đấ𝚝 𝚗ướ𝚌

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

     Đất nước là hình tượng trữ tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật của nhiều thế hệ nhà thơ Việt Nam. Có một thực tế: mỗi khi đất nước đặt trước những thử thách thì hình tượng đất nước lại ngời sáng trong văn học với những phát hiện mới mẻ, độc đáo. Trường ca "Mặt đường khát vọng" với trích đoạn "Đất Nước" là một minh chứng đẹp đẽ cho quy luật này. Những cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đạt tới một tầm vóc triết học sâu sắc qua đoạn trích: "..."

     Nhà thơ đã mở đầu đoạn trích bằng cách thể hiện những cảm nhận sâu sắc và toàn diện về đất nước. Độc giả sẽ phát hiện sự hình thành và phát triển của đất nước. Tác giả cảm nhận về đất nước dưới góc độ lịch sử và chiều sâu văn hóa. Với giọng thơ nhẹ nhàng êm ái, thiết tha như lời thủ thỉ tâm tình làm xao xuyến, lay động lòng người. Cấu trúc đoạn thơ được viết theo lối tổng - phân - hợp, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian để đưa ta về với mảnh đất của niềm tự hào dân tộc vừa bình dị gần gũi vừa thiêng liêng, cao cả.

   "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi"

   Khác với giọng điệu hùng hồn, hào sảng của những áng thơ xưa viết về đề tài đất nước. Câu thơ mở đầu với lời lẽ rất dung dị mà tha thiết tác giả đưa ta đến một cảm nhận ấm áp và tự hào về sự hình thành của đất nước và trả lời cho câu hỏi: "Đất nước có từ bao giờ?". "Ta" là một khái niệm mơ hồ không xác định, đó có thể là bất cứ người Việt Nam nào. Mỗi người Việt Nam sinh ra luôn được bao bọc, nuôi dưỡng và che chở trong chiếc nôi lớn lao ấm áp, thân yêu: đó là đất nước. Đất nước có từ lâu đời, tồn tại cùng dòng thời gian vô thủy vô chung. Câu thơ đầu của đoạn trích dẫn người đọc trở về với quá khứ, lịch sử xa xưa của dân tộc. 

   Từ câu 2 đến câu 8, nhà thơ đưa ta về với cội nguồn, quá trình hình thành và phát triển của đất nước. Sự xuất hiện của một hệ thống các từ ngữ chỉ thời gian như: "bắt đầu", "lớn lên", "có từ ngày đó" đã khơi dậy được quá trình hình thành và phát triển của đất nước. Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận đất nước rất riêng, ông quan sát trong muôn mặt đời thường và trong quan hệ ruột rà máu mủ. Ở đó, hình hài của đất nước từ thuở sơ khai cho đến mãi sau này luôn gắn bó với những con người, những sự vật vừa gần gũi bình dị vừa cao cả, thiêng liêng. Một đất nước hiện ra thật bình dị, gần gũi. Đó là những câu chuyện cổ tích hàng đêm mẹ thường hay kể. Đó là "miếng trầu bà ăn", miếng trầu bình dị, thân quen gắn bó với cuộc sống thường nhật của mỗi người dân Việt. Đó là lũy tre xanh tự ngàn đời nay đã bao bọc xóm làng, trở thành biểu tượng của linh hồn đất Việt. Đó còn là búi tóc của mẹ, nghĩa tình cha mẹ yêu nhau, là những sự vật xung quanh ta, những hạt gạo, cái kèo, cái cột nhỏ bé bình dị. Đất nước không hề cao siêu, xa vời mà rất giản dị, có mặt trong cuộc sống của ta. Sự hình thành và phát triển của đất nước gắn liền với những con người bình dị, là mẹ , là cha, là bà, là người nông dân "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời". Đất nước thật cao cả, thiêng liêng trong những hình ảnh, những sự vật, sự việc quen thuộc mà nhà thơ đã cảm nhận chiều sâu những giá trị văn hóa tinh thần của đất nước.

   Với nhà thơ, đất nước đã có trong những câu chuyện cổ tích mẹ kể:

"Đất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa" mẹ thường hay kể..."

Câu thơ sử dụng mô típ quen thuộc "ngày xửa ngày xưa" của truyện cổ tích. Những câu chuyện mẹ kể đêm đêm gần gũi với ta, đồng thời cũng là những giá trị văn hóa, những di sản tinh thần mà ông cha để lại cho con cháu từ ngàn xưa, đó là tấm gương phản chiếu hiện thực đời sống và tâm hồn người bình dân Việt Nam. Nó kết tinh bao vẻ đẹp về đạo lí của người dân Việt, đem đến cho biết bao thế hệ những rung cảm thẩm mĩ, lòng biết ơn sâu sắc... Và những câu chuyện đó đưa ta về với những năm tháng tuổi thơ êm đềm, đẹp đẽ, những năm tháng con người được tắm mát nuôi dưỡng lớn lên từ những giá trị vật chất, di sản tinh thần của dân tộc.

   Đất nước còn gắn liền với sự ra đời của những phong tục tập quán tốt đẹp từ ngàn đời:

"Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn."

Hình ảnh miếng trầu thật bình dị, quen thuộc nhưng lại mang trong mình giá trị văn hóa đặc sắc gắn liền với phong tục tập quán từ ngàn đời đó là tục ăn trầu của nhân dân có từ thời Hùng Vương, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của người Việt Nam. Câu thơ gợi ta liên tưởng tới sự tích "Trầu cau" kể về mối tình bất hạnh, bi thương mà xúc động, qua đó đề cao tình nghĩa vợ chồng thủy chung son sắt, tình anh em keo sơn, gắn bó. Hình ảnh "miếng trầu" đã đi vào văn học dân gian rất đỗi thân thương

"Miếng trầu là đầu câu chuyện"

hay 

"Miếng trầu nên dâu nhà người"

Hình tượng quả cau, miếng trầu luôn xuất hiện trong các sự kiện trọng đại, trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam, hình ảnh miếng trầu tuy nhỏ nhoi nhưng nồng ấm tình người. Như vậy thật kì diệu biết bao khi một nét phong tục tập quán hiện diện qua miếng trầu đã làm nên đất nước.

   Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm, nhà thơ đã lí giải đất nước gắn liền với truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm:

"Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc."

Câu thơ không chỉ nhắc đến lũy tre xanh bao bọc xóm làng từ ngàn đời "Tre xanh, xanh tự bao giờ". Tre còn biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam cần cù, chịu thương chịu khó. Hình ảnh cây tre đã đi vào trong đời sống và trong văn học thật đẹp. Gậy tre, chông tre đã cùng con người Việt Nam xông pha lửa đạn, tiêu diệt kẻ thù. Hình ảnh đó còn gợi nhắc về truyền thống đánh giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Ý thơ ám chỉ đến truyền thuyết "Thánh Gióng" với ngựa sắt, áo giáp sắt nhổ bụi tre bên đường đánh tan giặc Ân bảo vệ bờ cõi thiêng liêng của đất nước rồi trở thành một huyền thoại lịch sử. Từ hình ảnh cậu bé Phù Đổng ở làng Gióng với lòng căm thù giặc sâu sắc và lòng yêu nước cháy bỏng đã thổi bùng lên khát vọng, tiếp thêm sức mạnh, ý chí nghị lực và quyết tâm chiến thắng quân thù cho bao thế hệ tuổi trẻ Việt Nam xuống đường đấu tranh chống giặc để bảo vệ đất nước.

   Làm nên đất nước không thể quên những phong tục đẹp của con người Việt Nam:

"Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng."

Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận về đất nước rất riêng: đất nước không ở đâu xa mà có mặt, hình thành trong búi tóc cuộn tròn sau đầu của mẹ - hình ảnh thân thương, thân thuộc. Từ hình ảnh ấy đã thấy được tập quán, nét văn hóa của dân tộc thật đáng tự hào bởi nó đã tôn lên được vẻ đẹp dịu dàng, thanh tao, làm nên nét đẹp riêng của người phụ nữ Việt Nam.

"Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn."

Đất nước còn có mặt trong mỗi mái nhà, trong từng tổ ấm, trong hạnh phúc lứa đôi, là đời sống tình nghĩa yêu thương thủy chung của cha mẹ được ví như "gừng cay muối mặn". Câu thơ lấy chất liệu từ ca dao:

"Muối ba năm muối hãy còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa."

Hay

"Tay bưng chén muối đĩa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau."

Từ đắc tính của gừng, của muối không thay đổi để nói đến tình yêu son sắt, thủy chung, mặn nồng trong đời sống tình cảm của cha mẹ. Điều đó góp phần tạo nên nét đẹp riêng cao quý trong đời sống tâm hồn của con người Việt Nam. Chính văn hóa ứng xử làm nên truyền thống tốt đẹp cho đất nước.

"Cái kèo, cái cột thành tên"

Ngay cả những hình ảnh rất bình dị "cái kèo", "cái cột" thật gần gũi không mấy người để ý, quan tâm, song nó lại phản ánh quá trình hình thành ngôn ngữ dân tộc. Người bình dân xưa đã lấy tên gọi những vật bình dị, quen thuộc ấy để đặt tên cho con cái. Họ đã góp phần phát triển tiếng nói dân tộc. Ý thơ vừa gợi lối tư duy đơn giản, hồn nhiên nhưng cũng mang đậm màu sắc tâm linh của người Việt.

"Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng."

Hạt gạo được xem là biểu tượng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Câu thơ với việc sử dụng thành ngữ "một nắng hai sương" và thủ pháp liệt kê "xay, giã, giần, sàng". Tác giả đã thể hiện được sự lam lũ, tảo tần, sự chịu thương chịu khó của người dân Việt Nam từ bao đời nay. Qua đó nhà thơ còn ngầm thể hiện thái độ trân trọng, tự hào, biết ơn về đức tính cần cù của người dân Việt Nam xưa. Chính họ dã tạo nên sự sống và góp phần lưu giữ sự sống đó cho đất nước đến muôn đời.

   Đoạn thơ khép lại bằng câu thơ ngắn gọn, mang tầm khái quát cao:

"Đất Nước có từ ngày đó..."

Dấu "..." kết thúc dòng thơ gợi ra chiều sâu hun hút của lịch sử, quá khứ xa xăm của dân tộc đồng thời thể hiện những cảm xúc thiết tha, sâu lắng cùng những chiêm nghiệm suy tưởng sâu xa về lịch sử hình thành đất nước. Quả thật nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chạm vào những gì thiêng liêng, lớn lao nhất nhưng cũng thật gần gũi, bình dị đối với con người, tác giả giúp chúng ta có thêm những cảm nhận sâu sắc về đất nước.

    Ở phần sau, tác giả tập trung thể hiện tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Nhân dân làm ra không gian địa lí, gắn liền với danh lam thắng cảnh. Từ những cảm nhận độc đáo về đất nước trên nhiều bình diện, Nguyễn Khoa Điềm tập trung thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra, nhân dân chính là người làm ra không gian địa lí. Với thể thơ tự do, giọng thơ đậm chất văn xuôi như lời thủ thỉ tâm tình. Hàng loạt hình ảnh đẹp gắn với tên đất, tên làng trên dải đất hình chữ S chợt hiện về trong phép tu từ liệt kê. Động từ "góp" cũng xuất hiện một cách dày đặc. Đoạn thơ liệt kê địa danh ba miền nhằm vẽ lên dáng hình xứ sở, phác họa hình ảnh đất nước Việt Nam vẹn toàn, khơi dậy niềm tin vào ngày thống nhất đất nước. Viết về quê hương đất nước, nhiều nhà thơ, nhà văn ngợi ca tự hào vẻ đẹp của cảnh trí non sông:

"Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!

Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt."

Với nhà thơ Nguyễn Đình Thi đất nước thật đẹp, trù phú:

"Những cánh đồng thơm ngát

Những ngã đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa."

Nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại có cách cảm nhận rất riêng, thể hiện những suy ngẫm, cảm nhận về số phận, tâm hồn dân tộc qua những danh thắng ấy. Với nhà thơ, nhân dân chính là người tạo ra đất nước. Không có nhân dân thì những hòn Vọng Phu, Trống Mái... chỉ là những vật vô tri vô giác mà thôi. Nhân dân đã đặt tên, ghi dấu ấn đời mình lên ngọn núi, con sông; đã thổi vào chúng linh hồn sự sống; đã kí thác vào đó ước mơ, khát vọng và những đam  mê cháy bỏng.

 Nhân dân gửi ở hòn Vọng Phu khát vọng về hạnh phúc đôi lứa:

"Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu."

Với nhà thơ, mỗi ngọn núi, con sông đều được nhân dân thổi vào đó linh hồn của sự sống để nó có tên tuổi và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Câu thơ gợi nhắc về sự tích hòn Vọng Phu, hình ảnh nàng Tô Thị ôm con chờ chồng hóa đá đã tạc vào thời gian, không gian để khẳng định lòng thủy chung son sắt của người vợ bất tử như đá kia trường tồn vĩnh cửu. Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm, đất nước Việt Nam trải qua binh biến, loạn lạc, biết bao người phụ nữ đã chờ chồng trong mỏi mòn, vô vọng. Chính họ đã thổi vào đá núi, tạo nên hòn Vọng Phu - biểu tượng cho lòng thủy chung của người phụ nữ Việt Nam. Ý thơ gợi ta liên tưởng đến những vần thơ đầy xúc động của Chế Lan Viên:

"Không hóa thạch kẻ ra đi, hóa thạch kẻ đợi chờ

Xói mòn những non cao, không xói mòn lòng chung thủy

Đá đứng đấy giữa mưa nguồn và chớp bể

Đợi một bóng hình trở lại giữa đơn côi."

Mảnh đất Thanh Hóa gắn với hình ảnh hòn Trống Mái:

"Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái."

Nếu không có những mối tình đăm say, không có khát vọng hạnh phúc muôn đời thì khó có thể nhìn những hòn đá vô tri vô giác thành hòn Trống Mái. Nhân dân kí thác vào đó sự thủy chung và niềm hạnh phúc lứa đôi viên mãn.

Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm:

"Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại."

Câu thơ đã vận dụng linh hoạt truyền thuyết Thánh Gióng. Chàng trai làng Gióng cưỡi ngựa sắt, mặc áo giáp sắt đánh tan giặc Ân xâm lược. Ngựa đưa chàng bay lên đỉnh núi Sóc Sơn vẫy tay tạm biệt mẹ già ở quê hương. Những vó ngựa của chàng để lại trên đất mẹ thân thương những ao đầm. Những ao đầm bình dị bỗng mang ý nghĩa thiêng liêng không chỉ bởi nó là dấu tích của người con anh hùng mà vì nó còn gợi lên truyền thống đánh giặc kiên cường của dân tộc.

"Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương."

Câu thơ gợi nhắc đến đất tổ Hùng Vương ở Phú Thọ. Đây là vùng đất linh thiêng nơi đặt đền thờ của các vị vua Hùng. Nơi đây núi non trùng điệp như bầy voi chín mươi chín con về quây quần chầu phục trước nhân tài. Nhờ sức mạnh, tinh thần đoàn kết, trên dưới một lòng trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, chống giặc ngoại xâm và lịch sử dựng nước của các vua Hùng nên những ngọn núi trập trùng kia trở nên linh thiêng đến thế.

"Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm."

Với cách liên tưởng phong phú, nhà thơ đã khiến người đọc cảm thấy vô cùng hấp dẫn, thú vị vì những dòng sông xanh mát kia chính là những con rồng do trời sai xuống đem nước tưới tiêu cho hạ giới. Câu thơ gợi nhắc đến dòng Cửu Long Giang - đó là dòng sông hợp nhất bởi chín nhánh sông nhỏ với hình dáng thơ mộng ôm ấp một huyền thoại kiêu sa về dòng sông. Những dòng sông ấy đem đến sự sống, bồi đắp phù sa cho quê hương xứ sở, đem đến những điều tốt đẹp cho cuộc đời.

"Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên."

Câu thơ gợi nhắc đến truyền thống hiếu học của con người Việt Nam, đó là truyền thống luôn được kế thừa và phát huy từ ngàn đời. Từ thế hình núi non rất giống cái bút và nghiên mực nên người dân Quảng Ngãi đã đặt tên là "núi Bút, non Nghiên" và trở thành biểu tượng cho truyền thống hiếu học của một dân tộc nghìn năm văn hiến. Ý thơ gợi nhắc đến cậu học trò nghèo Mạc Đĩnh Chi đã vượt lên trên hoàn cảnh nghèo khổ, thi cử đỗ đạt, tên tuổi được khắc trên bia và lưu vào sử sách để nhắc nhở những người học trò noi gương sáng nỗ lực phấn đấu hết mình trong học tập để thành công.

"Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh."

Nhắc đến Hạ Long là nhắc đến thắng cảnh đẹp nổi tiếng của Việt Nam và là di sản văn hóa thế giới. Nơi đây có những đảo đá thiên tạo từ bao đời. Vì yêu quý vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh trí nơi đây nên nhân dân đã lấy tên những con vật gần gũi quen thuộc"con cóc, con gà" đã đặt tên cho đảo đá ấy khiến cho những vật vô tri vô giác cũng trở nên gần gũi và có ý nghĩa lớn lao.

Và cả những người dân bình dị trong những chuyến di dân cũng đem đến cho đất nước những xóm làng mơi, với những địa danh mới:

"Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông  Trang, Bà Đen, Bà Điểm."

Đây là những địa danh quen thuộc ở Nam Bộ. Bao người dân cực Nam tổ quốc từng xẻ núi, lấn biển, đào kênh. Tên tuổi của họ gắn với những ấp, những làng nhằm tri ân công lao của người có công khai phá, dựng xây đất nước. Như vậy, trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, dáng hình của Đất Nước là do số phận và tâm hồn nhân dân làm nên. Những núi, những sông, những gò, những bãi là sự hóa thân của nhân dân. Tám dòng thơ ngắn gọn nhưng mang tầm tư tưởng thời đại: Đất Nước của nhân dân, nhân dân làm ra đất nước.

Từ cảm nhận những địa danh cụ thể, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến một ý khái quát cao độ:

"Và ở đâu trên khắp rộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha."

Chữ "và" đứng đầu đoạn thơ kết nối mạch cảm xúc thơ trữ tình chính luận. Lối diễn đạt phủ định để khẳng định "chẳng mang" cùng điệp từ "một" trở đi trở lại trong phép tu từ liệt kê. Câu thơ vẽ ra một không gian mênh mông rộng lớn của ruộng đồng gò bãi và chiều dài lịch sử 4000 năm của dân tộc, nhằm tô đậm vai trò, sự cống hiến của nhân dân. Dù ở đâu, những địa danh ấy cũng hiện thân cho dáng hình, ao ước, lối sống ông cha. Chính nhân dân kí thác vào đó ước mơ, khát vọng tình yêu, hạnh phúc, sức mạnh chống ngoại xâm, truyền thống hiếu học, sự cần cù, chịu thương chịu khó. 

Hai câu cuối sử dụng lời thơ cảm thán, âm điệu tha thiết:

"Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta..."

Thán từ "Ôi" đặt đầu câu thơ cho ta thấy một dòng cảm xúc nồng nàn, niềm tự hào vô biên cũng như sự bừng ngộ trước một phát hiện vô cùng giản dị mà sâu sắc. Trên đất nước này mỗi tên đất, ngọn núi, con sông, mỗi địa danh thắng cảnh đều là sự hiện thân thầm lặng của nhân dân. Chính họ đã hóa thân vào dáng hình xứ sở để làm nên đất nước muôn đời.

   Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp... Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao, tục ngữ... Điệp ngữ "Đất Nước" được nhắc lại nhiều lần. Qua đoạn thơ, tác giả đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một đất nước giàu bản sắc văn hóa. Đất nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng "Đất Nước của nhân dân".

     Tóm lại, bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi, Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh đất nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, cội nguồn dân tộc, văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu quý quê hương Tổ quốc mình.













Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#văn12