào trong thật nhanh, nên càng kinh ngạc, và trong lòng cũng tràn đầy sự kính úy.

Con người ta đều như thế, đều thường kính sợ úy kỵ những điều thần bí, và rất nhiều truyền thuyết thần thoại đều xuất phát từ sự kính úy đối với những điều thần bí này. Dương Thu Trì lần này cố làm ra vẻ thần bí, chính là muốn khiến cho Dương lão gia tử và mọi người kính sợ, từ đó tin vào kết quả của chuyện tích huyết nhận thân.

Nghe Dương Thu Trì nói thế, mọi người đều biết thời khắc quan trọng nhất đã đến. Dương lão thái gia cùng mọi người đều vậy lại, ngưng thần quan sát.

Dương Thu Trì lấy một ống máu từ mâm lên, nhỏ một giọt vào chén sứ, lại lấy ống bên kia từ từ nhỏ ra một giọt ở liền kề bên đó.

Giọt máu hồng từ từ chảy ra miệng ống, ngưng thành giọt, từ từ rơi xuống. Giọt máu rơi, và vận mệnh của Sơn nhi do đó mà được quyết định.

Nếu máu hòa vào nhau, nó sẽ thăng nhập thiên đường, từ đó được Dương lão thái gia chiếu cố từng li từng thế, chân chính hưởng thụ sinh hoạt hạnh phúc của một vị tiểu thiếu gia. Còn nếu không thể hòa vào nhau, nó sẽ đọa nhập địa ngục. Một đại gia đình phong kiến như thế tuyệt đối không thể dung nghiệt chủng tồn tại, và vận mệnh của nó như thế nào có thể dễ dàng đoán được.

Hai giọt máu trong chén tuy nàm kề sát nhau, nhưng lại như hai đứa trẻ không ngừng quấy khóc, dựa lưng bám bụng, nhưng chờ cả nửa ngày mà vẫn hoàn toàn độc lập, không hề hòa lẫn vào nhau.

Dương Thu Trì thở dài, lắc lắc đầu.

Ánh mắt của Dương lão thái gia biến thành lạnh lẽo phi thường, lỗ mũi phì ra những tiếng hừ hừ nặng nề. Lão ngẩng đầu nhìn sững vào Sơn nhi đang được bế trong lòng tiểu nha hoàn Tri Xuân, nghiến răng phát ra hai tiếng: "Nghiệt chủng!"

Đại phu nhân và Chu thị, Dương Ngải Tiểu ba người đều cười, dường như đối với kết quả này sớm đã nằm trong ý liệu.

Đại phu nhân nhìn Sơn nhi một cách khinh miệt, bước đến cạnh lão thái gia chề môi nói: "Tôi đã sớm bảo con hồ li tinh thối này chẳng phải là thứ tốt đẹp gì, thương phong bại tục, và cũng không biết ở đâu chui ra thứ nghiệt chủng này, bại hoại...."

"Đủ rồi!" Dương lão thái gia rống lên, khiến mọi người giật mình kinh hãi, "Bàng quản gia, mang thứ nghiệt chủng này đem ra đống phân dìm chết!" Dừng lại một chút, thấy Bàng quản gia không đáp ứng, lão bèn quay lại nhìn, thấy Bàng quản gia mặt xám như tàu lá, miệng không ngừng lẫm bẫm: "Không thể, không thể nào... không đúng!"

Dương lão thái gia đang khó chịu, thấy lão chẳng phản ứng gì với sự phân công của mình, bèn quát lên: "Bàng quản gia!"

Bàng quản gia hơi giật mình, hồi lại thần lên tiếng đáp ứng: "Dạ, lão gia, ngài gọi tôi?"

"Làm gì thế! Ta bảo ngươi đem thứ nghiệt chủng này ném vào hố phân dìm chết! Ngươi có nghe không?"

Mặt Bàng quản gia càng tái nhợt, dạ một tiếng, từ từ bước lại trước mặt nha hoàn Tri Xuân, run run đưa cánh tay già khô ốm tiếp lấy Tiểu Sơn nhi, ôm chặt vào trong lòng.

Sơn nhi không biết đại họa đã lâm đầu, đưa hai cánh tay bé bỏng ra sờ soạng mặt của Bàng quản gia.

"Hài tử...!" Bàng quản gia khẽ hô hoán, để mặc cho bàn tay nhỏ bé của Sơn nhi cào loạn trên khuôn mặt già nhăn nheo khô sạn, hai giọt lệ nóng từ từ lăn dài xuống má.

Dương lão thái gia càng bực mình hơn, quát: "Bàng quản gia, ngươi không nghe lời của ta hả?"

Bàng quản gia ôm chặt hài tử, sợ người khác sẽ cướp nó đi, bước tới trước mặt Dương lão thái gia, nước ực nước bọt quỳ xuống, ôm đứa bé trong lòng cùng dập đầu lạy, thưa: "Lão gia, cầu xin người tha cho hài tử này đi. Hài tử đâu có tội gì đâu a."

"Vô tội ư?" Đại phu nhân cất giọng the thé nói, "Thứ nghiệt chủng do hồ li thối sinh ra không đáng lưu lại trên thế gian này, càng không thể sống trong Dương gia của chúng ta, không thể làm ô uế thanh danh của Dương gia được."

Nghe lời này, Bàng quản gia lại ôm hài tử dập đầu thêm vài cái nữa, cất giọng thảm não: "Nếu như lão gia và thái thái có thể phát từ bi tha cho hài tử, lão nô tình nguyện từ chức quản gia, tiền công bao nhiêu năm nay tôi không cần nữa. Tôi xin mang theo hài tử rời khỏi Dương gia thôn. Khẩn cầu lão gia, thái thái thành toàn!" Nói xong lại dập đầu thêm vài cái.

Chu thị vợ của Dương Thanh Thủy lúc này đứng cạnh bên cất giọng đầy căm hận: "Không được! Hài tử này là dã chủng sinh ra từ Dương gia, chỉ có thể xử tử mới có thể rửa sạch sự sỉ nhục này!".. "Đúng vậy!" Dương Ngải Tiểu cũng cất giọng gay gắt phụ họa, "Chỉ cần đứa nghiệt chủng này còn sống trên đời, người ta sẽ ở sau lưng chúng ta nói này nọ, nói tộc trưởng của Dương gia thôn chúng ta là một cử nhân đại lão gia mà để tiểu thiếp sinh ra dã chủng, lại còn để quản gia mang đi chỗ khác lén nuôi dưỡng, thì chúng ta còn vác mặt đi đâu được? Hỏi chúng ta làm sao nói chuyện với người được?"

Trương thị, mẹ của Dương Ngải Tiểu, vì chuyện hạ độc hài tử này mà bị bắt trói, hiện giờ nếu như nó là con người khác, như vậy tội của Trương thị nhỏ hơn nhiều, nói không chừng lão thái gia ngược lại còn cảm kích Trương thị, xuất tiền đả thông quan hệ cho mụ. Do đó, Dương Ngải Tiểu càng đặc biệt châm dầu vào lửa trong chuyện này.

Nghe lời của họ, mặt của Dương lão thái gia càng xám xịt, toàn thân run rẫy, quay đầu chỉ vào các người hầu ở sau lưng bảo: "Mấy đứa các ngươi mau đem đứa nghiệt chủng này quẳng vào đống phân dìm chết cho ta, sau đó đem thi thể ra cho ta xem! Không làm ổn chuyện này, ta sẽ đánh chết các ngươi! Có nghe không!"

Mấy người hầu nam vâng dạ, chạy tới cướp lấy hài tử trên tay Bàn quản gia.

Bàn quản gia tuy thân hình khô đét, nhưng rất khỏe mạnh nhanh nhẹn, do đó tránh né xô đẩy hai ba lượt, đã khiến hai tên hầu té ngã ra đất.

Nhưng mãnh hổ nan địch quần hồ, hơn nữa lão vẫn còn thua xa mãnh hổ, nên khi sáu bảy người hầu nam cùng xông tới, lão không còn là đối thủ nữa. Khi lão kháng cự không được, liền quỳ xuống đất cố sức bảo vệ hài tử dưới thân, miệng không ngừng cầu xin lão thái gia.

Mấy người hầu bị ra tử mệnh lện, nào dám hông tận lực, nên cố sức cướp lấy hài tử. Sơn nhi oa oa khóc lớn, nhưng tiếng khóc giống như con mèo con co ro giữa cơn mưa bão, trong nhà loạn cả lên.

Thấy Sơn nhi sắp bị các nam hầu cướp đi, Tống Vân Nhi chợt quát: "Dừng tay!", rồi phóng nhanh lên trước, lách bách vài tiếng đã túm lấy mấy người hầu nam quẳng ra ngoài, khiến họ rơi lộp độp xuống đất, rên la inh ỏi.

Tống Vân Nhi quay sang nói với Dương lão thái gia: "Lão thái gia, Vân nhi cầu xin người, Sơn nhi mới có hai ba tuổi, người hãy đại phát từ bi tha cho nó đi."

Bàng quản gia vốn ra là một mình không ai trợ giúp, sắp sửa trơ mắt nhìn đứa bé bị cướp đi đến nơi, không ngờ Tống Vân Nhi ra tay tương trợ, còn chưa kịp cảm tạ nàng thì nghe nàng đã lên tiếng cầu xin cho cậu bé, cảm động đến nỗi lão lệ tung hoành, ôm chặt lấy Sơn nhi quỳ lếch lại cầu xin Dương lão thái gia tiếp.

Có Tống Vân Nhi lên tiếng, Dương lão thái gia không tiện nói gì, mặt mày sậm xịt quay sang nhìn Tống đồng tri.

Tống đồng tri ho khan một tiếng, vừa định lên tiếng, thì Dương Thu Trì đã chen ngang: "Vân nhi, đây là chuyện nhà họ Dương của chúng tôi, muội không cần phải dính vào chuyện không đâu làm gì, mau trở lại đây!"

Tống Vân Nhi gấp đến đỏ gay cả mặt, dậm chân gắt: "Ca! Bọn họ định dìm chết hài tử. Cái này mà chuyện đâu đâu à?"

"Muội không biết sự tình bên trong, không nên chen ngang loạn vào! Mau trở lại đây!" Dừng lại một chút, Dương Thu Trì bèn lạnh giọng nói, "Mẹ của đứa bé này đã chết rồi, cha thì không biết là tên ác động chẳng có lương tâm nào, thứ dã chủng không rõ nguồn gốc cứ dìm chết đi thì tốt hơn!"

"Cái gì...!" Tống Vân Nhi đơn giản không tin vào tai mình nữa, không dám tin lời nói vô tình vô nghĩa này lại phát xuất ra từ miệng của nam nhân mà nàng một lòng ái mộ, tức thời mặt mày tái ngắt, cắn chặt răng hậm hực nói: "Ngươi...! Ngươi thực là máu lạnh! Ta nhìn lầm ngươi rồi!"

Soảng một cái, một thanh đoản kiếm đã nằm gọn trọng tay nàng, Tống Vân Nhi đứng giữa đương trường, lạnh lùng quét mắt nhìn mọi người: "Hôm nay ta nhất định bảo hộ hài tử này, ai muốn giết nó trước hết hãy hỏi thanh đoản kiếm trong tay ta!"

Tống đồng tri quát: "Vân nhi không được vô lý! Đây là chuyện nhà của Dương lão thái gia, còn không mau trở lại đây!" Tống Vân Nhi không thèm lý gì đến lời này.

Dương Thu Trì nhíu mày: "Hạ Bình ở đâu?"

"Chúc hạ có mặt!" Hạ Binh đang đứng sau lưng Dương Thu Trì ôm quyền hồi đáp.

"Đi bắt ả cho ta! Không được động đến tính mệnh!"

"Tuân mệnh!' Kiếm của Hạ Bình rời vỏ, từ từ bước tới.

"Ha ha ha...!" Tống Vân Nhi cười lạnh, "động đến tính mệnh của ta? Ả còn chưa đủ tầm!"

Trong lúc nói chuyện, một loạt tiếng động như tiếng rang đậu đã vang lên, kiếm quang lập lòe, hai người đã đấu với nhau.

Dương mẫu vội nói: "Con à, con mau bảo chúng dừng tay đi!" Phùng Tiểu Tuyết cũng muốn lên tiếng khuyên, nhưng thấy mặt Dương Thu Trì âm trầm, nên không dám khuyên, gấp đến nỗi không biết làm sao cho phải.

Chính vào lúc này, hai người đã nhanh chóng trao nhau mấy chục chiêu, lại nghe Tống Vân Nhi quát chìm, trường kiếm trong tay Hạ Bình đã bị đánh văng, đoản kiếm của Tống Vân Nhi kề sát cổ Hạ Bình, cười lạnh hỏi: "Ai động đến tính mệnh của ai?"

Hạ Bình nhướn mày: "Thân thủ của Tống cô nương quá giỏi, tại hạ bội phục. Tính mệnh của tại hạ vốn là do Tống cô nương cầu xin mà giữ lại, trả lại cho cô nương cũng là chuyện nên làm, hãy động thủ đi." Nói xong nhắm mắt lại.

Tống Vân Nhi thu hồi đoản kiếm: "Ta giết ngươi làm quái gì, lùi lại đi!"

Hạ Bình ôm quyền xưng tạ, lui trở lại, khom người thưa với Dương Thu Trì: "Chúc hạ vô năng..."

Dương Thu Trì phất tay: "Không trách ngươi, lùi lại đi." Dừng một chút, hắn lại quát: "Nam Cung Hùng đâu?"

"Chúc hạ có mặt!' Nam Cung Hùng bước tới ôm quyền thưa.

"Tống Vân Nhi nhiễu loạn sự vụ thuộc quyền xử lý trong tông tộc của Dương gia ta, ngươi đi bắt ả lại, không được làm hại đến tính mệnh!"

Vừa rồi Dương Thu Trì khiến Hạ Bình xuất thủ bắt Tống Vân Nhi, Nam Cung Hùng có điểm không hiểu. Hắn biết Tống Vân Nhi và Dương Thu Trì nhất mực không rời nhau như bóng với hình, sao lại muốn động thủ bắt nàng. Thế nhưng Dương Thu Trì đã có lệnh, tuy y không biết nguyên do như thế nào, nhưng chỉ đành tuân lệnh.

Nam Cung Hùng rút yêu đao, bước lên trước ôm quyền nói: "Tống cô nương, đắc tội rồi!"

"Bớt lời thừa đi! Lên nào!" Tống Vân Nhi phất đoản kiếm quát.

Tiếng đinh đinh đang đang lại vang lên, Nam Cung Hùng dù có chiêu số cực nhiều, lực đạo uy mãnh, nhưng Tống Vân Nhi thì tiểu xảo linh động, kiếm chiêu thần kỳ, nên đấu hơn trăm chiêu thì Nam Cung Hùng từ từ rơi vào thế hạ phong.

Dương Thu Trì nhíu mày, phất tay: "Tất cả đều lên! Bắt ả cho ta!"

"Vâng!" Các hộ vệ sau lưng Dương Thu Trì đều rút đao kiếm ra vây lên. Hạ Bình do dự một chút, cũng rút trường kiếm ra nhập cuộc.

Tống Vân Nhi biết võ công của mình chỉ cao hơn Nam Cung Hùng một chút, cộng thêm Hạ Bình nữa chỉ sợ rất khó chống, đừng nói gì có hơn mười cẩm y vệ hộ vệ đều là hảo thủ, nên gấp lên cất tiếng quát bảo: "Dương Thu Trì! Ngươi đừng bức ta hạ sát thủ! Nếu không ta sẽ khiến cho họ huyết chảy đương trường!"

Tống Vân Nhi trong lúc tức giận, gọi thẳng luôn tên, ngay cả tiếng "Ca" cũng không thèm gọi.

Dương Thu Trì lạnh giọng đáp: "Vân nhi, muội thật cứng đầu rồi! Xử lý Sơn nhi như thế nào là chuyện trong tộc của Dương gia, muội hồ loạn nhúng tay vào vốn thật không đúng. Còn không mau dừng tay lui ra! Muội không chịu nghe lời ta, chẳng lẽ phải để đổ máu ra mới cam tâm hay sao?"

Tống đồng tri cũng biết tính tình của con gái, ép tới nơi cũng dám hạ thủ đả thương người lắm, đến lúc đó thì khó thu thập rồi. Trong lúc gấp gáp, lời của lão càng lặp bặp hơn, quát bảo Tống Vân Nhi: "Vân nhi! Con, con ngay cả lời cha cũng không, không thèm nghe hay sao!? Mau, mau, mau lui lại!"

"Cha! Cha đừng quản. Hôm nay còn liều mạng với tên họ Dương này thôi!" Trong lúc nói, kiếm quang của Tống Vân Nhi đại thịnh, định kềm chế Nam Cung Hùng trước.

Nam Cung Hùng liền thủ chứ không công, Tống Vân Nhi nhất thời không làm gì y được. Các hộ vệ hét lên một tiếng cùng vung đao kiếm vây lên, chuẩn bị động thủ.

"Đừng đánh nữa! Dừng tay! Nghe ta nói!" Bàng quản gia nảy giờ nhất mực quỳ ôm Sơn nhi, hiện giờ đứng lên nói, "Các người hãy dừng tay hết đi, ta có lời định nói!"

Bàng quản gia ôm hài tử đứng giữa họ. Song phương sợ làm bị thương hai người, nên không ai dám xuất chiêu, chỉ biết thay nhau lùi lại.

Bàng quản gia nói với Tống Vân Nhi: "Tống cô nương, đa tạ một phen hảo ý của cô, Bàng mỗ thật là cảm kích không hết." Sau đó lão chuyển thân đến trước mặt Dương lão thái gia, ôm hài tử quỳ xuống khấu đầu: "Lão gia, nếu như người có thể tha cho hài tử này, lão nô nguyện lấy mạng đổi mạng, chỉ cần ngài tha cho nó, tôi sẽ chết ngay tại nơi này, khẩn thỉnh lão thái gia thành toàn."

Bàng quản gia ra mặt cầu xin cho hài tử, nhất định là không nhẫn tâm nhìn hài tử vô cớ chết đi. Tống Vân Nhi cứng đầu ra mặt cũng vì nguyên nhân này, đó là điều ai cũng có thể lý giải. Nhưng hiện giờ Bàng quản gia nguyện lấy một mạng đổi một mạng, lại dùng mạng của mình đổi lấy mạng của Sơn nhi, khiến cho mọi người không thể nào hiểu được, vì ngoại trừ là người chí thân hoặc có lý do đặc biệt gì đó, chẳng ai lại làm như vậy cả.

Do đó, khi nghe Bàng quản gia nói lời này, mọi người đều cả kinh, ngay cả Tống Vân Nhi cũng vô cùng ngạc nhiên, hỏi: "Ê, ngươi điên rồi sao? Làm gì lại muốn lấy mạng đổi mạng cho hài tử này vậy?"

"Bỡi vì nó là con ruột của lão!" Dương Thu Trì lạnh lùng đáp. Do đó, khi nghe Bàng quản gia nói lời này, mọi người đều cả kinh, ngay cả Tống Vân Nhi cũng vô cùng ngạc nhiên, hỏi: "Ê, ngươi điên rồi sao? Làm gì lại muốn lấy mạng đổi mạng cho hài tử này vậy?"

"Bởi vì nó là con ruột của lão!" Dương Thu Trì lạnh lùng đáp.

A....! Mọi người giật mình cả kinh. Tống Vân Nhi buột miệng hỏi: "Dương...., huynh nói cái gì? Cái gì mà con của lão?"

Lời này của Dương Thu Trì giống như sét đánh ngang đầu Bàng quản gia, khiến lão run bắn người, ngồi phịch xuống đất ôm chầm lấy Sơn nhi, kinh khủng nhìn Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì tiếp đó chậm rãi nói: "Bàng quản gia đánh thuốc tam di thái Quách thị, khiến thần trí cô ta mê muội, sau đó gian dâm cô ta mới sanh ra Sơn nhi."

Bàng quản gia vội thốt: "Không, không phải, ta không có!"

"Sơn nhi nếu như không phải hài tử của ông, ông làm gì phải dùng mạng đổi mạng cho nó?" Dương Thu Trì liếc nhìn Tống Vân Nhi, nói tiếp: "Do đó ta mới khẩn khẩn ép bức, chính là vì muốn lão nói ra câu này!"

Cái gì? Đến lúc này thì Tống Vân Nhi ngẩn người, đầu óc xoay chuyển, lập tức hiểu rõ mọi chuyện bên trong, trong lúc vừa kinh vừa mừng, nói: "Ca, thì ra là huynh cố ý làm như vậy, huynh vốn không muốn giết đứa nhỏ này, nhưng cố ý kích cho lão nói ra câu đó mới làm như vậy, đúng không nào.

Dương Thu Trì không thèm lý đến nàng.

Bạch quang lóe lên, đoản kiếm đã được thu vào trong tay áo của Tống Vân Nhi. Nàng bước gấp tới trước mặt Dương Thu Trì, kéo tay áo hắn: "Ca, huynh giận rồi sao? Sao không để ý gì đến Vân nhi vậy?"

"Ta không phải là ca ca của cô, ta là 'tên họ Dương kia'!"

Tống Vân Nhi bẻn lẻn, sau đó nghênh mặt: "Ai biểu huynh không báo trước cho muội!"

"Báo cho muội? Ta làm sao biết muội sẽ phát khùng lên bước ra đưa đầu chịu thế cho lão chứ?"

"Hi hi," Tống Vân Nhi cười cười, dài giọng mè nheo: "Thôi đi mà, ca...., coi như Vân nhi phát khùng đi, xin lỗi mà, Vân nhi đền tội cho huynh vậy, lần sau không dám nữa, tha cho Vân nhi nha."

"Hừ...!" Dương Thu Trì đưa tay ra vuốt mũi Tống Vân Nhi, "Nghịch như quỷ! Được rồi, muội tránh ra, ta muốn hỏi Bàng quản gia."

"Dạ...!" Tống Vân Nhi nhanh gọn lẹ đáp ứng hắn, đứng tranh qua một bên.

Dương Thu Trì bước lên vài bước, nói với Bàng quản gia: "Ta hỏi ngươi lại lần nữa, Sơn nhi có phải là con ruột của ngươi không?"

Đây là một lựa chọn rất khó, Bàng quản gia nói đúng cũng không được, mà nói không cũng không thể. Nghĩ kỹ một lúc, cuối cùng lão lắc đầu: "Không phải."

Dương Thu Trì bảo tiếp: "Nếu như đứa bé này không phải là con ngươi, vậy phiền ngươi giao nó cho Dương lão thái gia xử tử, thứ dã chủng này không thể lưu lại trên đời!"

Tống Vân Nhi lúc này đã biết dụng ý của Dương Thu Trì, không ra mặt cản trở nữa.

Bàng quản gia kỳ thật cũng biết Dương Thu Trì đang bức lão, nhưng lão không dám đem đứa bé ra đánh cuộc. Tuy Tống Vân Nhi vừa rồi ra mặt cản trở, nhưng lão không hiểu rõ Tống Vân Nhi, không dám đặt mọi thứ lên người nàng, bỡi vì chỉ cần Vân nhi không nhúng tay vào, Dương lão thái gia nhất định sẽ xử tử đứa bé này.

Bàng quản gia vừa rồi trong lúc gấp rút đã nguyện ý dùng một mạng đổi một mạng, chủ yếu là muốn dùng biện pháp này khích Dương lão thái gia, khiến lão không muốn giết Sơn nhi nữa, chứ không phải thật tâm muốn dùng mạng đổi mạng của hài tử.

Nhưng Bàng quản gia thừa nhận mình đã gian dâm tam di nương để sinh ra Sơn nhi này, căn cứ vào Đại Minh Luật thì "Cường gian giả, giảo." (Người phạm tội cưỡng gian, xử treo cổ), "Phàm nô, cập cố công nhân, gia gia trưởng thê nữ giả, các trảm." (Phàm là nô bộc hay người làm công mà gian dâm vợ hay con gái của chủ, đều phải bị xử chém), "Thiếp các giảm nhất đẳng, cường giả. Diệc trảm" (Thiếp hay là các bậc thấp hơn mà bị cưỡng dâm, người phạm tội cũng bị chém). Do đó, chỉ cần Bàng quản gia thừa nhận, thì phải rơi đầu. Do đó lão buộc phải nói không.

Dương Thu Trì nói: "Nếu như ta dùng tính mệnh của đứa bé này bức lão, sẽ khiến lão không tâm phục. Như vầy vậy, vừa rồi lão nói nó không phải là con lão, vậy lão có dám tích huyết nhận thân không?"

Bàng quản gia kinh hoảng lắc đầu, nói năng không đầu không đuôi gì cả: "Không, ta....., nó không phải là con tôi... tôi làm gì phải tích huyết nhận thân với nó!"

Dương lão thái gia muốn gấp biết chân tướng, phất tay: "Bắt lão lại, tích huyết nhận thân!"

"Dạ!" Vài tên hầu nam bước tới bắt Bàng quản gia, cướp hài tử đi. Tống Vân Nhi sợ Dương lão thái gia lúc nóng lòng hạ sát luôn hải tử, nên chạy tới đoạt lấy Sơn nhi, ôm chặt vào lòng.

Phùng Tiểu Tuyết bước tới cạnh Tống Vân Nhi, nói: "Tống cô nương, đưa hài tử cho ta ẵm."

Tống Vân Nhi lập tức hiểu ý Phùng Tiểu Tuyết, nếu tự thân nàng ẵm đứa bé, sẽ không tiện động thủ, cũng không dễ bảo hộ phu quân Dương Thu Trì của Phùng Tiểu Tuyết, nên hội ý mỉm cười, trao đứa bé qua.

Dương Thu Trì lấy cái ống hút máu mới, phân biệt hút lấy huyết của Bàng quản gia và Sơn nhi, gọi người hầu lấy một cái chén sạch lại, sau đó đem chén vào trong xương phòng.

Chẳng mấy chốc sau, Dương Thu Trì cầm cái mâm đặt lên trên bàn, mọi người vây lấy, nhưng Bàng quản gia thì không, ngồi bẹp dưới đất, mặt đầy mồ hôi.

Dương Thu Trì đưa hai ống máu nhỏ vào chén, quả nhiên, chúng nhanh chóng dung hợp lại thành một.

Dương lão thái gia tức giận, mắng: "Quả nhiên là của lão súc sinh ngươi!"

Đại phu nhân cũng bỗng nhiên tỉnh ngộ: "Hèn gì lúc nào lão cũng bảo hộ cho con hồ lý thối Quách thị đó, lúc chúng ta đá vào bụng con hồ ly, hắn còn lén đi báo với lão gia, thì ra là hắn sợ chúng ta đá sảy thai con của hắn!"

Dương Ngải Tiểu cất giọng căm hận: "Đúng vậy! Hèn gì lão dùng roi da đánh mẹ tôi ngoan độc như vậy, lại còn định bóp chết mẹ tôi, thì ra là lão tức mẹ tôi hạ độc định giết chết con của lão!" Nói đến đây, ả quay về phía Bàng quản gia phun ra một ngụm nước bọt: "Cái lão gầy nhom mặt dày nhà ngươi, thật là đáng đem lên núi đao chém thành vạn đoạn!"

Tống Vân Nhi ngạc nhiên và hiếu kỳ hỏi Dương Thu Trì: "Ca, ca sao biết Sơn nhi là con của Bàng quản gia vậy?"

Dương Thu Trì đáp: "Chuyện đầu tiên mà lão làm ta hoài nghi chính là thái độ đối với Sơn nhi, khi lão biết Sơn nhi không phải ốm yếu nhiều bệnh, mà bị người ta hạ độc, phản ứng của lão rõ ràng là không giống với một quản gia, mà là giống với một phụ thân hơn. Khi biết người hạ độc là nhị di thái, lòng hận của lão đối với hung thủ không hợp chuẩn mực thông thường, mà là muốn bóp cổ chết người ta ngay tại đương trường. Dương lão thái gia khiến lão chấp hành gia pháp, lão suýt chút nữa đánh chết nhị di thái."

"Nhưng mà, lúc đó ta vẫn chỉ kỳ quái thôi, chỉ cho là phản ứng của lão cường liệt như vậy chỉ là do lòng trung với chủ, không ngờ lão có tư tâm! Cho đến lúc thẩm vấn Dương Ngải Tiểu và mấy người nữa, ta biết Bàng quản gia rất quan tâm đến đứa bé trong bụng của tam di thái, nên mới tiến thêm một bước xác định lão có ý riêng. Do đó, ta quyết định dùng phương pháp tích huyết nhận thân để thử ."

Dương Thu Trì quay sang nói với Bàng quản gia: "Lần đầu khi tích huyết nhận thân, ngươi thấy máu của Dương lão thái gia và máu con ngươi không dung hợp vào nhau, rõ ràng là vượt ra ngoài ý liệu của ngươi a? Ngươi cho rằng ta không biết ngươi làm trò trong cái chén dùng để tích huyết nhận thân đó à?"

Tống Vân Nhi kỳ quái hỏi: "Làm trò? Lão làm trò gì vậy?"

"Chén dùng để tích huyết nhận thân đó đã bị lão dùng muối giấm lau qua. Cần phải biết, máu tươi mà gặp muối giấm nhất định sẽ hòa vào nhau dù có là khác loại. Năm xưa lão đã từng đi biển, đi nam về bằng, trải đời rất nhiều, những trò gian dối trong chuyện tích huyết nhận thân lão đương nhiên biết."

"Lão biết Sơn nhi không phải là con của Dương lão thái gia, mà là con của chính lão, chỉ cần nghiệm huyết sẽ lộ ra ngay, nên mới động tay chân làm trò trong này, hi vọng hai giọt máu sẽ hòa vào nhau, có thể vượt qua được cửa ải này."

Nói đến đây, Dương Thu Trì chỉ vào mũi mình, hơi đắc ý bảo: "Muội không biết sao, cái mũi của ta đặc biệt thính, thính không kém gì Tiểu Hắc của ta đâu." Nói xong hắn cúi đầu nheo mắt nhìn Tiểu Hắc cầu đang ngồi cạnh, Tiểu Hắc cẩu thấy vậy sủa uông uông hai tiếng, dường như bảo là đồng ý hoàn toàn vậy!

Dương Thu Trì tiếp tục nói: "Ngươi tự cầm cái chén đưa ra, ta chỉ cần ngửi một cái là biết ngươi dùng muối giấm lau qua rồi."

Tống Vân Nhi ngạc nhiên hỏi: "Nếu như vậy, tại sao lại không dung hợp vậy?" Sau đó lại hiểu ra ngay, mừng rỡ tiếp: "Nếu như huynh biết lão làm trò, cái chén đó đương nhiên lại bị huynh thay rồi!"

Dương Thu Trì khẽ cười: "Thông minh! Cái chén ấy là cái chén sạch, đương nhiên là hiển hiện ra sự thật, do đó Bàng quản gia vừa rồi rất bất ngờ, thậm chí có chút thất hồn lạc phách."

Tống Vân Nhi hiện giờ hiểu rõ: "Hèn gì vừa rồi Dương lão thái gia nói với lão, lão chẳng phản ứng gì, cứ lẫm bẫm gì là 'không đúng, không khả năng, không thể nào'... gì gì đó."

Đại thiếu gia Dương Thanh Thủy nãy giờ không lên tiếng, giờ đây hai mắt đỏ chạch, chẳng nói chẳng rằng bước lại cạnh Bàng quản gia đá mạnh một cú, trúng vào mặt lão, khiến Bàng quản gia ngã lăn ra mấy bộ.

Dương Thanh Thủy muốn đánh nữa, nhưng bị Dương Thu Trì giữ lại.

Dương lão thái gia hiện giờ biết người cho mình cắm sừng chính là lão quản gia, tức đến nỗi toàn thân run bần bật, chỉ vào Bàng quản gia rống lên: "Người đâu! Đem hắn đi đánh chết cho ta!" Bọn người hầu dạ râng, định áp lên động thủ.

Dương ThuTrì lên tiếng: "Chậm đã! Bá phụ, còn có một chuyện chưa hỏi rõ, hiện giờ không thể giết lão."

Nghe Dương Thu Trì nói, Dương lão thái gia chỉ còn biết tam thời áp cơn nóng giận xuống, nhìn Bàng quản gia chằm chằm , hận không thể xé lão thành muôn mảnh. Tống đồng tri hỏi Bàng quản gia: "Hiện giờ chứng cớ đã xác thực như vậy rồi, ngươi lại không còn thành thật khai ra, chẳng lẽ để ta phải động hình hay sao?"

Bàng quản gia hiện giờ mặt mày như người chết, chỉ còn biết gật đầu: "Đúng vậy, Sơn nhi là do tôi và tam di nương sinh đấy."

"Thành thật khai ra!" Tống đồng tri quát.

"Vâng, tam di nương nhất mực bị đại phu nhân và bọn họ khi phụ ẩu đả, tôi thường tìm lang trung trị thương cho nàng ta. Nàng ta nói những tháng ngày này quá khổ, muốn chết đi cho rảnh. Tôi thấy nàng ta đáng thương, nên khuyên nàng ta. Nàng ta cảm kích tôi, nên... nên chủ động tốt với tôi, để rồi có hài tử này." Bàng quản gia cúi đầu nói.

Bàng quản gia thừa nhận thông gian với tam di nuơng, vì đối với thông gian, Đại Minh luật chỉ quy định đánh tám chục trượng, lại còn quy định: "Gian sinh nam nữ, thì phải do gian phu thu dưỡng." Thật rõ ràng, Bàng quản gia muốn dùng tám chục trượng này để đổi lấy đứa con.

Dương Thu Trì hỏi: "Ngươi nói tam di thái chủ động cùng ngươi thông gian?"

Bàng quản gia gật đầu.

"Ngươi chẳng phải không hứng thú chút nào với nữ nhân sao? Tại sao lại cùng người khác thông gian? Hơn nữa, cho dù tam di thái có cảm kích ngươi quan tâm nàng ta, nhưng bằng cái mô dạng khô đét như con khỉ thế này, heo nái cũng không chịu thông gian cùng ngươi, chứ đừng nói gì tam di thái như hoa như ngọc thế kia."

"Cái đó cũng không chắc!" Đại phu nhân chen lời, "Con hồ ly thối đó là thứ dâm tiện, thấy nam nhân là nhào lại, họ Bàng là thứ người không ra người quỷ không ra quỷ chính hợp với ý của ả."

"Bà bà nói chẳng có điểm nào sai!" Chu thị chen lời, "Nếu như con hồ ly thối đó không phải dâm tiện, thì ả sẽ không phát hoa si!"

Dương Thu Trì tiếp đó liền hỏi Bàng quản gia: "Ngươi có biết vì sao tam di thái phát hoa si không?"

"Tôi không biết." Bàng quản gia run rẫy toàn thân.

"Ngươi không nói không sao, bỡi vì ta đã biết rồi, tam di thái bị ngươi hạ một thứ thuốc nên mới phát hoa si."

"Không, không phải tôi, tôi vì sao phải làm vậy?" Bàng quản gia hoảng loạn nói.

"Bỡi vì ngươi muốn giết chết nàng ta, ngươi hạ dược vốn để nàng ta thấy quỷ sợ hãi mà chết, không ngờ lại dẫn phát tật bệnh tiềm tàng trong cơ thể của cô ta, nên mới khiến cô ta phát hoa si, và sau khi cô ta phát hoa si, thần trí mê loạn, ngủ vùi không tỉnh, không biết vì sao không hề sản sinh ảo giác thấy quỷ, và cũng không bị sợ chết. Do đó, ngươi mới quyết định lẻn vào trong lầu xiết cổ chết cô ta."

Bàng quản gia cải lại: "Không đúng, tôi không có chìa khóa, làm sao mà tiến vào trong lầu đó được?"

"Leo vào." Dương Thu Trì đáp, "Vừa rồi ngươi cùng người hầu tranh đoạt Sơn nhi, chúng ta đều thấy rất rõ, ngươi tuy thân hình ốm yếu, mặt đầy nếp nhăn, nhưng năm xưa đã từng đi thuyền lao lực, khiến cho ngươi có một thể cách kiên cường, lực khí rất lớn, trong khi đó tường ngăn ngôi lầu đó chỉ cao bằng đầu người, bằng vào thân người của ngươi muốn trèo qua thì chẳng hề mất tí hơi sức gì."

"Ngươi trước hết đem giấu giấy dán cửa sổ và hồ ở gần đó, chuẩn bị ban đêm động thủ. Thật không ngờ là đại phu nhân lại kêu ngươi đến phòng nhị di thái đàm luận về chuyện của tam di thái. Ngươi không thể không đi, nên không hề có cơ hội hạ thủ."

Dương Thu Trì thầm biết rõ, Bàng quản gia đả từng lén báo tin, vạch rõ chuyện bạo hành của đại phu nhân và bọn họ đối với tam di nương, do đó đại phu nhân gọi Bàng quản gia tới không phải là vì nói chuyện hợp ý nhau, mà là Bàng quản gia lúc chiều bị tam di thái trần truồng ôm chặt, sợ quá té ngã, cũng lộ ra cái xấu. Đại phu nhân kêu lão tới, chính là muốn cười nhạo giải khí, nhưng hiện giờ hắn không thể nói thẳng ra, nếu không đại phu nhân không thể xuống đài được.

"Đúng a," Bàng quản gia như vứt phăng tảng đá vác trên lưng đi, "Tôi nhất mực ở cùng với đại phu nhân và mọi người, trừ khi đi nhà vệ sinh còn thì không ra ngoài bao giờ, làm gì có thời gian đi giết tam di thái?"

"Không sai, ngươi cố ý mắng chửi tam di thái trước mặt họ một hồi, dụng ý của ngươi là muốn nếu lỡ như sau này tam di thái có chuyện, không ai hoài nghi đến ngươi. Nhưng không ngờ lời của ngươi lại khiến đại phu nhân và mọi người thích chí, nên nhất quyết giữ ngươi ở lại hầu cận họ, không cho ngươi li khai."

"Ngươi vì muốn khiến đại phu nhân và bọn họ sớm cho ngươi đi để thuận tiện tác án sát nhân, ngươi dùng một tiểu hoa chiêu, nhân lúc đi nhà xí ra ngoài tìm người đánh canh là lão Ngưu đầu, cho lão ít bạc, khiến lão đánh canh sớm hơn. Nên dù lúc tan hàng là vào canh năm, thực ra là mới vừa tới canh tư mà thôi!"

"Ngươi làm sao mà biết vậy?" Bàng quản gia vô cùng kinh khủng, không ngờ chuyện mình cho tiền người đánh phu cũng bị người ta biết rõ, nhưng dù sao thì câu nói buột miệng vừa rồi cũng chảng khác nào thừa nhận rồi.

Dương Thu Trì không hề hồi đáp, chỉ ra ngoài cửa sổ, hỏi: "Hiện giờ trời đã tối rồi, giờ này ứng vào canh hai, nhưng dường như không nghe được tiếng mõ canh nhỉ, ngươi chẳng cảm thấy kỳ quái hay sao?"

Bàng quản gia dõng tai lên nghe, cũng phát hiện ra vấn đề này, và khi lão nghĩ lại những lời vừa nói, sắc mặt đột nhiên biến thành tái nhợt.

Dương Thu Trì cười cười, nói: "Rất tốt, ngươi đã đoán ra rồi. Không sai, lão ngưu đầu đánh canh đã bị ta thỉnh đến rồi, do đó hôm nay lão không có cánh nào đánh canh nữa. Bỡi vì có một chuyện cần lão đến làm chứng!" Xong hắn quay sang Nam Cung Hùng bảo: "Đưa người lên!"

"Tuân lệnh!" Nam Cung Hùng chấp tay thi lễ, chuyển thân bước ra, chẳng mấy chốc sau đã cùng một hộ vệ đi từ ngoài đưa một lão đầu vào. Lão đầu này khoảng năm chục tuổi, chân đi cà nhắc, quả nhiên là một người thọt chân.

Bàng quản gia nhìn thấy lão thọt, gương mặt liền cắt không còn giọt máu, run rẫy kêu lên: "Lão ngưu đầu!"

"Đúng!' Dương Thu Trì nói, "Lão chính là người chuyên môn đánh canh trong Dương gia thôn chúng ta, lão ngưu đầu!"

Dương Thu Trì nói với lão ngưu đầu: "Đêm tam di thái của Dương lão thái gia chết đó, Bàng quản gia có đến tìm ngươi hay không? Ngươi phải thành thật hồi đáp, nếu không, hừ ...!"

Lão ngưu đầu che gương mặt đã bị đánh bầm tím hết một bên, miệng cũng sưng vều, rõ ràng là đã bị tra tấn qua không nhẹ.

Thì ra vừa rồi Nam Cung Hùng ra ngoài chính là đi tìm lão ngưu đầu chuyên đánh canh, và chỉ cần dùng chút hình tấn đã khiến lão khai ra chuyện Bàng quản gia hối lộ để lão đánh canh sớm hơn.

Lão ngưu đầu quỳ xuống dập đầu thưa: "Tiểu nhân không dám, tiểu nhân thành thật khai báo. Đêm tam di thái chết đó, Bàng quản gia có đến tìm tôi, cấp cho tôi một lượng bạc, khiến tôi đánh canh tư và canh nam sớm hơn bình thường."

"Ngươi đánh sớm hơn bao nhiêu?"

"Tổng cộng khoảng một canh."

Dương Thu Trì nhắc mọi người: 'Căn cứ vào sự chứng minh của lão ngưu đầu, thì có thể nói đêm đó mặc dù mọi người tan cuộc vào canh năm, nhưng thực ra là vào canh tư."

Dương Thu Trì căn cứ vào việc kiểm nghiệm thi thể tính toán được thời gian tử vong của nạn nhân đêm đó là khoảng hai giờ khuya, và cũng chính là vào lúc canh tư trong trường hợp thông thường. Do lão ngưu đầu đánh sớm canh tư và canh nam, như vậy có thể nói vào hai giờ đêm thay vì lão phải đánh canh tư, nhưng lại đánh luôn canh năm.

Do đó, khi đại phu nhân và mọi người giải tán, thật tế chỉ khoản 2 giờ khuya, đó cũng là thời gian xảy ra án mạng theo như tính toán. Như vậy có thể nói, Bàng quản gia có đủ thời gian tác án, và những người khác đương nhiên cũng vậy.

Bàng quản gia khiến người đánh canh đánh sớm một canh, không phải là đặc biệt không để bản thân không có chứng cứ phạm tội về thời gian, bỡi vì ở Minh triều trình độ kiểm nghiệm thi thể còn chưa đạt đến việc tính toán chính xác thời gian tử vong như thời hiện đại. Hơn nữa đánh sớm hơn một canh (tức hai tiếng đồng hồ), nếu như không phải đó là Dương Thu Trì, thì căn bản chẳng có ai có thể xác định tam di thái chết vào canh tư hay canh năm cả. Do đó, chẳng qua Bàng quản gia muốn tìm chứng cứ chứng minh là mình mãi đến canh năm còn cùng đại phu nhân và mọi người ở một chỗ, thì làm gì có thời gian tác án.

Giải thích hợp lý hơn nữa chính là do Bàng quản gia bị đại phu nhân và mấy người khác giữ riết không cho đi, lão là thân phận người hầu nên không dám chưa được phép mà rời đi, cho nên đi hối lộ để người đánh canh đánh sớm hơn chính là khiến bọn họ sớm giải tán, vì dù sao nếu trời quá canh năm là sắp sáng rồi, không còn tiện để hạ thủ giết người nữa.

Tuy Bàng quản gia không cố ý chế tạo chứng cứ không có mặt tại hiện trường, nhưng đánh canh sớm hơn đích xác đã khiến Dương Thu Trì rơi vào thế hồ đồ, nên Bàng quản gia không hề rơi vào phạm vi hiềm nghi của hắn.

Bàng quản gia tịnh không dễ nhận thua, lên tiếng hỏi: "Ta không giết tam di thái, ngươi nói ta giết nàng ta, có chứng cứ gì hay không?"

Tống đồng tri, La huyện thừa cùng mọi ngừơi nghe Dương Thu Trì phân tích đâu đâu cũng cho là phải, đều có cảm giác đại ngộ ra, giờ nghe Bàng quản gia hỏi vậy, lòng không khỏi sững sốt, đúng a, nói cả nửa ngày, dường như đó chỉ là sự phân tích của Dương Thu Trì, chứ còn chứng cứ thì chưa?

Dương Thu Trì hỏi: "Ta hỏi ngươi, trước khi tam di thái chết, cửa sổ trên lầu của cô ta do ai dán?"

"Hàng năm thường do nha hoàn hoặc người hầu dán."

"Ngươi có dán không?"

"Không có," Bàng quản gia đáp, "Thứ chuyện này đều do bọn hầu hạ bên dưới làm."

"Đúng, ta quên rồi, ngươi không phải là người hầu, ngươi là quản gia." Dương Thu Trì trào phúng cười cười, "Nếu như ngươi không phải là người hầu, không hề dán giấy che cửa cho tam di thái, thì tại vì sao trên đó có lưu lại dấu tay của ngươi?"

"Dấu tay? Dấu tay gì?" Bàng quản gia cảm thấy đầu óc như mây mù, chuyện này ngay cả Tống đồng tri và những người khác cũng không biết.

"Chiều hôm đó vì để tránh tam di thái phát hoa si, ngươi đã ngã làm vỡ bồn hoa, cánh tay và ngón tay đều bị thương, đúng không?"

"Đúng a, lang trung còn giúp ta băng bó lại ngón tay."

"Băng bó giùm ngươi một ngón tay, ngón nào?"

"Ngón giữa, sao vậy?"

Dương Thu Trì không hề đáp, mà cố tình nhìn xung quanh một vòng rồi mới nói: "Thỉnh ngươi đưa tay lên, nhìn xem trên đầu ngón tay có cái gì? Mội người trên bàn tay và ngón tay đều có thứ gì đó, ngươi hãy nhìn coi đó là gì vậy?"

Bàng quản gia chẳng hiểu Dương Thu Trì có ý gì, vô thức đưa tay lên nhìn.

Tống Vân Nhi và mọi người cũng đưa tay lên xem, nghi hoặc nói: "Không có gì hết a."

Dương Thu Trì chụm lấy bàn tay thon thả của Tống Vân Nhi, chỉ vào các đường vân trên đó bảo: "Muội không thấy trên bàn tay và ngón tay đều có chỉ tay hay sao?" Bàn tay và đầu ngón tay đều có đường chỉ, chuyện này thì ngay từ thời Trung Quốc cổ đại đã có nhiều người nhận thức rồi, thậm chí còn phát triển thành phương pháp coi tướng. Hán đại thần tướng Hứa Phụ Sở chuyên nghiên cứu các đường chỉ thiên hình vạn trạng trên lòng bàn tay mà phán: "Thủ văn loạn tỏa, hợp hữu phúc lộc, vĩnh vô tai hại. Thủ hữu hoàng lý văn, sát hại bất tư luận. Thủ hữu tung hoàn văn, tước vị chí tam công." (Tay mà có đường chỉ tụm lại, tất có phúc lộc, suốt đời không tai hại. Tay có đường cắt ngang, giết người không suy xét lợi hại. Tay có đường chỉ tung hoành ngang dọc, tước vị lên đến tam công). Hơn nữa cổ nhân còn dùng cách ấn tay lên tờ đơn hay văn khế để làm một loại chứng minh thay cho chữ ký.

Như vậy có thể nói người thời xưa có một trình độ nhất định về đường chỉ tay và vân tay, nhưng cổ thư chưa bao giờ nói là có thể dùng chuyện so sánh chỉ tay đến nhận định tội phạm, cho thấy người xưa không nhận thức là chỉ tay có tính duy nhất, nên không sử dụng làm chứng cứ để định tội hình sự.

Phát hiện ra tính duy nhất của chỉ và vân tay là vào thế kỷ thứ 19 do bác sĩ người Nhật Bản tên Hanh Lợi Phúc Nhĩ Tỳ và Uyliam Hách Tạ Nhĩ tại Ấn Độ thuộc địa của thực dân Anh. Hai người dường như đồng thời từ hai địa phương bất đồng tìm ra chuyện này, có ý nghĩa rất lớn đối với thời đại.

Nhưng sự phát hiện của bọn họ đường thời không dẫn đến sự trọng thị của thiên hạ là bao, cho đến thế kỷ thứ 20, khi các bộ môn tư pháp trên thế giới bắt đầu chính thức nhận ra dấu vận tay có thể sử dụng làm chứng cứ để nhận định phạm tội, Trung Quốc mới áp dụng kỹ thuật này.

Tống Vân Nhi nhìn vào tay của mình, hô lên: 'Đúng a, có đường chỉ tay nè." Nói đến đây, Tống Vân Nhi cười hì hì: "Ca, chẳng lẽ huynh thông qua chuyện nhìn bàn tay mà phát hiện Bàng quản gia là hung thủ hay sao?"

Dương Thu Trì lắc đầu: "Không phải, Bàng quản gia giết người xong còn chui ra dán cửa sổ lại, tay lão dính hồ và dính luôn cả bụi bẩn, khi đè ép lên trên giấy dán có lưu lại những dấu ấn mờ mờ. Trong những dấu này, có một ngón tay không có đường chỉ. Nếu như mọi người không tin, chúng ta có thể lập tức đến tiểu các lâu tra xét!"

Bàng quản gia đã đoán được ý tứ của Dương Thu Trì, ánh mắt lộ ra vẻ khủng bố.

Tống Vân Nhi cũng đã đoán ra, kinh hỉ nói: "Ca, ý huynh là Bàng quản gia bị thương ngón giữa, dùng vải băng bó vết thương lại, nên vì thế mà dấu tay trên cửa sổ kia ở vị trí ngón giữa không có đường chỉ. Cho thấy dấu tay trên cửa sổ chính là của lão, do đó, lão chính là hung thủ!"

"Thông minh!" Dương Thu Trì khen.

Tống Vân Nhi đắc ý cười: "Hèn gì chiều hôm đó huynh cứ dùng tóc của muội quét bụi trên lớp giấy đó, lại còn áp sát vào đó để xem, thì ra là quan sát mấy cái dấu đó a."

Dương Thu Trì dùng thứ dấu vết đặc biệt để chứng minh tội phạm, chứ không liên quan gì đến dấu vân tay, nên có thể được Tống Vân Nhi cùng mọi người hiểu và tiếp thụ. Tống đồng tri cùng mọi người nghe lời hắn phân tích đều gật đầu tán đồng.

Dương Thu Trì gật gật đầu, sau đó quay sang Bàng quản gia bảo: "Ngươi dùng mê hương khiến cho tiểu nha hoàn Tri Xuân và bà vú Lữ thị hôn mê xong, sau đó xé giấy dán trên cửa sổ phòng tam di nương đi, làm lỏng cây chắn ngang cửa sổ ra rồi chui vào, dùng dây thừng mang theo người xiết cổ chết tam di thái đang còn mê ngũ, sau đó ngụy trang cho cô ta tự sát. Ngươi lại chui ra ngoài, đóng song cửa và dán giấy lại, rồi lui trở về phòng. Ta nói không sai chứ?"

Bàng quản gia dường như không hề chú ý đến lời Dương Thu Trì nói, mà dỏng tai lên nghe gì đó, gương mặt lộ vẻ kinh khủng.

Đại thiếu gia Dương Thanh Thủy thấy Bàng quản gia không trả lời, bước tới đá vào cằm của lão. Bàng quản gia đang há hốc miệng ra nhìn, đột nhiên bị cú đá này làm cho hai hàm răng va vào nhau đánh cụp, lưỡi bị cắn một cái thật mạnh, khiến lão đau đớn kêu thảm lên, máu tức thì chảy ra, nên thần trí cũng khôi phục lại vẻ thanh tỉnh.

Dương Thu Trì đối với thần tình kỳ quái của Bàng quản gia không cảm thấy bất ngờ gì, dường như đã dự định đến điều đó, liền hỏi: "Bàng quản gia, ngươi còn không thừa nhận sao?"

"Thừa nhận cái gì?" Bàng quản gia ôm cằm.

"Thừa nhận ngươi giết tam di thái!"

"Ta không có." Bàng quản gia định chống chế lần cuối cùng, "Nàng ta là mẹ của con ta, ta vì sao lại muốn giết nàng ấy chứ?"

Dúng a! Tống đồng tri cùng mọi người đều cảm thấy hữu lý, cùng quay lại nhìn Dương Thu Trì.

"Ngươi cưỡng gian tam di thái, sinh ra Sơn nhi này, từ đó trở đi ngươi lại lập kế cho con trai nguơi kế thừa toàn bộ gia sản của Dương lão thái gia. Tam di thái không biết vì sao mà biết được ý nghĩ của ngươi, cương quyết phản đối, bỡi vì để thực hiện mục tiêu này thì phải giết chết đại thiếu gia! Ngươi sợ tin tức này lộ ra ngoài, nên giết tam di thái diệt khẩu."

Đại thiếu gia Dương Thanh Thủy cả kinh, không ngờ Bàng quản gia dụng tâm ác độc như vậy.

Dương Thu Trì nói tiếp: "Ngươi muốn giết chết đại thiếu gia đương nhiên không thể giết trực tiếp, vì sẽ dẫn đến sự hoài nghi, biện pháp tốt nhất là hạ độc khiến đại thiếu gia sản sinh ảo giác, khiến cho huynh ấy thấy quỷ, làm cho huynh ấy sợ chết đi, giống như khi ngươi hạ độc lão thái gia và ta để khiến chúng ta nhìn thấy quỷ vậy!"

Cái gì? Dương lão thái gia và Dương Thanh Thủy cùng kinh ngạc, đưa mắt nhìn nhau. Dương Thanh Thủy hỏi: "Có thật là lão hạ độc không? Trên thế giới này chẳng hay còn có loại độc có thể khiến người ta nhìn thấy ác quỷ hay sao?"

"Cụ thể là loại độc gì thì đệ còn chưa biết, nhưng đệ biết trên thế gian này còn có một số thực vật và thuốc mà khi uống hoặc ăn vào sẽ khiến người ta sản sinh ảo giác kỳ quái. Đúng rồi, có những loại nấm độc cũng có thể gây ra ảo giác."

Thực vật có thể khiến người ta sản sinh ảo giác được gọi là Trí huyễn thực vật, ví dụ như một loại Tiên nhân chưởng ở vùng hoang mạc phía bắc Mạc Tây Ca được người ta xưng là "Ma cầu", ai mà ăn phải mầm chồi non bị gọi là "Ô vũ ngọc" của nó sẽ phát sinh ảo giác, ví dụ như nhìn thấy nhiều loại cá kỳ hình quái trạng, hay là bông hoa có vạn cánh đủ màu, bướm bướm rạng rỡ nhiều màu sắc. Trí huyễn thực vật là thứ mà các thầy mo ưa thích sử dụng nhất.

Các loại nấm độc thường gặp hơn. Khi Dương Thu Trì đề cập đến nấm có thể sản sinh ảo giác, Dương lão thái gia và mọi người đều có nghe qua, liền hiểu Dương Thu Trì muốn nói tới loại thuốc gì.

"Ta không có!" Bàng quản gia tê thanh kiệt lực la lên, "Nếu như lời của ngươi nói là thật, thì vì sao đại thiếu gia còn chưa chết?"

"Bỡi vì đại thiếu gia đã bỏ đi ra ngoài du học từ sau ngày nhìn thấy quỷ ấy."

"Vậy thì vì sao lão thái gia còn chưa chết? Lão gia vẫn một mực ở nhà a!" Thanh âm của Bàng quản gia càng thê lệ hơn.

Dương Thu Trì cười lạnh: "Đại thiếu gia chưa chết, nếu như lão thái gia chết trước rồi, thì gia sản của Dương gia quy về đại thiếu gia hết, sao có thể đến lượt con trai của ngươi? Do đó, chưa giết chết được đại thiếu gia, ngươi sẽ không giết lão thái gia trước."

"Vậy đêm đó vì sao lão thái gia lại thấy quỷ?" Nói xong lời này, Bàng quản gia đột nhiên ừ một tiếng quay đầu lại nhìn, dường như sau lưng có người nào đó đang gọi lão vậy.

Dương Thu Trì cười cười: "Vấn đề này ta nghĩ rất lâu rồi, đoán là có khả năng lão thái gia ăn nhằm thứ mà ngươi dành cho đại thiếu gia. Do thuốc bị phân ra thành hai ngừoi ăn, nên đại thiếu gia và lão thái gia đều gặp quỷ, nhưng không hề bị sợ hãi chết khiếp."

Bàng quản gia không còn nói gì nữa, lại khủng hoảng quay đầu lại nhìn, sau đó lại nhìn quanh nhìn quất, dường như xung quanh đó đang có vật gì đáng sợ lắm vậy.

Thấy Bàng quản gia ra vẻ như vậy, mọi người đều kinh ngạc, chỉ có Dương Thu Trì hiểu ý cười lạnh, hỏi: "Bàng quản gia, ngươi đang nhìn cái gì vậy?"

Bàng quản gia trừng to mắt, hiện vẻ khủng bố và sợ hãi cùng cực, không hồi đáp câu hỏi này. Dương Thu Trì giơ tay tát cho Bàng quản gia một cái, khiến khóe miệng lão lưu huyết, khôi phục lại thần trí bình thường.

Nhân lúc này, Dương Thu Trì bảo: "Bàng quản gia, nói cho ông biết một bí mật, món cháo tỉnh rượu đậu xanh đường phèn vừa rồi ông đưa ta không có uống. Ta nhờ Vân Nhi giúp ta cố ý gây sự sai ngươi đi lấy đường phèn, sau đó nhờ Nam Cung Hùng phát ám khí bắn rớt đèn lồng, rồi nhân lúc mọi người náo loạn, Vân nhi đã đổi chén của ta và chén của Tống đồng tri bá phụ."

Dừng lại một chút, Dương Thu Trì nói với giọng đầy thâm ý: "Ta lại nhờ bá phụ đem chén đó thưởng cho ngươi. Có điều, uống chén cháo đó xong rồi sẽ có hậu quả như thế nào thì ta không biết, Bàng quản gia, ngươi biết không?"

A....! Bàng quản gia kêu lên thê thảm, kinh khủng đến nỗi mặt mũi méo xệch, hoảng loạn đưa tay vào trong cổ họng móc ói, nhưng chỉ ói khan hai ba cái chẳng ra được thứ gì cả.

Dương Thu Trì cười lạnh: "Ngươi làm vậy không có ích gì đâu."

Bàng quản gia định đứng lên chạy ra ngoài súc ruột, nhưng bi Nam Cung Hùng đá một cái vào bụng, đau đớn quỳ sụp xuống đất, ngay sau đó bất chấp đau đớn kinh khủng chụp lấy tay Dương Thu Trì: "Cứu, cứu tôi với! Dương thiếu gia, cầu xin ngài hãy cứu, cứu tôi. Tôi không muốn chết! Xin hãy cứu tôi a!"

"Cứu ngươi? Ngươi sao vậy? Ngươi nói rõ chút đi, nếu không bảo ta cứu ngươi sao được?"

"Tôi thừa nhận, cái gì tôi cũng khai hết, tôi biết lão thái gia đi thỉnh cậu về để tra ra thân phận chân thật của Sơn nhi. Tôi sợ bại lộ, do đó đã hai lần hạ thuốc vào trong cháo đậu xanh đường phèn. Thứ thuốc này là thứ mà năm xưa khi tôi ngồi thuyền ra hải ngoại đã mua về, nếu dùng quá liều sẽ khiến người dùng sản sinh ảo giác khủng bố. Vốn chỉ định làm cho cậu sợ bỏ đi, không ngờ không đạt được mục đích. Lần này tôi định... định làm cho cậu sợ chết luôn! Tôi sai rồi....! Hãy cứu tôi a, thiếu gia, cứu cứu tôi, cái gì tôi cũng khai hết."

Thứ thuốc này của Bàng quản gia nếu dùng ít một chút sẽ khiến tâm tình của người ta thoải mái, tạm thời quên đi thống khổ, nhưng khoái lạc và khổ đau chỉ cách nhau có một khoảng cách mong manh mà thôi, vì nếu như dùng quá liều, sẽ khiến người ta sản sinh ảo giác khủng bố, thậm chí khiến người sống sợ quá chết tươi luôn. Bàng quản gia năm xưa ngồi thuyền xuất hải, nhìn thấy thủ lĩnh của các bộ lạc nơi ấy dùng thứ thuốc này làm phương tiện xử phạt, cảm thấy rất hiếu kỳ nên mua về khá nhiều.

Bàng quản gia đã từng dùng thứ thuốc này, biết đó là thứ trí huyễn dược rất lợi hại, cho dù có nhắm tịt mắt bịt chặt hai tai, vẫn nghe thấy nhìn thấy, thậm chí thấy được ma quỷ sống sờ sờ trước mắt, sự khủng bố phát sinh từ nội tâm không cách gì ngăn được.

Thứ thuốc này có thể khiến người ta sợ hãi chết tươi, bởi vì trong tình huống cực kỳ khủng bố, có thể khiến tim của người co bóp cực mạnh dẫn tới đột tử. Điều này giống như chết khi bị ngộp nước vậy, đôi khi không phải vì bị ngộp thở sặc nước chết, mà là sợ quá chết trước hoặc hôn mê đi tạo điều kiện cho cái chết đến dễ dàng hơn.

Chết vì ngộp nước có thể chia ra làm ngộp khô và ngộp ướt, loại thứ hai rất thường thấy, còn loại thứ nhất thì chỉ vài giây sau khi rớt vào nước là người ta đã chết rồi. Người ta không bị chết vì thiếu dưỡng khí, mà chết vì cực độ khủng bố, trong chớp mắt khiến tim ngừng đập dẫn đến tử vong. Vì thế người chết tuy chìm trong nước, nhưng phổi chỉ có một lượng nước rất ít tiến vào, thậm chí còn không có.

Do đó, căn cứ vào lượng nước tiến vào khí quản, có thể phán đoán người chết là té nước chết hay chết rồi mới rơi xuống nước, dù không chính xác hoàn toàn.

Ngoài ra, trí huyễn thực vật còn có thể làm cho các khí quan trong nội tạng con người, đặc biệt là gan bị tổn hại, vì thế dẫn đến trung khu hô hấp và tuần hoàn bị ức chế, dẫn đến hôn mê và đi tới tử vong.

Lần đầu tiên Bàng quản gia hạ dược hơi ít, chỉ muốn làm Dương Thu Trì sợ hãi bỏ đi. Lần thứ hai nhiều hơn, nhưng dược tính vừa phát tác thì bị Dương Thu Trì nôn ra gần hết dưới sự trợ giúp của Tống Vân Nhi. Bàng quản gia thấy Dương Thu Trì không có ý li khai, nên mới hạ quyết tâm làm cho Dương Thu Trì sợ chết tại chỗ. Do đó, lần này Bàng quản gia hạ vào chén của hắn lượng thuốc rất lớn, thật không ngờ lão tự mua dây buộc mình, uống chén thuốc đó vào hết trong bụng.

Vừa rồi Bàng quản gia đã bắt đầu sản sinh ảo giác. Lão nghe được trong đại sảnh có tiếng cười kỳ quái, tiếng nữ nhân thét gào thê lệ, trước sau đều có, tiếp đó nhìn thấy nữ quỷ thối rữa. Lão biết, đấy chỉ là mới bắt đầu, những lệ quỷ sau đó sẽ càng lúc càng khủng bố, cuối cùng lão sẽ bị sợ chết khiếp đi luôn.

Hiện giờ dược tính vừa mới phát tác thì Bàng quản gia bị trúng mấy cước, đầu lưỡi bị cắn chảy máu, do đó thần trí tạm thời khôi phục. Lão biết, nếu như Dương Thu Trì đã biết loại thuốc này, lại uống vào những hai lần rồi mà chẳng có chuyện gì, thì nhất định sẽ có cách cứu lão. Lão muốn nhân lúc trí óc tạm thời thanh tỉnh, cầu xin Dương Thu Trì cứu mạng, còn sau khi cứu mạng xong có phán tử hình gì gì đó thì chờ sau hẵng hay.

Dương Thu Trì trước hết bảo người hầu đi chuẩn bị nước muối tẩy ruột, sau đó tiếp tục hỏi: "Tam di thái có phải là ngươi giết không?"

"Đúng, là do tôi giết. Tôi mua chuộc lão ngưu đầu đánh canh sớm hơn, sau khi thoát thân liền trèo tường tiến vào tiểu các lâu, dùng mê hương làm cho nha hoàn và bà vú hôn mê, khoét cửa sổ tiến vào trong, dùng dây thừng mang theo xiết cổ chết tam di thái, sau đó ngụy trang tự sát, tiếp đó chui ra dán kín cửa sổ lại, rồi bỏ đi."

"Vì sao người muốn giết cô ta?"

"Tôi thấy nàng ta bị khi phụ thống khổ quá, nên lấy thứ thuốc mà năm xưa đi biển mang về cho nàng ta uống. Thứ thuốc này nếu uống ít một chút sẽ khiến người ta rất dễ chịu, thật không ngờ nàng ta uống vào rồi là phát chứng cuồng dâm, cởi quần cởi áo ôm chầm không cho tôi đi, lại dùng sức kéo tôi lên giường. Lúc đó là ở trong phòng nàng ta, không có ai khác, nên tôi, tôi.... cùng nàng ta làm chuyện đó."

"Khi nàng ta tỉnh khóc lóc đánh đuổi tôi đi. Tôi hy vọng nàng ta vì thế sẽ tự sát, để khỏi phải tố cáo tôi, không ngờ nàng ta không tự sát, cũng không tố cáo tôi gì cả. Chẳng bao lâu tôi biết nàng ta thụ thai, nhất định là con của tôi, nên tôi ngầm chú ý bảo hộ nàng."

"Sinh hài tử xong, tôi muốn con trai tôi kế thừa toàn bộ gia sản của Dương gia, nên chuẩn bị hạ độc giết chết đại thiếu gia và lão thái gia. Tôi nhất thời u mê, đem ý nghĩ này nói cho tam di nương nghe. Nàng ta nếu như là mẹ của con trai tôi, tôi cho rằng nàng ta sẽ tán đồng, thậm chí còn cao hứng, không ngờ nàng ta nghe tôi nói tôi định hạ độc chết đại thiếu gia, liền định tố cáo tôi." Điều này thì rõ rồi, tam di thái vẫn còn có cảm tình với đại thiếu gia, không nhẫn tâm nhìn Bàng quản gia giết y, do đó uy hiếp Bàng quản gia là sẽ tố cáo lão, không ngờ ngược lại đã dẫn tới cái họa sát nhân cho mình. Tam di thái chẳng hề có địa vị trong lòng Bàng quản gia, lão một lòng nghĩ về con trai lão, nên đã giết người diệt khẩu.

Bàng quản gia nói tiếp: "Trong lúc nóng giận, tôi đã hạ thuốc vào trong thức ăn của nàng ta, tối đó lại xiết cổ nàng ta chết rồi treo lên xà nhà giả vờ như tự sát. Ngày hôm sao tôi lại cho thuốc vào đồ ăn của đại thiếu gia, liều lượng rất nặng, muốn khiến cho hắn thấy quỷ sợ chết. Lúc đó tôi đi xử lý chuyện chôn cất tam di thái, sau đó mới biết hôm ấy lão gia và đại thiếu gia cùng dùng cơm chung, do đó liều lượng thuốc bị giảm đi, lão gia và đại thiếu gia cùng thấy quỷ nhưng không bị sợ chết."

"Sau đó tôi len lén nghe ngóng nơi hạ lạc của đại thiếu gia để tiếp tục hạ độc, nhưng lão thái gia cũng không biết chỗ ở cụ thể nơi nào...."

Nói đến đây, mắt Bàng quản gia đột nhiên trợn lớn, khủng bố nhìn Dương Thu Trì, sau đó kêu lên the thé: "Không, không được đến đây, tam di nương, cầu xin nàng đừng đến nhát ta, ta sai rồi. Ta không còn cách nào mới giết nàng, aa.....a!" Bàng quản gia che mắt, nhưng vẫn run rẫy toàn thân, cuối cùng lăn lộn trên mặt đất.

Lão lại sản sinh ảo giác, nghe lời xì xào mà tưởng như quỷ hồn của tam di thái gọi. Đến lúc này thì bọn người dầu đã đem nước muối lên, Dương Thu Trì bảo họ đổ cho Bàng quản gia uống để tẩy dạ dày.

Nhưng không chờ đến lúc đổ nước, Bàng quản gia đã ôm ngực, há miệng ngáp ngáp, nói không nên lời. Sau đó, dường như trước khi chết hồi quang phản chiếu, lão nhìn rõ được tình hình xung quanh, nỗ lực đưa tay về phía Sơn nhi đang nằm trong lòng Phùng Tiểu Tuyết, miệng mấp máy như muốn nói điều gì, nhưng không còn thốt nên lời nữa, cánh tay vô lực rớt xuống, ánh mắt cứ trợn trừng nhìn về phía Sơn nhi.

Dương Thu Trì sờ động mạch cảnh của lão, không còn thấy mạch đập, cho thấy Bàng quản gia nhân vì cực độ kinh khủng đã đứng tim mà chết.

Cho dù Bàng quản gia không bị sợ chết, nhưng lão cưỡng gian tam di thái, sau đó giết chết nàng, mưu sát mấy người trong nhà, những tội này đều đủ để chém đầu, do đó cuối cùng cũng khó thoát khỏi tử vong.

Dương Thu Trì hơi cảm thán, vì đứa con trai của mình mà hạ độc giết người, đây có phải là biểu hiện chính thường của tình cha con hay không?

Đại phu nhân chán ghét nhìn Sơn nhi trong lòng Phùng Tiểu Tuyết, nói với Dương lão thái gia: "Lão gia, thứ dã chủng này nên xử lý thế nào? Hay là dìm chết quách cho xong!" Chu thị và Dương Ngải Tiểu đều phụ họa theo.

Tống Vân Nhi trừng mắt hạnh định phát tác, nhưng Dương Thu Trì phất tay ngăn lại.

Dương lão thái gia hơi khó xử. Lão đích thân chứng kiến gian phu bị quỷ nhát chết ngay tại trận, sự tức giận trong lòng đã tiêu biến đi nhiều. Lão dù sao cũng không phải là người máu lạnh, lúc bình tĩnh rồi cũng cảm thấy Sơn nhi dù sao chỉ là hài tử hai ba tuổi mà thôi. Hài tử vô can, nhưng nó không phải là con nhà họ Dương, vô luận xử trí thế nào cũng không thể lưu nó lại trong Dương gia đại viện.

Dương lão thái gia nhìn Dương Thu Trì, hỏi: "Hiền điệt, ý cháu thế nào?"

Dương Thu Trì cười cười: "Sơn nhi là con ruột của bá phụ, đương nhiên phải lưu lại bên cạnh bá phụ rồi."

Dương lão thái gia nhíu mày, không vui nói: "Cháu sao lại nói như..." Đột nhiên, nghĩ lại hàm nghĩa trong lời vừa rồi của Dương Thu Trì, lão nghi hoặc hỏi: "Hiền điệt, ý của cháu là...?"

"Vừa rồi tích huyết nhân thân ấy cháu đã làm gian dối, kỳ thật, Sơn nhi mới chính là con ruột của bá phụ!"

"Cháu nói cái gì?" Dương lão thái gia cả kinh hỏi. Đại phu nhân và mọi người đều kinh hải, cùng nghi hoặc nhìn Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì đưa ngón tay vô danh bên trái của mình lên, trên đó có một vết thương nhỏ, hắn giải thích: "Lúc tích huyết nhận thân, cháu đã dùng máu của mình để hoán đổi với máu của bá phụ, do đó không thể nào dung hợp với máu của Sơn nhi được. Máu của bá phụ vẫn còn ở trong sương phòng ấy."

Đại phu nhân nói: "Không đúng, vừa rồi máu của Bàng quản gia và máu của Sơn nhi dung hợp lại mà!"

"Cái đã cũng là kết quả làm trò của cháu, bỡi vì cái chén sứ kia chính là cái chén mà Bàng quản gia giở trò bôi muối dấm rồi chuẩn bị cho cháu, bất kỳ thứ máu nào nhỏ vào cũng đều dung hợp lại với nhau."

Mọi người đều kinh hãi, kết quả này quả thật là vượt ra ngoài ý liệu của mọi người, khiến cho họ không dám tin.

Dương Thu Trì nói: "Kỳ thật, vừa rồi cháu vào sương phòng cầu nguyện, là một cách mượn cớ để cháu đánh tráo bày trò mà thôi," Thấy Dương lão thái gia bán tín bán nghi, liền tiếp: "Như vầy vậy, cháu ở trước mặt mọi người thử tích huyết nhận thân một lần nữa, có được không?"

Vấn đề này nhất định phải làm cho rõ, nếu như Sơn nhi là huyết nhục của tam di thái Quách thị và Dương lão thái gia, và Dương lão thái gia thương tiếc mẹ nó chết thảm, nhất định sẽ coi nó như viên minh châu trong lòng. Dương lão thái gia lập tức đáp ứng thực hiện lại ngay chuyện tích huyết nhận thân.

Dương lão thái gia gọi nha hoàn đi lấy lại một cái chén sứ sạch mới, lại lấy nước sạch rửa nó trước mát mọi người, rồi đem đặt trên bàn, sau đó lấy con dao cắt huyết tự đưa lên lửa sát trùng, tự cắt lấy máu nhỏ vào trong chén.

Dương Thu Trì lại lấy một con dao trích huyết khác, tiêu đọc xong rồi cắt lên tay của Sơn nhi một chút, rồi ép mạnh vào vết thương. Máu hồng từ từ ứa ra, ngưng kết lại thành một giọt, gian nan rời khỏi đầu ngón tay, từ từ rơi vào trong chén.

Ánh mắt mọi người đều theo giọt máu đó rơi vào trong chén. Từ từ, hai giọt máu như hai người thân lâu năm không gạp, cuối cùng cũng được ở bên nhau, cùng tiến sát vào nhau, dung hợp lại thành một thể!

A....! Dương lão thái gia thở phào nhẹ nhỏm, vuốt râu cười ra vẻ hài lòng.

Lần này thì mọi việc đều diễn ra trước mắt mọi người, khiến mọi người đều tâm phục khẩu phục.

Đại phu nhân nhìn thi thể co rúm của Bàng quản gia, do dự một chút rồi hỏi: "Có thể làm lại chuyện tích huyết nhận thân một lần nữa giữa Sơn nhi và Bàng quản gia không?"

Dương Thu Trì nhíu mày: "Máu của người chết không thể thực hiện được, chẳng những không chuẩn xác, mà còn dẫn đến vận rủi."

Dương lão thái gia quát bảo đại phu nhân: "Hiền điệt nói rất đúng, làm trước mặt mọi người như thế, lại còn giả nữa hay sao? Sơn nhi nếu như là con trai của ta, tuyệt đối không thể là con của lão súc sanh này được."

Đại phu nhân luôn miệng vâng dạ, không dám nói gì nữa.

Dương lão thái gia cười khà khà bước lại trước mặt Phùng Tiểu Tuyết, đưa tay tiếp lấy Sơn nhi, hôn lên đôi má dúm dó của nó, lòng đầy sự hoan hỉ cười bảo: "Con của ta, hắc hắc, quả thật là con trai của ta, hắc hắc hắc."

Đại phu nhân quả thật là người biết lựa gió bỏ buồm, lập tức mỉm cười sung sướng chạy lạo, tiếp lấy hài tử từ trong tay của Dương lão thái gia, luôn miệng dặn dò bọn nha hoàn và người hầu, nhất định từ nay phải chiếu cố cho Sơn nhi cho thật tốt, nuôi làm sao cho nó mập mạp trắng trẻo ấy. Chu thì và Dương Ngải Tiểu cũng theo đó biểu hiện sự quan tâm ưu ái.

Ba người họ trước đây chủ yếu chỉa mũi dùi vào tam di thái, đối với cậu bé cũng chẳng có vấn đề cừu hận hay chán ghét gì. Hiện giờ Dương Thu Trì lại trước mặt bọn họ chứng minh Sơn nhi là dòng dõi của Dương lão thái gia, và Dương lão thái gia yêu thương nó như vậy, họ đương nhiên cũng yêu thương nó theo lão.

Tục tích huyết nhận thân thời cổ đại đương nhiên không phải là căn cứ khoa học, không thể nào dùng để chứng minh hai người là thân thuộc, bỡi vì cho dù nhóm máu không tương đồng, thậm chí là máu người với máu động vật, đều sẽ hòa lẫn vào nhau, còn máu của những người có nhóm máu tương đồng nói không chừng không thể dung hợp toàn bộ.

Dương Thu Trì ở sương phòng đã dùng huyết dịch tiến hành thử nghiệm, thấy máu của Dương lão thái gia và Sơn nhi dung hợp vào nhau, nhưng cái hắn cần là chúng không dung hợp, cho nên hắn đã dùng máu mình thử qua, rất may là như ý.

Và thế là, hắn đã dùng máu của mình thế máu của Dương lão thái gia để tiến hành việc tích huyết nhận thân trong lần thứ nhất. Hai thứ không hòa vào nhau, do đó khiến cho Dương lão thái gia nổi lên sát niệm, dẫn đến Bàng quản gia liều mạng bảo hộ con trai, lộ ra bộ mặt thật, từ đó vạch rõ mọi tội trạng của Bàng quản gia.

Đối với lần tích huyết nhận thân thứ hai giữa Bàng quản gia và Sơn nhi, Dương Thu Trì hơi mạo hiểm, nhân vì trước đó hắn không có huyết dịch của Bàng quản gia, không thể nào thử xem máu giữa lão và Sơn nhi có dung hợp hay không, chỉ còn biết tin vào lời truyền của cổ nhân là nếu dùng muối dấm lau qua chén dùng để tích huyết nhận thân, thì mọi thứ màu đều có thể hòa lẫn vào nhau, và hắn đã sử dụng chén mà Bàng quản gia đã chuẩn bị, rất may là hai thứ đích xác hòa vào nhau, cũng không biết là công lao của muối dấm, hay là máu của hai người thử về bản chất là có thể hòa hợp vào nhau.

Kỳ thật, nhận định Sơn nhi không phải là con của Bàng quản gia cũng có chứng cứ khoa học, bỡi vì Dương Thu Trì đã thực hiện điều tra nhóm máu từ sợi tóc mà lúc trưa hắn đã khẽ vuốt khen ngợi lão lén lấy đi.

Sau khi kinh qua việc kiểm tra nhóm máu của Bàng quản gia và tam di thái, phát hiện nhóm máu của hai người không thể tạo ra con có nhóm máu như ở Sơn nhi được, đủ để chứng minh Bàng quản gia không phải là phụ thân của Sơn nhi

Hiện giờ, cả nhà Dương lão thái gia đã tiếp thụ Sơn nhi, khiến cho đứa bé có mạng khổ này đạt được một kết cục đẹp, cũng đáng coi là chuyện đáng mừng cho tất cả mọi người rồi.

Dương lão thái gia cho người đem thi thể của Bàng quản gia đi thiêu, không biết thứ thuốc lão dùng để hại người cất ở đâu, nên cho người thiêu luôn toàn bộ căn nhà mà lão cư ngụ.

Ba án đều đã được phá, chân hung cuối cùng đã chịu xử tội, và tất cả chỉ mất ba ngày, xem ra tốc độ phá án của Dương Thu Trì như thần rồi.

Tống đồng tri và La huyện thừa vô cùng cao hứng, ngày hôm sau La huyện thừa đã cho bổn bộ áp giải phạm nhân nhị di thái Trương thị và mụ vú trở về Quảng Đức huyện.

Tiếp đó mấy ngày, mọi người bắt đầu vui mừng đón chào năm mới. Người thời cổ mừng năm mới náo nhiệt hơn thời hiện đại nhiều, đặc biệt là đúng dịp Dương Thu Trì áo mão về làng, quê nhà của cha mẹ thời cổ, và cũng là cái tết đầu tiên trong thời cổ đại của hắn, nên hắn phi thường hào sảng.

Ngày 30 cuối năm, mọi người tế tổ suốt một ngày trong Dương gia từ đường trước bài vị các vị liệt tổ liệt tông, rượu thịt ê chề, bánh mức tràng ngập, pháo nổ tưng bừng....

Toàn thôn tông tộc gồm các phân chi nam đinh trưởng giả cùng nguyên phối phu nhân đều tắm gội thay áo sạch, được Dương lão thái gia dẫn đầu tiến vào từ đường quỳ xuống, nam trước nữ sau, chồng trước vợ sau ngay hàng thẳng lối.

Dương Thu Trì tuy tuổi trẻ nhưng có công danh, lại là mệnh quan hiện nhậm của triều đình, nên được xếp ngồi chung với đám lão già đầu râu trắng như cước.

Dương lão thái gia là cử nhân xuất thân, văn chương tế trời được nhiên do tự lão chấp bút, dào dào dạt dạt cả một thiên, lại lắc đầu nguậy cổ đọc xướng cả nửa ngày mới dứt, một nửa trong số đó Dương ThuTrì nghe mà chẳng hiểu gì, loáng thoáng đoán ngoại trừ ca tụng công đức liệt tổ liệt tông thì cũng tuyên dương hậu bối tiếp nối tiền bối tiếp tục quyết tâm tiền tiến....

Khi nêu thành tựu của hậu bối không nhục di chí của những người đi trước, Dương Thu Trì nghe đến tên mình, cảm thấy vô cùng đắc ý.

Đầu năm, mọi người bắt đầu đi viếng ông bà và uống rượu, Dương Thu Trì quyết định ngày bảy tháng giếng sẽ trở về Ninh quốc phủ, sau đó vào kinh thành đến Lại bộ lãnh mệnh đến Hồ Quản Trấn Viễn châu phó nhậm.

Thời gian ngắn ngủi, những ngày ấy Dương Thu Trì cùng Tống đồng tri trở thành đối tượng mà các người trong tộc tranh nhau mời thỉnh. Người có công danh thì dòng tộc hưởng danh vọng theo, và nhờ đó mà được mọi người quý trọng, những người khác có muốn vậy cũng chỉ đành thở dài mà thôi.

Dương Thu Trì và Tống đồng tri liện tục tác chiến, tuy có Tống Vân Nhi có thể cán đáng một chút, nhưng ngày nào cũng say khướt đi không nổi mới được đưa về Dương gia đại viện.

Ngày 7 tháng giêng, Dương Thu Trì cùng mọi người cáo biệt Dương lão thái gia cùng mọi người trong tộc trở về Ninh quốc phủ. Dương lão thái gia dẫn đầu các trưởng giả trong tộc nhất mực tiễn đến mười dặm mới ngậm ngùi chia tay.Trở về Ninh quốc phủ, thăm thân thăm bạn hết vài ngày, Dương Thu Trì bèn chuẩn bị xuất phát.

Đêm trước hôm xuất phát mấy ngày, Tống đồng tri dẫn theo Tống Vân Nhi đến Dương phủ bái phỏng, đi theo còn có hai trung niên, một thì cao cao ốm ốm, một thì mập mập lùn lùn miệng luôn nở nụ cười, chính là hình danh sư gia Kim sư gia và Tiền cốc sư gia Long sư gia của Tống đồng tri lúc còn ở Quảng Đức huyện.

Sau khi phân chủ khách ngồi xong, Tống đồng tri nói: "Hiền điệt, ngày, ngày mốt là cháu phải đi nhậm chức ở Hồ Quảng rồi, Vân nhi theo cháu niên tuế còn nhỏ, tính, tính tình không tốt lắm, phiền cháu quan tâm nhiều."

Dương Thu Trì chấp tay: "Bá phụ nói vậy làm chi, Vân nhi tuy nhỏ tuổi, nhưng người nhỏ mà gan lớn, cơ linh lanh trí, cháu còn mong muội ấy giúp đỡ nhiều nhiều."

Tống Vân Nhi cười hì hì, sau đó nghênh mặt nói: "Hừ...! Ca, huynh đang khen muội hay là chửi muội vậy?"

Mọi người cùng cất tiếng cười.

Tống đồng tri lại hỏi: "Hiền điệt lần này đi, trong, trong nhà đã sắp xếp ổn thỏa hay chưa?"

Cuối năm trước họ đã bàn kỹ để Dương mẫu lưu lại nhà ở Ninh quốc phủ coi sóc chuyện làm ăn buôn bán, Phùng Tiểu Tuyết theo Dương Thu Trì đi nhậm chức. Sau khi trở về suy nghĩ kỹ, Phùng Tiểu Tuyết và Dương Thu Trì vẫn còn lo Dương mẫu một mình ở đây không ai chiếu cố.

Nhưng lần này tới Hồ Quảng trấn Viễn châu núi cao đường hiểm, trong thời Minh thì nó vẫn thuộc vùng man di, thực tế không thích hợp để làm chốn an cư. Hơn nữa, Ninh quốc phủ là đất thuộc kinh thành, lại có công cuộc làm ăn mà Dương gia cần phải coi sóc (là thứ tiếp thu từ Hác viên ngoại), nếu như ủy thác cho người khác chiếu cố, Dương mẫu dù sao cũng không thể yên tâm. Do đó, Dương mẫu đã quyết định không cùng con trai tới Hồ Quảng nhậm chức.

Dương mẫu tuy không muốn rời xa bọn họ, nhưng vì để con trai yên tâm đi nhậm chức, nên cố gắng giấu tâm sự trong lòng, gượng cười bảo để một mình ở lại đây cũng chẳng sao, hơn nữa lại còn có Tống đồng tri và Chu tri phủ chiếu ứng làm chi?

Hiện giờ khi Tống đồng tri đề cập đến chuyện này, có mặt Dương mẫu tại đó, Dương Thu Trì nhìn Phùng Tiểu Tuyết, nói: "Con và Tiểu Tuyết đã thương lượng rồi, chúng con muốn để Tiểu Tuyết ở lại lo lắng cho mẹ, hơn nữa nhiều chuyện làm ăn như vậy, một mình mẹ lo không xuể đâu, hãy để Tiểu Tuyết giúp mẹ để cho đỡ bớt phần nào."

"Như vậy cũng tốt!" Tống đồng tri khen: "Lần trước thương, thương lượng ta có chút do dự, bởi, bởi vì có câu Bách thiện hiếu vi tiên, trăm điều tốt chữ hiếu đứng hàng đầu, hiền, hiền điệt cùng vợ đi nhận nhiệm sở lưu mẹ già ở nhà, tuy, tuy nói là một phen hảo ý, nhưng là bách bất đắc dĩ, lại, lại không thể thỏa đương. Hiền điệt hiện giờ xử lý vậy là hay, hay lắm, chỉ, chỉ có khổ mình cháu mà thôi."

Dương mẫu nói với Dương Thu Trì: "Như vậy không được, Tiểu Tuyết cứ đi với con đi, một mình con đi nhậm chức ở xa xôi ngàn dặm như vậy, bên thân chẳng có người thân nào chiếu cố, mẹ không an tâm."

Tống Vân Nhi xen lời: "Sao lại không có? CÒn con đây chi? COn chẳng phải là người thân hay sao?"

Tống đồng tri quát: "Vân nhi đừng có nói leo. Bá, bá mẫu của con nói ở đây là thiếp thân, có nghĩa là người trải chiếu quét giường, tắm rửa thay đồ, con làm được không?"

Tống Vân Nhi nghe thế mặt đỏ hồng, cố nén thẹn thốt: 'Con không làm đâu, ngay cả mền gối con còn nhờ người khác trải xếp dùm đây chi."

Dương mẫu đương nhiên hy vọng Tống Vân Nhi có thể thành người thay đồ trải chiếu, có lòng muốn nói câu này ra lắm, nhưng bà dù sao cũng là một nông phụ ở sơn thôn, còn Tống đồng tri là quan ngũ phẩm của triều đình, tuy nói con bà hiện nay cũng là quan huyện lệnh thất phẩm, nhưng trong đầu Dương mẫu vẫn còn có sự phân biệt giai cấp như thế nào ấy, ít nhiều vẫn còn sợ quan, nên nhóp nhép miệng cả buổi mà rốt cuộc chẳng nói được lời nào.

DƯơng Thu Trì thưa: "Mẹ, con có thể tự lo liệu được, mẹ cứ yên tâm đi. Nếu như bá phụ đã nhận thấy như vậy là phải, thì cứ quyết định như vậy đi, Tiểu Tuyết vẫn lưu lại bên mẹ để lo lắng cho mẹ, nếu không con sẽ lo lắng không yên đâu."

Dương mẫu nghe Dương Thu Trì nói vậy, hơi có chút do dự, không biết như thế nào mới phải.

Phùng Tiểu Tuyết một mặt thì không yên tâm bỏ mặc phu quân, mặt khác lại không thể để Dương mẫu lại, phải trái đều có cái khó cả. Hiện giờ nếu như phu quan đã nói như vậy rồi, nàng liền lên tiếng khuyên Dương mẫu: "Mẹ, nếu như phu quân đã có lòng hiếu thảo như vậy, mẹ hãy thành toàn cho chàng đi, còn chuyện chiếu cố phu quân thì...." Nàng liền kề sát tai DƯơng mẫu thầm thì gì đó, DƯơng mẫu mừng rỡ gật đầu lia lịa.

Dương mẫu nói: "Nếu đã như vậy, thì Tiểu Tuyết cứ ở lại bên mẹ."

Tống đồng trì vuốt râu dê vừa ý gật đầu, lại bảo Dương Thu Trì: "Hiền điệt, cháu, cháu lần này đi phó nhậm, sư gia và trưởng tùy đã chuẩn bị chưa?"

Cổ đại khi đi làm quan, đặc biệt là ở Minh triều, thì đều có danh ngạch hữu hạn, trong khi đó chính vụ phồn mang, không có sư gia và trưởng tùy theo giúp việc thì không thể nào hoàn thành các công tác hàng ngày, cho nên mới có câu "vô mạc bất thành nha" (Không có tùy tòng không thể làm quan).

Dương Thu Trì đã đến Minh triều khá lâu, điểm này đương nhiên biết, thành thật lắc đầu: "Cháu định đến Hồ Quảng xong rồi tính."

Tống đồng tri lắc đầu: "Như, như vậy không được, Hồ, Hồ Quảng làm gì có người giỏi được? Hơn nữa, loại phụ tá này coi như cánh tay trái tay phải của cháu, nhất, nhất định phải là nhân tài biết việc lại hiểu rõ mọi chuyện mới có thể yên tâm. Trưởng tùy quan hệ đến an nguy của bản thân và nhà cháu, nên cần phải là người thân cận đáng tin, không thể nào qua loa sơ sài được đâu."

Dương mẫu nghe thế cảm thấy quả là còn có nhiều điều đáng lo, Tống đồng tri làm quan nhiều năm, hiểu rõ chuyện này. Lão đã lên tiếng đương nhiên không sai, lập tức lên tiếng hỏi: "Ngài có thể giới thiệu cho hài tử vài tùy tòng thận cận để phụ tá được không?"

"Ta đang có ý đó," Tống đồng tri đáp, chỉ vào Kim sư gia và Long sư gia sau lưng lão, "Hai người họ xuất sinh từ Thiệu Hưng, đều là tú tài xuất thân, phân biệt tinh thông hình danh luật lệ và quản lý tiền lương, đã theo ta nhiều năm giúp ta xử lý chính vụ, trung tâm cảnh cảnh, tinh minh nhạy việc, vô cùng đắc lực, hôm nay xin giới thiệu cho hiền điệt để làm phụ tá vậy."

Dương Thu Trì mừng rỡ, hai vị sư gia này đều là người quen, chỉ là họ đều là tâm phúc của Tống đồng tri, bản thân hắn cướp người tài như vậy e rằng không ổn.

Dương Thu Trì vừa định lên tiếng, Tống đồng tri đã đoán được ý nghĩ của hắn, lên tiếng: "Ta hiện giờ đã thăng lên làm đồng tri của Ninh quốc phủ, không phải là chánh ấn, do đó không cần dùng phụ tá nhiều lắm. Hơn nữa, sau này có chuyện cần, ta sẽ tìm người khác là được. Hiền điệt niên thiếu có tài, tương lai sau này tiền đồ không thể hạn định, họ theo phò cháu coi như là phúc của họ."

Kim sư gia và Long sư gia đều bước ra cung thân hành lễ với Dương Thu Trì. Kim sư gia đại diện nói: "Hai người tại hạ thực mong Dương đại nhân sính dùng, nhất định sẽ tận tâm kiệt lực phụ tá đại nhân."

"Được!" Dương Thi Trì vỗ lưng ghế, vô cùng cao hứng nói với Tống đồng tri: "Nếu như là như vậy, thì cháu cung kính không bằng tuân mệnh. Đa tạ bá phụ!"

Hắn biết thỉnh sư gia cần phải làm giấy mời, lập tức sai người đem giấy mực tới. Bản thân hắn không thể nào viết những lời rối rắm rườm ra này, Tống đồng tri bèn chấp bút viết ra hai phong thư mời, đóng dấu tư ấn của Dương Thu Trì lên, rồi để Dương Thu Trì tự tay đưa mời Kim sư gia và Long sư gia.

Thủ tục làm xong, hai người hiện giờ coi như là phụ tá của Dương Thu Trì rồi, nên hắn cho người hầu an bài chỗ ở cho họ.

Tống đồng tri lại dặn dò Dương Thu Trì những chuyện cần lưu ý trên quan trường, nhất là nên nghe nhiều hơn là nói nhiều, gặp chuyện thì đừng sính cường ra mặt, ... đều được Dương Thu Trì nhớ kỹ trong lòng. Họ lại nói chuyện phiếm một hồi, Tống đồng tri và Tống Vân Nhi cáo từ ra về.

Tiếp đó mấy ngày, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết bắt đầu chuẩn bị hành trang cho Dương Thu Trì.

Dương gia hiện giờ không còn như trước, tiền bạc dư dả, chỉ sợ Dương Thu Trì đến chỗ khỉ ho cò gáy, có tiền trong tay mà muốn cái gì cũng không được, nên họ có thể mua được nhiều cái gì thì mua, chất đầy cả mấy xe lớn.

Tối hôm trước khi khởi hành lên kinh thành, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết đem những chuyện cần chú ý dặn dò cẩn thận Dương Thu Trì, đặc biệt là nhấn mạnh chú ý mặc ấm tránh rét, uống rượu ít, lo cho thân thể, vâng vâng và vâng vâng.

Dương Thu Trì nghe mà đầu càng lúc càng to ra, cười khổ nói: 'Mẹ, Tiểu Tuyết, con đã tới từng tuổi này rồi mà, tự biết chiếu cố bản thân rồi," Nói đến đấy, hắn cố ý chọc họ, "Nếu mà hai người lo lắng thiệt, thì tìm một bảo mẫu lo lắng chăm cho con là được."

Không ngờ Phùng Tiểu Tuyết gật đầu thật: "Phu quân nói rất đúng, chuyện này tối hôm trước thiếp đã bàn kỹ với mẹ rồi, nha hoàn Nguyệt Thiền gần đây phục dịch chàng rất tốt, cứ để cho nó đi cùng với chàng đi, để còn tùy thân phục dịch cho chàng."

"A?" Dương Thu Trì cười khổ, "Hai người thiệt là tìm bà vú nhỏ chiếu cố cho ta à?" Sau đó nghĩ lại, trong đêm Tống đồng tri đến thăm, Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết nói gì đó, sau đó Dương mẫu mới đồng ý cho Tiểu Tuyết lưu lại, thì ra là họ nói về chuyện này.

"Đúng vậy," Dương mẫu cười hề hề, "Đây là chuyện Tiểu Tuyết và mẹ đã thương lượng kỹ rồi, tiểu nha đầu Nguyệt Thiền hiểu chuyện, biết lúc nào lạnh lúc nào nhiệt, rất hợp với ý chúng ta. Những ngày gần đây nó phục thị con rất tốt, có nó ở cạnh chiếu cố cho con, chúng ta mới yên tầm được phần nào."

Phùng Tiểu Tuyết nói: "Đúng vậy, Vân nhi cô nương võ công cao cường, có cô ta và các hộ vệ bảo vệ phu quân, chúng ta không lo gì. Nhưng Vân nhi cô nương tính tình hào sảng, lại là thiên kim tiểu thư của nhà quan, từ trước giờ người ta phục dịch cô ấy chứ cô ấy có phụ dịch ai bao giờ, đừng hy vọng vào cô ta lo cho phu quân, do đó mang theo tiểu nha hoàn là tốt nhất."

Dương mẫu nói tiếp: "Nguyệt Thiền thông minh nhanh nhẹn, hiểu biết ý người, lại biết chiều chuộng quan tâm, dáng người lại đẹp, làm tiểu thiếp thật không tệ chút nào. Trước chúng ta đã thương lượng rồi, chờ nha đầu Nguyệt Thiền lớn một chút, thì để nó hầu phòng cho con. Do đó, nó lần này theo con, tùy lúc nào con thấy thích hợp thì cứ thu lấy nó, không cần hỏi ý kiến chúng ta nữa."

Hai người họ một xướng một hợp, Dương Thu Trì không có cơ hội chen miệng vào chút nào. Khó khăn lắm mới tìm được chút chen lời, thì Dương mẫu lại tiếp: 'Đúng rồi, nói đến chuyện nạp thiếp ta mới nhớ, ta và tiểu Tuyết cũng thương lượng qua rồi, con lần này đi nhậm chức có nhiệm kỳ ba năm. Trong ba năm này nếu gặp được cô nương nào thích hợp thì con cứ tự làm chủ nạp lấy làm thiếp. Mấy nhà giàu ai không có tam thê tứ thiếp chứ. Chuyện này con cứ tự làm chủ là được. Tốt nhất là khi mãn nhiệm hồi kinh, mang theo mấy đứa nhóc về là ta cao hứng rồi."

Phùng Tiểu Tuyết cũng nói: "Đúng vậy, phu quân, chàng hiện giờ là quan lão gia rồi, nạp mấy phòng tiểu thiếp cũng đâu có quá gì, gặp được người thích hợp thì thu đi, mẹ chúng ta chờ ẵm cháu lâu lắm rồi."

Phùng Tiểu Tuyết đương nhiên minh bạch phu quân dù sao cũng nạp hai tiểu thiếp rồi, chính là vì chỉ mong sao cho có được đứa con thôi, một ngày mà chồng nàng không có con, ngày đó coi như chưa hoàn thành chuyện nạp thiếp.

Dương Thu Trì vừa định lên tiếng, Dương mẫu đã chuyển thân gọi: "Nguyệt Thiền, ngươi qua đây."

Lúc bọn họ nói chuyện, ba nha hoàn Nguyệt Thiền, Tiểu Điệp, Hương Tình đều đứng hầu ở sau lưng. Nguyệt Thiền đã đem lời họ bàn ghi hết vào lòng rồi, hiện giờ vừa hoảng loạn vừa ngọt ngào, nghe Dương mẫu gọi thế vội vã chạy đến nhún người thưa: "Lão phu nhân."

Dương mẫu cầm tay Nguyệt Thiền hỏi: "Những lời chúng ta vừa nói, ngươi đã nghe hết rồi chứ?"

Nguyệt Thiền đỏ mặt gật gật đầu.

Dương mẫu bảo: "Sau này coi như giao thiếu gia cho ngươi, ngươi phải chăm sóc cho cẩn thận, sau này ngươi là người nhà họ Dương ta, nếu không ta cũng đáp ứng đâu, nghe rõ chưa?"

Nguyệt Thiền quỳ xuống dập đầu lạy Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết: "Nguyệt Thiền đa tạ lão phu nhân và thiếu phu nhân hậu ái, Nguyệt Thiền nhất định tận tâm kiệt lực phục thị thiếu gia cho tốt, thỉnh lão phu nhân và thiếu phu nhân yên tâm."

Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết mỉm cười vừa ý.

Dương mẫu lúc này mới hỏi Dương Thu Trì: "Thu Trì, ý của con thế nào?"

Dương Thu Trì cười khổ: "Mọi người an bày ổn thỏa hết cho con rồi, con còn nói gì nữa đây."

Nói thật ra thì có một tiểu nha hoàn mỹ lệ và ngoan ngoãn hầu hạ, bản thân hắn tĩnh tâm hơn nhiều, thậm chí còn cao hứng nữa.

Bàn xong đâu đấy, Nguyệt Thiền vội vã đi thu thập mọi thứ.

Dương mẫu biết ngày mai Dương Thu Trì cần phải đi xa, cần nghỉ sớm, hơn nữa còn những lời tâm lý cần phải tâm sự với vợ, nên không làm kỳ đà cản mũi nữa, cáo từ trở về phòng nghỉ ngơi.

Phùng Tiểu Tuyết thật không muốn rời xa phu quân, nhưng không còn cách nào khác, chỉ có thể cố gắng cho cái gọi là "Bách thiện hiếu vi tiên" mà thôi. Hơn nữa, nhà nàng còn có chuyện làm ăn cần phải chiếu cố, cho nên đành phải nhịn đau mà chia biệt.

Nhưng dù sao thì Phùng Tiểu Tuyết cũng là người hiểu biết, nàng biết nếu như bản thân đau lòng khóc lóc, sẽ khiến phu quân vướng víu không thể yên tâm đi phó nhậm, do đó ráng nở nụ cười nói chuyện cùng phu quân.

Dương Thu Trì đương nhiên hiểu tâm tư của Phùng Tiểu Tuyết, vợ của hắn tuy có bớt đen trên mặt, ảnh hưởng dung mạo, nhưng tâm địa của nàng thiện lương, hiểu rõ nhân tình, là trường hợp điển hình của vợ hiền dâu thảo, do đó Dương Thu Trì càng lúc càng yêu nàng hơn. Ly biệt trong phút giây, tâm hắn làm sao mà cầm cho được?

Nếu như Tần Chỉ Tuệ và Búp bê bùn Tống Tình không bị bà già dịch kia bắt mất, thì chí ít cũng quay vòng đưa đón. Cái bà chủ chứa già khốn kiếp đó! Nhất định phải nghĩ biện pháp bắt mụ ta, cứu hai tiểu thiếp trở về mới được.

Đêm ấy hai người tâm sự hàn huyên, ôn tồn triền miên, cho đến khi gà gáy ba lần mới ôm nhau mà ngủ.

----o0o----

Sáng hôm sau, các xe ngựa trước Dương phủ đã chuẩn bị sẵn sàng. Nếu như Phùng Tiểu Tuyết không cùng mình đi nhậm chức nữa, Dương Thu Trì lưu lại bốn nữ hộ vệ tại Ninh quốc phủ để bảo vệ cho Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết, còn nữ hộ vệ Hạ Bình thì cùng hắn đi để chiếu cố và bảo hộ cho hai mẹ con Bạch Tố Mai.

Nam Cung Hùng mang theo mười lăm hộ vệ cưỡi ngựa. Dương Thu Trì ôm chú chó cưng Tiểu Hắc cẩu và hai lồng bồ câu đưa thư cùng Tống Vân Nhi và tiểu nha hoàn Nguyệt Thiền ngồi cùng một xe. Hai vị sư gia ngồi ở một xe khác. Những xe phía sau chất đầy đồ đạc do Dương mẫu và Phùng Tiểu Tuyết mua, cùng một lượng lớn kim ngân châu báu và đồ tế nhuyễn. Ngoài ra, còn có một xe chuyên môn chở cái tủ hợp kim của Dương Thu Trì, vốn là món bảo bối mà hắn xuyên việt từ thế giới hiện đại tới đây.

Chuẩn bị xong xuôi, mọi người xuất phát tiến về kinh.

Dương mẫu, Phùng Tiểu Tuyết, Tống đồng tri, Hàn thị và các tiểu thiếp của Tống đồng tri cùng Chu tri phủ và các vị bằng hữu của Dương Thu Trì nhất mực tiễn ra đến ngoài thành mới bịn rịn chia tay.

Trên đường không có chuyện gì xảy ra, đến ngày thứ ba họ đã đến kinh thành, và chiếu theo quy củ đến ở chỗ Thiên hộ sở của Mã Độ và Ngưu đại hải.

Đêm hôm đó, Mã Độ, Ngưu Đại Hãi, Cổ hàn lâm, Cố phủ doãn thiết yến tẩy trần Dương Thu Trì.

Cố phủ doãn nói, Bạch phu nhân và Bạch Tố Mai đã được chuyển vào đại lao của Ứng Thiên Phủ, lão đã an bài ổn thỏa, có thể khởi hành bất cứ lúc nào. Bức thư viết cho quan đề hình án sát sứ Khang Hoài ở Vân Nam cũng đã viết xong, lão giao ngay cho Dương Thu Trì luôn. Dương Thu Trì vô cùng cao hứng, kính Cố phủ doãn mấy chung để biểu thị sự cảm tạ.

Ngày hôm sau, Dương Thu Trì mang theo hộ vệ đến Lại bộ lĩnh "Bằng chiếu", chính là thứ thư thông tri kiêm thông hành chứng để sử dụng trên đường. Còn về việc thư nhận chức thì đã sớm phát đến Hồ Quảng thông quan cách dịch trạm chuyên môn của nhà quan rồi.

Các quan viên ở Lại bộ mới đầu còn ra vẻ quan liêu, Dương Thu Trì cũng lười không muốn nói nhiều, cứ bao lì xì dẫn lối, khiến cho những quan viên này lập tức đổi nét mặt tươi cười, để rồi hắn thuận lợi cầm tờ Bằng chiếu trong tay. Theo quy củ, nếu như đã nhận Bằng chiếu rồi thì trong vòng mười lăm ngày phải khởi hành đi nhậm chức.

Dương Thu Trì trở về thiên hộ sở của cẩm y vệ, Cổ Hàn lâm và Cố phủ doãn đã chờ sẵn ở đó, mọi người cùng tính toán ngày khởi hành.

Và ngày đó cuối cùng cũng đến, Dương Thu Trì cuối cùng cũng gặp lại được Bạch phu nhân và Bạch Tố Mai. Khi cấm tốt đưa hai người ra, tay chân đều đeo dây xích, nhưng tinh thần đã khá hơn lúc trước nhiều.

Chỉ có điều Bạch phu nhân rõ ràng là già hơn trước, còn Bạch Tố Mai thì đầu đội mão ni cô, người mặc áo nâu sòng, thân hình ôm ốm có vẻ thanh tú thoát tục, so với trước đã ốm hơn nhiều, khiến cho đôi mắt to hơn, trong trẻo và sâu hút hơn. Chỉ có điều, trên mặt và mắt nàng không có nhiều vẻ ưu thương như ở Bạch phu nhân, có lẽ sau khi xuất gia nàng đã biết cách làm thế nào để điều tiết tâm cảnh của bản thân, hơn nữa sau khi chết đi sống lại nhiều lần, tinh thần và ý chí có vẻ như đã được tôi luyện cứng cáp hơn nhiều.

Thật ra thì thân thể của họ không tệ lắm, xem ra sau khi Mã Độ có lời dặn dò, trong nhà ngục của cẩm y vệ họ được đãi ngộ đặc biệt tốt, và khi chuyển đến đại lao của Ứng Thiên phủ vốn không canh gác hay hình phạt nghiêm ngặt như ở chỗ của cẩm y vệ, lại còn được Cố phủ doãn đặc biệt quan tâm, nên thân thể và tâm tình từ từ khỏe lên.

Bạch phu nhân và Bạch Tố Mai định dập đầu cảm tạ Dương Thu Trì thì bị hắn ngăn lại nói: "Tôi chuyên môn đến đây là để hộ tống Bạch phu nhân và Bạch cô nương hai người đến Vân Nam, sau khi an bày ổn thỏa xong mới đến Hồ Quảng nhậm chức."

Mã Độ ở cạnh đó giới thiệu: "Dương huynh đệ đã được bổ nhiệm thành quan tri huyện huyện Thanh Khê ở Hồ Quảng trấn Viên châu."

Cổ đại nói lưu đày ba nghìn dặm bao gồm ý bắt buộc phải dùng chân không tự đi đến chỗ lưu đày, thậm chí còn bị tròng lên cổ cái giá gỗ nặng ba mươi cân, phía sau có quan sai cầm hỏa côn tùy lúc chăm sóc. Cho nên người đi đày này không chết cũng bị lột da hay tuột chân, hơn nữa hai mẹ con họ là phận nữ lưu, trên đường đi không khỏi bị người ta lăng nhục.

Do đó, hai mẹ con Bạch phu nhân đã cho rằng phen này nhất định chết ở trên đường, nhưng hiện giờ nghe Dương Thu Trì đích thân đưa họ tới Vân Nam, nên vừa kinh vừa mừng, lại nghe nói Dương Thu Trì đã trở thành huyện lệnh, nên càng mừng thêm cho hắn.

Bạch phu nhân nói: "Dương công tử, không, Dương đại nhân quả nhiên là thiếu niên anh tài, rất tiếc năm xưa lão gia chúng tôi..." Nói đến đây, bà lại đau lòng nhớ lại chuyện xưa, lệ nhỏ ròng ròng.

Bạch Tố Mai đỡ Bạch phu nhân, cúi đầu không nói gì.

Tống Vân Nhi đã từng cõng Bạch Tố Mai chạy khỏi biển lửa ở Ân gia, nên hai người có thể coi như là sinh tử chi giao, liền bước đến an ủi. Bạch Tố Mai thấy có Tống Vân Nhi, cảm thấy hơi bất ngờ, lại nghe Tống Vân Nhi sẽ cùng đến Vân Nam nên mừng rỡ hơn nữa, yên tâm ngay lập tức.

Án theo quy củ, tội phạm đi đày rời khỏi thành phải giải trên đường bêu chúng, Cố phủ doãn cho miễn luôn, lại còn chuẩn bị cho họ một cỗ xe ngựa để che chắn bảo vệ kỹ, lại lén nói cho DƯơng Thu Trì hay, là chờ sau khi rời khỏi kinh thành, có thể mở khóa ra được.

Hai vị quan sai phụ trách áp giải đều là người thân tính của Cố phủ doãn, sau khi được dặn dò kỹ lưỡng, tiếng là phụ trách áp giải phạm nhân lưu đày đi tây nam, nhưng thực ra là đi đầu dẫn lộ. Dương Thu Trì lại chuẩn bị cho họ hai thớt ngựa tốt, trọng thưởng không ít ngân lượng, khiến hai người mừng rỡ vô cùng, vội vã dập đầu cảm tạ.

Sau khi từ biệt Mã Độ cùng mọi người, Dương Thu Trì cùng một hàng hai mươi ba người cùng xuất phát đi Hồ Quảng.

Mã Độ mang theo mười cẩm y vệ cưỡi ngựa lớn đi mở đường phía trước, sau đó là xe ngựa của Dương Thu Trì, kế là xe của Bạch phu nhân và Bạch Tố Mai, phía sau nữa là xe ngựa của Kim sư gia và Long sư gia cùng các xe kim ngân và hành lý. Đi sau cùng là Hạ Bình dẫn theo các cẩm y vệ còn lại và hai vị quan sai.

Dư đảng của Kiến Văn đế lần trước bị Dương Thu Trì tiêu diệt hơn trăm người, tổn thất thảm trọng. Thứ hao tổn đó hiện giờ họ không thể nào hồi phục nổi, hơn nữa hiện giờ Dương Thu Trì đã có phòng bị, mười mấy cẩm y vệ hộ vệ của hắn đều là tay hảo thủ có thể một địch mười, nên cho dù Kiến Văn dư đảng sẽ không động thủ chính diện với hắn, và nhất thời bán khắc cũng không thể tổ chức tiêu diệt hết lực lượng cường đại của hắn được.

Do đó, Dương Thu Trì đoán rằng trên đường đi sẽ không gặp bất trắc gì. Nhưng do lần trước đã gặp phải giáo huấn, Nam Cung Hùng và Hạ Bình đều cẩn thận phi thường, trên đường lúc nào cũng để tâm giới bị.

Trong xã hội hiện đại, Dương Thu Trì thường đi công tác xa, nhưng hầu hết các chuyến đi này đều là ngồi xe, ngồi thuyền hay máy bay, chứ chưa bao giờ ngồi xe ngựa mà đi xa thế này. Ba ngàn dặm chân chính, quả thật là xa!

Dương Thu Trì ra lệnh không cần đi gấp, cứ từ từ mà tiến.

Sau khi xuất thành, hắn cho dừng lại tu chỉnh, hai vị quan sai của Ứng Thiên phủ lại mở khóa xe và xiềng xích cho Bạch phu nhân và Bạch Tố Mai, sau đó tiếp tục cuộc hành trình.

Từ kinh thành Ứng Thiên phủ đi ra, bọn họ đi trên quan đạo. Quan đạo tuy không thể sánh được với công lộ cao tốc như ngày nay, nhưng cũng có đội chuyên duy tu bảo dưỡng, nên mặt đường rất bằng phẳng.

Dương Thu Trì, Tống Vân Nhi và tiểu nha hoàn Nguyệt Thiền ngồi trong một cỗ xe ngựa lớn. Đây chính là thứ Phùng Tiểu Tuyết chuyên môn sai người làm. Dù gì thì họ cũng đi theo đường quan đạo, do đó chiếc xe ngựa đặc chế này so với toa xe lửa có buồng lạnh ngày nay còn rộng hơn, lại được lót nệm ấm mịn rất dễ chịu. Phùng Tiểu Tuyết thực ra đã trả giá cao mời chuyện gia có kinh nghiệm trong chuyện đóng xe ngựa này làm riêng cho Dương Thu Trì, do đó tính năng giảm xóc đặc biệt đã giúp cho chiếc xe hào hoa đi trên quan đạo êm như ru, thoải mái vô cùng, khiến tâm tình của Dương Thu Trì cùng hai nàng phơi phới như đi dạo cảnh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro