ngan hang

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

A. LÝ THUYẾT CHUNG

Coi: http://vietinbankschool.edu.vn/Home/Article.aspx?Id=46

I. Khái niệm thanh tra, giám sát:

1.Thanh tra:

_Là sự xem xét, đánh giá và xử lý việc thực hiện pháp luật của tổ chức, cá nhân do tổ chức, người có thẩm quyền thực hiện theo trình tự pháp luật quy định nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp và tổ chức, cá nhân khác.

2.Giám sát

_Là việc tiến hành theo dõi kiểm tra các hoạt động diễn ra trên thị trường nhằm ngăn chặn các giao dịch nội gián, giao dịch thao túng thị trường, bảo vệ quyền lợi người đầu tư.

3.Phân biệt các khái niệm:

_Ở mức độ ý nghĩa chung nhất, giám sát và thanh tra đều được tiến hành trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ của chủ thể được thanh tra, giám sát và đối tượng chịu sự thanh tra, giám sát.

_Điểm khác nhau cơ bản là: trong khi thanh tra luôn luôn gắn liền với quản lý nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước thì giám sát có thể mang tính quyền lực nhà nước hoặc không mang tính quyền lực nhà nước.

+ Giám sát mang tính quyền lực nhà nước được tiến hành bởi chủ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một hay một số hệ thống cơ quan nhà nước khác, chẳng hạn như: hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao; hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương.

+ Giám sát không mang tính quyền lực nhà nước: Là loại hình giám sát được tiến hành bởi các chủ thể phi Nhà nước như hoạt động giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận đối với bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước; hay đơn giản chỉ là giám sát thi công một công trình.

II. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra, giám sát: (nói sơ sơ)

1. Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng:

_Trình Thống đốc NHNN để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các dự án luật, dự thảo nghị quyết, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị định, quyết định về tổ chức và hoạt động của các TCTD, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác, thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng chống rửa tiền theo phân công của Thống đốc NHNN;

_Trình Thống đốc NHNN quyết định hoặc ban hành kế hoạch phát triển hệ thống; quy chế, quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, hướng dẫn trình tự, thủ tục, hồ sơ cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các TCTD, tổ chức tài chính quy mô nhỏ và các loại giấy phép hoạt động ngân hàng khác

_Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền theo phân cấp của Thống đốc NHNN; Thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng theo kế hoạch cải cách hành chính của NHNN và các nhiệm vụ khác.

2. Cơ quan thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán:

ö UBCKNN là cơ quan nắm vai trò then chốt trong việc thanh tra, giám sát hoạt động của TTCK trên phạm vi cả nước.

_Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định:

+Các dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định của Chính phủ; dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán;

+Chiến lược, quy hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hành động, đề án, dự án quan trọng về chứng khoán và thị trường chứng khoán.

_Ban hành văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, văn bản quy phạm nội bộ, văn bản cá biệt thuộc phạm vi quản lý của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước.

_Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án thuộc lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán sau khi được cấp có thẩm quyền ban hành hoặc phê duyệt.

_Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.

_Cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; chấp thuận những thay đổi liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán.

_Quản lý, giám sát hoạt động của các Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán và các tổ chức phụ trợ; tạm đình chỉ hoạt động giao dịch, hoạt động lưu ký của các Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán trong trường hợp có dấu hiệu ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; chấp thuận các quy định, quy chế của các Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán; chấp thuận việc đưa vào giao dịch các loại chứng khoán mới, thay đổi và áp dụng phương thức giao dịch mới, đưa vào vận hành hệ thống giao dịch mới.

_Thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán.

_Thực hiện công tác thống kê, dự báo về hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; tổ chức quản lý và ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.

_Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật.

_Hướng dẫn các tổ chức hiệp hội chứng khoán thực hiện mục đích, tôn chỉ và Điều lệ hoạt động của hiệp hội; kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước, xử lý hoặc kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật của các hiệp hội chứng khoán theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính và quy định của pháp luật.

_Thực hiện chế độ báo cáo về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật và phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

_Thực hiện cải cách hành chính theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt.

_Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính giao và theo quy định của pháp luật.

_Giám sát việc giải quyết khiếu tố của mọi tổ chức, cá nhân hoạt động trong thị trường….

3. Cơ quan thanh tra, giám sát bảo hiểm:

_Tổ chức thực hiện, tuyên truyền phổ biến và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chiến lược, qui hoạch, kế hoạch và các văn bản qui phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.

_Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ để trình Bộ trưởng Bộ Tài chính cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép đặt văn phòng đại diện liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm, bao gồm cả trường hợp đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; chấp thuận những thay đổi liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

_Kiểm tra và giám sát hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam; kiểm tra, giám sát hoạt động của các văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam.

_Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm theo qui định của pháp luật.

_Đề xuất và tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.

_Đề xuất và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động của các hiệp hội và tổ chức phi Chính phủ hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.

_Thường trực giúp các Bộ, ngành liên quan trong việc chỉ đạo giám sát thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (Cơ quan Quốc gia thực hiện chương trình bảo hiểm bắt buộc xe cơ giới).

_Tổ chức công tác thống kê, phân tích, dự báo, sơ kết, tổng kết và đánh giá về tình hình hoạt động của thị trường bảo hiểm; thực hiện chế độ báo cáo thống kê về thị trường bảo hiểm theo quy định của pháp luật.

_Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính giao.

_Giám sát việc giải quyết khiếu tố của mọi tổ chức, cá nhân hoạt động trong thị trường….và được giao nhiệm vụ kiểm tra những vụ việc nhất định khi cần.

III. Vai trò của hoạt động thanh tra giám sát thị trường:

2.1.Đối với thị trường tài chính và Nhà nước:

v Giúp Nhà nước thực hiện các chính sách để điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Ví dụ 1: làm rõ

_Trong trường hợp thay đổi lãi suất chiết khấu, cụ thể là:

ö Ngân hàng Trung ương tăng lãi suất -> Lượng tiền cơ sở giảm -> Mức cho vay của NH hạn chế và lãi suất cho vay cao -> Người chơi CK sẽ chủ yếu dùng tiền của mình, hạn chế không đi vay để chơi CK nữa -> Giảm lượng số lượng người và lượng tiền đầu tư trên TTCK.

(Tiền cơ sởlà thuật ngữ kinh tế chỉ loại tiền có mức độ thanh khoản cao nhất trong các thành phần củacung tiền. Tiền cơ sở bao gồm tiền mặt trong lưu thông do các cá nhân (hộ gia đình và doanh nghiệp không phải ngân hàng nắm giữ) và dự trữ bắt buộc củangân hàng thương mạitạingân hàng trung ương)

Ví dụ 2: làm rõ

öNgân hàng TW tăng lãi suất -> Lượng tiền cơ sở giảm-> Lãi suất tiền gửi của NH cao, hấp dẫn (vì muốn thu hút thêm tiền gửi từ dân khi lượng tiền cơ sở giảm) Cộng thêm nếu thị trường CK không ổn định, rủi ro lớn -> Nhà đầu tư CK sẽ thích gửi tiền Ngân hàng hơn là chơi CK . Kết luận: Thị trường CK cũng có xu hướng giảm theo.

Tổng quát: Từ việc phân tích tác động của các chính sách tiền tệ lên thi trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng , Nhà nước sẽ có những biện pháp và chính sách phù hợp tình hình của nền kinh tế.

v Giúp Nhà nước có các biện pháp điều chỉnh để đảm bảo trật tự trên thị trường tài chính, đảm bảo tính ổn định bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường. Hạn chế các thủ đoạn lách luật, kê khai số liệu khống trong các báo cáo tài chính. Hạn chế tình trạng lũng đoạn, thao túng thị trường.

Thực tiễn: Ngày 3-11, Chính phủ đã trình Quốc hội dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán. Theo các chuyên gia, dự luật đã bổ sung nhiều nội dung quan trọng và tương đối toàn diện nhằm khắc phục những bất cập hiện nay của TTCK. Tuy nhiên, phạm vi sửa đổi, bổ sung luật vẫn còn hạn hẹp, chưa giải quyết hoặc giải quyết chưa triệt để những vấn đề phát sinh.

Ý kiến chuyên gia:

+Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán lần này nhằm giải quyết những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn hoạt động của TTCK, góp phần từng bước thu hẹp thị trường tự do, lành mạnh hóa và nâng cao năng lực hoạt động các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường, góp phần thúc đẩy thị trường công khai, công bằng, minh bạch. Nội dung sửa đổi, bổ sung tập trung chủ yếu vào một số vấn đề như chào bán chứng khoán riêng lẻ, chào bán ra công chúng; chào mua công khai; điều kiện thành lập và hoạt động công ty chứng khoán, quản lý quỹ; công bố thông tin và xử lý vi phạm..."

Ông Vũ Văn Ninh,

Bộ trưởng Bộ Tài chính

+Quy định của dự luật nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp lợi dụng việc phát hành chứng khoán riêng lẻ để chào bán ra công chúng, thoát ly việc kiểm soát, giám sát của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến lợi ích cổ đông. Đồng thời để đảm bảo tính thống nhất của các quy định pháp luật, cần bổ sung tổ chức và hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ vào đối tượng thanh tra, góp phần tăng cường hiệu quả công tác thanh tra và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm.

Ông Hà Văn Hiền,

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội

v Giúp việc mua bán CK được thuận tiện, hợp pháp, giúp cho quá trình lưu vốn được hài hòa và phát triển

v Giúp gia tăng số lượng chứng khoán cung ứng, đáp ứng nhu cầu đầu tư của công chúng, làm cho thị trường hoạt động liên tục, phát triển vững chắc.

+Cải tiến phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ, tăng cường phát hành theo phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ; đa dạng hoá các kỳ hạn trái phiếu Chính phủ để tạo đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường vốn; xây dựng và thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu, nhằm cung cấp đều đặn khối lượng trái phiếu cho thị trường chứng khoán.

v Tạo điều kiện mở rộng thị trường tài chính, tăng cường hội nhập.

Công văn:

QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010

Mục tiêu: Phát triển thị trường chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt độngnhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế.

v Đảm bảo cho thị trường hoạt động theo các nguyên tắc: công khai, trung thực, công bằng, an toàn.

Vì thế cần phải tiến hành sửa đổi, nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán trên một số phương diện chủ yếu sau:

+Tăng cường năng lực quản lý nhà nước bảo đảm sự quản lý linh hoạt, nhạy bén đối với thị trường chứng khoán. Nhà nước thực hiện điều chỉnh, điều tiết thị trường thông qua các chính sách, công cụ kinh tế tài chính - tiền tệ như chính sách thuế, lãi suất, đầu tư và các công cụ tài chính khác.

+Phối hợp chặt chẽ giữa Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các cơ quan hữu quan trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thị trường chứng khoán.

+Xây dựng và áp dụng các tiêu chí giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán; phát triển kỹ năng giám sát thích hợp để phát hiện được các giao dịch bất thường; nâng cao kỹ năng điều tra chuyên sâu các giao dịch nội gián, thao túng giá cả.

+Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các thành viên thị trường và áp dụng nghiêm các chế tài dân sự, hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.

v Hoạt động thanh tra, giám sát tốt sẽ tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu từ nước ngoài.

2.2 Đối với tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế:

v Là thước đo tình trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và sự biến động của nền kinh tế quốc gia.

v Đảm bảo sự an toàn và tính công bằng,minh bạch trong các hoạt động mua bán,bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, đem lại niềm tin cho công chúng còn kích thích phát triển thi trường, tăng hiệu quả huy động vốn, sử dụng vốn.

v Cho phép các nhà đầu tư có thể đầu tư ở nhiều thị trường không chỉ Việt Nam, chia sẻ rủi ro của các nguồn vốn đầu tư.

IV. Đối tượng được thanh tra, giám sát:

1. Các định chế tài chính:

- Các tổ chức tín dụng trong đó có các ngân hàng.

- Các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ.

- Các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm.

2. Các thị trường tài chính:

- Thị trường chứng khoán

- Thị trường tiền tệ liên ngân hàng

V.Cơ chế điều hành, thanh tra và giám sát thị trường tài chính:

ö Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia: Chịu trách nhiệm giám sát chung thị trường tài chính quốc gia (Ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm)

Ủy ban này được thành lập ngày 3 tháng 3 năm 2008 theo quyết định của Thủ tướng.

Chức năng cụ thể:

+Điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành; giám sát chung thị trường tài chính và việc chấp hành các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động giám sát của các cơ quan thanh tra - giám sát chuyên ngành trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.

+Giám sát điều kiện được cấp phép hoạt động của các tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.

+Phân tích, dự báo, cảnh báo mức độ an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng và nguy cơ rủi ro đối với thị trường tài chính quốc gia; thiết lập cơ sở dữ liệu, tổng hợp, xử lý và cung cấp các thông tin về thị trường tài chính quốc gia báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

+Kiến nghị với các cơ quan thanh tra - giám sát chuyên ngành và cấp có thẩm quyền xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân không chấp hành hoặc không thực hiện đầy đủ các điều kiện trong hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán.

+Được yêu cầu Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm cung cấp định kỳ và đột xuất các thông tin liên quan về tài chính - ngân hàng; được trưng tập các cán bộ của các Bộ, ngành khi cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát được giao.

öBên cạnh Ủy ban giám sát tài chính quốc gia còn có một số tổ chức chuyên ngành chuyên phụ trách các mảng riêng lẽ của thị trường tài chính như:

+Tổ chức tín dụng và Ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Thanh tra Chính phủ và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chịu trách nhiệm thanh tra, giám sát.

+Các định chế trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán do Bộ Tài chính và Thanh tra Chính phủ chịu trách nhiệm thanh tra giám sát.

+Các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán trực thuộc các ngân hàng thương mại Nhà nước cũng chịu sự giám sát của Kiểm toán Nhà nước.

1. Cơ chế điều hành, thanh tra và giám sát thị trường tín dụng ngân hàng:

1.1. Ngân hàng Nhà nước:

-Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát ngân hàng, phòng, chống rửa tiền

Mục đích: bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.

Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng được quy định trong Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

1.2. Bộ Tài chính:

- Là cơ quan của chính phủ Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính, ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí và thu khác của ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, các quỹ tài chính nhà nước, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp và hoạt động dịch vụ tài chính (gọi chung là lĩnh vực tài chính - ngân sách), hải quan, kế toán, kiểm toán độc lập và giá cả trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong lĩnh vực tài chính - ngân sách, hải quan, kế toán, kiểm toán độc lập và giá cả; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

1.3. Thanh tra Chính phủ:

- Thanh tra Chính phủ là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ Việt Nam.

- Chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng ngừa, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

1.4. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam:

- Là tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 11 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ.

-Chức năng, nhiệm vụ: nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.

-Nội dung hoạt động:

_Thu phí bảo hiểm tiền gửi của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định.

_Chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền trong phạm vi mức bảo hiểm tối đa theo quy định.

_Theo dõi giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định tại Nghị định của Chính phủ về bảo hiềm tiền gửi và các quy định về an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.

_Hỗ trợ cho các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt.

_Tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản.

_Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chủ trương, chính sách về bảo hiểm tiền gửi.

_Tuyên truyền về bảo hiểm tiền gửi đối với công chúng; tổ chức tập huấn, đào tạo và tư vấn về nghiệp vụ liên quan đến bảo hiểm tiền gửi;

_Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước nhằm tăng cường năng lực hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.

_Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được Thủ tướng Chính phủ giao.

2. Cơ chế điều hành, thanh tra và giám sát thị trường chứng khoán:

Tại mỗi nước, việc điều hành và giám sát thị trường chứng khoán

được tổ chức ở nhiều cấp độ khác nhau. Nhìn chung các tổ chức tham gia

quản lí và giám sát thị trường gồm 2 nhóm:

+Các cơ quan quản lí của Chính phủ

+Các tổ chức tự quản.

2.1. Các cơ quan quản lí của Chính phủ:

Đây là cơ quan thực hiện chức năng quản lí Nhà nước đối với hoạt

động của thị trường tài chính. Nhìn chung các cơ quan quản lí thị trường của Chính phủ chỉ thực hiện chức năng quản lí chung chứ không trực tiếp điều hành và giám sát thị trường. Các cơ quan này có thẩm quyền ban hành các quy định điều chỉnh các hoạt động trên thị trường tài chính, tạo cơ sở cho các tổ chức tự quản trực tiếp thực hiện chức năng điều hành và giám sát thị trường của mình.

Nhìn chung các cơ quan quản lí thị trường của Chính phủ gồm có Ủy

ban chứng khoán và một số bộ ngành có liên quan.

+Ủy ban chứng khoán là cơ quan quản lí chuyên ngành của Nhà nước

trong lĩnh vực chứng khoán, với các chức năng sau:

-Thực hiện các quy định quản lí chứng khoán, phối hợp với các tổ

chức tự quản để điều hành và giám sát có hiệu quả của hoạt động của thị trường chứng khoán .

-Kiểm soát mọi vấn đề trong hoạt động thị trường như: đăng ký chứng khoán, giám sát các công ty niêm yết, phát hiện và xử lý các trường hợp gian lận.

-Quản lí trực tiếp các tổ chức tự quản, giám sát và xử lý các vi phạm đối với các tổ chức tự quản.

-Thanh tra đối với các cá nhân hay tổ chức để bảo vệ lợi ích chung của công chúng trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật.

+Bên cạnh Ủy ban chứng khoán, một số bộ, ngành cũng có chức năng tham gia quản lí một số lĩnh vực có liên quan đến thị trường chứng khoán như: Bộ Tài chính quản lí các vấn đề về kế toán, kiểm toán, phát hành và công khai thông tin công ty, phát hành trái phiếu quốc tế…, Ngân hàng Nhà nước quản lí các ngân hàng thương mại trong việc kinh doanh chứng khoán. Bộ Tư pháp có liên quan tới việc xử lý các gian lận trên thị trường chứng khoán.

2.2. Các tổ chức tự quản:

Xét về mặt lịch sử, việc điều hành và giám sát thị trường chứng khoán được thực hiện bởi các tổ chức tự quản trước, rồi sau đó mới có sự can thiệp của Chính phủ. Các tổ chức tự quản được hình thành cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, thực hiện chức năng điều hành và giám sát thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn thị trường. Các tổ chức tự quản thực hiện quản lí và giám sát thị trường trên cơ sở tuân thủ các quy định của các tổ chức quản lí và giám sát thị trường của Chính phủ.

ö Một tổ chức tự quản hoạt động dựa trên 2 nguyên tắc:

_Các quyết định điều hành đưa ra phải đúng đắn, phù hợp hoàn cảnh thực tế hoạt động giám sát thị trường phải có hiệu quả.

_Chi phí điều hành và giám sát thị trường phải tự bù đắp từ các hoạt động thị trường, không phải do ngân sách cấp.

ö Hoạt động điều hành và giám sát thị trường của các tổ chức tự quản bao gồm 3 bộ phận: quản lí và giám sát các hoạt động giao dịch (bao gồm cả việc phát hành); giải quyết các tranh chấp và tiến hành xử lý các trường hợp vi phạm. Nhìn chung các tổ chức tự quản gồm có:

+Sở Giao dịch

+Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.

2.2.1. Sở Giao dịch

Là tổ chức tự quản, bao gồm các công ty chứng khoán thành viên, trực tiếp điều hành và giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở:

-Đưa ra và đảm bảo thực hiện các quy định cho các hoạt động giao dịch trên Sở Giao dịch.

-Giám sát, theo dõi các giao dịch của các công ty thành viên và khách hàng của họ. Khi phát hiện các vi phạm Sở Giao dịch tiến hành xử lý, áp dụng các biện pháp cưỡng chế thích hợp. Trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng đến các quy định của ngành chứng khoán, Sở Giao dịch có thể báo cáo lên Ủy ban chứng khoán để giải quyết.

2.2.2.Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán

Là tổ chức của các công ty chứng khoán được thành lập với mục đích tạo ra tiếng nói chung cho toàn ngành kinh doanh chứng khoán và đảm bảo lợi ích chung của thị trường chứng khoán. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thực hiện các chức năng điều hành và giám sát thị trường chứng khoán như sau:

-Điều hành và giám sát thị trường phi tập trung (OTC). Các công ty muốn tham gia thị trường này phải đăng ký với Hiệp hội và phải thực hiện các quy định Hiệp hội đưa ra.

-Đưa ra các quy định chung cho các công ty chứng khoán thành viên trong các lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và đảm bản thực hiện các quy định này.

-Thu nhận các khiếu nại của khách hàng và điều tra các công ty chứng khoán thành viên để tìm ra các vi phạm để xử lý.

-Đại diện cho ngành chứng khoán đưa ra các đề xuất và gợi ý với những cơ quan quản lí thị trường chứng khoán của Chính phủ về các vấn đề tổng quát trên thị trường chứng khoán.

VII. Thực tiễn tại Việt Nam:

1. Thanh tra, giám sát Ngân hàng:

_Hiện nay, TTNH được tổ chức thành bộ máy thuộc NHNN, gồm Thanh tra NHNNTW và Thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố chịu sự chỉ đạo, điều hành của chi nhánh NHNN, vừa của TTNHNNTW. Cơ chế điều hành này gây ra sự chậm trễ, chồng chéo, không thống nhất giữa trung ương và địa phương, hiệu lực thấp. Mạng lưới thanh tra NHNN được phân bổ”bình quân”theo địa giới hành chính, trong khi các ĐCTC lại phân bổ không đồng đều trên các địa phương.

_Thanh tra NHNNTW chịu sự chỉ đạo và hướng dẫn về tổ chức và nghiệp vụ thanh tra của Tổng Thanh tra nhà nước, đồng thời chịu sự chỉ đạo của Thống đốc NHNN, dẫn đến sự chồng chéo và thiếu thống nhất giữa các cấp lãnh đạo trong hoạt động thanh tra. Các mối quan hệ chỉ đạo, điều hành và phối hợp giữa các vụ, cục chức năng tại NHNNTW với chi nhánh NHNN trong lĩnh vực TT – GS cũng rất chồng chéo, trùng lặp, không rõ ràng. TTNH không có chức năng cấp và thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng là một trong những nguyên nhân gây ra sự nhũng nhiễu của các đối tượng bị TT – GS và thiếu chặt chẽ trong mô hình TT – GS.

2. Thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán:

_Sau hơn 9 năm đi vào hoạt động và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh nhưng đi cùng với nó là sự xuất hiện của các hành vi vi phạm pháp luật. Hoạt động thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trên TTCK là công việc thường xuyên, trọng tâm của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK). Đặc biệt, trong thời gian gần đây, hoạt động này đã được tăng cường khi diễn biến thị trường sôi động trở lại. Tính đến thời điểm này đã có 154 quyết định xử phạt được cơ quan này ban hành trong năm 2009, trong đó đã xử phạt 7 vụ thao túng thị trường và giao dịch nội gián.

_Đẩy mạnh công tác thanh tra trên mọi hoạt động của TTCK là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của UBCKNN. Trong số những kết quả đạt được của công tác thanh tra, giám sát thị trường của UBCKNN năm 2009, hoạt động thanh tra có những đóng góp cụ thể sau:

_Hoạt động thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trên TTCK là công việc thường xuyên, trọng tâm của UBCK. Đặc biệt, trong thời gian gần đây hoạt động này đã được tăng cường khi diễn biến thị trường sôi động trở lại. Trong thời gian qua, UBCK đã phối hợp với các đơn vị trong Ủy ban và các đơn vị thuộc các bộ, ngành có liên quan, tổ chức theo dõi, rà soát và cử đoàn thanh tra, kiểm tra và có xử phạt các vụ sau:

- Vụ thao túng thị trường đối với các cổ phiếu của CTCP Kỹ nghệ khoáng sản Quảng Nam (MIC), CTCP Vincom (VIC), CTCP Du lịch Vinpearlland (VPL);

- Vụ thao túng thị trường đối với cổ phiếu của CTCP Xi măng Cần Thơ (CCM);

- Vụ giao dịch nội gián đối với cổ phiếu CTCP XNK Lâm Thuỷ sản Bến Tre (FBT);

- Vụ giao dịch nội gián đối với cổ phiếu CTCP Phát triển Nhà Thủ Đức (TDH);

- Vụ giao dịch nội gián đối với cổ phiếu của CTCP Khoáng sản Hà Nam (KSH).

Kết quả thanh tra năm 2009:

_Trong năm vừa qua, UBCKNN đã tiến hành thanh tra,kiểm tra định kỳ 11 công ty chứng khoán, 11 công ty đại chúng, 5 công ty quản lý quỹ, 6 văn phòng đại diện công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam, kiểm tra các hoạt động của Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh; Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra đột xuất đối với các giao dịch và hoạt động kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên thị trường, thanh tra, kiểm tra đột xuất hoạt động phát hành chứng khoán của một số công ty đại chúng, công ty niêm yết.

_Về công tác xử lý vi phạm, năm 2009, UBCKNN đã ban hành 170 quyết định xử phạt, trong đó đã xử phạt 4 trường hợp thao túng thị trường, 3 trường hợp giao dịch nội gián. 20% các quyết định là xử phạt các hành vi vi phạm quy định giao dịch. Tổng số tiền phạt nộp vào Ngân sách Nhà nước là 4,5 tỷ đồng.

_Ngoài ra, UBCKNN đã tiếp nhận và xử lý 18 đơn thư khiếu nại, tố cáo về các hoạt động liên quan tới việc điều hành các công ty đại chúng và giao dịch chứng khoán tại các công ty chứng khoán.

_Để hoàn thiện các văn bản pháp lý về hoạt động thanh tra giám sát thị trường cũng như hoàn thiện khuôn khổpháp lý về CK&TTCK, trong năm vừa qua, UBCKNN đã hoàn thiện dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 36/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán; Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán

_Chương Thanh tra và xử lý vi phạm, Chương giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo và bồi thường thiệt hại; Hoàn thiện và trình cấp có thẩm quyền ban hành Thông tư liên tịch số 46/2009/TTLT-BTC-BCA giữa Bộ Tài chính và Bộ Công an hướng dẫn phối hợp xửlý vi phạm trong lĩnh vực CK&TTCK, đồng thời phối hợp với cơ quan Cảnh sát điều tra (C15) tiến hành phổ biến nội dung Thông tư tại Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán và tại một số công ty chứngkhoán.

Tổng kết: Bên cạnh những thành quả đã đạt được vẫn tồn tại nhiều bất cập cần khắc phục để thị trường chứng khoán VN phát triển vững chắc.

3. Thanh tra, giám sát bảo hiểm:

_Về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN): là một tổ chức tài chính Nhà nước, có vốn pháp định là 5000 tỷ đồng do NSNN cấp, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, nhưng cho đến nay vẫn không rõ BHTGVN là loại ĐTTC nào!

_Thu nhập của BHTGVN là nguồn thu phí bảo hiểm từ các ĐCTD, nhưng nghiệp vụ của BHTGVN dường như thoát ly hoàn toàn với gánh nặng rủi ro mà các TCTD nộp phí phải đối mặt, các suất phải thanh toán bảo hiểm cho người gửi tiền rất thấp vì phải “chờ” đối tượng bảo hiểm bị công bố phá sản hay giả thể thực sự bằng văn bản thì BHTGVN mới vào cuộc.

_Từ khi thành lập tới nay, BHTG VN mới chỉ chi chưa đầy 20 tỷ để chi bảo hiểm cho người gửi tiền ở hơn 10 quỹ TĐN sau khi bị tuyên bố giải thể. Hơn nữa, Chính phủ và NHNN thường phải chủ động phòng ngừa nguy cơ phá sản ngân hàng ngay từ khi có những mức độ nguy hiểm khác nhau, điều này đòi hỏi BHTGVN phải có trách nhiệm với các TCTD đã nộp phí và phải hoạt động thao sự điều chỉnh của Luật Danh nghiệp, đồng thời cũng phải là đối tượng bị TT – GS của cơ quan TT – GS chuyên ngành thanh tra bảo hiểm trên TTTC VN.

_ Những ĐCTC bảo hiểm khác: Việc giám sát các ĐCTC bảo hiểm đang được giao cho nhiều vụ chức năng thuộc Bộ Tài chính ứng với các chức năng quản lý nhà nước như mô hình TT – GS rất manh mún trên TTCK hiện nay. Nghiệp vụ TT – GS đối với các ĐCTC bảo hiểm còn ở trình độ cổ điển, bị động dựa trên sự việc đã xảy ra, đi xác minh, kiểm tra số liệu và không rõ hoạt động theo sự điều chỉnh của luật nào?, việc chỉ trả tiền bù của các ĐCTC bảo hiểm phải tuân thủ theo cơ chế nào? đều “tuỳ quy chế riêng” và hiện nay vẫn còn nhiều bất cập cần được giải quyết.

XI. Những bất cập của hoạt động thanh tra, giám sát tại Việt Nam:

- Hầu hết các kết luận của cơ quan thanh tra chưa được công khai với báo chí

Theo Quy chế hoạt động của đoàn thanh tra (do Thanh tra Chính phủ ban hành) quy định: Kết luận thanh tra phải được công khai. Song thực tế việc công khai kết luận thanh tra mới dừng ở mức gửi cho đối tượng thanh tra và công bố tại nơi thanh tra, trong khi đó các cơ quan báo chí lại gặp nhiều rào cản từ cơ quan thanh tra.

- Mô hình, tổ chức, cơ chế giám sát của VN phân tán nhưng chồng chéo (theo TS Nguyễn Thị Kim Thanh).

- Ở các nước, có 3 mô hình cơ cấu giám sát thị trường tài chính:

+ Theo lĩnh vực (mô hình phân tán)

Theo bà Nguyễn Thị Kim Thanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ - Ngân hàng Nhà nước (NHNN), việc giám sát thị trường tài chính của Việt Nam hiện được thực hiện theo mô hình phân tán:

+ Theo mục đích

+ Mô hình một cơ quan giám sát duy nhất, có thể tách ra từ cơ quan thanh tra hoặc từ bộ phận giám sát của NHNN.

- Ở Việt Nam hiện nay, việc giám sát đối với hệ thống tài chính ở nước ta như sau:

+Tổ chức tín dụng và Ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Thanh tra Chính phủ và Bảo hiểm tiền gửi VN giám sát.

+Các định chế trong lĩnh vực bảo hiểm, CK do Bộ Tài chính và Thanh tra Chính phủ giám sát.

+Ngoài ra, các DNNN trong lĩnh vực bảo hiểm, CK trực thuộc các NHTMNN cũng chịu sự giám sát của Kiểm toán Nhà nước.

à Vì thế, dẫn đến sự thiếu sự liên thông trong việc giám sát chung thị trường tài chính do các cơ quan giám sát chuyên ngành hoạt động độc lập, chưa có sự phối hợp. Do vậy, khó giám sát được rủi ro chéo.

- Hiện nay năng lực quản lý, giám sát khu vực tài chính của VN dường như chưa theo kịp với tốc độ phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng.

ü Công tác ban hành các văn bản pháp luật, các chính sách điều hành thị trường chưa linh hoạt, còn bị động và chậm so với yêu cầu thực tiễn phát triển của trị trường.

ü Năng lực và số lượng cán bộ giám sát thực sự chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác giám sát an toàn TTTC ngày càng phát triển phức tạp. Ví dụ: Số lượng thanh tra chứng khoán chỉ có khoảng 20 người. Trong khi đó,nhìn sang các thị trường phát triển, dù khập khiễng, như ở Anh quốc có tới 3.000 cán bộ chuyên trách.

ü Thiếu chiến lược, quy hoạch đồng bộ, những quy chế hoạt động và quản lý, chồng chéo trong chức năng hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay hỗ trợ, huy động vốn. Do đó làm giảm hiệu quả kinh tế của các nguồn vốn, dẫn tới sự chia cắt thị trường tài chính và tăng nguy cơ đổ vỡ của hệ thống tài chính

ü Hệ thống thông tin quản lý còn lạc hậu về công nghệ,chậm điều chỉnh, đặc biệt là về cơ sở dữ liệu và phần mềm phân tích, đánh giá.

+ Việc giám sát còn rất thủ công khiến hoạt động điều tra khá khó khăn. Nhiều nước trên thế giới có hệ thống cho phép xem xét lại toàn bộ lịch sử giao dịch, nhất là trong một thời gian dài như từ 4 đến 5 tháng, một cách nhanh chóng.

+ Khi có tin báo, Ủy ban phải lật lại dữ liệu, và phải phối hợp với cơ quan chức năng để điều tra. Ủy ban chỉ có chức năng giám sát, thanh tra, và phải từ 3 đến 6 tháng sau khi kiểm tra thì thông tin mới được công bố.

- Vị thế pháp lý và quyền lực của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia chưa đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ giám sát chung thị trường tài chính và điều phối hoạt động giám sát hiệu quả giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành.

+Từ tháng 3-2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia (NFSC) với nhiều chức năng và nhiệm vụ quan trọng như: điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia, kiến nghị cơ chế giám sát, giám sát chuyên ngành; giám sát chung thị trường tài chính, giám sát điều kiện được cấp phép; phân tích, dự báo, cảnh báo mức độ an toàn hệ thống và nguy cơ rủi ro đối với thị trường tài chính quốc gia.

à NFSC dường như có quyền lực tối cao trên thị trường. Tuy nhiên, đến thời điểm này, hoạt động của cơ quan này vẫn là việc tổ chức một số hội thảo và đối thoại giữa chính phủ, các cơ quan chức năng và các trí thức, học giả.

- Kế hoạch hoạt động của thanh tra chứng khoán (trực thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) đều được xây dựng ngay từ đầu, nhưng rồi phải xem xét và điều chỉnh để phù hợp với thực tế, thị trường biến động liên tục.

à kế hoạch chưa sát với thực tế.

- Chưa thực hiện giám sát trên cơ sở rủi ro.

- Nhiều khái niệm liên quan đến TTTC chưa được định nghĩa rõ ràng và nhất quán trong các văn bản pháp lý như thị trường tài chính, tập đoàn tài chính, thanh tra, kiểm tra,….

- Thiếu sự minh bạch và thiếu chất lượng trong các báo cáo tài chính.

- Hệ thống cảnh báo sớm và xử lý sau giám sát hầu như chưa có.

- Các đối tượng khác chưa được quan tâm giám sát (Công cụ tài chính, Hạ tầng cơ sở tài chính, các điều kiện kinh tế vĩ mô). Sự phát triển, đổi mới của các công cụ tài chính (công cụ phái sinh ra đời) không song hành với sự đổi mới, phát triển công tác giám sát

- Hoạt động hợp tác giám sát tài chính giữa Việt Nam và các nước khác còn quá khiêm tốn.

- Hệ thống các chỉ tiêu giám sát ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm chưa theo thông lệ quốc tế (Quyết định457/2005 của NHNN, Quyết định 493/2005 của NHNN,Quyết định 92/2004 và Quyết định 153/2003 của BTC).

- Chưa có kế hoạch thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng nước ngoài đang đầu tư ở VN tại chính thị trường tài chính của họ, từ đó thông tin sẽ bất đối xứng, ko có lợi cho nhà đầu tư VN.

Ví dụ : Những bất cập trên đã gây ra nhiều vụ việc làm trái pháp luật mà gần đây là vụ việc bà Nguyễn Thị Kim Phương bị Ủy ban Chứng khoán quyết định xử phạt: vào ngày 3-2, bà Phượng chào mua công khai 1,3 triệu cổ phiếu VTV của Công ty cổ phần vận tải Xi măng với mục đích tăng tỷ lệ nắm giữ. Giá cổ phiếu VTV vào thời điểm này khoảng 40.000 đồng. Đến ngày 24-3, bà Phượng đã bán 557.800 cổ phiếu VTV (chiếm 8,5% khối lượng niêm yết của cổ phiếu này) nhưng không thông báo với Ủy ban Chứng khoán và cũng không công bố thông tin theo quy định. Giá khớp lệnh trong giao dịch này là 55.000 đồng/cổ phiếu, như vậy bà Phượng đã có lãi 8,3 tỉ đồng chỉ sau một tháng rưỡi đầu tư.Điều đó khiến nhiều nhà đầu tư lỗ nặng khi thông tin bán ra hoàn toàn không được công bố, ảnh hưởng đến uy tín của thị trường CK VN.

- Yếu kém trong việc quản lý các công ty tài chính có vốn nước ngoài

- Chưa chú trọng giám sát an toàn vĩ mô.

VIII. Hoạt động thanh tra, giám sát thị trường chứng khoán:

1.Trong giai đoạn 2000-2009:

* Thành tích đạt được:

Công tác quản lý Nhà nước và điều hành TTCK được thực hiện tương đối linh hoạt, bảo đảm TTCK vận hành an toàn và phát triển ổn định, từng bước nâng cao năng lực giám sát và cưỡng chế thực thi quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.

Áp dụng các thông lệ về quản trị công ty tốt, các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán quốc tế và khuyến cáo của Tổ chức quốc tế các UBCK (IOSCO). thể hiện mục tiêu tăng cường tính công khai, minh bạch bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư

Thiết lập cơ chế giám sát TTCK chuyên sâu, chuyên nghiệp theo thông lệ quốc tế.

Công tác thanh tra, giám sát của UBCKNN tập trung vào: giám sát tuân thủ các tổ chức trung gian thị trường; giám sát tuân thủ các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết; giám sát tuân thủ của các SGDCK, TTLKCK; bên cạnh đó, giám sát giao dịch trên TTCK nhằm phát hiện các hành vi lạm dụng thị trường; thanh tra thực hiện chức năng cưỡng chế thực thi.

Bên cạnh đó, tồn tại một số tiêu cực ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nhà đầu tư.

Một số hành vi tiêu cực trên thị trường chứng khoán:

1. Tư vấn vì lợi ích cá nhân của nhà môi giới:

Do ý đồ cá nhân, nhà môi giới có thể sẽ tư vấn đầu tư không phù hợp với nhu cầu, khản năng tài chính và mục tiêu của khách hàng. Do đó, khách hàng cần nhận thức rằng, mình muốn được hướng dẫn đầu tư phù hợp v ới bản thân mình chứ không phải phù hợp với người môi giới. Mỗi khoản đầu tư được tư vấn đều cần có lời giải thích cặn kẽ, gồm cả việc khuyến cáo các rủi ro.

2. Vi phạm quy định giao dịch công bằng

Các hoạt động sau đây bị xem là vi phạm những quy định liên quan đến giao dịch công bằng:

_Đề nghị thực hiện việc đầu cơ chứng khoán mà không xem xét tình hình tài chính của khách hàng và đảm bảo khách hàng không chịu rủi ro.

_Mở tài khoản khống chế thực hiện việc kinh doanh chứng khoán trái phép.

_Thực hiện các giao dịch ngoài thẩm quyền được giao.

_Đề nghị mua chứng khoán không thích hợp với khả năng chi trả của khách hàng.

_Các hoạt động lừa đảo (chẳng hạn như giải mạo và cung cấp không đầy đủ hoặc không cung cấp số liệu thực tế).

1. Giao dịch thái quá:

Hành vi giao dịch thái quá có nghĩa là giao dịch thườ ng xuyên và với số lượng lớn trên tài khoản của khách hàng nhằm mục đích nhận hoa hồng mà không nhằm đạt được các mục tiêu khách hàng đã đề ra. Đây là hành vi lạm dụng trách nhiệm uỷ quyền của khách hàng.

2. Vay và cho vay tiền và chứng khoán:

Vay tiền và vay chứng khoán của khách hàng: Các nhà môi giới chứng khoán bị cấm vay tiền hay chứng khoán từ khách hàng trừ phi khách hàng là ngân hàng hay các tổ chức tài chính có chức nằn thực hiện việc cho vay tiền và chứng khoán.

Cho khách hàng vay tiền và chứng khoán: Các nhà môi giới chứng khoán cũng bị cấm cho khách hàng vay tiền hay chứng khoán. Quy định này không áp dụng cho nghiệp vụ vay bảo chứng của các công ty chứng khoán hay việc các nhà môi giới chứng khoán cho vay theo nghiệp vụ thông thường.

5. Xuyên tạc:

Các nhà môi giới chứng khoán không được phép xuyên tạc, nói không đúng về bản thân hay v ề các dịch vụ của công ty mình đối với khách hàng tiềm năng. Việc công bố không chính xác hay không công bố các sự kiện quan trọng liên quan đến những vấn đề trên cũng bị coi là xuyên tạc. . Không được phép xuyên tạc về:

-Trình độ, kinh nghiệm và học vấn.

- Loại hình dịch vụ phục vụ khách hàng.

-Các loại phí

6. Sử dụng các báo cáo, công trình nghiên cứu của công ty hoặc cá nhân khách:

Nhà môi giới và công ty chứng khoán không được phép sử dụng các nghiên cứu phân tích hay đề nghị do cá nhân hay công ty khác tiến hành mà không công bố rằng, các báo cáo này không phải do chính họ thực hiện.

2. Định hướng phát triển hoạt động nghiên cứu, giám sát TTCKVN trong giai đoạn 2011 – 2020

* Mục tiêu:

-Phát triển TTCK nhiều cấp độ, bảo đảm chứng khoán được tổ chức giao dịch theo nguyên tắc thị trường, có sự quản lý, giám sát của Nhà nước; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.

-Đa dạng hóa các sản phẩm, nghiệp vụ của thị trường, đảm bảo cho các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả dựa trên nền tảng quản trị rủi ro và phù hợp với các chuẩn mực chung và thông lệ quốc tế. Từng bước tái cơ cấu hệ thống các trung gian thị trường trên nguyên tắc không gây xáo trộn lớn và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên thị trường.

-Phát triển TTCK trong mối tương quan với việc phát triển thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm, nhằm tạo ra một hệ thống thị trường tài chính thống nhất, đồng bộ có sự quản lý, giám sát của nhà nước. Hoạt động quản lý, giám sát, điều hành và phát triển của các cơ quan quản lý nhà nước phải thống nhất về mục tiêu, mục đích, định hướng và giải pháp thực hiện.

* Giải pháp cụ thể

-Tăng cường năng lực quản lý, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán trên cơ sở phân định rõ chức năng giám sát giữa Bộ Tài chính/UBCKNN với các bộ ngành, giữa các cấp giám sát khác nhau theo hướng chuyên biệt hóa; tăng cường vai trò giám sát của các tổ chức tự quản và tổ chức hiệp hội

-Thiết lập cơ chế chính thức phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong và ngoài nước trong lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động giám sát, cưỡng chế thực thi, bảo đảm an toàn cho hoạt động chứng khoán trên TTCK Việt Nam.

IX. Đề xuất mô hình thanh tra, giám sát hợp nhất:

1. Mô hình cơ quan giám sát tài chính hợp nhất:

_Xu hướng hợp nhất các cơ quan quản lý và giám sát thị trường tài chính hay nói đúng hơn là sự chuyển hướng từ phương thức giám sát theo từng lĩnh vực riêng lẻ sang hình thành một cơ quan giám sát duy nhất, thực hiện giám sát toàn bộ hệ thống tài chính theo các mục tiêu đề ra, đang ngày càng trở nên rõ nét trên phạm vi toàn cầu bởi mô hình này mang lại hiệu quả giám sát cao hơn và nhất quán hơn.

_Nhìn lại lịch sử phát triển của thị trường tài chính có thể thấy rằng, một trong những sự phát triển vượt bậc của thị trường tài chính cuối thế kỷ 20 là sự ra đời của các Tập đoàn tài chính lớn, kinh doanh đan xen đa ngành, đa lĩnh vực. Chỉ trong vòng 5 năm, từ năm 1995 đến năm 2000, số lượng các Tập đoàn lớn được xếp vào danh sách 500 tổ chức tài chính lớn nhất thế giới đã tăng trừ 42% lên 60%.

à Điều này đã gây khó khăn lớn cho các cơ quan quản lý và giám sát khi phân chia giám sát theo lĩnh vực và đó cũng là lý do chủ yếu cho sự ra đời của mô hình giám sát hợp nhất vì mô hình này có thể giám sát chéo giữa các lĩnh vực kinh doanh khác nhau của cùng một Tập đoàn mà không tạo nên sự chồng chéo.

Đối với một cơ quan giám sát hợp nhất, mục tiêu giám sát thận trọng là mục tiêu quan trọng nhất trong giám sát và quản lý khu vực tài chính và nó bao gồm: giám sát ổn định vĩ mô: đảm bảo tính an toàn cho cả hệ thống tài chính ; giám sát ổn định vi mô: đảm bảo sự ổn định cho mỗi thành viên tham gia thị trường; bảo vệ người tiêu dùng và chính sách cạnh tranh nhằm phòng ngừa những thất bại của thị trường. Tuy vậy, trong nhiều báo cáo (kể cả các báo cáo của IMF), các tác giả thường cho rằng, một cơ quan giám sát được coi là hợp nhất hoàn toàn (fully integrated) là cơ quan chịu trách nhiệm giám sát thận trọng với ít nhất 3 mảng thị trường là thị trường ngân hàng, thị trường bảo hiểm và thị trường chứng khoán. Những cơ quan này, đôi khi không chịu trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng. Cũng bởi thế, trong mô hình giám sát hợp nhất còn có “mô hình hợp nhất 2 đỉnh” (two peaks framework) - mô hình mà ở đó một cơ quan chịu trách nhiệm giám sát thận trọng trong cả 3 lĩnh vực chính: ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và một cơ quan chịu trách nhiệm về giám sát hoạt động, bảo vệ người tiêu dùng và quản trị công ty.

Điển hình một số nước đã áp dụng thành công: ( Nêu ra, bảng số liệu thời gian kết hợp với % áp dụng từng mô hình)

Singapore là quốc gia đầu tiên áp dụng mô hình giám sát hợp nhất vào năm 1982 rồi đến Nauy năm 1986. Sau đó là một loạt các nước ở Châu Âu, như Đan Mạch năm 1988, Thụy Điển năm 1991, Anh năm 1997, Đức và Áo năm 2002, Aixơlen năm 2003 và Bỉ năm 2004. Ngoài ra còn có Úc, Nhật Bản, Hàn quốc và một số nước khác. Tính chung trên toàn thế giới, đến cuối năm 2004, đã có 29 quốc gia và vùng lãnh thổ có cơ quan giám sát hợp nhất, rất nhiều nước vẫn duy trì mô hình giám sát theo lĩnh vực riêng lẻ. Theo báo cáo năm 2006 của IMF (xem cụ thể ở Bảng 1 và tóm tắt ở Sơ đồ 1) thì vẫn có tới 41% các quốc gia và vùng lãnh thổ lựa chọn mô hình Cơ quan Giám sát theo lĩnh vực, trong đó có Mỹ; 26% lựa chọn mô hình hợp nhất một phần, tức là Cơ quan Giám sát chỉ giám sát 2 trong 3 lĩnh vực; và có 33% có mô hình giám sát hợp nhất. Điều này cho thấy mô hình Cơ quan Giám sát hợp nhất có nhiều ưu điểm nhưng cũng không ít hạn chế.

Sơ đồ 1: Mô hình Cơ quan Giám sát tài chính ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ

Số liệu tính đến cuối năm 2004

2. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình cơ quan giám sát tài chính hợp nhất:

2.1. Ưu điểm:

Thứ nhấtvà cũng là ưu điểm quan trọng nhất của mô hình Giám sát hợp nhất chính là tính hiệu quả giám sát và hiệu lực thi hành cao, đặc biệt trong việc giám sát chéo hoạt động trong các Tập đoàn tài chính kinh doanh đa ngành. Việc sáp nhập các cơ quan giám sát riêng lẻ vào thành một cơ quan duy nhất sẽ làm tăng hiệu quả điều phối, giảm bớt các chức năng trùng lắp. Việc xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực trong giám sát sẽ tránh được những “khoảng trống” trong quản lý, đặc biệt là quản lý rủi ro, giúp cơ quan giám sát đánh giá được rủi ro tổng thể, ngăn chặn nguy cơ lan truyền rủi ro

Thứ hai,mô hình giám sát hợp nhất góp phần đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng. Những sản phẩm tài chính như nhau sẽ chịu sự quản lý như nhau từ phía cơ quan quản lý Nhà nước, tránh được tình trạng thiếu đồng nhất trong các văn bản quản lý được ban hành bởi các cơ quan khác nhau, đồng thời tránh được sự chồng chéo trong hoạt động quản lý, tạo nên một sân chơi bình đẳng hơn cho các thành viên tham gia thị trường. Điều này đặc biệt quan trọng khi mô hình tổ chức của các tổ chức tài chính và các sản phẩm cung cấp có quá nhiều điểm tương đồng. Bởi lẽ, nếu không có một cơ quan quản lý và giám sát hợp nhất, tất yếu sẽ tạo nên những khác biệt về chính sách và sẽ tạo ra những lợi thế cho một số thành viên thị trường.

Thứ ba,mô hình giám sát hợp nhất có tính linh hoạt cao hơn. Một thể chế đơn nhất rõ ràng sẽ giải quyết các mâu thuẫn hiệu quả hơn và sẽ phản ứng nhanh hơn trước các yêu cầu, nhất là đối với các sản phẩm và dịch vụ mới - điều này đặc biệt quan trọng đối với các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi khi tiến hành những thay đổi cơ cấu.

Thứ tư,mô hình giám sát hợp nhất sẽ phát huy được lợi ích kinh tế nhờ quy mô. Cùng chia sẻ cơ sở hạ tầng, cùng một bộ phận hành chính và hỗ trợ sẽ giảm đáng kể chi phí hành chính. Một tổ chức lớn hơn sẽ dễ chuyên môn hóa đội ngũ nhân viên và có thể áp dụng những công nghệ hiện đại, đắt tiền mà các bộ phận giám sát riêng lẻ rất khó có được. Hơn nữa, khi các số liệu được tập trung về một đầu mối, việc phân tích các số liệu trong báo cáo sẽ hiệu quả hơn và chính xác hơn, tránh được sự chồng chéo trong thu thập thông tin và giảm được những thông tin sai lệch.

Thứ năm,mô hình giám sát hợp nhất cũng góp phần nâng cao tính trách nhiệm. Khi chỉ có một cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm giám sát, họ không thể đổ lỗi cho ai được nữa. Tuy nhiên, để có được điều này, đòi hỏi phải đưa ra những mục tiêu rõ ràng và có sự phân công, phân nhiệm hết sức cụ thể.

2.2. Hạn chế:

Bên cạnh những ưu điểm nổi trội trên, cũng có không ít những hạn chế khiến nhiều quốc gia e ngại và họ vẫn chưa áp dụng mô hình này, đó là:

Thứ nhất,như trên đã phân tích, nếu các mục tiêu không được xác định rõ ràng và không quy định cụ thể về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền hạn thì hiệu quả của mô hình này thậm chí còn không bằng mô hình giám sát theo lĩnh vực riêng lẻ.

Thứ hai,lợi ích kinh tế nhờ quy mô sẽ rất khó đạt được nếu các quy định giữa các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán cũng như các quy định có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau không được hài hòa hóa khi hợp nhất. Khi đó, không những lợi ích kinh tế nhờ quy mô không đạt được mà nó còn phản tác dụng vì sẽ rất khó quản lý được một tổ chức có quy mô quá lớn và phạm vi ảnh hưởng quá rộng. Không những thế, các tổ chức có quy mô quá lớn mà không quản lý được sẽ dẫn đến quan liêu và cứng nhắc vì bản thân các nhà quản lý cũng không thể nắm được hết phạm vi trách nhiệm của mình đến đâu. Hơn nữa, cũng vì các mục tiêu đặt ra của Cơ quan giám sát hợp nhất là khá rộng, từ việc duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính cho đến bảo vệ quyền lợi của những người gửi tiền, các nhà đầu tư cũng như các khách hàng của các công ty bảo hiểm hay quỹ hưu trí, do đó, nếu các mục tiêu này đã được quy định cụ thể nhưng không truyền đạt tới những người có quyền lợi liên quan, các cán bộ giám sát sẽ không thể nhận ra sự khác biệt giữa các loại hình tổ chức, do đó, tính trách nhiệm của các các giám sát viên sẽ giảm đi và họ sẽ bị lẫn lộn giữa các mục tiêu.

Thứ ba,rủi ro về đạo đức cũng là một vấn đề tiềm ẩn. Khi các thành viên tham gia thị trường tin tưởng rằng tất cả các chủ nợ của các tổ chức đều được giám sát bởi Cơ quan giám sát hợp nhất thì cũng có nghĩa là họ sẽ được bảo vệ như nhau. Chẳng hạn, chủ nợ của một tổ chức tài chính có thể hy vọng và yêu cầu được bảo vệ như những người gửi tiền trong ngân hàng khi có những vấn đề tài chính nảy sinh. Vấn đề chia sẻ thông tin cũng là một trong những nguyên nhân của rủi ro đạo đức.

Thứ tư,quá trình hợp nhất thường nảy sinh rất nhiều rủi ro tiềm ẩn như: (1) việc lựa chọn cơ chế giám sát được được thảo luận mở, vì thế, không thể đảm bảo cơ chế được chọn là cơ chế tối ưu bởi lẽ, mô hình này có thể là tối ưu đối với nước này nhưng với nước khác lại không phải là tối ưu, (2) hiệu quả của quá trình thay đổi có thể bị ảnh hưởng bởi lợi ích riêng nào đó, (3) quá trình hợp nhất là không ngắn nên có thể mất một số cán bộ trụ cột, (4) trong quá trình hợp nhất về mặt kỹ thuật, sự phát triển của thị trường có thể sẽ không nhận được sự giám sát và quản lý một cách thích đáng trong ngắn hạn.

Ngoài ra, chắc chắn có rất nhiều khó khăn nảy sinh trong quá trình hợp nhất. Chẳng hạn, sẽ rất khó xây dựng cơ chế quản lý rủi ro chung và tạo ra văn hóa giám sát do có sự khác biệt giữa các lĩnh vực. Ví dụ như trong ngân hàng, những rủi ro được đặt ở bên Có thì trong bảo hiểm, những rủi ro lại nằm ở bên Nợ. Hay việc xử lý các vấn đề liên quan về nhân sự cũng mất rất nhiều thời gian.

Số liệu thống kê:

Theo số liệu điều tra năm 2006 của WB đối với 23 nước có Cơ quan Giám sát hợp nhất thì thời gian cần thiết để xứ lý các nhiệm vụ chủ yếu phát sinh sau khi hợp nhất là:

- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của tổ chức mới sáp nhập: 2 năm

- Xây dựng chiến lược cho tổ chức mới, thể hiện mục tiêu, chiến lược và sách lược để đạt được mục tiêu đã định: 1,4 năm

•Xây dựng khuôn khổ thể chế quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn và mục tiêu của các bộ phận: 1,3 năm

•Hợp nhất hệ thống IT: 1,1 năm

•Bố trí lại nhân sự và phân công lại nhiệm vụ: 1 năm

•Hợp nhất quy trình ngân sách: 0,8 năm

•Bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo cho các phòng ban chức năng: 0,7 năm

2.3. Những bài học rút ra cho Việt Nam:

Một là,không có một mô hình giám sát tài chính mẫu nào có thể áp dụng chung cho tất cả các nước. Mỗi quốc gia khác nhau có thể chế chính trị khác nhau, lịch sử, nền văn hoá khác nhau, và đặc biệt đều có cấu trúc TTTC đặc thù của mình. Đây chính là những nhân tố chủ yếu quyết định mô hình tổ chức nào nên được lựa chọn. Song xu hướng hiện nay là các nước đang hướng tới việc xây dựng một Cơ quan Giám sát tài chính duy nhất, thực hiện giám sát toàn bộ TTTC.

Ở Việt nam, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cũng đã được thành lập từ tháng 3/2009, tuy nhiên, ở một chừng mực nhất định, vẫn có sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ giám sát, thanh tra của nhiều cơ quan và Ủy ban Giám sát vẫn chưa thực sự thể hiện được tiếng nói của mình trong hoạt động giám sát. Hơn nữa, chúng ta vẫn chưa tách bạch rõ ràng các khái niệm giám sát, kiểm tra, thanh tra nên mục tiêu giám sát vẫn chưa cụ thể. Vấn đề còn nằm ở khả năng phối kết hợp và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành. Nếu Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia chỉ thực hiện chức năng giám sát từ xa còn chức năng giám sát tại chỗ được giao cho các cơ quan giám sát chuyên ngành thì rõ ràng hiệu quả và hiệu lực giám sát của Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia sẽ không được như mong muốn.

Hai là,để áp dụng mô hình Cơ quan Giám sát hợp nhất, một nền tảng luật pháp cho sự ra đời và vận hành của cơ quan này là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của mô hình này. Cơ cấu tổ chức quản lý tác động trực tiếp đến tính hiệu quả và hiệu suất chung của công tác quản lý và giám sát, do đó, phải coi đây là tiêu chí hàng đầu khi chọn lựa mô hình giám sát ở từng nước. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức tự thân nó không đảm bảo có thể đem lại những hoạt động quản lý và giám sát hiệu quả, và sẽ rất nguy hiểm nếu mặc nhiên coi rằng việc thay đổi cơ cấu của các cơ quan quản lý là liều thuốc chữa bách bệnh. Việc cơ cấu tổ chức làm được là hình thành một bộ khung, trong đó có thể tối ưu hóa một mô hình quản lý. Còn chất lượng và hiệu quả quản lý chỉ có được khi có một khuôn khổ luật pháp mạnh mẽ hơn, đội ngũ nhân viên được đào tạo bài bản hơn, và hệ thống công nghệ hiệu quả hơn. Bất kỳ một nước nào cho rằng việc vá víu cơ cấu tổ chức của các cơ quan có thể giúp giải quyết những vấn đề quá khứ nhưng sẽ rất dễ phải đối mặt với những khủng hoảng tương tự trong tương lai.

Ba là,ở các nước phát triển và một số nước đang phát triển, NHTW vẫn thực hiện chức năng giám sát để bảo đảm thực hiện thành công CSTT, đảm bảo cho hệ thống tài chính và TTTC vận hành một cách trôi chảy, hiệu quả.

Bốn là,để một hệ thống giám sát hợp nhất thực sự hoạt động có hiệu quả, phải xác định rõ mục tiêu, quy định cụ thể nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận, từng cán bộ. Nhanh chóng tiến hành tích hợp các hệ thống IT và cơ sở hạ tầng tài chính khác của các cơ quan được sáp nhập. Vấn đề tuyển dụng nhân sự, đặc biệt là ở những vị trí quản lý chủ chốt, cho cơ quan này phải thực sự được chú trọng. Bởi phạm vi ảnh hưởng quá lớn nên nếu các cán bộ này không đủ TẦM thì không thể quán xuyến được và không có TÂM thì không thể tránh được những rủi ro về đạo đức. Muốn có được cả 2 điều này, không thể thiếu một nguồn lực đủ lớn và một đội ngũ lãnh đạo đủ mạnh. Mà để có được đủ những điều này, Việt nam còn phải đi qua một chặng đường khá dài với rất nhiều cố gắng nỗ lực nữa mới tới được./.

Trích: ThS. Trịnh Thanh Huyền

Trường ĐT&PTNNL Ngân hàng TMCP Công thương Việt nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

http://www.veer.vn/News/6189/chuc-nang-nhiem-vu-quyen-han-va-co-cau-to-chuc-cua-co-quan-thanh-tra-giam-sat-ngan-hang.aspx

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng

http://luat.xalo.vn/phap-luat/Quyet-dinh/189215697/Quy-dinh-chuc-nang-nhiem-vu-quyen-han-va-co-cau-to-chuc-cua-Uy-ban-Chung-khoan-Nha-nuoc-truc-thuoc-Bo-Tai-chinh.html

http://luat.xalo.vn/phap-luat/Quyet-dinh/189215697/Quy-dinh-chuc-nang-nhiem-vu-quyen-han-va-co-cau-to-chuc-cua-Uy-ban-Chung-khoan-Nha-nuoc-truc-thuoc-Bo-Tai-chinh.html

http://www.ssc.gov.vn/portal/page/portal/ubck/gthieu/cnnvu

Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước

(http://www.sggp.org.vn/taichinhnganhangchungkhoan/2010/11/242170/

Sửa đổi, bổ sung luật chứng khoán: Tăng minh bạch, thêm niềm tin)

(http://www.isponre.gov.vn/home/chien-luoc-phat-trien-kt-xh/nganh-linh-vuc-khac/205-chien-luoc-phat-trien-thi-truong-chung-khoan-viet-nam-den-nam-2010)

http://www.scribd.com/doc/490045/Thi-truong-tai-chinh

http://vietinbankschool.edu.vn/Home/Article.aspx?Id=46

Thực trạng của thị trường tài chính việt nam

http://www.scribd.com/doc/12898349/TTTC

http://luattaichinh.wordpress.com/2010/06/02/ti-chnh-%E1%BB%9F-m%E1%BB%B9-v-d%E1%BB%81-xu%E1%BA%A5t-m-hnh-thanh-tra-gim-st-d%E1%BB%93ng-b%E1%BB%99-th%E1%BB%8B-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-ta/

http://www.thanhtra.gov.vn/PortletBlank.aspx/5029A39874D649149B2EBD4C061300E2/View/Ky-yeu-nghien-cuu-khoa-hoc-nganh-Thanh-tra/35A2046B354EB8FEECBC9530B88F4230/9571.ttcp?print=Phan_III-Chuong_1$82305

http://www.div.gov.vn/Default.aspx?tabid=120&CategoryID=3&News=1152

http://www.ssc.gov.vn/portal/page/portal/ubck/tintuc/1107861?p_page_id=1107861&pers_id=1108311&folder_id=&item_id=1505234&p_details=1

http://www.thanhtra.gov.vn/Desktop.aspx/Tin-tuc/Thanh-tra/UBCK_Nha_nuoc_thanh_tra_giam_sat_moi_hoat_dong_chung_khoan/?SearchTerms=ho%E1%BA%A1t+%C4%91%E1%BB%99ng+thanh+tra%2c+gi%C3%A1m+s%C3%A1t+th%E1%BB%8B+tr%C6%B0%E1%BB%9Dng

http://www.thanhtra.gov.vn/Desktop.aspx/Tim-kiem/Desktop.aspx?desktop=Tim-kiem&SearchTerms=ho%E1%BA%A1t+%C4%91%E1%BB%99ng+thanh+tra%2c+gi%C3%A1m+s%C3%A1t+th%E1%BB%8B+tr%C6%B0%E1%BB%9Dng

http://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BB%A6y_ban_Gi%C3%A1m_s%C3%A1t_T%C3%A0i_ch%C3%ADnh_Qu%E1%BB%91c_gia_Vi%E1%BB%87t_Nam

http://khoahockiemtoan.vn/Category.aspx?newsID=195

http://www.tin247.com/uy_ban_chung_khoan_nha_nuoc_trien_khai_giam_sat_thi_truong-3-60710.html

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#123