Nạp Thiếp Ký(Phần II) 76-Het

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 76: Đại náo đô ti phủ
Dương Thu Trì chỉ muốn nhanh chóng kính rượu xong, mang tiểu quận chua li khai. Hắn không nói nhiều nữa, trước mặt hắn có bày rượu, tiểu quận chúa dùng mâm bưng rượu, miệng cứ lầm rầm, đi theo sau như người gỗ. Do nàng là thiếp, đồng đẳng với nô tì, trong khi bọn người ngồi đều là cao quan, cho nên mỗi khi nàng kính một người, đều phải quỳ xuống dập đầu.
Những văn quan quy thuận thấy quận chúa ngày nào cao cao tại thượng, hôm nay lại bị đem cho một hộ vệ của Sở vương phủ làm thị thiếp, còn phải theo sau kính tửu dập đầu lạy hết người này đến người khác, lòng không khỏi bi thảm cho nàng, nhưng ngoài mặt thì không dám lộ ra ngoài.
Các văn quan chờ tiểu quận chúa kính đên trước mặt mình, đều vội đứng lên khom người đáp lễ.
Trầm Lỗi cười nói: "Chư vị, không cần đa lễ. Ả hôm nay không còn là quận chúa nữa. Chỉ là một vị thị thiếp của huynh đệ ta thôi. Các người trả lễ với ả, chẳng phải là đáp lễ với nô tì hay sao? Vậy thì còn thành thể thống gì nữa, chỉ đáp lễ cho huynh đệ ta thôi!"
Lần này thì các vị quan lại chỉ có thể ngồi áy náy tiếp thụ tiểu quận chúa quỳ lạy dập đầu.
Đến bàn của vũ quan, những người này đã sớm uống chếnh choáng. Mượn cơ hội kính rượu, một võ quan thân hình khôi ngô mượn tửu hứng dùng ánh mắt đầy dục vọng nhìn chằm chằm vào gò ngực cao vợi của Chu Phượng Đức, lấy sức nuốt nước bọt đánh ực, nói: "Tiểu quận chúa, tần phi của phụ vương nàng, còn có tỷ tỷ của nàng, muội muội của nàng mấy ngày nay đều khoái lạc ở quân doanh của chúng ta đấy!"
Nói đến đây, tên vũ quan ợ một cái rõ to, một mùi rượu nồng nặc tràn tới, khiến người muốn ói, nhưng Chu Phượng Đứ vẫn ngơ ngẫn y như cũ, mắt nhìn về trước, ngoại trừ miệng lầm bầm gì đó, mặt chẳng có bất kỳ phản ứng gì.
Quân quan đó đưa ma trảo từ từ sờ đến gương mặt trắn nỏn của Chu Phượng Đức, cười dâm nói: "Tiểu quận chúa, theo chúng ta về binh doanh nhé? Hắc hắc, thứ đồ chơi của chúng ta đảm bảo nàng vừa ý..."
Đột nhiên, phanh một tiếng, bàn tay sắp sờ đến mặt của Chu Phượng Đức bị một bàn tay khác chụp giữ cứng lại ở giữa không trung.
Vũ quan đó ngẩn ra, chuyển đầu nhìn, mục quan âm lãnh nhìn Dương Thu Trì.
Võ quan này là một bá tổng, là huynh đệ của Trầm Lỗi, biết Dương Thu Trì chỉ là hộ vệ cũ của Sở vương phủ, đương nhiên biết Trầm Lỗi đem tiểu quận chúa Chu Phượng Đức cấp cho Dương Thu Trì làm thiếp chỉ là tiến một bước làm nhục cả nhà Sở vương, cho nên y căn bản chẳng coi Dương Thu Trì vào mắt. Y thân hình cao lớn, cúi người dòm lom lom vào tên oắt nhỏ hơn mình nửa cái đầu này, mắng: "Con mẹ ngươi muốn chết à?" Rồi một cái tát tay phóng tới mặt Dương Thu Trì, không ngờ đánh vào chỗ trống không.
Chờ y nhìn rõ đâu của Dương Thu Trì trở lại, thì dưới khố đã dính một cú thúc đầu gối cực mạnh, kêu hực một cái trợn mắt ôm bộ hạ gục xuống.
Bọn vũ quan ngẩn cả ra. Bọn họ đều nghe Trầm Lỗi trào phúng Dương Thu Trì thích Trầm Tuyết Phỉ là cóc mà đòi ăn thịt thiên nga, không phải nễ mặt muội muội Trầm Tuyết Phỉ, đã sớm giết chết hắn. Do đó các vũ quan nều đều biết Dương Thu Trì trong mắt của Đô ti Trầm Lỗi chẳng là cái thá gì, chỉ biết hắn chẳng qua là một hộ vệ của Sở vương phủ đã quy thuận thế thôi, cưỡi lên đầu lên cổ hắn ị trên đó cũng chẳng sao. Thật không ngờ Dương Thu Trì lại đánh trả, hơn nữa xuất thủ còn tàn nhẫn, một chiêu chế địch. Họ lát sau mới phản ứng lại được. Một quân quan to lớn ở bên cạnh là kẻ đầu tiên vung hai tay ra hùng hổ đánh tới Dương Thu Trì.
Dương Thu Trì có lòng lập uy, tốc chiến tốc quyết, thoắt cái chụp cổ tay đối phương, tay còn lại túm thắt lưng của y, bước tấn lắc eo, hắc một cái nâng tên vũ quan to mập này lên đỉnh đầu chuyển một vòng, rồi quẳng ra khỏi tay, cho y rơi mạnh lên một bàn rượu thịt của các võ quan khác.
Xoảng xoảng xoảng xoảng...! Bàn rượu ngã nghiêng, rươi thịt chén bán bay vỡ tứ tung, một cái nồi thức ăn nóng hổi vừa khéo ụp lên đầu tên võ quang mập này, khiến y rú lên gào thảm liên tục.
Một võ quan khác thân cao lực mạnh, so với võ quan mập kia còn cao hơn cả cái đầu, nhìn giống như con trâu nước quát to một tiếng, nấm đấm như cây trùy đấm thẳng vào ngực Dương Thu Trì.
Dương Thu Trì bước lên nửa bước, khí trầm đan điền, quát chìm một cái, dùng ngực ngạnh tiếp một quyền này.
Phành...! Một quyền cực mạnh đánh lên ngực Dương Thu Trì, nhưng như trúng phải túi da, thân hình của Dương Thu Trì chỉ lắc lư, tiếp đó tinh quang trong mắt bạo phát, một cú móc đánh tới, nhanh như thiểm điện kích trúng bụng dưới của vị võ quan trâu nước đó.
Tên quân quan này lập tức đằng vân giá vụ bay đi, đụng đổ liên tục hai bàn rượu thịt, xong mới ngã nằm dưới đất.
Mọi vũ quan định xông lên đều dừng hẳn lại, tay họ cầm ghế, bình, đũa... ngơ ngẩn nhìn võ quan trâu nước bò lên từ dưới đất, lại vô lực quỳ gối hai chân xuống, hai tay chống đất, oa một tiếng phun ra một vòi rượu thịt dầy máu, tiếp đó gục xuống đất bất động.
Vị đại hán này là kẻ mạnh và hung hãn nhất trong số võ quan, đã từng chụp giũ đầu con trâu điên mấy trăm cân quật chết tươi. Nhưng một quyền vừa rồi chỉ có thể làm cho thân hình Dương Thu Trì lắc lư, còn bản thân y thì chịu không nổi một quyền của Dương Thu Trì.
Mọi thứ đều xảy ra quá nhanh, chỉ trong chớp mắt ba võ quan đã bị Dương Thu Trì đánh ngã xuống đất.
Những võ quan khác đều kinh hãi ngẩn người. Bọn họ lập nhiều chiến công ở sa trường, đều là giết chóc khi hai bên đánh nhau, giỏi về cung mã kỵ xạ, nói đến võ công chấn chánh chỉ tính vào bậc nhị lưu. Trong khi đó, năm xưa để đối phó Kỷ Cương, Liễu Nhược Băng đã tự thân chỉ điểm võ công cho Dương Thu Trì, có câu dưới tay tướng mạnh không có binh hèn, công phu Dương Thu Trì đột phi mãnh tiến, đối phó võ quan tầm thường này dĩ nhiên là dễ dàng.
Những võ quan có mặt đều là kẻ liều mạng sa trường mà có được ngày nay, trường hợp gì mà chưa thấy qua. Nhưng Dương Thu Trì chớp mắt đánh ngã luôn ba người như vậy, quả là bất ngờ. Nhưng họ đều là kẻ đầu ở cán cờ, liều mạng chinh chiến xuất ra, lúc này lại uống không ít rượu, hơn nữa ỷ nhiều người, nên chỉ ngẩn một cái rồi rống lên chụp ghế xông tới.
Lưu Dũng cùng 3 hộ vệ từ khi được Dương Thu Trì cứu về từ hình trường, nhất mực bám theo hắn. Bọn họ không thể ngồi vào bàn, chỉ có thể đứng ở bên hầu hạ. Vừa rồi họ còn chưa kịp phản ứng, Dương Thu Trì đã đánh ngã ba võ sư, lúc này đã phản ứng lại, thấy đám võ quan xông tới, liền cầm ghế rống to xông lên. Bọn họ đã từng là giang hồ hào khách, đương nhiên không sợ đánh hội đồng, nên hai bên hỗn chiến dữ dội.
Trong khi đó, các quan văn đều ôm đầu trốn qua một bên. Nhất thời, bàn ghế bay ào ào, máu văng tứ tán.
Lưu Dũng cùng các hộ vệ đều là võ lâm hào khách xuất thân, võ công đều không tệ. Tuy họ không giỏi cưỡi ngựa bắn cung tác chiến giữa chiến trường, nhưng loại ẩu đả cá nhân này lại cực kỳ giỏi. Cho nên bọn võ quan người đông, nhưng ba tên lợi hại nhất đã bị Dương Thu Trì đánh ngã. Lưu Dũng và ba hộ vệ đều lấy một địch ba mà chẳng rơi vào thế hạ phong chút nào.
Dương Thu Trì kéo Chu Phượng Đức vẫn ngơ ngẩn đứng qua ột bên, khoanh hai tay xem náo nhiệt. Trầm Tuyết Phỉ cũng lùi lại một bên, hết nhìn Dương Thu Trì lại nhìn ca ca, gương mặt trắng bệt không nói câu nào.
Trầm Lỗi mới đầu chỉ tủm tỉm cười xem náo nhiệt. Nhưng khi Dương Thu Trì chớp mắt đánh ngã ba võ quan cao lớn, nụ cười của y không còn nữa. Chờ khi y nhìn thấy mười mấy võ quan mà không đối phó được 4 hộ vệ, thì mặt âm trầm rống lên: "Đủ rồi! Dừng tay hết cho lão tử!"
Trầm Lỗi võ công tuy không xuất sắc, nhưng giọng quát không tệ chút nào. Các võ quan lập tức đều dừng lại, cười khang quẳng dụng cụ làm vũ khí tác chiến trong tay, cà nhắc cà nhắc lùi qua một bên.
Bọn bốn người Lưu Dũng cũng lùi cạnh Dương Thu Trì, cảnh giác nhìn đối phương.
Trầm Lỗi hừ mũi cực mạnh, bước lên mấy bước đưa tay chỉ vào đầu bọn võ quan mặt mày bầm tím: "Các ngươi định làm gì? Hả? Định quậy phá hôn lễ nạp thiếp của Dương huynh đệ ta à? Mấy ly rượu vàng đã nổi tính như vậy rồi à? Cho các ngươi biết, ai không nễ mặt Dương huynh đệ, thì là không nễ mặt lão tử! Biết chưa?"
Những võ quan ấy co đầu rúc cổ không dám nói tiếng nào.
Trầm Lỗi lại nhìn ba võ quan nằm dưới đất, hừ lạnh: 'Coi coi chết rồi hay chưa, chết rồi thì quẳng xuống sông nuôi hà bá, còn chưa chết thì cút đi cho ta!"
Bọn võ quan vội bước lên xốc ba võ quan bị Dương Thu Trì đánh gục đang rên rĩ đó lủi thủi đưa ra ngoài.
Trầm Lỗi áy náy nhìn Dương Thu Trì cười cười: "Thật là xin lỗi, các huynh đệ của ta đều nóng tính, tửu lượng chẳng ra gì nhưng uống vào rồi là nói loạn, đắc tội huynh đệ, làm hỏng khánh điển của huynh đệ, mong xá tội. Chờ ta cho bày tiệc rượu khác, chúng ta uống tiếp."
Dương Thu Trì ôm quyền nói: "Trầm huynh, đa tạ. Tiểu đệ uống hơi nhiều rồi, sáng ngày mai còn phải đi sớm đến Hiếu Cam phó nhậm, đêm nay muốn nghỉ sớm."
Trầm Lỗi gật đầu: "Lời cũng có lý, đêm này là tiểu đăng khoa động phòng hoa chúc của huynh đệ, có câu xuân tiêu một khắc đáng ngàn vàng, ngu huynh không giữ nữa. Sáng mai ngu huynh còn có công vụ khẩn yếu cần xử lý, e rằng không có thời gian tiễn huynh đệ được, vậy xin từ biệt ở đây!"
Dương Thu Trì cũng không nói nhiều, ôm quyền nói: "Trầm huynh, núi xanh còn đó, sau này còn gặp lại." Xong kéo tay CHu Phượng Đức, dẫn 4 người bọn Lưu Dũng đi, thậm chí chẳng thèm nhìn Trầm Tuyết Phỉ lấy một cái.
 
Chương 77: Đi về đâu?
Bọn họ trở về tới tiểu trạch viện của Dương Thu Trì, đóng cửa lớn lại. Lưu Dũng nói với Dương Thu Trì: "Dương huynh đệ....., à không, Dương gia, không ngờ võ công của ngài lợi hại như vậy. Lão Lưu tôi quả là có mắt không tròng, hiện giờ mới biết lúc trương đối chưởng ở vương phủ ngài giơ cao đánh khẽ. Lão Lưu tôi nếu không có kết quả còn thảm hơn ba tên quân quan ngày nay nữa."
Ba người khác đều cười. Mã Lăng Vũ ôm quyền quỳ gối một chân: "Dương gia, ngài cứu tính mệnh của bốn chúng tôi, đêm nay lại liều mạng bảo hộ cho sự thanh bạch của tiểu quận chúa. Phần tình ý này quả là làm chúng tôi kính phục. Từ giờ trở đi, bốn chúng tôi nguyện theo hầu, thề chết phục vụ!"
"Thề chết phục vụ!" Ba người còn lại đều quỳ một chân, ôm quyền đồng thanh nói.
"Xin mau đứng lên!" Dương Thu Trì vội đưa hai tay đỡ họ dậy, "Đều là huynh đệ một nhà, nói thật với các vị, ta không muốn làm quan gì đó của Đại Tây vương. Ta muốn mượn cơ hội này cao bay xa chạy mà thôi. Chờ chúng ta rời khỏi Vũ Xương rồi, thì đường ai nấy đi thôi. Lúc đó, tiểu quận chúa ắt nhờ bốn vị đưa đến nơi an toàn cho nàng ấy vậy."
"a...?" Lưu Dũng cả kinh, "Dương gia, ngài vừa rồi đã nạp tiểu quận chúa làm thiếp, sao lại không muốn nàng ấy nữa....?"
Dương Thu Trì đáp: "Ta đã có vợ rồi, tuy còn chưa cưới về, nhưng đã đáp ứng với vợ là không nạp thiếp nữa. Ta sở dĩ đồng ý nạp tiểu quận chúa làm thiếp, chính là vì muốn cứu nàng ấy thoát li miệng cọp, chứ không phải là thật đâu."
Bốn người nhìn nhau, đều ôm quyền: "Dương gia quả là hán tử trọng tình nghĩa!"
Dương Thu Trì cười cười, quay nhìn Chu Phượng Đức, thấy nàng vẫn trong bộ dạng ngờ nghệch, lắc lắc cánh tay nàng: "Tiểu quân chúa!"
Chu Phượng Đức quay đầu lại, nhìn Dương Thu Trì một cái, vẫn ngờ nghệch y như cũ.
Dương Thu Trì đưa tay lấy văn khế tặng thiếp ra, xem qua một lượt, định xé rách, không ngờ vù một cái, Chu phượng Đức đã chụp nhanh lấy, chỉ Dương Thu Trì cười khờ khờ: "Dương lão gia..., hi hi..., Phượng Đức là tiểu thiếp của ngài! Hi hi..., Phượng Đức là tiểu thiếp của Dương lão gia...., hi hi hi hi." Tiếp đó đút luôn văn khế vào lòng.
Năm người đưa mắt nhìn nhau. Dương Thu Trì tự hỏi nàng này khờ thật hay là giả đây? Hiện giờ ai dám thò tay vào lòng quận chúa sờ mó lấy món đó ra chứ?
Mã Lăng Vũ lúc tước là tổng kỳ thủ lĩnh nội phủ của Sở vương phủ, khá quen mặt với tiểu quận chúa, liền cười hề hề bước lên nói: "Tiểu quận chúa, văn khế vừa rồi xin giao cho thuộc hạ bảo quản cho."
Tiểu quận chúa lắc đầu: "Không giao không giao! Đó là của Phượng Đức, hi hi, Phượng Đức là tiểu thiếp của Dương lão gia, hi hi hi..."
Mấy người đều thở dài, Dương Thu Trì bảo: "Thôi vậy, các vị tìm cơ hội lấy văn khế hủy đi, tránh làm mất sự tôn nghiêm của vương gia."
Thì vậy, nếu như tờ văn khế này lưu truyền, đường đường là Sở vương tiểu quận chúa mà đi làm thiếp cho một hộ vệ , quả là mất mặt đến cả nhà.
Bốn người gật đầu đáp ứng, Mã Lăng Vũ tiếc thương nhìn tiểu quận chúa: 'Quận chúa bị đả kích quá mạnh, nhất thời bị ngu khờ, chỉ còn cách chờ rời khỏi Vũ Xương mới từ từ tìm danh y điều trị mới được."
Dương Thu Trì hỏi: 'Các vị có chỗ nào để đi không?"
Bốn người đưa mắt nhìn nhau, đều lắc đầu. Lưu Dũng nói: 'Hay là đến kinh thành thôi."
Mã Lăng Vũ nói: "Không ổn, lúc này đạo lộ lên bắc đang diễn ra đại chiến giữa Lý Tự Thành và Minh quân chúng ta. Binh hoang mã loạn bất lợi cho sự an toàn của tiểu quận chúa." Y quay sang hỏi Dương Thu Trì: "Dương gia, các vị có tính toán gì không?"
Dương Thu Trì lắc đầu: "Ta cũng không nghĩ ra."
Hắn vốn có ý cùng Liễu Nhược Băng hành tẩu giang hồ, nhưng mà trong mấy tháng Liễu Nhược Băng không thể động võ, nếu không độc chất còn ở trong nội thể sẽ phát tác, đại la kim tiên cũng không cứu được. Điểm này hắn nhất mực suy nghĩ, trước đó nghe Liễu Nhược Băng nói mấy năm nay nàng hành tẩu giang hồ, đến khắp nơi khiêu chiến cao thủ, đã giết không ít ác nhân, thường có người đi tìm cừu với nàng. Một khi cừu gia trên giang hồ biết tình hình của nàng lúc này, e rằng chớp mắt sẽ có cao thủ đến làm phiền. Đến lúc đó, bản thân hắn ứng phó không nổi rồi. Vì thế, cần phải tìm một nơi an toàn để Liễu Nhược Băng bình an vượt qua mấy tháng này, chờ võ công của nàng khôi phục lại bình thường thì lúc đó không sợ gì nữa. Nhưng mà, hiện giờ thiên hạ đại loạn, đến đâu cũng có chiến loạn, nơi nào mới an toàn được đây?
Mã Lăng Vũ trầm ngâm chốc lát, nói: "Hay là chúng ta cùng về nam, đến Trường Sa quy thuận Cát vương? Nơi đó hiện giờ còn khá thái bình."
Cát vương chính là phiên vương con của Minh Anh Tông bị giặc Ngõa Thích bắt sống năm xưa, cùng với Sở vương có cũng lão tổ là Chu Nguyên Chương. Nhà họ Chu quá đông đúc, chư vương được phân phong rãi đều toàn quốc. Truyền đến thời Minh Mạt, thì Sở vương và Cát vương đã cách khá xa so với chính thống của hoàng thất rồi. Do hai phiên vương này có vị trí khá gần, đều ở Hồ Quảng, nên thường đi lại khá thân mật với nhau. Kiến nghị này lập tức được ba người khác tán đồng.
Dương Thu Trì học lịch sử chẳng ra gì, khi đến Minh triều cũng không có mạng Bách độ (baidu) đâu mà tra, do đó không biết Trương Hiến Trung và Lý Tự Thành năm xưa có chiếm được Trường Sa hay không. Chỉ có điều, trong ấn tượng của hắn, dường như Lý Tự Thành và Trương Hiến Trung đều đại chiến với Minh quân ở trung nguyên. Hắn không muốn bị lôi vào vòng hỗn loạn này, và cũng không có năng lực cải biến lịch sử, chỉ muốn tìm được Liễu Nhược Băng rồi sống với nhau tiêu dao tự tại. Cho nên, tránh đến Trường Sa là một chủ ý không tệ hiện giờ.
Nghĩ xong, Dương Thu Trì gật đầu: 'Vậy được, ta và các vị cùng đến Trường Sa."
Bốn người mừng rỡ, vì nếu để họ đơn độc đưa Tiểu quận chúa đến Trường Sa, trong thời binh hoang mã loạn này có bất trắc gì e là không xong. Vừa rồi kiến thức được võ công của Dương Thu Trì, bốn người ngầm tính gộp lại hết cũng không phải là đối thủ của hắn, nếu có hắn đi cùng thì an toàn hơn nhiều.
Dương Thu Trì lại trầm giọng nói: "Trầm Lỗi là người thập phần âm hiểm. Hắn đem tiểu quận chúa cho ta, mục đích là để lăng nhục Sở vương, báo phục cái hận năm xưa. Tiệc rượu lúc tối là mục đích đó, nhưng bị ta làm hỏng. Khi rời khỏi đó, ta thấy thần tình của hắn rất không cam tâm. Chỉ có điều, hắn do ngại mặt muội muội, không thể đương trường làm gì chúng ta được. Ở Vũ Xương xem ra cũng không trực tiếp động thủ. Nhưng cái hận này chưa phát tiết hoàn toàn, đối với ta mà nói vẫn là cái gai trong mắt hắn. Đừng thấy hắn khách khí, kỳ thật trong bụng rất không vui. Ta từng ở Sở vương phủ giết không ít binh sĩ của hắn. Trong tiệc rượu lại đánh mềm xương võ quan thân tín của hắn. Hắn lại e ngại ta dụ dỗ muội muội hắn. Cho nên, nếu ta đoán không lầm, thì hắn không dễ dàng bỏ qua cho tiểu quận chúa và chúng ta đâu."
Lưu Dũng cùng mọi người nghe thế đều khẩn trương hẳn lên, vội hỏi nên làm thế nào?
Dương Thu Trì đã sớm nghĩ ra đối sách, lập tức nói ra, bốn người luôn miệng khen là diệu kế, theo đó mà đi chuẩn bị.
Lúc này trời tối chưa lâu, Lưu Dũng cùng các hộ vệ đều thông thạo Vũ Xương, người quen đất quen, nên chia nhau hành động, tìm người bán nhà cửa, chuẩn bị ngựa xe.
Do cục thế của Vũ Xương đã ổn định, nhà cửa nhanh chóng tăng giá, cho nên họ nhanh chóng tìm được người mua, sau khi xem phòng đã trả chín chục lượng, hơn ba lần lúc mua. Dương Thu Trì rất cao hứng, lập tức làm thủ tục nhận bạc, nói rõ ngày mai sẽ giao nhà dọn ra.
Có bạc rồi mọi chuyện rất dễ. Lưu Dũng cùng mọi người lấy danh nghĩa đến Hiếu Cam phó nhậm, tìm người quen mua bốn cổ xe ngựa, chuẩn bị lương khô vật thực, mua đao kiếm phòng thân, sắ sửa vài bộ quần áo... Tất cả tốn không tới mười lượng bạc.
Mọi chuyện chuẩn bị đâu đó thì trời đã về khuya.
Dương Thu Trì bấy giờ mới xuống giếng, đem sự tình nói qua hết, bảo Liễu Nhược Băng và Quách Tuyết Liên thay đồ bố thô quân gai của nhà nông phổ thông, sau đó ra khỏi chỗ nấp gặp bốn hộ vệ. Dương Thu Trì giới thiệu Liễu Nhược Băng là tỷ tỷ của mình, còn Quách Tuyết Liên là nha hoàn.
Lưu Dũng tuy trước kia đã gặp qua Liễu Nhược Băng một lần ở núi Võ Đang, nhưng là mấy năm về trước. Hơn nữa lúc đó Liễu Nhược Băng toàn thân đồ trắng, lại che mặt, đang kịch liệt giao chiến với chưởng môn Bạch Hồ tử của Võ Đang, cự li hơi xa, căn bản không nhìn rõ tướng mạo. Hiện giờ Liễu Nhược Băng mới vừa lành trọng thương, cho nên y làm sao cũng không thể ngờ vị nữ tử bệnh vàng vọt này lại là vị bạch y nữ sát một kiếm chém bay trường kiếm của chưởng môn Võ Đang, làm y mất luôn ý niệm tầm sư học đạo thiết tha võ nghệ. Y cũng không dám quan sát kỹ nữ quyến của nhà người ta, huống chi là người thân của ân nhân cứu mạn. Ba người khác dĩ nhiên càng không có ấn tượng gì.
Đêm đó, Dương Thu Trì để Liễu Nhược Băng, Quách Tuyết Liên và tiểu quân chúa lên lầu ngủ phòng ngủ chính, còn hắn và bọn bốn người Lưu Dũng ngủ ở dưới lầu.
Suốt đêm không chuyện gì xảy ra, sáng hôm sau bốn cổ xe ngựa thuê trước đã đến cửa. Người chủ mua cũng đến tiếp nhận nhà. Lưu Dũng cũng 3 hộ vệ bận rộn vận chuyển hành lí, chợt nghe chuông leng keng, thấy một tiểu kiệu đang đến, do 4 binh sĩ Trương Hiến Trung khiêng. Kiệu dừng lại trước cửa nhà của Dương Thu Trì, rèm kiệu vén lên, một thiếu nữ xinh đẹp bước xuống, bạch y trắng toát, dung nhang mê người, chính là Trầm Tuyết Phỉ.
 
Chương 78: Ràng buộc cả đời
Dương Thu Trì vội bước tới: "Tuyết Phỉ, cô sao lại đến đây?"
Trầm Tuyết Phỉ u buồn: "Đến tiễn huynh không được sao?" Nói xong lệnh cho bốn thân binh khiêng kiệu chờ ở ngoài, vén áo quần tiến nhanh vào vườn, đi thẳng tới mái hiên đứng lại hỏi: "Tỷ tỷ đâu?"
Dương Thu Trì ngước cằm chỉ lên lầu.
Trầm Tuyết Phỉ lên lầu, đến phòng ngủ, thấy Liễu Nhược Băng thay đồ bố, đang ngồi trên ghế. Quách Tuyết Liên đứng bên cạnh, tiểu quận chúa Chu Phượng Đức đứng bên cửa sổ, ngơ ngẩn nhìn ra cửa không biết nhìn gì.
Trầm Tuyết Phỉ bước nhanh tới, quỳ xuống trước Liễu Nhược Băng: "Tỷ Tỷ, Tuyết Phỉ đặc ý đến đây tiễn tỷ tỷ."
Liễu Nhược Băng cười điềm đạm: "Không cần khách khí, đứng dậy ngồi đi."
Quách Tuyết Liên bước tới đỡ nàng dậy, ngồi trên ghế dành cho khách, và rót trò mời.
Đôi mắt trong veo của Trầm Tuyết Phỉ nhìn Dương Thu Trì đầy vẻ u oán, định nói gì lại thôi.
Lúc này tâm Trầm Tuyết Phỉ như đao cắt, nam nhân yêu dấu của mình sắp rời xa, không biết đến bao giờ có thể gặp lại.
Cùng tiếp xúc với Dương Thu Trì trong đoạn thời gian này, Trầm Tuyết Phỉ đã sớm hứa thầm cho hắn. Nhưng Trầm Tuyết Phỉ là nữ tử con nhà giàu, hiện giờ huynh trưởng lại là Đô ti của Đại tây vương. Y tuyệt không để muội muội gả làm thiếp cho một hộ vệ nhỏ nhoi. Điểm này nàng đã từ một loạt ngôn ngữ và cử chỉ của Trầm Lỗi mà nhìn thấy ra. Điều này khiến nàng không có cách gì mở miệng;
Hơn nữa, âm soa dương thác thế nào, ca ca của nàng lại thiết độc kế hảm hại suýt giết luôn Liễu Nhược Băng, còn Liễu Nhược Băng là vợ chưa cưới của Dương Thu Trì, cũng là ân nhân cứu mạng của nàng. Trầm Tuyết Phỉ đã không còn mặt mũi nào đối mặt với điều này, không dám nói ra lời.
Nàng lại biết DƯơng Thu Trì nhất mực tình thâm với Liễu Nhược Băng, nhiều lần nói rõ là không nạp thiếp, thập chí Tiểu Nhị liều mạng ngăn hắn tự sát để bị thương như vậy, cũng không thể khiến hắn mềm lòng thu làm tiểu thiếp. Điều này khiến nàng hiểu rõ, cho dù mở miệng cũng vô vọng mà thôi.
Vì thế, Trầm Tuyết Phỉ chỉ còn biết lòng yêu thương chỉ mới vừa mang nha như mầm mùa xuân chôn vùi dưới ba tấc đất, rồi dập hai chân lên, không cho phép nó mọc chồi rẻ nhánh nữa.
Mọi người đều không nói, tình hình có vẻ căng thẳng, Quách Tuyết Liên để che sự khó xử, vội tìm lời hỏi: "Trầm tỷ tỷ, Tiểu Nhị đâu?"
Trầm Tuyết Phỉ thần tình ảm đảm, cúi đầu nhìn Dương Thu Trì: "Tiểu Nhị xuất gia rồi."
"Hả?" Đến lúc này thì Dương Thu Trì cũng sửng sốt, "Vì sao?"
"Nhân vì... em nó nói đã được gả cho huynh rồi, cả đời này sinh là người của Dương gia các người, chết là quỷ của Dương gia. Nếu như huynh không muốn em nó nữa, thì chỉ còn cách xuất ra làm ni cô, sống nương nhờ cửa phật cho hết kiếp này."
"Cái này...., thật đúng là cổ hủ quá mà!" Thần tình của Dương Thu Trì bối rối, nhìn Liễu Nhược Băng một cái, thấy nàng lành lạnh tựa như chẳng thèm quan tâm, càng khẩn trương hơn, "Cô ta... cô ta làm vậy chẳng phải là bức ta sao? Cô ta không thể dùng biện pháp đó để ép ta thu về a! Ta đã nói rõ với cô ta rồi, ta không thể nạp thiếp nữa, ta đã cùng Bang...., à cái gì cái
gì đó, đã nói rõ rồi mà. Ta chỉ cùng vợ ta hai người ân ân ái ái đến bạc đầu, tuyệt không nạp thiếp nữa! Cô ấy phải hiểu cho ta chứ! Sao lại dùng cách xuất gia mà bức ta vậy?"
Trầm Tuyết Phỉ nói: "Em nó không bức huynh, em nó thậm chí cầu ta đừng đem chuyện này báo cho huynh biết, nói em nó đã nhận ra huynh nói đúng là thật lòng. Em nó không muốn làm huynh khó xử. Đó chỉ là lựa chọn của riêng nó, với huynh không quan hệ gì. Nếu chẳng phải Tuyết Liên đề cập đến chuyện này, muội cũng không chủ động nói ra đâu."
Nàng càng giải thích, Dương Thu Trì càng cảm thấy chẳng ra sao, toàn thân có cảm giác mà miệng không thể nào nói rõ được, cứ cười khổ nhìn Liễu Nhược Băng.
Liễu Nhược Băng vẫn dùng thần tình đạm bạc chuyện chẳng liên quan gì đến ta. Dương Thu Trì đành phải quay đầu lại oán trách Trầm Tuyết Phỉ: "Nàng sao không ngăn cô ấy lại, sao dễ dàng để cho cô ấy xuất gia vậy?"
"Muội làm sao ngăn trở?" Trầm Tuyết Phỉ kỳ quái nhìn Dương Thu Trì, "Em nó đã được tiểu quận chúa hứa cấp cho huynh làm tiểu thiếp rồi, có văn khế hẳn hoi. Cho nên em nó đã không là nữ tì của muội nữa. Hơn nữa huynh đã đốt văn khế bán thân rồi, chẳng khác gì cho phép em nó tự do. Huynh không cần em nó làm thiếp nữa, thì đã là thân tự do, muốn đi đâu thì đi, muội làm sao cản trở đây?"
Dương Thu Trì tức thời tắc họng, ngập ngừng một hồi, cuối cùng nói: "Cho dù là thế, cô khuyên một lời dù sao cũng được chớ? Trong thời binh hoang mã loạn này, đâu phải lời thời điểm xuất gia tu hành! Cô ấy là nữ tử yếu ớt, cô thân trong am ni cô, gặp phải loạn binh thì làm thế nào?"
Trầm Tuyết Phỉ thở dài: "Khuyên rồi, muội đã bảo em nó ở bên muội như cũ, cho em nó chuyện làm, nhưng em nó nhất định xuất gia, căn bản chẳng thèm nghe, chấp ý đi rồi."
Dương Thu Trì không biết nói gì, một lúc sau mới hỏi Trầm Tuyết Phỉ: "Nàng ấy xuất gia ở đâu? Để ta đi khuyên thử."
"Ở Từ Hàng am mười dặm ngoài cổng bắc của thành. Sáng sớm hôm qua đã đi, không biết đã thế độ hay chưa."
Dương Thu Trì chợt hiểu ra, hèn gì hôm qua Trầm Tuyết Phỉ chỉ đến một mình. Lúc này, phó quan chạy vào thông báo: "Dương gia, hành trang đã chuẩn bị xong, có thể xuất phát rồi."
Dương Thu Trì nói: "Tuyết Phỉ, cô có thể đi cùng ta khuyên Tiểu Nhị không? Nếu không, như vầy mà đi phó nhậm, ta không an tâm chút nào a."
Trầm Tuyết Phỉ gật đầu đáp ứng, mọi người xuống lầu ra vườn.
Trong bốn xe ngựa thì có 1 xe đựng hành lý, ba xe còn lại chở người. Trầm Tuyết Phỉ ngồi kiệu như cũ, mọi người đến bắc thành.
Liễu Nhược Băng đã thay đổi trang phục. Trước đây nàng toàn che mặt, dường như trước đó không ai nhìn thấy gương mặt chân thật của nàng, lần này có Trầm Tuyết Phỉ đi cùng, Trầm Lỗi tuyệt không thể ngờ Liễu Nhược Băng lại ở trên xe ngựa của Dương Thu Trì. Do đó, quan giữ thành chỉ giản đơn nhìn ngó, biết là quan viên đi phó nhiệm, liền cho qua.
Rời khỏi bắc thành, dọc đường theo quan đạo từ từ tiến nửa canh giờ sau thì đến Từ Hàng am.
Am ni cô này ở trên một tòa núi nhỏ, xung quanh rừng xanh ngắt, phong cảnh xinh đẹp mê người. Quan đạo đi ngang qua đầy, xe ngựa liền dừng trên đường, Trầm Tuyết Phỉ ngồi tiểu kiệu theo bọn Dương Thu Trì lên núi.
Núi không cao, chẳng mấy chốc đã lên Từ Hàng am trên đỉnh.
Hiện giờ là thời binh hoang mã loạn, ni cô trong am đã chạy gần hết, chỉ còn lại hai lão ni cô sáu bảy chục tuổi ở lại giữ am. Tài vật trong am bị cướp sạch trong chiến loạn, nhưng quân đội dường như vẫn còn sự kính úy với phật môn, nên không thiêu hủy mấy phòng ốc giản lậu này.
Trong vườn, sân đá mọc đầy cỏ xanh. Một lão ni cô đang cúi mình nhổ cỏ. Trên bậc đá chánh điện có một nữ tử đang quỳ, ánh mắt đở đẫn nhìn lão ni cô trong đại điện. Nhưng lão ni cô này như không biết gì, vẫn ngồi trên một bồ đoàn cũ kỹ trên đại hùng bảo điện, nheo mắt lần chuỗi hạt, miệng lầm rầm niệm kinh văn nghe không ai hiểu gì, thỉnh thoảng ho hai ba tiếng.
'Tiểu Nhị!" Dương Thu Trì chỉ cần nhìn là nhận ra ngay thiếu nữ trên bậc đá, khẽ gọi.
Tiểu Nhị chuyển đầu nhìn lại, thấy đó là Dương Thu Trì, mắt thoáng chút vui mừng, nhưng rồi lại ảm đạm lại ngay. Nàng chống tay dưới đất, cố gượng định đứng dậy, nhưng nàng đã quỳ ở ngạch đá này cả ngày cả đêm, hai chân tê bại, căn bản không rút lên được.
Quách Tuyết Liên vội chạy tới bậc đá, từ từ đỡ nàng dậy, bước một bước dừng một bước lần xuống các bậc đá, đến chỗ Dương Thu Trì và Trầm Tuyết Phỉ làm lễ chào: "Tiểu Nhị xin chào Dương gia, xin chào nương nương."
Dương Thu Trì nhìn quanh, hạ giọng hỏi: "Cô định xuất gia ở đây?"
"Vâng...!" Tiểu Nhị cúi đầu, nhìn từng khối đá đứt vỡ dưới chân.
"Bọn họ không đồng ý?"
Tiểu Nhị quay đầu nhìn hai vị lão ni cô thần tình vẫn lạnh nhạt, cười thảm: "Đúng, hai vị sư phụ nói, trong thời loạn thế này, người mà thu em xuất gia, chẳng khác nào hại em, khuyên em tìm một... tìm một chỗ dựa để sống qua ngày... em đang cầu xin đây."
Dương Thu Trì thở dài: "Hai vị sư phụ nói có lý, trong thời buổi loạn li này, đích xác không hợp xuất gia. CÔ nên tìm nhà nào tốt, có chỗ tương tựa, sống chết có nhau qua ngày."
Tiểu Nhị khẽ lắc đầu, kiên định nói: "Phụ nhân chi nghĩa, tòng nhất nhi chung (Cái nghĩa của đàn ba là chung thủy trước sau như một). Có câu hảo nữ không lấy hai chồng, ngựa tốt không đặt hai yên. Tiểu Nhị đã được hứa gả cho lão gia làm thiếp, sinh tử gì cũng là người của lão gia. Lão gia không muốn Tiểu Nhị, là Tiểu Nhị mệnh bạc, nhưng phụ đức nữ trinh, Tiểu Nhị không thể làm ngược lại. Chỉ còn có xuất gia để biểu đạt tâm này. Nếu như sư phụ không thu lưu, Tiểu Nhị quỳ chết ở đây cho xong."
Nói xong, Tiểu Nhị khẽ tránh thoát khỏi tay đỡ của Quách Tuyết Liên, từ từ chuyển thân, vịn lên lan can tàn phá bất kham, lần từng bước lên bậc đá, quỳ xuống dưới cửa đá trước nguyệt đài trước đại hừng bảo điện.
Quách Tuyết Liên nhìn đến mắt ửng hồng, quay mặt đi không nhẫn tâm nhìn.
Dương Thu Trì quay đầu nhìn Liễu Nhược Băng một cái. Gương mặt trắng như sương của Liễu Nhược Băng bắt đầu đỏ hồng, nhướn mày gắt: "Nhìn ta làm cái gì? Nếu không phải vì ngươi ác tâm, cô ấy đâu có khổ thế này?"
 
Chương 79: Thông minh quá hóa dại
"Ta..., ta..." Dương Thu Trì đúng là muốn khóc mà không có lệ, lòng nghĩ ta làm thế này đều là vì nàng a, vì sống cùng nàng cả đời mới cự tuyệt Tiểu Nhị. Nàng hay lắm, thế mà lại còn trào phúng ta ngoan tâm. Ông trời hỡi...!"
"Ta ta cái gì, ngươi đã nạp người ta làm thiếp rồi lại vô duyên vô cớ không thèm nữa, ai mà chịu được chứ? Còn không chịu sớm thu hồi lệnh, mang người ta đi." Dừng lại một chút, Liễu Nhược Băng làm ra vẻ già cả dạy đời: "Trì đệ, tỷ tỷ nói một lời thật, đệ cũng lớn rồi không nhỏ nữa, nên thành gia thất rồi. Nếu đệ cảm thấy người ta là nô tì không xứng với đệ, thì làm thị thiếp cũng đâu có sao. Sau này tìm người thích hợp mai mối đàng hoàng a."
Thấy nàng trịnh trọng khuyên giải như vậy, Dương Thu Trì hơi động tâm. Nhưng hắn lập tức phản ứng lại, Băng nhi hiện giờ chưa khai khiếu không nhớ lại ước định của hai người kiếp trước, hiện giờ cũng chưa yêu hắn, thuần túy xuất phát từ sự quan tâm đối với đệ đệ kết bái mà thôi. Chờ nàng khai khiếu nhớ lại ước định của hai người, lúc đó hắn đã nạp thiếp thì nhất định sẽ đau lòng lắm. Hắn bây giờ có thể mượn cớ "Đó là nàng bảo ta nạp thiếp mà", nhưng nàng chuyển thế không biết ước định đó, chẳng lẽ hắn lại nói bản thân cũng không biết sao? Biết mà còn nạp, rõ ràng biết mà cố phạm, sao có thể nói cho suông đây. CHo nên, vì hạnh phúc tương lai, đành phải đứt ruột cự tuyệt mối tình này mới được.
Chỉ có điều, thấy nha đầu ngốc Tiểu Nhị cứ cố chấp như vậy, muốn khuyên cũng khuyên không được, chỉ có động não chút thôi.
Dương Thu Trì xoay chuyển ý, nghĩ ra biện pháp, bước lên bậc đá ngồi xuống bên cạnh Tiểu Nhị, hỏi: "Tiểu Nhị, nàng còn muốn làm thiếp của ta không?"
Tiểu Nhị vui mừng, đúng là không dám tin vào tai mình, vội ngẩn đầu run giọng nói: "Tiểu Nhị...., Tiểu Nhị rất muốn! Lão gia!"
"Muốn thì được rồi, vậy đứng lên đi."
'Dạ! Lão gia!" Tiểu Nhị mừng đến nước mắt rơi đầy, được Quách Tuyết Liên đỡ gượng đứng lên nhìn Dương Thu Trì, nét mặt tái nhợt hiện lên vẻ vui mừng mang sắc đỏ.
Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, nói: "Nhưng mà ta đã đốt khế ước bán thân rồi, nàng muốn làm thiếp không bằng không cớ, làm sao đây?"
"Dạ, Tiểu Nhị lập tức viết một khế ước bán thân cho lão gia!"
Lưu Dũng nghe xong, vội chạy vào am ni cô mượn bút mực giấy tờ ra.
Tiểu Nhị theo Trầm Tuyết Phỉ nhiều năm, cũng biết chút sách vỡ, đem giấy chặt bày lên cạnh thùng công đức trên đại điện, đề bút viết một văn khế bán thân làm thiếp, ghi tên áp bàn tay lên, đỏ hồng mặt đưa cho Dương Thu Trì.
Dương Thu Trì tiếp lấy văn khế nhìn qua, gật đầu nói với Tiểu Nhị: "Nàng hiện giờ là thiếp thất của ta rồi, cái gì cũng phải nghe ta, đúng không?"
"Dạ...! Tiểu Nhị... cái gì... cũng nghe lão gia hết...!" Tiểu Nhị mừng quá mà khóc, lại thẹn vô cùng, mặt đỏ hồng như thạch lựu, gạt lệ hít mũi dùng con mắt đen lại vui mừng nhìn hắn.
Bộ dạng yêu kiều như hoa lê sũng nước mưa của Tiểu Nhị quả là khiến người ta thương xót, Dương Thu Trì gần như mềm lòng mang nàng theo, nhưng khóe mắt của hắn khẽ liếc Liễu Nhược Băng, cắn răng quyết tâm nói: "Tiểu nhị, ta hỏi nàng, lúc trước tiểu quận chúa đem nàng cho ta làm thiếp, vậy ta có thể đem nàng tặng lại cho người khác hay không?"
"A...!" Tiểu Nhị đại kinh thất sắc, thân người chợt run lên, suýt chút nữa té phịch xuống đất, run giọng hỏi: "Lão gia..., lão gia định đem tặng Tiểu Nhị cho người khác?"
"Ta hỏi nàng trước có được không mà?"
Nước mắt của Tiểu nhị trào xuống như mưa, nếu không phải Quách Tuyết Liên nâng đỡ thì đã té xuống đất rồi.
"Có thể không?" Dương Thu Trì cố làm mặt lạnh hỏi dồn.
"Tiểu Nhị..., tùy lão gia... xử trí..." Nói đến cuối cùng, nàng nhịn không được nấc lên.
Đến lúc này sắc mặt Trầm Tuyết Phỉ hơi biến, Lưu Dũng cùng mọi người đều bất nhẫn, ngay cả Liễu Nhược Băng cũng nhíu mày. Nhưng nếu như đã là thiếp thất của Dương Thu Trì, thì hắn muốn cho tặng bán cho ai là quyền của hắn, người khác không có quyền can thiệp.
"Vậy tốt! Lão gia ta hiện giờ đem nàng chuyển tặng cho Tuyết Phỉ làm nô tì, cái đó gọi là vật quy nguyên... à không, trả ngọc về cho Triệu!" Dương Thu Trì đưa văn khế bán thân làm thiếp của Tiểu Nhị cho Trầm Tuyết Phỉ.
Mọi người lúc này mới hiểu, đầu mày của Liễu Nhược Băng cũng giản ra, trách: "Con người đệ thật là..."
Tiểu Nhị ngước đôi mắt đầy lệ nhìn Dương Thu Trì: "Lão gia... lão gia cho em làm trở lại nô tì của nương nương... không... của tiểu thư à?" SỞ vương đã chết, Trầm Tuyết Phỉ cũng khôi phục lại thân phận tiểu thư của Trầm gia rồi.
"Đúng!" Dương Thu Trì cười, "Ta đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần rồi, cả đời này ta không nạp thiếp, khi xưa chỉ là kế quyền nghi, không thể không làm, nhưng không thể tính. Có điều em quá cô chấp, ta chỉ có thể dùng biện pháp cố chấp này thôi, đem em tặng trở lại cho tiểu thư của em. Nhưng mà, lão gia ta tôn trọng ý nguyên của em, cho nên mới đặc biệt hỏi một câu, em có chịu không?"
Trầm Tuyết Phỉ đối với Tiểu Nhị cực tốt, dường như là đối với em gái ruột vậy. Đặc biệt là trong hai năm ở Sở vương phủ, chủ tớ sống dựa vào nhau, cảm tình cực kỳ thâm hậu. Cho nên, để cho Tiểu Nhị trở lại làm nữ tì của Trầm Tuyết Phỉ, trong thâm tâm đương nhiên đồng ý.
Tiểu Nhị đắn đo đôi chút, khẽ đáp: "Tiểu nhị... Tiểu Nhị nguyện ý..."
"Hắc hắc, như vậy tốt rồi!" Dương Thu Trì rất đắc ý.
Không ngờ, Tiểu Nhị lại tránh thoát ra từ từ quỳ xuống, dập đầu nói với Dương Thu Trì và Trầm Tuyết Phỉ: "Lão gia đem Tiểu Nhị tặng cho tiểu thư, Tiểu Nhị nhất định sẽ tận tâm phục thị tiểu thư. Nhưng mà, có câu này Tiểu nhị muốn nói rõ trước, rằng Tiểu Nhị đã được gả cho lão gia rồi, kiếp này là người của lão gia. Sau này kính thỉnh tiểu thư hãy bảo toàn danh tiết cho Tiểu Nhị, đứng đem Tiểu Nhị cấp cho người khác, nếu không, Tiểu Nhị chỉ còn có chết để bảo toàn trinh khiết!"
Dương Thu Trì tức thời trợn mắt.
Mã Lăng Vũ suýt soa khen ngợi: 'Hay! Hay cho một liệt nữ trinh khiết! Hay! Nếu như Sở vương gia lão nhân gia còn, bỉ nhân nhất định bẩm báo vương gia, cấp cho cô thẻ bài trinh tiết!"
Lưu Dũng cùng các hộ vệ khác cũng lộ vẻ khâm phục, gật đầu tán đồng lia lịa.
Trầm Tuyết Phỉ đã sớm lệ rơi đầy mặt, bước lên đỡ Tiểu Nhị, dịu giọng nói: "Tiểu Nhị, đừng lo lắng, tiểu tỷ sẽ bảo toàn danh tiết cho em. Kiếp này ngoại trừ lão gia của em hồi tâm chuyển ý thu em nhập phòng, thì tuyệt không tặng bán em cho ai khác!"
"Tiểu thư...!" Tiểu Nhị nhào vào lòng Trầm Tuyết Phỉ, òa lên khóc.
...
Hạ sơn, đưa mắt tiễn kiệu của Trầm Tuyết Phỉ về thành, nhìn Tiểu Nhị đi mấy bước lại quay đầu nhìn, Dương Thu Trì dậy lên cảm giác khó tả trong lòng. Lưu Dũng cùng các hộ vệ cứ khen Tiểu Nhị mãi, càng làm Dương Thu Trì khổ não hơn. Nếu như Tiểu Nhị thật vì hắn mà thủ tiết ở vậy cả đời, thì chẳng phải là hại đời cô nương người ta rồi sao?
Hắn hiện giờ phát giác suy nghĩ của hắn trước giờ đơn giản và ấu trĩ quá!
Bốn chiếc xe ngựa buông rèm tiếp tục tiến từ từ. Tốc độ chậm như trâu này quả khiến người buồn buồn ngủ gục. Đường trên quan đạo dần thưa thớt, cách mấy chiếc xe ngựa này nửa dặm cũng có một dãy xe ngựa dài, dường như là một đòan ngựa thồ. Chỉ có điều, khoang xe được dùng vải bố bao rất kỹ.
Chiều đến, khi đi ngang qua rừng cây rậm rạp, đoàn xe ngựa thồ đột nhiên gia tốc, đuổi theo bốn chiếc xe ngựa phía trước. Đám xe thồ chạy với tốc độ cao này chợt kéo bỏ hết vải phủ mui, lộ ra vô số hắc y nhân che mặt, tay cầm các loại vũ khí nhảy ngay xuống xe ngựa. Bọn chúng một phần chiếm cứ các chỗ cao, giương cung lắp tên chỉa thẳng vào bốn xe ngựa, số còn lại thì tay cầm đao kiếm, nhanh nhẹn đuổi theo xe, bao vây trùng trùng, rồi cùng quát lớn ra lệnh cho người bên trong xuống xe.
Bốn người đánh xe run rẫy bước xuống, quỳ xin tha mạng.
Quát gọi một lúc lâu mà không thấy người trong xe xuống, một hắc y nhân thân hình to mập cẩn thận dùng mũi kiếm vén rèm xe, thấy bên trong trống hoắc chẳng có ai, cả kinh hỏi: "Người trong xe đâu?"
Người đánh xe run rẫy đáp: "Xuống... xuống xe rồi!"
"Hả? Xuống xe khi nào? Ở đâu?"
Người đánh xe ấp úng thưa: "Đã xuống từ sớm rồi, trưa nay sau khi rời khỏi Từ Hàng Am không lâu..., bọn họ đã... đã xuống xe rồi, cho chúng tôi... mỗi người năm tiền, bảo chúng tôi... tiếp tục đi. Khi trời tối .... mới về thành. Chúng tôi..."
Hắc y đầu lĩnh đó sầm mặt đi kiểm tra hết 4 xe ngựa, xe cuối cùng đầy hành lý chưa động qua, ba xe còn lại đều chẳng có người nào.
Hắc y nhân này lột khăn đen che mặt xuống, thì ra là võ tướng thủ hạ của Trầm Lỗi, là tên bị Dương Thu Trì nâng lên quật té, bị nồi thức ăn nóng ụp vào đầu (Hai võ quan to hơn bị thương trầm trọng, ít nhất phải nằm liệt giường hơn hai mươi ngày mới dậy nổi). Tên này đã phụng mệnh Trầm Lỗi giả làm cường đạo theo truy sát, nhưng bị bọn Dương Thu Trì chạy thoát.
Võ quan mập đó mắng một câu: "Mẹ nó! Kim thiền thoát xác! Bọn chúng đến đâu chứ?"
Mấy người đánh xe vội ôm đầu hoảng hốt đáp: "Bọn tiểu nhân không biết a, bọn họ xuống xe liền chuyển qua mép đồi không thấy nữa, bọn tiểu nhân không biết họ đi đâu..."
Tên võ quan đó chạy lên gò cao, ngước mắt nhìn tứ phía, nhưng khắp nơi là đồi núi, chẳng biết họ đã đi về đâu.
 
Chương 80: Luận ái tình
Trên Trường Giang, một con thuyền nhỏ đang giương buồm lướt sóng.
Trong khoang thuyền, tiểu quận chúa Chu Phượng Đức đang ngờ nghệch và hứng thú xem Quách Tuyết Liên chơi trò Cửu liên hoàn (Là chín cái vòng gắn vào một cây gậy đồng để sắp xếp theo vị trí, là công cụ để chơi thử tài trí tuệ thời cổ). Tiểu Hắc cẩu đang ngóng cổ nhìn hai nàng. Lưu Dũng và các hộ vệ đưa ánh mắt xót thương nhìn Chu Phượng Đức tinh thần ngờ nghệch thất thường. Mấy người làm công đang cố sức gạt mái chèo, mượn lúc thuận gió buồm no căng đưa con thuyền nhỏ đi như bay trên mặt nước.
Ở đầu thuyền, Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng ngồi ngang đón gió sông, nhìn từng dãy núi xanh từ từ di chuyển hai bên bờ, thỉnh thoảng nhìn nhau cười.
Thì ra, tối đó Dương Thu Trì đã chuẩn xác đoán được Trầm Lỗi sẽ không dễ dàng bỏ qua cho mình, nhất định sẽ tìm cơ hội tránh tầm mắt của Trầm Tuyết Phỉ, phái binh bám đuôi truy sát họ. Cho nên, hắn đã an bài trước mọi thứ. Bốn người bọn Lưu Dũng khi tìm người bán nhà và thuê xe, đã lợi dụng quan hệ hình thành sau nhiều năm ở Vũ Xương, bí mật nhờ bằng hữu có thể tin được đến trước Hán Khẩu thuê một con thuyền nhanh, lại nhờ bằng hữu ở phía trước chuẩn bị sẵn mấy thớt ngựa. Khi đi giữa đường, họ đạ xuống xe để xe ngựa tiếp tục tiến, còn bản thân thì cưỡi khoái mã chạy thẳng đến Hán khẩu, lên thuyền dọc theo sông mà đi, đến Trường Sa bằng đường thủy.
Dương Thu Trì đoán Trầm Lỗi chẳng qua mà tức giận đôi chút mà thôi, còn mấy người của hắn không phải là khâm phạm trọng tội gì, cho nên y có thể sẽ không dùng quá nhiều quân đội truy sát. Và các đầu mối giao thông ở Vũ Xương thì thông suốt cả đường thủy và đường bộ, căn bản không thể truy tìm. Lúc này đã là tháng năm âm lịch, nước sông dâng cao, mặt nước bình ổn, lại gặp gió đông, thuyền lớn nhỏ trên sống qua lại dày đặc. Cho dù y có đuổi theo đường thủy, cũng rất khó truy kích bọn hắn.
Sau khi thực hiện diệu kế tránh khỏi truy sát, lòng Dương Thu Trì rất vui, và sự buồn bực về chuyện của Tiểu Nhị đã giảm đi không ít. Hắn bèn cùng Liễu Nhược Băng ngồi ở đầu thuyền, hân thưởng phong cảnh hai bờ, tận dụng dịp tôn tạo tình cảm.
Liễu Nhược Băng hỏi: "Trì đệ, đệ bộ không muốn nạp thiếp thật?"
"Đúng a! Tỷ tỷ không tin à?"
"Vốn là không tin, nhưng đệ liên tục cự tuyệt hai tiểu thiếp rồi, ta bắt đầu cú chút tin đây. Nhưng ta không biết đệ làm vậy là vì sao?"
"Tỷ cảm thấy là vì sao?" Dương Thu Trì quay mặt nhìn, thấy mày liễu của Liễu Nhược Băng như khói, hai mắt như mùa thu, mũi thon cao như ngọc, gương mặt trắng như tuyết đượm nét hồng đào, quả thực là đẹp đến cùng cực.
Liễu Nhược Băng quay đầu lại, khóe miệng hơi cười, có vẻ ngượng: "Ta không rõ mới hỏi đệ chứ!"
Dương Thu Trì không dám nói lại câu chuyện chân thật nhưng không thể khiến Liễu Nhược Băng tin. Nếu như nàng đã không tin, có nói thêm lần nữa chỉ làm nàng hoài nghi hắn là tên lừa gạt suốt ngày chỉ biết nói láo. Nếu như vậy thì phiền phức to. Do đó, hắn hạ quyết tâm, mọi chuyện sẽ làm lại từ đầu, làm sao cho Liễu Nhược Băng thích hắn thì thôi. Hắn bèn thở một hơi dài, nhìn mặt sống cố ra vẻ thâm trầm, nói: "Đệ nhìn không quen những nam nhân ở hiện tại, vì sao nhất định phải cưới nhiều vợ chứ. Tam thê tứ thiếp, hà hà, như vậy là bảy người. Vậy hắn lo hết nổi sao? Một tay ôm hết cả bảy người sao? Một mình ngủ trọn hết được sao?" Nói những lời này, hắn cảm thấy mặt nóng bừng, vì hắn chẳng khác nào đang mắng hắn ở kiếp trước.
Hắn hơi nghiêng mặt lại, thấy đôi mắt trong veo của Liễu Nhược Băng đang lấp lánh, nhìn hắn đăm đăm, lòng biết có cửa, lại quay đầu đi nói tiếp: "Đệ cảm thấy rằng nam nữ muốn trở thành chồng vợ thì tiền đề là phải có tình yêu trước, Ân Cách Tư (Ăng Ghen - Friedrich Engels (1820-1895) nhà triết học xã hội Đức, là một trong người phát minh ra học thuyết Marxis....)...., không, là ai cà..., khụ khụ...., có một người xưa từng nói, 'hôn nhân không có ái tình là vô đạo đức'! Mà ái tình là riêng tư, là ích kỹ, là từng đôi, là chiếm hữu. Yêu một người, thì phải toàn tâm toàn ý mà yêu, do đó một người có bảy tám người vợ, có thể nói là y yêu tất cả họ hay không? Không! Chỉ có thể nói là y muốn chiếm hữu họ, đối với họ chẳng qua là một loại thú dục, thỏa mãn nhu cầu về mặt sinh lý mà thôi, căn bản không phải yêu! Tỷ thấy có đúng không?"
Dương Thu Trì quay đầu lại nhìn Liễu nhược Băng một cái, thấy nàng đang kinh ngạc nhìn mình, vội hỏi: "Thế nào? Tỷ không tán đồng quan điểm của đệ à?"
Liễu Nhược Băng a lên một tiếng, bấy giờ mới lấy lại tinh thần: "Không, không phải vậy, chỉ có điều ta không hiểu lắm ý vừa rồi của đệ."
"Điểm nào không minh bạch?" Dương Thu Trì cũng cảm thấy lời mình nói vừa rồi quá hiện đại.
"Ví dụ như, cái câu gì ... gì mà... 'không có ái tình...'"
"'Hôn nhân không có ái tình là vô đạo đức' - một vị cổ nhân nói thế!"
"Ai a? Sao ta chưa hề nghe qua vậy?" Liễu Nhược Băng dõi đôi mắt xanh, lộ vẻ hâm mộ, hàng mi dài hơi chớp, một vệt tôi tối càng hiện vẻ mê người.
Dương Thu Trì nhìn châm vào đó mà lén nuốt nước bọt. Bà xã của mình ở gần trong tầm với, thế mà phải giả vờ ngây thơ cụ chẳng dám động, quả thật là ông trời quá đáng mà! Hắn tùy miệng đáp: "Một người ngoại quốc!" Đột nhiên hắn cảm thấy mấy chữ người ngoại quốc này có thể sẽ khiến nàng không hiểu, đành giải thích thêm: "À...! Đó là người dị tộc ở hải ngoại. Là đệ xem được từ một cuốn sách."
"Vậy sao...! Người hải ngoại nói mà đệ cũng hiểu à? Trì đệ, đệ quả là học rộng hiểu nhiều a!"
"Hà hà, tỷ tỷ, tỷ cảm thấy y nói có lý không?"
Hai tay Liễu Nhược Băng ôm gối, đặt cái cầm xinh lên hai đầu gối, nhìn nước sông chảy. Một lúc sau, mới khẽ đáp: "Ta chưa nghĩ qua, thật đó, ta từ nhỏ đến lớn theo sư phụ luyện công, sư phụ viên tịch rồi thì hành tẩu giang hồ, bốn biển là nhà, trước giờ chưa ai nói với ta chuyện đó, cũng không ai cho ta hay những chuyện như vậy."
Dương Thu Trì hơi ngẩn ra, hỏi: "Vậy...., vậy những năm nay, tỷ không gặp nam nhân nào khiến tỷ động tâm hay sao?"
Hỏi câu này, tim Dương Thu Trì co thắt lại, sợ nàng sẽ kể ra một chuyện tình triền miên đẹp đẻ, khi ấy hắn chắc ói máu mà chết.
Rất may, Liễu Nhược Băng khẽ lắc đầu: 'Những năm này ta nhất mực tiềm tâm luyện võ, chưa bao giờ nghĩ đến điều này, và cũng chưa có ai nói chuyện đó với ta..." Nói đến đây, Liễu Nhược Băng xoay đầu liếc nhanh hắn một cái, thẹn đỏ cả mặt,
"Ngày đó, khi ta sắp chết rồi, đệ nói với ta những lời đó, là lần đầu tiên ta nghe được đấy..."
"Hắc hắc, không phải chứ? Tỷ hoa dung nguyệt mạo, khuynh quốc khuynh thành, sao lại không có ai thích tỷ? À, đệ hiểu rồi, nhất định là tỷ thường mang mạng che mặt, vừa lộ diện là cầm đoản kiếm chém chém giết giết, không có nam nhân nào nhìn qua vẻ đẹp của tỷ, cũng không ai dám nhìn. Hoặc là, nam nhân nhìn qua thích tỷ rồi đều đã bị chém chết hết, do đó không có ai tỏ bày với tỷ!"
Liễu Nhược Băng cười đáp, đôi mắt phượng biện thành mắt vòng nguyệt khả ái: "Đệ nha, mồm miệng trơn tuột!"
"Hắc hắc." Dương Thu Trì cười cười, nhìn thẳng Liễu Nhược Băng, trịnh trọng nói: "Dù gì thì cả đời của đệ cũng chỉ yêu một người con gái!"
"Ai vậy?" Liễu Nhược Băng hỏi ra lời, lập tức tỉnh ngộ, nét đỏ thẹn càng nặng hơn, áy náy dịu giọng nói: 'Trì đệ, ta đã nói qua, kiếp này ta không lấy ai đâu, chúng ta chỉ là tình tỷ đệ, đệ... đệ hãy tìm chỗ hợp khác đi."
Dương Thu Trì khẩn cầu: "Tỷ tỷ, đệ đối với tỷ là thật lòng..."
Liễu Nhược Băng nghiêm mặt: "Trì đệ, lời này sau đừng nói nữa, nếu không, ta... ta chỉ còn cách một mình rời đi mà thôi!"
"Ai...! Biết rồi." Dương Thu Trì ủy khuất ôm đầu.
Liễu Nhược Băng thấy thần tình u rũ của hắn, dịu giọng bảo: "Trì đệ, tỷ tỷ đã nói rõ rồi, cả đời này chẳng lấy ai nữa. Sau này đệ đừng đem chuyện này làm khó tỷ tỷ nữa a!"
Dương Thu Trì chẳng còn cách nào khác, gật đầu. Hắn hỏi tiếp: 'Đúng rồi, tỷ tỷ, lần trước tỷ thương thế nghiêm trọng, đệ không tiện hỏi kỹ, hiện giờ tỷ có thể cho đệ biết vì sao tỷ không muốn lấy ai không?"
Gương mặt băng sương ngọc khiết của Liễu Nhược Băng khôi phục lại vẻ ưu thương điềm đạm, ôm gối nhìn vầng mặt trời đã chìm hơn nửa xuống triền núi: "Mẹ ta vốn rất mặn nồng với cha ta, nhưng mẹ ta chỉ sinh có mình ta là nữ, không sinh con trai. Gia gia của ta rất tức giận, yêu cầu mẹ ta bỏ vợ. Cha không chịu, nhưng sau này một trận lửa lớn đã thiêu hủy dung mạo của mẹ ta, gia gia ta lại bức cha ta bỏ vợ tiếp..."
"Kết quả là cha tỷ đáp ứng?"
"Đúng..., mẹ ta dẫn ta đi, không mặt mũi nào về nhà, chỉ còn mang ta lưu lãng tứ xứ, không lâu bệnh chết. Khi sắp chết, sư phụ ta vừa khéo đi qua, mẹ ta cầu sư phụ ta thu ta làm đồ đệ." Dừng lại một chút, quay đầu lại hỏi: "Đệ hiểu vì sao ta không muốn lấy ai không?"
Điều này giống y như kiếp trước của Liễu Nhược Băng, Dương Thu Trì gật đầu: 'Hiểu chút chút, tỷ sợ hôn nhân, sợ sau khi yêu sâu đậm một người rồi cuối cùng không thể không thống khổ li khai, do đó tốt nhất đừng yêu ai cả."
Liễu Nhược Băng thở dài, không nói gì nữa.
....
Trên đường đi, tuy họ nghĩ đủ biện pháp nhưng không lấy được văn khế tặng thiếp trong lòng tiểu quận chúa hủy đi, cuối cùng đành vậy.
Càng đến Trường sa, dấu vết chiến tranh càng ít.
Khi tiếp cận Trường Sa, gần như không nhìn thấy bóng dáng chiến tranh nữa. Hai bờ sông thỉnh thoảng xuất hiện nông phụ vừa giặt tẩy vừa cười đùa, hoặc mục đồng cưỡi trâu thổi sáo, nông hán cày ruộng, khói xanh từ các thôn trang... Tất cả hiện lên vẻ ruộng đồng yên tĩnh.
Dương Thu Trì rất cao hứng, cuối cùng cũng tìm được nơi thế ngoại đào nguyên, bình an hạnh phúc rồi.
Trên đường không có gì xảy ra, mười mấy ngày sau họ cuối cùng cũng đến được Trường Sa.
 
Chương 81: Làm quan một cõi, tạo phúc một phương
Bọn Dương Thu Trì tìm một khách sạn nghỉ trước. Liễu Nhược Băng không muốn đến Phúc vương phủ, cho nên Dương Thu Trì lưu lại Quách Tuyết Liên lo liệu cho nàng, lại để tiểu hắc cẩu ở lại làm hộ vệ. Dọc đường, Dương Thu Trì đã bồi dưỡng cảm tình giữa tiểu hắc cẩu và Liễu Nhược Băng, chú chàng giờ đã biết Liễu Nhược Băng là chủ nhân của mình.
Sau khi an bài đâu ra đó, Dương Thu Trì và Lưu Dũng cùng ba hộ vệ dẫn tiểu quận chúa Chu Phượng Đức đến Phúc vương phủ.
Khi thông báo vào, quản gia nhanh chóng xuất hiện, khóc lóc nghênh đón họ vào phòng khách, và thông báo với Phúc vương.
Trước đó, Phúc vương đã nhận được tin tức Sở vương bị dìm xuống sông, bầu bí thương nhau, khi nghe tiểu quân chúa Chu Phượng Đức đến, lập tức mang vợ con ra đón. Khi thấy Chu Phượng Đức thần kinh thất thường, điên điên cười ngớ ngẩn, ông ta càng đau lòng hơn, ôm tiểu quân chúa thất thanh khóc, nhất thời cả phòng khách đầy nỗi đau buồn.
Khó khăn lắm mới thu được lệ, họ chia chủ khách mà ngồi.
Phúc vương kéo tiểu quận chúa ngồi kế mình, gạt lệ quét mắt nhìn Dương Thu Trì và mọi người. Lưu Dũng là đội trưởng hộ vệ của Sở vương phủ. Mã Lăng vũ là nội vệ tổng kỳ. Hai người này Phúc vương đã từng gặp qua, nhưng Dương Thu Trì, Phó Quan và Hồ Thủy thì không nhận ra, hỏi: "Các ngươi là người gì của Sở vương phủ?"
Dương Thu Trì cùng mọi người vội đứng lên, cung thân thi lễ, tự báo danh lên.
Tiểu quận chúa ngờ nghệch ngồi nghe, đến khi nghe tên của Dương Thu Trì, đột nhiên cười hi hi, móc từ trong người ra văn khế tặng thiếp, đứng lên chạy lúp xúp lại, quỳ sụp xuống trước mặt Dương Thu Trì. Không chờ mọi người kịp phản ứng, nàng dập đầu lạy binh binh mấy cái, miệng lầm rầm: "Phượng Đức là tiểu thiếp của Dương lão gia, phải ở cạnh lão gia, sớm sinh con trai cho lão gia! Hi hi hi...!"
Dương Thu Trì tức thời đỏ mặt tía tai, không biết như thế nào mới phải.
Mấy nha hoàn và bà vú vội đến đỡ nàng dậy quay về chỗ ngồi, nhưng vừa ngồi lên, tiểu quận chúa đã nhân lúc bọn họ buông tay ra, như luồng khói chạy tới dập đầu lạy Dương Thu Trì, khiến hắn hoảng hốt tránh ra.
Khó khăn lắm mới đưa ép tiểu quận chúa trở về chỗ ngồi. Phúc vương vội hỏi đây rốt cuộc là thế nào. Lưu Dũng bèn đem sự tình kể hết.
Phúc vương ra lệnh đến dùng sức đoạt lấy văn khế, nhíu mày đọc xong, tẹt một cái xé thành hai mảnh. Ông ta còn định xé tiếp, không ngờ tiểu quận chúa ở bên cạnh đột nhiên thoát khỏi sự không chế của nha hoàn, nhào nhanh tới nắm hàm râu bạc của Phúc vương, bóp cổ ông ta giằng lại hai mảnh rách của văn khế.
Tiểu quận chúa mở to mắt nhìn hai mảnh rách của văn khế, miệng chề ra rồi òa khóc thật lớn, và vô luận Phúc vương cùng các tần phi khuyên giải thế nào cũng không dừng, khóc như cái ống bễ vậy. Cho đến khi một bà vú nhanh trí mang đến một tờ giấy trắng và hồ, dán hai tờ văn khế lại với nhau, tiểu quận chúa mới dừng gào khóc, bỏ văn khế vào trong lòng, dùng tay đè lên, miệng không ngừng rêu rao: "Ta là tiểu thiếp của Dương lão gia, phải sớm sinh cho lão gia một đứa con trai."
Phúc vương khóc cũng không được cười cũng không xong, vội bảo Ngô quản gia an bài chiêu đãi năm người Dương Thu Trì, sau đó dẫn các phi tần dụ tiểu quận chúa đi vào nội đường.
Ngô quản gia hỏi Dương Thu Trì: "Dương hộ vệ, các vị sau này định thế nào a? Có muốn làm việc ở trong phủ của Phúc vương không?"
Dương Thu Trì kiên định lắc đầu: "Đa tạ mỹ ý của quản gia, tại hạ là hộ vệ của Sở vương phủ... có câu..., cái gì mà một thấn không thể hai chủ... dù sao thì tôi cũng muốn làm chuyện khác chút, có thể nuôi gia đình là được rồi."
Bọn bốn người Lưu Dũng là do Dương Thu Trì cứu mạng, ở Vũ Xương đã phát thệ theo hầu làm tùy tùng của hắn, thấy hắn không lưu lại Phúc vương phủ, bọn họ đương nhiên cũng không ở lại.
Nguyên nhân Dương Thu Trì cự tuyệt rất giản đơn. Hắn không muốn làm người gác nhà giữa cửa của người khác. Trước kia ở Vũ Xương vì bất đắc dĩ phải lo cho sự sống, hiện giờ đã đến ở phương nam thái bình thịnh thế rồi, cách xa vùng chiến hỏa khói tên, bá tánh an cư lạc nghiệp. Tuy hắn biết Đại Minh chẳng mấy chốc sẽ bị diệt vong, nhưng trong thời gian ngắn sẽ không sao. Hắn tuy học lịch sử không giỏi, cũng biết sau khi Sùng Trinh hoàng đế treo cổ chết xong, Ngô Tam Quế dẫn Thanh binh đánh vào Bắc Kinh, lại cùng tàn quân của Lý Tụ Thành và Trương Hiến Trung chiến đấu giằng co thêm nhiều năm nữa cuối cùng mới thống nhất toàn quốc. Sau đó, nam nhân toàn quốc mới gọt đầu để đuôi sam, đó là chuyện mãi tận sau này.
Tiếp đó hắn nhớ lại, trong Lộc Đỉnh ký có đề cập đến Đại minh chánh thống cái gì đó, còn nhớ rằng dường như là phần tàn dư của Đại minh là vương triều Nam Minh còn đề kháng quân Thanh mấy chục năm, cuối cùng mới bị bình định. Lúc đó trọng điểm đề kháng chủa yếu là Hồ Nam Giang Tây, như vậy có thể nói, chí ít vẫn còn khá nhiều năm thái bình. Chờ quân đuôi sam đánh tới rồi, hắn sẽ nghĩ biện pháp khác, giỏi lắm thì chạy đến Đài Loan hay là Hải ngoại, dù gì thì có chết cũng không cạo đầu âm dương (Chú: cạo phần trọc phần để tóc, tóc búi kiểu người nhà Thanh).
Tuy Dương Thu Trì nói hàm hàm hồ hồ, nhưng ý tứ trong đó đã quá rõ ràng, Ngô quản gia gật đầu: "Ừ...! Vương gia nói, ngươi cứu tiểu quận chúa, phải báo đáp ngươi cho thật tốt. Nếu như ngươi không muốn lưu lại trong phủ, cũng không cưỡng cầu. Như vầy đi, các ngươi dọc đường mệt nhọc cực khổ, hãy về khách sạn nghỉ ngơi trước, ta bẩm báo với vương gia xong rồi sẽ định đoạt."
Dương Thu Trì và bọn Lưu Dũng về khách sạn, đem sự tình đơn giản thuật lại cho Liễu Nhược Băng nghe. Liễu Nhược Băng mỉm cười nói: "Đệ làm rất đúng, ta cũng không muốn ở dưới quyền người."
Tối hôm đó, gia đinh của Phúc vương phủ tới thỉnh cả nhóm họ đi đến phủ dự yến. Liễu Nhược Băng đương nhiên không đi, cho nên Quách Tuyết Liên và tiểu hắc cẩu lưu lại khách sạn cùng nàng. Dương Thu Trì mang theo Lưu Dũng cùng mọi người đến Phúc vương phủ.
Phúc vương phủ đã bày tửu yến. Ở cấp bậc của hắn, Phúc vương không thể ra mặt tiếp đãi, cho nên cho Ngô quản gia và các vị hộ vệ đội trưởng, tổng kỳ ngồi tiếp.
Rượu qua ba lượt, đồ ăn năm vị xong, Ngô quản gia cười nói: "Dương hộ vệ, Trương tặc phong ngươi làm quan, nhưng Dương hộ vệ treo ấn bỏ đi, nghìn dặm hộ tống tiểu quận chúa tới Trường Sa này, một phen trung nghĩa thật khiến người bội phục.
Vương gia có dặn bỉ nhân cấp cho Dương hộ vệ một công việc. Vũ Xương bị chiếm, bố chánh sứ ti của Hồ Quảng dời về Trường Sa, bỉ nhân tìm họ nói, vừa khéo ở Kiềm Dương huyện Tây Thần châu còn khuyết một chức điển sứ. Huyện Kiềm Dương này hơi nhỏ, không có huyện thừa và chủ bộ. Cho nên, điển sứ tuy cấp quan hôi thấp, nhưng là nhân vật số hai trong huyện rồi. Chỗ này xin cho người, Dương hộ vệ có hứng thú không?"
Phẩm trật của điển sứ chưa nhập lưu, ngay cả tòng cửu phẩm cũng chưa đủ. Vốn ra thì điển sứ là quan chức chuyên về thu phát công văn ở nha môn, thuộc quan văn. Nhưng do Minh triều giảm biện chế quan viên rất nhiều ở huyện nha, không thiết huyện úy, tập bộ. Như vậy chuyện giám ngục và sự vụ hình danh đều do điển sứ lo liệu, tương đương với cục trưởng cục công an bây giờ. Xem ra nhận chức đó, hắn tương đương với giám đốc sở và chủ nhiệm văn phòng chính phủ của huyện luôn rồi.
Quan lại từ thất phẩm trở lên của Minh triều đều được Lại bộ ở kinh thành bổ nhiệm. Từ bát phẩm trở xuống đều do bố chánh sứ ti cấp tỉnh trực tiếp bổ nhiệm, báo lại với Lại bộ là xong.
Dương Thu Trì tuy hai trăm năm trước là cẩm y vệ chỉ huy sứ, siêu phẩm Trấn quốc công, nhưng hiện giờ là chuyện 200 năm sau rồi, không còn ai biết hắn nữa, mọi thứ đều phải làm lại từ đầu, đành phải phát triển từ cơ sở lên thôi.
Do đó, Dương Thu Trì đứng dậy ôm quyền khom người: "Đa tạ quản gia! Tại hạ cảm kích bất tận!"
"Nói hay lắm! Vậy được, sáng ngày mai bỉ nhân sẽ đưa các ngươi đến bố chánh sứ ti làm thủ tục là có thể đi nhận nhiệm sở rồi." Ngô quản gia cười ha hả, chuyển đầu nhìn bọn Lưu Dũng. Ông ta đã biết Dương Thu Trì cứu tính mệnh của họ, họ đã thề chết theo hầu, cho nen nói: "Các ngươi cứ theo Dương điển sứ đến huyện Kiềm Dương, phụ tá cho Dương điển sứ đi."
Bốn người đứng dậy ôm quyền: "Vâng! Nhất định tận tâm kiệt lực phò tá Dương gia."
Tửu yến kết thúc, bọn Dương Thu Trì về khách sạn, đem chuyện này nói cho Liễu Nhược Băng nghe. Liễu Nhược Băng cũng rất cao hứng, khen: "Xem ra bước này của đệ đi đúng rồi, có thể làm một điển sứ đã không tệ, làm tốt vẫn có thể tạo phúc cho một vùng mà."
Sáng hôm sau, Ngô quản gia dẫn Dương Thu Trì đi làm thủ tục, lấy lệnh ủy nhiệm và hai chục lượng bạc trắng làm phí phái khiển (đi nhậm chức).
Ngô quản gia chuẩn bị cho họ một xe ngựa và mấy thớt tuấn mã, lại tặng Dương Thu Trì 50 lượng bạc làm lộ phí, rồi đưa họ ra khỏi thành.
Dương Thu Trì, Liễu Nhược Băng và Quách Tuyết Liên ôm tiểu hắc cẩu ngồi xe. Lưu Dũng và các hộ vệ cưỡi ngựa, dọc theo dịch đạo đầy ổ gà lắc lư tiến đến huyện Kiềm Dương.
Huyện Kiềm Dương ở Tương Tây, cự li cách Trường Sa gần bằng từ Trường sa đến Vũ Xương. Hơn nữa không thông đường, ngay quan đạo chánh quy cũng không có, cho nên chỉ đi dịch đạo giản đơn.
Đi được mấy ngày, bọn họ mới phát hiện chỗ mà họ được phái tới xa như thế nào, rất may là dọc đường cảnh vật xinh đẹp, dân chúng thuần phác, chẳng thấy chút dáng vóc chiến tranh nào. Khi bọn họ vội đi không kịp đến dịch trạm, thường đến trong thôn thỉnh cầu tá túc, đều được nhiệt tình khoản đãi.
Càng đi về trước, thế núi càng hiểm trở, nhiều khi phải leo lên đỉnh núi, rồi từ từ xuống đến tới chân, lại leo tiếp lên đỉnh. Đường núi trơn trợt, nhưng cảnh vật càng lúc càng đẹp. Mao lão nhân gia (Mao Trạch Đông) quả không sai khi nói "Vô hạn phong quang tại hiểm phong" (cảnh đẹp vô hạn thường ở nơi hiểm trở), lúc này thì hắn đã hiểu câu đó rốt cuộc là như thế nào.
Đi hơn nửa tháng, đén chiều một ngày nọ, họ cuối cùng đến được Kiềm Dương huyện, Thần châu ở Tương Tây.
 
Chương 82: Án đầu khi đến nhận nhiệm sở
Huyện thành này cũng quá đơn giản, thành tường không cao, ngay hộ thành hà cũng không có. Cửa thành chỉ là cổng gỗ sơ sài.
Dương Thu Trì chỉ là một điển sứ không nhập lưu, tự nhiên không có chuyện quan huyện và hương thân ra nghênh tiếp. Cửa thành môn có hai binh sĩ ngồi trên hai cái ghế trúc ngồi uống trà nói chuyện phiếm, căn bản không chú ý người ra vào. Có thể thấy nơi đây thanh bình rất lâu, hơn nữa do nơi đây không có phương tiện liên lạc, là vùng khá xa, căn bản không biết chiến tranh phát triển như thế nào. Và khói lửa xác thật là quá xa nơi này.
Bá tánh ra vào cửa thành y sam lam lũ, đội mũ rơm, vác củi, đồ làm nông chân trần bước lên đá xanh loạt soạt.
Không ai kiểm tra, bọn họ từ từ tiến vào thành. Liễu Nhược Băng hành tẩu giang hồ, thấy nhiều rồi đương nhiên không cho đó là kỳ. Nhưng Dương Thu Trì và Quách Tuyết Liên đối với địa phương sắp sửa sinh sống đây vẫn đầy sự hiếu kỳ, nên vén rèm nhìn đông nhìn tây cổ thành cũ kỹ này.
Lưu Dũng hỏi phương vị của huyện nha, rồi cả đoàn đến thẳng đó.
Huyện nha còn cũ hơn cả cổ thành, chỉ có điều hai nha dịch đứng trước cửa còn có chút tinh thần, eo mang đao bặm môi nhìn trừng vào những người qua lại.
Dương Thu Trì cho xe ngựa dừng lại ở cửa nha môn. Nha dịch định quát hỏi, chợt thấy Lưu Dũng ễnh bụng bậm môi nhìn trừng hắn, so với hắn còn dữ hơn, liền đổi sang mặt cười hỏi: "Các vị đến huyện nha có chuyện gì?"
Lưu Dũng đáp: "Lời thừa! Không có chuyện ai chạy tới huyện nha làm cái gì?" Y chuyển thân khom người hướng về phía Dương Thu Trì, "Vị lão gia trong xe này chính là điển sứ tân nhiệm của Kiềm Dương huyện Dương đại nhân! Công văn của Bố chánh sứ ti vẫn chưa đến sao?"
Dương Thu Trì cùng mọi người thong thả bước đến, công văn bổ nhiệm truyền thông qua dịch trạm, đương nhiên là đến nhanh hơn họ nhiều. Do đó người trong nha môn đều biết có một điển sứ mới đang đến nhận nhiệm sở.
"Đến rồi! Đến rồi! Tiểu nhân lập tức bẩm báo tri huyện đại lão gia!" Hai nha dịch gập người khom lưng hồi đáp, một tên vội chạy nhanh vào báo, một tên cười toét miệng đón chào Dương Thu Trì: "Tứ lão gia cực khổ quá! Xe ngựa tiến vào cửa hong, tiểu nhân sẽ mở cửa ngay." Nói xong, y lặt lè chạy đi mở cửa, khom người mời xe vào trong.
Ở huyện nha, Điển sứ xếp sau tri huyện, huyện thừa và chủ bộ, do đó nên mới được gọi là "Tứ lão gia".
Xe tiến vào nha môn, vòng qua chiếu bích (giống bình phong, nhưng bằng đá, dùng dán các thông báo, cáo trạng của nha môn), đến giếng trời ở đại đường. Tên nha dịch khom người nói: "Tứ lão gia, nội trạch của điển nha đã được quét dọn sạch sẽ, ngài đến nội phủ nghỉ ngơi trước, chờ lục phòng ti lại và thư lại, tam ban nha dịch tề tụ đầu đủ, tiểu nhân sẽ đến bẩm báo ngài, được không ạ?"
Dương Thu Trì gật đầu, tên nha dịch đó lập tức dẫn đầu xe ngựa quẹo tiến vào nội trạch của điển sứ.
Điển sứ đứng hàng thứ tư, nội nha đương nhiên đơn sơ kém nhất trong nha môn. Rất may là huyện Kiềm Dương hơi nhỏ, chỉ thiết có tri huyện và điển sứ, cho nên chỗ bày biện trong nha môn vẫn khá lớn.
Nội nha của điển sứ là trạch viện ba cửa, bên ngoài là chổ nghỉ cho tùy tùng, bên trong là tiểu trạch viện cho gia quyến ở. Xe ngựa tiến vào cửa nội trạch thì dừng lại. Dương Thu Trì xuống xe ngựa, nhìn quanh, thấy cũng tạm được, chí ít so với thôn xóm tàn phá trước kia hắn và Quách Tuyết Liên ở nhiều.
Liễu Nhược Băng và Quách Tuyết Liên cũng xuống xe. Liễu Nhược Băng gặp sao yên vậy, không vì ngoại vật mà vui, không vì bản thân mà buồn, cho nên ở bất kỳ hoàn cảnh nào, tốt xấu ra sao cũng bình thản. Còn Quách Tuyết Liên thì lại vô cùng cao hứng, kéo cánh tay Dương Thu Trì chỉ đông chỉ tây tặc lưỡi lia lịa. Nội trạch lớn như sân bóng đá này mà chỉ có ba người họ ở, nàng lại là người cùng khổ lớn lên, chưa bao giờ đến ở trong nha môn, huống chi là ở trong trạch viện rộng rãi thế này.
Tiến vào nội trạch, quan sát khắp nơi, họ thấy nó rất sạch sẽ.
Tên nha dịch đó gọi các người hầu trong nha môn tới giúp khuân vác hành lý. Từ Trường Sa tới đây, những gì cần chuẩn bị cũng đã chuẩn bị rồi, nên hành lý của họ không ít.
Dương Thu Trì biết lần này thông báo vào tri huyện lão gia sẽ nhanh chóng đến, cần phải chỉnh tề trang phục ra mắt cho ổn thỏa. Cho nên, hắn tiến vào nội trạch là vào ngay phòng ngủ. Quách Tuyết Liên đã sớm lấy ra quan bào của hắn, giúp hắn mặc chỉnh tề. Vừa xong thì một tên nha dịch khác đã chạy vào, khom người nói: "Tứ lão gia, đã báo cho tri huyện đại lão gia rồi, lão gia sẽ lập tức ra, xin mời ngài đến hoa phòng (phòng tiếp khách quý) chờ? Nho học giáo dụ và huấn đạo đều đã chờ sẵn, lục phong quan lại đều đã hiện diện ở Thiêm áp phòng, có mặt đầy đủ cả rồi."
Dương Thu Trì gật đầu, cầm ủy nhiệm trạng lắc lư cái mũ cánh chuồng trên đầu theo tên nha dịch này rời khỏi nội trạch của điển sứ, xuyên qua giếng trời ở đại sảnh, đến hoa phòng. Đó chính là chỗ của nha môn chuyên dành tiếp khách quý.
Tiến vào hoa phòng, hắn thấy ở đó đã có sẵn hai người. Một người là trung niên khoảng bốn chục tuổi, mặt mày anh tuấn, nhưng người hơi ốm. Một người là lão giả sắp sáu mươi, lưng hơi khom, hai mắt nheo lại, tẩu thuốc phiện lập lòe, dương như là có thêm con mắt vậy.
Tuy không ai dẫn tiến, nhưng Dương Thu Trì đã đoán ra thân phận của hai người ắt là giáo dụ và huấn đạo của nho học trong huyện.
Ở Minh triều, cấp châu huyện có đặt Hữu quan học chính là chức quản lý mở dạy các trường lớp nho học. Loại quan này không phải ai muốn vào thì vào, mà phải kinh qua khảo thí cở cấp huyện (thi huyện), cấp địa khu (thi phủ). Người vượt qua rồi mới có tư cách đồng sinh, sau đó tham gia kỳ thi cấp tỉnh (Viện thí), rồi từ số người vượt qua kỳ thi này chia ra làm sáu cấp, cấp một và hai được tư cách "sinh viện", thường gọi là Tú tài. Nếu được tư cách này thì mới có thể vào học giáo Nho học của quan phủ mở để học tập, sau đó mới có thể tham gia thi hương và các cuộc thi khoa cử chính thức khác.
Quan viên nho học cấp huyện thuộc về quan lại chính thức của quốc gia, chủ yếu là Giáo dụ và Huấn đạo. Giáo dụ là lãnh đạo quan học trong huyện, huấn đạo chính là thầy dạy. Phẩm trật của Giáo dụ giống như điển sứ, đều thuộc về loại chưa nhập lưu (chưa tính vào quan lại chính thức), nhưng do án theo quy định phải là giám sinh hoặc cử nhân mới có thể đảm nhiệm, cho nến cũng có chút tài. Giáo dụ và Huấn đạo không có thực quyền gì, bỡi vì quyền quyết định tự cách đồng sinh để khảo thí nằm trong tay trưởng quan của châu huyện, và tư cách để nhập học vào các trường do chính phủ mở lại nằm trong tay người đứng đầu việc học ở tỉnh, khảo thí khoa cử trong kỳ thi hương chính quy càng không phải là chuyện nằm trong tay họ, còn sinh viên (tú tài) là người có công dạnh, phải kinh qua học chánh của tỉnh phê chuẩn mới được xử lí, cho nên hai người này không có quyền lực gì, là những chức vị được coi là thanh liêm nhất (và ốm đói nhất) trong nha môn.
Nhưng mà, Dương Thu Trì đối với các giáo sư "vi nhân sư biểu" (thầy dạy làm người) vô cùng kính trọng, cho nên vừa vào là bước lên một bước, vái dài ông lão mắt mũi kèm nhèm đó: 'Học sinh Dương Thu Trì tham kiến Giáo dụ đại nhân!"
Lão giả đó cười hăng hắc, miệng đã không còn mấy cái răng, xua tay chỉ vào trung niên ốm cao: "Điển sứ đại nhân, vị này... chính là Giáo Dụ Lý Triệu Sâm Lý đại nhân của trường học nho của bổn huyện. Lão hủ Từ Diệp, là huấn đạo của huyện nhà, ha ha."
Thì ra là nhìn lầm người, lão gia hỏa này là bộ hạ, trung niên mới là "sếp"! Dương Thu Trì hơi ngượng, quay sang trung niên chấp tay thi lễ: "Hắc hắc, giáo dụ đại nhân, thật là xin lỗi, học sinh nhìn lầm người, học sinh tham kiến giáo dụ đại nhân!"
Giáo dụ vội đứng dậy khom người: "Không dám, điển sứ đại nhân giết ti chức rồi." Giáo dụ và điển sứ tuy đều là quan viên chưa nhập lưu, nhưng dù sao thì thực quyền của điển sứ cũng lớn hơn.
Xem ra một già một trung niên này tài học không tệ, Dương Thu Trì liền sinh hảo cảm, vội thuận theo tay mời của giáo dụ và huấn đạo, ngồi xuống hàn huyên.
Vừa nói được mấy cấu, một trung niên nhỏ người chợt chạy vào, nhìn Dương Thu Trì mặc quan bào điển sứ, cười hắc hắc xong đứng lên cao giọng: "Tri huyện của bổn huyện Lôi Minh Lôi đại lão gia đến...! Nghênh...!"
Ba người Dương Thu Trì vội đứng dậy, chỉnh lý quan bào nhìn ra cửa. Chẳng mấy chốc có một lão đầu đi chậm người mặc quan bào tri huyện thất phẩm bước vào. Ông ta đại khái 50 tuổi, lưng hơi gù, máy sợi râu dê thưa thớt, đi đi dừng dừng không ngừng ho, phía sau có mấy sư gia và cân ban trưởng tùy.
Dương Thu Trì vội bước lên, cung thân thi lễ: 'Hạ quan Dương Thu Trì tham kiến Lôi đại nhân!" Rồi hắn đưa ủy nhiệm thư trong tay ra trình lên: "Đây là ủy nhiệm thư của hạ quan."
Tri huyện Lôi Minh tiếp lấy nhưng không xem, chuyển cho cân ban trưởng tùy chuyên hô đọc ở bên. Sau đó ông ta ho hai tiếng, cất giọng khàn khàn bảo: "Điển sứ đại nhân đi đường mệt nhọc, mau mời ngồi...!" Nói xong ông ta cũng vén áo ngồi xuống.
Dương Thu Trì thầm nghĩ tri huyện này tên là Lôi Minh, nói chuyện là chẳng có điểm nào giống sấm gầm, làm hư cả danh hiệu. Hắn chấp tay xá xá, cũng ngồi xuống.
Lôi Minh giới thiệu sư gia và cân ban trưởng tùy của mình trước, đây là để dễ cho công tác của hắn sau này. Sau đó, ông ta đơn giản giới thiệu tình huống cơ bản của Kiềm Dương huyện. Đây là một địa khu nhiều dân tộc, núi cao rừng rậm, không có nhiều ruộng, giao thông bất tiện, dân tình thuần phác. Nhưng lão bá tánh sinh hoạt hơi nghèo khổ. Đương nhiên cũng chính vì thế mà những năm nay phản tặc khởi binh (nông dân khởi nghĩa) không ảnh hưởng đến đây, tháng ngày qua đi cũng khá thái bình. Sau này từ từ sẽ hiểu ra thôi.
Hàn huyên một hồi, Lôi Minh lại dẫn tiến hắn với các thư lại trong nha môn. Hai người đến cửa Thiêm áp phòng, nơi đây đã đứng đầy mấy chục người, phân làm ba hàng, hàng trước là trưởng quan tư lại của lục phòng, hai hàng sau là lục phòng thư lại và tam ban nha dịch (gồm tạo đãi, bộ khoái, dân tráng). Ngoài ra còn có ngỗ tác, quái tử (đao phủ), cấm tốt, lao đầu, phô binh đưa tin, đấu cấp chuyên trông coi kho, khố tử (coi ngân khố), môn tử (phục vụ trưởng quan), kiệu phu (khiêng kiệu), phiến phu (lính quạt), tán phu (lính che lọng, dù), canh phu (đánh canh), hỏa phu (nhóm bếp), đăng phu (lo đốt đèn), trà phu (rót nước pha trà), thủy phu (lo gánh nước), minh la phu (lo gõ chiêng dẹp đường), chung cổ phu (đánh chuông trống), cước phu (khuân vác) vâng vâng.
Sau khi gặp qua, Dương Thu Trì bảo bộ khoái và cấm tốt lưu lại, vì đó là bộ hạ của hắn sau này, rồi bắt đầu hỏi tên và tình hình từng người. Bộ đầu tên Ngụy Trì, là một hán tử mặt đen, lùn mập mày rậm mắt to, toàn thân rắn chắc, xem bộ dạng không tệ. Lao đầu là Tống Bá Nhân, là trung niên mắt hí rị.
Đang nói chuyện, chợt một thư sinh mặc trường sam màu xanh hoảng hốt chạy vào: 'Giáo dụ đại nhân đâu? Giáo dụ Lý đại nhân ở đâu?"
Bộ đầu Ngụy Trì nhíu mày: 'Làm cái gì đó? Điển sứ đại nhân ở đây, ngươi kinh hoảng như vậy còn ra thể thống gì?"
Thư sinh đó vội bước đến, vái dài Dương Thu Trì: "Học sinh Lưu Mộng Chương ra mắt điển sứ đại nhân."
Dương Thu Trì gật đầu: 'Có chuyện gì mà hoảng hốt vậy?"
"Tú tài Triệu Thiên Châu trong học cung mấy ngày nay không thấy đâu, từ tối qua trong phòng ở túc xá trong học cung của hắn truyền ra một mùi rất khó ngửi, có điểm giống... giống mùi thối xác chết..., mọi người hoài nghi có lẽ là hắn chết trong đó. Hôm nay mùi càng lúc càng nồng, mọi người đều rất lo, nên đặc biệt đến bẩm báo Giáo dụ."
Hả? Mọi người đều cả kinh. Dương Thu Trì không khỏi cười khổ lắc đầu. Hắn vừa mới đến được Kiềm Dương huyện xa xôi này, chưa uống được ngụm nước nào là gặp phải án rồi. Hắn quả đúng là sao chổi mà.
 
Chương 83: Di thư
Giáo dụ Lý Triệu Sâm và Huấn đạo Từ Diệp Chánh đang nói chuyện với tri huyện lão gia ở bên cạnh, Lý giáo dụ vội chạy tới hỏi kỷ tình huống, nghe xong tin này liền ngẩn ra như con gà gỗ, rồi co giò định chạy, nhưng bị Huấn đạo kéo ngăn lại: "Chờ đã Lý giáo dụ! Tri huyện, điển sứ đại nhân ở đây, chờ hai đại nhân có lời rồi hẳn tính!"
Lý giáo dụ lúc này mới phát hiện hơi thất thái, vội đứng lại nhìn về phía tri huyện Lôi Minh. Đại lão gia ở đây, đâu tới lượt bọn họ lên tiếng chứ.
Lôi Minh tri huyện nghe có thể đó là án mạng, tức thời theo tập quán khẩn trương trở lên. Ông ta tuổi đã lớn, không muốn trước khi cáo lão hoàn hương còn phát sinh đại án gì ảnh hưởng đến danh tiếng và đường công danh. Cho nên, cái hàm râu dê lưa thưa của lão run loạn, vừa ho vừa nói với Dương Thu Trì ở bên cạnh: "Dương đại nhân, chuyện bắt phạm phá án này, khụ khụ..., là chức trách của điển sứ. Tuy Dương đại nhân dọc đường mệt nhọc, nhưng mạng người quan trọng, khụ khu khụ..., hơn nữa kẻ thất tung Triệu Thiên Châu chính là rễ hiền của Lý giáo dụ, khụ khụ, ngài coi..."
Dương Thu Trì nhìn Lý giáo dụ đang thất hồn lạc phách ở bên cạnh, chấp tay nói: "Đại nhân, đây là chuyện thuộc bổn phận của ti chức, vậy để ti chức đi xem xét thử."
Kiệu phu vừa ở đây, điển sứ tuy cấp quan nhỏ, nhưng dù sao cũng là quan, ra cửa phải ngồi kiệu, có kiệu phu chuyên môn của mình. Cho nên, kiệu phu vội mang kiệu tới, Dương Thu Trì cùng giáo dụ, huấn đạo ngồi kiệu riêng, dẫn Lưu Dũng và ba hộ vệ còn lại cùng các bộ khoái, ngỗ tác ngồi kiệu đến học cung.
Nho học của Minh triều không tổ chức ở nha môn, mà là tổ chức ở học cung chuyên môn, cự li không xa, chừng thời gian uống cạn tuần trà là tới.
Học cung này còn cũ kỹ hơn cả nha môm, tường vây được bản gỗ giáp thành, rất nhiều chỗ bị thủng có kẻ hở, mấy đứa bé chui qua chui lại từ kẻ hở này để chơi trò rượt bắt. Khi tiến vào bên trong, thấy một sân lớn rộng rãi sạch sẽ, nhưng phòng ốc bốn phía đều ngã nghiêng, có mấy phòng phải dùng cây gỗ mà chống, nếu không chỉ đầu năm sau là sập.
Trong viện tụ tập không ít tú tài học sinh, chỉ tay múa chân nghị luận. Nhìn thấy giáo dụ, huấn đạo ngồi kiệu đi tới, họ vội đứng thẳng cúi đầu chào. Chờ đến khi thấy Dương Thu Trì xuống kiệu, bọn họ không biết nên xì xào dò hỏi.
Giáo dụ Lý Triệu Sâm chống gậy trúc xuống kiệu, vội vã chạy vào trong một ngôi nhà, lớn tiếng gọi: 'Thiên châu...! Thiên châu ơi...!"
Không ai trả lời.
Huấn đạo Từ Diệp Câu khom người chui ra khỏi kiệu, vẩy vẩy áo bào rộng thùng thình, giới thiệu Dương Thu Trì với các tú tài: "Chư vị, vị này là điển sứ tân nhiệm của huyện ta, Dương Thu Trì Dương đại nhân!"
Các học trò đều khom người sát đất chào.
Dương Thu Trì xua tay hỏi: "Căn phòng phát ra mùi thối ở đâu?"
Một tú tài râu trắng chỉ vào ngôi nhà hai tầng bằng gỗ có Lý giáo dụ đang ngưỡng cổ kêu gọi: "Gian phòng cuối ở phía nam trên tầng hai, cửa xem ra là bị chốt ở trong, đẩy không ra. Phía bắc không có cửa sổ nào."
Dương Thu Trì ngước cổ nhìn, ra lệnh: "Mang thang tới!"
Tạp dịch trong học cung vội chạy đi lấy thang mắc lên cửa sổ. Dương Thu Trì cảm thấy mặc quan bào quá phiền phức, cởi ra luôn quẳng cho Phó quang hộ vệ tùy thân của mình, chụp lấy thang định leo lên. Lý giáo dụ vội nói: 'Điển sứ đại nhân, hãy để ti chức lên coi tình hình tiểu tế thế nào!"
"Không, đây là bổn phận của bổn quan, không thể nhờ người khác. Ta phải tự thân tra xét, các ngươi đến hành lang tầng hai chờ ta, ta không có lệnh thì không được vào." Nói xong, hắn thuận theo thang leo lên.
Giáo dụ liên chạy ngay đến thang lầu phía bên kia, huấn đao cùng bộ phận tú tài già trẻ thích xem náo nhiệt cũng đua nhau kéo lên lầu, đến trước cửa phòng chờ.
Dương Thu Trì lên đến bên cửa, trước hết kiểm tra tình huống bên ngoài song cửa, không phát hiện điều gì bất thường, liền thử kéo cửa, thấy cũng bị chốt từ bên trong.
Hắn ghé sát vào ngách cửa, dùng ngón tay đâm thủng giấy dán, ghé mắt nhìn vào trong. Bên trong ánh sáng tuy hôn ám, nhưng có thể thấy rõ trên nền phía sau cửa có một thi thể, lưng dựa cửa, đầu gục xuống, mình mặc trường bào màu xanh, ở ngực có cấm một mủi đao, tay phải giữ cán đao, gần vết thương chỗ ngực có một khối huyết, nhưng trên nền không có. Ở giữa phòng cách thi thể mấy mét có một vũng máu, nhưng đã khô rồi.
Cửa chỉ có một cánh, đóng chặt, chốt ở một đầu được cài rất kỹ.
Dương Thu Trì móc ra đôi bao tay mỏng như cánh tầm đeo vào, xé rách giấy dán cửa sổ, làm gãy song cửa, thỏ tay vào mở chốt, mở cửa sổ ra tiến vào phòng.
Trong phòng ngoại trừ mùi máu nồng và mùi thi thể sình thối, còn có một mùi dược thảo nồng nặc.
Hắn cúi người xuống, lợi dụng ánh sáng cửa sở quan sát sàn ở các giác độ khác nhau xem có dấu giày khả nghi hay không. Thật đáng tiếc là trên sàn cực sạch, không phát hiện dấu giày nào, cũng không có dấu máu bị lau đi.
Quan sát quanh sàn xong, hắn nhíu mày suy nghĩ, rồi lắc đầu, đứng lên quan sát tình huống xung quanh.
Trong phòng bày biện vô cùng sơ sài, một giường gỗ, một cái mền mỏng xếp thành khối đậu hủ đặt sát tường, rất chỉnh tề. Trên tường có treo thư pháp, viết một bài thơ, xem lạc khoản (phần đề chữ, ghi tên trên bức vẻ hoặc thư pháp) và ấn chương, là của Triệu Thiên Châu. Khi vén giường ra, dưới giường có một cái rương gỗ, trên có khóa đồng. Khóa đồng hoàn hảo chẳng tổn thất gì.
Bên góc giường có một cái bồn tắm được che lại, bên cửa sổ có bàn sách, trên bàn sách nghiên bút sạch sẽ, trên giá bút có hai cây bút lông, một thô một mảnh, cũng được tẩy sạch. trên bàn có một chồng sách, đều thuộc loại tứ thư ngũ kinh, còn có một xấp giấy viết, trên đó đầy văn chương và thi từ rỗng toát.
Bên góc tường còn có một cái bàn để bồn gỗ và khan, còn có một cái bát to và đôi đũa. Bồn tắm cạnh bàn này còn phân nửa nước, bên trong có một trái bầu hồ lô được cắt ra thành gáo. Cạnh bồn tắm là lò lửa, đặt bên trong ít than. Trên lò lửa có đặt một nồi thuốc, mở nắm ra lập tức ngửi thấy mùi thuốc nồng nặc.
Trên bàn còn có một bao thảo dược còn chưa mở ra.
Dương Thu Trì đến bên thi thể, cúi xúông quan sát. Thi thể bốc mùi rất khó ngửi, phần mặt đã xuất hiện hiện tượng thối rữa, nhãn cầu lộ ra, miệng chảy dịch đỏ, bụng căng phồng. Đây là hiện tượng do vi khuẩn lên men thối trong ruột già tạo thành khí mà trướng lên. Phần mặt và tay lộ ra ngoài xuất hiện ít mụn nước sình thối, có thể nhìn thấy các đường gân máu đen do thối xuất hiện.
Từ hiện tượng trên thi thể và hoàn cảnh nhiệt độ, độ ẩm xung quanh, tổng hợp phán đoán thời gian tử vong đại khái ba ngày. Do không thể giải phẩu, lại không có thiết bị đo nhiệt độ, không thể nào phán đoán chính xác hơn, cho nên hắn tính sai số bằng ngày.
Ánh mắt của hắn dời đến đúng vào miếng giấy trắng gấp lại đặt cách tay trái của thi thể không xa. Hắn cẩn thận mở ra, thấy ghi: "Mẹ: Hài nhi thân bị tuyệt chứng, bệnh đau đớn khó chịu, phải đi trước người rồi. Mong hãy bảo trọng! Đông Vân nếu muốn cải giá, mong mẫu thân đừng ngăn trở. Đứa con bất hiếu Triệu Thiên Châu tuyệt bút."
Tự sát? Thư sinh tên Triệu Thiên Châu này tự sát mà chết.
Đáng tiếc, hắn không có rương chứa dụng cụ khám nghiệm pháp y, không có công cụ từ đó có thể lấy dấu tay từ mồ hôi.
Dương Thu Trì cầm di thư, so với nét chữ viết trên tường và tập sách viết tay, thấy đặc trưng phù hợp, nói rõ di thư này là do Triệu Thiên Châu viết.
Tiếp đó, hắn đặt di thư lên bàn, kéo thi thể nằm xuống, hai chân đứng hai bên tử tế tra xét cánh cửa.
Cánh cửa này rất chắc, do là cửa đơn nên bị khuông cửa chèn chắc, bên ngoài nếu không dừng lực mạnh và đao nạy gì đó thì không mở được. Trên cửa cũng không phát hiện dấu vết khả nghi.
Sau khi mở cửa, hắn gọi giáo dụ, huấn đạo và bộ đầu đứng bên ngoài: "Ba người các vị vào đi, cẩn thận đừng đáp dấu máu trên sàn."
Lý giáo dụ chạy vào trước, nhìn thi thể dưới đất, tức thời sắc mặt đại biến. Ông ta hô lên một tiếng: "Thiên châu!" rồi bước lên cúi xúông nhìn kỹ, xong ngồi phịch xuống đất khóc rống lên.
Huấn đạo Từ Diệp và bộ đầu Ngụy Trì cùng bịt mũi, cẩn thân tiến qua khe cửa, nhìn thấy thi thể khủng bố trên đất cũng giật mình cả kinh, vội vã quay mặt đi. Từ huấn đạo bảo bọn thư sinh ở hành lang xuống lầu, sau đó đóng cửa lại.
Dương Thu Trì hạ giọng nói: 'Từ huấn đạo, ông coi người chết có phải là học sinh Triệu thiên Châu do ông dạy không?"
Từ huấn đạo gật đầu: "Không sai, là con rễ Triệu Thiên Châu của giáo dụ."
Dương Thu Trì lấy từ trên bàn ra phong di thư, hạ giọng nói với Lý giáo dụ: "Giáo dụ đại nhân, Thiên Châu lưu lại một bức di thư, ông coi xem có phải là nét chữ của cậu ta không."
Lý giáo dụ vội bò lên, run run đưa tay tiếp lấy di thư, cẩn thận xem một hồi, gật đầu nói: "Là Thiên Châu viết! Trời ơi, ba ngày trước nó còn cùng uống rượu ca hát, hiện giờ đã âm dương tương cách rồi. Thiên Châu ơi, con đi thì thống khoái rồi, nhưng mà... Đông Vân làm sao mà sống tiếp đây a!..." Ông ta đấm ngực kêu khóc nghe vô cùng thê thảm.
 
Chương 84: Bách thiện hiếu vi tiên (Trăm điều lành hiếu là trên hết)
Dương Thu Trì khẽ hỏi Từ huấn đạo đang bịt mũi ở bên cạnh: "Đông Vân là...?"
"Là con gái của Lý giáo dụ, khuê danh Lý Đông Vân, được gả làm vợ cho Triệu Thiên Châu. Thành thân được một năm, còn chưa có con, không ngờ rằng.... ai!"
"Giáo dụ đại nhân nói chuyện uống rượu hoan ca ba ngày trước là thế nào?"
"À..., học sinh trong học cung của bổn huyện kinh qua sự tuyển chọn của học chính, xác định thành tích đặc biệt ưu tú sẽ trực tiếp tiến cử làm cống sinh, nhập vào Quốc tử giám. Bốn người được chọn là Triệu Thiên Châu, Lưu Mộng Chương, Chu Tư Hạo và Tiểu An Nhiên, là sự vinh diệu khôn cùng. Do đó, học cung đã cử hành tiệc mừng ở hậu hoa viên. Ngày đó tri huyện lão gia và các vị chức sắc đều tới dự. Đáng tiếc là hài tử Thiên Châu này bạc mệnh, không có phúc hưởng vinh dự này!"
Dương Thu Trì quay đầu nhìn thuốc nấu trên lò lửa, hỏi: "Triệu Thiên Châu có bệnh?"
Từ huấn đạo thở một hơi dài: "Vâng! Mấy tháng trước bụng cậu ấy tự nhiên phình ra, vô cùng đau đớn, sắc mặt vàng vọt. Khi tìm mấy lang trung chẩn trị, đều nói là tuyệt chứng, bệnh đã vào trong xương, chẳng sống được mấy ngày, ai...! Một tháng nay, bệnh tình càng lúc càng nặng, mỗi ngày đều đau đớn khó chịu, rên rĩ gào thét, ngày đêm không ngủ được, các thu sinh cách vách đều chịu không được dọn ra xa. Cậu ấy cuối cùng nhịn không được căn bệnh dày vò, đã tự dứt đời, ai...! Đáng thương a!"
Dương Thu Trì à một tiếng, đưa tay vỗ vai Lý giáo dụ: "Đại nhân bớt buồn nín đau thương, hãy để ta kiểm tra thi thể một chút."
Lý giáo dụ bấy giờ mới sụt sùi lùi ra một bên.
Dương Thu Trì cho Ngỗ Tác tiến vào, căn cứ lời thuật của hắn mà ghi thi cách. Hắn sau đó đóng cửa phòng lại, cởi y phục của thi thể, tiến hành kiểm tra toàn thân.
Kiểm tra phát hiện thi thể không có vết thương bên ngoài nào khác, chỉ có ở trên cánh tay có một dấu cột hình trò ở cánh tay, không thấy có triệu chứng viêm đỏ hay xuất huyết dưới da nào, khiến hắn nhất thời không nghĩ ra nó hình thành bằng cách nào.
Tiếp đó, Dương Thu Trì tiến hành quan sát vết thương bị đâm ở trên ngực, rút đao ra một cách cẩn thận, xem xét thấy đó là con dao nhọn cán bầu. Khi so sánh với vết thương trên ngực, cơ bản phù hợp.
Hắn lấy một chiếc đũa đặt trên bàn ở góc tường lại, cẩn thận chọc vào trong vết thương, phát hiện xương ngực có một cọng bị đâm đứt, đâm thủng tim. Hắn vạch hai bên miệng vết thương ra xem, thấy thành vết thương nhẳn, vết thương bên bén bên tầy, không có chỗ dập mô cơ hay nội tạng, cho thấy là do vật bén gây ra.
Sau khi quan sát xong, Dương Thu Trì đứng lên, chong mắt nhìn vệt máu ở giữa nhà đến xuất thần, sau đó kiểm tra tử tế khắp phòng, bao gồm dưới sàn, trên nóc... Sau khi xong xuôi, hắn lắc đầu nói với Lý giáo dụ: "Giáo dụ đại nhân, ta phát hiện dưới giường có một cái rương bị khóa, có thể mở ra xem không?"
Lý giáo dụ khóc lóc gật đầu: "Thỉnh đại nhân cứ tự tiện."
Lúc nãy Dương Thu Trì đã lấy từ trong thi thể hai chiếc chìa khóa, trong đó có một chiếc mở được khóa đồng trên rương. Phần trên của rương có mấy bộ đồ cũ, khi tìm xuống dưới thì thấy một bọc nhỏ, mở ra xem hắn kinh ngạc vô cùng, vì đó là một bao bạc trắng! Số bạc này lên đến năm sáu chục lượng!
Một thư sinh nghèo mà lấy đâu ra nhiều tiền như vậy? Hắn gọi Lý giáo dụ lại, hỏi số bạc này có phải là ông ta cho hay không.
Lý giáo dụ nhìn số bạc mà trợn mắt sửng người, sụt sùi nói: "Hài tử Thiên Châu này tính rất hiếu cường, từ trước đến giờ không tiếp thụ những gì tôi tặng, nói là phải tự nuôi gia đình. Do đó tôi không cho nó bao nhiều tiền cả. Gia cảnh nó bần hàn, số bạc này làm sao mà có thì ti chức không biết, có thể là có ai đó thấy nó khắc khổ, tặng cho nó..., thật không ngờ là không dùng được rồi..." Nói đến đây, ông ta lại nghẹn ngào khóc.
Dương Thu Trì gật đầu, bảo: "Giáo dụ đại nhân, ta đã khám sát hoàn tất, ông có thể lo hậu sự cho con rễ được rồi."
Dưới sự khuyên nhủ của huấn đạo và bộ đầu, ông ta dần ngừng khóc, bi thương nói với Dương Thu Trì: 'Điển sứ đại nhân, ti chức có chuyện khẩn cầu."
Chức quan hai người gần bằng nhau, nhưng thực quyền của Dương Thu Trì lớn hơn, cho nên giáo dụ tuy thanh cao, cái cần trước mắt đã khiến ông ta tự xếp mình vào vị trí kém.
Nhưng mà Dương Thu Trì đương nhiên không thể lấy đó làm khinh nhờn, vội chấp tay nói: "Giáo dụ đại nhân nặng lời rồi, có lời gì xin cứ nói."
Lý giáo dụ đắn đo một chút, quay đầu nhìn huấn đạo và bộ đầu, xong hạ giọng nói: "Tử viết: 'Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chí thủy dã.' (Tức: Thầy Khổng Tử viết 'Thân thể tóc da, là của cha mẹ, không được hủy hay làm bị thương, phải có hiếu đến cùng.') Thiên Châu hài tử nếu không phải bệnh nặng khó chống chịu, nhất định không tới mức này. Cho nên..., ti chức khẩn thỉnh đại nhân nói ra ngoài là tiểu tế bệnh nặng mà mất, không biết có được hay không?"
Đây là một câu trong phần Hiếu Kính của Khổng Tử, ứng với cái gọi là "Bách thiện hiếu vi tiên" (trăm sự hiếu đặt lên hàng đầu), cũng là nói, thân thể con người bao gồm cả da hay tóc đều do cha mẹ cấp cho, không được khinh thường hủy hoại, nếu không ấy là bất hiếu. Do đó, từ góc độ chữ hiếu mà nói, thì Khổng Tử không tán thành tự sát. Đương nhiên, khi trung và hiếu không thể lưỡng toàn, thì phải giữ "Nghĩa", đó là có thế tuẫn quốc (chết vì nước), tuẫn chức (hi sinh vì nhiệm vụ), hoặc tuẫn tình (chết vì tình) đều được khuyến khích. Trừ những việc này ra, tự sát là đi ngược lại với đạo hiếu. Cũng chính vì nguyên nhân này, danh nhân cổ đại ngoại trừ "Sát thân thủ nghĩa" ra, rất ít khi có người tự sát.
Lý giáo dụ cảm thấy con rễ Triệu Thiên Châu vì bệnh đau đớn mà tự sát, rất mất mặt của người đọc sách, cho nên mới khẩn cầu Dương Thu Trì giấu chân tướng của sự tình giùm.
Dương Thu Trì đương nhiên có thể lý giải tâm tình của ông ta, gật gật đầu. Từ huấn đạo và Ngụy bộ đầu cũng đáp ứng. Ngụy bộ đầu lại đặc biệt dặn dò các ngỗ tác khác.
Trong lúc ngỗ tác vẽ lại hiện trường và điền thi cách, Dương Thu Trì và Lý giáo dụ, Từ huấn đạo đàm luận, tìm hiểu tình huống của Triệu Thiên Châu. Hắn bấy giờ mới biết quê của Triệu Thiên Châu ở cách đây mấy trăm dặm, trong nhà chỉ có mẹ già. Vì cầu học, Triệu Thiên Châu mới nhờ người thân chăm sóc mẹ già, một mình đến huyện thành đọc sách. Do thiên tự thông tuệ, lại chuyên cần hiếu học, cho nên hắn giành được hảo cảm của giáo dụ, và ông ta đã đem con gái Đông Vân gả cho.
Có giáo dụ hết lòng chỉ điểm, Triệu Thiên Châu học nghiệp đại tiến, thi huyện thi phủ đầu đứng hàng đầu, thi viện đứng vào hàng tam giáp, trở thành tú tài nhập vào huyện nho học. Sau khi thương lượng với Lý giáo dụ, để tập trung tinh lực học tập, y đưa vợ Đông Vân về nhà cha ruột cư trú, một mình ở trong túc xá của học cung ngày đêm khổ học, chờ mùa thu tham gia kỳ thi hương ở tỉnh. Nhưng không ngờ nhiều năm khổ học đã dưỡng thành bệnh tật như thế này, cuối cùng y vì không chịu nổi bệnh tật giày vò mà dẫn tới tự sát.
Ngỗ Tác khám tra xong, Dương Thu Trì báo cho Lý giáo dụ biết là có thể xử lý thi thể rồi.
Lý giáo dụ nói con rễ Triệu Thiên Châu có quê cách mấy trăm dặm, hơn nữa quê chỉ có một mình mẹ già, cho nên quyết định dựng chòi tang lo hậu sự cho y đón thân hữu đến phúng điếu, làm tang lễ xong xuôi mới vận chuyển quan quách về quê an táng.
Triệu Thiên Châu ngụ trọng túc xá của học cung, nhưng học cung không tiện dựng linh đường, cũng không thể dời đến nha môn, Lý giáo dụ liền quyết định đem linh đường đặt ở nhà mình, bỏ tiền ra nhờ ngỗ tác mua dùm cổ quan tài thượng đẳng, rồi cho thanh tẩy thi thể ở trong phòng, dùng vải bố bọc lại, cho nhập liệm khiêng về nhà bắt đầu bố trí linh đường.
Cho đến bây giờ, con gái Đông Vân của Lý giáo dụ mới biết chồng bệnh nặng mà chết, ôm lấy quan tài mà khóc, thê thảm vô cùng. Dương Thu Trì vốn có lòng bước đến khuyên vài câu, nhưng thấy nàng ta khóc như chim đỗ quyên nhỏ máu vậy, nghe mà tan vỡ cả lòng, tự hỏi không biết vì sao.
Do học cung chỉ có ý nghĩa là học giáo tượng trưng, không có thật quyền gì, cũng không giảng dạy chánh quy, cho nên có những tú tài tâm cao khí ngạo cứ ngẩn đầu tìm tri huyện, tri phủ hay là học chánh ở tỉnh bái làm thầy, không cói giáo dụ, huấn đạo ở học cung ra gì. Do đó, tú tài trong học cung đến trợ giúp chỉ có mấy người. Mấy người này được Lý giáo dụ giới thiệu với Dương Thu Trì, hắn mới biết trong đó có ba người là kẻ có học nghiệp ưu tú được học chánh trực tiếp tuyển thành cống sinh, đó là tú tài Lưu Mộng Chương, Chu Tư Hạo và Tiêu An Nhiên.
Tiêu An Nhiên thì bận rộn bày biện bàn ghế, Lưu Mộng Chương lại văn nhã nghênh đón khách đến điếu tang, còn Chu Tư Hạo thì dường như có quan hệ không tệ với người vợ Đông Vân của Triệu Thiên Châu, nên vừa bố trí linh đường, vừa dịu giọng an ủi nàng ta.
Lý giáo dụ làm quan nhiều năm, cũng tích súc chút của, nhà là một trạch viện ba cửa vào có tường cao bao quanh, tòa lầu nhỏ ba tầng, rường cột đều chạm trổ không tệ chút nào. Chỉ có điều, phòng ốc kiến trúc của người ở Tương Tây đều xây nhà bếp ở sau đại sảnh, lại không có lổ thoát khói chuyên môn, cho nên khói nấu bếp đều tự nhiên bay qua cửa sổ sau, khiến cho vách tường sau ám khói đen xì xì. Rất may đó là nhà sau, người ta nếu không đến vườn sau nhà đều không nhìn thấy.
Linh đường được đặt trong vườn lớn ở cửa vào thứ nhất. Trong huyện Kiềm Dương này, giáo dụ dù sao cũng là một nhân vật có vai vế, hơn nữa ở Minh triều, người đọc sách thường được trọng thị, cho nến người đến điếu tang liên miên không ngớt.
 
Chương 85: Vụ tự sát kỳ quặc
Người nhà và thân hữu của Lý giáo dụ không nhiều, cộng thêm các tú tài trợ giúp, lực lượng vẫn không đủ. Dương Thu Trì liền bảo Ngụy bộ đầu về nha môn kêu thêm người đến giúp. Tuy Lý giáo dụ là trưởng quan nho học, được người tôn kính, nhưng không làm quan ở nha môn, không thể trực tiếp lãnh đạo sai dịch trong nha môn, cho nên không thể điều động người. Trong khi đó, học cung của ông đều là những tú tài thanh cao có công danh, càng không làm những chuyện thế này. Rất may là điển sứ đại nhân vừa đến trọng nghĩa phi thường, khiến cho Lý giáo dụ cảm kích khôn xiết.
Dương Thu Trì vốn định ra tay giúp lo liệu tang lễ. Hắn là pháp y xuất thân, trong tư tưởng đương nhiên không có quan niệm ngỗ tác đê tiện. Nhưng Lý giáo dụ và Từ huấn đạo đương nhiên không để cho Điển sứ đại nhân đường đường vậy tự thân giúp nhập liệm, cho nên hắn đành thôi.
Dương Thu Trì giúp Lý giáo dụ nghên tiếp khách đến điếu tang, cũng mượn cơ hội đó gặp mặt các vị hương thân. Những người này biết hắn là điển sứ mới đến, lại tự giúp lo liệu tang sự, đều rất cảm động. Một truyền mười, mười truyền trăm, rất nhanh sau đó khắp thành đều biết điển sứ đại nhân mới đến không những thiếu niên anh tuấn, còn là người trượng nghĩa, bình dị gần người.
Nhất mực bận rộn cho tới chiều, cân ban trưởng tùy đại biểu cho Lôi tri huyện đến phúng điếu, kính tặng vòng hoa, sau đó lén nói cho Dương Thu Trì biết, rằng Lôi tri huyện đã dọn tiệc rượu ở Vọng Giang tửu lâu nổi tiếng nhất trong thành, để tẩy trần cho hắn.
Dương Thu Trì đành cáo từ Lý giáo dụ, ngồi kiệu trở về nha môn. Hắn trở về nội trạch của điển nha trước, thấy Liễu Nhược Băng cùng mọi người đã dọn dẹp nhà cửa gần xong, tri huyện lão gia còn tìm cho họ một đầu bếp và một gác cổng, nên rất hài lòng. Hắn báo cho Liễu Nhược Băng một tiếng xong ngồi kiệu đến Vọng Giang tửu lâu.
Tiệc rượu buổi tối chủ yếu là vì lễ tiết. Lôi tri huyện tuổi cao suy nhược, không thể uống rượu, còn Lý giáo dụ thì con rễ mới mất, Dương Thu Trì cũng không muốn uống no say gì, cho nên mọi người kính rượu cho phải lễ, hàn huyên một lúc rồi tan tiệc.
Trở về nhà thì trời đã tối, Quách Tuyết Liên biết tửu lượng của Dương Thu Trì, vốn đã chuẩn bị canh tỉnh rượu cho hắn, nhưng khi thấy hắn mặt không biến tâm không động, tựa hồ như chưa uống qua chút rượu nào liền có chút ngạc nhiên, nên tỉnh tửu thang nấu sẵn cũng chẳng dùng đến làm gì.
Chỗ ngủ của tiểu viện trong nội trạch của điển nha là một khu nguyên, trong đó phòng ngủ chính đương nhiên dành cho Dương Thu Trì, Quách Tuyết Liên là thiếp thân nha hoàn nên ở phòng ngoài. Cách vách có hai gian sương phòng, một gian dùng làm thư phòng kiêm phòng khách, một gian dành cho Liễu Nhược Băng.
Dương Thu Trì đến phòng của Liễu Nhược Băng, thấy nàng đang ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, nhắm mắt điều tức, trên bàn có một cây nén lung linh, màu hồng nhạt tỏa ra khắp phòng vô cùng ấm áp. Dương Thu Trì cũng không nói chuyện, tĩnh lặng ngồi ở một bồ đoàn bên cạnh. Quách Tuyết Liên ngồi phía sau hắn.
Lát sau, Liễu Nhược Băng từ từ mở mắt, cười cười nói với Dương Thu Trì: 'Đệ về rồi a?"
"Ừ, về một lúc rồi, thấy tỷ đang vận công nên không quấy rầy."
"Thế nào rồi?"
"Thế nào là thế nào?"
"Án đó! Đệ không đi tra án hả?" Vừa rồi Dương Thu Trì trở về hơi bận rộn, nên không hỏi kỹ tình huống. Liễu Nhược Băng lo cho án đầu tiên khi hắn vừa nhập chức, cho nên thuận miệng hỏi.
Nói đến án, hai mắt Dương Thu Trì sáng rực lên, nhìn mặt đất gần bồ đoàn không nói tiếng nào.
Liễu Nhược Băng kỳ quái: "Ơ? Đang không không vậy sao tự nhiên ngớ người ra thế?"
"Án này rất kỳ lạ, cho đến bây giờ có rất nhiều chỗ đệ vẫn chưa rõ."
"Sao mà kỳ lạ?"
"Người chết là một thư sinh, bị đao nhọn đâm vào tim, bên tay trái có một di thư. Di thư này đã so sánh nét chữ và xác nhận, đích xác là do người chết viết. Và hiện trường có cửa chính cửa sổ đều đóng kỹ từ bên trong. Đệ tử tế kiểm tra, thấy không có bí đạo gì, hiện trường cũng không có dấu vết đánh đấu."
"Ừ, vậy có lẽ là y tự sát rồi, có gì đâu mà kỳ quái?"
Dương Thu Trì trầm giọng nói: "Sự tình kỳ quái đệ chưa nói đến - trước hết, ở giữ phòng có một vũng máu lớn, chứng minh địa điểm tử vong của người chết xem ra là ở đây, nhân vì có thể hình thành vũng, cho thấy máu chảy ra đã vượt hẳn lượng máu tối thiểu mà năng lực của con người có thể chịu đựng. Nhưng mà, thi thể của người chết lại ở cạnh cửa cách đó bảy tám bước! Hơn nữa dưới thi thể không hình thành vũng máu, thậm chí không có chút máu đọng nào!"
Liễu Nhược Băng tuy không hiểu pháp y, nhưng từ khi xuất đạo đến nay đã đánh giết sinh tử, kinh qua nhiều sự kiện lưu huyết, cho nên rất hiểu tình huống chảy máu thế nào. Nàng nhíu mày, nói: "Là có vấn đề, giữa phòng của người chết có nhiều máu đọng thành vũng như vậy, chứng minh nơi ấy là địa điểm tử vong. Nhưng vì sao thi thể lại xuất hiện cách đó bảy tám bước, lại còn không có dấu máu nào chảy xuống? Chẳng lẽ... thi thể biết đi?"
Câu này khiến người không lạnh mà run, Quách Tuyết Liên ở gần đó không nhịn được rùn mình. Tuy lúc này đã vào mùa hè, không khí bắt đầu nóng lên rồi, nhưng nàng vẫn cảm thấy sống lưng lạnh ngắt, vội dời bồ đoàn lại gần DƯơng Thu Trì một chút, lòng an ổn hơn.
Dương Thu Trì nói: "Cho dù thi thể biết đi, cũng không đúng nữa! Nhân vì từ sự phân bố của huyết tích mà xét, thì trừ vũng máu ở giữa phòng, trên đất không có dấu máu nào nữa. Từ chỗ có máu giữa phòng cho tới thi thể ở cạnh cửa, không có dấu máu rơi vãi nào. Nếu như thi thể biết đi, thì sẽ vừa đi vừa nhỏ máu, trên sàn phải có dấu máu mới đúng. Nhưng đệ quan sát kỹ rồi, ngoại trừ dấu máu do cọ quẹt ở gần vũng khi thi thể rời khỏi đó ra, trên sàn không có chút máu nào! Từ vũng máu đến thi thể không có một giọt máu rơi, chứng minh người chết không phải là bò tới hay là bước tới, chẳng lẽ là thi thể có thể bay trong không khí mà qua? Đây là vấn đề kỳ lạ thứ hai!"
Quách Tuyết Liên nghe đến nổi da gà, gần như tóc trên đầu đều dựng cả lên. Nàng lại nhích bồ đoàn đến gần hắn thêm chút nữa.
Liễu Nhược Băng ngưng thần trầm tư, lát sau lắc đầu: "Đây đúng là kỳ quái rồi!"
"Vâng, điều kỳ lạ thứ ba là - ngoại trừ vết thương trên ngực chỗ tim bị co rút cơ thịt ảnh hưởng ra, vết thương và độ rộng của đao rất phù hợp!"
"Cái này có gì mà kỳ?"
Dương Thu Trì biết Liễu Nhược Băng tuy giết không ít người, nhưng không hiểu nhiều về vết thương như hắn là một pháp y hiện đại, cho nên giải thích: "Chỗ ngực người chết trúng đao, tay phải cầm cán đao. Nếu như là tự sát, xem ra là dùng tay phải đâm thẳng vào tim. Trong tình huống bình thường, tay phải cầm đao đâm vào tim sẽ tạo ra vết đâm có hướng hơi nghiêng từ phải sang trái, mũi đao nhọn đâm vào cơ thể người, vết thương xem ra phải có đặc trưng vừa bị đâm vừa bị cắt.
Nhưng vậy có thể nói, vừa cắt vừa đâm nên độ rộng của miệng vết thương phải lớn hơn độ rộng của đao mới hợp. Đằng này lại vừa khích. Đương nhiên, nếu người chết dùng hai tay nhắm chuẩn trái tim đâm mạnh vào, vẫn có khả năng hình thành tình huống vừa khích này."
"Thì đúng rồi, nói không chừng thư sinh đó tự sát bằng hai tay đấy thôi!"
Dương Thu Trì lắc đầu: 'Loại tu thế này không dễ dùng sức, do đó phải có sức khá mạnh mới được. Đương nhiên, dùng loại tư thế này tự sát cũng có nếu như ý chí tự sát của người đó đủ kiên định, đâm vào một chút rồi tiếp tục dùng lực đâm tiếp vào, nhưng vết thương hình thành sẽ đứt quảng. Nhưng đệ quan sát thấy vết thương rất nhẳn và minh, là một đao lấy mạng, hơn nữa lại là một đao đâm gãy luôn một xương ngực, đâm thẳng qua tim lút tới cán, độ sâu dài hơn nửa cây đũa, chứng tỏ sức đâm mạnh phi thường! Trong khi đó, thư sinh này hiển nhiên không có sức lực đâm một hơi được như vậy. Ngoài ra, ngoài vết thương không có dấu rách do đâm thăm dò của người tự sát, điều này không phù hợp với trường hợp tự sát thường thấy."
Liễu Nhược Băng không biết tình huống tự sát thường thấy là như thế nào, cười nói: "Xem ra đệ rành nghề nghiệm thây của ngỗ tác quá ha?"
Dương Thu Trì cười cười, thầm nghĩ đâu phải rành thôi, trước giờ hắn vốn làm nghề này mà, chẳng qua là đi đường vòng dùng từ "pháp y" khác gọi cho nó hay ho hơn thôi.
Liễu Nhược Băng nói: "Đệ nói có ba chỗ kỳ lạ, vậy còn có chỗ nào khả nghi nữa hay sao?"
"Có, là bức di thư đó!"
"Di thư sao chứ?"
"Trong tình huống bình thường, người ta thường viết di thư ngay trước khi tự sát. Hiện trượng lại là nơi ở của người chết.
Trên bàn có đủ bút mực giấy nghiên, nhưng mà đệ tra xét qua, thấy nghiên mực trên bàn được rửa thật sạch, hai cây bút lông trên bàn cũng đã được rửa qua. Trong khi đó, di thư là do tự thân y viết tại nhà mình. Người đã quyết chết rồi, còn rửa bút lông nghiên mực để làm cái gì?"
"Ừ...! Nhưng mà cũng có khả năng là di thư đã được viết trước lâu rồi."
"Không sai! Hoàn toàn có khả năng này, nhân vì trên di thư không đề ngày viết, và điểm này cũng không phù hợp với di thư bình thường."
Liễu Nhược Băng rất kỳ quái: "Nhưng mà đệ chẳng phải nói là di thư này đích xác là do vị thư sinh đó tự tay viết hay sao?"
"Đúng vậy, đệ tử tế so sánh đặc trưng bút tích, hoàn toàn phù hợp, là do y tự viết, điểm này tuyệt đối không sai!" Dương Thu Trì khẳng định, "Đương nhiên, không bài trừ khả năng y viết khi muốn tự sát trước đây mà chưa kịp thực hiện."
"Còn có chỗ nào không bình thường nữa không?"
"Còn!" Dương Thu Trì chỉ vào cánh tay phải của mình, "Trên chỗ này có người chết có một dấu xiết hình tròn do vật gì đó quấn vào, nhưng không có triệu chứng viêm đỏ hay xuất huyết dưới da."
"Cái đó chứng minh được điều gì?" Liễu Nhược Băng đương nhiên không biết loại tri thức pháp y này.
"Cho thấy chết rồi mới bị cột! Nhưng cửa phòng bị đóng chặt bên trong, người ngoài không thể nào tiến vào, chẳng lẽ... là do người chết tự cột hay sao?"
Vừa lúc này, một trận gió thổi vào, cây nến trên bàn chợt tỏ chợt mờ, trên mặt đất và trên tường, bóng người lung linh như quỷ mị. Quách Tuyết Liên vốn đang lo sợ phập phồng, lúc này càng kinh hoảng hơn, a một tiếng chói tay, nhào tới ôm chặt lấy cánh tay Dương Thu Trì, thân người run bần bật.
 
Chương 86: Ai lại giết một người sắp chết?
Dương Thu Trì bật cười nhẹ: "Với dạng như em vậy còn muốn theo ta đi nam về bắc?"
"Người... người cứ nói những chuyện khiếp quá hà, người ta... người ta không sợ mới lạ...!" Quách Tuyết Liên làm mặt giận.
"Ha ha, sợ thì đừng nghe, ta và tỷ tỷ phân tích án, em về phòng ngủ trước đi!"
Khi cửa của tiểu viện trong nội trạch này đóng lại, chỉ còn ba người họ. Đêm dần khuya, bên ngoài tối đen như mực, lại vừa nghe chuyện khủng khiếp vừa rồi, lúc này mà bảo Quách Tuyết Liên ua phòng cách vách ngủ thì có đánh chết cô nàng cũng không đi. Hơn nữa chủ nhân còn chưa ngủ, cô nàng là một tiểu nha hoàn mà đi ngủ trước sao được. Nàng vội ưỡn ngực cho thật cao, cố nhoẻn miệng cười nói: "Em... em không sợ!"
"Vậy được, vậy đừng dùng sức níu tay ta nữa, y phục của ta sắp bị em giật đứt luôn rồi!"
Quách Tuyết Liên vội đỏ mặt buông tay. Nhưng nàng lại kéo bồ đoàn lại gần hơn, gần như áp sát vào lưng Dương Thu Trì.
Dương Thu Trì cười cười, theo thói quen đưa tay ôm eo nàng: "Sợ cái gì? Ở đây có ta, còn có tỷ tỷ của ta, tỷ ấy là đệ nhất cao thủ võ lâm đương thế đó nha!"
Hai người chạy nạn suốt một quảng đường dài, khí trời lạnh lẽo đều ôm mà sưởi ấm cho nhau, cho nên Quách Tuyết Liên đã quen với chuyện rúc vào người hắn.
Chỉ có điều, lần này khi bị nàng rúc vào lòng, Dương Thu Trì ngửi ngay thấy mùi hương thiếu nữ nhè nhẹ, cảm thụ được từng đường cong tròn trịa trên người nàng, không khỏi lòng rộn lên, nhưng liếc mắt thấy Liễu Nhược Băng đang cười cười nhìn hai người, hắn vội bỏ tay ra, khẽ bảo: "Em không có xương hả? Dựa vào ta làm cái gì? Mau ngồi dậy đi! Ta đang bàn về án đây!"
Quách Tuyết Liên đỏ mặt, vội ngồi nghiêm lại.
Dương Thu Trì lại nói: "Em đừng có cứ dỏng tai lên mà ngeh, có ý kiến gì có thể nói, như vậy không còn sợ nữa, và có thể giúp ta khai thác một hướng nghĩ mới."
Liễu Nhược Băng bảo: "Đệ vừa nói những chuyện liên quan đích xác là có vấn đề, như vậy xem ra Triệu Thiên Châu không phải là tự sát, vậy có khả năng là bị thụ thương bất ngờ rồi chết không? hắn có thể bất cẩn ngã té, vừa khéo bị chủy thủ cấm vào thân thể. Hắn đến cửa định mở chạy ra ngoài, nhưng cuối cùng thể lực không chịu nổi ngã chết."
"Không khả năng!" Dương Thu Trì khẳng định.
"Vì sao?"
"Nhân vì từ đống máu ở giữa phòng mà xét, nơi đó khẳng định là hiện trường thụ thương đầu tiên. Người chết ngồi sau cửa đó là hiện trường thứ hai. Đệ kiểm tra qua vết thương, phát hiện đã đâm vào ngực phải - đó là con đường quan trọng đã mang máu có dưỡng khí đến toàn thân. Nơi đây bị phá rồi, thì thân thể lập tức xuất hiện hiện tượng khuyết dưỡng, nhanh chóng tử vong. Trong những tình huống thường, thì không có khả năng di động. Đương nhiên, do chủy thủ không bị rút ra, chèn chặt vết thương, làm chậm chảy máu một trình độ nào đó, nhưng chỉ làm chậm thời gian tử vong, không thể quá lâu. Đương nhiên những thứ này không phải là quan trọng, quan trọng là người chết trúng một đao, chảy nhiều máu ở hiện trường thứ nhất, sau đó chạy tới cửa mới chết. Hai hiện trường này khẳng định phải có dấu vết bò hay đi có máu rơi lại, nhưng thực tế không có, chứng minh người chết không phải bị thương rồi bò lại sau cửa hay đi lại sau cửa được."
Liễu Nhược Băng nghe không hiểu hắn nói cái gì mà dưỡng khí, hiện tượng khuyết dưỡng này nọ. Nhưng Dương Thu Trì bảo những cái đó không phải là thứ quan trọng, cho nên không hỏi kỹ hàm nghĩa của từ đó, mà suy nghĩ một lúc, tự lẩm bẩm: "Vậy thi thể rốt cuộc sao chuyển đến cửa được? Chẳng lẽ là bay trong không trung thật?"
"Không phải là bay, mà là bị khiêng hay ẵ qua. hơn nữa là sau khi chết một đoạn thời gian rồi, duyệt dịch đã khô đi thi thể mới bị di động! Chỉ có như thế mới không bị rơi huyết hay là dấu vết bò trường trên sàn!"
Quách Tuyết Liên nghe đến nhập thần, nhịn không được hỏi một câu: "Lão gia, lúc nãy người nói là vào phòng từ cửa sổ, và cửa lớn cửa sổ trong phòng đều bị đóng từ bên trong, lại không có thông đạo bí mật, trong phòng ngoài thi thể không còn ai khác, vậy rốt cuộc là ai di động thi thể đây? Chẳng lẽ là quỷ..." Nói đến đây, cô nàng rùn mình một cái, không dám nói tiếp.
"Đương nhiên không phải, trên thế gian này làm gì có quỷ!"
Quách Tuyết Liên nghe Dương Thu Trì khẳng định không phải là quỷ, hơi yên tâm, ngẫm nghĩ một lúc nói: 'Vậy là người sao?"
"Không phải quỷ đương nhiên là người rồi."
"Nhưng như vậy thì không đúng rồi, người sao có thể xuyên tường vào phòng được, làm sao có thể tiến vào phòng bị chốt kín từ bên trong mà di động thi thể chứ?"
Dương Thu Trì cười khổ lắc đầu: 'Đây chính là chỗ ta còn chưa nghĩ ra, cửa phòng và cửa sổ đích xác là bị đóng từ bên trong, hơn nữa không có ám đạo, điểm này ta đã kiểm tra kỹ."
Liễu Nhược Băng nhíu mày: "Như vậy thì đúng là kỳ quái rồi."
Quách Tuyết Liên đã nghe Dương Thu Trì nói tình hình của người chết trước, tạm kết luận là tự sát, hiện giờ lại nói là kỳ lạ, nghe đến nổi hồ đồ luôn, nhịn không được hỏi: "Lão gia, người này rốt cuộc là tự sát hay là bị giết mà chết vậy a?"
"Bị giết!" Dương Thu Trì khẳng định, "Cho dù hiện trường có di thư, di thư là của người chết viết, hiện trường cũng không có dấu vết đánh đấu giằng co rõ ràng, cửa bị đóng từ bên trong, tựa hồ không có người ngoài tiến vào... mọi thứ này tựa hồ chứng minh người chết là tự sát. Nhưng mà, thi thể ở hiện trường bị di động vị trí, tình hình phân bố huyết tích, đặc trưng vết thương, cộng với dấu xiết sau khi chết mới hình thành... đều chứng minh người chết là do bị giết. Hơn nữa sau khi chết một đoạn thời gian, có người từng đến hiện trường, di động qua thi thể. Cần phải biết, thi thể không biết nói dối. Nếu là như vậy, thì có một chuyện kỳ quái phi thường nữa!"
"Là chuyện gì?" Hai nữ đồng thời hỏi.
"Người chết Triệu Thiên Châu trước khi chết bị tuyệt chứng, lang trung xem bệnh nói y đã bị bệnh nhập vào xương cốt, không còn sống bao lâu nữa. Ai lại đi giết một người sắp chết chứ? Nếu như có gì đó với y, cứ ráng nhịn chờ một thời gian thì chẳng phải như nguyện hay sao? Cần cớ gì mạo hiểm đi giết người?"
Liễu Nhược Băng và Quách Tuyết Liên đều đưa mắt nhìn nhau, đúng a, một người sắp sửa chết đến nơi, chờ y chết là được rồi, cần chi phải giết y?
Quách Tuyết Linh chợt động linh trí, nói: 'À, lão gia, có khi nào hung thủ là người có thù với Triệu Thiên Châu, muốn tận tay giết chết y?"
"Không giống! Nếu như hung thủ và người chết có thù, thường sẽ đâm thêm vài cái để tiết phẫn, chứ không chỉ đâm một đao thôi. Ngoài ra, hiện trường phải có dấu vết đánh đấu xô xát, hay ít nhất là có dấu người chết co giật giãy chết, thế mà đều không có. Hơn nữa, hiện trường là túc xá của người chết, không có dấu xô xát, chứng minh hung thủ và người chết quen nhau. Cho nên, người trong học cung hoặc là người quen của Triệu Thiên Châu có khả năng gây án nhiều nhất. Ta chuẩn bị bắt đầu điều tra từ những người này. Nhưng mà, hiện trường tuy lạ, hung thủ lại không lưu lại manh mối chỉ hướng gì, không biết nên tra từ đâu."
Quách Tuyết Liên quan tam hỏi: 'Vậy làm sao đây?"
Dương Thu Trì ngẫm nghĩ một lúc, thở dài đáp: "Thời gian tử vong vào ba ngày trước, đó là lúc học cung tổ chức cho tú tài uống rượu ca hát trong hoa viên của học cung, mừng Triệu Thiên Châu cùng ba người có thành tích ưu việt được đề cử làm cống sinh. Trước hết phải điều tra từ những người cuối cùng gặp Triệu thiên Châu, hi vọng có thể phát hiện ra manh mối gì đó. Nhưng mà..., ai! Tú tài trong học cung hơn trăm người, không có manh mối xác định muốn mò ra bằng chứng, nhìn mặt bắt hình dong... để tìm ra hung thủ thì quả là mò kim đáy bể a."
Dương Thu Trì đã quen dựa vào thiết bị pháp y hiện đại để phát hiện manh mối, tiến hành páh án. Nhưng hiện giờ hai tay hắn rỗng không, chẳng có gì cả, mới thấy không có kỹ thuật tiên tiến hỗ trợ, người cổ phá án gian nan đến cỡ nào. Hắn tuy đến từ xã hội hiện đại, nhưng không có thiết bị kỹ thuật thì cũng như bịt mắt bó tay, chẳng thông minh gì hơn ai cả.
Ba người nói một hồi, đêm đã khuya, Dương Thu Trì mới dẫn Quách Tuyết Liên trở về phòng nghỉ ngơi.
Sau khi nằm xuống, Dương Thu Trì chẳng buồn ngủ chút nào. Khí trời bắt đầu nóng nực, hắn chỉ mặc một nội khố to phùng phình cắt ra từ khố dài, nằm ngửa trên giường, buông mùng xuống càng cảm thấy nóng nực hơn. Nhưng không buông mùng không được, vì muỗi ở Tương Tây rất nhiều, vừa cắn đã nổi mẫn to, không thể nào ngủ được.
Vừa đến nơi ngày đầu đã gặp án khó thế này rồi, và có thể nói đây là án đầu tiên khi hắn Xuyên Việt đến những năm tháng thời Sùng trinh này.
Đang tràn đầy tâm sự, hắn chợt nghe gian ngoài a lên một tiếng, đó là của Quách Tuyết Liên. Dương Thu Trì vội hỏi: "Gì thế?"
"Trong phòng... phòng có người...!"
 
Chương 87: Chung chăn chung gối.
Dương Thu Trì nhanh như chớp rút cây súng ngắn dưới gối của mình, cho đạn lên nòng cái rụp rồi nhanh chân xông ra vén rèm của gian ngoài, thấy ở ngoài ánh trăng sáng rực, thanh u một phiến, chẳng có người nào cả.
Dương Thu Trì hai tay giữ súng, dõi mắt nhìn vào góc tối, trầm giọng hỏi: "Người ở đâu?"
"Không... không biết, vừa rồi... ở bên cạnh giường em..."
Dương Thu Trì cúi người xuống vén màng phủ, thấy dưới giường trống không. Hắn nhanh chóng tìm khắp phòng, chẳng thấy có dấu hiệu khả nghi gì.
Lúc này, ngoài cửa truyền vào tiếng của Liễu Nhược Băng: "Trì đệ, sao vậy?" Liễu Nhược Băng rất nhạy, chỉ cần nghe tiếng động là khoác áo đến hỏi ngay.
"Tỷ tỷ, không sao, có thể là chuột nó quậy, đệ kiểm tra qua rồi, không có chuyện gì đâu, tỷ đi ngủ đi."
"Ừ...! Hai người ngủ sớm đi!"
Dương Thu Trì đóng chốt bảo hiểm của súng lại, đến bên giường vén rem, thấy Quách Tuyết Liên co người trong đó, đầu lộ đầy tóc bệt mồ hôi xòa xuống trán, không khỏi cười: "Em làm cái gì vậy? Sợ đến thế rồi cơ à. Làm gì có người nào đâu a?"
Quách Tuyết Liên bấy giờ mới e dè thò đầu ra, run lập cập nói: 'Vừa rồi...., vừa rồi thấy có một người đứng cạnh giường... là một thư sinh...., máu đầy cả người..."
Đến lúc này thì xương sống của Dương Thu Trì cũng hơi phát lãnh! Hắn ngồi xuống giường, khẽ sờ gương mặt non tơ của nàng: "Được rồi, đừng sợ, ta và tỷ tỷ đều ở đây, không có quỷ nào dám đến khi phụ em đâu."
"Dạ...!" Quách Tuyết Liên e thẹn kéo mền gối lại che kín, chỉ lộ ra đôi mắt sáng ngời.
Dương Thu Trì đứng dậy kéo màn kín lại, trở về phòng, cất súng xuống gối, nằm xuống. Vừa ngủ một chút, hắn đã nghe gian ngoài có tiếng truyền vào: "Lão gia..."
Nghe tiếng thì rõ ràng là của Quách Tuyết Liên, xen lẫn giọng run run. Dương Thu Trì hỏi: "Lại gì nữa vậy?"
"Em... em sợ..."
Dương Thu Trì bật cười: "Sợ cái gì? Ta đã kiểm tra qua hết rồi mà? Không có ai đâu!"
"Em... em vừa rồi thấy ác mộng nữa..., mộng thấy thư sinh mà lão gia kể đó, cả người đầy máu, quỷ dị vô cùng..., hơn nữa..., hơn nữa..."
"Hơn nữa làm sao?"
"Hơn nữa nghe người già nói, trong nha môn thường... thường có quỷ, dù sao cũng có những phòng không sạch sẽ..."
Dương Thu Trì nhịn không được bật cười ha hả, lòng nghĩ lời này không sai, vì lúc nhỏ hắn xem Liêu Trai chí dị của Bồ tùng Linh, thấy trong đó có kể nhiều chuyện quỷ ma phát sinh ở nha môn. Điều này là vì nha môn choếm chỗ rất rộng, lại có truyền thống quan bất tu nha, cho nên những căn phòng lớn thường là nhà cổ hơn trăm năm, hễ đến tối thì quan lại đều tan ca đi hết, trong nha môn rộng lớn lại âm sầm hơn. Và thường có rất nhiều phạm nhân bị hình tấn bức cung chết ở đại đường, cho nên không tránh khỏi có nhiều chuyện về oan hồn truyền ra.
Dương Thu Trì cười nói: "Vậy làm sao đây? Hay là em vào ngủ cùng với ta vậy!"
Hắn nói lời này kỳ thật là một lời đùa, không ngờ Quách Tuyết Liên vui mừng dạ một cái, vén roạt màn nhón chân chạy vào, rồi vén mùng chống muỗi bò lên cuối giường, khẽ bò vòng qua chân Dương Thu Trì, vén mền lên rồi như làn khói chui vào trong mền của hắn. (Chú: Nam nữ thời cổ đại ngủ đều có luật lệ hẳn hỏi. Nam nhân phải ngủ ở ngoài, nữ nhân ngủ trong giường. Cái này gọi là nam chủ ngoại nữ chủ nội. Nữ nhân khi lên giường thì chỉ có thể bò từ dưới chân nam nhân bò vào, hoặc là nam nhân ngồi lên rồi bò vào bằng đường phía sau lưng nam nhân, tuyệt đối cấm bò ngang leo ngang qua người nam nhân, bò trước mặt hay trên đầu.)
Dương Thu Trì giật nãy mình, không ngờ cô nàng bảo vào là vào, nhưng chờ khi hắn kịp hối hận thì Quách Tuyết Liên đã chui vào trong mền rồi.
Mượn ánh trăng ảm đạm chiếu từ cửa sổ vào, Dương Thu Trì phát hiện thân người quách Tuyết Liên hơi run run. Hiện giờ đã là đầu mùa hè, khí trời khá nóng, do đó nàng không phải vì lạnh mà run. Hắn thấy mặt nàng trắng nhợt, người co rúc lại rất giống con óc nhỏ đáng thương, hai tay nắm chặt, nhất định là sợ lắm rồi. Hắn thương xót đưa tay ôm nàng vào lòng, khẽ bảo: "Sợ thật à?"
"Dạ...!" Giọng Quách Tuyết Liên nhu muốn khóc, "Em... em vừa rồi mơ mơ hồ hồ ngủ đi, liền mộng thấy tú tài vừa chết mà người nói đó..., đầu xõa tóc, máu đầy người bay khắp phòng..., khi mở mắt ra nhìn, thì thấy một bạch y thư sinh..."
"Được rồi được rồi! Nói nữa ta cũng bị em làm cho hoảng sợ luôn đó!"
Quách Tuyết Liên vội ngậm miệng, cũng không dám ôm Dương Thu Trì, chỉ rục người nằm gọn trong lòng hắn.
Nam nhân cổ đại thường ở truồng ngủ, nữ nhân chỉ mặc một tiết y (yếm), Quách Tuyết Liên đương nhiên cũng vậy, cho nên khi Dương Thu Trì ôm nàng, tự nhiên sờ trúng lưng trần trơn lẳng của nàng.
Trong mền nhanh chóng tán phát u hương thiếu nữ của Quách Tuyết Liên truyền ra. Dương vị này có tác dụng kích thích dục vọng rất mạnh, nhanh chóng khiến cậu em của Dương Thu Trì vươn vai nhỏm mình người cứng như sắt. Tuy hắn có mặc đoản khố, nhưng do rộng thủng thình, nên bị đội lên rất cao. Hắn sợ đụng trúng người của Quách Tuyết Liên, nên vội quay lưng, cực lực tránh né.
Rất may là Quách Tuyết Liên tựa hồ bị ác mộng làm cho sợ khiếp, nhất thời không chú ý đến tình trạng túng quẫn của Dương Thu Trì.
Nghe tiếng Quách Tuyết Liên hít thở phì phò, Dương Thu Trì càng tâm hoảng ý loạn, lòng hưu dạ vượn, toàn thân nóng bức như bị quẳng vào lò lửa, trong đầu đầy ý tưởng đè ép lên người nàng, thô bạo chiếm hữu nàng..., hắn nếu không kịp có biện pháp, e là sẽ có vấn đề. Nghĩ là làm, hắn ngồi phắt dậy, xuống giường.
Quách Tuyết Liên hoảng hốt hỏi: "Lão gia, người đi đâu vậy?"
"Em ngủ đi! Ta uống nước."
Quách Tuyết Liên nhỏm ngay vậy: "Tuyết Liên rót nước cho người!"
"Không cần! EM ngủ đi!" Dương Thu Trì đi như cạy đến cạnh cửa sở, cầm bình trà lạnh trên bàn định uống.
Quách Tuyết Liên đã chạy tới nơi: "Lão gia, trà lạnh rồi, nước trong lò còn nóng, chuẩn bị sẵn cho người đó, để Tuyết Liên pha cho người."
"Không cần! Cái này thôi!" Dương Thu TRì thầm nghĩ, ta hiện giờ không phải giải khát, mà là dập lửa, lạnh càng hay! Nên hắn uống ừng ực hơn nửa bình.
Uống trà lạnh, lửa dục trong người dập tắt không ít. Hắn không dám quay đầu, sợ nhìn thấy Quách Tuyết Liên trong bộ dạng chỉ mặc tiết y mà bị lửa thiêu mất hết lý trí thì phiền, vì khó khăn lắm mới tìm được Băng nhi, cái mộng song túc song phi còn chưa bắt đầu thì không để xảy ra chuyện ảnh hưởng được. Nhưng mà, chờ một lát trở về giường có xảy ra vấn đề nữa hay không thì chưa biết, phải nghĩ biện pháp mới được.
Dương Thu Trì khẽ nói: "Tuyết Liên, em..., em ôm mền gối qua đây, chúng ta ai đắp mền nấy..."
"Dạ..." Quách Tuyết Liên dạ khẽ, cúi đầu đi ra gian ngoài.
Dương Thu Trì sờ cậu em trai vẫn còn dựng cột sắt chuẩn bị chào cờ, cười khổ trong lòng. Uống trà mát tuy dập bớt lửa lòng, nhưng đối với cậu nhóc cứng đầu này chẳng có tác dụng gì. Và cũng chả trách, hắn xuyên việt đến đây đã ba bốn tháng rồi, cậu em trai cứ nhất mực ở không nằm chơi, nhân cơ hội này vùng lên đòi quyền lợi đây mà!
Không được! Vì hạnh phúc tương lai, đành phải bác lời kháng nghị. Kháng nghị bất thành!
Hắn cắn rắng, cột dây nội khố lại thành cái nút chết, ừ, như vậy không sợ nữa rồi. Hắn quay người trở lại giường.
Quách Tuyết Liên đã ôm mền gối của mình qua, lên giường rúc vào trong góc, tận khả năng nhường chổ cho Dương Thu Trì, gần như ép sát vào tường.
Dương Thu Trì cười cười: "Em làm gì vậy? Muốn làm thằn lằn ả? Nhích qua đây chút đi!"
"Dạ..." Quách Tuyết Liên vội nhích người ra ngoài một chút.
Lúc này, trăng đã lên cao, ánh trăng xuyên qua cửa sổ chiếu dịu lên mặt đất. Dương Thu Trì nằm xoay ra ngoài ngủ, nhìn ánh trăng trên đất, nghĩ tới câu thơ của Lý bạch:
"Sàng tiền minh nguyệt quang - nghi thị địa thượng sương" (Trước giường ánh trăng sáng, ngỡ mặt đất phủ sương)!
Thật là có hình tượng. Nhìn ánh trăng sáng, thật nhớ nhà. Hắn nhớ đến cha mẹ ở xã hội hiện đại, à, nếu là lúc này thì họ vẫn còn lâu lắm mới ra đời. Hắn nhớ đến Phùng Tiểu Tuyết, Tống Vân Nhi, Hồng Lăng, Bạch Tố mai, Tần Chỉ Tuệ, đương nhiên còn có Vân Lộ và búp bê bùn Tống Tình). Ai! Lúc này đã qua 200 rồi, bọn họ đã sớm ngọc nát hương tiêu rồi, không biết là có chuyển thế đầu thai đi đâu không nữa.
Rất may là còn Băng nhi, Băng nhi lãnh diễm tuyệt mỹ khiến người ta phải lo tận đáy lòng vẫn còn bên cạnh hắn, chỉ cách vách đây thôi. Nếu lúc này người nằm cạnh hắn là Băng nhi thì hay quá. Nhất định hắn sẽ ôm chặt nàng, hôn từ đầu cho tới gót chân. Băng nhi kiếp trước ở giường ôn nhu như thủy, đôi môi cái lưỡi thơm ngọt của nàng như mỹ tửu, da thịt trắng mịn như phấn dồi, trơn bóng như lụa, gò ngực nhô cao căng cứng và rất đàn hồi, cái bụng bằng phẳng với cái địa phương mê người đó khiến cho hắn nhiều lần quên hết bản thân, thần hồn điên đảo.
Băng nhi, Băng nhi khiến người ta tiêu hồn...
Nghĩ đến Liễu Nhược Băng, Dương Thu Trì cảm thấy tâm tình từ từ an tĩnh. Mệt nhọc cả ngày, cuối cùng hắn cũng tiến nhập vào cơn mộng.
 
Chương 88: Như mộng như thật.
Trong cơn mộng, hắn lại trở về với lần mây mưa đầu tiên với Băng nhi trên huyền nhai năm xưa. Bổn thân chuyện đó cũng là ký ức thực thực ảo ảo, nên trong mộng hắn càn mê mang hơn - đó là một bãi cát, bãi cát nóng bức, Băng nhi ôm lấy hắn, thân hình mềm mịn của nàng như con rắn quấn lấy hắn. Một bàn tay mịn linh hoạt xảo diệu sờ nắn khắp người hắn, chỗ nào sờ qua đều giồng như tiếng đàn đinh đông sâu lắng, nhất mực thoải mái đến tận xương tủy.
Bàn tay mềm của Băng nhi vần về chuyển lộ, lần đến bụng dưới, để rồi dừng lại.
Hắn gấp lên! Hắn chụp lấy tay nàng yêu cầu nó chui vào nội khố, như mà dây buộc khố quá chặt - đáng chết! Ai lại làm chuyện khuyết đứt này vậy kìa, cột khố của hắn sao mà chặt thế!
Bàn tay êm dịu đó như tiểu cô nương e ấp, muốn bỏ chạy. Chạy đằng trời! Bắt cổ, đem bỏ lên tháp pháo cao cao!
Tiểu cô nước phảng phất như bị đốt, giật bắn lên định đào tẩu. Đào tẩu sao cho thoát chứ! Đè chặt! Không cho động.
Nhè nhẹ, bàn tay êm không trốn tránh nữa, đúng rồi, vuốt ve êm dịu vậy đó, ừ..., bực quá vầy nè, cách giày gãi ngứa! Hắn muốn bảo Băng nhi thò tay vào, nhưng miệng đã bị môi mềm của nàng khép chặt.
Băng nhi là thông minh nhất mà, hắn luôn tin như vầy. Và thế là, bàn tay linh xảo đó vuốt xuống, đến đùi, dùng lại, đắn đo một chút, rồi như quỷ tiến thôn, thăm dò, từ từ đó, từ từ, đúng rồi, từ từ theo ống nội khố tiến lên trên.
Tim hắn muốn nhảy ra ngoài, kích động quá mà!
Đụng rồi, bàn tay mềm của Băng nhi đã lần tới tháp pháo cao dịu vợi của hắn rồi, nhưng sao lại hoảng hốt lùi xa vậy kìa.
Trời ạ...!
Băng nhi phảng phất như tích trữ đủ dũng khí giống như lực lượng tích súc của địa chấn dưới đáy biển vậy, tiếp đó là bùng phát trào dâng! Nàng từ từ đưa bàn tay thon lần trở lại, dừng ở ở bên cạnh tháp pháo một chút, rồi như rồng dài quấn quanh tháp biến thành con gà mái ấp con, dùng cánh ôm con vào lòng.
Ốm áp quá, thoải mái qua...! Cảm giác đó như sóng biển ôm ấp toàn thân, a...! Thật là thoái mái khắp cả người. Ngay cả tiếng than cũng thoái mái!
Nhưng mà, con gà mái đó dường như không biết làm cách nào để ôm ấp con, bóp, miết, day, lắc, dứt, kéo.... ái chà....
Phảng phất như cái đèn biển giữa cơn sóng gió dữ tợn, lại giống như củ cà rốt giữa đám đất chắc đang bị một đứa bé đang dùng hết sức lực lắc lư. Ai dà.... Băng nhi, ta biết nàng có lòng muốn giúp ta, nhưng làm như vậy gãy làm sao?
Chụp bàn tay nhỏ của nàng! Dạy nàng mới được...
Ừ, vậy đúng rồi đó, ừ ừ! Tháp đèn như sáng lên, cuồng phong bạo vũ từ từ không còn tung ảnh. Mây đen hết rồi, thái dương lộ ra thôi, bãi cát ấm dần, tiếp nhận sóng to, triều cường, hết lượt này đến lượt khác.
Khi núi lửa chuẩn bị phun trào, Dương Thu Trì giật mình tỉnh giác, thì ra là một giấc mộng xuân diễm lệ - không đúng, không phải mộng! Cái bàn tay êm dịu đó vẫn còn ở trong nội khố của hắn mà, đang động đật có quy luật theo sự khống chế của hắn. Cảm giác phun trào càng lúc càng mạnh trong hắn, sau lưng hắn chợt vang lên tiếng thở hỗn hễn của cô gái.
"Tuyết liên!"
Dương Thu Trì chụp giữ tay nàng lại: "Tuyết Liên! Đừng!"
"Lão gia...," thanh âm của Tuyết Liên thẹn thùng vô hạn, "Tuyết Liên là người của lão gia, lão gia bảo Tuyết Liên làm cái gì cũng được..."
Quách Tuyết Liên giọng chuyển thỏ thẻ, khí thở như lan, thân mình nhỏ nhắn áp sát lưng hắn, một cánh tay nhỏ nắm giữ cậu em trai của hắn. Tuy hiện giờ bàn tay đó bị hắn chụp giữ không cho động, nhưng năm ngón tay không ngừng day dứt, đã dẫn cho đạn pháo lên nòng.
Dương Thu Trì dường như buông bỏ đề kháng, hắn nghĩ đến Băng nhi, Băng nhi chỉ cách vách thôi, cố phì hơi một cái, hạ giọng bảo: "Tuyết Liên, không thể như vậy, ta... ta không thể đối không phải với Băng nhi."
Quách Tuyết Liên càng áp sát người hơn, thẹn thùng khẽ nói: 'Chính là... chính là Liễu tỷ tỷ bảo... bảo Tuyết Liên nghĩ biện pháp lên giường... phục thị lão gia đó..."
Hả? Dương Thu Trì cả kinh, rút ngay tay của Quách Tuyết Liên ra khỏi nội khố, quỳ ngay dậy, mượn ánh trăng mông lung thấy Quách Tuyết Liên không biết đã cởi tiết y từ khi nào, thân hình nhỏ nhắn xinh tươi, e ấp khôn cùng mang theo ánh mắt u oán đang mở to mắt nhìn hắn.
"Em nói cái gì?" Dương Thu Trì khẽ hỏi, "Là nàng ấy bảo em làm như vậy?"
"Dạ...," Quách Tuyết Liên lí nhí trả lời, "Tỷ tỷ ở trên đường đã lén bảo Tuyết Liên là lão gia khổ quá, muốn Tuyết Liên chờ đến đây nghĩ biện pháp lên giường phục thị lão gia. Tuyết Liên chỉ muốn lão gia thoải mái, nhưng Tuyết Liên vụng về, không biết nên làm thế nào..."
"Hoang đường! Nếu nói như vậy thì chuyện sợ quỷ gì đó là cô giả vờ à?" Thanh âm của Dương Thu Trì hơi lạnh, hắn không thích nữ nhân quá tâm cơ.
"Không không, không phải, Tuyết Liên sợ thật, vừa rồi đã mộng thấy thư sinh đầy máu đó thật," Quách Tuyết Liên co rúc người, hai tay ôm chân kinh khủng nói, "Em mộng thấy y cúi đầu đứng ở cửa, sau đó giống như không có xương vậy, biến thành cái túi da, bay bay, bay lên không trung..."
Cơn ác mộng của Quách Tuyết Liên không phải nàng biên tạo ra. Nàng nghe Dương Thu Trì kể về ác kiện, đích xác đã mộng thấy thư sinh đầy máu bị giết đó, lại nhớ tới nhiều chuyện quỷ ám ở nha môn, cho nên bị sợ xanh cả mặt. Nàng và Dương Thu Trì chạy nạn dọc đường sống dựa vào nhau, đã quen được Dương Thu Trì ôm ngủ, do đó, khi Dương Thu Trì giởn chơi bảo nàng vào ngủ cùng, nàng liên cho là thật. Khi lên giường, nàng nhớ tới lời dặn của Liễu Nhược Băng, chờ hắn ngủ rồi mới cởi tiết y ra, trần trụi ôm hắn từ phía sau, vuốt ve hắn. Kết quả vừa khéo bị Dương Thu Trì đang mơ giấc mộng xuân với Liễu Nhược Băng chụp được tay, bắt đầu trò chơi của người lớn.
Dương Thu Trì cũng biết trước đó nàng sợ thật, ác mộng không phải là tự tạo ra, là do hắn trước đó hoài nghi thi thể người chết chẳng lẽ lại bay được trong không trung, mới mộng thấy như vậy.
Mộng....?
Dương Thu Trì nhớ tới Quách Tuyết Liên nói tới mộng vừa rồi, cảm thấy dường như có gì đó không phải, dường như nắm bắt được gì đó trong mê vụ, nhưng như mộng như ảo không nắm được yếu lĩnh.
Chính vào lúc này, đột nhiên có tiếng gõ cửa cấp xúc ở ngoài vườn, Quách Tuyết Liên vội nhỏm dậy, xoay ngừơi mặc vội quần áo, chạy ra mở cửa. Người gõ chính là hộ vệ Lưu Dũng, thấy nàng vội hỏi: "Lão gia đâu?"
"Lão gia..." Quách Tuyết Liên nghe y hỏi lão gia, trong vô thức cảm thấy trò chơi người lớn do Dương Thu Trì hướng dẫn trong bóng tối mông lung đã bị người khác biết được vậy, liền đỏ mặt tía tai, hoảng loạn tránh ánh mắt đi, đáp: 'Lão gia còn ngủ, có gì vậy?"
Tuy trong vườn có đèn lòng, nhưng Quách Tuyết Liên xoay lưng lại không rõ mặt, Lưu Dũng cũng đang gấp, căn bản không để ý gì đến chuyện này, vội nói: "Xảy ra chuyện rồi! Mau gọi lão gia dậy đi!"
Quách Tuyết Liên cả kinh: "Xảy ra chuyện gì?"
"Vừa rồi Ngụy bộ đầu đến báo, nói là cô con gái Đông Vân của Lý giáo dụ... đã nhảy lầu tự tử rồi! Toàn bộ đại viện của Lý gia đã loạn hết rồi. Họ thỉnh lão gia đến xem, kiệu đã chuẩn bị sẳn sàng, chúng tôi đang chờ ở ngoài."
Tiểu viện này thuộc nội trạch, không có sự cho phép nghiêm cấm người khác vào.
Quách Tuyết Liên vội chạy vào trong nhà, đem chuyện này nói ra.
Dương Thu Trì cũng cả kinh, đêm hôm tuy Đông Vân khóc rất thê thảm, nhưng không có chuyện chết đi sống lại hay muốn tự vận gì, sao bây giờ lại nhảy lầu tự tử vì tình chứ? Cổ đại nữ tử trinh liệt như vậy sao? Điều này khiến Dương Thu Trì nhớ tới Tiểu nhị, chẳng qua là vì một văn khế tặng thiếu mà tiểu nha đầu này một lòng sống chết vì hắn, thà xuất gia cũng tuyệt không tái giá, nếu bức thì tự vẫn...
Ai...! Tam tòng tứ đức hại người ta a, không những hại Tiểu Nhị, mà hại luôn cả cô gái cổ đại tên Đông Vân này. Ngay cả mộng tưởng song túc song phi với Băng nhi của hắn cũng bị cái quy định này ảnh hưởng nghiêm trọng, khổ não quá a!
Vừa nghĩ, Dương Th uTrì vừa được Quách Tuyết Liên phục thị mặc quan bào vào, lủng lẳng cánh chuồng trên mũ ô sa mở cửa bước ra, chạm ngay mặt Liễu Nhược Băng. Nàng cũng đã ăn mặc chỉnh tề, là một bộ đồ trắng giống như tiên nữ giáng trần.
Liễu Nhược Băng nói: "Án này càng lúc càng rắc rối, để ta theo đệ xem thử."
"Vâng...! Được a!" Dương Thu Trì cao hứng. Có Băng nhi cùng đi phá án quả là sướng rồi! Hắn chuyển người nói với Quách Tuyết Liên: 'Em và tiểu hắc cẩu ở nhà, đốt đèn sáng một chút, đừng sợ, có tiểu hắc ở đó quỷ không dám đến khi phụ em đâu."
Dạ...! Quách Tuyết Liên yếu ớt đáp, trở lại phòng đốt đèn sáng rồi mới an tâm, đến ngồi ở bên giường ngẩn ngơ suy nghĩ, chờ Dương Thu Trì quay về.
Dương Thu Trì dẫn Liễu Nhược Băng rời khỏi nội trạch, thấy chỉ có một cái kiệu, vội ra lệnh khiêng thêm cái nữa.
Nhân lúc tùy tùng đi khiêng thêm kiệu, Liễu Nhược Băng khẽ hỏi: "Ngủ ngon không?"
"Không ngon!" DƯơng Thu Trì làm mặt lạnh trả lời rất hung.
"Ơ? Đang khi không cái làm sao vậy? Ai đắc tội đệ vậy?"
"Tỷ!"
"Ta? Ta làm sao?"
"Hừ! Là tỷ bảo Tuyết Liên tìm cơ hội lên giường hầu hạ đệ phải không?"
Liễu Nhược Băng đỏ mặt: "Trì đệ, đệ đã lớn rồi không nhỏ nữa đâu, một mình như vậy khổ lắm, Tuyết Liên cô nương không tệ..."
"Hừ! Cảm ơn! Ta cho nàng biết, tâm của ta chỉ có một người! Nếu mà như vậy, ta sẽ đem cổ bán đi đó!"
"Đệ làm vậy chi cho khổ chứ!" Liễu Nhược Băng nhíu mày, "Ta đã nói rồi, cả đời này ta chẳng lấy ai hết."
"Vậy ta cả đời cũng chẳng cưới ai hết! Dù gì thì cũng bám theo nàng riết luôn thôi!" Dương Thu Trì gườm gườm tuyên bố.
 
Chương 89: Ngốc tú tài
Liễu Nhược Băng đỏ mặt tía tai, im lặng một chút mới dịu giọng nói: "Trì đệ..."
"Đừng gọi là Trì đệ, cảm giác giống như con rùa đen vậy."
Liễu Nhược Băng ngạc nhiên: "Ô quy...?"
'Trì đệ phiên ra là Trì tử để (đáy hồ), con ô quy không phải nằm phục dưới đáy hồ hay sao?"
Liễu Nhược Băng phì cười: "Con người của đệ thiệt là..., vậy đệ bảo ta gọi đệ là gì bây giờ?"
Dương Thu Trì thầm nghĩ, gọi bằng gì à? Đương nhiên là gọi phu quân rồi, khiếp trước nàng chẳng gọi ta vậy hay sao? Nhưng mà cái này không gấp, từ từ thì cháo cũng nhừ thôi, liền nói: "Gọi tên đệ đi."
"Vậy được thôi, Thu Trì, đệ đừng có tính như hài tử vậy được không, ta biết đệ đối với ta tốt, cứu mạng của ta, một phiên tâm ý đối với ta ta đều nhớ hết, nhưng mà..."
"Không có nhưng mà!" Dương Thu Trì khẽ nói, "cho dù tỷ uy hiếp nói như đệ nói những lời như thế nữa, tỷ sẽ đi, nhưng đệ vẫn cứ nói - không cưới tỷ đệ chả cưới ai cả! Đệ đến thế giới này là vì tỷ! Nếu như tỷ vì thế mà trốn tránh đệ, thì đệ sẽ từ quan đi tìm tỷ, đến chân trời góc biển nào cũng đi, đến khi tìm thấy tỷ, hoặc là tìm đến khi đệ chết thì thôi!"
"Đệ ....!" Liễu Nhược Băng vừa thẹn vừa gấp, giậm chân, "Không lý đến đệ nữa!" Rồi quay người đi chẳng nhìn hắn.
Dương Thu Trì chồm tới gầm gừ bổ thêm một câu: "Đệ xin thề! Những lời đệ nói đều là lời thật! Tỷ không tin cứ thử mà coi!"
Liễu Nhược Băng chuyển người lại, khẽ cắn môi, mắt sáng hơi giận trách, nhưng hạ giọng hỏi: "Thật vậy sao?"
"Đương nhiên là thật!" Dương Thu Trì ưỡn ngực, "Vừa rồi tỷ không phải là để Tuyết Liên đến thử đệ sao?"
"Ai mà thử đệ, ta là vì tốt cho đệ thôi!"
"Cảm ơn! Từ rày trở đi, tỷ mà như vậy, đệ sẽ... đệ sẽ..."
"Đệ sẽ thế nào?" Liễu Nhược Băng rắn mắt hỏi.
"Tỷ bảo họ làm gì, đệ sẽ làm như vậy với tỷ!"
"Phì...!" Liễu Nhược Băng khẽ xì một tiếng, gương mặt xinh đỏ như gấc, trợn mắt lườm hắn, "Không biết thẹn!"
Dương Thu Trì cười hăng hắc, còn định nói tiếp thì kiệu đã được mang đến. Hai người vội lên kiệu, đến nhà của Lý giáo dụ.
Nơi này đã đầy tiếng khóc, loạn thành một đoàn. Thi thể con gái của Lý giáo dụ là Đông Vân nằm gục ở bậc đá trước nhà, hai chân thân ra, hai tay co lại quái dị ở ngang hông. Phần đầu có một vũng máu nhỏ, trán bị vỡ xương, một bộ phận não trắng hếu đã xì ra ngoài.
Từ huấn đạo lưng còng đã đến trước, đứng bên cạnh cảm thán.
Lý giáo dụ ngồi phục bên thi thể khóc tồ tồ. Hai môn sinh đắc ý của ông ta là Lưu Mộng Chương và Tiêu An Nhiên đang ở một bên khuyên nhủ. Còn một người khác tên Chu Tư Hạo thì đang thất hồn lạc phách ngồi bẹp một bên thi thể, lặng lẽ lưu lệ.
Dương Thu Trì nhớ là Chu Tư Hạo này trước đây một mặt bố trí linh đường, một mặt dịu giọng an ủi Đông Vân đang khóc bên quan tài. Thật không ngờ là không mấy thời thần sau, Đông Vân cũng ngọc nát hương tiêu.
Thấy điển sứ đại nhân đến, mọi người vội tránh ra. Dương Thu Trì dẫn Liễu Nhược Băng đến bên thi thể, cúi xuống thấy Lý giáo dụ khác đã khàn giọng, không khỏi áo não. Đúng a, một ngày mà mất luôn con rễ và con gái, ai mà chịu nổi nhứ. Hắn dịu giọng khuyên nhủ: "Giáo dụ đại nhân, hãy cố kìm nén đau thương đi!"
Lý giáo dụ như không nghe thấy. Trong ba tú tài ở bên cạnh thì có Chu Tư hạo ngồi ngẩn ngơ trên đất gần thi thể rơi lệ, chẳng biết gì, hai tú tài khác là Lý An Nhiên và Lưu Mộng Chương thì chú ý, vội đứng lên làm lễ ra mắt với Dương Thu Trì.
Hai tú tài liếc mắt cái là thấy Liễu Nhược Băng mỹ diễm tuyệt luân trong bộ đồ trắng, tức thời ngẩn ra, bốn con mắt nhìn nàng quên cả chớp, chỉ thiếu là nuốt nước bọt ừng ực ở đương trường mà thôi.
Liễu Nhược Băng nhíu mày, khẽ hừ một tiếng, lạnh lùng quét mắt nhìn hai người, ánh mắt như điện. Hai người cả kinh, tức thời mặt đỏ tới mang tai, vội cúi đầu xuống, nhưng chẳng mấy chốc là lấy hết can đảm lén nhìn tiếp Liễu Nhược Băng.
Lý giáo dụ khóc một hồi từ từ quay đầu qua, nước mắt tràn đầy, lúc sau mới nhận ra Dương Thu Trì, u buồn nói: "Điển sứ đại nhân..., tiểu nó nó...., nó....,"
"Ta biết rồi, ông hãy bớt ưu sầu trước, nói coi rốt cuộc là chuyện gì, được không?"
Lý giáo dụ gật đầu, dùng tay áo gạt lệ: 'Đại nhân đi rồi..., ti chức và Tư Hạo mấy đứa cùng với tiểu nữ thủ ở cạnh quan tài, nửa đêm thì tiểu nữ cứ khóc mãi, ti chức... lo nó khóc sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, lại nhớ là ngày mai còn sẽ có người đến điếu nghiên, liền bảo nó về phong nghỉ ngơi, chờ trời sáng rồi hẳn ra, không ngờ..., hu hu hu..."
Nói đến đây, Lý giáo dụ nghẹn ngào khó có thể nói tiếp, nên phẩy tay bảo các học trò nói giúp. Nhưng ba học sinh một thì nhìn thi thể đến ngẩn ngơ, hai người còn lại thì từ khi nhìn thấy Liễu Nhược Băng thần hồn đi đâu mất, không phản ứng gì. Cho đến khi Lý giáo dụ hừ một tiếng mạnh, hai người bấy giờ mới hồi lại tinh thần, ngơ ngẩn nhìn Lý giáo dụ dò hỏi.
Hai con ngốc điểu này bị mê hồn rồi, không biết chỉ kỳ của Lý giáo dụ. Tú tài Chu Tư hạo ngồi ở dưới đất không ngờ nghe hiểu, vẫn cúi đầu nhìn thi thể Đông Vân, buồn bã nói: "Bọn vãn sinh cùng thấy thủ ở linh đường, đang nói chuyện thì nghe phịch một cái, chúng tôi vội quay đầu, thì Đông Vân nàng... nàng ấy đã nhảy lầu tự vẫn rồi..."
Dương Thu Trì gật đầu, lại hỏi: "Khuê phòng của Đông Vân ở lầu mấy?"
"Phòng của Đông Vân..." Chu Tư Hạo vừa nói vừa quay đầu, chợt thấy ngay Liễu Nhược Băng ở sau Dương Thu Trì, lập tức ngẩn ra, há hốc mồm to đến nổi có thể bỏ cái trứng ngỗng vào, lòng ắt là kinh hãi vì không ngờ trên đời lại có mỹ nhân như vậy. Lòng y như vụt lóe, vừa mừng vừa ưu thương, mừng vì đã nhìn được mỹ nữ xinh đẹp như vậy, ưu thương vì sau này nếu không thấy được, bản thân y còn sống nổi hay không!
Nhưng mà, y dù sao vẫn là một tú tài, biết cứ nhìn con gái nhà người ta như vậy là thập phần vô lễ, nên vội cúi đầu, nhưng sự lo nghĩ khiến y thất hồn lạc phách, muốn ngẩn đầu nhìn lại thì sợ nhìn rồi sẽ quên dời mắt đi sẽ bị người cười. Lòng y cứ thắc thỏm như vậy, con tim và khối óc dường như bị dung nhan khuynh quốc của Liễu Nhược Băng lấy đi luôn, nên quên cả việc trả lời câu hỏi của Dương Thu Trì.
Nam nhân nhìn Liễu Nhược Băng lần đầu có phản ứng thế nào Dương Thu Trì đã thấy nhiều, nhưng vẫn nhịn không được vẻ tức cười và vài phần đắc ý, hắn quay sang nhìn Liễu Nhược Băng, cười hắc hắc trào lộng. Liễu Nhược Băng ngượng ngập và hơi trách lườm hắn.
Dương Thu Trì ngẩn đầu nhìn tình huống của tòa nha ba tầng này, thấy trên tầng ba có một cửa sổ, nhưng dường như cửa sở bị cây ngăn lại, cửa sổ tần hai thì hai bên, đại khái cách đất hai ba mét. Như vậy xem ra người chết phải nhảy từ tầng ba xuống rồi.
Hắn thu hồi mục quang, phát hiện ba tú tài còn hoảng loạn cố tìm cách che giấu ánh mắt nhìn lén Liễu Nhược Băng, liền hừ một tiếng lạnh lùng, quát hỏi: "Khuê phòng của Đông Vân cô nương ở tầng ba hả?"
Tiếng quát này khiến ba tú tài giật nãy mình hoảng hốt, hồn vía mới quay về. Vị đại mỹ nhân này theo đến cùng điển sứ, khẳng định là người gì đó của điển sứ. Nhìn lén nữ quyến của người ta thế này chẳng phải là hành vi của người đọc sách. Ba người vội thu liễm tâm thần, cùng cúi đầu. Nhưng tâm của nam nhân khi đã bị nữ nhân làm loạn, trong thoáng chốc thì làm sao ổn định lại được, cho nên đối với câu hỏi của Dương Thu Trì, họ ngờ ngờ nghệch nghệch không biết đáp thế nào.
Lý giáo dụ phải dừng khóc, tự thân hồi đáp: 'Vâng, khuê phòng của tiểu nữ ở lầu ba."
"Các ngươi có động qua thi thể chưa?" Dương Thu Trì cúi đầu nhìn thi thể nằm phục ở bậc đá, gay gắt hỏi.
Ba tú tài không dám nhìn lén Liễu Nhược Băng nữa. Dù sao họ cũng là tú tài, đầu óc xoay chuyển cũng nhanh, thoáng chốc là phản ứng được, Lưu Mộng Chương vội đáp: "Không động tới, vãn sanh không dám động, giáo dụ đại nhân nói phải chờ điển sứ đại nhânngài đến tra xét hiện trường rồi mới xử lí."
"Khi Đông Vân cô nương nhảy lầu, mấy người các ngươi đều đang nói chuyện ở linh đường?"
'Vâng, ba người vãn sinh đang bồi đồng lão sư thủ linh ở linh đường, còn có mấy người hầu nữa."
"Còn có người nào khác không?"
"Không có, những người phúng điếu xong đều đi hết rồi."
Dương Thu Trì gật đầu: "Các ngươi đỡ giáo dụ đại nhân qua một bên nghỉ ngơi, ta kiểm tra thi thể một chút."
Ba tú tài vội đáp ứng, đỡ Lý giáo dụ qua ngồi nghỉ ở một ghế dài gần bên.
Chờ bọn họ đi xong, Dương Thu Trì lấy một cái đèn đặt cạnh thi thể, khẽ kéo thi thể qua. Đông Vân cô nương ngã từ trên xuống đập mặt vào ngạch đá, nên mặt máu thịt bầy nhầy, mũi và miệng đã biến cả hình dạng. Hai con mắt mở trừng, dường như còn lưu luyến thế giới mỹ lệ này.
Do thi thể là nữ tính trẻ tuổi, lại là thiên kim của giáo dụ, trong khi đó giáo dụ và học sinh của ông ta ở bên nhìn, Dương Thu Trì đương nhiên không tiện cởi sạch y phúc tiến hành kiểm nghiệm, liền nói với Liễu Nhược Băng: "Liễu tỷ tỷ, tỷ giúp đệ đưa di thể của Đông vân cô nương vào phòng khách, cỏi y phục kiểm nghiệm ngoài da coi có thương tích gì không, vị trí phân bố của vết thương ra sao, được không?"
Liệu Nhược Băng gật đầu đáp ứng, cẩn thận ôm thi thể vào phòng khách, đóng cửa lại.
 
Chương 90: Bí ẩn khuê phòng
"Vậy à? Trong này có gì kỳ lạ?" Liễu Nhược Băng nhìn bốn phía, đột nhiên nhìn thấy mền gối bị xốc xếch trên giường, mắt sáng rực lên: 'Đúng a, vừa rồi Lý giáo dụ nói con gái Đông Vân của ông ta biết chồng Triệu Thiên Châu thân bị tuyệt chứng, đã nghĩ đến sau này sẽ chết theo chồng. Hôm nay Triệu Thiên Châu chết rồi, nàng ta nếu như sớm có lòng này, đáng ra phải lên lầu xong là nhảy lầu tự vẫn, chứ không thể đi ngủ trước, ngủ nửa giấc rồi mối muốn chết. Điều này dường như nói không thông."
Dương Thu Trì gật đầu khen ngợi: "Rất đúng! Đây đích xác là phù hợp với lẽ thường, nhưng vẫn không vì thế mà hoài nghi cái chết của nàng ta. Còn có phát hiện nào khác không?"
Liễu Nhược Băng lại ngẫm nghĩ: "Ừ..., còn nữa, khi chúng ta đến, thấy thi thể Đông Vân nằm phục trên bậc đá, vẫn nguyên dạng không động đến. Đổi thành người khác, khi thấy người nhảy lầu thì phản ứng trước hết là bước tới quan sát thương thế của người nhảy lầu, cho dù không đến mức khiên lên cứu chửa, nhưng chí ít cũng lật người qua coi. Đằng này chỉ ở kế bên mà khóc tồ tồ."
Dương Thu Trì lại gật gù: "Có đạo lý nhất định, chỉ có điều, nếu như người nhảy lầu đã chết rõ ràng rồi, thì không cần thiết phải động đến thi thể nữa. Đông Vân nhảy từ lầu ba xuống, phần đầu đập trúng bậc đá, não tương đều đã chảy ra, xem rằng đã chết ngay đương trường. Xem ra Lý giáo dụ và mọi người đã nhìn ra điểm này, Đông Vân đã chết rồi, nên mới không di động thi thể. Từ hiện trưởng tử vong của Triệu Thiên Châu mà chúng ta khám sát ban ngày, Lý giáo dụ này có vẻ như biết tính trọng yếu của bảo vệ hiện trường. Ông ta dù gì ở nha môn nhiều năm, không ăn thịt heo cũng thấy heo chạy, trong tình huống bất minh, đích xác là không nên tùy ý di động thi thể. Do đó, tỷ nói có đạo lý nhất định, những vẫn tồn tại lời giải thích hợp lý, cho nên không thể coi là chỗ đặc biệt kỳ quái."
Liễu Nhược Băng nhướng mày: "Vậy đệ nói coi, rốt cuộc là có chỗ kỳ lạ gì? Ta tìm không ra rồi."
Dương Thu Trì ngoắc tay bảo Liễu Nhược Băng lại cửa sổ, khẽ đẩy cửa sổ ra, chỉ vào giấy dán cửa sổ bị rách trên đó và dấu giày trên cái ghế, nói: "Từ hướng dấu chân và chiếu theo lý thường, Đông Vân cô nương là bước lên trên ghế, lưng ngồi quay ra ngoài cửa sổ, dựa vào cánh cửa sổ, dùng tư thế lăng ra, thân đẩy hé cánh cửa, sau đó lăn xuống dưới té chết. Do đó lúc ngã qua cửa sổ, hai chân vừa khéo đá lên trên cửa, khiến giấy dán cửa bị rách một lổ to."
"Đúng a, ta sao không phát hiện ra chứ?" Liễu Nhược Băng nhìn dấu giày trên ghế, rồi nhìn lên cửa sổ, "Nhưng mà, loại tư thế này rất bình thường, đâu có gì đặc biệt đâu?"
"Đừng gấp, nghe đệ nói này." Dương Thu Trì lại đẩy phiến cửa đó, "Nếu như đệ định từ trong này dùng tư thế đó nhảy qua cửa sổ tự sát, hơn nữa ý chí rất kiên quyết, thì phải dùng cây trúc chống cửa sổ chống lại trước đã, như vậy không có vật ngăn trở, dễ té người xuống hơn. Nếu không, chân đá lên trên cửa với lực độ mang một chút, sẽ đá xuyên luôn cây song, chân móc vào cánh cửa. Nếu như vậy thì chết cũng không được mà sống cũng không xong, chẳng phải là lãng phí cách bày tỏ tình cảm muốn chết rồi sao?"
Liễu Nhược Băng hừ một tiếng: "Vậy mà có gì đâu kỳ lạ!"
"Còn nữa nè!" Dương Thu Trì nói tiếp, "Đệ để tỷ kiểm tra thi thể, tỷ phát hiện bàn tay, cánh tay không có thương tích, đúng không?"
"Đúng vậy, sao thế?"
"Từ trên té úp mặt xuống đất, bất quản tự sát hay là bị người ta giết, đều xuất hiện một động tác, đó là đưa tay ra chống xuống đất trước. Đây là ý thức tự bảo hộ vô thức, cho nên, khi té cấm đầu xuống chết, thường thì ở tay sẽ xuất hiện hiện tượng gãy xương do bị đè ép va chạm mạnh, chí ít cũng phải hình thành vết rách biểu bì hay là trầy xước. Đằng này, tay của Đông Vân cô nương không thụ thương, giải thích sao đây?"
Liễu Nhược Băng chớp chớp mắt một chút, nói: 'Cho thấy cô ta không có động tác bảo hộ bản thân vô thức, có khả năng là thân hình xuống đất trước, sau đó tay xuống sau. Đúng rồi, ta nghĩ ra rồi, vừa rồi thấy thi thể của Đông Nhi, dườn như hai tay của cô tay cụp vào hai bên thân thể. Chiếu theo cách nói vừa rồi của đệ đúng là không ổn rồi, tay của cô ta phai đưa ra trước mặt mới đúng! Vì sao lại như thế chứ?" Liễu Nhược Băng trầm tư.
Dương Thu Trì không cắt ngang dòng suy nghĩ của nàng, yên lặng nhìn gương mặt đẹp như tranh vẻ của nàng. Lát sau, mắt của Liễu Nhược Băng sáng bừng lên: "Ta biết rồi, khi Đông Vân cô nương ngã xuống lầu, có khả năng là hôn mê bất tỉnh rồi!"
"Vâng..., rất tốt!" Dương Thu Trì khẽ vỗ tay, "Nhưng mà không phải cô ta hôn mê, mà đã chết trước rồi!"
"Chết rồi?" Liễu Nhược Băng cả kinh.
"Đúng vậy, trước khi Đông Vân cô nương té xuống cửa sổ, cổ đã chết rồi!"
"Đệ làm sao biết vậy?"
"Đông Vân cô nương nói cho đệ biết."
Liễu Nhược Băng lườm mắt nhìn hắn: "Giởn chơi cái gì vậy!"
"Hắc hắc, chuẩn xác mà nói, thì di thể của Đông Vân cô nương cho đệ biết."
"A...?"
"Không cần kinh ngạc, người chết rồi tuy nhiên không nói chuyện, nhưng có thể thông qua một số hiện tượng thi thể cho người khác biết sự tình trước khi chết mà kẻ đó gặp là gì. Chỉ cần tỷ có thể đọc hiểu, thì có thể có được rất nhiều tin tức và tư liệu cần."
Liễu Nhược Băng bán tín bán nghi, nhìn hắn hỏi: "Di thể của Đông Vân cô nương nói cho đệ biết những tin tức gì?"
"Kỳ thật có tin tức tỷ đã biết rồi, ví dụ như cánh tay của cổ không từ trên chỏi xuống hay ra trước như những người chết té chúi đầu thường thấy, cũng không có vết gãy hay vết thương gì, cho thấy lúc cô ta rơi xuống, chí ít đã rơi vào trạng thái vô ý thức."
"Đúng, nhưng điểm này không thể chứng minh cô ta đã chết rồi a."
'Chỉ bằng một điểm đó thì không thể được, nhưng còn có những chứng cứ khác." Dương Thu Trì bước đến cửa sổ, ngoắc tay gọi Liễu Nhược Băng lại, chỉ vào vết máu ở dưới bậc đá, "Có chú ý vệt máu đó không? Đó là chứng cứ rất có sức thuyết phục, có thể chứng minh Đông Vân cô nương chết rồi mới té xuống dưới."
"Vậy sao? Vì sao vậy?"
'Rất đơn giản, trước khi té xuống, nếu người còn sống thì tim sẽ vẫn tiếp tục đập, huyết dịch sẽ không ngừng lưu động trong huyết quản. Do đó, người sống rơi xuống chết, máu chảy ra sẽ ào ào như suối, sẽ tạo thành đám máu lớn, thậm chí đọng vũng. Nhưng nếu như khi té xuống mà đã chết trước rồi, do tim đã sớm ngừng đập, thì ngoài huyết dịch trong huyết quản ở chỗ gần vết thương chảy ra theo tác dụng của trọng lực, huyết dịch trong huyết quản ở bộ vị khác do không có tim đập, máu dừng chảy trong huyết quản, không thể từ chổ bị rách vỡ mà chảy ra hết. Như vậy, xung quanh vết thương chỉ có một ít máu mà thôi. Tình huống của Đông Vân cô nương thuộc về trường hợp sau này."
Sau khi Dương Thu Trì khơi gợi ra điểm này, Liễu Nhược Băng lập tức minh bạch. Dù gì thì nàng cũng trải qua quá nhiều cuộc chiến sinh tử, nhìn thấy rất nhiều cuộc lưu huyết và tử vong.
Dương Thu Trì nói tiếp: "Tuy Đông Vân cô nương rơi chúi đầu chết, rất nhiều dấu vết lúc sống trên mặt đã bị hủy diệt rồi, nhưng có một chút tàn lưu có thể cho chúng ta biết rất nhiều tin tức. Tỷ vừa rồi khi kiểm tra thi thể, có phát hiện phần mặt của người chết ở các bộ vị chính thường có màu xanh tím đúng không? Hơn nữa còn có vệt xuất huyết bằng lổ châm đúng không?"
"Ừ!" Liễu Nhược Băng trầm tư một chút, gật gật đầu, "Dường như là thế, ngoài trừ chỗ bị đụng vỡ bẹp dí ra, mặt có màu tím xanh, có xuất huyết hay không thì ta không chú ý, có thể là nhân vì mặt cô ta tím xanh, che mất rồi."
"Đúng vậy, nếu tỷ quan sát kỹ, sẽ phát hiện ra dưới chỗ xanh tím đó có xuất huyết từng điểm. Còn nữa, tỷ có phát hiện ở nhãn cầu của người chết có điểm xuất huyết cũng bằng đầu châm không? Còn nữa, ngón tay của người chết tím xanh?"
Liễu Nhược Băng bối rối cười: "Cái này... ta không chú ý."
"Sau này tỷ giúp đệ kiểm tra nữ thi, cần chú ý kiểm tra những bộ vị ẩn bí này. Nhân vì những chỗ đó thường ẩn tàng rất nhiều tin tức có thể dùng để phá án."
"Vâng, được thôi."
"Trong mắt người chết có điểm xuất huyết, ngón tay tím xanh, là đặc trưng trọng yếu của cái chết do ngạt thở!"
"Chết vì ngạt?"
"Đúng, chết vì bị bóp cổ, bị miệng hay là treo cổ, dìm chết dưới nước vâng vâng. Đơn giản mà nói, phàm là sử dụng phương thức nào khiến người không thể hô hấp, đứt hơi chết tươi, thì gọi là chết vì ngạt."
'Vậy à...! Ý của đệ là Đông Vân bị chết ngạt?"
"Đúng vậy, nhãn cầu của cô ta có xuất huyết điểm, ngón tay tím tái, cơ bản có thể chứng minh chết vì ngạt thở. Đệ kiểm tra qua phần yết hầu, không phát hiện vỡ xương, cũng không có dấu xiết cổ hay là đè lên. Cho nên có thể bài trừ khả năng bóp cổ hay treo cổ. Từ dấu hiệu trên mặt, ngón tay và xuất huyết theo điểm rõ rệt trên, có thể thấy quá trình chết ngạt của nạn nhân khá dài, phù hợp với đặc điểm bị bịt kín hơi mà chết. Đệ đã xem qua miệng mũi của cô ta, tuy đã bị té bẹp nát rồi, nhưng có bộ vị vẫn còn nhìn ra vấn đề, đó là ở mũi của cô ta có vết trầy hình vòng nguyệt của móng tay tạo ra, có thể ấn chứng phán đoán của đệ, đó là Đông Vân cô nương kỳ thật bị bịt miệng mũi mà chết!"
Liễu Nhược Băng ngẫn người ra một lúc, rồi mới lấy lại tinh thần, nhìn hắn với đôi mắt sâu thăm thãm: "Đệ sao mà biết nhiều như vậy?"
Dương Thu Trì chỉ vào đầu mình: "Suy nghĩ a! Hắc hắc, tỷ suy đoán một lúc xem, Đông Vân cô nương bị bịt chết ở đâu?"
 
Chương 91: Thi thể nói cho biết
"Vậy à? Trong này có gì kỳ lạ?" Liễu Nhược Băng nhìn bốn phía, đột nhiên nhìn thấy mền gối bị xốc xếch trên giường, mắt sáng rực lên: 'Đúng a, vừa rồi Lý giáo dụ nói con gái Đông Vân của ông ta biết chồng Triệu Thiên Châu thân bị tuyệt chứng, đã nghĩ đến sau này sẽ chết theo chồng. Hôm nay Triệu Thiên Châu chết rồi, nàng ta nếu như sớm có lòng này, đáng ra phải lên lầu xong là nhảy lầu tự vẫn, chứ không thể đi ngủ trước, ngủ nửa giấc rồi mối muốn chết. Điều này dường như nói không thông."
Dương Thu Trì gật đầu khen ngợi: "Rất đúng! Đây đích xác là phù hợp với lẽ thường, nhưng vẫn không vì thế mà hoài nghi cái chết của nàng ta. Còn có phát hiện nào khác không?"
Liễu Nhược Băng lại ngẫm nghĩ: "Ừ..., còn nữa, khi chúng ta đến, thấy thi thể Đông Vân nằm phục trên bậc đá, vẫn nguyên dạng không động đến. Đổi thành người khác, khi thấy người nhảy lầu thì phản ứng trước hết là bước tới quan sát thương thế của người nhảy lầu, cho dù không đến mức khiên lên cứu chửa, nhưng chí ít cũng lật người qua coi. Đằng này chỉ ở kế bên mà khóc tồ tồ."
Dương Thu Trì lại gật gù: "Có đạo lý nhất định, chỉ có điều, nếu như người nhảy lầu đã chết rõ ràng rồi, thì không cần thiết phải động đến thi thể nữa. Đông Vân nhảy từ lầu ba xuống, phần đầu đập trúng bậc đá, não tương đều đã chảy ra, xem rằng đã chết ngay đương trường. Xem ra Lý giáo dụ và mọi người đã nhìn ra điểm này, Đông Vân đã chết rồi, nên mới không di động thi thể. Từ hiện trưởng tử vong của Triệu Thiên Châu mà chúng ta khám sát ban ngày, Lý giáo dụ này có vẻ như biết tính trọng yếu của bảo vệ hiện trường. Ông ta dù gì ở nha môn nhiều năm, không ăn thịt heo cũng thấy heo chạy, trong tình huống bất minh, đích xác là không nên tùy ý di động thi thể. Do đó, tỷ nói có đạo lý nhất định, những vẫn tồn tại lời giải thích hợp lý, cho nên không thể coi là chỗ đặc biệt kỳ quái."
Liễu Nhược Băng nhướng mày: "Vậy đệ nói coi, rốt cuộc là có chỗ kỳ lạ gì? Ta tìm không ra rồi."
Dương Thu Trì ngoắc tay bảo Liễu Nhược Băng lại cửa sổ, khẽ đẩy cửa sổ ra, chỉ vào giấy dán cửa sổ bị rách trên đó và dấu giày trên cái ghế, nói: "Từ hướng dấu chân và chiếu theo lý thường, Đông Vân cô nương là bước lên trên ghế, lưng ngồi quay ra ngoài cửa sổ, dựa vào cánh cửa sổ, dùng tư thế lăng ra, thân đẩy hé cánh cửa, sau đó lăn xuống dưới té chết. Do đó lúc ngã qua cửa sổ, hai chân vừa khéo đá lên trên cửa, khiến giấy dán cửa bị rách một lổ to."
"Đúng a, ta sao không phát hiện ra chứ?" Liễu Nhược Băng nhìn dấu giày trên ghế, rồi nhìn lên cửa sổ, "Nhưng mà, loại tư thế này rất bình thường, đâu có gì đặc biệt đâu?"
"Đừng gấp, nghe đệ nói này." Dương Thu Trì lại đẩy phiến cửa đó, "Nếu như đệ định từ trong này dùng tư thế đó nhảy qua cửa sổ tự sát, hơn nữa ý chí rất kiên quyết, thì phải dùng cây trúc chống cửa sổ chống lại trước đã, như vậy không có vật ngăn trở, dễ té người xuống hơn. Nếu không, chân đá lên trên cửa với lực độ mang một chút, sẽ đá xuyên luôn cây song, chân móc vào cánh cửa. Nếu như vậy thì chết cũng không được mà sống cũng không xong, chẳng phải là lãng phí cách bày tỏ tình cảm muốn chết rồi sao?"
Liễu Nhược Băng hừ một tiếng: "Vậy mà có gì đâu kỳ lạ!"
"Còn nữa nè!" Dương Thu Trì nói tiếp, "Đệ để tỷ kiểm tra thi thể, tỷ phát hiện bàn tay, cánh tay không có thương tích, đúng không?"
"Đúng vậy, sao thế?"
"Từ trên té úp mặt xuống đất, bất quản tự sát hay là bị người ta giết, đều xuất hiện một động tác, đó là đưa tay ra chống xuống đất trước. Đây là ý thức tự bảo hộ vô thức, cho nên, khi té cấm đầu xuống chết, thường thì ở tay sẽ xuất hiện hiện tượng gãy xương do bị đè ép va chạm mạnh, chí ít cũng phải hình thành vết rách biểu bì hay là trầy xước. Đằng này, tay của Đông Vân cô nương không thụ thương, giải thích sao đây?"
Liễu Nhược Băng chớp chớp mắt một chút, nói: 'Cho thấy cô ta không có động tác bảo hộ bản thân vô thức, có khả năng là thân hình xuống đất trước, sau đó tay xuống sau. Đúng rồi, ta nghĩ ra rồi, vừa rồi thấy thi thể của Đông Nhi, dườn như hai tay của cô tay cụp vào hai bên thân thể. Chiếu theo cách nói vừa rồi của đệ đúng là không ổn rồi, tay của cô ta phai đưa ra trước mặt mới đúng! Vì sao lại như thế chứ?" Liễu Nhược Băng trầm tư.
Dương Thu Trì không cắt ngang dòng suy nghĩ của nàng, yên lặng nhìn gương mặt đẹp như tranh vẻ của nàng. Lát sau, mắt của Liễu Nhược Băng sáng bừng lên: "Ta biết rồi, khi Đông Vân cô nương ngã xuống lầu, có khả năng là hôn mê bất tỉnh rồi!"
"Vâng..., rất tốt!" Dương Thu Trì khẽ vỗ tay, "Nhưng mà không phải cô ta hôn mê, mà đã chết trước rồi!"
"Chết rồi?" Liễu Nhược Băng cả kinh.
"Đúng vậy, trước khi Đông Vân cô nương té xuống cửa sổ, cổ đã chết rồi!"
"Đệ làm sao biết vậy?"
"Đông Vân cô nương nói cho đệ biết."
Liễu Nhược Băng lườm mắt nhìn hắn: "Giởn chơi cái gì vậy!"
"Hắc hắc, chuẩn xác mà nói, thì di thể của Đông Vân cô nương cho đệ biết."
"A...?"
"Không cần kinh ngạc, người chết rồi tuy nhiên không nói chuyện, nhưng có thể thông qua một số hiện tượng thi thể cho người khác biết sự tình trước khi chết mà kẻ đó gặp là gì. Chỉ cần tỷ có thể đọc hiểu, thì có thể có được rất nhiều tin tức và tư liệu cần."
Liễu Nhược Băng bán tín bán nghi, nhìn hắn hỏi: "Di thể của Đông Vân cô nương nói cho đệ biết những tin tức gì?"
"Kỳ thật có tin tức tỷ đã biết rồi, ví dụ như cánh tay của cổ không từ trên chỏi xuống hay ra trước như những người chết té chúi đầu thường thấy, cũng không có vết gãy hay vết thương gì, cho thấy lúc cô ta rơi xuống, chí ít đã rơi vào trạng thái vô ý thức."
"Đúng, nhưng điểm này không thể chứng minh cô ta đã chết rồi a."
'Chỉ bằng một điểm đó thì không thể được, nhưng còn có những chứng cứ khác." Dương Thu Trì bước đến cửa sổ, ngoắc tay gọi Liễu Nhược Băng lại, chỉ vào vết máu ở dưới bậc đá, "Có chú ý vệt máu đó không? Đó là chứng cứ rất có sức thuyết phục, có thể chứng minh Đông Vân cô nương chết rồi mới té xuống dưới."
"Vậy sao? Vì sao vậy?"
'Rất đơn giản, trước khi té xuống, nếu người còn sống thì tim sẽ vẫn tiếp tục đập, huyết dịch sẽ không ngừng lưu động trong huyết quản. Do đó, người sống rơi xuống chết, máu chảy ra sẽ ào ào như suối, sẽ tạo thành đám máu lớn, thậm chí đọng vũng. Nhưng nếu như khi té xuống mà đã chết trước rồi, do tim đã sớm ngừng đập, thì ngoài huyết dịch trong huyết quản ở chỗ gần vết thương chảy ra theo tác dụng của trọng lực, huyết dịch trong huyết quản ở bộ vị khác do không có tim đập, máu dừng chảy trong huyết quản, không thể từ chổ bị rách vỡ mà chảy ra hết. Như vậy, xung quanh vết thương chỉ có một ít máu mà thôi. Tình huống của Đông Vân cô nương thuộc về trường hợp sau này."
Sau khi Dương Thu Trì khơi gợi ra điểm này, Liễu Nhược Băng lập tức minh bạch. Dù gì thì nàng cũng trải qua quá nhiều cuộc chiến sinh tử, nhìn thấy rất nhiều cuộc lưu huyết và tử vong.
Dương Thu Trì nói tiếp: "Tuy Đông Vân cô nương rơi chúi đầu chết, rất nhiều dấu vết lúc sống trên mặt đã bị hủy diệt rồi, nhưng có một chút tàn lưu có thể cho chúng ta biết rất nhiều tin tức. Tỷ vừa rồi khi kiểm tra thi thể, có phát hiện phần mặt của người chết ở các bộ vị chính thường có màu xanh tím đúng không? Hơn nữa còn có vệt xuất huyết bằng lổ châm đúng không?"
"Ừ!" Liễu Nhược Băng trầm tư một chút, gật gật đầu, "Dường như là thế, ngoài trừ chỗ bị đụng vỡ bẹp dí ra, mặt có màu tím xanh, có xuất huyết hay không thì ta không chú ý, có thể là nhân vì mặt cô ta tím xanh, che mất rồi."
"Đúng vậy, nếu tỷ quan sát kỹ, sẽ phát hiện ra dưới chỗ xanh tím đó có xuất huyết từng điểm. Còn nữa, tỷ có phát hiện ở nhãn cầu của người chết có điểm xuất huyết cũng bằng đầu châm không? Còn nữa, ngón tay của người chết tím xanh?"
Liễu Nhược Băng bối rối cười: "Cái này... ta không chú ý."
"Sau này tỷ giúp đệ kiểm tra nữ thi, cần chú ý kiểm tra những bộ vị ẩn bí này. Nhân vì những chỗ đó thường ẩn tàng rất nhiều tin tức có thể dùng để phá án."
"Vâng, được thôi."
"Trong mắt người chết có điểm xuất huyết, ngón tay tím xanh, là đặc trưng trọng yếu của cái chết do ngạt thở!"
"Chết vì ngạt?"
"Đúng, chết vì bị bóp cổ, bị miệng hay là treo cổ, dìm chết dưới nước vâng vâng. Đơn giản mà nói, phàm là sử dụng phương thức nào khiến người không thể hô hấp, đứt hơi chết tươi, thì gọi là chết vì ngạt."
'Vậy à...! Ý của đệ là Đông Vân bị chết ngạt?"
"Đúng vậy, nhãn cầu của cô ta có xuất huyết điểm, ngón tay tím tái, cơ bản có thể chứng minh chết vì ngạt thở. Đệ kiểm tra qua phần yết hầu, không phát hiện vỡ xương, cũng không có dấu xiết cổ hay là đè lên. Cho nên có thể bài trừ khả năng bóp cổ hay treo cổ. Từ dấu hiệu trên mặt, ngón tay và xuất huyết theo điểm rõ rệt trên, có thể thấy quá trình chết ngạt của nạn nhân khá dài, phù hợp với đặc điểm bị bịt kín hơi mà chết. Đệ đã xem qua miệng mũi của cô ta, tuy đã bị té bẹp nát rồi, nhưng có bộ vị vẫn còn nhìn ra vấn đề, đó là ở mũi của cô ta có vết trầy hình vòng nguyệt của móng tay tạo ra, có thể ấn chứng phán đoán của đệ, đó là Đông Vân cô nương kỳ thật bị bịt miệng mũi mà chết!"
Liễu Nhược Băng ngẫn người ra một lúc, rồi mới lấy lại tinh thần, nhìn hắn với đôi mắt sâu thăm thãm: "Đệ sao mà biết nhiều như vậy?"
Dương Thu Trì chỉ vào đầu mình: "Suy nghĩ a! Hắc hắc, tỷ suy đoán một lúc xem, Đông Vân cô nương bị bịt chết ở đâu?"
 
Chương 92: Tiểu đổ di tình
Ánh mắt của Liễu Nhược Băng dò xét khắp phòng, dừng lại trên giường bừa bộn: "Chẳng lẽ ở trên giường?"
Dương Thu Trì gật đầu: "Xem ra là vậy! Tỷ kiểm tra thi thể phát hiện rồi, trừ vết thương do rơi từ trên cao xuống, bề ngoài của thi thể không có vết thương nào khác, thậm chí cũng không có vết thương do đề kháng. Điều này phù hợp với đặc trưng bị bịt chết trên giường: nhân cơ hội nàng ta đáp mền trên giường, dùng thân đè ngoài mền, một tay là có thể bịt chết đối phương. Còn đối phương thì bị cái mền lùng bùng vướng chân tay, cho nên không hình thành vết thương đề kháng. Chỉ có điều, nàng ta vẫn tiến hành giãy giụa mãnh liệt, hai chân đạp đá, khiến cho một bộ phần chăn chiếu bị đó loạn. Điểm này hung thủ đã không chú ý đến."
"Đệ tìm được hung thủ rốt cuộc là ai rồi phải không? Tên này ngoan độc như vậy, nhất định không tha cho hắn!"
Dương Thu Trì chỉ vào linh bằng (chòi dựng tạm để đặt linh cửu), nói khẽ: "Hung thủ chỉ là những người ở dưới đó thôi, tỷ suy luận thử một chút coi, sẽ là ai đây?"
Liễu Nhược Băng lộ vẻ vô cùng kinh ngạc, tựa hồ như hỏi: "Đệ làm sao mà bíết vậy?" Nhưng thấy thần tình chắc chắn của Dương Thu Trì như vậy, biết là hắn khẳng định có chứng cứ, chẳng qua là chưa đến lúc nói thôi, nên không hỏi dồn. Nàng trầm ngâm một lúc, nói: "HUng thủ xem ra là người quen với nạn nhân, mới có thể gọi Đông Vân cô nương mở cửa phòng, hơn nữa còn không dẫn tới sự cảnh giác của nàng ta. Nhưng mà...., theo phân tích và suy luận vừa rồi, Đông Vân cô nương chết trên giường, gối mền đều đã bày ra, cho thấy lúc đó cô ta đã ngủ rồi. Như vầy thì quả là kỳ quái..."
"Sao mà kỳ quái?" Dương Thu Trì thấy nàng đã tìm được mấu chốt, lòng hoan hỉ vô cùng, lòng đầy yêu thương nhìn dung nhan kiều mỹ và thân người tha thướt của nàng.
Liễu Nhược Băng không chú ý ánh mắt sắc lang chen lẫn tình thánh của hắn, vẫn nghiêng đầu suy ngẫm về án như cũ: "Chốt cửa không có dấu hiệu bị phá, cũng tự mở không ra, không phải là lén mở cửa lẻn vào hành hung; Phía dưới có người thủ bên quan tài, càng không có khả năng xông đại vào. Nếu muốn mở cửa khuê phòng, trừ khi là người thân cận hay có quan hệ đặc biệt. Và muốn để nàng ta năm ngủ trên giường rồi mới hạ thủ, thì chỉ là người thân hoặc là người rất thân mật với nàng ta, ví dụ như tình lữ chẳng hạn. Phụ thân của nàng ta đương nhiên không có khả năng giết con gái của mình, các người hầu trong nhà diện mạo xấu xí, dường như không có khả năng có tình nghiệt gì với khuê tú con nhà đại gia như Đông Vân đây. Như vậy xem ra, kẻ hiềm nghi lớn nhất là ba vị tú tài này, chẳng lẽ là một những người cùng nàng ta...."
Dương Thu Trì đưa tay lên môi ra dấu cấm thanh: "Mọi thứ đều có thể xảy ra!"
"Nhưng mà..., vừa rồi bọn họ có thể tương hỗ chứng minh khi Đông Vân cô nương nhảy xuống..., không, té xuống lầu, ba người họ và Lý giáo dụ cùng người hầu đang ở linh bằng, không có ai li khai. Nếu như người nào đó trong số họ làm, thì làm cách nào có thể phân thân giết người được?"
"Cái này rất đơn giản." Dương Thu Trì ngồi xuống sát bên ghế, kéo sợi dây nhỏ lên cho Liễu Nhược Băng xem, "chú ý đến chưa? Một đầu của sợi dây này đã bị đốt qua."
"Ừ...!"
Dương Thu Trì lại chỉ chút tro trênsàn: "Tỷ nhìn xem coi đây là tro gì?"
Liễu Nhược Băng dùng ngón tay chấm môt chút đưa lên mũi ngửi: "Dường như là nhang khoanh!"
Nhang khoanh là loại nhang người cổ đại dùng để đuổi muỗi, so với nhang muỗi ở thời hiện đại chẳng khác biệt gì mấy.
"Không sai, nhang khoanh thường đều được đặt cạnh giường, sao lại đặt dưới cái ghế thường di động ở cạnh cửa sổ chứ?"
Liễu Nhược Băng nhíu mày, đột nhiên mắt sáng bừng lên: "Tỷ biết rồi, là dùng để bố trí cơ quan!"
Dương Thu Trì gật gù tán thưởng: "Cơ quan gì?"
"Cơ quan để duy trì thời gian thi thể rơi xuống lầu!" Liễu Nhược Băng nghĩ thông chi tiết bên trong, vô cùng hưng phần, môi hồng hé mở, từng lời lẽ như hạt trân châu rơi đinh đông xuống bàn: "Hung thủ bịt miệng mũi khiến Đông Vân cô nương chết xong, trước hết mở hé cửa sổ, sau đó dùng dây mảnh cột vào song cửa sổ, kéo xuống dưới cột vào ghế, rồi ôm thi thể Đông Vân cô nương đến cửa sổ đặt ngồi lên bục cửa, chân đạp lên ghế, người hơi nghiêng ra ngoài dựa vào cửa sổ. Như vậy, một sợi dây mảnh cũng đủ giữ cho thi thể thăng bằng. Do lều che linh bằng dường như che hết ánh mắt của người nhìn từ dưới lên, và cửa sổ lại gần như che hết thân ảnh của thi thể, cho nên bên ngoài chẳng thể phát hiện có dấu hiệu lạ gì. Hung thủ lại đốt một khoanh nhang đặt dưới sợi dây mảnh này. Như vậy, y có thể yên tâm trở xuống linh bằng thủ quan tài, chờ khoanh nhang cháy đến sợi dây mảnh, làm đứt nó. Như vậy trọng tâm dựa vào cửa sổ sẽ mất đi sự bình hành, khiến thi thể té ngã ra ngoài rơi xuống lầu. Lúc này, hung thủ đang ở dưới linh đường, có người làm chứng y không ở trong phòng của nạn nhân lúc đó, không ở hiện trường sát nhân! Bố trí như vậy, vừa có thể khiến người tin là Đông Vân cô nương nhảy lầu tự tận, vừa có thể bài trừ hiềm nghi gây án của mình!"
"Tinh tế! Một sự tái hiện lại hiện trường phạm tội quá tuyệt vời!" Dương Thu Trì khẽ vỗ tay tán thưởng.
Liễu Nhược Băng nhìn hắn cười đáp trả, thần tình có vẻ đắc ý.
Dương Thu Trì lại hỏi: "Nhưng mà, có một chút sơ hở nhỏ - trên cửa sổ sao không tìm được khúc dây mảnh còn lại?"
Liễu Nhược Băng ngưng thần quan sát, quả nhiên trên cửa sổ căn bản không có đoạn dây mảnh này, mặt liền ửng hồng: "Cái này...,"
"Tỷ không chú ý đoạn dây này hơi dài hả? Sở dĩ...."
Một lời là tỉnh người trong mộng, Liễu Nhược Băng vui mừng nói: "Do đó không phải cột vào cửa sổ, mà là quấn rồi để thòng qua cửa sổ là được. Khi đốt cháy bên này, thi thể ngã ngữa vẹt cửa sổ ra té xuống dưới, sợi dây tự nhiên sẽ bị một đầu nặng một đầu nhẹ kéo tuột xuống dưới đất rồi. Đúng không?"
"Như vầy thì đúng rồi!"
Liễu Nhược Băng tiếp đó nhíu mày: "Cho dù là chúng ta đoán ra được hung thủ giết người và ngụy tạo chuyện nhảy lầu tự sát, nhưng hung thủ rốt cuộc là ai chưa tra ra, nên làm sao đây? Còn nữa, hung thủ này vì sao lại muốn giết Đông Vân cô nương?"
Dương Thu Trì cười thần bí: "Đệ có một biện pháp, không cần chúng ta đi tra, hung thủ sẽ tự động lộ diện - bao quát cả án giết thư sinh bị bệnh nan y trong học cung cũng sẽ phá luôn một lượt, tỷ có tin không?"
"Hừ! Phá cùng lúc hai án? Thần kỳ như vậy sao? Không tin!"
"Vậy được, hai chúng ta đánh cá thử, được không?"
"Đánh cá cái gì a?" Liễu Nhược Băng dường như đoán Dương Thu Trì muốn đánh cá cái gì, mặt như hoa đào, liếc hắn một cái.
"Nếu như đệ có thể khiến hung thủ tự chạy ra, tỷ sẽ đáp ứng ở cùng với đệ, vĩnh viễn không rời xa!"
Liễu Nhược Băng hơi giận, lườm hắn một cái: "Không chịu! Tra án là nghĩa vụ của điển sứ đệ, dùng công vụ của đệ làm cái giá trao đổi tự do của cả đời ta, hừ! Đệ quả là chuyện công chuyện tư vẹn cả đôi đường a!"
"Hắc hắc...," Dương Thu Trì bị nàng nói quả là hơi ngương, "Khoan luận về công vụ vội, tỷ chẳng phải là hiếu kỳ về hai án này hay sao? Đệ giúp tỷ giải bí ẩn trong này, coi như là một trò cá cược nho nhỏ. Nếu tỷ thấy tự do cả đời đem ra đánh cuộc quá nặng, hay là không hạn định chuyện vĩnh viễn không rời xa, mà tỷ chỉ cần ở chung với đệ, trừ khi nào tỷ thật lòng chán ghét đệ, nếu không không được bỏ đi, như vậy được chứ?"
"Mấy tháng này ta vốn phải theo đệ, hiện nay độc tố trong nội thể chưa bài trừ toàn bộ, không thể vận chân lực đánh đấu, cho nên mấy tháng này đều phải cần sư đệ ngươi bảo hộ cho sư tỷ vô dụng này. Đệ không nói ta cũng sẽ theo đệ."
"Nhưng qua mấy tháng này rồi sao? Thương thế của tỷ hết rồi cũng không được rời xa đệ! Được không?"
Gương mặt của Liễu Nhược Băng biến thành đỏ chót như son: 'Vết thương của ta khỏi rồi, lại không là người gì của đệ, sao lại cứ theo sát bên đệ chứ, sau này vợ của đệ nổi hơi dấm chua, mùi vị đó chẳng dễ chịu chút nào..."
Dương Thu Trì vốn muốn nói "Vợ ta chính là nàng mà!" nhưng hắn biết gấp quá chỉ ăn đậu hủ nóng phỏng miệng mà thôi, trước hết phải nghĩ biện pháp để nàng ở bên cạnh hắn mãi, sau đó mới có cơ hội phát triển thêm. Cho nên, hắn đáp: "Chuyện tương lai sau này hẳn nói, chúng ta đánh cuộc cái này, nếu như đệ thắng, sau mấy tháng khi thương thể của tỷ khỏi xong, phải ở cùng với đệ, trừ khi sau này tỷ chán ghét đệ thật sự, còn không thì không thể li khai, có được không?"
Liễu Nhược Băng thấy mặt hắn ra vẻ khẩn cầu tha thiết như vậy, lòng mềm nhũn ra: 'Đệ nha...! Ta là một lão thái bà suốt ngày đi theo đệ, đệ không phiền ha?"
Vừa nghe lời này có cửa, Dương Thu Trì mừng rỡ, chụp tay nàng lắc lắc: "Không phiền không phiền! Liễu tỷ tỷ của ta mỹ mạo như hoa, quốc sắc thiên hương, ba tú tài ở dưới lầu vừa nhìn thấy một cái là biến thành ngốc tử. Khuynh thành giai lệ như vậy theo đệ, đệ làm sao mà phiền chứ, cả đời cũng không phiền!"
Liễu Nhược Băng phì cười, rút tay về quở: "Mồm miệng trơn như mỡ! Không cho phép đệ dùng ta làm trò cười!"
"Hì hì, vậy chúng ta quyết định như vậy! Không được ăn gian nhé! Móc nghéo nào!" Hắn thò ngón tay ra đòi móc nghéo với nàng.
Liễu Nhược Băng đánh vào tay hắn: "Lớn như vậy rồi mà còn đòi làm trò con nít. Chúng ta nói sao làm vậy, chẳng phải tự đệ đã nói rồi hay sao?"
"Vâng...! Được, chúng ta là người trên giang hồ, một lời nặng bằng cửu đỉnh, nói sao là theo vậy!"
Liễu Nhược Băng e thẹn cười, gật gật đầu, nhưng tiếp đó lại hỏi: "Vậy nếu đệ làm không được, thua rồi thì sao?"
"Đệ sẽ không thua đâu!" Dương Thu Trì tràn đầy sự tự tin, "Không có bản lĩnh sao dám ra giang hồ! Tỷ theo đệ, nhanh chóng sẽ hiểu ra thôi!" Hắn cầm đèn lồng, nắm tay Liễu Nhược Băng kéo ra ngoài.
Động tác này đối với nam nữ thời hiện đại đã quá thân mật rồi, huống chi là cổ đại. Hai người khi chưa xác định quan hệ bạn đời, càng không thể có cử động đó. Liễu Nhược Băng muốn rút tay lại, nhưng đã từng kinh qua kỹ niệm Dương Thu Trì nắm tay và trị thương cho nàng ở địa thất tại Vũ Xương, cộng thêm đoạn thời gian này ở bên nhau, nàng càng lúc càng hiểu Dương Thu Trì, và trong thâm tâm đã không tự chủ có thêm vài phần thân cận với hắn. Dù gì đây không phải là lần đầu, cho nên, nàng rốt cuộc không rụt tay lại, cứ để cho hắn kéo đi, lặng lẽ theo sau hắn xuống lầu.
 
Chương 93: Thi thể biết đóng cửa
Cho đến khi tới phòng khách dưới lầu, Duơng Thu Trì bấy giờ mới buông tay Liễu Nhược Băng, đi trước ra ngoài.
Lôi tri huyện và Lý giáo dụ cùng mọi người vội tới đón hỏi: "Điển sứ đại nhân cực khổ rồi, tình huống thế nào?"
Dương Thu Trì lắc đầu: "Không phát hiện vấn đề gì. Ai...! Đông Vân cô nương thật đáng thương a.!"
Nghe lời này, Lý giáo dụ và ba tú tài đều nghẹn ngào òa khóc.
Lôi tri huyện quan tâm hỏi: 'Dương đại nhân, tình hình cái chết thảm của con rễ Lý đại nhân thế nào rồi?"
Dương Thu Trì cung tay nói: "Ti chức đang định báo cáo với đại nhân chuyện này. Theo ti chức khám tra phát hiện, Triệu Thiên CHâu không phải bệnh đau khó chống mà tự sát tử vong, mà đó là chết vì mưu sát!"
"A...?" Đáp án này đối với Lý giáo dục và mọi người mà nói thì quả là không thể nào ngờ, nên cùng quay nhìn hắn chầm chầm.
Từ huấn đạo ho khan một tiếng, vác cái lưng còng bước tới hai bước, nói: "Dương đại nhân, nếu là mưu sát thì theo khám tra ngày hôm qua biết được cửa phòng túc xá của Thiên Châu đóng chặt, hung thủ giết người xong đào li khỏi hiện trường thì làm cách nào đóng cửa phòng lại được?"
"Cái này dễ làm mà," Dương Thu Trì chỉ vào tay phải của mình, "Thi kiểm phát hiện trên cánh tay phải thi thể có một dấu buộc nông, nhưng không có phản ứng sinh hoạt..., khụ khụ, chính là nói sau khi chết rồi mới bị cột lại!"
Điều này khiến mọi người kinh ngạc. Từ huấn đạo lắc đầu: "Lời này của Dương đại nhân quả là cao thâm mặc trắc rồi.'
Dương Thu Trì mỉm cười: "Các vị đại nhân nghe ta giải thích xong sẽ chẳng cảm thấy cao thâm mạc trắc gì cả. Người chết rồi khoảng sáu thời thần thì toàn thân cứng ngắt như côn bổng vậy. Cái này gọi là thi cương. Qua khỏi sáu thời thần thì từ từ mềm lại, sau đó bắt đầu sình thối. Cái này các vị ắt là biết rõ chứ?"
Từ huấn đạo và mọi người cùng gật đầu.
Thi cương là hiện tượng mà người cổ phát hiện từ rất sớm rồi. Do đó, người chết rồi phải lập tức tiến hành tắm rửa thay quần áo để tránh sau khi thi thể cứng lại rồi rất khó làm. Chỉ có điều, những người thường giỏi lắm chỉ biết người chết rồi thi thể sẽ cứng lại, còn thi cương hình thành thế nào rồi thời gian mềm trở lại ra sau thì không hề biết.
"Nếu như đã bíêt, thì án này rất dễ giải thích - từ tình huống kiểm tra thi thể có thể phán đoán, hung thủ đã từ ba ngày trước tiến vào phòng Triệu Thiên Châu giết chết vào buổi chiều, sau đó đóng của phòng lại. Chiêu này xem có vẻ mạo hiểm, nhưng sự thật chứng minh là nó rất an toàn, nhân vì ngày đó trong hậu hoa viên của học cung thiết yến chúc mừng, các vị học sinh đều ở đó uống rượu hát ca, tới khuya mới về. Còn Triệu Thiên Châu thì bị nan y tuyệt chứng, cần phải về phòng uống thuốc nghỉ ngơi. Vì thế, hắn rời khỏi đó xem ra chẳng có ai bất ngờ, và cũng không có ai quấy nhiễu hắn. Sáu thời thần sau, vừa khéo đó là đêm khuya, mọi người đều say rồi. Hung thủ lại lẻn vào trong phòng của Triệu Thiên Châu, lúc này thi thể của hắn đã cứng như cây gậy rồi, hung thủ ẵm thi thể đến cho dựa vào cửa, thiết kế một cơ quan tự động đóng chốt cửa!"
"Tự động chốt cửa?" Từ huấn đạo mớ to mắt.
"Đúng vậy, hung thủ đưa cây chốt cửa để ngay miệng chốt, dùng một sợi dây cột lại, cột một cái nút có thể kéo tuột mở ra. Một đầu thì cột vào cánh tay của thi thể, cũng là một cái gút kéo mở được, rồi đem đầu kéo mở này đưa ra giấu ở góc nào ẩn khuất ngoài cửa. Sau đó, y lặng lẽ chờ cho thi cương của thi thể dịu đi mềm ra, thi thể sẽ từ từ gục xuống, thuận thế ngồi dựa vào cửa. Từ đó sẽ động vào dây kéo chốt cửa vào trong khuông chốt. Như vậy, thi thể vừa tự động chốt cửa, vừa ngồi dựa vào cửa, khiến người ta không dễ dàng hoài nghi có người ngoài vào mưu sát. Nhân vì hai sợi dây đều được buộc gút lỏng, cho nên, hôm sau, y có thể tìm cơ hội đến kéo đầu dây bên ngoài cho tuột mấu mở dây ra, sau đó rút ra ngoài đem dây hủy đi là xong."
Từ huấn đạo cùng mọi người nghe xong đưa mắt nhìn nhau, không ngờ lại có người còn biết lợi dụng thi cương ngụy tạo hiện trường tự sát. Từ huấn đạo ho khan mấy tiếng, hỏi: 'Dương đại nhân, hài tử Thiên Châu có lưu lại di thư, và di thư này thông qua so sánh đúng là thủ bút của nó, như vậy thì giải thích thế nào đây?"
Dương Thu Trì đáp: "Di thư đích xác là của người chết, nhưng không đề ngày tháng, cho nên có khả năng là trước kia người chết đã từng có ý muốn tự sát viết ra, hung thủ vừa khéo lợi dụng điểm này thành vật yểm độ thoát tội cực kỳ quý giá."
"Vậy... Thiên Châu thân bị tuyệt chứng, hung thủ vì sao muốn giết một người bị bệnh tuyệt chứng sắp chết đến nơi rồi vậy?"
Dương Thu Trì quay đầu nhìn Lý giáo dụ, nói: "Chúng tôi phát hiện một bao bạc ở trong rương của Triệu Thiên Châu. Số tiền này xem ra không phải là tiền người khác cho, nhân vì theo giáo dụ đại nhân nói, Triệu Thiên Châu tính tình rất hiếu cường, ngay nhạc phụ giáo dụ đại nhân tự trợ cho cũng không chịu tiếp thụ, sao lại tiếp thụ sự tống tặng trợ giúp của người khác chứ? Do đó, bao bạc này xem ra không phải từ người nào cho tặng, mà là...."
Nói đến đây, hắn dừng lại, quét mắt nhìn mọi người tại đương trường, không nói tiếp nữa.
Lý giáo dụ vội hỏi: "Số bạc này từ đâu mà có? Thỉnh Dương đại nhân chỉ rõ!"
"Lời này nói ra có thể tổn hại danh dự của người chết, nhưng vì tra rõ án tình nên không thể không nói, ta hoài nghi số bạc này có nguồn gốc bất chánh, có khả năng là kết quả của loại giao dịch gì đó."
"Giao dịch? Giao dịch gì?"
"Giao dịch riêng tư mờ ám có nhiều lắm, cho dù là tú tài khổ đọc sách thành hiền cũng không thể hạnh miễn. Điểm này giáo dụ đại nhân và huấn đạo đại nhân ắt là có nghe chứ?"
Lý giáo dụ và Từ huấn đạo nhìn nhau, lại chuyển thân quét nhìn ba vị tú tài học trò của mình đang bị vẻ tuyệt mỹ của Liễu Nhược Băng cuốn hút hết phần hồn.
Lúc này, ba tú tài đã cố thu lại tâm thần, cố dỏng tai nghe. Dù gì mạng con người là trên hết, mỹ nhân so với sinh mệnh thì sinh mệnh trọng yếu hơn. Ba người liền lộ vẻ cười so với khóc còn khó coi hơn nhìn Lý giáo dụ.
Lôi tri huyện ho khan hai tiếng, nói: 'Dương đại nhân phân tích đúng từng chút, bổn quan cảm thấy rất có lý, nhưng không biết Dương đại nhân cảm thấy hung thủ là ai, có manh mối gì hay chưa?"
Dương Thu Trì cung tay nói: "Manh mối có ba: một là hung thủ đối với thời gian xuất hiện thi cương và hoãn giải hiểu rất rõ, xem ra đã từng làm qua ngỗ tác hay có quan hệ với người làm nghề này. Hai, hung thủ ba ngày trước đã từng rời khỏi tưu yến đến hiện trường. Ba, và quan trọng nhất, hung thủ khẳng định là có giao dịch gì đó với người chết Triệu Thiên Châu. Nhân vì Triệu Thiên Châu gia cảnh bần hàn nhưng tài học lại năm xe, cho nên loại giao dịch này có thể liên quan đến học nghiệp. Ti chức đã phân tích đến trình độ này, giáo dụ, huấn đạo hai vị đại nhân không biết có manh mối gì với hung thủ hay chưa?"
Từ huấn đạo trợn mắt há hốc mồm nghe, có điểm chưa lấy lại tinh thần. Còn Lý giáo dụ thì sầm mặt lại, không biết là nghĩ gì.
Dương Thu Trì ngáp dài một cái, vặn eo kêu rôm rốp: "Mệt quá...!" Xong cung tay nói với Lôi tri huyện: "Hiện giờ đã gần canh năm, ti chức muốn cáo từ trước, về nghỉ ngơi một chút, trời sáng rồi bắt đầu tra án."
Lôi tri huyện gật đầu. Dương Thu Trì dẫn Liễu Nhược Băng lên kiệu bỏ đi. Lôi tri huyện và Từ huấn đạo an ủi Lý giáo dụ mấy câu, sau đó cũng lên kiệu ra về.
Trong vườn vắng hẳn lại. Hiện giờ là gần sáng, chuyện con gái của Lý giáo dụ nhảy lầu còn chưa lan truyền, cho nên không có ai đến điếu nghiên.
Lý giáo dụ ngẩn ngơ nhìn quan tài của con rễ và thi thể của con dâu, lát sau mới mặt âm trầm, giọng lạnh lùng bỏa: "An Nhiên, con đi theo ta!"
Nói xong, ông ta chấp tay từ từ rời khỏi phòng khách. Tú tài An Nhiên do dự một lúc, cũng đi theo sau. Hai người xuyên qua phòng khách, đến vườn sau.
Vườn sau không lớn, trồng một số hoa cỏ, một cây cổ thụ và một cái đình hóng mát. Lý giáo dụ từ từ đi vào lương đình, ngồi trên ghế đá. Tiêu An Nhiên đi theo, khoanh tay đứng hầu ở một bên.
Hậu hoa viên không có đèn, chỉ có một cái đèn gió treo ở cửa vào, chiếu ra ánh sáng ảm đạm, khiến thân ảnh hai người chập chờn như ma quỷ.
Lý giáo dụ trầm giọng hỏi: "An Nhiên, Thiên Châu có phải là do ngươi giết?"
"Không không! Học sinh không dám!" Tiêu An Nhiên lùi lại hai bước, hai tay xua loạn.
Lý giáo dụ nhìn trừng y: "Vừa rồi lời Dương điển sứ nói ngươi có nghe chứ, còn không chịu thừa nhận?"
Trong hắc ám, thân hình Tiểu An Nhiên khẽ run, tiếp đó âm lượng được đẩy hơi cao: "Không! Học sinh thật không giết Thiên Châu. Hai chúng con là huynh đệ đồng học, làm sao có thể hạ độc thủ như vậy chứ!"
Lý giáo dụ hừ mũi một cái thật mạnh: "Gia gia ngươi là ngỗ tác, sau đó cha ngươi mới cải nghề tiến vào Công tượng cục của triều đình làm thiết tượng (thợ rèn). Sau đó cha ngươi mới bỏ tiền nhờ ta cải hộ tích dùm, ngươi mới có thể tham gia khoa cử làm tú tài. Chuyện này chỉ có ta biết. Dương điển sứ nói hung thủ biết về nghề ngỗ tác, ta đoán là ngươi rồi...!"
Tiêu An Nhiên trầm mặc không nói.
Lý giáo dụ lại tiếp: "Ngươi cho rằng vụ giao dịch giữa ngươi và Thiên Châu ta không biết sao? Chức tú tài này của ngươi vì đâu mà có, cống sanh của ngươi vì đâu mà có, ngươi cho rằng ta không biết? Ta nhất mực phụ đạo học nghiệp của Thiên Châu, đặc điểm văn chương và ngữ pháp, tập quán khiển từ tạo cú của nó ta thuộc nằm lòng. Với văn bút của ngươi, e rằng thi huyện cũng chẳng thể vuợt qua, thế mà vẫn đổ cao tam giáp trong các kỳ thi huyện, thi phủ, thi viện. Văn chương cẩm tú của ngươi đó cứ đem tới đây ta xem, ta dám đánh cược là chỉ dựa vào ngươi, một trăm năm cũng không viết ra được! Những văn chương đó rõ ràng là xuất từ tay của Thiên Châu. Các ngươi làm cái gì chẳng lẽ còn cần ta nói rõ hay sao?"
 
Chương 94: Chung xuồng
Vòng eo cung kính của Tiêu An Nhiên từ từ đứng thẳng dậy, lạnh lùng nói: "Không sai, con đã mua chuộc khảo quan, bỏ tiền nhờ Thiên Châu chấp bút, cuối cùng lấy được chức tú tài và đề cử cống sanh này. Nhưng con cũng đưa hắn không ít tiền. Cái này gọi là Chu du đánh Hoàng Cái, một người thích đánh một người tự nguyện bị đánh. Con giết hắn bỡi vì hắn quá tham, tham đến phát ghét. Kỳ thật, con cũng không giết hắn, là hắn cố ý gài bẫy để con giết hắn! - Đây là điều con giết hắn rồi mới biết."
"Cái gì mà gài bẫy để ngươi giết nó, ý gì vậy?"
"Mới đầu chúng con đã thỏa thuận rồi, hắn giúp con thi vượt qua huyện thí thì thù lao là 5 lượng bạc trắng, qua thi phủ thì thù lao 20 lương bạc trắng, qua viện thú 50 lượng. Nếu như được cống sanh, được thêm 50 lượng nữa. Con đã trả cho hắn không thiếu một văn nào."
"Vì sao trong rương của hắn chỉ 50 lượng bạc trắng?"
"hắc! Đây là 50 lượng lần cuối cùng con đưa cho hắn sau khi được tuyển thành cống sinh. Con rễ của người còn có mẹ già a, lại là một hiếu tử, số bạc trước đó ắt là gửi về cho mẹ già của hắn rồi!"
"Nếu là như thế, thì sao ngươi lại giết hắn? Chẳng lẽ ngươi muốn giết người diệt khẩu?"
"Nếu hắn không bức con, tự nhiên không không sao con giết hắn làm gì? Thi huyện thi phủ thì thôi đi, hai chúng con thẳng thắng tiền trao cháo múc. Nhưng mà, sau khi thi viện xong rồi, hắn lại yêu cầu con trả gấp bội, nếu không sẽ tố cáo chuyện này. Hắn nói dù gì hắn cũng là người sắp chết, lộ cũng chẳng sao. Con tức quá, nhưng không dám chọc hắn, liền theo lời hắn mà đưa tiền. Không ngờ là hắn trở mặt làm tới, một hai ngày là đi tìm con đòi tiền, đòi con phải đưa thêm một số bạc cho hắn, nếu không thì tố cáo!"
"Nói bậy! Nó là người sắp chết, cần nhiều bạc như vậy để làm gì?"
"Hắn không cần nhưng mẹ hắn cần. Hắn một mặt dùng biện pháp này chọc giận con, khiến con cuối cùng phải nổi lòng giết hắn, mặt khác lại lưu lại một khoản tài sản cho mẹ già của hắn!"
"Chọc giận ngươi để ngươi giết hắn? Lời gì thế!"
"Giáo dụ đại nhân, chuyện đến mức này rồi thì những lời con nói đều là lời thật. Mới đầu con chỉ tưởng là hắn chỉ vì tiền, nhưng gia cảnh của con không giàu có gì, số bạc mà phụ thân làm đương sai ở công tượng phủ tại triều đình gần như là chui hết vào con rễ của người! Trước sau gì có tới mấy trăm lượng! Sau khi hắn năm lần bảy lượt vơ vét con, con không còn tiền bạc để điền đầy cái túi không đáy của hắn nữa, nên mới có lòng giết hắn. Ngày đó trong tiệc mừng cống sinh, hắn bảo con chuẩn bị 50 lượng vốn quá ít, đòi con phải chuẩn bị đủ 500 lượng cấp cho hắn, nếu không sẽ tố cáo con. Con tức giận vô cùng, lấy số bạc 50 lượng cuối cùng mà phụ thân phải chạy đông chạy tây vay mượn, bỏ thêm vào người con dao mổ trâu, hẹn hắn nửa chừng trở về. Hai người tiếp xúc ở túc xá của hắn, con nghĩ nếu hắn chỉ cần 50 lượng đó thôi, sau này không tìm đến làm phiền con nữa thì chuyện này coi như xong, còn nếu không, thì chỉ còn quyết chết đến cùng!"
"Liều mạng với một người bệnh nhập xương tủy rồi, ngươi quả là dũng cảm quá a!"
Tiêu An Nhiên hậm hực nói: "Thân thể hắn bệnh nhập xương tủy, nhưng đầu óc cũng bị bệnh nhập luôn rồi! Con cho hắn biết là toàn bộ tiền con có đã đưa hết rồi, cực khổ khẩn cầu hắn tha cho con, nhưng hắn lấy tiền khóa chặt rương lại, nói số này chỉ là mở đầu, sau này khi không có tiền sẽ đi tìm con nữa, bảo con hãy sớm chuẩn bị đi. Con trong lúc nóng giận đã đâm một đao vào tim hắn. Không ngờ, hắn quỳ trên đất mà lại cười, nói là đa tạ con đã thành toàn cho hắn, nói hắn không thể tự sát vì như vậy là chuyện làm bất hiếu, hắn không muốn làm trái lời dạy thánh hiền. Cho nên, hắn chỉ có thể nghĩ ra biện pháp này bức con giết hắn. Con cả kinh ngẩn người, hắn móc từ trong lòng ra một mảnh giấy đưa cho con, nói là trước đó hắn đã viết di thư sẳn rồi, bảo con hãy nói với mọi người là hắn tự sát, không liên quan gì đến con. Sau đó hắn chết luôn."
"Hừ hừ, ngươi bịa ra chuyện thật là có sách a!"
"Những gì con nói là thật! Nếu như không tin, thầy có thể đi điều tra nhà mẹ hắn, hãy xem vì sao mà nhà mẹ hắn lại tự nhiên có nhiều bạc như vậy! Lại mua ruộng mua vườn, tiền từ đâu mà ra? Đều là từ việc vơ vét của con!" Tiêu An Nhiên rống lên.
Lý giáo dụ ơ hờ, nhân vì mẫu thân của Triệu Thiên Châu gần đây mua ruộng đất ở quê ông ta đã nghe, khi hỏi Triệu Thiên Châu thì y nói là không biết, cho nên không hỏi nữa.
Tiêu An Nhiên thở phì phì mấy hơi, nói tiếp: "Tuy hắn đã thiết kế bẫy bức con giết hắn, nhưng hắn cuối cùng là chết trong tay con. Nếu như con nợ hắn một mạng, số tiền đó coi như xong, coi như là bổ thường cho người nhà của hắn. Hắn chết xong, con lấy di thư hắn đưa cho con quẳng xuống đất, đóng cửa trở về tửu yến, cho đến đêm mới về. Nhưng con ngủ trên giường, không làm sao mà ngủ được. Tuy hắn bảo con nói với mọi người là hắn tự sát, nhưng cảm cảm thấy hiện trường chẳng có điểm nào giống với tự sát, người khác nhất định sẽ không tin. Cho nên con trở về phòng hắn, bố trí một hiện trường giống như người khác không thể tiến vào phòng giết hắn. Không ngờ cuối cùng vẫn bị Dương điển sứ nhìn ra. Ông ta là người thật ghê ghớm, suy đoán mọi việc giống như tận mắt chứng kiến vậy."
Lý giáo dụ đứng dậy, cố nén sự tức giận trong lòng, hậm hực hỏi: "Nếu như ngươi đã giết Thiên Châu, hiện giờ không đi tự thú, còn chờ đến bao giờ?"
"Con vì sao phải đi tự thú? Không có ai biết là con giết hắn mà! Trừ giáo dụ đại nhân người, những người khác đều không biết gia gia con là ngỗ tác, là người giúp con cải hộ tịch. Chỉ cần người không nói, trong học cung nhiều tú tài như vậy, Dương điển sứ dù có bản lĩnh lớn đến đâu đi nữa cũng không thể tra ra con."
"Ngươi giết con rễ của ta, ta vì sao lại không đi tố cáo ngươi?"
"Người không đâu!"
Lý giáo dụ lùi một bước, lạnh giọng nói: "Sao hả? Ngươi muốn giết người diệt khẩu? Đừng quên là bọn Tư hạo ở tiền sảnh, ta hô một tiến glà được. Hơn nữa, ngươi chưa chắc đã giết được ta! Cho dù ngươi có giết được ta, bọn họ đều nhìn thấy ta gọi ngươi vào hậu hoa viên, ngươi vẫn chạy không thoát đâu!"
Tiêu An Nhiên không nóng vội gì, ngồi xuống ghế: "Tôi vì sao lại muốn giết ông? Vì sao lại phải đào tẩu?"
"Ngươi không sợ ta tố cáo ngươi?"
"Ông sẽ không đâu!" Tiêu An Nhiên chỉnh lí lại trường bảo, "Nhân vì tôi biết, ông cũng giết người, ông tố cáo tôi chẳng khác nào tố cáo chính mình!"
Lý giáo dụ giật mình cả kinh: "Ngươi nói cái gì?"
"Tôi nói cái gì ông tự biết rõ! Lôi tri huyện bọn họ đi rồi, ông gọi Đông Vân ra vườn sau nói chuyện, tôi vừa khéo đi nhà xí, từ xa thấy ông tát cô ấy, cô ấy khóc chạy lên lầu. Tôi lúc đó rất kỳ quái, lúc này mà ông còn đánh cô ta, là vì chuyện gì cơ chứ? Tôi vội chạy về linh đường trước, lát sau ông trở vào, nói là Đông Vân mệt rồi, ông cho cô ta về phòng nghỉ ngơi. Tôi không biết vì sao ông lại nói dối, ông cũng biết kỳ thật tôi và Tư hạo đều rất thích Đông Vân, thế mà ông lại đem Đông Vân gả cho tên tiểu tử ngào Thiên Châu đó. Nhưng mà trong lòng tôi vẫn còn yêu thương và lo lắng cho Đông Vân, sợ nàng ấy sẽ xảy ra chuyện gì, nên nhân lúc ông ngẩn ngẩn ngơ ngơ nghĩ tâm sự gì đó, tôi đã lén đi lên lầu."
"Ngươi không ngờ ban đêm lẻn vào khuê phòng, quả là uổng đọc sách thánh hiền!"
"Có gì đâu chứ, dù sao cũng tốt hơn kẻ chỉ lo danh lo lợi, vì một cái miếu thờ trinh tiết, vì hư vinh dạy con gái đúng đường đúng lối mà đành đoạn ra tay giết chết chính con gái của mình!"
"A? Ngươi nói cái gì?"
"Tôi tận mắt chứng kiến Đông Vân bị chính tay ông bóp chết! Khôgn sai chứ?"
Lý giáo dụ ứ hự một tiếng, ngồi phịch xuống ghế đá.
"Hắc hắc, tôi lẻn lên lầu rồi, phòng của Đông Vân đã gài chốt, tôi gọi mấy tiếng nàng ấy không mở, định khuyên mấy câu thì nghe có tiếng bước chân lên lầu. Tôi sợ có người phát hiện rồi hiểu lầm, nên nhanh chóng ẩn vào hắc ám ở một hành lang. Người lên chính là ông, ông gọi mở cửa phòng, nói chuyện với Đông Vân. Tôi to gan mò đến ngoài cửa, nghe lén hai người, mới biết là ông đang khuyên Đông Vân tự vẫn, để thành toàn lời hứa cùng sống chết với Thiên Châu năm xưa. Nhưng Đông Vân khóc lóc không đáp ứng, tiếp đó không có tiếng nói gì, tôi chờ một chút không nghe thấy gì cả, cũng không thấy ông, liền mò tới cửa ghét mắt nhìn vào, thấy ông đang đè Đông Vân dưới mền, một tay bị miệng bịt mũi nàng ta. Đông Vân đã không động đậy rồi, ông vẫn còn bịt chặt. Tôi sợ quá vội bỏ lẻn xuống lầu."
Lý giáo dụ dùng giọng trầm thấp vô lực hỏi: "Nếu như ngươi đã phát hiện rồi, vì sao không báo quan?"
"Tôi cũng có chút do dự có nên báo quan hay không. Ông vì lập miếu thờ trinh tiết mà giết con gái, cho dù tôi có báo quan thì có ai sẽ tin chứ? Huống chi, ông giúp tôi cải hộ tịch, thoát li khỏi tiện dân, cho nên mới được tham gia thi cử. Nếu như tôi báo quan bắt ông, ông nhất định sẽ đem chuyện của tôi nói ra, đối với tôi có lợi ích gì? CHo nên tôi ngồi trong linh đường không động đậy. ông xuống rồi, qua một chút thì thi thể Đông Vân đột nhiên rơi từ trên lầu xuống, khiến tôi giật nãy mình, nhân vì tôi nhìn thấy ông đã bịt chết cô ta rồi, sao thi thể còn có thể nhảy lầu chứ? Nhưng tôi thấy ông khóc ồ ồ mà không có nửa điểm kinh ngạc gì, liền biết là ông đã làm cơ quan gì đó, để Đông Vân từ từ rơi xuống dưới này. Nếu như ông cũng giống như tôi vậy, đã an bài một bố cục tự sát, thì như vậy là quá tốt rồi."
Lý giáo dụ cúi thấp đầu, khe khẽ khóc nấc.
Tiêu An Nhiên cười hắc hắc, đứng dậy sửa lại áo quần, bước tới trước hạ giọng nói: "Giáo dụ đại nhân, hiện giờ hai chúng ta là người ngồi chung một xuồng, chỉ còn biết ôm nhau thành một đoàn mới có thể đảm bảo ông và tôi được bình an!"
 
Chương 95: Miếu thờ trinh tiết
Lát sau, Lý giáo dụ mới từ từ đứng dậy, trầm giọng nói: "Được! Nhất ngôn vi định, chuyện này chỉ có hai chúng ta biết, không thể truyền đến tai người thứ ba..."
Đột nhiên, một thanh âm từ trên trời vọng xuống: "Ha ha! Không cần truyền, trời biết đất biến, còn có chúng ta biết hết rồi nữa thôi!" Tiếp đó, xoạt một cái từ ở cây lớn ở cạnh đình hóng mát buông xuống hai người, đó là Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng.
"Thật ngại quá, chúng ta đi rồi còn trở lại, thấy cây đại thụ đằng sau hoa viên của giáo dụ đại nhân này không tệ, vừa khéo cần hóng mát nên lên trên cây ngồi, vốn là muốn xem sao trời nói chuyện tâm tình, hóng gió mát giải nóng nực, thì vừa khéo các vị cũng tới. Vốn là định chào hỏi, nhưng thấy hai người định bàn chính sự, không tiện quấy nhiễu. Hơn nữa các vị đàm luận chuyện mà ta cũng muốn biết, nên kiên nhẫn nghe cho hết. Thấy các vị đã lập thành đồng minh cái gì đó, bấy giờ mới lên tiếng làm phiền, ha ha. Được rồi, theo ta về nha môn thôi!"
Lý giáo dụ và Tiêu An Nhiên ngầm hiểu là vị Dương điển sứ này làm gì có chuyện leo lên cây hóng mát vô ý nghe được lời đối đáp của họ, chẳng qua là tính đúng họ sẽ đến đây nói chuyện, nên trước hết trèo lên cây chờ. cũng chẳng trách, trong nhà của họ chỗ này là tĩnh mịch nhất, khi nói chuyện liên quan đến điều này, đương nhiên chỗ đáng chọn nhất là ở đây.
Tiêu An Nhiên thấy Dương Thu Trì chỉ là một quan văn, còn có Liễu Nhược Băng là phận nữ lưu, không có bộ khoái trợ giúp gì. Y không biết hai người này là sát tinh, và cũng không để ý cái buông người xuống đất nhẹ nhàng vừa rồi, mà nảy ra ý quyết liệt, nhanh chóng móc ra thanh chủy thủy ở bắp chân, trừng trừng nhìn họ cất lời độc ác: "Giáo dụ đại nhân, chuyện đến nước này chỉ còn cách giết chúng mà thôi!"
Dương Thu Trì cười hắc hắc: "Ai yêu không tệ nha, ngay đao cũng đã chuẩn bị sẵn rồi, xem ra là nếu giáo dụ đại nhân chấp ý tố cáo, ngươi định động thủ giết người thật rồi."
"Không sai, lão tử hiện giờ muốn giết các người diệt khẩu đây!" Tiêu An Nhiên lắc tay đâm đao về phía Dương Thu Trì, không ngờ đâm vào chỗ trống không. Không chờ hắn kịp phản ứng, cổ tay đã tê tái, chủy thủ nắm chặt trong tay không ngờ đã truyền tới tai Dương Thu Trì. Tiếp đó đất trời đột nhiên điên đảo, sau đó là y nghe thân mình rơi mạnh va đập vào ngạch đá của đình hóng mát ở phía sau, tiếng đọng vang lên đánh phịch cùng tiếng rắc rắc của xương gãy, rồi sự đau đớn kịch liệt, khiến y suýt chút nữa đứt hơi.
Lý giáo dụ còn định tìm cái gì đó làm vũ khí, thì Tiêu An Nhiên đã bị Dương Thu Trì tay không đoạt binh khí, rồi quật cho té một cú rõ đau, khiến cho lục phủ ngũ tạng của y đều dời vị trí, nằm ở đó cả buổi mà không dậy nỗi, ông ta liền biết hắn là con nhà võ, hai người căn bản không chống nổi, và chạy không thoát bàn tay của hắn. Hơn nữa nữ tử đứng bên cạnh trấn định như không, đưa mắt nhìn sự tình này mà chẳng động tâm gì, xem có vẻ núi Thái sơn sập cũng không thèm quan tâm, rõ ràng là phong phạm của cao thủ. Do đó ông ta càng tuyệt vọng hơn, thở dài một tiếng, lùi lại hai bước vô lực dựa vào cột của lương đình.
Liễu Nhược Băng lạnh lùng nói: "Không ngờ là ngươi vì miếu thờ trinh tiết mà lại bóp chết con gái của mình, đây là điều thánh nhân dạy ngươi hay sao?"
Lý giáo dụ cười thảm: "Liễu cô nương, Dương đại nhân, ta biết tự tác nghiệt tất không thể sống. Hãy nễ mặt con gái của ta, xin đáp ứng cho ta một chuyện, được không?"
Dương Thu Trì cười nhẹ: "Nói đi. Chúng ta đáp ứng rồi."
Liễu Nhược Băng kinh ngạc nhìn hắn, thầm nghĩ, ngươi không chịu nghe lão nói gì, sao lại đáp ứng rồi vậy?
"Đa tạ hai vị!" Lý giáo dụ vái dài một cái, "Ta muốn cầu hai vị đừng đem chuyện ta giết con gái truyền ra ngoài, hãy để con gái ta chết có thể diện một chút."
Liễu Nhược Băng lác đầu: "Ngươi làm thế không phải bảo chúng ta che tội cho ngươi chứ? Xin thứ không thể vâng lời...!"
Dương Thu Trì nắm tay nàng, nhìn nàng khẽ lắc đầu, sau đó nói với Lý giáo dụ: 'Được! Chúng ta đáp ứng người rồi!"
"Đa tạ! Lý mỗ vĩnh cảm đại ân, cung chúc nhị vị bạc đầu giai lão!" Nói xong xá dài một cái, chuyển thân đi vào trong nhà.
Liễu Nhược Băng nghe câu cuối cùng của ông ta, tức thời hai má đỏ hồng, thấy ông ta bỏ đi, vội hất tay Dương Thu Trì, nói nhanh: 'Ông ta định chạy kìa, đệ còn không đuổi theo?"
Mặt Dương Thu Trì lộ nụ cười rất kỳ quái, khe khẽ lắc đầu: "Ông ta đi rồi..., tốt hơn là ở lại.."
Chớp mắt, Lý giáo dụ đã khuất bóng trong nhà. Liễu Nhược Băng gấp lên: 'Đệ rốt cuộc là đang nói gì đó? Vì sao lại không bắt lão?"
Dương Thu Trì nhìn lên lầu lớn như con quái thú, thở dài một hơi, lát sau mới u u nói: 'Bắt ông ta để làm gì?... Tự ông ta không có mặt mũi nào sống nữa, chúng ta không cần thiết phải miễn cưỡng, nếu không, lưu ông ta lại trên đời này còn có ý nghĩa gì?"
"A? Đệ định nói... ông ta định..."
Đúng vào lúc này, ở tiền sảnh chợt nghe "Roạt ... phịch" một tiếng, dường như có cái gì đó từ trên cao rớt mạnh xuống dưới. Tiếp theo đó, hai tú tài từ trong linh đường và các gia nhân chạy ra kinh khủng muôn phần hô to:
"Giáo dụ đại nhân...!"
"Lão gia...!"
"Người đâu a...! Lão gia nhảy lầu rồi...!"
"Lão gia đứt hơi rồi..."
"Hu hu hu..."
....
Liễu Nhược Băng nhìn Dương Thu Trì một cái, lòng tràn đầy sự cảm phục, hỏi: "Ai! Con người của đệ sao liệu sự như thần vậy? Đệ biết lý giáo dụ sẽ tự sát sao?"
"Sự tình của ông ta đã bại lộ, hơn nữa hiện giờ cửa thành đã đóng, ông ta còn chạy đi đâu được? Ông ta là sư trưởng ai ai cũng kính trọng, vì một chút hư vinh mà tự tay giết con gái của mình, lại còn đạt thành giao dịch với kẻ giết chết con rễ của mình, còn mặt mũi nào gặp người trên đời này nữa? Thay vì thế chết cho sạch sẽ, trước khi chết còn bảo vệ cho thanh danh trinh khiết của con gái... Ai...! Đúng là cổ hủ không còn gì bằng rồi!"
Nghĩ đến lời thỉnh cầu vừa rồi của Lý giáo dụ, Dương Thu Trì đá một chân vào Tiêu An Nhiên còn rên rĩ trên mặt đất: 'Nghe đây, nếu ngươi biết điều thì im miệng chuyện của Lý giáo dụ cho ta, nếu không, ta sẽ cho người trước khi bị chém đầu nếm đủ mùi đau khổ!"
Tiêu An Nhiên rên rĩ gật đầu.
Liễu Nhược Băng lại hỏi: 'Vậy đệ sao biết hai người này là hung thủ?"
"Kỳ thật đệ chỉ suy đoán Lý giáo dụ có khả năng bịt chết con gái mình, nhân vì trong linh bằng Đông Vân cô nương khóc lóc, ba tú tài tuy ái mộ nàng ta, nhưng nàng ta không có ý gì với họ. Cho nên, bọn họ không có khả năng gỏ cửa mở khuyê phòng của Đông Vân cô nương, càng không có khả năng lúc cô ta ngủ rồi còn ở bên cạnh. Làm được điểm này, hiện giờ chỉ còn phụ thân Lý giáo dụ của nàng ta. Còn về Tiêu An Nhiên, đệ thật không biết cách nào tìm cho ra hung thủ - Lý giáo dụ nếu như yêu thương con rễ như vậy, một khi đệ nói là có kẻ giết hắn, lại giúp ông ta cung cấp manh mối và phạm vi xác định hung thủ, ông ta sẽ giúp đệ lôi đầu hung thủ ra. Dù gì ông ta là giáo dụ của học cung, không ai hiểu các tú tài bằng ông ta cả."
"Ừ, hèn gì đệ đánh cuộc hung thủ sẽ tự động thò đầu ra, bảo ta đến đây cùng đệ chờ hung thủ."
"Hắc hắc, vậy vụ đánh cược đệ thắng rồi phải không? Tỷ sau này phải theo đệ, không được nuốt lời đó nha!"
Lúc này, bầu trời đã lộ vừng đông, trong buổi sớm tinh mai, gương mặt Liễu Nhược Băng hồng hào như quả đào chính mộng, len lén nhìn hắn một cái, lúc sau mới khẽ gật đầu.
Dương Thu Trì mừng như điên, nắm lấy tay Liễu Nhược Băng, nhất thời không biết nói gì.
....
Mấy ngày sau, di thể của Lý giáo dụ Lý Triệu Sâm và con gái Đông Vân, con rễ Triệu Thiêu Châu được hợp táng ở một khối đất phong thủy cực tốt trong huyện. Lôi tri huyện chủ trì nghi thức. Các hương thân và chức sắc trong huyện đều tham gia. Tiếp đó cùng dân thư lên tỉnh thỉnh cầu lập miếu thờ trinh tiết cho Đông Vân.
Chẳng lâu sau đó, Hồ quảng bố chánh sứ ti phê đáp công văn đưa xuống, tán dương sự trung trinh của Đông Vân vì chồng mà tự tận, quyết định lập miếu thờ trinh tiết để tuyên dương đạo nghĩa vợ chồng.
Ngôi miếu thờ mấy trượng cao này lập ra bên cạnh mộ phần của cả nhà ba người, dành cho hậu thế chiêm ngưỡng.
...
Án đầu tiên từ khi xuyên việt đến đây đã phá xong, lại còn thăng cuộc khiến Liễu Nhược Băng ở lại bên mình, Dương Thu Trì vô cùng đắc ý.
Ngày đó, Dương Thu Trì đang ở điển nha nghe Ngụy bộ đầu trình báo tình huống tuần tra, thì gác cửa chạy vào bẩm báo: "Tứ lão gia..., Trường Sa Phúc vương phủ.... Ngô quản gia đến rồi, nói là phụng mệnh Phúc vương đưa tiểu quận chúa Chu Phượng Đức đến... cấp cho Tứ lão gia ngài...!"
'A? Tống tiểu quận chúa đến đây cấp cho ta?" Dương Thu Trì cả kinh, thầm nghĩ, bệnh của tiểu quân chúa đã khỏe rồi sao? Đến tìm hắn làm cái gì? Tuy lúc trước Trầm Lỗi đã đem tiểu quận chúa tặng cho hắn làm thiếp, nhưng cái đó không thể tính. Chẳng lẽ..., cái này phiền phức nữa rồi!
Dương Thu Trì không kịp nghĩ kỹ, chỉnh quan bào chạy ra ngoài.
Vừa đến giếng trời của đại viện, hắn đã từ xa thấy một đội hộ vệ khôi giáp sáng quắc vác cờ, trường mâu và súng chim hộ vệ một chiếc xe hào hoa đi tới. Trước xe có một người cưỡi ngựa, đó chính là Ngô quản gia của Phúc vương phủ.
Dương Thu Trì vội bước tới khom người thi lễ: "Ti chức tham kiếm Ngô quản gia! Ngài nếu có chỉ bảo gì, chỉ cần gửi một phong thư là được, sao lại phiền ngài đại giá thân lâm đến đây?"
"Không đến không được!" Ngô quản gia cười khổ, buông người xuống ngựa, sắc mặt trầm trọng bước đến cạnh Dương Thu Trì, khẽ nói: 'Dương điển sứ, mạng tiểu quận chúa còn trong khoảnh khắc, đến tìm ngươi để cứu mạng đó!"
 
Chương 96: Vì ai mà thân em tiều tuỵ?
"Hả?" Dương Thu Trì giật mình cả kinh, "Lời này rốt cuộc là sao ạ?"
"Từ khi ngươi đi rồi, tiểu quận chúa tìm không thấy ngươi, từ đó suốt ngày khóc quậy không ngớt, đến sau này thì không thèm ăn uống gì! Tìm rất nhiều danh y ở Trường Sa, dùng vô số thang thuốc, ngay vu thần cũng thỉnh tới mà vẫn như cũ chẳng hiệu quả gì, chỉ đành ép đổ thuống thang cháo loãng vào. Nhưng cứ uống vào một chén thì nôn ra đến hơn phân nửa. Thấy tiểu quân chúa ngày càng ốm o, cuối cùng khí tức thoi thóp, bắt đắc dĩ Phúc vương mới cho bỉ nhân ngày đêm đưa quận chúa tới đây, hi vọng tiểu quận chúa nhìn thấy Dương điển sứ hoặc có thể bắt đầu ăn uống, cứu lịa tính mạng của nàng ta."
Dương Thu Trì trừng to mắt: "Cái này... cái này sao có thể được...!"
Đang lúc định nói tiếp, thì Lôi tri huyện đã được tin quản gia của Phúc vương phủ đến. Có câu "tể tướng môn phòng thất phẩm quan" (gác cửa của tể tướng bằng quan thất phẩm), huống chi đây lại đường đường là quản gia của Phúc vương phủ, lại còn có tiểu quận chúa của sở vương. Huyện Kiềm Dương là một huyện nhỏ xa xôi, từ trước tới giờ chưa có thành viên hoàng gia nào giá lâm, khiến cho Lôi tri huyện hoảng hốt đến nỗi mũ cánh chuồng cũng méo đi, quan phục chẳng chỉnh lý ngay ngăn đã vội chạy ra khỏi nội trạch nghênh đón, cố hết sức lấy lòng.
Ngô quản gia lười nhiều chuyện với ông ta. Y vì tìm Dương Thu Trì để cứu tiểu quận chúa mà đến, nên chỉ sầu mi khổ mặt chấp ta xá đáp lễ rồi lệnh đưa xe ngựa của tiểu quận chúa tiến trực tiếp vào điển sứ nội nha, các hộ vệ mang súng cảnh giới tứ phía, trừ Lôi tri huyện không cho phép ai vào.
Theo xe ngựa tiến vào nội nha xong, Dương Thu Trì đem sự tình giản đơn nói lại cho Liễu Nhược Băng, Quách Tuyết Liên nghe. Hai nàng đều kinh ngạc mở trừng cả mắt.
Dương Thu Trì không tiện trực tiếp lên xe ngựa của tiểu quận chúa, nên nhờ Liễu Nhược Băng: "Liễu tỷ tỷ, tỷ giúp đệ lên xe xem bệnh tình của tiểu quận chúa thế nào, được không?"
Liễu Nhược Băng gật đầu đáp ứng, lên xe ngựa, khẽ vén rèm. Bên trong trang sức rất tinh mỹ, ở tầng nệm gấm dày có một thiếu nữ đang nằm, đầu tóc buông lõa xõa, hai mắt nhìn trừng trừng lên mui xe, gò ngực không ngừng nhấp nhô, há miệng thở lấy hơi lên. Bên cạnh có hai nha hoàng đang khóc khẽ.
Liễu Nhược Băng ngồi xuống, khẽ gọi: "Tiểu quận chúa!"
Tiểu quận chúa Chu Phượng Đức chẳng có phản ứng gì, vẫn ngờ nghệch nhìn mui xe y như cũ.
Liễu Nhược Băng cầm lấy cánh tay nàng, bắt mạch một lúc, lòng thầm rúng động, ngoài người ra ngoài xe nói với Dương Thu Trì: 'Tiểu quận chúa mạch tượng tán loạn, như có như không, chỉ sợ chịu không được mấy ngày nữa."
Dương Thu Trì gảy đầu, nhân vì tiểu quận chúa này đã từng tìm mọi cách khi phụ Trầm Tuyết Phỉ, cho nên hắn chẳng có hảo cảm gì đối với nàng. Đến sau này, tiểu quận chúa nhà phá người chết, cha, chồng, ca ca đệ đệ đều bị dìm xuống sông chết, mẹ, dì, tỷ tỷ muội muội và các nữ nhân trong nhà đều bị đưa đến trại lính làm quân kỹ (kỹ nữ phục vụ cho binh lính). Tiểu quân chúa nhân vì khinh khủng và bi thương quá độ mà trở nên ngờ nghệch, Dương thu Trì mới có chút đồng tình. Hắn đã lợi dụng Trầm Lỗi tặng tiểu quận chúa cho hắn làm thiếp, đã đưa nàng rời khỏi Vũ Xương. Thật không ngờ tiểu quân chúa này lại vì hắn bỏ đi mà sinh bệnh, ăn uống không vô, mạng sống trong khoảnh khắc. Hắn nhất thời không biết làm thế nào cho phải. Nếu như lưu lại tiểu quận chúa, thì sau này lại mang nặng gánh nợ. Và lỡ khi Liễu Nhược Băng khôi phục ký ức kiếp trước, thì thế nào cũng vì đó mà thương tâm.
Liễu Nhược Băng thấy hắn không có chủ ý, khẽ bảo: "Chúng ta hay là cứu người trước rồi hẳn hay!"
"Đúng đúng! Cứu người quan trọng hơn! Mau ẵm cổ vào nhà!"
Liễu Nhược Băng ẵm tiểu quận chúa xuống xe, đưa nhanh vào phòng để lên giường, rồi bảo Quách Tuyết Liên đi chuẩn bị một chén cháo thịt xay loãng. Tiếp đó, nàng lấy từ búi tóc ra một cây ngân trâm, mở ra, rút từ trong mấy cây ngân châm mỏng nữa, khẽ cắm ngập vào mấy hiyệt vị ở đầu của tiểu quận chúa.
Dương Thu Trì vui mừng nói: "Tỷ tỷ cũng biết châm cứu?"
Liễu Nhược Băng quay đầu, mỉm cười đáp: "Ừ, biết một chút, ta làm vậy là để nàng ấy buông lỏng tâm trí, an định tâm thần, sau đó mới có thể dùng thuốc ăn cơm."
"Quá tốt rồi!"
Lát sau, đôi mắt trợn trừng của tiểu quận chúa từ từ khép lại, hô hấp cũng hòa hoãn đi nhiều.
Lúc này, Quách Tuyết Liên đã mang tô cháo loãng lên. Liễu Nhược Băng dùng muỗng từ từ bón cho tiểu quận chúa húp. Tiểu quân chúa hôn mê trầm trầm vô thức nuốt xuống, nhanh chóng ăn xong một chén. Liễu Nhược Băng để nàng nằm xuống, đắp mền lên.
Dương Thu Trì thở phào, hỏi: "Liễu tỷ tỷ, tình huống thế nào? Không sao chứ?"
Liễu Nhược Băng áy náy lắc đầu: 'Đây chỉ là kế quyền nghi, dù sao cũng không thể mỗi bữa ăn phải đâm ngân châm cho nàng ta ngủ mê rồi mới đút cơm được."
Dương Thu Trì ngẩn ngơ.
Chính vào lúc này, tiểu quận chúa đột nhiên mở mắt, nhìn trừng lên nóc giường, há miệng nôn khang, tiếp đó nghiêng đầu oa một tiếng, nôn thốc nôn tháo hết số cháo vừa ăn vào.
Lòng mọi người lập tức thót lại.
Hai nha hoàn theo cùng đều đã nhìn quen chuyện này, vội đi lấy khắn ướt lao cho nàng. Đang lúc bận rộng, tiểu quận chúa đột nhiê đẩy tiểu nha hoàn ngáng trước mặt khiến cô bé loạng choạng, rồi trừng to mắt nhìn Dương Thu Trì đứng ở cửa, cười hi hi nhổm dậy, loạng choạng chạy tới trước mắt hắn quỳ lạy: 'Phượng nhi là tiểu thiếp của Dương lão gia, Phượng nhi muốn sinh con trai cho lão gia...," Nói xong, nàng nghẹo đầu qua ngất đi.
Dương Thu Trì vội đỡ nàng dậy, bấm vào nhân trung. Mọi người luôn miệng hô hoán, một lát sau Chu Phượng Đức mới từ từ tỉnh lại, vừa nhìn thấy Dương Thu Trì đã gắng gượng muốn bò dậy dập đầu, nhưng bị hắn đè ép xuống: 'Không được động!"
"Dạ! Lão gia, Phượng nhi không động."
Dương Thu Trì nghe nàng ngoan ngoãn nghe lời như vậy, lòng liền có chủ ý, mặt mũi hiền hòa bảo: "Như vậy mới ngoan! Đói không?"
"Đói..."
"Lão gia ta đút cho nàng ăn gì đó, chịu không?"
CHu Phượng đức lắc đầu: "Không muốn ăn..."
Dương Thu Trì nghiêm mặt: "Phượng nhi không ngoan rồi, nàng chẳng phải nói muốn sinh con trai cho lão gia sao? Nàng không muốn ăn, sao mà khỏe được, sao có thể sinh con trai cho lão gia ta được?"
"Dạ, vậy Phượng nhi muốn ăn, ăn no để sinh con cho lão gia...!"
"Ngoan lắm!"
Quách Tuyết Liên nghe thế, vội đi múc chén cháo khác đưa cho Dương Thu Trì. Dương Thu Trì đứng khom không có lực, ngồi xuống luôn, cho Chụ Phượng Đức ngồi dựa vào lòng, múc từng muỗng một, thổi cho nguội, vừa định đưa vào miệng của Chu Phượng Đức, đột nhiên dừng lại, sầm mặt nói tiếp: "Nhưng mà, lần này không cho phép nôn ra nữa! Nếu không lão gia sẽ... sẽ đánh đít nàng đấy!"
Chu Phượng Đức đỏ mặt, gật đầu.
Dương Thu Trì bấy giờ mới đút cháo vào.
Chu Phượng Đức ăn được một nửa, theo tập quán lại buồn nôn, vội vã đưa tay che miệng, cố nín lại, sợ Dương Thu Trì tức giận, khiếp khiếp nhìn hắn.
Dương Thu Trì cười cười, lau chút cháo dính trên cằm của nàng. Gần hai tháng không gặp, Chu Phượng Đức đã ốm đến còn da bọc xương, cằm nhọn hoắc, hai con mắt lộ to, giống y như hồ li tinh trong truyện tranh.
Dương Thu Trì thương xót sờ má nàng: 'Ừ...! Cứ như vậy mà ăn, hãy ráng lên!" Xong đút cho nàng phần còn lại của chén cháo, sau đó mới ẵm nàng lên giường.
Chu Phượng Đức ôm chặt tay hắn: 'Lão gia không đi! Lão gia không đi!"
Nhìn gương mặt khẩn cầu của nàng, lòng Dương Thu Trì mềm ra, ngồi ở bên giường, khẽ vuốt tóc nàng: 'Được! Lão gia không đi, ở cùng với Phượng nhi. Mau nhắm mắt lại ngủ một chút đi, chờ nàng ngủ rồi, ta sẽbảo Tuyết Liên tỷ tỷ của nàng chơi Cửu liên hoàn cùng!"
"Dạ...! Phượng nhi còn muốn sinh con trai với lão gia nữa!"
"..., cái đó phải chờ nàng khỏe mới được, cho nên bây giờ ngoan ngoãn ngủ đi!"
"Dạ...!" Chu Phượng Đức chớp chớp mắt, vừa lòng đẹp dạ nhắm lại, nhưng đôi tay vẫn giữ chẳng tay hắn không buông.
Dương Thu Trì quay lại nhìn nhìn Liễu Nhược Băng, thấy nàng không bực mình, lại còn cười hi hi nhìn hắn, thậm chí làm mặt quỷ. Xem ra là nàng biết hắn làm vậy chỉ vì tốt cho Chu Phượng Đức, chứ không phải muốn Chu Phượng Đức làm thiếp, sinh con thật, nên hắn mới yên tâm.
Chu Phượng Đức ở bên cạnh Dương Thu Trì giống như con thuyền trải bao sóng giờ bây giờ đã trở về bến, nhanh chóng ngủ đi.
Dương Thu Trì khẽ gở tay nàng ra đứng dậy, ra dấu cho hai nha hoàn bên cạnh và Quách Tuyết Liên, ra ý bảo họ lưu tâm tiểu quận chúa, sau đó nhón chân ra khỏi phòng ngủ.
Ngô quản gia và Lôi tri huyện nhất mực đứng ở cửa nhìn vào, lúc này mới thở phào một hơi, nói nhỏ với Dương Thu Trì và Lôi tri huyện: "Bỉ nhân còn có lời muốn nói với hai vị đại nhân, không biết có tiện không?"
"Được ạ." Dương Thu Trì vội mời Ngô quản gia và Lôi tri huyện ra phòng khách, phân chủ khách ngồi.
Ngô quản gia nhìn quanh, thấy không có ai, bấy giờ mới nói: "Bỉ nhân lần này đến huyện Kiềm Dương một là vì chuyện của tiểu quận chúa, hai là phụng mệnh của Phúc vương tra tìm đường lui thích hợp."
"Đường lui?" Dương Thu Trì nhất thời minh bạch đó là ý gì, cùng trao đổi ánh mắt với Lôi tri huyện.
Ngô quản gia trầm mặt gật đầu, hạ giọng nói: "Trong hai tháng gần đây, hình thế chiến cuộc không ổn, ngày 2/7, Trương tặc tự thân soái lĩnh đại quân 20 vạn phân thành hai đường thủy lục hướng nam quấy nhiễu, đã liên tục công hãm Hàm Ninh, Bồ kỳ, Lâm Tương, Đồng Hồ, Gia Ngư. Hiện giờ đã đem binh đến dưới thành Nhạc châu. Nhạc châu là cửa lớn phía bắc của Trường Sa. Nếu như Nhạc châu thất thủ, Trường Sa khó giữ! Ai... những ngày này qua rồi, không biết tình huống Nhạc Dương thế nào."
Dương Thu Trì cả kinh. Minh triều không có điện thoại, email, cộng thêm Kiềm Dương huyện là chỗ khỉ ho cò gáy chó ăn đá gà ăn muối, tin tức bế tắc, khi tin truyền đến đây e là đã quá nguội lạnh rồi.
Lôi tri huyện thì sợ đến nỗi râu bạc run bần bật.
Ngô quản gia dừng lại, nói tiếp: "Huệ vương từ Kinh châu cũng đã chạy tới Trường Sa, hiện giờ lòng người ở Trường Sa nhốn nháo. Hai vị vương gia lệnh cho bỉ nhân đến đây có một nhiệm vụ trọng yếu nữa, đó là coi xem một khi Trường Sa thất thủ, thì Kiềm Dương có thể làm chỗ trú ẩn hay không."
 
Chương 97: Địa phương đoàn luyện
Dương Thu Trì cười khổ: "Kiềm Dương thuộc Tương Tây, đi vào nữa là tiến nhập Quý châu, núi cao rừng rậm, chỗ nào cũng có thể ẩn náu. Nhưng mà đây là chỗ đầy sương lam chướng khí, e rằng không thích ứng với hai vị vương gia."
"Ai! Những năm này có thể giữ được tính mạng đã là không tệ rồi. Càng là địa phương như vậy, Trương tặc quân càng không có hứng thú quấy nhiễu. Cho nên, đó mới chính là chỗ thích hợp an thân nhất."
"Nếu là như thế, ti chức nhất định làm tốt chuyện chuẩn bị nghênh giá. Chỉ cò điều..."
"Điển sứ có chỗ khó gì?"
"Tôi thì không có chỗ khó gì, chỉ có điều trú quân ở Kiềm Dương huyện đều đã được điều đi vào vệ Thần châu phủ và Bảo Ninh phủ rồi. Trong huyện thành không có binh nào có thể dùng, chỉ còn lại một số bộ khoái. Nếu như hai vị vương gia đến, làm sao bảo hộ cho vương gia cho chu toàn đây?"
Lôi tri huyện gật đầu: 'Đúng vậy, Trương tặc quân như lang như hổ, chỉ có Kiềm Dương huyện nhỏ nhoi thì sao có thể ngăn được hổ lang chi sư của hắn? Cần phải nhanh chóng điều tập trọng binh về Kiềm Dương, bảo hộ hai vị vương gia a."
Lôi tri huyện này cũng là kẻ tính kỹ, vì mượn cớ bảo hộ vương gia, thỉnh cầu điều binh bảo hộ Kiềm Dương, chỉ cần huyện thành không mất thì cái mũ ô sa trên đầu lão không sao rồi.
Ngô quản gia lắc đầu: "Hai vị vương gia còn chưa định chủ ý một khi Trường Sa thất thủ sẽ tị an ở đâu. Kiềm Dương cũng chỉ là một lựa chọn trong số đó. Hơn nữa, hiện giờ chiến sự quá khẩn cấp, Trương tặc quân và Sấm tặc quân (quân của Sấm vương Lý Tự Thành) quấy nhiễu đến đại loạn. Quân đội đều dùng đưa ra tiền tuyến đối phó chúng hết rồi, làm gì có binh lực rảnh rỗi để điều tập đến Kiềm Dương a!"
"Cái này...., cái này sao cho phải đây..." Lôi tri huyện không những râu ria rung loạn, mà ngay cả thân người cũng run. Trong lúc gấp gáp, ông ta nhịn không được ho lia lịa.
Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, hỏi: 'Hay là chúng tôi tự chinh binh? Dựng cờ chiêu binh, không sầu không có người tài a."
Lôi tri huyện giật nãy người, ho đến nỗi đỏ cả mặt, hai tay xua loạn: "Không được đâu, chuyện này không được. Ta và ngươi là trưởng quan 1 huyện, chỉ phụ trách chính vụ, quân vụ không thể nhúng tay, tự chiêu binh mãi mã là đại tội mưu phản!... khụ khụ khụ..."
Dương Thu Trì hơi ngượng: "Tôi chỉ nói thế thôi, hơn nữa, huyện nha của chúng ta làm gì dư tiền để chiêu binh mãi mã a, nói chơi thôi mà, Lôi đại nhân không cần khẩn trương."
Ngô quản gia lại gật đầu: 'Bỉ nhân ngược lại cảm thấy chủ ý của điển sứ đại nhân có thể được!"
"Hả?" Dương Thu Trì và Lôi tri huyện đều nhìn về y.
"Tuy triều đình không cho phép địa phương tự chiêu binh mãi mã, nhưng trước mắt binh hoang mã loạn, vì tự bảo vệ cho minh, tự tổ chức đội đoàn luyện ở địa phương vẫn có thể được. Cái đó triều đình cho phép và khuyến khích. Huống chi hiện giờ là để bảo hộ hai vị vương gia, càng không có vấn đề gì."
Thành lập đoàn luyện (Chú: là tổ chức vũ trang - thường là phản động - của thời xưa. ND) của địa phượng?
Lôi tri huyện là kẻ thêm một chuyện thay vì bớt một chuyện, không dám tiếp lời, còn mắt Dương Thu Trì thì sáng lên, hỏi: "Ngô quản gia, địa phương đoàn luyện có hạn chế gì không?"
"Không có, chỉ cần đảm bảo an toàn cho địa phương là được. Nếu như có thể tham gia quét gọn phỉ quân thì càng hay nữa."
"Được! Chúng ta sẽ thành lập địa phương đoàn luyện!" Dương Thu Trì vui mừng gật đầu lia lịa.
Lôi tri huyện bớt dần cơn ho, nói: 'Chuyện này cần phải bàn tính kỹ, năm nay huyện này từ xuân đến giờ chưa có mưa, lương tồn đã ăn hết, trên núi chim thú đều đã săn bắt ăn sạch, bá tánh đói khó vô cùng, chỉ có thể ăn vỏ cây rễ cỏ, cuối cùng thậm chí còn ăn bùn trắng, người chết đói rất nhiều, cảnh tượng thảm không thể tả a! Trước mắt có một vài chỗ thu hoạch mới hơi hoãn giải. Thành lập đoàn luyện vốn là chuyện tốt, nhưng đao kiếm súng pháo, ngựa, khải giáp, lương hướng vật tư từ đâu mà có đây?"
Vấn đề này Dương Thu Trì không thể hồi đáp, trong lúc bất lực đành nhìn về phía Ngô quản gia.
Ngô quản gia nói: "Hai vị vương gia cũng thụ quyền cho bỉ nhân tự trợ một ít ngân lượng..."
Dương Thu Trì mừng rỡ, vội hỏi: "Hai vị vương gia có thể tư trợ bao nhiêu?"
"Một trăm lượng!"
Một trăm lượng mà đòi tạo dựng lực lượng vũ trang địa phương? Làm trò cười gì vậy! Dương Thu Trì tức hỉnh cả lổ mũi. Hai vị vương gia này xem ra cũng trùm sò không kém gì Sở vương bao nhiêu.
Ngô quản gia cười cười: "Ha ha, địa phương đoạn luyện của quý huyện có thể tự tức phần lớn lương thực và quân hướng, quân giới. Hai vị vương gia cũng không nhất định tị nạn ở Kiềm Dương. Cho nên, không thể cấp quá nhiều tư trợ. Sau này vương gia nếu quyết định đến, sẽ tăng thêm."
Nước tới trôn mới nhảy, nạn đến rồi mới ôm chân phật thì làm cái cứt gì? Lúc đó tư trợ rồi thì thời gian đâu mà mua quân giới trang bị cho quân đội? Đơn giản là lấy tiền đào tẩu cho xong, Dương Thu Trì nghĩ thầm trong bụng như vậy.
Sau khi thương lượng xong, Ngô quản gia thị sát dịch trạm, rồi đem 100 lượng cho tu sửa. Đêm đó, Kiềm Dương huyện nha bày tửu yến thất đãi Ngô quản gia.
Tiểu quận chúa Chu Phượng Đức ở bên cạnh Dương Thu Trì rồi dù vẫn ngu ngơ, nhưng tình tự dần dần ổn định, chỉ là mỗi lần ăn cơm phải đòi có Dương Thu Trì mới ăn, không thôi ăn vào cứ nôn ra, khiến cho Dương Thu Trì phải dọa "đánh đít" mới ngoan ngoãn ăn, khiến hắn khổ não không dứt.
Ngô quản gia và Dương Thu Trì thương lượng, thấy vậy chỉ đành lưu lại tiểu quận chúa cho hắn. Ngô quản gia ở lại một đêm, hôm sau đêm rương châu báu vòng vàng do Phúc vương, Huệ Vương và các vương phi phi tần tặng cho tiểu quận chúa để lại, lưu 50 hộ vệ sử dụng súng điểu, sau đó dẫn số hộ vệ còn lại trở về Trường Sa.
Dương Thu Trì và Lôi tri huyện tiễn Ngô quản gia ra ngoài thành mười dặm, mới giơ tay chào tạm biệt, trở về huyện nha, lập tức lo sắp xếp thành lập đội địa phương đoàn luyện.
Lưu lại bảo hộ chó tiểu quận chúa gồm đội hộ vệ 50 người cầm súng, trong số súng đó có 5 cây Toại phát thương (súng kíp, xem hình), 20 Hỏa thằng thương (súng đốt dây mồi), còn lại là cung tên và trường mâu.
Dương Thu Trì là pháp y, đã học tập hệ thống qua kiểm nghiệm vật chứng, bao quất những loại súng, do đó đối với các loại súng và tri thức tương quan đến súng trong lịch sử hiểu nhiều. Trước đó hắn cũng nhìn thấy trong sách hai loại súng bộ binh này, chỉ có điều không nhìn thấy vật thật. Hiện giờ cuốui cùng nhìn qua, thấy về bề ngoại thì không khác mấy súng săn tự chế ở nông thôn bao nhiêu. So ra thì Toại phát thương khác Hỏa thằng thương nhất ở chỗ không cần điểm hỏa, có thể bắn trực tiếp, như về tăng cường tốc độ bắn, và cũng không sợ mưa.
Hắn gọi hai hộ vệ đến tiến thành bắn thử, xem hiệu quả thế nào, phát hiện hai loại súng này ngoài trang trí ở bộ phận kích nổ không giống ra, tính năng vũ khí gần như tương đồng, tầm bắn xa nhất là 200 mét, tầm bắn hữu hiệu gậy sát thương không quá 50 mét. Từ tầm bắn mà xét, thì nó chẳng khác nào cung tên, nhưng lực sát thương mạnh hơn, trong vòng 50 mét có thể dễ dàng bắn xuyên 1 thuẩn bài, trong vòng 20 mét có thể xuyên thuẫn bài và hình thành sát thương hữu hiệu. Điểm này cung tiễn thủ không thể bằng.
Chỉ có điều, hai loại trúng này đều lắp đạn phía trước, từ nòng súng đưa vào, sau đó dùng vụn gỗ dằn chặt, bóp cò phát hỏa, đốt hỏa dược trong súng mới bắn được. Hắn tính toán thời gian, đại khái khoảng một phút mới bắn 1 phát, còn hỏa thằng thương thì cần 1 phút rưỡi.
Kỵ binh mặc khải giáp phổ thông dùng chiến mã chạy với tốc độ 20 km 1 giờ, trong vòng 1 phút có thể chạy 300 mét, trong khi binh sĩ cầm vũ khí mặt khôi giáp có tốt độ thường là 10km 1 giờ, 1 phút chạy được 150 mét. Do đó, cho dù là hai loại súng này bắn xa nhất ở 120 mét, trong vòng một phút chỉ bắn được 1 lần khi bộ binh xung phong. Huống chi tầm bắn hữu hiệu ngắn hơn nhiều, phải chờ địch nhân chạy đến 50 mét mới bắn, căn bản không thể lên viên đạn thứ hai, lúc đó súng sẽ trở thành cây gậy nấu bếp mà thôi.
Đương nhiên, nếu có thể tiến hành bắn theo đợt, phía trước bắn xong rồi lùi ra sau lên đạn, binh sĩ phía sau bắn, rồi lui ra cho người đợt đầu đã lên đạn bắn tiếp, thì có thể lắp chỗ khuyết điểm này. Chỉ có điều như vậy phải tiến hành chuẩn bị huấn luyện trật tự bài bản vô cùng, binh sĩ phải tuyệt đối nghe theo chỉ huy, sắp xếp đâu ra đó. Cái này đối với mấy chục người còn được, chứ nếu với hàng nghìn quân, thì e rằng chẳng thuận lợi gì. Một khi trong đó xảy ra vấn đề, đối phương xung phong thoắt cái là đến, đột phá tiếp cận cự li hỗn chiến, thì lúc đó dù súng toại phát hay hỏa thằng đều trở thành khối sắt vụn hết, căn bản không phải là đối thủ của quân đội sử dụng binh khí lạnh, là con dê để cho địch nhân tha hồ bằm vằm. Hơn nữa, cách đánh này chỉ phù hợp với chiến trường có địa thế bằng phẳng, tác chiến ở núi đồi e rằng không được.
Cho dù có rất nhiều vấn đề, toại phát thương dù sao cũng là vũ khí tiên tiến nhát thời bấy giờ. Chỉ cần phát huy tốt, nhất định sẽ thành công.
 
Chương 98: Thỏ khôn ba hang
Dương Thu Trì quyết định sử dụng Toại phát thương làm vũ khí chính thức cho đoàn luyện. Hắn đã hỏi qua Ngô quản gia, loại súng này có giá thành khoảng ba lượng bạc một cây. Nhưng nếu muốn mua sắm phải tốn tới 5 lượng một cây, đó là cái giá khá rẻ rồi.
Chỉ có điều, vũ khí có giá có rẻ đến đâu đi chăng nữa cũng phái có tiền mà mua. Hắn hiện giờ cần giải quyết vấn đề trước mắt là kinh phí. Không có tiền không làm được gì hết. Ngô quản gia tổng cộng chỉ lưu lại 200 lượng bạc, huyện nha thu thuế giữ lại mỗi năm giỏi lắm 300 lượng. Nếu dùng khoản thuế đó có thể bị rơi đầu, cho nên số bạc này Lôi tri huyện có bị đánh chết cũng không nguyện ý đem ra dùng.
Dương Thu Trì không còn cách nào, liền đề nghị triệu tập hội nghị hương thân toàn huyện. Nếu như đã là địa phương đoàn luyện, là lực lượng vũ trang bảo hộ bổn địa, đương nhiên ai ai cũng phải có trách nhiệm, có tiền xuất tiền, có lực xuất lực. Biện pháp này được Lôi tri huyện tán đồng, thụ quyền cho Dương Thu Trì phụ trách tổ kiến đoàn luyện của địa phương.
Hương thân của địa phương cũng biết nếu như không có lực lượng vũ trang bảo hộ, đừng nói gì hổ lang chi sư của Trương tặc quân, cho dù là một đám tán binh tụ tập kéo đến quấy nhiễu họ cũng chịu không thấu, cho nên bỏ tiền ra họ cũng không nề hà gì. Chỉ có điều, huyện Kiềm Dương vốn là xứ "man di", kinh tế vô cùng lạc hậu, cộng thêm gặp phải đại hạn, đói chết rất nhiều người, những người được gọi là hương thân này kỳ thật cũng giàu hơn bao nhiêu so với bá tánh.
Sau khi kinh qua sự cò kè bớt một thêm hai, hương thân toàn huyện nhỏ lệ hiến ra tổng cộng 800 lượng, cộng thêm 200 lượng của Ngô quản gia để lại nữa là 1000 lượng.
Dương Thu Trì cười khổ, thành lập một địa phương đoàn luyện có thể bảo hộ huyện thành phải cần ít nhất 500 người mới miễn cưỡng coi được. Nhưng hiện giờ là những năm đói kém, giá gạo mốc cũng đã lên đến con số trên trời, một đấu gạo đại khái 12.5 cân có giá 9000 văn, hay nói cách khác 1 cân tới 720 văn, vậy 1000 lượng này chỉ có thể mua được 2000 cân gạo. Nếu thành lập 1 chi đoàn luyện 500 người, 1 người ăn 4 cân gạo, duy trì không quá 10 ngày!
Như vậy có thể nói, tiền trước mắt nếu bỏ hết vào cho quân lương thì không đủ ăn 10 ngày, đừng nói gì mua vũ khí.
Đương nhiên còn có một biện pháp khác, đó là dân quân kết hợp, thời bình làm dân, thời chiến làm quân, nhưng quân đội như vậy không có thời gian huấn luyện gì nhiều, lực chiến đấu không cần nghĩ cũng biết.
Cho dù là dùng biện pháp bất đắc dĩ này, dùng 1000 lượng bạc mua hết vũ khí, thì theo kế hoạch của Dương Thu Trì muốn kiến tạo một lực lượng vũ trang cận hiện đại hóa, thì phải trang bị vũ khí tiên tiến nhất thời bấy giờ là Toại phát thương. Nếu thế thì 1000 lượng bạc này chỉ đủ mua 200 cây súng, đạn dược thì làm sao đây? Khí giới thủ thành thế nào?
Tính toán thế nào thì 1000 lượng cũng không đủ.
Dương Thu Trì sầu muộn trở về điển nha. Quách Tuyết Liên đang cùng Chu Phượng Đức chơi trò cửu liên hoàn. Chu Phượng Đức tựa hồ rất thích với trò chơi này, hưng phấn đến mắt sáng rực lên, nước dãi chảy cả ra cũng không biết.
Liễu Nhược Băng lập tức phát hiện thần tình của Dương Thu Trì không ổn, hỏi ra ngày. Dương Thu Trì đơn giản thuật lại tình huống Trương Hiến Trung kéo binh tới Lạc Dương, và nói sự tình xây dựng đội địa phương đoàn luyện mà không có tiền. Liễu Nhược Băng tuy võ công cao cường nhưng huyện Kiềm Dương và các phủ huyện chung quanh rất cùng, không có nhà giàu gì, cho dù có lòng cướp của nhà giàu chia cho người nghèo cũng không tìm được đối tượng thích hợp, cũng chẳng cứơp được bao nhiêu tiền. Huống chi độc của nàng chưa trừ dứt, căn bản chẳng đề được chân lực, động không tới võ công.
Quách Tuyết Liên vừa chơi cửu liên hoàn với Chu Phượng Đức, vừa nói với Dương Thu Trì: "Lão gia, Trương tặc quân nếu đánh tới thật, đoàn luyện 500 người không đủ đề ngự, hay là chúng ta sớm trù tính kế, tìm một chỗ an thân a?"
Dương Thu Trì cười khổ: "Phía bắc có Mãn Thanh, phía Tây có Sấm vương Lý Tự Thành, cửa nhà có Trương Hiến Trung, chúng ta còn chạy đi đâu được nữa?"
"Vậy tổ chức địa phương đoàn luyện cũng không thể đối kháng đám phản tặc đó được a!"
"Tuy không thể đối kháng Lý Tự Thành hay là Trương Hiến Trung, nhưng đối phó với giặc cướp thì được, nếu không, một chi mấy trăm tàn binh kéo tới là quét sạch chúng ta, như vậy là đối không phải với bá tánh toàn thành đó a."
Liễu Nhược Băng gật đầu: "Đúng, Thu Trì nói đúng, trong thời binh hoang mã loạn này, dưới thiên hạ không đâu là thái bình thịnh thế. Trước mắt, chỉ có thể thành lập đội vũ trang cho mình mới bảo hộ được chính mình."
"Đúng vậy, lúc trước hai chúng ta chạy nạn khắp nơi, chỗ nào cũng binh hoang mã loạn, suýt nữa chết ở thành Hoàng châu. Do đó, trốn tránh không phải là biện pháp, biện pháp tốt nhất để sinh tồn là giết chết trước những kẻ muốn làm hại chúng ta!"
"Đúng!" Liễu Nhược Băng gật đầu khen ngợi, "Thành lập quân đội, giết tặc khấu, không những bảo hộ cho bản thân mà còn bảo hộ cho bá tánh một vùng...!"
Mắt Dương Thu Trì sáng lên, cười lớn: "Đúng a! Thành lập căn cứ địa cách mạng! Ha ha, tỷ tỷ nói quá hay, ha ha ha!"
Liễu Nhược Băng và Quách Tuyết Liên đưa mắt nhìn nhau, không biết căn cứ địa cách mạng là cái gì.
Dương Thu Trì nói: "Kiềm Dương nằm ở giao giới Hồ Quảng, Quý Châu và Quảng Tây, thuộc vùng mà ba địa phương đó không ai quản, có núi cao rừng rậm, địa thế hiểm ác, dân phong thuần phác, chính là hoàn cảnh tốt nhất để lập căn cứ địa. Chúng ta sẽ lấy đây làm trung tâm, thiết lập lực lượng vũ trang cho mình!"
Hai người bắt đầu minh bạch, nhưng lại quay trở lại vấn đề cũ: "Tiền để tổ kiến quân đội từ đâu mà ra?"
Tri thức lịch sử hiện đại thì Dương Thu Trì biết, quân công nông hồng quân của Trung quốc có chi quân đội đầu tiên là quân khở nghĩa quốc dân đảng tạo thành. Quân đội cách mạng chủ yếu đến từ quân khởi nghĩa của địch (đương nhiên cũng có khởi nghĩa nông dân, vác cuốc vá xẻng gì đó). Còn trong tay hắn hiện giờ không có quân đội vũ trang, cả huyện này cũng không có, hắn cũng không có ý lấy một chi Minh quân tự lập thành quân mình. Cho nên, nói cho cùng thì phải tự lực xây dựng quân đội riêng mà thôi.
Quách Tuyết Liên lo nói chuyện với Dương Thu trì, quên cả chơi cửu liên hoàn. Chu phượng Đức dẫu môi rỏ dài kéo nàng lại bảo nàng chuyên tâm chơi, Quách Tuyết Liên trừng mắt: "Trương tặc quân sắp đánh tới nơi rồi, còn chơi...!"
"Oa..." Chu Phượng Đức chề môi rồi khóc òa.
Quách Tuyết Liên vội dịu giọng xin lỗi: "Xin... xin lỗi, ta không nên hung dữ với nàng..., chờ lát chúng ta sẽ chơi nữa nhé? Hiện giờ còn giúp lão gia nghĩ biện pháp kiếm bạc đây! Lão gia đang cần dùng nhiều bạc lắm!"
"Lão gia cần bạc?" Chu Phượng Đức ngây ngô hỏi Dương Thu Trì, "Phượng nhi có nhiều bạc lắm nè...!" Rồi quẳng cửu liên hoàn đi, cúi người kéo cái rương do Ngô quản gia để lại, mở hé ra nói: 'Bạc nè..., hi hi, Phượng nhi có nhiều bạc lắm..! Cho lão gia hết đó!"
Dương Thu Trì nhìn nhìn, thấy đều là châu báu trang sức. Kiếp trước hắn là Trấn quốc công, nhìn thấy vô số kỳ trân dị bảo, đương nhiên biết đây là những châu báu trang sức có giá trị không nhỏ, tính toán sơ bộ cũng một hai nghìn lượng. Chỉ có điều, với số châu báu này mà muốn bán đổi thành bạc thì ở địa phương xa xôi này chẳng bán được giá bao nhiêu. Nếu đến Trường Sa bán thì thời gian không kịp. Và điều chủ yếu chính là, đối với tổ kiến một chi quân đội, số này còn lâu mới đủ.
Thấy Dương Thu Trì vẫn còn bộ dạng rầu rĩ, Chu Phượng Đức đột nhiên nhảy dựng lên, cười hi hi nói: 'Phượng nhi còn tiền, nhiều tiền lắm! Cho lão gia hết được không?"
Dương Thu Trì biết CHu Phượng Đức bi thương sợ hãi quá độ mà tinh thần thất thường, biến thành ngờ nghệch, nhưng thần trí vẫn đôi lúc rất rõ ràng. Khi nghe nàng nói vậy, không khỏi động tâm, hỏi: "Nàng còn có tiền sao?"
Chu Phượng Đức gật đầu như gà mổ thóc.
"Ở đâu?"
"Quý châu Trấn Viễn phủ!"
Địa phương này Dương Thu Trì rất quen. Hai trăm năm trước hắn từng làm tri huyện ở huyện Thanh Khê, cách huyện Kiềm Dương đại khái ba ngày lộ trình. Dương Thu Trì nghi hoặc hỏi: "Nàng sao lại có kim ngân tàng trữ ở Trấn Viễn phủ?"
"Phụ vương cho thiếp biết, hu hu hu..." Nói đến cha, tiểu quận chúa như đứa bé gạt lệ khóc ròng.
Dương Thu Trì bấy giờ thì đã hiểu, có câu thỏ khôn có ba hang, Sở vương là nô lệ của tiền tại, tuy rất bủn xỉn nhưng không ngu. Lão có nhiều vàng bạc châu báu như vậy, khẳng định không chỉ cất trong vương phủ không, đặc biệt là hiện giờ thiên hạ đại loạn, nhất định phải phân tán ẩn giấu ở những chổ khác nhau cho ổn thỏa, trong đó nhất định có Trấn viễn phủ. Lòng hắn mừng rỡ, hỏi: "Nàng... nàng nguyện ý cho ta hết số vàng bạc đó?"
"Dạ!" Tiểu quận chúa gạt lệ, ôm chầm lấy cổ của Dương Thu Trì, "Phượng nhi là tiểu thiếp của lão gia, Phượng nhi sẽ sinh con trai cho lão gia, có thật nhiều thật nhiều bạc nữa!"
Ha, xem ra chọn Chu Phượng Đức này làm tiểu thiếp thật đúng quá rồi. Sở vương Chu Hoa Khuê là người coi tiền như mạng, nếu giấu một phần vàng bạc ở Trấn Viễn phủ, bản thân hắn sẽ phát rồi, không, không sầu về chuyện quân lương chứ. Hắn vội ôm eo Chu Phượng Đức hỏi: "Chúng ta hiện giờ đi tìm bạc của nhà nàng nhé?"
Chu Phượng Đức cười hi hi gật đầu. Dương Thu Trì mừng rỡ, lập tức ra dặn dò hộ vệ chuẩn bị hành trang xe ngựa để đến Trấn Viễn phủ.
 
Chương 99: Công tượng
Quách Tuyết Liên giật giật ống tay áo Dương Thu Trì, hạ giọng nói: "Lão gia, người thật tin lời cô ta hả? Cô ấy phong phong điên điên ấy..."
Câu này bị Chu Phượng Đức nghe được, giơ tay lên đưa ngón tay cái chỉa vào mũi, vừa chề mối vừa làm mặt quỷ.
Liễu Nhược Băng nói: "Tiểu quận chúa tuy bị kích động, trở nên khờ khờ, nhưng thần trí vẫn còn rõ ràng, đặc biệt là không dám nói láo đối với lão gia của nàng ấy. Do đó lời này có độ tin cậy khá cao!"
Chu Phượng Đức cười hi hi gật đầu chạy tới ôm cánh tay của Liễu Nhược Băng, dáng vẻ vô cùng nồng nhiệt, biểu đạt sự cảm kích đối với lòng tin của Liễu Nhược Băng đối với nàng.
Dương Thu Trì hơi ngượng, cười nói: "Hắc hắc, tiểu quận chúa không biết nói dối, cũng không phải chuyên môn với ta mới không nói dối. Hơn nữa, cho dù có sai thì cũng không ảnh hưởng đến chuyện gì."
Chu Phượng Đức lại chạy tới, ôm cổ Dương Thu Trì, chu môi như em bé nói: "Phượng nhi là tiểu thiếp của lão gia, Phượng nhi không lừa lão gia!"
Dương Thu Trì thương xót vuốt lỗ mũi của nàng một cái.
Sau khi thương lượng xong, Quách Tuyết Liên vội đi chuẩn bị hành trang cho Dương Thu Trì và Chu Phượng Đức. Kịch độc trong thân thể Liễu Nhược Băng còn chưa thanh trừ triệt để, cho dù là theo cùng thì gặp phải chuyện gì cũng không thể động thủ, cho nên lưu lại ở nội trạch của điển sứ ở huyện Kiềm Dương để dưỡng thương. Hắn lưu lại Quách Tuyết Liên để lo liệu cho nàng, và tiểu hắc cẩu để bảo hộ. Ngoài ra, hắn còn phân 20 hộ vệ do Ngô quản gia lưu lại làm hộ vệ cho Liễu Nhược Băng, cho Lưu Dũng, Phó Quan cầm đầu cảnh giới và bảo vệ ở điển nha. Còn riêng hắn thì mang theo Chu Phượng Đức và 30 hộ vệ còn lại do Mã Lăng Vũ và Hồ Thủy đái lĩnh lập tức khởi hành đi Trấn Viễn phủ.
Lúc đang chuẩn bị, gác cổng vào báo rằng là phụ thân của tú tài Tiêu An Nhiên giết người trong học cung bữa trước đến cầu kiến.
Dương Thu Trì tuy gấp tìm kiếm bảo tàng, nhưng công tác chuẩn bị còn cần một chút thời gian, đang rãnh rồi ngồi chờ, liền ra lệnh đưa ông ta vào chờ ở phòng khách điển nha.
Dương Thu Trì đủng đỉnh ra phòng khách, thấy có một lão giả chờ sẳn. Người này thân hình tráng kiện đen bóng, mắt sáng có thần, chỉ mặc một áo chẻn đen, trường khố, eo đeo thắt lưng xanh có một túi nhỏ. Vừa thấy Dương Thu Trì tiến vào, ông ta vội quỳ xuống dập đầu: "Thảo dân Tiêu Hắc Trụ, hiệu là lão Hắc đầu, khấu kiến điển sứ đại nhân."
Dương Thu Trì thầm nghĩ ông này vừa đen vừa thấp, danh hiệu Lão hắc đầu quả là hợp, vội đưa tay cho ông ta đứng dậy rồi ngồi xuống hỏi: "Lão nhân gia, ông tìm bổn quan có chuyện gì không?"
Lão hắc đầu nhìn phải nhìn trái, thấy nha dịch đứng ở cửa, vội ho khan một tiếng không nói gì.
Dương Thu Trì hiểu ý phất tay cho nha dịch đi ra, đóng cửa phòng lại.
Lão hắc đầu lại quỳ xuống dập đầu binh binh, mở túi nhỏ bên người xuống lộ ra trong đó đầy bạc trắng hếu, cung cung kính kính nói: "Tứ lão gia, đây là 100 lượng bạc, là một phen tâm ý của thảo dân, cầu lão gia thu nhận."
Dương Thu Trì nhíu mày: "Ngươi làm cái gì vậy?"
Lão hắc đầu dập đầu lia lịa: "Tứ lão gia, thảo dân chỉ có một mình An Nhiên, hiện giờ nó đã phạm tử tội giết người. Nếu nói mà chết rồi thì thảo dân sẽ đoạn tuyệt hương hỏa. Do đó kính thỉnh lão gia thành toàn lưu tính mệnh lại cho khuyển tử! Cầu xin lão gia mà!"
"Bỏ tiền mua mạng? Hắc hắc, chút bạc này quá ít đó nha?" Dương Thu Trì rề rà nói.
Tiêu An Nhiên giết chết Triệu Thiên Châu là vì Triệu Thiên Châu không muốn tự sát, sợ làm trái với hiếu đạo, nên lợi dụng Tiêu An Nhiên bỏ tiền nhờ mình giúp trong các kỳ thi, vòi tiền của Tiêu An Nhiên liên tục, khiến cho tiền bạc trong nhà y hết sạch.
Tiêu An Nhiên đến lúc không thể nhịn được nữa, trong lúc tức giận đã giết Triệu Thiên Châu. Do đó, án này xảy ra là có nguyên nhân, người bị hại rõ ràng là sai, Dương Thu Trì không chuẩn bị định Tiêu An Nhiên vào tử tội. Tuy nhiên, nguyên nhân bên trong này phụ thân của Tiêu An Nhiên không thể biết được. Ông ta chỉ biết giết người thường mạng, sợ con trai phải thường mạng, do đó đến cầu tình.
Dương Thu Trì đang định bảo ông ta không cần dùng tiền để hối lộ làm chi, vì con trai ông ta sẽ không bị phán tội chết, nhưng lão Hắc đầu cứ dập đầu lia lịa nói: "Tứ lão gia, chút bạc này.... là do thảo dân đập nồi bán sắt, chạy động chạy tây mới có được. Thảo dân thật tại hết tiền rồi, nhưng mà, thảo dân trước đây là công tượng trong Công tượng cục của triều đình, có nghề, chỉ cần Tứ lão gia có thể cho thảo dân chút thời gian, thảo dân nhất định có thể kiếm tiền đưa thêm."
"Hắc hắc, cái đó thì không cần...," Dương Thu Trì mới nói tới đây chợt động lòng, hỏi dồn: "Ông là công tượng trong công tượng cục của triều đình?"
"Đúng vậy!"
"Vậy ông có biết chế tạo hồng di đại pháo và toại phát thương không?"
Lão hắc đầu ngẩn ra, vội đáp: "Biết, thảo dân khi xưa ở trong cục đã từng tham gia chế hồng di đại pháo và Toại phát thương. Sau này tuổi lớn rồi mới rời khỏi công tượng cục, trở về quê ở Kiềm Dương này mở tiệm sắt."
"Thật không? Quá tốt rồi!" Dương Thu TRì mừng rỡ đứng dậy chạy tới đỡ ông ta dậy, "Ngồi! Ngồi xuống hẳn nói! Người đâu a! Rót trà...! Rót ly trà ngon ra đây!"
Các đầy tới chờ hầu ngoài cửa vội mang tới một chung trà thơm, hoài nghi nhìn lão Hắc đầu, lòng tưởng lão thiết tượng này sao lại được đãi ngộ như vậy nhỉ?
Lão hắc đầu cũng tự cảm thấy thụ sủng mà kinh, không dám ngồi xuống, bị Dương Thu Trì ép mạnh mới ngồi ghé đít xuống mép ngoài của ghế, e dè nhìn hắn.
Dương Thu Trì nói; "Ông ngoại trừ biết tạo hồng di đại pháo và toại phát thương, còn biết làm cái gì nữa?"
Lão hắc đầu tựa hồ cảm thấy Dương Thu Trì nói như vậy là khinh thường năng lực của ông ta, nên muốn khiến cho điển sứ đại nhân có lòng tin với tài nghệ của mình, để chờ ông ta làm thêm tiền điền vào chỗ hối lộ, ông ta không khiêm tốn nữa, cười cầu tài nói: 'Tứ lão gia, tôi có biết tạo Phất lãng cơ pháo, hổ tồn pháo, phích lịc pháo, đọc hỏa cầu, thần cơ tiễn, bách hổ tề bôn có thể bắn 100 phát liên tục, chấn thiên lôi, khai hoa đạn vâng vâng. Tôi biết hết. Cung tên, đao kiếm càng không cần nói đến. Chỉ cần ngài có thể vẽ một bức vẽ, thì không cần tinh xảo đến đâu, thảo dân cũng có thể tạo ra được."
"Thật không?" Dương Thu Trì vừa kinh vừa mừng, mặt như hoa nở, lòng nghĩ cái này là trời giúp ta rồi! Hắn vỗ một cái mạnh lên vai ông ta, nói: "Ông có thể còn chưa biết, huyện chúng ta sắp lập đoàn luyện vũ trang rồi, muốn tạo súng pháo, ta đang sầu không có công tượng rành nghề đây. Thì ra là ông là người từng ở cục công tượng của triều đình. Vậy được, ta cho ông vài ngài, ông làm cho ta những vũ khí trang bị có thể làm được, bao quát các loại khải giáp, mỗi thứ đều làm hết một cái cho ta. Nếu như tạo tốt, ta không những lưu lại mang cho con ông, mà còn dùng trọng kim mời ông làm cục trưởng công tượng cục của đoàn luyện! Thế nào?"
Lão hắc đầu mừng rỡ, quỳ sụp xuống lạy, dập đầu lia lịa: "Đa tạ tứ lão gia thành toàn, tứ lão gia hãy yên tâm, thảo dân tạo ra vũ khí lão gia xem là vừa ý ngay!"
Dương Thu Trì lấy bao bạc trên đất để lại bàn: "Số bạc này người mang về làm vốn, nhất định phải tạo cho tốt! Cho ngươi sáu ngày..., à không, mười ngày, đủ hay không? Một mình ngươi đủ không, hay là ta tìm người giúp ngươi?"
"Đủ rồi, mỗi dạng vũ khí chỉ tạo một thứ thì thời gian đủ rồi, không cần tìm người giúp, tiểu nhận có mấy đồ đệ giúp, chỉ là..."
Dương Thu Trì vội hỏi: "Chỉ là thế nào?"
"Chỉ là tạo vũ khí quân dụng là tội bị chém đầu..."
"Ha ha, cái đó không sợ, thành lập đoàn luyện là thông qua sự gật đầu của tri huyện lão gia, chế tạo vũ khí súng pháo là do Phúc vương gia của Hồ Quảng cho phép, ngươi yên tâm làm đi, ừ..., để đảm bảo ngươi tạo súng ống an toàn, ta phái Ngụy bộ đầu đưa mấy bộ khoái đến giúp cảnh giới cho ngươi. Nếu như ngươi có thể tạo ra những súng ống làm ta vừa ý, sau này sẽ cho ngươi đưa xưởng cơ khí đến nha môn luôn, vậy là an toàn rồi, ha ha ha."
"Dạ..., đa tạ Tứ lão gia!"
Dương Thu Trì cho gọi Ngụy bộ đầu đến đem chuyện này nói ra, bảo ông ta mang mấy bộ khoái đến chỗ xưởng đồ sắt của lão hắc đầu cảnh giới.
Sau khi đưa lão hắc đầu đi, Dương Thu Trì nhỏen miệng cười cao hứng cả ngày. Hắn vào nội nha của tri huyện báo với Lôi tri huyện chuyện cho lão hắc đầu chế tạo súng ống, lại nói bản thân cần đi Quý châu Trấn viễn phủ mua vật tư quân nhu. Lôi tri huyện đối với chuyện quân sự một khiếu chẳng thông, thậm chí còn tránh xa, đương nhiên mọi chuyện đều nghe Dương Thu Trì an bài.
Vào lúc này, đội hộ vệ đã chuẩn bị sẵn sàng xuất phát, xe ngựa của Dương Thu Trì và tiểu quận chúa đã sớm chuẩn bị xong. Hắn dẫn theo hai nha hoàn lần trước từ Trường Sa theo cùng với tiểu quận chúa len xe, khởi trình xuất phát đến Trấn Viễn phủ.
Khi xuất phát là đã giữa trưa. Tối đến, họ vào trong một khách sạn sạch sẽ ở một tiểu trấnơở lại. Điếm chưởng quỹ giới thiệu cho họ những món không tệ, dọn lên cho mọi người ăn. Chỉ có điều, sau khi ăn xong, họ ngầy ngật buồn ngủ, còn chưa kịp cởi y phục thì đã ngã lên giường ngủ vùi.
Dương Thu Trì bị nước lạnh tạt cho tỉnh lại, từ từ mở mắt, thấy đầu đau như búa bổ, trước mắt bóng người xao động, nhưng không nhìn rõ là ai. Hắn động đậy người, biết đã bị trói chặt, lại bị thêm một bồn nước lạnh đổ vào đầu. Nước lạnh kích thích, khiến hắn thanh tỉnh đi nhiều.
Bên tay hắn chợt nghe một giọng truyền tới: "Điển sứ đại nhân, tỉnh rồi chưa?" Giọng nói này cố cường điệu, khô cứng vô cùng.
Dương Thu Trì cố mở mắt, thấy đó là đại hán mặt đen đang nhìn mình chòng chọc. Hắn nhìn tả hữu, phát hiện tiểu quận chúa và hai nha hoàn cũng bị trói thúc ké nằm dựa bên cạnh hắn. Mã Lăng Vũ và các hộ vệ đều bị trói gô lại thành một hàng dài, không biết sống chết thế nào.
 
Chương 100: Cắt tai hay chặt ngón?
Dương Thu Trì nghe y nói lời này, rõ ràng đã nhận thức bản thân, nhìn kỹ tướng mạo của y, thấy rất lạ, nên hỏi: "Ngươi là ai?"
Đại hán mặt đen nhếch môi: "Ta là ai không trọng yếu, trọng yếu là ngươi có bao nhiêu tiền! hắc hắc hắc."
"Ý tứ gì vậy?"
"Vậy mà còn chưa rõ sao? Đám văn nhân các ngươi đúng là đọc sách đến ngu luôn rồi." Đại hán mặt đen từ từ rút ra một thanh đại khảm đao, kề lên cổ Dương Thu Trì, "Như vậy thì biết chưa? Chúng ta là cướp đường kiếm sống đấy mà."
Nghe lời này, lòng Dương Thu Trì ngược lại giản ra, thì ra đây là một đám sơn tặc. Xem ra khách sạn mạ họ ăn tối qua là một hắc điếm rồi, hoặc đó là điểm tiền tiêu do đám sơn tặc này thiết đặt ra, chuyên tra xét các đoàn thương buôn lai vãng, tìm cơ hội đánh cướp. Cái mà họ ăn ắt là bị hạ mông hãn dược. Quả là quá khinh thường mà, hắn chỉ nghĩ ở huyện thành xa xôi này không có chiến loạn, quân đội của Trương Hiến Trung sẽ không đến đánh, không ngờ nơi núi cao rừng thẫm này còn có sơn tặc chiếm núi làm vương.
Hắn có một đám người đông thế này, các hộ vệ lại mặc phục trang Minh quân, thế mà bọn chúng dám bóc cóc, quả là lợi hại! Lẽ nào đây là đám con cháu chiếm núi làm vương của thủy bạc Lương sơn hay sao? Nhưng mà, trong thời buổi binh hoang mã loạn thế này, bắt cướp quan binh chẳng phải là chuyện lớn quá đáng gì, giết quan tạo phản âu cũng là chuyện thường lắm rồi.
Dương Thu Trì hỏi: "Gan của các ngươi lớn thật, bắt cóc mệnh quan của triều đình, các ngươi không sợ bị lăng trì xử tử sao?"
"Ha ha, đa tạ điển sứ quá lo, ngài hay là tự lo cho mình trước đi. Được rồi, bớt nói lời thừa, mau viết một phong thư, nói rằng ngươi bị chúng ta bắt rồi, bảo Lôi tri huyện mang 500 lượng,..., không, 800 lượng đến chuộc ngươi!"
Dương Thu Trì thất cười: "Xem ra ta có giá trị không ít tiền nha, 800 lượng lận!"
"Hắc hắc, chỉ cho 3 ngày lo liệu tiền, ba ngày không mang tiền tới, bảo Lôi tri huyện đến thu thây của ngươi đi. Nhưng mà phải thu cho tử tế, nhân vì ta sẽ chặt ngươi ra thành tám khối, đến lúc đó từ từ mà thưởng thức." Xong y quay lại đám tiểu lâu la phía sau, "Mẹ nó, các ngươi còn ngẫn ra đó làm gì! Mau mang bút mực tới đây!"
Đến lúc này thì Dương Thu Trì hoàn toàn thanh tỉnh, hắn hoạt động chân trước, phát hiện khẩu súng 77 ở dưới bắp chân không còn nữa, xem ra đã bị lục soát lấy đi rồi, lòng không khỏi trầm xuống. Hắn nhìn quanh, thấy chỗ mình đang ở dường như là một địa thất rất rộng, vách tường đều làm bằng đá xanh to dày xây thành, chỉ có một cửa sổ nhỏ cao cao, chiếu vào đó ánh trăng nhè nhẹ, xem ra là trời còn chưa sáng.
Trong phòng ngoài đại hán mặt đen ra, còn có hơn chục lâu la tay cầm đao kiếm, còn còn vài người cầm súng ngắn. Nhìn cò súng đều đã lên đạn, không ngờ đó là toại phát thương, chỉa nhắm thẳng vào phía hắn.
Tiêu đời! Nếu như chỉ đơn thuần là đao kiếm thì hắn còn giả vờ mượn viết thư giải cởi dây trói, tay không đoạt khí giới chế phục đám sơn tặc này. Nhưng mà, đối phương có tới mấy tên cầm súng, những món đồ chơi này không cần phải đốt lửa châm ngòi, chỉ bám cò là phát nổ. Mấy cây súng đồng thời khai hỏa, trong cự li gần thế này, khả năng tránh thoát hầu như không có. Trong khi đó mấy tên cầm súng này xa đến bảy tám bước, phân tán các nơi, căn bản không thể khống chế hết cùng một lúc.
Đành phải chờ đợi thời cơ thôi, dù gì thì bọn chúng cũng không làm gì hắn khi chưa nhận được tiền chuộc.
Bút mực nhanh chóng được lấy ra, đại hán mặt đen ra lệnh trước hết trói một tay Dương Thu Trì vào người, trói luôn hai chân, sau đó mới cởi dây thừng bằng gân trâu, bỏ tay còn lại ra . Hai sơn tặc sau đó kéo hắn đến bàn, bắt hắn viết thư.
Dương Thu Trì thầm kêu khổ, xem ra đám sơn tặc này vô cùng tinh minh, hai chân và một tay hắn bị trói chặt, chỉ chừa một tay, thì một tay rất khó chế phục đám sơn tặc này. Huống chi còn có mấy cây súng, không thể làm loạn được, cần phải nắm chắc cơ hội mới ra tay.
Dương Thu Trì án chiếu theo yêu cầu của đại hán mặt đen, viết một phong thư nghệch ngoạc. Sơn tặc lại bắt hắn áp tay lên làm dấu, rồi trói chặt trở lại.
Đại hán mặt đen nhìn Dương Thu Trì chầm chầm, lạnh lùng cười: 'Phải tìm một tín vật thì Lôi tri huyện của các ngươi mới tin ngươi ở trong tay chúng ta. Nói đi, chặt một ngón tai ngươi hay là cắt cái lổ tai ngươi? Ngươi có thể chọn!"
Dương Thu Trì giật nãy mình: "Cái này...., không cần thiết chứ? Lôi tri huyện sẽ tin thôi."
"Bớt lời thừa đi! Mau chọn! Không chịu chọn thì cắt cả hai!"
Đầu óc Dương Thu Trì xoay chuyển cực nhanh, nhưng nửa kế sách cũng không nghĩ ra, không khỏi toát mồ hôi lạnh dầm dề.
Chính vào lúc này, chợt nghe ở ngoài truyền vào tiếng ú ớ, dường như là tiếng của nữ tử giãy giụa kêu la. Đại hán quay đầu nhìn ra cửa, cười nói: "con mẹ nó, đám thỏ chết này động tác cũng nhanh nhẹn, bắt đến rồi à?"
"Hồi bẩm nhị đại vương, bắt về rồi!" Mấy tên hán tử ở ngoài cửa cao hứng lớn tiếng đáp. Tiếp đó, một đại hán vác trên vai một cái bao lớn không ngừng loạn động tiến vào, theo sau là mấy đại hán che mặt.
Đại hán bỏ cái bao xuống đất cho người trong đó đứng lên, cái túi không ngừng cọ quậy, trong có tiếng nữ tử ú ớ phát ra, xem ra miệng đã bị bịt cứng rồi.
Đại hán cởi dây trói ở miệng túi, tuột xuống dưới, lộ ra một thiếu nữ tuyệt mỹ, mái tóc dài vấn nghiêng trên đầu, có cắm một cái lược gỗ hồng và một bông hoa bạc. Một phần tóc đã bị bung ra, che cả nửa gương mặt, mày lá liễu công công, da thịt trắng mịn như tuyết như băng, không biết là trời sinh thế hay vừa mới trang điểm quan.
Trên cái cổ trắng ngần của nàng có một vòng bạc, trên người mặc một áo lam dài không có ống tay không có nút, ngực đã bị banh, lộ ra bờ vai thon và nửa gò ngực, cũng trắng muốt như tuyết. Trên hai gò ngực tuyết bạch cao đầy của mỹ nhân này còn có một áo lót màu đỏ hồng, để lộ khe ngực cực sâu, khiến người ta mơ tưởng vô hạn.
Mông của nữ tử này cong mọng dưới cái áo dài, do vạt áo dài và bó, hai bên xe cao, quần ở dưới thêu hoa chỉ đến gối, lộ ra đôi chân dài thon gọn, xinh đẹp lạ thường.
Nữ tử này còn đội một cái khăn lớn, hai tay bị trói ngược đang kinh khủng giãy giụa muốn tránh thoát . Chỉ có điều, chân và tay đều bị trói bằng dây gân bò, nên tức thời ngã xuống đất, cái quần bách diệp bị vén lên lộ ra cái đùi trắng nõn, khiến cho bọn sơn tặc chung quanh cười rộ dâm đãnh không thôi.
Đại hán mặt đen nói: "Các huynh đệ cực khổ rồi, không bị người phát hiện chứ?"
"Không, chúng tôi nhân lúc ả mang nha hoàn đến ca trường ở đồng trại cổ lâu, nên đánh ngất nha hoàn, bịt miệng ả trùm bao mang về đây. Trừ hai nha hoàn ra, không ai nhìn thấy cả."
"Giỏi! Con gái bảo bối Hạnh Ny Lạc của lão thổ ti Dát Cát Ước bị rơi vào tay chúng ta rồi, lão nhất định sẽ phá tài lớn rồi, ha ha ha...!"
Dương Thu Trì giờ đã hiểu, xem ra nữ tử mỹ lệ này có mệnh vận giống y như hắn, đều là con tin bị bắt cóc. Nghe lời đại hán nói, thì thiếu nữ này là "A hạnh ny", là một cô nương người dân tộc, là con gái của thổ ti Đồng trại trọng vùng tên là "Dát Cát Ước".
Hắn đến đây một thời gian, đã biết Kiềm Dương là chỗ có nhiều dân tộc tạp cư, chủ yếu là người dân tộc thiểu số thuộc tộc Miêu và tộc Đồng. Hắn biết, Đồng tộc là dân tộc giỏi ca múa, thuần phác nhưng bưu hãn. Từ cô gái A Hạnh Ny đẹp như tiên da trắng như tuyết con của tù trưởng Đồng tại này mà xét, thì cô nương Đồng gia ắt là đẹp như hoa rồi.
 
Chương 101: Tâm tình với thổ phỉ
Một sơn tặc thân hình ốm o giương con mắt sắc mê mê nhìn A Hạnh Ny đang uốn éo, nói với đại hán mặt đen: "Nhị đại vương, An Hạnh Ny là đệ nhất mỹ nhân của Đồng trại, là hoa đỗ quyên đẹp nhất của Đồng gia. Đừng lãng phí nữa, hãy để huynh đệ thưởng thức chút đi."
"Bốp...!" Đại hán mặt đen tát một cái cực mạnh vào đại hán ốm này: "Lão tử đã nói nhiều lần rồi, huynh đệ chúng ta tuy đi làm thảo khấu, cướp của giết người đều được, chịu không nổi thì bỏ tiền đi kiếm kỹ nữ! Muốn làm cường đạo chà đạp vợ con người ta là không được. Ai làm điều đó, lão tử sẽ thiến, rồi lấy món đồ chơi đỏ bỏ vào miệng!"
"Nói quá hay!" Dương Thu Trì nhịn không được buột miệng khen: "Hay? Hay ở chỗ nào?"
Dương Thu Trì chân thành nói: "Dâm vợ con người ta thì đã sao, vợ con ngươi ta dâm thì thế nào? Các người vào rừng làm cướp là do cuộc sống bức bách, vì sinh tồn. Đánh cướp nhà cửa là có thể lý giải, nhưng gian dâm vợ con người ta chẳng khác gì cầm thú. Nhị đại vương làm người quang minh lỗi lạc, khiến người kính bội!"
Đại hán mặt đen thấy hắn nói thành khẩn như vậy, mặt không khỏi nở nụ cười: 'Ừ, ngươi có thể nói được những câu như vậy, xem ra không phải là nhân vật bình thường. Thôi được, tha cho cái tai và ngón tay ngươi, lấy ra món tín vật đưa cho Lôi tri huyện của các ngươi để làm tin lấy tiền chuộc cũng được."
"Đa tạ nhị đại vương!" KHông ngờ chỉ mấy câu vuốt mông ngựa mà giữ được tai và ngón tay của mình, Dương Thu Trì mừng rỡ, luôn miệng xưng ta, lại nói, "Trên người ... người ta vốn có một đôi bao tay màu trắng, đó là... là nương tử của ta cấp cho ta. Đem đôi bao tay đó giao cho Lôi tri huyện để nương tử của ta nhận ra là được."
"Vậy tốt! Đem đôi bao tay đó cùng với thư đưa đi!" Đại hán mặt đen nói.
Một sơn tặc đáp ứng, mang đao và tín vật đi ra cửa.
Dương Thu Trì hỏi: "Nhị đại vương tôn tính đại danh là gì?"
"Hắc hắc, sao hả? Muốn nghe rõ tình huống của ta để dễ báo phục hả?"
"Nhị đại vương lo xa rồi, Dương mỗ tuy không phải là phú hào, nhưng đối với kim ngân vàng trắng đó xem rất nhẹ, nếu như Nhị đại vương có thể tha cho bọn ta bình an trở về, ta không những không mang binh chinh tiễu báo phục, còn có thể dâng tiền chuộc gấp đôi, thế nào?"
"Ha ha ha, cóc mà cũng đòi ngáp, khẩu khí lớn thật! Dương điển sứ, đừng cho rằng ta không biết, Kiềm Dương huyện của ngươi ngay một binh một tốt cũng không có! Ngươi lấy đâu binh mang đến chinh phạt ta? Hay là mang mấy bộ khoái đó đến không đủ nhét kẻ răng ta? Hơn nữa, cái huyện của ngươi nghèo mạt rệp, e rằng ngay cả 500 lượng bạc cũng chẳng lấy đâu ra. Nhưng mà, do ngươi là điển sứ mới đến, xem ra đã bỏ không ít bạc hoạt động mới có cái chức này, xem ra là có tiền, nhưng mà cũng không nhiều, nếu không ở cái xứ khỉ ho cò gáy này làm quan nhỏ như vậy để làm gì, có thể có được bao nhiêu món béo bở chứ? Cho nên, có thể mang ra 800 lượng tiền chuộc đã là không tệ rồi, còn có gấp đôi gì? Chẳng phải là nói mồm suông cho lão tử tiêu khiển hay sao?"
Từ tình huống mà đại hán mặt đen nói, thì bọn họ dường như ẩn tàng khá nhiều nội tuyến ở Kiềm Dương huyện, khá hiểu tình hình ở đây. Nhưng nội tuyến đó xem ra không phải ở trong nha môn, nếu không ắt phải biết tin tức về tiểu quân chúa của Sở vương. Đại hán mặt đen dường như còn chưa biết thiếu nữ bị trói nằm bên cạnh hắn đây là tiểu quận chúa của Sở vương, nếu không con cá lớn để lấy tiền chuộc này e rằng đằng sau con số 800 đó phải thêm 2 con số 0 nữa.
Cho nên, Dương Thu Trì đương nhiên không thể nói tiểu quận chúa còn giấu một lượng tài phú cực lớn ở Trấn Viễn Phủ, một khi tìm được bảo tàng Sở vương chôn giấu đó, chỉ đơn giản có 800 lượng bạc này chẳng là cái gì cả.
Dương Thu Trì cười hắc hắc, nói: "Nhị đại vương, ta kính trọng ông là một hán tử, thành thật mà nói với ông một chuyện rằng, Trương tặc quân đã đánh tới Lạc Dương, bức thẳng Trường Sa. Thủ quân ở Trường Sa không nhiều, quân không đấu chí, vừa đụng là tan, Trường Sa thất thủ xem ra là chuyện sớm muộn. Tiếp theo đó, Trương tặc quân về đông tiến công Giang Tây,xuống nam đánh vào Lưỡng Quảng, hoặc là kéo vào Quý Châu, không ai nói rõ được. Một khi Trương tặc quân đánh vào Quý châu, lúc đó thì...."
"Lúc đó thì sao? Hắn đến thì ta đi, hắn đi thì ta đến, quản gì đến ta!"
"Vậy à?" Dương Thu Trì cười điềm đạm, "Nếu như nhị đại vương lòng không có chí lớn, chỉ muốn tiếu ngạo sơn lâm, thì coi như Dương mỗ không nói lời này."
Đại hán mặt đen cười lạnh: "Ngươi dùng kế khích tướng chứ gì, tưởng ta không biết sao? Hiện giờ không có chuyện làm, nói ra nghe thử, ngươi là điển sứ nho nhỏ coi có đại chí gì?"
Dương Thu Trì đương nhiên không thể cho y biết là án chiếu theo quỹ tích của lịch sử, thì trong vòng nửa năm nữa Minh triều sẽ diệt vong, tiếp đó quân Thanh nhập quan, thiên hạ sẽ đại loạn mấy chục năm, rồi quân đuôi sam Thanh triều mới thống nhất Trung Quốc. Hắn dù sao cũng là quan viên triều đình, do đó không thể cổ vũ khích lệ cho y hưng binh khởi nghĩa tạo phản, chỉ có thể căn cứ tình huống hiện tại mà lấy việc luận việc. Hắn đáp: "Ngươi cũng biết đó, Lý Tự Thành và Trương Hiến Trung là hai đội phỉ quân làm loạn thiên hạ, chia nhau xưng vương, quân đội thì gườm gườm mắt hổ nhắm tới kinh sư, phía bắc thì đại binh của Mãn Thanh áp sát biên giới, công khắc liên tục thành trì của chúng ta..."
"Được rồi được rồi..., mấy chuyện yêu nước thương dân đó ngươi để người khác đi làm đi, ta không có hứng thú."
"Được, ta không nói với ngươi mấy đạo lý lớn nữa, vậy nói cái trước mắt thôi. Ngươi chẳng lẽ cả đời chiếm núi làm vương, chiếm rừng làm thảo khấu sao? Trước mắt thời cục hỗn loạn, triều đình không thể lo xuể, mới để cho ngươi tiêu diêu tự tại. Nhưng một khi thời cuộc ổn định, rảnh tay lo tới, thì e những ngày tháng làm đại vương của ngươi sẽ không tốt đẹp gì nữa đâu."
Đại hán mặt đen miễn cưỡng cười: "Ai mà muốn sống những ngày tháng được bữa sớm lo bữa tối này chứ? Ngươi cũng nói đó, cuộc sống bức phải làm vậy mà thôi. Nếu như ngươi đã đề cập tới chuyện này, ta cũng móc lòng ra nói một câu, rằng loạn thế xuất anh hùng, ai không muốn làm anh hùng chứ? Nhưng mà, dưới tay ta có tám trăm mấy chục hán tử, không chặn đường cướp của chứ làm cái gì được bây giờ?"
"Nhị đại vương đã nói lời thật, thì ta cũng thật lòng mà thưa, ta hiện giờ đang định tổ kiến một chi địa phương đoàn luyện, bảo hộ bá tánh một phương. Ta thấy các vị có vũ khí trang bị, quân dung quân kỷ không tệ, là tài có thể tạo, đến lúc đó hi vọng người có thể gia nhập vào đội ngũ của ta."
"Hắc hắc, nếu như ta không đáp ứng bị ngươi thu biên, thì ngươi thành lập xong đoàn luyện bảo hộ huyện nhà rồi, chuyện đầu tiên làm là đến tiễu trừ chúng ta phải không?"
Dương Thu Trì ưỡn ngực, ngang nhiên nói: "Người ngay không làm chuyện mờ ám, nếu như ngươi tiếp tục cứơp bóc của bá tánh, đương nhiên không thể bài trừ khả năng chinh tiễu các ngươi! Chuyện này không liên quan đến bắt cóc ta, thuần túy chỉ là chức trách, để bảo vệ an toàn cho một phương!"
Đại hán mặt đen cười lạnh, nhìn trừng Dương Thu Trì, nhất thời không ai nói gì.
Đúng lúc đó, một sơn tặc chạy vội vào ôm quyền thưa: "Nhị đại vương, đại vương nói bảo ngài đưa A Hạnh Ny tới gặp đại vương."
Đại hán mặt đen nhíu mày: "Mang ả tới đó làm gì?'
Sơn tặc đó đắn đo một chút, khẽ nói: "Ý tứ của đại vương là... là muốn nạp A Hạnh Ny làm áp trại phu nhân!"
Đại hán mặt đen tức thời trầm mặt: "Sao có thể được! Đừng nói gì đi ngược lại với quy củ chúng ta, cha của A Hạnh Ny là Dát Cát Ước là tù trưởng của Đồng trại, đồng binh tinh nhuệ dưới trướng hơn nghìn người. Chỉ cần khai chiến, trong vòng mấy ngày là có thể chiêu tập hơn một vạn binh tinh tráng ở các động trại xung quanh. Chúng ta chỉ có mấy trăm người, căn bản chẳng làm gì được! Bắt con gái của lão, đòi chuộc chút tiền tài thì lão còn có thể tiếp thụ, chú mà chà đạp con gái của lão, lão tù trưởng nhất định liều cái mạng già với chúng ta! Đến lúc đó, khắp Tuyết Phong sơn này e rằng chẳng có chỗ cho chúng ta tàng thân! Không được, ta phải đi tìm đại vương nói khuyên mới được!"
Y đứng dậy định đi, sơn tặc đó vội hỏi: "A Hanh Ny thế nào? Có mang đi không?"
"Tạm thời không mang! Đem ả trói ra phòng đơn ngoài kia, đúng rồi, nhốt chung điển sứ đại nhân và A Hạnh Ny. Chờ lát về ta muốn đơn độc đàm luận với họ chút chuyện!"
"Vâng!" Sơn tặc binh đáp ứng, phân biệt khiêng A Hạnh Ny và Dương Thu Trì ra cửa, leo thang đá lên mặt đất, xuyên qua một vườn nhỏ tiến vào một gian phòng, phân biệt trói vào hai cột, sau đó đóng cửa bỏ đi.
A Hạnh Ny cúi đầu khẽ khóc, gương mặt trắng nõn bị đầu tóc phủ lòa xòa, nhưng qua ánh trắng ở cửa sổ vẫn nhìn thấy một chút, khiến người thương xót vô hạn.
 
Chương 102: Áp trại phu nhân
Dương Thu Trì dịu giọng an ủi: "A Hạnh Ny cô nương, đừng lo lắng. Bọn chúng chỉ là vì tiền, ta xem nhị đại vương là người chánh trực, xem ra không để cô bị lăng nhục đâu. CHờ bọn họ trở về, ta khuyên y không được làm khó cô, đối với một cô nương mà làm vậy thì đáng mặt là hảo hán gì. Cô yên tâm đi."
"Vâng..." A Hạnh Ny hơi quay qua nhìn Dương Thu Trì, "Đa tạ công tử."
Nàng tuy là nữ tử Đồng gia, nhưng tiếng Hán cũng nói rất chuẩn, hơn nữa lại ngọt ngào kiều mỹ, uyển chuyển như con chim sơn ca. Nàng mang theo âm thút thít, hỏi: "Công tử là...?"
"À, tại hạ tên là Dương Thu Trì, là điển sứ của Kiềm Dương huyện. Lần này nhân vì công vụ mà đến Quý châu, dọc đường đi ngang đây vào ngụ ở hắc điếm của chúng bị ăn trúng phải Mông Hãn dược bị bắt trói mang lên núi, đòi tiền chuộc. Hắc hắc, hai chúng ta đúng là đồng bệnh tương liên rồi a!"
A Hạnh Ny miễn cưỡng cười: "Thì ra là điển sứ đại nhân! Đám tặc khấu này ngay mệnh quan của triều đình mà cũng dám bắt, thì tôi..." nghĩ đến hậu quả đáng sợ, rồi nghĩ tới vừa rồi tên sơn tặc đó nói là sơn đại vương muốn nàng làm áp trại phu nhân của y, nhịn không được lại bật khóc ròng.
Dương Thu Trì nói: "Vừa rồi nghe nhị đại vương nói cha cô chẳng phải là tù trưởng sau, dưới trướng có cả nghìn Đồng binh, xem ra sẽ đến cứu cô."
A Hạnh Ny dừng tiếng khóc, hỏi: "Cha không biết tôi ở đây, làm sao đến cứu a?"
Dương Thu Trì gật gật đầu: "Vậy cũng đúng, nhưng mà, nếu như có thể nạp tiền chuộc thả người, thì hay nhất là đừng động thủ, nếu không, cô nương hoa dung nguyệt mạo, có bề gì thì có bao nhiêu tiền cũng không mua về được."
Nghe hắn khen mình mỹ mạo, A Hạnh Ny hơi e thẹn, vội tránh đầu đi. Dương ThuTrì cũng cảm thấy mình nhìn chầm chầm vào con gái người ta như vậy tựa hồ cũng có điểm không hay, nên cười khan một tiếng, hai người nhất thời không nói gì.
Dương Thu Trì đương nhiên không để chuyện giao đàm với mỹ nữ trầm lắng xuống, không có chuyện gì nói thì bày ra chuyện, nên hắn hỏi: "A Hạnh Ny cô nương, danh tự của cô thật dễ nghe, đó là ý tứ gì vậy?"
"A Hạnh Ny là tiếng của người Đồng, có nghĩa là Tiên Nữ."
"Tiên nữ? À...! Tên này quả thật là chuẩn xác! Kỳ thật ta không biết tiếng Đồng, nếu là biết thì vừa nhìn cô nương là biết tên cô nương liền."
A Hạnh Ny kỳ quái hỏi:"Sao lại nói thế?"
"Cô nương mỹ mạo như thiên tiên, vừa nhìn là biết tiên nữ hạ phàm, Đồng thoại gọi tiên nữ là 'A hạnh Ny', cô nương là tiên nữ, vậy ta đương nhiên sẽ biết danh tự của cô nương rồi! Ngoại trừ cô nương, còn ai lại xứng với cái tên này nữa?"
A Hạnh Ny càng thẹn hơn: "Công tử quá khen rồi..."
Dương Thu Trì vừa mở miệng dùng lời ngon tiếng ngọt là nhịn không được, đúng là thao thao bất tuyệt: "Đúng rồi, cô sao bíêt nói tiếng Hán giỏi quá vậy? Nếu không phải vừa biết cô là thiên kim duy nhất của tù trưởng đồng trại, ta còn cho cô là Đại Minh quận chúa..., không, quận chúa làm gì xinh đẹp bằng cô, còn cho rằng cô là Đại minh công chúa mỹ lệ từ kinh thành đến nữa! Nhưng mà, cho dù ta chưa từng thấy qua Đại minh công chúa, nhưng ta dám khẳng định là cô ta không đẹp bằng cô. Khi sắp hai người lại với nhau, ai ai cũng sẽ nói Đại minh công chúa là tiểu nha hoàn của cô! Hắc hắc hắc."
A Hạnh Ny bị Dương Thu Trì chọc cuối cùng đánh phải cười, khẽ nói: "Ta chỉ là một dân nữ thấp kém, làm gì có thể sánh với công chúa tôn quý. Công tử nói đùa rồi, Hán thoại của ta là do ta học đường từ nhỏ của vị đạo trưởng luyện đơn người hán của cha ta."
Vậy à, hèn gì! Xem ra lão tù trưởng này cũng mê tín đạo thuật. Nhưng mà, nói đi rồi nói lại, đạo gia hưng thịnh nhất ở Minh triều, ngay cả ở sơn trại Đồng gia xa xôi cũng có bóng dáng của họ.
Hai người nói nói cười cười, A Hạnh Ny từ từ quên đi nỗi sợ, cho đến khi cửa bị đẩy ra, đại hán mặt đen lúc nãy trầm mặt đi vào. Y nhìn chầm vào A Hạnh Ny một hồi, trầm giọng nói: "Xin lỗi, ta đã khuyên qua rồi, nhưng mà... thật xin lỗi, cô nương, đại ca ta..., cũng là đại vương của chúng ta nói đã từng nhìn thấy cô ở ca trường, vô cùng thích cô, quyết ý nạp cô làm áp trại phu nhân. Nói chờ hai người thành thân rồi, huynh ấy sẽ nghĩ biện pháp thỉnh tội với tù trưởng... Ai...! Ta cũng không còn cách nào..."
A Hạnh Ny kinh khủng thét gào: "Không...! Ta không lấy, chết ta cũng không lấy! Dương công tử, cứu ta...!"
Lòng Dương Thu Trì cũng trầm hẳn xuống: "Nhị đại vương, ngươi là anh hùng hào kiệt, sao lại có thể trơ mắt nhìn y chà đạp con gái nhà lành chứ?"
'Ta...' Đại hán mặt đen nhất thời cứng họng, "Huynh ấy là đại ca đỡ đầu của ta, ta..., ta đã tận lực rồi..., xin lỗi!" Nói xong, y quay sang nói với mấy sơn tặc đi sau: "Đưa A Hạnh Ny cô nương đi! Đem đến cho đại vương!"
'A...! Không...! Cứu mang a...! Không được đụng tới ta ! Cứu ta a! Dương công tử cứu ta...!"
Trong cơn gào thét tuyệt vọng, A Hạnh Ny giãy giụa bị lôi ra khỏi phòng, bị xốc mang lên núi.
Đại hán mặt đen áy náy nói với Dương Thu Trì: "Điển sứ đại nhân, chuyện này, ta..., không có cách nào khác, thật là xin lỗi!"
Dương Thu Trì lạnh lùng nhìn hắn, chẳng nói chẳng rằng.
Đại hán mặt đen tỏ lộ vẻ hổ thẹn, cúi đầu ra ngoài đóng cửa, lủi thủi đi lên núi.
Tòa núi này gọi là Tuyết Phong sơn, núi cao rừng rậm, chạy dài mấy trăm dặm. Về đêu gió thét gào khiến người ta lạnh cả tóc gáy. A Hạnh Ny bị mấy sơn tặc bức đưa vào một khu rừng tối đen, vào trong một sơn động cũng đen tối không kém. Ở cửa động có mấy tên sơn tặc tay cầm đao kiếm hoặc toại phát thương. Khi chúng thấy họ tới, đều khom người chào hỏi đại hán mặt đen: "Nhị đại vướng!"
Đại hán mặt đen chẳng thèm quan tâm, đi thẳng vào trong.
Trong này là một hang động đá vôi không lớn, xung quanh có mấy cái đèn chén, ở giữ có một ghế đá to, có một đại hán khôi ngô đang ngồi. Đại hán này cao hơn người thường một cái đầu, đầu tròn như một trái dưa hấu lớn, đang cầm một chủy thủ sáng quắc gọt trái cây.
Thấy đại hán mặt đen đi vào, đại hán khôi ngô đó cắm chủy thủ vào một trái dưa, cười ha ha đứng dậy: "nhị đệ, người đưa đến rồi chưa?"
"Đại ca, mang thì mang đến rồi, nhưng mà, đại ca không nên....,"
"Được rồi, đừng nói nữa!" Đại hán khôi ngô chẳng lý gì đến đại hán mặt đen, bước tới chụp lấy cánh tay của A Hạnh Ny, hưng phấn nhìn tả nhìn hữu, nhìn khắp người nàng ta, tặt lưỡi liên hồi, một tay từ từ sờ tới, định rờ mặt của A Hạnh Ny.
A Hạnh Ny nghiêng đầu tránh ma trảo của y, tiếp đó phun cái phì, nhổ nước bọt đầy mặt y.
Đại hán khôi ngô không tránh không né, vẫn cười hì hì mắt không chuyển tình nhìn gương mặt như dồi phấn của A Hạnh Ny, thu tay lại lau mặt, rồi đưa luôn vào miệng của mình, dâm đãng chép chép miệng, tiếng đó rống cổ cười: "Hay! Có mùi vị! Không thẹn là con gái của tù trưởng! Chờ một chút cho nàng trực tiếp nhổ vào miệng của ta, càng có mùi vị hơn nữa! Ha ha ha"
"Phì..., tặc phỉ! Ta chết cũng không chịu theo ngươi!" A Hạnh Ny cố sức giãy giụa, nhưng không tránh được sự khống chế của hai tên sơn tặc hai bên.
"Trói ả lên cột cho ta, ta uống mẹ nó một thùng rượu lấy hứng, đêm nay phải chơi cho thống khoái con chim đỗ quyên đẹp nhất trong Đồng trại này! Ha ha ha, mau đem rượu tới đây! Lão nhĩ, ngươi ngồi xuống uống rượu với đại ca! Đêm nay đại ca động phòng hoa chúc, huynh đệ chút ta uống mẹ nó vài bát lớn, chúc mừng chúc mừng!" Tiếp đó y quay về bên bàn đá ngồi xuống.
Đại hán mặt đen hơi do dự, xong theo sơn đại vương đến ngồi bên bàn.
Hai tên sơn tặc kia đem A Hạnh Ny không ngừng giãy giụa trói vào một cây cột đứng. Một tên khác thì ôm vào một vò rượu, đặt trên bàn đá trước mặt sơn đại vương, xong mang tới hai cái bát sành rót ra hai bát rượu lớn. Ngoài ra, các tên sơn tặc khác không cần sai bảo, đã dùng mâm bưng lên một ít đồ nhắm, nào thịt gà thịt vịt cá thịt đủ cả, bày đầy một bàn.
Sơn đại vương ra lệnh cho các sơn tặc bên cạnh: "Truyền khẩu lệnh của ta, bổn đại vương đêm nay thu áp trại phu nhân, ngoại trừ các huynh đệ trự, số khác đêm nay có thể uống cho thoải mái, chúc mừng cho bổn đại vương! Ha ha ha..."
 
Chương 103: Đánh không lại, sử dụng hàng nóng!
Sơn đại vương nhìn kiều khu của A Hạnh Ny nốc từng ngụm rượu lớn, đại hán mặt đen chỉ cúi đầu uống chẳng nói một lời. Sơn đại vương hứng trí rất cao, rót rượu liên tiếp, đại hán mặt đen thì rượu đến là cạn ly.
Rất nhanh sau đó, một lúc sau thì vò rượu bị hai người uống sạch.
Sau khi uống chén rượu cuối cùng, sơn đại vương ôỗ mạnh lên bàn một cái, nói: "Nhị đệ, được rồi, đại ca ta đã uống sạch rồi, ngươi bây giờ về hay là còn ở đây xem ta động phòng hoa chúc?"
Đại hán mặt đen cũng phừng rượu lên mặt: 'Đại ca, dù huynh cứ mắng đệ, đệ vẫn phải nói..., huynh đệ chúng ta không thể làm chuyện thương thiên hại lý này..."
"Rắm thối!" Sơn đại vương đứng phắt vậy, độc ác nhìn đại hán mặt đen: "Ta cũng không muốn nói hai lời, ngươi muốn hứng trí thì ở bên cạnh mà nhìn lão tử chơi đệ nhất mỹ nhân của Đồng trại này! Lão tử chơi chán rồi nếu ngươi thích thì tiếp tục, nếu như ngươi cụt hứng thì cút cho lão tử!"
Sơn đại vương phạch áo để trần bộ ngực rắn chắc, đủng đỉnh đi đến cạnh A Hạnh Ny, hắc hắc cười lạnh, đưa tay túm lấy áo của nàng, hai tay vung ra xé toẹt một cái, đôi gò bồng đảo trắng hếu hiện ra trước mặt y.
A Hạnh Ny gào thảm, dùng đầu định đập vào sơn đại vương, nhưng đụng không được, miệng mắng không ngớt, đôi mắt phượng như phún ra lửa.
Sơn đại vương ha hả cười lớn, đưa tay cầm lấy áo của A Hạnh Ny định kéo tuột xuống dưới, nhưng phanh một cái, bị một bàn tay thô tráng ở bên cạnh chặn ngang. Sơn đại vương quay đầu nhìn, nhìn thấy mục quang âm lãnh của đại hán mặt đen.
Đại hán mặt đen trầm giọng nói: "Đại ca, cầu huynh! Không được như thế...! Nếu như đại ca cần nữ nhân, huynh đệ tôi sẽ xuống núi lập tức, tìm cho đại ca bảy tám kỹ nữ phục thị đại ca..."
"Cốt mẹ ngươi đi! Cút...!"
Sơn đại vương chợt đẩy một cái, khiến đại hán mặt đen loạng choạng, rồi đưa tay định xé áo A Hạnh Ny, nhưng vụt một cái lại bị đại hán mặt đen chụp giữ tay lại.
Sơn đại vương hơi rùn người, từ từ quay qua: "Ngươi cố ý làm hỏng hứng trí của ta?"
Đại hắn mặt đen sầm mặt, trầm giọng nói: "Đại ca..., chỉ cần huynh đừng làm chuyện đó, huynh... huynh vẫn là đại ca của tôi...!"
"Cút mẹ mày đi!" Sơn đại vương tức giận quát lớn, vẫy tay thoát khỏi cánh tay không chế của đại hán mặt đen, "Xem ra ngươi đêm nay nhất định làm địch của ta?"
Đại hán mặt đen vẫn âm trầm: "Không dám, nhưng tôi không thể ngồi yên nhìn đại ca tạo đạp dân nữ, đây là điều đi ngược với lời thề của huynh đệ chúng ta lúc ban đầu!"
Sơn đại vương đã sớm nhìn không nổi mắng nhiếc một câu, vù một cái phóng chưởng ra, hắc kiểm đại hán vội giơ chưởng lên đở.
Phình một cái, thân hình của sơn đại vương lắc lư, nhưng đại hán mặt đèn lùi liền mấy bước mới ngưng trụ thân hình, ngưng thần giới bị.
Sơn đại vương cười lạnh: 'Ngươi biết không là đối thủ của ta còn không cút đi, chẳng lẽ muốn chết hả?"
Hắc kiểm đại hán tựa hồ đã quyết tâm, trầm giọng nói: "Có chết cũng phải ngăn trở đại ca làm chuyện táng tận thiên lương này!"
"Vậy được! Ngươi chết mẹ nó cho rồi!" Sơn đại vương xuất chưởng như gió, hết chưởng này đến chưởng khác đánh tới đại hán mặt đen. Hai người ngươi tới ta lui, chớp mắt đã trao nhau mấy chục chưởng, đại hán mặt đen từ từ rơi vào thế hạ phong. Có thể dưới tác dụng của rượu, nên sơn đai vương mới đầu xuất chiêu còn cố kỵ, nhưng sau đó trong lòng phiền táo, nên chiêu nào cũng ngoan độc, chiêu nào cũng trí mệnh, đánh cho đại hán mặt đen chỉ đỡ chứ không còn lực để tấn công.
Cuối cùng, sơn đại vương khống chế đại hán mặt đen, bóp vặn tay của hắn, tay còn lại bóp cổ họng hắn, trầm giọng hỏi: "Lão nhị, ta hỏi người lần cuối - cút? Hay là chết?"
Đại hán mặt đen bị bóp nghẹt cổ, khàn giọng nói: ".... chết!"
Sơn đại vương mắt bắn ra hung quang, bàn tay bóp cổ đại hán mặt đen chợt xiết mạnh hơn, chợt nghe tiếng răng rắc, đó là tiếng đốt sống cổ sắp sửa bị gãy vụn. Đại hán mặt đen không có lực đối kháng, hai mắt trợn trắng, sinh mệnh từ từ mất đi theo ánh mắt lu mờ....
Ngay lúc đó, chợt bên tay hắn vang lên một tiếng cực lớn, đầu của sơn đại vương chợt ngữa ra sau, giữa não chợt có thêm một cái lổ máu huyết mơ hồ, một mảng sọ bay đi, não tương trắng hếu theo đó vung tung tóe.
Sơn đại vương cố quay lại, ánh mắt đầy kinh nghi, y ngơ ngẩn nhìn vào cái họng đen ngòm chỉa vào mình từ thanh niên đứng sáu cánh cửa. Tiếp đó, hự một tiếng ngã gục xuống đất. Máu từ não phún ào ào, cổ họng kéo rồn rột, nhanh sau đó có giật vài cái rối chết tốt.
Đại hán mặt đen chết đi sống lại, khom người ho khù khụ, liếc qua nhìn, thấy thanh niên đứng ở cửa động chính là Kiềm Dương huyện điển sứ Dương Thu Trì. Sau người y là mấy người mặc quân phụ Minh quân, chính là các hộ vệ bị đánh thuốc mê.
Dương Thu Trì tay cầm cây súng 77, mỉm cười nhìn đại hán mặt đen: "Nhị đại vương, ta đến không trễ chứ?"
A Hạnh Ny mừng như điên: "Dương công tử... anh... anh rốt cuộc cùng đến rồi!"
"Hắc hắc, ta đáp ứng bảo hộ A Hạnh Ny tiểu thư nàng mà, sao lại nuốt lời chứ." Xong hắn chuyển thân nói với đại hán mặt đen không ngừng ho: "Thật xin lỗi, ta vì thoát thân đã giết mấy huynh đệ của ngươi, bức bách một trong số đó dẫn đường tìm vũ khí của ta trở lại, cứu huynh đệ của ta, sau đó đến nơi này, chế phục các huynh đệ dọc đường của các ngươi, rất may là không đến trễ. Hắc hắc, ta thấy ngươi và sơn đại vương tranh đấu sinh tử. Sơn đại vương đó võ công quả không tệ, trong khi đó hai chúng ta võ công tệ hơn nhiều, cho dù có liên thủ cũng chưa chắc đã thắng được. Chỉ đành đánh lén mà thôi, rất may đầu của hắn không phải đá hoa cương, một viên đạn là nổ banh. Hắc hắc hắc, nhưng mà, rất may là nhị đại vương ngăn cản, nếu không e rằng ta đến cứu cũng không kịp!"
A Hạnh Ny sung mãn cảm kích, làm lễ với đại hán mặt đen khi được cởi trói ra: "A Hạnh Ny đa tạ nhị đại vương cứu mạng!"
Đại hán mặt đen không hề quan tâm, chỉ cảnh giác nhìn Dương Thu Trì, từ từ lùi mấy bước, nhìn cây súng ngắn 77 trong tay Dương Thu Trì, tiếp đó thủ thế trầm giọng hỏi: 'Ngươi muốn sao?"
"Ta chỉ muốn cứu A Hạnh Ny cô nương, chỉ có điều là ta kính ngươi là một hán tử, nên thuận tiện xuất thủ cứu ngươi, nếu không, chờ hắn bóp chết ngươi rồi, ta sẽ bắn chết hắn, nhẹ chuyện!"
Đại hán mặt đen nghe thế lập tức thu thế thủ, ôm quyền nói: "Đa tạ điển sứ đại nhân cứu mạng!"
Dương Thu Trì cười hăng hắc, chuyển thân cúi đầu nhìn A Hạnh Ny: "Cô không sao chứ?"
A Hanh Ny thóat chết, vui quá bật khóc, chụp giữ áo của Dương Thu trì, cúi đầu nức nở.
Dương Thu Trì thuận thế khẽ ôm vòng eo nhỏ của nàng, nhẹ giọng an ủi.
Lúc này, ngoài cửa vang lên tiếng ồn ào liên hồi, còn có tiếng súng đùng đoàn. Những âm thanh đó hướng về phía sơn động của họ.
Dương Thu Trì nhìn đại hán mặt đen, lạnh giọng hỏi: 'Nhị đại vương, đại ca đầu đàn của ngươi bị ta giết chết rồi, ngươi định làm sao?"
Đại hán mặt đen không đáp lời, cầm cái loa tay hướng ra ngoài cửa động hét lớn: "An tĩnh cho ta! Ai dám làm ồn, tội chết!"
Lập tức, hơn trăm tên sơn tặc ngoài động yên tĩnh hẳn.
Đại hán mặt đen hò hét một hồi, thỉnh thoảng có vài giọng ương ngạnh đối đáp vơi hắn.
A Hạnh Ny khẽ tránh thoát khỏi vòng tay Dương Thu Trì, chỉnh là y phục, khẽ nói: 'Đa tạ công tử đã cứu...! Ta... ta còn nghĩ công tử..."
"Tưởng ta là thứ đáng khinh à? Hắc hắc, lúc đó tay chân ta bị trói, không có cách gì phản kháng. Sau đó ta mượn cớ đi nhà xí, nhờ lỏng ra một cánh tay nên chế phục được hai tên gác, cởi dây trói ra hết. Một mình ta không đối phó nổi nhiều người như vậy, cho nên ta đi cứu tùy tòng của ta trước. Bọn họ đều là võ lâm hảo hán nhất đẳng, giúp ta chế phục sơn tặc dọc đường, để ta thuận lợi tới đây. Nếu không, ta không thể nào đến đây nhanh thế được."
A Hạn Ny gật đầu: "Em biết, công tử là hán tử thật sự!" Nàng liếc nhìn, phát hiện ở động khẩu có ba nử tử đang đứng lo lắng nhìn Dương Thu Trì, tức thì nhớ tới lúc bị bắt cóc mang về mở bao ra, có thấy bên cạnh Dương Thu Trì có ba cô gái, xem ra quan hệ không tầm thường với vị Dương công tử này, vội nói: "Để bọn họ... tiến vào đây, bên ngoài nói không chừng đánh nhau sẽ rất nguy hiểm đó!"
Dương Thu Trì cười cười, nói vọng ra ngoài cửa: "Phượng nhi các cô vào đây!"
Tiểu quận chúa Chu Phượng Đức mang hai nha hoàn như hồ điệp bay vào, trốn sau lưng Dương Thu Trì, kinh khủng nhìn ra cửa sơn động.
 
Chương 104: Đồng gia sơn trại
Dương Thu Trì gọi Mã Lăng Vũ và Hồ Thủy đang cảnh giới ở cửa động tiến vào, bảo họ chiếu cố Tiểu quận chúa và A Hạnh Ny. Hắn bước ra sơn động, thấy ngoài động đứng đầy sơn tặc, người cầm đao, kẻ cầm súng, đại bộ phận không biết đầu cua tay nheo gì ngước đầu nhìn. chỉ có mấy đại hán đang tranh chấp với đại hán mặt đen, nói muốn gặp sơn đai vương.
Dương Thu Tri ôm xác sơn đại vương đưa ra đặt trước cửa động, lớn tiếng nói: "Các vị huynh đệ! Sơn đại vương toan tính gian dâm con gái của tù trưởng Đồng trại. Mọi người cũng biết, tù trưởng Dát Cát Ước có thủ hạ là Đồng binh hơn nghìn, người Đồng xung quanh nghe ông ta kêu gọi, hô lên một tiếng là đầy Tuyết Phong Sơn này chỗ nào cũng có người, mọi người tự bảo hộ không xuể đâu..."
"Rắm thối! Mọi người đừng nghe tên điển sứ chó này nói bậy!" Một tráng hán nhắm thủ súng thẳng vào Dương Thu Trì, độc ác bảo: "Bọn chúng khẳng định là giết Sơn đại vương rồi, giết chúng đi! Báo thù cho sơn đại vương!" Lại có mấy đại hán vung đao múa kiếm hò hét định xông lên.
Dương Thu Trì thấy chúng sơn tặc thần tình do dự, sau khi bị đại hán đó phiến động một phen, tình tự bắt đầu lung lay, cần phải hành động dứt khoát, nhanh chóng khống chế cục diện mới được. Nhân lúc đại hán hò hét gọi mọi người cũng lên, hắn chợt lắc người, chớp mắt đã đến trước mặt đại hán đó, chụp lấy cánh tay của y, một tay chụp thắt lưng, mượn thế cử y qua khỏi đầu, rồi quát một tiếng cực lớn giống như sấm dậy, quẳng tráng hán này lên vách đá ở cửa động, khiến cho cái sọ khỉ của y đụng mạnh vào đá, bộp một cái vỡ ra, chết ngay tại trận.
Chiêu thỏ nhảy ưng lạc này tốc độ cực nhanh, chúng sơn tặc căn bản chưa kịp phản ứng thì đại hán đã bị Dương Thu Trì ném chết.
Nhân các đầu lĩnh của sơn tặc còn đang sửng sờ, Dương Thu Trì xuất thủ như gió, tay không đoạt vũ khí, chớp mắt đã cướp hết vũ khí của đầu lĩnh sơn tặc, đem quẳng ngay trước cửa động, rồi hai tay cầm hai cây súng toại phát, đưa tay trái hướng lên trời bóp cò. Tiếng súng vang lên, mọi người đều ngẩn ngơ, hiện trường tức thời yên tĩnh hẳn lại.
Dương Thu Trì lớn tiếng nói: "Các vị huynh đệ, mọi người đều vì cuộc sống bức bách mà trở thành thảo khấu, chỉ muốn sống mà thôi, đều không muốn chọc giận lão tù trưởng đại ma đầu của Đồng trại, khiến cho không ai còn chốn dung thân. Nhưng sơn đại vương không nghe lời khuyên của nhị đại vương, vì để thỏa mãn thú dục của hắn mà chẳng màn đến sinh tử của mọi người, còn muốn giết nhị đại vương." Nói đến đây, Dương Thu Trì nhấc thi thể của Sơn đại vương lên giữ bằng một tay, "CHo nên Dương mỗ thấy không được, nổ súng giết chết hắn rồi!"
Chúng sơn tặc nghe nói sơn đại vương chết rồi, đều hoảng loạn cả. Nhưng khi thấy Dương Thu Trì vừa rồi thần dũng, hiện tại lại dùng một tay nâng sơn đại vương nặng hơn trăm cân lên, lại nói là chính hắn giết sơn đại vương, đều bị chấp nhiếp hết.
Dương Thu trì quẳng thi thể của sơn đại vương tới trước mặt của mấy đầu lĩnh sơn tặc, nói: 'Hiện giờ sơn đại vương của các ngươi đã chết! Sơn trại hiện giờ quy nhị đại vương thống lĩnh! Dương mỗ đã đáp ứng nhị đại vương của các ngươi, tuyệt không mang binh đến chinh tiễu." Nói đến đây, Dương Thu Trì quay sang đại hán mặt đen: "Nhị đại vương, xử lí sự tình sau đó thế nào thì tự ngươi quyết đi."
Đại hán mặt đen đầy vẻ cảm kích hạ giọng cảm ta Dương Thu Trì, rồi lớn tiếng nói: 'Các huynh đệ, vừa rồi Dương điển sứ nói gì mọi người đều nghe rõ, ai nguyện ý theo ta thì lưu lại, không nguyện ý thì có thể rời khỏi đây, nhưng nếu ai muốn làm loạn thì giết không tha!"
Các sơn tặc ở quanh đó ồn ào nghị luận cả lên.
Mấy đầu lĩnh sơn tặc nắm bắt tình thế cũng nhanh, đều quỳ xuống hết, dập đầu nói: 'Chúng tôi nguyện ý theo nhị đại vương!"
Nhị đại vương này ở trong sơn tặc có uy tín cực cao, hiện giờ lại có những đầu lĩnh theo cùng, những sơn tặc khác liền quỳ xuống dập đầu, phát thệ theo hầu nhị đại vương, không có ai li khai cả.
Dương Thu Trì thấy cục diện đã được khống chế, liền trở về trong động, đem tình hình kể lại sơ lược, chúng nữ bấy giờ mới yên tâm.
Đại hán mặt đen lập tức tiến hành điều chỉnh nhân sự trở lại, triệt đi người của sơn đại vương, đem thân tín của mình đề bạt lên làm tiểu đội trưởng, đồng thời lập ra đội củ sát phụ trách cảnh giới sơn trại, phát hiện ai náo loạn giết lập tức.
Sau khi mọi chuyện đã an bài ổn thỏa, y trở về sơn động biểu kỳ sự cảm tạ với Dương Thu Trì lần nữa, tự giới thiệu tên là Vũ Kỳ. Tiền chuộc của Dương Thu Trì đương nhiên là miễn luôn, rất may là thư tín còn chưa được đưa đi, cho nên y đem trả lại đôi bao tay cho Dương Thu Trì.
A Hạnh Ny nói nếu như thả nàng ra, nàng có thể bảo phụ thân không đánh lên sơn trại, còn đem tặng một nghìn lượng bạc cho họ. Đại hán mặt đen đương nhiên vui mừng hớn hở, luôn miệng cảm tạ. Dương Thu Trì lại khuyên y gia nhập vào đoàn luyện của mình, Vũ Kỳ lắc đầu cự tuyệt, nói là bản thân đã quen với tự do rừng núi, không muốn bị người quản thúc. Dương Thu Trì biết trước mắt mình không có đội ngũ ra hồn, cũng không tiền tài, có nói nữa cũng vô dụng.
Lúc này, trời đã hiện màu trắng bạc, Dương Thu Trì và tiểu quận chúa mang theo thân binh hộ vệ hộ tống A Hạnh Ny về đồng trại. Vũ Kỳ nhất mực tiễn hắn xuống chân núi mới vẫy tay tạm biệt.
Trời về chiều, đến được Đồng trại, con gái của tù trưởng bị bắt cóc, toàn Đồng trại đã loạn như ong vỡ tổ.
Dương Thu Trì cùng mọi người tiến lên Phong vũ kiều của Đồng gia, bị Đồng binh cảnh giới ngăn lại. A Hạnh Ny vén rèm kiệu, ra lệnh cho họ bẩm báo với phụ thân nói là có quý khách đến. Mấy Đồng binh mừng vui hớn hở, vội vã chạy về báo cáo.
Dương Thu Trì cũng xuống xe ngựa, cùng A Hạnh Ny đứng trên cầu chờ.
Phong Vũ kiều là kiến trúc đại biểu điển hình nhất của Đồng trại. Thường người đồng dựng trại cạnh núi và nguồn nước, Phong Vũ kiều đương nhiên cũng xây dựng ở trên dòng sống tiến vào thôn, toàn bộ khối kiến trúc đều khảm nạm mà thành, không dùng đến một cây đinh. Đứng trên cầu này, gió sông hiu hiu, vô cùng mát mẻ. Do đó, nơi này thường là chỗ dành cho người trong thôn nghỉ ngơi hóng gió, tự nhiên cũng thành chỗ để nam nữ thanh niên người Đồng kết bạn.
Chỉ chờ một chút, từ xa đã có một lão giả râu dài phất phơ mang theo một đám người đi như chạy tới. Vừa lên trên cầu treo, ông ta đã gọi: "A Ny...!"
"Cha...!" A Hạnh Ny chạy phóng vào lòng phụ thân, nhớ lại chuyện kinh khủng tối qua, nhịn không được khóc rưng rức. Lão giả vừa an ủi con gái, cũng vừa rơi lệ nóng, các tùy tùng phía sau cũng nhòe lệ.
A Hạnh Ny dừng khóc, kéo phụ thân tới trước mặt Dương Thu Trì, dùng tiếng Hán nói: 'Phụ thân, vị này là Kiềm Dương huyện điển sứ Dương Thu Trì Dương đại nhân, là ân nhân cứu mạng của con, là Dương đại nhân và nhị trại chủ của Tuyết Phong trại đã cứu tính mệnh của con, nếu không con e rằng không còn gặp được cha được nữa..."
Lão giả đó chính là Tù trưởng Dát Cát Ước của Đồng trại. Ông ta bước lên một bước, vái một lễ dài: "Lão phu khấu tạ ân cứu mệnh của điển sứ đại nhân....!"
Bắt đầu từ Nguyên triều, triều đình đã sử dụng chính sách "Lấy thổ quan trị thổ dân', phân phong cho thủ lĩnh dân tộc thiểu số thành Tuyên úy sứ, Tuyển phủ sứ, thống lĩnh bá tánh đương đại, gọi chung là Thổ ti, được thế tập quan chức, phận biệt thuộc về Binh bộ và Lại bộ của trung ương, có quyền tự trị khá lớn, thậm chí có quận đội riêng. Nhưng trong những năm Vĩnh lạc của Minh Triều, hai vị tuyên úy sứ Tư châu và Tư Nam vì tranh đoạt địa bàn mà khai chiến, tạo thành chiến loạn, triều đình phái binh bình định xong, giải tán quân đội của các thổ ti, phế quan chức của thổ ti, cái lại thiết đặt Quý châu bố chánh sứ ti, thiết lập phủ huyện. Nhưng thổ ti về truyền thống thì thế lực trong dân chúng cũng không bị ảnh hưởng gì, đặc biệt là thời Minh mạt chiến loạn liên tục, thô ti mượn cớ khoách trương thế lực, lập đội vũ trang cho riêng mình trở lại. Triều đình lúc này đã không còn lực chỉnh trị họ nữa.
Dương Thu Trì đương nhiên biết thổ ti lợi hại thế nào, vội khom người đáp lễ.
Lập tức, A Hạnh Ny kể về sự tình đã trải qua, khiến lão thổ ti Dát Cát Ước đều rợn cả người, vội nghênh đón Dương Thu Trì vào trại như quý khách. Căn cứ lời hứa của A Hạnh Ny, ông ta phái người đưa lên tống tặng nhị trại chủ của Tuyết Phong trại một nghìn lượng bạc trắng.
Đồng trại ngay sau đó thiết yến khoản đãi bọn người của Dương Thu Trì, lão đạo dạy A Hạnh Ny tiếng Hán cũng ra dự tiệc. Các cô nương Đồng gia mỹ lệ còn hát sơn ca. Được A Hạnh Ny nhiệt tình mời rượu, Dương Thu Trì thoải mái uống, cuối cùng say khước.
Nửa đêm, hắn bị cơn khát làm tỉnh, gọi hai tiếng mà không ai đáp, bấy giờ mới nhớ là nha đầu tuỳ thân của mình là Quách Tuyết Liên không theo. Tiểu quận chúa tuy mang hai nha hoàn, nhưng chủ yếu phục thị nàng ta. Hai người ở hai chỗ cách nhau khá xa, đương nhiên không nghe thấy. Hắn đành khoác áo đứng dậy, từ tìm nước uống.
Uống nước xong rồi mà vẫn còn cảm thấy nóng, nhất thời không muốn ngủ nữa, Dương Thu Trì đẩy cửa ra vường, muốn hóng mát một chút.
Bọn họ là khách quý, được an bài ngụ trong nội trạch của lão thổ ti. Hắn đứng trên bậc đá, phát hiện phong của lão thổ ti còn để đèn sáng, liền muốn tìm ông ta nói chuyện, vì nếu có thể có Đồng binh của Đồng trại này làm hậu thuẫn, thì chuyện của hắn ổn hơn nhiều.
Hắn vào mặc kỹ lại áo quần, tự tin bước tới, vừa định gõ cửa thì chợt nghe bên trong có tiếng người, lắng nghe thì là của lão thổ ti, dường như là đang lầm rầm nói một mình, hoặc là quỳ lại khấn cầu gì đó.
Dương Thu Trì thấy cửa sổ hơi hé, vội bước đến nhìn vào trong, quả nhiên thấy lão thổ ti đang ngồi xếp bằng trên một bồ đoàn, cúi đầu tụng niệm kinh văn. Hắn ngước mắt nhìn hương án, không khỏi giật nãy mình, vì trên đó có bày hơn chục cái đầu lâu!
Dương Thu Trì đang nghi hoặc, thì nghe lão thổ ti Dát Cát Ước trong phòng lớn tiếng hỏi: "Bên ngoại có phải là Dương điển sứ Dương đại nhân? Xin mời vào!"
 
Chương 105: Lổ đạn đánh dấu thời đại mới
Dương Thu Trì ngẩn người, lòng nghĩ lão già này quả là lợi hại, không ngờ nghe ra ở ngoài có người, lại còn biết người đó là ai. Hắn đẩy cửa tiến vào, ôm quyền nói: "Xin lỗi, thổ ti lão gia, Dương mỗ ngủ một giấc tỉnh dậy thấy hơi nóng nực, tùy tiện đi một chút, thấy phòng của ngài còn đèn, liền định tới tìm ông nói chuyện chơi."
Dát Cát Ước mỉm cười bảo Dương Thu Trì ngồi xuống trước, sau đó hai tay chấp lại cúi đầu niệm kinh, một lúc sau mới mở mắt ra hỏi: "Dương đại nhân có gì chỉ dạy, cứ nói đi không sao."
Dương Thu Trì nhất thời không bíêt mở lời thế nào, nhìn lên hương án có bày mấy cái đầu lâu đó, tùy tiện hỏi: "Thổ ti lão gia đang tụng kinh à?"
Dát Cát Ước khẽ thở dài: "Ai...! Đúng vậy, là tụng kinh cho nương tử của ta."
Dương Thu Trì hơi kinh ngạc, thầm nghĩ thường người ta chỉ gọi nguyên phối là nương tử, và thường chỉ có một, chẳng lẽ Đồng gia có thể đồng thời cưới nhiều nguyên phối phu nhân, là vợ cùng bình đẳng hết hay sao?
Dát Cát Ước tựa hồ nhìn ra vẻ kinh ngạc của Dương Thu Trì, trong mắt lộ ra vẻ bi thương vô hạn, trầm giọng nói: "Trong số khô lâu đầu ở đây chí có một người là nương tử của ta, nhưng ta không biệt được rốt cuộc là cái đầu lâu nào trong số đó."
Dương Thu Trì càng kinh ngạc hơn, biết khẳng định là một chuyện cũ rất thương tâm, do đó không chủ hỏi.
Dát Cát Ước từ từ nói tiếp: "Mười năm trước, lúc A Ny mới năm sáu tuổi, miêu quân Ma Dương khởi sự, đánh quan binh đại bại, đánh vào huyện thành Ma Dương. Triều đình đang lo đối phó quân đội của Lý Tự Thành và Trương Hiến Trung, không thể tăng binh, chỉ phái ta lĩnh Đồng quân đi bình lọan, hứa là sau khi bình định sẽ đem vùng Ma Dương cho ta quản. Và thế là ta khẩn cấp chinh điều một vạn Đồng quân kéo đến chinh tiễu, dưới sự phối hợp của quan binh, ta đả đánh bại Miêu quân ở Ma Dương, Trấn Cao, thu phục Ma Dương thành. Không ngờ Miêu quân nhân lúc hậu phương của ta trống rỗng, đã đánh lén vào trang viên Đồng trại của ta, giết không ít dân chúng của ta. Ta nghe tin mang binh khẩn cấp quay về cứu viện, tiêu diệt hết Miêu quân đánh lén, nhưng nam đinh trong trang viên của ta đã bị giết sạch, nữ tử... thì bị lột sạch quần áo dày vò rồi giết chết hết. Rất may là A Hạnh Ny lúc đó theo ta xuất chinh, nên mới hạnh miễn. Mẹ nó chết trong trường nạn tai này. Do đang là mùa hè nóng bức, khi đại quân của ta trở về thì thi thể toàn trại đã thối rữa hết. Do nữ tử bị lột sạch quần áo bị lăng nhục rồi sát hại, nên căn bản không nhận ra ai là ai, không cách gì xác nhận xương cốt của nương tử ta. Ta đau đớn đã huyết tẩy Miêu trại Ma Dương, nhưng không thể lấy lại được mẹ của A Ny...."
Lòng Dương Thu Trì ảm đạm. Chiêu lấy người man trị người man này của triều đình quá lợi hại. Như thế này thì người Miêu và người Đồng trở thành cừu, tàn sát lẫn nhau, thế lực đại giảm, tự nhiên không còn lực tạo phản làm loạn nữa.
Dát Cát Ước thở dài: "Ai, đáng thương cho mẹ của A Ny, sau khi chết rồi ta không thể nào phân biện được xương cốt của nàng ấy, chỉ đành đem thây cốt giống giống gom lại hết, đặt trên hương án cùng cung phụng, chỉ hi vọng trong này có xương cốt của nàng ấy, hưởng được chút nhang đèn của ta, ở trên trời có thể an tĩnh..."
Dương Thu Trì nói: "Thổ ti đại nhân, tôi có thể giúp ông tra ra trong số này có cái nào là di hài của tôn phu nhân hay không."
Dát Cát Ước vừa kinh vừa mừng: "Thật không?"
"Không thành vấn đề! Giỏi lắm trong vòng ba ngày, ta có thể phục nguyên tướng mạo của di hài giống tôn phu nhân trong này nhất, xác nhận xem có phải là đúng người hay không."
Kỳ thật, muốn xác nhận trong số di hài này có thi hài của mẹ A Hạnh Ny hay không, đơn giản nhất là sử dụng DNA trong các di hài này (ví dụ như lấy ở tủy răng) sau đó tiến hành so sánh với DNA của A Hạnh Ny, nếu có thể xác định tồn tại quan hệ thân thuộc, thì có thể chứng minh đó là di hài của A Hạnh Ny. Nhưng đối với Dương Thu Trì hiện giờ, điều đó là không thể thực hiện, đừng nói gì giám định DNA, ngay cả giám định nhóm máu đơn giản cũng không thể tiến hành, nhân vì hắn gần như tay không xuyên việt tới đây. Biện pháp duy nhất có thể tiến hành là phục nguyên phần đầu mặt, điều này thuộc pháp trù nhân loại học của pháp y, đối với pháp y mà nói thì là một trong các kỹ năng cơ bản nhất. Hiện giờ hắn có tướng mạo của A Hạnh Ny làm đối tượng tham khảo, rất có lợi cho phục hồi mặt mũi.
Dát Cát Ước bán tín bán nghi: "Dương đại nhân, lời này là thật?"
"Không thành vấn đề! Ta chỉ cần một ít đất sét và thời gian mấy ngày, đảm bảo có thể phục nguyên dáng vẻ cũ của khô lâu! Nhưng mà..."
Lòng Dát Cát Ước rất khẩn trương, vội hỏi: "Nhưng mà thế nào?"
"Ta nếu có thể khôi phục diện mạo của tôn phu nhân, hi vọng thổ ti đại nhân có thể giúp ta một chuyện, kỳ thật, chuyện giúp ta này cũng là tự giúp cho thổ ti đại nhân ngài!"
"Đại nhân cứ nói. Đừng nói gì đại nhân giúp xác đinh di hài của chuyết kinh (bà xã nhà), cho dù không có chuyện này, đại nhân cứu con gái ta, cũng coi như là cứu ta. Do đó, chỉ cần đại nhân nói ra, lão phu nhất định sẽ đáp ứng!"
"Vậy được! Hiện giờ đại quân của Trương Hiến Trung đang tiến gần Trường sa, không biết có tiến công vào Quý châu hay không. Nếu như Trương tặc quân đánh tới, ta hi vọng thổ ti đại nhân có thể hiệp trợ ta bảo hộ bá tánh một vùng quanh Kiềm Dương huyện!"
Dát Cát Ước bất ngờ nhìn Dương Thu Trì, lát sau mới đứng dậy, vái dài một lễ: "Nghe nói Dương đại nhân mới đến Kiềm Dương huyện, thế mà đã lo nghĩ đến sự bình an của bá tánh chúng tôi, lão phu thập phần bội phục. với lòng nhiệt huyết này của Dương đại nhân, lão phu dù có huyết nhiễm sa trường cũng nhất định hiệp trợ Dương đại nhân bảo hộ bình an cho bá tánh!"
"Đa tạ!" Dương Thu Trì vô cùng cao hứng, có viện quân cường lực này, lòng hắn đã đại định.
Hắn bước đến hương án, quan sát từng đầu lâu, đột nhiên thần tình ngưng trong, cầm một cái trong đó lên tử tế nhìn một lúc, đặt xuống, lại cầm cái khác lên, xem luôn cả bốn năm cái. Xong hắn cầm đầu lâu xem đầu tiên lên nhìn kỹ ngẩn ngơ, dùng ngón tay sờ mó một cái lỗ nho nhỏ ở trên trán, hỏi: "Thổ ti đại nhân, trong Miêu quân có người sử dụng súng nòng nhỏ sao?"
Dát Cát Ước ngẩn người, cúi đầu xem xét cái lổ nhỏ trên trán của đầu lâu đó: "Sao hả?"
"Thỉnh thổ ti đại nhân xem, mấy cái đầu lâu này đều có lổ đạn, nhưng miệng lổ đạn rõ ràng to nhỏ bất đồng, trong đó có cái nhỏ hơn nhiều. Theo như ta biết, trước mắt hỏa sung có miệng hơi to, nếu như bắn vào trán người, hình thành cái lổ phải to gấp ba lần cái này! Hơn nữa, do tốc độ của đạn, hình thành cái lổ xem ra không trơn mượt thế này. Nếu so sánh, sẽ thấy lổ đạn ở các đầu lâu khác có vẻ thô hơn nhiều."
Dát Cát Ước đương nhiên phân biệt không ra những sự khác biệt của lổ đạn này, nghi hoặc hỏi: "Điều này có gì khác biệt sao?"
"Khác biệt rất lớn! Miệng vết bắn nhỏ mà thành lại trơn tru, cho thấy đây là loại đạn nhỏ khoảng 1/3 đang thường di chuyển theo hình xoáy tròn vận tốc cực cao hình thành nên!"
Dương Thu Trì không nói kỹ, nhưng đã nói ra điều quan trọng nhất. Thời Minh mạt đều sử dụng những loại súng có nòng to lắp đạn vào phía trước, tức là bỏ hỏa dược và viên đạn kim loại vào, thông thường là hình tròn, dùng cây chùy gỗ lèn chặt, viên đạn càng tiếp xúc khẩn mật với nòng súng, thì uy lực càng lớn. Tuy lúc đó đã nhận thức tử đạn xoáy tròn càng đảm bảo độ chính xác của đạn bắn ra, nhưng do nòng súng hình xoáy sẽ ảnh hưởng tính khẩn mật của viên đạn tiếp súng với nòng, cho nên nòng trước đó đều là nòng trơn, bên trong láng bóng, không như súng ống hiện tại đều có hình xoắn ốc ở nòng.
Tuy nhiên, lổ đạn mà Dương Thu Trì quan sát thấy ở đầu lâu có phạm vi nhỏ, thành vết thủng trơn nhẵn, thuộc về vết thương do đạn xoáy tròn mà hình thành, hơn nữa tốc độ rất cao, đường kính nhỏ... Điều này cho thấy đã được bắn ra từ loại súng có uy lực lớn hơn loại hỏa súng sử dụng thuốc nổ đen đang dùng thông dụng ở thời Minh này nhiều (*)
Lúc này, tim của Dương Thu Trì đập loạn nhịp. Lổ đạn này chỉ có khoảng 9 mm, tuy hơi thô so với lổ đan hiện tại, nhưng phát hiện này đối với hắn mà nói thì người bắn ra viên đạn này đã nắm bắt được những nguyên liệu chủ yếu để chế tạo thuốc súng hiện đại, ví dụ như a xit ni tric (HNO3), a xit sulfuric (H2SO4), ether. Nếu như có thể tạo súng đạn hiện đại, thì hắn cũng có thể chế tạo một đội quân trang bị vũ khí cận hiện đại rồi!
Chú thích:
Thuốc nổ đen là một hỗn hợp của kali nitrat, than gỗ, lưu huỳnh với tỷ lệ theo khối lượng (75% kali nitrat, 15% than gỗ, 10% lưu huỳnh). Tỷ lệ trộn đã thay đổi sau nhiều thế kỷ sử dụng, và cũng có thể thay đổi lại tùy vào mục đích sử dụng.
Thời trung cổ, thuốc nổ đen ở Trung Quốc có tên hỏa dược (火藥, nghĩa là "thuốc cháy"), ở châu Âu nhiều người gọi là black powder (thuốc nổ đen), meal powder (thuốc bột) cũng có người gọi là gunpowder (thuốc súng). Nhiều cách gọi như thế vì trước đây chỉ có mỗi thuốc nổ đen vừa làm thuốc nổ vừa làm thuốc súng và vừa làm thuốc cháy. Từ gunpowder ngày nay vẫn dùng mặc dù thuốc súng đã đổi khác nhiều. Thuốc nổ đen dạng bột mịn, màu đen xám của bột than, có thể có ánh kim của bột nhôm, mùi khó ngửi của lưu huỳnh. Ngoài ra, còn một số phụ gia khác như hồng hoàng để bắt cháy chẳng hạn.
Thuốc nổ đen dễ hút ẩm do đặc điểm của nitrat kali giã mịn. Thuốc nổ đen có thành phần bột nhôm rất nhanh chóng biến chất khi tiếp xúc với không khí.
Thuốc nổ đen là hỗn hợp nitrat kali (KNO3), bột than củi giã mịn. So với các thuốc nổ khác, thuốc nổ đen dễ bắt cháy, tốc độ nổ không cao nhưng không thể kiểm soát được, năng lượng nổ yếu, sản phẩm cháy nhiều phần rắn gây hỏng thiết bị (như nòng). Nhiệt độ bắt cháy của thuốc nổ đen chỉ hơn 200°C, thời cổ, những loại thuốc cháy chứa muối thủy ngân và nhiều lưu huỳnh có nhiệt độ bắt cháy thấp hơn, chỉ 160°C, nhiệt độ bắt cháy cũng giảm khi sử dụng nguyên liệu tồi như phân dơi.
Nhiệt độ bắt cháy không ổn định khi thành phần thuốc không chính xác. Các súng dùng thuốc nổ đen làm thuốc súng thường ngắn, nặng, yếu. Loại súng mạnh nhất được thiết kế để dùng thuốc nổ đen là hải pháo. Nhược điểm chính của thuốc đen là mật độ năng lượng (hay khả năng sinh công) của nó thấp (so sánh với các loại thuốc phóng không khói hiện đại) và tạo thành rất nhiều muội khói. Trong quá trình cháy, không đầy một nửa lượng thuốc đen được chuyển thành khí. Kết quả của việc bắn súng là sự tạo thành lớp muội bên trong nòng súng và một đám khói đậm đặc. Do đó nòng súng dễ bị ôxi hóa gây gỉ và hỏng.
 
Chương 106: Axit đậm đặc
Dát Cát Ước đối với tri thức súng ống hiển nhiên không hứng thú mạnh bằng nguyện vọng tìm lại di hầu của vợ, nên hỏi: "Dương đại nhân nếu như có thể từ trong các đầu lâu này tìm được di hài của chuyết kinh, lão phu cảm kích vô cùng. Trừ đất sét ra còn cần cái gì nữa, xin cứ nói, lão phu nhất định tận lực hiệp trợ."
Dương Thu Trì chợt động lòng, không động thanh sắc đáp: "Ta cần thổ ti đại nhân điều tra xem trong các tiệm sắc của tứ hương bát lí, bao quát cả vùng khai khoáng dã luyện, đem sản phẩm khai và luyện của họ đến đây, ta muốn tìm nguyên liệu từ đó. Chuyện này cần phải nhanh chóng, sớm chừng nào hay chứng ấy."
"Không thành vấn đề! Ta lập tức đi bố trí."
Hôm sau, khi Dương Thu Trì chờ Dát Cát Ước điều tra lấy các mẫu vật, đã mang các xương khô lâu đó đến phòng của mình, đất sét cần cũng được đưa đến.
A Hạnh Ny cô nương nghe Dương Thu Trì có thể hoàn nguyên gương mặt từ đầu lâu, từ đó tìm ra mẫu thân của nàng, cho nên mừng rỡ muốn đến xem Dương Thu Trì làm cách nào. Dương Thu Trì uyển chuyển cự tuyệt, nhưng mặt khác hắn cũng cần nàng trợ giúp.
Hắn dò hỏi A Hạnh Ny về tuổi tác của mẫu thân nàng lúc đó, chiều cao, thể trọng và tình huống ăn mặc. Hắn từ tình huống của hộp sọ mà phán đoán tuổi tác tương đối của những người này, lọc chọn ra phân nửa, sau đó đánh giác kích thước phần đầu và các bộ phận mặt của A Hạnh Ny, tiến tới một bước chọn ra ba đầu lâu có kích thước tương tự. Từ đó, hắn phán đoán một trong ba người này có một là mẫu thân của A Hạnh Ny.
Công tác chuẩn bị xong đâu đấy, hắn bắt đầu phục hồi mặt mũi của những đầu lâu này.
Diện mạo của con người do hộp sọ và các tổ chức mềm chung quanh tạo thành. Hình thái của hộp sọ quyết định dáng vẻ cơ bản của gương mặt, các bộ vị to nhỏ, hình trạng và tỷ lệ, và đó là cái giá đỡ cho diện mạo. Tuy các tổ chức mềm của mặt sẽ biến hóa theo tuổi tác, nhưng loại biến hóa này khá ít, đều có quy luật có thể tuân theo. Do đó, căn cứ vào nhân loại học, pháp y có thể tính toán và thống kê các bộ vị thông thường cũng như da thịt của diện mạo, từ đó dùng đất sét khôi phục lại nguyên hình. Nếu có thể biết được lúc người chết tử vong mập ốm và ăn mặc thế nào, có thể tính toán chính xác hơn nữa.
Có hai cha con Dát Cát Ước và A Hạnh Ny trợ giúp nhớ lại, công tác phục nguyên của Dương Thu Trì tiến triển thuận lợi phi thường. Vốn hắn cần thời gian ba ngày, đến ngày thứ hai thì đã phục hồi lại 3 đầu lâu, trong đó có một quả nhiên là có bảy phần giống A Hạnh Ny, hai người còn lại không biết của ai.
Thi hài của mỗi một thi thể và đầu tóc đều được Dát Cát Ước phân biệt bảo lưu, cho nên Dương Thu Trì yêu cầu lấy ra án chiếu theo màu da của A Hạnh Ny thực hiện việc tu phục lần cuối.
Sau khi hoàn công, Dương Thu Trì không vội cho Dát Cát Ước và A Hạnh Ny đến xem ngay. Hắn muốn chờ kết quả điều tra, đó là thứ hắn quan tâm nhất. Điều đó quan hệ đến việc hắn có thể kiến lập một chi quân đội hiện đại hóa xưng bá Đại minh hay không!
Sang ngày thứ ba, người được phái đi điều tra đều đã mang mẫu trở về, tổng cộng hơn chục loại khác nhau. Điều làm hắn vô cùng thất vọng chính là trong hơn mười mẫu vật này không có axit nitric, axit sulfuric và cồn ethanol là những tài liệu cơ bản để chế tạo đạn cơ bản nhất.
Dương Thu Trì gọi Dát Cát Ước và A Hạnh Ny đến nói đã phục nguyên thành công, mở khăn trùm, lộ ra ba đầu người.
Dát Cát Ước vừa nhìn, toàn thân ngẩn cả ra, ngơ ngẩn nhìn một đầu tượng trong số đó, run run khẽ sờ mó, lệ già tung hoành.
A Hạnh Ny khóc quỳ dập đầu mấy cái, dùng tiếng của người Đồng nói cái gì đó.
Dương Thu Trì im lặng lùi ra ngoài cửa, nhìn sao đầy trời, thở than cho mộng tưởng hiện đại hóa quân đội của mình bị phá diệt. Pháp y thường phải học qua tri thức về súng ống, biết thành phần cấu tạo của đạn dược, nhưng làm thế nào để từ các mỏ quặng luyện ra các thành phần này thì không biết, và cũng không có biện pháp chế tạo súng pháo. Hiện giờ khó khăn lắm mới từ đặc trưng của lổ đạn phát hiện có người có thể nắm được tri thức đề luyện này, nhưng không biết đó là ai, cũng không tìm được nơi hạ lạc. Dù gì thì viện đạn này hình thành từ mười năm trước, người này trong Miêu tộc hay là Đồng tộc vẫn rất khó nói.
Qua một lúc, Dát Cát Ước ôm cái đầu tượng đã phục nguyên của vợ ra vái dài: "Đa tạ Dương đại nhân đã tìm được di hài của chuyết kinh."
Dương Thi Trì miễn cưỡng cười, trả một lễ: "Không cần khách khí."
Dát Cát Ước ôm cái đầu đã phục nguyên đó trở về điện thờ, A Hạnh Ny lưu lại, gạt lệ đến bên cạnh Dương Thu Trì.
Dương Thu Trì hỏi: "Hai cái đầu tượng còn lại là của ai?"
A Hạnh Ny đáp: "Nghe cha nói đó là thị nữ của mẹ em. Dương đại nhân thật có bản lãnh, người không nhìn qua họ, mà có thể phục nguyên giống y như thật."
Dương Thu Trì thở dài, thầm nghĩ, trong loạn thế này bản lãnh đó thì có là gì? Ai!
A Hạnh Ny thấy hắn rầu rầu không vui, hỏi vì sao, Dương Thu Trì thuận miệng đáp: "Ta muốn tìm một loại hỏa dược, đáng tiếc là không tìm thấy."
"Hỏa dược? Hỏa dược gì?"
"Là loại hỏa súng sử dụng, nhưng không giống như vậy lắm."
A Hạnh Ny gật gật đầu: "Em dẫn ngài đi gặp Vô Trần đạo trưởng được không, ông ấy có thể sẽ có biện pháp giúp ngài."
"Vô trần đạo trưởng?"
"Dạ, chính là đạo trưởng dạy Hán ngữ cho em đó, ông ta nhất mực ở trong sơn trại giúp phụ thân em luyện đan."
Luyện đan? Tinh thần của Dương Thu Trì chấn động. Đúng a, hắn sao lại quên người này chú, hỏa dược không phải là luyện đan sư của đạo gia thời cổ đại phát minh ra trong quá trình luyện đơn hay sao? Luyện đơn sư luyện chế đơn dược chủ yếu là các viên thuốc chứa khoáng vật, là những thứ luyện ra từ quặng mỏ. Nói không chừng trong số luyện đơn sư này đã nắm được phương pháp đề luyện các nguyên liệu hóa học dùng để phối trí thuốc súng lắm à!
Thật đúng là sơn cùng thủy tận tìm chẳng thấy, liễu ám hoa minh cứ sờ sờ a! Dương Thu Trì vội hỏi: "Vô Trần đạo trưởng đang ở đâu?"
"Trong sơn động ở hậu sơn!"
"Mau! Mau dẫn ta đi gặp!"
Lúc này trời đã tối rồi, thấy Dương Thu Trì tinh thần phấn chấn, A Hạnh Ny cũng cao hứng theo, không kịp cho phụ thân biết, dẫn Dương Thu Trì ra hậu viện đến hậu sơn.
Đi nửa thời thần sau, họ đến một đạo quan ở lưng chừng núi.
Đạo quan này khuất mình trong khu rừng rậm rạp. Khi gỏ cửa, một tiểu đạo nói Vô Trần đạo trưởng vào núi khai quặng chưa về, không ở trong đạo quan.
A Hạnh Ny rất thất vọng, nhưng Dương Thu Trì thì mừng rỡ, vì vừa khéo có thể mượn dịp này để điều tra. Hắn miệng nói không sao, yêu cầu A Hạnh Ny dẫn mình đi xem xét các nơi trong đạo quan.
Đạo quan này thuộc về sở hữu tư nhân của thổ tri Dát Cát Ước của Đồng trại, A Hạnh Ny thường theo Vô Trần đạo trưởng học Hán ngữ, do đó đối với đạo quan quen thuộc phi thường, lập tức dẫn Dương Thu Trì đi khắp nơi xem xét.
Đạo quan này không lớn, nhanh chóng đã đi xem xong, từ sau đạo quan có một sơn động, đó là phòng luyện đơn của Vô Trần đạo trưởng. Sơn động rất lớn, chất đầy các loại đá quặng, còn có một số thùng đậy kín. Hai tiểu đồng đang ở bên cạnh lò luyện đan cháy phừng phừng đang kéo đẩy bể gió thổi lửa luyện đơn. Khi thấy A Hạnh Ny vào, họ vội đứng dậy chào, chấp tay thẳng người.
Dương Thu Trì không hiểu quặng đá cho lắm, không biết đây là những thứ gì, nhưng các thùng chứa gợi sự chú ý cho hắn, hắn mượn ánh sáng tới xem, thấy bên trong là dịch thể màu vàng.
Hai tiểu đạo sĩ dường như muốn ngăn Dương Thu Trì đụng vào thùng đó, nhưng không dám, đưa mắt nhìn nhau, không biết làm sao cho phải.
Dương Thu Trì nhìn dịch thể trong thùng, chợt động tâm, lấy một búa sắt từ một bên cằm cán đưa vào trong đó, lát sau lấy ra xem, phát hiện trên đó có một lớp màng ô xi hóa mỏng màu trắng.
Hắn mừng như điên, vì dịch thể trong thùng này có khả năng là axit nitric đậm đặc mà hắn mộng mị dĩ cầu. Đây là chất căn bản để chế thuốc súng và thuốc nổ!
Chính vào lúc này, ở phía sau truyền tới một tiếng quát khẽ: "Đại nhân! Nguy hiểm! Đừng đụng vào thứ đó!"
Dương Thu Trì quay đầu lại, thấy ở cửa động có một lão đạo, một mắt đã mù, trên mặt đầy vết xẹo, một tay đưa ra chỉ có ba ngón, cánh tay còn lại chỉ phất phơ cái ống, rõ ràng là đã bị cụt.
Anh Hạnh Ny hoan hô một tiếng: "Đạo trưởng! Người về rồi!" Xong nàng chạy đến kéo cánh tay tàn khuyết của ông ta, "Con mang Dương đại nhân đến đây thăm người, các tiểu đạo nói người vào núi khai quặng, không ngờ vừa kịp người về."
Thì ra người đó chính là Vô Trần đạo trưởng. Ông ta khẽ mỉm cười với A Hạnh Ny, nụ cười trông còn khủng bố hơn, nhưng A Hạnh Ny dường như đã quen rồi.
Dương Thu Trì bỏ nắp thùng xuống, bước tới chấp tay: "Chào đạo trưởng! Dương mỗ mạo muội đến thăm, không gặp đạo trưởng, hiếu kỳ nhất thời làm động đến vật của đạo trưởng, xin tha thứ cho."
 
Chương 107: Cái giá của tội ác
Vô Trần đạo trưởng vâng một tiếng: "Dương đại nhân, cái thùng đó chứa vật rất nguy hiểm, sợ sẽ thương hại tới đại nhân, nên mở lời ngăn trở, có chỗ nào đắc tội xin hiểu cho."
"Không có gì! Dương mỗ đang muốn xin đạo trưởng chỉ bảo làm cách nào để luyện ra được món trong thùng đó?" Hỏi câu này, tim của Dương Thu Trì như nhảy ra ngoài, đầy kỳ vọng nhìn ông ta.
Không ngờ, Vô trần đạo trưởng lắc đầu: 'Món này thái quá nguy hiểm, không nói thì hay hơn."
Đáp án này nằm trong ý liệu của Dương Thu Trì. Không ai có thể tùy tiện đem tri thức mà mình nắm bắt được nói cho người khác biết, đặc biệt là thời cổ đại. Cho dù trong tâm lý đã có chuẩn bị, nhưng Dương Thu Trì vẫn thập phần thất vọng, khẽ nói: 'Đạo trưởng, ta rất hi vọng có thể học cách đề luyện thứ này, nó đối với ta rất có ích."
Vô Trần đạo trưởng lắc đầu: "Không được, thật xin lỗi, ta không thể cho đại nhân biết. Đêm đã khuya rồi, thỉnh đại nhân về cho."
A Hạnh Ny thấy thần tình cấp thiết của Dương Thu Trì, đoán là thứ này đối với hắn có ích rất nhiều, cũng khẩn cầu: "Đại trưởng, xin người nễ tình Ny nhị, đem cách luyện dạy cho Dương đại nhân đi, người đã cứu tính mệnh của Ny nhi đó!"
Vô Trần đạo trưởng vô cùng yêu thương A Hạnh Ny, dùng ba ngón tay tàn khuyết vuốt tóc nàng: "Ny nhi, thứ này rất nguy hiểm, gương mặt và cái tay này của lão đạo cũng là do nó gây ra, do đó khong thể truyền ra, để tránh nguy hại cho bá tánh trong thiên hạ."
Dương Thu Trì nhìn ngắm kỹ gương mặt của Vô Trần đạo trưởng, điềm đạm cười: "Món này có tính ăn mòn rất mạnh, nhưng mà mặt đạo trưởng không phải do nó tạo ra, cánh tay đứt của ngài cũng không phải. Từ tình huống vết thương mà xét, thì xem ra đạo tượng đã sử dụng hỏa súng do thuốc nổ nó tạo thành để rồi phát sinh vụ nổ, nổ bị thương đạo trưởng, không sai chứ?"
Vô Trần đạo trưởng cả kinh, ngưng thần nhìn Dương Thu Trì: "Đại nhân làm sao mà biết được?"
"Ông bị thương đây là do một vụ nổ, chứ không phải do ăn mòn, hai thứ này khác nhau rất rõ, không khó để nhận ra." Dương Thu Trì bước đến cạnh mấy cái thùng, khẽ mở nắp một trong số đó ra.
Vô Trần đạo trưởng hô lên cả kinh: "Đại nhân, nguy hiểm!" Rồi bước lên đưa tay ngăn.
Dương Thu Trì phất tay áo, đẩy Vô trần đạo trưởng lùi lại mấy bước đụng mạnh vào vách đá. Hai đạo đồng đó vội chạy tới đỡ Vô trần đạo trưởng, quát to tức giận định xông lên, nhưng bị Vô Trần ngăn trở.
Điều bất ngờ xảy ra khiến A Hạnh Ny bất ngờ, hô lên cả kinh: "Dương đại nhân, hạ thủ lưu tình!"
Dương Thu Trì cười nói: "Ta không múôn làm họ bị thương, chỉ muốn tra rõ một chuyện mà thôi." Hắn mở nắp hủ ra nhìn, bên trong là ethanol, các hủ khác chứa đầy axit sulfuric, glycerin (chất tạo thuốc nổ), ether, và còn có thủy ngân nữa.
Trong đó có một cái vò chứa một ít bột. Dương Thu Trì móc từ trong lòng ra đôi bao tay mỏng, thò vào trong vò lấy một ít bột, đưa lên quan sát cẩn thận, xong quẳng vào trong lò luyện đan. Lập tức lò cháy bùng lên, thế lửa rất mạnh, chiếu sáng cả sơn động.
A Hạnh Ny và hai đạo đồng hô lên một tiếng cả kinh, chỉ có Dương Thu Trì và lão đạo dường như chẳng hề tỏ thái độ gì, chỉ đưa mắt nhìn nhau không nói.
Dương Thu Trì vỗ phủi tay, tháo bao tay ra, bước đến chổ Vô Trần đạo trưởng kề tai ông ta cười nói nhỏ mấy câu, sắc mặt Vô Trần đạo trưởng biến hẳn, trầm giọng hỏi: "Ngươi rốt cuộc là ai?"
Dương Thu Trì chuyển thân nói với A Hạnh Ny; "Ta có mấy lời cần nói chuyện riêng với đạo trưởng, cô về trước đi, mời hai đạo đồng cũng lui ra ngoài một chút, được không?"
A Hạnh Ny gật đầu đáp ứng, nhìn nhìn Vô Trần đạo trưởng, xong chuyển thân ra ngoài động. Vô Trần đạo trưởng xua tay với hai tiểu đạo đồng, hai cậu bé cũng lui ra ngoài.
Vô Trần đạo trưởng mặt mày âm tình bất định, nhìn Dương Thu Trì.
Dương Thu Trì chấp tay: 'Xem ra vừa rồi ta nói đúng rồi, mẫu thân của A Hạnh Ny là do ngươi tự tay dùng hỏa súng bắn chết, đúng không? Hắc hắc, đạo trưởng nhất định muốn biết ta làm sao mà biết vậy đúng không? Kỳ thật rất đơn giản, đó là cái vò thuốc súng không khói này và thân thể tàn khuyết của ngươi cho ta biết. Ta đoán rằng, ngươi khẳng định còn có một súng tay nhỏ gần bằng một nửa hỏa súng thường, lắp đạn từ phía sau, trong nòng súng có khắc rảnh xoáy, không sai chứ?"
Vô Trần đạo trưởng trầm giọng nói: "Không sai, Dương đại nhân quả nhiên lợi hại."
"Vậy đạo trưởng vì sao không rút súng ra liều mạng với ta? Giết ta rồi, không phải là không còn ai biết chuyện của ngươi hay sao?"
"Hắc hắc, Dương đại nhân thông minh như vậy, sao lại không chuẩn bị chứ? Tuy ta không biết đại nhân có chuẩn bị thủ đoạn lợi hại gì, nhưng ta dám khẳng định ta nếu phản kháng thì chỉ có chết nhanh hơn! Hơn nữa, Dương đại nhân nếu như cho họ rời khỏi đây trước mới nói rõ với ta, khẳng định là có điều kiện trao đổi gì đó, chứ không trực tiếp bắt ta quy án."
Dương Thu Trì cười cười: "Đạo trưởng cũng không ngốc nhỉ."
Vô Trần đạo trưởng thở dài một hơi: "Nếu như Dương đại nhân yêu cầu ta đem phương thức đề luyện thứ này dạy ông làm điều kiện, thì ta khuyên đại nhân tốt nhất là không nên. Nhân vì ta đích xác không phải không muốn dạy cho ông, mà vi món này quá nguy hiểm, sau này sẽ hại đại nhân. Ta không muốn làm như vậy. Còn về chuyện đại nhân nói, không sai, mẫu thân của Ny nhi là do ta bắn chết. Chuyện này đã xảy ra mười năm rồi, ta vốn cho rằng nó đã qua, không ngờ vẫn có người biết, thật là nếu không muốn người ta biết thì trừ khi mình đừng làm."
Dương Thu Trì nói: "Kỳ thật là ngươi tự cho ta biết. Ngươi sử dụng hỏa súng quá đặc biệt, trong đó thuốc phát xạ theo ta biết thì chưa có ai trong thời đại này sử dụng. Chính là thứ thuốc nổ đen trong vò này, không, nói cho đúng hơn đó không còn là thuốc nổ đen nữa, mà có thể quy vào loại hỏa dược không khói. Tuy nó còn có tạp chất, hiểu quả chưa tốt lắm, nhưng so với thuốc nổ đen khác mạnh hơn nhiều. Ta nhờ Dát Cát Ước đi lấy vật dã luyện của thiết tượng ở khắp các động trại, muốn xem coi có nguyên liệu chế tạo loại hỏa dược không khói này không, từ đó tìm ra người điều chế ra thuốc nổ không khói này. Thật không ngờ nó lại nằm ở trong đạo quan của đạo trưởng. Ông giết chết mẫu thân của Ny nhi, đó là tử tội, cho dù ta không bắt ông quy án, trực tiếp đem chuyện này báo cho thổ ti Dát Cát Ước biết, thì ông cũng đủ chết không chỗ chôn rồi! Hắc hắc, nếu như ông có thể đem phương pháp luyện ra các nguyên liệu này nói cho ta hay, có thể ta sẽ tha cho ông một con đường sống."
"Thế nào? Dương đại nhân muốn dùng quyền mà mưu đồ việc riêng sao?" Vô Trần đạo trưởng cười lạnh.
"Không tồn tại vấn đề đó. Ta sở dĩ quyết định tha cho ông một con đường sống, nguyên nhân có hai điều. Điều thứ nhất là ta có thể khẳng định ông giết mẹ của A Hạnh Ny là có lý do của ông, hơn nữa lý do này không phải xuất phát từ cừu hận hay là động cơ tỉ bỉ nào khác. Nếu không, ông lúc đó không bị phát hiện, mười năm nay ông có quá nhiều cơ hội tiếp tục báo phục để ra tay giết chết A Hạnh Ny và phụ thân Dát Cát Ước của cô ta. Ông không làm thế, ngược lại còn một mực bồi dưỡng chiếu cố cho A Hạnh Ny, giúp Dát Cát Ước chế luyện đan dược. Thứ hai, ông cho ta biết phương pháp đó, ta có chỗ dùng của ta, cho nên có thể coi là ông lấy công chuộc tội. Tổng hợp hai lý do này, có thể không giết ông." Dương Thu Trì không trực tiếp nói mình muốn nắm bắt phương pháp luyện thuốc súng này có thể hợp thành đạn dược dùng súng hiện đại. Đến lúc đó, hắn dù không thể vãn hồi cục diện đổ vỡ sụp đổ của Đại Minh, nhưng cũng có thể cứu rất nhiều tính mệnh. Nếu so sánh ra, hi sinh án này đáng giá vô cùng.
Vô Trần đạo trưởng nhìn trừng Dương Thu Trì thật lâu, sau đó gật đầu: "Được, ta dạy ngươi. Nhưng mà ta cần phải nói trước, rằng món này rất nguy hiểm. Do đó cái này ta chẳng biết là lập công hay là hãm hại đây, chỉ mong đến lúc đó đại nhân đừng hối hận."
Dương Thu Trì cười cười: "Vậy sao? Ta biết rõ là rất nguy hiểm, xem ra khi ông phát minh ra loại súng nòng nhỏ đó nó bị nổ vỡ dẫn đến thụ thương, đúng không?"
"Đại nhân làm cách nào biết vậy?"
"Rất đơn giản, loại thuốc nổ không khói này nếu làm thuốc súng thì uy lực so với thuốc nổ đen mạnh hơn nhiều. Nếu như ngươi đã chế tạo ra vũ khí mạnh hơn hỏa súng thường nhiều, nhưng đã mười năm qua rồi mà không thấy đưa vào thực chiến, thậm chí không thấy lưu truyền, cho thấy vũ khí này có khuyết điểm phi thường trí mệnh. Nếu như ta đoán không lầm, thì nó rất dễ bị nổ nòng súng. Đúng không?"
"Đại nhân liệu sự như thần!" Vô Trần đạo trưởng vô chút cảm khái trên gương mặt xấu xí, thở dài nói tíêp, "đích xác là thế, xem ra đại nhân cũng là đồng đạo, thông hiểu việc chế tạo hỏa khí. Trong quá trình luyện đan, ta vô ý phát hiện loại đạn dược này, dùng để làm thuốc bắn hỏa súng uy lực rất mạnh, có thể khiến đạn đi xa và chuẩn hơn. Ta rất cao hứng, liền mô phỏng theo cấu tạo của hỏa pháo thần công, tạo bộ phận phía sau súng thành hoạt động, tang chiều dài nòng. Như vậy sau khi đem thuốc nhồi vào đạn trước, có thể nhanh chóng lắp đạn, tăng gia tốc độ bán. Ai! Nhưng đáng tiếc người tính không bằng trời tính, vô luận là ta cải tiến đang dược có thể thay đổi hay là bộ phận kết hợp giữa nòng súng và lòng súng thế nào, chỉ cần bán vài ngày là hư, nhanh chóng bỏ phế. Điều đáng sợ hơn là loại thuốc súng này đập hay đốt đều dễ dẫn tới phát nỗ. Gương mặt, hai tay hỏng của ta đều là kết quả của vô số lần súng bị nổ lòng. Cuối cùng, ta biết nếu không dừng nghiên cứu nữa, thì ta e rằng không còn mạng, cho nên ta đem hỏa súng hủy hết, không đụng tới nữa, một lòng luyện đơn, cho nên mới kéo dài mạng sống tới bây giờ. Cho nên ta khuyên đại nhân..."
"Được rồi, ngươi không cần khuyên ta," Dương Thu Trì mỉm cười ngắt lời ông ta, "Ta cho dù có bị nổ chết, cũng không trách đến đạo trưởng đâu." Dương Thu Trì biết thành phần tỷ lệ trong đạn dược hiện đại, biết làm sao khiến thuốc súng ghê ghớm đó trở nên an toàn hơn. Cái mà hắn thiếu hiện giờ là làm sao từ trong quặng mỏ chế luyện ra nguyên liệu cần cho đạn dược.
Vô Trần đạo trưởng không nói nữa, dùng lực chuyển động một măng đá. Vách động lịch kịch mở, lộ ra một sơn động, thì ra bên trong còn có một sơn động nhỏ rất ẩn mật. Bên trong quả là có rất nhiều thiết bị lớn nhỏ, chỉ có điều hầu hết đã bám đầy bụi.
Vô Trần đạo trưởng và Dương Thu Trì quét dọn các thiết bị xong, Vô Trần đạo trưởng bắt đầu giảng giải cách thức phân biệt các chủng loại quặng, làm cách nào để sơ luyện, tinh chế, vừa giảng giải vừa thao tác, vanh vách trơn tru.
Tiếp đó mấy ngày, Dương Thu Trì theo Vô Trần đạo trưởng lên núi thu quặng, tự thân đề luyện, cuối cùng đã nắm toàn bộ kỹ thuật luyện chế nguyên liệu của thuốc súng.
 
Chương 108: Bảo tàng chỉ cấp chính chủ
Dương Thu Trì khuyên Vô Trần đạo trưởng tham gia đội đoàn luyện của mình, làm cố vấn kỹ thuật luyện quặng, nhưng bị Vô Trần đạo trưởng cự tuyệt. Nhưng dù sao thì Vô Trần đạo trưởng cũng đem những trang bị luyện quặng và toàn bộ sản phẩm tống tặng cho hắn, khiến hắn cao hứng vô cùng.
Dương Thu Trì đã thầm sắp bày kế hoạch trang bị vũ khí cho quân đội mình. Hắn không phải là chuyên gia vũ khí, tri thức về vũ khí cũng như phương diện kiểm nghiệm vết thương gây ra từ đạn chủ yếu là vũ khí thường quy của Trung Quốc.
Vũ khí hiện đại một khi bị địch nhân thu được thì rất dễ phỏng chế theo, do đó cần phải sử dụng thủ đoạn bảo mật kỹ thuật. Súng ống bản thân không thể bảo mật, nhân vì khi địch lấy được mở ra để công tượng dù là có thể phỏng chế cực nhanh. Trong khi đạn dược thì phỏng chế khó hơn, cổ đại chưa nắm bắt tri thức hiện đại này, căn bản không thể phỏng chế ra loại đạn cần thiết. Toại phát thương và súng đạn khác trong thời hiện giờ khác biệt nhất là ở đạn. Súng đạn hiện đại dùng bao đạn (các tút) để đưa lên nòng, thông qua kim hỏa kích phát thuốc nổ trong viên đạn làm bay ra đầu đạn. Vì thế, chỉ cần giữ kín kỹ thuật liên quan đến thuốc súng chế ngòi nổ là xong. Địch nhân dù có phỏng chế ra súng và đạn, dùng thuốc súng đen thay cho thuốc súng không khói này thì cũng không cách gì dùng được (vì không có kim hỏa hay cò lửa), không tìm được biện pháp phát xạ thuốc súng trong đó. Khi ấy, súng dù tồn tại dưới hình thức nào cũng chỉ là khối sắt vụn mà thôi.
Điểm này Dương Thu Trì đã tính toán kỹ: súng, vỏ đạn, đầu đạn và thuốc súng cũng như thuốc chế tạo kim hỏa có thể do các công tượng chế tạo. Nhưng công đoạn phối chế thuốc súng cuối cùng và chế tạo ngòi nổ kim hỏa gì đó sẽ do hắn tự thực hiện trong tình huống bảo mật. Hai công đoạn này cần thời gian khá ít, cho dù có làm một mình cũng có thể chế tạo số lượng nhiều.
Đương nhiên, một mình hắn không thể phối chế hết đạn cho toàn quân, vì như vậy là chuyện quá sức. Hắn chỉ chế ra súng đạn cho một đội tinh nhuệ, sử dụng đạn tiết kiệm, tranh thủ 1 viên tiêu diệt 1 địch nhân.
Xuất phát từ ý tưởng này, hắn dùng loại súng bán tự động loại 56 của Trung Quốc làm mô hình bắt chước chủ yếu, vì nó có thể bắn đơn, không lãng phí đạn dược, hộ đạn 10 viên, hoạt động theo phương thức tự nạp đạn, đảm bảo tốc độ bắn nhanh.
Loại súng bán tự động 56 (Chú: Xem hình) này có kết cấu đơn giản, rất thích hợp cho công tượng thời cổ chế tạo, đặc biệt thích hợp trong địa hình bùn đất, mưa gió, cuồng phong... nói chung là thứ nồi đồng cối đá. Đường bắn lại xa, đạt tới 400m, có ống ngắm tối đa bắn hơn 1000m, rõ ràng hơn hắn súng toại phát đương thời. Trước mũi súng này còn có lưỡi lê nhọn, dễ dàng đâm thủng khải giáp của kỵ binh, lại có thể gây mất máu lớn, vết thương khó lành. Cho nên dù chiến đấu cận thân cũng không thua gì đối phương có đao kiếm, không cần có bộ binh bảo hộ như quân dùng súng toại phát.
Hình súng bán tự động 56:
file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2084%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---577_56.jpg file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2084%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---543_56b.jpg file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2084%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---30_56F200708091838531354417061.jpg
Ngoài ra, Dương Thu Trì còn chuẩn bị mô phỏng chế tạo một lượng ít súng bộ binh 56 tự động, tục xưng là súng xung phong, tức phiên bản AK47 của Trung Quốc. Loại này do quá lãng phí đạn, chỉ thích hợp bắn gần, hắn không định trang bị nhiều mà chỉ dành cho tổ đột kích để tăng viện hỏa lực.
Dương Thu Trì bỏ ra mấy ngày đem trang bị trong sơn động của Vô Trần đại trưởng tháo ra hết, bao gồm cả những nguyên liệu vừa sản xuất thử ra đóng gói lại, bảo Mã Lăng Vũ dẫn theo 5 hộ vệ dùng xe ngựa vận chuyển về bảo tồn trong nha môn của Kiềm Dương huyện. Hắn lại nhớ và vẻ lại mô hình của hai loại súng đó và mô hình viên đạn (bao gồm cả mô hình viên đạn khẩu 77 của hắn) đưa về giao cho lão thiết tượng "Lão hắc đầu" để ông ta lập tức chế tạo ra thử.
Súng 77
file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2084%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---94_sung01200000033374116167980542141_s.jpg
Trong những ngày Dương Thu Trì bận rộn, tiểu quận chúa không làm loạn gì, ngoại trừ ăn uống bắt hắn ở cùng mới chịu, còn thì ngoan ngoãn cùng hai thiếp thân nha hoàn chơi cửu liên hoàn. A Hạnh Ny cũng thường đến chơi với nàng.
Ở Đồng trại hơn 10 ngày, Dương Thu Trì cuối cùng cũng làm xong chuyện, lấy được thứ hắn muốn có nhất. Hiện giờ chỉ cần có vàng bạc và lương thực là có thể chiêu binh mãi mã rồi.
Vào tối hắn chuẩn bị rời khỏi Đồng trại, thổ ti Dát Cát Ước thiết yến thết đãi tiển biệt.
Sau khi tiệc tan, Vô Trần đạo trưởng đề xuất muốn đến tế điện mẹ của A Hạnh Ny. Thổ ti Dát Cát Ước mang Dương Thu Trì, A Hạnh Ny đi cùng ông ta.
Tại linh đường, Vô Trần đạo trường quỳ dưới đất, tụng niệm kinh văn, lát sau mới từ từ đứng dậy nói: "Thổ ti đại nhân, mấy ngày này tôi nghĩ rất lâu, cuối cùng quyết định sám hối với ông - tôn phu nhân là do bần đạo giết chết."
Dát Cát Ứơc cả kinh: "Đạo trưởng vì sao nói vậy?"
Vô Trần đạo trưởng khẽ nói: "Kỳ thật tôi là cẩm y vệ của triều đình, phụng mệnh lợi dụng chuyện luyện đan mà trà trộn vào Đồng trại, giám thị các vị. Mười năm trước, ông dẫn binh đi chinh tiễu Miêu quân, tôi phụng mệnh đem tin Đồng trại trống không báo cho quân Mèo. Miêu quân đến đánh đốt giết gian dâm không gì không làm, tôi biết là mình sai. Nhưng tôn phu nhân không biết tôi là gian tế, vì trước đây tôi tuyên xưng là sắp luyện xong kim đan giúp thổ ti đại nhân duyên niên ích thọ, nên tôn phu nhân cố sức yểm hộ tôi đào tẩu, để tôi tiếp tục luyện đan cho đại nhân. Nhưng Miêu quân đã bao vây nội trạch, phu nhân bèn giấu tôi trong bí đạo ở phòng ngủ, bản thân ở ngoài để che là còn có cửa động, dặn tôi phải chiếu cố thổ ti đại nhân và Ny nhi. Tôi từ ám thất nhìn ra thấy nàng ta bị Miêu quân lăng nhục, lòng bất nhẫn nên đã bắn chết bà ta. Miêu quân thủy chung không tìm được nơi tôi ẩn thân, nên tôi mới sống được."
Dát Cát Ước hai mắt như phún hỏa, nhìn trừng trừng, hỏi từng câu một: "Lời này là thật?"
Vô Trần đạo trưởng nhắm mắt gật đầu.
"Vô sỉ chi đồ! Đi chết đi!" Dát Cát Ước tức giận quát lớn, phóng ra một chưởng đánh Vô Trần đạo trưởng lộn nhào, trên khóe miệng chảy đầy máu, càng làm gương mặt xấu xa của ông ta khủng bố hơn.
Dát Cát Ước bước tới hai bước, quát hỏi: "Ta và ngươi vô oán vô cừu, đối với ngươi không tệ, vì sao lại đối như vậy với ta?"
Vô Trần đạo trưởng gạt máu trên khóe miệng: "Lúc đó tôi chỉ muốn lập công thăng quan, do đó mới phụng mệnh phá quan hệ Miêu - Đồng, nhưng mắt thấy thôn dân quen thuộc chết thảm vô số, tỷ muội Đồng gia bị giày vò, mới biết tội nghiệt quá năng. Từ đó về sau tôi không còn làm chuyện gì không phải với các vị nữa, một lòng tu đạo, cầu nguyện cho vong linh đã chết. Sau đó, tôi nghiên cứu hỏa súng mới, chỉ muốn cấp cho thổ ti và Đông binh sử dụng trong chiến loạn này, để bảo hộ cho mọi người bình an, nhưng rất tiếc là làm đến chết đi sống lại mà không thành công. Ai...., tôi đã sống mòn đến giờ này rồi, thống khổ vô cùng, nên cuối cùng quyết định từ đây chấm dứt, cầu cho nội tâm yên tĩnh..."
Nói đến đây, Vô Trần đạo trưởng từ từ móc từ trọng lòng ra một súng ngắn, kề vào huyệt thái dương của mình.
A Hạnh Ny bi thảm hộ: "Đạo trưởng! Xin đừng...."
Vô Trần đạo trưởng cười thảm, nói với Dương Thu Trì: "Dương đại nhân, những gì ta biết đầu dài cho ngài, nếu ngài có thể hoàn thành di nguyện của ta, nghiên chế ra vũ khí tốt hơn, thì sau này đừng quên bảo hộ cho sự bình an của Đồng trại, cho Ny nhi và Thổ Ti đại nhân..."
"Phanh!" Tiếng súng vang lên, đầu Vô Trần đạo trưởng bật qua, từ từ ngã xuống đất chết. Ở huyệt thái dương có cái lỗ khủng bố, máu huyết phún ra có vòi....
...
Ngày hôm sau, Dương Thu Trì dẫn đội hộ vệ từ biệt thổ ti Dát Cát Ước và A Hạnh Ny mỹ lệ tiếp tục đến Quý châu Trấn Viễn phủ.
Trên đường bình an, họ thuận lợi đến Trấn Viễn.
Hai trăm năm đã qua, có thể là do chiến loạn đói nghèo ảnh hưởng, Trấn Viễn có vẻ cũ kỹ nghèo nàn hơn 200 trước Dương Thu Trì đến đây nhiều.
Được sự chỉ điểm của tiểu quận chúa, họ đến một đại trạch viện dưới Thanh Long động cạnh dòng Vũ Dương. Gia đinh gác cửa biết tiểu quận chúa Chu Phượng Đức đến, vội chạy đi báo. Thật nhanh sau đó, một lão phụ cỡ 50 tuổi mang theo gia đinh khóc lóc ra đón, đưa họ vào nhà.
Kinh qua giới thiệu mới biết, lão phụ khóc lóc này là mợ của tiểu quận chúa. Bọn họ đã biết chuyện Sở vương và đàn ông cả nhà bị dìm sông chết, nữ thì bị đưa vào làm quân kỹ. Tinh thần của tiểu quân chúa thì thất thường biến thành khờ khờ, cười cười nói nói liên hồi.
Mợ của tiểu quận chúa khó khăn lắm mới dừng tiếng khóc, hỏi về nguyên nhân đến đây của họ.
Tiểu quận chúa cười hi hi kéo Duơng Thu Trì đến, nói với lão phụ nhân: "Mợ, Phượng nhi là tiểu thiếp của Dương lão gia, bạc của Phượng nhi, nhiều bạc lắm, đều cấp cho Dương lão gia!"
Lão phụ nhân nhíu mày, nói: "Cái này không được! Phượng nhi, phụ vương của con tận miệng nói, rằng số bạc này là cấp cho con và chồng con dùng. Đầu óc con có vấn đề, hắn không phải là chồng con, lão thân không thể đưa số tiền tài này cho con được!"
 
Chương 109: Dùng hôn nhân đổi vàng bạc
Tiểu quận chúa Chu Phượng Đức chề môi, rồi òa lên khóc, vừa khóc vừa không ngừng vặn vẹo người.
Lão phụ nhân hừ một tiếng: "Phượng nhi, đây là phụ vương con dặn, mợ cũng không còn biện pháp nào."
Hộ vệ Hồ Thủy cười nói: "Lão thái thái, vị Dương đại nhân này... người này..., chính là chồng của tiểu quận chúa của chúng ta."
"Hồ Thuyết ngươi đúng là nói bậy a!" Lão phu nhân biết Hồ Thủy chính là tuần vệ của Sở vương phủ, cũng biết ngoại hiệu của y là "Hồ thuyết" (nói bậy), "Tiểu quận chúa của các ngươi có chồng là Vương quốc tử. Trong đại hôn của chúng, lão thân đã từng tham gia hôn khánh, gặp qua nghi tân. Sau đó nghe nói đã tuẫn nạn cùng vương gia rồi, ngươi đừng có ở đây dối ta!"
"Đây là một chuyện khác. Sự tình là như vầy, sau khi tiểu quận chúa rơi vào tay quân giạc, Trương tặc đem người tặng cho một đô ti tên là Trầm Lội. Dương đại nhân là ân nhân cứu mệnh của muội muội của Trầm Lỗi, do đó Trầm Lỗi đem tiểu quận chúa tặng cho Dương đại nhân làm... làm... trắc thất (tiểu thiếp), còn có văn khế nữa. Văn khế đang ở trong người tiểu quận chúa."
Lão phụ nhân hừ một tiếng, đưa tay định lấy văn khế trong lòng tiểu quận chúa. Tiểu quận chúa có kinh nghiệm trước kia, đương nhiên không để ai đụng vào văn khế này của mình, ẹo người tránh ra, ngăn tay của lão phụ nhân, rồi tiếp tục méo miệng òa khóc.
Hồ Thủy nói tiếp: "Lão thái thái, kỳ thật Dương đại nhân cần số tiền này để xây dựng địa phương đoàn luyện, bảo hộ cho bá tánh..."
"Ta không cần biết hắn cần tiền làm cái gì, dù gì thì vương gia bảo ta coi sóc tài sản này, dặn là chỉ có tiểu quận chúa và nghi tân mới có thể dùng. Ngươi vừa rồi nói chuyện tặng thiếp gì đó, cho dù là có, văn khế của Trương tặc quân lão thân không thèm nhận! Hắn là phản tặc, có quyền lợi gì chuyển tặng tiểu quận chúa của ta đi làm thiếp của người? Đám phản tặc này tội đáng tru di cửu tộc, chuyện bọn chúng làm sao có giá trị được! Tiểu quận chúa là hoàng thân quốc thích, sao có thể làm thiếp cho người? Huống chi đó chỉ là một điển sứ nho nhỏ. Nói ra chẳng phải làm người ta cười gãy răng hay sao? Đừng nói gì người của Trương tặc quân định ra chuyện này, cho dù đó là quan viên của Đại Minh định ra, nhưng không phải là hoàng thượng khâm điển, thì chẳng có giá trị! Ngươi không cần nói nữa, nếu không lão thân đuổi các ngươi ra khỏi cửa!"
Hồ Thủy vội im miệng không dám nói nữa.
Dương Thu Trì ho khan một tiếng: "Lão thái thái, Dương mỗ cũng không muốn nhân chuyện hôn nhân này, và thủy chung vẫn không coi tiểu quận chúa là thiếp. Lần này đến chỉ là vì tiểu quận chúa nói nàng ấy ở Trấn Viễn phủ có tài sản, nguyện ý tặng cho Dương mỗ để lập địa phương đoàn luyện, bảo hộ cho sự bình an một vùng. Hơn nữa...., lão thái thái là mợ của tiểu quận chúa, không phải là người ngoài, Dương mẫu nói thẳng vậy. Đại binh của Trương tặc quân áp cảnh, Trường Sa đã khó giữ. Phúc vương và Huệ Vương có ý thiên về ở Kiềm Dương huyện, phái Ngô quản gia đến tra xét, thụ quyền cho Dương mỗ kiến lập đội hộ vệ bảo vệ cho bình an của hai vị vương gia. Đương nhiên cũng đồng thời bảo hộ cho sự an toàn của tiểu quận chúa. Do đó, món tiền này đích xác không phải là Dương mỗ dùng cho mình, mà là dùng cho gia tộc Vương gia."
Lão phụ nhân hừ một tiếng: "Ai biết lời ngươi nói đây là thật hay không! Cho dù là thật, thì Phúc vương, Huệ vương tự đi tỵ nạn, tại sao bọn họ không xuất tiền, lại đi đòi tiền của Sở vương gia nhà ta? Còn về tiểu quận chúa, các ngươi không cần lo, nó cứ ở đây với ta, lão thân sẽ chiếu cố cho nó. Hiện giờ nó là người chí thân của lão thân rồi, chuyện của nó lão thân quyết là được!" Dừng lại một chút, bà ta quay qua lệnh: "Quản gia! Cấp cho Dương đại nhân và bọn họ mỗi người 5 lượng bạc, coi như là tiền đi đường đưa Phượng nhi đến đây, các vị lĩnh tiền rồi thỉnh về đi."
Dương Thu Trì tức giận không thể tả, đứng phắt dậy nói lớn: "Lão thái thái, ta chẳng phải là hòa thượng đến hóa duyên, cũng không phải là khất cái đến ăn xin. Số tiền đó bà cứ giữ lại mua kẹo đường ăn đi, coi chừng bị dính răng đó! Xin cáo từ vậy!" Nói xong phất tay áo chuyển thân bước đi.
Vừa nghe Dương Thu Trì định đi, tiểu quận chúa gạt lệ đứng phắt dậy, chạy theo nắm tay áo hắn kéo ghịt lại, quỳ sụp xuống đất, dập đầu lạy hắn lia lịa: "Phượng nhi là tiểu thiếp của Dương lão gia, Phượng nhi muốn sinh con trai cho Dương lão gia...!"
Lão phụ nhân chưa bao giờ nhìn qua tình cảnh này, tức thời sửng sờ.
Các nha hoàn bà mụ đều vội chạy đến đỡ tiểu quận chúa dậy, nhưng nàng ta bị kích động quá lớn, sản sinh chứng tinh thần phân liệt, nhận chuẩn là sự tình sẽ không thể cải biến, tự nhiên sức lực ở đâu trổi dậy, hai ba nha hoàn chẳng kéo nàng nổi, mà cũng không dám dùng sức. Tiểu quân chúa một mặt hất đám nha hoàn ra, một mặt cố sức dập đầu, trán va vào đá xanh kêu bình bịt, ngay Dương Thu Trì quay lại đỡ dậy cũng không ăn thua.
"Nghiệt chướng..., đúng là nghiệt chướng mà...." Mợ của tiểu quận chúa khóc lóc chạy lại cố sức ôm kéo tiểu quận chúa, bấy giờ mới tạm thời ngăn được nàng khỏi dập đầu, nhưng trán đã đầy máu tươi.
Một hộ vệ binh đến từ Trường Sa khẽ nói: "Lão thái thái, Dương đại nhân là ân nhân cứu mạng của tiểu quân chúa. tiểu quận chúa và Dương đại nhân đã làm nghi thức nạp thiếp, tiểu quận chúa nhận định Dương đại nhân là chồng, chỉ có Dương đại nhân ở bên cạnh mới chịu an. Lúc trước ở Trường Sa, Dương đại nhân đến Kiềm Dương huyện phó nhậm, tiểu quận chúa lưu lại Trường Sa, không tìm được Dương đại nhân xong, suốt ngày không chịu ăn uống gì, ép đổ vào cũng nhổ ra hết, cho đến khi chỉ còn thoi thóp, hai vị vương gia bị bức không còn cách nào mới phái Ngô quản gia dẫn bọn hộ vệ chúng tôi hộ tống tiểu quận chúa đến Kiềm Dương huyện gặp Dương đại nhân, bấy giờ mới cứu lại tính mệnh. Nhưng hiện giờ lão thái thái muốn để Dương đại nhân đi, e rằng tình mệnh của quận chúa khó bảo đảm! Tiểu nhân không phải là cố tình nói dối, lão thái thái không tin có thể hỏi các hộ vệ khác, hoặc có thể viết thư hỏi hai vị vương gia."
Lão phụ nhân giật mình cả kinh, ôm chặt tiểu quân chúa, quét mắt nhìn các hộ vệ khác, thấy chúng hộ vệ đều mặt mày trịnh trọng gật đầu lia lịa, vừa rồi lại thấy tiểu quận chúa trong bộ dạng như vậy, bấy giờ mới tin, nhỏ lệ nói: "Như vầy..., như vậy làm sao đây..." Bà ta biết tiểu quân chúa không thể rời khỏi Dương Thu Trì, không dám buông lời trịch thượng nữa, dùng ngữ khí thương lựng nói với Dương Thu Trì: "Hay là thỉnh Dương đại nhân ở lại hàn xá vài ngài, để lão thân tìm kế sách vạn toàn rồi mới quyết?"
Dương Thu Trì cười khổ: "Lão thái thái, trương tặc quân binh thế rất mạnh, dọc đường nam hạ thế như phá trúc. Một khi Trương tặc quân đánh vào Quý châu, Dương mỗ ở Tương Tây không thể đề ngự địch quân, thì lúc đó chỗ của lão thái thái cũng chẳng phải thế ngoại đào nguyên gì. Dương mỗ còn phải trù kiến đội ngũ, không thể ở lâu, có thể đem tài vật của tiểu quận chúa trà lại thì chỉ cần nghe một lời của lão thái thái. Còn không được, chỉ đành chịu thôi, Dương mỗ còn phải gấp trở về lo liệu việc."
Vừa nghe Dương Thù Trì định đi nữa, tiểu quận chúa liền mặt mày khủng hoảng, cố sức tránh thoát khỏi vòng tay ôm của bà mợ, túm lấy vạt áo của Dương Thu Trì không buông, miệng cứ lập lại những lời lúc nãy, xong định dập đầu xuống đất.
Lão phụ nhân ôm tiểu quận chúa, luôn miệng nói: "Thôi thôi thôi! Nếu là như thế! Chỉ cần Dương đại nhân đáp ứng cho một chuyện, lão thân sẽ lập tức đem vàng bạc giao hết cho các người."
Tiểu quận chúa nghe thế, lập tức dừng ngay giãy tránh, ngước mắt nhìn lão phụ nhân.
Dương Thu Trì cung tay nói: "Lão thái thái có phân phù gì xin cứ nói, Dương mỗ sẽ tận lực mà làm!"
Lão phụ nhân yêu thương vuốt ve mái tóc lòa xòa của tiểu quận chúa: "Vương gia giao cho lão thân rằng, món tiền này chỉ cho Phượng nhi và Nghi tân, Phượng nhi mạng khổ, tân hôn đã mất chồng. Nếu như Dương đại nhân là ân nhân cứu mệnh của Phượng nhi, Phượng nhi không thể rời xa Dương đại nhân, đây âu cũng là duyên phận rồi. Tuy Dương đại nhân quan chức thấp kém, bối phận không bằng Phượng nhi của ta, nhưng mà..., ai, tình huống trước mắt chỉ vậy mà thôi. Nhưng phượng nhi của ta dù gì cũng hoàng thân quốc thích, đường đường là quận chúa của Sở vương, tuyệt không thể làm thiếp của người. Lão thân không biết Dương đại nhân có hôn phối chưa, nếu chưa có thì hay lắm, hôm nay lão thân sẽ làm chủ hôn để Phượng nhi chuyển lấy ngươi. Còn nếu đã có hôn phối, Dương đại nhân nếu như nguyện ý trở về viết một thứ bỏ vợ nguyên phối, chuyện sang cưới Phượng nhi của ta, thì còn có thể được..."
Dương Thu Trì nghe tới đó không nhịn được nữa, gay gắt đáp: "Miễn đi! Lão thái thái không cần nói nữa! Đừng nói gì Dương mỗ đã có người trong tim, định hôn phối. Cho dù chưa có, cũng không vì tiền tài ngoại thân mà đem hôn nhân làm vật giao hoán! Tiểu quận chúa cao cao tại thượng như vậy, Dương mỗ với không tới đâu, và cũng không muốn với. Thỉnh lão thái thái hãy tìm cho tiểu quận chúa chỗ môn đăng hộ đối nào khác đi. Xin cáo từ!" Nói xong chuyển thân bỏ đi.
Tiểu quận chúa đương nhiên không để hắn bỏ đi, như một luồng gió nhào tới ôm chân hắn, miệng không ngừng lặp lại câu nói cũ, rồi định dập đầu.
Lão phụ nhân lại than dài "nghiệt chướng" lia lịa, sau đó bất đắc dĩ nói; "Vậy...., hãy để Phượng nhi và nguyên phối của Dương đại nhân cùng làm vợ ngang hàng, cũng được chứ? Nếu mà đồng ý, lập tức làm hôn lễ, đêm nay động phòng hoa chúc, sáng ngày mai lão thân sẽ giao hết kim ngân châu báu, các vị có thể lập tức trở về Kiềm Dương huyện, như thế được không?"
"Xin miễn luôn. Dương mỗ cả đời chỉ có một vợ!"
 
Chương 110: Điên loan đảo phượng
"Ngươi....!" Lão phụ nhân thật là không dám tin vào lỗ tai mình, trên thế gian này không ngờ có người đầu óc cứng nhắc như vậy. Bà ta không biết Dương Thu Trì kiếp trước là Trấn quốc công giàu nứt bố đổ vách của Đại minh, Nam Dương, đối với tiền tài chẳng coi vào mắt. Nếu như lần này không vì cần tiền xây dựng quân đội, chẳng thèm bước tới Trấn Viễn này một bước.
Lão phụ nhân trầm giọng nói: "Vậy thì ngươi muốn làm sao? Chẳng lẽ đòi Phượng nhi làm tiểu thiếp mới chịu hay sao? Phượng nhi... nó đường đường là quận chúa mà.....!"
Dương Thu Trì đáp: 'Dương mỗ vừa rồi nói rồi, Dương mở không muốn trèo cáo tới chổ của Sở vương. Lần này đến Trấn Viễn chẳng qua là tiểu quận chúa đáp ứng đem tài vật tống tặng cho Dương mỗ làm quân hướng, nếu như Dương mỗ vì có được số tiền tài này mà phải làm thân phận nghi tân của Sở vương, Dương mỗ thà không có còn hơn."
"Ý tứ của ngươi là Phượng nhi làm thiếp của ngươi ngươi cũng không thèm?"
"Không phải là không nguyện ý, mà là không thể. Dương mỗ đã đáp ứng chuyết kinh...., à, là đáp ứng vợ chưa cưới của ta, kiếp này không nạp thiếp nữa. Do đó, không thể cưới tiểu quận chúa, thậm chí không thể nạp cô ta về một phòng làm thiếp nữa."
"Ngươi...! Ngươi quả là cổ hủ cùng cực! Trên đòi này làm gì có loại hãn phụ sự tử hà động thế kia?" Lão phu nhân tức đến nỗi thở khì khì, "Nếu như ngươi đã quyết định như vậy, sao lại đáp ứng Trương tặc quân nạp Phượng nhi của ta làm thiếp?"
"Cái đó là vì cứu tiểu quận chúa, là kế quyền nghi mà thôi!"
"Ta không cần quản ngươi dùng kế gì, giấy trắng mực đen đã tả rành rành, coi như là thật rồi!" Lão phụ nhân đã tức đến nỗi hồ đồ, trước đó bà ta còn phủ định Trầm Lỗi viết văn khế tặng thiếp là không có hiệu lực, hiện giờ ngược lại dùng văn khế này để chứng minh tiểu quận chúa là thiếp thất của Dương Thu Trì. Bà ta nhất thời cũng quên tuốt, nếu như văn khế có hiệu lực, thì tiểu quận chúa lại đi làm vợ lẻ của một vị điển sứ nho nhỏ ở huyện nghèo rồi.
Dương Thu Trì không muốn dằn dai chuyện này. Lão phụ nhân này chẳng qua là vợ của em trai của mẹ tiểu quận chúa mà thôi, chẳng thể coi là người thân ruột thịt, lời bà ta nói chẳng có giá trị. Nhưng dù sao thì món tiền trước mắt là hắn cần nhất, cho nên cố làm sao cho qua, chỉ cần giữ cái núi cao của hắn không được lơi lỏng là không sợ gì. Cho nên, hắn hàm hồ nói: "Lão thái thái nói cũng có đạo lý, nếu như là thế, thì thỉnh lão thái thái đem kim ngân tiền tài của tiểu quận chúa trả lại đi!"
Lão phụ nhân lúc này mới ngớ ra, có lòng hối hận nhưng không thể được, đành thở dài tự lẩm bẩm: 'Ai! Nếu như Phượng nhi rời khỏi ngươi là không sống nổi, ngươi cứ lấy cái đó ra mà cò kè, thì lão thân còn làm gì được nữa chứ? Thiếp thì thiếp vậy, lão thân chỉ có đứa cháu bên ngoài này, Sở vương gia coi như chỉ còn có nửa cây nhang, chỉ sau này hi vọng ngươi đối đãi Phượng nhi cho tốt, không để nó thiệt thòi là được rồi. Nếu không, lão thân nhất định không tọa thị điềm nhiên, nhất định phải đòi công đạo ở chỗ ngươi!"
Lời này nói có vẻ dữ dằn, Dương Thu Trì gật đầu đáp: 'Lão thái thái yên tâm, Dương mỗ nhất định sẽ chiếu cố cho tiểu quận chúa thật tốt." Lòng hắn nghĩ, chiếu theo lý mà nói thì hắn chỉ đáp ứng chiếu cố, chứ không nói chiếu cố theo kiểu với thiếp, sử dụng chút mẹo này chẳng qua là bất đắc dĩ mà thôi.
Tiểu quận chúa tinh thần tuy thất thường, nhưng cái gì đáng biết thì không ngờ biết quá giỏi, cho nên nghe hai bên đạt thành hiệp nghị thì nhoẻn miệng cười.
Tiểu nha hoàn vội đỡ nàng dậy, nhưng tiểu quận chúa vẫn đề phòng, cứ ôm chặt eo Dương Thu Trì, rúc vào lòng hắn chẳng chịu rời nửa bước.
Dương Thu Trì không còn cách nào khác, chỉ đành ôm nàng nói với lão phụ nhân: "Lão thái thái, huyện Kiềm Dương quân vụ phồn mang, thỉnh ban cho tài vật, bọn chúng tôi phải quay về ngay."
Lão phụ nhân đanh mặt: "Nếu như ngươi đã là chồng Phượng nhi, phải cùng Phượng nhi gọi lão thân là 'Cữu mẫu' mới phải!"
Dương Thu Trì không muốn kéo dài sinh chuyện, cười hắc hắc gật đầu gọi: "Vâng, cữu mẫu."
Lão phụ nhân bấy giờ mới cười híp mắt: "Xem thần sắc của Phượng nhi, đến giờ thân vẫn còn là xử nữ, các ngươi khẳng định là chưa viên phòng đúng không? Dù gì thì hiện giờ sắc trời đã tôi, đêm nay các ngươi ở lại đây, viên phòng rồi sáng ngày mai hẳn trở về cũng không muộn."
Dương Thu Trì lúc này tim đập mạnh, thầm nghĩ chẳng lẽ tiểu quận chúa và nghi tân Vương Quốc Tử chưa làm phu thê chân chính hay sao? Hắn chuyển tâm niệm, lập tức nghĩ thông, nhớ lại lúc đó Vương Quốc Tử chuẩn bị động phòng thì Trầm Tuyết Phỉ phóng một phi tiêu bắn trúng vai, thương thế tuy không trí mệnh, nhưng cũng khá trầm trọng. Tiếp đó không đến một tháng, quân của Trương Hiến Trung đánh vào Vũ Xương, xem ra Vương Quốc Tử chưa hồi phục, hai người chưa hề viên phòng thì đã bị bắt giết rồi. Nghĩ tới tiểu quận chúa không ngờ vẫn còn là thân xử nữ, hai người đêm nay phải ngủ chung phòng, tức thời hắn khô miệng rát lưỡi, máu nóng dồn lên mặt, khan cổ nói: "Cái này..., không được đâu, tiểu quận chúa hơi ngây, không biết chuyện đó đâu, tôi muốn nhân cái nguy của người ta mà viên phòng, cái đó gọi là phạm tội đó..."
"Ngươi bớt cái giọng đó đi! Nó là thiếp thất của ngươi, các ngươi viên phòng có gì đâu mà phạm tội? Chính là vì Phượng nhi ngây ngô không biết gì cho nên ta mới yêu cầu các ngươi viên phòng ở đây! Nếu không, ngươi mang vàng bạc về rồi, thủy chung không chịu nó viên phòng, thì làm sao đây? Không được, đêm nay hai đứa phải ăn ở với nhau ở đây xong rồi mới được đi! Phượng nhi là thân nhân của ta, ta không quản nó ai quản nó đây?"
Lão phụ nhân chuyển thân ra lệnh cho quản gia lập tức chuẩn bị tửu yến, vốn định mời thân bằng hảo hữu đến chúc mừng, nhưng Dương Thu Trì sống chết gì cũng không chịu, lão phụ nhân đành vậy thôi. Nhưng chuyện viên phòng là không thể thương lượng, vô luận Dương Thu Trì làm cách nào bà ta cũng không nhượng bộ. Chuyện đã đến lúc này, Dương Thu Trì chỉ đành đi một bước tính một bước. Rất may tiểu quấn chúa cái gì cũng nghe theo hắn, động phòng rồi cũng dễ lừa gạt vượt qua.
Lão phụ nhân chọn ra một tiểu viện làm phòng cưới cho họ, bên trong bố trí như phòng tân hôn vậy.
Tửu yến dùng xong, bà ta cho đưa Dương Thu Trì và tiểu quận chúa vào động phòng.
Tiểu quận chúa không biết là khờ thật hay giả khờ, vừa vào động phòng là ôm chặt lấy cổ của Dương Thu Trì, dùng thân hình nóng bỏng của mình bám riết xoay vần trên thân thể hắn, khiến cho Dương Thu Trì ráng nhịn chết lên chết xuống. Hắn nghe ngoài cửa dường như có người, lén nhìn thấy trên cửa sổ có một lổ nhỏ, sau đó có một đôi mắt nhìn chằm chằm vào, xem ra là lão phụ nhân đang nghe lén, xác định coi bọn họ có làm phu thê thật hay không.
Dương Thu Trì cố ý hôn chùn chụt vào gò má của tiểu quận chúa, âm thanh rất kêu. Tiểu quận chúa có gò má non và mịn như trứng gà bóc vậy. Nàng bị hắn hôn cười khành khạch, dẫu môi ra định hôn hắn. Dương Thu Trì tránh ra, vội ẵm ngang nàng đem đặt lên giường, thổi phụt tắt nên, kéo hai cái màn trướng lại, chui vào trong rồi nhìn ra tấn kỹ lại, khiến cho màn che ngăn cách với ngoài thật kỹ.
Tiếp đó, bên trong màn liền nghe tiếng rụt rịt loạn lên, tiếp đó, từng mảnh quần áo nam nữ được quẳng ra ngoài màn, bao quát cả tiết y màu hồng của nữ tử, tán lạc khắp phòng.
Tuy là đã thổi tắt đèn, nhưng đèn ngoài hành lang còn chiếu qua giấy dán cửa sổ vào phòng, khiến trong phòng khá sáng. Cho nên, cảnh tượng vừa rồi không qua khỏi cặp mắt quan sát từ bên ngoài của lão phụ nhân. Bà ta rất vừa ý, nhưng không chịu li khai, tiếp tục dòm trộm.
Dương Thu Trì đương nhiên không đem thân mạo hiểm, vừa rồi hắn quẳng từ trong màn ra đều là y phục của hai người mà hắn đã giấu trước. Trong đêm tối phân biệt không rõ lắm, cho nên lão phụ nhân cứ nghĩ đó là quần áo do hai người cởi hết mà quăng ra.
Tiểu quân chúa hi hi cười ôm chặt Dương Thu Trì, Dương Thu Trì đè nàng xuống, lắng tai nhưng không nghe tiếng bước chân rời đi của lão phụ nhân bên ngoài cửa sổ, xem ra là bà này không thấy thỏ không thu ưng, cần phải sử dụng thêm kế mọn nữa mới được.
Dương Thu Trì khẽ bịt miệng tiểu quận chúa, ra hiệu cho nàng không được nói chuyện, sau đó cố ý dâm đãng nói: "Tiểu quận chúa, giang hai chân ra..., đúng...., giang rộng ra...."
Tiểu quận chúa không ngờ làm theo thật, sút khiến Dương Thu Trì phát ngất lên xịt máu mũi ra ngoài. Hắn cố hết sức già nhịn lại, nhắm mắt thở khì khì nói lớn: "Tiểu quận chúa, ta sẽ tiến vào đó, hơi đau..., nàng ráng nhịn nha!...."
Tiểu quận chúa dạ một tiếng, ngọt ngào khiến máu của hắn dội ngược lên đầu.
Dương Thu Trì đặt tay xuống, đẩy đẩy tiểu quận chúa, kề tai nàng khẽ bảo: "Ngoan nào! Mau la lên một tiếng đi, la lớn lên!"
"A...., o....., e....!" Tiểu quận chúa ngược lên cứ rên hừ hừ những tiếng mê người, Dương Thu Trì vội cúi xuống kề tai nàng nhắc: "Hong phải vậy, kêu lớn! Kêu lớn lên một tiếng!"
Tiểu quận chúa càng rên to hơn, đôi tay nàng giữ chặt cánh tay của hắn đang đặt trên ngực, hướng dẫn nó dày vò.
Dương Thu Trì lúc này mới hiểu vì sao tiểu quận chúa lại rên rĩ như vậy, thì ra trong hắc ám hắn đã đè và đẩy trúng vào gò ngực đầy đặn của nàng!
Dương Thu Trì định rút tay lại, nhưng bị tiểu quận chúa giữ chặt không buông. Bất đắc dĩ, hắn đành ôm lấy người của tiểu quận chúa đưa đẩy lia lịa cho giường kêu kót két, đồng thời, hắn véo mạnh vào nhũ phòng của nàng một cái, khiến tiểu quận chúa đau rú lên. Dương Thu Trì vội bịt miệng nàng, thở khì khì khẽ bảo: "Đau lắm hả? Để ta dừng lại một chút a, một lát là sẽ thích ngay liền..."
Hắn nghĩ dù sao cũng sờ ngực nàng rồi, có hối hận cũng không kịp, diễn trò một phần mà nhu cầu thật cũng có phần, hắn thò tay vào trong luôn, túm chặt hai gò ngực săn chắc cao vút của nàng, sau đó nhẹ nhàng vò nắn, thân người bắt đầu cọ sát, làm theo bộ dạng như hai người đang XXOO.
Dưới sự sờ mó rất khéo léo của Dương Thu Trì, tiểu quận chúa nhanh chóng quên đi cái đau do bị cấu véo vừa rồi, phát ra tiếng rên như say như dại, hơn nữa còn uốn éo thân người co giọt theo nhịp của Dương Thu Trì, phối hợp chẳng chê vào đâu được.
Trong từng hồi rên rĩ đợt sau cao hơn đợt trước, Dương Thu Trì hùng phong cao vút, toàn thân máu huyết chảy cuồng cuộn, máu mũi suýt xì cả ra ngoài, khắc chế không được động tác của tay, nên cứ để cho nó tha hồ tung hoành ngang dọc vò nắn kéo cấu.... tiểu quận chúa cuối cùng phát ra một tiếng rên cực dài, nằm phục vào lòng hắn.
Dương Thu Trì dừng động tác, nghe bên ngoài lão phụ nhân lúc này mới vừa ý chép miệng rón rén đi xa dần.
 
Chương 111: Binh lâm thành hạ
Sáng hôm sau mặt trời lên ba sáo, Dương Thu Trì và tiểu quận chúa thức dậy ra khỏi giường, rửa mặt xong xuôi, nha hoàn đến thưa nói lão phụ nhân thỉnh gặp.
Hai người nắm tay nhau đến phòng khách, chỉ thấy ở giữa có ba cái rương sắt lớn đẹp đẽ vô cùng, trên có khóa, có giấy niêm phong có ấn đỏ của Sở vương phủ.
Lão phụ nhân ngồi ở giữa nhà, cho hai người ngồi xuống, cười híp mắt bảo: "Phụ vương của Phượng nhi giao cho ta ba rương tài bảo hiện giờ đã đặt ở đây, ấn chương niêm phong còn chưa động, các ngươi đến kiểm tra đi."
Dương Thu Trì bước tới cúi đầu nhìn, quả nhiên hoàn chỉnh không thiếu gì, hơn nữa còn có biên hiệu, liền cười nói: "Đa tạ cữu mẫu! Cháu có thể mở ra xem được không?"
"Thứ của các ngươi hiện giờ giao cho các ngươi rồi, đương nhiên có thể xem!"
"Chìa khóa đâu?"
Lão phụ nhân lắc đầu: "Không có chìa khóa, không nhìn thấy sau? Lổ khóa đã bị đổ chì, muốn mở chỉ còn có cách bẻ gãy khóa."
Dương Thu Trì thán phục Sở vương đúng là lo lắng đến từng chút, giao tài bảo cho người ta bảo quản mà phí tận tâm tư đề phòng người ta. Hắn liền lấy một đơn đao, vận kình chém ba nhát, khiến ba cái khóa trên rương đứt ra, hé mở cái nắp rương sắt nặng nè nhìn vào trong, chỉ thấy đó là một rương châu báu, toàn là những thứ trang sức châu ngọc quý trọng. Dương Thu Trì kiếp trước là Trấn quốc công, kiến thức sâu rộng, cầm một vốc châu báu lên xem, biết là những bảo bối giá trị không nhỏ. Chỉ đáng tiếc là cả rương này toàn là châu báu, không có đĩnh vàng bạc nào!
Châu báu tuy quý, nhưng không thể trực tiếp dùng làm tiền tệ sử dụng. Muốn bán thì trong thời binh hoang mã loạn này bán cũng không được bao nhiêu tiền, hơn nữa ở chỗ xa xôi này e rằng không tìm được người mua. Cái hắn cần hiện giờ là vàng bạc, là vàng bạc có thể dùng làm tiền tệ!
Mở rương khác ra, thấy đều là các loại vật dụng quý giá. Rương thứ ba càng đặc biệt, toàn là lụa là gấm vóc, rất nhiều thứ hắn chưa hề thấy, e rằng đó là cống phẩm của phiên quốc.
Dương Thu Trì vô cùng thất vọng, ba rương châu báu dụng cụ lụa là gấm vóc này quả nhiên đều là bảo bối, tổng giá trị liên thành, nhưng mà hắn có thể bán ở đâu để đổi ra vàng bạc bây giờ?
Dương Thu Trì cười cầu tài nói với lão phụ nhân: "Cữu mẫu, cái này.... có thể tìm chỗ nào mua thích hợp không, cháu muốn bán một số bảo bối này, đổi lại thành vàng bạc..."
"Cái gì?" Lão phụ nhân trừng mắt, "Những thứ tốt như thế này vì sao lại muốn bán? Không được! Các ngươi nếu thiếu tiền cữu mẫu cho là được, muốn bao nhiêu?"
Chính vào lúc đó, một người hầu dẫn hai hộ vệ vội chạy vào, trong đó có Phó Quan lưu lại Kiềm Dương huyện. Y cung thân thi lễ với Dương Thu Trì, rồi đưa một phong thư hỏa tốc cho hắn: "Dương gia, quân tình khẩn cấp!"
Dương Thu Trì rúng động, vội tiếp lấy xé ra xem, sắc mặt đại biến: 'Đây là thông báo của Lôi tri huyện, nói Trương tặc quân đã đánh hạ Trường Sa, Hồ Quảng tuần án Lưu Hi Tộ, Thiên Nguyên tuần phủ Lý Càn Đức, tổng binh Khổng Hi Quý hộ tống Phúc vương, Huệ vương lui về Hành châu ở với Quế vương. Trương tặc quân bám theo sau, đánh chiếm Hành Châu. Hồ Quảng tuần án Lưu Hi Tộ và Thiên Nguyên tuần phủ Lý Càn Đức mang đại quân giả vờ yểm hộ ba vị vương gia triệt lui về Vĩnh châu, còn tổng binh Khổng Hi Quý ngầm bảo hộ ba vị vương gia giả trang lui về An Khánh. Vĩnh Châu sau đó bị Trương tặc quân công hạ, Hồ Quảng tuần án Lưu Hi Tộ chiến tử. Trương tặc quân phát hiện ba vị vương gia thật tế chạy về An Khánh, đã từ Trường Sa phái binh đánh chiếm An Khánh. Ba vị vương gia lại được tổng binh Khổng Hi Quý dẫn binh bảo hộ triệt về Kiềm Dương huyện. Lôi tri huyện bảo ta thỉnh binh tặng viện."
Tiểu quận chúa hô lên một tiếng cả kinh, túm giữ chặt lấy cánh tay Dương Thu Trì, run bần bật.
Lão phụ nhân sắc mặt đại biến: "Hiền tế, như vầy... như vầy thì tính làm sao?"
Dương Thu Trì hỏi Phó quan mới biết khi họ rời khỏi thành, Trương tặc quân còn chưa đánh tới Kiềm Dương huyện, nhưng xem ra không còn xa nữa. Dương Thu Trì vội hỏi lão phụ nhân: "Trấn viễn phủ có bao nhiêu thủ binh có thể tăng viện?"
Lão phụ nhân lắc đầu đáp: "Không biết."
"Mau mang cháu đi gặp tri phủ!"
Lão phụ nhân mang Dương Thu Trì vội vã đến tri phủ nha môn. Dương Thu Trì tỏ rõ thân phận, trình báo quân tình khẩn cấp lên, tri phủ sợ đến ngây người, nói rằng tuy Trấn Viễn vệ có mấy trăm binh sĩ, nhưng thuộc quân đội vệ sở, cần phải có quân phù của binh bộ mới có thể điều động, ông ta cũng chẳng có biện pháp nào.
Dương Thu Trì vô cùng thất vọng, thầm nghĩ mấy trăm vệ sở binh chẳng có tác dụng gì, hắn chợt nghĩ đến binh lính của Đồng trại, và nhị đương gia Vũ Kỳ của bọn thảo khấu cũng có nói qua, rằng Đồng trại có thể dễ dàng chinh triệu hơn vạn đồng binh. Đây là một chi sinh lực quân, hắn cần phải đến Đồng trại mượn binh ngay, rồi khẩn cấp chi viện cho Kiềm Dương, cứu ra Băng nhi cùng các thiết bị chế tạo vũ khí nữa. Còn về ba vị vương gia thì hắn không có trách nhiệm bảo hộ, cũng không có năng lực đó.
Dương Thu Trì vội trở về phủ của lão phụ nhân. Ba cái rương sắt đó đã được đưa lên 3 xe ngựa. Lão phụ nhân còn lấy thêm 3 nghìn lượng bạc cho Dương Thu Trì, dặn là không được bán tài bảo giá trị liên thành của Sở vương lưu lại, nếu thiếu tiền thì đi tìm bà ta.
Dương Thu Trì không khách khí gì thu lấy, hắn đang cần xây dựng quân đội, lúc này cần nhất là vàng bạc. Sau đó hắn dẫn theo tiểu quận chúa đi suốt ngày đêm đến Đồng trại.
Mấy ngày sau đến nơi. A Hạnh Ny vô cùng mừng rỡ ra đón đưa vào trong trại. Sau khi nói chuyện qua loa, biết được thổ ti Dát Các Ước cũng đã được triều đình ra chiếu chỉ dẫn 5000 Đồng binh đến Thần Long quan hiệp đồng với quân đội của các thổ ti khác cùng đề ngự quân của Trương Hiến Trung đang đánh tới.
Dương Thu Trì vội kể quân tình của Kiềm Dương huyện. A Hạnh Ny cảm thấy tình hình nghiêm trọng, lập tức triệu tập tộc trưởng các trại thương nghị, nói nếu như Kiềm Dương thất thủ, thì sẽ trực tiếp uy hiếp sự an toàn của Đông trại. Sau khi thương nghị, họ nhất trí đồng ý điều khẩn cấp 5000 Đồng binh từ các thôn động tăng viện cho Kiềm Dương.
Đồng trại của Dát Cát Ước ngoài 1000 Đồng binh chính quy ra, còn có quân dự bị là nam tử từ 18 đến 60, lúc vào mùa thì làm nông, khi nông nhàn thì tập trung huấn luyện, vũ khí đều tự bảo quản. Thời bình họ là dân, thời chiến họ là binh. Cho nên, sau khi lệnh chinh triệu phát ra, chỉ cần nửa ngày là 5000 đồng binh vũ trang đã tập kết hoàn tất, cờ xí chói lòa, đội ngủ chỉnh tề.
A Hạnh Ny toàn thân nhung giáp, cưỡi một thớt ngựa trắng, trong tay cầm cây trường thương, dùng tiếng của người Đồng tiến hành động viên trước khi ra chiến trường. Dương Thu Trì nghe không hiểu, nhưng thấy Đồng binh vô cùng hứng khởi, nắm tay giơ cao, lòng hắn vô cùng khâm phục.
Dương Thu Trì quan sát thấy Đồng binh không những quân kỷ nghiêm minh, mà trang bị cũng không tệ, được trang bị hơn 200 cây súng toại phát loại mới, hỏa thằng thương cũng có tới 700 cây, hỏa khí chiếm 1/5, tỷ lệ khá cao. Ngoài ra, họ còn dùng lừa ngựa kéo hơn 10 đại pháo, mấy trăm viên đạn sắt đặc ruột và đạn khai hoa (đán bắn văng ra bi sắt, mảnh vụn).
Đội ngủ tập hợp xong, lập tức xuất phát. A Hạnh Ny tự thân dẫn quân theo Dương Thu Trì tăng viện cho Kiềm Dương.
Kiềm Dương cách Đồng trại lộ trình nửa ngày. Khi ngang qua núi Tuyết Phong, nhị đại vương Vũ Kỳ nghe tin báo Dương Thu Trì sắp hành quân qua, liền ở cửa núi bày tiệc rượu nghênh đón.
Dương Thu Trì uống liền ba bát lớn, lần nữa yêu cầu Vũ Kỳ nhập bọn.
Vũ Kỳ vốn cảm kích ân cứu mạng của Dương Thu Trì, hiện giờ thấy Dương Thu Trì đã mượn được Đồng binh, quả không phải kẻ tầm thường. Y biết Trương tặc quân đã đánh xong An Khánh, kéo tới Kiềm Dương, biết là tổ lật rồi làm gì còn trứng nữa, cần phải hợp lực mới có thể chống lại đại quân của Trương Hiến Trung. Do đó, y liền chọn hơn 100 người tinh nhuệ giỏi võ, thề chết trung thành và nghe theo sự chỉ huy của Dương Thu Trì.
Số người mà y chọn ra tuy ít, nhưng ai ai cũng có võ công, hơn nữa lại có mấy chục cây toại phát thương, không thể khinh thường. Hơn nữa, Đồng binh chẳng qua là quân mượn, không phải của riêng Dương Thu Trì. Hắn có hơn trăm người này theo cùng, coi như đã có một chi quân đội riêng, cho nên rất cao hứng.
Đêm đó, đại quân khi sắp tới Kiềm Dương huyện, nhóm tiền tiêu quay về báo, nói ngoại thành Kiềm Dương huyện đang kịch chiến, quân đội của Trương Hiến Trung đanh đánh rát huyện thành.
Dương Thu Trì cả kinh, ra lệnh khẩn cấp hành quân về huyện thành.
Khi sắp đến nơi, hắn cho đại quân chuẩn bị đuốc. Từ binh lính cầm hỏa súng, binh lính khác mỗi người cầm ba cây đuốc, chờ phía trước khai chiến thì lập tức đốt đuốc xông ra cửa núi, lớn tiếng hò hét chế tạo thanh thế sau đó tiến công. Dương Thu Trì và A Hạnh Ny cùng Vũ Kỳ mang theo một nghìn quân cầm súng dây lửa, súng kíp của Đồng binh và Sơn tặc đẩy hơn 10 cây đại pháo nhân trời tới vượt qua cửa núi mò về gần huyện thành.
Từ xa, họ đã nghe tiếng chém giếng vang trời, chen vào đó là tiếng pháo. Khi gần đến nơi, họ phát hiện quả nhiên là quân đội của Trương Hiến Trung, đang dùng thang dây tấn công huyện thành, số lượng xem ra đến hai vạn. Trên thành lâu có Minh quân đề kháng, có thể là bộ đội của tổng binh Khổng Hi Quý lui về thủ bảo vệ ba vương gia. Ngoài ra còn có một số dân chúng trong thành.
Không ít Trương tặc quân đã đánh lên thành lâu, nhưng không biết vì sao lại lập tức ngã xuống hết, tiếng gào thảm thiết không ngớt cất lên, tay đứt chân rụng chỗ nào cũng có.
Chú thích:
Người dân tộc Đồng thật ra là một chi của người Miêu (người Mèo), hiện nay sống tập trung ở vùng Quý Châu - Trung quốc.
Nhân tiện nói thêm, súng kíp của người mèo được cho là khá hiệu quả, với nòng súng dài. Có thể tác giả đã dựa vào chi tiết này để viết truyện. ND
 
Chương 112: Viện binh
Dương Thu Trì biết thành tường của Kiềm Dương huyện thấp bé, không có hộ thành hà, trong thành dường như không có quân đội. Từ Minh quân phòng thủ trên thành lâu, cho thấy nhân số không nhiều, chỉ e rằng thành phá trong khoảnh khắc. Hắn lòng nóng như lửa đốt, nhưng không hoảng loạn, khẽ lệnh cho một nghìn hỏa súng binh phân thành ba đồi sắp hàng trước sau, chờ tiếng pháo nổ ra thì chia nhau xông lên, tiến vào tầm bắn mới nổ súng, sau đó nhanh chóng lùi về sau nạp đan, đội thứ hai sẽ xông lên nổ sống rồi tới đội thứ ba, hình thành ba lớp tiến công.
Sau khi sắp xếp xong, Dương Thu Trì phát hiệu lệnh, mười mấy hỏa pháo đồng thời khai hỏa, tiếng động vang trời. Do thủ quân ở huyện thành đều phòng thủ bằng vũ khí lạnh (đao kiếm), rất ít hỏa súng, càng không có hỏa pháo, vì thế quân đội Trương Hiến Trung công thành đều xống cả lên trước, tập kế ở dưới thành tường không cao dùng thang mây đánh rát. Thấy đội hình địch quân tập trung dày đặc như vậy, Dương Thu Trì ra lệnh bắn đợt đầu đều là đạn thật tâm chặc ruột.
Loại pháo đạn này có hình tròn đặc ruột với rất nhiều mấu bên ngoài, vốn dùng để công phá công sự phòng thủ thành, nhưng nếu như đội hình địch quân dày đặc, bắn theo chiều ngang sẽ khiến cầu sắt bay ngang với tốc độ cao, có thể tạo thành một đường tác hại dài, so với bắn đạn khai hoa bung ra nhiều mảnh lợi hại hơn nhiều.
Chiêu này quả nhiên công hiệu, hơn mười quả cầu sắt to từ miệng pháo phún lửa bay đi, dọc đường rơi xuống lăn tròn, quân Trương Hiến Trung tức thời người ngã ngựa đổ, tiếng gào thảm vang lên khắp nơi, tử thương mấy trăm.
Tiếp đó, ba trăm hỏa súng thủ hò hét xông lên, tiến vào xạ trình xong nghe lệnh cùng phát xạ, khiến cho quân Trương Hiến Trung không kịp đề phòng ngã rạp thêm một loạt nữa. Chờ chúng phản ứng lại, thì đợt súng công kích thứ hai đã vang lên, lại ngã rạp thêm một loạt. Sự đột kích từ trong hắc ám này khiến đại quân của Trương Hiến Trung choáng váng, tử thương vô số.
Lúc này, sau đồi của địch quân của chúng chợt đốt lên vô số ngọn đuốc, tiếng hô giết vang trời địch quân xông tới từ khắp nơi.
Cùng lúc đó, đợt súng thứ ba lại vang lên, rồi hơn mười đại pháo đã được cho đạn mới vào, đồng thời phát xạ, quân Trương Hiến Trung lớp chết lớp bị thương.
Tuy đại quân công thành của Trương Hiến Trung nhiều gấp 4 lần Đồng quân tăng viện, nhưng trong hắc ám, đại quân của y căn bản không biết có bao nhiêu viện quân, chỉ thấy khắp đồi núi đều có đuốc. Nhất thời không phân biệt rằng thực ra mỗi địch nhân cầm tới ba cây. Chỉ từ số lượng đuốc mà xét, thì địch quân chẳng kém chúng bao nhiêu, hơn nữa hỏa lực mãnh liệt, trong hắc ám tình huống không rõ, không dám liều chống, cho nên chúng lập tức khua chiêng thu binh, hậu đội biến thành tiền đội, nhanh chóng triệt về sau mười dặm.
Dương Thu Trì thấy địch quân tuy lùi nhưng không loạn, tiến thối có chừng mực, không khỏi rúng động trong lòng, không hạ lệnh truy đuổi, ra lệnh hỏa súng binh, cung tiễn thủ và hỏa pháo yểm hộ ở ngoài, đại quân đến dưới thành, hắn lớn tiếng hô: "thủ quân trên thành, ta là điển sứ Dương Thu Trì của huyện nhà, đã thỉnh Đồng quân đến tăng viện, thỉnh mau mở cổng thành!..."
Lời vừa dứt, chợt nghe trên thành có một nữ tử vui mừng reo: "Thu Trì! Là đệ về thật rồi?" Nghe thanh âm chính là Liễu nhược Băng.
Dương Thu Trì cũng mừng: "Liễu tỷ tỷ, là ta! Mau mở cổng thành!"
"Mau! Mau dọn bao cát, mở cửa thành cho họ tiến vào!" Liễu Nhược Băng vui mừng reo: "Thu Trì, giữ phi tác! Ta kéo đệ lên!" Tiếp đó, một sợi dây đen lăng không bay tới, Dương Thu Trì khẽ giơ tay chụp, giữ chặt lấy, tiếp đó như đằng vân giá vụ nhẹ bay lên thành lâu.
"Thu Trì!" Liễu Nhược Băng lời hơi run, chụp giữ cánh tay hắn, "Ta... ta còn cho kiếp này không còn gặp lại!"
Dương Thu Trì đưa mắt nhìn, thấy đầu tóc Liễu Nhược Băng tán loạn, bộ đồ trắng đã nhuộm máu biến thành hồng bảo, chỉ có mũi đoản kiếm cầm trên tay vẫn hàn quang lấp lánh. Trên tường thành đâu đâu cũng có thi thể địch quân nằm ngổn ngang, hắn tức thời minh bạch, vừa rồi bên dưới thấy địch quân đánh lên thành lâu, tiếp đó gào thảm rơi xuống dưới hết, tàn chi đoạn tí bay khắp nơi, thì ra là tác phẩm của Liễu Nhược Băng thủ ở trên mặt thành.
Hai ngày trước, hai vạn quân tiền phong của Trương Hiến Trung đánh tới, huyện thành Kiềm Dương tường thấp bé, không có hộ thành hà, trong khi Hồ Quảng Tổng binh Khổng Hi Quý chỉ mang theo hai ba nghìn quân bảo vệ ba vị vương gia. Cổng thành sau khi bị đại pháo của địch bắn nát, họ liền dùng bao cát ngăn chặn hết các cổng thành, toàn bộ Minh quân lên thành liều chết đề kháng, vẫn không ngăn được quân đội dũng mãnh của Trương Hiến Trung. Rất may là có Liễu Nhược Băng bằng một mũi đoản kiếm của mình đã xông lên thành lâu trảm sát vô số địch quân.
Có một số sĩ binh đã tham gia trận chiến ở Phượng Dương từ mười năm trước nhận ra vị bạch y nữ hiệp ngày đó, và chính nàng cũng là người cứu được vô số bá tánh, suýt giết được Trương Hiến Trung. Lời này truyền ra, toàn dân trong thành vốn đang nhân tâm kinh hoàng, nghe được tin tức liền đại chấn tinh thần. Có nhân vật truyền kỳ này làm chỗ dựa tinh thần, bá tánh toàn thành nhiệt huyết phi đằng, thanh niên trai trang đều lên thành giúp giết địch. Già cả phụ nữ trẻ em thì giúp mang đạn dược, nấu đưa cơm nước, cứu trị thương binh. Minh quân binh sĩ cũng anh dũng hơn, cố theo Liễu Nhược Băng liều chết giết địch, cực khổ chống chịu suốt hai ngày. Hai vạn đại quân của Trương Hiến Trung nhờ thế mà vẫn chưa đánh chiếm được huyện thành nho nhỏ chỉ có ba nghìn thủ quân thế này!
Dương Thu Trì thấy nàng mệt mỏi cùng cực, nhớ lại nàng thân trúng kịch độc, rằng ba bốn tháng không thể động võ, không biết lần này chém giết đại như vậy có dẫn phát kịch độc tiềm phục trong nội thể hay không, liền lo lắng hỏi: "Liễu tỷ tỷ, độc trong nội thể của tỷ..."
Liễu Nhược Băng đang mừng đến đỏ cả hai mắt, nghe vậy lắc đầu nói: "Không thành vấn đề, rất may khi trước đệ cứ giúp ta khu độc, cho nên tiến triển thần tốc, vừa khéo mấy ngày trước đã giải trừ sạch, nếu không e rằng đã không được gặp đệ rồi..."
Thì ra, từ khi Liễu Nhược Băng trúng độc đến giờ đã ba tháng rồi, vốn là còn có một ít độc chất còn chưa trừ hết, nhưng do mỗi ngày Dương Thu Trì đều vận công giúp nàng khu độc, tuy công lực của hắn quá kém, nhưng một là sự trợ giúp từ ngoại lực là trọng yếu, hai là công pháp hai người xuất phát cùng nguồn gốc, nên vừa khéo hòa hợp, hiệu quả nâng cao bất ngờ.
Dương Thu Trì tâm tình kích động, vòng tay ôm eo nàng, dịu giọng nói: "Xin lỗi tỷ tỷ, Thu Trì không chiếu cố tỷ tốt."
Liễu Nhược Băng toàn thân máu đỏ, hiện vẻ ngượng ngập, khẽ tránh thoát vòng tay ôm của hắn. Nàng cố sức giết địch suốt hai ngày không chợp mắt, giết địch vô số, đã đến lúc sức cùng lực kiệt, lúc này chỉ bằng chút tín niệm mà chống chọi. Bất tri bất giác, cả lòng nàng cứ nghĩ đến Dương Thu Trì - vị tiểu sư đệ dùng môi bón thuốc cho nàng, nói những lời cực kỳ lạ, rồi đòi chết cùng với nàng.
Liễu Nhược Băng tuy mãi không nhớ không biết Dương Thu Trì là ai, nhưng từ khi gặp hắn cứ cảm thấy thân thiết, dường như hai người đã nhận thức mấy trăm năm rồi vậy. Hơn nữa, hai ngày liều mạng đánh giết này, nàng nhất mực tin rằng Dương Thu Trì sẽ dẫn viện binh trở về. Hiện giờ cuối cùng đã về đến, tâm tình kích động, nàng đã nói ra lời thực sự của lòng. Giờ DƯơng Thu Trì ôm eo nàng, bên cạnh có không ít Minh quân, dù sao nàng cũng là nữ tử mặt mỏng, e thẹn vô cùng, mang vẻ trách móc hiện lên mắt, khẽ bảo: 'Coi đệ kìa! Có ngươi mà!"
Dương Thu Trì thì sướng rơn trong lòng, kéo tay nàng nhất thời không nói ra lời.
Lúc này, các bao cát ở cửa thành đã bị dời ra. Đồng quân lục tục tiến vào thành, sau đó dùng bao cát chèn lấp cửa thành lại.
Dương Thu Trì cho hộ vệ đưa tiểu quận chúa và ba rương kim ngân châu báu đến nội nha điển sứ của mình, để A Hạnh Ny và Vũ Kỳ mang Đồng binh lên thành lâu bố phòng. Hắn giới thiệu hai người họ cho Liễu Nhược Băng, hai người đều làm lễ ra mắt.
Liễu Nhược Băng thấy A Hạnh Ny mắt sáng răng trắng, da như tuyết, liền nhìn kỹ so sánh nàng và Dương Thu Trì. A Hạnh Ny thấy Liễu Nhược Băng dáng vẻ như thiên tiên, liều mạng huyết chiến lại khiến nàng bội phục hơn. Biết nàng là sư tỷ thân mật của Dương Thu Trì, liền có ý lấy lòng, hai người nhanh chóng quen thuộc hòa hợp nhau.
Dương Thu TRì biết đại quân Trương Hiến Trung trước đó không rõ tình huống mới thối lui, một khi biết quân đội tăng viện không nhiều, hoặc là viện binh của chúng kéo đến, nhất định sẽ tổng tiến công.
Lúc này, bộ đầu Ngụy Trì và thiết tượng lão Hắc đầu cũng toàn thân đầy máu đến làm lễ ra mắt Dương Thu Trì.
Thì ra, trước khi địch quân đến, rất may là Dương Thu Trì để lão hắc đầu chế tạo mỗi thứ hỏa khí một cây, vừa khéo dùng được luôn. Những hỏa khí này dùng trong phòng thủ tạo ra tác dụng không nhỏ.
Dương Thu Trì hỏi cầu đầu tiên là về sự an nguy của tiểu nha hoàn Quách Tuyết Liên, biết nàng đang cũng các phụ nữ trong thành lo liệu cơm nước, chăm sóc thương binh, lòng cảm thấy an ủi. Cô bé này không có võ công, không thể trực tiếp tham chiến, nhưng có thể tổ chức hậu phương, xem ra cống hiến không nhỏ.
Tiếp đó, hắn lại hỏi chỗ trú ngụ của vương gia, biết Lôi tri huyện đang cùng ba vị vương gia ở trong huyện nha, tổng binh Khổng Hi Quý mang thân binh bảo hộ. Dương Thu Trì mím môi, thầm nghĩ không chịu thủ thành lâu, một khi thành phá thì huyện nha cái khỉ gì. Xem ra vị tổng binh Khổng Hi Quý và ba vị vương gia, Lôi tri huyện đều là phường tham sống sợ chết.
Hắn hiện giờ không rảnh để quản đến họ. Điều hắn lo nhất là làm sao sắp xếp phòng ngự ở thành lâu cho thật hiệu quả, sẵn sàng chờ đợt tấn công mới của địch quân.
 
Chương 113: Huyết chiến
Dương Thu Trì ra lệnh cho Đồng quân kéo hơn chục khẩu pháo lên bày ở thành lâu chánh diện, dùng để oanh kích từ xa địch quân kéo đến. Hỏa thương đội và cung tiễn thủ làm hậu bị, một khi địch nhân bức gần thành, thì sẽ tiến hành công kích theo đợt. Còn Đồng quân dùng vũ khí lạnh thì nghênh đón địch quân đã đánh lên trên thành.
Tuy đã bố trí đâu vào đó, nhưng Dương Thu Trì biết, quân của Trương Hiến Trung đều là những sư đoàn thân kinh bách chiến, hơn nữa nhân số vượt hơn bên hắn. Thành tường của Kiềm Dương huyện quá thấp quá cũ, địch quân lại chẳng rút đi xa bao nhiêu, hiển nhiên là muốn ngày mai chờ quan sát rõ sẽ cường công. Muốn chống ngăn địch quân, điều cần nhất bây giờ phải nhanh chóng chế tạo vũ khí hiện đại hóa.
Lần trước Mã Lăng Vũ đã mang bản đồ thiết kế súng bộ binh bán tự động 56 và súng xung phong về cho lão hắc đầu chế tạo, nhưng không có đạn, hơn nữa hai loại vũ khí này thợ rèn cổ đại chế tạo ra có hiệu quả thế nào còn chưa kinh qua kiểm nghiệm. Tình húống hiện tại vô cùng khẩn cấp, không kịp kiểm tra, cũng không kịp chế tạo vỏ đạn. Để ứng phó với đại chiến ngay sáng ngày mai, biên pháp hữu hiệu nhất hiện giờ là lội dụng pháo cổ hiện tại, phối ra thuốc súng tặng cao uy lực nổ của pháo đạn, cấp cho địch quân cú phủ đầu cực mạnh, khiến cho chúng sinh lòng sợ sệt, tạm thời không dám tiến công, từ đó có thêm thời gian để chế tạo vũ khí mới.
Thuốc nổ ở Minh triều chỉ có một loại, đó là thuốc nổ đen. Đó chính là hỏa dược được nhồi vào pháo ngày nay, nghiêm cách mà nói thì đó không phải là thuốc nổ, nhân vị uy lực nổ quá nhỏ. Loại đạn pháo nhồi thuốc súng đen này cho dù có nổ giữa đội hình xung phong dày đặc, cũng chỉ tạo thành sát thương cho những kẻ ở gần hai mét, hiệu quả hạn chế vô cùng. Do đó, Dương Thu Trì quyết định thay hỏa dược trong đạn pháo nổ đó thành loại thuốc nổ chân chính.
Để bắn đạn pháo cần có hỏa pháp. Dương Thu Trì lựa chọn Phất Lãng Cơ hỏa pháp. Loại pháo này có đạn đã nhồi thuốc sẵn dễ dàng nạp vào, cho nên trước hết chỉ cần thay thuốc nổ trong đạn, bắn xong có thể nạp cái khác, nâng cao tốc độ bắn hơn nhiều. Hắn trước khi đi đã bảo lão Hắc đầu chế tạo một cái Phất Lãng Cơ, từ thật chiến hai ngày nay, vị công tượng thối hưu này có tài nghệ không tệ. Hỏa pháo đã vượt qua khảo nghiệm, sử dụng tốt, không hư hỏng gì.
Dương Thu Trì kéo ông ta sang một bên, thành thật khen ngợi mấy câu, cho ông ta dẫn đồ đệ về tiệm sắt, tận hết khả năng chế tạo Phất Lãng cơ hỏa pháo. Chỉ cần huyện thành thủ được, thì con trai ông coi như giữ được mạng.
Lão hắc đầu mừng rỡ vô cùng, vội dẫn đồ đệ trở về tạo pháo.
Dương Thu Trì cho gọi thợ đá chế tạo đạn pháo hoa bằng đá tới, cho chế tạo đạn pháo, nhưng không được nhồi thuốc nổ, phải để ở nha môn để hắn nhồi. Trong thành có không ít thợ đá, trong quân Minh cũng có người xuất thân từ nghề này, mọi thứ đá trong thành đều được mang đến dùng để chế tạo pháo đạn đầu đá.
Sau khi bố trí xong, Dương Thu Trì dẫn hộ vệ Mã Lăng Vũ cùng mọi người về nha môn, ra lệnh đem các bán thành phẩm và nguyên liệu vận chuyển từ sơn động của Vô trần đạo trưởng ra mở niêm phong toàn bộ.
Quách Tuyết Liên đã được tin lão gia Dương Thu Trì đã về, vui mừng như điên chạy trở về, chẳng quản người khác ở bên cạnh, nhào vào lòng Dương Thu Trì òa khóc. Dương Thu Trì dịu dàng an ủi mấy câu, để nàng tiếp tục tổ chức công tác hậu cần.
Nhưng khi thấy Dương Thu Trì trở về rồi, Quách Tuyết Liên chẳng chịu rời xa, đòi lưu lại chiếu cố hắn. Dương Thu Trì không còn cách nào khác, chỉ đành chiều cho nàng, bắt đầu ra tay chế tạo quả lựu đạn đầu tiên sau khi xuyên việt đến thời cổ đại.
Dương Thu Trì là pháp y, khi học tập các vết thương do các vụ nổ hay súng đạn gây ra đều có nghiên cứu nhất định với các loại thuốc nổ và súng ống. Do đó, hắn cũng biết được công thức chế tạo thuốc nổ. Căn cứ đặc điểm hỏa khí của Minh triều và yêu cầu khẩn cấp về thời gia, hắn quyết định phối chế thuốc nổ đắng chứa axit picric đơn giản nhất (*). Loại thuốc nổ này có uy lực còn lớn hơn cả thuốc nổ TNT, chế tạo đơn giản hơn nhiều. Chỉ có điều tính axit của nó rất mạnh, sẽ ăn mòn ruột đạn bằng kim loại, cho nên pháo đạn có nhồi thuốc nổ đắng này có thời gian bảo tồn rất ngắn. Đồng thời, do nó phản ứng với kim loại tạo thành muối kim loại cùng các loại vật chất có độ bền thấp, chỉ cần gia nhiệt hoặc ma sát là có thể phát nổ. Vì thế, sau khi thuốc nổ TNT được chế ra, đã được dùng để thay thế ngay (Xem chú thích **).
Đối với Dương Thu TRì, nhưng vấn đề này không ảnh hưởng gì mấy, bỡi vì hắn dùng đạn bằng đá để bỏ vào thứ thuốc nổ axit này, không sợ bị ăn mòn, và cũng không cần bảo tồn nhiều thời gian. Vì thế, chỉ cần chú ý thao tác an toàn, sẽ không dẫn tới sự cố phát nổ.
Dương Thu Trì dặn dò xong các lưu ý cho sự an toàn, lại tiến hành cho thuốc nổ vào để làm mẫu trước, bảo Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ phụ trách kiểm tra cho sự an toàn. Sau đó, cho đội hộ vệ bắt đầu nhồi thuốc vào pháo đạn. Dương Thu Trì sau đó tiếp tục đóng cửa phòng một mình chế tạo thuốc nổ axit đắng.
Sau một phen bận rộn, nhất mực cho đến sớm mai, binh sĩ canh gác trên thành lâu chạy vào nha môn bẩm báo: 'Dương điển sứ, địch quân tiến công rồi!"
Dương Thu Trì cả kinh, chạy ra ngoài cửa xem, phát hiện đã nhồi được hơn trăm phát đạn pháo bằng đá, lòng nghĩ nếu sử dụng đúng cách, có thể ngăn chặn được một trận rồi. Hắn lập tức mệnh lệnh Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ cùng các hộ vệ đưa chúng vào rương gỗ khiêng đến thành lâu.
Tiểu nha hoàn Quách Tuyết Liên mấy ngày trước đã không chịu ở không, từ khi biết địch quân công phá An Khánh, bức đến Kiềm Dương, nàng liền tìm Ngụy Trì đến chỗ thiết tượng lão Hắc đầu chuyên môn làm một chiếc khải giáp nặng cho Dương Thu Trì. Tuy giáp trầm trọng, nhưng nàng đã thấy Dương Thu Trì ở Hoàng châu một mình vác ba cây gỗ, biết hắn thần lực kinh người, nên chiếc khải giáp này chú trọng lực phòng hộ, trọng lượng nặng hơn khải giáp thường nhiều. Lúc này, nàng đã gọi bọn nha dịch mang giáp ra, bức Dương Thu Trì mặc vào mới thôi.
Dương Thu Trì cũng không nói gì nhiều, vội mặc chiếc khải giáp nặng nề này lên người, đầu đón mũ sắt, dặn dò Quách Tuyết Liên làm tốt chuyện hậu cần, rồi dẫn Lưu Dũng cùng mọi người đến dưới thành lâu, liền nghe tiếng pháo tiếng hỏa súng và tiếng hét giết vang trời. Dương Thu Trì gấp gáp xông lên thành lâu, nhìn ra xa, thấy trong ánh bình minh, vô số binh sĩ địch quân đen xì xì hò hét xông tới trước!
Hơn mười đại pháo của Đồng quân đã tiến hành bắn một loạt. Chỉ có điều, phát xạ tuy là thiết đạn đặc ruột lúc trước, nhưng địch quân đã hình thành đội hình chiến thuật, khiến cho thật tâm thiết đạn bắn từ tước lăn ra sau không tạo thành tử thương nhiều lắm. Địch quân vẫn xông lên trước ào ạt y như cũ, một loạt pháo bắn ra hầu như chẳng ảnh hưởng gì.
Dương Thu Trì hạ lệnh đổi ngay đạn đá đã dồn đầy thuốc nổ mới. Binh sĩ vẫn y như cũ từ miệng hỏa pháo điền đạn vào, chờ địch quân xông tới mấy trăm mét, Dương Thu Trì hạ lệnh, hơn mười hỏa pháo cùng bắn một lượt. Tiếng nổ vang trời, trong trận địa địch quân tấn công theo đội hình dày đặt chợt bốc lên mười mấy cái nấm đen, vô số chân cụt tay đứt cùng xương thịt bị hỏa pháp xé nát văng tứ tung. Mỗi chổ phát nổ, trong phạm vị hai ba chục mét xung quanh đều chẳng thấy bóng dáng địch quân!
Binh sĩ trên thành lâu đều cả kinh. Ai cũng chưa bao giờ nhìn thấy vụ nổ mãnh liệt như vậy, có thể nổ chết nhiều người như vậy! Chốc lát sau, trên thành vang lên tiếng hoan hô điên cuồng!
Chỉ có điều, bọn họ chẳng cao hứng được bao lâu, nhân vì sau lần bắn này, cho dù đã tạo thành thương vong cho mấy trăm binh sĩ xung phong của địch, nhưng không ai cho địch quân biết là bọn chúng đang đối diện với loại thuốc nổ loại mới. Tuy vụ nổ tạo thành thương vong nhiều hơn trước mấy lần, nhưng binh sĩ địch quân trong cơn tấn công biến thành như điên như khùng, căn bản chẳng kịp chú ý con số thương vong đó có biến hóa gì. Bọn họ mỗi khi vào chiến trường, thi hai con mắt đỏ ngầu, phát điên xông lên trước. Cho dù ở bên cạnh họ có quả đạn nguyên tử phát nổ, nếu như không tạo thành thương hại với họ, thì họ thậm chí cũng chẳng thèm chú ý, vẫn y như cũ như bầy trâu bị đốt lửa vào đuôi gầm đầu xông lên phía trước!
Do hỏa pháo của Đồng trại đều là thứ phổ thông lắp đạn pháo vào từ nòng, mỗi khi bắn xong rồi phải chờ ít nhất năm phút mới có thể điền vào đạn pháo mới. Và thời gian năm phút đó đã đủ địch quân xông qua cự li mấy trăm mét rồi.
Khi tiền phong của địch quân xông đến dưới thành, bắc thang mây bắt đầu công thành. Hỏa pháo của Đồng quân lần nữa vang lên, mười mấy đám mấy đen bốc cao, địch quân tập trung dày đặc người ngã ngựa đổ vô số. Nhưng mà, lúc này binh sĩ điên cuồng đã chẳng chú ý gì thương vong chung quanh, chỉ có một ý niệm - đó là liều chết đánh lên trên thành!
Khi họ tiến nhập vào tầm bắn của hỏa súng, khai hỏa!
Các hỏa súng thủ và cung tiễn thủ đã sớm chờ sẳn sau thành tường, một loạt súng vang lên, tên bay như mưa, nhưng lần công kích này không tạo thành bao nhiêu thương vong, nhân vì địch quân ở dưới thành đã sớm có sự chuẩn bị để đối phó chiến pháp này, họ đã đưa những thuẫn bài rắn chắc lên hình thành tường phòng hộ như cái mu rùa, hỏa súng và cung tên không thể tạo thành bao nhiêu thương vong. Trong khi đó, địch quân yểm hộ ở phía sau cũng giương cường nỏ và hỏa súng bắn lên. Một loạt súng nổ, đạn và tên bay lên không ngớt, không ít Minh quân và Đồng binh đang lăn gỗ đá xuống dưới gào thảm ngã vật xuống.
Cùng lúc đó, vô số thang dây đã bám vào thành, địch quân đã trèo lên tới nơi!
Chú thích:
(*) Thuốc nổ đắng (axit picric): Axit Picric (công thức phân tử: C6H3N3O7, công thức cấu tạo: C6H2(NO2)3OH) là một hợp chất hóa học thường được biết đến với cái tên 2,4,6-trinitrophenol. Nó có dạng tinh thể màu vàng và là một trong những hợp chất có tính axit mạnh nhất của phenol. Như các hợp chất chứa nhiều nitrat khác (TNT), axit picric là một chất nổ. Tên của axit picric bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp πικρος-có nghĩa là đắng, để diễn tả vị đắng của nó.
Axit picric được đề cập lần đầu tiên trong một bản viết tay về giả kim thuật của Jonann Rudolf Glauber năm 1742. Lúc đầu nó được tạo ra bằng cách nitrate hóa một số chất như sừng động vật, lụa, cây chàm và nhựa tự nhiên. Sự tổng hợp từ phenol và công thức phân tử chính xác của nó được hoàn thành vào năm 1841. Tới tận năm 1830 các nhà hóa học mới nghĩ tới việc sử dụng axit picric như một chất nổ. Trước đó họ cứ tưởng chỉ có muối của axit picric là chất nổ, không phải chính axit.
Vào năm 1873 Hermann Sprengel chứng minh nó có thể nổ được và năm 1894 những người công nhân Nga đã tìm ra phương pháp dùng nó để sản xuất đạn pháo. Ngay sau đó, phần lớn quân lực sử dụng axit picric như thuốc nổ mạnh chính. Tuy nhiên, đạn pháo nhồi axit picric trở nên rất không bền khi chất này ăn mòn vỏ bom tạo ra picrate kim loại, vốn kém bền hơn phenol nguyên mẫu. Vào thế kỷ 20 phần lớn việc sử dụng axit picric được thay thế bằng TNT. Axit picric vẫn còn được sử dụng trong việc phân tích hóa học của kim loại, mỏ và khoáng chất.
Vào năm 1885, dựa trên những nghiên cứu của Hermann Sprengel, nhà hóa học người Pháp Eugene Turpin đăng ký sáng chế sử dụng axit picric nén và đúc để chế tạo bộc phá vào đạn pháo. Năm 1887, chính phủ Pháp sử dụng nó với cái tên melinite với việc thêm vào thuốc súng bông. Từ 1888, nước Anh bắt đầu sản xuất một hỗn hợp tương tự ở Lydd, Kent với tên lyddite. Nhật Bản tiếp theo đó với một công thức cải tiến tên schimose. Vào 1889, một hợp chất tương tự nữa là hỗn hợp của amoni cresylate với trinitrocresol (hay một muối của amoni với trinitrocresol) được sản xuất dưới cái tên ecrasite.
Axit Picric có thể được tổng hợp bằng cách nitrate hóa phenol, benzene (trong phản ứng Wolfenstein-Boters), hay ngay cả axit acetylsalicylic (aspirin). Axit picric được biết tới như một thứ chất nổ rất dễ chế biến tại gia. Việc tổng hợp nó chỉ yêu cầu các hóa chất có thể mua được dễ dàng ở các cửa hàng hay nhà thuốc tây, mặc dù đã có rất nhiều người bị thương hoặc tử vong trong quá trình chế biến. Bên cạnh nguy cơ nổ, chất khí cực độc NO2 còn có thể được tạo thành trong quá trình chế biến.
Những phương pháp an toàn hiện nay khuyến cáo nên lưu trữ axit picric ẩm. Khi axit picric khan, nó khá nhạy với sốc và ma sát. Do đó các phòng thí nghiệm thường lưu trữ nó trong lọ dưới một lớp nước và khiến nó an toàn hơn. Một yêu cầu nữa là phải dùng lọ nhựa hoặc thủy tinh vì axit picric có thể tạo thành muối picrate với kim loại, vốn nhạy và nguy hiểm hơn chính axit. Trong một tai nạn năm 2007, một số nhân công dược ở Comlumbus, Wisconsin đã tìm thấy một chiếc lọ đựng hai ounce một loại chất lỏng, đáng lẽ phải được giải quyết bởi đội xử lý bom mìn.
Axit picric được ứng dụng nhiều nhất trong vũ khí và đạn dược, như đã được đề cập ở trên.
Trong thao tác với kính hiển vi, picric được sử dụng như một chất phản ứng để nhuộm mẫu vật, ví dụ như nhuộm Gram. Nó cũng có một số sử dụng trong hóa hữu cơ nhằm tạo thành muối kết tinh của bazơ hữu cơ (picrate) cho việc nhận dạng và xác định tính chất.
Bouin's picro-formol là một phương pháp bảo quản cho tiêu bản sinh học.
Kiểm tra ma túy còn sử dụng axit picric để phát hiện creatinine bằng phản ứng Jaffe. Nó tạo thành một hỗn hợp màu phức tạp có thể đo bằng quang phổ kế.
Ít thông dụng hơn, axit picric ẩm còn được dùng cho việc nhuộm da hay việc đóng dấu tạm thời. Nó phản ứng với protein của da tạo ra màu nâu tối và có thể tồn tại gần một tháng.
Đầu thế kỷ 20, axit picric được ngành dược phẩm sử dụng như chất diệt khuẩn và cách chữa cho phỏng, sốt rét, mụn giộp, đậu mùa.
(**) Thuốc nổ TNT: TNT là dạng thuốc nổ đơn, không khói, khác biệt với các loại thuốc nổ phức (Composition, C4 là một dạng thuốc nổ phức, tên đầy đủ là composition 4).
TNT là thuốc nổ cơ bản với đặc tính dễ chế tạo, giá thành rẻ, độ bền cao, không gây phản ứng với kim loại nên rất thích hợp cho việc nhồi vào đầu nổ bom, mìn, đạn pháo. Sức công phá của nó rất "cơ bản" so với các loại thuốc nổ mạnh khác. TNT được pha trộn với các thành phần khác với các tỷ lệ khác nhau để thành các loại thuốc nổ phức có sức công phá lớn hơn hoặc giá thành rẻ hơn như Tritonant là hỗn hợp TNT và bột nhôm, Amatol là hỗn hợp TNT và ammonium nitrate, Baratol là hỗn hợp TNT và barium nitrate.
 
Chương 114: Cầu hôn nơi chiến trận
Đích quân tấn công huyện thành rõ ràng là nhiều hơn tối qua, và cũng không biết đó là tăng binh để cường công, hay là đại quân đã kéo đến. Nhưng mà, đại pháo trên thành lâu không thể oanh kích địch quân dưới thành, binh sĩ Minh quân và bá tánh hợp đồng tác chiến trong thành bắt đầu đánh xáp lá cà, đội làn mưa tên lăn đá và gỗ xuống dưới.
Địch nhân dùng thang mây xông lên thành lâu đều bị Liễu Nhược Băng và Vũ Kỳ nghiêm trận chờ đợi dẫn theo các Tuyết phong sơn tặc trảm sát. Do đó, cho dù địch quân như bầy ong chen lấn ùa lên, nhưng có thể bước chân lên thành lâu thì chỉ còn là thi thể, thi thể và thi thể tầng tầng điệp điệp.
Dương Thu Trì thấy địch nhân bắc thang mây công lên ngày càng nhiều, tình huống nguy cấp, liền chụp lấy một thạch đạn, đưa dây dẫn vào đuốc cắm ở tường thành đốt cháy lên, dùng sức ném ra xa. "Oành" một tiếng, đạn pháo nổ khiến địch quân ở ngoài thành người ngã ngựa đỗ sát rạt. Bọn họ căn bản không ngờ chỉ không đầy mấy trượng mà lại bị đạn pháo nổ có uy lực cực lớn như vậy.
Dương Thu Trì mừng như điên, quay sang hô lớn với Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ, các hộ vệ, Vũ Kỳ và mọi người: "Đốt pháo đạn bằng đá, ném xuống cho nổ tan xác đám con rùa này!' Hắn lại cầm một tạc đạn lên, đốt dây dẫn hỏa bằng cây đuốc, dùng sức ném ra, oành một tiếng, quân địch xung quanh điểm nổ hai ba chục mét vuông đều bị nổ tan xương nát thịt!
Đây là sự sát thương trước đây chưa từng có! Trong dĩ vãng, nhưng đạn pháo nổ bung ra lợi hại nhất cũng chỉ tạo thành thương vong trong phạm vi một hai mét. Còn phạm vi sát thương lớn như thế này đơn giản là chưa từng nghe nói tới chứ kể gì đến chứng kiến!
Lưu Dũng hô to: "Quẳng thạch đạn, nổ cho banh xác đám rùa này!" Rồi đua nhau cầm thạch đạn đốt cháy rồi quẳng xuống dưới thành, khiến địch quân ngã rạp hàng loạt.
Vũ Kỳ hướng dẫn bọn sơn tặc học theo, cầm đạn pháo bằng đá đốt lên quăng xuống dưới thành. Tạc đạn nổ liên tục, chấn điếc cả tai, địch quân tiến sát tường thành tử thương vô số! Một số thang mây bắc lên thành cũng bị nổ tan, máu bắn tung tóe, chỗ nào cũng có!
Nhưng mà, sơn tặc quẳng tạc đạn chưa bao giờ cảm thụ được uy lực của tạc đạn. Vì diệt địch quân dưới thành, một bộ phân nhỏ tạc đạn đã bị quẳng sát tường thành, sau một loạt tiếng nổ, vài chỗ ở chân tường bị nổ sạt lỡ, tuy chôn sống không ít địch quân công thành, nhưng cũng khiến thủ quân trên thành bị té nhào xuống chết theo. Cũng may là tường thành cổ đại đều dùng thật tâm, bên trong là đất đá rất cứng, bên ngoài mới là tường thành bằng đá xanh, cho nên tường thành chỉ bị sạt lở một phần phía ngoài, về toàn bộ chưa sụp hẳn tạo ra khuyết khẩu.
Dương Thu Trì cả kinh, rống to: "Quẳng xa một chút! Con mẹ nó quẳng xa ra một chút, lực tay mạnh lên, nếu không thành tường sụp luôn bây giờ..."
Nhân lúc Dương Thu Trì quay đầu hô to, một tên địch trèo được lên thang mây nấp sau phần nhô lên trên tường thành thò một cường nổ bắn lén vào hắn một mũi lang nha tiễn. Trong lúc không kịp đề phòng, hắn bị mũi tim đó bắn trúng giữa ngực.
Cái nỏ cứng này lợi hại phi thường, lại bắn trong cự li gần, dễ dàng xuyên khải giáp nặng. Dương Thu Trì kêu lên một tiếng, ngã ngữa.
Cách đó không xa, Liễu Nhược Băng chứng kiến hết, hô lên cả kinh: "Thu Trì!" Rồi phóng ra một mũi liễu diệp phi tiêu, xuyên qua đầu của tên bắn lén đó, thi thể ngã lăn xuống thành.
Liễu Nhược Băng như một làn chớp lao đến cạnh Dương Thu Trì, run rẫy quỳ xuống ôm hắn vào lòng. Mũi lang nha tiễn đó đã xuyên trúng tim của Dương Thu Trì, xem ra không thể cứu chữa được nữa. Nàng không dám rút tên ra, chỉ sợ rút ra rồi, máu phún trào, hắn sẽ tuyệt khí ngay lập tức.
Lúc này, tiếng nổ lớn dưới thành lâu vang lên không ngớt, đó là do Vũ Kỳ soái lĩnh bọn sơn tặc có võ công và sức tay mạnh lại không sợ chết đem pháo đạn bằng đá dùng làm lựu đạn, đốt dây dẫn rồi quăng đi, khiến cho địch quân dưới thành bị nổ chết vô số. Thang dây cũng đua nhau bị nổ vỡ, ngã chết không ít địch quân công thành. Từng cuộn khói bay lên bao trùm cả thành tuờng, trong làn mưa máu, tay cụt chân đứt không ngừng bay lên thành lâu, hoặc văng tung phơi đầy mặt đất.
Chợt từ xa vang lên từng hồi đồng la khẩn cấp, đó là mệnh lệnh thu binh của địch quân. Quân đội của Trương Hiến Trung nghe được hiệu lệnh đó, bỏ lại trên thành lâu hàng nghìn thi thể, đỡ thương binh tàn tướng rút đi như thủy triều. Tiếp đó, đại bộ phận địch quân lui hai chục dập hạ trại.
Thì ra, địch quân điên cuồng tấn công không chú ý hỏa pháo và tạc đạn thủ thành, nhưng tướng lĩnh địch quân ở hậu phương quan sát rõ ràng mọi thứ. Bọn chúng nhìn thấy sau mỗi lần nổ, đều có thể khiến mấy chục tướng sĩ quanh điểm nổ xương cốt chẳng còn gì. Sau khi loạt hỏa pháo đầu cất lên, chỉ có hơn 10 cây, nhưng tướng sĩ tiến công đã tử thương mấy trăm. Đợi đến loạt pháo thứ hai, lại mấy trăm tương sĩ bị xé thành thịt vụn. Còn tướng sĩ đánh tới dưới thành đã bị tạc đạn nổ chết vô số. Thang dây cũng bị tổn thất hơn nửa, ngay thành tường cũng bị sụp. Pháo hỏa mảnh liệt như vậy có thể nói chưa từng thấy trước đây bao giờ, cho nên chúng đều mặt xám như tàu lá.
Tướng địch thấy không đầy thời gian một bữa cơm mà đã có hàng ngàn tướng sĩ trận vong trong pháo hỏa mãnh liệt như vậy, nếu tiếp tục đánh tới, e rằng toàn quân sẽ chết sạch dưới thành! Y hạ lệnh đánh chiêng thu quân, lùi 20 dặm hạ trại, thương nghị đối sách. Y không hề ngờ rằng, lúc này số tạc đạn do Dương Thu Trì chế tạo chẳng còn lại bao nhiêu, trong khí đó nhân vật trọng yếu nhất đã ngã xuống.
Dương Thu Trì cố gương dậy trong lòng Liễu Nhược Băng: "Băng nhi, mau! Địch nhân lại kéo tới nữa rồi!"
Liễu Nhược Băng thấy Dương Thu Trì bị trúng tên chỗ yếu hại, tất phải chết, lòng đau như cắt, nhỏ lệ nói: "Đừng lo lắng! Thu Trì, địch nhân đã ... đã lui rồi."
A Hạnh Ny cùng mọi người biết Dương Thu Trì trúng tên, còn địch nhân đã lui, đều vây lại cả.
Thân hình Dương Thu Trì mềm nhũn ra, dường như đã thả lỏng. Một tay hắn nắm chặt mũi lang nha tiễn cắm trên ngực, miệng không ngừng hỏi: "Băng nhi..., ta phải chết rồi sao...?"
"Không! Không đâu mà! Ta quyết không để cho đệ chết đâu!" Liễu Nhược Băng khóc lóc thét gào, đơn chưởng đặt vào hậu tâm hắn, vận công truyền vào, nhưng trong lòng biết rõ, Dương Thu Trì trúng tên ở tim, không thể nào cứu vãn được, chỉ biết khóc lóc khẩn cầu: "Thu Trì, đệ đừng chết! Đừng rời xa ta a!"
Đến lúc sinh tử quan đầu, Liễu Nhược Băng mới biết ở bên nhau mấy tháng nay, người trẻ tuổi tình nguyện vì nàng mà chết này đã khắc ghi hình bóng sâu đậm trong lòng nàng. Chỉ có điều lúc thường loại cảm tình này đều bị nàng ra sức dồn nén, thậm chí ngay cả nàng cũng hiểu rõ nó là gì. Nhưng hiện giờ nhìn Dương Thu Trì mạng trong khoảnh khắc, thứ tình cảm đó như núi lửa, bùng phát ngùn ngụt.
Dương Thu Trì cười thảm: 'Như vầy... cũng tốt..., tuy không thể... cùng nàng bách niên hòa hảo..., nhưng có thể chết trong lòng.... nàng, ta... ta cũng mãn nguyện rồi..."
Liễu Nhược Băng lệ nhỏ tốc tốc như mưa rào, ôm chặt lấy hắn, chẳng biết nói thế nào.
Dương Thu Trì mềm oặt người, đã không xong đến nơi rồi, cố gượng hỏi: "Băng nhi, nàng...., nàng thật không... không quan tâm gì đến ta sao?"
Liễu Nhược Băng khẽ đưa tay vuốt ve mặt hắn, dịu giọng nói: "Ta... ta kỳ thật cũng... cũng rất ưa thích đệ..., ngày đó để liều mạng cứu ta, vì cứu ta, dùng... dùng miệng bón thuốc cho ta..., lại nói không để một mình ta lẻ loi chết đi, đòi tự sát cùng chết với ta, ta..., ta rất vui sướng tận đáy lòng. Lúc đó ta nghĩ, cả đời này của ta e rằng chẳng thể nào rời xa đệ được nữa..."
Khóe miệng Dương Thu Trì nở nụ cười an ủi: "Băng nhi! Vậy..., vậy nàng nguyện ý lấy ta không...?"
Nước mắt của Liễu Nhược Băng rơi trên gò má hắn, vội nghiêng qua một bên, hít hít mũi, rồi quay đầu lại, cố khiến cho bản thân không được khóc, nhìn sâu vào mắt hắn, từ từ và kiên định gật đầu: "Băng nhi... nguyện ý!"
Dương Thu Trì mừng rỡ: "Vậy... hôn ta... được không?"
Liễu Nhược Băng dường như đã quên hết mọi chuyện xung quanh, ôm chặt Dương Thu Trì, cúi người xuống, đối môi hồng ấn lên môi hắn, nhẹ nhàng trao nhau nụ hôn.
A Hạnh Ny ở sau lưng che miệng quay đầu đi, khóc không thành tiếng. Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ cùng các hộ vệ đều quỳ xuống đất, nước mắt đầy mặt. Vũ Kỳ và các sơn tặc đều thần sắc ảm đạm.
Dương Thu Trì tham lam hôn đôi môi mềm mịn của Liễu Nhược Băng, lát sau hai người mới phân ra, hắn hỏi: "Băng nhi, chúng ta... bái thiên địa được không?"
Liễu Nhược Băng lòng đau như cắt, hôn lên má hắn, cố cười: "Chàng chẳng phải nói... trai gái giang hồ chúng ta... chỉ cần nói là được sao? Từ nay về sau, Băng nhi... là thê tử của Thu Trì rồi!"
Dương Thu trì hỏi dồn: "Nàng..., nàng không phải vì ta sắp chết mới đáp ứng chứ?"
"Không phải! Hai ngày nay, thiếp mới biết chàng đối với thiếp trọng yếu thế nào! Thu Trì, cả đời cả kiếp này, thiếp quyết cùng chàng ở cùng một chỗ!"
"Không hối hận?"
"Tuyệt không hối hận!" Liễu Nhược Băng lệ rơi đầy mặt, kiên định đáp.
 
Chương 115: Tạ thiên tạ địa
"Quá tốt rồi...! Ta thật cao hứng!" Dương Thu Trì mặt đầy vẻ hạnh phúc: "Nhưng... ta vẫn muốn cùng nàng bái thiên địa ngay bây giờ! Dù sao thì hai chúng ta cùng là cô nhi, tự mình làm chủ được rồi, đúng không?"
Liễu Nhược Băng không nhẫn tâm để Dương Thu Trì ôm hận mà chết, nhỏ lệ gật gật đầu.
Dương Thu Trì mặc khải giáp nặng, lúc này lại trở nên vô cùng nặng nề, gượng hai ba lần mà không dậy nổi. Liễu Nhược Băng vội cẩn thận đỡ hắn quỳ dậy, bản thân nàng cũng quỳ, một tay giữ dưới nách hắn.
Dương Thu Trì quay sang nói với Lưu Dũng: "Lưu đại ca, làm phiền huynh giúp làm lễ và chứng hôn cho chúng tôi, được không?"
"Được a! Dương gia! Thuộc hạ có thể làm người làm chúng cho Dương gia và bạch y nữ hiệp... kết tóc trăm năm, quả thật.... vinh hạnh vô cùng!" Lưu Dũng đứng dậy, giọng nghẹn ngào nói lớn:
"Nhất bái thiên địa!"
Liễu Nhược Băng đỡ Dương Thu Trì cùng lạy.
"Nhị bái cao đường!"
Hai người cùng lạy lần nữa.
"Phu thê... đối bái!"
Liễu Nhược Băng đỡ Dương Thu Trì quỳ vững, bản thân chuyển sang đối diện hắn, hai người cùng lạy nhau.
"Tống nhập.... động... phòng...." Nói đến đây, Lưu Dũng đã khóc không thành tiếng, binh sĩ chung quanh đều khóc không thành tiếng.
"Lão gia! Lão gia người sao vậy...?" Dứơi thang thành lâu vang lên một tràng tiếng gào khóc dài, một cô gái loạng chọang vẹt người ra hai bên chạy lên, khi đến trước mặt liền quỳ sụp xuống giữ chặt Dương Thu Trì: "Lão gia...., người sao vậy?... xin đừng bỏ lại Tuyết Liên mà..."
Cô gái này chính là tiểu nha hoàn Quách Tuyết Liên.
Khi địch quân đến đánh, do nàng không biết võ công, không giúp thủ thành được, liền lùi ra sau tiếp tục tổ chức công tác hậu cần. Nghe nói địch quân thối lui, nàng vội chạy lên thành lâu, khi gần đến thì nghe Dương Thu Trì đã trúng tên không xong tới nơi rồi, liền như phát điên chạy tới, ôm hắn khóc như mưa.
Dương Thu Trì cười nói: "Tuyết Liên, ta và Băng nhi... thành thân rồi, mừng quá!" Xong hắn quay đầu nhìn Liễu nhược Băng, "Băng nhi hiện giờ đã là bà xã ta rồi, chúng ta vừa rồi đã bái thiên bái địa nữa! Đúng không? Nương tử!"
Liễu Nhược Băng không hề hồi đáp, nhìn chầm chầm vào mũi lang nha tiễn trên ngực Dương Thu Trì, gương mặt nhòe lệ lúc này đầy vẻ nghi hoặc. Không chờ Dương Thu Trì kịp phản ứng, nàng đột nhiên đưa tay chụp lấy đuối mũi lang nha tiễn đó, lay động, vẻ nghi hoặc trên mặt càng đậm hơn, liền dùng kình lực rút ra.
Dương Thu Trì a lên một tiếng, hoảng hốt nhìn Liễu Nhược Băng.
Liễu Nhược Băng nhìn đầu mũi tên, thấy không có chút máu nào, vừa kinh vừa mừng: "Thu Trì, chàng... chàng không thụ thương?"
Thì ra, vừa rồi Quách Tuyết Liên xông lên khóc lóc ôm Dương Thu Trì lắc lư, Liễu Nhược Băng phát hiện mũi tên trên ngực của Dương Thu Trì cũng theo đó lắc lư đưa đẩy theo, không giống như đã cắm ngập vào thân thể, mà dường như là cắm gá trên khải giáp vậy. Nàng nghi ngờ nên cầm lên đuôi tên lắc thử, phát hiện tuy nó đã bắn xuyên qua khải giáp, nhưng dường như không cắm vào thân thể, cho nên mới vừa kinh vừa mừng rút ra.
Mắt kính râm của Ý đã bị đập vỡ rồi, mặt nạ bị lột sạch rồi, Dương Thu Trì bẽn lẽn ngồi dậy, đưa tay ôm hai tay nàng: 'Băng nhi, ta không thụ thương...., hắc hắc, vì nàng không chịu lấy ta, ta mới dùng hạ sách này..."
"A! Ông trời hỡi!" Liễu Nhược Băng mừng như điên, nhào hẳn vào lòng Dương Thu Trì, ôm chặt hắn như sợ hắn bay đi vậy: "Quá tốt rồi! Tạ trời tạ đất!..." Rồi đẩy hắn ra, nhìn lên nhìn xuống, quả nhiên thần sắc như thường, nên lòng hoan hỉ như muốn vỡ òa, "Thu Trì! Chàng không sao! Quá tốt rồi! Tạ thiên tạ địa..."
A Hạnh Ny cao hứng đến nỗi như bị hư thoát, ngồi phịch xuống cạnh nàng, mừng quá bật khóc: "Thu Trì ca! Anh không bị thương, quá tốt rồi! Hu hu hu..."
Quách Tuyết Liên do cực bi chuyển sang cực hỉ, nhất thời ngẩn cả ra, cho đến khi Dương Thu Trì vỗ vai nàng bảo mình không sao, nàng mới túm lấy vạt áo hắn òa lên, nhưng mà lần này là khóc vì hoan lạc.
Liễu Nhược Băng lại đẩy Dương Thu Trì ra, sờ mó vào cái lổ tên ở giáp ngực của hắn, đích xác là không có máu chảy ra, bấy giờ mới yên tâm hẳn. Nàng ôm chầm cổ hắn, ngước mắt nhìn hắn, mặc cho nước mắt hạnh phúc chảy ra: "Quá tốt rồi!... thiếp rõ ràng là thấy ngực chàng trúng một tên nỏ, sao lại không có chuyện gì?"
Dương Thu Trì nháy mắt: "Cái này phải cảm tạ Tuyết Liên nha đầu. Cô bé làm cho ta một khải giáp nặng, dày hơn khải giáp thường nhiều! Khải giáp này ngăn phần lớn lực bắn của mũi tên, vào trong ngực ta vừa khéo trúng vào cái đôi bao tay đao thương chém không đứt đó. Mũi tên cắm lên bao tay, nên ta mới may mắn thoát nạn. Ta vốn định cho nàng biết ta không sao, nhưng nghe địch quân đánh chiêng thu quân, bấy giờ mới cố phịa ra chuyện chọc nàng. Không ngờ chính vì thế mới có thể thật sự kết thành phu thê với nàng. Cái này đúng là phải tạ trời tạ đất rồi, đa tạ ông trời đã để cho nàng chịu làm nương tử của ta!"
Liễu Nhược Băng vung nấm đấm phấn đấm vào khải giáp, ứa lệ mắng: "Con người của chàng thật là...., hại cho người ta nóng ruột cả lên!" Lòng nàng tuy oán Dương Thu Trì dùng cái chết lừa nàng lấy hắn, hại nàng đau lòng đứt ruột, trong lòng ít nhiều gì cũng hơi bực, nhưng dù sao thì nàng cũng đã thật lòng yêu hắn, biết là người yêu dấu thật sự không còn cách nào, làm vậy cũng giống như ngủ mơ phải một cơn ác mộng rồi tỉnh lại, nàng thầm tự nhủ may đó chỉ là một sự kinh hoàng hư ảo, chẳng thể nào sánh với cái hoan hỉ hiện giờ. Nàng tràn đầy yêu thương, hiển hiện lên đôi mắt nhìn hắn, rồi dựa vào lòng hắn, khẽ bảo: "Sau này không được dùng cách đó dọa thiếp nữa, nghe không?"
"Dạ! Nương tử yêu dấu của ta ạ!" Dương Thu Trì ôm nàng định hôn môi, vừa rồi vốn cho là Dương Thu Trì sắp chết, Liễu Nhược Băng không nỡ để hắn thương tâm, cho nên chẳng quan tâm đến người khác nghĩ gì chấp nhận hôn môi với hắn. Nhưng hiện giờ biết là hắn bình an vô sự, nếu bảo nàng trước mặt mọi người hôn hít với hắn như thế, nàng e thẹn khó thể đương, nên hoảng loạn tránh ra, nào ngờ cái hôn này vẫn trúng vào môi dưới và cằm nàng.
Liễu Nhược Băng e thẹn vô cùng, nằm dựa vào lòng hắn, trong lòng cầu mong ông trời cứ để nàng vĩnh viễn sống trong hạnh phúc dạt dào này.
Gương mặt đen đúa vì khói thuốc súng của Lưu Dũng vẫn còn nhòe lệ, nhưng y lại ngoác miệng cười ha hả: "Dương gia tài thiệt, ngay chúng tôi cũng bị ngài lừa, khà khà khà..." Mọi người đều hân hoan cười.
Liễu Nhược Băng bấy giờ mới ý thức đến xung quanh còn rất nhiều người, thẹn không thể tả, đẩy Dương Thu Trì ra, đứng lên nói: "Mau đứng dậy đi! Địch nhân còn chưa biết có đi rồi lại kéo đến nữa không."
Dương Thu Trì ngượng ngập đứng dậy: "Tạm thời sẽ không đâu, bọn chúng còn chưa tìm được biện pháp đối phó với tác đạn bằng đá của chúng ta, lại không biết chúng ta còn đạn dược hay không, cho nên tạm thời sẽ không phát động đợt tiến công mới. Nhưng mà chúng ta cần phải lập tức chế tạo tạc đạn, không thể cứ bày kế không thành hoài."
A Hạnh Ny mặt nhòe lệ hoa, kéo tay Dương Thu Trì: 'Thu Trì ca, huynh vừa rồi.... dọa chết người ta luôn..."
Dương Thu Trì khẽ vuốt ve làn tóc của nàng biểu lộ sự hối lối, nhìn gương mặt như sương tuyết lấm tấm dấu máu do trảm sát địch nhân, biết là sự chém giết tàn bạo vừa rồi chỉ mới là sự bắt đầu. Hiện giờ xem ra, vũ khí hiện đại của hắn không khống chế hay làm địch nhân hoảng sợ như trong tưởng tượng. Hắn cần phải lập tức chế tạo nhiều tạc đạn hơn, tốt nhất là chế tạo hỏa tiễn pháo cachiusa (Katyusha - loại pháo phản lực của Nga - Xem chú thích), hình thành sát lương diện rộng, mới tạo ra được hiệu quả răn đe. Nhưng đáng tiếc hắn không phải là chuyên gia vũ khí, ngay kết cấu của pháp ka-chiu-sa thế nào, dụng cụ chế tạo ra sao cũng không biết. Thứ hắn có thể tạm gọi là rành, chỉ là các vũ khí hạng nhẹ và thuốc nổ mà thôi.
Trong lúc hắn đang suy nghĩ xem tiếp theo nên làm thế nào, chợt có người hô: "Tổng binh đại nhân đến...!"
Mọi người vội chia ra đứng lên, cúi đầu chào.
Tổng binh là võ tướng cao cấp, ở thời Minh sơ, tổng binh là thống soái tối cao trên chiến trường, gặp phải chiến sự thì sẽ do triều đình phái công, hầu, bá xuất nhậm làm tổng binh chỉ huy tác chiến. Sau khi chiến sự kết thúc, người này phải giải nhiệm về triều. Do đó, thời Minh sơ, tổng binh tương đương chức tổng tư lệnh mặt trận, hoặc là thống soái quân sự tối cao của chiến khu.
Sau đó, chiến tranh với Ngõa Thích, Thát Dát ở phương bắc quá dày đặc, chức tổng binh dần trở thành định chế. Mỗi khi gặp phải chiến sự, triều đình lại cử ra tuần phủ kiêm trị dân sự và quân vụ ở địa phương, tổng binh cũng phải bị người này giám đốc. Sau đó, khi dùng binh liên quan đến nhiều trấn hoặc nhiều tỉnh, lại thiết thêm chức tổng đốc, phái trọng thần xuất nhiệm, để tiết chế tuần phủ và tổng binh. Địa vị của tổng binh vì thế càng lúc càng giảm, không thể sánh với thời đầu. Đây chính là một loại không chế, cho dù tổng binh trong tay có trọng binh, nhưng không quyền điều khiển, phải chịu tiết chế của đốc, phủ. Còn tổng đốc, tuần phủ tuy có quyền điều binh khiển tướng, nhưng trong tay không có trọng binh, từ đó hình thành quan hệ tương hỗ khiên chế, tránh quá tập trung binh quyền về một mối. Điều này trong thời bình đích xác là có thể chế hành quyền lực, nhưng trong thời chiến lại thường gây mất ổn định nội bộ, kềm chế lẫn nhau, phương ngại đến sự linh hoạt và cơ động trong tác chiến của quân đội, trở thành một trong những nguyên nhân trọng yếu gây sự thất bại của Minh quân trong phần lớn trường hợp hiện giờ.
Khổng Hi Quý là tổng binh Hồ Quảng, là tổng tư lệnh của chiến khu vùng này, chức tước có thể nói là rất lớn. Chỉ có điều, quân của ông ta đã bị Trương Hiến Trung tiêu diệt phần lớn trong các trận chiến ở Lạc Dương, Trường Sa. Tàn binh còn lại thì lại do tuần án Hồ Quảng là Lưu Hi Tộ và thiên tuần phủ Lý Càn Đức soái lãnh bảo hộ ba vị giả vương gia chạy về Vĩnh Châu, cuối cùng tiến vào Quảng Tây. KHổng Hi Quý trực tiếp soái lãnh không đến 4 nghìn quân bản bộ bảo hộ ba vị vương gia bí mật chạy tới Kiềm Dương huyện. Trong hai ngày chiến đấu bảo vệ này, quân đã tử thương hơn phân nửa, Dương Thu Trì cùng mọi người kịp thời kéo đến thì chỉ còn có khoảng 1000 người.
Mấy ngày nay, Khổng Hi Quý và Phúc vương, Huệ vương, Quế vương cùng trốn trong huyện nha, nghe tiếng pháo ầm ùng bên ngoại, hò giết vang trời, bàng hoàng suốt cả ngày. Tối qua khi nghe binh của thổ ti trại ở phụ cận kéo đến, đánh lui Trương tặc quân, họ đều mừng rỡ, nhưng khi nghe nói chỉ có 5 nghìn người ít ỏi, kinh khủng khôn cùng.
Mới sáng ra chiến đấu lại vang lên, thảm liệt hơn mọi trận chiến đấu trước đó, tiếng pháo đì đùng như sấm dội, chấn điếc cả tai họ. Khổng Hi Quý mang hơn chục thân binh cầm bảo kiếm đứng trong nội nha môn của tri huyện bảo hộ ba vị vương gia, thần tình đầy vẻ một mình ta ở đây chẳng có kẻ nào có thể vượt qua được, nhưng sự kinh khủng trong lòng chỉ có lão mới biết.
Chẳng mấy lúc, tin tức truyền về, nói là địch quân đã bị tướng sĩ thủ thành đánh lui, không biết rút về hướng nào, Khổng Hi Quý không khỏi mừng rơn, vội để ba vị vương gia chờ ở huyện nha, còn mình thì mang Lôi tri huyện vội lên thành lâu hái đào hưởng kết quả đại thắng.
Chú thích:
Pháo phản lực Cachiusa (Katyusha) (tiếng Nga: Катюша), hay được gọi là tên lửa Cachiusa hoặc ngắn gọn là Cachiusa, là một dạng bệ phóng đạn phản lực được chế tạo bởi Liên Xô trong Thế chiến thứ 2. So sánh với các loại pháo khác, Cachiusa có khả năng oanh tạc một địa điểm trong thời gian rất ngắn với sức công phá cao, nhưng độ chính xác thấp và thời gian nạp đạn lâu. So với pháo truyền thống, dạng dàn phóng này tuy không chính xác song lại có ưu điểm là rẻ tiền và dễ làm.
Dàn phóng pháo có thiết kế khá đơn giản, bao gồm một giá có gắn những thanh phóng bằng thép, là chỗ đặt đạn phản lực; với bộ khung gập để nâng thanh phóng lên vị trí thuận lợi để khai hỏa. Mỗi xe tải có từ 14 tới 48 bộ phóng. Đạn phản lực M-13 đường kính 13,2 mm của hệ thống BM-13 dài 180 cm và nặng 42 kg. Nó được phóng đi bằng hỗn hợp nitrat xenlulô đặc phụt ra từ trong lòng ống. Hỗn hợp này được đặt trong vỏ thép của quả đạn với một ống dẫn đơn giản ở cuối. Quả đạn được cố định bởi bộ gá thăng bằng hình chữ thập. Mỗi đoạn ngòi nổ đều chứa thuốc nổ mạnh, nặng 22 kg. Cự ly bắn khoảng 5,4 km (3,4 dặm). Sau đó đạn phản lực đường kính 82 mm M-8 và đường kính 300 mm M-30 cũng được phát triển.
Cachiusa có độ chính xác thấp hơn pháo truyền thống, nhưng khá hiệu quả trong việc oanh tạc và đã làm cho lính Đức rất sợ hãi. Một đợt bắn BM-13, chỉ mất từ bảy tới mười giây cho một đợt bắn, phóng đi tới 4,35 tấn thuốc nổ tới khu vực rộng 4 hec-ta (10 mẫu Anh). Các khẩu đội Cachiusa thường tập trung với số lượng lớn để gây sốc cho địch quân. Điểm bất lợi là thời gian nạp đạn cho bệ phóng Cachiusa trở nên khá lâu, trong khi pháo truyền thống có thể duy trì tần suất bắn liên tục.
Cachiusa trong Chiến tranh thế giới lần thứ  là loại pháo tự hành, thường xuyên được lắp ráp trên xe tải. Sự cơ động này đã tạo cho Cachiusa (và những loại pháo tự hành khác) một lợi thế riêng biệt: chúng có thể phóng đạn phản lực vào vị trí đich và rút lui trước khi phía địch phản pháo vào vị trí chúng triển khai trước đó. Vì tính cơ động dặc thù của dàn phóng đa hỏa tiễn này, nên nó được sử dụng để tấn công kiểu du kích (Hezbollah), tấn công quấy nhiễu (Hezbollah, Quân đội nhân dân Việt Nam) hay khủng bố (Taliban).
Hồng Quân chọn biệt danh này từ bài hát rất nổi tiếng của nhạc sĩ Mikhail Vasilevich Isakovsky trong thời chiến. Cachiusa (Катюша) có nghĩa là "Katerina bé nhỏ" (người Nga thường thêm hậu tố chỉ nhỏ - diminutif - vào sau tên trong trường hợp gọi rất thân). Bài hát này nói về một cô gái mong chờ người yêu dấu đang đi xa để thực hiện nghĩa vụ trong quân đội. Quân đội Đức phát xít đặt một biệt hiệu khác cho Cachiusa là "Organ của Stalin" (nguyên văn tiếng Đức: Stalinorgel) sau khi vị cố tổng bí thư Liên Xô này ví giàn hỏa tiễn như những ống hơi của những chiếc đàn organ khổng lồ trong nhà thờ (đàn ống).
Ngày 21 tháng 6 năm 1941, một ngày trước khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, chính phủ Xô Viết đã ra quyết định sản xuất hàng loạt các hệ thống pháo phản lực. “Kachiusa” – loại vũ khí hùng mạnh với cái tên âu yếm đã khiến kẻ thù kinh hoàng. Những binh sĩ Đức còn sống sót sau lần đầu chịu đựng hỏa lực và tiếng gầm thét của “Kachiusa” hầu như không còn tinh thần để chiến đấu nữa.
Sức mạnh của “Kachiusa” quả là kinh ngạc – ngoài khả năng sát thương lớn, nó còn gây ra một sức ép tâm lý lớn với tiếng hú đặc trưng của mình. “Khi tôi thấy “Kachiusa” lần đầu tiên tại nhà máy mang tên Stalin, tôi có cảm giác nó thật cồng kềnh và lạ lùng. Mới nhìn thì cũng là một chiếc xe tải, nhưng chả hiểu tại sao phía trên lại gắn thêm mấy thanh ray làm gì. Còn khi mà phải thử cái kỳ quan kỹ thuật ấy ở những trận đánh bảo vệ Matxcơva, tôi thậm chí còn không hình dung được nó ồn đến thế nào. Phải thú thật là sau loạt bắn đầu tiên tôi ướt hết cả quần vì sợ. Gần một tuần chúng tôi mới quen được với tiếng hú của đạn và tiếng rầm rầm như nuốt hết tất cả” – đó là lời của ông Ivan Đmitrievich Đunaev, cựu chiến binh Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, người chỉ huy “Kachiusa” từ năm 1941 cho đến tận ngày chiến thắng.
Trong những tài liệu mật của Đức có những thông báo về “đại bác phun lửa tự động nhiều nòng của Nga”. Những binh sĩ Đức còn sống sót sau lần đầu chịu đựng hỏa lực và tiếng gầm thét của “Kachiusa” hầu như không còn tinh thần để chiến đấu nữa, bởi vì hoặc là bị dập thương, hoặc là bị điếc hay chết lặng vì hoảng sợ. Sau những loạt Kachiusa, lính Đức phát điên chạy ra khỏi hầm hố và làm mồi cho những loạt tiếp theo. Kachiusa phá tan, san bằng các loại công sự, đốt cháy cả tuyết! Có lần nó còn phá huỷ toàn bộ cả một cụm xe tăng Đức vào ban đêm sau kết quả trinh sát của lính Nga.
Người Đức cố gắng chiếm được dù một khẩu “Kachiusa” bằng mọi giá. Tuy nhiên chỉ huy Xô viết đã hạ lệnh cho Hồng quân phá hủy “Kachiusa” trong trường hợp rút lui, để loại vũ khí này không rơi vào tay kẻ thù.
Một sĩ quan Đức bị bắt làm tù binh, sau những trải nghiệm khi “Kachiusa” xung trận, tại cuộc hỏi cung đã nói: “Tôi đã bị thương và chẳng bao lâu nữa sẽ chết. Tôi sẽ không thể đưa bí mật của các ông cho ai. Nhưng hãy nói cho tôi trước khi tôi chết – đó là cái gì thế? Cái gì đáng sợ đã rót lửa xuống chúng tôi, cứ như là cơn giận dữ của chúa trời?”
Nguồn: Wiki + bản dịch của Thương Lan
 
Chương 116: Đừng coi điển sứ không là cán bộ
Khổng Hi Quý khôi giáp sáng choang, eo đeo bảo kiếm, mặt hồng nhuận mập phì chảy mỡ, được hơn mười thân binh hộ vệ vây quanh, mang theo Lôi tri huyện uy phong lẫm lẫm đến thành lâu.
Lão bước một chân vào lớp máu đọng, loạng choạng suýt ngã, rất may là hộ vệ đi sau mắt lanh tay lẹ, vội vỡ đỡ lấy, bấy giờ mới miễn cưỡng bị ngã chỏng vó, mất mặt trước mọi người.
Lão kinh hồn cố định thần, chỉnh chỉnh lại đầu khôi, ngước mắt nhìn, thấy trên mặt thành đầy tử thi của địch quân và Minh quân, khắp nơi đầy chân đứt tay cụt, máu đã tẩm ướt cả đá lót trên mặt thành, nơi nào cũng có máu. Lão nhịn không được kinh tâm đảm chiến, cẩn thận bước tới công sự trên thành, vịn tay thò đầu ra nhìn, không khỏi hít một hơi khí lạnh: toàn bộ ruộng đồng bên ngoài thành đầy thi thể của địch quân, nằm ngổn ngang khắp nơi, phần lớn thi thể đều không toàn vẹn. Mấy chục cái lổ lớn còn bốc khói đen không biết vì sao mà hình thành. Đao kiếm, vụn khói, thang dây, chiến kỳ... chỗ nào cũng có.
Đây chính là chiến trường, chiến trường thây nằm chật đất!
Khổng Hi Quý trước đây chỉ huy tác chiến đều là ở hậu phương phát hiệu lệnh, quân đội của lão chỉ cần gặp đại quân của Trương Hiến Trung là chạy, chạy thục mạng, cho nên không hề tiến hành đề kháng ra dạng gì, càng không có loại huyết chiến thế này. Dù là như thế, quân của lão gần như bị địch quân diệt sạch. Trong khi đó, trường diện máu huyết lâm lâm, thi thể tàn khuyết chất đầy này là lần đầu tiên lão thống lĩnh binh nhiều năm thấy được!
Khổng Hi Quý cố lấy lại tinh thần, từ từ quay đầu lại, cười ha hả: "Hay! Đánh hay lắm! Minh quân chúng ta thường là sở hướng phi mỹ như vậy, đặc biệt là dưới trướng bổn quan đều là anh dũng chi sư của Đại Minh, trường thắng chi sư! Đây đều là công lao của người giỏi dưới tráng ta a! Đến lúc này thì đã khiến Trương tặc biết mùi lợi hại rồi....! Ha ha ha..."
Mấy tướng quân dẫn Minh quân cùng Dương Thu Trì và Đồng quân cộng đồng kháng kích địch quân đều hiện mấy phần đắc ý trên mặt, nhưng khi thấy Đồng quân thần sắc nhàn nhạt, biết là kỳ thật thắng lợi của trường bảo vệ chiến này trước đó là tử thủ dựa vào vị bạch y nữ hiệp đó, nếu không phải này chém giết vô số địch quân đánh lên thành lâu, cổ vũ đấu chí của quân dân toàn thành, thì Kiềm Dương này đã sớm bị công phá rồi. Sau đó, đại bại địch quân là nhờ vào 5 nghìn Đồng quân tăng viện, đặc biệt là pháo đạn thần kỳ của vị điển sứ huyện nha này, khiến địch quân bị nổ hồn phi phách tán, không dám tiến công nữa. Những tướng quân nhà Minh này đều biết nguyên nhân thắng lợi không phải toàn đều kể hết trên người của Minh quân.
Do đó, sự đắc ý trên mặt họ đều thu lĩêm lại hết.
Khổng Hi Quý không hề hay biết gì, vẫn y như cũ tự huyênh hoang, nói với Lôi tri huyện: "Tri huyện đại nhân, ông coi hơn nghìn tử thi của địch quân trên mặt thành này nè, ha ha, đây đều là công lao của người dướng truớng ta a, đại nhân kiến thức sự lợi hại và anh dũng của tước sĩ ta chưa? Ha ha ha! Đánh hay lắm! Bổn quan sẽ đem tin vui này lập tức bẩm báo lên ba vị vương gia, rồi báo lên triều đình, sẽ khao thưởng thật lớn cho tướng sĩ toàn quân! Luận công khen thưởng! Ha ha ha."
Lôi tri huyện tự nhiên vuốt mông ngựa ào ào, thuận lời đưa đẩy, khen đến nỗi Khổng tổng binh đắc ý dương dương, bay lên tận mây xanh.
Phụ trách chỉ huy Minh quân đề ngự địch trên thành lâu là một vị du kích tướng quân (Chú: là 1 chúc quan của triều Minh, không dính dáng gì đến việc đánh du kích. ND) tên là Long Bỉnh nghe tổng binh cứ tự thổi phồng công lao, sợ sẽ ảnh hưởng đến tấm lòng của quân bằng hưu, vội ho khan một tiếng, bước lên cung tay thua: "Tổng binh đại nhân, Dương điển sứ thỉnh về Đồng binh, và chế tác đạn pháo cực kỳ lợi hại, công lao rất lớn."
"Vậy sao?" Khổng Hi Quý thu nụ cười, quét nhìn Đồng binh khắp thành lâu mặc sắc phục của dân tôc Đồng, "Đúng đúng, quân đội của Đồng trại tăng viện, công không nhỏ chút nào. Đúng rồi, Long tướng quân, ngươi vừa rồi nói là ai đến thỉnh Đồng quân?"
Long Bỉnh tiến dẫn Dương Thu Trì: "Vị này là Dương điển sứ, ông ấy còn chế tạo...."
"Điển sứ?" Cặp mắt tam giác của Khổng Hi Quý liếc xéo, rồi cắt ngang lời của Du kích tướng quân Long Bỉnh, khinh bỉ hừ lạnh một tiếng, dừng khóe miệng khinh miệt hỏi: "Là ngươi thỉnh Đồng quân?"
Dương Thu Trì vội bước lên một bước, khom người thi lễ: "Vâng! Ti chức Dương Thu Trì, là điển sứ của Kiềm Dương huyện, trước đó có đến Quý châu Trấn Viễn phủ, tiếp được quân tình khẩn cấp của tri huyện Lôi đại nhân, đã từ Đồng trại mượn được 5 nghìn Đồng binh, khẩn cấp đến đây chi viện, rất may không đến trễ."
Khổng Hi Quý quay đầy nhìn Lôi tri huyện đang khúm núm: "Là ngươi truyền quân tình cho hắn?"
Lôi tri huyện vội đáp: "Dạ dạ, Dương đại nhân là điển sứ của huyện, phụ trách..."
"Được rồi!" Khổng Hi Quý không nhịn được phiền cắt ngang lời Lôi tri huyện, lại lườm mắt nhìn Dương Thu Trì, mũi hừ hừ như ống thông khí, hỏi: "Ngươi chỉ là tên tiểu điển sứ nho nhỏ, sao có thể mượng được 5 nghìn Đồng binh? Đúng là nực cười! Thủ lĩnh Đồng binh ở đâu?"
A Hạnh Ny thấy bộ dạng khệnh khạng của lão như vậy, lại thấy lão đối với Dương Thu Trì không lễ mạo gì, lòng chán ghét vô cùng. Nhưng mà, nàng cũng biết tổng binh là quan chỉ huy quân sự tối cao của Hồ Quảng, không tiện đắc tội, bước lên ôm quyền thưa: "Mạt tướng A Hạnh Ny, là con gái của Đồng trại thổ ti Dát cát Ước, là thủ lĩnh dẫn đầu Đồng binh."
Khổng H iQuý không hề biết nguyên nhân chủ yếu để đánh lui hai vạn đại quân của Trương Hiến Trung lần này là đạn đá có chứa thuốc nổ của Dương Thu Trì, tuy miệng cứ giành hết công lao về cho mình, nhưng trong lòng cũng biết thắng lợi này thuộc về Đồng binh đến tăng viện, cho nên lập tức đổi thành cái mặt cười, nhịn lên nhìn xuống đánh giá A Hạnh Ny, thấy nàng toàn thân nhung trang, thanh tú nhanh nhẹn, mặt đẹp như hoa, càng hoan hỉ vô cùng, ngầm nước nước bọt đánh ực, cái mặt phì đầy nọng cười hề hề: "Quả nhiên là anh hùng xuất thiếu niên! Lần này Đồng trại thổ ti phái xuất thần binh tương trợ bổn quan thủ thành, bảo hộ ba vị vương gia bình an cũng coi là một kỳ công, bổn quan nhất định sẽ bẩm báo triều đình, thưởng lớn cho Đồng trại thổ ti các ngươi! Khao thưởng Đồng binh tam quân! Ha ha ha." Nói xong, thò tay ra định vỗ lên vai A Hạnh Ny biểu hiện thân mật.
A Hạnh Ny nhíu mày, lùi về sau một bước tránh đi, ôm quyền nói: "Đa tạ tổng binh đại nhân, chỉ có điều lần này người có công đầu chính là Thu Trì ca của ta, là người chế tác đạn pháo, nổ chết vô số Trương tặc quân tấn công, làm địch quân khủng hoảng mới triệt binh. Đại nhân muốn khao thưởng nên khảo thưởng Thu Trì ca trước, nếu không thưởng phạt bất minh."
"Vậy à?" Khổng Hi Quý bấy giờ mới quay đầu, nhìn kỹ lại Dương Thu Trì một cái. Chỉ có điều, lão không tận mắt chứng kiến uy lực của tạc đạn, không hề thấy địch quân như núi đổ sóng trào bị tiếng nổ kinh thiên động địa máu thịt văng đầy, cho nên không cảm thụ được một trăm tạc đạn bàng đá của Dương Thu Trì mang đến sự cải biến về chất cho cuộc chiến bảo vệ này thế nào, cho nên nghe mà cũng như không, cho dù A Hạnh Ny là đại biểu Đồng binh nói thế, vẫn không đủ làm cho lão trọng thị.
Khổng Hi Quý thu hồi mục quang, lại cười hề hề nói với A Hạnh Ny: "A Hạnh Ny tướng quân, lần này đánh lui địch quân, ngươi lao khổ công cao, xinh thỉnh theo ta đi gặp ba vị vương gia, chúng ta cùng thương lượng đại kế lui địch, thế nào?"
A Hạnh Ny lắc đầu: "Chúng tôi đến là vì Thu Trì ca, chúng tôi chỉ nghe theo hiệu lệnh của Thu Trì ca. Xin lỗi!"
Khổng Hi Quý ngẩn người, lại nhìn kỹ lại Dương Thu Trì, hơi có chút phản ứng, cười nói: "Vậy được, vậy thỉnh Dương điển sứ cùng đến thương nghị luôn!"
Dương Thu Trì ôm quyền đáp: "Tổng binh đại nhân, ti chức chức nhỏ lời kém, làm sao có thể thương nghị quân cơ đại sự với tổng binh đại nhân và ba vị vương gia chứ. HƠn nữa, ti chức còn phải nhanh chóng sắp bày chuyện phòng ngự, chế tạo đạn dược để phòng địch quân lần nữa đánh tới."
Khổng Hi Quý trầm mặt: "Thế nào? Điển sứ đại nhân, ngay cả lời bổn quan nói mà cũng không nghe sao?"
Dương Thu Trì nghe lão giở giọng, phản cảm vô cùng. Dù sao kiếp trước hắn cũng làm siêu phẩm Trấn quốc công của Đại minh, cẩm y vệ chỉ huy sứ, quyền thế hơn xa Khổng Hi Quý, sao có thể chịu cái nhìn khinh khi này của lão, lập tức đứng thẳng người, điềm đạm nói: 'Tổng binh đại nhân nặng lời rồi, thật tế là địch quân chỉ tạm lui, có thể trong khoảnh khắc sẽ quay lại, không thể giống như có người trốn trong nha môn gối cao chẳng lo nghĩ gì, chúng tôi còn phải tăng cường chiến bị..."
"Phóng tứ!" Con mắt tam giác của Khổng Hy Quý trừng to, cái mặt đầy mở rung rinh, "Tên điển sứ nho nhỏ nhà ngươi kia, bổn quan bảo ngươi tham dự thương nghị quân cơ yếu sự là nễ mặt người lắm rồi, khôn gngờ lại không nễ mặt, còn dám đương trường trào phúng bổn quân! - Người đâu a, bắt trói!"
Mấy thân binh ở sau lưng lão cùng quát lên, như lang như hổ xông lên định bắt người, A Hạnh Ny bước lên một bước, tay án vào cán kiếm, tức giận quát: "Đứng lại! Tên nào lên chém chết!"
Tiểu hắc cẩu nhất mực nằm phục ở đó, lúc này mắt lộ hung quang, mũi khịt khịt, nhìn uy hiếp các thân binh.
Lưu Dũng, Mã Lăng, Phó quan, Hồ Thủy cùng các hộ vệ đều đao kiếm rời khỏi vỏ, vây lên.
Vũ Kỳ giơ tay, hơn trăm sơn tặc giơ hỏa súng và đao kiếm đối chuẩn Khổng Hi Quý cùng thân binh.
Đồng binh xung quanh cũng hè nhau giới bị, biến Minh quân thành thế bị bao vây.
Chỉ có Liễu Nhược Băng vẫn bình tĩnh như nước, đứng bên cạnh Dương Thu Trì tựa hồ như không thấy đám thân binh xông lên. Chỉ có điều, Dương Thu Trì đã cảm thụ sát khí dày đặc tiết ra trên người nàng.
"Làm cái gì vậy? Các ngươi phản rồi hả?" Khổng Hi Quý lùi lại mấy bước, tay đặt lên cán kiếm, hoảng hốt hỏi.
Du kích tướng quân Long Bỉnh và các thiên tổng khác cùng bước tới can ngăn, và khẽ nói về chuyện Dương Thu Trì chế tạc đạn có uy lực và tác dụng thế nào, lại nhấn mạnh tính trọng yếu trong chiến đấu của tạc đạn do con người trẻ tuổi này chế tạo.
Những du kích tướng quân và thiên tổng là theo tổng binh Khổng Hi Quý bại lui về Kiềm Dương huyện, là bộ hạ cũ của Khổng Hi Quý. Lời của họ khiến Khổng Hi Quý không thể không xét lại.
Vốn ra, Khổng Hi Quý làm quan nhiều năm, tự nhiên biết đạo lí không nên chọc giận quần chúng, đương nhiên càng hiểu lúc này phải tận sức mua chuộc lòng người. Nhưng mà, do y không hề trực tiếp tham gia trường bảo vệ chiến máu tanh này, không hề nhìn thấy uy lực khủng bố của tạc đạn Dương Thu Trì chế tạo gây ra cho đội hình dày đặc của địch quân, và tác dụng cực lớn đối với việc lui quân của địch... cho nên nhất mực không tin vào việc có tạc đạn lợi hại như vậy, trong lòng nhiều ít cũng nhân là những lời nói khoa trương trong lúc kinh hoảng của mọi người. Sở dĩ, lão nhất mức khinh thường Dương Thu Trì, cho rằng hắn chẳng qua là một điển sứ của nha môn, là quan nhỏ hàng tòng cửu phẩm, thế mà dám trào phúng vị tổng binh đường đường như mình là kẻ tham sanh úy tử, tức giận mới hạ lệnh bắt Dương Thu Trì, không ngờ mệnh lệnh này đã chọc vào tổ ong mặt quỷ.
 
Chương 117: Thăng quan bất đắc dĩ
Khổng Hi Quý kinh khủng quét mắt nhìn những sơn tặc bậm trợn với mục quang băng lãnh cùng các Minh quân hộ vệ nét mặt lầm lì, ngoài ra còn có A Hạnh Ny tuy đẹp nhưng tay án kiếm dữ dằn cùng 5 nghìn Đồng quân vây quanh Minh quân... tuy lão không biết vì sao một điển sứ nho nhỏ mà lại được nhiều người ủng hộ và yêu mến quá như vậy, chịu vì hắn mà đối đực trực tiếp, uy hiếp một vị đường đường là tổng binh Hồ Quảng như lão ta. Nhưng lão ta biết, lúc này thành tường Kiềm Dương huyện chỉ cần giậm chân là lung lay này tuyệt đối không phải là của một tư lệnh trơ trụ một nghìn tàn binh bại tướng này, mà là của thanh niên thân hình hơi ôm ốm trước mặt.
Huống chi, một nghìn tàn binh bại tướng ấy kinh lịch qua trận thắng lợi bằng tạc đạn của Dương Thu Trì, đã sinh lòng sùng bái đối với hắn, tựa hồ không chuẩn bị vì Khổng Hi Quý tổng binh này mà trở mặt với bọn Dương Thu Trì.
Khổng Hi Quý già dặn trên quan trường, giỏi nhất là trông mặt mà bắt hình dong, lập tức minh bạch tình hình trước mắt, biết là cần phải lung lạc Dương Thu Trì. Do đó, mặt của lão liền hiện vẻ đột nhiên hiểu ra, phảng phất như vừa nghe thủ hạ thuật lại mọi chuyện, bây giờ vừa mới hiểu, liền ngửa cổ cười ha hả: "Thì ra là thế, đúng là bổn quan quan sát không kỹ, hiểu lầm Dương đại nhân, thì ra Dương đại nhân mới là công thần của trận chiến này. Hắc hắc hắc, giỏi! Bổn quan luận công ban thưởng, Dương đại nhân, chức điển sứ này của ngươi quá nhỏ, không xứng với trọng trách trên vai ngươi. Như vầy đi, bổn quan thăng ngươi làm thủ bị của Kiềm Dương huyện! Thế nào?"
Tổng binh là quan chỉ huy quân sự tối cao của chiến khu, trừ phó tổng binh do triều đình trực tiếp ủy nhiệm ra, những tham tướng, du kích tướng quân, thủ bị, thiên tổng, bá tổng... đều do tổng binh có thể trực tiếp căn cứ tình huống chiến sự mà bổ nhiệm hoặc bãi miễn, chỉ cần báo lên binh bộ hoặc ngũ quân đô đốc phủ là được. Do đó, tổng binh trước chiến trận nhậm mệnh, lập tức có hiệu lực.
Dương Thu Trì vốn định cự tuyệt, nhưng thấy nhãn thần của ông ta lộ vẻ khẩn cầu, nghĩ lại dù sao lão mập như heo này cũng là tổng binh Hồ Quảng, là thủ lĩnh quân sự tối cao của Hồ Quảng, nếu như làm mất mặt ông ta, đối với việc thống binh kháng kích địch quân chưa chắc đã có lợi. Hơn nữa, lúc này đại quân của Trương Hiến Trung chỉ là tạm lui, nhất định sẽ còn kéo đến. Đến lúc đó quy mô tiến công e rằng sẽ gấp mấy lần trước đó, chiến đấu đầy máu tanh sẽ còn chực chờ ở phía sau, lúc này cần phải bỏ đi hết hiềm cũ, đoàn kết một lòng mới được. Hơn nữa, hắn cũng cần một quân chức để dần dần thực hiện lý tưởng của mình. Huống chi, chức thủ bị này chính là ngũ phẩm, chức quan đã không nhỏ rồi, do đó, Dương Thu Trì cung tay: 'Đa tạ tổng binh đại nhân đề huề!"
Lôi tri huyện có hơi đố kỵ, thầm nghĩ vị điển sứ này quả là quan vận hạnh thông. Chỉ có điều, loạn thế xuất anh hùng, từ cổ đã là như thế. Ông ta cố dồn nén lại lòng đố kỵ, mặt tươi cười chúc mừng Dương Thu Trì, lời vuốt mông ngựa dĩ nhiên là tuôn ra không ngớt.
Khổng Hi Quý thấy Dương Thu Trì tíêp thụ nhậm mệnh, như vứt đi gánh nặng, bật cười ha hả, lại khôi phục vẻ dương dương tự đắc lúc nãy, nói với A Hạnh Ny: "Tướng quân dẫn Đồng binh tăng viện cho chúng ta, công lớn vô cùng, bổn quan thăng ngươi làm Kiềm Dương huyện hiệp thủ!"
Minh triều mạt niên, lĩnh quân thủ một thành thường được xưng là "Thủ bị", người cùng chủ tướng thủ một thành gọi là "Hiệp thủ", cũng là phó thủ bị, là quan chức hàng tòng ngũ phẩm.
A Hạnh Ny thấy Dương Thu Trì tíêp thụ, cũng khom người thi lễ: "Mạt tướng đa tạ tổng binh đại nhân đề huề!"
Đôi mắt tam giác của Khổng Hi Quý nheo lại quét tới quét lui gương mặt xinh đẹp như vầng trăng của A Hạnh Ny, ngầm nuốt một ngụm nước bọt, chỉ vào du kích tướng quân Long Bỉnh ở bên cạnh: "Dương thủ bị, A hiệp thủ, Long tướng quân đại biểu bổn quan phụ trách phòng ngự tổng thể thành này, hai người cần phải hiệp trợ Long tướng quân bố phòng cho tốt, cộng đồng bảo hộ cho sự bình an của ba vị vương gia. Biết chưa?"
Long Bỉnh là du kích tướng quân, quan chức vao hơn Dương Thu Trì một cấp. Long Bỉnh là đại biểu cho Khổng Hi Quý chỉ huy, vốn tên mập này phong quan chức cho hai người là định đem toàn bộ Đồng quân cho người này trực tiếp lãnh đạo. Điểm này Dương Thu Trì tuy minh bạch, nhưng không muốn tranh chấp. Lúc này đại địch trước mắt, bảo đảm chỉ huy thống nhất cao độ là điều tất yếu, nếu không, một nghìn Minh quân và 5 nghìn Đồng quân, còn hợn 100 sơn tặc và hộ vệ của hắn, cộng thêm dân chúng trong thành tự động tham chiến, cần phải có một kẻ chỉ huy thống nhất, mới đảm bảo cho điều độ và nhất trí. Một trong "tam đại kỷ luật" của quân đội Trung quốc chính là mọi hành động đều phải nghe chỉ huy!
Về mặt quân sự mà chỉ huy hỗn loạn, lệnh ra từ nhiều đầu khác nhau, bộ hạ không cách gì nghe hiểu, khẳng định là bại chớ chẳng sai. Trong khi đó hắn là điển sứ nho nhỏ, trực tiếp thăng lên làm chánh ngũ phẩm thủ bị đã như ngồi trên hỏa tiễn rồi. Tên Long Bỉnh này trước đó chỉ huy tác chiến rất có bài, Minh quân hầu hết đều nghe y, chứng tỏ y có uy tín nhất định. Xem ra, vị Long Bỉnh này là tích công thăng lên làm du kích tướng quân, bản thân hắn mà đòi ngồi cao hơn người này, e rằng có tác dụng ngược.
Cho nên, Dương Thu Trì đáp ứng một tiếng, nói với Long Bỉnh: "Long tướng quân, ti chức xin nghe hiệu lệnh!"
Long Bỉnh vội trả lễ: "Dương thủ bị nặng lời rồi, ta và ông hai người cùng hiệp trợ, cộng đồng ngự địch."
Khổng Hi Quý thấy thu phục được Dương Thu Trì, vô cùng đắc ý: "Nghe nói hai ngày trước đề ngự Trược tặc quân cường công có một vị bạch y nữ hiệp giết địch vô số, là bậc cân quắc anh hùng đã từng cứu vô số ba tánh ở Phượng Dương thành, trọng thương phản tặc Trương Hiến Trung, không biết có ở đây không?"
Long Bỉnh vội dẫn tiến Liễu Nhược Băng: "Chính là vị nữ hiệp này, là tân hôn phu nhân của Dương thủ bị, vừa rồi mới vừa đám cưới ngay trên mặt thành cùng Dương thủ bị."
"Vậy à?" Khổng Hi Quý ngước mắt nhìn, thấy được vẻ đạp tuyệt luận của Liễu Nhược Băng, dung nhan khuynh quốc giống như vạn hoa triều xuân, tức thời lão cảm thấy như bị thái dương chiếu vào đầu, miệng khô lưỡi rát, cứng cả họng nhìn, hồn nhiên không biết thân ở tại chỗ nào. Lòng lão nghĩ, vừa rồi nhìn thấy con gái của thổ ti là A Hạnh Ny đã coi như tuyệt sắc mỹ nữ hiếm có rồi, nhưng so với nữ tử lãnh diễm này ảm đạm đi nhiều. Bản thân lão sống bao nhiêu năm nay, ngữ nữ vô số, dạng mỹ nữ gì cũng gặp qua, nhưng mà, mọi mỹ nữ mà lão gặp gộp hết lại cũng không bằng vị nữ tử này. Ai yêu, hình như nàng ta là tiên nữ giáng trần?
Long Bỉnh thấy lão đường đường là tổng binh, trước mặt nhiều người như vậy mà nhìn chằm chằm vào vợ người ta, ngay nước dãi cũng muốn chảy ra, thật là thất thái cùng cực. Y vội hắng giọng, dùng cánh tay chọc vào lão, Khổng Hi Quý mới hồi lại thần, nheo con mắt tam giác, nuốt nước miếng đánh ực hai ba cái, gương mặt bóng lưỡng đầy nụ cười húp híp: "Công nương... phương danh?"
Liễu Nhược Băng điềm đạm cười, không trả lời.
Long Bỉnh vội giới thiệu: "Vị này là Liễu Nhược Băng Liễu nữ hiệp, là tân hôn phu nhân của Dương thủ bị!"
Mấy câu sau được nói rất nặng, mục đích là định báo cho tổng binh đại nhân biết người ta là hoa có chủ rồi, đừng nên có chủ ý bậy bạ.
Nhưng Khổng Hi Quý đã sớm bị vẻ đẹp của Liễu Nhược Băng làm cho thần hồn điên đảo, làm gì chú ý tình tiết nhỏ nhặt này, cười hềnh hệch: "Ai da, thì ra là Liễu nữ hiệp, nàng vừa rồi nấp sau lưng Dương thủ bị, Khổng mỗ không nhìn thấy, thất lễ quá, mong thứ lỗi."
Liễu Nhược Băng thấy dạng mê gái của lão vô cùng phiền ghét, khẽ hừ một tiếng, quay đầu sang nói với Dương Thu trì: "Phu quân, thiếp thân mệt mỏi, muốn trở về nghỉ ngơi rồi."
Hộ vệ thủ lĩnh Lưu Dũng dùng giọng ồ ề hô to: "Đúng đúng! Dương phu nhân giết địch liền ba ngày ba đêm, chưa chợp mắt chút nào, hơn nữa, vừa rồi mới kết nghĩa trăm năm với Dương gia, nên nhập động phòng rồi! Chúng ta cung tống Dương gia phu thể về nội nha nghỉ ngơi. Tửu yến náo động phòng gì đó chờ đánh bại địch quân rồi bổ sung, thế nào?"
"Đúng vậy.....! Cung tống Dương thủ bị phu thể về nha nghỉ ngơi!" Những hộ vệ khác của Dương Thu Trì, Vũ Kỳ và bọn sơn tặc đều cung thân thi lễ rồi hoan hô, nhưng binh sĩ khác cũng hô theo. Trong đám binh sĩ này đương nhiên không ít kẻ ngầm ái mộ mỹ sắc của Liễu Nhược Băng, nhưng dù sao cũng còn tự kềm chế, không như tên tổng binh này tự cho là quan lớn, dưới mắt không người, làm càn làm bậy, cho nên họ đều rất ghét, phụ họa gào to.
Khổng Hi Quý như từ tầng mây rơi xuống hiện thật, cuối cùng minh bạch vị tiên nữ giáng trần này thì ra là vợ mới cưới của Dương thủ bị, ngầm than rằng là đóa hoa lài cắm bãi cứt trâu (người đời đều vậy, cho người khác là bãi phân trâu, chỉ có mình mới là bạch mã hoàng tử đẹp trai tuy hơi già và bụng bự một chút). Tạm thời lão kềm lại cơn ngứa ngáy trong lòng, cười ruồi: "Đúng đúng, hai vị cũng nên nghỉ ngơi một chút, bổn quan cũng cần trở về bẩm báo ba vị vương gia. Chúng ta cùng về nha môn chung chứ?"
Liễu Nhược Băng đương nhiên không muốn đi cùng tên tổng binh háo sắc này, nói với Dương Thu Trì: "Phu quân, chúng ta vẫn không thể gối cao nằm kỹ, cần phải thám tử đi tìm hiểu địch tình, tính kế đối địch mới là thượng sách."
Dương Thu Trì mỉm cười gật đầu: "Lời nương tử phải lắm." Xong nói với Khổng Hi Quý: 'Tổng binh đại nhân về nghỉ trước, ti chức muốn cùng chuyết kinh hiệp đồng Long tướng quân sắp xếp phòng ngự, lát sau sẽ về nghỉ."
Khổng Hi Quý tuy bị mỹ sắc của Liễu Nhược Băng làm cho thần hồn điên đảo, nhưng vẫn còn biết ngượng, lời đã nói tới mức này, lão dù có mặt dày cũng không tiện cứ bám mãi không buông. Rất may là còn ngày dài tháng rộng, y vẫn hy vọng kia mà. Cho nên y đi ba bước quay đầu lại nhìn, dẫn hộ vệ và Lôi tri huyện bước thấp bước cao xuống thành lâu.
Khổng Hi Quý đi xong, du kích tướng quân Long Bỉnh rất rõ, rằng Dương Thu Trì mới là hạch tâm thắng lợi của trận chiến bảo vệ Kiềm Dương. Mấy nghìn thủ quân đối diện với hai ba vạn địch quân mà muốn thủ thắng chỉ có thể dựa vào đạn pháo bằng đá thần kỳ của Dương Thu Trì. Do đó, Long Bỉnh cười nói với Dương Thu Trì: "Dương đại nhân, chúng ta nên phòng ngự thế nào, xin cứ chỉ điểm a."
Vừa rồi ứng phó sắc quỷ tổng binh KHổng Hi Quý lãng phí không ít thời gian, Dương Thu Trì không muốn mất nhiều lời miệng lưỡi nữa, nói thẳng: "Ti chức cho rằng, có câu tri kỷ tri bỉ, bách chiến không thua. Địch quân hiện giờ đã lui, nhưng không biết khi nào đánh nữa. Kiềm Dương huyện của ta có hai bên và phái sau đều là núi cao, chỉ có mặt này là bằng phẳng, theo lý thì đại quân của địch tiến công chỉ có thể từ phía này, hai bên và phía sau là núi cao không tiện tác chiến đại quy mô. Nhưng mà, chúng ta cũng cần phải đề phòng địch quân vu hồi bao vậy, từ phía sau công kích. Do đó, đối với ngoài, chúng ta lập tức phải vài đội thám tử dò thám tin tức địch quân, rồi từ đó đề ra sách lược ứng phó. Đối nội, thì lập tức tổ chức thu dọn chiến trường, tu sửa thành tường bị sụp đổ, chuẩn bị đá gỗ lăn, chuẩn bị phòng thủ sao cho tốt nhất. Điều này phiên Long tướng quân phụ trách sắp bày. Ti chức và chuyết kinh mang hộ vệ về nha môn, lập tức phối trí tạc đạn bằng đá, để tiện nghênh đánh địch quân tái phạm."
"Được! Cứ án theo Dương đại nhân nói mà làm!" Long Bỉnh mừng rỡ, bắt đầu sắp xếp phòng vệ thành trì.
Nói thì dễ, nhưng trong lòng Dương Thu Trì lúc này rất nặng nề. Nguyên liệu dùng làm tạc đạn đã sắp hết sạch rồi. Trận tới đánh thế nào, thắng thua ra sao ... hắn chẳng có chút ý niệm gì.
 
Chương 118: Không thể viên phòng
Nguyên tài liệu do Vô Trần đạo trưởng luyện chế ra đã bị Dương Thu Trì dùng phối trí tạc đáng hết một phần lớn, cần phải nhanh chóng khai thác quặng ở hậu sơn của Đồng trại để chế luyện dầu mỏ, phenol, axit sulfuric, axit nitric, thủy ngân, ether và các thứ nguyên liệu dùng để chế thuốc nổ đắng và đạn. Đánh nhau thường là so tài về tiêu hao hậu cần, phe nào không đảm bảo hậu cần, thì phe đó không cách gì đánh đấu.
Do đó, hắn gọi A Hạnh Ny đến một bên, đem tình hình nói ra. A Hạnh Ny nghe nói thì ra thứ Vô Trần đạo trưởng luyện ra là dùng làm nguyên liệu để chế tạo đạn pháo bằng đá, không có những thứ đó thì không tạo được, tức thời lòng nóng như lửa đốt, chỉ phái đầu mục lĩnh binh lần này của nàng, và là lão tộc trưởng Tùng Ân của Đồng trại thân tín của thổ ti lập tức dẫn 1000 Đồng binh trở về Đồng trại tổ chức nhân lực khai thác quặng mà Dương Thu Trì cần, rồi sau đó hộ tống quặng khai thác được về giao cho Dương Thu Trì tại Kiềm Dương.
Dương Thu Trì lại để Vũ Kỳ phái thêm sơn tặc có võ công cao cường đến doanh trại của địch quân thám thính, để chuẩn xác nắm rõ động hướng của địch.
Sau khi an bài đâu vào đấy, hắn lưu lại A Hạnh Ny mang số Đồng binh còn lại bố trí phòng ngự trên thành lâu, còn mình thì dẫn Liễu Nhược Băng, Quách Tuyết Liên, tiểu hắc cẩu và các hộ vệ vội vã trở về điển sứ nội nha.
Trở về nội nha xong, Quách Tuyết Liên giúp Dương Thu Trì cởi trọng giáp ra. Dương Thu Trì kéo tay Liễu Nhược Băng vào phòng ngủ, đóng cửa lại, hai người ôm nhau hôn say đắm, cực lâu mới buông nhau ra.
Liễu Nhược Băng e thẹn vô cùng: "Phu quân, chàng mau nghỉ ngơi đi, thiếp cũng nghỉ một chút, mệt quá."
Dương Thu Trì nhớ đến nguyên tài liệu của mình chẳng còn lại bao nhiêu, chế tạo tạc đạn giỏi lắm một thời thần là dùng xong toàn bộ, cho nên còn một lượng thời gian du dã có thể dùng. Trong khi đó, từ khi hắn xuyên việt đến đây đã mấy tháng rồi, tuy đã có phát sinh tiếp xúc da thịt với vài nữ tử, nhưng chưa chân chánh ăn ở với ai, tư vị đó không dễ chịu chút nào. Hắn liền nói: "Băng nhi, chúng ta hãy động phòng trước, sau đó ta sẽ làm, được không? Dù gì thì cũng không gấp trong thời khắc này được."
Liễu Nhược Băng thâm tình nhìn sâu vào mắt Dương Thu Trì, kéo hắn đến ngồi bên giường, áy náy cười, nói: "Phu quân, thiếp thân e rằng tạm thời không thể cùng chàng viên phòng."
"Vì sao?" Dương Thu Trì kinh hãi hỏi.
Liễu Nhược Băng làm ra vẻ có lỗi: 'Võ công của thiếp sở dĩ cao vượt người thường, đó một là vì võ công của bổn phái rất cao cường, hai là sư phụ thiếp nói thiếp trời sinh có dị bẩm, nếu như bảo trì đồng trinh, khổ luyện đồng tử công thì sẽ tăng cao gấp bội. Nhưng một khi phá thân, công lực sẽ giảm đi phân nửa. Hiện giờ địch quân áp cảnh, phu quân vừa thăng lên làm thủ bị Kiềm Dương, thiếp muốn lưu chút võ công này hỗ trợ chàng thủ thành. Hơn nữa, thiếp còn hai kình địch, một khi chúng biết võ công của thiếp giảm nhược, e rằng sẽ tìm đến làm phiền thiếp."
"A...? Nàng... nàng cùng ta viên phòng sẽ làm công lực đại tổn? Không phải vậy chứ?" Dương Thu Trì cười khổ hỏi lại.
"Đúng. Sự phụ thiếp tuy thiên tư không bằng thiếp, nhưng lúc còn trẻ đã là địch thủ hiếp có rồi. Chỉ là, sau đó gặp phải một thiếu hiệp, hai người yêu nhau, sư phụ không chống nổi sự cầu khẩn của người, nên sau đó thành thân, công lực đại giảm. Sau đó bị rất nhiều cừu gia liên thủ truy sát, vốn những kẻ này không phải là đối thủ của sư phụ, nhưng sau khi công lực sự phụ đại giảm, hai người liên thủ vẫn không chống nỗi. Tuy hai người cuối cùng vẫn giết sạch mọi cừu nhân đến tầm cừu, sư công (chồng của sư phụ) trọng thương mà chết. Sư phụ cũng dưỡng thương nhiều năm mới giữ lại được tính mạng, nhưng rồi cuối cùng cũng buồn bã mà mất đi."
Dương Thu Trì kêu khổ trong lòng không ngớt, thầm nghĩ, Băng nhi nói lời này đúng là thật. Trong kiếp trước, hắn nghe Liễu Nhược Băng sư tỷ tên là Hư Ất đạo cô ở trong sơn động sao huyệt của Kiến Văn dư đảng tại Thanh Khê huyện đã từng nói qua điều này. chỉ là lúc đó Liễu Nhược Băng đương thời nói cho dù công lực đại giảm cũng đủ giết chết sư tỷ âm hiểm. Sau đó, quả nhiên giết chết được như lời. Hắn vội nói: "Nàng thiên tư thông tuệ, võ công vượt hẳn sư phụ, cho dù công lực tổn thất, nhưng vẫn có thể vô địch thiên hạ."
Liễu Nhược Băng mỉm cười, yêu thương hôn hắn, lắc đầu đáp: "Ai dám nói là thiên hạ vô địch? Tuy thiếp đến giờ chưa gặp kỳ phùng địch thủ, nhưng thiếp cũng đã có hai kình địch, công lực chỉ kém thiếp một chút mà thôi. Lúc trước chúng thiếp đều đánh nhau hơn 300 chiêu, thiếp mới phân biệt đánh bại họ. Nếu như thiếp giảm công lực phần lớn, e rằng không phải là đối thủ của hai người."
Dương Thu Trì đại kinh thất sắc, cố gượng cười: 'Hai người này, hắc hắc, với nàng là bạn chử không là địch, chỉ là tỉ thí võ công thôi đúng không?"
Liễu Nhược Băng cười khổ: "Không phải, có một kẻ là con gái của cừu gia đứng đầu vây công sư phụ và sư công thiếp khi xưa. Phụ thân ả bị sư phụ thiếp giết chết. Ả luyện thành võ công xong, thì sư phụ thiếp đã qua đời rồi. Ả liền tìm thiếp tầm cừu. Người còn lại là một võ tướng."
Dương Thu Trì tức thời lạnh cả nửa tấm lòng, hỏi: "Nếu như hai người họ đều có thù với nàng, vì sao không liên thủ đối phó nàng? Hai người liên thủ, nàng xem ra không phải là đối thủ rồi?"
'Dạ, chỉ sợ thua nhiều thắng ít. Rất may là họ đều là kẻ tâm cao khí ngạo, quyết không chịu liên thủ đối phó thiếp, càng không nguyện ý đánh lén, đặc biệt là võ tướng đó lúc này e rằng không hơi đâu tìm thiếp chi cho phiền. Đau đầu nhất là cừu gia kia, nhất mực muốn giết thíep cho nhanh."
Dương Thu Trì vỗ đùi: "Đúng rồi! Nếu như bọn chúng muốn giết nàng, vậy không thể trách chúng ta giết chúng. Tiên hạ thủ vi cường, bọn chúng ở đâu? Ta mang theo đội nhân mã quét gọn bọn chúng. Ta không tin võ công của chúng lợi hại hơn tạc đạn của ta!"
Liễu Nhược Băng ôm hắn, trách: "Chàng đó nha! Còn tự xưng là trai gái giang hồ gì, người ta đường đường chính chính tìm thiếp khiêu chiến, thiếp ngược lại bảo chàng đi ám toán người ta. Cái này còn có chuyện gì để mà nói nữa chứ. Hơn nữa chàng chưa chắc đã ám toán được họ!"
'Hắc! Cái này nàng không cần lo rồi, có câu minh thương dễ đón, ám tiễn khó phòng! Chúng tránh được một nhưng không tránh được mười lăm? Dù sao thì cũng có cơ hội diệt chúng, chuyện này nàng đừng quản, cứ giao hết cho ta, nàng chỉ cần cho ta biết chúng là ai thôi là được rồi."
Liễu Nhược Băng cười đáp: "Được a, vậy thiếp cho chàng biết, con gái của cừu gia đó tên là Ngải Miêu Miêu, cha là Ngải Đông Hải ngoại hiệu Âm Dương thủ, chính là người lập kế hoạch liên thủ tập kích sư phụ và sư công của thiếp. Phụ thân của ả chết rồi, Ngải Miêu Miêu khi ấy chỉ là nha đầu trẻ nít. Sau đó không biết ả gặp kỳ ngộ gì, võ công đột tiến, tìm thiếp quyết đấu hai lần, nói là món nợ của sư phụ đồ nhi phải trả. Lần đầu thiếp chỉ dùng 181 chiêu đánh bại ả, nhưng lần sau phải dùng 328 chiêu mói được. Nhưng mà, đó là chuyện năm năm về trước rồi. Sau lần quyết chiến tối hậu, ả không biết hạ lạc nơi nào, không ai gặp qua, theo truyền thuyết thì ả vượt biển tầm sư rồi."
"Cái gì? Hạ lạc bất minh? Vậy đi đâu tìm ả bây giờ?"
Liễu Nhược Băng mỉm cười: "Thì vậy đó, chỉ có chờ chúng tìm tới thôi. Ngươi này ý chí kiên định, không đạt thành mục đích không chịu thua. Cừu gia của thiếp không ít, nhưng thiếp đều không để ý, chỉ cảm thấy đau đầu với mỗi Ngải Miêu miêu này."
"Nàng thật đúng là, nếu như là thế, khi xưa sao không một kiếm giết ả cho rồi!"
"Không phải thế, lần đầu ả bị thương đào tậu, lúc đó võ công của ả còn chưa cao, do đó thiếp không quá để ý, cũng không truy sát. Lần thứ hai, võ công của ả đại tiến, xuất chiêu thập phần ngoan độc, thiếp bấy giờ mới cảnh giác. Chỉ có điều, lúc đó võ công của ả đã không tệ, chỉ hơi kém thiếp một chút, cho nên tuy thiếp đánh bại ả, nhưng chỉ là hơn về chiêu số, ả không hề thụ thương, tự biết không đánh lại là mượn cơ hội đào tẩu. Nhưng mà thiếp biết, ả nhất định sẽ tìm thiếp lần nữa."
Dương Thu Trì hừ một tiếng: "Sợ cái gì, ả mà dám đến, ta nả một phát vào ả là xong! Hết chuyện!"
Tiếp đó hắn thấy Liễu Nhược Băng chỉ cười điềm đạm, biết là nàng sẽ không để hắn làm vậy, bản thân hắn cũng tự nghĩ và cảm thấy không thể làm vậy được, vì người ta đường hoàng tìm đến đòi quyết đấu, thế mà hắn lại dùng âm chiêu sử dụng vũ khí hiện đại hại người, đích xác là quá tệ rồi. Hắn tự nhũ hay là phải bàn kỹ lại chuyện này sau vậy, đành hỏi: "Còn cừu gia kình địch khác là ai?"
"Còn lại không phải cừu gia, mà chỉ là thiếp và y cùng đánh cuộc một trận quyết đấu thôi."
Dương Thu Trì: "Đánh cuộc hả? Hắc hắc, có gì mà gấp, cùng lắm là nhận thua chứ gì, ít nhiều tiền gì đó trả cho y!"
"Không phải là tiền, mà còn cược mạng, rất nhiều nhân mạng!"
"Hả? Chuyện là thế nào? người này là ai thế? Vì sao phải đánh cuộc nhiều nhân mạng?" Dương Thu Trì lại khẩn trương hẳn lên.
"Y là một bối lặc gì đó của Hậu Kim, tên rất dài, gọi là... Ái Tân Giác La - Đa Nhĩ..."
"Cái gì? Đa Nhĩ Cổn?" Dương Thu Trì cả kinh. Danh tự này quá quen, vô số phim điện ảnh đều có nói về người này, là nhân vật quan trọng nhất trong chuyện nhà Thanh đánh diệt nhà Minh.
Liễu Nhược Băng kỳ quái hỏi: "Chàng nhận thức y?"
"Đúng, à không, không nhận thức, có nghe nói qua - nàng sao lại có thù với hắn? Hắn ở Liêu Đông mà."
"Nói ra cũng dài,năm 11 Sùng Trinh, y mang binh được phong làm 'Phụng mệnh đại tướng quân" của Hậu Kim soái quân nam hạ, đánh vào phúc địa Đại Minh ta, đốt giết cướp của, cuối cùng đánh tới Sơn Đông Tế Nam. Thiếp lúc đó vừa khéo ở Sơn Đông, thấy y giết người quá nhiều, liền tiềm nhập vào quân doanh, ngầm đánh lén chế phục y, bức y lui binh. Y không ngờ thà chết không chịu đáp ứng, còn nói thiếp đánh lén không phải là anh hùng, nếu như thẳng mặt đối quyết, thắng y rồi hãy nói sau. Thiếp bèn tha y, quyết đấu với y. Trong đại trướng của quân đội, thiếp và y đại chiến im liền đến 296 chiêu, thiếp mới chế phục được y.
Y bội phục, xưng là lần đầu chiến bại, đáp ứng lập tức triệt binh phản hồi Liêu Đông, trong vòng ba năm chỉ tác chiến ở Liêu Đông, không xuất binh quan nội. Nhưng y biểu kỳ không phục, hẹn 3 năm sau tái chiến. Nếu như y bại nữa, 3 năm sau lại không đánh vào quan nội, còn y thắng, sẽ... sẽ bảo thiếp lấy y..."
"Nàng đáp ứng rồi sao?" Dương Thu Trì khẩn cấp hỏi, tiếp đó cười, khẽ đánh mình một cái, "Ta thật ngốc, nếu là nàng đáp ứng, sao lại còn gả cho ta chứ."
Liễu Nhược Băng lườm hắn một cái: "Thiếp đương nhiên không đáp ứng! Y liền nói ba năm sau nếu như thiếp không tìm y quyết đấu một lần, y sẽ kéo quân nam hạ, giết người hán, đaọt tiền tài. Thiếp tức giận, định giết y, nhưng chuyển niệm nghĩ, thế lực Hậu Kim càn glúc càng mạnh, đặc biệt là Đa nhĩ Cổn văn thao võ lược, là kình địch Đại Minh. Nếu như lời y có tín nghĩa, chỉ cần 3 năm sau lần nữa chế phục y, thì chí ít cũng đảm bảo Đại Minh bình an thêm ba năm. Do đó, thiếp liền đáp ứng ba năm sau quyết đấu với y, nhưng không đáp ứng gả cho y, chỉ nói nếu như thiếp thua, sẽ không quản chuyện nam chinh của y nữa. Y cuối cùng cũng đồng ý."
 
Chương 119: Gò cương bên bờ vực thẳm
Dương Thu Trì hỏi: "Vậy sau này thì sao? Nàng đi tìm hắn chưa?"
Liễu Nhược Bằng gật đầu: "Rồi, người này quả nhiên biết giữ chữ tín. Sau lần đầu tiên đánh bại y, suốt ba năm sau y không hề mang binh nam hạ. Mãn hạn ba năm, cũng là năm Sùng Trinh thứ 14, thiếp đến Liêu Đông tìm y. Lần này, thiếp chỉ dùng 260 chiêu là kích bại được y."
"Ha ha ha, nương tử lợi hại, còn tên Đa Nhĩ Cổn đó càng luyện càng thụt lùi, ha ha ha."
"Không phải vậy đâu, bỡi vì ba năm này thiếp chuyên tâm luyện võ, trong khi y nhất mực tác chiến với quân đội Đại Minh tại Liêu Đông, thời gian dùng cho võ công tự nhiên không nhiều, nên thua thiếp. Người này quả là một hán tử, thua rồi không trở mặt, cho đến hiện giờ đã hai năm rồi mà không mang binh nam hạ."
"À, thì ra năm năm nay Đa Nhĩ Cổn không mang binh nam hạ cướp bóc, thì là vì bị vợ ta đánh bại. Ha ha, ta đại biểu bá tánh Đại Minh kính vợ một nụ hôn!" Nói xong hôn chốc một cái vào má của Liễu Nhược Băng.
Liễu Nhược Băng đỏ hồng cả mặt, cũng hôn đáp lại hắn: "Phu quân quá khen rồi...!"
"À, sao trước nàng nói sư phụ là lão sư?"
"Thử chàng xem có nói thật không ấy mà!"
Dương Thu Trì nhỏen miệng cười, nhưng nụ cười từ từ tiêu biến, lòng nghĩ Băng nhi nếu như đã lấy hắn, tự nhiên không lừa hắn chuyện này. Bỏ qua chuyện sư phụ nàng là ai, bỏ qua chuyện Đa Nhĩ Cổn có giữ lời thật hay là vì tình thế không cho phép nam hạ, nhưng chuyện trước mắt là nếu đồng tử công của Liễu Nhược Băng bị phá, thì công lực sẽ đại tổn, giống y như kiếp trước vậy, rõ ràng cũng không phải là lời giả.
Băng nhi một khi công lực đại tổn, sẽ phải đối mặt với ba vấn đề lớn: Một là con gái Ngải Miêu Miêu của cừu gia nhất định còn đến báo cừu. Người này có võ công chỉ kém Liễu Nhược Băng một chút, trong khi Băng nhi của hắn là người tâm cao khí ngạo, quyết không cho hắn giúp giết chết Ngải Miêu Miêu. Và hắn cũng không thể ngày nào theo sát Băng nhi, một khi nàng đơn độc gặp Ngải Miêu Miêu, e rằng hung đa cát thiểu. Hơn nữa, Băng nhi đi khiêu chiến khắp nơi trong những năm gần đây, kết ra không ít cừu gia. Nếu như biết công lực của nàng giảm, họ sẽ liên thủ tầm cừu, bi kịch của sư phụ nàng nói không chừng sẽ xảy ra lại trên người nàng.
Vấn đề thứ hai là Đa Nhĩ Cổn, người này rốt cuộc thế nào thì hắn chỉ từ trong điện ảnh và tiểu thuyết biết qua. Nếu như y biết giữ chữ tín, có thể dùng chiêu này bức y không mang binh nam hạ, đương nhiên không thể chờ một cách vô hạn chết, chờ hắn hiện đại hóa quân đội rồi, thử coi có tranh giành được với y không.
Vấn đề thứ ba là khẩn bách nhất, hơn cả hai chuyện trước, đó là phòng thủ trước mắt không thể không dựa vào võ công của Liễu Nhược Băng. Hai ngày trước có thể chống đỡ được đại quân của Trương Hán Trung công thành đều là nhờ nàng phần lớn. Do đó, hiện giờ không thể để công lực của Liễu Nhược Băng giảm được.
Liễu Nhược Băng thấy hắn ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ, dựa vào lòng hắn, khẽ nói: "Xin lỗi phu quân, Băng nhi làm chàng mất hứng rồi..."
Dương Thu Trì cười cười: "Không sao! Dù gì nàng cũng là vợ ta, chúng ta giải quyết những vấn đề rắm rối trước mắt rồi viên phòng cũng không muộn. Nhưng mà, ta có một yêu cầu."
"Phu quân cứ nói." Liễu Nhược Băng ngước mặt mỉm cười nhìn hắn.
"Ả Ngải Miêu Miêu gì đó, lần sau nàng quyết đấu cùng ả, kích bại ả rồi ta muốn giết ả nàng không được can thiếp, chúng ta không thể cứ cù cưa như vậy mãi, đúng không nào?"
Liễu Nhược Băng suy nghĩ một lúc, khẽ gật đầu: "Phu quân nói đúng, nhưng phu quân cũng phải đáp ứng thiếp, khi thiếp đối quyết cùng ả, chàng tuyệt không được nhúng tay vào, cho đến khi thiếp đánh bại ả thì thôi. Được không?"
"Cái đó đương nhiên, chúng ta phải thắng cho đẹp vào,.... nhưng mà..."
"Nhưng mà làm sao?"
"Nếu lỡ khi, ta nói là lỡ khi, ả Ngải Miêu Miêu đó không biết học từ hải ngoại chiêu số âm độc nào đó làm hại nàng, ta không khoanh tay đứng nhìn đâu."
"Sao hả? Chàng không tin năng lực của Băng nhi?"
"Không phải vậy, ta nói lỡ khi, nàng cũng nói là ả này xuất chiêu vô cùng âm độc mà."
Liễu Nhược Băng cười mỉm: "Chàng yên tâm đi, chỉ cần đối quyết đường đường chính chính, cho dù là có đánh bại thiếp, cũng không hại thiếp được đâu, thiếp có lòng tin này."
Tuy Liễu Nhược Băng đầy lòng tự tin, nhưng Dương Thu Trì vẫn lo lắng, lòng nghĩ cái này không thể mạo hiểm, cần phải phòng thủ mới được. Điều hay nhất là phải làm sao thân không biết quỷ không hay diệt Ngải Miêu Miêu, để cho ả bị chết bất ngờ hay gì đó, Băng nhi sẽ không trách hắn được. Làm chuyện này hắn có tự tin, sẽ không để lại dấu vết gì. Nhưng mà không biết Ngải Miêu Miêu hiện giờ ở đâu, ả là ai... không thể chờ được, cần phải chủ động tìm kiếm, tiên hạ thủ vi cường!
Dương Thu Trì hỏi: "Nàng và Đa Nhĩ Cổn quyết đấu lần thứ bao vào lúc nào?"
"Năm sau."
"Trong vòng một năm?"
"Đúng, trước ngày cuối năm sau đều được."
"Vậy được, trước lúc này, vi phu sẽ kiến lập quân đội, cố đánh bại Đa Nhĩ Cổn và Hậu Kim, triệu để tiêu trừ cái hoạn này, nếu vậy thì vụ đánh cuộc này không thể tiếp tục nữa rồi."
Liễu Nhược Băng nhìn hắn: "Đại quân của Đa Nhĩ Cổn vô cùng lợi hại, thiếp đã thấy qua rồi..."
"Lần này nương tử không tin năng lực của vi phu rồi, hắc hắc."
Liễu Nhược Băng cười cười: "Tin, phu quân là giỏi nhất."
"Ta giỏi cái gì nào?" Dương Thu Trì cười ái muội, thò tay vào áo quần nàng, vạch tiết y, sờ và vò nắn nhẹ gò ngực cao vợi chắc nịt của nàng.
Liễu Nhược Băng rên lên một tiếng, nằm dựa vào lòng Dương Thu Trì, miệng lẩm bẩm: "Phu quân...."
Dương Thu Trì lần tay khắp tơi, đến bụng dưới phẳng lì của nàng, rồi gò tam giác thần bí của nàng.
"A..." Liễu Nhược Băng lần đầu kinh qua cái hoan hỉ của nam nữ, tuy chỉ là những thứ mào đầu, nhưng đã thở khì khì, thần hồn điên đảo.
Dương Thu Trì sờ nắn khắp ngọc thể của Liễu Nhược Băng, vật dưới khố cũng vùng dậy đòi xung phong, khiến hắn gần như muốn phóng mình lên chiến mã. Khi biết mình làm như vầy là đùa với lửa, phá đi trinh tiết của Liễu Nhược Băng, có hối cũng không kịp, hắn vội thu liễm tâm thần, dùng ý chí kéo cương ngựa quay đầu, kéo mần gối che đi thân hình y sam hở hang loạn của nàng.
Liễu Nhược Băng giống như rơi xuống vực, vội mở bừng mắt, vừa thẹn vừa giận nhìn hắn.
Dương Thu TRì hôn lên trán nàng: "Không thể đùa với lửa được, ta e sẽ nhịn không nổi. Ngoan, ngủ một giấc đi. Ta ra vườn phối trí tạc đạn. Ta để tiểu hắc cẩu ở đây làm hộ pháp cho nàng."
Mắt Liễu Nhược Băng như có nước, bộ dạng yêu kiều như hoa xuân: "Dạ! Mau đi đi, địch quân tiến công hãy gọi thiếp ngay."
"Được!" Dương Thu Trì hôn chào nàng, đứng dậy bước ra cửa, còn quay lại gửi một cái hôn gió, khiến Liễu Nhược Băng đỏ mặt tận mang tai, khẽ cười đáp trả.
Dương Thu Trì đứng ở chỗ công tác ở sương phòng trong nội nha, nhìn những thùng nguyên liệu đã trống gần hết đến phát ngốc. Hắn tính toán lại, số nhiên liệu này giỏi lắm chỉ làm được hơn chục đầu pháo đạn, cộng thêm mấy quả trên thành lâu, tổng cộng không tới 20. Lần đầu đánh lui địch quân tiến công, đã dùng gần 100 quả đạn. Quy mô tiến công lần kế của địch quân phải nhiều hơn, và sẽ sử dụng nhiều thủ đoạn hơn, tránh xung phong dày... như vậy, uy lực sát thương của tạc đạn sẽ giảm. Cho nên, muốn dựa vào không tới 20 quả tạc đạn bằng đá này để đánh lui địch quân quả là nhiệm vụ bất khả thi. Trong khi đó, quặng mỏ còn chưa đưa đến, luyện chế cần một thời gian, e rằng không kịp.
Xem ra cần phải lợi dụng hiệu quả số nguyên liệu này mới được!
Súng xung phong! Đối phó đội hình dày đặc này, ngoài trừ tạc đạn, vũ khí tốt nhất là súng xung phong hoặc súng máy!
Nguyên liệu chế tạo tạc đạn thì tiêu hao nhiêu, chứ chế tạo đạn dược thì hữu hiệu hơn, đủ chế ra hai ba vạn viên với số nguyên liệu này! Nếu hắn chế ra đầu đạn có lực xuyên thấu đủ mạnh, thì có thể bắn một viên xuyên qua hai ba tên! Đối phó 3 vạn địch quân như vầy, chỉ cần diệt phân nửa thì cũng đủ chúng khiếp sợ chạy hết rồi.
Ha ha!
Dương Thu Trì cảm thấy hưng phấn về ý tưởng này, và không biết đồ hình hắn giao cho lão Hắc đầu chế tạo ra súng có hiệu quả thế nào.
Dương Thu Trì vội mệnh lệnh cho Mã Lăng Vũ mang theo mấy hộ vệ đến chỗ lão thiết tương, lấy cây súng xung phong, súng bán tự động, vỏ đạn và ngòi nổ đến.
Nhanh chóng, mấy thứ đó được đưa về.
Dương Thu Trì cầm cây súng xung phong lên nhìn, lão hắc đầu không thẹn là lão công tượng về hưu của triều đình, tay nghề rất khá, nhìn bên ngoài không khác gì súng xung phong hiện đại bao nhiêu.
Hắn lập tức phối trí thuốc súng không khói và thuốc nhồi. Hắn cho nhồi thuốc vào mấy chục viên đạn, bỏ vào băng, gắn vào súng, mở khóa bảo hiểm, đưa đạn lên nòng, không tệ, đạn thuận lợi tiến vào nòng, chỉ còn bước cuối cùng nữa thôi, đó là bắn thí điểm!
Dương Thu Trì dĩ nhiên không tự cầm súng bắn thử, hắn cột súng vào một cây trong vườn, bảo hộ vệ vá mấy bao cát đặt làm giá để ở ngoài mấy mét, sau đó dùng một sợi dậy cột vào cò súng, kéo đi thật dài, rồi nấp sau mấy bao cát, kéo dây.
Đoàng đoàng đoàng...!
Ba tiếng nổ giòn vang lên, bao cát phía trước hiện ba lổ lớn cát văng tung tóe!
Thành công rồi! Ha ha, Dương Thu Trì mừng rỡ, lại kéo cò mấy lần nữa, đoàng đoàng đoàng đoàng...., miệng súng phun ra lưỡi lữa, bắn hàng loạt đạn cắm vào bao cát phía trước!
Quá tốt rồi! Dương Thu Trì liên tục kéo sợi dây, khi bắn sắp hết băng đạn thử, thì "oành!" một cái, họng súng xì ra khói đen ... nổ lòng súng rồi!
Lòng Dương Thu Trì lạnh ngắt, lát sau mới quẳng sợi dây, từ từ bước tới xem xét, thì thấy nòng súng và khoang súng xung phong đã vỡ toát hết cả!
 
Chương 120: Súng máy Maxim (*) và Lão sáo đồng (**)
Dương Thu Trì tử tế quan sát dấu nứt của súng, hơi trầm tư. Hắn nhanh chóng hiểu ra nguyên do bên trong: kỹ thuật luyện thép không đạt đến yêu cầu chế tạo súng đạn hiện đại, do đó không thể tạo nòng súng và khoang súng không có chỗ hở cho súng xung phong 56. Sau khi liên tục xạ kích, nòng súng không chịu được nhiệt độ và áp suất cao, đã tự nổ vỡ.
Xem ra, muốn chế tạo súng ống hiện đại, cửa ải này cần phải qua. Nhưng hắn không biết luyện thép, và cũng không biết làm thế nào để tăng chất lượng thép và chế tạo nòng súng không có lổ hở.
Hắn lại tiến hành thử với súng bán tự động 56, y như vậy, sau khi bắn liên tục mấy chục viên đạn, nòng súng xuất hiện vết nứt.
Dương Thu Trì vô cùng chán nản. Lão hắc đầu là công tượng của triều đình, và lại vì tính mệnh của con trai mà tạo súng cho hắn, khẳng định là đã cố hết sức. Có thể nói, kỹ thuật của ông ta đã đại biểu cho kỹ thuật toi luyện tối cao của Minh mạt.
Hai cây súng đều có vấn đề về nòng, chỉ có thể nói kỹ thuật luyện thép ở thời Minh mạt này có vấn đề.
Làm sao đây?
Nếu như không thể đề cao kỹ thuật luyện thép, vậy chỉ có thể giảm độ nóng của nòng, giảm áp lực đi.
Muốn giảm áp lực của nòng, giảm lượng thuốc nhồi vào đạn là không hiện thực, vì sẽ giảm tầm bắn.
Tăng độ dày của nòng thì có thể, nhưng không thể tăng vô hạn chế, như vậy không những làm cho súng quá nặng, còn do nòng súng quá dày khi bắn liên tục trong thời gian ngắn sẽ khiến thành trong của nòng nóng hơn thành ngoài, không bình quân nhiệt độ sẽ nổ vỡ.
Do đó, biện pháp có thể tuyển chọn duy nhất là làm sao hạ thấp nhiệt độ nòng súng.
Có hai biện pháp, một là sử dụng loại làm lạnh chủ động nào đó, hai là kéo dài thời gian bắn giữa hai lượt đạn, để nòng súng có thời gian nguội đi.
Vì thế, Dương Thu Trì nghĩ tới súng máy Maxim làm nguội bằng nước và ống lắp đạn bên ngoài theo kiểu tạo của công xưởng Hán Dương (Chú; Nơi chuyên sản xuất súng đạn cho Trung Hoa trong thời nội chiến). Súng Maxim dùng nước lạnh giảm nhiệt nòng súng để khỏi bị nổ nòng, còn ống lắp đạn ngoài thủ công dành cho súng bộ thương, cố định 5 phát một lượt, đạn phỏng theo xuất phẩm súng moze (mauser) 1888 của Đức quốc xã. Khi tính đến độ bền của nòng súng, và cần để tán nhiệt, Dương Thu Trì quyết định lên đạn bằng tay, vừa làm giảm tốc độ giữa hai lần bắn, tránh bắn liên tục tạo thành nóng quá mà vỡ nòng. Đồng thời, mỗi lần bắn một loạt đạn cần lên đạn, nhắm kỹ lại, có lợi cho độ chính xác và tiết kiệm đạn.
Hắn chế định lại phương án thiết kế vũ khí, cho chế tạo súng mới.
Súng xung phong hiển nhiên không thể sử dụng làm lạnh bằng nước, bỡi vì chỉ bộ phận làm lạnh không đã 10 kg rồi, sao mà xung phong được. Do đó, trong tình huống hiện tại, chỉ có thể chế tạo súng máy hạng nặng.
Súng máy Maxim có rất nhiều bản, Dương Thu Trì tuyển chọn súng của Liên Xô năm 1910 làm mẫu chính.
file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2087%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---284_maxim220px-MWP_Maxim_wz1910.JPG
Loại súng máy này rất thường thấy trong điện ảnh, phía trước có ống làm lạnh bằng nước rất to, phía dưới thò ra một đầu súng nhỏ, sau đó là một cái thuẫn bài bảo hộ tay súng phía sau. Nó còn có một cái ống ngắm hình vuông, phía dưới có hai bánh xe. Hai bên có hai cái giá đỡ, thường dùng để thao túng xạ kích. Do có bánh xe, nên có thể trực tiếp kéo đi, có tính linh hoạt nhất định.
Loại súng này hiện đại tuy rất cũ kỹ, Dương Thu Trì không tiến hành nghiên cứu trọng điểm, nhưng khi học tập tri thức về súng, hắn có xem kỹ kết cấu và bản phác thảo, thử vật thật trong viện bảo tàng, nên về phương diện thiết kế không có vấn đề gì lớn.
Súng Maxim có uy lực rất dữ dằn, về lý luận thì có thể bắn 600 viên 1 phút, có thể bắn đơn hoặc liên, có thể điều tốc, giảm đến mỗi phút 100 viên. Tầm bắn hữu hiệu của nó khá xa, đạt 1000 mét, bắn qua thước đo đạt từ 2500m đến 3500 mét! Như vậy có thể nói, ở trên thành tường bố trí vài súng máy, thì địch quân không thể đến gần, chỉ có bị đánh chết hết!
Đương nhiên, hắn không làm hoàn toàn theo như vậy, mà căn cứ tình huống cải sửa, ví dụ như phương thức cung cấp đạn thì súng maxim truyền thống dùng băng đạn kết bằng bố, có thể bắn trong thời gian dài. Nhưng băng đạn vải bố dễ bị lép nổ đạn khi di chuyển, gặp nước dễ biến hình.... Trong khi đó cây súng máy đầu tiên của hắn tuyệt đối không để sai lầm này xảy ra, nếu không tổn thất không thể tính toán. Do đó, hắn quyết định mượn phương thức tiếp đạn loại súng máy 92 của Nhật, dùng bao đạn kim loại 30 phát do phá xạ thủ liên tục cung cấp. Như vậy đòi hỏi trình độ trầm tĩnh của phó xạ thủ cao, hơi phiền, như hiệu quả tốt, tuyệt không bị hỏng tắt.
Đối với đạn súng máy, hắn dùng loại vừa 7.62 ly của Trung Quốc, vì hiệu quả tạo thành vết thương sẽ mạnh hơn, bắn tạo thành đường vào chỉ một cái đốt ngón tay, nhưng miệng ra bằng cái chén.
Đạn này khi bắn vào cơ thể sẽ chấn động kịch liệt tạo thành tổn hại nghiêm trọng cho nội tạng. Do đó, chỉ cần bộ vị yếu hại trúng đạn, sẽ lập tức khiến người mất đi năng lực hành động, nhanh chóng tử vong. Do loại đạn này có lực xuyên thấu rất mnạh, nên một đường bắn có thể dễ dàng xuyên qua hai ba người!
Chỉ có điều, cây Maxim này quá nặng, thùng nước làm lạnh to, toàn bộ súng vượt hơn 60kg, dường như bằng thể trọng của người lớn! Nhưng mà, hiện giờ hắn đang tiến hành bảo vệ chiến, chứ không phải vận động chiến, không cần tính linh hoạt, trọng lượng có nặng cũng không phải là vấn đề lớn.
Súng máy Maxim làm lạnh bằng nước sẽ mỗi phút làm bốc hơi 1 lít nước, nếu bắn liên tục mười phút cần ít nhất 10 lít nước tuần hoàn. Bắn sẽ tạo ra hơi nước, lộ mục tiêu, nhưng trong thời cổ đại này không hề gì.
Súng bộ binh "lão sáo đồng" có kết cấu đơn giản hơn súng bán tự động, chỉ cần như vừa rồi, lão hắc đầu chế tạo chẳng phải là vấn đề.
Dương Thu Trì lập tức thiết kế bản vẽ, mất 2 canh giờ mới chế ra. Sau đó cho hộ vệ đi đưa cho lão hắc đầu, bảo ông ta dừng mọi công tác, tập trung toàn bộ nhân lực vật lực vào việc chế tạo hai món này. Đương nhiên, điều cần nhất là phải chế được vỏ đạn, đầu đạn và ngòi nổ. Hắn cho mang tới 500 lượng bạc làm kinh phí.
Còn lại là công tác của hắn. Hắn lập tức chế tạo đạn 7.62 ly.
Hắn chỉ cần phối trí thuốc súng không khói và thuốc ngói nổ, công tác nhồi thuốc cho hộ vệ hoàn thành, như vậy đề cao tốc độ. Hơn 100 phát đạn thí nghiệm đã bắn xong, nhờ Dương Thu Trì sử dụng vỏ đạn theo kiểu "Quyền sư thức" (kiểu găng tay), nên rất dễ thay ngòi nổ, nên hắn cho đem hơn 100 viên xài rồi này nhồi thuốc lại lắp ngòi nổ vào.
Vì thuận tiện cho việc chỉ đạo, tăng gia tiến trình, Dương Thu Trì cho khẩn cấp thiết lập một lò rèn ngay dưới giếng trời tại nha môn, cho dời xưởng sắt của lão hắc đầu về huyện nha. Dù gì hiện giờ trong tay hắn cũng còn vài nghìn lượng bạc có thể xài, nên hắn khẩn cấp cho gọi hết thiết tượng trong thành, luôn cả những người có dính dáng đến nghề sắt trong Minh quân và Đồng quân đến, tổng cộng mấy chục người do lão thiết tượng chỉ huy, phân thành các tổ dã luyện, phối trí, tinh chế, lắp ráp... Họ chia nhau hợp tác phối hợp, nên tốc độ không tệ.
Đầu đạn, vỏ đạn và ngòi nổ từ từ làm xong, Dương Thu Trì phối thuốc, mấy chục hộ vệ nhồi vào dưới sự chỉ đạo của hắn. Mọi việc đều án theo sắp xếp tiến hành, đến chiều thì đã tạo được mấy trăm viên đạn.
Khi Liễu Nhược Băng thức dậy, Quách Tuyết Liên đã nấu nước nóng sẵn, nàng tắm rửa cho thật thoải mái. Dương Thu Trì mặt dày đòi tắm chung, nhưng bị đuổi ra.
Sau khi tắm táp, Liễu Nhược Băng vẫn trong bộ đồ trắng như tiên nữ, Dương Thu Trì nhịn không được ôm chầm lấy nàng hôn lấy hôn để.
Chiều đến, đợt quặng khai thác đầu tiên đã được đưa về thành. Mấy chục thiết tượng trong huyện nha thay nhau toi luyện suốt đêm, tiếng đinh đinh đang đang vang lên không ngừng, gió lò rèn thổi phù phù, lửa nóng rực khiến người nhìn cũng nóng theo.
Dương Thu Trì bận rộn suốt ngày, hơi mệt, mượn dịp đó nghỉ ngơi một lúc, sau đó dẫn Liễu Nhược Băng đi thị sát tình huống bố phòng trên thành.
Tàn dương như huyết ánh hồng cả sường đồi, chiến trường máu tanh giờ đã sạch khói lửa. Hàng nghìn thi thể địch quân vẫn nằm ngổn ngang trên đất, nhưng khải giáp vũ khí trên người đều bị lột sạch, thu hồi. Những thành tường sụp đổ trước đó cũng đã được tu bổ.
Trên thành lâu hiện giờ đã tăng thêm mấy khẩu pháo mới được lão hắc đầu tạo ra. Chúng kết hợp với pháo của Đồng quân trước đó, đã gần 20 cây, bài trên mặt thành, phối trí đầy đạt thân tâm và đạn pháo. Rất nhiều dân công đang vận lên thành đá gỗ và hỏa thạch cùng các vật dụng phòng thủ.
A Hạnh Ny, Long Bỉnh và Vũ Kỳ cùng mọi người thấy Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng đến, cũng nồng nhiệt bước tới đón.
Long Bỉnh hơi khẩn trương hỏi: 'Dương thủ bị, tạc đạn pháo hoa của ông chuẩnbị thế nào rồi?"
Dương Thu Trì cả ngày nay bận rộn thí nghiệm đạn dược, chẳng chế tạo được trái tạc đạn nào. Nhưng lời này hắn không thể nói, sợ ảnh hưởng quân tâm, liền cười bảo: "Không thành vấn đề, đã tạo không ít rồi, đủ cho Trương tặc quân mỗi tên ăn một trái!"
Long Bỉnh nhe răng cười.
(*): Mã khắc thấm: Sir Hiram Maxim (1840-1916), nhà phát minh người Mỹ, đã phát minh ra súng máy Maxim. Đây là loại súng máy hạng nặng. Các khẩu Maxim được dùng rất phổ biến trên chiến trường trong chiến tranh thế giới thứ nhất các biến thể của nó được dùng bởi cả ba quốc gia tham chiến chính trên các chiến trường của riêng mình là: Đức với khẩu MG08 sử dụng loại đạn 8mm Mauser, Anh với khẩu Vickers sử dụng loại đạn .303 British và Nga với khẩu Pulemyot M1910 sử dụng loại đạn 7.62x54R. Súng Maxim không phải là chiếc súng máy đầu tiên, nhưng nó thực sự là một thứ vũ khí hiệu quả nhất.
Súng có thể bắn tự động 500 viên/phút. Nó đã gây ấn tượng mạnh với các nhà cầm quân của Anh, thế nên họ đã dùng nó như sự lựa chọn số một trong quá trình mở rộng thuộc địa ở Châu Phi.
Tại Chiến tranh Matabele 1893, 50 chiến sĩ người Anh đã có thể chế ngự 5.000 chiến binh Ndebele với chiếc Maxim này;và đó cũng là cảnh tượng trên hầu khắp các chiến trường lục địa.
file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2087%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---560_maxim7b08c6ed6cbece2517b4cf1e5165a41948796e13. jpg
Súng máy ngày nay:
file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2087%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---768_maxim010.jpg
(**) Lão sáo đồng:
Lão sáo đồng là loại súng TQ (các xưởng ở Hán Dương) chế tạo dựa trên phiên bản súng Mauser 1871/84 của Đức quốc xã, sử dụng đạn 7.92 ly, được TQ dùng nhiều trong kháng chiến. Xem hình
file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2087%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---344_laosaodong2010_7_17_79416_11479416.jpg
file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2087%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---881_laoxaodong2010_7_17_79408_11479408.jpg
 
Chương 121: Tri thức chính là lực lượng
Long Bỉnh ngẫm nghĩ, vẫn không yên tâm, e dè hỏi: "Dương đại nhân, số đạn pháo đó có thể chuyển lên thành lâu được không, vạn nhất địch quân đột nhiên đến đánh, e rằng phản ứng không kịp."
"Không cần! Số đạn pháo này uy lực quá lớn, cần phải do ti chức tự thân bảo quản, một khi khai chiến, do tôi tự thân chỉ huy phát xạ mới được. Nếu không lỡ khi có sai xót, có một hai quả nổ trên thành lâu, thì chúng ta sẽ về tây thiên hết!"
Long Bỉnh cười khan: "Vậy cũng đúng, hắc hắc, số đạn pháo đó uy lục quá mạnh, do Dương đại nhân tự thân chưởng quản là không còn gì hay bằng nữa."
Dương Thu Trì hỏi: "Hôm nay địch quân có động tĩnh gì không?"
Long Bỉnh đáp: "Căn cứ thám tử hồi báo, địch quan hạ trại cách hai chục dặm, không có dấu hiệu tấn công, nhưng dường như không có dấu hiệu triệt thối, khiến người nghi hoặc vô cùng."
"Quản gì chúng, chỉ cần bọn chúng tạm thời không tiến công, chúng ta có thêm thời gian chuẩn bị, thì sẽ có thêm phần thắng lợi. Đêm về nhất định phải chú ý động hướng của địch quân."
"Được, ta đã cho an bài quan sát các cao điểm, lấy lửa làm hiệu lệnh. Ngoài ra, còn cho chất củi khô ở chỗ địch nhân đi qua, đêm về sẽ đốt lên, nhò đó quan sát động hướng địch quân."
Long bỉnh dù sao cũng là lão tướng nhiều năm chinh chiến sa trường, đối với các loại chiến pháp cổ đại vô cùng quen thuộc, điểm này mạnh hơn người xuyên việt đến đây nhiều. Dương Thu Trì vô cùng cao hứng, chấp tay nói: "Long tướng quân chỉ huy có độ, ti chức bội phục. Ti chức trở về tiếp tục chế tạo đạn pháo."
Long Bỉnh cũng vô cùng khách khí, vội chấp tay nói: "Làm phiền Dương đại nhân!"
Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng trở về nội nha điển sứ.
Nếu như địch nhân còn chưa có dấu hiệu tấn công, Dương Thu Trì quyết định chế thêm đạn, và bắt đầu chế tạo nguyên liệu để làm tạc đạn bằng thuốc nổ đắng.
Quặng nguyên liệu để chế tạo thuốc nổ không khói, ngòi nổ và tạc đạn đắng đều có ở sau Đồng trại Tuyết phong sơn. Nhưng quặng mỏ này cũng không hiếm gì, chủ yếu là luyện ra axit sulfuric, axit nictic từ sulfat sắt, đá nitrat kali, và than đá.
Để tạo ra thuốc nổ đắn, thuốc nổ nhồi đạn không khói nitrat hóa và ngòi nổ, hắn đều sử dụng axit sulfuric và axit nitric. Hai loại này các luyện đơn sư của Trung quốc cổ đại đã biết phương pháp lấy để từ đó dùng để luyện đan. Người cổ luyện hai thứ này từ sulfat sắt nung chảy, trong quá trình đó lục phàn (sulfat sắt) phân giải phóng ra Dioxit sulfua (SO2) và SO3, trong đó SO3 kết hợp với nước gặp lạnh ngưng tụ thành axit sulfuric. Cổ đại luyện đơn sư gọi loại axit sulfuric là "Lục phàn du". Phương pháp luyện axit nitric cũng tương tự, nhưng nguyên liệu dùng là quặng nitrat kali.
Muốn làm thuốc nổ đắng còn có một nguyên liệu trọng yếu nữa, đó là phenol (C6H5OH). Thứ này có thể lấy từ nhựa than đá làm bằng cách gia nhiệt lên than đá trong môi trường cách tuyệt không khí chế thành.
Phương pháp đề luyện những loại nguyên liệu này Vô Trần đạo trưởng đều biết, đã dạy cho Dương Thu Trì, và đã có những thiết bị sẵn có, Dương Thu Trì cũng đã vận chuyển về nha môn.
Do những chuyện này, đặc biệt là phối chế hai loại axit đầu luyện đơn sư cổ đại đều nắm được, không có nhiều bí mật gì, số lượng công việc cũng nhiều, cho nên Dương Thu Trì đem chúng giao cho lão hắc đầu và các thiết tượng có kinh nghiệm làm. Sau khi hắn giảng giải, họ nhanh chóng nắm bắt được.
Thiết tượng từ chưng hấp than đá lấy nhựa than, rồi từ nhựa than đề luyện thành phenol, sau đó tạo ra axit sulfuric và axit nitric đưa đến cho Dương Thu Trì.
Công tác chế tạo thuốc nổ đắng người cổ không nắm, loại phối chế này không phải chỉ kết hợp tỉ lệ là được, mà còn phải trải qua quá trình hóa hợp tương đối phức tạp, có tính nguy hiểm nhất định, không khéo có thể trúng động hoặc phát nổ. Do đó, Dương Thu Trì tự làm, và nhờ đó đãm bảo kỹ thuật không tiết lộ ra ngoài.
Tạo thuốc súng không khói nitrat hóa chủ yếu cần axit sulfuric, axit nitric, sợi thực vật, ethanol, ether. Ngoài trừ ether, những nguyên liệu khác người cổ đều biết cách làm. Do đó, Dương Thu Trì tự chế tạo ether, vốn là thứ chất ma túy dùng trong ngoại khoa, cần phải bảo mật, không thể tùy ý truyền ra ngoài. Kỳ thật, để luyện chất này cũng đơn giản, chỉ cần dùng alcohol hóa hợp với axit sulfuric đậm đặc gia nhiệt đến lúc nào đó thì phân tử rời khỏi nước sinh thành ether.
Vật quan trọng của đạn là ngòi nổ, nguyên liệu cần là thủy ngân, axit nitric và alcohol không có nước (cồn trăm độ).
Ba loại này người cổ chỉ không nắm kỹ thuật luyện cồn, kỳ thật cũng dễ, cho chưng rượu rồi dùng đá vôi sống hút nước là xong.
Tuy nói ra thì đơn giản, nhưng dẫu sao thì cũng là một câu nói: tri thức chính là sức mạnh. Nói khác đi, tri thức là một màng giấy mỏng, nếu nắm bắt rồi, mấy phút sau là làm được. Còn không nắm bắt, mấy thế kỷ cũng trơ mắt nhìn.
Phối chế đạn và ngòi nổ cũng khá phức tạp gì, không chỉ đơn thuận là phối trộn mấy thứ theo tỷ lệ là xong, mà cần phải hóa hợp. Đối với người nắm về hóa học hiện đại, chuyện này khá dễ dàng. Rất may Dương Thu Trì là ngươi như vậy. Tuy hắn học về pháp y và kiểm nghiệm hình sự vật chứng, nhưng do trong pháp y kiểm nghiệm những vết thương do trúng đạn, bị nổ ...
đều liên quan đến kiến thức súng, thuốc nổ.... Nhờ hắn là người thích vừa học vừa hành, cho nên đã sớm xin vào phòng thực nghiệm của trường đại học thử làm qua hết mọi thứ. Hiện giờ, những thứ này không làm khó cho hắn.
Đương nhiên, có câu cách nghề như cách núi. Hắn chỉ nằm pháp y và kỹ thuật giám định, cũng như một số tri thức liên quan đến thuốc nổ và vũ khí hạn nhẹ. Đối với vũ khí hạng nặng, tăng, phi cơ.... thì hắn trợn mắt ngay.
Dương Thu Trì tạo ra đạn và thuốc nổ đắng này có độc, nên để đề phòng, hắn cần phải phòng hộ chu đáo.
Về phương diện tiếp xúc, hắn mang bao tay không thấm nước đao thương không thủng xuyên việt mang tới.
Hắn lại nhờ Quách Tuyết Liên dùng vải bố nhuộm sáp của Đồng gia làm một bộ đồ bảo hộ từ đầu tới chân, có tính phòng thủy rất mạnh, có tác dụng ngăn tiếp xúc cao.
Hắn còn cho chế tạo mặt nạ phòng độc, dùng đá vôi và đất sét kết hợp nước thành khối, hong khô, đánh mịn, chọn ra rồi chế thành những viên nhỏ tẩm mật ong, hong khô, cho thêm bột gỗ, bông chế thành mặt nạ phòng độc.
Những nguyên liệu hiện hữu hắn đều dùng chế tạc đạn. Nhưng nguyên tài liệu mới chưa luyện xong, cho nên hắn cho người chế tạo dụng cụ bảo hộ rồi tiếp tục chế đạn tù thuốc nổ không khói và ngòi nổ, giao cho hộ vệ làm đạn.
Đêm đó, Dương Thu Trì thức trắng, cộng thêm tối qua gấp hành quân, hắn đã hai đêm không ngủ. Nhưng do không biết khi nào địch nhân sẽ tấn công, nên tạo ra đạn nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Hắn tiếp tục cố sức, chừng nào chịu không nổi mới nghỉ một chút, sau khi thức dậy lại tiếp tục làm.
Liễu Nhược Băng thương xót hắn, bảo hắn nghỉ ngơi một hồi, nhưng hắn lắc đầu. Liễu Nhược Băng biết phu quân thực hiện công tác này có tác dụng quyết định tới thắng lợi, nên đành để cho hắn cố sức.
Đêm đó, cao thủ do Vũ Kỳ phái đi trở về, tuy bắt được lính trinh sát của địch quân, nhưng không hỏi ra tin tức có giá trị gì, cũng không biết địch quân định làm gì tiếp.
Sau đó ba bốn ngày, địch quân vẫn hạ trại y chỗ cũ, không tấn công cũng không thối lui. Nhưng Dương Thu Trì và các hộ vệ đã lợi dụng mấy ngày này chế tạo ra thêm 5 nghìn viên đạn.
Lão thiết tượng mang cả trăm thiết tượng phân công phụ trách, ngoại trừ chế tạo vỏ đạn, đầu đạn và ngòi nổ, tinh lực chủ yếu tập trung vào tạo ra Lão sáo đồng và súng máy Maxim.
Lão sáo đồng hơi đơn giản chỉ cần 4 ngày sau khi thử và thay đổi thiết kế là chế tạo được, hoàn toàn hợp cách, bắn mấy chục phát đạn mà không bị nổ nòng, độ chính xác phù hợp, nên Dương Thu Trì cao hứng, cho sản xuất lượng lớn.
Nhưng súng máy Maxim thì không thuận lợi gì, vì Dương Thu Trì chỉ dựa vào ký ức mà vẽ ra, trong khi đó kết cấu của súng này vốn khá phức tạp. Súng mấy lần tạo ra, thử đều không thành công, ngay cả đạn cũng không bắn được huống chi là nổ nồng.
Lão thiết tượng cũng giúp suy nghĩ, cải sửa lại kết cấu, qua năm sáu ngày mẫu thử đã bắn đạn được, nhưng một lát thì bị nổ nòng, thỉnh thoảng còn nổ luôn lòng súng. Những súng chế tạo thử đều không qua được thử nghiệm, xem ra vấn đề chủ yếu ở kết cấu. Súng maxim có kết cấu quá phức tạp, xã hội hiện đại thì gần như không còn loại súng này nữa, nên Dương Thu Trì thật sự bó tay.
Sau khi thử mấy lần đều thất bại, Dương Thu Trì đành bỏ qua chuyện tạo đạn, chuyên tâm cải sửa kết cấu. Rất may là hắn có tri thức kha khá về súng ống hiện đại, nên căn cứ vào đó mà cải sửa lại bản thiết kế, tình huống bắt đầu chuyển biến tốt.
Khi lão hắc đầu căn cứ vào bản thiết kế mới nhất của Dương Thu Trì chế tạo lại, thì địch quân đột nhiên phát động tiến công đại quy mô!
 
Chương 122: Địch nhân giảo hoạt
Tiến công được tiến hành vào lúc hắc ám nhất trước khi bình minh!
Trước tiên, thành lâu phía tây vang lên hiệu giác cảnh báo địch quân tiến công. Lát sau, liền nghe tiếng nổ lớn trên thành lâu, trong tiếng pháo, ẩn ước nghe tiếng gào giết từ ngoài thành.
Lúc này, Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng đang giám đốc các thiết tượng dẫn đầu bằng lão hắc đầu chế tạo súng máy cực kỳ quan trọng trong xưởng chế tạo tại nha môn.
Súng máy còn chưa chế tạo ra, súng bộ thương Lão sáo đồng chỉ chế được 6 cây. Do đoạn thời gian này hắn toàn tâm toàn ý tập trung vào chế tạo súng máy maxim, cho nên không tiến hành giảng dạy cách sử dụng súng bộ thương Lão sáo đồng này cho các hộ vệ, ngay cả Lưu Dũng cũng không biết dùng, ngoại trừ hắn ra không ai biết cả, quả là thất sách.
Ôm chân phật khi nước tới trôn là không thể, hắn ra lệnh cho lão hắc đầu tiếp tục tạo súng máy, khi tạo xong trực tiếp mang lên thành lâu. Hắn đế Liễu Nhược Băng lên thành lâu phòng thủ trước, sau đó tự chạy vào trong lấy một cây Lão sáo đồng, mang theo một thùng đạn đã lắp sẵn, bảo Lưu Dũng cùng các hộ vệ vác mấy chục quả tạc đạn bằng đá vội chạy ra Tây thành, trèo lên thành lâu.
Dương Thu Trì từ sau công sự quan sát, nhờ có ảnh lửa chiếu, có thể nhìn thấy xa xa đầy đầu người, tiếng quát giết vang trời đang xông về phía này.
Dương Thu Trì vội hỏi Long Bỉnh: "Long tướng quân, địch tình thế nào?"
Long Bỉnh vô cùng khẩn trương: "Không rõ, vừa rồi lính gác ở trên núi đốt lửa cánh báo, biểu kỳ địch quân đang tấn công về hướng này, ta mới hạ lệnh thổi hiệu giác báo động. Tiếp đó, địch quân đã xông lên. Nhưng lần này từ tình huống di động mà xét, tựa hồ không phải kỵ binh, mà là bộ binh, hơn nữa tốc độ khá chậm, ta lo là địch quân đang kéo hỏa pháo đến!"
Dương Thu Trì khẩn trương: "Hỏa pháo?"
Bên hắn có gần 20 hỏa pháo, địch nhân khẳng định có nhiều hơn. Xem ra, địch nhân biết tạc đạn của hắn lợi hại, không dám thự hiện chiến thuật biển người tấn công dày đặc, mà chuyển sang dùng hỏa pháo bắn xa quấy nhiễu.
Hỏa pháo cổ đại thường bắn đạn thật tâm, nhiều lắm là sử dụng thêm khai hoa đạn (đạn nổ bung ra mảnh đạn) dùng thuốc nổ đen. Loại tạc đạn này uy lực rất nhỏ, chỉ có ở sát điểm nổ mới thụ thương, không cần phải lo. Minh quân, Đồng binh và bá tánh tham chíên đối với loại tạc đạn này hiểu rất rõ, đều ẩn sau thành đóa rất dày.
Pháo đạn của địch quân nổ trên thành tường, đều là đạn khai hoa, không tạo thành thương vong gì lớn.
Long Bỉnh hạ lệnh ẩn nấp, chờ địch quân bức gần rồi phản kích, do đó, họ chỉ im lìm nghe pháo hỏa của địch quân không ngừng nổ trong ngoài thành.
Địch quân dường như không gấp cường công, vừa dùng hỏa pháo tập kích lên thành lâu, vừa từ từ tiến bước.
Dương Thu Trì rất phiền vì chuyện chỉ bị đánh mà không thể đánh trả, ra lệnh cho nhồi đạn vào các hỏa pháo phất lãng cơ (Chú: Nhà Minh phỏng chế lại pháo của Bồ Đào Nha du nhập vào (từ năm 1522 đời Gia Tĩnh), gọi pháo đó là Phất lãng cơ (theo tên phiên âm của Bồ Đào Nha). Năm 1524 chế được 30 khẩu, mỗi khẩu nặng 300 cân. Đặc điểm của pháo thời này là phối theo kiểu mẫu tử: mẫu súng dài to, có tử súng nhỏ lồng bên trong. Thường nhà Minh trang bị cho quân đội phía Bắc và hải quân. ND). Loại hỏa pháo này sau khi bắn xong, ống chứa thuốc có thể lấy xuống (thực ra là tử súng), đổi bằng ống thuốc súng đã điền sẳn, sau đó bắn lần hai, nguyên lý giống như đổi đạn pháo ngày nay vậy.
Sau khi lắp đạn xong, hắn hỏi Long Bỉnh: "Long tướng quân, hỏa pháo của chúng ta có thể đánh trả không?"
Long Bỉnh cười khổ: "Không được, dương đại nhân, địch quân sử dụng hồng di đại pháo (loại pháo lớn mua của các thương gia phương Tây). Loại pháo này có đường bắn xa, gấp đôi hỏa pháo của chúng ta. Hiện giờ chúng đánh tới chúng ta, nhưng hỏa pháo của chúng ta không bắn tới. Nếu không, ta đã sớm yêu cầu ông dùng khai hoa pháo đạn diệt bọn thỏ này rồi!"
Thời Minh mạt, hỏa pháo tự chế của Minh triều theo hình loa kèn, ống pháo ngắn, nòng pháo cụt như vậy nên bỏ thuốc súng vào ít, trình độ kín khí không cao, vì thế bắn gần, rất dễ nóng, tốc độ bắn chậm. Ngoài ra, Minh triều tự chế súng đều từ đồng, tuy trọng lượng nhẹ, nhưng co giản dễ, nên bắn vài phát là biến hình, ảnh hưởng đến xạ trình và độ chính xác.
Nếu so ra, hồng di đại pháo chế toàn bằng sắt, độ cứng cáp và kín khí cao, trước nhỏ sau lớn, phù hợp quy tắc biến hóa ép nòng, pháo thân sử dụng cách đúc khuôn, đáp ứng yêu cầu khoa học, phối hợp với những thiết bị phụ trợ nên chất lượng rất cao, tỷ lệ thích hợp, tỷ lệ nổ nòng thấp.
Do thân pháo dài, bỏ nhiều thuốc, tầm bắn rất xa. Pháo tự tạo của Minh triều chỉ bắn xa khoảng 3 dặm, thì hồng di đại pháo có thể bắn xa 7-8 dặm.
Do đó, hồng di đại pháo của quân đội Trương Hiến Trung có thể bắn lên thành tường, nhưng pháo đồng của Dương Thu Trì chẳng có cách gì bắn trả.
Dương Thu Trì tức đến phát điên, nhưng không còn cách nào, chỉ còn chờ địch quân đến gần.
Nhưng địch quân dường như biết đối phương không có hồng di đại pháo, biết khai hoa đạn bằng đá có uy lực cực mạnh của đối phương không bắn xa được, nên đến ngoài tầm bắn của đồng pháo là dừng lại, không ngừng dùng hồng di đại pháo phá tường thành, không tiến công.
Cứ như vậy hơn một thời thần, do hồng di đại pháo bắn có đang thật tâm (xem hình) và đạn khai hoa (xem hình), nên đã tạo thành con số thương vong mấy chục người cho Minh quân và Đồng quân trên thành, tường thành cũng bị phá tan nát, binh sĩ nấp sau thành đóa có không ít người bị đập cho thương tích đầy mình.
Địch quân không tiến công cũng hay, Dương Thu Trì nghĩ vì dù sao thì hắn cũng chỉ có mấy chục quả tạc đạn, căn bản không thể chống lại tiến công đại quy mô. Nhưng nếu cứ như thế này không cũng không phải là cách hay. Đang lúc hắn suy nghĩ xem nên làm thế nào, thì ba phương hướng đông, nam, bắc khác đồng thời nổi lên tiếng quát giết! Ba thành lâu ở đó đều đốt pháo lửa cảnh báo địch quân phản công, tiếng còi hiệu vang khắp nơi.
Chính vào lúc này, địch quân phía trước hắn trống trận dập dồn, tiếng hét vang trời, như thủy triều cuốn tới xung phong!
Dương Thu Trì đại kinh thất sắc, thì ra là địch quân ở trước mặt chờ đợi địch quân ở 3 phương hướng khác rồi mới hành động theo, tiến công cùng lúc.
Địch quân có 3 vạn người, cho dù binh phân 4 đường thì mỗi đường cũng 7 nghìn hơn.
Trong khi đó quân thủ thành tổng cộng chỉ có sáu nghìn người, trong đó 1 nghìn Đồng quân đã phái đi vận chuyển quặng mỏ, còn lại 5 nghìn thì 4 nghìn đang ở tây thành, nhân vì Kiềm Dương cổ thành có 3 mặt là núi, chỉ có phía tây là bằng phẳng, có lợi cho tiến công đại quy mô.
Ba mặt khác đều là núi cao rừng rậm, không thích hợp tác chiến đại quy mô, cho nên Long Bỉnh phụ trách phòng thành đã chia binh lực các nơi đó chỉ đủ 500 người, còn chủ lực 3 nghìn 500 người tập trung ở phía tây.
Sắp xếp như vậy đương nhiên không có vấn đề, nhưng không ngờ địch quân sau khi triệt lui 20 dặm mấy ngày trước đã lập tức phân binh, chỉ lưu 1 vạn 5000 binh ở lại, còn lại chia ba đội, ẩn mật vu hồi lẻn về ba phương hướng, tiếp cận thành vào ban đêm, ước định khi trời sắp sáng thì đồng thời tấn công.
Chính diện địch quân như triều, nhanh chóng tiến vào tầm bắn của Phất lãng cơ.
"Phóng!" Dương Thu Trì quát lớn.
Mấy khẩu phất lãng cơ đồng thời gầm lên, miệng pháo phun lửa, mấy tạc đạn bằng đá bay ra, rơi vào địch quân.
"Oành oành oành...!"
Một loạt tiếng nổ lớn xé rách thi thể binh sĩ địch quân, nhưng nhờ ánh lửa, Dương Thu Trì phát hiện thi thể bị bay đi của địch quân không nhiều như lần trước!
Như vầy là thế nào?
Cho dù tốc độ bắn của Phất Lãng Cơ đã khá nhanh, nhưng địch quân xung phong với tốc độ nhanh, khi lần bắn thứ hai vừa xong thì chúng đã cách tường thành mấy trăm mét. Mấy tiếng pháo nổ, có không ít địch quân bị xé nát bay tung.
Nhờ hỏa quang, Dương Thu Trì cuối cùng nhìn rõ, thì ra là đội hình xung phong của địch lần này phân tán, tự nhiên chẳng thể nổ chết nhiều người.
Địch quân cũng là người, có đầu óc, xem ra mấy ngày nay chúng không nhàn, nghiên cứu ra cách đối phó tạc đạn của Dương Thu Trì, đã tránh xung phong dày đặc.
Lượt pháo thứ ba nổ, vô số địch quân ngã, nhưng 3 lần này số lượng chết không bằng 1 lần lúc trước! Và mọi tạc đạn của Dương Thu Trì đều đã dùng sạch rồi!
Đợt bắn thứ tư là đạn phổ thông dùng thuốc súng đen và thật tâm đạn.
Thấy uy lực của tạc đạn giảm, du kích tướng quân Long Bỉnh vội hỏi Dương Thu Trì: "Dương đại nhân! Sao thế? Đầu đạn bằng đá đâu?"
Dương Thu Trì không đáp, lòng lạnh hẳn.
Lúc này, địch nhân đã xông tới dưới thành, bắc thang mấy cường công. Liễu Nhược Băng như con nhạn lớn bay tung trên thành, đoản kiếm trắng lấp lóe hàn quang, chém giết địch quân tiến lên trên thành lâu.
Không ngờ, lần này công thành địch quân đều dùng hảo thủ võ công, tuy không bằng Liễu Nhược Băng, nhưng mỗi tên đều có thể đánh hơn mười hiệp với nàng, hơn nữa khi lên không liều mạng mà đánh xoắn ngăn chân tay nàng, để cho các quân sĩ khác cùng xông lên.
A Hạnh Ny và hơn chục thân binh Đồng quân đã bị địch quân đánh lên mặt thành bao vậy, đang liều mạng chém giết.
Dương Thu Trì không gia nhập chiến đoàn, võ công hắn chẳng hơn địch quân bao nhiêu, gia nhập không cải biến được gì. Rất may là trong tay hắn có cây súng lão sáo đồng Mauser 1888 của Đức quốc xã!
"Đùng! lách cách! Đùng.... Lách cách..."
Dương Thu Trì dùng tư thế quỳ bắn, dường như mỗi phát diệt một tên. Chỉ có điều, lần này hảo thủ võ công đánh lên không ít, chết tên này tên khác tu bổ vào, tiếp tục đấu rát với Liễu Nhược Băng. Còn quân sĩ của địch dù bị chết khá nhiều vì vũ khí thủ thành, nhưng do quá đông, nên điểm đột phá ngày càng lớn.
Trên thành lâu, hai bên bắt đầu triển khai trận chiến xáp là cà vô cùng khốc liệt.
 
Chương 123: Chiến tranh và đồ sát
Những hảo thủ võ công phát hiện Dương Thu Trì đang bắn lén, dùng ám khí chào mời họ, liền có mấy tên vung đao kiếm xông về phía hắn. Số này bị Dương Thu Trì dùng súng bắn chết hết 3 tên, nhưng súng bộ binh của hắn chỉ nạp có 5 phát đạn, nhanh chóng bắn sạch. Nhân lúc hắn nạp đạn khác, mấy địch quân đã xông tới trước, Lưu Dũng cùng mọi người vội vung đao kiếm nghênh kích. Dương Thu Trì không kịp lắp đạn, rất may là súng có trang bị lưỡi lê, nên hắn bật lê ra cùng mấy người đó đánh giáp lá cà.
Chính vào lúc này, trong thành đã đại loạn. Tiếng quát giết đã vang lên khắp cả huyện thành. Thì ra, ba mặt thành khác do không phối bị hỏa pháo, lại không có siêu cao thủ như Liễu Nhược Băng bảo hộ, nên binh sĩ phòng thủ chỉ ít ỏi năm trăm người đối diện với địch quân đông gấp mười lần. Do đó, thành lâu ba mặt thay nhau thất hãm, địch quân từ ba phía tràn vào, đánh thốc vào trong thành.
Dương Thu Trì dùng lê đâm chết hảo thủ của địch quân đối địch với hắn, nghe tiếng hò hét trong thành, biết thành đã phá, thở dài, Ai! Coi như công cốc rồi!
Chính lúc tiếng pháo, tiếng hỏa súng và tiếng hò hét loạn thành một đoạn, thì ở dưới cầu thang dẫn lên mặt thành có tiển của lão hắc đầu: "Dương đại nhân! Dương đại nhân! Ngài ở đâu...? Súng tạo xong rồi!"
Quay đầu lại nhìn, hắn thấy lão hắc đầu và các thíet ượng vác cây súng máy maxim lên thành lâu! Ngoài ra còn có các thiết tượng ôm mấy thùng đạn. Số đạn này đã đượng Dương Thu Trì dùng tút đạn 30 viên kết vào hết, có thể trự tiếp sử dụng.
Dù chỉ là một cây súng mô phỏng, chưa thiết kế định hình, nhưng Dương Thu Trì đã chẳng màng gì nữa. Hắn được Lưu Dũng và các hộ vệ yểm hộ, bước tới vận thần công tiếp lấy súng máy từ vai họ, cho gác lên mấy thi thể hảo thủ của địch quân bị hắn đánh chết, mở thùng đạn lấy một băng lắp vào, điều thành bắn từng viên: "đoàng... đoàng... đoàng"
Mấy tiếng nổ giòn tan vang lên, các hảo thủ võ công vây quanh Liễu Nhược Băng dùng đòn xa luân chiến thay nhau ngã rụi! Số còn lại bị Liễu Nhược Băng một chiêu chém rụng hết!
Liễu Nhược Băng thoát khỏi đòn xa luận chiến, quay đầu vui vẻ nhìn Dương Thu Trì: 'Phu quân, thành lâu giao cho thiếp, chàng đi thu thập địch quân công đánh vào thành đi!" Tiếp đó nàng như luồng hồng quang bay đi, nơi nào đến cũng kiếm quang lấp lóe, vang lên không ngớt tiếng gào thảm của binh sĩ địch quân trước khi tử vong.
Dương Thu Trì điều chuyển mũi súng, bắn từng tên địch đang bao vây A Hạnh Ny giãy chết hết.
A Hạnh Ny chạy lại, bật khóc gọi: "Thu Trì ca...!"
Dương Thu Trì không kịp an ủi con chim sơn ca kinh khủng, tiếp tục dùng chế độ điểm xạ (bắn từng viên) bắn địch quân trên thành lâu.
Hắn đồng thời nói với Lưu Dũng và các hộ vệ: "Mã Lăng Vũ, Phó Quan và Hồ Thủy lưu lại, Lưu tướng quân lập tức mạng các huynh đệ trở về, một bộ phận đem những rương đạn và bình nước đến đây, hội hợp ở dưới thành lâu. Những người khác lưu lại trong nha môn bảo hộ nha hoàn Tuyết Liên của ta!"
Lưu Dũng mang hộ vệ vội vã bỏ đi.
Dương Thu Trì lại ra lệnh cho Mã Lăng Vũ dẫn hộ vệ xuống thành dọn đi một ít bao cát bít ở cửa thành.
Mã Lăng Vũ không biết mệnh lệnh này có ý tứ gì, cũng không kịp hỏi, lập tức mang chúng hộ vệ xuống thành lâu.
Dương Thu Trì biết súng máy bắn quét ngang sẽ có uy lực lớn nhất, từ trên thành lâu bắn địch quân trên thành sẽ thương hại tới người của mình, bắn từ trên xuống thì uy lực giảm mạnh. Hắn lập tức quyết định ra thành, từ mặt đất bằng phẳng trực tiếp bắn địch quân ngoài thành. Và ra khỏi thành đương nhiên phải xếp dỡ bao cát.
Hắn lại bắn thêm một lúc nữa, diệt không ít địch quân tấn công lên thành lâu. Sau khi tính toán lượng bao cát đã dời đi khá nhiều, hắn vác súng máy xông xuống thành, A Hạnh Ny và tùy tùng cũng chạy theo.
Đến dưới thành, thấy bao cát đã được dọn ra chỉ còn cao bằng đầu người, Dương Thu Trì cho Mã Lăng Vũ, Phó Quan và Hồ Thủy ba người cầm đao kiếm mở đường phía trước, bản thân vác súng nhảy qua bức tường bao cát, đến lổ hổng ở cửa thành, đặt súng lên trên một bao cát tại vị trí thuận lợi. Hắn thấy A Hạnh Ny theo bên cạnh, liền nhờ nàng làm nhiệm vụ tiếp đạn, dạy nàng làm cách nào liên tục cung cấp đạn cho súng máy. Sau đó, hắn nhanh chóng điều chỉnh súng bắn mỗi phút 300 viên, hai tay kềm lên, ngắm hướng và bóp cò: "Tạch tạch tạch tạch....."
Họng súng máy maxim thè ra từng lưỡi lửa, quân địch đối diện lỗ trống trước cửa thành bị thu cắt mạng sống giống như lúa mạch, ngã rạp liên tiếp.
Súng máy maxim được thiết kế vào thế kỷ 19, nhanh chóng đưa vào thật chiến. Vào năm 1893, 50 bộ binh Rhodesia đã sử dụng 4 cây súng maxim đánh lui 5000 quân Zulu tấn công mãnh liệt. Trận địa lưu lại 3000 thi thể của quân tiến công. Trong chiến tranh thế giới lần I, trong chiến dịch Tamoha, quân đức bình quân đặt một cây maxim mỗi 100 mét, dùng mật độ hỏa lực đó bắn điên cuồng vào 14 sư đoàn Anh quốc tấn công trong bình diện 40 km, trong vòng một ngày đã khiến 6 vạn binh sĩ Anh quốc thương vong! Súng máy maxim từ đó có danh xưng là "Máy xay thịt trên chiến trường", được coi là vũ khí giết người nhiều nhất trên thế giới.
Dương Thu Trì không chân chính kiến thức qua sự lợi hại của vũ khí này trước đây. Giờ phút này, trên chiến trường cổ đại, hắn đã tự thân sử dụng và nghĩ tới đoạn có trình bày trong Bách khoa toàn thự về vũ khí trang bị:
"Súng máy maxim xuất hiện đại biểu cho một thời đại kết thúc, những chiến thuật đã sử dụng từ thời Nã Phá Luân (Napoleon) đã hoàn toàn vô dụng rồi".
Hiện giờ hắn đã minh bạch hàm nghĩa của câu nói này: quân đội cổ đại nếu đối diện với loại vũ khí siêu khủng bố này, chiến tranh không còn gọi là chiến tranh nữa, mà nên gọi là cuộc đại đồ sát!
Đại quân của Trương Hiến Trung không biết cái động trên cửa thành có một tử thần khủng bố đang cười gằn. Do xung quanh đầy tiếng pháo, tiếng hỏa súng và tiến hò giết vang trời, nên tiếng súng máy vang lên nghe nhẹ và êm vô cùng. Nhưng thanh âm đó lại mang theo lưỡi hái tử thần, khi nó điểm tới thì sinh mệnh cũng bị cắt hái mang đi.
Trong bóng tối trước khi trời sáng, tuy có lửa và pháo hỏa trên thành chiếu có thể nhận tình huống mờ mờ, nhưng trong lổ hổng ở cổng thành tối đen, không ai ngờ ở đó mai phục tử thần, và ai tấn công đến đó cũng đều ngã rạp. Không ai biết họ đối diện với vũ khí khủng bố gì, chỉ biết chiến hữu xung quanh ngã rạp gào thảm, thậm chí không biết tử vong từ đâu ra, không biết rốt cuộc là cái gì đoạt đi sinh mệnh của mình. Cho dù là đạn réo rít sát mang tai, hoặc là lật hộp sọ, bắn nát tay đùi, phá thủng bụng ngực, họ cũng không biết cái chết vô cùng kỳ dị thảm không thể tả này từ đâu mà ra. Các thi thể đó nhanh chóng bị những thi thể sau đè lên, che lắp!
Tử thần như u linh từ trong khẩu maxim phỏng chế của Dương Thu Trì gầm thét bay khắp chiến trường, đem những linh hồn chú định phải chết đi thật nhanh.
A Hạnh Ny chuyên tâm cung cấp đạn cho súng máy của Dương Thu Trì, không nhìn cảnh đó. Nhưng Lưu Dũng và các hộ vệ thấy địch quân ngã xuống chết như rạ, vừa mới đầu còn kích động hét cuồng, lát sau liền bị thứ tử vong trong một diện tích cực nhỏ và đầy khủng bố này làm cho sửng sờ, trợn trừng mắt, há hốc mồm!
Nước lạnh trên nòng súng bị chưng thành khí cựcnhanh, nhanh chóng cạn nước. Dương Thu Trì vẫn còn rất bình tĩnh, lập tức phản ứng ngay. Nước lạnh trong thùng dẫn đã bị nhiệt lượng từ nòng súng bắn liên tục đốt bay hơi gần cạn rồi, nếu không đổ nước thêm vào, sẽ vỡ nòng.
Dương Thu Trì dừng bắn, quát: "Lưu tướng quân, thêm nước!"
Lưu Dũng căn bản không hề nghe. Y và các hộ vệ nhìn đờ đẫn ra ngoài thành, nơi có từng lớp tử thi mà phát ngốc. Vừa rồi những kẻ đó còn phát điên la hét bắn tên, hỏa súng, múa đao kiếm xông lên thành, nhưng chớp mắt sau họ đã thành những thi thể bầy nhầy đầy mái. Vừa rồi ngoài cổng thành còn đầy tiếng huyên náo, hiện giờ đã lặng lẽ đi nhiều. Chỉ còn những kẻ trọng thương kêu gào thảm thiết, nhắc nhở là họ vẫn còn sống.
Dương Thu Trì vỗ lên đầu Lưu Dũng một cái mạnh, quát: "Lưu Dũng! Thêm nước cho súng! Có nghe chưa!"
Lưu Dũng cuối cùng cũng phản ứng lại, vội đổ cả thùng nước lớn trên lưng vào bồn nước làm lạnh của súng máy maxim.
Địch quân trước mắt gần như đã ngã chết hết. Dương Thu Trì lại vận thần công, ôm súng chui ra ngoài thành.
Lưu Dũng cũng các hộ vệ không cần hắn ra lệnh, lập tức vác mấy bao cát ra để trước cổng thành, Dương Thu Trì gác súng máy lên đó, điên cuồng bắn quét hai bên phải trái.
Cửa thành tuy chết mấy trăm địch quân, nhưng toàn bộ chiến trường vô cùng hỗn loạn, cộng thêm trời chưa sáng, tuy có khói lửa và đen đuốc trên thành chiếu sáng, nhưng dưới thành vẫn hôn ám, cho nên, địch quân hai bên thành không hề biết tử thần vừa chui khỏi lổ, đáng gầm thét bay tới chúng.
Do trên thành không còn tạc đạn bằng đá của Dương Thu Trì ném xuống, do đó, địch quân bắt đầu tấn công dày đặc trở lại. Chúng đem thang dây bắc treo lên thành. Những tên phía sau thì từ dưới bắn tên lên, bắn hỏa súng, và hò hét trợ uy. Chính vào lúc này, súng máy maxim của Dương Thu trì lại bắt đầu lên tiếng, khạc đạn như mưa trút xuống người chúng.
Dương Thu Trì biết tổng số đạn của mình không tới 6000 viên, cho nên không bắn càn, mà chọn chỗ địch nhiều nhất tiến hành bắn quét. Loại đạn này có lực xuyên thấu rất mạnh, trong đám người dày đặc như vậy, một viên có thể dễ dàng xuyên qua ba bốn địch nhân. Hắn chọn bắn quét chứ không phải bắn tỉa là vì tránh từ một chỗ bắn những hai viên vào người địch nhân, tranh thủ mỗi viên đạn giết ít nhất một tên, tránh lãng phí.
Chiến trường cổ căn bản không ai biết cái gì là súng máy hạng nặng, và cũng chưa hề nghe qua hỏa súng có thể bắn đạn vượt cự li một tầm tên. Thời Minh mạt cơ bản vẫn còn là thời đại lãnh binh khí, uy lực của hỏa pháp và thuốc nổ vẫn còn hạn chế. Hỏa súng chỉ có thể bắn xa mấy chục bước, do đó, họ cơ bản không cần dùng cách lăn lê bò lết để tránh né các đạn nổ và tử đạn. Bọn họ hầu như không có ý thức nằm bò xuống để tránh đạn, vẫn đứng phóng tên và bắn súng lên thành lâu. Và cho dù có ai đó phát hiện tình huống không ổn, cũng không biết làm cách nào tránh nụ hôn của tử thần, để rồi hết kẻ này đến kẻ khác cứ mặt cho lưỡi lửa của súng máy Maxim líêm tới, ngã vật xuống đất về chầu ông trời.
 
Chương 124: Trảm soái đoạt kỳ
Dương Thu Trì cảm giác bản thân hiện giờ giống như một thợ hớt tóc, trên tay cầm một cái dao cạo cực bén, dù nước ấm phun xịt cho đầu tóc ướt xong, nhẹ lướt lưỡi dao, từng lọn tóc thi nhau rơi xuống. Dao đến đến lông tóc rụng sạch đến đó, sát tận da đầu! Và dưới tầm càn quét của cây súng maxim hạng nặng, không có ai có thể đứng vững.
Hắn nhắm hai bên phải và trái cổng thành bắn dồn, trong thời gian cạn một chung trà, hai bên cửa thành phía tây mấy trăm mét ngoại trừ hàng nghìn thi thể chồng chất, không có người nào sống sót!
Thủ quân trên thành bị sự tình phát sinh bên dưới ngẩn cả ra. Bọn họ mới đầu còn không biết vì sao địch quân đột nhiên ngã ra chết. Chờ khi dưới thành người chết ngày càng nhiều, tiếng hò hét, tiếng hỏa súng ngày càng ít, chỉ có tiếng gầm thét tạch tạch của súng máy hạng nặng trong tay Dương Thu Trì, lúc này họ mới biết thì ra là thứ vũ khí như xuất phát từ chỗ tử thần đến nằm trong tay Dương Thu Trì thoáng chốc đã lấy đi tính mạng hàng nghìn địch nhân! Và thế là, một truyền mười mười truyền trăm, thủ quân khắp thành đều biết bên mình có lưỡi hái tử thần chuyên gặt hái sinh mệnh địch nhân, có thể chớp mắt cắt đi vô số đầu địch!
Trong chiến tranh thời cổ đại, sĩ khí vô cùng trọng yếu. Quân đội có sĩ khí cao thường có thể lấy ít thắng nhiều. Và sĩ khí chủ yếu đến từ lòng tự tin tất thắng nhất. Sự tự tin đối với thắng lợi khiến người ta bạo phát lực lượng mà ngày thường họ không ngờ.
Do đó, thủ quân trên thành lâu bắt đầu phản kích mãnh liệt địch quân xông được lên mặt thành hoặc đã vào trong thành. Tin tức này cũng nhanh chóng truyền khắp toàn thành, nên bá tánh trong thành sục sôi lên. Và khi chuyện đó truyền đến tai bá tánh, thì chuyện thường đã trở thành bất thường, cố sự đã trở thành thần thoại. Họ truyền tai nhau rằng, vị trượng phu của bạch y nữ hiệp suýt giết chết Trương Hiến Trung trong trận huyết chiến ở Phượng Dương Thành mười năm trước, và cũng là tân nhiệm thủ bị của Kiềm Dương huyện Dương Thu Trì, đã cầm trong tay một quái thú hung mãnh. Miệng có quái thú chỉ cần há ra, là có thể phóng vô số quái thú nhỏ, chớp mắt có thể cắn chết cả trăm địch quân. Hiện giờ, mặt tây thành thi thể của địch quân đã chất chồng thành núi. Mặt tây thành đã không còn địch quân tiến công, bỡi vì tất cả đều bị quái thú của Dương thủ bị tiêu diệt!
Thứ thần thoại này có lúc có tác dụng làm tê liệt và an ủi sự hoảng sợ của con người. Do đó, bá tánh trong thành sôi sục, đều cùng vác gậy gộc dao búa tham gia chống cuộc hạng chiến vô cùng kịch liệt với hàng nghìn địch quân từ ba mặt thành đánh vào.
Trong thời lãnh binh khí, một binh sĩ tay cầm đao chẳng mạnh hơn dân chúng cầm dao phay bao nhiêu, đặc biệt là đấu chiến cận thân trong những con đường hẹp. Địch quân xông vào phần lớn là cầm trường mâu, vốn cho là đại binh đã phá thành, bá tánh sẽ như con dê im lìm quỳ xuống để mặc cho chúng chém giết. Thật không ngờ, ở Tương Tây dân tộc thiểu số người Miêu và người Đồng rất nhiều, và hán tộc tạp cư cũng bị phong tục địa phương ảnh hưởng, nên biến thành bưu hãn vô cùng. Điểm này có thể giải thích vì sao trong chiến tranh giải phóng Trung Quốc sau này, thổ phỉ ở Tương Tây nổi tiếng toàn quốc về sự hung hãn thiện chiến. Hiện giờ, dân chúng ở đây có hai vợ chồng bạch y nữ hiệp lãnh đạo, cộng thêm một quái thú khủng bố biết cắn người hỗ trợ, lại có mấy nghìn Đồng quân và Minh quân, đã dậy lên niềm hi vọng sống còn, nên phàm ai có thể động đậy đều xách vũ khí đánh bừa với địch quân.
Và thế là mấy nghìn địch quân đánh vào trong thành rơi vào biển người mấy vạn bá tánh đang tiến hành chiến tranh nhân dân với chúng. Điều khác biệt sau khi thành phá ở những lần trước là, trong lần này, ở đầu đường cuối hẽm đều là xác chết của tướng sĩ địch quân công vào thành. Đến chết chúng cũng không thể nào tin là mình đã bị dao phay, gậy gỗ, thậm chí đá cụi tước đoạt sinh mệnh!
Lúc này, ánh ban mai cuối cùng đã chiến thắng hắc ám, trời đông đã lộ mây vải cá báo hiệu một buổi bình minh mới sắp bắt đầu. Ngoại cửa tây thành, sau khi địch quân mấy trăm mét chung quanh Dương Thu Trì đã bị diệt sạch, mượn ánh sáng mờ mờ, hắn nhìn thấy ở xa xa có không ít địch quân hoảng hốt cùng vô số chiến mã, thiết giáp kỵ binh... Giữa những khải giáp sáng choang và mã đao lóe hàn quang đó, có một ngọn cờ viết chữ Soái cao cao, càng lúc càng rõ ràng dưới ánh bình minh rực rỡ.
Cờ chữ Soái! Đó nhất định là quan chỉ huy của địch quân rồi! Còn có những khẩu hồng di đại pháo làm hắn cắn răng nữa.
Dương Thu Trì hai mắt phún hỏa, vác cây súng máy Maxim lên, như phát điên xông thẳng tới phương hướng lá cờ chữ Soái của địch quân. A Hạnh Ny vác một rương đạn, Lưu Dũng và các hộ vệ vác thùng nước, rương đạn thở khì khì chạy sát theo sau.
Địch quân thấy họ chỉ có mười mấy hai mươi người, không có vũ khí gì lại dám xông về phía đại quân của chúng, đều không biết rốt cuộc là thế nào. Bọn chúng không biết kẻ xông ở trước nhất, vác cái ống tròn tròn có bánh xe như con ngựa trời to lớn đó chính là tử thần đã tước đoạt sinh mệnh hàng nghìn tướng sĩ của chúng. Thực ra thì, những kẻ biết đấy là tử thần đều đã bị tử thần mang đi sạch hết rồi!
Dương Thu Trì xông lên mấy trăm mét, khi cách địch quân hai ba trăm mét nữa thì dừng lại. Lưu Dũng và mọi người lập tức chạy theo đến, không cần dạy bảo dặn dò, đã khuân mấy thi thể của quân sĩ địch chất đống lại. Dương Thu Trì kê súng máy maxim lên đống xác chết này, mũi súng lập tức phun ra từng lưỡi lửa và tiếng gầm giận dữ, bắn quét qua lại vào đám đông địch quân.
Tiếng gào thảm, tiếng gào cực kỳ thảm thiết và khủng khiếp vang lên cùng với tiếng súng không ngừng nghĩ. Đại đa số địch quân đều chỉ kịp gào một tiếng là như bị lèn chặt cổ bóp chết, không có một tiếng rên.
Cho dù là gặt hái lúa mạch lúa nước cũng không nhanh nhẹn và sướng khoái như vậy. Từng lớp từng hàng, từng đội địch nhân lân lượt ngã xuống. Hỏa súng thủ, cung tiễn thủ trước khi chết còn cố gắng phóng tử đạn và tên về phía họ, nhưng chỉ không tới phân nửa cự li thì đã rơi xuống đất. Hồng di đại pháo nặng nề và cao, cứ giương lên hổ thị đam đam nhìn vào thành lâu phía xa xa, chứ không biết nguy hiểm chực chờ ngay dưới chân chúng.
Thực ra thì loại pháo này chỉ có thể lợi dụng đạn đạo để bắn xa, chứ không cách gì nhanh chóng chuyển thành bắn ngang, càng không thể bắn vào mục tiêu chỉ cách hai ba trăm mét. Do đó, chúng như mãnh hổ bị xích sắt trói chặc, cứ mặc cho chó gấu em trai mang tên Maxim gầm gừ làm nhục.
Trời đã sáng, địch quân ở xa cuối cùng nhìn rõ, thì ra những người từ trong thành xông ra mang theo vũ khí quái dị này đã đoạt sinh mệnh của quá nhiều tướng sĩ bên chúng. Trong khi đó, hỏa súng, cung tên không cách gì làm họ biện thương. Lúc này hỏa pháo càng vô dụng, duy nhất hữu dụng đó là kế hay nhất trong tam thập lục kế - chạy là thượng sách!
Quân đội của Trương Hiến Trung vốn kỷ luật nghiêm minh, cho dù có triệt thối cũng phải tiến hành rất trật tự. Nhưng mà, tận mắt chứng kiến cả nghìn người chớp mắt chết đi, lại thấy vũ khí quái dị như gió thu quét sạch lá khô biến hàng loạt tướng sĩ phía trơớc ngã như rạ, tử vong khủng bố lập tức phủ trùm toàn quân. Chúng chẳng còn quan tâm cái gì là tiền quân cái gì là hậu quân, cái gì là hậu quân biến thành tiền quân, tiền quân yểm hộ hậu quân triệt thối nữa, nhân vì chúng chỉ có thể bị đánh mà không thể đánh trả, chẳng có thể yểm hộ được ai, cho nên tất cả như bầy kiến vỡ ổ, hoảng loạn chạy dài.
Tướng lĩnh chỉ huy dưới soái kỳ quyết định liều một phen. Trống trận vàng lên, hơn nghìn thiết giáp kỵ binh gào rú xông tới họ, muốn lợi dụng tốc độ của kỵ binh để xung kích, chém chết họ!
Dương Thu Trì rống to: "Đến hay lắm!"
"Tạch tạch tạch... Tạch tạch tạch... Tạch tạch tạch... Tạch tạch tạch..." Súng máy maxim điên cuồng khạc lửa. Tuy chỉ có cự li mấy trăm mét, và cùng bắt đầu bằng chữ M, nhưng tốc độ của Mã (ngựa) chẳng thể nào sánh với tốc độ đạn bắn ngược lại từ khẩu Mã...xim! Dù thiết giáp kỵ binh có khải giáp nặng, nhưng giáp này căn bản không chống được đan bắn với tốc độ cao, vẫn bị xuyên thấu thi thể, chui ra sau lưng rồi tiếp tục cắm vào thân thể phía sau.
Đạn quét qua, hàng ngựa chạy trước ngã nhào, đè vào đám bộ binh phía trước đang chạy ngược lại. Các chiến mã phía sau đã được huấn luyện kỹ, phóng người bay qua khỏi chiến hữu, tiếp tục xông lên. Nhưng mà, đạn của súng Maxim quét qua giống như dây cản ngựa vô hình, cứ cản ngã chúng hết. Chiến mã trúng đạn hí dài muốn chồm dậy, nhưng cuối cùng vô lực ngã xuống. Trọng giáp kỵ binh rơi xuống đất, có lớp thì bị té ngất đi, có lớp thì bị trực tiếp trúng đạn theo tử thần đi trước một bước, có lớp may mắn gương đứng lên định chạy về sau, nhưng mới chạy mấy bước đã bị tử đạn đuổi theo bắn trúng, ngã trong vũng máu.
Tử đạn chéo chéo như mưa rào, thiết kỵ giáp nặng vốn là đội vô địch chi sư càn quét chiến trường, nhưng giờ lại bị súng máy maxim điên cuồng khạc lửa càn quét lại, trở thành như ông già chín mươi, khựng lại, ngã dúi, bò lên, lại ngã... Trường cảnh trước mắt khiến Dương Thu Trì nhớ lại những phim ảnh bi tráng về quân nhà mạt Thanh cố sức kháng kích liên quân tám nước xâm lược - quân xâm lược người mặc quân phục sáng ngời, dùng súng máy hướng vào tướng sĩ thiết giáp thuộc Bát kỳ quân của Thanh triều mà càn quét, giết sạch họ. Hoàn cảnh đó so với giờ cũng chẳng khác gì!
Hắn hi vọng một ngày nào đó sẽ dùng cây maxim này càng quét đám quốc gia tây phương mũi lỏ mắt xanh dám khi nhục dân Trung Quốc của hắn xưa kia, à không, sau này, khiến cho chúng biết thử sự thống khổ và sỉ nhục của Trung Quốc vào hai trăm năm sau là như thế nào!
Cuối cùng, dưới cờ soái vang lên tiếng thanh la thu quân! Đến lúc này, tướng sĩ địch quân đã loạn thành một đoàn, càng chạy như đàn trâu điên bị lửa đốt vào mông.
Dương Thu Trì sao có thể để chúng dễ dàng bỏ chạy. Tầm bắn hữu hiệu của súng máy hạng nặng Maxim này lên đến 1000 mét, nếu sử dụng đạn thường với thước đo có thể đạt 2500m. Cờ soái đang trong tầm bắn của hắn!
Dương Thu Trì đem trọng điểm càn quét bắn về hướng có cờ soái!
Bắn quét trong đám người tập trung dày đặc như vậy giống như canô lướt qua mặt hồ, hắn nhanh chóng tạo ra một khoảng trống do ngã rạp thật nhanh - hai bên là địch quân chạy như điên, ở giữa là thi thể ngã rạp. Lớp người ngã nhanh chóng tiến lên, xuất hiện tới cờ lớn có chữ soái (帅)!
Từ xa, hắn thấy có mấy đại tướng mặc khôi giáp dưới cờ thấy tướng sĩ phía trước đua nhau ngã rạp, hoảng hốt quay đầu ngựa định chạy. Nhưng động tác của họ sao nhanh bằng tốc độ của đạn, lập tức đua nhau ngã xuống ngựa, ngay lá cờ lớn đó cũng ngã theo.
Chủ tướng bị giết, đại kỳ đã ngã, chiến trường tức thời đại loạn, binh sĩ địch quân chỉ còn biết hận cha mẹ sao không sinh cho thêm mấy cặp giò để chạy cho nhanh.
Dương Thu Trì chuyển sang bắn theo hình rẻ quạt, hai mắt đỏ ngầu. Khi địch quân chạy ra khỏi tầm bắn, hăn vác súng lên định đuổi theo, nhưng A Hạnh Ny ỏ bên cạnh vội hô lớn: "Thu Trì ca, chỉ còn rương đạn cuối cùng!"
Nhìn miệng nàng nói, đưa tay mở miếng vải nhét lổ tai ra nghe cho rõ hơn, Dương Thu Trì ngẩn người đặt súng xuống, quay lại nhìn, thấy Lưu Dũng và mọi người đều hai tay trống lốc, bên người nằm ngổn ngang mấy rương đạn trống!
Hắn rúng động người, nhìn về phía A Hạnh Ny, rất may là trước mặt nàng còn có một rương đạn đầy. Rương này nhiều lắm cũng chỉ có 500 phát, như vậy là hắn đã bắn hơn 5000 phát đạn rồi! Không thể bắn nữa, số đạn này cần phải giữ lại đề phòng.
Hắn nhìn địch quân như luồng hồng thủy ôm đầu rút đi mà không thể truy kích, lòng cảm thấy hơi tiếc.
 
Chương 125: Ba vị vương gia
Lưu Dũng thấy địch quân đã chạy xa, hỏi: "Dương gia, thuộc hạ đi cắt đầu của mấy tướng soai địch quân, được không?"
"Được chứ!"
Lưu Dũng mang hai hộ vệ chạy đi cắt đầu tướng địch.
Dương Thu Trì nhìn hơn hai chục khẩu đại pháo địch quân bỏ lại, lòng nghĩ số này là đồ tốt, không thể để lạc vào tay địch nhân, bèn quay lại bảo A Hạnh Ny: "Chờ lát về thành diệt hết địch trong thành xong, em lập tức mang Đồng binh giúp ta kéo mấy khẩu hồng di đại pháo này về bảo quan, chờ ta thành lập đoàn luyện xong cần dùng."
"Dạ được, Thu Trì ca." A Hạnh Ny ngọt ngào đáp ứng.
Dương Thu Trì nhìn về hướng địch quân bỏ chạy, tựa hồ không phải là nơi chúng hạ trại, mà là hoảng loạn bỏ trốn. Hắn tổ kiến quân đội đang thiếu trang bị, vừa khéo có thứ này, liền vội nói: "Ny nhi, lúc vận chuyển pháo, em phái thêm một đội ngũ truy tung địch quân, coi xem đại doanh của chúng còn không, có thứ gì tốt hãy vận chuyển về hết. Còn nữa, lúc thu dọn chiến trường đừng quên thu thập hết vỏ đạn về giao cho ta, ta còn phải nhồi làm trở lại nữa."
"Vâng...! Được ạ!" A Hạnh Ny sùng bái nhìn Dương Thu Trì, lòng nghĩ hắn vừa diệt mấy nghìn địch nhân mà mặt không đổi lòng không run, thật không biết làm sao đạt được như vậy. A Hạnh Ny không biết Dương Thu Trì là pháp y xuyên việt chuyển thế đến đây, đã sớm quen với sinh tử.
Dương Thu Trì quay đầu nhìn vào thành, tuy vẫn còn nghe tiếng chém giết, nhưng thanh âm đã ít ỏi hẳn lại, không biết thắng bại thế nào, không biết tình huống của Băng nhi, Tuyết Liên, tiểu quận chúa thế nào.
Lát sau, Lưu Dũng cùng hai người xách mấy cái đầu trở về. Lưu Dũng còn vác một cây cờ soái lớn. Dương Thu Trì vác súng máy chạy trở về thành, A Hạnh Ny cùng mọi người theo sát sau.
Chạy về dưới thành lâu, Dương Thu Trì nguớc mắt nhìn, thấy trên lâu thành vẫn còn tung bay cờ của Đại minh, người trên đó hầu hết là Đồng quân mặc phục trang dân tộc và Minh quân, biết là thành trì còn nằm trong tay, bấy giờ mới thở phào nhẹ nhỏm.
Du kích tướng quân Long Bỉnh vui mừng chạy xuống dưới thành, chụp tay Dương Thu Trì lắc lư mừng rỡ: 'Dương đại nhân! Vũ khí quái thú của ông thật là lợi hại, khiến ta nhìn đến đơ mắt luôn! Ha ha ha, lần này quả là nhờ ông rồi, nếu không chúng ta..."
"Nương tử của ta đâu?" Dương Thu Trì cắt ngang lời y.
"À, tôn phu nhân đã đánh vào trong thành, tham dự chặn giết địch quân vào thành rồi..."
Chính vào lúc này, hắn chợt nghe tiếng ồn ào như thủy triều ùa đến, vô số địch quân chen chúc chạy về phía này.
Thì ra, địch quân đánh vào thành bị rơi vào thế chiến tranh nhân dân như rừng như biển, đành mạnh ai nấy đánh, tử thương vô số.
Khi nghe đại quân đánh chiêng thu quân, địch quân chưa đánh vào thành đã đua nhau triệt li, quân đánh vào thành rồi vốn đã không có đấu chí gì, liền tụ tập lại con đường chính xông về phía tây, muốn đột vây xuất thành hội hợp với chủ quân. Lúc này, số đang xông về phía bọn Dương Thu Trì chính là địch quân toan tính đột vậy này.
Dương Thu Trì lập tức cho gác miệng súng máy, tiến hành bắn quét mãnh liệt về phía địch quân! Đồng quân và Minh quân trên thành lâu cũng kéo xuống tăng cường ngăn chặn.
Do địch quân chen đặc trên đường chính, dòng người quá dày, nên lần này bắn quét tạo ra lượng tử thương rất lớn.
Rất may là đạn không còn nhiều, Dương Thu Trì chỉ bắn bắn dừng dừng, mục đích là muốn ngăn chặn địch quân.
Hắn vừa bắn vừa bảo Lưu Dũng tổ chức cho kêu gọi và mệnh lệnh địch quân đầu hàng.
Lưu Dũng lấy cờ soái của địch quân ra giương lên, còn bọn hộ vệ thì giơ cao đầu lâu của tướng địch, hô lớn: "Đại soái của các ngươi đã bị tru diệt! Soái kỳ đã bị đoạt, còn không quỳ xuống đầu hàng!"
Sau khi thấy địch quân phía trước ngã rạp vô số, địch quân phía sau thấy không có cách gì đột vây, đã rơi vào thế bao vây trùng trùng của quân dân, liền có kẻ sợ chết quỳ xuống đầu hàng, hét lớn xin tha mạng.
Có kẻ dẫn đầu, một loạt địch quân làm theo, đua nhau quỳ xuống. Vẫn còn có kẻ hung hãn ngoan cố vẫn muốn đánh giết xông lên, nhưng chưa kịp chạy tới trước đã bị Dương Thu Trì dùng cách điểm xạ bắn chết.
Đồng quân và Minh quân vây tiễu từ bốn phương tám hướng kéo đến, ngoài ra còn có vô số dân chúng tay cầm dao rựa bao vây địch quân ở các đường lớn đường nhỏ. Người cổ không hề có ba đại kỷ luật tám điều chú ý, cũng không có ý thức ưu đãi tù binh gì, cho nên địch quân đầu hàng rồi mà vẫn chịu khổ không ít, hơi có chút bất mãn là lập tức bị giết.
Long Bỉnh là lão tướng sa trường, biết nên xử lí chiến phu ra sao, lập tức dẫn đầu bộ hạ đi thu bắt chiến phu, thu dọn chiến trường, làm rõ tình huống tử thương của hai bên, rồi dùng bao cát lấp cổng thành trở lại, sắp bày phòng ngự bốn phía, đồng thời phái thám mã đi điều tra hướng chạy của địch quân.
Dương Thu Trì không biết những thứ này, cũng lười quản, ngóng cổ nhìn quanh tìm kiếm Liễu Nhược Băng, thì nàng như con đại nhạn nhẹ nhàng phóng từ đỉnh phòng một nhà xuống trước mặt hắn, bạch y đã nhiễm hồng máu địch nhân, nhưng lần này không thảm hại như lần chiến đấu suốt hai ngày hai đêm mấy hôm trước.
Dương Thu Trì ôm vòng eo thon của nàng: "Băng nhin, nàng có sao không? Không bị thương chứ?"
"Không! Phu quân thì sao?"
Dương Thu Trì cười lắc đầu. Liễu Nhược Băng nhìn lên nhìn xuống tra xét khắp người hắn, thấy hắn bình an vô sự, bấy giờ mới yên tâm.
Dương Thu Trì lo lắng cho Quách Tuyết Liên còn ở trong nội nha, định về xem, Liễu Nhược Băng đã cười hàm tiếu: "Thiếp biết là chàng không bỏ được ả Tuyết Liên đó mà, phu quân an tâm đi, Tuyết nha đầu bình an vô sự."
Dương Thu Trì cả mừng, nhưng ngượng ngập nói: "Kỳ thật ta không có, ta là lo cho ba vị vương gia mà."
"Thiếp biết, phu quân chàng hiện giờ là mệnh quan triều đình rồi, ba vị vương gia ở trong thành do chàng thủ bị, nếu có mệnh hệ nào chúng ta không chịu trách nhiệm nỗi đâu. Do đó, thiếp nhất mực giết địch ở gần nha môn, chủ yếu bảo hộ Tuyết Liên, thuận tiện bảo hộ ba vị vương gia và tiểu quận chúa, bọn họ đều bình an vô sự. Chàng cứ yên tâm đi."
Đang nói chuyện, mấy Minh quân hộ vệ vội chạy đến bẩm báo với Dương Thu Trì và Long Bỉnh: "Hai vị đại nhân, ba vị vương gia và tổng binh đại nhân có lời thỉnh."
Dương Thu Trì làm thủ bị mấy ngày nay rồi, nhưng do mãi bận chế tạo đạn, còn chưa đến gặp qua ba vị vương gia. Bọn họ cũng không triệu kiến hắn. Hiện giờ hắn nghe nói ba vị vương gia và tổng binh có lời thỉnh, nhớ tới gương mặt mê gái của tổng binh, lòng không vui chút nào, nói với Liễu Nhược Băng: "Băng nhi, địch quân đào tẩu có động hướng không rõ, nàng ở lại thành lâu bảo hộ, vi phu đi bái kiến ba vị vương gia."
Liễu Nhược Băng gật đầu, dặn dò mấy câu rồi lên thành lâu.
Dương Thu Trì bảo A Hạnh Ny thu dọn chiến trường, bảo Lưu Dũng cùng các hộ vệ vác theo súng máy Maxim theo Long Bỉnh đến huyện nha, thuận tiện đi an ủi tiểu nha hoàn Quách Tuyết Liên vẫn còn kinh hồn chưa định trước, đặt súng máy và đạn xuống, lưu một bộ phận hộ vệ bảo hộ, sau đó mới đến nội trạch của tri huyện.
Ngoài nội nha, mấy trăm Minh quân canh gác chặt, chỉ cho Dương Thu Trì và Long Bỉnh vào trong.
Trong phòng khách, ba vị Phúc vương, Huệ vương và Quế vương đang ngồi ở giữa. Tổng binh Khổng Hi Quý ngồi hầu một bên.
Long Bỉnh bước tới quỳ dập đầu: "Mạt tướng Long Bỉnh khấu kiến ba vị vương gia, tham kiến tổng binh đại nhân."
Dương Thu Trì chỉ chấp tay xá xa: "Ti chức Dương Thu Trì xin chào ba vị vương gia, tổng binh đại nhân."
Tổng binh Khổng Hi Quý sầm mặt: 'Dương đại nhân, ba vị vương gia là thiên tuế, ngươi vì sao không quỳ?"
Dương Thu Trì cười mà thịt không cười: "Ti chức vừa rồi đánh giết một trận, eo mỏi rồi, không thể nào quỳ, thỉnh ba vị vương gia thông cảm." Hắn biết Đại minh sắp sửa tiêu đời, gặp Sùng Trinh đế hắn còn kính ông tả treo cổ ở Môi Sơn tuẫn quốc dập đầu lại thì được, chứ ba lão già vương gia này mà bảo hắn quỳ là tuyệt đối không, dù gì, kiếp trước hắn cũng là siêu phẩm trấn quốc công, gặp vương gia cũng không cần quỳ, cho nên mới tìm cớ nói vậy.
Đôi mắt tam giác của Khổng Hi Quý lộ hung quang: "Sao hả? Dương đại nhân muốn ỷ công ngạo mạn hay sao?"
"Thôi vậy..." Quế vương Chu Thường Doanh ho khan mấy tiếng, xua tay, "Long tướng quân cũng đứng lên, ngồi nói chuyện."
Khổng Hi Quý bấy giờ mới im miệng.
Chờ Long Bỉnh và Dương Thu Trì ngồi xong, Chu Thường Doanh mỉm cười hỏi: "Hai vị đại nhân, chiến huống thế nào?"
Tuy trước mặt ba vị đều là vương gia, nhưng có sự khác biệ. Phúc vương là cháu của Minh Anh Tông, bà con xa với đương kim hoàng thượng. Huệ vương và Quế vương là con trai của Minh Thần Tông, là thân hoàng thúc (chú ruột vua) của Sùng Trinh hoàng đế. Huệ vương đứng hàng thứ sáu. Quế vương đứng hàng thứ bảy. Như vậy có thể nói, Huệ vương và Quế vương là anh em ruột với cha của Sùng trinh đế là Minh Quanh tông Chu Thường Lạc, quan hệ gần hơn Phúc vương nhiều. Do đó, có mặt hai người, Phúc vương thường không mở miệng.
Huệ vương tuy là anh của Quế vương, nhưng Huệ vương Chu Thường Nhuận từ nhỏ quy y phật pháp, suốt ngày tham thiền lễ phật, không thông sự vụ nhân gian, đối với triều chánh không biết gì, cho nên, trong trường hợp này, đệ đệ của ông ta là Chu Thường Doanh đóng vai trò quyết định.
Khổng Hi Quý nháy mắt với Long Bỉnh, chen lời: "Long tướng quân, ngươi đem chuyện mấy nghìn quân Đại minh chúng ta đánh lui mấy vạn Trương tặc quân thế nào bẩm báo lại cho ba vị vương gia nghe."
Ý tứ trong lời Khổng Hi Quý rất rõ ràng, lão nhất mực ở cạnh ba vị vương gia, không tự tham tham dự chỉ huy tác chiến, nhưng Long Bỉnh là bộ tướng của lão. Long Bỉnh chỉ huy cũng chẳng khác gì lão chỉ huy. Lão cũng không biết địch quân bị đánh lui như thế nào, nhưng mà cứ giành công lao trước cái đã rồi tính sau, đó là cách làm trước giờ của lão.
Dương Thu Trì tủm tỉm cười, cũng không giành nói gì. Hắn chỉ là thủ bị, còn Long Bỉnh là du kích tướng quân, cao hơn hắn một cấp, đương nhiên phải do Long Bỉnh hồi báo. Hắn tin Long Bỉnh sẽ không đem công lao giành hết.
Long Bỉnh tuy là bộ tướng của Khổng Hy Quý, nhưng là người chính trực, huống chi hai lần tác chiến đều do Dương Thu Trì lực chống sóng cuồng, có thể đánh lui địch quân gấp mấy lần, công đầu vô luận thế nào cũng không thể ở trong tay của Minh quân.
Vì thế, y cứ theo tình huống tác chiến như thật mà báo cáo, đặc biệt nhấn mạnh tác dụng của Liễu Nhược Băng thủ thành, Dương Thu Trì dùng tạc đạn và vũ khí quái thú biết cắn người như trong truyền thuyết xoay chuyển cả cục thế khi thành bị phá.
 
Chương 126: Chiêu binh mãi mã
Ba vị vương gia nghe đến trợn mắt há mồm. Khổng Hi Quý tuy lòng dạ nhỏ nhen, trách Long Bỉnh không án chiếu ý nguyện của mình mà cướp công, nhưng địch quân phá công vào thành rồi mà vẫn bị đánh tan là chuyện lão trước giờ chưa hề nghe thấy. Vốn ra mấy người của lão hiện giờ đã trở thành tù binh, nhưng nhờ Dương Thu Trì một mình xoay chuyển tình thế. Do đó, trong lòng lão vẫn còn chút cảm kích, cộng thêm khi nghe nói Dương Thu Trì có một vũ khí quái thú, có thể chốc lát giết vô số địch quân, lão càng kinh ngạc và kính sợ Dương Thu Trì thêm mấy phần, không dám quá đáng nữa. Dù gì Dương Thu cũng là do lão đề bạt lên. Hắn lập công, bản thân lão dù sao cũng có công tiến cử!
Quế vương Chu Trường Doanh gật đầu lia lịa, vô cùng khen ngợi nhìn kỹ Dương Thu Trì một lúc, nói: "Hắc hắc hắc, xem ra hai vợ chồng Dương đại nhân giết chết địch không ít nha! Trận này tình huống thương vong địch ta thế nào?"
Điều này là thứ mà ba vị vương gia và tổng binh Khổng Hy Quý quan tâm nhất, nhân vì điều này liên quan đến còn bao nhiêu quân đội để bảo vệ an toàn cho họ.
Long Bỉnh đáp: "Sơ bộ thống kế, địch quân tổng cộng ba vạn, từ phía Tây đào tẩu khoảng 1 vạn 5 nghìn người, đánh vào thành rồi bị vũ khí quái thú của Dương đại nhân chặn đứng buộc phải đầu hàng đại khái có ba bốn nghìn quân. Còn lại đều bị quân ta tiêu diệt hết. Ở ngoài tây thành, số địch quân bị vũ khí quái thú của Dương đại nhân giết chết đến năm sáu nghìn người hơn!"
Dương Thu Trì cả kinh, lòng nghĩ có nhiều như vậy thật không. Tính kỹ lại, hắn cảm thấy có thể lắm, bỡi vì hắn sắp bắn hết sáu nghìn viên đạn, do địch quân tập trung dày đặc, khi bắn quét rất hiếm khi đạn bắt hụt, có viên bắn xuyên ba bốn địch quân, đương nhiên cũng có địch quân trúng một lúc ba bốn viên. Như vậy tính ra, gần như là một viên đạn giết một tên địch.
Ba vị vương gia tâm tình mừng rỡ, đều nhẻn miệng cười tóet. Quế vương lại hỏi: "Quân ta thương vong thế nào?"
Nói đến vấn đề này, giọng nói của Long Bỉnh trở nên trầm trọng: "Trong trận chiến trước bình minh, quân đại Minh của ta chết gần hết, một nghìn năm trăm người chỉ còn lại hơn ba trăm, trong đó phần lớn đã thụ thương nặng nhẹ khác nhau..."
Sắc mặt của tổng binh Khổng Hi Quý chẳng dễ coi chút nào. Điều này cho thấy, lão lập tức trở thành quan tư lệnh trơ cành trụi lá không còn một mống quân nào. Ba vị vương gia sắc mặt biến hẳn, kinh khủng nhìn nhau. Quế vương Chu Thường Doanh hỏi: "Còn Đồng quân?"
"Đồng quân thương vong cũng rất lớn, theo ti chức tính toán, xem ra đã tổn thất hơn nửa, còn lại chỉ hơn hai nghìn người là không tệ rồi. Ngoài ra, bá tánh tham chiến trong thành cũng tử thương mấy nghìn người."
Đến lúc này thì mặt của ba vị vương gia cắt không còn chút máu.
Huệ vương Chu Thường Nhuận tuy ăn chạy niệm phật, như là kẻ nhát gan sợ chết nhất, nói chuyện đã run lập cập, hỏi: "Cái này... cái này làm sao cho phải đây? Có thể điều đại quân từ các phủ huyện gần đây tăng viện không?"
Long Bỉnh lắc đầu: "Các thành trì ở miệt Tương Tây vốn đã không còn trọng binh cố thủ. Khi Trường Sa gặp nguy cơ, những quân đội có thể điều phái đều được rút đến Trường Sa và An Khánh để phòng thủ. Chính vì không có binh để dùng, bấy giờ mới chinh triệu quân đội thổ ti để phòng ngự Thần Long quan a."
Mặt Huệ vương co giật, chuyển sang nói với Quế vương, "Hoàng đệ, hay là chúng ta tiếp tục chạy về phía Tây thôi!"
Quế vương ho khan mấy tiếng, thở dài: "Ai, chạy về phía Tây? Chạy nữa thì rời khỏi Hồ Quảng luôn rồi! Đừng quên là phong địa của chúng ta ở Hồ Quảng, chạy tới Quý châu còn mặt mũi nào nữa? Nếu muốn chạy thì mọi người chạy đi, dù sao... đệ không chạy nữa, xương cốt thân già này chịu không nỗi nữa rồi, cũng không sống mấy ngày nữa."
Phúc vương nói: "Đúng vậy, hoàng huynh nói rất đúng! Chúng ta đã chạy tới biên giới của Hồ Quảng rồi, không thể chạy nữa...."
Khổng Hi Quý biến hẳn sắc mặt, nhưng trong lòng chẳng có chút chủ ý gì.
Long Bỉnh khom người ôm quyền thưa: "Ba vị vương gia xin cứ an tâm, từ những ngày đánh giết vừa rồi mà xét, Dương đại nhân chế tạo khai hoa đạn bằng đá và cái... cái vũ khí quái thú có thể phun tiểu xà đó, còn có Dương phu nhân võ công cái thế, giết địch vô số nữa.... vì thế, chúng ta mới bằng năm nghìn người ít ỏi mà chống cự lại ba vạn địch quân cường công. Cho nên, theo ý của ti chức, chỉ cần Kiềm Dương thành có hai vợ chồng Dương thủ bị Dương đại nhân, địch quân không thể làm gì chúng ta được!"
"Vũ khí quái thú?" Ba vị vương gia đều chưa nghe truyền thuyết thần thoại về chuyện này của lão bá tánh trong thành.
Long Bỉnh vội miêu tả tình cảnh Dương Thu Trì dùng súng máy giết sạch địch quân, nói: "Ba vị vương gia nếu không tin, có thể lên thành lâu xem. Xác địch quân bên ngoài thành tây đều chất thành từng núi nhỏ, đó là do vũ khí quái thú của Dương đại nhân tạo thành! Đại soái của địch quân cũng chết vào miệng quái thú này, ngay cờ soái cũng bị Dương đại nhân đoạt lấy. Địch quân kinh khủng vô cùng, bấy giờ mới hoảng loạn bỏ chạy, tạm thời chẳng tạo thành thương hại gì với chúng ta đâu."
Huệ vương Chu Thường Nhuận tay lần chuỗi Phật, khẽ nói: "A di đà phật, thiện tai! Thiện tai! Xem thì không cần đâu, Long tướng quân nói tự nhiên là không giả rồi."
Quế vương và Phúc vương nghe lời này đều yên tâm hẳn đi, Quế vương hỏi: "Dương đại nhân, lời vừa rồi của Long tướng quân nói có thật hay không?"
Dương Thu Trì cười mỉm gật đầu, lòng nghĩ như vậy cũng tốt, dùng thần thoại để tăng thêm uy lực của súng máy maxim, có thể tăng cường lòng tin của họ, đó là điều mà hắn cần nhất hiện giờ. Mà thực sự thì súng máy maxim có uy lực tuyệt đối không kém mãnh thú thần thoại bao nhiêu.
Ba vị vương gia thấy hắn xác nhận càng mừng hơn, Huệ vương lần chuỗi phật nói: "Vậy tính mệnh của ba chúng ta và dân chúng toàn thành đều giao cho Dương đại nhân rồi đó! Hắc hắc hắc."
Dương Thu Trì lắc đầu: "Ba vị vương gia, chỉ bằng vũ khí quái thú của ti chức và võ công của chuyết kinh vẫn không đủ bảo hộ chu toàn cho sự an bình an của ba vị vương gia được."
Ba người vừa rồi mới vừa yên tâm lại khẩn trương hẳn lên: "Vì sao như vậy?"
"Cứ lấy chiến huống sáng sớm nay mà nói, tôi và chuyết kinh chỉ có thể đánh giết địch quân chánh diện, không thể quan tâm đến ba mặt khác. Do đó mới khiến địch quân nhân cơ hội phá ba mặt khác của thành mà vào. Nếu không phải tướng sĩ quân ta dũng mãnh, cộng thêm ba tánh toàn thành phấn khởi đề kháng, e rằng hậu quả không thể tưởng tượng a!"
Quế vương và ba người còn lại đều biết lời Dương Thu Trì chẳng phải khoa trương. Trước khi trời sáng, địch quân từ ba mặt phá thành đánh vào trong là chuyện họ đã biết, lúc đó họ suýt sợ chết vì khiếp. Lần này nghe nhắc lại, lòng bất an khôn tả.
Quế vương vội hỏi: "Nên làm sao bây giờ?"
"Lập tức chiêu binh mãi mã, tổ kiến lại quân đội!" Dương Thu Trì chẳng thèm khách khí gì nữa, lớn giọng nói, "Chí ít phải có một quân đội trên vạn người, cộng thêm hai vợ chồng ôi mới có thể cơ bản đảm bảo ba vị vương gia bình an ở Kiềm Dương huyện. Chỉ có điều, chiêu binh mãi mã cần một lượng lớn lương hướng, túi hai vợ chồng tôi nhỏ nhoi, không thể đảm bảo khoản chi cực lớn này. Hương thân có tiền của Kiềm Dương huyện đã hiến tiền tài hết khả năng rồi, nhưng vẫn còn lâu mới đủ. Do đó, e rằng ba vị vương gia xuất tiền tổ kiến tân quân mới được."
Đối với ba vị vương gia này, tự họ biết rõ không có quân đội thì không có bình an. Ba người này nếu xét về sự keo kiệt thì kém hơn Sở vương, và họ cũng biết tiền bỏ ra là lập quân đội bảo hộ cho mình, cho nên coi đó là điều phải làm. Ba người đưa mắt nhìn nhau, đều từ từ gật đầu. Quế vương nói: "Dương đại nhân nói phải lắm, như vầy đi, ba chúng ta mỗi người bỏ ra 5 vạn lượng bạc trước để làm quân hướng tổ kiến quân đội, thế nào?"
Mỗi người 5 vạn, cộng lại mười lăm vạn lạng bạc trắng! Đối với cá nhân, đó là một gia tài kếch sù, nhưng đối với xây dựng quân đội, đó không thể coi là nhiều, nhưng cũng tạm đủ rồi, bỡi vì Dương Thu Trì định xây dựng một quân đội cận hiện đại, binh quy tinh chứ không quý đa.
Phúc vương và Huệ vương đều gật đầu biểu kỳ đồng ý. Ba vị vương gia gia tài bạc ức, lần này chỵ trốn đều mang theo gia tài và vật tùy thân vận chuyển đến Kiềm Dương huyện, cho nên đối với họ con số 5 vạn đối với ba người không đáng là bao.
Khổng Hi Quý vừa thấy ba vị vương gia đáp ứng lấy tiền tổ kiến quân đội, tức thời lên tinh thần ngay, gật đầu lia lịa: "Trọng kiến quân đội! Hay lắm, chuyện này cứ giao cho tôi làm là được rồi!" Lão đã là tư lệnh mình trần, đương nhiên rất muốn xây dựng lại quân đội cho mình.
Dương Thu Trì nhìn lão một cái, cười lạnh trong lòng. Lão tử không giúp ngươi may áo vá quần đâu! Hắn giả vờ trầm tư, cúi đầu một lúc, trầm giọng nói: "Nếu như tổng binh đại nhân có ý tổ kiến quân đội, thì cứ giao cho tổng binh đại nhân làm là hay quá rồi..."
Khổng Hi Quý ngoác miệng cười đắc ý.
Không ngờ Dương Thu Trì lại nói: "Lần này Đồng quân vô tư tăng viện, tử thương thảm trọng, ti chức đau lòng xót dạ, tuy nhiên không có tiền lo liệu hậu sự cho tướng sĩ Đồng quân hi sinh, an ủi gia đình, nhưng cũng muốn biểu lộ chút tâm ý, cho nên chuẩn bị mang chuyết kinh ngày mai vận tống các tướng sĩ Đồng quân chiến tử trở về Đồng trại, chôn cất cho họ, thuận tiện nói vài lời an ủi gia đình..."
Ba vị vương gia cả kinh, vội hỏi: "Dương đại nhân chuẩn bị đi bao lâu?"
Dương Thu Trì ngẫm nghĩ: "Cái này..., ti chức muốn biểu lộ sự thăm hỏi với từng nhà tướng sĩ Đồng quân chiến tử, ngoài ra, thổ ti đại nhân mang binh đến Thần châu tham dự phòng thủ Thần long quan, đề ngự Thường Đức Trương tặc quân. Đồng trại không người chủ trì. Con gái A Hạnh Ny của thổ ti là hiệp thủ ở đây đã nhiều lần đề nghị ti chức đến Đồng trại giúp chủ trì sự vụ ở đó. Cộng thêm nhiều ngày chinh chiến, vô cùng mệt mỏi, do đó, ti chức muốn hướng đến ba vị vương gia và tổng binh đại nhân xin nghỉ, đến Đồng trại an dưỡng một thời gian."
Phúc vương trừng to mắt nói: "Cái ... cái này sao có thể được! Hai vợ chồng Dương đại nhân không ở trong thành, lỡ khi đại quân của địch đi rồi quay lại thì làm sao đây?"
Dương Thu Trì mỉm cười: 'Trong thành có tân quân do tổng binh đại nhân mới kiến tạo, cộng thêm mấy nghìn địch quân mới đầu hàng, binh lực đại tăng, huống chi tổng binh đại nhân chỉ huy có phương pháp, dưới trướng nhiều tướng sĩ anh dũng thiện chiến, xem ra không hề ngại gì."
Phúc vương lòng thẳng miệng nhanh, trừng mắt nói ngay: "Cái gì mà chỉ huy có pháp? Mười vạn đại quân chẳng phải đều bị hắn chỉ huy lớp chết lớp bỏ chạy lớp hàng, hiện giờ chỉ còn mấy trăm người sao! Còn để hắn chỉ huy gì nữa? Còn hiềm chưa chết gấp hay sao?"
Sắc mặt của tổng binh Khổng Hi Quý tức thời hết hồng lại trắng, nhưng người giáo huấn lão là vương gia, lão chỉ còn biết há hốc mồm không dám cãi gì.
Huệ vương hiển nhiên đối với chuyện này cũng căm phẫn bất bình. Nhưng mà, ông ta là người tin vào phật, nên chữ sân này không thể vọng động, chỉ xụ mặt cúi đầu niệm a di đà.
 
Chương 127: Được gió kéo buồm
Quế vương già đời sành sõi, đã hiểu lời vừa rồi của Dương Thu Trì là lấy lui làm tiến, cho nên lập tức vuốt chòm râu bạc cười, nói: "Theo như ta thấy, chuyện tổ kiến tân quân này cứ giao cho Dương đại nhân làm! Lần này đánh lui địch quân toàn là dựa vào công của hai vợ chồng Dương đại nhân, lúc này đích xác không thể rời khỏi đây. Như vầy đi, chuyện phủ úy gia đình Đồng quân tử thương sẽ do ba chúng ta xuất tiền, ừ..., chiến tử và thụ thương tàn phế không thể làm lụng thì mỗi nhà 50 lượng, còn những kẻ bị thương khác thì cho phân nửa. Chúng ta lấy tiền đưa Dương đại nhân tự thân phủ tuất, thây cốt của người chết cho người nhà họ mang về. Còn chuyện phủ úy người nhà ở Đồng trại, chủ trì truyện này ấy à, do chiến sự khẩn cấp, Dương đại nhân không thể đến được, Đồng trại còn có tộc trưởng các tộc, có thể thay, không có sự tình gì đâu!" Xong ông ta quay sang Phúc vương và Huệ vương:
"Ý của hai vị thế nào?"
"Được! Cứ làm như vậy!" Phúc vương và Huệ vương cùng vỗ đùi.
Phúc vương vừa rồi cơn tức bốc lên đầu buộc miệng mắng mấy câu, thấy sắc mặt tổng binh khó coi, cảm thấy hơi hối, dù gì tổng binh cũng là quan chỉ huy quân sự tối cao ở Hồ Quảng, bỏ ông ta ra để một thủ bị nho nhỏ tổ kiến và thống lĩnh tân quân đích xác là có điều nói không qua. Hơn nữa, tổng binh này dọc đường bảo hộ ba người họ, không có công lao thì cũng có khổ lao, không có khổ lao thì cũng có bì lao (mệt mỏi), đối với tổng binh cũng biết gốc biết gác, không như Dương thủ bị tuy có công lui địch, nhưng không thể quá dễ tin buông tay để hắn nắm binh quyền đại quân. Do đó, ông ta chuyển đầu, nghĩ ra một chủ ý, nói:
"Như vầy đi, Dương đại nhân xây dựng chính là đoàn luyện của Kiềm Dương huyện. Tổng binh đại nhân cũng đồng thời khoách chiêu binh mã, hai bên không thể chần chờ. Nhiều lắm là chúng ta bỏ thêm bạc ra để tổng binh xây dựng lại Minh quân, ý hai vị hoàng huynh thế nào?"
Huệ vương chuyển đầu nhìn Quế vương, thấy ông ta cười không nói, cũng không rỏ thái độ, tựa hồ có lời muốn nói nhưng chưa tiện nói ra.
Tổng binh thì khoái chí vô cùng, liếc xéo Dương Thu Trì một cái, nói: 'Địa phương đoàn luyện quy mô không được lớn, nếu không sẽ bị hiềm là tự lập quân đội a!"
Dương Thu Trì vốn không định chiêu nạp mấy vạn người. Vũ khí cận đại hóa trong tay hắn không thể tùy tiến phát cấp cho tất cả mọi người, một khi rơi vào tay địch thì hắn coi như tiêu đời, liềnhỏi: "Thỉnh tổng binh đại nhân chỉ kỳ, ti chức tổ kiến đoàn luyện nên hạn chế đến mức bao nhiêu người?"
Khổng Hi Quý ngẫm nghĩ: "Cái này... năm... tám...., a, cứ lấy 1000 người làm giới hạn đi! Là địa phương đoàn luyện của một huyện thành nhỏ, một nghìn người đã là không ít rồi, đủ để đề ngự phỉ đạo xâm nhiễu rồi."
"Vậy à, được thôi, đoàn luyện 1000 người đương nhiên là đủ rồi. Nhưng mà, lời phải nói rõ trước, đoàn luyện chỉ ứng đối với đạo tặc hay giặc cướp địa phương, không thể coi là quân đội. Do đó, nếu như đại quân của Trương Hiến Trung đi rồi quay lại, xem ra không cần đoàn luyện của tôi ra trận rồi?"
Đoàn luyện không ra trận, vợ chồng Dương Thu Trì đương nhiên không ra, như vậy thì chiến trận đã thua đến 9.9 phần mười rồi. Mặt Khổng Hi Quý rất khó coi: "Cái này, đương nhiên không phải...."
Quế vương phẫy tay, ra ý bảo Khổng Hi Quý không cần phải nói gì nữa. Ông ta vuốt râu bảo: "Theo ý của bổn vương, Kiềm Dương huyện chỉ có bấy nhiêu nhân khẩu, không cần phải chia ra chiêu binh mãi mã làm gì, phân tán lực lượng không hay. Như vầy đi, chúng ta đem lực lượng chủ yếu tập trung vào một chỗ, chuyện khoách quân chiêu binh toàn bộ do Dương đại nhân phụ trách. Quân hướng không đủ cứ mở miệng hỏi, ba người chúng ta tích súc nhiều năm, nuôi mấy vạn tướng sĩ vẫn được, Dương đại nhân cứ mặc tình chiêu binh mã. Còn về tổng binh đại nhân, chờ sau này Dương đại nhân dẫn binh thu phục Trường Sa, Vũ Xương, đến lúc đó tổng binh đại nhân lại trù kiến quân đội thêm cũng không muộn."
Huệ vương một mực nghe theo vị hoàng đệ của mình, nghe Quế vương nói vậy liền gật đầu: "Ý bổn vương cũng vậy. Dương đại nhân trận này đại bại Trương tặc quân, là trận chiến thống khoái hiếm có từ nhiều năm nay. Huống chi lại lấy ít thắng nhiều, đủ thấy Dương đại nhân văn thao võ lược, do ông ấy xây dựng và thống lĩnh tân quân xem ra là lòng mong mỏi của mọi người."
Phúc vương không dám đấu võ mồm với Quế vương và Huệ vương, và kỳ thật ông ta cũng hi vọng cánh quân này do Dương Thu Trì thống lĩnh, vừa rồi chẳng qua là vuốt mặt nễ mũi tổng binh một chút thôi. Hiện giờ nếu như Quế vương và Huệ vương đã phản đối đề nghị của ông ta, ông ta vừa khéo có bậc đá xuống lưng lừa, cười cười ra vẻ áy náy với Khổng Hi Quý: "Đúng a, trọng nhiệm này cứ để một mình Dương đại nhân gánh đi. Tổng binh đại nhân cũng tranh thủ khuây khỏa, nghỉ ngơi cho khỏe, chờ sau này trọng kiến hùng sư."
Khổng Hi Quý vô cùng thất vọng, nhưng ý của ba vị vương gia nhất trí, y còn làm sao được, chỉ biết im lìm gật đầu.
Dương Thu Trì lộ nụ cười mỉm, chấp tay xá ba vị vương gia, nói một phen hào ngôn tráng ngữ khẳng khái bảo vệ tổ quốc, sau đó đứng lên định cáo từ.
Quế vương lại khoát tay bảo hắn ngồi xuống, hiền từ nói: 'Dương đại nhân, mấy ngày nay ngươi bận lo chiến sự, nhất mực ít có thời gian đến chiếu cố Phượng nhi. Không gặp ngươi, Phượng nhi chẳng ăn uống gì. Trước mắt địch nhân tạm lui, ngươi hãy lĩnh Phượng nhi về đi, dù gì nó cũng là người của ngươi mà."
Người của ta? Dương Thu Trì ngẩn người.
Tiểu quận chúa Chu Phượng Đức không có Dương Thu Trì bên cạnh là không ăn, có đổ cũng ói ra. Bọn họ từ Trấn Viễn phủ về Kiềm Dương huyện thì gạp phải địch quân công thành, Dương Thu Trì bèn đưa tiểu quận chúa đến chỗ ba vị vương gia. Hắn thật ra không muốn quẳng của nợ này đi, mà là những ngày này bận rộn chế tạo súng đạn, khi nghe người hầu nói nàng không ăn, chỉ có thể tranh thủ rảnh rỗi đến xem, phát vào cái mông tròn của nàng vài cái, bắt nàng ngoan ngoãn ăn. Hiện giờ xem ra chỉ có hắn mới chăm được cô tiểu quận chúa này, nếu không cô nàng giở trò đòi chết đói thì nguy.
Nói đến chuyện này, không chờ Dương Thu Trì lên tiếng, Phúc vương đã không hài lòng trầm giọng nói: "Dương đại nhân, bổn vương nghe Phượng nhi nói, ngươi mang nó tới Trấn viễn phủ gặp mợ nó, tối đến hai người còn... còn ngủ chung phòng, có chuyện này không?"
Dương Thu Trì cười cười: "Đúng, nhưng đó đều là do mợ nàng ta cưỡng bách, nếu không không giao tài bảo của tiểu quận chúa do bà ta giữ ra. Tiểu quận chúa đáp ứng đem một phần tài bảo cho tôi tổ kiến quân đội, sau này bảo hộ ba vị vương gia cho tốt. Tôi cũng vì đại cuộc mà nghĩ, mới tòng quyền. Nhưng mà, tôi và tiểu quận chúa đều trong trong trắng trắng, không làm chuyện gì không hay, nếu không tin, các vị có thể tìm ổn bà nghiệm thân cho nàng ấy..."
Phúc vương cứ thẳng thắn, trầm mặt: 'Dương đại nhân, ngươi đã có vợ, sao còn... hừ! Tuy nói tên Trương tặc bộ tướng đó để Phượng nhi làm thiếp cho ngươi, nhưng văn khế của phản tặc...."
Quế vương ở cạnh chợt ho, tiếng ho rất lớn.
Phúc vương nhíu mày định chờ ông ta ho xong rồi nói tiếp, không ngờ Quế vương ho thật lâu mà chưa dừng.
Phúc vương tuy thẳng thắng nóng tính, nhưng không ngốc, nghe Quế vương ho trận này có vẻ giả vờ, biết là có thâm ý, liền mím miệng không nói nữa.
Quế vương nỗ lực thở vài hơi, áy náy cười nói: "Bộ xương già này của ta không biết có thể chịu được bao lâu, ai! Chỉ là lo cho nha đầu Phượng nhi đáng thương a, nếu mà nó không có nơi nương tựa tốt, bổng vương... chết không nhắm .... mắt a..." Nói đến đây, lời của ông to nghẹn ngào, lại phát ho trở lại.
Huệ vương ở bên cạnh cười nói: "Hoàng đệ đừng lo nghĩ nhiều, hiện giờ Phượng nhi đã có chỗ dựa là Dương đại nhân, chúng ta có thể yên tâm được rồi."
Huệ vương và Quế vương là anh em ruột, vừa rồi Quế vương vờ ho và nói vậy, Huệ vương đã biết ý tứ của đệ đệ mình. Ông ta là vương của Kinh châu, Trương Hiến Trung đem quân đến đánh, ông ta chạy về Trường Sa, đầu Phúc vương. Trương Hiến Trung đánh Trường Sa, ông ta và Phúc vương lại chạy đến Hành châu dựa vào Quế vương. Ba người khi ở Hành châu, Phúc vương đã nói chuyện của Chu Phượng Đức, lúc đó ba người đều cảm thấy phẫn uất.
Sở vương đời cuối cùng là Chu Hoa Khuê vốn là cháu đời thứ chín của Minh thái tổ Chu Nguyên Chương, quan hệ với đương kim hoàng thượng còn xa hơn cả Phúc vương hiện giờ, càng không thể sánh bằng Quế vương và Huệ vương. Do đó, ba người kỳ thật chỉ quan tâm đến Chu Phượng Đức như là các thành viên hoàng thất lợi dụng nhau. Đặc biệt là Quế vương và Huệ vương do ít lai vãng với Sở vương, nên không thể coi là thân tình gì. cho nên, Huệ vương thấy Quế vương nói tới chuyện Chu Phượng Đức mà tự nhiên nhỏ lệ, lòng liền sáng bừng, biết rằng tất có nguyên do.
Nguyên nhân này rất dễ nhìn ra. Ba người họ ở Hành châu không lâu, Trương Hiến Trung lại tiến quân Hành châu. Ba người họ chỉ đành tiếp tục đào vong, chạy vòng vòng đến huyện thành nhỏ nhoi phía Tây này. Ba người đều được phong phiên ở Hồ Quảng, nếu chạy ra ngoài tỉnh thì chẳng còn mặt mũi nào. Do đó, Quế vương cố chấp không chịu chạy vào Quý châu, thà chết ở lại Kiềm Dương. Huệ vương và Phúc vương không còn cách nào, chỉ đành nghe theo. Họ vốn cho rằng lần này chết chắc, không ngờ nửa đường có Dương Thu Trì xông ra đại triển thần uy, dùng tạc đạn và súng máy đánh tan ba vạn địch quân, giữ được tính mệnh của họ. Đây là trận đại thắng đầu tiên trên con đường đào mệnh của ba vị vương gia, lòng họ hoan hỉ không gì tả được. Do đó, Huệ vương thấy Quế vương như thế, liền biết Quế vương muốn dùng tiểu quận chúa Chu Phượng Đức mua chuộc lòng của Dương Thu Trì, kéo hắn lên chung xuồng. Do đó, không ta thấy gió cũng kéo buồm, nói giúp thêm vài câu.
Huệ vương đoán không sai. Quế vương chính là có ý đó. Đầu óc ông ta xoay chuyển rất nhanh, có câu người không vì mình trời tru đất diệt, vì sao lại không vì lợi ích của mình mà nghĩ trước chứ? Ông ta tuy già cả, nhưng đã nhìn tình huống trước mắt rất rõ ràng: Dương Thu Trì là dị nhân, có vũ khí quái thú có thể cắn người, dường như bằng sức lực một mình mà đẩy lui địch quân. Hiện giờ chỉ có Dương Thu Trì mới bảo vệ được tính mệnh họ, là bồ tát sống cứu mạnh, không những không được đắc tội, mà còn phải nghĩ cách làm cho hắn cao hứng, bất kể ân huệ hay là gì sao cho hắn cảm kích, chịu để cho họ sử dụng mới là thượng sách.
Còn về tiểu quận chúa Chu phượng Đức đối với Quế vương mà nói chẳng qua là thành viên hoàng thất có cùng chung ông tổ mà thôi, quan hệ huyết thống đã xa lắc chín đời rồi, căn bản chẳng thể bàn đến thân tình gì. Cho dù nàng ta có lấy một người địa vị thấp kém, đối với họ chẳng tổn hại gì. Vừa khéo trước đó đã có bộ trướng Trầm Lỗi của Trương Hiến Trung tặng thiếp, có thể lấy đó làm cớ bắt Dương Thu Trì lấy tiểu quận chúa, kéo hắn vào hoàng thất. Hắn tự nhiên sẽ vì hoàng thất mà nghĩ, và sẽ nghe theo lệnh ông ta!
Trước mắt giang sơn của Đại Minh gió mưa lăng loạn, nội ưu ngoại hoạn, sụp đổ nay mai, nếu như có thể lung lạc thiếu niên dị nhân này, nói không chừng sau này hắn còn soái quân bình định Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung loạn tặc, và đánh lui nhà Hậu Kim hổ thị đam đam, giữ vững giang sơn Đại Minh! Do đó, nhất định phải nghĩ biện pháp lung lạc thanh niên này!
 
Chương 128: Ép buộc nạp thiếp
Quế vương gạt nước mắt già hỗn trọc, gật đầu nói: "Hoàng huynh nói không sai, cha mẹ của Phượng nhi, phu quân, huynh muội cùng mọi người khác đều chết thảm trong tay Trương tặc quân, chỉ còn lại mình nó cô khổ, thật may là Dương đại nhận cứu nó ra, lại thu vào trong nội thất, một lòng chiếu liệu, đây cũng là phúc phần của Phượng nhi a...! Đáng thương cho Phượng nhi bị sợ quá ngu ngơ luôn rồi, rất may hiện giờ cũng có gia đình, tuy là thiếp, nhưng Dương đại nhân đối đãi nó tốt như vậy, không khác gì vợ nguyên phối, nên chúng ta cũng yên tâm rồi..."
Huệ vương ở bên cạnh không ngừng lần chuỗi phật, phụ họa theo: "Đúng a, ai..., những ngày này khổ cho Phượng nhi hài tử rồi. Lúc ta ở Trường Sa cùng hai vị hoàng huynh nói đến chuyện này đều cảm thán. Phượng nhi mạng khổ, nhưng cũng số may, gặp được người tốt như Dương đại nhân đây, không những thoát được miệng hổ, còn là người yêu thương nó, nửa đời sau có chỗ dựa dẫm rồi."
Phúc vương nghe hai huynh đệ một xướng một họa, cứ ép gán tiểu quận chúa cho Dương Thu Trì, hoàn toàn khác với thái độ dĩ vãng, đầu óc hơi chuyển, lập tức minh bạch nguyên do bên trong.
Phúc vương và Sở vương quan hệ tương đối gần. Sau khi Sở vương chết, Phúc vương liền tự quyết đứng ra làm chủ cho tiểu quận chúa, tìm kiếm một nhà môn đăng hộ đối để gả nàng, để nàng có chỗ nương nhờ. Nếu không phải là vì chuyện ở Kiềm Dương, người được chọn dù sao đi nữa cũng không đến lượt Dương Thu Trì. Sau khi được Quế vương và Huệ vương nhắc nhở, ông ta đã nghĩ minh bạch, rằng Truơng tặc quân thế như phá trúc, đã giết Tương vương, Kinh vương và Sở vương ba vị vương gia. Bọn họ nếu không dưới chân bôi mỡ chạy đủ nhanh, e rằng đã tiêu đời. Hiện giờ tính mệnh người thân của họ hoàn toàn phụ thuộc vào vợ chồng Dương Thu Trì, nếu như Dương Thu Trì mặc kệ, hoặc dạ trước mặt đấm vặt sau lưng, thì khi đối đầu với Trương tặc quân như lang như hổ, đầu của bọn họ chẳng thể yên ổn rồi.
Do đó, Phúc vương cũng ra vẻ thần tình thảm não, thở dài một hơi: "Đúng a, bổn vương nghe nói Dương đại nhân cứu muội muội của một bộ tướng của Trương tặc quân tên là Trầm Lỗi, do đó, Phượng nhi khi rơi vào tay người này, đã được hắn chuyển tặng Dương đại nhân làm thiếp. Vốn ra lời của tặc khấu là không có giá trị, nhưng bình tâm mà luận, từ cổ đến giờ kẻ thắng làm vua. Trương tặc quân phá Vũ Xương, bắt cả nhà hoàng huynh Hoa Khuê, toàn bộ nữ quyến làm nô làm xướng, hoặc bán hoặc cho, lòng chúng ta đau như cắt. Nhưng nghĩ kỹ lại, đó là sự tình thường thấy từ cổ tới giờ. Chúng ta bắt người nhà và nữ quyến của địch nhân, tặng người khác làm thiếp là chuyện cũng thường. Do đó, bất quản trong lòng chúng ta không nhận, chuyện này rõ ràng là xác thật như định đóng cột rồi..."
"Ơ à, chờ đã! Vương gia!" Dương Thu Trì càng lúc càng cảm thấy không ổn, mới đầu Quế vương và Huệ vương một đàn một hát, Phúc vương hiển nhiên là không vừa lòng chuyện hắn ôm tiểu quận chúa ngủ, nhưng hiện giờ nghe lời lão dường như là cùng về phe với hai lão già dịch kia. Theo lời họ, dường như đã coi hắn là trượng phụ của tiểu quận chúa rồi. Cái này không động, hắn cười ruồi ngắt lời họ, "Ti chức ngu muội, có chút... cái này, hắc hắc, nghe không hiểu ý tứ của ba vị vương gia...."
Quế vương kỳ quái hỏi: "Dương đại nhân không hiểu gì?"
"Các vị nói...., nói tiểu quận chúa là thiếp thất của tôi, nhưng..., nhưng tôi khi ở Trường sa đã nói rõ rồi, lúc đó chỉ là kế quyền nghi, vì cứu tiểu quận chúa. Tôi đã thành thân rồi, hơn nữa còn đáp ứng vợ tôi không nạp thiếp, do đó...., hắc hắc, hơn nữa, nàng ta đường đường là quận chúa, sao làm tiểu thiếp của tôi được? Phúc vương nói không sai chút nào, hắc hắc hắc...., tôi chiếu cố nàng ta thì được, nhưng chuyện này thì.... hi hì... không thể nào!"
Quế vương dường như đã sớm liệu đến chiêu này, lau nước mắt nói: 'Dương đại nhân, nam tử hán đại trượng phu đỉnh thiên lập địa, nói lời phải giữ lời, đúng không nào?"
"Cái đó đương nhiên! Nam nhân nói mà không giữ lời, gọi là nam nhân gì chứ! Nhưng mà..."
"Bổn vương hỏi ngươi," Quế vương ngắt ngay lời hắn, "Tên bộ tướng của Trương Hiến Trung có từng bức ngươi nạp Phượng nhi làm thiếp chưa?"
"Cái này thì không, nhưng mà..."
"Ngươi và tiểu quận chúa ngủ chung giường chung gối, còn sờ vào ... nó," Quế vương chỉ chỉ vào ngực mình, mặt lộ vẻ đắc ý, "Đây có phải là sự thật?"
"À...., ừ, thì phải, nhưng mà..." Dương Thu Trì há hốc mồm chẳng biết làm sao giải thích chuyện này. Hắn không ngừng thầm kêu khổ, hối hận lúc đó thái quá khinh suất, cho rằng tiểu quận chúa về sẽ không kể lại, dọc đường cũng đã dặn đi dặn lại nàng, thật không ngờ tiểu quận chúa khờ khờ, hỏi cái gì nói thế nấy, liên long trải thủ trảo.... ấy... cũng nói ra.
Quế vương cười: "Ta hỏi người, ở Trấn Viễn phủ, ngươi xưng hô với cữu mụ của tiểu quận chúa là gì?"
'... xưng là... cữu mụ." Dương Thu Trì cười khổ, hắn phát hiện bản thân đã trở thành con cá trong lưới của lão hồ li Quế vương này rồi, có giãy giụa cách nào cũng không thoát.
Quế vương càng cười thích chí hơn: "Như vậy là đúng rồi, tiểu quận chúa trước bị tặng cho ngươi làm thiếp. Ngươi chung chăn chung gối với tiểu quận chúa. Ngươi cũng nhận cữu mẫu duy nhất của cháu nó làm thân nhân. có văn khế làm bằng chứng, có quan hệ phu thê thật sự, tiểu quận chúa không phải thiếp thất của Dương đại nhân chứ là cái gì?"
"Tôi ngũ chung giường với nàng ta, nhưng mà không... không có làm cái đó a!"
Quế vương lắc đầu hỏi: 'Dương đại nhân, ngài nhận thấy rằng lời này nói ra có ai tin không?"
Dương Thu Trì tức thời á khẩu. Đổi thành bản thân, hắn cũng không dám tin cô nam quả nữ ngủ chung giường suốt đêm mà không có chuyện gì phát sinh. Huống chi hắn vì lừa bà mợ già kia mà mượn thế còn day còn bóp lung tung lên ngực của người ta nữa.
Quế vương thở dài: "Dương đại nhân, chúng ta nghe nói ngài đã đáp ứng với vợ tuyệt không nạp thiếp. Nhưng bổn vương cần nhắc hai chuyện, đại nhân có thể vì thế mà châm chước: một là Dương đại nhân nạp thiếp trước, cưới vợ sau, cho nên ước định của ngài không ảnh hưởng sự thật đã hình thành trước đó, và cũng không phản lại ước định vợi vợ. Thứ hai, Dương đại nhân vì vợ mà nghĩ, thì cũng nên đồng thời vì tiểu quận chúa mà nghĩ. Ngài và tiểu quận chúa chung chăn chung gối, mấy chục hộ vệ của ngài đều biết, toàn bộ trên dưới trong phủ cữu mẫu của tiểu quận chúa đều biết, hiện giờ ba người trong hoàng tộc ta đều biết. Tiểu quận chúa tân hôn rồi chồng chết, cải giá cấp ngài, đã viên phòng với ngài tại nhà của cữu mụ tại Trấn Viễn phủ, hiện giờ ngài tung chân đó cháu nó ra khỏi cửa, ngài biểu nó sau này làm sao đối mặt với người? Làm sao mà sống đây?"
Huệ vương ở bên cạnh cũng thở dài một hơi, lời nặng tâm nề nói: "Đúng vậy, hoàng đệ nói lời này không sai chút nào. Dương đại nhân, ngài hãy suy nghĩ kỹ lại đi, Phượng nhi hiện giờ ngốc nghếch không biết gì, nếu mà biết nhất định sẽ thương tâm...."
Dương Thu Trì lập tức túm ngay câu này: 'Đúng vậy đó, tiểu quận chúa đã khờ khờ rồi, sự tình lớn như vậy nàng ấy không tự biết đâu, sau này nàng ấy bệnh khỏi rồi, biết các vị đem gả cho bá tánh bình dân như tôi, sẽ thương tâm lám đó!"
Phúc vương cũng gia nhập trận đấu võ mồm, trầm mặt nói: "Không đúng! Đừng nói chi Dương đại nhân hiện giờ đã là thủ bị ngũ phẩm, là quan ở trong triều rồi. Cho dù là bá tánh bình dân, lệnh của mẹ cha, lời mai mối từ xưa đến nay chắc như định đóng cột. Hôn sự của tiểu quận chúa vốn do Sở vương làm chủ, hiện giờ Sở vương cả nhà chết hết, chỉ còn lại cữu mẫu của tiểu quận chúa ở Trấn Viễn phủ, tự nhiên do bà ta làm chủ. Nếu như bà ta đã công nhận chuyện tặng thiếp, coi như đã làm chủ chuyện này, đem tiểu quận chúa gả cho ngài làm thiếp rồi. Nạp thiếp không như cưới vợ, không cần đủ sáu lễ mối mai, người lớn trong nhà nói một tiếng là xong. Do đó, vô luận là ngài chối cải thế nào, tiểu quận chúa đã là thiếp của ngài, chẳng còn nghi ngờ gì nữa!"
Dương Thu Trì ngoảnh cổ há miệng, định nói nếu như ả đã là thiếp của ta, ta hiện giờ không thèm nữa, viết thư bỏ là xong! Nhưng dù sao thì hắn cũng không thể nói thành lời, vì nghĩ không thể thái quá tuyệt tình, ngủ thì đã ngủ với con gái của người ta rồi, lỡ chạm tay vào ngực con gái người ta rồi, bây giờ ngoảnh mông phủi đít không nhận, rõ ràng là nói gì cũng không suông.
Quế vương mỉm cười nói: "Tiểu quận chúa gả cho Dương đại nhân tuy cũng thiệt thòi, nhưng Dương đại nhân thiếu niên ánh tuấn, đảm lược hơn người, lần này soái lãnh bốn nghìn dũng sĩ đại bại ba vạn địch quân, làm tăng sĩ khí quân ta. Chuyện này sẽ nhanh chóng truyền biến khắp triều, khắp đại giang nam bắc e rằng sẽ lấy đó làm điển lệ mà hành động. Dương đại nhân từ đây uy danh sẽ bay xa, tuổi trẻ mà lập kỳ công như vậy, sau này tiền đồ không thể hạn lượng a!"
Quế vương chỉ khẽ vuốt mông ngựa mấy câu, Dương Thu Trì không thể không cười, khiêm tốn đáp lại vài lời.
Nói đến đây, Quế vương chuyển đầu nhìn Huệ vương và Phúc vương, thở dài, giọng trầm trọng: "Dương đại nhân, Sở vương tao ngộ kiếp nạn chắc ngài biết, thế tử cùng mọi người theo Sở vương tuẫn quốc, do đó mạch của Sở vương từ đây e rằng đoạn tuyệt rồi. Ai! Từ Minh thái tổ nhà ta khai quốc tới giờ, phong vương gần ba chục, chưa bao giờ có chuyện hương hỏa đoạn tuyệt, không ngờ đến đời Hoa Khuê, lại..."
Ba lão đầu này ba phần giả vờ, bảy phần thương cảm, không ngờ sụt sùi ệ ệ khóc nấc cả lên.
Dương Thu Trì thấy ba người họ làm vậy không biết là thật hay là giả, đối với dụng tâm của họ cũng đoán được mấy phần. Nhưng dù sao đi nữa, ba thân vương này coi trọng hắn như vậy, khiến hắn cũng nhen lên mấy phần đắc ý, và có đôi chút cảm đông.
Du kích tướng quân Long Bỉnh nhất mực im lặng ở bên nghe họ nói, khi thấy ba vị vương gia cứ ép dúi tiểu quận chúa cho Dương Thu Trì bắt lấy làm thiếp, y cũng đã trực tiếp kinh qua mấy trận chiến tàn khốc vừa rồi, tận mắt nhìn thấy tình cảnh tạc đạn và súng máy của Dương Thu Trì giết mấy nghìn quân địch máu huyết đầy đồng... Y sống tới chừng này, đã nhiều năm chinh chiến sa trường, từ tiểu binh thăng đến du kích tướng quân trải qua không biết bao nhiêu chiến sự lớn nhỏ, chưa từng thấy vũ khí uy lực như vậy. Y cũng dự cảm Dương Thu Trì nắm được hai vũ khí lợi hại này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hình thế chiến tranh, cho nên lý giải vì sao ba vị vương gia muốn tìm cách lung lạc Dương Thu Trì.
Y tuy không phải là kẻ chuyện nịnh hót, nhưng cũng biết mượn gió láy thuỳên, vội nói: "Ba vị vương gia đừng thương tâm, Trương tặc và Sấm tặc chẳng qua là quân chúng ô hợp. Đại Minh của ta có Dương đại nhân cái thế kỳ tài, nhất định sẽ bình định tặc khấu, trả lại thời thái bình thịnh thế cho chúng sinh!"
"Long tướng quân nói phải lắm!" Quế vương gạt lệ, nói với Dương Thu Trì, "Dương đại nhân, bổn vương có đề nghị, không biết đại nhân có chấp nhận hay không?"
 
Chương 129: Phá vỡ quy củ
Quế vương đứng dậy, chậm bước đến trước mặt Dương Thu Trì. Dương Thu Trì vội đứng dậy, khom người.
Quế vương giơ hai tay đỡ hắn, trầm giọng nói: "Tuy theo quy củ của tổ tông thì tước vị chỉ truyện đích không truyền thường, không có tiền lệ truyền cho nghi tân trước đây. Nhưng điều bất hạnh là Sở vương và các con cháu đều tuẫn quốc, chúng ta không thể nhìn mạch của Sở vương đến đây đoạn tuyệt. Dòng dõi của Sở vương trước mắt chỉ còn mình tiểu quận chúa. Tiểu quận chúa cải giá lấy ngài. Ngài chính là nghi tân của Sở vương. Lần này ngài lại lập đại công, do đó, bổn vương có ý tiến cử Dương đại nhân ngài lên hoàng thượng phá lệ cho ngài kế thừa tước vị Sở vương, là Sở vương đời thứ mười, không biết Dương đại nhân có ý thế nào?"
Ta làm Sở vương? Cái này không khỏi quá hoang đường hay sao? Dương Thu Trì há miệng ú ớ, không biết nói thế nào cho phải.
Huệ vương và Phúc vương đều ngầm khen Quế vương cao minh.
Các phiên vương của Minh triều vào sơ kỳ quyền thế rất lớn, có phủ binh riêng, có thể tham dự triều chánh, có thể trực tiếp ủy phái quan viên. Phiên vương ở biên cương thậm chí còn có binh quyền rất lớn. Minh thành tổ Chu Lệ năm xưa chính là Yến vương trấn thủ biên cương phía bắc, cuối cùng đã phát động chiến dịch Tĩnh nạn, mang binh đánh về kinh thành lật đổ Kiến Văn đế. Ông ta từ kinh nghiệm của bản thân cảm thụ phiên vương có uy hiếp rất lớn đối với hoàng quyền, do đó trước sau nỗ lực giảm bớt thực quyền của phiên vương. Từ đó trở đi các đời hoàng đế kế thừa truyền thông này, tuy lục tục phong vương, nhưng đều nghiêmcách hạn chế thật quyền, đối với những phiên vương cứng đầu nguy hại hoàng quyền đều nghiêm cách xử phạt, tước đoạt tước vị, giam vào thiên lao trị tội. Đối với những phiên vương trầm mê vào tửu sắc, làm chuyện không không, thì phần lớn đều làm ngơ hay thậm chí tán thượng, tặng mỹ tửu và giai nhân để khao thưởng. Do đó, đến hậu kỳ nhà Minh, phiên vương ngoài trừ vinh dự là hoàng thất và tài phú cực lớn ra, cơ bản không có thật quyền gì.
Hiện giờ Quế vương tiến cử Dương Thu Trì lên hoàng thượng với danh nghĩa là con rễ kế thừa tước vị của Sở vương, tuy trái với cương thường, nhưng trong tình huống đặc thù hiện giờ, chỉ cần hoàng thượng biết được tài năng của hắn, thì không phải là không biết tùy cơ ứng biến. Dù gì thì phiên vương cũng chỉ là xưng hiệu vinh dự mà thôi. Một khi hoàng thượng phê chuẩn, coi như đã triệt để lôi kéo "dị nhân" Dương Thu Trì vào hoàng thất, mọi người là ngựa chung chuồng, có thể khiến hắn buộc chặt vào cái xe trâu già cỗi cũ nát Minh triều này, bỏ hết sức chửng cứu giang sơn của Đại minh.
Nghĩ thông điều này, Huệ vương và Phúc vương đều đứng dậy bước tới nói: "Chủ ý này quá hay! Chúng ta cùng tiến cử Dương đại nhân, lấy thân phận nghi tân của Sở vương kế thừa tước vị Sở vương!"
Tổng binh Khổng Hi Quý cũng hiểu ra ý tứ của ba vị vương gia. Lão biết, nếu như ba vị vương gia liên danh tiến cử, cộng thêm trận chiến ở Kiềm Dương, Sùng Trinh đế căn cứ cực diện trước mắt, sẽ hết tám chín phần phê chuẩn đề nghị này, hạ chỉ để Dương Thu Trì kế thừa vương tước. Lão lĩnh binh đánh trận không được, nhưng luồn cúi đầu cơ thì không phải tay vừa, lập tức ngửi ngay mùi thăng quan tiến chức như diều gặp gió trên người Dương Thu Trì, tuy trong bụng vẫn đầy toan tính vật chất, nhưng mặt cười rất tươi, ọc ạch chạy tới khom người nói:
"Thật đúng là ý lớn gặp nhau, ti chức cùng muốn chen chân, vẫy đuôi chó theo hầu, phụ họa ba vị vương gia cùng tiến cử Dương đại nhân!"
Dương Thu Trì đối với tiểu quận chúa vốn không hảo cảm gì, sau đó chẳng qua là vì thương hại cho tao ngộ của nàng, nhờ cơ duyên xảo hợp thuận tiện giải cứu nàng mà thôi. Thật không ngờ hắn đã tự dẫn lửa thiêu thân, gây ra phiền phức lớn thế này. Hắn nghĩ tới ước định kiếp trước với Liễu Nhược Băng, nhủ thầm: cái cửa này không thể đi, giả vờ cũng không được, nếu không sẽ lỡ mất một phen tình ý của Liễu Nhược Băng.
Vì thế, hắn chỉ đành cứng đầu khom người xá dài, cười khổ nói: 'Đa tạ ba vị vương gia và tổng binh đại nhân hậu ái. Ti chức...., ti chức cảm kích vô cùng! Chỉ là...., thật tế là ti chức đã đáp ứng chuyết kinh không thể nạp thiếp. Tuy nói là có hôn ước với tiểu quận chúa trước, nhưng cái này... hắc hắc, ba vị vương gia mong hiểu cho, ti chức thật tế... không thể tuân mệnh..." Nói xong xá lia xá lịa.
Bốn người đưa mắt nhìn nhau, nụ cười trên mặt Quế vương từ từ biến mất, trầm giọng hỏi: "Nếu vậy có nghĩa là Dương đại nhân chấp ý không chịu lấy Phượng nhi làm thiếp sao?"
Dương Thu Trì khom người thưa: "Thỉnh vương gia hiểu cho, thật tại ti chức không dám phản lại lời hứa với chuyết kinh!"
"Vậy...., bổn vương muốn nghe Dương đại nhân nói một lời, Dương đại nhân chuẩn bị đối xử sao với Phượng nhi của ta đây?"
"...." Dương Thu Trì tắt họng, chỉ biết vái dài.
Phúc vương tức đến xanh cả mặt, lớn tiếng quát: 'Cái này còn phải hỏi? Rõ ràng là muốn quất ngựa truy phong mà! Hừ!"
Phúc vương phất tay áo, thở khì khì đi qua đi lại, sau đó dừng bước chỉ Dương Thu Trì nói: "Dương đại nhân, không phải ta không nói với ông, ông... ông quá không trượng nghĩa mà! Hiện giờ nhiều người biết Phượng nhi là thiếp của ông như vậy, cũng đều biết các người đã chung chăn gối viên phòng rồi, vậy làm sao để Phượng nhi gặp mặt thế nhân đây? Lúc ngươi nạp nó, nó đã bị sợ thành dạng vậy rồi, cái này đâu có phải là lỗi của Phượng nhi đâu chứ?"
Phúc vương càng nói càng kích động, múa tay múa chân: "Hiện giờ ngươi định ăn xong quẹt mỏ vung chân đá nó à? Hừ! Hoa Khuê hoàng huynh tuy đã chết trước, mạch Sở vương chỉ còn co khuê nữ ngu khờ này, nhưng vẫn còn đám già chúng ta đây chi! Cho dù bổn vương không đáng gì, nhưng Quế vương, Huệ vương cũng là hoàng thúc của đương kim hoàng thượng. Dương đại nhân, ngươi khi nhục hoàng gia ta như vậy, xem ra là không coi hoàng thượng vào mắt chứ gì? Được được được! Chúng ta sẽ tấu thỉnh hoàng thượng định đoạt, thánh thượng nếu nhịn được cái nhục này, thì.... thì coi như chúng ta đánh rắm cái vậy!
Từ đây về sau, ngươi đi đường của ngươi, chúng ta đi cầu độc mộc của ta! Cũng không cần ngươi bảo hộ chúng ta nữa, chúng ta ngồi đó... chở thiên mệnh vậy...!" Nói đến đây, lão tức giận có dư, lại khôi phục thương cảm, nhịn không được rơi hai hàng lệ dài.
Quế vương và Huệ vương lạnh lùng nhìn Dương Thu Trì, không nói gì.
Phúc vương nói thẳng nói nhanh một hồi, khiến trán Dương Thu Trì toát mồ hôi lạnh. Chuyện này có thể lớn mà cũng có thể nhỏ, nếu quậy tới triều đình, thì hắn kiếp trước làm Trấn quốc công cũng biết là hoàng thân quốc thích đều bảo hộ cho nhau rất dữ. Cho dù hoàng thân phạm tội, chỉ cần không phải là trọng tội mưu phản, thì đều được xá miễn. Sùng Trinh đế này người thế nào hán không biết, nhưng hết tám chín phần sẽ giúp ba vị vương gia, huống chi Quế vương và Huệ vương là hai ông chú ruột của hoàng đế nữa!
Một khi sự tình này làm lớn ra, lúc đó thì phiền, vì thiên hạ này lớn, liệu hắn có chỗ dung thân không? Chẳng lẽ lại chạy ra hải ngoại? Cho dù hắn hiện giờ có súng đạn, nhưng muốn chống cả Đại Minh, e rằng còn chưa đủ sức. Huống chi tự hắn khi nói thật ra chuyện này, bá tánh cổ đại chẳng mấy hứng thú với chuyện tình thánh một vợ một chồng. Do đó, phần lớn họ sẽ đứng về phía đối diện với hắn, không ai theo hắn làm chuyện tầm phào này!
Còn nếu đáp ứng, với tính cách cô ngạo của Liễu Nhược Băng, và kiếp trước nàng thà đau lòng trốn đi, chứ không chịu phân hưởng chồng cùng nữ nhân khác. Bản thân hắn xuyên việt đến đây, chẳng phải chỉ để hòa hợp chỉ mình Băng nhi, sống bên nhau trọng đời hay sao? Hiện giờ nếu hắn lại nạp thiếp, e rằng... nhớ lại Liễu Nhược Băng, mắt Dương Thu Trì chợt chuyển, nảy ra một kế, khom người nói:
"Vương gia xin bớt giận, hãy nghe ti chức nói một lời, chuyết kinh võ công cao cường, trong đại chiến này phòng thủ thành lâu, đã chém giết kẻ địch xông lên mặt thành vô số. Điểm này Long tướng quân cũng vừa báo cáo với các vị vương gia xong. Ti chức trước đây đã từng đáp ứng với chuyết kinh là không nạp thiếp, nếu như giờ nạp tiểu quận chúa làm thiếp, e rằng chuyết kinh phẫn nộ trở mặt. Gia đình ti chức bất an chỉ là chuyện nhỏ, chỉ sợ sẽ ảnh hưởng chuyện kháng kích địch quân, sơ xuất trong bảo hộ ba vị vương gia, vậy... ti chức chịu không nỗi tội đâu a!"
Nghe lời này, bốn người đều đưa mắt nhìn nhau, nếu như đã liên quan đến lợi ít trực tiếp, thì chuyện này cần phải suy nghĩ kỹ lại mới được. Ba vị vương gia chưa hề gặp qua Liễu Nhược Băng, không biết nàng là người thế nào, nhưng tổng binh thì đã gặp qua rồi. Với thân phận tổng binh đường đường của y mà còn chưa khiến Liễu Nhược Băng nhìn nữa con mắt, nên lão biết nàng là loại không vừa gì, lúc này y tốt nhất là gối cao ngủ kỹ, ngàn vạn lần đừng dây vào loạn, cho nên im miệng giả khờ.
Ba vị vương gia thầm nghĩ, Dương thủ bị có phu nhân tuy võ công cái thế, nhưng nàng ta dù sao cũng là nữ nhân, phu quân nạp thiếp thì nữ nhân thường sẽ ít nhiều gì đó phải ghen, nhưng người thiếp này của phu quân sẽ mang đến địa vị cao xa Sở vương mà người thường dù phấn đấu cả đời cũng không có được. Đối với một nữ tử dân gian, thoáng cái đã trở thành vương phi với địa vị tôn quý, rõ ràng là một bước lên trời, sao có thể chống lại lực dụ hoặc mà từ chối được chứ? Nếu như nàng ta hiểu lợi hại, cộng với có người khéo léo dẫn đường, xem ra rất dễ giải quyết vấn đề này.
Do đó, Quế vương trầm giọng hỏi: "Dương đại nhân có ý là, chỉ cần tôn phu nhân không phản đối, ngài sẽ nhận Phượng nhi làm thiếp, đúng không?"
"Vâng, nếu chuyết kinh không đáp ứng, ti chức không những giữ lời hứa, mà ngay cả trong ăn nói cũng không dám đắc tội, để tránh làm lỡ đại sự bảo vệ an toàn cho ba vị vương gia. Do đó, mang vương gia hiểu cho."
Quế vương ngẫm nghĩ, thấy chuyện này không thể làm cứng quá để tránh lỡ đại sự. Cho dù chuyện này không thành, có thể thông qua phương pháp khác lung lạc Dương Thu Trì, không cần gấp, nên đành nói: 'Vậy được, cứ định như thế đi. Dương đại nhân cứ đi lo chuyện chiêu binh trước, mấy người của bổn vương lập tức phái các vương phi đến phủ khuyên thử, nếu như tôn phu nhân đáp ứng, Dương đại nhân không thể từ chối nữa nhé, nếu mà không đáp ứng, thì.... thì coi như Phượng nhi mệnh khổ, chúng ta đã tận tâm rồi, không quản chuyện này nữa. Thế nào?"
Huệ vương và Phúc vương đều gật đầu tán đồng, Dương Thu Trì cũng vội khom người đáp ứng.
Lập tức, ba vị vương gia gọi quản gia của mình, dặn sắp xếp đưa ra 15 vạn lượng bạc trắng giao cho Dương Thu Trì làm quân hướng, sau đó trở về chỗ ở dặn dò các vương phi phải nghĩ cách thuyết phục phu nhân của Dương Thu Trì đồng ý thu tiểu quận chúa Chu Phượng Đức làm thiếp.
Dương Thu Trì và các vị quản gia lựa chọn sắp bày giao bạc xong mất cả thời thần, chất đầy mấy xe tạm thời giữ trong ngân khố của nha môn, khiến ngân khố nho nhỏ đó đầy chật cả.
Dương Thu Trì bận rộn xong, A Hạnh Ny hưng phấn chạy vào nói với hắn: "Thu Trì ca, chúng ta đã vận chuyển hồng di đại pháo về rồi, tổng cộng 29 chiếc. Ngoài ra, huynh đoán xem chúng ta tìm được gì trong quân doanh của địch quân bỏ lại?"
 
Chương 130: Trù kiến quân đội
"Tìm được cái gì?" Dương Thu Trì mỉm cười hỏi.
Gương mặt sáng bừng của A Hạnh Ny đầy vẻ hưng phấn: "Lương thực! Rất nhiều rất nhiều lương thực, đủ cả vạn người ăn nửa năm! Còn có mấy trăm thớt chiến mã!"
Thì ra, Trương Hiến Trung phái ba vạn đại quân đi công đánh Kiềm Dương, mang theo hai tháng quân lương, bị Dương Thu Trì dùng súng máy maxim diệt hơn 5000 binh sĩ sau không quá nửa canh giờ, ngay tướng soái lĩnh quân cũng bị bắn thành cái tổ ong mất mạng đương trường. Các binh sĩ như rắn mất đầu sợ đến hồn phi phách tán, sợ Dương Thu Trì đuổi theo truy sát, ngay lương thảo và quân mã ở đại doanh cũng không cần, hoảng loạn chạy thục mạng về An Khánh phủ, cấp cho Dương Thu Trì một phần hậu lễ.
Dương Thu Trì mừng rỡ vô cùng. Hiện giờ hắn đã có bạc, nhưng lại thiếu quân lương. Kiềm Dương huyện mấy năm trước đại hạn liên tục, không thu được hạt thóc nào, lão bá tánh đói đến nổi cỏ cây có thể ăn đều ăn sạch. Có người đói quá phải ăn đất trắng, bị đói chết hoặc chướng bị vì ăn đất mà chết. Số quân lương này quả là có lò sưởi trong tuyết a!
Dương Thu Trì triệu tập bộ đầu Ngụy Trì, Lưu Dũng cùng các hộ vệ và lão hắc đầu, đem sự tình ba vị vương gia giao cho hắn tổ kiến tân quân trình bày ra. Mọi người đều rất cao hứng.
Dương Thu Trì nói với Ngụy Trì: "Ngươi phụ trách tổ chức bộ khoái toàn huyện mang theo lục phòng thư lại đến các hương trại và phủ huyện gần đây dán cáo thị chiêu binh, đại ngộ khi tham quân là... à, cơm trắng, lương tháng trong quân..." Hắn chuyển sang hỏi Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ: "Các ngươi nhận thấy quân hướng định bao nhiêu thì hợp?"
Hai người đưa mắt nhìn nhau, Lưu Dũng nói: "Quân đội đại Minh án theo định chế thì quân hướng mỗi tháng 300 văn, chỉ có điều về cơ bản đều bị ăn chặn ăn bớt hoặc là bị thiếu nợ không phát. Nhân vì hiện giờ chỗ nào cũng đói kém, có thể có bữa cơm ăn là không tệ rồi, tham gia quân đội thường là để có cái ăn, không bị đói. Còn về quân hướng có thì tốt, không có cũng không sao."
Bộ đầu Ngụy Trì cũng nói: "Đúng a, tứ lão gia, à không, thủ bị đại nhân, quân đội này chỉ cần ăn no, không đói là có người tham quân rồi."
Dương Thu Trì lắc đầu: "Cái đó là yêu cầu tối thiểu, không có quân hướng sĩ khí không cao, rất dễ nổi loạn, do đó cần phải phát lương thôi. Nếu như Đại Minh định chế quân hướng là 300 van, chúng ta cũng không làm trái quy củ, phát 300 văn, hơn nữa phải nói rõ với họ, rằng chỉ cần tham gia quân đội của ta, quân hướng sẽ phát đúng kỳ, không thiếu một văn!"
Ngụy Trì cười nói: "Vậy thì hay quá, tin tức này truyền ra, đảm bảo hương thân ở các làng cũng đến đầu quân rồi."
Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, nói với Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ: "Hai người phụ trách công tác tuyển chọn binh lính, nguyên tắc là 17 tuổi trở lên, 40 tuổi trở xuống, thân không tàn khuyết đều có thể. Đến lúc đó ta còn muốn từ trong đó tuyển chọn quân tinh nhuệ, tổ thành tân quân, phối bị vũ khí mới."
Hai người ôm quyền đáp ứng.
A Hạnh Ny nghe Dương Thu Trì nói, kéo kéo tay áo hắn: "Thu Trì ca, Đồng binh của muội cũng gia nhập, được không?"
"Được a!" Dương Thu Trì cao hứng nói, "Từ lần đại chiến này mà xét, thì Đồng binh tác chiến dũng cảm, hành động theo chỉ huy, trận lấy ít thắng nhiều này công của Đồng binh không ít, đích xác là một chi sinh lực quân! Nhưng mà phụ thân của em có đồng ý không? Quân đội của chúng ta sau này có thể phải chinh chiến toàn quốc, Đồng binh có nguyện ý tham gia?"
A Hạnh Ny đáp: "Phụ thân sẽ không phản đối, những ngày tháng ở Đồng trại rất khổ, hai năm vừa rồi chết đói không ít, ra ngoài chạy nạn cũng nhiều. Quân đội của Thu Trì ca có điều kiện tốt vậy, muội nói với họ là họ nhất định tham gia ngay."
"Vậy được a! Hoan nghênh hai tay!" Dương Thu Trì cười nói.
"Vậy em thì sao?" Gương mặt sáng như trăng rằm của A Hạnh Ny đỏ hồng, đôi mắt to chớp chớp, cười hàm tiếu hỏi: "Em cũng muốn gia nhập quân đội của huynh, hoan nghênh không?"
"Em? Đương nhiên hoan nghênh rồi! Hai tay hai chân luôn! Nhưng mà, A Ny em không cần gia nhập chi nữa, em vốn là người của quân đội ta mà! Đừng có quên em là phó tướng của ta, đường đường là hiệp thủ của Kiềm Dương huyện!"
"Hi hi!" A Hạnh Ny cười cười, , "Quan này không thèm, với lại không phải là quan trong quân, huynh phải phong cho em một chức khác cơ!"
Dương Thu Trì nghĩ cũng đúng, chức thủ bị của bản thân là do tổng binh phong, chỉ giới hạn trong Kiềm Dương huyện, khi xuất chinh không thể dùng quan chức này, cũng không thể tự phong được. Quân đội này là 3 vị vương gia tự xuất tiền xây nên, dù sao cũng là quân của triều đình, tự nhiên phải do triều đình ủy nhiệm. Hắn liền cười nói: 'Chúng ta tạm thời dùng quan chức đó, sau này chờ tạo quân xong rồi tính."
"Vậy em giúp ca làm cái gì?"
"Em à, giúp ca tổ chức khai quặng, quặng càng nhiều càng tốt! Công tác này rất trọng yếu, quan hệ đến quân đội của chúng ta có đánh thắng hay không. Em cần làm tốt, coi như giúp ta một phần lớn rồi!"
"Được thôi! Ca yên tâm, em lập tức tăng phái người ngày đêm không ngừng khai thác!"
Dương Thu Trì lại nói với lão hắc đầu: "Lần này ông đã giúp ta chế tạo vũ khí trọng yếu nhất, lập đại công, ta thưởng ông 200 lượng bạc, ủy nhiệm ông làm cục trưởng chế tạo vũ khí cho quân ta! Ông toàn quyền phụ trách chế tạo vũ khí!"
Lão hắc đầu mừng rỡ, quỳ xuống tạ ơn, lại hỏi: "Vậy khuyển tử..."
Điểm này Dương Thu Trì đã nghĩ kỹ rồi, con trai Tiêu An Nhiên của lão hắc đầu tuy giết chết Triệu Thiên Châu, nhưng là có nguyên nhân, hơn nữa Triệu Thiên Châu vốn muốn chết, không nguyện ý tự sát, nên thiết kế để vòi tiền, bức bách Tiêu An Nhiên cuối cùng phải giết chết hắn. Bên bị hại rõ ràng là có sai, hơn nữa người chết cũng được trả mấy trăm lượng bạc rồi, cho nên Dương Thu Trì nói: "Con trai ông ngộ thương nhân mạng, hiện giờ binh hoang mã loạn, hình phạt lưu đày không dễ thật thi, vậy phạt 100 trượng, trả 100 lượng bạc chôn cất khổ chủ, sau này làm tiên sinh giữ tiền bạc trong cục chế tạo vũ khí của ông, lấy cộng chuộc tội."
Lão hắc đầu dường như không tin vào tai mình, ông ta vốn chỉ hi vọng giữ được mạng con trai, phán lưu đày 3000 dặm là vừa lòng lắm rồi, không ngờ vừa giữ được tính mệnh, bị đánh 100 hèo là xong. Tuy phán bồi 100 lượng bạc tiền chôn cất, nhưng Dương đại nhân trước hết cho 200 lượng, như vậy là không lo tiền bồi thuờng rồi. COn trai ông ta còn ở bên cạnh làm việc, thật là cái vui từ trên trời rơi xuống, kích động khiến lão hắc đầu rơi lệ, vừa khóc vừa cười, dập đầu lia lịa.
Dương Thu Trì vội đỡ ông ta dậy, bảo bộ đầu Ngụy Trì đem quyết định của mình báo cho tri huyện Lôi Minh biết, bảo ông ta cứ thế mà làm. Dương Thu Trì đã không còn là điển sứ tòng cửu phẩm trước đây nữa, mà là thủ bị chánh ngũ phẩm, đại cứu tinh của bá tánh toàn thành, phụ trách bảo vệ thành, là đại hồng nhân của ba vị vương gia, Lôi tri huyện đương nhiên vội y lời mà làm. Huống chi, ông ta không biết nội tình án này, đương nhiên Dương Thu Trì nói sao nghe vậy.
Cùng lúc đó, Dương Thu Trì mệnh lệnh lão hắc đầu tổ chức hơn trăm thiết tượng phân công một bộ phận luyện nguyên liệu chế tạo tạc đạn, một bộ phận chế tạo vỏ đạn, đầu đạn và kíp nổ. Lực lượng chủ yếu lại chế tạo thêm hai cái súng máy maxim và một lượng lớn súng bộ binh lão sáo đồng. Thời gian khẩn cấp, cho nên họ chia hai ca làm việc ngày đêm.
Tạo quân đội dù sao cũng có binh doanh, tổ kiến doanh trại chỗ nào đây? Dương Thu Trì nhớ lại học cung nho học rộng lớn kia, đó là một chỗ tốt, liền hưng phấn dẫn hộ vệ đến thị sát, nhìn qua rất vừa ý, quyết định sự dụng nơi này, di chuyển các tú tài còn lại vào nội nha của huyện thừa và chủ bộ học tập.
Học cung này rất rộng, lại ở phía Tây thành, là hướng địch quân có khả năng tấn công nhất, phòng ốc chỉ hơi cũ chút mà thôi. Tuy nhiên, hiện giờ hắn có tiền rồi, rất dễ làm việc, liền phân công hộ vệ Phó Quan và Hồ Thủy phụ trách đốc kiến xây dựng binh doanh. Kinh phí do hắn tự thân chưởng quản, vì quyền tài vụ không thể để lọt vào tay người khác mà hắn chưa tin. Hắn cũng vẻ ra sơ đồ bố cục binh doanh giao cho họ theo đó mà thi công.
Binh doanh này có diễn binh trường, trường huấn luyện vượt chướng ngại, trường tập bắn, kho vũ khí, kho lương, khu túc xá, tàu ngựa, còn có nhà ăn... Hắn đem hậu hoa viên chuyên môn chế thành cục chế tạo vũ khí, cho lão hắc đầu và các thiết tương di chuyển hết đến đây, phát lương gấp đôi cho những thợ rèn thợ sắc này, lão hắc đầu và những thiết tượng tiếp xúc được tin tức cơ mật thì lương gấp ba lần, khiến họ nhiệt tình và tích cực công tác. Đồng thời, để bảo mật, hắn còn thiết đặt vòng trong vòng ngoài ở cục chế tạo vũ khí, kiểm tra người ra vào rất nhiêm.
Dương Thu Trì nhớ tới mấy nghìn thi thể ngoài thành chưa kịp chôn, hiện giờ là trời mùa hè, rất nhanh sình thối, có khả năng sẽ dẫn tới tật bệnh lưu hành, như vậy thì rất phiền. Hắn lập tức triệu tập lý trưởng toàn huyện thành, mở cuộc họp.
Hiện giờ Dương Thu Trì ở Kiềm Dương huyện có thể nói là thần nhân, đâu đâu cũng truyền chuyện về vũ khí quái thú biết phun rắn của hắn, có thể chớp mắt cắn chết nhiều người, người chết sẽ có một lổ hổng xuyên suốt (Toại phát thương không có đủ uy lực, không thể tạo thành loại vết thương thế này), Dương thủ bị đang mang vũ khí diệt lui địch, bảo vệ nhân dân, cho nên mọi người trong thành đều kính nễ vợ chồng hắn...
Dương Thu Trì yêu cầu, lý trưởng các khu trong huyện đều đua nhau tập hợp ở học cung trước kia. Hắn liền đem mối lo xuất hiện ôn dịch do thi thể sình thối nói ra. Hắn chưa kịp yêu cầu, lý trưởng các nơi đã đua nhau tỏ thái độ, nói đây là đại sự đối với bá tánh trong thành, đương nhiên sẽ tiến hành chôn thi thể địch quân. Những tướng sĩ trận vong bên quân nhà thì do vì bá tánh trong thành mà chết, nên họ sẽ động viên mọi người cùng chuẩn bị những cổ quan tài mỏng an táng.
Dương Thu Trì rất hài lòng, lại cho gọi cả thảy lang trung trong thành, đem phương thuốc báo cho họ biết, bảo hộ phối tạo thuốc tiêu độc, tiến hành vệ sinh tẩy sạch các đường lớn nhỏ trong thành, đề phòng ôn dịch lưu hành.
 
Chương 131: Ông trời đùa cợt
Dương Thu Trì từ học cung vội vã trở về nha môn, vào nội nha điển sứ của mình, người mở cửa là Quách Tuyết Liên. Tiểu nha đầu le lưỡi nhìn hắn, cười quái quái, xong xoay người bỏ đi.
"Chờ đó!" Dương Thu Trì khẽ gọi, chạy theo mấy biết giữ nàng kéo xoay lại, "Em thần thần bí bí làm cái gì đó?"
"Không có a!" Quách Tuyết Liên ranh mãnh cười, "Nô tì đâu dám a!"
"Hừ!" Dương Thu Trì ngẩng đầu quét mắt nhìn quanh vườn, thấy có rất nhiều nha hoàn và bà vú. Những người này thấy hắn đều lui qua một bên, cúi đầu đứng nghiệm. Hắn xoay chuyển ý niệm, hỏi: "Các vương phi đến rồi?"
"Dạ đúng vậy! Nhưng mà đã về rồi."
"Tiểu quận chúa đầu? Về luôn rồi à?"
"Dạ," Quách Tuyết Liên cười hi hì nhìn hắn, làm mặt quỷ, cười: "Nhưng mà lão gia, sau này không thể gọi là tiểu quận chúa nữa, phải gọi là trắc vương phi...!"
"Ý gì vậy?" Dương Thu Trì cả kinh.
"Phu nhân đã đồng ý người nạp tiểu quận chúa làm thiếp rồi. Các vương phi của Quế vương, Huệ vương và Phúc vương cũng nói rồi, ba vị vương gia và tổng binh sẽ liên danh tiến cử người kế thừa tước vị Sở vương. Đến lúc đó, phu quân của chúng ta là vương phi, tiểu quận chúa tự nhiên là trắc vương phi rồi!"
Hả? Dương Thu Trì như đang nằm mộng, không biết nên mừng hay lo, hỏi: "Phu nhân đâu?"
"Đang ở trong phòng ngủ châm cứu cho tiểu quận chúa!"
"Châm cứu?" Dương Thu Trì kỳ quái.
"Đúng a, vương phi nương nương nói, trắc vương phi nương nương kinh khủng quá độ làm ảnh hưởng đến đầu, châm vài kim, cộng thêm vài thang thuốc, sẽ từ từ khỏe lên thôi."
"Vậy à, thật sau? À mà cái gì vương phi trắc vương phi chứ! Còn chưa có gì hết, sau này không được nói loạn, để người ta cười cho!"
"Dạ...!" Quách Tuyết Liên cười hi hi đáp ứng, nhanh chân bỏ đi.
Băng nhi đồng ý hắn nạp thiếp? Không đúng a, tuy nàng trước đây đã để cho Quách Tuyết Liên lên giường hầu hạ hắn, nhưng một là nàng chuyển thế quên hết ước định kiếp trước, hai là lúc đó hai người chưa thành thân, thậm chí còn chưa nhận lời đến với nhau, Băng nhi vì để hắn có người lo liệu, muốn hắn sớm thành gia đừng để một mình cô khổ đáng thương. Nhưng hiện giờ hai người đã thành thân rồi, với tính cách cao ngạo của nàng, sao có thể dung nữ nhân nào khác chứ?
Dương Thu Trì hơi nghi hoặc, từ từ đến phòng ngủ.
Ngay từ xa hắn đã ngửi được mùi u hương, vén rèm lên đã thấy tiểu quận chúa nằm phục trên giường, đầu có cắm mấy ngăn châm, dường như đã ngủ đi. Liễu Nhược Băng đang dùng ngón tay khẽ lay động ngân châm.
Nghe tiếng bước chân, Liễu Nhược Băng không quay đầu lại, khẽ hỏi: "Phu quân, chàng về rồi sao?"
"Ừ!" Dương Thu Trì đến cạnh nàng, xem nàng làm việc, không nói chuyện quấy nhiễu. Lát sau, Liễu Nhược Băng rút ngân châm ra, dùng thuốc nước tẩy rửa, đặt trở lại vào ống đồng nhỏ, xong khẽ hỏi: "Phượng nhi, cảm giác thế nào?"
"Dạ, đầu nóng lắm... giống như có con chuột nhỏ đang chạy trong đầu, hi hi, vui quá!" Tiểu quận chúa Chu Phượng Đức khẽ mở mắt nói.
"Vậy thì tốt, ngoan, nhắm mắt nghỉ ngơi một hồi đi." Liễu Nhược Băng đắp chăn mỏng lên cho tiểu quận chúa, quay mắt lại nhìn Dương Thu Trì tủm tỉm cười.
Dương Thu Trì sung mãn yêu thương vuốt má nàng, khẽ bảo: "Chúng ta ra ngoài nói chuyện, được không?"
Liễu Nhược Băng gật gật đầu, theo Dương Thu Trì ra ngoài. Hai người đến phòng khách, Dương Thu Trì vào đề thẳng: "Nàng đáp ứng đám vương phi đến khuyên bảo cho phép ta nạp tiểu quận chúa làm thiếp rồi?"
Liễu Nhược Băng cười cười nhìn hắn, gật đầu.
Dương Thu Trì dậm chân nói: "nàng sao lại đáp ứng chứ? Chúng ta không phải là nói rõ rồi, rằng cả đời này song túc song phi hay sao?"
Liễu Nhược Băng bước tới khẽ kéo tay hắn, dịu giọng nói: "Phu quân, thiếp biết chàng tốt với thiếp, chàng có lòng này, Băng nhi có chết cũng không hối hận gì rồi!"
"Không phải chỉ là vấn đề có lòng này! Nàng quên ước định tiền thế của chúng ta rồi..." Nói đến đây, hắn ngẫm nghĩ, chuyện ước định sống trọn vợ trọng chồng bên nhau này là định vào kiếp trước, hắn xuyên việt trực tiếp đến đây nên giữ ký ức trước kia, chứ Liễu Nhược Băng chuyển thế đầu thai, cho nên đã quên sạch rồi. Hắn bèn ôm eo nàng, khẽ bảo: "Băng nhi, ta đã đáp ứng nàng là cùng nàng song túc song phi mà!"
Đôi mắt phượng của Liễu Nhược Băng chớp chớp, nghi hoặc nhìn hắn, tựa hồ như hỏi hắn hứa với nàng lời này từ khi nào vậy, tại sao nàng lại không biết?
Dương Thu Trì hôn má nàng: "Đây là lời hứa kiếp trước, nàng đã không nhớ rồi, nhưng ta thì nhớ, do đó ta phải tuân thủ!"
Liễu Nhược Băng ứa lệ, khẽ dựa vào lòng hắn: 'Chàng cứ nói mãi kiếp trước kiếp này, Băng nhi không biết, nhưng nghe chàng nói vậy, Băng nhi rất thích!"
"Ừ, ta đáp ứng nàng chuyện gì nhất định phải làm cho được. Do đó, chúng ta hiện giờ đi gặp các vương gia đó nói rõ, không thể nạp tiểu quân chúa làm thiếp. Bọn họ hiện giờ còn phải dựa vào chúng ta, không sợ họ làm dữ đâu!"
Liễu Nhược Băng khẽ lắc đầu, hôn đáp lại hắn: "Phu quân, chàng nghe thiếp này. Băng nhi sở dĩ đáp ứng cho phu quân nạp thiếp, không phải là không lo nữ nhân khác phân hưởng chàng." Nói đến đây, đôi mi dài của nàng chớp chớp, lời nói hơi ảm đạm, "Phàm là nữ nhân, mấy ai không hi vọng phu quân chỉ sủng ái một mình mình chứ? Băng nhi cũng như vậy, cũng muốn cùng phu quân song túc song phi, ân ái đến bạc đầu..."
"Thì đúng rồi! Phu quân là nghĩ vậy đó, cho nên chúng ta mới không thể nạp tiểu quân chúa làm thiếp a!"
"Lời tuy là nói vậy, nhưng thế sự vô thường, lòng Băng nhi tự biết cân đo. Phu quân đối tốt với Băng nhi thế nào Băng nhi biết, nhưng Băng nhi không thể được sủng mà kiêu, và cũng là người biết chuyện. Trước khi Băng nhi và phu quân thành thân, phu quân đã nạp tiểu quận chúa làm thiếp, có văn khế làm bằng, lần này đến Trấn Viễn phủ, hai người lại... sau đó, phu quân mới cùng Băng nhi bái thiên bái địa thành thân. Vốn ra tiểu quận chúa vào nhà trước, nàng ấy phải là nguyên phối mới đúng. Phu quân thương xót Băng nhi, cho Băng nhi làm chánh thất, đã là vạn hạnh cho Băng nhi rồi. Nếu như không còn biết điều, đòi đuổi tiểu quận chúa ra cửa, thì thái quá bá đạo rồi."
Dương Thu Trì trợn mắt, nói: "Nhưng ta nạp cô ấy làm thiếp chẳng qua là kế quyền nghi bất đắc dĩ..."
"Băng nhi tin lời phu quân, nhưng mục đích nạp thiếp của phu quân là chuyện cá nhân, người khác sẽ không biết rõ chuyện này, chỉ biết chàng đã nạp tiểu quận chúa làm thiếp rồi, cũng đã viên phòng rồi, hiện giờ còn muốn..."
"Chưa viên phòng! Ta căn bản không có đụng cô ấy...., à có đụng, nhưng căn bản không cùng cô ấy... cái gì cái gì đó! Dù sao thì cô ấy vẫn còn thân xử nữ, không tin nàng có thể...."
"Tin! Băng nhi tin từng lời của phu quân!" Liễu Nhược Băng ôm chằm lấy cổ hắn, nhìn bộ dạng gấp gáp của hắn, lòng rất cảm động. Trượng phu người ta nghe nói vợ đồng ý cho nạp thiếp, e rằng nhảy cẵng lên nâng ly mừng rỡ, không ngờ tên ngốc này (hay là giả ngốc?) cứ từ chối tới lui, cứ muốn cùng như đôi chim liền cánh bay suốt cuộc đời với nàng! Có chồng như vậy còn cầu chi nữa! Nghĩ đến chuyện nhu tình, nàng không khỏi dâng cho hắn nụ hôn thật ngọt ngào, sâu đậm!
Dương Thu Trì mới đầu hôn bị động, sau đó lửa dục hùng hùng, phản khách vi chủ, ôm chặt nàng vừa hôn vừa sờ, khiến Liễu Nhược Băng hít hà liên tục, đẩy bật hắn ra, vừa thẹn vừa oán trách: "Coi chàng kìa! Bên ngoài còn có người đó!"
Dương Thu Trì ôm chầm nàng, giọng van nài: "Phu quân định hôn nàng mà, ai bảo nàng chọc ta chi?" Xong thò tay bóp lên gò ngực cao vọi của nàng liên tục.
Liễu Nhược Băng rên lên dựa hẳn vào người hắn, thở hỗn hễn nói: "Phu quân, không được! Làm vậy sẽ làm hao tổn công lực của Băng nhi đó..."
Dương Thu Trì cả kinh, vội dừng tay lại: "Sờ chút mà cũng hao tổn công lực của nàng?"
"Dạ, vốn trước đây thiếp không biết, nhưng đêm thành thân chàng...., sau đó, thiếp cảm thấy khi tụ khí có cảm giác lơi lỏng, không tùy tâm sở dục như trước nữa, trong lòng cứ nghĩ mãi... nghĩ mãi đến chuyện đó..., không biện pháp tập trung tư tưởng."
Thôi rồi! Dương Thu Trì đứng ngẩn cả buổi mới lấy lại thần. Xem ra, đồng tử công của Liễu Nhược Băng không những không thể phá thân, mà nam nữ thân mật cũng sẽ bị ảnh hưởng, sẽ làm loạn tâm thần khiến nàng không cách gì ngưng thần tụ khí. Hắn cười khổ hỏi:
"Vậy làm sao bây giờ? Ta nghĩ cho dù là không viên phòng chân chính, chỉ cần ôm nàng thân mặt, yêu đương chút chút bên ngoài cũng không sao chứ. Hiện giờ xem ra ngay cả đụng cũng không được."
Liễu Nhược Băng áy náy dựa vào hắn: 'Xin lỗi, phu quân, thiếp cũng không biết sẽ như vậy. Nhưng mà không sao, cho dù mất chút công lực, Ngải Miêu Miêu đó muốn thắng thiếp cũng khó lắm!"
Dương Thu Trì lắc đầu ủ rũ: "Cái đó không được! Cao thủ đối quyết, sự sai biệt chút xíu đã có thể ảnh hưởng đến sinh tử. Nàng lại không cho ta giúp, do đó, chúng ta hãy nhẫn nhịn một chút cho xong."
Liễu Nhược Băng lại hôn hắn: "Thiếp cũng nghĩ vậy, nhưng không biết phải nhịn bao lâu. Dù sao cũng không thể để phu quân vậy được. Hiện giờ thì ổn rồi, nạp tiểu quận chúa làm thiếp, tối đến phu quân có người thị tẩm, thiếp có thể an tâm luyện công chuẩn bị cho trường quyết chiến này."
"Cái gì? Nàng nói để cho tiểu quận chúa và ta...? Cái đó không được đâu! Nói là không nạp thiếp rồi mà!"
"Nghe thiếp nói! Phu quân," Liễu Nhược Băng trịnh trọng nói, "Chàng nạp tiểu quận chúa trước, không quản là với lý do gì, chúng ta cũng phải nhận, vì danh tiết một đời cho tiểu quận chúa, và cũng vì tín nghĩa của phu quân, chúng ta không thể để người ta nói sau lưng được. Chuyện này cứ định như vậy đi!"
"Nhưng mà..."
"Không có nhưng mà, phu quân, lần này chàng phải nghe Băng nhi!"
Dương Thu Trì dậm chân: "Băng nhi! Nàng hiện giờ mất ký ức không biết, chờ khi biết về ước định kiếp trước của chúng ta rồi, nàng sẽ hối hận đó!"
Liễu Nhược Băng ấm lòng, dịu dàng nhìn hắn: 'Chàng cứ nói kiếp trước, dường như là biết chuyện kiếp trước của chúng ta vậy, mà cho dù chàng biết chuyện kiếp trước, có lời ước định kia, chỉ cần chàng có lòng này, Băng nhi cũng đã mãn nguyện rồi. Nếu như ông trời để chàng nạp tiểu quận chúa làm thiếp trước, sau đó thành thân với Băng nhi, thì đó cũng là sự sắp xếp của ông trời. Phu quân, kiếp này chúng ta có thể ở với nhau, có thêm một tiểu quận chúa Băng nhi cũng không để ý đâu, nhân vì Băng nhi biết trong lòng chàng chỉ có Băng nhi, như vậy là đủ rồi!"
 
Chương 132: U U động phòng
Dương Thu Trì cười khổ: "Cái này.... hay là chờ sau này hẳn tính vậy!"
Liễu Nhược Băng nói: "Chuyện này đã được định rồi, các vương phi đã tiễn tiểu quận chúa đến cùng lễ vật và nữ tì. Thiếp cũng đã thế chàng thu lấy rồi. Đúng rồi, tối này ba vị vương gia còn thiết yến chúc mừng nữa."
"Chúc mừng cái gì a! Ta còn phải gấp chế tạo đạn dược, nếu không địch nhân đến đánh chúng ta làm sao đây?"
Liễu Nhược Băng cười cười: "Vốn ra là ba vị vương gia nói còn bày tiệc toàn thành treo đèn kết hoa nữa, thiếp vội ngăn lại, nói chàng phải vội chuẩn bị vũ khí ứng đối địch nhân, lúc này quân tình khẩn cấp, không tiện làm lớn, bọn họ mới chịu thôi. Còn về địch nhân, lần này chúng bỏ chạy tán loạn, ngay lương thảo và quân mã ở đại danh cũng bỏ, cho nên trong thời gian ngắn sẽ không đánh đến nữa đâu. Hơn nữa, ăn cơm tối cũng đâu có ảnh hưởng đến chuyện gì. Được rồi, mau đi làm đi, thiếp còn luyện công nữa."
Dương Thu Trì vội ra đứng trong vườn, lòng không biết nên vui hay buồn. Kiếp trước hắn nạp bảy nàng thiếp, đều hoan thiên hỉ địa, không có lần nào sầu mi khổ mặt như thế này.
Hắn lười nghĩ tiếp, gọi bọn hộ vệ nhồi đạn pháo vào lập tức khởi công, hắn phối thuốc họ nhồi.
Lần này bận rộn tới chiều tối, quản gia của ba vị vương gia đến mới vợ chồng Dương Thu Trì và tiểu quận chúa đến dự yến.
Liễu Nhược Băng đã lệnh cho nha hoàn giúp tiểu quận chúa đổi lại áo cô dâu, còn Dương Thu Trì chỉ thay bộ đồ mới rồi vào nội nha của tri huyện.
Tuy nói là tiệc gia đình, nhưng ba vị vương gia vì muốn tạo thanh thế, củng cố chuyện đã thành sự thật, đã thỉnh những hương thân danh lưu có tiếng trong thành, cùng lục phòng tư lại của huyện nha đến dự, bàn tiệc bày đầy cả vườn.
Quế vương, Huệ vương và Phúc vương cao hứng vô cùng, nói phu nhân của Dương Thu Trì đồng ý cho hắn nạp tiểu quận chúa làm thiếp thuận lợi vượt ngoài sự tưởng tượng của họ. Mấy vương phi chỉ tốn mấy khắc là về, vui mừng báo cho họ biết Dương phu nhân là kẻ thông tình đạt lý, họ vừa mở lời đã đồng ý ngay.
Làm thành chuyện này, ba vị vương gia vững tin hơn, lập tức liên danh viết tấu chương, ní về chiến công của Dương Thu Trì và tác dụng trọng yếu của hắn đối với Đại Minh, cực lực tiến cử hắn với thân phận nghi tân kế thừa tước vị Sở vương, sau đó dùng bát bách lí gia cấp khẩn cấp đưa lên kinh thành.
Tuy hiện giờ thiên hạ đại loạn, nơi nào cũng có chiến hỏa, nhưng dịch trạm của Đại Minh vẫn còn vận hành suôn sẻ, chẳng qua chỉ cần đi đường vòng mà thôi.
Nội nha của tri huyện treo đèn kết hoa, tiếng cười vui không ngớt. Trong vườn đầy rượu thịch, trên tửu yến, Quế vương còn chuyên môn an bài nghi thức nạp thiếp hiến trà, đây là nghi thức trọng yếu cường điệu tôn ti.
Tiểu quận chúa áo cô dâu khăn trùm đầu, tiếp trà thơm từ nha hoàn đưa qua, án chiếu theo nghi thức dập đầu dâng trà cho Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng, nhưng Liễu Nhược Băng chấp ý không chịu, nói bản thân đã chiếm tiện nghi, ủy khuất cho tiểu quận chúa rồi, nên không thể thụ nhận quỳ bái của nàng nữa, sau này cũng lấy quyền bình đẳng mà đãi tiểu quận chúa.
Liễu Nhược Băng độ lượng như vậy khiến Quế vương và mọi người mừng rỡ, đua nhau khen nàng là mẫu mực. Nhưng mà, bọn họ nhận thấy nguyên phối chỉ có một, không chịu ngồi ngang hàng, Dương Thu Trì cũng nhận thấy vậy sẽ ủy khuất Liễu Nhược Băng, nên không đồng ý, Liễu Nhược Băng đành phải nhận.
Chúng hương thân đạibiểu dân chúng toàn thành đua nhau bước lên kính rượu ba vợ chồng Dương Thu Trì.
Để nạp tiểu quận chúa làm thiếp, trước sau đã cử hành qua ba nghi thức. Lần đầu là Trầm Lỗi tổ chức tửu yến nạp thiếp, lúc đó thuần túy là vì muốn làm nhục tiểu quận chúa. Lần thứ hai ở Trấn Viễn phủ, cữu mụ của tiểu quận chúa chủ trì, lúc đó Dương Thu trì phản đối làm tiệc lớn, nên chỉ treo đèn kết hoa mà thôi. Có điều hai người lúc đó cũng tiến vào động phòng, nhưng Dương Thu trì không coi là thật. Còn lần này bất động, Quế vương có lòng gán ghép, mục địch để mọi người đều biết Dương Thu Trì hiện giờ là nghi tân mới của Sở vương rồi, nên dù bị Liễu Nhược Băng ngăn cản, không thể làm với quy mô lớn, nhưng cái gì nên có đều có cả, không thiếu cái nào.
Trừ việc bái thiên địa không cử hành, tửu yến bày đủ lễ tiết như cưới vợ vậy.
Sau khi trải qua mấy tháng điều dưỡng, theo hoàn cảnh cải biến, cộng với sự châm cứu trị liệu của Liễu Nhược Băng, bệnh tình của tiểu quận chúa đã từ từ chuyển tốt, chí ít là không ngơ ngẩn ngờ nghệch như ban đầu, thậm chí còn thỉnh thoảng nhìn ngắm Dương Thu Trì e thẹn ai oán, khiến mọi người đều hoài nghi không biết tiểu quận chúa ngốc thật hay giả vờ.
Dương Thu Trì vốn muốn nhanh chóng uống rượu xong rồi trở về tiếp tục chế tạo đạn dược, nhưng ba vị vương gia và chúng hương thân không hiểu tính trọng yếu và khẩn bách của việc này, còn thật sự cho rằng hắn có một quái thú biết phun rắn, có thể chớp mắt cắn chết mấy trăm thậm chí cả nghìn địch quân, cộng thêm có bạch y nữ hiệp Liễu Nhược Băng mười năm nay là nhân vật như trong thần thoại.... họ cho rằng hai vợ chồng đã trở nên mức ghê ghớm là người chặn giết người, phật ngăn chém phật, chẳng gì bất lợi. Và nếu không phải là hai vợ chồng hắn, ba vị vương gia và bá tánh toàn thành ở đây đã làm quỷ không đầu dưới đao hoặc ở tù dưới gông cùm xiềng xích rồi, cho nên họ tận khả năng bày tỏ sự cảm kích qua rượu, kính nhiều thêm vài bôi để biểu đạt ý cảm tạ trong tâm mà thôi.
Dương Thu Trì vốn là tửu quỷ, trước giờ chưa có thói quen từ chối rượu. Hắn vốn khôngmuốn uống nhiều, nhưng khi nghe A Hạnh Ny lúc kính rượu nói đã phái Đồng binh đi thám tra tứ phía rồi, một khi có tình huống lập tức báo cáo. Còn du kích tướng quân Long Bỉnh cũng nói chuyện thành phòng đã sắp xếp ổn thõa, bảo hắn ân tâm ăn mừng. Lưu Dũng thì báo cáo cho hắn một tin tức tốt hơn, nói hôm nay đã chiêu thu hơn ba nghìn tân quân, đã phối phát toàn bộ vũ khí tước của địch khi thu dọn chiến trường cho họ lên phòng thủ ở thành lâu. Hắn lại nhớ đến lời của Liễu Nhược Băng nói trước đó, là địch quân lần này sợ quá chạy tán loạn, sẽ không thể thực hiện cú hồi mã thương. Chuyện phối đạn cũng không phải nhất thời, nên hắn yên tâm uống rượu thỏa sức.
Hắn mạng Liễu Nhược Băng và tiểu quận chúa Chu phượng Đức đi đến từng bàn kính rượu. Uống thoải mái thế này dĩ nhiên càng náo nhiệt hơn. Tổng binh Khổng Hi Quý tuy thèm thuồng vẻ đẹp của Liễu Nhược Băng, bị ánh mắt lăng lệ của nàng quét trúng, không dám nhìn nàng lần nào nữa.
Bữa tiệc vui này uống rất thoải mái, Dương Thu Trì gần như say mèm, bị Liễu Nhược Băng và tiểu quận chúa đưa về. Ba vị vương gia cũng cao hứng đi theo tiễn về đến nội nha điển sứ mới tận hứng mà tan.
Quách Tuyết Liên đã sớm chuẩn bị tỉnh tửu thang cho Dương Thu Trì uống, nhưng hiểu quả không rõ lắm.
Nhân vì lần này hắn vừa trải qua tràng quyết đấu sinh tử, một mình giết quá nhiều địch quân, nên sự tác động đến thần kinh không phải một ngày một bửa là bình phục, cộng thêm xuyên việt đến đây lần đầu nạp thiếp không biết nên vui hay nên buồn, nên uống hơi nhiều, hai chén tỉnh tửu thang mà không thể làm hắn tỉnh.
Dương Thu Trì nhướn mắt say mèm kéo tay Liễu Nhược Băng cười hì hì kéo nàng về phòng đòi nghỉ. Liễu Nhược Băng cũng uống hơi say, cứ mặc cho hắn kéo, nhưng lại đưa hắn đến phòng của tiểu quận chúa, rồi cùng Quách Tuyết Liên cùng giúp cởi áo bào cho hắn, phục thị hắn nằm xuống xong thì đã thấy hắn ngủ khò.
Liễu Nhược Băng yêu thương hôn lên trán hắn, nhìn tiểu quận chúa cười hì hì ngốc nghếch, thở dài một cái rồi bỏ ra khỏi phòng. Quách Tuyết liên cũng theo sau.
Tiểu quận chúa cũng uống mấy bôi, mặt đỏ hồng, bước tới kéo tay Quách Tuyết Liên không chịu buông, nói là muốn cùng nàng chơi cửu liên hoàn.
Quách Tuyết Liên cười hi hi tránh ra, nói vào tai nàng: "Quận chúa, đêm nay là đêm động phòng hoa chúc, nàng và lão gia của nàng chơi ở trên giường đi!"
"Chơi với lão gia ở trên giường? Hi hi, được a, lên giường chơi! Không cho nàng đi, ba chúng ta cùng chơi!"
Nói xong, tiểu quận chúa tú, Quách Tuyết Liên kéo lên giường, khiến Quách Tuyết Liên đỏ bừng cả mặt, hất hai tay nàng, xong đẩy nàng ngồi lên mép giường: "Trò chơi động phòng này chỉ có mợ và lão gia chơi được thôi! Nô tì không có phúc khí đó!"
"Không mà! Ta cứ muốn nàng chơi cùng với ta, ba chúng ta cùng chơi!" Tiểu quận chúa túm tay Quách Tuyết Liên không chịu buông.
Quách Tuyết Liên hất tay không được, đỏ mắt nháy miệng về phía Dương Thu Trì: "Coi kìa! Lão gia của nàng tỉnh rồi, muốn chơi cùng với nàng kìa!"
"Vậy sao?" Tiểu quận chúa quay đầu lại nhìn.
Quách Tuyết Liên lén nhìn Dương Thu Trì, không ngờ mắt tập trung vào giữa hai đùi của hắn. Dưới ánh đèn lồng đỏ và nến chiếu sáng, nàng chợt thấy hạ bộ của hắn cao như gò núi, thế trận giống trống phất cờ rất rõ ràng. Quách Tuyết Liên nhớ lại đã từng tận tay sờ mó cột đèn đó, tức thời thẹn không biết làm sao, nhân lúc tiểu quận chúa quay đầu, tay hơi lỏng đi, liền dùng sức rút tay về, chạy vụt ra khỏi phòng thuận tay đóng cửa lại. Ra ngoài hành lang, đứng đứng phắt lại, cảm thấy tim đập thình thịch, lòng cũng tự dậy lên niềm thương cảm: biết tới bao giờ đèn hồng nến phúc mới được thắp lên cho nàng đây? Liệu nàng có ngày đó không?
Tiểu quận chúa đuổi theo tới cửa, bị Quách Tuyết Liên chèn cửa phía ngoài, gọi hai tiếng mà không ai đáp, liền giậm chận ỏng ẹo, trở lại bên giường, thấy Dương Thu Trì ngủ khò khò, mũi phập phồng nhìn rất tức cười, liền dậy lòng tinh nghịch, đưa tay bịt mũi hắn.
Lát sau, Dương Thu Trì hô hấp không được, lắc nghiêng đầu hất tay nàng ra, xoay người vào trong ngủ tiếp.
Tiểu quận chúa bụm miệng cười, đẩy hắn một cái, Dương Thu Trì không cảm thấy gì, vẫn còn trong giấc mộng chu công. Tiểu quận chúa chụp tay hắn lắc lắc: "Lão gia! Lão gia! Dậy chơi với Phượng nhi a...!"
Không ngờ Dương Thu Trì lần này say quá, vẫn ngủ khò.
Tiểu quận chúa hừ một tiếng, vung tay đánh nhẹ vào cánh tay hắn: "Không dậy Phượng nhi không thèm chơi với lão gia nữa!"
Trừng mắt nhìn hắn một hồi, thấy không động tĩnh gì, tiểu quận chúa chề môi, cởi giày thêu hoa, ném mạnh vào góc tường, cởi hết quần áo cô dâu và khăn trùm, cũng quẳng mạnh ra ngoài bàn, trên người chỉ còn tiết y màu đỏ hồng.
Tiểu quận chúa quỳ đôi đùi ngọc trắng thon như phấn dồi bò lên giường, nằm cạnh Dương Thu Trì, kéo mền qua đắp, nhắm mắt lại. Một lúc sau, nàng lại mở mắt, mượn ánh đèn nhìn Dương Thu Trì, thấy hắn ngủ rất say, ngẫm nghĩ một hồi, đưa tay bứt sợi tóc trên đầu, cẩn thận chọc vào lổ tai hắn, khẽ se.
Dương Thu Trì ngứa lổ tai, trong vô thức đưa tay quơ quơ, hất tay tiểu quận chúa ra, nhưng không mở mắt, tiếp tục ngủ vùi.
Tiểu quận chúa che miệng cười, cảm thấy rất vui, liền quỳ lên nhỏng mông, dùng tóc tiếp tục ngoáy vào lổ tai hắn.
 
Chương 133: Ràng buộc
Lổ tai Dương Thu Trì ngứa rất khó chịu, trong lúc nửa tỉnh nửa ngủ, nửa say nửa sỉn đưa tay định chụp tạy tiểu quận chúa, nhưng bị nàng cười hắc hắc tránh né.
Tiểu quận chúa lại tiếp tục chọc ghẹo Dương Thù Trì, hắn bèn quay qua ôm nàng vào lòng luôn cho khỏi phiền phức.
Tiểu quận chúa chỉ mặc một tiết y sát người, còn Dương Thu Trì thì đã bị Quách Tuyết Liên cởi hết chỉ còn lại nội khó. Hai nam nữ trần người lỏa thể ôm nhau như vậy, kết quả không nghĩ cũng biết.
Do đó, Dương Thu Trì sau khi ôm người ngọc vào lòng, trong cơn say cêếnh choáng, đã hồn nhiên không biết người trong lòng là ai, cảm thấy nữ tử trong tay kiều khu như lửa, khiến cho toàn thân hắn cũng nóng rực lên. Dương Thu Trì làm hòa thượng đã lâu, đã sớm bị lửa dục thiêu đốt mụ cả người, giờ có thiếu nữ trần trụi nằm trong lòng, sao có thể khắc chế nỗi. Hắn lật người lên, nhoáng cái đã lột sạch chút vướng víu còn lại của hai người, kéo hai đùi nàng dậy, đẩy núi vàng, xoay trụ ngọc, chợt nghe tiểu quận chúa la lên một tiếng thảm thiết: 'A...! Lão gia...., không chịu đâu, đau quá hà... hu hu hu..."
Tiểu quận chúa vừa khóc vừa dùng ngọc thủ trắng muốt định đẩy hắn ra, nhưng làm sao đẩy nổi. Nhưng tiếng hô thảm này cuối cùng đã làm Dương Thu Trì tỉnh hẳn.
Hắn đột nhiên phát giác người ngọc dưới thân là tiểu quận chúa, đang ràng rụa khóc ròng, còn hắn đã long thương cắm vào thành địch, liền vội dùng 12 đạo kim bài ra lệnh triệt quân, ngồi ngơ ngẩn nhìn tiểu quận chúa khóc lóc, không biết làm sao cho phải. Hắn đành nằm xuống cạnh nàng, khẽ ôm nàng vào lòng an ủi, dịu dàng hỏi: "Phượng nhi, ta làm nàng đau hả?"
"Dạ...! Đau lắm! Phượng nhi không chơi nữa! Chơi không vui gì hết..! Hu hu hu..." Tiểu quận chúa một tay gạt lệ sụt sùi, một tay đưa tới chỗ kín đã thụ thương che đậy.
"Xin... xin lỗi a..." Dương Thu Trì ấp úng nói, "Ta....., ta uống say rồi."
Tiểu quận chúa không quản chuyện đó, nghe hắnn nói vậy càng ủy khuất hơn, khóc cực lớn giống như còi xe lửa hụ vậy.
Dương Thu Trì nghe nàng khóc lớn, sợ người ở ngoài nghe thì không hay, trong cơn hoảng loạn vội áp người hôn môi nàng, nhẹ nhàng đưa lưỡi qua bịt kín miệng nàng, tay còn lại thì tập kích lên gò ngực tròn trịa của nàng, như bướm vờn trên nụ hồng.
Chiêu này nhanh chóng có hiệu quả, vì thật nhanh sau đó, tiếng khóc của tiểu quận chúa nín dần, chuyển thành tiếng rên khe khẽ.
Dương Thu Trì nghĩ trong cơn say chếnh choáng đã đoạt mất trinh tiết của tiểu quận chúa, không cấp cho nàng chút ôn tồn mơn trớn nào, lòng cảm thấy áy náy hối lỗi, nên dùng hết tinh thần vuốt ve kích thích tiểu quận chúa, nhanh chóng khơi dậy lửa dục bản năng của nàng, khiến nàng chủ đồng ôm hôn trả lại hắn.
Khi tiểu quận chúa hơi thở như lan, hỗn hà hỗn hễn không biết trời đất gì nữa, Dương Thu Trì mới vạch hai chân nàng ra, nhẹ nhàng lên ngựa, hoàng long lại đánh trở về thành.
Trong thoáng này, hắn liền nhìn xuống, thấy hạ thân trắng muốt của tiểu quận chúa thắm vệt máu hồng, hiểu rằng nàng quả nhiên còn giữ thân xử nữ, nên ôn tồn từ tốn hơn.
Trong trận mây mưa này tiểu quận chúa không còn la đau nữa, triền miên tình ý, hưởng thụ hết lần này đến lần khác cái vui cá nước, đến canh năm hai người mới ôm nhau ngủ vùi.
Sáng hôm sau, hai tiểu nha hoàng tiến vào phục thị tiểu quận chúa tẩy rửa, nhưng tiểu quận chúa lười nhác mệt mõi nằm rúc vào lòng Dương Thu Trì không chịu dậy.
Dương Thu Trì còn rất nhiều việc cần phải làm, lại muốn đi gặp Liễu Nhược Băng một chút, nên nựng vào mông của nàng mấy cái, rồi chọc vào nách nàng, khiến tiểu quận chúa cười nắc nẻ trốn vào trong góc, mới thoát thân xuống giường.
Sau khi tẩy rửa thay y phục xong, hắn e dè vào phòng của Liễu Nhược Băng.
Liễu Nhược Băng đang ngồi luyện công trên bồ đoàn, thấy hắn tiến vào, nhỏen miệng cười hỏi: "Ngủ ngon không?"
Thấy Liễu Nhược Băng có thần sắc như vậy, Dương Thu Trì cũng yên tâm mấy phần, chân chánh khẳng định nàng đích xác là tự nguyện để hắn nạp thiếp. Hắn ngồi xuống cạnh nàng, hôn khẽ vào tai nàng: "Ừ, cũng ngon, nàng thì sao?"
Liễu Nhược Băng hôn đáp lại hắn: "Ngon lắm, thiếp đang hẩn trương luyện công. Chàng tối qua đã để lỡ nhiều thời gian, nên đi làm đi, lỡ để địch quân đánh lại thật mà đan khai hoa và đạn súng máy của chàng chưa chế tạo ra, nguy hiểm lắm đó!"
Nàng nghe Dương Thu Trì nói qua tạc đạn và súng máy, do đó biết đó không phải là quái thú gì, mà là một loại hỏa khí lợi hại. Nàng cũng biết qua uy lực của hỏa khí này, cho nên bảo Dương Thu Trì làm nhanh. Dương Thu Trì đáp ứng, đứng dậy ra cửa.
Công tác kiến thiết binh doanh không dừng lại một khắc nào. Xưởng đồ sắt đã di chuyển vào trong binh doanh mới, những nguyên liệu luyện ra ngày hôm qua cũng đã vận chuyển đến nội nha. Chuyện phối trí thuốc nổ đắng, thuốc nổ không khói và ngòi nổ là cơ mật trung tâm, cho nên Dương Thu Trì vẫn một mình làm ở sương phòng trong nội nha, đảm bảo bí mật.
Hắn bận rộn suốt cả ngày mới tạo ra 500 viên đạn có thuốc nổ và ngòi nổ, cộng thêm một ít tạc đạn. Không biết địch quân sẽ tấn công khi nào, hắn rất gấp, quyết định trong thời gian này cần phải tăng ca làm thuốc nổ.
Đêm tân hôn, tiểu quận chúa hưởng được thú vui ân ái, cứ chạy lại gõ cửa phòng hắn, không chịu mở cửa không đi. Dương Thu Trì chỉ đành ôm nàng nồng ấm một phen, nàng mới chịu trở về cùng Quách Tuyết Liên chơi trò cửu liên hoàn. Nhưng đến tối, trời vừa tắt nắng, lên đèn là tiểu quận chúa kéo Dương Thu Trì lên giường, giúp hắn cởi y phục quấn quít đòi mây mưa.
Dương Thu Trì thấy nàng nhiệt tình như lửa, tuy công tác bận rộn, nhưng không nhẫn tâm làm tắt hứng trí của nàng, phải đi ngủ sớm.
Khi mây mưa trên giường, tiểu quận chúa ngây ngô không biết cái gì, Dương Thu Trì bảo nàng làm gì nàng làm cái đó, nên nào là "lão hán thôi xa", "quan âm ngồi tòa xen", "nàng hầu nhổ củ cải", "thương nữ bất tri vong quốc hận"... toàn những tư thế hắn biết được trong phim A (phim Adult, tình dục dành cho người lớn) đều được đem ra thử. Khi tư thế không đúng tiểu quận chúa bị đau là mếu máu khóc, nhưng khi Dương Thu Trì dụ dụ, sờ sờ là nhanh chóng cười hì hì tiếp tục.
Và thế là ban đêm khuê phòng khoái lạc phừng phừng, ban ngày thì Dương Thu Trì bận rộn bù đầu, vừa chế tạo thuốc nổ và đạn, vừa thị sát tình hình kiến thiết quân doanh và mộ binh.
Công tác chiêu mộ binh lính tiến hành rất thuận lợi. Bá tánh bị nạn đói không có gì sống, hiện giờ hắn chiêu binh đảm bảo có gạo trắng ăn lại mỗi tháng còn có 300 văn tiền lương, đúng là miếng bánh từ trên trời rơi xuống. Không chờ bộ đầu Ngụy Trì dẫn các thư lại đi động viên, tin tức đã truyền khắp nơi, thanh niên trai tráng khắp các làng xóm ùa nhau kéo đến, không ít lão đầu đã cố sức làm cho trẻ hơn, báo tuổi giả để được chọn. Thậm chí có những nữ tử giả làm nam đến ứng chinh, chẳng qua là để có cái ăn mà thôi.
Do người tư các làng xóm châu huyện phụ cần hay tin đến xin tòng quân quá đông, còn quân lương chỉ đủ một vạn người ăn một tháng, có chiêu binh nhiều đi nữa cũng không đủ ăn. Hơn nữa, hắn chiêu binh mãi mã để đánh nhau, chứ không phải tu công tích đức cứu tế bần dân, nên những người ốm yếu, đói kém, không có khả năng bị loại với tỷ lệ rất cao.
Quân đội cổ đại tác chiến quan trọng nhất là điều kiện thân thể của binh sĩ: day sức, mạnh mẽ là điều kiện cơ sở. Dương Thu Trì căn cứ tình huống xác định điều kiện tuyển chọn, trước hết tiến hành chọn tuổi và giới, phụ nữ trẻ tuổi khỏe mạnh chỉ giữ lại trăm người làm cứu hộ viên và thu dọn vệ sinh chiến trường. Còn đối với binh sĩ, hắn tổ chức tiến hành thi mang váv 10 kg chạy việt dã và nâng tạ. Những ai vượt qua thì quá quan, ai bị đào thải thì cấp cho 50 văn làm lộ phí trở về quê.
Kinh qua tuyển chọn nghiêm cách, chỉ có 5 nghìn người đạt chỉ tiêu, trong đó bao quát hơn 1000 Đồng binh còn lại của A Hạnh Ny. Lại thêm mấy ngày nữa, người thông qua càng lúc càng ít. Trong vòng mười ngày, tổng cộng chỉ thu được 8 nghìn tân binh có điều kiện thân thể đạt yêu cầu.
Điều này cũng khó trách. Vào thời Minh mạt chinh chiến liên miên, đại bộ phận thanh niên khỏe mạnh đều bị chinh triệu nhập ngũ, phần lớn chết ở chiến trường, còn lại phần lớn là già cả bệnh tật. Rất may ở đây là Tương Tây xa xôi, tình huống đỡ hơn, trong vòng 10 ngày ngắn ngủi mà có thể triệu tập được bấy nhiêu đó binh sĩ hợp thể cách là may lắm rồi. Rất may là nhờ cơm gạo quân hướng cộng uy danh của hai vợ chồng Dương Thu Trì, nên độ thu hút mới khả quan như vậy.
Trong mười ngày này, Dương Thu Trì chế tạo được khoảng 7 nghìn viên đạn và hơn trăm đầu đạn pháo. Đương nhiên, nghiêm cách mà nói thì đây là thành quả tập thể. Một trăm thiết tượng tạo vỏ đạn, đầu đạn và bao ngòi nổ, ngoài ra còn luyện ra nguyên liệu thuốc súng và thuốc dẫn hỏa. Dương Thu Trì chỉ phụ trách phối hợp nhưng nguyên liệu này thành thuốc nổ không khói và thuốc mồi làm ngòi nổ, sau đó cho 50 hộ vệ của mình tiến hành nhồi thuốc, rồi bỏ vào trong các hộp đạn 5 viên của súng bộ binh lão sáo đồng. Chế tạo pháo đạn bằng đá cũng vậy. Dương Thu Trì chỉ phụ trách chế tạo thuốc nổ, nguyên liệu và việc ngồi thuốc nổ vào thì để người khác hoàn thành. Những công tác này chia hai ca, ngày đêm làm không nghỉ.
Súng máy maxim đã qua kiểm nghiệm thực chiến, chứng minh hợp cách. Trong mười ngày này lão hắc đầu lại tạo ra một cây nữa, còn súng bộ binh lão sáo đồng thì kết cấu đơn giản, sán xuất được mấy chục cây sau 10 ngày.
Nhưng mà, Dương Thu Trì không biện pháp gì trang bị hết lão sáo đồng cho tám nghìn quân mới triệu tập này, càng không thể sản sinh nhiều súng máy maxim cho quân đội - nguyên nhân bó buộc chủ yếu cho việc tổ kiến quân đội đại quy mô này chính là đạn dược. Do hắn cần bảo mật kỹ thuật, những chi tiết quan trọng chỉ có thể hoàn thành một mình, nên tốc độ chế tạo bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Như thế tính ra, mỗi chiếc súng máy cần dùng 5 nghìn viên đạn. Nguyên định tạo 3 cây, đạn cần dùng 1 vạn 5000 viên. Súng bộ binh mỗi cây phát 20 phát đạn, một nghìn cây 2 vạn viên đạn.
Tổng cộng hắn phải làm 3 vạn 5 nghìn viên! Mỗi ngày chế tạo 500 viên, vậy cần hơn hai tháng. Như vậy nói, bản thân hắn ban ngày đừng làm gì cả, chỉ dành trọng thời gian ba tháng mới trang bị cho một trường chiến đấu quy mô nhỏ dưới 5 vạn người!
 
Chương 134: Luyện binh
Dương Thu Trì không muốn để bản thân mệt chết. Xem ra dựa vào thuốc súng và đạn do một người tạo ra mà đi cứu cả giang sơn Đại Minh là không thể, do đó hắn chỉ có thể tận lực mà thôi.
Do hạn chế về đạn dược, hắn quyết định khống chế quân tinh nhuệ trong vòng một nghìn người. Do súng bộ binh và súng máy có ưu thế lớn nhất là về tầm bắn, hắn quyết định đem 1 nghìn người này tổ kiến thành kỵ binh, có thể nhanh chóng xung phong truy kích, cũng có thể triệt thối cực nhanh. Hắn muốn họ luôn bảo trì khoảng cách trong tầm bắn của bên nhà nhưng ngoài tầm bắn của đối phương, như vậy họ có thể đánh địch mà địch không thể đánh họ, tiến hành chiến tranh không cân xứng.
Cánh quân này được phối bị súng có lưỡi lê ba cạnh, binh sĩ và chiến mã đều không mặc khải giáp, để đảm bảo tốc độ tiến thôi, cũng lợi cho di chuyển xa. 28 khẩu hồng di đại pháo được tổ thành pháo đoàn, pháo thủ không trang bị vũ khí gì, do bản thân hắn theo túng súng máy maxim làm hỏa lực bảo hộ, hai cây súng máy còn lại được dùng làm dự bị.
Bảy nghìn tân quân còn lại án chiếu theo phối chế của quân đội Đại Minh mà trang bị, chủ yếu người mặc khải giáp nhẹ, tay mang thuẫn bài và đao, cộng thêm cung nỏ thủ và trường thương đội. Họ phối hợp ngắn dài, tương hỗ bảo vệ cho nhau. Do có đội súng lão sáo đồng, đội hỏa súng bị trực tiếp đào thải.
Chiến đấu sẽ cố gắng tiến hành ở bình nguyên hoặc địa hình rộng rãi. Phương án tác chiến là: trước hết do hồng di đại phảo bắn ba bốn nghìn mét dùng đạn phổ thông và đạn thật tâm oanh kích xa, chờ định quân tiến gần 1000 mét dùng Phất Lảng Cơ phát xạ, sử dụng đạn đá chứa thuốc nổ mới. Khi địch quân xông tới 400 mét lọt vào tầm bắn, bộ binh nổ súng xạ kích. Nếu như số lượng địch quá nhiều, thì thượng tướng mang súng máy là hắn sẽ xuất trận, căn cứ số lượng địch quân mà có tăng thêm số súng hay không. Khi đội hình xung phong của địch quân bị đả kích trí mệnh, quân đội phổ thông sẽ ra tay thu thập tàn cục.
Đương nhiên, đây là phương thức tác chiến lý tuởng. Chiến trường thiên biến vạn hóa, địch quân là kẻ có đầu óc, nên cần phải căn cứ tình huống tác chiến cụ thể mà điều chỉnh phương án tác chiến.
Khi thành lập quân đội, vấn đề đầu tiên là có cơ cấu tổ chức thế nào. Hắn quyết định sử dụng quy tắc tam tam chế của quân đội Trung Quốc hiện đại, gồm quân, sư, lữ, đoàn, doanh, liên, bài, ban mà lập: 10 người một ban, 3 ban 1 bài, 3 bài 1 liên, cứ thế lấy 3 mà tiến. Mỗi đợn vị thiết đặt 1 chức chánh hai chức danh phó, toàn sư cộng 7290 người, còn lại dùng làm pháo binh và hậu cần binh.
Do danh xưng đoàn trưởng, liên trưởng người cổ không quen, Dương Thu Trì dùng quân chức tương ứng của cổ đại để thay vào, Ban trưởng thành Thập trưởng, Bài trưởng thành Đội trưởng, Liên trưởng thành Tiếu quan, Doanh trưởng thành Tuần kiểm, Đoàn trưởng thánh Bá tổng, Lữ trưởng thành Thiên tổng, Sư trưởng thành Thủ bị. Tân quân hiện giờ vừa khéo thành một sư, cho nên hợp với hắn là thủ bị.
Án chiếu địa vực và thôn trại phạm vi đại khái xác định binh sĩ thuộc liên đội nào xong, quân quan dưới doanh do bọn họ tự để cử ra những người biết võ biến bắn cộng phẩm chất đạo đức và uy vọng cao ra đảm nhiệm. Quan từ cấp đoàn trở lệ do Dương Thu Trì tự chọn từ những người bên mình ra tiến hành thị tuyển .
Phương pháp thi tuyển rất giản đơn: chiếu theo võ khoa của Minh triều ra khảo, bao gồm cung mã kỵ xạ, án thành tích xác định quan chức. Sau đó, hắn ở trước mặt toàn sư, thụ hàm cho từng người một, ban phát tiền thưởng. Mỗi lần phát lương, hắn tự tiến hành tổ chức, cho phát đến tám trăm ban trưởng, để họ tự phát lại cho binh sĩ dưới quyền. Hắn còn quy định rõ, ai cố tình khấu trừ lương lính, không những bị triệt chức, mà còn đánh 100 quân côn trước mặt mọi người, giam cấm một tháng.
Những nghi thức này có ý nghĩa rất trọng yếu, nhờ đó hắn cấp cho tướng sĩ toàn quân một khái niệm: rằng đây là một quân đội kỷ luật của riêng hắn, mọi quân sĩ đều phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của hắn, hắn là quan chỉ huy tối cao.
Để đạt mục đích này, hắn tiến hành giáo dục tư tưởng liên quan đối với cấp đoàn trở lên, một mặt tự thân thao luyện truyền đạt kiến thức đội ngũ và kỹ luật quân đội, một mặt triển khai hội nghị tiến hành huấn thoại, nhanh chóng nắm bắt tính cách các quân quan, biết tài năng và thói tật của họ. Hắn cũng nghiêm cách thực hiện chế độ có thể thăng - hạ cấp, bỏ quan cấp suốt đời, kịp thời đề bạt người tài, phát hiện người không phục tùng hoặc không thích hợp thì triệt hoán ngay.
Để tránh khi khoách quân hỗn chiến cơ cấu bị loạn chỉ huy không linh, rồi mạnh ai nấy đánh giảm lực chiến đấu, hắn quyết định án chiếu theo tiêu chuẩn quân đội hiện đại lập và sử dụng quân hàm, đeo ở vai quân hàm giáo, úy... Hạ cấp gặp thương cấp phải chào, khi chiến đấu mỗi khi cơ cấu bị loạn, người quân hàm cao sẽ chỉ huy quân hàm thấp, để đảm bảo tác chiến theo đoàn đội. Kẻ nào không phục tùng, có thể xử tội ngay lập tức.
Do người cổ không quen dùng quân hàm, hắn cho người chế tác những hình vẽ, treo ở khắp quân doanh để quân sĩ nhanh chóng quen thuộc.
Quân đội cần phải thống nhất chế phục, hắn bỏ đi những dạng quân phục rắc rối của cổ đại, trực tiếp dùng đồ ngụy trang để làm quân phục, khi tác chiến mặc khải giáp nhẹ. Hắn lập tức mở kho bạc ra sử dụng vào việc này, và do phương thức in ấn ở
Minh triều khá phát đạt, vải bố có thể đi mua ở châu huyện gần, nên tiến độ khá nhanh.
Có quân đội, dĩ nhiên phải xác định quân kỳ, quân ca và quân kỷ, vì nó đặc trưng cho quân đội, tăng cường vinh dự tập thể và lực ngưng tụ, cổ vũ sĩ khí.
Về quân kỳ, hắn nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng vẫn không bỏ được cái lá cờ đỏ như máu đó, quyết định lấy màu đỏ làm nền, ở giữa thêu vòng lúa mạch tượng trưng cho nông dân lao khổ đời Minh (dĩ nhiên là bỏ dấu hiệu tượng trưng cho công nhân, vì lúc đó Minh triều chưa có nhiều công nhân đủ để hình thành giai cấp này), giữa vòng lúa mạnh lại thêu chữ Minh lớn. Hắn cũng có nghĩ tới chữ Dương, nhưng mà quá theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân, không có ý nghĩa chiến lược. Về quân ca thì hắn chọn đại bài quân ca trong chiến tranh chống Nhật, vì nó hào hùng và hơi... tuyệt vọng, như tình cảnh hiện giờ của Đại Minh. Ca từ được hắn cải sửa lại như sau:
"Đại đao chém xuống đầu địch
Hỡi chiến sĩ vũ trang toàn quốc
Ngày kháng chiến đã đến rồi!
Phía trước có quân nghĩa dũng của chúng ta, phía sau có bá tánh toàn quốc.
Quân Đại Minh dũng cảm tiền tiến, nhắm thẳng địch quân, tiêu diệt chúng, tiêu diệt chúng,
Tiến lên, cùng tiến lên, rút đao và gươm ra mà... chém!
Giết...!"
Một chi quân đội trừ có kỷ luật sắt, cần phải có quan hệ tốt với dân chúng. Quân đội có dân ủng hộ, giống như chiếc xe một bánh được vạn người đẩy. Trong thời Minh mạt đầy chiến loạn, điểm này trọng yếu phi thường.
Muốn tăng cường quân kỹ, hắn tổng kết những quy tắc kỷ luật chiến tranh hiện đại, tuy thấy chuyện "không cho phép ngược đãi tù binh" không phù hợp với cổ đại lắm, nhưng có thể phân hóa làm tan rã đấu chí địch nhân, nên áp dụng luôn.
Và thế là, hắn áp dụng "Ba đại kỷ luật tám hạng chú ý" của quân đội Trung Quốc làm quân kỷ, dạy cho quân quan từ đoàn trở lên, giao cho họ dạy cho tướng sĩ cấp dưới, đòi hỏi là ai ai cũng phải thuộc lòng đọc ra được, đọc không thuộc thì đánh đít, cổ vũ tướng sĩ vạch mặt tố cáo người vi phạm, một khi tra thật sẽ trị tội theo quân pháp.
Một chi quân đối có lực chiến đấu thế nào quyết định từ công tác huấn luyện. Nhưng huấn luyện thế nào hắn không rành, chưa kể là có tới 8 nghìn quân, trong khi công tác chủ yếu của hắn là chế tạo đạn dược. Do đó, hắn quyết định huấn luyện quan quân trước, sau đó để họ tự luyện binh.
Và thế là, hắn tập trung quan quân từ bá tổng trở lên, đem nội dung được tập huấn về quân sự ở đại học ra chỉ, chủ yếu là các nguyên tắc cơ bản, tính kỹ luật, cường hóa thể lực, và phục tùng mệnh lệnh. Những cái khác cứ áp dụng kiến thức quân đội thời cổ vào.
Ngoài ra, hắn nhờ Liễu Nhược Băng giúp chép lại cách sử dụng thương pháp bằng lưỡi lê của lão sáo đồng và đao pháp kết hợp thuẫn bài của nàng ra, hắn học xong rồi tự thân đi dạy các quân quan để họ tự dạy cho các tướng sĩ cấp dưới. Hai loại thương pháp và thuẫn bài đao pháp này đơn giản nhưng được Liễu Nhược Băng căn cứ thực chiến tổng kết ra các chiêu công kích và phòng ngự hữu hiệu nhất, cho nên các tướng sĩ học xong sau này sử dụng rất hiệu quả, càng tăng sự kính úy đối với hai vợ chồng Dương Thu Trì hơn.
Do đạn rất quý hiếm, việc huấn luyện bắn súng chỉ áp dụng đạn thật 5 viên, để quân sĩ thể nghiệm cảm giác súng đạn hiện đại, còn huấn luyện thường đều sử dụng súng toại phát thay thế.
Việc huấn luyện ngựa cũng rất trọng yếu, bỡi chiến mã cần phải làm quen với tiếng súng và tiếng pháo nổ to hơn, để chúng không kinh hãi khi xuất chiến.
Tất cả công tác này đương nhiên không thể hoàn thành trong thời gian ngắn ngủi mười mấy ngày, hắn chỉ tạo lập cơ sở ban đầu, hi vọng sau thời gian tồn tại kéo dài, quân đội sẽ tự trưởng thành. Ngoài chuyện bận túi bụi lo chế đạn pháo, hắn còn phải giám đốc xây dựng binh doanh, tuyển chọn quân quan, sắp xếp công tác tình báo.... Nói chung đầu tắc mặt tối. Rất may là hắn biết chọn người tài giao việc, cho nên tình hình cũng ổn định dần.
Ngày ấy, Dương Thu Trì đang bận rộn với binh doanh đã sơ bộ hình thành, thì hộ vệ Lưu Dũng vội chạy vào báo, nói rằng thám mã đã thám thính được quân tình khẩn cấp.
 
Chương 135: Trọng binh áp cảnh
Dương Thu Trì vội cho thám mã đến hồi báo. Thám mã quỳ một chân ôm quyền thưa: "Thủ bị đại nhân, mật thám ở Bảo Khánh đưa quân tình khẩn cấp đến!" Nói xong móc tín hàm hỏa tốc dâng lên hai tay.
Minh quân rất coi trọng dọ thám quân tình, tuy đã bị đánh bật khỏi Hành châu, Bảo Khánh, Minh quân vẫn còn lưu thám tử ở lại dò xét, báo cáo kịp thời.
Dương Thu Trì tiếp lấy tín hàm, ra lệnh thưởng cho thám mã, bảo hắn ra ngoài chờ, sau đó mới dùng đao nhỏ rọc ra, vừa xem đã nhíu mày.
A Hạnh Ny nhất mực cùng Dương Thu Trì đi thị sát huấn luyện tân quân và công tác xây dựng quân doanh, thấy tình cảnh này liền hỏi: "Thế nào hả, Thu Trì ca?"
"Trương tặc quân phát binh tám vạn từ Bảo Khánh phủ, do đại tướng của Trương Hiến Trung là Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc soái lĩnh bức thẳng Kiềm Dương, mồng sáu tháng 9 xuất phát, chiếu theo lộ trình mà tính, nếu đi nhanh thì còn cách Kiềm Dương ba bốn ngày đường nữa."
A Hạnh Ny cả kinh: "Tám vạn? Lần trước ba vạn..."
"Đúng a! Tăng binh gấp hai lần rưỡi, xem ra là Trương tặc quân có chuẩn bị mà đến, chúng ta cần phải thận trọng ứng đối."
Hắn trầm ngâm một lúc, bảo A Hạnh Ny tiếp túc thị sát huấn luyện tân quân, còn bản thân thì đi tìm du kích tướng quân Long Bỉnh, cho y xem mật báo quân tình, lại trở về nha môn, đi thẳng vào nội trạch thông báo với ba vị vương gia và tổng binh.
Sau khi chờ một lúc, Quế vương cùng các vị vương gia và tổng binh Khổng Hi Quý hoảng hốt từ hậu đường đi ra, Quế vương ho liên tục, hỏi: "Dương đại nhân, thế nào rồi?"
Dương Thu Trì vội đem mật báo quân tình trình lên.
Quế vương không chờ xem xong đã người run bần bật, đưa luôn mật báo cho Huệ vương và mấy người cùng xem.
Bốn người xem xong, đều kinh khủng vô cùng. Quế vương vịn tay ghế ngồi xuống, sau đó mới bảo mọi người ngồi nói chuyện. Ông ta hỏi: "Dương đại nhân, Long tướng quân, Khổng tổng binh, lần này chiêu binh chỉ có 8 nghìn người, ba vị đại nhân, thế này... thế này thì làm thế nào ứng đối đây?"
Tổng binh Khổng Hi Quý tuy có điểm vui mừng trên nỗi đau của kè khác, nhưng đại quân áp cảnh, ổ sắp lật nhào, làm gì còn chuyện giữ được trứng riêng? Do đó ông ta cũng thập phần khẩn trương, nói: "Chỉ bằng Kiềm Dương huyện nhỏ nhoi, lại không phải là trọng địa chiến lược, án theo lý Trương tặc quân sẽ không quá để ý với huyện này. Cho dù là lần trước bị tổn hại nặng, nhưng Trương tặc quân giọi về thanh đông kích tây, về chuyện mất hay được một thành này thường không quan tâm mấy. Lần này đại cử tiến binh, lại chỉ định hai viên đại tướng là Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc soái lĩnh đến chinh phạt, thế trện này e rằng không lấy Kiềm Dương không chịu về. Chẳng lẽ lần này là báo cừu của lần trước sao?"
Long Bỉnh lắc đầu: "Theo ti chức biết, thì Trương tặc quân đặc biệt thích vàng bạc. Thu bao nhiêu tài bảo cũng cảm thấy không đủ. Trương tặc quân phái hai viên đại tướng đắc lực nhất là Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc tăng binh tám vạn đến, lần này chính là ý của người say không ở rượu, xem ra là thèm thuồng tài sản kếch sù của ba vị vương gia, muốn cướp đó mà."
Khi nghe lời này, ba vị vương gia đều sợ đến mặt cắt không còn giọt máu, thật là có cảm giác "Thất phu vô tội, mang ngọc có tôi".
Dương Thu Trì không hiểu lịch sử nhiều, đặc biệt là tình huống quân đội của Trương Hiến Trung thời Minh mạt càng không quen, chỉ biết có một Trương Hiến Trung dấy binh giết người ở Tứ Xuyên rất nhiều, những kẻ khác đều không biết, nên hỏi Long Bỉnh: "Long tướng quân, phen này lĩnh binh Trương tặc quân đến đánh là Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc, hai người này thế nào?"
Long Bỉnh trầm giọng đáp: 'Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc theo Trương Hiến Trung chinh chiến nhiều năm, là tướng tâm phúc của Trương tặc, cùng Lưu Văn Tú, Ngải Năng Kỳ được Trương tặc thu làm nghĩa tử. Trương tặc xưng vương ở Vũ Xương xong, phân biệt sắc phong cho bốn người này làm tướng quân, xưng là 'Tứ tướng quân', Tôn Khả Vọng là Bình Đông Tướng Quân, Lý Định Quốc là An Tây Tướng Quân. Hai người này tác chiến dũng mãnh, Tôn Khả Vọng do phòng thủ ngoan cường nên có ngoại hiệu Nhất Đổ Tường, Lý Định Quốc không những kiêu dũng thiện chiến, lại rành binh pháp, văn võ song toàn, nên được tặng ngoại hiệu Tiểu Úy Trì. Hai người này là tướng đắc lực nhất của Trương tặc.
Dương Thu Trì gật đầu, thầm tính toán trong lòng, có câu võ công có cao mấy thì cũng sợ đao chặt cũi khi mình trần! Bất quản hai người chúng là nhất đổ tường hai nhị đổ tưởng, tiểu úy trì hay là đại trì úy, chỉ cần tạc đạn nổ, súng máy gầm, thì tất tần tật biến thành tường đổ hết.
Nhưng mà địch quân chỉ còn hơn ba bốn ngày đường nữa, còn bản thân hắn chỉ mới tạo ra tám nghìn viên đạn và trăm phát tạc đạn, cho dù như lần trước một phát đạn tiêu diệt một địch nhân, vậy chỉ giết chết 8 nghìn người. Một trăm tạc đạn giỏi lắm là giết hai nghìn người nữa, vậy giỏi lắm là diệt 1 vạn quân địch, còn bảy vạn nữa làm sao đây?
Tám nghìn người đối với 7 vạn người, con nít cũng biết kết quả thế nào. Huống chi 8 nghìn quân này là do hắn mới thành lập, huấn luyện chỉ mười mấy ngày, đại bộ phận là tuyển ra từ đám dân gầy yếu đói kém, nên ngoại trừ 1 nghìn đồng binh, cơ bản họ chẳng có lực chiến đấu bao nhiêu. Trong khi đó, Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc theo Trương Hiến Trung nam chinh bắc chiến, tám vạn quân dưới trướng đã cửu kinh sa trường, dùng rắn chống rắn e rằng bên hắn lành ít dữ nhiều.
Làm sao bây giờ?
Ba vị vương gia, tổng binh và Long Bỉnh đều biết muốn dùng tám nghìn người mà đánh thắng tám vạn địch quân thì chỉ có dựa vào Dương Thu Trì lần nữa đại triển thần uy. Do đó, khi thấy hắn trầm ngâm suy nghĩ, đều dõi mắt ngóng chờ, không ai dám lên tiếng.
DƯơng Thu Trì cúi đầu suy nghĩ một lúc, ngẩn lên thấy vẻ mặt họ như vậy, tủm tỉm cười: "Sách lược lui địch thì có, chỉ có điều ba vị vương gia, tổng binh đại nhân, Long tướng quân - lần tác chiến này phải do ta toàn quyền chỉ huy, đều phải nghe ta điều khiển an bài. Thế nào?"
Năm ngươi đưa mắt nhìn nhau, đều lần lượt gật đầu.
-------
Phía tây bắc Kiềm Dương có Nham Lũng sơn, là một tòa núi đá nham thạch, là đường phải đi qua khi tiến vào Kiềm Dương. Thế núi này tuy không cao, nhưng vô cùng nhỏ hẹp. Giữa hai núi có một con sông nhỏ, hình thành thế hai núi giáp sông, địa hình hiểm trở. Nước sông khá cạn, đặc biệt là mùa hè, nhưng khi mưa to thì nước lên rất nhanh.
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc dừng ngựa ở cửa núi. Phen này, Trương Hiến Trung nhậm mệnh Tôn Khả Vong làm Tây chinh tổng binh, Lý Định Quốc làm phó tướng. Nhận được chỉ lệnh khẩn cấp của Trương Hiến Trung, hai người điều tập tinh nhuệ, gấp rút hành quân mấy ngày thì đến đây. Đến trước cửa núi này, thái dương đã xuống núi, ánh sáng vàng chói chiếu đầy trời không.
Tôn Khả Vọng ngẩn đầu nhìn trời chiều, nói với Lý Định Quốc: "Nhị đệ, qua Nham Lũng sơn này là Kiềm Dương rồi. Theo báo cáo thì phía tây Kiềm Dương là dãy đất bằng phẳng. Trời sắp tối rồi, chúng ta hãy nhanh vượt qua núi này, hạ trại bền lòng chảo cạnh sống phía bên kia, sáng ngày mai công thành."
Lý Định Quốc nhìn Nham Lũng sơn hiểm trở và dòng sông cạn, nhíu mày: "Đại ca, sơn cốc này địa thế hiểm yếu, đường núi nhỏ hẹp, rất khó qua nhanh, hiện giờ trời đã tối, nếu cường hành đi qua, một khi gặp phục binh, e rằng...."
Tôn Khả Vọng cười hăng hắc: "Nhị đệ quá lo rồi, sợ vũ khí quái thú gì đó rồi chứ gì? Theo ngu huynh thấy, đó chính là bọn bại quân chi tướng làm già nói khoác thế thôi, không cần phải lo."
"Đại ca nói lời này chưa phải, theo ngu đệ tra hỏi qua nhiều huynh đệ chiến bại lần trước trở về, đều nói vũ khí quái thú của địch quân thập phần khủng bố, phun ra tiểu thú có thể thương hại ngoài ba nghìn xích. Còn nữa, đạn khai hoa của địch quân có uy lực kinh người. Một quả nổ ra, người ở xung quanh 50 xích đều thây cốt vô tồn, có thể sát thương đến ngoài 1 trăm xích, quả là chưa từng nghe bao giờ. Nếu như một hai người nói thì cho rằng kinh khủng vọng ngôn, đằng này mấy chục người đều nói thế, như vậy là không thể không cảnh giác rồi."
"Hắc hắc hắc..." Tôn Khả Vọng cười khan mấy tiếng, "Ý tứ của nhị đệ là địch quân quá mạnh, chúng ta cần phải bảo mệnh quan trọng hơn, lui binh là trên hết?"
Lý Định Quốc trầm mặt: "Đại ca nói chơi rồi, ý tứ của ngu đệ chỉ là đề tỉnh đại ca, trận chiến này phụ vương nhìn rất trọng, mục đích có ba thứ, một là cướp hết tài bảo của ba phiên vương Minh triều này, hai là giết bạch y nữ sát đó, ba và trọng yếu nhất là yêu cầu hai chúng ta tham tra cho rõ vũ khí quái thú và đạn khai hoa đó hư thật thế nào. Nếu như đích xác có chuyện này, có thể cướp được hai bảo bối đó, Đại tây quân chúng ta có thể nói là chiến vô bất thắng rồi!"
"Lời phụ vương ta nhớ rõ, cái này không cần nhị đệ nhắc." Tôn Khả Vong nhạt giọng nói, quất roi ngựa về phía trước, "Ngu huynh không phải là người lỗ mãng, lần này xuất chinh đã tra hỏi kỹ về vũ khí yêu quái và khai hoa đạn gì đó, đã nghĩ ra đối sách ổn thõa. Quái thú vũ khí đó phóng ra tiểu thủ đều bay ngang, không cong vẹo vòng vo, cũng không chụp từ trên xuống. Còn khai hoa đạn đó sau khi nổ thì bung ra những đạn phiến nằm ngang, sát thương người chủ yếu là do thứ này. Do đó, ngồi nằm xuống tránh đi là biện pháp đơn giản hữu hiệu nhất. Trước khi đến đây, ta đã cho tướng sĩ diễn luyện nằm bò rồi, thế nào, nhị đệ không nghĩ ra phải không?"
Lý Định Quốc cũng cười: 'Đệ đương nhiên đã chuẩn bị rồi, ngoài ra còn có Phấn Ôn Xa (loại xe tránh tên đạn) cải tạo, đệ thấy trong quân của đại ca cũng có không ít, quả thật là ý tưởng lớn gặp nhau a! Ha ha ..."
Phấn Ôn xa là loại dụng cụ để yểm hộ quân tiến công áp sát tường thành trong các trận công thành chiến thời cổ đại (xem hình). Kỳ thật đó là một phòng nhỏ di động, có thể chống đỡ tên đá bắn ném từ trên xuống, phía dưới có bốn bánh xe. Trong chòi di động này có thể tránh được 10 người, đẩy tiến từ bên trong, khi gần đến thành trì thì dùng để đào địa đạo, phá tường thành của đối phương.
file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2090%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---105_xecongthanh718e25c7ed1cc29fd10060c1.jpg file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2090%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---610_ja29_p01.jpg
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc lần này mang loại xe đó tới chính là đối địch với súng máy và tạc đạn tân trang của Dương Thu Trì. Hai người cho gia công thêm, bên ngoài phủ phiến sắt rất dày và nặng, cộng thêm vải có trát bùn dày, cực kỳ giống với vỏ xe tăng.
Tôn Khả Vọng vẫn cười nhạt y như cũ: "Nếu như đã chuẩn bị hết rồi, cần phải nhanh chóng thông qua vùng nguy hiểm này, tiến vào lòng chảo bằng phẳng, quyết chiến với địch! Chúng ta phải lấy thế lôi đình của thiên quân, trể để đạp bằng Kiềm Dương, đoạt hai bảo vật đó, chém nát bạch y nữ sát ra làm vạn đoạn!"
 
Chương 136: Vượt qua hẻm núi
Lý Định Quốc vội nói: "Đại ca, không thể mạo hiểm tiến vào! Theo ý kiến của ngu đệ thì chúng ta nên lùi mười dặm hạ trại, chờ ngày mai phái tiền phong đi hai bên núi trước, tra rõ không có mai phục rồi qua cũng không muộn!"
"Hắc hắc hắc, lùi 10 dặm hạ trại?" Tôn Khả Vọng cười lạnh mấy tiếng, "Nhị đệ gan nhỏ như vậy thật là uổng cho danh xưng Tiểu úy trì rồi!"
Hai người này đều là nghĩa tử của Trương Hiến Trung, là hai viên đại tướng Trương Hiến Trung dựa vào nhiều nhất. Chỉ có điều tính cách không hợp nhau. Tôn KHả Vọng sinh tính đa nhi, tật đồ hiền tài, đối với chuyện Trương Hiến Trung thưởng thức Lý Định Quốc vô cùng bất mãn, trong khí đó Lý Định Quốc tính cách lại quật cường, không phục ai. Do đó hai người thường xuyên kình chống. Chỉ có điều, Lý Định Quốc dù gì cũng lấy đại cuộc làm trong, chỉ cần không sai phạm nguyên tắc thì phần lớn đều chủ động nhân nhượng, cho nên biểu hiện của hai người mới hài hòa vô sự như vậy.
Trương Hiến Trung chỉ phái hai người lĩnh quân tám vạn đi chinh phạt Kiềm Dương có thể nói là dao mổ trâu đi cắt cổ gà, mục đích kỳ thật chẳng phải chỉ vì kim ngân tài bảo của ba vị vương gia, mà chủ yếu là binh sĩ trở về đều tuyên xưng địch quân có vũ khí quái vật uy lực cực lớn và khai hoa đạn loại mới, muốn đoạt được tiến hành nghiên cứu sử dụng.
Một mục đích khác đương nhiên là Liễu Nhược Băng. Mười năm trước, Liễu Nhược Băng trong vai trò bạch y nữ sát đã phóng cho Trương Hiến Trung một phi tiêu suýt chết, phải điều dưỡng mấy năm mới khôi phục, cho nên y hận Liễu Nhược Băng thấu xương. Khi nghe Bạch y nữ sát xuất hiện lại ở Kiềm Dương, Trương Hiến Trung mới biết ở Vũ Xương Trầm Lỗi không giết chết được nàng, đột nhiên tức giận, đem Trầm Lỗi báo cáo thắng lợi láo mắng cho một phen, ra lệnh cho Tôn Khả Vong và Lý Định Quốc phen này chinh chiến nhất định phải giết bạch y nữ sát đi.
Trương Hiến Trung đương nhiên biết hai người ở ngoài hợp bên trong ly, nhưng do hai người đều anh dũng thiện chiến, là hai viên đại tướng mà y ỷ trọng vào, cho nên Trương Hiến Trung không nguyện thấy hai người mâu thuẫn, nhất mực nghĩ biện pháp giảng hòa, tận khả năng tìm cơ hội cho hai người có dịp tiếp xúc với nhau. Trước đây y cũng đồng thời chỉ phái hai người mang binh xuất chinh, để hai người trong chiến đấu kết tình hữu nghị, không được kình chống nhau nữa. Lần này cũng vậy, y phái hai người họ đi là vì mục đích tăng sự hợp tác, và tăng khả năng cướp được bảo bối.
Lý Định Quốc được tôn xưng là nho tướng, lòng tinh tế vô cùng, sau khi hiểu được ý của Trương Hiến Trung, trước khi xuất binh sao không nghĩ biện pháp ứng đối vẹn toàn được? Cho nên y đi hỏi kỹ tình huống của hai loại vũ khí kia, cũng nghĩ ra biện pháp nằm bò ẩn tránh để né đạn. Ngoài ra, y đem những chiếc "xe" dùng để công thành trước kia làm vật che chắn đạn, số lượng tới mấy trăm, chính là muốn nhanh chóng tiếp cận vũ khí quái thú, dùng chiến thuật biển người chém giết tới cướp lấy.
Chỉ có điều, hai người chưa tiến đến được dưới Kiềm Dương huyện thành là đã vì chuyện ngay trong đêm đi qua luôn Nham Lũng sơn hạp cốc này mà va chạm lẫn nhau.
Tôn Khả Vọng nổi danh vì gan dạ đảm lược, nghe Lý Định Quốc nói thế, trong lòng phiền muộn, lạnh lùng nói: "Phen này xuất binh, phụ vương chỉ định ta làm tổng binh, đệ là bộ tướng, vậy do ta quyết định, có hậu quả gì do ta đảm trách!"
Lý Định Quốc lạnh lùng cười: "Nếu gặp phục binh bất lợi, làm mất uy danh của phụ vương, hỏng đại sự, e rằng đại ca lúc đó không thể gánh nổi đầu!" Tôn Khả Vọng rúng động trong lòng, ngẩng đầu nhìn sơn cốc nhỏ hẹp, trầm ngâm một chút, nói: "Được, nếu như nhị đệ lo hai bên núi có phục binh, vậy phái hai nhóm nhân mã treo lên núi hai bên đi trước tham tra, đại đội nhân mã của chúng ta tiến phát phía sau."
Hai bộ tướng lĩnh mệnh, mang binh đốt đuốc một mặt qua sống, một mặt lên núi, phận biệt tham tra hai bên sơn cốc.
Lý Định Quốc nói: "Đại ca, cách Kiềm Dương không còn xa nữa, chúng ta cần phân binh vu hồi bao vây thôi! Trước khi xuất phát, phụ vương đã dặn dò kỹ lưỡng hai chúng ta, lần này xuất binh khác trước đây, lấy tám vạn đại quân công đánh một huyện thành nhỏ, thắng lợi là không còn nghi ngờ, điều quan trọng là phải thực hiện ba mục tiêu. Thực hiện mục tiêu không được, dù có san bằng Kiềm Dương huyện, giết sạch thủ quân Minh triều cũng không thể coi là thắng lợi!"
Tôn Khả Vọng trầm giọng hỏi: "Theo ý kiến của đệ thì phải làm như thế nào?"
Lý Định Quốc đã nghĩ kỹ kế hoạch tác chiến, khẽ đáp: "Phân binh bốn đường, vu hồi bao bọc, hợp vây Kiềm Dương. Đệ đã điều tra qua, Kiềm Dương huyện ba mặt là núi, chính diện là vũng trũng bằng. Phía ba núi không có xây tường thành hay thành bảo, vu hồi đánh úp rất dễ. Do đó, chúng ta dùng chủ lực công chính diện, dụ cho chủ lực địch trung trung mặt này, sau đó đột nhiên từ hai cánh và phía sau phát động cường công, sau khi phá thành sẽ triển khai hỗn chiến, vũ khí quái thú và khai hoa đạn của địch không có cách gì sử dụng, như cá nằm trong rọ, tha hồ bị ta bắt không thể thoát thân. Chỉ có như thế mới dùng thương vong ít nhất đoạt thắng lợi, đồng thời thực hiện ba mục tiêu của phụ vương giao cho. Nếu không, địch quân bỏ chạy, giữ rừng núi mệnh mông này biết phương nào mà tìm."
Án chiếu theo thiết tưởng của Minh Thái tổ sau khi định quốc, mọi châu huyện trọng yếu đều án chiếu theo phương án kiến thiết định định sẵn mà làm, bao quát kiến trúc thành thị, đường lớn nhỏ, trong đó bao quát cả tường thành vâng vâng. Nếu như án chiếu theo quy hoạch, Kiềm Dương huyện ba mặt là núi, do đó phải lên núi mà tạo tường thành, hoặc phải tạo công sự phòng thành. Nhưng do Kiềm Dương huyện là huyện nhỏ xa xôi, lại không phải là trọng địa chiến lược gì, cả trăm năm nay chưa hề gặp chiến tranh gì lớn, do đó có thể xây thành tường bao quanh mặt trước đã hay lắm rồi. Núi cao xung quanh không có công sự xây dựng gì, nếu không thành tường dựa vào núi đó nhất định sẽ khiến cho đại quân tấn công của Trương Hiến Trung gặp không ít phiền phức.
Tông Khả Vọng lạnh lùng cười: "Hắc hắc, binh phân bốn đường? Biện pháp hay a! Biện pháp hay! Nhưng mà lần trước binh đánh Kiềm Dương tựa hồ cũng binh phân tứ lộ mà, đúng rồi, còn lợi dụng hắc ám trước khi trời sáng nữa! Kết quả thì sao? Hắc hắc, binh lực phân tán, bị người ta đánh cho tơi bời khói lửa, ngay đầu của chủ soái cũng bị cắt mất. Nhị đệ định lặp lại lần trước sao?"
Lý Định Quốc nhướn đôi mày rậm: "Ngu đệ cho rằng, lần trước phân binh vu hồi bao vậy, lợi dụng bóng tối trước khi trời sáng tấn công bốn mặt là hoàn toàn chính xác. Sự thật đã chứng minh là binh ta đã phá ba mặt mà vào thành. Sau đó binh bại không phải là nguyên cớ hợp vây, mà là vũ khí quái thú và đạn khai hoa của địch quân quá mạnh, lúc đó còn có bạch y nữ sát nữa. Các tướng sĩ lần đầu gặp phải vũ khí tập kích mãnh liệt như vậy, lại không biết cách ứng đối, dẫn tới bị địch làm loạn trận cước. Còn tướng soái trong cơn hoảng loạn không cắn răng cường công, lại khua chiêng thu binh, tiền hậu mâu thuẫn, dẫn tới binh sĩ cường công không biết làm thế nào hoảng loạn triệt thối. Rồi chủ tướng sau đó bị giết, quần long vô thủ, bấy giờ mới đại bại. Phen này quân ta đã có chuẩn bị, các tướng sĩ đều biết cách ứng đối thế nào, nhất định không lặp lại tình cảnh lần trước!"
Lý Định Quốc phân tích như vậy kỳ thật là nhìn rõ cục diện lúc bấy giờ. Đừng nói chi đạn súng máy lúc đó của Dương Thu Trì đã tiêu hao gần hết, cho dù có đủ dùng, chỉ cần quân đánh vào thành càng lúc càng đông, cuối cùng vẫn có thể đánh chiếm được huyện thành Kiềm Dương. Dù gì thì phản kháng của dân chúng không được huấn luyện chẳng có mấy tác dụng với hàng vạn địch quân tinh nhuệ, trong khi đó Dương Thu Trì chỉ bằng một cây súng máy, một mình không thể đoạt lại Kiềm Dương huyện thành. Trương tặc quân bại chính là bại ở loạn thế trận, bị súng máy của Dương Thu Trì đánh cho hồn phi phách tán, chẳng còn đấu chí gì, chỉ muốn chạy trốn. Khi nghe chiêng thu quân, toàn quân đại loạn, quân đánh vào thành chỉ muốn chạy ra, chưa tiến vào thành thì theo mệnh lệnh triệt thối. Hai bên cùng rút, chủ soái chiến tử... cuối cùng đại bại.
Tôn Khả Vọng nói: "Phân binh là đại kỵ của binh gia! Cô quân thâm nhập, chỉ huy không linh, một khi bị địch quân tập trung ưu thế binh lực kích phá từng cụm, e rằng không những không thắng mà còn bị bại! Do đó, phân binh là chuyện vạn bất đắc dĩ mới làm, không thể tùy tiện. Huống chi, vu hồi bao sao phí thời gian phí lực. Địch quân nếu muốn chạy, không chờ đệ bao vây đã có thể chạy trước rồi! Do đó, bao vây hay không chẳng phải là chuyện có thể diệt hết địch quân. Qua khỏi Nham Lũng sơn này, rồi phân binh trực tiếp bao vây thành trì chẳng phải là bớt sức bớt thời giờ, nhanh chóng lẹ làng hay sao? Nếu địch quân muốn chính diện quyết chiến thì càng tốt, vũ khí quái thú và khai hoa đạn của địch quân ta đã có kế sách ứng đối, sợ chúng gì chứ!"
Lý Định Quốc đáp: "Tuy nói là bớt thời giờ bớt lực, nhưng nếu như vậy thì địch quân sẽ biết thực lực của ta, không đạt được hiểu quả xuất kỳ bất ý nữa. Đệ đã tra hỏi kỹ tướng sĩ tham chiến lần trước, đoán uy lực của vũ khí quái thú này chỉ có hai: Một - có thể gây sát thương ngoài ba nghìn xích; Hai - địch quân tự cho là có vũ khí uy lực vô cùng này, nhất định sẽ thủ kín thành, hi vọng quân ta sẽ từ chính diện cường công đánh rát, có lợi cho vũ khí của chúng phát huy uy lực. Chúng ta chính diện cường công chẳng phải là trúng phải mong mỏi của chúng hay sao?"
"Thì đã làm sao? Ta không tin là Kiềm Dương huyện nho nhỏ này có thể ngăn được một kích lôi đình của tám vạn quân ta?" Y ngước đầu nhìn, thấy quân thăm dò ở hai bên núi đã đi rất xa, vẫn bình an vô sự, trong khi đó mặt trời đã xuống núi, màu vàng của trời không đã biến thành xanh thẵm, sao trên trời đã lấp ló. Y quay đầu lai bảo: "Lý Chánh Lý tướng quân đâu?"
Lý Chánh là một tham tướng dưới trướng Tôn Khả Vọng, đội khôi mặc giáp giục ngựa tới trước ôm quyền thưa: "Mạt tướng có mặt!"
"Lệnh cho ngươi mang 5000 nhân mã làm tiên phong, tức khắc xuất phát, nhanh chóng thông qua Nham Lũng sơn hạp cốc (hẻm núi), bố phòng ở Bình Bá (vùng đất hiện giờ là một huyện ở An Huy Trung Quốc), chờ đợi đại quân đến đó hạ trại."
"Tuân lệnh!" Lý Chánh mang quân tiên phong đốt đuốc theo sơn lộ tiến vào hạp cốc.
Thấy đại bộ phận quân của Lý Chánh đã tiến vào trong cốc, Tôn Khả Vọng vụt roi ngựa, chỉ thẳng: "Chúng tướng quân, theo ta xuất phát!"
"Đại ca!" Lý Định Quốc kêu lên, "Ngu đệ kiên trì sách lược vu hồi bao sao (vòng ra sau lưng vây chặn đánh), nếu như đại ca không sử dụng, ngu đệ chỉ đành tự chủ trương, soái bản bộ tự đi đánh!"
Tôn Khả Vọng trầm mặt: "Ngươi dám không nghe lệnh của ta?"
"Không hề, đại ca xin đừng quên, trước khi xuất chinh phụ vương có từng nói qua, nếu như huynh và đệ ý kiến bất nhất, đệ có thể tự tiện hành sự."
 
Chương 137: Núi đè
Trương Hiến Trung hiểu rõ vô cùng về bản lĩnh của hai vị nghĩa tử này, đặc biệt là Lý Định Quốc là người biết rõ binh pháp, có dũng có mưu. Do đó, ông ta cấp cho y một thực quyền có thể soái lĩnh binh sĩ dưới quyền mình theo ý tưởng của y mà hành sự. Tuy dụng ý là tốt, là hi vọng có thể phát huy tính năng động chủ quan của Lý Định Quốc, nhưng cấp cho phó tướng đặc quyền không nghe theo chỉ huy của chủ tướng là điều cực kỳ nguy hiẻm. Rất may lần này họ có 8 vạn đại quân xuất chinh, trong khi đó đối thủ không đủ một vạn người, cho dù phân binh cũng không đến nỗi quá nguy hiểm. Trương Hiến Trung vì đạt mục đích, đã để cho Lý Định Quốc căn cứ theo suy nghĩ của y mà quyết định chiến lược thật ra cũng có suy xét đến tình huống này.
Tôn Khả Vọng sắc mặt tái xám, cười hắc hắc lạnh lùng: "Vậy tốt thôi, nếu như là thế, người dẫn quân bản bộ đi vu hồi bao sao đi, ta dẫn quân ta chính diện cường công!" Nói xong giục ngựa đi trước tiến vào cốc.
Lý Định Quốc tính cách quật cường, nhận định chuẩn sự tình rồi quyết không buông bỏ, lớn tiếng nói: "Đại ca, huynh tấn công chính diện, đệ soái lĩnh bản bộ vu hồi, từ ba mặt đánh vào thành trị xong huynh hãy phát cường công, tránh bị địch sấn cơ hội!"
Tôn Khả Vọng ngầm cười lạnh, thầm nghĩ: ngươi vu hồi bao vây phí thời gian phí lực, lấy lời này chặn ta, không cho ta cường công trước, chờ ngươi đánh vào thành rồi mới cho ta động thủ hay sao? Ăn cơm nguội canh lạnh sao? Hắc hắc, muốn giàn công lao? Lòng của Tư Mã Chiêu ai ai cũng biết!
Được! Chúng ta hãy coi ai giành được công đầu trước! Y chẳng thèm quay đầu lại đáp lời nào.
Lý Chánh dẫn đội đi tiên phong đã dọc theo dịch đạo Nham Lũng sơn mà tiến. Vùng Tương Tây nhiều mưa, cộng thêm nhiều năm chiến loạn, dịch đạo nhiều năm chưa sửa sạng gì, cho nên lổ voi ổ gà dày đặc, rất khó tiến bước. Lúc này trời đã tối hẳn, nhưng mà vầng trăng trên trời cộng thêm nhiều sao sáng đã chiếu rọi ánh lên triền núi đen xì xì.
Lý Chánh giơ cao ngọn đuốc, quay đầu nhìn triền núi và rừng rậm đen sì sì ở đối diện, lại ngẩng đầu nhìn vách đá cheo leo, lòng nghĩ sơn cố này thái quá nhỏ hẹp, nếu như địch quân đặt mai phục ở trên, đích xác là dễ thủ khó công. Rất may là đội trinh sát đã vượt qua triền núi phía trước, không phát hiện tung tích địch, nên y hơi an tâm.
Nhìn triền núi lồi lõm chìa ra như ưng như gấu, thậm chí có chỗ như đàn bà chữa phình cái bụng bầu, y cảm thấy tất cả dường như đang giương ánh mắt lạnh lùng nhìn họ đi qua từ dưới chân.
Đi được nửa thời thần, sơn cố phía trước từ từ trở nên rộng rãi, đường càng lúc càng thoãi càng rộng, y từ từ yên tâm hơn.
Mượn ánh trăng, y quan sát lũng sông bằng phẳng xa xa ở bên dưới. Đột nhiên, "oành! oành! Oành!..." Phía sau truyền tới những tiếng nổ lớn như sấm gầm, chớp mắt, đất động núi rung!
Chiến mã dưới khố Lý Chánh kinh hãi hí dài, dựng người đứng dậy. Do không kịp đề phòng, Lý CHáng bị ngựa hất văng, té mạnh xuống sơn đạo, đầu khôi bay mất, khải giáp toàn thân trở nên vô cùng nặng nề.
"Oành oành oành!" Tiếng nổ cực lớn vang lên liên tục, toàn bộ vùng đất đá chấn động. Lý Chánh vội vã chuyển thân nhìn, - trời! Quả nhiên là núi sập đất nứt rồi hay sao?
Con đường nhỏ hẹp trong hạp cốc mà y vừa đi qua lúc nãy, những vách đá nhô ra như ưng như gấu, nhưng bụng bà bầu hiện giờ không còn thấy đâu nữa. Chúng đã biến thành đá vụng bay khắp bầu trời, giống như vô số con dơi từ cõi u minh trở về, bay loạn trời đêm tìm đường bổ nhào tới tận giữa con sông bên dưới.
Vô số binh sĩ, chiến mã trên dịch đạo đã bị vùi lấp dưới đá núi bị đổ sập. Tiếng nổ xen lẫn tiếng thét gào của binh sĩ vang vọng cả sơn cốc.
Trên đỉnh đầu y có tiếng u u, không biết là cái gì. Nhưng binh sĩ tiền phong ngữa đầu quan sát, thấy có vô số hắc ảnh đang bay ùa tới đầu họ như dơi, chờ khi họ phản ứng được, biết đó là đá vụn thì đã có rất nhiêu binh sĩ gào thảm tử thương trong trận mưa đá này.
"Phát sinh chuyện gì rồi?" Lý Chánh cảm thấy may mắn vì không bị đá rơi trúng. Y ôm đầu gian nan đứng dậy. Y không dám tin sơn cốc bình thản như vậy, không có mưa cũng không có gió, sao trên trời đang sáng bừng, trời đất đem đẽ vô cùng thế này sao núi đột nhiên nổ vỡ rồi đổ sụp chứ?
Chính lúc y kinh khủng vạn phần thì....
"Oành....!"
Tiếng nổ lần này rất trầm nhưng liên tục, từ chậm rồi nhanh dần, cuối cùng càng lúc càng dữ dội.
Mặt đất dưới chân bắt đầu rung lắc, trong tiếng ì ầm khủng khiếp, các binh sĩ trên dịch đạo không ngừng lắc lư đó căn bản không thể đứng vững, đua nhau té ngã. Một số chiến mã hí dài chạy loạn, giẫm đạp binh sĩ chạy loạn trên mặt đất, không ngừng rơi ra ngoài vách đá, rớt phịch xuống đám nham thạch bên dưới.
Lý Chánh đứng vững lại. Y dù sao cũng là tướng quân thân kinh bách chiến, nên mượn trọng lực của khải giáp trên người ổn định lực, bảo trì sự cân bằng dù đất dưới chân rung lắc dữ dội. Do đó, ý nhìn thấy hết, thấy phía trên sơn nham vừa sụp đổ kia, từng khối núi to mấy chục trượng đó do đất đá ở dưới đã mất hết, nên dưới tác dụng của trọng lực đã đổ ụp xuống theo!
Núi sụp!
Toàn bộ tòa núi phía trên dịch đạo đã đổ sụp xuống dưới, tạo ra vô số tiếng chấn động điếc tai.
Mấy nghìn tướng sĩ, chiến mã trên dịch đạo chớp mắt tiêu biến! Toàn bộ bị chôn vùi dưới triền núi đổ ụp này.
Bụi bốc mù trời, phủ trùm cả sơn cốc. Ngay ánh trăng sao mông lung trên trời cũng bị che mất sau lớp bụi.
Không nghe thấy tiếng kêu thảm nào, bỡi vì binh sĩ gào thảm đó đều bị chôn sống dưới lớp nham thạch. Còn quân tiên phong của Lý Chánh dù bị thương cũng không kêu la, bỡi vì tất cả bọn họ đều cả kinh ngơ ngẩn. Trong chớp mắt, chỉ trong chớp mắt, mấy nghìn tướng sĩ còn mạnh mẽ cầm đuốc tiến tới vừa rồi đã tiêu biến sạch, tiêu biến dưới lớp đất đá do núi lở!
Hơn nửa ngọn núi đổ sụp đã điền đầy sơn cốc nhỏ hẹp.
Lý Chánh không biết bản thân nên cười hạnh phúc vì may mắn thoát chết hay không, hay là khóc rống lên vì thảm kịch không biết vì sao mà phát sinh này.
Chính vào lúc y không định ra được chủ ý, thì trên sườn núi đột nhiên vang lên tiếng hò hét, lóe lên vô số ngọn đuốc còn nhiều hơn sao trên trời. Tiếp theo đó, số đuốc này như có cánh, từ đỉnh đồi bay xuống, rơi cạnh thân họ, bốn phía lập tức sáng bừng.
Y thầm kêu không xong. Đây là thủ pháp thường thấy nhất trong mai phục ban đêm: đem đuốc ném từ trên đỉnh núi xuống, chiếu sáng địch nhân, còn bản thân quân mai phục thì ẩn tàng trong hắc ám, dễ dàng tiến công.
Không chờ y sắp xếp phòng ngự thì "vưu sưu vưu sưu....!"
Bên tai y vang lên tiếng mũi tên xé gió.
"A...!" Hiện giờ thì đã nghe được tiếng gào rú rồi, nhưng lần này là ở bên cạnh y. Tướng sĩ trên dịch đạo đã kinh hãi ngẩn người chưa hoàn hồn lại được, nên không kịp đề phòng, bị trận mưa tên tẩy rửa, vô số binh sĩ tinh anh đã ngã xuống trong trận mưa tên này.
Lý Chánh cũng trúng mấy tên. Y còn chưa kịp rút trường kiếm ở eo, hô máy tiếng: "Huynh đệ, trên núi có địch quân, xông lên! Xông...."
"Hưu....!" Một mũi điêu linh tiển phá không bay đến, trúng ngay trán của y.
Lý Chánh trừng mắt cực to, ngã ngữa ra dịch đạo, tới chết mà y còn chưa hiểu vì sao trong đêm vắng yên lành ở hà cốc tại Nham Lũng Sơn này lại đột nhiên phát sinh vụ núi sập, và địch quân từ ở đâu mà chui ra.
Quân tiên phong vượt qua vụ núi sập này chỉ được khoảng hai nghìn người, trong khi đó toàn bộ dịch đạo đã bị núi sập lấp hết, đường bị tắc rồi. Sau trận mưa tên bay ra từ hắc ám, phần lớn hai nghìn tướng sĩ này đã trở thành bia sống, chớp mắt đã tử thương quá nửa.
Tiếp ngay sau đó, sườn đồi lại vang lên hiệu giác xung phong. Mấy nghìn quân từ triền đồi ùa xuống như mãnh hổ. Quân tiên phong tàn dư tuy đã cửu kinh sa trường, nhưng sau khi bị núi sập mất hết hồn vía, dù nhanh chóng thanh tỉnh lại tiến hành đề kháng ngoan cường, nhưng ít không thể địch nhiều, chẳng mấy chốc bị diệt sạch.
Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng, A Hạnh Ny cùng mọi người đứng trên đỉnh đồi, nhìn quân chủ lực của địch ở xa xa hoảng loạn phóng hỏa súng và tên, đều nhìn nhau cười.
Khi Dương Thu Trì đến Kiềm Dương nhậm chức, đã từng đi qua con đường này, biết là dịch đạo trong cốc dài hơn hai chục km, địa thế vô cùng hiểm yếu, đặc biệt là ở gần cửa ra có vô số sơn nham trăm mét, thuộc về loại đá xanh rất dễ vỡ sụp. Chỉ cần cho những nham thể bên dưới này nổ rụng hết, thì toàn bộ triền núi sẽ ụp xuống, hình thành vụ lở núi cực lớn.
Và thế là hắn lập tức phái thạch tượng bắt đầu làm bộc phá, đục mấy chục lổ lớn, sau đó an bài bộc phá theo dọc vách đá này, rồi hắn tự thân nối dây dẫn hỏa kéo đi.
Tuy những người qua lại thấy có thạch tượng đục lổ trên vách đá, nhưng không ai biết họ đang chuẩn bị cho nổ phá núi, vì thời đại này không ai biết đến loại thuốc nổ mới có thể phá vách đá trong khi thuốc nổ đen thì không.
Sau khi sắp xếp xong, Dương Thu Trì cho chủ lực mai phục ở trên đồi gần cửa ra, chọn những binh sĩ lạnh lùng bình tĩnh hóa trang thành tiều phu mai phục ở giữa núi. Sau khi địch quân tiến vào gần hết, lập tức điểm hỏa rồi trèo ra sau núi rút đi.
Hắn cố ý để cho hơn hai nghìn quân tiên phong của Trương Hiến Trung qua khỏi khu nổ, tập trung ưu thế binh lực đánh trận tiêu diệt. Lợi dụng địa hình và ưu thế nhân số, hắn đã diệt hai nghìn quân tiên phong. Nhưng do tân quân lần đầu tác chiến, không có kinh nghiệm, nên vẫn trả giá bằng thương vong mấy trăm người.
Số quân do thám chỉ có mấy trăm, lại cứ men theo triền núi khó khăn tiến bước, nên chưa đụng được quân Đại Minh thì núi đã sập rồi. Quân Dương Thu Trì kéo đi hết, tổng cộng khoảng 8 nghìn người, trong đó một bộ phận dùng để đối phó với địch ở triền núi, nhưng không truy kích. Hơn nữa quân số của địch trên đó quá ít, tự động hoảng loạn rút ngay.
Chủ lực của địch bị mấy trăm mét núi đổ xuống ngăn chặn, tất cả đều kinh hãi sững sờ vì tiếng động kinh hồn. Chờ Tôn Khả Vọng mãi lâu sau mới trấn tĩnh lại, xác định triền núi không thể đổ nữa, mới vượt quá đó đuổi theo, lúc ấy thì đại quân của Dương Thu Trì không còn thấy đâu nữa.
Trận chiến này Tôn Khả Vọng mất sạch hai nghìn quân tiên phong, ba nghìn quân bị chôn sống vì núi sập, tổng cộng tổn thất năm nghìn người.
 
Chương 138: Liệt hoả đồ thành
Do một lượng lớn đất đá trên núi sạt lở dẫn tới bít đường, mấy trăm chiếc xe tăng thổ tả Phấn Ôn xa cùng một lượng lương thảo và quân nhu lớn theo quân không thể nào cho vượt qua sơn thế mấy trăm mét như vậy được, đều bị chèn cứng phía sau. Do chỉ có một dịch đạo này tới Kiềm Dương, những con đường khác đều nhỏ hẹp, xe bánh lớn và lượng lương thực lớn không thể thông qua, cần phải đả thông dịch đạo này mới được. Tôn Khả Vọng thấy sơn cốc hiểm trợ, sợ lại có mai phục nữa, nên hạ lệnh lui binh, rời khỏi sơn cốc xong lui thêm mười dặm nữa mới hạ trại. Chờ trời sáng xong, y cho chiếm lĩnh hai bên sườn núi, sau đó cho khai dọn dịch đạo.
Muốn khai mở lại dịch đạo bị sụp đổ mấy trăm mét này với nham thạch toàn lớn, phải phá ra rồi mới lăn đi, trong tình hình không có thuốc nổ và xe cơ giới loại lớn, hơn nữa sơn cốc nhỏ hẹp không thể thi công nhiều người, nên tốc độ khai phá nhanh nhất cũng phải gần cả tháng.
Dương Thu Trì cần nhất chính là thời gian, cho nên đó là nguyên nhân chủ yếu hắn phá núi.
Giữa đêm, đại quân của Tôn Khả Vọng mệt mỏi kinh hồn suốt cả ngày và nửa đêm, sau khi bố trí các trạm gác xong, cuối cùng y có thể tiến nhập vào giấc ngủ vùi.
Đột nhiên, những tiếng "oành ... oành!" cực lớn lại nổ giữa không trung, tiếng gào thảm trong quân doanh vang lên không ngớt.
Những tiếng nổ đó không mấy gấp rút, một lúc mới nổ một tiếng, mà mỗi khi nổ thì trong quân doanh đều gào thảm hàng loạt, vô số binh sĩ đầu phá huyết lưu, nằm gục xuống đất chết tốt.
"Địch quâ bắn pháo rồi! Mau nằm phục xuống!" Quân doanh chỗ nào cũng vang lên tiến hò hét. Binh sĩ án chiếu theo diễn luyện trước khi xuất chinh mà nằm phục xuống. Nhưng mà, điều này không những chẳng hữu dụng, ngược lại còn bị chết nhiều người hơn sau những tiếng nổ.
Cuối cùng cũng có người phát hiện là những vụ nổ phát sinh từ trên không! Tạc đạn nổ giữa không trung, bốn phía đều là mảnh kim loại nhỏ bay chụp xuống như mưa, cho nên nếu nằm mọp xuống như vậy càng làm tăng thêm diện tích cơ thể lộ ra, đương nhiên thương vong nhiều hơn nữa.
Quân đội của Trương Hiến Trung được huấn luyện rất bài bản, nếu như địch quân cướp doanh trại, căn bản binh sĩ không kinh hoàng thất thố, mà nhanh chóng tổ chức phản kích. Chỉ có điều loại tạc đạn nổ giữa không trung này là lần đầu tiên họ gặp phải, cho nên đại quân rất loạn. Nhưng dù sao thì họ cũng đã thân kinh bách chiến, sau khi hoảng loạn lúc sơ kỳ, lập tức phát hiện pháo hỏa chỉ xuất phát từ một tòa núi nhỏ, nên lập tức xuất kích.
Khi địch quân xung phong kéo tới cách ngọn đồi đó mấy trăm mét, thì tiếng "tạch tạch tạch..." của súng máy lại vang lên.
Quân xông phía trước chết như ngã rạ, những binh sĩ đã từng tham gia trận đánh Kiềm Dương trước kia quá quen với âm thanh này, kinh khủng hét: 'Quái thú vũ khí! Mau nằm xuống!"
Quân phía sau vội nằm bẹp, hoặc tìm đá, gỗ yểm hộ. Do chưa tiến vào tầm bắn của hỏa súng và cung tên, không cách gì tổ chức phản kích, chúng chỉ còn biết hô lên với đám phía sau: "Giáp luân xa! Mau! Mau đem giáp luân xa đẩy ra đay!"
Những chiếc xe bọc thép có bánh đó được đẩy tới thì tiếng pháo và súng trên đồi đã dừng lại. Chờ mấy chục chiếc Giáp luân xa từ từ tiếp cận ngọn đồi, binh sĩ mang thuẫn bài sắt nặng xông lên thì quân đánh lén đã tiêu biến trong trời đêm.
Đây đương nhiên là bọn Dương Thu Trì làm. Hỏa pháo dùng để phát sạ là Phất Lãng Cơ. Phất Lãng Cơ làm bằng đồng, thân pháo hơi ngắn, hơn nữa nòng súng họat động xong có thể tháo ra, phân thành hai nên chỉ cần mấy người là có thể vác đi, khá cơ động linh hoạt.
Lần này đạn đá sử dụng đã được Dương Thu Trì lần nữa cải tiến. Hắn rút ngắn dây dẫn, khi đạn pháo của rơi xuống đất đã nổ. Và đạn thế chế ra được khắc rảnh giống như lựu đan, sau khi nổ sẽ biến thành những mảnh nhỏ. Hơn nữa khi nhồi thuốc nổ, hắn đã bỏ thêm vào đó những mảnh sắt vụn, một khi bị nổ ở trên không, hàng trăm mảnh thép bay tứ tung, có thể sát thương rất nhiều địch.
Lần tập kích này chỉ bắn mười mấy viên đạn pháo, nhưng do sử dụng đạn cải tiến, quân địch tập trung đông đúc, nên thương vong đến gần nghìn tên.
Quân đội của Lý Định Quốc cũng gặp phải những vụ đánh lén thế này.
Sau khi đại quân của Tôn Khả Vọng tiến vào sơn cốc một thời thần (khoảng 2 giờ) thì mới gặp vụ nổ sụp núi. Lúc này quân của Lý Định Quốc đi đường vòng bao vây đã cách đó xa rồi, tuy có nghe tiếng ùng ùng văng vẳng, nhưng không biết đó là tiếng nổ, chỉ cho rằng là mé trời đó đổ mưa, sấm nổ ì ầm thế thôi, nên họ tiếp tục tiến lên, đến canh ba thì hạ trại ở một chỗ bằng phẳng.
Ngủ đến nửa đêm, trên không của quân doanh có vô số tiếng nổ, binh sĩ tử thương rất nhiều, nhưng khi xuất kích tới địa điểm pháo bắng thì địch nhân đã không còn tung ảnh, kiểm lại thiệt hại mấy trăm quân.
Loại đánh lén này thương vong tuy hơi nhỏ, nhưng có tác dụng lớn khi đánh vào sĩ khí đối phương, khiến địch quân suốt đêm không dám ngủ yên.
Sau đó, Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc đều nghiên cứu chiến pháp đánh lén của địch quân, khi an doanh hạ trại đều bố trí nhiều trạm gác ở những chỗ có thể bố trí hỏa pháo.
Nhưng mà, chuyện này vẫn gặp phải vấn đề, khi trạm canh ít thì bị địch quân ngầm đánh lén diệt hết, còn trạm canh nhiều người thì bản thân nó trở thành mục tiêu bắn pháo của địch từ xa. Điều chủ yếu chính là loại tập kích này đêm nào cũng có, tiếng nổ to vang lên khiến binh sĩ kinh khủng vô cùng, căn bản không cách gì nghỉ ngơi. Nhờ đó, chuyện vu hồi tập kích vốn chỉ cần dùng 5 ngày là hoàn thành, thế mà Lý Định Quốc phải mất mười mấy ngày mới hình thành thế hợp vây Kiềm Dương huyện.
Trong vòng mười mấy ngày này, quân của Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc bị Dương Thu Trì phái những tiểu đội quen thuộc địa hình mang Phất lãng cơ hỏa pháo đi tập kích đêm chết tổng cộng hết ba bốn nghìn người. Cộng thêm trận chiến ở Nham Lũng sơn mất gần bảy nghìn người, tổng cộng Trương tặc binh mất một vạn người, ngoài ra còn khoảng 1 vạn người bị thương ở nhiều mức độ khác nhau.
Còn chưa chính thức khai chiến mà đã mất đi hơn một phần mười quân đội, khiến cho lòng tự tin của Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Tôn Khả Vong thấy không có khả năng trong vòng thời gian ngắn đả thông dịch đạo, bèn quyết định tháo các giáp luân xa ra cho quân sĩ như đám kiến mang qua chỗ tắt đường sau đó ráp lại. Còn lương thảo cũng vậy, cho lừa ngựa theo đường nhỏ vượt qua.
Sau một phen cực khổ như vậy, Tôn Khả Vong cuối cùng cũng đem vài vạn đại quân đến Kiềm Dương huyện sau mười mấy ngày.
Trống trận đổ dài, tiếng quát giết vang trời, được mấy trăm chiếc Giáp luân xa yểm hộ, binh sĩ áp sát thành tường, nhưng không thấy có địch quân nào đề kháng, cho đến khi chúng bắt thang dây, đánh vào trong thành cũng vậy.
Ba mặt khác, đại quân của Lý định Quốc cũng ùa vào, và thuận lợi phi thường, chẳng gặp phải sự đề kháng gì, chẳng khác nào như một trận diễn tập quân sự, bốn phía cùng phá thành tiến vào một lượt.
Trên thành lâu là đại kỳ của Minh quân đóng gió bay phần phật, không thấy một binh một tốt nào.
Bốn mặt thành mở ra, mấy vạn địch quân kéo vào nội thành, phát hiện Kiềm Dương huyện thành đã trở thành một tòa thành trống!
Không những chúng không thấy được một lão bá tánh, ngay gà vịt chó mèo cũng không. Không có vật đáng tiền gì, đừng nói chi là chút lương thực.
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc nhìn nhau, không biết địch đi về phương nào, không có ai để hỏi, đều không biết ưng đối ra sao. Nghiên cứu cả nửa ngày, hai người quyết định cho đại quân vào thành trước, rồi phái người tìm tung tích địch quyết chiến sau.
Trong thành có một binh doanh, xem ra là quân Đại Minh rút đi đã bỏ lại, phòng ốc dụng cụ đầy đủ, còn có kho lương, chỉ là không có chút lương thực nào. Tôn Khả Vọng cho mang lương thảo của đại quân vào chứa trong này.
Sau nhiều ngày mệt mỏi, cuối cùng họ đã tiến vào thành an toàn, đóng kín cửa lại.
Sau khi bố phòng trên thành lâu xong, đại quân cuối cùng có thể ngủ an ổn rồi.
Chỉ có điều, Dương Thu Trì không để chúng ngủ yên, vì đây chính là chiến trường mà bọn hắn chọn.
Canh tư, vào lúc người ta mệt mỏi nhất, hai bóng đen từ một căn phòng cũ nát xuất hiện ra, chính là vợ chồng Dương Thu Trì - Liễu Nhược Băng.
Thì ra, hai người ẩn trong thành, do có vũ công cao cường, tránh được địch quân trùy tìm. Sau khi họ lộ diện, đã nhanh thoăn thoắt đến một chỗ ẩn mật ngoài binh doanh, đốt cháy mấy chục dây dẫn lửa, sau đó lui nhanh.
Những dây dẫn lửa này nối liền với những ống trúc ống đồng chôn dưới đất, cháy dần vào binh doanh. Trong khi đó, hàng loạt binh sĩ ngủ vùi trong giấc mộng, ngay trên bãi địa lôi!
"Oành oành oành...!"
Tiếng nổ vang trời, kèm theo đó là máu thịt bầy nhầy của vô số binh sĩ bị xé nát thây trong giấc mộng.
Đợt nổ này ngoại binh doanh ra, địa điểm tập trung chủ yếu là kho lương. Kho lương sau khi nổ, lượng thảo tồn trữ ở đó nhanh chóng bắt cháy ùng ùng. Thì ra Dương Thu Trì chộn địa lôi dưới kho lương kỳ thật là loại đạn cháy, không những bỏ đầy thuốc nổ, còn cho nhiều lưu huỳnh, trong khi đó lương thảo là vật dễ cháy!
Binh sĩ vừa định cứu hỏa, thì nhà dân chung quanh cũng nhanh chóng bén lửa. Toàn bộ cổng thành và những phòng ốc gần đó đều chạy phừng phừng, thế lửa nhanh chóng dâng cao, toàn bộ Kiềm Dương huyện thành chẳng mấy chốc chìm trong biển lửa.
Đây dĩ nhiên là kiệt tác của Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng. Họ mượn trời đêm và võ công cao siêu, chạy khắp nơi phóng hỏa. Nhà dân trong thành thực chất đã bị cho thêm lưu hoàng và những vật dễ cháy ở chỗ kín đáo rồi.
Thế lửa xung quanh binh doanh lớn nhất. Lần này xuất chinh, địch quân chỉ mang theo ít thủy long đội, căn bản không ứng phó được thế lửa như vậy.
Khi tiến thành địch quân có 7 vạn, binh doanh khá nhỏ nên không chứa hết, chúng đã phân tán ở vào nhà dân. Trong thành nổi lửa khắp nơi, binh sĩ khắp thành bị chìm trong biển lửa, nhiều tên bị thiêu sống.
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc kinh khủng vạn phần, ra lệnh triệt li. Nhưng binh sĩ phân tán khắp nơi, mệnh lệnh không cách gì truyền đạt kịp thời, 4 cửa thành đã bị lửa vây phủ nên Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc chỉ đành đốc thúc binh sĩ liều mạng chữa lửa, mở ra thông đạo đem một phần quân đội lui ra phía tây thành.
Binh sĩ tập trung trên vùng bằng phẳng ngoài thành, nhìn huyện thành chìm trong lửa mà sợ đến tái xám mặt mày. Lý Định Quốc còn có thể coi là bình tĩnh, sợ địch quân mượn cơ hội này đánh lén, lập tức tổ chức chiếm lĩnh cao điểm xung quanh, đốt lửa cảnh giới, nhưng Minh quân không đến đánh.
Trận lửa lớn này cháy đến trời sáng, sau khi kiểm tra lại, phát hiện có hơn ba vạn binh sĩ và hơn nghìn con chiến mã táng thân trong biển lửa, toàn bộ lương thảo bị thiêu rụi, mấy trăm chiếc Giáp luân xa, mấy chục hỏa pháo và toàn bộ đạn dược đều tiêu tan trong trận hỏa công này!
 
Chương 139: Công chiếm Bảo Khánh
Trương tặc quân hiện giờ không còn vũ khí nặng, không có lương thảo, tướng sĩ tử vong hơn phân nửa, đại bộ phận binh sĩ đều bị phỏng với trình độ khác nhau, sĩ khí xuống thấp vô cùng.
Không có lương thảo, coi như không có biện pháp đánh nhau. Hơn nữa, ngay địch ở chỗ nào chúng còn chưa biết thì làm sao mà đánh.
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc giản đơn thương lượng xong, và lần nay hiếm lắm mới có dịp hai người nhanh chóng thống nhất ý kiến như vậy: lập tức triệt quân.
Bốn vạn tàn binh bại tướng vượt qua triền núi sụp đổ ở Nham Lũng sơn, lui về phía Bảo Khánh. Sau khi gấp hành quân hai đêm, dọc đường chúng không gặp địch, tướng sĩ đều mệt mỏi nhưng không dám ngừng nghỉ. Đến ngày thứ ba, khi chúng không còn chịu nổi nữa, chuẩn bị an doanh hạ trại, thì đối đầu ngay với ba vạn quân dĩ dật đãi lao của Dương Thu Trì!
Thì ra, sau khi Dương Thu Trì thu được quân tình, biết địch nhiều ta ít, không thể liều chống, nên phân phát lương thực tổ chức cho bá tánh toàn thành trốn vào trong Tuyết Phong sơn gần đó. Còn ba vị vương gia và quan viên trọng yếu của nha môn thì trốn toàn bộ vào sơn trại của nhị đại vương Vũ Kỳ khi xưa. Tám nghìn quân đội và thiết bị chế tạo đạn dược, nguyên liệu cũng điều tiến vào núi.
CÙng lúc đó, thám mã thông thạo đường lối được phái đi đã dùng bồ câu đưa thư thông báo tin tức địch quân. Ứng theo đó, mỗi đêm đều có một tiểu phân đội Phất Lãng Cơ xuất phát, tiến hành quấy nhiễu trọng điểm đối với quân của Lý Định Quốc.
Dương Thu Trì cũng không chịu nhàn. Ngoại trừ tổ chức trận chiến Nham Lũng sơn, thời gian còn lại hắn đều nghiên cứu làm sao đẩy nhanh tốc độ chế tạo đạn dược.
Và ông trời không phụ người có công, hắn dựa trên cơ sở của Vô Trần đạo trưởng, cuối cùng cải tiến thiết kế ra thiết bị có thể sản sinh một lượng lớn thuốc nổ đắng, giảm thiểu phần lớn các bước chế tạo, chuyển sang cho thiết bị cơ giới làm. Đương nhiên, những bộ phận kỹ thuật trọng yếu trong việc làm thuốc nổ và đạn được hắn tự tay độc lập hoàn thành. Công tác bảo mật này là cần thiết, vì mất nó, coi như hắn chẳng là gì cả trong thế giới này.
Do thiết bị kỹ thuật có đột phá trọng đại, thuốc nổ đắng và thuốc súng không khói, kíp nổ có sản lượng gia tăng gấp năm lần, khiến cho lượng đạn trung bình sản xuất ra từ 500 phát lên 2500 phát, tạc đạn bằng đá từ 10 quả tăng lên 50 quả 1 ngày.
Suốt hai chục ngày chế tạo cộng thêm lượng đạn dược chế ra hơn mười ngày trước, hắn đã tích lũy đạn dược kha khá. Trong đó thuốc nổ phần lớn đã dùng cho các cuộc tập kích, vụ nổ ở Kiềm Dương huyện thành. Đạn được sử dụng rất ít, nên trong hơn 1 tháng này, hắn đã chế tạo gần sáu bảy vạn phát tử đạn. Đủ trang bị cho 3 chiếc súng máy của Dương Thu Trì.
Ngoài ra, hơn một nghìn cây súng lão sáo đồng đã được chế tạo, trang bị hết cho hơn nghìn kỵ binh tinh nhuệ.
Trong thời gian này, ba vị vương gia cũng phái người phân biệt đến Tĩnh châu và Quý châu mượn binh. Quý châu gần Bình Khê vệ, Đồng Lăng ở Tương tây, có một lượng lớn Minh quân trú đóng. Quân đội này còn chưa dùng qua.
A Hạnh Ny cũng đến Quý châu mượn binh của các miêu trại, thổ gia và thổ ti.
Mặt mũi của ba vị vương gia quả là lớn, cộng thêm tài lực hùng hậu làm hậu thuẫn, họ đã mượn được hơn hai vạn binh. Dương Thu Trì đem số quân này mai phục ở chỗ từ Kiềm Dương về Bảo Khánh tất phải đi qua.
Trong trọng lửa lớn ở Kiềm Dương, địch quân bị thiêu chết mấy vạn, lương thảo cháy sạch, địch quân bất đắc dĩ phải lui binh, chạy suốt ba ngày đêm thì gặp ba vạn quân của Dương Thu Trì.
Đây là vùng đất trống trải, địch quân mệt mỏi không có lòng luyến chiến, đặc biệt là khi thấy binh lực đối phương tương đương, nên chỉ muốn đào tẩu. Nhưng đại quân Dương Thu Trì đã vào thế bạch hạc giang cánh, chính diện có súng máy của Dương Thu Trì, hai cánh đều phối 500 cây lão sáo đồng, căn bản không cho địch quân đào tẩu.
Dương Thu Trì trước hết cho dùng hồng di đại pháo bắn đạn nổ trên không tiến hành oanh kích, địch quân tử thương vô số. Mấy chiếc thiết luân xa chuyên dùng để đối phó vũ khí quái thú đã hư cháy hết ở Kiềm Dương huyện thành, cho nên hiện giờ chỉ biết ráng cố sức xung phong.
Nhưng súng máy maxim không cho phép thực hiện điều đó. Địch quân ngã như rạ, trong chiến đấu có không ít tên học cách lăn lê bò lếch tránh đạn, nhưng lại bị tạc đạn đá nổ ở trên không biến thành bia sống.
Thấy không thể xung phá, địch quân chuẩn bị đột vây từ hai cánh, nhưng đón tiếp chúng là binh sĩ dùng lão sáo đồng có tầm bắn 2000 mét, hữu hiệu 600 mét, xa vượt qua cung tên hay điểu thương, tuy là bắn từng phát nhưng tới 500 quân bắn một lúc, hơn nữa lại có 5 phát đạn, nên nhanh chóng biến địch quân thành những xác chết không hồn.
Thấy địch quân đã loạn, Dương Thu Trì không muốn hao phí đạn dược cực khổ chế ra vào chiến trường này, vung roi ngựa hạ lệnh bộ binh xung phong.
Xông lên trước lạ hỏa súng binh, khi tới xạ trình thì bắn, địch quân ngã rạp, tiếp đó hai vạn tinh binh mượn từ Tỉnh châu và Quý châu làm công việc còn lại.
Hơn nghìn kỵ binh mang súng của hắn đối phó với bộ binh như chỗ không người, bộ binh tiếp theo sau đánh quả nhiên là khiến binh bại như núi đổ, bốn vạn địch quân chớp mắt tan tành. Ba ngay hai đêm hành quân liên tục đã khiến địch mệt mỏi rã rời, không còn lực để chạy nữa. Cho nên, ngoại trừ thân binh và hộ vệ của Lý Định Quốc, Tôn Khả Vọng mở đường máu từ bên cánh chạy thoát vòng vây, hai vạn quân còn lại đều quỳ xuống đầu hàng toàn bộ.
Trận này diệt hơn 1 vạn quân, giành toàn thắng.
Dương Thu Trì nhận được quân tình là 8 vạn địch quân rời khỏi Bảo Khánh phủ xong, thủ quân trong thành chỉ còn vài nghìn, nên lập tức quyết định thừa thắng truy kích, binh phát Bảo Khánh phủ. Mấy ngày sau, binh đến dưới thành.
Lúc này đại quân của Dương Thu Trì nhờ có hai vạn địch quân đầu hàng thu nhận vào, số lượng đã đạt đến 5 vạn.
Thủ quân của Bảo Khánh phủ ngoan cường đề kháng, quyết không đầu hàng. Dương Thu Trì quyết định phát động cường công, dùng hỏa pháo oanh kích tường thành.
Tường thành thời cổ đại đối phó với binh khí lạnh hay thật tâm pháo đạn còn được, chứ trước mặt pháo đạn bằng thuốc nổ đắng của Dương Thu Trì, nó yếu ớt như là đất bùn vậy, chẳng mấy chốc đã bị bắn vỡ ra mấy cái lổ hổng lớn.
Do Dương Thu Trì thực hiện chính sách ưu đãi tù binh, hai vạn quân Trương Hiến Trung đầu hàng cảm kích trong lòng, lại có lòng kính sợ đối với vũ khí quái vật của hắn, nhận thấy theo hắn mới có tiền đồ, nên thật tâm đầu hàng và quyết tâm lập công trong trận này. Chúng xông lên trước, tiến vào thành trước, diệt phần lớn thủ quân trong thành.
Trước chuyện này, Dương Thu Trì đã tuyên bố chính sách sau khi phá thành, nghiêm chỉnh chấp hành ba đại kỷ luật tám hạng chú ý, nên sau khi tiến vào trong, không những không quấy nhiễu dân chúng, còn lập tức mở kho phát lương, chẩn tế bá tánh cùng khổ, được dân chúng toàn thành Bảo Khánh ủng hộ và hoan nghênh.
Ba vị vương gia hôm sau cũng di chuyển đến Bảo Khánh, đối với Dương Thu Trì càng bội phục sát đất, đặc biệt là Quế vương vô cùng vui mừng vì bước đi chính xác trước đây của mình.
Thời gian đã trải qua một tháng kể từ khi ba vị vương gia và tổng binh Khổng Hi Quý tiến cử Dương Thu Trì kế thừa tước vị Sở vương, nhung chưa có tin tức phản hồi gì. Hiện tại cần phải hiện thực hóa điều này, nếu không lòng họ như treo trên sợi tóc giữa vực sâu. Họ lập tức dùng bát bách lý gia cấp khởi tấu chương, đem đại tiệp ở Kiềm Dương báo lên triều đình, đồng thời lần nữa tiến cử hắn vào tước vị Sở vương, yêu cầu triều đình chính thức giao cấp binh quyền cho Dương Thu Trì.
Bảo Khánh là phủ, thành trì to hơn Kiềm Dương nhiều. Đại quân Trương Hiến Trung tích trữ rất nhiều quân lương ở đây. Dương Thu Trì hiện giờ muốn nhanh chóng khoách đại đội ngũ của mình, nên lập tức dựng cờ chiêu binh, tăng thêm quân đội.
Kiềm Dương huyện đã bị cháy rụi, Dương Thu Trì thuyết phục ba vị vương gia đem một lượng tài sản lớn cho bá tánh tu sửa lại nhà cửa. Đây là điều trước giờ chưa có, làm gì có chiến tranh thiêu hủy rồi lấy tiền bồi thường, cho nên cử động này của hắn được truyền tụng khắp nơi, cả vùng Tương Tây ai ai cũng biết, thanh niên trai tráng đến đầu quân rất độc, thậm chí có không ít Minh quân bị tán lạc khắp nơi kéo về, nên trong vòng nửa tháng đã chiêu mô 5 vạn tân quân.
Dương Thu Trì vốn muốn dùng xong hai vạn quân mượn rồi trả lại, nhưng mấy tướng lĩnh dẫn đầu đều sống chết không chịu đi, quỳ xuống thề muốn lĩnh quân theo Dương Thu Trì. Và thế là, binh lực của hắn coi như đã đạt 10 vạn.
Bảo Khánh phủ lớn hơn Kiềm Dương nhiều, có mấy chục vạn nhân khẩu, thợ sắt rành nghề hơn nghìn người, Dương Thu Trì lập tức triệu tập mọi công tượng trong thành tham gia chế tạo vũ khí. Có tiền có người, cộng thêm có dân ủng hộ, làm việc gì cũng nhanh, cho nên quặng mỏ cần chế tạo đạn dược không ngừng được chuyển tới Bảo Khánh.
Dương Thu Trì dùng 1 tháng để chế tạo hơn chục vạn phát đạn và hơn nghìn quả pháo đạn. Dưới nỗ lực của hơn nghìn thiết tượng, hắn lại chế thêm được 1000 lão sáo đồng, cộng với số cũ được 2 nghìn cây súng.
Quân tinh nhuệ là đội ngũ có lực chiến đấu cao nhất, do đó tố chất cũng phải cao. Hắn điều chỉnh lại quân của mình, căn cứ lượng đạn và số lượng lão sáo đồng, biến quân tinh nhuệ thành đội ngũ 1 nghìn 600 người, tổ thành hai kỵ binh đoàn, chọn từ trong 10 vạn đại quân này những kẻ giỏi về thuật cưỡi ngựa, sau đó cho thi bắn súng toại phát trong khi cưỡi ngựa tiến hành chánh thẩm. Ngoại trừ những người có nguồn gốc rõ ràng, hắn cho tra rõ lý lịch, loại hết những kẻ có lại lịch mờ ám, đảm bảo địch quân không trà trộn vào.
Kỵ binh đoàn có hai thiên tổng (đoàn trưởng) do Dương Thu Trì tự tuyển, đó là Nhị đại vương Vũ Kỳ và một binh sĩ Đồng tộc giỏi bắn giỏi cưỡi ngựa trong Đồng tộc tên là Đô Cường. Đây là một bách phu trưởng của A Hạnh Ny, đã từng tham gia trận chiến bảo vệ Kiềm Dương, có tài chỉ huy, tác chiến dũng mãnh, cơ trí ngoan cường. Hai người này đều trung thành với Dương Thu Trì.
Vấn đề chiến mã cũng giải quyết dễ dàng, vì sau khi chiếm Bảo Khánh, quân hắn đã tước đoạt được một lượng lớn chiến mã. Cộng thêm hắn cho người đi mua ngựa khắp nơi, cho nên số lượng đủ dùng cho kỵ binh.
Khi xây dựng lại kỵ binh tinh nhuệ này, Dương Thu Trì căn cứ suy nghĩ của mình tổ chức huấn luyện, chú trọng tính kỹ luật, răm rắp tuân theo chỉ huy.
Một tháng sau, được Quế vương cực lực chủ trương, Dương Thu Trì thấy tình huống chuẩn bị đã cơ bản có thành tựu, liền quyết định mang binh tấn công sào huyệt cũ của Quế vương là Hành châu.
Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc đột phá khỏi trận chiến Kiềm Dương cuối cùng cũng tìm về tổ chức. Ba nhiệm vụ Trương Hiến Trung giao không những không hoàn thành, mà vạn đại quân còn bị Dương Thu Trì làm sập núi, đánh đêm, hỏa thiêu và tiêu diệt hết sạch, khiến y tức suýt ói máu ngay tại trận.
Trương Hiến Trung nghe Dương Thu Trì phát binh Hành châu, liền hạ lệnh Lưu Văn Tú tử thủ Hành châu, cấp tốc điều đại quân đánh vào Giang Tây trở về, điều động quân đội các nơi tập trung mọi binh lực lên đến 20 vạn kéo đến Hành châu chuẩn bị hội chiến, quyết định diệt gọn quân đội của Dương Thu Trì.
Lưu Văn Tú có 8 vạn quân ở Hành châu, là một trong 4 nghĩa tử của Trương Hiến Trung, được phong làm Phủ nam tướng quân, là ái tướng tâm phúc của y. Hành châu là yếu đạo giao thông liên thông nam bắc Hồ Quảng, xuống nam là Quảng Tây, về đông là Giang Tây. Đây là trọng trấn chiến lược và yết hầu, do đó Trương Hiến Trung mới chỉ phái Lưu Văn Tú cầm trọng binh trú thủ nơi này.
Thành tường Hành châu xây dựng vô cùng kiên cố, tinh binh đông lương đủ, nhất định khó phá vô cùng.
 
Chương 140: Hội chiến Hắc Thuỷ hà
Dương Thu Trì không phát động cường công. Hắn không muốn dùng quân đội cực khổ lắm mới xây dựng nên đánh tiêu hao chiến. Hắn muốn tận dùng ưu thế về vũ khí tiêu diệt địch quân. Hắn muốn quán triệt tư tưởng vận động chiến theo kiểu của Mao Trạch Đông, không quan tâm đến được mất một vùng, mà đặt trọng tâm vào tiêu diệt sinh lực địch quân.
Dương Thu Trì sau khi chiếm Bảo Khánh được dân chúng ủng hộ, liền tổ chức mạng lứơi tình báo hữu hiệu, nắm vững động thái của địch quân. Hắn biết địch quân chia hai đường, phía bắc xuất phát từ Trường Sa do Trương Hiến Trung tự soái lĩnh, phía tây do là quân đánh chiếm Giang tây Viên châu, do Ngải Năng Kỳ soái lĩnh.
Trong đó, đại quân của Ngải Năng Kỳ tiến binh thần tốc, đã tiến vào địa giới Hồ Quảng, còn quân Trương Hiến Trung vẫn còn đang điều động, chưa xuất phát từ Trường Sa.
Ngải Năng Kỳ tham công mạo tiến, muốn cùng Lưu Văn Tú ở Hành châu hình thành thế giáp kích nam bắc. Dương Thu Trì nắm được điểm này, tuy nói là hắn có tạc đạn, súng máy và lão sáo đồng, nhưng mãnh hổ khó địch quần lang, hơn nữa phía bắc Hành châu là đồi núi có phong cảnh tú lệ, tác chiến ở vùng núi này hỏa pháp và súng của hắn sẽ bị giảm uy lực, cần phải tận khả năng tránh sở đoản tận dụng sở trường. Nhưng nếu bố trận nghênh địch ở phía bắc Hành châu, tất phải bị thế giáp kích nam bắc của địch. Hai lộ địch quân cộng lại có quân số hai chục vạn, gần như la gấp đôi quân của hắn, không thể mạo hiểm quyết chiến trong tình huống này. Nhưng nếu vượt qua Hành sơn, nghênh địch ở bình nguyên Chu châu, thì đại quân quá mệt mỏi, không thể nào ở trạng thái tốt nhất đánh địch. Hơn nữa cô quân thâm nhập, khuyết thiếu hậu viện, một khi thất lợi thì hậu quả không thể tưởng tượng.
Sở dĩ, Dương Thu Trì ngẫm nghĩ thật lâu, cuối cùng quyết định giả triệt binh về Bảo Khánh, bố trận ở một lòng chảo ven Hắc Thủy hà nghênh địch. Như vậy, một mặt hắn có thể tránh thế lưng mặt đều thụ địch, mặt khác cự li cách Bảo Khánh không xa, tiến có thể công, lùi có thể thủ.
Lưu Văn Tú ở Hành châu phủ thấy Dương Thu Trì lui binh, không dám truy kích, sợ nhằm vào kế dụ địch. Ngải Năng Kỳ nhận được tin, liền chuyển phương hướng nhắm thẳng đại quân của Dương Thu Trì ở Hắc Thủy hà. Đồng thời y yêu cầu Lưu Văn Tú xuất binh, hai lộ giáp kích, bị Lưu Văn Tú cự tuyệt. Lưu Vấn Tú kiên trì án chiếu chỉ ý của Trương Hiến Trung cố thủ thành trì, chờ đại quân của Trương Hiến Trung đến, sau đó ba lộ hội sư Bảo Khánh, tập trung ưu thế binh lực một đoàn tiêu diệt tân quân của Dương Thu Trì.
Lần trước đại quân Trương Hiến Trung nam hạ, Ngải Năng Kỳ làm tiên phong, phụng mệnh tiếng công Giang Tây, dọc đường qua ải chém tướng, đánh quân của Tả Lương Ngọc đại bại, liên chiếm Bình Hương, Vạn Tái, đoạt Viên châu ngay cửa Giang Tây. Tiếp đó, y công chiếm Cát An, Cát Thủy, Vĩnh Tân, An Phúc, Thái Hòa và các huyện khác, báo tin thắng trận liên miên, quả là có cảm giác hoành tảo thiên quân.
Tiếp đó Trường Hiến Trung phát lệnh khẩn cấp chi viện Hành châu ở Hồ Quảng. Ngải Năng Kỳ lập tức hồi sư Hồ Quảng, khí thế hung hung kéo thẳng tới Hành châu. Sau khi biết được Dương Thu Trì triệt binh, cho rằng hắn sợ uy danh của y, càng ngông nghênh hơn. Tuy Lưu Văn Tú ở Hành châu không chịu xuất binh giáp kích, đại quân của Trương Hiến Trung ở Trường sa chưa xuất phát, y đã gấp rút không thể đợi chờ, muốn đánh bại Dương Thu Trì đoạt lại Bảo Khánh phủ, do đó mới soái lĩnh đại quân sát khí đằng đằng kéo tới.
Đương nhiên, Ngải Năng Kỳ không hề là người hữu dũng vô mưu đơn giản. Y đã biết đại quân Dương Thu Trì có một loại vũ khí quái thú có thể chớp mắt lấy mạng mấy trăm người, hơn nữa tầm bắn còn tương đương hỏa pháo. Ngoài ra hắn còn có tạc đạn uy lực kinh người, có thể sát thương ngoài trăm xích, có thể nổ vỡ thành trì kiên cố. Hiện giờ lại còn truyền tin là binh sĩ của hắn được phối bị một loại hỏa súng mới, xạ trình hữu hiệu gấp bảy tám lần hỏa súng thường, có thể liên tục bắn, không cần lấp đạn vào họng súng rồi mới bắn tiếp.
Những vũ khí này đều khủng bố chưa hề nghe thấy bao giờ. Nhưng mà người đều có đặc tính là chưa trực tiếp gặp sự vụ đó thì dù sao cũng không thể hình dung nó khủng bố thế nào. Do đó, Ngải Năng Kỳ không lo lắng nhiều, tuy vẫn chuẩn bị những bước cần thiết, ví dụ tập luyện đội hình chiến đấu và điều chỉnh phương án tác chiến.
Hai quân cuối cùng gặp nhau bên bờ Hắc Thủy hà, binh lực tương đương, đều khoảng 10 vạn.
Đây là một lòng chảo bên sông khá rộng, rất bằng phẳng, từ xa có thể thấy đại quân của Ngải Năng Kỳ di động đen xì xì, che lắp cả bình nguyên.
Ngay bộ chỉ huy của Dương Thu Trì đã dựng lên một cây cờ lớn cao mười mét, trên có một vọng đài. Đoạn thời gian này hắn ngoại trừ nghiên chế phương pháp tăng tốc độ chế tạo đạn dược, còn tranh thủ học võ công từ chỗ Liễu Nhược Băng, đặc biệt là luyện tập phi tác bay lên phòng, đạt được vài phần hỏa hầu, khi lên xuống cột cờ này chẳng còn là vấn đề gì khó. Lúc này hắn đã bay lên trên đó, rút một ống đồng ra nhìn vào, không ngờ là một viễn vọng kính bằng đồng, dùng loại kính thủy tinh thượng đẳng ở Bảo Khánh mài giữa tạo thành. Hắn dùng kính viễn vọng quan sát tình huống bày binh của địch, phát hiện địch quân tiến đến trận địa của quân nhà chừng 5 nghìn mét thì dừng lại. Đại quân của địch bày thế trận trường xà, giữa binh sĩ có cự li nhất định, xếp hàng dọc, hiển nhiên là đề phòng đạn khai hoa bắn từ hồng di đại pháo của hắn.
Phía địch quân cũng có một hàng hồng di đại pháo, số lượng đại khái hơn trăm khẩu.
Phía sau đại pháo là thuẫn bài hỏa súng binh, dùng thuẫn bài vừa làm giá đỡ để bắn, vừa có tác dụng phòng hộ. Thuẫn bài sáng lấp lánh, rõ ràng là có kèm phiến sắt.
Phía sau thuẫn bài hỏa súng binh là những phòng nhỏ di động làm bằng phiến sắt, số lượng có tới mấy trăm, xem ra ắt là xe tăng thổ tả "thiết luân xa". Sau đó nữa là trận địa trường mâu có số lượng đông nhất. Hai cánh của trận địa có kỵ binh cằm cường nỏ và mã đao, phía trước là giáp nhẹ, phía sau là giáp nặng.
Địch quân có khoảng 10 vạn, đội hình chỉnh tề, cờ bay phấp phới, không ai nói loạn, hiển nhiên quân kỷ nghiêm minh, chẳng trách có thể càn quét quân Đại Minh.
Quân đội hai bên đều sắp bày ở ngoài tầm bắn của Hồng Di đại pháo, hiển nhiên là chờ đối phương tiến công trước, sau đó tiến hành phản kích. Loại chiến pháp này rất hay dùng ở thời cổ đại.
Dương Thu Trì không muốn chờ. Chiến pháp của hắn trộn lẫn hiện đại và cổ đại, hiện đại là chủ, cổ đại là phụ, do đó quyết định đánh trước kềm chế người. Hắn cầm cây cờ tam giác chỉ huy phất lênh, truyền lệnh binh phía dưới lập tức phát xuất chỉ lệnh, mấy chục trống trận nổi lên dồn dập, chấn thiên động địa: kỵ binh xuất kích!
Kỵ binh của Dương Thu Trì có 1600 người, toàn bộ trang bị súng Lão sáo động lên đạn bằng tay, hộc đạn 5 viên, bắn xa nhất 2000 mét, tầm bắn hiệu quả 600 mét.
Hai đội kỵ binh chia ra xông thẳng tới theo hàng ngang, khi tiến nhập tầm bắn của Hồng di đại pháo, địch quân bắn ngay một loạt, khói bay mù mịt, toàn là khai hoa đạn và thật tâm đạn có uy lực rất nhỏ, chỉ có thể sát thương những mục tiêu gần. Đối với chiến mã chạy với tốc độ nhanh, sự thương hại này có thể bỏ qua, hơn nữa kỵ binh này tiến theo hàng ngang, khoảng cách rất xa, giỏi cưỡi ngựa, nên với thật tâm đạn bắn tới có thể điều khiển ngựa tránh né. Cho nên, một loạt hơn 100 phát đạn này chẳng tạo ra thương vong bao nhiêu cho kỵ binh xung phong.
Sau khi họ tiến vào tầm bắn 600 mét của súng lão sáo đồng, bắt đầu xạ kích, mục tiêu chủ yếu là pháo thủ của hồng di đại pháo, sau một loạt tiếng nổ, số pháo thủ này đua nhau ngã gục.
Trong vòng 600 mét tuy đã là tầm bắn hữu hiệu của lão sáo đồng, nhưng là quá xa đối với quân chỉ có toại phát thương và cường nỗ của Ngải Năng Kỳ. Tầm bắn của chúng xa lắm chỉ 150 mét, hữu hiệu chỉ 50 mét, lại không chính xác, ứng với câu "hỏa súng bắn thỏ cũng không trúng".
Hồng di đại pháo và Phất lãng cơ của chúng có thể dễ dàng bắn tới tầm 600 mét, nhưng để tiêu trừ phản lực cực mạnh, hỏa pháo đều được cố định ở góc 45 độ, rất khó có thể điều động chúi miệng pháo xuống.
Trong khi đó, kỵ binh của đối phương chỉ nằm ngoài tầm bắn của bộ binh, trong tầm bắn gần nhất của hỏa pháo, nên chúng không thể nào phản kích.
Địch quân không biết lão sáo đồng của Dương Thu Trì có thể bắn xa vậy, đều cả kinh. Chờ đến khi chiến hữu đua nhau ngã rạp, cuối cùng cũng phản ứng, thuẫn bài hỏa súng binh ở sau mang thuẫn bài bằng sắt nặng lên xông tới, toan tính ngăn đạn địch.
Nhưng chúng đang đối diện với đạn cao tốc bắn từ thuốc nổ không khói, trong cự li ngắn như vậy có thể dễ dàng bắn xuyên qua bản sắt dày 5 mm, không thể dày hơn thêm, vì như vậy phiến sắt chỉ cao nửa người sẽ vô cùng nặng, một người khênh không nỗi, đừng nói chi di động về trước. Chúng chỉ mang thuẫn có dát sắt mỏng tới trước, kết quả bị đạn xuyên qua thuẫn cắm vào người dễ dàng.
Tuy vô số binh sĩ bị ngã chết dưới súng lão sáo đồng, nhưng quân của Ngải Năng Kỳ không hề loạn. Trường cảnh khủng bố này họ đã nghe qua, nên nhanh chóng phát hiện thuẫn bài một mặt không đủ đối kháng đạn của địch quân, lập tức dùng thuẫn bài hai mặt tiến lên.
Cùng lúc này, kỵ binh của địch quân ở hai cánh bắt đầu xung phong, chuẩn bị án chiếu theo chiến thuật thường dùng vòng ra sau lưng bao vây. Không ngờ, bọn chúng vẫn còn đánh giá quá thấp uy lực bắn xa và liên tục của lão sáo đồng. Tuy súng này chỉ có băng đạn 5 viên, nhưng để lắp đầy băng đạn 5 viên trở lại chỉ cần không đến nửa phút!
Kết quả là, kỵ binh của địch dưới hàng nghìn cây lão sáo đồng bắn dồn dập, đã trở thành bia sống người ngã ngựa đổ, giãy chết liên tục, máu đỏ nhuộm hồng cả cỏ xanh.
Ngải Năng Kỳ vội ra lệnh kỵ binh đình chỉ tiến công, chỉ huy quân xe tăng thổ tả "Thiết xa" sau thuẫn bài binh xuất kích.
Ngải Năng Kỳ đã cải tiến giáp luân xa để trở thành thứ xứng với tên gọi "thiết xa" rồi - 4 phía đều là bản sắt nặng và đất bùn dày, phía trước có một cái lổ có thể bắn hỏa súng đặc chế cực lớn, là loại hỏa pháo thu nhỏ, tầm bắn khoảng 300 mét. Chỉ có điều, do miệng súng lớn, nhồi lắp thuốc súng cần nhiều thời gian, trong khi phải thực hiện bên trong cái nhà sắt nhỏ hẹp này rất mất công sức, cho nên gần 5 phút mới bắn được một lần. Các mặt xung quanh thiết xa này có dùi những lổ nhỏ hơn, dùng để bắn hỏa súng và cường nỗ.
 
Chương 141: Hỗn chiến thống khổ
Mấy trăm chiếc xe tăng thổ tả lộc cộc tiến về trước, một loạt súng nổ, tuy bắn không tới kỵ binh của Dương Thu Trì, nhưng cũng ghê người. Hơn nữa, chiến pháp xe tăng thổ tả này dường như đã qua huấn luyện, chia thành ba đội phân tán xuyên nhau mà tiến, giống như đội hình xạ kích ba lượt của hỏa súng. Hàng xe thứ nhất bắn xong, dừng lại nạp đạn, hàng sau tiến tới bắn, sau đó dừng lại, rồi tới hàng kế.
Vũ Kỳ và Đô Cường phát hiện lão sáo đồng của họ không bắn xuyên được thiết xa, hơi kinh ngạc, rất may là tốc độ của xe khá chậm, tầm bắn của hỏa súng có hạn, chỉ từ từ lui, đối với kỵ binh của họ chẳng có uy hiếp gì.
Dương Thu Trì nhìn rõ hết thông qua viễn vọng kính. Kỵ binh xung phong lần này đã diệt được hai ba nghìn pháo binh và kỵ binh, đã có hiệu quả rồi. Lão sáo đồng của kỵ binh không thể nào đối phó thiết xa, do đó Dương Thu Trì phất cờ lệnh, truyền lệnh binh phía dưới phát xuất chỉ lệnh đánh chiêng thu binh.
Hai đoàn đội kỵ binh nghe lệnh, nhanh chóng lùi về trận địa.
Ngải Năng Kỳ thấy được hi vọng, chỉ huy đại quân theo sau thiết xa tiền tiến.
Khi tiến đến cự li hai nghìn mét, hồng di đại pháo của Ngải Năng Kỳ lại bắn lần nữa. Nhưng do pháo binh của y đã bị kỵ binh của Dương Thu Trì diệt hơn phân nửa, hỏa pháp cổ đại có yêu cầu với pháo thủ rất cao, liên quan đến nhồi đạn dược nhiều ít, cân bằng lèn đạn thế nào, góc độ phát xạ ra sao... Về ý nghĩa nào đó, nó còn vượt xa yêu cầu đối với pháo thủ của hỏa pháo hiện đại, không phải ai cũng bắn được. Cho nên, hỏa pháo của Ngải Năng Kỳ chỉ phát xạ được một phần, uy lực đại giảm, hơn nữa có 1 bộ phận không phải pháo thủ nhồi đạn, không đúng lượng thuốc nổ nên nổ nòng súng, tạo thành thương vong cho bên mình.
Lần bắn hỏa pháo cũng nổ chết mấy chục binh sĩ của Dương Thu Trì, nhưng do đã được huấn luyện, gặp biến không kinh, cộng thêm quân sĩ tuyệt đối tin vào vũ khí khủng bố của hắn, lại còn có mấy trăm nữ tử cứu hộ, nên những kẻ bị thương đều được đưa về sau băng bó, ổn định quân tâm.
Dương Thu Trì không hạ lệnh xuất kích, chở địch quân tiến tới sáu bảy trăm mét mới phất cờ lệnh.
Trống trận vang lừng, căn cứ âm thanh chỉ kỳ, hỏa pháo thủ ở đầu hạ thấp phòng, đối chuẩn vào xe tăng thổ tả của địch. Muốn đánh tăng thì tất nhiên phải dùng pháo rồi!
Dương Thu Trì đã có nghiên cứu về thiết luân xa của địch quân chiếm được ở Kiềm Dương, nghĩ ra đối sách, dùng pháo đạn thuốc nổ tuy là lựa chọn tốt nhất, nhưng đạn pháo loại này có số lượng không nhiều, không thể bắn bừa, nên Dương Thu Trì quyết định dùng hỏa pháp bán thật tâm thiết đạn đối phó, chỉ cần bắn trúng là được.
Thật tâm thiết đạn to bằng quả bóng, nặng mấy chục cân, cổ đại thường dùng phá công sự phòng ngự trong thành, đập vỡ cổng thành... Dương Thu Trì dùng để đánh thiết xa, coi như dùng tạm.
Dương Thu Trì sau khi nghĩ ra biện pháp này, hạ lệnh điều chỉnh góc độ của hỏa pháo thành bắn ngang, khi công đánh Bảo Khánh phủ cũng cướp được một lượng hỏa pháo của địch quân, kết hợp lại hắn có mấy trăm khẩu, trong đó đại bộ phận là Phất Lãng cơ có thể thay đổi nòng pháo bắn nhanh.
Hỏa pháo sau khi cho nằm ngang, thì mấy trăm xe tăng thổ tả của địch quân đã được yểm hộ tiến đến cự li 500 mét, nòng pháo thòi ra từ trong nhà thép này đã có thể thấy rõ được rồi.
Dương Thu Trì phất cờ chỉ huy, hỏa pháo bắn dồn, một loạt đạn pháo bắn qua trúng ngay hàng thiết xa ở phía trước. Những Phất lãng cơ hỏa pháo bắn thiết đạn có uy lực hơi kém trúng thiết xa có thể tạo thành lổ lớn, còn hồng di đại pháo uy lực mạnh hơn không những xuyên thủng bản thép, mà còn khiến cả thiết xa lật đổ, binh sĩ trong đó hoặc chết hoặc bị thương, tiếng gào thảm vang lên không ngớt.
Nhưng mà, số lượng thiết xa của địch quân quá nhiều, còn độ chính xác của hỏa pháo rất kém, có quan hệ rất lớn đến kinh nghiệm của pháo thủ, sai biệt lên đến hàng chục mét, nên vốn bắn chiếc này thì lại trúng chiếc kia, một phần bị trật dù chỉ mấy trăm mét, nên số xe tăng thổ tả của địch bị hủy chỉ ở con số 40 chiếc, đám thiết xa này vẫn tiếp tục tiến lên.
Hồng di đại pháo có tốc độ thay đạn rất chậm, đại khái mất ba phút mới bắn một viên, Phất Lãng Cơ nhanh hơn, nửa phút hoặc hơn là đổi được đạn, sau khi tiến hành bắn phủ trùm, lại có gần 30 chiếc tăng thổ tả bị đánh hủy nữa.
Nhưng uy lực của Phất Lãng cơ kém hơn hồng di đại pháo nhiều, các thiết xa bị bắn trúng bánh thì năm ì không tiến, chứ những xe bị bắn trúng bản sắt mặt trước, uy lực không đủ, chỉ tạo ra cái lổ lớn sát thương mấy binh sĩ gần đó, nhưng xe vẫn tiếp tục tiến lên.
Dương Thu Trì thấy tình thế không ổn, địch quân dùng mấy trăm chiếc tăng thổ tả này đi trước yểm hộ cho đại quân, khiến súng máy không thể bắn quân đội nấp phía sau. Khi thấy địch quân đã áp sát 300 mét, hắn bất đắc dĩ phải dùng đến tạc đạn.
Dương Thu Trì lập tức phất cờ chỉ huy, hai chục khẩu Phất Lãng Cơ lấp pháo đạn có thuốc nổ mạnh lập tức gầm gừ, nổ bung vào đám thiết xa, khiến mấy chục chiếc nhà sắt có bánh xe này văng lên không, địch quân trốn trong đó chết banh xác văng tay chân khắp nơi.
Nhưng mà, ngoại trừ những chiếc thiết xa ở gần điểm nổ bị hủy, những chiếc ở xa do có vách sắt dày bảo hộ vẫn ngăn được sóng xung kích và mảnh đạn, binh sĩ bên trong không bị thương, tiếp tục tiền tiến.
Khi Phất Lãng Cơ đổi đạn xong, thì xe tăng thổ tả của địch đã vượt vào phạm vi xạ trình 300 mét, hỏa súng bên trong nó bắt đầu phát xạ. Nhưng Dương Thu Trì đã sớm phát hiện tình huống không ổn, phất cờ chỉ huy, thuẫn bài đao phủ thủ sau hỏa pháo thủ lập tức tiến lên dùng thuẫn bài hình thành tường yểm hộ cho những người ở sau, trong khi đó hai chi kỵ binh cầm lão sáo đồng ở hai cánh đã sơ tán vòng qua, bắn địch quân từ mé hông.
Không ngờ, địch quân ở cánh đã linh họat sử dụng thuẫn bài hai lớp hình thành tường phòng hộ cho kỵ bộ binh bên trong, tuy đã bắn chết không ít địch quân ngoài tường phòng hộ, nhưng hiệu quả giảm rõ rệt.
Duy Thu Trì huy động cờ tam giác, phát xạ tạc đạn trên không, mấy chục khai hoa đạn bằng đá nổ trên trận địa địch.
Điều làm Dương Thu Trì bất ngờ chính là gần như mỗi địch quân đều có thuẫn bài nhẹ bằng da kẹp sắt, đưa lên trên đầu.
Kết quả, ngoại trừ những tạc đạn nổ thấp dựa vào sóng xung kích sát thương địch nhân ra, những phiến đạn tung bay đó không thể làm gì địch bên dưới, hiệu quả không lớn.
Dương Thu Trì đã không còn kịp điều chỉnh, thiết xa của địch đã tiếp cận 100 mét, trong lổ bắn thò ra hỏa súng và cường nỗ phóng ra lưỡi lửa và tên bén, tuy có thuẫn bài binh bảo hộ, nhưng đã có không ít tướng sĩ trúng đạn.
Thứ địch quân cần đó là hỗn chiến cận cự li, cho nên tiếp tục cho thiết xa tiến lên.
Ở cự ly gần như vậy không thể nào phát xạ đạn pháo, tiền phong hai bên tiếp xúc, binh sĩ trong thiết xa mở cửa ngăn, cầm đao kiếm xông ra.
Dương Thu Trì vội ra lệnh hậu đội xung phong, mệnh lệnh pháo thủ lùi về sau! Pháo thủ là công nhân kỹ thuật, là tài sản, không thể cầm đao liều mạng! Tiếng trống xung trận và thanh la rút lui vang lên bốn phía, căn cứ tiết tấu truyền đạt mệnh lệnh khác nhau.
Pháo thủ bỏ lại hỏa pháo, vác thuốc nổ và pháo đạn lùi về sau. Đây là một hạng mục Dương Thu Trì huấn luyện họ trước, vì hỏa pháo quá năng, không thể nhanh chóng chuyển dời, quẳng đi cũng không sao, địch quân không thể mang đi ngay được. Nhưng thuốc nổ và đạn pháo là bảo bối, rơi vào tay địch không xong, cho nên hắn nhấn mạnh cho các pháo binh là khi lui pháo thủ phải mang đạn dược theo, nếu không quân pháp sẽ xử!
Cùng lúc pháo thủ lùi, hỏa súng thủ và cung thủ ở sau nhanh chóng xông lên khai hỏa vào địch quân. Địch quân cũng có hỏa súng thủ và cung tiễn thủ, nên bắn nhau loạn xạ thế này, hai bên đều chết không ít tướng sĩ.
Tháp chỉ huy của Dương Thu Trì ở trung quân, cách tiền phong hỗn chiến hai ba trăm mét, cung tên và hỏa súng của địch quân không thể bắn hắn. Nhưng khi thấy hai bên đã hỗn chiến, lòng hắn trầm hẳn, lúc này đã không cần chỉ huy nữa, mà là sự khảo nghiệm võ nghệ, lòng dũng cảm và kinh nghiệm tác chiến của binh sĩ hai bên. Điểm này bên hắn rõ ràng không bằng địch!
Sau khi hai bên hỗn chiến, địch quân nhanh chóng tổ thành những nhóm chiến đấu khoảng chục người do thập trưởng chỉ huy. Tổ chiến đấu do trường mâu thủ và thuẫn bài đao phủ thủ, hỏa súng thủ và cung nỏ thủ tổ hợp thành biên đội, dựa lưng vào nhau tạo ra vòng tròn kết hợp binh khí dài ngắn, tiến có thể công, lùi có thể thủ. Hơn nữa, những nhóm chiến đấu có thể tương hỗ bảo hộ cho nhau. Nếu so ra, thì tân binh mới huấn luyện được một tháng của Dương Thu Trì căn bản không thể phối hợp bài bản bằng, hoàn toàn mạnh ai nấy đánh. Hiển nhiên, lực chiến đấu của họ giảm nhược, chưa kể năng lực đối quyết đơn binh kém hơn hẳn đối phương.
Kết quả là sau khi hỗn chiến, thương vong của bên hắn nhanh chóng gia tăng, dường như tỷ lệ ba một, chết 3 mới giết được 1 lính của đối phương.
Dương Thu Trì nhìn mà đau thắt cả lòng, nhưng không còn biện pháp nào. Liễu Nhược Băng cũng thấy tình hình không ổn, lập tức như đại bàng triển cánh bay vào trận địch. Nàng không thích dùng súng, nhưng đoản kiếp và liễu diệp phi đao trong tay áo nàng rất hữu dụng, trong chiến trận như quỷ mị, đạo kiếm, hỏa súng và cung tên của địch nhân không thể theo kịp thân ảnh nàng, trong khi đao quang đến đâu thì máu thịt địch quân rơi rụng tới đó.
Hai đội kỵ binh cầm lão sáo đồng căn bản quan triệt yêu cầu bảo trì cự li khi Dương Thu Trì huấn luyện, lợi dụng tốc độ chiến mã tránh khỏi tầm bắn của địch. Nhưng do đại bộ phận kỵ binh đều là tay mới vào nghề, tuy tài cưỡi ngựa hay, nhưng dù sao cũng mới đánh vũ khí thật này lần đầu, đều rất khẩn trương. Trước đó khi họ xung phong, phát hiện lão sáo đồng đích xác hữu dụng, vô cùng khẩn trương cứ muốn bóp cò, hết đạn thì mò vào túi lấy đạn tra vào.
Cả tháng nay Dương Thu Trì làm ngày đêm chỉ được hơn 10 vạn phát đạn, lần này xuất chinh mỗi chiến sĩ chỉ được phát 20 viên, tức 4 băng đạn. Hai kỵ binh đoàn có 1600 người, phát 3 vạn 2 nghìn viên đạn. Những kỵ binh này khẩn trương và hưng phấn đánh rất thống khoái, quên tiết kiệm đạn, nên nhanh chóng bắn sạch trơn.
Dương Thu Trì sợ vũ khí rơi vào tay địch, trong khi đó gần hai nghìn quân này là vương bài của hắn, không thể dùng cho hỗn chiến, nên hắn đã hạ mệnh lệnh trước khi vào trận: một khi hỗn chiến khi bắn hết đạn phải lùi khỏi chiến trường, ai gia nhập hỗn chiến quân pháp sẽ xử. Do đó, đám kỵ binh này chỉ chuyển đầu ngựa lui binh.
Phát hiện kỵ binh đối phương không còn đạn, thiết kỵ ở hai cánh của địch múa mã đao điên cuồng truy kích.
Dương Thu Trì ở trên vọng đài nhìn rõ ràng, lập tức hạ lệnh cho hai cây súng máy xuất động. Hiệu giác vang lên, hai súng máy đặt trên hai xe ngựa xông ra.
"tạch tạch tạch..." Đạn bay như mưa vào đám kỵ binh truy sát.
Trong lần hội chiến này, Dương Thu Trì căn cứ kinh nghiệm lần trước tiến hành cải lương súng máy.
Hắn thiết kế xe ngựa dùng vận chuyển súng máy: bốn ngựa kéo xe, vị trí đặt súng hơi cao, xung quanh dùng bản thép bao lại, phía trước có giá đỡ, phía trái dùng cung cấp đạn dược, phía phải dùng cấp nước giải nhiệt, phía sau xe ngựa chứa đạn và nước làm mát. Ngoài ra trên xe còn phối hai hộ vệ, dùng lão sáo đồng bảo hộ bắn chết địch quân đến gần. Hai mã phu ở ngoài điều khiển xe ngựa, để đề phòng chiến mã bị tiếng súng làm cho kinh sợ chạy loạn, một mặt hắn cho chiến mã luyện quen với tiếng súng, một mặt bịt kín tai của chúng.
Hắn cũng tiến hành tu cải súng máy maxim, bỏ hai cái bánh xe đi, đổi thành cái giá sắt để tăng tính ổn định, bỏ tấm chắn phía trước mở rộng tầm quan sát khi bắn.
Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ thao tác hai súng máy này, mạng các hộ vệ đón đánh kỵ binh của địch.
"tạch tạch tạch..." đạn súng máy quét tới giống như cây roi dày quét vào đội hình kỵ binh của địch, roi đến đâu người ngã ngựa đổ đến đó!
 
Chương 142: Nhân tố thắng lợi
Kỵ binh của Ngải Năng Kỳ lần đầu tiên đụng phải đạn súng máy quét, chiến mã đang chạy trúng đạn ngã rụi hất văng kỵ binh trên lưng ra xa. Kỵ binh bị ngã ở trước trở thành chướng ngại của kỵ binh phía sau. Nhưng kẻ có huấn luyện muốn tung ngựa phóng qua, nhưng bị đạn súng máy như mưa biến thành tổ ong, rơi phịch xuống đất.
Ngải Năng Kỳ đứng ở trên cao nhìn rất rõ, kinh hãi đến ngẩn người. Đây là vũ khí quái thú trong truyền thuyết hay sao?
Y phát hiện tình huống vô cùng không ổn, cho dù khinh kỵ binh của y có tốc độ đạt đến cao nhất, cũng không có cách gì vượt qua hai đạo phòng tuyến vô hình này. Dù cho trọng giáp kỵ binh có đủ sức ngăn cung tên và hỏa súng xạ kích, nhưng vẫn bị đạn súng này bắn nát người mà chết. Y vội vã hạ lệnh rút kỵ binh về sau, y như cũ dùng thuận bài tạo thành tường phòng hộ bảo vệ hai cánh, đồng thời tiền phong tiếp tục xung phong về trước, tranh thủ hỗn chiến với địch quân, khiến cho vũ khí quái thú của đối phương không cách gì bắn quét.
Địch quân chấp hành mệnh lệnh rất kiên quyết, và thế là, sau khi vô số người ngã chết, cuộc đại hỗn chiến giữa hai bên cuối cùng cũng bắt đầu!
Súng máy của Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ tức thời im miệng, vì đối diện với hai chục vạn người hỗn chiến lại với nhau, địch ta khó phân, không thể nào bắn được.
Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ đều lần đầu tiên dùng súng máy tiến hành thực chiến, mới đầu bắn rất thống khoái, không ngờ khi hai bên hỗn chiến, súng máy quét qua thấy cả quân của mình cũng chết, nên vội vã dừng lại, đổi thành bắn phát một. Nhưng đạn súng máy có lực xuyên quá mạnh, nên giết 1 lúc ba bốn người, cả địch lẫn ta.
Cho nên, ngay bắn đơn họ cũng không dám nữa!
Rất may là địch nhân sợ họ, trừ những kẻ điên cuồng không sợ chết xông tới chầu trời sớm, những kẻ khác đều biết họ không dám bắn loạn, nên cứ coi như không thấy, chỉ lo chém giết với nhau.
Dương Thu Trì dùng kính viễn vọng nhìn rõ ở một gò núi nhỏ có treo cờ chữ soái, biết là bộ chỉ huy của địch. Hai bên hỗn chiến, hắn biết lúc này không còn tồn tại chuyện chỉ huy, chỉ dựa vào thiên mệnh mà thôi, nên dùng phi tác xuống đài, lên xe ngựa có súng máy của mình, cho A Hạnh Ny cung cấp đạn, Hồ Thủy đổ nước, len qua cánh xông lên gò núi đó.
Lần này hắn không muốn để lỡ thời cơ, nên dù còn cách 1000 mét, hắn vẫn nổ súng, trong mơ hồ, hắn thấy trên núi đó có rất nhiều binh sĩ địch ngã xuống, nhưng không rõ có tướng soái của địch hay không.
Bộ chỉ huy của địch xem ra đã đề phòng đến chuyện này, nên lập tức điều tăng thổ tả hậu bị chắn trước địch quân trên núi, một bộ phận khác kéo tới, tháo ra mấy chục khẩu Phất Lãng Cơ nhắm chuẩn họ.
Địch quân không ngốc, đánh lén không thành, đành phải chạy nhanh, nếu không trúng phải một thiết đạn thì tiêu đời!
Đến hậu phương, thấy kỵ binh của hai đoàn còn ở xa không biết làm gì, Dương Thu Trì chợt động tâm, lệnh cho đoàn trường Vũ Kỳ và Đô CƯờng mang binh sĩ vác thi thể tới chất thành một đống.
Hai người không biết Dương Thu Trì định làm gì, nhưng quân lệnh như sơn, họ vội mang kỵ binh xông vào địch trận, cướp thi thể trên đất rồi chạy, bất quản là địch hay là người mình. Địch quân không biết họ làm vậy để chi, do sợ có súng máy của Dương Thu Trì nên không dám truy kích.
Thật nhanh sau đó, thi thể được chất thành gò cao đến 5 mét.
Dương Thu Trì đã tháo súng máy chuyển từ xe ngựa xuống, bảo A Hạnh Ny và Hồ Thủy vác đạn và nước theo hắn lên gò thi thể, đặt cho thật chắc, rồi dùng cách điểm xạ từng phát một bắn vào địch trận.
Do vị trí bắn cao, từ trên bắn xuống, lực xuyên thấu của đạn qua người rồi xuống đất, không gây thương vong cho người nhà. Hơn nữa tầm bắn của súng máy đạt 1000 mét, sử dụng thuốc súng không khói, độ chính xác cao, dường như 1 phát giết 1 tên, địch đua nhau ngã. Thấy cách này hữu hiệu, Dương Thu Trì nhân lúc châm nước, nói với Vũ Kỳ và Đô Cường ở phía sau: "Mau! Hai người dẫn đội đến thông tri Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ, giúp họ tạo thành gò cao thế này dùng bắn đơn mà đánh, nhanh lên!"
Hai người vội đáp ứng, chia nhau dẫn đội chạy đi.
Hai chục vạn người đánh đại hỗn chiến, phạm vị đạt mấy km vuông, Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ đầu óc hơi thanh tỉnh, nên phân tán xe ngựa chứa súng máy ở hai đầu chiến trường, các xa hỗn chiến, ở xa không dám bắn loạn.
Vũ Kỳ và Đô Cương mang kỵ binh phân biệt tìm thấy hai người, giúp chất thi thể làm gò cao, bảo họ dùng đơn phát nhắm bắn địch trong đám hỗn loạn. Như vậy, ba cây súng máy trở thành ba súng bắn tỉa, từ ba phương vị ứng vào hình chữ phẩm bắn địch quân trong trận hỗn loạn.
Xe tăng thổ tả có thể chống súng máy của địch quân đã rơi vào hỗn chiến, không thể kéo ra. Bộ chỉ huy của địch tuy còn một bộ phận thiết xa này, nhưng chúng sợ một khi xuất kích, Dương Thu Trì sẽ mượn cơ hội đánh lén, nên chỉ cố thủ. Địch quân toan tính dùng thuẫn bài yểm hộ đến chém họ, nhưng thuẫn bài này không thể ngăn đạn súng máy, còn bản sắt dày hơn thì quá nặng, không thể đưa lên.
Do ba súng máy cứ nhằm kẻ địch đầu sỏ mà bắn, tuy gây sát thương với số lượng có hạn, nhưng vẫn cấp cho địch quân sự ảnh hưởng tâm lý rất lớn, khiến cục thế hỗn chiến dần dần cải biến.
Trường hỗn chiến này nhất mực tiến hành từ giữa trưa đến trời tối. Hai bên đều tử thương hai vạn người. Về phía Ngải năng Kỳ, chủ yếu lượng tổn thất là vì lão sáo đồng và tạc đạn của Dương Thu Trì. Khi vào hỗn chiến thì đại quân của Dương Thu Trì nhanh chóng tử thương. Sau đó, bọn Dương Thu Trì chất thi thể thành gò cao, dùng ba cây súng máy bắn tỉa, từ từ cân bằng tổn thất, cho nên, đánh tới trời tối thì tử thương của hai bên tương đương.
Trời đêm phủ trùm xuống, tối đen như mực, đưa tay ra trước mặt không thấy ngón tay, không nhận rõ đối diện là địch hay bạn, cho nên không cách nào tác chiến.
Hai bên đều khua chiêng thu binh, tướng sĩ đều không dám xuất chiêu loạn, chia nhau kéo vũ khí nặng trở về sau, thoát ly chiến trường.
Tổn thất hai vạn người, tuy gần bằng địch quân, nhưng khiến Dương Thu Trì ủ rũ vô cùng. Điều này chứng tỏ một vấn đề đã từng được Mao Trạch Đông chỉ rõ: "Vũ khí là yếu tố trọng yếu trong chiến tranh, nhưng không phải là yếu tố quyết định. Yếu tố quyết định đó là người, không phải vật."
Dương Thu Trì hiện giờ coi như đã hiểu điểm này. Đây mới chỉ là tác chiến ở bình nguyên, chưa vào vùng đồi núi. Nếu vào vùng đó, e rằng còn phiền phức hơn.
Đại quân lui về hậu phương hạ trại, trong lòng hắn rất buồn, mang du kích tướng quân Long Bỉnh và A Hạnh Ny, Liễu Nhược Băng cùng mọi người đi thăm tướng sĩ thụ thương xong, kiểm tra trang bị hao tổn, thấy còn 5 vạn viên đạn, thuốc nổ và pháo đạn còn khá nhiều, hơn 1000 phát.
Trở về quân trướng, hắn lập tức triệu tập các thám tướng và thiên tổng đoàn trưởng của kỵ binh mở cuộc họp.
Dương Thu Trì sau khi chiếm An Khánh, khoách quân 10 vạn, biên thành 12 sư đoàn. Sau trận chiến này tổn thất hết gần hai phần mười, ba tham tướng (sư trưởng) chiến tử, do đó, ba phó tham tướng đến thay.
Sau khi đến đại doanh ngồi, Dương Thu Trì nói: "Trận này tuy chưa ai chiếm tiện nghi, nhưng nói thật ta rất thất vọng, mọi người nói coi, trận kế nên đánh thế nào?"
Tình tự của mọi người đều không vui, nhất thời không ai nói gì.
Vũ Kỳ phát ngôn trước: "Mới đầu đánh rất thuận lợi, nhưng mấy trăm cái thiết luân xa của địch xuất trận thì chúng ta phiền phức ngay. Còn nữa, địch quân có thuẫn bài bằng sát, nếu ép hai cái làm thuẫn bài đôi thì chẳng thể bắn thủng, muốn khắc địch chế thắng phải giải quyết hai vấn đề này trước."
Pháo binh tham tướng nói: 'Đúng a, dùng thiết đạn đánh Thiết luân xa không sai, nếu có thể phóng gần hơn thì đánh càng chuẩn, đảm bảo 1 phát 1 cái, nhưng sau đó phải giải quyết địch quân thừa thế xông tới."
Long Bỉnh dù sao cũng có kinh nghiệm tác chiến phong phú, lắc đầu nói: "Địch quân không phải ngốc, sẽ cải tiến chiến pháp đối địch với ta. Tên Ngải Năng Tề này giảo hoạt phi thường, giỏi về động não, cho nên, lần chiến kế, phương pháp tác chiến của địch sẽ có điều chỉnh tương ứng."
Đây là điều Dương Thu Trì quan tâm nhất, hỏi: "Nếu như ngươi là thủ lĩnh địch quân, nên điều chỉnh chiến lược đối phó quân ta thế nào?"
Long Bỉnh không cần khiêm tốn, đáp: "Trước hết, điều chỉnh Thiết luân xa từ nóc ngang thành nóc tam giác, mắt trước ngang thành hơi nghiêng, có thể dội thiết đạn ra, như vậy, cho dù có áp gần mấy xích nữa, thiết đạn cũng không cách gì đánh hư thiết xa!"
Pháo binh tham tướng Trịnh Hạo Đốn lập tức biến sắc.
Dương Thu Trì cũng chấn động, gật đầu hỏi: "Còn nữa không?"
"Thuẫn bài đơn của địch có bản thép quá mỏng, không chống được đạn, hơn nữa diện tích quá lớn, cho nên, bước tiếp theo xem ra sẽ bảo trì sức nặng nhưng làm dày lớp sắt, rút bớt diện tích. Như vậy vừa dễ di động, vừa có thể chế tạo thành hình tam giác, có thể hất đạn ra, lại tiện dựng trên đất, hai thuận bài áp vào nhau sẽ thành một tường phòng hộ cao bằng đầu người. Còn có thể làm cho bốn góc khuyết, khi ghép lại có lổ để bắn hỏa súng và tên nỏ ra bên ngoài.
Lời này khiến mọi người đưa mắt nhìn nhau, đều cảm thấy phiền phức đến rồi.
A Hạnh Ny bĩu môi nói: "Cải biến nhiều thứ như vậy 10 ngày nửa tháng cũng chưa xong a."
"Không sai!" Long Bỉnh nói, "Ngải Năng Kỳ phát hiện quân đội của hắn không xơi nổi chúng ta, e rằng sẽ không chủ động tiến công trong mấy ngày tới, nhất định sẽ cải tiến và chế tạo trạng bị phòng ngự vũ khí của ta chờ viện binh từ Trường Sa và Hành Dương tới rồi mới đánh."
A Hạnh Ny nói: "Nhưng chúng ta không thể chờ, không thể để địch quân chuẩn bị xong rồi mới đánh. Hơn nữa theo ta thấy không phức tạp vậy đâu, lần này chúng ta chịu thiệt là không thể sử dụng khai hoa tạc đạn của Thu Trì ca, mấy nghìn tạc đạn đó đánh tới, đảm bảo địch quân sẽ chạy loạn."
Một tham tướng khác nói: "Địch quân nếu phân tán binh lực, dùng cách nằm bò ẩn né, thì tạc đạn có tác dụng không lớn."
Long Bỉnh chen lời: "Địch quân phân tán binh lực thì hay quá, chúng ta sẽ cắt ngang lưng chúng, dùng ưu thế binh lực tiêu diệt 1 bộ phận chúng, rồi quay đầu diệt phần còn lại!"
Một tham tướng khác nói: "Phân nửa địch còn lại không ngu, sao không đến cứu viện chứ?"
Hai người bắt đầu tranh cãi, mọi người cũng mỗi người một lời chen vào. Bọn họ tranh đến náo nhiệt, nhưng đã khiến Dương Thu Trì nghĩ ra một phương pháp phá địch. Cuối cùng, hắn xua tay bảo mọi người dừng lại, đem kế hoạch tác chiến nói ra, mọi người đua nhau tán đồng, lập tức y kế hành sự.
Sáng hôm sau, đại quân của Dương Thu Trì bày đội xuất phát, bức đến cách đại doanh của Ngải Năng Kỳ 5 nghìn mét thì dừng lại, địch quân không nghênh chiến, dường như muốn kéo dài thời gian.
Dương Thu Trì tiếp tục cho tiến đến 3000 mét, Hồng Di đại pháo có tầm bắn xa nhất, bắt đầu dùng pháo oanh kích địch doanh.
Địch quân cuối cùng xuất chiến, mới đầu là mấy trăm thiết xa.
Dương Thu Trì tự tin vô cùng, đại doanh của địch có thiết bị phòng hộ như hố sụp ngựa, không cho phép đánh mạnh, đành phải quyết chiến chính diện vậy.
Hắn ra lệnh đại quân lùi 2000 mét chờ địch quân bố trận.
Thật nhanh sau đó, trận hình của địch quân đã bố xong, quả nhiên là trường xà trận, hơn nữa đội hình còn tản mát hơn hôm qua, đội hình dài mấy dặm.
Dương Thu Trì lên gò cao mười mét nhìn xuống, dùng viễn vọng kính quan sát thấy địch quân hành động không nằm ngoài dự liệu, muốn dùng đội hình rộng để đối phó tạc đạn của hắn, không khỏi cao hứng. Xe tăng thổ tả và thuẫn bài của địch đã có một số ít cải thành đầu tam giác nhọn, nếu như lúc này không đánh, sau ắt sẽ phiền phức to.
Chiến pháp của địch giống hôm qua, hơi điều chỉnh một chút, đó là mấy trăm thiết xa đi tiên phong, sau là thuẫn bài binh bảo hộ hỏa pháo, hai cánh dùng thuẫn bài thép bảo hộ kỵ binh.
Khi địch quân đến gần 2000 mét, Dương Thu Trì hạ lệnh bắn hồng di đại pháo.
Lần này phát xạ là thứ pháo đạn nổ mạnh, rớt xuống đất là nổ bung ra phủ trùm địch quân trong vòng mấy trăm mét vuông. Cùng lúc đó, Phất Lãng CƠ hỏa pháo và lão sáo đồng kỵ binh cũng Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ với súng máy maxim yểm hộ chủ động xuất kích đến cự li 500 mét dừng lại.
Lúc này, hồng di đại pháo tập trung hỏa lực bắn tạc đạn khiến cho địch quân trong vòng mấy trăm mét chết hơn phân nửa, số còn sống phục dưới đất không dám ngóc đầu dậy. Đại pháo đột nhiên đình chỉ xạ kích, hai kỵ binh đoán cách đó 500 mét nhanh chóng xuất động, đánh thẳng vào trận địa rộng mấy trăm mét vừa oanh tạc xong.
Đám 1600 kỵ binh này đã bị Dương Thu Trì tối qua mắng dạy cho một trận, chủ yếu là bắn loạn phí đạn. Lần này hắn vẫn phát cho mỗi người 20 phát, lệnh là phải đến gần 200 mét mới được bắn (vẫn còn nằm ngoài tầm tên và hỏa súng), và phải ngắm kỹ mới bắn.
Do đó, sau khi pháo hỏa dừng lại, địch quân chưa bị nổ chết hoảng loạn bò dậy, thì kỵ binh cầm lão sáo đồng đã đánh tới, súng nổ người ngã, thuẫn bài phòng mặt này được những không thể phòng mặt kia, nhanh chóng bị họ diệt gọn.
Vùng mấy trăm mét này đã phân trận trường xà ra làm hai, hai đoàn đội kỵ binh chia ra hai bên bắn tràn vào địch ở hai phía.
 
Chương 143: Tổng đốc ba tỉnh
Xe tiến lên theo thế trận hình chữ nhật to, lần này không ngờ chúng đối diện với năm sáu chục phất lãng cơ đại pháo. Khi đó, hai cái bánh xe gỗ vừa khéo trở thành mục tiêu công kính của pháo.
Phất Lãng Cơ đại pháo khai hỏa, bắn đạn sắt đặc ruột, từng chiếc thiết xa bị nằm bẹp tại trận, binh sĩ trong đó chui ra, trở thành mục tiêu bắn quét của Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ.
Đại quân của Dương Thu Trì cách 1000 mét vẫn còn chưa có động tác gì, chờ đợi địch quân hỗn loạn.
Hồng Di Đại Pháo dùng pháo đạn thuốc nổ mạnh oanh kích cắt địch trận thành hai phần, sau đó không bắn loạn, mà tuyển chọn vùng tập trung nhiều người ở bên phải bắn liên tiếp, trong khi bên trái chỉ bắn uy hiếp. Do mỗi phát pháo đạn nổ ra, địch quân đều nằm rạp xuống hết, vừa ngọc đầu dậy lại nghe tiến pháo nổ nữa, nên buộc phải nằm xuống tiếp, nên chúng căn bản không thể xung phong, bị không chế bẹp dí ở vị trí cũ.
Địch quân ở phía phải thì bị pháo hỏa oanh tạc không còn hàng ngũ gì, loạn thành một đoàn. Để tránh hỏa pháo, đội hình của chúng rất tán loạn, khoảng cách tương hổ càng xa hơn, tán loạn khắp nơi trong bình nguyên.
Dương Thu Trì chờ đợi chính là hiệu quả này, phất cờ chỉ huy, trống trận dập dồn, trọng trang thiết kỵ làm tiên phong, đại quân nhanh chóng đánh về mé phải của địch trận, phân cắt bao vây.
Do địch quân đã bị cắt thành hai bộ phận, trận hình bên phải bị đánh tan, nhân số của đại quân Dương Thu Trì còn nhiều hơn địch quân một chút, nên tiến hành bao vi diệt dần từng khóm, khiến chúng cuối cùng tan rã.
Địch quân ở mé trái định tăng viên, nhưng bị hỏa pháo áp chế, đồng thời bị lão sáo đồng kỵ binh chặn mất, xe tăng thổ tả đi trước gần như bị đạn thật tâm Phất lãng cơ bắn gần chính xác đập bẹp dí hết.
Đến giờ thì chiến cuộc đã nghiêng hẳn về một phía. Thấy 3 vạn quân đội ở mé phải bị chia cắt bao vây, hơn nữa bị pháo hỏa oanh kích loạn thành một đoàn, và cho rằng đánh không được, chỉ có thể bị động chịu đánh, nên Ngải Năng Kỳ hạ lệnh thu binh.
Dương Thu Trì không bỏ qua cơ hội này, còn địch quân hoảng loạn triệt thối, thiết xa bị hủy phần lớn, binh sĩ chuyển thân bỏ chạy, thuẫn bài sắt nặng không thể che ở sau lưng, nên bạo lộ dưới miệng súng máy maxim.
Hắn chuyển sang hạ lệnh cho hồng di đại pháo tiến hành bắn sâu vào đội hình địch, còn xe ngựa chứa súng máy của hắn và Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ tiến hành truy kích.
Có câu binh bại như núi đổ, lúc này địch quân đã không còn tổ chức đề kháng nào, trong khi đó bại binh chạy sao nhanh bằng đạn, nên đại bộ phận bộ binh hồn phi phách tán nằm xuống đất đưa thuẫn bài lên che đầu, giơ tay đầu hàng.
Ngải Năng Kỳ thấy đại thế đã mất, vội dẫn hộ vệ quay đầu bỏ chạy về phía bắc.
Trận chiến này, 10 vạn đại quân của Ngải Năng Kỳ chỉ còn mấy nghìn, số bị diệt có đến 3 vạn, 4 vạn bị bắt làm tù binh.
Cùng lúc đó, Dương Thu Trì nhận được tin Lưu Văn Tú điều 6 vạn quân đến tăng viện, chỉ còn một ngày lộ trình, hắn nhân sĩ khí đại tăng, lập tức nghênh đón.
Lưu Văn Tú lưu lại 2 vạn thủ Hành châu, chỉ mang theo 6 vạn, thế mà đụng đầu với 12 vạn đại quân của Dương Thu Trì, cho nên nhanh chóng thua cuộc trước áp lực và ưu thế quân số và vũ khí của hắn. Lưu Văn Tú anh dũng hơn Ngải Năng Kỳ, soái lĩnh quân phản kích, nhưng bị súng máy bắn tan tác, trận này bị đánh tan và diệt sạch toàn quân, ngay Lưu Văn Tú cũng tử trận.
Đại quân của Dương Thu Trì sau khi tiếp thụ hàng binh, binh lực đã tăng lên 14 vạn, nhưng đạn pháo gần như cạn kiệt, nhưng quyết định truy đuổi địch đến cùng, không cho chúng cơ hội thở ra hơi, nên lập tức tiến binh Hành châu.
Đến Hành châu, nhờ ưu thế 14 vạn quân, cộng hàng binh không ngừng kêu gọi thủ quân đầu hàng, tập trung đạn pháo còn lại bắn nát mấy chổ ở tường thành. Tri phủ cầm đầu thủ quân trong thành và không ít võ tướng kinh hoảng, khuyên bộ tướng của Lưu Văn Tú đầu hàng, nhưng những người này cũng có cốt khí, thấy tình cảnh đã không thể vãn hồi, liền cứa cổ tự vẫn. Tri phủ và các quan khác mở cửa thành ra quỳ đầu hàng.
Đại quân Dương Thu Trì không mất giọt máu chiếm được Hành châu, tiếp thụ thêm 2 vạn hàng binh, cùng vô số lương thảo và vũ khí. Để đề phòng hàng binh làm phản, Dương Thu Trì tiến hành chỉnh biên quân đội, đem hàng binh phân về các sư, tạo thành 20 sư đoàn mới, cộng thêm 2 sự đoàn kỵ binh cầm súng lão sáo đồng.
Quế vương, Huệ vương và Phúc vương sau đó đến Hành châu, bắt đầu xây dựng lại vương phủ. Dương Thu Trì sau hai chiến dịch đã hiểu rõ là không thể tiến nhanh, cần phải chuẩn bị sung túc rồi mới quyết chiến, và chuẩn bị chủ yếu là đạn dược, cộng thêm kỹ năng tác chiến của binh sĩ. Hắn học theo cách làm của Ngải Năng Kỳ, cho quân đội tổ thành từng nhóm 10 người huấn luyện.
Sau hai chiến dịch này, đại quân của hắn tổng cộng diệt địch 28 vạn, quân chủ lực của Trương Hiến Trung tổn thất hơn phân nữa, nên ở lại cố thủ Trường Sa không dám hó hé gì.
Tin vui truyền đến kinh thành, khiến Sùng Trinh đế cuối cùng nhìn thấy tia hi vọng le lói cho vương triều mình, nên hạ quyết tâm chuẩn tấu của ba vị vương gia.
Một chiều cuối tháng mười một, trời lạnh như cắt, Dương Thu Trì sau một ngày bận rộn phối chế đạn đạn dược, ăn cơm xong đang ngồi đốt lửa sưởi nói chuyện với Liễu Nhược Băng, tiểu quân chúa và Quách Tuyết Liên ở bên cạnh chơi cửu liên hoàn.
Lúc này, hộ vệ Lưu Dũng chạy vào báo: 'Dương đại nhân, tư lễ giám Lý Phượng Tường Lý công công vừa từ kinh thành tới mang theo thánh chỉ, Quế vương và các vương gia cùng tổng binh đại nhân đã ra đón, mời ngài mau ra tiếp chỉ."
Dương Thu Trì vội vào nội đường thay áo, sau đó ra đại sảnh đã bày sẵn hương án.
Lý Phượng Tượng tuy là thái giám nhưng thân hình khôi ngô, khoảng 40 tuổi, hai tay ôm thánh chỉ đựng trong cái hộp rất tinh xảo, được Quế Vương, hai vị vương gia, tổng binh Khổng Hi Quý đưa vào đại sảnh, đứng ngay giữa nhà.
Quế vương giới thiệu xong, Lý công công mỉm cười nói với Dương Thu Trì: "Dương đại nhân, thỉnh tôn phu nhân và quận chúa ra tiếp chỉ!"
Dương Thu Trì ngẩn người, liền hiểu là hoàng thượng đã phê chuẩn kế thừa tước vị Sở vương, nên định sắc phong một lúc.
Hắn vội chạy vào nội đường, bảo Liễu Nhược Băng và CHu Phượng Đức thay y phục ra tiếp chỉ.
Lý Phượng Tường dùng giọng the thé nói: "Dương Thu Trì, Liễu Nhược Băng, Chu Phượng Đức quỳ tiếp chỉ!"
Trong lịch sử Sùng Trinh đế tuy là vua vong quốc, nhưng vẫn tận lực vãn hồi đại cục của nhà Minh, chỉ là quyết sách bị sai lầm, cộng thêm thiên tai và nhân họa, không thể vãn hồi đại cục, cuối cùng mới tự sát, có thể tạm coi là một nhân tài ưu tú, đáng kính đáng trọng mấy phần. Dương Thu Trì quỳ xuống dập đầu.
Liễu Nhược Băng thấy phu quân quỳ, cũng kéo Chu Phượng Đức quỳ theo. Lý Phượng Tường chia ra đọc thánh chỉ sắc phong cho ba người. Thánh chỉ khen Dương Thu Trì chiến công anh dũng, tuyên bố ân chuẩn thừa kế tước vị Sở vương, phong phu nhân Liễu Nhược Băng làm vương phi, thiếp thất Chu Phượng Đức làm trắc vương phi, ban cho con trai trưởng của hắn họ Chu để nối dòng Sở vương, con trai thứ vẫn là họ Dương.
Những điều trước nằm trong dự liệu của Dương Thu Trì, nhưng chuyện ban họ làm hắn bất ngờ. Sùng Trinh đế biết hắn là nghi tân (con rễ) kế thừa tước vị, nên không cần cải họ, vì như vậy sẽ là hôn nhân cùng 1 họ với Chu Phượng Đức, trái quy củ. Nhưng vì kế thừa hương hỏa Sở vương, ban cho họ Chu cho con cả của hắn làm Sở vương thế tử, sau này kế thừa tước vị của hắn. Các con còn lại của hắn vẫn mang họ Dương, như vậy sẽ không tuyệt hương hỏa của Dương gia.
Sắc phong xong, ba người Dương Thu Trì tạ ơn, tiếp thánh chỉ, đặt lên hương án.
Lý Phượng Tường lại lấy ra một thánh chỉ, là một ủy nhiệm lệnh, phong cho Dương Thu Trì làm "Tổng đốc Hồ Quảng, Giang Tây, Tứ Xuyên, chuyên đề đốc quân vụ, lương hướng kiêm tuần phủ sự, tuyên úy tướng quân." Đơn giản mà nói thì là tổng đốc kiêm tuần phủ 3 tỉnh, lấy hiệu là "Tuyên vũ tướng quân", lĩnh quân tiêu diệt Trương HIến Trung.
Như vậy, quân đội 3 tỉnh từ đây phải nghe lệnh hắn điều khiển, cao hơn tổng binh Khổng Hi Quý nhiều.
Thánh chỉ đồng thời nhậm mệnh Lý Phượng Tường làm giám quân, hiệp trợ Dương Thu Trì tiễu phỉ.
Đọc xong thánh chỉ, Quế vương cùng mọi người đều đến chúc mừng, cả nhà Dương Thu Trì cảm tạ ơn tiến cử của các vị vương gia.
Sau khi náo nhiệt xong, các vị vương gia đi rồi, Lý Phượng Tường ở lại cùng Dương Thu Trì thương lượng quân vụ. Họ xưng với nhau bằng quân chức, Lý Phượng Tường nói: 'Dương tướng quân lĩnh quân thắng trận liên tiếp tại Hồ Quảng, thánh thượng rất vui, nhưng cục thế ở Thiểm Tây rất ngặt, Lý tặc tháng mười đã công phá Đồng quan, đốc sư Tôn Truyền Đình tuẫn quốc, Lý tặc đã chiếm toàn bộ Thiểm Tây, hổ thị đam đam đối với kinh sư, còn tàn quân Trương Hiến Trung có dấu hiệu di chuyển qua Tứ Xuyên. Do đó, thánh thượng hi vọng tướng quân nhanh chóng tiêu diệt Trương tặc, không để hắn chuồn vào rừng rậm Tứ Xuyên, tránh khó khăn sau này. Sau đó, hy vọng Dương tướng quân có thể huy sư lên bắc cần vương."
Dương Thu Trì gật đầu biểu lộ là mình có ý đó, vì Tứ Xuyên là vùng núi cao rừng rậm, rất khó cho vũ khí hiện đại phát huy tác dụng. Gần đây hắn nhất mực khẩn trương chuẩn bị đạn dược, tổng cộng chế 15 vạn viên đạn, 5 nghìn quả pháo. Sau khi chiếm Hành châu, đội công tượng của lão hắc đầu khoách trương thêm, tốc độ chế tạo vũ khí ngày một tăng gia, nên quân hắn đã có thêm 100 cây hồng di đại pháo, Phất Lãng Cơ và 1 nghìn cây lão sáo đồng. Nhờ thế, hắn cho tăng biên thêm một kỵ binh đoàn 1000 người cầm súng.
Quân đội của Tả Lương Ngọc ở Hồ Quảng bị Trương Hiến Trung đánh bại, binh lực ở Giang Tây, Tứ Xuyên đều tiêu hao phần lớn, không còn quân để điều, cho nên về danh nghĩ Dương Thu Trì là chỉ huy tối cao quân sự ở 3 tỉnh, nhưng ngoại trừ một phần quân ở phía bắc Vũ Xương và tàn binh bại tướng của Tả Lương Ngọc, hắn không còn bao nhiêu binh có thể điều.
Hai người thương nghị xong, quyết định lập tức xuất quân tiến công Trương Hiến Trung ở Trường Sa, đồng thời mệnh lệnh tàn binh của Tả Lương Ngọc kéo nhanh về Thường Đức bố phòng, đề phòng Trương Hiến Trung chạy vào Xuyên.
Hôm sau, họ tiến hành đại hội thệ sư, xuất quân đánh Trường Sa. Đây là vùng đất phong của Phúc vương, nên ông ta mừng rỡ vô cùng. Đại quân nhanh chóng chiếm lại các châu huyện đã lọt vào tay Trương Hiến Trung, đến đầu tháng 12 thì tới Trường Sa.
Trương Hiến Trung còn 11 vạn quân ở Trường Sa, trong khi đó Dương Thu Trì hiện giờ đã có 17 vạn sau khi chiêu binh thêm 3 vạn. Hắn phân binh thành 22 sư đoàn, 5 đoàn độc lập gồm 3 sư đoàn kỵ binh cầm lão sáo đồng và 2 sư đoàn pháo binh. Dĩ nhiên, chiến y viện tùy quân là điều cần phải có, bao gồm mấy trăm lang trung và hộ sĩ.
Đại binh đến dưới thành Trường Sa, gặp ngay cơn lạnh dữ dội, quân binh rét cóng, bệnh không ít, Dương Thu Trì quyết định đánh nhanh thắng nhanh, tiến công thật mạnh.
Không ngờ, khi 100 cây hồng di đại pháo chuẩn bị phát xạ hủy tường thành, Dương Thu Trì trên đài chỉ huy ra lệnh ngừng bắn, vì thông qua kính viễn vọng, hắn nhìn thấy 2 nữ tử trẻ tuổi bị trói trên thành, áo trắng phiêu phất, thần tình thê lương, đó là Trầm Tuyết Phỉ và nha hoàn Tiểu Nhị!
Dương Thu Trì vội xuống đài chỉ huy, mang theo Liễu Nhược Băng do Vũ Kỳ mang sư đoàn kỵ binh cầm lão sáo đồng đến gần thành xem xét.
Họ đến cách thành 300 mét cách xa tầm bắn thì dừng lại, vì thấy pháo khẩu trên thành không quay về phía họ, không sợ bị đánh lén. Trên thành lâu, một hán tử đầy râu lớn tiếng hỏi: "Dương huynh đệ, lâu rồi không gặp!"
Dương Thu Trì định thần nhìn, thì ra là anh ruột của Trầm Tuyết Phỉ, đại tướng Trầm Lỗi của Trương Hiến Trung. Hắn cũng lớn tiếng đáp: "Họ Trầm kia, Tuyết Phỉ là em gái ngươi, Tiểu Nhị và Tuyết Phỉ tình đồng thủ túc, ngươi vì ngăn trở đại quân ta, lại dùng 2 nữ lưu làm lá chắn, ngươi còn tim gan không vậy?"
Trầm Lỗi cười ha hả: "Dương huynh đệ nói lời này không phải rồi, Tuyết Phỉ là xá muội, nghe nói ân nhân đến liền khóc đòi lên thành lâu xem, ta không tiện ngăn, và ngươi cũng biết đó, ta thương xá muội nhất. Còn về Tiểu Nhị, nếu như là nha đầu nhà ta, đương nhiên ta muốn xử trí sao cũng được. Nó tích cách quật cường, muốn cùng tiểu thư lên thành lâu, cho nên ngu huynh tức giận trói lại..."
Nói đến đây, Trầm Lỗi chợt nhớ đến chuyện gì đó, vỗ đầu nói: "Đúng rồi, ngu huynh nhớ rồi, Tiểu Nhị dường như là thiếp thất của Dương huynh đệ, nhưng dường như huynh đệ đá nó ra khỏi nhà rồi, nên không cần đau lòng. Hắc hắc, Dương huynh đệ lĩnh quân lớn quá, ngu huynh tận tình địa chủ vậy, thỉnh tiến vào thành đến phủ của ta, chúng ta hâm rượu để xá muội làm thơ ca hát, Tiểu Nhị khiêu vũ trợ hứng, ý Dương huynh đệ thế nào?"
Dương Thu Trì tím mặt, phun một ngụm nước bọt, giơ roi ngựa chỉ: "Ta cảnh cáo ngươi, ngươi dám động cọng lông của họ, ta chém ngươi vạn đoạn!"
Trầm Lỗi trịnh trọng: "Cọp dữ không ăn thịt con, huống chi ngu huynh là người lương thiện. Dương huynh đệ nói không đúng rồi, lời này ngu huynh nên nói mới đúng. Dương huynh đệ, xin thỉnh giơ tay đánh khẽ, tha cho tính mệnh của chủ tớ xá muội đi!"
 
Chương 144: Tiểu thiếp thứ hai
Đối diện với con người mặt dày thế này, Dương Thu Trì đúng là khóc cười không được.
Tiểu Nhị đã nhìn thấy bóng Dương Thu Trì, cố sức hét: "Lão gia...! Đừng quản Tiểu Nhị! Người cứ đánh đi!"
Trầm Tuyết Phỉ không nói gì, thần tình thê lương ngơ ngẩn nhìn hắn.
Trầm Lỗi cười lạnh, thở dài nói: "Đúng a, Dương huynh đệ, ngươi tuy vô tình, Tiểu Nhị còn có nghĩa khí, dù gì nó cũng nói rồi, sinh tử gì đều là người của Dương gia, nó là một tiểu thiếp, muốn giết muốn chém gì chẳng phải là 1 lời của Dương huynh đệ sao? Bắn pháo đi, Tiểu Nhị sẽ được vĩnh sinh trong tiếng pháo của người. Hắc hắc..."
Dương Thu Trì không hề lý gì đến hắn, nhìn Trầm Tuyết Phỉ và Tiểu Nhị, lòng loạn như ma, hét: "Tuyết Phỉ, Tiểu Nhị, các nàng yên tâm, ta sẽ không để hắn làm hại các nàng!"
Trầm Lỗi cười mà như không cười: "Dương huynh đệ, ta biết đệ muội võ công cao cường, do đó, ngu huynh đã chuẩn bị sẵn rồi, nếu như huynh đệ phái người lẻn vào thành cướp người, ta chỉ còn biết giết xá muội và Tiểu Nhị, đây là biện pháp khi không còn biện pháp nào. Ngươi là người quá háo sắc yếu mềm, ngu huynh cấp tiểu quận chúa cho, ngươi có vợ như hoa như ngọc rồi còn chưa đủ, nếu như ngươi cưới hỏi xá muội đàng hoàng thì thôi đi, đằng này còn len lén cướp đi, rơi vào tay ngươi e rằng trinh tiết khó giữ. Cho nên giết quách cho xong, ta vì xá muội mà nghĩ, mong Dương huynh đệ thông cảm."
Dương Thu Trì lạnh lùng: "Được rồi, đừng mèo khóc chuột chết nữa, họ Trầm kia, có điều kiện gì nói ra đi!"
'Được! Người nhanh nói lẹ, ngu huynh phụng mệnh đại vương khuyên ngươi, nếu như ngươi đầu đại vương, đại vương sẽ coi như huynh đệ, phong làm thiên tuế, sau cộng hưởng giang sơn!"
Dương Thu Trì hừ lạnh: "Nếu đại vương ngươi có thành ý, sao không tự lộ diện khuyên ta?"
"Hắc hắc, chúng ta biết ngươi có loại vũ khí quái thú lợi hại, nên khuyên đại vương trước khi huynh đệ về đầu cần phải cẩn thận, xin chớ trach! Đại vương nói sẽ tự thân thiết yến bồi tội."
Dương Thu Trì cười nhẹ: "Còn có ưu huệ gì nữa, nói ra luôn đi."
"Có a, hà hà, Dương huynh đệ, ngươi biết không, ngươi đi rồi xá muội rầu rĩ, ngu huynh bíêt lòng nó đã giao cho huynh đệ rồi, cho nên chỉ cần ngươi về đầu đại vương, ngu huynh sẽ đem nó cho ngươi làm thiếp, thế nào?"
Trầm Tuyết Phỉ nghe anh nói vậy lập tức sắc mặt tái ngắt, nhìn Dương Thu Trì dưới thành, chợt cắn răng nhào ra khỏi thành lâu định tự vẫn. Trầm Lỗi đã sớm liệu tới điều này, túm nàng ngay lại, Trầm Tuyết Phỉ phản thủ đánh vào ngực y, nhưng Trầm Lỗi không tránh né, chịu một chưởng, thuận thế chọc vào eo nàng, khiến Trầm Tuyết Phỉ mềm nhũn ra. Trầm Tuyết Phỉ tuy có võ, nhưng Trầm Lỗi là vũ trạng nguyên, giỏi xạ kỵ, tâm tư lại chẩn mật, biết em gái không nỡ hạ độc thủ với mình, nên mới đắc thủ.
Trầm Tuyết Phỉ khóc nói: "Ca ca, hãy để cho muội muội chết đi..."
Trầm Tuyết Phỉ từ khi gặp Dương Thu Trì, đàm luận thơ văn, lại dựa vào hắn, đã từng tiếp xúc thịt da, nên tuy không nói, lòng đã thuộc về hắn rồi. Thật không ngờ ca ca và người thương đã thành thế bất lưỡng lập, chẳng còn hi vọng gả cho Dương Thu Trì. Không ngờ gần đây Dương Thu Trì nhanh chóng xây dựng quân đội tiêu diệt quân của phía ca ca, hiện giờ binh đến dưới thành, ca ca nàng tự thân nói sẽ gả nàng cho hắn, nhưng nàng biết vì Liễu Nhược Băng, Dương Thu Trì quyết không cưới nàng, nàng vừa thương tâm vừa cả thẹn, không còn muốn sống nữa, càng không muốn vì mình mà Dương Thu Trì khó xử, nên mới tự vẫn.
Trầm Lỗi sau khi ngăn được nàng, cố nén khí huyết nhộn nhạo trong ngực, cười nói: "Muội muội, chớ lo, ca biết lòng của muội, ca rất hi vọng có em rễ thế này. Chuyện này cứ giao cho ca, muội đừng làm chuyện ngốc nữa, nếu không sẽ không phải với cha mẹ dưới suối vàng."
Trầm Lỗi dùng phụ mẫu làm chiêu bài, Trầm Tuyết Phỉ rúng động cả người, khóc ròng.
Vừa rồi Dương Thu Trì cũng rúng động cả người. Trầm Tuyết Phỉ tuy sắc đẹp kém hơn Liễu Nhược Băng, nhưng tài mạo song toàn, Dương Thu Trì cũng hơi thích, nhưng vì sự hoài niệm Liễu Nhược Băng ngăn cản tình cảm của hắn. Bây giờ khi thấy nàng định nhảy xuống thành định ngăn Trầm Lỗi dùng nàng làm công cụ gây sức ép cho hắn, lại từ Trầm Lỗi lần nữa khẳng định tình cảm của nàng, hắn rất cảm động, lớn tiếng nói giữa trời đầy tuyết: "Tuyết Phỉ! Tiểu Nhị! Đừng làm chuyện ngốc! Ta sẽ đến cứu các nàng!"
Hắn biết ở lại cũng vô ích, liền quay đầu ngựa cùng mọi người bỏ đi, về thương lượng đối sách. Trầm Lỗi cao thanh nói với theo: "Dương huynh đệ, ngu huynh khiến nghị huynh đệ suy nghĩ kỹ! Xá muội và Tiểu Nhị sẽ được ngu huynh chăm sóc kỹ, yên tâm đi!"
....
Tối đến, Dương Thu Trì ngồi trong trướng ở trung quân suy nghĩ. Liễu Nhược Băng vén rèm bước vào, đến cạnh Dương Thu Trì điều chỉnh y sam cho hắn: "Phu quân, thiếp hiện giờ vào thành cứu Tiểu Nhị ra."
Dương Thu Trì vừa mừng vừa lo: "Băng nhi, cái này...?"
Liễu Nhược Băng đáp: "Tiểu Nhị cô nương và phu quân có hôn ước, lúc trước phu quân vì Nhược Băng mà cố chấp không nạp Tiểu Nhị, nhưng em nó trung trinh một lòng, thà làm ni cô hoặc ở vậy cả đời, tuyệt không cải giá. Băng nhi rất quý. Lần này, em nó bị trói ở thành lâu, vì phu quân mà chẳng màng sống chết, do đó Băng nhi quyết cứu em nó ra, xong hi vọng phu quân sẽ thu em nó nhập phòng."
"Cái gì?" Dương Thu Trì nóng mặt nghẹn lời, "Cái này... không được đâu, nàng trước đã cho ta nạp tiểu quận chúa làm thiếp rồi, hiện giờ còn nạp Tiểu Nhị nữa sao được, rồi sau này rủi còn nữ nhân khác vì hoàn cảnh này nọ nàng cũng cho nạp, vậy sao phải với lời hẹn ước của chúng ta?"
Liễu Nhược Băng phì cười, lừ mắt: "Nạp nàng nào nữa hả? Chỉ có nàng này thôi, không có nữa đâu! Hai nàng đó là trước khi chúng ta thành hôn đã có hôn ước với chàng rồi, chàng đã nạp mà không nhận là không phải đạo, làm hỏng băng thanh ngọc khiết của cô nương người ta, sau này người ta sống sao được? Làm người phải có lương tâm!"
Dương Thu Trì trừng mắt, khóc cười đều không được: "Ta mà không có lương tâm? Ta mà không có thì đã sớm cưới bảy tám nàng rồi, vì có mới ở vậy chờ Băng nhi của ta nè!"
Liễu Nhược Băng cười ngọt ngào, ôm cổ hắn tặng một nụ hôn, đôi mắt phượng mỹ lệ nháy nháy: "Phu quân vì Băng nhi, Băng nhi vui lắm. Nhưng Tiểu Nhị cô nương phải được cứu, cứu ra rồi phu quân phải thu nhập phòng, sau này không có ai nữa nha, hạ bất vi lệ! Dù sau này có gặp thiên tiên, muốn nạp về Băng nhi cũng không cho phép đâu, rõ chưa?"
Dương Thu Trì nghĩ tới ánh mắt tuyệt vọng của Tiểu Nhị, lòng đau xót vô cùng, liền thở dài: "Thôi vậy, hạ bất vị lệ!"
"Ừ...! quyết định vậy nha!" Liễu Nhược Băng lại tặng cho hắn nụ hôn.
Dương Thu Trì cười khổ, ngẫm nghĩ một chút, hỏi lại: "Còn Tuyết Phỉ thì sao, có cứu không?"
"Không cứu! Đồng thời cứu hai người độ khó quá cao, hơn nữa nàng ta là em gái của Trầm Lỗi, Trầm Lỗi chẳng qua là lấy dọa huynh thôi, cuối cùng nhất định sẽ không để nàng ta làm bia đỡ tên đâu."
"Tuy nói vậy nhưng Trầm Lỗi này âm hiểm lắm, vì quyền thế cái gì cũng làm, không loại trừ hắn dùng Trầm Tuyết Phỉ ngăn đòn tiến công của chúng ta đâu."
Liễu Nhược Băng nhìn sâu vào mắt hắn, âm u nói: "Nếu như phu quân đã lo cho nàng ấy, e không cứu thì chàng không hạ lệnh nã pháo! Được, Băng nhi sẽ cứu luôn!"
Dương Thu Trì mừng rỡ hôn lên môi nàng: "Ta biết mà, Băng nhi là cô nương thiện lương nhất thế gian!"
"Thôi đi đừng có hòng, cứu nàng ta ra chứ không được có ý khác đâu đó!"
"Ý khác gì? Ta có nàng rồi, lại có tiểu quận chúa và Tiểu Nhị, mà hai người đó đều do nàng nhét cho ta, ý khác gì nữa chứ! Ôm mình Băng nhi của ta ngủ không đã quá đủ rồi!" Nói xong hắn thò tay ôm vòng eo thon của nàng thật, thậm chí còn thò tay do thám lung tung.
Liễu Nhược Băng đỏ mặt, gạt tay hắn ra: "Đây là đại trướng trung quân, đường đường là Sở vương gia, Tuyên Uy đại tướng quân mà tay chân không sạch sẽ gì?"
"Hắc hắc, ta sợ lão bà ta, liên quan gì chúng!"
"Được rồi, thiếp đi cứu sủng phi của chàng đây!"
"Sủng phi?" Dương Thu Trì lát sau mới phản ứng được, cười khan nói: "Đêm nay hay là đừng đi, Trầm Lỗi nhất định có âm mưu!"
Liễu Nhược Băng nghề cao gan lớn: "Chẳng sao đâu, hơn nữa, đại quân chúng ta ở tuyết lạnh, thêm 1 ngày là khổ 1 ngày, cần phải tốc chiến tốc quyết, nhanh chóng cứu họ ra."
"Cái này cũng phải," Dương Thu Trì gật đầu, "Vậy ta cùng đi với nàng!"
"Không được! Chàng là chủ soái, phải tọa trấn trung quân, sao có thể mạo hiểm!"
"Nhưng nàng là chủ soái của ta, nàng đơn độc mạo hiểm, ta không yên tâm! Nếu không cho ta đi, vậy khỏi cứu luôn!"
Liễu Nhược Băng cười khúc khích: "Chàng sợ thiếp không cứu Trầm cô nương?"
"Nói bậy!" Dương Thu Trì vuốt mũi nàng, "Ta lo cho Băng nhi của ta, ta theo nàng để chiếu ứng. Nàng dạy ta kỹ thuật phi tác, ta đã luyện được vài thành hỏa hầu rồi! Lần trước ở Kiềm Dương hai ta cùng đi đốt địa lôi phóng hỏa mà, không nhớ sao?"
Liễu Nhược Băng lè lưỡi: "Mồm mép chưa kìa! Được, nói không lại chàng, mau thay y phục, chúng ta đi!"
Dương Thu Trì mừng rỡ, vội gọi giám quân Lý Phượng Tường, phó tướng A Hạnh Ny và Long Bỉnh vào tạm giao binh quyền, chuẩn bị công tác phòng ngự rồi mới thay đồ trắng bên ngoài đồ dạ hành.
Dương Thu Trì lấy cây súng ngắn 77 cùng vài băng đạn mới chế ra cắm vào bắp chân, mang bao tay đao thương bất nhập vào, cùng Liễu Nhược Băng tiếp cận Trường Sa thành.
.....
Thư phòng. Nội nha đô ti. Trầm Lỗi đang ung dung xem một quyển sách, có vẻ chăm chú vô cùng. Đối diện hắn là Trầm Tuyết Phỉ mặt đầy vẻ ưu sầu, sau nàng là nha hoàn tiểu nhị. Bên cửa sổ có một nữ tử trẻ tuổi, thân mặc áo hồng, đang ngắm tuyết ngoài cửa sổ đến xuất thần. Trong phòng im phăng phắt.
Đúng lúc đó, nữ tử ở cửa sổ chợt lên tiếng: "Quý khách ngoài cửa, trời lạnh thế không sợ gió hay sao? Nếu đã đến rồi sao không lộ diện, hay là sợ ta?"
Cửa phòng mở đánh két, hai người chậm bước tiếng vào, rủ sạch tuyết trên người, thì ra là Liễu Nhược Băng và Dương Thu Trì. Tiểu Nhị vừa kinh vừa mừng, run giọng nói: "Lão gia! Phu quân! Nơi này nguy hiểm, mau đi đi, đừng lo cho chúng em!"
Trầm Tuyết Phỉ nhìn Dương Thu Trì, mừng rỡ và lo sợ xen nhau, nhưng cắn răng không nói gì.
Dương Thu Trì lắc lắc cây súng trong tay, gật đầu với Tiểu Nhị, cười nói: "Đừng lo, chúng ta không có gan thì không lên núi bắt cọp đâu."
"Quả nhiên có bản lãnh!" Nữ tử bên cửa quay đầu than: "Bốn phía trong thư phòng, bao quát cả đỉnh phòng đều bố trí mấy chục cao thủ nhất lưu, thế mà bị các người lẻn vào được!"
Trầm Lỗi ung dung bỏ sách xuống, đứng dậy khoang tay: "Đối diện với Dương phu nhân cao thủ đệ nhất thế này, những kẻ khác chỉ là trẻ con thôi."
"Nữ tử bên cửa cười nhẹ: "Đệ nhất cao thủ? Hừ! Tự khoác lác mà cũng không biết nhục!"
Liễu Nhược Băng cười điềm đạm: "Ngải cô nương, lâu rồi không gặp!"
 
Chương 145: Mưu sâu kế độc (1)
Dương Thu Trì nghe lời cả kinh, chẳng lẽ nữ tử này chính là kẻ địch tử đối đầu với Liễu Nhược Băng - Ngải Miêu Miêu? Súng của hắn lập tức chỉa về phía nữ tử, chẳng trách Liễu Nhược Băng vừa rồi không động thủ, cũng không cho hắn nói, nhưng cuối cùng vẫn bị Ngải Miêu Miêu phát hiện.
Nữ tử bên cửa quay đầu lại, nhoẽn miệng cười: "Nhờ phúc của cô nương, vẫn còn chưa chết. Liễu cô nương lấu Sở vương tân nhiệm, có đại quân hộ thân, ta định đến thăm mà không tiện. Đêm nay đoán cô nương sẽ đến nên ở đây chờ, chúng ta nên kết thúc hẹn ước trước kia thôi."
Nữ tử này quả nhiên là Ngải Miêu Miêu! Ả mặt như trăng rằm, mày tham tú, hàm răng chỉnh tề, vô cùng vũ mị, tuy không đẹp bằng Liễu Nhược Băng, nhưng cũng là đóa mẫu đơn kiều diễm.
Nhưng Dương Thu Trì lúc này không còn lòng nào thưởng thức mỹ nữ. Võ công của nữ tử này tương đương Liễu Nhược Băng, cần cẩn thận lắm mới được. Tay hắn hơi lạnh, tướm mồ hôi. Liễu Nhược Băng nói: "Ngải cô nương quả là biết chọn thời cơ, xem ra cô và phản tặc là đồng bọn?"
Ngải Miêu Miêu nhếch miệng, tựa hồ khinh miệt: "Ta tin là bọn binh tôm tướng cá bên ngoài chẳng làm gì được cô nương, cho nên chúng ta đối quyết ở đây cũng vậy." Xong ả nhìn qua Dương Thu Trì: "Bên cạnh ắt là Dương tướng quân, món trong tay chắc là con của vũ khí quái thú chứ gì?"
Không nghe ai xưng hô với súng như vậy bao giờ, Dương Thu Trì buột miệng phì cười: 'Cái này là súng ngắn! Cô có cái nhìn không tệ, tuy võ công cô cao, nhưng súng của ta chỉa vào cô, khuyên cô đừng có loạn động, nếu không cô không nhanh bằng nó đâu!" Xong hắn quay sang Trầm Lỗi: "Họ Trầm kia, lời này cũng nói với ngươi đó."
Trầm Lỗi nhún vai, ra vẻ chẳng coi ra gì, ngồi trở lại bàn.
Ngải Miêu Miêu nhìn Dương Thu Trì kỹ lại, tủm tỉm cười: 'Đã nghe kể lâu rồi, nhưng đêm nay ta và nương tử của ngươi hẹn sống chết, không chết không ngừng, coi chiêu!" Nói xong phóng chưởng đánh về phía Liễu Nhược Băng.
Dương Thu Trì đã đáp ứng Liễu Nhược Băng không nhúng tay vào, nên chỉ chú ý động tĩnh của Trầm Lỗi. Hai người trao đổi chiêu nhanh như thiểm điện, chớp mắt đã hơn 300 chiêu! Ngải Miêu Miêu quả nhiên võ công cao tuyệt, dường như không nhìn ra chênh lệch với Liễu Nhược Băng bao nhiêu, khiến Dương Thu Trì vô cùng lo lắng.
Đánh thêm chút nữa, chợt phình một cái, hai người đều lùi ra, Ngải Miêu Miêu hơi run người, hậm hực nhìn Liễu Nhược Băng. Liễu Nhược Băng thì cười điềm đạm: "Cảm ơn đã nhường! Ngải cô nương, võ công cô tiến bộ không ít, chỉ là vẫn chưa thắng được ta!"
Ngải Miêu Miêu nhoẻn miệng cười: "Vô công của nàng cũng tiến triển không cao như ta dự liệu, lần này chúng ta đấu 387 chiêu ta mới thua, xem ra là Dương tướng quân loạn tu vi của ngươi rồi, hi hi."
Liễu Nhược Băng liếc nhìn Dương Thu Trì, nàng biết nếu không phải hắn cứ ôm nàng này nọ, để nàng tiềm tâm luyện võ, thì không cần 300 chiêu đã thắng Ngải Miêu Miêu. Nhưng mà điều này nàng cam tâm tình nguyện, cười đáp lại: "Không cần quản, còn đấu nữa không?"
Ngải Miêu Miêu nhướn mày, mắt phượng bắn tinh quang: "Liễu cô nương, hai chúng ta không phải bỉ võ, mà là tử đấu, không chết không ngừng!" Nói xong đánh ra, Liễu Nhược Băng không đáp, ngưng thần tiếp chiêu.
Hai người đã phân thắng phụ, Dương Thu Trì vốn định bắn chết Ngải Miêu Miêu, nhưng lo súng nổ sẽ dẫn địch tới, trong lúc do dự thì hai người đã đấu sát vào nhau.
Liễu Nhược Băng càng đấu càng nhẹ nhàng: "Ngải cô nương, cô không phải là đối thủ của ta, hãy bó tay đi, hay là đổi ngày khác cũng được!"
"Tuy không là đối thủ, nhưng muốn làm ta bị thương cũng khó!"
Hai người chiêu qua chiêu lại nhanh như thiểm điện, đang đấu khẩn trương thì ngoài phòng tiếng ầm ầm cất lên, cả phòng dao động, nhưng không nghe tiếng nổ. Dương Thu Trì lia mắt nhìn, thấy ngoài cửa sổ có vách sắt nhanh chóng hạ xuống. Thì ra đây là cái bẫy!
Liễu Nhược Băng phản ứng thần tốc, hô lên cả kinh: "Thu trì mau chạy!" Xong nhanh chóng đánh một chưởng đẩy lùi Ngải Miêu Miêu, quật tay chụp Dương Thu Trì ném ra cửa sổ.
Cao thủ đối quyết, sao có thể phân tâm? Ngải Miêu Miêu dùng đơn thủ gạt chưởng của Liễu Nhược Băng, tay còn lại đánh vào sau lưng nàng!
Liễu Nhược Băng muốn quay người hóa giải thì không cách gì quẳng Dương Thu Trì ra, nếu cứu Dương Thu Trì thì không thể tránh một chưởng trí mệnh này!
Và nàng không chần chờ gì, vận kình ném hắn ra ngoài! Lòng lóe ý nghĩa: ta chết dưới chưởng của Ngải Miêu Miêu rồi.
Dương Thu Trì đã được xem là cao thủ nhất lưu, khi nghe gió chưởng sau lưng Liễu Nhược Băng, biết Ngải Miêu Miêu thừa cơ đánh lén, chẳng nghĩ gì quay người giữa không trung, giơ tay bắn thẳng vào ngực ả!
"Đoành!"
Đầu vai của Ngải Miêu Miêu tóe máu!
Ả nhất mực lưu ý động tác của hắn, nên khi thấy hắn chuyển thân, cái vũ khí như đùi gà nhắm vào mình, biết là không xong, không kịp đánh Liễu Nhược Băng đã cố tránh, nhưng dù tốc độ của ả nhanh cũng không nhanh bằng đạn bắn, nên dù dùng sức toàn thân tránh, chỉ tránh được ngực, đầu vai vẫn bị trúng đạn.
Cùng lúc đó, lưng Dương Thu Trì đập mạnh vào bức tường sắt, dội lại, tường sắt sau đó sụp xuống kín mít.
Nếu như không xoay chuyển trên không trung, cứ thuận theo lực ném của Liễu Nhược Băng bay ra thì hắn đã thoát, nhưng vì động tác đó ảnh hưởng tốc độ, thời gian và góc chếch thân thể, nên hắn không thể.
Tay trái của Ngải Miêu Miêu trúng đạn, đau quá khiến ả phân tâm, bị Liễu Nhược Băng điểm huyệt ở ngực, mềm nhũn ngã nhào.
Liễu Nhược Băng nhảy tới cửa, mở ra xem, thấy đó là tường sắt đen xì, lại kiểm tra qua mặt khác cũng vậy, liền giơ tay đánh thử hai phi tiêu, chỉ nghe cong cong hai tiếng, phi tiêu chỉ cắm hờ lên lớp gỗ mỏng dát bên ngoài. Thì ra phòng này toàn bằng sắt, là cái rương kín mít!
Liễu Nhược Băng lắc người đến cạnh Ngải Miêu Miêu: "Làm sao ra ngoài được? Nói!"
Ngải Miêu Miêu cười tươi: "Đừng nói gì ta không mở được, cho dù có mở được cũng không mở, giết không được ngươi thì cùng ngươi chết, cái đó cũng được chứ, hi hi."
Lời của ả vừa dịu vừa ngọt, rất dễ nghe, nhưng Dương Thu Trì lạnh cả sống lưng, đưa tay xộp cổ Trầm Lỗi ngồi trên ghế, súng kề sát đầu hắn: "Mẹ nó, mau mở tường sắt ra, nếu không lão tử cho đầu ngươi vỡ nát!"
Trầm Lỗi chẳng phản kháng chút nào, cười nói: "Dương huynh đệ, bỏ cái mộng đó đi, phòng sắt này chỉ mở được từ bên ngoài, bên trong mở không ra, hắc hắc."
"Ngươi muốn cùng chết?"
Trầm Lỗi cười cười, từ từ gật đầu.
Dương Thu Trì tức thời trợn mắt ngớ người.
 
Chương 145: Mưu sâu kế độc (2)
Dương Thu Trì quay nhìn Liễu Nhược Băng, rồi nhìn Ngải Miêu Miêu. Đầu vai của Ngải Miêu Miêu ứa máu không ngừng. Ả nhịn đau miễn cưỡng cười nói: "Không cần nhìn ta, hắn nói thật. Bày ra cái bẫy này chính là vì bắt hai vợ chồng ngươi, sao có thể để các ngươi từ trong đây ra chứ?
Dương Thu Trì dằn Trầm Lỗi mạnh xuống ghế, đá vào tường hai cái, chân đau nhói mà tường chẳng nhúc nhích gì. Trầm Lỗi đắc ý cười: "Đừng phí sức nữa, tường này dày nửa xích, nặng mấy nghìn cân, một khi sụp xuống rồi đừng mong gì mở ra."
Dương Thu Trì tức giận hỏi: "Hai ngươi chẳng phải cũng bị nhốt ở đây sao? Chết thì mọi người cùng chết, đắc ý cái gì?"
"Chúng ta vốn không muốn sống, sợ cái gì. Có hai ngươi đi cùng, lời quá rồi."
Lòng Dương Thu Trì trầm hẳn, hai người này lòng dạ ngoan độc như vậy, dám đem thân làm mồi nhử, và nếu không làm như vậy chắc không cách gì cho hắn và Liễu Nhược Băng vào bẫy. Hắn quay nhìn Trầm Tuyết Phỉ và Tiểu Nhị: "Hai người biết cách nào ra không?"
Trầm Tuyết Phỉ lắc đầu. Tiểu Nhị đáp: "Lão gia, chúng em... chúng em không biết có cơ quan này..."
Lúc này thì Liễu Nhược Băng đã kiểm tra hết mọi chỗ, thậm chí dùng đoản đao rọc vách gỗ ra, thấy bên trong là vách sắt không có cái lổ nhỏ nào.
Dương Thu Trì cười khổ: "Băng nhi, thôi vậy, dù gì chúng ta cũng cùng được chết bên nhau."
Liễu Nhược Băng dậm chân: "Đều trách chàng, vừa rồi nếu ra ngoài giết hết chúng chẳng phải mở được cái cửa quỷ này rồi sap?"
Dương Thu Trì cười hi hi: "Ta không đúng, ta có tội, hạ bất vi lệ!" Nói xong câu này quay nhìn Tiểu Nhị.
Liễu Nhược Băng thấy hắn lúc này còn có lòng cười, trừng mắt nhìn hắn. Thực sự thì lòng hắn tuy lo, nhưng cũng yên tâm một phần, vì số đạn mang theo đủ để bắn phá vài lổ nhỏ trên tường, hoặc ít nhất làm nó biến dạng. Như vậy với công lực của Liễu Nhược Băng, hi vọng đánh mở lối thoát thân là có thể. Tuy nhiên, khi chưa làm sáng tỏ mọi chuyện, hắn không muốn dùng đến cách này vội.
Ngải Miêu Miêu chảy máu liên tục, nhưng vẫn miễn cưỡng cười: "Dương tướng quân vì cứu cô mới bỏ qua cơ hội đào tẩu, Liễu cô nương ngươi cũng nghĩ thế mà thôi. Với công lực của cô, ta giữ sao được, nhưng cô lại mạo hiểm tính mạng ném Dương tướng quân ra ngoài, tình nghĩa phu thê của hai người quả là khiến người hâm mộ!"
Liễu Nhược Băng đương nhiên hiểu Dương Thu Trì làm vậy là vì cứu mình. Chút nhu tình mật ý này hiện lên ánh mắt và nụ cười của nàng với hắn. Nàng quay đầu lại hỏi: "Nói đi, các ngươi không tiếc tính mệnh bày ra kế này, ắt không phải là báo cừu suông, mà còn có mục đích khác, đúng không?"
Trầm Lỗi mỉm cười: "Hiền khang lệ quả nhiên thông minh. Ta biết Dương tướng quân còn có tình với xá muội và Tiểu Nhị, và với tình nghĩa của hiền khang lệ, sẽ không đơn độc đến cứu, nên ta thiết kế này đích xác là còn có dụng ý khác, của cả ta và Ngải cô nương."
Dương Thu Trì cười lạnh: "Dụng ý của ngươi chẳng qua là vũ khí quái thú và đạn khai hoa nổ mạnh của ta?"
Trầm Lỗi cười, phảng phất như trúng ý: "Ta biết Dương huynh đệ là người thông minh, không sai chút nào?"
Dương Thu Trì quay đầu nhìn Ngải Miêu Miêu: 'Còn ngươi? Ngoại trừ báo cừu, ngươi còn mục đích gì nữa?'
Đầu vai của Ngải Miêu Miêu bị viên đạn xuyên qua, rất may là không trúng xương, nhưng vết thương phá một lổ lớn ra sau thắm máu ướt cả người. Gương mặt như vầng trăng của ả vì mất máu nhiều quá mà tái ngắt, lúc này dựa hẳn vào tường, nhắm mắt không đáp.
Dương Thu Trì bảo: "Ngươi băng bó lại trước, nếu không nội chuyện máu ra nhiều cũng đủ lấy mạng ngươi rồi!"
Tốc độ máu chảy rất nhanh, Ngải Miêu Miêu bắt đầu choáng. Liễu Nhược Băng nói: 'Phu quân, thiếp giúp băng bó cho." Nhưng cúi đầu nhìn, y phục mặc trên người là sát người, tuy có mặc tiết y nhưng trước mặt Trầm Lỗi không tiện xé ra băng cho ả. Thấy tình cảnh này, Dương Thu Trì bảo: "Để ta!" Xong hừ giọng mũi, vén áo xé một mảng dài, nói với Ngải Miêu Miêu: 'Sợ ngươi luôn! Ta băng cho ngươi đây, chưa chạy khỏi ổ quỷ này, vẫn chưa để ngươi chết được!"
Hắn xé quần áo trên vài nàng, hơi mạnh tay nên lộ phần ngực trên căng tròn trắng trẻo mịn màng, khiến hắn vội chuyển ánh mắt đi, hỏi: "Ê! Tỉnh lại đi, có thuốc kim sang không?"
Ngải Miêu Miêu hé mắt lắc đầu, Liễu Nhược Băng lấy ra hộp phấn nhỏ màu hồng trong ngừời, cúi xuống rẫy vào vết thương, Dương Thu Trì băng lại, máu nhanh chóng ngừng chảy.
Dương Thu Trì cười nói: "Băng nhi, thuốc của nàng linh nghiệm thiệt nha, sau này hay là đừng làm nữ hiệp nữa, mở tiệm thuốc phát tài, hà hà..."
"Giờ này rồi mà còn đùa được!"
Cầm máu xong, thần tình của Ngải Miêu Miêu ổn định lại một chút, từ từ mở mắt, miễn cưỡng cười: "Đa tạ."
Ngải Miêu Miêu tuy là kẻ địch tử đối đầu, nhưng nói năng khá khách khí, Dương Thu Trì kỳ quái, hỏi: "Các ngươi bày ra bẫy này chẳng phải là nhốt phu thê ta, thậm chí còn không tiếc mạng chết cùng, rốt cuộc là muốn làm gì vậy, chẳng lẽ chỉ báo thù thôi?"
Ngải Miêu Miêu đáp: "Vốn là báo cừu, nhưng hiện giờ chúng tôi có hứng thú với hai món bảo bối của tướng quân."
"Các người? Các người là ai?"
"Đại Thanh quốc!"
"Đại thanh?" Dương Thu Trì rúng động, "Cô rốt cuộc là ai?"
"Ái Tân Giác La - Mã Tạp Đát, tên lúc nhỏ Miêu Miêu." Ngải Miêu Miêu lộ nụ cười, hiện hàm răng trắng và hai lúm đồng tiền.
Tên này Dương Thu Trì không quen, nhưng họ Ái Tân Giác La như sấm nổ ngang tai, hỏi dồn: "Hoàng Thái Cực (Chú: tên của Thanh Thái Tông, vua đầu nhà Thanh, trước khi diệt nhà Minh thì chết, nhưng chính sách và nền tảng ông ta đặt ra là cơ sở chiếm và diệt giang sơn nhà Minh. ND) là gì của ngươi?
"Là Hoàng a mã của ta."
"Hoàng... hoàng a mã?" Dương Thu Trì không thích triều Thanh, nên không tìm hiểu tri thức về triều này, nhưng có xem qua vài bộ phim, biết hàm nghĩa của từ Hoàng a mã, "Ngươi là con gái hoàng đế Hậu Kim (Chú: sau khi đánh bại nhà Minh mới đổi hiệu chính thức là Đại Thanh)?"
"Đúng vậy! Không giống sao?" Ngải Miêu Miêu dẫu môi.
Trầm Lỗi ở bên cạnh cũng nói: "Không sai, Ngải cô nương là nhị công chúa của Đại thanh quốc." (Trong lịch sử, Mã Tạp Đát sau này được phong Cố Luân Ôn Trang Trường công chúa vào năm thứ 16 Thuận Trị).
Dương Thu Trì vò đầu, hỏi: "Cô... cô nếu như là công chúa Đại Thanh, chạy rông tới đây làm chi? Lại còn lấy cái họ Ngải của tên gì đó nữa chứ?"
Mã Tạp Đát hiện vẻ thương cảm: "Sư phụ Ngải Đông Hải của ta học thức uyên bác, văn võ toàn tài, được phụ thân ta mời làm tiên sinh, dạy Hán văn cho ta. Người từ nhỏ đối với ta cực tốt, dạy cho ta cả văn lẫn võ, sau đó phụ hoàng phái người nam hạ, chế tạo nội loạn. Khích động cừu gia vây giết sư phụ của Liễu cô nương cũng là vì mục đích này, không ngờ chết dưới tay sư phụ của cô..."
Dương Thu Trì hừ lạnh: "Tên Hán gian này chết cũng đáng... sau đó thì sao?"
Mã Tạp Đát nhắm mắt không đáp.
"Ê! Hỏi cô mà! Sau đó thì sao?"
"Không nói với ngươi nữa?'
"Vì sao?" Dương Thu Trì ngạc nhiên.
"Ai bảo ngươi mắng sư phụ ta!"
"Y đúng là vậy.... Thôi được! Ai có chí nấy, y là công thần của Đại Thanh các người, là sư phụ của cô, ta thu hồi lại câu vừa rồi, được chưa?"
Mã Tạp Đát cười: "Ta biết sư phụ mất về tay sư phụ của Liễu cô nương, liền tìm Liễu cô nương tầm cừu, nhưng võ công cô nương quá cao, ta bị thương bỏ chạy. Ta trở về Liêu Đông, hoàng thúc Đa Nhĩ Cổn (Chú: Em trai cùng cha khác mẹ của Hoàng Thái Cực, mẹ Đa Nhĩ Cổn là ái thiếp của Đại Hãn nhà Hậu Kim, bị Hoàng Thái Cực bắt chôn theo đại hãn, mục đích gạt quyền lực. Đa Nhĩ Cổn tài trí ráng ẩn nhẫn, sau là nhiếp chính vương, vị vua không ngai đời đầu của nhà Thanh cho đến lúc chết. Ndịch) của ta biết chuyện này, tặng cho ta một bản bí tịch, nói khi chinh chiến ở Mông Cổ có được từ tay một vị dị nhân. Người cũng luyện bí tịch này, võ công mới đại tiến. Ta được hoàng thúc chỉ điểm, võ công tiến triển thần tốc."
Liễu Nhược Băng gật đầu: "Thì ra là thế, chả trách lộ số võ công của hai người rất lạ."
Mã Tạp Đát tiếp: "Sau đó ta xuất hải tầm sư, cảm thấy võ công đại tiến mới về Liêu Đông định tìm cô nương, không ngờ phụ hoàng vừa mất..."
Nói tới đây, Mã Tạp Đát nghẹn ngào, lát sau mới tiếp: "Tháng trước hoàng thúc gọi ta đến, đem đầu đuôi câu chuyện kẻ ta nghe. Sau đó người còn cho biết theo tin tình báo, Liễu cô nương đã lấy một điển sứ ở huyện nhỏ ở Hồ Quảng, họ Dương, biết chế vũ khí thần kỳ, đánh cho đại quân của Trương Hiến Trung tơi bời. Hoàng thúc còn nói, nếu như được hai món bảo bối này, đừng nói gì triều Đại Minh, e rằng cả bốn biển đều nhập vào bản đồ Đại Thanh, bảo ta nam hoa tìm Liễu cô nương nghĩ cách lấy được hai món bảo bối này."
Dương Thu Trì thở dài, thì ra là thất phu vô tội, mang ngọc có tội. Hắn hỏi tiếp: "Cô làm sao móc nối với Trương Hiến Trung vậy?"
"Sau khi lão khởi binh vốn đã được Đại Thanh ta ngầm hỗ trợ kim tiền, vật chất, nếu không với chút bản lĩnh của lão, sao làm Đại Minh nghiêng ngã cho được?"
Thì ra là Trương Hiến Trung đã sớm cấu kết với nhà Thanh rồi, đây mới là Hán gian chân chính! Dương Thu Trì mắng thầm, hỏi: "Ta rất muốn biết các người muốn phân phối miếng thịt này thế nào?"
Mã Tạp Đát cười: "Ngươi đem phương pháp chế tạo hai món bảo bối đó cho ta, ta lập tức thả hai người."
"Thả chúng ta?" Dương Thu Trì ngữa cổ cười: "Các ngươi tưởng ta là con nít lên ba hả? Các ngươi nắm biện pháp chế tạo xong rồi đương nhiên là sẽ giết ngay chúng ta, nếu không Đại Thanh các ngươi có, phản tặc có, Đại Minh có, vũ khí chẳng phải là không đáng đồng tiền hay sao?"
Trầm Lỗi nói: "Dương huynh đệ, ta nói sao giữ lời vậy..."
"Giữ cái chó gì, lần trước ta không tránh kịp, đã sớm chết dưới đao ngươi rồi!"
"Làm gì có chuyện đó, Dương huynh đệ hiểu lầm rồi, ta xin thề với trời đất là đảm bảo sẽ thả hai vợ chồng...!"
Dương Thu Trì giơ tay định đấm vào mặt hắn, nhưng nhìn ánh mắt khẩn cầu của Trầm Tuyết Phỉ, bấy giờ mới bỏ tay xuống cười lạnh nói: "Ngươi tưởng nhà Thanh muốn ủng các ngươi thật hay sao? Đó là kế mượn dao giết người, cho các ngươi nhiễu loạn Đại Minh, bọn chúng ngư ông đắc lợi. Ngày Đại Minh bị diệt, thì các ngươi cũng tiêu đời!"
Trầm Lỗi cười bối rối, sao y lại không biết điều này, nhưng chẳng qua là hỗ tương lợi dụng, mượn thời cơ khoách đại thế lực mà thôi, sau này hươu chết về tay ai còn chưa biết, "Đại tây quân và Đại Thanh quốc tình như tay chân, Dương huynh đệ không cần phí tâm ly gián làm gì, nói chuyện trước mắt đi."
 
Chương 146: Bọ ngựa và chim sẻ (1)
Dương Thu Trì hỏi: "Trước mắt thế nào?"
Trầm Lỗi ung dung nói: "Dương huynh đệ nói ra phương pháp chế tạo, chúng ta lập tức thả hai người! Hơn nữa chỉ cần ngươi mang binh quy phục đại vương, ta sẽ đem xá muội gả cho ngươi làm thiếp, Tiểu Nhị bồi giá, thế nào?"
"Ca ca!" Trầm Tuyết Phỉ tái mặt, run giọng nói, "Huynh.... huynh dùng tiểu muội bức bách Dương công tử nữa, tiểu muội... chỉ còn có chết!"
"Được được, không nói, không nói!" Trầm Lỗi vờ lắc đầu thở dài.
Dương Thu Trì trầm giọn: "Ta không đáp ứng thì sao?"
"Đơn giản, căn phòng này là mồ chôn của 6 chúng ta! Phòng này kín, giỏi lắm là hai canh giờ chúng ta chết hết. Đương nhiên đó không phải là kết quả mọi người hi vọng, Dương huynh đệ cho dù không nghĩ cho mình, thì cũng nghĩ cho tôn phu nhân và Tiểu Nhị cô nương chứ!"
Tiểu Nhị thần tình thê lương, chợt quỳ xuống: "Lão gia, đều là Tiểu Nhị không phải, liên lụy đến lão gia..." Từ khi Dương Thu Trì xuất hiện, Tiểu Nhị không ngừng rơi nước mắt, nàng vốn đã tuyệt vọng vì hắn trước đây quyết dứt tình, không ngờ trước mặt ba quân, hắn ở dưới thành quyết cứu hai người, dừng tấn công. Điều này Tiểu Nhị vừa mừng vừa lo, vì biết đó ắt là bẫy, cầu cho hắn đừng tới, nhưng cũng mừng vì hắn vẫn còn tình nghĩa.
Thật không ngờ là hắn đến thật, và hiện giờ đã vì cứu nàng mà rơi vào vòng lao lung. Nàng quyết không để cho kẻ khác dùng làm công cụ hiếp bách hắn nữa, nên quỳ xuống dập đầu ba cái, đứng dậy nhoẻn miệng nhìn hắn cười thảm, rồi đột chuyển thân, lao đầu vào tường.
Dương Thu Trì vốn còn cho rằng nàng còn nói gì nữa, ai ngờ nàng tự vẫn, vội vươn tay ra chụp, nhưng động tác Tiểu Nhị quá nhanh, không kịp phòng chỉ kịp chụp tay áo của nàng, tay áo bị rách đánh toạt, Tiểu Nhị vẫn lao đầu vào tường, máu bắn tung tóe.
Hắn vội đến ôm nàng, thấy ở trán đầy máu, đưa tay sờ nắn, may là chưa vỡ xương. Hắn đau lòng, ôm chặt nàng, gọi: "Tiểu Nhị! Tiểu Nhị!"
Tiêu Nhị sau cơn choáng, mở mắt khóc: "Lão gia! Để Tiểu Nhị chết đi..."
"Cô nương ngốc à! Lão gia đến cứu em, em chết rồi ta uổng công sao?"
"Lão gia...."
"Cho em biết, phu nhân đã đáp ứng cho ta nạp em làm thiếp rồi!"
"Hả?" Tiểu Nhị vui mừng, vội quay đầu nhìn Liễu Nhược Băng, thấy nàng gật đầu, nhịn không được òa khóc: "Đa tạ lão gia..., đa tạ phu nhân..."
"Ừ! Vậy em không được chết nữa, nếu không ta mất hết một sủng phi rồi! Khà khà khà."
Tiểu Nhị biết hắn đã thành Sở vương, nghe lời này cảm thấy như hạnh phúc từ trên trời rơi xuống, cố sức gật đầu, rồi vùi đầu vào ngực hắn khóc, mặc cho máu ứa đầy.
Dương Thu Trì lại xé áo, giúp nàng băng bó vết thương, khẽ an ủi vài câu, rồi bảo nàng về cạnh Trầm Tuyết Phỉ.
Trầm Lỗi cười hỏi: "Dương huynh đệ quả là người chung tình! Đối với tiểu nha hoàn mà đã như vậy, hắc hắc, đề nghị vừa rồi của ngu huynh, Dương huynh đệ thấy thế nào?"
Dương Thu Trì nhìn chong vào y, hỏi: "Nếu như ta đáp ứng, làm sao chắc là các ngươi thả ta?"
"Ngu huynh dùng nhân cách đảm bảo...."
"Cạch cái cẩu cách của ngươi đi! Nói thật tế chút đi."
Trầm Lỗi cười âm âm, nhìn Mã Tạp Đát: "Vậy do công chúa ra mặt bảo đảm, ngươi chắc là tin chứ?'
Mã Tạp Đát cầm máu xong, điều tức một lát, tinh thần từ từ khôi phục lại, mỉm cười nói: "Dương tướng quân đem biện pháp phối chế hai bảo bối đó ra, chúng ta đi làm thử, thành công sẽ thả hai vị, Dương tướng quân có thể bắt ta làm con tin, thế nào?"
Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, gật đầu: "Cái này cũng được, nhưng phối trí hai vũ khí đó nguy hiểm phi thường, đặc biệt là tạc đạn pháo hoa, phải căn cứ tình hình mà điều chỉnh, hơi không lưu ý là phát nổ, uy lực các ngươi biết rồi đó, do đó phải tự ta làm mới được."
Mã Tạp Đát nhíu mày: "Ta tin, nếu đơn giản thì luyện đan sư của chúng ta đã làm rồi. Như vầy đi, làm phiền Dương tướng quân theo chúng ta đến Liêu Đông, chỉ đạo cho các luyện đan sư của ta phối trí, rồi thả ngươi đi, còn tặng trọng kim! Đương nhiên, nếu Dương tướng quân nguyện ý đầu Đại Thanh ta, càng hoan nghênh hơn, cao quan hậu lộc hưởng không hết."
Dương Thu Trì cười hắc hắc: "Nói dễ nghe quá, vậy nương tử của ta thì sao?"
"Chỉ cần Dương tướng quân đáp ứng, chúng ta sẽ lập tức thả họ, ta đảm bảo!"
"Vậy à? Không sợ cô thả người rồi ta không giữ lời hứa sao?"
Mã Tạp Đát cười: "Lúc trưa Dương tướng quân ở ngoài thành nói cứu chủ tớ Tiểu Nhị, nói thật ta không tin, không ngờ Dương tướng quân đến thật, ta bội phục. Dương tướng quân vì 1 nha hoàn mà mạo hiểm, dám nhập hổ huyệt cứu người, cho thấy là kẻ trọng tình trọng nghĩa, nói sao làm vậy! Ta tin Dương tướng quân!"
Dương Thu Trì bị khen đến ngượng: "Đa tạ cô xem trọng Dương mỗ, cái này... cô đứng lên rồi nói."
Tiểu Nhị vội đến cận thận đỡ Mã Tạp Đát dậy, ả mỉm cười gật đầu với nàng, quay sang hỏi: "Dương tướng quân thấy kiến nghị của ta thế nào?"
Dương Thu Trì trầm ngâm, thấy kế hoãn binh là hay nhất, bèn giả ý nói: "E rằng không được."
"Vì sao?"
"Hiện giờ Đại Thanh các người đang giao chiến với Đại Minh ta, ta sao có thể giao vũ khí cho các ngươi sát hại bá tánh cướp giang sơn chúng ta chứ? Vậy ta chẳng phải thành Hán gian rồi sao? Cho nên đề nghị đó thứ cho Dương mỗ không thể vâng theo!"
Mã Tạp Đát lập tức ảm đạm thần sắc, nghĩ; "Dương tướng quân có kiến nghị nào tốt hơn?"
Dương Thu Trì nói: "Kỳ thật là mãn hán một nhà, đều là thành viên trong đại gia đình 56 dân tộc.... khụ khụ.... à, Đại Thanh và Đại Minh là hai anh em, vì sao lại đánh nhau chứ? Nếu như các vị có lòng gồm thâu bốn biển, thì thiếu gì đất cho các người chiến. Đánh cả đời cũng không hết, sao lại đánh Đại Minh ta?"
Mã Tạp Dát hứng thú nhìn hắn: "Ý Dương tướng quân là chúng ta không đánh Đại Minh, Dương tướng quân sẽ dạy chúng ta chế hai món vũ khí?"
Dương Thu Trì cười hắc hắc: "Không được, chúng ta đang ở trong chiến tranh, có câu binh bất yếm trá, ta dạy các người, các người xé hiệp định hòa bình cái một, đem binh đánh Đại Minh, lúc đó ta làm gì các ngươi được."
"Vậy ý tướng quân là sao?"
"Chủ ý chỉ có một: Ta sản xuất đại lượng vũ khí này bán cho các người, dùng hết đến mua tiếp chỗ chúng ta. Chỉ cần không đánh chúng ta thì muốn bao nhiêu cũng có. Thế nào?"
Mã Tạp Đát cười khổ: "Cái này... so với chỉ ý của hoàng thúc khác xa, ta không thể làm chủ được. Hơn nữa, rủi hoàng thượng Đại Minh không đồng ý thì sao?"
"Hiện giờ binh quyền trong tay ta, ai làm gì được?"
"Vậy chúng ta viết thỏa ước trước? Nhất ngôn vi định!"
Dương Thu Trì cười thầm, thỏa ước bằng giấy mỏng này chỉ có con gái đầu óc giản đơn như công chúa này mới tin, Đa Nhĩ Cổn là nhất thế kiêu hùng, cái gì cầm chắc trong tay mới coi là thật. Dù gì thì hắn cũng tìm cách thoát thân, cứ theo thử xem, biết đâu có một lượng gia tài lớn, vừa có cớ để Đại Thanh chỉa mũi dùi vào kẻ địch khác cũng không chừng.
Dương Thu Trì quay hỏi Trầm Lỗi: "Về chuyện này phía ngươi tính sao?"
Trầm Lỗi đáp: "Đơn giản, Đại Tây ta chỉ cần vùng Sơn Tây. Sau đó, Đại Tây và Đại Thanh cùng phái các luyện đan sư có kỹ nghệ cao siêu tới, Dương huynh đệ chỉ dạy cho mỗi bên một phần kỹ thuật, như vậy đơn độc sẽ không chế ra vũ khí, mà phải hợp tác với nhau. Sau này Dương huynh đệ trăm tuổi, mấy nhà chúng ta hỗ tương qua lại, vì sinh tồn mà không thể không hợp tác với nhau, chẳng phải là kế trường cửu hay sao?"
Công chúa Mã Tạp Đát gật đầu lia lịa: "Đúng, ta cũng thấy đó là biện pháp tốt, như vậy ai trong chúng ta cũng yên tâm. Rất may lần này ta có đem luyện đan sư tới."
 
Chương 146: Bọ ngựa và chim sẻ (2)
Dương Thu Trì âm sầm nhìn Trầm Lỗi, suy nghĩ một chút, rút súng ra bắn một phát vào vách sắt, hỏi: "Ngươi đúng là một âm mưu gia! Nương tử, Tiểu Nhị và Tuyết Phỉ chừng nào được thả?"
Trầm Lỗi tái mặt nói: "Dương huynh đệ yên tâm, ngu huynh dùng tính mệnh đảm bảo, một khi dạy xong họ, chứng minh đúng là có thể tạo ra, lập tức sẽ thả! Trước khi xảy ra chuyện này, vẫn đành ủy khuất tôn phu nhân vài ngày vậy."
Dương Thu Trì quay nhìn Mã Tạp Đát: "Nếu như đã ký hòa ước, cô còn báo thụ phu nhân ta nữa không?"
Mã Tạp Đát lắc đầu: "Đương nhiên là không, sau khi hoàng thúc cho ta biết chân tướng, sư phụ ta là tập kích sư phụ Liễu cô nương trước, hiện giờ hai người đều khứ thế rồi, ta muốn lần này là lần tầm cừu sau cùng, nếu như không giết được Liễu cô nương thì coi như kết thúc."
Dương Thu Trì hỏi: "Vậy bước tíêp theo thế nào?"
Trầm Lỗi lấy ra cái bình nhỏ: "Đây là Tô ma tán, uống vào trong vòng 7 ngày là mất hết kình lực toàn thân. Để đề phòng, phiên tôn phu nhân dùng thuốc này trước, sau đó để công chúa điểm huyệt đạo, như vậy chờ Dương huynh đệ dạy phương pháp chế tạo xong, sẽ thả hai người, kèm theo xá muội và Tiểu Nhị. Dược lực sẽ tự giải trừ trong vòng bảy ngày, xem ra đủ thời gian dạy luyện đan sư của hai bên rồi."
Dương Thu Trì cười ha hả: "Họ Trầm kia, bộ ta không biết trong bụng ngươi có quỷ kế gì sao? Đây là địa bàn của các ngươi, ta dạy hai bên ngươi rồi, e rằng ngươi sẽ cùng thông đồng công chúa lấy nửa kỹ thuật còn lại, đúng không? Ha ha ha."
Trầm Lỗi ảm đảm lắc đầu: "Dương huynh đệ, ngươi vẫn thủy chung không tin ngu huynh, nếu như muốn thông đồng, chúng ta sao không dùng tôn phu nhân đòi ở huynh đệ luôn? Chỉ cần bỏ mê dược vào phòng, mê hết mọi người, bắt Tôn phu nhân bức bách ngươi, đơn giản vô cùng, cần gì phí lời thế?"
"Cái này là chỗ hay của loại người như ngươi, vì nếu ngươi dùng nương tử ta bức bách mà ta thà chết không nói, ngươi cũng không có biện pháp gì, dùng cách này lừa chúng ta ổn thỏa hơn. Chờ đạt được bí phương rồi, giết chúng ta cũng không muộn." Xong hắn quay sang nói với Mã Tạp Đát: "Công chúa vạn lần đừng tin hắn, đây là địa bàn của hắn, thịt đưa tới miệng không ăn, còn phân một nửa cho các người sao? Hắc hắc, ở đó mà xem, hiện giờ bọn chúng chưa đủ lông cánh, nên nghe theo Đại Thanh các người, khi có bảobối này rồi, ta dám đánh cuộc là chúng sẽ nghĩ cách chiếm hết, e rằng lúc đó tính mệnh của cô và chúng ta đều không bảo toàn."
Trầm Lỗi thở dài: 'Dương huynh đệ, ta đã nói rồi, Đại Tây và Đại Thanh tình như huynh đệ, ngươi không cần phải dùng kế li gián."
Công chúa Mã Tạp Đát tái mắt, lúc nhìn Dương Thu Trì, lúc nhìn Trầm Lỗi, không biết nên tin ai. Chính vào lúc này, chợt nghe bên ngoài có tiếng động mạnh, cách tường sắt dày cũng nghe được, cho thấy nó rất lớn, chẳng lẽ tiếng đại pháo?
Mã Tạp Đát không chú ý âm thanh này, nghiên đầu nghĩ, sau đó nói: "Dương tướng quân, ta cảm thấy ngài lo xa rồi, Đại Tây vương và Trầm đô ti không phải là người như vậy. Như vậy đi, nếu ngài không tin họ, thì đôi bên đều bắt một con tin, ta điểm huyệt ngài, cho Trầm đô ti không chế. Ta làm con tin của ngài, do nương tử ngài khống chế. Như vậy ra rồi, chúng ta ký hiệp nghị trước, Dương tướng quân phân biệt dạy hai bên kỹ thuật tạo vũ khí, ta làm con tin rời khỏi đây về quân doanh của ngài, chừng nào ngài về thì thả ta, được không?"
Dương Thu Trì không đoán được âm thanh bên ngoài thế nào, trong khi qua chỗ lỏm nhỏ của viên đạn vừa rồi, hắn tính toán với số đạn hiện tại, không đủ để khuyết mấy lổ rồi từ đó tạo khoảng trống thoát thân, đành gật đầu nói: "Như vậy cũng được, cứ thế đi!" Nói xong cắm súng vào chân.
Liễu Nhược Băng hiểu là Dương Thu Trì sẽ không giao kỹ thuật cho chúng, nhưng hiện giờ ở trong phòng sắt, bước đầu tiên là tìm cách ra ngoài, chờ ra ngoài rồi mới tìm cách thoát nguy.
Mã Tạp Đát trước đó bị Liễu Nhược Băng điểm huyệt, hiện giờ đã tự vận công giải, nên đứng dậy điểm vài huyệt đạo trên người Dương Thu Trì, túm tay hắn đến cạnh Trầm Lỗi, cười:"Dương tướng quân, đắc tội rồi, ngài đành để cho Trầm đô ti giám quản!"
"Nói hay lắm...." Dương Thu Trì nhìn nụ cười xinh của Mã Tạp Đát, định nói đùa vài câu, ai ngờ nàng ta nhanh như chớp tiếp cận điểm huyệt ở ngực Trầm Lỗi!
Trầm Lỗi đang cười híp mắt đưa tay ra đón Dương Thu Trì, căn bản không ngờ sự tình đã bàn xong, Mã Tạp Đát lại trở mặt, liền trúng chỉ ngã xuống. Mọi người đều kinh hãi.
Trầm Lỗi mềm nhũn người, ngước mắt không tin hỏi: "Công chúa, chúng ta chẳng phải là thương lượng xong rồi sao, nàng làm như vầy...?"
Mã Tạp Đát một tay giữ Dương Thu Trì, chân đạp lên ngực Trầm Lỗi: "Không sai, phương pháp thì chúng ta thương lượng kỹ rồi, nhưng ngươi bộ tưởng ta không biết ngươi đã bố trí thiên la địa võng ở khu nhà đó rồi sao, chờ ngươi mang Dương tướng quân đi, mấy trăm hỏa súng thủ và cung tiễn thủ xung quanh sẽ giết hết chúng ta, bao quát muội muội ngươi và Tiểu Nhị cô nương, trong khi đó Dương tướng quân hoàn toàn không biết, vẫn nghĩ họ là con tin của các ngươi, sẽ dạy hết phương pháp chế tạo vũ khí cho ngươi. Nếu không được thì có thể dùng nghiêm hình bức hỏi. Còn cái chết của ta thì ngươi sẽ nói là do Dương tướng quân công thành giết chết, gây xung đột giữa hai bên, quả là thủ đoạn ngoan độc!"
Trầm Lỗi biến sắc: "Công chúa nghe ai nói loạn vậy? Không có chuyện đó, hiểu lầm, hiểu lầm! Chúng ta vì sao phải giết Liễu cô nương và công chúa chứ?"
"Các ngươi vì sao muốn giết Liễu cô nương thì không còn nói, còn ta à, ha ha, bảo bối mà ai không muốn chiếm chứ? Do đó ngươi làm như vậy thì cũng giống như chúng ta thôi, cho nên thám thính được tin này, ta đã sắp xếp tương ứng, ta có mang theo mấy trăm võ sĩ, đủ giết hết binh sĩ trong phủ này. Cái đó gọi là bọ ngựa bắt ve, chim sẻ chực sẳn!"
"Công chúa..."
"Im miệng!" Mã Tạp Đát nhấn chân, Trầm Lỗi ngất đi. Ả quay sang nói với Dương Thu Trì: "Dương tướng quân, chúng ta nói ngắn gọn, rằng ta biết Trương Hiến Trung thủ đoạn độc ác, nên đã an bài cứu các người ra. Ta đã cho người gửi thư đến quân doanh, nói là các người nguy hiểm, để đại quân của tướng quân công vào thành rồi. Vừa rồi tiếng động đó chính là tín hiệu của binh sĩ ta, có người đã mở cửa nam thành Trường Sa, quân đội của tướng quân đã vào thành rồi, hiện giờ bên ngoài bọn hộ vệ cũng bị giết hết rồi."
Dương Thu Trì bất ngờ, hỏi: "Công chúa, cô vì sao cứu ta?"
"Không kể là cứu, chẳng qua là vụ mua bán thôi, nhân vì ta phải đưa tướng quân tới Liêu Đông."
'Đừng có mơ!" Liễu Nhược Băng bước tới.
"Đứng lại!" Mã Tạp Đát lạnh lùng, "Nếu nàng không muốn phu quân chết, thì ngoan ngoãn quay về đi!"
Liễu Nhược Băng thấy Mã Tạp Đát kề tay vào yếu huyệt ở sau lưng Dương Thu Trì, nên không dám vọng động. Ngay lúc này, bốn phía có tiết kim khí cót két, tiếp đó, tường sắt từ từ mở ra, bên ngoài có tiếng truyền vào: 'Công chúa! Người thế nào?"
"Ta không sao! Thanh trừ địch quân chưa?"
"Toàn bộ! Quân Đại Minh đã tiến vào từ phía nam! Ngựa của chúng ta đã sẵn sàng, mau đi thôi!"
Tường sắt mở hẳn, tiếng súng vang trời, bao gồm cả tiếng lão sáo đồng và súng máy maxim, cho thấy quân Đại Minh đã đánh vào thành. Mã Tạp Đát đắc ý cười: "Dương tướng quân, ta coi như là ân nhân cứu mạng của mọi người đúng không? Hi hi, ta giúp tướng quân, tướng quân phải giúp ta chứ, như vậy mới công bình, có phải không nào?"
Xong ả quay sang Liễu Nhược Băng: "Liễu cô nương, võ công của cô quá cao, mang theo nguy hiểm, do đó không mời cô được. Nhưng mà cô yên tâm, chúng tôi sẽ chiếu cố cho Dương tướng quân thật tốt, sau khi làm xong chuyện sẽ đưa phu quân cô trở về! Cô cũng biết đó, nếu cần thì chúng ta sẽ chẳng do dự gì mà không giết Dương tướng quân, do ta biết chỉ có Dương tướng quân biết kỹ thuật này, chúng ta không có được thì Minh quân cũng không có được! Dựa vào bát kỳ (chú: quân Thanh chia quân đội ra làm bát kỳ) của chúng ta đủ tiêu diệt Đại Minh rồi!"
Nói xong, Mã Tạp Đát kéo Dương Thu Trì từ từ bỏ đi.
Liễu Nhược Băng đuổi theo, gằn giọng nói: "Ngươi nghe đây, phu quân ta mà bị rụng cọng lông nào, ta sẽ đến hoàng thành đại thanh lấy đầu hết từ hoàng thượng cho tới tướng quân đền mạng cho phu quân ta! Chúng ta cả đời không chết không ngừng!"
"Ta nhớ rõ, Liễu cô nương an tâm. Lấy danh dự mẹ ta, xin thề sẽ chu toàn cho sự bình an của Dương tướng quân." Người Nữ chân rất giữ lời thề, đặc biệt là thề với danh nghĩa của mẫu thân.
Dương Thu Trì nói với Liễu Nhược Băng: 'Đừng lo lắng, Băng nhi, ta không sao. Nói với giám quân Lý Phượng Tường là khi ta không có mặt, đại quân tạm do Long Bỉnh thống lĩnh, A Hạnh Ni làm phó tướng, cần phải diệt Trương Hiến Trung, không để hắn vào xuyên! Xong lập tức lên bắc cần vương."
Chờ đám xe ngựa của Mã Tạp Đát đi rồi, hơn 100 thủ vệ cầm hỏa súng, cường nổ mới từ từ rút. Liễu Nhược Băng bấy giờ mới nói với Trầm Tuyết Phỉ: "Chờ đại quân đến, nàng và Tiểu Nhị tìm chủ soái, báo cho họ phái một đội theo dấu ngựa về phía bắc đuổi theo, ta đi theo dõi trước. Sau đó hai nàng ở lại chờ tin tức!"
Công chúa Mã Tạp Dát vốn muốn giao Dương Thu Trì toàn thân vô lực cho hộ vệ coi sóc, nhưng sợ Liễu Nhược Băng đuổi theo, chỉ đành tự áp giải. Ả lục soát người hắn, lấy cây súng cất vào lòng. Ả đỡ hắn lên chiến mã, được mấy trăm hộ vệ bảo hộ chạy lên cửa bắc, chen vào dòng người chạy nạn chen chúc ra khỏi thành.
Lúc này, tuyết đã từ từ ngừng rơi, Trường Sa thành ngày một xa dần. Dương Thu Trì bị người đẹp ôm trong người, mấy lần định lăn xuống ngựa kéo dài thời gian, nhưng tay chân không có lực, hơn nữa lại bị cao thủ nhất lưu như vậy khống chế, chẳng làm được gì. Phải làm sao đây?
Suy nghĩ mãi, cuối cùng hắn chợt nhớ ra, mò tới các hộp đạn ở chân, là thứ Mã Tạp Đát không biết lấy đi. Hắn quyết định dùng đạn bỏ dọc đường, lưu lại dấu vết. Nhưng công chúa này vô cùng cẩn thận, nếu động tác quá kỳ quái, sẽ làm nàng ta chú ý, cần phải nghĩ cách đánh lạc sự chú ý của nàng ta.
"Công chúa, Liêu Đông lạnh không? Ta sợ lạnh lắm, nhớ chuẩn bị áo ấm cho ta nghe, lạnh cóng tay không làm đạn dược được đâu."
Công chúa bắt được hắn, hoàn thành nhiệm vụ trong yếu, tâm tình rất vui: "Lạnh, yên tâm, chúng ta đã chuẩn bị đồ ấm cho tướng quân, an tâm đi. Nếu hứng thú, ta còn tìm cho tướng quân cô gái ủ ấm nữa, bảo mật cho ngài, không nói cho nương tử ngài biết đâu, hi hi..."
"Uy, ta là Liễu Hạ Huệ chuyển thế đây, không có mơ tưởng gì tới ai đâu. Công chúa thiên kiều bách mị vậy ôm ta, ta ngồi im đâu có động đậy gì, nếu không tin sờ thử....!'
"Phì!" Mã Tạp Đát đỏ mặt, lừ mắt: "Dương tướng quân, ta kính trọng ngài, ngài sao dùng lời cợt nhã thế?"
Dương Thu Trì ngượng ngùng: "Nói... nói chơi thôi mà..."
"Sau này đừng nói chơi vậy nữa!"
"Vâng..." Dương Thu Trì im miệng, tiếp túc cách quảng bỏ đạn. Hắn sợ nàng phát hiện, lại hỏi tiếp: "Đúng rồi, công chúa, vết thương trên tay nàng thế nào, còn ra máu không, coi chừng cảm nhiễm đó!"
Nói đến chuyện này, công chúa lập tức cảm thấy đau ở vai, bực dọc: "Đừng giả bộ nữa, vết thương này là do ngươi gây ra, ta không cảm kích công băng bó của ngươi đâu!"
"Ê! Nói cho rõ nghe, nếu như cô không bày kế này bắt vợ chồng ta, đánh lén vợ ta, ta đâu có làm cô bị thương!"
"Hừ, chẳng phải sao? Ta và nương tử ngươi võ công tương đương, ta biết võ công của nương tử ngươi khi thất thân sẽ suy giảm, nên ta chắc sẽ thắng, ai ngờ nàng ấy vẫn giữ được uy lực đồng tử công, chắc là hai người không đồng phòng, như vậy ắt ngươi ghét ta lắm, nghĩ cách giết ta để sớm viên phòng với vợ, đúng không?"
Dương Thu Trì nghĩ công chúa này quả là tâm tư cẩn mật, lợi hại vô cùng, nhưng vẫn giảo biện: "Làm gì có.... đúng rồi, công chúa, nàng thành thân chưa vậy?"
"Hỏi chi vậy?"
"Tùy tiện hỏi thôi mà, nàng nhất định là thành thân rồi, đúng không? Nếu không sao biết nương tử chưa cùng ta đồng phòng, hắc hắc, đúng rồi, nàng thành thân rồi, sao võ công không giảm vậy? Hay là võ công của nàng không bị ảnh hưởng chuyện đó?"
Công chúa lần này không đáp hắn, tiếp tục giục ngựa tiền tiến.
Dương Thu Trì tiếp tục cù cưa: "Ê, công chúa à, võ công của nàng sao đồng phòng rồi mà không ảnh hưởng vậy, hay quá, đến Liêu Đông rồi dạy ta đi về ta dạy lại nương tử ta, ta giúp nàng, nàng phải giúp lại ta chứ!"
Công chúa bị hắn lãi nhãi bực cả mình: "Ta luyện cũng là đồng tử công, ta chưa thành thân, do đó không chiết tổn công lực, dạy ngươi cũng vô dụng, muốn dạy về bảo vợ ngươi dạy, võ công nàng ấy giỏi hơn ta...!"
"Hừ! Nói xạo! Rõ ràng là lừa người, nàng không thành thân sao biết ta và vợ chưa viên phòng?"
"Ta đoán đó, được chưa? Vợ ngươi cũng luyện đồng tử công, võ công không giảm, dĩ nhiên là chưa đồng phòng rồi. Ngốc!"
 
Chương 147: Uyên ương chân giả? (1)
Bị mắng là ngốc, Dương Thu Trì chỉ cười trừ: "À, mà lạ nghe, ta nghe nói ở vùng Liêu Đông của nàng có tục lấy chồng sớm, cô mỹ lệ thế này sao lại chưa? Hay là dữ quá như cọp cái thành ra không tìm được ai?"
"Ngươi mới không tìm được ai..." Công chúa nói, "Ta 11 tuổi đã đính hôn cho con trai đại hãn Mông Cổ là Ngạch Triết rồi."
"Vậy sao? Sao nàng còn chưa thành thân?"
Công chúa Mã Tạp Đát đáp: "Ta ghét Ngạch Triết, quyết không xuất giá. Mẹ thương ta, bênh cho ta, do đó Hoàng a mã cũng không làm gì được ta. Sau đó nhận được tin sư phụ chết, ta một lòng muốn báo thù, lo giữ đồng tử công, nên không xuất giá. Sau nữa hoàng thúc cho ta võ công bí tịch, ta bế quan tu luyện, sau đi chu du, đến mấy tháng trước mới về, thì nghe tin Ngạch Triết chết rồi, nhưng đệ đệ Ngạc Triết đòi cưới chị dâu là ta đây, ta trước nghe sư phụ nói như vậy là phản lại luân thường đạo lý, ta tức quá chạy đi tìm hoàng thúc, hoàng thúc cho ta nam hạ đoạt vũ khí bảo bối của ngươi, tránh chuyện này."
"Ha ha, thì ra là nàng đào hôn, để rồi giống như chúng ta, thành thân mà không viên phòng! Nhưng mà, nàng là không muốn viên phòng, còn ta và Băng nhi vì nàng mà không thể viên phòng. Đúng rồi, nàng trước đó có hứa không báo thù nữa, nói nhớ giữ lời nha!"
Công chúa cười hi hi: 'Sao hả? Ngươi muốn viên phòng với vợ lắm rồi phải không? Vậy ta sẽ tìm nàng ấy quậy mãi, cho hai ngươi chẳng động phòng được!"
Dương Thu Trì hừ một tiếng: 'Nàng lấy chồng không được rồi đố kỵ chứ gì? Hay là gả thẳng cho ta luôn đi, chúng ta thành người một nhà, hai nàng không cần giữ đồng tử công nữa." Miệng thì nói nhăng nói cụi, lưng thì thuận tiện dựa hẳn ra đụng vào gò vọi của nàng, thấy nó rất mềm ấm, cảm giác rất tuyệt!
"Muốn chết ả ngươi!" Công chúa đỏ mặt cự nự, "Nam nhân không người nào tốt cả!"
"Vậy nàng đồng ý rồi?" Dương Thu Trì cố ý tập trung vào chuyện mẫn cảm để đánh lạc hướng sự chú ý của nàng, bỏ từng viên đạn xuống đường để lưu dấu vết.
"Phì! Đừng có mớ!" Công chúa ký lên đầu hắn một cái rõ đau, "Nhưng mà, chỉ cần ngươi chế vũ khí bảo bối cho ta, thì có thể về viên phòng với vợ rồi, ta nói là giữ lời!"
"Dạy cách chế tạo vũ khí? Hắc hắc, vậy phải coi nàng đối với ta có tốt không đã!"
Công chúa cắn răng, hỏi: "Tốt thế nào?"
"Tự nàng nghĩ đi!" Dương Thu Trì cười tà tà, "Ví dụ như hôn nè, ôm nè..."
"Ê! Muốn chết ả? Đúng là tướng quân vô lại! Tỉnh lại đi, nằm mơ giữa ban ngày!" Công chúa chọc tay vào eo hắn
Vừa lúc đó, Dương Thu Trì lại hết thêm hộp đạn nữa, hắn thuận thế cúi xuống lấy thêm hộp khác.
Cứ như vậy, hai người đùa cợt hơn cả thời thần, công chúa tuy cự nự luôn miệng, nhưng mặt hoa tươi rói. Khi đại đội nhân mã đến một thôn trang vắng lặng, một hộ vệ tới, dùng tiếng Mãn nói xí xô gì đó với công chúa, đưa cho nàng một nhánh cây.
Công chúa tiếp lấy, dùng tiếng Mãn đáp lời, rồi xuống ngựa kéo hắn xuống theo, đại đội kỵ mã tiếp tục tiền tiến.
Dương Thu Trì nghĩ: "Đúng là kế kim thiền thoát xác giảo hoạt!"
Chờ đại đội hộ vệ đi rồi, công chúa kéo Dương Thu Trì vào thôn, dùng nhánh cây xóa dấu chân. Dương Thu Trì cười khổ, đường vào thôn tuyết rất dày, đạn ném ra đều ngập trong tuyết, công chúa lại lấy cây xóa dấu vết, dấu đạn nhỏ cũng bị xóa mất.
Trong tay chỉ còn một hộp đạn, nếu như quẳng xuống đất, mục tiêu quá lớn, Mã Tạp Đát vô cùng cảnhgiác, rất có thể sẽ phát hiện. Mà dù không phát hiện, sớm muộn cũng bị tuyết che, làm sao đây?
Dương Thu Trì lòng nóng như lửa đốt, đầu óc chuyển rất nhanh, thấy bên đường có một cái cọc dài, liền nảy ý, cười khổ nói: "Công chúa, ta muốn.... tiểu tiện!"
"Không thể chờ!"
"Không chờ được nữa rồi." Dương Thu Trì hai tay ôm bụng dưới, chân đứng hình chữ bát, ra vẻ nhịn không được, "Vừa rồi ở trên đường đã nín không nỗi rồi...!"
Công chúa bực dọc xô hắn: "Mau đi!" Xong quay người, dùng khóe mắt giám thị hắn.
Dương Thu Trì chệnh choạng chạy vào bên lộ, thấy cái cọc rào, lòng mừng rỡ, giả vờ té rồi vịn vào tường, thuận thế móc hộp đạn vào đó, sau đó loạng choạng hai bước, vén quần tiểu tiện.
Sau đó, công chúa dùng tuyết phủ sạch vết tiểu tiện và dấu chân của hắn, nhưng không chú ý hộp đạn trên tường!
Thôn này không lớn, hẻo lánh, thôn dân hầu hết tắt đèn đi ngủ. Hai người tiến vào thôn, đến một nhà vườn nhỏ dừng lại, công chúa mở cổng kéo hắn vào nhà, khóa chặt phòng, ngồi xuống một cái giường trong phòng.
Từ từ, Dương Thu Trì thích ứng với ánh sáng, phát hiện trong phòng bài thiết đầy đủ, giường hắn ngồi khá rộng, màn treo trướng rũ, bên cạnh còn có một bồn tắm, bàn trang điểm, và chỗ thay y phục. Trên giường đầy mền gối ấm, sắp xếp chỉnh tề. Hắn cười hì hì hỏi: 'Công chúa, đây là tân phòng của chúng ta hả?"
Trong bóng tối chỉ thấy dáng của công chúa, không rõ biểu tình của nàng. Chỉ nghe nàng ta nghiêm giọng: "Dương tướng quân, cho ngài 2 lựa chọn: từ giờ hoặc là im miệng, hoặc là ta điểm huyệt cho ngài im miệng, chọn đi!"
Dương Thu Trì biết đừng thấy công chúa này nói nói cười cười trên đường mà coi thường, vì hiện giờ cần ẩn nấp, chuyện trọng đại, để đảm bảo an toàn, nàng ta nói được làm được, cho nên im miệng chẳng nói tiếng nào. Hai người cứ ngồi im như thế. Trời từ từ sáng.
Dương Thu Trì cảm thấy ngừơi tê nhức, căn bản không có lực, thở dài. Võ công hắn dù sao cũng quá kém so với cao thủ nhất lưu này. Hắn nhìn công chúa đang ngồi kế bên, đang nhắm mắt điều tức, thấy có máu rịn ra vai, ngẫm nghĩ, kề tai nàng nói nhỏ: "Công chúa, vết thương còn đau không? Hay là..."
"Phốc phốc phốc...!"
Tai, cổ, vai, ngực, eo, đùi, cẳng chân Dương Thu Trì lập tức bị công chúa điểm nhanh như chớp, khiến hắn chẳng động được ngón tay, ngồi không được ngã phịch xuống giường. Hắn vừa định lớn tiếng kháng nghị, thì cổ họng đã không phát ra tiếng được nữa.
Công chúa hậm hực nhìn hắn, cắn chặt răng, xuất thủ như điện, chẳng mấy chốc đã cởi sạch quần áo hắn, chỉ lộ cái quần đùi. Ở Minh triều không có nội khố, công chúa kỳ quái nhìn quần đùi của hắn, rồi ẵm hắn lên bỏ nằm dọc, kéo mền che lên.
Tiếp đó, công chúa quay người lại, cởi bộ đồ màu hồng của mình, chỉ để đồ lót màu hồng nhạt, mở vết băng trên vai, thấy không xuất huyết nữa.
Công chúa cuộn quần áo của hai người lại, cuộn bỏ dưới mền đang đắp Dương Thu Trì, đến tủ lấy hai bộ đồ nam nữ, phẫy một cái cho nó nằm lăng loạn móc lên chỗ thay quần áo, rồi trèo lên giường, định đưa tay kéo màn xuống, nhưng ngẫm nghĩ lại không kéo, chụi trực tiếp vào trong mền, xõa tóc cho phủ đầy trên gối.
Diễm phúc đột nhiên từ trên trời rơi xuống, Dương Thu Trì cảm thấy khó hiểu vô cùng, muốn hỏi mà không hỏi được, nhưng lát sau hắn đã hiểu nguyên nhân công chúa làm vậy, vì hắn nghe tiếng vó ngựa cấp xúc, cùng tiếng quân sĩ hò hét khắp nơi. Nghe âm thanh, hắn biết truy binh đã đuổi tới, số lượng không ít. Hắn mừng như điên, vì chắc là đạn rãi dọc đường và hộp đạn của mình đã có tác dụng, dẫn truy binh tìm đến đây.
Nhưng theo lời Mã Tạp Đát nói, thì nàng ta sẽ chẳng hề do dự gì mà không giết hắn khi tình huống nguy cấp. Dù gì thì võ công nàng ta cao siêu, nói không chừng không cướp lại được hắn mà mạng hắn tiêu đời!
Vừa rồi thấy Mã Tạp Đát ngụy tạo hiện trường ung dung như vậy, đặc biệt là không kéo màn chống muỗi xuống, khiến lòng hắn trầm hẳn. Vị công chúa này tâm tư chẩn mật, những người khác sẽ không chú ý đến tình tiết này, cho rằng kéo màn sẽ kín hơn, nhưng hiện giờ trời mùa đông, làm gì có muỗi?
Đối diện với cao thủ nhất lưu võ công cao siêu tâm tư chẩn mật thế này, hơn nữa để tránh địch mà không ngại khỏa thân cùng chung chăn gối với hắn, cho thấy đáng sợ thế nào, và quyết tâm bắt hắn đi như thế nào?
Truy binh từ từ tiếp cận, rồi có tiếng lục xoát. Tim Dương Thu Trì đập mạnh, không còn lòng nào nhìn lén thân hình kiều diễm của công chúa nữa, mà lo khẩn cầu kỳ tích xuất hiện, để Liễu Nhược Băng giải cứu thì hắn mới an toàn thoát hiểm.
"Cốc cốc cố!" Ngoài vườn có tiếng gõ cửa: "Mở cửa! Mở cửa mau!"
"Mẹ! Mau vào trong mở cửa ra!" Là tiếng của hộ vệ mập Lưu Dũng.
Có tiếng mấy người vượt tường vào, hơn mười binh sĩ tiến vào vường, bắt đầu đập cửa phòng, đương nhiên không ai mở, liền nghe tiếng đá cửa, mấy người xông vào.
Công chúa nắm ép sát Dương Thu Trì, hét lên cả kinh, cánh tay không thụ thương vòng qua ép sát cổ hắn, thân hình giả vờ run bần bật.
"****...," Dương Thu Trì mắng thầm, "Ả công chúa này biết diễn trò quá, ở hiện đại đóng phim cấp 3 được rồi!"
Mấy binh sĩ xông vào phòng, thấy tình hình trên giường, đưa mắt nhìn nhau, cười tà quai, một người nói: "Là hai oắt con đang nồng nhiệt, coi các ngươi làm người ta sợ kìa!"
Một tên đã thèm chảy nước dãy, cười dâm: "Theo ta thấy, nói không chừng tặc nhân giấu Dương tướng quân của chúng ta dưới mền, để ta mở ra coi!"
"Đúng đúng! Mở mền ra tử tế tìm!" Mấy binh sĩ dấn bước lên.
"Bốp! Bốp..." Lưu Dũng tát cho mấy binh sĩ này mấy cái, "Các ngươi muốn chết mẹ nó hả? Ba đại kỷ luật tám điều chú ý của Dương tướng quân đọc ra làm sao? Không được chọc ghẹo phụ nữ! Cái đầu heo của các ngươi có mấy cái?"
Binh sĩ ôm mặt dạ dạ, lùi vào tường, vẫn lén nhìn cánh tay trắng nõn của công chúa lộ ra ngoài.
Dương Thu Trì ở trong mền tức ói máu, đúng là cái "3 đại kỹ luật 8 điều chú ý" nó hại hắn mà!
"Sao hả? Có phát hiện không?"
Là tiếng của Liễu Nhược Băng.
Dương Thu Trì mừng rỡ, cố sức vén mền, nhưng ngay cả ngón tay cũng chẳng thể động, muốn la cũng không la được. Còn tiểu công chúa giả run bên cạnh thì đang thè lười nhìn hắn cười đắc ý, tức đến nổi hắn muốn ôm nàng hôn ngấu nghiến một cái!
Lưu Dũng khom người: "Hồi bẩm phu nhân, là một cặp vợ chồng trẻ, có thể là bị chúng ta làm cho sợ quá, có cần vén mền tra xét không?"
Liễu Nhược Băng nhìn vào giường, nhíu mày: "Không cần đầu, nữ tử đó là công chúa, không thể mặt dày ôm nam nhân người ta như thế, tiếp tục tra!"
"Dạ!"
Tiếng bước chân lập tức vang lên, tiêu biến ngoài nhà.
Dương Thu Trì muốn khóc ròng một trận lớn. Băng nhi thông minh cả đời hồ đồ một lúc, công chúa này đâu phải là khuê tú Đại Minh, chẳng chịu nền giáo dục Nho giáo gì, ôm nam nhân có gì đâu, huống chi là anh chàng bảo bối đẹp trai biết tạo vũ khí tiên tiến của Liễu cô nương nàng nữa!
Tiếng động bên ngoài vắng dần, cuối cùng trở lại bình tĩnh, thì ra quân Minh tìm kiếm trong thôn không được, bèn theo dấu ngựa truy tung.
Lòng Dương Thu Trì chìm hẳn, đưa mắt nhìn công chúa Mã Tạp Đát, thấy nàng ta cũng dẫu môi chẳng vui gì, không biết tại sao.
 
Chương 147: Uyên ương chân giả? (2)
Thực sự thì công chúa đang buồn bực vì câu nói vừa rồi của Liễu Nhược Băng. Nàng ta vén mền, giơ tay điểm phốc phốc vào huyệt đạo ở cổ và tay chân, đẩy hắn một cái, vẩu môi lên hỏi: "Ê! Nương tử của ngươi vì sao nói ta như vậy? Ta sao lại mặt dày thế chưa? Ngươi đánh giá ta vậy sao?"
Dương Thu Trì hoạt động chân tay, trước hết ho mấy tiếng, mỉm cười hỏi: "Nàng nghĩ vậy?"
"Ừ!"
Dương Thu Trì đưa ngón tay ngúc ngoắc, có ý bảo nàng lại gần. Công chúa nhịn không được đưa sát lại định nghe coi hắn nói gì. Hắn chợt trở người đề nàng xuống, áp môi lên đôi môi nàng, đồng thời đôi tay án lên hai gò ngọc nhũ của nàng.
Mã Tạp Đát không ngờ Dương Thu Trì to gan như vậy, với võ công của nàng hoàn toàn có thể chế phục hắn, nhưng khi đưa tay lên đẩy, cánh tay không có lực chút nào.
Thì ra đây là lần đầu tiên trong đời nàng bị nam nhân hôn hít sờ mó đôi ngực trần, và nam nhân này nàng không ghét, ngực lại tập trung thần kinh mẫn cảm, nên phản ứng sinh lý làm máu dồn lên mặt, tim nàng đập thình thịch, lúng túng không biết thế nào, xương như bị rã ra.
Dương Thu Trì hôn mạnh nàng vốn chỉ là muốn báo phục cái mặt quỷ đắc ý vừa rồi của nàng, bụng khẳng định là nàng sẽ cho hắn một cái bạt tay nên thân, phóng một cước bay xuống giường, không ngờ nàng chỉ đẩy hắn yếu ớt rồi thôi. Hắn lập tức nhớ lại cảnh ngộ tương tự kiếp trước, khi lần đầu tiên tao ngộ kích tình với Liễu Nhược Băng trên huyền nhai.
Một ý nghĩa táo tợn và điên cuồng chợt dậy lên trong lòng hắn. Bằng kinh nghiệm của hai kiếp, hắn bắt đầu thành thảo vuốt ve sờ mó, cởi tiết y của nàng lúc nào không hay. Hắn một tay nắn bóp gò ngực cao vọi không chút chở che của nàng, tay còn lại lần xuống nội khố của mình, từ từ vén ra. Cùng lúc đó, bờ môi của hắn chạy loạn, môi, mắt, cổ, rồi lần tới nhũ phòng của nàng, ngậm mút nhẹ lên đóa anh đào.
Đến lúc này thì sự tiếp xúc thân mật đã khiến Mã Tạp Đát hoàn toàn mê mang, hơi thở dồn dập trong sự kích thích ái tình, chẳng còn biết mình ở đâu nữa.
Và thế là, Dương Thu Trì nhẹ nhàng tiến công xuống gò tam giác, tách đôi đùi ngọc của nàng, trong cơn sóng xuân dào dạt, ôn nhu và kiên định tiến nhập vào cơ thể nàng.
A...!
Đốm hồng loang loáng, ứa nhẹ xuống giường. Công chúa thống khổ nhưng khoái lạc, để rồi chỉ lát sau bị hắn nung chín trong ôn nhu, đến khi nàng trân mình co cứng, suýt xoa rên dài, cùng lúc đó hắn cũng tiết xuất như quên cả đất trời.
Sóng tan mây tạnh sau cơn mưa gió bất ngờ, Dương Thu Trì thở khì khì ôm công chúa vẫn còn mê ngất trong ôn nhu: "Miêu Miêu, nàng là người của ta rồi, đúng không?"
"Dạ..." Công chúa hé mắt phượng, thần tình mê mang, môi hồng ướt át, thều thào, "Miêu Miêu là người của chàng rồi..."
"Chúng ta đổi tư thế, nàng quay người lại đi, được không?"
"Dạ..."
Dương Thu Trì đem công chúa nhu nhược như không xương quỳ mọp xuống giường, lần ra sau nàng. Đột nhiên, hắn chụp lấy cây súng 77, tung người nhảy xuống giường.
Công chúa còn ễnh người chờ đời, nghe động tĩnh không ổn, quay qua nhìn, thấy thân hình trần trụi của hắn đã đứng ở sát tường, súng trong tay chỉa vào nàng.
Nàng bị súng này bắn một lần, nên cả người đầu óc như bị nhúng xuống băng, thanh tỉnh lại từ trong ôn nhu, nhảy xuống giường theo.
"Đứng lại! Nếu không ta nổ súng đó!" Dương Thu Trì lạnh lùng.
"Chàng...."
Gương mặt hồng hồng của công chúa từ từ tái hẳn, khúc tuyết lung linh bần bật ngẩn ngơ, dường như vẫn còn chưa hiểu chuyện gì đã xảy ra.
Dương Thu Trì cười: "Công chúa, chuyện vừa rồi ta vô cùng xin lỗi, nhưng ta không còn biện pháp nào, nhân vì ta không muốn bị nàng đưa về Đại Thanh. Do đó... ta thật xin lỗi."
Công chúa cắn răng, nhìn hắn trừng trừng, trầm giọng nói: "Chàng chỉ có một cơ hội nổ súng, nếu bắn không chết thiếp, thiếp sẽ bắt giữ chàng, bắt chàng đi!"
"Nàng đừng bức ta!" Dương Thu Trì dùng hai tay giữ súng, chỉa thẳng vào ngực công chúa Mã Tạp Đát, nơi đó là chỗ lưu lại vô số nụ hôn của hắn, "Nàng không nhanh bằng đạn của ta đâu, ta sẽ bắn nàng chết đó!"
"Chàng không thể! Thu Trì, thiếp biết là chàng không nổ súng..." Công chúa cười ngọt ngào, từng bước từng bước tiến lại gần.
Chính vào lúc này, ào một cái, một bóng trắng đáp xuống phòng "Coi chiêu!" một chưởng tung ra đánh về phía Mã Tạp Đát!
"Băng nhi!" Dương Thu Trì mừng rỡ reo leo. Người phá đỉnh phòng bay xuống chính là Liễu Nhược Băng.
Liễu Nhược Băng và công chúa Mã Tạp Đát xuất chiêu nhanh chóng vô cùng, bóng chưởng qua lại cực nhanh, phanh một tiếng, công chúa Mã Tạp Đát ôm ngực lùi mấy bước, sắc mặt trắng bệt, miệng ứa máu.
Liễu Nhược Băng chắp tay, lạng lùng nói: "Ngải cô nương, cô nên biết chưởng vừa rồi của ta vốn có thể lấy tính mệnh của cô."
Công chúa không nhìn nàng, mà ngơ ngẩn nhìn Dương Thu Trì, hai hàng lệ ứa dài.
Dương Thu Trì mừng rỡ, bước đến đứng cạnh Liễu Nhược Băng: "Băng nhi, nàng thắng rồi?"
"Dạ! Nàng ấy võ công tuy quái dị ngoan độc, nhưng sau vài lần giao thủ, thiếp đã nắm rõ lộ số võ công. Hiện giờ nàng ấy bị chàng phá đồng tử công, võ công giảm rõ rệt, cộng thêm tay bị thương, đương nhiên không còn là đối thủ của thiếp nữa."
"Vậy sao này nàng phá đồng tử công, có thể thắng nàng ấy không?"
Liễu Nhược Băng đỏ mặt, khẽ đáp: "Không thành vấn đề, nàng ấy luyện loại võ công quái dị này, yêu cầu với đồng tử công càng nghiêm hơn, tổn hại lớn hơn thiếp. Do đó, sau này... thiếp vẫn sẽ thắng!"
"Quá tốt rồi!" Dương Thu Trì vui mừng, nhưng nhìn gương mặt đau khổ thê lương của Mã Tạp Dát, lòng bất nhẫn, vội thu nụ cười, nói: "Công chúa, nàng mặc quần áo vào đi đi, chúng ta không làm khó nàng."
Công chúa khẽ gạt lệ, sụt sùi vào ngăn thay đồ. Dương Thu Trì cũng cắm súng vào bao, mặc vôi y bào, kéo Liễu Nhược Băng ra khỏi phòng, đứng ngoài vườn. Liễu Nhược Băng giúp hắn giải những huyệt đạo trên ngừơi.
Lát sát, công chúa Mã Tạp Đát cúi đầu bước ra, lặng lẽ bước đến cạnh họ, vượt qua, đến cửa thì dừng lại, quay người hỏi Dương Thu Trì: "Thu Trì, ta có câu muốn hỏi chàng, được không?"
"Ừ, nàng hỏi đi!"
"Trước đó, ở... trên giường, lời chàng nói bên tai ta... có thật lòng không?"
Dương Thu Trì cười khổ, vốn tưởng nói đó chỉ là những lời đường mật trên giường để làm ta tiếp tục mê man trong phản ứng sinh lý, không đáng tin. Nhưng thấy nàng ta đứng trong gió tuyết, mắt đầy lệ, đáng thương vô cùng, trong đầu hiện lại hình ảnh uyển chuyển nhu nhược trân mình chịu đừng sự cày xới dày vò của hắn, đột nhiên quỷ sử thần sai, gật gật đầu!
Công chúa nhoẻn miệng cười như hoa lê sau mưa, đôi mắt long lanh đầy tình ái, dịu dàng nói: ""Vậy... cẩn thận thái giám... ta ở Liêu Đông..., chờ chàng tới...!"
Nói xong, nàng lặng lẽ quay người lửng thửng bước.
Nhìn theo thân ảnh của công chúa, Dương Thu Trì không hiểu sao lại cảm thấy như mất mát thứ gì.
Liễu Nhược Băng khẽ nắm tay hắn, giọng mang chút ghen hờn: "Ai! Phu quân, vừa rồi chàng nói gì bên tai nàng ấy vậy?"
"Không... không có gì!" Thần sắc Dương Thu Trì xám xịch.
"Vậy sao nàng ta..."
Dương Thu Trì ôm eo nàng, hôn lên má nàng, khẽ nói: 'Băng nhi! Ta vì thoát thân, nên mới lừa nàng ta!"
Liễu Nhược Băng hừ nhẹ: "Chàng nha, làm chuyện khuyết đức rồi, vì thoát thân mà lại... cướp đi trinh tiết của con gái người ta. Chàng làm vậy..."
Tuy Liễu Nhược Băng cố cười, nhưng Dương Thu Trì cảm thấy rất không phải: "Ta bị cô ta định đưa tới Liêu Đông chế tạo vũ khí, coi như chết chắc, muốn đào tẩu nhưng lại không có cách nào, lại bị điểm đại huyện, tuy có thể động, nhưng không đề được chân lực, thần xui quỷ khiến thế nào nên mới...."
Liễu Nhược Băng cười cười: "Chàng nghĩ biện pháp này không phải vì thoát thân a? À, còn trên đường nữa, lưu đạn lại cho thiếp, rồi hỏi động hỏi tây dụ hoặc nàng ta, phá đồng tử công của nàng ta để làm giảm công lực, như vậy nàng ta không báo cừu được nữa. Hay là như lời chàng nói, rước về một phòng luôn cho rồi!"
"Hả?" Dương Thu Trì rúng động tâm thần, thì ra là Liễu Nhược Băng nghe những gì hai người nói trong phòng? "Băng nhi, trong lòng ta chỉ có nàng, nàng không tin sao? Nói cho cùng, chính vì nàng ép ta lấy tiểu quận chúa, Tiểu Nhị, chứ ta nào có muốn!"
Liễu Nhược Băng dựa vào hắn, khẽ gật đầu: "Thiếp biết! Chỉ là thiếp e rằng..." Nàng nhẹ hôn lên trán hắn, thỏ thẻ: "Chàng bị bắt rồi, thiếp... thiếp rất sợ...., sợ chàng có chuyện gì..."
"Hắc hắc, ta không phải là khỏe re đây sao? Nhưng mà vừa rồi mọi người không phát hiện ra, vào phòng rồi bỏ đi, ta suýt ói máu luôn... à, đúng rồi, mọi người có phải là theo dấu vết ta lưu lại?"
"Đúng! Mới đầu quá nhiều người, thiếp bị mất phương hướng. Sau đó nhờ ánh đuốc, thiếp đã tìm được một viên đạn trên tuyết mà lần theo. Thiếp biết đó là của chàng, vì nó rất khác với đạn lão sáo đồng. Sau đó Lưu Dũng kéo binh đuổi theo, nên thiếp dẫn đường. Dọc đường cứ theo dấu đạn mà đi, tới khi không thấy nữa, bọn thiếp đã quay trở lại, thấy băng đạn chàng treo, xác định chàng trong thôn này...."
"... Khi vào phòng, thiếp đã nhìn ngay ra dấu vết, nhưng e ả sẽ làm hại chàng, nên lẻn đi rồi quay lại, không ngờ chứng kiến cảnh hai người...."
Nhìn nét mặt thất lạc của nàng, Dương Thu Trì thở dài. Ôm chặt hôn lên mắt nàng, nói khẽ: "Nhược Băng, có chuyện này ta muốn nàng chia sẻ cùng ta...."
"Dạ?"
"Nhược Băng, dù nàng tin hay không, ta đến thế giới này là vì nàng. Thời gian vừa qua cầm quân đánh trận, phấn đấu hết mình, ta chẳng qua là để có được nàng. Nhưng khi có được nàng rồi, nhiều lúc ta tự hỏi, rằng ta có nên tiếp tục thế này nữa không?"
"Chàng nói gì thiếp không hiểu?" Liễu Nhược Băng nhìn hắn.
"Chắc nàng nghe câu "Coi chừng thái giám" của công chúa Đại Thanh vừa nói chứ? Qua tin tình báo, ta biết các thế lực trong triều đình đang toan tính dòm ngó hai món vũ khí mà ta chế tạo, không riêng gì Đại Tây, Đại Minh hay Lý Tự Thành. Ta cũng nhận thấy mình không phải là con người của đấu tranh quyền lực. Ta không giỏi chính trị, nên nếu cứ thế này, không chóng thì chày sẽ bị hại chết rất thê thảm! Thái giám giám quân do hoàng thượng cử đến là một thành viên của đảng Đồng Lâm, và y đang từng bước cho khống chế quân đội và thiết tượng do lão hắc đầu rồi... "
Liễu Nhược Băng cười: “Thiếp tin ở khả năng chàng, và sẽ luôn bên cạnh bảo hộ chàng.”
Dương Thu Trì thở dài: “Có nàng, ta thật sự ta không sợ mấy chuyện này. Nhưng vấn đề quan trọng là, nếu tiếp tục làm, ta sẽ làm cho lớn, và như vậy, là ta đã cải biến lịch sử!” Mắt Dương Thu Trì mơ màng: “Có thể ta nói ra nàng không hiểu. Nhưng, nàng hãy biết rằng, những món vũ khí mà ta làm ra không phải là của thời đại này, và nó không nên tồn tại. Nếu tiếp tục tạo và sử dụng nó, dòng lịch sử sẽ chuyển biến đến đâu, ta không rõ lắm, vì nó có quá nhiều biến số! Trong khi đó, ta biết mình là ai và có thể làm được gì. Nên... Nhược Băng, ta hy vọng nàng hiểu, và ủng hộ ta thực hiện những bước sau này....”
Hắn dắt tay Liễu Nhược Băng đến ngồi xuống hiên nhà, nói rõ ý định của mình, sắp bày kế hoạch sắp tới...
Sau đó, hai người dắt tay nhau ra cửa thôn, A Hạnh Ny, Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ, Đô Cường... mang theo đại đội hộ vệ tinh nhuệ đang chờ sẵn.
Dương Thu Trì hỏi: “Tình huống trong thành thế nào? Trương Hiến Trung bị bắt chưa?”
A Hạnh Ny lắc đầu: "Không! Quân chúng ta tiến vào thành, Trương Hiến Trung xem ra thấy không phải là đối thủ, đã mang quân bỏ thành chảy rồi. Đại khái chúng ta diệt mấy nghìn quân, quân lương và trang bị còn đầy đủ cả."
Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng cùng thở dài, đưa mắt nhìn nhau. Đại đội nhân mã quay về thành Trường Sa đang huy hoàng đèn đuốc ăn mừng chiến thắng.
Vĩ Thanh
Cả bọn về tới thành, Phúc vương đã trở về Trường Sa, cho treo đèn kết hoa, phát lương chẩn tế, và tổ chức tiệc cưới chính thức cho Dương Thu Trì - Liễu Nhược Băng (kết hôn trên thành Kiềm Dương, chưa làm tiệc mừng) – tiểu thiếp Tiểu Nhị. Đêm ấy, Dương Thu Trì động phòng với Liễu Nhược Băng, chính thức phá “Đồng tử công” của nàng, đêm sau dĩ nhiên đến lượt Tiểu Nhị, từ đó thay nhau vui vầy duyên cá nước.
Sau khi ổn định quân tình, Dương Thu Trì phân binh giao cho Long Bỉnh và các vị vương gia nắm một phần quân đội, bản thân hắn dựa vào tin thám báo nhận được tổ chức truy quét Trương Hiến Trung, đuổi tới Tứ Xuyên. Trương Hiến Trung vào Tứ Xuyên đã xưng đế, nhưng cuối cùng bị Dương Thu Trì chế tạo một súng bắn tỉa có tầm bắn rất xa, bắn chết Trương Hiến Trung tại trận, kết thúc tên quân phiệt ác bá giết nhiều người mà hắn rất ghét này.
Quân Trương Hiến Trung từ đó nằm trong tay mấy người con nuôi, trong đó Lý Định Quốc là kẻ tích cực nhất, chủ trương liên kết các lực lượng chống Thanh. Sau được nhà Nam Minh phong Tấn vương, đã lãnh đạo quân đội chống lại quân nhà Thanh tới cùng, đạt nhiều thắng lợi vang dội, được tôn xưng anh hùng dân tộc. Rất tiếc, cuối cùng cũng chết trận, sự nghiệp chống Thanh tàn lụi.
Trầm Lỗi sau khi tỉnh lại ở Trường Sa, đã lén trốn đi, sau đó gia nhập quân của Lý Tự Thành, cuối cùng chết trận. Trầm Tuyết Phỉ bị hắn mang theo định dâng cho Lý Tự Thành, nhưng nàng giữa đường trốn được, sau nhiều phen sóng gió, đã định xuống tóc quy y, nhưng chưa kịp thực hiện ý định thì có một quý phu nhân hẹn gặp, từ đó biến mất, không rõ tung tích nữa.
Sau khi Trương Hiến Trung chết trận không lâu, không lâu sau có tin Sở vương kiêm tổng đốc ba tỉnh Dương Thu Trì cũng tử nạn vì một vụ nổ trong khi chế tạo tạc đạn. Dân chúng và quân binh khắp nơi đều than khóc, để tang ba ngày ca ngợi công đức.
Kỹ thuật chế tạo thuốc súng mới và vũ khí quái thú từ đó thất truyền, triều đình tiếp tục trọng dụng cha con lão Hắc đầu, nhưng vũ khí làm ra không nhiều, uy lực giảm rõ rệt. Vũ khí quái thú và lượng lão sáo đồng đã chế tạo không còn nguồn đạn, bỏ không cho gỉ sét hết, cuối cùng tiêu biến theo dòng lịch sử. Tuy nhiên, người Đồng người Miêu ở vùng Kiềm Dương lại tự chế ra một loại súng kíp rất dài, tầm bắn rất xa, hiệu quả nhất trong các loại súng sau đó.
Lý Tự Thành kéo quân đánh Bắc Kinh, vua nhà Minh treo cổ tự vẫn. Quan lại triều đình kéo về Nam Kinh, tôn Phúc vương làm vua mới, lập nhà Nam Minh. Ngô Tam Quế bị Lý Tự Thành chiếm vợ là Trần Viên Viên, giết cha, nên quay qua hợp tác với nhà Thanh. Nhà Thanh tràn vào giang sơn Đại Minh.
Khi Sở vương Dương Thu Trì tử nạn, tiểu quận chúa có mang mấy tháng, sinh con trai kế thừa tước Sở vương, chứng khờ khỏi dần, nhưng hành tung thế nào sau đó không ai biết nữa.
Công chúa nhà Thanh Mã Tạp Đát (Mã Khách Tháp) sau đó lấy nhị hoàng tử của Mông cổ, chồng được phong vương, khi nhà Thanh chiếm giang sơn nhà Minh không ngừng góp công sức gầy dựng cho tình hữu nghị Hán – Mãn. Đến năm Thuận Trị thứ 16 được phong công chúa “Cố Luân Ôn Trang Trưởng công chúa”. Tuy nhiên có lẽ vì quá u sầu vì lý do gì đó, năm 39 tuổi mất vì bệnh (vào năm Khang Hy thứ 2).
Giang hồ hắc bạch và triều đình Nam Minh sau khi Dương Thu Trì chết đã quay ra mua bán với một thương buôn mới toanh, chuyên mang thuốc súng từ hải ngoại về, sống ở vùng duyên hải phía nam, hoạt động đến khi nhà Thanh diệt nhà Nam Minh, chiếm xong Quảng Đông vào năm Khang Hy thứ 19 mới biến mất. Nghe nói người này mang họ Mạc, con cháu sau đó mang theo quân bản bộ theo biển xuôi về phương nam khai phá vùng đất mới tên là Phượng Thành (Hà Tiên thuộc Việt Nam bây giờ), tự làm vua một cõi được một thời gian dài, truyền cho mấy đời con cháu, dần bén rễ với dân bản xứ...
Hết

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro