News shashi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I. DU LỊCH VÀ VỊ TRÍ CỦA HOẠT ĐỘNG HƯỚNG DẪN DU LỊCH

1.Lịch sử ra đời của hoạt động du lịch:

Cũng như nhiều ngành khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, sản xuất, ngành Du Lịch

được hình thành rất sớm trong bối cảnh lịch sử nhất định. Thời cổ đại,các quốc gia

chiếm hữu nô lệ với các nền văn minh rực rỡ ở Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung

Hoa, Hy Lạp, La Mã được hình thành… Con người đã có quá trình giao lưu kinh tế

và văn hoá. Nhu cầu tìm hiểu, tham quan và cả nghỉ ngơi đã xuất hiện trước hết ở

giai cấp quý tộc chủ nô rồi mới tới các thương gia,  các nhà tu hành, nhà khoa

học… Các nhà Sử học cho rằng,  từ 5000 năm trước đây những chuyến vượt biển

đã bắt đầu từ Ai Cập.

Trong những chuyến đi ấy, người ta kết hợp các mục đích, trong đó có cả mục

đích du lịch – dù những khái niệm “du lịch”, “hoạt động du lịch” chưa ra đời. Theo

những miêu tả được ghi trên tường của đền thờ Deit El Bahari ở Luxor, vào năm

1490 trước Công Nguyên, vua Ai Cập đã tổ chức một chuyến đi vì mục đích du

lịch đến miền Punt (có thể là Sômali ngày nay). Những người đi du lịch đó thực sự

là những người dũng cảm trong điều kiện di chuyển ở những chặng đường dài như

vậy. Những người Sumers vùng Lưỡng Hà đã sáng tạo ra tiền và dùng nó trong

hoạt động vận chuyển và kinh doanh  cùng với bánh xe cách đây gần 6.000 năm

được xem là cái mốc quan trọng đánh dấu sự hình thành ngành du lịch. Các nhà

khoa học Mỹ (Robert W.Mc’ Wtosh và Charles R. Goeldner) cho rằng họ là người

sáng lập Ngành Du Lịch của nhân loại vì người ta có thể trả tiền cho việc vận

chuyển và lưu trú.

Năm 776 trước Công nguyên, địa hội thể thao Olimpic đã đầu tiên tổ chức tại

Hi Lạp, thu hút nhiều người tham dự đấu thể thao, (cả người thi đấu và người

thưởng ngoạn). Do đó các cơ sở phục vụ ăn, ở cho vận động viên và khán giả cũng

các dịch vụ khác đã nảy sinh xung quanh khu vực thi đấu. Loại hình du lịch công

vụ, thể thao, tham quan nghiên cứu đã xuất hiện và tồn tại lâu đời trên bán đảo này.

Đế quốc La Mã ra đời và phát triển cực thịnh từ thế kỷ I trước Công nguyên đến

thế kỷ I sau Công nguyên, đã đánh dấu sự phát triển của các hoạt động du lịch ở

Địa Trung Hải. Sự phát triển của đường giao thông, việc xây dựng các công trình

kiến trúc đồ sộ và hoành tráng như các đền thờ, dinh thự, quảng trường ở các thành

thị cổ  đại  La Mã  (đặc biệt là đấu trường Colise’e, nhà tắm Cara Cala và đền

Athe’na ) đã thôi thúc con người từ nhiều vùng đổ về du ngoạn. Người La Mã đã

lập ra một hệ thống trạm dừng chân cho khách với các dịch vụ nghỉ trọ, ăn uống,

bán cỏ khô cho ngựa hay đổi xe, thay ngựa cho khách. Trong các trạm này, mà

ngày nay có tên gọi là các lữ quán (Hostelry) có cả những phòng đặc biệt dành cho

quý tộc chủ nô, quan chức và phòng bình thường cho các khách lữ hành.   2

Cũng từ bán đảo La Mã, nhiều người đã đi du lịch tới các vùng Địa Trung Hải

như thăm các Kim Tự Tháp ở Ai Cập, vườn treo Babylon ở Lưỡng Hà, các đền đài

ở Hy Lạp… Những cơ sở chữa bệnh, nghỉ mát, nơi có các lễ hội, thi đấu thể thao…

dược lựa chọn, được giới thiệu và ở đó mọc lên các dinh thự làm nơi nghỉ dưỡng,

các dịch vụ giải trí, chữa bệnh và sử dụng thời gian rảnh rỗi cho các hoạt động thể

thao. Đó là những yếu tố cơ bản dẫn tới sự hình thành các loại hình du lịch và các

khu du lịch ở Địa Trung Hải.

Vùng tiểu Á trên Địa Trung Hải cũng là nơi diễn ra các hoạt động khá rầm rộ

vào các thế kỷ IV –  I trước Công nguyên. Tài liệu thành văn cho thấy, năm 334

trước Công nguyên ở Ephesus (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) vào dịp lễ hội đã có

khoảng 700.000 khách du lịch tập trung để thưởng thức các hoạt động vui chơi,

biểu diễn. Đó là thời kỳ yên ổn và thịnh vượng của các quốc gia cổ đại với những

thành tựu văn minh rực rỡ. Con người vừa có điều kiện thời gian và tiền bạc, vừa

đảm bảo an toàn khi đi du lịch.

Từ nữa thế kỷ XIX, đặc biệt là vào 30 năm cuối, du lịch có điều kiện phát triển

hơn do Châu Âu và thế giới nói chung ở trong hoà bình, và các nước tư bản đang

trong quá trình tích tụ tư bản để chuyển sang một giai đoạn mới. Mặt khác  thành

tựu khoa học kỹ thuật cũng tạo những điều kiện vật chất cho du lịch được đẩy

mạnh. Các phương tiện du lịch đường thuỷ, tàu hoả đưa số lượng khách tăng hằng

năm và bắt đầu xuất hiện loại du lịch bằng xe đạp và đi bộ. Các khách sạn cũng

mọc lên nhiều hơn,đặc biệt ở những vùng được quy hoạch (ở Địa Trung Hải, ở một

số nơi tại Thuỵ sĩ,ở Nice và Cane tại Pháp…). Theo những số liệu chưa chính thức,

chỉ năm 1896, các khách sạn tại một số thành phố lớn Châu Âu đã đón và phục vụ

từ 3 đến 5 triệu khách du lịch các loại.

Vào những năm vắt ngang hai thế kỷ XIX và XX, du lịch bằng ôtô xuất hiện

cùng với việc xây dựng đường ôtô và sự phát triển các phương tiện thông tin liên

lạc. Người đi du lịch chủ yếu vẫn là các quý tộc, quan chức, thương gia và các tầng

lớp tư sản giàu có và tập trung nhiều vào loại hình du lịch nghỉ dưỡng, giải trí…

Sau chiến tranh thế giới  thứ nhất, du lịch tiếp tục phát triển với việc sử dụng

phương tiện  vận  chuyện bằng máy bay. Năm 1925, hãng hàng không Đức

Lufthansa đã hoàn thành chuyến bay dài 118 dặm và mở ra cho du lịch một hướng

vận chuyển khách thuận lợi.

 Một số nước châu Âu cũng xây dựng và tổ chức các hãng du lịch phục vụ du

khách mang tính chuyên nghiệp. Hiện nay, trên thế giới diễn ra những thay đổi

quan trọng như hướng đi của các dòng du khách, mà nét nổi bật là xu hướng tới

các nước đang phát triển và mới phát triển với loại hình du lịch văn hoá và du lịch

môi trường sinh thái. Các nước ở vùng châu Á – Thái Bình Dương đang là những

nước giữa vai trò du lịch quốc tế chủ động. Mặt khác, cơ cấu chi tiêu của khách du

lịch cũng  thay  đổi theo từng giai đoạn, mà nét nổi bật mà tỷ trọng chi tiêu của

khách du lịch trong các dịch vụ cơ bản (lưu trú, vận chuyển, ăn uống) có xu hướng

giảm trong khi tỷ trọng chi tiêu của khách cho các dịch vụ bổ sung (mua sắm, giải   3

trí, tham quan…) có xu hướng tăng lên. Một xu hướng nữa là việc sử dụng các

dịch vụ du lịch trọn gói ngày càng ít hơn cùng với việc bớt giảm các thủ tục về

xuất nhập khẩu hải quan. Khách du lịch ngày càng chủ động hơn trong việc  lựa

chọn dịch vụ cho mình, kể cả dịch vụ hướng dẫn du lịch.

Ở Việt Nam, đi du lịch cũng là nhu cầu từ xa xưa, và các thế hệ người Việt

Nam cũng đã có những chuyến du lịch nổi danh trong lịch sử. Khách du lịch từ đất

Việt ra đi chủ yếu thuộc các tầng lớp trên hoặc thương gia, nhà khoa học, nhà tu

hành… Mặt khác, nhiều khách du lịch nước ngoài cũng có làm những chuyến lữ

hành đến Việt Nam. Tuy vậy ngành du lịch Việt Nam hiện nay có tuổi chưa phải

cao nếu kể từ ngày thành lập vào 9/7/1960 theo Nghị định 26/CP của Chính Phủ.

Từ Công Ty Du Lịch Việt Nam ngày ấy đến Tổng cục Du Lịch Việt Nam bề thế

hiện nay, ngành  du lịch Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm và đã từng bước

trưởng thành. Trong thời kỳ đổi mới và mở cửa nền kinh tế – xã hội, du lịch Việt

Nam cũng có những đóng góp xứng đáng vào sự phát triển nhiều mặt của đất nước.

Hiện nay cả nước có tới hơn 800 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế

(không kể các hộ tư nhân) tham gia vào việc kinh doanh khách sạn và các dịch vụ

du lịch, có hơn 254 công ty lữ hành nội địa và 78 công ty lữ hành quốc tế. Riêng

trong lĩnh vực hướng dẫn du lịch, Tổng cục Du Lịch Việt Nam đã cấp thẻ hướng

dẫn viên du lịch cho gần 3000 người. Các đơn vị kinh doanh du lịch của Việt Nam

đã có mối liên kết, hợp tác với hơn 1000 hãng công ty Du Lịch từ 60 quốc gia và

lãnh thổ trên thế giới. Ngành Du Lịch Việt Nam là thành viên của tổ chức Du Lịch

Thế Giới ( WTO) từ tháng 9/1981, thành viên của Hiệp hội Du Lịch châu Á – Thái

Bình Dương (PATA) từ 1989, thành viên của Hiệp Hội Du Lịch Đông Nam Á

(ASEANTA) từ 1995…

Phát triển du lịch quốc tế nhằm thu ngoại tệ để khôi phục và phát triển kinh tế.

Cho tới cuối những năm 30, du lịch phát triển rất mạnh. Theo A. Cofechec trong

cuốn “Lịch sử phát triển du lịch – Bundapest – 1966”, số người tham gia du lịch ở

châu Âu và châu Mỹ khoảng từ 50 – 60 triệu.

Với mục tiêu vào năm 2000, Việt Nam sẽ đón tiếp và phục vụ từ 3,5 đến 3,8

triệu lượt khách du lịch quốc tế và đến năm 2010 sẽ là 9 triệu lượt khách quốc tế;

số khách du lịch nội địa sẽ là 11 triệu lượt vào năm 2000 và 25 triệu lượt vào năm

2010. Để thực hiện được mục tiêu ấy, Việt Nam phải nỗ lực rất lớn. Dự kiến với

lượng khách ấy, doanh thu từ du lịch quốc tế sẽ đạt 2,6 tỷ USD vào năm 2000, và

11,8 tỷ USD vào năm 2010. Đó là con số có ý nghĩa khẳng định thế mạnh của du

lịch trong tương lai. Những biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của du lịch Việt

Nam đang được đặt ra vừa cấp thiết vừa lâu dài, nhằm cụ thể hoá đường lối của

Đảng được đề ra trong Đại hội lần thứ VIII là:

“Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam tương xứng với tiềm

năng du lịch của đất nước theo hướng du lịch văn hoá, sinh thái môi trường. Xây

dựng các chương trình và điểm du lịch hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và khu

danh lam thắng cảnh. Huy động nguồn nhân lực của nhân dân tham gia kinh

doanh du lịch, ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng ở những khu vực du lịch tập trung ,ở   4

các trung tâm lớn. Nâng cao trình độ văn hoá và chất lượng dịch vụ với các loại

khách khác nhau. Đẩy mạnh việc huy động vốn trong nước đầu từ vào khách sạn.

Cổ phần hoá một số khách sạn hiện có để huy động các nguồn vốn vào việc đầu tư,

cải tạo nâng cấp,  liên doanh với nước ngoài, xây dựng các khu du lịch và các

khách sạn lớn, chất lượng,  đòi hỏi nhiều vốn. Chuyển các nhà nghỉ, nhà khách từ

cơ chế bao cấp sang kinh doanh khách sạn và du lịch”

Thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước ta đã có những văn bản chỉ đạo hoạt

động du lịch khoa học, thực tiễn và có hiệu quả từ đại hội Đảng lần thứ VIII đến

nay. Pháp lệnh du lịch Việt Nam được ban hành ngày 20/2/99 đã đi vào cuộc sống,

tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch Việt Nam trong những năm tới mà trước tiên là

những sự kiện du lịch Việt Nam năm 2000, trên cơ sở pháp lệnh du lịch đã được

sửa đổi bổ sung thành Luật du lịch và chính thức được Quốc hội nước CHXHCN

Việt Nam thông qua ngày 14 tháng 06 năm 20061

. Tiếp đến là chương trình hành

động của ngành du lịch quốc gia ban hành ngày 21 tháng 07 năm 20092

. Với mục

tiêu: Việt Nam – điểm đến của thiên niên kỷ mới, du lịch Việt Nam đang chuẩn bị

những điều kiện cả trước mắt cũng như lâu dài để đón và phục vụ khách du lịch

gần xa. Một trong những điều kiện ấy là đào tạo nhân lực cho hoạt động du lịch,

trong đó có đào tạo hướng dẫn viên – những người được ví như sứ giả, người đại

diện đón và phục vụ khách du lịch.

Từ đường lối ấy và từ những biện pháp thích hợp,  du lịch Việt Nam  đang

chuyển mình, đón kịp xu thế quốc tế và sự phát triển chung của đất nước. Việc đào

tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch đang là đòi hỏi khách quan trong đó có việc

trang bị kiến thức về nghiệp vụ hướng dẫn du lịch.

2. Vị trí của hoạt động hướng dẫn du lịch:

Trong lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của du lịch, buổi ban đầu, hướng dẫn

du lịch chưa hình thành đồng thời. Khách du lịch chủ yếu tự tìm hiểu để thoả mãn

những nhu cầu của chuyến đi theo mục tiêu đã định. Sau đó, thường là tại các điểm

du lịch những người địa phương đảm nhiệm vai trò giới thiệu cho khách từ những

hiểu biết của mình. Cùng với thời gian, dòng du khách lớn lên kéo theo sự đa dạng

hoá các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch. Hoạt động hướng dẫn du lịch cũng

ra đời, ngày càng có vị trí quan trọng và cần thiết trong kinh doanh  du lịch nói

chung. Hoạt động này từ chỗ là hoạt động kết hợp của những chủ dịch vụ, những

nhà khoa học hoặc những người có hiểu biết cụ thể về một hay nhiều lĩnh vực nhất

định, về một hay nhiều đối tượng tham quan tại điểm du lịch nhất định được thuê

mướn đến chỗ trở thành hoạt động đặc trưng của ngành du lịch. Hướng dẫn viên du

lịch ra đời từ đòi hỏi khách quan, đòi hỏi nghề nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu

hiểu biết của du khách. Thông thường, hướng dẫn du lịch để thoả mãn những nhu

cầu chủ yếu của khách du lịch, mà vì những nhu cầu đó họ sử dụng thời gian rảnh

rỗi và tiền bạc cho nó. 

1

 Tham khảo “Luật du lịch ban” hành ngày 14 tháng 06 năm 2005

2

 Tham khảo “Chương trình hành động của ngành du lịch quốc gia” ban hàng ngày 21 tháng 07 năm 2009   5

Hoạt động hướng dẫn du lịch còn góp phần rất quan trọng vào kinh doanh du

lịch nói chung. Thông qua hoạt động hướng dẫn, các dịch vụ du lịch cơ bản như

dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận chuyển được thực hiện chu đáo hơn,

phong phú hơn do có sự phối hợp của hướng dẫn viên.

II. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN:

1. Hướng dẫn du lịch và những hoạt động chủ yếu:

Hướng dẫn du lịch là hoạt động nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất định của

khách du lịch trong quá trình thực hiện chuyến du lịch.

Hoạt động hướng dẫn du lịch là một hoạt động phức tạp bao gồm các mặt như

cung cấp các thông tin cho quảng cáo, tiếp thị du lịch, đón tiếp khách và phục vụ

khách; giới thiệu các đối tượng tham quan du lịch trong chuyến du lịch (cả trên lộ

trình và ở điểm du lịch); phục vụ khách về các dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận

chuyển, mua sắm, giải trí, y tế… Những vấn đề phát sinh trước, trong và chuyến

du lịch của khách cũng có sự tham gia của hoạt động hướng dẫn.

Do đó, hoạt động hướng dẫn du lịch là một loại dịch vụ đặc trưng của hoạt động

du lịch nói chung, và do các tổ chức du lịch tiến hành. Đó là công ty,hãng,trung

tâm, xí nghiệp, phòng du lịch, đại lý du lịch…Bằng hoạt động hướng dẫn, các tổ

chức kinh doanh du lịch sau khi đã có hợp đồng,thoả thuận đảm bảo phục vụ khách

du lịch, thoả mãn nhu cầu khách đòi hỏi theo chương trình nhất định. Hoạt động

này cuốn hút các bộ phận chức năng, nghiệp vụ có liên quan tới các mặt công tác

khác nhau song chủ yếu vẫn là thông qua các hướng dẫn viên du lịch. Phần lớn các

hoạt động hướng dẫn du lịch được thực hiện bởi hướng dẫn viên. Chất lượng phục

vụ hướng dẫn du lịch cho khách phụ thuộc chủ yếu vào khả năng, nghiệp vụ, tri

thức, phẩm hạnh của hướng dẫn viên du lịch mặc dù sự tham gia của các bộ phận

tham gia của các bộ phận liên quan là không thể thiếu, dù trực tiếp hay gián tiếp.

Chỉ từng hướng dẫn viên du lịch thì không thể thực hiện được hàng loạt công việc

liên quan tới hoạt động hướng dẫn du lịch, tổ chức hoạt động của hướng dẫn viên,

phối hợp hoạt động giữa các hướng dẫn viên  ,thu thập thông tin và xây dựng

chương trình hướng dẫn, chuẩn bị các điều kiện cho hoạt động hướng dẫn,giải

quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện hướng dẫn du lịch.

Hướng dẫn du lịch là hoạt động của các tổ chức kinh doanh du lịch, thông qua

các hướng dẫn viên và những người có liên quan để đón tiếp, phục vụ, hướng dẫn

khách du lịch thực hiện các dịch vụ theo các chương trình được thoả thuận và giúp

đỡ khách giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện chuyến du

lịch. 

Khái niệm trên đây đã chỉ rõ những hoạt động chủ yếu của hướng dẫn du lịch

mà vai trò quan trọng nhất là của hướng dẫn viên, những người thay mặt cho tổ

chức kinh doanh du lịch thực hiện các hợp  đồng giữa đơn vị mình và khách du

lịch. Các hoạt động hướng dẫn du lịch bao gồm nhiều mặt công tác và đòi hỏi về   6

nghiệp vụ tuy mức độ không giống nhau. Nhưng những hoạt động sau đây là

không thể thiếu:

Trước hết là việc tổ chức đón khách và tiễn khách du lịch, sắp xếp nơi nghỉ lưu

trú và ăn uống cho khách, tổ chức chuyến tham quan du lịch đến những nơi có tài

nguyên du lịch được khai thác, sắp xếp các chương trình vui chơi giải trí, mua sắm

cho khách du lịch. Hoạt động này có vai trò của hướng dẫn viên du lịch và sự tham

gia của các bộ phận chức năng liên quan. Hoạt động này của hướng dẫn viên du

lịch khác với những hướng dẫn viên của các lĩnh vực nghề nghiệp khác (hướng dẫn

viên tại các di tích lịch sử – văn hoá, bảo tàng, hướng dẫn viên địa chất, hướng dẫn

viên giao thông…)

Trong quá trình hình thành nghề nghiệp với yêu cầy nghiệp vụ rất rất riêng biệt

đòi hỏi cao về nghề, đã có những quan niệm khác nhau về nghề nghiệp của hướng

dẫn viên du lịch. Những quan niệm này thường bắt nguồn từ những hiện tượng

không đầy đủ, hình thức …của hoạt động hướng dẫn du lịch mà người hướng dẫn

thực hiện. Chẳng hạn, đã từng có quan niệm được lưu truyền (không thành văn) cả

trong và ngoài ngành du lịch rằng hướng dẫn viên du lịch chỉ cần có ngoại ngữ để

làm nhiệm vụ của người phiên dịch cho khách du lịch là người nước ngoài. Hướng

dẫn viên du lịch cũng được ví như nghề ngoại giao.

Một quan niệm khác cho rằng hướng dẫn viên du lịch phải là người có tài nói

năng, tức là phải lợi khẩu, lém lỉnh mới có thể trình bày không cần giấy  tờ trước

khách du lịch phần lớn là mới gặp lần đầu (có lẽ vì điều đó mà người ta thường nói

vui “môi cá chép, mép hướng dẫn” hay “mép cá trôi, môi hướng dẫn”).

Quan niệm nghề nghiệp khá phổ biến từ những người ngoài cuộc cho rằng

hướng dẫn viên du lịch phải là những người có ngoại hình cân đối, ưa nhìn, duyên

dáng, xinh đẹp…mới có sức thu hút khách du lịch.

Những quan niệm này đều đúng từ những khía cạnh nhất định nhưng chưa

chính xác và không đầy đủ nếu xét một cách toàn diện cả về nội dung công việc và

những yêu cầu cơ bản của hướng dẫn viên du lịch. Quan niệm về sự nhàn hạ, sung

sướng thông thường cũng không phải không có trong xã hội  hiện nay nếu xét

tương quan với một số nghề nghiệp khác. Song thực tế lại không phải như vậy.

Thực tế là hướng dẫn viên du lịch có sức hấp dẫn nhất định. Đó là người được

trả tiền cao để thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn cho khách du lịch. Càng vất vả, nguy

hiểm, dài ngày, tiền công càng cao. Ngoài tiền công, hướng dẫn viên còn được tiền

thưởng của khách du lịch nếu khách hàng hài  lòng về công việc của hướng dẫn

viên (tiền “tip”, “pourboire”). Hướng dẫn viên là người được đi đến nhiều nơi kỳ

thú, độc đáo, thưởng thức những sản phẩm của nhiều miền với thời gian khác

nhau. Hướng dẫn viên du lịch cũng là người luôn được chú ý của nhiều đối tượng

khách khác nhau, trở thành trung tâm của các chuyến hành trình du lịch, có kiến

thức sâu về một số lĩnh vực và rộng về nhiều lĩnh vực. Họ cũng như những hướng

dẫn viên của một số ngành khác đòi hỏi một tác phong, thái độ nghề nghiệp, tạo

nên sự  trẻ trung trong tâm tính và hành vi như một nghệ sĩ diễn xuất. Mặt khác,   7

hướng dẫn viên du lịch do yêu cầu lao động và đặc điểm nghề nghiệp,  tích luỹ

được tri thức và kinh nghiệm nên thường có điều kiện trưởng thành cả về phương

diện khoa học và cương vị xã hội.

Tất cả các ưu thế và hạn chế có thực đó cho thấy quan niệm nghề nghiệp của

hướng dẫn viên du lịch cần được hiểu một cách toàn diện.

Do đó, hoạt động hướng dẫn du lịch có thể hiểu là:

Hoạt động theo dõi, kiểm tra việc phục vụ khách du lịch của các cơ sở kinh

doanh dịch vụ du lịch – gồm cả dịch vụ cơ bản và dịch vụ bổ sung – cũng rất cần

thiết. Thông thường, việc phục khách du lịch đã được thoả thuận (thường là bằng

hợp đồng, nhất là theo tours). Song, việc kiểm tra sẽ bảo đảm cho khách được phục

vụ đúng, đủ (cả số lượng, chất lượng, chủng loại) các dịch vụ như đã mua. Khách

du lịch sẽ yên tâm và thoải mái hơn khi có sự theo dõi kiểm tra của hướng dẫn viên

hay nhân viên của công ty du lịch đảm nhiệm vai trò hướng dẫn.

Ngoài ra, hoạt động hướng dẫn còn  thực hiện việc làm cầu nối giữa các cơ sở

kinh doanh du lịch với khách du lịch nhằm cung cấp những dịch vụ du lịch đúng

vơi sở thích,tâm lý,túi tiền của khách. Việc phối hợp hoạt động giữa các cơ sở kinh

doanh dịch vụ du lịch nếu có sự tham gia của hướng dẫn viên sẽ tạo thêm cơ sở

thực tiễn cho việc thoả mãn nhu cầu của khách một cách đầy đủ nhất. Trong những

điều kiện nhất định hoạt động hướng dẫn du lịch trở thành động lực cho các hoạt

động kinh doanh dịch vụ khác phục vụ khách du lịch.

2. Một số hoạt động thông thường có thể hoặc không nhất thiết nằm trong

phạm vi Hướng dẫn viên du lịch:

2.1. Quan niệm nghề nghiệp:

Trước hết phải thấy rằng, hoạt động hướng dẫn du lịch bao gồm một số mặt

công tác và không chỉ do hướng dẫn viên đảm nhiệm, song hoạt động này có hiệu

quả đến mức nào phụ thuộc rất lớn vào hoạt động của hướng dẫn viên du lịch.

Từ những hoạt động nghiệp dư, kiêm nhiệm, hướng dẫn du lịch đã trở thành

một nghề như nhiều nghề khác trong xã hội. Song điều đáng chú ý là nghề hướng

dẫn du lịch thể hiện  sự chuyên biệt hoá rất cao trong các loại hình lao động ở

ngành du lịch.

2.2. Khái niệm và phân loại:

Đã có nhiều định nghĩa, nhiều khái niệm về hướng dẫn viên du lịch được đưa

ra. Trải qua thực tế tồn tại và phát triển của ngành du lịch, khái niệm đó ngày càng

được hoàn thiện và chính xác hơn, phù hợp với thực tế và bản chất công việc

hướng dẫn du lịch.   8

Trường Đại Học British Columbia của Canada, một địa chỉ đào tạo nhân lực du

lịch có uy tín lớn đã đưa ra khái niệm được nhiều người chấp nhận:  

“ Hướng dẫn viên du lịch là các cá nhân làm việc trên các tuyến du lịch trực tiếp

đi kèm hoặc di chuyển cùng với các cá nhân hoặc các đoàn khách theo một

chương trình du lịch nhằm đảm bảo việc thực hiện lịch trình theo đúng kế hoạch,

thuyết minh cho khách về các điểm du lịch đồng thời tạo ra những ấn tượng tích

cực cho khách du lịch”

Năm 1994, Tổng cục du lịch Việt Nam đưa ra khái niệm hướng dẫn viên du lịch

như sau:

“Hướng dẫn viên du lịch là cán bộ chuyên môn làm việc cho các doanh nghiệp

lữ hành (bao gồm các doanh nghiệp du lịch khác có chức năng kinh doanh lữ

hành) thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn du lịch khách tham quan theo chương trình

du lịch đã được ký kết”.

(Qui chế hướng dẫn viên du lịch  –  Ban hành theo quyết định số 235/DL  –

HTĐT ngày 04 tháng 10 năm 1994 của Tổng cục trưởng Tổng cục Du Lịch).

Năm 1997, đã có tác giả Việt Nam đưa ra khái niệm “Hướng dẫn viên du lịch

là một người nào đó hướng dẫn một nhóm người thực hiện chuyến tham quan

trong một thời gian nhất định”

Vì vậy, khái niệm hướng dẫn viên du lịch cần được hiểu như sau:

- Hướng dẫn viên du lịch (thuật ngữ nước ngoài quen dùng là Tour Guide, Tour

Manager,  Tour Leader, (Tiếng Anh),  Guideur Touristque,  Courier Touristque

(Tiếng Pháp)

Theo tính chất công việc hướng dẫn viên du lịch được phân loại như sau:

- Hướng dẫn viên chuyên nghiệp (Tour Guide) là người hướng dẫn đoàn khách

thực hiện chương trình thăm quan du lịch được thoả thuận của tổ chức kinh doanh

du lịch, được cấp thẻ hành nghề.

- Hướng dẫn viên tại điểm (On – site Guide) là người hướng dẫn khách du lịch

thực hiện chuyến tham quan trong một vài giờ nhất định tại những điểm du lịch cụ

thể, chẳng hạn hướng dẫn khách thăm thành cổ Roma (Italia), hướng dẫn khách

thăm Cố cung ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Người hướng dẫn viên địa phương ở Huế

dẫn khách thăm Thành Nội, lăng tẩm…cùng là hướng dẫn viên tại điểm.

- Hướng dẫn viên thành phố (City Guide) là người hướng dẫn khách du lịch

thực hiện chuyến tham quan thành phố, thường là trên các phương tiện di động như

xe buýt, tải, xích lô… Hướng dẫn viên có nhiệm vụ giới thiệu, bình luận cho khách

nghe những đối tượng tham quan nổi bật của thành phố và bình luận về chúng,

đồng thời trả lời các câu hỏi, giải thích cho khách những hiện tượng “lạ” trên lộ

trình trong thành phố.   9

- Hướng dẫn viên không chuyên (Step – on Guide) thật ra là các cộng tác viên

hướng dẫn du lịch mà các tổ chức kinh doanh du lịch thuê theo hợp đồng để hướng

dẫn cho khách du lịch. Họ có thể là nhà khoa học, giáo viên ngoại ngữ, nhà văn,

nhà báo, nhà nghệ thuật có kiến thức về tuyến hay điểm du lịch nhất định mà

khách du lịch cần tìm hiểu. Họ cũng có khả năng hướng dẫn du lịch,có khả năng

ứng xử linh hoạt với khách như những hướng dẫn viên chuyên nghiệp. Họ thường

được thuê theo mùa du lịch hoặc làm tự do ở những điểm, tuyến du lịch nhất định

hay được thuê giới thiệu cho những đoàn khách có nhu cầu du lịch nghiên cứu

chuyên sâu về một vài lĩnh vực nào đó.

- Những hướng dẫn viên là cộng tác viên này có thể làm nhiệm vụ hướng dẫn

đoàn khách trọn vẹn chương trình tham quan du lịch theo hợp đồng hay hướng dẫn

khách trong thành phố.

Một cách phân loại khác là chia thành hướng dẫn viên suốt tuyến và hướng dẫn

viên địa phương.

- Hướng dẫn viên suốt tuyến là những hướng dẫn viên chuyên nghiệp có nhiệm

vụ hướng dẫn khách du lịch từ khi đón khách, trong thời gian chuyến du lịch cho

đến khi tiễn khách, hướng dẫn viên chịu trách nhiệm chủ yếu nhất về việc thực

hiện chương trình du lịch của đoàn khách theo hợp đồng. Người hướng dẫn thuộc

loại này thường là các tổ chức kinh doanh du lịch (nhất là ở các hãng, các công ty

lữ hành).

- Hướng dẫn viên địa phương là hướng dẫn viên tại những điểm du lịch nào đó

hay tạo một thành phố nào đó làm nhiệm vụ hướng dẫn khách du lịch ở điểm du

lịch hay ở thành phố chứ không theo đoàn khách trong suốt chuyến du lịch mà

khách đã mua. Hướng dẫn viên loại này cũng phải có kiến thức về đối tượng tham

quan và kiến thức nghiệp vụ. Họ khác với những người giới thiệu tại chỗ,  vốn

không phải là hướng dẫn viên du lịch

- Hướng dẫn viên tuyến điểm là người thực hiện hướng dẫn khách du lịch trong

các chuyến tham quan du lịch hay tại các điểm du lịch nhằm đáp ứng những nhu

cầu được thoả thuận của khách trong thời gian nhất định và thay mặc tổ chức kinh

doanh du lịch giải quyết những phát sinh trong chuyến du lịch với phạm vi và khả

năng của mình.

Cũng lưu ý là, trong “Pháp lệnh du lịch” được Chủ tịch nước Cộng Hoà Xã Hội

Chủ Nghĩa Việt Nam công bố ngày 20/02/1999 có điều 32 chương V qui định

người được cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Là công dân Việt Nam.

b) Có phẩm chất đạo đức tư cách tốt. Có sức khoẻ phù hợp.

c) Sử dụng thành thạo ít nhất một ngoại ngữ.   10

d) Có bằng tốt nghiệp đại học về chuyên ngành lữ hành, hướng dẫn viên du lịch

hoặc có bằng tốt nghiệp đại học về chuyên ngành khác và có chứng chỉ đào tạo,

bồi dưỡng về hướng dẫn du lịch do cơ sở đào tạo có thẩm quyền cấp.

e) Theo tính chất công việc hướng dẫn viên du lịch được phân loại như sau:

Hướng dẫn viên chuyên nghiệp (Tour Guide) là người hướng dẫn đoàn khách thực

hiện chương trình thăm quan du lịch được  thoả thuận của tổ chức kinh doanh du

lịch, được cấp thẻ hành nghề

3. Vai trò của hướng dẫn viên du lịch trong kinh doanh du lịch:

Hoạt động hướng dẫn du lịch là loại hoạt động dịch vụ đặc trưng của dịch vụ du

lịch và có vị trí quan trọng trong kinh doanh du lịch, đem lại lợi ích nhiều mặt cho

cả tổ chức kinh doanh du lịch và khách du lịch. Song, hoạt động hướng dẫn du lịch

chủ yếu là hoạt động của hướng dẫn viên. Hướng dẫn viên là người tiếp xúc và

phục vụ khách nhiều nhất trong toàn bộ hoạt động hướng dẫn du lịch và tổ chức

kinh doanh du lịch. Hiệu quả của hoạt động hướng dẫn du lịch phụ thuộc  rất lớn

vào chất lượng công việc của hướng dẫn viên. Do đó, hướng dẫn viên du lịch luôn

giữ vai trò là người đại diện của tổ chức kinh doanh du lịch thực hiện hợp đồng với

khách du lịch theo tour mà khách đã mua. Đồng thời, trong nghề nghiệp, hướng

dẫn du lịch là một nghề phức tạp và nặng nhọc theo ý nghĩa nhất định. Vì vậy,

hướng dẫn viên là người đảm nhận phần việc quan trọng nhất,phức tạp nhất và đòi

hỏi tính nghiệp vụ cao nhất trong toàn bộ hoạt động hướng dẫn du lịch.

Chính từ vai trò đó, hướng dẫn viên du lịch, trong thực tế, là người đại diện cho

tổ chức kinh doanh du lịch và trở thành gạch nối giữa khách du lịch và tổ chức

kinh doanh du lịch.

Hướng dẫn viên du lịch, bằng hoạt động nghiệp vụ của mình sẽ tạo mối quan hệ

với các nguồn khách khác nhau để từ đó lôi cuốn khách mua tour của tổ chức kinh

doanh du lịch hay luôn có nhu cầu được mua dịch vụ hướng dẫn từ tổ chức kinh

doanh này. Không những thế, hướng dẫn viên du lịch, do tiếp xúc với các loại

khách khác nhau trong nghề nghiệp của mình, còn có vai trò như người bảo vệ an

ninh quốc gia, an toàn xã hội. Họ góp phần ngăn ngừa các hành vi và hoạt động

của các phần tử gây tổn hại cho an ninh, bảo vệ lợi ích  chính đáng cho khách du

lịch, chủ quyền quốc gia, bảo vệ an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sống, môi

trường du lịch trên tuyến hay tại điểm, tại trung tâm du lịch , ở những địa chỉ mà

họ tới phục vụ.

Một vai trò cũng rất quan trọng của người hướng dẫn viên du lịch là thông tin

và quảng bá cho du lịch Việt Nam, doanh nghiệp du lịch, cho địa phương, cho các

chương trình du lịch dược thiết kế cho sản phẩm du lịch. Họ cũng có điều nắm bắt

thị hiếu, những khen chê từ khách, từ các đối tác, các cơ quan chức năng khác nhau

liên quan tới hoạt động du lịch, tới khách du lịch để thông tin đến những địa chỉ

cần thiết. Với vị thế ấy, hướng dẫn viên du lịch được coi như những tiếp thị viên

không chuyên. Vai trò tiếp thị viên này càng trở nên có ý nghĩa với các doanh   11

nghiệp kinh doanh du lịch hoặc coi thị trường khách đến là thị trường tiềm năng

đang hướng tới, chưa ổn định, mà việc mở rộng thị trường là vô cùng quan trọng.

Có thể nói, hướng dẫn viên du lịch giữ vai  trò không thể thiếu trong hoạt động

hướng dẫn của các tổ chức kinh doanh du lịch. Để hoàn thành nhiệm vụ của mình,

hướng dẫn viên  phải  là những người giỏi nghiệp vụ, có đủ các yếu tố mà nghề

nghiệp đòi hỏi. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#hihi