NGÔI NHÀ NHỎ TRÊN THẢO NGUYÊN__Tập 8-10

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

NGÔI NHÀ NHỎ TRÊN THẢO NGUYÊN

Tập 8: NHỮNG NGÀY VÀNG HẠNH PHÚC

Tác giả: Laura Ingalls Wilder

1. LAURA RỜI NHÀ

2. NGÀY ĐẦU DẠY HỌC

3. MỘT TUẦN LỄ

4. TIẾNG CHUÔNG XE NGỰA

5. BẶM CHẶT MÔI

6. XOAY XỞ

7. CON DAO TRONG BÓNG ĐÊM

8. CHUYẾN ĐI RÉT BUỐT

9. CUỘC VIẾNG THĂM CỦA ÔNG GIÁM THỊ

10. ALMANZO CHÀO TẠM BIỆT

11. TIẾNG CHUÔNG LENG KENG

12. ĐÔNG HAY TÂY, NHÀ MÌNH LÀ NHẤT

13. MÙA XUÂN

14. GIỮ QUYỀN CHỦ ĐẤT

15. MARY VỀ NHÀ

16. NHỮNG NGÀY HÈ

17. LUYỆN LŨ NGỰA NON

18. TRƯỜNG PERRY

19. CHIẾC ÁO MÀU NÂU

20. NELLIE OLESON

21. BARNUM VÀ SKIP

22. LỚP DẠY HÁT

23. BARNUM THẢ BƯỚC

24. ALMANZO ĐI XA

25. ĐÊM TRƯỚC LỄ GIÁNG SINH

26. KỲ THI GIÁO VIÊN

27. CHẤM DỨT NHỮNG NGÀY TỚI TRƯỜNG

28. CHIẾC MŨ MÀU KEM

29. CƠN BÃO MÙA HÈ

30. HOÀNG HÔN TRÊN ĐỒI

31. SẮP ĐẶT CƯỚI XIN

32. ĐÁM CƯỚI GẤP RÚT

33. NGÔI NHÀ NHỎ MÀU XÁM TẠI MIỀN TÂY

1. LAURA RỜI NHÀ

Chiều chủ nhật quang đãng và những cánh đồng tuyết phủ lấp lánh dưới nắng. Gió nam thổi nhẹ nhưng lạnh tới mức các bàn trượt xe rít lên khi lướt trên những đống tuyết đóng cứng. Móng ngựa khua thành một âm thanh lốp cốp đều đều buồn nản. Bố im lặng.

Ngồi bên cạnh Bố trên tấm ván đặt ngang cỗ xe, Laura cũng nín thinh. Chẳng có điều gì để nói cả. Cô đang trên đường tới trường để dạy học.

Chỉ mới ngày hôm qua, cô còn là một học sinh nhưng lúc này cô đã thành cô giáo. Chuyện xảy ra thật bất ngờ. Laura khó có thể không mong ngày mai cô được đến trường cùng với Carrie và ngồi trên chiếc ghế của cô bên Ida Brown. Nhưng ngày mai cô đã là cô giáo.

Cô thực sự không hiểu mình sẽ xoay sở thế nào. Cô chưa bao giờ dạy học và cũng chưa tròn mười sáu tuổi. Thậm chí so với tuổi mười lăm, cô cũng nhỏ bé và lúc này cô càng thấy mình hết sức nhỏ bé.

Mặt đất đầy tuyết trôi lui nhẹ trải dài hoang vắng ở xung quanh. Laura không nhìn lại phía sau nhưng cô biết thị trấn aã cách xa nhiều dặm đường vào lúc này và chỉ còn là một chấm đen nhỏ trên màu trắng của cánh đồng quạnh quẽ mênh mông. Ở đó có một phòng ăn ấm áp mà Mẹ đang ngồi cùng Carrie và Grace cũng đã thành xa thẳm. Vùng định cư của Brewster còn cách nhiều dặm đường phía trước vì ở xa thị trấn những mười hai dặm. Laura không biết nơi đó như thế nào và cũng không quen biết ai ở đó. Cô chỉ thấy ông Brewster vỏn vẹn một lần khi ông ta tới mướn cô dạy học. Ông ta gầy, nâu sạm giống như mọi chủ nông trại và không nói nhiều về bản thân.

Bố nhìn về khoảng xa phía trước trong lúc nắm dây cương với những bàn tay bọc găng và thỉnh thoảng lên tiếng thúc giục lũ ngựa. Nhưng Bố biết chắc Laura đang cảm nghĩ thế nào. Cuối cùng Bố quay sang phía cô và lên tiếng như đang đáp lời cho sự khiếp hãi của cô vào ngày mai:

- Này Laura! Thế là bây giờ con đã thành một cô giáo rồi. Chúng ta đều biết điều này sẽ đến, phải không?

Nhưng không ai ngờ chuyện đến sớm như vậy.

Laura đáp:

- Bố nghĩ con có làm nổi không? Giả dụ… chỉ giả dụ thôi là… lũ trẻ không nghe lời con vì thấy con còn nhỏ quá.

Bố trấn an cô:

- Đương nhiên là con làm nổi. Con chưa từng chịu thua một việc nào khi con ráng làm, đúng không?

Laura nhìn nhận:

- Đúng là thế. Nhưng con… con chưa bao giờ thử dạy học.

Bố nói:

- Con đã giải quyết xong mọi việc mà con gặp phải. Con không khi nào bỏ cuộc mà luôn bám dính lấy mọi việc cho tới khi con biết phải làm gì với nó. Thành công trở thành một thói quen như bất kỳ việc gì khác mà một người tiếp tục làm.

Im lặng lại trở lại, ngoại trừ tiếng của những bàn trượt xe và tiếng vó ngựa khua lộp cộp trên mặt tuyết cứng. Laura cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Đúng là như vậy, cô vẫn luôn nỗ lực và cô phải luôn nỗ lực. Được, bây giờ cô phải dạy học. Bố nói:

- Còn nhớ lúc ở vùng suối Plum không, Bình Rượu Nhỏ? Lúc Mẹ con với Bố ra thị trấn và một cơn bão tuyết nổi lên đó? Con đã mang hết cả đống củi vào trong nhà.

Laura cười lớn và tiếng cười của Bố rung lên như tiếng chuông trong sự lặng trang giá ngắt.

Biết bao điều vụn vặt, kinh hoàng và ngớ ngẩn mà cô đã làm vào những ngày xa xôi đó! Bố nói:

- Đó là cái cách đối đầu với mọi thứ! Hãy tự tin ở mình là có thể chiến thắng tất cả. Con tự tin ở con và đó là cách duy nhất làm cho mọi người ở đây phải tin vào con.

Bố ngưng lại một lúc rồi thêm:

- Còn một điều mà con cần vượt qua.

Laura hỏi:

- Điều gì vậy, Bố?

- Con thường quá mau lẹ, Nhà-kho-vẫy-cánh à. Con thường làm hoặc nói trước rồi nghĩ sau. Bây giờ con cần tập nghĩ trước và nói sau. Nếu con nhớ được điều này con sẽ không khi nào bối rối.

Laura nói một cách hăng hái:

- Con sẽ nhớ, Bố.

Trời quá lạnh không thể nói chuyện được. Hai cha con tiếp tục im lặng để giữ hơi ấm trong lúc tiến về phía nam. Gió buốt thốc thẳng vào mặt họ. Một vết bàn trượt xe mờ nhạt kéo dài về phía trước.

Không có một thứ gì khác để ngắm nhìn ngoài mặt đất thấp trắng toát vô tận và bầu trời nhợt nhạt mênh mông với những chiếc bóng xám xanh của lũ ngựa che mờ những khoảng lấp lánh trên tuyết.

Gió lay động mảnh khăn trùm dày bằng len  đen của Laura trước mắt cô. Hơi thở của cô đóng thành một cụm sương giá trên tấm khăn phả vào miệng và mũi cô một làn hơi lạnh ẩm ướt.

Cuối cùng, cô đã nhìn thấy một căn nhà phía trước. Lúc đầu căn nhà rất nhỏ rồi lớn hơn khi họ tới gần. Cách chứng nửa dặm có một căn nhà khác nhỏ hơn và xa hơn về phía bên kia có một căn nhà khác nữa. Sau đó lại một căn nhà khác hiện ra. Bốn căn nhà cả thảy, tất cả chỉ có thế. Những căn nhà nằm riêng biệt và nhỏ nhoi trên cánh đồng trắng toát.

Bố kìm ngựa dừng lại. Nhà của ông Brewster giống như hai căn lều ghép chung để làm thành một chiếc mái nhọn. Lớp giấy lợp phết hắc ín trơ trọi và tuyết tan chảy thành những nhũ băng lớn treo lơ lửng trên mái hiên như những chiếc cột tròn lớn hơn cánh tay Laura. Chúng giống như những chiếc răng vĩ đại lởm chởm. Một vài chiếc cắm sâu vào trong tuyết và một vài chiếc gãy ngang. Những tảng băng rơi xuống đông cứng trong lớp tuyết cáu bẩn quanh cửa ra vào ngay chỗ đổ nước dơ. Cửa sổ không có rèm che nhưng khói bay ra từ ống khói bám vào mái nhà thành những mạng lưới.

Ông Brewster mở cửa. Một đứa nhỏ đang khóc ầm ĩ trong nhà nên ông nói lớn để có thể nghe được:

- Vào nhà chơi, Ingalls. Vào trong cho ấm người.

Bố đáp:

- Cám ơn. Đường trở về dài tới mười hai dặm nên tốt hơn là tôi sẽ đi.

Laura chui ra thật mau từ phía dưới những tấm mền để giữ cho hơi ấm không len vào. Bố đưa cho cô chiếc túi đeo của Mẹ trong đó đựng mấy bộ đồ lót của cô cũng như chiếc áo choàng và sách vở.

Cô nói:

- Tạm biệt, Bố

- Tạm biệt, Laura.

Cặp mắt xanh lơ của Bố như mỉm cười khuyến khích cô. Nhưng mười hai dặm đường là quá xa để có thể lái xe lui tới và cô sẽ không thể gặp lại Bố trong hai tháng.

Cô bước mau vào trong nhà. Trong một lúc, cô không thể nhìn rõ mọi vật vì vừa từ ngoài trời sáng bước vào. Ông Brewster lên tiếng:

- Đây là bà Brewster và đây là cô giáo.

Một người đàn bà có vẻ rầu rĩ đứng bên lò bếp đang khuấy thứ gì trong chảo.

Một đứa con trai đang đeo vào váy của bà và gào khóc. Mặt thằng bé dơ dáy, mũi chảy lòng thòng.

Laura ráng hết sức giữ vui vẻ lên tiếng:

- Chào bà Brewster.

Bà Brewster nói:

- Hãy qua phòng bên kia bỏ đồ choàng ngoài ra. Treo đồ sau tấm màn ở chỗ ghế sô pha.

Bà xoay lưng về phía Laura và tiếp tục khuấy nước thịt trong chảo.

Laura không biết phải nghĩ ra sao. Cô không thể làm điều gì xúc phạm đến bà Brewster. Cô bước qua phòng bên. Vách ngăn đứng thẳng ngay dưới nóc nhà và chia căn nhà thành hai phần đều nhau. Ở bên này tấm ngăn, những chiếc rui và lớp giấy lợp mái phết nhựa hắc ín chạy xuôi xuống các tấm vách thấp lè tè. Vách ván được đóng bít kỹ từng kẽ hở. Căn nhà giống hệt căn lều giữ đất của Bố nhưng nhỏ hơn và không có trần ở phía trên.

Dĩ nhiên phòng bên kia rất lạnh. Nó chỉ có một ô cửa sổ nhìn ra ngoài khu đồng trống phủ đầy tuyết. Sát tường ngay dưới cửa sổ là chiếc ghế sô pha làm bằng cành cây lớn với chiếc tựa lưng bằng gỗ uốn cong và một phía đầu cũng uốn cong lên. Giường ngủ được làm ngay trên ghế sô pha. Những tấm màn bằng vải nâu treo sát vách ở hai phía giường trên một sợi dây chạy ngang qua phía trên cửa sổ để khi kéo lại có thể che kín chiếc ghế. Đối diện là một chiếc giường kê sát vách và sát chân giường có một khoảng trống vừa đủ kê một chiếc bàn và một chiếc rương.

Laura treo áo khoác, khăn quấn, khăn chùm và mũ trên những chiếc đinh móc sau tấm màn vải và đặt chiếc túi của Mẹ trên mặt nền ngay phía dưới. Cô đứng run rẩy trong cái lạnh không mong muốn bước qua phòng bên ấm áp đang có mặt bà Brewster. Nhưng cô phải qua và cô đã làm vậy.

Ông Brewster ngồi sát bên lò bếp đang giữ đứa con trai nhỏ trên đầu gối. Bà Brewster đang vét nước thịt vào một chiếc chén. Bàn ăn đã được bày với các dao, dĩa xô lệch cẩu thả vứt trên tấm khăn trải bàn màu trắng lem luốc; tấm khăn trải nhăn nhúm trên bàn.

Laura thu hết can đảm lên tiếng:

- Tôi có thể giúp bà được không, bà Brewster?

Bà Brewster không trả lời. Bà ta giận dữ trút khoai tây lên đĩa, dằn mạnh lên mặt bàn. Chiếc đồng hồ trên vách rè rè báo hiệu lên tiếng và Laura thấy đã bốn giò kém năm phút. Ông Brewster giải thích:

- Dạo này điểm tâm rất muộn nên chúng tôi chỉ ăn một ngày hai bữa.

Bà Brewster quát lớn:

- Tôi muốn biết đó là lỗi của ai! Giống như tôi không hề có đủ việc làm từ sáng đến tối trong tình huống…

Ông Brewster cao giọng hơn:

- Tôi chỉ muốn nói ngày ngắn quá…

- Vậy thì cứ nói những gì anh muốn nói đi!

Bà Brewster quăng chiếc ghế cao lại bên bàn, chộp đứa con dằn mạnh cho ngồi xuống đó… Ông Brewster nói với Laura:

- Bữa ăn sẵn sàng rồi.

Cô ngồi xuống chiếc ghế trống. Ông Brewster tiếp cho cô khoai tây, thịt heo ướp muối và nước xốt thịt. Thức ăn ngon nhưng sự lặng thinh khó chịu của bà Brewster khiến Laura khó thể nuốt nổi. Cô cố gắng hỏi một cách vui vẻ:

- Trường học có ở xa đây không?

Ông Brewster nói:

- Khoảng nửa dặm, phía bên kia các lô đất. Đó là một căn lều trại. Người được giao cho canh tác khu đất đó không đủ kiên trì theo đuổi nên đã bỏ cuộc và quay về miền Đông.

Rồi, ông cũng im lặng. Đứa nhỏ ngọ nguậy cố thọc vào mọi thứ trên bàn. Thình lình nó liệng chiếc đĩa thiếc đầy thức ăn xuống nền nhà. Bà Brewster tát nó và nó gào lên. Nó tiếp tục gào thét và đá vào chân bàn.

Cuối cùng bữa ăn chấm dứt. Ông Brewster nhấc chiếc thùng sữa khỏi hàng đinh móc trên vách bước ra chuồng bò. Bà Brewster bỏ đứa con ngồi trên nền nhà và dần dần nó ngưng gào khóc trong lúc Laura giúp lau sạch bàn. Sau đó, cô lấy chiếc tạp dề trong túi xách của Mẹ, buộc choàng trên chiếc áo khoác màu nâu và cầm lấy chiếc khăn lau khô những chiếc đĩa mà bà Brewster vừa rửa xong.

- Cậu bé của bà tên gì, bà Brewster?

Cô hỏi với hy vọng lúc này bà Brewster sẽ dễ chịu hơn. Bà Brewster đáp:

- John.

Laura tiếp:

- Cái tên thật hay. Mọi người có thể gọi là Jimmy lúc còn nhỏ và khi lớn lên thì John là một cái tên rất đàn ông. Lúc này bà có gọi cậu bé là Johnny không?

Bà Brewster không trả lời. Sự im lặng mỗi lúc càng trở nên kinh khủng hơn. Laura cảm thấy khuôn mặt của bà Brewster đang nóng hừng hực. Cô tiếp tục lau khô những chiếc đĩa như một cái máy. Khi họ dứt công việc, bà Brewster hắt nước dơ và treo chiếc chảo lên hàng đinh móc. Bà ngồi lên chiếc ghế đu và đung đưa một cách uể oải trong lúc Johnny trườn phía dưới lò bếp và nắm đuôi con mèo kéo ra.

Con mèo cào nó và nó hét lên. Bà Brewster tiếp tục đung đưa.

Laura không dám can thiệp vào. Johnny cứ gào khóc còn bà Brewster ủ rũ đung đưa chiếc ghế đu và Laura ngồi trên chiếc ghế gỗ cạnh bàn nhìn ra ngoài cánh đồng. Con đường cắt ngang mặt tuyết chạy thật xa vượt hẳn khỏi tầm mắt. Mười hai dặm ở phía xa kia là nhà của cô. Lúc này Mẹ đang lo bữa ăn tối và Carrie đã đi học về. Hai người hẳn đang cười nói với Grace. Bố đã bước vào nhà và nhấc Grace lên đung đưa trên cánh tay như Bố vẫn thường nhấc Laura khi cô còn bé. Tất cả tiếp tục chuyện trò bên bàn ăn trong bữa ăn tối. Sau đó, mọi người ngồi dưới ánh đèn sáng thoải mái đọc sách trong lúc Carrie học bài. Rồi Bố choi đàn.

Căn phòng trở nên tối hơn và tối hơn nữa. Laura không còn nhìn rõ con đường. Cuối cùng, ông Brewster mang sữa trở về. Rồi bà Brewster thắp đèn. Bà ta lọc sữa và cất chảo trong lúc ông Brewster ngồi xuống mở một tờ báo. Không ai nói một tiếng nào. Một sự im lặng khó chịu đè xuống nặng trĩu.

Laura không biết làm gì vì còn quá sớm để lên giường. Trong phòng không còn một tờ báo hoặc cuốn sách nào khác. Lúc này cô sực nghĩ tới những cuốn sách học. Bước qua gian phòng bên lạnh buốt và tối đen, cô mò mẫm sục tìm trong chiếc túi xách của Mẹ và sờ thấy cuốn sách lịch sử. Cô cầm sang nhà bếp, lại ngồi bên chiếc bàn và bắt đầu đọc. Cô nghĩ một cách chán nản:

- Ít nhất thì cũng không có gì cản trở việc học của mình.

Cô cảm thấy đau đớn ê ẩm tựa hồ bị đánh đập, nhưng dần dần cô quên bẵng mình đang ở đâu khi bị cuốn vào cuốn sách lịch sử. Cuối cùng cô nghe tiếng chuông đồng hồ điểm tám giờ. Tiếp đó cô đứng dậy lễ phép chào chúc mọi người ngủ ngon. Bà Brewster không trả lời, nhưng ông Brewster đáp lại:

- Chúc cô ngủ ngon.

Trên giường, Laura run lập cập bỏ áo ngoài, áo lót và mặc chiếc áo dài ngủ bằng flanen. Cô luồn vào dưới những lớp mền trên chiếc ghế sô pha và kéo các tấm màn vải che xung quanh xuống.

Gối nhồi lông chim và rất nhiều mền, nệm nhưng chiếc ghế sô pha quá hẹp.

Cô nghe thấy bà Brewster đang nói một cách rất nhanh và giận dữ. Laura chùm mền kín đầu chỉ để hở một lỗ nhỏ ở mũi, nhưng cô vẫn nghe thấy những tiếng cằn nhằn của bà Brewster:

- … hợp với anh nhưng tôi phải lo cho một người ở trọ!

Cô lại nghe tiếp:

- … thật khủng khiếp với cái xứ này! Một giáo viên, thực sự!... chính tôi đã là một giáo viên, nếu tôi không lấy một người chồng là…

Laura nghĩ:

- Rút cuộc là bà ta không muốn nuôi một giáo viên trong nhà. Bà ta như một vật cản của bất kỳ ai khác.

Cô thấy tốt hơn là không nên nghe thêm điều gì và cố ngủ. Nhưng suốt đêm trong giấc ngủ, cô phải cố lo giữ cho khỏi rớt xuống từ chiếc ghế sô pha quá hẹp và khiếp sợ ngày mai khi cô bắt đầu dạy học.

2. NGÀY ĐẦU DẠY HỌC

Laura nghe tiếng lửa reo trong lò bếp. Trong một thoáng cô ngỡ mình nằm trên giường với Mary và Bố đang nhóm lửa vào buổi sáng. Rồi cô nhìn thấy những tấm màn vải và biết mình đang ở đâu và biết rằng sáng hôm nay cô phải bắt đầu dạy học.

Cô nghe thấy tiếng ông Brewster nhấc chiếc thùng sữa xuống và tiếng cánh cửa sập lại sau lưng ông. Phía bên kia tấm màn che, bà Brewster đã ra khỏi giường. Laura không cục cựa, cảm thấy nếu cô nằm im lìm, cô có thể ngăn không cho ngày tới.

Ông Brewster đã mang sữa về và cô nghe thấy ông nói:

- Tôi phải đi nhóm lửa ở trường học. Tôi sẽ về đúng giờ ăn sáng.

Cánh cửa lại sập lại sau lưng ông.

Lập tức, Laura gạt đống mền ra. Trời lạnh như cắt. Răng cô va vào nhau lách cách và mấy ngón tay cứng ngắc đến nỗi cô không thể đóng nổi nút giầy.

Nhà bếp không lạnh lắm. Bà Brewster đã đập băng trong thùng nước, đang đổ đầy ấm trà và đáp lại lời chào buổi sáng của Laura một cách dễ chịu. Laura đổ đầy nước vào trong thau và rửa mặt và tay ở chiếc ghế dài bên cạnh cửa ra vào. Nước giá băng khiến má cô nhói buốt và mặt cô như sưng đỏ trong chiếc gương soi phía trên chiếc ghế dài khi cô đứng chải tóc.

Những khoanh thịt heo ướp muối đang được chiên và bà Brewster đang xắt những khoanh khoai tây đã luộc chin để nguội trong một chiếc chảo khác trên lò. Johnny làm ầm ĩ trong phòng ngủ và Laura vội vã kẹp tóc, buộc tạp dề, nói:

- Để tôi lo món khoai trong lúc bà mặc quần áo cho cậu bé.

Thế là trong lúc bà Brewster mang Johnny vào trong bếp lo cho nó sẵn sàng ăn sáng, Laura làm xong việc xắt khoai, ướp muối cùng gia vị lên. Rồi cô đảo những khoanh thịt và bày bàn ăn gọn gàng. Cô nói:

- Tôi mừng là Mẹ tôi đã nhắc mang theo chiếc tạp dề lớn này. Tôi thích một chiếc tạp dề thật lớn có thể phủ kín hết quần áo như của bà, bà có thấy thế không?

Bà Brewster không trả lời. Lúc này lò bếp đỏ rực khiến toàn bộ căn phòng rất ấm nhưng cũng rất u ám. Không một lời nói ngắn ngủi, cần thiết nào được trao đổi bên bàn ăn.

Laura như trút được gánh nặng khi khoác áo choàng, cầm lấy sách vở và chiếc xô thiếc đựng bữa ăn trưa bước ra khỏi nhà. Cô băng qua đoạn đường dài nửa dặm dưới trời tuyết để tới trường. Con đường chỉ có dấu chân của ông Brewster với những bước thật dài so với bước chân của Laura.

Khi loạng choạng dấn bước vào những đám tuyết dầy, cô bỗng bật cười lớn tiếng. Cô nghĩ:

- Tốt! Mình đã ở đây. Mình khiếp sợ bước tới nhưng mình không quay lui được. Dạy học không thể nào tệ hơn ở lại căn nhà đó với bà Brewster. Bằng mọi cách, không thể nào tệ hơn thế.

Rồi cô lại kinh hãi thấy mình nói lớn quá:

- Mình sẽ phải cố gắng.

Một làn khói than đen mềm mại bốc lên bầu trời buổi sáng từ chiếc ống khói của căn lều trại cũ. Thêm hai hàng dấu chân dẫn tới trước cửa căn nhà và Laura nghe thấy bên trong có tiếng nói. Trong một thoáng, cô gom hết can đảm và đẩy cửa bước vào.

Những vách ván không được bít kỹ. Những vệt nắng chiếu xuyên qua các kẽ hở in lên một hàng ghế và bàn viết tự đóng đặt ở giữa phòng. Phía bên kia trên vách ván đối diện, những mảnh ván vuông được đóng ghép lại và sơn đen làm thành một tấm bảng đen.

Ngay phía trước hàng ghế ngồi sừng sững một chiếc lò sưởi lớn. Các cạnh tròn và phía trên lò đỏ rực ánh lửa thoát ra từ trong lò và đang đứng xúm quanh lò là một đám học trò mà Laura phải dạy dỗ. Tất cả đều nhìn Laura. Hết thảy có năm học sinh trong đó hai nam và một nữ cao hơn Laura. Cô cố lên tiếng:

- Xin chào.

Tất cả chào đáp lại trong lúc vẫn nhìn cô. Một khối nắng ùa vào phòng từ khung cửa sổ sát bên cửa ra vào. Phía bên kia, trong một góc gần lò sưởi có một chiếc bàn nhỏ và một chiếc ghế.

- Đó là bàn cô giáo.

Laura nghĩ rồi nghĩ tiếp:

- Trời ơi, mình đã là cô giáo.

Tiếng bước chân của cô vang lên thật lớn. Mọi cặp mắt đều hướng theo cô. Cô đặt sách vở và xô thức ăn lên bàn, cởi áo khoác, mũ trùm. Cô treo hết lên chiếc đinh móc trên vách gần chiếc ghế.

Trên bàn có một chiếc đồng hồ nhỏ, kim đồng hồ chỉ chín giờ kém năm phút.

Bằng mọi cách cô sẽ phải xoay xở vượt qua năm phút trước giờ học.

Cô chậm chạp tháo găng tay, nhét vào túi áo khoác. Rồi cô nhìn vào tất cả những cặp mắt và bước tới bên lò sưởi. Cô đưa hai bàn tay lên tựa hồ như để sưởi ấm. Tất cả học sinh nhường đường và vẫn nhìn cô chăm chú. Cô phải nói một điều gì. Cô phải làm thế.

Cô nghe thấy tiếng nói của mình:

- Sáng nay trời lạnh quá, phải không?

Rồi không đợi câu trả lời, cô tiếp:

- Các bạn có đủ ấm với những chỗ ngồi xa lò sưởi không?

Một trong các học sinh nam lớn nói nhanh:

- Tôi sẽ ngồi ở ghế cuối cùng, chỗ đó lạnh nhất.

Cô học trò cao lớn nói:

- Charles và tôi sẽ ngồi cùng với nhau, chúng tôi học chung một cuốn sách.

Laura nói:

- Tốt lắm, bây giờ tất cả các bạn có thể ngồi gần lò sưởi hơn.

Một sự bất ngờ thích thú với cô vì năm phút đã qua! Cô lên tiếng:

- Tất cả có thể ngồi vào chỗ. Lớp học bắt đầu.

Cô gái nhỏ nhất chiếm chỗ ngồi trên cùng, phía sau là một cậu bé rồi tới cô gái lớn ngồi chung với Charles và cuối cùng là cậu trai lớn khác. Laura rập cây viết chì lên mặt bàn:

- Lớp học giữ trật tự. Bây giờ tôi sẽ ghi tên và tuổi của các bạn.

Cô gái nhỏ là Ruby Brewster, chin tuổi. Cô có mái tóc nâu, cặp mắt nâu sáng long lanh và ẻo lả như một con chuột. Laura biết cô bé sẽ dịu dàng và ngoan ngoãn. Cô đã học xong Lớp Một và trong môn toán cô đang học làm toán trừ.

Cậu bé là anh trai của cô, Tommy Brewster, mười một tuổi, đã học xong Lớp Hai và biết làm toán chia đơn giản.

Cặp ngồi chung là Charles và Martha Harrison. Charles mười bảy tuổi, gầy xanh và nói năng chập chạp. Martha mười sáu tuổi, linh lợi hơn và nói thay cả hai.

Học sinh cuối cùng là Clarence Brewster. Cậu ta cũng lớn tuổi hơn Laura. Cặp mắt nâu của cậu ta sáng hơn và linh động hơn cặp mắt của cô em nhỏ Ruby, mái tóc cậu ta màu xậm, dầy và rối bù.

Cậu ta nói nhanh và năng động. Cách nói của cậu ta gần như hỗn xược.

Clarence, Charles và Martha cùng học Lớp Bốn. Cả ba đã học nửa chừng sách đánh vần và đang học phân số trong môn toán. Về địa dư, cả ba đã học về các tiểu bang Tân Anh Cát Lợi và trả lời khá tốt những câu hỏi của Laura khiến cô sắp xếp dạy ngay họ về các bang Trung Tây. Không một học sinh nào từng học về ngữ pháp và lịch sử ngoại trừ Martha mang theo một cuốn ngữ pháp của mẹ và Charles có một cuốn lịch sử. Laura nói:

- Được rồi, các bạn có thể cùng bắt đầu với các bài mở đầu về ngữ pháp và lịch sử và trao đổi sách để học bài.

Khi Laura dạy dứt bài học này và phân xong bài cho tất cả thì đã tới giờ nghỉ. Tất cả choàng khăn áo ra ngoài chơi trong tuyết và Laura thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Một phần tư của ngày dạy đầu tiên đã qua.

Lúc này cô bắt đầu sắp đặt. Cô sẽ dạy tập đọc, toán pháp và các bài đọc thuộc lòng về ngữ pháp vào trước buổi trưa, rồi buổi chiều sẽ lại tập đọc, lịch sử, tập viết và đánh vần. Đánh vần phải chia thành ba lớp vì Ruby và Tommy chưa thể bắt kịp sách đánh vần.

Sau mười lăm phút, cô gõ lên cửa sổ kêu học sinh vào lớp. Từ đó cho tới buổi trưa, cô lắng nghe và kiên nhẫn sửa chữa cách tập đọc lớn tiếng của tất cả.

Giờ trưa nhích đi chậm chạp. Laura ngồi một mình bên chiếc bàn ăn bánh mỳ với bơ trong lúc tất cả học sinh quây quần bên lò sưởi vừa trò chuyện, nô giỡn vừa ăn bữa ăn trưa. Sau đó, đám con trai chạy ra ngoài trời tuyết trong lúc Martha cùng Ruby đứng coi bên cửa sổ và Laura ngồi im tại bàn. Lúc này cô đã là cô giáo và phải xử sự như một cô giáo.

Cuối cùng giờ trưa trôi qua và cô lại thêm một lần gõ lên cửa sổ. Đám con trai hối hả chạy vào, thở ra những đám khói sương và rũ hơi lạnh khỏi khăn, áo khi treo lên. Tất cả đều sôi nổi vì lạnh và những động tác hâm nóng. Laura lên tiếng:

- Lò bớt lửa rồi. Charles có thể vui lòng cho thêm than vào đó không?

Sẵn sàng nhưng chậm chạp, Charles nhấc chiếc xô than nặng và trút gần hết vào lò.

Clarence nói:

- lần sau tôi sẽ làm!

Cậu ta nói có lẽ không phải để tỏ ra xấc xược. Nếu cậu ta tỏ ra như thế thì Laura có thể làm gì? Cậu ta là một chàng trai mập lùn, vạm vỡ, to lớn hơn và nhiều tuổi hơn cô. Cặp mắt nâu của cậu ta nhìn cô sáng rỡ. Cô cố đứng vươn lên thật cao và gõ cây bút chì lên mặt bàn. Cô nói:

- Lớp học giữ trật tự.

Dù lớp học nhỏ bé, cô nghĩ tốt nhất là vẫn giữ theo nề nếp của một trường học ở thị trấn và gọi từng trò lên đọc bài. Ruby chỉ có một mình một lớp nên phải trả lời hoàn hảo mọi câu hỏi vì không có ai giúp cô trả lời bớt một câu hỏi nào. Laura để cô bé đánh vần chậm chạp và nếu cô bị vấp, cô có thể cố làm lại. Cô bé đánh vần mọi từ trong bài học. Tommy chậm chạp hơn, nhưng Laura dành thời gian cho cậu suy nghĩ và cố gắng nên làm cũng tốt.

 Rồi Martha, Charles và Clarence đọc bài đánh vần. Martha không mắc lỗi nào nhưng Charles nhầm năm từ và Clarence nhầm ba từ. Vì là lần đầu tiên nên Laura không phạt ai. Cô nói:

- Martha ngồi xuống. Còn Charles và Clarence hãy lên bảng viết lại những từ mà các bạn đã nhầm, mỗi từ ba lần.

Charles đi một cách chậm chạp và bắt đầu viết những từ sai của mình. Clarence liếc xéo về phía Laura một cái nhìn hỗn xược. Rồi quay về phía Laura không đưa tay xin phép nói, cậu ta lên tiếng:

- Cô giáo! Bảng viết nhỏ quá.

Cậu ta đang biến hình phạt không thuộc bài của mình thành trò vui và coi thường Laura.

Một lúc lâu, một lúc kinh hoàng khi cậu ta đứng nhìn cô và cô nhìn thẳng vào cậu ta. Rồi cô nói:

- Phải, bảng nhỏ lắm Clarence. Tôi rất tiếc nhưng trò hãy xóa tất cả những gì trò đã viết và viết lại các từ một cách cẩn thận hơn. Cố viết nhỏ hơn và sẽ có đủ chỗ.

Cậu ta phải làm theo vì cô không biết cô có thể làm gì nếu cậu ta không làm.

Vẫn nhăn nhở nhưng có vẻ ngoan ngoãn, cậu ta quay lại tấm bảng xóa sạch những chữ viết nguệch ngoạc. Cậu ta viết ba từ, mỗi từ ba lần và ký tên mình với một vòng hoa ở phía dưới.

Laura thấy nhẹ hẳn người khi đồng hồ chỉ bốn giờ. Cô lên tiếng:

- Tất cả cất sách vở đi.

Khi mọi cuốn sách đã nằm gọn trong các ngăn bàn, cô nói:

- Giờ học chấm dứt.

Clarence chộp áo khoác, khăn quấn, mũ trên đinh móc và với một tiếng hét lớn, cậu ta là người đầu tiên lao ra cửa. Tommy theo cậu ta bén gót nhưng cả hai chờ ở ngoài trong khi Laura giúp Ruby mặc áo, buộc dải mũ. Chín chắn hơn, Charles và Martha lo choàng áo cẩn thận để chống với cái lạnh khi bước ra. Cả hai phải đi bộ tới một dặm đường.

Laura đứng bên cửa sổ nhìn theo đám học sinh bước đi. Cô có thể nhìn thấy nhà trại của anh trai ông Brewster chỉ cách khoảng nửa dặm. Khói từ ống khói bốc lên và cửa sổ hướng tây của căn nhà phản chiếu ánh mặt trời đang lặn xuống sáng lóa. Clarence và Tommy náo loạn trong tuyết và chiếc mũ trùm màu đỏ của Ruby bập bềnh theo sau. Xa tít tắp bên cửa sổ phía đông nam mà Laura có thể nhìn thấy, bầu trời thật quang đãng.

Trường học không có cửa sổ để cô có thể nhìn về phía tây bắc. Nếu có một cơn bão tuyết nổi lên, cô không thể biết bão đang kéo tới cho tới khi nó ập đến.

Cô lau sạch tấm bảng và cầm chổi quét nền nhà. Không cần có giỏ rác vì những kẽ hở giữa các tấm ván lát nền nhà rất lớn. Cô đóng các ô gió lò sưởi, khoác áo, gom sách vở, xô đựng thức ăn trưa, đóng cẩn thận cánh cửa ra vào rồi theo lối đi ban sáng trở về căn nhà của bà Brewster.

Ngày đầu là cô giáo của cô đã trôi qua. Cô thầm cảm ơn đã được như thế.

3. MỘT TUẦN LỄ

Khi lê bước qua trời tuyết, Laura cố tìm cách làm cho mình vui lên. Laura nghĩ thầm không dễ kết thân với bà Brewster, nhưng cô không thể buồn phiền việc đó. Có lẽ tối nay sẽ không có chuyện khó chịu.

Cho nên Laura bước vào nhà người đầy tuyết và đỏ gay vì lạnh vẫn vui vẻ nói năng với bà Brewster. Nhưng trước tất cả những nỗ lực của cô, bà Brewster vẫn đáp lại bằng những lời lẽ cụt ngủn và chỉ có thế. Trong bữa ăn tối không ai nói một tiếng nào. Sự im lặng thật âm u và dễ ghét tới mức Laura không thể thốt ra lời.

Sau bữa tối, cô lại giúp làm việc và lại tiếp tục ngồi trong bóng tối trong lúc bà Brewster lặng lẽ đung đưa chiếc ghế. Cô cảm thấy muốn phát bệnh trong ước muốn được trở về nhà.

Ngay khi bà Brewster thắp đèn, Laura mang ngay sách vở tới bàn. Cô tự ra bài học cho mình và quyết định học thuộc trước giờ đi ngủ. Cô muốn bắt kịp với lớp học của cô ở thị trấn và hy vọng sự miệt mài làm việc có thể đủ giúp cô quên hẳn mình đang ở đâu.

Cô ngồi thu mình trên chiếc ghế vì sự im lặng có vẻ như đang dồn ép cô từ mọi phía. Bà Brewster ngồi uể oải. Ông Brewster vỗ cho Johnny ngủ trong lòng ông và ngắm ngọn lửa trong lò qua những ô gió. Chiếc đồng hồ gõ bảy tiếng. Rồi tám tiếng. Chín tiếng. Lúc này Laura ráng hết sức lên tiếng:

- Khuya quá rồi. Tôi xin phép đi ngủ trước.

Bà Brewster không lưu ý tới lời cô nói. Ông Brewster giật mình và nói:

- Chúc cô ngủ ngon.

Trước khi Laura có thể bước vội vào gian phòng tối om, bà Brewster đã bắt đầu cãi cọ với chồng. Laura cố ráng không nghe. Cô kéo mền lên trùm kín đầu, ấn tai vào trong gối thật chặt, nhưng cô vẫn nghe thấy. Cô biết là bà Brewster muốn cô nghe thấy.

Bà ấy nói rằng bà ấy không phải nô lệ của một mảnh váy kênh kiệu không chịu làm gì ngoài việc chải chuốt và ngồi ở trường học suốt ngày. Bà ta bảo nếu ông Brewster không tống Laura ra khỏi nhà thì bà sẽ một mình bỏ về miền Đông không cần có ông. Bà ta cứ tiếp tục lải nhải nói và nói mãi và giọng nói của bà khiến Laura muốn đổ bệnh. Đó là một giọng nói hả hê được gây thương tổn cho người khác.

Laura không biết làm gì. Cô muốn trở về nhà, nhưng cô phải tránh nghĩ đến gia đình hoặc cô sẽ phải gào khóc. Cô phải nghĩ ra một thứ gì để làm. Không có một nơi nào khác để ở, hai căn nhà khác trong khu định cư này cũng chỉ là những căn lều trại. Gia đình Harrison có một phòng cho bốn người còn gia đình anh trai ông Brewster có tới năm người. Không ai còn chỗ dành cho Laura.

Cô nghĩ thực sự cô không gây một điều gì cho bà Brewster. Cô tự làm giường của mình và còn giúp vào việc bếp núc. Lúc này bà Brewster đang cằn nhằn về cái xứ buồn nản, gió máy và rét buốt nên bà muốn trở về miền Đông. Bất giác Laura hiểu ra:

 - Bà ta không nổi điên vì mình. Bà ta chỉ muốn cãi cọ về mình do bà ta muốn cãi cọ. Bà ấy là một người đàn bà vị kỷ và bần tiện.

Ông Brewster không nói một lời nào và Laura nghĩ:

- Mình cũng phải chịu đựng điều đó. Không có một nơi nào khác ở đây cho mình ở cả.

Khi thức dậy vào buổi sáng, cô nghĩ:

- Mỗi ngày mình chỉ phải trải qua một chốc lát thôi.

Thật khó ở tại một nơi mà mình không muốn. Cô thận trọng tránh gây một chuyện gì cho bà Brewster và hết sức giúp bà mọi công việc có thể làm. Một cách lễ độ, cô lên tiếng chào vào buổi sáng và mỉm cười, nhưng không cười nổi. Cô không biết từ trước là phải có hai người mới cười được.

Ngày thứ hai ở trường cô khiếp hãi nhưng vẫn qua được êm ả. Clarence ngồi ỳ ra thay vì học và Laura phát hoảng là cô sẽ lại phải phạt cậu ta, nhưng cậu ta thuộc bài. Có lẽ cô không nên rối trí vì cậu ta.

Lạ lùng là cô thấy quá mệt vào lúc bốn giờ. Ngày thứ hai đã qua và tuần lế thứ nhất cũng qua một nửa vào trưa mai.

Thình lình Laura nín thở và đứng sững trên lối đi đầy tuyết. Cô nghĩ tới ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật, trọn vẹn hai ngày ở trong căn nhà đó cùng với bà Brewster. Cô nghe thấy mình nói lớn:

- Ồ, Bố. Con không thể.

Đó là một tiếng thút thít và cô cảm thấy xấu hổ khi nghe vang lên. Không có ai khác nghe thấy. Xung quanh cô, đồng cỏ vắng hoe, trắng toát trải dài im ắng. Cô thấy thà cứ ở tại chỗ trong cái lạnh như cắt còn hơn là bước về căn nhà bần tiện hoặc sáng mai trở lại trường học đầy ắp lo âu. Nhưng mặt trời đang lặn xuống và sẽ mọc lên vào ngày mai. Mọi thứ phải tiếp diễn.

Đêm đó Laura lại mơ thấy cô đi lạc trong bão tuyết. Cô biết rõ giấc mơ. Cô đã mơ thấy thế vài lần kể từ khi cô thực sự đi lạc trong bão tuyết với Carrie. Nhưng cơn bão tuyết này tồi tệ hơn trước. Lúc này, tuyết như kim châm và gió dữ dội thổi như cố cuốn cô và Carrie ra khỏi chiếc ghế sô pha hẹp. Laura gom tận lực cố níu lấy Carrie một hồi lâu nhưng thình lình Carrie không còn ở đó. Bão tuyết đã cuốn cô bé đi. Tim Laura như ngừng đập vì kinh hoàng. Cô không thể bước tiếp vì không còn hơi sức. Cô chìm xuống, chìm xuống trong bóng tối đen kịt. Rồi Bố từ thị trấn tới trên một cỗ xe trượt băng lớn. Bố gọi Laura:

- Về nhà ngày Thứ Bảy nghe, Bình-Rượu-Nhỏ!

Mẹ cùng Mary, Carrie và Grace đều kinh ngạc. Mary kêu lên sung sướng:

- Ôi, Laura!

Gương mặt Mẹ sáng lên với nụ cười trên môi, Carrie hối hả giúp Laura cởi áo choàng và Grace nhảy nhót vỗ tay:

- Charles, sao anh không nói với cả nhà?

Mẹ hỏi và Bố nói:

- Sao, Caroline, anh đã nói là anh kéo được một mẻ lưới nho nhỏ. Laura nho nhỏ mà.

Và Laura nhớ lại bên bàn ăn bữa trưa, cách thức Bố uống trà và đẩy lui chiếc ly về phía sau, nói:

- Hãy mong cho tôi kéo được một mẻ lưới nho nhỏ vào chiều nay.

Mẹ nói:

- Ô, Charles!

Laura không hề đi xa khỏi nhà bao giờ, cô vẫn ở nguyên đấy.

Rồi cô tỉnh dậy. Cô đang ở nhà Brewster và đã là sáng Thứ Tư. Nhưng giấc mơ thực tới nỗi cô gần như vẫn tin chắc là có. Có thể Bố tới đón cô về nhà vào Thứ Bảy. Tính cách của Bố là luôn trù liệu những chuyện bất ngờ như thế.

Trong đêm đã có bão tuyết. Cô phải mở lối để tới trường. Nắng sớm phớt hồng trên những dặm dài tuyết trong suốt và mọi vệt bóng nhỏ đều ngả màu xanh nhạt. Khi Laura lao tới và vẹt lối qua những cụm tuyết mềm, cô thấy Clarence đang mở đường cho Tommy và Ruby. Tất cả đều đến cửa trường cùng một lúc.

Cô bé Ruby dính tuyết từ đầu tới chân, thậm chí chiếc mũ trùm và các bện tóc của cô bé cũng đầy tuyết. Laura chải tóc cho cô bé và nhắc giữ nguyên áo ngoài cho tới khi trong phòng ấm áp hơn.

Clarence bỏ thêm than vào lò sưởi trong lúc Laura rũ áo khoác và quét tuyết lọt xuống các kẽ ván nền nhà. Những tia nắng chiếu qua khung cửa sổ giúp gian phòng có vẻ ấm áp hơn, nhưng bên ngoài trời càng lạnh hơn. Không bao lâu, hơi ấm lò sưởi đã xóa mờ hơi thở của họ. Đúng chín giờ và Laura nói:

- Lớp học giữ trật tự.

Martha và Charles đến trong hơi thở hổn hển, chậm ba phút. Laura không muốn nhắc đến chuyện chậm trễ này vì cả hai đã phải đạp tuyết mở đường suốt một dặm dài. Một vài bước nhấn vào trong những đám tuyết dầy thật dễ chịu và thích thú, nhưng đạp tuyết để mở lối đi lại vô cùng nặng nhọc cho từng bước chân. Trong một lúc, Laura nghĩ sẽ bỏ qua lỗi cho Martha và Charles một lần. Nhưng như thế không phải là hay. Không sự tha thứ nào có thể làm thay đổi thực tế và cả hai sẽ chậm trễ. Cô lên tiếng:

- Tôi rất tiếc là tôi phải lưu ý hai bạn về việc đến trễ giờ. Nhưng các bạn có thể tới bên lò sưởi hơ ấm trước khi về chỗ.

Martha nói:

- Chúng tôi xin lỗi, cô Ingalls. Chúng tôi không ngờ lại mất nhiều thời giờ như thế.

- Mở lối đi là một việc nặng nhọc, tôi biết thế.

Laura nói và đột nhiên cô và Martha cười với nhau, một nụ cười thân thiện khiến Laura cảm thấy việc dạy học trở nên dễ dàng hơn. Cô nói:

- Lớp Hai đứng lên, bước tới trước.

Và Ruby, Lớp Hai, đứng lên bước tới phía trước cô.

Trọn buổi sáng trôi qua êm ả. Buổi trưa, Ruby bước tới bàn của Laura, bẽn lẽn tặng cô một chiếc bánh quy. Sau khi tất cả ăn xong bữa trưa, Clarence mời cô cùng ra ngoài chơi cầu tuyết và Martha nói:

- Mời cô ra đi. Như thế mình sẽ có đủ ba người ở một phe.

Laura rất hài lòng vì được mời và nôn nóng được ra ngoài nắng giữa trời tuyết trắng trong nên bước ra. Thật là thích thú. Cô cùng Martha, Ruby chiến đấu chống lại Clarence, Charles và Tommy.

Không khí đầy những trái cầu tuyết. Clarence và Laura nhanh hơn hết, né tránh, vốc chụp, nặn tuyết giữa những bàn tay bao găng quăng đi rồi lại né tránh. Laura nóng bừng và cười lớn khi một nắm tuyết lớn bùng vỡ ngay trên mắt cô và miệng cô mở ra, tuyết trát đầy mặt.

Cô nghe thấy Clarence nói:

- Ui chà, tôi không tính làm thế.

Laura chà hai mắt không nhìn thấy gì đáp:

- Thôi xong rồi! Chỉ là một va chạm nhẹ.

Cậu ta nói:

- Đứng im đó, để tôi.

Cậu ta nắm lấy vai cô tựa hồ cô là Ruby và lau mặt cô bằng đuôi chiếc khăn quấn. Laura nói:

- Cám ơn.

Nhưng cô biết rằng cô không nên chơi nữa. Cô quá nhỏ bé và quá trẻ nên sẽ không buộc nổi học sinh giữ kỷ luật nếu chơi đùa với tất cả.

Ngay buổi chiều hôm đó, Clarence kéo tóc Martha. Bím tóc nâu của cô quết qua bàn của cậu ta khi cô xoay đầu và cậu ta nắm lấy giật mạnh.

Laura lên tiếng:

- Clarence, đừng quấy rầy Martha. Hãy để tâm vào bài học của bạn.

Cậu ta cười giả lả với cô như để nói rằng:

- Được thôi, nếu cô nói thế thì tôi sẽ không làm.

Khủng khiếp với cô là Laura gần như mỉm cười. Cô chỉ có vừa đủ thời gian để kịp giữ lại vẻ nghiêm khắc. Lúc này cô thấy chắc là cô đã bối rối về Clarence.

Ngày Thứ Tư trôi qua. Chỉ còn Thứ Năm và Thứ Sáu. Laura cố không mong Bố tới kiếm nhưng cô không thể ngưng hy vọng. Thật hết sức dễ chịu khi Bố tới kiếm và cứu cô khỏi hai ngày khổ sở trong căn nhà của bà Brewster. Nhưng dĩ nhiên Bố không biết được nỗi khổ sở đó ra sao. Cô không nên trông đợi ở Bố. Dù sao, nếu thời tiết tốt, chắc chắn Bố có thể tới. Nếu Bố tới cô sẽ chỉ còn chịu đựng hai buổi tối cay cực và tối Thứ Sáu đã được ở nhà! Cô vẫn không mong Bố, cô phải không mong để không thất vọng khi Bố không tới. Tuy nhiên cô biết cả nhà đều nhớ cô và nếu thời tiết êm ả, chắc chắn Bố sẽ tới.

Nhưng sáng Thứ Sáu có bão và gió trở lạnh hơn.

Trọn ngày ở trong lớp học, Laura lắng nghe tiếng gió, sợ nó đổi thành tiếng bão tuyết gào hú và thình lình, căn lều lay động với khung cửa sổ trống trơn.

Qua các kẽ hở gió càng thổi lạnh hơn. Tiếng gió bốc cao và lùa từng cụm tuyết lướt ngang cánh đồng rộng. Lúc này Laura biết là Bố không nên đến. Hai mươi bốn dặm đường trong thời tiết như thế này quá cực nhọc với lũ ngựa. Laura nghĩ:

- Mình phải làm cách nào qua hết khoảng thời gian cho tới Thứ Hai?

Laura khốn khổ rời mắt khỏi khung cửa sổ và bắt gặp Charles đang ngồi ngủ gật. Đột nhiên, cậu ta nhảy dựng lên choàng thức. Laura suýt bật cười nhưng Clarence liếc cô, mắt hấp háy. Cô không thể bỏ qua chuyện này. Cô lên tiếng:

- Clarence, tại sao bạn không học?

Cậu ta đáp:

- Tôi thuộc hết các bài học rồi.

Cô không nghi ngờ điều này. Clarence học rất nhanh. Cậu ta luôn theo kịp Martha, Charles và vẫn còn dư thời giờ ngồi chơi.

Cô gõ lên mặt bàn:

- Chúng ta sẽ coi xem các bạn đánh vần tốt ra sao. Lớp Ba đứng lên. Tới đây.

Căn lều lay động trong tiếng gió từng lúc hú mạnh hơn khắp xung quanh. Hơi nóng hừng hực từ lò sưởi làm tuyết lùa qua các kẽ ván vào phòng tan chảy thành những vệt nước dài trên mặt nền.

Clarence đánh vần trôi chảy mọi từ mà Laura nêu ra trong lúc cô tự hỏi có nên cho lớp học tan sớm không. Nếu cô chờ tới khi bão mạnh hơn thì Charles và Martha có thể không về tới nhà kịp.

Hình như cô thấy tiếng gió có một âm vang lạ lùng như tiếng chuông bạc. Cô lắng nghe và cả lớp cùng lắng nghe. Cô không biết làm gì trước chuyện này. Bầu trời không thay đổi. Vẫn những đám mây xám xà thấp trôi vùn vụt trên cánh đồng tràn ngập tuyết bay theo gió. Âm thanh lạ lùng trở nên rõ hơn gần như tiếng nhạc. Đột nhiên khắp cánh đồng đầy ắp tiếng rung của những chùm chuông nhỏ.

Tiếng chuông xe ngựa!

Mọi người lại thở ra và mỉm cười. Hai con ngựa nâu lướt nhanh qua khung cửa sổ. Laura biết rõ chúng. Đó là Prince và Lady, những con ngựa của chàng Wilder trẻ! Tiếng chuông vang lên lớn hơn và dừng lại. Rồi một vài tiếng chuông khua nhẹ nhẹ. Những con ngựa nâu đang dừng sát bên ngoài bờ vách phía nam dưới mái che của căn lều.

Laura căng thẳng tới mức giữ nghiêm giọng:

- Cả lớp ngồi xuống.

Cô chờ một lát rồi tiếp:

- Các bạn có thể cất sách vở. Còn hơi sớm một chút, nhưng bão có thể giữ hơn. Lớp học chấm dứt.

4. TIẾNG CHUÔNG XE NGỰA

Clarence xông thẳng ra ngoài và quay phắt lại la lớn:

- Có ai tới kiếm cô, cô giáo!

Laura đang giúp Ruby mặc áo.

- Nói giúp là tôi sẽ ra ngay.

- Tới đấy, Charles! Cậu phải coi mấy con ngựa của anh ta!

Clarence đạp mạnh cửa tới nỗi căn lều rung lên. Laura vội vã mặc áo, buộc dây mũ và quấn khăn. Cô đóng các ô gió lò sưởi, thọc mạnh tay vào trong găng, quơ đống sách vở và chiếc xô đựng thức ăn. Cô nhìn lại cho chắc là cửa ra vào đã được đóng chặt. Suốt thời gian đó, cô gần như nín hơi vì kích động. Bố không tới nhưng sau hết, cô sẽ được về nhà!

Almanzo Wilder đang ngồi trong một chiếc xuồng thấp và nhỏ tới mức khó khác hơn một đống da trên tuyết, phía sau là Prince và Lady. Anh quấn kín người trong chiếc áo choàng da bò và chiếc mũ da có hai tai che ấm áp như một chiếc mũ trùm.

Anh không bước ra ngoài trời bão. Thay cho việc đó, anh nhấc áo choàng da đưa bàn tay ra giúp Laura bước lên chiếc xuồng. Sau đó, anh kéo áo choàng phủ quanh người cô. Áo bằng da bò dày ấm áp được lót thêm một lớp flanen. Anh hỏi:

- Cô muốn ghé lại nhà Brewster không?

Laura đáp:

- Tôi phải ghé chứ, để bỏ lại chiếc xô đựng thức ăn và lấy chiếc túi xách của tôi.

Trong nhà Brewster, Johnny đang gào khóc giận dữ và khi Laura bước ra khỏi nhà cô thấy Almanzo đang ngắm nó một cách kinh tởm. Nhưng lúc này tất cả đã ở phía sau cô và cô đang trở về nhà. Almanzo quấn khăn choàng thật kỹ quanh người cô, tiếng chuông xe bắt đầu gióng lên vui vẻ và chiếc xuống lướt nhanh phía sau những con ngựa nâu đang đưa cô về nhà.

Cô nói qua vạt chiếc khăn len dầy màu đen:

- Thật vui là có ông tới đón tôi. Tôi đang hy vọng Bố sẽ tới.

Almanzo do dự:

- To…ốt thôi. Ông ấy đang tính là ông ấy làm, nhưng tôi nói một chuyến đi thế này sẽ quá mệt với lũ ngựa của ông ấy.

Laura lên tiếng một cách nghi ngại:

- Chúng sẽ phải mang tôi trở lại. ôi phải có mặt ở trường học vào sáng Thứ Hai.

Almanzo nói:

- Có thể Prince và Lady sẽ lại đi một chuyến.

Laura thấy bối rối vì cô không cố tình gợi ý như thế. Thậm chí cô không có ý nghĩ là anh sẽ tới đón cô về. Lại thêm một lần nữa cô nói trước khi kịp suy nghĩ. Lời khuyên của Bố đúng biết chừng nào. Cô cần phải luôn luôn, luôn luôn suy nghĩ trước khi nói. Cô nghĩ:

- Sau chuyện này, mình sẽ luôn luôn nghĩ trước khi nói.

Và, cô nói không nghĩ tới cái âm vang thô lỗ vụng về:

- Ô, ông khỏi cần chịu phiền toái thế. Bố sẽ đưa tôi lại trường.

Almanzo nói:

- Chẳng phiền gì cả. Tôi đã nói với cô là tôi sẽ đưa cô đi một chuyến khi tôi đang đóng chiếc xuồng của tôi. Đây là chiếc xuồng đó. Cô thấy nó thế nào?

Laura đáp:

- Tôi nghĩ thật thú vị được ngồi trên nó. Nó nhỏ quá.

Almanzo giải thích:

- Tôi đóng nó nhỏ hơn một nhánh cây lớn. Nó chỉ dài năm bộ và đáy rộng hai mươi sáu inch. Như thế ngồi ấm áp và nhẹ hơn cho lũ ngựa dễ kéo. Chúng khó biế là chúng đang kéo vật gì.

Laura nói:

- Nó giống như đang bay.

Cô không bao giờ tưởng tượng có một tốc độ kỳ lạ như thế.

Những đám mây thấp trên đầu vùn vụt trôi về phía sau tuyết hai bên xe như bốc khói bay lui theo gió và cặp ngựa nâu vạm vỡ phăm phăm lao tới trong dòng suối nhạc từ những chiếc chuông.

Không xóc giật hoặc lắc lư, chiếc xuồng trượt băng nhỏ bay là là trên mặt tuyết như một con chim bay trên không.

Gần như quá mau, dù không đủ mau, họ đã lướt qua những khung cửa sổ trên phố Main và ở đây hiện ra khng cửa trước ngôi nhà của Bố đang mở rộng và Bố đứng ở bên trong. Laura lao xuống khỏi chiếc xuồng và bước đi trước khi kịp nghĩ, rồi sau đó:

- Ô, cám ơn, ông Wilder, chúc ông ngủ ngon!

Cô gọi lại với tất cả hơi sức và cô đã ở trong nhà.

Nụ cười của Mẹ làm sang bừng cả gương mặt. Carrie chạy lao tới gỡ mũ trùm và khăn quấn của Laura trong lúc Grace vỗ tay hét lớn:

- Laura đã về nhà!

Lúc đó Bố bước vào và nói:

- Hãy ngắm con coi. Tốt, tốt, vẫn đúng là nhà kho vỗ cánh nhỏ nhoi!

Có quá nhiều điều để nói và kể. Chưa bao giờ căn phòng khách lớn đẹp tới thế. Lúc này, những bức vách mang màu nâu sậm, mỗi năm những tấm ván thong lại đậm màu hơn. Chiếc bàn phủ khăn trải màu đỏ kẻ ô vuông và những tấm thảm rực rỡ trên nền nhà. Nhữn chiếc ghế đu đứng bên những khuôn cửa sổ che màn trắng, chiếc ghế gỗ của Mary và chiếc ghế bằng cây liễu mà Bố đóng cho Mẹ từ lâu lắm, hồi còn ở vùng đất của người da đỏ. Những tấm nệm khâu tay vẫn còn nằm trên ghế và trên đó còn có giỏ đồ khâu của Mẹ, một món đồ đan cùng những chiếc kim cắm vào cuộn chỉ. Kitty uể oải vươn dài và ngáp rồi bước tới cong người cọ vào mắt cá chân Laura. Trên bàn giấy của Bố có giỏ xâu chuỗi màu xanh do Mary làm.

Câu chuyện tiếp tục quanh bàn ăn bữa tối. Laura thèm nói chuyện còn hơn thèm ăn. Cô kể về từng học sinh ở trường và Mẹ nói về lá thư mới nhất của Mary. Mary làm việc rất tốt ở trường dành cho người mù tại Iowa. Carrie kể lại tất cả những tin tức ở trường học tại thị trấn. Grace nhắc những từ mà cô bé đã học đọc được và về trận đánh mới nhất của Kitty với một con chó.

Sau bữa ăn tối, khi Laura và Carrie rửa chén đĩa xong, Bố lên tiếng đúng như Laura đang hy vọng:

- Nếu con mang đàn tới cho Bố, Laura, chúng mình sẽ có một chút âm nhạc.

Bố chơi các bài hành ca của Tô Cách Lan, của Mỹ; các bài tìn ca xa xưa êm dịu và những nhịp điệu vũ tưng bừng khiến Laura sung sướng tới nghẹn ngào.

Tới giờ ngủ, cô lên cầu thang cùng với Carrie và Grace, nhìn từ cửa sổ gác xuống những ánh đèn thị trấn chiếu sang đây đó qua gió và tuyết bay. Khi đã ấm áp dưới những lớp mền, cô nghe thấy Bố và Mẹ bước lên phòng ở đầu cầu thang. Cô nghe rõ giọng nói hài long thật thấp của Mẹ và giọng Bố trầm hơn đáp lại và cô sung sướng được ở nhà hai đêm và gần trọn hai ngày đến nỗi cô khó thể chợp mắt nổi.

Ngay cả giấc ngủ của cô cũng thật sâu và êm ả, không sợ rơi khỏi chiếc ghế sô pha chật hẹp.

Gần như ngay tức khắc, cô có vẻ mở mắt. Cô nghe thấy tiếng lò sưởi reo ở dưới nhà và biết rằng mình đang ở nhà.

- Xin chào!

Carrie nói từ giường của mình và Grace ngồi bật lên, hét:

- Xin chào Laura!

- Xin chào.

Mẹ mỉm cười khi Laura bước vào trong bếp và Bố mang sữa vào, nói:

- Xin chào Nhà-Kho-vỗ-cánh!

Từ trước Laura không bao giờ nhận thấy việc chào nhau vào buổi sang sẽ khiến buổi sang tốt lành hơn. Cô nghĩ dù sao cô cũng học được một thứ gì đó từ bà Brewster kia. Bữa điểm tâm thật dễ chịu. Sau đó, vẫn say sưa trò chuyện, Laura và Carrie rửa chén đã rồi lên gác làm giường. Trong lúc tấn một tấm trải giường, Laura nói:

- Carrie, em có nghĩ mình may mắn ngần nào khi có một ngôi nhà như thế này không?

Carrie ngạc nhiên đảo mắt nhìn quanh. Không có gì ngoài hai chiếc giường, ba chiếc thùng đựng các thứ đồ dưới mái hiên và mặt dưới của những tấm ván trần ở trên đầu. Cũng có thể kể them chiếc ống khói dựng đứng xuyên qua sàn và vượt lên khỏi mái nhà.

- Gọn rồi.

Carrie nói trong lúc các cô kéo căng tấm mền trải đầu tiên, gấp lại và tấn các góc, tiếp:

- Thật chính xác thì em cho là em chẳng bao giờ nghĩ.

Laura nói:

- Em đợi tới khi em đi xa. Lúc đó em sẽ nghĩ.

Carrie thấp giọng, hỏi:

- Chị ghét dạy học khngr khiếp lắm hả?

Laura gần như thì thầm:

- Ừ, chị ghét lắm. Nhưng không nên để Bố và Mẹ biết.

Các cô vỗ gối cho phồng lên, đặt vào đúng chỗ và đi tới giường Laura. Carrie an ủi cô:

- Có lẽ chị không phải làm lâu đâu.

Mở nút chiếc nệm rơm, các cô thọc sâu tay vào trong khuấy rơm cho tơi ra và Carrie tiếp:

- Có lẽ chị sẽ lấy chồng. Mẹ đã làm thế.

Laura nói:

- Chị không muốn.

Cô vỗ chiếc nệm cho mịn, cài nút lại:

- Rồi đó. Bây giờ tới chiếc mền phủ. Chị thích ở lại nhà hơn làm bất cứ điều gì khác.

Carrie hỏi:

- Mãi mãi sao?

- Ừ, mãi mãi.

Laura nói và nghĩ thật lòng như vậy. Cô kéo căng tấm khăn trải, nói:

- Nhưng chắc chị không thể, không thể ở suốt mọi thời gian. Chị phải tiếp tục đi dạy học.

Các cô đã tấn xong khăn trải và vỗ phồng gối của Laura. Tất cả các giường đã làm xong.

Carrie bảo cô sẽ đi quét nhà. Cô nói:

- Bây giờ em luôn luôn làm việc này. Nếu chị đi gặp Mary Power thì đi sớm chừng nào sẽ về sớm chừng đó.

Laura nói:

- Chị chỉ muốn tìm xem chị có bắt kịp lớp học của mình không.

Xuống dưới nhà, cô đặt thùng nấu nước rửa lên lò và đổ đầy bằng những xô nước kéo từ giếng. Một lúc sau, trong lúc nước đang nóng lên, cô đi gặp Mary Power.

Cô đã quên hẳn là có lúc cô từng không ưa thị trấn. Sáng nay trời quang và mát mẻ. Ánh nắng lấp lánh từ những dấu xe in trong tuyết trên đường phố và lóe sang từ những cạnh ván đóng sương trên vỉa hè. Trong hai khu xây cất lúc này chỉ còn hai lô trống về phía tây của đường phố và một số cửa hang được sơn trắng hoặc xám. Cửa hang tạp hóa Harthorneos đã sơn đỏ. Khắp nơi đều hiện rõ vẻ bừng dậy náo nhiệt của buổi sáng. Các chủ tiệm trong mũ và áo khoác dầy đang cạo những đám tuyết bị đạp xuống khỏi lối đi trước cửa hang của mình. Họ vừa làm vừa trò chuyện, đùa giỡn. Các khung cửa ra vào sập mạnh, những con gà mái kêu quang quác và lũ ngựa hí vang trong chuồng.

Ông Fuller rồi ông Bradley nhấc mũ chào Laura khi cô đi ngang qua. Ông Bradley nói:

- Tôi nghe nói cô đang dạy ở trường Brewster, cô Ingalls.

Laura cảm thấy lớn hẳn lên. Cô đáp:

- Dạ, cháu chỉ về thị trấn vào Thứ Bảy.

Ông Bradley nói:

- Tốt, chúc cô hoàn toàn thành công.

Laura nói:

- Cám ơn ông, ông Bradley.

Trong cửa hang may Power, cha của Mary ngồi bắt chéo chân trên bàn bận rộn may. Mary đang giúp mẹ làm công việc buổi sang ở phòng sau. Bà Power kêu lên:

- Ô, coi ai kìa! Cô giáo thế nào?

Laura đáp:

- Dạ, cảm ơn bà, cháu rất khỏe.

Mary nôn nóng muốn biết:

- Bạn có thích dạy học không?

Laura nói:

- Mình mong là có thể làm tốt được mãi. Nhưng mình thích ở nhà hơn. Mình sẽ mừng khi hai tháng qua đi.

Mary nói với cô:

- Tất cả bọn mình cũng vậy. Trời ơi, ở trường bọn mình nhớ bạn lắm.

Laura thấy hài lòng. Cô nói:

- Các bạn ra sao? Mình cũng nhớ các bạn lắm.

Mary tiếp tục kể:

- Nellie Oleson cố dành chỗ ngồi của bạn, nhưng Ida không chịu. Ida bảo giữ chỗ đó cho bạn cho tới khi bạn quay lại trường và thầy Owen nói bạn ấy có thể làm việc đó.

Laura kêu lên:

- Vì lẽ gì mà Nellie Oleson muốn chiếm chỗ ngồi của mình? Chỗ ngồi của cô ta cũng tốt chứ hoặc gần như thế.

Mary nói:

- Chỉ là do Nellie muốn thay thế bạn. Cô ta muốn mọi thứ mà người khác có, vậy thôi. Ô, Laura, cô ta sẽ giống hệt như con gà mắc tóc kh mình nói cho cô ta hay rằng Almanzo Wilder đã đưa bạn về nhà bằng chiếc xuồng trượt mới của anh ta!

Cả hai cùng cười lớn. Laura cảm thấy hơi mắc cỡ nhưng cô không thể nín cười. Các cô nhớ lại sự khoác lác của Nellie là cô ta sẽ ngồi trên cỗ xe ở phía sau những con ngựa nâu kia. Và cô ta chưa khi nào làm nổi việc đó.

Mary lên tiếng:

- Mình khó thể chờ nổi.

Bà Power nói:

- Mẹ không nghĩ đó là việc hay lắm, Mary.

Mary nhìn nhận:

- Con biết đó là chuyện không hay. Nhưng nếu mẹ chỉ cần hiểu Nellie Oleson đã không ngừng khoác lác, khoe khoang và châm chọc Laura ra sao. Và bây giờ thử nghĩ Laura đang đi dạy học và anh bạn trai Almanzo Wilder tới đón bạn ấy về.

Laura kêu lên:

- Ô, không! Anh ta không phải bạn trai! Không phải như thế chút nào! Anh ta đến đón mình là vì muốn giúp Bố mình thôi!

Mary cười:

- Anh ta hẳn phải nghĩ thật nhiều đến Bố của bạn nhỉ?

Cô bắt đầu chọc ghẹo rồi ngắm Laura, nói:

- Mình xin lỗi. Mình sẽ không nói về chuyện này nếu bạn không muốn.

Laura nói:

- Mình không có ý đó. Mình chỉ không muốn bạn nghĩ ông Wilder là bạn trai của mình vì ông ta không phải như thế.

Mọi chuyện thật đơn giản khi có một mình hoặc ở nhà nhưng ngay khi gặp một người khác sẽ thành khó khăn ngay. Mary nói:

- Được rồi.

Laura giải thích:

- Mình chỉ chạy tới một phút thôi vì mình đang nấu nước và lúc này chắc đã sôi rồi. Hãy nói cho mình biết các bạn đang học bài nào, Mary.

Khi Mary nói cho biết, Laura thấy cô đang theo kịp lớp học với bài học ban đêm. Sau đó, cô trở về nhà.

Trọn ngày hôm đó tràn đầy hạnh phúc. Laura giặt quần áo rồi phun nước, ủi các món đồ khô sạch. Rồi trong gian phòng khách ấm cúng, cô tháo tung chiếc mũ nhung nâu tuyệt đẹp trong lúc ngồi nói chuyện với Mẹ, Carrie và Grace. Cô chải sạch, phun hơi nước và bao lại trên một khung vải cứng làm thành một chiếc mũ mới còn mới hơn cả trước đó. Cô còn có đủ thời giờ chải, ủi chiếc áo khoác màu nâu và giúp Mẹ nấu xong sớm sủa bữa ăn tối. Sau đó cả nhà lần lượt tắm trong khu nhà bếp ấm áp và đi ngủ.

Trước khi chìm vào giấc ngủ, Laura nghĩ:

- Nếu có thể sống mãi theo cách này, không khi nào mình mong muốn một điều gì nữa. Nhưng có lẽ mình phải tận hưởng nhiều hơn vì mình chỉ còn tối náy và sang mai…

Nắng sáng và bầu trời Chủ Nhật như có vẻ lặng lẽ riêng và thị trấn cũng lặng lẽ theo với sự yên tĩnh của ngày Chủ Nhật khi Laura cùng Carrie, Grace và Mẹ bình thản bước ra khỏi nhà lúc sang sớm. Công việc buổi sang đã dứt, món đậu dành cho bữa ăn trưa Chủ Nhật đang hầm trên lò. Bố cẩn thận kéo các ô gió trên lò bếp, bước ra khóa cửa lại.

Laura và Carrie tiến lên trước, Bố Mẹ dắt tay Grace nối theo sau. Tất cả đều sạch sẽ tươm tất trong những bộ đồ đẹp nhất dành cho Chủ Nhật, bước thật chậm trong buổi sáng giá buốt, cố giữ không để bị trượt chân trên những lối đi còn đóng băng. Cũng thận trọng trên đường phố và nối hang băng qua phía sau cửa tiệm Fuller, mọi người đều đang hướng về nhà thờ.

Ngay khi bước vào, Laura nôn nóng nhìn khắp những chỗ kín người và Ida đã có ở đó!

Cặp mắt nâu của Ida như nhảy múa khi thấy Laura và cô trượt dọc chiếc ghế để có them chỗ níu lấy cánh tay Laura, thì thầm:

- Trời ơi, thấy bạn mình mừng quá! Bạn về khi nào?

Laura thì thầm:

- Sau buổi học chiều Thứ Sáu.

Vẫn còn một thời gian ngắn để trò chyện trước buổi học Chủ Nhật. Ida hỏi:

- Bạn có thích dạy học không?

- Không, mình không thích! Nhưng đừng nói cho ai biết hết, Mình đang cố lo cho ổn thỏa.

Ida hứa:

- Mình sẽ không nói. Mình hiểu bạn. Nhưng chỗ ngồi của bạn ở trường trống vắng khủng khiếp.

Laura nói:

- Mình sẽ trở lại. Chỉ bảy tuần lễ nữa thôi.

Ida nói:

- Laura. Bạn không để ý nếu Nellie Oleson ngồi cạnh mình trong thời gian bạn đi vắng, phải không?

Laura kêu lên. Rồi cô thấy Ida chỉ đang chọc mình. Cô nói:

- Dĩ nhiên là không. Bạn cứ hỏi cô ta và thấy nếu cô ta thích.

Vì đang ở trong nhà thờ nên cả hai không thể cười mà chỉ lặng lẽ lắc lư và gần như nghẹn ngào trong cố gắng giữ cho nét mặt tỉnh táo. Luật sư Barnes đang đạp trên mặt bàn để nhắc lớp học Chủ Nhật giữ trật tự và các cô không còn nói chuyện được nữa. Họ phải đứng lên và hòa theo trong tiếng hát:

                              Lớp học Xa-ba ngọt ngào công chính!

                              Thân thương hơn khắp mọi mái điện đài

                              Con tim này mãi mãi không rời đổi

                              Xa-ba ơi, mái ấm trọn cuộc đởi

Cùng hát còn tốt hơn là trò chuyện. Laura nghĩ Ida và cô vô cùng gắn bó khi cả hai đứng bên nhau cùng giữ cuốn thánh ca mở rộng phía trước.

                              Chọn lựa đầu tiên cho con tim lang bạt

                              Nẻo đường đời đã rộng mở thênh thang

                              Mảnh đất đầu tiên để vun trồng hạnh phúc

                              Mái nhà Xa-ba công chính thân thương

Giọng Laura trong trẻo, mạnh mẽ cất lên trong lúc giọng Ida cao dịu dàng nối theo, rồi cả hai cùng hòa trộn lập lại:

                              Con tim này mãi mãi không rời đổi

                              Xa-ba ơi, mái ấm trọn cuộc đời.

Lớp học Chủ Nhật là một phần hấp dẫn trong buổi lễ tại nhà thờ. Dù chỉ được nói chuyện với thầy giáo về bài học, Ida và Laura vẫn có thể mỉm cười với nhau và cùng hòa tiếng hát. Khi lớp học chấm dứt, chỉ có vừa đủ thời giờ để nói “Tạm biệt - Tạm biệt”. Rồi Ida phải tới ngồi với bà Brown ở hang ghế trước trong lúc giáo sĩ Brown thuyết giảng một bài ngớ ngẩn dài dằng dặc.

Laura và Carrie tới ngồi cùng Bố Mẹ và Grace. Laura biết chắc đã nhớ văn bản được nhắc lại ở nhà khi Bố hỏi cô nên cô không cần nghe gì thêm. Trong nhà thờ Laura luôn nhớ tới Mary lúc nào cũng ngồi ngay ngắn sát bên cô chăm chú theo dõi cách cư xử của Laura. Thật lạ khi nghĩ rằng các cô từng là những cô bé, vì lúc này Mary đang theo học tại trường cao đẳng và Laura đã là cô giáo. Cô cố không nghĩ tới bà Brewster và trường học. Sau hết, Mary đã vào trường cao đẳng và Laura đang kiếm được bốn mươi đô la. Với bốn mươi đô la, Mary có thể tiếp tục học tại trường trong năm tới. Có lẽ mọi thứ sẽ tốt nếu mình cố gắng. Bằng cách nào cũng phải luôn cố gắng. Sẽ không có gì xảy tới nếu mình không gây ra. Laura nghĩ:

- Chỉ cần mình xoay sở được với Clarence trong bảy tuần lễ nữa.

Carrie bấu vào cánh tay cô. Mọi người đang đứng lên để hát bài Doxology. Buổi lễ đã kết thúc.

Bữa ăn trưa thật tyệt. Món đậu hầm của Mẹ hết sức ngon ăn với bánh mỳ, bơ, dưa leo dầm và mọi người đều thoải mái, vui vẻ trò chuyện. Laura nói:

- Ôi, con thích được ở đây.

Bố nói:

- Quá tệ là nhà Brewster không phải là một nơi tốt để ở.

Laura ngạc nhiên nói:

- Sao, Bố. Con đâu có gì phàn nàn.

Bố nói:

- Bố biết con không phàn nàn. Tốt, hãy mím môi lại. Bảy tuần lễ sẽ qua mau và con lại trở về nhà.

Dễ chịu biết bao khi chén bát rửa xong và cả nhà quay quần trong gian phòng trước suốt buổi chiều Chủ Nhật. Nắng như dòng suối tuôn qua những khung cửa sổ sạch bóng vào gian phòng ấm áp đang có Mẹ ngồi đung đưa nhẹ nhẹ chiếc ghế đu và Carrie cùng Grace mải mê với những tấm hình trong cuốn sách bìa xanh lá cây của Bố, Điều Kỳ Diệu Trong Thế Giới Loài Vật. Bố đọc những bản tin trên tờ báo Người Tiên Phong cho Mẹ nghe, còn Laura ngồi ở bàn viết của Bố viết thư cho Mary. Khẽ khàng với cây bút khảm trai của Mẹ mang hình dạng như một chiếc lông cánh chim, cô viết về lớp học và các học sinh của mình. Dĩ nhiên cô không nhắc nhở tới những điều bất như ý. Chiếc đồng hồ tích tắc đều đều và thỉnh thoảng con mèo Kitty lại vươn dài người một cách lười biếng khẽ gừ lên một tiếng ngắn.

Khi viết xong lá thư, Laura lên gác xếp quần áo vào chiếc túi xách của Mẹ. Cô mang xuống nhà và đi ra phòng trước. Chắc đã tới giờ đi nhưng Bố đang đọc báo và không lưu ý tới.

Mẹ nhìn lên đồng hồ và khẽ nhắc:

- Charles, anh hẳn phải lo đóng ngựa thôi, kẻo trễ. Đường đi về xa lắm và lúc này trời tối sớm.

Bố chỉ lật tờ báo lại và nói:

- Ô, vội gì.

Laura và Mẹ nhìn nhau ngạc nhiên. Cả hai nhìn lên đồng hồ rồi lại nhìn Bố. Bố không hề nôn nóng nhưng hàm râu hung của Bố hình như có một nụ cười.

Chiếc đồng hồ tích tắc đều đều và Bố lặng lẽ đọc báo. Mẹ gần như đã hai lần lên tiéng và ý nghĩa đảo lộn. Cuối cùng, không nhìn lên, Bố nói:

- Có ai đã quấy rầy cặp ngựa của tôi.

Mẹ kêu:

- Sao rồi, Charles! Không có chuyện gì bất ổn cho lũ ngựa chớ?

Bố nói:

- Này! Thực tế là chúng không còn trẻ để mà sử dụng hoài. Dù vậy, chúng vẫn có thể chịu nổi một khoảng đường mười hai dặm đi và về.

Mẹ nói một cách bất lực:

- Charles.

Bố nhìn Laura với ánh mắt lấp lánh, nói:

- Có lẽ Bố không phải lái chúng đi xa như thế.

Ngoài phố có tiếng chuông xe ngựa vọng tới. Tiếng chuông mỗi lúc một rõ hơn, lớn hơn và dừng lại trước cửa. Bố bước ra, mở rộng cửa. Laura nghe thấy Almanzo Wilder nói:

- Chào ông Ingalls. Tôi ghé lại để coi Laura có cần tôi đưa cô ấy tới trường không?

Bố đáp:

- Chà, tôi tin là nó thích được ngồi trên chiếc xuồng trượt băng đó.

Almanzo nói:

- Bây giờ đã trễ và quá lạnh cho lũ ngựa nếu không có mền phủ cho chúng. Tôi chạy xuống phố và sẽ ghé lúc quay lại.

- Tôi sẽ nói với con bé.

Bố đáp và đóng cửa trong lúc tiếng chuông rung xa dần.

- Laura nghĩ sao?

Laura nói:

- Thật thích thú được ngồi trên chiếc xuồng trượt băng.

Rất nhanh, cô buộc dây mũ và khoác áo choàng. Tiếng chuông đang trở lại. Cô khó có thời gian chào tạm biệt trước khi xe dừng trước cửa.

- Đừng quên chiếc túi xách.

Mẹ nhắc và Laura quay lại chộp nó lên.

- Cảm ơn Mẹ. Tạm biệt.

Cô nói và bước ra ngoài tới bên chiếc xuồng trượt. Almanzo giúp cô bước lên, tấn áo choàng xung quanh cô. Prince và Lady khởi hành rất nhanh. Tất cả những chiếc chuông rung lên thành một điệu nhạc và cô đang trên đường trở lại trường.

5. BẶM CHẶT MÔI

Suốt tuần lễ đó, mọi chuyện đều trục trặc, tất cả mọi chuyện. Không thứ gì đem lại cho Laura một chút khuyến khích.

Thời tiết âm u. Những đám mây mù sà thấp sát trên đồng cỏ trắng xám và gió thổi một cách buồn bã. Hơi lạnh ẩm ướt nhớp nháp. Tất cả các lò sưởi đầu đóng khói.

Bà Brewster bỏ mặc công việc trong nhà. Bà không quét tuyết khiến ông Brewster đạp lên và tuyết tan chảy thành vũng quến với tro xung quanh lò bếp. Bà ta không làm giường và cũng chẳng buồn kéo căng lại. Mỗi ngày hai lần bà ta nấu khoai tây với thịt heo ướp muối rồi quăng lên bàn. Tất cả thời giờ còn lại bà ta ngồi ủ rũ. Thậm chí bà ta không thèm chải đầu và đối với Laura có vẻ như Johnny gào khóc giận dữ trọn tuần lễ.

Một lần Laura cố tìm cách chơi với nó nhưng nó chỉ thoi đạp cô và bà Brewster giận dữ quát lên:

- Để nó yên!

Sau bữa tối, nó ngủ trên đầu gối của bố và ông Brewster chỉ ngồi. Không khí như âm ỉ nung nấu sự câm nín của bà Brewster và ông ta, Laura nghĩ, ngồi như một cái bướu trên khúc cây. Cô từng nghe thấy nói thế nhưng không nhận rõ ý nghĩa lời nói. Một cái bướu trên cây không chiến đấu với ai nhưng cũng không thể thay đổi.

Sự câm nín nặng nề tới nỗi Laura khó thể học nổi. Khi cô đi ngủ, bà Brewster lại quát ông Brewster. Bà ta muốn trở về miền Đông.

Dù sao Laura cũng khó thể học tốt nổi. Cô hết sức lo ngại về trường học. Mặc dù cô có thể làm mọi sự, mọi điều vẫn tiến từ xấu tới tồi tệ.

Bắt đầu vào Thứ Hai khi Tommy không thuộc một từ trong bài đánh vần. Cậu ta giải thích do Ruby không cho cậu ta mượn bài đánh vần. Laura ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại thế được, Ruby!

Thế là Ruby nhỏ bé ngọt ngào biến ngay thành một vòi lửa. Laura hốt hoảng tới nỗi trước khi kịp can thiệp Ruby và Tommy đã cãi cọ ầm ĩ.

Laura quyết liệt ngưng được vụ cãi cọ. Cô đi tới chỗ của Tommy trao cho cậu ta bài đánh vần, nói:

- Bây giờ hãy học bài này. Em sẽ phải ngồi lại trong giờ nghỉ và đọc cho tôi nghe.

Ngày hôm sau, Ruby không thuộc bài. Cô đứng trước mặt Laura, hai tay chắp sau lưng, ngây thơ như một con mèo con, nói:

- Em không thể học bài đó được, cô giáo. Cô đã cho Tommy bài đánh vần.

Laura nhớ là cô phải đếm đến mười. Rồi cô nói:

- Tôi phải làm như thế. Thôi được, em và Tommy có thể ngồi chung để học bài đánh vần của các em.

Cả hai không học cùng một bài trong cuốn sách nhưng có thể giữ cho cuốn sách mở ở hai khoảng. Từ một phía, Tommy có thể học bài của mình trong khi Ruby đang học bài ở phía bên kia cũng có thể học. Theo cách này, Laura và Mary đã học những bài học đánh vần khác nhau trong cuốn sách đánh vần của Mẹ.

Nhưng Tommy và Ruby không chịu. Cả hai lặng lẽ tranh chấp, mỗi người đều mở rộng hết cuốn sách ở khoảng bài của mình. Laura phải liên tục gay gắt lên tiếng:

- Tommy! Ruby!

Nhưng không ai học tốt được bài đánh vần của mình.

Martha không thể giải xong các đề toán. Charles ngồi ngó lư đãng qua khung cửa sổ vào khoảng không xám xịt. Khi Laura nhắc nhở phải chú ý vào bài học của mình, cậu ta nhìn trân trân vào trang giấy. Laura biết chắc cậu ta không nhìn vào bài.

Cô quá nhỏ bé. Khi Martha, Charles và Clarence đứng trước cô để trả bài, tất cả đều lớn hơn cô quá nhiều. Dù đã ráng làm tốt nhất, cô không thể khiến họ chú tâm học các môn địa dư và lịch sử.

Ngày Thứ Hai, Clarence học thuộc một phần bài lịch sử nhưng khi Laura hỏi thời gian nào có cuộc định cư đầu tiên ở bang Virginia, cậu ta trả lời một cách bất cần:

- Chà, tôi không học phần đó.

Laura hỏi:

- Sao bạn không học?

- Bài học dài quá.

Clarence đáp với một cái nhìn bằng những con mắt nheo lại như muốn nói:

- Cô sẽ làm gì với chuyện đó?

Laura nổi giận nhưng khi bắt gặp cái nhìn của cậu ta, cô hiểu rằng cậu ta đang chờ cô phát cáu. Cô có thể làm gì đây? Cô không thể phạt cậu ta vì cậu ta quá lớn. Cô không nên bày tỏ một sự giận dữ nào.

Cô đành im lặng trong khi lật những trang bài lịch sử như để xem xét. Tim cô như sắp nghẹn lại, nhưng cô không thể để cậu ta nhìn thấy điều đó. Cuối cùng cô nói:

- Thật tệ khi các bạn không học bài này. Như thế bài học của các bạn sẽ dài hơn vì chúng ta không thể kìm Charles và Martha lại được.

Cô tiếp tục nghe Charles và Martha trả bài. Rồi cô cho tất cả bài học khác vẫn giữ nguyên độ dài thường lệ.

Hôm sau Clarence không thuộc bài lịch sử một chút nào. Cậu ta nói:

- Thật vô ích khi cố học những bài dài như thế.

Laura nói:

- Clarence, nếu bạn không muốn học, bạn sẽ là người chịu thua thiệt.

Cô tiếp tục hỏi cậu ta những câu hỏi khi đến phiên cậu ta trả lời hy vọng rằng cậu ta sẽ thấy xấu hổ khi chỉ có một câu trả lời:

- Tôi không biết.

Nhưng cậu ta không xấu hổ.

Mỗi ngày cô cảm thấy khổ sở hơn vì mình đang thất bại. Cô không thể dạy học được. Lớp học đầu tiên của cô đã thất bại thì cô không thể đủ sức dành nổi một chứng chỉ nào khác. Cô sẽ không thể kiếm ra tiền. Mary sẽ phải rời khỏi trường cao đẳng và đó là lỗi của Laura. Cô khó thể học các bài học riêng của mình dù cô đã nghiền ngẫm không chỉ về đêm mà ngay cả trong giờ chơi và giờ nghỉ trưa. Khi trở về thị trấn, cô sẽ tụt lại so với lớp của mình.

Tất cả xáo trộn đều khởi từ Clarence. Cậu ta có thể khiến cho Tommy và Ruby biết cư xử nếu cậu ta chịu làm vì cậu ta là anh lớn. Cậu ta có thể thuốc bài vì cậu ta nhanh trí hơn Charles và Martha.

Cô hết sức mong mình đủ lớn để cho Clarence một trận đòn xứng đáng.

Tuần lễ lết đi thật chậm, tuần lễ dài nhất và khổ sở nhất mà Laura chưa từng thấy.

Vào Thứ Năm, khi Laura nói “Toán học lớp Ba đứng lên”, Clarence bật dậy thật nhanh và Charles bắt đầu di chuyển một cách tiều tụy, nhưng Martha đứng lên được nửa chừng và kêu lớn “Ui cha” rồi ngồi xuống tựa hồ bị kéo giật lại. Clarence đã dùng con dao nhíp ghim bím tóc của cô xuống mặt bàn của cậu ta. Cậu ta đã làm lặng lẽ tới mức Martha không hề hay biết điều gì cho tới khi cô ráng đứng dậy.

Laura lên tiếng:

- Clarence!

Cậu ta không ngưng cười. Tommy cười theo. Ruby khúc khích, thậm chí Charles cùng ngoác miệng cười. Martha ngồi xuống mặt đỏ gay, nước mắt chạy quanh.

Laura hoàn toàn tuyệt vọng. Tất cả đều chống lại cô và cô không thể ghép vào trật tự. Ôi, sao chúng có thể bần tiện tới thế! Trong một thoáng, cô nhớ đến cô Wilder đã thất bại khi dạy trong trường học thị trấn. Laura nghĩ:

- Đây là cách mà cô ấy cảm thấy.

Lúc đó thình lình cô giận cùng cực. Cô giật mạnh con dao ra, bấm lưỡi dao đóng lại trong bàn tay. Cô không cảm thấy bé nhỏ nữa khi đứng đối mặt với Clarence. Cô hét:

- Đáng xấu hổ cho cậu!

Cậu ta ngưng cười. Tất cả im theo.

Laura bước lại bàn của mình, gõ lên mặt bàn:

- Lớp Ba môn toán, đứng lên! Bước tới.

Tất cả không thuộc bài, không giải nổi các đề toán nhưng ít nhất tất cả đều làm bộ nghiêm chỉnh cố làm. Laura cảm thấy mình cao lớn và khủng khiếp vì tất cả đã vâng lời cô một cách dễ dàng.

Cuối cùng, cô lên tiếng:

- Các bạn có thể học lại bài học này vào ngày mai. Lớp học chấm dứt.

Đầu cô nhức nhối khi cô bước về căn nhà dễ ghét của bà Brewster. Cô không thể nổi giận hoài và kỷ luật không thể duy trì nếu học sinh tiếp tục không thuộc bài. Ruby và Tommy đánh vần rất kém. Martha không thể phân tích nổi một câu phức tạp cũng không thể cộng các phân số con. Clarence không chịu học bài lịch sử. Laura cố hy vọng ngày mai cô có thể làm được khá hơn.

Thứ Sáu yên tĩnh. Mọi người đều có vẻ chán nản, bơ phờ. Tất cả đang chờ ngày cuối tuần và cô cũng thế. Những cây kim đồng hồ không bao giờ nhích chậm như vậy.

Buổi chiều, những cụm mây bắt đầu vỡ ra và trời rạng sáng hơn. Ngay trước bốn giờ, ánh nắng chiếu xuyên về phía đông đã nhạt hẳn trên mặt đất đầy tuyết. Rồi Laura nghe thấy tiếng chuông xe ngựa vẳng tới.

Cô lên tiếng:

- Các bạn có thể cất sách vở đi. Lớp học chấm dứt.

Cuối cùng, tuần lễ khốn khổ đã qua. Lúc này không có gì có thể xảy ra thêm nữa.

Tiếng nhạc chuông mỗi lúc một lớn hơn và rõ rệt hơn. Chiếc áo choàng của Laura đã được cài nút và dải mũ đã buộc khi Prince và Lady đi ngang cửa sổ với những chiếc chuông đang khua vang. Cô chụp vội sách vở, chiếc xô đựng thức ăn và ngay lúc đó lại xảy ra điều tồi tệ hơn hết.

Clarence mở cửa thò đầu vào và hô lớn:

- Người yêu của cô giáo tới đây rồi!

Almanzo Wilder chắc hẳn phải nghe thấy. Anh không thể không nghe. Laura không còn biết cô sẽ có thể nhìn mặt anh thế nào. Cô có thể nói gì? Cô có thể nói với anh ra sao về việc cô không hề làm điều gì để Clarence có lý do nói như thế?

Anh đang chờ trong gió lạnh và những con ngựa không được phủ mền. Cô phải bước ra.

Hình như anh mỉm cười với cô và cô khó thể nhìn anh. Anh kéo cô ngồi vào xe và nói:

- Ổn hết chứ?

Cô đáp:

- Dạ, cảm ơn.

Những con ngựa lướt nhanh với những vòng chuông reo vui. Laura quyết định rằng tốt hơn là không nhắc tới Clarence như Mẹ thường nói:

- Ít nói nhất thì mau lành nhất.

6. XOAY XỞ

Đêm đó tại nhà, Laura cảm thấy thật dễ chịu trong lúc Bố chơi đàn. Cô nghĩ hai tuần lễ đã qua và chỉ còn sáu tuần nữa. Cô chỉ có thể cố ráng sức. Tiếng đàn đã ngưng lại và Bố nói:

- Có gì rắc rối, Laura? Con không muốn nói ra hả?

Cô không có ý định đem lo ngại cho cả nhà, cô không muốn nhắc tới một chuyện không vui nào. Nhưng đột nhiên cô nói:

- Ôi, Bố, con không biết làm gì?

Cô kể lại tất cả mọi chuyện trong cái tuần lễ khốn khổ đó rồi hỏi:

- Con có thể làm gì đây? Con cần làm một cái gì đó. Con không thể thất bại nhưng con đang thất bại. Con chỉ ước đủ lớn để đập cho Clarence một trận. Đó là thứ mà nó cần, nhưng con lại không thể làm.

Carrie gợi ý:

- Chị nên yêu cầu ông Brewster. Ông ấy có thể cư xử như thế với Clarence.

Laura phản đối:

- Đâu được, Carrie! Làm sao chị có thể nói với ban giám hiệu rằng chị không điều khiển nổi lớp học? Không, chị không thể làm thế.

Bố lên tiếng:

- Đúng, đó là việc của con, Laura! Tất cả chỉ nằm trong một tiếng “lo liệu”. Con không thể làm quá với Clarence ngay cả trong trường hợp con đủ lớn để trừng phạt nó như nó đáng bị trừng phạt.

Bạo lực không thể giúp ích nhiều đâu. Mọi người đều sinh ra tự do, con biết đó, giống như bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã nói. Con có thể dắt một con ngựa tới vũng nước nhưng con không thể khiến được nó uống. Tốt hay xấu thì cũng không có ai ngoại trừ Clarence có thể làm chủ Clarence mãi mãi. Tốt hơn là con phải tự lo liệu xoay xở.

Laura nói:

- Dạ, con biết, Bố. Nhưng con làm sao đây?

- Này, trước hết là hãy kiên nhẫn. Ráng nhìn mọi thứ theo cái cách nhìn của nó cho tới hết sức mình. Tốt hơn là không nên cố ép nó làm điều gì, vì con không thể ép được. Bố thấy có vẻ như nó không thực sự là một đứa hư hỏng.

Laura đồng ý.

- Dạ, nó không phải vậy. Nhưng con cho là con đã không biết cách hướng dẫn nó ra sao.

Mẹ bắt đầu một cách dịu dàng và Laura nhớ rằng Mẹ đã từng là một cô giáo:

- Nếu Mẹ là con thì Mẹ bỏ mắc Clarence và không chú ý tới nó. Nó chỉ đang muốn được chú ý và đó là lý do khiến nó quậy phá. Hãy dễ chịu và dịu dàng với nó nhưng dành trọn sự lưu tâm vào những đứa khác và uốn nắn những đứa này. Clarence sẽ thay đổi.

Bố nói:

- Đúng là thế, Laura. Hãy theo lời Mẹ. Phải tinh khôn như một con rắn và hiền hòa như một con bồ câu.

Mẹ nói:

- Charles.

Bố nhấc cây đàn lên và bắt đầu đùa giỡn với cô:

- Nàng có thể nhồi anh đào làm bánh, phải chăng chàng trai trẻ Billy ; nàng có thể nhồi anh đào làm bánh, phải chăng Billy quyến rũ ngọt ngào?

Chiều chủ nhật, khi Laura đang bay trên mặt tuyết đầy nắng trong chiếc xuồng trượt băng, Almanzo Wilder nói:

- Được trở về nhà qua hết ngày Chủ Nhật chắc làm cô vui hơn. Tôi có ý nghĩ sống tại nhà Brewster quả là điều thử thách.

Laura đáp:

- Đây là lớp học đầu tiên của tôi và từ trước tôi không từng sống xa nhà. Tôi muốn nhuốm bệnh. Tôi rất nhớ ơn việc ông lái xe xa như thế để đón tôi về.

Anh nói:

- Đây là một niềm vui mà.

Phép lịch sự khiến anh nói như thế, nhưng Laura thấy chẳng có niềm vui nào cho anh trong chuyến đi dài rét mướt này. Họ khó nói nổi thêm một lời nào suốt đường đi vì quá lạnh và cô biết rõ rằng cô không thấy thú vị theo một cách nào đó. Cô không dễ nghĩ ra một điều gì để nói với những người lạ.

Cặp ngựa phải chạy để làm nóng và không thể dừng lâu trong gió lạnh nên khi tới trước cửa nhà Brewster, anh chỉ kìm chúng lại đủ cho Laura nhảy mau xuống. Lúc những con ngựa lao đi, anh đặt bàn tay đeo găng trên chiếc mũ da gọi với qua tiếng nhạc chuông:

- Tạm biệt tới Thứ Sáu!

Laura cảm thấy có tội. Cô không mong anh phải lái xe đi xa như vậy mỗi tuần. Cô hy vọng anh không nghĩ rằng cô đã mong anh làm thế. Chắc chắn anh không nghĩ rằng... phải, rằng anh là người yêu của cô?

Gần như cô đã quen với căn nhà khốn khổ của bà Brewster. Cô chỉ quên nó, khi có thể, để học cho đến giờ ngủ và trong buổi sáng để làm giường gọn ghẽ, rồi nuốt vội bữa điểm tâm, lau kho chén đĩa và đi tới trường. Lúc này chỉ còn sáu tuần nữa.

Sáng Thứ Hai, lớp học bắt đầu ủ rũ như đã kết thúc vào chiều Thứ Sáu. Nhưng Laura quyết định tạo ra một thay đổi và cô khởi sự ngay.

Khi Tommy loạng choạng trong bài tập đọc, cô mỉm cười với cậu bé và nói:

- Bài tập đọc của em có tiến bộ, Tommy. Em xứng đáng nhận một phần thưởng. Em có thích chép bài học đánh vần trên bảng không?

Tommy mỉm cười, thế là cô trao cuốn sách đánh vần cho cậu bé và một cục phấn mới. Khi cậu bé chép xong bài đánh vần, cô khen chữ viết của cậu ta và bảo từ nay cậu có thể học đánh vần trên bảng. Cô đưa cuốn sách đánh vần cho Ruby và nói với cô bé:

- Bài tập đọc của em cũng rất tốt. Vậy, ngày mai em có thích chép bài đánh vần của mình trên bảng không?

- Ồ, thích lắm, thưa cô!

Ruby trả lời một cách hăng hái và Laura nghĩ:

- Thế đó! Đã có một việc được lo liệu.

Clarence nhúc nhích, buông rơi các cuốn sách và kéo tóc Martha, nhưng Laura nhớ lời khuyên của Mẹ, làm lơ không nhìn. Martha tội nghiệp không thuộc một chút nào bài học ngữ pháp. Cô bối rối một cách vô vọng về những câu kết hợp và phức tạp tới nỗi không chịu cố học nữa. Cô chỉ đáp:

- Tôi không hiểu. Tôi không hiểu.

- Tôi nghĩ là bạn cần học kỹ bài học này, Martha.

Laura phải nhắc và sau đó, cô bỗng nảy ra một ý nghĩ, nói tiếp:

- Chính tôi cũng muốn học kỹ lại. Tôi đang cố giữ cho không bị tụt lại so với lớp của mình ở thị trấn và ngữ pháp rất khó. Nếu bạn thích, chúng ta có thể cùng học bài học này vào buổi trưa. Bạn có thích không?

Martha đáp:

- Dạ, tôi thích.

Vào buổi trưa, khi tất cả ăn xong, Laura nhấc cuốn sách ngữ pháp lên, nói:

- Sẵn sàng chưa, Martha?

Martha mỉm cười đáp lại với cô.

Rồi Clarence hỏi:

- Để theo kịp lớp của mình ở thị trấn là lý do khiến cô phải học liên miên sao?

- Phải, tôi học đêm ở nhà nhưng cũng phải học ở đây nữa.

Laura trả lời trong lúc bước ngang qua cậu ta về phía bảng đen. Clarence huýt gió theo hơi thở nhưng Laura không để ý tới.

Trên bảng, cô làm việc cùng với Martha cho tới lúc Martha có thể tự mình phân tích ngữ pháp một câu phức hợp. Martha nói:

- Bây giờ tôi hiểu rồi! Sau bài này, tôi không còn sợ chết khiếp bài học về ngữ pháp nữa.

Thế là qua một khó khăn, Laura nghĩ. Martha đã khiếp hãi môn ngữ pháp đến mức không thể học nổi. Laura nói:

- Không nên khiếp hãi một bài học. Tôi luôn luôn vui được học cùng bạn bất kỳ bài nào, nếu bạn muốn.

Những con mắt nâu của Martha rạng rỡ gần như mắt của Ida, khi cô nói:

- Tôi rất thích. Cám ơn.

Laura mong muốn cô không cần phải giữ tư cách giáo viên. Cô với Martha cùng tuổi và có thể là bạn.

Cô đã quyết định làm gì với những bài học lịch sử của Clarence. Cậu ta đã tụt lại so với Charles và Martha nhưng Laura không nêu những câu hỏi mà cậu ta không thể trả lời. Khi ra bài học cho ngày hôm sau, cô nói:

- Không đòi hỏi bạn học hết bài này. Clarence, nó sẽ khiến cho bài học của bạn quá dài. Đưa tôi coi. Bạn đã tụt lại sau bao nhiêu trang?

Cậu ta chỉ cho cô thấy và cô nói:

- Bạn nghĩ là bạn có thể học bao nhiêu trang? Ba trang nhiều quá không?

- Không.

Cậu ta trả lời. Cậu ta không thể nói gì khác và cũng không thể tranh cãi.

Laura nói:

- Bây giờ lớp học chấm dứt.

Cô tự hỏi Clarence sẽ làm gì. Lời khuyên của Bố Mẹ đang được thực hiện tốt nhưng có tác dụng với Clarence không?

Hôm sau, cô không phải hỏi cậu ta nhiều câu hỏi, nhưng cậu ta có vẻ thuộc hoàn hảo ba trang. Lúc này Charles và Martha đang học trước cậu ta chín trang. Laura chia thêm cho họ bảy trang nữa và nói với Clarence:

- Thêm ba trang nữa có nhiều quá không? Bạn có thể học nhiều nếu bạn thích.

- Tôi sẽ học.

Clarence nói và lần này nhìn Laura với một nụ cười thân thiện.

Cô ngạc nhiên tới nỗi suýt cười đáp lại. Nhưng cô nói nhanh:

- Hãy học ít hơn nếu thấy nó nhiều quá.

Clarence lập lại:

- Tôi sẽ học.

Laura nói:

- Tốt lắm. Lớp học chấm dứt.

Cô đang trở nên thích nghi với khuôn mẫu hàng ngày. Một bữa điểm tâm câm nín trong cái lạnh tê buốt của buổi sớm, một đoạn đường tới trường lạnh cóng run rẩy, rồi những bài tập đọc xoay vòng thường lệ với các giờ giải lao và nghỉ trưa chia thành bốn phần ngày đều nhau. Sau đó là cuộc đi bộ giá rét trở về căn nhà của gia đình Brewster, bữa ăn tối ảm đạm, buổi tối học bài và giấc ngủ trên chiếc ghế sô pha chật hẹp. Bà Brewster luôn lặng thinh ủ rũ. Thậm chí bà còn ít khi lên tiếng cằn nhằn ông Brewster hơn.

Tuần lễ qua đi và Thứ Sáu lại đến. Khi lớp học lịch sử được gọi lên trả lời, Clarence nói:

- Cô có thể nghe tôi đọc lại ngang với Charles và Martha. Tôi đã bắt kịp hai người rồi.

Laura kinh ngạc. Cô kêu lên:

- Nhưng, làm sao bạn làm nổi, Clarence?

Clarence nói:

- Nếu cô có thể học đêm thì tôi cũng có thể chứ.

Laura gần như lại mỉm cườ với cậu ta. Cô có thể thích cậu ta rất nhiều nếu cô không phải là giáo viên. Những tia sáng nâu trong mắt của cậu ta giống như những tia sáng xanh lơ trong mắt Bố.

Nhưng cô là giáo viên. Cô nói:

- Thật là tốt. Bây giờ cả ba bạn tiếp tục học cùng bài.

Bốn giờ chiều tiếng nhạc chuông xe vọng tới và Clarence thì thào rõ tiếng:

- Người yêu của cô giáo!

Má Laura nóng bừng nhưng cô bình thản lên tiếng:

- Các bạn có thể cất sách vở. Lớp học chấm dứt.

Cô khiếp hãi với ý nghĩ Clarence có thể lại gào lớn lên nhưng cậu ta không làm thế. Cậu ta nghiêm chỉnh bước theo lối đi dẫn về nhà cùng Tommy và Ruby trong lúc Laura khóa cửa căn lều và Almanzo lại tấn áo ấm cho cô trong chiếc xuồng trượt.

7. CON DAO TRONG BÓNG ĐÊM

Tuần lễ thứ ba rồi thứ tư trôi đi. Bây giờ chỉ còn bốn tuần lễ nữa. Dù mỗi buổi sáng Laura vẫn lo ngại về buổi học trước mắt, nhưng không có gì tệ hại bằng những chuyện trong căn nhà của gia đinh Brewster và mỗi buổi chiều vào lúc bốn giờ cô đều thở ra một hơi dài trút xong gánh nặng ; thêm một ngày nữa đã qua.

Chưa có bão tuyết nhưng tháng Hai rất lạnh. Gió như những lưỡi dao bén. Mỗi Thứ Sáu và Chủ Nhật, Almanzo Wilder đều thực hiện những chuyến đi dài để đưa đón cô. Laura không biết làm thế nào để qua trọn tuần nếu không có sự hướng về ngày Thứ Bảy ở nhà. Nhưng cô cảm thấy bứt rứt về việc Almanzo phải đi những chuyến đi dài như thế trong rét buốt không cho điều gì hết.

Càng muốn được về nhà hàng tuần bao nhiêu, cô càng không muốn ép buộc ai như thế. Cô chỉ đi cùng với anh về tới nhà nhưng anh không biết đến điều đó. Có lẽ anh đang mong cô sẽ đi chơi cùng anh sau khi cô về tới nhà. Cô không muốn có cảm giác bị bắt buộc phải đi cùng với anh và cũng không muốn bất công hay giả dối. Cô thấy cần phải giải thích rõ chuyện này với anh nhưng cô không biết làm cách nào.

Tại nhà, Mẹ lo ngại vì cô gầy hơn. Mẹ hỏi:

- Con có chắc chắn là ở nhà Brewster, con ăn đủ không?

Laura đáp:

- Ô, quá dư nữa! Nhưng thức ăn không có hương vị như ở nhà mình.

Bố nói:

- Con biết đó, Laura, con không cần phải dạy hết thời hạn. Nếu có gì khiến con lo ngại quá, con có thể về nhà ngay.

Laura nói:

- Sao vậy, Bố! Con không thể chịu thua. Con sẽ không thể dành thêm một chứng chỉ khác. Ngoài ra, chỉ còn thêm ba tuần nữa.

Mẹ nói:

- Mẹ sợ là con đã học quá sức. Giống như con không ngủ đủ giấc.

Laura đoan chắc:

- Mỗi đêm con đều lên giường vào lúc tám giờ.

Mẹ nói:

- Được, vậy thì như con nói, chỉ còn ba tuần nữa.

Không ai biết cô khiếp hãi trở lại nhà bà Brewster ra sao. Không cần thiết phải nói ra điều đó với cả nhà. Được ở nhà vào mỗi ngày Thứ Bảy khiến cô phấn chấn tinh thần và có đủ can đảm cho một tuần lễ khác. Tuy nhiên thật không công bằng khi nhờ cậy Almanzo Wilder như thế.

Chiều Chủ Nhật đó, anh lại đưa cô trở lại nhà Brewster. Họ khó trò chuyện nổi dọc đường đi vì quá lạnh. Những chùm chuông xe khua nghe như đầy sương giá trong cái rét buốt cóng và cỗ xe nhẹ lướt nhanh đến nỗi những cơn gió bắc không kịp xoáy theo vào lưng họ. Nhưng anh phải đối mặt với những cơn gió này lúc quay về.

Căn nhà lều của gia đình Brewster không còn xa ở phía trước, khi Laura tự nhủ:

- Đừng có chần chừ nữa!

Rồi cô nói ra. Cô nói:

- Tôi chỉ đi với ông vì tôi muốn trở về nhà. Khi tôi đã về nhà rồi, tôi không còn đi với ông nữa. Bây giờ ông đã biết thế và nếu ông muốn tránh những chuyến đi dài rét mướt này thì ông cứ tự nhiên.

Những lời nói vang lên thật kinh khủng với chính cô khi cô nói. Chúng thật thô bạo, trắng trợn và đáng ghét. Cùng lúc, khắp người cô bị phủ ngộp trong một ý nghĩ khiếp hãi về điều gì đó sẽ đến khi Almanzo không trở lại đón cô nữa. Cô sẽ phải đi qua những ngày Thứ Bảy và những ngày Chủ Nhật cùng với bà Brewster.

Sau một lát bị bất ngờ, Almanzo nói thật chậm:

- Tôi biết.

Không còn thời gian để nói thêm nữa. Họ đã tới trước cửa nhà bà Brewster và những con ngựa không thể đứng im để chịu lạnh. Laura nói lớn rất nhanh:

- Cám ơn.

Anh đặt bàn tay lên chiếc mũ da và chiếc xuồng lướt xa.

- Chỉ còn ba tuần lễ thôi.

Laura nói với mình nhưng không thể kìm cho tinh thần khỏi đổ xuống.

Suốt tuần thời tiết tiếp tục lạnh tăng. Sáng Thứ Năm, Laura thấy tấm mền đóng cứng xung quanh mũi cô khi cô ngủ. Ngón tay cô tê bại tới mức không cài nổi nút áo. Trong phòng bên, lửa trong lò đang cháy đỏ nhưng hơi nóng dường như không thể xuyên nổi qua cái lạnh bao quanh nó.

Laura đang hơ hai bàn tay tên cóng trên lò lúc ông Brewster lao vào nhà, xé toạc đôi ủng và bắt đầu chà xát dữ dội các bàn chân. Bà Brewster chạy nhanh tới bên ông:

- Ôi, Lewis, chuyện gì vậy?

Bà hỏi đầy lo lắng khiến Laura ngạc nhiên. Ông Brewster nói:

- Bàn chân của tôi. Tôi chạy suốt đường từ trường học về nhưng chúng không còn cảm giác nữa.

Vợ ông nói:

- Để tôi giúp.

Bà đặt hai bàn chân của ông vào trong lòng và giúp chà xát. Bà quan tâm và hiền hòa như bà đã là một người đàn bà khác. Bà nói:

- Ôi, cái xứ kinh khiếp này! Ồ, tôi có làm đau ông không?

Ông Brewster lầm bầm:

- Tiếp tục đi. Máu đang chuyển ở bên trong rồi.

Khi những bàn chân của ông bớt tê cứng, ông Brewster nhắc Laura không tới trường ngày hôm đó. Ông nói:

- Cô sẽ chết cóng.

Cô phản đối:

- Nhưng học trò sẽ tới và tôi phải có mặt.

Ông nói:

- Tôi không nghĩ là chúng nó tới. Tôi đã đốt lửa và nếu chúng nó tới, chúng có thể sưởi ấm rồi quay về nhà. Không có lớp học ngày hôm nay.

Ông nói một cách quyết đoán.

Vấn đề đã được giải quyết vì một giáo viên phải nghe theo người cầm đầu ban giám hiệu.

Đó là một ngày khốn khổ dài lê thê. Bà Brewster ngồi một đống trong tấm mền, sát bên lò sưởi, ủ rũ suy nghĩ. Những bàn chân của ông Brewster nhức nhối và Johnny rên la trong cái rét phát bệnh. Laura đã lau chén đĩa, dọn giường trong hơi lạnh đông giá và học bài xong. Khi cô thử nói chuyện thì có ngay một cái gì đầy vẻ đe dọa trong sự câm nín của bà Brewster.

Cuối cùng đã tới giờ đi ngủ. Laura mong mỏi một cách tuyệt vọng là ngày mai cô có thể tới trường. Trong lúc chờ đợi, cô chỉ có thể chạy trốn vào giấc ngủ. Cái lạnh trong phòng ngủ cuốn hơi thở của cô đi và ướp cóng tay cô đến nỗi cô không thể cởi áo. Cô nằm một hồi lâu vì quá lạnh không ngủ nổi nhưng dần dần cô bắt đầu thất ấm hơn.

Một tiếng thét làm cô choàng tỉnh. Bà Brewster gào lên:

- Ông đá tôi nghe!

Ông Brewster lên tiếng:

- Tôi không đá. Nhưng tôi sẽ đá nếu bà không treo con dao phay đó lên.

Laura ngồi thẳng dậy. Ánh trăng xối qua khung cửa sổ tràn ngập giường cô. Bà Brewster lại gào lên, tiếng gào không thành lời chỉ là một âm thanh man rợ khiến Laura rợn tóc gáy. Ông Brewster nói:

- Đem cất con dao vào trong bếp.

Laura ghé nhìn qua kẽ hở giữa các tấm màn che. Ánh trăng chiếu xuyên qua vải khiến bóng tối nhạt hơn và Laura thấy bà Brewster đang đứng đó. Chiếc áo dài ngủ màu trắng của bà kéo lê trên mặt nền và mái tóc đen của bà xõa kín hai vai. Trong bàn tay đang giơ cao của bà là một con dao phay.

Laura chưa bao giờ sợ hãi khủng khiếp tới thế.

Bà Brewster nói:

- Nếu tôi không thể quay về nhà, tôi có thể có cách khác.

Ông Brewster nói:

- Đi cất con dao đó đi.

Ông nằm im nhưng sẵn sàng bật dậy.

Bà ta hỏi:

- Anh có làm hay không?

Ông nói:

- Bà sẽ chết cóng đó. Tôi không rời chỗ nữa đâu, nhất là trong lúc đêm hôm này. Tôi có bà và Johnny để đỡ đần, nhưng chẳng có gì cả ngoài căn lều này. Bà hãy đi cất dao và lên giường trước khi bị chết cóng.

Con dao ngưng lay động khi nắm tay của bà Brewster xiết chặt cán dao. Ông Brewster ra lệnh:

- Đi cất dao vào bếp.

Sau một hồi, bà Brewster quay người và bước vào bếp. Laura không chờ bà trở lại lên giường mà buông ngay các tấm màn xuống. Cô nhẹ nhàng chui xuống dưới các lớp mền, nằm nhìn lên tấm màn treo. Cô chưa hết khiếp hãi và không dám ngủ. Dường như cô thức để canh chừng bà Brewster đang đứng trước cô với con dao đó? Bà Brewster không ưa cô.

Cô có thể làm gì? Căn nhà gần nhất cách xa một dặm, cô sẽ chết cóng nếu cố chạy tới đó trong cái lạnh này. Hoàn toàn tỉnh táo, cô ngắm những tấm màn che và lắng nghe. Không còn âm thanh nào, ngoài tiếng gió. Mặt trăng từ từ hạ xuống và cô nhìn vào bóng đêm cho tới lúc ánh sáng nhạt của mùa đông rạng chiếu. Khi nghe thấy ông Brewster nhóm lửa và bà Brewster bắt đầu nấu bữa ăn sáng, cô ngồi dậy thay quần áo.

Không có gì khác, bữa ăn sáng vẫn là bữa ăn câm nín như thường lệ. Laura tới trường ngay khi có thể đi. Cô cảm thấy yên ổn ở đó một ngày. Ngày Thứ Sáu.

Gió đang thổi dữ dội. May mắn không phải thứ gió khi có bão tuyết nhưng nó cuốn những mẩu tuyết cứng khỏi các đám tuyết đông giá và lùa qua khe hở trên các bức vách phía bắc và phía tây của căn lều. Hơi lạnh ùa vào từ khắp phía. Chiếc lò sưởi than lớn dường như không tạo nổi một tác động nào vào cái rét đó.

Laura kêu cả lớp giữ trật tự. Dù cô ở gần lò sưởi, bàn chân cô cũng tê cóng và các ngón tay không thể nắm chắc nổi cây bút chì. Cô biết ở chỗ ngồi của học sinh sẽ lạnh hơn nhiều.

Cô nói:

- Tốt hơn là các bạn choàng áo trở lại và tới bên lò sưởi. Các bạn có thể luân phiên ngồi ở ghế trước hoặc đứng bên lò sưởi cho ấm. Hãy cố học tới mức tốt nhất có thể được.

Trọn ngày gió lùa tuyết bay là là khắp đồng và qua các bức vách trường học. Băng đóng dầy trên các xô nước và buổi trưa tất cả phải đặt xô đồ ăn trên lò sưởi cho thức ăn đóng băng tan ra trước khi ăn. Gió tiếp tục tăng hơi lạnh đều đều.

Khích lệ cho Laura là được thấy tất cả học sinh xử sự rất tốt. Không ai lợi dụng sự mất trật tự để ù lì hoặc phá rối. Không một ai thì thào bàn tán. Tất cả đứng bên lò sưởi học bài, lặng lẽ xoay lưng lại hơ ấm và ai nấy đều thuộc bài kỹ. Charles và Clarence luân phiên ra ngoài gió lạnh lấy than từ thùng chứa đem vào giữ lửa.

Laura khiếp hãi lúc cuối ngày. Cô sợ trở về căn nhà. Cô sẽ ngủ vì cô biết mình phải ngủ và sợ ngủ trong căn nhà của bà Brewster. Suốt ngày mai và Chủ Nhật cô còn phải ở chung trong nhà với bà Brewster và rất nhiều thời gian ông Brewster ra chuồng bò.

Cô biết cô không được sợ hãi. Bố luôn nhắc cô không bao giờ nên sợ hãi. Rất có khả năng sẽ chẳng xảy ra chuyện gì. Một cách chính xác thì cô cũng không sợ bà Brewster vì cô rất nhanh và khỏe mạnh như một con ngựa nòi nhỏ của Pháp. Đó là chuyện khi cô thức. Nhưng cô không bao giờ muốn trở về nhà nhiều như thế.

Đúng là cần phải nói sự thực với Almanzo Wilder nhưng cô ước là cô đã không nói sớm như thế.

Dù sao anh đã không phải đi xa trong cái lạnh cắt thịt như thế này. Mỗi lúc, gió càng mạnh hơn và lạnh hơn.

Mới ba giờ rưỡi mà tất cả đều tê buốt khiến cô nghĩ tới cho lớp học tan sớm. Một dặm đường mà Martha và Charles phải qua khiến cô lo ngại. Nhìn trên mặt khác, cô lại không thể cắt giảm quyền lợi được học tập của học sinh và đây không phải một trận bão tuyết.

Thình lình cô nghe thấy tiếng chuông xe ngựa. Tiếng chuông đang chạy tới. Chỉ một thoáng, những con ngựa đã tới cửa. Prince và Lady vượt qua khung cửa sổ và Clarence kêu:

- Anh chàng Wilder đó còn điên hơn tôi nghĩ vì đã ra ngoài trong thời tiết này!

- Tất cả các bạn có thể cất sách vở.

Laura lên tiếng. Trời quá lạnh đối với lũ ngựa phải dừng lại ở ngoài trời. Cô nói tiếp:

- Trời đang lạnh hơn và tốt hơn là mọi người nên về nhà sớm. Lớp học chấm dứt.

8. CHUYẾN ĐI RÉT BUỐT

- Coi chừng chiếc đèn!

Almanzo chỉ nói vỏn vẹn có thế khi giúp cô bước lên xe. Nhiều tấm khăn phủ ngựa trải trên ghế ngồi và dưới tấm choàng da bò rừng, một ngọn đèn đang cháy để hơ ấm bục đặt chân của Laura.

Khi cô chạy vào trong nhà, ông Brewster nói:

- Cô không nghĩ sẽ làm cái việc lái xe đi trong trời lạnh này chứ?

Cô đáp:

- Có chứ ạ!

Cô không có thời giờ. Trong phòng ngủ, cô cài nút thêm chiếc áo flanen, chum ra ngoài giầy một đôi vớ len. Cô gấp đôi chiếc khăn quấn dầy bằng len đen choàng nó hai lần kín mặt và chiếc mũ chum rồi quấn các đầu khăn quanh cổ. Trên chiếc khăn này, cô thêm chiếc áo choàng bắt chéo xuống trước ngực và cài nút áo khoác ra bên ngoài. Cô chạy ra ngoài xe.

Ông Brewster đứng tại đó, phản đối. Ông nói:

- Đám dân quê các anh đều điên khi cố làm thế. Không an toàn chút nào.

Ông nói với Laura:

- Tôi muốn anh ta ở lại đây tối nay.

Almanzo hỏi cô:

- Cô có nghĩ là tốt hơn cô không nên mạo hiểm không?

Cô hỏi lại:

- Ông sẽ trở về?

Anh đáp:

- Đúng, tôi đã có cả đống để dự phòng.

Cô nói:

- Vậy thì tôi đi.

Prince và Lady lướt nhanh vào trong gió. Gió đập thẳng vào những nếp len gấp lại và thổi bạt hơi Laura. Cô cúi thấp đầu xuống nhưng cảm thấy như đang có nước băng trên má và ngực. Cô nghiến chặt răng để giữ cho không cho va đập vào nhau.

Những con ngựa hăng hái chạy. Những chiếc vó xoải như khua trống trên mặt tuyết đông cứng và mọi chiếc chuông đều rộn rang khua. Laura cảm ơn vì tốc độ này sẽ mau chóng đưa tới chỗ trú ẩn khỏi cái lạnh. Cô băn khoăn khi chúng xoải vó chậm hơn. Chúng đang chạy trên đường và cô nghĩ chắc Almanzo muốn kìm bớt lại cho chúng nghỉ. Có lẽ không nên khiến chúng quá mệt để đủ sức chống trả với cái lạnh thấu xương này.

Cô kinh ngạc khi anh ngưng chúng lại và nhảy khỏi xe. Mờ mờ qua lớp khăn quấn đen, cô thấy anh đi tới trước những cái đầu ngựa đang gục xuống và cô nghe thấy anh nói khi đặt những bàn tay bọc găng lên mũi Prince:

- Chỉ một phút thôi, Prince.

Một lát sau, bàn tay anh như làm một cử động cạy thứ gì và Prince ngẩng đầu lên cao lắc rung những chiếc chuông của nó. Rất nhanh, Almanzo lập lại những cử chỉ đó ở mũi Lady và đến phiên nó vươn đầu lên. Almanzo nhảy vào trong xe và lũ ngựa tiếp tục phóng nhanh.

Chiếc khăn quấn của Laura thành một mảng sương giá áp trước miệng cô khiến nói năng rất bất tiện nên cô không nói gì nhưng rất thắc mắc. Chiếc mũ da của Almanzo kéo xuống sát lông mày của anh và chiếc khăn quấn vòng lên tới sát mắt. Hơi thở của anh đọng thành sương trắng trên chiếc mũ da và dọc theo mép khăn. Anh chỉ điều khiển xe bằng một tay, giữ bàn tay kia dưới áo choàng và luôn đổi tay để không tay nào bị tê cóng.

Lũ ngựa lại chạy chậm lại và anh lại nhảy xuống đưa bàn tay lên trước mũi chúng. Khi anh trở lại, Laura hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Anh đáp:

- Hơi thở đồng cứng ngay trước mũi khiến chúng không thở nổi. Phải làm cho tan đi.

Họ không nói gì thêm nữa. Laura nhớ tới những con bò bị đóng băng trong trận bão tuyết tháng Mười lúc bắt đầu mùa đông ác liệt. Hơi thở của chúng đã làm chúng bị ngạt cho tới chết nếu không được Bó đập vỡ băng trên mũi của chúng.

Hơi lạnh xuyên qua chiếc áo da bò, luồn qua tất cả những lớp áo len của Laura, thấm suốt những bộ đồ flanen và hai đôi vớ len dài kéo chum lên nếp gấp dưới chả bộ đồ lót may lien bằng flanen. Mặc dù có hơi nóng tỏa ra từ ngọn đèn, bàn chân và ống chân cô vẫn càng lúc càng lạnh hơn.

Hai hàm răng cô nghiến chặt nhức nhối và hai chiếc búa nhỏ sắc nhọn bắt đầu gõ trên thái dương cô.

Almanzo nhích lại thêm, kéo cao chiếc áo choàng da bò, tấn ở phía sau lên tới khuỷu tay cô.

Anh hỏi:

- Lạnh không?

- Không.

Laura trả lời rõ rang. Cô chỉ nói nổi có thể để kịp giữ cho hàm răng không va vào nhau. Điều đó không đúng sự thực, nhưng anh biết cô muốn nói rằng không lạnh tới mức cô không thể chịu đựng nổi. Không có gì để làm ngoài việc tiếp tục đi tới và cô biết anh cũng đang lạnh lắm.

Anh lại dừng ngựa và nhảy ra ngoài trời gió để cạy băng khỏi mũi chúng. Tiếng chuông lại rộn rang khua. Lúc này tiếng gió trở nên độc ác như là một cơn gió tàn nhẫn. Qua mạng khăn tạo thành một vệt tối, cô có thể nhìn thấy mặt trời đang chiếu sáng trên đồng cỏ.

Almanzo đã trở lạ xe. Anh hỏi:

- Ổn chứ?

Cô đáp:

- Dạ.

Anh giải thích:

- Cứ hai dặm tôi lại phải dừng chúng lại một lần. Chúng không thể làm hơn nổi.

Tim Laura nặng chịch. Lúc này họ mới chỉ đi hết sáu dặm. Vẫn còn sáu dặm nữa để vượt qua.

Những con ngựa lướt thật nhanh trong gió ngược như dao cắt. Mặc dù ráng hết sức, Laura vẫn run rẩy toàn thân. Chiếc đèn bên cạnh bàn chân cô, dưới lớp áo choàng da dường như không có một hơi ấm nào. Cảm giác nhức nhối khoét sâu vào thái dương cô và một nút dây đau đớn xiết mạnh quanh người cô.

Có vẻ như quá lâu trước khi những con ngựa chạy chậm lại và Almanzo lại kìm chúng dừng bước. Tiếng chuông vang lên, bắt đầu là Prince rồi tới Lady. Almanzo vụng về leo lên xe trở lại. Anh hỏi:

- Cô ổn chứ?

- Dạ.

Cô trả lời. Cô đang quen hơn với cái lạnh. Nó không làm nhức buốt quá nhiều. Chỉ còn cái nút thắt đau đớn ở quanh eo vẫn xiết chặt lại nhưng đã đều đều hơn. Tiếng gió, tiếng chuông ngựa và tiếng bàn trượt của chiếc xuồng lăn lướt trên mặt tuyết hòa trộn với nhau thành một âm điệu buồn nản và dễ chịu hơn. Cô biết khi Almanzo lại rời khỏi xe đập băng trên mũi ngựa nhưng mọi thứ khác giống như một giấc mơ. Anh hỏi:

- Ổn chứ?

Cô gật đầu. Quá nhiều rắc rối để lên tiếng.

- Laura!

Anh nói vừa nắm lấy vai cô khẽ lay. Cái lay khiến cô bị đau và cái đau khiến cô cảm thấy lạnh trở lại.

- Cô ngủ sao?

Cô đáp:

- Một chút thôi.

- Không được ngủ. Nghe tôi nói không?

Cô nói:

- Tôi không ngủ nữa.

Cô hiểu anh muốn nói gì. Nếu ngủ trong cái lạnh như thế sẽ bị chết cóng.

Những con ngựa lại dừng. Almanzo hỏi:

- Giữ ổn được chứ?

Cô đáp:

- Dạ.

Anh đi cạy băng khỏi mũi lũ ngựa. Khi quay lại, anh nói:

- Bây giờ không còn xa nữa.

Cô biết anh muốn cô trả lời. Cô nói:

- Tốt rồi đó.

Giấc ngủ phủ lên người cô như những đợt song dài, ấm mặc dù cô vẫn giữ cho mắt mình mở lớn. Cô lúc lắc đầu hớp những hớp không khí đang thèm khát và cố giữ tỉnh táo nhưng một đợt song ngủ khác rồi một đợt khác nữa dồn tới. Thường vào những lúc quá mệt, cô không thể chống cự lâu hơn thì giọng nói của Almanzo lại giúp cô. Cô nghe thấy anh hỏi:

- Ổn chứ?

- Dạ.

Cô đáp và trong một lúc, cô tỉnh táo, nghe rõ tiếng chuông và cảm thấy gió đang thổi. Rồi, một đợt song khác xô tới.

Cô nghe thấy anh nói:

- Chúng ta tới đây rồi!

Cô đáp:

- Dạ.

Thình lình cô biết rằng đã ở cửa sau của nhà mình. Gió ở đây không còn mạnh vì sức gió vì sức gió bị những tòa nhà cao phía bên kia phố Second cản bớt. Almanzo nhấc chiếc áo choàng và cô cố bước xuống khỏi chiếc xuồng trượt, nhưng người cô quá cứng, cô không thể đứng lên nổi.

Cửa bật mở ra và Mẹ giữ lấy cô vừa kêu lên:

- Chúa ơi! Cô bị cóng không?

Almanzo nói:

- Tôi sợ là cô ấy hơi bị lạnh.

Bố nói:

- Hãy đưa mấy con ngựa về chuồng trước khi chúng bị cóng. Chúng tôi sẽ lo cho con bé.

Tiếng chuông xe chuyển xa dần trong lúc Bố Mẹ đỡ cánh tay Laura dìa cô loạng choạng bước vào bếp.

- Tháo giầy ra cho chị, Carrie.

Mẹ nói khi tháo khăn quấn và mũ trùm của Laura. Hơi thở của Laura đóng băng kết dính trên khăn, mũ bong ra. Mẹ trút ra một hơi thở nhẹ nhõm:

- Mặt con đỏ gay. Mẹ phải cảm ơn vì con không bị trắng nhợt và cóng lạnh.

Laura lên tiếng:

- Con chỉ tê bại thôi.

Bàn chân của cô cũng không cóng lạnh dù cô khó cảấy bàn tay đang chà xát của Bố. Bây giờ trong gian phòng ấm áp, cô bắt đầu cử động từ đầu tới chân và hàm răng va lập cập. Cô ngồi sát bên lò sưởi trong lúc uống nước trà gừng do Mẹ pha. Nhưng cô không cảm thấy ấm.

Cô đã nhiễm lạnh khá lâu, ngay từ lúc rời giường nhủ vào buổi sáng. Trong gian bếp lạnh lẽo tại nhà Brewster, chỗ ngồi bên bàn ăn của cô xa lò sưởi nhất và gần cửa sổ. Sau đó là đoạn đường đi bộ dài từ nhà đến trường giữa gió lồng lộng thổi thốc từ đầu tới chân, một ngày rét buốt căm căm ở trường và nối theo là chuyến đi dài về nhà. Nhưng chẳng có gì đáng phàn nàn, vì lúc này cô đã ở nhà.

Bố nói một cách điềm tĩnh:

- Con may mắn thật nhiều, Laura. Cho tới khi Wilder đi xa rồi Bố mới biết và lúc đó Bố tin là cậu ta phải ở lại nhà Brewster. Khi cái thằng điên đó khởi hành nhiệt độ đang là bốn mươi độ âm và nhiệt lượng kế đã đông lại vào một lát sau. Từ đó cái lạnh tiếp tục tăng lên và lúc này không biết phải nói là lạnh tới cỡ nào.

Laura trả lời Bố với một nụ cười lẩy bẩy:

- Mọi thứ tốt đẹp đều kết thúc tốt đẹp, Bố.

Hình như cô không bao giờ thấy ấm trở lại. Nhưng thật kỳ diệu khi được ăn bữa tối trong gian bếp tràn ngập hạnh phúc và sau đó ngủ bình yên trên chiếc giường của chính mình. Cô tỉnh dậy thấy thời tiết đang dịu hơn. Lúc ăn điểm tâm Bố cho biết nhiệt độ ở khoảng gần hai mươi độ âm.

Sáng Chủ Nhật ở nhà thờ, Laura nghĩ cô đã điên rồ hết mức khi tự đẩy mình vào cảnh khốn khổ và khủng khiếp như thế. Chỉ còn hai tuần lễ nữa và khi đó cô đã về nhà rồi. Khi Almanzo đưa cô tới nhà Brewster vào chiều hôm đó, cô cám ơn anh đã đón cô về. Anh nói:

- Không cần cảm ơn. Cô biết tôi sẽ làm mà.

Cô trả lời thành thực:

- Ô, không, tôi không biết.

Anh hỏi:

- Cô cho tôi là thứ gì? Cô nghĩ tôi là loại người chỉ vì không thu được điều gì cho mình nên sẽ bỏ cô ở lại nhà Brewster trong khi cô muốn phát bệnh sao?

- Sao, tôi…

Laura ngưng lại. Sự thực là cô chưa bao giờ nghĩ anh thuộc loại người nào. Anh già dặn quá, anh đã là một chủ trại. Anh nói:

- Phải kể hết sự thực với cô. Chuyến mạo hiểm kia của tôi nhắm tới hai điều. Suốt tuần tôi vẫn nghĩ là tôi sẽ đi đón cô nhưng khi tôi nhìn vào nhiệt lượng kế thì tôi gần như đã quyết định bỏ ý nghĩ đó.

Laura hỏi:

- Sao ông không làm vậy?

- Thế này, tôi đã khởi hành và ghé lại trước cửa tiệm Fuller coi nhiệt kế. Mức thủy ngân trong ống hạ xuống rất thấp, dưới bốn mươi độ âm và trong từng phút gió lại thổi lạnh hơn. Đúng lúc đó Garland tới. Cậu ta thấy tôi ở đó, sẵn sàng đi đón cô và đang coi nhiệt kế. Cậu ta nhìn vào nhiệt kế và cô có biết cậu ta tỏ vẻ khinh thị thế nào không? Thế này, khi tiếp tục bước vào tiệm Fuller, cậu ta chỉ nói lại với tôi qua vai cậu ta “Chúa ghét kẻ nào nhút nhát”.

Laura hỏi:

- Vậy là ông đã tiến tới vì không chịu bỏ một cuộc thách thức?

Almanzo nói:

- Không, đây không phải là một cuộc thách thức. Tôi chỉ thấy cậu ta có lý.

9. CUỘC VIẾNG THĂM CỦA ÔNG GIÁM THỊ

- Mình chỉ còn phải qua một ngày tiếp theo.

Laura nghĩ khi đi về nhà. Mọi chuyện ở đó vẫn bất ổn. Bà Brewster không nói năng gì, Johnny luôn khốn khổ và ông Brewster ngồi lỳ ở chuồng bò lâu tới mức tối đa. Tối đó, khi ngồi học, Laura ghi bốn dấu trên cuốn sổ tay cho Thứ Hai, Thứ Ba, Thứ Tư, Thứ Năm. Mỗi đêm cô đánh dấu riêng cho một ngày và khi chúng qua hết, chỉ còn thêm một tuần nữa.

Ngày nối ngày, thời tiết càng lạnh hơn nhưng vẫn không có bão tuyết. Đêm trôi qua lặng lẽ dù Laura thường chập chờn thức giấc. Mỗi một buổi tối cô gạch chéo một dấu hiệu. Hình như ngóng tới trước để được đánh dấu thêm một ngày khiến thời gian qua mau hơn.

Suốt đêm Thứ Tư, cô nghe tiếng gió gào hú và tuyết rơi trên cửa sổ. Cô khiếp hãi hôm sau sẽ không có buổi học. Nhưng buổi sáng, mặt trời vẫn tỏa rạng dù không có hơi ấm trong nắng. Một cơn gió giá buốt cuốn những cụm tuyết bay là là qua cánh đồng. Laura mừng rỡ đối mặt với quang cảnh đó khi cô lại đạp tuyết mở đường tới trường học.

Gió đang thổi lùa tuyết qua các kẽ ván và thêm một lần nữa, cô lại cho học sinh đứng bên lò sưởi học bài. Nhưng hơi nóng của chiếc lò sưởi hực đỏ đã làm ấm gian phòng cho tới giờ nghỉ giải lao, Laura không nhìn thấy hơi thở của mình khi cô thổi trên chiếc ghế của Clarence ở cuối lớp. Vì vậy, lúc kêu học sinh giữ trật tự để học tiếp, cô nói:

- Bây giờ phòng ấm hơn rồi. Các bạn hãy về chỗ của mình.

Tất cả vừa vào chỗ ngồi thì một tiếng gõ cửa đột ngột vang lên. Ai làm như vậy? Cô thắc mắc.

Khi bước vội tới cửa cô liếc qua cửa sổ nhưng không thấy gì. Ngay trước cửa, ông Williams, giám thị các trường trong hạt, đang đứng.

Cặp ngựa phủ mền kín của ông được cột ở một góc trường. Tuyết mềm khiến không có tiếng xe và ngựa không đeo chuông.

Đây là cuộc xét nghiệm việc dạy dỗ của Laura và may mắn ngần nào, cô đã cho học sinh ngồi tại chỗ. Ông Williams mỉm cười hài lòng khi cô đem chiếc ghế của cô tới bên lò sưởi cho ông. Mỗi học sinh đều chăm chú làm việc nhưng Laura có thể cảm thấy tất cả căng thẳng ra sao.

Cô thấy phấn khởi vì mỗi học sinh đều ráng sức làm tốt nhất cho cô. Ngay cả Charles cũng nỗ lực và vượt qua chính mình. Ông Williams ngồi chăm chú nghe từ bài tập đọc này qua bài khác trong lúc gió lùa mạnh và tuyết bay qua những kẽ hở trên vách.

Charles giơ tay lên hỏi:

- Tôi có thể xin phép được tới hơ tay bên lò không?

Laura chấp thuận và Martha không xin phép cũng bước tới. Cả hai đang cùng học chung một cuốn sách. Khi các bàn tay đã ấm, cả hai lặng lẽ về chỗ, không xin phép. Điều này cho thấy Laura chưa thực tốt về mặt giữ gìn kỷ luật

Trước buổi trưa, ông Williams nói ông phải đi. Lúc này Laura phải hỏi ông có cần nói gì với lớp học không.

- Có, tôi cần nói.

Ông trả lời một cách nghiêm nghị và khi ông nhấc cái thân hình cao tròn sáu bộ lên, trái tim Laura như ngưng đập. Một cách tuyệt vọng, cô tự hỏi cô đã làm điều gì không ổn.

Với cái đầu gần đụng trần nhà, ông đứng im lặng một lúc để nhấn mạnh điều cần nói. Rồi ông nói:

- Dù các em làm bất kỳ điều gì khác, phải cố giữ ấm bàn chân của mình.

Ông mỉm cười với tất cả rồi lại mỉm cười với Laura và sau khi thân mật lắc bàn tay cô, ông bước đi.

Buổi trưa Clarence trút hết xô than vào lò và bước ra ngoài xúc đầy trở lại. Khi quay vào, cậu ta nói:

- Mình cần thêm nhiều than cho lò trước khi tối. Trời đang lạnh hơn, mau lắm.

Tất cả đều ngồi quây quanh lò để ăn bữa trưa. Khi Laura nhắc lớp học tiếp tục cô bảo tất cả mang sách tới bên lò sưởi.

- Các bạn có thể đứng cạnh lò sưởi hoặc cử động tùy ý. Các bạn giữ được im lặng lâu và học tốt bài học của mình thì chúng ta sẽ biến việc này thành thông lệ khi cái lạnh tiếp tục kéo dài.

Dự tính được thực hiện rất tốt. Các bài tập đọc khá hơn hẳn thời gian trước và gian phòng yên tĩnh trong lúc tất cả học và giữ ấm bàn chân.

10. ALMANZO CHÀO TẠM BIỆT

Thứ Bảy đó tại nhà Mẹ lo lắng về Laura:

- Con bị bệnh gì vậy? Không có vẻ nhưa con đang ngủ gật.

Laura nói:

- Con cảm thấy hơi mệt một chút. Không có gì đâu, Mẹ.

Bố ngẩng lên khỏi tờ báo:

- Thằng bé Clarence đó lại gây chuyện phiền nhiễu hả?

- Ô, không, Bố! Cậu ta đang rất tuyệt và tất cả đều hết sức tốt.

Cô hoàn toàn không nói dối nhưng cô không thể kể cho cả nhà câu chuyện bà Brewster với con dao. Nếu Bố Mẹ biết, cô sẽ không được phép quay lại và cô cần hoàn tất khóa dạy. Một giáo viên không được rời chỗ và bỏ dở khóa dạy. Nếu cô làm thế, cô sẽ không xứng đáng có một chứng chỉ nào khác và không còn ban giám hiệu nào chịu mướn cô dạy.

Cho nên cô phải ráng hết sức che dấu lý do buồn ngủ và nỗi khiếp hãi quay lại nhà bà Brewster. Chỉ còn thêm một tuần nữa.

Vào chiều Chủ Nhật, thời tiết dịu hẳn. Nhiệt độ chỉ là mười lăm độ âm khi Laura và Almanzo khởi hành. Không có một đợt gió nào và mặt trời tỏa sáng.

Laura lên tiếng phá tan sự im lặng:

- Chỉ còn đúng một tuần nữa và tôi rất mừng khi nó qua đi.

Almanzo gợi ý:

- Có lẽ cô sẽ nhớ những chuyến đi dài?

Laura nói:

- Chuyến đi này thật dễ chịu. Nhưng hầu như trời quá lạnh. Tôi nghĩ là ông sẽ vui vì không phải lái xe đi xa nữa. Tôi không hiểu lý do ông tiếp tục thực hiện những chuyến đi dài này. Ông không cần làm thế để về nhà mình, như cái cách tôi phải làm.

Almanzo nói:

- Ồ, nhiều khi người ta cũng mệt mỏi với việc ngồi quẩn quanh. Hai kẻ độc thân sống với nhau khá buồn nản.

Laura nói:

- Sao, trong thị trấn có biết bao nhiêu người! Ông và anh của ông đâu cần phải ngồi ở nhà.

Almanzo phản bác:

- Trong thị trấn chẳng còn gì đáng kể từ sau kỳ triển lãm học đường. Tất cả mọi người chỉ đeo quanh quán rượu chơi pun hoặc đến một cửa hàng nào đó xem đánh cờ. Nhiều khi thà rằng ra ngoài trời cùng với một người bạn đồng hành tốt dù phải lái xe đi trong trời lạnh buốt.

Laura không nghĩ cô là một bạn đồng hành tốt. Nếu đây là điều anh muốn, cô nghĩ, cô sẽ cố gắng để làm vui hơn. Nhưng cô không thể nghĩ ra điều gì vui để nói. Cô cố nghĩ ra một điều trong khi ngắm những con ngựa nâu mượt bóng đang xoải vó lướt nhanh.

Những móng chân xinh xắn đập trên tuyết theo một nhịp hoàn hảo và những chiếc bóng màu xanh lơ bay dọc trên tuyết bên cạnh chúng. Chúng háo hức vươn cao đầu rung những chùm chuông, vẫy tai lui tới, hếch mũi lên cho là gió ngược chiều thổi tung những chiếc bờm màu đen. Laura hít một hơi thật sâu, kêu lên:

- Đẹp tuyệt!

Almanzo hỏi:

- Cái gì đẹp?

Laura đáp:

- Lũ ngựa. Ngắm chúng kìa!

Đúng lúc đó Prince và Lady chụm mũi lại tựa hồ để hít hơi của nhau rồi cả hai cùng phóng tới.

Khi Almanzo nhẹ nhẹ kìm chúng trở lại nước phi đều đặn, anh hỏi:

- Cô nghĩ sao về việc điều khiển chúng?

Laura kêu lên:

- Ô!

Nhưng cô thành thực nói thêm:

- Bố không khi nào cho tôi điều khiển ngựa. Bố bảo tôi quá nhỏ và sẽ bị đau.

Almanzo nói:

- Prince và Lady không làm đau ai hết. Chính tôi đã chọn chúng. Nhưng nếu cô khen chúng đẹp, tôi ước gì cô nhìn thấy con ngựa đầu tiên mà tôi chọn, Starlight. Tôi đặt tên cho nó như thế vì có một ngôi sao trắng ngay trước trán.

Cha của anh cho anh con ngựa con Starlight ở bang New York khi anh tròn chín tuổi. Anh kể cho Laura nghe mọi chuyện về Starlight dễ thương, về chuyện rèn luyện nó và nó là con ngựa đẹp như thế nào. Starlight đã được đưa về miền tây, tới Minnesota và lần đầu xuất hiện trên đồng cỏ miền tây, Almanzo đã cưỡi Starlight. Starlight vừa chín tuổi khi Almanzo cưỡi nó về vùng Marshall, thuộc Minnesota vượt một trăm năm mươi dặm trong một ngày. Starlight khỏe khoắn đến nỗi còn cố chạy đua với một con ngựa khác vào cuối cuộc hành trình.

Laura hỏi:

- Bây giờ nó đâu rồi?

Almanzo nói với cô:

- Ở bãi cỏ trong trại của Ba tại Minnesota. Nó không còn trẻ để sử dụng nhiều và tôi cần một cặp ngựa kéo xe ở đây nên tôi gửi nó về cho Ba.

Thời gian trôi qua nhanh tới mức Laura kinh ngạc khi trông thấy nhà của gia đình Brewster ở phía trước. Cô cố trấn tĩnh nhưng tim cô vẫn trĩu xuống. Almanzo hỏi:

- Cái gì khiến cô bất chợt lặng thinh vậy?

Laura nói:

- Tôi mong là chúng mình đang đi về một hướng khác.

- Mình sẽ làm điều đó vào Thứ Sáu tới.

Anh kìm ngựa chậm lại

- Mình trì hoãn một chút xíu.

Anh nói và cô biết rằng anh đã hiểu cô khiếp hãi phải tới căn nhà kia. Anh mỉm cười khích lệ khi lái xe quay đi:

- Thứ Sáu tới, không lâu đâu.

Ngày nối ngày, đêm theo đêm, tuần lễ trôi đi cho tới khi chỉ còn đúng một ngày phải qua. Mai đã là Thứ Sáu, buổi học cuối cùng. Khi một đêm và một ngày còn lại qua đi, cô đã được ở nhà.

Cô bỗng khiếp sợ có thể xảy ra một điều gì trong đêm cuối cùng này. Thông thường cô tỉnh giấc sau một cái giật mình, nhưng tất cả đều yên ắng và tim cô từ từ bớt đập mạnh.

Các bài học ngày Thứ Sáu được thuộc kỹ khác thường và mọi học sinh đều thận trọng xử sự thật tốt.

Khi giờ nghỉ trưa chấm dứt, Laura kêu tất cả giữ trật tự và cho biết không còn bài học thêm nữa. Lớp học tan sớm vì đây là buổi học cuối cùng.

Cô biết cô cần phải nói một vài lời để kết thúc lớp học nên cô khen ngợi tất cả về những việc đã làm được. Cô nói:

- Các bạn đã vận dụng tốt cơ may được tới trường học. Tôi hy vọng rằng các bạn có thể còn được học thêm nữa, nhưng nếu không có điều đó thì các bạn vẫn có thể tự học tại nhà như Lincoln đã làm. Giáo dục là giá trị đạt tới bằng nỗ lực phấn đấu và nếu các bạn không có sự giúp đỡ để học tập, mỗi người trong các bạn vẫn có thể tự giúp mình học tập khi các bạn cố gắng.

Sau đí, cô tặng Ruby một tấm danh thiếp, tấm thiếp mỏng màu hồng nhạt với một nhánh hồng và một khóm hoa dại uốn cong trên hàng chữ in tên cô. Phía sau tấm thiệp, cô viết: “Tặng Ruby Brewster, bởi cô giáo của em với tình cảm ân cần. Trường Brewster, Tháng Hai 1883”

Kế tiếp là Tommy, rồi tới Martha, Charles và Clarence. Tất cả đều vui. Laura để cho tất cả thích thú ngắm những tấm thiệp một hồi và cất cẩn thận vào trong sách. Lúc đó cô bảo tất cả lo soạn sách vở, bảng, bút chì, bút viết để mang về nhà. Cuối cùng, cô nói:

- Lớp học chấm dứt.

Cô chưa từng khi nào ngạc nhiên bằng lúc đó. Thay vì áo choàng như cô đang chờ đợi, tất cả kéo ùa tới quanh bàn của cô. Martha tặng cô một trái táo đỏ rực tuyệt đẹp. Ruby bẽn lẽn trao cho cô một cái bánh ngọt nhỏ mà mẹ của cô bé đã nướng làm quà tặng của cô bé. Rồi Tommy. Charles và Clarence mỗi người đều tặng cô một cây bút chì chuốt sẵn thật nhọn.

Cô không biết phải cảm ơn tất cả ra sao, nhưng Martha nói:

- Chính chúng tôi phải nghĩ tới việc cảm ơn cô, cô Ingalls. Cảm ơn cô đã giúp tôi học được môn ngữ pháp.

Ruby nói:

- Cám ơn cô Ingalls. Tôi ước là đã phủ được kem lên chiếc bánh.

Đám con trai không nói gì, nhưng sau khi tất cả chào tạm biệt và bước đi thì Clarence trở lại.

Đứng bên bàn Laura, cậu nghiêng người, nhìn xuống cầm mũ trong bàn tay và nói lí nhí:

- Tôi xin lỗi vì đã quá ti tiện.

Laura kêu lên:

- Sao vậy, Clarence! Tất cả đều tốt đẹp mà! Bạn đã học hành một cách tuyệt vời. Tôi tự hào về bạn lắm.

Cậu ta nhìn cô với cái cách thích thú thô lỗ quen thuộc và phóng ra khỏi phòng, sập mạnh cửa khiến căn lều rung lên.

Laura lau sạch bảng và quét nền nhà. Cô xếp gọn sách vở, giấy tờ và đóng các ô gió lò sươi.

Rồi cô đội mũ, khoác áo đứng chờ bên cửa sổ cho tới khi tiếng chuông xe vang lên và Prince cùng Lady ngưng lại trước cửa.

Lớp học đã qua. Cô đang trên đường trở về ở luôn tại nhà! Tim cô nhẹ nhàng tới mức cô muốn hát theo tiếng nhạc chuông và những con ngựa xoải vó phi thật nhanh vẫn có vẻ như rất chậm.

Almanzo bỗng nói:

- Cô không thể làm nhanh hơn chút nào bằng cách đạp chân đâu.

Cô chợt nhận ra mình đang đạp mạnh chân vào thành chắn của chiếc xuồng trượt và bật cười lớn. Nhưng anh không trò chuyện nhiều và cô cũng không nói. Xe đang chạy đủ nhanh để về nhà.

Không chờ tới khi cô lên tiếng cảm ơn một cách duyên dáng và chúc ngủ ngon, anh đã lên tiếng và khi ngồi trong gian phòng ấm cúng để cởi bớt khăn áo, cô nhớ lại anh không nói “chúc ngủ ngon”. Anh cũng không nói “Sẽ gặp lại cô chiều Chủ Nhật” như vẫn thường nói trước đó. Anh đã nói “tạm biệt”

Cô nghĩ, đương nhiên rồi. Đúng là tạm biệt. Đó là chuyến xe cuối cùng.

11. TIẾNG CHUÔNG LENG KENG

Đi dạo vào sáng hôm sau còn vui hơn ngày lễ Giáng Sinh. Laura nghĩ:

- Ôi, mình đã ở nhà rồi!

Cô gọi:

- Carrie! Chào buổi sáng! Dậy thôi, cái-đầu-ham-ngủ!

Cô gần như cười vui khi run rẩy trong chiếc áo khoác nhảy chân sáo xuống dưới nhà cài nút giầy và chải tóc trong nhà bếp ấm áp nơi Mẹ đang nấu bữa ăn sáng. Cô nói như hát:

- Chào Mẹ!

Mẹ mỉm cười:

- Chào con. Mẹ dám chắc là con đã có vẻ khá hơn.

Laura nói:

- Ở nhà thật dễ chịu. Bây giờ con làm gì trước tiên?

Cô tíu tít suốt buổi sáng giúp các công việc ngày Thứ Bảy. Thông thường cô không thích bột khô dính trên bàn tay, nhưng hôm nay cô thích thú nhồi bột trong ý nghĩ sung sướng là cô được ở nhà để ăn những ổ bánh mới nướng giòn tan. Tim cô như hòa theo tiếng hát bật ra trên môi. Cô không còn phải quay lại nhà của bà Brewster nữa. Đó là một ngày nắng đẹp và chiều hôm đó, khi tất cả công việc đã dứt, Laura hy vọng Mary Power sẽ tới chơi với cô vào lúc đang khâu vá. Mẹ đang đung đưa nhẹ nhẹ trong khi ngồi khâu bên cửa sổ đầy nắng. Carrie đang gỡ chiếc mền của cô ra thành mảnh nhưng Laura không thể tìm ra cách nào ghép lại. Mary không tới và Laura quyết định choàng áo đi thăm Mary, đúng lúc đó cô nghe thấy tiếng chuông xe ngựa leng keng.

Bỗng dưng, tim cô đập mạnh. Nhưng tiếng chuông thưa thớt khi chạy ngang. Chỉ có vài chiếc chuông chứ không phải cả một chùm chuông như Prince và Lady vẫn đeo. Tiếng nhạc chuông không tắt hẳn và lại vang lên ngang trước nhà. Rồi ngược xuôi trên phố, sự yên tĩnh bị khuấy đảo với tiếng khua vang của những chiếc chuông nhỏ.

Laura bước tới bên cửa sổ. Cô nhìn thấy Minnie Johnson và Fred Gilbert lướt vụt qua rồi tới Arthur Johnson đi cùng với một cô gái mà Laura không quen biết. Tiếng nhạc chuông rung lên gấp đôi lao tới rất nhanh và Mary Power cùng Garland ngồi trên một chiếc xuồng trượt. Đó là việc mà Mary đang làm. Garland cũng có một chiếc xuồng trượt gắn đầy những chiếc chuông. Tiếp tục thêm nhiều cặp nữa ngược xuôi đường phố trong những chiếc xe hoặc xuồng trượt tuyết, vượt qua rồi lại vượt qua dưới khung cửa sổ mà Laura đang đứng.

Cuối cùng, cô điềm tĩnh ngồi xuống với món đồ đan móc. Phòng ăn gọn gàng và yên tĩnh.

Không có ai tới thăm Laura. Cô đã đi vắng quá lâu nên có thể không ai còn nghĩ tới cô. Suốt buổi trưa đó, tiếng chuông xe tiếp tục khua. Ngược xuôi trên đường phố, các bạn học của cô cười vui trong cái lạnh ủ nắng tận hưởng những giờ khắc tuyệt vời. Thêm một lần rồi một lần nữa, cô và Mary lướt ngang qua trong chiếc xuồng trượt vừa cho hai người ngồi.

Được, Laura nghĩ, ngày mai mình sẽ gặp Ida trong buổi học Chủ Nhật. Nhưng Chủ Nhật đó Ida không tới nhà thờ. Bà Brown nói Ida đang bị cảm lạnh.

Chiều Chủ Nhật, thời tiết càng đẹp hơn. Tiếng chuông xe lại khua vang và tiếng cười bay dài theo gió. Lại Mary Power với Garland, rồi Minnie với Fred, Frank Harthorn với May Bird và tất cả những người mới tới mà Laura biết rất ít. Từng cặp đi qua vui vẻ, cười và hát trong tiếng chuông rộn rã.

Cô đã đi xa quá lâu khiến tất cả đều quên cô.

Một cách điềm tĩnh, cô cố đọc những bài thơ của Tennyson. Cô ráng không quên và không bỏ sót để cố không nghe tiếng chuông xe, tiếng cười nhưng càng lúc cô càng cảm thấy không thể chịu đựng nổi.

Thình lình, tiếng chuông xe dừng lại ngay trước cửa! Trước khi Bố kịp rời khỏi tờ báo nhìn lên, Laura đã mở cửa và nhìn thấy Prince và Lady đang đứng với chiếc xuồng trượt nhỏ với Almanzo đứng bên cạnh mỉm cười. Anh hỏi:

- Cô có thích chạy xe không?

Laura đáp:

- Ô, thích lắm. Một phút thôi, tôi sẽ lấy áo choàng.

Cô choàng áo thật nhanh, trùm mũ và đeo găng tay trắng. Almanzo đỡ cô ngồi vào xe và họ phóng đi.

Almanzo nói:

- Tôi không biết màu mắt cô xanh như thế.

Laura nói với anh:

- Đó là tại chiếc mũ trắng của tôi. Tôi luôn đội mũ màu xậm khi tới nhà Brewster.

Cô thở mạnh hổn hển và cười lớn. Almanzo mỉm cười hỏi:

- Có gì thú vị?

Laura nói:

- Thật nực cười cho tôi. Tôi đã có ý định không đi cùng với ông nữa nhưng tôi quên mất. Tại sao ông tới?

Almanzo đáp:

- Tôi nghĩ có lẽ cô đổi ý sau khi ngắm những đám đông chạy ngang qua.

Rồi cả hai cười với nhau.

Chiếc xe của họ nhập vào chuỗi xe và xuồng trượt lướt nhanh dọc phố Main, lượn một vòng trên đồng cỏ tới phía nam rồi ngược phố Main đảo một vòng tới phía bắc và bắt đầu trở lại, trở lại nữa. Ánh nắng lấp lánh trên mặt đất phủ tuyết mênh mông xa tắp và gió lạnh từng đợt phả vào mặt.

Tiếng chuông xe khua vang, tiếng bàn trượt nghiến trên mặt tuyết đông cứng và Laura sung sướng đến mức cất tiếng hát:

        Chuông reo rộn rã chuông reo

        Đường xa chuông đổ trong veo thành gần

        Sóng xô vui lướt tênh tênh

        Cỗ xe độc mã bập bềnh chơi vơi.

Dọc hàng xe đang lướt nhanh, những giọng khác cất lên hòa theo nhịp. Lượn vòng trên đồng cỏ thênh thang, đảo lại vùn vụt lao qua phố để lại vòng ra đồng cỏ và đảo lại, những chiếc chuông rung lên và tiếng hát khua động bầu không khí đầy sương giá:

        Chuông reo rộn rã chuông reo

        Đường xa chuông đổ trong veo thành gần

Tất cả hoàn toàn bình an không sợ bão tuyết vì đang ở rất gần thị trấn. Gió vẫn thổi nhưng không dữ dằn và tất cả đều sung sướng vui chơi vì nhiệt độ chỉ ở mức mười hai độ âm và nắng đang chiếu.

12. ĐÔNG HAY TÂY, NHÀ MÌNH LÀ NHẤT

Laura mừng được cùng Carrie tới trường vào sáng Thứ Hai. Khi hai chị em chọn hướng bước qua những vũng băng trên phố, Carrie thở ra một hơi dài sung sướng:

- Thật là tuyệt là lại được cùng nhau đi học. Hình như không bao giờ hợp lý nếu không có chị.

Laura đáp:

- Chị cũng cảm thấy như thế.

Khi cả hai tới trường, Ida kêu lên mừng rỡ:

- Xin chào cô giáo!

Tất cả đều rời lò sưởi xúm quanh Laura:

- Thấy như thế nào khi tự mình đứng lớp?

Ida hỏi, mũi cô sưng đỏ vì lạnh nhưng cặp mắt nâu của cô rạng rỡ hơn khi nào hết.

- Có vẻ tốt.

Laura trả lời và xiết chặt tay Ida trong khi những người khác chúc mừng việc cô trở lại trường. Ngay cả Nellie Oleson cũng có vẻ thân mật. Nellie nói:

- Bồ có khá nhiều chuyến xe rồi. Bây giờ bồ đã về nhà, có lẽ bồ sẽ đem theo vài người chúng tôi đi cùng.

Laura chỉ đáp:

- Có lẽ.

Cô thắc mắc không hiểu Nellie đang tính gì lúc này. Rồi thầy Owen rời bàn bước tới chúc mừng Laura. Ông nói:

- Chúng tôi rất vui thấy em lại quay về với chúng tôi. Tôi có nghe nói em dạy rất tốt lớp của mình.

Laura đáp:

- Cảm ơn thầy. Em rất mừng được trở lại.

Cô muốn hỏi xem ai đã nói với thầy về việc dạy học của cô nhưng dĩ nhiên cô không thể hỏi.

Buổi sáng bắt đầu với một chút lo lắng vì cô sợ sẽ tụt lại so với các bạn cùng lớp nhưng cô nhận ra rằng cô còn khá hơn cả việc bắt kịp họ. Tất cả bài tập đọc chỉ là ôn lại các bài cô đã học suốt những buổi tối khốn khổ ở gia đình Brewster. Cô thuộc bài hoàn hảo và dĩ nhiên vẫn đứng đầu lớp.

Cô cảm thấy sung sướng tự tin cho tới giờ giải lao.

Lúc đó các cô gái bắt đầu nói vè bài tham luận của họ và Laura khám phá ra thầy Owen đã dạy lớp ngữ pháp viết vì bài học trong ngày là một bài luận văn nói về Tham Vọng.

Lớp ngữ pháp được gọi lên trả bài ngay sau giờ giải lao. Laura kinh hoàng. Cô không bao giờ viết một bài luận văn và lúc này cô phải làm trong vài phút cái việc mà những người khác làm từ hôm qua. Tất cả đã viết bài luận văn ở nhà và bà Brown đã giúp Ida viết bài của cô ấy. Bà Brown viết cho các tờ báo của giáo hội nên bài luận văn của Ida rất tốt.

Laura không biết bắt đầu như thế nào. Cô không biết gì về tham vọng. Chỉ một ý nghĩ hiện ra trong đầu cô là cô sẽ thất bại ở chính lớp học mà cô luôn dẫn đầu. Cô không nên thất bại, cô không thể như thế. Cô không thất bại được. Nhưng viết một bài luận văn như thế nào? Cô chỉ còn lại năm phút.

Cô nhìn vào tấm bìa da màu vàng của cuốn tự điển dựng sát bàn thấy Owen. Cô nghĩ có lẽ mình sẽ tìm được một ý nghĩ khi đọc những dòng định nghĩa từ tham vọng. Ngón tay của cô tê cóng khi cô lật vội những trang giấy vần A, nhưng định nghĩa khá thú vị. Quay lại chỗ ngồi, cô viết nhanh tối đa và cố viết một cách tuyệt vọng trong lúc những người khác được gọi tên theo thứ tự. Cô cảm thấy khổ sở vì bài viết của cô không ra sao nhưng không còn thời giờ để viết lại hoặc thắt gì.

Lần lượt khi được gọi tên, từng người đọc bài luận văn của mình trong khi tim Laura nặng trịch. Mỗi người hình như đều hơn hẳn cô. Cuối cùng, thầy Owen gọi “Laura Ingalls” và cả lớp xì xào khi mọi người cùng nhìn cô chờ đợi.

Laura đứng lên và đọc lớn những gì cô đã viết. Đây là bài tốt nhất mà cô có thể làm nổi:

                                              THAM VỌNG

Tham vọng rất cần thiết cho mọi sự hoàn thành tốt đẹp. Không có tham vọng đạt tới một đích nhắm sẽ không có gì được làm xong. Không có tham vọng làm trội hơn người khác và vượt khỏi chính mình sẽ không vươn tới nổi phẩm chất xuất chúng. Để thành công về bất kỳ điều gì, chúng ta cần phải có tham vọng để thực hiện.

Tham vọng là một đầy tớ tốt nhưng là một ông thầy dở. Khi nào chúng ta còn kiểm soát được tham vọng thì nó rất tốt, nhưng sẽ vô cùng nguy hiểm nếu chúng ta bị tham vọng ngự trị. Lúc đó, tôi thấy cần nhắc lại một câu nói của Shakespeare “Cromwell, ta lệnh cho ngươi từ bỏ mọi tham vọng. Chính các thiên thần cũng sa đọa bởi tội lỗi đó”.

Tất cả chỉ có thế. Laura đứng chờ đợi lời phê bình của thầy Owen một cách khổ sở. Ông nhìn cô bằng ánh mắt sắc sảo và lên tiếng:

- Em đã soạn bài luận văn này từ trước?

Laura nói:

- Thưa thầy, không. Đây là lần viết đầu tiên của em.

Thầy Owen nói với cô:

- Này, em đã viết luận văn nhiều rồi. Tôi không tin bất kỳ ai có thể viết tốt như thế trong lần đầu.

Laura lắp bắp trong nỗi kinh ngạc:

- Nó có vẻ ng… ngắn quá… Nó gần giống như tự điển…

- Nó không giống tự điển nhiều.

Thầy Owen nói thêm:

- Không có chỗ nào cần sửa chữa. Nó đạt mức điểm một trăm. Lớp học chấm dứt.

Bài viết không còn mức điểm cao hơn để cho. Laura vẫn tiếp tục đứng đầu lớp. Lúc này cô tự tin rằng với sự làm việc bền bỉ cô sẽ giữ vững vị trí đầu lớp của mình và cô sung sướng chờ đợi viết thêm các bài luận văn.

Thời giờ không kéo dài hơn. Tuần lễ đó qua như ánh chớp và vào Thứ Sáu, khi Laura cùng Carrie về nhà ăn cơm trưa, Bố nói:

- Bố có một thứ cho con, Laura.

Mắt Bố lóe sáng khi Bố lôi từ trong túi ra cuốn sách bỏ túi của mình. Rồi Bố lần lượt đặt lên bàn tay cô bốn tờ giấy mười đô la.

Bố giải thích:

- Sáng nay Bố gặp Brewster. Ông ấy nhờ Bố chuyển số tiền này cho con và nói con đã dạy lớp học thật tốt. Mọi người đều muốn con trở lại đó vào mùa đông tới. Nhưng Bố nói với ông ta là con không muốn lại phải đi xa nhà trong mùa đông. Bố biết không có sự dễ chịu ở nhà Brewster dù con không hề phàn nàn gì và Bố tự hào về việc con đã theo đuổi tới cùng, Laura.

- Ôi, Bố! Việc đó rất đáng giá.

Laura nói một cách như hụt hơi.

- Bốn mươi đô la!

Cô vẫn biết là cô kiếm được bốn mươi đô la, nhưng những tờ giấy bạc nằm trong tay mới có vẻ là thực tế lần đầu. Cô ngắm chúng bằng ánh mắt khó tin là thực, dù ngay trong lúc này. Bốn tờ giấy mười đô la; bốn mươi đô la.

Rồi cô đưa cho Bố.

- Này, Bố, Bố cầm và giữ cho Mary. Số tiền này sẽ đủ cho chị ấy về nghỉ hè ở nhà, phải không Bố?

- Dư cho việc đó và còn vài việc nữa.

Bố nói khi gấp những tờ giấy bạc lại ghép vào trong cuốn sách bỏ túi.

Carrie kêu:

- Ô, Laura, vậy là chị đi dạy học để không được gì hết sao?

Laura sung sướng trả lời:

- Tất cả tụi mình sẽ được gặp Mary trong mùa hè này. Chị chỉ đi dạy học vì Mary thôi.

Thật là một cảm giác kỳ diệu khi cô biết rằng cô có thể giúp ích được nhiều như thế. Bốn mươi đô la. Khi ngồi vào bàn ăn trong gian nhà bếp ấm cúng, cô nói:

- Con ước là con có thể kiếm được nhiều hơn.

Mẹ nói một cách bất ngờ:

- Con có thể nếu con muốn. Sáng nay bà McKee nói bà ấy muốn có con giúp bà ấy vào các ngày Thứ Bảy. Bà ấy có nhiều mối áo may không thể một mình làm xuể và muốn trả con năm mươi xu với bữa ăn trưa.

Laura kêu lên:

- Ô! Mẹ có nói là con sẽ làm không, Mẹ!

Mẹ mỉm cười:

- Mẹ nói con có thể làm, nếu con thích.

Laura nôn nóng hỏi:

- Khi nào? Ngày mai?

Mẹ nói:

- Tám giờ sáng mai. Bà McKee nói không chuẩn bị cho con làm trễ. Chỉ từ tám giờ đến sáu giờ trừ phi có việc gấp, bà ấy sẽ trả thêm bữa ăn tối nếu con ở lại làm xong một việc gì đó đến tối.

Bà McKee là thợ may trong thị trấn. Gia đình McKee là người mới tới thị trấn sống trong một căn nhà mới giữa cửa tiệm đồ khô Clancyos và tòa nhà văn phòng mới ở ngay góc phố Main và phố Second. Laura đã gặp bà McKee ở nhà thờ và thích bà ấy. Bà ấy cao, mảnh mai với cặp mắt xanh lơ hiền hòa và nụ cười rất dễ thương. Mái tóc màu hung sáng của bà được buộc trong một chiếc nơ ngay sau đầu.

Thế là lúc này thời giờ của Laura không còn trống nữa và đó cũng là một điều vui. Những ngày quay quần ở trường học trôi nhanh và suốt tuần Laura trông đợi tới ngày bận rộn may vá trong căn phòng khách của bà McKee luôn sạch bóng khiến Laura khó nhận ra vẫn có một lò bếp ở cuối phòng.

Sáng Chủ Nhật là lơp học Chủ Nhật và buổi lễ và mỗi chiều Chủ Nhật thoải mái lại có hội chạy xe. Prince và Lady xuôi theo phố với những vòng chuông êm dịu reo vui dừng lại trước cửa chờ Laura và cô đi cùng Almanzo trong chiếc xuồng trượt nhỏ phía sau những con ngựa đẹp nhất, nhanh nhất trong cuộc diễu hành Chủ Nhật.

Nhưng tuyệt vời hơn hết vẫn là những buổi sáng và buổi tối ở nhà. Laura nhận ra chưa bao giờ cô đánh giá cao những lúc ở nhà cho tới lúc này. Không có sự câm nín ủ rũ, không có sự cãi cọ âm ỉ, không có những cơn giận bùng nổ tồi tệ.

Thay cho những thứ đó chỉ là công việc và những cuộc trò chuyện thoải mái, những câu bong lơn nho nhỏ và những buổi tối học bài ấm áp, rồi đọc sách và tiếng đàn của Bố. Tuyệt vời biết bao khi nghe những điệu hát xa xưa bốc lên từ tiếng đàn của Bố trong gian phòng ấm áp chan hòa ánh sáng của ngôi nhà. Laura thường nghĩ cô hạnh phúc và may mắn biết dường nào. Cô tin là không ở nơi nào tuyệt vời hơn dưới mái nhà cùng với những người thân trong gia đình.

13. MÙA XUÂN

Vào một buổi chiều Thứ Sáu trong tháng Tư, Laura cùng Ida và Mary Power đi bộ chậm chạp từ trường về nhà. Không khí dịu và ẩm ướt, các mái hiên đang nhỏ giọt và tuyết tan lớp nhớp dưới chân. Ida lên tiếng:

- Gần như mùa xuân đã tới rồi. Lớp học chỉ còn ba tuần nữa.

Mary nói:

- Vậy là lại tới lúc chúng mình di chuyển về trại. Bạn cũng vậy chứ, Laura, đúng không?

Laura đáp:

- Mình cũng nghĩ thế. Phải nói là hình như mùa đông khắc nghiệt đã bắt đầu nhưng lúc này thì nó qua hẳn rồi.

Mary nói:

- Ừ, nếu hơi ấm này kéo dài tuyết gần như tan hết vào ngày mai. Điều đó có nghĩa là sẽ không còn trò chơi chạy xe nữa.

Laura nói:

- Ở trại cũng rất dễ chịu.

Cô nghĩ tới bầy bò con và lũ gà nhỏ, tới vườn rau đang lớn, đám rau diếp, cải củ, những khóm hành mùa xuân, những bong hoa tím, những đóa hồng dại và sự trở về nhà của Mary.

Cùng Carrie, cô băng ngang đường phố nhớp nháp vào nhà. Bố Mẹ đang ngồi trong phòng ăn và một người lạ đang đung đưa trên chiếc ghế đu của Mary. Lúc Laura và Carrie do dự ngưng lại bên cửa ra vào, người lạ đứng lên khỏi ghế mỉm cười với hai chị em. Ông ta hỏi:

- Laura, không nhận ra cậu sao?

Lúc này Laura đã nhận ra. Cô nhớ ra nụ cười của người lạ hệt như nụ cười của Mẹ. Cô kêu lên:

- Ô, cậu Tom! Đúng là cậu Tom!

Bố cười:

- Tôi đã nói là nó sẽ nhận ra cậu mà, Tom.

Và Mẹ mỉm cười, giống hệt nụ cười của người cậu trong lúc ông bắt tay Laura và Carrie.

Carrie không nhận ra cậu vì khi ở Big Woods vùng Wiscounsin, cô mới chỉ là một em bé. Nhưng Laura đã lên năm khi tới dự đêm dạ vũ nhân dịp làm đường ở nhà bà nội và cậu Tom có mặt ở đó.

Ông lặng lẽ tới mức cô không còn nghĩ tới ông kể từ đó, nhưng lúc này cô nhớ lại những tin tức là cô Docia cho biết về ông khi cô ghé căn nhà bên suối Plum vùng Minnesota.

Ông là một người nhỏ nhắn, điềm đạm với nụ cười hiền hòa. Ngắm ông qua bàn ăn trong bữa tối, Laura khó thể tin trong nhiều năm ông đã là một đốc công trên những con tàu chở hàng chuyên chở những khúc cây từ Big Woods xuôi theo các dòng sông. Dù nhỏ con và nói năng dịu dàng như vậy, ông đã chỉ huy những người đàn ông thô bạo và điều khiển những chuyến tải gỗ đầy nguy hiểm không hề sợ hãi. Laura nhớ lại cô Docia từng kể ông đã lao thẳng vào giữa những khúc gỗ đang bập bềnh trong một chuyến đi như thế nào và bám chặt lấy những khúc gỗ để lôi một người bị thương lên khỏi song dù ông không biết bơi.

Bây giờ ông nói chuyện thật nhiều với Bố Mẹ và Laura. Ông kể về vợ ông, mợ Lily và đứa nhỏ của họ, bé Helen. Ông kể về gia đình chú Henry, cô Polly, về Charley và Albert. Sau khi rời vùng Hồ Nước Bạc, họ không tới Montana. Họ dừng lại tại Black Hills và ở lại đó, ngoại trừ Louisa. Cô gái đã lấy chồng và đi tới Montana. Về phần cô Eliza và chú Peter thì vẫn sống tại miền đông Minnesota nhưng mấy đứa con Alice, Ella và Peter đang ở một nơi nào đó trong vùng Dakota.

Carrie và Grace mở mắt thao láo lắng nghe. Carrie không nhớ gì về những người đó còn Grace chưa bao giờ được thấy vùng Big Woods, không biết gì về dạ vũ nhân dịp làm đường cùng những dịp Giáng Sinh chú Peter và cô Eliza dẫn đám anh chị em họ Alice, Ella và Peter tới thăm. Laura rất buồn vì cô em nhỏ bị thiệt quá nhiều.

Giờ ăn tối qua thật nhanh và khi ánh đèn sáng lên, cả nhà lại quay quanh cậu Tom trong phòng ăn. Bố vẫn để ông tiếp tục nói về các trại cưa, các chuyến chở gỗ, những dòng sông gầm thét và những người đàn ông mạnh mẽ hoang dã trong các trại cây. Ông kể về những người đó một cách ngọt ngào, nói bằng cái giọng dịu dàng của Mẹ và mỉm cười với nụ cười hiền hòa của Mẹ.

Bố nói với ông:

- Vậy đây là chuyến đi đầu tiên của cậu về miền Tây?

Cậu Tom trả lời điểm tĩnh:

- Ô, không. Tôi đã tới đây cùng những ngườ da trắng đầu tiên nhòm ngó vùng Black Hills.

Bố Mẹ cùng ngớ người một lúc. Rồi Mẹ hỏi:

- Cậu làm gì ở đó, Tom?

Cậu Tom nói:

- Đi tìm vàng.

Bố nói đùa:

- Quá tệ là cậu đã không thấy một vài mỏ vàng.

Cậu Tom nói:

- Chà, chúng tôi đã tìm thấy. Chỉ có điều nó không đem lại chuyện tốt lành nào cho chúng tôi.

Mẹ khẽ kêu lên:

- Chúa ơi! Hãy kể lại chuyện đó đi.

Cậu Tom bắt đầu:

- Nào, để coi. Chúng tôi khởi hành từ thị trấn Sioux, tám năm trước, tháng Mười năm 1874.

Chúng tôi có hai mươi sáu người đàn ông và một người trong đám mang theo vợ và đứa con trai chin tuổi.

Họ di chuyển trong những toa xe phủ mui với những con bò kéo và một vài người cưỡi ngựa.

Mỗi người mang theo một cây sung trường và các vũ khí nhỏ cùng đầy đủ đạn dược kéo dài trong tám tháng. Họ chất đầy lên xe bột mì, thịt ướp muối, đậu, cà phê và quyết định săn bắn để kiếm số thịt tươi cần dung. Săn bắn rất dễ dàng và hị dư các thứ thịt nai, linh dương. Khó khăn lớn nhất là thiếu nước trên đồng cỏ trống. May mắn, mùa đông tới sớm, tuyết rơi nhiều về đêm, họ làm tan tuyết lấy nước đầy các thùng chứa.

Thỉnh thoảng going bão ngăn trở họ. Suốt thời gian bão tuyết, họ ngồi lại trong trại. Giữa các cơn bão, tuyết đóng cứng và làm nhẹ bớt gánh nặng đi bộ, thậm chí phụ nữ cũng đi bộ phần lớn đoạn đường. Hành trình của một ngà tốt trời là mười lăm dặm.

Thế là họ tiến vào một vùng xa lạ, không nhìn thấy gì ngoài đồng cỏ đóng băng với những cơn bão và thỉnh thoảng có vài người da đỏ ở một khoảng cách xa, cho tới khi họ tới một trũng đất lún sâu lạ thường. Trũng đất chắn ngang đường đi trải rộng thật xa về phía trước và cả hai bên. Có vẻ như không thể đưa xe xuống, nhưng không làm được gì khác hơn ngoài việc phải băng qua đó nên với rất nhiều khó khăn họ đã đưa xe xuống trũng đất.

Từ mặt trũng đất, những mô đất cấu tạo lạ lung dựng tua tủa khắp xung quanh họ, cao hàng trăm bộ. Cạnh các mô đất dựng đứng, đôi chỗ nhô ra ở phía trên và bị vạt mòn bởi những cơn gió không ngừng thổi qua. Không có một khóm rau, một cội cây, một lùm bụi hoặc một cọng cỏ nào mọc ở đây. Mặt đất giống như một lớp bùn đóng cứng lại. Khắp trũng đất rải rác những vỏ sò, những khung sọ và những going xương đã hóa đá.

Cậu Tom bảo đó là một vùng hoang dã không thể sống nổi. Bánh xe lăn lạo xạo trên những going xương và những thứ này tựa hồ cựa mình khi đặt chân lên để bước qua, một vài thứ giống hệt như các khuôn mặt và các cảnh tượng kỳ dị. Xe phải lăn giữa các thứ đó khi men dọc các thung lũng. Trong lúc vòng theo những thứ quái đản này, đoàn người bị lạc. Mất trọn ba ngày họ mới tìm nổi lối ra và thêm một ngày cực nhọc đưa xe lên khỏi bờ đất cao.

Nhìn trở lại trũng đất, một vệ binh già nói với cậu Tom rằng đây hẳn là vùng Đất Xấu mà ông đã nghe nhắc tới trong những câu chuyện kể của người da đỏ. Rồi ông ta nói thêm:

- Tôi nghĩ rằng khi Thượng Đế tạo ra thế giới, Ngài đã liệng tất cả những thứ thừa thãi vào cái hố này.

Sau đó, họ tiếp tục băng qua đồng cỏ cho tới khi dựng khu trại cuối cùng bên suối French. Tại đây, họ chặt thong trên đồi, dựng một đồn trại rộng tám mươi bộ vuông. Họ vạt nhọn những cây dài mười ba bộ ghép đứng khít với nhau và chon sâu ba bộ dưới đất. Đất đông cứng nên đào rất cực nhọc.

Phía trong hàng rào này, họ chèn thêm một hàng rào làm bằng các khúc cây nhỏ hơn, chèn kín mọi khe hở giữa các cây lớn bằng những cọ gỗ nặng.

Ở mỗi góc đồn trại, họ dựng một công sự kiên cố bằng gỗ vượt cao lên để có thể đứng tại đó bắn dọc mé ngoài của các hàng rào. Trong các công sự này cũng như các hàng rào đều khoét lỗ hổng.

Ngõ vào duy nhất của đồn trại là một cổng rào hai lớp rộng mười hai bộ làm bằng những khúc gỗ lớn đóng chốt rất chắc bằng hai cây thông. Đó là một đồn trại rất chắc chắn khi được làm xong.

Trong trại có bảy lều nhỏ bằng gỗ và ở đó, họ đã sống qua mùa đông. Họ săn bắn để lấy thịt và đặt bẫy để lấy da. Mùa đông lạnh buốt nhưng họ vượt qua và sang mùa xuân họ thấy vàng, những thỏi vàng ở trong đất cùng rất nhiều bụi vàng trong các vụn đông giá và dưới đáy suối. Gần như cùng lúc đó, người da đỏ tấn công họ. Họ có thể cầm cự chống lại người da đỏ với đồn trại đó. Khó khăn chỉ là họ sẽ chết đói nếu không thể ra ngoài để đi săn. Người da đỏ bao vây ở phía ngoài không tấn công nhiều nhưng chặn tất cả những nhóm người kéo ra để chờ cho họ chết đói. Vì vậy, họ cắt giảm phần ăn, buộc chặt dây lưng để kéo dài thời gian chịu đựng trước khi phải giết những con bò kéo.

Rồi một buổi sáng, họ nghe thấy từ xa vang lên tiếng kèn đồng!

Khi cậu Tom nói tới đó thì Laura nhớ lại thuở nào âm vang dội lại từ rừng Big Woods khi bác George thổi chiếc kèn đồng trong quân đội. Cô kêu lên:

- Quân đội?

Cậu Tom nói:

- Đúng.

Quân đội đang tới và lúc này tất cả biết rằng họ đã hoàn toàn yên ổn. Những người canh gác la lớn và tất cả leo hết lên các pháo đài để quan sát. Họ lại nghe tiếng kèn đồng. Liền đó, họ nghe thấy tiếng trống quân nhạc rồi nhìn thấy lá cờ tung bay và một đoàn quân đang tiến tới ở phía sau.

Tất cả ùa xuống, mở rào cổng chạy lao ra hết sức nhanh để chào đón đám binh sĩ. Binh sĩ lập tức bắt hết thảy giữ tại chỗ như tù binh trong khi một số tiến vào nổi lửa đốt đồn trại cùng mọi thứ trong đó. Họ đốt cháy các căn lều, các cỗ xe, các đống da và giết hết bò kéo.

Mẹ kêu lên tựa hồ không chịu đựng nổi:

- Ôi, Tom!

Cậu Tom nói một cách dịu dàng:

- Đó là đất của người da đỏ. Nói một cách dứt khoát, chúng tôi không có quyền tới đó.

Mẹ thì thầm:

- Thế là mọi người không còn gì hết do việc làm và sự nguy hiểm đó?

Cậu Tom nói:

- Tôi rời khỏi đó mất sạch mọi thứ, ngoại trừ khẩu sung. Quân đội cho chúng tôi giữ sung của mình. Họ dẫn chúng tôi đi chân đất, như tù nhân.

Bố đang đi tới lui trong phòng. Bố kêu lên:

- Tôi sẽ đấu kiếm nếu bị sỉ nhục. Không thể không xảy ra một kiểu ẩu đả nào đó.

Cậu Tom nói một cách tỉnh táo:

- Chúng tôi không thể chiến đấu chống lại toàn thể quân đội Hiệp Chủng Quốc. Nhưng tôi rất ghét nhìn thấy khu đồn trại bốc cháy.

Mẹ nói:

- Tôi biết. Tới hôm này tôi vẫn nghĩ về căn nhà mà chúng tôi đã bỏ lại trong vùng đất của người da đỏ. Tôi đã nghĩ ngay khi Charles lo gắn những ô kính cửa sổ cho căn nhà.

Laura nghĩ thầm:

- Tất cả mọi chuyện xảy ra cho cậu Tom khi mình đang sống ở suối Plum.

Trong một lúc không ai lên tiếng rồi chiếc đồng hồ cũ rè rè lên một cách chậm chạp và trang trọng, chỉ gõ một tiếng.

Mẹ kêu lên:

- Chúa ơi! Coi giờ kìa! Tom, phải nói là cậu đã khiến chúng tôi mê mẩn hết. Quên cả chuyện Grace đã ngủ say. Các con gái đi ngủ thôi và Laura bồng em theo, nhớ liệng chiếc đệm nhồi lông ở giường Mẹ xuống và mền nữa để Mẹ làm giường ở đây cho cậu Tom.

Cậu Tom gạt đi:

- Khỏi cần lột giường của chị ra, Caroline. Tôi có thể ngủ trên nền nhà với một chiếc mền thôi, tôi vẫn làm thế và thấy là đủ rồi.

Mẹ nói:

- Tôi nghĩ là tôi và Charles chỉ ngủ trên đệm rơm có một lần này thôi. Còn cậu đã phải ngủ lạnh lẽo và thiếu thốn cỡ nào qua rất nhiều đêm trong chuyến đi đó.

Cái mùa đông lạnh lẽo qua câu chuyện của cậu Tom còn in hằn trong trí của Laura, mạnh tới nỗi sáng hôm sau cô lạ lùng nghe gió nam thổi nhẹ cùng tiếng nước mái hiên đang nhỏ giọt và biết rằng cô có mặt thoải mái ở thị trấn trong mùa xuân. Trọn ngày, trong khi Laura may vá cùng bà McKee, Bố Mẹ ngồi trò chuyện với cậu Tom và hôm sau chỉ có Laura cùng Carrie, Grace tới dự lớp học Chủ Nhật và buổi lễ. Bố Mẹ ở nhà để không bỏ phí thời gian trong cuộc viếng thăm ngắn ngủi của cậu Tom. Cậu sẽ ra đi vào sáng sớm Thứ Hai để về nhà ở Wiscousin.

Chỉ còn lại rải rác một số cụm tuyết trên mặt đất lầy bùn. Laura biết không còn những ngày vui chạy xe nữa và cô thấy nhớ tiếc.

Bố Mẹ cùng cậu Tom đang nói về những người mà cô không biết trong khi tất cả ngồi quanh bàn sau bữa ăn trưa Chủ Nhật vào lúc một bóng đen vụt qua cửa sổ. Laura nghe có tiếng gõ cửa và vội vã bước ra mở cửa, thắc mắc không hiểu lý do khiến Almanzo tới. Anh nói:

- Cô có thích đi dạo chuyến xe ngựa mùa xuân đầu tiên không? Cùng với Cap, Mary Power và tôi?

Cô đáp:

- Ô, có chứ! Ông không vào nhà sao, trong lúc tôi lấy áo, mũ?

Anh nói:

- Thôi, cảm ơn. Tôi chờ ở ngoài.

Khi bước ra, cô nhìn thấy Mary và Cap đang ngồi trên băng ghế sau trong chiếc xe hai ghế ngồi của Cap. Almanzo giúp cô bước lên ghế trước và đón dây cương từ tay Cap khi anh ngồi xuống bên cạnh cô. Rồi Prince và Lady chạy ngược đường phố ra con đường trên đồng cỏ chạy về phía đông.

Không có ai khác lái x era đường vì không phải dịp hội vui chạy xe, nhưng Laura, Mary và Cap đều cười lớn, vui vẻ. Đường khá nhớp nháp. Nước và những cụm tuyết bắn tung lên lũ ngựa, cỗ xe và mảnh vải choàng trên đầu gối họ. Nhưng gió xuân mơn man trên mặt họ và mặt trời đang chiếu sáng ấm áp.

Almanzo không tham gia vào câu chuyện vui vẻ. Anh chăm chú lái xe, không nở nụ cười hoặc nói tiếng nào cho tới khi Laura hỏi anh đang có chuyện gì.

- Không có gì.

Anh nói rồi hỏi nhanh:

- Người thanh niên đó là ai vậy?

Không một ai xuất hiện trong tầm nhìn. Laura kêu lên:

- Người thanh niên nào?

Anh nói:

- Người đang nói chuyện với cô, lúc tôi đến nhà?

Laura muốn nghẹn thở. Mary cười phá lên. Cô nói:

- Chớ có ghen với cậu của Laura chớ!

Laura giải thích:

- Ô, ông không biết cậu ấy sao? Đó là cậu Tom, em trai của Mẹ tôi.

Mary Power tiếp tục cười mãi khiến Laura quay lại đúng lúc thấy Cap Garland chộp chiếc kẹp trên búi tóc của Mary. Cáp nói với Mary:

- Bạn sẽ phải lưu ý tới tôi.

- Ô, thôi đi, Cap! Trả lại nó cho tôi.

Mary kêu lên, cố nắm lấy chiếc kẹp mà Cap đang đưa ra khỏi tầm với của cô trong lúc anh chộp thêm một chiếc khác.

- Thôi đi, Cap! Thôi đi!

Mary năn nỉ trong lúc đặt cả hai bản tay lên búi tóc sau gáy, nói:

- Giúp mình, Laura!

Laura thấy tình thế hết sức tuyệt vọng vì chỉ riêng cô biết rõ Mary mang tóc độn. Cap cần được chặn lại vì nếu Mary bị rút hết kẹp thì búi tóc đẹp của cô sẽ rớt xuống.

Đúng lúc đó, một mảng tuyết từ chân của Prince văng lên ngay vạt áo Laura. Cap đang xoay lại phía cô trong lúc giành giật với Mary. Laura gom hết mảnh tuyết và nhét vào trong áo ngay sau gáy Cap. Anh ta kêu lên:

- Ui chao! Hãy giúp bạn đi, Wilder. Hai cô gái chống lại mình tôi là quá nhiều.

- Tôi đang bận lái xe.

Almanzo trả lời và tất cả đều cười lớn. Thoải mái biết bao khi cất tiếng cười trong mùa xuân.

14. GIỮ QUYỀN CHỦ ĐẤT

Cậu Tom đi về miền Đông trên chuyến xe lửa sáng hôm sau. Khi Laura từ trường về vào buổi trưa, ông đã đi rồi.

Mẹ nói:

- Sau khi cậu đi, bà McKee đã tới đây. Bà ấy đang bối rối, Laura, và hỏi Mẹ liệu con có thể giúp bà ấy không.

Laura nói:

- Dĩ nhiên con sẽ làm, nếu con làm được. Có chuyện gì vậy?

Mẹ kể là bà McKee làm việc quá cực trong mùa đông đó nên gia đình McKee chưa đủ sức chuyển về nông trại của họ. Ông McKee phải tiếp tục việc làm ở xưởng cưa cho tới khi dành dụm đủ tiền mua dụng cụ, hạt giống và gia súc. Ông ấy muốn bà McKee mang đứa con gái nhỏ, Mattie, về sống ở đó trong mùa hè này để giữ nông trại. Bà McKee nói không thể sống nổi ở ngoài đồng cỏ một mình, không có ai bên cạnh, ngoại trừ Mattie. Bà ấy nói họ có thể sẽ mất nông trại trước hết.

Mẹ nói:

- Mẹ không hiểu lý do khiến bà ấy căng thẳng về chuyện đó. Nhưng bà ấy có vẻ rối trí. Hình như phải sống hoàn toàn cô độc, cách biệt mọi người nhiều dặm đường làm bà ấy kinh hãi. Cho nên, bà ấy nói với Mẹ là ông McKee nói ông ấy sẽ bỏ nông trại. Sau khi ông ấy đi làm, bà ấy suy tính lại và tới hỏi Mẹ xem liệu con có thể đi cùng với bà ấy để giữ quyền sở hữu nông trại không. Bà ấy nói sẽ trả cho con một đô la một tuần chỉ để ở cùng với bà ấy như một thành viên trong gia đình thôi.

Bố hỏi:

- Nông trại ở đâu?

Mẹ nói:

- Cách một khoảng ngắn về phía bắc Manchester.

Manchester là một thị trấn nhỏ ở phía tây De Smet. Bố hỏi cô:

- Được, con có muốn đi không, Laura?

Laura nói:

- Con nghĩ là con sẽ làm thế. Con sẽ thiếu một phần chương trình học ở trường, nhưng con có thể lo liệu được và con cũng thích kiếm thêm một số tiền.

Bố quyết định:

- Gia đình McKee rất dễ thương và việc này thực sự thuận tiện cho họ nên con có thể đi nếu con muốn làm.

Mẹ lo lắng:

- Nhưng sẽ tội nghiệp cho con phải vắng nhà khi Mary về thăm.

Laura cân nhắc:

- Có lẽ con chỉ giúp cho bà McKee làm quen với việc sống ở nông trại và con có thể về nhà đủ lâu để gặp Mary.

Mẹ nói:

- Tốt, nếu con muốn đi thì tốt nhất hãy cứ đi. Chúng ta không nên lo lắng về một điều chưa tới. Dù sao có khả năng mọi việc sẽ ổn thỏa.

Thế là sáng hôm sau Laura cùng bà McKee và Mattie lên xe lửa tới Manchester. Trước đây cô đã có lần đi xe lửa khi từ vùng Suối Plum tới miền tây nên cô cảm thấy như một du khách thành thạo khi mang túi xách theo người bẻ ghi đi giữa hai hàng ghế tới chỗ ngồi. Điều đó khiến không phải như cô không biết gì về xe lửa.

Hành trình tới Manchester dài bảy dặm. Công nhân xe lửa chuyển đồ đạc của bà McKee từ toa chở hàng ra bỏ phía trước xe ngựa và người đánh xe ngựa chất lên xe. Trước khi đồ đạc chất xong, người chủ khách sạn đập mạnh chiếc dùi trên chiếc ghế phách tam giác bằng sắt mời hành khách ăn cơm.

Thế là bà McKee cùng Laura và Mattie ăn cơm trong khách sạn.

Không lâu sau, người đánh xe ngựa lái chiếc xe đã chất hàng xong tới trước cửa và giúp họ bước lên đống đồ giữ đủ thứ đệm giường, lò bếp, bàn ghế, vali, thùng chứa thức ăn. Bà McKee ngồi trên ghế chung với người đánh xe.

Ngồi thõng chân xuống một bên sườn xe, Laura và Mattie ôm lấy nhau và bám vào những sợi dây buộc đồ khi lũ ngựa kéo chiếc xe giật nẩy trên đồng cỏ. Không có đường đi. Bánh xe chìm trong lớp đất ở những nơi mềm ra do tuyết tan và cỗ xe cùng đồ đạc nghiêng qua đảo lại. Nhưng xe chạy rất tốt cho tới khi tới một trũng đầm. Tại đây đất thấp hơn, nước đọng trong các vũng hồ giữa những đám cỏ đầm lầy um tùm. Người lái xe nhìn về phía trước nói:

- Tôi không biết về trũng đầm này. Hình như khá tồi tệ. Nhưng không có đường chạy quanh, mình sẽ phải cố băng qua. Có lẽ mình phải chạy thật nhanh để xe không kịp lún xuống.

Khi xe tới gần hơn, ông ta nhắc:

- Mọi người bám thật chắc!

Ông ta quất chiếc roi và hét lũ ngựa. Chúng phóng nhanh hơn, nhanh hơn nữa cho tới khi bị thúc đẩy cùng tột bởi tiếng hét của ông ta và chiếc roi, chúng vùng lên lao tới. Nước văng lên nhưn những chiếc cánh từ các bánh xe va đập lien tục trong khi Laura hết sức bám vào những sợi dây và ôm cứng Mattie.

Rồi tất cả im ắng trở lại. Chiếc xe đã vượt qua bờ đầm kia yên ổn và người đánh xe dừng cho lũ ngựa nghỉ ngơi. Ông ta nói:

- Tốt, mình đã qua được! Các bánh xe không dừng lại một chỗ đủ lâu để lún xuống đất. Nếu ai bị lún ở đây thì sẽ phải chịu lún mãi mãi.

Không lạ lung là ông ta có vẻ thở ra nhẹ nhõm vì khi nhìn lại trũng đầm, Laura không thấy một vệt bánh xe nào. Nước đã phủ kín hết.

Xe chạy qua đồng cỏ và cuối cùng, họ tới một căn lều trại đứng chơ vơ. Cách chừng một dặm về phía tây có một căn lều khác và xa hơn về phía đông là căn lều thứ ba. Người đánh xe nói:

- Chỗ này đây, thưa bà. Tôi bỏ đồ xuống rồi kéo cỏ khô để đốt tới cho bà, từ địa điểm cách đây chừng một dặm ở phía tây. Người phơi cỏ vào mùa hè vừa rồi đã bỏ cuộc và trở lại miền Đông rồi nhưng tôi thấy ông ta bỏ lại đó vài đống cỏ.

Ông ta khuân đồ từ xe vào trong lều và đặt lò bếp. Rồi ông ta đánh xe di lấy cỏ.

Một bức chắn cắt căn lều thành hai phòng nhỏ. Bà McKee và Laura dựng một khung giường trong gian phòng có lò bếp và một khung giường ở phòng bên kia. Thêm chiếc bàn, bốn chiếc ghế gỗ và vali, họ đã chất đầy căn nhà nhỏ. Bà McKee nói:

- Tôi mừng là không mang thêm món đồ nào.

Laura tán đồng:

- Dạ, Mẹ cháu vẫn nói vừa đủ là ngon như một đại tiệc.

Người đánh xe chở về một đống cỏ khô rồi lái xe quay lại thị trấn Manchester. Bây giờ chỉ còn nhồi đầy cỏ khô vào hai chiếc đệm rơm, làm giường và soạn chén đĩa. Sau đó Laura xoắn cỏ khô kết thành bện từ đống cỏ nhỏ ở sau lều và Mattie mang vào nhóm lửa cho bà McKee nấu bữa ăn tối. Bà McKee không biết cách bện cỏ nhưng Laura đã học việc này trong mùa đồng Ác Liệt.

Khi ánh sáng tắt trên đồng, lũ sói bắt đầu hú và bà McKee khóa cửa ra vào rồi coi lại xem các cửa sổ đã buộc kỹ chưa. Bà nói:

- Tôi không hiểu lý do khiến luật lệ buộc chúng ta phải làm việc này. Ích lợi gì khi buộc một người đàn bà phải sống trọn mùa hè ở nông trại.

Laura trả lời:

- Bố cháu bảo đây là một cuộc đánh cá. Chính phủ đã đem một khu đất rộng một phần tư dặm vuông ra đánh cá với một người đàn ông rằng ông ta không thể sống ở đó trong năm năm mà không chết đói.

Bà McKee nói:

- Không ai có thể. Những người làm luật phải biết rằng người đàn ông đủ tiền để mở trại ắt có đủ tiền mua một nông trại rồi. Nếu họ không có tiền, họ sẽ phải đi kiếm tiền, và đó có phải là lý do tạo ra luật lệ buộc người đàn ông phải ở trên đất trại khi mà họ không thể ở nổi? Điều đó có nghĩa là người vợ và gia đình họ phải ngồi lì tại đó bảy tháng mỗi năm. Tôi có thể kiếm được một món tiền, bằng nghề cắt may, để phụ giúp vào việc mua dụng cụ, hạt giống nếu ai đó không bị buộc phải ngồi trên mảnh đất này. Thành thực mà nói tôi không biết gì nhưng nhiều lúc tôi tin tưởng ở nữ quyền. Nếu phụ nữ có quyền bỏ phiếu và làm luật, tôi tin họ sẽ có ý thức hơn. Chó sói hả?

Laura nói:

- Không. Chỉ là lũ sói cỏ, chúng không đụng tới người nào cả.

Tất cả đã quá mệt nên không thắp đèn mà đi ngủ, Laura và Mattie trên chiếc giường trong gian bếp còn bà McKee ở phòng trước. Khi mọi người đã nằm yên, sự cô quạnh dường như ùa vào căn lều. Laura không sợ hãi, nhưng từ trước cô chưa khi nào ở một nơi hiu quạnh như thế mà không có Bố Mẹ cùng các chị em. Lũ sói cỏ đã tản xa, xa hơn. Rồi chúng biến mất. Đầm cỏ cũng ở xa nên tiếng ếch nhái không thể vọng tới. Không có một âm thanh nào ngoài tiếng gió thổi trên đồng cỏ phá tan sự yên ắng.

Ánh nắng rọi trên mặt Laura đánh thức cô dạy trong một ngày trống rỗng. Công việc vặt vãnh đã được làm xong. Không có thứ gì để làm, không có sách để học, không có người nào để thăm gặp.

Chỉ dễ chịu trong một chốc lát. Trọn tuần lễ đó, Laura cùng bà McKee và Mattie không làm gì ngoài ăn, ngủ, ngồi trò chuyện hoặc im lặng. Mặt trời mọc lên và lặn xuống, gió thổi và đồng cỏ vắng hoe chỉ có những con chim và bóng mây.

Chiều Thứ Bảy, họ mặc quần áo ra thị trấn, đi bộ hai dặm đường tới Manchester đón ông McKee và cùng ông trở về lều. Ông ở lại tới chiều Chủ Nhật khi tất cả cùng ông lại đi bộ ra thị trấn đưa ông lên xe lửa quay về De Smet với công việc của ông. Rồi bà McKee cùng Laura, Mattie đi bộ về lều trại để qua tuần lễ khác.

Tất cả đều mừng khi Thứ Bảy tới, nhưng theo một cách khác, tất cả đều nhẹ nhõm khi ông McKee đi khỏi vì ông là một tín đồ nghiêm túc của Giáo Hội Trưởng Lão nên vào Chủ Nhật không ai được phép cười hoặc thậm chí mỉm cười. Tất cả chỉ có thể đọc Kinh Thánh, sách vấn đáp giáo lý và nói chuyện trang trọng về các đề tài tôn giáo. Tuy vậy, Laura rất thích ông vì ông thực sự tốt bụng và hiền lành, không khi nào nói một lời khúc mắc.

Theo cung cách đó, từng tuần lễ trôi qua đi không có gì khác biệt và Tháng Tư rồi Tháng Năm đã hết.

Thời tiết ấm áp hơn và trong các chuyến đi bộ ra thị trấn họ đã nghe tiếng chim chiền chiện hót bên đường, nơi những khóm hoa mùa xuân bừng nở. Một buổi chiều Chủ Nhật ấm áp, chuyến đi bộ trở về từ Manchester hình như dài hơn thường lệ và mệt nhọc, và khi họ bước chậm lại dọc đoạn đường, bà McKee nói:

- Sẽ vui hơn cho cháu khi ngồi trong cỗ xe ngựa của Wilder.

Laura phát biểu:

- Cháu không chắc có khả năng có lại việc đó. Một ai khác sẽ ngồi chỗ của cháu trước khi cháu trở về.

Cô nghĩ tới Nellie Oleson. Cô biết trại của gia đình Oleson không cách xa trại của Almanzo.

Bà McKee nói:

- Đừng lo lắng. Một người độc thân nhiều tuổi không để ý nhiều tới một cô gái khi anh ta thiếu nghiêm túc. Rồi cháu sẽ lấy anh ta.

Laura nói:

- Ô, không! Không, thực sự không! Cháu không rời nhà để lấy bất kỳ ai!

Đột nhiên, cô nhận thấy cô đang nhớ nhà. Cô muốn được lại ở nhà nhiều đến nỗi khó chịu đựng nổi. Suốt tuần lễ đó, cô phải phấn đấu chống chọi lại lòng mong muốn trốn lánh khỏi bà McKee và vào Thứ Bảy khi lại cùng đi bộ tới Manchester, có một lá thư đang chờ cô tại đó.

Mẹ viết rằng Mary đang trên đường về nhà và Laura nên trở về nếu bà McKee có thể tìm được một người khác thế chỗ cho cô. Mẹ hy vọng bà ấy sẽ làm được việc đó vì Laura cần ở nhà khi Mary về tới.

Cô khiếp hãi phải nói điều đó với bà McKee nên cô im lặng cho tới khi ăn tối bà McKee phải hỏi có điều gì khiến cô băn khoăn. Lúc đó Laura mới nói những điều Mẹ viết.

Ông McKee lập tức lên tiếng:

- Vậy sao, dĩ nhiên, cháu phải về nhà. Tôi sẽ kiếm người khác tới ở đây.

Bà McKee im lặng một hồi trước khi nói:

- Tôi không muốn ai khác ngoài Laura sống chung với tôi. Tôi thà rằng chỉ có hai mẹ con sống tại đây. Bây giờ chúng tôi đã quen chỗ này và cũng chẳng có chuyện gì xảy ra. Laura sẽ trở về và Mattie sống cùng tôi ở đây cũng ổn rồi.

Thế là ông McKee mang chiếc túi xách của Laura trong chuyến đi bộ chiều Chủ Nhật tới Manchester và cô chào tạm biệt bà McKee cùng Mattie rồi lên xe lửa cùng ông trở về nhà.

Suốt dọc đường cô nghĩ tới họ đứng đơn độc tại sân ga rồi đi bộ hai dặm đường trở vè căn lều cô quạnh mà họ phải sống ở đó không có việc gì, ngoài chuyện ăn ngủ và lắng nghe tiếng gió thêm năm tháng nữa. Cái cách để có một nông trại thật khó khăn nhưng không có con đường nào khác vì đó là sự thật.

15. MARY VỀ NHÀ

Laura mừng được trở lại với gia đình trong nông trại của Bố. Thật thú vị khi ngồi vắt sữa cho con bò cái rồi uống sữa thỏa thích, triết đẫm bơ lên bánh mỳ và lại ăn món phô mai gạn sữa trắng mềm ngon lành của Mẹ. Cũng có những lá rau diếp để hái cùng những củ cải đỏ nhỏ nhắn. Cô không nhận thấy mình quá thèm ăn những món ăn thích thú này. Bà McKee và Mattie dĩ nhiên không thể có những thứ như thế khi họ ngồi giữ chủ quyền đất trại.

Ở nhà lúc này còn có trứng vì đàn gà mái của Mẹ đẻ đều đặn. Laura giúp Carrie lung kiếm những ổ gà mái ẩn kín trong cỏ khô ở chuồng bò và trong đám cỏ cao kế cận.

Grace tìm thấy những con mèo con chúi trong máng ăn. Đây là những con mèo cháu của con mèo nhỏ mà Bố đã mua với giá năm mươi xu và Kitty cảm thấy trách nhiệm của nó. Nó nghĩ rằng nó cần săn bắt thật nhiều cho những con mèo nhỏ này cũng như cho chính con của nó. Nó mang về thật nhiều sóc đất cho lũ mèo nhỏ ăn và chất đống những con mồi dư bên cửa cho Mẹ.

Mẹ nói:

- Phải nói là Mẹ không khi nào bối rối như thế vì sự hào phóng của con mèo.

Ngày Mary trở về đã tới. Bố Mẹ lái xe ra thị trấn chờ đón cô và thậm chí xe lửa cũng có vẻ đặc biệt vào buổi chiều hôm đó khi cuối cùng xuất hiện nhả những vòng khói đen kéo dài thành một hàng thấp tan dần trên bầu trời. Từ một gò đất cao sau khu chuồng gia súc và vườn rau, các cô nhìn thấy làn hơi nước trắng tỏa ra từ đầu máy và nghe rõ tiếng còi. Âm thanh từ xa của tiếng còi im bặt và các cô biết xe lửa đã ngừng lại trong thị trấn. Lúc này Mary hẳn đang ở đó.

Sau cùng, kích động không biết ngần nào khi cỗ xe xuất hiện phía đầm cỏ với Mary ngồi trên chiếc ghế giữa Bố và Mẹ. Cả Laura và Carrie cùng lên tiếng ngay và Mary phải cố gắng nói với cả hai cùng một lúc. Grace cũng có cùng một cung cách, tóc cô bé tung bay, cặp mắt xanh lơ mở lớn. Kitty ra khỏi cửa như một lằn chớp với cái đuôi xù lên như một chiếc bàn chải lớn. Kitty không ưa người lạ và nó đã quên Mary.

Carrie hỏi:

- Chị không sợ phải một mình lên xe lửa sao?

Mary mỉm cười:

- Ồ, không. Chị không lo gì. Ở trường bọn chị vẫn tự tay làm mọi thứ. Đó là một phần của chương trình học tập.

Cô có vẻ tự tin ở chính mình nhiều hơn và di chuyển quanh nhà một cách dễ dàng thay vì ngồi yên lặng trên ghế của mình. Bố đem vali của cô vào và cô bước tới, quỳ gối xuống bên cạnh, mở khóa, bung ra tựa hồ cô nhìn thấy rõ tất cả. Rồi cô lấy ra lần lượt từng món quà mà cô đã mua.

Tặng Mẹ là một tấm lót đèn bằng sợi đan bện với một diềm bọc quanh là những hột cườm nhiều màu kết thành xâu chuỗi chắc chắn. Mẹ thích thú nói:

- Đẹp quá.

Quà tặng Laura là chiếc vòng hạt cườm xanh và trắng kết thành chuỗi dính lại với nhau còn Carrie là chiếc vòng cườm trắng và hồng bện lại.

Carrie reo lên:

- Ôi, đẹp hết sức! Đẹp hết sức! Và vừa vặn nữa, vừa hoàn toàn!

Cho Grace là chiếc ghế dành cho con búp bê nhỏ làm bằng hạt cườm đỏ và xanh lá cây gắn trên sợi kẽm. Grace mững sững người khi cẩn thận đỡ món quà bằng hai bàn tay và không nói nổi hai tiếng cảm ơn với Mary.

- Món này dành cho Bố

Mary nói khi đưa cho Bố chiếc khăn tay lụa màu xanh lơ.

- Con không tự làm chiếc khăn này nhưng chính con chọn. Blanche và con… Blanche là bạn học của con. Tụi con ra phố tìm một thứ gì cho Bố. Cô ấy có thể nhận biết các màu sáng, nhưng người bán hàng không biết điều đó. Chúng con thấy thú vị khi tạo vẻ kỳ bí với ông ta nên Blanche ra dấu về các màu cho con hay và ông ta đã nghĩ rằng chúng con nhận biết màu sắc do sờ thấy. Con chỉ biết qua cảm giác là nó bằng lụa thôi. Trời ơi, tụi con phát điên vì người bán hàng đó.

Mary nhớ lại và cười lớn.

Mary thường mỉm cười và đã từ lâu lắm, họ chỉ được nghe cô cười lớn tiếng khi cô còn là một cô bé. Tất cả phí tổn để gửi Mary đến trường đã được đền đáp lại bằng việc được thấy cô vui vẻ và tự tin như thế.

Bố nói:

- Bố dám đánh cá đây là chiếc khăn tay đẹp nhất ở Vinton, Iowa.

Laura xoay chiếc vòng trên cườm tay, nói:

- Em không hiểu chị làm cách nào đặt đúng các màu cho xâu chuỗi. Từng hạt cườm nhỏ trong chiếc vòng xinh xắn này đều rất đúng chỗ. Chị không thể làm việc này theo cái cách làm điên đầu người bán hàng.

Mary giải thích:

- Những người nhìn thấy đặt các hạt khác màu vào những chiếc hộp riêng biệt. Sau đó, bọn chị phải nhớ màu nào ở đâu.

Laura tán đồng:

- Chị làm việc này thật dễ. Chị luôn nhớ mọi thứ. Chị đã biết em không bao giờ thuộc nổi nhiều thơ trong Kinh Thánh bằng chị.

Mary nói:

- Bây giờ thày dạy lớp học Chủ Nhật của chị rất ngạc nhiên về việc chị thuộc nhiều như thế. Mẹ, thuộc nhiều Kinh Thánh như thế giúp con rất lớn. Con có thể đọc Kinh Thánh dễ dàng bằng cách đặt ngón tay lên chữ in nổi hoặc chữ Braille và do đó con học đọc mọi thứ nhanh hơn những người khác cùng lớp.

- Mẹ mừng khi biết điều đó, Mary.

Mẹ chỉ nói có thế và nụ cười của Mẹ run run, nhưng Mẹ có vẻ sung sướng hơn khi Mary tặng Mẹ chiếc đế đèn tuyệt đẹp.

- Đây là bảng viết chữ Braille của con.

Mary nói trong lúc lấy chiếc bảng ra khỏi vali. Đó là một miếng thép mỏng hình chữ nhật trong một khung thép lớn như chiếc bảng viết ở trường với một dải thép hẹp nằm ngang. Dải thép được cắt thành nhiều hàng ô vuông mở ra và có thể trượt lên xuống hoặc chốt dừng lại ở bất kỳ điểm nào.

Buộc vào khung thép bằng một sợi dây là một cây bút chì có mũi nhọn bằng thép mà Mary gọi là bút châm.

Bố thắc mắc:

- Con sử dụng tấm bảng ra sao?

Mary nói:

- Bố nhìn đi, con sẽ làm cho Bố thấy.

Cả nhà đều dõi theo trong lúc cô đặt lên bảng một tờ giấy dày màu kem, ngay dưới dải trượt.

Cô chuyển dải trượt lên đầu khung và giữ yên tại đó. Rồi với mũi nhọn của cây bút trâm, cô nhấn thật nhanh dây đó vào các góc của những ô vuông để ngỏ.

- Vậy đó.

Cô nói và tháo tờ giấy ra, lật lại. Ở những chỗ đầu cây bút trâm nhấn xuống đều có một điểm nhỏ nhô lên có thể nhận biết dễ dàng bằng các ngón tay. Những điểm nhô lên tạo thành các mẫu khác nhau theo kích thước của các ô vuông và những mẫu này chính là chữ Braille.

Mary nói:

- Con sẽ viết cho Blanche để báo tin con đã về tới nhà bình yên. Con cũng phải viết cho thầy giáo của con nữa.

Cô lật tờ giấy, đặt trở lại vào khung và kéo dải trượt xuống, sẵn sang viết vào các ô trống.

- Con sẽ viết vào lát nữa.

Mẹ nói:

- Thật tuyệt khi con có thể viết cho bạn bè và họ có thể đọc thư của con. Mẹ khó có thể tin nổi là con đã thực sự được tới trường để học đúng như cả nhà vẫn mong cho con.

Laura cũng sung sướng đến nỗi cô cảm thấy muốn khóc. Bố cắt ngang:

- Thôi, thôi. Mình ngưng câu chuyện tại đây vì Mary hẳn đang đói bụng và đã tới giờ lo công việc trong nhà. Bây giờ hãy lo làm việc và sẽ nói chuyện dài dài sau này.

Mẹ mau mắn tán thành:

- Anh có lý, Charles. Bữa ăn tối sẽ sẵn sang khi anh sẵn sang ngồi vào bàn.

Trong lúc Bố chăm sóc lũ ngựa, Laura vội vã lo lọc sữa và Carrie nhóm lửa thật nhanh để nướng món bánh quy mà Mẹ đang trộn.

Bữa cơm đã sẵn sang khi Bố từ chuồng gia súc về và Laura lọc sữa xong.

Cả gia đình đều sung sướng lại được cùng nhau sum họp khi ăn những miếng khoai tây bằm đậm đà, món trứng tươi chần và những chiếc bánh quy hảo hạng quết thứ bơ ngon tuyệt của Mẹ. Bố Mẹ uống trà thơm nhưng Mary uống sữa cùng các em gái. Cô nói:

- Thích quá. Ở trường tụi con không có món sữa ngon như thế này.

Không còn nhiều chuyện để hỏi han và kể lại vì hầu hết mọi chuyện đã được nói, nhưng ngày mai sẽ là một ngày dài khác với Mary. Và lại giống hệt thuở nào khi Laura và Mary đi ngủ như thường lệ trên cùng một chiếc giường mà đã quá lâu Laura nằm một mình.

Mary nói:

- Thời tiết ấm rồi nên chị không đặt những bàn chân lạnh cóng của mình lên chân em như vẫn thường làm đâu.

Laura đáp:

- Em mừng vì có chị ở đây đến nỗi chẳng phàn nàn điều gì. Thật là dễ chịu.

16. NHỮNG NGÀY HÈ

Những ngày hè không còn đủ dài với mọi người trong niềm vui có mặt Mary tại nhà. Lắng nghe những câu chuyện của Mary về cuộc sống ở trường học, đọc lớn cho cô nghe, sắp xếp và khâu vá quần áo của cô cho gọn gang rồi thêm những cuộc dạo bộ cùng cô vào lúc chiều tối khiến thời gian trôi qua quá nhanh.

Một buổi sáng Thứ Bảy, Laura tới thị trấn kiếm chiếc cổ áo mới và những ống tay áo xứng hợp với chiếc áo khoác lụa mùa đông vừa qua đẹp nhất của Mary. Cô tìm ngay được thứ mình cần tại cửa hàng may và bán mũ phụ nữ mới mở trong lúc cô Bell đang bao một chiếc gói nhỏ. Cô nói với Laura:

- Tôi nghe đồn em là một thợ may giỏi. Tôi mong em chịu tới giúp tôi. Tôi sẽ trả em năm mươi xu một ngày, từ bảy giờ sáng tới năm giờ, nếu em mang theo bữa ăn trưa của em tới.

Laura nhìn khắp cửa hàng mới mẻ, thoải mái với những chiếc mũ xinh đẹp trên hai hàng kệ, những bó ruy băng trong một tủ trưng lông kình và những súc lụa, nhung trên các giá phía sau. Có thêm một chiếc máy may với một chiếc áo khoác may dở dang nằm trên đó và một chiéc áo khác nằm trên chiếc ghế bên cạnh.

Giọng cô Bell dịu dàng:

- Em nhìn thấy đó, ở đây công việc nhiều hơn mức tôi có thể làm.

Cô Bell là một phụ nữ trẻ và Laura nghĩ cô khá mảnh mai với vóc người cao, mái tóc và cặp mắt màu sậm.

Laura thấy vui lòng được làm việc với cô và hứa:

- Em sẽ tới nếu Mẹ em muốn em đi làm.

Cô Bell nói:

- Hãy tới vào sáng Thứ Hai, nếu được.

Laura rời cửa hàng tới bưu điện bỏ thư cho Mary. Tại đó, cô gặp Mary Power đang trên đường đi tới xưởng gỗ giao hàng. Cả hai không thấy nhau từ sau chuyến dạo xe mùa xuân sớm nên có nhiều chuyện để kể đến nỗi Mary năn nỉ Laura cùng đi. Laura nói:

- Được rồi, mình đi. Mình cũng thích hỏi ông McKee xem bà McKee và Mattie hiện đang sống ra sao.

Cả hai bước chậm chậm, trò chuyện suốt dọc đường ngược theo con phố qua những đoạn đường sắt rải than và khúc gỗ bụi bặm tới góc xưởng gỗ và đứng tại đó tiếp tục nói.

Một cặp bò kéo đang chậm chạp tiến vào thị trấn trên con đường từ phía bắc kéo theo một xe gỗ. Một người đàn ông đi bộ bên cạnh con bò phía xa hơn và Laura nhìn anh ta một cách lơ đãng khi anh ta vung chiếc roi dài. Những con bò lê bước đi khó nhọc cho tới khi gần tới góc phố thì bắt đầu tiến lên trước thật nhanh.

Laura và Mary bước lui lại. Người đàn ông ra lệnh:

- Oa! Vắt!

Nhưng những con bò không quay sang trái. Chúng vòng về bên phải đảo qua góc phố.

- Chà, khá đó! Hãy đi tới chỗ tụi bay muốn đi!

Người điều khiển ra lệnh một cách non nóng nhưng đùa giỡn. Lúc đó, anh nhìn về phía hai cô gái và các cô cùng kêu lên:

- Almanzo Wilder!

Anh nhấc cao mũ vung mạnh vui vẻ với các cô và vội vã chạy dọc phố theo lũ bò.

Laura bật cười:

- Mình không nhận ra anh ta khi không có những con ngựa!

Mary bình luận:

- Và với cách ăn mặc của anh ta. Trong những bộ đồ lôi thôi và đôi giày nặng nề tồi tệ đó.

Laura phân giải với chính mình nhiều hơn với Mary Power:

- Có khả năng anh ta đang cày vỡ đất nên mới có những con bò. Ông ta không bắt Prince và Lady phải làm việc mệt nhọc.

Mary Power nhận xét:

- Mọi người đều đang làm việc. Không ai có một trò vui nào trong mùa hè. Ngoại trừ Nellie Oleson sẽ cưỡi trên cỗ xe sau những con ngựa đó, nếu cô ta có thể làm được. Bạn biết trại của gia đình Oleson nằm cách phía đông trại của an hem nhà Wilder chỉ một đoạn đường chứ?

Laura hỏi:

- Hồi sau này bạn có gặp cô ta không?

Mary đáp:

- Mình chẳng khi nào thấy ai. Tất cả bạn gái đều về nông trại của cha mẹ còn đánh xe tối ngày. Ben Woodsworth đang làm việc ở nhà ga và không ai nói nổi một lời với Frank Harthorn. Anh ta làm việc không ngừng trong cửa hàng từ khi được cha anh ta chọn làm người phụ tá. Minnie và Arthur đã theo gia đình về nông trạ và ngay cả bạn, mình cũng không thấy đâu từ hồi đầu tháng Tư.

- Đừng nghĩ nhiều về chuyện đó, tụi mình sẽ gặp lại nhau vào mùa đông tới. Ngoài ra, mình sẽ tới thị trấn làm nếu Mẹ cho phép.

Rồi Laura kể cho Mary biết cô đang chờ phụ may vá cho cô Bell.

Thình lình cô phát hiện gần như mặt trời đã đứng bóng. Cô chỉ ngưng lại một chút trong xưởng mộc để nghe ông McKee cho biết bà McKee và Mattie đang sống ổn thỏa dù họ vẫn thấy thiếu cô. Sau đó, cô vội vã chào tạm biệt Mary và hối hả quay về nhà. Cô đã dừng lại quá lâu. Dù cô đi nhanh gần như chạy, bữa cơm trưa đã sẵn sang khi cô bước vào nhà. Cô xin lỗi:

- Con xin lỗi đã đi lâu quá, nhưng có thật nhiều chuyện.

Mẹ thắc mắc:

- Chuyện chi?

Và Carrie hỏi:

- Xảy ra điều gì vậy?

Laura kể lại việc gặp Mary Power và thú thực:

- Con nói chuyện với Mary Power quá lâu. Thời gian qua nhanh đến nỗi con không biết là đã muộn.

Rồi cô kể tiếp:

- Cô Bell muốn con tới làm việc ở cửa hàng của cô ấy. Con đi được không, Mẹ?

Mẹ kêu lên:

- Sao vậy Laura, Mẹ phải nói là Mẹ không hiểu nổi. Con chỉ vừa mới về nhà.

Laura nói:

- Cô ấy sẽ trả con năm mươi xu một ngày, làm từ bảy giờ sáng tới năm giờ chiều, nếu con tự lo đem theo bữa ăn trưa.

Bố nói:

- Vậy là khá đủ rồi. Con sẽ đem theo bữa ăn trưa, nhưng con phải dậy sớm hơn một giờ.

Mẹ gạt đi:

- Nhưng con cần ở nhà với Mary.

Laura biện bạch:

- Con biết, Mẹ, nhưng con vẫn gặp Mary mỗi tối và mỗi sáng, rồi còn trọn ngày Chủ Nhật. Con không biết lý do nhưng con cứ cảm thấy con phải lo kiếm thêm tiền.

Bố nói:

- Đó là cái cách thường có khi con đã bắt đầu kiếm được tiền.

Laura nói:

- Con sẽ kiếm được ba đô la mỗi tuần và vẫn tiếp tục gặp Mary. Mình sẽ vẫn còn nhiều thời gian để cùng làm mọi thứ, phải không Mary?

Mary đề nghị:

- Đúng, chị sẽ làm thay các công việc nhà của em trong lúc em đi vắng. Rồi các ngày Chủ Nhật, chúng mình sẽ cùng đi dạo.

Bố nói:

- Bố mới nhớ ra nhà thờ mới đã dựng xong rồi. Cả nhà mình phải đi nhà thờ vào sáng mai.

Mary nói:

- Con rất mừng được thấy nhà thờ mới! Con khó tin nổi sẽ có một ngôi nhà thờ!

Bố cam kết:

- Chắc chắn đã có nó rồi. Ngày mai chính chúng ta sẽ thấy.

Laura hỏi:

- Rồi ngày mốt?

Mẹ lên tiếng:

- Rồi, con có thể đi làm với cô Bell. Dù sao con có thể làm thử trong một thời gian.

Sáng Chủ Nhật, Bố thắng ngựa vào xe và tất cả cùng đi nhà thờ. Nhà thờ rộng rãi, mới tinh với những hàng ghế dài ngồi thật thoải mái. Mary rất thích nhà thờ, sau ngôi nhà nguyện nhỏ ở trường học, nhưng cô không quen ai ở đó. Trên đường về, cô nói:

- Có nhiều người lạ quá.

Bố nói với cô:

- Họ đến rồi đi. Trước khi Bố kịp làm quen với một người mới đến, họ đã nhượng lại nông trại để tới miền tây hoặc khác hơn, gia đình họ không chịu nổi vùng này nên họ bán đi và quay lại miền Đông. Một vài người cắm dùi ở lại thì đầu tắt mặt tối tới mức không còn thời gian để quen biết nhau.

Mary nói:

- Không phải là vấn đề. Ít lâu nữa con sẽ trở về trường và con quen hết mọi người ở đó.

Sau bữa cơm trưa Chủ Nhật, khi đã làm xong mọi việc, Carrie ngồi đọc tờ báo Bạn Đường Của Tuổi Trẻ, Grace chơi với những con mèo con trong đám cỏ sạch gần cửa ra vào, Mẹ ngồi nghỉ trong chiếc ghế đu bên khung cửa sổ mở rộng và Bố nằm xuống chợp mắt trong giấc ngủ trưa Chủ Nhật. Lúc đó, Laura nói:

- Tới đây, Mary, mình đi dạo đi.

Cả hai bước ngang đồng cỏ về phía nam và dọc theo đường đi những bong hồng dại tháng Sáu đang nở. Laura hái cho tới khi Mary ôm đầy tay nặng trĩu. Mary nói:

- Ôi, thơm quá sức! Chị nhớ những bông hoa tím mùa xuân nhưng không thứ hoa nào thơm hơn hoa hồng dại thảo nguyên. Trở về nhà thật tuyệt, Laura. Dù chị không được ở lại nhà lâu.

Laura nói:

- Mình còn tới giữa tháng Tám. Nhưng hoa hồng không thể kéo dài tới đó.

- Hãy hái ngay những bông hồng khi được hái.

Mary bắt đầu và cô trích dẫn bài thơ cho Laura. Rồi, khi cả hai song bước trong hơi gió ấm đượm hương hoa hồng, cô kể về các bài học văn chương của mình và tiết lộ:

- Chị đang dự định viết một cuốn sách vào một ngày nào đó.

Cô bật cười, tiếp:

- Nhưng chị đã sắp đặt để đi dạy học và em sẽ thay chị, có lẽ em sẽ viết sách.

Laura dẫy nảy:

- Em viết sách à?

Cô nói một cách vô tư:

- Em sẽ thành một cô gia sư già giống như cô Wilder vậy. Chị hãy viết cuốn sách của chị đi! Mà chị định viết về cái gì?

Nhưng Mary đã chuyển hướng khỏi đề tài của các cuốn sách. Cô dò hỏi:

- Anh chàng Wilder mà Mẹ viết cho chị đâu rồi? Hình như có lúc anh ta ở quanh đây.

Laura đáp:

- Em nghĩ là anh ta đang quá bận với nông trại của mình. Mọi người đều túi bụi.

Cô không nhắc tới chuyện thấ anh tại thị trấn. Cô không thể hiểu rõ vì lý do nào cô cảm thấy xấu hổ khi nhắc tới chuyện đó. Cô và Mary quay lại, lặng lẽ hơn trở về nhà, mang theo về mùi hương thơm dịu của những bông hồng.

Mùa hè vun vút trôi qua. Hàng ngày Laura đi bộ ra thị trấn lúc sáng sớm mang theo chiếc xô đựng bữa ăn trưa. Thường Bố cùng đi với cô vì Bố làm mộc cho các ngôi nhà đang dựng của những người mới đến. Laura có thể nghe thấy tiếng búa và tiếng cưa trong lúc cô miệt mài ngồi khâu suốt ngày, chỉ ngưng lại để ăn bữa ăn nguội vào buổi trưa. Rồi, thường cùng với Bố, cô lại đi bộ trở về. Nhiều khi giữa hai vai đau nhức do cúi xuống làm việc, nhưng cơn đau luôn biến đi sau cuộc đi bộ và tiếp đó là buổi tối hạnh phúc ở nhà.

Trong bữa ăn tối, cô kể về mọi điều được nghe và thấy tại cửa hàng của cô Bell, Bố nhắc lại tất cả tin tức thu lượm được và những người ở nhà nói về chuyện xảy ra trong trại và trong nhà:

Mẹ phối hợp với việc khâu vá của Mary ra sao, Grace tìm thấy bao nhiêu trứng, con gà mái hoa mơ già đã giấu kỹ ổ của nó và chỉ vừa hiện ra với hai mươi con gà con mới nở.

Vào lúc đang ăn, Mẹ sực nhớ ngày mai là Mùng Bốn Tháng Bảy:

- Mình sẽ làm gì nhân dịp này?

Bố trêu chọc:

- Anh không biết mình có thể làm được gì, Caroline. Anh thấy vô phương để ngăn không cho ngày mai là Mùng Bốn.

Mẹ trách Bố trong lúc mỉm cười:

- Thôi nào, Charles. Mình sẽ tổ chức kỷ niệm không?

Quanh khắp bàn ăn im lặng.

Đến phiên Mẹ trêu chọc:

- Mẹ không thể nghe các con khi các con cùng nói một lúc. Nếu chúng ta tổ chức kỷ niệm, chúng ta phải nghĩ ngay tối này. Mẹ rất vui vì có Mary ở nhà nên quên bẵng ngày Mùng Bốn và không có gì được chuẩn bị trước cả.

Mary nói một cách điềm tĩnh:

- Trọn kỳ nghỉ hè của con là một lễ kỷ niệm rồi và như thế là đủ với con.

Lúc này Laura thêm:

- Mỗi ngày con đều ở thị trấn nên đã là đại tiệc cho con khi được vắng mặt một ngày. Nhưng còn Carrie và Grace.

Bố đặt dao, muỗng xuống:

- Anh sẽ nói với em nên làm gì. Caroline, em và các con lo nấu một bữa thật ngon còn anh sẽ vào thị trấn sớm mua về một ít kẹo và pháo. Mình sẽ tổ chức kỷ niệm Mùng Bốn Tháng Bảy ngay tại nhà mình. Các con thấy điều đó thế nào?

- Mua thật nhiều kẹo, Bố!

Grace năn nỉ trong lúc Carrie thúc giục:

- Và nhiều pháo nữa!

Ngày hôm sau cả nhà đều thích thú đến nỗi mọi người đều cho rằng còn vui hơn là đi vào thị trấn. Một đôi lúc Laura thắc mắc Almanzo có ở trong thị trấn cùng những con ngựa nâu của anh không và một ý nghĩ về Nellie Oleson thoáng hiện trong trí. Nhưng nếu Almanzo muốn gặp lại cô thì anh đã biết rõ cô ở đâu. Không phải chỗ của cô là làm mọi thứ về việc đó và cô không muốn thế.

Trọn mùa hè đã mau chóng trôi qua. Vào tuần lễ cuối cùng của tháng Tám, Mary quay về trường bỏ lại nhà một khoảng trống vắng. Lúc này Bố đi cắt lúa mạch và lúa mì bằng chiếc hái cầm tay cũ, vì đất trồng còn quá nhỏ không đủ sở phí trả cho việc thuê máy gặt. Khi lúa chin, Bố cắt và gom lại trên đồng. Bố gầy và mệt mỏi do công việc mệt nhọc phải làm ngoài thị trấn cũng như trên đồng và không được nghỉ ngơi vì người tới định cư đông hơn.

Một hôm Bố nói với Mẹ:

- Anh thích đi về miền tây. Ở đây không còn chỗ cho một người thở nữa.

- Ô, Charles! Không còn chỗ với tất cả đồng cỏ mênh mông xung quanh anh sao?

Mẹ tiếp:

- Em đã quá mệt với việc kéo lê từ chỗ này qua chỗ khác và em nghĩ là mình ở hẳn đây.

- Được, anh ước là mình đi thôi, Caroline. Đừng băn khoăn. Chỉ là do cái bàn chân lang thang của anh thấy ngứa ngáy mà anh ước thế. Dù sao anh chưa thắng trong cuộc đánh cá với Chú Sam và mình sẽ ở lại đây cho tới khi mình thắng cuộc! Cho tới khi anh có thể chứng tỏ được trên nông trại này.

Laura hiểu Bố cảm thấy thế nào vì cô thấy đôi mắt màu xanh lơ của Bố hướng qua khung cửa sổ nhìn đăm đăm về đồng cỏ phía tây đang gợn song. Bố phải dừng chân trong cái vùng định cư này vì sự an toàn của mọi người đúng như cô phải đi dạy học trở lại dù rằng cô rất ghét nhốt mình trong một phòng học.

17. LUYỆN LŨ NGỰA NON

Tháng Mười đã tới và những đàn ngỗng trời đang bay về hướng nam khi Bố chất đồ đạc lên xe để cả nhà rời vào thị trấn. Nhiều người khác cũng đang lo di chuyển khỏi vùng quê và ghế ngồi trong lớp học chật cứng.

Hầu hết đám con trai lớn không còn đến trường. Vài người đã về ở hẳn trong đất trại. Ben Woodsworth làm việc trong nhà ga, Frank Harthorn bận rộn với cửa hàng và Cap Garland đang quần với lũ ngựa của mình, chở cỏ khô, than đốt hoặc bất cứ thứ gì được mướn chở trong thị trấn hoặc vùng quê.

Tuy nhiên trường học vẫn thiếu chỗ vì vùng quê đầy người mới tới và con cái họ đã tới trường. Các học sinh nhỏ chen chúc ba người một ghế và chắc chắn một ngôi trường lớn hơn cần được dựng trước mùa đông tới.

Một hôm, khi Laura và Carrie từ trường về, các cô thấy đang có khách ngồi với Mẹ ở phòng trước. Người đàn ông hoàn toàn lạ nhưng Laura cảm thấy người phụ nữ trẻ đang điềm tĩnh nhìn cô có vẻ như người từng quen biết. Mẹ mỉm cười im lặng trong một lát, lúc Laura và người phụ nữ kia nhìn nhau.

Rồi người phụ nữ mỉm cười và Laura nhận ra. Đó là cô chị em họ Alice! Alice từng cùng Ella và Peter tới ngôi nhà gỗ tại Big Woods vào những dịp Giáng Sinh. Thuở đó Alice và Mary là những cô gái lớn nên Ella là bạn chơi của Laura. Lúc này, trong khi đón mừng Alice bằng một chiếc hôn, Laura hỏi:

- Ella cũng ổn chứ?

Alice đáp:

- Không, cô ấy và chồng không tới. Nhưng đây là một người bà con mà em chưa gặp, chồng tôi, Arthur Whiting.

Arthur cao với cặp mắt và mái tóc màu sậm. Anh ta rất thoải mái và Laura cảm thấy thích anh ta, nhưng dù anh ta và Alice ở lại trọn một tuần mà anh ta vẫn luôn có vẻ như một người lạ. Alice giống Mary nhiều đến nỗi cô như thuộc hẳn về gia đình và Laura cùng Carrie thường vội vã rời trường về nhà chỉ vì có Alice đang ngồi trong phòng trước đầy nắng với Mẹ.

Các buổi tối, cả nhà rang bắp làm kẹo bơ, nghe Bố đàn và nói chuyện không ngừng về những ngày cũ và những dự tính tương lai.

Chồng của Ella là Lee, em trai của Arthur và họ cùng hợp tác lập trại chỉ cách đó bốn mươi dặm. Peter cũng sẽ đến vào mùa xuân.

Một buổi tối Alice nói:

- Đã qua lâu từ khi chúng mình quây quần ở Big Woods và bây giờ mình lại quây quần ở đây trên đồng cỏ.

Mẹ mong ước:

- Nếu bố hay mẹ của cháu tới đây.

Alice nói:

- Cháu nghĩ bố mẹ cháu ở hẳn miền đông Minnesota. Ông bà chỉ đi xa cỡ đó và có vẻ hài lòng ở đó.

Bố lên tiếng:

- Thật kỳ lạ. Mọi người luôn di chuyển về hướng tây. Chỗ này không khác rìa của một đợt sóng khi dòng sông dâng lên. Họ đến và đi, tới lui hoài nhưng luôn luôn vượt trội lên vẫn là số người di chuyển về miền tây.

Alice và Arthur chỉ ở lại một tuần. Sáng sớm Thứ Bảy, choàng khăn áo kỹ càng với những bàn ủi nóng dưới bàn chân, những củ khoai tây nùi trong túi, họ bắt đầu chuyến đi dài bốn mươi dặm trên xe ngựa trở về nhà.

- Chuyển giúp tôi tình thân tới Ella.

Laura nói khi cô hôn tạm biệt Alice.

Thời tiết thật tuyệt để ngồi trên xe, quang đãng và lạnh hơn không độ, tuyết dầy, không có dấu hiệu của một đám mây bão tuyết nào. Nhưng mùa đông này không còn hội vui chạy xe nữa. Có lẽ đám con trai đã quần những con ngựa của họ quá mệt trọn tuần. Thỉnh thoảng Laura thấy Almanzo và từ một khoảng cách xa đang tập cho một cặp ngựa con kéo xe và có vẻ bận bịu suốt buổi.

Chiều Chủ Nhật, Laura thấy họ chạy qua nhiều lần. Khi thì Almanzo, khi thì là Garland tựa chắc trong chiếc xuồng trượt dồn hết sức nắm chặt cương trong lúc những con ngựa non hung hăng phóng vùn vụt.

Một lần, Bố ngẩng lên khỏi tờ báo và nói:

- Trong đám này sẽ có đứa gãy cổ. Không một người đàn ông nào trong thị trấn dám điều khiển cặp ngựa đó.

Laura đang viết thư cho Mary. Cô ngưng lại và nghĩ may mắn biết ngần nào trong mùa đông Ác Liệt, Almanzo và đã gặp những cơ hội không ai có được khi họ đi kiếm lúa mì về cứu đói cho mọi người.

Cô viết xong lá thư và gấp lại khi có tiếng gõ cửa. Laura tới mở cửa và Garland đang đứng đó. Với nụ cười chớp nhoáng làm rạng rỡ khắp gương mặt, anh ta hỏi:

- Cô có thích ngồi trên xe sau những con ngựa non không?

Tim Laura nặng chịch. Cô mến nhưng cô không muốn anh ta mời cô cùng đi xe và lập tức cô nghĩ tới Mary Power, nghĩ tới Almanzo và không biết nói gì.

Nhưng anh ta nói ngay:

- Wilder nhờ tôi hỏi cô vì mấy con ngựa không chịu dừng lại. Cậu ta sẽ chạy ngang đây bây giờ và sẽ kéo cô lên nếu cô thích đi.

Laura kêu lên:

- Dạ, tôi thích! Tôi đi chuẩn bị. Anh vào nhà chứ?

Garland đáp:

- Không, cảm ơn, tôi sẽ nói với cậu ta.

Laura hối hả nhưng những con ngựa vừa đạp chân vừa nhảy dựng lên nôn nóng khi cô bước tới. Almanzo đang kìm chúng bằng cả hai tay và nói với cô khi cô tự leo lên xe:

- Xin lỗi, tôi không thể giúp cô được.

Ngay khi cô vừa ngồi xuống, những con ngựa đã phóng như tên xuống phố.

Không một ai ở ngoài phố chạy xe nên đường phố thênh thang khi những con ngựa cố lồng lộn vùng ra khỏi sự kìm chặt của Almanzo trên những sợi dây. Xa hút trên con đường phía nam thị trấn, chúng phóng như đang đua.

Laura ngồi im ngắm những vó ngựa bay trên mặt đất và những chiếc tai của chúng bạt ra sau.

Việc này thật thú vị. Nó khiến cô nhớ lại lúc cô cùng cô em họ Lena cưỡi trên lưng những con ngựa da đỏ phóng qua đồng cỏ. Gió thổi vù vù lạnh ngắt trên mặt cô và những mẩu tuyết bay như mưa loạn lên lớp áo choàng. Rồi những con ngựa vươn cao đầu, vểnh tai tới trước và chịu cho Almanzo lái chúng đảo quanh với những bước chân hăng hái quay ngược lại thị trấn.

Anh tò mò nhìn cô rồi hỏi:

- Cô có biết không người đàn ông nào trong thị trấn trừ Garland có thể ngồi trên chiếc xe ở phía sau những con ngựa này không?

Laura đáp:

- Bố đã nói thế.

Almanzo thắc mắc:

- Vậy tại sao cô đến?

- Sao, tôi biết là ông lái chúng mà.

Laura nói với vẻ ngạc nhiên và tới phiên cô hỏi lại:

- Nhưng tại sao ông không lái Prince và Lady?

Almanzo giải thích:

- Tôi muốn bán những con ngựa non này và phải tập cho chúng thuần trước đã.

Laura không nói thêm khi những con ngựa lại cố chạy. Chúng đang hướng về nhà và muốn tới thật nhanh. Việc này khiến Almanzo phải tập trung chú ý gồng hết sức giữ cho chúng chạy theo nước kiệu đại. Phố Main vụt qua như một ánh chớp và trên đồng cỏ phía bắc, Almanzo làm cho những con ngựa lắng xuống để đảo vòng trở lại. Lúc này Laura cười lớn:

- Nếu đây là để tập luyện cho chúng thì tôi sẵn sàng giúp!

Họ nói ít hơn cho tới khi một giờ đã trôi qua và mặt trời mùa đông đang lặn xuống. Rồi khi Almanzo kìm ngựa cho Laura nhanh chóng lướt xuống khỏi xe ngay trước cửa nhà, anh nói:

- Tôi sẽ tới đón cô vào Chủ Nhật.

Những con ngựa chồm lên và phóng đi trước khi Laura kịp trả lời.

Mẹ nói khi Laura bước vào nhà:

- Mẹ phát hoảng thấy con ngồi phía sau những con ngựa đó.

Bố nhìn lên khỏi tờ báo, thêm:

- Giống như cái anh chàng Wilder đang cố giết con chết. Nhưng Bố phải nói là con rất thích thú qua cái cách mắt con đang sáng lên.

Sau đó, Almanzo đến đều vào các chiều Chủ Nhật để đón Laura đi dạo bằng xe ngựa. Nhưng anh và Garland luôn lái những con ngựa non trước quá nửa buổi chiều để khiến chúng bớt hung hăng và mọi lời lẽ của cô đều không thể thuyết phục Almanzo chịu để cho cô bước lên xe trước khi những con ngựa non hơi mệt.

Năm đó có một cây Giáng Sinh tại nhà thờ.  Laura và Carrie nhớ lại cây Giáng Sinh thuở nào ở Minnesota, nhưng Grace chưa bao giờ được thấy cây Giáng Sinh. Laura nghĩ phần thích thú nhất trong lần Giáng Sinh này là được thấy gương mặt rạng rỡ của Grace khi cô bé ngắm cây Giáng Sinh với những ngọn nến tỏa sáng lung linh, những túi kẹo và quà tặng đủ màu lấp lánh bằng lưới treo trên những cành cây.

Nhưng trong lúc cô chờ đợi một con búp bê Giáng Sinh tặng cho Grace được mang tới cho cô bé từ cây Giáng Sinh, Laura lại nhận được một gói quà nhiều màu đến nỗi cô tin là đã có sự nhầm lẫn. Đó là một chiếc hộp da nhỏ màu đen lót lụa màu xanh lơ. Trên màu xanh dễ thương, nổi lên trắng tinh, một bàn chải tóc bằng ngà và một chiếc lược. Laura nhìn lại mảnh giấy bao và thấy tên cô được viết rõ ràng trên đó bằng nét chữ mà cô không biết là của ai.

Cô hỏi:

- Người nào có thể tặng quà cho con thế này, Mẹ?

Lúc đó Bố cũng nghiêng người qua ngắm và mắt Bố lóe sáng. Bố nói:

- Bố không thể nói chắc ai là người gửi quà cho con, Laura. Nhưng Bố có thể nói cho con biết một điều. Bố đã nhìn thấy Almanzo Wilder mua đúng chiếc hộp này tại hàng tạp hóa Bradleyos.

Và Bố mỉm cười về sự kinh ngạc của Laura.

18. TRƯỜNG PERRY

Những đợt gió tháng Ba đầu tiên đang thổi mạnh khi Laura từ trường về nhà vào ngày Thứ Năm sau đó. Cô muốn hụt hơi không chỉ do chống chọi với gió mà còn do những tin tức cô mang về. Trước khi cô kịp nói ra điều đó, Bố đã lên tiếng:

- Em có thể sẵn sàng chuyển về trại trong tuần này không, Caroline?

Mẹ ngạc nhiên:

- Tuần này?

Bố nói:

- Khối học đường quận sắp mở một trường học trên đất trại của Perry, sát ngay ranh giới phía nam trại của mình. Tất cả những người ở xung quanh đều phải giúp vào việc dựng trường nhưng họ muốn thuê anh làm người điều động công việc. Mình phải dọn về trước khi anh bắt đầu công việc, và nếu mình dọn trước tuần này thì có dư thời giờ để dựng xong ngôi trường trước đầu tháng Tư.

Mẹ trả lời:

- Mình có thể dọn bất kỳ ngày nào anh bảo dọn, Charles.

Bố nói:

- Vậy thì ngày mốt. Và còn một điều khác nữa. Perry nói ban giám hiệu trường của họ muốn có Laura dạy ở đó. Con nghĩ sao về chuyện đó, Laura? Con sẽ phải có một chứng chỉ mới.

Laura nói:

- Ô, con thích có một trường học ở gần nhà như thế.

Lúc đó, cô kể lại những tin tức của mình:

- Các cuộc thi giáo viên tổ chức vào ngày mai. Hôm nay thầy Owen đã thông báo. Cuộc thi diễn ra ngay tại trường nên ngày mai không có lớp học. con hy vọng con có thể giành được chứng chỉ cấp hai.

Carrie khuyến khích:

- Em tin là chị giành được. Chị luôn luôn thuộc bài.

Laura hơi ngờ vực một chút:

- Chị không có thời giờ ôn lại và học kỹ. Nếu chị vượt qua kỳ thi, chị phải học kỹ lại những gì mà hiện nay chị thuộc.

Mẹ nói với cô:

- Đó là cách hay nhất, Laura. Nếu con cố học vội vã, con chỉ rối trí thôi. Giả dụ con giành được cấp hai, cả nhà sẽ rất mừng và khi chỉ là cấp ba, cả nhà cũng sẽ mừng về điều đó.

- Con sẽ cố hết sức mình.

Laura chỉ có thể hứa như thế. Sáng hôm sau cô ra khỏi nhà một mình và căng thẳng tới trường dự kỳ thi giáo viên. Căn phòng có vẻ lạ hẳn với một ít người ngồi thưa thớt và còn nhiều ghế trống.

Trên bàn giáo viên là ông Williams thay vì thầy Owen.

Danh sách những câu hỏi đã được viết sẵn trên bảng. Suốt buổi sáng là sự im lặng hoàn toàn ngoại trừ tiếng ngòi viết chạy trên giấy và tiếng giấy khẽ sột soạt. Ông Williams đi gom bài vào cuối mỗi giờ, dù bài viết xong hay chưa xong và ngồi chấm điểm ngay tại bàn giáo viên.

Laura viết xong bài rất đúng giờ và vào buổi chiều, với nụ cười, ông Williams trao cho cô tấm chứng chỉ. Nụ cười của ông như nói cho cô biết trước khi cô nhìn nhanh những từ viết trên tấm chứng chỉ: Cấp Hai.

Cô đi bộ về nhà nhưng thực ra là cô nhảy múa, lao chạy, cười vang và la hét trong niềm vui sướng. Một cách lặng lẽ, cô trao tấm bằng cho Mẹ và cô thấy nụ cười của Mẹ làm rạng sáng khắp gương mặt. Carrie hả hê:

- Em đã nói thế với chị mà! Em đã nói với chị là chị sẽ giành được.

Mẹ khen ngợi cô:

- Mẹ đã tin là con sẽ vượt qua, nếu con không bối rối vì lần đầu dự một cuộc thi giữa những người lạ.

Bố mỉm cười:

- Bây giờ Bố có thể thông báo nốt phần còn lại của những tin tức tốt. Bố nghĩ Bố giữ lại như một phần thưởng sau kỳ thi. Perry nói là ban giám hiệu sẽ trả con mỗi tháng hai mươi lăm đô la trong ba tháng Tư, Năm, Sáu.

Laura gần như không lên tiếng nổi. Cô kêu lên:

- Chao ôi!

Rồi:

- Con không ngờ… Sao? Sao Bố… thế là gần tròn một đô la trong ngày.

Cặp mắt xanh của Grace tròn xoe. Trong sự kinh ngạc trang trọng, cô bé nói:

- Laura sẽ giàu to.

Tất cả phá ra cười vì sự tham gia của Grace, không hiểu tại sao. Khi cả nhà đã trấn tĩnh trở lại, Bố nói:

- Bây giờ mình lo di chuyển về trại và xây dựng ngôi trường đó.

Thế là suốt những tuần lễ cuối cùng của tháng Ba, Laura và Carrie lại cùng đi bộ tới trường từ căn nhà tại trại. Thời tiết giống như mùa xuân mặc dù còn những cơn gió tháng Ba và mỗi tối khi trở về nhà các cô lại thấy thêm nhiều công việc được làm xong của ngôi trường nhỏ đang mọc lên trên đồng cỏ ở một khoảng ngắn về phía nam.

Trong những ngày cuối tháng Ba, mấy người con trai nhà Perry sơn trắng ngôi trường. Không bao giờ có một ngôi trường nhỏ xinh xắn hơn thế.

Trường đứng trên màu tuyết trắng phủ kín vùng đất cỏ xanh và một hàng cửa sổ chói chang ánh nắng buổi sáng khi Laura thả bộ băng qua đám cỏ xanh ngắn tới bên.

Cậu bé Clyde Perry bảy tuổi đang chơi gần bậc cửa ra vào ở nơi sẽ dành cho lớp Vỡ Lòng của cậu. Cậu đặt chiếc chìa khóa mới vào bàn tay Laura và trịnh trọng nói:

- Bố em gửi cái này cho chị.

Bên trong ngôi trường cũng sáng trưng và đầy nắng. Các bức vách bằng ván mới sạch bóc đượm mùi gỗ tươi. Nắng xối vào từ những ô cửa sổ phía đông. Phía bên kia, kín một đầu gian phòng là tấm bảng đen mới, sạch sẽ. Trước tấm bảng là chiếc bàn giáo viên làm bằng gỗ, đánh vec ni bóng loáng, ánh lên màu mật trong ánh nắng và trên mặt bàn phẳng phiu là cuốn từ điển Websteros Unabridge lớn.

Đứng đối mặt là ba hàng ghế gỗ mới cũng với màu mật mượt mà rất xứng hợp với chiếc bàn.

Đầu của hai hàng ghế phía ngoài áp vào vách và giữa hàng ghế thứ ba với hai hàng ghế này là hai lối đi. Mỗi hàng đặt bốn chiếc ghế.

Laura đứng một hồi giữa khung cửa, ngắm gian phòng mới, sáng sủa, sang trọng. Rồi cô đi tới bàn của mình, đặt xô đựng bữa ăn trưa xuống nền nhà phía dưới bàn và treo mũ lên chiếc đinh móc trên vách.

Bên cạnh cuốn từ điển lớn, một chiếc đồng hồ nhỏ đang tích tắc, kim đồng hồ chỉ chín giờ.

Laura nghĩ chắc nó được lên giây tối qua. Không thứ gì có thể đầy đủ và hoàn hảo hơn ngôi trường nhỏ xinh đẹp này.

Cô đã nghe thấy tiếng học sinh cở cửa và bước ra gọi tất cả vào lớp.

Ngoài Clyde còn có hai học sinh khác, một cậu bé và một cô bé đều nói tên Johnson. Cả hai đều học Lớp Hai. Đó là tầm mức của trường. Suốt học kỳ không có thêm một học sinh nào tới.

Laura cảm thấy cô không đáng lĩnh hai mươi lăm đô la một tháng chỉ để dạy vỏn vẹn ba đứa bé. Nhưng khi cô nói điều này ở nhà, Bố nói rằng ba đứa bé này đủ lập một trường học như cho mười hai học sinh và cô đã được bổ nhiệm để dành hết thời gian vào việc dạy dỗ chúng. Cô cố cãi lại:

- Nhưng, Bố. Hai mươi lăm đô la một tháng!

Bố đáp:

- Đừng lo về điều đó. Họ rất mừng khi được trả cho con cái giá như thế. Các trường lớn đang trả ba mươi đô la một tháng.

Đó là hợp lý khi Bố nói thế. Laura bằng lòng với mình trong việc dạy dỗ từng đứa nhỏ một cách tốt nhất. Tất cả đều học rất nhanh. Ngoài tập đọc và đánh vần, cô dạy chúng viết các từ, các con số cùng cách cộng, trừ ra sao. Cô tự hào về sự tiến bộ của chúng.

Không bao giờ cô thấy sung sướng như mùa xuân đó. Vào những buổi sáng dịu mát, cô thả bộ tới trường qua trũng đất nhỏ ngập màu xanh lơ của những bông hoa đổng thảo đang tỏa hương trong gió. Các học sinh của cô cũng sung sướng, mỗi người đều quý như vàng và nồng nhiệt, học hành tiến bộ rất mau. Tất cả đều thận trọng như chính cô để không làm hư hao hoặc hoen ố nét tươi đẹp của ngôi trường mới sáng trưng.

Laura đem theo sách của mình tới trường và trong lúc đám học trò nhỏ ngồi học ở chỗ của chúng giữa những bài tập đọc, cô học bài của mình với sự hỗ trợ của cuốn từ điển lớn. Vào giờ giải lao và nghỉ trưa, cô đan móc trong lúc lũ trẻ chơi đùa. Và luôn luôn cô nhận thấy những bóng mây đuổi theo nhau phía ngoài cửa sổ, nơi bầy chiền chiện đang hót líu lo và những con sóc đất kẻ sọc phóng chạy thật nhanh theo công việc của chúng.

Sau mỗi ngày sung sướng lại là cuộc tản bộ trở về băng qua trũng đất nhỏ đang có những khóm đổng thảo vươn lên tỏa hương thơm vào trong không khí.

Đôi khi Laura đi bộ về hướng tây qua đồng cỏ tới nhà giáo sĩ Brown trên đất trại của ông ấy.

Đó là một cuộc hành trình dài một dặm rưỡi và cô cùng Ida luôn kéo dài bằng cách đi tới điểm cao nhất trên gờ đất phía bên kia ngôi nhà. Từ đây, các cô có thể nhìn thấy đồi Wessington Hills ở cách sáu mươi dặm giống như một vệt mây xanh kéo ngang chân trời.

Có lần Laura nói:

- Chúng đẹp đến nỗi mình muốn đi ngay đến với chúng.

Ida đáp:

- Chà, mình không hiểu. Khi bạn đã ở đó, chúng có gì khác những ngọn đồi phủ kín loại cỏ cho bò ăn này.

Và cô đá chân vào một khóm cỏ ở chỗ những đọt cỏ xanh mùa xuân đang làm lộ ra những lá cỏ úa hồi năm trước.

Theo một cách nào thì đó là đúng, nhưng theo một cách khác cũng lại là không đúng. Laura không thể nói lên điều cô nghĩ tới, nhưng với cô đồi Wessington Hills là những ngọn đồi đầy cỏ hơn.

Đường nét mờ nhạt của chúng vẽ lên cho cô vẻ quyến rũ của các vùng đất xa xôi. Chúng như đang là một phần của giấc mơ.

Trở về nhà muộn vào buổi chiều, Laura vẫn nghĩ đồi Wissington Hills vô cùng bí ẩn qua hình bóng mơ hồ Ingalls trên nền trời xanh xa tắp phía bên kia những dặm dài tiếp nối của đồng cỏ xanh đang gợn sóng. Cô muốn tiếp tục đi, đi mãi qua những dặm dài đó và nhìn thấy thứ gì nắm ở phía bên kia những dãy đồi.

Laura hiểu đó là cách cảm nghĩ của Bố về miền Tây. Cô cũng hiểu giống như Bố là cô phải bằng lòng ở lại nơi cô đang có mặt để giúp làm việc trong nhà và dạy học.

Tối đó Bố hỏi cô dự tính làm gì với số lương dạy học khi cô được lĩnh. Laura nói:

- Sao vậy, con sẽ đưa hết cho Bố Mẹ.

Bố nói:

- Bố sẽ nói với con về điều mà Bố đang nghĩ. Mình nên có một cây đàn dương cầm để khi Mary trở về nó có thể tiếp tục chương trình nhạc đang học ở trường và điều đó cũng thích thú với tất cả các con. Một số người ở thị trấn đang bán đồ đạc để quay về miền Đông và trong số đó có một cây dương cầm. Bố có thể mua với giá một trăm đô la. Đó là một cây dương cầm rất tốt vì Bố đã thử và thấy rõ.

Nếu con chịu dùng số tiền lương dạy học để mua, Bố có thể góp thêm hai mươi lăm đô la. Ngoài ra, Bố có thể dựng thêm một phòng cho căn nhà này để mình có chỗ đặt đàn.

Laura nói:

- Con rất mừng được giúp vào việc mua cây đàn dương cầm. Nhưng Bố biết con không có bảy mươi lăm đô la trước khi chấm dứt học kỳ.

Mẹ xen vào:

- Laura, con nên nghĩ về việc may sắm cho con một ít quần áo. Đồ mặc để tới trường của con được rồi, nhưng con cần một chiếc áo khoác mùa hè mới thật tốt, chiếc áo vải năm kia của con thực sự không còn nới thêm nổi nữa.

Laura nói:

- Con biết mà, Mẹ, nhưng hãy nghĩ tới việc có chiếc đàn dương cầm. Và con thấy con có thể lại làm việc với cô Bell để kiếm tiền mua quần áo. Khó khăn là con chưa được lĩnh tiền lương dạy học.

Bố nói:

- Chắc chắn con được lĩnh lương. Con có thực sự muốn dùng lương để mua đàn dương cầm không?

Laura nói với Bố:

- Chắc rồi, Bố! Không còn gì cho con thích hơn có một cây đàn dương cầm để Mary có thể đàn khi chị ấy về nhà.

Bố nói một cách sung sướng:

- Vậy là xong! Bố sẽ trả trước hai mươi lăm đô la và họ sẽ cho Bố thanh toán dứt khi con lĩnh lương. Điên lên mất! Bố cảm thấy giống như đang có hội. Mang cho Bố cây đàn, Bình-Rượu-Nhỏ! Mình sẽ có một chút âm nhạc mà không có đàn dương cầm.

Trong lúc tất cả ngồi trong ánh sáng dịu mùa xuân, Bố đàn và hát một cách vui vẻ:

Đây là nơi cho cô gái tuổi trăng tròn e lệ

Đây là nơi cho người phụ nữ tóc sương

Đây là nơi cho vị nữ hoàng lộng lẫy phô trương

Và đây là nơi cho người vợ hiền cần kiệm

Đây là nơi cho cặp má lúm đồng tiền thương mến

Cũng những nàng thiếu nữ xinh xinh

Đây là nơi bừng sáng cặp mắt xanh

Và ngự trị vị nữ thần tuyệt sắc!

Tâm trạng của Bố đổi dần và tiếng đàn đổi theo, rồi cả nhà cùng hát:

Xuôi về nam đi tìm người yêu dấu

Hát nghêu ngao ngơ ngẩn trọn ngày dài

Cô gái thân thương coi nhẹ chông gai

Trọn ngày dài hát nghêu ngao ngơ ngẩn.

Thân ái giã từ, giã từ nàng tiên nhỏ

Ta lên đường hướng tới miền nam

Tìm lại người con gái yêu thương

Trọn ngày dài hát nghêu ngao ngơ ngẩn.

Ánh chiều thêm đậm. Mặt đât chìm dần vào màn tối và khoảng trời rộng phía trên lơ lửng những ngôi sao treo thấp trong lúc tiếng đàn dâng lên một khúc hát chơi vơi.

Rồi Bố nói:

- Bài này dành cho các con gái

Và, giọng Bố dịu ngọt hát theo tiếng đàn:

Ngày vàng thấm thoát trôi

Ngày vàng tràn hạnh phúc

Thời gian vỗ cánh rồi

Hỡi ngày vàng hạnh phúc

Nhìn lại thuở xa xôi

Ngọt ngào bao kỷ niệm

Bay xa thẳm, người ơ

Những ngày vàng hanh phúc.

Tim Laura đau quặn khi tiếng nhạc lan xa mất hút vào đêm xuân dưới ánh sao.

19. CHIẾC ÁO MÀU NÂU

Vào lúc Mẹ nhắc tới chuyện quần áo, Laura đã nghĩ cô phải làm gì đó để lo chuyện này.

Thế là sáng sớm Thứ Bảy, cô đi bộ vào thị trấn tới gặp cô Bell. Cô Bell nói:

- Thực ra tôi rất mừng khi có sự giúp đỡ của em. Tôi đang lâm cảnh vô phương lo tròn tất cả công việc của mình vì có thêm quá nhiều người mới trong thị trấn. Tôi cứ nghĩ là em bận dạy học.

Laura cười vui vẻ:

- Những ngày Thứ Bảy không phải dạy. Bắt đầu từ tháng Bảy, em có thể làm trọn tuần nếu cô muốn.

Thế là mỗi ngày Thứ Bảy, cô cặm cụi may đồ cho cô Bell từ sáng tới chiều. Trước khi lớp học chấm dứt, cô đã đủ khả năng mua mười thước vải bóng màu nâu rất đẹp do cô Bell đặt từ Chicago về.

Và, mỗi buổi tối khi trở về nhà lại có những điều mới để xem, vì Mẹ đang lo may quần áo cho cô với xấp vải nâu và Bố đang dựng thêm gian phòng mới cho cây đàn dương cầm.

Bố dựng phòng ở mé đông căn nhà với một cửa ra vào xoay về phía bắc hướng thẳng vào thị trấn và trên các bức vách đông và nam đều có cửa sổ. Ngay dưới khung cửa sổ phía nam, Bố đóng một chiếc ghế thấp, rộng đủ cho một người nằm để có thể dùng làm giường ngủ phụ.

Một buổi tối khi Laura trở về, gian phòng đã hoàn thành. Bố đã mang đàn về, đặt đứng sát vách phía bắc, gần bên cửa ra vào. Đó là một cây đàn thật đẹp bằng gỗ hồ đào bóng loáng với phần lưng vươn cao. Chiếc giá treo sáng bóng gần như chạm trần nhà. Ngay dưới đó là ba chiếc gương nhỏ bằng kính dầy đặt chìm trong gỗ và ở mỗi bên giá nhạc là một giá đèn vững chắc. Giá nhạc dựng nghiêng được bọc bằng vải đỏ.

Kèm với cây đàn là một chiếc ghế cũng bằng gỗ hồ đào hình tròn có bốn chân uốn cong.

Grace bị kích động bởi chiếc ghế này tới nỗi Laura khó thể ngắm nghía cây đàn.

Grace leo lên ngồi trên ghế và hét lớn:

- Nhìn xem, Laura, nhìn xem.

Mặt ghế đặt trên một lớp xoắn có thể đưa Grace lên xuống khi cô bé hét lên. Mẹ nói:

- Mình không thể gọi đây là một lều trại nữa. Lúc này nó là một căn nhà thực sự với bốn phòng.

Mẹ treo những tấm màn vải trắng có đường viền ren trắng bên cửa sổ. Chiếc kệ tháp đứng trong một góc nhà gần cửa sổ phía nam. Trên bức vách phía đông là chiếc giá gỗ khắc với cô gái chăn cừu bằng sứ. Hai chiếc ghế đu nằm thoải mái gần khung cửa sổ phía đông và những chiếc nệm bọc vải sáng nằm trên chiếc giường ở phía dưới khung cửa sổ phía nam. Mẹ nhìn quanh gian phòng khách mới này với một nụ cười sung sướng và nói:

- Đây là một chỗ tuyệt vời để ngồi khâu vá. Laura, bây giờ Mẹ sẽ khâu nhanh chiếc áo cho con. Có lẽ, Mẹ có thể khâu xong vào Chủ Nhật.

Laura nói với Mẹ:

- Không cần vội vã. Con không muốn mặc trước khi con có chiếc mũ mới. Cô Bell đang may chiếc mũ mà con rất thích, nhưng con cần làm thêm hai ngày Thứ Bảy nữa mới đủ tiền mua.

Bố trở về từ chuồng gia súc, lên tiếng:

- Này, con thấy cây đàn thế nào, Laura?

Lúc này, trong gian phòng bên kia chỉ còn dùng làm bếp, Carrie đang lược sữa.

Mẹ kêu lên:

- Chúa ơi, Grace!

Đúng là Grace và chiếc ghế của cây đàn dương cầm vừa đổ nhào xuống sàn nhà. Grace ngồi dậy khiếp hãi vì tạo ra tiếng động và Laura cũng kinh hoảng vì chiếc ghế văng ra làm thành hai mảnh. Lúc đó, Bố cười lớn. Bố nói:

- Đừng lo chuyện đó, Grace. Con chỉ làm bật mặt nhún của chiếc ghế thôi. Nhưng…

Giọng Bố trở nên dứt khoát:

- Sau lần này, con nhớ ngồi xa chiếc ghế.

Cô bé cố gắng đứng lên, nói:

- Con sẽ nhớ, Bố.

Cô bé hết sức bối rối. Laura nâng em dậy, đỡ cho cô bé đứng vững và cố nói với Bố là cây đàn khiến cô rất vui. Cô khó có thể chờ nổi tới lúc Mary trở về đàn trong lúc Bố kéo vĩ cầm.

Trong bữa ăn tối, Mẹ nhắc lại đây không còn là căn lều trại nữa. Lúc này gian bếp rất rộng vì chỉ còn chiếc lò bếp, chiếc tủ chén và chiếc bàn ăn với mấy chiếc ghế.

Bố nhắc Mẹ:

- Đất này cũng không còn là đất trại nữa sau năm tới. Chỉ còn mười tám tháng nữa và anh sẽ đủ khả năng chứng tỏ điều đó. Nó sẽ là đất thuộc quyền sở hữu của mình.

Mẹ nói:

- Em không quên điều đó đâu, Charles. Em sẽ tự hào khi nhận bằng khoán do nhà nước cấp. Chuyện đó càng thêm lý do để gọi đây là một ngôi nhà kể từ lúc này.

Bố nói như tự hứa với chính mình:

- Vào năm tới, nếu mọi thứ đều khá, anh sẽ tu sửa thêm và sơn.

Khi Laura trở về nhà vào Thứ Bảy sau đó, cô đã mua được chiếc mũ mới. Cô mang về rất cẩn thận, bao kỹ trong giấy gói để không cho dính bụi. Cô giải thích:

- Cô Bell nói tốt hơn hết là con hãy lấy chiếc mũ trước khi có ai nhìn thấy và muốn mua. Cô ấy bảo con có thể trả bằng công việc, thế là xong.

Mẹ nói:

- Ngày mai con có thể đội chiếc mũ đó đến nhà thờ, vì Mẹ đã may xong áo cho con rồi.

Chiếc áo vải bóng nâu nằm sẵn trên giường của Laura, đã được ủi thẳng và lóng lánh.

- Ôi, cho em xem chiếc mũ của chị coi.

Carrie yêu cầu khi hai chị em ngắm kỹ chiếc áo, nhưng Laura không mở gói. Cô từ chối:

- Bây giờ không được. Chị không muốn em thấy nó cho tới khi chị mặc chiếc áo này.

Sáng hôm sau tất cả thức dậy sớm để có thời gian chuẩn bị đi nhà thờ. Đó là một buổi sáng trời trong mát. Bầy chiền chiện đang hót và ánh sáng lấp lánh từ lớp sương trên cỏ. Sẵn sàng với chiếc áo và những dải buộc tóc dành riêng cho ngày Chủ Nhật, Carrie thận trọng ngồi trên giường ngắm Laura.

Cô nói:

- Chị có mái tóc đẹp lắm, Laura.

Laura đáp:

- Tóc chị không vàng như tóc Mary.

Nhưng trong ánh nắng, khi chải kỹ, mái tóc của cô rất đẹp. Tóc cô mảnh nhưng rất dày và dài mượt nâu bóng có thể buông xõa dưới đầu gối nếu không bện lại. Cô chải ngược về phía sau, cuốn lại và ghim chặt thành búi. Rồi cô lấy những ống cuốn tóc ra và cẩn thận sắp xếp từng lọn tóc. Cô mang đôi vớ đan viền ren trắng, cài nút đôi giầy cao cổ màu đen đánh xi bóng.

Sau đó cô cẩn thận phủ nịt eo lên trên váy lót. Cô thích loại nịt eo mới này. Đây là kiểu mới nhất của miền Đông và là những cái đầu tiên mà cô Bell có. Thay vì dùng dây kim loại, loại nịt này có những dải băng rộng gần tới đầu gối để giữ thẳng áo lót khiến áo ngoài luôn phẳng phiu. Những dải băng này có gắn kim loại ở ngang eo lưng để có thể buộc chỉnh giữ cho eo thon thả trong khi áo ngoài vẫn xoay tròn thoải mái.

Rồi tiếp tục cẩn thận cô mặc thêm các lớp áo.

Quanh cổ chiếc áo lụa nâu, cô gắn một dải băng màu xanh lơ có bề rộng hai inch. Cô gắn dính lại ở trước cổ bằng chiếc kẹp khảm trai mà Mẹ cho cô. Các đầu dải băng buông thả xuống hai bên sườn.

Lúc này Laura mới mở chiếc mũ trong gói. Carrie thở ra một hơi dài thích thú khi nhìn thấy chiếc mũ.

Mũ màu xám nhạt kết bằng cọng rơm lớn theo hình dạng nón buộc dải dưới cằm. Mũ che kín đầu Laura và chiếc vành loe ra làm thành một cái khung cho gương mặt cô. Mũ được bọc một lớp lụa màu xanh lơ. Những dải lụa xanh da trời thắt nút phía dưới tai trái cô giữ cho chiếc mũ đứng im tại chỗ.

Màu xanh của lớp lụa lót, màu xanh của dải buộc, màu xanh của dải nơ trên cổ hoàn toàn xứng hợp với màu mắt xanh của Laura.

Bố Mẹ và Grace đã sẵn sàng khi cô từ phòng ngủ bước ra có Carrie theo sau. Bố ngắm từ đỉnh đầu Laura xuống tới đường gấu chiếc áo lụa nâu tại nơi ló ra những mũi giày màu đen. Rồi Bố nói:

- Người ta vẫn nói bộ lông làm thành con chim tuyệt hảo nhưng Bố phải nói con chim tuyệt hảo đã tạo bộ lông như thế.

Laura vui tới nỗi không biết nói gì. Mẹ khen:

- Trông con rất xinh, nhưng nên nhớ là cái nết đánh chết cái đẹp.

Laura nói:

- Dạ, thưa Mẹ.

Grace lên tiếng:

- Cái nón ngộ quá.

- Đây không phải cái nón. Đây là cái mũ thắt quai.

Laura giải thích với cô bé. Rồi Carrie nói:

- Chừng nào em là một cô gái, em cũng đi làm để sắm cho mình một chiếc áo giống hệt chiếc áo này.

- Có khả năng em sẽ có một chiếc áo đẹp hơn.

Laura đáp nhưng cô bỗng giật mình. Cô không hề nghĩ mình đã là một thiếu nữ. Đương nhiên cô đã là như thế với mái tóc chải quấn lên và chiếc váy buông cùng sát mặt đất. Cô không dám chắc cô có vẻ đang là một thiếu nữ.

Bố nói:

- Đi thôi. Xe đang chờ và mình có thể tới nhà thờ trễ, nếu không chạy nhanh.

Ngày nắng đẹp đến nỗi Laura ghét ngồi trong nhà thờ và bài giảng dài dằng dặc của giáo sĩ Brown càng buồn chán hơn thường lệ. Cỏ hoang trên đồng cỏ xanh mướt phía ngoài các khung cửa sổ mở rộng và làn gió nhẹ khẽ mơn man trên má như quyến rũ cô. Trong một ngày như thế có vẻ nên có gì khác hơn là chỉ tới nhà thờ rồi lại trở về nhà.

Mẹ, Carrie, Grace thay quần áo tức khắc để mặc lại những bộ đồ thường ngày nhưng Laura không muốn thay đồ. Cô yêu cầu:

- Con có được phép mặc tiếp tục bộ áo này không, Mẹ? Con sẽ mặc chiếc tạp dề lớn và giữ hết sức cẩn thận.

Mẹ cho phép:

- Con có thể mặc nếu con thích. Khi con cẩn thận thì không thể có chuyện gì xảy ra với chiếc áo của con cả.

Sau bữa ăn trưa và sau khi rửa xong chén đĩa, Laura đi thơ thẩn không ngừng nghỉ quanh nhà.

Trời trong xanh, những cồn mây trôi lơ lửng ngời sáng như ngọc trai và mặt đất mênh mông xa tắp mượt màu cỏ tươi. Trong hàng rào bao quanh nhà, những cây bông gòn non đang mọc lên, những chồi thông nhỏ Bố trồng lúc này đã lớn gấp đôi Laura đang vươn dài những chiếc cành khẳng khiu với các cánh lá xào xạc. Chúng tạo thành một bóng mát rung rinh ngay chỗ Laura đứng nhìn vơ vẩn khắp phía trong một ngày dễ thương trống rỗng.

Cô nhìn về phía thị trấn khi thấy một cỗ xe chạy vòng góc quanh chỗ kho hàng nhà Pearsonos và hiện ra trên con đường hướng về phía đầm Big Slough.

Cỗ xe mới vì phản chiếu chói chang ánh nắng từ bánh xe tới nóc. Những con ngựa màu nâu xoải vó đều đặn. Có phải những con ngựa mà cô đã giúp luyện tập? Chắc rồi, đúng là chúng và khi chúng đảo về phía cô, băng qua đầm, cô nhìn thấy Almanzo đang điểu khiển chúng. Những con ngựa phóng tới và chiếc xe dừng lại bên cạnh cô.

- Cô có thích đi dạo trên xe không?

Almanzo hỏi và khi Bố từ trong nhà bước ra Laura đáp bằng mấy tiếng cô vẫn quen dùng:

- Ô, có! Tôi sẽ xong trong một phút.

Cô buộc chặt dải mũ và nói với Mẹ rằng cô sẽ đi dạo bằng xe ngựa. Mắt Carrie sáng lên và cô chặn Laura lại thì thào:

- Chị mừng vì đã không thay áo chứ?

- Chị mừng.

Laura thì thào lại và mừng rỡ. Cô còn mừng vì áo và mũ của cô đều đẹp. Almanzo cẩn thận trải tấm vạt lót và cô gấp kỹ chúng lại dưới những dải viền ren để giữ cho chiếc áo lụa nâu không dính bụi. Rồi họ lái xe trong nắng chiều về phía nam tới vùng hồ nước ở xa, hồ Henry và Thompson.

Almanzo hỏi:

- Cô thấy chiếc xe mới này ra sao?

Chiếc xe rất đẹp màu đen bóng với những nan hoa bánh xe sơn đỏ. Ghế ngồi rộng rãi hai bên bóng lộn những thanh đỡ màu đen nghiêng về phía sau và có một tấm lụa tựa lưng bọc nệm. Từ trước, Laura không từng thấy một chiếc xe sang trọng như thế.

- Xe đẹp quá.

Laura lên tiếng khi cô ngả người tựa lưng vào tấm nệm da, tiếp:

- Từ trước, tôi chưa bao giờ ngồi trên một cỗ xe có đệm tựa lưng. Cái tựa lưng này không cao như những cái bằng gỗ, phải không?

Almanzo đặt tay nằm dọc trên tấm nệm tựa lưng nói:

- Có lẽ như thế này khiến nó tốt hơn.

Anh thực sự không ôm lấy Laura nhưng cánh tay anh áp sát vai cô. Cô nhún vai nhưng cánh tay anh vẫn giữ nguyên tại chỗ. Thế là cô nghiêng người tới trước và giật chiếc roi đang đặt trong chỗ của nó trên bửng xe. Những con ngựa chồm lên vùng chạy.

- Cô quái ác quá!

Almanzo kêu lên khi anh níu cả hai bàn tay vào dây cương, trụ cứng chân trên thành xe. Anh cần dùng cả hai tay để kềm lũ ngựa.

Một hồi sau mấy con ngựa dịu lại và lại xoải vó đều. Lúc đó, Almanzo hỏi một cách giận dữ:

- Nếu chúng cứ phóng luôn thì sao?

Laura cười:

- Chúng có thể chạy thật xa cho tới tận cùng đồng cỏ. Và giữa đây với đó chẳng có gì vướng vấp cả.

- Thật giống hệt!

Almanzo bắt đầu rồi anh nói:

- Cô là người không phụ thuộc, phải không?

Laura nói:

- Dạ.

Chiều hôm đó, họ lái xe đi thật xa, hết con đường tới hồ Henry và vòng quanh hồ. Chỉ có một dải đất hẹp ngăn cách hồ Henry với hồ Thompson. Giữa những mảng nước chỉ có một khoảng rộng đủ cho một đường xe chạy. Những cây bông gòn non và những cây anh đào ủ rũ đứng gầy guộc hai bên trên những lùm nho dại. Ở đó mát mẻ. Gió thổi qua mặt nước và giữa những hàng cây, họ có thể nhìn thấy những đợt sóng nhỏ đang vỗ vào bờ.

Almanzo lái xe đi chậm chậm khi anh kết với Laura về tám chục mẫu lúa mỳ mà anh đã gieo cùng với ba chục mẫu lúa mạch. Anh nói:

- Cô biết tôi có cả nông trại lẫn trại cây để làm việc. Ngoài ra, Cap và tôi còn kéo gỗ từ xa về các vùng quanh thị trấn để dựng nhà và làm trường khắp nơi. Tôi có ngựa, tôi kiếm tiền để mua chiếc xe mới này.

Laura cảm thấy muốn biết:

- Tại sao không lái chiếc xe ông đã có?

Anh giải thích:

- Tôi đã đổi chiếc xe đó lấy cặp ngựa này mùa thu vừa rồi. Tôi biết tôi có thể huấn luyện chúng kéo chiếc xuồng trượt trong mùa đông, nhưng khi mùa xuân tới, tôi cần một chiếc xe ngựa. Nếu đã có một chiếc thì tôi đâu có chờ tới khi có chiếc xe này mới đi tìm cô.

Lúc họ nói chuyện, anh lái xe đi giữa khu hồ và chạy vòng tới cuối hồ Henry rồi chạy qua đồng cỏ về hướng bắc. Thỉnh thoảng họ nhìn thấy một căn lều trại mới. Một số đã có khu nhà chuồng và gần đó, đất đã được cày phá.

Almanzo nói khi họ quặt qua hướng tây theo bờ hồ Nước Bạc về nông trại của Bố:

- Chúng ta chỉ lái xe đi bốn mươi dặm và hẳn đã nhìn thấy sáu ngôi nhà.

Mặt trời xuống thấp ở phía tây khi anh giúp cô bước xuống xe trước cửa nhà. Anh nói:

- Nếu cô thích đi dạo với chiếc xe này, tôi sẽ đến vào Chủ Nhật tới.

- Tôi thích chiếc xe này chớ.

Laura đáp. Rồi thình lình cô cảm thấy mắc cỡ và vội vã bước vào nhà.

20. NELLIE OLESON

Mẹ nói:

- Phải nói là không bao giờ mưa mà chỉ là nước trút xuống.

Vì đúng là lạ lùng, tối Thứ Ba, chàng trai ở nông trại kế bên mời Laura đi dạo xe với anh ta vào Chủ Nhật tới. Tối Thứ Năm, một chàng trai khác ở gần lại mời cô đi dạo xe với anh ta vào Chủ Nhật tới. Rồi tối Thứ Bảy, lúc cô đi bộ về nhà, chàng trai thứ ba đã vượt lên, đưa cô về trong chiếc xe chở gỗ và mời cô đi dạo xe với anh ta vào hôm sau.

Chủ Nhật đó, Almanzo và Laura lái xe về hướng bắc, vượt qua hai khu trại của Almanzo tới hồ Spirit. Có một lều trại nhỏ trên đất trại của Almanzo. Trại cây của anh không có nhà cửa gì, nhưng những cây con đang vươn lên mạnh mẽ. Anh đã sắp đặt chúng một cách kỹ lưỡng và phải trông nom vun trồng chúng trong năm năm tới khi được nhìn nhận là chủ sở hữu đất đai. Cây đang tăng trưởng hơn rất nhiều so với mức anh chờ đợi lúc đầu vì anh bảo cây đã mọc được trên đồng cỏ thì anh nghĩ trước đây chúng cũng đã đương nhiên mọc ở đó.

Anh giải thích với Laura:

- Các chuyên viên nhà nước đã tính toán hết thảy. Họ sẽ phủ xanh những đồng cỏ này, suốt từ Canada tới vùng đất của người da đỏ. Các cơ sở quản lý ruộng đất đều đã có kế hoạch về những vùng phải trồng cây và không ai được cấp phát đất ở đó ngoại trừ những nơi dành cho các trại cây.

Chắc chắn họ đúng về một điều là nếu một nửa số cây này sống được, họ sẽ gieo hạt khắp vùng và biến thành những rừng cây giống như ở miền Đông.

Laura ngạc nhiên hỏi:

- Ông có nghĩ vậy không?

Bằng mọi cách cô không thể hình dung nổi việc những đồng cỏ kia lại biến thành rừng như rừng Big Woods. Anh trả lời:

- Rồi thời gian sẽ cho thấy. Bằng cách nào tôi cũng đang lo phần của tôi. Tôi sẽ lo giữ cho những cây này sống nếu việc đó có thể làm được.

Hồ Spirit đẹp và hoang dã. Almanzo lái xe dọc theo một bờ đá nơi có mực nước sâu với các lớp sóng xô trước gió đang ngầu bọt và vỗ cao vào các khối đá. Ở đó cũng có một ụ đất của người da đỏ. Ụ đất được bảo là một khu mai táng dù không ai biết có gì trong đó. Những cây bông gòn lớn vươn lên tại đây cùng những cây anh đào phủ kín nho rừng.

Đường trở về thị trấn ngang qua trại Oleson. Trại nằm trên một khu đất cách trại của Almanzo chừng một dặm về phía đông. Từ trước Laura chưa từng thấy nhà của Nellie Oleson và cô cảm thấy hơi buồn cho cô ta. Căn lều trại rất nhỏ đứng giữa cỏ hoang rậm rạp trong gió. Ông Oleson không có ngựa, chỉ có một cặp bò và đất trại của ông chưa được dọn dẹp như đất của Bố. Nhưng Laura chỉ nhìn thoáng qua khu trại vì cô không muốn làm hư một ngày tươi đẹp với những ý nghĩ về Nellie Oleson.

- Tạm biệt, sẽ gặp lại Chủ Nhật sau.

Almanzo nói khi anh đưa cô tới trước cửa nhà. Toàn thể vùng quê như khác biệt hẳn kể từ khi cô nhìn thấy khu hồ đôi Henry-Thompson và hồ Spirit với ụ đất lạ lùng của người da đỏ. Cô tự hỏi Chủ Nhật tới sẽ thấy gì.

Chiều Chủ Nhật khi ngắm cỗ xe băng qua đầm Big Sloug chạy tới, cô ngạc nhiên thấy có một người cùng ngồi với Almanzo. Cô thắc mắc người kia là ai và nghĩ có lẽ anh không có ý định đi chơi trong ngày hôm đó.

Khi những con ngựa dừng lại trước cửa, cô nhìn thấy người cùng đi cùng với anh là Nellie Oleson.

Không chờ anh lên tiếng, Nellie kêu lớn:

- Tới đi, Laura! Tới cùng đi dạo xe với tụi mình!

- Muốn giúp gì không, Wilder?

Bố bước tới trước mấy con ngựa lên tiếng và Almanzo nói rất cần. Thế là Bố giữ hàm thiếc ngựa trong lúc Almanzo chờ giúp Laura lên xe và ngớ người ngạc nhiên thấy Laura bỏ mặc anh. Nellie nhích vào phía trong dành chỗ cho cô và giúp cô tấn vạt che quanh chiếc áo lụa nâu.

Khi xe chạy, Nellie bắt đầu nói. Cô trầm trồ với cỗ xe, kêu lên về lũ ngựa, ca ngợi tài lái xe của Almanzo và thình lình khen quần áo của Laura. Cô nói:

- Ui cha, Laura, chiếc mũ của bạn đúng là hoàn toàn quá mức!

Cô không ngưng lại để chờ một câu hỏi. Cô nói rất muốn thấy khu hồ đôi Henry-Thompson; cô đã nghe nói nhiều về nơi đó; cô nghĩ thời tiết đúng là hoàn toàn quá mức và vùng quê thật đẹp, nhưng dĩ nhiên không có gì giống như ở New York và thực sự cũng chẳng thể trông đợi gì hơn ở miền Tây, phải không?

- Sao im lặng thế, Laura?

Cô hỏi nhưng không dừng lại mà tiếp tục nói trong tiếng cười khúc khích:

- Lưỡi của mình không được tạo ra để nằm im. Lưỡi của mình được tạo ra để líu lo liến thoắng!

Đầu Laura nhức nhối, hai tai khua vang những tiếng nói lải nhải và cô nổi giận. Almanzo mải mê với việc lái xe. Cuối cùng, anh có vẻ giống như đang vui thích.

Họ đã tới vùng hồ đôi Henry-Thompson, lái xe dọc dải đất hẹp giữa hai mặt hồ. Nellie nghĩ khu hồ đúng là hoàn toàn quá mức; cô ta thích hồ, cô ta thích nước, cô ta thích những cây lớn cùng các dây nho và cô ta thực sự mê mẩn việc đi dạo xe vào những chiều Chủ Nhật, cô ta nghĩ thật đúng là hoàn toàn quá mức.

Mặt trời hơi xuống thấp khi họ quay về và vì nhà Laura ở gần nhất nên họ ghé lại trước tiên.

- Tôi sẽ tới Chủ Nhật sau.

Almanzo nói trong lúc giúp Laura bước xuống xe và trước khi Laura có thể lên tiếng, Nellie đã xen ngang:

- Ui, đúng đó! Tụi mình sẽ tới đón cậu. Cậu không nên thiếu những lúc vui! Như thế mất thú vị! Chờ Chủ Nhật, nghe, đừng quên, tụi mình sẽ tới, tạm biệt, Laura, tạm biệt!

Trọn tuần đó Laura tự tranh luận với chính mình về việc đi hay không đi. Không còn gì thú vị khi cô phải đi dạo xe chung với Nellie. Nhưng nếu cô từ chối hẳn Nellie sẽ rất hài lòng vì đó là điều mà cô ta mong muốn. Không thể phó mặc cho Nellie tìm mọi cách để đi dạo xe cùng với Almanzo vào mỗi chiều Chủ Nhật.

Laura quyết định sẽ đi cùng với họ.

Chuyến dạo xe Chủ Nhật sau mở đầu giống hệt như lần trước. Cái lưỡi của Nellie tiếp tục liến thoắng. Cô ta phấn chấn tinh thần, nói cười với Almanzo và gần như không biết tới sự có mặt Laura. Cô ta tin chắc chiến thắng vì biết rằng Laura không thể chịu đựng lâu tình trạng này.

Cô ta thỏ thẻ trong lúc tựa người vào cánh tay Almanzo:

- Ui chao, Mannie, anh huấn luyện những con ngựa hoang dã kia thật hay mà anh điều khiển chúng càng hết sức tuyệt vời.

Laura cúi xuống tấn chắc hơn tấm vải che vào các bàn chân và khi ngồi thẳng trở lại, cô ơ hờ để một mảnh vải che bay ra ngoài đồng cỏ lộng gió. Lũ ngựa nhảy vọt lên khỏi mặt đất phóng chạy.

Nellie hét lớn và hét tiếp, bám chặt vào cánh tay Almanzo đang đúng lúc được rảnh rang.

Laura lặng lẽ tấn lại mảnh vải che và ngồi lên trên nó.

Khi không còn gì vỗ ở phía sau, lũ ngựa trấn tĩnh lại và trở dần về nước chạy đều đặn. Nellie hổn hển nói:

- Ui chao, chưa bao giờ kinh khủng như thế, chưa bao giờ trong đời mình tôi kinh khủng như thế. Ôi, Mannie, tại sao chúng làm thế? Anh nhớ đừng cho chúng làm như thế nữa nghe.

Almanzo nhìn xéo Laura và im lặng. Laura nhận xét:

- Những con ngựa này rất tốt khi bạn hiểu rõ chúng. Nhưng tôi cho rằng chúng không giống những con ngựa ở New York.

- Ui chao, mình không khi nào hiểu nổi những con ngựa miền tây. Ngựa New York rất điềm tĩnh.

Nellie nói rồi bắt đầu thao thao về New York. Cô ta nói tựa hồ biết rất rõ ở đó. Laura không biết gì về New York nhưng cô biết Nellie cũng không biết gì và chỉ riêng Almanzo biết.

Họ sắp tới khúc đường quẹo về nhà khi Laura lên tiếng:

- Mình đang ở rất gần nhà ông Boast. Ông không nghĩ là viếng thăm họ một chuyến cũng vui sao?

Almanzo nói:

- Nếu cô thích.

Thay vì quẹo về phía tây, anh cho xe chạy thẳng tới phía bắc qua đường sắt, băng xa qua đồng cỏ tới trang trại của ông Boast. Ông bà Boast cùng bước tới bên cỗ xe.

- Hay, hay, thì ra xe có tới ba người.

Ông Boast lên tiếng trêu chọc, cặp mắt đen của ông nheo nheo lóe sáng:

- Nó có ghế ngồi rộng hơn ghế ngồi trên cỗ xuồng trượt. Xuồng trượt chỉ có đúng hai chỗ.

Laura nói với ông:

- Xe ngựa phải khác chứ.

- Chùng hình như…

Ông Boast bắt đầu nữa nhưng bà Boast cắt ngang. Bà kêu lên:

- Thôi, Rob. Tốt hơn là anh nên mời tất cả xuống xe vào nhà một lát.

Laura nói:

- Chúng cháu không ngưng được đâu. Chúng cháu chỉ ghé lại một phút thôi.

Almanzo phân trần:

- Chúng tôi đang đi dạo xe ngoài trời.

Nellie nói một cách đầy quyền hành:

- Rồi chúng tôi sẽ trở lại đây sau.

Laura nói nhanh:

- Chúng cháu sẽ đi xa hơn một chút. Cháu chưa từng qua lối này. Còn thời gian đi xa hơn một chút không, Almanzo?

Ông Boast lên tiếng:

- Đường đi thẳng lên hướng bắc tốt lắm.

Cặp mắt của ông như đang cười với Laura. Cô đoán là ông đã hiểu rõ ý cô nên mắt cô cũng cười đáp lại khi Almanzo khởi sự cho ngựa chạy tiếp tục về phía bắc. Qua phía bên kia đất trại của ông Boast, họ băng qua cuối đầm Big Slough chạy tới phía đông bắc hồ Nước Bạc. Tới đây là khúc đường quẹo về thị trấn nhưng đọng nước và lầy lội như Laura biết nên họ tiếp tục chạy lên phía bắc.

Nellie cáu kỉnh:

- Thật là ngu ngốc, chẳng có gì thú vị khi gọi đây là một con đường tốt.

Laura bình thản nói:

- Nó hơi xa hơn.

Nellie gắt:

- Thôi! Mình sẽ không khi nào trở lại con đường này nữa!

Rồi, rất nhanh cô ta lấy lại vẻ linh hoạt vui sướng nói với Almanzo rằng cô vô cùng thích thú được đi dạo xe đây đó với một người lái xe cừ khôi và những con ngựa tuyệt hảo như thế.

Tới một nhánh đường khác quẹo về hướng tây, Almanzo cho ngựa chạy vào. Nhà Nellie chỉ cách một khoảng ngắn phía trước. Khi Almanzo giúp cô ta bước xuống xe trước cửa, cô ta bám vào bàn tay anh một lúc để nói chuyến đi dạo rất vui với cô ta và tiếp:

- Chủ Nhật sau mình sẽ đi về hướng khác, phải không, Mannie?

Laura nói:

- Ô, thật không hay khi mình đề nghị đi về hướng đó, Nellie, nếu bạn còn nghĩ nhiều về nó.

Phần Almanzo chỉ nói:

- Tạm biệt.

Cả hai đều im lặng cho tới khi xe vào tới thị trấn. Lúc đó Laura lên tiếng:

- Tôi e là tôi đã làm ông bị trễ giờ lo công việc trong nhà vì muốn kéo dài thêm đường đi.

Anh trấn an cô:

- Không thành vấn đề. Ngày và đêm đều vẫn dài như thế và tôi không có con bò sữa nào.

Họ lại im lặng. Laura cảm thấy mình là một bạn đồng hành đáng chán so với Nellie líu lo sống động, nhưng cô dứt khoát cứ để Almanzo quyết định. Cô không bao giờ ráng níu kéo anh nhưng không một cô gái nào khác cố tìm cách đẩy cô ra bên lề mà anh không nhận biết.

Lúc dừng lại trước nhà, khi Almanzo và Laura đứng cạnh cỗ xe, anh nói:

- Tôi nghĩ rằng Chủ Nhật sau mình vẫn cùng đi dạo?

Laura đáp:

- Không phải với tất cả chúng ta. Nếu ông muốn mang Nellie theo thì cứ đi với cô ta, đừng tới đón tôi. Tạm biệt.

Cô lặng lẽ bước vào nhà và đóng cửa.

Thỉnh thoảng, khi đi bộ tới trường qua trũng đất đầy những trùm lá đổng thảo đang mượt mà hơn rồi những cánh hoa màu xanh da trời bừng nở, Laura tự hỏi liệu Almanzo có tới vào Chủ Nhật sau không. Đôi lúc, khi ba đứa học trò nhỏ chăm chỉ học bài, cô nhìn lên khỏi bài học riêng của mình, lơ đãng ngó những bóng mây trôi trên đồng cỏ chan hòa ánh nắng phía ngoài khung cửa sổ và thắc mắc.

Nếu anh không đến tức là anh không đến; tất cả là thế. Và cô chỉ việc chờ tới Chủ Nhật sau để biết.

Thứ Bảy cô vào thị trấn, khâu vá suốt ngày cho cô Bell. Bố đang cày phá đất để mở rộng thêm đồng trồng lúa mì nên Laura ghé qua Bưu điện coi có thư không và ở đó có một lá thư của Mary.

Cô nôn nóng về nhà để nghe Mẹ đọc thư vì trong thư sẽ cho biết chừng nào Mary về thăm nhà.

Không một ai viết cho Mary về việc có một gian phòng mới và cây đàn dương cầm đang chờ cô ở nhà. Không thể có một sự ngạc nhiên nào hơn cây đàn dành cho Mary.

Cô chạy ào vào nhà kêu lớn:

- Mẹ ơi! Có thư của Mary!

Carrie lên tiếng:

- Mẹ, để con lo tiếp bữa ăn. Mẹ đọc thư đi.

Thế là Mẹ rút chiếc kẹp khỏi mái tóc và thận trọng mở phong bì, ngồi xuống để đọc thư. Mẹ mở rộng tờ giấy bắt đầu đọc và tựa hồ tất cả ánh sáng trong nhà đều vụt tắt.

Carrie ném cho Laura một cái nhìn khiếp hãi và một lát sau Laura mới hỏi một cách điềm tĩnh:

- Chuyện gì vậy, Mẹ?

Mẹ nói:

- Mary không muốn về nhà.

Rồi nói nhanh:

- Mẹ không định nói thế. Nó hỏi để xin phép tới nghỉ hè cùng với Blanche tại nhà của Blanche. Đảo khoai tây lên, Carrie, khoai sẽ quá chín đó.

Trong bữa ăn, tất cả đều bàn về chuyện đó. Mẹ đọc lên lá thư. Mary viết rằng nhà của Blanche ở gần Vinton và cô ấy rất muốn Mary tới nhà cô ấy. Mẹ của cô ấy đã viết thư cho Mẹ, mời Mary. Mary rất thích đi nếu Bố Mẹ cho phép.

Mẹ nói:

- Em nghĩ là nó nên đi. Đây sẽ là một cơ may và tốt cho nó.

Bố nói:

- Được!

Thế là vấn đề đã xong. Mary không về nhà trong năm đó.

Một hồi sau Mẹ nói với Laura rằng Mary sẽ về ở hẳn nhà khi học xong và như thế cô sẽ không bao giờ có dịp may đi lại đó đây. Thật mừng là cô có thể có thời gian thoải mái này để có thêm nhiều bạn mới vào lúc còn trẻ tuổi. Mẹ nói:

- Nó sẽ có chuyện này để nhớ.

Nhưng tối Thứ Bảy đó, Laura cảm thấy mọi thứ lại không ổn mãi. Sáng hôm sau, dù nắng ấm và bầy chiền chiện hót vang, mọi thứ cũng như vô nghĩa. Khi từ nhà thờ về, cô tự nhủ là trong trọn thời gian còn lại của đời mình cô sẽ chỉ đi dạo trên chiếc xe chở đồ này. Cô hoàn toàn tin rằng Almanzo sẽ đưa Nellie đi dạo xe trong ngày hôm đó.

Tuy nhiên, về tới nhà cô vẫn không cởi chiếc áo lụa nâu và choàng chiếc tạp dề lớn khi làm mọi việc. Thời gian nhích đi chậm chạp nhưng cuối cùng cũng tới hai giờ và khi nhìn qua cửa sổ, Laura thấy lũ ngựa đang lao tới từ con đường ra khỏi thị trấn. Chúng phi nước đại tới và dừng lại trước cửa.

Almanzo lên tiếng khi Laura bước ra:

- Cô có thích đi dạo bằng xe không?

Laura đáp:

- Ô, có chứ! Tôi sẽ xong trong một phút.

Ngắm mình trong gương cô thấy mặt ửng đỏ và mỉm cười khi cô buộc chiếc dải mũ màu xanh da trời dưới tai trái.

Bước lên xe, cô hỏi:

- Nellie không đi?

Almanzo đáp:

- Tôi không biết.

Anh ngưng lại một lát rồi nói với vẻ bực bội:

- Cô ta sợ lũ ngựa.

Laura không nói gì và một hồi ssau, anh tiếp:

- Tôi không đưa cii ta đi chơi vào lần đầu mà chỉ cho cô ta quá giang. Cô ta đang đi bộ vào thị trấn để thăm ai đó nhưng sau đó cô ta bảo thà theo mình đi chơi còn hơn. Những ngày Chủ Nhật ở nhà cô ta quá dài và hiu quạnh nên tôi thấy tội cho cô ta và hình như cô ta thích đi dạo xe nhiều lắm. Tôi không hiểu vì sao các cô gái lại không ưa nhau.

Laura ngạc nhiên là một người đàn ông biết rất nhiều về trại và lũ ngựa lại không thể hiểu chút nào về một cô gái như Nellie. Nhưng cô chỉ nói:

- Không, ông không hiểu đâu, vì ông không đến trường cùng với chúng tôi. Tôi sẽ nói với ông về điều mà tôi thích được làm. Tôi thích ông sẽ đưa Ida cùng đi dạo.

Almanzo tán thành:

- Đôi khi, mình sẽ làm thế. Nhưng hôm nay rất đẹp trời nên chỉ có chúng mình thôi.

Đó là một buổi chiều thật tuyệt. Nắng hơi quá nóng và Almanzo nói lũ ngựa đã luyện thuần nên xe có thể kéo mui lên. Thế là cùng nhau mỗi người một bàn tay, họ nâng mui xe chốt lại. Rồi họ đi dạo trong bóng mát của mui xe với những làn gió nhẹ thổi qua từ hai bên hông xe để hở.

Sau hôm đó, không có gì để phải bàn về ngày Chủ Nhật sau ngoài việc luôn luôn đúng hai giờ Almanzo lái xe vòng qua khúc quanh chỗ nhà kho cửa hàng Pearsonos và Laura chờ sẵn trước cửa khi anh dừng lại. Bố nhìn lên khỏi tờ báo, gật đầu ra dấu chào tạm biệt cô rồi tiếp tục đọc và Mẹ nhắc:

- Đừng về quá muộn, Laura.

Tháng Sáu đã về và hồng dại nở bừng trên đồng cỏ. Laura và Almanzo hái những bông hoa dọc hai bên đường và hương thơm ngập tràn trên xe.

Rồi một ngày Chủ Nhật, lúc hai giờ chiều, góc kho hàng Pearsonos trống hoe. Laura không hình dung nổi chuyện gì đã xảy ra cho tới khi cỗ xe thình lình xuất hiện trước cửa với Ida ngồi trên đang cười vui vẻ.

Almanzo đã tới nhà giáo sĩ Brown và thuyết phục được Ida. Rồi như một sự bất ngờ, anh băng qua đầm Big Slough ở phía tây con đường từ thị trấn tới đất trại của Bố từ phía nam của ngôi nhà, và trong lúc Laura nhìn về phía bắc, họ đã xuất hiện ở phía ngược lại.

Bữa đó, họ tới hồ Herry và là chuyến đi dạo vui nhất. Những con ngựa rất thuần thục. Chúng chạy êm ả trong lúc Ida và Laura hái đầy những ôm hồng dại chất lên phía sau xe. Lũ ngựa nhấm nháp những khóm lá bên đường khi Almanzo cùng các cô gái ngắm những gợn sóng nhỏ dọc bờ hồ phía bên kia.

Đường đi hẹp và thấp đến nỗi Laura nói:

- Tôi nghĩ nhiều lúc nước hẳn tràn qua đường.

Almanzo đáp:

- Tôi không biết chắc, nhưng có lẽ nhiều năm trước, hồi xa xưa, hai hồ này chỉ là một.

Rồi trong một lúc, tất cả ngồi lặng lẽ và Laura nghĩ thuở cặp hồ đôi này còn là một hẳn phải xinh đẹp hoang dại vô cùng khi những bầy trâu rừng và linh dương lang thang trên đồng cỏ bao quanh khu hồ lớn mênh mông rồi kéo tới uống nước, hoặc khi những lũ chó sói cùng sói cỏ, chồn cáo quần tụ trên bờ và ngỗng hoang, thiên nga, vịt trời, cò diệc, hạc, mòng biển làm tổ, bay lượn không đếm xuể trên các vòm cây cùng cơ man các loài cá bơi lội dưới nước.

Almanzo hỏi:

- Sao cô thở dài?

Laura nói:

- Tôi thở dài sao? Tôi đang nghĩ về những loài thú hoang đã phải ra đi khi con người kéo đến. Tôi ước gì chúng không phải làm thế.

Anh nói:

- Nhiều người săn bắt chúng.

Laura nói:

- Tôi biết. Tôi không thể hiểu tại sao.

Ida nói:

- Chỗ này thật đẹp nhưng mình đi xa quá mà tôi lại hứa với Elmer là đi nhà thờ cùng với anh ấy tối nay.

Almanzo nắm chặt dây cương nói với lũ ngựa trong khi Laura hỏi:

- Elmer là ai?

Ida nói với cô:

- Anh ấy là một chàng trai có đất trại gần đất trại của cha Brown và ăn cơm trọ ở nhà mình. Anh ấy muốn mình cùng đi với anh ấy chiều nay nhưng mình nghĩ tốt hơn là đi với các bạn lần này. Bạn chưa khi nào thấy Elmer McConnell.

Cô nhớ lại và nói thêm mấy tiếng cuối.

Laura nói:

- Có nhiều người mới quá nên mình không kịp theo dấu cả những người mình mới quen.

Ida nói với cô:

- Mary đang chơi với người thư ký mới của ngân hàng Ruthos.

Laura kêu lên:

- Còn Garland thì sao?

Almanzo nói với các cô:

- Đang mê mệt một cô gái ở phía tây thị trấn.

Laura phàn nàn:

- Ôi, tôi nghĩ thật tội ngiệp vì chúng ta không còn họp thành một đám chung nữa. Những ngày vui chạy xe thích thú biết bao nhiêu mà bây giờ mỗi người đều xé lẻ hết.

Ida nói:

- Ô, này! Trong mùa xuân xu hướng của tuổi trẻ dễ ngả về chuyện yêu đương.

- Đúng, hoặc là thế này!

Và, Laura cất tiếng hát:

Chàng hãy cất tiếng kêu và em sẽ tới

Chàng hãy cất tiếng kêu và em sẽ tới

Dù mẹ cha trách mắng em là một con điên

Chàng hãy cất tiếng kêu và em sẽ tới.

Almanzo hỏi:

- Cô có vậy không?

Laura đáp:

- Đương nhiên là không! Đó chỉ là một bài hát thôi.

- Tốt hơn là anh hãy huýt gió gọi Nellie, cô ấy sẽ đến.

Ida trêu chọc, rồi cô nói tỉnh táo:

- Nhưng cô ấy sợ những con ngựa này. Cô ấy nói chúng không an toàn.

Laura cười một cách thú vị. Cô nói:

- Chúng hơi hoang dã một chút vào lúc cô ấy đi chung với chúng tôi.

Ida nhấn mạnh:

- Nhưng mình không thể hiểu chuyện đó. Chúng hoàn toàn ngoan ngoãn mà.

Laura chỉ mỉm cười và tấn lại tấm màn che chặt hơn. Lúc đó cô thấy Almanzo nhìn xéo cô từ phía sau đầu Ida và cô nháy mắt lại với anh. Cô không quan tâm tới chuyện anh biết cô đã làm cho những con ngựa kinh hoàng để khiến Nellie khiếp hãi.

Suốt đường về, họ trò chuyện và ca hát cho tới khi tới nhà Laura. Lúc chia tay với họ, cô hỏi:

- Bạn không tới với chúng tôi Chủ Nhật tới hả, Ida?

Ida đỏ mặt lúng túng đáp:

- Mình rất thích nhưng mình… mình nghĩ là mình sẽ dạo bộ với Elmer.

21. BARNUM VÀ SKIP

Tháng Sáu trôi qua và lớp dạy của Laura đã dứt. Tiền mua đàn thanh toán xong. Laura học chơi một vài đoạn hòa âm với cây vĩ cầm của Bố nhưng cô thấy thà rằng nghe riêng cây vĩ cầm độc tấu và chiếc đàn dương cầm chỉ là niềm vui của Mary khi Mary trở về.

Một buổi tối Bố nói:

- Ngày mai là Mùng Bốn Tháng Bảy. Các con muốn vào thị trấn dự lễ kỷ niệm không?

Carrie lên tiếng:

- Thôi, khỏi! Mình hãy làm như năm ngoái đi. Con không muốn chen chúc vào những đám đông đốt pháo. Con thà rằng ngồi nhà đốt pháo của mình.

Grace thêm một phiếu:

- Con thích có nhiều kẹo ở nhà.

Bố nói:

- Bố nghĩ là Wilder sẽ cho cặp ngựa kéo cỗ xe chạy quanh, Laura?

Laura đáp:

- Anh ta không nói gì về chuyện đó cả. Nhưng dù sao con cũng không muốn tới dự lễ kỷ niệm.

Bố còn thắc mắc:

- Nhất trí không, Caroline?

Mẹ mỉm cười với các cô:

- Mẹ sẽ sắp xếp một bữa ăn kỷ niệm và các con sẽ phụ Mẹ nấu nướng.

Trọn buổi sáng hôm sau, cả nhà bận bịu túi bụi. Họ nướng bánh mới, làm bánh nhồi thịt, bánh ngọt nhân trứng. Laura ra vườn dùng mấy ngón tay bới đất trên đồi kiếm những củ khoai tây tươi. Cô lượm khoai tây vừa đủ bữa ăn trưa và không đụng tới một rễ cây nào để giữ cho cây không chột. Rồi cô hái lớp đậu Hà Lan đầu tiên, cẩn thận lựa riêng những hạt đậu đã căng phồng.

Mẹ chiên xong một con gà giò trong lúc khoai tây và đậu tươi đã được nấu và bọc kem. Bữa ăn trưa kỷ niệm Mùng Bốn Tháng Bảy đã xong chỉ còn chờ pha trà khi Bố từ thị trấn về. Bố mang chanh về pha nước chanh uống buổi chiều và pháo cho buổi tối, kẹo cho suốt thời gian sau bữa trưa.

- Bố thấy Almanzo trong thị trấn. Cậu ta và Garland đang đóng vào xe một cặp ngựa mới có. Chàng trai này đã bỏ uổng năng khiếu của mình, lẽ ra cậu ta phải là người dạy sư tử. Cặp ngựa đó hoang rợ như những con ó, chỉ có cậu ta là giữ nổi chúng. Cậu ta nhắn là nếu con thích đi dạo xe vào buổi chiều thì hãy sẵn sàng nhảy lên xe khi cậu ta lái tới, vì cậu ta không thể buông chúng ra để giúp con. Cậu ta bảo nhắc với con rằng đã có một cặp ngựa mới để tập.

Mẹ nói:

- Mẹ tin là cậu ta muốn bẻ gãy cái cổ của con. Nhưng Mẹ hy vọng cậu ta sẽ gãy cổ trước.

Câu nói này hoàn toàn khác vẻ dịu dàng thường có của Mẹ khiến cả nhà đều nhìn Mẹ ngạc nhiên. Bố lên tiếng một cách tin tưởng:

- Wilder sẽ lo liệu được với những con ngựa đó, Caroline. Đừng lo gì! Nếu anh được thấy một người nào sinh ra chỉ để dạy ngựa thì chính là cậu ta.

Laura hỏi:

- Thực tâm Mẹ không muốn con đi hả, Mẹ?

Mẹ đáp:

- Con cần dựa vào xét đoán của chính con, Laura. Bố đã nói là an toàn thì hẳn phải đúng.

Sau khi nhẩn nha tận hưởng bữa trưa, Mẹ nhắc Laura bỏ chén đĩa lại để lo sửa soạn quần áo nếu có ý định đi chơi. Mẹ nói:

- Mẹ sẽ lo công việc ở nhà cho con.

Laura không chịu:

- Mẹ làm mệt trọn buổi sáng rồi. Con có thể làm vì còn đủ thời gian để chuẩn bị quần áo.

Carrie phát biểu:

- Không ai cần bận tâm về chuyện chén đĩa. Con sẽ rửa và Grace lo lau khô. Tới đây, Grace.

Chị và em lúc này còn lớn hơn Mary và Laura khi các chị ấy làm công việc này.

Thế là Laura sẵn sàng và đứng chờ trước cửa khi Almanzo tới. Từ trước cô chưa bao giờ thấy những con ngựa này. Một con hồng cao, bờm đen, đuôi dài thượt. Con kia là một con ngựa hung to lớn có những đốm trắng. Một bên cổ con ngựa hung có một đốm trắng giống như một con gà trống. Một sọc trắng trên chiếc bờm hung của nó cũng giống như đuôi gà trống.

Almanzo kìm những con ngựa lạ lùng này lại và Laura tiến về phía cỗ xe, nhưng con ngựa đốm hung dữ hất những chiếc cẳng sau của nó và đưa những móng trước lên vờn vờn trong không khí trong lúc con ngựa hồng nhảy chồm tới. Almanzo nới lỏng tay cương và khi những con ngựa lao vút đi, anh gọi với lại:

- Tôi sẽ quay lại.

Laura đứng đợi trong lúc anh lái xe chạy vòng quanh ngôi nhà. Lúc anh kìm những con ngựa lại, Laura chạy vội tới bên xe, nhưng cô lập tức lui lại vì con ngựa đốm tung chân đá hậu và con ngựa hồng nhảy chồm chồm lên.

Bố Mẹ đứng bên Laura; Carrie đứng trong cửa nắm chặt chiếc khăn lau chén và Grace nép sát bên chị ngó ra. Tất cả đều đợi trong lúc Almanzo lại cho xe chạy vòng quanh nhà.

- Tốt hơn là con không nên cố đi, Laura.

Mẹ lên tiếng nhưng Bố nói với Mẹ:

- Caroline, nó sẽ lên xe ổn thôi. Wilder kìm nổi lũ ngựa.

Lần này Almanzo dừng lũ ngựa hơi xoay chúng một chút, đặt cỗ xe vào thế thuận lợi hơn cho Laura bước lên giữa các bánh xe. Anh nói:

- Mau!

Laura cử động cực nhanh và vút lên. Bày tay phải của cô bíu vào những thanh nằm nghiêng trên mũi xe, bàn chân phải cô đặt trên bực xe và khi con ngựa đốm co chân đá hậu, con ngựa hồng chảy chồm lên thì chân trái cô đã bước vào trong xe và cô buông người xuống ghế.

- Mấy chiếc vòng chết tiệt này!

Cô lầm bầm khi kéo lại những vòng nịt eo trong cỗ xe đang phóng nhanh và phủ tấm che bụi lên chiếc áo lụa nâu.

- Đừng đụng vào mui xe!

Almanzo nói, rồi cả hai im lặng. Anh dồn hết sức kìm lũ ngựa và Laura thu thêm nhỏ lại trên chiếc ghế để anh có thể khuỳnh rộng hai cánh tay khi cố kéo lũ ngựa lại. Họ chạy về phía bắc vì chúng đang xoay đầu về phía đó. Khi chúng lướt nhanh qua thị trấn Laura thoáng nhìn thấy một đám đông xô nhau tránh đường và Garland cười toe toét giơ tay ngoắc cô.

Sau đó, cô hài lòng đã khâu chặt dải buộc vào chiếc mũ và tin chắc là những mũi khâu đó không sút ra nổi.

Lũ ngựa đã trở về nước kiệu đại và Almanzo nhận xét:

- Mọi người nói cô không đi nhưng Garland nói cô sẽ đi

Laura hỏi:

- Anh ta đánh cá là tôi làm hả?

Almanzo đáp:

- Tôi không đánh cá, nếu cô muốn biết rõ điều đó. Tôi không đánh cá về một phụ nữ. Dù sao, tôi không tin là cô thích cái trò lái xe làm xiếc của tôi.

Laura hỏi:

- Những con ngựa kia ra sao?

- Tôi bán chúng rồi.

Laura do dự:

- Nhưng Prince và Lady… Tôi không bàn về những con ngựa này. Tôi chỉ thắc mắc không rõ có điều gì không ổn với Prince và Lady.

- Chẳng có gì không ổn cả. Lady mới sinh con và Prince không thể kéo xe khi thiếu Lady. Tôi được trả ba trăm đô la cho hai con ngựa kia. Chúng đã thuần thục và cái giá rất xứng, dù không thể nắm chắc giá cả mỗi ngày. Cặp ngựa này chỉ được nêu giá hai trăm đô la. Rõ ràng là lời được một trăm đô la và tôi tính tôi có thể bán chúng cao giá hơn thi tôi đã luyện thuần và muốn bán. Tôi nghĩ thật thú vị khi tập cho chúng, phải không?

Laura đáp:

- Ồ, đúng đó. Mình sẽ dạy cho chúng thành ngoan ngoãn.

Almanzo nói:

- Đó là điều tôi tính làm. À này, con ngựa đốm tên là Barnum còn con ngựa hồng là Skip. Mình sẽ không đi gần những chỗ cắm trại, tiếng pháo sẽ khiến chúng nổi điên lên.

Lũ ngựa phóng cực nhanh hết dặm này tới dặm khác qua đồng cỏ mở rộng. Mưa rơi vào đêm trước và nước đọng thành nhiều vũng khắp trên đường nhưng Barnum và Skip không chịu ướt chân.

Chúng nhảy qua từng vũng nước kéo cỗ xe bay theo chúng và không có một giọt nước dơ nào văng lên mũ của Laura.

Ngày Mùng Bốn Tháng Bảy nắng khá nóng và Laura thắc mắc sao Almanzo không chịu kéo mui xe lên cho tới khi anh nói:

- Tôi rất tiếc, nhưng nếu mình kéo mui xe lên thì những con ngựa này sẽ phát hoảng. Tôi không biết khi đó tôi có thể kìm nổi chúng không. Cap và tôi không thể đóng chúng vào xe cho tới khi chúng tôi hạ mui xuống.

Thế là họ đi dưới nắng trong gió đồng thổi lồng lộng và những cụm mây trắng trôi trên đầu.

Họ đi tới hồ Skip, vòng hết hồ sang tận phía bên kia rồi theo những con đường khác vòng trở về nhà.

Almanzo nói khi gần về tới nhà:

- Mình đã đi tới sáu mươi dặm. Tôi nghĩ lũ ngựa sẽ chịu đứng cho cô xuống xe. Tôi không dám bước xuống giúp cô vì sợ chúng sẽ phóng đi.

Laura nói:

- Tôi có thể tự lo. Đừng rời khỏi lũ ngựa. Nhưng anh không ở lại ăn cơm tối sao?

- Tôi rất thích, nhưng tôi phải về thị trấn để nhờ Cap giúp cùng tháo ngựa khỏi xe. Mình tới rồi. Nhớ đừng làm lay động mui xe khi cô bước xuống giữa các bánh xe.

Laura cố làm theo nhưng cô vẫn hơi va đập một tiếng nhẹ. Barnum lập tức đá về phía sau, Skip nhảy lên và chúng phóng đi.

Khi Almanzo trở lại vào Chủ Nhật sau, Laura đã biết rõ điều cần làm. Cô phóng nhanh vào trong xe ngay khi anh dừng xe lần đầu.

Lũ ngựa đang xoay đầu về hướng tây và chúng chạy thẳng theo hướng đó. Một hồi sau, chúng chạy êm hơn và Almanzo lái chúng quay về khu hồ đôi. Rất nhanh, nhưng không đá hậu hoặc chồm nhảy, chúng lướt qua con đường hẹp giữa hai mặt hồ và hướng về nhà xoải vó phóng nước đại.

Almanzo lên tiếng:

- Trong tuần này tôi đã điều khiển chúng vài lần và tôi cho rằng chúng bắt đầu có ý nghĩ là chúng cần ngoan ngoãn.

Laura than thở:

- Nhưng chúng không vui lắm khi phải ngoan ngoãn.

- Cô nghĩ là không hả? Nào, bây giờ mình hãy dạy chúng quen với chiếc mui xe. Chốt lại.

Không có nhiều thời gian, Laura níu lấy thanh giằng trước của mui xe ở phía cô và kéo lên trong khi Almanzo kéo thanh giằng phía anh. Một cách nhanh nhẹn, cô ép thẳng chiếc bản lề ở giữa, kẹp chặt lại như Almanzo làm. Mui xe đã dựng lên, vững vàng tại chỗ của nó chỉ trong một chớp mắt.

Skip phóng tới và Laura nín hơi khi Barnum đá hậu. Nó nhảy chồm chồm, chân trước quơ cao hơn trong không khí và chiếc lưng khổng lồ của nó dâng lên phía trước bửng xe. Nó càng lúc càng gần cỗ xe hơn, có lúc gần như đổ nhào vào xe. Rồi, với một bước nhảy dài tới trước, Barnum vụt phóng lên cùng chạy ngang Skip. Mui xe lắc lư theo nhịp phóng nhanh của chúng và khiến chúng sợ hãi tăng thêm tốc độ.

Cánh tay Almanzo gồng cứng nắm chắc dây cương đang căng thẳng như những cọng kẽm.

Laura co người lại trong góc ghế, nín thở cầu mong dây cương không đứt.

Cuối cùng, lũ ngựa thấm mệt và chạy chậm lại. Almanzo hít vào một hơi thật sâu và bớt căng một chút. Anh mỉm cười với Laura:

- Khá hơn không?

Laura cười run run. Cô nói:

- Khá hơn nhiều chừng nào mà dây cương còn chắc chắn.

Anh lên tiếng một cách tự tin:

- Dây cương phải chắc chắn. Tôi đã đặt làm tại cửa tiệm yên cương Schaubos. Mỗi sợi đều bằng thứ da hoàn hảo và gấp đôi lại thành một, khâu bọc thêm vải sáp. Chỉ trong một thời gian, lũ ngựa này sẽ nhận ra sự khác biệt giữa chạy và chạy hoảng. Cô thấy chúng đã chạy hoảng.

- Chúng chạy hoảng?

Laura nói, nụ cười vẫn còn chút run rẩy.

- Đúng thôi, đó là lý do khiến tôi mua được chúng với giá rẻ. Chúng có thể chạy, nhưng không thể chạy hoảng khỏi chúng ta. Sau một thời gian, chúng sẽ nhận ra là không thể bỏ chạy, ắt phải ngưng cố làm và trở thành một cặp ngựa tốt.

Laura thắc mắc:

- Mui xe đang dựng và vẫn khiến chúng sợ. Làm sao mình có thể hạ xuống?

- Không cần phải hạ xuống. Chỉ nên cẩn thận không làm mui xe lay động khi cô bước ra và tôi cứ thế phóng đi.

Để lên và xuống xe, lúc nguy nhất là lúc cô ở giữa các bánh xe. Cô phải mau hơn lũ ngựa và bước đi giữa các bánh xe không bám víu vào đâu.

Khi Almanzo kìm lũ ngựa dừng trước cửa, Laura hết sức thận trọng khom người dưới những thanh giằng không cho đụng vào mui xe rồi cô bước xuống đất thật nhanh. Váy của cô ào xuống khi cô bước và lũ ngựa giật nảy mình lao đi.

Cô ngạc nhiên thấy đầu gối mình muốn khụy xuống khi cô đi vào trong nhà. Bố quay lại nhìn cô:

- Lại về nhà an toàn rồi.

Laura nói với Bố:

- Chẳng có gì nguy hiểm cả.

- Không, dĩ nhiên là không rồi, nhưng Bó chỉ cảm thấy yên tâm khi lũ ngựa đó bình tĩnh hơn. Bố cho rằng con lại đi dạo vào Chủ Nhật tới?

Laura đáp:

- Con cũng nghĩ thế.

Chủ Nhật tới, lũ ngựa bình tĩnh hơn nhiều. Chúng đứng im trong lúc Laura lên xe. Rồi chúng khởi hành thật nhanh và lướt đi. Almanzo lái chúng qua thị trấn về hướng bắc. Khi bỏ lại phía sau nhiều dặm đường, bộ lông bóng loáng của chúng đẫm mồ hôi.

Almanzo nhẹ nhàng cố kìm chúng bước chậm lại.

- Hãy chậm bước hơn, các cậu bé, các cậu sẽ mát mẻ hơn khi làm thế.

Almanzo nói với chúng, nhưng lũ ngựa không chịu giảm bớt tốc độ. Anh nói thêm:

- Thôi được, nếu các cậu muốn thì cứ đi tới, không có gì nguy hại cho các cậu hết.

- Nóng khủng khiếp.

Laura nói và vén cao những lọn tóc xõa trước trán cho gió thổi lùa vào. Hơi nắng nóng tăng lên và bao phủ một cách kỳ quái. Almanzo lên tiếng, nhưng có vẻ do dự:

- Mình có thể đưa mui xe lên.

Laura gạt đi:

- Ồ, không, không nên! Những thứ khốn khổ này đã đủ nóng khỏi cần có sự chạy hoảng… khỏi cần sự phóng chạy.

Cô tự sửa lại. Almanzo đồng ý:

- Hơi nóng khiến chúng căng thẳng hơn. Không có gì nguy hại cho chúng nhưng tôi nghĩ thà là không mạo hiểm, nếu cô không bận tâm nhiều đến cái nắng.

Thời gian trôi qua thêm và lũ ngựa xoải vó chậm hơn. Tuy nhiên chúng không chịu thả bước mà tiếp tục giữ đều đặn nước kiệu đại cho tới lúc Laura đề nghị quay về sớm hơn thường lệ vì có các dấu hiệu thời tiết khác lạ.

- Có vẻ trời sắp mưa.

Trên đường về, lũ ngựa phóng cực nhanh nhưng đường quá dài. Những cơn gió xoáy ma quái nổi lên khắp đồng cuốn những đám cỏ nhỏ than những vòng tròn tựa hồ chúng đang bị khuấy đảo bởi những ngón tay vô hình.

Almanzo bật lên:

- Cái thứ gió khô chết tiệt này! Chỉ là gió khô, chẳng có gì ngoài đám cỏ. Người ta bảo đây là báo hiệu của thời tiết going bão.

Tiếng sấm nổ rền ở phía tây, khắp bầu trời như sầm tối. Mặt trời giận dữ phát ra những tia sáng đỏ xuyên qua các đám mây đen khi Laura về tới nhà. Almanzo lật đật quay về trại để kịp lo thu xếp gọn gang các thứ trước khi mưa trút xuống.

Nhưng going bão không tới. Đêm xuống đen ngòm, ngột ngạt vẫn không có một giọt mưa và Laura ngủ một giấc nặng nề. Đột nhiên, một vùng sáng lóa khiến cô tỉnh dậy. Mẹ đang đứng bên cạnh với một ngọn đèn. Mẹ lay vai cô, gọi:

- Mau lên, Laura! Dậy giúp Carrie gom quần áo và tới ngay. Bố nói bão lớn đang tới.

Laura và Carrie chộp vội quần áo bước theo Mẹ đã bồng Grace cùng với quần áo, một chiếc mền và đang vội vã mở cửa hầm chứa. Mẹ nói với các cô:

- Xuống đi, các con. Nhanh lên.

Tất cả hấp tấp lao vào hầm chứa nằm dưới nền bếp. Laura hỏi:

- Bố đâu?

Mẹ thổi tắt ngọn đèn:

- Bố đã ra ngoài, đang ngắm mây. Bố có thể tới đây thật nhanh vì mình đã dẹp sẵn đường cho Bố.

Grace gần như thì thầm:

- Tại sao tắt đèn, Mẹ?

Mẹ nói:

- Các con mặc quần áo cẩn thận vào. Mình không cần đèn, Grace. Mình không muốn mạo hiểm với lửa.

Tất cả nghe rõ tiếng gió gầm với một nét hoang dại lạ lung chen trong tiếng gió.

Những ánh chớp lóe sáng trong bóng tối. Phía trên bếp có ánh lửa sáng hơn trong một lúc, rồi bóng tối đen đặc hơn và giống như đè nặng vào hốc mắt.

Mẹ quấn đồ cho Grace trong lúc Laura và Carrie mặc quần áo. Sau đó, tất cả ngồi bệt trên nền đất tựa lưng vào các vách đất và chờ đợi.

Laura biết họ hoàn toàn bình an khi ở trong hầm chứa, nhưng cô khó chịu đựng nổi cảm giác giam mình ở dưới đất. Cô muốn được đi ra ngoài gió cùng với Bố ngắm nhìn giông bão. Gió vẫn gào.

Chớp lóe tắt đập vào những con mắt mở lớn của cô. Trên nhà bếp, chiếc đồng hồ không cần biết đến giông bão, going lên một tiếng.

Hình như rất lâu trước khi có giọng nói của Bố vọng qua bóng tối:

- Tất cả lên được rồi, Caroline. Bão đã chuyển về phía tây, giữa vùng này và Wessington Hills.

Laura hỏi:

- Ôi, Bố! Bão không thổi gần nhà của Cha Brown chứ?

Bố đáp:

- Không. Bố nghĩ nhà mình khó đứng vững nổi nếu bão thổi gần.

Lập cập co rúm người vì ngồi lâu dưới hầm lạnh, tất cả bò lên và để nguyên quần áo đi ngủ tiếp.

Suốt tháng Tám trời nóng và có bão lien tục. Nhiều lần Mẹ đánh thức Laura và Carrie trong đêm để chạy xuống hầm cùng với Mẹ và Grace trong lúc Bố ngắm những đám mây giông. Gió thổi dữ dằn nhưng không phải gió xoáy và cơn bão tệ nhất đã di chuyển về miền tây.

Khiếp hãi khi sống trong những đêm kinh hoàng đó, Laura vẫn cảm thấy một sự thích thú lạ lùng với tiếng gió điên cuồng, những tia chớp tuyệt đẹp và tiếng sấm nổ ran.

Nhưng vào buổi sáng, tất cả đều mệt nhừ, mắt nặng trĩu. Bố nói:

- Hình như bắt buộc phải có nhiều cơn giông như thế. Nếu mình tránh khỏi chúng trong các cơn bão tuyết mùa đông thì bắt buộc phải gặp chúng trong các cơn bão xoáy và mưa giông mùa hè.

Mẹ nói:

- Mình chẳng thể làm gì hơn với chúng nên cần phải canh chừng khi chúng ập đến.

Bố đứng lên khỏi bàn, vươn vai ngáp:

- Thôi, anh sẽ ngủ khi mùa giông bão qua. Lúc này phải đi cắt lúa.

Bố lại đang cắt lúa mạch và lúa mì bằng chiếc hái cũ. Tiền thuê máy gặt cao hơn số tiền Bố có và Bố không đủ sức mua trả góp một chiếc.

Bố nói:

- Đem cầm cố hết thảy những thứ có được để mua thiếu một chiếc máy giá hai trăm đồng với mười phân tiền lãi sẽ hủy hoại một người. Cứ để những tay trẻ nghênh ngang đi mua thiếu máy và cắt tất cả đất đai của họ. Anh sẽ để cỏ mọc rồi cắt cho bò ăn.

Từ khi bán con bê lớn, con của Ellen, để gửi Mary tới trường, Bố đã mua lại được một con bò cái khác. Con bê con của Ellen đã lớn cùng những con bê khác và lúc này Bố có cả thảy sáu con bò lớn bé, chưa kể những con bê sẽ có trong năm này nên Bố cần cắt cỏ nhiều để phơi khô.

Vào ngày Chủ Nhật cuối cùng của tháng Tám, Almanzo lái xe tới chỉ có một mình Barnum kéo. Barnum vẫn đá hậu nhưng Laura rất nhanh. Trước khi bàn chân của nó đặt xuống đất trở lại, cô đã an toàn trên chiếc ghế ngồi trong xe.

Khi Barnum tới gần thị trấn, nhịp phi của nó đã đều hơn. Almanzo giải thích:

- Tôi muốn tập cho nó kéo một mình. Nó to, khỏe và với vóc dáng như thế kia nó xứng đáng là con ngựa kéo một mình. Dù vậy, nó vẫn giữ nguyên cách mở đầu.

Laura đồng ý:

- Nó thật đẹp và tôi tin nó thực sự ngoan ngoãn. Hãy để tôi điều khiển nó, tôi thích thử coi nó có làm nổi không.

Almanzo có vẻ do dự nhưng vẫn trao dây cương cho cô. Anh nói:

- Hãy giữ thẳng cương. Đừng để nó chiếm mất lợi thế của cô.

Từ trước Laura không nhận ra bàn tay của cô nhỏ nhắn như thế. Chúng có vẻ quá nhỏ để nắm chắc những dây cương kia, nhưng cô rất khỏe. Cô lái xe vòng khúc quanh chỗ kho hàng của cửa tiệm Pearsonos và chạy thẳng lên phố Main trong lúc Barnum phóng nhanh tối đa.

Almanzo nói:

- Cô có thấy mọi người quay lại ngắm không? Họ chưa từng thấy một người phụ nữ điều khiển con ngựa này.

Laura không nhìn thấy gì ngoài Barnum. Cô lái băng đường sắt, xuyên qua khu đất trống Poverty Flat mới được mở của thị trấn. Nhưng tay cô đã mỏi và ra khỏi thị trấn một đoạn ngắn, cô trao lại dây cương cho Almanzo. Cô nói với anh:

- Nghỉ cho khỏe tay một lát, tôi sẽ cầm cương lại.

Anh hứa:

- Cô cứ làm. Cô có thể cầm cương bất cứ lúc nào thích. Như thế tôi cũng được nghỉ tay.

Lần kế tiếp cầm cương cô cảm thấy linh hoạt hơn. Qua những dây cương, cô nhận thấy một cảm giác từ miệng của Barnum. Một cảm giác lan truyền từ những sợi dây tới các bàn tay của cô. Cô ngạc nhiên nói:

- Tôi tin là Barnum biết tôi đang điều khiển nó.

- Dĩ nhiên nó biết. Nó không kéo mạnh quá. Hãy ngắm nó này!

Almanzo cầm lấy dây cương. Ngay lập tức, dây cương thẳng lên gần như kéo căng ra. Almanzo nói:

- Với tôi, nó hơi đe dọa một chút.

Đột nhiên, anh chuyển đề tài:

- Cô có biết thầy giáo cũ của cô, ông Clewett, sắp mở lớp dạy hát không?

Laura không nghe nói về việc này. Almanzo nói:

- Tôi rất thích có cô đi cùng với tôi tới đó, cô chịu không?

Cô trả lời:

- Tôi rất thích.

- Tốt, tối Thứ Sáu tới. Tôi sẽ tới đón cô vào lúc bảy giờ.

Almanzo nói tiếp về con ngựa:

- Nó đã được tập đi bộ. Tuy nhiên nó không khi nào chịu đi thong thả khi được đóng vào xe. Dường như nó nghĩ rằng cứ tiếp tục chạy nhanh là nó có thể rời khỏi cỗ xe.

Laura nói:

- Để tôi điều khiển nó lại coi.

Cô thích cái cảm giác từ miệng Barnum truyền lên bàn tay của mình qua dây cương. Rõ rang là cô không phải kéo quá mạnh khi cô cầm dây cương.

- Nó ngoan ngoãn thực sự.

Cô nói lại dù cô biết nó luôn luôn là một con ngựa chạy hoảng.

Suốt buổi chiều hôm đó, cô luân phiên cầm cương với Almanzo và trước khi dừng xe trước nhà cho cô xuống, anh nhắc cô nhớ:

- Tối Thứ Sáu, lúc bảy giờ. Tôi sẽ đưa Barnum tới một mình và nó có thể giở quẻ, hãy sẵn sàng.

22. LỚP DẠY HÁT

Lớp học bắt đầu vào hôm sau tại ngôi trường mới xây bằng gạch ở phố Third trong thị trấn.

Ngôi trường có hai tầng và hai thầy giáo. Học trò nhỏ ở tầng dưới và học trò lớn ở tầng trên.

Laura và Carrie đã ở trong gian phòng trên gác. Phòng có vẻ lạ và vắng khi không có đám học trò nhỏ. Tuy nhiên, gần hết chỗ ngồi đã kín với đám con trai và con gái lạ. Chỉ còn vài hàng ghế sau trống chỗ và những chỗ này cũng sẽ đầy khi thời tiết quá lạnh không thể tiếp tục làm việc đồng và đám con trai kéo tới trường.

Giờ giải lao, Laura và Ida đứng bên một cửa sổ trên gác nhìn xuống đám học trò đang chơi ở ngoài sân, nói chuyện với Mary Power, Mannie Johnson. Ida cùng Elmer sẽ tới lớp dạy hát tối Thứ Sáu và Minnie cũng tới với anh trai Arthur còn Mary Power tới với người bạn trai mới là Ed.

- Mình đang tự hỏi sao không thấy Nellie Oleson tới trường.

Laura thắc mắc và Ida nói:

- Ô, bạn không nghe nói sao? Cô ta về New York rồi.

- Khó tin là thực!

- Đúng mà, cô ta đã về đó sống với những người bà con. Các bạn biết mình đánh cá điều gì không, mình đánh cá là cô ta sẽ kể không ngừng về cuộc sống tuyệt vời kỳ diệu ở miền tây!

Ida cười và tất cả cùng cười.

Giữa đám con gái mới tới, một người ngồi đơn độc. Cô ta có mái tóc hung, cao, thanh mảnh và có vẻ không vui. Đột nhiên Laura biết cô ta đang cảm thấy thế nào. Tất cả đều đang có những giờ khắc thoải mái còn cô ta ngồi tách biệt, cô đơn và bẽn lẽn như Laura thường cảm thấy.

Laura nói khẽ:

- Cô gái mới kia có vẻ khá xinh và có vẻ đơn độc. Mình tới nói chuyện với cô ấy.

Cô gái mới tên là Florence Wilkins. Cha cô có đất trại ở phía tây bắc thị trấn và cô có ý định trở thành giáo viên. Laura chỉ vừa ngồi nói chuyện với cô một lát thì các cô kia rời cửa sổ tới bao quanh họ. Florence không tới lớp dạy hát vì ở quá xa.

Tối Thứ Sáu, Laura mau chóng chuẩn bị xong vào lúc bảy giờ trong chiếc áo lụa nâu, chiếc mũ nhung nâu và Almanzo cũng hối hả tới lúc bảy giờ. Barnum dừng lại và Laura phóng lên nhanh tới mức Almanzo thúc nó khởi hành trước khi nó kịp nhấc chân lên đá hậu. Almanzo nói:

- Đây là lần đầu tiên nó chậm hơn trong việc đá hậu. Có lẽ một lúc nào đó, nó sẽ quên.

Laura ngờ vực:

- Có lẽ.

Cô bỗng trích dẫn một câu thơ:

- Ong tháng Năm không bay trong tháng Chín.

Lớp dạy hát ngay trong nhà thờ và khi tới thị trấn, Almanzo nói tốt hơn là họ sẽ về sớm một chút trước khi mọi người ra vì đám đông bu quanh có thể khiến Barnum căng thẳng. Laura đáp:

- Lúc nào tới giờ, ông cứ rời lớp, tôi sẽ ra theo.

Almanzo cột Barnum vào một cây cọc buộc ngựa rồi cả hai bước vào nhà thờ sáng trưng. Anh trả học phí cho cả hai người và mua một tập bài hát. Lớp học đã sẵn sang và thầy Clewett chỉ chỗ ngồi cho họ. Ông sắp những người hát giọng trầm vào một nhóm, nhóm khác gồm những người giọng nam cao tenor, còn những người giọng nữ cao soprano và giọng nam cao nhất alto cũng phân thành hai nhóm.

Rồi, ông dạy tên và giá trị các nốt nhạc, nốt nhấn, nốt láy, nốt lặng và các khóa son cùng thăng, giáng. Sau đó, ông cho phép nghỉ giải lao một lát và người trong các nhóm xúm lại chuyện trò, cười đùa cho tới khi thầy Clewett nhắc giữ trật tự.

Họ tập xướng các nốt nhạc. Thầy Clewett xướng âm bằng chiếc âm thoa, lập lại nhiều lần cho tới khi hết thảy đều xướng âm gần đúng với từng nốt thì bắt đầu xướng âm theo một chuỗi nốt đồ, rê, mi, fa, son, la, si, đố. Mệt nhoài vì phải lên cao dần nhưng tất cả các giọng đều vui vẻ lập lại đồ, rê, mi, fa, son, la, đố!

Lên rồi xuống, lại lên rồi xuống, tất cả hát, khi trúng khi trật, nhưng luôn luôn nhiệt tình.

Laura ngồi ở ghế cuối và thấy Almanzo ra dấu cho mình. Khi anh bước nhanh ra khỏi cửa, cô lặng lẽ lẻn ra theo.

Trong lúc họ vội vã ra xe, anh nói:

- Tôi sẽ giúp cô bước lên trước khi cởi dây buộc. Nó có thể đá hậu ngay khi được cởi dây, nhưng không đá trước đó, nếu cô không kìm chặt dây. Hãy giữ chặt nhưng đừng kéo dây cho tới khi nó bắt đầu khởi hành. Tôi sẽ cố gắng phóng lên trước khi nó nhào đi, nhưng nếu tôi không làm nổi thì cô phải kìm nó. Bỏ mặc cho nó chạy nhưng không cho nó chạy hoảng. Lái nó xung quanh nhà thờ và qua trước tôi. Đừng sợ, cô có thể điều khiển nó. Cô làm được, cô biết mà.

Cô không bao giờ điều khiển ngựa khi nó khởi hành, Laura nghĩ vậy nhưng không nói gì. Leo nhanh lên xe, cô ngồi vào chỗ và cầm lấy dây cương đang bỏ nằm trên bửng xe. Cô nắm chặt nhưng không kéo cho chúng chuyển động.

Tại cọc buộc, Almanzo cởi dây cho Barnum. Đúng lúc đầu nó được thả lỏng, Barnum đá hậu.

Dâng cao, dâng cao mãi cho tới khi nó gần như đứng trên các chân sau rồi đổ người xuống và phóng chạy trước khi Laura kịp thở ra. Những chiếc bánh xe rời khỏi mặt đất và nẩy mạnh lên.

Laura kìm dây một cách quyết liệt. Barnum phóng chạy thẳng ra cánh đồng trước nhà thờ. Cô kéo quyết liệt hơn với cánh tay phải rồi với cánh tay trái và như để làm vui cho cô, Barnum quẹo về hướng đó. Nó chạy cực nhanh theo một vòng tròn rất khớp. Nhà thờ xoay tít ở chính giữa vòng tròn và khi bọc vòng lại, Laura dồn hết sức vào tay kìm cả hai sợi dây cương cho ngang nhau. Nhưng Barnum không ngưng lại. Cỗ xe vụt qua ngang Almanzo vẫn đang đứng ngay cọc buộc.

Cái nhảy đầu tiên của Barnum khiến trái tim Laura cũng nhảy theo lên tới ngang họng và khiến cô nghẹn thở. Lúc này cỗ xe đã lại ở ngoài đồng. Cô kìm mạnh dây cương tay phải và Barnum lại đảo theo. Sườn bên kia nhà thờ đang vùn vụt tiến tới trước mặt cô và Laura kéo cả hai dây cương.

Barnum gần như ngưng hẳn lại rồi với một cái đá hậu, nó lại phóng đi.

Lần này trái tim Laura nằm nguyên tại chỗ. Cô kéo mạnh tay phải và Barnum rẽ vòng theo một cách gọn gàng. Cỗ xe chạy quanh nhà thờ và Laura hơi nhỏm lên khỏi ghế. Với tất cả sức lực, cô kìm cương. Và Barnum ngưng lại. Ngay lập tức nó đá hậu và nhảy lên, phóng nữa.

Laura nghĩ:

- Ổn rồi, chạy đi.

Cô nắm chặt dây, điều khiển nó chạy vòng tròn trên đồng cỏ và cô lại trụ chân, tận lực kéo cương. Lần này, Almanzo leo được lên xe. Ngay khi anh vừa nhảy lên, cánh cửa nhà thờ mở ra. Tất cả đám học viên túa ra và một vài người hét:

- Cần giúp không?

Barnum tung thẳng người lên không và rớt xuống phóng chạy. Bàn tay Almanzo nắm chặt đầu dây cương trước tay Laura kéo lại cho cô buông ra. Cô mừng là anh đã nắm dây cương.

Anh nói:

- Vừa đúng lúc. Mình sẽ không khi nào thoát ra nổi khi đám đông xúm lại xung quanh. Quá mệt cho cô hả?

Laura còn đang run. Hai bàn tay cô ê ẩm và khó giữ hàm răng khỏi va vào nhau, nên cô chỉ nói:

- Ô, không.

Almanzo nói với Barnum một hồi và nó mau chóng bắt đầu chạy theo nước kiệu. Rồi Laura lên tiếng:

- Barnum không hề xấu. Nó chỉ mệt vì phải đứng im quá lâu.

Almanzo nói:

- Hẳn nhiên nó phát điên vì chuyện đó. Lần sau mình ra vào lúc giải lao.

Anh nói thêm:

- Hãy kéo dài thêm đường về nhà bằng chuyến đi dạo xe trong một đêm đẹp như thế này.

Anh lái Barnum tới con đường qua phía tây đầm Big Slough. Gió thổi nhẹ trên đồng cỏ và phía trên mặt đất mờ tối lơ lửng những chum sao lớn lung linh tỏa sáng.

Dần dần Barnum chạy đều và hiền lành như chính nó cũng đang tận hưởng cái tĩnh lặng của trời đêm và ánh sao sáng.

Almanzo nói một cách êm ả:

- Tôi không biết khi nào tôi đã thấy những vì sao như thế.

Rồi Laura bắt đầu hát nho nhỏ:

Chơi vơi sao sáng chơi vơi

Dạo quanh thả sức vui cười tự do

Đó đây chìm đắm mơ hồ

Chỉ còn những tiếng nhỏ to chúng mình

Như bầy tiên nữ xinh xinh

Sau rừng thấp thoáng bóng hình mảnh mai

Tiếng ca lơ lửng ngang trời

Giọng ca ngọt lịm trọn đời còn say

Bài ca bay tới ai đây

Hay cho riêng trái tim này mà thôi

Chơi với sao sáng chơi vơi

Dạo quanh thả sức vui cười tự do

Barnum dừng trước cửa và đứng lặng lẽ trong lúc Laura xuống xe. Almanzo nói:

- Tôi sẽ tới chiều Chủ Nhật.

Laura đáp:

- Tôi chờ.

Rồi cô bước vào nhà.

Bố Mẹ đang thức đợi cô. Mẹ khẽ thở ra nhẹ nhõm và Bố hỏi:

- Con ngựa chết tiệt của Wilder lái đi đêm ổn không?

Laura nói:

- Nó đã thực sự thành một con ngựa ngoan ngoãn. Và nó đã chịu đứng im khi con xuống xe. Con thích nó.

Mẹ bằng lòng nhưng Bố nhìn nhanh cô. Không phải sự dối trá, cô đã nói đúng sự thực, nhưng cô không thể nói về việc cô đã điều khiển Barnum ra sao với Bố Mẹ. Điều đó sẽ khiến Bố Mẹ lo ngại và Bố Mẹ có thể không cho phép cô tiếp tục đi dạo xe nữa. Cô có ý định điều khiển Barnum. Khi cô và Barnum đã quen với nhau, có thể, chỉ là có thể, cô sẽ khiến nó dễ thương.

23. BARNUM THẢ BƯỚC

Chủ Nhật sau Barnum vẫn tệ như thế. Nó không chịu dừng lại và Laura phải đợi tới lần thứ Barnum mới phóng nổi lên xe. Rồi nó đá hậu và cố vùng thoát, kéo mạnh tới nỗi sau một hồi, Almanzo than phiền:

- Nó như đang kéo tung cỗ xe và cả hai cánh tay tôi.

Laura đề nghị:

- Để tôi thử coi. Anh nghỉ tay một lát.

Almanzo đồng ý:

- Được. Một lát thôi, nhưng cô sẽ phải kìm hết sức.

Anh buông dây cương khi cô nắm chắc ngay phía sau bàn tay của anh. Cánh tay của Laura phải chịu sức kéo của Barnum; sức của nó truyền lên những sợi dây cùng với cái cảm giác mà cô đã cảm thấy từ trước. Ôi, Barnum! Cô thầm năn nỉ, đừng kéo quá mạnh, tôi rất thích điều khiển bạn.

Barnum đã nhận ra sự thay đổi người cầm cương và hơi vươn dài cổ tới trước, nhận ra chiếc hàm thiếc, rồi nước phi của nó chậm hơn. Nó đảo theo góc quanh gần kho hàng và đạp bước đều đều trên đường.

Barnum đang lơi bước. Almanzo im lặng và Laura khó hít thở nổi. Từng chút, từng chút thật nhẹ cô nới dây cương. Barnum tiếp tục lơi bước. Con ngựa hoang, con ngựa chạy hoảng, con ngựa không khi nào chịu thả bước khi đóng vào xe, đã thả bộ hết trọn chiều dài của phố Main. Nó vươn tới hai lần nhận rõ chiếc hàm thiếc trong miệng như đang làm một việc thích thú, cổ vươn cao bước đi kiêu hãnh.

Almanzo nói khẽ:

- Hơi kéo căng dây lên một chút để ngăn nó không nhảy lên.

- Không.

Laura đáp:

- Tôi đang để nó mang chiếc hàm thiếc một cách dễ dãi hơn. Tôi nghĩ nó thích thế.

Dọc phố, mọi người đều ngưng lại nhìn. Laura không thích bị nhòm ngó, nhưng lúc này cô biết cô không nên rối trí, cô cần bình tĩnh giữ cho Barnum thả bước chậm. Cô gần như thì thầm trong lúc nhìn thẳng vào những chiếc tai thản nhiên của Barnum:

- Ước gì không có ai ngó.

Cũng hạ thấp giọng, Almanzo nhắc:

- Họ đang chờ nó lôi chúng mình chạy hoảng. Tốt hơn là không nên để nó thả bước cho tới lúc nó tự động phóng. Hãy kéo căng dây một chút và giục nó đi. Lúc đó nó sẽ hiểu rằng nó phóng chạy là do cô muốn.

Laura đề nghị:

- Ông điều khiển nó đi.

Cô cảm thấy hơi rối trí do căng thẳng.

Almanzo nắm dây cương và khi anh ra lệnh, Barnum phóng chạy. Lúc đó anh hỏi:

- Này, tôi đúng là chết tiệt! Làm sao cô làm được điều đó? Kể từ khi có nó, tôi vẫn cố sức làm cho nó thả bộ. Cô đã làm gì?

Laura đáp:

- Tôi chẳng làm gì cả. Nó thực sự là một con ngựa ngoan ngoãn.

Suốt thời gian còn lại của buổi chiều, Barnum đi hoặc chạy theo sự sai khiến và Almanzo khoe:

- Nó sẽ ngoan như một con cừu non lần sau này.

Anh đã lầm. Tối Thứ Sáu, Barnum lại không chịu đứng và cuối cùng, khi Laura đã lên xe, Almanzo nhắc cô là họ cần rời lớp học trong giờ giải lao. Nhưng, mặc dù không bị buộc quá lâu trước đó, con ngựa vẫn nổi điên khiến Laura phải chạy vòng quanh nhà thờ cho tới khi lớp học hát tan họ mới rời xa được.

Laura rất thích lớp học hát. Khởi đầu từ xướng âm từng nốt họ học lên, rồi thầy Cleweet dạy họ một bài đơn giản, bài đầu tiên trong sách hát. Ông bắt nhịp với chiếc âm thoa nhiều lần cho tới khi giọng ca của họ gần đúng. Lúc đó, họ hát:

Buồn vui no gió căng phồng

Nước xanh song vỗ bềnh bồng thuyền trôi

Khi tất cả hát bài này nhuần nhuyễn, họ được dạy bài khác. Đây là bài ca về cỏ:

Bao quanh cửa ngõ mọi nhà

Giàu sang, nghèo khó lân la mỉm cười

Tôi đang nhích tới với người!

Lan nhanh khắp chốn khắp nơi quản gì.

Sau đó, họ hát xoay vòng:

Ba con chuột mù biết đường nào chạy

Chạy miết theo sau bà vợ chủ nhân

Dao bén trong tay, bà chặt cụt đuôi

Ba con chuột mù biết đường nào chạy

Chạy miết theo sau…

Giọng trầm đuổi theo giọng nam cao, giọng nam cao đuổi theo giọng alto, giọng alto đuổi theo giọng nữ cao rồi lại vòng trở lại cho tới khi tất cả mệt lả, lạc giọng và cười vui. Không gì thú vị hơn! Laura thường hát được lâu hơn mọi người vì Bố đã dạy cô cùng Carrie, Grace hát bài Ba con chuột mù này từ trước.

Barnum đã trở nên ngoan ngoãn tới mức Laura và Almanzo có thể ngồi tới cuối buổi học và trong giờ giải lao anh cùng các thanh niên khác moi các bọc kẹo trong túi ra đi chia cho các cô gái. Có những viên kẹo bạc hà sọc trắng-hồng, những que kẹo chanh, những chiếc kẹo đắng. Và trên đường về, Laura cất tiếng hát:

Niềm vui tuổi xanh lớn không kể xiết

Một cây đu trước nhà mẹ đung đưa

Chiếc kẹo ngọt mãi không tan trong miệng

Bước ngược xuôi nam bắc chẳng bến bờ

Dù lệ thườn không được quên giây phút

Vẫn tới trường thỏa sức cất tiếng ca.

Almanzo nói:

- Tôi không vô lý khi nghĩ rằng cô thích tới lớp dạy hát. Cô luôn luôn hát.

Mỗi buổi học, lớp lại hát nhiều hơn theo cuốn sách hát. Đêm sau cùng, tất cả hát bản thánh ca ở cuối sách, trang một trăm bốn mươi bốn. bài Thiên Đường Báo Tiệp Vinh Quang.

Sau đó, lớp học chấm dứt. Những buổi tối vui vẻ không còn nữa.

Barnum không còn đá hậu và chồm tới. Nó khởi bước nhanh bằng một cú nhảy nhẹ vào nhịp chạy êm. Không khí se lạnh với những hơi gió mùa đông đang tới. Sao sáng và treo thật thấp trên bầu trời đầy sương mù. Laura ngắm những vì sao và hát lại bài thánh ca:

Thiên đường vang lời vinh danh Chúa

Bàn tay Ngài tạo dựng trời xanh

Ngày nối ngày xôn xao muôn thuở

Đêm theo đêm hiển lộ tinh anh

Mọi diễn tả không còn ý nghĩa

Trong âm vang lời nói vô thanh.

Không có một âm thanh nào ngoài tiếng chân Barnum gõ đều đều trên con đường chạy dọc theo đồng cỏ.

- Hát bài Ánh Sao Sáng đi.

Almanzo yêu cầu và Laura lại hát nho nhỏ:

Chơi với sao sáng chơi vơi

Ánh sao lay động sáng ngời sương đêm

Họa mi cất tiếng dịu êm

Giọng ca tình tự ngả nghiêng đóa hồng

Đêm hè tĩnh lặng mênh mông

Gió hiu hiu giỡn trên đồng thênh thang

Nhà ai rạng ánh đèn vàng

Khiến ai nhẹ bước trên đường phân vân

Xa xa nước bạc thì thầm

Ngân vang tiếng gọi ân cần biển khơi

Chơi vơi sao sáng chơi vơi

Dạo quanh thả sức vui cười tự do.

Im lặng lại trở lại và giữ nguyên trong lúc Barnum giữ đều nhịp bước quay qua phía bắc hướng về nhà. Rồi Laura lên tiếng:

- Tôi đã hát cho anh nghe, bây giờ tôi sẽ trả một penny để được nghe ý kiến của ông.

- Tôi đang tự hỏi…

Almanzo ngưng lại. Rồi bàn tay nâu sạm của anh đặt lên bàn tay của Laura đang sáng trắng dưới ánh sao và nắm lại. Từ trước, anh chưa bao giờ làm thế. Anh nói:

- Bàn tay cô nhỏ quá.

Lại ngưng. Rồi nói nhanh:

- Tôi đang tự hỏi liệu cô có thích một chiếc nhẫn hứa hôn không.

Laura nói với anh:

- Chuyện đó tùy thuộc ai là người trao nhẫn.

Almanzo hỏi:

- Nếu là tôi?

Laura đáp:

- Lúc đó lại tùy chiếc nhẫn.

Chủ Nhật sau đó, Almanzo tới muộn hơn thường lệ.

- Rất tiếc tôi tới quá trễ.

Anh nói khi Laura đã ngồi yên trong xe và họ đang cho xe chạy. Laura đáp:

- Mình có thể đi dạo một chuyến ngắn hơn.

Almanzo nói với cô:

- Nhưng mình đã tính là tới hồ Henry. Đây là dịp cuối để thấy những dây nho dừng, lúc này chúng đã đóng tuyết rồi.

Chiều hôm đó là một chiều nóng ấm trong năm. Hai bên con đường hẹp chạy giữa khu hồ đôi những trái nho rừng đã chin treo lủng lẳng trên các dãy quấn quanh đám cây lớn. Almanzo cho xe chạy chậm và từ trong xe, anh cùng Laura với tay ngắt những chum nho. Họ nhấm nháp những trái nho ngọt chua khi ngắm mặt hồ gợn song trong nắng và lắng nghe tiếng song va nhẹ vào bờ.

Khi họ lái xe trở về, mặt trời đã lặn xuống phía trời tây đỏ cháy. Ánh hoàng hôn đang buông trên đồng cỏ và gió chiều thổi nhẹ lùa qua xe.

Lúc đó, Almanzo cầm cương bằng một tay còn tay kia nhấc bàn tay Laura lên và cô cảm thấy một thứ gì mát rượi trượt trên ngón tay trỏ trong lúc anh nhắc cô:

- Cô đã nói chuyện đó tùy thuộc vào chiếc nhẫn. Cô nghĩ về chiếc nhẫn này thế nào?

Laura đưa cao bàn tay lên dưới ánh sáng đầu tiên của mặt trăng vừa mọc. Ánh vàng của chiếc nhẫn và mặt phẳng hình bầu dục của nó long lánh trong ánh trăng mờ nhạt. Ba hạt đá nhỏ gắn trên mặt hình bầu dục sáng lóa. Almanzo nói với cô:

- Ở giữa là viên hồng ngọc còn mỗi bên là một hạt ngọc trai.

Laura nói:

- Đúng là một chiếc nhẫn đẹp tuyệt. Tôi nghĩ… Tôi thích có chiếc nhẫn này.

- Vậy hãy giữ nó luôn. Nó là của em và mùa hè tới anh sẽ dựng một ngôi nhà nhỏ trong khu rừng trên đất trại. Nó sẽ phải là một ngôi nhà nhỏ. Em có nghĩ thế không?

Laura đáp:

- Em vẫn luôn luôn sống trong những ngôi nhà nhỏ. Em rất thích chúng.

Họ đã về gần sát nhà. Ánh đèn rọi ra từ các khung cửa sổ và Bố đang đàn. Laura biết rõ bài ca là bài mà Bố thường hát cho Mẹ nghe. Giọng Bố bay lên theo điệu nhạc và Bố hát:

Lâu đài này dựng cho người yêu dấu

Trên mảnh đất lành mơ ước xa xăm

Hãy tới cùng ta, hỡi người trong mộng

Tình cô đơn đang day dứt bang khuâng

Hạnh phúc lứa đôi ngọt ngào hơn mật

Hạnh phúc lứa đôi quí nhất trẻn trần!

Những nỗi nhớ thương tranh nhau cùng kể

Những nụ hôn dài ghi dấu trăm năm.

Barnum lặng lẽ trong lúc Laura và Almanzo đứng bên cỗ xe nghe tới khi Bố hát dứt bài ca.

Rồi Laura ngước lên nhìn ánh trăng mờ ảo và nói:

- Anh hôn chào tạm biệt em đi.

Sau nụ hôn đầu tiên, cô bước vào nhà khi Almanzo lái xe đi.

Bố đặt cây đàn xuống khi Laura bước vào. Ánh mắt Bố hướng về phía ngón tay của cô c chiếc nhẫn lấp lánh phản chiếu ánh đèn. Bố nói:

- Bố đã được xem làm chiếc nhẫn đó. Hôm qua, Almanzo nói chuyện với Bố và Bố nghĩ chiếc nhẫn đó sẽ ổn.

Mẹ dịu dang lên tiếng:

- Chỉ cần con biết chắc chắn, Laura. Nhiều lúc Mẹ đã nghĩ con có vẻ lưu tâm nhiều đến lũ ngựa hơn là chủ của chúng.

Laura trả lời giọng run run:

- Con không thể cứ sống một mình không có ai khác.

Rồi Mẹ mỉm cười với cô còn Bố hắng giọng và cô biết Bố Mẹ hiểu cô đang quá mắc cỡ không nói nổi.

24. ALMANZO ĐI XA

Ngay khi ở nhà Laura cũng cảm thấy chiếc nhẫn quá lộ liễu. Vòng ôm nhẹ nhàng của nó thật kỳ lạ trên ngón trỏ của cô và viên hồng ngọc cùng những hạt ngọc trai không ngừng phản chiếu ánh sáng. Trên đường tới trường vào sáng hôm sau, đã nhiều lần gần như cô muốn tháo nó ra và buộc vào trong chiếc khăn tay để giữ kín. Nhưng, cuối cùng thì cô đã đính hôn và không thể nào dấu kín mãi.

Cô không ngờ rằng mình đến trường trễ vào sáng hôm đó. Chỉ còn vừa đủ thời gian ngồi vào chỗ cùng với Ida trước khi thầy Owen lên tiếng yêu cầu giữ trật tự, và cô mở sách thật nhanh để che bàn tay trái của mình. Nhưng đúng lúc cô bắt đầu học, một tia sáng đập vào mắt cô.

Bàn tay trái Ida vẫn để trên bàn và Laura nhìn rõ một vòng nhẫn vàng lớn trên ngón tay trỏ của bạn.

Laura nhìn từ chiếc nhẫn tới nụ cười của Ida đang đỏ bừng mặt và ánh mắt bẽn lẽn. Rồi cô không thể giữ đúng trật tự lớp học, thì thầm:

- Elmer?

Ida đỏ mặt nhiều hơn, gật đầu. Lúc đó, Laura chỉ cho Ida thấy bàn tay trái của mình đang ở dưới cạnh bàn.

Mary Power, Florence và Minnie nôn nóng mong tới giờ giải lao để chụp lấy các cô và ngắm nghía những chiếc nhẫn. Mary Power nói:

- Nhưng mình thấy tiếc khi các bạn có những chiếc nhẫn này. Vì mình nghĩ rằng hai bạn sẽ rời lớp học.

Ida bác bỏ:

- Không có chuyện đó với mình. Dù sao mình vẫn tới trường trong mùa đông này.

Laura nói:

- Mình cũng vậy. Mình muốn lấy thêm một chứng chỉ nữa vào mùa xuân.

Florence hỏi:

- Bạn sẽ đi dạy vào mùa hè tới?

Laura đáp:

- Nếu mình kiếm được một trường để dạy.

Florence nói với mọi người:

- Mình có thể kiếm được một trường trong khu của mình, nếu mình có một chứng chỉ. Nhưng mình sợ kỳ thi giáo viên.

Laura khích lệ:

- Ồ, bạn sẽ vượt qua mà. Không có nhiều khó khăn đâu, nếu bạn không rối trí và không quên những điều bạn đã biết.

Mary Power nói:

- Này, mình không hứa hôn mà cũng không đi dạy. Còn Ida thì thế nào? Bạn sẽ đi dạy không?

Ida cười:

- Không, thực sự không! Mình không bao giờ muốn đi dạy. Thà rằng mình ngồi giữ nhà. Bạn có nghĩ về lý do mình mang chiếc nhẫn này không?

Tất cả cùng cười với cô và Minnie hỏi:

- Rồi, Laura, tại sao bạn mang nhẫn? Bạn không muốn ngồi giữ nhà chứ?

Laura đáp:

- Ô, không. Nhưng Almanzo phải xây nhà trước đã.

Lúc đó, chiếc chuông mới trong mái vòm ngân vang và giờ giải lao chấm dứt.

Dạo này không còn lớp học hát nên Laura không mong gặp Almanzo trước ngày Chủ Nhật tới.

Cô ngạc nhiên khi Bố hỏi cô vào đêm Thứ Tư là có gặp Almanzo không. Bố nói với cô:

- Bố gặp cậu ta ở cửa hàng móng ngựa. Cậu ta nói sẽ gặp con sau buổi học nếu thu xếp kịp, còn nếu không thì Bố nhắn giúp với con rằng cậu ta không còn thời gian. Hình như cậu ta và Royal sẽ đi vào Chủ Nhật tới về Minnesota. Có một điều gì đó xảy ra và Royal đi sớm hơn dự tính.

Laura choáng người. Cô đã biết Almanzo và anh trai trù tính qua mùa đông cùng gia đình ở Minnesota, nhưng anh không tính đi sớm. Cô thấy choáng vì tất cả nếp sinh hoạt thường lệ bị bẻ gãy đột ngột. Sẽ không còn những chuyến dạo xe vào ngày Chủ Nhật nữa.

Cô nói:

- Vậy có thể tốt hơn. Họ sẽ chắc chắn về tới Minnesota trước khi tuyết rơi.

Bố tán thành:

- Đúng, họ có thể có một chuyến đi trong thời tiết tốt. Bố có nói với cậu ta là Bố sẽ giúp trông nom con Lady trong lúc họ đi vắng. Cậu ta cũng để cỗ xe của cậu ta tại đây và cậu ta nói con mặc sức điều khiển con Lady, Laura.

- Ôi, Laura! Chị cho em theo đi dạo không?

Carrie hỏi và Grace kêu:

- Em nữa, Laura! Em cũng theo chứ?

Laura hứa sẽ làm nhưng trọn thời gian còn lại của tuần lễ trống vắng một cách lạ lùng. Từ trước cô không nhận ra là suốt tuần cô vẫn thường chờ đợi những chuyến dạo xe trong ngày Chủ Nhật.

Sáng sớm Chủ Nhật kế tiếp, Almanzo và anh trai Royal cùng tới. Royal điều khiển cặp ngựa của anh ta được đóng vào cỗ xe chở hàng. Almanzo điều khiển Lady đóng một mình vào cỗ xe độc mã bóng loáng. Bố chờ sẵn ngoài chuồng ngựa để gặp họ và Almanzo đưa xe vào dưới lều chứa cỏ khô.

Tại đó, anh tháo Lady ra khỏi xe và cột trong chuồng.

Sau đó, để Bố và Royal nói chuyện, anh bước vào cửa bếp. Anh nói với Mẹ là không có thời gian ngưng lại nhưng muốn gặp Laura một lát.

Mẹ chỉ anh sang phòng khách và khi Laura buông rời việc vỗ phồng những chiếc nệm trên chỗ nằm dưới cửa sổ, chiếc nhẫn trên ngón tay cô lấp lánh trong ánh sáng sớm mai.

Almanzo mỉm cười:

- Chiếc nhẫn mới đang làm quen với bàn tay của em.

Laura hướng bàn tay ra ngoài nắng. Ánh vàng lóe sáng và viên hồng ngọc rực rỡ ở chính giữa mặt phẳng hình bầu dục trong khi những viên ngọc trai ép sát hai bên chiếu sáng chói chang một cách sang trọng. Cô nói:

- Chiếc nhẫn này đẹp lắm.

Almanzo đáp:

- Anh phải nói là bàn tay đẹp.

Rồi:

- Anh nghĩ là Bố đã nói với em về việc Royal và anh sẽ trở về nhà sớm hơn dự tính. Royal quyết định lái xe qua Iowa nên bọn anh phải lên đường ngay bây giờ. Anh đem Lady và cỗ xe tới để bất kỳ khi nào em muốn dùng cũng có sẵn.

Laura hỏi:

- Prince đâu?

- Một người hàng xóm đang giữ Prince và con ngựa con của Lady, còn giữ Barnum và Skip.

Anh cần cả bốn con vào mùa xuân.

Một tiếng huýt gió vang lên chói tai bên ngoài. Almanzo chấm dứt:

- Royal đang kêu, hãy hôn tạm biệt anh rồi anh đi.

Họ hôn nhau vội vã rồi Laura đi cùng với anh ra tới cửa và nhìn theo trong lúc anh cùng Royal rời xa. Cô cảm thấy bị bỏ rơi lại phía sau và không vui. Rồi Carrie níu khuỷu tay cô hỏi:

- Chị có thấy cô đơn không?

Giọng Carrie nghiêm trang đến mức Laura mỉm cười. Cô đáp một cách dứt khoát:

- Không, chị sẽ không cô đơn. Sau bữa ăn trưa, mình sẽ đóng Lady vào xe và cùng đi dạo.

Bố vào nhà và đi tới lò bếp. Bố nói:

- Có lửa thấy dễ chịu thật. Caroline, em nghĩ sao nếu trong mùa đông này mình ở đây thay vì dọn về thị trấn? Anh đang tính toán. Anh tin rằng sẽ cho thuê được ngôi nhà của mình ở thị trấn trong mùa đông này và nếu làm được việc đó, anh có thể bao giấy và đóng nẹp ngôi nhà này. Có thể sơn nó nữa.

Mẹ nói ngay:

- Đúng là có lợi đó, Charles!

Bố tiếp tục:

- Một điều khác nữa là lúc này mình có nhiều gia súc nên việc chuyển cỏ khô sẽ rất nặng nề.

Căn nhà này đóng nẹp kỹ phía ngoài và dán giấy dầy bên trong thì mình ở đây cũng ấm áp. Mình có thể đặt lò sưởi trong phòng khách và gom than dự trữ cho mùa đông. Có một hầm chứa đầy rau và ngoài đồng có sẵn bầu, bí. Ngay cả trường hợp mùa đông quá tồi tệ khiến anh không thể thường xuyên vào thị trấn thì mình cũng không lo ngại về chuyện đói rét.

Mẹ nói:

- Đúng thế. Nhưng, Charles, các con phải đi học và chúng sẽ đi bộ quá xa trong mùa đông. Bão tuyết cũng có thể xảy ra nữa.

Bố hứa:

- Anh sẽ lái xe đưa đón các con. Chỉ có một dặm đường nên sẽ đi rất nhanh với một cỗ xe trượt không chất nặng.

Mẹ hài lòng:

- Rất tốt. Nếu anh cho mướn được ngôi nhà trong thị trấn và muốn ở lại đây, em cũng vui với chuyện đó. Em rất mừng khi không phải di chuyển.

Thế là trước khi tuyết rơi, căn nhà trại đã gọn gàng mọi thứ. Lớp nẹp mới phía ngoài khiến căn nhà thực sự là một ngôi nhà chứ không còn là căn lều trại nữa. Phía trong, một lớp giấy xây dựng dày màu xám bọc kín các bức vách đã thành nâu sậm theo thời gian. Lớp giấy bọc khiến các phòng sáng hẳn lên và những tấm màn che màu trắng hồ cứng làm cho khắp nhà có vẻ sinh động.

Khi những cụm tuyết nặng nề đầu tiên trút xuống, Bố đặt chiếc thùng xe lên các bàn trượt tuyết và nhồi cỏ khô kín một nửa. Rồi trong những ngày học, Laura, Carrie và Grace dựa vào nhau, ngồi trên tấm mền phủ kín cỏ khô với nhiều tấm mền khác phủ kín người trong lúc Bố lái xe đưa các cô tới trường vào buổi sáng và buổi tối đón các cô về căn nhà ấm áp đang chờ chào đón.

Mỗi buổi chiều trên đường tới trường, Bố đều ngừng lại nhà bưu điện và cứ một hoặc hai tuần lễ đã có một lá thư của Almanzo gửi cho Laura. Anh đã về tới nhà của cha ở Minnesota. Anh sẽ trở lại vào mùa xuân.

25. ĐÊM TRƯỚC LỄ GIÁNG SINH

Đêm trước ngày Giáng Sinh đã có cây Giáng Sinh tại nhà thờ thị trấn. Hộp quà Giáng Sinh cho Mary đã được gửi đi và trong nhà đầy những bí mật Giáng Sinh khi các cô gái giấu nhau để gói những món quà cho cây Giáng Sinh. Nhưng lúc mười giờ sáng, tuyết bắt đầu rơi.

Hình như vẫn có thể đi xem cây Giáng Sinh. Suốt buổi chiều, Grace nhìn qua cửa sổ và chỉ có một vài đợt gió bình thường. Tuy nhiên, vào giờ ăn tối, ngay dưới mái hiên vang lên tiếng gào rú và tuyết bay đầy trời.

Bố nói:

- Ra ngoài lúc này thật quá nguy hiểm.

Gió vẫn thổi đều theo một hướng nhưng không ai dám nói chắc là nó không biến thành bão tuyết ngay vào lúc mọi người đang ở nhà thờ.

Không có một trù liệu nào cho việc ở nhà vào buổi tối trước lễ Giáng Sinh nên không có nhiều việc để làm. Trong bếp, Laura đang rang bắp trong chiếc chảo sắt đặt trên lò bếp ngay chỗ nắp lò được gỡ ra. Cô thả một nắm muối vào trong chảo và khi muối nóng lên, cô thả vào một nắm bắp.

Với chiếc muỗng cán dài, cô đảo đều trong lúc một tay cầm nắp chảo chận không cho những hạt bắp nở bắn văng ra. Khi bắp ngưng nổ, cô trút thêm một nắm khác và đảo đều nhưng lúc này cô không cần cầm chiếc nắp chảo để che nữa vì những hạt bắp nở nằm hết bên trên đã cản không cho những hạt bắp đang nở văng ra.

Mẹ đang nấu sôi đường trong một chiếc chảo. Khi chảo bắp của Laura đầy bắp nở, Mẹ trút một ít vào chiếc chảo lớn, đổ lên trên một lớp mật mỏng rồi thấm bơ vào hai bàn tay và khéo léo ép từng nắm thành những trái cầu bắp rang. Laura tiếp tục rang bắp và Mẹ ép thành những trái cầu cho tới khi chiếc chảo lớn đầy những trái cầu bắp ngọt ngào.

Trong phòng khách, Carrie và Grace làm những chiếc túi nhỏ bằng lưới muỗi lấy từ tấm chắn gió dùng trong mùa hè vừa qua. Các cô nhồi đầy túi những chiếc kẹo Giáng Sinh do Bố mua về trong tuần đó.

Bố tự khen mình:

- Thật may là Bố nghĩ rằng mình muốn có thêm nhiều kẹo hơn ngoài số kẹo nhận được từ cây Giáng Sinh.

Carrie chợt khám phá ra:

- Ôi! Mình đã nhồi một túi quá nhiều rồi. Grace đếm trật.

Grace kêu lên:

- Em không trật.

Mẹ lên tiếng:

- Grace.

Grace kêu:

- Con không nói sai.

Bố nói:

- Grace.

Grace cố nén xuống:

- Bố.

Cô tiếp:

- Con không đếm trật. Con nghĩ là con đếm năm chiếc! Có đủ kẹo để thêm một chiếc và nó có vẻ đẹp trong chiếc túi màu hồng.

Bố nói:

- Cứ để như vậy và có một túi đặc biệt cũng thật hay. Không phải mình luôn luôn có một cơ may như thế.

Laura nhớ lại dịp Giáng Sinh bên sông Verdigris trong vùng đất của người da đỏ khi ông Edwards đi bộ tám chục dặm đường để mang về cho cô và Mary mỗi người một que kẹo. Dù ông ở đâu trong đêm nay, cô cũng mong ông hạnh phúc nhiều như niềm hạnh phúc mà ông đã mang về cho cô. Cô lại nhớ về buổi tối trước lễ Giáng Sinh bên suối Plum vùng Minnesota khi Bố bị lạc trong bão tuyết và cả nhà sợ Bố không bao giờ về nữa. Bố đã ăn những chiếc kẹo Giáng Sinh trong lúc nằm ba ngày dưới một hầm ẩn nấp dưới bờ suối. Lúc này, tất cả đều ở đây, trong căn nhà ấm áp với rất nhiều kẹo và những thứ tốt lành khác.

Tuy nhiên cô mong Mary ở nhà vào lúc này và cố không nghĩ tới Almanzo. Lúc anh vừa đi xa, những lá thư của anh đến thường xuyên đều đặn. Bây giờ liên tục ba tuần không có thư của anh. Laura nghĩ anh đã ở nhà và gặp các bạn trai, bạn gái cũ. Mùa xuân kéo dài bốn tháng nữa. Anh có thể quên cô và tiếc là đã trao chiếc nhẫn đang lấp lánh trên ngón tay cô.

Bố cắt ngang ý nghĩ của cô:

- Lấy đàn cho Bố, Laura. Hãy có chút âm nhạc trước khi bắt đầu những điều vui vẻ này.

Cô mang hộp đàn tới cho Bố và Bố dạo thử, chuốt vĩ:

- Đàn bài gì đây?

Laura đáp:

- Bài mở đầu nên dành cho Mary. Có lẽ chị ấy đang nhớ về gia đình.

Bố kéo vĩ ngang những sợi dây và cây đàn cùng Bố lên tiếng:

Quanh bờ dốc suối dài uốn khúc

Tòa lâu đài cao ngất nguy nga

Rừng xanh tô thắm sắc hoa

Nước trong nhẹ chảy lững lờ về xuôi

Áo mùa hè đang phơi trong gió

Giữa hơi xuân nấn ná bâng khuâng

Lời chào giã biệt ngại ngần

Đồi Mary đó ân cần nhớ thương.

Bài hát Tô Cách Lan gợi nhớ Bố tới một bài khác và Bố hát theo tiếng đàn:

Tim sầu không dám lên lời

Tim sầu ai biết vì ai tim sầu

Mùa đông thăm thẳm đêm sâu

Xin cho ai hết âu sầu vì ai

Mẹ ngồi trong chiếc ghế đu bên cạnh lò sưởi, Carrie và Grace thu mình ấm áp trên chiếc ghế dưới cửa sổ nhưng Laura không ngừng đi lại trong phòng.

Cây đàn đang dâng lên một điệu nhạc chơi với lơ lửng khiến cô nhớ tới những đóa hồng dại tháng Sáu. Rồi điệu đàn chuyển đổi hòa theo giọng ca của Bố:

Khi những chủ nhân của bầu trời lồng lộng

Đã thành hàng lấp lánh giữa thinh không

Một vì sao đơn độc cách muôn trùng

Chiếu thẳng xuống mắt bầy chiên lạc lối.

Ánh sáng của tôi, ngọn hải đăng chói lọi

Lên tiếng ngăn những điềm báo tai ương

Đạp qua chông gai nguy khó kinh hoàng

Đưa tôi tới bến bờ lặng gió.

Tôi đã thoát xa khỏi vùng bão tố

Cất lời ca ân sủng vô biên

Lời ca bay cao trên khắp mọi miền

Ghi ân đức Sao Bethlehem mãi mãi.

Grace khẽ nói:

- Đó là vì sao Giáng Sinh.

Lại chỉ còn tiếng đàn trỗi lên trong lúc Bố nghiêng đầu lắng nghe. Bố nói:

- Gió đang giữ hơn. Thật may mà mình ở lại nhà

Rồi cây đàn lại rộn ràng và giọng Bố hòa theo:

Đừng ngưng lại dưới trời giá buốt

Cớ sao e thẹn băn khoăn?

Mọi người đang lắng tai chờ đón

Những bàn chân nhích bước tới gần!

Chớ vội đoán ý người đang đợi

Chuyện xảy ra chắc sẽ lạ lùng

Sau giây phút nhỏ to thăm hỏi

Chớ do dự! Hãy mau bước tới!

Cứ bước vào và đóng cửa sau lưng!

Laura ngạc nhiên nhìn Bố khi Bố hát lớn tiếng hơn và nhìn ra cửa. “Chớ do dự! Hãy mau bước…”

Cùng lúc vang lên tiếng gõ cửa. Bố gật đầu ra dấu cho Laura tới mở cửa trong khi vẫn hát dứt câu cuối: “…Cứ bước vào và đóng cửa sau lưng!”

Một đợt gió đột ngột lùa tuyết vào trong phòng khi Laura mở cửa khiến cô tối mắt không thấy gì, rồi cô nhìn rõ và không tin vào mắt mình. Đợt gió cuốn tuyết bọc quanh Almanzo và cô đứng sững không lên tiếng nổi, không đóng cửa.

Bố gọi lớn:

- Vào đi! Bước vào và đóng cửa lại!

Rùng mình vì lạnh, Bố đặt cây đàn vào hộp, tới cho thêm than vào lò sưởi. Bố hỏi:

- Gió lạnh thấu tới xương rồi. Ngựa của cậu đâu?

- Con đưa Prince tới và đã cho nó vào chuồng cùng với Lady.

Almanzo đáp khi rũ tuyết khỏi áo ngoài và treo áo, mũ lên chiếc sừng trâu bóng loáng đóng trên vách gần cửa ra vào trong lúc Mẹ đứng lên khỏi ghế chào anh.

Laura đã bước lui về góc phòng bên kia đứng bên Grace và Carrie. Khi Almanzo nhìn về phía các cô, Grace nói:

- Em đã làm một túi kẹo đặc biệt.

- Anh cũng mang về một ít kẹo cam.

Almanzo nói trong lúc lấy từ túi áo khoác ra một bọc bằng giấy và tiếp:

- Anh có một gói đề sẵn tên Laura ở trên, nhưng chị ấy không chịu nói gì với anh nhỉ?

Laura thì thầm:

- Em không tin là anh. Anh bảo sẽ vắng mặt hết mùa đông mà.

- Anh đã quyết định không ở lại lâu hơn như đã nói với em. Quà Giáng Sinh của em đây.

Mẹ lên tiếng:

- Charles, anh cất đàn đi. Carrie và Grace giúp Mẹ đem bắp rang ra.

Laura mở chiếc gói nhỏ mà Almanzo đưa cho cô. Trong gói có một chiếc hộp màu trắng. Cô nhấc nắp hộp. Trên lớp bông lót trắng là một chiếc kẹp bấm bằng vàng. Mặt kẹp khắc hình một ngôi nhà nhỏ và dọc theo thanh cài là một đường kẻ đỏ nhỏ với một khóm cỏ và lá cây.

Cô thở ra:

- Ôi đẹp quá! Cảm ơn anh!

Anh hỏi:

- Em không thể nói cám ơn tốt hơn thế sao?

Rồi anh dang rộng tay ôm lấy cô trong lúc Laura hôn anh và thì thào:

- Em mừng vì anh đã về.

Bố từ bếp ra xách một xô than đầy và Mẹ đi theo. Carrie bưng tới một chảo đầy những nắm bắp rang còn Grace chia cho mỗi người một túi kẹo.

Trong lúc tất cả ăn kẹo, Almanzo kể đã phải lái xe suốt ngày trong gió lạnh và cắm trại ngoài đồng trống không có một mái nhà hoặc chỗ trú ẩn nào ở gần khi anh và Royal đi về phía nam tới vùng Nebraska. Anh kể đã được thấy nhà cửa xây dựng rất đẹp ở Omaha, những con đường lầy lội khi họ tới miền đông Iowa vào lúc nông dân ở đây đang tưới dầu lên đốt bắp của họ vì không thể bán quá hai mươi lăm xu một giạ. Anh kể đã được thấy thủ phủ Des Moines của bang Iowa, những con song chảy tràn qua Iowa và Missouri cho tới khi đối mặt với sông Missouri, họ mới lại quay về bắc.

Câu chuyện lôi cuốn kéo dài hết buổi tối cho tới khi chiếc đồng hồ cũ gõ mười hai tiếng.

- Chúc mừng Giáng Sinh!

Mẹ đứng lên khỏi ghế của mình, lên tiếng và tất cả đáp lại:

- Chúc mừng Giáng Sinh!

Almanzo khoác áo, đội mũ, đeo găng tay chào tạm biệt và bước ra ngoài trời bão. Tiếng chuông xe ngựa rung lên nho nhỏ khi anh lái xe chạy ngang nhà để trở về.

Laura hỏi Bố:

- Bố đã nghe thấy tiếng chuông từ trước?

Bố nói:

- Ừ, và không ai đến thường hơn là cậu ta. Bố nghĩ rằng cậu ta không thể nghe thấy tiếng Bố hát vì ở ngoài bão.

Mẹ nói:

- Thôi, tới đây, các con. Nếu các con không đi ngủ sớm, ông già Noel sẽ khó có cơ hội bỏ quà đầy các chiếc vớ.

Buổi sáng, tất cả đều ngạc nhiên vì các món quà trong những chiếc vớ và buổi trưa đã có một bữa tiệc Giáng Sinh đặc biệt với một con gà mái lớn mập quay thơm đậm và Almanzo cũng có mặt, vì Mẹ đã mời anh tới cùng ăn bữa cơm trưa Giáng Sinh. Gió thổ rất dữ nhưng không phải là thứ gió gào hú của bão tuyết và có thể anh sẽ trở lại vào ngày mai.

Khi Laura thổi tắt ngọn đèn trong phòng ngủ, Carrie nói:

- Ô, Laura! Kỳ Giáng Sinh này không phải là tuyệt nhất sao! Giáng Sinh cứ theo thời gian tốt hơn chứ?

Laura nói:

- Ừ, đúng thế.

26. KỲ THI GIÁO VIÊN

Giữa một cơn bão tuyết tháng Ba, Laura đi cùng Bố trên cỗ xe trượt vào thị trấn dự kỳ thi lấy chứng chỉ giáo viên. Hôm đó không có buổi học nên Carrie và Grace ở nhà. Mùa đông trong căn nhà trên đất trại rất thoải mái nhưng Laura vẫn thấy mừng mùa xuân đang tới sớm. Trên tấm mền phủ kín lớp cỏ khô, cô ngồi mơ màng nghĩ về những ngày Chủ Nhật dễ chịu trong mùa đông cùng với gia đình và Almanzo trong gian phòng khách ấm áp và trông đợi những cuộc đi dạo xe dài trong nắng ấm và gió mát mùa hè. Cô thắc mắc không hiểu Barnum có còn ngoan ngoãn sau một mùa đông bó cẳng trong chuồng.

Khi tới gần trường, Bố hỏi cô có lo lắng nhiều về cuộc thi không. Cô đáp qua tấm khăn che đóng sương:

- Ồ, không. Con tin là sẽ vượt qua. Con mong sẽ kiếm được một trường dạy hợp ý.

Bố nói:

- Con có thể dạy trường Perry trở lại.

Laura giải thích:

- Con thích có một trường lớn hơn với số lương cao hơn.

Bố nói vui vẻ khi dừng lại trước trường:

- Này, cây cầu đầu tiên vẫn là kỳ thi và bây giờ mình đã ở đây! Còn dư thời gian để mình vượt qua cây cầu kế tiếp khi mình tới trước nó.

Laura không giữ nổi kiên nhẫn vì cảm thấy rụt rè khi cô bước vào giữa những người lạ. Gần như mọi chiếc bàn đều kín chỗ và cô chỉ biết một người duy nhất là Florence Wilkins. Khi đụng vào bàn tay Florence, cô phát hoảng. Bàn tay cô ấy lạnh như băng và môi Florence tái nhợt do bị kích động. Laura cảm thấy lo cho bạn đến nỗi quên luôn sự rụt rè của chính mình.

Florence thì thào, run giọng:

- Mình khiếp sợ quá. Tất cả những người khác đều là giáo viên lớn tuổi và cuộc thi sẽ căng lắm. Mình biết mình không qua nổi.

Laura nói:

- Xì! Mình đánh cá là họ cũng đang phát khiếp. Đừng lo, bạn sẽ vượt qua ổn thỏa. Chỉ cần không sợ hãi. Bạn biết bạn đã luôn luôn vượt qua các kỳ thi mà.

Rồi tiếng chuông vang lên và Laura đối diện với bản ghi các câu hỏi. Florence có lý, các câu hỏi khá khó. Ráng hết sức vượt qua những câu hỏi, Laura mệt nhoài khi giờ nghỉ tới. Buổi trưa cô cảm thấy tim mình nặng trịch. Cô bắt đầu sợ sẽ không đạt nổi một chứng chỉ, nhưng cô bền bỉ làm việc và cuối cùng đã vượt qua. Trang viết cuối cùng của cô được nhập chung với những người khác và Bố đã tới đón cô về.

Cô nói khi đáp lại câu hỏi của Bố:

- Con không biết chắc, Bố. Cuộc thi khó hơn con nghĩ, nhưng con đã ráng sức làm tới mức tốt nhất trong khả năng của mình.

Bố trấn an cô:

- Không ai có thể làm hơn thế nổi.

Tại nhà, Mẹ nói không nên nghi ngờ việc sẽ ổn thỏa.

- Lúc này đừng lo gì! Hãy quên hết cho tới khi con biết rõ kết quả cuộc thi.

Lời khuyên của Mẹ rất đúng, nhưng Laura không rời nổi mối lo trong từng ngày, thậm chí gần như từng giờ. Cô đi vào giấc ngủ với lời tự nhủ:

- Không nên lo ngại.

Và thức dậy lại phát hoảng với ý nghĩ: Thư báo kết quả có thể đến vào hôm nay.

Tại trường, Florence không còn hy vọng chút nào. Cô nói:

- Kỳ thi khó quá. Mình chắc chắn chỉ có một vài giáo viên già nhất vượt qua nổi.

Một tuần trôi qua không có tin tức. Chủ Nhật đó không thể chờ Almanzo tới vì Royal đang bị bệnh. Almanzo không tới được. Thứ Hai không có thư. Thứ Ba cũng không có thư.

Gió ấm đã làm tuyết tan và nắng đang chiếu nên Thứ Tư, Bố không tới trường đón. Laura cùng Carrie và Grace đi bộ về nhà. Một lá thư đã chờ sẵn do Bố đi lấy về từ buổi sáng.

Laura kêu lên trong lúc cởi bỏ áo khoác, băng qua phòng tới chụp lấy lá thư:

- Thư nói gì, Mẹ?

Mẹ ngạc nhiên lên tiếng:

- Sao vậy, Laura! Con biết Mẹ vẫn coi việc xem thư riêng của người khác không khác việc ăn cắp.

Với những ngón tay run rẩy, Laura xé bao thư và lấy ra tờ chứng chỉ giáo viên. Chứng chỉ cấp hai. Cô nói với Mẹ:

- Vượt hẳn mức con mong có. Con hy vọng con đạt nổi cấp ba là cao nhất rồi. Bây giờ con chỉ còn mong may mắn có một trường dạy hợp ý thôi!

Mẹ nói một cách bình thản:

- Một người sẽ biến sự may mắn của mình thành tốt hay xấu. Mẹ tin là con sẽ dành được một tốt xứng đáng với con.

Laura không nghi ngờ việc cô có thể kiếm được một chỗ dạy vừa ý, nhưng cô tự hỏi phải làm thế nào để may mắn sẽ đem lại kết quả mong muốn. Đêm đó cô nghĩ về chuyện đó và tiếp tục nghĩ vào sáng hôm sau khi Florence bước vào phòng học và đi thẳng tới chỗ cô. Florence hỏi:

- Bạn đậu chứ, Laura?

Laura đáp:

- Ừ, mình đạt chứng chỉ cấp hai.

Florence nói một cách tỉnh táo:

- Mình chẳng giật được chứng chỉ nào nên không thể dạy ở ngôi trường dành cho mình. Nhưng đây là điều mình muốn nói với bạn: Bạn đã nỗ lực giúp mình và mình thấy thà rằng bạn dạy ở trường dành cho mình còn hơn là người khác. Nếu bạn ưng điều đó thì cha mình nói là bạn có thể dạy. Khóa học ba tháng kể từ mồng một Tháng Tư và lương tháng là ba mươi đô la.

Laura khó giữ vững hơi thở khi trả lời:

- Ô, được chứ! Mình muốn nhận việc đó.

- Cha mình bảo nếu bạn chịu thì hãy đến gặp cha mình và ban giám hiệu để ký hợp đồng.

Laura nói:

- Mình sẽ đến đó chiều mai. Cảm ơn Florence nhiều lắm.

Florence nói với cô:

- Này, bạn luôn luôn rất dễ thương với mình. Mình mừng là đã có một dịp để đáp lại phần nào.

Laura nhớ tới điều Mẹ nói về sự may mắn và cô nghĩ thầm:

- Mình tin là người ta đã tạo ra hầu hết những may mắn cho mình trong sự không mưu tính.

27. CHẤM DỨT NHỮNG NGÀY TỚI TRƯỜNG

Sau buổi học cuối cùng trong tháng Ba, Laura gom hết sách vở, xếp gọn lên tấm bảng. Cô đảo mắt nhìn quanh phòng học lần chót. Cô sẽ không bao giờ trở lại trường nữa. Thứ Hai cô bắt đầu dạy tại trường Wilkins và một thời gian nào đó trong mùa thu tới, cô và Almanzo sẽ làm đám cưới.

Carrie và Grace đang chờ ở tầng dưới nhưng Laura chần chừ ở bàn của mình trong cảm giác tim mình chùng xuống thật lạ lùng. Ida cùng Mary Power và Florence còn tiếp tục có mặt tại đây trong tuần lễ sau. Carrie và Grace sẽ vẫn đến trường nhưng không còn có cô đi cùng sau buổi học này.

Lúc này ngoài thầy Owen đang ngồi ở bàn, lớp học trống trơn. Laura phải đi thôi. Cô ôm sách vở lên và đi ra cửa. Tới ngang bàn thầy Owen, cô dừng lại và nói:

- Em chào từ biệt thầy vì em sẽ không trở lại nữa.

Thầy Owen nói:

- Tôi đã nghe nói em sẽ lại đi dạy. Chúng tôi sẽ nhớ em, nhưng chúng tôi sẽ đợi em trở lại vào mùa thu tới.

Laura lập lại:

- Điều em muốn được nói với thầy là lời chào từ biệt. Em sắp làm đám cưới nên em không còn khi nào trở lại lớp nữa.

Thầy Owen bỗng đứng bật dậy và đi tới đi lui trên bục một cách bực bội.

- Tôi rất tiếc.

Thầy lên tiếng và tiếp:

- Không tiếc vì việc em sắp làm đám cưới mà tiếc vì đã không trao bằng tốt nghiệp cho em trong mùa xuân này. Tôi giữ em lại vì tôi… vì tôi có một sự tự hào điên cuồng. Tôi muốn tổ chức trao bằng tốt nghiệp cho cả lớp mình nhưng còn vài người chưa đủ sức. Tôi đã không công bằng với em. Tôi xin lỗi.

Laura nói:

- Chuyện đó không thành vấn đề. Em mừng được biết là em đủ khả năng để tốt nghiệp.

Rồi họ bắt tay, thầy Owen nói lời chào tạm biệt và cầu chúc cô được hạnh phúc trong mọi chuyện tương lai.

Khi xuống cầu thang, cô nghĩ:

- Lần cuối luôn có vẻ buồn, nhưng không hoàn toàn đúng. Cuối của thứ này chỉ là mở đầu của thứ khác.

Sau bữa ăn tối Chủ Nhật tại nhà, Almanzo và Laura lái xe qua thị trấn ngược về phía bắc tới trại của ông Wilkins. Trại cách thị trấn ba dặm rưỡi và Barnum ngoan ngoãn thả bước. Ánh hoàng hôn đã tan vào trong đêm tối. Những vì sao xuất hiện trên bầu trời bao la và đồng cỏ trải dài xa tắp mịt mù và bí ẩn. Những chiếc bánh xe nhẹ nhàng lăn trên con đường đầy cỏ.

Trong tĩnh lặng, Laura bắt đầu hát:

Trên trời sao sáng lung linh

Dưới chân mặt đất mênh mông trải dài

Bánh xe kẽo kẹt lăn hoài

Đường đi xa tắp tới nơi vô cùng

Bóng ai chợt hiện tưng bừng

Nhanh như gió cuốn xe vùng bay lên

Bánh xe xoay ngả xoay nghiêng

Như sao vỗ cánh giữa miền trời cao

Almanzo cười lớn:

- Những bài hát của em sao giống như các bài hát của Bố vậy! Lúc nào cũng khớp với mọi chuyện.

Laura nói với anh:

- Đây là bài Khúc Ca Cổ Về Chiếc Cối Xay. Nhưng hình như nó khớp với những vì sao và cỗ xe thật.

Almanzo tán thành:

- Chỉ có một lời ở trong đó bị lạc thôi. Không có chiếc bánh xe nào của anh lạch cạch cả. Anh luôn giữ kỹ và bôi dầu mỡ. Khi những bánh xe tròn chuyển đều về hướng này qua ba tháng nữa thì em sẽ dạy xong khóa học, vĩnh viễn.

Laura nói một cách nghiêm trang:

- Em cho rằng anh định nói cho điều lành hay điều dở. Nhưng tốt hơn cứ cho là vĩnh viễn.

Almanzo nói:

- Đúng là vĩnh viễn.

28. CHIẾC MŨ MÀU KEM

Trường học mới được dựng trên một góc đất trại của ông Wilkins chỉ cách nhà ông một đoạn ngắn. Khi Laura mở cửa vào sáng Thứ Hai, cô nhìn thấy nó đúng là một bản sao của trường Perry, ngay cả về cuốn từ điển trên bàn và chiếc đinh treo mũ trên vách.

Cô nghĩ đây là một điềm báo hạnh phúc và đúng như thế. Tất cả những ngày dạy học của cô thật thoải mái. Lúc này cô cảm thấy đủ khả năng dạy và xử trí tốt mọi khó khăn vụn vặt không cho thứ nào kéo dài tới ngày hôm sau. Học trò của cô rất thân thiện, ngoan ngoãn và những đứa nhỏ thường tức cười dù cô phải giữ không cho ai thấy nụ cười của mình.

Cô ở trọ tại gia đình Wilkins và họ đều thân thiện với Laura, mọi người rất dễ chịu với nhau.

Florence còn tiếp tục đi học và về đêm lại kể cho Laura nghe tất cả những điều xảy ra tại trường.

Laura ở chung phòng với Florence và cùng qua những buổi tối ấm áp với sách vở tại đó.

Ngày thứ Sáu cuối trong tháng Tư, ông Wilkins trả cho cô hai mươi hai đô la tiền lương tháng thứ nhất sau khi trừ tiền trọ hai đô la mỗi tuần. Almanzo lái xe đón cô về nhà tối hôm đó và hôm sau cô cùng Mẹ vào thị trấn mua sắm. Họ mua vải bóng trắng để may đồ lót, áo sơ mi, quần lót, áo ấm, áo dài ngủ, mỗi thứ một cặp. Mẹ nói:

- Với những thứ con có này thì quá dư rồi.

Họ mua thêm vải sợi cứng đủ cho hai cặp mền và hai cặp gối.

Họ mua thêm mười thước vải mịn màu hồng có điểm những bông hoa nhỏ và những chiếc lá xanh rải rác để may áo khoác mùa hè cho Laura. Rồi hai mẹ con tới cửa hàng của cô Bell chọn mũ hợp với chiếc áo khoác.

Có rất nhiều kiểu mũ đẹp, nhưng Laura nhìn thấy ngay chiếc mũ cô thích. Đó là chiếc mũ rơm màu kem hoàn hảo với khung vành hẹp cuộn hẹp hơn ở hai bên. Phần giữa khung vành phía trước kéo thấp xuống tới trán Laura. Xung quanh chỏm mũ là một dải băng lụa hơi sậm màu so với màu rơm và Barnum cọng lông đà điểu gắn thẳng đứng phía bên trái in bóng lên màu kem sáng của các cọng rơm và dải băng lụa. Mũ được giữ chắc trên đầu bằng một dải lụa trắng đàn hồi gắn vừa vặn dưới những bím tóc của Laura.

Mua mũ xong, khi quay ra phố, Laura đưa cho Mẹ năm đô la để Mẹ tùy thích sắm những thứ cần thiết. Mẹ từ chối:

- Không, Laura. Con thật là một đứa con gái ngoan khi nghĩ tới điều đó, nhưng Mẹ có cần thứ gì đâu.

Thế là họ trở về xe đang chờ trước cửa hàng Fulleros. Một món đồ gì đó đặt trong xe được che kín dưới tấm mền phủ ngựa. Laura thắc mắc nhưng không có thời gian xem vì Bố đã cởi dây buộc ngựa thật nhanh và cho xe khởi hành ngay để về nhà.

Mẹ hỏi:

- Anh chở thứ gì phía sau vậy, Charles?

Bố đáp:

- Lúc này anh không thể chỉ cho em thấy được, Caroline. Hãy đợi khi về tới nhà.

Tới nhà, Bố cho xe đậu ngay sát cửa ra vào, nói:

- Nào, các con gái, hãy khuân các thứ trên xe vào nhà, nhưng để im món đồ của Bố cho tới khi Bố lo xong cho lũ ngựa và quay lại. Nhớ không được ngó lén phía dưới tấm mền!

Bố tháo ngựa và vội vã dắt chúng đi.

Mẹ nói với Laura:

- Cái đó có thể là món gì nhỉ?

Tất cả đều chờ. Gần như Bố quay lại ngay tức khắc. Bố nhấc tấm mền che và một chiếc máy khâu sáng bóng hiện ra. Mẹ thở gấp:

- Ô, Charles!

Bố lên tiếng một cách tự hào:

- Đó, Caroline, của em đó. Sẽ có nhiều đồ cần may khi Mary trở về và Laura đi khỏi nên anh nghĩ em cần có một thứ gì trợ giúp.

- Nhưng bằng cách nào anh mua nổi?

Mẹ hỏi trong lúc sờ vào mặt sắt đen bóng của mấy chiếc chân máy may.

Bố giải thích:

- Bề nào thì anh cũng phải bán một con bò cái, Caroline, vì trong chuồng không còn đủ chỗ trong mùa đông tới. Bây giò hãy giúp anh chuyển món đồ này xuống và mình thử coi nó sẽ ra sao.

Laura nhớ từ lâu rồi có lần nghe giọng nói của Mẹ nhắc tới máy may Laura đã nghĩ Mẹ rất mong có một chiếc. Bố đã không quên điều này.

Bố mở phía sau thùng xe cùng với Mẹ và Laura cẩn thận nhấc chiếc máy may xuống mang vào phòng khách trong lúc Carrie và Grace lăng xăng xung quanh. Rồi Bố nhấc vỏ bao máy ra và tất cả cùng im lặng ngắm nghía.

Cuối cùng Mẹ lên tiếng:

- Nó thật đẹp và giúp được nhiều việc lắm. Em nôn nóng được sử dụng nó.

Nhưng chiều Thứ bảy đã quá trễ. Chiếc máy may phải đứng im qua ngày Chủ Nhật.

Tuần sau Mẹ nghiên cứu tập sách hướng dẫn, học cách sử dụng máy và tới Thứ Bảy, Mẹ cùng Laura bắt đầu may chiếc áo khoác bằng vải mịn. Vải mịn mới rất khó may, những đười cắt cần chính xác nên Laura sợ sẽ làm hư, nhưng Mẹ đã thạo tới mức không hề do dự. Mẹ đo cỡ người Laura rồi theo lược đồ các mẫu áo, định mức eo và cắt một cách mạnh dạn.

Chiếc áo được may xong khi Almanzo đưa Laura về nhà vào ngày Thứ Sáu cuối cùng trong tháng Năm. Laura kêu lên khi nhìn thấy:

- Ôi! Đẹp quá, Mẹ! Tất cả các nếp gấp rất đều và mũi khâu thật đẹp.

Mẹ nói:

- Phải nói là đã không biết bao lâu rồi mình may vá không có máy khâu. Có máy công việc thật dễ dàng, gấp nếp không có gì rắc rối cả. Và mũi may đẹp như thế. Một thợ may hạng nhất cũng không sánh nổi khi khâu bằng tay.

Laura lặng im một hồi ngắm chiếc áo khoác mới của cô được may máy. Rồi cô nói:

- Hôm nay, ông Wilkins trả thêm cho con tháng lương kế tiếp và con thực sự không cần làm gì. Con đã có mười lăm đô la còn lại của lương tháng Tư. Con muốn có một chiếc áo choàng mới cho mùa thu…

Mẹ cắt ngang:

- Đúng rồi, và con sẽ còn cần một chiếc áo cưới thật đẹp nữa.

Laura tính toán:

- Mười lăm đô la phải mua được hai cái áo. Cùng với số quần áo con đã có sẽ đủ xài khá lâu.

Ngoài ra, con còn lĩnh thêm hai mươi đô la vào tháng tới. Con mong Bố Mẹ nhận mười lăm đô la này. Mẹ, con năn nỉ đó. Bố Mẹ hãy dùng số tiền này cho Mary về nhà hoặc mua thêm quần áo cần thiết cho chị ấy.

Mẹ nói một cách bình thản:

- Bố Mẹ có thể xoay xở để không phải dùng số tiền lương vào kỳ dạy cuối cùng của con.

Laura hối thúc:

- Con biết là Bố Mẹ có thể xoay xở nhưng Bố Mẹ có nhiều việc phải lo. Con thích được phụ giúp thêm lần này. Sau đó con sẽ rời nhà thanh thản và không còn phụ giúp được gì trong khi con vẫn có những bộ quần áo đẹp này.

Mẹ bằng lòng:

- Nếu việc đó khiến con dễ chịu thì hãy đưa tiền cho Bố. Mẹ biết là từ khi dùng tiền bán con bò cái để mua chiếc máy may này, Bố con vẫn mong có lại một số tiền.

Bố ngạc nhiên và cho rằng Laura đang cần tiền để lo cho mình. Nhưng khi cô giải thích và lại khẩn khoản nài ép thì Bố cầm tiền một cách vui vẻ. Bố thừa nhận:

- Món tiền này sẽ giúp Bố khỏi phải chắt bóp. Nhưng đây là lần cuối cùng. Từ lúc này theo ý nghĩ của Bố chúng ta sẽ thuận buồm xuôi gió. Thị trấn đang lớn rất nhanh khiến Bố có dư việc mộc để làm. Lũ bò đang lớn bộn. Tất cả sẽ sinh sôi nảy nở mau và sống cách biệt với nhà trại và vào năm sau, Bố đã thắng cuộc đánh cá với Chú Sam, đất trại này thuộc hẳn quyền sở hữu của mình rồi. Cho nên con không bao giờ nên lo lắng về chuyện giúp đỡ thêm nữa, Bình-Rượu-Nhỏ. Con đã làm trọn phần của con rồi.

Tối Chủ Nhật đó, khi Laura lên xe cùng Almanzo về chỗ dạy, tim cô rộn ràng thoải mái.

Nhưng luôn luôn vẫn hình như không thể có một sự hài lòng trọn vẹn, Bây giờ cô thấy tiếc vì sẽ vắng mặt khi Mary trở về. Mary trở về nhà vào tuần lễ đó và Laura đang dạy lớp phân số tại trường Wilkins khi Mary về tới.

Chiều Thứ Sáu, Almanzo cưỡi Prince và Lady tới và chúng xoải vó phóng cực nhanh trên đường về nhà. Ngay khi tới gần cửa, Laura nghe thấy tiếng đàn dương cầm. Trước khi Almanzo dừng ngựa lại, cô đã phóng ra ngoài xe và chạy vào nhà.

- Gặp lại ngày Chủ Nhật.

Anh gọi lớn phía sau và cô đưa bàn tay đeo nhẫn lên ngoắc trả lời. Rồi cô ôm choàng lấy Mary trước khi Mary kịp đứng lên khỏi chiếc ghế trước cây đàn. Điều đầu tiên Mary nói, là:

- Ô, Laura! Chị ngạc nhiên vô cùng khi thấy có chiếc dương cầm dành cho chị ở nhà.

Laura đáp:

- Cả nhà phải lo giữ bí mật thật lâu. Nhưng chuyện bí mật này không bị tiết lộ, phải không?

Ôi, Mary, cho em ngắm chị đã. Chị có vẻ tuyệt lắm!

Mary đẹp hơn bao giờ hết. Laura ngắm cô không biết chán. Và bây giờ lại có thật nhiều chuyện để kể suốt mọi lúc với nhau. Chiều Chủ Nhật hai chị em lại cùng đi dạo trên đỉnh ngọn đồi thấp phía bên kia chuồng bò và Laura chất đầy hai cánh tay Mary những bông hồng dại.

Mary hỏi một cách nghiêm trang:

- Laura, em thực sự muốn rời nhà để làm đám cưới với anh chàng Wilder đó hả?

Laura cũng nghiêm trang đáp:

- Anh ấy không còn là anh chàng Wilder nữa, Mary. Anh ấy là Almanzo. Chị không biết gì về anh ấy phải không? Hay là không biết nhiều sau cái mùa đông Ác Liệt.

Mary kiên nhẫn:

- Dĩ nhiên chị vẫn nhớ chuyến đi kiếm lúa mì của anh ta. Nhưng tại sao em muốn bỏ gia đình để về sống với anh ta?

Laura nói:

- Em nghĩ chỉ vì hình như chúng em đã thuộc về nhau. Ngoài ra, trên thực tế em đã rời khỏi nhà. Em đang ở xa hơn nhiều. Khi đó em sẽ không ở xa hơn hiện em ở nhà của gia đình Wilkins.

- Ồ, đành vậy, chị đoán chừng phải thế thôi. Chị đã rời nhà để đến trường và lúc này em sắp đi xa. Chị cho rằng đó là sự trưởng thành.

Laura nói:

- Nghĩ thật lạ. Bây giờ Carrie và Grace đã lớn hơn tụi mình thuở nào. Chúng cũng đang thành người lớn. Tuy nhiên điều đó không lạ hơn việc chúng ta cứ là chúng ta mãi mãi, phải không?

Mary nói:

- Anh ta đang tới đó.

Cô đã nghe thấy tiếng xe cùng tiếng chân của Prince và Lady. Không ai có thể nghĩ là cô bị mù khi thấy cặp mắt xanh lơ tuyệt đẹp của cô hướng về phía cỗ xe tựa hồ cô nhìn thấy rõ. Cô nói:

- Chị không dễ gặp em. Và bây giờ, em lại phải đi.

Laura nhắc cô:

- Không phải bây giờ mà là sau bữa ăn tối. Em sẽ trở về vào Thứ Sáu tới, ngoài ra chúng ta còn ở cùng nhau trọn tháng Bảy và gần hết tháng Tám.

Bốn giờ chiều Thứ Sáu cuối cùng trong tháng Sáu, Almanzo lái Barnum và Skip tới trước cửa nhà Wilkins đón Laura về nhà. Khi cho xe chạy trên con đường quen thuộc, anh nói:

- Thế là một khóa dạy khác đã dứt, khóa cuối cùng.

Laura đáp một cách nghiêm trang:

- Anh dám chắc thế không?

Anh hỏi:

- Không phải thế sao? Có khi em sẽ lo nướng bánh kếp điểm tâm của anh suốt cho tới ngày cuối cùng của tháng Chín.

Laura hứa:

- Hoặc có thể trễ hơn một chút.

Anh đã sẵn sàng dựng căn nhà trên đất trại.

- Trong lúc đó, tính thế nào về ngày Mồng Bốn Tháng Bảy? Em có muốn đi dự lễ kỷ niệm không?

Laura đáp:

- Em thấy thà rằng mình làm một chuyến đi dạo lại hay hơn nhiều.

Anh tán thành:

- Trúng ý anh lắm! Cặp ngựa này cũng thích vui đùa trở lại. Trong lúc anh lo làm nhà, chúng sẽ có một ít ngày nghỉ. Có dịp mình sẽ làm cho chúng hăng hái thêm bằng vài chuyến đi dài hơn.

- Bất cứ lúc nào! Lúc này em rảnh rang.

Laura rất vui. Cô cảm thấy giống như một con chim ở trong lồng. Almanzo nói:

- Vậy thì mình sẽ có chuyến đi dài đầu tiên vào ngày Mồng Bốn.

Thế là vào ngày Mồng Bốn, ngay sau bữa ăn trưa, Laura đã mặc lần đầu tiên chiếc áo khoác mới và đội lần đầu tiên chiếc mũ rơm màu kem có gắn những sợi lông đà điểu. Cô đã sẵn sàng khi Almanzo đến.

Barnum và Skip đứng im khi cô bước lên xe nhưng chúng rất kích động và vội vã phóng đi ngay. Almanzo nói:

- Đám đông sẽ khiến chúng bị tác động lúc băng qua thị trấn. Mình chỉ đi tới cuối phố Main để em có thể nhìn thấy những lá cờ rồi mình quay về hướng nam tránh xa tiếng ồn ào.

Con đường phía nam về hướng nhà Brewster thay đổi nhiều tới mức không còn là con đường mà họ đã qua lại nhiều lần khi Laura đi dạy học lần đầu. Nhiều lều trại mới và vài căn nhà rải rác khắp đồng cỏ trong khi đã có nhiều cánh đồng lúa hoặc bắp đang lớn. Bò và ngựa đang đứng ăn dọc đường đi.

Thay vì trắng xóa tuyết bay, đồng cỏ có nhiều khoảng cỏ xanh, nhưng gió vẫn thổi. Đó là những cơn gió nam ấm áp thổi rạp cỏ hoang và ngô lúa trên đồng, hất tung bờm và đuôi ngựa về phía sau, lùa các tấm che bụi ép sát vào chiếc áo khoác mới của Laura. Và, gió thổi bạt những cọng lông đà điểu trên chiếc mũ màu kem của Laura.

Cô chụp mấy đầu ngón tay giữ lại khi những cọng lông muốn rời xa. Cô kêu lên bực bội:

- Ô! Ô! Mấy chiếc lông đà điểu không được khâu chắc.

Almanzo nói:

- Cô Bell chưa từng đi dài về miền Tây nên không quen với cái gió đồng cỏ. Tốt hơn là hãy bỏ mấy cọng lông đà điểu vào túi anh trước khi gió cuốn chúng đi.

Họ trở về vào giờ ăn tối và Almanzo ở lại phụ ăn những món đồ nguội còn dư của bữa ăn trưa mừng Mồng Bốn Tháng Bảy. Còn rất nhiều thịt gà, bánh nhồi thịt, một chiếc bánh ngọt và một bình nước chanh làm lạnh bằng cách pha với nước giếng.

Trong lúc ăn tối, Almanzo đề nghị Carrie cùng đi coi đốt pháo trong thị trấn với anh và Laura.

Anh nói:

- Mấy con ngựa đã chạy một đoạn đường dài như thế nên anh nghĩ chúng sẽ ngoan ngoãn.

Nhưng Mẹ lên tiếng:

- Dĩ nhiên Laura sẽ đi nếu nó muốn, nó đã quen với những con ngựa làm xiếc. Nhưng Carrie tốt hơn là không nên đi.

Thế là Laura và Almanzo đi.

Họ giữ cho lũ ngựa chạy xa các đám đông để không ai bị giẫm đạp hoặc chạy tràn qua. Tại một khoảng trống cách xa an toàn với đám đông, họ ngưng xe lại chờ cho tới lúc một vệt lửa hồng xé màn đêm vụt bay lên trên đám đông và nổ thành một ngôi sao.

Ngay tia lửa thứ nhất, Barnum đá hậu và Skip nhảy chồm lên. Chúng phóng chạy và cỗ xe bị lôi theo phía sau chúng. Almanzo lái chúng chạy theo một vòng tròn rộng đưa chúng quay lại đối diện với những trái pháo đúng lúc một ngôi sao khác bùng nổ trên trời. Anh nói với Laura:

- Đừng quan tâm về lũ ngựa. Anh sẽ lo liệu với chúng. Em cứ xem đốt pháo đi.

Laura làm theo. Sau mỗi tiếng nổ rực rỡ trên khoảng không đen đặc, Almanzo lại tiếp tục điều khiển lũ ngựa chạy vòng tròn và luôn giữ cho Barnum và Skip trở lại đúng lúc bùng nổ trái pháo kế tiếp.

Rồi Laura nói:

- Thật tốt là anh đã cất mấy cọng lông đà điểu trong túi. Nếu chúng còn gắn trên mũ của em thì trong lúc em coi đốt pháo, chúng đã văng mất hết vì mình phóng ngựa nhanh quá.

Almanzo kêu lên sửng sốt:

- Chúng còn trong túi anh không?

Laura nói:

- Em hy vọng còn. Nếu còn, em có thể khâu gắn chúng trở lại trên mũ của em.

Những cọng lông đà điểu vẫn còn và khi trao cho cô lúc về tới nhà, anh nói:

- Anh sẽ tới đón em vào Chủ Nhật. Lũ ngựa này cần được tập nữa.

29. CƠN BÃO MÙA HÈ

Tuần lễ đó, hơi nóng tăng lên và sáng Chủ Nhật tại nhà thờ, Laura muốn ngộp thở. Những đợt sóng hơi nóng ngùn ngụt dâng lên phía ngoài cửa sổ và những đợt gió nhẹ phảng phất cũng nóng hực.

Khi tan buổi lễ, Wilder đang đợi sẵn để đưa Laura về nhà. Khi giúp cô bước xuống xe, anh nói:

- Mẹ đã mời anh tới ăn cơm trưa và sau đó mình sẽ lại tập dượt cho lũ ngựa này. Chiều nay sẽ nóng.

Anh nói từ trên xe:

- Nhưng đi dạo xe vẫn dễ chịu hơn ngồi nhà, nếu không có bão.

Laura cười:

- Mấy cọng lông đà điểu đã được khâu chắc lắm rồi. Mặc sức cho gió thổi.

Ngay sau bữa cơm trưa ngày Chủ Nhật, họ ra ngoài lái xe về hướng nam qua đồng cỏ vô tận. Nắng dữ dội khiến ngay cả dưới bóng mát mui xe của cỗ xe đang lăn bánh, hơi nóng cũng ngột ngạt. Thay vì hiu hiu mát mẻ, gió như quạt lửa tới.

Những đợt sóng hơi nóng lấp lánh như tráng bạc khiến đoạn đường phía trước họ lúc nào cũng tựa hồ loang nước và những cơn gió xoáy tròn trên mặt cỏ cuốn tung mọi thứ ra xa.

Một lát sau, mây đen tụ lại ở phía tây bắc và hơi nóng càng ngột ngạt hơn. Almanzo nói:

- Đúng là một buổi chiều kỳ quái. Anh nghĩ mình nên quay về thì hơn.

Laura hối:

- Đúng đó, về đi, lẹ lên. Em không thích những cảm giác về thứ thời tiết này.

Đám mây đen lớn lên cực nhanh khi Almanzo quay đầu ngựa trở về. Anh dừng lại đưa dây cương cho Laura nói:

- Giữ chắc trong lúc anh hạ màn che. Trời sắp mưa rồi.

Almanzo buông nhanh tất cả màn che xung quanh xe và cột chắc. Rồi anh lấy thêm hai tấm màn che cất dưới ghế che thêm hai bên, phủ sau ghế ngồi một tấm cao su chắn bão buộc chằng thật kỹ.

Laura thán phục sự khôn ngoan của tấm chắn bão này. Nó đủ rộng để phủ kín từ mui xe xuống hai bên và được gắn nút rất cứng vào khung xe. Chỉ có một kẽ hở để Almanzo lòn cương ngựa qua và tiếp tục di chuyển trong mưa bão.

Mọi việc được làm xong chớp nhoáng. Chỉ một thoáng, Laura và Almanzo đã ẩn kín thoải mái trong một chiếc hộp bằng cao su. Mưa không thể thấm qua tấm chắn từ hai bên hoặc từ trên mui xe.

Tấm chắn được kéo cao lên ngang cằm và họ vẫn có thể nhìn rõ phía trước.

Khi cầm lại dây cương từ tay Laura, Almanzo nói:

- Bây giờ cứ mưa đi!

Laura nói:

- Mưa cũng tốt, nhưng có lẽ mình sẽ phải vật lộn với bão trên đường về.

Almanzo đã thúc lũ ngựa phóng nhanh. Chúng lướt như gió nhưng vẫn không vượt khỏi đám mây đen cuồn cuộn lan ra trên bầu trời. Laura và Almanzo đều im lặng nhìn đám mây. Toàn thể mặt đất đều như chết sững bất động trong kinh hoàng. Tiếng vó ngựa phi nhanh và tiếng bánh xe hình như nhỏ hẳn lại trong sự tĩnh lặng.

Đám mây đen phồng lên vĩ đại quật quã, vật lộn xoắn xuýt lấy nhau tựa hồ đau đớn và cuồng nộ. Những vệt sáng đỏ đâm suốt qua màn đen. Không khí vẫn im lìm và không có một âm thanh nào.

Hơi nóng như đọng cứng lại. Những cụm tóc của Laura ướt đẫm mồ hôi xõa xuống trán, xòa xuống mặt và mồ hôi lăn dài trên má, trên cổ. Almanzo tiếp tục thúc ngựa.

Lúc này, đám mây gần như đã tràn đến trên đỉnh đầu nhào lộn, xoáy tròn và đổi từ màu đen thành màu tím xanh kinh hoàng. Tất cả những cụm mây xô theo nhau rồi một ngón tay mò mẫm chầm chậm thò ra, vươn dài xuống cố chạm vào mặt đất. Nó chạm vào mặt đất rồi rút lên và lại thò xuống.

Laura hỏi:

- Chỗ đó cách xa bao nhiêu?

Almanzo đáp:

- Ước khoảng mười dặm.

Nó tiếp tục tiến về phía họ từ hướng tây bắc trong lúc họ chạy về phía đông bắc. Tuy nhiên không một con ngựa nhanh nhất nào có thể chạy ngang nổi tốc độ của những đám mây đó. Một vùng tím xanh cuồn cuộn giữa bầu trời trên đồng cỏ không có gì che chắn và nhích dần lại rõ ràng như móng vuốt của một con mèo đang chụp xuống một con chuột.

Một mũi nhọn lại thò xuống mò mẫm sau mũi nhọn thứ nhất. Rồi thêm một mũi khác nữa. Cả ba mũi nhọn vươn xuống rồi rút lên rồi lại vươn xuống từ những cụm mây đang đảo lộn.

Thình lình tất cả chợt nhích về hướng nam. Mũi nọ tiếp nối mũi kia chạm nhanh xuống mặt đất giữa những đám mù mịt và cuốn vùn vụt theo chúng. Chúng trượt qua phía sau cỗ xe quẹo về hướng tây rồi tiếp tục đi về phía nam. Một đợt gió khủng khiếp nổi lên đột ngột mạnh đến nỗi cỗ xe lắc lư, nhưng cơn bão đã qua. Laura thở ra một hơi dài. Cô nói:

- Nếu mình ở nhà, Bố đã lùa hết xuống hầm.

Cô nói thêm:

- Và em rất mừng là được xuống hầm.

Almanzo nhìn nhận:

- Chúng mình cần có một chiếc hầm nếu cơn bão nhắm thẳng tới. Anh không bao giờ xuống hầm tránh bão nhưng nếu gặp một cơn bão thế này anh cũng phải xuống.

Gió thay đổi một cách bất ngờ, thổi từ phía tây nam tới và mang theo một hơi lạnh đột ngột.

Almanzo nói:

- Mưa đá!

- Đúng rồi.

Laura lên tiếng. Một vài nơi, mưa đá trút xuống từ những đám mây.

Cả nhà đều mừng khi thấy họ. Laura chưa bao giờ thấy Mẹ tái nhợt như thế và không nói nổi lời tạ ơn. Bố nói họ biết quay về là suy đoán tốt. Bố nói:

- Cơn bão này gây ra những thiệt hại rất nghiêm trọng.

Almanzo nói:

- Nghĩ tới có một chiếc hầm trong xứ này là một ý nghĩ tốt.

Anh đề nghị Bố cùng tới những chỗ bão vừa thổi qua để coi có ai cần giúp đỡ gì không. Thế là Laura ở lại nhà trong lúc Bố và Almanzo lái xe đi.

Dù bão đã qua và lúc này trời quang đãng nhưng họ vẫn căng thẳng.

Buổi chiều trôi đi và Laura đã thay quần áo cùng Carrie giúp làm các việc trong nhà trước khi Bố và Almanzo trở về. Mẹ bày lên bàn bữa ăn nguội buổi tối và trong lúc ăn họ kể về những điều nhìn thấy tại những nơi bão thổi qua.

Một trại không xa về phía nam thị trấn vừa gặt xong vụ lúa mì trên cánh đồng hơn một trăm mẫu. Vụ lúa rất tốt có thể giúp chủ trại trang trải hết mọi khoản nợ mà vẫn còn dư tiền gửi ngân hàng.

Hôm đó, chủ trại và những người đập lúa đang lo hoàn tất công việc. Ông ta đang đứng trên một đống rơm khi nhìn thấy cơn bão kéo đến.

Ông ta liền cho hai đứa con trai nhỏ đưa cỗ xe mượn của hàng xóm trở về. Khi cơn bão kéo tới ông chạy xuống tránh trong chiếc hầm tránh bão. Cơn bão cuốn đi tất cả thóc của ông cùng rơm rạ, máy móc, xe kéo, kho chuồng, nhà cửa và mọi thứ. Tất cả biến mất ngoại trừ khu đất trại trống trơn.

Hai đứa con của ông cưỡi trên hai con la cũng không còn dấu tích. Nhưng trước khi Bố và Almanzo tới khu trại đó, đứa con lớn của ông đã trở về trần như nhộng. Nó tròn chín tuổi. Nó kể rằng nó và đứa em đang thúc la chạy về nhà thì cơn bão ập đến. Bão nhấc bổng hai anh em lên, cuốn theo một vòng tròn và vẫn không rời khỏi yên cương. Chúng bị xoáy tít càng lúc càng nhanh và bốc lên cao mãi cho tới khi nó rối trí hét đứa em ôm cứng lấy con la. Lúc đó trên không đen đặc rơm rạ bay loạn và tối đen tới mức nó không nhìn thấy gì. Nó rơi xuống khỏi chiếc yên bị xé ra rồi nó tối tăm mờ mịt hết. Sau đó, điều nó nhận biết là nó đang một mình lơ lửng giữa khoảng trời trống.

Nó có thể nhìn thấy đất ở phía dưới. Nó vẫn đang bị cuốn theo một vòng tròn và hạ thấp dần xuống cho tới cuối cùng nó không còn ở xa mặt đất nữa. Nó cố nhoài người thọc chân xuống rồi chạm được vào mặt đất nhưng vẫn bị cuốn chạy theo một quãng và ngã xuống. Nằm nghỉ một lúc, nó đứng lên tìm đường về nhà.

Nó bị cuốn xa khỏi đất trại của cha nó hơn một dặm. Trên người nó không còn một mảnh vải, thậm chí đôi giày ống cao buộc dây cũng biến mất nhưng nó không bị một vết thương nào. Thật bí ẩn khi một đôi giày ống bị kéo ra khỏi chân mà không tạo ra một vết đau nào lớn hơn một vết cào xước.

Những người lân cận đi bọc vòng thật xa để kiếm đứa bé kia và mấy con la nhưng không tìm thấy một dấu vết nào. Có thể không hy vọng chúng còn sống sót.

Almanzo nói:

- Vẫn chưa hết, vì còn chuyện chiếc cửa nữa.

Carrie hỏi:

- Chiếc cửa nào?

Đây là chuyện lạ lùng nhất mà Bố và Almanzo chứng kiến trong ngày hôm đó. Chuyện xảy ra tại một khu đất trại khác xa hơn về phía nam. Tại đây bão cũng cuốn bay hết không còn một thứ gì.

Khi người chủ trại và gia đình lên khỏi hầm trú bão thì kho chuồng và nhà chỉ còn là hai khoảng trống lốc. Bò, xe, dụng cụ, gà qué và mọi thứ đều biến hết. Họ không còn lại gì ngoài mấy bộ quần áo đang mặc và một chiếc mền mà bà vợ quấn quanh đứa nhỏ ở trong hầm trú bão.

Người chủ trại nói với Bố:

- Tôi còn là người may mắn. Tôi không có một vụ mùa nào để mất.

Họ mới đến khu đất trại này vào mùa xuân và chỉ mới trồng nổi vài khoảnh khoai tây.

Vào lúc chập choạng trong chiều hôm đó, khi Bố và Almanzo đi tìm đứa trẻ mất tích không thấy và quay về, họ lại ghé trại của ông ta một lát. Người chủ trại và gia đình đã đi gom về tất cả những mảnh ván gỗ bị cơn bão cuốn tung và ông ta đang tính toán xem có đủ để dựng tạm một mái che không.

Trong lúc họ đang đứng cùng bàn bạc, một đứa bé bỗng nhận thấy một vật màu đen nhỏ xíu trên khoảng trời ngay trên đầu họ. Vật lạ không giống một con chim và càng lúc càng lớn hơn. Tất cả đều chăm chú nhìn. Trong chốc lát, vật lạ rơi từ từ xuống chỗ họ đang đứng và họ nhận ra đó là một chiếc cửa. Chiếc cửa rơi thật nhẹ nhàng ngay trước mặt mọi người. Đó là chiếc cửa ra vào trước ngôi nhà được đánh vec ni bóng loáng của người chủ trại này.

Chiếc cửa còn tốt nguyên thậm chí không có một vết trầy. Không ai hiểu nổi nó đi đâu suốt một thời gian dài như thế và cũng không ai hiểu làm sao nó có thể di chuyển từ từ trên bầu trời quang đãng để bay về đúng ngay địa điểm đã có căn nhà.

Bố nói:

- Khó có khi nào thấy được một người vui mừng như ông chủ trại đó. Lúc này ông ta không còn phải lo mua cửa cho căn lều mới. Chiếc cửa đã trở về đúng chỗ cùng với nguyên bộ bản lề.

Cả nhà đều ngạc nhiên. Trọn đời họ, không một ai còn nghe nói tới một chuyện lạ lùng như sự trở về của chiếc cửa đó. Thật đáng sợ khi nghĩ tới mức xa và độ cao mà nó đã bay trong khoảng thời gian dài thăm thẳm đó. Bố nói:

- Xứ này quả là kỳ quái. Thật nhiều chuyện lạ lùng đã xảy ra.

Mẹ lên tiếng:

- Đúng vậy. Em phải tạ ơn thật nhiều vì chúng đã không xảy ra với chúng ta.

Tuần lễ sau đó, Bố nghe trong thị trấn nói đã tìm thấy xác của đứa trẻ mất tích cùng mấy con la vào ngày hôm sau. Toàn bộ xương đều dập gãy. Thằng bé không còn một manh quần áo và lũ la không còn yên cương. Không ai thấy dấu vết những thứ này ở đâu.

30. HOÀNG HÔN TRÊN ĐỒI

Một ngày Chủ Nhật, Laura không đi dạo xe vì là ngày cuối cùng Mary còn có mặt ở nhà. Cô sẽ trở lại trường vào hôm sau.

Thời tiết nóng tới nỗi trong bữa ăn điểm tâm, Mẹ nói Mẹ không tin là có thể tới nhà thờ nổi.

Carrie và Grace ở nhà với Mẹ trong lúc Laura và Mary lên xe đi cùng Bố.

Bố đang chờ vì các cô còn phải vào phòng ngủ thay quần áo.

Laura lại mặc chiếc áo vải mịn màu hồng và chiếc mũ mới gắn lông đà điểu lúc này đã được khâu lại thật chắc.

Chiếc áo khoác ngoài của Mary bằng vải mịn màu xanh da trời rải rác những bông hoa trắng nhỏ. Chiếc mũ rơm của cô màu trắng với một dải băng xanh. Dưới vành nón, mái tóc vàng óng của cô với nhiều lọn buông xõa trước trán ngay trên cặp mắt xanh như một dải băng.

Bố ngắm các cô một hồi. Mắt Bố lóe sáng và giọng Bố đầy tự hào khi Bố kêu lên bỡn cợt:

- Chúa ơi, Caroline! Anh không đủ bảnh bao để sánh cùng với hai cô tiểu thư tuyệt vời như thế kia tới nhà thờ.

Bố cũng có vẻ duyên dáng trong bộ quần áo màu đen với chiếc cổ áo khoác bằng nhung đen, chiếc sơ mi trắng và chiếc cà vạt màu xanh sậm.

Cỗ xe đang chờ sẵn. Trước khi thay đồ, Bố đã chải lông cho hai con ngựa và phủ một tấm mền ngựa sạch lên chiếc ghế trên xe. Lũ ngựa đứng như ngái ngủ trong lúc Bố cẩn thận giúp Mary bước lên bánh xe rồi đưa tay dắt Laura lên theo. Các cô phủ thêm trên tấm mền một tấm che bụi và Laura quấn kỹ quanh chiếc váy vải mịn. Sau đó họ cho ngựa thong thả tới nhà thờ dưới ánh nắng và gió đượm hơi nóng.

Buổi sáng đó đông người tới mức không tìm nổi Barnum chỗ trống liền nhau. Thế là Bố phải đi lên ngồi chung với các ông già trong khu dành cho dàn đồng ca trong lúc Laura và Mary ngồi cạnh nhau gần khoảng giữa nhà thờ.

Cha Brown thuyết giảng một cách hăng hái và Laura thành thực cầu mong ông có thể nói một điều gì hay ho khi cô nhìn thấy một con mèo nhỏ mập tròn đang lang thang bước trên lối đi giữa hai hàng ghế. Cô uể oải ngắm con mèo nhảy nhót đùa giỡn cho tới khi nó bước lên bục giảng và gò lưng lên cọ mình vào cạnh bàn. Khi những con mắt tròn xoe của nó nhìn về phía đám đông, Laura tin là cô nghe rõ tiếng nó gừ gừ.

Rồi ngay cạnh cô, một con chó nhỏ phóng qua lối đi chồm lên một cách nôn nả. Đó là một con chó con lông vá đen trắng, chân thon, chiếc đuôi cụt dựng lên và dáng điệu lăng xăng. Nó không có vẻ đang đi kiếm ai hay định đi tới đâu nhưng bị cuốn theo khung cảnh vui vẻ của nhà thờ cho tới khi phát hiện ra con mèo. Con chó gồng cứng người một khoảng khắc rồi với tiếng sủa giòn như tiếng pháo nổ, nó nhảy chồm tới.

Lưng con mèo uốn cong như cánh cung, đuôi xù ra và không khác một ánh chớp nó biến mất khỏi tầm mắt của Laura.

Điều lạ là nó hình như vụt biến đi tức khắc. Con chó nhỏ đứng im, không đuổi theo. Cha Brown tiếp tục thuyết giảng. Laura không kịp thắc mắc khi cô cảm thấy một lay động nhẹ của những vành váy vội nhìn xuống và nhận ra đuôi con mèo con đang biến mất vào dưới những nếp gấp của diềm váy màu hồng.

Con mèo con đã trốn dưới vành váy của cô và lúc này nó bắt đầu leo lên bằng cách bám từ vòng dây này tới vòng dây kia. Laura muốn cười phá lên nhưng cô kìm lại và ngồi nghiêm trang như một vị quan tòa. Rồi con chó nhỏ đi ngang qua một cách lo ngại, vừa nhìn ngó vừa đánh hơi kiếm con mèo. Bất chợt cô nghĩ tới điều sẽ xảy ra nếu con chó tìm thấy con mèo và từ đầu gối tới chân cô rung lên trong một tiếng cười bị nén lại không cho bùng ra.

Cô cảm thấy hai bên sườn căng lên sát chiếc nịt ngực, má cô phùng ra và họng nghẹn lại.

Mary không biết chuyện gì khiến Laura thích thú nhưng cảm thấy cô đang cười nên thúc khuỷu tay vào sườn Laura, thì thầm:

- Ý tứ nào.

Laura rung mạnh người hơn và cảm thấy mặt mình đang tím ngắt. Các vành váy vẫn lay động dưới váy khi con mèo cẩn thận trườn xuống. Chiếc mũi đầy râu của nó và cặp mắt nhô ra từ phía dưới diềm váy, rồi không thấy con chó, nó vụt phóng chạy giữa lối đi về phía cửa ra vào. Laura lắng nghe nhưng không thấy có tiếng chó sủa nên cô biết con mèo con đã chạy thoát.

Trên đường về, Mary nói:

- Laura, chị rất ngạc nhiên về em. Em không bao giờ biết xử sự đúng đắn trong nhà thờ sao?

Laura cười tới chảy nước mắt trong khi Mary ngồi im một cách thất vọng và Bố muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Cuối cùng Laura chùi mắt, nói:

- Không, Mary, em không như thế. Chị cũng chịu thua như em khi lâm vào tình trạng vô vọng đó.

Rồi cô kể lại câu chuyện và chính Mary cũng bật cười.

Bữa cơm trưa Chủ Nhật và buổi chiều trôi qua lặng lẽ trong những câu chuyện giữa gia đình và khi mặt trời sắp lặn xuống, Mary cùng Laura đi dạo lần chót trên ngọn đồi thấp để ngắm cảnh hoàng hôn.

Mary nói:

- Chị không bao giờ nhận thấy rõ mọi thứ với một người nào khác. Và khi chị trở lại thì em không còn ở đây nữa.

Laura đáp:

- Đúng vậy, nhưng chị sẽ đến gặp em tại chỗ em đang ở. Sẽ có hai ngôi nhà cho chị thăm viếng.

- Nhưng những buổi hoàng hôn này…

Mary bắt đầu nhưng Laura cắt ngang:

- Em nghĩ là mặt trời cũng sẽ lặn trên đất trại của Almanzo. Ở đó không có ngọn đồi nhỏ nhưng có mười mẫu đất trồng cây. Mình sẽ đi dạo giữa những hàng cây và ngắm chúng. Dĩ nhiên chỉ có cây bông gòn nhưng bên cạnh chúng cũng có những khóm hoàng dương, những cây thích, cây liễu. Nếu tất cả những thứ cây đó đều sống, chúng sẽ làm thành một khu rừng tuyệt đẹp. Không chỉ là một hàng giậu chắn gió quanh nhà như ở đây của Bố mà thực sự là một khu rừng nhỏ.

Mary nói:

- Thật lạ lùng khi thấy những đồng cỏ này lại biến thành rừng.

Laura nói:

- Mọ thứ đều đổi thay mà.

- Phải.

Cả hai cùng im lặng một lát rồi Mary nói:

- Chị mong được có mặt trong ngày cưới của em. Em không hoãn được tới tháng Sáu sang năm sao?

Laura từ tốn đáp:

- Không được, Mary. Hiện nay em đã mười tám tuổi và đã dạy qua Barnum khóa học, nhiều hơn Mẹ một khóa. Em không muốn đi dạy thêm nữa. Em muốn được ở yên trong ngôi nhà của mình vào mùa đông này.

Cô nói thêm:

- Muốn sao thì nó cũng chỉ là một buổi lễ. Bố không có đủ khả năng tổ chức một đám cưới và em không muốn gia đình phải tốn kém chút nào. Khi chị trở lại vào mùa hè tới, ngôi nhà của em đã sẵn sàng mọi thứ để chị tới chơi.

Mary nói:

- Laura, chị rất tiếc về chuyện cây đàn dương cầm. Nếu chị được biết… nhưng lúc đó chị cũng muốn tới nhà Blanche vì ở gần đó và không muốn Bố phải tốn phí khoản tiền đi xe lửa về nhà của chị.

Chị không nhận ra là mọi sự luôn thay đổi, ngay ở nhà mình tại đây. Chị cảm thấy ở đây cứ mãi thế khi chị trở về.

Laura nói với cô:

- Đúng là vậy đó, Mary. Và đừng nghĩ ngợi gì về chuyện cây đàn. Chỉ nên nhớ là chị đã có một khoảng thời gian vui vẻ tại nhà Blanche. Em thực sự mừng là chị đã tới đó và Mẹ cũng vậy. Ngay lúc đó Mẹ đã nói thế.

Gương mặt Mary sáng lên:

- Mẹ nói thế hả?

Laura kể cho cô nghe Mẹ đã nói Mẹ mừng khi thấy cô có những giờ khắc vui vẻ vào lúc còn trẻ để nhớ lại sau này. Mặt trời đã khuất hẳn và Laura tả lại vẻ huy hoàng của những ánh màu đỏ tía và màu vàng lửa trên nền trời đang chuyển dần sang màu hồng xám ra sao. Mary nói:

- Bây giờ mình về nhà thôi. Chị cảm thấy đã có một sự thay đổi trong không khí.

Cả hai nắm tay nhau đứng nhìn về phía trời tây thêm một hồi nữa rồi chậm rãi bước xuống bờ đồi dốc băng ngang trước chuồng bò.

Mary nói:

- Lúc này thời gian qua thật nhanh. Em có nhớ khi mùa đông quá dài thì hình như mùa hè không bao giờ tới, thế rồi trong mùa hè, mình lại gần như quên bẵng cái thời gian dài dằng dặc đã qua.

Laura đáp:

- Ừ, và đã có biết bao thời khắc vui vẻ khi mình còn nhỏ. Nhưng có thể thời gian đang tới còn tốt đẹp hơn. Chị đâu có biết nổi.

31. SẮP ĐẶT CƯỚI XIN

Luôn luôn có một khoảng trống vắng trong nhà sau khi Mary đi khỏi. Sáng hôm sau, Mẹ vui vẻ nói:

- Laura, bây giờ mình sẽ lo may vá cho con. Những bàn tay bận rộn luôn mang lại niềm vui.

Thế là Laura mang vải ra cho Mẹ cắt và gian phòng thoáng mát đầy ắp tiếng máy may và sự bận rộn vui vẻ của Mẹ cùng Laura đang cùng nhau may đồ. Laura nói:

- Con có ý nghĩ là sẽ may mềm. Con không khâu bằng tay những đường nối dài ở giữa nữa. Nếu con ráp những mép phẳng và khâu bằng máy ở chính giữa, con nghĩ là chúng cũng đủ đều và thậm chí còn có thể coi được hơn.

Mẹ nói:

- Có thể được lắm. Các cụ của mình đã nằm trong mộ sẽ không ưng nhưng dù sao bây giờ cũng là thời mới.

Tất cả những đồ khâu màu trắng được làm xong một cách mau chóng bằng máy may.

Trong lúc bận rộn làm việc, Mẹ và Laura bàn về những chiếc áo khoác của cô. Laura nói:

- Chiếc áo nâu của con vừa tốt lại vừa mới, còn chiếc áo bằng vải mịn màu hồng của con hoàn toàn mới. Con còn cần gì may thêm nữa?

Mẹ đáp một cách dứt khoát:

- Con cần thêm một chiếc áo choàng màu đen. Mẹ nghĩ là mỗi người phụ nữ đều nên có một chiếc áo choàng màu đen thật đẹp. Tốt nhất là Thứ Bảy mình vào thị trấn kiếm hàng. Mẹ nghĩ nên chọn thứ vải nỉ ca-sơ-mia. Vải nỉ mặc rất tốt và thích hợp cho mọi dịp ngoại trừ những ngày hè nóng bức. Rồi khi lo xong hết những chiếc áo choàng này, con cần kiếm một loại hàng đẹp để may đồ cưới.

Laura nói:

- Còn dư thời gian mà.

Giữa cơn sóng công việc mùa hè, Almanzo dành được rất ít thời gian cho việc dựng nhà. Một ngày Chủ Nhật, anh tới đón Mẹ và Laura đi coi khung nhà dựng bên những đống gỗ xoay lưng vào con đường chạy sau khu rừng cây non.

Nhà có ba phòng: một phòng lớn, một phòng ngủ và một phòng chứa đồ ăn với một gian chái phía ngoài cửa sau. Nhưng sau khi Laura xem xong cách phân bố rồi, Almanzo không đưa cô đi coi nhà thêm nữa. Anh nói:

- Cứ để đó cho anh lo. Anh sẽ lợp xong mái trước khi tuyết rơi.

Thế là họ có những chuyến dạo xe dài trong ngày Chủ Nhật tới khu hồ đôi hoặc hồ Spirit và phía bên kia.

Sáng Thứ Hai, Mẹ trải dài tấm vải nỉ ca-sơ-mia đen bóng và cẩn thận ướm với những mẩu giấy báo để không hoang phí vải rồi Mẹ cắt một cách tự tin bằng chiếc kéo lớn. Cắt xong, Mẹ ghim chung những thứ cùng loại như vạt áo, thân áo, tay áo lại với nhau. Sau bữa ăn trưa, chiếc máy may được mắc chỉ đen và bắt đầu chạy.

Tiếng máy vang lên đều đều suốt buổi chiều hôm đó và khi Laura vừa lược xong lớp lót mịn cho mấy mảnh vải nỉ thì nhìn thấy Almanzo lái xe tới. Cô nghĩ có chuyện gì xảy ra hoặc ngày Thứ Ba anh không thể tới được. Cô vội đi ra cửa và anh nói:

- Lên xe đi dạo một chút. Anh có chuyện muốn nói với em.

Chùm chiếc mũ lên đầu, Laura bước ra cùng với anh. Cô hỏi khi Barnum và Skip chạy đi:

- Có chuyện gì vậy?

Almanzo nói một cách nôn nóng:

- Chỉ là thế này thôi. Em có muốn làm một đám cưới lớn không?

Cô ngạc nhiên nhìn anh vì thấy anh phải đến hỏi cô như thế trong khi họ sẽ gặp nhau vào ngày Chủ Nhật tới. Cô hỏi:

- Tại sao anh hỏi thế?

Anh hỏi lại với vẻ lo lắng hơn:

- Nếu em không muốn thế thì em có muốn là mình làm đám cưới ngay cuối tuần này hoặc đầu tuần tới không? Đừng vội trả lời cho tới khi anh nói rõ lý do cho em biết. Khi anh trở về nhà ở Minnesota vào mùa đông vừa qua, chị Eliza đã bắt đầu phác họa chương trình tổ chức đám cưới thật lớn cho chúng mình ở nhà thờ. Anh đã nói với chị ấy là mình không muốn làm thế và nhắc chị ấy gạt bỏ ý nghĩ kia đi. Sáng nay anh nhận được thư, chị ấy không đổi ý. Chị ấy đang trên đường tới đây cùng với Má anh để đứng ra lo đám cưới cho tụi mình.

Laura nói:

- Ô, không nên!

Almanzo nói:

- Em đã biết Eliza. Chị ấy rất cứng đầu, luôn luôn hống hách, nếu chỉ có mình chị ấy thì anh có thể giải quyết xong vấn đề. Má anh thì khác hẳn, bà rất thích Mẹ em và em sẽ thích bà ấy. Nhưng khi chị Eliza đã khiến Má anh bằng lòng tổ chức đám cưới thật lớn cho tụi mình ở nhà thờ và có mặt ở đây trước khi tụi mình làm đám cưới thì anh không biết làm sao để nói “không” với Má. Anh không muốn có một hình thức đám cưới như thế và anh cũng không đủ sức để chi phí tốn kém. Em nghĩ thế nào về chuyện này?

Một hồi im lặng trong lúc Laura suy nghĩ. Rồi cô nói một cách điềm tĩnh:

- Bố không đủ sức để lo cho em một đám cưới như thế. Em muốn kéo dài thêm một chút là để lo cho mình có một ít đồ dùng. Nếu mình làm đám cưới sớm quá, em sẽ không có cả một chiếc áo cưới.

Almanzo hối:

- Hãy mặc chiếc áo mà em đang mặc. Áo đó đẹp rồi.

Laura không thể nín cười:

- Đây là chiếc áo vải mặc trong lúc làm việc. Em đâu có thể mặc được.

Rồi cô bình tĩnh tiếp:

- Nhưng Mẹ và em đang may một chiếc áo mà em có thể mặc.

- Như thế là em muốn nói cuối tuần này?

Laura lại im lặng. Rồi cô gom hết can đảm và nói:

- Almanzo, em phải hỏi anh một điều. Anh có muốn em hứa vâng lời anh không?

Một cách tỉnh táo, anh đáp:

- Dĩ nhiên là không. Anh biết đó là một điều trong nghi thức cưới nhưng là điều duy nhất mà người phụ nữ nói. Anh không bao giờ biết có ai làm điều đó và cũng không có tới một phần mười đàn ông muốn vợ mình làm thế.

Laura nói:

- Thế thì được, em sẽ không nói vâng theo lời anh.

Almanzo ngạc nhiên hỏi:

- Em cũng đòi nữ quyền, như Eliza hả?

Laura đáp:

- Không. Em không đòi đi bỏ phiếu. Nhưng em không thể hứa một điều mà em sẽ không tuân theo, và, Almanzo này, ngay cả khi em cố gắng em cũng không nghĩ em có thể vâng lời ai để chống lại sự xét đoán tốt hơn của mình.

Anh nói với cô:

- Anh không bao giờ chờ em hứa. Và cũng không có khó khăn về buổi lễ vì cha Brown không tin ở sự sử dụng từ “vâng lời”

- Ông ấy không thích! Anh chắc không?

Laura chưa bao giờ ngạc nhiên và dễ chịu tới thế.

Almanzo nói;

- Ông ấy cảm nghĩ rất mạnh về điều đó. Anh đã nghe ông ấy tranh luận nhiều giờ và trích dẫn nguyên văn Kinh Thánh để chống lại Thánh Paul về vấn đề đó. Em biết ông ấy là một người thuộc dòng họ của John Brown ở Kansas và tương hợp rất nhiều với ông tổ. Vậy là điều đó ổn rồi chứ? Cuối tuần này hay đầu tuần tới?

Laura nói:

- Được, nếu đó là cách duy nhất để thoát khỏi một đám cưới dềnh dàng. Em sẽ sẵn sàng vào cuối tuần này hoặc ngày đầu tuần tới, bất cứ lúc nào anh nói.

Almanzo tính toán:

- Nếu anh kịp làm xong ngôi nhà, chúng mình sẽ cưới vào cuối tuần này. Nếu không, sẽ phải lo trong tuần tới. Hãy quyết định là khi nhà làm xong, mình sẽ đi thẳng tới nhà cha Brown và làm lễ cưới lặng lẽ không có ồn ào gì. Bây giờ anh đưa em về để anh có thể có thời gian làm thêm ít miếng ván cho ngôi nhà trong tối nay.

Trở về nhà, Laura do dự về việc kể lại dự tính. Cô cảm thấy Mẹ sẽ nghĩ là một sự vội vã khó coi. Mẹ có thể nói:

- Cưới xin gấp rút, hối tiếc lâu dài.

Tuy nhiên, thực sự hai người không hề hấp tấp. Họ đã ở bên nhau trong ba năm.

Sắp tới giờ ăn tối Laura mới đủ can đảm nói rõ việc cô và Almanzo đã tính làm đám cưới sớm.

Mẹ phản đối:

- Mình không thể may kịp nổi áo cưới cho con.

Laura trả lời:

- Mình có thể may xong chiếc áo vải nỉ đen và con sẽ mặc chiếc áo đó.

Mẹ nói:

- Mẹ không thích nghĩ rằng con sẽ mặc đồ đen trong đám cưới. Con biết người ta thường nói “đám cưới mặc đồ đen là mong theo đường quen quay về”.

Laura nói một cách vui vẻ:

- Đây là chiếc áo mới. Con sẽ đội chiếc mũ cũ màu xanh sáng có bọc lụa xanh da trời và mượn Mẹ chiếc kẹp vàng có trái dâu tây màu đỏ trên đó. Vậy là con mặc cả đồ cũ, đồ mới, đồ đi mượn và có cả màu xanh nữa.

Mẹ bằng lòng:

- Mẹ cũng không nghĩ là có điều gì thực trong những lời nói xưa cũ.

Bố nói:

- Bố nghĩ đó là một điều hợp lý. Con và Almanzo tỏ ra suy đoán tốt.

Nhưng Mẹ chưa hoàn toàn vừa ý:

- Hãy mời cha Brown tới đây. Các con sẽ làm đám cưới ở nhà mình, Laura. Cả nhà có thể tổ chức một đám cưới nhỏ.

Laura không chịu:

- Không, Mẹ, chúng con không tổ chức bất kỳ một đám cưới nào và cũng không chờ Má của Almanzo tới đây.

Bố nói:

- Laura có lý, em hãy nghĩ lại đi, Caroline.

Mẹ nhìn nhận:

- Dĩ nhiên, em sẽ theo.

32. ĐÁM CƯỚI GẤP RÚT

Carrie cùng Grace đề nghị được lo hết công việc trong nhà để Mẹ với Laura có thể may xong chiếc áo ca-sơ-mia và mỗi ngày trong tuần đó hai người đều cặm cụi khâu vá.

Họ may xong một chiếc áo bó sát có đệm một lớp vải mịn mỏng màu đen đính những đốt xương cá voi trên từng đường nối. Chiếc áo có cổ cao bằng vải nỉ. Các ống tay áo cũng được lót. Tất cả đều dài, đẹp với phần trên hơi loe rộng nhưng vừa vặn ở cườm tay. Một hàng khuy tròn màu đen giữ thẳng chiếc áo bó ở phía trước.

Chiếc váy chỉ vừa chạm đất, ghép phẳng khít ở phía trên nhưng phồng đầy ở phía dưới. Váy được lót bằng lớp vải mịn mỏng với một bộ khung vải phía dưới cao hơn ống giày của Laura. Laura khâu tay những dải viền thật kỹ để không lộ ra một mũi khâu nào.

Chủ Nhật đó không có dạo xe. Almanzo chỉ tới một lát trong bộ đồ làm việc và bảo anh đã vi phạm luật lệ làm việc trong ngày lễ Sa-Ba. Anh cho biết sẽ dựng xong nhà trong ngày Thứ Tư nên đám cưới sẽ cử hành vào Thứ Năm. Anh sẽ tới đón Laura vào lúc mười giờ sáng Thứ Năm vì cha Brown sẽ rời thị trấn trên chuyến xe lửa mười một giờ.

Bố nói với anh:

- Tốt hơn là hãy đánh xe của cậu tới đây vào Thứ Tư, nếu làm được việc đó, để thu xếp đồ đạc cho Laura.

Almanzo nói anh sẽ làm được việc đó và thế là mọi việc đã xong. Với một nụ cười với Laura, anh hối hả đánh xe đi.

Sáng Thứ Ba, Bố lái xe vào thị trấn và trở về vào buổi trưa với món quà tặng cho Laura là một chiếc rương mới. Bố nói:

- Tốt nhất là hãy xếp hết đồ của con vào đây trong ngày hôm nay.

Chiều hôm đó, với sự giúp đỡ của Mẹ, Laura xếp đồ vào trong rương. Con búp bê bằng vải cũ Charlotte cùng tất cả quần áo của cô được đặt gọn vào một hộp các-tông ở chính giữa đáy rương. Kế đó là quần áo mùa đông của cô rồi chăn, gối, khăn, những bộ đồ mới màu trắng và chiếc áo vải màu nâu. Chiếc áo vải mịn màu hồng được xếp cẩn thận ở trên cùng để tránh khỏi bị nhăn. Trong ngăn để nón của chiếc rương, Laura cất chiếc mũ mới gắn lông đà điểu và trong một ngăn mỏng, cô cất kim khâu, kim đan móc và những cuộn chỉ sợi.

Carrie mang tới cho Laura chiếc hộp kính đặt trên bệ tháp nói:

- Em biết là chị thích cái này.

Laura cầm chiếc hộp trong bàn tay do dự. Cô trầm ngâm nói:

- Chị không thích đem chiếc hộp này đi xa chiếc hộp của Mary. Không nên chia cắt chúng.

Carrie chỉ cho cô thấy:

- Chị coi, em đã chuyển chiếc hộp của em tới bên chiếc hộp của Mary. Nó đâu có cô đơn.

Thế là Laura đặt chiếc hộp kính của mình vào trong rương giữa mớ chỉ sợi để nó không thể bị vỡ.

Rương đã xếp xong và Laura đóng nắp lại. Lúc đó Mẹ trải rộng chiếc mền cũ trên giường. Mẹ nói:

- Con sẽ thích chiếc mền này.

Laura đã giữ chiếc mền có hình Con Bồ Câu Trong Cửa Sổ mà cô khâu khi còn nhỏ trong lúc Mary khâu chiếc mền chín mảnh. Chiếc mền đã được giữ cẩn thận qua nhiều năm. Mẹ gấp chiếc mền lại và đặt lên trên nó hai chiếc gối lớn nhồi căng. Mẹ nói:

- Mẹ muốn con mang theo những cái này theo, Laura. Con đã giúp Mẹ giữ đám lông ngỗng mà Bố bắn được ở hồ Nước Bạc. Tất cả vẫn còn tốt như mới và Mẹ để dành cho con. Chiếc khăn bàn kẻ ô trắng đỏ này giống hệt như chiếc mà Mẹ vẫn luôn luôn có. Mẹ nghĩ nó có thể khiến ngôi nhà mới giống như căn nhà này khi con nhìn thấy chiếc khăn trên bàn.

Và, Mẹ đặt chiếc khăn trải bàn còn nằm trong bọc giấy lên trên chiếc gối. Mẹ kéo những góc mền phủ kín hết rồi buộc chặt lại. Mẹ nói:

- Đó, vậy là không sợ bụi bặm.

Almanzo đến vào sáng hôm sau với Barnum và Skip kéo xe. Anh và Bố chất rương đồ và gói mền gối lên xe. Rồi Bố nói:

- Chờ một phút, đừng vội. Bố sẽ quay lại.

Và Bố bước vào trong nhà. Mọi người dừng bên xe một lát nói chuyện và đợi Bố từ cửa đi ra.

Nhưng Bố xuất hiện từ một góc nhà, dắt theo con bò cái nhỏ mà Laura rất thích. Con bò nâu vàng khắp toàn thân và rất dễ thương. Bố lặng lẽ buộc con bò vào sau xe, rồi liệng chiếc cọc cột dây của con bò vào trong xe nói:

- Cọc buộc của nó đi cùng với nó.

Laura kêu lên:

- Ô, Bố! Bố thực sự muốn con đem Fawn đi theo con sao?

Bố nói:

- Đúng là Bố muốn thế! Thật tội nghiệp nếu con không có nổi một con bê để nuôi dưỡng.

Laura không lên tiếng nổi chỉ nhìn Bố bằng ánh mắt biết ơn.

- Liệu nó có được an toàn khi buộc sau những con ngựa kia không?

Mẹ hỏi và Almanzo cam đoan nó sẽ an toàn rồi nói với Bố là anh rất biết ơn về món quà tặng là con bò cái này.

Sau đó quay về phía Laura anh nói:

- Anh sẽ trở lại vào mười giờ sáng.

- Em sẽ đợi sẵn.

Laura hứa nhưng khi đứng nhìn theo Almanzo đánh xe đi, cô không thể nhận ra rằng sáng mai cô đã rời khỏi nhà. Dù cố gắng cô cũng không thể nghĩ nổi là chuyến đi sáng mai có nghĩa là cô sẽ không quay về nhà như cô vẫn thường quay về sau những cuộc dạo xe với Almanzo.

Chiều hôm đó, chiếc áo ca-sơ-mia màu đen được may xong và ủi cẩn thận. Rồi Mẹ làm một chiếc bánh ngọt lớn bằng bột trắng. Laura giúp Mẹ dùng nĩa khuấy những lòng trắng trứng trên một chiếc đĩa bẹt cho tới khi Mẹ nói chúng đã đủ quánh rồi.

Laura chà lên cánh tay mặt đang đau nhức cười vui vẻ:

- Cánh tay con còn quánh hơn nữa.

Mẹ nhấn mạnh:

- Chiếc bánh này phải làm thật đúng cách. Nếu con không thể có một tiệc cưới, ít nhất con cũng có một bữa ăn trưa mừng đám cưới ở nhà và một chiếc bánh cưới.

Sau bữa ăn tối hôm đó, Laura mang cây đàn tới cho Bố và yêu cầu:

- Bố, Bố hãy đàn một lát đi.

Bố nhấc cây đàn ra khỏi hộp. Bố lên dây một hồi lâu rồi cẩn thận chuốt lại chiếc vĩ. Cuối cùng, Bố đặt chiếc vĩ trên những sợi dây đàn và hắng giọng:

- Con muốn nghe bài nào, Laura?

Laura đáp:

- Trước tiên, Bố hãy đàn cho Mary rồi sau đó Bố đàn lần lượt tất cả những bài ca cổ càng nhiều càng tốt.

Cô ngồi trên bậc cửa và ngay phía trong cửa, Bố và Mẹ ngồi nhìn ra ngoài đồng cỏ trong lúc Bố đàn bản “Cao Nguyên Mary”. Rồi trong lúc mặt trời lặn xuống, Bố đàn tất cả những điệu nhạc cổ mà Laura đã biết và có thể nhớ.

Mặt trời đã khuất hẳn kéo theo những vệt sáng. Mọi màu sắc nhòa nhạt dần, mặt đất trở thành mờ tối và những ngôi sao đầu tiên đã lấp lánh. Carrie và Grace nhẹ nhàng tới tựa vào người Mẹ.

Cây đàn tiếp tục ngân lên trong ánh chiều tàn.

Đàn ngân lên những bài ca mà Laura biết từ khi còn ở khu rừng Big Woods vùng Wisconsin, những điệu nhạc mà Bố từng đàn bên ánh lửa trại khi băng qua các cánh đồng Kansas. Đàn nhắc lại tiếng hót của con họa mi dưới ánh trăng bên bờ sông Verdigris, rồi gợi nhớ thuở sống dưới căn nhà hầm bên bờ suối Plum và những đêm mùa đông trong căn nhà mới do Bố cất tại đó. Đàn gợi nhớ dịp lễ Giáng Sinh bên hồ Nước Bạc, những ngày xuân nối theo và mùa đông Ác Liệt.

Rồi tiếng đang dìu dặt ngọt ngào hơn với giọng ca trầm lắng của Bố hòa theo:

Một thuở chìm sâu vẫn hoài nhắc nhớ

Khi thế gian nhòa nhạt dưới màn sương

Những ước mơ thắm đượm sắc hồng non

Khúc hát yêu thương của thời xa vời vợi.

Khi ánh lửa hồng chìm trong bóng tối

Giấc mộng xưa thành sóng vỗ nhẹ nhàng.

Khúc hát dặt dìu giữa buổi hoàng hôn

Khẽ lay chuyển bóng đêm đen nghiêng ngả

Dù con tim trải một ngày quật quã

Buổi hoàng hôn vẫn vang khúc nhạc xưa

Khúc hát yêu thương dịu ngọt vô bờ.

Trong đáy tim ta mãi ngân vang muôn thuở

Khúc hát yêu thương nghe thấy tự bao giờ

Giữa bước buồn rã rượi nẻo đường xa

Cho tới lúc ngày chập chờn hấp hối

Bóng đêm dài mịt mù giăng khắp lối

Vẫn dịu dàng vang mãi khúc tình ca.

33. NGÔI NHÀ NHỎ MÀU XÁM TẠI MIỀN TÂY

Laura đã sẵn sàng khi Almanzo tới. Cô mặc áo vải nỉ đen, đội mũ màu xanh sáng có lót lụa xanh và dây buộc xanh da trời thắt nút dưới tai trái. Mũi giày mềm màu đen hơi ló dưới chiếc váy phồng mỗi khi cô bước đi.

Chính tay Mẹ cài lên dải ren trắng ở cổ áo Laura chiếc trâm vàng có gắn hình trái dâu tây. Mẹ nói:

- Xong rồi! Ngay cả khi mặc áo màu đen, con vẫn có vẻ hoàn hảo.

Bố nói bô bô:

- Con đúng như thế đó, Bình-Rượu-Nhỏ.

Carrie mang tới một chiếc khăn tay màu trắng gắn viền ren rất hợp với dải ren trên cổ áo Laura và nói:

- Em làm chiếc khăn này tặng chị. Nó rất dễ thương khi nằm trong bàn tay chị và tương phản với màu áo đen của chị.

Grace chỉ đứng sát bên, ngắm với vẻ thán phục. Rồi Almanzo tới và cả nhà cùng đứng trước cửa nhìn theo trong lúc Laura và Almanzo lái xe đi.

Laura lên tiếng:

- Cha Brown có biết chúng mình sẽ tới không?

Almanzo nói:

- Anh đã gặp ông ấy trên đường đi. Ông ấy sẽ không dùng từ “vâng lời”.

Bà Brown mở cửa phòng khách. Bà ấy nói với vẻ kích động là sẽ đi kêu cha Brown và nhắc hai người ngồi chờ. Bà ấy bước vào phòng ngủ và đóng cửa lại.

Laura cùng Almanzo ngồi đợi. Chính giữa phòng khách là một chiếc bàn mặt đá đặt trên một tấm thảm bằng len móc. Trên tường là một bức tranh lớn vẽ một người đàn bà đang bám vào cây thánh giá màu trắng đóng trên một tảng đá với lửa chớp vạch ngang trên bầu trời phía trên đầu và những đợt sóng khổng lồ dâng cao ở xung quanh.

Cửa phòng ngủ khác mở ra và Ida lách ra, ngồi xuống chiếc ghế gần cửa. Cô cười với Laura với vẻ như hoảng sợ rồi xoắn chiếc khăn tay trong chéo áo và ngồi ngắm.

Cửa nhà bếp mở ra và một thanh niên cao gầy lặng lẽ bước vào tới bên chiếc ghế. Laura đoán người này là Elmer nhưng cô không nhìn anh ta vì giáo sĩ Brown đã từ phòng ngủ bước ra đang xỏ cánh tay vào ống tay áo. Ông kéo đứng cổ áo lên, yêu cầu Almanzo cùng Laura tới đứng thẳng trước mặt ông.

Thế là cả hai đã thành vợ chồng.

Ông bà giáo sĩ Brown và Elmer bắt tay hai người và Almanzo lặng lẽ đặt vào tay cha Brown một mảnh giấy bạc gấp lại. Cha Brown mở ra và thoạt tiên ông như không hiểu Almanzo có ý định biếu ông tất cả mười đô la. Ida níu chặt tay Laura, cố nói nhưng nghẹn giọng. Cô hôn Laura thật nhanh, dúi vào tay một gói mềm nhỏ rồi chạy ra khỏi phòng.

Laura và Almanzo bước trở ra ngoài trời đầy nắng gió. Anh giúp cô bước lên xe, cởi dây cột ngựa. Họ lái xe trở lại qua thị trấn. Bữa ăn trưa đã sẵn sàng khi cả hai về tới. Mẹ và hai cô em gái đã chuyển bàn ăn qua phòng khách giữa khung cửa ra vào để ngỏ và những khuôn cửa sổ mở toang. Bàn phủ dưới tấm khăn trải màu trắng tốt nhất và những chiếc đĩa đẹp nhất được bày lên. Những chiếc muỗng bạc sáng lên trong chiếc lọ cắm muỗng để chính giữa bàn và dao, nĩa đều bóng loáng.

Khi Laura rụt rè một cách e thẹn bước vào cửa, Carrie kêu lên:

- Cái gì trong tay chị thế?

Laura nhìn xuống. Cô đang giữ trong tay chiếc khăn của Carrie và chiếc hộp nhỏ của Ida tặng cô. Cô nói:

- Chà, chị không biết nữa. Ida cho chị cái này.

Cô mở chiếc hộp nhỉ bằng giấy lụa và nhận ra một miếng đăng ten đẹp chưa từng thấy. Đó là một mảnh khăn trùm đầu hình tam giác ren bằng lụa trắng với một mẫu hoa lá rất dễ thương.

- Cái đó sẽ bền tới trọn đời đó, Laura.

Mẹ nói và Laura biết rằng cô sẽ luôn nâng niu giữ gìn cái tặng phẩm dễ thương này của Ida.

Rồi Almanzo từ chỗ buộc ngựa bước vào và cả nhà cùng ngồi xuống ăn bữa trưa.

Đó là một bữa ăn trưa ngon nhất của Mẹ nhưng Laura thấy mọi món ăn đều như nhau. Ngay cả chiếc bánh cưới cũng khô như cát trong miệng cô vì cuối cùng, cô đã nhận ra cô sắp rời khỏi nhà và không khi nào còn trở lại nơi này nữa. Tất cả đều nán ngồi lại bên bàn vì biết sau bữa ăn sẽ là sự chia tay, nhưng sau cùng Almanzo cũng lên tiếng nhắc đã tới lúc phải đi.

Laura lại đội mũ và bước ra xe khi Almanzo lái xe tới trước cửa. Có những cái hôn từ biệt, những lời chúc mừng trong lúc anh đứng chờ sẵn để giúp cô bước lên xe. Nhưng Bố nắm lấy bàn tay cô và nói với Almanzo:

- Sau phút này thì con sẽ giúp nó, chàng trai. Nhưng vào phút này, Bố sẽ lo.

Bố giúp cô lên xe.

Mẹ bưng ra một chiếc giỏ phủ kín bằng vải trắng. Mẹ nói, môi run run:

- Có một chút để phụ cho con làm bữa ăn tối. Nhớ trở lại sớm nghe, Laura.

Khi Almanzo đang nhấc dây cương, Grace chạy tới với chiếc mũ cũ của Laura:

- Chị quên cái này!

Cô kêu lớn và đưa chiếc mũ lên. Almanzo so lại dây cương trong lúc Laura đón lấy chiếc mũ.

Khi lũ ngựa khởi sự bước, Grace kêu lớn với vẻ lo ngại từ phía sau xe:

- Nhớ nghe, Laura. Mẹ nói nếu chị không buộc kỹ mũ chị sẽ nâu sạm như người da đỏ đó!

Thế là mọi người cùng cười khi Laura và Almanzo lái xe đi.

Họ chạy theo con đường đã qua lại nhiều lần, băng ngang đầm Big Slough, quẹo vào khúc quanh gần kho hàng Pearsonos, ngược phố Main, qua đường sắt rồi ra con đường hướng về ngôi nhà mới trên đất trại của Almanzo.

Đó là một chuyến dạo xe im lặng cho tới gần cuối đường, Laura mới nhìn thấy những con ngựa lần đầu trong ngày hôm đó. Cô kêu lên:

- Sao vậy, anh đang lái Prince và Lady!

Almanzo nói:

- Prince và Lady đã mở đầu chuyện chúng mình. Cho nên anh nghĩ là chúng thích đưa mình về nhà. Bây giờ thì mình tới nhà rồi.

Vết bánh xe kéo đồ và xe ngựa tạo thành một vành cung hoàn hảo uốn vòng vào khu rừng cây non phía trước ngôi nhà. Ngôi nhà đang đứng đó và gọn gàng với những bờ vách sơn mịn màng màu sơn xám nhạt. Phía trước nhà là khung cửa ra vào nằm chính giữa hai ô cửa sổ tạo cái vẻ như ngôi nhà đang tươi cười. Ngay trên bực cửa, một con chó lớn màu nâu đang nằm dài. Nó đứng vùng dậy ngoắc đuôi với Laura khi cỗ xe ngừng lại.

Almanzo nói với con chó:

- Chào Shep!

Anh giúp Laura bước xuống xe, mở khóa cửa và nhắc cô:

- Vào nhà đi trong lúc anh lo thả ngựa.

Laura chỉ bước qua cửa rồi đứng im quan sát. Đây là gian phòng lớn với các bức vách trát một lớp vữa trắng mỏng. Sâu trong một phía phòng là chiếc bàn nối đang phủ dưới tấm khăn trải bàn ca-rô đỏ của Mẹ. Một chiếc ghế đứng nghiêm chỉnh bên cạnh bàn. Sát bên nó là một khung cửa ra vào đang đóng.

Chính giữa bức vách dài bên tay trái Laura, ánh nắng từ phía nam đang rọi qua một ô cửa sổ lớn vào nhà. Cạnh ô cửa sổ này là hai chiếc ghế đu thân thiết đối diện nhau. Bên chiếc ghế gần Laura nhất có một chiếc bàn tròn nhỏ phía trên lơ lửng một ngọn đèn treo từ trần nhà thả xuống. Người ngồi trên chiếc ghế này vào buổi tối có thể đọc sách báo trong khi người ngồi bên chiếc ghế kia có thể khâu vá.

Ô cửa sổ bên cạnh cửa ra vào phía trước cũng đưa thêm ánh sáng vào gian phòng thoải mái này.

Hai khung cửa đang đóng kín nằm trên một bức vách dài khác. Laura mở chiếc cửa gần nhất và thấy một phòng ngủ. Tấm mền có hình Con-Bồ-Câu-Trong-Cửa-Sổ của cô trải trên một chiếc giường rộng và hai chiếc gối lông căng phồng của cô đặt trên đầu giường. Phía chân giường là chiếc giá cao khỏi đầu Laura nằm trọn bề dài của tấm vách ngăn với một tấm rèm che buông sát nền nhà làm thành một tủ áo hoàn hảo. Dựa sát vách dưới ô cửa phía trước là chiếc rương của Laura.

Cô nhìn nhanh tất cả các thứ, tháo mũ đặt lên chiếc giá rồi mở rương lấy ra chiếc áo vải và chiếc tạp dề. Cởi chiếc áo ca-sơ-mia màu đen treo cẩn thận phía trong tấm màn che, cô mặc chiếc áo vải xanh và choàng thêm chiếc tạp dề màu hồng. Cô bước ra phòng trước đúng lúc Almanzo bước vào khung cửa bên cạnh chiếc bàn nối.

Anh đặt chiếc giỏ của Mẹ lên chiếc ghế bên cạnh, vui vẻ nói:

- Anh thấy em đã sẵn sàng làm việc rồi! Anh cũng sẵn sàng cho công việc của mình.

Anh nhìn về phía phòng ngủ nói:

- Mẹ đã dặn anh mở gói đồ của em và trải các thứ lên.

Laura nói với anh:

- Em mừng là anh đã làm xong.

Cô nhìn qua khung cửa bên cạnh chiếc bàn. Có một gian chái ở đó. Chiếc lò bếp độc thân của Almanzo đứng trong gian chái cùng với đủ thứ xoong, chảo treo trên các bức vách. Gian chái có một ô cửa sổ và một cửa sau mở về phía chuồng bò ở bên kia khóm cây nhỏ.

Laura quay lại gian phòng trước. Cô cầm lấy giỏ đồ của Mẹ và mở khung cửa ra vào cuối cùng. Cô đã biết đây là phòng chứa thực phẩm, nhưng vẫn ngạc nhiên thích thú ngắm nghía. Phủ kín một bức vách là những ngăn kéo, kệ đồ và một chiếc kệ lớn nằm dưới ô cửa sổ ở cuối gian chái.

Cô mang giỏ đồ của Mẹ tới chiếc kệ này và mở cửa sổ. Trong giỏ có một ổ bánh thật ngon của Mẹ, một thỏi bơ và phần còn lại của chiếc bánh cưới. Cô đặt các thứ lên mặt kệ trong lúc ngắm khắp gian chái.

Một bức vách dài được đóng giá kín từ trên trần xuống lưng chừng vách. Những ngăn giá phía trên bỏ trống nhưng ngăn giá thấp nhất có một cây đèn thủy tinh, những chiếc đĩa độc thân của Almanzo, hai chảo sữa và những chiếc chảo không ở bên cạnh. Ở cuối dãy, nơi chiếc giá này chạy ngang phía trên chiếc kệ cửa sổ ở trong góc dựng đứng một hàng bình chứa gia vị.

Phía dưới chiếc kệ này là rất nhiều ngăn kéo đủ kích cỡ. Thẳng phía dưới những bình gia vị và trên chiếc kệ chỗ cửa sổ là hai ngăn kéo hơi nhỏ hơn. Laura thấy một ngăn đầy đường trắng và ngăn kia đựng đường nâu. Tiện lợi biết ngần nào!

Kế cận là một ngăn kéo sâu chứa đầy bột mì và những ngăn kéo nhỏ hơn chứa các thứ bột khác. Có thể đứng ngay tại chiếc kệ trước cửa sổ để nhào trộn các thứ chứ không cần xê dịch một bước.

Phía ngoài cửa sổ, bầu trời xanh mênh mông và những khóm cây đầy lá.

Một ngăn kéo sâu khác chất đầy khăn và các túi trà. Một ngăn khác nữa cất khăn bàn, khăn ăn. Một ngăn nông hơn cất dao, nĩa và muỗng.

Phía dưới tất cả những ngăn kéo này là một thùng khuấy kem cao bằng gốm đá và một khoảng trống để cất các món đồ khác khi cần.

Trong một ngăn kéo rộng ở hàng cuối chỉ có vỏ bánh mì và nửa chiếc bánh nhồi thịt. Laura đặt vào đây ổ bánh của Mẹ và phần bánh cưới. Cô cắt bơ đặt vào một chiếc đĩa nhỏ và đặt bánh mì ở bên cạnh. Rồi cô đóng ngăn kéo lại.

Qua chiếc khoen sắt gắn trên nền nhà, cô biết có một cửa sập. Cô dựng thẳng khoen sắt và lôi lên. Khuôn cửa hiện ra sát bờ vách đối diện với những kệ giá. Tại đó là những bậc thang dẫn xuống một ngăn hầm.

Phủ kỹ lưỡng tảng bơ, Laura mang xuống ngăn hầm tối lạnh và đặt vào chiếc giá treo lủng lẳng. Cô nghe có tiếng chân phía trên đầu và khi bước lên khỏi ngăn hầm, cô thấy Almanzo đang gọi tên cô.

Anh nói:

- Anh ngỡ là em đã bị lạc trong ngôi nhà rộng lớn này!

Laura nói:

- Em đem bơ xuống cất dưới hầm cho có độ lạnh.

- Em thích kho chứa đồ của em chứ?

Anh hỏi và cô nghĩ không biết anh đã phải làm việc suốt bao nhiêu giờ để ghép khít những giá kệ và những ngăn kéo kia. Laura nói:

- Dạ.

- Hãy ghé qua coi con ngựa lớn của Lady. Anh muốn em thấy những con ngựa này ở trong ngăn chuồng của chúng và coi luôn chỗ mà anh cột con bò cái. Bây giờ anh đang cột nó ở bãi cỏ ngay gần bụi cây con.

Almanzo dẫn đường băng qua gian chái ra ngoài.

Cả hai đi dọc dãy chuồng gia súc và khu sân phía bên kia. Laura vỗ về lũ ngựa cùng con ngựa con và con chó Shep khi nó theo sát gót hai người. Họ ngắm những cây thích nhỏ, những khóm hoàng dương, những cây liễu và đám bông gòn.

Buổi chiều trôi qua rất nhanh. Đã tới giờ lo việc trong nhà và bữa ăn tối. Almanzo nói với cô:

- Đừng nhóm bếp. Hãy lấy bánh và bơ của Mẹ cho ra. Anh sẽ đi vắt sữa Fawn là chúng mình sẽ có một bữa tối gồm cả bánh mì và sữa mới.

Laura nhắc:

- Còn thêm bánh cưới nữa.

Sau khi ăn bữa tối và rửa xong mấy chiếc đĩa, họ ra trước cửa ngồi ngắm chiều xuống. Cả hai nghe thấy Prince thở ra một hơi dài, húp, khi nó nằm xuống trên đám cỏ khô sạch trong chuồng. Trước mắt họ nổi lên lờ mờ bóng của Fawn đang nằm nhai lại và nghỉ ngơi trên bãi cỏ. Shep nằm sát dưới chân họ và nó đã gần như thuộc một nửa về Laura.

Laura cảm thấy tràn đầy hạnh phúc. Cô biết cô không khi nào sầu não vì nhớ nhà. Nhà của cha mẹ ở rất gần và cô có thể tới thăm bất kỳ lúc nào cô muốn trong khi cô cùng Almanzo xây dựng tổ ấm trong ngôi nhà nhỏ của riêng mình.

Mọi thứ ở đây là của họ, những con ngựa riêng, con bò cái riêng, đất trại riêng. Những chùm lá dầy trên các lùm cây nhỏ khẽ xào xạc trong làn gió nhẹ đưa.

Ánh chiều nhạt nhòa khi những vì sao nhỏ xuất hiện rồi mặt trăng nhô lên vươn cao mãi. Ánh trăng như bạc chan hòa trên bầu trời và đồng cỏ. Gió đã rì rào trên ngọn cỏ suốt những ngày hè lúc này như đang say ngủ và sự yên tĩnh ẩn mình khắp trên mặt đất thấm đẫm ánh trăng.

Almanzo lên tiếng:

- Một đêm kỳ diệu.

- Một thế giớ tuyệt đẹp.

Laura nói và trong ký ức của cô bỗng vẳng lên âm vang tiếng đàn và giọng hát của Bố:

- Ngày vàng thấm thoát trôi.

Những ngày vàng hạnh phúc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro