Ngón tay chỉ trăng OSHO

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

OSHO
Ngón tay chỉ trăng
Bài nói về Adhyatma Upanishad

Finger pointing to the moon
Discourses on the Adhyatma Upanishad

Mục lục
Giới thiệu
1. Điều thiêng liêng là bạn
2. Chúng ta trong cái đó!
3. Nhân chứng và ảo tưởng
4. Phản chiếu trong gương
5. Buông bỏ và bay
6. Cuộc sống là cơ hội
7. Bạn là cái nút
8. Hiểu quả
9. Cái đó - tôn giáo vũ trụ
10. Bốn bước
11. Cơn khát của linh hồn
12. Chết cho tương lai
13. Quả ngọt
14. Bay là quyền tập ấm của bạn
15. Tỉnh dậy đi! Đây là mơ
16. Chỉ cái này hiện hữu
17. Tôi là điều này
Về Osho

*****************************************************

#Giới thiệu

Từ upanishad nghĩa là hạt mầm - hạt mầm của khoa học/
nghệ thuật phương Đông cổ đại về học quan sát tâm trí và
các quá trình của nó một cách thảnh thơi và không phán xét,
do vậy tạo khả năng cho người ta siêu việt lên trên cuộc sống
nô lệ vào các giác quan và tìm thấy cảm nhận và sáng tỏ của
tự nhận biết.
Trong mười bẩy bài nói này, Osho dùng trí huệ cổ đại
của Adhyatma Upanishad như bàn đạp cho thông điệp của
ông gửi tới nhân loại đang chuyển động ngày càng nhanh
hơn hướng tới người biết mọi điều, vào buổi bình minh của
thế kỉ hai mươi mốt. "...Lần đầu tiên Upanishad đã dùng
ngôn ngữ khoa học và đã gạt sang bên ngôn ngữ trung tâm
của con người."
Các bản kinh cổ thường được trình bày dưới dạng đối
thoại thầy-đệ tử. Adhyatma Upanishad thay đổi cách thức
này để cho bản thân đệ tử nói với mình về tự hiểu biết và làm
chi tiết cách hiểu của mình và các bước trên con đường tới
chứng ngộ.
Osho nói, theo cách nói của người tìm kiếm vô danh,
"Đây là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này. Upanishad
là cuộc đọ sức trực tiếp với tâm linh. Không có học thuyết
trong nó; chỉ có kinh nghiệm của người đã được hoàn
thành... Trong nó không có thảo luận về cái được sinh ra từ
tò mò hay thóc mách, không; trong nó có những hướng dẫn
cho những người đầy khao khát giải thoát từ những người đã
đạt tới giải thoát..."
"Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết, điều tôi đã sống. Nếu bạn
đồng ý đặt cược tất cả, bất kì cái gì là kinh nghiệm của tôi
cũng có thể trở thành kinh nghiệm của bạn. Kinh nghiệm
không thuộc vào bất kì ai; chúng đến với bất kì người nào
sẵn sàng đón nhận chúng. Không ai có độc quyền về chân lí;
bất kì người nào sẵn lòng tan biến đều kế thừa nó. Chân lí
thuộc về người biểu hiện sự sẵn sàng hỏi về nó - người mở
cánh cửa trái tim họ và mời đón nó...
"Tôi sẽ nói với bạn chỉ những điều tôi biết, bởi vì chỉ
trong việc nói đó mới có giá trị nào đó; bởi vì chỉ có những
điều tôi biết mới có thể, nếu bạn sẵn lòng, làm rung động trái
tim bạn qua tác động sống của nó."
Khi nào câu hỏi, "Phải có cái gì đó nhiều hơn thế này
chứ?" nảy sinh trong lòng bạn, bạn trở thành người tìm kiếm.
Cuốn sách này là câu chuyện về một trong những người tìm
kiếm như thế và con đường của người đó, rộn ràng với bài ca
trong tim và nhảy múa theo bản thể của người: "Tôi là cái tôi
đã từng tìm kiếm, tôi là điều tối thượng, điều thiêng liêng."
Điệu vũ này, bài ca này cũng là quyền tập ấm của bạn.
Ma Kamaal

*****************************************************

#1Điều thiêng liêng là bạn

Triệu thỉnh
Om, cầu thần mặt trời giáng phúc cho chúng con,
Cầu thần Varuna, thần nước ban phúc cho chúng con,
Cầu thần Aryama, Indra, Brahaspati
và Vishnu ban phúc cho chúng con
Xin chào Brahman, thực tại tuyệt đối.
Hỡi Vayu, thần không khí, lời chào đặc biệt gửi tới ngài,
vì ngài là biểu hiện của Brahman.
Con sẽ gọi ngài là biểu hiện duy nhất cho Brahman.
Con cũng sẽ gọi ngài là chân lí, gọi ngài là rit - luật.
Cầu các thần bảo vệ con. Cầu các thần bảo vệ người nói
Xin bảo vệ con. Xin bảo vệ người nói -
Om, an bình, an bình, an bình.

Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết. Tôi sẽ chỉ nói điều bạn cũng
có thể biết. Với biết tôi ngụ ý sống với nó. Người ta có thể
biết mặc dầu không sống nó, nhưng tri thức như thế là gánh
nặng; người ta có thể chìm vì nó, nhưng người ta không thể
được nó cứu. Biết cũng có thể là sống động nữa. Việc biết
như vậy đem lại cho chúng ta vô trọng lượng - nhẹ đến mức
chúng ta có thể bay trên trời. Chỉ khi việc biết trở thành sống
động, cánh phát triển, xiềng xích bung ra và cánh cửa tới
điều vô hạn trở nên rộng mở.
Nhưng việc biết là khó đấy; tích luỹ tri thức là dễ. Tâm
trí chọn cái dễ và tránh cái khó. Nhưng người tránh cái khó
sẽ lỡ luôn cả tôn giáo nữa. Người muốn tránh không chỉ cái
khó mà cả cái không thể nữa sẽ không bao giờ đến gần được
tôn giáo.
Tôn giáo chỉ dành cho những người sẵn sàng đi vào cái
không có thể. Tôn giáo dành cho những người liều lĩnh,
không dành cho các chủ hiệu. Tôn giáo không phải là giao
dịch kinh doanh cũng không là thoả hiệp. Tôn giáo là đặt
cược. Kẻ đánh bạc đặt cược của cải của mình; người tôn giáo
đặt cược chính bản thân mình bởi vì đó là của cải tối thượng.
Người không sẵn sàng đặt cược chính cuộc đời mình sẽ
không bao giờ có khả năng biết được bí ẩn giấu kín của cuộc
đời. Những bí mật đó không có sẵn với giá rẻ đâu. Tri thức
có sẵn với giá rẻ; tri thức đầy rẫy trong sách vở, trong kinh
sách, trong giáo dục, với các thầy giáo. Tri thức có sẵn gần
như cho không; bạn không phải trả gì để được nó. Trong tôn
giáo bạn phải trả nhiều lắm. Nói trả ‘nhiều lắm’ cũng chưa
đúng, bởi vì chỉ khi ai đó đặt cược mọi thứ thì cánh cửa tới
cuộc sống đó mới mở. Cánh cửa tới cuộc sống đó chỉ mở cho
những người đặt cược cuộc đời này. Đặt cược cuộc đời này

là chìa khoá duy nhất cho cánh cửa của cuộc đời đó. Nhưng
tri thức rất rẻ, cho nên tâm trí chọn cách dễ hơn và rẻ hơn.
Chúng ta học mọi thứ - từ ngữ, học thuyết - và nghĩ rằng
chúng ta biết. Tri thức như vậy chỉ là dốt nát nâng cao.
Người dốt nát ít nhất biết rằng người đó không biết; ít
nhất người đó cũng có chân lí tới chừng nấy. Nhưng người ta
không thể tìm được những người giả dối nhiều hơn những
người chúng ta gọi là thông thái. Họ thậm chí không biết
rằng họ không biết. Cái gì đó được nghe, cái gì đó được giao
cho trí nhớ đã lừa dối họ trong việc nghĩ họ cũng đã biết.
Tôi sẽ nói với bạn chỉ điều tôi biết, bởi vì chỉ trong việc
nói đó có giá trị nào đó; bởi vì chỉ điều mà tôi có thể biết,
nếu bạn sẵn lòng, mới làm rung động sợi dây trái tim bạn
cùng với tác động sống của nó.
Điều mà bản thân tôi không biết và điều chỉ sâu như lớp
da trong tôi, không thể đi sâu hơn chừng ấy vào bạn được.
Chỉ những cái đã đi sâu vào tim tôi mới có khả năng đó; nếu
bạn hợp tác, nó có thể đạt tới tim bạn. Ngay cả thế thì hợp
tác của bạn cũng là điều phải có, bởi vì nếu trái tim bạn đóng
kín, không có cách nào ép buộc chân lí vào trong đó. Và
cũng là tốt nó là như vậy, bởi vì nếu chân lí bị ép buộc lên
bạn, nó không thể trở thành tự do của bạn được, nó chỉ có thể
trở thành nô lệ của bạn. Mọi cưỡng bách đều trở thành nô lệ.
Cho nên trong thế giới này, mọi thứ đều có thể trao cho
bạn thông qua sức mạnh; chỉ chân lí là không thể được, bởi
vì chân lí chưa bao giờ trở thành nô lệ cả. Chính bản chất của
chân lí là tự do. Cho nên chân lí là cái duy nhất trong thế giới
này không ai có thể trao cho bạn bằng sức mạnh, cái không
ai có thể tống vào bạn, cái không thể choàng vào bạn từ bên
ngoài như quần áo; với cái đó điều tiên quyết là sự sẵn lòng,
cởi mở, dễ cảm nhận, mời chào, trái tim tràn đầy lòng biết ơn
của bạn. Nếu trái tim bạn trở thành tựa đất khô trước mùa
mưa khi nó khát nước, nứt nẻ dưới cái nóng mùa hè như
nung như nấu - dường như nó cong môi đây đó ngóng chờ
cơn mưa - thế thì chân lí đi vào bạn. Bằng không, chân lí
quay lưng ngay từ chính ngưỡng cửa của bạn. Nhiều lần nó
đã quay đi, trong nhiều, nhiều kiếp.
Bạn không phải là mới - không có gì mới trên thế gian
này cả; tất cả các bạn đều rất cổ. Bạn đã ngồi dưới chân Phật
và nghe ông ấy, bạn đã từng thấy Krishna, bạn cũng đã từng
vây quanh Jesus, nhưng dầu vậy bạn đã lỡ, bởi vì trái tim bạn
chưa bao giờ sẵn sàng. Các con sông của Phật và Mahavira
đã chảy qua bạn, nhưng bạn vẫn còn khát.
Ngày Phật sắp rời bỏ thân thể mình, Ananda đã khóc và
đấm ngực trong mối tuyệt vọng. Phật đã hỏi ông ta, “Sao ông
khóc? Ta đã gần ông đủ lâu rồi... bốn mươi năm! Và nếu
điều ấy thậm chí còn chưa xảy ra trong bốn mươi năm ấy thì
phỏng có ích gì mà khóc bây giờ? Và tại sao ông cảm thấy
phiền muộn đến thế về cái chết của ta?”
Ananda trả lời, “Tôi đau buồn quá bởi vì tôi không thể
nào đảm đương việc tan biến trong khi thầy còn ở đây. Nếu
như tôi đã tan biến thì thầy đã có thể bước vào tôi. Trong
suốt bốn mươi năm sông đã chảy qua bên tôi mà tôi vẫn còn
khát. Bây giờ tôi khóc bởi vì tôi không biết khi nào và đến
kiếp nào tôi mới có thể gặp lại được dòng sông này.”
Bạn đâu có mới. Bạn đã hoả táng các vị phật, bạn đã hoả
táng Mahavira - Jesus, Krishna và mọi người; bạn đang sống
sau khi hoả táng tất cả họ. Họ đã thua trận chiến với bạn.
Bạn rất cổ. Bạn đã từng ở đây từ khi có cuộc sống. Đó đã
từng là cuộc hành trình vô tận. Chúng ta đang lỡ ở đâu? Đấy
chỉ là vì bạn còn chưa mở, bạn đóng đấy thôi.
Tôi sẽ nói cho bạn chỉ những điều tôi đã biết. Nếu bạn có

thể làm cho bản thân mình cởi mở ra, bạn cũng sẽ biết điều
đó. Và không phải là có cái gì khó khăn ghê lắm trong đó.
Chỉ có mỗi một khó khăn thôi, và đó là bạn.
Một số người đi chỉ vì tò mò, hệt như trẻ nhỏ hỏi trong
khi chúng đang bước, “Tên của cây này là gì ạ?” Và nếu bạn
không trả lời, chúng lập tức quên ngay rằng chúng vừa hỏi
điều gì đó và chúng lại bắt đầu hỏi cái gì đó khác: “Tại sao
hòn đá này lại nằm đây thế nhỉ?” Chúng hỏi chỉ với mục
đích để hỏi chứ không phải để biết. Chúng không hỏi để biết,
chúng hỏi vì chúng không thể vẫn còn không hỏi.
Những người đang sống từ tò mò vẫn là trẻ con. Nếu bạn
hỏi, “Thượng đế là gì?” ngẫu nhiên hệt như đứa trẻ sẽ hỏi khi
thấy hiệu đồ chơi bên đường, “Đồ chơi này là gì?” bạn vẫn
còn là trẻ con. Và trẻ con có thể được tha thứ, nhưng bạn thì
không.
Tò mò sẽ không có có tác dụng. Tôn giáo không phải là
trò chơi trẻ con. Cho dù bạn có được trao cho câu trả lời, nó
cũng không phục vụ cho mục đích gì. Vui đùa của trẻ con là
trong việc hỏi. Nó có thể hỏi, đó là vui đùa của nó. Cho dù
bạn cho nó câu trả lời, nó cũng không quan tâm mấy đến câu
trả lời đó. Có vấn đề gì?
Các nhà tâm lí nói rằng khi trẻ con học nói, lần đầu tiên
chúng chỉ thực hành việc nói bằng cách hỏi, khi đứa trẻ lần
đầu tiên học đi, nó thử mọi lúc để đứng dậy và bước. Cho
nên trẻ con cứ lặp đi lặp lại cùng một câu bởi vì chúng đã thu
được kinh nghiệm mới, chiều hướng mới qua việc nói. Cho
nên trong chiều hướng mới đó chúng trôi nổi và diễn tập; đó
là lí do tại sao chúng cứ hỏi mọi thứ, chúng nói đủ mọi thứ.
Trong thế giới tôn giáo, nếu bạn cũng hỏi đủ mọi thứ,
nói đủ mọi thứ, nghĩ đủ mọi thứ mà không có ham muốn sâu
sắc nào để biết - chỉ từ tò mò - thế thì bạn sẽ vẫn hoả thiêu
nhiều vị phật; thế thì ai biết bao nhiêu vị phật nữa sẽ vẫn
phải làm việc vất vả về bạn?
Chân lí không quan hệ gì với tò mò cả.
Một số người tăng thêm chút ít tính tò mò và trở thành
hay hỏi. Cũng có một chút ít sâu sắc hơn trong hay hỏi,
nhưng chỉ chút xíu thêm thôi. Hay hỏi không phải là rất sâu
sắc, nó là nông, vì nó chỉ là trí năng. Trí năng hệt như bệnh
ghẻ lở: nếu gãi một chút, bạn cảm thấy dễ chịu. Cho nên trí
năng cứ tiếp tục gây ngứa: có Thượng đế không? Có linh hồn
không? Có cứu rỗi linh hồn không? Thiền là gì? - không phải
là bạn muốn làm việc đó. Thượng đế là gì? - không phải bạn
muốn biết về điều đó, nhưng chỉ để thảo luận, chỉ để nói
chuyện. Đấy là bài tập tâm trí, giải trí trí năng. Cho nên mọi
người chỉ nói lớn, họ chưa bao giờ đặt cược điều gì. Dù
Thượng đế có hay không, đấy không phải là mối quan tâm
thực sự của họ; và họ vẫn còn không biến đổi dù Thượng đế
có hay không.
Đây là điều rất hay: người này tin có Thượng đế, người
kia tin không có Thượng đế, và cuộc sống của cả hai là hệt
nhau. Nếu ai đó bị lăng mạ thì người tin vào có Thượng đế
cáu mà người tin vào không có Thượng đế cũng cáu. Đôi khi
điều xảy ra là người tin vào có Thượng đế cáu hơn. Người
tin không có Thượng đế, người đó có thể làm đến đâu với
bạn? Nhiều nhất người đó có thể lăng mạ bạn để đáp lại,
đánh bạn hay giết bạn. Nhưng người tin có Thượng đế có thể
tống cổ bạn cho chết dần mòn trong đau đớn của địa ngục.
Người đó có nhiều cách hơn để trở nên giận dữ.
Nếu việc tin vào Thượng đế hay không tin vào Thượng
đế không đem lại thay đổi gì trong cuộc sống người ta, điều
đó chỉ có nghĩa là nó không có quan hệ gì đến Thượng đế cả,
nó chỉ là nói chuyện trí năng thôi. Việc hay hỏi như thế làm

cho con người thành triết gia. Người đó liên tục suy ngẫm và
cân nhắc, người đó học kinh sách, tích luỹ quá nhiều học
thuyết, có khả năng nghĩ về mọi cái ủng hộ, cái chống đối,
tham dự tranh cãi, nhưng người đó chưa bao giờ sống cả.
Nếu bạn cũng chỉ toàn hay hỏi sẽ không có cuộc hành
trình nào cả. Người đầy câu hỏi là những người ngồi cạnh
cột cây số và hỏi, “Đích là gì? Đích còn bao xa nữa?” Họ
tiếp tục hỏi điều này nhưng họ không bao giờ đứng dậy và
bắt đầu bước.
Bạn biết nhiều thế! Cái gì có đó bị thiếu trong việc biết
của bạn? Bạn biết gần như mọi thứ - bất kì cái gì Phật biết
hay Mahavira hay Krishna biết, bạn cũng biết. Trong khi đọc
Gita, bạn không cảm thấy bạn biết tất cả những điều này
sao? Có đấy, bạn cũng biết, nhưng đây tất cả chỉ trong đầu
bạn. Hạt mầm còn chưa đạt tới tim bạn. Và những ý tưởng
này, chỉ trong tâm trí, giống như hạt mầm nằm trên đá. Hạt
mầm có đấy, nằm trên đá, nhưng nó không thể nảy mầm
được. Để nảy mầm, hạt mầm sẽ phải rơi ra khỏi tảng đá và
tìm tới đất. Và mặt đất cũng chưa phù hợp, vì còn cần cả hơi
nước ẩm nữa. Cho nên nó phải chui xuống dưới mặt đất tới
chỗ có nước, nơi có nước tinh tuý chảy qua.
Hạt mầm vẫn còn trong tâm trí tựa như hạt mầm nằm
trên đá. Chừng nào nó còn chưa rơi vào trong tim thì đất ướt
vẫn còn chưa có sẵn. Trong tim nước tinh tuý chảy, tình yêu
nào đó; có nước ở đó. Nếu hạt mầm rơi vào đó, nó sẽ nảy
mầm.
Người hay hỏi có rất nhiều điều bên trong họ; mọi thứ
đều có đấy, nhưng nó cũng tựa như hạt mầm nằm trên đá.
Đất không xa lắm, nhưng thậm chí cuộc hành trình nhỏ bé
này cũng lại là khó khăn lớn đối với họ. Họ không thích di
chuyển, cho nên hạt mầm vẫn còn trên tảng đá. Cuộc hành
trình nhỏ này sẽ phải được tiến hành - đó là việc hạt mầm rơi
ra khỏi đá để vào đất, tìm một chỗ trong đất, tìm ra một chút
ẩm ướt, và ẩn mình một chút bên trong đất.
Nhớ lấy, bất kì cái gì được sinh ra trong thế giới này đều
cần im lặng sâu sắc, cần tĩnh mịch và bóng tối. Những cái
được giữ trong tâm trí là cái được giữ nơi ánh sáng để mở.
Việc nảy mầm không thể có ở đó. Tim là mảnh đất ướt ẩn
bên trong bạn. Cái gì đó có thể nảy mầm ở đấy.
Do đó những người sống chỉ với việc hay hỏi trở thành
học giả và bác học; thông thái, nhưng không có gì nảy mầm
được bên trong họ cả - không sinh thành mới, không cuộc
sống mới, không hoa mới, không cái gì cả.
Có một chiều của việc tìm kiếm: chúng ta gọi nó là
mumuksha, khát khao sâu sắc về giải thoát. Tại đây không có
mối quan tâm về việc biết, mối quan tâm là về hiện hữu. Tại
đây không có mối quan tâm về hiểu biết, mối quan tâm là về
con người. Câu hỏi không phải là liệu có Thượng đế hay
không, câu hỏi là liệu tôi có thể là Thượng đế hay không. Có
thể có Thượng đế, nhưng nếu tôi không thể trở thành
Thượng đế thì phỏng có ích gì trong đó. Câu hỏi không phải
là liệu có giải thoát hay không, câu hỏi là liệu tôi có thể cũng
được giải thoát hay không. Nếu không có khả năng nào để
tôi trở nên được giải thoát thì cho dù có giải thoát ở đâu đó
nó cũng là vô nghĩa đối với tôi. Vấn đề không phải là liệu có
linh hồn bên trong hay không - có thể có, có thể không có -
vấn đề thực là liệu tôi có thể trở thành linh hồn hay không.
Mumuksha, khát khao về giải thoát, là tìm kiếm hiện
hữu. Và khi người ta muốn hiện hữu, người ta phải đặt cược
chính bản thân mình. Đây là lí do tại sao tôi nói tôn giáo là
chuyện của những kẻ liều lĩnh.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi biết, điều tôi đã sống. Nếu bạn

đồng ý đặt cược tất cả, bất kì cái gì là kinh nghiệm của tôi
cũng đều trở thành của bạn. Kinh nghiệm không thuộc về bất
kì ai; bất kì ai sẵn sàng đón nhận chúng, chúng đến với người
đó. Không ai có bất kì quyền gì về chân lí, bất kì ai sẵn sàng
biến mất đều thừa kế nó. Chân lí thuộc về người biểu hiện sự
sẵn sàng hỏi đến nó - người mở cánh cửa trái tim mình và
mời gọi nó vào.
Đó là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này. Upanishad
này là đương đầu trực tiếp với tâm linh. Không có siddhants,
học thuyết, trong nó; trong nó chỉ có kinh nghiệm của
siddhas, người đã được hoàn thành. Trong nó không có thảo
luận về điều được sinh ra từ tò mò hoặc hay hỏi, không;
trong nó có hướng dẫn cho những người tràn đầy khao khát
về giải thoát bởi những người đã đạt tới giải thoát.
Có một số người còn chưa đạt tới, họ chưa thể nào vứt
bỏ được việc thích thú hướng dẫn người khác. Cho sự hướng
dẫn là điều rất thích thú. Trên toàn thế giới, cái được đem
cho nhiều nhất là hướng dẫn và cái được nhận ít nhất cũng là
hướng dẫn. Mọi người đều cho, không ai nhận.
Bất kì khi nào bạn có cơ hội để nêu cho ai đó lời khuyên,
bạn đâu có để lỡ dịp đó. Không cần là bạn có khả năng đưa
ra lời khuyên này; không nhất thiết bất kì cái gì bạn nói cũng
là việc biết của bạn, nhưng khi nêu ra lời khuyên, cám dỗ của
niềm vui được làm thầy là rất khó vượt qua.
Niềm vui được làm thầy là gì? Bạn bỗng nhiên, chẳng
mất chi phí nào, ở phía cao hơn còn người kia thì ở phía thấp
hơn. Nếu ai đó tới bạn xin đồ tặng, bạn thấy khó khăn làm
sao khi phải cho đi một xu! Khó khăn là ở chỗ bạn phải cho
cái gì đó từ cái bạn có. Nhưng trong khi cho lời hướng dẫn
bạn đâu có khó khăn, bởi vì có khó khăn gì ở đó khi bạn đem
cho cái mà bạn không có? Bạn chả mất gì cả. Ngược lại, bạn
thu được cái gì đó: bạn thu được vui vẻ, bạn thu được việc
làm tăng bản ngã. Hôm nay bạn ở vị trí hướng dẫn, và người
kia ở đầu nhận. Bạn là ở trên đỉnh, người kia ở dưới.
Đó là lí do tại sao tôi nói rằng, trong Upanishad này,
không có vui thích của việc cho bất kì lời khuyên hay hướng
dẫn nào; thay vì thế có nỗi đau lớn, bởi vì điều mà người
thấy của Upanishad này đang cho, người đó cho sau khi biết
nó. Người đó chia sẻ cái gì đó rất thân thiết, rất bên trong.
Hướng dẫn là ngắn gọn nhưng sâu sắc. Cú đánh rất ít
nhưng chết người. Và, nếu bạn sẵn sàng, mũi tên sẽ xuyên
thẳng vào tim bạn và sẽ không để bạn sống nữa. Nó sẽ giết
chết bạn. Do đó, nhận biết và tỉnh táo đi, bởi vì chính việc
này là nguy hiểm. Bạn sẽ phải mất cái bạn nghĩ bạn đang là.
Trong nó, không có cách nào đạt tới mà không mất bản thân
bạn. Ở đây chỉ những người mất mới là người đạt tới.
Đấy cũng là lí do tại sao tôi đã chọn Upanishad này.
Thực tế tôi có thể nói thẳng với bạn, không có lí do gì để
đem Upanishad vào - nhưng tôi sẽ dùng nó như cái cớ, chỗ
nấp. Nếu bạn bắn một mũi tên trực tiếp, người ta có thể
thoát; nhưng nếu ẩn sau Upanishad thì ít có cơ may bạn bắn
trượt. Tôi đã chọn Upanishad để cho bạn có thể không biết
rằng tôi đang nhắm thẳng vào bạn. Theo cách này cơ hội trốn
thoát bị tối thiểu hoá. Mọi thợ săn đều biết rằng việc đi săn
thuận lợi hơn nếu được thực hiện ở nơi có chỗ ẩn nấp.
Upanishad này là nơi ẩn nấp duy nhất.
Tôi sẽ chỉ nói điều tôi đã biết, nhưng thế thì không có
khác biệt giữa cái đó và Upanishad, vì bất kì cái gì người
thấy của Upanishad này đã từng nói, ông ta cũng đã biết nó.
Upanishad này là biểu hiện của những bí ẩn tinh tế nhất
về tâm linh. Nhưng nếu tôi cứ tiếp tục chỉ nói về Upanishad,
có nỗi sợ là việc nói chuyện vẫn đơn thuần là nói chuyện.

Cho nên nói chuyện sẽ chỉ là bối cảnh, và cùng với nó sẽ có
các thực nghiệm. Bất kì điều gì được nói ra, bất kì điều gì
người thấy đã thấy, hay bất kì điều gì tôi nói, và tôi đã thấy -
đều sẽ có những nỗ lực để làm quay mặt bạn ra, để nâng mắt
bạn lên hướng về điều đó. Nỗ lực nâng tầm mắt bạn lên
hướng về điều đó sẽ là điều chính; việc nói chuyện về
Upanishad sẽ chỉ để tạo ra nơi chốn. Những rung động như
vậy có thể được tạo ra khắp xung quanh bạn để cho bạn quên
mất thế kỉ hai mươi và hướng tới thế giới của người thấy của
Upanishad, sao cho thế giới này, cái đã trở thành mờ xỉn và
xấu xí đến thế, có thể biến mất đi và kí ức có thể nảy sinh về
những ngày mà người thấy này đã sống. Bầu không khí, nơi
chốn - Upanishad chỉ là để dành cho điều đó. Nhưng điều đó
vẫn chưa đủ; nó là cần, nhưng không đủ.
Cho nên bất kì điều gì tôi nói, nếu bạn chỉ dừng nghe về
nó tôi sẽ biết ngay bạn không nghe nó chút nào cả. Bất kì ai
không bắt đầu khởi hành cuộc hành trình sau khi nghe về
điều này, tôi đều tin là người đó đã không nghe. Nếu bạn
nghĩ bạn đã hiểu chỉ bởi việc nghe... đừng vội vã như thế!
Nếu có thể hiểu được điều gì đó chỉ bằng việc nghe, chúng ta
đã hiểu được từ lâu rồi. Nếu như có thể hiểu được điều gì đó
chỉ bằng việc nghe thì đã không thiếu những người hiểu
trong thế giới này và khó mà tìm thấy người dốt nát. Nhưng
như nó vậy, thế giới toàn những người dốt nát.
Không có gì được hiểu chỉ bằng việc nghe. Bằng việc
nghe chúng ta chỉ siết nắm tay giữ lấy lời. Không phải bởi
việc nghe mà bởi việc làm, người ta mới hiểu. Cho nên nghe
để tìm ra cách làm, không phải để hiểu. Nghe để làm, làm để
hiểu. Đừng đi tới kết luận rằng chỉ có bằng cáchg nghe bạn
đã hiểu; mối nối trung gian đó của việc làm là cần thiết.
Không có cách khác. Nhưng tâm trí chúng ta nói, “Tôi đã
nắm được điều ấy; bây giờ cần gì làm?”
Đích được đạt tới bằng việc đi tới chúng. Bạn có thể đã
hiểu mọi thứ, toàn bộ con đường của cuộc hành trình của bạn
có thể đã được bạn ghi nhớ, bạn có thể có bản đồ chi tiết
trong túi; dẫu thế, không đi không ai đã bao giờ tới được
đích của mình. Nhưng có thể mơ đã tới đích. Một người có
thể ngủ ngay đây và có thể mơ đã tới đâu đó... Tâm trí là
chuyên gia về mơ.
Đừng nghĩ rằng chỉ bạn mới thấy những giấc mơ như
vậy; ngay cả những người bạn gọi là rất thông minh cũng
vẫn cứ có những giấc mơ này. Các thánh nhân, các sư và
sannyasin - những người đã từng tìm kiếm nhiều năm trời -
vẫn còn chưa đến gần thêm cho dù một li tới bất kì đâu. Họ
vẫn còn chưa bắt đầu cuộc hành trình chút nào và họ đã tìm
kiếm trong nhiều năm ròng rã! Toàn bộ tìm kiếm của họ đã
là vòng tròn. Trong tâm trí vòng tròn đã được tạo ra - một
loại xoáy nước. Và trong xoáy nước đó họ cứ đi vòng tròn và
vòng tròn, và cuối cùng mọi thứ đều mất đi. Mọi Veda,
Upanishad, Koran, Kinh Thánh - mọi thứ đều mất đi, nhưng
thậm chí không có lấy một li chuyển động.
Chúng ta sẽ thảo luận về Upanishad không phải để làm
cho bạn hiểu về Upanishad mà để cho bạn trở thành
Upanishad. Nếu bằng việc nghe bạn ghi nhớ điều gì đó và
bắt đầu lặp lại nó, điều đó có nghĩa là tôi đã làm hại bạn; tôi
đã không chứng tỏ là người bạn của bạn. Việc lặp lại của bạn
về điều bạn đã nghe là không có giá trị gì. Khi tôi có thể thấy
rằng cùng một điều xảy ra cho bạn như đã xảy ra cho tôi,
rằng mắt bạn cũng mở ra, chỉ thế thì bạn mới trở thành
Upanishad.
Hiểu điều đó theo cách này: nhà thơ ca lên bài ca về đoá
hoa. Có thể có dịu ngọt lớn, có nhịp điệu và âm nhạc trong
bài ca này - bài ca có cái đẹp của riêng nó - nhưng dù bài ca

có thể hát về đoá hoa nhiều thế nào, vậy mà bài ca cũng vẫn
chỉ là bài ca, nó không thể là đoá hoa được, nó không phải là
hương hoa. Và nếu bạn được thoả mãn chỉ với bài ca đó, thế
thì bạn đã đi lạc lối.
Upanishad là bài ca về đoá hoa mà bạn chưa từng thấy.
Bài ca này thật kì diệu: ca sĩ đã thấy đoá hoa đó. Những
đừng thoả mãn với bài ca, bài ca không phải là hoa.
Đôi khi sự việc xảy ra là bạn cũng tới gần với hoa - chỉ
đôi khi thôi. Đôi khi bạn cũng có thoáng nhìn về hoa - ngẫu
nhiên, bất chợt - bởi vì hoa không xa lạ với bạn, nó chính là
bản tính của bạn. Nó rất gần bạn, chỉ ngay bên cạnh bạn. Đôi
khi nó chạm vào bạn, không đếm xỉa tới bạn. Đôi khi hoa
cho bạn thoáng nhìn, thoáng nhìn tựa ánh chớp loé. Trong
một khoảnh khắc nào đó nó bất ngờ lọt vào kinh nghiệm của
bạn: bạn cảm thấy rằng có cái gì đó nhiều hơn trong thế giới
này, rằng thế giới này, mà bạn đã biết, không phải là nó chút
nào. Trong thế giới cứng như đá này có cái gì đó khác không
phải là đá mà là hoa, sinh động và nở rộ. Và nếu bạn đã thấy
nó trong giấc mơ nào đó, hay tia chớp loé trong bóng tối của
đêm... Bạn thấy cái gì đó và nó biến mất đi - do vậy thỉnh
thoảng nó xuất hiện trong cuộc sống của bạn. Điều thường
hay xảy ra trong cuộc sống của nhà thơ, điều thường hay xảy
ra trong cuộc sống của hoạ sĩ, là thoáng nhìn về hoa tới gần
cạnh kề.
Vậy mà dù có gần tới đoá hoa, dù thoáng nhìn bạn đã có
lớn đến đâu, tính gần gũi này cũng vẫn là khoảng cách. Hoa
có tới gần bạn đến đâu đi chăng nữa cũng không thành vấn
đề, khoảng cách vẫn còn đó. Và ngay cả nếu tôi thực tế có
thể chạm tay vào đoá hoa, dầu vậy vẫn không chắc chắn rằng
kinh nghiệm tôi có là kinh nghiệm về hoa, bởi vì thông điệp
tới qua tay tôi. Tay có thể cho thông điệp sai. Không có gì
chắc chắn về việc tay tôi cho thông điệp đúng cả: không có lí
do nào để hoàn toàn tin cậy vào tay tôi được. Lại nữa, thông
điệp mà tay cho thường sẽ ít phần về hoa mà lại nhiều phần
về bản thân nó.
Nếu hoa được cảm thấy là lạnh, không nhất thiết là hoa
đang lạnh; có thể tay tôi đang sốt và đó là lí do tại sao hoa
được cảm thấy là lạnh. Thông điệp vậy là nhiều phần về tay
hơn, vì bất kì khi nào thông điệp tới qua trung gian thì nó
bao giờ cũng tương đối. Người ta không thể tuyệt đối chắc
chắn về nó được.
Tôi đã đọc hồi kí do Popov viết. Popov là người tìm
kiếm, một người tìm kiếm hăng hái. Cô ấy đã thực hành kỉ
luật tâm linh với Piotr Dimitrovich Ouspensky. Có lần cô
đang ngồi với Ouspensky, một quí ông tới và hỏi ông ấy liệu
có Thượng đế hay không. Ouspensky kêu lên, “Thượng đế?
Không, không có Thượng đế.” Ouspensky dừng lại một chút
rồi nói, “Nhưng tôi không thể nói với bảo đảm nào được, vì
bất kì điều gì tôi biết đều là thông qua trung gian. Đôi khi tôi
đã thấy qua mắt, nhưng mắt không thể được tin cậy. Đôi khi
tôi nghe qua tai, nhưng tai cũng có thể sai. Đôi khi tôi chạm
bằng tay, nhưng chạm cũng không thể nào tin cậy được. Tới
giờ tôi đã không thấy một cách trực tiếp, tôi chưa bao giờ
từng mặt đối mặt cả. Do đó tôi không thể nói với đảm bảo
nào. Bất kì điều gì tôi đã biết cho tới giờ đều không cho tôi
kinh nghiệm nào về Thượng đế. Nhưng điều ấy cũng không
chứng tỏ rằng không có Thượng đế, nó chỉ báo cho ông về
kinh nghiệm của tôi là gì. Cho nên tôi không thể nêu cho ông
bất kì đảm bảo nào rằng Thượng đế là không có. Nhưng
đừng vứt bỏ tìm kiếm của ông và tin tôi đi, ông cứ tiếp tục
tìm kiếm cho chính ông đi.”
Bất kì khi nào cái gì đó xảy ra qua trung gian cũng đều

không đáng tin cậy cả. Cho dù chúng ta có đến rất gần hoa,
đấy cũng vẫn chỉ là mắt thấy, tay sờ, và mũi thu lấy hương
thơm. Tất cả những cái này đều là kinh nghiệm qua giác
quan của chúng ta. Vậy nó là cái mà đôi khi nhà thơ tới gần
với đoá hoa tối thượng đến mức tiếng vọng của nó choàng
xuống đi vào trong bài ca của ông ta. Nhưng dầu vậy ông ta
không phải là Phật, không phải là Mahavira.
Phật là ai? Mahavira là ai? Phật là tâm thức đó, cái đã trở
thành bản thân đoá hoa đó; ngay cả khoảng cách chừng đó
đó, khoảng cách của việc thấy đoá hoa, cũng không tồn tại.
Tâm thức đã trở thành đoá hoa.
Chỉ trở thành đoá hoa người ta mới hiểu biết đầy đủ cái
gì có đó.
Đây là những phát biểu của người thấy của Upanishad.
Nó tựa như bài ca về đoá hoa nào đó. Tiếp tục rì rào về nó đi
- có rất nhiều vị ngọt ngào và mùi vị tuyệt vời trong đó,
nhưng nó không phải là đoá hoa, nó chỉ là bài ca. Nếu bạn
làm nỗ lực, đôi khi bạn sẽ thấy đoá hoa.
Mọi người đến tôi và nói, “Có ánh sáng lớn trong thiền,
nhưng tôi lại làm mất nó. Ánh sáng vô hạn có đấy, nhưng nó
lại biến mất đi. Có phúc lạc mênh mông, nhưng bây giờ nó đi
đâu rồi?” Bây giờ họ đi tìm nó lần nữa nhưng không thể tìm
thấy nó.
Thoáng nhìn nghĩa là bạn đã tới gần. Nhưng thoáng nhìn
nhất định sẽ bị mất. Nhiều nhất thiền có thể cho chỉ thoáng
nhìn. Nhưng đừng dừng ở đó; đừng bị mắc kẹt vào việc tìm
đi tìm lại cùng cái thoáng nhìn đó. Mục đích duy nhất của
thiền là ở chỗ người ta có được thoáng nhìn. Rồi người ta
phải tiến lên trước, đi vào samadhi, vào trong chứng ngộ, để
cho người ta trở thành chính đoá hoa.
Trong thiền là thoáng nhìn; samadhi là việc là chính nó.
Đừng dừng lại ở thoáng nhìn. Chúng rất đáng yêu: toàn
thế giới bắt đầu trông nhạt nhoà - chỉ một thoáng nhìn về đoá
hoa sống đó, việc nở hoa đó ở bên trong, và toàn bộ thế giới
trở thành vô vị và vô nghĩa. Nhưng thế rồi người nào đó nắm
bắt các thoáng nhìn và bắt đầu lặp lại chúng và nghĩ mọi sự
đã xảy ra. Không, chừng nào bản thân bạn còn chưa là điều
thiêng liêng, đừng tin rằng đó là Thượng đế.
Bạn có thể là nó, vì bạn đã là nó. Bạn chỉ phải cởi mở ra
một chút, để mở ra một chút. Bạn đang hiện diện tại đây và
bây giờ, chỉ đang ẩn nấp. Chỉ có vài tầng quần áo bao phủ
lấy bạn - và chúng nữa cũng rất mỏng - cho nên nếu bạn ham
muốn thế, bạn có thể vứt bỏ chúng ngay bây giờ, thoát khỏi
chúng và trở thành điều thiêng liêng. Nhưng níu bám của bạn
là rất mạnh; mặc dù quần áo mỏng, nắm giữ của bạn lại rất
chặt. Tại sao nắm giữ này mạnh đến thế? Nắm giữ mạnh đến
thế bởi vì chúng ta nghĩ rằng quần áo này là con người chúng
ta, rằng đây là chính chúng ta. Bên cạnh đó chúng ta không
biết gì về bất kì sự tồn tại nào khác.
Trong Upanishad này sẽ có các hướng dẫn về sự tồn tại
đó nằm ngoài những cái che phủ này. Và cùng với
Upanishad này chúng ta sẽ thiền, vậy chúng ta có thể thu
được thoáng nhìn. Và chúng ta sẽ hi vọng về samadhi, chứng
ngộ, để cho chúng ta trở thành không có nó thì cũng không
có mãn nguyện, không an bình và không chân lí.
Upanishad bắt đầu với lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện
gửi tới toàn thể vũ trụ.

Om, cầu thần mặt trời giáng phúc cho chúng con,
Cầu thần Varuna, thần nước ban phúc cho chúng con,
Cầu thần Aryama, Indra, Brahaspati

và Vishnu ban phúc cho chúng con
Xin chào Brahman, thực tại tuyệt đối.
Hỡi Vayu, thần không khí, lời chào đặc biệt gửi tới ngài,
vì ngài là biểu hiện của Brahman.
Con sẽ gọi ngài là biểu hiện duy nhất cho Brahman.
Con cũng sẽ gọi ngài là chân lí, gọi ngài là rit - luật.
Cầu các thần bảo vệ con. Cầu các thần bảo vệ người nói
Xin bảo vệ con. Xin bảo vệ người nói -
và thầy con.

Upanishad bắt đầu với lời cầu nguyện này. Cuộc hành
trình tôn giáo bắt đầu với lời cầu nguyện. Nó phải là như
vậy. Lời cầu nguyện có nghĩa là tin cậy và hi vọng. Lời cầu
nguyện có nghĩa là tình cảm của chúng ta về việc là một với
toàn thể vũ trụ. Lời cầu nguyện nghĩa là, “Làm sao tôi có thể
xoay xở được một mình?”
Nếu như có khả năng một mình bạn có thể làm cho điều
này xảy ra, chắc nó đã xảy ra từ lâu rồi. Nhưng với bản thân
bạn thậm chí điều tầm thường cũng không thể được đạt tới.
Bạn đã ham muốn tiền bạc, bạn không thể nào đạt tới được
ngay cả điều đó. Bạn đã ước ao địa vị, bạn không thể xoay
xở được ngay cả với điều đó. Bạn có đủ loại ước muốn, lớn
có nhỏ có, nhưng không cái nào được hoàn thành. Một mình
bạn thậm chí không thể đảm đương được cả thế gian: cuộc
hành trình vĩ đại đi tìm chân lí này liệu có thể được riêng bản
thân bạn tiến hành không? Với riêng bản thân mình, bạn
thậm chí thất bại ngay trong thế gian.
Mọi người đều bị thất bại trong thế gian này. Ngay cả
những người dường như là chiến thắng cũng bị thất bại. Họ
chỉ dường như là chiến thắng với người khác; trong bản thân
mình họ bị thất bại hoàn toàn. Bạn với bản thân mình cũng
dường như bị thất bại, nhưng với người khác bạn dường như
chiến thắng. Có những người đằng sau bạn, người cảm thấy
rằng bạn đã đạt tới, rằng bạn đã thắng trong trận chiến thế
gian. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào trong con người, mọi
người đều thất bại.
Thế giới này là câu chuyện dài những thất bại. Ở đây
thắng lợi không xảy ra, ở đây thắng lợi không thể xảy ra
được; nó không phải là bản chất của thế giới. Thất bại là định
mệnh ở đây. Thất bại không phải của bất kì cá nhân nào,
không phải của bất kì người nào, nhưng định mệnh làm
người trong thế gian này là thất bại rồi. Bạn sẽ phải chấp
nhận thất bại ở đó. Không ai đã bao giờ thắng được ở đó.
Chúng ta không thể thắng trong thế giới này nơi mối
quan tâm duy nhất là với những điều nhỏ bé, nơi nó chỉ là
mơ - Shankara gọi nó là maya, ảo vọng. Khi mà chúng ta bị
thất bại ngay trong ảo vọng đó, trong việc xảy ra tựa mơ, thế
thì làm sao chúng ta có thể hi vọng chiến thắng theo cách
riêng của mình trong thế giới của chân lí?
Lời cầu nguyện nghĩa là nhận biết của người đã bị thất
bại trong thế gian. Khi thậm chí sau khi thử trong hết kiếp nọ
đến kiếp kia người đó đều bị thất bại trong những cái tầm
thường, người đó có thể thỉnh cầu khả năng nào ở thầy về
điều linh thiêng và điều tuyệt đối?
Do đó có lời cầu nguyện. Do đó người thấy đã khẩn cầu
toàn thể vũ trụ tới giúp người đó. Người đó đã khẩn cầu mặt
trời, người đó đã khẩn cầu Varuna. Tất cả những cái tên này
đều là biểu tượng của quyền năng của vũ trụ. Mặt trời được
khẩn cầu trước nhất bởi vì mặt trời là cuộc sống của chúng
ta. Không có mặt trời không có chúng ta. Bên trong chúng ta
đó là mặt trời sống, nóng bỏng. Nếu mặt trời tắt ở đằng kia,
chúng ta cũng tắt ở đây. Mặt trời là cuộc sống chúng ta, do

đó ngài đã được khẩn cầu tới.
Người thấy nói: Xin chào Vayu, thần không khí - Vayu
đã được đặc biệt chào mừng trong lời cầu nguyện này - vì
ngài là biểu hiện của Brahman. Điều này có hơi lạ một chút.
Nghĩ một chút mà xem. Điều này rất hay, bởi vì Vayu tuyệt
đối không biểu hiện; mọi thứ khác đều biểu hiện. Nếu như
người thấy đã nói với mặt trời, “Ngài là biểu hiện của
Brahman” - toả sáng, cháy bỏng, nóng rực, sống - điều đó
chắc có thể hiểu được. Nhưng người thấy đã không gọi mặt
trời là “biểu hiện của Brahman”; ông ta nói điều đó cho
Vayu, người chúng ta không thấy gì hết cả, người thực sự là
không biểu hiện.
Biểu hiện của Vayu ở đâu? Chúng ta chỉ suy diễn ra nó
là vậy, chúng ta chỉ cảm thấy rằng nó là vậy, nhưng nó
không thể thấy được. Nó sẵn có ở đâu để cho mắt thấy được?
Biểu hiện có nghĩa là cái có thể thấy được bằng mắt. Bây
giờ, Vayu không có sẵn chút nào cho mắt thấy. Đá, núi,
chúng tất cả là thấy được, nhưng Vayu thì không.
Nhưng người thấy nói: Hỡi Vayu, lời chào đặc biệt gửi
tới ngài, vì ngài là biểu hiện của Brahman. Ông ta nói như
vậy vì Vayu, không khí, là không thấy được nhưng vẫn có
đấy; là không thấy được bằng mắt, dầu vậy nó vẫn đang
chạm vào mắt từng khoảnh khắc - và cùng điều đó là tình
huống với chân lí tối thượng. Nó không thấy được nhưng nó
đang chạm vào chúng ta mọi khoảnh khắc.
Vayu là không thấy được bởi vì chúng ta không có mắt
để thấy nó. Vayu đơn giản có đó. Không có Vayu chúng ta
không thể tồn tại được. Vayu là trong hơi thở chúng ta, bảo
vệ chúng ta, và chính cuộc sống chúng ta phụ thuộc vào việc
hít vào thở ra nó. Cái gì đó gần gũi chúng ta thế, chính là
nhịp thở của ta, chúng ta không thể thấy được bởi vì mắt
chúng ta rất thô. Bất kì cái gì rất thô đó là cái ta thấy. Bất kì
cái gì tinh tế chúng ta đều không thể nào thấy được.
Vayu, không khí, là rất tinh tế. Nó hiện diện trước chúng
ta; nó ở bên trong và bên ngoài chúng ta. Nó hiện diện trong
từng tế bào của thân thể chúng ta, nhưng không thấy được.
Đó là lí do tại sao người ta nói: Ngài là biểu hiện của
Brahman - ngài hệt như Brahman.
Brahman hiện diện ở đây nhưng không thấy được. Và nó
đang hiện diện trong từng thớ thịt của chúng ta; thực tế, nó là
từng thớ thịt và vậy mà chúng ta không thấy dấu vết nào của
nó. Đó là lí do tại sao Vayu đã được chào - vì chúng ta biết
tới Vayu nhưng không biết tới Brahman. Sợi chỉ quan hệ đã
được thử lập, rằng Brahman là hệt như Vayu, không khí.
“Con sẽ gọi ngài là biểu hiện của Brahman,” người thấy
nói, “con cũng sẽ đặt tên ngài là chân lí và rit, luật, vì ngài
giống hệt như cái đang đó và không được biết đối với chúng
con; người là bản thân chúng con và vậy mà chúng con
không biết là ai; ai đang ở tại đây và bây giờ từ vĩnh hằng và
không được chúng con biết. Nhưng việc tìm kiếm này có thể
được hoàn thành, nếu tất cả các thần bảo vệ chúng con.”
Điều được ngụ ý bởi các thần là vô số các lực sống từ
vĩnh hằng. Và cuộc sống là mạng lưới mênh mông của vô số
lực. Sự tồn tại của bạn cũng là một mạng lưới mênh mông
của vô số sức mạnh này. Bên trong bạn gặp mặt trời, Varuna,
Indra, Vayu; Agni, lửa; Prithvi, đất; Akash, bầu trời - tất cả
chúng đều gặp nhau. Nếu chúng ta có thể biết một cá nhân
trong tính toàn bộ của người đó, chúng ta cũng biết đến cái
toàn thể của sự tồn tại dưới dạng hạt mầm. Mọi thứ đều có
đấy trong từng cá nhân, mọi thứ đều thống nhất trong người
đó, và trong sự gặp gỡ của chúng cá nhân tồn tại.
Cho nên lời cầu nguyện là cầu sự giúp đỡ từ tất cả những

điều này. Nhưng mặt trời có giúp không? Câu hỏi đó quả có
nảy sinh. Cho dù lời cầu nguyện được thực hiện, mặt trời có
giúp hay Vayu có giúp hay đất có giúp không? Vấn đề không
phải là sự giúp đỡ của đất hay của mặt trời, nhưng điều bạn
đã cầu nguyện - đó là sự giúp đỡ lớn nhất! Để điều này được
hiểu đúng.
Không mặt trời nào đến giúp bạn cả, nhưng bạn cầu
nguyện và điều đó sẽ ảnh hưởng tới bạn, không phải mặt
trời, bởi vì tâm trí cầu nguyện trở nên khiêm tốn, tâm trí cầu
nguyện trở nên không tự lực được, tâm trí cầu nguyện chấp
nhận sự kiện rằng một mình nó không thể hoàn thành được
bất kì cái gì; tâm trí cầu nguyện sẵn sàng tan biến và từ bỏ
bản ngã của nó và cảm thấy rằng nó có thể làm được việc đó.
Và những điều này đem lại kết quả. Toàn bộ kết quả của lời
cầu nguyện là vào bạn. Lời cầu nguyện không làm thay đổi
mặt trời, nhưng làm thay đổi bạn. Và khoảnh khắc bạn thay
đổi, bạn đi vào thế giới khác.
Thông thường, khi bạn cầu nguyện, bạn nghĩ rằng ai đó
sẽ làm điều gì đó cho bạn, và đó là lí do tại sao bạn cầu
nguyện. Không, lời cầu nguyện chỉ là phương tiện. Chắc
chắn bạn chắp tay trong lời cầu nguyện để hướng tới ai đó
khác, nhưng hậu quả của nó xảy ra bên trong bạn - trong
người đã chắp tay cầu nguyện.
Vậy có những khó khăn trong việc hiểu nó. Nếu bạn cầu
nguyện trong sự hiện diện của nhà khoa học, “Xin mặt trời
giúp con!” nhà khoa học sẽ nói, “Vô nghĩa làm sao! Làm sao
mặt trời lại có thể giúp anh được? Đã bao giờ mặt trời giúp
được người nào chưa?” Hay bạn cầu nguyện, “Cầu Indra
mưa xuống!” và người đó sẽ nói, “Anh có điên không đấy?
Đã bao giờ mưa rơi xuống bởi lời cầu nguyện chưa?” Nhà
khoa học cũng đúng.
Cả mặt trời lẫn mây lẫn gió đều không nghe bạn đâu.
Không ai nghe bạn cả. Nhưng sự kiện là bạn đã kêu cầu sẽ
làm biến đổi bạn. Bạn càng kêu cầu mãnh liệt càng tạo ra sự
mãnh liệt sâu sắc bên trong bạn. Nếu toàn thể con người bạn
kêu cầu, bạn sẽ trở thành người hoàn toàn khác.
Đây chính là điều lời cầu nguyện để làm gì.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#2Chúng ta trong cái đó!

Trong khoang tim, nằm bên trong thân thể, những kiếp
sống vĩnh hằng không sinh.
Đất là thân thể của nó, nó cư ngụ trong đất nhưng đất
không biết về nó.
Nước là thân thể của nó, nó cư ngụ trong nước nhưng
nước không biết về nó.
Ánh sáng là thân thể của nó, nó cư ngụ trong ánh sáng
nhưng ánh sáng không biết về nó.
Không khí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong không khí
nhưng không khí không biết về nó.
Bầu trời là thân thể của nó, nó cư ngụ trong bầu trời
nhưng bầu trời không biết về nó.
Tâm trí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong tâm trí nhưng
tâm trí không biết về nó.
Trí năng là thân thể của nó, nó cư ngụ trong trí năng
nhưng trí năng không biết về nó.
Bản ngã là thân thể của nó, nó cư ngụ trong bản ngã
nhưng bản ngã không biết về nó.
Tâm trí lí trí là thân thể của nó, nó cư ngụ trong tâm trí
lí trí nhưng tâm trí lí trí không biết về nó.
Cái không biểu hiện là thân thể của nó, nó cư ngụ trong
cái không biểu hiện nhưng cái không biểu hiện không
biết về nó.
Cái không huỷ diệt được là thân thể của nó, nó cư ngụ
trong cái không huỷ diệt được nhưng cái không huỷ diệt
được không biết về nó.
Cái chết là thân thể của nó, nó cư ngụ trong cái chết
nhưng cái chết không biết về nó.
Nó là cái ta bên trong nhất của tất cả những yếu tố này,
mọi tội lỗi của nó đều bị tiêu huỷ, và nó là một thượng đế
thiêng liêng Narayana - người nâng đỡ cho mọi con
người.
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối

Cá trong biển vẫn còn là kẻ xa lạ với biển cả, không phải
bởi vì biển xa với cá mà bởi vì biển quá gần. Bất kì cái gì ở
khoảng cách xa đều được thấy nhưng cái ở rất gần trở thành
vô hình với mắt. Không khó biết khoảng cách, khó biết cái ở
gần. Và không thể nào biết được rằng cái nào là cái gần nhất
của cái gần. Để cho điểu này được hiểu đúng đi, bởi vì nó là
cái gì đó phải được biết cho cuộc hành trình bên trong.
Mọi người hỏi tìm Thượng đế ở đâu. Họ hỏi, “Làm sao
chúng ta quên rằng cái nào đang bị che giấu bên trong? Làm
sao cái đã bị tách ra ở gần chúng ta hơn là nhịp tim chúng ta,
ở gần ta hơn nhịp thở của chúng ta? Làm sao cái đã bị quên
lãng là bản thân tôi?” Và câu hỏi của họ dường như là logic.

Dường như là điều họ đang hỏi có tính hợp lệ và rằng điều
đó không nên xảy ra giống thế này.
Nếu tôi không thể nào biết ngay cả cái đang bị giấu kín
trong tôi, nếu ngay cả điều đó tôi vẫn còn chưa biết, thế thì
chúng ta sẽ biết ai khác, chúng ta sẽ nhận ra ai khác? Khi
ngay cả điều gần gũi cũng còn trượt khỏi tay thì làm sao
chúng ta có thể đạt tới cái ở xa được? Và không phải nó chỉ
tới gần với chúng ta hôm nay; nó bao giờ cũng ở gần chúng
ta, từ thời vô tận. Thậm chí chúng ta chưa từng tách biệt hay
xa rời khỏi nó dù chỉ một khoảnh khắc. Dù chúng ta đi đâu
nó cũng đi cùng chúng ta; bất kì chỗ nào chúng ta đi, nó đều
đi cùng chúng ta. Nó du hành cùng chúng ta tới địa ngục
cũng như tới cõi trời; nó bên chúng ta trong tội lỗi cũng như
trong đức hạnh. Nói rằng nó bên ta cũng chưa đúng, vì ngay
cả ‘bên ta’ cũng vẫn còn có khoảng cách. Thực tại bản thể
chúng ta và bản thể của nó là một và cùng một thứ.
Nếu điều này đúng, thế thì chính phép màu lớn lao trên
thế gian là chúng ta đã đánh mất cái ta riêng của mình - điều
dường như là không thể có được. Làm sao người ta có thể
đánh mất cái ta riêng của mình được? Không thể đánh mất
được ngay cả cái bóng của mình, và chúng ta đã đánh mất
linh hồn mình. Làm sao điều này có thể được? Nhưng điều
này đã xảy ra. Cách thức việc mất này về cái ta xảy ra, đó là
tinh hoa của kinh này. Trước khi chúng ta đi vào trong kinh,
chúng ta cần hiểu những nền tảng cơ sở của nó.
Mắt có giới hạn về tầm nhìn, một miền. Nếu một vật bên
ngoài miền đó mắt không thể thấy được. Nếu một vật nằm
bên trong miền đó nhưng quá xa về cả hai phía, thế nữa mắt
cũng không thể thấy được nó. Mắt có miền nhìn. Một vật
được đưa tới quá gần mắt không thể được thấy và nếu nó bị
đem ra quá xa nó cũng không được nhìn thấy. Bên ngoài cả
hai phía của miền nhìn nào đó, mắt không thể thấy được, thế
thì chúng là mù. Bây giờ, bạn đang gần với bản thân bạn đến
mức bạn không chỉ gần với mắt mà bạn còn ở đằng sau
chúng - và đó là vấn đề.
Chúng ta hiểu điều đó theo cách này. Nếu bạn đang đứng
trước một tấm gương, ở một khoảng cách nào đó hình ảnh
bạn rất rõ. Nếu bạn đi quá xa khỏi gương, sẽ không có hình
ảnh nữa. Nếu bạn lại quá gần gương, gần đến mức bạn chạm
mắt vào nó, thế thì bạn không thể thấy được hình ảnh mình
chút nào. Nhưng ở đây tình huống là ở chỗ bạn đang đứng
đằng sau gương; do vậy không có khả năng có bất kì hình
ảnh nào của bạn trong gương - mắt ngay phía trước và bạn ở
sau chúng.
Mắt thấy cái ở trước chúng. Làm sao mắt thấy được cái ở
sau chúng được? Tai nghe thấy cái ở bên ngoài tai. Làm sao
tai nghe được cái ở bên trong tai? Mắt mở hướng ra ngoài,
tai cũng mở hướng ra ngoài. Tôi có thể chạm vào bạn, nhưng
làm sao tôi có thể chạm vào tôi được? Và cho dù tôi có khả
năng chạm vào thân thể tôi thì đấy cũng chỉ vì tôi không là
thân thể - thân thể nữa cũng là cái khác, do đó tôi mới có thể
chạm vào nó. Nhưng làm sao tôi có thể chạm tới một người
mà là tôi, một người đang chạm? Tôi có thể chạm vào bằng
cái gì?
Do đó tay chạm vào mọi thứ nhưng không thể chạm vào
bản thân chúng. Mắt nhìn mọi thứ nhưng không thể nhìn
được bản thân chúng. Đối với cái ta riêng của chúng ta,
chúng ta mù; không một giác quan nào mà chúng ta đã biết
có thể dùng được vào đây. Chừng nào một số giác quan khác
còn chưa khai mở - con mắt nào đó có thể nhìn vào bên
trong, nhìn ra đằng sau, theo chiều ngược lại, hay tai nào đó
có thể nghe được âm thanh bên trong - chừng ấy vẫn không

có cách nào để cho chúng ta có thể thấy và nghe và biết bản
thân mình. Cho đến khi điều đó xảy ra thì không có cách nào
chạm vào bản thân chúng ta. Cái ở gần bị bỏ lỡ; cái ở gần
nhất trong tất cả là không thể nào được biết. Đây là lí do tại
sao cá không có khả năng biết biển.
Điều thứ hai: cá được sinh ra trong biển, nó sống trong
biển; biển là thức ăn của nó, biển là nước uống của nó, biển
là cuộc sống của nó, biển là mọi thứ của nó. Thế rồi nó chết
và tan biến trong biển, nhưng nó không bao giờ có được cơ
hội để biết biển vì nó không có bất kì khoảng cách nào với
biển. Tuy nhiên, cá đi tới biết biển là gì nếu ai đó tới và vớt
nó ra khỏi biển. Đây là điều rất mâu thuẫn: cá đi tới biết biển
khi nó xa khỏi biển - khi nó đang giẫy dụa để sống còn trên
cát dưới cái nóng mặt trời, thế thì nó biết biển là gì. Để biết,
khoảng cách như thế là cần thiết.
Làm sao chúng ta có thể biết được cái một, cái đã tồn tại
ngay trước khi chúng ta được sinh ra và cái sẽ còn lại ngay
cả sau khi chúng ta chết? Làm sao chúng ta có thể biết cái
một trong đó chúng ta được sinh ra và trong đó chúng ta sẽ
tan biến đi? Để biết, phân cách nào đó là điều phải có. Đó là
lí do tại sao cá không biết tới biển; chỉ khi ai đó ném nó lên
bờ thì nó mới nhận ra được.
Con người đang trong khó khăn lớn hơn. Điều thiêng
liêng là đại dương bao quanh chúng ta. Nó không có bờ nơi
bạn có thể bị vứt lên, nơi bạn có thể bắt đầu quằn quại với
nỗi đau như con cá. Vấn đề sẽ rất dễ dàng nếu có một bờ như
thế, nhưng không có bờ như thế. Thượng đế là đại dương.
Đây là lí do tại sao những người đi tìm Thượng đế như bờ
không bao giờ có khả năng tìm được ngài. Bờ có sẵn chỉ đối
với những người đã sẵn sàng đắm chìm trong đại dương của
điều thiêng liêng.
Đơn thuần không có bờ nào cho nên không có cách nào
để tìm thấy nó. Làm sao có thể có được bờ? Mọi thứ khác
đều có thể có bờ; cái toàn thể không thể có bờ - vì cái gì đó
khác được cần tới để tạo nên bờ. Bờ sông được tạo nên từ cái
gì đó khác hơn sông. Bờ của biển được tạo nên từ cái gì đó
khác hơn biển. Nhưng không có gì khác hơn Thượng đế để
có thể tạo nên bờ.
Chính ý nghĩa của Thượng đế là ở chỗ không tồn tại cái
gì khác hơn nó. Thượng đế không có nghĩa là ai đó ngồi ở
đâu đó trên trời và cai quản thế giới từ đó. Không, đấy chỉ là
chuyện cho trẻ con. Điều được ngụ ý qua Thượng đế là ở chỗ
phần tử khác hơn Thượng đế là không tồn tại. Đây là định
nghĩa khoa học về Thượng đế.
Thượng đế có nghĩa là cái toàn thể, cái toàn bộ, mọi thứ -
bất kì cái gì đang có. Cái mà không thể có bờ, vì không còn
gì khác hơn để tạo nên bờ. Do đó Thượng đế là mọi nơi;
không có bờ. Người sẵn sàng chìm là được cứu. Người cố
gắng để được cứu, bị chìm.
Chúng ta ở trong nó. Chúng ta đang trong cái chúng ta
đang cố tìm ra.
Không cần phải cầu tới người chúng ta vẫn cầu, bởi vì
thậm chí không có lỗ hổng nào để người ta phải cầu. Đó là lí
do tại sao Kabir hỏi, “Thượng đế của ông có bị điếc không
mà ông phải kêu ajan to thế?” Thượng đế ở gần đến mức
thậm chí không cần phải cầu gọi ngài. Cho dù có im lặng bên
trong, điều đó nữa cũng sẽ được ngài nghe thấy - ngài ở gần
thế. Nếu bạn phải cầu người khác, bạn phải nói. Nhưng để
cầu bản thân mình, cần gì phải nói? Người ta có thể nghe
người khác chỉ khi lời nói được phát ra, nhưng ngay cả im
lặng của riêng người ta cũng được nghe thấy.
Ở gần thế là khó khăn. Để điều này được hiểu cho đúng:

chúng ta đã bỏ lỡ chân lí bởi vì chúng ta được sinh ra trong
nó. Thịt chúng ta, tuỷ chúng ta, xương chúng ta, toàn bộ thân
thể đều được làm từ nó. Nó là hơi thở của chúng ta, cuộc
sống chúng ta, mọi thứ. Theo nhiều cách thức, qua nhiều
cánh cửa, chúng ta là tổ hợp từ nó - chúng ta là trò chơi của
nó. Không có lỗ lổng chút nào, do đó không có kí ức; do đó
việc hồi tưởng về nó trở thành không thể được. Do đó chúng
ta thấy thế giới, nhưng chân lí không được thấy chút nào.
Thế giới là ở khoảng cách, có lỗ hổng giữa hai điều này; đó
là lí do tại sao đam mê về thế giới nảy sinh.
Nghĩa của đam mê là gì? Đam mê nghĩa là ý định khép
lại khoảng cách giữa bạn và đối thể mà từ đó bạn có cảm
giác về khoảng cách. Không có đam mê về Thượng đế bởi vì
không có khoảng cách giữa bạn và Thượng đế. Hay ngay cả
ai đó dường như đi tìm Thượng đế, đấy có vẻ là một đam mê
giả. Người đó dường như đi tìm cái gì đó khác nhân danh
Thượng đế. Người đó làm Thượng đế trở thành cái cớ nhưng
người đó muốn cái gì đó khác. Có thể người đó muốn quyền
lực, có thể người đó muốn danh vọng, của cải, địa vị hay cái
gì đó khác.
Một người bạn tới và bảo tôi, “Từ lúc tôi bắt đầu cuốn
hút bản thân mình vào kinh nghiệm thiền trong trại của thầy,
tôi đã được lợi nhiều lắm.”
Tôi hỏi, “Bạn được lợi gì?”
Anh ta trả lời, “Lợi ích tâm linh không có đâu nhưng lợi
ích tài chính bắt đầu!”
Rất tốt! Đâu cần hấp tấp về tâm linh? - nó có thể để hoãn
lại dịp khác. Lợi ích tiền bạc là nhu cầu tức khắc!
Chúng ta tìm kiếm cái gì đó trong khi chúng ta gọi nó là
cái gì đó khác. Bất kì ở đâu chúng ta đã đặt nhãn Thượng đế
lên, nếu chúng ta xé bỏ cái nhãn đó đi chúng ta sẽ thấy cái gì
đó khác ẩn bên dưới. Chúng ta muốn cái gì đó khác. Người
muốn cái gì đó khác nhân danh Thượng đế là người kém
trung thực hơn người công khai tìm kiếm hoan lạc trần thế.
Chí ít còn có trung thực, đích thực. Người này nói, “Tôi
muốn tiền bạc,” người kia nói, “Tôi muốn hoan lạc dục,” rồi
người khác lại nói, “Tôi muốn địa vị, tôi muốn đáp ứng bản
ngã,” và còn có người nói, “Tôi muốn Thượng đế,” nhưng
trong ham muốn này về Thượng đế còn có cả cảm giác của
người đó rằng một ngày nào đó người đó sẽ chứng tỏ cho thế
giới rằng Thượng đế nữa cũng là trong nắm tay người đó.
Do đó, quan sát người tìm kiếm Thượng đế một cách cẩn
thận vào. Nếu bản ngã của người đó tăng lên, hiểu rằng việc
tìm kiếm của người đó vì cái gì đó khác; nếu bản ngã của
người đó giảm đi, tan tành, biến mất thì việc tìm kiếm của
người đó mới thực sự là vì Thượng đế.
Tính tự phụ của sannyasin và cái gọi là các thánh nhân
của bạn được biết rõ; thậm chí tính tự phụ của chính khách
lớn cũng không có chỗ đứng nào so với nó. Ít nhất chính việc
tìm kiếm của chính khách là để dành cho cái tự phụ đó, cho
nên nó là thoả đáng; nó là một vấn đề dứt khoát, không có gì
giả trong đó cả. Trò vui về việc là cái gì đó đặc biệt là toàn
bộ trò chơi với họ. Nhưng với thánh nhân vấn đề lại khác.
Ông ta nói rằng ông ta đang tìm kiếm việc là cái không... và
thế rồi ông ta cứ trở thành cái gì đó. Nếu hai thánh nhân gặp
nhau, họ không thể được để ngồi cùng một bục bởi vì sẽ có
vấn đề ai ngồi đâu, cao hơn hay thấp hơn. Cho nên thông
thường các thánh nhân đơn thuần không gặp lẫn nhau, vì
nhiều vấn đề nảy sinh.
Có một người bạn hơi chút lập dị - lập dị theo nghĩa là
người đó cố gắng thu xếp cho các thánh nhân gặp lẫn nhau.

Một lần người đó bảo tôi rằng có những vấn đề lớn nổi lên
bề mặt. Ngay cả vấn đề như ai nên đưa tay ra trước để chào
đón cũng phát sinh. Một tình huống khó khăn. Ngay cả phàm
nhân cũng không có vẻ trần tục đến thế. Họ có thể không
muốn đón chào ai đó bằng việc chắp tay, vậy mà họ cứ làm
điều đó. Trong tâm trí, họ có thể nghĩ rằng giá mà người kia
chắp tay trước thì tốt hơn, nhưng họ che giấu cảm giác đó;
nó có vẻ không hào hiệp. Với một số thánh nhân điều ấy
dường như là không hào hiệp - những thánh nhân đó thậm
chí còn không đáp ứng với việc chào đón, họ đã dừng ngay
việc thu xếp gặp gỡ. Họ chỉ ban ân huệ.
Người bạn đó rất bận thu xếp cuộc gặp gỡ cho thánh
nhân nọ với thánh nhân kia. Thánh nhân kia nói, “Mọi thứ
khác đều tốt cả, nhưng nếu tôi không đón chào ông ta và ông
ta lập tức lại ban cho tôi ân huệ thì điều đó sẽ làm hỏng mọi
thứ.”
Tìm kiếm của chúng ta là về cái gì đó khác, nó chẳng
liên quan gì tới tôn giáo hay với điều thiêng liêng. Chúng ta
ham muốn cái gì đó khác, chúng ta yêu cầu điều gì đó khác,
nhưng chúng ta không trung thực và chúng ta che phủ bản
thân mình bằng những yêu sách khác. Làm sao việc tìm kiếm
Thượng đế bắt đầu được? - bởi vì không có khoảng cách.
Nếu có khoảng cách, đam mê nảy sinh. Nếu có khoảng cách,
người ta cảm thấy thích chạy. Nếu có khoảng cách, ham
muốn nảy sinh để thắng. Nếu có khó khăn, bản ngã trở nên
quan tâm tới thất bại, tới thắng lợi. Nhưng chừng nào có liên
quan tới Thượng đế, không có khoảng cách. Tình huống là ở
chỗ Thượng đế đã ở cùng chúng ta.
Khi Tensing và Hillary trèo lên đỉnh Everest, niềm vui
của họ là gì? Họ là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại
đứng trên đỉnh núi cao nhất. Không có gì khác trên Everest.
Nhưng người đầu tiên trên đỉnh Everest! - lịch sử đã được
tạo ra; bản ngã tìm thấy sự quan trọng trong hành động này.
Bây giờ chừng nào còn Everest trên thế giới thì chừng ấy tên
của Hillary và Tensing không thể bị xoá đi.
Có biết bao cạnh tranh để lên tới mặt trăng cho mãi tới
gần đây. Điều rất thú vị là biết chúng ta đã để lại gì trên mặt
trăng. Những người đã lên đến mặt trăng đều là người Ki tô
giáo, nhưng họ không để lại bức tượng của Jesus ở đó, họ đã
để lại lá cờ Mĩ. Nghĩ mà xem: cờ là thực, Jesus không thực!
Ngay cả ý tưởng này cũng không thoáng qua tâm trí người
Mĩ để mang ít nhất một bức tượng nhỏ của Jesus. Họ đã
mang lá cờ! Lá cờ là bản ngã thực của con người. Và nếu tên
của Jesus đôi khi còn được nhớ tới, điều đó cũng có nghĩa là
một loại lá cờ, nó không có ý nghĩa gì khác. Khi đấy là vấn
đề chiến đấu, vấn đề giương cao lá cờ, vào thời đó Jesus,
Rama, Krishna, Phật đều được ghi nhớ; nhưng việc dùng họ
thì không nhiều hơn việc dùng lá cờ. Họ cũng là một lá cờ
trên bản ngã con người.
Trên mặt trăng chúng ta đã để lại sau các lá cờ. Con
người bận bịu ham muốn tìm ra cái gì đó mà chỉ người đó
mới có thể làm để cho bản ngã người đó thu được tầm quan
trọng. Nhưng nếu như bạn được sinh ra trên đỉnh Everest bạn
sẽ gặp khó khăn lớn vì còn đâu để kéo cờ nữa.
Con người được sinh ra trong Thượng đế; chỉ ngài hiện
hữu. Bạn đã ở đấy, bạn chưa bao giờ đi xa. Đó là mảnh đất
của bạn mà trên đó bạn đã đứng. Do đó, trong việc đạt tới
Thượng đế không có cơ hội cho bất kì bản ngã nào. Bản ngã
không được quan tâm tới trong điều đó. Thế thì làm sao khao
khát và ước ao nảy sinh được khi không có ham muốn về
Thượng đế?
Khao khát về điều thiêng liêng nảy sinh theo cách rất kì

lạ. Hiểu điều này cho đúng, bởi vì không có cách nào khác
hơn cách này. Khát khao về thế giới nảy sinh bởi vì khoảng
cách. Nếu khoảng cách là không thể vượt qua được, hấp dẫn
trở nên cực kì lớn. Và đây là lí do tại sao, trong thế giới, bất
kì khi nào mọi thứ được đạt tới mối quan tâm của người ta
đều mất đi, bởi vì khoảng cách đã bị vượt qua rồi. Bạn đã
ham muốn người đàn bà, bạn đã tìm thấy cô ta; bạn đã ham
muốn xây nhà, bạn đã xây nó; bạn đã ham muốn chóp vàng
trên nhà mình và bạn đặt nó ở đó - cái gì tiếp?
Cho nên bất kì cái gì được đạt tới, thế thì nó trở thành vô
giá trị vì nó đã tới gần bạn, nó không còn khoảng cách nữa.
Nếu nó ở xa và có khó khăn theo cách không ai đạt tới được
nó, chỉ thế thì bạn mới cảm thấy xúc động, thấy vui về nó.
Vui về giầu có không có trong bản thân sự giầu có, nó là
trong cái nghèo của nhiều người khác. Nếu mọi người đều
trở thành giầu, toàn bộ mọi sự bị hỏng. Đấy là vấn đề ở Mĩ:
vui của việc thành giầu đang trở nên ngày càng ít đi. Người
nghèo đang mặc cùng kiểu quần áo như người giầu, lái cùng
kiểu xe ô tô, sống trong những ngôi nhà tương tự. Không có
khác biệt cơ bản nhiều mấy giữa người giầu và người nghèo.
Cái vui của người giầu đang bị mất đi. Người giầu đang cảm
thấy bị bối rối do điều đó; họ đang tìm những trò mới mà chỉ
có họ mới có khả năng hưởng thú.
Chúng ta là trong Thượng đế, do đó không có việc cầu
gọi, không lời mời trong đó cho bản ngã; không có thách
thức, không có động cơ cho bản ngã. Vậy thì làm sao khát
khao về điều thiêng liêng có thể nảy sinh được? Khát khao
về những thứ trần thế nảy sinh là do khoảng cách của chúng
và do sự thách thức và mời gọi của chúng. Khát khao về
Thượng đế nảy sinh từ thất bại của những điều trần tục.
Để điều này được hiểu. Khi bạn chạy theo mọi hướng và
ở đâu cũng thất bại; khi bạn đã đạt được mọi thứ và tất cả
đều chứng tỏ vô giá trị; khi tìm kiếm của bạn về mọi thứ đã
hoàn thành, và với hoàn thành này nảy sinh tiêu cực, mọi thứ
trở thành con số không; chỉ thế thì mới nảy sinh khao khát về
Thượng đế. Mọi thứ dường như vàng từ nơi xa nhưng tất cả
chúng lại chứng tỏ là đống bùn khi chúng lọt vào tay bạn.
Khoảng cách càng xa, vàng càng nguyên chất. Khi nó bắt
đầu lại gần hơn, nó cũng bắt đầu trở nên kém nguyên chất đi.
Gần hơn nữa nó bắt đầu biến thành đất sét.
Có câu chuyện về vua Midas ở Hi lạp - có trào phúng lớn
trong đó. Midas được ân huệ có một quyền năng siêu nhiên;
món quà của thần là ở chỗ bất kì cái gì ông ta sờ vào đều trở
thành vàng. Tất cả chúng ta là điều ngược của Midas: bất kì
cái gì chúng ta mó tay vào đều trở thành đống bùn!
Nhưng điều đó rất thú vị... Ngay cả Midas cũng trong rắc
rối lớn - làm sao có thể có bất kì kết thúc nào cho rắc rối của
chúng ta? Bất kì cái gì Midas sờ vào đều trở thành vàng. Ông
ta chạm vào vợ, bà ấy trở thành vàng. Ông ta chạm vào thức
ăn, nó thành vàng. Ông ta cầm cốc nước, trước khi nó tới
môi ông ta, nó đã thành vàng. Midas đáng thương! Ông ta
trong khó khăn lớn. Bạn không thể nào làm dịu cơn khát của
mình bằng vàng được. Chúng ta có nói nhiều đến đâu về
“một thân thể tựa như vàng lấp lánh,” cũng không thành vấn
đề, không có sự thoả mãn nào nảy sinh từ thân thể như thế.
Người yêu có thể ca tụng thân thể của người mình yêu như
“một tấm thân vàng” đến đâu đi chăng nữa thì cũng không
thành vấn đề, người đó sẽ hiểu điều gì xảy ra nếu tấm thân
đó thực sự trở thành vàng. Người đó sẽ phải đập đầu mình
nếu như điều như thế xảy ra. Người đó sẽ cảm thấy rằng tấm
thân trước còn tốt hơn.
Cho nên Midas đã gặp khó khăn lớn. Ông ta đã bị vàng

hấp dẫn bởi việc nói chuyện với các nhà thơ. Bây giờ sao?
Mọi thứ đều thành vàng - vợ, nước, thức ăn! Mọi người bắt
đầu chạy trốn khỏi ông ta. Con riêng của ông ta cũng bắt đầu
giữ khoảng cách với ông ta - ai biết được khi nào ông ấy có
thể chạm phải bạn! Không bạn bè nào dám lại gần ông ta.
Midas trở nên rất đơn độc. Ông ta là vua, và ông ta trở nên
đơn độc. Các quan thượng thư sẽ không tới quá gần ông ta;
họ giữ một khoảng cách an toàn từ xa để cho họ có thể chạy
trốn nếu cần. Midas bắt đầu chết đói. Ông ta không thể ăn
thức ăn nào, ông ta không thể uống nước. Ông ta bắt đầu la
hét và kêu to, “Ôi, lạy trời, xin ngài rút lại món quà này đi!
Tốt hơn cả là con vẫn như trước! Ân huệ này đã thành tai
hoạ.”
Midas đã trong trạng thái đó - mọi thứ mà ông ta sờ tới
đều biến thành vàng. Hình dung xem hoàn cảnh của chúng ta
sẽ như thế nào nếu bất kì cái gì chúng ta động tới cũng đều
biến thành đống đất sét. Vợ dường như đẹp đẽ và như vàng
khi cô ấy ở xa xa; cái ngày hôn nhân xảy ra, cô ấy bắt đầu
biến thành đất đen. Trong bốn hay năm năm cô ấy trở thành
như bùn. Mọi thứ đều biến thành bùn.
Cái ngày bạn nhận ra rằng mọi chạy đua đều trở thành vô
tích sự, bạn đi đến một cái dừng chết dí ngay nơi Thượng đế
hiện hữu. Cái ngày bạn đi tới biết rằng bạn đã không thu
được gì bởi việc chạy đua, bạn sẽ không chạy đua thêm nữa.
Và bởi vì bạn không chạy đua, bây giờ bạn thấy điều mà
trước đây không thấy được bởi vì chạy đua.
Khi tâm trí mê mải trong chạy đua, mọi thứ đã từng ở xa
đều được thấy. Khi chạy đua trở thành vô dụng, mắt trở lại
khung cảnh gần hơn. Và nếu chạy đua dừng lại toàn bộ, mắt
bắt đầu nhìn theo chiều ngược. Mãi cho đến nay chúng đã
chỉ nhìn bên ngoài, bây giờ chúng bắt đầu nhìn bên trong.
Gương thực hiện việc quay ngược lại. Thế thì bạn không tìm
thứ gì đáng nhìn trong thế giới nữa, hay đáng kiếm và đáng
tìm trong thế giới nữa. Bây giờ thế giới không còn là ham
muốn chút nào nữa. Đó là lí do tại sao Phật, Mahavira và
Upanishad đã đặt nhiều nhấn mạnh thế vào sự kiện là vô ham
muốn là cánh cửa.
Ham muốn là cánh cửa đi ra xa; vô ham muốn là cánh
cửa về lại gần.
Bây giờ chúng ta hiểu câu kinh này: “Bên trong thân thể
ẩn giấu cái không sinh và vĩnh hằng.”
Nó chưa bao giờ sinh ra, nó có đó mãi mãi. Cái vĩnh
hằng và không sinh đang ẩn bên trong thân thể nhưng thân
thể không biết về nó. Thân thể là một phần của đất; nó bị che
giấu bên trong đất nhưng đất không biết về nó. Trong kinh
này cùng điều đó được lặp lại từ những góc độ khác nhau.
Cái không sinh và vĩnh hằng bị ẩn giấu trong lửa, nhưng
lửa không biết nó. Nó được ẩn giấu ở mọi nơi, nhưng người
đứng sau cái bị che giấu không biết đến nó bởi vì người
đứng sau cái bị che giấu đang chạy đua bên ngoài. Bạn đã
bao giờ nhận ra điều này chưa? Nếu bạn có thể kinh nghiệm
được việc chạy đua bên trong của thân thể bạn, bạn sẽ đạt tới
samadhi. Bạn đã kinh nghiệm mỗi việc chạy đua bên ngoài
của thân thể - một thân thể đẹp được thấy và xúc động chạy
qua thân thể bạn; mọi tế bào thân thể bạn bắt đầu chạy đua
theo nó. Một đoá hoa đẹp được thấy và mắt bắt đầu chạy
đua. Một giai điệu du dương được nghe thấy và tai bắt đầu
chạy đua.
Thân thể bao giờ cũng chạy đua bên ngoài. Bạn đã bao
giờ kinh nghiệm thân thể chạy đua bên trong chưa? Không,
bạn chưa kinh nghiệm đâu. Thế thì làm sao thân thể đáng
thương này biết được ai đang ẩn náu bên trong? Nơi thân thể

chưa bao giờ đi, nơi thân thể chưa bao giờ ngó tới, chưa bao
giờ nghe thấy, chưa bao giờ thám hiểm... làm sao thân thể có
thể biết được cái gì có đó bên trong? Do đó thân thể vẫn còn
là kẻ xa lạ với người sở hữu thân thể đó. Tất cả chạy đua đều
hướng theo bên ngoài, do đó dốt nát tràn ngập bên trong.
Kinh này là việc lặp lại cho cùng một thứ nhưng từ những
cánh cửa khác nhau.
Cái ẩn kín bên trong không khí, không khí không biết.
Tâm trí không biết về người sở hữu thân thể đó. Bản ngã
không hay về người sở hữu thân thể đó. Tâm trí lí trí, cái bất
diệt, cái không biểu hiện - tất cả chúng đều không biết đến
người có thân thể chính là chúng và người ẩn kín bên trong
chúng. Ngay cả cái chết cũng vẫn còn không quen biết với
người có cái chết xảy ra. Phát biểu này có đôi chút kì lạ: cái
chết vẫn còn không quen biết với người chết. Không có gì
chết khi người ta chết cả.
Khi cái chết xảy ra, ai thực sự chết? Không ai cả. Thân
thể không chết, bởi vì nó bao giờ cũng chết rồi; không có
vấn đề về việc chết của nó. Người ẩn kín bên trong thân thể
là bất tử vĩnh viễn; không có vấn đề về việc chết của người
đó. Chỉ mối quan hệ tan vỡ. Trong cái chết mối quan hệ giữa
người chết và người bất tử tan vỡ. Nhưng bản thân cái chết,
cho dù sau khi tới gần đến thế, cũng vẫn còn không biết gì về
người bất tử.
Bao nhiêu lần chúng ta đã chết, vậy mà chúng ta vẫn
chưa đi tới biết người bất tử ở bên trong chúng ta. Chính tình
huống này có nghĩa là ngay cả trong khi tới gần chúng ta vẫn
không có khả năng nhìn vào trong; cái nhìn của chúng ta tiếp
tục hội tụ bản thân nó ra ngoài. Nhìn một người đang nằm
trên giường chết: người đó vẫn cứ nhìn ra ngoài. Thậm chí
bây giờ người đó không cảm thấy thích nhìn vào bên trong.
Cái chết đang kéo và lôi người đó khỏi thân thể, nhưng
người đó vẫn níu bám lấy thân thể - níu bám còn mạnh hơn,
mạnh hơn hẳn trước đó.
Đây là lí do tại sao người già trở nên xấu còn người trẻ
trông đẹp. Nếu chúng ta nhìn điều đó sâu sắc, lí do cho điều
này không phải là một mình thân thể. Người trẻ không níu
bám lấy thân thể, người đó vẫn còn tin tưởng vào nó. Người
già bắt đầu níu bám lấy thân thể; và bởi vì níu bám đó mà
mọi thứ xấu sinh ra. Người già bắt đầu sợ hãi: cái chết đến
đây... bây giờ cái chết tới... cái chết ở cạnh kề. Người già
càng sợ chết càng níu bám mạnh hơn vào cuộc sống. Và
người càng níu bám mạnh hơn vào cuộc sống, người đó càng
trở nên xấu hơn.
Trẻ con trông đáng yêu làm sao! Chúng đơn giản không
níu bám chút nào. Chúng không có ý tưởng rằng cái chết tồn
tại. Nhìn chim chóc và muông thú mà xem: chúng già đến
đâu chúng trông cũng vẫn thế. Tôi đang nói về những con
vật và những con chim còn chưa bị hư hỏng qua việc đồng
hành cùng con người. Con người chỉ làm hỏng mọi thứ. Cho
nên điều dường như rất lạ là trong rừng hoang chim chóc và
muông thú có vẻ không bị già đi. Kiểu tuổi già bắt giữ con
người dường như không bắt giữ chim chóc và muông thú.
Chúng vẫn còn giống như trẻ con. Theo một nghĩa sâu sắc
nào đó chúng không nhận biết chút nào rằng cái chết sẽ tới,
do đó không có níu bám vào thân thể.
Tính tươi tắn ở trẻ con bởi vì cuộc sống là tự nhiên,
không có sợ chết. Điều đó trở thành khó khăn cho tuổi già;
cái chết trở nên rõ ràng hơn. Cuộc sống là nỗ lực bây giờ,
người già sống bằng nỗ lực. Mọi li của cuộc hành trình
người đó đều ý thức tới cái chết bây giờ. Điều đó tạo ra bất
định; căng thẳng tăng lên bên trong người đó và lo âu cùng

buồn khổ bắt giữ người đó thường xuyên, và điều đó làm cho
tâm trí thành xấu.
Bản thân cái chết không đi tới biết người bất tử ẩn bên
trong thân thể. Lí do duy nhất cho điều này là ở chỗ hiện
tượng nhìn vào trong chỉ xảy ra khi việc nhìn ra ngoài đã trở
thành vô tích sự và vô nghĩa. Để điều này được hiểu đúng.
Nó dường như đã trở thành vô nghĩa nhiều lần rồi, nhưng
vẫn chưa trở thành thực sự như vậy. Không phải là cái vô
nghĩa đó không bừng dậy trong bạn - nó có bừng dậy trong
bạn đấy. Bạn đã nghĩ về việc mua một chiếc xe rồi bạn mua
nó. Khi bạn chưa mua nó, bạn mơ về nó trong đêm. Vào cái
đêm trước hôm nó được giao cho bạn, thậm chí bạn còn
không ngủ được ngon - cả đêm ròng!
Ai đó đã viết về người bạn mình, người mua một chiếc
xe rất đẹp, chiếc Ferarri. Nó là chiếc xe rất đắt. Trong chính
ngày đầu tiên người đó đã lái nó, chiếc xe bị xước một chút
xíu.
Người bạn đó không còn là đứa trẻ nữa, ông ta đã năm
mươi tuổi; và ông ta cũng không phải là người thiếu học vấn,
ông ta là một giáo sư đại học - giáo sư triết học hẳn hoi.
Nhưng người ta đã thấy ông ấy khóc hôm đó, gục đầu vào
vai mẹ mình. Chỉ bởi vì chiếc Ferarri bị xước! Chiếc xe đắt
thế. Ông ta đã mơ ước biết bao về nó. Vết xước đó của chiếc
xe hẳn đã phải ăn sâu vào ông ta, vào chính linh hồn ông ta;
đấy là lí do tại sao ông ta khóc.
Khóc thì tất cả các bạn đều làm. Người đàn ông đó phải
là một người chân thật hơn. Trên con đường thoáng đãng,
gục đầu vào vai mẹ, ông ta bắt đầu khóc. Nhưng trạng thái
này kéo dài được bao lâu? Trong vài ngày chiếc Ferarri sẽ
trở nên cũ. Sau một hay hai tháng người này sẽ ngồi trong
cũng chiếc xe đó nhưng ông ta thậm chí sẽ không cảm thấy
mình đang ngồi trong chiếc xe nào nữa. Ông ta sẽ chán với
chiếc xe này - nhưng chưa chán với xe. Mơ ước về một chiếc
xe khác nào đó sẽ bắt giữ ông ta. Bây giờ ông ta có thể nghĩ
tới việc làm chủ chiếc Rolls Royce, hay chiếc xe khác nào
đó. Tâm trí sẽ chán với một người đàn bà hay một người đàn
ông, nhưng nó sẽ không chán với đàn bà như vậy hay đàn
ông như vậy.
Tất cả chúng ta đều thấy chán, nhưng cái chán của chúng
ta vẫn còn gắn với những thứ đặc biệt. Còn chính thực tại
của việc chán này không trở thành một phần của kinh
nghiệm của chúng ta. Khi chúng ta mệt mỏi về thứ này,
chúng ta chọn thứ khác cùng kiểu, và quá trình này cứ tiếp
tục mãi. Đây là khác biệt duy nhất giữa bạn và vị phật.
Bạn chán với một người đàn bà nhưng mối quan tâm của
bạn vẫn tiếp tục trong người đàn bà khác. Nếu bạn chán với
vợ mình, mối quan tâm của bạn tiếp tục ở vợ của ai đó khác.
Bất kì cái gì gần gũi và có sẵn đều trở thành vô dụng, nhưng
cái ở xa duy trì mối quan tâm của bạn. Cái ở xa đó rồi cũng
sẽ trở thành vô dụng vào ngày mai khi nó lại gần bạn. Nhưng
không thể nào mọi thứ đều có thể lại gần người ta được. Một
số thứ vẫn tiếp tục còn ở xa; do vậy mối quan tâm vẫn tiếp
diễn, ham muốn vẫn cứ chạy đua.
Chán một đàn bà, vị phật chán luôn với mọi đàn bà.
Sống trong một lâu đài, vị phật đã sống trong mọi lâu đài.
Với vị phật, chỉ một việc xảy ra là đủ. Đây là cách tiếp cận
khoa học. Nếu một giọt nước đã được biết, thế thì toàn bộ
biển cả đã được biết. Ông ấy sẽ là nhà khoa học điên khùng
nếu cứ tiếp tục kiểm thử mọi đại dương và nói, “Khi tôi hoàn
thành việc kiểm thử mọi giọt nước của mọi đại dương, tôi sẽ
tuyên bố rằng nước được tạo nên từ hidro và oxi.” Chúng ta
đang trong một loại điên khùng tương tự. Nhà khoa học kiểm

thử một giọt nước, phát hiện ra rằng nước được tạo nên từ
các nguyên tử hidro và oxi, và rằng H2O là phương trình cho
các thành tố của nước, và thế là vấn đề xong với ông ta. Mọi
nước trong mọi biển bây giờ đều được biết. Bất kì nơi đâu có
nước, ngay cả trên bất kì hành tinh khác nào - và các nhà
khoa học nói có ít nhất năm mươi ngàn trái đất tương tự như
trái đất của chúng ta - hay ở bất kì đâu trong vũ trụ, nó đều
được tạo nên từ việc bố trí của các nguyên tử: H2O.
Mọi nước được biết bằng việc biết một giọt nước.
Với việc hiểu mẫu hình và hành vi của một ham muốn,
người đó đi tới biết toàn thể bản chất của mọi ham muốn và
trở thành vị phật. Biết một ham muốn, người đó, người thấy
được cái vô tích sự của nó - cái phù phiếm phổ cập - và cái
thất bại không tránh khỏi của nó, ham muốn của người đó
đơn giản rụng đi. Ham muốn rụng đi tựa như cái nạng của
người què bất thần rơi xuống. Người đó đã bước đi với trợ
giúp của cái nạng; người đó đã không có chân để bước,
người đó đã có chân gỗ. Bỗng nhiên chiếc nạng rơi ra và
người què đổ sập xuống. Điều tương tự cũng xảy ra khi cái
nạng ham muốn rơi rụng đi. Không có chân thực để bước
trong cuộc sống trần gian; chúng là nhân tạo, cứng đơ, được
làm bằng những ham muốn. Ham muốn rơi đi chính là chiếc
nạng rơi đi, và người ta bỗng nhiên thấy bản thân mình ở đó
- từ nơi mà người đó chưa bao giờ đi, nơi người đó bao giờ
cũng ở đấy, trong bản tính thực của mình. Đó là Thượng đế,
đó là linh hồn.
Đoạn cuối của kinh giải thích điều này:

Cái chết là thân thể của nó, nó cư ngụ trong cái chết
nhưng cái chết không biết về nó.
Nó là cái ta bên trong nhất của tất cả những yếu tố này,
mọi tội lỗi của nó đều bị tiêu huỷ, và nó là thiên thần
thiêng liêng Narayana
Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua sự
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối

Điều cuối cùng là kinh này. Cuộc chạy đua theo các ham
muốn là do sự kiện rằng mơ nào đó bao giờ cũng có vẻ gần
đạt tới hoàn thành ở đâu đó nơi xa xa. Người trong sa mạc
nhìn thấy một hồ nước gần chân trời, chạy lại lấy nước, và
khi tới đó phát hiện ra rằng không có nước, rằng không có gì
ngoài cát và cát. Nhưng rồi cái hồ lại xuất hiện đâu đó khác.
Điều này được gọi là ảo cảnh.
Khi tia sáng mặt trời trở nên nóng và được phản xạ trên
cát thì các tia sáng rung rinh tạo ra ảo cảnh về gợn sóng và
sóng. Gợn sóng và sóng lăn tăn cứ liên tục lan rộng, việc
phản xạ trải trên bề mặt xuất hiện. Nếu có cây cối gần đó, cả
cây đó cũng được phản xạ lên bề mặt đó, bề mặt có tác dụng
tựa như chiếc gương. Khi từ một khoảng cách xa bạn thấy
không chỉ có nước mà còn cả phản xạ của đám mây bay qua
in trên nước, làm sao bạn không tin được? Nếu có cả phản xạ
của đàn chim bay trên trời trong cái gọi là nước đó, và nếu
cây cối gần đó cũng được phản xạ vào trong nước, niềm tin
của bạn vào sự tồn tại của nước lại càng được xác nhận.
Không chỉ sóng nước được trông thấy, ngay cả những phản
xạ trong nước cũng được thấy. Nhưng khi bạn lại gần hơn,
phản xạ dừng xuất hiện, và khi tiến lại chỗ ấy bạn không tìm
thấy gì ngoài cát.
Adhyas, hay ảo tưởng, nghĩa là thấy cái không có đó.

Shankara yêu từ này lắm, và với Upanishad nó là chính nền
tảng. Adhyas nghĩa là phóng chiếu, thấy cái không có đó: cái
được thấy không thực có đó, bạn đang phóng chiếu nó từ bên
trong. Bạn là nguyên nhân của việc phóng chiếu.
Một khuôn mặt dường như đẹp với bạn: liệu cái đẹp đó
đang có đó hay bạn đang phóng chiếu về nó?... vì ngày mai
cũng cùng khuôn mặt đó lại có thể tỏ ra xấu với bạn. Có thể
nó đã không có vẻ đẹp với bạn ngày hôm qua. Hôm nay
bỗng nhiên con mắt thiêng liêng của bạn đã mở ra và khuôn
mặt này đã bắt đầu trông đẹp với bạn. Với bạn bè của bạn nó
vẫn trông không đẹp.
Người ta nói rằng Laila không đẹp, chỉ có Majnu mới
trông cô ấy là đẹp. Cả làng đều khó xử, và mọi người cố
gắng thuyết phục Majnu: “Cậu ngây thơ lắm. Có bao nhiêu
gái đẹp trong làng; cậu cứ bị ám ảnh không cần thiết với
Laila làm gì.” Majnu trả lời, “Nếu bác muốn thấy Laila, bác
phải có con mắt của Majnu.” Đây là adhyas, ảo tưởng. Vấn
đề không phải là Laila mà vấn đề là con mắt của Majnu. Vấn
đề không phải là cái được thấy mà vấn đề là người đang thấy
cô ấy. Cho nên Majnu nói, “Thấy bằng mắt tôi đây này, thế
thì bác sẽ có thể thấy được Laila.” Không hoài nghi gì rằng
dưới con mắt của Majnu thì cô ấy sẽ trông đẹp. Nếu như có
thể mượn được cặp mắt của Majnu thì Laila sẽ thành đẹp đối
với bạn như cô ấy đã đẹp đối với Majnu.
Mắt cũng có một kiểu kính. Mầu của kính phóng chiếu
lên vật được thấy. Tất cả các giác quan bạn đều đang phóng
chiếu. Bạn đang tạo ra một thế giới khắp quanh bạn. Tâm trí
bạn không chỉ là người nhận, nó là đấng sáng tạo nữa. Bạn
đang sáng tạo ra một thế giới quanh bạn - về cái đẹp, về
hương thơm, thế này, thế nọ.
Thế giới này không phải như bạn thấy nó. Nó tuỳ thuộc
vào bạn. Nếu bạn thay đổi, thế giới cũng thay đổi theo.
Thanh niên nhìn thấy thế giới này, người già thấy thế giới
khác, và trẻ con lại thấy thế giới khác nữa. Cái gì tạo ra khác
biệt này? Thế giới vẫn như vậy thôi. Nhưng trẻ con không có
cùng con mắt như thanh niên. Trẻ con vẫn còn quan tâm tới
việc nhặt đá và sỏi - chỉ mầu sắc của mọi thứ là đủ. Thanh
niên nói, “Vứt quách những thứ ấy đi! Có gì trong đó nào?
Chúng có giá trị gì nào?” Với thanh niên tiền bạc đã trở nên
giá trị. Người đó bắt đầu hiểu giá trị của tiền. Bây giờ nhặt
đá sỏi không có tác dụng. Bây giờ chẳng ích gì mà đuổi theo
bướm cả.
Trẻ con bắt bướm; bướm trông như cõi trời với chúng.
Thanh niên coi trẻ con là dốt nát, nhưng khi người này già đi,
các giác quan người đó cũng mệt mỏi; kinh nghiệm của
người đó chuyển thành chua chát và cay đắng và người đó
cảm thấy dường như mồm đầy một kiểu vô vị. Bây giờ ngay
cả thanh niên cũng dường như là giống trẻ con đối với người
này. Với người đó, thanh niên đang đuổi theo các loại bướm
bướm khác. Chỉ có loại bướm là thay đổi, nhưng không phải
là con bướm.
Người già cứ hay nói năng, giải thích, rằng đấy là bướm,
nhưng không thanh niên nào chịu nghe họ. Bản thân họ đã
không nghe bố họ và ông họ. Có lí do để không nghe, và đó
là việc họ có con mắt khác. Nếu thanh niên có đôi mắt của
người già, người đó sẽ thấy cùng một sự việc. Và nhớ lấy,
điều thú vị là ở chỗ nếu người già có thể có được đôi mắt của
thanh niên lần nữa, người đó sẽ quên mọi kinh nghiệm này.
Người đó sẽ quên mọi khôn ngoan mà người đó đang thể
hiện; thế giới một lần nữa lại sẽ trở thành đầy mầu sắc với
người đó.
Tôi đã từng nghe: một chánh án của Toà Thượng thẩm

Mĩ đã tới Paris khi ông ta còn trẻ và đã xây dựng gia đình.
Sau ba mươi năm, khi ông ấy đã già, và sau khi con ông ấy
cũng đã xây dựng gia đình và ghé thăm Paris, vị chánh án lại
trở lại Paris cùng với vợ. Tên ông ta là Peare. Ông ấy nhìn
Paris, và nói với vợ, “Đấy không còn là cùng Paris đó nữa.
Mầu sắc của nó đã phôi phai rồi. Cái đẹp là ở những ngày đó
khi chúng ta tới Paris lần đầu tiên. Mọi thứ đều không thể so
sánh được; Paris đã khác rồi!”
Vợ ông trả lời, “Xin lỗi ông, ông quên mất rồi. Lần đầu
tiên chúng ta tới thì Peare là con người khác; Paris vẫn thế.
Nếu ông có thể thấy được Paris bằng con mắt của thanh niên
thì nó vẫn thế. Làm sao Paris thay đổi được?” Mọi người
thay đổi và cái nhìn của họ thay đổi.
Nếu thế giới dường như bị thay đổi với thay đổi trong cái
nhìn của bạn, hiểu cho rõ rằng cái bạn đã thấy và đã nghĩ nó
chỉ là adhyas, ảo tưởng thôi. Nó đã được tạo ra bởi phóng
chiếu của bạn, nó không phải là thế giới như nó đang đấy.
Liệu có cách nào để thế giới được thấy không có phóng
chiếu của bạn không? Nếu có, chỉ có thế người ta mới thấy
được thế giới như nó đang đấy.
Phóng chiếu là ảo tưởng. Do đó, nhớ lấy, thấy không có
nghĩa là chỉ nhìn bằng mắt. Thấy nghĩa là trạng thái mà tất cả
những phóng chiếu của bạn đều dừng lại, khi bạn không có
quan điểm nào. Khi bạn không có con mắt cá nhân riêng để
áp đặt các điều kiện, khi bạn không có xúc động và ham
muốn phóng chiếu, thế thì việc thấy xảy ra.
Nhìn sa mạc khi bạn không khát: thế thì sa mạc không
thể lừa bạn. Lừa dối xảy ra bởi vì cơn khát. Bạn cần nước, và
khi bạn không có nước, ham muốn trở thành ngày một mạnh
hơn. Và khi ham muốn trở nên quá mạnh, tâm trí bạn phát rồ
và nó muốn tin ngay cả những cái mà thực tế không có đó.
Nhưng có một trạng thái mọi cái nhìn đều dừng và việc
thấy nảy sinh. Khi nào thì cái nhìn dừng lại? Cái nhìn dừng
lại chỉ khi mọi ham muốn dừng lại, bởi vì mọi cái nhìn đều là
trò chơi của ham muốn của bạn, sự mở rộng của các ham
muốn của bạn.
Kinh nói:

Thân thể, giác quan, vân vân, là vật chất vô linh hồn, và
cảm giác về ‘cái tôi’ về chúng là adhyas - ảo tưởng.
Do đó, người thông minh nên vứt bỏ ảo tưởng này qua sự
trung thành với Brahman - thực tại tuyệt đối

Qua sự trung thành với Brahman - trung thành với cái ta.
Trung thành của chúng ta bao giờ cũng là với người
khác, với ai đó khác, không phải với cái ta riêng của chúng
ta. Chúng ta chạy theo những thứ khác, không hướng về
trung tâm riêng của mình. Chúng ta bao giờ cũng đi đâu đó
khác, né tránh người ở bên trong.
Trung thành với Brahman nghĩa là cuộc đua của các ham
muốn đã qua rồi, người ta đã đạt tới cái ta của mình. Người
ta phải đi tới chỗ không có tâm trí nữa, không giác quan,
không thân thể, nhưng chỉ còn tâm thức thuần khiết. Trong
việc được bắt rễ vào đó, mọi ảo tưởng đều lập tức tan tành;
thế thì không còn thế giới mà chỉ có Brahman, thực tại tuyệt
đối.
Khi tôi đang nói tiếng Hindu - nhiều người không hiểu
tiếng Hindu nhưng họ cũng có thể dùng được cơ hội này.
Những người không hiểu tiếng Hindu nên nhắm mắt lại và
lắng nghe chỉ âm thanh. Họ nên ngồi im lặng dường như

trong thiền. Và nhiều lần chân lí mà người ta không hiểu qua
lời người ta đi tới hiểu đơn thuần bởi việc lắng nghe âm
thanh.
Khi tôi nói tiếng Anh, những bạn không hiểu tiếng Anh
không nên nghĩ rằng điều này vô dụng cho họ. Họ nên nhắm
mắt lại và thiền theo âm thanh của lời tôi mà không dự định
hiểu ngôn ngữ. Không cần cố hiểu ngôn ngữ mà bạn không
biết. Ngồi im lặng, trở thành giống như người dốt nát, và
thiền về tác động của âm thanh. Chỉ lắng nghe. Lắng nghe đó
sẽ trở thành thiền và nó sẽ có ích lợi.
Vấn đề thực sự không phải là việc hiểu, mà là trở nên im
lặng. Nghe không phải là vấn đề, trở nên im lặng mới là vấn
đề. Biết bao nhiêu lần điều xảy ra là cái bạn đã hiểu trở thành
rào chắn, và điều tốt là lắng nghe cái gì đó bạn không hiểu
chút nào; thế thì suy nghĩ không thể can nhiễu được. Khi cái
gì đó không được hiểu, không có cách nào cho suy nghĩ
chuyển động; chúng đơn giản dừng lại.
Do đó, đôi khi lắng nghe tiếng gió xào xạc trong lùm
cây, nghe tiếng chim hót, tiếng nước chảy, còn tốt hơn là
lắng nghe người thấy và hiền nhân. Upanishad thực đang
tuôn chảy ở đó, nhưng bạn sẽ không hiểu chúng. Và nếu bạn
hiểu và bạn có thể lắng nghe, trí năng của bạn sẽ không mấy
chốc mà lắng xuống bởi vì nó không được cần nữa. Và khi
trí năng của bạn đã lặng yên, bạn được đưa lên chỗ bạn đang
tìm kiếm.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#3Nhân chứng và ảo tưởng

Biết bản thân mình là sakshi pratyagatma, linh hồn
chứng kiến bên trong về trí năng của người ta và tất cả
những khuynh hướng của nó, và thu được khuynh hướng
rằng “Cái đó là tôi,” từ bỏ đòi hỏi ‘của tôi’ với mọi vật.
Từ bỏ theo đuôi lok, xã hội, người đó từ bỏ theo đuôi cả
thân thể. Từ bỏ theo đuôi kinh sách, người đó từ bỏ ảo
tưởng cả về linh hồn.
Được bắt rễ vào linh hồn mình, và thông qua các kĩ
thuật, thông qua việc lắng nghe và thông qua tự kinh
nghiệm, nhà yoga nhận ra bản thân mình là linh hồn của
tất cả và tâm trí của người đó bị triệt tiêu.
Không trao cơ hội cho việc ngủ, cho chuyện trò của xã
hội, cho âm thanh, động chạm, hình dạng, vị và mùi - các
đối tượng của giác quan - và sự quên lãng của linh hồn,
suy tư về linh hồn bên trong.

Làm sao người ta có thể đi vào trong chân lí tối cao đó,
làm sao người ta có thể biết rằng bí ẩn tối cao ở gần đến thế
và vẫn còn chưa được biết tới? - cái nào là vĩnh viễn với
chúng ta và vậy mà bị mất? Làm sao chúng ta đạt tới nó?
Làm sao đã có ai đã bao giờ đạt được tới nó? Trong những
kinh này là giải thích về khoa học đó, quá trình của con
đường đó.
Trước hết chúng ta hiểu đôi điều về ảo tưởng. Ảo tưởng
có nghĩa là thấy khi nó không có. Chân lí có nghĩa là thấy
khi nó có. Bất kì cái gì chúng ta thấy đều là ảo giác, bởi vì
chúng ta đưa cả bản thân mình vào trong việc thấy của mình;
kinh nghiệm của chúng ta không còn khách quan, nó trở
thành chủ quan. Bất kì cái gì đang có ở ngoài kia, nó không
tới chúng ta như nó vậy. Tâm trí chúng ta bóp méo nó, tô vẽ
nó, trang điểm cho nó, tỉa tót nó, làm cho nó lớn hơn hay nhỏ
hơn và thay đổi nó thành nhiều, nhiều dạng.
Thay đổi lớn nhất, lừa dối sâu sắc nhất, là ở chỗ chúng ta
liên kết bản thân mình với mọi thứ, mà thực tế chúng ta
không được liên kết chút nào. Ngay khi chúng ta được liên
kết thực tại bị mất và phóng chiếu mơ bắt đầu dường như
thật. Chẳng hạn, chúng ta gọi một thứ là ‘của tôi’ - nhà của
tôi... ngôi nhà đã có đó khi chúng ta còn chưa có và nó sẽ
còn đó khi chúng ta không còn nữa. Cái gì đó có thể hiện
hữu trước khi tôi hiện hữu, và sẽ tiếp tục sau khi tôi không
hiện hữu, cái không biến mất cùng với sự biến mất của tôi -
làm sao mà nó có thể là ‘của tôi’ được? Nếu tôi chết vào
khoảnh khắc này, ngôi nhà của tôi đâu có sập đổ hay biến
mất; thực tế nó thậm chí sẽ không biết rằng tôi đã chết. Thế
thì loại liên kết nào có thể có đó giữa bản thân tôi và ngôi
nhà đó? Mối quan hệ là gì? Ngày mai ai đó khác sẽ sống
trong cùng ngôi nhà đó và gọi nó là ‘của tôi’. Hôm qua ai đó

khác đã sống trong nó và người đó đã gọi nó là 'của tôi'. Ai
biết được bao nhiêu người đã móc ‘cái tôi’ của họ vào ngôi
nhà đó, và đã qua đời rồi? Nhưng ‘cái tôi’ đó không bao giờ
dán được lên ngôi này, và ngôi nhà đó cũng không thuộc về
ai cả; ngôi nhà thuộc về bản thân nó.
Trong thế giới này mọi thứ đều thuộc về cái ta riêng của
nó. Nếu chúng ta có thể hiểu được điều này đúng đắn chúng
ta sẽ có thể làm tan vỡ các ảo tưởng một cách dễ dàng.
Có một mảnh đất. Bạn gọi nó là cánh đồng của tôi, hay
khu vườn của tôi. Nếu không phải hôm nay, ngày mai sẽ có
lời đòi hỏi đưa ra về mặt trăng - Mĩ sẽ nói đấy là ‘của chúng
tôi’, Nga sẽ nói đấy là ‘của chúng tôi’. Cho đến hôm qua mặt
trăng đã không thuộc về ai cả; nó đơn giản có đó, nó đơn
giản thuộc về bản thân nó. Nhưng bây giờ người này hay
người nọ sẽ đòi hỏi sở hữu mặt trăng và sớm hay muộn sẽ có
tranh đấu và đương đầu. Cho tới tận bây giờ mặt trời vẫn
thuộc về chính nó, nhưng ngày mai mặt trời cũng có thể bị
đòi hỏi thuộc ai đó.
Cứ nơi đâu con người đặt chân tới con người đều gắn
luôn cái nhãn cho nó là ‘cái tôi’ của người đó. Tự nhiên
không chấp nhận cái nhãn của người đó, nhưng những người
khác phải chấp nhận, nếu không thì sẽ có đương đầu. Người
khác phải chấp nhận các cái nhãn bởi vì họ muốn đặt nhãn
của riêng họ vào mọi thứ. Cho nên nhà trở thành của ai đó và
mảnh đất trở thành của ai đó khác. Tại sao chúng ta nôn
nóng muốn dán cái nhãn ‘tôi’ này vào đâu đó vậy? Nôn nóng
là bởi vì càng nhiều chỗ và vật mà chúng ta dán được nhãn
này lên, hay kí tên vào đó, cái vòng ‘của tôi’ càng lớn hơn và
cái 'tôi’ cũng phát triển lớn hơn bên trong chúng ta.
‘Tôi’ lớn như số lượng những vật mang nhãn của nó.
Nếu ai đó nói rằng người đó có một sào đất thì làm sao cái
'tôi’ của người đó lớn bằng cái 'tôi’ của người khác, người
nói, “Tôi có một nghìn sào đất” được?
Với sự bành trướng của cái ‘của tôi’, cái 'tôi’ cảm thấy
dường như nó đang tăng trưởng lớn hơn. Nếu bành trướng
của cái 'của tôi’ giảm đi, cái 'tôi’ cũng co lại. Cho nên mọi
hòn gạch của 'tôi’ đều được làm từ cái ‘của tôi’. Vậy tôi có
thể nói 'của tôi' càng nhiều cách, lâu đài của cái 'tôi' càng
vươn lên cao hơn. Do đó trong toàn bộ cuộc đời mình, chúng
ta vẫn còn chỉ trong một cuộc đua: bao nhiêu thứ chúng ta có
thể dán nhãn của mình lên và nói, “Đấy là của tôi.” Trong
khi làm như vậy, trong khi chúng ta tiếp tục gán nhãn cho
mọi thứ, một hôm nào đó chúng ta chết, và bất kì chỗ nào
chúng ta đã đặt nhãn của mình, ai đó khác bắt đầu dán nhãn
của người ấy vào mọi thứ chúng ta đã gọi là ‘của tôi’.
Mọi thứ đều thuộc về bản thân chúng, không thuộc về
người nào cả. Chúng có thể được dùng, nhưng không thể có
chủ sở hữu. Chủ sở hữu là ảo tưởng, và trong khi chúng ta
dùng chúng, chúng ta nên có cảm giác biết ơn bởi vì chúng
ta đang dùng cái gì đó không thuộc về mình. Nhưng khi
chúng ta nói ‘của tôi’, mọi cảm giác về biết ơn đều biến mất
và thế giới mới về cái ‘của tôi’ được tạo ra. Cái đó bao gồm
tiền bạc, địa vị, danh vọng, giáo dục và đủ mọi thứ. Với
những thứ này điều đó có thể là được, nhưng điều đáng ngạc
nhiên hơn là ở chỗ những cái không liên can gì tới 'tôi’ cũng
được bao hàm. Chúng ta nói: tôn giáo của tôi, thượng đế của
tôi, thiên thần của tôi, đền đài của tôi - với cả những người
mà ‘tôi’ chẳng có quan hệ gì với bất kì cái gì. Và nếu điều đó
là có thể, thế thì không có khả năng nào giải phóng bản thân
người ta khỏi thế giới. Nếu tôn giáo cũng có thể là của tôi
hay của anh, nếu Thượng đế cũng có thể là của tôi hay của
anh, thế thì không có hi vọng nào cả. Thế thì chúng ta sẽ tìm
con đường ra khỏi cái ‘của tôi’ ở đâu? Nếu Thượng đế cũng

rơi vào trong phạm vi quyền lực của mình, thế thì không còn
lại chỗ nào cho cái ‘tôi’ đi đâu cả. Nhưng chúng ta đặt cái
nhãn ‘của tôi’ vào đền đài và nhà thờ và vào cả Thượng đế
nữa.
Bất kì nơi đâu con người tới, người đó cũng đem tới đấy
cả cái ‘của tôi’. Cố hiểu ngụ ý này. ‘Tôi’ thực tế trở nên lớn
hơn qua ‘của tôi’, nhưng cái ‘của tôi’ càng bành trướng hơn,
bất hạnh càng lớn hơn. Tăng trong 'tôi’ là tăng của bất hạnh,
bởi vì ‘tôi’ là vết thương. Và cái ‘tôi’ càng lớn, vùng nhạy
cảm đau càng lớn, cho nên nhiều vết thương hơn có thể phát
tác trên nó. Cũng tựa như ai đó có một vết thương thể chất
lớn luôn dễ gây ra đau đớn mọi lúc; bất kì một cử động
người đó thực hiện và điều đó gây đau. Vết thương lớn, trải
trên vùng rộng, một cái chạm khẽ là đủ gây đau. Cái ‘tôi’
càng lớn, vết thương càng lớn và cái đau cũng càng lớn.
Với việc bành trướng của cái ‘của tôi’, cái ‘tôi’ bành
trướng. Khi cái ‘tôi’ tăng lên, đau cũng tăng lên. Một mặt
người ta cảm thấy rằng hạnh phúc đang tăng lên, mặt khác
bất hạnh cũng tăng lên. Chúng ta càng làm tăng hạnh phúc
này, càng nhiều bất hạnh cứ tăng lên - và giữa hai điều này
ảo tưởng được mang theo. Nơi không có khả năng nào nói
cái ‘của tôi’ thì thế nữa chúng ta vẫn tiếp tục nói ‘của tôi’
một cách giả dối, vô nghĩa lí. Tay này bạn gọi là ‘của tôi’,
thân thể này bạn gọi là ‘của tôi’, đều không phải là của bạn.
Khi bạn không có, ngay cả thế thì xương, da, máu của tay
này vẫn tồn tại ở đâu đó; và chúng vẫn tồn tại ngay cả sau
bạn. Xương bên trong thân thể bạn, chúng đã từng là xương
trong biết bao nhiêu thân thể khác trước đây. Máu trong thân
thể bạn đã chảy trong thân thể của con vật nào đó hôm qua
và trong cây cối nào đó hôm kia. Ai biết được bao lâu, bao
nhiêu tỉ, tỉ tỉ năm rồi cuộc hành trình đã diễn ra? Ngay cả khi
bạn sẽ không có đó, không một hạt của thân thể bạn bị triệt
tiêu. Nó tất cả sẽ tồn tại. Nó sẽ trôi vào trong thân thể khác
nào đó.
Hiểu điều đó theo cách này: hơi thở bạn vừa thở xong,
khoảnh khắc trước nó đã ở bên trong người ngồi cạnh bạn.
Khoảnh khắc trước người đó đã gọi nó là hơi thở của tôi, và
khoảnh khắc sau nó không còn thuộc vào người đó chút nào
nữa, nó đã trở thành của ai đó khác.
Cuộc sống không chấp nhận đòi hỏi của bất kì ai về nó
và cứ chảy đi từng khoảnh khắc. Nhưng chúng ta cứ đòi hỏi.
Ảo tưởng này về đòi hỏi, đây là ảo tưởng sâu sắc nhất của
con người.
Cho nên bất kì khi nào một người nói ‘của tôi’, người đó
rơi vào trong dốt nát. Kinh này là để phá vỡ chính ảo tưởng
này. Không chỉ đất không phải là của tôi, nhà không phải là
của tôi, tiền bạc không phải là của tôi - ngay cả thân thể này
cũng không phải là của tôi nốt. Thân thể bạn được tạo nên từ
các nguyên tử của bố mẹ bạn. Các nguyên tử đó tồn tại trước
khi có bạn, và chúng đến với bạn sau cuộc hành trình dài.
Trước bố mẹ bạn, chúng đã ở trong thân thể bố mẹ họ.
Những nguyên tử này đã có cuộc hành trình dài hàng triệu
năm; bây giờ chúng thiết lập nên thân thể bạn. Thân thể đó
nữa cũng là cánh đồng, mảnh đất mà bạn được bắt rễ vào,
nhưng bạn không phải là nó. Bạn không phải là thân thể, bạn
tách biệt khỏi nó.
Kinh này nói một người không chỉ không là thân thể, nó
thậm chí còn đi sâu hơn và nói con người thậm chí không
phải là tâm trí, bởi vì tâm trí cũng là một thứ tích luỹ.
Bạn có một ý nghĩ nào mà có thể là của bạn không, mà
bạn có thể nói là của bạn không? Chẳng có ý nghĩ nào cả.
Một số ý nghĩ đến từ truyền thống, một số từ kinh sách, một
số từ nghe ai đó, một số thì từ việc đọc sách báo - chúng đã

đến từ một hay nhiều nguồn ngoài khác. Nếu bạn tìm kiếm
sơ đồ sinh của từng ý nghĩ riêng lẻ, nếu bạn nhìn vào cuộc
hành trình của từng ý nghĩ riêng lẻ, bạn sẽ thấy bạn không có
một ý nghĩ riêng nào của mình cả, tất cả chúng đều là đồ vay
mượn; chúng đã đến với bạn từ đâu đó.
Không một ý nghĩ nào đã bao giờ là nguyên bản, mọi ý
nghĩ đều là vay mượn. Nhưng chúng ta cứ cho là ngay cả
một ý nghĩ cũng là ‘của tôi’.
Nhớ lấy, ngay cả một hơi thở cũng không thể gọi là ‘của
tôi’ được; ý nghĩ là vật chất tinh tế hơn nhiều. Đi ngày càng
sâu hơn vào trong phân tích này, người ta tới đâu?
Upanishad đã đi đến đâu? Phật đi tới đâu? Mahavira đã tới
đâu? Tiếp tục phân tích này, dùng kiểu phủ định, “Tôi không
là cái này, tôi không là cái này”; khi cuối cùng không còn lại
cái gì để bị phủ định, khi không còn gì về cái tôi thậm chí có
thể nghĩ liệu nó là của tôi hay không, cái còn lại ngay cả
thế... Khi không gì còn lại để cắt bỏ, khi tất cả các quan hệ
đều bị phá vỡ và không có gì còn lại mà có thể còn bị đập ra
nữa, cái thậm chí còn lại như thế chính là điều Upanishad đã
gọi là sakshi, nhân chứng.
Có một thế giới lớn quanh tôi - nó không phải là của tôi.
Co lại, tôi tới gần hơn - thân thể này không phải là của tôi.
Hạ sâu hơn vào trong nó - tâm trí này không phải là của tôi.
Thế thì ai có đó cái người tôi có thể gọi là ‘tôi’? Hay không
có gì trong tôi mà tôi có thể gọi là ‘tôi’. Tôi có hay tôi không
có? Cắt bỏ cái ‘của tôi’ đi trong sự toàn bộ của nó, cái gì
thuần khiết nhất còn lại bên trong? Chỉ có một điều còn lại
mà không bỏ đi được; không có cách nào bỏ nó đi được.
Ở phương Tây có một nhà triết học tên là Descartes -
một nhà tư tưởng sâu sắc. Ông ấy đã quyết định không chấp
nhận bất kì cái gì chừng nào ông ấy còn chưa tìm ra chân lí
không thể bị hoài nghi, cho nên ông ấy bắt đầu suy ngẫm.
Ông ấy lao động cần cù và ông ấy cảm thấy mọi thứ đều
đáng hoài nghi. Người ta có thể nói, “Có Thượng đế,” nhưng
rồi hoài nghi có thể nảy sinh về điều đó. Có thể có mà cũng
có thể không có Thượng đế, nhưng hoài nghi bao giờ cũng
được tạo ra. “Có cõi trời,” “Có giải thoát” - tất cả điều đó
đều có thể bị hoài nghi. Descartes nói, “Tôi sẽ chỉ tin vào
điều không thể hoài nghi được, không phải cái gì đó mà có
thể chứng minh hay biện luận được về nó, không. Cái gì đó
không thể hoài nghi được, cái gì đó không tránh khỏi, không
thể nghi ngờ được... chỉ thế thì tôi mới chấp nhận nó.”
Ông ấy đã tìm kiếm và tìm kiếm. Tuy nhiên ông ấy cũng
đã dừng tại một điểm. Ông ấy phủ nhận Thượng đế, cõi trời,
địa ngục, và mọi thứ khác, nhưng ông ấy mắc kẹt vào một
điểm: “Tôi có hay tôi không có?”
Descartes nói, “Điều này không thể hoài nghi được, bởi
vì cho dù tôi nói ‘Tôi không có,’ thì thế nữa tôi vẫn cần phải
có để có thể nói điều này.” Cũng tựa như một người đang
trong nhà và trả lời người gọi, “Tôi đã đi ra ngoài,” hay
“Ngay bây giờ tôi không ở nhà. Chút nữa hãy tới và thế thì
tôi có thể gặp anh bởi lúc đó tôi sẽ về nhà.” Chính việc nói
điều này của người đó sẽ là bằng chứng cho việc người đó
đang ở nhà. Cho nên sự kiện về con người tôi là không thể
hoài nghi được. Đến chừng nấy là rõ ràng, rằng tôi có, mặc
dầu tôi là gì thì không được rõ như thế. Tôi có là thân thể
không, có là tâm trí không, hay là gì? - điều này không được
rõ ràng đến thế.
Đây chính là điều Upanishad đang tìm kiếm. Hết cái nọ
đến cái kia bị vứt bỏ, hệt như người ta bóc hết lớp nọ đến lớp
kia của củ hành. Nếu bạn cứ bóc mãi một củ hành, cuối cùng
không còn lại gì của củ hành trong tay bạn cả. Củ hành

không là gì khác hơn những tầng tầng lớp lớp vỏ - quần áo
trên quần áo - và chẳng có gì được tìm thấy nếu bạn cứ cởi
mãi nó ra. Dường như ai đó có thể đã làm một con búp bê
vải và chúng ta bỏ dần từng lớp vải. Tầng thứ nhất được cởi
bỏ, tầng thứ hai lộ ra; tầng thứ hai được cởi bỏ, tầng thứ ba
lộ ra; và cứ như thế cho đến khi mọi tầng vải cuối cùng đã
được vứt bỏ hết, và không còn lại con búp bê nữa, chỉ cái
không trong tay bạn.
Cho nên tìm kiếm lớn nhất của con người là tìm ra liệu
người đó nữa không là gì ngoài tích luỹ của nhiều, nhiều
tầng mà ta có thể cứ bóc dần và đến cùng chẳng có gì trong
tay cả. Nếu chúng ta cứ phủ nhận và nói, “Tôi không phải là
thân thể, tôi không phải là tâm trí, tôi không phải là cái này,
tôi không phải cái nọ,” điều ấy có thể biến thành câu chuyện
củ hành, và chung cuộc không còn lại gì về cái mà người ta
có thể nói rằng “Đây là tôi.”
Nhưng Upanishad nói rằng cho dù có thế đi chăng nữa,
vẫn cần biết chân lí; cho dù đúng là không có gì bên trong,
vẫn đáng biết đến nó, vì kết quả của việc biết về chân lí là rất
có ý nghĩa. Tuy nhiên, khi tìm kiếm sâu sắc, cuối cùng người
ta lại thấy rằng không, con người không chỉ là tích luỹ của
các lớp quần áo, con người không chỉ là tầng nọ phủ lên tầng
kia; còn có cái gì đó bên trong các tầng khác nhau. Nhưng
chúng ta chỉ đi tới biết điều đó khi, bằng cách vứt bỏ mọi
tầng, chúng ta đi vào bên trong bản thân mình. Phần tử đó,
cái vẫn còn đến cuối cùng, được Upanishad gọi là sakshi,
nhân chứng.
Từ sakshi này rất hay và rất có giá trị. Toàn bộ triết lí,
thiên tài và trí huệ của phương Đông đều được bao hàm
trong từ nhỏ bé này. Phương Đông không có đóng góp từ
nào quan trọng hơn sakshi, nhân chứng, cho thế giới.
Sakshi nghĩa là gì? Sakshi nghĩa là người thấy, nhân
chứng. Đấy là ai, người đang kinh nghiệm rằng “Tôi không
phải là thân thể”? Đấy là ai, người đang kinh nghiệm rằng
“Tôi không phải là tâm trí”? Đấy là ai, người cứ liên tục phủ
nhận rằng “Tôi không là cái này, tôi không là cái này”? Có
một yếu tố của việc nhìn, của việc quan sát, của người quan
sát bên trong chúng ta, người thấy, người quan sát mọi thứ.
Người thấy này chính là sakshi, nhân chứng. Cái được
thấy chính là thế giới. Người đang thấy chính là người tôi
đang là, và cái đang được thấy là thế giới. Adhyas, ảo tưởng,
nghĩa là người đang thấy hiểu lầm bản thân mình là tất cả
những cái được thấy. Đây là ảo tưởng.
Có viên kim cương trong tay tôi: tôi đang thấy nó. Nếu
tôi bắt đầu nói rằng tôi là viên kim cương, đó là ảo tưởng. Ảo
tưởng này phải bị tan vỡ và người ta cuối cùng phải đi tới
phần tử thuần khiết đó cái bao giờ cũng là người thấy và
không bao giờ là cái được thấy. Điều này có đôi chút khó
khăn. Người mà là người thấy không bao giờ có thể được
thấy, bởi vì điều đó sẽ được thấy bởi ai? Bạn có thể thấy mọi
thứ trong thế giới ngoại trừ bản thân bạn. Làm sao bạn thấy
được bản thân mình? - bởi vì hai điều sẽ được cần tới cho
việc thấy: một là người thấy và điều kia là cái được thấy.
Chúng ta có thể kẹp mọi thứ với một cái kẹp ngoại trừ bản
thân cái kẹp đó. Nỗ lực đó sẽ thất bại. Chúng ta có thể thấy
thách đố là trong khi cái kẹp cặp được mọi thứ, tại sao chúng
không thể kẹp được bản thân chúng?
Chúng ta thấy mọi thứ, nhưng chúng ta không có khả
năng thấy bản thân mình. Và chúng ta sẽ không bao giờ có
khả năng làm được như vậy. Bất kì cái gì bạn có thể thấy,
biết rõ rằng cái đó không phải là bạn. Vậy một điều chắc
chắn, rằng bất kì cái gì bạn có khả năng thấy đều không phải

là bạn. Nếu bạn có khả năng thấy Thượng đế, thế thì một
điều đã trở thành chắc chắn, rằng bạn không phải là Thượng
đế. Nếu bạn đã thấy ánh sáng bên trong bạn, một điều xác
quyết là bạn không phải là ánh sáng đó. Nếu bạn có kinh
nghiệm về phúc lạc bên trong mình, một điều dứt khoát là
bạn không phải là phúc lạc đó. Bất kì cái gì đã được kinh
nghiệm, bạn đều không là cái đó. Bạn là cái đang kinh
nghiệm.
Cho nên bất kì cái gì trở thành kinh nghiệm của bạn, bạn
ở bên ngoài nó cả. Do đó sẽ có ích để hiểu một điểm khó
khăn ở đây: tâm linh không phải là kinh nghiệm. Mọi thứ
trong thế giới này đều là kinh nghiệm, nhưng không phải là
tâm linh. Tâm linh vươn tới cái kinh nghiệm tất cả, nhưng
bản thân nó không bao giờ trở thành kinh nghiệm. Nó bao
giờ cũng còn là người kinh nghiệm, nhân chứng, người thấy.
Tôi nhìn bạn: bạn ở phía này, tôi ở phía kia. Bạn ở đó,
người được nhìn; tôi ở đây, người đang nhìn. Có hai thực
thể. Không có cách nào phân chia bản thân người ta thành
hai để cho một phần nhìn và phần kia được nhìn. Ngay cả
nếu có khả năng phân chia, thế thì phần sẽ thấy là bản thân
tôi, phần sẽ được thấy sẽ không phải là bản thân tôi. Vấn đề
kết thúc.
Đây là toàn bộ quá trình hay phương pháp luận của
Upanishad: neti, neti - không cái này không cái kia. Bất kì
cái gì có thể được thấy, nói rằng bạn không phải là cái đó.
Bất kì cái gì có thể được kinh nghiệm, nói rằng bạn không
phải là cái đó. Bạn có thể cứ bước lùi mãi cho đến khi chẳng
cái gì còn lại mà có thể bị phủ nhận hay khử bỏ. Một khoảnh
khắc tới khi tất cả cảnh đều mất. Một khoảnh khắc tới khi
mọi kinh nghiệm đều bị vứt bỏ - tất cả!
Nhớ lấy, tất cả! Kinh nghiệm về dục tất nhiên bị vứt bỏ,
kinh nghiệm về thiền cũng bị vứt bỏ. Kinh nghiệm về thế
giới, về yêu và ghét bị vứt bỏ, kinh nghiệm về phúc lạc và
chứng ngộ cũng bị vứt bỏ. Chỉ người thấy thuần khiết còn
lại. Không còn gì ở đó để được thấy nữa, chỉ trống rỗng còn
lại khắp xung quanh. Chỉ có người quan sát còn lại, và bầu
trời trống rỗng khắp xung quanh. Đứng ở giữa là người thấy,
người quan sát, người thấy cái không, vì mọi thứ đã bị phủ
nhận và khử bỏ là cái có thể được thấy. Bây giờ người đó
kinh nghiệm cái không. Người đó đã vứt bỏ mọi kinh
nghiệm khỏi con đường của mình. Bây giờ người đó còn lại
một mình, người đang kinh nghiệm.
Khi không có kinh nghiệm, không có việc thấy; không
có gì được thấy và không có đối thể để được thấy, và nhân
chứng một mình còn lại. Rất khó diễn đạt trong ngôn ngữ cái
gì thực sự xảy ra, bởi vì chúng ta không có từ nào khác ngoại
trừ từ ‘kinh nghiệm’ trong ngôn ngữ của mình; do đó chúng
ta gọi nó là ‘tự kinh nghiệm’ hay ‘tự nhận ra’. Từ kinh
nghiệm không đúng. Chúng ta nói “kinh nghiệm về tâm
thức” hay “kinh nghiệm về Brahman, cái tuyệt đối,” nhưng
không một cách diễn đạt nào là đúng, vì từ kinh nghiệm
thuộc về cùng thế giới mà chúng ta đã khử bỏ. Từ kinh
nghiệm quả có nghĩa trong thế giới nhị nguyên, nơi có cả
‘cái kia’ nữa. Tại đây nó không có nghĩa chút nào. Tại đây
chỉ có người kinh nghiệm còn lại, nhân chứng còn lại.
Tìm kiếm về nhân chứng này chính là tâm linh.
Nhớ lấy: tìm kiếm về Thượng đế không phải là tâm linh.
Trong kinh yoga cổ đại Thượng đế không được bàn tới, thậm
chí không được nhắc tới; không cần. Sau này, ngay cả khi
kinh có nhắc tới Thượng đế, họ gọi Thượng đế là phương
tiện trong cuộc hành trình tâm linh và không phải là mục
đích. Người ta nói rằng Thượng đế là có ích trong thực hành

tâm linh, trong tìm kiếm tâm linh, do đó chấp nhận Thượng
đế cũng tốt; nhưng đấy chỉ là phương tiện, phương sách, có
vậy thôi.
Phật và Mahavira cũng phủ nhận Thượng đế. Họ đã phát
minh ra một phương sách mới. Phương sách này là không
được cần tới, họ nói. Nếu Thượng đế không là gì ngoài
phương sách, thế thì các phương sách khác cũng sẽ phục vụ
cho mục đích đó được. Nhưng cả Phật lẫn Mahavira đều
không thể phủ nhận sakshi, nhân chứng. Họ có thể phủ nhận
Thượng đế, họ có thể phủ nhận mọi thứ khác, nhưng khi đi
tới sakshi, đấy là tôn giáo. Nếu không nói gì đến nhân chứng,
hiểu rõ rằng toàn bộ vấn đề không có liên quan gì tới tôn
giáo cả. Mọi thứ khác đều là phụ. Mọi thứ khác có thể hữu
dụng, có thể không hữu dụng; có thể có khác biệt ý kiến về
mọi thứ khác, nhưng không có khác biệt về nhân chứng.
Do đó, nếu một ngày nào đó trong thế giới này khoa học
về tôn giáo được tạo ra, sẽ không có việc nhắc tới Thượng
đế, linh hồn hay Brahman. Đây toàn là những vấn đề cục bộ
- một số tôn giáo tin vào chúng, số khác không tin - nhưng
sakshi chắc chắn sẽ được nhắc tới bởi vì nó không phải là
vấn đề cục bộ.
Không thể có được tôn giáo mà không có nhân chứng.
Cho nên một mình nhân chứng là cơ sở khoa học cho mọi
kinh nghiệm tôn giáo - cho mọi tìm kiếm và hành trình tôn
giáo. Và chính trên điều này và xung quanh sakshi này mà
tất cả Upanishad xoay tròn. Mọi nguyên lí và mọi chỉ báo
đều chỉ để trỏ tới nhân chứng.
Chúng ta cố hiểu điều này thêm chút nữa. Không khó
hiểu ý nghĩa của từ nhân chứng, nhưng trong thực hành thực
tế thì nó là điều phức tạp.
Tâm trí chúng ta tựa như mũi tên, sắc nhọn một đầu. Bạn
có thể đã từng thấy mũi tên: nó không thể được bắn đi từ cả
hai đầu, mũi tên sẽ chỉ đi theo một hướng. Nó không thể đi
theo hướng đối lập đồng thời được, nó sẽ chỉ đi tới mục tiêu
theo một hướng. Cho nên, khi mũi tên đã lên cung và rồi
được bắn đi, có hai khía cạnh cần được xem xét - khi nó rời
khỏi cung nơi nó đã được đặt lên, nó bắt đầu bay đi khỏi
cung; và nó bắt đầu tới gần hơn hướng tới mục tiêu, nơi nó
chưa ở đó trước đấy. Một trạng thái là ở chỗ mũi tên đang
trên cung, và xa trên cây là con chim đậu. Mũi tên vẫn còn
trên cung và chưa xuyên vào con chim. Thế rồi mũi tên rời
khỏi cung, bắt đầu đi xa cung và lại gần con chim hơn. Và
rồi đến trạng thái mũi tên xuyên vào con chim; cung vẫn còn
trơ khấc không tên mà tên thì đang trong lồng ngực chim.
Đây là điều chúng ta đang làm với nhận biết của mình
trong toàn bộ thời gian. Bất kì khi nào mũi tên của nhận biết
của chúng ta rời khỏi chúng ta, cánh cung bên trong trở
thành trống không và mũi tên, khi đạt tới đối thể, bị gắn vào
nó. Một khuôn mặt trông đẹp với bạn, mũi tên nhận biết của
bạn được buông ra. Vì mũi tên đó không ở bên trong bạn,
nhận biết đó không ở bên trong bạn. Nhận biết đã rượt đi và
gắn bản thân nó vào khuôn mặt đẹp.
Có viên kim cương nằm trên đường; mũi tên đã được
buông ra từ cánh cung. Bây giờ nhận biết này không ở bên
trong bạn, bây giờ nhận biết di chuyển và, đạt tới viên kim
cương, xuyên vào trung tâm nó. Bây giờ nhận biết của bạn là
với viên kim cương và không còn bên trong bạn nữa. Bây
giờ nhận biết đang ở đâu đó khác. Cho nên mọi mũi tên của
nhận biết của bạn đều đi ra ngoài và xuyên vào đâu đó khác -
và đâu đó khác, và đâu đó khác. Bạn không có nhận biết bên
trong nữa, nó bao giờ cũng ra đi. Mũi tên chỉ có thể đi theo
một hướng, nhưng nhận biết có thể đi theo hai hướng - và
khi điều đó xảy ra nhân chứng được kinh nghiệm. Mũi tên

của nhận biết có thể đi theo cả hai hướng; nó có thể có hai
đầu.
Khi nhận biết của bạn bị kéo ra đâu đó, nếu bạn có thể
quản lí được chừng này thôi, thế thì một ngày nào đó nhân
chứng sẽ xảy ra bên trong bạn. Khi chú ý của bạn bị kéo ra
ngoài - chẳng hạn một cô gái trẻ đẹp đi qua hay một chàng
trai trẻ đẹp đi qua, nhận biết của bạn bị bắt theo đó và bây
giờ bạn hoàn toàn quên mất bản thân mình. Nhận biết không
còn ở bên trong nữa. Bây giờ bạn không ý thức: bây giờ bạn
trở thành vô ý thức, bởi vì tâm thức của bạn đã đi tới ai đó
khác. Bây giờ tâm thức của bạn đã trở thành cái bóng của
người đó hay vật đó - bây giờ bạn không còn ý thức nữa.
Bây giờ, nếu bạn có thể làm được một điều này... Bạn
thấy ai đó đẹp, nhận biết của bạn bị kéo ra đó. Nếu trong
cùng khoảnh khắc đó bạn có thể nhận biết về cánh cung bên
trong mà từ đó mũi tên được bắn ra, nếu bạn có thể đồng thời
thấy được chúng cả hai - nguồn gốc từ đó nhận biết được bắn
ra và đối thể mà nhận biết đang đi tới - nếu chúng cả hai đều
đến trong chú ý của bạn một cách đồng thời, thế thì lần đầu
tiên bạn sẽ kinh nghiệm cái được ngụ ý là nhân chứng. Từ
nơi nhận biết nảy sinh, từ nơi nhận thức đang bắn đi - nguồn
đó phải được tìm thấy.
Chúng ta thấy cây cối - chúng ta thấy cành cây, tán lá, lá
cây và hoa, quả, nhưng chúng ta không thể nào thấy được rễ
cây. Rễ ẩn kín dưới đất tối. Nhưng cây đang hút chất dinh
dưỡng từ rễ. Nhận biết của bạn mở rộng và đi khắp xung
quanh; cây lớn về thế giới được tạo ra, nhưng cội nguồn từ
đó nhận biết toả ra, tâm thức đại dương đó, vẫn còn chưa
được chú ý tới. Điều được cần là ở chỗ rễ cũng đồng thời
được thấy, cả rễ và cây đồng thời được thấy.
Hiểu điều đó theo cách này: khi tôi đang nói, nhận biết
của bạn là trên lời tôi. Làm điều này thành mũi tên nhắm hai
điểm... điều đó có thể trở thành đúng ngay bây giờ, chính
khoảnh khắc này. Khi tôi đang nói, đừng chỉ lắng nghe điều
tôi đang nói, duy trì cả nhận biết đồng thời rằng bạn đang
lắng nghe. Diễn giả là ai đó khác, người đó đang nói; tôi là
thính giả, tôi đang nghe. Nếu cho dù chỉ một khoảnh khắc,
bây giờ, ở đây, bạn có thể xoay xở cả hai điều đồng thời -
lắng nghe cũng như luôn nhớ tới thính giả, việc ghi nhớ này
ở bên trong rằng, “tôi đang lắng nghe” - thế thì không cần
phải lặp lại lời này. Nếu bạn lặp lại lời này, “tôi đang lắng
nghe,” bạn sẽ không có khả năng lắng nghe được đồng thời
nữa, bạn sẽ lỡ mất điều tôi nói. Không cần phải hình thành
lời nói bên trong, “Tôi đang lắng nghe, tôi đang lắng nghe.”
Nếu bạn làm việc đó bạn sẽ thành điếc với những điều tôi
đang nói trong khoảng thời gian đó. Trong khoảnh khắc đó
khi bạn nghe tiếng nói riêng của mình rằng, “Tôi đang lắng
nghe,” bạn sẽ không nghe điều tôi đang nói.
Đó là kinh nghiệm đồng thời lắng nghe điều tôi đang nói
và cũng nhận biết rằng bạn đang nghe. Cảm giác, việc nhận
ra, kinh nghiệm rằng bạn là thính giả, là khía cạnh thứ hai.
Việc đạt tới nhận biết của khía cạnh thứ hai là khó khăn. Nếu
bạn có thể xoay xở được việc đó, trở nên nhận biết về khía
cạnh thứ ba là rất dễ dàng.
Khía cạnh thứ ba là thế này: nếu diễn giả là A, thính giả
là B, thế thì ai là người đang kinh nghiệm cả hai, cả diễn giả
cũng như thính giả? Người đó là người thứ ba, và điểm thứ
ba này là nhân chứng. Bạn không thể đi ra ngoài người thứ
ba này. Người thứ ba này là điểm cuối cùng. Và tất cả ba
người này là ba điểm của tam giác cuộc sống: hai điểm là đối
thể và chủ thể, còn điểm thứ ba là nhân chứng của hai điểm
này, người kinh nghiệm cho hai điểm này, người thấy hai
điểm này.

Bây giờ chúng ta có thể hiểu kinh.
Biết bản thân mình là sakshi pratyagatma, linh hồn
chứng kiến bên trong về trí năng người ta và tất cả
những khuynh hướng của nó, và thu được khuynh hướng
rằng “Cái đó là tôi,” từ bỏ đòi hỏi ‘của tôi’ với mọi vật.
Người tìm kiếm, người thám hiểm chân lí này, người
khao khát về giải thoát, đã kinh nghiệm rằng “Tôi là nhân
chứng” và chưa bao giờ là người làm, rằng “Tôi vẫn là nhân
chứng” và chưa bao giờ là người đam mê, bỏ đi cảm giác về
‘cái của tôi’ và ham muốn về mọi thứ. Người đó cứ lùi xa
dần vào bên trong tới điểm vượt ra ngoài mà không thể nào
lùi xa hơn được nữa.
Từ bỏ theo đuôi lok, xã hội...

Người như vậy dừng việc theo đuôi xã hội. Từ lok có
nghĩa là xã hội, văn hoá, văn minh, những người xung quanh
bạn, đám đông. Từ bỏ theo đuôi xã hội trước khi bạn có kinh
nghiệm về nhân chứng cũng là điều nguy hiểm, bởi vì với xã
hội có liên kết đạo đức, luật lệ, qui định, giới hạn, tổ chức và
kỉ luật. Cho nên xã hội chắc chắn sẽ trở thành chủ cho những
người chưa phải là chủ của chính mình. Ai đó phải kiểm soát
người còn chưa là chủ của riêng mình; kỉ luật nào đó là cần
thiết, nếu không thì mọi hệ thống sẽ nổi loạn, sẽ trở thành vô
chính phủ. Nhưng người đã kinh nghiệm bản thể riêng của
mình, người đã kinh nghiệm việc chứng kiến của mình, bản
thân người đó là người chủ của riêng mình trong thế giới
này.
Điều rất thú vị là người vứt bỏ mọi việc làm chủ trên mọi
thứ trở thành người chủ của riêng mình; còn người cứ tích
luỹ mọi kiểu làm chủ, người đó chỉ chứng tỏ rằng người đó
còn chưa làm chủ được cái ta riêng của mình. Điều này nghĩa
là người đang bận bịu cố gắng có thêm nhà cửa, đất đai,
vương quốc, cái này cái nọ - một điều là chắc chắn, rằng
người đó còn chưa thuộc về bản thân mình, bởi vì với người
đã thu được vương quốc bên trong của mình, mọi vương
quốc khác đều trở thành vô vị và vô giá trị.
Người đã thu được vương quốc bên trong của mình
không còn có bất kì ham muốn nào với bất kì vương quốc
nào khác. Cho dù người đó có vương quốc bên ngoài, nó
cũng trở thành vô giá trị. Nếu ham muốn của người đó về
vương quốc bên ngoài còn mạnh mẽ, điều đó chỉ chứng tỏ
rằng người đó còn chưa có ý tưởng chút nào về làm chủ bên
trong, về nhân chứng; người đó đang cố gắng thay thế cho
nó. Không có người chủ bên trong, cho nên qua việc thu
được quyền làm chủ với mọi thứ, người đó đang cố gắng tự
thuyết phục bản thân mình rằng người đó là chủ: “Trông
đây! Ta đã có biết bao đất đai, biết bao tiền bạc, biết bao của
cải!” Bằng cách làm như vậy người đó đang cố gắng tạo ra
tin tưởng bên trong bản thân mình rằng, “Ai nói ta không
phải là chủ? Ta là chủ của nhiều thứ chứ!” Cái làm chủ này
là giả, bởi vì không ai đã bao giờ là chủ mọi thứ trong thế
giới này.
Bhartrihari từ bỏ vương quốc của mình: ông ấy bỏ lại
vương quốc, đi vào rừng và bắt đầu thiền sâu sắc. Sau này,
một biến cố rất thú vị đã xảy ra. Ông ấy đang ngồi gần cửa
động; bỗng nhiên một kị sĩ trên đường xa phóng đến trước
động. Gần như đồng thời một kị sĩ khác cũng xuất hiện từ
phía kia, gươm tốt trần sẵn sàng cho trận chiến quyết tử.
Bhartrihari không thể hiểu được điều xảy ra bất thình lình
này. Khi họ trỏ kiếm về một vật nào đó trên đường,

Bhartrihari thấy rằng có một viên kim cương ở đó. Kị sĩ thứ
nhất nói rằng mình đã thấy viên kim cương trước, do đó nó
là của người đó. Kị sĩ thứ hai nói, “Mi có thấy sự sắc bén của
lưỡi kiếm ta không? Mi có thấy sức mạnh cánh tay ta không?
Ai trông thấy nó trước phỏng có nghĩa lí gì? Bất kì ai xứng
đáng là người chủ thì mới là người chủ . Lẽ tự nhiên, ta là
người chủ!”
Một trận chiến quyết tử xảy ra và trong thoáng chốc đầu
của cả hai kị sĩ đã lăn trên đất; cả hai thân thể đẫm máu nằm
trên đất, còn viên kim cương lấp lánh vẫn nằm nơi họ đã thấy
nó.
Bhartrihari nghĩ sự việc này thật kì cục quá! Viên kim
cương mà cả hai kị sĩ đều tranh quyền làm chủ và đã chết vì
nó sẽ không bao giờ biết điều gì đã xảy ra quanh nó, bởi vì
nó. Và ai biết cái gì khác có thể đã xảy ra trong quá khứ
quanh viên kim cương này? Còn viên kim cương thì vẫn nằm
đó. Nhiều người nữa có thể chết vì nó trong tương lai, và
viên kim cương thì vẫn nằm đó, vô tình.
Nỗ lực làm chủ mọi thứ là một chỉ dẫn rằng người đang
nỗ lực không làm chủ gì trên bản thân mình cả. Bất kì khi
nào một người bắt đầu kinh nghiệm nhân chứng, người đó
đều trở thành người chủ riêng của mình. Ham muốn về việc
làm chủ bị vứt bỏ; người đó không còn muốn trở thành chủ
của bất kì ai hay bất kì cái gì khác, bởi vì bây giờ người đó
biết rằng đơn giản không có cách nào trở thành chủ của
người khác. Để tôi nhắc lại nó: Không có cách nào trở thành
người chủ của người khác.
Nếu chồng nghĩ anh ta là chủ của vợ, anh ta điên. Nếu vợ
nghĩg cô ta là chủ của chồng, tâm trí cô ta cần được điều trị
thuốc men. Không ai có thể là chủ của bất kì ai, bởi vì mọi
người đều được sinh ra như người chủ của riêng mình. Trong
chính bản chất của mọi thứ, việc làm chủ của mọi người đều
bị ẩn kín bên trong bản thân người ta. Không vì một lí do gì
mà điều đó có thể bị huỷ bỏ. Và chừng nào nó còn chưa bị
huỷ bỏ, làm sao bất kì ai khác có thể trở thành người chủ của
nó?
Do đó, một điều rất thú vị xảy ra. Chồng nghĩ, “Tôi là
chủ.” Vợ cười khẩy bên trong và cô ấy biết, “Tôi mới là
chủ.” Đó là lí do tại sao lại có va chạm hai mươi bốn tiếng
một ngày. Va chạm đó là bởi chính lí do này, rằng từng
khoảnh khắc cần phải quyết định ai là chủ, ai nắm quyền.
Không có chắc chắn. Không bao giờ có chắc chắn cả. Vì
không có chắc chắn ngay cả trong mối quan hệ với các vật,
tuyệt đối không thể có chắc chắn trong mối quan hệ với các
cá nhân. Không thể có làm chủ ngay cả trên một viên kim
cương, làm sao có thể có làm chủ trên một cá nhân đang
sống được?
Người là nhân chứng vứt bỏ mọi loại làm chủ, bởi vì
người đó đã trở thành người chủ riêng của mình. Việc làm
chủ có thể có được, nó trở thành của người đó; việc làm chủ
không thể có được - người đó không bận tâm rơi vào cái điên
khùng đó. Trong trạng thái như vậy người đó vứt bỏ bận tâm
về xã hội; người đó vứt bỏ nó bởi vì bây giờ không còn kiểm
soát nào trên người đó, người đó là người kiểm soát riêng
của mình. Bây giờ người đó có thể bước đi trên chân riêng
của mình, bây giờ người đó có thể bước trong ánh sáng riêng
của mình, bây giờ người đó không cần bất kì ánh sáng vay
mượn nào nữa.
Từ bỏ theo đuôi lok, xã hội, người đó từ bỏ theo đuôi cả
thân thể.

Người đó không chỉ dừng đi theo người khác, khi việc
nhận ra nhân chứng sâu sắc hơn, người đó vứt bỏ cả sự nô lệ
vào thân thể nữa. Thế thì người đó không làm các điều vì
thân thể nói vậy, bây giờ người đó làm điều người đó muốn
và thân thể tuân theo người đó như cái bóng.
Ngay bây giờ thân thể bạn không tuân theo bạn như cái
bóng đâu; ngược lại, bạn tuân theo thân thể tựa như cái bóng
của nó. Thân thể chỉ đạo bạn làm mọi thứ hay không làm
mọi thứ, và bạn phải hành động tương ứng. Thân thể là
người chủ, và nó có những chỉ báo riêng của nó kiểm soát
bạn.
Nó nhất định là như vậy, vì bất kì ai không phải là người
chủ riêng của mình, xã hội sẽ là người chủ của người đó,
sinh học của người đó sẽ là người chủ của người đó. Xã hội
là một nhóm người quanh chúng ta, và thân thể chúng ta
được nối với đất, với tự nhiên. Người đã trở thành người chủ
của riêng mình trở nên tự do với hệ thống xã hội và cũng tự
do với sinh học của mình. Thế thì thân thể không bảo được
người đó, “Làm cái này đi”; thế thì người đó đi theo cách
riêng của mình và thân thể đi theo.
Hiện tượng thân thể đi theo bạn là rất có giá trị. Chúng ta
thậm chí không thể quan niệm được làm sao thân thể có thể
đi theo được. Chỉ khi thân thể đói... cho dù đấy là thân thể
của một Mahavira, ông ấy nữa cũng sẽ cảm thấy đói chỉ khi
thân thể đói trước hết; và chỉ khi thân thể báo hiệu cái đói
của nó Mahavira mới đi tìm thức ăn, xin thức ăn. Cho nên
làm sao thân thể tuân theo người ta được? Điều đó liệu có
nghĩa là đột nhiên Mahavira sẽ nói, “Tôi đói,” và thân thể sẽ
trở nên đói không?
Nghĩa của việc thân thể tuân theo là gì? Đó là thuật giả
kim sâu sắc. Chắc chắn thân thể sẽ không đói chừng nào
Mahavira không đồng ý. Bất kì cái gì xảy ra cho thân thể, bất
kì cái gì nó cảm thấy, nó sẽ có khả năng truyền đạt điều đó
cho Mahavira chỉ khi ông ấy sẵn sàng lắng nghe. Chính
Mahavira là người quyết định rằng ông ấy sẽ nhịn ăn trong
một tháng. Nếu bạn quyết định rằng bạn sẽ nhịn ăn trong một
ngày, trong hai mươi tư giờ bạn sẽ cứ ăn thức ăn trong tâm
trí, bởi vì thân thể sẽ phản đối, “Ai là chủ? Không tư vấn ta...
mà nhịn ăn sao? Ta sẽ xem điều đó!” Thân thể sẽ cứ gửi
thông điệp trong cả ngày: đói, đói, đói; và toàn thể tâm thức
của bạn sẽ bị bao phủ bởi cái đói. Thông thường thân thể sẽ
không gây rắc rối cho bạn nhiều lắm nếu bạn không thể ăn
được, cho dù đấy là cả ngày, nhưng bạn đã quyết định vào
một sáng rằng bạn sẽ không ăn ngày hôm đó, và...!
Điều rất thú vị xảy ra đáng chú ý. Nếu bạn vẫn ăn hàng
ngày vào một giờ trưa, thông thường thân thể bạn sẽ không
báo cáo về cái đói cho tới một giờ. Nhưng nếu một sáng bạn
dậy lúc sáu giờ và quyết định rằng hôm nay bạn sẽ nhịn, tâm
trí bạn sẽ bắt đầu có bữa trưa ngay từ sáu giờ ngày hôm đó.
Thân thể đáng phải đợi ít nhất đến một giờ chứ! Nhưng
không, thân thể đã nhận được hướng dẫn rằng bạn đang cố
thiết lập quyền làm chủ. Một giờ là vấn đề còn xa; thân thể
bạn sẽ bắt đầu sách nhiễu ngay từ sáng. Điều ấy chưa bao
giờ xảy ra trước đây như thế này - bạn quen cảm thấy đói
quãng một giờ, nhưng hôm nay nó sẽ bắt đầu xảy ra ngay từ
sáng.
Việc làm chủ của thân thể là điều cổ xưa, hàng nghìn
hàng nghìn kiếp sống. Và bất kì ai là chủ, không ai muốn từ
bỏ quyền làm chủ một cách dễ dàng đến thế.
Nếu Mahavira nói ông ấy sẽ nhịn ăn một tháng, thân thể
trở nên im lặng trong một tháng; nó không trao đổi bất kì
thông điệp đói nào trong thời hạn đó. Thân thể tuân theo,

điều đó có nghĩa là nó không báo cáo. Nó sẽ báo cáo chỉ sau
một tháng liệu nó có đói hay là không; trong cả tháng nó sẽ
còn im lặng. Nhưng điều này nghĩa là gì? Nó có xảy ra qua
thực hành được không? Nếu bạn cứ thực hành hàng ngày -
chỉ như người ta tập thể dục hàng ngày, tương tự nếu bạn cứ
thực hành nhịn đói hàng ngày - thế thì thói quen sẽ dần hình
thành không? Không, đừng rơi vào ảo tưởng này. Vấn đề
không phải là việc thực hành và thói quen, đấy là vấn đề của
việc kinh nghiệm nhân chứng.
Nếu việc kinh nghiệm nhân chứng có đó, nếu Mahavira
quyết định nhịn không chỉ một tháng mà thậm chí cả năm...
Thân thể có thể trở nên chỉ còn là bộ xương và chết và bị kết
thúc, nhưng nó sẽ không cần gửi bất kì thông điệp nào cho
Mahavira. Nó sẽ không dám trao đổi thông điệp cho
Mahavira rằng nó đang đói. Gửi thông điệp không phải là
việc của thân thể. Đấy là vấn đề giải quyết một lần cho mọi
lần ai là chủ. Chừng nào mà thân thể biết rằng nó còn là chủ,
nó vẫn thực thi quyền làm chủ, nhưng một khi nhân chứng
đã được kinh nghiệm, quyền làm chủ của thân thể lập tức
mất đi. Luật bên trong đơn giản thay đổi. Thân thể bắt đầu
tuân theo bạn. Và thế thì có những kinh nghiệm duy nhất.
Sau Mahavira hàng nghìn người đã nhịn ăn - biết bao
nhiêu sư Jaina đang tham dự nhịn ăn - nhưng việc nhịn ăn
của Mahavira là duy nhất. Bạn đã bao giờ nhìn thân thể
Mahavira chưa, tượng của ông ấy? Nếu bạn đặt thân thể của
các sư Jaina trước tượng của Mahavira bạn sẽ biết điều tôi
ngụ ý. Khác biệt là ở đâu? Thân thể các sư liên tục báo cáo
đói, không chỉ cho họ mà thậm chí cho cả bạn nữa. Thân thể
của Mahavira không báo cáo về đói nào - không báo cáo cho
Mahavira mà cũng không báo cáo cho bạn.
Rất khó tìm thấy một thân thể đẹp như thân thể của
Mahavira. Thân thể đẹp trai đó đang nói rằng bây giờ ai đó
đã trở thành người chủ bên trong và thân thể không có năng
lực nào quấy rầy. Bây giờ thân thể không thể nói bất kì điều
gì như “Làm cái này đi,” hay “Đừng làm cái đó.” Bây giờ
không còn mối bận tâm về thân thể nữa; bây giờ mọi thứ là
trong tay người biết bên trong. Bây giờ bất kì điều gì người
đó quyết định, bất kì cách nào người đó quyết định, người đó
đều có thể làm; quyết định là trong tay người đó. Người đó
có thể sống nếu người đó chọn sống, người đó có thể chết
nếu người đó chọn chết, nhưng thân thể không thể can thiệp
vào được. Thân thể sẽ chỉ tuân theo như cái bóng.
Từ bỏ theo đuôi lok, xã hội, người đó từ bỏ theo đuôi cả
thân thể. Từ bỏ theo đuôi kinh sách, người đó từ bỏ ảo
tưởng cả về linh hồn.

Vậy người ta cứ từ bỏ: xã hội, thân thể, tuân theo kinh
sách. Với người là nhân chứng, mọi kinh sách đều trở nên vô
nghĩa. Điều này có đôi chút phức tạp. Chúng ta có thể nói
điều này theo cách đối lập lại nữa, rằng với người là nhân
chứng, kinh sách cũng trở nên có nghĩa. Và điều này là như
nhau. Lí do nó là như nhau là ở chỗ chừng nào bạn còn chưa
trở thành nhân chứng, không kinh sách nào có thể có nghĩa
cho bạn. Bạn có thể học thuộc lòng chúng, bạn có thể thuộc
lòng mọi kinh Veda, nhưng chúng cũng không có nghĩa bởi
vì ý nghĩa không nằm trong lời mà trong kinh nghiệm. Kinh
nghiệm này không phải là của riêng bạn. Bạn có thể cứ lặp
lại từ nhân chứng như vẹt, nhưng thậm chí trong khi bạn lẩm
nhẩm nó, không có nhân chứng nào bên trong, người có thể
lắng nghe nó.
Chừng nào bạn chưa là nhân chứng mọi kinh sách đều vô
dụng. Nhưng chúng sẽ dường như có nghĩa cho tới khi bạn

có cái biết của riêng mình. Cái ngày bạn có cái biết của riêng
mình, bản thân bạn trở thành kinh sách. Khi bản thân bạn đã
trở thành kinh sách, bây giờ bạn còn dùng gì kinh sách nữa?
Vậy cái ngày kinh sách trở nên có nghĩa chúng cũng trở nên
vô dụng nữa. Bây giờ bạn biết điều kinh sách diễn tả. Bây
giờ kinh sách có giá trị gì? Bạn đã tới đích; cuộc hành trình
đã hoàn thành, cho nên cần dùng gì tới bản đồ đó mà bạn đã
mang cho tới giờ? Bây giờ bạn có thể vứt bản đồ đi. Bạn sẽ
làm gì với nó bây giờ?
Phật hay nói rằng khi ai đó đi qua sông trên một chiếc
thuyền, lúc người đó đã qua sông rồi thuyền không có ích
nữa. Người ấy bỏ lại chiếc thuyền ở đó và đi tiếp. Nhưng
Phật kể lại một câu chuyện: Có lần đã xảy ra chuyện bốn
chàng ngốc qua sông trên một chiếc thuyền. Qua sông xong
họ lật úp chiếc thuyền và bắt đầu vác trên đầu. Mọi người
trong làng nói với họ, “Chúng tôi đã từng thấy rất nhiều
người đi qua sông này, nhưng tất cả họ đều bỏ lại thuyền ở
đó tại sông. Các anh làm cái gì thế này?”
Họ trả lời, “Làm sao chúng tôi có thể bỏ lại chiếc thuyền
đã từng có ích thế? Chúng tôi đâu có là kẻ đần.”
Bây giờ họ bị mắc kẹt. Thuyền đã giúp họ vượt qua
sông, nhưng bây giờ làm sao vượt qua chiếc thuyền? Cho
nên họ bắt đầu mang chiếc thuyền đến mọi nơi họ tới. Bây
giờ sự việc trở thành không thể bỏ được chiếc thuyền.
Bạn đừng cho rằng những người như thế chỉ tồn tại trong
quá khứ. Họ có thể đã chết, nhưng con cháu họ vẫn còn đó
và họ vẫn tiếp tục mang chiếc thuyền. Họ nói, “Bố chúng ta
đã mang cũng những kinh sách này và chúng ta cũng sẽ
mang chúng. Bố của bố chúng ta cũng làm cùng việc đó; cho
nên chúng ta có thể làm gì bây giờ? - chúng ta bất lực.
Những điều này bao giờ cũng được đặt trên đầu ông cha
chúng ta, cho nên chúng ta nữa cũng sẽ giữ nó trên đầu
mình. Hơn nữa, kinh sách này cũng là một loại thuyền, và
bao nhiêu hiền nhân đã từng có khả năng sang qua nhờ
những chiếc thuyền này!”
Cái ngày người ta kinh nghiệm bản thân mình, không có
gì còn lại để mà học từ kinh sách cả - và điều này cũng đúng,
rằng ngày đó kinh sách cũng trở thành có nghĩa. Thế thì đấy
là điều chúng ta đi tới biết rằng những cái được viết trong
kinh sách là đúng. Điều này sẽ dường như là phát biểu ngược
đời: ngày bạn biết mắt thấy tai nghe rằng điều mà kinh sách
nói là đúng, từ ngày đó trở đi kinh sách trở thành vô dụng, và
người ta vứt bỏ nó đi. Người lữ hành tâm linh thực vứt bỏ tất
cả các kinh sách.
Và điều cuối cùng được nói trong Upanishad là huyền
diệu. Chỉ Phật mới có được dũng cảm đến thế và nói, “Ta
không phải là linh hồn.” Kinh này của Upanishad thật kì
diệu. Nó chứa toàn bộ tinh tuý của điều Phật đã nói. Cuối
cùng:
Từ bỏ theo đuôi kinh sách, người đó từ bỏ ảo tưởng cả về
linh hồn.

Thế thì người đó thậm chí không nói, “Tôi là linh hồn.”
“Tôi không là xã hội,” đây là chỗ sự việc bắt đầu. Nó đi
sâu hơn khi nó nói, “Tôi không là thân thể, tôi không là tâm
trí.” Bây giờ đây là bước nhảy cuối cùng: “Tôi không là ngay
cả linh hồn.” Điều này nghĩa là gì? Điều này nghĩa là bây giờ
tạo ra bất kì biên giới nào cho bản thân tôi sẽ là ngu xuẩn về
phần tôi.
Khi chúng ta nói “Tôi là linh hồn,” linh hồn tôi và linh
hồn bạn trở thành các thực thể khác nhau. Khi tôi nói “Tôi là

linh hồn,” tôi trở thành một cá nhân, và toàn thể vũ trụ trở
thành tách biệt với tôi. Ảo tưởng cuối cùng này cũng tan biến
đi, rằng tôi là tách biệt, tôi là một cá nhân. Thế thì mọi
khoảng cách và mọi biên giới giữa tôi và vũ trụ biến mất.
Giọt nước trở thành đại dương. Làm sao giọt nước thậm chí
có thể nói “Tôi là giọt nước” được? Giọt nước đã trở thành
đại dương.
Đến cuối cùng, khi mọi thứ đã biến mất, thậm chí cả ý
tưởng rằng “tôi là linh hồn” cũng bị vứt bỏ - và điều này
nghĩa là gì? Điều này không có nghĩa là không có linh hồn.
Nó có nghĩa là “Ta là Thượng đế.” Là một linh hồn vẫn chưa
đủ! Đây là một tuyên bố rất khó khăn. Bất kì khi nào tuyên
bố này được nêu ra, rắc rối nảy sinh.
Al-Hilaj Mansoor đã tuyên bố với người Mô ha mét
giáo, “Ta là Thượng đế.” Họ lập tức giết chết ông. Họ nói,
“Ông nói điều tội lỗi làm sao. Ông phạm phải tội lỗi làm sao!
Ông mà là Thượng đế! Dù ông có đạt cao đến đâu, dù ông có
trở thành một siddha vĩ đại đến đâu, người được hoàn thành,
ông không thể là Thượng đế được, vì là Thượng đế có nghĩa
là điều cuối cùng.” Con người được làm bằng đất... và
Mansoor lại đang nói về sự bay bổng cao ngất đến thế.
Không, điều ấy là không thể được.
Cho nên họ chặt Mansoor từng chi một. Trong khi
Mansoor bị chặt ra ông ấy cười. Ai đó trong đám đông hỏi
ông, “Sao ông cười?” Mansoor đáp, “Ta cười vì ta đã nói rồi,
ngay từ đầu, rằng ta không phải là cái mà những người này
đang chặt ra. Họ nghĩ họ đang chặt ai? Ta đã nói rồi, ‘Ôi
mấy cậu ngốc ơi, ta đâu có phải là cái mà các cậu đang chặt.’
Chỉ có khi ta có thể nói như thế, ta mwois đi tới biết rằng ta
là Thượng đế.” Cho đến hơi thở cuối cùng, từ mồm của
Mansoor vẫn có những lời, “Ana’l haq, ana’l haq,” nghĩa là,
“Ta là Thượng đế, ta là chân lí,” vẫn vọng ra trong toàn bộ
bầu không khí.
Có một thầy tu khổ hạnh fakir tên là Sarmad. Ông ấy
được người theo Sufi rất kính trọng. Ông ấy là một trong số
ít những người được lựa chọn, có thể đếm trên đầu ngón tay.
Aurangzeb, vua Moghul của Ấn Độ, nghe thấy đôi điều phàn
nàn về Sarmad, rằng ông ấy nói những điều kì lạ. Có một câu
mật chú của người Mô ha mét giáo, “Không có Thượng đế
trừ mỗi Allah, chỉ có một Allah duy nhất.” Nhưng Sarmad
chỉ lặp lại nửa câu mật chú, “Không có Thượng đế, không có
Thượng đế.” Bây giờ điều này đã làm thay đổi toàn bộ ý
nghĩa. Nó nghĩa là không có Allah. Đấy quả là một việc hết
sức nghiêm trọng!
Aurangzeb triệu Sarmad đến và nói, “Ông tự cho mình là
thầy tu fakir, người yêu Thượng đế! Rồi ông cứ lặp lại
‘Không có Allah.’ Thế thì quá quắt lắm.”
Sarmad đáp, “Tôi mới đạt tới độ xa này thôi. Tôi còn
chưa du hành hết phần còn lại của lãnh thổ này. Bệ hạ đang
nói toàn bộ câu mật chú ‘Không có Thượng đế trừ mỗi
Allah, chỉ có một Allah mà thôi.’ Tôi còn chưa đạt tới kinh
nghiệm về câu mật chú đầy đủ chú này. Xin để tôi đi thêm
nữa; dần dần, dần dần, có lẽ thôi có thể đạt tới. Nhưng tới
giờ tôi chỉ có thể nói được ngần ấy thôi. Và tôi không sẵn
sàng nói dối. Mãi tới giờ tôi mới chỉ biết ngần này, “Không
có Thượng đế.’ Phần còn lại - ‘trừ mỗi Allah, chỉ có một
Allah duy nhất’ - tôi vẫn còn chưa hiểu được. Xin đợi cho
một chút, tôi đang làm việc theo hướng đó. Nếu bệ hạ đã
hiểu được câu mật chú này một cách đầy đủ, xin nói như
thế.”
Không hoài nghi gì nữa đấy đã là tội lỗi... và người này
là kẻ vô thần. Còn bao nhiêu người nữa sẽ bị ông ta làm hư

hỏng? Sarmad có danh tiếng lớn ở Delhi. Hàng triệu người
đến chạm vào chân người này, người nói, “Không có
Thượng đế.” Điều này được gọi là phép màu - khi ai đó nói,
“Không có Allah,” và hàng triệu người thấy Allah trong ông
ấy!
Điều đó đã xảy ra như vậy; điều đó đã xảy ra như vậy
với Phật, nó đã xảy ra với Mahavira, nó đã xảy ra như vậy
với Sarmad. Mahavira quả quyết, “Không có Thượng đế,” và
hàng triệu người gọi ông ấy là bhagwan, người được ân huệ.
Phật nói, “Không có Thượng đế lẫn linh hồn,” và hàng triệu
người cúi đầu dưới chân ông ấy và yêu cầu ông ấy chỉ cho
con đường và cách thức đạt tới chỗ không có cả linh hồn và
Thượng đế.
Sarmad được Aurangzeb cho ba ngày để sửa lại sai lầm
của mình và bắt đầu lặp lại đầy đủ phát biểu về câu mật chú;
nếu không ông ấy sẽ bị chặt đầu.
Sarmad nói, “Cái gì là cái đảm bảo của ba ngày? Tôi có
thể sống, tôi có thể không sống, và bệ hạ có thể bị mất mất
cơ hội chặt đầu tôi. Cũng không có gì chắc chắn rằng trong
thời gian ba ngày tôi sẽ có thể đạt tới được hoàn toàn câu
mật chú - chừng nào mà tự tôi còn chưa đạt tới chân lí của
toàn bộ câu mật chú, tôi không định lặp lại nó theo cách bệ
hạ muốn. Tôi sẽ nói điều gì đó chỉ nếu nó là kinh nghiệm của
tôi. Cho nên tốt hơn cả là bệ hạ cứ chặt đầu tôi ngay bây giờ
đi.”
Tương truyền Sarmad còn nói thêm, “Cũng có thể là khi
bị chặt đầu cuộc hành trình còn lại của tôi có thể được hoàn
tất, phần cuối mà tôi không thể nào biết được cho tới tận bây
giờ. Có lẽ cái đầu tôi là vật cản trở.”
Người ta cũng hoài nghi rằng Aurangzeb đã hiểu được
mật chú. Hoàng đế và thông minh không có quan hệ với
nhau gì mấy. Aurangzeb đã chặt đầu Sarmad ngay ngày hôm
đó. Tại Jama Masjid, tại Delhi, Sarmad đã bị chặt đầu. Và
khi đầu ông ấy rơi trên các bậc của Jama Masjid và bắt đầu
lăn xuống các bậc thềm thì ngưòi ta nghe thấy nó nói,
“Không có Thượng đế trừ mỗi Allah, chỉ có một Allah mà
thôi.” Hàng nghìn, hàng nghìn người chứng kiến nghe thấy
điều đó.
Aurangzeb hối hận lắm, nhưng đã quá trễ. Khi ông ta hỏi
đệ tử của Sarmad, họ cười và nói, “Sarmad đã nói cho chúng
tôi, ‘Chừng nào ta còn sống, cho dù theo cách nhỏ bé nhất,
làm sao có thể có việc nói gì về phần thứ hai của câu mật chú
được? Allah sẽ có trong ngày ta không có. Cái đầu này là
chướng ngại nhỏ. Nếu nó bị cắt bỏ đi thì cũng là tốt. Nó là
chính kiểu của Aurangzeb mà ông ta đang cắt bỏ nó đi. Ta
chắc sẽ tự xoay xở điều đó, nhưng điều đó phải mất thời
gian. Aurangzeb làm cho công việc được làm nhanh hơn.’”
Khi một người làm tan biến bản thân mình hoàn toàn,
người đó thậm chí không nói rằng người đó có linh hồn. Thế
thì ngay cả ảo tưởng cuối cùng cũng bị vứt bỏ. Chừng nào
mà bạn chưa biết rằng bạn là Thượng đế, biết rõ rằng ảo
tưởng vẫn còn đấy. Chừng nào bạn chưa có chính kinh
nghiệm, “Ta là Brahman, cái tối thượng,” hiểu cho rõ rằng
dốt nát vẫn còn thịnh hành - và cứ vứt bỏ nó. Trở nên tự do
với xã hội, trở nên tự do với thân thể, trở nên tự do với kinh
sách, và cuối cùng trở nên tự do với chính cái ta riêng của
bạn nữa.
Được bắt rễ vào linh hồn mình, và thông qua các kĩ
thuật, thông qua việc lắng nghe và thông qua tự kinh
nghiệm, nhà yoga nhận ra bản thân mình là linh hồn của
tất cả và tâm trí của người đó bị triệt tiêu.

Tâm trí có thể bị kìm nén - mặc dầu đấy là khó khăn.
Tâm trí có thể bị che giấu - mặc dầu đấy là khó khăn. Nhưng
triệt tiêu tâm trí - đấy là điều cuối cùng có thể được quản lí.
Cho dù tâm trí bạn trở nên tĩnh lặng, nó lại trở nên bồn
chồn vào ngày hôm sau. Nó nảy sinh trở lại mãi, nó sống lại
mãi; nó mọc ra mãi - bằng cách nào đó hạt mầm của nó vẫn
còn. Dù chúng ta có thể thiền nhiều, cầu nguyện và tưởng
nhớ tên Thượng đế, khoảnh khắc này chúng ta cảm thấy rằng
mọi thứ ổn thoả cả rồi, khoảnh khắc sau chúng ta lại cảm
thấy rằng mọi thứ lộn nhào cả; đôi khi chúng ta cảm thấy
rằng đích đã tới, đây là chỗ ấy, rồi mọi thứ lại mất sạch.
Toàn thể trò chơi này có vẻ giống trò con rắn và chiếc
thang mà trẻ con vẫn chơi. Có cả rắn và thang trong đó. Bạn
trèo lên thang và rồi bỗng nhiên bạn đi tới mồm con rắn nào
đó và lập tức bạn tụt xuống mức thấp hơn. Điều này cứ thế
xảy ra - trèo lên, tụt xuống. Việc tương tự diễn ra cho tâm trí.
Đôi khi người ta cảm thấy rằng mình đã trèo lên, mọi thứ
đều xuôn sẻ, hoàn toàn tốt; người ta cảm thấy đã tới nơi,
“Vậy đây là điều các thánh nhân đã từng nói tới - đây chính
là chỗ ấy, đây chính là trạng thái ấy - và mãi tới giờ mình
mới có được nó!” Nhưng ngay khi bạn nhớ tới các thánh
nhân, bạn rơi vào mồm con rắn và tụt xuống để phát hiện ra
rằng bạn lần nữa lại trở lại nơi bạn bắt đầu. Bạn cảm thấy
những thánh nhân này chắc hẳn phải nói dối, hay “Có lẽ
mình bị ảo giác; mình đã tưởng tượng ra mọi thứ đều ổn,
nhưng thực tế mọi thứ đều sai cả.”
Quanh tôi nhiều người đã trèo lên thang và tụt xuống qua
mồm con rắn. Một hôm họ tới và báo cho tôi, “Thật là tuyệt
diệu, phi thường biết bao! Bây giờ thực sự không còn lại gì
phải làm nữa.” Rồi sáng hôm sau họ quay lại, chán nản, quị
hẳn. Lại thang và rắn vẫn đang đợi bạn.
Nhiều lần bạn cảm thấy tâm trí đã ra đi ổn thoả, và nó lại
quay lại lần nữa. Bạn sẽ có được những thoáng nhìn. Cho dù
nó biến đi chỉ một thoáng chốc, bạn cũng sẽ có thoáng nhìn
nhỏ bên ngoài tâm trí. Cho dù nó đi xa khỏi con đường của
bạn trong một chốc, không gian được tạo ra; bầu trời quang
đãng, cửa sổ đã mở ra và bạn thấy sao trên trời. Nhưng điều
này không kéo dài lâu. Nhà yoga trở thành siddha, người
chứng ngộ, khi tâm trí bị triệt tiêu. Tâm trí bị triệt tiêu khi
người ta kinh nghiệm rằng, “Tôi thậm chí không là linh
hồn.”
Chừng nào tôi cảm thấy rằng, “Đúng, tôi không phải là
thân thể, tôi không phải là tâm trí, nhưng tôi là linh hồn,”
chừng nào còn có bất kì hỗ trợ còn lại cho cái ‘tôi’ của tôi,
tâm trí tôi vẫn còn sống sót dưới dạng hạt mầm của nó.
Chừng nào vẫn còn hỗ trợ cho bất kì cái gì còn lại, kể cả đó
là linh hồn, tâm trí tôi sẽ vẫn còn dưới dạng hạt mầm của nó.
Bất kì khi nào một giọt mưa tới, hạt mầm đó sẽ vỡ tung ra,
mọc lên và bắt đầu phát triển thành cây.
Chỉ khi tôi không còn nữa tâm trí mới dừng lại. Dễ dàng
từ bỏ tiền bạc, dễ dàng từ bỏ địa vị, dễ dàng từ bỏ gắn bó với
thân thể, dễ dàng từ bỏ gắn bó với tâm trí, nhưng nhiệm vụ
khó nhất là phá vỡ gắn bó với chính cái ta của mình, với
chính cá nhân mình, với chính sự tồn tại của mình. Nhưng
ngay khi điều này bị phá vỡ, tâm trí bị triệt tiêu.
Sariputta đến Phật. Ông ta hỏi Phật, “Làm sao tôi có thể
được giải thoát?” Phật nói, “Đừng tới ta, đi chỗ khác đi - vì
ta không thể giải thoát cho ông được, ta chỉ có thể giải thoát
cho ông khỏi cái ‘ông’ này thôi.” Phật nói thêm, “Cái ‘tôi’
không bao giờ được giải thoát. Người ta được giải thoát khỏi
cái ‘tôi’. Cho nên nếu ông đang tìm kiếm giải thoát của ông,
đi đâu đó khác đi. Nhưng có, nếu ông muốn giải thoát khỏi

bản thân mình, ông đã đến đúng chỗ. Ta sẽ làm cho ông
được tự do khỏi chính mình. Vậy đừng hỏi bằng cách nào
ông sẽ được giải thoát. Ông sẽ không tồn tại trong giải thoát
của mình. Ông nên hỏi cách được tự do khỏi cái ‘tôi’ này -
cách được giải thoát khỏi cái ‘tôi’ này."
Do đó Phật đã không chọn từ moksha, giải thoát, ông ấy
đã chọn từ niết bàn, nirvana. Với từ moksha còn có cảm giác
về ‘của tôi’. Chí ít đến chừng này vẫn còn lại, linh hồn sẽ
vẫn còn lại - và ngồi trên siddhashila, chỗ của người đã giải
thoát, người ta sẽ tận hưởng việc giải thoát. Cùng người đó,
cùng người đang quản lí một cửa tiệm ở đây, bây giờ ngồi
vào chỗ của người được giải thoát trong thế giới của giải
thoát, đang tận hưởng ở đó!
Mối quan tâm này vẫn còn ẩn nấp trong tâm trí bạn, rằng
bạn sẽ còn lại. Nhưng cái gì có đó trong bạn đáng giữ lại? Và
cái gì có đó trong bạn đáng phải giữ? Bạn đã bao giờ nghĩ về
nó chưa? Bạn đã bao giờ xem xét cái bạn có mà đáng giữ gìn
vĩnh viễn không? Loại hương thơm nào bạn có mà bạn có thể
nói rằng nó nên còn lại mãi mãi? Loại giai điệu nào bạn có
mà bạn muốn làm cho nó thành bất tử? Cái gì có đó trong
tính cách của bạn mà bạn muốn còn lại mãi mãi? Dường như
không có gì thuộc loại như thế bên trong bạn cả.
Phật nói, “Điều này nữa cũng là một loại ham muốn,
thèm khát cuộc sống - rằng người ta nên tồn tại, không vì lí
do nào hết cả. Dường như không có lí do nào tại sao ông nên
tồn tại. Cái gì trong ông mà, nếu được giữ lại, có thể có ích
cho thế giới? Không có gì cả.”
Cho nên Phật nói, “Không, từ giải thoát này không
đúng”; và ông ấy chọn từ niết bàn.
Kinh này là kinh về niết bàn. Niết bàn có nghĩa là việc
tắt đi của chiếc đèn. Khi chiếc đèn bị tắt, bạn có biết ngọn
lửa đã đi đâu không? Ngọn lửa không đi đâu cả, nó đơn giản
dừng hiện hữu; nó biến mất, nó đơn giản hội nhập. Bây giờ
bạn sẽ không có khả năng tìm thấy ngọn lửa đã tắt ấy ở đâu
nữa. Không có đâu trong mọi thế giới, không có đâu trong
cái vô hạn mênh mông này, mà bạn có khả năng định vị
ngọn lửa đã tắt đó. Nó đã hội nhập, nó đã hội nhập một cách
toàn bộ đến độ nó không thể nào được gọi lại từ cái vô hạn
đó. Nó đã đi sâu vào trong cái vô hình đến mức nó không thể
lấy bất kì hình dạng nào nữa. Nó đã bị triệt tiêu.
Cho nên Phật nói rằng bạn cũng sẽ bị triệt tiêu đi, hệt
như chiếc đèn bị tắt. Do đó ông ấy đã chọn từ niết bàn. Ông
ấy nói, “Ông sẽ đạt tới niết bàn - không phải là moksha, giải
thoát, mà là niết bàn. Ngọn lửa bập bùng mờ nhạt trong ông
sẽ tắt ngấm.”
Điều này dường như có vẻ là việc rất đáng sợ. Thế thì cái
gì là mục đích của tất cả những điều này? Đổ thêm dầu vào
đèn của bạn và giữ cho ngọn lửa cháy mãi chăng? Cái gì
thực sự là điều bản chất? Nhưng Phật nói rằng khi bạn đã bị
triệt tiêu, chỉ thế thì bạn mới biết bạn là gì. Và khi bạn đã
biến mất, chỉ thế thì bạn mới biết rằng bạn không bị mất; bạn
đã thu được tất cả, bạn đã trở thành tất cả.
Cho nên linh hồn cũng bị vứt bỏ.
Không trao cơ hội - tại bất kì điểm nào - cho việc ngủ,
cho chuyện trò của xã hội, cho âm thanh, động chạm,
hình dạng, vị và mùi - các đối tượng của giác quan - và
sự quên lãng về linh hồn, suy tư về linh hồn bên trong
ông.

Mọi thứ cứ bị vứt bỏ dần. Ngủ bị vứt bỏ, vô ý thức bị vứt
bỏ. Chúng ta đã quên cái ta của mình - điều này Upanishad

gọi là ngủ. Việc quên lãng này về cái ta riêng của chúng ta,
chúng ta là ai, việc không biết gì về chân lí rằng “Ta là
Thượng đế” - điều này Upanishad gọi là ngủ. Cái ngày giấc
ngủ này không chiếm lĩnh chúng ta dù chỉ một khoảnh khắc
thì ngày đó không còn cách nào để vô ý thức nắm quyền nữa.
Khi khói này không còn bao quanh chúng ta nữa, những đám
mây này không còn lơ lửng treo quanh và bầu trời trở thành
không tì vết và trong sáng và bóng tối do những đám mây
này gây ra không bao giờ hạ xuống, thế thì có hồi tưởng
thường xuyên.
Hồi tưởng cũng không phải là từ đúng. Mọi từ đều sai để
diễn tả cái Upanishad muốn nói. Nhưng người ta không bất
lực - không có cách nào khác ngoài việc dùng từ.
Nói là ‘hồi tưởng’ là không đúng, bởi vì từ hồi tưởng
ngụ ý cái gì đó trong quá khứ và cũng đã bị quên. Hồi tưởng
thường xuyên ngụ ý cái gì đó chưa bao giờ bị quên lãng.
Ngày xưa đã có chuyện này: Có một nhà huyền môn ở
Tây Tạng tên là Naropa. Nhiều người hay tới ông ấy và họ
rất lấy làm phân vân, bởi vì người ta biết quá rõ rằng ông ấy
đã hoàn toàn được hội nhập vào điều thiêng liêng và họ chưa
từng nghe Naropa đã bao giờ nhớ đến tên Thượng đế. Đệ tử
của ông ấy thường hỏi Naropa, “Mọi người nói rằng thầy đã
hội nhập vào điều thiêng liêng, nhưng sao không bao giờ
thầy nhớ tới Thượng đế?” Tương truyền Naropa đã đáp lại,
“Làm sao ta nhớ khi ta chưa bao giờ quên? Và cái ngày ta
bắt đầu nhớ Thượng đế, biết rằng Naropa đã mất. Cái ngày ta
nhớ, cái ngày ta gọi tên Thượng đế, ông cũng có thể hiểu
rằng Naropa đã mất, rằng ông ta đã quên lãng và đã rơi vào
trong giấc ngủ. Khi ta không rơi vào trong giấc ngủ, khi ta
không bao giờ quên Thượng đế, làm sao ta nhớ được?”
Trong trạng thái như thế tức là đi vào trong cái hang bí
mật tuyệt đối ở bên trong tất cả chúng ta.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#4Phản chiếu trong gương

Thân thể này được làm từ chất tiết ra của mẹ và cha và
đầy những chất bài tiết và thịt. Do đó, bằng cách đi khỏi
nó như từ một chandra, tiện dân thấp kém, và trở thành
Brahman, thực tại tuyệt đối, là được hoàn thành. Hỡi
người tìm kiếm chân lí! Bằng cách biết cái một của linh
hồn và linh hồn tối cao, giống hệt như cái một của
ghatakash, bầu trời bên trong cái bình, và mahakash,
bầu trời bên ngoài cái bình, một cách không phân chia
được bao giờ cũng là an bình.
Việc trở thành cái hỗ trợ tự toả sáng, tự tạo của tất cả
linh hồn và linh hồn vĩnh cửu, Brahman, thực tại tuyệt
đối, là vứt bỏ cảm giác về thân thể ông và cả thân vũ trụ,
dường như đấy chỉ là bình chứa chất bài tiết.
Làm cho cảm giác bản ngã, mà đã kiểm soát thân thể, trở
thành cái ta ý thức phúc lạc, từ bỏ thân thể thô kệch và
thành linh hồn đơn độc bất tử của ông.
Hỡi người hồn nhiên! Như thành phố có thể được nhìn
được phản xạ trong gương, Ta là Brahman đó, thực tại
tuyệt đối, trong người mà việc phản xạ thế giới này được
thấy - biết điều này, hỡi người hồn nhiên, là được hoàn
thành.

Chúng ta biết thân thể chỉ từ bên ngoài. Như một người
có thể đi quanh lâu đài, nhìn hình dạng bên ngoài và cái đẹp
của các bức tường của nó rồi kết luận rằng đây là toàn bộ lâu
đài, tương tự như chúng ta thấy thân thể chỉ từ bên ngoài.
Thân thể không chỉ là cái được thấy được từ bên ngoài.
Thấy được thân thể từ bên trong, người ta lập tức được tự do
với nó. Hình dạng của thân thể thấy được từ bên ngoài chỉ lại
cái che phủ. Thực tại của thân thể được thấy từ bên trong,
cách thân thể thực sự hiện hữu.
Phật hay phái các đệ tử của mình tới chỗ hoả thiêu để
xem các xác chết, để nhìn xương, nhìn sọ. Đó là cách thân
thể hiện hữu: mọi thứ đều được bao phủ bởi tầng da, ngoài
thứ ấy ra bạn sẽ thấy ghê tởm nó và sẽ không thể nào thèm
khát nó quá, gắn bó với nó quá, và cảm thấy ‘cái của tôi’ về
nó. Đôi khi thử quán tưởng thân thể từ bên trong mà xem;
thế thì bạn sẽ có khả năng hiểu được kinh này. Đôi khi đi đến
bệnh viện; xem bác sĩ phẫu thuật tiến hành ca mổ trong
phòng mổ. Điều bạn sẽ thấy bên trong thân thể, đấy là thực
tại.
Kinh này rất có ích cho thiền. Để nó rất rõ ràng cho bạn
rằng không có kết án về thân thể trong kinh này. Tôn giáo
không quan tâm tới việc kết án bất kì thứ gì, hay trong việc
ca tụng bất kì thứ gì. Tôn giáo chỉ quan tâm tới việc biết cái

đang hiện hữu.
Cho nên khi được nói rằng thân thể là đống thịt, xương,
máu, tuỷ, chất bài tiết, vân vân, nhớ lấy không có ý định kết
án chút nào. Không hề có ý định ruồng bỏ thân thể; thân thể
chỉ là như vậy thôi. Toàn bộ sự việc chỉ là việc tiết lộ sự kiện
cách thức thân thể là vậy, không gì khác.
Kinh này nói:

Thân thể này được làm từ chất tiết ra của mẹ và cha và
đầy những chất bài tiết và thịt... Bằng cách đi khỏi nó
như từ một chandal, tiện dân bậc thấp, và trở thành
Brahman, thực tại tuyệt đối, là được hoàn thành.

Các từ chandal và sudra là rất có giá trị. Tâm lí học Ấn
Độ cổ đại nói rằng bất kì ai tin tưởng mình là thân thể đều là
sudra; ‘sudra’ nghĩa là người tin bản thân mình là thân thể.
‘Brahmin’ nghĩa là người đã biết bản thân mình là Brahman,
cái tuyệt đối. Người ta không phải là brahmin chỉ bởi được
sinh ra trong một gia đình brahmin, người ta không là sudra
chỉ bởi được sinh ra trong gia đình sudra. Tính chất sudra
hay brahmin không có liên quan gì tới nhà cửa hay gia đình,
sudra là trạng thái của con người, và brahmin cũng vậy.
Mọi người sinh ra đều như sudra, chỉ một vài người chết
đi như brahmin. Toàn thế giới đều là sudra. Sudra nghĩa là,
tất cả những người trên thế giới sống với việc tin rằng bản
thân họ là thân thể. Rất khó tìm được brahmin. Không khó
nhận việc sinh ra trong nhà của brahmin, nhưng để là
brahmin là khó.
Tôi đã từng nghe, Uddalaka nói với con mình Svetketu,
“Đến đạo tràng của người thấy và quay về sau khi đã trở
thành brahmin.”
Svetketu nói, “Nhưng con đã là brahmin, con là con của
một brahmin.”
Thế rồi Uddalaka nói với con một cách quả quyết nhưng
đầy yêu thương, “Chưa bao giờ xảy ra việc chỉ bởi được sinh
ra trong nhà chúng ta một người trở thành brahmin. Chúng ta
thực tại đã trở thành brahmin. Cho nên con tới đạo tràng của
thầy và quay về khi đã trở thành một brahmin. Có đâu trên
thế giới mà phẩm chất brahmin được nhận được từ người bố?
Nó được nhận được từ thầy chứ! Và trong gia đình chúng ta
chưa bao giờ có brahmin danh hiệu, chúng ta bao giờ cũng
thực sự trở thành brahmin. Con đi đi và quay về khi con đã
trở thành một brahmin.”
Kinh này nói: Đi ra khỏi thân thể bạn dường như bạn
đang đi ra khỏi chandal hay tiện dân. Không phải là người ta
phải đi xa; khoảnh khắc người ta hiểu, nó là rác rưởi tanh
hôi, nó là chất bài tiết, nó là thịt, máu và tuỷ - ngay khi điều
này được nhận ra, việc rời xa bắt đầu theo cách riêng của nó.
Chúng ta bị hấp dẫn, chúng ta bị lôi kéo đến nơi chúng ta
nghĩ là ngát hương. Chúng ta bắt đầu rời đi, chúng ta bị đẩy
đi khỏi nơi chúng ta cảm thấy hôi hám. Thiên vị của chúng ta
về thân thể là bởi vì dốt nát của mình về nó. Chúng ta không
có ý tưởng gì về việc thân thể chúng ta thực tại là gì.
Cho nên quán tưởng cái bên trong thân thể bạn đi. Trở
thành bác sĩ giải phẫu của riêng bạn và mở thân thể riêng của
bạn ra. Da không dầy lắm đâu, nó mỏng thôi. Chúng ta đã
phát triển quá nhiều gắn bó với mọi thứ bị giấu kín đằng sau
làn da này, và chúng ta bắt đầu sống dường như đó là tất cả
những cái có cho con người chúng ta. Cho nên chúng ta gắn
bó với nó, buộc vào nó.
Nếu bạn bắt đầu nhận ra thực tại đích xác của thân thể
mình, bạn sẽ thấy rằng việc rời xa đã bắt đầu; bạn không

phải rời đi xa, việc rời đi tự nó bắt đầu theo cách riêng của
nó. Thế thì nếu chúng ta phải đồng nhất lại với thân thể điều
đó sẽ phải cần tới nỗ lực. Nhưng việc bị bị gắn bó với thân
thể của chúng ta chỉ ngụ ý một điều, và điều đó là việc chúng
ta chưa bao giờ nhìn vào thân thể từ bên trong của nó.
Chúng ta biết tới thân thể mình bởi việc thấy nó trong
gương - nhưng cái được thấy trong gương chỉ là lớp che phủ
bề ngoài của thân thể. Sẽ rất tốt nếu một ngày nào đó khoa
học phát minh ra máy - kiểu như máy tia x - mà nếu người ta
đứng trước nó, nó sẽ phơi bầy mọi thứ bên trong thân thể ra
như đúng cách nó là vậy: xương, thịt, tuỷ, chất bài tiết và
mọi thứ. Cái máy như thế sẽ rất hữu dụng.
Một khi bạn đi tới biết tình huống thực của cái bên trong
thân thể mình, bạn lập tức sẽ thấy rằng một khoảng cách đã
phát triển giữa thân thể và bản thân bạn; mọi nhịp cầu nối đó
sẽ sập đổ, mọi đồng nhất sẽ biến mất và lỗ hổng sẽ bắt đầu
tăng lên. Những người thấy của Upanishad đã cố tạo ra con
mắt đó để qua nó bạn có thể có thoáng nhìn vào trong - đằng
sau làn da, đằng sau lớp da riêng của bạn.
Chân lí giải thoát. Nếu chúng ta đi tới biết chân lí về thân
thể mình, tâm trí chúng ta bắt đầu trở nên tự do với nó. Thiếu
chân lí là tù túng. Bất kì điều gì chúng ta không biết trong
thực tại của nó đều trở thành tù túng.
Hỡi người tìm kiếm chân lí! Bằng cách biết cái một của
linh hồn và linh hồn tối cao, giống hệt như cái một của
ghatakash, bầu trời bên trong cái bình, và mahakash,
bầu trời bên ngoài cái bình, một cách không phân chia
bao giờ cũng an bình.

Khi cái vô tích sự của thân thể được thấy và cái vô giá trị
của thân thể được nhận ra, thân thể chỉ còn là cảm giác về
đống rác rưởi và máu mủ. Và khi khoảng cách từ thân thể bắt
đầu tăng lên, chỉ thế thì sự gần gũi với Thượng đế bắt đầu
phát triển. Người ta càng gần với thân thể, càng xa với
Thượng đế; càng xa với thân thể, người ta càng gần với
Thượng đế. Ràng buộc với thân thể của chúng ta càng mạnh,
khoảng cách tới tâm thức vô thân thể càng lớn. Khi ràng
buộc này trở nên kém đi và khi khoảng cách với thân thể bắt
đầu tăng lên, điều này chỉ có một nghĩa - rằng sự gần gũi với
linh hồn đang tăng lên.
Linh hồn là một cực và thân thể là cực kia: chúng ta ở
giữa hai cực. Khi chúng ta quá gần với thân thể, chúng ta ở
xa linh hồn; khi chúng ta bắt đầu rời xa khỏi thân thể, chúng
ta đang tới gần hơn với linh hồn. Đây là lí do tại sao hành
động rời xa khỏi thân thể đã được lấy như quá trình thiền.
Điều này cũng bị hiểu sai rất nhiều nữa.
Khi các kinh sách Ấn Độ lần đầu tiên được dịch sang
tiếng phương Tây, mọi người nghĩ rằng những kinh sách này
là kẻ thù của thân thể. Nhưng nó không phải như vậy. Chúng
chỉ là phương sách thôi. Biết về thực tại thân thể, tâm thức
chúng ta lập tức đi vào cuộc hành trình vào trong. Nhận ra
chân lí thực tại về thân thể, mối nối với thân thể lỏng ra. Để
làm lỏng mối nối đó, cần phải làm mạnh việc nhận ra này.
Suy ngẫm về cái chết, suy tư về thực tại của thân thể, mở
ra thực tại của thân thể và thấy chúng một cách rõ ràng - đây
là những phương pháp của thiền. Thông qua chúng người ta
bắt đầu đi vào bên trong. Và việc đi đó dễ dàng xảy ra,
không cần nỗ lực cho điều đó. Nếu bạn muốn đi vào bên
trong mà không hiểu về thân thể điều đó sẽ rất khó khăn, bởi
vì tâm trí sẽ vẫn còn quan tâm và bị buộc vào thân thể.
Một khất sĩ bhikkhus của Phật đi ngang qua một thôn

làng. Ông ta rất đẹp trai, và thiền đã tăng thêm chân giá trị,
vẻ duyên dáng cho cái đẹp của ông ấy. Im lặng đã kết tinh
bên trong ông ta và tia sáng của nó toả ra từ đôi mắt và
khuôn mặt của ông ta. Hào quang ánh sáng làm duyên dáng
cho ông ta. Một gái mãi dâm rất nổi tiếng thấy ông và phải
lòng ông. Rabindranath Tagore đã viết một bài thơ hay về sự
kiện này.
Cô mãi dâm tới ông ta và đề nghị khất sĩ nghỉ lại một
đêm trong lâu đài của cô ấy. Khất sĩ đáp, “Không có giới luật
nào về điều này cho nên ta sẽ không từ chối lời mời của cô.
Ta sẽ tới, nhưng thời gian còn chưa đúng. Khi thực tại thực
tế của thân thể cô được lộ ra cho cô, đó là lúc ta sẽ tới. Ngay
bây giờ cô còn đang lầm lẫn. Cái ngày cô thức tỉnh về thực
tại của nó, ta sẽ tới.”
Cô mãi dâm đó không thể hiểu được điều này. Chính ý
nghĩa của mãi dâm là người không hiểu bất kì ngôn ngữ nào
khác ngoài ngôn ngữ thân thể. Cho nên đừng nghĩ rằng chỉ
bởi vì người đàn bà là vợ ai đó mà cô ấy không phải là mãi
dâm. Nếu cô ấy chỉ hiểu ngôn ngữ của thân thể, cô ấy là mãi
dâm. Chừng nào ngôn ngữ của linh hồn còn chưa được hiểu,
không ai có thể vượt lên trên việc mãi dâm được.
Và cũng đừng nghĩ rằng từ mãi dâm chỉ áp dụng cho đàn
bà; không, nó áp dụng cho cả đàn ông nữa. Chỉ ngôn ngữ của
thân thể là được hiểu; mọi giao tác đều được thực hiện trên
mức thân thể. Toàn thể tâm trí bị tập trung chỉ vào thân thể,
bản thân thân thể là việc buôn bán - đây là mọi điều được
ngụ ý bởi từ mãi dâm này.
Khất sĩ nói, “Ta chắc chắn sẽ đến, nhưng chỉ khi thực tại
của thân thể cô được lộ ra cho cô.”
Cô mãi dâm nói, “Ông có điên không đấy? Đây là lúc
cho ông tới - trong khi tôi còn trẻ và ở đỉnh sắc đẹp của tôi.
Thân thể tôi sẽ không bao giờ trong hoàn cảnh tốt hơn nữa.”
Khất sĩ đáp, “Mối quan tâm không phải là ở cái tốt hơn,
mối quan tâm là ở cái thực. Khi thân thể cô biểu hiện thực tại
của nó, thế thì ta sẽ tới.”
Cô mãi dâm nói, “Tôi không thể nào hiểu được lời ông
nói. Xin làm nó rõ hơn cho tôi.”
Khất sĩ nói, “Khi không ai đến với cô nữa thế thì ta sẽ
đến, bởi vì đến lúc đó thân thể cô sẽ biểu hiện thực tại của
nó. Thế thì thân thể sẽ trông giống nhau cả từ bên ngoài cũng
như nó thực bên trong. Ngay bây giờ thì bên ngoài trông
không giống như nó thực bên trong. Cho nên khi không ai tới
cô nữa, ta sẽ tới.”
Nhiều năm qua đi, và cô mãi dâm trở nên già, bệnh hủi
đã lan khắp thân thể cô, các chi đã bắt đầu teo lại, và người
ta tống cô ra khỏi làng.
Đây đã là cùng những người đã quen dập dờn quanh cửa
nhà cô! Đây là cùng những người đã xin chết để vào trong
lâu đài của cô, những người quen coi họ là may mắn và có
diễm phúc cho dù chỉ được thoáng nhìn xa xăm của cô. Cùng
những người đó đã tống cô ra khỏi làng.
Đấy là một đêm đem kịt không trăng. Cô ấy đau đớn và
khát. Không có người nào dù chỉ để cho cô ấy một cốc nước.
Đêm đó khất sĩ tới; ông ta đặt tay lên đầu cô và nói, “Ta đã
tới đây. Bây giờ thân thể cô trong hoàn cảnh thực của nó,
bây giờ không ai lại gần cô. Bây giờ thân thể bên ngoài đã
trở thành hệt như nó bên trong. Bây giờ khoảng cách giữa
bên ngoài và bên trong đã biến mất, ảo tưởng rằng làn da này
còn duy trì đã không còn nữa. Bây giờ rác rưởi và máu mủ
bên trong cũng biểu hiện ra bên ngoài; bây giờ cô là như
nhau ở bên trong và bên ngoài. Bây giờ ta đã tới. Đây là cái

ngày ta đã hứa ta sẽ tới khi ta nói rằng khi không ai khác tới
cô, ta sẽ tới.”
Khất sĩ còn nói thêm, “Như ta đã quan ngại trước, ngay
tại lần gặp gỡ đầu tiên ta đã có thể thấy trong cô điều bây giờ
biểu hiện ra. Vâng, thế nhưng cô đâu có thể thấy được nó. Ta
có thể đã trở thành khách của cô ngay trong ngày đó, chẳng
có gì khó khăn, nhưng ảo tưởng của cô chắc sẽ tăng lên:
‘Bây giờ ngay cả khất sĩ cũng bắt đầu trở thành khách của
mình.’ Ta thì không có khó khăn gì, ta có thể đến ngay ngày
đầu tiên đó, bởi vì ta có thể thấy thân thể cô như nó hôm nay.
Điều cả làng bây giờ có thể thấy ta đã thấy từ ngày đó rồi.”
Nhưng cô mãi dâm đó, bây giờ nằm ngoài làng, đã
không nhìn vào thân thể mình. Với mắt nhắm, cô ấy vẫn nhớ
lại những ngày khi cô còn có thân hình đẹp đẽ, khi cô còn
danh giá và sống tự hào trong làng.
Ngay cả trong tuổi già mọi người vẫn nghĩ về những
ngày tuổi trẻ của mình. Khi thân thể biểu hiện chính nó dưới
dạng đúng của nó, họ vẫn tiếp tục che đậy nó bằng tâm trí
mình. Khi thậm chí làn da không thể che giấu được tuổi già
của họ, họ nhắm mắt lại và sung sướng trong suy tư về quá
khứ.
Khi người già tìm thấy nguồn cảm khoái trong suy nghĩ
về tuổi trẻ của mình, người đó sẽ chết là một sudra. Và khi
một thanh niên thấy tuổi già trong thân thể mình trước khi nó
thực tế xuất hiện, người đó sẽ chết là một brahmin. Khi một
người đang hấp hối còn mang thèm khát về cuộc sống, biết
rõ rằng người đó là một sudra. Khi ngay cả tại đỉnh thanh
xuân, ai đó bắt đầu thấy cái chết của mình, hiểu rằng
brahmin đang được sinh ra trong người đó. Và điều cần thiết
là chúng ta thấy được thực tại này của thân thể, sao cho dây
buộc bị chùng ra và chúng ta có thể hướng tới nơi tâm thức
hiện hữu.
Hỡi người tìm kiếm chân lí! Bằng cách biết cái một của
linh hồn và linh hồn tối cao, giống hệt như cái một của
ghatakash, bầu trời bên trong cái bình, và mahakash,
bầu trời bên ngoài cái bình, một cách không phân chia
bao giờ cũng an bình.

Chỉ quay lưng khỏi thân thể và nhìn vào cái mahakash
đó thôi. Mahakash đó, sự tồn tại mênh mông đó, là rất gần.
Nếu một cái bình đất để trên mặt đất và chúng ta lộn
ngược nó, đặt úp nó xuống, và thế rồi nếu cái bình nhìn lên,
nó sẽ chỉ thấy cái thân bằng đất của nó, không thấy bầu trời.
Để bình lộn ngược úp xuống đất, cho dù cái bình có nhìn lên,
nó sẽ thấy gì? Tất cả những cái nó có thể thấy chỉ là cái đáy
bình, tầng bùn của riêng nó - thân thể nó - nhưng không thấy
bầu trời. Rồi chúng ta đặt cái bình thẳng đứng lại, miệng
bình hướng lên trời. Thế thì khi nó nhìn lên trời nó sẽ có khả
năng thấy, “ta không phải là thân thể.” Bây giờ cái bình cũng
có khả năng thấy, “Bầu trời nhỏ bên trong ta cũng cùng là
bầu trời bên ngoài; và giữa hai bầu trời đó của chúng ta
không chỗ nào có lỗ hổng nào, chúng ta là không tách biệt.
Chính ta là người đã mở rộng vào trong bầu trời bên trên, và
chính bầu trời bên trên là nơi mọi con đường đã đi xuống
theo mọi đường vào trong ta; không đâu có bất kì chướng
ngại, bất kì biên giới, bất kì bức tường nào ở giữa.”
Điều tương tự cũng xảy ra khi bạn nhìn vào thân thể
mình; bạn giống như cái bình bị lộn ngược - bạn chỉ thấy
thân thể. Khi bạn rời xa khỏi thân thể mình, bạn trở thành
giống như cái bình được dựng thẳng - bây giờ bạn đối diện
với bầu trời. Khi một người rời xa khỏi thân thể, lập tức

người đó được tập trung vào bầu trời và lần đầu tiên thấy
rằng không có đến một hạt sạn khác biệt nào giữa người đó
và sự tồn tại bao la này đang trải rộng khắp xung quanh.
Người đó đã trở thành sự tồn tại bao la, sự tồn tại bao la đã
vươn tới người đó.
Hỡi người tìm kiếm chân lí! Bằng cách biết cái một của
linh hồn và linh hồn tối cao, giống hệt như cái một của
ghatakash, bầu trời bên trong cái bình, và mahakash,
bầu trời bên ngoài cái bình, một cách không phân chia
bao giờ cũng an bình.

Ngay khi sự thống nhất này được nhìn thấy, an bình xảy
ra.
Thực tế, bất ổn là gì? Bất ổn của chúng ta là gì? Bất ổn
của ta là ở chỗ chúng ta quá lớn và bị cầm tù trong cái tí
hon. Bất ổn của chúng ta giống như bất ổn của người đã bị
nhét vào bộ quần áo trẻ con và không thể cử động tự do
được, người đó cảm thấy rất gò bó. Và thêm nữa, nếu những
quần áo này được làm bằng sắt, khó khăn còn lớn đến đâu?
Khó khăn của chúng ta là tương tự.
Chúng ta lớn - không chỉ lớn mà còn bao la - và chúng ta
bị cầm tù trong thân thể nhỏ. Ngôi nhà nhỏ mà cư dân rất
lớn. Cảm giác bất tiện khắp mọi phía; mọi nơi đều dường
như là đường biên và mọi nơi đều bất tiện. Dường như là
không có chỗ nào người ta có thể chui ra. Và khó khăn còn
nhân lên gấp bội bởi vì điều chúng ta nghĩ là ngôi nhà của
mình lại là nhà tù của chúng ta. Chúng ta bận bịu trang trí
nó, bầy biện đồ đạc và phát triển nó. Chúng ta thu xếp để
trang hoàng vàng bạc bên trong nhà tù, chúng ta làm đẹp và
trang điểm các bức tường nhà tù - và đây cũng chính là nhà
tù mà chúng ta bị mắc bẫy vào. Chúng ta đối diện với các
bức tường, không hướng ra cửa.
Nó sẽ là vậy, bởi vì bạn quay sang cái hấp dẫn bạn. Mặt
đang hướng về nơi có hấp dẫn và lưng thì hướng về nơi có
kinh tởm. Chừng nào bạn còn đồng nhất với thân thể, bạn sẽ
còn đối diện với bức tường. Và khoảnh khắc có kinh tởm
hướng về thân thể, bạn đã tìm thấy cánh cửa.
Trong thân thể bạn nữa cũng có cửa. Nhưng cửa đó sẽ
chỉ được thấy khi hấp dẫn của bạn vào thân thể biến mất.
Cửa đó trong thân thể được gọi là tâm. Đấy không phải là
trái tim thực mà bạn vẫn gọi là tim; cái bạn gọi là tim đó chỉ
là một cơ quan vẫn đập gần phổi. Không có cửa ở đó đâu,
đấy chỉ là việc bố trí cho việc bơm máu thôi. Đấy không phải
là tâm.
Tâm, theo ngôn ngữ yoga, là tên của cánh cửa đó nơi bạn
bỗng nhiên thấy bản thân mình đứng khi bạn rời xa khỏi thân
thể, khi bạn không còn mối quan tâm nào ngay cả trong việc
nhìn vào thân thể - khi không còn hấp dẫn gì với thân thể và
cái vô hạn được sinh trong bạn. Chính đây là cửa - nơi cái
bình mở ra hướng tới bầu trời.
Có nhiều kiểu cửa trong thân thể bạn, nhưng bạn đi tới
biết chúng chỉ khi bạn đạt tới chúng, không trước điều đó.
Nhìn đứa trẻ nhỏ: trẻ con không biết rằng có cửa dục
trong thân thể nó. Nhưng khi trẻ con lớn lên và trở thành
thanh niên, bỗng nhiên một ngày nào đó nó sẽ trở nên nhận
biết về cửa đó. Qua cửa dục đó nó có thể đi vào trong thế
giới; đấy nữa cũng là một cửa để đi ra khỏi thân thể. Và nhớ
lấy, đây là lí do tại sao có nhiều ao ước đến thế về dục. Vì nó
mà chúng ta có khả năng chảy ra khỏi thân thể mình trong
thoáng chốc, nhưng chỉ thoáng chốc thôi. Trong thoáng chốc
thân thể bị quên lãng đi và chúng ta đắm chìm trong tự

nhiên.
Một trong những cửa của con người hướng ra tự nhiên -
hướng xuống - và cửa nữa hướng tới tính thượng đế - hướng
lên. Khi tâm trí chúng ta chất đầy những ham muốn dục thì
chúng ta gần với thân thể nhất. Và khi chúng ta gần với thân
thể nhất, thế thì cửa mở qua đó chúng ta đi vào trong thế giới
của thân thể khác. Khi chúng ta dửng dưng và rời xa thân
thể, thế thì cửa mở qua đó chúng ta đi vào trong thế giới của
linh hồn. Cả hai cửa này đều có đó trong thân thể.
Trong thân thể có cửa dẫn tới vật chất, và cũng trong
thân thể có cửa dẫn tới tính thượng đế. Nhưng việc không
quan tâm vào thân thể sẽ không xảy ra chỉ bởi suy nghĩ như
vậy. Nếu bạn cứ nghĩ rằng thân thể chỉ là thịt, xương, tuỷ và
không có gì khác, điều này không ích lợi gì cả; suy nghĩ chỉ
nói lên rằng bạn không biết - và đó là lí do tại sao bạn đang
nghĩ.
Nhiều người tự cứ nhủ mãi trong nhiều kiếp, “Có gì
trong thân thể?” Nhưng họ biết rằng có cái gì đó trong thân
thể, nếu không tại sao cần tới lời tự kỉ ám thị này? nếu không
cần gì lặp lại lời gợi ý này cho chính bạn? Họ đang dự định
thuyết phục chính mình, tâm trí mình, đừng đổ vì điều thân
thể nói bởi vì không có gì trong nó cả. Nhưng tâm trí này là
ai mà dính líu vào trong thân thể này? - đấy chính là bản thân
họ. Và mối quan tâm của tâm trí vào thân thể vẫn còn bền
vững, đó là lí do tại sao điều đó cần được thuyết phục.
Kinh này không ngụ ý thuyết phục. Đừng lặp lại nó;
đừng bắt đầu tụng nó khi ngồi nhắm mắt. Kinh này là để khải
lộ. Với việc hiểu kinh này, bằng mắt nhắm, cố tìm kiếm bên
trong thân thể bạn xem liệu có đúng không, như kinh nói,
rằng thân thể này không là gì ngoài xương, thịt và tuỷ.
Đừng chỉ tin vào nó. Việc tin vào nó sẽ nguy hiểm bởi vì
bạn sẽ bắt đầu lặp lại nó. Không, thám hiểm nó đi, tìm kiếm
nó đi. Có thể người thấy đơn giản đùa, có thể ông ta nói dối.
Bất kì cái gì người thấy đã nói đều không phải để cho bạn
tin, mà để biết qua tìm kiếm riêng của bạn.
Tìm kiếm bên trong bản thân bạn đi. Dò dẫm bên trong
về xương bạn. Ấn ngón tay vào thịt và cảm. Sờ vào sọ và
cảm xem cái gì có đó. Thử trở nên quen thuộc với thân thể
bạn từ mọi phía. Cái ngày quen thuộc này được hoàn chỉnh...
Và sao trì hoãn? - nó có thể xảy ra hôm nay. Bạn đã được
trao cho thân thể mình, nhưng bạn chưa bao giờ bận tâm
thám hiểm nó, bạn chưa bao giờ bận tâm xem xét nó. Nhưng
hành vi của con người không thể tin được đến mức có lẽ bạn
có thể được tha thứ.
Tôi biết nhiều bác sĩ đã được học hành và nghiên cứu về
xương, thịt và tuỷ, nhưng họ quá mê đắm như nhau với thân
thể. Bác sĩ mê đắm với thân thể là phép màu! Điều đó có
nghĩa là mù quáng của họ là vô song và không thể giải thích
nổi. Là bác sĩ giải phẫu, họ cưa cắt, mổ xẻ thân thể trên bàn
mổ, vậy mà, giống Majnu, họ cứ hát mãi bài ca ngợi về
Laila. Đây là phép màu thực; tạo ra bùa hộ mạng, vân vân từ
không khí bởi Satya Sai Baba chẳng phải là phép màu chút
nào. Phép màu là ở chỗ bác sĩ, người ngày nào cũng cắt mở
thân thể và biết mọi điều về thịt, tuỷ và chất bài tiết, người
bịt mũi lại để cho mùi hôi thối từ bên trong thân thể không
thể đi vào hơi thở ông ta, người quen thuộc với từng khúc
xương và từng mạch máu trong thân thể và biết không có gì
trong thân thể mà có thể gọi là đẹp cả, cũng trở nên điên
khùng với ham muốn về thân thể ai đó.
Điều rất thú vị đã xảy ra... Tôi đã nói tất cả những điều
này cho một bác sĩ - ông ta là bạn tôi. Ông ta nói, “Bây giờ,
trong khi ông đang kể cho tôi điều này, tôi nhớ lại một tai

nạn. Có lần tôi đã mổ bụng một người đàn bà. Khi mở bụng
ra, tôi bị nôn vì tất cả những gì tôi thấy ở đấy; nó đảo lộn hết
cả. Trong khi tất cả những điều này xảy ra,” ông bác sĩ kể
cho tôi - ông ta là một người thật thà - “đứng cạnh nhau, sự
hấp dẫn vào cô y tá đẹp đang đứng cạnh tôi tự khẳng định
nó. Cái dạ dầy mở ra đang ở đó, và tôi nghĩ làm sao hoàn
thành thật sớm ca mổ vì sau đó tôi định đi xem phim với cô y
tá này.”
Bây giờ đấy là cách thức của tâm trí con người! Chúng ta
đều khéo léo trong việc lừa dối chính mình. Con người này
nữa cũng làm cùng điều như thế. Chẳng mấy chốc ông ta sẽ
ra khỏi phòng mổ, ông ta sẽ cầm tay cô y tá và quên hoàn
toàn, thực ra, cái tay là gì.
Cho nên người trung bình có thể được tha thứ - nhưng
tôi đang nói như vậy chỉ để so sánh với vị bác sĩ này. Bằng
không thì không người nào có thể được tha thứ cả, vì chúng
ta có thân thể riêng của mình và chúng ta không có khả năng
tự mình quen được với với thân thể ấy. Và mọi người bắt đầu
lên đường đi tìm linh hồn của họ! Thậm chí không có khả
năng tự mình làm quen được với thân thể mình, họ vẫn lên
đường đi tìm linh hồn.
Mọi người hỏi tôi, “Làm sao đạt tới linh hồn?” Xin bạn
đủ lòng tốt để trước hết biết rõ về thân thể. Trước hết làm
quen với cái gần gũi với bạn đến thế đã. Và làm quen với nó
trở thành cái thang để vươn lên linh hồn, vì bất kì ai trở nên
quen thuộc với thân thể đều không đồng nhất với nó; và bất
kì ai rời xa khỏi thân thể đều đối diện với linh hồn - lối mở
của người đó hướng tới linh hồn. Và khi bầu trời gặp với
ghatakash này, bầu trời nhỏ bé bên trong cái bình, thế thì
điều xảy ra được gọi là an bình.
Vẫn còn bị cầm tù trong thân thể là nguyên nhân cho bất
ổn, và kinh nghiệm là một với không gian bao la, tràn ngập
khắp bên ngoài nhà tù thân thể, là đi tới an bình. Không có
gặp gỡ với cái tối thượng, không ai đã bao giờ trở nên an
bình. Do đó, mọi nỗ lực khác để trở nên an bình sẽ thất bại.
Nhiều nhất chỉ có thể có ít nhiều bất ổn hơn thôi. Đôi khi còn
nhiều bất ổn hơn, đôi khi ít hơn, tất cả chỉ có vậy. Điều bạn
gọi là an bình không là gì ngoài ít bất ổn, không gì nhiều hơn
thế này - chỉ là bất ổn thông thường. Khi có bất ổn thông
thường, người ta nói mọi thứ là an bình, mọi thứ đều tốt! Khi
bất ổn tăng lên một chút, người ta cảm thấy rắc rối.
Các nhà tâm thần nói rằng toàn bộ công việc của họ là
giữ cho mọi người bất thường một cách bình thường, điên
khùng một cách bình thường. Có hai kiểu người điên trên thế
giới - thực ra chỉ có hai kiểu người thế này: một, người điên
bất thường, họ phải bị giữ trong nhà thương điên; và người
điên bình thường, họ ngồi ở nhà, văn phòng và cửa tiệm mọi
nơi. Khác biệt giữa hai kiểu người này chỉ là ở mức độ điên.
Bất kì người nào thuộc kiểu thứ hai vào bất kì lúc nào cũng
đều có thể đột nhiên nhảy từ cửa tiệm vào nhà thương điên.
Không khó khăn gì trong điều đó, đấy chỉ là vấn đề nảy sinh
theo mức độ.
Và nhiều lần hàng ngày bạn đã tới rất gần nhà thương
điên. Khi bạn tràn đầy tức giận, chỉ vài khoảnh khắc bạn đã
trở thành điên. Vào lúc đó không có gì khác biệt giữa bạn và
người điên. Bạn sẽ làm cùng những việc mà người điên làm.
Khác biệt duy nhất là ở chỗ điều này thỉnh thoảng xảy ra cho
bạn, tính điên khùng này của bạn chỉ thỉnh thoảng xảy ra,
trong khi tính điên khùng của ai đó khác đã yên vị; nó không
rời bỏ họ, nó trở thành tĩnh tại. Bạn có chút ít tính lỏng trong
cái điên khùng của mình, nó giữ cho bản thân nó tuôn chảy.
Ai đó khác đã đông đặc trong nó, đông cứng trong nó như
băng.

Các nhà gia tâm thần nói rằng toàn thể công việc của họ
là kéo lại những người đã đi xa hơn một chút trong cái điên
của họ và đem họ trở lại cùng với đám đông điên thường. Họ
nói họ không thể làm được gì nhiều hơn thế; rằng bằng cách
nào đó, qua thuyết phục và dụ dỗ, chữa trị và liệu pháp, có
thể trong một hay hai năm, nhiều nhất chúng ta có thể đưa họ
trở lại với cửa tiệm hay văn phòng nơi họ đã từ đó tới. Họ
được phép điên đến mức không làm ảnh hưởng đến công
việc hàng ngày mà họ đang làm.
Bất ổn đã trở thành bản tính của chúng ta. Và điều tự
nhiên duy nhất là như vậy bởi vì chỉ có một ý nghĩa cho việc
trong an bình: khi con sông cuộc đời bạn rơi vào trong đại
dương cuộc sống, trong khoảnh khắc gặp gỡ đó có an bình.
Không gặp được cuộc sống vũ trụ, không có an bình.
Việc trở thành cái hỗ trợ tự toả sáng, tự tạo của tất cả
linh hồn và linh hồn vĩnh cửu, Brahman, thực tại tuyệt
đối, là vứt bỏ cảm giác về thân thể ông và cả thân vũ trụ,
dường như đấy chỉ là bình chứa chất bài tiết.

Không chỉ có thân thể này phải từ bỏ, mà thân thể bao la
này ta thấy như vũ trụ cũng phải bị từ bỏ. Con người là dạng
thu nhỏ của vũ trụ. Có thân thể này bao quanh bạn, và bên
trong nó bạn là ngọn lửa bất tử của linh hồn. Tương tự, thân
thể của cái toàn thể là vũ trụ này, và bên trong nó là ẩn giấu
Brahman, linh hồn vũ trụ. Giác quan của thân thể này cũng
phải bị từ bỏ, nhưng ngay cả giác quan của thân vũ trụ bao la
này trải khắp mọi nơi có được từ bỏ đi chăng nữa - điều đó
cũng trở thành vô nghĩa.
Khi một người không đồng nhất với thân thể mình,
người đó kinh nghiệm linh hồn mình. Cố hiểu điều này cho
rõ ràng. Khi một người vứt bỏ gắn bó với thân thể mình, thế
thì chói sáng tới từ đôi mắt người đó lần đầu tiên là chói sáng
của ngọn lửa riêng của người đó, linh hồn riêng của người
đó; đó chính là chói sáng của ghatakash - bầu trời bên trong
cái bình. Và khi ai đó trở nên tự do ngay cả với thân thể vũ
trụ của cái toàn thể, thế thì điều người đó kinh nghiệm là
chói sáng của ngọn lửa Brahman, cái tuyệt đối.
Đây là khác biệt duy nhất giữa linh hồn và linh hồn vũ
trụ. Linh hồn nghĩa là bạn kinh nghiệm chỉ ngọn lửa tí hon.
Linh hồn vũ trụ nghĩa là bây giờ bạn đang đứng trước siêu
mặt trời. Được tự do khỏi thân thể riêng của người ta, người
ta kinh nghiệm linh hồn này, được tự do khỏi thân thể vũ trụ
người ta kinh nghiệm linh hồn vũ trụ. Nhưng khác biệt chỉ ở
mức độ. Cho nên với một người đã đạt tới linh hồn, không
còn chướng ngại, không còn cản trở; người đó cũng có thể dễ
dàng thực hiện bước nhảy thứ hai.
Làm cho cảm giác bản ngã, mà đã kiểm soát thân thể, trở
thành cái ta ý thức phúc lạc, từ bỏ thân thể thô kệch và
thành linh hồn đơn độc bất tử của ông

Ý nghĩa của sannyas là ở chỗ khuôn mặt chúng ta thường
xuyên hướng lên bầu trời. Grihastha, chủ hộ, thỉnh thoảng có
được thoáng nhìn về bầu trời thông qua nỗ lực, nhưng lại
sớm trở về nhà mình, thân thể.
Được rõ ràng về nghĩa của grihastha đi; grihastha nghĩa
là người giữ việc trở về thân thể mình. Từ griha, ngôi nhà,
không nói tới ngôi nhà bạn ở trong đó đâu, nó nói tới ngôi
nhà - thân thể - nơi bạn được sinh ra. Và người đã trở nên
yên vị trong ngôi nhà này là grihastha. Đôi khi người đó có
thoáng nhìn về bầu trời nữa, nhưng người đó giữ việc quay

trở về thân thể. Đôi khi miệng bình quay lên trời, nhưng rồi
nó lại nhanh chóng quay ngược xuống - lại mắc kẹt. Vẫn còn
quay ngược xuống đã trở thành thói quen của nó. Và bởi vì
thói quen này, việc quay ngược xuống tạo ra cảm giác là điều
đúng - vì thói quen này, thói quen lâu dài.
Nếu một người bị làm cho đầu quay xuống đất ngay từ
lúc sinh ra và lớn lên vẫn trong cùng tư thế ấy, thế thì nếu
một ngày nào đó người đó được yêu cầu đứng thẳng dậy -
trên đôi chân mình - người đó sẽ hỏi tại sao người đó bị làm
cho đứng sai đi thế này! Cũng là tự nhiên, bởi vì bây giờ
người đó đã quen đứng đầu quay xuống đất.
Tôi đã từng nghe... Có một bộ lạc nhỏ tại Nam Mĩ; đó là
một bộ lạc quãng ba trăm người sống trên một đỉnh núi nhỏ,
và trên núi đó có một kiểu ruồi đốt làm cho người ta mù. Tất
cả ba trăm người của bộ lạc đó đều mù. Tất cả trẻ con sinh ra
đều có khả năng nhìn nhưng rồi chúng bị mù trong vòng ba
tháng, vì vào lúc đó ruồi đã đốt chúng. Do đó không người
nào trong bộ lạc đó nhận biết rằng có cái gì như khả năng
nhìn. Làm sao đứa trẻ ba tháng có thể biết được về mắt?
Trước khi nó lớn hơn ba tháng nó đã mù. Và tất cả những
người khác cũng đều mù cả.
Bây giờ nếu do may mắn một đứa trẻ lớn lên và thị lực
vẫn còn nguyên, các ông lang của bộ lạc đó chắc chắn sẽ liệt
chúng là đứa trẻ bất thường và phải mổ mắt cho nó. Cuộc mổ
như thế để phá huỷ mắt dường như là điều hoàn toàn bình
thường phải làm. Họ sẽ nói, “Lại có những thứ như mắt sao?
Đã ai có mắt chưa? Không có ai cả. Trường hợp này chắc
chắn là sai lầm nào đó của tự nhiên!” Việc phá huỷ mắt qua
mổ sẽ trở thành tuyệt đối cần thiết. Mù là tự nhiên đối với
họ; nó đã trở thành thói quen.
Điều chúng ta đang là thông thường, dường như là tự
nhiên. Nhưng không cần điều đó là tự nhiên. Cố hiểu điều
này. Thói quen có thể dường như là bản tính của bạn, nhưng
thói quen không phải là bản tính. Cái gì là khác biệt giữa hai
điều này? Thói quen có nghĩa là cái chúng ta đã từng làm và
do đó chúng ta tiếp tục làm nó. Bản tính nghĩa là cái sẽ tiếp
tục xảy ra cho dù chúng ta vứt bỏ mọi việc làm của mình; nó
là cái gì đó không cần phải làm.
Chính thói quen của chúng ta hết kiếp nọ đến kiếp kia là
bị gắn vào thân thể, thói quen của vô lượng kiếp; nó không
phải là bản tính của chúng ta. Cho nên một khi bạn đã có
kinh nghiệm đúng về bản tính đúng đắn, thói quen này sẽ tan
vỡ. Người ta có thể vẫn có thoáng nhìn, nhưng điều đó
không tạo ra khác biệt gì. Thoáng nhìn tựa như tia sét đột
nhiên xảy ra, và thế rồi bóng tối khép lại, thế rồi chúng ta lại
yên vị trong thói quen cũ.
Sannyasin là người đã quyết định, “Bây giờ ta sẽ phá vỡ
sự đồng nhất của tâm trí với ngôi nhà, thân thể, và ta sẽ tiếp
tục giữ nhận biết về bầu trời rộng mở. Và nỗ lực của ta sẽ
tiếp tục không dừng - ngồi, đi, bước và ngay cả trong ngủ
nữa - để cho chừng nào ta có thể đảm đương được, ta sẽ nhận
biết rằng tâm trí mình không đồng nhất bản thân mình với
thân thể, rằng linh hồn ta vẫn giữ việc chảy vào đại dương
bao la của cái toàn thể.”
Và khi tôi nói “giữ tuôn chảy,” tôi không chỉ dùng lời
nói. Khi bạn làm thực nghiệm này, bạn sẽ kinh nghiệm rằng
bạn thực tại là luồng chảy thường xuyên. Khi bạn sẽ đối diện
với linh hồn, bạn sẽ cảm thấy rằng bạn liên tục được làm
trống rỗng, rằng giống như sông Hằng bạn đang rơi vào
trong đại dương. Ghi nhớ này nên còn liên tục.

Hỡi người hồn nhiên! Như thành phố có thể được thấy
được phản xạ trong gương, Ta là Brahman đó, thực tại
tuyệt đối, trong người mà việc phản xạ thế giới này thành
thấy được - biết được điều này, hỡi người một hồn nhiên,
là được hoàn thành.

Hệt như phản chiếu được thấy trong gương... Nhưng
phản chiếu được thấy trong gương không phải là thực tại;
thực tại là gương mà trong đó việc phản chiếu được thấy.
Bạn có nhận biết rằng khi bạn nhìn vào trong gương, bạn
thấy sự phản chiếu và không thấy gương không? Khi bạn
đứng trước gương, bạn có bao giờ thấy bản thân mình đang
nhìn gương không? Không, bạn bao giờ cũng thấy khuôn
mặt mình, không thấy gương. Và khuôn mặt, không có đó
trong gương được thấy gương có đó là không được thấy.
Nếu gương có thể được làm ra mà trong đó phản chiếu
của khuôn mặt bạn không thể được thấy, thế thì bạn sẽ không
chú ý chút nào rằng có gương ở đó. Bởi vì khuôn mặt bạn
được thấy, bạn suy diễn rằng có gương. Gương chỉ được suy
ra bởi vì bạn có khả năng thấy khuôn mặt mình; cho nên chỉ
khuôn mặt được thấy, không phải gương. Vâng, nếu có
khiếm khuyết nào đó trong gương, đó là vấn đề khác. Gương
càng không khiếm khuyết, gương càng thuần khiết, nó sẽ
càng ít được nhìn tới. Nếu chúng ta có thể làm ra một chiếc
gương hoàn hảo không khuyết tật, nó sẽ không được thấy
chút nào.
Toàn bộ câu chuyện về Mahbharata đã xảy ra bởi vì việc
chế tạo ra chiếc gương không khiếm khuyết như thế. Đấy chỉ
là chuyện đùa, nhưng chuyện đùa này đã chứng tỏ rất đắt giá.
Duryodhana và tất cả anh em ông ta đều là con của một
người mù, cho nên chuyện đùa là về họ. Dẫu sao chuyện đùa
này cũng không có hương vị tốt lành, bởi vì chuyện đùa mà
có thể làm tổn thương ai đó là nhiều bạo hành hơn là trò đùa.
Pandavas đã xây dựng một lâu đài mới và đã mời người
anh họ tới thăm nó. Những gương tuyệt đối không khiếm
khuyết đã được lắp vào ngôi nhà đó; các gương không lỗi
đến độ chúng không thấy được như là gương. Cho nên nếu
một gương được lắp đối diện với cửa ra vào, cửa dường như
trong gương còn bản thân gương không thể được chú ý tới.
Ông Duryodhana đáng thương, trong khi cố gắng đi qua
những cánh cửa như thế, va đầu vào gương và ngã lăn.
Draupadi thấy điều này và phá lên cười: cái cười đó sinh ra
toàn bộ Mahabharata. Đó là sự trả thù cho cái cười đó.
Theo một cách nào đó, đấy không phải là điều gì nghiêm
trọng cho lắm, nhưng đôi khi ngay cả một cái cười khẽ cũng
có thể đem ra biết bao bạo hành! Điều mỉa mai đằng sau cái
cười là thâm: “Ông là con kẻ mù, cho nên tự nhiên làm sao
ông có thể thấy được? Nó nhất định là như vậy rồi, vì ông là
con kẻ mù mà.” Do đó cái cười: “Ông nhất định phải ngã,
ông con kẻ mù ơi - ông thấy cửa ở chỗ không có cửa!”
Gương hoàn toàn không khiếm khuyết đã được dùng, do vậy
phản xạ trong gương là được thấy nhưng gương không thấy
được.
Người thấy nói:
Hỡi người hồn nhiên! Như thành phố có thể được thấy
qua phản xạ trong gương, Ta là Brahman đó, thực tại
tuyệt đối, trong người mà việc phản xạ thế giới này là
thấy được - biết được điều này, hỡi người hồn nhiên, là
được hoàn thành.

Linh hồn bên trong chúng ta là gương sạch bong, không
khiếm khuyết; toàn thể thế giới được thấy được được phản
xạ trong nó. Cho nên chúng ta chạy đuổi để tóm bắt thế giới

nhưng chúng ta không thấy gương trong đó thế giới được
thấy được phản xạ.
Nếu viên kim cương được thấy, viên Kohinoor, bạn chạy
theo nó. Tuy nhiên, bạn thậm chí không xem xét tìm ra đây
là ai trong người mà kim cương được phản xạ, người đang
thấy nó. Cái gì là cái gương đó bên trong tôi mà phản xạ viên
kim cương ngay vào chiều sâu bên trong? Trăng được thấy
trên trời. Ai có đó bên trong đang phản xạ trăng?
Có một cái gương xoay tròn bên trong chúng ta cứ phản
xạ toàn thể thế giới trong nó. Chừng nào bạn còn chạy đuổi
bắt thế giới, bạn vẫn còn đang cố gắng bắt cái phản xạ. Ngày
bạn bắt đầu nhận biết về gương bạn đã đi vào thế giới của
chân lí. Và người thấy gương không trở nên mê đắm cái
phản xạ. Điều đó không có nghĩa là sẽ không còn phản xạ
trong gương; không, chúng sẽ hình thành, nhưng khăng
khăng bắt chúng đã bị vứt bỏ.
Và gương không bao giờ bị ô nhiễm bởi phản xạ. Không
thành vấn đề bạn có thể đã vẩn vơ lang thang qua bao nhiêu
thế giới, gương của bạn bao giờ cũng vẫn thuần khiết và hồn
nhiên. Hiểu điều này cho đúng. Đây là lí do tại sao trong
kinh lại nói: “Hỡi người hồn nhiên!” Nó nói với bạn đấy,
“Hỡi người hồn nhiên!” Ngay cả bạn cũng hoài nghi rằng
người thấy có lẽ đã sai lầm nào đó trong việc nói với bạn.
“Về tôi sao? Gọi tôi là hồn nhiên sao?” Nhưng không, điều
đó được nói có lí do đấy. Dù bao nhiều lỗi lầm có xảy ra
cũng không thành vấn đề, gương bao giờ cũng vẫn còn thuần
khiết và hồn nhiên.
Bạn có thể đặt bất kì cái gì phía trước gương - ngay cả
những chất bài tiết hôi hám - nó sẽ phản xạ đủ cả. Nhưng
bạn có cho rằng gương bị ô nhiễm bởi thứ hôi hám ấy
không? Không, dẹp bỏ những chất bài tiết bạn đã đặt trước
nó, và gương lại vẫn như trước đây; sẽ không có dấu vết nào
của rác rưởi còn lại đằng sau trong gương.
Cho nên nhiều điều đã xảy ra phía trước gương của bạn,
nhưng nó chỉ xảy ra trước gương thôi, không cái gì đi vào
bên trong nó. Không cái gì có thể đi vào trong nó. Đây là lí
do tại sao người ta đã nói: “Hỡi người hồn nhiên.”
Đây là khác biệt rất cơ bản giữa Ki tô giáo và Hindu
giáo. Ki tô giáo đòi hỏi bạn phải chấm dứt phạm tội, tư
tưởng Hindu yêu cầu bạn biết rằng bạn đã hồn nhiên. Ki tô
giáo nói, “Xoá sạch mọi tội lỗi, vứt bỏ mọi việc làm sai trái”;
tư tưởng Hindu nói, “ Cái gì có đó để bị xoá? Bạn là gương;
chỉ cần biết ngần này và mọi thứ đã được xoá hết - thế thì
bạn đã thuần khiết và hồn nhiên.”
Đấy là một và cùng điều. Cho dù người ta có tham gia
vào việc xoá đi mọi thứ, theo thời gian mọi sai trái đã bị xoá
đi trước gương, gương sẽ trông thuần khiết - nó đã thế rồi.
Cho nên nó có thể bắt đầu từ đầu này nữa.
Cũng có cùng khác biệt giữa tư tưởng Jaina và Hindu
nữa. Đây là điều rất thú vị. Nhấn mạnh của Jaina cũng nằm ở
việc bỏ đi tội lỗi: vứt bỏ mọi tội lỗi, sao cho khi tất cả tội lỗi
đã bị vứt bỏ, bạn sẽ có thể thấy gương thuần khiết - mặc dầu
gương đã thuần khiết ngay chỗ đầu tiên. Tư tưởng Hindu
nhấn mạnh: Tại sao phải làm những nỗ lực vô nghĩa trong
việc vứt bỏ tội lỗi làm gì? Chỉ nhận ra chân lí, rằng bạn là
gương; thế thì cho dù tội lỗi tiếp tục còn đó trước gương, bạn
vẫn là hồn nhiên, vô tội. Do đó cả Jaina lẫn Ki tô giáo bao
giờ cũng cảm thấy rằng tư tưởng Hindu có đôi chút nguy
hiểm; nó không dành nhiều chỗ cho khái niệm của bạn về
đạo đức và tội lỗi và đức hạnh.
Nó là nguy hiểm. Chân lí càng sâu sắc, nó càng nguy
hiểm, vì chân lí càng sâu sắc, nó càng trở nên mạnh hơn. Và

trong sức mạnh có nguy hiểm. Nếu nó rơi vào tay những
người sai trái, thế thì có nguy hiển lớn. Thường những người
sai đi tìm sức mạnh, cho nên nó lại rơi vào tay họ. Nhưng tư
tưởng Hindu rất, rất sâu sắc. Toàn bộ vấn đề là ở chỗ tâm
thức bên trong của bạn chỉ là gương. Bất kì cái gì bạn có bên
trong, nó đều ở bên ngoài tâm thức bạn. Không cái gì đã bao
giờ đi vào được bên trong tâm thức bạn, mặc dầu người ta
cảm thấy rằng dường như điều này xảy ra.
Nếu bạn đặt cái gì đó trước gương, nó xuất hiện sâu bên
trong gương cứ như là nó ở xa gương. Đấy chỉ là luật đơn
giản của tia sáng và tỉ lệ của chúng: vật ở càng xa gương, nó
xuất hiện càng sâu hơn bên trong gương. Cho nên chú ý đến
một nguyên lí rất hay: cái gì đó dường như càng ở sâu bên
trong bạn, biết rằng nó càng ở xa bạn. Nếu cái gì đó dường
như hoàn toàn bên trong, bạn có thể tuyệt đối chắc chắn rằng
không có thể có cái gì ở ngoài hơn nó. Như thường hay xảy
ra, mọi người nói, “Tình yêu này rất sâu trong tôi.” Điều đó
có nghĩa nó là cái gì đó xa hẳn bạn. Khi bạn nói rằng tình
yêu của ai đó đã đi vào rất sâu trong tim bạn, bạn phải biết
rằng bạn đang định chạm tới cái gì đó ở xa hẳn khỏi bạn.
Điều đó có nghĩa là ai đó đã xa hẳn bạn và do đó được thấy
như sâu bên trong gương của bạn.
Mọi thứ ở gần hơn dường như nông hơn, và những thứ ở
xa hẳn dường như sâu hơn trong gương. Lần nữa không nhất
thiết là nếu một vật dường như sâu trong gương, bản thân
gương phải thực sự sâu bên trong. Ngay cả một chiếc hồ nhỏ
mà mặt trăng cũng dường như sâu bên trong hồ cứ như là nó
ở xa trên trời, còn hồ thì không sâu được đến như thế. Gương
của bạn sâu thế nào? Đặt một gương trên đất và mặt trăng sẽ
xuất hiện trong nó sâu như khoảng cách của nó xa trên trời.
Việc phản xạ có thể đi vào bên trong sâu đến đâu, chúng
thực tại không bao giờ xuyên thấu vào được. Không cái gì có
thể đi vào bên trong bạn được, nó không thể đi vào được. Nó
chỉ dường như là đi vào bên trong bởi vì có gương bên trong.
Tâm thức chúng ta là gương, gương thuần khiết nhất, thuần
khiết đến mức... Vì dù kính có thuần khiết đến đầu cũng
không thành vấn đề, nó vẫn cứ là kính; vật chất chừng ấy vẫn
có đó. Nhưng tâm thức thuần khiết nhất...!
Cho dù chúng ta có làm ra gương bằng không khí, điều
đó nữa cũng không thể thuần khiết như gương tâm thức. Nếu
chúng ta làm gương không khí, và cái gì đó được phản xạ
trong nó, chúng ta sẽ lên đường tìm kiếm cái phản xạ đó qua
gương, vì gương sẽ không cản trở ta theo mọi cách. Nó là
gương không khí; bạn sẽ đi qua nó.
Gương tâm thức thuần khiết hơn nhiều, vì tâm thức là
hiện tượng tinh tế nhất trong thế giới. Nó là năng lượng vi tế
nhất. Toàn bộ thế giới đều được phản xạ trong nó.
Người thấy nói, “Hỡi người hồn nhiên! Hệt như sự phản
xạ thấy được qua gương, thế giới này cũng xuất hiện trong
ông như qua gương. Biết được điều này - thừa nhận rằng ‘Ta
là Brahman,’ rằng ‘ta là gương, không phải là cái được phản
xạ mà là cái trong đó mọi vật được phản xạ’ - là được hoàn
thành.”
Đơn giản không có sự hoàn thành nào khác hơn điều
này. Chừng nào người ta còn chưa nhận ra sự thuần khiết của
tâm thức mình, người ta vẫn còn chưa hoàn thành. Người đó
có thể cứ làm bất kì cái gì, người đó có thể cứ đạt tới mọi
thứ, nhưng tất cả những thành tựu đó sẽ đều vô dụng. Tất cả
những cái được làm sẽ bị hoàn tác lại; mọi việc chạy quanh
cũng chỉ như vẽ đường trên nước - chúng biến mất ngay
trước khi người ta kết thúc việc vẽ chúng. Người ta có thể cứ
vẽ mãi những đường này, nhưng chúng sẽ chỉ biến đi hoài.

Đến cuối đời, vào khoảnh khắc chết, mọi người đã tìm
kiếm những cái phản xạ mới nhận ra rằng họ đã vẽ các
đường trên nước. Mọi thứ biến mất: mọi kính trọng, mọi địa
vị, mọi của cải, mọi tích luỹ - mọi thứ đều biến mất. Người
ta phát hiện ra vào lúc chết rằng đó là sai lầm lớn, rằng người
ta đã vẽ những đường dường như trên đá nhưng thực tại
người ta vẽ trên nước. Nhưng điều đó chỉ được phát hiện ra
khi không cái gì có thể được làm về nó.
Nhưng nếu nó có thể được biết hôm nay, nếu nó có thể
được biết bây giờ, thế thì cái gì đó là có thể; việc vẽ trên
nước có thể đi tới chấm dứt. Và người đã chọn dừng việc vẽ
trên nước đi vào một thế giới khác, một thế giới trong đó
không cái gì chết.
Có một thế giới của cái chết, có một thế giới khác của
cái bất tử. Bất kì ai rời khỏi cái chết đều đạt tới cái bất tử.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#5Buông bỏ và bay

Chỉ người tự do khỏi nắm giữ vào bản ngã mới đạt tới tự
tính. Do đó, trở nên trong sạch không tì vết tựa như
trăng tròn, người ta trở nên cực lạc và tự toả sáng.
Dừng cảm giác làm, mọi lo âu dừng. Dừng lo âu, mọi
ham muốn dừng. Dừng các ham muốn là giải phóng - và
điều này được gọi là jivanamukti, giải thoát trong khi
sống.
Thấy tất cả, mọi nơi, theo mọi hướng, như Brahman,
thực tại tuyệt đối - với chín muồi của cảm giác thiện chí
như thế mà ham muốn dừng lại. Chớ bao giờ lãng quên
lòng trung thành của ông với Brahman, thực tại tuyệt
đối, bởi vì đó là cái chết duy nhất, những người đã bắt rễ
chắc vào Brahman nói.
Dù có bị gạt sang bên, tảo vẫn không mất thời gian để
phủ kín lại mặt nước. Tương tự, nếu người trí huệ đi
chệch lòng trung thành với Brahman dù chỉ một thoáng
chốc, ảo giác bao phủ người đó.

Trong kinh này nhiều điều quí giá đã được nói lên - không
chỉ quí giá mà còn nguyên bản nữa.
Chỉ người tự do khỏi nắm giữ vào bản ngã mới đạt tới tự
tính.
Chân lí rất sâu sắc được khải lộ trong điều này. Bản ngã
đã không bắt giữ bạn, chính bạn đã bắt giữ bản ngã. Thế giới
không bắt giữ bạn, chính bạn đã bắt giữ thế giới. Đau khổ
không níu bám lấy bạn, chúng là chính sáng tạo riêng của
bạn. Đau khổ không săn đuổi bạn, chúng không lấy quyết
tâm nào để gây cho bạn rắc rối; chúng đến với bạn chỉ do lời
mời của bạn.
Thông thường chúng ta không nghĩ theo cách này.
Chúng ta nghĩ: Sao có những đau khổ này? Sao có những
thống khổ trần gian này? Sao có vòng sinh tử? Tại sao bản
ngã này dằn vặt tôi? Làm sao được tự do với nó? Thường
xuyên ý nghĩ này chạy bên trong chúng ta: Làm sao được tự
do với nó? Lúc này lúc khác tất cả các bạn đã từng đương
đầu với câu hỏi này - làm sao được tự do với nó? - bằng
không thì đã không thể nào có khả năng cho bạn đến đây.
Nhưng bản kinh này còn làm bạn thất vọng nhiều hơn,
bởi vì nó nói chính câu hỏi trở nên tự do không nảy sinh bởi
vì bản ngã không níu bám bạn, thế gian không ngăn trở bạn
theo bất kì cách nào; sinh thành của bạn không gợi tới bạn,
nó tất cả là do ý chí của riêng bạn. Cho nên hỏi “Làm sao
thoát khỏi mọi thứ này?” là sai. Điều đúng cần phải hỏi là,
"Làm thế nào, theo cách thức nào và với thủ thuật nào mà tôi
vẫn đang níu bám vào mọi khốn khổ và rắc rối này?”
Nhưng kinh này sẽ làm bạn thất vọng lớn, bởi vì nó nói
chính câu hỏi trở thành tự do không nảy sinh bởi vì bản ngã
không nắm giữ bạn, thế giới không dừng bạn lại theo bất kì

cách nào; việc sinh của bạn đã không cầu khẩn tới bạn, nó tất
cả đều do ý chí riêng của bạn. Cho nên hỏi, "Làm sao được
tự do với mọi điều này?" là sai. Điều đúng phải hỏi là, "Làm
sao, bằng cách nào và với thủ thuật nào, tôi đang ôm giữ tất
cả những khổ cực và rắc rối này?"
Người ta không nên nêu ra câu hỏi về việc trở nên tự do
với mọi điều này. Câu hỏi nên là: Phương pháp luận của
chúng ta là gì, mẫu hình nào mà theo đó chúng ta cứ ôm giữ
lấy đau khổ? Chúng ta cứ bắt giữ đau khổ, và với tay riêng
của mình, chúng ta cứ áp đặt lên bản thân mình nhiều thế
gian hơn, nhiều sinh thành hơn, nhiều tái sinh hơn. Câu hỏi
nên là: Tại sao chúng ta cứ tạo ra những mở rộng mới và bầu
trời các ham muốn? Đây là điều cần được hiểu.
Điều này có nhiều nghĩa được ngụ ý. Một nghĩa sẽ là ở
chỗ giải thoát không phải là thành đạt nào đó cần được đạt
tới. Thế gian chắc chắn sẽ mất đi, nhưng giải thoát không
được đạt tới. Nếu bạn sẵn sàng vứt bỏ thế gian, thế thì bạn sẽ
thấy rằng giải thoát của bạn đã là hoàn cảnh rồi. Bạn đã tự
do, nhưng bạn đã xoay xở để vẫn còn trong tù túng qua việc
tự lừa mình.
Nếu bạn thấy cách vẹt bị bắt trong rừng bạn sẽ hiểu. Một
chiếc dây thừng được buộc qua hai cọc đỡ. Khoảnh khắc vẹt
bay tới và đậu lên dây thừng, nó lập tức bị treo lộn ngược bởi
vì dây thừng đã xoay do sức nặng của nó. Bây giờ con vẹt
cảm thấy rằng nó bị bắt. Con vẹt bị treo lộn ngược cảm thấy
rằng nó bị bắt, bị bắt thật tồi tệ; chân nó quắp vào dây, bây
giờ không còn cách nào thoát nữa. Chính con vẹt càng bám
chặt vào sợi dây, dây không giữ nó chút nào. Nhưng cái mà
vẹt cảm thấy cũng dường như logic: “Dây treo ngược mình
thì chắc phải giữ chặt mình rồi, nó phải giữ chắc mình!”
Cho nên vẹt ta cứ thế mà bị treo ở đó. Nó cố gắng đủ
mọi cách để đứng thẳng dậy để có thể bay được, nhưng nó
không thể nào xoay xở làm điều đó được bởi vì sợi dây rất
nhẹ so với trọng lượng con vẹt - cho nên dù nó cố gắng đến
đâu, nó bao giờ cũng đung đưa lại vị trí lộn ngược. Do vậy,
nó càng cố gắng, nó càng bị thuyết phục là nó không còn
cách nào để thoát được.
Nếu con vẹt có thể hiểu, nó có thể không giữ dây nữa và
bay ngay cùng khoảnh khắc đó. Nhưng trước hết nó cứ cố
ngoi về vị trí thẳng đứng. Thậm chí nếu nó bỏ việc giữ dây
trong trạng thái lộn ngược, nó có thể bay xa bởi vì dây đâu
có bắt giữ nó. Nhưng con vẹt chưa bao giờ bay ở vị trí đầu
lộn ngược xuống đất; bất kì khi nào bay nó đều bay ở vị trí
đứng thẳng. Nó chỉ biết mỗi một cách bay. Nó nghĩ rằng có
lẽ việc bay có mối nối không tránh khỏi nào đó với việc
đứng thẳng trên hai chân.
Làm sao để con vẹt bị treo ngược ấy hiểu rằng nó cũng
có thể bay được ngay ở đây và bây giờ, và rằng nó không bị
bắt chút nào? Nhưng bởi vì nó đang bị treo ngược nên nó sợ
rằng nếu nó bỏ sợi dây, nó sẽ bị ngã xuống đất và chết. Cho
nên nó bám chặt vào sợi dây. Và rồi dù mãi lâu sau người
bẫy vẹt mới tới, người đó sẽ thấy con vẹt đang bị treo ở đó.
Tân thức con người ít nhiều ở trong cùng tình huống này.
Không ai bắt giữ bạn. Ai quan tâm tới việc bắt giữ bạn? Thế
gian này không quan tâm gì tới việc nắm giữ bạn đâu. Cái gì
có thể là mục đích, điều thế gian này thành đạt được qua việc
nắm giữ bạn? Không, không ai quan tâm tới việc nắm giữ
bạn cả. Bạn đã nắm giữ bản thân mình. Nhưng có những ảo
tưởng cho bạn ý tưởng rằng bạn bị người khác nắm giữ.
Ảo tưởng lớn nhất là ở chỗ bạn nghĩ bản thân mình giá
trị đến mức toàn thế giới đều quan tâm tới việc bắt giữ bạn.
Đây là tính chất bản ngã cảm thấy rằng mọi khổ đều đang đổ

dồn về mỗi bạn; rằng biết bao nhiêu khổ chú ý thế tới bạn;
rằng mọi địa ngục đều được tạo ra cho bạn - chúng tất cả chỉ
dành cho bạn, và bạn ngồi ở trung tâm! Dường như toàn bộ
bố trí vũ trụ này vận hành vì bạn - và bạn không là gì ngoài
con vẹt bị treo ngược trên dây! Nhưng lí do cho việc tạo ra
ảo tưởng này ít nhiều cũng giống như lí do cho con vẹt.
Ngay khi đứa trẻ con người được sinh ra, nhiều biến cố
bi kịch đã xảy ra bên cạnh. Chúng là cần thiết, đó là lí do tại
sao chúng xảy ra. Đứa trẻ con người được sinh ra là kẻ
không tự lo liệu được nhất trong tất cả các con vật trong thế
giới này. Con của loài vật khác được sinh ra dều tự lo liệu
được cho chúng. Con của các loài vật khác đều có thể bước
đi, chạy và có thể bắt đầu đi tìm thức ăn ngay khi chúng
được sinh ra, nhưng con của con người sẽ cần hai mươi
nhăm năm sau khi sinh mới sẵn sàng đi tìm thức ăn riêng.
Những hai mươi nhăm năm!
Con của con người là yếu đuối nhất trong tất cả các loài
vật. Các nhà sinh vật nói rằng cái gì đó đã sai ở đâu đó. Họ
nói rằng để có sinh thành chín muồi, con của con người nên
còn trong bụng mẹ hai mươi mốt tháng. Nhưng phụ nữ con
người lại yếu đuối, cô ấy không thể giữ được đứa trẻ lâu đến
thế trong bụng. Do vậy theo một số nhà sinh vật, toàn bộ loài
người đều bị đẻ non. Không đứa trẻ con người nào được sinh
ra đã phát triển đầy đủ, tất cả đều mới phát triển có một
phần. Ngược lại, con của mọi loài vật khác sinh ra đều phát
triển đầy đủ.
Nhưng với đứa trẻ con người, việc sinh ra mới phát triển
một phần này vừa là ân huệ mà cũng vừa là tai ương. Trong
thế giới này chẳng cái gì là một mặt, bao giờ cũng có hai mặt
cho mọi thứ. Điều không may là đứa trẻ con người yếu đuối,
nhưng đây cũng là ân huệ bởi vì do cái yếu đuối đó mà con
người trở thành cao siêu hơn mọi con vật khác. Có một số lí
do sâu sắc cho điều đó. Bởi vì đứa con của con người được
sinh ra rất yếu ớt - nó cần có trợ giúp lớn lao, bằng không nó
không thể tồn tại được - chỉ để cung cấp sự trợ giúp đó mà
đơn vị ‘gia đình’ đi vào sự tồn tại; bằng không thì không cần
đến gia đình làm gì. Trong loài vật không có đời sống gia
đình bởi vì điều đó không cần thiết. Đứa trẻ con người sẽ
chết nếu không có gia đình; do đó phải có người mẹ, người
bố rồi cả thể chế thiêng liêng về gia đình. Tất cả những điều
đó được sinh ra do cái yếu đuối của đứa trẻ.
Trên cơ sở gia đình, xã hội, dân tộc, toàn bộ mạng lưới
nền văn minh cũng ra đời. Và bởi vì đứa trẻ con người được
sinh ra không tự lo liệu lấy cho mình được, cho nên nó
không có bản năng cơ bản. Con của các loài vật được sinh và
nó tới với thông minh - đủ cho nó sống cuộc đời nó. Nhưng
con của con người không tới với thông minh như thế; nếu
chúng ta bỏ mặc nó không để ý tới nó sẽ chết. Không có
cách nào cho nó sống sót. Đây là lí do tại sao đứa trẻ con
người phải được huấn luyện.
Không con của loài vật nào cần huấn luyện. Đứa trẻ con
người cần dạy dỗ. Nó không tới mà được chuẩn bị với cái gì,
mọi thứ đều phải được dạy. Do đó có trường phổ thông, cao
đẳng và đại học. Đây là những thể chế được sinh ra là do cái
yếu ớt của con người. Chúng ta phải truyền đạt tất cả qua
giáo dục, mọi thứ; hết thứ nọ đến thứ kia cần được dạy. Nỗ
lực lớn đã được thực hiện, vậy mà vẫn không có chắc chắn là
đứa trẻ sẽ học! Do vậy mọi thu xếp về giáo dục và ước định
đã được phát triển bởi vì cái yếu ớt này của đứa trẻ con
người. Kinh này có mối quan hệ nào đó với thực tại này.
Bởi vì đứa trẻ không tự lo liệu được, bố mẹ phải chú ý
nhiều tới nó. Bởi vì chú ý này đứa trẻ cảm thấy, “mình là

trung tâm của thế giới, toàn thế giới xoay quanh mình.” Đứa
trẻ khóc một chút và mẹ nó chạy tới. Đứa trẻ hơi ốm và bố
nó lập tức chăm sóc cùng với bác sĩ. Đứa nhỏ biết rằng mọi
thứ đều chuyển động với mệnh lệnh chút xíu của nó. Hơi
chút tiếng động, hơi kêu khóc, hơi tỏ ra trục trặc là đã lôi kéo
cả nhà vào phục vụ nó. Và với đứa trẻ, gia đình là cả thế
giới; nó không biết thế giới khác. Cho nên một ảo tưởng tự
nhiên được tạo ra trong tâm trí của đứa trẻ rằng, “mình là
trung tâm của thế giới, mọi thu xếp đều chỉ là cho mình; mọi
thứ đang xảy ra chỉ là cho mình, mọi người đều quan tâm tới
mình.”
Ảo tưởng này lắng sâu trong chúng ta, và thế thì với
phần còn lại cuộc mình chúng ta cứ sống với giả định rằng
chúng ta là trung tâm. Điều này đưa đến đau đớn cực kì lớn;
đó là lí do tại sao bản ngã tổn thương - bởi vì điều đó không
đúng, bạn không là trung tâm của thế giới. Thế giới diễn ra
rất hạnh phúc không có bạn. Nó không gặp chướng ngại chút
nào bởi vì sự vắng mặt của bạn. Nhưng ở đâu đó, trong một
góc nào đó của tâm trí bạn, bạn vẫn cứ cảm thấy, “mình là
trung tâm.” Và bạn bao giờ cũng chờ đợi cho thế giới chấp
nhận rằng bạn là trung tâm. Đây chính là tìm kiếm của bản
ngã.
Kinh này nói: Chỉ người tự do khỏi nắm giữ vào bản
ngã... người được chuẩn bị để từ bỏ khái niệm bản ngã điều
đã lớn lên và ăn sâu từ thời trẻ thơ... đạt tới tự tính.
Điều này là không tránh khỏi; việc tạo ra bản ngã ngay
từ lúc sinh của đứa trẻ là điều không tránh khỏi. Đây là điều
xấu không tránh khỏi. Nhưng bị mắc kẹt ở đó và không đi
tiếp sẽ phá huỷ toàn thể cuộc đời chúng ta, bởi vì thế thì
chúng ta vẫn còn bị tước đoạt việc biết thực thể đang ẩn kín
bên trong chúng ta. Chúng ta sẽ có khả năng biết được nó chỉ
khi chúng ta vứt bỏ bản ngã của mình. Tại sao? Tại sao trong
tôn giáo có nhấn mạnh nhiều đến thế vào việc vứt bỏ bản
ngã? Nhấn mạnh là bởi vì người cảm thấy rằng mình là trung
tâm của thế giới vẫn còn bị tước đoạt việc biết về trung tâm
riêng của mình. Người đó sống với việc tin vào một trung
tâm giả là trung tâm của mình. Người tin rằng mình là trung
tâm trong con mắt của người khác không bao giờ bận tâm tới
việc tìm kiếm xem liệu người đó thực ra có bất kì trung tâm
nào của riêng mình không, và do vậy một trung tâm giả được
sinh ra. Trung tâm giả này phụ thuộc vào người khác, và do
đó người ta chỉ thu được bất hạnh từ bản ngã.
Khi bạn nói, “Bạn là người tốt,” bạn đang làm tăng
cường bản ngã của tôi. Ngày mai nếu bạn nói, “Không, điều
ấy là sai lầm, bạn không phải là người tốt,” thế thì bạn vừa
rút đi viên gạch bạn đã cho bản ngã tôi mượn mà tôi xây
dựng lâu đài từ viên gạch đó; thế thì nó đi tới bờ sụp đổ.
Bản ngã được tạo ra qua mắt kẻ khác, qua ý tưởng của
người khác; bản ngã là phụ thuộc vào người khác. Và nhớ
lấy, bất kì cái gì phụ thuộc vào người khác đều không thể là
trung tâm của bạn được. Cho nên chúng ta lo lắng quá nhiều
về ai nói gì, ai nói điều tốt về chúng ta và ai nói điều xấu về
chúng ta.
Một người bạn vừa tới tôi nói, “Đây là vấn đề của tôi”...
người đó đang hiện diện ở đây. Người đó nói, “Đây là chính
vấn đề của tôi, rằng ai đó nói điều gì đó, một điều nhỏ nhặt,
một điều hoàn toàn không có ý nghĩa, và tôi bị tổn thương
tới mức tôi không thể ngủ được cả đêm.” Chẳng hạn, người
đó nói, “Tôi mới ra tiệm mua vài thứ đồ. Tôi muốn mua một
thứ nào đó, nhưng tôi không thích cái mà người chủ tiệm chỉ
cho tôi. Người chủ tiệm nói, ‘Bỏ lại cái đó đi. Tôi biết khi
lần đầu tiên tôi nhìn khuôn mặt anh là anh sẽ không mua thứ

gì đâu.’ Tôi không thể ngủ được cả đêm đó, cố gắng tìm ra
tại sao người chủ tiệm nói như thế.”
Bản ngã chúng ta phụ thuộc vào điều người khác nói.
Mọi người xung quanh chúng ta hoặc đóng góp cho bản ngã
của chúng ta hoặc họ lấy đi cái gì đó từ nó. Đây là lí do tại
sao toàn bộ thời gian chúng ta chỉ bận tâm tới điều mọi
người nói hay nghĩ về chúng ta. Đấy là vốn của chúng ta.
Thu thập ý kiến người khác đóng góp cho tự hào của ta -
nhưng cái gì là tính tin cậy trong ý kiến người khác? Ý kiến
của họ là trong tay họ. Hôm nay họ có thể nghiêng về thiện
cảm với chúng ta, ngày mai họ có thể không. Hôm nay họ có
thể có ý kiến tốt về chúng ta, ngày mai họ lại có thể có ý kiến
xấu - và họ có động cơ riêng của họ.
Người chủ tiệm kia có động cơ riêng của ông ta. Ông ta
đánh vào bản ngã. Bây giờ hai điều có thể xảy ra qua nó.
Một là ở chỗ người đàn ông này có thể mua hàng, chỉ để giữ
thể diện chứ không vì cái gì khác. Và như thế thì sẽ tốt hơn
nếu người đó mua hàng bởi vì ít nhất thì người đó cũng cứu
mình khỏi cả đêm mất ngủ. Nhưng rồi lo âu khác lại nắm bắt
tâm trí: “Sao mình mua quần áo mà mình không thích?” Và
tất cả các bạn đều đã mua nhiều thứ mà bạn chẳng bao giờ
muốn mua, nhưng nhiều cơ hội bản ngã của bạn thúc giục
bạn mua.
Ở phương Tây, anh bán hàng đang dần bị thay thế trong
các cửa hàng bởi cô bán hàng. Bây giờ không còn anh bán
hàng nữa, chỉ còn cô bán hàng! Bây giờ không còn ý nghĩa
gì mấy khi giữ việc dùng từ anh bán hàng. Khi một khách
hàng nam vào tiệm mua đôi giầy và một cô bán hàng xinh
đẹp tiến lại gần anh ta, thử đi đôi giầy vào chân anh ta bằng
chính tay cô ấy, buộc dây giầy cẩn thận và mỉm cười nói
thêm, “Đẹp quá! Đôi này trông đẹp trên chân anh thế,” bây
giờ dù đôi giầy có bó chân thế nào anh ta cũng buộc phải
mua chúng. Anh ta sẽ phải mua chúng. Bây giờ không còn là
vấn đề của giầy nữa, bây giờ bạn đang mua cái gì đó khác,
giầy chỉ là cái cớ.
Tất cả chúng ta đều đã mua nhiều thứ mà chúng ta chưa
bao giờ muốn. Toàn bộ cuộc đời ta cũng tựa như bộ sưu tập
những thứ đồ, và bản ngã chính là tổng tập của những cái
này. Chúng ta đã đánh cắp ánh mắt của người khác, gắn tất
cả lại và cái đó trở thành ánh sáng lập loè của mình. Nhưng
người khác bao giờ cũng là chủ, bất kì ngày nào họ muốn họ
đều có thể kéo lại sự hỗ trợ đó.
Ngay cả người lãnh đạo lớn nhất cũng không lớn hơn
những người đi theo người đó. Người đó không thể lớn hơn
được, bởi vì toàn bộ quyền lãnh đạo của người đó là trong
tay của người khác. Hôm nay họ cho nó, ngày mai họ có thể
lấy nó đi.
Do đó, người lãnh đạo dù có thể lớn đến đâu, người đó
vẫn là người theo sau của những người theo sau mình. Người
đó phải theo sau họ. Người đó phải quan sát xem những
người theo sau đang định đi hướng nào, thế rồi người đó
chạy ra và đứng trước họ. Người đó phải đánh dấu hướng
gió, hướng của những người đi theo mình, và toàn thể tri
thức chuyên gia của người đó là chạy ngay và đứng trước.
Và đây là lí do tại sao, mọi lúc, mọi ngày, người lãnh đạo cứ
thay đổi tuyên bố của mình. Người đó phải thay đổi. Đó là
điều được gọi là tâm niệm về quan điểm của người theo sau.
Bạn đã nhận được bản ngã của mình từ họ. Danh vọng, địa vị
của bạn, mọi thứ bạn đều nhận được từ họ - tất cả nó đều
được vay mượn. Và bất kì cái gì là của vay mượn, nó không
phải là bạn. Bạn đã có đó trước khi tất cả những điều này
được nhận. Khi cái chết chộp lấy mọi thứ này khỏi bạn, bạn

vẫn sẽ có đó.
Bạn đã tạo ra một trung tâm giả, và nếu bạn đã coi bản
thân mình là trung tâm này, thế thì tại sao bạn đi tìm trung
tâm thực của mình? Bạn đã coi là đương nhiên rằng đây là
trung tâm thực.
Cái gì là hình ảnh của bạn trong con mắt riêng của mình?
Nó là hình ảnh được tạo ra bởi người khác. Chính người
khác đã tạo ra nó - ai đó đã cho nó mầu sắc, ai đó đã vẽ mắt
của nó, ai đó đã vẽ chân, và đó là tất cả những cái gì bạn là.
Nhưng đây chỉ là hình ảnh trên giấy, một cơn mưa rào nhỏ sẽ
xoá sạch mọi mầu sắc của nó. Nhưng tình huống này sinh ra
từ cái không tránh khỏi của cuộc sống.
Các nhà tâm lí nói rằng đứa trẻ đầu tiên trở nên nhận biết
về người khác, không phải về bản thân nó. Một cách tự
nhiên, khi đưa trẻ mở mắt, nó thấy mẹ nó. Làm sao nó có thể
thấy bản thân nó được? Người khác, ‘bạn’, được thấy, không
phải cái ‘tôi’. Dần dần hiểu biết của nó rộng ra. Nó thấy bố
nó, anh nó, chị nó và gia đình, và theo cách này nó dần dần
học cách kinh nghiệm người khác. Và chính trong tương
phản và mối quan hệ với người khác này mà nó bắt đầu kinh
nghiệm cái ‘tôi’ của nó.
Điều rất thú vị cần lưu ý là việc kinh nghiệm cái ‘tôi’
không phải là đầu tiên. Tôi hiện hữu, nhưng tôi không kinh
nghiệm bản thân tôi trước hết, tôi kinh nghiệm người khác
trước hết. Một cách tự nhiên khi tôi kinh nghiệm người khác
trước hết, thế thì cái ‘tôi’ mà tôi sẽ tạo ra sẽ phải dựa trên ý
kiến của những người khác này.
Do đó, các nhà tâm lí nói, đứa trẻ đã nhận được tình yêu
từ người mẹ và người bố và đã nhận được cách ca ngợi của
gia đình thì cũng có cảm giác về tự ái. Nhưng một đứa trẻ
không nhận được tình yêu nào từ bố mẹ, không nhận được ca
ngợi từ gia đình - một loại nhân cách đáng khinh sẽ phát
triển trong nó, bởi vì nếu mọi người mà qua họ đứa trẻ trước
hết trở nên nhận biết về cái ‘tôi’ của mình không diễn tả vui
vẻ và hạnh phúc về nó, cái ‘tôi’ của đứa trẻ đó trở nên nghèo
nàn và thiếu thốn mãi mãi. Nó đã không nhận được chất nuôi
dưỡng.
Các nhà tâm lí nói rằng cái gì đó đã bị mất đi trong đứa
trẻ lớn lên thiếu vắng người mẹ, và điều này có thể không
bao giờ bù đắp được bởi vì chính kinh nghiệm đầu tiên của
đứa trẻ về cái ‘tôi’ vẫn còn bị què quặt. Người mà từ người
đó cái hiểu đầu tiên về ‘tôi là ai’ được sinh ra, cái ‘bạn’ mà
từ người đó lần đầu tiên thoáng nhìn về cái ‘tôi’ xảy tới đã
không bao giờ có đó để cho những cái thoáng nhìn này.
Người đó không bao giờ có đó để phản ánh những kinh
nghiệm về nhân phẩm, kính trọng, tự hào, danh dự và tình
yêu.
Nếu người mẹ không hớn hở trong bản thân mình khi
sinh nở đứa con, nếu người mẹ không tràn ngập trong vui vẻ
và nếu toàn bộ con người của người mẹ không rung lên vì
xúc động thế thì cái ‘tôi’ của đứa trẻ đặc biệt đó sẽ vẫn còn
bị què quặt mãi mãi. Nó sẽ đau khổ nhiều. Nó sẽ phải tìm
nạng. Nó sẽ gặp rất khó khăn.
Chúng ta thu được kinh nghiệm đầu tiên về cái ‘tôi’ từ
người khác, và chúng ta tiếp tục nhận được nó từ người khác
từ đầu tới cuối. Dần dần, dần dần chúng ta tích luỹ ý kiến,
chấp thuận, chứng nhận, quan điểm của người khác, uy tín
và kính trọng từ xã hội. Trên trung tâm giả này chúng ta vẫn
còn treo đấy, trong khi trung tâm thực của chúng ta bị ẩn kín
đằng sau nó.
Cái ‘bạn’ không thể là cái đầu tiên, cái ‘tôi’ mới là cái
đầu tiên - đó là vấn đề khác mà chúng ta đi tới biết nó mãi về

sau. Khi đứa trẻ được sinh ra, nó được sinh ra với cái ‘tôi’
của nó, với linh hồn của nó. Nhưng trung tâm đó vẫn còn bị
giấu kín và một trung tâm mới khác được tạo ra. Thế rồi
chúng ta bám vào trung tâm mới này. Chúng ta làm như vậy
bởi vì chúng ta không biết bất kì trung tâm nào khác, và
chúng ta sợ rằng nếu chúng ta buông bỏ trung tâm này,
chúng ta có thể bị treo lơ lửng trong không trung, và nếu
chúng ta không chăm nom chúng ta có thể bị mất. Chúng ta
sợ rằng mọi thứ có thể bị đảo lộn, hỗn độn. Do đó chúng ta
nắm giữ chắc vào nó tựa như con vẹt bám chặt vào sợi dây
thừng, bởi vì nó sợ rằng nó có thể bị ngã xuống và bị thương.
Chúng ta cũng cứ bám vào cái ‘tôi’ này bởi vì chúng ta
không thấy bất kì cái gì khác có thể được giữ để đỡ cho ta.
Chúng ta đi dựa trên hỗ trợ của nó và giữ chặt để nó không
tuột khỏi bám giữ của chúng ta. Điều này đem đến khổ sở
bởi vì nó không phải là trung tâm thực.
Tình huống này của chúng ta tựa như một người được
sinh ra với một kho báu, nhưng nghĩ lầm là kho báu bị chôn
vùi trong mương và cứ thế mà đào bới tìm kiếm nó một cách
không kết quả. Trung tâm thực của chúng ta là hoàng đế;
linh hồn của chúng ta là phúc lạc cực kì và là kho báu.
Nhưng cái ‘tôi’ này là con mương giả mà, dù chúng ta có
đào bao nhiêu đi chăng nữa, chúng ta cũng không tìm thấy
kho báu ở đâu cả. Đào bới ở đó chúng ta không bao giờ đạt
tới tự tính của mình. Do đó kinh này nói:
Chỉ người tự do khỏi nắm giữ vào bản ngã mới đạt tới tự
tính.

Thế thì cái gì cần được làm?
Gurdjieff là một nhà huyền môn xuất chúng. Khi bà của
ông ấy đang trên giường chờ chết ông ấy đã hỏi bà ấy, “Bà
có kinh nghiệm sống nào và kết luận nào mà bà coi là đáng
truyền cho cháu không?”
Thế rồi bà của ông ấy nói một điều rất lạ với ông ấy. Bà
nói, “Nếu cháu có thể nhớ được một điều trong suốt cuộc đời
cháu điều đó sẽ có tác dụng. Đó là: đừng bao giờ làm bất kì
cái gì như người khác làm nó - đừng bao giờ làm bất kì việc
gì như người khác làm nó, bao giờ cũng cố làm nó theo cách
khác.” Gurdjieff sau đó đã phát triển cả một triết lí xoay
quanh điều này và đã phát biểu “luật của cái ngược lại” - bao
giờ cũng làm những việc khác với người khác.
Gurdjieff đã làm nỗ lực lớn để áp dụng lời khuyên này
và một con người duy nhất đã được sinh ra trong ông ấy, bởi
vì không làm bất kì điều gì như người khác làm đem lại vô
vàn kết quả. Kết quả đầu tiên là ở chỗ, vì bản ngã của người
ta chỉ được nuôi dưỡng khi người ta làm mọi việc theo cách
người khác làm chúng, một cách tự nhiên sẽ không có gì
nuôi dưỡng cho bản ngã của bạn. Ngược lại, mọi người sẽ
cười bạn.
Gurdjieff đã nói, “Bà tôi đã bảo tôi, ‘Bà gần chết rồi và
bà sẽ không bao giờ biết được liệu cháu có theo lời khuyên
của bà hay không. Cho nên cháu làm thử cho bà xem trước
khi bà chết.’ Và quả táo có đó ngay gần giường bà; bà đưa
quả táo đó cho tôi và bảo tôi ăn nó, nhưng phải chắc rằng tôi
không ăn nó theo cách như mọi người vẫn làm.”
Đứa trẻ Gurdjieff này phải đã thấy bản thân mình trong
khó khăn lớn: phải làm gì? Nhưng trẻ con đầy sáng tạo. Nếu
bố mẹ không giết chết tính sáng tạo của chúng hoàn toàn, sẽ
có nhiều nhà phát minh trên thế giới. Nhưng phát minh
dường như nguy hiểm, bởi vì bất kì cái gì mới đều đem đến
không dễ chịu.

Gurdjieff cầm lấy quả táo và đưa nó lên gần tai, trước hết
cậu cố gắng nghe nó, rồi đưa nó lại gần mắt để nhìn, cậu hôn
nó và chạm vào nó bằng đôi mắt nhắm kín, rồi nhảy múa
trong khi vẫn giữ quả táo trong tay, nhảy nhót và chạy, và rồi
cậu ăn quả táo. Bà của cậu nói, “Bà hài lòng lắm.”
“Sau đó,” Gurdjieff nói, “điều này trở thành một nguyên
tắc trong đời tôi - không làm bất kì điều gì theo cách như
người khác làm mà đem cái độc đáo nào đó của riêng tôi vào
nó.” Mọi người hay cười ông ấy và gọi ông ấy là điên. Họ sẽ
nói, “Không biết loại người gì thế này? Ông ta làm gì đây -
nghe quả táo bằng tai sao?”
Gurdjieff nói, “Tôi đã không nhận ra điều đó đâu, nhưng
kết quả khác là ở chỗ tôi không còn lo nghĩ về người khác
nữa. Điều người khác nói hay ý kiến của họ về tôi thế nào,
hay họ nghĩ gì về tôi - mối bận tâm này đơn giản bị vứt bỏ.
Tôi trở thành một mình, tuyệt đối một mình trên thế gian
này. Bởi điều này,” Gurdjieff viết thêm, “tôi đã không phải
trải qua đau khổ mà mọi người khác trải qua. Không trung
tâm giả nào đã bao giờ được tạo ra trong tôi và tôi chưa bao
giờ phải làm nỗ lực nào để phá huỷ bản ngã của mình. Nó
chưa bao giờ hình thành ngay chỗ đầu tiên.”
Cái gì cần được làm? Vứt bỏ bận tâm về người khác. Tôi
quan sát các bạn sáng nay khi các bạn thiền. Các bạn thiền,
nhưng một ý tưởng vẫn còn lẩn quất, “Ai đó phải đang quan
sát mình... người khác sẽ nói gì?”
Mới hôm nay một người bạn tới tôi. Người đó nói, “Bất
kì điều gì thầy nói, tôi sẽ làm nó một mình. Nhưng làm ở đây
trước bao nhiêu người thế này...” Sẽ không ích lợi gì mà làm
nó một mình đâu. Sẽ không ích lợi gì đâu, bởi vì ích lợi của
thiền là đa chiều. Dũng cảm của bạn để phát điên trước bao
nhiên người thế này đơn thuần đánh gục bản ngã bạn. Hành
vi kiểu trẻ con của bạn trước bao nhiêu người thế này bỗng
nhiên loại bỏ bạn ra khỏi bản ngã của mình và ném bạn về
trung tâm của bạn. Điều này sẽ không xảy ra trong sự một
mình của bạn. Trong một mình, mọi người đều là ca sĩ trong
buồng tắm và mọi người đều có thể làm đủ vẻ mặt trong
gương trong tính một mình của buồng tắm nhà bạn - không
chỉ có trẻ con mà cả người đã trưởng thành nữa. Những câu
chuyện như thế may mắn là không bị gương kể lại. Nhưng
những điều này không có giá trị gì, và cũng không ích lợi gì -
không ích lợi chút nào.
Bỏ lo nghĩ về người khác đi, dừng suy nghĩ về ý kiến của
người khác; bắt đầu giảm bớt thèm muốn được người khác
chú ý tới. Việc tìm kiếm chú ý của người khác là thức ăn cho
bản ngã. Chú ý của người khác là thức ăn, bản ngã được nuôi
dưỡng từ nó. Do đó, người ta càng chú ý đến bạn, bản ngã
càng cảm thấy lí thú hơn, bạn càng cảm thấy mình là cái gì
đó. Nhưng nếu không ai chú ý đến bạn, bạn ở nhà và không
ai thèm nhòm ngó đến bạn mà xem...
Gurdjieff đã làm thực nghiệm với đệ tử của mình. Ông
ấy và ba mươi đệ tử sống trong một ngôi nhà lớn, và ông ấy
bảo họ sống ở đó theo cách dường như hai mươi chín người
kia không tồn tại. Họ không được nói với bất kì ai, không
được làm dấu hiệu nào, không được làm cử chỉ nào có thể
tạo ra bất kì trao đổi nào. Cho dù một người đi qua ai đó,
người đó cũng phải nhớ rằng anh là một mình hoàn toàn ở
đó, không ai khác có đó trong ngôi nhà. Cố ý hay không cố
ý, không điều gì được làm bởi bất kì ai mà có thể chỉ ra sự
hiện diện của người khác. Nếu ai đó dẫm lên ngón chân của
ai đó khác, người đó không được xin lỗi, vì không có ai khác
được hiện diện ở đó. Cho dù vì sai lầm của ai đó mà một cục
than hồng trong lò rơi vào tay người nào đó, không ai được
hỏi xin lỗi - vì không có ai khác được hiện diện ở đó. Không

ai thậm chí được bày tỏ qua ánh mắt, “Tôi xin lỗi.”
Gurdjieff yêu cầu ba mươi đệ tử này phải sống ở đó
trong ba tháng. Hai mươi bẩy đệ tử biến mất sau một khoảng
thời gian; chỉ còn lại ba người cho tới cuối, nhưng ba người
đó đã được biến đổi thành những người hoàn toàn khác.
Cái gì là mục đích của thực nghiệm này? Chúng ta hãy
hiểu về nó. Rất dễ không chú ý gì đến người khác, hay không
xin lỗi, cho dù bạn đá ai đó! Điều này rất dễ dàng, không có
khó khăn gì trong đó cả. Đấy là cách chúng ta bao giờ cũng
muốn nó là vậy. Nhưng điều này không phải là vấn đề có ý
nghĩa. Vậy thực nghiệm này mang lại ý nghĩa gì?
Nhớ lấy, ý nghĩa của nó là sâu sắc và giấu kín. Gurdjieff
đã yêu cầu bạn không được chú ý tới sự kiện rằng có ai đó
khác đang hiện diện, nhưng thế thì cũng phải hiểu cho rõ
rằng người khác cũng sẽ không chú ý gì tới bạn cả. Đó chính
là nơi đặt bẫy. Bạn sẽ không chú ý tới người khác, bạn một
mình; người khác sẽ không chú ý đến bạn, cả hai mươi chín
người. Bạn sẽ không nhận được sự chú ý của hai mươi chín
người khác, trong suốt ba tháng trời, tất cả có vậy!
Mọi giao dịch đều là lẫn nhau. Tôi cho bạn sự chú ý, bạn
cho tôi sự chú ý. Đấy là kinh doanh. Tôi đáp ứng bản ngã
bạn, bạn đáp ứng bản ngã tôi. Nhưng trong thực nghiệm này
trao đổi sẽ dừng lại tại cả hai đầu. Cái gì là lí do cho hai
mươi bẩy đệ tử này chạy mất? Nhiều người trong họ về sau
nói, “Chúng tôi cảm thấy dường như chúng tôi bị ngạt, rằng
chúng tôi sẽ chết, rằng chúng tôi bị nghẹt.”
Thực tại cổ họng họ đâu có bị nghẹt, đấy là cổ họng của
bản ngã của họ bị nghẹt. Họ đã nghĩ, “Những ba tháng! Và
sẽ không có thức ăn cho bản ngã của mình! Đến lúc chúng ta
ra khỏi chỗ này, chúng ta sẽ thành trống rỗng.” Ba đệ tử
dũng cảm này, người còn ở lại, sau ba tháng đi ra như những
người hoàn toàn khác. Điều gì đã thay đổi trong họ?
Ouspensky là một trong ba đệ tử đó, người đã trụ lại qua
suốt thực nghiệm đó. Sau này ông ấy nói, “Ông Gurdjieff
này thật buồn cười, vì trong ba tháng... Và chúng tôi không
có ý tưởng rằng đây là phương cách để giết chết bản ngã của
chúng tôi. Chúng tôi đã nghĩ rằng thực nghiệm này được tiến
hành để đem lại an bình và tĩnh lặng cho tâm trí chúng tôi.
Chúng tôi thậm chí không được bảo rằng bản ngã của chúng
tôi sẽ bị giết chết. Sau ba tháng chúng tôi trở thành dường
như là chúng tôi không tồn tại nữa; chỉ bản thể chúng tôi là
còn lại. Không còn âm điệu của cái ‘tôi’ nảy sinh ở bất kì
đâu trong chúng tôi nữa.”
Cái ngày không cái ‘tôi’ nào nảy sinh bên trong bạn,
ngày đó bạn đang đứng trên cái ‘tôi’ thực của mình. Cái ‘tôi’
thực đó được gọi là linh hồn. Và một cách tự nhiên thế thì
tính cá nhân của bạn trở thành sạch không tì vết tựa như
trăng tròn - đầy phúc lạc và tự toả sáng.
Ánh sáng đã tồn tại ở đó, phúc lạc đã tồn tại đó; chỉ còn
mỗi vấn đề về một bước nhảy nhỏ từ cái ‘tôi’ của bạn sang
linh hồn. Sạch sẽ không tì vết đã có đó rồi, nó chưa bao giờ
bị quấy rối.
Một kinh quan trọng khác, cũng hay và nguyên bản
tương đương. Nhiều lần từ ngữ che giấu nghĩa thật và nó
không được thấy. Và bởi vì những từ ngữ đó là quen thuộc
nên khó chìm sâu vào chúng. Tất cả các bạn hẳn đã phải
nghe thấy những từ này trước đây; không một từ nào là
không quen thuộc cả, nhưng việc bố trí chúng ở đây lại hoàn
toàn không quen thuộc.
Dừng cảm giác làm, mọi lo âu dừng. Dừng lo âu, mọi
ham muốn dừng. Dừng các ham muốn là giải phóng - và

điều này được gọi là jivanamukti, giải thoát trong khi
sống.
Dừng cảm giác làm, mọi lo âu dừng... Tất cả chúng ta
đều muốn phá huỷ lo âu. Ai là người không muốn được tự do
khỏi lo âu? Nhưng chúng ta không muốn tự do khỏi là người
làm. Chúng ta muốn tự do khỏi lo âu nhưng chúng ta không
muốn tự do khỏi việc là người làm - và lo âu là hình bóng
của người làm. Người nghĩ, “tôi đang làm cái này,” không
thể cứu bản thân mình khỏi lo âu được. Lo âu sẽ cứ chồng
chất lên người đó. Người đó càng nghĩ, “tôi đang làm,”
người đó sẽ càng trở nên lo âu nhiều hơn.

Người phương Đông đã phát minh ra nhiều phương sách
tài tình. Một trong những phương sách đó là cảm thấy, ‘tôi
không làm, Thượng đế làm.” Đây là một kĩ thuật thiền. Kĩ
thuật này là: “Thậm chí chiếc lá trên cây cũng không lay
động nếu không có phép của Thượng đế.” Trong thực tại
không có gì giống như thế cả. Nếu Thượng đế phải cho phép
từng cái lá, đến giờ chắc ngài đã phát điên rồi. Hình dung
phải bảo cho mọi cái lá, “Bây giờ lay động đi, bây giờ dừng
lại!”
Không, không có Thượng đế như vậy ở đâu cả để cho
phép từng cái lá được lay động hay dừng lại. Nhưng phát
biểu này không liên quan gì đến Thượng đế theo bất kì cách
nào, nó đơn giản là một kĩ thuật thiền, một phương sách, bởi
vì một người tin rằng cho đến một cái lá cũng không lay
động được nếu không có phép của Thượng đế dần dà bắt đầu
vứt bỏ khái niệm về “tôi làm.” “Ngài là người làm,” người
như thế tin; “tôi không là cái gì cả. Nhiều nhất tôi có thể là
công cụ. Nếu ngài làm cho tôi đi, tôi đi; nếu ngài làm cho tôi
bước, tôi bước; nếu ngài làm cho tôi dậy, tôi dậy.”
Việc nghĩ rằng mọi thứ đều xảy ra thông qua Thượng đế
và chúng ta chỉ là con rối trong tay ngài đã cho phép một
hiện tượng vĩ đại xảy ra trong thế giới này; người ở phương
Đông đã trở thành hoàn toàn thoát khỏi lo âu. Thời đại vô lo
âu mà phương Đông đã biết thì không có nơi nào khác trên
thế giới này biết tới, còn thời đại nặng trĩu lo âu mà phương
Tây hiện tại đang kinh qua thì trước đây cũng chưa nơi nào
biết tới cả. Nhưng nguyên nhân phát xuất từ cùng một
nguồn. Ở phương Tây Thượng đế trở thành một thực thể
đáng hoài nghi, khái niệm về định mệnh mất hết ý nghĩa.
Tôi không nói rằng khái niệm về định mệnh là đúng,
nhưng nói về phương sách trong khái niệm định mệnh -
“Mọi thứ đang xảy ra như theo định mệnh” - đã kết thúc ở
phương Tây. Cả Thượng đế lẫn số mệnh lẫn định mệnh đều
không tồn tại; toàn bộ trách nhiệm dồn vào con người. “Tôi
làm. Bất kì điều gì tôi làm, tôi đang làm đấy.” Cái ‘tôi’ còn
lại, bởi vì không còn cách nào phủ nhận nó.
Không có gì khác biệt liệu Thượng đế có tồn tại hay
không, nhưng nếu bạn có thể gạt người làm của mình sang
bên vì Thượng đế - cho dù có ngài hay không - điều đó cũng
bắt đầu có tác dụng lên bạn: bạn trở nên thoát khỏi lo âu.
Ở phương Tây, lo âu đã thành sâu sắc. Các nhà tâm lí
học Mĩ nói rằng cứ ba trong bốn người là bị ốm yếu tinh
thần... ba trong bốn! Người thứ tư có thể còn không bị ảnh
hưởng bởi ba người kia được bao lâu nữa? Ba người này
đang cố bằng mọi cách có thể để nhấn chìm người thứ tư.
Đấy là một con số lớn nếu ba trong bốn người đã trở nên bị
rối loạn và ốm yếu tinh thần. Lí do là gì? Phương Đông chưa
bao giờ tạo ra lắm người điên đến thế như phương Tây.
Ở phương Tây bệnh điên cứ tăng lên và dần dần, dần dần
được coi là đương nhiên. Ngay cả Freud cuối cùng cũng
chấp nhận sau cả đời nghiên cứu về tâm trí rằng không có

cách nào chữa được cho con người; con người sẽ còn điên ít
hay nhiều. Ông ta chấp nhận bất lực của mình. Và nếu Freud
chấp nhận bất lực của mình, điều đó rất có ý nghĩa, bởi vì
con người này đã dành năm mươi năm cuộc đời mình để
thám hiểm tâm trí con người và ông ta đã làm một số nghiên
cứu sâu sắc. Ông ta nói không có cách nào để làm cho con
người hoàn toàn mạnh khoẻ được.
Nhưng Freud không nhận biết rằng người hoàn toàn lành
mạnh đã sống trên thế gian này và xã hội hoàn toàn lành
mạnh cũng đã tồn tại. Nhưng những xã hội đó có các quan
niệm rất khác biệt. Quan niệm sâu sắc nhất trong những quan
niệm này là, “tôi không phải là người làm.” Họ đã tìm ra
phương sách: người làm là Thượng đế, số mệnh, định mệnh -
ai đó khác. “Tôi chỉ là công cụ và giống như chiếc lá - lay
động khi bị lay động, không lay động khi không bị lay động,
thắng hay thua khi được làm cho thắng hay thua. Tôi không
có ở đâu trong đó cả.”
Điều này có hiệu quả kép. Một là ở chỗ khi bạn không là
người làm, thế thì không nảy sinh lí do nào để lo lắng về bất
kì cái gì. Thế thì thất bại được chấp nhận như thắng lợi. Khi
thắng lợi không phải do việc làm của bạn, nó không tạo ra
bản ngã; và vì thất bại cũng không phải do việc làm của bạn,
nó không gây ra những đêm mất ngủ, lo âu không chiếm lĩnh
người ta, không làm cho người ta đau tim. Và điều khác thú
vị hơn cũng xảy ra: nếu ai đó thắng, không có ghen tị trong
tâm trí bạn về điều đó, bởi vì nếu người đó thắng, đấy cũng
không phải là thành tựu của người đó, đấy là ý chí của
Thượng đế để cho sự việc phải xảy ra theo cách đó. Người
đó không lớn hơn vì người đó đã thắng, chúng ta không nhỏ
hơn vì chúng ta thua. Tất cả đấy là ý chí của Thượng đế.
Trạng thái tinh thần rất an bình phát triển nếu cảm giác
về người làm bị vứt bỏ. Không nhất thiết người ta phải tin
vào Thượng đế vì điều này. Phật đã vứt bỏ nó mà không tin
vào Thượng đế, Mahavira đã vứt bỏ nó mà không tin vào
Thượng đế. Điều này có khó khăn hơn chút ít. Nếu người ta
phải vứt bỏ người làm mà không tin vào Thượng đế, người ta
phải làm sâu sắc hơn việc chứng kiến của mình rất nhiều.
Vẫn còn là người quan sát; dù bất kì cái gì đang xảy ra, vẫn
còn là người quan sát. Nếu có thất bại, quan sát rằng bạn
đang chứng kiến thất bại; nếu có thắng lợi, quan sát rằng bạn
đang chứng kiến thắng lợi. Bạn không thua bạn không thắng,
bạn chỉ là nhân chứng. Khi đó là buổi sáng, bạn chứng kiến
buổi sáng đã tới; khi đó là buổi tối, bạn chứng kiến buổi tối
đã tới. Khi bóng tối của đêm tụ hội lại, bạn chứng kiến rằng
bóng tối đã tới. Khi mặt trời lên và có ánh sáng, bạn chứng
kiến rằng ánh sáng đã tới.
Bạn vẫn còn là người quan sát tại chỗ của mình - dù đó
là ngày hay là đêm, dù đó là hạnh phúc hay bất hạnh, dù đó
là thất bại hay thắng lợi. Vậy khi một người lắng đọng trong
việc chứng kiến người làm tan biến; việc làm không còn là
của bạn nữa. Bạn không còn là trung tâm của việc làm, bạn
trở thành trung tâm của việc thấy, chứng kiến, biết. Việc làm
cứ xảy ra xung quanh bạn trong sự tồn tại.
Mahavira nói, “Dạ dầy tôi đói, tôi quan sát nó; gai đâm
vào chân tôi và chân đau, tôi quan sát nó; thân thể bị ốm, ốm
đã tới, tôi quan sát nó.” Ngay cả vào lúc chết, Mahavira cũng
sẽ cứ quan sát thân thể đang chết. Bạn sẽ không có khả năng
quan sát rằng thân thể đang chết; bạn sẽ cảm thấy rằng bạn
sắp chết. Nếu bạn đã từng là người làm trong cả đời mình,
thế thì bạn cũng sẽ phải làm việc chết. Khi bạn đã làm mọi
điều, bạn có thể để lại hành động chết cho ai được? Người đã
chối bỏ cuộc sống thì cũng chối bỏ cả cái chết nữa. Người đã
giữ quan sát cuộc sống như một nhân chứng thì cũng quan

sát cái chết như một nhân chứng.
Nếu việc làm chết đi, nói cách khác nếu người làm biến
mất, lo âu chết. Phát biểu thứ hai là chân lí thậm chí sâu sắc
hơn điều này:
Dừng lo âu, mọi ham muốn dừng.

Dường như là có sai sót nào đó trong kinh này. Trong
kinh sách bao giờ cũng nói: khi ham muốn chết, mọi lo âu
chết. Và đây là điều bạn cũng có thể đã từng nghe, rằng nếu
không có ham muốn, không có lo âu. Kinh này đang nói
chính điều đối lập lại. Nó nói: nếu lo âu dừng lại, ham muốn
dừng lại. Với cái chết của việc làm, lo âu chết, và với cái
chết của lo âu, ham muốn chết. Tại sao?
Bạn đã bao giờ quan sát chưa? - khi bạn càng nhiều lo
âu, bạn càng nhiều ham muốn, khi bạn càng nhiều căng
thẳng, ham muốn dục càng nảy sinh nhiều trong bạn, bởi vì
với dục, căng thẳng có thể được dịu bớt và người ta có thể
trở nên nhẹ nhàng hơn. Khi tâm trí bạn đang trong giận dữ
thì thế nữa ham muốn dục cũng nảy sinh nhiều hơn trong
bạn. Khi tâm trí bạn trong trạng thái vui vẻ, phúc lạc, ham
muốn dục ít đi. Nếu tâm trí là toàn bộ và thường xuyên trong
trạng thái phúc lạc, đơn giản sẽ không có ham muốn dục. Có
lí do cho điều này. Khi tâm trí đạt tới một giới hạn căng
thẳng nào đó do bất kì cái gì, trung tâm dục vận hành tựa
như cái van an toàn; nó là van an toàn. Khi lo âu của bạn
tăng lên và trở thành quá nhiều, khi bạn không có khả năng
dung thứ nó và nhiều năng lượng đang chảy quanh trong
thân thể bạn đến mức làm cho bạn khó chịu, thân thể bạn tìm
cách để tống bớt năng lượng đó ra.
Trung tâm dục là cái van an toàn. Bất kì chỗ nào có năng
lượng đang vận hành, van an toàn cũng phải có đó. Tự nhiên
đã làm cùng việc như thế.
Nếu bạn đun nóng bếp lò hơi dầu lửa, thu xếp nào đó
phải có đó để cho nếu bạn bơm quá nhiều hơi, lượng dư thừa
sẽ được thoát ra. Khi bạn có đồ điện được lắp ráp trong nhà,
cầu chì phải được cung cấp để cho nếu dòng điện quá mức
chạy trong mạch điện, cầu chì sẽ cháy, ngắt luồng điện. Cầu
chì không cho phép quá một khối lượng năng lượng nào đó
chạy qua nó. Ngay khi dòng điện quá lớn chạy qua, cầu chì
sẽ cháy vì quá mức năng lượng định chạy qua, và mọi thứ sẽ
lại an toàn.
Thân thể có van an toàn sinh học qua trung tâm dục. Bất
kì khi nào năng lượng quá mức tích luỹ trong thân thể bạn và
trạng thái bứt rứt phát triển, lo âu thu bám giữ bạn, có vật lộn
bên trong bạn; thế thì điều cần thiết là hoặc bạn trở thành
nhân chứng và tất cả những rắc rối này sẽ giảm đi, hoặc khả
năng thứ hai là ở chỗ năng lượng chảy ra khỏi cơ thể bạn và
bạn trở nên yếu. Thế thì dưới ảnh hưởng của yếu đuối đó
mọi rắc rối nguôi đi - vì người ta cần sức mạnh ngay cả để
cho các rắc rối đó tiếp tục.
Do đó trường hợp hay xảy ra là người yếu là người tốt.
Điều đó không có nghĩa là họ thực ra là người tốt, mọi điều
nó ngụ ý là ở chỗ họ không có nhiều năng lượng cần thiết để
làm điều ác.
Bạn đã bao giờ quan sát rằng người béo thường vui đùa,
rất thân thiện và thường không hay cãi nhau. Sao vậy? Nếu
bạn hỏi nhà tâm lí, ông ấy sẽ nói rằng người béo không thể
đánh nhau được; nếu người đó đánh nhau người đó sẽ bị
đánh; do đó người đó trở thành thân thiện đến thế, bởi vì
người đó không thể đảm đương được chuyện đánh nhau. Nếu
người đó có ý định đánh nhau chắc chắn người đó sẽ bị đánh.
Cho nên họ bao giờ cũng mỉm cười. Nụ cười này nghĩa là

xin đừng đánh nhau; mọi thứ đều ổn thoả cả, không cần phải
lao vào đánh nhau.
Người béo không thể chạy được. Và trong đánh nhau chỉ
có hai cách: hoặc bạn đánh hoặc bạn chạy - mà người đó thì
không làm được cả hai. Cho nên người đó trở thành người
không cãi nhau. Nhưng điều đó không có nghĩa là người đó
vượt cao hơn việc đánh nhau. Không, trong con người mọi
thứ đều nằm sâu bên trong, và điều hữu dụng là trở nên nhận
biết về những điều này.
Cho nên bất kì khi nào bạn đầy lo âu, bất hạnh và khổ,
ham muốn sẽ nảy sinh trong tâm trí bạn. Hoặc bạn trở thành
nhân chứng, trong trường hợp đó năng lượng bị vướng trong
lo âu sẽ được thoát ra và, cưỡi lên nó, bạn sẽ lên đường theo
cuộc hành trình đi lên... Hoặc, nếu bạn không thể trở thành
nhân chứng được, năng lượng đang làm cho bạn bất ổn, cái
đã tạo ra rối loạn xoáy lốc trong bạn, sẽ được xả ra qua van
an toàn của trung tâm dục; bạn sẽ trở nên yếu và bạn sẽ cảm
thấy bạn đang trở nên nhẹ hơn, được giảm nhẹ.
Freud đã mô tả dục như thuốc an thần tự nhiên, liều
thuốc êm dịu. Con người trở về nhà mệt mỏi và mòn mỏi sau
cả ngày toàn những vấn đề thuộc đủ mọi loại và bị nhấn
chìm trong lo âu. Nếu người đó có khả năng xả ra năng
lượng qua dục, người đó rơi vào giấc ngủ một cách an bình
trong đêm.
Đây là lí do tại sao đàn bà không quan tâm mấy đến dục,
bởi vì họ nhanh chóng nhận ra rằng họ đang vận hành chỉ
như cái van an toàn cho đàn ông. Họ sớm phát hiện ra rằng
không có tình yêu hay thứ gì đại loại như thế trong dục cả,
đấy tất cả chỉ là công cụ. Họ sớm đi tới nhận ra rằng dần dần,
dần dần họ đã trở thành công cụ cho người đàn ông này để
qua đó người đó xả năng lượng của mình và chìm vào giấc
ngủ. Và điều thường hay xảy ra là sau khi giao hợp người
đàn ông quay mình và chìm vào giấc ngủ, trong khi người
đàn bà vẫn còn khóc bởi vì đối với cô ấy không có gì xúc
phạm lớn hơn là bị dùng như một vật.
Một số không kể xiết đàn bà đến và nói với tôi rằng họ
không quan tâm chút nào tới dục cả. Lí do cho điều này
không phải vì họ thiếu quan tâm về nó, toàn bộ lí do là ở chỗ
đàn ông đã dùng họ như đồ vật và mối quan tâm của họ đã bị
lên men. Thực ra thực tại chính là điều ngược lại: đàn bà
nhiều dục nhiều hơn đàn ông, họ có nhiều năng lượng dục
hơn. Nhưng họ không tỏ ra hướng dục, thay vì thế họ tỏ ra
lãnh đạm với dục. Thái độ của họ đối với đàn ông dường như
là, “Thôi được, cứ làm cái anh thích và được thoả mãn với
nó đi. Kệ vấn đề cho tôi!” Nhưng họ dường như không có
nhiều quan tâm hơn điều này. Lí do cho điều này không phải
là ở chỗ họ không có chút nào ham muốn dục bên trong,
nhưng bởi vì họ có cảm giác bị tổn thương là bị sử dụng như
đồ vật. Họ đã phiền lòng khi bị đối xử giống như đồ vật mà
không như một cá nhân. Nhưng tất cả những điều này đem
tới kết quả khác.
Đàn ông có khả năng giải toả năng lượng của mình qua
dục, nhưng đàn bà giải toả như thế nào? Thế là đàn bà quay
sang hay cãi lộn, cằn nhằn, độc đoán. Họ ném năng lượng
của họ qua những tuyến khác này hai mươi bốn giờ một
ngày, bởi vì thiết bị van an toàn dục không vận hành đối với
họ, và họ đi tới coi thiết bị này chỉ dành cho đàn ông.
Bây giờ đây là điều rất ngược đời. Đàn bà đáng phải dịu
dàng hơn, nhưng điều này không xảy ra theo cách đó; họ nên
tốt bụng hơn, nhưng điều này không xảy ra theo cách đó; họ
nên hài hoà hơn, nhưng điều này không xảy ra theo cách đó.
Vấn đề là gì? Tại đâu đó sai lầm nào đó đang xảy ra trong sự

thu xếp tự nhiên. Và sai lầm đó là ở chỗ cái có thể là đầu ra
tự nhiên cho năng lượng của họ bị khoá trái và họ mất quan
tâm đến nó. Trở thành nhân chứng là gay go, cho nên tất cả
những năng lượng này cứ tiếp tục luẩn quẩn bên trong và
chúng đi ra dưới nhiều dạng khác nhau.
Đàn bà sẽ ném đồ dùng nấu bếp đang cầm trong tay -
thông thường nó phải là đồ sứ, cho nên nó rơi và vỡ tan.
Trong việc phá vỡ này, năng lượng của cô ấy tìm được lối ra.
Bạn có thể chuẩn bị một sơ đồ đầy đủ về những sự kiện như
vậy để tìm ra cho bản thân mình khi nào những điều như thế
xảy ra nhiều trong gia đình bạn. Và bạn tất yếu sẽ phát hiện
ra rằng họ đập phá nhiều hơn trong những ngày khi năng
lượng của người đàn bà không được giải toả - thế thì qua
nhiều phương pháp như giận dữ, căng thẳng vân vân đàn bà
sẽ trút năng lượng của cô ấy ra.
Khi có lo âu lớn của tâm trí, nó chạy về các ham muốn
mê muội. Do đó, kinh này nói rằng với cái chết của lo âu,
mọi ham muốn chết.
Đây là bản kinh cổ đại và duy nhất. Và chỉ đến bây giờ
các nhà tâm lí mới đang phát hiện ra điều này. Nếu bạn trở
nên thoát khỏi lo âu, ham muốn của bạn sẽ trở nên rất yếu.
Nếu bạn trở nên hoàn toàn thoát khỏi lo âu, tâm trí bạn sẽ
thậm chí không chuyển hướng về ham muốn nữa. Ham muốn
trở nên không tránh khỏi để xả ra cơn bão khi nó nảy sinh
bên trong bạn vượt ra ngoài một giới hạn nào đó. Khi không
có bão tố về sự dồn dập đó, ham muốn trở nên rất yếu.
Nhưng năng lượng không bị yếu đi; ham muốn yếu, nhưng
năng lượng cứ tích luỹ.
Mọi thứ sẽ tới lúc biến đổi tại một giới hạn nào đó. Nước
biến thành hơi khi được đun nóng tới một trăm độ. Khi tích
luỹ nhiệt lên đến một trăm độ thế thì nước trở thành hơi. Khi
tinh trùng của bạn, năng lượng của bạn, tiếp tục được tích
luỹ bên trong tới một điểm nào đó - không có bất kì cơn bão
nào xảy ra và không cần nảy sinh việc vứt bỏ vô ích năng
lượng ra ngoài - thế thì bỗng nhiên, khi việc tích luỹ năng
lượng đạt tới một mức nào đó, tựa như điểm một trăm độ, nó
bắt đầu bay lên thay vì chảy tràn xuống.
Bạn có quan sát không: nước chảy xuống còn hơi nước
bay lên. Nước có bản tính chảy xuống, bỗng nhiên tại một
trăm độ trở thành hơi và bắt đầu bay lên, hướng lên trời.
Đây là hiện tượng xảy ra bên trong bạn nữa: có một
điểm, một mức, điểm bay hơi, tại đó việc bay hơi xảy ra. Khi
năng lượng tích luỹ tới điểm đó, bỗng nhiên bạn thấy rằng
cái thường chảy ra đã bắt đầu chảy vào trong, cái mà mãi tận
tới hôm qua vẫn còn là tội lỗi đã biến thành đức hạnh, còn
cái trông như kẻ thù ngày hôm qua, nay không có người bạn
nào lớn hơn được nó - tất cả những điều này đều đi đến được
nhận ra.
Dừng các ham muốn là giải phóng

Khi không có ham muốn bạn được giải thoát. Và người
ta có thể được giải thoát trong khi sống, không có nhu cầu
được giải thoát sau khi chết. Người không có khả năng được
giải thoát trong khi sống đừng hi vọng rằng người đó sẽ đạt
tới nó trong cái chết, bởi vì người ta chết theo cùng cách
thức như người ta sống. Như bạn đã sống, vậy bạn sẽ chết;
không gì khác xảy ra trong khi chết cả. Chết là cao trào tối
thượng của sống. Chỉ có jivanamukta, người đã biết tới giải
thoát bây giờ và ở đây, cái chết trở thành giải thoát trong khi
sống nữa.

Thấy tất cả, mọi nơi, theo mọi hướng, như Brahman,
thực tại tuyệt đối - trên sự chín muồi của cảm giác thiện
chí như thế mà ham muốn dừng lại. Đừng bao giờ lãng
quên lòng trung thành của bạn với Brahman, thực tại
tuyệt đối, bởi vì đó là cái chết duy nhất, những người đã
bắt rễ vào Brahman nói thế.
Cho dù bị gạt sang bên, tảo không mất thời gian để phủ
kín lại mặt nước. Tương tự, nếu một người trí huệ đi
chệch lòng trung thành với Brahman dù chỉ một thoáng
chốc, ảo tưởng sẽ bao phủ người đó.
Cho nên cần phải thường xuyên giữ vững nhận biết. Mất
nhận biết dù chỉ một khoảnh khắc sẽ không có tác dụng.
Việc còn nhận biết là cần thiết cho tới thời điểm mà không
còn thậm chí một lượng tảo hay cỏ nhỏ nhất bên trong. Khi
tất cả tảo và cỏ đều bị thiêu cháy trong chính dạng hạt mầm
của chúng, thế thì không cần phải duy trì nhận biết nữa, vì
nhận biết tại giai đoạn này trở thành chính bản tính của bạn.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#6Cuộc sống là cơ hội

Người đã đạt tới cái một với Brahman, thực tại tuyệt đối,
trong khi sống, sẽ vẫn còn như vậy ngay cả sau khi rời
bỏ thân thể. Do đó, hỡi người hồn nhiên! trở nên tỉnh
thức tránh mọi chọn lựa nhị nguyên.
Khi người ta thấy linh hồn bất nhị qua nirvikalpa
samadhi - thức tỉnh vô chọn lựa - đó là khoảnh khắc khi
cái nút dốt nát trong tim tan biến hoàn toàn.
Củng cố cái ta, vứt bỏ cái tôi, vân vân, tồn tại cùng dửng
dưng với chúng, giống như ấm nước và quần áo, vân
vân. Mọi danh hiệu - từ Brahma, đấng sáng tạo, tới tảng
đá - đều là giả. Do đó, chỉ bắt rễ trong linh hồn, thấy
linh hồn riêng của mình ở mọi nơi.
Bản thân tôi là Brahman - đấng sáng tạo; bản thân tôi là
Vishnu - đấng duy trì; bản thân tôi là Shiva - đấng huỷ
diệt; bản thân tôi là Indra - thủ lĩnh của tất cả các thần;
bản thân tôi là vũ trụ này, và bản thân tôi là tất cả.
Không có gì khác hơn bản thân tôi.

Bất kì cái gì đáng đạt tới trong cuộc đời đều có thể đạt
được chỉ trong cuộc sống. Nhưng nhiều người cứ đợi cho
đến sau cái chết. Nhiều người nghĩ rằng làm sao có thể đạt
tới được chân lí, điều thiêng liêng, giải thoát trong khi vẫn
còn trong thân thể, trong cuộc sống, trong thế giới này? Tuy
nhiên, điều không thể đạt tới được trong cuộc sống chẳng lúc
nào có thể đạt tới được.
Sống là cơ hội để đạt tới, dù bạn dùng nó cho việc nhặt
sỏi đá hay để đạt tới điều thiêng liêng. Sống là cơ hội hoàn
toàn trung lập. Sống không bảo bạn phải đạt tới cái gì. Nếu
bạn nhặt sỏi đá, tích luỹ những thứ vô giá trị, hay phí hoài
cuộc đời mình trong việc làm tăng thêm và thổi phồng bản
ngã, cuộc sống không ngăn cản bạn làm điều như vậy. Hay
bạn có thể cống hiến cả đời để đạt tới chân lí, cái ta và chiều
sâu tối thượng của cuộc đời; như thế nữa cuộc sống cũng
không phản đối việc làm của bạn như vậy.
Cuộc sống đơn thuần là cơ hội trung lập - bạn có thể
dùng nó tuỳ thích. Nhưng nhiều người đã thu xếp để tự lừa
dối mình. Họ nghĩ, “Sống là để dành cho những hoan lạc trần
thế.” Họ đã tạo ra những phân chia thế này: “Sống là để dành
cho bhoga, mê đắm.” Nhưng thế rồi duy nhất chết còn lại
cho yoga, hợp nhất với điều thiêng liêng. Nhưng chết không
phải là cơ hội. Để điều này được hiểu đúng. Chết là chấm
dứt mọi cơ hội.
Nghĩa của chết là gì? Nghĩa của nó là ở chỗ bây giờ
không còn cơ hội nào nữa. Sống là cơ hội, chết là chấm dứt
cơ hội. Cho nên không có gì đạt được qua chết, bởi vì để đạt
tới được cái gì đó, phải có quãng cách cơ hội.
Nhưng chúng ta đã phân chia: chúng ta nói sống là để
dành cho mê đắm. Nhưng khi cuộc sống cạn kiệt đi thì

sao?... thế thì yoga. Chúng ta đã tạo ra đủ loại chuyện rằng
bạn có thể thì thào vào tai người hấp hối vào thời điểm chết -
khi người đó thậm chí không có khả năng nghe. Khi người
sống không nghe, làm sao người chết hay hấp hối nghe được
câu mật chú gayatri, hay trích dẫn tên điều thiêng liêng, hay
tụng “Rama, Rama”?
Người đã không thể nghe được câu mật chú gayatri trong
cả đời mình, và cho dù người đó có nghe người đó cũng
không lắng nghe, và thậm chí nếu người đó có lắng nghe thì
người đó cũng không hiểu thấu được... Người đó vào thời
điểm chết - khi tất cả các giác quan đều sụp đổ; khi mắt sẽ
không thấy, tai sẽ không nghe, tay sẽ không sờ được; khi
cuộc sống đang biến vào cội nguồn của của nó - sẽ có khả
năng nghe được gayatri sao? Không, người đó sẽ không có
khả năng nghe đâu. Nhưng thế thì tại sao người ta cứ thì thào
mãi những điều như thế vào tai người đó? Có bí mật trong
đó. Người đang hấp hối đó không có khả năng nghe thấy
điều gì, nhưng người đang sống, người đang thì thào điều đó
vào tai người đó, ở dưới bảo đảm rằng vào thời điểm chết
của họ ai đó sẽ thì thào điều đó cho họ, và mục đích sẽ được
đạt tới. Cho nên họ đã bịa ra những câu chuyện loại này.
Những người không trung thực này đã bịa ra các câu
chuyện. Người ta kể: một người sắp chết và người đó có đứa
con có tên là Narayana, một trong các tên của thần, và người
đó réo to “Narayana” để gọi nó. Nghe thấy điều này, thần
Narayana, đang trên trời, bị lầm tưởng. Ông ta nghĩ rằng ông
ta đã được nhớ tới. Người sắp chết gọi con mình, có lẽ để
khuyên đứa con trong những khoảnh khắc cuối cùng cách
buôn bán chợ đen hay cách tăng gấp đôi số tiền! Nhưng vì
hiểu lầm của thần Narayana nên người chết được lên trời.
Bản thân người đó cũng ngạc nhiên làm sao mình lại tới
được đấy. Nhưng việc người đó thốt ra tên của Narayana vào
thời điểm chết đã tạo ra phép màu. Không, những điều như
thế không thể được xoay xở rẻ rúng đến thế. Và một
Narayana dễ dàng bị lừa dối đến thế thì cũng chỉ là một
Narayana hư huyễn mà thôi.
Lừa dối không có tác dụng trong cuộc sống thực; đấy là
một vấn đề khác mà bạn có thể an ủi cho tâm trí mình với
những ý tưởng như thế.
Chết là kết thúc của cơ hội. Hiểu nghĩa này cho đúng.
Chết không phải là cơ hội khác để làm cái gì đó.
Chết là kết thúc của mọi cơ hội; bạn sẽ không có khả
năng làm gì nữa. Đơn giản là không có cách nào để làm bất
kì cái gì trong cái chết. Làm nghĩa là sống, cho nên bất kì cái
gì dự định làm đều phải được làm trong cuộc sống.
Trong kinh này một số từ hay đã được dùng.
Người đã đạt tới cái một với Brahman, thực tại tuyệt đối,
trong khi còn sống, sẽ vẫn còn như vậy sau khi rời khỏi
thân thể.

Chỉ người nào đã biết bản thân mình trong cuộc sống sẽ
còn như Brahman, người tối thượng, khi thân thể người đó bị
vứt bỏ. Ai đó đã tin tưởng trong cả đời rằng người đó là thân
thể đều sẽ trở thành vô thức khi chết đi - người đó sẽ ra đi
hoàn toàn vô ý thức. Rất ít người chết có ý thức. Chết xảy ra
trong một kiểu giấc ngủ, trong trạng thái vô ý thức. Bạn
không ý thức trong khi chết, bằng không bạn sẽ có khả năng
nhớ được lần chết trước của mình. Bất kì cái gì xảy ra trong
vô thức đều không còn lại trong kí ức. Đó là lí do tại sao mọi
người không biết rằng họ đã từng được sinh ra nhiều lần và
họ đã chết đi nhiều lần, bởi vì bất kì khi nào họ chết họ đều
vô ý thức. Và bất kì ai chết trong vô thức được sinh ra trong

vô thức, bởi vì sinh và tử là hai cực của cũng một điều. Một
người chết ở đây, đó là một đầu của hiện tượng; thế rồi cùng
người đó đi vào bụng mẹ ở đâu đó, đó là đầu kia. Chết và
sinh là hai mặt của cùng một đồng tiền.
Người chết vô ý thức được sinh ra vô ý thức. Do đó bạn
thậm chí không biết rằng bạn đã chết trước đây. Bạn cũng
không biết về sinh của bạn. Tin tức về sinh của bạn được
trao cho bạn qua người khác. Nếu không ai nói cho bạn rằng
bạn đã được sinh ra, bạn sẽ không có hồi tưởng gì của riêng
bạn về việc bạn được sinh ra. Điều đó rất thú vị. Điều bạn
được sinh ra là xác định - bạn có thể đã chết trước đó hay
không, nhưng sự kiện là bây giờ bạn được sinh ra là xác
định. Nhưng bạn thậm chí không có bất kì kí ức gì về điều
này. Cả điều này nữa bạn cũng được nghe từ bố mẹ bạn, từ
người khác.
Tin tức về sự ra đời của riêng bạn là tin đồn tới bạn, bạn
không có bất kì bằng chứng nào về nó. Không có kí ức nào
về nó trong ý thức của bạn. Cái gì có thể là lí do cho điều
đó? Bạn đã được sinh ra; việc sinh là biến cố lớn, và bạn
không có tri thức nào về biến cố lớn lao này cả.
Nhớ lấy, người không biết gì về sinh thành của mình sẽ
gặp khó khăn lớn để biết về cái chết của người đó trong khi
đang hấp hối. Chúng được liên nối. Chết đã xảy ra nhiều lần,
nhưng bạn đã chết trong vô thức. Gạt cái chết sang một bên
đã; bạn ngày nào cũng ngủ, hiện tượng ngủ xảy ra hàng
ngày, nhưng bạn có biết rằng ngay trước khi giấc ngủ kéo
đến bạn đang mất dần ý thức của mình không? Bạn có nhận
biết gì về việc đương đầu với giấc ngủ không? Khi giấc ngủ
hạ xuống, bạn có khả năng thấy nó hạ xuống không? Cho tới
điểm ngủ bạn còn có khả năng chú ý đến bất kì điều gì; bạn
vẫn còn tỉnh thức, giấc ngủ chưa buông xuống. Và khoảnh
khắc giấc ngủ choàng xuống bạn mất. Chính lúc giấc ngủ hạ
xuống bạn mất ý thức.
Khi bạn không có khả năng nhận biết ngay trong giấc
ngủ, làm sao bạn sẽ còn nhận biết trong chết? Chết là giấc
ngủ rất sâu, giấc ngủ say nhất: rất khó vẫn còn nhận biết
trong nó. Bạn sẽ chết vô ý thức. Và trong vô ý thức đó, bất kì
ai đọc lại câu mật chú gayatri, bất kì ai tụng câu “Rama,
Rama,” bạn sẽ không biết gì về điều ấy cả. Và vô ý thức này
thực ra là cần thiết.
Người được tự do khỏi vô ý thức này chỉ là người đã trở
nên tự do khỏi đồng nhất mình với thân thể. Tại sao? Nếu
bác sĩ phẫu thuật đang mổ dạ dầy cho bạn, ông ta sẽ phải làm
cho bạn thành vô ý thức bởi vì nếu bạn còn ý thức thì sẽ thấy
rất đau đến mức bạn không thể chịu đựng nổi. Bạn sẽ kêu
thét, la hét và vùng vẫy, và như thế thì không thể nào tiến
hành ca mổ được. Cái đau sẽ nhiều đến mức bạn thậm chí
phát điên, tâm trí bạn sẽ không bao giờ trở lại bình thường
nữa. Đó là lí do tại sao bác sĩ phẫu thuật phải cho gây mê
trước và làm cho bạn vô ý thức, rồi mới tiến hành phẫu thuật.
Cơ thể bạn bị mổ ra, nhưng rồi bạn đâu có biết. Và bởi vì
bạn không biết, bạn không cảm thấy đau.
Hiểu điều này cho đúng. Đau không được kinh nghiệm
thấy bởi vì cái đau, nó được kinh nghiệm thấy bởi vì việc
biết. Khi bác sĩ phẫu thuật tiến hành ca mổ, đau có đó, nhưng
khác biệt duy nhất là ở chỗ bạn không biết về nó. Bác sĩ
phẫu thuật sẽ mổ bạn ra và cắt bỏ đi những bộ phận không
cần thiết, nhưng bạn sẽ không biết về nó. Bạn sẽ biết về cái
đau chỉ khi bạn thu lại được ý thức. Và khi bạn biết, bạn sẽ
kinh nghiệm thấy cái đau xảy ra. Trong vô thức, thậm chí
nếu hết chi nọ đến chi kia bị cắt đi - bạn bị cắt thành từng
mảnh - bạn sẽ không biết.

Tuy nhiên, bác sĩ giải phẫu tiến hành ca mổ nhỏ, trong
khi chết là ca mổ rất lớn. Không ca mổ nào lớn hơn cái chết.
Bác sĩ giải phẫu đơn thuần cắt đi một hay hai chi, nhưng cái
chết phải cắt đi và phân tách bạn với thân thể bạn. Bạn
không thể được có ý thức trong ca mổ lớn đến thế, do đó cái
chết mãi mãi dùng cơn mê tự nhiên. Ngay khi cái chết lại
gần bạn đã rơi vào vô thức. Trong vô ý thức đó, cuộc giải
phẫu lớn nhất thế giới xảy ra, việc phân tách thân thể bạn
khỏi linh hồn bạn.
Nhưng một người có thể chết mà không trở nên vô ý
thức. Tự nhiên cho phép một người chết có ý thức, người đã
đi tới biết rằng mình không phải là thân thể. Tại sao? - bởi
vì, khi thân thể bi cắt rời, người đó không đồng nhất với thân
thể. Người đó tiếp tục theo dõi từ một khoảng cách. Người
đó có thể theo dõi từ một khoảng cách bởi vì người đó biết
rằng cái gì đó khác đang bị cắt: “mình không bị cắt, mình
đang theo dõi nó, mình chỉ là nhân chứng.” Bất kì khi nào
nhận biết như vậy trở nên được kết tinh, tự nhiên trao cho
người đó cơ hội được chết có ý thức. Nhưng điều này xảy ra
ở giai đoạn muộn hơn nhiều. Trước hết người ta phải học
ngủ có ý thức, và điều đó cũng đến sau; trước nữa người ta
phải học có ý thức trong khi còn tỉnh thức.
Người có ý thức trong khi tỉnh thức dần sẽ học cách ngủ
có ý thức. Người sống có ý thức một ngày nào đó chết có ý
thức. Người chết có ý thức có khả năng biết rằng người đó
đã trở thành một với Brahman, thực tại tối thượng. Nhưng
trước hết người ta phải biết điều này trong ý thức ẩn náu bên
trong thân thể riêng của mình. Thế thì một ngày nào đó cái
bình bên ngoài cũng vỡ và bầu trời bên trong hội nhập với
bầu trời bao la.
Người chết có ý thức sẽ trải qua những kinh nghiệm
tuyệt diệu. Chết dường như không phải là kẻ thù với người
đó, chết tựa như bạn người đó. Chết dường như là thống nhất
vĩ đại với điều thiêng liêng, với cái bao la. Người chết có ý
thức cũng có thể nhận sinh thành mới một cách có ý thức.
Người được sinh ra có ý thức, cuộc sống của người đó hoàn
toàn khác bởi vì người đó không lặp lại cùng những việc mà
người đó đã lặp đi lặp lại nhiều lần trước đây. Tất cả những
cái đó trở thành ngớ ngẩn và vô nghĩa đối với người đó.
Cuộc sống người đó trở thành cái gì đó mới mẻ, cuộc sống
người đó đi vào chiều hướng mới. Và chứng kiến của người
đó vẫn tiếp tục; người đã là nhân chứng vào lúc sinh thành,
người đã là nhân chứng vào lúc chết trước đây, người đó vẫn
còn là nhân chứng trong suốt cuộc đời mình.
Vậy chỉ trong một lần chết bạn có thể chết hoàn toàn có
ý thức, và chỉ trong một lần sinh bạn có thể hoàn toàn có ý
thức; từ sau đó vòng sinh tử dừng lại. Từ sau đó bạn sẽ biến
mất khỏi thế giới thân thể. Bởi hiện tượng biến mất này mà ở
Ấn Độ chúng ta đã phát minh ra một từ rất hay: kaivalya.
Đây là một từ kì diệu. Kaivalya nghĩa là “Tôi một mình. Chỉ
tôi và không có gì khác; chỉ tôi, chỉ tâm thức, chỉ linh hồn
này, không gì khác; chỉ có người quan sát, chỉ có nhân
chứng, không gì khác. Tất cả những cái khác chỉ là trò chơi,
tất cả những cái khác chỉ là mơ. Chân lí duy nhất là tâm thức
chứng kiến. Người thấy duy nhất là chân lí, cái được thấy
không phải là chân lí.” Kaivalya là tên đặt cho kinh nghiệm
này.
Hiểu điều này thêm một chút. Bạn là đứa trẻ, thế rồi bạn
trở thành thanh niên, và thế rồi bạn trở thành già. Tuổi thơ
trôi qua và tuổi thanh xuân tới, tuổi thanh xuân qua đi và tuổi
già tới. Điều này có nghĩa là bạn không gì ngoài sự thay đổi
thường xuyên. Tuổi thơ, tuổi thanh xuân, tuổi già đều không
còn lại - mọi thứ đều thay đổi. Nhưng có cái gì đó bên trong

bạn không thay đổi không? Bạn khổ, thế rồi bạn trở nên hạnh
phúc; bạn hạnh phúc thế rồi bạn trở nên khổ; bạn an bình thế
rồi bạn bất ổn; bạn bất ổn thế rồi bạn trở nên an bình - mọi
thứ đều thay đổi. Bạn giầu, bạn trở thành nghèo; bạn nghèo,
bạn trở thành giầu - mọi thứ đều thay đổi. Nhưng có một cái
gì bên trong bạn không thay đổi không?
Nếu không có cái như vậy bên trong bạn, thế thì bạn đơn
giản không có đó chút nào. Thế thì cái gì là nghĩa của hiện
hữu của bạn ở đó? Vậy thế thì ai sẽ xâu chuỗi tuổi thơ của
bạn, tuổi thanh xuân của bạn và tuổi già của bạn, giống như
dây hạt cườm? Vòng hạt cườm là một vòng cổ chỉ khi các
hạt cườm của nó được xâu chuỗi với nhau. Nếu không có sợi
dây bên trong để xâu chuỗi chúng lại mà chỉ có các hạt cườm
thôi, thế thì không chỉ không có vòng hạt mà mọi hạt cườm
cũng tản mát hết.
Tuổi thơ của bạn có đó tựa như một hạt cườm, tuổi thanh
xuân của bạn có đó như một hạt cườm, tuổi già của bạn có
đó như một hạt cườm - nhưng sợi dây để xâu chuỗi chúng lại
với nhau đâu? Nhân tố liên tục đó ở đâu? Và nhân tố liên tục
đó là chân lí. Tất cả những cái khác đều thay đổi. Định nghĩa
của Ấn Độ là ở chỗ bất kì cái gì thay đổi, chúng ta đều gọi
nó là mơ. Để điều này được hiểu đúng.
Chúng ta có định nghĩa riêng của mình về từ mơ. Bất kì
cái gì thay đổi, chúng ta gọi nó là mơ, còn cái gì không bao
giờ thay đổi, chúng ta gọi nó là chân lí. Cho nên tuổi thơ trôi
qua tựa mơ; tuổi thanh xuân trôi qua tựa mơ; hạnh phúc tới
rồi đi, bất hạnh tới rồi đi; hệt như mơ tan biến, mọi thứ cứ
biến mất. Do đó những người thấy của Ấn Độ nói, đó là mơ
bao la trải khắp quanh bạn.
Có hai kiểu mơ. Một kiểu là mơ cá nhân của bạn, mơ
bạn thấy khi ngủ trong đêm. Kiểu kia là mơ chung bạn thấy
trong khi đang tỉnh thức ban ngày. Nhưng không có khác
biệt giữa hai kiểu này, bởi vì chúng cả hai đều vẫn đang thay
đổi. Mơ ban đêm bị thành giả bởi sáng hôm sau, còn mơ
cuộc đời bị thành giả bởi cái chết. Một thời điểm tới khi tất
cả những cái đã được chứng kiến trở thành vô dụng. Thế thì
có chân lí nào không? Nhưng ngay cả để tồn tại mơ hẳn phải
có cơ sở của chân lí. Ngay cả để có thay đổi cũng phải có cơ
sở nào đó không thay đổi; bằng không thì không thể có thay
đổi được. Cơ sở đó là ở đâu? Nó nằm bên trong chúng ta.
Kinh của hiền nhân này nói: chứng kiến là cơ sở.
Bạn đã thấy tuổi thơ của mình; tuổi thơ đã thay đổi
nhưng người thấy bên trong bạn là không đổi. Thế rồi tuổi
thanh xuân tới và bạn thấy nó; thế rồi tuổi thanh xuân cũng
qua đi nhưng người thấy nó là không đổi. Đó chính là cùng
người thấy người đã thấy tuổi thơ, người đã thấy tuổi thanh
xuân, người đã thấy tuổi già; người đã thấy việc sinh, người
đã thấy cái chết; người đã thấy hạnh phúc, người đã thấy bất
hạnh; người đã thấy thành công và thất bại. Mọi thứ đều thay
đổi, duy nhất một người cứ thấy, người cứ kinh nghiệm mọi
thứ là không thay đổi. Chính người thấy này là cái chúng ta
gọi là linh hồn; đó là chân lí. Biết được người này, cái không
thay đổi, chính là kaivalya.
Kaivalya được kinh nghiệm vào ngày một người, với
việc tách bản thân mình ra khỏi mọi mơ, tách bản thân người
đó ra khỏi mọi hạt cườm, đi tới biết bản thân mình là sợi dây
luồn qua tất cả chúng. Cái ngày người đó đi tới biết rằng,
“Tâm thức không ngưng này, tâm linh chứng kiến này, đây
là điều tôi là; tôi chỉ là tâm thức này”... khi việc nhận ra như
thế trở thành kinh nghiệm được kết tinh - không phải là ý
nghĩ mà là kinh nghiệm, không phải là lời nói mà là nhận ra -
chúng ta gọi người như thế là người đã đạt tới kaivalaya.
Người đó đã biết cái một đáng biết, người đó đã đạt tới cái

một đáng đạt tới. Và trong việc đạt tới cái một một mình đó
người ta đạt tới mọi thứ; và trong khi đánh mất cái một một
mình đó, người ta đánh mất mọi thứ.
Chúng ta cố gắng nắm bắt các giấc mơ, nhưng ngay
trước khi ta nắm được chúng, chúng bị mất đi và nắm tay của
chúng ta còn trống rỗng. Trong đêm chúng ta đã thấy rằng
mình là hoàng đế; sáng hôm sau tay chúng ta trống rỗng.
Trong cuộc đời chúng ta thấy mình đã trở thành cái này,
chúng ta thấy mình trở thành cái kia; vào lúc chết tay chúng
ta trống rỗng. Bất kì ai ta đã nắm giữ như của riêng mình -
bất kì ai ta đã nắm giữ trong nắm tay mình - họ đều biến mất
tựa như không khí trong nắm tay vậy. Tay nắm lại và không
khí biến mất khỏi nắm tay. Mọi thứ đều chứng tỏ là mơ.
Nhớ lấy, chính nghĩa của chúng ta về “mơ” chỉ là thế
này, rằng bất kì khi nào có thay đổi đều không có chân lí.
Cái gì là cái không thay đổi và thống nhất? Bạn cứ đi tìm
trong thế giới này và bạn sẽ thấy rằng không đâu có chân lí
không thay đổi, thống nhất cả. Chỉ khi bạn tìm kiếm vào bên
trong bản thân mình bạn sẽ thấy trong người quan sát cái liên
tục đó, cái toàn vẹn đó mà là thống nhất. Cái đó được gọi là
kaivalya. Nếu bạn biết cái một đó trong khi sống, thế thì vào
lúc chết, lúc vứt bỏ thân thể, cái một với Brahman, thực tại
tuyệt đối, được kinh nghiệm.
Do đó, hỡi người hồn nhiên! trở nên tỉnh thức tránh tất
cả những chọn lựa nhị nguyên.

Làm sao chúng ta sẽ có khả năng biết về cái một này?
Quá trình là: tránh mọi vikalpa, mọi chọn lựa trong nhị
nguyên. Từ vikalpa này cũng đáng hiểu. Vikalpa nghĩa là
mọi thứ có cái đối lập của chúng - mọi cái đối lập đó là
vikalpa. Chẳng hạn, hạnh phúc: đối lập của nó là bất hạnh.
Nếu bạn muốn hạnh phúc, bạn cũng sẽ nhận bất hạnh. Bạn sẽ
phải mang nó. Đó là cái giá người ta phải trả vì hạnh phúc.
Nếu bạn muốn yêu, bạn cũng sẽ phải đương đầu với ghét
nữa, đó là cái giá. Nếu bạn muốn thành công, thất bại cũng
sẽ đến trên con đường của bạn; nó là cái bóng của thành
công, nó đi cùng với thành công. Vikalpa nghĩa là thế giới
nhị nguyên, nơi mọi thứ đều có hai phần; bạn ham muốn
phần này và bạn nhất định bị vướng vào phần kia nữa.
Không có cách nào được cứu khỏi tình huống này.
Cách duy nhất để được cứu khỏi nó là vứt bỏ cả hai, trở
thành vô chọn lựa. Điều đó nghĩa là bất kì khi nào có nhị
nguyên, đừng chọn lựa, bỏ mọi chọn lựa. Hiểu điều này thêm
chút nữa, bởi vì chính vấn đề này đưa người ta đi rất sâu. Bất
kì khi nào có khả năng của hai - bất kì khi nào ...! Nếu bạn
muốn an bình, bạn sẽ tiếp tục bị mắc vào bất ổn. Điều này có
chút khó hiểu. Chúng ta có thể hiểu được tính nhị nguyên
của hạnh phúc và bất hạnh, thành công và thất bại, kính
trọng và bất kính; nhưng tôi nói cả an bình và bất ổn nữa. Nó
là cùng một sự vật, vấn đề nhị nguyên. Không chỉ điều này:
nếu bạn muốn giải thoát bạn sẽ cứ rơi vào tù túng bởi vì nhị
nguyên là như nhau ở đây nữa, các cái đối lập đang đối diện
với nhau ở đây nữa; khả năng chọn lựa là như nhau. Cho nên
một người nói người đó muốn giải thoát, người đó sẽ bị sập
bẫy.
Giải thoát đến với người không chọn lựa giữa những cái
nhị nguyên; an bình thuộc về người không chọn lựa giữa
những cái nhị nguyên - người không yêu cầu an bình. Người
nói, “An bình hay rối loạn, tôi không định chọn giữa hai thứ
này” - người như vậy trở thành an bình. Hoa của tình yêu nở
trong cuộc đời của người không chọn lựa yêu chống lại ghét,
người nói, “Tôi không muốn cả yêu lẫn ghét, tôi dửng dưng
với cả hai; tôi xin được tha thứ cho cả hai, tôi không muốn

xen vào cái nào trong hai điều này.” Hoa của tình yêu nở
trong cuộc đời của người như vậy.
Bất kì khi nào có nhị nguyên, bất kì khi nào có vikalpa -
tuỳ chọn - bất kì khi nào có khả năng chọn lựa, đừng chọn.
Nhưng chúng ta bao giờ cũng chọn! Và chúng ta không có
khả năng hiểu được rằng chọn lựa của chúng ta chính là
vướng mắc. Khi bạn chọn hạnh phúc, bạn cũng đã chọn bất
hạnh rồi, bất hạnh đã tới rồi, bất hạnh cũng đã bước vào cửa
nhà bạn rồi. Tại sao?
Hiểu quá trình này đi. Tôi ham muốn hạnh phúc - ham
muốn này ngụ ý nhiều điều. Một, nó ngụ ý rằng bây giờ tôi
bất hạnh. Chỉ người bất hạnh mới muốn hạnh phúc. Tại sao
người hạnh phúc ham muốn hạnh phúc? Chúng ta chỉ đòi hỏi
cái mà chúng ta không có, chúng ta không đòi hỏi cái chúng
ta đã có. Đó là lí do tại sao không ai đòi hỏi bất hạnh, bởi vì
mọi người đều đã có nó. Người ta đòi hỏi hạnh phúc bởi vì
người ta không có nó. Cho nên ngày bạn nói bạn muốn hạnh
phúc ít nhất bạn đã làm một điều rõ ràng - rằng bạn đang bất
hạnh.
Thứ hai là, với bất kì hạnh phúc nào bạn đang đòi hỏi,
nếu bạn không đạt được nó, bạn sẽ trượt sâu thêm vào bất
hạnh - và không có gì đảm bảo đạt được hạnh phúc này. Và
nếu bạn quả có đạt được nó, dầu vậy bạn vẫn sẽ trượt vào
trong bất hạnh bởi vì bây giờ bạn đã đi tới biết bao nhiêu mơ
ước bạn đã dựng lên xung quanh nó mà chẳng cái nào trong
chúng được đáp ứng.
Mọi hạnh phúc đều dường như ở xa xa, trong tương lai,
nhưng khi bạn tới gần hơn nó biến mất. Chừng nào mà hạnh
phúc còn chưa là của bạn, nó còn là hạnh phúc; khi nó trở
thành của bạn, nó biến thành bất hạnh. Hạnh phúc là ở nơi xa
xa. Hạnh phúc không có trong các vật, nó ở trong khoảng
cách, nó ở trong hi vọng của bạn, nó ở trong chờ đợi của bạn.
Khi nó tới, hay khi nó tới gần hơn, nó bắt đầu biến mất, và
ngay lúc nó ở trong tay bạn, nó trở thành bất hạnh.
Không hạnh phúc không bất hạnh nào là có cố hữu trong
bất kì cái gì. Khoảng cách càng lớn, hạnh phúc dường như
càng lớn; khi nó lại gần hơn, bất hạnh lớn hơn. Đây là cái
bẫy rất phức tạp. Bất kì cái gì chúng ta đem lại gần, bất hạnh
bắt đầu tràn lan ra từ nó. Chúng ta càng đòi hỏi hạnh phúc...
Một, bạn sẽ không nhận được nó, bởi vì chẳng có gì được
nhận bằng việc đòi hỏi; và khi bạn không nhận được nó, bạn
sẽ thất vọng. Hai, cho dù bạn có nhận được nó, bạn cũng sẽ
đương đầu với thất bại, và trống rỗng sẽ bao quanh bạn, rằng
mọi nỗ lực của bạn đã biến thành vô tích sự, không có gì
thực sự được đạt tới; người ta hối hả, lao động vất vả và tất
cả những cái nhận được là như thế này sao? Cái dường như
lấp lánh thế từ khoảng cách xa... Bất kì âm nhạc nào nghe từ
xa đều có vẻ tinh tú.
Nếu bạn chọn lựa bạn sẽ trở nên dính líu trong thế gian.
Thế gian là trong chọn lựa, giải thoát là trong vô chọn lựa.
Chỉ đừng chọn thôi! Khi hạnh phúc đến, chấp nhận nó; khi
bất hạnh đến, chấp nhận nó. Nhưng đừng có chọn lựa nào
bên trong đó rằng, “Tôi muốn cái này.” Người không đưa ra
bất kì nhu cầu nào trong thế giới này sẽ trở thành tự do với
thế giới này. Để điều này chìm sâu hơn một chút vào bạn đi.
Người không yêu cầu điều gì từ thế giới này không thể bị
mắc bẫy bởi thế giới. Nếu bạn yêu cầu bất kì điều gì từ thế
giới này, bạn sẽ bị mắc bẫy. Nếu bạn nhận được điều bạn
yêu cầu từ thế giới, bạn bị mắc bẫy. Nếu bạn không nhận nó,
thế nữa bạn cũng bị mắc bẫy. Bạn bị mắc bẫy bởi chính việc
hỏi; điều đó không liên quan đến việc được nó hay không
được nó.

Người câu cá gắn mồi vào lưỡi câu. Chỉ với điều đó cá
sẽ thấy an toàn với lưỡi câu mà thường nó không há mồm
chút nào. Cá há mồm là bị mắc câu. Cá há mồm vì mồi;
không cá nào ngu đần há mồm vì lưỡi câu. Mọi cá sẽ há
mồm vì mồi, và đó là lí do tại sao người câu cá chỉ ngồi đợi
sau khi thả cần câu xuống nước. Cá bị mắc bẫy bởi mồi.
Mọi người đều muốn hạnh phúc, và lưỡi câu của bất
hạnh đi ra từ hạnh phúc. Mọi người đều ham muốn kính
trọng, và lưỡi câu của bất kính xuất hiện ra từ chính sự kính
trọng. Mọi người đều muốn được an bình, và chính an bình
trở thành rối loạn. Nghĩ về con cá không chọn lựa cái gì
trong hai điều - mồi và lưỡi câu; nó chỉ dửng dưng bơi qua
mồi này. Không thể nào bắt được con cá này.
Sống trong thế giới giống như con cá này không chọn
lựa, không đòi hỏi gì. Thế thì không thể có tù túng cho bạn
được, bạn không thể bị mắc bẫy được.
Trở thành sannyasin có nghĩa là từ bỏ mọi chọn lựa các
tuỳ chọn. Cho nên nhớ lấy, tính chất sannyas không phải là
chọn lựa chống lại thế giới. Và những người đã cho sannyas
ý nghĩa chống lại thế giới sẽ vẫn còn bị vướng mắc trong thế
giới.
Có những người nói, “Sannyas là chống lại thế giới; và
chúng tôi đang trong thế giới - làm sao chúng tôi có thể nhận
tính chất sannyas được? Chúng tôi sẽ nhận tính chất sannyas
khi chúng tôi từ bỏ thế giới này.” Sannyas của họ cũng là nhị
nguyên. Sannyas và thế giới đối với họ là hai phía, đối lập.
Họ nói rằng nếu họ chọn thế giới, làm sao họ có thể chọn
tính chất sannyas được? Hay nếu họ chọn tính chất sannyas,
làm sao họ cũng có thể chọn thế giới được? Nếu tính chất
sannyas là nhị nguyên, thế thì mọi ý nghĩa của sannyas đều
mất. Chính nghĩa của sannyas là trở thành bất nhị. Bây giờ
chúng ta không chọn lựa! Bất kì cái gì xảy ra đều được chấp
nhận, cái gì không xảy ra là không được yêu cầu. Trạng thái
con người như thế là sannyas. Thế thì bạn có thể là một
sannyasin ở bất kì đâu. Thế thì sannyas là trạng thái con
người, không phải là một chọn lựa phương án.
Bản kinh này nói:
Do đó, hỡi người hồn nhiên! tỉnh thức để tránh tất cả
chọn lựa nhị nguyên.
Tỉnh thức chỉ xảy ra khi người ta trở nên tránh mọi chọn
lựa trong nhị nguyên:
Khi người ta thấy linh hồn bất nhị qua chứng ngộ
nirvikalpa - tỉnh thức vô chọn lựa - đó là khoảnh khắc
cái nút dốt nát trong tim tan biến hoàn toàn.

Có hai kiểu tỉnh thức. Một là savikalpa samadhi, tỉnh
thức có chọn lựa. Đó là tỉnh thức nhân danh. Savikalpa
samadhi - tỉnh thức có chọn lựa - nghĩa là ai đó chọn trở nên
an bình. Hiểu điều này cho đúng.
Thường đây là điều mọi người chọn lựa trước hết. Khi
người ta quá bị tổn thương bởi thế giới họ trở nên rối trí, bất
ổn và thế rồi họ nghĩ đạt tới an bình qua thiền. Họ chọn an
bình chống lại rối loạn. Họ bắt đầu tìm an bình qua thiền,
nhưng sâu bên trong an bình này vẫn còn che giấu khuôn mặt
của bất ổn. Phương án đó bao giờ cũng hiện diện đấy, bởi vì
ngay chỗ đầu tiên bạn đã chọn an bình chống lại rối loạn.
Bạn không thể tự do với cái đối lập của cái bạn đã chọn; nó
sẽ vẫn còn hiện diện. Nhiều nhất điều có thể xảy ra là ở chỗ
phía bạn đã chọn có thể trèo lên đỉnh còn phía bạn không
chọn có thể vẫn còn tại đáy - nhưng nó không thể bị phá huỷ.

Chọn lựa không bao giờ có thể đưa người ta ra khỏi nhị
nguyên; nhị nguyên vẫn còn đó. Bạn có thể chọn, nhưng bởi
vì chính sự kiện chọn lựa đó cái đối lập của nó vẫn còn hiện
diện. Cho nên bạn thậm chí có thể trở nên an bình, nhưng an
bình của bạn sẽ chỉ trên bề mặt. Việc an bình của bạn sẽ chỉ
trên bề mặt và rối loạn sẽ vẫn còn ẩn kín bên trong. Và bạn
bao giờ cũng sẽ sợ hãi rối loạn bùng phát vào bất kì khoảnh
khắc nào. Hạt mầm của rối loạn vẫn còn đấy và nỗi sợ việc
nhú ra của nó ra cũng sẽ vẫn còn.
Đây là lí do tại sao mọi người chạy khỏi thế giới, bởi vì
trong thế giới họ sợ rối loạn vẫn đang còn ẩn kín bên trong
họ, điều rất có thể bùng phát vào bất kì khoảnh khắc nào nếu
ai đó gợi nó ra một chút. Người trốn chạy hướng về rừng sâu
không phải là chạy khỏi bạn đâu, người đó đang chạy khỏi
rối loạn ẩn kín bên trong bản thân mình. Nếu người đó
dường như chạy xa khỏi bạn, đấy chỉ là vì nỗi sợ rằng bạn có
thể khơi ra tầng rối loạn bên trong của người đó. Chồng trốn
vào rừng sâu không phải là để trốn khỏi vợ mình mà là để
trốn khỏi vô dục mà người đó đã áp đặt lên bản thân mình.
Dục tính vẫn còn ẩn náu bên trong người đó, bởi vì bất kì ai
hiểu về vô dục là chống lại dục tính đều không thể được tự
do với hạt mầm của dục tính. Người chọn lựa sẽ vẫn còn bị
buộc vào cái đối lập.
Chính ý nghĩa của chọn lựa là ở chỗ chúng ta đang chọn
chống lại cái gì đó. Và bất kì cái gì chúng ta đã chọn chống
lại sẽ tiếp tục theo đuổi chúng ta. Bất kì cái gì chúng ta đã bố
trí trên bề mặt, phía dưới nó vẫn hiện diện cái chống lại cái
chúng ta đã chọn - bởi vì cái đó nữa cũng là một phần của
nó.
Thực ra chúng ta đã phân chia cuộc sống ra làm hai phần
- một phần chúng ta đã chọn, phần kia chúng ta không chọn -
trong khi chúng cả hai là những phần toàn vẹn. Phần chúng
ta không chọn sẽ đi đâu? Nó vẫn còn lại với chúng ta. Và thế
rồi bạn sẽ sợ rằng nếu bạn ở cùng với mọi người, nếu bạn có
gia đình, có doanh nghiệp, và ở trong chợ, phần đang ẩn kín
trong bạn sẽ bật ra ngay khi ai đó hơi mò vào. Do đó, chạy
đi! Chạy thật xa tới chỗ không ai có thể làm cho bạn thấy
điều đang ẩn kín bên trong. Nhưng điều đó sẽ không phá huỷ
nó. Người ta có thể sống trên Himalaya hàng nghìn năm,
nhưng ngày người đó quay lại chợ người đó sẽ thấy rằng cả
nghìn năm đó đã bị phí hoài. Phố chợ lại sẽ gợi ra điều bị
giấu kín bên trong và nó sẽ đi ra chỗ trống.
Tỉnh thức chọn lựa nghĩa là bạn đã trở thành im lặng
bằng chọn lựa.
Tỉnh thức vô chọn lựa nghĩa là bạn đã vứt bỏ mọi chọn
lựa. Chỉ tỉnh thức vô chọn lựa - điều có nghĩa là bạn không
phân chia mọi sự vật thành hai phần - là tỉnh thức. Tỉnh thức
có chọn lựa không gì khác hơn là lừa dối về tỉnh thức.
Nhưng người ta trước hết đến với tỉnh thức có chọn lựa;
người ta chọn sannyas vì bị thất vọng bởi thế giới. Điều đó là
tự nhiên, vì bị đau khổ bởi thế giới mà người ta chọn tính
chất sannyas.
Điều thứ hai sẽ xảy ra chỉ khi người ta trở nên mệt mỏi
vì tính chất sannyas, khi người ta sẽ kinh nghiệm rằng giống
như bất kì hai điều đối lập nào, sannyas và thế giới cũng là
hai phần của cùng một bản giao hưởng. Cái ngày mà mà
người ta sẽ vứt bỏ chọn lựa là như vậy. Ngày đó sannyas
thực sẽ nở hoa. Ngày đó người ta sẽ không chọn lựa. Ngày
đó người ta sẽ vứt bỏ chọn lựa như vậy. Ngày đó người ta sẽ
hiểu, “Trong chọn lựa là thế giới, và do đó tôi không chọn
thêm nữa. Bây giờ bất kì cái gì xảy ra, tôi chấp nhận nó; bất
kì cái gì không xảy ra, tôi không bận tâm về nó. Bây giờ tôi

sẵn lòng - trong bất kì cách thức nào sự tồn tại chăm nom tới
tôi, tôi đều sẵn lòng... Bây giờ không còn tiếng nói của tôi về
bất kì cái gì ngược với sự tồn tại. Bây giờ nếu bất hạnh tới,
điều đúng đang xảy ra. Nếu hạnh phúc tới, điều đúng đang
xảy ra. Bây giờ tôi không tách bản thân mình và nói rằng nó
phải xảy ra chỉ theo cách nào đó. Bây giờ tôi không có mong
đợi, đòi hỏi và phàn nàn của riêng tôi. Tôi đã từ bỏ phàn
nàn.”
Cái ngày người ta từ bỏ phàn nàn tỉnh thức vô chọn lựa
xảy ra. Ngày đó sẽ không còn tù túng cho bạn trong thế giới
này. Cho dù toàn bộ thế giới trở thành giam cầm và nó thiết
chặt bản thân nó xung quanh cơ thể bạn tựa như con bạch
tuộc, sẽ không có tù túng, bởi vì bạn chấp nhận cả điều ấy;
nó là được.
Nếu ai đó đặt cùm vào tay tôi, nhớ cái cùm đó không
phải là xiềng xích bởi vì người đặt nó vào tay tôi tin nó là
vậy; nó là tù túng chỉ nếu tôi tin nó là tù túng. Nó có thể là tù
túng chỉ nếu tôi tin nó là như vậy - điều đó tất cả tuỳ thuộc
vào niềm tin của tôi. Tôi có thể đưa tay ra và yêu cầu đặt
cùm vào tay tôi.
Có một biến cố rất thú vị và đẹp đẽ trong cuộc đời của
Ramakrishna. Từ ngay tuổi thơ Ramakrishna đã là người có
tâm trí hướng về điều thiêng liêng. Cậu bé khó về được nhà
nếu phải đi ngang qua ngôi đền. Nó sẽ nhảy múa ở đó, nằm
dài trên bậc thềm ngôi đền, và nếu ai đó thốt ra tên của
Rama, nó sẽ vào trạng thái kiểu như mê. Cho nên mọi người
trong gia đình đều nghĩ rằng đứa trẻ này sẽ không sống được
cuộc sống trần tục, không có hi vọng nào như thế cả.
Tuy nhiên, trách nhiệm của bố mẹ là khi cậu bé đến tuổi
phải hỏi nó liệu nó có muốn lấy vợ không. Họ hỏi cậu thanh
niên, “Rama” - tên thật, tên cúng cơm của cậu là Gadadhar -
“con sẽ lấy vợ chứ?” Họ cứ tưởng rằng Ramakrishna sẽ từ
chối. Nhưng Ramakrishna sung sướng với câu hỏi đó và nói,
“Lấy vợ là gì và nó giống cái gì vậy? Con chắc chắn sẽ làm
điều đó!” Bố mẹ sửng sốt giật lùi. Họ cứ tưởng rằng đứa con
mang bản tính của một sannyasin và rằng nó sẽ không muốn
lấy vợ, nhưng cái gì thế này? Họ bắt đầu đi tìm cô dâu.
Một cô dâu được chọn; cô ta thật trẻ theo độ tuổi, cô ấy
còn trẻ hơn Ramakrishna tám đến mười tuổi. Ramakrishna
tới gặp cô gái và mọi người trong gia đình cũng đi cùng. Mẹ
Ramakrishna đã đặt ba ru pi trong túi cậu để phòng khi cậu
cần tới cho việc gì đó, mặc dầu làng của cô dâu cũng không
xa lắm. Ramakrishna được cho mặc quần áo mới và tề chỉnh
cho cơ hội này. Khi tới làng cô dâu, cậu thấy cô gái; cô ấy rất
đáng yêu. Ramakrishna đặt ba đồng ru pi lên chân cô gái và
chạm vào chân cô. Mọi người thấy điều đó xảy ra đều rất lấy
làm bối rối và nói, “Cháu điên hay sao? Cô ấy sắp làm vợ
cháu, mà cháu chạm chân cô ấy! Mà tại sao cháu đã đưa cho
cô ấy ba đồng ru pi kia?”
Ramkrishna nói, “Cô ấy trông đáng yêu như mẹ cháu.”
Ramakrishna chỉ biết một tình yêu, tình yêu của người mẹ.
Cậu ta nói, “Cô ấy đáng yêu đến thế, hệt như mẹ cháu! Cháu
sẽ gọi cô ấy là ‘mẹ’. Có gì khác biệt nếu cô ấy cũng là người
vợ?”
Sau này khi họ đã cưới nhau, nhưng Ramakrishna bao
giờ cũng gọi Sharda là ‘Mẹ’ và ông ấy vẫn tiếp tục chạm vào
chân cô ấy. Và khi ngày kỉ niệm nữ thần đức mẹ Kali tới,
Ramakrishna sẽ đặt Sharda lên ngai và thờ cô ấy. Ông ấy sẽ
nói, “Khi có một người mẹ sống, cần gì thần tượng.” Có vợ
không phải là tù túng; ông ấy không bao giờ nhìn cô ấy như
tù túng. Ông ấy chìa tay ra và nhận lấy cái cùm.
Mọi thứ đều phụ thuộc vào thái độ của bạn. Bất hạnh là

bất hạnh bởi vì bạn bác bỏ nó và bạn ham muốn hạnh phúc.
Bất hạnh là vì bạn ham muốn cái đối lập của nó, bằng không
bất hạnh là gì? Bất hạnh bị che giấu trong đòi hỏi của bạn về
cái đối lập. Bất ổn là gì? Bất ổn là vì bạn ham muốn an bình.
Thế giới của chúng ta nằm trong chọn lựa của chúng ta.
Kinh này nói: Bất kì ai trở thành vô chọn lựa đều thấy
linh hồn bất nhị bởi vì người không chọn lựa trong thế giới
bên ngoài - không hạnh phúc không bất hạnh, không yêu
không ghét, không thế giới không giải thoát, không vật chất
không Thượng đế - người đơn giản không chọn lựa, người
mà mọi chọn lựa đã dừng lại, người đó lập tức đạt tới bên
trong bản thân mình.
Người đạt tới vô chọn lựa thấy được linh hồn, và thế thì
cái nút dốt nát trong tim hoàn toàn bị phá huỷ.
Củng cố cái ta, vứt bỏ cái ngã, vân vân, tồn tại cùng
dửng dưng với chúng, như bình và quần áo, vân vân.

Hiểu từ udasin này đi, dửng dưng. Udasin, dửng dưng,
không có nghĩa là udas, buồn. Udasin nghĩa là sống không
bận tâm, sống không mục đích. Từ udasin đã gây nhiều tai
hại. Có một phái những sannyasin dửng dưng, họ vẫn còn
trong cái buồn tự áp đặt bởi vì họ nghĩ udasinata, dửng
dưng, nghĩa là udasi, buồn.
Dửng dưng không có liên quan gì tới buồn; mối quan hệ
chỉ ở âm thanh của các từ. Dửng dưng nghĩa là, “Tôi giữ
không chọn lựa. Bất kì cái gì xảy ra, để cho nó xảy ra.
Không phải là udasi, buồn, mà là udasinata, dửng dưng. Tất
cả đều tốt, bất kì cái gì xảy ra cũng đều tốt cả.” Cũng tựa như
người ta sống trong một ngôi nhà - thí dụ lấy trong kinh này
là bình, quần áo, của cải, vân vân trong ngôi nhà - và người
ta cứ đi vào đi ra thoải mái trong nhà. Nếu cái bình nằm đâu
đó nó nằm ở đâu đó, người ta không cần chú ý tới nó. Nếu
quần áo đang treo trong nhà, chúng cứ việc treo ở đó; người
ta đi qua những thứ đó, người ta không cần để ý đặc biệt đến
chúng.
Tương tự, bên trong chúng ta bản ngã của chúng ta treo
đó, cùng với bất hạnh, hạnh phúc, đau khổ và lo âu, kí ức về
hạnh phúc và bất hạnh - tất cả chúng đều nằm đó bên trong
ta. Những thứ này giống như đồ vật trong nhà - bình, xoong
nồi, quần áo, vân vân. Đi qua chúng theo cách tất cả đều tốt
đẹp; bất kì cái gì có đó đều tốt. Không cần để ý đến chúng,
không cần chọn lựa từ chúng, không cần bị hấp dẫn vào điều
này và bị đẩy ra từ điều khác - đấy là ý nghĩa của dửng dưng.
Người dửng dưng rất vui nhộn, không buồn. Nhưng nhớ
trong tâm ý nghĩa của vui nhộn. Vui nhộn nghĩa là bây giờ
không có gì quấy rối người đó, và do đó đoá hoa bên trong
bắt đầu nở; bây giờ không cái gì làm bận tâm người đó, do
đó người đó còn trong phúc lạc bên trong bản thân mình.
Nếu bạn buộc áp đặt buồn lên chính mình, bạn sẽ không
bao giờ có khả năng vui nhộn được. Người ta phải trở nên
dửng dưng. Thử điều đó bằng cách thực nghiệm...
Bạn đang bước đi trên đường: quyết định vẫn còn dửng
dưng với mọi thứ bạn bắt gặp trong năm phút. Thế thì ngôi
nhà nào đẹp, ngôi nhà nào không đẹp, tất cả đều như nhau.
Thế thì bất kì ai đi ngang qua - dù người ấy là giầu có hay
nghèo khó, người ấy là người đáng kính hay bất hảo, người
ấy là người lãnh đạo chính trị hay kẻ cắp - dù người ấy là bất
kì ai, bạn không liên quan gì tới điều đó. Đàn bà đẹp đi
ngang qua, đàn ông đẹp trai đi ngang qua, bộ quần áo của ai
đó thanh nhã - bạn không quan tâm tới cái gì trong những
chuyện này. Bước đi trên đường trong năm phút dường như
nó là trống rỗng toàn bộ, hoặc bạn đi qua khu rừng rậm và

không có gì hấp dẫn bạn. Thử điều này đi - vẫn còn dửng
dưng - và bạn sẽ lập tức để ý rằng con đường đã mất hết mọi
nghĩa. Nghĩa của nó là trong gắn bó bên trong của bạn.
Trong một kí sự Vidyasagar đã viết ông ấy đã nói rằng
một buổi tối ông ấy đi dạo và đã thấy một quí ông Mô ha mét
giáo đang bước phía trước mình. Ông này nữa ngày nào cũng
đi dạo. Bỗng nhiên một người hầu chạy tới - Vidyasagar
đang bước ngay đằng sau - và nói với ông bạn Mô ha mét
giáo, “Thưa ông Sahib! Nhà ông bị cháy, xin ông về nhanh.”
Mir Sahib đáp, "Tôi đang về đây." Nhưng ông ta vẫn bước đi
theo nhịp cũ; cùng chuyển động chân, cùng các bước thong
thả - không có gì thay đổi trong ông ta. Nghe tin cháy nhà,
ngay cả tốc độ đi của Vidyasagar cũng thay đổi, nhịp thở của
ông ấy trở nên nhanh hơn. Nhưng Mir Sahib vẫn tiếp tục
bước theo cùng cách dửng dưng.
Người hầu cảm thấy phân vân, người đó lại nói to hơn
một chút, “Ông không nghe thấy à? Nhà ông cháy đấy!” Mir
Sahib nói, “Tôi đã nghe rồi,” và ông ta lại tiếp tục bước theo
cùng cách thức hờ hững.
Vidyasagar đi lên trước và nói, “Ông đang làm gì vậy?
Ông có hiểu điều người hầu nói không, rằng nhà ông bị cháy
đấy?” Mir Sahib nói với Vidyasagar, “Được thôi, nhưng tôi
làm được gì bây giờ sau khi nhà bị cháy? Tại sao tôi phải
làm hỏng cuộc đi dạo của mình? Và tôi có một cơ hội này -
nếu tôi có thể tiến hành cuộc đi dạo không bị ngăn cản bởi sự
kiện nhà tôi cháy, tôi sẽ có hương vị của dừng dưng. Ngôi
nhà đang cháy, được rồi, nhưng tôi sẽ bước theo cùng cách
như tôi đã bước trước khi ngôi nhà bị cháy. Nếu tôi đổi dáng
đi dù chỉ hơi chút, đó sẽ là thay đổi trong tâm thức tôi... cho
nên điều đó là ổn thoả.” Và Mir Sahib vẫn tiếp tục bước
theo cùng cách.
Vidyasagar đã viết thêm rằng ông ấy và người hầu của
ông Sahib chạy về phía ngôi nhà cháy, bỏ mặc ông Sahib với
việc đi dạo của ông ấy. “Chúng tôi thấy rất khó chịu và khi
tới nhà chúng tôi đã giúp dập tắt ngọn lửa.” Và Vidyasagar
nói ông ấy không thể nào ngủ ngon được đêm hôm đó.
Nhưng với thái độ bình thản của Mir Sahib mà ông ấy đã
thấy ngày hôm đó, rất rõ ràng là Mir Sahib phải ngủ an bình
đêm ấy nữa. Đã có khác biệt nào ở đấy? Một người có bước
đi không khác biệt - làm sao có thể có khác biệt nào trong
giấc ngủ của ông ấy được?
Dửng dưng nghĩa là thái độ trung lập. Bất kì cái gì đang
xảy ra cũng đều được, đều được chấp nhận; có trạng thái của
như vậy, không có chọn lựa bất kì kiểu nào. Bất ổn không bị
sinh ra bởi sự kiện rằng ngôi nhà bị cháy. Cố hiểu điều đó:
bất ổn sinh ra bởi mong đợi rằng, “Nhà mình đáng không bị
cháy được.” Có mong đợi ẩn kín rằng nhà của bạn phải
không bị cháy. Bạn thậm chí có thể không biết về nó, nó bị
giấu kín trong tâm trí vô thức rằng nhà bạn phải không bị
cháy. Cho nên khi ngôi nhà bị cháy, mong đợi bên trong đó
bị tan tành và điều đó làm đảo lộn bước đi của bạn, điều đó
làm đảo lộn tâm thức của bạn. Nhưng những người không có
mong đợi về bất kì loại nào, và bất kì điều gì xảy ra họ
không có thái độ và sự nhất quyết chống lại nó, tâm thức của
họ không bị đảo lộn. Sự không dao động của tâm thức này
chính là udasinata, dửng dưng.
Mọi danh hiệu - từ Brahma, đấng sáng tạo, tới tảng đá -
đều là giả. Do đó, được bắt rễ chỉ trong linh hồn, thấy
linh hồn riêng của ông ở mọi nơi.

Mọi chức vụ, mọi danh hiệu và mọi danh tiếng đều là giả
và nhân tạo. Dù đấy là tảng đá nằm trên vệ đường hay

thượng đế được chúng ta đặt lên trời, tất cả đều vô dụng.
Vẫn còn chú ý chỉ tới cái một không là giả, vẫn còn bị
cuốn hút vào một mình việc chứng kiến đó. Cho nên cho dù
bạn là tảng đá, vẫn còn bị hấp thu vào trong cùng việc chứng
kiến, và cho dù bạn là Brahman, đấng sáng tạo, vẫn còn bị
cuốn hút vào trong cùng việc chứng kiến. Thế thì không
chọn lựa sẽ là cần giữa việc trở thành tảng đá hay Brahman,
bởi vì việc chứng kiến là một và như nhau. Nếu bạn nghèo,
vẫn còn bị cuốn hút vào trong việc chứng kiến; nếu bạn trở
nên giầu, vẫn còn bị cuốn hút vào việc chứng kiến. Thế thì
nghèo khó và giầu có sẽ không tạo khác biệt nào cho bạn,
bởi vì bên trong bạn cùng dòng suối chứng kiến sẽ tuôn
chảy.
Mọi danh hiệu đều vô tích sự. Tất cả những cái được
nhận từ bên ngoài đều vô tích sự. Chỉ cái được đạt tới từ bên
trong là có nghĩa. Nhưng không cái gì khác hơn tâm thức
chứng kiến được đạt tới từ bên trong. Trong mọi hoàn cảnh,
trong mọi tình huống, cứ thấy linh hồn cư trú bên trong.
Bản thân tôi là Brahman - đấng sáng tạo; bản thân tôi là
Vishnu - đấng duy trì; bản thân tôi là Shiva -đấng huỷ
diệt; bản thân tôi là Indra - thủ lĩnh của tất cả các thần;
bản thân tôi là vũ trụ này, và bản thân tôi là tất cả.
Không có gì khác hơn bản thân tôi.

Cùng một thái độ kaivalya - người kinh nghiệm tâm thức
này, người biết về việc chứng kiến này, ‘người kia’ biến mất
khỏi người đó. Người kia không còn có đó, chỉ tôi hiện hữu;
mọi thứ đều là sự mở rộng riêng của tôi. Bởi vì cái ngày tôi
đi tới biết tâm thức của riêng mình, tôi cũng đi tới biết rằng
tâm thức của bạn không tách biệt với tâm thức của tôi.
Chừng nào tôi chỉ biết thân thể tôi, bạn là tách biệt với tôi,
bởi vì thân thể tôi là tách biệt và thân thể bạn là tách biệt.
Hiểu điều đó theo cách này. Có một chiếc đèn đất đang
cháy, có một chiếc đèn bạc khác đang cháy, và có một chiếc
đèn vàng thứ ba đang cháy. Bây giờ nếu cả ba chiếc đèn này
nhìn vào thân thể chúng, bằng đất sét, bằng bạc và bằng
vàng, thế thì cả ba chúng là khác nhau. Chiếc đèn bạc sẽ nhìn
xuống chiếc đèn đất và chiếc đèn vàng nhìn xuống chiếc đèn
bạc và chiếc đèn đất. Nhưng bất kì một trong ba chiếc đèn
này đều kinh nghiệm ngọn lửa - “Ta là ngọn lửa” - chiếc đèn
đó liệu có thể nói với các chiếc đèn khác, “Bạn khác tôi!”
được không? Không, bởi vì bây giờ nó sẽ thấy những chiếc
đèn khác như ngọn lửa nữa. Bây giờ với cái đèn này thân thể
đã trở thành vô nghĩa, dù chúng bằng đất sét, bạc hay vàng.
Bây giờ chỉ có ngọn lửa là còn có ý nghĩa, mà đấy không
phải là đất sét, không phải bạc, không phải vàng, chỉ đơn
thuần là ngọn lửa. Với chiếc đèn đã kinh nghiệm rằng nó là
ngọn lửa, mọi chiếc đèn của thế giới cũng đều trở thành một
với nó: “Bây giờ ở đâu có lửa, đấy là tôi.”
Chừng nào chúng ta nhìn thân thể, chúng ta là tách biệt.
Nhưng khi chúng ta đã thấy nhân chứng bên trong, chính là
ngọn lửa vĩnh hằng của mình, tất cả chúng ta đều trở thành
một và không tách rời. Thế thì nhân chứng ẩn bên trong con
chim đang bay gần cây kia, cái đó nữa cũng là tôi. Và nhân
chứng ẩn bên trong Brahman, đấng sáng tạo thế giới và đấng
kiểm soát thế giới, cái đó nữa cũng là tôi. Thế thì người ăn
xin trên phố cũng là tôi và hoàng đế ngồi trên ngai vàng cũng
là tôi. Một khi kinh nghiệm về ngọn lửa bên trong đã bắt
đầu, hình dạng trở thành vô nghĩa; thế thì thân thể, vật chất,
trở thành vô nghĩa, chỉ có ngọn lửa trở nên có nghĩa.
Một điều thú vị nữa là ở chỗ dù chiếc đèn được làm bằng

đất sét hay bằng vàng, không có khác biệt trong ngọn lửa.
Liệu cái đèn đất có ngọn lửa đất còn đèn vàng có ngọn lửa
vàng không? Không, không có khác biệt - ngọn lửa là ngọn
lửa, như nhau ở mọi nơi. Thân thể không tạo ra khác biệt cho
ngọn lửa. Cùng ngọn lửa chiếu sáng trong người dốt nát nhất
như trong Phật. Nhưng Phật biết điều đó còn người dốt nát
không biết. Và cái gì thực sự là khác biệt trong việc biết?
Phật đã dừng bận tâm về hình dạng bên ngoài của chiếc đèn
và đã phát hiện ra ngọn lửa bên trong; người dốt nát vẫn bị
ảnh hưởng bởi hình dạng bên ngoài - trong thân thể đất sét,
bạc hay vàng - và còn chưa có khả năng biết ngọn lửa bên
trong. Nhưng ngọn lửa vẫn có đấy.
Đấy là cái ‘tôi’ trải rộng ra tất cả - việc nhận ra như vậy
là adhyatma, tâm linh.
Có hai hay ba điều quan trọng cần nhắc tới. Ngay ngày
đầu tiên tôi đã yêu cầu bạn phải vẫn còn vui nhộn, hân hoan,
hạnh phúc và tươi cười; cười hết mức có thể được - thậm chí
không cần lí do nào. Nhưng một điều tôi đã chủ ý bỏ ra. Tôi
đã không yêu cầu bạn không cười không cần lí do nào trong
khi tôi đang nói. Phần này tôi đã chủ ý bỏ lại. Tôi muốn phát
hiện ra ba hay bốn cái gọi là người thông minh, những người
chắc chắn phải tới đây - họ sẽ cười ngay cả trong khi tôi
đang nói! Và do cái cười của họ mà họ sẽ mất đi việc hiểu
điều tôi đang nói và sẽ gây cản trở cho người khác nữa. Và
suy luận của tôi không phải là không đúng.
Ba hay bốn người 'thông minh' đang ở đây - một hay hai
người trong họ tới từ Punjab. Tôi thường nghe nói rằng
những người ở Punjab có chút ít thông minh thêm, nhưng tôi
chưa bao giờ tin vào điều đó. Ngay cả bây giờ tôi cũng
không tin vào điều đó, mặc dầu hai người bạn Punjab này
đang cố gắng vất vả để làm cho tôi tin vào điều đó! Được
thôi, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng trong nhóm của họ
hai hay ba người Gujaratis cũng làm cùng điều đó! Không có
hi vọng về nhiều thông minh từ những người Gujaratis,
nhưng họ vẫn ganh đua với người Punjab.
Thậm chí trong ngu si cũng có ganh đua! Và nhớ lấy,
bao giờ cũng dễ dàng đi tới cực đoan, nhưng vấn đề là duy
trì ở giữa. Hoặc là mọi người sẽ ngồi đó giữ cho khuôn mặt
và nét mặt như xác chết, hoặc họ sẽ bắt đầu diễn đạt vui
nhộn một cách ngu ngốc. Điều đó nữa cũng không là vui
nhộn.
Nếu bạn làm âm thanh to mà không có lí do gì trong khi
tôi đang nói, bạn không có ý tưởng gì về điều bạn đang làm.
Bạn chỉ đang hấp dẫn sự chú ý của mọi người, bảo họ rằng
bạn cũng đang ở đây. Đấy không phải là biểu hiện cho khôn
ngoan và nó sẽ không ích lợi cho việc thiền của bạn theo bất
kì cách nào. Khi tôi đang nói, đấy là lúc nên trở nên im lặng
và yên lặng, gạt sang bên mọi hoạt động của tâm trí bạn để
cho điều tôi đang nói có thể thấm nhuần vào bạn. Nếu tôi
đang nói điều gì đó còn bạn cười khanh khách mà không có
lí do gì, thế thì bất kì cái gì đi vào sẽ bị đẩy ra bởi sức mạnh
của cái cười của bạn. Bạn ném nó ra. Cho nên hành động có
suy nghĩ một chút đi. Nếu bạn không hành động có suy nghĩ,
bạn sẽ không bao giờ có khả năng đi sâu hơn được.
Điều thứ hai: hôm qua tôi đã đưa ra một hướng dẫn rằng
chỉ trong khi thiền buổi sáng bạn có thể cởi bỏ trang phục
hoàn toàn nếu bạn cảm thấy thích điều đó - nó là hữu dụng.
Nhưng nó không hữu dụng chút nào trong buổi lễ kirtan buổi
chiều, hát và múa cầu nguyện, và thiền buổi đêm. Đối với
tôi, cả mặc quần áo lẫn ở trần đều không có ý nghĩa gì - chú
ý đến điều đó. Nhiều lần điều đó bị hiểu sai. Nhiều lần người
ta cảm thấy rằng có lẽ tôi đang nói rằng nếu bạn ở trần, bạn

đạt tới giải thoát. Sự việc không dễ dàng đến thế, bằng không
thì mọi chim chóc và con vật đã được giải thoát hết tới giờ.
Và nếu giải thoát chỉ bị ngăn cản bởi việc mặc quần áo, thế
thì chẳng có mấy khó khăn trong việc làm cho toàn bộ thế
giới được giải thoát bằng cách làm cho mọi người ở trần hết.
Không, vấn đề không dễ dàng và không rẻ rúng đến thế đâu.
Khi tôi nói rằng trong một khoảnh khắc nào đó trong
thiền, nếu bạn cảm thấy rằng quần áo làm vướng víu bạn -
trong chuyển động của thân thể bạn, trong cách diễn đạt - bỏ
quần áo đi; thế thì ở trần sẽ có ích. Nhưng có thể có vài kẻ
ngu, thực ra có đấy ... Một số kẻ ngu níu bám vào quần áo,
và một số kẻ ngu bắt đầu bám vào việc ở trần. Họ nghĩ rằng
vì họ đang ở trần nên không có gì khác phải được làm. Cho
nên tôi thấy có một hay hai người, người không tiến được
bước nào về thiền, chỉ có ngồi trần ra đấy - và họ nghĩ thế
này là đủ.
Không cái gì sẽ xảy ra chỉ bởi việc ở trần. Và tôi không
nhấn mạnh vào việc ở trần - cả hai việc nhấn mạnh là như
nhau. Một số người nghĩ rằng nếu bạn vứt bỏ tất cả quần áo
khỏi thân thể bạn, cuộc sống bạn bị kết thúc; và một số nghĩ
rằng nếu bạn vứt bỏ mọi quần áo, bạn đạt tới mọi điều - tâm
trí của họ cũng gắn giá trị lớn cho việc mặc quần áo. Hai
kiểu này là tương tự nhau. Người được che phủ bởi quần áo
và sư ở trần - họ là tương tự nhau, tâm trí của họ là như
nhau, không có khác biệt lớn giữa hai kiểu này. Cả hai đều
tin rằng quần áo là quan trọng.
Tôi không bảo bạn bỏ quần áo bởi vì với việc ở trần bạn
sẽ đạt tới giải thoát. Ở trần bạn đã vậy rồi - dưới quần áo bạn
ở trần. Có khác biệt gì khi bạn ở trần không quần áo hay bạn
ở trần bên trong quần áo? Khi tôi cho phép bạn cởi quần áo,
điều đó có nghĩa là nếu và khi, trong lúc thiền, bạn cảm thấy
hữu dụng của việc bỏ quần áo, khi năng lượng thân thể bạn
thức dậy, khi năng lượng sinh học thức dậy do việc gõ búa
sâu từ việc thở của bạn và bạn cảm thấy rằng quần áo cản trở
bạn theo mọi cách, chỉ thế thì cởi quần áo ra; bằng không thì
không có ý nghĩa gì khi làm như thế. Và cũng không cần cởi
bỏ quần áo chút nào vào buổi lễ kirtan buổi chiều, cũng
không cần phải làm như thế trong khi thiền buổi đêm. Và
nếu bất kì ai cứ khăng khăng phải ở trần trong buổi kirtan
buổi chiều hay thiền buổi đêm, chúng ta sẽ loại người đó ra
khỏi đạo tràng.
Trong thiền sáng điều đó có cơ sở khoa học. Khi thở sâu
và năng lượng thân thể bắt đầu thức dậy mạnh mẽ, quần áo
có thể tạo ra cản trở. Thế thì bỏ quần áo của bạn ra là tốt. Và
thế rồi trong bước thứ hai của việc thiền này, lúc tôi đang
bảo bạn bỏ mọi loại ức chế và đừng kìm hãm bất kì cái gì mà
thân tâm bạn cảm thấy thích làm, thế thì nếu nó cảm thấy
thích cởi bỏ quần áo, làm vậy đi. Nhưng không có nhu cầu
trong buổi kirtan hay trong buổi thiền đêm.
Đừng làm ở trần thành học thuyết; ở trần là phương sách
thôi.
Điều thứ ba: một số sannyasin đàn ông và đàn bà phương
Tây có thể tắm truồng tại giếng, thế rồi một số bạn Ấn Độ bu
lại xem họ. Đừng ngu xuẩn thế. Nếu bạn muốn tắm truồng,
làm vậy đi. Nhưng khi ai đó khác đang tắm truồng và bạn tới
xem họ, bạn chỉ chứng tỏ thái độ bệnh hoạn và bị ức chế của
mình mà thôi.
Có hai kiểu người điên. Một kiểu người điên được tạo
nên từ những người muốn xem người khác tắm truồng; và
cũng có một kiểu người khác muốn trưng bày mình ở truồng.
Tâm lí học có những tên khác nhau cho cái ốm yếu của tất cả
những người điên này. Ở phương Tây có nhiều vụ đưa ra toà

án chống lại những người như vậy, những người bỗng nhiên
phô bày bản thân mình ra cho ai đó. Họ được gọi là những
người theo chủ nghĩa phô bày. Hai hay ba người bạn như vậy
đã tới đây; toàn bộ niềm vui của họ dường như là ở chỗ
người khác nên nhìn vào thân thể họ. Và thông thường đây là
những người có thân thể chẳng đáng xem. Nếu họ là người
có thân thể đáng xem, mọi người sẽ đến họ để chiêm ngưỡng
thân thể họ. Những người có thân thể không đáng xem là
những người đang đứng trần giữa đám đông; không ai tới
xem họ cả, nhưng họ nghĩ ít nhất theo cách này ai đó có thể
xem họ. Những người như thế với bệnh hoạn như thế không
có lí do gì ở đây cả.
Và rồi có một số người tham gia vào việc xem người
khác ở truồng. Họ cũng bệnh hoạn nốt! Nếu bạn thích ai đó,
nếu bạn đang yêu ai đó và có thân mật gần gũi đến thế, thế
thì quần áo tự bỏ theo cách riêng của chúng và họ ở truồng.
Nhưng trong tình yêu đó họ không cảm thấy ở truồng, họ
cảm thấy gần gũi hơn; chướng ngại của quần áo đã bị vứt bỏ.
Nhưng chỉ tới và xem ai đó ở truồng mà bạn không có tình
cảm thân thiết yêu thương là rất bẩn thỉu và hèn hạ và chỉ nói
đến bệnh hoạn ẩn náu bên trong bạn.
Trong khi tôi tới đây, trong xe tôi còn có một cô
sannyasin người Anh, Vivek. Khi ô tô dừng lại tại một góc,
bốn hay năm kẻ đần tới và đứng cạnh xe. Tôi hỏi Vivek liệu
ở Anh có kẻ đần lớn hơn những kẻ đang đứng ở đây không
hay họ cũng như những người này? Cô ấy trả lời, “Hơi lớn
hơn.” Tôi không nói gì nữa với cô ấy, bởi vì tôi chỉ đùa.
Nhưng rồi hôm qua tôi được báo rằng mọi người đang tụ tập
trong một đám đông gần giếng để xem người tắm. Cho nên
hôm nay tôi định nói với cô ấy rằng cô ấy lầm, khó mà tranh
đua được với Ấn Độ; kẻ đần là lớn hơn ở Ấn Độ.
Điều thứ tư: sau ba mươi phút thiền, khi tôi yêu cầu bạn
yên tĩnh, im lặng, thế thì nếu bạn không có khả năng trở nên
yên tĩnh và im lặng được, điều ấy chỉ có nghĩa là bạn không
làm việc thiền nào, bạn chỉ cuồng loạn. Hiểu khác biệt này
cho rõ ràng. Khi tôi nói, “Thở nhanh và mãnh liệt trong mười
phút,” bạn phải là người chủ riêng của mình và có khả năng
làm như vậy. Khi tôi nói, “Phát điên lên trong mười phút,”
bạn cũng phải có quyền làm chủ để phát điên - bạn điên dứt
khoát, việc điên không chiếm quyền bạn. Bạn đang tống ra
kìm nén từ bên trong bản thân mình, theo ý chí của bạn. Và
khi tôi nói, “làm âm thanh gõ búa của tiếng “hu - hu’ trong
mười phút,” bạn đang làm việc ấy - nó phải không bắt giữ
bạn, bằng không bạn đã trở thành nô lệ. Và thế rồi khi tôi
nói, “Dừng hoàn toàn!” người không thể dừng được là cuồng
loạn. Điều đó có nghĩa là vấn đề không còn dưới kiểm soát
của người đó, bây giờ người đó không có khả năng dừng nó;
người đó cứ gào lên, người đó cứ khóc. Điều đó có nghĩa là
việc khóc đã chế ngự người đó.
Điều này sẽ không có tác dụng. Người như thế là người
bệnh hoạn, người đó không thiền.
Thiền nghĩa là bạn định thiết lập việc làm chủ của mình.
Và nếu việc làm chủ này không thể được thiết lập thế thì sẽ
chẳng có gì khác biệt giữa cuồng loạn và thiền. Cho nên khi
tôi nói “Dừng lại!” bạn phải dừng ngay lập tức. Ngay cả
chậm trễ một khoảnh khắc trong đó chỉ ra rằng bạn đã mất
quyền làm chủ của mình, và bất kì điều gì bạn đang làm
trong khoảnh khắc đó đều trở thành chủ. Nếu bạn đang hét
lên, nó đã bắt giữ bạn và bạn không có khả năng dừng được
nó. Nếu việc la hét bắt bạn và bạn không có khả năng vứt bỏ
nó, thế thì bạn sẽ không thể nào đi vào trong an bình được.
Làm chủ dẫn bạn vào an bình.

Có ba hay bốn người người đơn giản không dừng lại
được thậm chí sau cả khi tôi đã yêu cầu mọi người dừng lại.
Họ nghĩ rằng họ đã vào sâu thế trong thiền, bây giờ làm sao
họ có thể dừng lại được? Bạn chưa đi vào thiền đâu! Và nếu
điều này được làm lần nữa hôm nay, tôi sẽ yêu cầu họ phải bị
loại ra, bởi vì họ cần điều trị thuốc men, không phải là thiền.
Và sau ba mươi phút, khi bạn nghĩ rằng bây giờ cơn ho đến
hay cái gì khác tựa như thế, xin đừng bị lẫn lộn. Ho là hiện
tượng lây nhiễm. Một người ho, và thế rồi năm cho tới mười
kẻ ngốc theo người đó. Cơn ho của người đầu tiên có thể là
thật, nhưng năm cho tới mười người đơn giản chỉ theo sau
người đó. Bạn có chú ý đêm qua không – việc ho cũng đã
dừng sao? Bây giờ làm sao điều này xảy ra? Khi tôi yêu cầu
bạn thậm chí không ho, làm sao no dừng lại? Bởi vì nó là
giả.
Ho cũng không được phép. Thử thực nghiệm với nó mà
xem; bạn sẽ không chết bởi việc không ho trong mười phút.
Bạn không có ý tưởng nào về việc tâm trí bạn giở bao nhiêu
thủ đoạn. Tâm trí nói, “Ho đang áp đặt theo cách của nó thực
sự tệ, mình sẽ ho khe khẽ vậy.” Bạn thành công trong việc
cản trở nó hơi chút, nhưng bạn ho. Bạn nghĩ, “Nhưng mình
có thể làm được gì? - ho là bị ép buộc.” Không, nó không
phải là điều ép buộc.
Bạn có chú ý rằng khi tôi nói ở đây liền một giờ rưỡi bạn
thậm chí không ho lấy một tiếng, và khi tôi yêu cầu bạn yên
tĩnh trong mười phút, bạn đột nhiên bị chế ngự bởi cơn ho
không? Nếu cơn ho là thật, nó phải hiện diện trong cùng tỉ lệ
qua suốt một thời kì. Nhưng nó không như vậy. Bạn đang
ngồi trong rạp chiếu bóng, và không có ho trong ba giờ. Điều
gì thực sự xảy ra? Thế rồi bạn vào ngôi đền và ho nắm
quyền! Có vi khuẩn ho nào đang ngồi trong đền hay cái gì?
Ho trong rạp chiếu bóng có thể hiểu được, chắc chắn ở đó có
vi khuẩn trong chỗ đông người. Nhưng ho xảy ra trong ngôi
đền, nơi mọi thứ đều sạch sẽ tinh tươm.
Lí do là tâm lí. Cơn ho này kéo đến cho bạn không mang
tính thể chất, nó là tinh thần. Dừng nó lại! Dừng nó lại tuyệt
đối! Cái gì có thể thực sự đi sai trong mười phút? Và nhiều
nhất bạn có thể chết... mặc dầu chưa bao giờ nghe thấy nói
về ai đó không ho được trong mười phút và chết bởi vì nó.
Người ta có thể chết bởi vì ho trong mười phút, nhưng chưa
bao giờ vì không ho trong mười phút. Xin hãy tử tế, dừng nó
hoàn toàn đi. Chỉ là cái xác trong mười phút đó.
Khi tôi nói, “Dừng lại!” dừng hoàn toàn; đông cứng lại.
Bằng không tất cả là vô dụng. Năng lượng nảy sinh nhưng
nó không có cơ hội làm việc trên bạn; còn bạn, sau khi đã
tiêu tán nó một cách sung sướng trong cơn ho và những cái
đại loại như thế, trở về nhà. Thế rồi bạn đến bảo tôi rằng
chẳng có gì xảy ra cả! Bạn đã ho - thế chẳng đủ để xảy ra
sao? Họ đến bảo tôi rằng thiền đã không xảy ra cho họ, và tôi
biết rằng họ đã ho suốt cả thời gian. Bây giờ thậm chí việc
thiền đáng thương cũng bị trách cứ!
Thiết lập một chút làm chủ đi. Khi tôi nói, “Yên tĩnh,”
thế thì phải có im lặng ở đây đến độ một tiếng kim rơi cũng
nghe thấy được, dường như không một người ở đây, dường
như tất cả đã biến mất. Chỉ thế thì kết quả...
Cũng vậy, khi tôi bắt đầu nói tiếng Anh bạn đừng đứng
dậy. Cứ ngồi ở chỗ bạn đang đấy. Cư xử ít nhất cũng với
hiểu biết nào đó đi. Khi tôi nói tiếng Hindu, những người
không hiểu tiếng Hindu vẫn ngồi an bình. Còn khi tôi bắt đầu
nói tiếng Anh, những người không hiểu tiếng Anh đơn giản
đứng dậy và bỏ đi. Điều này chỉ ra sự thiếu kiên nhẫn và ngu
si lớn.
Có khoảng năm chục bạn phương Tây ở đây. Họ cũng ở

đây ngồi và lắng nghe. Nhìn vào khuôn mặt họ. Khi tôi đang
nói tiếng Hindu, nhìn vào khuôn mặt họ. Họ dường như hiểu
thậm chí còn sâu sắc hơn các bạn hiểu. Tại sao? Họ không
hiểu ngôn ngữ chút nào, nhưng họ có kiên nhẫn ngần này -
“Chúng tôi có thể không có khả năng hiểu, nhưng cái gì đó
có ý nghĩa đang được nói ra; cho nên để chúng tôi ngồi yên
lặng và lắng nghe nó.” Họ không có khả năng hiểu, nhưng
im lặng này trong một giờ dứt khoát sẽ có lợi. Họ sẽ không
có khả năng hiểu, vậy mà kiên nhẫn trong một giờ không là
gì ngoài thiền. Nhưng rồi ngay khi tôi bắt đầu nói tiếng Anh,
các bạn đứng dậy và đi. Điều đó nghĩa là bạn không có kiên
nhẫn nào, không chờ đợi im lặng nào xảy ra, bạn cũng không
quan tâm chút nào tới phiền nhiễu gây cho người khác. Xin
nghĩ lại cho!
Một người bạn nhà thơ của tôi, một nhà thơ người Urdu,
đã từng ở Thuỵ điển. Ông ta đã kể với tôi rằng khi ông ấy
trích dẫn thơ của mình trong tiếng Urdu không ai hiểu cả,
nhưng cả nghìn người vẫn ngồi im lặng. Ông ấy bảo tôi, “Tôi
rất lấy làm ngạc nhiên. Tôi cứ tưởng rằng không ai tới nghe
tôi, hay nếu họ tới, họ sẽ sớm ra về.” Cho nên ông ấy hỏi họ,
“Các bạn không hiểu được ngôn ngữ, vậy làm sao các bạn có
thể ngồi yên lặng đến thế khi tôi đang trích dẫn thơ?” Họ
đáp, “Đúng là chúng tôi không hiểu được điều ông đang nói,
nhưng khi ông đang trích dẫn thơ với tình cảm như thế chúng
tôi hiểu được mắt ông, cử chỉ của ông, chuyển động của tay
ông, và chúng tôi biết rằng cái gì đó rất có ý nghĩa và sâu sắc
đang được nói ra. Ít nhất chúng tôi có thể biểu hiện lịch sự
đến mức không quấy rối ông trong tình cảm đó, trạng thái đó
của ông.”
Cho nên điều này sẽ không có tác dụng! Ban đêm, tôi
thấy vài người ngoài lại đây, và khoảnh khắc tôi bắt đầu nói
tiếng Anh, họ bắt đầu bỏ đi. Đêm nay không ai sẽ được phép
bỏ đi giống điều đó. Nếu ai đó đứng dậy rời gần bạn, lập tức
yêu cầu người đó ngồi xuống. Và nếu họ vẫn bỏ đi, từ đêm
mai trở đi tôi sẽ không cho phép họ ở đây. Tôi sẽ tuyên bố
trước khi tôi bắt đầu nói tiếng Hindu rằng những người
muốn bỏ đi trong phần nói tiếng Anh nên bỏ đi ngay từ bây
giờ.
Cuộc sống cần phải có kỉ luật, trật tự, bằng không chẳng
cái gì sẽ xảy ra.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#7Bạn là cái nút

Ảo tưởng về mọi thứ trong linh hồn người ta là hiện
tượng bị áp đặt. Vứt bỏ nó, người ta là bản thân
Brahman hoàn hảo, bất nhị và vô hành động - thực tại
tuyệt đối.
Thế giới, cái dường như là một điều khác đối với linh
hồn, gần như không thực. Phân chia ở đâu trong thực thể
vô hình dạng và vô tổ chức, thuần khiết? Linh hồn-ý thức
là tự do với các ý niệm của người thấy, việc thấy và cái
được thấy, vân vân. Nó là miễn nhiễm và tràn đầy tựa
đại dương vào lúc đại hồng thuỷ.
Ngay cả bóng tối cũng tan biến trong ánh sáng, nguyên
nhân của ảo tưởng tan biến trong thực tại tuyệt đối vô
song vốn không có tổ chức - cho nên phân chia trong nó
là ở đâu?
Thực tại tối cao là cái một kì dị; làm sao có thể có phân
chia trong nó được? Trạng thái sushupti - ngủ say,
không mơ - là phúc lạc; ai thấy phân chia trong đó?

Câu hỏi rất quan trọng đã được nêu ra trong kinh này.
Câu hỏi này đã từng nảy sinh trong tâm trí con người trong
nhiều thế kỉ, kể từ lúc bắt đầu thời đại: làm sao được tự do
khỏi thế giới này cái chúng ta đã trở nên bị bao quanh bởi
buồn và khổ? Và thế giới này là thực tại gì và cái gì là bản
chất của bóng tối này mà trong đó chúng ta bị nhấm chìm và
bị lạc?... bởi vì không biết về bản chất của nó, không thể có
cách tự do với nó.
Bất kì cái gì người ta muốn tự do với nó, người ta sẽ phải
biết rõ về nó. Tù túng được tạo ra bởi do dốt nát của chúng ta
tạo ra. Cho nên nếu tù túng được mở ra và làm lỏng đi, nó
chỉ thông qua việc biết rằng các nút có thể được tháo ra.
Một hôm, khi Phật đến giữa các đệ tử, ông ấy đã cầm
trong tay một chiếc khăn tay bằng lụa. Các đệ tử ngạc nhiên,
vì Phật chưa bao giờ cầm cái gì trong tay khi ông ấy đến nói
chuyện với đệ tử. Thế rồi ông ấy ngồi trước họ và buộc một
nút trên chiếc khăn tay, thế rồi nút thứ hai, thế rồi nút thứ ba
- năm nút cả thẩy, nút nọ trên nút kia. Thế rồi ông ấy hỏi các
đệ tử, “Khi ta đến đây với chiếc khăn tay này chưa có nút
nào trên đó, còn bây giờ đã có năm nút. Bây giờ ta hỏi các
ông liệu có gì thay đổi trong chiếc khăn tay không hay nó
vẫn còn là chiếc khăn tay khi ta đem tới?”
Chắc chắn các đệ tử phải đã trong khó khăn. Nói rằng
chiếc khăn đã thay đổi thì không đúng, vì chiếc khăn vẫn còn
y hệt như cũ. Thắt các nút trên chiếc khăn không làm khác
biệt chút xíu gì trong bản chất của chiếc khăn - nó lớn thế
nào và nó làm bằng gì thì vẫn như cũ. Nhưng nói chiếc khăn
không thay đổi gì thì cũng không phải, bởi vì trước đây nó là
chiếc khăn để mở còn bây giờ nó đầy những nút. Thay đổi
ngần ấy chắc chắn đã xảy ra.

Một đệ tử đứng dậy và nói, “Thầy hỏi một câu rất khó.
Cái khăn đã gần như thay đổi.”
Hiểu điều này một chút đi, bởi vì từ gần như này không
mấy chốc sẽ tới trong kinh này và thế thì bạn sẽ bắt buộc
phải hiểu nó. “Đã gần như thay đổi” - điều đó có nghĩa là nó
đã thay đổi và nó cũng không thay đổi. Nó thay đổi nếu
chúng ta nhìn vào thân thể của chiếc khăn, và nó không thay
đổi nếu ta nhìn vào bản chất của chiếc khăn. Nó đã thay đổi
nếu chúng ta nhìn vào thân thể nó. Nó không thay đổi nếu
chúng ta nhìn vào linh hồn nó. Thay đổi đã xảy ra bên ngoài
bởi vì các nút, nhưng nó không bị thay đổi bên trong. Hình
dạng và dáng vẻ đã thay đổi. Nó không bị thay đổi nếu ta
nhìn vào bản chất thực của nó, nhưng nó bị thay đổi nếu ta
nhìn vào thực tại của nó, bởi vì chiếc khăn để mở có thể
được dùng như chiếc khăn tay, nhưng chiếc khăn có năm nút
trong nó không thể dùng được như chiếc khăn tay. Nó thậm
chí không còn có thể được gọi là khăn nữa, vì ‘khăn’ là tên
của một vật dùng được.
Nhớ lấy, khi chúng ta đặt tên cho cái gì đó, thực ra đó là
việc đặt tên cho một vật dùng được. Đó là việc lạm dụng
ngôn ngữ để dùng cùng tên ngay cả khi vật dùng được không
có đó. Chẳng hạn, cái quạt: khi người ta dùng nó quạt trong
thời tiết nóng, nó được gọi là chiếc quạt; nhưng khi chiếc
quạt không được sử dụng và đem cất đi, nó không nên được
gọi là quạt nữa. Cái quạt nghĩa là cái gì đó đã được dùng để
quạt, cái hiện tại vận hành như cái quạt. Nhưng khi nó nằm
không đấy, khi nó không quạt không khí thì nó không nên
được gọi là quạt.
Chân là cái gì đó để bạn bước. Nhưng khi bạn không
bước, chúng không nên được gọi là chân. Tên nên là chức
năng, là hành động. Nhưng ngôn ngữ sẽ trở nên quá khó -
một tên tách biệt cho chân đang bước, một tên tách biệt cho
chân nghỉ - điều đó tất cả thành quá phức tạp; cho nên bằng
cách nào đó chúng ta dùng một tên thôi.
Vậy từ quạt có hai nghĩa ngụ ý. Một, chiếc quạt đang
quạt không khí; và thứ hai, chiếc quạt có thể quạt không khí,
có tiềm năng quạt không khí. Chúng ta dùng cùng một từ
theo cả hai nghĩa. Có các cách dùng với chiếc khăn: cái gì đó
có thể được buộc trong nó. Nhưng chiếc khăn tự nó đã được
buộc lại, bây giờ chẳng cái gì có thể được buộc trong nó.
Phật nói, “Ta muốn hỏi thêm một câu hỏi nữa, và đó là,
nếu ta muốn gỡ chiếc khăn này, ta sẽ phải làm gì?” Nói điều
này, Phật bắt đầu kéo chiếc khăn từ cả hai đầu; các nút trở
nên nhỏ hơn và chặt hơn.
Một đệ tử kêu lên, “Thưa thầy, nhưng điều thầy đang
làm sẽ làm cho các nút thậm chí chặt hơn và làm cho việc
tháo ra trở thành gần như không thể được nữa.”
Phật nói, “Một điều bây giờ rõ ràng, là chiếc khăn không
thể được mở ra bằng cách làm bất kì điều gì. Ta đang làm
điều gì đó, nhưng các ông nói rằng điều này làm cho tình thế
tồi tệ hơn. Vậy cái gì sẽ phải được làm để mở chiếc khăn
ra?”
Một đệ tử trả lời, “Trước hết chúng tôi sẽ phải biết cách
các nút đã được buộc lại. Chừng nào mà bản chất của các nút
còn không được hiểu, không thể nào gỡ được chúng ra. Cho
nên trước hết chúng tôi sẽ phải xem nút được buộc lại như
thế nào. Cách gỡ nút ra chỉ là làm ngược lại với cách buộc
nút. Chừng nào chúng tôi chưa biết cách thức nút được buộc
lại, không làm gì là tốt hơn làm cái gì đó, bởi vì làm cái gì đó
phức tạp có thể còn tăng lên và nút có thể còn chặt hơn, làm
cho giải pháp thêm phần rắc rối.”

Trong tâm thức chúng ta cũng có các cái nút. Và tình
huống cũng hệt như vậy: chúng ta không thay đổi chút nào
vậy mà chúng ta cũng đã thay đổi. Bản chất của chúng ta
đích xác hệt như bản chất của Brahman tối thượng, nhưng có
một số nút trong chúng ta. Chừng nào những nút này không
được gỡ ra, chúng ta không thể là bản tính tối thượng không
có nút.
Người Jaina đã đặt tên cho Mahavira, một cái tên rất
đáng yêu. Cái tên là: Nirgrantha, người vô nút. Bất kì khi
nào Phật nói tới Mahavira ông ấy đều gọi ông này là
Nirgrantha Natputta, tức là đứa con của gia đình Natha, tức
là đứa con trai được sinh ra trong cộng đồng Natha, người đã
trở thành vô nút; các nút của người đó đều được cắt hết, mở
hết.
Từ nirgrantha rất có giá trị. Brahman, cái tuyệt đối, là vô
nút, còn chúng ta đầy những nút - đấy là khác biệt duy nhất.
Nhưng làm sao các cái nút bị buộc lại và chúng là gì? Cần
hiểu bản chất của chúng. Kinh này là về bản chất của nút. Để
chúng ta hiểu kinh này, có một vài hướng dẫn rất có giá trị
trong đó.
Ảo tưởng về mọi thứ trong linh hồn người ta là hiện
tượng bị áp đặt. Vứt bỏ nó, người ta là bản thân
Brahman hoàn hảo, bất nhị và vô hành động - thực tại
tuyệt đối.

Khi cái nút được tạo ra trong chiếc khăn tay, nó không
hề tách biệt khỏi khăn tay. Bạn đã bao giờ thấy riêng cái nút
mà không có khăn tay chưa? Bạn đã bao giờ thấy cái nút
riêng không có dây nào không? Bạn đã bao giờ thấy cái nút
thuần tuý - cái nút tất cả chỉ nó thôi chưa? Bất kì khi nào có
nút, nó sẽ ở trong cái gì đó, nó không bao giờ có thể là tất cả
chỉ nó. Điều này chỉ ra một sự kiện rõ ràng, rằng nút không
thể tách rời khỏi cái kết cấu nên nó. Khi nó không thể tồn tại
chỉ bởi bản thân nó, làm sao nó có thể bị áp đặt từ bên ngoài
được?
Không, nút không đến từ bên ngoài. Và ngay cả trong
chiếc khăn nút cũng chưa có đó chừng nào khăn còn chưa bị
buộc lại. Cho nên đấy là một vấn đề rất thú vị. Nút không thể
tới từ bên ngoài được - không ai đã bao giờ thấy cái nút
riêng mình nó, không có loại như thế tồn tại. Nó bao giờ
cũng nằm trong cái gì đó, chưa bao giờ một mình cả. Và bản
thân chiếc khăn là vô nút mới khoảnh khắc trước, nó đã
không mang bất kì nút nào. Thế thì nút từ đâu tới? Nó có tới
từ bên trong chiếc khăn không? Làm sao nút có thể tới từ bên
trong chiếc khăn khi không có dấu vết nào về nút trong chiếc
khăn từ khoảnh khắc trước đó? Nút không đến từ bên ngoài,
bởi vì ở bên ngoài chẳng tìm thấy nút ở đâu cả. Nút không
tới từ bên ngoài, không tới từ bên trong; chiếc khăn đã áp đặt
nút lên bản thân nó, chiếc khăn đã tạo ra nút. ‘Đã tạo ra’
nghĩa là nó không có trong bản chất của chiếc khăn, nó đã
đạt tới điều đó.
Thế giới là thành tựu của chúng ta; chúng ta đã tạo ra nó
bằng nỗ lực lớn, qua nhiều phương sách. Nút không tồn tại
sẵn đâu đó trong sự tồn tại, chiếc khăn đã áp đặt nút lên
chính nó bằng nỗ lực lớn.
Bất kì điều gì dường như trong tâm thức cũng đều sự áp
đặt. Bất kì cái gì tới được kinh nghiệm bên trong, nó tất cả
đều là áp đặt.
Như chúng ta đã thảo luận trước đây, mọi thứ đến trước
gương và chúng được phản xạ trong đó. Nếu như gương
phạm phải cùng sai lầm mà chúng ta phạm phải, nghĩ rằng

nó chính là cái phản xạ đó, nó sẽ trong cùng rắc rối như
chúng ta vậy. Nhưng gương không phạm phải sai lầm như
vậy, mặc dầu một số vật tựa gương khác thì có thể - như tấm
kẽm chụp ảnh hay phim chụp ảnh - có phạm phải những sai
lầm như vậy.
Phim được giấu kín bên trong máy ảnh và gương là
tương tự nhau. Hình ảnh hình thành trong gương cũng như
trong phim trong máy ảnh, nhưng gương không bắt giữ hình
ảnh, trong khi phim bắt giữ hình ảnh. Vậy, bất kì hình ảnh
nào tạo ra trên phim đều bị nó giữ lại, và bởi vì việc bắt giữ
này phim trở thành vô dụng. Bây giờ không hình ảnh nào
khác có thể hình thành trên bề mặt của nó được nữa, nó đầy
rồi.
Gương không bao giờ đầy. Tuy nhiên nhiều hình ảnh có
thể hình thành trong nó, nó bao giờ cũng còn trống rỗng.
Hình ảnh tới rồi đi, gương cứ buông bỏ chúng. Từ bỏ của
gương là liên tục. Nó cứ buông bỏ đam mê, nó không bao
giờ bám giữ vào chúng. Khuôn mặt bạn được thấy trong
gương, và nó buông bỏ khuôn mặt đó. Ngay khi bạn rời bước
đi là gương đã quên bạn rồi, dường như bạn chưa bao giờ tới
trước nó cả.
Tâm thức của con người giống hệt gương và tâm trí của
con người tựa như phim chụp ảnh. Tâm thức bên trong của
con người tựa như gương, không cái gì bám vào đó cả.
Nhưng con người có cơ chế khác tên là tâm trí. Tâm trí tựa
như phim: bất kì cái gì được phản chiếu trong nó đều bị nó
giữ lại.
Thực ra nếu tâm trí không nắm giữ mọi thứ nó mất tính
tiện dụng của nó. Đó là lí do tại sao chúng ta nói rằng trí nhớ
tốt là điều có giá trị. Xã hội, giáo dục, tất cả đều dựa trên hệ
thống trí nhớ tốt. Trí nhớ tốt đó thuộc về ai? Nó thuộc về tâm
trí nắm giữ các vật.
Tâm trí là cơ chế tựa như phim. Nó cứ giữ lại tựa như
phim; bất kì cái gì đến trước nó, nó giữ lại. Bất kì cái gì
không dùng cũng được giữ lại; bất kì cái gì vô dụng, rác rưởi
và vô nghĩa, cũng được giữ lại. Cái không được cần chút nào
cũng được giữ lại. Phim không thể chọn được. Bất kì cái gì
được phơi ra trước nó - nó không thể chọn cái gì giữ lại, cái
gì không giữ lại. Bất kì cái gì tới trước nó đều bị nó bắt giữ.
Tâm trí bạn cứ nắm giữ mọi thứ: bạn không có ý tưởng
bạn tích luỹ bao nhiêu thứ hẩu lốn trong ngày. Các nhà tâm lí
bây giờ nói rằng tâm trí bạn không chỉ nắm bắt những cái
bạn nhận biết, nó cũng nắm bắt cả những cái bạn không nhận
biết. Chẳng hạn, chúng ta đang ngồi cả đây; tôi nói và các
bạn nghe tôi. Bạn thậm chí không nhận biết rằng chim đã líu
lo và bay mất, rằng có tiếng còi ô tô trên đường - bạn không
có ý tưởng nào về tất cả những điều này, nhưng tâm trí đang
nắm bắt tất cả những thứ này nữa. Nếu sau này người ta hỏi
bạn liệu chim có bay qua không khi bạn đang lắng nghe bài
nói, bạn có thể nói bạn không nhớ điều này chút nào. Tuy
nhiên, nếu bạn bị thôi miên và thế rồi được hỏi những cái gì
khác đã xảy ra, bạn sẽ thừa nhận cả hai: chim đã bay qua và
còi ô tô đã vang trên đường.
Các nhà tâm lí gọi điều đó là kí ức tiềm thức. Ẩn đằng
sau tâm trí có ý thức là tâm trí tiềm thức ghi nhận mọi việc
trong toàn bộ thời gian - ngay cả những cái bạn không nhận
biết. Trong khi bạn đang ngủ ban đêm, thì thế nữa tâm trí
tiềm thức của bạn cũng vẫn đang hấp thu; nó cứ hấp thu
ngay cả điều đang xảy ra bên ngoài.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng những khám phá khoa
học mới nhất để lộ ra rằng trẻ con thu thập kí ức ngay từ khi
còn trong bụng mẹ. Đứa trẻ cứ thu thập ấn tượng về bất kì

điều gì đang xảy ra ở bên ngoài. Yoga đã thừa nhận điều này
từ thời cổ đại, rằng bất kì cái gì xảy ra bên trong người mẹ,
hay xung quanh người mẹ, đứa trẻ đều nắm bắt nó và trưởng
thành của nó bị ảnh hưởng bởi điều đó. Và khoa học của
phương Tây đang tới gần hơn để thừa nhận điều này bây giờ.
Khi hiểu biết của chúng ta phát triển, mọi thứ đều trở
thành phức tạp hơn. Bây giờ các nhà tâm lí nói rằng đến bốn
tuổi đứa trẻ đã thu thập được năm mươi phần trăm tri thức
của nó. Năm mươi phần trăm! Toàn bộ tri thức nó sẽ có khi
nó chết ở độ tuổi tám mươi, năm mươi phần trăm của lượng
đó nó đã thu thập trong bốn năm đầu tiên; năm mươi phần
trăm còn lại được thu thập về sau. Theo quan điểm của tri
thức, bạn đã hoàn thành một nửa cuộc đời trong vòng bốn
năm; bạn đã trở thành già một nửa! Nhưng yoga nói rằng khi
chúng ta hiểu điều trẻ con thu thập khi còn trong bụng mẹ thì
có lẽ tình huống còn kì lạ hơn: có lẽ đứa trẻ đã tự nó thu thập
một số phần trăm lớn hơn trong bản thân bụng mẹ. Nhưng
bản thân đứa trẻ không có kí ức, mọi thứ đều là tiềm thức;
tiềm thức có đó trong tâm trí nó.
Các chính phủ phương Tây rất quan tâm tới điều đó, vì
thông tin bị tâm trí tiềm thức nắm bắt và hiện tượng này có
thể được khai thác, và khai thác một cách nguy hiểm. Các
quảng cáo trong phim nói về hút một điếu xì gà nào đó, hay
dùng một loại xà phòng nào đó, hay làm cái này, cái kia - tất
cả những điều này vẫn cần được hiển thị trên màn hình.
Trong việc hiển thị này, vẫn có chống đối tinh tế. Bởi vì bạn
biết đây là quảng cáo nên bạn không bị ảnh hưởng nhiều như
nó có khả năng gây ảnh hưởng. Một phụ nữ đẹp đang cầm
bánh xà phòng trong tay và bảo với bạn rằng bí mật của cái
đẹp toả sáng nằm trong bánh xà phòng này - bây giờ mọi
người đều biết rằng chẳng có cái gì đó để được tin. Dầu vậy,
qua lặp lại nó có tác dụng, nó bắt lấy tâm trí bạn.
Nhưng bây giờ người ta đã phát hiện ra cách quảng cáo
tiềm thức. Bây giờ, “Dùng xà phòng tắm Lux,” sẽ không
thấy trên màn hình nữa. Phim bạn đã xem vẫn tiếp tục tại
một điểm nào đó trong nó, trong một chớp loé, trong một
phần nghìn giây, quảng cáo cho xà phòng tắm Lux sẽ trôi
qua. Mắt bạn không thể nào bắt được nó vì nó trôi qua quá
nhanh, nhưng tâm trí của bạn sẽ bắt nó.
Điều này là nguy hiểm. Chính phủ của nhiều nước đang
nghĩ tới việc ra lệnh cấm những điều như thế, vì nó quá nguy
hiểm. Bạn thậm chí không nhận biết được về nó, bạn không
có khả năng thậm chí đọc nó, bạn thậm chí không cảm giác
thấy rằng cái gì đó khác đã xảy ra giữa các hình ảnh phim.
Bạn đang bận rộn theo dõi phim, và trong giữa hai cảnh
phim là một quảng cáo đã trôi qua trong chớp nhoáng.
Sau nhiều điều tra người ta đã thiết lập được rằng một
trong một nghìn người sẽ có nghi ngại mờ nhạt rằng điều gì
đó đã xảy ra, rằng cái gì đó khác đã có đó ở giữa - nhưng
người đó cũng không rất chắc chắn lắm về nó. Chín trăm
chín mươi chín người còn lại không có ý tưởng gì về nó cả;
họ sẽ hạnh phúc ở đó trong chỗ của mình và tâm trí tiềm
thức của họ sẽ nắm bắt điều đó. Điều này là nguy hiểm.
Điều này có nghĩa là ai đó có thể đua tranh một ghế
trong cuộc bầu cử và quảng cáo của người đó có thể cứ
nhoáng theo kiểu này trong phim - và bạn sẽ đi và bầu cho
người đó mà thậm chí không nhận ra tại sao bạn làm như
vậy. Điều này là nguy hiểm. Điều này có thể bị lạm dụng.
Các chính phủ độc tài có thể lạm dụng nó một cách tồi tệ bởi
vì bạn có thể bị thành nạn nhân dễ dàng đến vậy.
Nhưng tâm trí đang nắm bắt mọi vật trong toàn bộ thời
gian, nắm bắt mọi thứ. Hàng nghìn gợi ý đang bị nắm bắt
từng khoảnh khắc, chúng đang tích luỹ lại. Tâm trí tựa như

cuộn phim, hay giống như băng trong máy ghi âm; nó cứ tích
luỹ mọi thứ. Và trong óc mọi người đều có quãng bẩy mươi
triệu tế bào, mỗi tế bào có thể nhớ hàng triệu hàng triệu đơn
vị thông tin. Một người, nếu sống đủ lâu, có thể ghi nhớ tất
cả các cuốn sách trong mọi thư viện trên thế giới. Vấn đề là
cuộc sống đủ dài thôi; về phần tâm trí không có vấn đề gì cả.
Tâm trí có cuộn phim đủ dài, chính cuộc đời là ngắn. Nếu
một người có một trăm hay hai trăm nghìn năm để sống,
trong hộp sọ tí hon này mọi thư viện của thế giới có thể được
chứa vào.
Tâm trí tích luỹ. Nó là kẻ thu thập. Không có kẻ tích trữ
nào lớn hơn tâm trí. Mọi két sắt đều quá nhỏ và mọi người
giầu đều là nghèo nếu so với việc tích luỹ mà tâm trí có thể
có.
Ẩn kín đằng sau tâm trí này là tâm thức. Tâm thức đó
sạch bong không tì vết tựa như gương, nó không nắm giữ cái
gì cả. Bất kì cái gì đến trước nó, nó thấy cái đó; khi đối
tượng dời đi, nó hết luôn - gương một lần nữa lại trong sáng
và trống rỗng. Dù đó là mặt trăng được phản ảnh trong tâm
thức, hay chiếc gai hay đoá hoa, dù đó là khuôn mặt đẹp đối
diện nó hay một biến cố xấu, điều đó được thấy trong tâm
thức chỉ trong những khoảnh khắc đó khi điều đó đối diện
với nó. Ngay khi điều đó dời đi nó biến mất khỏi tâm thức.
Tâm trí là cái máy. Bạn không phải là tâm trí, bạn là tâm
thức. Nhưng tất cả chúng ta đều tin bản thân mình là tâm trí.
Chúng ta không có bất kì ý tưởng nào về gương đó, cái vốn
sạch bóng không tì vết và thuần khiết.
Kinh này nói:
Ảo tưởng về mọi thứ trong linh hồn người ta là hiện
tượng bị áp đặt. Vứt bỏ nó, người ta là bản thân
Brahman hoàn hảo, bất nhị và vô hành động - thực tại
tuyệt đối.

Không cái gì phải được làm, bạn đã là Brahman - đây
chính là điều Vedanta tuyên bố. Bạn không phải trở thành
Brahman, bạn đã là Brahman. Bạn không phải đi đâu để đạt
tới chân lí, nó bao giờ cũng ở cùng bạn. Thế thì cái gì đã đi
sai? Tâm trí ở trước tâm thức, cho nên bất kì cái gì được tích
luỹ vào tâm trí, tất cả những tích luỹ đó cứ lung linh trong
tâm thức.
Để chúng ta hiểu điều đó theo cách này. Mặt trăng lên và
được phản xạ trong hồ. Thế thì, khi trăng lặn, việc phản xạ
cũng biến mất khỏi mặt hồ - vì nó được thấy trong hồ chừng
nào nó còn trên trời. Khi nó không trên trời, nó cũng biến
mất khỏi hồ. Bây giờ nếu chúng ta treo một mặt trăng nhân
tạo trên trời để cho nó không bao giờ rời đi đâu, thế thì phản
xạ của nó bao giờ cũng vẫn có đó trong hồ. Nó sẽ không bao
giờ biến mất khỏi hồ, bởi vì chừng nào mặt trăng không
chuyển đi đâu, phản xạ của nó trong hồ sẽ không dời đi.
Cố hiểu điều này đi. Nó là tinh tế, và việc hiểu hoàn toàn
về cơ chế bên trong của con người là cần thiết.
Nếu tình huống này tiếp tục một thời gian dài, bản thân
hồ có thể bắt đầu nghi ngờ rằng hình ảnh này là của riêng nó
và không phải là phản xạ của mặt trăng, vì nó không bao giờ
biến mất. Mặt trời mọc buổi sáng mọi ngày và mặt trăng mọc
trong đêm, nhưng chúng cũng lặn và phản xạ của chúng tiêu
tan trong hồ, để lại hồ trống rỗng. Vậy có một khoảng thời
gian hàng ngày, và hồ có thể đi tới nhớ rằng mặt trời đã tới
và nó đã đi rồi, mặt trăng đã tới và nó đã đi rồi, và rằng “Tôi
đơn thuần là gương, cái hồ.”
Tâm thức ở sâu bên trong bạn; phía trước nó là tâm trí và

trước tâm trí là thế giới. Trong thế giới mọi thứ đều thay đổi,
thay đổi mọi khoảnh khắc. Trong tâm trí không có gì thay
đổi; tâm trí mang tính ảnh chụp, tĩnh tại. Cho nên bất kì tấm
ảnh nào từ thế giới cũng đều in dấu vào tâm trí, nó vẫn còn
mắc kẹt trong tâm trí mãi mãi. Bức ảnh mắc kẹt đó dường
như cũng bị mắc vào tâm thức - nó bao giờ cũng có đó. Điều
này tạo ra ảo tưởng rằng tâm thức và tâm trí là một và như
nhau. Cả hai chúng dường như là một, vì không có khoảng
cách giữa hai điều này là thấy được. Bất kì cái gì được thấy
trong tâm trí, nó cũng được thấy trong tâm thức; dường như
không có đường biên giữa hai điều này. Do đó có ảo tưởng
này: thế giới dường như được chồng chất trong tâm thức, và
dường như là thế giới đã đi vào trong linh hồn.
Không cái gì đã bao giờ đi vào trong tâm thức, mọi thứ
đi vào trong tâm trí. Cho nên chừng nào chúng ta còn chưa
học được nghệ thuật vứt bỏ tâm trí ở giữa để cho tâm thức và
thế giới có thể tới đối diện không có tâm trí tại đó như kẻ
trung gian, để cho thế giới của tâm trí không chen vào giữa,
để cho những phóng chiếu của tâm trí không có đó - chừng
nào còn chưa được như thế, chúng ta sẽ không đi tới biết
rằng mọi thứ đã bị áp đặt từ bên ngoài. “Tôi là Brahman,
không phải là thế giới, và tôi là tâm thức, không phải là thân
thể. Chỉ dường như là tôi là thân thể thôi bởi vì bức tranh đã
được in vào trong tâm trí rằng tôi là thân thể.” Cùng bức
tranh này đã phản xạ trong tâm thức. Thực ra không có tham,
hay giận hay dục trong tâm thức. Tất cả những cái này ở
trong tâm trí và mọi hình ảnh trong tâm trí đang phản xạ bên
trong, và chúng đã phản xạ lâu, vĩnh hằng tới mức điều tự
nhiên là rơi vào ảo tưởng rằng nó không phải là phản xạ hay
hình ảnh, rằng nó chính là bản chất của bạn.
Nhớ lấy, thân thể bạn bị phá huỷ trong mọi kiếp sống.
Nhưng tâm trí thì sao? Tâm trí không bị phá huỷ, và tâm trí
của bạn đầu thai từ kiếp nọ sang kiếp kia. Khi bạn chết thân
thể bạn bị bỏ lại sau, nhưng không bỏ tâm trí. Tâm trí bị bỏ
chỉ khi bạn được chứng ngộ.
Ngay cả chết cũng không có khả năng phá huỷ được tâm
trí; chết chỉ phá huỷ thân thể, không tâm trí. Tâm trí cũng đi
ra ngoài cái chết. Chỉ samadhi, chứng ngộ, có khả năng phá
huỷ tâm trí. Do đó những người biết đã gọi là samadhi là cái
chết lớn, vì trong cái chết chỉ thân thể chết, nhưng trong
samadhi cả thân thể lẫn tâm trí đều chết và chỉ còn cái một
tồn tại - đó là cái bất tử và không thể chết được.
Vậy tâm trí cứ hình thành, tích luỹ và tăng lên qua
khoảng thời vô hạn, và vào mọi thời, dù có thân thể hay
không có thân thể, tâm trí bao giờ cũng vẫn còn gắn với linh
hồn. Cái bóng của tâm trí vẫn còn thường xuyên với linh
hồn. Và dần dần, dần dần linh hồn cũng bắt đầu cảm thấy,
“Bất kì cái gì có đấy trong tâm trí đều là cái điều ta đang là.”
Đây là thế giới của chúng ta, đây là cái nút của chúng ta.
Cách duy nhất để tháo gỡ cái nút này là hiện hữu không có
tâm trí trong một thoáng chốc; đẩy tâm trí sang bên và đi tới
đối diện với thế giới - không cần có kẻ môi giới, người trung
gian ở giữa.
Nếu chúng ta có thể có cho dù một thoáng nhìn trực tiếp
vào thế giới, không có sự hiện diện của tâm trí ở giữa, chúng
ta sẽ đi tới nhớ lại rõ ràng rằng không cái gì đã đi vào tâm
thức cả, rằng gương bên trong bao giờ cũng sạch bóng và
không tì vết, rằng không hình ảnh nào đã bao giờ mắc kẹt
vào nó. Mọi hình ảnh đều đến rồi đi; các biến cố của hết kiếp
nọ đến kiếp kia đã từng xảy ra, nhưng không dấu vết, không
một vết xước nào đã bao giờ được để lại trên tâm thức.
Kinh nghiệm về bản chất không tì vết đó chính là Param
Brahman, thực tại tối thượng tối cao. Khi Brahman, thực tại

tối thượng, liên kết với tâm trí nó trở thành thế giới; khi
Brahman phân tách khỏi tâm trí nó trở thành Param
Brahman, thực tại tối thượng tối cao. Và khi linh hồn liên kết
với tâm trí thân thể trở thành điều không tránh khỏi, bởi vì
việc thoả mãn các đam mê của tâm trí không thể có được nếu
không có thân thể. Tâm trí thúc ép và kích động đam mê,
nhưng chúng không thể được đáp ứng nếu không có thân thể.
Bạn có thể đã nghe, và bây giờ điều đó đang nhanh
chóng trở thành thực tại khoa học, rằng ma nào đó đã đi vào
thân thể của một người. Một số người sẽ gọi điều đó là mê
tín, một số sẽ gọi đó là bệnh hoạn, một số lại gọi đó là thế
này hay thế khác, nhưng bạn có thể chưa từng bao giờ nghĩ
rằng cho dù ma có đó, tại sao chúng đi vào trong thân thể
người khác? Bạn có thể nghĩ có lẽ đó có thể là kẻ thù cũ nào
đó đã đi vào để hành hạ người đó. Bạn có thể nghĩ có lẽ đấy
là vấn đề báo thù, hậu quả của nghiệp, của hành động quá
khứ, một cách giải quyết của hành vi quá khứ. Không, không
có những điều như thế đâu.
Ma là tâm thức có thân thể đã bị vứt bỏ nhưng tâm trí
chưa bị vứt bỏ. Và tâm trí đòi hỏi thân thể, vì mọi ham muốn
và đam mê của tâm trí chỉ có thể được đáp ứng chỉ qua thân
thể. Tâm trí của nó muốn sờ vào thân thể yêu mến nào đó,
nhưng ma không thể sờ được vì nó không có tay; tâm trí của
nó muốn nếm món ăn ngon... Ma vẫn có tâm trí ham muốn
nếm mọi thứ, nhưng nó không có lưỡi. Cho nên vấn đề của
ma là ở chỗ nó có tâm trí, nhưng không có giác quan để qua
đó đáp ứng cho các ham muốn này. Toàn bộ phức hợp ham
muốn vẫn còn nguyên, nhưng tất cả phương tiện để đáp ứng
cho ham muốn đó lại thiếu.
Toàn bộ ý nghĩa của hồn-ma là người chưa nhận được
thân thể. Có hai kiểu hồn gặp khó khăn khi nhận thân thể.
Người bình thường nhận thân thể mới một cách dễ dàng; một
người chết đi ở đây và được thai nghén ở kia, không có lỗ
hổng. Đôi khi cũng có lỗ hổng nhiều nhất quãng một phút,
hai phút hay năm phút. Thông thường bạn chết nơi đây và
được thai nghén lập tức ở nơi kia. Nhưng các linh hồn cực
đoan, linh hồn kẻ xấu nhất hay linh hồn cao quí nhất không
dễ dàng tìm thấy nơi thai nghén vì họ cần bụng mẹ thích
hợp. Nếu một Hitler chết, sẽ không dễ dàng gì cho ông ta tìm
được bố mẹ, vì để cho ông ta việc sinh cần phải có bố mẹ
độc ác tương đương. Cho nên trong nhiều năm, đôi khi vài
thế kỉ, họ phải đợi. Khó khăn này tương tự cho các linh hồn
cao quí.
Các linh hồn cao quí vẩn vơ không thân thể chúng ta gọi
là devas, thần; còn các linh hồn độc ác vẩn vơ không thân thể
chúng ta gọi là pretas, ma.
Bất kì khi nào có một khoảnh khắc khi một người yếu
đến mức linh hồn người đó co lại trong thân thể, ma nào đó
đi vào người đó - không phải để quấy rối người đó hay hành
hạ người đó, mà là để thoả mãn ham muốn của riêng nó qua
thân thể người này.
Nếu bạn yếu và không có ý chí nào, một số ma có thể
chen lấn vào bên trong bạn, vì nó không có thân thể và ham
muốn của nó đang bùng cháy. Con ma đó sẽ sờ một người
đàn bà nào đó qua tay bạn, sẽ nếm thức ăn nào đó qua lưỡi
bạn, sẽ nhìn cái đẹp qua mắt bạn và sẽ nghe nhạc nào đó qua
tai bạn. Chính vì những lí do này mà ma đi vào thân thể của
ai đó, không để quấy nhiễu người đó. Bạn bị quấy nhiễu
trong quá trình này, nhưng đấy là sản phẩm phụ, không phải
là động cơ của ma. Nhưng chắc chắn khi hai linh hồn cùng
cư ngụ trong một thân thể thì rắc rối và quấy nhiễu nhất định
có đó.

Quấy nhiễu này cũng tựa như là khách đến nhà ai đó
chơi rồi ở lại luôn, thậm chí không nghĩ tới việc ra đi. Dần
dần khách bắt đầu bành trướng lãnh thổ trong nhà và người
chủ của ngôi nhà bắt đầu co lại trong một góc; rồi dần dần,
dần dần đến lúc không còn rõ rệt ai là khách ai là chủ trong
nhà. Còn khách thì sao? Tính kiêu ngạo của người đó cứ
dâng lên bởi vì người chủ phục vụ người đó, vì người đó là
khách và “khách là Thượng đế.” Thế là khách rơi vào ảo
tưởng rằng người đó là người chủ; và một ngày nào đó người
đó sẽ yêu cầu người chủ thực tại của ngôi nhà phải ra đi, vì
người đó đã ở trong ngôi nhà quá lâu rồi. Tình huống đau
khổ có thể phát sinh. Tâm trí lập tức yêu cầu thân thể sau cái
chết, do đó có sinh thành mới. Hồn được liên kết với tâm trí
và tâm trí được liên kết với thân thể.
Có hai kiểu bộ môn tâm linh. Một là phân tách thân thể
khỏi tâm trí, điều chúng ta thường gọi là chủ nghĩa khổ hạnh.
Đây là cuộc hành trình rất dài, gian truân và kết quả bất định.
Kiểu kia là tách tâm trí khỏi tâm thức, điều chúng ta gọi là
vedanta, còn đường của tri thức. Nếu chúng ta muốn gán
đúng tên chúng sẽ là: tách tâm trí khỏi thân thể mang tên là
yoga, và tách tâm trí khỏi linh hồn mang tên sankhya, tri
thức. Chỉ có hai bộ môn đó.
Sankhya nghĩa là một mình tri thức là đủ, không cái gì
khác được yêu cầu để được thực hiện; và yoga nghĩa là,
nhiều điều phải được làm, và chỉ thế thì cái gì đó sẽ là có thể.
Kinh này nói về sankhya, tri thức. Nó nói,
Ảo tưởng về mọi thứ trong linh hồn người ta là hiện
tượng bị áp đặt. Vứt bỏ nó, người ta là bản thân
Brahman hoàn hảo, bất nhị và vô hành động - thực tại
tuyệt đối.
Không cái gì khác cần được làm cả.
Thế giới, cái dường như là một điều khác đối với linh
hồn, gần như không thực.
Do đó tôi đã nói rằng sư này đã nói với Phật rằng chiếc
khăn gần như thay đổi. Kinh này nói rằng toàn bộ thế giới
của phân chia này, cái được thấy, là gần như không đúng.
Bởi vì...
Phân chia ở đâu - và làm sao có thể có được - trong
thực thể vô hình dạng và vô tổ chức, thuần khiết?

Gần như không đúng - đây là một khái niệm triết học rất
có giá trị. Và cần hiểu nó một chút, bởi vì ‘gần như không
đúng’ nghĩa là gì? Cái gì đó có thể không đúng, điều này có
thể hiểu được. Nhưng gần như không đúng nghĩa là gì? Cái
gì đó là đúng, điều này có thể hiểu được, nhưng khi ai đó nói
‘gần như đúng’, điều đó sẽ nghĩa là gì? Cái ‘gần như’ này
phá rối mọi thứ. Cũng tựa như bạn nói với ai đó, “Anh gần
như yêu em.” Bây giờ điều này sẽ phá rối mọi thứ. Nếu có
yêu, nói, “Đúng, có yêu”, nếu không, nói, “Không yêu,”
nhưng “gần như trong tình yêu” này là gì? Phải gọi nó là gì:
yêu, không yêu hay cái gì? Nếu bạn nói người nào đó là “gần
như thánh nhân,” điều đó nghĩa là gì?
Từ gần như này là quí giá và có giá trị trong triết học Ấn
Độ. Ấn Độ đã tạo ra một phân loại mới, một mức tư duy
mới. Trong triết học của toàn thế giới có hai loại tư tưởng:
chân lí và phi chân lí. Trong triết học Ấn Độ có ba loại tư
tưởng: về chân lí, về phi chân lí và gần như chân lí - loại thứ

ba, loại ở giữa. Cái ‘gần như đúng’ hay ‘gần như không
đúng’ chúng ta đã gọi là maya, ảo vọng, hay mithya, cái giả.
Vậy chúng ta đã tạo ra ba từ: satya, chân lí, asatya, phi chân
lí, và mithya, cái giả. Bây giờ, mithya này được ngụ ý gì?
Thông thường, mọi người hiểu rằng mithya nghĩa là phi chân
lí, dối trá. Không, mithya không có nghĩa là phi chân lí; nó
nghĩa là cái gì đó ở giữa chân lí và phi chân lí. Ở giữa chân lí
và phi chân lí à? Điều đó nghĩa là cái phi chân lí nhưng
dường như chân lí.
Trời tối và có sợi dây thừng nằm trên đường và với bạn
nó dường như là con rắn. Trong bóng tối bạn mất mọi dũng
cảm. Bạn chạy, mồ hôi toát ra, tim đập thình thịch. Rồi ai đó
nói, “Bạn hoảng sợ và lo lắng không cần thiết. Cầm lấy cái
đèn này và quay lại tự mình xem; không có rắn, nó chỉ là sợi
dây thừng nằm đó.” Thế rồi trong ánh đèn bạn nhìn nó và
thấy nó là sợi dây thừng. Bây giờ bạn sẽ gọi con rắn đó mà
bạn đã thấy là gì? Nó chắc chắn không phải là con rắn thật,
nhưng bạn không thể nào gọi nó là không thật, bởi vì nó
trông dường như là thật. Bạn chạy khỏi nó theo hệt cách bạn
chạy xa khỏi con rắn thật; bạn toát mồ hôi, và việc toát mồ
hôi là thực - và điều đó được gây ra bởi con rắn không thực!
Nhịp tim bạn tăng lên và có sợ đau tim. Đau tim là rất có thể,
và bạn có thể chết. Và điều này là thách đố: làm sao cơn đau
tim thực xảy ra do con rắn không thực? Nhưng cơn đau tim
thực có thể xảy ra do con rắn không thực. Triết học Ấn Độ
không được chuẩn bị để gọi con rắn đó là không thật khác.
Con rắn dứt khoát là không thực, vì khi điều tra người ta
phát hiện ra rằng đấy là sợi dây thừng nằm đó. Nhưng nó
cũng không phải là không thực, vì nó đem tới cùng kết quả
như con rắn thực đem lại. Điều này Ấn Độ gọi là ‘gần như
không đúng’, hay ‘gần như đúng’; mithya - giả, maya - ảo
vọng. Đây là loại thứ ba, loại ở giữa. Khó dịch được nó sang
tiếng Anh, khó tìm được từ chỉ loại này trong các ngôn ngữ
khác. Bất kì việc dịch nào được thực hiện đều chuyển nghĩa
của asatya - phi chân lí, không phải là mithya - cái giả.
Mithya là thuần tuý từ của Ấn Độ.
Lưu ý tới ý nghĩa của mithya đi. Nó có nghĩa là cái
không có nhưng dường như nó có. Cho nên, Ấn Độ nói, cần
phải tạo ra loại thứ ba cho những việc như thế.
Thế giới giả này... Bạn phải đã nghe thấy vedanta mô tả
thế giới này là giả bao nhiêu lần rồi. Upanishad gọi nó là giả,
Shankara gọi nó là giả suốt từ sáng tới tối trong mọi phát
biểu của ông. Cho nên chúng ta đi tới nghĩ rằng tất cả họ đều
nói rằng thế giới này là không thật. Không, họ không gọi nó
là không thật; họ nói rằng nó giống như thấy con rắn trong
sợi dây. Thế giới này không xuất hiện như cái nó đang thế
mà xuất hiện như cái nó không thế. Đó là ảo tưởng thị giác,
khiếm khuyết của cái nhìn.
Điều đó giống như nhìn trăng sau khi ấn tay vào mắt và
do vậy thấy hai mặt trăng. Không có mặt trăng thứ hai.
Nhưng nếu bạn được hỏi trong khi mắt bạn đang trong điều
kiện đó, trăng nào là thật và trăng nào không thật, bạn sẽ
không có khả năng trả lời đúng. Cả hai dường như đúng.
Nhưng cả hai đều không đúng, và nếu bạn dừng ấn tay vào
mắt, bạn sẽ thấy chỉ một mặt trăng, mặt trăng thứ hai biến
mất. Mặt trăng kia là gì? Sau rốt, nó được thấy bằng mắt.
Nếu có cách nào đó giữ mắt ai đó thường xuyên bị ấn theo
kiểu này, người đó bao giờ cũng sẽ thấy hai mặt trăng.
Cái nhìn của chúng ta bị ép dưới kinh nghiệm, hình ảnh
và tích luỹ của tâm trí mọi lúc. Cho nên chúng ta thấy cái mà
tâm trí bầy tỏ cho chúng ta.
Hình dung một chút rằng bạn là cư dân của một nước
không có rắn. Bạn chưa bao giờ thấy rắn, hay hình ảnh về

rắn - bạn đơn giản không biết về từ rắn. Bây giờ liệu bạn có
thể thấy rắn trong sợi dây thừng được không? Không thể
được. Làm sao bạn có thể thấy rắn được? Nếu bạn không có
kinh nghiệm về rắn, dây thừng có thể nằm đó nhưng làm sao
bạn có thể thấy được rắn trong nó?
Người ta thấy rắn trong sợi dây thừng bởi vì tâm trí có
liên kết với rắn, một hình ảnh, một ấn tượng về rắn; tâm trí
đã thấy rắn. Bạn có thể đã thấy rắn trong tranh, hay thấy
thực, hay với người dụ rắn - nhưng đã thấy nó ở đâu đó.
Hình ảnh đó là trong tâm trí bạn; nó ẩn nấp bên trong tâm trí
bạn.
Sợi dây thừng nằm trong bóng tối; bất chợt được thấy,
sợi dây tạo ra nhiều ảo tưởng. Bóng tối tạo ra sợ. Với sợ này
gợi ra sợ khác có liên kết mà đã nảy sinh khi thấy rắn, rằng
nó có thể cắn bạn. Với tất cả điều này bạn bắt đầu thấy trong
sợi dây thậm chí một mẫu hình uốn éo của thân rắn. Sợ hãi,
sợ rắn, cái tương tự với mẫu hình uốn éo... con rắn bên trong
tâm trí bạn được phóng chiếu lên sợi dây. Bạn chạy trốn. Sợi
dây thừng thậm chí không nhận biết về điều đã xảy ra. Điều
gì đã làm cho bạn phải chạy trốn, và tại sao?
Có lần nhiều năm trước đây, chuyện đã xảy ra với tôi.
Tôi quen dậy quãng 3 giờ sáng và đi dạo. Đó là một đêm
đáng yêu và lề đường được phủ dầy bởi các cụm trúc. Tại
một điểm có chỗ hơi quang đãng, còn các chỗ khác trúc che
phủ dọc con đường. Tôi quen chạy thẳng từ đầu nọ đến đầu
kia của con đường rồi chạy giật lùi theo chiều kia. Trong một
giờ, từ 3 đến 4 giờ sáng - tôi tập thể dục như thế ở đó. Một
hôm một điều kì lạ đã xảy ra. Trong khi tôi đang chạy giật
lùi và vẫn trong bóng lùm trúc thì một người - một người
đưa sữa - tiến lại gần tôi với những bình chứa rỗng, người đó
đang đi lấy sữa hàng ngày từ xưởng làm sữa. Thế rồi đột
nhiên tôi nhô ra khỏi khu vực bóng cây - đó là đêm có trăng -
người đó có thể thấy tôi bất thình lình. Khoảng khắc trước
tôi là không thấy được, thế rồi bất thình lình... mà lại chạy
giật lùi nữa! Người ta biết chỉ ma mới chạy giật lùi!
Người đưa sữa đó quẳng luôn các thùng rỗng và ù té
chạy biến. Có cái gì đó kì lạ về cách người đó chạy trốn. Tôi
không có ý tưởng nào là người đó đã trở nên sợ tôi đến thế,
cho nên tôi đuổi theo người đó để giúp đỡ. Bây giờ người đó
chạy bán sống bán chết! Tôi càng đuổi theo nhanh hơn, với
mối quan tâm bảo người đó dừng lại, người đó lại càng chạy
nhanh hơn. Trước đây tôi chưa hề thấy ai chạy được như thế!
Thế rồi tôi có ý niệm mơ hồ rằng có lẽ tôi là người duy nhất
ở quanh đó và người đó đã trở nên sợ tôi.
Nghe thấy tiếng thùng chứa rơi và tiếng bước chân chạy,
một người trong khách sạn gần đó thức dậy. Tôi tới người đó
và hỏi người đó xem người đó có biết điều gì đã xảy ra
không. Người đó đáp, “Nếu bác hỏi tôi, tôi biết rằng bác
hàng ngày vẫn chạy giật lùi ở đây, nhưng đôi khi tôi vẫn sợ.
Người đó chắc phải là người mới trên con đường này.”
Tôi nói, “Bác giữ lấy bình chứa này, có thể người ấy sẽ
quay lại vào buổi sáng.” Cho đến tận bây giờ người đó cũng
không quay lại! Cứ khi nào tôi đi qua khách sạn đó là tôi lại
hỏi xem liệu người đó đã quay lại chưa. Người đó không bao
giờ quay lại nữa.
Bây giờ không có cách nào nói cho người đó rằng điều
người đó đã thấy là ‘gần như giả’. Không có ma nào ở đó cả,
nhưng người đó đã xoay xở thấy được nó! Với người đó ma
là thực tại hoàn toàn, bằng không thì người đó đã không biến
mất trong thời gian lâu đến thế. Người đó phải đã có một
kinh nghiệm quá khứ nào đó mà người đó áp vào cảnh này.
Cái thực có đấy không phải là cái chúng ta đang thấy

đâu; chúng ta đang thấy cái mà mắt cho hiện lên cho chúng
ta thôi. Tâm trí chúng ta đang áp đặt mọi thứ từng khoảnh
khắc và chúng ta đang thấy người biết cái gì, và điều đó chắc
chắn không có đó trong thế giới.
Toàn bộ thế giới này là sự mở rộng của tâm trí chúng ta.
Cái chúng ta thấy được chúng ta phóng chiếu ra. Đầu tiên
chúng ta phóng chiếu và thế rồi chúng ta thấy. Đầu tiên
chúng ta phóng chiếu ra con rắn trong sợi dây thừng, thế rồi
chúng ta thấy rắn và bỏ chạy. Toàn thế giới này đều giống
điều đó. Bản thân chúng ta cho ai đó là đẹp, thế rồi chúng ta
trở nên mê tít về người đó và thế rồi cứ ngẩn ngơ điên khùng
về điều đó.
Người thấy của Upanishad nói rằng toàn thế giới này
được con người thấy là ‘gần như giả.’ Trong khi nói ‘gần
như’ một điều rất hay đã được nói. Điều đã được nói là ở chỗ
nó không hoàn toàn sai, bằng không làm sao bao nhiêu người
bị rắc rối vì nó thế? Thực tại nào đó có đó trong nó. Nó là sợi
dây thừng, chừng ấy là đúng; nó không phải là rắn, chừng ấy
là sai. Sợi dây giống như con rắn ở mức độ nào đó, điều đó
nữa cũng đúng; nhưng sợi dây là sợi dây và nó không trở
thành rắn, điều đó nữa cũng đúng. Và thế giới sợ hãi đã nảy
sinh giữa hai điều này, thế giới của việc thấy con rắn trong
sợi dây - đó là sai, đó là ảo tưởng.
Chừng nào tâm trí chưa bị vứt bỏ toàn bộ và chúng ta
còn chưa có khả năng thấy thế giới một cách trực tiếp, chúng
ta sẽ không thể nào thấy được chân lí của thế giới. Khi người
ta thấy ra chân lí của thế giới, thế giới biến mất và chỉ còn
thực tại tuyệt đối còn lại. Khoảnh khắc này thực tại tuyệt đối
được thấy bị phân chia. Đâu đó thực tại tuyệt đối là tảng đá,
đâu đó là cây cối, đâu đó nó là đàn ông và đâu đó là đàn bà -
thực tại tuyệt đối được thấy bị phân chia. Nếu toàn bộ thu
xếp phóng chiếu đằng sau con mắt bị vứt bỏ, thế thì toàn bộ
thế giới này trở thành tâm thức thuần khiết, một đại dương.
Mọi phân chia sụp đổ.
Linh hồn-ý thức là tự do với các ý niệm của người thấy,
việc thấy và cái được thấy, vân vân. Nó là miễn nhiễm và
tràn đầy tựa đại dương vào lúc đại hồng thuỷ.

Nơi có nhân chứng bên trong - linh hồn-tâm thức đó
được tự do khỏi tâm trí và đã trở thành trống rỗng - không có
phân chia. Việc thấy, cái được thấy, mọi ý niệm này đã biến
mất. Không có người thấy, không có gì để thấy: mọi nhị
nguyên đã biến mất. Chỉ còn duy nhất một mở rộng của tâm
thức ở đó. Về mở rộng đó một cách ví von hay đã được dùng
ở đây, nói rằng:
Nó là miễn nhiễm và tràn đầy tựa đại dương vào lúc đại
hồng thuỷ.

Đại dương của chúng ta, dù có thể lớn đến đâu, vẫn bị
giới hạn, và dù nó có mở rộng đến đâu đi chăng nữa, nó vẫn
có bờ. Bất kì ai hay bất kì cái gì có biên giới đều không đầy
đủ, vì nó bị chặn. Ao nhỏ có biên giới nhỏ, đại dương lớn có
biên giới lớn. Cái gì là khác biệt giữa biên giới nhỏ và biên
giới lớn? Biên giới là biên giới. Bạn đang bị cầm tù trong
một nơi nhỏ hẹp hay trong một nơi rất lớn. Điều đó có tạo
nên khác biệt gì không? - nhà tù là nhà tù!
Do đó ví dụ này không nói, “tựa đại dương,” nó nói...
tựa đại dương vào lúc đại hồng thuỷ.
Đại hồng thuỷ, Pralaya kal, là một lí thuyết huyền thoại
rằng khi sự sáng tạo này, thế giới này tan biến, nó sẽ bị bao

phủ trong nước - toàn thể sự sáng tạo. Không một li đất nào
còn lại ở bất kì đâu. Cho nên hoàn cảnh của đại dương vào
lúc đại hồng thuỷ là ở chỗ sẽ không còn biên giới nữa, không
còn bờ cho chúng... vì chính nghĩa của bờ là ở chỗ vẫn còn
mảnh đất nào đó còn lại để làm bờ cho đại dương, và mảnh
đất đó trở thành biên giới của nó.
Tâm thức chứng kiến cũng tựa như đại dương vào lúc đại
hồng thuỷ. Nó không có đường bờ còn lại quanh nó; nó tuyệt
đối đầy - không có biên giới ở bất kì đâu, nó là vô giới hạn.
Nhưng điều này là đúng chỉ khi phân chia đã bị vứt bỏ.
Chừng nào phân chia có đó, có giới hạn.
Ngay cả bóng tối cũng tan biến trong ánh sáng...
Điều phi thường đã được nói ở đây:
...nguyên nhân của ảo tưởng tan biến trong thực tại tuyệt
đối vô song vốn không có tổ chức - cho nên phân chia
trong nó là ở đâu?

Ngay cả bóng tối cũng tan biến trong ánh sáng... Sáng
suốt rất độc đáo. Có bóng tối trong nhà và bạn thắp đèn lên -
bạn đã bao giờ nghĩ bóng tối đi đâu không?
Khi bạn thắp đèn, bóng tối đi đâu? Nó có đi ra khỏi nhà
không? Vậy làm một việc này: trước hết thắp vài ngọn đèn
bên ngoài nhà rồi để vài người canh chừng. Rồi thắp đèn
trong vùng tối trong nhà. Nếu bóng tối đi ra ngoài, người
ngồi ngoài sẽ thấy nó đi ra khỏi nhà. Không, bóng tối không
ra khỏi nhà. Thế thì bóng tối đi đâu?
Chính điều rất hay mà Upanishad đang nói, rằng bóng tối
hoà vào trong ánh sáng. Điều này sẽ khó hiểu, vì chúng ta
coi ánh sáng và bóng tối là kẻ thù. Làm sao chúng có thể hoà
vào nhau được? Và chúng ta tin là chúng là đối lập. Có tranh
đấu và xung đột giữa hai điều này và chúng ta muốn bỏ bóng
tối và giữ ánh sáng.
Cho nên sẽ rất khó cho chúng ta tin rằng bóng tối hoà
vào trong ánh sáng. Nỗi sợ của chúng ta sẽ là ở chỗ nếu bóng
tối hoà vào ánh sáng, mọi ánh sáng sẽ thành bóng tối. Chẳng
hạn, mực đen hoà vào trong vải trắng: điều ấy thực ra nghĩa
là gì? Nó sẽ không có nghĩa là mực đen sẽ biến mất trong vải
trắng, nó sẽ có nghĩa là vải trắng sẽ biến mất trong mực đen.
Làm thực nghiệm này và xem. Hoà mực đen vào vải trắng và
xem. Thế thì bạn sẽ thấy rằng chính vải trắng đã biến mất,
không phải mực đen.
Bóng tối tan biến trong ánh sáng. Nhiều điểm khác nảy
sinh từ sự kiện này. Trước hết, điều đó có nghĩa là không có
thù địch giữa bóng tối và ánh sáng. Điều này nghĩa là gì?
Điều này nghĩa là không có thù địch giữa thế giới và chứng
ngộ, và rằng thế giới hoà vào trong chứng ngộ. Điều này
nghĩa là không có đối lập giữa sai và đúng, và có nghĩa là sai
hoà vào trong đúng.
Bống tối hoà vào trong ánh sáng - dường như là bóng tối
chỉ đợi ánh sáng tới để cho nó có thể hoà vào đó. Bạn đã bao
giờ thấy bóng tối ngần ngại chưa? Khi bạn thắp đèn bóng tối
có nghĩ xem nên hoà vào hay không hoà vào? - “Để tôi nghĩ
một chút?” Hay, “Mai tôi sẽ quay lại sau khi nghĩ có nên
nhận tính chất sannyas hay không.” Hay, “Bóng tối nên trộn
vào hay không? Để tôi suy nghĩ và cân nhắc đã.” Không, nó
không nghĩ. Dường như là nó sẵn sàng và chờ đợi, đợi rằng,
“Bạn sẽ xuất hiện và tôi sẽ hoà vào trong bạn.” Nó không
chậm trễ một li lai, thạm chí không một khoảnh khắc. Xuất
hiện của ánh sáng và hoà với bóng tối xảy ra đồng thời.
Cái gì là ngụ ý của nó trong tâm linh?

Ngụ ý của nó là ở chỗ ngay khi ánh sáng nảy sinh bên
trong, tâm trí và những ảo tưởng của nó, mang mọi tình
huống của chúng với chúng, hoà nhập toàn bộ vào trong ánh
sáng đó. Chúng không tồn tại, chúng không thể được tìm
thấy ở bất kì đâu cho dù với việc tìm kiếm lớn lao. Thậm chí
điều đó trở thành khó quan niệm làm sao hôm qua chúng đã
có đấy. Khi bạn thấy sợi dây thừng trong sợi dây thừng, bạn
sẽ có khó khăn trong việc hiểu làm sao ngay khoảnh khắc đã
có rắn trong sợi dây và bây giờ nó đi đâu. Bản thân bạn bắt
đầu hoài nghi về bản thân mình: bạn có rơi vào một loại ảo
tưởng nào đó để đi vào ý nghĩ rằng nó đã có đó không?... làm
sao nó có thể thế được?
Những người đã tỉnh thức đều thấy khó khăn để thậm chí
nghĩ rằng có hay có thể có thế giới.
Mới sáng nay tôi đã nói chuyện với một sannyasin. Cô
ấy tới và cô ấy hỏi khi nào cô ấy có thể gạt bỏ tất cả những
khổ và lo này: “Đôi khi dường như là nó đã xảy ra, nhưng
thế rồi tôi trở lại cùng khổ cũ.”
Tôi bảo cô ấy rằng tôi cũng đang khó khăn. Dần dần, dần
dần vấn đề càng trở nên rất khó khăn cho tôi ngay cả để hiểu
làm sao khổ trở thành có thể, làm có khả năng để khổ xuất
hiện. Không phải là tôi không bao giờ khổ. Tôi đã khổ,
nhưng bây giờ tôi thấy khó hiểu.
Dường như là ở đâu đó xa xôi trong quá khứ người ta đã
từng thấy rắn trong sợi dây thừng và bây giờ, khi nhớ lại,
người ta thấy khó hiểu nổi làm sao thậm chí có khả năng
nhìn ra rắn khi đó là sợi dây thừng. Và nếu ai đó vẫn còn
thấy rắn, điều đó trở thành tình huống rất khó khăn cho tôi.
Khó khăn là ở chỗ điều đang xảy ra cho bạn giống như một
vấn đề lớn thì không còn là vấn đề chút nào với tôi cả, và có
cảm giác là bạn đang mang mọi loại điều vô nghĩa cùng bạn.
Nhưng nói như thế cũng cảm thấy sai, vì người đó đang đau
khổ, đang chạy nhanh; người đó vẫn đang thấy rắn. Nếu bạn
nói với một người đang chạy nhanh trong sợ hãi, tim đang
rung lên và thót lại, “Sao bạn chạy và nói những điều vô
nghĩa này, đấy chỉ là sợi dây thừng và không phải là rắn,”
người đó sẽ trở nên rất giận.
Nhớ lấy, bạn không có ý tưởng gì về khó khăn của một
Phật, một Mahavira, một Krishna và một Christ trong việc
dạy cho bạn, bởi vì họ phải trao cho bạn cách trị liệu một
chứng bệnh mà thực sự không tồn tại chút nào. Chứng bệnh
này đơn giản không có đó, nhưng bệnh nhân đang run rẩy;
bệnh nhân đang kêu rằng mình sắp chết.
Trong y học có từ thuốc trấn an. Tên này được dùng cho
một loại thuốc gần như là thuốc. Thuốc trấn an có nghĩa là
đấy không phải là thuốc chút nào; nó tác động lên một bệnh
mà thực tại không phải là bệnh. Nó ‘gần như là thuốc’ trị cho
‘gần như là bệnh’. Nó có tác dụng - nó chỉ là viên đường.
Thuốc vi lượng ít nhiều cũng là một thuốc trấn an, chúng
không phải là thuốc hẳn như thế. Nhưng chúng có tác dụng,
vì đâu là bệnh thật? Không có vấn đề gì - thuốc không được
cần tới ngay từ đầu. Thuốc thực được cần tới chỉ nếu có bệnh
thực, và chín mươi trong số một trăm bệnh là không thực -
kể cả các bệnh thông thường. Và điều nguy hiểm là đem
thuốc thực cho bệnh không thực vì thế thì thuốc sẽ đem lại
hiệu quả có hại.
Căn bệnh tâm linh này, căn bệnh khổ và phiền não này,
căn bệnh trần gian này, một trăm phần trăm là không thật.
Nhưng gọi nó là một trăm phần trăm không thật là không
đúng - nếu Phật nói điều đó hay Ahankara nói điều đó, thì
đấy là phát biểu đúng về phần họ, nhưng do từ bi đối với
hàng triệu và hàng triệu người đang đau khổ bởi căn bệnh

này họ phải nói ‘gần như’. Những người này bị dụ dỗ, bị
thuyết phục: thử thuốc này đi, nhẩm câu mật chú này, tụng
bản kinh này, làm thế này, làm thế nọ. Uống thuốc liên tục,
có lẽ bạn sẽ quên bệnh này. Hay uống thuốc liên tục có lẽ
bạn sẽ trở nên chán ngấy đến mức bạn ném cả chai thuốc lẫn
bệnh tật đi. Hay uống thuốc liên tục, có lẽ bạn sẽ trở nên
chán ngán tới mức bạn quẳng cả thuốc lẫn bệnh đi. Hay uống
thuốc liên tục bạn sẽ nói, “Đủ lắm rồi, thế là đủ để cứ uống
mãi một loại thuốc hết kiếp nọ đến kiếp kia, tôi sẽ không
uống thuốc nữa, bây giờ tôi chấp nhận bệnh tật.” Nếu bất kì
cái gì giống thế này xảy ra bạn sẽ thấy rằng không có bệnh
chút nào; kẻ thù mà bạn đã tranh đấu liên tục không có đó
chút nào cả - nó ‘gần như có’, nó chỉ dường như có đó thôi.
Do đó mọi tôn giáo đều đã phát triển những phương sách
giả, và khó tìm ra kẻ nói dối nào lớn hơn Phật, Mahavira,
Krishna và Christ! Lí do cho điều này không phải là ở chỗ họ
là kẻ nói dối - chưa bao giờ có người nào nói thật hơn những
người này - nhưng bởi vì mọi bệnh tật của bạn đều là giả cả.
Và những người đã phải làm việc để xử lí cho những người
bệnh tật giả này, họ biết điều họ phải làm.
Tất cả các triết học lớn được tạo ra bởi những người trí
huệ này đều giả cả. Giả có nghĩa là ‘gần như sai’. Chúng chỉ
là những phương sách để cắt đi bệnh tật của bạn.
Chẳng hạn, bạn đã chạy trốn khỏi sợi dây thừng và tin nó
là con rắn. Bây giờ tôi có thể nói một triệu lần rằng đấy
không phải là rắn mà là sợi dây thừng, nhưng đấy chỉ là lời
nói thôi và bạn sẽ nói, “Làm sao tôi có thể tin được vào điều
thầy nói? Ai biết được, đấy có thể là kinh nghiệm của thầy,
nó cũng có thể không phải! Cho dù thầy có kinh nghiệm đó,
nó có thể là một loại dây thừng khác, một loại rắn khác. Ai
mà biết được liệu đấy là rắn này hay dây này?”
Thay vì giải thích cho bạn, tốt hơn cả là tôi buộc một
chiếc bùa hộ mạng vào bạn và nói, “Đấy là rắn, không phải
là dây thừng, nhưng ở đây, đeo lấy bùa hộ mạng này vào -
không rắn nào trên toàn thế giới dám đối diện với lá bùa
này.” Điều này sẽ hiệu quả hơn. Thay vì giải thích rằng đấy
là sợi dây và không phải là rắn, đeo lá bùa hộ mạng này vào.
Không có con rắn thực nào ở đó, đúng, nhưng ở đây nữa
cũng không có lá bùa thực. Nhưng lá bùa này sẽ cho bạn sức
mạnh, niềm tin sẽ nảy sinh trong bạn rằng đây là cái gì đó
thực.
Và nếu phép màu này cũng có thể được dàn cảnh, rằng
dây thừng được đặt trong bóng tối của ngôi nhà và bạn đeo
bùa hộ mạng, và từ khoảng cách xa bạn thấy nó là rắn nhưng
khi lại gần hơn nó hoá ra sợi dây, thế thì mọi điều đều được
giải quyết - bùa hộ mạng có tác dụng! Thế thì bạn có thể đi
bất kì đâu trên thế giới, và có thể đi tới một trạng thái mà
ngay cả rắn thật cũng dường như là sợi dây - bùa hộ mạng
mà!
Tâm trí con người tạo ra ảo tưởng. Những ảo tưởng này
đều do tự ám thị. Tất cả những ảo tưởng này đều hoà trong
chân lí tối thượng. Khoảnh khắc việc chứng kiến được kinh
nghiệm, toàn thế giới, toàn thể khung cảnh phóng chiếu của
chúng ta, co lại và hoà vào trong việc chứng kiến - trong đại
dương bất tận, vô biên.
Thực tại tối cao là cái một kì dị; làm sao có thể có phân
chia trong nó được? Trạng thái sushupti - ngủ say,
không mơ - là phúc lạc; ai thấy phân chia trong đó?

Hiểu điều cuối cùng trong kinh này: trạng thái của
sushupti, ngủ say, không mơ. Những người đã tìm kiếm

trong các tầng bên trong đều chấp nhận ba trạng thái tâm
thức con người. Một trạng thái chúng ta gọi là trạng thái
thức, chiếm ưu thế từ lúc ta thức dậy vào buổi sáng. Trạng
thái thứ hai chúng ta gọi là trạng thái mơ, chiếm ưu thế trong
giấc ngủ khi chúng ta thấy các hình ảnh về mọi thứ. Và trạng
thái thứ ba đôi khi đến trong giấc ngủ một quãng ngắn khi
không có mơ không thức mà chỉ là giấc ngủ say - sushuptu -
còn lại. Sushupti nghĩa là giấc ngủ say thậm chí không có
mơ.
Upanishad tin - không, người ta nên nói là biết - rằng
không có phân chia trong trạng thái sushupti. Chúng không
thể còn lại bởi vì chính tâm trí từ đó chúng đã nảy sinh... Khi
bạn thức, phân chia có đó. Đây là ngôi nhà của bạn, nhà của
hàng xóm không phải là của bạn; bạn nghèo, hàng xóm bạn
giầu; bạn da đen, hàng xóm bạn da trắng - cả nghìn phân
chia, tất cả chúng còn lại đó. Những phân chia này do tâm trí
tạo ra. Bạn có thể quan sát một sự kiện rất thú vị - rằng phân
chia còn trong trạng thái mơ nhưng đường phân chia biến
mất.
Hiểu điều này một chút. Trong trạng thái thức, phân chia
có đó và biên giới phân chia có đó. Có bạn, có thù; bạn là
bạn, thù là thù; trong trạng thái thức A là A và B là B. Tuy
nhiên, trong trạng thái mơ phân chia có đó nhưng biên giới
phân chia ở giữa bị mất. Phân chia không còn rắn chắc,
chúng trở thành lỏng. Bạn đang thấy rằng một người bạn tiến
tới và bỗng nhiên người đó biến thành kẻ thù! Và bạn thậm
chí không có hoài nghi, trong giấc mơ bạn thậm chí không
hỏi làm sao điều này có thể có được! Bạn đang nói với một
người, rồi bỗng nhiên người đó biến thành con ngựa. Bạn
vẫn không hoài nghi trong mơ rằng một người có thể bỗng
nhiên biến thành ngựa.
Đường biên chia không còn. Phân chia vẫn còn - người
là người, ngựa là ngựa - nhưng đường biên giới không còn.
Mọi thứ trở thành lỏng, mọi thứ đều bị trộn lẫn dường như
tâm trí bị lay động. Trong trạng thái thức mọi thứ đều tách
bạch rõ ràng, logic, hợp lí và phân biệt. Trong trạng thái mơ
tâm trí trở nên không ổn định. Dường như là phản chiếu của
trăng có đó trong nước, thế rồi ai đó khuấy nước và phản
chiếu bị phân chia thành nghìn mảnh và trăng trải ra khắp
mặt nước. Ánh trăng vẫn còn nhưng không có trăng; nó bị
tan vỡ thành nhiều mảnh. Theo cùng cách đó tâm trí bị lay
động trong trạng thái mơ. Vậy bị lay động và không ổn định,
mọi đường biên mất đi. Mọi thứ trộn lẫn nhau. Không cái gì
rõ ràng nữa như cái gì là cái gì, A là gì và B là gì, khi thì A
biến thành B và không có logic gì theo sau.
Mơ không tin chút nào vào logic cả, chúng diễn ra theo
cách thức không thể nào hiểu nổi. Bất kì cái gì lấn vào bất
cái gì, và bạn không thể nói tại sao nó xảy ra giống thế này.
Không có qui tắc nào trong trạng thái mơ. Qui tắc của trạng
thái thức không vận hành ở đây.
Trạng thái thứ ba là sushupti, ngủ say, không mơ. Ngay
cả mơ cũng không còn ở đây. Và nhớ lấy, nơi mơ dừng, tâm
trí cũng dừng. Nơi không có ý nghĩ, không thể có tâm trí.
Trong trạng thái thức tâm trí là rắn, trong trạng thái mơ
nó thành lỏng, còn trong trạng thái ngủ say nó biến mất tựa
hơi. Đây là ba trạng thái của mọi vật chất mà khoa học thừa
nhận. Ấn Độ đã thừa nhận ba trạng thái này cho cả tâm trí.
Khoa học nói có ba trạng thái của vật chất: rắn, lỏng và
hơi. Nếu bạn làm nước đóng băng, nó trở thành rắn; nếu bạn
làm nó bốc hơi, nó thành hơi nước. Cho nên nước có ba
trạng thái: hơi nước, nước và băng. Mọi vật chất trong thế
giới đều có ba trạng thái. Nhưng Ấn Độ nói tâm trí cũng là

vật chất và nó cũng có ba trạng thái. Thức là trạng thái rắn,
mơ là trạng thái lỏng và ngủ say là trạng thái hơi - tâm trí
đơn giản bay hơi, nó đơn giản không có đó. Trong giấc ngủ
say không còn cảm giác về cái gì còn lại. Không cảm giác
nào còn lại, vì không còn cảm biến. Toàn thế giới trở thành
một.
Trong sushupti bạn đạt tới cùng chỗ các hiền nhân đạt tới
trong samadhi, tỉnh thức tối cao. Khác biệt duy nhất là ở chỗ
hiền nhân ý thức đầy đủ trong khi bạn vô ý thức. Trạng thái
ngủ say và samadhi là như nhau, chỉ hơi khác nhau, nhưng
đấy là khác biệt lớn. Hiền nhân đạt tới sushupti tỉnh thức đầy
đủ và tràn đầy ý thức - thế thì nó trở thành samadhi, tỉnh thức
tối cao. Ngủ say cộng với nhận biết tương đương với
samadhi.
Bạn cũng đạt tới đó hàng ngày. Bạn báo cáo điều đó khi
bạn tỉnh dậy buổi sáng mà nói, “Tôi có giấc ngủ say rất dễ
chịu.” Nếu như mơ xảy ra suốt đêm, bạn sẽ không bao giờ
nói rằng bạn đã có giấc ngủ say dễ chịu. Thế thì bạn sẽ nói,
“Tôi trải qua một đêm bất ổn; toàn những mơ là mơ, tôi
không ngủ được chút nào.” Khi mơ dừng, bạn có giấc ngủ dễ
chịu. Nhưng khi bạn thực tế có giấc ngủ say bạn không nhận
biết rằng nó là dễ chịu và tốt, bởi vì những điều như thế
không thể được cảm thấy trong khi ngủ trong vô thức. Chỉ
sau khi tỉnh dậy buổi sáng bạn còn lại với một cảm giác dễ
chịu, khoẻ khoắn - dường như có cái bóng mờ nhạt, xa xăm
nhưng là tiếng vọng dội lại của sự hài lòng bị rớt lại sau.
Điều rất thú vị cần lưu ý là không ai nói lại, ngay khi
tỉnh dậy, rằng người đó đã có giấc ngủ say không thoải mái.
Nếu bạn đã có kinh nghiệm về nó, rằng có giấc mơ và ác
mộng và... thế thì đấy không phải là giấc ngủ say. Thế thì
giấc ngủ say không bao giờ tới với bạn cả. Trong cả lịch sử
loài người không ai đã báo cáo, “Tôi có giấc ngủ say đến thế
trong đêm với biết bao ác mộng!” Không ai đã từng nói như
thế cả, điều đó đơn giản không bao giờ xảy ra. Làm sao ai có
thể nói được như thế? Giấc ngủ say là giấc ngủ dễ chịu;
không bất hạnh nào có thể tồn tạo ở đó được.
Do đó chúng ta không thể gọi cái dễ chịu đó là dễ chịu
được, chúng ta gọi nó là phúc lạc, bởi vì hài lòng có cái đối
lập được gọi là buồn rầu, nhưng phúc lạc không có cái đối
lập với nó. Do đó trạng thái ngủ say là phúc lạc. Chỉ còn lại
một cảm giác - cảm giác của phúc lạc không có phân chia
nào. Như trạng thái ngủ say là điều kì dị, tương tự việc kinh
nghiệm về nhân chứng là điều kì dị. Chỉ phúc lại còn lại ở
đó. Và giống như đại dương tràn đầy hoàn toàn của Pralaya
kal - thời kì của đại hồng thuỷ, tan biến của vũ trụ - là vô
giới hạn, vô biên, không bến bờ, phúc lạc cũng vậy không có
bất kì phân chia nào.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#8Hiểu quả

Gốc rễ của phân chia này là tâm trí.
Nếu không có tâm trí, không có phân chia.
Do đó, tập trung tâm trí ông vào tâm thức vũ trụ cái là
lãnh thổ của ông.
Biết rằng ông là linh hồn phúc lạc hoàn toàn, bao giờ
cũng hân hoan trong phúc lạc này, bên trong và bên
ngoài chính linh hồn ông.
Quả của tách rời là tri thức,
quả của tri thức là thảnh thơi,
và an bình hạ xuống từ việc kinh nghiệm tự phúc lạc
chính là quả của thảnh thơi.
Nếu từng điều đã nói trên không xảy ra kế tiếp, biết rằng
điều trước đó đã không cho quả. Thiếu vắng đối tượng
cảm giác là trong chính bản thân sự mãn nguyện tối cao
và phúc lạc vô song
Gốc rễ của phân chia này là tâm trí.
Nếu không có tâm trí, không có phân chia.
Do đó, tập trung tâm trí ông vào tâm thức vũ trụ.

'Tâm trí' và 'tập trung', hai điểm này cần phải được hiểu
sâu sắc. Tâm trí là cái phải có cho cuộc sống. Tâm trí nghĩa
là luồng ý nghĩ, và mọi lúc tâm trí bạn đều tuôn chảy bên
trong bạn.
Lưu ý đến điểm thứ nhất, rằng tâm trí không phải là vật.
Tâm trí là luồng, không phải là vật. Và phân biệt này là có ý
nghĩa. Hòn đá nằm đó, đấy là vật; thác nước tuôn chảy, đấy
là luồng. Vật nằm đó là tĩnh tại; cái là luồng là thay đổi mọi
khoảnh khắc.
Tâm trí không phải là vật mà là luồng, cho nên tâm trí
thay đổi vào mọi khoảnh khắc. Nó chưa bao giờ như trước
ngay cả cho một khoảnh khắc. Nó tựa như dòng sông thay
đổi.
Heraclitus đã nói, “Ông không thể tắm hai lần trên cùng
một dòng sông,” vì khi bạn xuống tắm trong con sông lần
thứ hai, nước mà bạn bước vào trong lần đầu phải đã chảy đi
rất xa rồi. Tương tự, cùng một tâm trí không thể được thấy
lại - cái đã chảy qua rồi là đã chảy qua rồi. Trong toàn thể
thời gian luồng chảy cứ tuôn chảy bên trong, và đứng đằng
sau luồng này chúng ta nhìn thế giới.
Vậy cái bóng của tâm trí rơi vào mọi thứ chúng ta thấy.
Và tâm trí thay đổi, tâm trí bị chia thành nghìn mảnh, cũng
phân chia toàn thể thế giới nữa.
Cho nên, điều đầu tiên, tâm trí là luồng thay đổi mọi lúc.
Do đó qua tâm trí không thể nào biết được cái một không

bao giờ thay đổi. Nếu cái trung gian của việc biết đang thay
đổi vào mọi lúc, chúng ta không thể biết cái không bao giờ
thay đổi. Bất kì cái gì biết được qua trung gian thay đổi cũng
sẽ bị xem như thay đổi. Dường như bạn đang đeo kính đổi
mầu cứ đổi từ đỏ sang lục, từ lục sang vàng, từ vàng sang
trắng. Mầu của mọi thứ mà bạn đang thấy cũng sẽ cứ thay
đổi tương ứng bởi vì cái trung gian được dùng để thấy bị áp
đặt lên mọi cái được thấy.
Tâm trí chúng ta thay đổi mọi khoảnh khắc. Cho nên
chúng ta chỉ có thể biết qua tâm trí cái cũng thay đổi; chúng
ta không bao giờ biết được qua tâm trí cái không thay đổi.
Và chân lí tối thượng ẩn kín của cuộc sống thì không đổi, nó
là vĩnh hằng, nó không bao giờ thay đổi, cho nên tâm trí
không phải là cái trung gian để biết nó.
Mọi vật chất trong thế giới đều cứ thay đổi, nó cứ thay
đổi tựa tâm trí. Cho nên qua tâm trí vật chất của thế giới có
thể được biết, nhưng linh hồn vũ trụ ẩn kín bên trong thế giới
không thể được biết. Chẳng hạn, khoa học dùng tâm trí để
khám phá; khoa học nghiên cứu thế giới qua tâm trí. Khoa
học sẽ không bao giờ có khả năng nói có linh hồn vũ trụ, nó
bao giờ cũng nói chỉ có vật chất. Nhận ra linh hồn vũ trụ sẽ
không bao giờ có sẵn cho khoa học. Không phải bởi vì
không có linh hồn vũ trụ, nhưng bởi vì cái trung gian mà
khoa học dùng để biết chỉ có khả năng biết cái thay đổi, nó
sẽ không bao giờ có khả năng biết đến cái không thay đổi.
Hiểu điều đó theo cách này. Nếu nhạc đang được chơi và
bạn cố nghe qua đôi mắt, bạn sẽ không bao giờ có khả năng
nghe nó - thực ra bạn sẽ không nhận biết về chính sự hiện
diện của nó. Mắt có thể nhìn, cho nên qua mắt bạn có thể
biết hình dạng; nhưng mắt không thể nghe cho nên bạn
không thể biết về âm thanh qua chúng. Tai có thể nghe
nhưng không thể nhìn. Nhưng nếu ai đó cố nhìn qua tai,
người đó sẽ nói, “Không có hình dạng trong thế giới.” Tai
chỉ có thể bắt được âm thanh. Cái trung gian chỉ có thể biết
cái nó nhạy cảm với.
Tâm trí là thay đổi. Bản chất của tâm trí là thay đổi,
luồng. Tâm trí có thể đến dưới dạng cái thay đổi nhưng nó
không bao giờ có khả năng biết cái không đổi. Cho nên
những người bắt đầu tìm kiếm linh hồn vũ trụ qua tâm trí
chẳng chóng thì chầy đều biến thành kẻ vô thần. Nếu họ
không trở thành kẻ vô thần, điều đó chỉ có nghĩa là họ không
đủ dũng cảm để chấp nhận hoàn toàn điều tâm trí đang nói
cho họ. Nhưng người làm việc qua tâm trí không thể là
người hữu thần được. Hữu thần của người đó sẽ là giả như
việc nói người điếc nghe thấy nhạc qua đôi mắt, hay như
việc nói người mù thấy được cái đẹp hay ánh sáng qua đôi
tai. Hữu thần của một người vận hành qua tâm trí sẽ giả như
những điều đó.
Cho nên có biết bao nhiêu người hữu thần trên thế giới
nhưng rất khó tìm ra người hữu thần thực sự. Bạn nữa, nếu
bạn xoay xở đem tới tin cậy, nó tới qua tâm trí bạn; bạn đang
đem nó qua suy nghĩ tính toán. Qua suy nghĩ, không ai đã
bao giờ có thể là người hữu thần; và nếu người đó là người
hữu thần, người đó sẽ là người hữu thần giả .
Nếu người ta muốn trở thành người hữu thần qua suy
nghĩ, chỉ vô thần tới. Cố gắng hết sức hiểu điều này đi - bởi
vì chính cái trung gian tâm trí không có khả năng hiểu thấu
cái không thể thay đổi. Tự lừa dối mình là vấn đề khác. Nghĩ
về thuyết hữu thần của bạn đi! Bạn tin vào Thượng đế,
nhưng đấy là một thực thể được tính toán, nó được đưa ra từ
logic của bạn, từ phỏng đoán, suy nghĩ, kinh sách, tín
ngưỡng và học thuyết. Thượng đế như thế là không thật và

thượng đế như thế chỉ nói về cái không trung thực của bạn,
bởi vì Thượng đế không bao giờ có thể được sinh ra từ tâm
trí.
Trong thế giới này, chín mươi chín phần trăm mọi người
được gọi là hữu thần đều là vô thần giấu mặt. Không có sức
mạnh trong chủ nghĩa hữu thần của họ, đấy là yếu đuối, đấy
là bất lực. Chỉ khẽ chạm là chủ nghĩa hữu thần của họ khô
héo đi. Nó không có gốc rễ bên trong. Người ta trở thành
hữu thần chỉ nếu người ta nhìn thế giới một cách trực tiếp,
gạt tâm trí sang một bên. Thế thì không phải thế giới là được
thấy, bởi vì với việc vứt bỏ tâm trí, cái đang thay đổi không
thể được thấy. Khi vứt bỏ tâm trí, tâm thức thấy thế giới, nó
có thể kể lại chỉ những cái không đổi.
Tâm thức là vĩnh hằng, nó không thay đổi. Tâm thức chỉ
rơi vào hoà hợp với cái vĩnh hằng. Cái được thấy khi vứt bỏ
tâm trí là cái ta tối thượng; cái thấy được khi đem tâm trí vào
là thế giới. Để chúng ta định nghĩa nó theo cách này - rằng
những người đã biết tới sự tồn tại không qua tâm trí đã nói,
“Không có gì ngoài cái ta tối thượng.” Còn những người đã
biết tới sự tồn tại qua tâm trí đã nói, “Có mọi thứ ngoại trừ
cái ta tối thượng.”
Cho nên qua tâm trí bạn sẽ không bao giờ có khả năng
biết được. Vâng, bạn sẽ có khả năng biết thế giới - thế giới
thực ra sẽ được biết chỉ qua tâm trí - nhưng không phải là
chân lí. Và bất kì cái gì được biết qua tâm trí đều là những
thứ sẽ thay đổi mọi khoảnh khắc. Đây là lí do tại sao khoa
học không bao giờ ổn định. Khoa học sẽ không bao giờ ổn
định, khoa học sẽ không bao giờ có khả năng nói rằng chân lí
như thế và như thế là thường hằng. Khoa học sẽ chỉ có khả
năng nói, “Không dứt khoát đâu, tạm thời thôi, từ tất cả
những điều chúng ta đã biết đến giờ, đây là chân lí. Cái gì sẽ
là kết quả của điều chúng ta sẽ biết ngày mai còn chưa thể
nói được.” Khoa học thay đổi hàng ngày. Tất cả những cái là
đúng hôm qua trở thành sai hôm nay.
Khó khăn bây giờ là tới mức bất kì khoa học nào được
dạy trong trường phổ thông và đại học, phần lớn trong chúng
đã trở nên ‘gần như sai’, bởi vì phải mất hai mươi năm mới
đưa được những khám phá mới xuống mức trường phổ
thông. Trong hai mươi năm đó nó đã trở nên không đúng.
Ngày nay không cuốn sách lớn nào có thể được viết về khoa
học bởi vì, nếu ai đó viết ra một cuốn sách một nghìn trang,
vào lúc nó được viết, được in và xuất bản, nhiều điều đã
được chứng tỏ là sai. Cho nên khoa học dần dần đi xuống
những cuốn sách nhỏ hơn. Thực tại ngay cả những cuốn sách
nhỏ cũng không được viết ra nữa, chỉ những đoạn nhỏ và bài
báo, bởi vì chúng có thể được viết ra ngay lập tức và không
sợ bị lạc hậu trước lúc chúng được xuất bản.
Khoa học nhất định thay đổi, bởi vì không cái gì được
khám phá ra qua tâm trí có thể là vĩnh viễn. Cho nên các nhà
tư tưởng phương Tây thấy khó hiểu được làm sao điều gì đó
Mahavira nói ra hai nghìn năm trăm năm trước đây, hay
những điều đã được người thấy của Upanishad nói ra năm
nghìn năm trước đây, vẫn còn đúng. Năm nghìn năm! Khi
ngay cả những điều mới chỉ được nói năm năm trước đây đã
trở thành lạc hậu và không đúng, thì những điều đã được nói
năm nghìn năm trước đây phải trở nên không đúng từ lâu rồi.
Điều họ nói dường như là hợp lí, bởi vì khi mọi điều
được nói thậm chí năm năm trước bây giờ đã đáng ngờ, điều
tự nhiên duy nhất là những điều đã được nói năm nghìn năm
trước đây nên bị coi là đáng ngờ.
Nhưng không, điều Upanishad đã nói vẫn còn đúng -
chúng đúng hôm nay và sẽ còn đúng ngày mai. Bây giờ điều

này có thể mang hai nghĩa. Một, rằng thông minh của Ấn Độ
đã trở nên đờ đẫn và không phát triển thêm nữa, rằng nó đã
trở thành tĩnh tại ở một điểm năm nghìn năm trước đây và
vẫn còn ngồi đó, bám chặt vào bất kì cái gì đã được phát hiện
ra từ hồi đó. Nó đã không di chuyển thêm chút nào từ đó;
bằng không mọi thứ đó sẽ trở thành sai bây giờ.
Ngay cả ở Ấn Độ ngày nay, những người làm bất kì suy
nghĩ nào - và rất ít người làm - họ hầu như vay mượn suy
nghĩ ít hay nhiều là cái bóng của cách suy nghĩ phương Tây.
Cho nên dù ở phương Tây hay ở Ấn Độ, theo cách suy nghĩ
của khoa học ngày nay dường như những phát biểu cổ lỗ
hàng nghìn năm này của Ấn Độ phải đã trở thành không
đúng từ lâu rồi. Bởi vì Ấn Độ đã dừng suy nghĩ thêm nó
không có khả năng làm tu chỉnh gì thêm, và do đó mọi thứ
vẫn còn lại ở nơi chúng đã từng ở. Và với những người nghĩ
qua tâm trí, điều họ nói cũng đúng.
Sự kiện là ở chỗ những chân lí này đã không thể được
đạt tới qua tâm trí. Chúng đã được đạt tới năm nghìn hay
năm mươi nghìn năm trước đây, chúng có thể được đạt tới
năm nghìn hay năm mươi nghìn năm sau đây - và việc đạt tới
này không qua tâm trí. Điều không được đạt tới qua tâm trí là
không thay đổi. Không có cách nào cho nó thay đổi, bởi vì
ngay khi tâm trí bị vứt bỏ thế thì người ta bước vào một thế
giới vĩnh hằng, phi thời gian; nơi không cái gì thay đổi, nơi
mọi thứ đều không đổi; nơi thời gian đã dừng lại, nơi không
có chuyển động trong thời gian, nơi thời gian đã đông cứng.
Những chân lí này bao giờ cũng vẫn còn là chân lí. Khi
chúng đã được nhận ra trong trạng thái bên ngoài tâm trí,
không thay đổi nào của thế giới này có thể đem đến bất kì
thay đổi nào trong chúng. Vâng, nếu những điều này đã được
nhận ra bên trong phạm vi của tâm trí, những thay đổi trong
thế giới sẽ cứ đem đến những thay đổi trong chúng.
Đây là khám phá nguyên bản của Ấn Độ, rằng sự tồn tại
cũng có thể được biết tới không bằng tâm trí. Đây là khác
biệt giữa khoa học và tôn giáo. Khoa học nói rằng bất kì cái
gì có thể được biết, chỉ có thể được biết qua tâm trí. Tôn giáo
nói rằng bất kì cái gì được biết qua tâm trí đều là thực dụng,
nó là ‘gần như đúng’, nhưng chân lí là cái được biết bằng
cách đi ra ngoài tâm trí. Và chỉ bên ngoài ngoài tâm trí mà
việc biết thực là có thể.
Cho nên làm sao vứt bỏ được tâm trí? Làm sao làm yên
tĩnh hay trống vắng tâm trí? Kinh này nói rằng nếu bạn có
thể tập trung tâm trí, nó sẽ yên tĩnh đi, nó sẽ trở thành trống
vắng.
Đây là điều thứ hai cần được hiểu: chính bản chất của
tâm trí là không tập trung. Nếu bạn cố tập trung nó cho dù
một khoảnh khắc, nó sẽ không tập trung, nó sẽ tìm cách chảy
đi.
Nếu tôi yêu cầu bạn tập trung tâm trí vào Rama, bạn sẽ
thấy rằng ngay khi bạn nghĩ về Rama, toàn bộ dây chuyền
các biến cố trong cuộc đời của Rama cũng sẽ bắt đầu tới tâm
trí bạn. Sita sẽ đi vào từ cửa sau, Hanuman sẽ bắt đầu ló vào,
và toàn bộ đống lộn xộn đó sẽ có đấy. Với việc tập trung tâm
trí bạn vào Ram, Dasharatha sẽ tới, Ravana sẽ tới, tất cả họ
sẽ tới. Cứ thử có một Rama xem - không Dasharatha, không
Ravana, không Sita, không Hanuman, không Lakshamana,
không có ai cả - tống cổ cả lũ ấy đi, chỉ một mình Rama thôi;
thế thì tâm trí sẽ trong khó khăn!
Nhưng thế rồi có cách khác để thoát ra khỏi tâm trí, chia
Rama thành nhiều phần: chẳng hạn, bắt đầu từ bàn chân.
Trước hết nhìn chân Rama, rồi nhìn thân thể ông, rồi nhìn
khuôn mặt rồi nhìn mắt; điều này sẽ làm nhẹ bớt cho tâm trí
bởi vì luồng chảy đã bắt đầu lại. Nếu bạn chỉ chọn mắt của

Rama, tâm trí sẽ cứ chuyển từ mắt này sang mắt kia. Cho
nên chọn chỉ một mắt, chọn Rama nửa mù chỉ có một mắt.
Bây giờ khi bạn tập trung tâm trí chỉ vào một mắt, suy nghĩ
sẽ bắt đầu về mắt đó và vận hành của nó.
Luồng chảy là bản chất của tâm trí. Cho nên chẳng thành
vấn đề bạn làm gì, tâm trí sẽ khám phá ra một kênh cho nó
chảy. Nó ngay lập tức sẽ khám phá ra một kênh và bắt đầu
suy nghĩ. Đây là khác biệt giữa thiền và suy nghĩ. Thiền
nghĩa là dừng suy nghĩ, dừng luồng chảy. Tập trung nghĩa là
chỉ có một điểm còn lại, không có suy nghĩ gì về nó.
Thế thì điều gì sẽ xảy ra? Điều này là chống lại bản chất
của tâm trí. Không có khả năng nào cho tâm trí còn lại theo
cách này. Nếu bạn cứ nhất quyết và thử điều không thể được
đó chỉ có một cách: trước hết tâm trí sẽ giằng co vất vả, và
nó sẽ thử theo đủ mọi cách để thuyết phục bạn, để khuyên
nhủ bạn, để bầy mẹo cho bạn suy nghĩ. Nó sẽ nói, “Không có
vấn đề gì, ta nghĩ về Rama; điều đó là tốt, nghĩ về Rama là
hành động tôn giáo.” Nó sẽ nói, “Được, nếu mình không
muốn nghĩ về Rama thì mình tụng vậy: Rama, Rama, Rama,
Rama.” Nhưng “Rama, Rama, Rama, Rama,” và luồng chảy
đã bắt đầu. Rama thứ nhất, Rama thứ hai, và luồng đã bắt
đầu, tâm trí đã tìm ra chuyển động, nó đã bắt đầu chuyển
động.
Ban đầu tâm trí sẽ nỗ lực tìm ra kênh để chảy theo đó, vì
đấy là bản chất của nó. Nhưng nếu bạn nhất quyết và duy trì
tỉnh thức và bạn nói, “Mình sẽ không cho phép bất kì dòng
chảy chút nào, mình sẽ bám lấy chỉ một điểm, mình sẽ không
đi từ nó theo cách này hay cách khác" - và nếu bạn tiếp tục
sự nhất quyết của mình, không để cho tâm trí di chuyển theo
mọi hướng dù bất kì cái gì, thế thì cách thứ hai cho tâm trí là
nó sẽ vứt bỏ, bởi vì tập trung đơn giản không thể có được
cho tâm trí.
Có lẽ bạn sẽ thấy kì lạ mà biết rằng tâm trí đơn thuần
không thể tập trung được. Đấy là lí do tại sao bạn được yêu
cầu phải tập trung, vì nếu bạn trở nên tập trung tâm trí bạn sẽ
dừng. Tập trung là không thể được đối với tâm trí. Khi bạn
được tập trung không có tâm trí. Chừng nào tâm trí có đó,
bạn không tập trung.
Tập trung có nghĩa là dừng lại, ngừng mọi luồng chảy,
chấm dứt mọi thời gian, biến mất mọi chuyển động.
Nếu bạn tiếp tục không ngừng nỗ lực của mình để tập
trung và vẫn còn nhận biết và quan sát rằng tâm trí không
tìm kiếm mẹo có thể lẩy cò luồng chảy, một khoảnh khắc tới
khi, do nỗ lực tập trung, tâm trí dừng lại. Bởi vì nỗ lực tập
trung, tâm trí không tập trung mà dừng lại; nó yên tĩnh, nó
biến mất. Khi bạn không nghe và vẫn còn tham dự vào nỗ
lực để tập trung nó, tâm trí bị vứt bỏ.
Việc dừng của tâm trí là trong việc trở nên được tập
trung, cho nên khi chúng ta nói, “Tập trung tâm trí,” tức là
chúng ta đang nói một điều không đúng. Đây là lí do tại sao
tôi nói rằng Phật và Mahavira đều nói mọi thứ ‘gần như sai’.
Họ phải nói vậy. Khi chúng ta nói, “Tập trung tâm trí,”
chúng ta đưa ra một phát biểu không đúng bởi vì tâm trí
không thể trở nên được tập trung, và nếu nó tập trung tâm trí
sẽ không còn nữa.
Tập trung và tâm trí là những hiện tượng đối lập nhau.
Trong nỗ lực về cái đối lập, tâm trí chết. Nhưng đấy là điều
rất khó khăn... khó bởi vì cần phải hiểu được tập trung. Tập
trung nghĩa là không cho phép luồng chảy được sinh ra. Suy
nghĩ là luồng chảy, thiền là dừng luồng chảy. Sông luôn
chảy. Nếu nó đông cứng thành băng để cho mọi luồng chảy
đều dừng, không có chuyển động nữa. Tương tự, nếu tâm trí

dừng để cho mọi luồng chảy đều dừng, nó đông cứng tựa
băng, thế thì chính khoảnh khắc đó không có tâm trí, tâm trí
đã biến mất - và thế thì cái còn lại là tâm thức.
Kinh này nói:
Gốc rễ của phân chia này là tâm trí.
Nếu không có tâm trí, không có phân chia.
Do đó, tập trung tâm trí ông vào tâm thức vũ trụ cái là
lãnh thổ của ông.

Chúng ta không biết chính xác liệu có linh hồn vũ trụ
nào không. Nhưng không cần biết đến điều đó. Câu hỏi lớn
không phải là liệu có linh hồn vũ trụ hay không, câu hỏi lớn
là tập trung tâm trí. Tập trung vào bất kì cái gì đi, cho dù bạn
có thể tập trung vào một vật tưởng tượng cũng có tác dụng.
Cho nên câu hỏi không phải là chỗ vấn đề sẽ được giải quyết
chỉ nếu bạn tập trung vào cái gì đó thực. Kinh này không yêu
cầu bạn trước hết phải tìm ra linh hồn vũ trụ và thế rồi mới
tập trung. Nó nói, cho dù bạn có cảm thấy rằng linh hồn vũ
trụ là đối thể tưởng tượng, đừng băn khoăn về điều đó; vì
nếu tâm trí có thể tập trung ngay cả vào một đối thể tưởng
tượng nó sẽ biến mất. Và ngay khi tâm trí biến mất, người ta
bắt đầu thấy cái là thực. Cho nên không hại gì trong việc đi
cùng với một vật tạo niềm tin.
Linh hồn vũ trụ hay Thượng đế là một giả thiết cho
thiền. Với những người tìm kiếm, linh hồn vũ trụ không phải
là cái gì đó để mà tin, nó là một điểm tưởng tượng để tập
trung tâm trí. Và khi tôi nói về một điểm tưởng tượng, đừng
nghĩ rằng tôi nói không có linh hồn vũ trụ. Nó chỉ chưa có đó
cho bạn thôi. Bạn chỉ mới đang tập trung chú ý của mình vào
một điểm tưởng tượng. Điểm đó có thể là bất kì cái gì, nó có
thể có bất kì hình dạng nào. Tên nó có thể là Ram hay
Krishna hay Allah, bất kì tên gì cũng được, điều đó không
tạo ra phân biệt gì. Không quan trọng việc bạn tập trung vào
cái gì, điều quan trọng là ở chỗ bạn tập trung. Cho nên mọi
tôn giáo trên thế giới đều phục vụ cho mục đích này. Nếu có
khác biệt trong học thuyết của họ, nó không gây khác biệt
cho người tìm kiếm. Tất cả những khác biệt đó đều dành cho
các học giả, cho những người phải mê đắm vào những thảo
luận vô tích sự. Với người tìm kiếm, những điều này không
tạo ra khác biệt; Allah, Rama hay Jehovah - mọi tên đều
được.
Khoa học của tôn giáo, quá trình của tôn giáo, không gắn
thêm bất kì giá trị nào vào cái bạn tập trung vào - nó là
không liên quan. Điều quan trọng là ở chỗ bạn tập trung. Nó
có thể là bất kì cái gì. A, B, C, D hay bất kì cái gì, nhưng bạn
đang tập trung. Trong chính quá trình tập trung, tâm trí dừng
lại. Và cái được biết tới sau cái chết của tâm trí - tên của nó
không phải là Allah, hay Rama hay Krishna. Nó không có
tên. Mọi tên đều là tưởng tượng. Chúng chỉ là tiện ích, chúng
là bùa hộ mạng, chúng có tác dụng, và khi hiểu biết bừng
lên, chúng có thể bị vứt đi. Thế thì chúng không được cần tới
thêm nữa.
Đây là ý nghĩ rất cách mạng. Người tôn giáo thông
thường thấy khó quan niệm được rằng Rama của mình,
Krishana của mình, đền đài của mình và những thần tượng
trong đó, tất cả đều là tưởng tượng. Tưởng tượng không có
nghĩa là giả, nó có nghĩa là giả thiết. Chúng có thể được
dùng; cuộc hành trình có thể được bắt đầu từ chúng, tới cuối
cuộc hành trình người ta khám phá ra rằng cuộc hành trình
có thể được hoàn thành cho dù không có chúng. Cũng ở cuối
cuộc hành trình người ta thấy rằng nó có thể được thực hiện

hành trình với bất kì tên nào khác. Nhưng điều đó không thể
được biết vào lúc đầu của cuộc hành trình mà cũng không
cần phải biết nó. Cứ để người Hindu tiến hành như người
Hindu, để người Mô ha mét giáo tiến hành như người Mô ha
mét giáo và để người Ki tô giáo tiến hành như người Ki tô
giáo. Khi đạt tới đích người ta sẽ biết rằng Hindu giáo, Mô
ha mét giáo, Ki tô giáo - tất cả những tên này chỉ là thứ tiện
dụng, và không có quan hệ gì với chân lí tối thượng thực tại
cả.
Những phân chia này có quan hệ với dốt nát của chúng
ta, không phải với tri thức của chúng ta. Chúng có cái gì đó
liên quan với việc làm cho chúng ta bắt đầu cuộc hành trình
từ nơi chúng ta đang đứng trong thế giới này, nhưng không
có liên quan gì với đích chúng ta đạt tới. Sau khi đạt tới,
không ai còn là người Hindu giáo, người Ki tô giáo hay
người Mô ha mét giáo; khi đạt tới, người ta chỉ còn tính tôn
giáo.
Cho nên nhớ lấy, chừng nào bạn còn là người Ki tô giáo,
người Hindu hay người Mô ha mét giáo, biết rõ rằng bạn
không mang tính tôn giáo. Đây chỉ là bắt đầu của cuộc hành
trình hướng tới tôn giáo.
Gurdjieff đã nói một điều rất có giá trị. Bất kì khi nào ai
đó tới và hỏi, “Con đường tới chân lí là gì?” Gurdjieff sẽ nói,
“Đừng nói điều to lớn. Tôi chỉ có thể chỉ ra những cách thức
để tìm ra con đường. Sau đó là tuỳ của bạn. Ngay bây giờ
bạn lần đầu tiên tìm con đường thế là đủ. Đừng hỏi con
đường là gì, trước hết hỏi hướng có thể đưa bạn tới con
đường. Trước hết quan tâm tới việc tìm ra con đường đã.”
Nhớ lấy, Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Ki tô giáo, vân
vân đều là những đường mòn nhỏ để đạt tới con đường.
Không cái nào trong chúng là con đường; tôn giáo bản thân
nó là con đường. Hindu là một lối nhỏ, Mô ha mét giáo là
một lối nhỏ. Ki tô giáo là một lối nhỏ. Tôn giáo là con
đường. Một khi bạn đạt tới con đường, mọi lối mòn nhỏ đều
biến mất.
Được tập trung là có giá trị, vì nỗ lực để trở thành tập
trung là chống lại tâm trí. Nhưng cần phải rất cẩn thận, bởi vì
có hai cách chệch hướng trong khi trở thành tập trung. Một,
bạn có thể thích tạo ra chuỗi các ý nghĩ; và một khi suy nghĩ
bắt đầu, toàn bộ mọi thứ trở thành vô nghĩa. Khó khăn thứ
hai là, nếu chuỗi suy nghĩ không xảy ra, bạn có thể ngủ ngay.
Bạn có thể đã quan sát rằng trong vài đêm, nếu có quá
nhiều ý nghĩ trong đầu, bạn không thể nào ngủ được. Một số
ý nghĩ cứ diễn ra trong tâm trí bạn - có lo lâu nào đó, luồng
hoạt động nào đó trong tâm trí bạn - và việc ngủ trở thành
không thể nào có được bởi vì những ý nghĩ này đang cản trở
việc ngủ. Và ban đêm khi không có suy nghĩ, không có ý
nghĩ trong tâm trí, tâm trí trống rỗng - thế thì bạn rơi vào
giấc ngủ say ngay lập tức. Ngay khi bạn nằm xuống, giấc
ngủ trùm lên bạn.
Người làm thuê, nông dân có giấc ngủ say. Lí do cho
điều này là ở chỗ công việc của người đó không liên quan gì
tới suy nghĩ, lo lắng, quá trình suy nghĩ hay luyện tập tinh
thần. Người đó không cần tới chúng. Người đó đào hố hay
làm việc trên đồng. Đây là công việc thường lệ, không suy
nghĩ nào được cần tới. Buổi tối người đó về nhà mệt mỏi và
tả tơi, và người đó gieo mình vào giường; ý nghĩ vắng lặng,
và người đó rơi ngay vào giấc ngủ say.
Nhưng với người có công việc chủ yếu là tinh thần, mất
ngủ trở thành đau khổ chính của họ. Những người bận bịu
suy nghĩ và cân nhắc mọi lúc, việc suy nghĩ của họ tiếp tục
không dừng ngay cả ban đêm và họ không thể nào ngủ được.

Tôi nói tất cả những điều này để cho cái đối lập của nó
cũng trở nên rõ ràng cho bạn.
Trong khi thực nghiệm với tâm trí về việc tập trung,
nguy hiểm thứ hai là ở chỗ ban đầu tâm trí sẽ cố gắng thuyết
phục suy nghĩ - cái thuận tiện cho nó, là bản tính của nó;
nhưng nếu điều này không xảy ra và bạn vẫn còn nhất quyết
tập trung, điều thứ hai có thể xảy ra là ở chỗ, trong thiếu
vắng suy nghĩ, thay vì đi vào trong thiền bạn rơi vào giấc
ngủ, bởi vì ngay khi suy nghĩ dừng, thói quen cũ là chúng ta
rơi vào giấc ngủ.
Cho nên nhiều người, nhân danh thiền, cứ ngủ và hưởng
thú giấc ngủ ngắn. Vẫn ngồi trong đền họ cứ gà gà. Đấy
không phải là lỗi của họ; họ không biết điều đang xảy ra. Họ
đang cố tập trung và trong nỗ lực tập trung, hai điều không
may có thể xảy ra: hoặc là suy nghĩ có thể bắt đầu, hoặc là
nếu nó không xảy ra thì giấc ngủ có thể bắt đầu.
Cho nên người ta phải tránh cả nghĩ lẫn ngủ. Đó là hai
cái rãnh và ở giữa hai cái rãnh đó là thiền.
Trong thiền viện, các thiền sư bao giờ cũng có một sư đi
đi lại lại với chiếc gậy trong tay trong khi người khác đang
thiền. Khoảnh khắc người đó thấy thiền nhân nào đó bắt đầu
ngủ gật, người đó gõ nhẹ vào đầu người này.
Chúng ta cũng sẽ làm thu xếp này sớm thôi. Và không
phải là tất cả những điều đó đều vô dụng. Không, nó rất hữu
dụng, bởi vì ngủ gật bất thần bị ngắt quãng. Suy nghĩ lại diễn
ra - suy nghĩ dừng lại và ngủ gật bắt đầu. Bạn tránh rãnh này
và rơi vào rãnh kia. Ngủ gật bắt đầu chỉ khi luồng suy nghĩ
bị đứt đoạn.
Và rồi sư này tới cho một cái gõ lên đầu. Luồng suy nghĩ
dừng lại, ngủ gật đã len ra; sư gõ một cái vào đầu bạn - ngủ
gật bị phá vỡ trong chốc lát. Trong một khoảnh khắc đó
thoáng nhìn về thiền xảy ra. Và cho dù thoáng nhìn của
khoảnh khắc đó xảy ra, đó là hỗ trợ lớn lao cho thiền của bạn
rồi. Người ta bắt đầu cảm thấy rằng không có bóng tối nơi họ
đang đi, mọi thứ đều sáng tỏ ở đó.
Điều đó đôi khi xảy ra bởi vì có biết bao thiền nhân cho
nên không dễ gì cho thầy thực sự thấy được từng khoảnh
khắc ai ngủ gật và ai không ngủ gật. Cho nên đã có thu xếp
trong thiền rằng nếu bất kì thiền nhân nào cảm thấy người đó
sắp ngủ gật, người đó đưa cả hai tay lên ngang ngực. Vậy
thầy có thể dễ dàng thấy rằng trong người đó đang sẵp nảy
sinh nguy cơ rơi vào giấc ngủ. Cử chỉ này là lời mời cho cái
gõ; rằng, “Ngủ gật đang sắp bắt đầu, làn sóng ngủ bắt đầu
chạm vào tôi tựa lông chim; làn sóng này đang áp đảo tôi và
tôi sợ rằng bây giờ tôi sẽ mất trong giấc ngủ.”
Nếu suy nghĩ không bắt đầu và ngủ gật không xảy ra
thiền sẽ xảy ra. Thiền có nghĩa là thiếu vắng của nghĩ và ngủ.
Thế thì bạn sẽ có đó trong thiền.
Nhớ kĩ hai điều này trong tâm trí, bất kì cái gì cũng có
thể là điểm tập trung.
Biết rằng ông là linh hồn phúc lạc hoàn toàn, bao giờ
cũng hân hoan trong phúc lạc này, bên trong và bên
ngoài chính linh hồn ông.

Điều thứ hai này cũng rất có giá trị. Chúng ta hân hoan,
nhưng không bao giờ trong chính mình, chỉ trong người
khác. Sự kiện rất kì cục là chúng ta thấy vui sướng, chúng ta
thích thú, đôi khi chúng ta còn có chút ít hạnh phúc - nhưng
bao giờ cũng trong người khác. Bạn đã bao giờ hân hoan
trong bản thân mình chưa? Bạn chắc chưa bao giờ làm điều

đó cả. Chúng ta đơn giản không chú ý gì tới bản thân mình.
Kinh này nói rằng người tìm kiếm nên dần dần từ bỏ hân
hoan trong người khác và bắt đầu hân hoan trong bản thân
mình. Bạn đang ngồi rảnh rỗi và cảm thấy bất hạnh: bạn nghĩ
rằng nếu người bạn nào đó tới thế thì có thể có vui đùa; nếu
có bầu bạn nào kéo đến thế thì có thể có vui vẻ và vui đùa.
Một mình, bạn bắt đầu buồn. Một mình bạn không hạnh
phúc. Trong một mình, chán chường nảy sinh, chán từ cái ta
riêng của người ta.
Không ai thích bản thân mình! Điều thú vị là ở chỗ mọi
người đều muốn người khác thích mình, và bản thân bạn
không thích bản thân mình. Bạn thấy chán với bản thân mình
và bạn muốn người khác rất hài lòng khi họ gặp bạn. Làm
sao điều này xảy ra được? Điều ấy là không thể được. Bạn
nghĩ về việc đem cho người khác hạnh phúc lớn. Bạn không
thể đem hạnh phúc cho cái ra riêng của mình, làm sao bạn có
thể đem nó cho người khác được? Và cái bạn không có cho
bản thân mình, bạn không thể cho được; không có cách nào
đem nó cho người khác được.
Kinh này nói, hân hoan trong cái ta riêng của bạn đi. Bạn
đang ngồi một mình, vui đi. Trạng thái này đã được các fakir
mô tả là masti, cực lạc. Dường như không có lí do bên ngoài
nào cả nhưng người ta đơn giản say sưa với vui vẻ, dường
như dòng suối vui vẻ đang tuôn chảy bên trong theo cách
riêng của nó. Người ta đang tự mình tận hưởng, không có
trung gian của người khác.
Có nhiều bộ môn tâm linh khác nhau dùng cực lạc. Sufi
dùng và đánh giá cao việc thực hành tâm linh về cực lạc.
Nguyên lí cơ bản của họ là ở chỗ bạn không làm cho hạnh
phúc của mình phụ thuộc vào người khác. Bất kì ai liên kết
hạnh phúc của người đó với người khác, nỗi buồn của người
đó cũng được liên kết với người khác.
Đừng liên kết hạnh phúc của bạn với người khác, liên kết
nó với cái ta riêng bản thân bạn đi. Bạn đang ngồi rảnh rỗi
dưới gốc cây - hạnh phúc đi. Điều ấy dường như khó khăn:
làm sao hạnh phúc được, khi không có lí do gì để hạnh phúc?
Chúng ta thường chỉ trở nên hạnh phúc với lí do nào đó...
một người bạn sắp tới - bạn chưa gặp anh ấy đã lâu rồi, cho
nên bạn hạnh phúc. Chúng ta bao giờ cũng hạnh phúc vì lí do
nào đó.
Hạnh phúc mà không vì lí do gì là masti, cực lạc. Không
có nguyên nhân thấy được cho hạnh phúc này, người ta hân
hoan trong cái gì đó từ bên trong. Đôi khi việc như vậy xảy
ra cho người điên, cho nên đôi khi khó phân biệt giữa người
điên và người masta, người cực lạc. Những người mà chúng
ta gọi là masta, nhiều người trong số họ... ở phương Tây đích
xác cùng kiểu người này bị tống vào nhà thương điên, bởi vì
không có cách nào để phân biệt họ. Phương Tây không có ý
tưởng nào về cách phân biệt giữa người cực lạc masta và
người điên. Đối với họ những người này dường như điên cả.
Ở phương Tây họ đã làm thành định nghĩa về lành mạnh là
nếu ai đó vui vẻ từ lí do nào đó, tâm trí người đó là ổn thoả,
nhưng nếu người ta vui vẻ không lí do gì, người đó là điên.
Làm sao có thể có hạnh phúc mà không lí do gì?
Truyền thống của những người cực lạc masta nói rằng
hạnh phúc chỉ có thể có mà không với lí do gì: không bao
giờ có hạnh phúc bởi vì lí do nào đó. Bây giờ đây là một phát
biểu khá khó! Truyền thống của người cực lạc nói rằng
không bao giờ có hạnh phúc bởi vì lí do nào đó - chỉ có khái
niệm giả về hạnh phúc thôi. Từ các lí do chỉ có đau khổ phát
sinh. Để điều này được hiểu rõ - nó có tâm lí hoàn toàn của
riêng nó.

Khi bạn tìm kiếm hạnh phúc vì một lí do - ở ai đó, trong
cái gì đó, trong biến cố nào đó - kết quả cuối cùng không bao
giờ là cái gì ngoài bất hạnh cả. Đau khổ tiếp nối đau khổ. Vợ
tìm kiếm hạnh phúc từ chồng, mẹ tìm kiếm hạnh phúc từ
con, bố tìm kiếm hạnh phúc từ con trai, từ con gái. Hạnh
phúc bao giờ cũng được tìm từ đâu đó khác - trong các mối
quan hệ, trong tiền bạc, trong địa vị, trong danh vọng, nhưng
bao giờ cũng từ đâu đó khác. Tất cả chúng ta đều tìm kiếm
hạnh phúc ở mọi nơi ngoại trừ bên trong cái ta riêng của
mình. Và điều buồn cười là ở chỗ bản thân người khác cũng
đang tìm kiếm hạnh phúc ở đâu đó khác. Dường như là
chúng ta đang đào mỏ mà chúng ta nghĩ đấy là mỏ kim
cương, và bản thân mỏ đã đi mất trong việc tìm kim cương;
và bản thân kim cương từ cái gọi là mỏ ấy vẫn đi tìm kiếm ở
đâu đó khác.
Chúng ta giống như một bức thư ‘không dán tem’ không
có địa chỉ trên đó. Cho nên việc tìm kiếm cứ tiếp diễn.
Chúng ta không có ý tưởng nào về việc chúng ta đang tìm ai,
và lần nữa chúng ta cũng không hỏi về người có địa điểm ta
đang đi tới, liệu bản thân người đó có đi đâu đó trong việc
tìm kiếm tương tự không!
Mọi người đều đang ở đâu đó, cho nên gặp gỡ không bao
giờ xảy ra với bất kì ai. Bạn tới nhà của bất kì ai mà người ấy
không có đó. Bạn cầm tay bất kì ai trong tay mình, mà người
đó không có đó. Bạn ôm bất kì ai mà người đó không có đó,
người đó đang ở đâu đó khác.
Mọi người đều đi đâu đó khác, cho nên không ai có thể
gặp được bất kì ai - không ai đã bao giờ có khả năng gặp
được. Cho nên bất kì ai đang tìm kiếm hạnh phúc theo một lí
do nào đó sẽ cứ rơi vào trong khổ ngày càng sâu, bởi vì mọi
lúc đều có hi vọng rằng lí do đặc biệt này sẽ đem lại hạnh
phúc, và khi nó được đạt tái hi vọng sẽ tan vỡ.
Kinh sách của giáo phái cực lạc masta nói rằng chỉ có
nỗi buồn đến từ người khác, không bao giờ là hạnh phúc;
hạnh phúc bao giờ cũng đến từ cái ta riêng của người ta. Và
bất kì khi nào có cảm giác dường như nó đến từ người khác,
tín ngưỡng của người cực lạc nói rằng người khác không
phải là nguyên nhân, mà là ở bạn.
Hiểu điều này thêm một chút đi. Bạn cảm thấy rằng bạn
đang trong tình yêu với ai đó. Sự hiện diện của người đó đem
lại cảm giác dễ chịu. Có đúng sự hiện diện của người khác
cho bạn hạnh phúc không? Hay chính ý tưởng của bạn rằng
bạn đang trong tình yêu, và rằng sự hiện diện của người yêu
đem lại cho bạn hạnh phúc? Bây giờ cái nào đem lại cho bạn
hạnh phúc?
Nếu chính do sự hiện diện của người đó đem đến cho
bạn hạnh phúc, thế thì sự hiện diện của người đó cũng phải
đem lại hạnh phúc cho mọi người. Nhưng điều đó không xảy
ra. Sự hiện diện của cùng người đó có thể đem lại bất hạnh
cho ai đó khác. Nếu nước làm dịu cơn khát thì nó phải làm
dịu cơn khát cho mọi người. Nếu bạn nói rằng nước này chỉ
làm dịu cơn khát cho riêng tôi thôi, thế thì đấy là cái gì đó
phải giải quyết cho bạn, không phải cho nước.
Người ta nên học phân biệt giữa chân lí chủ quan và
chân lí khách quan. Nếu nước là nước, nó sẽ làm dịu cơn
khát của tôi, nó sẽ làm dịu cơn khát của bạn, nó sẽ làm dịu
cơn khát của bất kì ai. Nó sẽ làm dịu cơn khát, nó không liên
quan gì với những người khác nhau; bất kì ai khát nó sẽ đều
làm dịu cơn khát của họ.
Cái đẹp của ai đó làm tôi thích thú nhưng không làm cho
ai đó khác thích thú. Nếu nó là đẹp, thế thì bất kì ai đang tìm
kiếm cái đẹp, có khát khao về cái đẹp, cũng phải được hạnh

phúc từ nó. Nhưng điều này không xảy ra. Cái đẹp này
xuyên rọi vào ai đó tựa như gai và họ muốn chạy khỏi nó,
trong khi cũng cái đẹp đó cho bạn hạnh phúc. Người thì thấy
bất hạnh; người thì dường như không chú ý rằng có cái đẹp
nào cả; người đơn thuần chỉ cười và nói rằng bạn đang mất
hết cảm giác, thấy cái đẹp ở nơi không có gì cả!
Tất cả những điều đó nghĩa là gì? Nó nghĩa là cái đẹp mà
bạn đang thấy mang thuộc tính của bạn. Không có gì ở đó cả
- bạn là nguyên nhân của nó. Và đó là lí do tại sao có thể có
việc từ cùng một cái đẹp đó, bạn thấy hạnh phúc vào buổi
sáng, bạn có thể thấy bất hạnh vào buổi trưa và buổi tối bạn
lại thấy hạnh phúc. Hay hôm nay bạn thấy hạnh phúc, ngày
mai bạn bắt đầu thấy bất hạnh.
Một việc thú vị đã xảy ra. Một nữ nghệ sĩ điện ảnh đến
tôi và nói, “Tôi đang rất khó khăn và do vậy tôi đã tới tìm lời
khuyên của thầy. Khó khăn của tôi là ở chỗ tôi đã có cuộc
hôn nhân vì tình, nhưng trong vòng một hay hai năm tôi cảm
thấy rằng đấy là sai lầm và không có gì khác ngoài cãi cọ và
đau khổ trong đời tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn chịu đựng trong
mười năm, nhưng cãi cọ và địa ngục cứ ngày càng sâu thêm
và không còn lại ý nghĩa gì hay thậm chí khả năng nào để
chịu đựng thêm nữa.”
Cô ấy rất lúng túng, bởi vì chồng cô ấy đã yêu cô ấy và
đã ra toà với cô ấy với nhẫn nại lớn, nhưng rồi chồng cô ấy
cũng trở nên rất mệt mỏi về toàn bộ câu chuyện. Cho nên sau
mười năm họ li dị, và bây giờ đã mười năm sau li dị. Họ có
một đứa con gái, bây giờ đã lớn và gần đây đã lấy chồng. Đó
là lúc người chồng và người vợ gặp lại nhau - nhân cơ hội
đám cưới của đứa con gái. Nữ nghệ sĩ điện ảnh đó đã đến kể
cho tôi rằng chồng cô ấy lần nữa lại thấy yêu cô ấy và đề
nghị rằng họ nên cưới nhau lần nữa. Bây giờ cô ấy nên làm
gì?
Có khó khăn. Rõ ràng là không ai yêu bất kì ai; người
khác chỉ là màn ảnh và, khi thấy hình ảnh chính mình trong
họ, chúng ta cứ sa vào tình yêu. Khi chúng ta cảm thấy rằng
chúng ta đang có được hạnh phúc từ người khác, thế nữa đấy
cũng không là gì khác ngoài ảo tưởng riêng của chúng ta.
Chúng ta càng đi sâu hơn, càng rõ ra là sự xuất hiện hạnh
phúc chỉ là phóng chiếu của riêng chúng ta. Và bởi vì chúng
ta tin rằng hạnh phúc là ở trong người khác, và vì không
hạnh phúc nào đến từ người khác, chúng ta khổ.
Người đã phát hiện ra rằng nguồn gốc hạnh phúc của
mình là ở bên trong bản thân mình không đi đâu khác tìm nó;
người đó bắt đầu kinh nghiệm bản thân mình ngập chìm
trong hạnh phúc. Người đó nhảy múa không phải bởi vì bất
kì nguyên nhân nào bên ngoài mà bởi vì sự tồn tại riêng của
người đó. Sự tồn tại của riêng người ta là đủ vui mừng, sự
tồn tại riêng của người ta là đủ phúc lạc; không cần tìm kiếm
vì bất kì nguyên nhân gì khác. Việc thở xảy ra, ngay cả điều
này cũng là phúc lạc tối cao; tim đang đập, ngay cả điều này
cũng là phúc lạc tối cao.
Thực nghiệm với điều này một chút... Ngồi dưới gốc cây
một mình và rơi vào trong tình yêu với cái ta riêng của bạn
lần đầu tiên; quên thế giới, chỉ trong tình yêu với cái ta riêng
của bạn.
Tìm kiếm tâm linh thực ra là tìm kiếm để rơi vào tình
yêu với cái ta riêng của người ta.
Thế giới là cuộc hành trình rơi vào tình yêu với người
khác, tâm linh là cuộc hành trình rơi vào tình yêu với cá ta
riêng của người ta. Tâm linh rất vị kỉ. Nó là việc tìm kiếm
cái ta riêng của người ta, việc tìm kiếm ý nghĩa của cái ta của
người ta. Nó là hân hoan trong cái ta riêng của bạn, nó là có

hương vị cái ta riêng của bạn. Và khi hương vị này bắt đầu
xảy ra bên trong... đợi một chút, tìm kiếm một chút. Cảm
thấy cái duy nhất của bạn, vui mừng trong sự tồn tại riêng
của bạn - bởi vì, “Tôi có thể đã làm được gì nếu như tôi
không được sinh ra? Làm sao tôi có thể phàn nàn - và phàn
nàn với ai - nếu như tôi không có ở đây?”
Bạn ở trong sự tồn tại này; ngay cả sự kiện này, ngay cả
tâm thức chừng này, nhận thức chừng này rằng, “tôi đây,”
chính khả năng của thoáng nhìn vào trong phúc lạc - hân
hoan trong tất cả những điều này một chút đi. Để cho hương
vị của tất cả những điều này ngấm vào từng lỗ chân lông.
Cho phép bản thân bạn được lướt đi trong cơn xúc động về
nó. Bắt đầu múa nếu bạn cảm thấy thích múa, bắt đầu cười
nếu bạn cảm thấy thích cười, bắt đầu hát bài hát nếu bạn cảm
thấy thích hát, nhưng nhớ tất cả bản thân bạn vẫn còn ở tâm
điểm của nó và để cho dòng suối hạnh phúc chảy từ bên
trong bạn, không phải là từ bên ngoài. Dần dần, dần dần điều
này sẽ đi sâu vào bên trong kinh nghiệm bạn, và trạng thái
mà nó đem lại chính là trạng thái của masta, của người cực
lạc. Masta có nghĩa là người đã trở nên cực lạc trong bản
thân người đó.
Kinh này là kinh nền tảng của masta.
Biết rằng ông là linh hồn phúc lạc hoàn toàn, bao giờ
cũng hân hoan trong phúc lạc này, bên trong và bên
ngoài chính linh hồn ông.
Quả của tách rời là tri thức...
Kinh này rất có giá trị.
Quả của tách rời là tri thức,
quả của tri thức là thảnh thơi,
và an bình hạ xuống từ việc kinh nghiệm tự phúc lạc
chính là quả của thảnh thơi.
Nếu từng điều đã nói trên không xảy ra kế tiếp, biết rằng
điều trước đó đã không cho quả. Thiếu vắng đối tượng
cảm giác là trong chính bản thân sự mãn nguyện tối cao
và phúc lạc vô song
Cố hiểu từng bước. Với người tìm kiếm từng bước đều
đáng ghi nhớ trong tâm trí và xem xét lại thường xuyên. Đây
là hòn đá thử.
Quả của tách rời là tri thức...

Như tôi đã nói trước đây, nhận ra cái vô nghĩa của thân
thể. Nếu bạn nhìn với con mắt xuyên rọi, bạn sẽ đi tới biết
rằng thân thể là vô nghĩa. Đi tới nhận biết rõ ràng và sâu sắc
rằng thế giới này không thể cho bất kì hạnh phúc nào. Và
không có cái ngăn trở; điều đó sẽ trở nên rõ ràng nếu bạn tìm
kiếm bởi vì nó là vậy. Cũng hệt như là yêu cầu một người
đang nhắm mắt mở mắt ra và thấy rằng ánh sáng có đó. Tất
cả những điều này đơn giản như điều đó. Đây chính là
trường hợp ấy. Không có hạnh phúc qua thế giới, không có
hạnh phúc qua thân thể, không có an bình qua người khác -
đây chính là trường hợp này, đấy chỉ là vấn đề thấy với mắt
mở. Vì sợ việc đi tới biết chân lí này mà chúng ta đã nhắm
mắt hết kiếp nọ đến kiếp kia. Việc nhắm mắt của chúng ta là
có mục đích. Chúng ta sợ.
Một người bạn đến tôi. Anh ta muốn cưới vợ vì anh ta
đang yêu ai đó. Tôi hỏi anh ta, “Bạn có thực sự yêu không?

Nghĩ lại điều đó thêm một chút nữa.”
Anh ta nói, “Nghĩ sao? Cái gì có đó gì mà nghĩ khi tình
yêu đang có đó?”
Tôi vẫn nói, “Thì hại gì? Thay vì nghĩ sau, tốt hơn cả là
nghĩ trước đi. Mà vội gì? Đợi thêm nửa tháng nữa đã.”
Anh ta có vẻ hơi bồn chồn và bất ổn.
Tôi nói, “Nếu tình yêu thực sự có đó, chắc chắn nó sẽ
kéo dài thêm mười lăm ngày nữa. Việc gì phải bồn chồn?”
Anh ta đợi thêm hai tuần. Tôi đã bảo anh ta quay lại sau
hai tuần, và nghĩ trong thời kì này nếu anh ta thực sự đang
yêu.
Sau mười lăm ngày anh ta quay lại và nói với tôi, “Thầy
làm tôi lẫn lộn. Tâm trí tôi rơi vào bất định lớn. Mười lăm
ngày trước đây tôi đã rất rõ ràng và chắc chắn trong tâm trí.
Thầy đã làm gì với tôi vậy? Tôi đã đến thầy để nhận được ân
huệ của thầy để cho hôn nhân vì tình của tôi có thể thành
công được.”
Tôi bảo anh ta, “Vì bạn đã đến nhận ân huệ của tôi - đó
là vì sợ - tôi đã yêu cầu bạn nghĩ lại. Người ta đi tìm kiếm ân
huệ chỉ khi người ta không chắc chắn về bản thân mình. Cho
nên nếu bạn không yêu cầu ân huệ ở tôi, tôi sẽ không nói gì
cả. Bạn không chắc chắn bên trong bản thân mình rằng bạn
sẽ hạnh phúc, cho nên bạn yêu cầu ân huệ của tôi để cho
trách nhiệm dịch chuyển sang ai đó, để cho bạn không còn
có trách nhiệm nữa. Bạn đã định bẫy tôi; bạn đang yêu và
bạn định bẫy tôi. Bây giờ bạn nghĩ thêm một chút đi, và nếu
bạn vẫn còn lẫn lộn, đợi thêm nửa tháng nữa.”
Anh ta nói, “Tôi không thể đợi lâu thêm nữa, bởi vì nếu
tôi đợi thêm nửa tháng nữa thì sẽ có li dị trước khi hôn nhân
xảy ra.”
Tất cả chúng ta đều sợ hãi. Chúng ta không mở mắt ra và
nhìn xung quanh để xem vấn đề là gì, bởi vì chúng ta đã
trong nỗi sợ rằng điều chúng ta thấy không phải là thật ở đó.
Chúng ta che giấu vết thương của mình. Nếu chúng ta mở
chúng ra và nhìn, thế thì chúng ta sẽ biết rằng có vết thương.
Cho nên chúng ta đã che giấu vết thương và phủ vòng vàng
lên trên nó. Vòng vàng được thấy, không phải là vết thương.
Và khi thấy vòng vàng chúng ta nghĩ rằng mọi thứ đều ổn
thoả. Nhưng vòng vàng có bao giờ chữa lành được vết
thương nào đâu? Vết thương đó cứ phát triển ngày càng lớn
hơn bên trong, cho đến khi nó trở thành ung thư.
Toàn bộ cuộc đời chúng ta là sự tự lừa dối trong đó
không có gì đáng giá cả. Chúng ta cũng cảm thấy rằng chẳng
có gì, nhưng chúng ta cũng sợ rằng chúng ta đang sống chỉ
với sự giúp đỡ của những ảo tưởng này và nếu chúng ta mở
mắt ra và thấy rằng những cái đó nữa cũng không tồn tại, thế
thì làm sao chúng ta sẽ sống được?
Khó khăn này đã nảy sinh ở phương Tây. Cố hiểu điều
này đi.
Trong ba trăm năm lại đây, phương Tây đã cố gắng để
nhìn mọi thứ như nó vậy. Bây giờ phương Tây lâm vào khó
khăn. Khó khăn là ở chỗ cố gắng này đã thành công trong
việc chỉ ra rằng không có gì trong mọi thứ. Làm gì bây giờ?
Bây giờ chỉ còn một cảm giác lan tràn ở phương Tây, rằng
mọi thứ đã trở thành trống rỗng và vô dụng, dường như
không có ý nghĩa gì. Làm gì bây giờ?
Trong suốt ba trăm năm này, phương Tây đã nghĩ nhiều
về mọi mối quan hệ trong cuộc sống, và kết quả là ở chỗ tất
cả các quan hệ này đều trở nên đáng ngờ. Ngày nay không
người yêu nào ở phương Tây có thể đủ bạo dạn để nói với

người mình yêu rằng tình yêu của người đó là vĩnh viễn,
vĩnh hằng. Nói như vậy đã trở nên không thể được, bởi vì
càng nhiều nghiên cứu được tiến hành về tình yêu, vấn đề
càng rõ ra rằng không có gì nhất thời hơn tình yêu. Đấy chỉ
là lời của nhà thơ và người mù, những người hay nói tình
yêu của họ là vĩnh viễn.
Cần mắt mù trước khi người ta có thể nói rằng tình yêu
là vĩnh viễn. Vấn đề dường như vậy nhưng trong thực tại thì
không phải như vậy. Khi bạn đang yêu ai đó, dường như là
tình yêu này sẽ kéo dài mãi mãi và không sức mạnh nào trên
trái đất này có thể phá vỡ nó được. Bạn đang trong ảo tưởng
lớn. Không cần tới sức mạnh nào lớn cả, thực ra không sức
mạnh bên ngoài được cần tớt chút nào; bạn sẽ đích thân làm
việc phá vỡ nó, một mình bạn là đủ cho nó.
Tình yêu là phù du. Khi hoa nở buổi sáng, ai có thể tin
được rằng nó sẽ tàn phai trong vài giờ? Việc nở hoa của nó
lừa dối và làm cho người ta cảm thấy rằng nó sẽ còn mãi
mãi, nhưng sự việc không xảy ra theo cách đó. Bất kì cái gì
đã nở hoa sẽ phôi phai. Khi tình yêu nở hoa, cái đó nữa cũng
là đoá hoa và nó sẽ phôi phai.
Phương Tây đã đi tới biết rõ điều này, đã đi tới hiểu rõ
điều này, và đã lâm vào khó khăn lớn: yêu đã trở thành khó
khăn, bởi vì để yêu, ảo tượng về cái vĩnh viễn của nó là cần
thiết. Không có ảo tượng đó không thể có tình yêu. Nếu ảo
tượng đó bị tan vỡ, tình yêu cũng sụp đổ.
Cho nên chỉ dục còn lại ở phương Tây. Dường như
không thể có tình yêu, bản năng dục còn lại. Nhưng rất khó
để cho cuộc sống chiều sâu dựa trên nền tảng dục. Và rất khó
để tạo ra gia đình dựa trên cơ sở bản năng dục. Và nếu bản
năng dục là thực tại duy nhất, thế thì không đáng để trải qua
nhiều rắc rối đến thế, nhiều trách nhiệm thế của hệ thống gia
đình.
Ở phương Tây, chồng và vợ đang mất dần, bạn trai và
bạn gái đang tăng lên. Mối quan hệ chồng-vợ đã thôi là điều
quan trọng. Bạn trai và bạn gái - điều đó nghĩa là mối quan
hệ vẫn còn tốt và sinh động. Nếu ngày mai nó thay đổi thế
thì không có đau đầu pháp lí nào. Nhưng thế thì trống rỗng
sẽ bắt đầu. Tình yêu bị bật gốc rễ, và nếu thiền không được
làm thành sẵn có sẽ có rắc rối nghiêm trọng. Năng lượng
được thoát ra và không có con đường khác cho nó đi. Đó là lí
do tại sao người ta cứ nhắm mắt lại và cảm thấy rằng nơi họ
đang bước là cõi trời - ngay cả trong địa ngục. Khi mắt mở
ra, địa ngục được thấy liền. Bạn cũng bắt gặp các cơ hội
hàng ngày, nơi bạn thấy địa ngục. Cuộc sống là tới mức bạn
sẽ chọn việc tách rời theo cách riêng của bạn.
Cuộc sống tới mức tách rời nhất định xảy ra, không phải
là bạn phải nỗ lực không mệt mỏi vì nó. Thực ra bạn đang nỗ
lực không mệt mỏi để cho tách rời không nảy sinh. Nghĩ mà
xem, nhìn lại cuộc đời bạn, lấy cái nhìn mắt chim và bạn sẽ
thấy rằng toàn bộ cuộc sống đều dẫn bạn tới tách rời. Toàn
thể thông điệp của cuộc sống là tách rời, toàn thể dòng chảy
cuộc sống đều hướng về tách rời. Cuộc sống đem đến cho
bạn nỗi buồn từ mọi hướng nhưng dầu vậy tách rời vẫn
không nảy sinh trong bạn. Cuộc sống làm thất vọng bạn
trong mọi khía cạnh, phá tan bạn, xé bạn thành từng mảnh,
nhưng tách rời vẫn không nảy sinh trong bạn - đấy là phép
màu! Bằng không, dòng chảy tự nhiên của cuộc sống là
hướng tới tách rời.
Trong gắn bó là việc sinh thành của cuộc sống, còn tách
rời là kết quả cuối cùng. Chúng ta được sinh ra từ gắn bó,
nhưng nếu chúng ta chết cũng trong gắn bó điều đó chỉ có
nghĩa là chúng ta không hiểu được thông điệp của cuộc sống.

Tách rời là ngôn ngữ của cuộc sống. Nếu bạn tìm kiếm,
nếu bạn không tự lừa dối mình thì tất cả đều có ích - cả bạn
bè lẫn kẻ thù; người gần gũi và thân thiết cũng như người xa
cách, tất cả đều có ích trong việc đưa bạn hướng tới tách rời.
Quả của tách rời là tri thức...

Ngày bạn đứng vững chắc trong tách rời và bạn không
còn ham muốn nào về thế giới này, bạn không còn nhu cầu
nào từ thế giới này, và cái vô tích sự của thế giới này được lộ
ra cho bạn - kết quả là hiểu biết. Thế thì bạn tràn đầy trí huệ;
thế thì lần đầu tiên trí huệ nảy sinh trong bạn và ngọn đèn
được thắp sáng bên trong bạn.
Trong trạng thái của tách rời ngọn đèn của trí huệ bùng
cháy. Nếu ngọn đèn của tri thức không bùng cháy, hiểu rõ
rằng tách rời là giả. Đây là phần thứ hai của kinh. Nếu bước
thứ hai không theo sau, thế thì bước thứ nhất là giả; nó đã
chứng tỏ không kết quả gì. Trong nước ta không thiếu những
người đã từ bỏ gắn bó - những người này vẫn đang ngồi
trong mọi đền đài và tu viện - nhưng khó mà tìm thấy người
trí huệ.
Tôi đã từng gặp không biết bao nhiêu là sadhu - thánh
nhân - và sannyasin. Họ đã chạy trốn nhiều năm trước đây,
nhưng họ nói, “Không có gì xảy ra tới giờ, tri thức đã không
xảy ra.” Nhưng ngay cả họ cũng không sẵn sàng để chấp
nhận rằng tách rời của họ là giả và đó là lí do tại sao tri thức
đã không xảy ra cho họ. Họ tin rằng tách rời của họ là đầy
đủ; mỗi tri thức đã không xảy ra. Nếu tri thức đã không xảy
ra, thế thì bước thứ nhất đã đi sai, tách rời của bạn là giả.
Đấy không phải là sản phẩm của gắn bó chín muồi, nó không
bắt nguồn từ gắn bó chín muồi; bạn đã thoát li khỏi thế giới
một cách vội vã, bạn đã chạy trốn mà không mở mắt ra - để
điều này được ghi nhớ.
Có một người đang bước đi trong địa ngục với mắt nhắm
nghiền và ấp ủ những giấc mơ trong đó người đó đang trên
cõi trời. Người đó không mở mắt ra để khỏi trông thấy địa
ngục. Người đó nghe thấy những phát biểu của người thấy và
hiền nhân rằng thế giới là địa ngục; bản thân người đó cảm
thấy bên trong rằng có thể là như vậy và người đó sợ mở mắt
ra. Hay đôi khi khi mắt người đó mở ra trong một biến cố
ngẫu nhiên nào đó người đó thấy địa ngục, và điều mà người
thấy và hiền nhân đang nói tỏ ra là đúng. Nhưng người đó
không giữ cho mắt mở, người đó cứ trở nên bồn chồn hơn,
và tiếng nói của người thấy và hiền nhân cứ tiếp tục ẩn sâu
hơn trong người đó. Người đó bắt đầu cảm thấy từ bên trong
rằng mọi thứ là sai và người đó chạy trốn khỏi thế giới.
Nhưng người đó chạy trốn với đôi mắt vẫn nhắm nghiền.
Người đó đi vào tách rời, nhưng người đó không nhìn vào
gắn bó bằng mắt mở. Với mắt nhắm người đó đã trong gắn
bó; với mắt nhắm người đó đã đi vào tách rời.
Điều này sẽ không đem lại kết quả của tri thức, bởi vì
không có thay đổi gì trong trạng thái tâm trí của người này -
mắt người đó vẫn nhắm. Cho đến hôm qua người đó đã bước
đi tựa người mù trong gắn bó; hôm nay người đó đang bước
đi tựa người mù trong tách rời.
Tách rời, cái xảy ra bởi việc mở mắt của người ta ở bên
trong gắn bó, là tách rời đã chín chắn, chín muồi. Chính
trong chín muồi này mà ngọn đèn tri thức được thắp sáng.
quả của tri thức là thảnh thơi.

Khi ngọn đèn của tri thức được thắp sáng kết quả là gì?

Kết quả là thảnh thơi, tĩnh lặng. Tâm trí, tâm thức, thân thể,
bản thể - mọi thứ đều đạt tới thảnh thơi. Không có nỗ lực bị
bỏ lại ở bất kì đâu; không có căng thẳng, không dồn nén,
thậm chí không một dấu vết của bất kì những điều này còn
lại ở bất kì đâu trong con người đó. Tĩnh lặng, thảnh thơi xảy
ra.
Nếu tri thức không đem đến thảnh thơi, hiểu rõ rằng tri
thức ấy là giả. Thế thì mỗi bước kế tiếp phải là giả nốt. Nếu
người có tri thức trông căng thẳng, nếu người có tri thức
không thảnh thơi, nếu người có tri thức phải áp đặt kỉ luật lên
chính mình, thế thì biết rằng tri thức đó phải đến từ kinh
sách, không phải là qua kinh nghiệm riêng của người đó.
Người đó có thể đã đạt tới tri thức đó bằng cách lắng nghe
người khác nhưng không qua việc biết riêng của người đó.
Trong trường hợp như thế, tri thức có thể tốt trong trí năng
nhưng nó còn chưa đi vào bản thể. Tri thức như thế là gánh
nặng trên đầu, nó không trở thành đôi cánh mà nhờ đó người
ta có thể bay trên trời.
Quả của tri thức là thảnh thơi, tới mức không còn nỗ lực
chút nào bên trong người ta. Không còn nỗ lực thuộc bất kì
loại gì, người ta trở thành vô nỗ lực. Bất kì cái gì xảy ra cũng
đều đúng - trạng thái của điều như thế thịnh hành, thảnh thơi
xảy ra. Bất kì cái gì hiện hữu đều đúng. Không có nỗ lực nào
để đạt tới bất kì điều gì, không có sợ hãi bị mất bất kì cái gì.
Không sợ nào nắm giữ bạn rằng cái gì đó có thể đi sai, không
khó chịu nào lởn vởn rằng sai lầm nào đó có thể xảy ra,
không căng thẳng là bạn có thể lỡ, bạn có thể ngã, bạn có thể
đi lạc lối - điều này gọi là uparati, thảnh thơi.
Uparati, thảnh thơi, là điều rất sâu sắc. Bạn sẽ bắt gặp
hàng triệu người vô gắn bó, nhưng không ai có thoáng nhìn
về tri thức trong họ. Bạn sẽ bắt gặp hàng nghìn người có tri
thức nữa, nhưng không có thoáng nhìn về thảnh thơi trong
họ. Không thiếu các học giả uyên thâm hay người thông thái.
Nhưng điều rất thú vị cần lưu ý là đôi khi người dốt nát
và người không có tri thức dường như nhiều thảnh thơi hơn
người có tri thức. Nếu bộ óc của học giả uyên thâm và bộ óc
của người dốt nát được đem ra kiểm tra thì bộ óc của người
dốt nát sẽ thấy trong thảnh thơi, còn bộ óc của học giả sẽ
thấy trong rối loạn lớn. Tất cả dường như đi vào trong lộn
ngược. Ngay cả dốt nát cũng tốt hơn tình huống này bởi vì ít
nhất dốt nát cũng là của bạn. Tri thức này được vay mượn và
do đó là gánh nặng. Cái gì của riêng người ta mới làm cho
người ta nhẹ nhàng, còn cái gì vay mượn đều làm cho người
ta nặng gánh. Cái gì của riêng người ta bao giờ cũng mang
đến nở hoa, cái gì của người khác nghiền nát người ta.
Quả của tri thức là thảnh thơi và quả của thảnh thơi là an
bình. Người đã đạt tới thảnh thơi dần dần, dần dần sẽ đắm
chìm sâu hơn và sâu hơn và sâu hơn trong nó, người đó đạt
tới trung tâm đã từng được gọi là an bình.
Khi một người đang bơi, người đó sẽ trên bề mặt nước.
Bơi là nỗ lực, việc làm. Nhưng người khác, người đã để bản
thân mình mất đi và thảnh thơi, người không bơi mà chỉ nổi
vô nỗ lực, cuốn đi theo dòng sông đến bất kì đâu nó đưa tới -
đối với người đó sông đưa người đó đến đâu cũng tốt, và nếu
sông không đưa người đó đến đâu cả thì thế nữa cũng tốt -
người như thế đã đạt tới thảnh thơi. Người như thế, người
nằm vô nỗ lực ở đó sẽ dần dần, dần dần chìm vào trong sông;
người đó sẽ tiếp tục chìm cho tới khi tới độ sâu tối thượng,
cho tới khi người đó chạm vào đá dưới đáy sông - hòn đá
đáy sông mang tên an bình.
Tri thức đến qua tách rời... nếu tách rời là thực, tri thức
nhất định theo sau. Nếu tri thức là đúng, thảnh thơi nhất định

sẽ theo sau. Nếu thảnh thơi là thực, an bình bao giờ cũng sẽ
theo sau. Và nếu an bình không nảy sinh từ thảnh thơi của
bạn, biết rõ rằng thảnh thơi của bạn là thứ bị áp đặt.
Ở phương Tây nhiều sách được viết mang những cái tên
kì lạ như, Bạn phải thảnh thơi. Bây giờ tiêu đề của cuốn sách
này là ngớ ngẩn. Trong chính từ ‘phải’ là đã có căng thẳng
rồi. Bây giờ ‘bạn phải’ này sẽ trở thành vấn đề, nó sẽ không
để bạn thảnh thơi nữa. Người ta nằm dài trên giường đọc
những cuốn sách như thế và thử đủ mọi tư thế. Cuốn sách
nói người ta phải thảnh thơi, cho nên họ đang thảnh thơi!
Họ có thể thậm chí áp đặt thảnh thơi lên bản thân mình,
họ thậm chí có thể nằm trên giường cứng đơ như cái xác,
nhưng căng thẳng vẫn tiếp tục bên trong họ bởi vì bây giờ họ
phải nghĩ cả về thảnh thơi nữa. Nếu bạn phải nghĩ về thảnh
thơi của mình, điều ấy nữa sẽ đòi hỏi nỗ lực, nghị lực. Và
nhớ, nếu bạn phải làm điều này, bạn sẽ ra khỏi nó thậm chí
còn kiệt lực hơn, bởi vì nỗ lực đó chính là cái làm cho người
ta mệt mỏi. Bạn đang tập trung vào “Tôi đang nghỉ ngơi, tôi
không làm bất kì nỗ lực nào chút nào.” Cái “tôi không làm
bất kì nỗ lực nào chút nào” bây giờ trở thành nỗ lực.
Không an bình nào sẽ được đạt tới thông qua việc thảnh
thơi như thế. Thảnh thơi là việc xảy ra mang tính tồn tại.
Thảnh thơi nghĩa là tâm thức bạn không có gì đáng phải đạt
tới, tâm thức bạn không có nhu cầu thuộc bất kì loại gì và
không ham muốn trở thành cái gì đó - không ham muốn
thậm chí để trở thành được thảnh thơi; không có khăng
khăng ngay cả để thảnh thơi tới. Nếu nó tới thì tốt, nếu nó
không tới thì cũng tốt tương đương.
Bạn có thể đã từng nghe những thầy tu khổ hạnh Mô ha
mét giáo trên đường nói, “Cầu cho người cho được hạnh
phúc, cầu cho người không cho được hạnh phúc.” Kẻ ăn xin
bình thường cũng lặp lại điều này, nhưng phát biểu này là từ
người Sufi. Kẻ ăn xin thường lặp lại điều này một cách dối
trá. Khi người đó nói, “Cầu cho người cho được hạnh phúc,”
loé sáng trong mắt của người đó rất khác thường, còn khi
người đó nói, “Cầu cho người không cho được hạnh phúc,”
không có loé sáng trong mắt chút nào. Bạn sẽ đi tới biết
khác biệt đó bằng cách cho người đó và quan sát, và bằng
cách không cho người đó và quan sát.
Có một thầy tu khổ hạnh Sufi tên là Bayazid. Ông ta có
thay đổi đôi chút trong phát biểu này. Ông ta hay nói, “Cầu
cho người cho được hạnh phúc và cầu cho người không cho
thậm chí còn hạnh phúc hơn.” Ai đó hỏi Bayazid, “Từ trước
tới giờ chúng tôi chỉ nghe thấy ‘Cầu cho người cho được
hạnh phúc và cầu cho người không cho được hạnh phúc,'
nhưng việc nói thêm này nghĩa là gì?”
Bayazid trả lời, “Khi ai đó cho, tôi hài lòng, nhưng khi ai
đó không cho, tôi thậm chí còn hài lòng hơn. Cảm giác của
tôi về lòng biết ơn còn mạnh mẽ hơn. Khi ai đó cho, điều ấy
là phải, tôi hài lòng; nhưng khi ai đó không cho, thế thì hài
lòng bên trong vẫn còn. Tôi cảm thấy muốn cúi mình với
người ấy. Tôi cảm thấy rằng nếu người ấy cho, tôi sẽ mất đi
cơ hội vẫn còn hạnh phúc khi không nhận được. Đấy là lí do
tại sao tôi nói, “Cầu cho người cho được hạnh phúc và cầu
cho người không cho còn hạnh phúc hơn.” Người đó là loại
người cho tôi thêm một cơ hội để thấy dòng suối hạnh phúc
của mình có còn liên tục không khi không nhận được gì.”
Thảnh thơi đến từ bên trong, nó không có được qua nỗ
lực. Cho nên toàn bộ quá trình này là theo từng bước. Vô gắn
bó là bước đầu tiên hướng tới yên tĩnh. Mọi người đều muốn
thảnh thơi, nhưng tách rời đến trước - đó là bước đầu tiên
hướng tới thảnh thơi. Nhưng Upanishad áp đặt các điều kiện

và làm cho mọi thứ thành khó khăn. Ai có đó mà không
muốn thảnh thơi? Mọi người đều tìm kiếm thảnh thơi, mọi
người đều tìm kiếm an bình. Nhưng thế thì toàn bộ khoa học
của nó cũng phải được tuân theo. Bạn muốn hoa nhưng
không gieo hạt. Bạn gieo hạt nhưng bạn không tưới nước cho
chúng. Hay nếu bạn tưới nước cho chúng, bạn không làm
hàng rào để bảo vệ cây khỏi thú ăn. Không, người ta phải đi
qua từng bước một.
Tách rời có nghĩa là vứt bỏ khỏi tâm trí người ta mọi loại
ham muốn. Khi tâm trí được vứt bỏ đi các ham muốn, năng
lượng mà đã bị tiêu phí cho việc chạy theo mọi ham muốn
này sẽ được tiết kiệm và nó trở thành ngọn lửa.
... quả của tri thức là thảnh thơi...
Người đã đi đến biết không còn nguồn căng thẳng nào
nữa. Người đã đi đến biết cũng không có lí do nào để lo lắng
băn khoăn. Không có gì trong thế giới này mà người ta phải
băn khoăn về nó cả.
... quả của tri thức là thảnh thơi,
và an bình hạ xuống từ việc kinh nghiệm tự phúc lạc
chính là quả của thảnh thơi.
Nếu từng điều đã nói trên không xảy ra kế tiếp, biết rằng
điều trước đó đã không cho quả. Thiếu vắng đối tượng
cảm giác là trong chính bản thân sự mãn nguyện tối cao
và phúc lạc vô song
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#9Cái đó - tôn giáo vũ trụ

Người mang thuộc tính là hiện thân của ảo vọng, ảo
tưởng, người là cội nguồn của vũ trụ, người có đặc trưng
toàn thức, vân vân, và là hiện thân của gián tiếp, tính
nhiều và chân lí, vân vân, đều được biết tới bởi từ tat -
‘cái đó’.
Người dường như là hỗ trợ của cái ‘tôi’ như kinh nghiệm
cũng như là một từ và người được kinh nghiệm như tách
biệt khỏi ý thức, được gọi bởi từ tvam - ‘ngươi’.
Có hai thuộc tính: maya, ảo tưởng, cho linh hồn vũ trụ,
và avidya, dốt nát, cho linh hồn được hiện thân. Khi bỏ
hai cái đó, cái được thấy chính là Param Brahman phúc
lạc, hoàn toàn đúng đắn, ý thức - thực tại tối cao tối
thượng.

Thượng đế đã được đề cập tới bởi nhiều cái tên. Con
người đã lập ra đa dạng quan hệ với Thượng đế. Đâu đó ngài
là bố, đâu đó là mẹ, đâu đó là người yêu, đâu đó là người
được yêu, đâu đó là người bạn và đâu đó là cái gì đó khác.
Theo cách này con người đã cố gắng thiết lập nhiều, nhiều
mối quan hệ khác nhau với chân lí tối thượng. Nhưng
Upanishad mỗi một mình trên thế giới này gọi Thượng đế
chỉ là ‘cái đó’, tat, và do vậy không thiết lập ra mối quan hệ
thuộc bất kì loại nào.
Điều này cần được hiểu cho đúng. Đây là sáng suốt rất
sâu sắc. Từ tình yêu chúng ta có thể gọi Thượng đế là ‘bố’
hay ‘mẹ’, nhưng trong khi làm như vậy ít có hiểu biết và
phần nhiều mang tính ngu xuẩn. Mối quan hệ nào chúng ta
thiết lập với Thượng đế là không quan trọng gì, đó là ngu
xuẩn. Tại sao? - vì có một nhân tố không tránh khỏi trong
mối quan hệ: phải có sự hiện diện của hai người. Mối quan
hệ không thể được thiết lập mà không có hai đối tượng. Tôi
có đó và bố tôi có đó - cả hai đều cần; tôi có đó và mẹ tôi có
đó - cả hai đều cần. Quan hệ như thế với Thượng đế là không
đúng mà cũng không thể có ở nơi chúng ta có thể đặt quan
hệ bằng cách vẫn còn là hai. Với Thượng đế, chỉ có thể đặt
quan hệ qua việc đánh mất bản thân chúng ta, không phải
qua việc vẫn còn như các thực thể tách biệt.
Mọi quan hệ trong thế giới này đều được duy trì chỉ bằng
cách giữ các thực thể tách biệt. Mối quan hệ với Thượng đế
được thiết lập chỉ bằng cách hoà trộn với Thượng đế, bằng
cách đánh mất bản thân người ta trong Thượng đế, bằng cách
là một với Thượng đế. Đây là điều phức tạp lớn. Với mối
quan hệ cần có hai, cho nên chúng ta thậm chí có thể nói
rằng không bao giờ có mối quan hệ nào được thiết lập với
Thượng đế cả. Nếu cái hai là phải có cho một quan hệ thế thì

không quan hệ nào có thể thiết lập được với Thượng đế bởi
vì chính gặp gỡ với Thượng đế là có thể chỉ khi cái hai biến
mất và cái một còn lại.
Kabir đã nói, “Tôi đã bắt đầu tìm kiếm bạn nhưng tôi
không thể nào tìm thấy bạn. Tôi biến mất trong chính việc
tìm kiếm, thế thì bạn được tìm thấy. Người đã bắt đầu tìm
kiếm bạn... chừng nào người đó vẫn còn đó, không có gặp gỡ
với bạn; khi trong quá trình tìm kiếm bạn không được tìm
thấy mà người tìm kiếm biến mất, thế thì gặp gỡ đã xảy ra.”
Điều đó chỉ có nghĩa là con người không bao giờ gặp
Thượng đế, bởi vì chừng nào con người còn đó, không có
Thượng đế; và khi có Thượng đế, con người không có đó.
Cái hai chưa bao giờ gặp nhau.
Cho nên không mối quan hệ nào của thế giới là áp dụng
được cho việc gặp gỡ với Thượng đế. Chúng ta đã phạm sai
lầm bằng việc nghĩ theo cách này.
Bố có thể được gặp mà không làm mất bản thân chúng
ta; làm mất bản thân người ta không phải là điều kiện cho
gặp gỡ. Mẹ có thể được gặp mà không làm mất bản thân
chúng ta; làm mất bản thân mình không phải là điều kiện cho
gặp gỡ. Nhưng làm mất bản thân người ta là điều kiện cơ bản
để gặp Thượng đế. Mối quan hệ xảy ra giữa hai người nhưng
mối quan hệ với Thượng đế chỉ xảy ra ở nơi có một, không
có hai. Cho nên mối quan hệ này là cái đối lập.
Upanishad đã không đề cập tới Thượng đế như bố hay
như mẹ - họ đã không thiết lập bất kì mối quan hệ con người
nào. Các nhà xã hội học nói rằng việc thiết lập mọi mối quan
hệ con người là đã lấy con người trung tâm, trọng tâm con
người. Con người cứ áp đặt bản thân mình lên mọi thứ.
Chúng ta hiểu cách nhìn này về việc lấy con người trung
tâm, bởi vì tâm lí học và xã hội học hiện đại chịu ảnh hưởng
cao độ bởi từ này và gắn giá trị lớn cho nó.
Bất kì cái gì con người thấy, người đó phóng chiếu bản
thân mình vào trong đó. Nếu trăng bị mây che, chúng ta nói,
“Mặt trăng bị khuất sau tấm mạng.” Không có khuôn mặt
nào mà cũng không có tấm mạng nào ở đó cả. Nhưng con
người, theo bản tính, phóng chiếu kinh nghiệm của mình lên
mọi thứ. Nếu có nguyệt thực chúng ta nói, “Kẻ thù Rahu và
Ketu của trăng đã nuốt trăng, chúng ở sau trăng.”
Con người chỉ có thể nghĩ theo ngôn ngữ của con người.
Chúng ta cũng cứ phóng chiếu bản thân mình lên mọi thứ
chúng ta thấy xung quanh. Chúng ta nói trái đất là mẹ, đấy là
phóng chiếu. Chúng ta nói bầu trời là cha; đấy là phóng
chiếu. Nếu chúng ta nhìn sâu hơn, chúng ta sẽ thấy rằng bất
kì mối quan hệ nào con người có với vũ trụ, con người đã áp
đặt hình ảnh và cấu trúc riêng của mình lên mọi thứ.
Freud nói rằng toàn thể vấn đề về Thượng đế thực ra là
cái thay thế cho người bố.
Khi đứa trẻ được sinh ra, nó là kẻ bất lực, yếu đuối và
bấp bênh; người bố bảo vệ nó và nuôi nó khôn lớn. Đứa trẻ
nhỏ lớn lên trong bóng hình người bố, nó coi bố như siêu
cường; không cái gì lớn hơn bố nó trong thế giới này. Cho
nên trẻ nhỏ thường hay được thấy thảo luận giữa chúng xem
bố ai mạnh hơn. Mọi đứa trẻ đều đòi bố nó là lớn nhất, và
mọi đưa trẻ đều cảm thấy theo cách này - rằng cái gì có thể
lớn hơn và mạnh hơn bố nó được? Mọi sức mạnh đều nằm
trong tay bố nó.
Trong thời thơ ấu, đứa trẻ lấy hỗ trợ của bố nó để trưởng
thành. Niềm tin của nó, tin cậy, kính trọng, mọi điều đều dồn
vào bố nó. Nếu trong khi nắm tay nó, bố nó bước qua lửa,
đứa trẻ sẽ đi cùng và cười vang, bởi vì bất kì chỗ nào bố nó
đi đều không thể có nguy hiểm gì cho nó cả. Không có chút

nào hoài nghi hay không tin nảy sinh trong tâm trí đứa trẻ.
Bố nó vẫn tuyệt đối đáng tin cậy. Nhưng khi đưa trẻ lớn lên,
tin cậy này sẽ bắt đầu rơi rụng đi. Dần dần những yếu kém
của bố nó sẽ trở thành thấy được với nó.
Khi đứa trẻ lớn lên nó sẽ có khả năng hiểu được một
chút, và chính cái yếu kém đầu tiên nó sẽ đi tới thấy là ở chỗ
trong chín mươi của một trăm trường hợp, mẹ mạnh hơn bố,
từ chín mươi đến chín mươi chín trường hợp trong một trăm
trường hợp. Tất cả những phô trương và đạo mạo của bố nó,
tất cả oai vệ của ông ấy đều chỉ ở bên ngoài ngôi nhà nó -
ông ta vào nhà với một chút ít sợ hãi, chút ít nhu mì. Đây sẽ
là rạn nứt đầu tiên trong tin cậy của đứa trẻ. Khi nó lớn lên
và bắt đầu hiểu mọi điều, nó thấy rằng bố nó cũng có một bà
chủ và rằng bố nó cũng run rẩy trước mẹ nó.
Tin cậy này, mà đã được áp đặt lên người bố từ thủa
thiếu thời bây giờ dịch xa khỏi người bố, để lại lỗ hổng.
Chính cũng cùng tin cậy đó, theo Freud, người ta áp đặt lên
Thượng đế - người bố tưởng tượng - để cho tâm trí không có
lỗ hổng. Cho nên con người gọi Thượng đế là cha, cha tối
cao, người quyền năng nhất trong mọi người.
Nhớ lấy, bất kì phẩm chất nào mà đứa trẻ mô tả cho bố
nó cũng đều đích xác cùng những phẩm chất mà những
người tôn giáo mô tả cho Thượng đế. Và hệt như tụi trẻ đánh
lộn lẫn nhau để giải quyết việc bố ai vĩ đại hơn, người
Hindu, Mô ha mét giáo và Ki tô giáo đánh nhau để chứng tỏ
thượng đế của họ là vĩ đại hơn. Bây giờ, làm sao thượng đế
có thể là vĩ đại hơn? Đây toàn là ý tưởng trẻ con. Nhưng
chính trò bịp về cương vị người bố cho tới khái niệm về
Thượng đế là ấu trĩ; nó được sinh ra từ tâm trí trẻ con.
Cho nên Freud đã đi khá xa khi nói rằng chừng nào trẻ
con còn được nuôi dưỡng cùng bố nó rất khó cho họ gột bỏ
Thượng đế. Thượng đế không là gì ngoài hình dạng khác của
người bố. Dường như có chân lí nào đó trong đó, bởi vì trong
các xã hội mẫu hệ, nơi người mẹ là tối cao và người bố là thứ
yếu, Thượng đế không được đề cập tới như người bố mà như
người mẹ. Điều đó để lộ chân lí của vấn đề. Chẳng hạn,
những người tôn thờ nữ thần mẹ Kali chấp nhận Thượng đế
dưới dạng người mẹ, không phải dưới dạng người bố. Những
người tôn thờ Kali này đều từ xã hội mẫu hệ nơi người mẹ là
chủ yếu còn người bố là thứ yếu. Những xã hội như thế giờ
vẫn còn tồn tại trên trái đất, và trong những xã hội này khái
niệm về Thượng đế là khái niệm về người mẹ, không phải
người bố.
Điều này hỗ trợ cho ý tưởng của Freud thêm một chút
rằng các khái niệm đã được hình thành từ thời thơ ấu - và
những khoảnh khắc niên thiếu là có giá trị, bởi vì với bất kì
mẫu hình nào được hình thành trong tâm trí trong thời kì đó,
nếu có mất mát về chúng bất kì lúc nào, người ta đều cảm
thấy bất ổn. Người ta thấy cần phải bù đắp lại mất mát đó.
Và con người tiếp tục cố gắng cả đời để hoàn chỉnh các mẫu
hình đã được tạo ra trong thời thơ ấu của mình.
Từ điều này bạn nên lưu ý đến một điều thú vị nữa.
Trong các xã hội mà hệ thống gia đình đã bị bật rễ - chẳng
hạn, như đã xảy ra ở Mĩ, nơi rễ của hệ thống gia đình đã bị
nhổ ra, nơi việc chăm sóc trẻ con không phải của cả bố lẫn
mẹ nữa, cả bố lẫn mẹ đều không chăm sóc nhiều lắm tới trẻ
con; nơi mối quan hệ giữa các thành viên gia đình đã trở nên
yếu - trong những xã hội đó khái niệm về Thượng đế cũng
trở nên yếu.
Nơi mà hệ thống gia đình lung lay Thượng đế cũng lung
lay; tại đó vô thần bành trướng. Trong những xã hội mà
quyền lực của người bố là rất mạnh và nơi mệnh lệnh của

người bố là tối cao và kỉ luật được đảm bảo, vô thần không
sinh ra được. Và kết luận mà Freud suy dẫn ra từ tất cả
những điều này đều đúng, nhưng chỉ một nửa. Có chân lí
trong kết luận của ông ấy rằng việc thấy người bố trong
Thượng đế là cố gắng của con người để lấp chỗ trống tâm lí.
Nhưng khi Freud nói rằng Thượng đế không là gì hơn điều
này, đây là chỗ ông ấy bị sai lầm.
Con người có thể gọi đất là mẹ - đây là điều gì đó vừa ý
con người, nhưng bởi vì điều này đất không dừng là điều nó
đang là. Con người có thể gọi Thượng đế là bố, mẹ hay bất
kì cái gì khác. Điều này có thể là việc mở rộng của gia đình
người đó, thời thơ ấu của người đó hay tâm trí của người đó,
nhưng Thượng đế, mà việc mở rộng này được thực hiện cho
ngài, không trở thành điều lừa dối bởi vì điều đó. Cái tên nào
chúng ta đặt cho nó phụ thuộc vào chúng ta, nhưng sự tồn tại
của nó không phụ thuộc vào chúng ta.
Giá mà Freud biết được về Upanishad ông ấy chắc sẽ
trong khó khăn, vì Upanishad không tạo ra bất kì mối quan
hệ nào với Thượng đế. Nếu như Freud đã đọc Upanishad,
câu chuyện của tâm lí học hiện đại chắc đã khác. Nhưng
Freud là người chân thật. Giá như ông ấy chỉ hơi có ý niệm
rằng có một truyền thống tư tưởng, triết học, kinh nghiệm mà
không thiết lập bất kì loại quan hệ nào với Thượng đế và
truyền thống đó dùng một từ vô nhân tính nhất tat, ‘cái đó’ -
nơi Thượng đế là ‘cái đó’, và không thể có được bất kì cách
đề cập vô nhân tính nào khác - thì Freud chắc chắn phải sửng
sốt lắm. ‘Cái đó’ nghĩa là không có tên nào được đặt ra, chỉ
là hướng dẫn. ‘Cái đó’ không phải là tên, nó chỉ là chỉ dẫn,
ngón tay trỏ tới.
Chắc chắn cái tat này không thể sinh ra được từ bất kì
khan hiếm nào của tuổi thơ. Người ta có thể nghĩ tới mẹ,
người ta có thể nghĩ tới bố - nhưng ‘cái đó’ sao? Nó không
liên quan gì tới tâm lí của tuổi thơ cả. Thực ra nó chẳng liên
quan gì với tâm lí như vậy. Nó phải liên quan tới kinh
nghiệm của những người đã vượt ra ngoài tâm trí, người đã
vượt ra ngoài con người.
Những từ này manushya và mun, con người và tâm trí,
cũng nên được hiểu. Ở nước này chúng ta gọi con người là
manushya. Con người được gọi như vậy bởi vì người đó bị
bao quanh bởi mun, tâm trí, bởi vì người đó đang sống trong
tâm trí, bởi vì người đó hoàn toàn hướng tâm trí và nhận
được nuôi dưỡng từ tâm trí. Từ tiếng Anh, man, cũng được
dẫn ra từ từ tiếng Phạn mun, nghĩa là tâm trí.
Mun, tâm trí, là con người. Nơi tâm trí được siêu việt
lên, nhân tính cũng được siêu việt lên. Đây là những phát
biểu của những người đã vượt lên trên con người, người đã
vượt lên trên mun, tâm trí, và gợi ý về ‘cái đó’. Nhưng có vài
điều trong đó đáng xem xét. Người bố có thể được tôn thờ,
nhưng làm sao bạn tôn thờ ‘cái đó’? Đền cho ‘người bố’ có
thể được dựng, đền cho ‘người mẹ’ có thể được dựng, nhưng
làm sao bạn xây dựng ngôi đền cho ‘cái đó’? Làm sao bạn có
thể làm được ngôi đền về ‘cái đó’? hay bạn có thể làm được?
Người ta có thể làm thần tượng về đàn ông, đàn bà, mẹ, bố,
nhưng làm sao thần tượng về ‘cái đó’ được làm? Không có
kinh sách nào phá chấp hơn Upanishad, mặc dầu không một
lời đã được nói ra trong chúng chống lại việc tôn thờ thần.
Điều này nữa cũng đáng để hiểu.
Người Mô ha mét giáo đã từng bận rộn đập phá thần
tượng chỉ bởi vì Mohammed đã nói, “Không thể có thần
tượng về ‘cái đó’.” Phát biểu của Mohammed tương tự như
phát biểu của Upanishad, rằng không thể có thần tượng về
‘cái đó’. Người Mô ha mét giáo dường như tin rằng thần

tượng về ‘cái đó’ không thể được làm ra nhưng tin rằng có
thần tượng về ‘cái đó’ có thể bị phá huỷ! Làm sao cái có thể
bị phá không thể được làm ra ngay chỗ đầu tiên? Cho nên
một nhóm người điên đang bận rộn làm ra thần tượng và một
nhóm người điên khác bận rộn đi đập phá thần tượng.
Điều rất thú vị là thấy rằng những người bài trừ cũng
không là gì ngoài những người tôn thờ thần tượng. Người đi
phá thần tượng cũng là người tin vào thần tượng - ít nhất
người đó tin chúng đáng giá để nhận rắc rối về việc đập phá.
Người tin vào thần tượng ít nhất cũng nhiều như vậy. Khác
biệt là gì? Người này đi cúng dường hoa lên đầu thần tượng,
người kia đi đập đầu thần tượng bằng búa.
Chính với búa và chàng mà thần tượng được làm ra và
cũng với búa và chàng mà thần tượng bị đập phá. Không có
gì khác nhau mấy giữa niềm tin của cả hai - cả hai đều tin
rằng có quan trọng nào đó trong thần tượng. Người tôn thờ
thần tượng tin nó là quan trọng, người bài trừ tin nó là quan
trọng. Đôi khi người bài trừ còn gắn tầm quan trọng hơn, bởi
vì trong khi người tôn thờ thần tượng chưa bao giờ liều mạng
mình trong việc làm ra thần tượng, người bài trừ liều cả đời
mình để phá nó. Người bài trừ đặt cược tính mạng mình vào
nguy hiểm của việc phá huỷ thần tượng khi Koran nói,
“Không thể có thần tượng về ‘cái đó’.” Thế thì bạn đang phá
thần tượng của ai?
Upanishad không tôn thờ thần tượng không bài trừ thần
tượng. Cái nhìn của Upanishad đã vượt xa ra ngoài hình
tướng, diện mạo và thần tượng. Đây là lí do tại sao họ nói,
tat, ‘cái đó’. Thần tượng nào có thể được làm về ‘cái đó’?
Không, không thần tượng nào có thể được làm về ‘cái đó’.
‘Cái đó’ không là hình dạng. Liệu có hình hay dạng nào của
‘cái đó’ không? ‘Cái đó’ không là hình dạng, ‘cái đó’ là vô
hình. Ngay cả từ ‘cái đó’ cũng vô hình. Nếu bất kì ai muốn
cho ‘cái đó’ hình dạng, điều đó không thể được thực hiện.
Tat, ‘cái đó’ là gì vậy? Nó chỉ là chỉ dẫn, dường như ai đó trỏ
ngón tay và nói ‘cái đó’!
Wittgenstein là một nhà tư tưởng hiện đại đáng kinh
ngạc. Ông ấy là một trong những người đã cho sinh thành
nên logic vĩ đại nhất của thế kỉ này. Wittgenstein, trong cuốn
sách quan trọng của mình Tractatus Logicus, là một trong ba
hay bốn cuốn sách quan trọng nhất được viết ra trong thế kỉ
này, viết rằng có những điều không thể nói ra được nhưng
vẫn có thể chỉ ra được. Không cái gì có thể được nói về
chúng nhưng chúng có thể được chỉ ra.
Upanishad chỉ hướng về Thượng đế, chúng không nói gì
cả. ‘Cái đó’ chỉ là một chỉ dẫn. Có nhiều điều được ngụ ý
trong chỉ dẫn này, lưu ý đến sự kiện này. Một chỉ dẫn là ở
chỗ không có mối quan hệ nào được thiết lập với ‘cái đó’.
Đây là lí do tại sao Upanishad không gọi nó là ‘ngươi’, bởi
vì với ngươi có thể thiết lập mối quan hệ với cái ‘tôi’.
Bất kì nơi nào có ngươi cũng sẽ có ‘tôi’. Ngươi không
thể tồn tại không có ‘tôi’. Ngay khi tôi gọi ai đó là ngươi, cái
‘tôi’ đã bước vào, cái ‘tôi’ đã tạo nên sự hiện diện của nó ở
đấy. Chính trong tham chiếu đến cái ‘tôi’ mà ai đó là ngươi,
và chính trong việc tham chiếu đến ngươi mà tôi là ‘tôi’. Tôi
và ngươi tồn tại đồng thời. ‘Cái đó’ là một mình. Không cần
phải có cái khác tồn tại cùng với ‘cái đó’. ‘Cái đó’ không tạo
ra bất kì chỉ dẫn gì về sự hiện diện của ai đó khác.
Bất kì khi nào chúng ta nói ngươi, thế thì bất kì ai đã
được nói tới sẽ đến với cùng mức độ như chúng ta đang vậy.
‘Tôi’ và ngươi đứng cạnh nhau. Khi chúng ta nói ‘cái đó’,
không mối quan hệ nào được tạo nên ở mức độ chúng ta.
‘Cái đó’ ở đâu? Liệu nó ở trên, dưới hay ở trong chúng ta,

không có gì thuộc loại đó được lộ ra cả. Với sáng suốt sâu
lắng Upanishad đã gọi Thượng đế là ‘cái đó’.
Bây giờ chúng ta hiểu kinh này.
Người mang thuộc tính là hiện thân của ảo vọng, ảo
tưởng, người là cội nguồn của vũ trụ, người có đặc trưng
toàn thức, vân vân, và là hiện thân của gián tiếp, tính
nhiều và chân lí, vân vân, đều được biết tới bởi từ tat -
‘cái đó’.
Người dường như là hỗ trợ cho cái ‘tôi’ như một kinh
nghiệm cũng như là một từ và người được kinh nghiệm
như tách biệt khỏi ý thức, được gọi bởi từ tvam - ‘ngươi’.

Tvam, ngươi, bạn... Ngay khi chúng ta gọi bất kì ai là
ngươi, tvam hay bạn, chúng ta đã chấp nhận biên giới. Người
khác này chúng ta thấy như một thực thể tách biệt. Thực thể
này có hình dạng, thân thể; bạn không thể gọi một thực thể
vô thân thể là ngươi. Bạn không thể nhìn lên bầu trời và gọi
nó là ngươi, điều đó không ngụ ý gì cả. Làm sao bạn có thể
gọi bầu trời là ngươi được? Không quan hệ nào đi tới hiện
hữu. Có sự mở rộng như thế, không giới hạn; dường như
không có quan hệ gì với ngươi nảy sinh. Mối quan hệ với
ngươi nảy sinh chỉ ở nơi có hình dạng nào đó. Nhưng
Thượng đế thậm chí còn mở rộng hơn bầu trời; bản thân bầu
trời chỉ là một biến cố trong Thượng đế. Với một Thượng đế
như thế thì mối quan hệ của ngươi là không khả thi, bởi vì
trong khi đứng trước Thượng đế không có việc nhớ tới cái
‘tôi’, rằng tôi đây. Một người vẫn cảm thấy rằng ‘tôi tồn tại’
sẽ không có khả năng thấy Thượng đế. Chính cái ‘tôi’ là trở
ngại, là tấm mạng.
Chừng nào mà còn cái ‘tôi’, tôi sẽ thấy ở mọi nơi chỉ
ngươi. Bất kì quan hệ nào với cái vô hình dạng đều không
thể có; quan hệ chỉ có thể với cái có hình dạng.
Nhớ lấy, để điều này là nguyên tắc nền tảng. Tôi là gì,
tôi thế nào, tôi ở đâu - mối quan hệ của tôi chỉ có thể có
trong những hoàn cảnh này. Nếu tôi tin rằng tôi là thân thể,
bất kì quan hệ nào cũng sẽ xảy ra chỉ với những người cũng
tin họ là thân thể. Nếu tôi tin rằng tôi là tâm trí, mối quan hệ
của tôi sẽ xảy ra chỉ với những người cũng tin rằng họ là tâm
trí. Nếu tôi tin rằng tôi là tâm thức, mối quan hệ của tôi sẽ
chỉ có thể có với những người cũng tin họ là tâm thức. Nếu
tôi muốn thiết lập mối quan hệ với Thượng đế, tôi cũng phải
trở thành vô hình dạng và trống rỗng như Thượng đế, nơi
thậm chí không có cả dấu vết của cái ‘tôi’, bởi vì cái ‘tôi’ qui
về hình dạng. Chỉ khi tất cả đều trống rỗng trong tôi, tôi sẽ
có khả năng kết nối với cái trống rỗng. Chỉ khi tôi trở thành
vô hình dạng bên trong tôi sẽ có khả năng kết nối với cái vô
hình dạng bên ngoài.
Không có cách nào khác ngoài việc phải trở thành giống
như người mà chúng ta muốn kết nối với. Không có cách nào
khác ngoài việc phải trở thành giống như người chúng ta
đang tìm kiếm.
Có hai từ, ‘cái đó’ và ngươi. Linh hồn hiện thân chúng ta
gọi là ngươi - tâm thức bị giam hãm trong thân thể, cái bị
giới hạn bởi thân thể. Và tâm thức đó, cái tràn ngập tất cả -
bên ngoài tất cả các giới hạn là vô giới hạn - chúng ta gọi là
‘cái đó’. Với giọt sương chúng ta nói ‘bạn’ và với đại dương
chúng ta nói nói ‘cái đó’. Với nguyên tử, với nguyên tử tí xíu
chúng ta nói ‘bạn’ và với cái toàn thể chúng ta nói ‘cái đó’.
Tại sao có nhiều sự nhất quyết đến thế của Upanishad về
tat, ‘cái đó’? Upanishad không có mong đợi về bạn sẽ bắt

đầu tôn thờ và cầu nguyện Thượng đế. Họ cũng không mong
đợi bạn là người sùng kính Thượng đế. Upanishad trông đợi
chính bản thân bạn trở thành Thượng đế. Để khác biệt này
được hiểu đúng.
Tham vọng của Upanishad là tối thượng, tuyệt đối;
không tham vọng nào cao hơn tham vọng này đã từng được
sinh ra trên thế giới. Upanishad không được thoả mãn chỉ bởi
tôn thờ, cầu nguyện hay sùng kính của bạn với Thượng đế.
Họ nói rằng chừng nào bạn còn chưa trở thành Thượng đế,
chân lí tối thượng còn không được cảm nhận. Họ nói rằng
chừng nào bạn chưa trở thành Thượng đế định mệnh của bạn
không được hoàn thành.
‘Cái đó’ nghĩa là chúng ta không định thiết lập mối quan
hệ về tôn thờ hay sùng kính với Thượng đế - không mối
quan hệ nào có thể được thiết lập với ‘cái đó’ theo bất kì
cách nào - chúng ta định bỏ mọi quan hệ. Đến cuối chúng ta
cũng sẽ vứt bỏ chính mình, để cho không còn lại ai mà quan
hệ và do đó không quan hệ nào có thể có. Chung cuộc chúng
ta sẽ trở thành duy nhất cái mà ta đã từng đề cập tới là ‘cái
đó’.
Vấn đề quả trở thành khó hiểu, bởi vì thông thường khái
niệm của chúng ta về tôn giáo là tôn thờ và cầu khẩn, kính
trọng và sùng kính. Khái niệm của Upanishad về tôn giáo
không phải là tôn thờ, sùng kính và cầu khẩn mà về việc đẻ
mở và hiển lộ của ‘cái đó’, cái được ẩn kín bên trong mọi cá
nhân.
Upanishad là khoa học về tôn giáo. Hệt như khoa học
tìm kiếm chân lí ẩn bên trong vật chất, hệt như khoa học phá
vỡ vật chất, chẻ nhỏ nó thành nguyên tử và cố gắng phát hiện
ra năng lượng ẩn bên trong nó và những luật cai quản nó,
theo cùng cách đó Upanishad đi vào trong mọi nguyên tử của
tâm thức và khám phá cái gì là luật cuả tâm thức, cách tâm
thức chuyển động trong thế giới và cách nó tĩnh tại, cách tâm
thức bị che giấu và cách nó biểu hiện.
Upanishad này đang dùng ngôn ngữ của khoa học. Nếu
nhà khoa học khám phá ra năng lượng nguyên tử, ông ta
không nói rằng năng lượng nguyên tử này là bố hay mẹ ông
ta, ông ta không thiết lập mối quan hệ với nó. Đó là một luật
ông ta đã phát hiện ra, không có vấn đề thiết lập mối quan hệ
với nó. Ông ta không phát triển ngôn ngữ của gắn bó xung
quanh nó. Và nếu khoa học mà phát triển ngôn ngữ của gắn
bó, nó sẽ dừng là khoa học. Gắn bó, quan hệ là phi khoa học
và chúng sẽ xuyên tạc chân lí. Cho nên nhà khoa học sẽ phải
nhìn vào chân lí trong khi vẫn duy trì khoảng cách và trung
lập của mình; đấy không phải là vấn đề tạo ra mối quan hệ cá
nhân gần gũi.
Upanishad cũng nói theo ngôn ngữ khoa học: họ nói ‘cái
đó’. Họ không thiết lập quan hệ, họ giữ cho bản thân họ tách
biệt và riêng ra. Khi Upanishad nói ‘cái đó’ chúng ta thậm
chí không để ý ai đang nói. Khi ai đó nói, “Thượng đế là
người cha tối cao,” chúng ta biết ai đang nói điều đó - người
nào đó có ham muốn về người bố vẫn còn chưa được thoả
mãn, người nào đó có thời trẻ thơ còn chưa đầy đủ, người
nào đó còn chưa nhận được tình yêu của bố hay mẹ, hay
người nào đó đã nhận được nhiều tình yêu đến mức gây ra
không tiêu hoá nổi. Nhưng chắc chắn người đang nói điều
này là người đã chịu đựng một loại bất thường nào đó trong
mối quan hệ với bố người đó. Nhưng khi người ta nói ‘cái
đó’, không có gì được lưu ý về người nói, không có gì được
lộ ra về người nói.
Chỉ dẫn là vô nhân tính nhất và do đó rất có giá trị. Và
khoảnh khắc chúng ta gọi nó là ‘cái đó’, mọi tranh cãi chấm

dứt.
Đây là điều rất thú vị: nếu chúng ta gọi Thượng đế là ‘cái
đó’, làm sao người Hindu và người Mô ha mét giáo đánh
nhau được? Khác biệt gì có thể có giữa ‘cái đó’ của người Ki
tô giáo và người Hindu? Nếu người Ki tô giáo, người Mô ha
mét giáo và Hindu đều gọi Thượng đế là ‘cái đó’ không thể
nào có đánh nhau giữa ba loại người này. Từ nào được dùng
cho ‘cái đó’ không thành vấn đề - tat hay cái đó, không tạo ra
khác biệt gì - vẫn không thể có đánh nhau được. Nhưng khi
người Mô ha mét giáo gọi nó là điều này, người Hindu gọi
nó là cái gì đó khác, người Ki tô giáo gọi nó là cái gì đó
khác, hay khi họ gọi nó là cha, khái niệm lập tức thay đổi và
thích ứng cho từng người.
Đấy là vấn đề đáng suy nghĩ tiếp. Freud đã nói rằng khi
một người gọi Thượng đế là cha, nếu người đó tìm kiếm bên
trong mình người đó sẽ thấy hình ảnh của người bố mình
trong khái niệm của người đó về Thượng đế. Người đó nhất
định tìm thấy nó. Khi bạn gọi Thượng đế là mẹ, mẹ bạn sẽ
xuất hiện. Khái niệm mẹ của bạn là gì? Với một chút ít làm
mịn, thuần khiết, lau sạch, sơn vẽ cho nó, bạn có thể biến
khái niệm của mình về người mẹ thành Thượng đế.
Diderot, nhà triết học người Pháp, đã bịa ra câu chuyện
đùa tinh tế. Ông ta nói rằng nếu như ngựa mà quan niệm về
Thượng đế của chúng thì ngài phải trông như ngựa! Không
con ngựa nào có thể quan niệm Thượng đế của chúng lại có
khuôn mặt người - điều này là chắc chắn, điều này chúng ta
biết. Khi người da đen vẽ tranh Thượng đế, ngài sẽ có tóc
rậm ngắn - nó phải như thế chứ! Môi ngài sẽ giống như môi
người da đen, còn làn da sẽ sẫm mầu, đen. Khi người Trung
quốc vẽ khuôn mặt của Thượng đế thì nó sẽ có xương gò má
cao, vì “Thượng đế của chúng ta mà không giống người
Trung quốc - làm sao điều đó có thể được?”
Nó là khái niệm của chúng ta mà chúng ta sẽ phóng
chiếu ra. Người Anh có thể quan niệm về thượng đế da đen
không? Không có khả năng nào như thế cả. Bạn có thấy
tưởng tượng của người Hindu trong các thượng đế của họ
không? Rama, Krishna... tất cả đều ngăm ngăm đen. Với tâm
trí Hindu mầu ngăm ngăm đen là biểu tượng của cái đẹp lớn
- tất nhiên nó sẽ là như vậy! Bạn có thấy bức tranh của họ
không? Khái niệm về cái đẹp mà tâm trí người Hindu có nhất
định được phóng chiếu lên Ram và Krishna. Nó phải là như
vậy.
Bạn có thể đã quan sát rằng tai của Rama, Krishna,
Christ và Mohammed đều không lớn lắm, chúng nhỏ cả.
Nhưng nếu bạn đã thấy các bức tượng của Phật và Mahavira,
bạn sẽ thấy rằng tai dài thế, chấm vai. Phật tử và người Jaina
tin rằng các tirthankara đều có tai dài chấm vai. Toàn bộ lí
do cho điều này dường như là có lẽ tai của tirthankara đầu
tiên của người Jaina có thể rất dài, chấm vai - và điều đó đã
trở thành một khái niệm liên tục.
Không có lí do nào để tin rằng tất cả hai mươi bốn
tirthankara đều có tai dài chấm vai. Nhưng một khi một khái
niệm đã bắt rễ, các bức tượng đều được làm tương ứng theo
khái niệm đó và không tương ứng với từng cá nhân được tạc
tượng. Nếu bạn thấy những bức tượng của cả hai mươi bốn
tirthankara bạn sẽ không có khả năng nói được cái nào là của
Mahavira, cái nào là của Parshvanatha và cái nào là của
Neminatha. Tất cả hai mươi bốn tượng đều trông giống nhau.
Chúng chỉ có thể được nhận diện bằng cách xem biểu tượng
đặc biệt được khắc ở chân đế của từng tượng.
Một khái niệm được nhất trí và rồi chúng ta di chuyển và
sống theo khái niệm đó. Tất cả các thượng đế đều được tạo

ra từ khái niệm của chúng ta, nhưng có thể không có khái
niệm nào được tạo ra về ‘cái đó’. Cho nên cái ngày có một
tôn giáo phổ dụng trên thế giới, ngày đó lần đầu tiên
Upanishad sẽ được hiểu đúng. Ngày đó chúng ta sẽ hiểu rằng
Upanishad, lần đầu tiên, đã dùng ngôn ngữ khoa học và đã
gạt sang bên cái lưới của ngôn ngữ coi con người là trung
tâm của con người.
Có hai thuộc tính: maya, ảo tưởng, cho linh hồn vũ trụ,
và avidya, dốt nát, cho linh hồn hiện thân. Khi bỏ hai cái
đó, cái được thấy chính là Param Brahman phúc lạc,
hoàn toàn đúng đắn, ý thức - thực tại tối cao tối thượng.

Kinh này là hơi khó. “Thượng đế có thuộc tính ảo tưởng
và linh hồn hiện thân có thuộc tính dốt nát.” Gọi nó là thuộc
tính hay gọi nó là bệnh tật.
“Thượng đế có thuộc tính ảo tưởng.” Chúng ta cần
xuyên thấu vào hiểu biết này. Điều này khá phức tạp và tinh
tế; chúng ta cố gắng hiểu nó. Có nhiều, nhiều cách lĩnh hội
trong tâm trí con người. Chúng ta hãy hiểu một số cách lĩnh
hội, và thế rồi chúng ta có thể đi vào kinh được.
Một khó khăn bao giờ cũng có đó cho bất kì ai hay suy
nghĩ là ở chỗ nếu một người chấp nhận Thượng đế, sẽ trở
nên rất khó chấp nhận thế giới này; nếu chúng ta chấp nhận
Thượng đế, sẽ trở nên rất khó giải thích được thế giới này.
Chẳng hạn, nếu Thượng đế đã tạo ra thế giới này tại sao nó
đầy những bệnh, khổ, đau và tội thế? Nếu Thượng đế đã tạo
ra thế giới này, cần gì đẩy con người vào dốt nát đến thế?
Con người không thể chịu trách nhiệm cho tất cả những điều
này, chỉ Thượng đế phải chịu trách nhiệm.
Vài ngày trước đây một linh mục Ki tô giáo đến gặp tôi.
Tôi hỏi ông ta rằng ông ta đang tham gia vào việc gì. Ông ta
trả lời, “Chúng tôi đang bận chiến đấu với tội lỗi.” Tôi nói,
“Tội lỗi à! Tội lỗi đến từ đâu vậy?” Ông ta nói, “Nó do Quỉ
tạo ra.”
Đến đấy ông ta vẫn còn cảm thấy dễ chịu. Thông thường
không ai hỏi sâu thêm vào những vấn đề như vậy, bởi vì nếu
làm như thế thì tình trạng lúng túng sẽ nảy sinh. Tôi hỏi ông
ta, “Ai tạo ra Quỉ?” Thế là ông ta cảm thấy hơi khó chịu, bởi
vì bây giờ sự việc thành có vấn đề. Ông ta sợ rằng nếu ông ta
nói rằng Thượng đế tạo ra Quỉ thế thì điều đó trở nên khó
khăn, vì nếu Thượng đế đã tạo ra Quỉ, và Quỉ tạo ra tội lỗi,
tất cả đống lộn xộn luẩn quẩn này là gì? Không lẽ Thượng đế
không có đủ thông minh để đừng tạo ra Quỉ à? Và cho dù
Thượng đế có lẫm lỡ tạo ra Quỉ, đâu là khó khăn nếu bạn và
tôi lỡ phạm phải tội lỗi? Và nếu tội lỗi được Quỉ tạo ra, và
Quỉ được Thượng đế tạo ra, còn chúng ta phạm tội, ai chịu
trách nhiệm?
Chúng ta chỉ là nạn nhân, bị trừng phạt không cần thiết.
Chúng ta không liên quan gì đến nó cả. Thượng đế tạo ra
chúng ta, Thượng đế tạo ra Quỉ, Quỉ tạo ra tội lỗi, chúng ta
phạm tội - trong toàn bộ cái vòng này chúng ta trở nên có
trách nhiệm ở đâu? Chúng ta không tạo ra Thượng đế, chúng
ta không tạo ra Quỉ, chúng ta không tạo ra tội lỗi - và chúng
ta đau khổ không cần thiết trong đống lộn xộn này.
Ông linh mục trở nên hơi bất ổn. Ki tô giáo không có câu
trả lời cho nó. Khó mà tìm được câu trả lời với bất kì những
người này vì nó có quá nhiều vấn đề. Hay ai đó... chẳng hạn,
người Zarathustra tin, như Zarathustra nói, rằng Thượng đế
và Quỉ là hai phần tử. Không ai tạo ra ai, cả hai đều vĩnh
viễn. Bây giờ trong niềm tin này nguy hiểm thậm chí còn lớn
hơn, bởi vì nếu cả hai đều vĩnh viễn thế thì không ai trong

hai người này có thể thắng hay thua. Thượng đế và Quỉ sẽ cứ
đánh nhau hoài. Và bạn là ai - bạn là chiến trường nơi họ
đánh nhau chăng? Không ai trong cả hai có thể thắng hay
thua vì cả hai đều vĩnh viễn.
Người Zarasthustra cũng trong khó khăn nếu họ không
tin cả hai đều vĩnh viễn và nói rằng Quỉ có thể bị đánh bại,
bởi vì thế thì câu hỏi lại nảy sinh: Làm sao nó vẫn chưa bị
đánh bại cho đến giờ? Bao nhiêu thế kỉ đã qua mà nó vẫn
chưa bị đánh bại. Và đâu là đảm bảo cho thất bại của nó
trong tương lai? Thực ra, tình huống dường như là điều đối
lập - rằng Quỉ đang thắng. Với nó bị thất bại là một giấc mơ
xa xôi; Quỉ dường như ngày nào cũng thắng.
Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng gần đây, năm 1970, ở
California, Mĩ, một nhà thờ mới đã dược đăng kí dưới cái tên
Nhà thờ đầu tiên về Quỉ. Nó có tín đồ và tổng giám mục, và
họ đã in kinh thánh của riêng họ và công bố, “Chúng ta đã có
đủ thời gian để kinh nghiệm rằng Thượng đế đang bị thất bại
và Quỉ đang thắng.”
Điều được nói dường như đúng. Nếu chúng ta nhìn vào
thế giới, phát biểu của họ dường như không sai. Tín đồ của
Quỉ thắng và tín đồ của Thượng đế bị thất bại. Tín đồ của
Quỉ chiếm địa vị cao, và tín đồ của Thượng đế vẩn vơ đây
đó.
Bạn có thể tự mình thử - bây giờ ngay cả tín đồ của
Thượng đế cũng đã học được thủ đoạn này. Họ vẫn tụng
niệm tên của Thượng đế, nhưng nhận các thứ qua Quỉ; họ đã
hiểu ai thực sự thắng. Trong tính toán cuối cùng chính Quỉ
thắng. Nhưng sợ vẫn còn lẩn khuất trong tâm trí rằng có lẽ,
bởi sai lầm nào đó, Thượng đế có thể thắng! Cho nên họ
cũng giữ tụng niệm tên Thượng đế: Rama, Rama, Rama. Họ
vẫn cố ngồi trong cả hai con thuyền - mọi người thận trọng
đều giống thế. Khi có nhu cầu, họ nhận công việc từ Quỉ, còn
khi không có nhu cầu và họ có thời gian rỗi, họ quay sang
tràng hạt cầu nguyện để làm vui lòng Thượng đế. Một loại
thoả hiệp được duy trì, một loại cân bằng. Và thế nữa ai biết
được đến cuối cùng ai sẽ thắng?
Nếu thế giới cho bất kì chỉ dẫn nào, đấy là thắng lợi của
Quỉ. Thắng lợi của Thượng đế không được thấy ở đâu cả.
Việc tốt dường như không tăng lên mà việc xấu dường như
không giảm đi. Ánh sáng dường như không tăng lên mà
bóng tối dường như không giảm đi.
Cho nên có rắc rối trong việc tin Quỉ là vĩnh viễn. Và
nếu người ta tin rằng nó không là vĩnh viễn, rằng Quỉ chung
cuộc sẽ bị thất bại - không thành vấn đề việc nó thắng đến
đâu trong thời kì ở giữa, rằng đến cuối nó sẽ bị thất bại - cái
gì là đảm bảo cho điều đó? Đâu là đảm bảo cho những việc
như thế xảy ra? Người đang thắng bây giờ - sao phải bị thất
bại về cuối? Dường như không có nhất quán hay logic trong
niềm tin rằng người đang thắng sẽ đột nhiên bị thất bại về
cuối.
Điều này vẫn còn là câu hỏi kso dài mãu cho loài người.
Các tôn giáo khác nhau đã dự kiến những phương pháp khác
nhau để giải quyết vấn đề nhị nguyên này, nhưng chẳng cái
gì được giải quyết cả. Quan niệm của Upanishad dường như
ít sai lầm hơn cả khi so sánh với tất cả các phương pháp đó -
chỉ sai lầm ít nhất, nhưng không hoàn toàn đúng. Nhưng nếu
nó được cân nhắc so với tất cả các quan niệm khác, ý tưởng
của Upanishad dường như là đúng đắn nhất - không hoàn
toàn đúng, chỉ là đúng nhất.
Upanishad nói rằng không có đối lập giữa Thượng đế và
thế giới: không có Quỉ, và không có quyền năng nào đối lập
Thượng đế. Thế thì thế giới này được tạo ra như thế nào?

Upanishad nói rằng Thượng đế không tạo ra thế giới này
bằng cách tạo ra một thành phần đối lập nào đó để làm công
việc đó. Trong chính hiện hữu của Thượng đế, trong chính
sự rực rỡ của Thượng đế - cái mà họ gọi là ảo vọng, ảo tưởng
- trong chính bóng hình của Thượng đế - cái mà họ cũng gọi
là ảo vọng, ảo tưởng - thế giới có đấy, hệt như một người
đứng đấy và bóng người đó tự nhiên hình thành. Không có
sự tồn tại rắn chắc của cái bóng: lưỡi gươm không thể chém
đứt nó, lửa không thể đốt cháy nó, nước không thể nhấn
chìm nó. Thử tuỳ ý bạn, nó vẫn tồn tại. Nó không có tồn tại
thực, vậy mà cái bóng vẫn có. Nó bước sau bạn; nếu bạn
chạy, nó chạy theo bạn, nếu bạn dừng, nó dừng.
Upanishad nói rằng bất kì khi nào cái gì đó tồn tại, nó
cũng có cái bóng của nó. Và những nghiên cứu mới nhất
trong khoa học và tâm lí cũng ủng hộ cho sự kiện này. Để
điều này được hiểu. Không cái gì tồn tại mà không có bóng.
Bất kì cái gì có đó, nó tạo ra cái bóng của nó. Nếu có
Brahman, thực tại tuyệt đối, nó sẽ phải có cái bóng của nó.
Cái bóng đó họ gọi là ảo vọng, ảo tưởng. Cái bóng của thực
tại tuyệt đối là thế giới này.
Jung, một nhà tâm lí học lớn, đã nghiên cứu rất nhiều về
thực tại này từ một chiều hướng khác và ông ấy đã thấy rằng
mọi người cũng có sự tồn tại hình bóng, nhân cách hình
bóng. Bạn cũng nên hiểu điều này bởi vì cả bạn nữa cũng có
sự tồn tại hình bóng của mình.
Bạn là người tốt, an bình và kiên nhẫn, và bạn không trở
nên giận dữ. Nhưng một hôm bỗng nhiên, với một việc cỏn
con, bạn trở nên giận dữ thái quá đến mức nó vượt ra ngoài
hiểu biết riêng của bạn, bạn không biết việc gì đang xảy ra
và ai đang làm việc này. Bản thân vấn đề đâu có nghiêm
trọng đến mức sinh ra bất kì giận dữ nào, mà bạn thì cũng
không phải là người thường trở nên giận dữ - bạn không trở
nên giận dữ ngay cả với những vấn đề lớn, nghiêm trọng!
Nhưng hôm nay, với việc cỏn con này, bạn phát rồ.
Đó là lí do tại sao sau đó người ta thường hay nói, “Sự
việc đã xảy ra bất chấp cả tôi. Tôi đâu có chủ định mà nó cứ
xảy ra.” Tại sao? Làm sao điều đó đã xảy ra? Bạn đâu có
định làm việc đó, thế thì làm sao nó đã xảy ra?
Đôi khi bạn không định nói điều gì đó và nó buột ra từ
mồm bạn. Bạn đơn giản không muốn nói điều đó còn nó lại
phun ra từ mồm bạn. Sau đó bạn hối hận rằng, “Mình chưa
bao giờ nghĩ mình sẽ nói điều đó; mình đã quyết định không
nói nó, thế mà mình lại buột mồn nói nó ra!”
Jung nói rằng bạn có nhân cách hình bóng của riêng bạn
trong đó mọi điều mà bạn chối bỏ bên trong bạn cứ tích luỹ
nó. Đôi khi tìm ra một cơ hội nào đó, trong khoảnh khắc yếu
đuối nào đó nó tìm ra một khe nứt trong hệ thống, thế là
nhân cách hình bóng biểu hiện chính nó.
Vì nhân cách hình bóng này, một bệnh nghiêm trọng
được biết tới với tên ‘nhân cách chia chẻ’, đã thành chủ đề
nghiên cứu trong tâm lí học. Một người bị phân làm hai
phần. Đôi khi sự việc xảy ra tới mức trở thành có hai nhân
cách phân biệt trong người này - dường như là có hai người
bên trong một người. Người này nói điều này và làm điều
khác, không có phối hợp; người đó là người này vào buổi
sáng và là người khác vào buổi tối. Lời nói của người đó,
con người người đó - không cái gì hoàn toàn tin cậy được.
Bản thân người đó sợ điều người đó làm và điều người đó
nói, đơn giản không có hài hoà. Cứ dường như là có hai
người bên trong người đó. Đôi khi người đó rất an bình, đôi
khi rất khuấy động; đôi khi yên lặng, đôi khi huyên thuyên -
người đó chỉ phân chia ra làm hai phần.

Có hàng nghìn những người điên như thế trong hàng
nghìn nhà thương điên. Bệnh tật của họ là ở chỗ bỗng nhiên
họ hoàn toàn mất một nhân cách và trở thành người khác
hẳn. Mới hôm qua người đó là Rama, rồi bỗng nhiên điều gì
đó xảy ra - một tai nạn, hay người đó bị ngã và bị thương ở
đầu - và người đó trở thành Rahim. Bây giờ người đó đơn
giản không nhớ rằng người đó là Rama; người đó không
nhận ra bố mình, mẹ mình hay vợ mình. Bây giờ người đó
tuyên bố người đó là Rahim và đưa ra một giải thích hoàn
toàn khác về cuộc đời mình mà không có gì liên quan tới gia
đình này cả - thậm chí không quen biết gì.
Điều gì đã xảy ra? Trong tai nạn nhân cách chính của
người này đã bị đẩy vào hậu cảnh do cú sốc của tác động và
nhân cách hình bóng đã trở nên hoạt động, cho nên người đó
đã thay đổi tên mình và mọi thứ khác.
Việc mang nhân cách hình bóng này cũng bị đảo ngược
lại bởi cách trị liệu gây sốc. Thỉnh thoảng khi người này
được chữa khỏi thì người đó lại trở thành Rama, con người
trước đây, và toàn bộ hành vi của người đó thay đổi trở lại
nhân cách nguyên gốc.
Nhân cách hình bóng này ẩn kín trong mọi người. Nếu
chúng ta mô tả điều này theo ngôn ngữ Upanishad, đó là dốt
nát, avidya, cái bị gắn vào mọi người - đó là nhân cách hình
bóng của người đó. Giống như đó là ảo tưởng, ảo vọng được
gắn vào Brahman, thực tại tối cao - đó là nhân cách hình
bóng của nó. Ảo tưởng này không đối lập với Brahman, nó
chính là cái bóng, một phần bản chất của sự hiện hữu của nó.
Thế giới này không phải là kẻ thù của Brahman, nó chỉ là cái
bóng của chính sự tồn tại của Brahman. Nếu chúng ta cố
hiểu điều này theo ngôn ngữ khoa học có thể trở nên dễ nắm
bắt hơn, bằng không thì không dễ gì hiểu thấu được hết cả.
Năm 1960, một nhà khoa học đã được giải thưởng Nobel
vì phát minh ra phản vật chất. Đây là một từ rất lạ: phản vật
chất. Phát minh của người này là ở chỗ trong thế giới này có
vật chất và cũng có cái đối lập của nó, phản vật chất.
Mọi thứ đều có cái đối lập của nó. Không cái gì trong thế
giới này tồn tại mà không có cái đối lập nó cả. Chẳng hạn,
nếu có ánh sáng, có bóng tối; nếu có sống, có chết; nếu có
nóng, có lạnh; nếu có đàn ông, có đàn bà. Toàn bộ thế giới
đều tồn tại thông qua nhị nguyên. Bạn có thể quan niệm
được một thế giới chỉ có đàn bà và không có đàn ông không?
Điều ấy không thể được. Bạn có thể quan niệm về một thế
giới chỉ có đàn ông mà không có đàn bà không? Điều ấy
không thể được. Sự phối hợp là sâu sắc đến mức khi trẻ con
được sinh ra, một trăm mười lăm đứa con trai sinh ra và chỉ
có một trăm đứa con gái sinh ra; nhưng đến độ tuổi mười
lăm, mười lăm đứa con trai đã chết và tỉ lệ con trai và con
gái là bằng nhau.
Các nhà sinh vật nói rằng bởi vì con trai yếu hơn con gái
nên tự nhiên phải cho sinh ra nhiều con trai hơn, bởi vì đến
trước độ tuổi mười lăm, tuổi hôn nhân được, thì mười lăm
đứa con trai sẽ chết.
Bạn có thể ngạc nhiên mà biết rằng theo sinh học đàn bà
khoẻ hơn đàn ông. Sức mạnh của đàn ông là cơ bắp; anh ta
có thể mang tảng đá lớn hơn nhưng anh ta không thể mang
nỗi đau lớn hơn. Sức mạnh của đàn bà là ở sức chịu đựng
của cô ấy, cho nên đàn bà có khả năng chống đỡ với bệnh tật
tốt hơn. Và điều đó là cần thiết, bởi vì cần có sức chịu đựng
lớn nhất để sinh con, và cô ấy còn mang đứa trẻ trong chín
tháng.
Nếu đàn ông phải sinh con anh ta chắc đã tự tử từ lâu rồi.
Bạn sẽ không tìm được một người đàn ông nào trên thế giới.

Cưu mang đứa trẻ trong chín tháng bên trong bạn - cứ thử
mang trên vai một đứa trẻ trong chín ngày, thậm chí chỉ chín
giờ thôi, thậm chí chín phút thôi, mà xem! Đấy là việc khó
khăn. Và rồi còn đau đẻ, cái đau sinh nở! Tự nhiên làm cho
người đàn bà có khả năng chịu đựng những cái đau như thế.
Cô ấy mạnh khoẻ, vững chắc. Sức mạnh của cô ấy thuộc vào
kiểu khác. Cô ấy không thể đánh nhau, cô ấy không thể chạy
thật nhanh, nhưng bởi vì điều này không nên coi cô ấy là
yếu. Chiều hướng sức mạnh của cô ấy là khác. Cô ấy có khả
năng lớn.
Cho nên trước độ tuổi mười lăm, tỉ lệ con trai và con gái
là ngang nhau. Tỉ lệ này được duy trì trên toàn thế giới.
Trong chiến tranh, nhiều con trai bị giết chết - chắc chắn, vì
con trai ra chiến trường. Vậy số phần trăm đàn bà tăng lên.
Và sau thời gian chiến tranh tỉ lệ sinh con trai tăng lên và tỉ
lệ con gái giảm đi. Ai có thể lập kế hoạch cho mọi điều này?
Và làm sao mọi điều này xảy tới?
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất hàng trăm nghìn
người đã bị giết. Trong hai đến ba năm của thời kì hậu chiến,
tỉ lệ sinh con trai tăng lên đáng lưu ý và tỉ lệ con gái giảm đi.
Về sau tỉ số của tỉ lệ sinh lắng xuống về bình thường. Điều
này lẩy cò cho suy nghĩ nào đó. Cùng điều này được lặp lại
lần nữa sau chiến tranh thế giới thứ hai. Thế thì người ta
nhận ra rằng tự nhiên giữ cân bằng các phía đối lập từ bên
trong.
Bạn không bao giờ cần nghĩ rằng một ngày nào đó trên
trái đất này sẽ chỉ có ánh sáng mà không có bóng tối. Điều
này không thể xảy ra được. Bóng tối và ánh sáng bao giờ
cũng còn được giữ cân bằng.
Việc khám phá ra phản vật chất dựa trên cùng nguyên lí
này rằng thế giới là cân bằng giữa các phía đối lập. Cho nên
nếu có vật chất, cái đối lập của nó là gì? Và khái niệm của
các nhà vật lí là rất phức tạp. Chẳng hạn, nếu một hòn đá
được giữ trên bàn, chúng ta thấy nó. Khi nó bị lấy đi, chúng
ta không thấy gì trong chỗ của nó nữa.
Bây giờ hình dung rằng trên bàn đó có một không gian
hổng hệt như hình dạng của hòn đá. Khi hòn đá bị lấy đi,
không gian hổng đó vẫn còn đấy và không gian hổng đó là
phản vật chất. Tới giờ không ai đã thấy nó, trừ người đã nhận
giải thưởng Nobel. Và lí do ông ta có thể nhận được giải
thưởng Nobel là ở chỗ ông ta không thể bị chứng minh là sai,
bởi vì khi mọi thứ trong thế giới này đều có phía đối lập của
nó, điều cần thiết là vật chất cũng phải có cái đối lập của nó,
cái có thể bị che giấu đâu đó gần nó. Nó có thể được thấy, nó
có thể không được thấy, nhưng về nguyên tắc không có
phương án nào khác ngoài việc chấp nhận nó.
Ảo vọng là hình bóng của Brahman. Brahman không thể
có đó nếu không có ảo vọng, ảo vọng không thể có đó nếu
không có Brahman. Và chính trên qui mô bao la mà ảo vọng
là hình bóng của Brahman. Bạn có thể gọi nó là phản-
Brahman. Trên qui mô nhỏ hơn của con người, dốt nát là cái
bóng. Dốt nát là ảo vọng trên qui mô con người.
Xung quanh bạn dốt nát tồn tại. Bây giờ cái gì có thể
được làm về nó? Nó có đó cùng với con người. Làm sao từ
bỏ dốt nát? Và nếu đây là định mệnh, nếu có thu xếp trong
vũ trụ để cái đối lập sẽ có đó và nếu thậm chí Brahman đã
không có khả năng vứt bỏ ảo vọng, nếu thậm chí sự tồn tại
tối cao bị bao bọc bởi ảo vọng, làm sao chúng ta, những cá
nhân nhỏ bé tí hon này, có thể vứt bỏ được dốt nát? Brahman
không có khả năng vứt bỏ ảo vọng, vậy làm sao chúng ta có
khả năng vứt bỏ được dốt nát? Và nếu chúng ta không có khả
năng vứt bỏ được dốt nát, thế thì tất cả những nỗ lực của tôn

giáo đều trở thành vô nghĩa.
Không, chúng ta có thể vứt bỏ dốt nát chứ, nhưng để quá
trình này được hiểu. Chúng ta có thể vứt bỏ dốt nát khi
chúng ta sẵn lòng biến mất. Nếu chúng ta không sẵn lòng
biến mất, dốt nát không thể biến mất; nhị nguyên sẽ tiếp tục.
Hoặc cả hai sẽ cùng còn hoặc cả hai sẽ cùng ra đi. Nếu tôi
nói rằng tôi muốn tồn tại nhưng tôi cũng muốn phá huỷ dốt
nát, thế thì dốt nát sẽ không bao giờ bị phá huỷ, nó là cái
bóng của bạn. Điều đó cũng giống như nói rằng tôi muốn
còn lại nhưng tôi muốn cái bóng của tôi biến mất. Nó sẽ
không bao giờ biến mất cả.
Chỉ có một cách và đó là tôi có thể biến mất để cho cái
bóng biến mất. Do đó có biết bao nhấn mạnh vào việc xoá bỏ
bản ngã. Nếu tôi biến mất cái bóng của tôi sẽ biến mất. Khi
tôi biến mất cái bóng của tôi cũng biến mất, và tôi hoà hợp
và trở thành một với Brahman - không như cái ‘tôi’ mà như
cái trống rỗng. Điều gì có thể xảy ra cho dốt nát của tôi? Khi
tôi biến mất, khi tôi hoà vào Brahman, dốt nát của tôi hoà
vào ảo vọng. Tôi biến mất trong Brahman, dốt nát biến mất
trong ảo vọng. Bất kì khi nào tôi được tạo ra, tôi nổi ra từ
Brahman, và dốt nát nổi ra từ ảo vọng. Dốt nát là phần ảo
vọng chung nhỏ bé của chúng ta được trao cho chúng ta,
phần nhỏ bé của mảnh đất ảo vọng được phân cho ta.
Ảo vọng, dốt nát, đem lại khổ và đau. Đây là lí do tại sao
chúng ta muốn gạt bỏ nó. Phải chăng nó không gây ra đau
đớn cho Brahman? Phải chăng Brahman không muốn gạt bỏ
nó? Bởi Brahman không được ngụ ý là người mà là sự tồn tại
bao la, vô hạn này. Phải chăng nó không đau đớn? Phải
chăng nó không muốn gạt bỏ cái đó? Chúng ta cảm thấy đau,
chúng ta muốn gạt bỏ nó đi; Brahman không muốn gạt bỏ nó
đi sao?
Ở mức độ Brahman có chấp nhận toàn bộ. Ở mức độ
Brahman sự tồn tại của ảo vọng được chấp nhận, không có
việc chối bỏ nó. Không có việc chối bỏ nó cho nên không có
đau. Ở mức độ chúng ta có đau; nếu chúng ta cũng chấp
nhận, không có đau.
Khi tôi làm đau tay tôi, cái đau không phải do việc làm
đau mà do ý tưởng của tôi rằng đau đáng ra không nên đến
với tôi. Nếu tôi chấp nhận rằng tôi phải bị đau, rằng việc đau
đó nhất định xảy ra, rằng bị đau là định mệnh của người ta,
thế thì sẽ không có đau. Đau là ở phía đối lập, trong việc
không chấp nhận. Đau là bởi vì chúng ta không thể nào chấp
nhận được nó. Một số người trong chúng ta dám chấp nhận -
như một Janaka, hay một Krishna - họ chấp nhận. Krishna
chấp nhận mọi thứ. Và với việc chấp nhận, không làm điều
gì, dốt nát trở thành ảo vọng, Krishna trở thành Brahman.
Đây là khác biệt giữa con đường của Krishna và Phật
hay Krishna và Mahavira. Mahavira phá huỷ bản thân mình
để cho dốt nát cũng bị phá huỷ. Krishna không phá huỷ bản
thân ông ấy không phá huỷ dốt nát, ông ấy chỉ đơn giản chấp
nhận. Mahavira phá huỷ dốt nát bằng cách phá huỷ bản thân
ông ấy; Krishna trở thành chính Brahman thông qua việc
chấp nhận, ngay lập tức, vì khi Brahman không phá huỷ ảo
vọng và chấp nhận nó, Krishna cũng chấp nhận nó.
Bởi những lí do này chúng ta đã gọi Krishna là hoá thân
toàn bộ. Không có việc không chấp nhận ở đó và do đó có
tính toàn bộ. Ngay cả một không chấp nhận nhỏ nhặt nhất và
không có tính toàn bộ.
Đây là lí do tại sao chúng ta chưa bao giờ gọi Rama là
hoá thân toàn bộ. Chúng ta không thể gọi thế được, bởi vì
trong tâm trí của Rama có nhiều cái không chấp nhận, nhiều
giới hạn, nhiều khái niệm hạn chế. Trong câu chuyện về

Ramayana một thợ giặt nói rằng người đó hoài nghi đạo đức
của Sita bởi vì cô ấy lén đi với Ravana. Rama nghe thấy điều
này và không thể nào chịu đựng nổi việc nghi vấn về đạo
đức của vợ mình... người thợ giặt, và nghi vấn về tính cách
của vợ ông ta? Liệu có thiếu kẻ đần trong thế giới này
không? Bất kì ai cũng có thể nói bất kì cái gì. Và không có gì
chắc chắn rằng những người thợ giặt trong thời của Rama là
những người rất khôn ngoan.
Nhưng nếu ngay cả một người thợ giặt cũng có thể nói,
“Tôi có hoài nghi về Sita,” và có thể nói với vợ người đó,
“Em đã đi suốt cả đêm do đó anh sẽ không cho phép em
được vào nhà - anh không giống Rama...” Vì bao nhiêu ngày
Sita đã bị buộc phải ở tại lâu đài của Ravana trước khi Rama
đánh bại người đó và đem cô ấy về nhà. Lời chế nhạo của
người thợ giặt, “Anh nghĩ tôi là loại người gì? Tôi không
giống Rama,” đã được nói cho Rama và điều đó làm tổn
thương ông ấy sâu sắc, đã tạo ra một chiếc gai trong tim ông
ấy.
Rama không có chấp nhận toàn bộ về mọi việc. Ông ấy
không thể chịu đựng được ý tưởng về việc có vết nhơ trên
tên mình, trên tính cách mình. Ông ấy có thể từ bỏ Sita, ông
ấy có thể tống cô ấy ra, bởi vì ông ấy không thể chấp nhận
điều sỉ nhục này. Cho nên tâm trí người Hindu chưa bao giờ
gọi Rama là hoá thân toàn bộ. Ông ấy được gọi là Maryada
Purushottam, siêu nhân đạo đức; trong loài người chưa bao
giờ có người nào có đạo đức lớn lao hơn.
Nhưng nhớ lấy, siêu nhân đạo đức... trong con người!
Nhưng có giới hạn! Ông ấy rất thuần khiết, nhưng nhấn
mạnh vào thuần khiết nhiều đến mức có sợ về ô uế. Nhưng
Krishna là một kiểu người khác; ông ta không sợ bất kì phỉ
báng nào về bất kì cái gì. Cứ dường như là ông ta làm nỗ lực
để thử và trở thành ngày càng bị phỉ báng hơn. Khác biệt có
thể là gì?
Không có sự không chấp nhận trong Krishna. Bất kì cái
gì có đó đều tốt. Cho nên nhiều hiện tượng lạ thường xảy ra
trong cuộc đời Krishna. Đích xác cùng hiện tượng này đã
xảy ra đó đang xảy ra vô hạn giữa Brahman và ảo vọng -
dường như cái vô hạn giáng xuống một dạng nhỏ hơn trên
sâu khấu nhỏ hơn của con người, và bao quanh nó vở kịch
nhỏ hơn của ảo vọng xảy ra. Trong Krishna có chấp nhận
toàn bộ.
Khi dốt nát được chấp nhận, không cần phá huỷ nó.
Những nơi không có chấp nhận, dốt nát sẽ phải bị phá huỷ.
Nhưng chỉ có một cách phá huỷ nó và đó là bằng cách phá
huỷ cái ta riêng của người ta. Chỉ thế thì nó sẽ bị phá huỷ.
Cho nên con đường của Mahavira và Phật là gian truân.
Nó là cắt bỏ, đập tan, phá huỷ bản ngã. Mọi thứ đều phải bị
đập tan, phá huỷ, từng chút một, từ tận gốc rễ; chỉ thế thì cái
bóng sẽ bị phá huỷ và người ta sẽ gạt bỏ nó.
Con đường của Krishna là con đường của chấp nhận.
Không cái gì bị phá huỷ ở bất kì đâu. Nhưng con đường này
không phải là dễ dàng. Nó có vẻ dễ, nhưng tìm kiếm sâu có
lẽ nó còn tỏ ra thậm chí khó hơn, bởi vì tâm trí không bao
giờ đồng ý chấp nhận. Tâm trí nói, “Điều này phải là vậy,
điều kia không thể thế” - tâm trí chỉ tiếp tục tán gẫu về cái gì
nên thế, cái gì không nên thế. Tâm trí cứ phân chia.
Chỉ có hai con đường trên thế giới. Con đường này là
phá huỷ cả hai và con đường kia là chấp nhận cả hai. Giải
thoát đến từ cả hai con đường.
Có hai thuộc tính: maya, ảo tưởng, cho linh hồn vũ trụ,
và avidya, dốt nát cho linh hồn hiện thân. Khi bỏ hai cái

đó, cái được thấy chính là Param Brahman phúc lạc,
hoàn toàn đúng đắn, ý thức - thực tại tối cao tối thượng.
Khi bỏ hai cái đó... Tôi bảo bạn có hai con đường để từ
bỏ. Một con đường là: bạn dừng, dốt nát dừng. Con đường
thứ hai là: đồng ý, chấp nhận, vứt bỏ ý tưởng đi ra ngoài cái
hiện có - không nghĩ tới việc làm dù một thay đổi nhỏ nhất
trong nó như nó hiện thế. Thế nữa cái còn lại là thực tại tối
cao, phúc lạc, ý thức, đúng hoàn toàn.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#10Bốn bước

Vậy, qua các phát biểu như Tattvamasi, Cái đó là ngươi,
theo đuổi các ý nghĩa như tính mở của jiva, linh hồn hiện
thân, và Brahman, thực tại tuyệt đối, là shravana, lắng
nghe. Và theo đuổi hợp lí ý nghĩa của bất kì cái gì đã
được nghe chính là manan, suy tư.
Việc thiết lập tâm trí ông trong ý nghĩa không thể nghi
ngờ được đạt tới được qua việc lắng nghe và suy tư này,
việc làm hoà hợp với nó là nididhyasan, hấp thu.
Vứt bỏ thiền nhân và việc thiền tương ứng, khi cái được
thiền, mục đích, vẫn còn là mục tiêu duy nhất và tâm trí
trở thành tĩnh lặng như ngọn lửa đèn ở nơi không gió -
điều này được gọi là samadhi, chứng ngộ.

Bốn từ đã được dùng trong đoạn kinh này. Mỗi từ là một
thế giới bên trong bản thân nó. Bốn từ đó là: shravana, lắng
nghe, manan, suy tư, nididhyasan, hấp thu, và samadhi,
chứng ngộ. Trong bốn từ này toàn bộ cuộc hành trình tới
chân lí được bao hàm. Với người có thể hoàn thành được
đúng bốn bước này, không cái gì còn lại để được làm. Chính
xoay quanh bốn từ này mà toàn kỉ luật tâm linh được phát
triển, cho nên việc hiểu rõ từng từ trong bốn từ này, với đủ
mọi sự tinh tế của chúng, là rất có ích.
Từ thứ nhất là shravana, lắng nghe.
Lắng nghe không có nghĩa đơn thuần nghe. Tất cả chúng
ta đều có thể nghe, có tai là đủ để nghe được. Nghe là hiện
tượng cơ giới. Có âm thanh, nó lọt vào tai bạn và bạn nghe
thấy nó. Nhưng lắng nghe không chỉ là điều này. Lắng nghe
nghĩa là nó đã không chỉ được nghe bằng tai, rung động này
đã thấm vào tâm thức sâu bên trong bạn. Cố hiểu điều này
một chút.
Bạn đang đi dọc con đường, nhà của bạn đang bốc cháy
và bạn chạy về phía nó. Người nào đó đi ngang qua đường
lên tiếng chào bạn. Tai bạn sẽ nghe thấy lời đó nhưng bạn sẽ
không nghe. Hôm sau bạn sẽ không có khả năng ngay cả nhớ
được rằng ai đó đã chào bạn trên đường. Khi nhà bạn đang bị
cháy, nếu ai đó đang hát trên đường, tai bạn sẽ nghe nhưng
bạn không nghe.
Nghe bằng tai không phải là lắng nghe bởi bạn. Không
nhất thiết là nếu tai bạn nghe, bạn cũng lắng nghe. Tai là cần
cho việc nghe nhưng chưa đủ; cái gì đó thêm nữa là được
cần tới bên trong. Khi nhà bạn bị cháy, lời chào với bạn
không được bạn nghe thấy. Tại sao? Cơ chế của tai bạn
không thay đổi nhưng chú ý tới tai bị phá vỡ từ bên trong.
Chú ý là với nhà đang cháy. Tai đang nghe, nhưng cây cầu

của chú ý cần để đưa nội dung lên ý thức bị mất, cây cầu đó
đã bị loại bỏ. Nó đang được dùng cho ngôi nhà bị cháy. Cho
nên tai có khả năng nghe nhưng bạn không. Liên hệ, cây cầu
chú ý giữa bạn và tai, bị gẫy.
Lắng nghe nghĩa là cả bạn và tai bạn đều hiện diện, được
nối - thế thì việc lắng nghe xảy ra. Đó là vấn đề khó khăn.
Tạo ra liên hệ với tai là vấn đề của nỗ lực tâm linh.
Lắng nghe có nghĩa là khi bạn nghe, toàn bộ ý thức của
bạn trở thành việc nghe; chỉ có việc nghe còn lại, không có
cái gì khác nữa. Không suy nghĩ nào thoáng qua bên trong,
bởi vì nếu có ý nghĩ thoáng qua bên trong bạn, chú ý của bạn
bị phân tán vào trong việc suy nghĩ và rời bỏ tai.
Chú ý là điều rất tinh tế và nhạy cảm. Chỉ thoáng suy
nghĩ vương vấn bên trong là chú ý đi sang nó. Bạn đang lắng
nghe tôi và một con kiến cắn chân bạn - không cần đến việc
nhà bạn bị cháy - thế thì trong một khoảng thời gian bạn trở
nên nhận biết về con kiến cắn, việc lắng nghe của bạn bị mất.
Việc nghe của bạn vẫn tiếp tục nhưng chú ý đã bị phân tán.
Vấn đề khác với chú ý là ở chỗ nó không thể đồng thời ở
trên hai điều một lúc, nó bao giờ cũng chỉ trên một đối tượng
mỗi lúc. Khi nó chuyển sang đối tượng kia, lập tức nó bị bỏ
khỏi đối tượng đầu. Nó có thể nhảy từ sự vật nọ sang sự vật
kia - và đấy chính là điều chúng ta vẫn làm. Kiến cắn chân,
chú ý chuyển ngay xuống đó; chú ý trở lại và bạn lắng nghe.
Bạn cảm thấy ngứa, chú ý của bạn nhảy tới nó; sau đó nó
quay lại với việc nghe lần nữa. Cho nên có lỗ hổng trong
việc lắng nghe khi chú ý chuyển đi đâu đó khác, và do đó
không mấy sáng tỏ trong nghĩa có thể được thấy từ điều bạn
nghe vì nhiều thứ đã bị mất. Nhiều lần nghĩa được bạn suy
diễn ra theo ý riêng của mình, bởi vì nhiều thứ đã bị mất; và
điều bạn kết luận sau khi lấp vào lỗ hổng đó hoàn toàn là của
riêng bạn.
Tôi đã đọc một cuốn sách do một nữ đệ tử của
Ouspensky viết. Cô ấy viết: "Khi tôi bắt đầu làm việc với
Ouspensky về kỉ luật tâm linh, tôi thấy rất khó hiểu bởi một
điều là ông ấy hay nhấn mạnh lặp đi lặp lại, và tôi không thể
nào thấy được vấn đề bởi vì dường như là không có gì trong
nó đáng nhấn mạnh cả. Tôi cũng không thể nào hiểu được tại
sao một người như Ouspensky lại nhấn mạnh nhiều đến thế
vào một việc nhỏ nhoi như thế này. Con người này tuyệt vời
đến độ nếu ông ấy nhấn mạnh về điều gì đó, hẳn phải có ý
nghĩa nào đó đằng sau. Nhưng trí năng của tôi không thể nào
hiểu thấu được ý nghĩa đó. Và ông ấy sẽ lặp lại điều này năm
mươi lần một ngày."
Một đệ tử có thể tham chiếu điều gì đó Ouspensky đã nói
ngày hôm trước, chẳng hạn, 'Hôm qua thầy đã nói thế này và
thế này,' và Ouspensky lập tức chặn người đó lại và bảo
người đó đừng nói điều này; nhiều nhất người đó có thể nói
rằng đấy là điều người đó đã hiểu thầy đã nói hôm trước.
'Đừng nói rằng đây là điều đã được nói.' Ông ấy sẽ đưa ra lời
lưu ý này cho mọi phát biểu - đừng bao giờ nói "Thầy đã nói
thế,' mà phải nói, 'Tôi hiểu điều này từ điều thầy đã nói!'"
Đệ tử này đã viết, "Chúng tôi hay bị bối rối. Phải nói
trước mọi câu, 'Đây là điều tôi đã hiểu; đây là điều tôi đã
hiểu từ điều thầy đã nói.' Cần gì phải làm như vậy? Tại sao
không đơn giản nói rằng thầy đã nói thế, và vấn đề xong."
Dần dà cô ấy đi tới hiểu rằng có hai điều phân biệt trong đó.
Chỉ những người đã đạt tới nghệ thuật lắng nghe mới có
thể hiểu được điều vừa được nói. Nếu bạn chỉ là việc nghe,
bạn sẽ hiểu chỉ điều bạn có thể hiểu và không hiểu những
điều đã được nói, bởi vì nhiều thứ sẽ bị mất ở giữa. Và cái bị

mất đi đó sẽ được bạn tự lấp đầy bằng ý kiến của mình - vì
không gian trống rỗng bao giờ cũng bị lấp đầy.
Bạn nghe, nhưng giữa chừng nghe, khi chú ý của bạn dời
đi, ai sẽ lấp vào không gian trống rỗng này? Bạn sẽ làm điều
đó. Tâm trí bạn, kí ức bạn, thông tin của bạn, tri thức của
bạn, kinh nghiệm của bạn sẽ tràn vào những lỗ hổng đó. Và
bạn sẽ là người sáng tạo ra hình dạng cuối cùng, điều không
phải là điều đã được nói đúng đắn. Người nói điều đó tận cội
nguồn không chịu trách nhiệm về nó.
Lắng nghe nghĩa là tâm thức dịch chuyển về ngay tai,
không suy nghĩ, không lí trí hay tranh cãi bên trong. Điều
này không có nghĩa là bạn chấp nhận mọi thứ được nói mà
không hiểu. Nhưng chấp nhận không có vai trò gì trong quá
trình lắng nghe cả. Lắng nghe ngụ ý chỉ là lắng nghe thôi;
chấp nhận hay không chấp nhận là vấn đề về sau - không cần
phải vội vàng.
Chúng ta đang làm gì? Chúng ta đang nghe và đồng thời
chúng ta cứ chấp nhận hay bác bỏ. Đầu chúng ta tiếp tục gật
đồng ý hay lắc không đồng ý. Người ta cứ nói, 'Đúng, điều
ấy hoàn toàn đúng." Ai đó khác nói, "Không, điều ấy không
hấp dẫn tôi." Bản thân họ không nhận biết về sự gật đầu liên
tục này và quá trình tâm trí liên tục, nhưng tôi có thể quan
sát được nó.
Điều đó nghĩa là khi tôi nói điều gì đó, trong khi nghe nó
bạn cũng cứ quyết định về nó ở bên trong. Trong lúc bạn
đang quyết định, việc lắng nghe bị lỡ. Bản thân bạn không
nhận biết được rằng đầu bạn đã gật, nhưng bên trong bạn đã
đồng ý với cái gì đó, do đó có gật đầu. Khi tôi nói điều gì đó
không hấp dẫn bạn, đầu bạn cứ lắc phủ nhận, "Không, điều
ấy không hấp dẫn tôi." Đấy không phải là chuyển động của
đầu bạn, đấy là chú ý bên trong của bạn di chuyển. Chính bởi
vì chú ý di chuyển mà đầu cũng di chuyển theo. Trong
chuyển dịch nhỏ bé đó mà việc lắng nghe của bạn bị mất.
Khi người ta nói rằng bạn không nên nghĩ trong khi lắng
nghe, điều đó không có nghĩa là bạn chấp nhận mọi thứ một
cách mù quáng. Không, tại điểm này không có vấn đề chấp
nhận hay bác bỏ, tại điểm này người ta chỉ phải lắng nghe
cho rõ điều đã được nói ra. Bạn phải lắng nghe đích xác điều
đã được nói; chỉ sau đó bạn sẽ có khả năng quyết định liệu
nên chấp nhận hay bác bỏ.
Đem quá trình chấp nhận hay bác bỏ vào trong việc nghe
là bỏ lỡ việc lắng nghe. Nghe nghĩa là chỉ nghe thôi.
Ngay bây giờ chúng ta đang lắng nghe. Ngay bây giờ
chúng ta sẽ không cứ suy nghĩ đồng thời nữa. Tâm trí không
thể làm hai việc một lúc; hoặc bạn nghe hoặc bạn nghĩ.
Những người nghĩ không có khả năng lắng nghe, còn những
người lắng nghe không có cách nào nghĩ đồng thời. Nhưng
chẳng vội vàng gì - suy nghĩ có thể được thực hiện muộn về
sau. Điều phải và đúng là trước hết người ta lắng nghe thế rồi
người ta nghĩ... bởi vì bạn sẽ nghĩ về cái gì? Nếu bạn không
nghe đúng, hay nếu bạn đã thêm cái gì đó của riêng bạn vào
điều bạn nghe, hay nếu có lỗ hổng trong điều bạn vừa nghe,
bạn sẽ nghĩ về cái gì? Bất kì điều gì bạn nghĩ, nó không có
giá trị. Nếu cái gì đó không được nghe đúng, việc suy nghĩ
về nó là vô tích sự. Cho nên bước đầu tiên người thấy đã nói,
là shravana, lắng nghe.
Khi ai đó tới Phật hay khi ai đó tới Mahavira, họ thường
hay hỏi về người đầu tiên trở thành shravaka, người lắng
nghe. Trở thành một shravaka có nghĩa là trở thành người
lắng nghe. Tận đến bây giờ người Jainas vẫn tiếp tục phân
loại theo cùng cách thức: sadhu-sadhvi và shravakashravika.
Nhưng thực sự không có shravaka hay shravika

nào, bởi vì những thuật ngữ này ngụ ý lắng nghe. Một
shravika là người đã đạt tới nghệ thuật lắng nghe. Nhưng
thực ra không có cả shravaka lẫn shravika - người lắng nghe
- mà bây giờ cũng không có ai đáng để lắng nghe nữa.
Bạn đi và nhìn các shravaka và shravika trong các đền
đài mà xem. Thường bạn sẽ thấy họ ngủ - lắng nghe còn xa
xôi lắm. Mệt mỏi và kiệt lực sau cả ngày làm việc, họ nghỉ
và ngủ ở đó. Cho dù họ không ngủ đi chăng nữa, họ chắc
chắn cũng không lắng nghe. Họ đang bận rộn với những náo
động tinh thần và ý nghĩ riêng của họ.
Tâm trí bạn nên hoàn toàn dừng lại, chuyển động của nó
nên dừng lại; chỉ thế thì lắng nghe xảy ra. Lắng nghe là bước
đầu tiên. Và vấn đề được thảo luận càng có ý nghĩa, lắng
nghe càng phải sâu sắc hơn, chỉ thế thì nó mới có thể được
hiểu. Cho nên kinh nói:
Vậy, qua các phát biểu như Tattvamasi, Cái đó là ngươi,
theo đuổi các ý nghĩa như tính mở của jiva, linh hồn hiện
thân, và Brahman, thực tại tuyệt đối,là shravana, lắng
nghe.

Tattvamasi là phát biểu tối cao. Chỉ có ba hay bốn phát
biểu tối cao về chân lí trong thế giới nhưng không có phát
biểu nào cao quí hơn phát biểu này. Tattvamasi nghĩa là, Cái
đó là ngươi, bạn là cái đó. 'Cái đó', tat, chúng ta đã thảo luận
hôm qua xem như một mô tả về Thượng đế. Đó là ý nghĩa
của tattvamasi, rằng 'cái đó' không là gì bên ngoài và xa khỏi
bạn, bạn là cái đó. Điều chúng ta gọi là tat, 'cái đó', tạo ra ấn
tượng về khoảng cách - 'cái đó' là chỉ dẫn về khoảng cách.
Tattvamasi nghĩa là 'cái đó' là bạn, 'cái đó' không xa mà rất
gần, gần hơn bao giờ hết. Chính sự tồn tại của bạn là 'cái đó'.
Đây là phát biểu tối cao. Phát biểu tối cao nghĩa là nếu người
ta khám phá nó đầy đủ, nó sẽ dẫn người ta tới trạng thái tối
thượng. Đây là lí do tại sao chúng được gọi là các phát biểu
tối thượng. Thế thì không kinh sách khác được cần nữa -
không Veda, không Koran không Kinh thánh - Tattvamasi là
đủ.
Nếu người ta thực sự nghe đúng, suy tư, hấp thu và kinh
nghiệm về một phát biểu này, không kinh sách nào khác
được cần nữa.
Phát biểu tối cao nghĩa là phát biểu cô đọng bao quát hết
thảy - tựa như công thức trong hoá học, hay tựa như công
thức tương đối của Einstein, trong đó mọi điều đều được gói
ghém trong hai hay ba từ.
Phát biểu tối cao này là công thức cho hoá học tâm linh.
Có ba điều trong đó: Tat - cái đó, tvam - ngươi, asi - bạn.
Chúng là như nhau, 'cái đó' và 'ngươi' là một, đây là tất cả về
kinh này. Nhưng toàn bộ Vedanta - triết lí của Veda - toàn bộ
kinh nghiệm của người thấy được bao quát bởi ba từ đó. Nó
giống như công thức toán học: 'cái đó', sự tồn tại, Thượng đế,
và 'ngươi', tâm thức ẩn bên trong bạn, không phải là hai điều,
chúng là một. Và điều này là tinh hoa của tất cả Veda, mọi
thứ khác chỉ là việc mở rộng của điều này.
Cho nên trong Upanishad những phát biểu như vậy được
mô tả là những phát biểu tối cao. Từ một phát biểu này, triết
học, bộ môn tâm linh và kinh nghiệm về toàn bộ cuộc sống
được suy ra.
Những phát biểu như thế cần được nghe trong im lặng
toàn bộ. Những phát biểu như thế không nên nghe như người
ta nghe bài hát. Phẩm chất của việc nghe phải rất khác, chỉ
thế thì những phát biểu này mới có thể đi vào lòng bạn được.

Những phát biểu này không thể được nghe theo cách người
ta nghe mọi thứ thoảng qua trên đường.
Đó là lí do tại sao trong hàng nghìn năm những người
thấy ở Ấn Độ cứ nhất quyết rằng tri thức tối cao không nên
được viết ra. Nhất quyết của họ là có giá trị. Nhưng không
thể tiến hành điều này mãi được, nó phải được viết ra.
Nhưng nhất quyết không viết ra tri thức tối thượng vẫn cứ
còn dai dẳng kéo qua hàng nghìn năm. Nhiều người, đặc biệt
là các nhà ngôn ngữ, nghĩ rằng bởi vì không có văn tự,
không có phương tiện để viết mọi thứ ra, đó là lí do tại sao
Veda và Upanishad đã không được viết ra trong thời gian lâu
đến thế. Nhưng suy nghĩ của họ là sai... bởi vì dường như là
không thể nào có chuyện một người có thể đạt tới kinh
nghiệm tầm cỡ Tattvamasi, người có thể đưa ra những phát
biểu tối cao từ kinh nghiệm sống của mình, không có năng
lực phát minh ra được nghệ thuật viết. Việc những người có
thiên tài chạm tới những đỉnh cao ngất như thế của kinh
nghiệm mà không có khả năng phát minh ra được một điều
tầm thường như nghệ thuật viết tạo ra một cảm giác không
phải.
Nghệ thuật viết đã có đó, nhưng họ đã không sẵn lòng
dùng nó. Tại sao? - bởi vì nếu những phát biểu tối cao đó
được viết ra, bất kì ai cũng có thể đọc chúng trong mọi điều
kiện không thích hợp. Và bằng cách đọc chúng, người ta có
thể hình thành nên ảo tưởng là đã hiểu được chúng - bởi vì ai
đó cũng có thể đọc những phát biểu này mà không có loại
trạng thái tâm trí nào đó cần thiết cho việc đọc hay nghe
chúng.
Đâu là khó khăn trong khi đọc 'Cái đó là ngươi'? Ngay cả
học sinh lớp một cũng có thể đọc được nó. Và sau khi đọc
nó, người đó sẽ rơi vào ảo tưởng đã hiểu được nó: "Tốt thôi,
mình là cái đó. Đây là điều câu này ngụ ý, và cái đó là cái
đó." Thế rồi người đó ghi nhớ điều đó, rồi người đó cứ lặp
lại điều đó trong cả đời mình - và toàn thể sự việc bị lỡ. Toàn
thể mục đích của phát biểu này bị lỡ, điều bản chất đã bị mất.
Những phát biểu này xứng đáng được lắng nghe chỉ
trong trạng thái nào đó của tâm trí, với phẩm chất nào đó của
tâm trí, ở chỗ nào đó. Chỉ thế thì chúng mới thấm vào bản
thể bạn. Có nguy hiểm trong việc nghe nó vào bất kì lúc nào,
tại bất kì đâu. Nguy hiểm đó có hai phần: một là, điều đó sẽ
được ghi nhớ và người ta sẽ cảm thấy rằng người ta đã biết
về nó. Và nguy hiểm thứ hai là ở chỗ do cảm giác sai lầm về
việc biết, người ta có lẽ sẽ không bao giờ cố gắng để tạo ra
trạng thái của tâm trí mà những phát biểu này đáng phải
được lắng nghe trong trạng thái đó.
Có mùa vụ, một thời gian đặc biệt, và một khoảnh khắc
thuận lợi cho việc gieo hạt. Và đây là hạt mầm phi thường -
không thể chỉ ném lung tung đi khắp mọi nơi. Đây là lí do tại
sao thầy thường thì thào chúng vào tai của đệ tử. Cố hiểu
điều này đi.
Tất cả chúng ta đều nghe nói rằng các câu mật chú điểm
đạo thường phải được thì thào vào tai của người tìm kiếm.
Điều chúng ta nghĩ là ở chỗ các thầy phải thì thào những câu
mật chú nào đó vào tai đệ tử. Điều đó là vô nghĩa.
Thầy thường trao những hạt mầm tối thượng này cho đệ
tử chỉ khi đệ tử đã trở thành chỉ là cái tai, khi toàn bộ bản thể
của đệ tử đã sẵn sàng nghe, khi người đó không chỉ lắng
nghe qua tai mà bằng mọi thớ thịt trong người, khi toàn bộ
bản thể người đó có đó tụ tập đằng sau lỗ tai, khi chính linh
hồn của người đó, hoàn toàn rút ra khỏi mọi giác quan khác,
đang hoà hợp đằng sau tai - thế thì thầy sẽ truyền điều đó
sang. Thầy nói mỗi điều này: Tattvamasi - 'Cái đó là ngươi'.

Từ ngữ vẫn thế, không có gì thay đổi trong từ ngữ cả, nhưng
đệ tử đang đứng trước thầy, phẩm chất tâm thức của người
đó, năng lực của tâm thức của người đó...
Và thì thào câu mật chú vào tai như thế có ý nghĩa gì
trong việc điểm đạo cho mọi người? Cho đến tận bây giờ,
không biết có bao nhiêu kẻ khờ vẫn cứ tiếp tục thì thào câu
mật chú điểm đạo vào tai của biết bao kẻ khờ khác. Họ
truyền những câu mật chú này vào tai của ai đó mà không hề
bận tâm thậm chí không hề biết 'tai' nghĩa là gì.
Không có gì liên qua đến cái tai vẫn được gắn vào hộp sọ
bạn. Điều mà cái tai ở đây được ngụ ý là cách thức của bản
thể bạn, sự cởi mở trong bản thể bạn, sự hiện diện của một
loại an bình, sẵn sàng lắng nghe, khao khát náo nức, niềm
khao khát nơi toàn thể bản thể người ta sẵn sàng lắng nghe.
Thế thì thầy đơn giản rót những phát biểu tối cao đó vào tai.
Và đôi khi việc xảy ra là chính việc xuyên thấu của lời thốt
ra tối cao như thế đi vào trong đệ tử lập tức trở thành bùng
nổ tối thượng của chứng ngộ.
Có nhiều người đã đạt tới tự chứng ngộ chỉ bởi việc lắng
nghe. Ba bước kia không được cần cho họ. Bạn sẽ ngạc
nhiên mà biết rằng ba bước kia không được cần nữa, rằng chỉ
bằng cách lắng nghe mà người ta đã trở nên chứng ngộ.
Nhưng vấn đề không dễ dàng thế đâu. Bạn có thể nghĩ,
"Nếu có thể trở nên chứng ngộ chỉ bởi việc lắng nghe, thế thì
tại sao mình phải bận tâm làm cái gì khác? Chúng tôi đang ở
đây, chỉ cần thầy thốt ra điều đó cho chúng tôi và chúng tôi
sẽ trở nên chứng ngộ!"
Duy nhất những người có thể trở nên được chứng ngộ
bằng việc lắng nghe là những người có tính toàn bộ được đầu
tư vào việc lắng nghe, khi thậm chí không còn một phần của
họ bị giữ lại, khi người nghe không còn tồn tại chút nào và
chỉ có hành động nghe còn lại; khi thậm chí cảm giác là 'tôi
đang lắng nghe' không còn lại, thậm chí cảm giác 'tôi đây'
không còn có đó; khi người ta đã trở thành chỉ việc nghe...
Khi chỉ quá trình lắng nghe còn lại, khi mọi thứ khác bên
trong đã trở thành hoàn toàn yên lặng, cái không, trong cái
không đó, chỉ tác động này - Tattvamasi, 'Cái đó là ngươi' -
gây ra bùng nổ của bản thể... chỉ tác động này!
Nhưng một điều nữa cũng phải tâm niệm trong kết nối
này - rằng toàn bộ sự chuẩn bị về phần đệ tử hay người tìm
kiếm là ở chỗ người đó phải là cái không; nhưng đồng thời,
bất kì ai đến và thốt ra Tattvamasi, 'Cái đó là ngươi', vào tai
người đó sẽ không có tác dụng. Bất kì ai cũng có thể thốt ra
điều đó; thậm chí không cần đến người để làm điều đó, máy
ghi âm cũng có thể làm công việc thốt ra điều đó.
Nhưng không, điều này sẽ không có tác dụng. Lời nói có
sức mạnh, nhưng sức mạnh đó phụ thuộc vào người nói, nó
không ở trong lời. Nó tất cả phụ thuộc vào việc những ngôn
từ đó được phát ra từ chiều sâu nào, bao nhiêu năng lượng
sống được hàm chứa trong lời đó, bao nhiêu tinh hoa của
kinh nghiệm trực tiếp có trong chúng. Và người nói ra những
lời này cũng phải đã biến mất vào lúc thốt ra chúng. Người
nói đơn giản phải không có đó, tiếng vọng phải ngân lên trực
tiếp từ linh hồn: Tattvamasi. Và người nghe cũng phải không
có đó, tiếng vọng phải đi thẳng tới linh hồn: Tattvamasi, 'Cái
đó là ngươi'. Tại điểm này của gặp gỡ, cho dù không làm gì
nhiều, thế cũng đủ hoàn thành mọi việc... và cách mạng xảy
ra, bùng nổ xảy ra, và người đã là dốt nát bỗng nhiên trở
thành người hiểu biết.
Đã có những sự xảy ra như thế trong lịch sử được ghi lại,
khi nó đã xảy ra chỉ bằng việc nghe. Chúng ta thấy khó tin
được, bởi vì ngay cả với rất nhiều nỗ lực và việc làm điều ấy

không xảy ra cho chúng ta; chúng ta cố gắng theo nhiều
cách, nhưng dầu vậy vẫn cảm thấy rằng không cái gì xảy ra.
Khi gặp gỡ của hai tâm thức như vậy xảy ra - nơi người
nói không có mà chỉ lời được hiển lộ, và nơi người nghe
không có nhưng việc nghe xảy ra - lắng nghe là đủ để khởi
sự cho cuộc hành trình.
Nhưng trùng hợp như vậy khó tìm thấy lắm. Cho dù
trùng hợp như vậy được tìm thấy, khó dùng được nó. Trùng
hợp như thế là chuyện rất tinh tế. Cho nên đệ tử thường ở
gần thầy trong nhiều năm chờ đợi trùng hợp như vậy, khi
thời gian cho một cơ hội như thế có thể tự nó hiện diện và
khi người đó cũng có thể sẵn sàng. Cho nên đệ tử phải cần
đến nhiều năm theo đuổi kỉ luật tâm linh để quen dần cách
giữ yên tĩnh và im lặng.
Svetketu đã tới sống với thầy. Trong nhiều năm thầy
thậm chí không hỏi anh ta tại sao anh ta tới. Svetketu cũng
đã cảm thấy rằng khi đúng thời điểm, thầy sẽ hỏi, cho nên
anh ta chờ đợi. Thầy không hỏi anh ta trong nhiều năm. Câu
chuyện thật hay: yagyagui của thầy, ngọn lửa thiêng liêng
thường cháy suốt ngày đêm, và cái lư giữ ngọn lửa đó – thậm
chí chúng cũng trở nên không kiên nhẫn được nữa... Câu
chuyện quả thực hay: Svetketu đã tới và thậm chí
havankunda – cái lư chứa ngọn lửa thiêng – cũng bắt đầu
thấy ái ngại cho Svetketu. Bao nhiêu năm đã qua từ khi anh
ta tới mà thầy vẫn không hề bận tâm thậm chí hỏi, “Điều gì
khiến con tới đây?”
Svetketu chặt và đem củi về, nhóm lửa, vắt sữa bò, nắn
bóp chân thầy, và khi đêm xuống anh ta ngủ dưới chân thầy.
Tỉnh dậy vào buổi sáng anh ta lại bận rộn với hàng mớ việc
thường ngày. Thậm chí đến ngọn lửa thiêng cháy suốt hai
mươi tư giờ một ngày cũng bắt đầu cảm thấy thương hại:
“Điều gì diễn ra ở đây thế nhỉ? Svetketu không nói lời nào về
phần mình, tại sao anh ta đã tới còn Uddalaka, thầy, không
hỏi tại sao anh ta đến.”
Chờ đợi như vậy, kiên nhẫn như vậy, tĩnh lặng như vậy
làm người ta tự động trở thành người lắng nghe. Dần dần,
dần dần không chỉ có lời nói của thầy mà ngay cả hơi thở của
thầy cũng có thể nghe thấy được; ngay cả nhịp tim của thầy
cũng có thể nghe thấy được trong chờ đợi như thế và im lặng
như thế. Không cần thầy phải nói nữa, ngay cả di chuyển của
thầy cũng có thể nghe thấy được. Và khi đúng khoảnh khắc
tới, thầy nói. Khi đúng khoảnh khắc tới, việc nói xảy ra; thầy
không phải nỗ lực gì để nói cả, đệ tử cũng không phải cố
gắng gì để biết cái gì. Tại đúng khoảnh khắc biến cố xảy ra.
Lắng nghe là bước tiến rất có giá trị. Bạn có thể nhớ
được hai hay ba điều này: một, là bản thân việc lắng nghe
trong khi lắng nghe; quên người nghe đi, chỉ là tai thôi –
được mở rộng khắp thân thể bạn - để cho toàn bộ thân thể
bạn trở thành tai lắng nghe từ mọi hướng. Điều nữa, để có
việc không suy nghĩ; để tâm trí bị cuốn hút hoàn toàn trong
việc lắng nghe và để không ý nghĩ nào thoáng qua.
Tất cả chúng ta đều sợ rằng nếu chúng ta không nghĩ, có
lẽ ai đó có thể để cái gì sai vào tâm trí chúng ta. Ai biết
được, người nào đó có thể làm tan vỡ niềm tin của chúng ta.
Cho nên chúng ta thường tham gia vào việc tự bảo vệ: mình
chỉ để những thứ có thể hữu dụng cho mình đi vào; nếu
chúng không hữu dụng cho mình, mình sẽ không cho chúng
vào.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng các nhà tâm lí học nói
rằng nếu một trăm thứ được nói cho bạn, tâm trí bạn khó mà
để cho năm thứ trong chúng được lọt vào. Chín mươi nhăm
điều còn lại trở ra, không vào được. Và tại sao? Bởi vì niềm

tin của bạn dựa trên quá khứ, chúng được xác định trước. Ai
đó là người Mô ha mét giáo, ai đó là người Hindu giáo, ai đó
là người Jaina giáo và ai đó là người Ki tô giáo. Đấy tất cả
đều bên trong bạn, chính tâm trí bạn được tích lũy từ quá
khứ, ngồi đó bên trong bạn. Toàn bộ thời gian nó vẫn đang
theo dõi: nếu có gì đó hài hoà với một số ý tưởng của bạn,
làm mạnh cho chúng thế thì để nó vào. Nếu nó không thiên
về ý tưởng của bạn, nếu nó không làm mạnh thêm chúng, thế
thì không cho nó vào; dừng nó ngay bên ngoài, hoặc nghe nó
theo cách dường như bạn đã không nghe chút nào; hay nếu
bạn đã nghe nó, đối lập nó ngay lập tức và mãnh liệt để nó
không thể vào nổi.
Chỉ một chút chú ý tới tâm trí mình và bạn sẽ thấy rằng
bạn cứ nói có hay không bên trong vào mọi lúc. Ai là việc
nói có hay nói không bên trong bạn? Đấy không phải là bạn,
đấy là tâm trí mà bạn đã tích lũy được từ quá khứ.
Cho nên tâm trí chọn cái tán thành nó và bác bỏ cái
chống lại nó. Đó là nhiệm vụ khó khăn: đây là tâm trí cái cần
phải bị vứt bỏ và đây cũng là tâm trí cái chọn những điều tán
thành và chống điều không tán thành – cho nên làm sao việc
vứt bỏ này được hoàn thành? Đây là tâm trí cái là kẻ thù của
bạn và kẻ kiểm soát bạn, và đây cũng là tâm trí bạn bắt đầu
vứt bỏ – và nếu bạn bắt đầu vứt bỏ nó với sự giúp đỡ riêng
của nó, thế thì bạn sẽ không bao giờ có khả năng vứt bỏ nó.
Chỉ một chút xíu lo lắng, rằng cái này không hé mở cho bạn
vào ánh sáng của niềm tin của bạn, và lập tức tâm trí bạn
đóng ngay cánh cửa lại. Nó nói, “Không nghe nữa,” “Vứt
béng đi,” hay “Ông cứ chống bên trong đấy.”
Chúng ta thường hay lâm vào việc tự bảo vệ mình cứ
như là trận chiến nào đó đang diễn ra. Trong trường hợp đó
sẽ không có khả năng lắng nghe nào cả, thay vì thế, xung đột
được lẩy cò. Nhưng lắng nghe không có nghĩa là chấp nhận
mù quáng. Lắng nghe không liên can gì tới chấp nhận cả.
Lắng nghe phải có liên quan với việc nghe đúng điều đã
được nói.
Bước thứ hai là manan, suy tư - sau khi nghe điều đã
được nói, suy tư về nó. Suy tư về điều đã được nói sau khi
nghe nó trong tính chân thực của nó là điều kiện đầu tiên cho
suy tư. Nhưng nếu bạn chọn điều bạn thích và suy tư về chỉ
điều đó thôi, đấy không phải là suy tư, đấy chỉ là lừa dối.
Cho nên điều kiện đầu tiên cho suy tư là ở chỗ bạn nghe
mà không nói có hay không – không lên án, không ca ngợi,
không chấp nhận, không bác bỏ, không gì cả; không bình
phẩm, không đánh giá - không ủng hộ không chống đối. Bạn
chỉ nghe một cách yên lặng và tự nhiên điều đã được nói, và
để cho nó chìm vào trong góc sâu thẳm nhất của trái tim bạn
để cho có thể có quen biết với nó, bởi vì suy tư chỉ có thể
xảy ra với cái mà người ta đã quen thuộc.
Đây là khác biệt giữa suy nghĩ và suy tư. Suy nghĩ được
tiến hành về điều gì đó mà chúng ta còn chưa hoàn toàn quen
thuộc. Suy nghĩ là hoạt động trí tuệ với cái mới – thể dục tâm
trí. Suy tư là việc suy ngẫm về cái gì đó đã được hấp thu, cái
đã được đưa vào sâu bên trong người ta. Có khác biệt rất lớn
giữa hai điều này. Suy nghĩ chứa xung đột bên trong bản
thân nó, suy tư chứa thông cảm. Trong suy nghĩ có đương
đầu, trong suy tư có ngẫm nghĩ. Và đấy là những khác biệt
lớn lao. Suy nghĩ có nghĩa là bạn đang đánh nhau với cái gì
đó. Nếu bạn không có khả năng chiến thắng thế thì bạn sẽ
đồng ý với nó, nhưng sẽ có đau trong việc đồng ý đó.
Khi bạn tranh cãi một điểm với ai đó, bạn không có khả
năng biện minh về mặt logic quan điểm của mình và bạn
phải nhận thua, bạn có quan sát cái đau bạn cảm thấy bên

trong mình không? Bạn nhận thua bởi vì bạn không thể cãi
thêm nữa... nhưng bên trong thì sao? Bên trong bạn có cảm
giác rằng nếu không phải hôm nay, thế thì ngày mai, cuối
cùng bạn cũng sẽ lật bàn chống lại người đó và có thể bác bỏ
quan điểm của họ.
Vậy không thể nào biến đổi được bất kì ai trong thế giới
này qua tranh biện, bởi vì tranh biện ngụ ý thất bại. Cho dù
bạn có khả năng chứng minh cái gì đó cho người kia qua
tranh biện, người đó sẽ cảm thấy bị thua – không được biến
đổi, mà bị thua. Người đó sẽ kinh nghiệm thua bại: “Thôi
được, ta không thể đáp lại đúng hay tìm đúng luận cứ hôm
nay, nhưng một ngày nào đó ta có luận cứ đúng và ta sẽ tới
và gặp anh.” Người đó cảm thấy bị thua.
Và nhớ lấy, người bị thua không phải là người được biến
đổi. Bạn có thể làm cho ai đó im lặng qua tranh biện nhưng
bạn không thể biến đổi được người đó theo cách đó. Và điều
đó cũng đúng, rằng không ai sẽ trở nên được biến đổi qua
tranh biện, bởi vì khi hai người tranh cãi điều gì đó, điều đó
không nhất thiết có nghĩa là người thua trong tranh cãi là sai
hay người thắng là đúng. Tất cả điều nó ngụ ý là người thắng
có thể tranh biện tốt hơn còn người thua trong tranh cãi
không thể biện minh tốt được như vậy – không nhiều hơn
điều này được chứng minh.
Cho nên điều tự nhiên là không ai đã bao giờ được biến
đổi và không cuộc cách mạng nào xảy ra trong đời người ta
bằng tranh biện. Việc bị thua về tranh biện chỉ làm đau cho
bản ngã người ta, và bản ngã bị tổn thương này muốn báo
thù. Tranh biện chỉ là cuộc đấu.
Trong suy nghĩ có vật lộn bên trong. Bất kì cái gì bạn
nghĩ tới, bạn đang đánh nhau với nó; cuộc vật lộn bên trong
đang tiếp diễn. Bạn động viên tất cả kí ức quá khứ của mình
và mọi ý nghĩ quá khứ để chống lại nó. Nếu bạn vẫn bị thua
bạn chấp nhận, nhưng trong chấp nhận đó đau đớn, cay đắng,
gai đâm được kinh nghiệm. Chấp nhận này là do bất lực của
bạn. Không có vui vẻ xảy ra trong chấp nhận này; đoá hoa
bên trong của bạn không nở do chấp nhận này, mà khô héo
đi. Cho nên, bởi tất cả những suy nghĩ mà mọi nhà tư tưởng
đang tiến hành trên khắp thế giới, bạn sẽ không thấy niềm
vui của vị phật trên khuôn mặt họ.
Tại sao, khác biệt là gì?
Bạn sẽ không tìm thấy nhân cách thoải mái của
Mahavira trong những người suy nghĩ. Trên khuôn mặt của
người suy nghĩ bạn sẽ thấy những nếp nhăn lo âu, không
phải là hoa của suy tư. Trên trán của người suy nghĩ những
nếp nhăn sẽ hằn sâu thêm theo thời gian. Mọi nếp nhăn trên
trán sẽ được phát biểu sâu sắc – sau tất cả những gì người đó
đã làm lụng vất vả trong cả đời. Nhưng cái xảy ra cho một
Phật hay một Mahavira, việc nở hoa đó sẽ không được thấy.
Suy nghĩ là gánh nặng, bạn bị oằn lưng mang nó. Người suy
nghĩ trông lo âu. Không có khác biệt về chất giữa suy nghĩ
và lo lắng. Mọi suy nghĩ đều là một dạng của lo lắng. Bất ổn
ẩn giấu đằng sau nó, căng thẳng, bởi vì có vật lộn bên trong,
xung đột, trận chiến. Cho nên người suy nghĩ theo thời gian
người đó trở nên già đi, oằn lưng bởi sức nặng, bởi sức nặng
vô cùng của suy nghĩ của người đó.
Hiện tượng ngược lại xảy ra với Phật và Mahavira. Khi
họ càng già đi, cái gì đó bên trong họ cứ trở nên trẻ trung
hơn; cái nhìn tươi tắn của họ tăng lên.
Đây là khác biệt giữa suy nghĩ và suy tư.
Suy nghĩ bắt đầu với logic, suy tư bắt đầu với lắng nghe.
Suy nghĩ bắt đầu với vật lộn, suy tư bắt đầu với lắng nghe.
Lắng nghe là cảm nhận, nơi không có vật lộn. Đây là khác

biệt giữa suy nghĩ và suy tư. Suy nghĩ bắt đầu với xung đột
bởi vì cơ sở của nó là trong logic. Không có thông cảm ở đó;
đối lập, thù địch, tranh biện là cơ sở của nó. Chính sự kiện
suy tư bắt đầu bằng lắng nghe chỉ ra thông cảm là cơ sở ở đó.
Thông cảm nghĩa là gì? - cân nhắc đồng cảm. Bất kì cái
gì chúng ta đang nghĩ, hay trong bất kì kết nối nào chúng ta
đang nghĩ, chúng ta làm như vậy với tình yêu và đồng cảm
lớn lao.
Cái gì là khác biệt về chất giữa suy nghĩ và suy tư? Khi
bạn đang xem xét điều gì đó với đồng cảm, toàn thể ước
muốn bên trong của bạn là cảm thấy rằng, “Bất kì điều gì
mình đã nghe đều có thể đúng. Và nếu nó đúng, nó có thể có
ích cho mình nữa chứ?” Cho nên trước hết bạn cố gắng tìm
những điểm đúng. Khi bạn suy nghĩ, bạn bắt đầu từ niềm tin
rằng bất kì điều gì bạn đã nghe đều sai, cho nên trước hết bạn
cố tìm ra những điểm sai.
Hiểu điều đó theo cách này. Một người đang đứng gần
một luống hoa hồng: nếu người đó đang nghĩ, người đó trước
hết sẽ đếm gai; nếu người đó đang suy tư, trước hết người đó
sẽ đếm hoa hồng. Điều này tạo nên khác biệt nền tảng - bạn
bắt đầu từ đâu.
Một người trước tiên đếm gai, thái độ đối lập của người
đó là hiển nhiên. Người đó trước tiên sẽ đếm gai, và hàng
nghìn gai sẽ được tìm thấy. Và trong khi đếm gai, một số gai
sẽ đâm vào tay người đó, máu sẽ chảy ra. Việc bị đâm bởi
gai ấy, số gai và máu chảy từ tay người đó, tất cả sẽ trở thành
cơ sở cho sự đối lập với hoa hồng. Và khi người đó đã đếm
hàng nghìn chiếc gai và có thể một hay hai hoa hồng sẽ được
thấy, tâm trí người đó sẽ nói, “Những hoa này chỉ là lừa dối,
chúng không thật, bởi vì nơi có nhiều gai thế, làm sao hoa có
thể thanh tao được? Đây là ảo tưởng.”
Điều đó là tự nhiên, điều đó sẽ cho cảm giác đúng. Nơi
có nhiều gai thế, gai có khả năng gây ra chảy máu, làm sao
những hoa này có thể nở ở đấy được? Điều đó là không thể
được. Và cho dù người đó có đồng ý rằng quả là có hoa ở đó,
người đó sẽ nói, “Chúng không có giá trị gì; giữa hàng nghìn
cái gai một hai đoá hoa có giá trị gì? Dường như đấy là âm
mưu của những chiếc gai, để cho hàng nghìn cái gai vẫn còn
trong thế giới với cái cớ chỉ để có một đoá hoa. Đây là lừa
dối. Hoa này là mặt nạ che cho gai. Hoa này là kẻ tham dự
vào âm mưu của chúng.”
Người bắt đầu suy tư về hoa trước hết sẽ chạm vào hoa.
Bàn tay người đó tràn đầy hương thơm của hoa, mắt người
đó sẽ được tràn đầy mầu sắc của hoa. Vẻ thanh tao của hoa
sẽ sawcn có cho cái chạm của người đó, cái đẹp của hoa sẽ
vây quanh người đó từ mọi phía. Thế rồi người đó sẽ tiến tới
gai - sau khi đã thấy hoa, sau khi đã biết và sống với hoa,
người đó đã rơi vào tình yêu. Bây giờ khi người đó tiến tới
gai, chúng sẽ có phẩm chất hoàn toàn khác.
Người tiếp cận tới gai sau khi hiểu hoa sẽ hiểu rằng gai
là để bảo vệ hoa - chúng không phải là kẻ thù của hoa, chúng
không chống lại hoa. Cùng dòng nhựa cây chảy tới hoa cũng
chảy tới gai. Và gai là để bảo vệ hoa. Người thấy được hoa,
người đã có khả năng thấy được hoa một cách đúng đắn cho
dù chỉ một hoa... cả nghìn gai cũng sẽ mất tầm quan trọng
với người đó, bởi vì sự hiện diện của một hoa là đủ đưa cả
nghìn gai thành không quan trọng. Và nếu một hoa có thể nở
giữa bao nhiêu là gai đó là phép màu không thể có được; thế
thì điều không thể cũng có thể xảy ra. Và nếu một hoa có thể
nở giữa biết bao nhiêu gai nhọn, người đó sẽ thấy một điểm
là nếu người đó nhìn sâu hơn, có lẽ những gai đó cũng có thể
chứng tỏ không gì ngoài hoa.

Suy tư bắt đầu với đồng cảm, suy nghĩ bắt đầu với đối
lập. Nếu hoàn cảnh lắng nghe được đáp ứng đồng cảm được
nảy sinh.
Nếu đồng cảm được nảy sinh, chính dòng suy nghĩ quay
một trăm tám mươi độ và trở thành suy tư. Suy tư không có
nghĩa là chấp nhận một cách mù quáng. Cho nên người thấy
đã nói: ... theo đuổi hợp lí ý nghĩa của bất kì cái gì đã được
nghe chính là manan, suy tư.
Không ai cần phải nghĩ rằng suy tư nghĩa là chấp nhận
một cách mù quáng. Lắng nghe không có nghĩa là chấp nhận
mà suy tư không có nghĩa là chấp nhận, lí trí phải được dùng.
Nhưng việc dùng lí trí cũng thay đổi. Lí trí bản thân nó là
trung lập. Chẳng hạn, có một lưỡi kiếm trong tay tôi... Bây
giờ lưỡi kiếm là trung lập: nếu tôi muốn tôi có thể lấy mạng
của ai đó hoặc tôi có thể cứu mạng ai đó - lưỡi kiếm là trung
lập. Lí trí là trung lập, nhưng có các mẫu hình khác, và tác
động của lí trí có thể thay đổi. Nếu tâm trí đầy những thù
nghịch, đối lập và đương đầu, lí trí trở thành bạo hành. Nếu
tâm trí tràn đầy đồng cảm, lắng nghe, tình yêu, tìm kiếm và
khát khao chân lí, lí trí trở thành một lưỡi kiếm bảo vệ. Lí trí
trong nó là không xấu.
Cho nên ở nước này chúng ta đã chấp nhận hai kiểu lí trí:
một, lí trí tích cực; kiểu kia, lí trí tiêu cực. Lí trí tiêu cực
cũng là lí trí. Đôi khi lí trí tiêu cực thậm chí dường như còn
logic hơn lí trí tích cực, bởi vì lí trí tiêu cực có góc cạnh, góc
cạnh sắc nét, cái có khả năng cắt đứt và giết chết.
Cho nên lí trí tiêu cực đôi khi dường như là logic sâu sắc.
Làm sao bạn phân biệt được cái gì là lí trí tích cực và cái gì
là lí trí tiêu cực? Đây là khác biệt: rằng nếu lí trí là trong việc
đi tìm cái thiện và chân lí - nó đầy đồng cảm, bắt đầu từ hoa
và thế rồi chuyển tới gai...
Khi tôi nói điều gì đó với bạn, quan sát từ chỗ bạn bắt
đầu. Tôi ngạc nhiên bao nhiêu lần: tôi nói liền một giờ, thế
rồi sau đó ai đó đến với tôi và bất kì điều gì tôi đã nói trong
giờ này đã không tới được người đó, người đó bị mắc vào
trận chiến chống lại chỉ một điều. Người đó vớ lấy một điểm
và đi tới đối lập với nó. Bất kì cái gì khác đã được nói trong
giờ này người đó đều không nhớ, chỉ quẩn quanh với một
điều tí hon này. Và cả điều ấy nữa người đó dứt nó ra ngoài
hoàn cảnh của nó. Nó có nghĩa trong hoàn cảnh này; bị dứt
ra khỏi hoàn cảnh nó sẽ mang một ý nghĩa hoàn toàn khác.
Nhưng người đó chỉ nghe điều đó. Người đó phải đã sẵn
sàng chỉ cho điều đó thôi. Người đó phải đã chuẩn bị để tìm
ra cái gì đó sai ở đâu đó.
Nếu bạn đang nghe tôi chỉ để tìm ra cái gì đó sai bạn sẽ
không bao giờ có khả năng chuyển vào trong suy tư được.
Nhớ lấy, dù bạn có thể phát hiện ra bao nhiêu cái sai,
điều đó không bao giờ trở thành sự giúp đỡ cho trưởng thành
bên trong của bạn. Bạn có thể chỉ ra bao nhiêu vị trí của mọi
cái sai rõ ràng thế nào cũng không thành vấn đề - bạn có thể
đi tới biết mọi cái sai trên toàn thế giới - vẫn không trưởng
thành bên trong nào có thể xảy ra cho bạn qua nó.
Người đang tìm kiếm và quan tâm tới trưởng thành của
mình không bận tâm tới việc tìm ra cái gì là sai, người đó
bận tâm tìm ra cái gì là đúng. Người đó bắt đầu với cái đúng.
Và người bắt đầu với cái đúng một ngày nào đó có thể đạt tới
điểm từ đó người đó hiểu ra rằng cái dường như sai cũng có
nghĩa nào đó, cũng có giá trị nào đó. Vậy điều dường như sai
trước đây có thể dường như đúng sau này. Khác biệt chỉ là ở
chỗ nhấn mạnh.
Lí trí tiêu cực tìm kiếm cái sai, nó bắt đầu cuộc hành
trình từ đó. Lí trí tích cực bắt đầu với cái đúng.

Bạn đưa Koran cho ai đó đọc; nếu người đó là người
Hindu, người đó sẽ không thấy gì có ý nghĩa trong Koran,
mọi thứ trôi qua không được người đó chú ý. Người đó sẽ
gạch dưới ngay mọi cái không đúng theo người đó, rồi đem
đoạn kinh đến cho bạn và nói, “Trông đây này! Tôi luôn luôn
nói rằng Koran không phải là kinh sách tôn giáo!” Hay bạn
đưa Gita cho người Mô ha mét giáo, người đó cũng sẽ chỉ
ngay đích xác cái gì là sai trong đó. Và nếu bạn muốn học
nghệ thuật này, học nó từ nhóm chính thống Hindu, nhóm
Arya Samajis. Họ là các chuyên gia trong việc tìm ra cái gì
sai và sai ở đâu. Không người nào khác chuyên gia được như
họ. Giữ tâm trí đừng trở thành như người Arya Samaji đi, chỉ
thế thì suy tư mới có thể trở nên có thể được. Bằng không
suy tư là không thể được bởi vì bạn vẫn đang tìm kiếm cái
sai, và cái sai sẽ được tìm thấy đầy. Sau rốt, đâu là sự hiếm
hoi của gai? Nhưng gai phục vụ cho mục đích gì? Bạn có
định chuẩn bị một vòng gai không, và đeo nó quanh cổ mình
không?
Mục đích, mối quan tâm là với hoa, không phải với gai.
Cho nên nếu có lí trí tích cực, hoa sẽ được lượm lặt từ
Koran nữa - và những hoa này không thua kém gì hoa của
Gita. Nếu có lí trí tích cực, hoa sẽ được nhặt từ trong Gita
nữa - và những hoa này cũng không thua kém gì hoa trong
Koran hay Kinh thánh cả.
Người suy tư là đang tìm kiếm hoa, người suy nghĩ đang
tìm kiếm gai. Bạn phải tự mình quyết định. Nhưng nhớ một
điều, rằng bạn sẽ trở nên bị bao bọc bởi những cái bạn đang
tìm kiếm.
Nếu bạn tìm gai, bạn sẽ được bao quanh bởi gai, nếu bạn
tìm hoa, bạn sẽ được bao quanh bởi hoa.
Cho nên nhớ rằng bằng cách tìm kiếm gai bạn không làm
hại bất kì ai ngoài bản thân mình, bởi vì bạn sẽ nhận được
điều bạn tìm kiếm. Cuộc sống trở thành địa ngục bởi vì bạn
bị vây quanh bởi mọi người sai; không ai dường như là
người đúng. Và không phải bởi vì không có người đúng mà
bởi vì việc tìm kiếm của bạn hướng về những người sai.
Bạn nói với ai đó rằng người nào đó là người thổi sáo kì
tài. Người đó liền nói, “Nó biết thổi sáo gì? Nó là thằng ăn
cắp, kẻ bịp bợm. Làm sao nó có thể thổi sáo được?”
Bây giờ mâu thuẫn nào tồn tại giữa kẻ ăn cắp hay kẻ bất
lương và người thổi sáo? Người đó có thể là bất lương,
nhưng ai nói rằng kẻ bất lương không hay không thể thổi sáo
được? Ai tạo ra liên hệ này? Trong kẻ ăn cắp, hoa thổi sáo
cũng có thể nở chứ. Trộm cắp là gai, thổi sáo sẽ là hoa. Khi
hoa có thể nở giữa gai, tại sao kẻ cắp không thể thổi sáo
được?
Nhưng không, điều ấy làm hại tới việc chấp nhận rằng ai
đó có thể làm điều gì đó tốt. Chúng ta lập tức sẽ kết án người
đó: “Nó là kẻ cắp, kẻ bất lương - làm sao nó có thể thổi sáo
được?”
Thái độ của người đang suy tư sẽ khác. Nếu bạn nói với
người đó rằng một người thế nọ thế kia là kẻ bất lương và kẻ
cắp, người đó sẽ nói, “Có thể, nhưng người đó là người thổi
sáo cực hay.”
Đây là khác biệt của chọn lựa. Và khi một người thổi sáo
tuyệt vời đến vậy, ngay cả việc là kẻ cắp hay là kẻ bất lương
của người đó bắt đầu trở nên đáng ngờ. Khi một người là kẻ
cắp hay kẻ bất lương như thế, khả năng thổi sáo của người
đó bắt đầu trở nên đáng ngờ. Bất kì cái gì chúng ta bám chặt
vào, nó ảnh hưởng đến thứ khác nữa.

Cái gì là nhu cầu xác định xem một người là bất lương
hay kẻ cắp? Nếu chúng ta muốn hàng xóm mình là kẻ cắp và
bất lương, thế thì chúng ta sẽ tìm thấy người đó là vậy. Hay
nếu chúng ta muốn hàng xóm mình là người thổi sáo giỏi,
chúng ta nên nhìn về điều đó. Trong cuộc sống cả hai điều
đều có đó. Đêm có đó, ngày cũng có đó; và cái tốt có đó, cái
xấu cũng có đó.
Đừng nghĩ rằng cõi trời ở đâu đó bên ngoài trái đất này
hay rằng địa ngục là ở đâu đó xa xôi với trái đất này; nó là
trong mắt bạn thôi. Trên ngay chính trái đất này mọi người
sống trong cõi trời, và cũng ngay chính trên trái đất này mọi
người đang sống trong địa ngục. Điều bạn tìm kiếm trở thành
thế giới của bạn.
Suy tư bắt đầu cuộc hành trình với hoa - với đồng cảm.
Nó không vội vã tấn công vào vào cái sai, trước hết nó đồng
hoá cái đúng. Và khi cái đúng được đồng hoá hoàn toàn, chỉ
thế thì nó phản ánh điều đã dường như là sai trong quan sát
thứ nhất.
Và nhớ lấy, khác biệt thực của biến chuyển này trong
thái độ chỉ bắt đầu được thấy về sau. Người suy tư trưởng
thành dần, đâm chồi dần; đồng hoá cái đúng, bản thân người
đó trở thành đúng. Và người thường xuyên tìm kiếm cái sai,
thường xuyên đồng hoá cái sai, bản thân người đó trở thành
sai. Người thấy chỉ bất lương, trộm cắp và sai sót ở người
khác không thể vẫn còn là người lương thiện lâu dài được.
Sự thực là ở chỗ người như vậy không thể là người lương
thiện ngay chỗ đầu tiên.
Thực tại kẻ cắp không thể tin được người khác không là
kẻ cắp - hay có thể là kẻ cắp? Không, người đó không bao
giờ tin người khác không là kẻ cắp. Chính mẫu hình suy nghĩ
của kẻ cắp trở thành mẫu hình kẻ cắp. Người đó lập tức tìm
và thấy phẩm chất kẻ cắp trong người khác nữa. Kẻ đồi bại
không thể tin được rằng bất kì người nào có nhân cách.
Người đó không thể chấp nhận được việc đó. Chính kinh
nghiệm của người đó trở thành cản trở trong việc tin vào
điều đó.
Đây là điều rất thú vị: không kẻ đồi bại nào có thể tin
rằng ai đó là vô dục. Người đó đơn giản không thể tin được!
Điều này là phải thôi, bởi vì nếu ai đó thực sự vô dục, người
đó nữa cũng không thể tin rằng ai đó khác có thể bị đồi bại.
Nhưng điều thú vị là ở chỗ không chỉ người đồi bại không
bao giờ tin rằng bất kì ai là vô dục, mà người vô dục cũng
không tin rằng bất kì ai là người vô dục.
Thế thì đây là sự việc rất có vấn đề. Kẻ đồi bại không tin
rằng bất kì ai có thể là vô dục là điều logic, bởi vì “Khi mình
đã không có khả năng là người như thế, làm sao bất kì ai
khác có thể như thế được?” Nhưng khi người vô dục cũng
không sẵn sàng tin rằng người khác có thể là vô dục, tình
huống của người đó trở nên đáng ngờ; thế thì người đó nữa
không phải là vô dục. Kinh nghiệm bên trong riêng của
người đó chỉ là ở chỗ mọi người đều nói chuyện về vô dục,
vân vân những thứ như thế chỉ là hời hợt, có đồi bại bên
trong. Người đó, do đó, không tin nữa.
Nếu bạn bắt gặp bất kì thánh nhân nào, người coi những
người khác là phi thánh, bạn có thể chắc chắn rằng bản thân
người đó chưa có khả năng trở thành thánh được. Chính ý
nghĩa của việc trở thành thánh là ở chỗ, đối với người đó,
toàn bộ thế giới đều trở thành thánh ngay lập tức. Đối với
người đó toàn bộ mọi thứ đã thay đổi, bởi vì góc nhìn của
người đó đã thay đổi. Khi người ta trở thành thánh nhân bên
trong, tại mọi nơi trên thế giới này người đó đều thấy tính

thánh thiện, tính tốt lành, bởi vì cái ở bên trong là cái được
thấy ở bên ngoài.
Nếu bạn đang chỉ thấy cái xấu trong mọi người, nếu
trong mọi người bạn thấy kẻ cắp, sự bất lương và ác, thế thì
gạt chúng sang bên đi và lo về bản thân bạn ngay đi. Điều
được thấy bên ngoài là bên trong bạn đấy. Đó là cái bạn có
khả năng thấy. Đó là cái được thấy ngay, bởi vì cái đó rơi
vào hoà điệu với cái bên trong ngay lập tức.
Suy tư bắt đầu với phía sáng của cuộc đời. Suy nghĩ bắt
đầu với phía tối của cuộc đời. Nếu bạn có thể nhớ được điều
này, lí trí vậy sẽ là điều kì diệu; thế thì suy nghĩ và logic sẽ
rất có ích. Thế thì lí trí có thể được dùng toàn tâm toàn ý. Và
thế thì lí trí sẽ không có hại, nó trở thành có ích, thân thiện.
Việc thiết lập tâm trí ông trong ý nghĩa không thể nghi
ngờ được đạt tới được qua việc lắng nghe và suy tư này,
việc làm hoà hợp với nó là nididhyasan, hấp thu.

Bạn lắng nghe phát biểu tối cao ‘Cái đó là ngươi’, bạn là
Brahman. Bạn lắng nghe nó toàn tâm toàn ý, thế thì với đồng
cảm bạn suy nghĩ về nó, ngẫm nghĩ về nó, tìm kiếm ý nghĩa
đúng đắn của phát biểu này, nhiều, nhiều kết luận của nó.
Bạn đã dò tìm chiều sâu cố hữu của nó từ nhiều, nhiều góc
độ, chạm chúng, nếm chúng, đắm chìm bản thân mình trong
chúng, suy tư và thế rồi thấy rằng điều đó là đúng.
Nó chắc chắn được thấy là đúng bởi vì những người đã
nói nó đều đã nói nó sau khi đã đạt tới nó. Đây không phải là
kết luận được đạt tới bởi những người suy nghĩ, đây là lời
của những người đã trải nghiệm. Đây không phải là phát
biểu của những người đã suy nghĩ và suy nghĩ và thế rồi
quyết định nó là như vậy, đây là điều gợi ý từ những người
đã biết nó, đã đắm chìm trong nó và đã tìm ra.
Họ nhất định tìm ra. Nếu lắng nghe và suy tư kĩ, họ dứt
khoát sẽ tìm ra nó là đúng. Nếu nó đúng, thế thì trở nên được
hoà hợp với nó là nididhyasan, hấp thu. Nếu đúng là “Tôi là
Brahman,” thế thì bắt đầu sống như Brahman là nididhyasan,
hấp thu. Trong việc làm của bạn, trong hành vi của bạn, trở
nên được hoà hợp từ mọi phía; thế thì làm nỗ lực để cho vẫn
còn không phân tách giữa bạn và cái là đúng, bởi vì nếu phát
biểu này là đúng, thế thì “tôi bị sai lầm.”
Chỉ có hai khả năng: hoặc bạn đúng, thế thì phát biểu
này là sai; hoặc nếu phát biểu này là đúng thì bạn là sai. Và
giả định thông thường của chúng ta là gì? Cố hiểu điều này
một chút. Giả định của chúng ta bao giờ cũng là “mình là
đúng.” Đây là vấn đề của chúng ta. Cái rắc rối, cái lo âu, cái
buồn khổ lớn nhất của cuộc đời chúng ta là ở chỗ chúng ta
hành động với niềm tin rằng “mình là đúng.” Đây là điểm
bắt đầu của chúng ta trong mọi thứ, rằng “mình là đúng.”
Chúng ta kiểm tra mọi thứ dựa trên cơ sở này. Đây là hòn đá
thử của chúng ta, rằng “mình là đúng.” Bây giờ bất kì cái gì
không khớp với bạn đều là sai.
Vấn đề này phải được quyết định, người tìm kiếm phải
quyết định rằng ý nghĩ ngu xuẩn này “mình là đúng” không
trở thành bước khởi đầu. Nếu bạn là đúng, không tìm kiếm
nào là cần.
Điều này rất thú vị. Một người đàn bà hôm qua lại chỗ
tôi: cô ấy bảo tôi rằng quãng hai mươi năm trước đây cô ấy
đã được một swami điểm đạo, rằng luồng hoả xà kundalini
cũng đã thức tỉnh nhưng không có an bình chút nào, cô ấy rất
bất ổn.

Nếu luồng hoả xà đã thức tỉnh, làm sao bất ổn này có đó
được? Và nếu bất ổn có đó, xin chấp nhận rằng luồng hoả xà
vẫn còn đang ngủ và không thức tỉnh.
Nhưng không, người ta đồng thời nói từ hai phía. Nếu
bạn là đúng, nếu bạn nghĩ bạn biết, thế thì chẳng cái gì còn
lại để tìm kiếm, vấn đề xong rồi. Mọi người đều hành động
với tự phụ rằng “mình là đúng,” và rồi nói, “tôi muốn đi tìm
chân lí.” Nếu một người đi tìm chân lí, quyết định phải rõ
ràng trước ý thức là “tôi không biết.” Chỉ như thế thì mới có
thể tìm kiếm được. Khi tôi không biết, việc đi vào chân lí của
tôi mới là điều có thể; nếu tôi biết từ ngay ban đầu thì bản
thân chân lí sẽ dường như sai, bởi vì khi một người biết niềm
tin rằng mình biết, người đó không bao giờ thấy được chân lí
như nó vốn có.
Chính cách làm việc của tâm trí là ra đi với giả thiết rằng
“mình là đúng” - ý tưởng của tôi, quan điểm của tôi, tôn giáo
tôi, kinh sách của tôi là đúng. Nếu bạn bắt đầu từ “mình là
đúng,” thì không cần gì phải bắt đầu hết cả; bạn đã đạt tới
đích, bạn không cần tạo rắc rối bây giờ nữa. Mà bạn sẽ tìm
đâu ra được mục tiêu? Bạn đang đứng trên mục tiêu rồi. Bạn
là mục tiêu.
Điều này phải được làm rõ ra: nếu cái điên khùng về “tôi
biết” đã từng chiếm lĩnh người ta, vấn đề xong rồi, không
tìm kiếm gì cần được tiến hành.
Chính ý nghĩa của việc tìm là ‘tôi không biết.” Có khổ
sở, phiền não, đau đớn và căng thẳng: “Tôi đang có vấn đề,
bị bệnh, và bị bao quanh bởi bệnh của tôi; tôi không là gì
ngoài tổ hợp của tất cả những bệnh này.” Ra đi với niềm tin
như thế là tìm kiếm.
Và đây cũng là thực tại nữa. Bạn không là gì khác hơn
một tổ hợp những bệnh - một bọc chứa đủ loại bệnh. Và mọi
người đều là nhà phát minh, người đó phát minh ra bệnh
riêng của mình. Và ngay cả bên trong những bệnh này, người
đó vẫn khăng khăng trong cảm giác rằng “mình là đúng.”
Hấp thu nghĩa là: người ta thấy rằng phát biểu tối cao
này là đúng. Người ta lắng nghe, suy ngẫm về nó và thấy
rằng nó là đúng. Tâm trí đã thấy ra sự kiện về cái đúng của
nó, tâm thức đã bắt đầu nhận ra sự kiện về cái đúng của nó;
bây giờ việc tạo khuôn bản thân bạn theo điều đó chính là
hấp thu - bắt đầu sống với cái tỏ ra là đúng.
Và nhớ lấy, một khi cái gì đó được thấy là đúng, thế thì
không có gì khó khăn trong việc sống nó. Khoảnh khắc nó
được thấy việc sống bắt đầu. Ai đưa tay vào lửa một cách có
chủ ý? Chỉ trong dốt nát tay mới đưa vào lửa. Ai làm điều
xấu một cách có chủ ý? Chỉ trong dốt nát điều xấu mới được
làm. Ai mời chào điều điên khùng một cách có chủ ý? Chỉ
trong dốt nát điên khủng mới được mời vào. Một khi bạn bắt
đầu thấy được cái gì là đúng, chính thoáng nhìn đó sẽ bắt đầu
biến đổi bạn từ bên trong - mọi rung động của bạn sẽ dần bắt
đầu hài hoà với điều bạn đã thấy.
Hoà điệu này, điều hoà này được gọi là hấp thu.
Ngay cả sau điều này, nếu hài hoà không xảy ra hay nó
dường như khó khăn, người tìm kiếm bây giờ biết rằng khó
khăn là thuộc về phần mình. Cho nên người đó làm tan chảy
mình thêm nữa. Nếu cuộc hành trình dường như là phức tạp,
người đó biết rằng đấy là cái phức tạp của mình. Cho nên
người đó cố gắng gỡ rối bản thân mình.
Nhưng nếu người này bắt đầu với khái niệm về việc
mình đúng lấy hai bước và không thấy kết quả gì tới, người
đó nghĩ rằng khái niệm ‘Ngươi là cái đó’ bản thân nó là sai...
cho nên từ bỏ nó.

Mọi người tới tôi... hôm qua một người bạn tới: anh ta đã
thiền lần đầu tiên ngày hôm qua, và ngày hôm qua anh ta nói
với tôi rằng không có gì xảy ra cả.
Có giới hạn cho ngu xuẩn của con người không? Trong
thế giới này ngu xuẩn và Brahman là hai điều duy nhất
dường như vô giới hạn; dường như không có giới hạn cho
chúng.
Anh ta mới chỉ tới đây hôm qua, lần đầu tiên. Buổi sáng
anh ta phải đã nhảy lên nhảy xuống chút ít, và buổi trưa anh
ta tới tôi nói rằng không cái gì đã xảy ra tới lúc đó. Anh ta
nói, “Dường như không có bản chất gì trong phương pháp
này cả. Không cái gì xảy ra cho tôi cho tới giờ.”
Tôi hỏi anh ta rằng anh ta đã thực hiện phương pháp này
được bao nhiêu kiếp rồi.
Người đó nói, “Tôi mới tới hôm nay. Không có vấn đề
đến các kiếp khác.”
Cho phương pháp này ít ra cũng một cơ hội nhỏ để làm
việc đi. Có chút ít khoan dung về phương pháp đi, cho nó
một cơ hội nào đó.
Con người ra đi với giả định bản thân mình là đúng. Cho
nên bất kì chỗ nào bất kì khó khăn nào xuất hiện, người khác
phải sai. Người đó giữ cái đúng của mình không suy suyển
và tiến hành cuộc hành trình. Thế thì bạn sẽ phải lang thang
hết lần sinh này đến lần sinh khác; không cái gì sẽ gắn lại với
nhau, bởi vì hoà hợp là nỗ lực lớn. Nó sẽ không xảy ra như
vậy, bởi vì những ước định của kiếp nọ đến kiếp kia ở trong
nền tảng; bạn sẽ phải phá vỡ chúng. Cho dù bạn tới xem hôm
nay - bỗng nhiên, rõ ràng, trong một khoảnh khắc - cái gì là
đúng, dầu vậy chân bạn vẫn đưa theo thói quen bước; thân
thể bạn có thói quen, tâm trí bạn có thói quen, có mạng lưới
dài những thói quen.
Mạng lưới đó sẽ không bị phá vỡ đột nhiên hôm nay đâu.
Người ta sẽ phải làm việc vất vả để phá vỡ mạng lưới đó.
Vấn đề không phải là ở phương pháp, vấn đề là về bạn.
Bất kì phương pháp nào cũng có tác dụng, nhưng bạn... Chú
ý về nó đi, toàn thể cuộc đời chúng ta là thói quen. Từ việc
nhỏ cho tới việc lớn, mọi thứ đều là thói quen. Có một hàng
dài những thói quen này và ý thức của chúng ta được huấn
luyện để trôi theo gắn bó vào và đi theo cùng lối mòn. Cho
dù bỗng nhiên hôm nay chúng ta thấy rằng con đường cũ là
sai, con đường mới phải được tạo ra để đi theo nó. Và nhớ
lấy, bạn sẽ phải tạo ra lối mòn sâu hơn lối mòn cũ cho dòng
suối lấy con đường mới, để thay đổi sang con đường khác.
Nhưng chỉ bằng suy nghĩ của bạn rằng điều gì đó là đúng,
không cái gì sẽ được giải quyết.
Hấp thu nghĩa là bất kì cái gì đã được lắng nghe và được
hiểu là đúng, cuộc đời người ta cũng phải được biến đổi
tương ứng. Sẽ cần có thời gian để hài hoà với nó. Tâm trí sẽ
tạo ra cản trở, thân thể sẽ tạo ra chướng ngại - tất cả những
thứ này sẽ xảy ra. Nhưng một khi con đường đúng đã được
thấy thế thì cần có dũng cảm để ném bản thân bạn hoàn toàn,
theo mọi khía cạnh, vào cuộc hành trình này. Thế thì ngồi lại
sẽ không có tác dụng.
Nếu ngôi sao dẫn đường đã được thấy - dù nó có thể xa
xôi đến đâu - nếu ngôi sao đã được thấy, thế thì lao tới cuộc
hành trình đi. Và đừng bắt đầu nghĩ rằng bây giờ bạn đã
bước một bước và bạn còn chưa đạt tới được ngôi sao, rằng
bạn đã bước hai bước và bạn vẫn chưa tới được ngôi sao.
Đừng bị bận tâm. Cho dù với hai bước này, bạn cũng đã tới
gần hơn; hai bước này bạn đã qua không phải là điều nhỏ. Có

nhiều người đơn giản ngồi lì đấy suốt cả đời; họ thậm chí
chưa buồn đứng dậy, họ đơn giản đã quên mất rằng người ta
thậm chí còn phải đứng lên, rằng người ta thậm chí còn phải
bước.
Phật đã nói, cứ bước đi. Không có bận tâm về những sai
lầm bạn có thể phạm phải. Rằng bạn bước đi là đủ. Bạn đã
bước đi, bạn đã phạm sai lầm, chúng ta sẽ sửa chúng. Bạn đi
lạc lối - đừng lo, ít nhất chân bạn cũng đã làm chuyển động
nào đó. Hôm nay bạn lạc đường, ngày mai bạn sẽ quay lại
theo đường đúng. Phật nói, chỉ có một sai lầm và đó là việc
bạn không bước chút nào mà cứ tiếp tục ngồi lì đấy.
Mặc dầu người ngồi đấy không bao giờ phạm phải sai
lầm nào. Làm sao người ta có thể phạm phải sai lầm khi chỉ
ngồi lì một chỗ? Trong thế giới này sai lầm bị mắc phải bởi
những người chuyển động, những người làm cái gì đó.
Làm sao những người không làm gì và những người chỉ
ngồi đấy phạm phải sai lầm được? Họ là những người tuyệt
đối không sai lầm. Nhưng chỉ có một sai lầm thực duy nhất
trong thế giới này là cứ ngồi yên một chỗ.
Đứng dậy và đi vào cuộc hành trình của điều cảm thấy là
đúng đi. Cho dù nó tỏ ra sai vào ngày mai, ít nhất vẫn có một
điều lợi, là bạn đã học bước đi. Và một khi bạn đã học bước
đi, ngày mai hướng đúng cũng có thể được tìm thấy. Hướng
đi không phải là điều thực, cái thực là khả năng đi, năng lực
bước đi.
Nididhyasan, hấp thu, là nỗ lực để trở nên hoà hợp. Nó là
một từ kì diệu.
Việc thiết lập tâm trí ông trong ý nghĩa không thể nghi
ngờ được đạt tới được qua việc lắng nghe và suy tư này,
việc làm hoà hợp với nó là nididhyasan, hấp thu.

Bây giờ tâm trí chúng ta nên trở nên hoà hợp với bất kì
cái gì đã được hiểu thông qua lắng nghe. Không nên vẫn còn
như một thoáng nhìn, nó nên trở thành toàn bộ tâm trí của
chúng ta. Nó không nên còn lại là một ý nghĩ trong nhiều ý
nghĩ, nó nên trở thành chính tâm trí chúng ta.
Chẳng hạn, một người nhân tính chất sannyas, người từ
bỏ. Bây giờ tính chất sannyas có thể được nhận khi nó là
quyết định trí tuệ, ý tưởng; nó dường như đúng, nó có nghĩa
- cho nên người ta lấy tính chất sannyas. Nhưng nó vẫn chỉ là
một ý nghĩ trong tâm trí, cũng như có hàng nghìn ý nghĩ
khác, cho nên chưa hoà hợp nào sẽ được sinh ra. Dần dần,
dần dần mầu sắc của cái đã đi vào người ta như một ý nghĩ
riêng lẻ sẽ lan trên mọi ý nghĩ.
Điều được ngụ ý trong việc nói lan rộng trên tất cả các ý
nghĩ là ở chỗ ngay cả trong khi ăn bữa ăn... cũng phải có
khác biệt nổi bật giữa một sannyasin ăn và một phàm nhân
ăn. Cái đượm mầu của sannyas thậm chí còn phải lan rộng
trên hành động ăn. Sannyasin phải ăn theo cách dường như
là người đó không ăn, sannyasin phải bước đi theo cách
dường như người đó không bước đi, sannyasin phải đứng
dậy dường như là người đó không đứng dậy; người đó phải
vứt bỏ mọi việc làm.
Một dạng của tính chất sannyas là điều được lấy ra theo
con đường của ý nghĩ, và một dạng khác là khi toàn bộ cuộc
đời người ta trở nên hoà hợp với nó; thế thì chính tâm trí này
trở thành sannyasin.
Cho nên Phật đã nói, thậm chí khi một sannyasin ngủ...
người ta phải có khả năng phân biệt được giữa một sannyasin
ngủ và một phàm nhân ngủ. Chính phẩm chất, chính cách
thức của giấc ngủ của một sannyasin phải thay đổi, bởi vì

tâm trí của bất kì ai đã hoàn toàn được chuyển hoá, cái bóng
của nó, cái đượm mầu của nó, cái rung động của nó phải lan
rộng trên mọi hành động của người đó. Nó nhất định lan
rộng.
Vậy hấp thu xuất hiện không phải như ý nghĩ mà như
hoà hợp. Và...
Vứt bỏ thiền nhân và việc thiền tương ứng, khi cái được
thiền, mục đích, vẫn còn là mục tiêu duy nhất và tâm trí
trở thành tĩnh lặng như ngọn lửa đèn ở nơi không gió -
điều này được gọi là samadhi, chứng ngộ.

Samadhi là việc xảy ra tối thượng. Ba điều đầu tiên là
các bước hướng tới nó, bước thứ tư là bản thân samadhi. Bên
ngoài điều đó thế giới từ ngữ không tồn tại. Bên ngoài điều
đó không còn thế giới lời nói nữa. Chỉ tới samadhi không cái
gì có thể được nói ra. Cái đó là ở ngoài lời nói, không cái gì
đã bao giờ được nói về nó và không cái gì sẽ bao giờ được
nói về nó.
Bất kì ai đứng tại cửa của samadhi đều đi tới thấy cái là
vô hình, đi tới biết cái là không thể biết được, gặp cái mà
không có nó cuộc đời là toàn khổ, toàn đau đớn, toàn tủi cực.
Cái là không thể biết được trở thành được biết và cái là bí ẩn
được hiển lộ ra và phơi ra. Mọi phức tạp vỡ tan, tâm thức trở
thành một với chân lí trong bầu trời mở của nó.
Samadhi là cái gì đó đến sau hấp thu đối với người đã
hoà hợp tâm trí mình với những lời phát biểu tối cao như
Tattvamasi, “Cái đó là ngươi’, Aham Brahmasmi, ‘tôi là
Brahman’, Soham, ‘ta là cái đó’. Người có tâm trí và hành vi
đã trở thành sự diễn đạt của những lời phát biểu này, người
trong những chuyển động của mình có giai điệu ‘Cái đó là
ngươi’, người trong những chuyển động của mình có cử chỉ
và chỉ dẫn rằng người đó đang đi tới hoà hợp với Brahman -
người như vậy có khả năng đạt tới samadhi.
Khi thiền nhân và việc thiền cả hai đều mất đi, chỉ còn
cái được thiền, mục tiêu, còn lại - đây là samadhi.
Để chúng ta hiểu điều này. Có ba từ: thiền nhân, việc
thiền và cái được thiền - mục tiêu. Chẳng hạn, ‘Cái đó là
ngươi’ là mục đích, cái được thiền. Chúng ta đang cố gắng
lĩnh hội lời phát biểu tối cao này. Đây là mục đích. Điều này
đáng đạt tới, chỉ điều này xứng đáng đạt tới. Đây là mục
đích, đây là đích đến cuối cùng. Thế thì ‘tôi’, thiền nhân, là
người đang nghĩ về mục tiêu này, là người đang suy tư về
mục tiêu này, người đang khao khát mục tiêu này, người
đang khát khao mục tiêu này; người đang hăm hở đạt tới
mục đích này... Đây là tôi, thiền nhân - tâm thức chuyển
hướng tới mục đích này. Và khi thiền nhân chạy xô về mục
đích này, khi tất cả những việc chạy đua khác đều dừng lại
và chỉ mỗi việc chạy này của tâm thức hướng tới mục đích
này còn lại, điều này được gọi là việc thiền.
Khi mọi luồng tâm thức bắt đầu chảy hướng về mục đích
thống nhất và không chảy tách bạch thành hàng chục luồng
nữa, khi chúng được hội nhập thành một, khi tâm thức trở
thành một luồng duy nhất và bắt đầu chảy hướng về mục
đích, liên tục - bay thẳng tựa mũi tên - tâm thức này được gọi
là việc thiền.
Samadhi - Upanishad nói rằng khi việc thiền chìm vào
trong mục đích không để lại thậm chí một dấu vết của năng
lượng sống lại sau, khi toàn bộ năng lượng và toàn bộ tâm
thức của thiền nhân trở thành một với mục đích, khoảnh khắc
tới khi thiền nhân thậm chí không nhận biết rằng ‘tôi đây’.
Một khoảnh khắc tới khi thiền nhân thậm chí không nhận

biết rằng việc thiền có đó, rằng chỉ có Tattvamasi, chỉ có
mục đích, là còn lại. Trạng thái đó được gọi là samadhi, khi
cả ba không có đó - thiền nhân, việc thiền và cái được thiền -
khi không có cả ba mà chỉ cái một còn lại.
Để điều này được hiểu thêm một chút, bởi vì các bộ môn
tâm linh khác nhau đã chọn lựa khác nhau về cái nào trong
ba điều này cuối cùng cần phải còn lại.
Upanishad nói rằng cái được thiền, mục đích, nên còn
lại; thiền nhân và việc thiền nên mất đi. Mahavira nói rằng
thiền nhân nên còn lại, việc thiền và cái được thiền nên mất
đi; chỉ còn linh hồn, ‘tôi’ thuần khiết nên còn lại. Điều ấy tất
cả dường như mâu thuẫn. Sankhya, con đường bất nhị, nói cả
thiền nhân và cái được thiền nên mất đi; chỉ có việc thiền là
nên còn lại, chỉ có tâm thức là nên còn lại - chỉ nhận biết.
Dường như là cả ba cách quan niệm này là những phát
biểu rất mâu thuẫn, nhưng chúng không mâu thuẫn nhau chút
nào cả. Các học giả bao giờ cũng có những cuộc tranh cãi
lớn, tranh cãi buồn cười. Họ đã từng tranh cãi kịch liệt, và
những cuộc tranh cãi này nhất định nảy sinh. Những người
chỉ hiểu lời sẽ tranh cãi rằng ba điều này là những phát biểu
mâu thuẫn nhau.
Upanishad nói rằng chỉ cái được thiền là nên còn lại, ai
đó khác nói thiền nhân nên còn lại, và rồi người nữa lại nói
việc thiền nên còn lại. Thế thì thực sự samadhi là gì? Có
samadhi của ba loại không? Hơn nữa, nếu samadhi là khi chỉ
có mục đích, cái được thiền còn lại, thế thì làm sao cái đó có
thể là samadhi khi chỉ có thiền nhân còn lại? Cho nên điều
đó sẽ phải được quyết định xem cái nào là samadhi đúng.
Hai trong chúng sẽ sai, chỉ một cái có thể đúng.
Học giả sống theo lời, không theo kinh nghiệm. Kinh
nghiệm có hương vị hoàn toàn khác về nó: tất cả ba điều này
là một và cùng một. Tại sao? Bởi vì có một điều rất thú vị về
ba điều này, đó là khi bất kì hai trong ba điều này biến mất
và chỉ một điều còn lại, thế thì tên cho điều còn lại là chất
liệu bề ngoài đến mức bạn có thể tuỳ ý đặt tên cho nó.
Ngay bây giờ có ba điều này - thiền nhân, việc thiền và
cái được thiền. Với người tìm kiếm, với người tìm kiếm đã
tới trạng thái hấp thu, có ba điều này. Khi ba điều này biến
mất và chỉ một điều còn lại, thế thì người đó chọn cho nó bất
kì một cái tên nào trong ba điều đó. Chọn lựa này hoàn toàn
mang tính cá nhân, nó không tạo ra khác biệt gì về cái tên
nào bạn đặt ra cho nó. Nếu bạn muốn bạn có thể chọn thậm
chí cái tên thứ tư cho nó. Nhiều người theo Upanishad thực
ra đã cho nó cái tên là ‘cái thứ tư’; cho nên cả ba điều trước
đều mất, không còn lại gì mà tranh cãi... Bởi vì nếu bất kì
một trong ba điều đó được chọn, nếu hai điều bị vứt bỏ chỉ
để giữ lại một điều, điều ấy có vẻ được thiên vị, cho nên họ
gọi nó là turiya, cái thứ tư.
Họ không đặt cho nó một cái tên nào, chỉ gọi nó là ‘cái
thứ tư’, cho nên không còn tranh cãi gì nảy sinh. Nhưng
những người đang đi tìm tranh cãi không có vấn đề, họ nói
rằng chỉ có ba điều này, điều thứ tư từ đâu tới? Cái nào là
điều thứ tư này? Điều nào trong ba điều này là điều thứ tư?
Hay tất cả ba điều này tan biến và cái thứ tư này là hoàn toàn
khác với chúng, hay nó là tổ hợp của cả ba điều này? Điều
thứ tư là gì?
Điều đó không tạo ra khác biệt gì - những người muốn
tranh cãi, họ lấy ra bất kì cái gì để bắt đầu một luận cứ.
Nhưng người quan tâm tới việc tìm kiếm thực sự, cuộc hành
trình của người đó là khác toàn bộ.
Từ ba điều này, Upanishad đã chọn cái được thiền là cái
còn lại; Mahavira chọn thiền nhân là cái còn lại; Sankhya,

con đường của bất nhị, nói đó là việc thiền còn lại. Nhưng tất
cả những điều đó chỉ là cái tên.
Một điều là chắc chắn, rằng chỉ một trong ba là còn lại.
Tên tất cả đều nhân tạo, bạn có thể cho nó bất kì cái tên nào.
Chỉ nhớ một điều, là khi chỉ có một điều còn lại, có samadhi,
chứng ngộ. Chừng nào vẫn còn lại hai điều biết rõ là cả ba
điều vẫn còn đó, bởi vì chừng nào hai điều còn lại, điều thứ
ba, gắn với chúng ở giữa, là điều phải có.
Một mình hai điều không thể còn lại, hai bao giờ cũng có
nghĩa ba. Cho nên những người luôn luôn nghĩ theo kiểu
toán học không gọi thế giới là dwaita, nhị nguyên, họ gọi nó
là traita, tam nguyên, bởi vì khi có hai điều thứ ba nhất định
có đấy, bằng không ai sẽ kết hợp hay phân tách hai điều này?
Điều thứ ba trở thành không thể tránh khỏi khi đã có hai
điều. Ba là cách thức của sự tồn tại.
Đây là lí do tại sao chúng ta đã tạo ra trimurti, bức tượng
ba mặt biểu thị cho Brahma, Vishnu và Mahesh: đó là chỉ
dẫn về bộ ba, rằng thế giới được tạo nên từ ba. Nhưng ba
khuôn mặt là của cùng một người, chính là “cái thứ tư.” Bạn
đi vào qua bất kì một trong ba khuôn mặt này và khi bạn đạt
tới bên trong, ba khuôn mặt này không còn nữa. Nhưng
người tìm kiếm sẽ chiêm ngưỡng khuôn mặt qua đó người đó
đã vào. Một số người tìm kiếm có thể đi vào qua Brahman,
một số qua Vishnu và một số qua Mahesh; mỗi người sẽ đặt
tên cho kinh nghiệm theo khuôn mặt mà người đó đã đi vào.
Cho nên người đó sẽ nói điều thứ tư phải là Vishnu hay
Mahesh hay Brahma. Nhưng sau khi đạt tới bên trong, tất cả
ba khuôn mặt đó đều mất. Không có chỗ bên trong, mọi thứ
có đó là một.
Bộ ba này không chỉ là bức tượng, nó là kết luận của nỗ
lực tối thượng của chúng ta trong việc tìm kiếm.
Ba là ở ngay trước bước nhảy chung cuộc; chúng vẫn
còn đó - thiền nhân, việc thiền và cái được thiền. Và từ bất kì
điều nào trong ba điều này đều tạo nên bước nhảy, mà một
còn lại. Bất kì cái tên nào bạn muốn đặt cho nó, đấy là tuỳ
bạn; tên không tạo ra bất kì cái gì khác biệt. Nếu bạn không
muốn đặt tên cho nó, điều đấy là tuỳ bạn. Nếu bạn muốn gọi
nó là ‘cái thứ tư’, càng hay. Nếu bạn không muốn gọi nó là
gì và bạn còn im lặng, điều đó là tốt nhất.
Nghe: biến nghe thành lắng nghe. Nghĩ: biến suy nghĩ
thành suy tư. Suy tư: đưa đến kết luận và để các kết luận trở
nên được hấp thu, cho phép hoà hợp.
Và cho phép hoà hợp không đơn thuần là hoà hợp, để
cho nó cuối cùng trở thành cái một.
Hiểu khác biệt này. Hoà hợp có nghĩa là hai vẫn còn; qua
hài hoà, hoà hợp đã xảy ra giữa hai điều, vậy mà hai vẫn còn
lại. Cái một nghĩa là hai mất đi và chỉ hài hoà còn lại.
Hoà hợp là hấp thu; cái một là samadhi, tỉnh thức.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#11Cơn khát của linh hồn

Trong samadhi, các đối tượng của kinh nghiệm không
tách biệt với linh hồn, do đó chúng không được kinh
nghiệm. Nhưng kinh nghiệm vinh quang này của người
tìm kiếm, người đã đi ra từ samadhi, được suy diễn thông
qua việc hồi tưởng của tâm trí.
Trong thế giới vô thuỷ này, hàng triệu hàng triệu nghiệp,
dấu ấn hành động được tích luỹ. Tất cả chúng đều bị
samadhi này phá huỷ và pháp thanh tịnh, bản tính tự
nhiên trưởng thành.
Những người biết về yoga gọi nó là Dharmamegha - đám
mây mưa pháp - samadhi, bởi vì nó trút xuống dòng suối
cam lồ pháp, bản tính tự nhiên, tựa như đám mây mưa.
Trong samadhi này, mạng lưới ham muốn tan biến hoàn
toàn và những tầng dầy nghiệp tích tụ, dù đức hạnh hay
tội lỗi, đều bị nhổ bật mọi gốc rễ tại chính ngọn nguồn
của chúng.
Ban đầu, phát biểu vô hạn này - Tattvamasi, Cái đó là
ngươi - là đúng, chỉ được nhận ra một cách gián tiếp; thế
rồi tri thức trực tiếp, tựa như quả myrobalan trên lòng
bàn tay, được sinh ra.

Sáng nay chúng ta đã nói về lắng nghe, suy tư, hấp thu và
samadhi. Samadhi, chứng ngộ, là chỗ tận cùng của thế giới
trong bạn và là chỗ bắt đầu của chân lí. Samadhi là cái chết
của tâm trí và cái sinh của linh hồn. Nhìn từ đầu này samadhi
là bước cuối cùng, nhìn từ đầu kia samadhi là bước đầu tiên.
Tâm trí cứ trơ nên bị thu lại và tan biến ngày càng nhiều
qua lắng nghe, suy tư và hấp thu; trong samadhi, nó bị tan
biến hoàn toàn. Và khi tâm trí đã hoàn toàn tan biến, có bắt
đầu kinh nghiệm về chúng ta thực sự là gì. Kinh này là về
samadhi đó. Và trong kinh này là một số điều rất sâu sắc cần
được hiểu.
Trong samadhi, các đối tượng của kinh nghiệm không
tách biệt với linh hồn, do đó chúng không được kinh
nghiệm. Nhưng kinh nghiệm vinh quang này của người
tìm kiếm, người đã tới samadhi, được hàm ý thông qua
việc hồi tưởng của tâm trí
Để điều đầu tiên này được hiểu bằng sự chăm chú đầy đủ
của bạn. Nếu không phải hôm nay, thế thì ngày mai điều đó
sẽ có ích cho những người đang thiền. Không có kinh
nghiệm trong samadhi. Bạn sẽ băn khoăn khi nghe điều này.
Không thể có bất kì kinh nghiệm nào trong samadhi, và vậy
mà samadhi là kinh nghiệm tối thượng. Đây là một phát biểu
ngược đời; nó có vẻ mâu thuẫn, nhưng có một số lí do cho
nó. Trong samadhi phúc lạc tối thượng được kinh nghiệm,
nhưng người tìm kiếm người đang trong samadhi không đi
tới biết nó bởi vì người tìm kiếm và phúc lạc đã trở thành
một, và không có khoảng cách giữa hai điều này xảy ra.
Chúng ta đi tới biết chỉ những điều tách biệt với chúng
ta, ở một khoảng cách nào đó với chúng ta. Việc nhận ra,

kinh nghiệm về phúc lạc trong samadhi không được cảm
thấy trong samadhi. Khi người tìm kiếm đi ra khỏi trạng thái
samadhi, người đó suy diễn rằng phúc lạc đã xảy ra; đấy là
nhận thức muộn mằn rằng phúc lạc tối thượng đã xảy ra,
rằng nước cam lồ đã mưa rào xuống. Rằng người ta đã sống
trong một chiều khác, rằng người ta đã kinh nghiệm trạng
thái sâu sắc hơn nào đó của cuộc sống - tất cả những điều
này chỉ được nhớ lại về sau khi tâm trí quay lại.
Chúng ta hãy hiểu điều ấy theo cách này. Lắng nghe, suy
tư, hấp thu và samadhi - đây là bốn bước. Chính qua những
bước này mà người tìm kiếm đạt tới cánh cửa của chứng ngộ
và nhận ra. Nếu người tìm kiếm không có khả năng bước ra
khỏi samadhi và vẫn còn trong nó, người đó sẽ không bao
giờ có có khả năng kể lại kinh nghiệm của mình cho bất kì
ai. Thế thì đơn giản không có cách nào kể lại kinh nghiệm
của người ta.
Nhưng bất kì người tìm kiếm nào đạt tới trạng thái
samadhi không bao giờ trở lại là cùng người đó nữa; người
đó trở lại là một người hoàn toàn mới. Khi quay trở lại mọi
mối quan hệ đều thay đổi trong tâm trí người đó; tuy nhiên,
người đó không trở lại trong tâm trí. Trước đây, khi người đó
quen sống trong tâm trí, người đó là nô lệ của tâm trí, người
đó không làm chủ bất kì cái gì; tâm trí có khả năng bắt người
đó làm bất kì cái gì nó muốn. Người đó phải đồng ý với bất
kì cái gì tâm trí sai khiến, người đó phải chạy theo bất kì cái
gì tâm trí làm cho người đó chạy theo. Đó là cảnh nô lệ cho
tâm trí; tâm trí cầm cương linh hồn trong tay nó.
Khi người tìm kiếm trở về từ cánh cửa của samadhi vào
trong tâm trí, người đó trở về như người chủ. Bây giờ dây
cương là trong tay người đó. Bây giờ người đó chuyển tâm
trí đến nơi người đó muốn chuyển nó tới. Nếu người đó
không muốn chuyển nó đi đâu, người đó không chuyển nó.
Nếu người đó muốn nó hoạt động, người đó làm cho nó hoạt
động, bằng không thì thôi. Bây giờ tâm trí không có quyền
hành riêng của nó. Nhưng người tìm kiếm đã đạt tới samadhi
có thể nhớ mọi thứ chỉ sau khi người đó trở về tâm trí - tất
nhiên, như người chủ của nó lần này. Bởi vì kí ức chỉ là khả
năng của tâm trí, đó là lí do tại sao người đó có thể nhìn lại
qua tâm trí để xem điều gì đã xảy ra.
Điều này có nghĩa là tâm trí ghi không chỉ các sự kiện
của cuộc sống đời thường mà còn ghi lại cả điều đang xảy ra
khi người tìm kiếm bước vào samadhi. Tâm trí là tấm gương
hai phía. Trong nó thế giới bên ngoài được phản ánh, trong
nó thế giới bên trong được phản ánh. Cho nên chỉ khi người
tìm kiếm trở về với tâm trí người đó có khả năng kinh
nghiệm điều đã xảy ra. Nếu người đó trở về qua cùng ba
bước, chỉ thế thì người đó mới có thể diễn tả được nó.
Trong khi trở về từ samadhi, bước đầu tiên của người
tìm kiếm sẽ là hấp thu. Chính tại bước hấp thu người đó sẽ
bắt đầu kinh nghiệm điều người đó đã biết trong samadhi
dưới dạng vi diệu, ở mức sâu sắc, tại trung tâm tối thượng
của riêng mình. Người đó sẽ bắt đầu thấy nó được phản ánh
trong hành vi của riêng mình. Khi người đó nhấc chân, sẽ
cảm thấy dường như nó không phải cùng chân cũ nữa; chân
sẽ có một loại vũ điệu của nó. Khi người đó ngước mắt lên
và nhìn, mắt sẽ cảm thấy dường như chúng không còn là
cùng mắt cũ nữa mà tươi tắn trong sáng như giọt sương sớm.
Khi tỉnh dậy người đó sẽ cảm thấy dường như phi trọng
lượng, dường như người đó có thể bay trên trời. Khi người
đó ăn người đó sẽ thấy rằng thức ăn đang đi vào thân thể
mình và bản thân người đó chưa từng ăn.

Bây giờ bất kì cái gì người tìm kiếm vừa trở về từ
samadhi làm trên bước đầu tiên của hấp thu, sẽ có phản ánh
của samadhi trong hành vi của người đó; ở mọi nơi hành vi
của người đó sẽ có duyên dáng mới. Con người đó của ngày
hôm qua chết thôi. Người đó không còn là cùng người đã có
đó trước samadhi, đứng bên trong biên giới của hấp thu.
Bước này là vẫn thế, nhưng người trèo xuống là khác. Người
đó đã trở về có việc biết về cái gì đó, và người đó đã trở về
bằng việc biết một điều là toàn bộ cuộc đời người đó được
biến đổi. Và trong việc biết này con người cũ đã chết và con
người mới được sinh ra.
Tại bước hấp thu người đó sẽ thấy rằng điều đã xảy ra
trong samadhi được phản ánh. Phần tinh tuý chảy bên trong
người đó sẽ được thấy chảy ra theo mọi hướng trong hành vi
người đó, từ mọi tế bào của người đó.
Mahakashyapa hay tới hỏi Phật khi nào samadhi sẽ xảy
ra. Phật bảo ông ta đừng bận tâm, và rằng ông ta không cần
đến hỏi Phật khi nào điều ấy xảy ra. Khi nó xảy ra bạn sẽ
nhận ra nó. V không chỉ bạn sẽ nhận ra nó, bất kì ai gặp bạn
sẽ nhận ra nó nếu cho dù họ có một chút ít khả năng thấy,
bởi vì khi cuộc cách mạng đó xảy ra bên trong, những tia
sáng của nó sẽ toả sáng ra, xuyên rọi theo cách của chúng
qua thân thể người này, bản thể và mọi thứ.
Trong bước hấp thu người tìm kiếm biết rằng mình là
một người khác, rằng người đó là người mới, rằng người đó
được sinh ra lần nữa. Người đó sẽ biết rằng mình không phải
là cùng con người đã đi vào samadhi, ai đó đã đi vào, ai đó
khác đã đi ra.
Bước tiếp dưới hấp thu là suy tư. Khi người tìm kiếm đi
vào trong tâm trí sâu hơn từ hấp thu, khoảnh khắc của suy tư
sẽ nảy sinh. Bây giờ người tìm kiếm sẽ có khả năng suy
nghĩ, nhìn lại và suy tư về điều đã thực sự xảy ra: “Mình đã
thấy gì? Cái gì là cái mình đã đi tới biết? Mình đã sống cái
gì?” Bây giờ người đó sẽ cố gắng đặt kinh nghiệm của mình
vào trong ý nghĩ, lời nói và khái niệm.
Chính những người có khả năng đưa kinh nghiệm của
mình vào trong lời nói tại bước suy tư là những người đã cho
sinh thành nên Veda, Upanishad, Kinh Thánh và Koran.
Nhiều người đã đạt tới trạng thái samadhi, nhưng đem điều
đã được biết vào bước suy tư quả là nhiệm vụ khó khăn.
Nhớ lấy, cuộc hành trình trước đây hướng tới samadhi
không khó như chúng ta nghĩ nó vậy. Nếu chúng ta so sánh
nó với cuộc hành trình trở về nó là rất dễ. Cuộc hành trình
trở về rất khó. Hàng nghìn người đạt tới samadhi, nhưng chỉ
rất ít người trong họ có khả năng quay lại và đặt chân vào
bước hấp thu. Còn ít người hơn nữa có khả năng hạ xuống
bước suy tư. Và còn ít người hơn nữa làm nó cho bước đầu
tiên có tên lắng nghe.
Tên của bước này bị thay đổi theo cuộc hành trình quay
lại, về điều đó tôi sẽ nói với bạn sau. Hàng nghìn người đạt
tới trạng thái samadhi, nhưng hiếm khi một người trong họ
trở thành vị phật. Phật nghĩa là người có khả năng đi xuống
cả bốn bước và đem cho thế gian điều ông ấy đã biết. Suy tư
nghĩa là gắn tất cả những cái là vô ý nghĩ thành ý nghĩ trên
cuộc hành trình quay về. Gắn những cái không thể được nói
ra, không thể được nghĩ, vào bên trong biên giới của từ ngữ
là điều không thể được nhất trong thế giới này.
Bạn thấy điều đó khi mặt trời buổi sáng mọc lên. Hiếm
khi một hoạ sĩ có khả năng nắm bắt được khía cạnh rạng lên
của mặt trời trong bức tranh của mình. Vẽ mặt trời không
phải khó lắm, bất kì hoạ sĩ nào cũng có thể làm được điều
đó, nhưng bắt được khía cạnh rạng lên của mặt trời là khó.

Hiện tượng mặt trời rạng lên, phẩm chất đó của việc phát
triển mà vẫn tiếp tục phát triển - nếu cái đó được vẽ ra, sao
cho khi nhìn vào bức tranh người ta cảm thấy rằng mặt trời
đang sắp chuyển... bây giờ, bây giờ nó đang lên, lên cao...
Điều này hiếm khi xảy ra. Bắt được cây trong một bức tranh
là không khó, nhưng bắt được cái sống động của nó là khó.
Nhìn vào nó người ta có thể cảm thấy rằng lá nó đang lay
động vào mọi khoảnh khắc, làn gió nhẹ thoảng qua và hoa sẽ
rụng xuống. Điều này rất khó vẽ - khó lắm. Và đó là khác
biệt giữa chụp ảnh và vẽ tranh. Bức ảnh chụp dù sắc nét đến
đâu cũng không thành vấn đề, nó chỉ thể hiện khía cạnh chết,
nó không hoạ được cái sống động.
Tuy nhiên mặt trời, cây, hoa là kinh nghiệm của cuộc
sống bình thường; chúng có thể được bắt lấy. Samadhi là
kinh nghiệm phi thường - nó xảy ra chỉ cho một người trong
hàng triệu người. Và điều xảy ra ở đấy, mọi giác quan đều
trở nên không có khả năng thông báo về nó. Tai không nghe
ở đó, mắt không không thể thấy được ở đó, tay không thể sờ
được ở đó, và kinh nghiệm xảy ra không có giới hạn. Sụp đổ
lớn lao của mái nhà bạn, hay toàn bộ bầu trời sập xuống
mảnh sân nhỏ bé của bạn, hỗn loạn, chết lặng sẽ đến với bạn
- cái gì đó tương tự như điều này xảy ra trong khoảnh khắc
của samadhi. Không gian cá nhân nhỏ nhoi này của tâm
thức, và toàn thể đại dương giáng lên nó.
Kabir đã nói rằng ban đầu ông ấy hình dung rằng giọt
nước đã rơi vào trong đại dương. Nhưng khi ông ấy trở lại
cảm nhận, ông ấy hiểu rằng tình huống chính là cái ngược
lại: chính đại dương đã rơi vào trong một giọt nước. Cho nên
Kabir đã nói rằng ban đầu ông ấy nghĩ rằng ông ấy có thể có
khả năng kể điều gì đó này khác sau khi trở về - nhưng điều
ấy đã tỏ ra khó khăn. Nó thật khó.
Lời của Kabir là:
Herat herat hey sakhi rahya Kabir herayi
Bunda samani samunda men so kat heri jayi.
“Hỡi người bạn! tìm kiếm và dò tìm, Kabir đã bị mất
dần. Giọt nước đã rơi vào trong đại dương, làm sao giọt nước
có thể được tìm lại?”
Giọt nước rơi vào trong đại dương, làm sao đem nó trở
ra lần nữa để nó có thể thuật lại điều đã xảy ra cho thế giới?
Điều này đã là khó, nhưng Kabir sau đó đã thay đổi các dòng
của bài ca, huỷ bỏ dòng trước, và nói, “Đó là sai lầm phạm
phải bởi hấp tấp. Kinh nghiệm này là mới. Tôi hoàn toàn
không thể hiểu cái gì đã xảy ra. Từ thói quen cũ tôi thấy các
thứ xung quanh theo cách sai lầm.” Thế rồi ông ấy viết bài
thơ khác đi:
Herat herat hey sakhi rahya Kabir herayi
Samunda samana bunda men so kat hera jayi.

“Hỡi người bạn! tìm kiếm và dò tìm, Kabir đang mất
dần. Đại dương đã rơi vào trong giọt nước, làm sao giọt nước
có thể được tìm lại?”
“Đại dương đã giáng vào trong giọt nước. Giá như giọt
nước đã rơi vào trong đại dương, có lẽ bằng cách nào đó tôi
sẽ tìm lại được nó ra, nhưng chính điều đối lập đã xảy ra:
chính toàn thể đại dương đã rơi vào trong giọt nước này. Bây
giờ cho dù tôi muốn tôi sẽ không biết tìm đâu ra giọt nước
này. Bây giờ giọt nước nào không thể nào được tìm ra.”
Những phương tiện đã tạo khả năng cho chúng ta biết
được mọi thứ mà chúng ta đã biết trong thế giới này đều trở

thành vô dụng trong việc biết điều xảy ra vào khoảnh khắc
của samadhi. Bản thân chúng ta trở thành vô dụng. Chính sự
tồn tại của chúng ta bị tan tành. Sự tồn tại lớn hơn nào đó,
không giới hạn, bùng ra trên chúng ta - bất thần. Chúng ta
chết trong quá trình này.
Samadhi là cái chết chung cuộc, lớn hơn cái chết vật lí;
bởi vì trong cái chết vật lí chỉ thân thể chết, tâm trí vẫn tồn
tại, trong khi trong samadhi tâm trí chết. Lần đầu tiên toàn
bộ mối quan hệ của chúng ta với tâm trí vỡ ra; lần đầu tiên
tất cả dây nối của tâm trí đứt ra, làm cho chúng ta tách biệt.
Và toàn thể tri thức của chúng ta là của tâm trí. Cho nên
trong samadhi, lần đầu tiên, chúng ta đứng hoàn toàn dốt nát.
Để tôi nhắc lại nó: trong samadhi tri thức của chúng ta
không còn ích gì, vì tất cả những tri thức đó được học bởi
tâm trí, và tâm trí đó bị bỏ lại xa đằng sau, xa xăm. Chúng ta
đã đi ra ngoài tâm trí. Người đã biết không còn là đồng hành
ở đó nữa. Người đã hiểu mọi điều, người đã có tri thức về
mọi lời nói và học thuyết, người đã tiêu hoá mọi kinh sách,
bị bỏ lại xa đằng sau. Không chỉ lớp vỏ bên ngoài, thân thể,
bị bỏ lại đằng sau, mà chính tâm trí bị bỏ lại đằng sau. Tất cả
những cái đã từng là kinh nghiệm sâu sắc nhất của chúng ta
đều bị bỏ lại đằng sau. Nhảy từ tâm trí, người tìm kiếm bây
giờ đứng ở chính ngưỡng cửa của samadhi; bây giờ người đó
không có cách nào để biết nữa.
Bất kì ai đi vào cánh cửa tới samadhi đều bỗng nhiên
thành hoàn toàn dốt nát. Không có cách nào ở đó để biết bất
kì điều gì, không hệ thống để biết về bất kì cái gì, không
phương tiện để biết bất kì cái gì; chỉ việc biết thuần tuý còn
lại. Rất khó cho bất kì thông tin nào sau khi quay lại. Ai có
đó để cho thông tin? Ai có đó để đem đến tin tức? Nhưng
thông tin đã được trao. Một số người đã nỗ lực không mệt
mỏi để làm việc này.
Họ là những người từ bi nhất trong thế giới này, người
đã cho thông tin sau khi trở về từ samadhi. Tại sao? Bởi vì
ngay cả ham muốn trở về từ samadhi không nảy sinh. Trở về
từ samadhi tựa như trở về từ một tình huống nơi bạn đã đạt
được mọi thứ bạn muốn, nơi mọi mong ước đã được thực
hiện, nơi không còn lí do nào cho dù chỉ một chuyển động
nhỏ nhất, một hành động nhỏ nhặt nhất để trở về từ nơi như
vậy.
Tương truyền rằng khi Phật đạt tới samadhi, ông ấy đã
không ra khỏi nó trong bẩy ngày. Đấy là câu chuyện hay.
Chuyện kể rằng tất cả các thần tụ tập dưới chân ông ấy, Indra
bắt đầu khóc còn Brahma thì để đầu dưới chân Phật, tất cả họ
đều yêu cầu Phật đừng vẫn còn như thế, “Bởi vì,” họ nói,
“ngay cả chư thần chúng tôi cũng mong mỏi khát khao về
thông điệp mà người trở về từ samadhi trao cho. Và biết bao
người trong bao nhiêu kiếp sống chờ đợi ai đó trở thành phật
và chuyển giao thông điệp sau khi trở về từ samadhi, để nói
và kể về điều người đó đã biết. Cho nên xin đừng vẫn còn im
lặng, xin thầy nói.”
Nhưng Phật nói, “Không ai còn lại ở đây để nói, không
có ham muốn còn lại để nói. Hơn thế nữa, điều ta đã chứng
kiến - thật khó ngay cả cho ta tin rằng nó có thể được nói ra.
Thế thì cơ hội cho người nghe hiểu nó là ở đâu?”
Khi chư thần không đồng ý, Phật nói thêm, “Nếu các ông
không đồng ý, ta sẽ nói; nhưng ta nói cho các ông rằng
những điều ta có thể nói cho ai đó, tự bản thân ta sẽ không
hiểu nếu như có ai đó khác kể chúng cho ta trước việc nhận
ra riêng của ta. Cho nên làm sao bất kì ai khác sẽ hiểu? Qua
kinh nghiệm này ta cũng đi đến việc hiểu khác, rằng những

người sẽ có khả năng hiểu điều ta phải nói cũng có thể đạt tới
không cần ta; còn những người không có khả năng hiểu điều
ta phải nói - chẳng có nghĩa gì để nặn óc người ta ra trước
họ.”
Nhưng chư thần đưa ra một luận cứ rất đáng yêu. Họ nói,
“Chúng tôi có hiểu chứ, như thầy đã nói đúng, rằng những
người có khả năng hiểu là những người đang đứng bên bờ
của kinh nghiệm này, chỉ một bước nữa đi từ nó thôi; bằng
cách nào đó họ cũng có khả năng vượt qua khoảng cách này
nữa cho dù không có thầy. Không, chúng tôi không yêu cầu
thầy nói cho họ. Và điều này nữa chúng tôi cũng chấp nhận,
rằng có những người thậm chí còn chưa bước được bước nào
trên con đường. Tiếng nói của thầy sẽ không tới những
người này - họ sẽ không hiểu. Chúng tôi không yêu cầu thầy
nói cho họ. Nhưng có những người ở giữa hai loại người này
- những người có lẽ sẽ không có khả năng hiểu được nếu
thầy không nói, nhưng có lẽ họ có thể hiểu được nếu thầy
nói.”
Tuy thế chư thần nhấn mạnh vào ‘có lẽ’. Nhưng họ cũng
nói thêm một điều nữa với Phật: “Những người trong loại
‘có lẽ’ này, họ có thể hiểu, họ có thể không hiểu. Nhưng
ngay cả một người có thể đã hiểu cũng sẽ lỡ bởi vì thầy
không nói... Thầy nghĩ về điều đó đi. Đấy sẽ là nỗi đau cho
thầy, đấy sẽ là nỗi đau trên thầy. Và điều như vậy chư phật
chưa bao giờ làm trước đây.” Thế là Phật nói.
Vào khoảnh khắc của samadhi điều rất tự nhiên là cảm
thấy rằng bây giờ tất cả việc nói, kể, giải thích đều vô dụng.
Kể cho ai? Nói cho ai? Ai nghe? Nhưng mặc tất cả những
điều đó, một số người đã trở về từ samadhi.
Quay về tới bước suy tư, điều khó khăn nhất xảy ra cho
những người như vậy. Do đó nghệ sĩ vĩ đại không phải là
những người soạn ra bài hát hay bài thơ, không phải là
những người tạo ra bức tranh hay bức điêu khắc, mà nghệ sĩ
vĩ đại là những người tại bước suy tư này đưa cái tuyệt đối
vô hình và kinh nghiệm không thể cảm nhận được của
samadhi thành thấy được và những bức tranh lời nói cảm
nhận được. Nghệ sĩ vĩ đại là những người nỗ lực đó bằng
cách nào đó, cho dù vài hướng dẫn có thể được cho... người
tạo ra được một số thiết bị, phát minh ra được hệ thống tư
tưởng nào đó, hệ quả nào đó của tư tưởng để từ đó cả bạn
nữa cũng có được ít nhất một thoáng nhìn nhỏ, cảm giác sơ
sơ, chút ít xúc động về kinh nghiệm đó - cho dù ở mức tinh
thần.
Nhiều người đạt tới bước suy tư này. Nhưng bước cuối
cùng - điều được gọi là shravana, lắng nghe, bước đầu tiên
khi đi - cùng bước đó bây giờ trở thành pravachan, diễn
thuyết, khi trở về từ chứng ngộ. Bước này là như nhau -
nghe, nói. Điều là shravana, nghe đúng, trên đường hướng
tới sammadhi trở thành pravachan, nói đúng, trên đường trở
về từ samadhi.
Và nhớ lấy, trên bước đầu tiên đó hướng tới samadhi là
đệ tử, và trên bước cuối cùng trên đường trở về từ samadhi là
thầy, và cuộc gặp gỡ đã xảy ra giữa hai người là upanishad.
Nơi người nghe hiện diện đúng và nơi người nói hiện diện
đúng, hiện tượng gặp gỡ giữa hai người là upanishad.
Từ upanishad nghĩa là cái người ta biết khi ở gần thầy,
cái người ta lắng nghe khi ngồi gần thầy, cái đi vào kinh
nghiệm của người ta trong sự hiện diện của thầy, cái được
vọng lại trong việc ở gần thầy, cái được động chạm tới trong
sự gần gũi thầy.
Upanishad nghĩa là ngồi gần, ở gần, có sự gần gũi.

Cho nên công việc của đệ tử chỉ là lắng nghe, còn thầy
nên chuyên chú vào bài nói. Người nghe không có đó, người
nói không có đó; ở đây chỉ còn lại bài nói, chỉ còn lại khả
năng lắng nghe, thế thì upanishad xảy ra.
Kinh nói:
Trong samadhi, các đối tượng của kinh nghiệm không
tách biệt với linh hồn.
Dù đó là phúc lạc đang được kinh nghiệm, im lặng đang
được kinh nghiệm, an bình đang được kinh nghiệm, tính
không đang được kinh nghiệm hay giải phóng đang được
kinh nghiệm, không một kinh nghiệm nào trong những kinh
nghiệm này có thể được bắt trong samadhi ... do đó chúng
không được kinh nghiệm. Những khuynh hướng này không
được kinh nghiệm một cách có ý thức.
Nhưng kinh nghiệm vinh quang này của người tìm kiếm,
người đã đi ra từ samadhi, được suy diễn thông qua việc
hồi tưởng của tâm trí...

Cho nên ngay cả Phật cũng không thể nói rằng nó là như
vậy trong samadhi. Ông ấy nữa cũng chỉ nói chừng này, rằng
chính suy diễn của ông ấy là nó là như vậy trong samadhi.
Mahavira hay nói bất kì cái gì chỉ với chữ đầu ‘có lẽ’ được
thêm vào. Ông ấy sẽ nói, “Có lẽ có phúc lạc ở đó.”
Không ai nên suy luận từ điều này rằng Mahavira không
biết. Theo lời ông ấy nó dường như vậy - nếu Mahavira nói
‘có lẽ’, thế thì dường như là ông ấy cũng có đôi chút hoài
nghi nào đó. Đấy không phải là do bất kì hoài nghi gì mà do
cực kì trung thành với chân lí mà ông ấy nói như vậy. Trung
thành của Mahavira với chân lí không hề bị ô uế và trinh
bạch đến độ thật khó để tìm ra trung thành đến thế với chân
lí ở đâu đó khác.
Cho nên điều Mahavira đang nói là ở chỗ tâm trí mà qua
đó ông ấy biết điều này đã không hiện diện vào lúc kinh
nghiệm. Với tâm trí, đây là tin tức nghe được từ một khoảng
cách; nơi sự việc xảy ra, tâm trí không hiện diện. Tâm trí
không phải là nhân chứng mắt thấy. Tâm trí đã đi mất. Bây
giờ nó phải suy nghĩ và dùng suy diễn, nhưng biến cố đã xảy
ra xa xăm.
Dường như là nếu ngồi ở đây chúng ta có thể thấy tuyết
phủ trên đỉnh Gourishankar - từ đây! Tâm trí là xa về mặt vật
lí với đỉnh núi đó, và nó chỉ còn suy diễn về cái lạnh tràn
ngập ở đó trên đỉnh Gourishankar.
Do đó Mahavira dùng từ syat, có lẽ. Ông ấy nói rằng có
lẽ có phúc lạc tối cao ở đó. Ông ấy nói như vậy bởi vì sự cực
kì trung thành của ông với chân lí, bởi vì sau hết đây là suy
diễn của tâm trí. Mahavira đã biết, với ông ấy nó không phải
là suy diễn. Nhưng người biết trở thành một người biết nhiều
đến độ vào khoảnh khắc biết không cái gì được kinh nghiệm.
Khi Mahavira trở về trong tâm trí, sau việc biết...
Chúng ta hiểu điều đó theo cách này. Dường như là bạn
đi lên đỉnh Gourishankar và trở thành một với cái lạnh ở đó,
bản thân bạn trở thành cái lạnh. Hay bạn trở thành một với
tuyết ở đó, bạn cũng đông cứng tựa như tuyết và do vậy
không có kinh nghiệm nào bởi vì người kinh nghiệm không
tách biệt chút nào nữa. Thế rồi bạn đi xuống từ đỉnh đó và
sau khi tới vùng đất thấp bạn lấy ống nhòm và nhìn lại vào
Gourishankar qua chúng. Kinh nghiệm của điều đã được biết
vẫn còn dội lại bên trong. Nó gần gũi tới mức bởi vì thiếu
khoảng cách cần thiết để biết nó không thể được biết. Nó đã

đạt tới toàn quan bởi vì khoảng cách. Bây giờ nâng ống
nhòm của tâm trí người ta nhìn lại. Bây giờ người ta cảm
thấy qua suy diễn rằng có cái lạnh tột bực ở đó, có mở rộng
của tuyết trắng tuyệt đối không tì vết, nó cao làm sao! Người
ta cảm thấy rằng mọi sức hút đã biến mất, dường như người
ta đã đạt tới cánh và có thể bay trên bầu trời. Bầu trời trong
vắt làm sao! Người ta cảm thấy rằng bầu trời toàn mầu xanh
biếc thậm chí mây cũng bị bỏ xa phía dưới và chỉ bầu trời
trống rỗng mây còn lại.
Nhưng tất cả những điều này là ý nghĩ về sau khi đứng
lại trên đất thấp. Do đó kinh nói: ... được suy diễn thông qua
việc hồi tưởng của tâm trí.
Trong thế giới vô thuỷ, hàng triệu hàng triệu nghiệp, dấu
ấn hành động đã được tích luỹ. Tất cả chúng đều bị
samadhi này phá huỷ và pháp thanh tịnh, bản tính tự
nhiên trưởng thành.

Trong kinh thứ hai này có hai từ rất có giá trị: karma
(nghiệp) và dharma (pháp), hành động và tôn giáo. Điều
chúng ta làm là hành động và điều chúng ta là là tôn giáo.
Tôn giáo nghĩa là tự tính của chúng ta và hành động nghĩa là
điều chúng ta làm. Hành động nghĩa là tự tính của chúng ta
đạt tới bên ngoài. Hành động nghĩa là chúng ta đạt tới bên
ngoài bản thân chúng ta, vào trong thế giới. Hành động nghĩa
là chúng ta nối với ai đó khác hơn bản thân mình. Tự tính
nghĩa là tách biệt khỏi người khác, không có liên quan với
thế giới - cái ‘tôi đây’, bản thể bên trong. Nó không liên
quan gì tới việc làm của bạn. Nó không được tạo ra từ điều
bạn làm. Nó hiện diện trước mọi việc làm của bạn. Nó là bản
tính của bạn.
Có thể có sai lầm trong nghiệp, việc làm; không thể có
sai lầm trong pháp. Nhớ lấy, từ pháp không có nghĩa tôn giáo
ở đây. Pháp ở đây nghĩa là phẩm chất - tự tính của chúng ta,
tự tính bên trong của chúng ta, bản thể chúng ta.
Cho nên việc làm càng nhiều, tự tính càng cứ bị che phủ.
Tất cả những điều chúng ta làm cứ chôn vùi bản thể chúng ta
bên dưới. Và có nhiều tầng việc làm của chúng ta đến nỗi
dần dần, dần dần chúng ta quên hoàn toàn rằng có bản thể
nào của chúng ta khác hơn với việc làm.
Nếu ai đó hỏi bạn, “Bạn là ai?” - bất kì câu trả lời nào
bạn cho đều là về việc làm của bạn, không về bản thể bạn.
Bạn nói bạn là kĩ sư, bạn nói bạn là bác sĩ, bạn nói bạn là
doanh nhân. Bạn có nhận ra rằng kinh doanh là việc làm
không? Bạn không phải là doanh nhân, bạn đang làm việc
kinh doanh. Làm sao một người là bác sĩ? Một người có thể
làm công việc của bác sĩ. Làm sao một người có thể là kĩ sư?
Nếu một người có thể trở thành kĩ sư, người như thế sẽ bị
mất. Người đó có thể làm công việc của kĩ sư. Kĩ nghệ là
việc làm của người đó, công việc của người đó, không phải
là bản thể của người đó.
Bất kì mô tả nào bạn nêu cho mình, nếu bạn nhìn sâu vào
trong nó bạn sẽ thấy rằng bạn bao giờ cũng nói điều bạn làm
và không bao giờ nói điều gì về bản thể bạn. Và bạn không
thể nói được. Bản thân bạn không biết gì về nó, bạn chỉ biết
điều bạn làm. Bạn hiểu thấu về phần việc làm - điều bạn làm,
điều bạn có thể làm. Mọi điều bạn có khả năng nói là cái bạn
đã làm trong quá khứ và cái bạn có thể làm trong tương lai.
Tất cả những chứng chỉ đó bạn mang theo đều không nói gì
ngoài điều bạn có thể làm, không phải là điều bạn là gì. Nếu
bạn nói bạn là một sadhu, người tìm kiếm, điều đó có nghĩa
là bạn là một người làm việc tìm kiếm. Nếu ai đó nói người

đó là kẻ cắp, điều đó có nghĩa là công việc của người đó là
đánh cắp các thứ. Hành động của người này là hành động tìm
chân lí, hành động của người kia là hành động đánh cắp các
thứ.
Nhưng bản thể của bạn là gì? Cái gì ở bên trong bạn?
Khi bạn còn chưa được sinh ra từ bụng mẹ, là một sadhu, kẻ
cắp, kĩ sư hay bác sĩ có ý nghĩa gì? Nếu ai đó hỏi bạn trong
khi bạn còn đang trong bụng mẹ rằng bạn là ai, sẽ khó trả lời,
bởi vì thế thì bạn chưa là kĩ sư, thế thì bạn chưa là bác sĩ, bạn
chưa làm bất kì việc kinh doanh nào. Nếu ai đó hỏi bạn trong
bụng mẹ của mẹ bạn, “Ai trong đó?” không câu trả lời nào là
có thể cả. Hay bạn nghĩ điều đó là có thể? Bạn vẫn trong
bụng mẹ - không câu trả lời nào có thể tới được.
Bây giờ nhiều phương pháp đã được khám phá để tẩy
não. Bạn nói bạn là kĩ sư, nhưng nào bạn có thể bị tẩy, và sau
việc tẩy não được thực hiện đúng, nếu bạn được hỏi, “Bạn là
ai?” bạn sẽ chỉ còn lại trắng trơn, bởi vì con người bạn như
một kĩ sư chỉ có trong hệ thống kí ức của bạn. Bạn đã học
tập, đã được nhận chứng chỉ, đã làm cái gì đó, đã nhận được
công lao hay lầm lỗi; tất cả nó trong kí ức của bạn, mà bây
giờ đã bị tẩy sạch rồi. Bây giờ bạn không thể đưa ra bất kì
câu trả lời nào cho việc bạn là ai. Nhưng bạn vẫn hiện hữu.
Bản thể của bạn không thể bị xoá đi bởi việc tẩy xoá kí ức
của bạn, nhưng dấu ấn về các hành động của bạn có thể bị
tẩy đi.
Kinh này nói:
Trong thế giới vô thuỷ, hàng triệu hàng triệu
nghiệp, dấu ấn hành động đã được tích luỹ.

Một cách tự nhiên, mọi ngày, từng khoảnh khắc, dấu ấn
hành động đang được tích luỹ lại. Chúng ta đang ngồi, đứng,
thở - hành động đang xảy ra. Chúng ta đang ngủ, mơ - hành
động đang xảy ra. Không ai có thể chạy khỏi hành động, bởi
vì chạy trốn cũng là hành động. Người ta sẽ đi đâu? Bạn sẽ
đi và ngồi trong rừng sâu sao? Ngồi cũng là hành động. Bạn
sẽ nhắm mắt ở đó sao? Nhắm mắt cũng là hành động. Bất kì
cái gì bạn có thể làm, ở đâu có bất kì việc làm nào đều có
nghiệp, hành động.
Từng khoảnh khắc biết bao nhiêu hành động đang được
làm. Bóng dáng của chúng, kí ức của chúng, ấn tượng của
chúng cứ tụ lại bên trong chúng ta. Bất kì cái gì bạn đang
làm đều được tích luỹ lên bản thể bạn. Nó tựa như đường
rãnh được làm trên đĩa hát. Khi bạn nghe đĩa, mọi thứ được
lưu giữ trong những đường rãnh này trở nên sống động và
bắt đầu tự biểu hiện nó lần nữa. Tâm trí bạn cũng hệt như
vậy - một tuyển tập ghi lại tất cả các hành động của bạn, mọi
thứ được tích luỹ lại. Bất kì cái gì bạn đã làm, các đường
rãnh đã được hình thành lên bạn. Và những đường rãnh này
là các kiếp sống vô tận của bạn. Nó là gánh nặng lớn. Và bạn
cứ lặp đi lặp lại gần như cùng những điều đó mãi. Hoàn cảnh
của bạn gần giống như chiếc đĩa hát cũ nơi kim mắc kẹt vào
cùng một rãnh và bạn cứ tiếp tục chơi mãi nó - cùng một
đường lặp lại bản thân nó lần nữa và lần nữa và lần nữa.
Bạn đang làm gì? Hôm qua bạn đã làm cùng một thứ,
hôm kia bạn đã làm cùng một thứ, hôm nay bạn đang làm
cùng một thứ, ngày mai bạn cũng sẽ làm cùng một thứ - cùng
giận dữ, cùng tham lam, cùng gắn bó, cùng thèm khát, mọi
thứ như cũ... bản ghi mòn cũ. Chiếc kim bị mắc kẹt vào một
rãnh, không có khả năng vượt qua nó, và tạo ra cùng một âm
thanh cứ thế lặp lại.
Đây là lí do tại sao có nhiều chán thế trong cuộc đời.
Nhất định là như vậy rồi, bởi vì chẳng cái gì mới xảy ra.

Chiếc kim đơn giản không tiến thêm. Nhìn lại ba mươi, bốn
mươi năm cuộc đời bạn mà xem: Bạn đã làm được gì rồi?
Bạn vẫn đang chơi cùng một bản nhạc, cùng sự việc cứ lặp
lại hàng ngày. Đây là điều những người thấy ở Ấn Độ hay
gọi là avagaman, vòng sinh tử. Cùng một điều lặp lại, cùng
một điều lặp lại; cùng một điều trong kiếp sống này, cùng
một điều trong kiếp sống tiếp, cùng mọt điều trong kiếp sống
sau kiếp này - câu chuyện của quá khứ là như nhau, câu
chuyện của tương lai cũng là như nhau. Cùng ham muốn
dục, cùng giận, cùng ghét, cùng tình bạn, cùng thù địch,
cùng việc kiếm tiền, cũng việc làm nhà - và sau khi làm tất
cả những thứ này một hôm người ta thấy rằng một cơn gió
mạnh thổi tới và toàn thể ngôi nhà giấy đổ sập.
Nhưng hệt như đứa trẻ lập tức thu nhặt lại giấy vụn và
bắt đầu làm lại ngôi nhà lần nữa, chúng ta cũng lập tức nhận
việc sinh mới và bận bịu với việc xây nhà giấy mới. Lần này
chúng ta cố gắng làm ngôi nhà mạnh mẽ hơn; nhưng kế
hoạch làm nhà thì vẫn như cũ, cấu trúc ngôi nhà vẫn như cũ -
tâm trí vẫn như cũ. Chúng ta kết thúc việc làm hệt như cũ và
cứ chìm đắm theo cùng cách cũ, hết lần này đến lần khác.
Không chỉ mặt trời lặn mọi chiều và lại mọc buổi sáng -
bạn cũng cứ lặn và mọc ra theo cùng cách thức. Nó là vòng
tuần hoàn, chiếc bánh xe. Từ samsara (luân hồi) có nghĩa là
chiếc bánh xe, cứ quay mãi, trên cùng một trục.
Nghiệp vô tận, dấu ấn hành động được tích luỹ, bị phá
huỷ bởi samadhi này. Điều này đáng hiểu, bởi vì nhiều người
nghĩ rằng nếu dấu ấn hành động xấu được tích luỹ, chúng ta
phải phá huỷ nó bằng hành động tốt. Họ lầm. Dấu ấn hành
động xấu không thể bị phá huỷ bởi dấu ấn hành động tốt.
Dấu ấn hành động xấu vẫn sẽ còn không bị động tới và hành
động tốt sẽ được tích luỹ - đó chính là điều sẽ xảy ra nhiều
nhất. Chúng không huỷ lẫn nhau. Không có cách nào để
chúng huỷ lẫn nhau được.
Một người phạm phải lỗi lầm ăn cắp, thế rồi người đó ăn
năn và trở thành sadhu, người tìm kiếm, người tốt. Bằng
cách trở thành sadhu, những dấu ấn hành động đó của kẻ cắp
vẫn nằm bên trong người đó không bị huỷ đi. Không có cách
nào làm điều đó. Dấu ấn hành động tách biệt, dấu ấn của việc
là sadhu, hình thành. Dấu ấn hành động của việc là sadhu
không trùng với dấu ấn hành động của việc là kẻ cắp. Sadhu
đó làm gì với kẻ cắp? Bạn đã là kẻ cắp, bạn đã vẽ một loại
rãnh hành động trên tâm trí. Thế rồi bạn trở thành sadhu. Bây
giờ rãnh hành động của việc là sadhu không được vẽ đè lên
rãnh hành động của việc là kẻ cắp, bởi vì việc là sadhu là
việc xảy ra của phần khác của tâm trí bạn so với phần của
việc là kẻ cắp.
Thay vì thế cái gì xảy ra?
Trên các rãnh hành động của kẻ cắp, rãnh hành động của
sadhu được lèn vào; không cái gì bị huỷ cả. Sadhu cưỡi lên
trên kẻ cắp, đó là mọi điều xảy ra. Điều này nghĩa là một
người khác, một kẻ cắp-sadhu, được sinh ra. Cái tốt của việc
là sadhu không thể huỷ đi cái xấu của việc ăn cắp. Kẻ cắp
tiếp tục vẫn còn bên trong, chỉ việc chồng lên xảy ra - đơn
thuần một người nữa cưỡi lên chóp của nó.
Cho nên cho dù kẻ cắp yên vị theo một đằng, cho dù
sadhu yên vị theo một đằng, nhưng cái món hẩu lốn kẻ cắp
và sadhu được tạo ra ấy là rắc rối lớn. Đó là xung đột liên tục
bên trong, bởi vì kẻ cắp tiếp tục nỗ lực của nó và sadhu tiếp
tục nỗ lực của mình. Và một mình Thượng đế biết có bao
nhiêu dạng khác nhau chúng ta đã tích luỹ bên trong mình,
không huỷ bỏ lẫn nhau, được tạo ra tách biệt và vẫn còn lại

như vậy. Do đó kinh này nói rằng chúng bị phá huỷ tất cả
qua samadhi.
Hành động không huỷ bỏ hành động. Vô hành động phá
huỷ hành động. Hiểu điều này cho đúng: hành động không
huỷ bỏ hành động, hành động chỉ làm cho hành động thêm
dầy đặc. Chỉ vô hành động huỷ bỏ được hành động. Và vô
hành động được đạt tới trong samadhi, khi người làm không
tồn tại thêm chút nào nữa.
Khi chúng ta đạt tới trạng thái đó của tâm thức, nơi chỉ
còn hiện hữu, không có việc làm nào cả, nơi thậm chí không
một gợn việc làm nào nảy sinh, nơi chỉ có hiện hữu, sự tồn
tại bao giờ cũng còn lại - hiện hữu, không phải là việc làm -
trong khoảnh khắc của hiện hữu đó, người ta bỗng nhiên
nhận ra rằng tất cả những hành động mình đã từng làm trước
đây không phải do mình làm. Một số hành động do thân thể
làm - để thân thể chịu trách nhiệm về chúng. Một số hành
động do tâm trí làm - để tâm trí chịu trách nhiệm về chúng.
Nhưng bạn đã không làm bất kì hành động nào cả.
Đồng thời với việc nhận ra này mạng lưới tất cả các dấu
ấn hành động đều bị phá huỷ. Tính linh hồn là việc huỷ bỏ
mọi hành động. Chính do mất tính linh hồn mà ảo tưởng
rằng, “tôi đã làm,” được tạo ra.
Khi một người ăn cắp, điều ấy được kích hoạt hoặc bởi
thân thể người đó hoặc bởi tâm trí người đó. Thân thể ai đó
đến một hoàn cảnh mà việc ăn cắp phải được thực hiện. Một
người bị đói, thân thể thúc ép người đó làm việc ăn cắp. Linh
hồn không bao giờ phạm vào việc ăn cắp. Có cái đói của
thân thể, cái đau của nó, và cái khổ của nó; hay con của ai đó
sắp chết và không có tiền thuốc thang - người ta ăn cắp. Tất
cả những điều này là việc ăn cắp từ thân thể.
Cho đến giờ chúng ta vẫn chưa có khả năng phân biệt
được giữa ăn cắp từ thân thể và ăn cắp từ tâm trí. Ăn cắp từ
thân thể nghĩa là chính xã hội là tội phạm. Ăn cắp từ tâm trí
nghĩa là bản thân người đó là tội phạm - ăn cắp do tâm trí là
vấn đề khác. Người đó không cần thứ gì, ở nhà két bạc người
đó đầy ắp, nhưng người đó thấy một xu nằm trên đường và
người đó nhặt nó nhét vào túi. Bây giờ, người này là kẻ cắp
từ tâm trí. Không phải vì nhu cầu của thể chất; thân thể
người đó không van nài người đó ăn cắp, nhưng do tính tham
của người. Một xu này thực sẽ không thêm cho của cải người
đó, nhưng cái gì đó sẽ được thêm vào, ít nhất cũng là một xu.
Người đó có thể có hàng triệu ru pi, nhưng ý định nhặt
một xu vẫn có đó - người này là tội phạm thực. Nhưng người
đó không bao giờ bị bắt. Chính kẻ cắp đánh cắp do nhu cầu
thân thể mới bị bắt. Thủ phạm thực là kẻ khác, bởi vì người
đó không có lí do nào hết cả - về mức độ thân thể - để ăn
cắp, vậy mà người đó vẫn ăn cắp. Ăn cắp là thói quen của
nó, người đó thu được tinh tuý từ việc ăn cắp.
Tâm lí nói về một loại bệnh có tên là thói tắt mắt. Đấy là
bệnh của tâm trí. Hầu hết mọi người đều chịu loại bệnh này,
nhưng chỉ một số người, những người có bệnh trở nên cấp
tính, mới đi vào chú ý của tâm lí.
Tôi có quen biết một giáo sư, một người giầu có, rất
phong lưu, người có mọi thứ mà người ta phải thèm muốn,
nhưng ông ta chỉ có một đứa con và đứa con này có thói tắt
mắt. Nó phải chịu đựng bệnh ăn cắp vặt này. Nó lấy bất kì
thứ gì - chẳng thành vấn đề thứ đó là cái gì. Nếu nó đến nhà
bạn và thấy một cái khuy trên sàn, nó sẽ lập tức nhét ngay
vào túi quần. Nó không dùng gì cái khuy cả. Thậm chí thấy
cây kim khâu nằm đâu đó nó cũng cho luôn vào túi nó. Nó sẽ

nhìn vào cuốn sách của bạn rồi xé ra một trang và nhét vào
túi.
Ông giáo sư này có lần hỏi tôi phải làm gì với nó, bởi vì
nó không lấy những thứ mà bạn cảm thấy nó thực sự ăn cắp
và là kẻ cắp. Nó chỉ toàn lấy những thứ tầm thường. Đứa trẻ
này đã học đến bậc thạc sĩ. Nó thông minh. Tôi đã phát triển
một chút quan hệ với nó, cho nên nó cho tôi xem buồng
riêng của nó, nơi nó cất mọi thứ nó đã đánh xoáy. Từng thứ
đều được dán nhãn chỉ rõ ai đã bị lừa về việc nào đó, từ nhà
ai thứ khác nào đó bị loại ra, vân vân. Nó hứng thú với sự
kiện rằng cho tới nay không ai có khả năng biết được ai đã
lấy đi thứ nào đó và lấy ra làm sao. Nếu nó đã lấy một cái
khuy từ nhà bạn, trên nhãn được viết, “Tôi đã mang đi từ nhà
người nọ người kia, ngay trước mũi họ mà họ thậm chí
không mảy may nghi ngờ rằng điều như thế đã xảy ra.”
Bây giờ mối quan tâm trong việc đánh cắp là một kiểu
khác. Nó không có liên can gì tới nhu cầu thân thể. Kẻ cắp
hoặc là từ thân thể hoặc là từ tâm trí, không có kẻ cắp từ linh
hồn. Cho nên ngày bạn bước vào linh hồn mình, bạn bỗng
nhiên nhận ra, “Mình đã không làm việc ăn cắp đó, mình đã
không thực hiện hành động đó; mình chỉ hiện diện trong
hành động đó. Đúng là những hành động đó không thể nào
đã bị phạm phải mà không có mình. Cũng đúng là mình đã
không phạm vào những hành động đó.”
Khoa học hay dùng một từ, rất giá trị và có ý nghĩa - chất
xúc tác. Nếu bạn phân tích nước bạn sẽ thu được hiđrô và ô
xi, không gì khác. H2O là công thức - hai nguyên tử hiđrô và
một nguyên tử ô xi tạo thành nước. Nhưng nếu bạn trộn lẫn
hai nguyên tử hiđrô với một nguyên tử ô xi, bạn không thu
được nước.
Điều này rất thú vị. Khi bạn phân chia nước, bạn được
hai phần hiđrô và một phần ô xi. Một cách tự nhiên, khi bạn
trộn hai phần này theo cùng một tỉ lệ bạn đáng phải thu được
nước. Nhưng điều đó không xảy ra. Có một thứ nữa mà sự
hiện diện của nó được cần tới để làm ra nước. Nó không đi
vào công thức thực tại, nhưng bản thân công thức chỉ xảy ra
trong sự hiện diện của nó. Cái đó là điện, trong trường hợp
này, và nó được gọi là chất xúc tác. Trên trời, khi sét xảy ra,
nó hành động như tác nhân xúc tác và nước được tạo nên từ
ô xi và hiđrô hiện diện trong không trung. Nó không làm gì
cả, nó không đi vào trong nước, nhưng sự hiện diện của nó là
cần thiết.
Nếu bạn lấy hiđrô và ô xi rồi cho dòng điện chạy qua
nước sẽ được hình thành. Nhưng nếu bạn phân chia nước đó
bạn chỉ thu được hiđrô và ô xi, không được điện. Điều ấy có
nghĩa là điện không đi vào trong nước như một thành tố của
nước, nhưng nước không thể được tạo ra nếu thiếu sự hiện
diện của nó. Khoa học gọi hiện tượng đặc biệt này là tác
nhân xúc tác.
Bạn không thể phạm lỗi ăn cắp bằng không có sự hiện
diện của linh hồn. Linh hồn tựa như tác nhân xúc tác, sự hiện
diện của nó là cần thiết. Một mình thân thể - chỉ một mình
thân thể thôi - không bao giờ phạm vào bất kì ăn cắp nào.
Cho dù bạn đút tiền vào túi người chết, điều đó sẽ không
được gọi là kẻ cắp khi bị phát hiện. Cái xác phải xoay xở thế
nào với việc ăn cắp? Vì đó là cái xác nên nó không thể thực
hiện được những hành động như thế.
Một mình tâm trí cũng không thể là kẻ cắp được. Dù cho
tâm trí nghĩ gì đi chăng nữa, nó cũng không thể một mình
phạm phải tội ăn cắp. Không chỉ có điều đó, nếu không có
linh hồn bên trong nó thậm chí còn không thể nghĩ được. Sự

hiện diện của linh hồn là cần thiết, chỉ thế thì việc ăn cắp xảy
ra. Nhưng dầu vậy, rồi một ngày nào đó người ta đạt tới linh
hồn người ta thấy rằng việc ăn cắp đã xảy ra trong sự hiện
diện của linh hồn nhưng linh hồn đã không can dự vào việc
ăn cắp. Linh hồn chỉ hiện diện. Hiện diện của nó mạnh đến
mức mọi thứ bắt đầu xảy ra.
Mẩu nan châm đang nằm kia; mạt sắt bị hút vào. Có lẽ
bạn có thể nghĩ rằng nan châm đang hút chúng - bạn lầm.
Chính sự hiện diện của nan châm là đủ. Nó không phải hút,
nó không phải nỗ lực gì để hút cả. Nan châm không phải co
bất kì cơ bắp nào để lôi kéo mạt sắt về nó. Nam châm thậm
chí không biết rằng nó đang hút. Chính sự hiện diện của nan
châm và mạt sắt bắt đầu bị hút.
Chính sự hiện diện của linh hồn và hành động bắt đầu
có; thân thể được kích hoạt, tâm trí được kích hoạt và hành
động bắt đầu cuộc hành trình của nó. Cái ngày bạn vào lại
linh hồn này, trong samadhi, bạn được tự do khỏi mọi dấu ấn
hành động - không phải bởi vì những hành động này có cách
nào đó bám vào bạn mà bởi vì chúng chưa bao giờ bám vào
bạn ngay chỗ đầu tiên. Trước đây bạn còn chưa bao giờ đạt
tới cái ta bên trong của mình, chỗ mà bạn sẽ hiểu rằng bạn là
không bị gắn vào đâu cả.
Quan điểm này của Upanishad theo một nghĩa nào đó
chống lại đạo đức rất nhiều. Bởi vì điều này đã có phản đối
quyết liệt đối với Upanishad sâu bên trong tâm trí. Bất kì ai
là người đạo đức cũng đều yêu cầu bạn huỷ bỏ hành động
xấu bằng hành động tốt, thực hiện những hành động tốt và
không làm những hành vi xấu. Upanishad nói rằng việc thực
hiện những hành vi như vậy là sai. Dù cho bạn có thực hiện
hành vi tốt hay hành vi xấu, đấy cũng chỉ là điều thứ yếu.
Khái niệm của bạn về việc làm, rằng bạn là người làm - cái
đó là ác.
Ác cũng có hai kiểu: ác tốt và ác xấu, nhưng cả hai đều
là ác cả, vì việc tin rằng bạn làm điều gì đó là ảo tưởng. Bạn
chỉ hiện diện và hành động xảy ra; hành động xảy ra chỉ
trong sự hiện diện của bạn. Bạn chỉ là nhân chứng, không
phải là người làm.
Cái ngày bạn nếm trải sự hiện diện này không như người
làm mà như nhân chứng, bạn sẽ thấy ra rằng dù bất kì cái gì
đã từng xảy ra chỉ xảy ra xung quanh bạn; bất kì điều gì đã
từng xảy ra bạn đã không làm, nó chỉ xảy ra xung quanh bạn.
Các sự kiện đã xảy ra, xảy ra ngay cạnh bạn, nhưng bạn vẫn
xa khỏi nó.
Cũng hệt như khi bạn mơ ban đêm và bạn tỉnh dậy vào
buổi sáng và bạn nói, “Tôi có giấc mơ”; bạn vẫn còn tách
biệt với nó. Có thể là bạn phạm tội ăn cắp trong giấc mơ, có
thể là bạn trở nên bị tù trong giấc mơ, có thể là bạn tự cứu
được mình khỏi bị tù bằng cách hối lộ. Bất kì cái gì có thể
xảy ra trong giấc mơ, nhưng khi bạn thức dậy vào buổi sáng,
mơ biến mất hoàn toàn - dường như nó chưa bao giờ xảy ra
cả. Sau khi thức dậy vào buổi sáng bạn không tự coi mình là
kẻ cắp.
Nhưng đã bao giờ bạn có ý nghĩ: mơ liệu có thể có đó
mà không có mình không? Mơ có thể xảy ra bởi vì bạn còn
có đó. Nếu bạn không có đó... mơ sẽ không xảy ra cho xác
chết. Mơ xảy ra bởi vì bạn có đó, sự hiện diện của bạn là cái
cần phải có để cho nó xảy ra. Vậy mà lúc tỉnh dậy vào buổi
sáng bạn không cảm thấy bận tâm rằng mình phạm tội ăn
cắp. Làm gì bây giờ để bù lại điều đó? Nhịn ăn, trừng phạt,
làm từ thiện, từ bỏ? Làm gì? Không bạn không cảm thấy

phải làm gì cả. Mơ thậm chí cũng không còn lại trong trí nhớ
quá hai phút sau khi thức. Nó biến mất tựa như làn khói.
Trong trạng thái của samadhi đúng, toàn bộ cuộc sống
tựa như giấc mơ, dù người ta đã sống bất kì cái gì... không
chỉ trong kiếp sống này mà trong vô hạn kiếp sống để đi tới
trạng thái samadhi. Giống như vào buổi sáng khi bạn đi tới
trạng thái thức từ giấc ngủ, tương tự như vậy, khi bạn tới
trong samadhi từ cái gọi là trạng thái thức, toàn thể cái vòng
quá khứ, mọi chất liệu mơ đều tan biến tựa khói.
Người đã đạt tới trong samadhi lần đầu tiên biết rằng,
“Mình chỉ hiện hữu; mọi hành động đã xảy ra gần mình tựa
như mơ.” Và không lo âu hay nuối tiếc gì về chúng còn lại.
Không còn lại tự ca ngợi - “Mình đã làm hành vi vĩ đại làm
sao” - không còn tự kết án, “Mình làm hành vi tầm thường
làm sao.” Không, mọi thứ đều biến mất.
Trong mơ của bạn, dù bạn là hoàng đế, sannyasin vĩ đại,
kẻ sát nhân hay kẻ cắp - không người nào trong số đó làm
thay đổi hương vị của cốc trà buổi sáng của bạn. Tất cả ba
điều này trở nên vô nghĩa. Không phải là nếu bạn là hoàng
đế trong mơ thế thì buổi sáng bạn uống trà mơ về giấc mơ,
hay nếu bạn là kẻ cắp, tên vô lại, tên sát nhân trong mơ, thế
thì bạn cảm thấy mặc cảm và chén trà mang vị chát. Bạn
không bỏ uống trà vì bạn đã là sadhu, hiền nhân trong giấc
mơ. Cũng không xảy ra là bạn nghĩ, “Mình đã từng là thánh
nhân cả đêm dài và bây giờ mình uống trà vào buổi sáng sau
- hành động đáng xấu hổ làm sao.” Không, khi bạn uống trà
buổi sáng mọi giấc mơ của bạn đã qua rồi.
Tôi đã từng nghe... Rinzai là một thiền sư vĩ đại ở Nhật,
và một lần, khi ông ấy thức dậy vào buổi sáng, ông ấy nói
với đệ tử đang đứng cạnh đó, ‘Ta sẽ kể lại giấc mơ đêm qua
nếu ông giải thích cho ta.”
Đệ tử của ông ấy nói, “Xin thầy đợi vài phút, trước hết
tôi phải bưng nước cho thầy rửa mặt và rửa tay đã.”
Đệ tử đem nước tới. Rinzai rửa mặt và rửa tay rồi mỉm
cười. Vào lúc đó một đệ tử khác tới. Rinzai nói, “Đêm qua ta
đã có giấc mơ. Ta đang định kể giấc mơ đó cho đệ tử thứ
nhất, yêu cầu anh ta xác định nó, nhưng anh ta đã xác định
nó trước khi ta kể cho anh ta. Vậy thì ông sẽ xác định nó
chứ? Ta sẽ kể nó cho ông chứ?" Đệ tử kia nó, “Xin thầy vui
lòng đợi một phút, để tôi mang cốc trà lên cho thầy đã rồi
chúng ta sẽ xem.”
Sau khi trà được đem lên, Rinzai cười to và nói, “Ta rất
hài lòng, bây giờ không cần kể lại giấc mơ làm gì.” Có một
người nữa hiện diện theo dõi mọi điều này. Người đó nghĩ
thật quả không có giới hạn nào cho xuẩn ngốc. Người đó nói,
“Có giới hạn cho mọi điều chứ. Giấc mơ thậm chí còn chưa
được kể ra mà việc xác định đã làm xong rồi, và mọi thứ đã
được giải quyết.” Người đó yêu cầu Rinzai ít nhất thuật lại
giấc mơ để cho người ta còn biết được giấc mơ về gì.
Rinzai nói, “Ta thử các đệ tử của ta đấy thôi. Nếu như họ
biểu lộ bất kì sự sẵn sàng xác định ra giấc mơ ta sẽ tống cổ
họ ra khỏi đạo tràng. Có cần phải xác định giấc mơ không?
Nó đã là mơ, và sự việc xong rồi. Người thứ nhất đã làm
điều đúng. Người đó nói, ‘Vẫn còn bóng dáng giấc mơ lấp ló
cho nên xin thầy rửa mặt bằng nước lạnh.’ Người thứ hai
cũng làm điều đúng: ‘Có lẽ việc rửa mặt vẫn chưa đủ, mơ
vẫn còn phảng phất trong tâm trí, cho nên xin thầy uống cốc
trà nóng và thức dậy!’ - và đó là việc xác định giấc mơ. Có
thể có cách xác định nào khác về giấc mơ không? Chỉ thức
dậy là giấc mơ trở thành vô nghĩa. Cái gì có đó để mà xác
định trong nó? Không ai bận tâm tới việc xác định điều vô
nghĩa.”

Điều chúng ta gọi là hành vi lớn, hành vi nhỏ, hành vi
tốt, hành vi xấu - biết bao phân chia mà chúng ta còn chưa
làm nữa - đạo đức, vô đạo đức, hạnh kiểm tốt, hạnh kiểm
xấu; tất cả chúng trở thành vô nghĩa, vô tích sự trong
samadhi. Khi thức tỉnh trong samadhi người ta thấy ra rằng
tất cả chỉ là giấc mơ dài, vô tận, vô hạn, và người ta chỉ hiện
diện ở đó. Bạn chưa bước vào nó, bạn vẫn đứng bên ngoài.
Đây là lí do tại sao mọi dấu ấn hành động đều bị phá huỷ, và
pháp, tự tính, nảy sinh. Khi mọi dấu ấn hành động đều bị huỷ
bỏ, khi mọi thứ mà chúng ta can dự vào đều bị huỷ bỏ, chúng
ta đi tới biết cái chúng ta đang là, cái là bản thể của chúng ta,
tự tính của chúng ta. Tự tính là pháp, tôn giáo.
Những người biết về yoga gọi nó là Dharmamegha - đám
mây mưa pháp - samadhi, bởi vì nó mưa rào xuống hàng
nghìn dòng suối cam lồ pháp, bản tính tự nhiên, tựa như
đám mây mưa.

Dharmamegha là một từ hay. Mây chúng ta đã thấy. Khi
ở Ashadh, tháng đầu tiên của mùa mưa tới, mây tụ tập trên
bầu trời. Nhưng chúng ta không nhận biết về toàn thể hiện
tượng này. Những đám mây đó tụ tập trên trời ở Ashadh, và
công bắt đầu múa. Những đường nứt nẻ lớn kéo dài trên đất
do cái nóng mùa hè, dường như là đất há môi, như là đất mở
cửa mọi phía để uống từng giọt nước cho sự thoả mãn của
trái tim nó. Và cơn khát mà đất phải đợi chờ lâu thế, và cơn
khát mà cây cối đã phải bơ phờ tựa như cá bị quẳng lên cát
khô. Thế rồi những đám mây này tụ lại trên trời và mưa bắt
đầu trút xuống dưới bóng của mây đen, và điệu vũ, một bài
ca giăng ra khắp nơi.
Dharmamegha là hiện tượng tương tự như với Ashadh
xảy ra bên trong bạn. Dường như là bản thể bạn đã khát nước
không biết bao nhiêu kiếp rồi, những đường nứt nẻ đã xuất
hiện trong nó, không có dấu vết nào của nước ở bất kì đâu
mà có thể làm dịu nó. Bạn đã uống nước, nhưng điều ấy chỉ
làm tăng thêm cơn khát chứ không làm dịu được nó. Bạn đã
uống bao nhiêu kiểu nước, đã đi qua nhiều nguồn nước, và ai
biết điều bạn đã không tìm kiếm và nắm giữ. Nhưng mọi lần
hi vọng biến thành thất vọng, không cái gì tới tay bạn. Cơn
khát này và mảnh đất nứt nẻ của toàn thể bản thể bạn, đầy
những khao khát... những đám mây mưa lần đầu tiên tụ tập
trên nó vào khoảnh khắc của samadhi. Ashadh đến bên
trong, và cơn mưa rào cam lồ - đó chỉ là biểu tượng - cơn
mưa rào cam lồ bắt đầu xảy ra lần đầu tiên. Lần đầu tiên, vào
những khoảnh khắc của samadhi, linh hồn được tắm táp và
nước cam lồ bắt đầu trút xuống từ những đám mây đó trong
vô hạn những luồng mạch.
Mô tả này chỉ là biểu tượng. Điều thực sự xảy ra còn lớn
hơn nhiều lắm. Gọi nó là cam lồ thực tế không thể cho chúng
ta ý tưởng nào về nó. Nhưng dầy vậy chúng ta vẫn có được
chỉ dẫn nào đó rằng đám mây tụ tập trên trời... mưa rào bắt
đầu từ chúng và linh hồn, cơn khát đời kiếp được thoả mãn.
Những người biết về yoga gọi nó là Dharmamegha - đám
mây mưa pháp - samadhi, bởi vì nó trút xuống dòng suối
cam lồ pháp, bản tính tự nhiên, tựa như đám mây mưa
rào.
Nhưng tại sao nó được gọi là dharmamegha? Bởi vì lần
đầu tiên tự tính trút xuống người ta. Pháp nghĩa là tự tính.
Bất kì điều gì chúng ta đã biết cho tới nay đều là bản tính
của người khác. Đôi khi cái đẹp được thấy là ở trong ai đó
khác. Đôi khi tình yêu được nhận nó là từ ai đó khác. Hạnh

phúc được nhận, bất hạnh được nhận. Nó bao giờ cũng từ
người khác, mọi thông tin đều qua người khác; không có
kinh nghiệm nào của riêng người ta. Ai đó khác, ai đó khác,
ai đó khác - bao giờ cũng người khác, và chỉ người khác là
quan trọng. Bây giờ lần đầu tiên người khác bị vứt bỏ đi và
cái ta bắt đầu mưa rào lên cái ta. Điều đó tựa như chiếc lò xo
của chúng ta bật tung ra, điều đó tựa như người ta đã tìm
thấy suối nguồn riêng của mình và cái ta bắt đầu mưa rào lên
cái ta.
Dharmamegha nghĩa là tự tính đã bắt đầu mưa rào
xuống. Bản thân bạn trở nên được tắm trong nó, được chìm
ngập trong đó; trở nên tươi tắn, trở nên mới mẻ. Mọi dấu ấn
hành động, mọi bụi bẩn, mọi thứ lộn xộn trong cuộc hành
trình vô hạn, mọi rác rưởi đã tụ tập trên ngoài ta, tất cả bị
quét sạch. Tất cả những cái còn lại là bản tính, tự phát; mọi
cái còn lại là bản thân người ta, không gì khác.
Theo một nghĩa nào đó chúng ta có thể gọi nó là phúc lạc
tối thượng, theo một nghĩa nào đó chúng ta có thể nói đây là
kho báu tối thượng, và theo một nghĩa nào đó chúng ta cũng
có thể nói đây là cái nghèo tối thượng. Nếu chúng ta nghĩ về
điều thiêng liêng, con người này đã đạt tới của cải tối
thượng. Đó chính là dharmammegha samadhi cái Jesus gọi là
“Nghèo của tâm linh.” Khi ai đó đạt tới điểm này, người đó
trở thành nghèo về mọi phương diện. Bây giờ người đó
không còn gì ngoài bản thân người đó, không cái gì khác còn
lại ngoại trừ cái ta riêng của người ta. Đây là điều được gọi
là nghèo.
Đây là lí do tại sao Phật gọi sannyasin của mình là
bhikkhu khất sĩ, không là swami. Đó là vì dharmammegha
samadhi. Phật nói, “Ta không gọi sannyasin của ta là swami,
ta sẽ gọi họ là bhikkhu.” Nhưng chúng mang nghĩa cùng một
điều. Nếu bạn nhìn từ phía thế giới, họ đã trở thành khất sĩ -
bhikkhu, kẻ ăn xin. Nếu bạn nhìn từ phía của điều thiêng
liêng, họ đã trở thành swami, người chủ, hoàng đế.
Người Hindu đã dùng từ swami từ khía cạnh khác: sau
khi đạt tới samadhi, lần đầu tiên người ta trở thành hoàng đế,
người chủ. Cho đến tận bây giờ người ta đã từng là kẻ ăn
xin, ăn xin tứ phương, với tay chắp lại và bát ăn xin chìa ra.
Cho đến tận bây giờ linh hồn bạn đã từng không là gì khác
hơn cái bát ăn xin. Bất kì mẩu vụn bánh mì ai đó ném vào
trong bát ăn xin đó là kho báu duy nhất của bạn. Đồ ăn thừa,
thức ăn ôi thiu, cũ mốc, mẩu vụn bánh rơi xuống từ bàn ăn -
bạn kí cóp tất cả và coi nó như kho báu của mình. Người đó
đã là kẻ ăn xin mãi tới giờ.
Do đó người Hindu đã gọi sannyasin - người từ bỏ - đạt
tới dharmammegha samadhi là swami. Nhưng Phật nói, “Bất
kì cái gì có đó cho tới lúc này - tất cả giầu có, đế quốc, toàn
bộ thế giới - tất cả đã bị bỏ lại đằng sau. Không cái gì của
người khác còn lại, chỉ mỗi cái ta. Cái nghèo tối thượng đã
xảy ra. Khi bạn một mình không có bất kì cái gì khác, thậm
chí không quần áo, thậm chí không nhà riêng của mình, thậm
chí không đất riêng của mình - không cái gì còn lại là của
riêng bạn mà chỉ mỗi cái ta... ai có thể nghèo hơn? Ngay cả
kẻ ăn xin cũng có cái gì đó khác hơn cái ta của người đó. Nó
có thể nhỏ, nhưng nó là cái gì đó; cái gì đó khác hơn cái ta
của người đó. Nó có thể chỉ là bộ đồ lót, nhưng cái đó nữa
cũng là của cải.”
Ngay cả kẻ ăn xin cũng chưa là kẻ ăn xin đến mức người
đó là tất cả một mình, không cái gì khác.
Phật đã nói với các khất sĩ rằng thế giới sẽ bị vứt bỏ khỏi
họ theo cách không cái gì còn lại, theo cách thậm chí một

dấu vết của thế gian cũng không còn lại. Bạn trở thành kẻ ăn
xin toàn bộ khi có liên quan tới thế gian và mọi của cải.
Nhưng hai điều này là một. Người trở thành kẻ ăn xin từ
phía thế gian trở thành swami từ phía linh hồn. Người trở
thành swami từ phía linh hồn trở thành kẻ ăn xin của thế
gian. Đó là lí do tại sao chúng ta có nhiều kính trọng đến thế
đối với khất sĩ, như chưa bao giờ có cho bất kì người nào có
của cải. Chúng ta tấn phong khất sĩ lên ngôi mà chúng ta
chưa bao giờ tấn phong cho hoàng đế. Từ khất sĩ trở thành
đáng kính.
Bây giờ nghĩa của từ khất sĩ là kẻ ăn xin, và nếu bạn gọi
ai đó là khất sĩ, người đó sẽ muốn đánh bạn. Nhưng Phật gọi
những đệ tử ân huệ nhất của mình là khất sĩ. Bất kì ai được
ông ấy gọi là khất sĩ đều trở nên được ân huệ. Đôi khi những
người như thế tạo ra vấn đề ngay cả trong lĩnh vực ngôn ngữ.
Những người như Phật làm cho ngôn ngữ bị đảo lộn. Đã có ý
nghĩa rõ ràng cho từ khất sĩ và ông ấy làm biến chất nó. Ông
ấy cho nó một nghĩa hoàn toàn mới - khất sĩ trở thành hoàng
đế. Nếu hoàng đế cúi lạy dưới chân khất sĩ, điều đó ban cho
khất sĩ danh giá lớn lao.
Dharmammegha samadhi làm cho người ta là kẻ ăn xin
bên ngoài nhưng là hoàng đế bên trong.
Trong samadhi này, mạng lưới ham muốn tan biến hoàn
toàn và những tầng dầy nghiệp tích tụ, dù đức hạnh hay
tội lỗi, đều bị nhổ bật mọi gốc rễ tại chính ngọn nguồn
của chúng.

Nhớ lấy, cả đức hạnh lẫn tội lỗi. Đây là chiều sâu của
suy nghĩ Upanishad. Bụi rậm đức hạnh và tội lỗi, cả hai; tất
cả những điều tốt bạn đã làm, điều đó nữa, tất cả những điều
xấu bạn đã làm, điều đó nữa... bụi rậm của cả hai bị phá huỷ
tận gốc rễ của chúng.
Đừng nghĩ rằng khi bạn đạt tới Thượng đế bạn sẽ giữ
bảng kê ngân hành về đức hạnh của bạn cùng bạn - “Con đã
làm nhà trọ cho người khác ở không mất tiền. Con đã xây
đền chùa. Con đã cho một số người brahmin thức ăn. Ngài
có bản ghi về điều đó không?” Nếu bạn tới cổng thiên đường
với bản kê về những điều này, chả thành vấn đề biển ở lối
vào ghi 'Thiên đường', bên trong bạn sẽ thấy chỉ địa ngục.
Theo ngôn ngữ thế gian, đức hạnh và tội lỗi đằng cao
đằng thấp. Tội lỗi là xấu còn đức hạnh là tốt. Điều này có thể
ổn thoả theo cái nhìn của xã hội, nhưng trong cái nhìn tối
thượng của pháp, cả đức hạnh lẫn tội lỗi đều vô nghĩa, bởi vì
là người làm tức là tội lỗi và là người không làm là đức hạnh.
Có một điều là rõ ràng - chỉ người nào là người không làm,
người vô ngã, sẽ có khả năng vào. Chỉ người đó sẽ có khả
năng vào đó, người không có đó - người đã biến mất và đang
sắp sửa là cái không. Nếu bạn như một bản ngã vẫn có đó dù
chỉ hơi chút con đường sẽ rất hẹp và bạn sẽ không có khả
năng vào được.
Có một phát biểu của Jesus chưa bao giờ được giải thích
nghĩa tâm linh của nó. Thực ra, người phương Tây không có
khả năng tìm ra được nghĩa tâm linh; do đó bất kì nghĩa nào
được suy diễn ra cũng đều biến thành lời trần tục.
Lời của Jesus là, “Lạc đà có thể chui lọt lỗ trôn kim
nhưng kẻ giầu sẽ không bao giờ có khả năng vào thiên quốc
được.” Nhưng sau hai nghìn năm Ki tô giáo thậm chí vẫn
chưa lần nào có ai diễn giải đúng phát biểu này. Hai nghìn
năm là một khoảng thời gian dài.
Toàn thể diễn giải đã được trao cho là ở chỗ người giầu
không thể lên cõi trời được. Có khả năng lạc đà chui qua

được lỗ trôn kim không? Điều ấy không thể có được. Làm
sao lạc đà lại chui qua được lỗ trôn kim? Nhưng điều không
thể ấy, Jesus nói, bằng cách nào đó có thể xảy ra; thủ đoạn
nào đó có thể được phát minh ra, cách thức nào đó có thể
được tìm ra để lạc đà chui qua lỗ trôn kim. Nhưng người
giầu sẽ không có khả năng được vào qua cổng cõi trời.
Người Ki tô giáo chỉ hiểu ý nghĩa nông của nó, nhưng đấy
không phải là nghĩa đúng.
Điều gì được ngụ ý bởi việc là người giầu, người cảm
thấy thậm chí hơi chút rằng mình có cái gì đó. Người giầu là
người có khái niệm về việc có cái gì đó. Cho nên nếu ai đó
cảm thấy mình thu được đức hạnh, người đó là người giầu.
Nếu ai đó cảm thấy rằng mình đã là sadhu, gìn giữ việc tự
kiểm soát, sám hối, người đó là người giầu. Nghĩa của người
giầu là ai đó, người nói mình có cái gì đó về mình chứ không
phải về bản thân người đó. Đây là người giầu. Nếu người đó
nói, “Tôi đã thực hiện biết nhiều lời cầu nguyện, đã tiến hành
nhiều cuộc nhịn ăn, đã đứng dưới ánh nắng mặt trời trong
nhiều ngày. Trong nhiều năm tôi đã đứng trên đôi chân mà
không ngồi xuống. Tôi đã làm bao nhiêu việc phục vụ người
nghèo, đã đi thăm nhiều bệnh viện, đã làm điều này, đã làm
điều nọ” - nếu người đó có cái gì để tuyên bố thế thì người
này là người giầu đó.
Bây giờ nghe lại phát biểu của Jesus lần nữa: “Lạc đà có
thể chui lọt lỗ trôn kim nhưng kẻ giầu sẽ không bao giờ có
thể lọt vào thiên quốc được.”
Ai là nghèo? Người không có gì để giãi bày khi đứng
trước Thượng đế. Và nếu một người nói, “Con đã thiền, con
đức hạnh, con có tôn giáo” thì sao? Không, người đứng trống
không trước Thượng đế và nói, “Con có cái không, chỉ có
con thôi. Bất kì cái gì con đang là đều là mọi thứ ngài đã cho
con, không có tích luỹ gì của riêng con; chính bản thể con là
mọi thứ của con, con thậm chí không tính đến cả hành động
của mình...” Người đứng trước cánh cửa đó với cái trống
rỗng như thế là người nghèo. Người đó là khất sĩ của Phật,
‘người nghèo’ của Jesus. Người như thế có khả năng vào
thiên quốc của Thượng đế.
Cho nên ý nghĩa đúng của việc là nghèo là, người trống
rỗng. Người trống rỗng có khả năng đi vào. Và đây là lí do
tại sao Jesus nói về con lạc đà. Lỗ trôn kim rất nhỏ - không
có cách nào để lạc đà chui qua được nó. Cửa vào thiên quốc
của Thượng đế thậm chí còn nhỏ hơn lỗ trôn kim - chỉ cái
trống rỗng có thể đi qua được nó. Cho dù có một chút xíu cái
gì đó cùng bạn, cho dù một chút xíu của cái ‘tôi’, nó sẽ mắc
kẹt lại. Bạn đang cố đi qua lỗ trôn kim cùng với con lạc đà
của mình. Điều đó là không thể được. Bỏ con lạc đà đi!
Nhưng rất khó từ bỏ xe cộ của chúng ta, bởi vì trên xe
chúng ta trông cao hơn. Đây là cách Jesus phải đã nghĩ đến
lạc đà. Bất kì ai cưỡi trên bản ngã của mình đều đang cưỡi
trên lạc đà. Và mọi người biết cưỡi lạc đà khó chịu thế nào.
Cưỡi trên bản ngã là cưỡi lạc đà vậy. Người ta phải chịu
những cú xóc nảy người, những cú nhảy suýt ngã, nó liên tục
lên lên xuống xuống. Tuy nhiên người ta dường như ở cao.
Người ta phải xuống lạc đà. Bất kì cái gì bạn có, nó tới
từ việc làm của bạn - mọi thứ, bất kì cái gì! Bất kì cái gì bạn
có bởi việc làm của bạn đều bị giới hạn bởi tâm trí bạn; tâm
trí là biên giới của nó. Không cái gì đạt tới linh hồn mà đã tới
từ việc làm của bạn.
... mạng lưới ham muốn tan biến hoàn toàn... nghiệp -
dấu ấn hành động - được gọi là đức hạnh hay tội lỗi tất
cả đều bị bật rễ tại chính cội nguồn của chúng. Thế thì

phát biểu này... Tattvamasi, Cái đó là ngươi - là đúng,
chỉ được nhận ra một cách gián tiếp ...

Thế thì lần đầu tiên điều mà người thấy này ngụ ý được
kinh nghiệm - Tattvamasi là gì, Cái đó là ngươi. Nó lần đầu
tiên được kinh nghiệm một cách gián tiếp - một cách gián
tiếp! Ngay bây giờ nó không được thấy rất rõ ràng. Ngay bây
giờ nó chỉ cảm thấy như vậy, nó mới chỉ được động chạm,
được suy diễn; nó còn chưa là kinh nghiệm trực tiếp. Khi
dharmamegha này mưa rào lên người ta, khi tâm trí trở nên
tuyệt đối trống rỗng và cái nghèo trở thành tối thượng và
người tìm kiếm trở thành không là gì ngoài trống rỗng bên
trong, thế thì lần đầu tiên phát biểu tối cao này, Tattvamasi,
rằng bạn là Brahman, được kinh nghiệm một cách gián tiếp.
Những người thấy này của Upanishad là những người rất
tuyệt diệu. Họ vẫn nói rằng đấy không phải là một kinh
nghiệm trực tiếp. Điều ấy vẫn dường như là chúng ta đang
ngồi với đôi mắt nhắm, và tiếng bước chân của ai đó được
nghe thấy và chúng ta cảm thấy rằng ai đó đã đến, nhưng đấy
là gián tiếp. Trời rất tối và khó mà thấy được, và bỗng nhiên
tiếng vọng của một bài ca du dương lan rộng và chúng ta
cảm thấy rằng ai đó đang hát. Đây là tri thức gián tiếp.
Gián tiếp nghĩa là, đến giờ không có đương đầu mặt đối
mặt, đến giờ nó chỉ được cảm thấy. Điều đầu tiên xảy ra sau
mưa rào dharmamegha là kinh nghiệm gián tiếp về phát biểu:
“Tattvamasi - Cái đó là ngươi - được người thấy, Upanishad,
nói ra, là đúng.” Phát biểu đó bạn đã nghe thấy - đã lắng
nghe trong shravana, đã suy tư trong manan, đã hấp thu
trong nididhyasan, đã đạt tới tính một trong samadhi, bây giờ
trong mưa rào của dharmamegha samadhi nhất định là đúng.
Khi bạn hiểu, “Cái đó là đúng,” đây là tri thức gián tiếp.
Nhưng hôm nay người ta đi tới cảm thấy nó, người ta nếm
nó - rằng điều đó đã được nói đúng.
... chỉ được hiểu một cách gián tiếp ...
Khi tri thức gián tiếp này trở nên ổn định và khi không
còn dù chỉ một gợn điều phản đối thuộc bất kì loại gì ở bất kì
đâu, khi nó lắng đọng không hoài nghi, trở thành tin cậy
không tường minh...
... rồi tri thức trực tiếp, tựa như quả myrobalan trên lòng
bàn tay, được sinh ra.

Khi tri thức gián tiếp này trở nên hoàn toàn ổn định, khi
toàn bộ bản thể kinh nghiệm và nói rằng người thấy là đúng
khi nói, “Tattvamasi - Cái đó là ngươi”; khi không còn một
gợn của bất kì loại phản đối nào ở bất kì đâu, khi nó cảm
thấy toàn bộ chân lí - mặc dầu vẫn còn gián tiếp - thế thì kinh
nghiệm về Tattvamasi trở thành trực tiếp và lập tức, dường
như ai đó đã đặt một quả myrobalan vào lòng bàn tay bạn.
Thế thì một người như vậy không nói, “Điều người thấy đã
nói là đúng.” Người như vậy nói, “Tattvamasi bây giờ là
phát biểu của tôi.”
Với tri thức gián tiếp, người này nói, “Bởi vì người thấy
đã nói điều đó, tôi có thể nói rằng nó là đúng.” Trong tri thức
trực tiếp, người này sẽ nói, “Tôi nói điều đó là đúng, do đó
người thấy cũng phải có quyền nói như vậy.” Cố hiểu khác
biệt này cho đúng.
Trong tri thức gián tiếp, bằng chứng đến từ Veda, người
thấy, kinh sách. Đó là lí do tại sao cuộc hành trình đã bắt đầu
với shravana - lắng nghe. Thầy đã nói điều đó, cho nên nó

phải đúng - việc tìm kiếm đã bắt đầu trong tin cậy này. Đó là
tri thức gián tiếp chừng nào bạn cảm thấy, “Thầy đã nói điều
đó, cho nên nó phải đúng.” Và người biết thầy chấp nhận
một cách khẳng định rằng thầy phải đã nói điều đó đúng.
Nếu ai đó ở cùng Phật và Phật nói, “Tattvamasi - Cái đó
là ngươi,” thế thì người này thậm chí không thể quan niệm
được cái gì sai. Người đó không có ý tưởng gì về việc phát
biểu này là đúng hay không, nhưng người đó biết Phật, cho
nên điều Phật nói trở thành chân thực cho người đó. Điều cái
gì đó không chân thực đến từ lời của Phật nằm ngoài vấn đề
với người đó, người đó không thể quan niệm được điều này.
Với người đã sống gần thầy, đã biết thầy, lời thầy là
bằng chứng cho người đó. Nhưng, “lời thầy là bằng chứng,’
là tri thức gián tiếp, nó đến từ người khác. Đây sẽ là việc
nhận ra đầu tiên. Khi một đệ tử của Phật đạt tới samadhi
người đó chắp tay sẽ cúi xuống chân Phật và nói, “Bây giờ
tôi hiểu rằng điều thầy đã nói là đúng.” Nhưng khi việc nhận
ra này sâu sắc hơn, người đó sẽ chìm sâu hơn, tình huống sẽ
thay đổi hoàn toàn. Thế thì người đó sẽ nói, “Tôi biết điều
đó. Và bây giờ tôi nói rằng kinh nghiệm của tôi là ở chỗ điều
đó đúng; điều thầy đã nói cũng đúng.”
Bây giờ bản thân người này trở thành bằng chứng, bản
thân người này trở thành kinh sách. Chính người như vậy
chúng ta đã gọi là vị phật, tirthankara, hoá thân, một người
mà bản thân người đó là bằng chứng - người không nói rằng
bởi vì nó được viết ra như thế trong Veda nó là đúng, nhưng
là người nói rằng bởi vì nó được biết bởi họ là đúng, nó là
đúng. Và nếu Veda cũng nói cùng những điều ấy thế thì theo
thẩm quyền của việc biết của họ, Veda cũng đúng. Và nếu
Veda không nói như thế, Veda là sai. Bây giờ tiêu chuẩn là ở
kinh nghiệm riêng của người ta. Bây giờ hòn đá thử của
riêng người ta có sẵn.
Đây là trạng thái của siddhas, người viên mãn.
Khi samadhi từ tri thức gián tiếp vào tri thức trực tiếp, nó
trở thành trạng thái của siddhas. Chỉ nếu một người đã đạt
tới trạng thái như thế trở về qua samadhi, hấp thu và suy tư
cho tới bước thuyết giảng, có thế chúng ta mới có được tin
tức của thế giới đó. Cho nên nếu chúng ta kính trọng quá
nhiều vào kinh sách, đấy là vì chúng là lời của những người
đã được nghe bởi những người sống gần với họ và người đã
thấy rằng bất kì điều gì người đó nói, người đó không bao
giờ nói cái gì sai. Vậy mà người như thế không yêu cầu
người ta phải tin vào điều họ nói.
Phật nói, “Suy nghĩ, ngẫm nghĩ, suy tư, hấp thu, thực
hành, và nếu nó trở thành kinh nghiệm riêng của ông, chỉ thế
thì chấp nhận nó. Đừng chấp nhận chỉ bởi vì ta nói nó, đừng
chấp nhận chỉ bởi vì Phật nói nó, đừng chấp nhận bởi vì kinh
sách nói nó. Không, ông đi tìm và ông tìm kiếm nó, và khi
nó trở thành kinh nghiệm riêng của ông thế thì ông cũng sẽ
trở thành nhân chứng cho nó.”
Người đã đạt tới samadhi trở thành nhân chứng cho mọi
kinh sách - không phải là người biết về chúng mà là nhân
chứng cho chúng. Học giả trở nên thông thái về chúng,
người đã chứng ngộ trở thành nhân chứng. Học giả nói kinh
sách là đang nói về điều đúng bởi vì nó hấp dẫn với logic;
người đã chứng ngộ nói kinh sách là đang nói về điều đúng
bởi vì đấy là kinh nghiệm của tôi nữa.”
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#12Chết cho tương lai

Khi không ham muốn nào nảy sinh về mọi vật đáng được
tận hưởng, biết điều này như là giới hạn của vô gắn bó.
Khi không cái tôi nào nảy sinh, biết điều này như giới
hạn của việc biết.
Khi ham muốn đã tan biến không nảy sinh lại nữa, đây là
giới hạn của thảnh thơi, và một sthitpragya như thế,
người tìm kiếm, ổn định trong trí huệ, vẫn còn mãi trong
phúc lạc.
Người có cái ta bị hấp thu chỉ vào Brahman, thực tại tối
thượng, vẫn còn vô ham muốn và vô hành động. Khi
được làm thuần khiết bởi cái một của nó với Brahman và
được đắm chìm trong sự mê li cái một này, các hành
động của tâm trí là vô chọn lựa và chỉ còn như tâm thức,
thế thì điều đó được gọi là pragya, trí huệ. Người bao
giờ cũng có pragya như vậy, được gọi là jivanamukta,
người được giải thoát khi đang sống.
Người không còn cái tôi cho thân thể mình và giác quan
mình, và không còn cái của tôi về các vật khác, là một
jivanamukta, người được giải thoát khi đang sống.
Khi không ham muốn nảy sinh về mọi vật đáng được tận
hưởng, thế thì biết điều này như giới hạn của vô gắn bó.
Khi không cái tôi nào nảy sinh, biết điều này như giới
hạn của việc biết.

Vairagya thông thường, nghĩa là vô gắn bó, được hiểu
bởi những người là viraga, nghĩa là tách rời. Raga và viraga -
gắn bó và tách rời - là đối lập nhau. Gắn bó nghĩa là nảy sinh
ham muốn mê đắm khi thấy một đối tượng. Nếu cái đẹp
được thấy, nếu thức ăn ngon được thấy, nếu một tình huống
dễ chịu được thấy, thế thì ham muốn, cái nảy sinh ra để tận
hưởng nó, để chìm vào trong nó, được mất đi trong nó, là
gắn bó.
Gắn bó nghĩa là ham muốn để trở nên bị gắn vào, ham
muốn được chìm ngập trong cái gì đó bởi việc đánh mất đi
cái ta riêng của người ta. Nếu hoan lạc được thấy bên ngoài
bản thân người ta thế thì ham muốn đắm chìm bản thân
người ta vào trong hoan lạc đó là gắn bó.
Tách rời có nghĩa là việc đẩy ra nảy sinh khi thấy cái gì
đó tận hưởng được; ham muốn nảy sinh để thoát khỏi nó, để
quay lưng lại nó. Theo ngôn ngữ, raga là gắn vào, viraga là
đẩy ra. Khi có ham muốn hướng về một vật đó là gắn bó, khi
có ham muốn rời xa một vật đó là tách rời. Viraga nghĩa là
raga đảo ngược. Trong người này chúng ta bị kéo lại gần,
trong người khác chúng ta đi ra xa. Viraga, tách rời, không
phải là tự do khỏi gắn bó, nó chỉ là gắn bó đảo ngược.
Ai đó ham muốn tiền bạc; nếu người đó có được tiền
người đó nghĩ người đó đã đạt được mọi thứ. Ai đó khác
nghĩ rằng nếu người đó có thể từ bỏ được tiền bạc người đó
có thể đạt được mọi thứ. Nhưng họ cả hai đều hội tụ vào tiền
bạc. Ai đó nghĩ có thích thú trong người đàn ông hay người
đàn bà, và ai đó khác nghĩ có thích thú trong việc từ bỏ
người đàn ông hay đàn bà. Nhưng điểm trung tâm cho cả hai
người này vẫn là người đàn ông hay đàn bà. Ai đó nghĩ cuộc
sống thế gian này là cõi trời, ai đó khác nghĩ thế gian này là
địa ngục, nhưng chú ý của cả hai là vào thế gian.

Theo quan điểm ngôn ngữ, vairagya, tách rời, là cái đối
lập của raga, gắn bó, nhưng với người tìm kiếm tâm linh,
vairagya không đối lập với raga, nó là thiếu vắng raga. Xin
hiểu khác biệt này cho đúng. Nếu bạn nhìn vào từ điển, tách
rời là cái đối lập của gắn bó, nhưng nếu bạn chuyển vào
trong kinh nghiệm, tách rời không phải là đối lập của gắn bó
mà là thiếu vắng của nó. Khác biệt là tinh tế.
Có hấp dẫn tới đàn bà; đây là gắn bó. Nếu nó trở thành
đẩy ra đối với đàn bà, sự việc trở thành rất khó chịu đựng
được người đồng hành đó, thế thì một khuynh hướng nảy
sinh trong tâm trí để tránh xa đàn bà. Đây là tách rời, theo
ngôn ngữ và từ điển; nhưng theo samadhi, thức tỉnh, nó vẫn
là hấp dẫn.
Theo quan điểm của samadhi, tách rời là khi không có cả
hấp dẫn với đàn bà lẫn đẩy ra; không kéo không đẩy. Đấy là
khi sự có mặt của đàn bà hay không có mặt của cô ấy là như
nhau; đấy là khi sự có mặt của đàn ông hay không có mặt
của anh ta là như nhau; khi nghèo khó và giầu có là như
nhau. Khi không có việc thu được cái gì đó làm cho bạn
hạnh phúc hay việc mất đi cái gì đó làm cho bạn hạnh phúc,
khi hạnh phúc không liên quan gì tới việc được hay mất, khi
hạnh phúc trở thành của riêng người ta, không cần tới kích
thích từ bên ngoài - không có gặp gỡ lẫn không gặp gỡ,
chúng cả hai đều thành vô nghĩa - thế thì đó là vairagya,
nghĩa là vô gắn bó.
Vô gắn bó nghĩa là chúng ta đơn giản không tìm cái khác
nữa. Chúng ta không ủng hộ không chống đối; không trong
hấp dẫn không trong đẩy ra
Có thể có hai kiểu tù túng với người khác: khi chúng ta
gặp người bạn, có hạnh phúc, khi chúng ta gặp kẻ thù, có bất
hạnh; hay khi kẻ thù rời xa, có hạnh phúc, khi người bạn rời
xa, có bất hạnh.
Phật đã nói với mỉa mai sâu sắc, “Thù cho bất hạnh, bạn
bè cũng cho bất hạnh; khi bạn rời khỏi chúng ta có bất hạnh,
khi thù gặp chúng ta thì có bất hạnh. Khác biệt là gì?”
Có gắn bó nào đó với kẻ thù cũng như với người bạn.
Nếu kẻ thù của bạn chết, thì thế nữa cái gì đó đổ vỡ bên
trong, một chỗ rơi vào trống rỗng bên trong. Nhiều lần cái
chết của kẻ thù tạo ra trống rỗng lớn hơn trong bạn so với cái
chết của người bạn bởi vì cũng có gắn bó với kẻ thù đó nữa.
Đấy là gắn bó đảo ngược; bạn được liên quan cả với sự hiện
diện của nó.
Người ta có liên quan tới bạn bè cũng như tới kẻ thù.
Cho nên bạn có quan hệ cả với những vật và người mà bạn
chống đối nữa.
Vô gắn bó nghĩa là không có quan hệ với bất kì cái gì;
bạn đã trở thành không có quan hệ, một mình. Cho nên trong
kinh này định nghĩa về trạng thái tối thượng của vô gắn bó:
Khi không còn ham muốn về mọi vật đáng được tận hưởng.
Trong ngôn ngữ, từ viraga, tách rời, nghĩa là từ bỏ và
lánh xa khỏi đối tượng của hưởng thú. Bất kì ở đâu vairagya,
vô gắn bó, đều có nghĩa là không có ham muốn nảy sinh để
tận hưởng một đối tượng cho dù nó có thể hiện diện; điều đó
nghĩa là cho dù bạn đang tận hưởng nó, không có ham muốn
về nó.
Vua Janaka, một người chứng ngộ được nhắc tới trong
Ramayana, sống trong lâu đài nơi mọi thứ đều sẵn có có thể
được tận hưởng, nhưng không có ham muốn tận hưởng. Bạn
có thể chọn rời bỏ và chạy trốn vào rừng sâu nơi không có gì
để tận hưởng được, nhưng ham muốn của bạn để tận hưởng
sẽ biến bản thân nó thành mơ, sẽ kích động đam mê của bạn;

tâm trí bạn sẽ vơ vẩn khắp nơi về lại những nơi có những
điều được tận hưởng.
Cho nên vấn đề không phải là hiện diện hay thiếu vắng
của những điều thích thú, vấn đề là ở sự tồn tại của những
ham muốn đó. Và điều rất thú vị để chú ý là nơi không còn
đối tượng nào của hưởng thú, ham muốn được cảm thấy
thậm chí mãnh liệt hơn; nó không được cảm thấy mãnh liệt
thế khi các đối tượng của hưởng thú đang hiện diện. Trong
sự không có sẵn, ham muốn sắc bén hơn.
Kinh này nói rằng cho dù ai đó đã từ bỏ mọi thứ dầu vậy
đấy không phải là giới hạn của vô gắn bó. Điều này nữa cũng
không là dạng tối thượng của vô gắn bó, bởi vì có thể là gắn
bó vẫn còn đâu đó sâu bên trong. Cũng có thể là việc chạy
trốn xa đã là một dạng của gắn bó. Thế thì định nghĩa tối
thượng là gì? - khi mọi thứ thích thú hiện diện nhưng không
có ham muốn để mê đắm. Ai sẽ quyết định về nó? Mọi người
phải quyết định nó cho bản thân mình. Đấy không phải là
vấn đề để cho người khác quyết định; bạn là quan toà riêng
của mình.
Khi không ham muốn nào nảy sinh bên trong, khi các
đối tượng tận hưởng được có thể hiện diện nhưng không ham
muốn nào nảy sinh, không ủng hộ không chống đối, khi tâm
trí đơn giản không chạy theo cách này cách nọ và bạn không
dao động theo bất kì hướng nào; bạn vẫn còn lại nơi bạn hiện
hữu, dường như là không có gì bên ngoài - đối tượng có thể
có đó bên ngoài nhưng suy nghĩ về nó bên trong không tạo ra
bất kì hấp dẫn hay đẩy ra nào - thế thì đây là giới hạn của vô
gắn bó.
Điều này có vẻ là rất khó với chúng ta bởi vì tới giờ
chúng ta đã hiểu tách rời là đối lập của gắn bó. Nếu một
người từ bỏ vợ con, gia đình và nhà cửa và chạy mất, chúng
ta gọi người đó là viraga, nghĩa là người từ bỏ. Nhưng chính
trong sự bỏ trốn của mình, người đó chỉ ra rằng theo một
cách nào đó người đó vẫn còn bị gắn bó. Khi ai đó bỏ trốn,
người đó không trốn vì sợ về ngôi nhà mình, người đó thực
ra đang trốn khỏi nỗi sợ của ham muốn bên trong của riêng
người đó. Làm sao ngôi nhà có thể làm cho người ta phải
chạy xa được? Và nếu một ngôi nhà có thể làm cho người ta
chạy xa, thế thì trạng thái bên trong đó của vô gắn bó còn
chưa có bên trong người đó đâu.
Người này đang tìm mua một ngôi nhà; bây giờ ngôi nhà
làm cho người đó phải chạy theo một hướng. Người khác thì
trốn lên rừng sâu vì sợ ngôi nhà mình; ở đây nữa cũng chính
ngôi nhà làm cho người đó phải chạy, nhưng theo hướng
khác. Người đó quay lưng về ngôi nhà nhưng người đó vẫn
còn gắn nối với ngôi nhà. Và rồi còn có người khác... mọi
thứ không làm cho người đó phải chạy. Người như thế không
bị nắm bắt bởi mọi thứ nữa.
Nhưng thế thì vô gắn bó này sẽ có nghĩa là ở trong cái ta,
được lắng đọng vào bên trong bản thân mình. Không ai trong
chúng ta được lắng vào bên trong bản thân mình.
Có một ông vua mà lực sống của ông ta được giữ bên
trong một con vẹt. Đây là chuyện cổ tích được dựng lên cho
trẻ con nhưng loại tưởng tượng này có thể vẫn xảy ra đấy.
Bất kì ai định hại vua theo bất kì cách nào, vua sẽ không chết
chừng nào con vẹt kia chưa bị giết chết. Linh hồn của vua ẩn
trong con vẹt. Chừng nào mà con vẹt không chết, vua sẽ
không chết. Đây không chỉ là chuyện kể đâu - nó chỉ ra rằng
linh hồn chúng ta cũng bị cầm tù ở đâu đó, bị nhốt ở trong
cái gì đó khác. Có thể là linh hồn bạn không bị cầm tù trong
con vẹt nhưng trong két bạc của bạn.
Trong năm 1930-31, khi đột nhiên có sự suy thoái và

đồng đô la Mĩ bị mất giá, nhiều triệu phú hàng đầu của Phố
Wall ở Mĩ đã tự tử. Cơn suy thoái đến mau lẹ và sắc bén đến
độ qua đêm những kẻ đầu cơ và triệu phú trở thành người
nghèo. Số dư ngân hàng của họ bỗng nhiên biến mất. Nhiều
người trong số họ tự tử ngay bằng cách nhảy xuống từ tầng
thứ năm mươi hay sáu mươi của toà nhà.
Điều gì đã xảy ra cho những người này? Điều gì đã xảy
ra mà bỗng nhiên không còn con đường nào cho họ ngoài
việc chết? Linh hồn của họ đã bị cầm tù trong các két bạc
của họ. Khi két bạc chết, họ chết. Cú nhảy này... không cái gì
khác xảy ra, toàn thế giới không đổi thay; chỉ có mỗi vài con
số trong sổ cái nhà băng đã biến mất. Con số! Dưới tên ai đó
đã từng có mười con số, bây giờ chỉ còn lại hai con số. Nơi
đã từng có hàng chữ số dài trong tài khoản có của người đó,
bây giờ không còn lại gì. Mọi thứ này đã xảy ra trong ngân
hàng, trên giấy tờ, nhưng linh hồn của họ bị cầm tù trong
những sổ cái nhà băng đó. Những sổ cái đó là mạng sống của
họ. Mọi nỗ lực trực tiếp để giết họ sẽ không thành công,
nhưng két bạc thành trống rỗng và họ đơn giản chết.
Ai đó đang yêu người nào đó. Thế rồi một trong hai
người yêu chết và cuộc sống bị kết thúc cho người kia. Nếu
tất cả chúng ta tìm kiếm bên trong bản thân mình, chúng ta
sẽ thấy rằng linh hồn của chúng ta cũng bị cầm tù ở đâu đó
hay ở ai đó, trong con vẹt này hay con vẹt khác. Chừng nào
linh hồn bạn còn bị cầm tù ở đâu đó, bạn không lắng đọng
vào trong cái ta của mình. Thế thì cuộc sống của bạn không
hiện diện ở chỗ nó đáng phải hiện diện. Nó phải ở bên trong
bản thân bạn - nhưng nó không có đó, nó ở đâu đó khác.
Bây giờ việc ở đâu đó khác này có thể có nhiều kiểu.
Người này nghĩ rằng thân thể mình là linh hồn mình; thế thì
người này nữa cũng ở đâu đó khác. Ngày mai người đó sẽ
bắt đầu già đi; thế rồi người đó sẽ đau đớn, người đó sẽ cảm
thấy khổ bởi vì thân thể đang suy kiệt đi, da dẻ nhăn nheo,
xấu xí, ốm yếu và già lão. Người như thế sẽ cảm thấy bản
thân mình chết trước cái chết thực sự của mình bởi vì thân
thể trẻ trung mà người đó đang giữ linh hồn trong đó nay tàn
phai dần.
Có thể có khác biệt về nơi bạn đã cầm tù linh hồn mình,
nhưng nếu linh hồn bạn ở ngoài bạn, bạn đang sống trong
gắn bó. Gắn bó có nghĩa là linh hồn bạn không ở đúng chỗ
của nó, nó ở đâu đó khác. Bạn có thể chạy theo chiều ngược
lại, nhưng dầu vậy linh hồn sẽ ở đâu đó khác.
Định nghĩa của vô gắn bó là ở chỗ linh hồn bạn nằm bên
trong bạn, lắng đọng trong bản thân bạn; không gì lôi kéo
được bạn và cũng không gì tạo ra bất kì loại gợn sóng hay
cơn sóng nào trong bạn. Do đó vô gắn bó là cánh cửa đi tới
phúc lạc, bởi vì với người đã lắng vào trong cái ta của
mình... không có cách nào làm cho người đó thành bất hạnh.
Nhớ lấy, những câu chuyện cho trẻ con đó đang nói điều
đúng. Người đã lắng đọng trong cái ta của mình, người có
linh hồn đã trở về bên trong cái ta của mình - không có cách
nào giết được người đó. Linh hồn không bao giờ chết, chỉ có
con vẹt là chết thôi. Bất kì chỗ nào bạn đặt linh hồn mình
vào, những thứ đó tuột đi, chúng chết. Do đó người này bắt
đầu cảm thấy bản thân mình gần như chết. Linh hồn là bất
tử, nhưng chúng ta gắn nó với những thứ hữu tử. Những thứ
hữu tử này nhất định sẽ tan rã - nếu không hôm nay thì ngày
mai. Đấy là chính bản chất của chúng. Khi những thứ đó tan
rã bạn sẽ có ấn tượng rằng bạn đã chết. Việc chết này của cái
ta là ảo tưởng được tạo ra từ việc gắn bó bản thân bạn với cái
hữu tử.
Vô gắn bó là khi trong sự tan vỡ của mọi quan hệ người

ta đã đi tới biết cái có liên quan - cái ta riêng của người ta.
Khi không còn ham muốn về các đối tượng đáng được
tận hưởng... Và ham muốn đối lập nảy sinh là được chứ?
Không, khi ham muốn như thế không nảy sinh - ham muốn
thuộc bất kì loại nào - thế thì ... biết điều này như giới hạn
của vô gắn bó.
Kinh này đang được trao cho cái ta riêng của người ta -
đừng đi ra phán xét người khác với nó. Chúng ta rất tinh
ranh: nếu chúng ta được trao cho các định nghĩa, thế thì
chúng ta dùng chúng để phán xét người khác: “Được, để
chúng tôi xem liệu như thế và như thế có thực sự là vô gắn
bó hay không.” Đấy không phải là việc của bạn. Bạn chẳng
liên quan gì đến người khác. Nếu người khác đang trong gắn
bó, người đó sẽ chịu bất hạnh; nếu người đó vô gắn bó người
đó sẽ tận hưởng phúc lạc. Điều đó không phải là quan tâm
của bạn. Nhưng chúng ta tinh ranh đến thế trong việc lừa dối
cái ta riêng của mình rằng nếu chúng ta có một định nghĩa,
một hòn đá thử, chúng ta lập tức bắt đầu đánh giá người khác
mà không bận tâm đánh giá cái ta riêng của chúng ta.
Kiểm tra bản thân bạn đi; kinh này dành cho bạn đấy.
Kinh này không định làm bạn nghĩ về người khác đâu - liệu
Mahavira có là người vô gắn bó hay không, liệu Krishna có
là người vô gắn bó hay không. Họ có thể có hay có thể
không, bạn chẳng liên quan gì với điều ấy cả. Đấy là việc
của riêng họ. Nếu họ vô gắn bó họ sẽ tận hưởng phúc lạc,
nếu họ không thế họ sẽ chịu khổ, nhưng bạn đừng hình dung
bất kì đâu trong đó.
Nhiều người đến tôi và hỏi, “Làm sao biết được rằng
người thế nọ thế kia thực sự là đã chứng ngộ?” Đâu là sự cần
thiết cho bạn để biết liệu một người thực sự chứng ngộ hay
không? Nếu bạn có thể duy trì nhận biết liệu bạn có chứng
ngộ hay không, điều đó là đủ. Cho dù người khác đã trở nên
chứng ngộ, điều này trong bản thân nó không làm cho bạn
chứng ngộ đâu. Nếu người khác không trở nên chứng ngộ,
điều này không đem lại bất kì cản trở gì cho chứng ngộ của
bạn.
Nhưng tại sao chúng ta nghĩ theo cách này? Có lí do cho
nó. Chúng ta muốn chắc chắn rằng không ai đã đạt tới vô gắn
bó. Điều đó cho chúng ta một loại nhẹ lòng. Thế thì không
có hại gì... nếu mình không đạt tới vô gắn bó thế thì không
hại gì, không ai khác đã đạt tới nó đâu! Điều này an ủi cho
tâm trí, hỗ trợ cho tâm trí, rằng tôi ổn cả như tôi đang đây vì
không ai đã bao giờ đạt tới được, và tôi cũng chưa đạt tới
được.
Đây là lí do tại sao tâm trí không bao giờ sẵn lòng chấp
nhận rằng bất kì ai đã đạt tới vô gắn bó. Chúng ta cố gắng
tìm ra mọi kẽ hở để chỉ ra rằng người đó còn chưa đạt tới
được. Nếu ai đó đã đạt tới vô gắn bó điều đó tạo ra không
thoải mái bên trong chúng ta. Cái không thoải mái đó là ở
chỗ nếu ai đó khác đã đạt tới được, điều đó chỉ có nghĩa là
tôi cũng có thể đạt tới nhưng tôi không thể làm được như thế
- và điều này tạo ra lo âu và mặc cảm. Do đó không ai trong
thế giới này chấp nhận người khác là đúng. Điều đó không
liên quan gì tới người khác, nhưng trong việc không chấp
nhận bất kì ai là đúng rất dễ dàng trở nên chấp nhận riêng cái
xấu riêng của người ta.
Nếu toàn thế giới đều là kẻ cắp, thế thì bạn không cảm
thấy mặc cảm trong việc bản thân bạn là kẻ cắp. Nếu toàn
thế giới là xấu, thế thì con người bạn xấu chỉ là tự nhiên.
Nhưng nếu toàn thế giới tốt, con người xấu của bạn bắt đầu
đâm vào bạn tựa chiếc gai. Thế thì dẫn tới việc tự kết án
mình, nỗi buồn, cảm giác mặc cảm, và người ta bắt đầu cảm

thấy rằng điều đáng phải xảy ra không xảy ra. Và điều đó tạo
ra không thoải mái lớn trong cuộc sống bạn.
Để cho cái không thoải mái đó đừng sinh ra và chúng ta
có thể cứ ngủ kĩ, chúng ta không bao giờ nhìn bất kì cái tốt
nào ở người khác. Nếu ai đó tới và bảo bạn rằng người nọ
người kia đã đạt tới trạng thái vô gắn bó, bạn sẽ nói, “Không,
người đó chưa đạt được đâu.” Bạn sẽ cố tìm ra hàng tá lí do
để chứng minh rằng người đó chưa đạt tới được. Đây là một
phần của âm mưu nằm sâu trong tâm trí chúng ta. Cần trở
nên nhận biết về điều này. Mối quan tâm không phải là với
người khác chút nào.
Một người bạn vừa đến tôi ba ngày trước đây. Người đó
muốn thời gian thừa thãi với tôi. Người đó nói, “Vâng, tôi
muốn nhận tính chất sannyas nhưng trước đó tôi có vài câu
hỏi rất quan trọng để hỏi.” Tôi tưởng có thể người đó có
những câu hỏi rất quan trọng, nhưng không một câu hỏi nào
là quan trọng hay cần thiết cả. Câu hỏi toàn về người khác,
không phải về bản thân người đó. Người đó đã ở đây để nhận
tính chất sannyas, và câu hỏi là về người khác: “Liệu
Krishna có thực chứng ngộ không? Nếu ông ấy có, tại sao
người Jaina tống ông ấy xuống địa ngục?”
Người Jaina đã tống ông ấy vào địa ngục trong kinh sách
của họ bởi vì họ có định nghĩa riêng của họ về vô gắn bó và
Krishna không khớp trong nó. Người ta phải từ bỏ mọi thứ
và trốn khỏi thế giới là định nghĩa của họ. Và Krishna không
từ bỏ điều gì để đi đâu cả. Đây là vấn đề.
Nhưng định nghĩa riêng của Krishna là ở chỗ nếu bạn từ
bỏ và chạy trốn, bạn chưa là người vô gắn bó. Đây là lí do tại
sao người Hindu đã không nhắc đến tên Mahavira ở bất kì
đâu trong kinh sách của họ. Ông ấy không được coi là đáng
nhắc tới. Nhưng ít nhất người Jaina đã bày tỏ tình yêu nào đó
hướng tới Krishna, tống ông ấy vào địa ngục! Người Hindu
thậm chí không nhắc tới tên Mahavira. Họ thậm chí không
coi ông ấy đáng nhắc tới. Ngay cả trong việc tống ai đó vào
địa ngục người ta đang cho người đó việc xem xét nào đó.
Người Jaina không thể bỏ qua Krishna hoàn toàn; một phát
biểu nào đó về ông ấy đã được đưa ra, không gian nào đó
dành cho ông ấy đã được để ra - cho dù nó là địa ngục,
không thành vấn đề. Người Hindu không đủ quan tâm ngay
cả việc cho Mahavira vào ngục, họ đơn giản vứt bỏ vấn đề.
Nhưng nếu ai đó níu bám vào định nghĩa của Krishna về vô
gắn bó, khó khăn nảy sinh.
Nhớ lấy, mọi định nghĩa đều dành cho bạn, người tìm
kiếm, để cho bạn cứ tiếp tục đi tìm vào bên trong bản thân
bạn, để cho có một tiêu chuẩn, một hòn đá thử trong tay mà
bạn có thể cứ kiểm tra bản thân mình. Nhưng chúng ta tất cả
đều rất tinh ranh, chúng ta cứ đi kiển tra người khác bằng
hòn đá thử ấy. Điều đó chẳng liên quan gì với người khác cả;
nếu Krishna ở trong địa ngục, đấy là việc của ông ấy. Bất kì
ai khác phải làm gì với điều đó? Bạn có thể sẵn sàng thế chỗ
của Krishna trong địa ngục và cho phép ông ấy được đi tự
do. Nếu Krishna được giải thoát, điều đó không tạo ra giải
thoát của bạn.
Tất cả những suy nghĩ của bạn về người khác đều vô
nghĩa.
Một người bạn khác tới và hỏi tôi rằng nếu cuộc gặp gỡ
giữa tôi và Krishnamurti được thu xếp, tôi có sẵn sàng gặp
ông ấy không? Đây là vấn đề giữa tôi và Krishnamurti.
Người đó liên quan gì với điều đó? Thế rồi người đó cũng
hỏi, “Nếu cuộc gặp của hai thầy xảy ra thì ai sẽ khởi đầu
chào đón?” Bây giờ việc này nữa là vấn đề giữa tôi và
Krishnamurti.

Tâm trí chúng ta bận bịu suy nghĩ về người khác và
không nghĩ về bản thân chúng ta chút nào. Người tìm kiếm
phải quyết định rằng mọi suy nghĩ về người khác đều vô
dụng, và, “Không cái gì ngoại trừ tôi và sự trưởng thành bên
trong của tôi là có liên quan tới tôi - mọi thứ khác là vô
nghĩa.” Đừng mắc vào những câu hỏi nảy sinh từ tò mò của
bạn về người khác. Nó sẽ không giúp ích bạn chút nào trong
việc thay đổi cuộc sống của bạn cả.
Nhớ lấy, những định nghĩa này được ngụ ý dành cho
bạn. Upanishad đã cho bạn những chiếc gậy đo này để cho
bạn có thể tác động vào bản thân mình bên trong, cho nên
bạn có thể không khó khăn gì trên cuộc hành trình bên trong.
Giữ quán xét bên trong bản thân mình. Chừng nào có bất kì
ham muốn gì nảy sinh bên trong khi thấy mọi vật, hiểu rằng
vô gắn bó còn chưa được đạt tới. Hướng tất cả nghị lực của
bạn vào vô gắn bó. Chúng ta dần đi tới thảo luận về những
nỗ lực này.
Khi không còn cái tôi nảy sinh, biết điều này như giới
hạn của việc biết.

Những người thấy này của Upanishad là những người rất
kì lạ. Họ không nói rằng khi bạn đã thấy Thượng đế, biết
điều này là việc biết tối thượng. Họ đã xác nhận rằng ngay cả
việc thấy Thượng đế cũng không phải là giới hạn của việc
biết; rằng khi tất cả luân xa của bạn đã mở, luồng hoả xà đã
thức tỉnh và hoa sen một ngàn cánh đã nở, biết điều này như
giới hạn của việc biết. Không, họ không nói điều đó. Họ
cũng không nói rằng khi bạn đã đi qua cả bẩy tầng trời - và
chỉ trời mới biết được bao nhiêu loại tính toán như thế là
thông dụng - hay khi bạn đã hoàn tất cuộc hành trình qua
mười bốn cõi giới và đi vào sach khand, cõi chân lí... Không,
Upanishad nói: những điều này chẳng liên quan gì với vấn
đề; tiêu chí duy nhất là ở chỗ cái tôi không nảy sinh.
Luồng hoả xà thậm chí tạo ra việc dâng lên của bản ngã.
Người tìm kiếm cảm thấy rằng bây giờ người đó không phải
là người thường, luồng hoả xà đã đi lên. Ai đó cảm thấy rằng
trung tâm con mắt thứ ba của mình đã thức tỉnh, người đó có
khả năng thấy ánh sáng; bây giờ người đó không còn là
người thường. Ai đó cảm thấy rằng trung tâm trái tim của
người đó được thức tỉnh, viên kim cương xanh đã xuất hiện
trong tim, ngọn lửa xanh được nhìn thấy; bây giờ người đó
được giải thoát, bây giờ không còn thế gian cho người đó.
Nhớ lấy, bất kì điều gì tạo ra ‘tôi’ vẫn bắt nguồn từ dốt
nát - dù bạn cho nó cái tên mĩ miều thế nào cũng không
thành vấn đề. Upanishad nói, chừng nào cái ‘tôi’ còn được
tạo ra - với bất kì nguyên nhân gì cũng không thành vấn đề -
chừng nào mà người ta còn cảm thấy rằng “tôi đã trở thành
cái gì đó,” thế thì việc biết chưa được chín muồi. Không hoa
nào đã nở, không bùng nổ nào đã xảy ra.
Tiêu chuẩn duy nhất được nêu là ở chỗ không có ‘cái tôi’
nào được tạo ra cả. Cho nên cũng có thể là một người đang
ngồi trong cửa tiệm của mình, luồng hoả xà không thức tỉnh,
người đó không thấy ánh sáng mầu xanh, người đó không du
hành tới các cõi chân lí - người đó không làm gì cả, người đó
đơn giản làm việc trong cửa hàng của mình, nhưng bản ngã
của người đó không nảy sinh - đạt tới giới hạn tối thượng của
việc biết. Ngay cả một nhà yoga vĩ đại đứng trên đỉnh cao
chót vót của Himalayas, nếu bản ngã của ông ta cũng cao
như đỉnh Himalayas, nếu ông ta nghĩ rằng chỉ ông ta đã đạt
tới và không ai khác, nếu ông ta nghĩ rằng chỉ ông ta đã đạt
tới và không ai khác, thế thì hiểu rằng việc biết chưa xảy ra
cho ông ta đâu.

Chỉ có một hòn đá thử - đó là một trạng thái được đạt tới
bên trong, tại đó không có bất kì cái gì tạo ra bất kì bản ngã
nào. Thế thì bất kì cái gì có thể cứ xảy ra - cho dù chính bản
thân Thượng đế tới, cảm giác vẫn không nảy sinh: “Mình
may mắn làm sao, mình đã đạt tới ngay cả Thượng đế! Nhìn
đây, có Thượng đế đang đứng ngay trước tôi và tôi đang thấy
ngài.”
Khi chính khuynh hướng của ‘tôi’ không nảy sinh bên
trong, thế thì biết điều ấy là giới hạn tối thượng của việc biết.
Giữ việc quan sát bên trong bạn, bằng không mọi thứ tạo ra
kiêu ngạo - mọi thứ. Tâm trí rất tinh ranh, nó tìm ra bản ngã
từ bất kì cái gì. Nó tinh ranh đến mức nó có thể tìm ra bản
ngã ngay cả từ khiêm tốn, và một người bắt đầu nói, “Không
ai khiêm tốn hơn ta. Không có ai khiêm tốn hơn ta được.”
Nhưng cái “không ai hơn ta” ấy vẫn còn đấy. Nó có thể là
bất kì cái gì - nó có thể là của cải, nó có thể là danh tiếng, nó
có thể là quyền lực, nó có thể là tri thức, nó có thể là giải
thoát, nó có thể là khiêm tốn, nhưng cái “không ai hơn ta”
đó... cái “tôi” đó vẫn cứ tồn tại.
Cho nên cứ đi tìm kiếm bên trong, kiểm tra bên trong đi,
bằng không thậm chí việc tìm kiếm tâm linh có thể biến
thành việc tìm kiếm trần tục. Khác biệt giữa tìm kiếm tâm
linh và tìm kiếm trần tục không phải là ở chỗ tìm kiếm sự vật
mà là ở bản ngã. Người này tích luỹ số lớn của cải trong thế
gian, điều ấy làm mạnh cho bản ngã người đó. Người khác từ
bỏ mọi của cải và làm mạnh thêm bản ngã của mình bằng từ
bỏ. Cả hai đều trong hành trình trần gian.
Hành trình tâm linh bắt đầu với việc vứt bỏ bản ngã. Chỉ
có một từ bỏ đáng tiến hành và đó là từ bỏ cái ‘tôi’. Mọi từ
bỏ khác đều vô dụng, bởi vì chúng nữa chỉ làm phồng cái
‘tôi’ của bạn.
Mới hôm qua một người đàn ông tới gặp tôi. Người đó
bảo tôi, “Tôi chưa từng ăn lấy một hạt ngũ cốc trong suốt
mười bốn năm qua.” Và tự hào của người đó cũng đáng để
nhìn. Mức kiêu ngạo đã được sinh ra trong người đó qua việc
không ăn ngũ cốc là không thể có được cho dù qua việc ăn
ngũ cốc. Việc không ăn ngũ cốc này đã biến thành chất độc.
Người đó kiêu ngạo làm sao! Người đó đã không ăn một hạt
ngũ cốc nào trong suốt mười bốn năm ròng - kiêu ngạo nhất
định nảy sinh. Bây giờ bạn là ai khi bị bắt buộc không ăn
ngũ cốc? Đừng ăn chúng nếu bạn không muốn ăn. Nhưng
người đó đi khắp nơi tuyên bố rằng, “Trong mười bốn năm
tôi chưa từng ăn một hạt ngũ cốc” - bây giờ điều này đã trở
thành bản ngã của người đó. Ngay cả thức ăn ngũ cốc cũng
không lấp được bản ngã nhiều như “không hạt ngũ cốc nào”
lấp vào nó!
Mọi người tới tôi và nói, “Tôi đã chỉ uống sữa trong
nhiều năm trời.” Với họ điều này dường như trở thành chất
độc. Họ không bước đi trên đất, bởi vì họ chỉ uống sữa!
Khác biệt thực nào bạn đang đem tới qua điều này? Cuộc
cách mạng vĩ đại nào đang xảy ra qua việc chỉ uống sữa này?
Nhưng có lí do đấy. Những người như thế cảm thấy rằng họ
đang làm điều gì đó đặc biệt - điều mà người khác không
làm. Nhưng khoảnh khắc người ta nghĩ về là đặt biệt bản ngã
bắt đầu dựng lên - điều đặc biệt đó có quan hệ tới cái gì là
không thành vấn đề. Bạn có thể tạo ra đặc thù cho bản thân
mình về bất kì điều gì, nó chỉ tạo ra bản ngã.
Là người tìm kiếm có nghĩa gì? Là người tìm kiếm có
nghĩa là người ta dừng việc tạo ra bất kì đặc thù nào về bản
thân mình từ bên trong và dần dần, dần dần trở thành không
người. Rồi dần dần, dần dần bạn trở thành bình thường từ
bên trong bản thân bạn đến mức thậm chí cảm giác không
nảy sinh rằng bạn là cái gì đó, và bạn trở thành cái không.

Ngày người tìm kiếm trở thành cái không, giới hạn tối
thượng của tri thức đã tới - không phải qua việc tích luỹ tri
thức mà bởi việc vứt bỏ bản ngã, không phải thông qua việc
tích luỹ thông tin mà bởi việc chết của cái ‘tôi’.
Khi ham muốn tan biến không nảy sinh lại nữa, đây là
giới hạn của thảnh thơi, và một sthitpragya như thế,
người tìm kiếm ổn định trong trí huệ, vẫn còn mãi trong
phúc lạc.

Khi ham muốn tan biến không nảy sinh lại nữa... Nhiều
lần ham muốn tan biến, nhưng chúng chỉ dừng lại một chốc
và cứ quay trở lại mãi. Hôm này bạn cảm thấy rằng tâm trí
mình đã trở nên hoàn toàn an bình, nhưng ngày hôm sau nó
lại trở nên bất ổn. Hôm này nó cảm thấy rằng bạn đang trong
phúc lạc lớn, nhưng hôm sau bạn lại bị chìm vào trong khổ.
Có một số luật nào đó của tâm trí cần được hiểu. Một
luật là ở chỗ tâm trí không bao giờ còn lại thường xuyên ở
cùng một trạng thái; thay đổi là bản chất của nó. Cho nên an
bình đến rồi đi, hiểu rõ rằng nó không phải là an bình tâm
linh, nó chỉ là của tâm trí thôi. Phúc lạc tới và thế rồi mất,
hiểu rõ rằng nó không phải là phúc lạc tâm linh, nó là của
tâm trí. Bất kì cái gì đến và đi đều là của tâm trí, nhưng cái gì
đó đến một lần và còn lại mãi mãi, cái đến và lắng đọng và
không thể đi mất bởi bất kì phương tiện gì bất kì cái gì, cái
không thể bị vứt bỏ ngay cả với nỗ lực...
Nhớ lấy khác biệt này. Nếu an bình của bạn là an bình
của tâm trí, dù bạn có thể cố gắng nhiều đến đâu nó sẽ không
còn lại lâu được, nó sẽ thay đổi. Và nếu an bình tâm linh tới,
bạn có thể cố gắng đến đâu để phá huỷ nó, bạn sẽ không có
khả năng làm như vậy được, nó sẽ còn lại đó.
Tính thường xuyên không thể được thêm vào tâm trí
ngay cả với nỗ lực, và trong linh hồn nó không thể bị ngắt
quãng ngay cả với nỗ lực nào.
Cho nên nếu một số ham muốn dừng phát sinh, đừng hấp
tấp; đừng kết luận rằng bạn đã đạt tới. Cứ đợi và xem liệu
chúng có nảy sinh lần nữa không. Nếu chúng nảy sinh lần
nữa, hiểu rằng mọi thứ vẫn diễn ra ở mức độ tâm trí. Và cái
gì là giá trị của cái an bình tâm trí này? Cái đó sẽ tới và đi và
bất ổn sẽ lại theo sau.
Với tâm trí, trong mọi khoảnh khắc có chuyển động
hướng tới cái đối lập. Khi bạn bất ổn tâm trí bắt đầu chuyển
tới an bình, và khi bạn đang an bình thì tâm trí bắt đầu
chuyển tới bất an. Tâm trí là nhị nguyên, do đó cái đối lập
bao giờ cũng có đó và nó sẽ giữ việc chuyển động.
Làm sao bạn biết rằng cái đang xảy ra là thuộc về tâm
trí? Có một khác biệt cơ bản. Khi an bình là của tâm trí và nó
đã không đạt tới các tầng sâu hơn bên trong, thế thì ngay lập
tức trong lúc trở nên an bình một ham muốn sẽ nảy sinh rằng
an bình này nên tiếp tục còn lại, rằng nó không nên đi mất.
Nếu ham muốn này nảy sinh, coi nó tất cả đều thuộc vào tâm
trí, bởi vì sợ mất là sợ của tâm trí. Nếu an bình tới và không
sợ mất nó đi theo sau, hiểu rằng nó không thuộc vào tâm trí.
Điều thứ hai: tâm trí phát chán với mọi thứ - mọi thứ. Nó
chán không chỉ với cái bất hạnh, mà cả với hạnh phúc. Đây
là luật khác của tâm trí, rằng nó trở nên chán với mọi thứ ổn
định. Nếu bạn bất hạnh, nó trở nên chán với điều đó và muốn
hạnh phúc. Điều bạn không biết là ở chỗ chính luật của tâm
trí là nếu nó được hạnh phúc, nó phát chán với hạnh phúc
nữa, và thế rồi nó bắt đầu đi tìm bất hạnh.
Tôi thấy điều này thường xuyên, khi bao nhiêu người ở
đây đang làm việc thiền: rằng cho dù hạnh phúc lắng đọng

với họ trong vài ngày họ bắt đầu thấy không thoải mái; an
bình ở được với họ vài ngày và họ bắt đầu thấy không thoải
mái, bởi vì thậm chí điều đó tạo ra chán.
Tâm trí phát chán với mọi thứ. Tâm trí bao giờ cũng đòi
hỏi cái mới, và mọi rắc rối đều nảy sinh từ nhu cầu về cái
mới. Khi bạn vượt ra ngoài tâm trí không có nhu cầu về cái
mới, không có cảm giác chán với cái cũ nữa; có nhiều tính
một với cái đang đó đến mức không có nhu cầu về bất kì cái
gì khác hơn cái đó.
Kinh này nói: Khi ham muốn tan biến không nảy sinh lại
nữa, thì đây là giới hạn của thảnh thơi. Chỉ thế thì bạn có thể
chấp nhận rằng bạn đã đạt tới nghỉ ngơi. Nếu ham muốn cứ
nảy sinh đi nảy sinh lại, hiểu rằng nó tất cả là bẫy của tâm trí.
Tại sao? Tại sao cần hiểu điều này? - bởi vì mối quan hệ của
chúng ta với tâm trí sâu sắc đến độ chúng ta coi an bình của
bản thân tâm trí như an bình của chúng ta. Điều đó đem đến
khổ lớn - vì nó biến mất.
Chúng ta có thể làm được gì? Điều có ích là dùng
nguyên lí của việc chứng kiến kết nối này. Do đó một cách đi
ra ngoài tâm trí được tạo ra và thảnh thơi tối thượng được đạt
tới. Và chúng ta thường làm cái gì? Khi tâm trí trở nên bất
ổn chúng ta muốn trốn chạy khỏi nó, và khi tâm trí trở nên
an bình thì chúng ta muốn níu bám lấy nó. Chúng ta muốn
giữ lấy an bình là vứt bỏ bất ổn. Khi tâm trí khổ sở chúng ta
muốn gạt bỏ nó; khi tâm trí trong hạnh phúc ta ôm choàng nó
và muốn giữ nó với chúng ta. Bởi liên tục tìm cái đối lập bạn
sẽ không bao giờ có khả năng tự do khỏi tâm trí, bởi vì đấy
chính là chức năng của tâm trí: gạt bỏ bất hạnh, bắt giữ hạnh
phúc.
Cách được tự do khỏi tâm trí là vẫn còn là nhân chứng
khi tâm trí đang đem cho bạn hạnh phúc, và không cố giữ nó.
Chẳng hạn, bạn đang thiền ở đây; bỗng nhiên, đôi khi trong
thiền, dòng suối của an bình sẽ tới. Thế thì đừng ôm choàng
lấy nó; giữ quan sát nó, đứng ở một khoảng cách: “An bình
đang xảy ra và mình là nhân chúng.” Khi nguồn phúc lạc
dâng lên trong khoảnh khắc nào đó và tràn ngập mọi thớ thịt
từ bên trong, thế thì giữ việc quan sát điều đó nữa từ một
khoảng cách; không ôm giữ nó với toàn lực của bạn, rằng,
“Được rồi, bây giờ giải thoát đã tới.” Không, giữ quan sát
điều đó nữa như một nhân chứng: “Phúc lạc đang xảy ra và
mình sẽ không bắt giữ nó.”
Điều đáng quan tâm là ở chỗ người không ôm giữ hạnh
phúc, bất hạnh của người đó tan biến; người không ôm giữ
an bình, bất ổn của người đó tan biến mãi mãi. Chính trong
ôm giữ an bình mà hạt mầm của bất ổn được gieo, và ôm giữ
hạnh phúc là việc sinh thành của bất hạnh. Đơn giản đừng
níu bám! Níu bám là tâm trí! Đừng níu bám vào bất kì cái gì.
Khoảng khắc nắm tay của bạn mở ra bạn sẽ ở bên ngoài tâm
trí và bạn sẽ vào nơi ham muốn không nảy sinh thêm nữa -
tan biến tối thượng của chúng xảy ra. Tan biến tối thượng
này đã được gọi là uparati, thảnh thơi.
một sthitpragya như vậy, người tìm kiếm, ổn định trong
trí huệ, còn lại mãi trong phúc lạc.

Sthitpragya là một từ rất hay. Nghĩa của nó là: người có
trí huệ đã trở nên ổn định trong bản thân mình, người có trí
huệ đã trở thành tự lập, người có tâm thức không rời bỏ
người đó và không đi bất kì đâu khác, người có tâm thức đã
trở nên được ổn định. Người tìm kiếm như thế, sannyasin
như thế, bao giờ cũng đạt tới phúc lạc.
Mọi nhị nguyên được tạo ra bởi tâm trí: hạnh phúc và bất

hạnh, an bình và bất ổn, tốt và xấu, sinh và tử. Khoảnh khắc
tâm trí rút đi, có bất nhị, phúc lạc. Không có từ đối lập cho
phúc lạc; nó ở bên ngoài nhị nguyên. Và người tìm kiếm ở
bên ngoài nhị nguyên bao giờ cũng đạt tới phúc lạc.
Chúng ta có một vấn đề lớn: vấn đề của chúng ta là ở
chỗ chúng ta rất muốn đạt tới phúc lạc, và nghe thấy loại
việc này tham lam của chúng ta bị khuấy lên. Nếu phúc lạc
vĩnh viễn có thể có, thế thì chúng ta cũng muốn có nó; nếu ai
đó có thể bầy cho ta cách thức chúng ta nữa cũng có thể có
nó vĩnh viễn. Nhưng nhớ lấy, định nghĩa này là chỉ dẫn duy
nhất về một trạng thái nào đó. Nếu nó làm nảy sinh ham
muốn trong bạn bạn sẽ không bao giờ có khả năng đạt tới
trạng thái này. Cố hiểu khác biệt này cho rõ.
Một người bạn tới tôi nói, “Tôi muốn giải thoát sớm; tôi
muốn có thiền sâu, samadhi, sớm.” Tôi bảo người đó rằng
bạn càng hấp tấp bạn càng sẽ làm cho mình bị chậm trễ, bởi
vì tâm trí hấp tấp không thể trở nên an bình được. Chính bản
thân hấp tấp là bất ổn. Và tất cả chúng ta đều biết loại vấn đề
nào nảy sinh khi chúng ta đang vội vã.
Chúng ta đón tầu hoả và do vậy chúng ta vội vàng. Bây
giờ những thứ thông thường có thể được làm trong hai phút
mất đến năm phút. Khuy trên áo khoác bị cài lệch. Bạn phải
cởi chúng ra, bạn phải cài lại lần nữa. Bạn nhặt lấy kính,
chúng tuột khỏi tay bạn và vỡ. Bạn cố gắng khoá va li, chìa
khoá cứ tuột khỏi lỗ khoá. Đấy là vội vã... Hấp tấp bao giờ
cũng làm lãng phí, bởi vì trong hấp tấp tâm trí bạn rối tinh và
bạn nhất định phạm sai lầm. Và nếu hấp tấp tạo ra chậm trễ
trong những việc nhỏ, nó sẽ tạo ra chậm trễ rất lớn trong
những việc đi đôi với cuộc hành trình đến điều tối thượng.
Tôi bảo người bạn đó, “Đừng vội vã, bằng không mọi sự
sẽ bị chậm lại đấy. Trong khu vực này, nếu bạn ở lại với thái
độ rằng bất kì khi nào nó có thể xảy ra bạn đều sẵn sàng -
không vội vã - thế thì có thể nó sẽ xảy ra sớm.”
Người đó nói, “Ồ, vậy thế sao? Vậy nếu tôi sẵn sàng đợi
mãi mãi, điều đó sẽ làm cho nó xảy ra sớm hơn chứ?”
Nếu bạn đã sẵn sàng chờ đợi nó sẽ xảy ra nhanh, nhưng
cái nhanh đó là kết quả của tâm trí chờ đợi. Nếu bạn nói bạn
sẽ đợi để cho nó có thể xảy ra nhanh chóng, điều đó có nghĩa
là bạn không đợi chút nào, và nó sẽ không bao giờ xảy ra
nhanh chóng cả. Làm sao chờ đợi có thể bắt nguồn từ ham
muốn về vội vã được?
Đây là một vấn đề thường ngày. Tất cả chúng ta đều cảm
thấy rằng chúng ta muốn phúc lạc, vậy làm sao chúng ta có
được điều đó? Suy nghĩ và ham muốn này, “Làm sao có
được phúc lạc?” chính là chướng ngại cho phúc lạc. Phúc lạc
là kết quả. Xin đừng làm nó thành ham muốn - nó sẽ xảy ra
theo cách riêng của nó. Cứ du hành im lặng và yên tĩnh - nó
sẽ xảy ra theo cách riêng của nó.
Vậy một khó khăn lớn có thể nảy sinh, rằng lúc đọc kinh
này nhiều người sẽ trở nên đầy ham muốn về phúc lạc. Cho
nên bao nhiêu người trong suốt bao nhiêu thế kỉ đã trở nên
đầy ham muốn sau khi đọc những kinh như thế, và những
kinh này là về tự do khỏi ham muốn. Thay vì thế một ham
muốn mới bắt nắm giữ bạn: Làm sao đạt tới phúc lạc? Làm
sao trở thành sthitpragya, người ổn định trong trí huệ? Làm
sao đạt tới thảnh thơi? Làm sao đạt tới vô gắn bó? Và thế rồi
mọi người cứ chạy theo những ham muốn như thế hết lần
sinh này tới lần sinh khác và biến cố này không xảy ra trong
cuộc đời họ chút nào. Thế rồi họ bắt đầu tự hỏi liệu có thể
chăng những chuyện kể này đều là nói dối cả, bởi vì họ đã
được bảo rằng phúc lạc sẽ xảy ra mà mãi tới giờ nó đã không
xảy ra.

Tôi muốn bảo bạn một điều nữa trong kết nối với điều
này. Chúng ta thấy rằng từng ngày qua đi thế giới cứ trở nên
ngày càng phi tôn giáo hơn; mọi người mất dần niềm tin vào
tôn giáo. Bạn có biết lí do cho điều này không? Lí do được
nêu ở đây trong kinh này.
Từng người trong các bạn đã ấp ủ ham muốn này trong
nhiều kiếp sống để đạt tới phúc lạc, chứng ngộ, Thượng đế;
nhưng bạn đã không đạt tới phúc lạc, không chứng ngộ,
không Thượng đế. Kết quả nó nhất định đem lại là đó. Kết
quả là ở chỗ bạn đã mất hết niềm tin trong những kinh như
thế và bây giờ bạn cảm thấy rằng đấy là những thứ không
bao giờ có thể được đạt tới.
Loài người đã biết đến những kinh này trong suốt mười
nghìn năm qua. Trong mười nghìn năm này gần như tất cả
con người, mà bây giờ ở trên thế gian, đã đi qua ham muốn
về phúc lạc này. Một số người đã ở gần Phật, một số ở gần
Krishna, một số gần với Jesus, một số gần với Mohammed,
và tất cả đã nỗ lực để đạt tới nó; khi thì hành thiền, khi thì
tập yoga, khi thì công phu mật tông, khi thì dùng mật chú, và
vân vân. Các bạn đã làm mọi thứ.
Khi tôi nhìn vào mọi người trên bình diện bên trong của
họ, tôi không thấy một người riêng lẻ nào mà không cố gắng
làm những việc như vậy trong kiếp sống này hay khác. Mọi
người đã đi trên con đường tìm kiếm - nhưng đầy ham muốn.
Bởi vì những ham muốn đó mọi nỗ lực đã trở thành không
kết quả, và thất bại này đã trở nên ăn sâu vào tâm thức bạn.
Đây là lí do tại sao phi tôn giáo dường như lại tăng lên trên
toàn thế giới, bởi vì với phần lớn mọi người tôn giáo đã thất
bại.
Bạn thậm chí không nhớ, nhưng bạn đã làm cho tôn giáo
thành thất bại bên trong bạn. Và bạn là nguyên do cho điều
đó, bởi vì bạn đã phạm phải sai lầm bằng cách ham muốn cái
gì đó mà không thể được ham muốn. Cho nên đây là kết quả.
Nhưng nếu bạn đi trên con đường tâm linh những điều này sẽ
xảy ra, bạn không phải bận tâm về chúng. Bạn không phải
suy nghĩ về chúng, không ham muốn chúng, không hấp tấp
để chúng xảy ra. Chính vì hấp tấp đó mà mọi thứ rối tung
lên.
Phi tôn giáo sẽ còn cứ tăng lên trong thế giới này chừng
nào chúng ta còn tạo ra ham muốn ngay cả vì tính tôn giáo.
Và bạn không mới, không ai là mới trên trái đất này. Mọi
người đều già cũ và cổ đại. Và tất cả đều đã bước đi trên bao
nhiêu còn đường và chặng đường, không gặp thành công, họ
đã mất mọi hi vọng. Sự nản lòng đó đã lắng sâu vào trong
bản thể bạn. Khó khăn lớn nhất ngày nay là phá vỡ sự nản
lòng đó. Và nếu ai đó muốn phá vỡ sự nản lòng này, phương
pháp khả thi duy nhất dường như là phương pháp kích động
ham muốn của bạn một lần nữa rất mạnh và nói cho bạn rằng
điều này sẽ chuyển giao hàng hoá - chỉ thế thì bạn mới thu
lấy dũng cảm nào đó. Nhưng chính việc đó, sự nảy sinh của
ham muốn, là căn nguyên của mọi rắc rối ngay chỗ đầu tiên.
Phật đã làm một thực nghiệm duy nhất. Trong thời ông
ấy những điều kiện cũng giống như chúng đã trở thành trong
ngày nay. Chúng bao giờ cũng giống như thế này. Bất kì khi
nào những người như Phật hay Mahavira được sinh vào thế
giới này một loại thời kì bóng tối theo sau cái chết của họ
trong hàng nghìn năm. Nó nhất định là như vậy. Khi một
người như Phật hay Krishna được sinh ra, nhìn ông ấy, hiện
hữu trong sự hiện diện của ông ấy, ở chỗ ông ấy, hàng nghìn
con người trở nên đầy ham muốn về tôn giáo và họ cảm thấy
rằng điều đó cũng là có thể cho họ. Niềm tin nảy sinh khi
nhìn Phật: “Nếu điều ấy có thể xảy ra cho ông ấy, thế thì nó
cũng có thể xảy ra cho tôi.” Và nếu họ phạm phải sai lầm khi

biến nó thành ham muốn, thế thì những người này bị hành hạ
bởi ham muốn đó và, chính bởi vì ham muốn đó, họ trở
thành phi tôn giáo trong hàng nghìn năm sau đó.
Hiểu hoàn cảnh này. Phúc lạc có thể được đạt tới, nhưng
đừng làm nó thành mục đích. An bình tối thượng là có thể,
nhưng đừng làm nó thành mục đích. Cái đó không phải là
mục đích. Làm tri thức và hiểu biết là mục đích của bạn, làm
thiền là mục đích của bạn, làm ổn định bên trong bạn là mục
đích của bạn, làm việc dừng lại tĩnh lặng và đi vào bên trong
bản thân bạn là mục đích - và phúc lạc sẽ theo sau như kết
quả, nó sẽ theo sau một cách tự nhiên. Đừng làm điều ngược
lại, đừng làm phúc lạc thành mục đích. Người làm phúc lạc
thành mục đích sẽ đơn giản rơi vào khó khăn.
Kết quả là kết quả và không là mục đích.
Ta hãy hiểu điều đó bằng việc lấy minh hoạ từ cuộc sống
đời thường. Bạn chơi thể thao - bóng đá, hốc cây, ten nít hay
bất kì thứ gì - và bạn thấy thích thú lớn trong nó. Bây giờ bạn
kể điều này cho ai đó, rằng trong khi chơi những môn thể
thao này bạn thú lắm. Người kia nói, “Tôi cũng muốn thích
thú. Ngày mai tôi sẽ tới để xem tôi có thể được thích thú
không.” Người này tới chơi và thường xuyên quan sát xem
liệu thích thú có tới hay không. Bởi vì ham muốn này về
thích thú, suy nghĩ thường xuyên về liệu thích thú có tới hay
không, người đó sẽ không có khả năng bị cuốn hút vào trò
chơi được. Trò chơi sẽ trở thành thứ yếu và thích thú sẽ trở
thành mối quan tâm chủ yếu. Trong khi chơi người đó sẽ liên
tục tìm kiếm bên trong để xem liệu có thích thú gì không.
Người đó sẽ cảm thấy rằng người đó không có thích thú nào,
rằng thích thú đáng phải được kinh nghiệm thấy ngay bây
giờ nếu có trong trò chơi. Người này sẽ bị kiệt sức vào lúc
cuối của trò chơi và phàn nàn, “Không có thích thú gì ở đây
cả. Cái vô nghĩa này là gì vậy?”
Người cứ đi tìm kiếm thích thú trong trò chơi sẽ không
chỉ không thu được sự thích thú mà người đó còn làm hỏng
cả trò chơi nữa. Thích thú là sản phẩm phụ. Nếu bạn trở nên
bị cuốn hút hoàn toàn vào trò chơi, thích thú xảy ra. Nếu ý
tưởng về thích thú chi phối tâm trí bạn và bạn không có khả
năng bị cuốn hút vào trò chơi, làm sao thích thú có thể xảy ra
được? Cả đời bạn giống như vậy đó. Trong cuộc sống mọi
thứ có ý nghĩa đều là sản phẩm phụ. Bất kì cái gì có ý nghĩa
đều xảy ra một cách yên tĩnh. Bất kì cái gì là kinh nghiệm
sâu sắc đều không được biến thành mục đích. Chính trong
việc làm ra mục đích từ nó, các cánh cửa đóng lại.
Phúc lạc xảy ra một cách vô nỗ lực, phúc lạc là việc xảy
ra tự phát. Nếu ai đó ngồi có ý thức để cố cảm nhận nó, trong
chính việc ngồi rất ý thức đó nhiều căng thẳng được sinh ra
tới mức các cánh cửa đóng lại; căng thẳng trở thành rào chắn
và phúc lạc không xảy ra.
Giữ lời kinh này trong tâm trí - đây là kinh nguy hiểm.
Kinh này hiện diện trong mọi các kinh sách. Và tất cả những
người đã nghiên cứu kinh sách đã có ham muốn của mình
nổi lên và họ đi tìm cách để thu được giải thoát. Không, việc
tự nhận ra không thể bị chộp lấy: nó được đạt tới qua việc
làm tan biến. Làm sao đạt tới phúc lạc? Không, phúc lạc
không được đạt tới được theo cách đó. Làm điều gì đó mà
bạn bị chìm ngập trong nó sâu đến độ cả bạn không được
nhớ lẫn phúc lạc không được nhớ. Và rồi khi tỉnh dậy bất
thần điều được tìm ra là chỉ phúc lạc đã còn lại; là điều bạn
đã tìm kiếm mà không thấy đâu sau bao nhiêu công tìm kiếm
vất vả, đã được tìm thấy.
Điều này được thể hiện rất rõ trong cuộc đời Phật. Phật
không ngừng phấn đấu trong sáu năm để đạt tới việc tự nhận

ra, đạt tới an bình, đạt tới chân lí. Nhưng ông ấy không thể
đạt tới được. Ông ấy đã lần theo chân của mọi thầy; thậm chí
thầy cũng phải phát mệt vì ông ấy bởi vì ông ấy là người tìm
kiếm thực sự, một người cương quyết. Tính bướng bỉnh của
ông ấy là của một kshatriya, một chiến binh, để đạt tới mục
đích; bản ngã của ông ấy là bản ngã của một kshatriya. Đó là
thách thức cho ông ấy: Làm sao một điều có thể có mà vẫn
không có khả năng đạt tới được? Một kshatriya không bao
giờ tin rằng có cái gì là không thể được - đó là điều được ngụ
ý bởi việc là một kshatriya.
Cho nên với bất kì thầy nào ông ấy tới, họ tất cả đều gặp
khó khăn lớn, bởi vì bất kì điều gì thầy yêu cầu ông ấy làm,
ông ấy làm nó ngay lập tức. Dù cho việc khó khăn đến đâu,
dù cho ông ấy có thể phải đứng dưới cái nóng mặt trời hay
trong cơn mưa rào như trút nước lâu đến đâu, dù nhiều lần
nhịn ăn phải được thực hiện - bất kì cái gì được yêu cầu ở
ông ấy, ông ấy làm nó ngay lập tức thoả mãn cho thầy, và
không cái gì xảy ra cả. Thầy cũng phát mệt. Thầy nói,
“Chúng ta có thể làm gì được nữa?”
Cái gọi là thầy không bao giờ bị mệt mỏi bởi đệ tử
thường bởi vì đệ tử thường chưa bao giờ làm được đầy đủ
những điều mà thầy đã yêu cầu làm. Do đó một tình huống
như thế chưa bao giờ nảy sinh mà thầy có thể phải nói, “Bây
giờ chúng ta có thể làm gì? Bất kì cái gì chúng ta có thể làm
chúng ta đã làm rồi.”
Khi người ta có một đệ tử như Phật khó khăn lớn nảy
sinh, vì bất kì cái gì thầy yêu cầu, Phật sẽ hoàn thành hết.
Ngay cả thầy cũng không thể tìm ra lỗi lầm nào với nó. Và
vậy mà không cái gì xảy ra. Cuối cùng thầy sẽ nói, “Bất kì
cái gì ta có thể làm, bất kì cái gì ta có thể chỉ, ta đã chỉ rồi.
Bây giờ bản thân ta không biết bên ngoài điều này; bây giờ
ông sẽ phải đi sang đâu đó khác.”
Tất cả các thầy đều mệt mỏi về Phật. Còn Phật là người
thực sự bướng bỉnh. Trong sáu năm trời ông ấy đã làm mọi
điều mà bất kì ai đòi hỏi - đúng hay sai, dù hợp lí hay bất
hợp lí - và với sự chân thành lớn lao. Thậm chí không một
thầy nào có thể nói rằng điều đó đã không xảy ra bởi vì ông
ấy đã không làm điều ông ấy được yêu cầu làm. Ông ấy làm
mọi thứ đầy đủ và tốt đến mức bản thân các thầy phải xin tha
thứ và nói, “Nếu cái gì đó hơn nữa xảy ra cho ông, thông báo
lại cho chúng ta, bởi vì chúng ta đã nói mọi điều cho ông mà
chúng ta biết.”
Tuy thế vẫn không cái gì xảy ra cả. Không phải những
điều họ đã thuyết giảng cho Phật đã không xảy ra cho những
thầy đó. Không, nó đã xảy ra cho họ qua hiểu biết đó. Và
Phật đã theo sát cùng kĩ thuật như thầy đã theo đuổi và đạt
tới. Cho nên thầy cũng thấy bối rối rằng Phật này đã theo
cùng kĩ thuật, thậm chí chính xác hơn thầy đã làm - “Và
thậm chí ta đã không làm được điều đó với sự chân thành
đến như vậy; thế thì tại sao nó không xảy ra cho ông?”
Nhưng có một lí do. Nó có thể đã xảy ra cho thầy bởi vì
thầy đã làm kĩ thuật đó không có trông đợi nào hay định kiến
nào. Trông đợi của Phật là mãnh liệt. Ông ấy đã làm nó,
nhưng mắt ông ấy nhắm vào mục đích: khi nào thì chân lí,
phúc lạc, tự nhận ra được đạt tới? Cho nên ông ấy đã chắc
chắn tuân theo mọi kĩ thuật một cách đầy đủ, nhưng việc
hướng mục đích đó đã là chướng ngại.
Cuối cùng Phật cũng trở nên mệt mỏi. Sau sáu năm, một
hôm ông ấy buông bỏ việc làm mọi thứ. Thế giới ông ấy đã
từ bỏ trước đây rồi - bây giờ ông ấy từ bỏ nốt cả tính chất
sannyas. Ông ấy đã bỏ lại mọi loại hoan lạc trước đây và đã
phí hoài sáu năm trong thực hành yoga; bây giờ ông ấy bỏ

nốt cả cái đó nữa. Một đêm ông ấy quyết định rằng ông ấy sẽ
không làm bất kì cái gì thêm nữa và rằng ông ấy sẽ không
tìm kiếm thêm nữa. Ông ấy đơn giản đã hiểu rằng không cái
gì sẽ được đạt tới.
Ông ấy đã đạt tới căng thẳng tối đa của việc tìm kiếm.
Cố gắng của ông ấy, nỗ lực, đã đạt tới cực điểm. Cho nên
ông ấy vứt bỏ mọi điều. Đêm đó ông ấy đi vào giấc ngủ dưới
một cây. Đó là đêm đầu tiên trong nhiều kiếp mà Phật đã ngủ
theo cách dường như không cái gì tồn tại cần được làm vào
sáng hôm sau. Và thực sự không cái gì còn lại để được làm.
Ông ấy đã rời bỏ vương quốc, gia đình và mọi kế hoạch về
thế giới; ông ấy đã bắt đầu một kế hoạch khác về cuộc sống,
cái đó nữa đã thất bại. Bây giờ không có gì để làm. Nếu ông
ấy thức dậy sáng mai, tốt; nếu ông ấy không thức dậy, điều
đó nữa cũng tốt. Nếu ông ấy sống tiếp, điều đó không tạo ra
khác biệt gì; nếu ông ấy chết, điều đó cũng không tạo ra khác
biệt gì - tất cả đều như nhau. Tuyệt đối không có gì còn lại
để được làm vào sáng mai, đơn giản là ngày mai không có ý
nghĩa gì cho ông ấy nữa.
Và khi ai đó đi vào giấc ngủ trong đêm theo cách mà
không có kế hoạch gì cho ngày mai, samadhi xảy ra.
Sushupti, giấc ngủ say, trở thành samadhi. Không còn ham
muốn về ngày mai, không có mục đích còn lại, không có gì
còn lại để được đạt tới, không đâu để đi. Câu hỏi đã từng là,
“Ta sẽ làm gì nếu ta ở đây vào ngày mai?” Mãi cho đến giờ
chỉ có làm và làm và làm, nhưng bây giờ không có gì để
được làm chút nào. Phật ngủ đêm đó tự do khỏi mọi mục
đích tới mức không có ý tưởng nào về ông ấy sẽ làm gì nếu
ông ấy tỉnh dậy vào buổi sáng. Mặt trời sẽ lên, chim sẽ hót,
nhưng ông ấy sẽ làm gì? Và có trống rỗng như câu trả lời.
Khi không có mục đích tương lai chết, thời gian trở
thành vô nghĩa. Khi không có mục đích mọi kế hoạch đều
tan thành từng mảnh vụn và chuyển động của tâm trí dừng
lại. Với chuyển động của tâm trí kế hoạch là cần thiết, mục
đích là cần thiết; với chuyển động của tâm trí cái gì đó để đạt
tới là cần thiết, tương lai, thời gian nào đó là cần thiết. Và tất
cả những cái này đã tan biến.
Phật đã đi vào giấc ngủ đêm đó dường như ông ấy là
người đã chết đi trong khi còn sống. Ông ấy vẫn sống, vậy
mà cái chết đã xảy ra. Đến sáng quãng 5 giờ mắt ông ấy mở
ra. Phật nói, “Ta đã không mở mắt.” Ông ấy làm gì bằng việc
mở mắt? Không còn cái gì để được nhìn, không có cái gì để
được nghe, không có gì cần được đạt tới; không có lí do gì
để mở mắt. Do đó Phật nói, “Ta đã không mở mắt, chúng mở
ra theo cách riêng của chúng. Chúng mệt vì nhắm mãi rồi;
chúng đã nhắm cả đêm và bây giờ nghỉ ngơi là đầy đủ và
tròng mắt mở ra theo cách riêng của chúng.” Bên trong ông
ấy là sự trống rỗng.
Khi không có tương lai, bên trong biến thành trống rỗng.
Trong trống rỗng như thế Phật thấy ngôi sao mai cuối cùng
lặn xuống, và trong việc thấy đó ông ấy trở nên chứng ngộ.
Cùng với ngôi sao biến đi đó toàn bộ quá khứ của Phật biến
mất. Cùng với ngôi sao biến đi đó toàn bộ cuộc hành trình,
toàn bộ việc tìm kiếm biến mất.
Phật đã nói, “Lần đầu tiên ta thấy một ngôi sao vô mục
đích lặn đi trên bầu trời - nó không yêu cầu một mục đích.”
Không có mục đích trong nó. Và thấy là tốt như không thấy
nó sẽ vẫn vậy. Không có vấn đề về việc chọn lựa cái nào,
cách này hay cách kia - mắt mở, cho nên sao được thấy. Sao
đang lặn, tiếp tục lặn. “Đằng kia sao đang lặn, đằng kia bầu
trời trở nên trống rỗng sao; ở đây ta là trống rỗng đầy đủ bên
trong, hội ngộ của hai bầu trời trống rỗng xảy ra.” Phật đã

nói thêm, “Điều ta không thể đạt tới thông qua tìm kiếm
không ngừng đã được đạt tới đêm đó mà không có tìm kiếm
gì. Điều không thể đạt tới được bằng cách đuổi theo nó, là
được đạt tới đêm đó chỉ bằng cách ngồi đấy, nằm đấy. Điều
không thể đạt được bằng nỗ lực đã được đạt tới đêm đó bằng
nghỉ ngơi.”
Nhưng tại sao ông ấy đã đạt tới vào thời điểm đó? Bởi vì
phúc lạc là kết quả tự nhiên của bản thể bạn trống rỗng bên
trong.
Khi bạn chạy theo phúc lạc, và bởi việc làm như vậy là
không có khả năng trở thành trống rỗng, việc săn đuổi bản
thân phúc là rào chắn; bạn không có khả năng trở thành trống
rỗng, do đó kết quả tự nhiên không xảy ra.
Người có cái ta bị hấp thu chỉ vào Brahman, thực tại tối
thượng, vẫn còn vô ham muốn và vô hành động. Khi
được làm thuần khiết bởi cái một của nó với Brahman và
được đắm chìm trong sự mê li cái một này, các hành
động của tâm trí là vô chọn lựa và chỉ còn như tâm thức,
thế thì điều đó được gọi là pragya, trí huệ. Người bao
giờ cũng có pragya như vậy, được gọi là jivanamukta,
người được giải thoát khi đang sống.

Vậy khi bầu trời bên trong trở thành một với bầu trời bên
ngoài, khi cái trống rỗng bên trong hội nhập với cái trống
rỗng bên ngoài, mọi thứ trở thành vô ham muốn và vô hành
động. Ham muốn không thể nảy sinh mà không có ý nghĩ; ý
nghĩ là náo động của tâm trí. Nhớ lấy, một ý nghĩ nảy sinh
chỉ bởi vì người ta muốn làm cái gì đó.
Mọi người tới tôi và bảo tôi họ không có khả năng được
tự do với ý nghĩ. Bạn sẽ không tự do với ý nghĩ đâu; bạn có
ham muốn làm cái gì đó. Và khi bạn muốn làm cái gì đó, làm
sao bạn có thể tự do với ý nghĩ được? Ham muốn đó để làm
cái gì đó, chính bản kế hoạch đó được suy nghĩ. Cho dù bạn
muốn tự do với ý nghĩ bạn sẽ không thể tự do được, bởi vì
lsẽ có các ý nghĩ tham dự vào việc lập kế hoạch nó. Mọi
người bảo tôi rằng họ ngồi và cố gắng vất vả để trở nên vô ý
nghĩ. Nhưng việc lập kế hoạch để vô ý nghĩ bản thân nó là cơ
hội cho suy nghĩ. Cho nên tâm trí cứ suy nghĩ, “Làm sao trở
nên vô ý nghĩ được? Đến tận bây giờ mà mình vẫn không trở
nên vô ý nghĩ được. Liệu bao giờ có khả năng cho mình
được vô ý nghĩ không? Khi nào?”
Nhớ lấy, chừng nào có bất kì ham muốn gì - về thiên
đường, về tự nhận ra, để gặp Thượng đế - ý nghĩ sẽ tiếp diễn.
Ý nghĩ không phải là lỗi. Mọi điều được ngụ ý bởi ý nghĩ là
ở chỗ bất kì cái gì bạn ham muốn, tâm trí bạn nghĩ cách đạt
tới nó. Chừng nào còn bất kì cái gì đang bị bỏ lại để được đạt
tới, ý nghĩ sẽ tiếp tục. Ngày bạn sẵn lòng chấp nhận sự kiện
rằng, “Mình không muốn đạt tới cái gì, thậm chí không
muốn cả cái vô ham muốn,” bỗng nhiên bạn sẽ thấy rằng ý
nghĩ đã bắt đầu biến mất; chúng không được cần thêm nữa.
Khi mọi thứ bên trong trở thành trống rỗng, khi không có
kế hoạch, khi không cái gì còn lại để được đạt tới và không
còn chỗ nào để đi, khi mọi việc chạy đều trở thành vô nghĩa
và tâm thức đọng lại trên lề đường... vứt bỏ tất cả mối quan
tâm tới mục đích, mục đích đã được đạt tới.
Người có cái ta bị hấp thu chỉ vào Brahman, thực tại tối
thượng, vẫn còn vô ham muốn và vô hành động.
Người như vậy duy trì vô ham muốn và vô hành động.
Không cái gì nảy sinh trong người đó; tấm gương của người

đó trống rỗng, không có hình ảnh trên nó. Và người đó vẫn
còn vô hành động. Không còn thúc đẩy nào để làm cái gì.
Điều đó không có nghĩa là người đó cứ nằm dài như cái xác.
Không, hành động có xảy ra, nhưng không có kế hoạch cho
chúng. Hiểu khác biệt này cho đúng.
Tôi đến đây, tôi đang nói với các bạn về kinh này của
Upanishad. Nếu tôi đến sau khi lập kế hoạch cho nó, suy
nghĩ về điều gì cần được nói, điều gì không được nói, thế thì
sẽ có chuyển động của ý nghĩ trong tâm trí, nó sẽ bị rối loạn.
Tâm trí sẽ cứ làm việc. Nhưng nếu tôi chỉ tới, nhìn vào kinh
và bắt đầu nói, và duy trì nội dung với bất kì cái gì ngẫu
nhiên tới ra từ miệng tôi, thế thì hành động nói của tôi không
phải là một hành động. Nếu tôi ra đi sau khi nói và trên
đường tôi cảm thấy rằng điều tôi đã nói không tốt, đáng ra nó
sẽ tốt hơn nếu tôi nói thế này hay thế nọ, hay đáng ra sẽ tốt
hơn nếu tôi không nói điều này điều nọ, thế thì đây chỉ là ô
nhiễm. Nhưng nếu khoảnh khắc tôi kết thúc việc nói, không
cái gì còn lại bên trong tôi liên quan đến điều tôi vừa nói,
không mạch ý nghĩ nào, thế thì đây là vô hành động.
Tôi đã từng nghe về Lincoln. Một đêm ông ấy trở về nhà
cùng vợ sau khi diễn thuyết. Khi về tới nhà, các con ông ấy
hỏi, “Bài nói của bố thế nào?” Lincoln nói, “Bài nói nào?
Bài nói bố đã chuẩn bị trước khi nói hay bài nói bố thực ra
nói, hay bài nói bố nghĩ là bố nên nói sau khi thực tế đã nói
nó? Các con định hỏi về bài nói nào? Bố đã có ba bài nói -
một bài bố đã diễn tập trong tâm trí trước khi tới đó, bài thứ
hai là bài bố thực sự nói, và bài thứ ba bố ân hận về sau đáng
ra bố phải nói thế này thế nọ mà bố lại quên nói điều này,
vân vân.”
Bây giờ bài nói này là hành động. Hành động không có
trong việc nói bài nói, nó là trong lập kế hoạch trước của nó.
Cho nên nếu tâm trí quyết định trước, hay nếu tâm trí nghĩ về
nó sau đó, đó là ô nhiễm của tâm trí. Nếu hành động đơn
giản xảy ra - không có bất kì lập kế hoạch trước hay suy nghĩ
lại về sau - thế thì hành động này đã bắt nguồn từ vô hành
động.
Hành động sẽ tiếp tục. Phật trở thành vị phật, vậy mà
hành động sẽ tiếp tục - nhưng với một khác biệt. Krishna trở
thành một Krishna, hành động sẽ tiếp tục - nhưng với một
khác biệt.
Gita là có giá trị theo chính khía cạnh này, rằng bất kì
điều gì Krishna đã nói trong nó hoàn toàn là tự phát. Không
ai ra chiến trường được chuẩn bị để diễn thuyết ngay chỗ đầu
tiên. Krishna thậm chí không bao giờ nghĩ, ông ấy thậm chí
không bao giờ tưởng tượng rằng ông ấy được yêu cầu làm
điều này tại chiến trường. Điều ấy là không thể, ngay cả
trong trí tưởng tượng phong phú nhất của ông ấy. Chắc chắn
có thể không có lập kế hoạch trước về điều đó. Bỗng nhiên,
bất thần, ngẫu nhiên, việc xảy ra và nguồn chân lí của
Krishna phụt ra.
Đây không phải là bài nói, đây là bài nói tới từ vô nói.
Đây không phải là hành động, đây là hành động sinh ra từ vô
hành động. Đây là lí do tại sao Gita trở thành giá trị thế. Bởi
vì nó ngẫu nhiên thế, nó trở nên giá trị thế. Có nhiều bản
kinh trên thế giới, nhưng không một bản kinh nào có sinh
thành ngẫu nhiên thế như Gita.
Đấy là chiến trường, lời kêu gọi cho trận chiến quyết tử
đã được ban ra bởi tiếng tù và ốc; các chiến binh đã sẵn sàng
tấn công diệt kẻ thù hoặc bị diệt... đối thoại tôn giáo có đó
được chăng? Dường như không liên quan. Giá mà Gita xảy
ra trong đạo tràng, trong nơi ẩn cư hay trong công xã của
một thầy, điều đó chắc đã tạo ra nghĩa. Nhưng bởi vì nó tự

phát thế, nó đi sâu vào chính cốt lõi của Ấn Độ. Nó được
sinh ra từ vô hành động, nó được sinh ra không có kế hoạch
nào. Đây là lí do tại sao chúng ta gọi nó là Bhagavadgita, Bài
ca của Điều thiêng liêng. Trong nó không có kế hoạch con
người. Trong nó Krishna đơn giản không ứng xử như con
người. Đấy là thông điệp phát ra từ điều thiêng liêng.
Khi tất cả các hành động được sinh ra từ vô hành động
bên trong của người ta, và ý nghĩ nảy sinh ra từ vô ý nghĩ
của người ta, và lời được sinh ra từ im lặng của người ta,
người như thế được gọi là jivanamukta - người được giải
thoát ngay khi sống.
Ở Ấn Độ có khái niệm về hai kiểu giải thoát. Một kiểu
người đã giải thoát là jivanamukta, người tự do khi đang
sống. Người được giải thoát kia là người được giải thoát vào
lúc chết của người đó. Cả hai kiểu giải thoát này đều xảy ra.
Một người cứ đi tìm kiếm và tìm kiếm cả đời - và thế rồi,
như khi tôi đã nói về Phật, người đó tìm mãi, tìm mãi rồi một
hôm mệt mỏi về tìm kiếm, và điều đó xảy ra.
Đôi khi cũng có chuyện xảy ra là một người tìm kiếm cả
đời - không chỉ có sáu năm như Phật mà cả đời người đó - và
không mệt mỏi. Người đó cứ tìm kiếm và tìm kiếm mãi, và
chỉ đến khi cái chết của người đó tới người đó nhận ra rằng
mọi tìm kiếm đều vô tích sự và không đạt đến cái gì - và như
vậy vào khoảnh khắc chết mọi tìm kiếm của người đó thành
thảnh thơi. Nếu ngay trước cái chết mọi tìm kiếm thảnh thơi
và mọi kế hoạch đều dừng lại, và không còn tương lai nữa
thế thì điều đã xảy ra cho Phật dưới gốc cây bồ đề - cùng
điều ấy xảy ra dưới gốc cây của cái chết. Thế thì cái chết và
giải thoát xảy ra đồng thời, bởi vì cái chết có thể làm thảnh
thơi người ta rất sâu.
Nếu tất cả tìm kiếm của bạn đều trở thành không kết quả,
nếu nó đã trở thành kinh nghiệm vững chắc của bạn rằng mọi
tìm kiếm đều vô dụng, rằng bạn đã không đạt được cái gì tại
bất kì đâu - cả trong cuộc sống trần gian lẫn trong nỗ lực tâm
linh - không cái gì đã được đạt tới... Chỉ thế thì nếu điều này
trở thành tuyệt đối rõ ràng cho bạn và không còn lại nhu cầu
thuộc bất kì loại nào cho tương lai mà bạn vẫn muốn đạt tới
cái gì đó... chỉ thế thì khi thậm chí không còn cảm giác rằng
nếu bạn không chết bây giờ và bạn sống thêm vài ngày nữa
bạn có thể làm thêm điều gì đó, mà thay vì thế bạn chấp nhận
cái chết tiến tới...
Nếu mọi thứ đều vô tích sự, con người chấp nhận cái
chết. Giống như Phật ngủ đêm đó - thậm chí không câu hỏi
còn lại về ông ấy sẽ làm gì ngày hôm sau. Tương tự, nếu ai
đó chết cho tương lai vào khoảnh khắc chết mà không suy
nghĩ, “Bây giờ mình sắp chết và những điều nào đó vẫn còn
không hoàn chỉnh... Có cái gì đó cần được hoàn thành nhưng
có thể không được hoàn thành; giá mà mình có được thêm
vài ngày nữa mình có thể hoàn tất được nó...” Khi không
cảm giác nào như thế còn lại và cái chết buông xuống một
cách tự nhiên, như cách màn đêm buông xuống và con người
đi vào giấc ngủ, thế thì cái chết như thế cũng trở thành giải
thoát. Một người như thế được gọi là người được giải thoát.
Nhưng việc xảy ra này thỉnh thoảng xảy ra trong cuộc
sống và người này vẫn còn sống thậm chí sau giải thoát. Sự
sống sót này phụ thuộc vào các yếu tố khác.
Khi bạn được sinh ra, thân thể bạn có một khoảng sống
có sẵn nào đó trong một số năm - bẩy mươi năm, tám mươi
năm. Bây giờ nếu việc xảy ra này của giải thoát xảy ra vào
độ tuổi bốn mươi, thân thể nhất định hoàn thành bốn mươi
năm còn lại. Bạn có thể đã chết vào độ tuổi bốn mươi, nhưng
thân thể bạn sẽ chết chỉ sau khi hoàn thành tám mươi năm.

Bạn như một bản ngã không còn nữa vào tuổi bốn mươi,
nhưng thân thể sẽ kéo dài thêm bốn mươi năm nữa. Đấy là
kế hoạch định sẵn của riêng nó; nó có cách thu xếp riêng của
nó cho các nguyên tử. Vào lúc sinh thành thân thể đã tới với
năng lực riêng của nó để kéo dài trong tám mươi năm, và nó
sẽ kéo dài theo chiều dài đó.
Cho nên Phật và Mahavira chết ở độ tuổi bốn mươi,
nhưng thân thể của họ tiếp tục thêm bốn mươi năm nữa. Sau
khi cuộc chạy đua bên trong đã dừng, nhưng thân thể tiếp tục
làm việc. Cũng tựa như là đồng hồ đeo tay của bạn lên giây
cho chạy bẩy ngày và thế rồi bạn đi vào rừng, bị lạc, ngã
xuống và chết; nhưng đồng hồ của bạn vẫn tiếp tục làm việc
trong bẩy ngày nữa. Đồng hồ bạn đã lên giây cho bẩy ngày
và cái chết của bạn không làm khác biệt cho nó; nó vẫn cứ
chạy trong bẩy ngày - tích tắc, tích tắc, tích tắc...
Thân thể của bạn là cái máy. Bạn có thể đạt tới thức tỉnh
tối thượng hôm nay, bạn có thể đã chết ngày hôm nay, nhưng
thân thể bạn sẽ tiếp tục tích tắc. Trạng thái này của tâm thức
bên trong, trở thành dường như nó không có, và cái tích tắc
của thân thể vẫn tiếp tục, được gọi là jivanamuka, giải thoát
trong khi còn sống.
Khi được làm thuần khiết bởi cái một của nó với
Brahman và được đắm chìm trong sự mê li cái một này,
các hành động của tâm trí là vô chọn lựa và chỉ còn như
tâm thức, thế thì điều đó được gọi là pragya, trí huệ.

Khi trí tuệ không nghĩ về người khác, không nghĩ chút
nào và trở thành vô ý nghĩ, khi mọi ý nghĩ bị vứt bỏ và chỉ có
năng lực suy nghĩ còn lại bên trong, khi trí tuệ không liên kết
bản thân nó với bất kì vật gì và còn lại thuần khiết - tựa như
một ngọn đèn đơn độc cháy trong cái không trống rỗng chói
sáng - với trạng thái tâm thức như vậy từ Ấn Độ là pragya,
trí huệ. Thế thì bạn đã thực sự đạt tới ngọn lửa tri thức đúng
đắn. Người mà trong người đó trí huệ như vậy bao giờ cũng
là ngọn lửa, là một jivanamuta, người được giải thoát trong
khi sống.
Người không còn cái tôi cho thân thể mình và giác quan
mình, và không còn cái của tôi về các vật khác, là một
jivanamukta, người được giải thoát khi đang sống.
Những cảm giác này sẽ chắc chắn vứt bỏ. ‘Của tôi’, ‘tôi’
- những từ này đã vứt bỏ lâu trước đây rồi. Chính vào lúc vứt
bỏ bản ngã mà chứng ngộ đã xảy ra. Với người như vậy
không có cái ‘tôi’ hay ‘của tôi’ được liên kết với bất kì vật
gì. Tâm thức như vậy thậm chí không thể nói rằng ‘tôi là linh
hồn’. Người đó không gắn bất kì nghĩa nào của cái ‘tôi’ cho
bất kì cái gì; chỉ có cái ‘đang đây’ còn lại. Chúng ta dùng
cách diễn đạt “tôi đây’; người như vậy dùng cách diễn đạt
‘đây’. Cái ‘tôi’ của người đó đã bị vứt bỏ, chỉ còn trạng thái
của ‘đang đây’ thuần khiết tồn tại.
Cái ‘đang đây’ này đã được gọi là trạng thái của
jivanamukta. Khi cái ‘tôi’ chết đi và cái ‘đang đây’ còn lại,
bạn đã đạt tới tự nhận ra trong khi sống.
Nếu nỗ lực của chúng ta theo hướng tự do với ham muốn
việc xảy ra này có thể xảy ra ngay bây giờ. Nếu ham muốn
vẫn còn hiện diện, sẽ cần thời gian.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#13Quả ngọt

Người chưa bao giờ biết bất kì khác biệt nào qua trí tuệ
giữa jiva, linh hồn hiện thân, và Brahman, hay giữa
Brahman và bản tính, việc sáng tạo, được gọi là
jivanamukta, người được giải thoát ngay khi sống.
Được tôn kính bởi người tốt hay bị xúc phạm bởi người
xấu, người vẫn còn giữ được điềm đạm được gọi là
jivanamukta.
Với người đã biết đến tinh hoa Brahman, thế giới này
không còn như trước nữa. Nếu nó không là vậy, người đó
chưa biết tới trạng thái Brahma của bản thể và vẫn còn
là người hướng ngoại.
Ngay khi những kèm theo hạnh phúc được kinh nghiệm,
nó được gọi là prarabdha, dấu ấn hành động quá khứ
được tích luỹ; bởi vì việc nảy sinh của mọi quả đều là từ
hành động trong quá khứ. Không có quả ở bất kì đâu
không có hành động.
Giống như hoạt động mơ dừng lại khi thức tỉnh, tương
tự, hành động quá khứ được tích luỹ qua hàng tỉ niên kỉ
tan biến tức khắc khi người ta biết “Ta là Brahman.”

Thêm vài chỉ dẫn về trạng thái bên trong của
jivanamukta, người được giải thoát khi đang sống.
Jivanamukta là một người đã biết đến cái chết trong khi
vẫn sống. Như nó vậy, cái chết được mọi người biết, nhưng
chỉ vào thời điểm chết. Điều đó nữa cũng không thể được gọi
là biết về cái chết bởi vì ngay trong khoảnh khắc chết tâm trí
trở thành vô thức. Cho nên chúng ta không bao giờ biết được
cái chết của riêng mình, chúng ta bao giờ cũng chỉ biết về cái
chết của người khác. Bạn chỉ nhìn thấy người khác chết, bạn
chưa bao giờ thấy bản thân mình chết. Vậy tri thức của
chúng ta ngay cả về cái chết là được vay mượn. Khi ai đó
khác chết đi thì chúng ta học được gì từ điều đó? Chúng ta
biết rằng người đó mất tiếng nói, mắt không thấy được, mạch
dừng lại và rằng tim người đó dừng đập. Chúng ta chỉ biết
rằng bộ máy thân thể đã dừng làm việc, nhưng chúng ta
không biết gì về điều đã xảy ra cho người bị giấu kín đằng
sau bộ máy thân thể, hay liệu thực sự có cái gì ẩn đằng sau
hay không, hay liệu con người ẩn kín đó có được cứu hay
không?
Cái chết xảy ra bên trong, và tất cả chúng ta đều có khả
năng thấy các triệu chứng của nó ở bên ngoài. Làm sao
người ta biết được cái chết bằng việc thấy người khác chết?
Chúng ta nữa cũng đã chết nhiều lần rồi, nhưng chúng ta
chưa bao giờ có khả năng thấy bản thân mình chết, bởi vì
chúng ta đã trở thành vô thức trước khi chết.
Cho nên bạn có thể thấy nhiều người chết, nhưng bạn
chưa bao giờ đi tới tin rằng bạn nữa sắp chết. Bạn đã bao giờ
tin rằng bạn cũng sẽ chết không? Nhiều người có thể bắt đầu
chết đi mọi ngày, toàn thể nghĩa địa có thể đầy họ; bệnh dịch

nào đó có thể lan rộng và bạn sẽ thấy các xác chết khắp nơi -
dầu vậy người ta bao giờ cũng cảm thấy rằng chỉ người khác
đang chết. Bên trong bạn chưa bao giờ cảm thấy rằng bạn
cũng đang chết đi. Cho dù nhận biết như thế về cái chết có
tới nó vẫn còn trên bề mặt, nó chưa bao giờ vào sâu bên
trong. Tại sao? Bởi vì chúng ta chưa bao giờ thấy cái chết
của riêng mình, chúng ta không có kinh nghiệm về nó, chúng
ta không có trí nhớ về cái chết. Dù chúng ta có thể nghĩ
ngược về quá khứ chúng ta chưa bao giờ đi tới thấy rằng
chúng ta đã từng chết trước đây. Cho nên cái gì đó chưa bao
giờ xảy ra trong quá khứ, làm sao nó có thể xảy ra trong
tương lai?
Mọi tính toán của tâm trí đều dựa trên quá khứ. Ngay cả
khi tâm trí nghĩ tới tương lai nó chỉ nghĩ theo ngôn ngữ của
quá khứ. Điều đã xảy ra hôm qua, một mình cái đó có thể
xảy ra ngày mai - với chút ít khác biệt đây đó. Nhưng cái
chưa bao giờ xảy ra trước đây, làm sao cái đó có thể xảy ra
ngày mai được? Đây là lí do tại sao tâm trí chưa bao giờ có
khả năng tin vào cái chết. Và khi cái chết thực tế xảy ra tâm
trí đã thành vô thức rồi.
Vậy hai kinh nghiệm lớn của cuộc sống, sinh và tử,
chúng ta không bao giờ trải nghiệm. Chúng ta lấy việc sinh
và chúng ta chết, và nếu chúng ta không có khả năng kinh
nghiệm hai biến cố lớn lao này về sinh và tử thế thì làm sao
chúng ta có thể trải nghiệm được cuộc đời trôi qua ở giữa hai
điều đó? Người không có khả năng biết bắt đầu của cuộc đời,
người không có khả năng biết kết thúc của cuộc đời, làm sao
người đó có thể biết được chỗ giữa của cuộc đời?
Luồng chảy giữa sinh và tử là cuộc đời. Chúng ta không
biết cái bắt đầu không biết cái kết thúc; chỗ giữa nhất định
còn là không biết. Có thể có việc biết mơ hồ, lờ mờ nào đó -
tựa như cái gì đó nghe văng vẳng từ xa, hay tựa như một giấc
mơ được thấy. Nhưng chúng ta không có tiếp xúc trực tiếp
nào với cuộc sống.
Ý nghĩa của jivanamukta là người đã biết tới cái chết
trong cuộc sống bởi thức dậy, bởi trở thành có ý thức.
Từ jivanamukta thật tuyệt diệu. Nó mang nhiều nghĩa
khác nhau. Một nghĩa có thể là: người được giải thoát trong
khi đang sống. Một nghĩa khác có thể là: người được giải
thoát khỏi cuộc sống. Nghĩa thứ hai là sâu sắc hơn. Thực ra
nghĩa thứ nhất chỉ được dùng sau khi nghĩa thứ hai được
biết. Chỉ người đã được giải thoát khỏi cuộc sống mới có thể
được giải thoát trong cuộc sống.
Ai sẽ được giải thoát khỏi cuộc sống?
Chỉ người đã biết rằng toàn bộ cuộc sống là quá trình
chết mới có thể được giải thoát; người đã thấy rằng điều
chúng ta gọi là cuộc sống chỉ là cuộc diễu hành dài hướng tới
cái chết.
Sau khi sinh chúng ta không làm gì khác hơn là chết đi.
Chúng ta có thể làm bất kì cái gì - nhưng cuộc diễn hành
hướng về cái chết tiếp tục trong từng khoảnh khắc. Tối tới
sau sáng và chúng ta đã chết hơn mười hai tiếng đồng hồ.
Thế rồi sáng lại tới lần nữa sau tối này và chúng ta sẽ chết
trong mười hai tiếng nữa. Cuộc sống cứ vắt kiệt dần từng
giọt từng giọt một; thời gian cứ làm trống rỗng bản thân nó.
Cho nên điều chúng ta gọi là cuộc sống thực ra là quá
trình dài của việc chết. Sau khi sinh, dù người ta làm bất kì
cái gì người ta dứt khoát đang làm một điều - đó là chết dần,
tiếp tục chết. Ngay khi bạn được sinh ra bạn đã bắt đầu chết.
Trong chính hơi thở đầu tiên của đứa trẻ việc thu xếp cho hơi
thở cuối cùng của nó đã được thực hiện. Bây giờ không còn

cách nào tránh được cái chết. Người được sinh ra sẽ chết đi
chẳng chóng thì chầy; khác biệt có thể về thời gian, nhưng
cái chết là chắc chắn.
Người đã nhìn cuộc sống như quá trình dài của cái chết...
tôi nói đã nhìn, không phải đã là hiểu. Bạn cũng có thể hiểu,
“Vậy đây là cách thức nó vậy sao?” - điều đó bạn cũng có
thể hiểu. Nhưng bởi hiểu như vậy bạn sẽ không là một
jivanamukta. Không, người nhìn, người trở thành nhân
chứng cho nó, mới là người đã thấy rằng mọi khoảnh khắc
người đó đang chết đi.
Một điều chúng ta chưa bao giờ nhận ra là ở chỗ “tôi sẽ
chết”; bao giờ cũng là người khác chết. Thứ hai là, cho dù
chúng ta có phỏng đoán ra cái chết của mình từ cái chết của
người khác, thì thế nữa điều ấy cũng là cái gì đó sẽ xảy ra
trong tương lai; với bây giờ nó có thể bị trì hoãn. Nó không
xảy ra bây giờ, hôm nay. Ngay cả một người đang nằm trên
giường chờ chết cũng không nghĩ rằng cái chết của mình
đang xảy ra hôm nay, khoảnh khắc này. Người này nữa cũng
tránh né, trì hoãn - đến mai. Trong tránh né này chúng ta cứu
bản thân mình. Với chúng ta cuộc sống là bây giờ và cái chết
còn xa trong thời gian.
Người đã thấy rằng toàn thể cuộc sống là quá trình chết
cũng đã thấy rằng cái chết không phải là ngày mai mà là bây
giờ, chính khoảnh khắc này - “tôi đã chết đi trong chính
khoảnh khắc này. Làm sao để thấy, làm sao để nhận ra việc
xảy ra cái chết của tôi vào chính khoảnh khắc này?” Nếu
người ta có khả năng thấy, thế thì người ta không thèm khát
cuộc sống. Phật đã nói rằng người không thèm khát cuộc
sống là jivanamukta. Người không đòi hỏi rằng người đó
phải được sống thêm, người không ham muốn sống thêm,
người không có thèm khát sống thêm, người sẽ chấp nhận cái
chết một cách duyên dáng nếu nó tới, người sẽ không đòi hỏi
cái chết cho dù chỉ một khoảnh khắc thêm- “Đợi đã, để tôi
thu xếp mọi việc” - người bao giờ cũng sẵn sàng sống mọi
khoảnh khắc, người đó là jivanamukta.
Người có thèm khát sống được kết thúc có thể được tự
do với cuộc sống. Người trở thành tự do với cuộc sống trở
thành một jivanamukta - thế thì người đó được giải thoát
trong khi sống. Thế thì ở đây và bây giờ người đó vẫn sống
với chúng ta nhưng người đó không giống chúng ta. Người
đó cũng vẫn ngồi, dậy, ăn, uống, bước, ngủ, nhưng chính
phẩm chất của mọi hoạt động này được biến đổi. Làm mọi
thứ như chúng ta làm, người đó vẫn không làm điều chúng ta
làm. Thế giới này như chúng ta thấy nó vẫn như vậy nhưng
nó trông khác với người đó - góc cảm nhận của người đó đã
thay đổi; trung tâm trong người đó mà đang nhìn đã thay đổi;
với người đó toàn thế giới được biến đổi. Định nghĩa và
những chỉ dẫn về giải thoát như vậy trong khi đang sống là ở
trong những câu cách ngôn này. Chúng ta sẽ cố gắng hiểu
chúng từng câu một.
Người chưa bao giờ biết bất kì khác biệt nào qua trí tuệ
giữa jiva, linh hồn hiện thân, và Brahman...
... Vài người bạn kia, người bị ảnh hưởng của cơn ho
phải rời khỏi nơi đây ngay lập tức. Bằng không dừng ho lại
và ngồi nguyên tại chỗ. Nhưng cả hai điều này sẽ không
được.
Người chưa bao giờ biết bất kì khác biệt nào qua trí tuệ
giữa jiva, linh hồn hiện thân, và Brahman, hay giữa
Brahman và bản tính, việc sáng tạo, được gọi là
jivanamukta, người được giải thoát ngay khi sống.

Đặc trưng đầu tiên: người không thấy qua trí tuệ của
mình bất kì khác biệt nào giữa linh hồn cái đang ẩn kín bên
trong người ta và Brahma cái ẩn kín bên trong việc sáng tạo,
là jivanamukta.
Có hai điều trong đó. “Không khác biệt nào được thấy
qua trí tuệ.” Mọi khác biệt đều do trí tuệ, tâm trí tạo ra. Trí
tuệ là cơ chế làm cho chúng ta có khả năng thấy mọi vật
khác biệt. Hệt như khi chúng ta nhúng một chiếc đũa vào
nước đũa dường như bị cong - rút nó ra khỏi nước, nó lại
trông thẳng. Nhúng lại vào nước, nó lại có vẻ cong. Đũa
không bị cong bởi trong nước, nó chỉ có vẻ như bị cong bởi
vì đường đi của tia sáng vào trong nước và bên ngoài nước là
khác nhau. Qua trung gian nước các tia sáng trở thành bị
cong và do vậy đũa dường như bị cong.
Nhúng bất kì vật thẳng nào vào nước và nó sẽ dường như
cong. Bản thân các vật không trở nên cong, chúng chỉ dường
như cong thôi. Điều thú vị là ở chỗ bạn nhận biết rõ rằng mọi
vật thực tế không cong - nhưng dầu vậy bạn vẫn thấy chúng
cong. Bạn có thể làm thực nghiệm bao nhiêu lần tuỳ thích,
kết quả vẫn như thế. Cho tay vào nước và bạn có thể cảm
thấy rằng vật vẫn thẳng. Và vậy là tay và mắt bạn đều cho
những thông tin mâu thuẫn nhau. Môi trường không khí và
môi trường nước làm thay đổi đường đi của tia sáng.
Chúng ta hiểu điều này theo cách khác. Bạn có thể đã
thấy một lăng kính. Nếu tia nắng mặt trời chiếu qua lăng
kính tia sáng sẽ được phân chia thành bẩy mầu.
Bạn có thể đã thấy cầu vồng. Điều đó nữa là trò chơi
theo nguyên lí của lăng kính. Điều gì thực sự xảy ra khi bạn
nhìn cầu vồng? Các tia nắng mặt trời bao giờ cũng chiếu
xuống đất, nhưng bất kì khi nào có những giọt nước nhỏ li ti
trong khí quyển những giọt nước này vận hành như lăng kính
và phân chia tia sáng mặt trời thành bẩy mầu và chúng được
nhìn thấy như cầu vồng. Cầu vồng không là gì ngoài tia sáng
mặt trời đi qua những giọt nước nhỏ. Sẽ không có cầu vồng
nếu không có mặt trời trên bầu trời hay nếu không có mây và
những giọt nước nhỏ.
Lăng kính, hay giọt nước, phân chia tia sáng mặt trời
thành bẩy mầu; chúng là trung gian. Nếu bạn thấy tia sáng
mặt trời chiếu qua giọt nước thì bạn sẽ thấy bẩy mầu. Nếu
bạn thấy nó không có giọt nước nó là trắng, nó không có
mầu. Trắng không phải là mầu, nó là việc thiếu vắng mầu.
Tâm trí, trí tuệ nữa là tương tự, nó vận hành như một
trung gian. Khi một sự vật dường như cong trong nước và
ánh sáng chiếu qua một lăng kính tự phân chia nó thành bẩy
mầu, tâm trí, ý nghĩ, tương tự là một môi giới tinh vi. Bất kì
cái gì chúng ta nhận ra qua nó đều bị chẻ ra thành hai, phân
chia được tạo ra.
Trí tuệ tạo ra phân chia. Nếu bạn nhìn vào bất kì thứ gì
qua trí tuệ... chẳng hạn, khi chúng ta nhìn vào ánh sáng tâm
trí phân chia nó ngay thành hai phần: tối và sáng. Thực ra
trong sự tồn tại không có phân chia giữa sáng và tối; chúng
là sự mở rộng dần và thoái lui dần của một thực tại. Đó là lí
do tại sao một số chim có khả năng nhìn trong bóng tối. Nếu
bóng tối là tuyệt đối tối, cú sẽ không có khả năng thấy. Nó
chỉ có thể thấy bởi vì trong bóng tối nữa cũng có ánh sáng
nào đó. Chỉ có điều là mắt ta không có khả năng bắt được
ánh sáng đó còn mắt cú bắt được. Bóng tối cũng là ánh sáng
tinh tế.
Nếu có một ánh sáng rất chói lọi mắt chúng ta không thể
thấy được nó. Mắt chúng ta có một phổ giới hạn cho việc
thấy; chúng không thể thấy được phía trên phổ ấy, chúng

không thể thấy được phía dưới nó. Bên ngoài giới hạn trên
và dưới này có bóng tối cho mắt chúng ta. Bạn đã bao giờ để
ý rằng nếu mắt bạn bỗng nhiên phải trực diện với nguồn sáng
rất chói lọi mọi thứ trở thành tối trước bạn không? Mắt
không có khả năng nhìn ánh sáng nhiều như thế.
Cho nên bóng tối có hai kiểu. Điều ta thấy là sáng là khi
phổ của năng lực thấy của chúng ta cho phép. Trên điều đó
và dưới điều đó có tối. Nếu năng lực của mắt chúng ta bị
giảm đi sáng trở thành tối; nếu năng lực của mắt chúng ta
được tăng lên tối trở thành sáng. Người mù không có năng
lực chút nào để thấy, cho nên mọi thứ đều là tối; không có
ánh sáng chút nào cho người đó. Nhưng sáng và tối là một
trong trong sự tồn tại. Chính vì trí tuệ của chúng ta mà chúng
dường như là hai.
Trí tuệ chia mọi thứ thành hai. Với cách trí tuệ nhìn vào
mọi thứ, không cái gì có thể còn lại không bị phân chia. Trí
tuệ là phân tích, trí tuệ là biện biệt, trí tuệ là phân chia. Đây
là lí do tại sao sinh và tử dường như là hai với chúng ta bởi
vì việc thấy của chúng ta là qua trí tuệ; bằng không chúng
không là hai. Sinh là bắt đầu, tử là kết thúc; chúng là hai đầu
cực của cùng một thứ. Chúng ta thấy hạnh phúc và bất hạnh
như hai điều tách biệt; đây là vì trí tuệ, bằng không chúng
không là hai. Đây là lí do tại sao hạnh phúc có thể biến thành
bất hạnh và bất hạnh có thể trở thành hạnh phúc. Điều dường
như là hạnh phúc hôm nay, đến sáng mai có thể trở thành bất
hạnh. Ngày mai vẫn còn xa; điều dường như hạnh phúc bây
giờ có thể trở thành bất hạnh ngay khoảnh khắc tiếp.
Điều này đáng phải không thể được. Nếu hạnh phúc và
bất hạnh là hai việc, hai thứ tách biệt, thế thì hạnh phúc phải
không bao giờ trở thành bất hạnh và bất hạnh không bao giờ
có thể trở thành hạnh phúc. Nhưng thay đổi này tiếp diễn
từng khoảnh khắc. Bây giờ có yêu, bây giờ nó trở thành ghét.
Khoảnh khắc trước đã có hấp dẫn, bây giờ nó trở thành chán
ghét. Khoảnh khắc trước nó được cảm thấy là tình bạn, bây
giờ nó đã trở thành thù hằn. Đây không phải là hai điều, bằng
không thay đổi từ cái này sang cái kia sẽ là không thể được.
Người đã sống trong khoảnh khắc trước là chết bây giờ. Cho
nên sống và chết không thể là hai điều tách rời, bằng không
làm sao một người đang sống chết được? Làm sao sống có
thể biến thành chết được?
Chính lỗi của chúng ta là chúng ta phân chia mọi thứ
thành hai. Chính cách nhìn của chúng ta là tới mức mọi thứ
đều bị chia thành hai.
Khi người ta gạt cách nhìn này sang bên, khi người ta
vứt bỏ tâm trí khỏi phía trước con mắt mình và nhìn vào thế
giới không có tâm trí, mọi phân chia biến mất. Kinh nghiệm
về bất nhị, kinh nghiệm về vedanta trong bản chất, là kinh
nghiệm của những người đã nhìn vào thế giới mà gạt trí tuệ
của họ sang bên. Thế thì thế giới không còn là thế giới nữa,
nó trở thành Thượng đế. Thế thì điều chúng ta thấy như linh
hồn hiện thân bên trong chúng ta và Thượng đế ở ngoài kia,
chúng nữa cũng không là gì ngoài hai đầu của cùng một thực
tại. Cái mà tôi đang ở đây, bên trong, và cái đang trải rộng
khắp mọi nơi kia, khắp thẩy, cả hai chúng đều trở thành một:
Tattvamasi, ‘Cái đó là ngươi’.
Thế rồi bạn kinh nghiệm rằng bạn không chỉ là một trong
các đầu của ‘cái đó’. “Cùng bầu trời của sự tồn tại bao la này
cũng đang chạm vào tay tôi ở đây. Cùng sự mở rộng của
không trung bao quanh toàn thể trái đất cũng đang đi vào tôi
như hơi thở của tôi.” Sinh lực của toàn bộ sự tồn tại này
đang đập rộn ràng và bởi vì điều đó mà mọi cuộc sống hiện
hữu: sao dời, và mặt trời lên, và có ánh sáng từ mặt trăng,

quả tới với cây và chim chóc hót líu lo, và con người sống.
“Sinh lực này ẩn kín trong tất cả - nhịp đập vĩ đại này đâu đó
ở trung tâm vũ trụ và nhịp đập nhỏ nhoi này của trái tim
trong thân thể tôi, những điều này phải là hai đầu của một và
cùng một điều.” Chúng không phải là hai.
Nhưng điều này có thể được kinh nghiệm chỉ khi không
được nhìn qua trí tuệ. Rất khó nhìn nhưng gạt tâm trí sang
một bên, vì chúng ta thông thường chỉ nhìn qua trí tuệ. Thói
quen của chúng ta đã bám quá chặt. Làm sao bạn sẽ thấy
được khác hơn là qua trí tuệ? Bất kì cái gì bạn nhìn, ý nghĩ sẽ
nảy sinh.
Đứng gần một đoá hoa. Bạn khó mà thấy hoa và tâm trí
bạn bắt đầu nhắc nhở: “Đấy là hoa hồng, nó rất đẹp. Để ý
hương thơm của nó dễ chịu làm sao.” Bạn thậm chí còn chưa
nhìn rõ hoa, tiếng vọng của nó còn chưa chạm tới con người
bạn, và trí tuệ đã bắt đầu nạp thông tin từ kinh nghiệm quá
khứ của nó và trí nhớ của nó: đấy là hoa hồng, nó thơm và
đẹp. Tâm trí tạo ra những phát biểu này và nó bắt đầu buông
tấm màn ở giữa. Hoa vẫn còn bên ngoài, bạn vẫn còn bên
trong, và tấm màn ý nghĩ từ trí tuệ của bạn đã căng kín ở
giữa. Bạn bây giờ thấy mỗi hoa từ sau tấm màn đó. Mọi sự
thấy của chúng ta đều giống điều đó.
Cho nên nỗ lực lớn là cần để vượt lên trí tuệ này và để
nhìn trực tiếp. Bạn đang ngồi gần một đoá hoa: đừng để trí
tuệ chen vào giữa. Nhìn trực tiếp vào đoá hoa, đừng để ngay
cả một ý nghĩ nảy sinh rằng đây là đoá hồng, nó đẹp lắm - để
không hình thành lời chút nào. Thỉnh thoảng thử điều đó đi,
và đôi khi bạn sẽ có thoáng nhìn tạm thời về tình huống tại
đó bạn sẽ ở một bên, hoa sẽ ở bên kia, và ở giữa hai đối thể
này sẽ không có ý nghĩ nào trong một khoảnh khắc. Thế thì
bạn sẽ có khả năng nhìn một thế giới mà trong đó có hoa bạn
chưa từng bao giờ được biết tới trước đây.
Tennyson đã nói, “Nếu người ta có thể thấy dù chỉ một
đoá hoa một cách đầy đủ, người đó đã thấy toàn bộ thế giới.
Không còn gì nữa để được xem.” Nó là vậy, bởi vì toàn thế
giới được chứa trọn trong một đoá hoa. Điều chúng ta gọi là
tí hon đó là sự mô phỏng cho cái bao la. Điều chúng ta gọi là
vi mô đó không là gì ngoài một dạng nhỏ hơn của cái vĩ mô.
Giống như toàn thể bầu trời có thể được phản xạ trong
một chiếc gương nhỏ, giống như hàng triệu ngôi sao trên trời
có thể chớp loé qua mắt con người, toàn thể vũ trụ có thể
được thấy trong một đoá hoa nhỏ. Tuy nhiên điều này là có
thể khi trí tuệ bạn không chen vào giữa.
Cứ thực hành nó đi. Bạn đang ngồi giải trí, chim đang
hót: đừng để tâm trí can thiệp vào - chỉ là cái tai, lắng nghe
và không nghĩ. Lúc ban đầu điều đó sẽ rất khó bởi vì thói
quen; ngoài ra không có lí do cho bất kì khó khăn nào.
Nhưng dần dần, dần dần những thoáng nhìn sẽ xảy ra. Rồi
một ngày nào đó chim sẽ cứ hót, trí tuệ bạn sẽ không nói
nữa; bạn sẽ cứ lắng nghe và quan hệ trực tiếp giữa bạn và
chim sẽ được thiết lập - không qua trung gian nào. Thế thì
bạn sẽ rất ngạc nhiên; thế thì sẽ rất khó khăn cho bạn để
quyết định xem liệu bạn đang hót hay chim đang hót, liệu
bạn đang nghe hay chim đang nghe.
Khoảnh khắc trí tuệ của bạn đi khỏi việc ở chỗ giữa, bạn
tiếng hót của chim trở thành hai đầu của một và cùng một
vật. Họng chim là đầu này và tai bạn là đầu kia và tiếng hót
trở thành cầu nối. Hoa đang nở kia và trái tim bạn ở trong
này, tâm thức bạn ở trong, chúng trở thành một phần của một
và cùng một hiện tượng và những rung động đang chạy giữa
hai đầu trở thành cây cầu nối chúng.
Thế thì người ta không cảm thấy rằng hoa đang nở ở kia

từ một khoảng cách và bạn đang nhìn nó đứng ở đây từ một
khoảng cách, thế thì người ta cảm thấy rằng “Mình đang nở
trong hoa và hoa đang đứng và nhìn từ bên trong mình.”
Nhưng ngay cả điều này nữa bạng không cảm thấy vào chính
khoảnh khắc đó, bạn cảm thấy nó chỉ khi bạn đã ra khỏi
khoảnh khắc đó. Trong khoảnh khắc đó ngay cả chừng ấy
cũng không được lưu ý đến bởi vì thực thể chú ý, suy nghĩ
và suy tư - tâm trí - đã bị gạt sang bên. Thế thì kinh nghiệm
trong từng khoảnh khắc trở thành kinh nghiệm về Brahman,
về thực tại tối thượng.
Ai đó hỏi Bokoju, “Kinh nghiệm của thầy về Thượng đế
là gì?” Bokoju nói, “Thượng đế sao? Tôi không biết gì về
Thượng đế cả.”
“Thầy đang làm gì, kỉ luật tâm linh của thầy là gì?”
người hỏi hỏi.
Bokoju đang kéo nước giếng lên vào thời điểm đó. Cho
nên ông ấy nói, “Khi tôi kéo nước từ giếng lên tôi hoàn toàn
không chắc là liệu tôi có kéo nước giếng lên thật không, hay
đấy là giếng đang kéo và tôi là giếng. Và khi sô nước sắp
chìm vào trong giếng tôi không biết liệu sô đã đi vào nước
chưa hay tôi đã đi vào trong giếng. Và khi sô đầy và nó bắt
đầu được đi lên, tin tôi đi, tôi không rõ về cái gì là cái gì và
cái gì đang xảy ra. Nhưng bởi vì ông đã hỏi tôi, tôi kể lại cho
ông sau khi nghĩ về nó. Chỉ bởi vì ông đã hỏi, tôi đã nghĩ về
nó và kể cho ông; bằng không tôi không còn nữa. Tôi không
có ý tưởng về Thượng đế. Tôi không có ý tưởng nào ngay cả
về bản thân mình.”
Khi bạn đã mất mọi ý tưởng ngay cả về bạn là ai và bạn
là gì, thế thì cái được biết trong khoảnh khắc như thế chính
là điều Thượng đế là gì. Khi nào người ta mất dấu vết về bản
thân mình là ai? Khi trí tuệ cái gắn ý nghĩ vào mọi thứ không
còn nữa với bạn. Chính công việc của trí tuệ là gắn ý nghĩ
vào, gắn nhãn cho mọi thứ, cho lời, tên và hình dạng cho mọi
thứ.
Khi đứa trẻ được sinh ra và lần đầu tiên nó mở mắt, nó
không có trí tuệ nào. Trí tuệ sẽ phát triển dần về sau; nó sẽ
hình thành, được giáo dục và ước định. Các nhà khoa học nói
rằng khi đứa trẻ lần đầu tiên mở mắt ra nó không thấy bất kì
phân chia nào. Mầu đỏ trông đỏ với đứa trẻ, nhưng nó không
thể kinh nghiệm rằng đấy là đỏ bởi vì nó còn phải học từ đỏ.
Mầu lục sẽ trông là lục đối với đứa trẻ bởi vì mắt có thể thấy
mầu cho nên mầu lục sẽ được thấy, nhưng nó không thể nói
đấy là mầu lục. Trẻ con thậm chí không thể nói được đấy là
mầu. Trẻ con cũng không thể nói được mầu đỏ kết thúc ở
chỗ nào và mầu lục bắt đầu ở đâu, bởi vì nó chưa có tri thức
về đỏ và lục.
Trong mắt của trẻ thơ thế giới xuất hiện như một tổng
thể toàn vẹn, nơi mọi thứ tất cả đều trộn lẫn vào với nhau và
không cái gì có thể bị tách ra. Đấy là kinh nghiệm đại dương,
không phân chia được. Nhưng điều này nữa cũng là suy diễn
của chúng ta - khó mà nói được điều gì xảy ra cho đứa trẻ.
Người đã chứng ngộ, người đã lại trở thành tựa như trẻ
con, người đã lại trở thành đơn giản như họ đã thế khi không
có tâm trí, người bây giờ đã trở thành hồn nhiên và đơn giản
như khi họ đã từng khi không có trí tuệ, đều có kinh nghiệm
như vậy nơi mà mọi thứ đều trở thành một. Cái thứ nhất nối
với cái thứ hai, cái thứ hai nối với cái thứ ba và cứ thế mãi.
Sự tách rời của mọi thứ không còn được thấy, chỉ kết nối bên
trong giữa chúng là được thấy.
Hoàn cảnh của chúng ta là ở mức chúng ta có khả năng
thấy chỉ các hạt cườm của vòng cổ; sợi dây xuyên qua chúng
và nối chúng với nhau không được thấy. Trí tuệ chỉ thấy các

hạt cườm. Khi trí tuệ dời xa tâm thức bên trong, tự do khỏi
trí tuệ, thấy sợi dây ẩn xuyên qua mọi hạt cườm. Nó thấy cái
một bao hàm mọi thứ, cái kết nối mọi thứ, cái ẩn bên trong
mọi thứ và là cơ sở của mọi thứ.
Bất kì khi nào trí tuệ vận hành, nó phân chia. Khoa học
là hệ thống của trí tuệ, do đó khoa học phân chia, phân tích.
Khoa học đã đi tới nguyên tử sau khi phân chia rồi phân chia
nữa. Khoa học chỉ thấy các mảnh mẩu, bộ phận; nó không
thể thấy được cái một chút nào.
Tôn giáo vứt bỏ trí tuệ và thế thì quá trình đảo ngược bắt
đầu: mọi thứ cứ gắn với nhau và trở thành một.
Khoa học đã đi tới nguyên tử, tôn giáo đạt tới Thượng
đế. Trí tuệ cứ đập vỡ mọi vật thành các cấu phần của chúng.
‘Thượng đế’ là tên cho cái lớn nhất mà chúng ta có thể tổng
hợp được với sự thiếu vắng của trí tuệ. Trong việc dùng trí
tuệ để phá vỡ mọi thứ ra, chúng ta đã đi tới nguyên tử -
nguyên tử là sức mạnh của khoa học. Khi nhìn không qua trí
tuệ chúng ta đã kinh nghiệm Thượng đế - Thượng đế là sức
mạnh của tôn giáo.
Do đó, nhớ lấy, bất kì tôn giáo nào phân chia đều không
phải là tôn giáo - không thành vấn đề nó phân chia ở đâu,
phân chia theo mức độ nào. Nếu người Hindu trở nên tách
biệt với người Mô ha mét giáo, hiểu rằng họ đơn thuần là
chính trị của hai kiểu, không phải tôn giáo. Nếu người Jaina
dường như tách biệt với người Hindu, hiểu rằng họ đơn
thuần là hai kiểu hệ thống xã hội, không phải là tôn giáo.
Hiểu rằng đằng sau tất cả họ là trí tuệ, cái chỉ có năng lực
phân chia, đang vận hành. Và đằng sau họ không có kinh
nghiệm về tâm thức, cái đã siêu việt trên trí tuệ - nơi mọi thứ
tổng hợp lại và trở thành một.
Người chưa bao giờ biết bất kì khác biệt nào qua trí tuệ
giữa jiva, linh hồn hiện thân, và Brahman, hay giữa
Brahman và bản tính, việc sáng tạo, được gọi là
jivanamukta, người được giải thoát ngay khi sống.
Được tôn kính bởi người tốt hay bị xúc phạm bởi người
xấu, người vẫn còn giữ được điềm đạm được gọi là
jivanamukta.

Điềm đạm là điều đầu tiên, bất nhị là điều thứ hai. Điềm
đạm là một từ hơi khó hiểu, bởi vì chúng ta dùng nó lỏng lẻo
để hàm ý tới nhiều thứ.
Người này có thể xúc phạm bạn và người khác có thể cúi
mình trước bạn. Bây giờ chúng ta ngụ ý gì bởi điềm đạm
trong quan hệ với những người này? Nó có ngụ ý rằng bạn
phải làm nỗ lực và kiểm soát bản thân mình đừng giận với
người đã xúc phạm bạn và không được hài lòng với người
kính trọng bạn không? Không, nếu có bất kì nỗ lực hay kiểm
soát nó không phải là điềm đạm; nó chỉ là tự kiểm soát bị áp
đặt, nó là tự điều chỉnh, kỉ luật. Điềm đạm nghĩa là không
còn phản ứng chút nào bên trong bạn, dù người ta xúc phạm
hay người ta kính trọng bạn - thiếu vắng toàn bộ phản ứng
bên trong. Đơn giản không có gì khuấy động bên trong bạn.
Điều xúc phạm vẫn còn bên ngoài và sự kính trọng vẫn còn
bên ngoài; không cái gì bước vào bên trong cả.
Khi nào điều này sẽ xảy ra? Điều này chỉ xảy ra khi có
nhân chứng bên trong.
Khi ai đó xúc phạm chúng ta có phản ứng. Nghe thấy lời
xúc phạm chúng ta lập tức cảm thấy rằng ‘mình bị xúc
phạm,” và khổ bắt đầu. Khi ai đó tôn kính chúng ta, chúng ta
cảm thấy sướng bởi vì nó cho cảm giác rằng “mình được

kính trọng.” Điều đó nghĩa là bất kì cái gì được làm cho bạn
bạn trở thành bị đồng nhất với nó. Chính bởi vì điều này mà
đau khổ và hoan lạc được tạo ra, mất hài hoà được tạo ra, và
cân bằng bị mất.
Người đạo đức cũng cố gắng đạt tới điềm đạm, nhưng
điềm đạm như thế là bị áp đặt, phải trau dồi. Người đó an ủi
bản thân mình bằng, “Điều gì xảy ra nếu ai đó đã xúc phạm
mình? Không hại gì.” Và nếu ai đó kính trọng người đó,
người đó nghĩ, “Được, đấy là ham muốn của người kia.
Mình sẽ vẫn còn trong điềm đạm ở giữa cả hai.” Loại điềm
đạm này vẫn còn trên bề mặt, nó không đi rất sâu, bởi vì
người này không có tiếp xúc với nhân chứng của mình. Điềm
đạm của người đó là hướng tính cách. Cho nên đôi khi, trong
những khoảnh khắc không thật ý thức, người đó có thể bị
khêu gợi; đôi khi có thể hơi có nứt rạn trong tính cách của
người đó, cái không hài hoà bên trong của người đó có thể
trở nên biểu hiện.
Trong con mắt của Upanishad, điềm đạm hướng tính
cách không có giá trị. Trong con mắt của Upanishad, duy
nhất điềm đạm được dẫn ra từ bản thể mới có giá trị. Điềm
đạm hướng bản thể ngụ ý là bất kì cái gì có thể xảy ra bên
ngoài, bạn vẫn còn là nhân chứng.
Một số người đã xúc phạm và ném đá vào Ramateertha
khi ông ấy ở New York. Khi ông ấy về nhà, ông ấy nhảy
múa. Một đệ tử hỏi, “Có chuyện gì vậy, sao thầy hạnh phúc
thế?”
Ramateertha đáp, “Chuyện vui mà. Hôm nay
Ramateertha đã trong khó khăn lớn. Vài người đã bắt đầu
xúc phạm ông ta, bêu riếu ông ta, và một số người bắt đầu
ném đá vào ông ta. Thật là nhộn lắm khi nhìn Ramateertha bị
quấy rối và bị mắc bẫy. Ông ta bị bẫy thậm tệ!”
Đệ tử của ông phân vân và họ hỏi, “Thầy đang nói về ai
thế ạ? Ai là Ramateertha này?”
Ramateertha đáp, khoanh tay trước ngực, “Ramateertha
này đã bị sập bẫy nặng và ta quan sát và tận hưởng xem ông
ta sập bẫy. Ta đã thấy những người xúc phạm ông ta và ta
cũng thấy rằng cái người Ramateertha, người bị sập bẫy đó
và bị xúc phạm đó. Ta giữ việc quan sát toàn bộ cảnh trí.”
Khi bạn đã đạt đến cảnh quan thứ ba này, chỉ thế thì mới
có điềm đạm. Nếu bạn chỉ có trong hai cảnh quan không thể
có bất kì điềm đạm nào; thế thì chỉ có người xúc phạm và kẻ
bị xúc phạm. Bạn có thể cố giữ hài hoà - bởi vì đấy là tính
cách của người đang cố gắng là người tốt - nhưng đây là
cách duy nhất để tự an ủi bản thân mình: “Yên tâm đi, nếu ai
đó xúc phạm mình, điều ấy có hại gì cho mình?” Nhưng đấy
chỉ là tự an ủi thôi, và bạn đang cảm thấy sự xúc phạm, do
đó mới có việc tự an ủi này. Bạn nói, “Người đấy đang làm
hại chính bản thân mình bởi việc dùng những lời lẽ xúc
phạm; mình có mất gì đâu qua toàn bộ việc này!” Nhưng bạn
đã mất cái gì đó rồi, do đó mới có việc tự an ủi này.
Người tốt sống trong an ủi. Người đó nghĩ, “Được thôi,
người đó xúc phạm mình cho nên người đó đang tạo ra
nghiệp xấu riêng của người đó, người đó sẽ thu hoạch kết
quả của nó. Tại sao mình phải nói gì? Người đó đã xúc phạm
mình, người đó sẽ chịu đau khổ và đi xuống địa ngục bởi vì
người đó đã phạm tội.” Người này đang tự an ủi bản thân
mình. Bản thân người đó không thể tạo ra được địa ngục cho
người xúc phạm cho nên người đó để điều đó cho Thượng đế
hoàn tất công việc. Người đó sử dụng Thượng đế phục vụ
cho mình - nhưng người đó chỉ tự an ủi bản thân mình thôi.
Người đó đang nói rằng những người đã gieo hạt xấu sẽ thu
hoạch về quả xấu. Những người đã gieo hạt tốt sẽ thu hoạch

về những quả tốt. “Và mình sẽ gieo chỉ những hạt tốt, để cho
mình thu hoạch quả tốt. Người này đang gieo hạt xấu, cho
nên cứ để cho người đó có quả xấu.” Người đó thậm chí còn
có thể đi tới mức nói, “Cho dù ai đó có gieo gai cho tôi, tôi
sẽ chỉ gieo hoa cho người đó, bởi vì trong tương lai người
kia sẽ thu hoạch về gai còn tôi sẽ thu hoạch về hoa.” Nhưng
loại suy nghĩ này chỉ phản ánh tâm trí kinh doanh tính toán.
Đây là một loại tâm trí khôn lỏi, mặc cả, nó không phải là
điềm đạm.
Điềm đạm ở đâu? Điềm đạm chỉ có khi vượt ra ngoài nhị
nguyên, vượt ra ngoài hai điểm đối lập, cảnh quan thứ ba bắt
đầu được thấy: “Đây là người xúc phạm, đây là thân thể
mình và cái tên đang bị xúc phạm, còn đây là mình, phần thứ
ba, người quan sát toàn bộ sự việc. Nếu mình đứng ở cùng
khoảng cách với cả người xúc phạm lẫn người bị xúc phạm
thế thì có điềm đạm. Nếu chỉ hơi chút khác biệt về khoảng
cách - nếu người đang xúc phạm mình dường như ở khoảng
cách lớn hơn mình, người bị xúc phạm - điềm đạm đã bị mất
rồi; mất hài hoà đã bắt đầu.”
Điềm đạm nghĩa là chiếc cân được cân bằng và bạn trở
thành bên thứ ba ở giữa, giống như kim chỉ của cân: đứng
yên chính giữa, không nghiêng bên này, bên kia; không
nghiêng về người xúc phạm không nghiêng về người bị xúc
phạm, đứng bên ngoài và chỉ quan sát.
Việc chứng kiến này là điềm đạm. Và một jivanamukta
sẽ sống trong điềm đạm, bởi vì jivanamukta nảy sinh từ việc
chứng kiến.
Hiểu câu kinh thứ hai này cho rõ: qua tự an ủi người tốt
được sinh ra, qua việc chứng kiến thánh nhân được sinh ra.
Và có khác biệt lớn giữa thánh nhân và người tốt. Người tốt
là thánh nhân chỉ trên bề mặt, bên trong không có khác biệt
giữa người đó và người xấu. Người xấu là xấu cả bên ngoài
lẫn bên trong. Người tốt là tốt bên ngoài và xấu bên trong.
Cho nên có khác biệt lớn giữa người tốt và thánh nhân.
Theo một nghĩa nào đó, thánh nhân và người xấu là
tương tự. Người xấu là xấu cả bên ngoài và bên trong. Người
tốt là tốt bên ngoài và xấu bên trong, và thánh nhân là tốt cả
trong lẫn ngoài. Tương tự là ở chỗ người xấu là thống nhất
cả bên trong và bên ngoài và thánh nhân là thống nhất cả bên
trong và bên ngoài. Hình thức của họ khác nhau nhưng sự
thống nhất là như nhau. Và người tốt treo lơ lửng giữa hai
loại người này; do đó không có chấm dứt khổ của người tốt
bởi vì tâm trí người đó tựa như tâm trí của người xấu nhưng
hành vi của người đó tựa như hành vi của thánh nhân. Do đó
người tốt sống trong thế khó xử lớn. Trong tâm trí người đó
bao giờ cũng có nhị nguyên.
Mọi người tới tôi và nói, “Tôi chưa bao giờ làm bất kì
điều gì sai trái, tôi chưa bao giờ ăn cắp hay lừa dối bất kì ai,
và tôi chịu khổ nhiều thế. Mặt khác, những người đã phạm
ăn cắp và lừa dối người khác được phong lưu và tận hưởng
sung sướng. Vậy chẳng có công bằng trong thế giới này.”
Hoặc là người tốt tự an ủi bản thân mình rằng dù hoàn cảnh
của người đó hiện tại có thể là bất kì cái gì, có luật thiêng
liêng ngự trị; có thể có chậm trễ nào đó trong nó nhưng luật
có đó.
Người đó tự an ủi mình, “Có chậm chút ít và bây giờ kẻ
bất lương đang thành công, nhưng đến cuối chính mình sẽ
thành công.” Người đó đang an ủi mình rằng có chậm trễ,
nhưng không thiếu luật thiêng liêng. Nhưng một điểm là rõ
ràng, rằng người đó đang kinh nghiệm sự chậm trễ. Và cũng
có hoài nghi ẩn nấp trong tâm trí người đó: “Có thể có cái gì
đó không đúng về giả định của mình về sự tồn tại của luật

thiêng liêng? Liệu có thể là mình đang bị lỡ cả hai đầu
không, không được lợi gì về vật chất ở đây mà cũng không
đạt được mục tiêu tâm linh đằng kia? Liệu có thể rằng mình
đang mất của cải vật chất bây giờ chỉ để sau này phát hiện ra
rằng Thượng đế đơn giản không bao giờ tồn tại cả? Rằng
người đã thành công trong việc thu được của cải vật chất ở
đây phải chăng đến cùng cũng sẽ thắng?”
Điều hoài nghi nhấm nhẳng này là bạn đồng hành
thường xuyên của người tốt. Và trong hoài nghi như với cái
tốt của người ta rõ ràng chỉ ngụ ý một điều, rằng ham muốn
bên trong của người ta là không khác với ham muốn bên
trong của người xấu. Bên trong bạn ham muốn làm và được
cùng những thứ mà người xấu đang làm và thu được, nhưng
bạn bằng cách nào đó vẫn duy trì hành vi của người tốt.
Tham lam của bạn là gấp đôi. Chiếc xe của bạn có bò kéo
được đóng cương ở cả hai đầu và bị kéo đi theo hai hướng.
Bạn tham có tiền và danh vọng để thoả mãn cho bản ngã của
mình - tất cả những tham lam của người xấu cũng là tham
lam của bạn - và bạn cũng tham việc đạt tới Thượng đế, linh
hồn, giải thoát, an bình và phúc lạc nữa; mọi tham lam của
bất kì thánh nhân nào cũng đều là tham lam của bạn. Tham
lam của bạn là gấp đôi và bạn chịu khổ giữa hai cái tham lam
ấy. Và đây là lí do tại sao người tốt thường thấy ít an bình
hơn bất kì ai khác.
Nếu người tốt trở nên an bình hơn người đó trở thành
thánh nhân. Nếu người tốt không an bình thế thì nếu không
hôm nay, ngày mai người đó sẽ trở thành người xấu. Người
đó không thể mang điều đó lâu được. Từ vị trí giữa đó người
đó phải hoặc rơi xuống hoặc đi lên, nhưng không có cách
còn lại ở giữa được.
Jivanamukta là một thánh nhân. Người đó không làm gì
sai với bất kì ai, nhưng không phải bởi vì không làm gì sai sẽ
đem lại kết quả ngược mong ước cho người đó một ngày nào
đó; không, người đó không thể làm bất kì điều gì sai bởi vì
người đó đang đứng tại điểm thứ ba nơi không cái sai nào đã
bao giờ được làm.
Alexander Đại đế muốn đem một sannyasin Ấn Độ về
nước ông ấy. Tên của sannyasin đó là Dandami. Nhưng
Dandami không sẵn lòng đi. Alexander tuốt kiếm ra và đe
doạ ông ấy nói rằng, “Ta sẽ chặt ông thành từng mảnh nếu
ông không đồng ý. Ngay cả Hiamlayas cũng phải tới với ta
nếu ta ra lệnh cho nó.”
Dandami nói, “Có thể Himalayas sẽ đến với ông, nhưng
ông sẽ không có khả năng đem ta đi đâu.”
Alexander không thể nào hiểu nổi nguồn gốc sức mạnh
của ông thầy tu khổ hạnh gầy nhom đang đứng trần trụi trên
cát bờ sông và nói những lời dũng cảm thế. Ông ta ra lệnh
cho quân lính, và bỗng nhiên Dandami bị bao vây khắp xung
quanh bởi hàng kiếm tuốt trần. Dandami cười sảng khoái vào
điều này và nói, “Ông không bao vây được ta đâu - ông đang
bao vây cái không phải là ta. Ông không có năng lực nào để
bao vây ta cả, bởi vì kích cỡ của ta đã trở thành một với kích
cỡ của sự tồn tại bao la này.”
Alexander nói, “Ta không hiểu lời nói triết học này, ta
chỉ hiểu ngôn ngữ của lưỡi kiếm, và không mấy chốc đầu
ông sẽ lăn trên đất.”
Dandami nói, “Điều ấy chắc vui lắm. Ông sẽ thấy cái
đầu lăn trên đất và ta cũng sẽ thấy nó lăn trên đất - chúng ta
cả hai sẽ thấy cùng một biến cố.”
Bây giờ đây là cảnh quan thứ ba: “Ta cũng sẽ thấy cái
đầu lăn trên đất.”

Nếu bạn có thể thấy đầu riêng của mình bị chặt đứt và
lăn trên đất điều đó có nghĩa rằng bạn không có đồng nhất
bất kì cái gì với thân thể bạn, rằng bạn đã trở thành nhân
chứng của thân thể bạn, rằng bạn đang đứng bên ngoài và xa
khỏi thân thể riêng của mình.
Chỉ tại điểm này việc sinh ra của tính thánh nhân mới
hiện hữu, và chỉ tại điểm này giải thoát trong khi sống mới
hiện hữu.
Với người đã biết đến tinh hoa Brahman, thế giới này
không còn như trước nữa. Nếu nó không là vậy, người đó
chưa biết tới trạng thái Brahma của bản thể và vẫn còn
là người hướng ngoại.

Thế giới vẫn còn như cũ. Với việc trở thành của bạn đã
thay đổi thế giới sẽ không thay đổi đâu nhưng bởi thay đổi
của bạn, thế giới của bạn sẽ bị thay đổi.
Như tôi đã nói trước đây, tất cả chúng ta đều có thế giới
riêng của mình. Nếu tôi dốt nát núi Mount Abu vẫn cứ còn
như cũ, và khi tôi trở nên thức tỉnh thế nữa núi Mount Abu
vẫn còn như cũ. Bầu trời vẫn còn như cũ, mặt trăng vẫn còn
như cũ, trái đất vẫn còn như cũ - toàn thế giới này vẫn còn
như cũ. Nhưng khi tôi dốt nát, thế thì cách tôi nhìn thế giới,
cách tôi chọn nó hiện hữu cho tôi, cách tôi chọn nó để xuất
hiện cho tôi... Tôi có thể thích cảm thấy núi là của tôi; khi tôi
dốt nát núi không chỉ là trái núi, nó là núi của tôi. Nhưng vào
khoảnh khắc thức tỉnh, trong kinh nghiệm của giải thoát, núi
sẽ chỉ là núi, nó sẽ không là của tôi. Cái ‘của tôi’ mà đã từng
bị áp đặt lên nó sẽ biến mất. Và với sự biến mất của cái tôi
đó, cái đẹp đẽ và hùng vĩ của núi sẽ hiển lộ đầy đủ. Cái tôi
của riêng tôi, cái gắn bó riêng của tôi là cái khổ của tôi và cái
đau của tôi. Chính trí tuệ riêng của tôi đã quen chen vào
giữa. Cho nên bất kì khi nào tôi nhìn lên núi, tôi đều cảm
thấy, “Núi của mình.” Cái tôi đó sẽ chen vào giữa và tôi sẽ
thấy qua màn ảnh này. Bây giờ núi là trái núi và tôi là tôi.
Ở Nhật, các thiền sư đã vẽ mười bức tranh. Những bức
tranh đó đã được dùng trong nhiều thế kỉ cho thiền. Những
bức tranh này rất đáng hiểu, chúng sẽ hữu dụng cho việc
hiểu kinh này.
Trong bức tranh thứ nhất, không cái gì có thể được thấy,
nhưng nhìn kĩ hơn người ta có thể thấy trong nó là núi, cây
và một con trâu lấp ló sau cây. Chỉ lưng trâu, hai chân và
đuôi của nó là có thể thấy được. Trong bức tranh thứ hai,
người đang đi tìm trâu đây đó cũng đã xuất hiện trong cảnh.
Đấy là chiều tối, màn đêm đang buông xuống, và người đó
không thể thấy được rõ ràng. Cây có đấy, một loại cây leo có
đấy và trâu thì ẩn đằng sau nó tất cả; chỉ chút ít đuôi và chân
sau có thể thấy được - cả điều ấy nữa người ta cũng chỉ thấy
lờ mờ.
Trong bức tranh thứ ba, người đó có thể thấy trâu rõ
ràng. Trong bức tranh thứ hai người đó có vẻ buồn và mắt
đượm đầy lo âu tìm kiếm, không loé sáng. Nhưng bây giờ
người đó đã nhìn thấy trâu, một loé sáng đã bừng lên trong
mắt người đó và chuyển động đã tới với chân người đó.
Trong bức tranh thứ tư, toàn thể con trâu được thấy và
người tìm trâu thì đã lại gần trâu. Trong bức tranh thứ năm
người đó đã tóm được đuôi trâu.
Trong bức tranh thứ sáu người đó đã nắm được sừng
trâu. Trong bức tranh thứ bẩy người đó đã lừa được trâu
quay đầu về nhà.
Trong bức tranh thứ tám người đó đã cưỡi lên trâu.

Trong bức tranh thứ chín người đó đã kiểm soát được
trâu hoàn toàn và đang trở về nhà, và trong bức tranh thứ
mười chẳng có gì - cả trâu cả người cưỡi, người chủ trâu, đều
không có đó. Rừng vẫn có đây, núi vẫn có đấy, nhưng trâu
và người chủ cả hai đã biến mất.
Mười bức tranh này được dùng cho thiền theo truyền
thống thiền. Chúng là các bức hoạ về việc tìm kiếm linh hồn,
cái ta. Trong bức hoạ thứ nhất người tìm kiếm không có đâu
để được thấy. Trong bức hoạ thứ hai người tìm kiếm được
đánh thức, ham muốn đã nảy sinh để biết về linh hồn, để tìm
kiếm. Trong bức hoạ thứ ba thoáng nhìn về linh hồn đã bắt
đầu xuất hiện. Trong bức hoạ thứ tư linh hồn đã được thấy
trong toàn cảnh. Trong bức hoạ thứ năm không chỉ toàn cảnh
linh hồn được thấy, mà đuôi của nó cũng đã được bắt lấy,
nghĩa là đã quyền làm chủ đã được thiết lập trong một góc tí
hon của nó.
Trong bức hoạ tiếp, đương đầu trực diện đã xảy ra, linh
hồn đã bị túm chặt tại sừng của nó. Trong bức hoạ sau đó
linh hồn không chỉ bị bắt giữ tại sừng mà nó cũng đã bị quay
về cuộc hành trình về nhà, hướng tới Brahman. Trong hai
bức tranh tiếp đó, không chỉ linh hồn bây giờ đã được hướng
về nhà mà người tìm kiếm đã kiểm soát được bản thân mình
- bây giờ đang cưỡi trâu - và đã bắt đầu đi về nhà. Và trong
bức hoạ cuối cả hai đều mất; cả người tìm kiếm lẫn việc tìm
kiếm đều không còn nữa, thế giới đã trở thành trống rỗng.
Núi vẫn đứng đó, cây vẫn đứng đó, nhưng người tìm kiếm và
việc tìm kiếm cả hai đã biến mất.
Đây là một khám phá. Cách thế giới này xuất hiện hôm
nay khi người ta đặt ra việc tìm kiếm không phải là cách nó
xuất hiện sau khi thức tỉnh. Tất cả cái tôi sẽ biến mất. Tất cả
các khái niệm đã tích luỹ sẽ biến mất. Mọi phóng chiếu của
người ta bên trong thế giới sẽ bị phá huỷ; mọi trông đợi của
người ta về thế giới sẽ bị vứt bỏ. Không nhu cầu nào sẽ còn
lại; mọi ý tưởng của người ta về việc đi tìm hạnh phúc trong
thế giới sẽ tan biến, ngay cả ảo tưởng rằng thế giới đem lại
bất hạnh sẽ bị phá huỷ. Bất kì cảm giác rằng người ta có bất
kì giao dịch nào với thế giới cũng sẽ chấm dứt.
Cho nên kinh này nói rằng với người đã biết về
Brahman, tinh hoa tối thượng, thế giới không còn như trước
nữa. Thế giới vẫn còn, nhưng không hệt như trước. Và nếu
thế giới vẫn còn như trước, thế thì hiểu rằng Brahma còn
chưa được biết tới cho bạn. Điều này dành cho phép kiểm tra
cái ta riêng của người ta. Người ta phải cứ kiểm tra bản thân
mình. Có vợ... Mọi người tới tôi và nói, “Vợ có đó, con có
đó, gia đình, xung đột, công việc; không cái gì là có thể
trong cái đống lộn xộn này. Tôi phải bỏ mọi thứ mà chạy
trốn đi chăng?”
Tôi bảo họ, “Đừng chạy trốn. Sau rốt, bạn sẽ chạy đi
đâu? - thế giới có đó ở mọi nơi. Và nếu bạn vẫn còn như bạn
bây giờ, ai đó nào đó khác sẽ trở thành vợ bạn, ngôi nhà nào
đó khác sẽ được dựng nên, một kinh doanhc nào đó khác sẽ
được bắt đầu. Có những kinh doanh đủ mọi loại, thậm chí có
cả những loại kinh doanh tôn giáo: bạn có thể không mở cửa
hàng, có thể bạn sẽ mở tu viện; cái gì đó này khác nhất định
xảy ra. Bạn có thể làm gì? Nếu người cư ngụ bên trong bạn
vẫn còn không đổi, người đó nhất định làm chỉ những cái
người đó biết.”
Đừng chạy trốn. Còn lại nơi bạn đang ở và cứ lao sâu
hơn và tìm kiếm bên trong đi. Lấy việc tìm kiếm để làm đầy
đủ ngày bạn đang ngồi trong chợ, và chợ có đó nhưng nó
không còn là chợ cho bạn. Vợ bạn có thể ngồi gần bạn -
trong tâm trí cô ấy sẽ vẫn còn là vợ; cứ để cô ấy vậy - nhưng

với bạn cô ấy không nên còn là vợ bạn nữa. Cảm giác đó về
cái của tôi phải biến mất, chỉ người đàn bà còn lại.
Và cô ấy sẽ xuất hiện như người đàn bà chừng nào còn
có ham muốn dục. Khi thiền đi sâu, ham muốn dục cũng sẽ
tan biến đi; thế thì cô ấy thậm chí sẽ không còn là đàn bà cho
bạn nữa, cô ấy sẽ dừng là thân thể. Cũng như cảm thấy cái
của tôi bên trong bạn cứ teo dần đi, phóng chiếu bên ngoài
của bạn về người đàn bà, cảm giác của bạn về người đàn bà
như người vợ, như người đàn bà, cũng sẽ dần biến mất. Một
ngày sẽ tới khi, bất kì chỗ nào bạn ngồi, bạn sẽ trở thành hư
không và trống rỗng. Mọi thứ quanh bạn thế giới vẫn như cũ,
nhưng bạn sẽ không còn như cũ nữa. Toàn thể cái nhìn của
bạn sẽ được thay đổi.
Người ta phải thường xuyên đi tìm bên trong: “Mọi thứ
vẫn thế với tôi như nó trước đây không? Mọi thứ có xảy ra
trong cuộc đời tôi theo cùng cách cũ không?” Tên có thể
thay đổi, mọi thứ có thể thay đổi, nhưng nếu thái độ bên
trong của người ta hướng về mọi thứ tiếp tục như trước, và
mọi thứ dường như vẫn thế như trước, thế thì hiểu rằng
juvanamukta còn xa lắm, thoáng nhìn về chân lí còn xa lắm.
Chính ý nghĩa của thoáng nhìn về chân lí là ở chỗ mối
quan hệ giữa bạn và thế giới của bạn được thay đổi. Thế giới
vẫn còn như cũ trước đây, và mối quan hệ với nó sẽ thay đổi
chỉ khi bạn thay đổi.
Ngay khi những kèm theo hạnh phúc được kinh nghiệm,
nó được gọi là prarabdha, dấu ấn hành động quá khứ
được tích luỹ; bởi vì việc nảy sinh của mọi quả đều là từ
hành động trong quá khứ. Không có quả ở bất kì đâu
không có hành động.
Giống như hoạt động mơ dừng lại khi thức tỉnh, tương
tự, hành động quá khứ được tích luỹ qua hàng tỉ niên kỉ
tan biến tức khắc khi người ta biết “Ta là Brahman.”

Hạnh phúc và đau khổ xảy ra là do hành động quá khứ
của chúng ta. Cho nên đừng nghĩ rằng đau khổ thể chất hay
hạnh phúc sẽ không xảy ra cho những người đã được giải
thoát trong khi sống.
Ramana Maharshi chết do ung thư. Nó là rất đau đớn,
cũng tự nhiên. Nó là bệnh nặng - không có cách nào thoát
khỏi nó. Nhiều bác sĩ đã tới, và họ rất phân vân bởi vì toàn
thân đã bị vò xé bởi đau đớn thế nhưng đã không có dấu hiệu
nào về bất kì đau đớn nào trong mắt ông ấy cả. Mắt ông ấy
vẫn còn hệt như mặt hồ thanh thản. Qua mắt ông chỉ có việc
chứng kiến cái ta nảy sinh; chính việc chứng kiến cái ta được
nhìn, được quan sát.
Bác sĩ hỏi, “Ông chắc phải đau lắm?” Ramana sẽ trả lời,
“Có đấy, có đau lắm, nhưng nó không xảy ra cho tôi. Tôi là
nhận biết rằng có cái đau đang xảy ra cho thân thể; tôi biết
rằng có đau dữ dội đang xảy ra. Tôi đang nhìn nó, nhưng nó
không xảy ra cho tôi.”
Một câu hỏi nảy sinh trong tâm trí của nhiều người là
làm sao một người như Ramana, người đã được giải thoát và
chứng ngộ, bị bệnh như ung thư.
Kinh này có câu trả lời cho nó. Sướng và khổ sẽ xảy ra
cho thân thể, cho dù người đó đã được giải thoát trong khi
sống, bởi vì những điều này có liên quan tới hành động quá
khứ và dấu ấn của chúng, chúng có liên quan tới bất kì cái gì
đã được làm trước khi trở nên thức tỉnh.
Hiểu điều đó theo cách này: nếu tôi đã gieo một số hạt

mầm trên cánh đồng và thế rồi tôi trở nên thức tỉnh, những
hạt mầm đó nhất định đâm chồi. Nếu tôi còn đang ngủ, thì
thế nữa hạt mầm sẽ đâm chồi, nở hoa và kết quả. Bây giờ
nữa chúng sẽ đâm chồi, nở hoa và đi đến kết quả. Sẽ chỉ có
một khác biệt: nếu tôi vẫn còn ngủ tôi sẽ nghĩ nó là cây trồng
của tôi và giữ nó gần ngực tôi. Bởi vì tôi thức tỉnh, tôi sẽ
hiểu rằng hạt mầm đã được gieo và bây giờ chúng đang đạt
tới định mệnh của chúng; không cái gì của nó là của tôi, tôi
sẽ chỉ cứ chứng kiến. Nếu tôi vẫn còn ngủ tôi chắc đã thu
hoạch cây trồng và gìn giữ hạt mầm mới để tôi có thể gieo
chúng sang năm. Bởi vì tôi tỉnh thức tôi sẽ cứ chứng kiến:
hạt mầm sẽ đâm chồi, hoa sẽ tới, quả sẽ chín, nhưng tôi sẽ
không thu thập chúng. Những quả đó sẽ chín và rụng đi theo
cách riêng của chúng và chết. Mối quan hệ của tôi với chúng
sẽ thoáng qua. Mối quan hệ của tôi với chúng trước đây là đã
việc gieo chúng - bây giờ tôi sẽ không làm điều ấy lần nữa.
Vậy không có quan hệ thêm nữa sẽ được hình thành.
Cho nên sướng và khổ vẫn xảy tới cho người đã chứng
ngộ, nhưng người như thế biết rằng đây là một phần của dây
chuyền hành động quá khứ của người đó và bây giờ người đó
không liên quan gì tới chúng: người đó sẽ chỉ cứ chứng kiến.
Khi ai đó tới và cúng dường hoa dưới chân Ramana, ông
cứ quan sát - nó phải là một phần của dây chuyền các hành
động quá khứ nào đó, điều nhắc nhở người này cho ông ấy
hạnh phúc. Nhưng Ramana không nhận hạnh phúc này;
người này cho, nhưng ông ấy không nhận nó. Nếu ông ấy
nhận, cuộc hành trình của hành động mới sẽ bắt đầu. Ông ấy
không ngăn cản người này tới cúng dường hoa - “Ấy đừng
trao hạnh phúc cho tôi, đừng cúng dường hoa cho tôi, đừng
chạm chân tôi” - ông ấy không ngăn cản người đó, bởi vì
việc ngăn cản đó nữa sẽ là một hành động và một dây
chuyền hành động khác sẽ bắt đầu.
Cố hiểu điều này. Người này đã tới cúng dường hoa cho
Ramana; người đó đã đặt vòng hoa quanh cổ ông ấy, người
đó đã cúi đầu dưới chân ông ấy. Và Raman làm gì bên trong?
Ông ấy quan sát: “Phải có một giao tác quá khứ nào đó với
người này, một phần dấu ấn hành động nào đó; người này
bây giờ đang hoàn thành nốt nó. Nhưng bây giờ giao tác này
phải đi đếm chấm dứt, không dây chuyền thêm nào phải
được tạo ra. Chuyện này kết thúc ở đây, nó sẽ không tiếp
tục.”
Cho nên ông ấy sẽ ngồi đấy và sẽ không ngăn cản người
đó làm bất kì cái gì... bởi vì ‘ngăn cản’ thực sự nghĩa là gì?
Trước hết nó ngụ ý rằng bạn không sẵn sàng lấy lại hành
động quá khứ mà bạn đã trao, và cái bạn sẽ phải nhận lấy khi
ngăn cản hành động của người này. Và điều thứ hai, bạn
đang tạo ra một dây chuyền quan hệ khác với người này
bằng cách yêu cầu người đó không làm điều nào đó. Bây giờ
khi nào mối quan hệ mới này sẽ kết thúc? Bạn đang tạo ra
hành động khác; bạn đang phản ứng.
Không, Ramana sẽ cứ theo dõi, liệu một người đem hoa
tới ông ấy hay là ung thư tới. Ông ấy thậm chí sẽ quan sát
ung thư đang xảy ra.
Ramakrishna cũng đã chết vì ung thư. Ông bị ung thư
họng. Ngay cả nước cũng không thể trôi xuống qua được
họng ông ấy; thức ăn không thể đi xuống qua họng. Thế rồi
một hôm Vivekananda hỏi Ramakrishna, “Sao thầy không
bảo mẹ Kali? Vấn đề chỉ là thầy nói với mẹ và trong một
khoảng khắc họng của thầy sẽ được chữa.” Ramakrishna chỉ
cười và không nói gì.
Một hôm, khi Vivekananda đã nài nỉ nhiều quá, Ramakrishna
nói, “Ông không hiểu. Cần phải được kết thúc với
bất kì cái gì là việc làm riêng của người ta, bằng không

người ta sẽ phải quay lại lần nữa chỉ để kết thúc nó. Cho nên
điều đúng là cho phép bất kì cái gì đang xảy ra cứ xảy ra;
điều không đúng là ngăn cản nó.”
Thế rồi Vivekananda nói, “Thôi được, nếu thầy không
muốn hỏi xin được chữa, ít nhất hỏi xin mẹ rằng chừng nào
thầy vẫn đang còn trong thân thể để cổ họng đủ rộng để cho
phép nước và thức ăn qua. Bằng không chúng con thấy đau
đớn không thể chịu nổi khi thấy thầy trong hoàn cảnh như
thế.”
Ramakrishna đồng ý hỏi xin. Khi ông ấy tỉnh dậy vào
sáng hôm sau ông nói, “Thật là nực cười quá. Khi tôi bảo với
mẹ bà ấy nói, ‘Cái họng này giữ độc quyền trong làm việc
của con sao? Con có khó khăn gì khi ăn qua họng người
khác?’”
Ramakrishna nói thêm, “Vì nghe lời khuyên của ông, ta
đã hành động như thằng đại ngu. Ông quấy rầy ta một cách
không cần thiết. Và điều này là đúng - Cái họng này có độc
quyền nào không? Cho nên từ hôm nay trở đi, khi ông ăn
thức ăn, hiểu rằng ta cũng đang ăn qua họng ông đó.”
Ramakrishna tiếp tục cười suốt cả ngày. Khi bác sĩ tới
ông ấy nói, “Sao ông cười? Thân thể đang trong đau đớn thế,
không có hoàn cảnh nào có thể đau hơn điều này.”
Ramakrishna nói, “Tôi cười bởi vì tôi không biết cái gì
đã xảy ra cho tâm trí tôi đến nỗi tôi không nhớ được rằng
mọi cổ họng đều là của tôi, rằng bây giờ tôi có thể ăn thức ăn
qua mọi cổ họng. Sao bị ám ảnh về một cổ họng này?”
Một cá nhân dù có thể đạt tới một trạng thái tối cao đến
đâu, quá khứ được gắn với thân thể sẽ hoàn thành bản thân
nó. Sướng và khổ sẽ tới và sẽ đi, nhưng người đã giải thoát
sẽ biết rằng đấy chỉ là những hành động quá khứ đã tích luỹ.
Biết như thế, người đó sẽ đứng xa khỏi chúng nữa và việc
chứng kiến của người đó sẽ không bị ảnh hưởng bởi chúng
theo bất kì cách nào - việc chứng kiến của người đó bây giờ
vững vàng.
Giống như hoạt động mơ dừng lại khi thức tỉnh, tương
tự, hành động quá khứ được tích luỹ qua hàng tỉ niên kỉ
tan biến tức khắc khi người ta biết “Ta là Brahman.”

Chúng ta đã thảo luận điều này trước đây. Ngay khi thức
dậy từ giấc ngủ, giấc mơ biến mất, một cách tương tự một
khi tỉnh thức thực sự điều trở nên rõ ràng là tất cả mọi điều
người ta đã làm trong quá khứ, người ta đã không làm trong
thực tế - tất cả những cái đó biến mất. Nhưng ngay cả sau khi
tới biết điều này, thân thể không đi tới biết nó. Thân thể tiếp
tục đi một cách máy móc, nó hoàn thành định mệnh của nó.
Giống như mũi tên đã rời khỏi cánh cung không thể được
mang lại, giống như một lời đã buột ra khỏi môi không thể
được lấy lại, theo cùng cách đó mà thân thể chỉ là sự thu xếp
máy móc. Bất kì cái gì đã xảy ra qua nó trong quá khứ sẽ
được hoàn tất. Chừng nào mũi tên còn chưa tới mục tiêu của
nó, chừng nào lời nói còn chưa chạm tới giới hạn xa nhất của
bầu trời, nó không bị phá huỷ. Cho nên thân thể sẽ phải chịu
đựng và cam chịu.
Nói thêm với bạn một điều trong mối quan hệ này cũng
hay. Có thể bạn cũng cảm thấy rằng kì lạ là Ramakrishna và
Ramana cả hai đều bị ung thư - một bệnh ác tính thế.
Phật đã chết bởi thức ăn độc, máu ông ấy trở thành đầy
chất độc. Mahavira chết bởi bệnh lị tử vong - ông ấy đã phải
chịu đựng đau bụng không thể kham nổi trong sáu tháng
ròng, không thể nào chữa khỏi. Cho nên người ta bắt đầu hỏi

tại sao những bệnh tật chết người như vậy bám giữ những
linh hồn thuần khiết nhất đó. Lí do có thể là gì? Nếu những
bệnh tật đó mắc vào chúng ta, những kẻ tội lỗi, những người
dốt nát, người ta có thể hiểu được rằng, “Vâng, chúng ta
đang thu hoạch kết quả của hành động sai trái của mình.”
Nhưng khi nó xảy ra cho Mahavira, cho Phật hay Ramana
hay Ramakrishna, chúng ta bắt đầu tự hỏi vấn đề là gì.
Nhưng nó có lí do đấy.
Người đã trở thành một jivanamukta, người được giải
thoát trong khi sống, không còn hành trình thêm nữa; kiếp
sống này là kiếp sống cuối cùng của người đó. Nhưng bạn có
cuộc hành trình dài phía trước, bạn vẫn có nhiều thời gian.
Bạn có thể kết thúc tất cả những đau khổ của mình trong
những liều nhỏ, từng chút một - bạn có nhiều và nhiều thời
gian cho nó. Phật, Mahavira hay Ramana không có thời gian
còn lại. Họ có thể chỉ có mười, hai mươi hay ba mươi năm
để đi. Bạn có thể có hết kiếp này đến kiếp khác để đi.
Cho nên trong khoảng thời gian ngắn thế tất cả những
hành động và dấu ấn quá khứ đã được tích luỹ đều kết lại
mạnh mẽ và cho quả của chúng. Cho nên những biến cố xảy
ra theo cách thức gấp đôi. Một mặt, Mahavira có vinh dự và
kính trọng của tirthankara - cái đó nữa cũng là một kinh
nghiệm được kết lại mạnh mẽ của mọi hạnh phúc đã tích luỹ.
Và mặt khác, ông ấy cũng phải chịu cái đau không kể xiết -
cái đó nữa cũng là tác động được kết lại mạnh mẽ của mọi
đau khổ đã tích luỹ.
Hàng nghìn và hàng nghìn người có tôn kính mênh mông
với Ramana trong tim họ; đó là tập hợp của mọi hạnh phúc.
Và thế rồi ông ấy mắc bệnh kiểu ung thư. Đấy là tập hợp của
mọi đau khổ. Thời gian còn rất ngắn: mọi thứ được hoàn
thành trong tính toàn bộ của nó, với sự mãnh liệt đầy đủ và
tốc độ lớn.Vậy những người như vậy đồng thời trải qua các
kinh nghiệm cực kì hạnh phúc và cực kì đau khổ. Bởi vì
thiếu thời gian, mọi thứ trở thành được tập trung và mãnh
liệt. Nhưng chúng phải bị trải qua: không có cách khác mà
phải trải qua chúng.
Ma Anand Madhu bỗng nhiên đứng dậy và hỏi: “Liệu ai
đó có nhiều thời gian hơn có thể hấp thu những bệnh tật
đó từ họ được hay không? Nếu có, phương pháp là gì?”

Không, không có phương pháp nào và không có cách
nào, và họ cũng không thể chia sẻ được, bởi vì nếu bệnh tật
có thể được người khác chịu đựng hộ, điều đó sẽ có nghĩa là
ai đó khác có thể nhận quả của việc làm của tôi. Thế thì sẽ có
hỗn loạn. Và nếu ai đó khác có thể nhận quả của việc làm
của tôi, thế thì sẽ không còn luật, không còn rit - luật tự
nhiên. Thế thì tự do của tôi cũng có thể được ai đó khác đem
lại, giải thoát của tôi cũng có thể do ai đó khác đem lại. Hạnh
phúc của tôi, đau khổ của tôi, kinh nghiệm của tôi, việc biết
của tôi, phúc lạc của tôi - Bất kì cái gì cũng trở thành chuyển
trao được.
Không, không có gì trong thế giới này được chuyển trao.
Không có cách nào cho nó, đơn giản không có cách nào, và
điều đúng duy nhất là không có cách nào cả. Vâng, cảm giác
chia sẻ như vậy nảy sinh trong tim người ta; điều đó nữa là
tốt, điều đó nữa là đúng. Ai đó yêu Ramana có thể ham
muốn nhận bệnh ung thư của ông ấy. Mong ước này tạo ra
hạnh phúc, và từ mong ước này người đó sẽ nhận được quả
tốt lành. Điều này trở thành một hành động tốt được tích luỹ
về phần người này. Cố hiểu điều này.
Ramana đang chết vì ung thư: ai đó có thể cầu nguyện

hoàn toàn chân thành và cảm thấy từ trong tim rằng mình sẽ
hấp thu bệnh tật của Ramana. Dầu vậy người đó không thể
làm được như thế, nhưng chính sự kiện là người đó đã cảm
thấy cách này, đã cảm thấy thích nhận bệnh này về bản thân
người đó, trở thành một hành động, một hành vi tốt, và người
đó sẽ nhận được hạnh phúc vì điều đó.
Điều này rất kì lạ: người này đã đòi hỏi khổ, nhưng
người đó đang làm một hành vi tuyệt diệu, đức hạnh. Người
đó sẽ nhận được quả của nó về hạnh phúc, nhưng không cái
gì của bệnh của Ramana có thể được truyền sang. Cảm giác
mà người đó có đang trở thành dấu ấn hành động riêng của
người đó để với nó người đó sẽ được ích lợi.
Ai đó khác bây giờ đứng dậy và bắt đầu hỏi: “Về
Arvind...”
Không. Madhu, bạn tạo ra tiền lệ xấu rồi. Điều này sẽ có
hại.
Ý định của bạn là tốt, nhưng ở đây có quá nhiều người
đang ngồi... Đừng bắt đầu bất kì cái gì như thế, nó sẽ làm
cho mọi thứ thành khó khăn. Nó sẽ gây ra mất trật tự.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#14Bay là quyền tập ấm của bạn

Biết bản thân mình là vô gắn bó và dửng dưng như bầu
trời, nhà yoga không bị gắn bó chút nào sau đó vào mọi
hành động tương lai.
Cũng tựa như bầu trời hiện diện trong vò đầy rượu
không bị nhiễm bởi mùi rượu, linh hồn vẫn còn không bị
động chạm bởi mọi việc xảy ra mặc cho có hiện diện
trong tất cả chúng.
Giống như mũi tên được buông ra sẽ không dừng trước
khi xuyên vào mục tiêu, hành động được thực hiện trước
khi xảy ra chứng ngộ sẽ không dừng cho quả sau khi
chứng ngộ xảy ra.
Mũi tên được thả ra nhằm vào một con vật là hổ không
thể bị dừng lại nửa chừng nếu sau đó hiểu biết bừng lên
rằng con vật đó là bò. Mũi tên sẽ đâm trúng mục tiêu với
toàn bộ sức mạnh của nó. Tương tự, hành động đã được
thực hiện đưa tới kết quả cho dù sau khi chứng ngộ đã
xảy ra.
Người hiểu rằng mình là bất tử và trẻ mãi vẫn còn là một
với linh hồn và không có quan hệ gì với quả của hành
động quá khứ của mình.

Trong kinh này một vài hướng dẫn sâu sắc được cho liên
quan tới bản chất của tâm thức. Chỉ jivanamukta, người đã
được giải thoát trong khi sống, trải qua những kinh nghiệm
như thế. Chỉ jivanamukta đi tới trải nghiệm về kinh này.
Chúng ta không có bất kì kinh nghiệm trực tiếp nào về tâm
thức; bất kì cái gì chúng ta biết về tâm thức đều là từ phản
ánh của nó trong tâm trí. Trước tiên để điều này được hiểu
đúng. Thế rồi chúng ta sẽ đi vào kinh.
Tâm trí là một cái máy tuyệt diệu. Bây giờ các nhà khoa
học cũng đã xác nhận rằng tâm trí không khác gì hơn một cái
máy. Máy tính thậm chí hiệu quả hơn tâm trí. Không cần đưa
người lên mặt trăng, thay vào đó máy tính có thể được đưa
lên. Nước Nga đã đưa máy tính như thế lên mặt trăng và họ
thu thập dữ liệu và truyền nó về trạm mặt đất của Nga.
Chúng là máy móc, nhưng dễ tiếp thu và tinh tế như tâm trí
chúng ta, và bất kì cái gì xảy ra quanh chúng đều được tích
luỹ và truyền đi.
Trước đây tôi đã nói với các bạn rằng khi jivanamukta
trở về từ samadhi, xảy ra việc chứng ngộ...
Một người bạn đã hỏi tôi rằng vì khi tâm thức đi vào
kinh nghiệm samadhi tâm trí bị bỏ lại xa đằng sau - và vì chỉ
tâm trí mới có thể nhớ được - ai gợi lại những kinh nghiệm
đã xảy ra cho tâm thức? Chính là tâm thức đã đi vào kinh
nghiệm đó, nhưng tâm thức không giữ lại kí ức nào mà cũng

không cho phép bất kì dấu vết nào của kí ức được để lại trên
nó; và tâm trí đã không đi vào kinh nghiệm đó, nó bị bỏ lại
sau. Thế thì ai nhớ? Thế thì ai nhìn vào kinh nghiệm này
trong hồi tưởng?
Vâng, mặc dầu tâm trí đã không đi vào trong kinh
nghiệm này và bị bỏ đứng ở cửa, nó vẫn có khả năng chớp
được thoáng nhìn từ cánh cửa. Nó chớp được cái thoáng nhìn
về những biến cố xảy ra trong thế giới bên ngoài cũng như
trong thế giới bên trong. Nó quan sát cả hai phía bất kì cái gì
bên trong ngoại vi của nó. Không nhất thiết bản thân tâm trí
phải đi vào trong kinh nghiệm này. Nếu một máy quay phim
được đặt ở quãng cách xa đâu đó, nó sẽ cứ thu bắt lấy mọi sự
xảy ra quanh đây. Hoặc nếu một máy ghi âm được đặt ở một
khoảng cách đâu đó, nó sẽ cứ ghi lại mọi điều tôi đang nói -
tiếng chim hót, tiếng gió xào xạc qua cây cối, tiếng lá khô
rụng xuống.
Hiểu điều đó cho kĩ rằng tâm trí chỉ là cái máy; nó không
có linh hồn của nó, nó chỉ là cái máy sinh học do tự nhiên
dựng ra. Tâm trí là cái gì đó nằm giữa linh hồn chúng ta và
thế giới bên ngoài. Tâm trí ghi lại mọi điều xảy ra trong thế
giới. Để làm điều đó nó có năm giác quan xem như các cánh
cửa của nó.
Giác quan là cánh cửa của tâm trí. Chẳng hạn chiếc
micrô phôn này được đặt trước tôi có thể chuyển âm thanh
sang máy ghi băng được đặt cách xa nó hàng trăm ki lô mét.
Giác quan của bạn cũng tựa như chiếc micrô phôn này
chuyển tải nhiều kiểu thông tin cho tâm trí. Năm giác quan
tựa như năm cánh cửa của tâm trí. Để chuyển tải bất kì cái gì
xảy ra trong thế giới bên ngoài dưới dạng ánh sáng, mầu sắc
và hình dạng, tâm trí có mắt xem như phần kéo dài của nó ra
ngoài thân thể; chúng cứ ghi lại mọi thứ như máy quay phim.
Bất kì cái gì xảy ra trong thế giới âm thanh như âm nhạc,
lời nói hay yên lặng, đều được tai thu bắt vào mọi lúc. Và cái
được bắt giữ cũng được chuyển tiếp lên tâm trí còn tâm trí
tích luỹ những thông tin này. Tay sờ, lưỡi nếm và mũi ngửi,
tất cả những điều này đều được chuyển tiếp lên tâm trí.
Tấc cả năm giác quan là tất cả các cánh cửa của tâm trí.
Còn một giác quan nữa, và đó là giác quan bên trong của
bạn. Giác quan này bắt giữ bất kì cái gì xảy ra bên trong bạn.
Nó cũng là giác quan. Bất kì cái gì xảy ra bên trong bạn,
chẳng hạn trong trạng thái chứng ngộ, giác quan bên trong
này cứ ghi lại mọi điều xảy ra. An bình? Im lặng? Phúc lạc?
Nhận biết về Thượng đế? Bất kì cái gì xảy ra, nó giữ lại dấu
vết.
Giác quan bên trong này tựa như chiếc micrô phôn
hướng trực tiếp vào trong. Nó là sự cảm thụ về cái bên trong.
Bên trong, một giác quan là đủ, năm giác quan không được
cần tới ở đấy. Bên ngoài, năm giác quan được cần tới bởi vì
có năm yếu tố cơ sở và để ghi từng phần tử này cần có từng
giác quan tách biệt. Bên trong chỉ có một Brahman - năm
giác quan không được cần tới, chỉ một giác quan là đủ ghi lại
kinh nghiệm bên trong.
Vậy con người có sáu giác quan - năm hướng ngoại và
một hướng nội - và tâm trí là cơ chế ở giữa nối với tất cả
chúng. Chỉ một nhánh này đi vào bên trong và thu bắt mọi
kinh nghiệm bên trong.
Bất kì cái gì xảy ra bên trong đều được truyền qua giác
quan bên trong này tới tâm trí. Tâm trí không cần đi đâu cả.
Do vậy khi một người trở về từ samadhi bản thân tâm trí
chuyển trao mọi bản ghi cho người đó, rằng những việc thế
nọ thế kia đã xảy ra khi bạn không có đó.
Nếu bạn để máy ghi âm ở đây và bỏ đi, thế thì khi bạn

quay về sau một giờ máy ghi âm sẽ cho bạn bản ghi đầy đủ
về mọi lời đã được nói ra ở đây và nhiều âm thanh khác đã
xảy ra. Máy ghi âm không cần phải có cuộc sống. Tâm trí
không phải là tâm thức; nó là vật chất, và là cái máy tinh vi.
Cái máy này cứ thu thập dữ liệu từ mọi phía. Do đó người
tìm kiếm trở về từ samadhi suy diễn qua tâm trí điều đã xảy
ra.
Tâm trí càng sáng tỏ, thông tin do nó trao cho càng chân
thực. Tâm trí càng lẫn lộn, thông tin càng không chính xác.
Chẳng hạn, nếu máy ghi âm của bạn bị hỏng, nó có thể ghi
lại mọi thứ nhưng việc ghi sẽ không rõ. Âm thanh sẽ bị méo,
bị lẫn tạp âm hay biến dạng. Một số phần có thể rõ, một số
phần không rõ.
Do đó tâm trí trước hết được làm thuần khiết qua việc
nghe đúng, suy tư đúng và hấp thu. Khi độ cảm nhận của tâm
trí trở nên thuần khiết đến mức nó có thể tạo ra bản sao chân
thực của bất kì cái gì xảy ra, chỉ thế thì việc đi vào trong
samadhi mới xuất hiện.
Cho nên giác quan bên trong ghi lại mọi thứ. Nhưng bởi
vì sự trung thành với chân lí của họ mà những người thấy đã
gọi nó là suy diễn của tâm trí, bởi vì tâm trí không hiện diện
ở đó và bất kì cái gì bây giờ nó nói đều là thông tin được
cung cấp cho nó bởi giác quan bên trong của nó. Và tâm trí
nhận biết rằng có khả năng thiếu sót trong thông tin đó.
Do đó có một điểm thú vị cần được hiểu đúng. Khi một
người Hindu trở về từ samadhi, hay khi một người Mô ha
mét giáo hay Ki tô giáo hay Jaina trở về từ samadhi, tâm trí
của họ cho những phiên bản hơi khác nhau về thông tin đó
bởi vì có khác biệt trong tính chất của các thiết bị mà chính
là tâm trí của họ. Kinh nghiệm về samadhi là một, nhưng
tính chất của tâm trí là khác nhau.
Một người được sinh ra trong một gia đình Jaina có
lương tâm được phát triển theo cách thức của Jaina giáo, và
việc là người Jaina của người đó đã bước vào cơ chế của tâm
trí người đó. Ngay từ thời trẻ thơ người đó đã nghe rằng
không có Thượng đế, cho nên điều đó đã trở thành một quá
trình có sẵn trong tâm trí người đó rằng không có Thượng
đế. Tâm trí người đó cũng đã từng nghe nói rằng kinh
nghiệm tối thượng là kinh nghiệm về linh hồn chứ không
phải về Thượng đế. Tâm trí này được chế tác và ước định,
cho nên khi samadhi xảy ra chính tâm trí này sẽ ghi lại biến
cố đó.
Samadhi là như nhau với bất kì ai nó xảy ra, nhưng tâm
trí chúng ta là khác nhau - và chính tâm trí này sẽ ghi lại kinh
nghiệm đó. Tâm trí người Jaina biết rằng không có Thượng
đế, kinh nghiệm tối thượng là kinh nghiệm về linh hồn,
không còn kinh nghiệm nào bên ngoài điều đó; hay, bản thân
kinh nghiệm này là Thượng đế, không có Thượng đế nào
khác hơn bản thân kinh nghiệm này. Bây giờ một tâm trí như
vậy sẽ lập tức ghi lại kinh nghiệm samadhi là, “Kinh nghiệm
tối thượng về linh hồn đang xảy ra.”
Người Hindu đã nghe nói về kinh nghiệm Thượng đế và
có thông tin rằng kinh nghiệm về Thượng đế là điều kinh
nghiệm khi linh hồn tan biến bên trong. Tâm trí của người đó
sẽ ghi lại, “Đây là việc thấy Thượng đế.” Điều xảy ra là như
nhau, nhưng trong trường hợp này chính Thượng đế đang
được kinh nghiệm.
Tâm trí của phật tử, người không tin vào cả linh hồn lẫn
Thượng đế sẽ không ghi lại cả hai điều này. Tâm trí người đó
sẽ nói, “Niết bàn đã xảy ra, bạn đã trở thành cái trống rỗng,
cái không, “
Đây là lí do làm cho kinh sách khác nhau, bởi vì kinh

sách là bản ghi của các tâm trí khác nhau, không phải của
kinh nghiệm thực tại. Đây là lí do tại sao sẽ có khác biệt giữa
kinh sách Hindu, kinh sách Jaina và kinh sách Phật giáo. Đôi
khi khác biệt thậm chí còn có vẻ mâu thuẫn, bởi vì tâm trí bị
giới hạn bởi từ ngữ có sẵn và chúng là điều được học. Tâm
trí là tri thức, điều được học, điều được chế tạo.
Chúng ta hiểu điều đó theo cách này, gạt tôn giáo sang
một bên. Chúng ta nói bạn đã học tiếng Phạn hay tiếng Hi
lạp hay tiếng A rập, cho nên tâm trí bạn đã biết một ngôn
ngữ. Bây giờ thậm chí không có vấn đề về bất kì ngôn ngữ
nào trong khi xảy ra samadhi, nhưng tâm trí sẽ ghi lại kinh
nghiệm này trong ngôn ngữ nó biết. Người biết tiếng A rập
không bao giờ nói rằng đó là việc xảy ra của samadhi - chính
từ samadhi là không được biết tới cho tâm trí đó. Cho nên
người Sufi nói fana - người đó không còn từ khác. Nhưng ý
nghĩa là như nhau.
Bạn nhận biết rằng mộ của một sannyasin - được gọi là
samadhi - bởi cùng lí do. Không phải mộ của ai cũng đều
được gọi là samadhi đâu, chỉ có mộ của người như vậy người
đã triệt tiêu bản thân mình thôi. Người đó đã triệt tiêu được
bản ngã của mình trong khi đang sống; không còn lại gì để
cái chết triệt tiêu nữa khi nó tới, người này đã triệt tiêu bản
thân mình theo cách riêng của mình.
Cho nên người Sufi sẽ gọi nó là fana, người Hindu sẽ gọi
nó là samadhi, và Phật tử sẽ gọi nó là niết bàn. Những từ này
có đó trong tâm trí. Cho nên bất kì cái gì sẽ xảy ra với tâm
trí, nó lập tức sẽ dịch điều đó sang ngôn ngữ riêng của nó.
Chúng ta thấy khó hiểu được cách thức một cái máy có thể
dịch. Nhưng điều này chỉ nói rằng bạn không biết nhiều về
các máy móc.
Những phát kiến mới nhất trong máy móc và dụng cụ rất
đáng ngạc nhiên. Tất cả những điều tâm trí có thể làm được
cũng có thể được làm bằng máy. Không có gì tâm trí làm
được mà không thể được làm bằng máy móc. Điều này đem
tới một thái độ rất nguy hiểm: nếu máy có thể làm được mọi
thứ mà tâm trí làm, thế thì tâm trí cũng không là gì ngoài cái
máy. Cho nên với những người tin rằng không còn gì bên
ngoài tâm trí, rằng không có linh hồn, thế thì con người trở
thành cái máy, không gì khác còn lại. Nếu đúng là không có
linh hồn, thế thì con người chỉ là cái máy - và không hiệu
quả cho lắm. Có thể có máy được chế tạo ra hiệu quả hơn
con người.
Không bao lâu nữa các bài nói sẽ được dịch tức thời.
Nếu tôi đang nói ở đây bằng tiếng Hindu, bài nói của tôi sẽ
đồng thời được dịch sang năm thứ tiếng chính. Không cần
người phiên dịch nào cho việc này, chỉ có máy. Khi tôi nói từ
prem trong tiếng Hindu, máy dịch tiếng Anh sẽ lập tức dịch
nó thành yêu. Tác động của âm thanh của từ prem lên máy sẽ
chuyển nó thành sóng âm khác về mặt điện tử tạo ra âm
thanh cho từ yêu.
Cho nên sẽ có máy nói, máy tính và máy có bộ nhớ; máy
đã bắt đầu làm mọi việc mà tâm trí con người có thể làm
được. Khi nhà yoga, tantrikas và Upanishad lần đầu tiên nói
rằng tâm trí con người hệt như máy, mọi người trên toàn thế
giới đã không hiểu điều đó. Bây giờ khoa học đã phát minh
ra máy làm được những việc tương tự như tâm trí con người,
và không còn vấn đề gì trong việc hiểu điều ấy.
Tâm trí con người cất giữ dữ liệu từ cả hai phía - từ thế
giới cũng như từ samadhi. Chính tâm trí cung cấp thông tin
về thế giới cũng như về Brahman.
Bây giờ chúng ta sẽ đi vào kinh.
Khi người ta đi đến kinh nghiệm rằng mọi phản ánh chỉ

tạo nên trong tâm trí, và khi người ta chuyển sâu hơn vào
trong mình tới chính trung tâm người ta tới mức không còn
ấn tượng nữa, tới mức tất cả các ước định chỉ hình thành trên
tâm trí, không phải trên cái ta - chỉ thế thì kinh này sẽ được
hiểu.
Biết bản thân mình là vô gắn bó và dửng dưng như bầu
trời, nhà yoga không bị gắn bó chút nào sau đó vào mọi
hành động tương lai.

Có nhiều điều cần phải hiểu ở đây. Biết bản thân mình là
vô gắn bó và dửng dưng như bầu trời... Chúng ta thấy bầu
trời mọi ngày. Chim bay trên trời nhưng không để lại dấu vết
nào trên trời. Khi người ta bước đi trên đất, dấu chân còn để
lại phía sau. Nếu đất ướt vết chân hằn sâu hơn; nếu đất cứng
vết chân rất mờ, nhưng nếu bạn cố chúng có thể được làm
cho sâu hơn ở đó nữa. Nhưng trên trời, khi một con chim bay
qua, không có dấu vết nào để lại đằng sau. Bầu trời vẫn còn
như trước khi chim bay qua. Không có cách nào để biết được
từ trời rằng một con chim đã bay qua nó. Mây tụ tập trên
trời, chúng tới và đi; bầu trời vẫn còn như nó vẫn thế.
Không có cách nào làm ô uế bầu trời - in dấu ấn lên nó,
đánh dấu vào nó. Chúng ta có thể vẽ các đường trên nước,
nhưng ngay khi đường được tạo ra chúng biến mất; vậy mà
đường được tạo ra trên đá kéo dài hàng nghìn năm. Đường
không thể được vẽ trên bầu trời, cho nên không có vấn đề về
việc biến đi của chúng.
Xin hiểu khác biệt này. Đường không thể được vẽ trên
trời - tôi có thể chuyển ngón tay mình ngang qua bầu trời,
ngón tay đi qua nhưng đường không được vẽ ra và vấn đề
biến mất của đường đơn giản không nảy sinh ra. Ngày một
người vượt ra ngoài tâm trí, khi tâm thức siêu việt lên trên
tâm trí, người đó kinh nghiệm rằng, tựa như bầu trời, không
có đánh dấu hay đường nào đã từng được vẽ trên linh hồn.
Nó là thuần khiết vĩnh viễn, được chứng ngộ vĩnh viễn, ô
nhiễm chưa bao giờ xảy ra cho nó.
Vô gắn bó, asanga, tựa bầu trời... Từ asanga rất có giá
trị. Asanga nghĩa là một người ở trong thế giới nhưng vô gắn
bó, không bị ảnh hưởng bởi bất kì cái gì. Bầu trời hiện diện
khắp xung quanh; nó bao gồm cây cối, nó bao gồm bạn, nó
bao gồm cả người ngoan đạo cũng như người nghịch đạo; nó
hiện diện nơi hành vi thiện xảy ra, nó hiện hữu nơi hành vi
ác xảy ra. Bạn phạm tội hay bạn thu được đức hạnh, bạn
sống hay bạn chết - bầu trời hiện diện, nhưng vô gắn bó. Nó
hiện diện cùng bạn, nhưng nó không là người đồng hành của
bạn. Nó không tạo ra bất kì quan hệ nào với bạn. Nó hiện
diện nhưng hiện diện của nó là vô gắn bó. Nó bao giờ cũng
hiện diện, nhưng không tình bạn nào được tạo ra với bạn,
không quan hệ nào được hình thành với bạn.
Asanga nghĩa là vô quan hệ. Nó có đấy, nhưng không có
quan hệ. Nếu bạn biến mất bầu trời thậm chí không để ý rằng
bạn đã biến mất hay rằng bạn đã từng có đó. Bao nhiêu trái
đất đã xuất hiện và biến mất lần nữa, bao nhiêu người đã
được sinh ra và chết đi, bao nhiêu lâu đài được xây dựng và
sụp đổ lại thành bụi - bao nhiêu thứ đã xảy ra dưới bầu trời,
nhưng bầu trời giữ bản kê nào. Bạn hỏi và bầu trời đã không
giữ lịch sử nào; nó trống rỗng. Bầu trời hiện hữu dường như
là không cái gì đã từng xảy ra.
Bạn có thể nhìn lại hàng triệu năm - người ta nói rằng
trái đất chúng ta được sinh ra quãng bốn tỉ năm trước đây.
Trong suốt bốn tỉ năm này bao nhiêu điều đã xảy ra trên trái
đất nhỏ này - bao nhiêu cuộc chiến, bao nhiêu cuộc tình, bao

nhiêu tình bạn, bao nhiêu thù địch, bao nhiêu cuộc chinh
phục, bao nhiêu thất bại và bao nhiêu người - nhưng bầu trời
không có bản ghi nào về bất kì điều nào của đó. Dường như
là không cái gì đã bao giờ xảy ra; không dấu vết của bất kì
việc xảy ra nào còn lại trên bầu trời.
Người Ấn Độ chưa bao giờ quan tâm tới lịch sử. Người
phương Tây lấy làm lạ tại sao điều này là như vậy, tại sao
người Ấn Độ không có cảm giác về lịch sử. Chúng ta không
biết đích xác khi nào Rama sống, chúng ta không biết đích
xác ngày sinh của Krishna. Không có gì chắc chắn cả. Chúng
ta có những chuyện huyền thoại về họ, nhưng không có bản
ghi lịch sử.
Công lao tạo ra lịch sử như một phần của thế giới loài
người thuộc về Ki tô giáo. Theo nghĩa này Jesus là lịch sử,
Phật, Krishna hay Parashuram không. Với Jesus, lịch sử loài
người được chia thành hai phần: thế giới trước Jesus Christ
được coi là không quan trọng và thế giới sau Jesus Christ
được coi là quan trọng. Do đó điều đúng duy nhất là phương
pháp ghi lịch ngày tháng theo Ki tô giáo đáng phải trở nên
phổ biến khắp nơi, bởi vì chính với Jesus mà lịch sử đi vào
thế giới loài người. Cho nên chúng ta nói trước công nguyên
(trước Christ) và sau công nguyên (sau Christ); một đường
đã được vạch ra.
Ấn Độ chưa bao giờ viết bất kì lịch sử nào; có lí do cho
điều đó. Lí do nền tảng là ở chỗ Ấn Độ đã cảm thấy rằng, khi
chính bầu trời mà trong đó mọi điều đều xảy ra không giữ
bất kì bản kê nào, tại sao chúng ta phải giữ bản kê vô dụng
như vậy? Khi cái một mà trong đó mọi điều xảy ra không
bận tâm gì tới việc lưu giữ bất kì bản kê nào, tại sao chúng ta
phải lưu giữ một cách không cần thiết bản kê về ai được sinh
ra khi nào và ai chết khi nào?
Cho nên chúng ta đã không viết lịch sử nào, chúng ta đã
tạo ra Puranas, huyền môn. Huyền môn là hiện tượng Ấn
Độ. Nó nghĩa là chúng ta không bận tâm về ngày tháng và
năm, ngày sinh và ngày chết, chúng ta bận tâm tới điều tinh
hoa - rằng một Rama có thể xảy ra. Chúng ta không bận tâm
tới ràng buộc khi nào ông ấy được sinh ra, vào ngày nào năm
nào, ông ấy đã đi học ở đâu, khi nào cưới vợ, vân vân, bởi vì
giữ bản kê về tất cả những điều này dường như không đem
lại hệ quả gì. Nhưng hiện tượng bên trong làm cho Rama là
Rama, sự kiện rằng một cá nhân trở thành một Rama, rằng
một ngọn đèn đã sáng và có ngọn lửa, là đáng ghi nhớ.
Chúng ta đã không giữ bất kì bản kê nào về những điều xảy
ra cho cái vỏ của người đó, thân thể. Chúng ta chỉ nhớ nhiều
về chừng này - rằng một ngọn đèn đã tắt có thể được thắp
sáng lên; chúng ta giữ ghi chép chỉ chừng này, rằng cuộc đời
con người không chỉ có mùi khó chịu, hương thơm cũng có
thể xảy ra cho nó. Tất cả những chi tiết vô dụng còn lại đã bị
bỏ đi.
Cho nên chúng ta không coi điều bản chất là giữ những
bản ghi chép lịch sử chính xác về Rama; điều đó không có hệ
quả gì. Một Rama là có thể - chỉ điều đó là đủ. Hiện tượng là
một Rama có thể xảy ra; ngần này chúng ta nên nhớ nhiều,
và việc ghi nhớ đó là đủ. Một Krishna là có thể - liệu ông ấy
có tồn tại về mặt lịch sử hay không là điều thứ yếu. Ngay cả
khi chúng ta giữ ghi chép lịch sử về loại người này nó chỉ để
để nhắc nhở bản thân chúng ta rằng một người như thế là có
thể, rằng một đoá hoa như thế cũng có thể nở bên trong
chúng ta, rằng một dòng suối phúc lạc như thế cũng có thể
tuôn trào bên trong chúng ta.
Purana nghĩa là, chỉ cái đó là bản chất.
Khi đi vào trong tâm thức điều được phát hiện ra rằng

không có đường, không có dấu vết được vẽ ra trên bầu trời,
nhưng cái là bản chất trong bạn được bỏ lại đằng sau trong
bầu trời.
Cố hiểu điều này cho đúng.
Không dấu vết nào được bỏ lại trên bầu trời nhưng
hương thơm bản chất của bạn hiện hữu. Và điều đó xảy ra
bởi vì rằng hương thơm bản chất không xa lạ với bầu trời
theo bất kì cách nào; nó là bầu trời bên trong bạn. Khi bạn
chết chính bầu trời bên trong bạn được thoát vào bầu trời này
- phần còn lại của bạn mất đi. Chúng ta gọi bầu trời bên
ngoài là bầu trời, nhưng chúng ta gọi bầu trời bên trong nhất
của mình là linh hồn.
Có một mở rộng bên ngoài và có một mở rộng bên trong.
Trong bầu trời bên ngoài mây cũng tụ tập và nó trở thành bị
bao phủ. Vào mùa mưa, các buổi chiều tà tháng bẩy hay
tháng tám, tất cả bị bao phủ bởi mây và người ta thậm chí
không thể quan niệm được rằng có thời đã có bầu trời xanh,
không thể quan niệm được rằng người ta có khả năng thấy
bầu trời xanh đó lần nữa. Khi mây đen che phủ bầu trời trời
xanh không thể được thấy, chỉ mây có thể được thấy.
Tương tự như vậy, giống như mây đen bao phủ bầu trời
bên ngoài, bầu trời bên trong cũng bị bao phủ bởi mây. Mây
của bầu trời bên trong được gọi là ý nghĩ, chọn lựa, ham
muốn - hay bất kì cái gì chúng ta muốn gọi chúng. Khi
những đám mây như vậy bao phủ bầu trời bên trong, ở đó
nữa người ta cảm thấy không tồn tại bầu trời không mây
đằng sau nó. Vứt bỏ những đám mây bên trong này và nhìn
vào bầu trời xanh bên trong là thiền.
Nhìn vào bầu trời bên trong này là đạt tới, sự hoàn thành
tối thượng.
Kinh này nói: Biết bản thân mình là vô gắn bó và dửng
dưng như bầu trời... Bầu trời không cười cùng bạn không
khóc cùng bạn. Khi bạn chết bầu trời không rơi lệ nào; nếu
bạn sống và hân hoan bầu trời không đi giầy nhảy vào chân
và nhảy múa vì vui vẻ của bạn. Bầu trời tuyệt đối dửng dưng.
Nó không diễn đạt bất kì ý kiến nào về điều đang xảy ra. Dù
cho một xác chết đang được đưa tới lò hoả táng, hay một
buổi lễ kỉ niệm lớn đang được tiến hành mừng sự ra đời của
đứa trẻ mới, bầu trời vẫn còn dửng dưng. Dù cho lễ cưới
đang xảy ra và nhà được trang hoàng bằng hoa và vòng hoa,
hay dù một người yêu vừa chết và việc sống thêm dường như
vô nghĩa với bạn, bầu trời vẫn còn dửng dưng. Nó chẳng liên
quan gì với bất kì cái gì đang xảy ra.
Tương tự, khi người ta đi vào bầu trời bên trong người
đó trở thành dửng dưng. Người đó không có bất kì quan hệ
nào với bất kì cái gì xảy ra; người đó bắt đầu nhìn thế giới
hệt như bầu trời nhìn nó.
Khi một kinh nghiệm như vậy xảy ra, biết rằng bạn đã
trở thành một jivanamukta, một người được giải thoát khi
sống. Đây là khi không dấu vết nào hình thành trong bầu trời
bên trong của bạn, khi bất kì cái gì xảy ra bên ngoài vẫn còn
là vở kịch với bạn, khi mọi thứ xảy ra chỉ trên chu vi và
trung tâm của bạn vẫn còn không bị chạm tới.
Khi tâm trí bị đẩy sang bên, điều như vậy xảy ra.
Biết bản thân mình là vô gắn bó và dửng dưng như bầu
trời, nhà yoga không bị gắn bó chút nào sau đó vào mọi
hành động tương lai.

Bây giờ phần thứ hai của kinh này: khi một người đi tới
biết rằng không hành động nào của người đó đã bao giờ

chạm tới người đó... Nếu người đó thất bại, linh hồn người
đó đã không thất bại, và nếu người đó đã thắng, linh hồn
người đó đã không thắng; nếu người đó được tôn kính, linh
hồn người đó không có gì được thêm vào cho nó, nếu người
đó bị xúc phạm, linh hồn người đó chẳng có gì bị lấy đi khỏi
nó - với việc nhận ra như thế các hành động tương lai tự
nhiên mất đi sự bận tâm của chúng đối với người như thế.
Người đó biết rằng nếu hành động của mình trong quá khứ
không thể chạm được tới mình, hành động của người đó
trong tương lai cũng sẽ không chạm đến người đó. Do đó
mọi việc lập kế hoạch cho tương lai sẽ dừng lại. Người đó
không còn lo nghĩ liệu người đó thành công hay thất bại, liệu
danh tiếng của người đó sẽ chống đỡ cho mình hay ai đó sẽ
làm ô danh mình. Với người đã thấy được cái ta riêng của
mình, toàn bộ quá khứ của người đó trở nên bị cắt rời khỏi
người đó và toàn bộ tương lai của người đó cũng bị cắt rời
như vậy.
Tương lai chỉ là kéo dài của quá khứ. Bất kì cái gì chúng
ta đã biết trong quá khứ, hoặc như vui thú hoặc như đau đớn,
chúng ta tiếp tục lập kế hoạch cùng điều đó cho tương lai.
Điều chúng ta thấy thoải mái, chúng ta đều ước muốn lặp lại
nó trong tương lai; và điều chúng ta thấy không thoải mái,
chúng ta ham muốn tránh trong tương lai.
Tương lai của chúng ta là gì? Nó chỉ là phóng chiếu của
quá khứ chúng ta, một phiên được cải tiến chút ít của quá
khứ. Hôm qua chúng ta đã làm điều gì đó đem lại bất hạnh -
chúng ta không muốn làm điều đó lần nữa trong tương lai.
Hôm qua chúng ta đã làm điều gì đó đem lại cho chúng ta
hạnh phúc - chúng ta muốn làm điều đó lần nữa trong tương
lai.
Nếu một người thấy rằng trong toàn bộ quá khứ của
mình, vui thú và đau đớn của nó, điều tốt và điều xấu của nó,
không cái gì đã chạm tới mình, người đó vẫn còn trống rỗng
như bầu trời, hoàn toàn trống rỗng, tương lai trở thành vô
nghĩa. Không cái gì đã để lại bất kì dấu hiệu nào trên người
đó, người đó vẫn còn không bị ước định; bây giờ toàn bộ
cuộc hành trình này được hoàn thành và người đó vẫn còn
không bị động chạm và trinh bạch bên trong, bây giờ toàn
thể tương lai đã trở thành vô nghĩa với người đó.
Nhớ lấy, với một jivanamukta không có tương lai. Cho
dù chỉ một chút xíu tương lai của bạn còn lại, hiểu rằng bầu
trời bên trong vẫn còn chưa được kinh nghiệm đâu. Nếu
thiền nhân nào đó vẫn còn nghĩ đến cách đạt tới chứng ngộ
hay cách gặp Thượng đế, hiểu rằng việc kinh nghiệm về bầu
trời bên trong vẫn còn chưa xảy ra cho người đó. Đây vẫn là
các kế hoạch cho tương lai; tương lai vẫn có đó. Ngay cả một
li của tương lai còn lại là đủ. Ngay cả một li tương lai còn lại
chỉ ra rằng người ta còn chưa kinh nghiệm rằng không hành
động nào chạm tới linh hồn. Cả chứng ngộ lẫn Thượng đế
không thể chạm được tới linh hồn. Thực ra chính tính vô
động chạm này, tính vô động chạm vĩnh viễn này là thực tại.
Tâm thức không bị động chạm, còn lại vĩnh viễn là tính
thượng đế, là Thượng đế. Không có ý nghĩa khác cho
Thượng đế.
Nếu chúng ta gọi Krishna hay Mahavira hay Phật là
bhagwan, người được phúc lạc, chúng ta ngụ ý gì cho điều
đó? Nếu như Phật đã tạo ra vũ trụ này - đó là lí do tại sao
ông ấy là bhagwan chăng? Nghĩa của ‘bhagwan’ là gì? Phật
cũng ốm, ông ấy già đi, ông ấy chết, thân thể ông ấy đi đến
chấm dứt - ông ấy là loại bhagwan gì? Đau đớn vẫn tới ông
ấy, ốm yếu, tuổi già và cái chết đến với ông ấy. Một
bhagwan đáng ra không già đi, bhagwan đáng ra không bị
bệnh gì, bhagwan đáng ra không chết. Phật cũng trở nên đói

và khát. Nếu người ta lấy dao xẻo thân thể ông ấy máu sẽ
chảy ra - ông ấy là loại bhagwan gì? Là bhagwan có nghĩa
gì?
Điều ngụ ý trong bhagwan là ở chỗ tất cả những điều này
có thể xảy ra và người ẩn bên trong thân thể ấy biết rằng
không cái gì động chạm tới nó. Tất cả những điều này có thể
xảy ra: nếu tay bị đứt, dứt khoát máu sẽ chảy ra; thân thể sẽ
trở nên đói và cảm thấy khát, tuổi già sẽ tới rồi cái chết cũng
vậy; nhưng bầu trời bên trong của vị phật bên trong biết rằng
không cái gì chạm tới nó. Cả chết lẫn sống đều không chạm
tới nó. Cuộc sống trôi qua, cái chết trôi qua - tuổi thanh xuân
cũng như tuổi già - nhưng trinh bạch bên trong vẫn còn
không bị động chạm; không có rạn nứt nào trong nó, ngay cả
những tin tức về điều xảy ra bên ngoài cũng không đạt tới nó
được.
Tên của kinh nghiệm này là tính thượng đế.
Cho nên nếu ai đó đang tìm kiếm để gặp Thượng đế,
người đó có tương lai. Người đó, người có tương lai, không
bao giờ có gặp gỡ với Thượng đế. Tương lai nghĩa là thế
giới. Tương lai nghĩa là chân lí của quá khứ còn chưa được
thấy, nghĩa là việc người ta là tựa như bầu trời còn chưa
được kinh nghiệm.
Kinh này nói rằng với một nhà yogin, một thiền nhân,
không quan tâm về bất kì cái gì còn lại trong bất kì hành
động tương lai nào. Với một nhà yogin không tồn tại ngày
mai, chỉ có hôm nay. Thậm chí hôm nay là một thời gian dài;
người ta nên nói chỉ có khoảnh khắc này. Ở đây và bây giờ là
toàn thể sự tồn tại; không cái gì còn lại trong người đó đi tới
tương lai.
Cũng tựa như bầu trời hiện diện trong vò đầy rượu
không bị nhiễm bởi mùi rượu, linh hồn vẫn còn không bị
động chạm bởi mọi việc xảy ra mặc cho có hiện diện
trong tất cả chúng.

Khi một vò rượu đất sét chứa đầy rượu, nó bị nhiễm mùi
rượu. Đất sét của vò thực ra đã uống rượu, từng lỗ li ti đều
thấm rượu. Và nếu một cái vò nào đó đã được dùng đựng
rượu khá lâu thế thì người ta có thể bị say dù chỉ nhai đất sét
của vò. Đất sét của vò bị nhiễm rượu, trở nên bị ngấm đầy
rượu. Tại sao? Bởi vì đất sét xốp có lỗ nhỏ li ti.
Cố hiểu điều này. Đất sét của vò có nhiều lỗ, rượu ngấm
đầy những lỗ này và ẩn ở đó. Vò đất uống rượu và trở thành
kẻ say rượu... vò bị say. Nhưng vò còn đầy một phần tử nữa,
và đó là bầu trời - cái trống rỗng của vò.
Bây giờ điều này rất thú vị. Người ta đang rót rượu vào
cái trống rỗng của vò, không phải vào đất sét của vò. Rượu
dồn tụ không phải trong đất sét của vò mà trong cái trống
rỗng - bầu trời của vò. Chúng ta có rót rượu vào trong đất sét
của vò không? Không, đất sét có đó chỉ để bao quanh cái
trống rỗng từ mọi phía. Bầu trời rất lớn, rượu rất nhỏ. Do đó
chúng ta chọn một khu vực nhỏ của bầu trời và bao quanh nó
bằng bức tường đất sét, kết thúc với một bầu trời nhỏ bên
trong. Rồi chúng ta rót rượu vào trong đó.
Vậy rượu được rót vào trong bầu trời, không phải vào
trong đất sét. Những điều thú vị cần để ý là ở chỗ đất sét bị
ngấm rượu và bị say, và bầu trời mà rượu thực tại được rót
vào vẫn còn không bị rượu động tới. Nếu bạn đổ rượu ra
khỏi vò cái trống rỗng trong vò vẫn không có mùi rượu
nhưng đất sét vò có mùi. Đất sét bị say do sự gần gũi - chỉ
satsang, ở trong nhóm gần gũi, đem lại kết quả - và mọi thứ

thực tại được chứa trong bầu trời nhưng bầu trời vẫn còn
không bị chạm tới.
Cho nên bất kì điều gì bạn đã làm chỉ động chạm đến
thân thể bạn, không gì khác. Nó đi vào đất sét của bạn, thân
thể, nhưng nó đã không chạm tới bầu trời bên trong của bạn,
linh hồn. Bạn có thể phạm tội lỗi hay đã làm những hành vi
tốt - điều tốt hay điều xấu; mọi thứ đều động chạm tới đất sét
của bạn, tới thân thể.
Tâm trí bạn là đất sét và thân thể bạn cũng là đất sét. Cái
trống rỗng, cái trống rỗng giữa hai thứ này là linh hồn của
bạn - không cái gì đã bao giờ đạt tới chỗ đó.
Biết được điều này, kinh nghiệm được điều này, là đi ra
ngoài mọi rối loạn. Mọi rối loạn đều là của thân thể và của
tâm trí, không phải của bạn. Nhưng bất kì cái gì mà đất sét
đã hấp thu, đất sét sẽ phải sống với nó.
Ngay cả thân thể của người đã chứng ngộ sẽ phải sống
với mọi cái đã được nó hấp thu. Cái tốt, cái xấu, nỗi buồn; tất
cả những gì đã được làm và tất cả những gì đã xảy ra - toàn
thể quá khứ có đó trong từng tế bào của thân thể. Cho nên
ngay cả khi chứng ngộ xảy ra và người này tỉnh thức và trở
thành tựa bầu trời, bất kì cái gì đã xảy ra cho thân thể sẽ
hoàn tất cuộc hành trình của nó.
Dường như là bạn đang đi xe đạp và bạn mới dừng đạp
bởi vì bạn đi tới nhận ra rằng mọi việc du hành đều vô ích và
rằng bạn không có đâu mà đi. Nhưng xe đạp đã thu được đà.
Bạn đã đạp xe đi hàng nghìn ki lô mét và nó đã thu tập lực
của riêng nó. Cho dù bạn đã dừng đạp xe sẽ không dừng lại
ngay đây đó. Ngay cả không đạp thêm nó sẽ đi một khoảng
cách nữa, bởi vì xe đạp đã có đà.
Chừng nào đà đó còn chưa tiêu tan hoàn toàn xe đạp sẽ
tiếp tục tiến tới. Khi hết đà xe sẽ đổ, nhưng nếu bạn cứ thêm
đà nó sẽ không bao giờ đổ. Nếu bạn dừng cung cấp đà xe sẽ
không đổ ngay, chỉ đổ sau đó một lúc.
Chúng ta đã đi trong thân thể và tâm trí mình trong vô số
kiếp sống: nếu chúng ta tỉnh thức hôm nay và tách bản thân
mình ra khỏi thân thể và tâm trí chúng sẽ không sụp đổ ngay.
Thân thể và tâm trí sẽ phải dùng hết đà chúng đã thu được.
Giống như mũi tên được buông ra sẽ không dừng trước
khi xuyên vào mục tiêu, hành động được thực hiện trước
khi xảy ra chứng ngộ sẽ không dừng cho quả sau khi
chứng ngộ xảy ra.

Cho nên, dù đó là Phật, dù đó là Krishna hay dù đó là ai
đó khác, bất kì điều gì đã được làm trong quá khứ phải đi tới
kết quả; mũi tên sẽ bay đủ tầm của nó.
Điều này có nghĩa là quả của hành động trước đó phải
được kéo dài ngay cả sau khi chứng ngộ. Hành động quá khứ
không bị phá huỷ bởi chứng ngộ.
Chứng ngộ đem đến kinh nghiệm rằng người ta không là
người làm, nhưng nó không phá huỷ hành động quá khứ. Bất
kì cái gì đã được làm sẽ đi tới kết quả.
Điều đó có thể được giải thích qua ví dụ về mũi tên đã
được buông ra sau khi nhắm. Sau khi mũi tên đã được buông
ra, cho dù người ta nhận ra rằng mình đang làm điều bạo
hành và rằng người đó không nên làm điều đó, không cái gì
có thể được làm bây giờ, mũi tên sẽ hoàn tất cuộc hành trình
của nó.
Tôi thốt là một lời, và ngay lập tức sau khi thốt ra nó tôi
nhận ra rằng tôi không nên thốt ra điều đó, nhưng bây giờ

quá trễ rồi, lời nói sẽ hoàn tất cuộc hành trình của nó. Đà mà
lời này đã nhận được trong việc thốt ra nó sẽ giữ cho nó
chuyển động cho tới khi đà này tiêu tan.
Khi chúng ta ném một hòn đá, chúng ta trao cho hòn đá
năng lượng của mình; hòn đá bay đi trong khi năng lượng
còn và thế rồi rơi xuống. Sau khi ném hòn đá, cho dù chúng
ta nhận ra mình không nên ném hòn đá, không có cách nào
gọi hòn đá quay lại nữa.
Hành động tựa như mũi tên buông ra từ cánh cung. Mọi
suy nghĩ sau đó đều không còn hữu dụng, mũi tên sẽ hoàn tất
cuộc hành trình của nó. Chừng nào cuộc hành trình của tất cả
các hành động trước đó còn chưa kết thúc sẽ chỉ có
jivanamukta, niết bàn trong khi sống, nhưng không có
mahanirvada, hội nhập tối thượng với sự tồn tại.
Cố hiểu điều này. Một jivanamukta sẽ sống trong trạng
thái giải thoát, nhưng xung quanh người đó các hoạt động
của thân thể và tâm trí người đó sẽ tiếp tục. Không cái gì mới
được đưa thêm vào, nhưng chừng nào những tình cảm cũ còn
chưa hết, các hoạt động sẽ tiếp tục.
Hiểu điều đó theo cách này. Giả sử bạn quyết định bỏ
thân thể bằng cách nhịn ăn. Bạn sẽ không chết ngay vào
ngày bạn bắt đầu nhịn ăn, sẽ phải mất ít nhất quãng chín
mươi ngày - thậm chí có thể còn lâu hơn nữa, nhưng chín
mươi ngày là tối thiểu - trước khi cái chết có thể xảy ra.
Tại sao? Bạn nhịn hôm nay, bạn đáng phải chết hôm nay.
Nhưng không, thân thể bạn có tích luỹ thịt từ quá khứ và nó
sẽ cần tới ba tháng để thịt đó được tiêu hết. Đến lúc đó bạn
sẽ chỉ còn là bộ xương, mọi thịt trong thân thể bạn sẽ bị tiêu
đi. Đây là cách bạn nhịn ăn một ngày bạn giảm trọng lượng
gần nửa cân.
Cho nên một người càng béo, người đó càng phải kéo dài
nhịn ăn lâu hơn, bởi vì người đó có tích luỹ lượng mỡ lớn
hơn. Vậy một người cứ giảm nửa cân hay cỡ như vậy hàng
ngày, và bạn sẽ chưa chết chừng nào kho thịt tích luỹ vẫn
còn. Sẽ phải mất khoảng ba tháng.
Tương tự, khi tâm thức tràn đầy thức tỉnh, người ta đáng
phải đạt tới mahanirvana, sự hội nhập tối thượng, ngay lập
tức. Nhưng điều đó không xảy ra. Thỉnh thoảng điều đó đã
xảy ra theo cách đó, nhưng những biến cố như thế là rất hiếm
- hầu như không có được - rằng một người chết ngay khi trở
nên chứng ngộ. Dường như là ai đó đã chỉ còn là bộ xương,
không còn gì tích luỹ lại cả, và người đó chết ngay ngày đầu
nhịn ăn. Điều này sẽ có nghĩa là một người như thế chỉ sẵn
sàng để chết, người đó không còn để dành cái gì. Nhưng khó
tìm được người như thế lắm; ngay cả thân thể của một người
ăn xin đói cũng còn giữ đồ để dành, một cái kho tích luỹ cần
cho những trường hợp khẩn cấp.
Sự trùng lặp như thế đôi khi có thể xảy ra rằng hành
động của một người cũng đi tới hoàn tất vào cùng khoảnh
khắc chứng ngộ. Tuy nhiên, đó là hiện tượng rất hiếm.
Thông thường họ phải đợi và sống nhiều năm sau chứng ngộ
- là Phật hay Mahavira hay ai đó khác. Cái gì là lí do cho
việc tiếp tục sống? - bởi vì giải thoát đã xảy ra. Nó là gánh
nặng của hành động quá khứ, cái đà của quá khứ, cái cứ đẩy
thân thể tiến lên trên cuộc hành trình một thời gian nữa. Khi
đà đó tiêu tan, jivanamukti, giải thoát trong khi sống, sẽ trở
thành mahanirvana.
Nhưng cũng cần thiết và có ích nữa để những người như
thế sống sau khi chứng ngộ, bởi vì nếu họ chết ngay khi
chứng ngộ, bất kì điều gì họ đã biết được họ sẽ không có khả
năng kể lại cho chúng ta. Một người được giải thoát trong

khi sống có khả năng kể cho chúng ta, chia sẻ với chúng ta,
bởi vì có khoảng thời gian này.
Phật đã sống bốn mươi năm sau khi chứng ngộ của ông
ấy, Mahavira cũng sống bốn mươi năm sau chứng ngộ của
ông ấy. Chính bốn mươi năm đó trở thành hữu dụng cho
chúng ta. Trong bốn mươi năm đó tâm trí họ có thể trao đổi
với chúng ta bất kì điều gì họ đã kinh nghiệm và biết.
Mũi tên được thả ra nhằm vào một con vật là hổ không
thể bị dừng lại nửa chừng nếu sau đó hiểu biết bừng lên
rằng con vật đó là bò. Mũi tên sẽ đâm trúng mục tiêu với
toàn bộ sức mạnh của nó. Tương tự, hành động đã được
thực hiện đưa tới kết quả cho dù sau khi chứng ngộ đã
xảy ra.

Cho nên nếu một người chứng ngộ được bạn thấy đôi khi
bị đau đớn, đừng băn khoăn tại sao sự tồn tại tra tấn một con
người thuần khiết và an bình như thế, một con người chứng
ngộ như thế. Không ai tra tấn bất kì ai cả. Một người chứng
ngộ có thể là một người vĩ đại đến đâu, người ta vẫn có đằng
sau mình một chặng đường dài dốt nát. Chính sự kiện là một
người được chứng ngộ có nghĩa là người đó đã đi qua chặng
đường dài trong dốt nát. Bất kì bụi cát nào đã từng bám vào
trong cuộc hành trình dài đó sẽ phải được rũ sạch. Người
chứng ngộ bây giờ sống trong cuộc hành trình với bản tính
tựa bầu trời của mình. Nhưng những người tụ tập xung
quanh người đấy có thể không có khả năng giải quyết điều
đó theo cùng cách.
Khi Ramakrishna đang đau đớn vì ung thư, Vivekananda
thường hay khóc. Vivekananda chưa đạt tới chứng ngộ, bản
tính bầu trời của ông ấy. Khi Ramana Maharshi bị ung thư,
mọi người trong đạo tràng của ông ấy đều bất hạnh bởi vì
những người tụ tập xung quanh đó đều chưa biết đến bản
tính bầu trời.
Vào lúc ông ấy chết, gần như khi ông ấy thở hơi cuối
cùng, ai đó hỏi Ramana, “Bây giờ cái gì sẽ xảy ra cho chúng
tôi?” Ramana đáp, “Cái gì sẽ xảy ra? Ta sẽ ở đây.”
Nước mắt mọi người ngừng chảy. Lời đảm bảo đã đưa ra
rằng ông ấy sẽ còn lại. Họ nghĩ ông ấy sẽ không chết - và
ông ấy đã chết! Mọi người đã hiểu nhầm lời phát biểu này.
Khi Ramana nói “Ta sẽ ở đây,” ông ấy đang nói đến bầu trời
mà ông ấy là. Bầu trời có thể đi đâu ngay cả khi cái vò bị vỡ?
Chỉ có cái vò vỡ thôi. Ramana đang nói, “Ta sẽ ở đây,
sao các ông khóc?” Nhưng đây là lời nói của bầu trời, không
phải của cái vò. Những người xung quanh ông ấy đã hiểu
rằng những lời đó là cái vò, rằng cái vò sẽ còn lại, nhưng thế
rồi cái vò đã vỡ. Họ nghĩ, “Không lẽ Ramana lừa chúng ta?
Ông ấy đã nói mọi điều để an ủi chúng ta sao? Không lẽ đấy
chỉ là lời an ủi sao?”
Đây không phải là lời an ủi, đây là chân lí. Nhưng bạn
không có cách nào kinh nghiệm Ramana như bầu trời chừng
nào bạn chưa kinh nghiệm bản thân mình như bầu trời.
Chừng nào bạn còn nghĩ bản thân mình chỉ là cái vò, với bạn
Ramana đã qua đời.
Khi Ramakrishna đang hấp hối, vợ ông ấy, Sharda, bắt
đầu khóc lóc và rền rĩ. Ramakrishna nói, “Sao em lại khóc?
Em sẽ không trở thành goá bụa đâu.” Và Ramakrishna chết -
để lại thông điệp, “Em sẽ không goá bụa đâu, và ngay chỗ
đầu tiên làm sao anh có thể chết được?” Nhưng Sharda
không phải là người đàn bà bình thường. Ramakrishna chết,
thân thể ông được hoả thiêu, nhưng thậm chí không có lấy
một giọt nước mắt trong mắt bà ấy. Mọi người tụ tập và, theo

truyền thống ở Bengal, muốn đập vỡ và loại bỏ vòng tay của
Sharda. Nhưng bà ấy đã yêu cầu mọi người đừng làm thế,
“Bởi vì,” bà ấy nói, “tôi không goá bụa.” Mọi người yêu cầu
bà mặc quần áo truyền thống của người goá bụa, nhưng
Sharda yêu cầu họ thậm chí đừng nhắc đến việc đó, rằng bà
ấy tin vào lời Ramakrishna đã nói với bà ấy, rằng những lời
đó đã không được nói với bà ấy như lời an ủi.
Điều đã xảy ra là một câu chuyện rất cảm động. Shardra
đã sống khá lâu sau cái chết của ông ấy, bà ấy chưa bao giờ
chấp nhận ngay cả trong giấc mơ rằng Ramakrishna đã chết.
Mọi người tự hỏi liệu bà ấy có điên không. Nhưng bà ấy
không điên, không có dấu hiệu gì về điên. Ngược lại, chân lí
của vấn đề là ở chỗ ngay từ ngày Ramakrishna chết và
Sharda đã không chấp nhận rằng ông ấy đã chết, bản thân bà
ấy đã trở thành bất tử và tựa bầu trời.
Với Sharda kinh nghiệm về cái chết của Ramakrishna
chỉ là một kinh nghiệm về cái chết của cái vò, thân thể. Và
chưa bao giờ có bất kì giao tác nào giữa các cái vò - hôn
nhân của Ramakrishna và Sharda đã là hôn nhân phi thường.
Trong cuộc sống hôn nhân của họ, các cái vò chưa bao giờ
gặp gỡ. Ramakrishna bao giờ cũng đối xử với Sharda tựa
như mẹ mình; không có giao tác thân thể trong đó. Hôn nhân
của họ không là gì ngoài sự gặp gỡ của hai bầu trời.
Đây là một câu chuyện có thực và rất hay, đáng ngạc
nhiên. Sharda đã sống nhiều năm sau cái chết của
Ramakrishna, nhưng bà ấy đã quen chuẩn bị cơm như bà đã
làm trong quá khứ và thế rồi lại gần giường của Ramakrishna
nói, “Paramahansadeva, cơm xong rồi đó” - tất cả vẫn tiếp
tục như nó đã xảy ra trước đây. Bà ấy sẽ chuẩn bị cơm, lại
gần giường - nơi không còn ai - và mời Ramakrishna như
thường lệ.
Mọi người ta hay nhìn điều này và khóc cho hoàn cảnh
của bà ấy. Bà ấy sẽ gọi ông ấy đi ăn cơm và thậm chí còn đợi
như thường lệ để ông ấy dậy, và thế rồi, khi ông ấy bắt đầu
bước ra, bà ấy sẽ đi theo ông ấy. Chỉ bà ấy mới có thể thấy
được mọi điều xảy ra này - không ai khác thấy được. Bà ấy
sẽ mời ông ấy ngồi ăn, bà ấy sẽ quạt cho ông ấy trong khi
ông ấy ăn. Bà ấy sẽ làm cho ông ấy ngủ ban đêm và đánh
thức ông ấy vào sáng sớm. Mọi sự tiếp diễn như thường lệ.
Ai đó hỏi Sharda bà ấy đánh thức ai vậy và bà ấy cho ai
ăn cơm vậy, bà ấy đưa ai lên giường ngủ vậy - cái gì đang
xảy ra? Sharda đáp rằng đấy vẫn là cùng người bà ấy đã phục
vụ trước đây. Bây giờ, thân thể đã đi, nhưng bầu trời vẫn còn
lại.
Sharda đã không trở thành goá bụa ngay cả sau cái chết
của chồng bà ấy. Đó là một kinh nghiệm duy nhất cho bất kì
người vợ nào trong toàn thể lịch sử loài người. Đây là biến
cố duy nhất thuộc kiểu này. Khó mà tìm được một người đàn
bà khác giống như Sharda.
Hành động quá khứ đi tới việc hoàn thành của chúng
ngay cả sau chứng ngộ, nhưng sau kinh nghiệm này về cái
trống rỗng bên trong, người này quan sát tất cả những cái
đang xảy ra như một nhân chứng. Người đó không có ham
muốn, không ý chí về cái gì phải xảy ra và cái gì phải không
xảy ra. Người đó chấp nhận bất kì cái gì xảy ra.
Chứng kiến nghĩa là như thế. Bất kì cái gì xảy ra hay
không xảy ra đều tốt. Sự tin cậy bên trong vào kinh nghiệm
này thường hiện diện, rằng không cái gì đã bao giờ xảy ra
hay đã bao giờ có thể xảy ra cho bầu trời bên trong vậy.

Người hiểu rằng mình là bất tử và trẻ mãi vẫn còn là một
với linh hồn và không có quan hệ gì với quả của hành
động quá khứ của mình.
Hiểu điều này. Kinh này dường như có đôi chút mâu
thuẫn nhưng nó không phải vậy. Hành động quá khứ tiếp tục,
nhưng người đã chứng ngộ vẫn còn không có quan hệ với
chúng. Người chứng ngộ đi tới biết rằng mình là tựa bầu trời
- bất tử, trẻ mãi, vô tư lự, vô gắn bó, dửng dưng và trung lập.
Người đó biết, “Mình chưa bao giờ đi ra ngoài bản thân
mình, không cái gì đã bao giờ đi vào bên trong mình, mình
không sinh không diệt; chỉ hiện hữu là trạng thái của mình.”
Với một người như thế hành động cứ xảy ra bởi dây chuyền
của chúng trong quá khứ, nhưng người này không có quan hệ
gì với chúng. Khi bất hạnh và đau đớn hay tuổi già kéo đến
cho thân thể, người đó không đồng nhất và nói, “Tôi đang
già đi,” người đó chỉ nói rằng người đó thấy thân thể đang
già đi, hay người đó thấy thân thể đang ốm, hay hạnh phúc
đã tới hay bất hạnh đã tới.
Người đó, người được lắng đọng trong cái ta, không
đồng nhất. Và khi một người không đồng nhất, hành động
quá khứ tan biến sau khi cạn kiệt đà của chúng; thân thể sẽ bị
vứt bỏ sau khi hoàn tất hành trình của nó, ham muốn của nó
và thân thể tiêu hao, và nhân chứng trở thành một với bầu
trời trống rỗng.
Chừng nào thân thể còn đó, chỉ có jivanamukti, giải thoát
trong cuộc sống, và khi thân thể cũng bị vứt bỏ, có
mahanirvana.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#15Tỉnh dậy đi! Đây là mơ

Nghiệp, hành động quá khứ, mang tới quả chỉ khi chúng
ta có cảm giác về cái của tôi đối với thân thể mình. Đừng
bao giờ ham muốn có cảm giác về cái của tôi đối với
thân thể. Vậy, bằng cách từ bỏ cảm giác về cái của tôi
đối với thân thể người ta bỏ được quả của nghiệp quá
khứ.
Lừa dối này về việc thân thể là bản thân mình là nguyên
nhân tạo ra trong trí tưởng tượng ý tưởng về hành động
quá khứ. Nhưng làm sao cái gì đó có thể đúng mà bị áp
đặt hay bị tưởng tượng về lừa dối?
Từ đâu một vật có thể được sinh ra mà ngay chỗ đầu tiên
nó là không thực? Cái không sinh, làm sao có thể bị
diệt? Làm sao một vật không thật có thể có hành động
quá khứ?
Cái của tôi đối với thân thể là kết quả của dốt nát của
chúng ta và nó bị phá huỷ toàn bộ bởi chứng ngộ. Thế thì
làm sao thân thể còn lại? Chính để thoả mãn cho hoài
nghi này của dốt nát mà kinh sách đã cho tính liên tục
của thân thể là do hành động quá khứ từ bên ngoài.

Một hay hai câu hỏi đã được hỏi. Tốt hơn cả là thảo luận
chúng trước hết.
Một người bạn đã nói rằng điều tôi đang nói được người
đó hiểu, nhưng dầu vậy điều ấy vẫn chưa được hiểu. Cho
nên, cái gì là điều người đó được giả định làm về điều ấy.
Câu hỏi này có giá trị. Mọi người đều phải cảm thấy
giống thế này, bởi vì việc hiểu có hai mức. Một mức là ở chỗ
điều tôi đang nói được trí tuệ bạn hiểu; nó dường như logic
đối với trí tuệ bạn và trí tuệ bạn nghĩ điều này phải là như
vậy. Hiểu biết này là hời hợt. Nó không thể thấm vào cốt lõi
bên trong bản thể bạn. Hiểu biết này không phải từ bản thể
bạn - nó không bắt nguồn từ linh hồn bạn. Bề ngoài dường
như là bạn hiểu, và chừng nào bạn còn ngồi đây lắng nghe
tôi bạn cảm thấy bạn đã hiểu hoàn toàn. Nhưng thế rồi bạn đi
xa khỏi chỗ này và việc hiểu bắt đầu phai nhạt đi. Điều này
là như vậy bởi vì chừng nào bất kì cái gì đã được hiểu mà
cũng không được thực hành, nó không thể trở thành một
phần của bản thể bạn. Bất kì cái gì đã được hiểu, nếu nó
không trở nên được hấp thu vào máu, thịt và xương bạn, nó
sẽ phai nhạt đi giống như mầu phai ở bề mặt bên ngoài.
Toàn bộ hiểu biết quá khứ của bạn nằm dưới cái mà bạn
nay đã hiểu, và ngay khi bạn đi xa khỏi nơi đây nó sẽ bắt đầu
tạo ra xung đột với những hiểu biết mới. Hiểu biết cũ sẽ
tranh đấu với nó và đẩy nó đi. Tư tưởng cũ sẽ chống lại việc
vào của tư tưởng mới, sẽ làm mọi sự nháo nhào lên, sẽ nêu ra
cả ngàn hoài nghi và phản đối. Nếu bạn trở nên bị lạc trong
những phản đối và hoài nghi này, thoáng nhìn về hiểu biết
mới sẽ bị phá huỷ.
Chỉ có một cách duy nhất - đó là bất kì cái gì đã được
hiểu bằng trí tuệ nên được chuyển hoá vào sinh lực của bạn,

nó nên được thực hành. Hài hoà nên được tạo ra với nó. Nó
không nên vẫn còn là ý nghĩ, nhưng sâu bên dưới nó nên trở
thành hành động của bạn nữa. Và không chỉ là hành động
của bạn, mà toàn bộ bản thể bên trong của bạn cũng nên
được nó tái tạo lại. Chỉ thế thì dần dần, dần dần điều đã đạt
tới trên bề mặt sẽ đi sâu hơn vào trong bạn và trở thành một
chân lí được thực hành mà những tư tuởng cũ của bạn sẽ
không có khả năng phá huỷ nổi. Thay vì thế, bởi sự hiện diện
của nó, những tư tưởng cũ sẽ dần dần lùi xa và tan biến theo
cách riêng của chúng.
Cho nên điều này là phải - đây là câu hỏi tự nhiên cho
người tìm kiếm. Mặc dầu chúng ta hiểu, chúng ta vẫn còn
như chúng ta đã vậy. Và nếu chúng ta vẫn còn như chúng ta
đã vậy, hiểu biết mới này sẽ không kéo dài lâu lắm đâu. Chỗ
nào, trong không gian nào nó có thể ở lại? Nếu bạn vẫn còn
là người cũ, mọi hiểu biết mới sẽ bị khử bỏ, chẳng mấy chốc
sẽ bị quên lãng.
Và đây là cách thức bạn đã hiểu bao nhiêu lần, đây
không phải là lần đầu. Nhiều lần bạn đã quay lại từ chính
ngưỡng cửa của chân lí. Nhiều lần bạn đã tìm thấy cánh cửa
và chỉ còn việc gõ lên cánh cửa, bạn lại rời đi hướng tới bức
tường. Đây chính là sai lỗi bị phạm phải, rằng bất kì cái gì đã
được hiểu không lập tức được chuyển vào cuộc sống.
Trong hoàn cảnh này điều đáng nhớ là nếu ai đó nói với
bạn một cách xúc phạm, lập tức bạn trở nên giận dữ, nhưng
nếu ai đó trao cho bạn hiểu biết về chân lí, bạn không bắt đầu
thiền ngay. Nếu cái gì sai trái cần được làm, chúng ta làm nó
ngay lập tức; nếu cái gì đó tốt lành cần được làm, chúng ta
nghĩ về nó. Cả hai điều này đều là thủ đoạn rất tinh vi của
tâm trí, bởi vì bất kì cái gì cần làm đều có thể được làm chỉ
nếu nó được thực hiện ngay lập tức - dù đó là vấn đề giận dữ
hay hành thiền, không thành vấn đề. Chúng ta muốn diễn đạt
sự giận dữ, do đó chúng ta làm nó ngay lập tức. Chúng ta
thậm chí không đợi một khoảnh khắc, bởi vì nếu đợi chúng
ta sẽ không có khả năng thực hiện điều đó.
Nếu ai đó nói với bạn một cách xúc phạm và bạn bảo
người đó rằng bạn sẽ quay lại và đáp lại người đó trong
khoảng thời gian hai mươi bốn tiếng, bạn sẽ không bao giờ
có khả năng đáp lại chút nào. Hai mươi bốn tiếng là một
khoảng thời gian dài - cho dù bạn đợi cho đủ hai mươi bốn
tiếng trong xem xét im lặng, có lẽ bạn sẽ không còn bất kì
ham muốn nào để trở nên giận dữ. Có lẽ bạn có thể cười to;
có lẽ bạn có thể thấy cái ngu xuẩn của người đó; hay có lẽ
bạn thậm chí còn có thể thấy rằng lời xúc phạm mà người đó
nói bạn là đúng. Cho nên bạn nghĩ không phải mất thời gian,
cần trả đũa ngay lập tức trong giận dữ khi lời nói xúc phạm
buột ra. Khi có liên quan đến hối hận - bạn sẽ làm điều đó về
sau.
Bạn có chú ý rằng mọi người giận dữ sau đó đều hối hận
không? Họ hối hận sau hành động giận dữ. Giá mà họ đợi
một chút để hối hận đến trước giận dữ, và thế thì giận dữ sẽ
không bao giờ xảy ra. Người hối hận sau giận dữ sẽ không
bao giờ có khả năng trở nên tự do khỏi giận dữ được. Chỉ
người có hối hận đến trước giận dữ mới có thể trở nên tự do
khỏi giận dữ, bởi vì bất kì điều gì đã xảy ra đều không thể
hoàn tác lại được.
Nhưng lỗ hổng ở đâu? Đằng kia bạn nói lời xúc phạm và
ở đây tôi trở nên giận dữ. Đâu là lỗ hổng thời gian giữa hai
việc này để cho tôi có thể nghĩ, xem xét và suy ngẫm, để cho
tôi có thể nhìn vào mọi lời thề nguyền tôi đã nói trong quá
khứ không giận dữ nữa, để cho tôi có thể duyệt tìm trong quá
khứ xem bao nhiêu lần tôi đã hối hận sau khi trở nên giận

dữ? Nhưng cũng không có máy cơ hội như thế, về cả thời
gian lẫn không gian. Đằng kia ai đó xúc phạm tôi và ở đây
ngọn lửa giận dữ toé ra.
Tạo ra một lỗ hổng nhỏ và giận dữ sẽ trở thành khó
khăn. Tuy nhiên chúng ta không tạo ra lỗ hổng khi đấy là
vấn đề giận dữ, mà chúng ta có tạo ra lỗ hổng khi nó đến từ
thiền. Cho nên thiền trở thành khó khăn.
Khi có tác động về cái gì đó là đúng và phải, chúng ta
không lập tức tham dự vào việc thực hiện nó, chúng ta đợi.
Khoảng thời gian đó làm hỏng mọi thứ. Cần phải rèn khi sắt
còn nóng. Trong khi chúng ta đang nghĩ về nó, sắt lạnh dần
và thế thì nó không đem lại kết quả gì.
Hôm nay một người bạn tới. Anh ta nói muốn nhận tính
chất sannyas, nhưng anh ta cần một số thời gian để xem xét
vấn đề. Tôi hỏi anh ta có bao nhiêu vấn đề khác trong cuộc
đời mà anh ta đã nghĩ trước khi hành động. Giá mà anh ta đã
nghĩ trước cho các vấn đề khác thì chuyện tính chất sannyas
chắc đã xảy ra từ lâu trước đây rồi, bởi vì sannyas không là
gì khác ngoài kết quả cuối cùng của suy nghĩ. Mọi mê đắm
trong cuộc sống trở nên vô nghĩa với bất kì ai suy nghĩ và
cân nhắc.
Cho nên tôi hỏi anh ta đã nghĩ cái gì khác trước trong
cuộc sống. Anh ấy đã làm bao nhiêu điều khác sau khi nghĩ
về nó? Hay đấy chỉ là việc anh ta muốn suy nghĩ và cân nhắc
về việc trở thành sannyas thôi? Và sau hết chính bạn là người
cân nhắc - bạn có nghĩ bạn sẽ thông minh hơn vào ngày mai
không? Nhìn lại mà xem: thông minh của bạn thậm chí có
thể lại trở nên kém sắc bén hơn, nó chắc chắn dường như
không tăng lên.
Các nhà khoa học nói rằng thông thường giữa độ tuổi
mười bốn và mười tám, thông minh của người ta dừng phát
triển. Và chỉ trong trường hợp những cá nhân đặc biệt thông
minh tăng đến tuổi mười tám, còn ngoài ra nó dừng tăng sớm
hơn nhiều.
Trong cuộc chiến tranh thế giới vừa qua, các tân binh đã
được trắc nghiệm về thông minh và tuổi trung bình của thông
minh được tìm thấy là mười ba tuổi rưỡi. Sau mười ba tuổi
rưỡi thông minh không tiếp tục phát triển ở người trung bình.
Bạn có thể nói rằng điều đó dường như không đúng bởi
vì bạn cảm thấy rằng bạn dứt khoát trở nên thông minh hơn
khi bạn còn trẻ. Cho dù bạn không cảm thấy theo cách đó,
bạn dứt khoát cứ làm cho con của bạn cảm thấy rằng bạn
thông minh hơn. Bạn là người già, có kinh nghiệm... chắc
chắn bạn thông minh hơn.
Bạn có thể có nhiều kinh nghiệm hơn, nhưng bạn không
có nhiều thông minh hơn bởi tuổi tác bạn. Kinh nghiệm chỉ
là tích luỹ thông tin. Thông minh là việc dùng cái tích luỹ đó,
và đó là hoàn toàn khác.
Đứa trẻ ít có tích luỹ kinh nghiệm, bạn có nhiều hơn.
Nhưng cách bạn dùng cái tích luỹ đó là thông minh. Thông
minh không phải là kinh nghiệm. Cho nên có thể là đứa trẻ
có nhiều thông minh hơn người già, nhưng chưa bao giờ xảy
ra việc đứa trẻ có nhiều kinh nghiệm hơn người già. Đứa trẻ
nhất định ít kinh nghiệm hơn, nhưng nó có thể có nhiều
thông minh hơn. Người già có nhiều kinh nghiệm hơn.
Tôi nói với người bạn đó, “Bạn có nghĩ rằng ngày mai
hay ngày kia bạn sẽ có nhiều thông minh hơn không? Không,
tất cả những cái đã xảy ra là ở chỗ ngay bây giờ một thôi
thúc đã nảy sinh trong bạn trong bầu không khí này, trong
làn sóng thiền bao quanh bạn, dưới tác động của phúc lạc và
tự do của bao nhiêu sannyasin tại đây, nhưng vào lúc bạn
xuống núi Mount Abu - khi xe buýt của bạn đi xuống đồng

bằng - bạn cũng sẽ hạ thấp dần ý tưởng nhận tính chất
sannyas. Sẽ là đáng ngạc nhiên nếu ý tưởng này vẫn còn với
bạn cho tới ga xe lửa Đường Abu tại chân núi Mount Abu.
Xuống xe buýt tại ga xe lửa này bạn sẽ lấy hơi thở sâu, bình
tĩnh của sự nhẹ bớt rằng thế cũng tốt cho bạn là bạn đã trở về
hệt như bạn đã ra đi, rằng bạn không mất gì ở đây cả, rằng
bạn đã không phiêu lưu vào bất kì cái gì sẽ tạo ra rắc rối
không cần thiết. Sau một tháng bạn thậm chí sẽ không có khả
năng nhớ được nó nữa.
Bầu không khí này, sự hiện diện của biết bao người, nỗ
lực tập thể của bao nhiêu người, cũng nâng bạn lên một độ
cao không quen biết. Bạn đang nhảy múa trong thiền kirtan:
bạn có chắc bạn sẽ có khả năng nhảy múa với cùng tính toàn
bộ và cùng cảm giác chìm ngập tất cả bởi bản thân bạn
không? Bạn đang nhảy múa không mấy, nhưng việc nhảy
múa của biết bao nhiêu người trở thành lây nhiễm - nó động
chạm tới bạn. Rung động của họ bắt đầu kích thích trái tim
bạn; chuyển động của họ, nhịp bước của họ tạo ra cơ hội cho
chuyển động nhịp bước của bạn nữa. Và trên hết, mẫu hình
tư duy của bạn bao giờ cũng là một với người khác. Cho nên
nơi tất cả đều nhảy múa, một điều chắc chắn là không ai định
nói điều gì với người đang nhảy múa - nhưng ai đó có thể nói
điều gì đó với người chỉ đứng cạnh. Cho nên điều đó tạo ra
sự kích thích; bạn cảm thấy tự do - thế là phải, không có vấn
đề gì, người ta có thể nhảy múa ở đây.
Khi bạn xuống xe buýt trong đám đông của chợ, thoáng
nhìn này mà bạn đã có tại độ cao nào đó, cái nhảy bạn đã
thực hiện điều đã nâng tầm mắt bạn lên trời, sẽ phai mờ đi.
Bây giờ mắt bạn sẽ lại tập trung hướng về trái đất. Cho nên
tại sao bạn hi vọng rằng ngày mai hay ngày kia bạn sẽ có khả
năng quyết định được? Chính bạn là người phải quyết định,
và điều đó có thể được làm hôm nay.”
Nhưng anh bạn đó nói, “Không phải là tôi chưa làm nỗ
lực nào để quyết định. Chín mươi chín phần trăm tâm trí tôi
được quyết định rồi, vấn đề chỉ còn lại một phần trăm nữa
thôi.”
Tôi hỏi anh ta, “Bạn chưa bao giờ làm điều gì trong đời
mà chín mươi chín phần trăm tâm trí đã sẵn sàng và chỉ còn
một phần trăm chưa sẵn sàng sao? Trước đây bạn đã bao giờ
không quyết định được chỉ vì cái một phần trăm đó không?”
Tôi cũng hỏi người đó, “Bạn có hiểu bạn đang nói gì không?
Tâm trí bạn đã chín mươi chín phần trăm được quyết định
trở thành sannyas, chỉ còn một phần trăm là không, và bạn
đang quyết định theo cái một phần trăm đó.”
Và đừng nghĩ rằng bạn có thể tránh việc quyết định.
Không có cách nào trong thế giới này để tránh việc ra quyết
định. Bạn có thể quyết định chống lại, nhưng thế nữa cũng là
quyết định. Bạn có thể quyết định trì hoãn nó tới mai, điều
đó nữa là một quyết định. Trong thế giới này bạn có tự do để
ra bất kì quyết định nào, nhưng bạn không có tự do không ra
quyết định. Điều đó là không thể được.
Người ta nhất định ra quyết định. Nhưng một điều thú vị
là ở chỗ chúng ta nghĩ quyết định của mình không làm cái gì
đó không phải là quyết định. Đấy là một quan niệm rất kì
cục. Anh bạn đó không hiểu thấu rằng nhận tính chất
sannyas là một quyết định và không nhận tính chất sannyas
cũng là một quyết định. Nếu cả hai đều là quyết định, thế thì
tâm trí sẽ rất kì cục khi nó nghiêng về một phần trăm và
không có đủ dũng cảm để đi với chín mươi chín phần trăm.
Chúng ta rất láu cá trong việc tự lừa mình. Ngay cả việc
hiểu biết chỉ trên bề mặt, tâm trí hiểu tính chất sannyas nghĩa
là gì và chúng ta sợ. Cho nên chúng ta nghĩ nếu bằng cách
nào đó thời gian nào đó có thể được thu lấy... không có thời

gian nào nào cho phép rằng người ta có thể ra quyết định tốt
hơn, nhưng có thời gian cho tác động phai mờ đi cho nên
chín mươi chín phần trăm sẽ biến thành một phần trăm và
một phần trăm biến thành chín mươi chín phần trăm... Và khi
chín mươi chín phần trăm ủng hộ và một phần trăm không
quyết định cho sannyas, bạn nghĩ bạn sẽ quyết định cho nó
khi sự thôi thúc chỉ còn là một phần trăm sao?
Hiểu biết của bạn không bao giờ đi sâu bởi vì bạn không
bao giờ đem điều đó vào trong cuộc sống, bạn chưa bao giờ
biến nó thành quyết định.
Hiểu điều này cho đúng. Nhiều lần bạn lắng nghe, bạn
hiểu, nhưng bạn vẫn còn hệt như bạn đã từng là. Biến cố này
có cái nguy hiểm của riêng nó, và đó là: bất kì khi nào bạn
đã nghe nhiều lần, hiểu nhiều lần, nếu bạn vẫn còn như bạn
đã là, dần dần bạn trở thành giống như một cái bình trơn
tuột. Càng nhiều thứ đổ vào bạn, bề mặt càng nhẵn thín.
Nhiều ý nghĩ tác động lên bạn, nhưng bạn vẫn còn như bạn
đã vậy. Những ý nghĩ ấy trượt qua và rơi khỏi bạn, còn bạn,
cái vò, vẫn ngồi trơ ra đó không xao động. Cái vò đã trở nên
quá nhẵn bóng.
Cho nên bạn càng giữ nguyên không thay đổi sau khi
lắng nghe, việc biến đổi của bạn càng trở nên khó, bởi vì nay
tác động đã gần như trượt qua bạn khi nó chạm tới bạn. Cái
vò đã trở nên nhẵn thín tuyệt đối; cách thức để trượt qua đã
phát triển khắp nó.
Tốt hơn cả là bạn không chỉ lắng nghe những điều hay
mà khi bạn lắng nghe hãy dũng cảm và quyết định tự biến
đổi mình. Thế thì bạn sẽ thấy rằng hiểu biết của bạn không
còn chỉ trên bề mặt nữa, nó đã trở thành giai điệu của bản thể
bạn.
Nhưng khi chưa tới ngày hiểu biết trở thành chính việc
thở của bạn, nó không có giá trị gì. Nó chỉ có một giá trị - là
bạn có thể học bàn tán một cách tinh ranh. Tất cả chúng ta
đều biết về điều đó - đất nước chúng ta tinh khôn đến thế
trong việc bàn tán ngoan đạo. Chúng ta đều sẵn sàng bàn tán
về tâm linh bất kì lúc nào. Nhưng đấy chỉ là bàn tán thôi,
không đi sâu hơn thế. Người ta có thể hỏi bất kì ai trên đất
nước này; mọi người đều có tri thức về Thượng đế. Mọi
người!
Hoàn cảnh của tâm trí của toàn bộ đất nước này đã trở
thành tựa như một cái bình trơn nhẵn. Trong hàng nghìn năm
ích lợi duy nhất mà chúng ta đã tạo ra về tirthankaras, các
đấng hoá thân và hiền nhân, là ở chỗ bằng cách nghe họ lặp
đi lặp lại chúng ta đã trở thành những cái vò trơn nhẵn.
Trong một thành phố ai đó nói với tôi rằng Ấn Độ thực
sự là mảnh đất thiêng liêng bởi vì mọi đấng hoá thân của
thượng đế, mọi tirthankara và mọi vị phật đều đã xảy ra ở
đây. Tôi yêu cầu người đó xem xét lại phát biểu của mình.
Ấn Độ có thực sự là mảnh đất thiêng liêng không, hay nó chỉ
là mảnh đất của những kẻ tội lỗi đáng ngạc nhiên đến độ mặc
cho sự tồn tạo của bao nhiêu con người vĩ đại như thế họ vẫn
cứ nguyên si không đổi? Phải chăng tất cả các đấng hoá thân
đó đã đến rồi lại ra đi mà không thể nào vẽ ra dù chỉ một
đường kẻ trên những cái vò nhẵn bóng đó? Phải chăng các
tirthabkaras đã tới và chúng ta nói, “Thầy có thể tới rồi đi
nhưng chúng tôi không ngu đến độ chúng tôi sẽ bị quấy rối
bởi lời thầy đâu.”
Thực ra điều này nghĩa là gì? Nếu tất cả các bác sĩ trong
thành phố tới thăm một ngôi nhà, điều đó sẽ có nghĩa là ngôi
nhà này có nhiều bệnh nhân nhất và là ngôi nhà bệnh tật nhất
trong mọi ngôi nhà. Hệt như vậy khi mọi hoá thân phải hoá
thân ở đây. Và Krishna đã nói trong Gita, “Bất kì khi nào tôn

giáo suy giảm, tội lỗi tăng lên và kẻ ác nảy sinh ra, ta sẽ tới.”
Và tất cả những hoá thân này chỉ tới đây tới Ấn Độ. Vậy
điều đó nghĩa là gì? Liệu nó có nghĩa là đây là mảnh đất
thiêng liêng không?
Nếu phát biểu của Krishna là đúng, nơi ông ấy không
được yêu cầu hoá thân phải là mảnh đất thiêng liêng. Nhưng
mọi hoá thân chỉ xảy ra ở đây trên mảnh đất này. Rất rõ ràng
là linh hồn của đất nước này đã trở nên rất nhẵn bóng. Chúng
ta đã nghe những lời đẹp đẽ thế từ lâu và đã tự ru ngủ mình
trong giấc ngủ đến mức mà chúng ta không bao giờ bận tâm
làm bất kì cái gì.
Không hiểu biết nào sẽ đầy đủ và sâu sắc chừng nào nó
chưa thấm nhuần vào tận bản thể bên trong của bạn. Chỉ khi
nào bạn ra quyết định hiểu biết mới thấm vào bản thể bên
trong của bạn. Quyết định là cánh cửa.
Thậm chí những quyết định nhỏ là rất cách mạng. Điều
quan trọng không phải là điều bạn quyết định mà là bạn ra
quyết định. Trong việc ra quyết định bản thể bạn trở nên
được tích hợp. Khoảnh khắc bạn ra quyết định, bạn trở thành
một người khác. Quyết định đó có thể rất tầm thường.
Tôi yêu cầu các bạn không ho trong mười phút. Điều ấy
dường như rất không tính người: bạn cảm thấy muốn ho và
tôi ngăn cản bạn không làm như vậy. Nó có vẻ giống như
độc ác. Bạn đang tham dự cuộc họp và tôi bảo bạn không
được ho chút nào, dừng nó lại. Nhưng bạn không có ý tưởng
gì... ngay cả một quyết định nhỏ bé như thế về phần bạn cho
sinh thành ra linh hồn bên trong bạn. Nếu bạn quyết định
không ho trong mười phút, và nếu bạn thành công không ho,
sóng vui vẻ tràn khắp thân thể bạn; bạn đi tới biết rằng bạn
có thể mang một quyết định tới hoàn thành.
Hắt hơi và ho là điều rất khó chịu: nếu bạn cố ngăn cản
chúng, chúng còn dai dẳng với lực mạnh hơn. Nếu bạn cố
ngăn cản chúng, toàn bộ chú ý của bạn trở nên định tâm vào
chúng. Nếu bạn cố ngăn cản chúng, chúng nổi loạn. Chúng
dường như bảo bạn, “Anh chưa bao giờ làm điều này trước
đây. Cái gì là ý thích mới nảy ra này? Có vấn đề gì? Cho tới
nay mối quan hệ của chúng ta vẫn là ở chỗ anh chưa bao giờ
ngăn cản tôi khi tôi tới. Trước điều này, ngay cả nếu tôi
không tới mà ai đó khác ho, anh cũng sẽ bắt đầu làm sạch cổ.
Cho dù anh không ho, anh cũng trở nên bị lây nhiễm bởi
người khác, cứ như là anh bị ho vậy. Bây giờ cái gì đã xảy
ra?”
Nhưng nếu bạn có thể ngăn cản cơn ho chỉ mười phút
thôi, mối quan hệ của bạn với thân thể bạn đã bắt đầu thay
đổi, với quyết định nhỏ bé này.
Chẳng hạn, tôi gọi bạn: “Dừng lại!” Gurdjieff rất hay sử
dụng điều này trong thiền. Ông ấy đã đặt cho nó một cái tên
riêng: thiền dừng. Khi bạn đã sẵn sàng đôi lần chúng ta sẽ
tiến hành thực nghiệm đầy đủ đó. Khi tôi yêu cầu bạn dừng
lại...
Trong việc dừng này tôi không ở điểm này đặt nhiều áp
lực lên bạn. Gurdjieff cũng thường nói, “Dừng lại!” nhưng
điều đó có nghĩa là dù ở tư thế nào, tình huống thân thể ra
sao, phải duy trì nó nguyên trạng như thế. Nếu bạn đang
nhảy múa, một chân giơ lên và chân kia trên sàn, bạn phải
dừng hệt như vậy. Hay nếu cổ bạn đang ngoẹo sang một bên,
hay thân bạn đang xoay lại, phải giữ nguyên tư thế ấy, không
thay đổi hay điều chỉnh thân thể nào được thực hiện chút ít.
Thân thể có thể ngã xuống sàn, nhưng bạn không được làm
bất kì thay đổi nào cho tư thế của nó. Và nếu có chuyện xảy
ra là một chân hơi xoắn và bạn ngã xuống, bạn duỗi thẳng
chân và thế rồi nằm ra - không, không được thay đổi tư thế

của nó. Gurdjieff gọi điều này là thiền dừng. Hàng nghìn
người đã có kinh nghiệm sâu sắc qua nó.
Đây là một thực nghiệm rất có giá trị, chỉ dừng lại bất
thần. Và nếu người ta lừa dối, không có vấn đề về lừa bất kì
ai, đấy thuần tuý là lừa cái ta riêng của bạn. Nếu một chân
bạn đang giơ lên trong không trung và bạn nhẹ nhàng hạ nó
xuống, ai theo dõi bạn? Không ai theo dõi bất kì ai cả.
Nhưng bạn mất cơ hội. Không có nhu cầu; đấy là chân của
bạn, bạn có thể đặt nó ở đâu tuỳ thích. Nhưng bên trong bạn,
bạn mất một cơ hội. Tại đây có thể thay đổi được mối quan
hệ giữa linh hồn và thân thể, nơi linh hồn có thể thắng được
thân thể và xác nhận rằng linh hồn là chủ. Nếu bạn cẩn thận
hạ chân xuống vị trí thoải mái và tuyên bố với thế giới,
“Nhìn đây, tôi đang thực hiện thiền dừng,” thế thì bạn không
lừa dối bất kì ai khác cả, thân thể riêng bạn đang lừa dối bạn.
Những quyết định nhỏ, những quyết định rất nhỏ cũng
có thể đem lại kết quả lớn. Vấn đề không phải là kích cỡ, vấn
đề là ở quyết định của bạn, ở tính quyết định. Thế thì việc
hiểu của bạn sẽ dần dà đi sâu hơn vào bên trong bạn.
Cho nên bất kì cái gì tôi đang nói với bạn, bạn không nên
chỉ lắng nghe nó mà còn đưa vào trong thực hành.
Upanishad là những bài học rất thực tế. Chúng chẳng
liên quan gì tới lí thuyết, chúng có liên quan tới thuật giả kim
của việc biến đổi bạn. Đây là những kinh đơn giản và trực
tiếp có khả năng tạo ra con người mới từ bạn.
Nhưng khó khăn là ở chỗ không ai khác có thể tạo ra bạn
bằng búa và dao khắc. Bạn là nhà điêu khắc, bạn là hòn đá,
và bạn là búa và dao khắc. Cả ba thứ này phải được bạn làm.
Với búa và dao khắc của quyết định riêng của bạn, với sức
mạnh ý chí của riêng bạn, bạn phải tạo hình cho hòn đá của
riêng bạn. Bạn phải khắc hoạ bức tượng riêng của mình theo
hiểu biết của riêng mình. Ngay cả một khoảnh khắc trì hoãn
trở thành việc trì hoãn mãi mãi - người nói ngày mai mình sẽ
làm sẽ trì hoãn mãi mãi. Đáng ra sẽ tốt hơn nếu người đó đã
nói người đó sẽ không bao giờ làm nó, bởi vì đấy sẽ là một
quyết định.
Cho nên tôi gợi ý cho anh bạn đó, người đã đến ít nhất
để ra quyết định rằng người đó sẽ không bao giờ lấy tính
chất sannyas - không bao giờ. Thế nữa người đó cũng được
lợi. Nhưng người đó nói người đó sẽ nghĩ xem liệu có lấy
tính chất sannyas hay không - đây là do dự. Cho dù người đó
ra quyết định rõ ràng là không, ít nhất người đó đã ra quyết
định. Hay nếu người đó muốn nhận tính chất sannyas, người
đó phải rõ ràng về điều đó, và thế thì người đó cũng phải
quyết định. Cảm giác bên trong của người đó là ở chỗ người
đó không nên nhận tính chất sannyas, nhưng người đó không
cho phép điều này là một quyết định rõ ràng. Về điều này
nữa người đó nói, “Không, tôi dứt khoát sẽ nhận tính chất
sannyas nhưng tôi yêu cầu một số thời gian.” Theo cách này
người đó lừa dối bản thân mình.
Là sannyas là một quyết định, một giải pháp đem lại kết
quả. Nó có lợi. Mọi người hỏi tôi điều gì sẽ xảy ra bởi việc
chuyển sang mặc quần áo mầu da cam. Tôi nói, “Nếu bạn
nghĩ không có gì sẽ xảy ra, thế thì mặc chúng trong ba tháng
xem sao.”
Họ nói, “Mọi người sẽ cười chúng tôi.”
Tôi nói, “Chắc chắn điều đó sẽ xảy ra. Và nếu bạn có thể
dung thứ tiếng cười của họ trong ba tháng với một tâm trí
bình thản, nhiều điều sẽ xảy ra cho bạn. Đừng bận tâm về
việc cười của người khác... và điều đó sẽ lẩy cò việc bắt đầu
của nhiều thứ.”
Mọi người hỏi tôi, “Điều gì sẽ xảy ra bởi những thay đổi

bên ngoài này? Xin chỉ cho chúng tôi cách biến đổi bên
trong có thể xảy ra.”
Tôi bảo họ, “Bạn không có dũng cảm cho ngay cả biến
đổi bên ngoài, và bạn lại dám nói về biến đổi bên trong sao?
Bạn bắt đầu chết, như nó đã thế, khi chỉ có quần áo bạn phải
bị thay đổi; sẽ rất khó khăn nếu tôi định thay đổi da của bạn.
Và bạn nói về cái bên trong sao?” Nhưng chúng ta đều tinh
ranh trong việc tự lừa dối mình. Và một người đang tự dối
bản thân mình không bao giờ có thể trở thành tôn giáo được.
Nhớ lấy, một người lừa dối người khác có thể trở thành
tôn giáo, nhưng người tự lừa dối mình không bao giờ có thể
trở thành người tôn giáo được bởi vì thế thì không còn cách
nào cho biến đổi.
Một người bạn khác đã hỏi, “Thầy nói các hành vi tốt
không tiêu huỷ các hành vi xấu, thay vì thế chúng bao phủ
lên nhau. Vậy điều không tránh khỏi là phải chịu đựng quả
của hành vi tốt cũng như xấu. Liệu các hành vi tốt và xấu có
cho quả theo cùng trật tự như khi chúng xuất hiện không?
Hay không có thứ tự nào trong việc cho quả? Nếu hành vi
xấu không thể bị phá huỷ bởi hành vi tốt, không thể có bất kì
lí do nào trong việc làm hành vi tốt. Một học thuyết như vậy
có ích lợi cho xã hội không?”
Để chúng ta hiểu điều này. Nếu hành vi tốt không thể
tiêu huỷ được hành vi xấu, điều làm cho người bạn này lo âu
- thế thì tại sao người ta phải làm hành vi tốt? Điều này thực
sự tạo ra mối nguy hiểm lớn cho xã hội.
Tình huống là đối lập lại. Nếu bạn biết rằng hành vi xấu
có thể bị phá huỷ bởi hành vi tốt, bạn sẽ cứ làm hành vi xấu
mà không lo nghĩ gì - vì bất kì lúc nào hành vi tốt cũng có
thể được làm và hành vi xấu được cân bằng. Khi thuốc có
cùng với bạn, sợ bệnh tật có ở đâu nữa? “Chúng ta sẽ đi và
tắm thiêng liêng trong sông Hằng và mọi tội lỗi của chúng ta
sẽ được gột sạch. Chúng ta sẽ nhận được phúc lạc từ thánh
nhân nào đó và mọi hành vi xấu sẽ được chùi đi. Nếu tôi đã
ăn cắp tôi sẽ làm điều từ thiện” - từ cùng đồng tiền đó. Khác
hơn thế tiền sẽ đến từ đâu theo cách nào?
Kẻ cắp lớn sẽ trở thành người cúng tặng lớn. Người đó
sẽ ăn cắp một trăm nghìn ru pi và đem cúng tặng mười nghìn
ru pi. Thế thì không thể có sợ việc ăn cắp nữa, vì bạn có thể
cúng tặng để phá huỷ ảnh hưởng của việc ăn cắp. Bạn có thể
giết ai đó rồi sinh ra trẻ con. Bạn đã lấy đi mạng sống rồi bạn
trả lại một mạng sống.
Thế giới này đã trở nên xấu xa bởi vì bạn nghĩ rằng hành
vi xấu có thể được triệt tiêu bởi hành vi tốt. Khi tôi nói rằng
không có cách nào triệt tiêu hành vi xấu bằng hành vi tốt, thế
thì bạn sẽ phải nghĩ gấp đôi trước khi làm một hành vi xấu.
Mọi hành vi sẽ cho quả của nó, và bạn sẽ phải chịu đựng quả
đó, đấy là điều không tránh khỏi; điều ấy không thể bị triệt
tiêu. Không có cách nào trốn thoát; không hành vi tốt nào,
cúng tặng hay đức hạnh sẽ có ích, không việc hành hương về
con sông Hằng thiêng liêng nào, không thầy, không thượng
đế hay ân huệ sẽ có ích gì. Điều đã được làm, quả của nó sẽ
phải được chịu đựng.
Cho nên vào lúc bạn làm bất kì việc gì bạn phải nghĩ cho
rõ ràng, bởi vì việc làm đang bị đóng xi lại và sẽ không có
cách nào ra khỏi nó. Không phải là bạn sẽ kêu khóc trước
Thượng đế, “Ngài là cứu tinh của những kẻ tội lỗi, và chúng
con là kẻ tội lỗi. Bây giờ ngài làm điều gì đó đi. Nếu ngài
không làm, điều đó sẽ không hại cho chúng con nhiều lắm,
nhưng tên ngài sẽ bị hư hại bởi vì ngài là vị cứu tinh của kẻ
tội lỗi. Và chúng con đã từng phạm tội chỉ vì ngài thôi, vì
chừng nào chúng con không làm điều đó, làm sao ngài còn

có thể là vị cứu tinh của kẻ tội lỗi được? Cho nên bây giờ xin
ngài chứng minh tính cứu tinh của ngài đi.”
Một người đàn bà đến tôi ngày hôm kia. Đang có một
đám đông rất lớn và trong đám đông đó cô ấy bất ngờ nói,
“Xin ban ân huệ cho con!”
Tôi nói, “Tốt.”
Ngày hôm sau cô ấy quay lại và hỏi, “Liệu ân huệ sẽ đến
đúng chứ?” - vì việc ban ân huệ của thánh nhân tốt sẽ đến
thật, và thầy, đã ban ân huệ cho tôi.”
Tôi nói, “Điều này dường như khó đây. Dường như là
bạn đang lôi tôi ra toà án pháp luật nếu chúng không đến
đúng! Ít nhất để tôi có ý tưởng nào đó về mối quan hệ nào
mà bạn muốn ân huệ của tôi đến đúng.”
Cô ấy nói, “Nhưng thầy phải biết rằng bất kì khi nào một
thánh nhân tốt ban ân huệ cho ai đó, việc ban ân huệ quả có
đến đúng.”
Tôi nói với cô ấy, “Có một lối thoát cho tôi trong đó, tức
là ít nhất bạn không lôi được tôi ra toà án. Nếu việc ban ân
không thực hiện cái mà bạn muốn nó đến thực sự, bạn có thể
hiểu rằng tôi không tốt mà cũng không là thánh - và vấn đề
xong. Với cách này bạn tạo ra một đường thoát cho tôi. Bây
giờ tôi thậm chí không muốn biết cái gì là cái bạn muốn từ
ân huệ của tôi. Nếu nó không đến đúng, bạn có thể hiểu rằng
tôi không tốt mà cũng không là thánh, và vấn đề xong.”
Chúng ta gọi điều này là tính tôn giáo! Người đàn bà này
tin cô ấy có tính tôn giáo.
Trong vũ trụ này có một luật, một kỉ luật bên trong mà
chúng ta gọi là rit trong Veda và Lão Tử gọi là Đạo. Không
có ngoại lệ dưới luật đó. Bất kì điều gì bạn làm, bạn sẽ phải
chịu đựng quả của nó. Nếu hiểu biết này đi sâu hơn vào bạn,
bạn sẽ phải thay đổi cách sống và hành động của mình. Nó là
chân lí. Và nếu chân lí này trở nên rõ ràng, nó sẽ tốt cho xã
hội. Bạn đã từng thuyết giảng điều này cho nhau bao nhiêu
lâu rồi nhưng xã hội dường như không thay đổi. Ngược lại,
tội lỗi đang tăng lên, bởi vì chúng ta nhận biết về kẽ hở, rằng
có lối thoát ra. Nếu tôi phạm tội, ngôi nhà tội lỗi không chỉ
có cửa vào mà còn có cả cửa ra nữa. Có thể chui ra được;
nên người ta không cần phải sợ chui vào.
Ý nghĩa của điều tôi vừa nói cho bạn là ở chỗ không có
lối ra, bạn sẽ phải sống với hậu quả. Bạn có thể tự do chỉ sau
khi sống hết hậu quả. Không có cách nào triệt tiêu, việc sống
với hậu quả chính là cách triệt tiêu. Chỉ có một cách gột
sạch, và đó là sống với hậu quả. Không có cách nào khác
thoát khỏi nó.
Điều thứ hai người đó nói là - thế thì cái gì là hợp lí khi
làm hành vi tốt? Rất rõ ràng từ chính bản thân câu hỏi của
người đó là, theo ý kiến người đó, hành vi tốt được thực hiện
chỉ để triệt tiêu hành vi xấu. Người hỏi nói rằng khi tôi nói
không thể nào triệt tiêu được hành vi xấu bằng hành vi tốt,
toàn bộ sự hợp lí của việc làm hành vi tốt bị mất đi, lí do duy
nhất cho việc làm hành vi tốt đã mất. Tâm trí người đó cũng
tin, như rõ ràng từ câu hỏi của người đó, rằng hành vi tốt như
làm từ thiện là có ích chỉ để bù lại cho tội ăn cắp đã phạm
phải. Trong trường hợp này ăn cắp trở thành quan trọng hơn,
việc làm từ thiện là thứ yếu. Nếu không có việc ăn cắp trên
thế giới này làm từ thiện sẽ không thể có được.
Một người được mệnh danh là nhà tư tưởng, Karapatri,
đã viết trong cuốn sách của mình rằng nếu chủ nghĩa xã hội
thành công, tính tôn giáo sẽ sụt giảm - bởi vì nếu không ai
nghèo, bạn trao đồ từ thiện cho ai? Điều đó nghĩa là nghèo

đói phải cứ còn đấy để cho từ thiện là có thể, và không có từ
thiện không có lối vào thiên đường.
Bạn có hiểu nghĩa này không? Nó nghĩa là địa ngục phải
cứ còn đấy và những người ăn xin đói khát, trần trụi trên
đường cũng phải còn đấy... bởi vì nếu không còn người đói
nữa, bạn biết đem thức ăn cho ai? Và nếu không có ai nhận
thức ăn bạn bố thí như một điều thiện, bạn gặp rắc rối; thế thì
làm sao bạn lên được thiên đường?
Cho nên theo bạn, lí do để làm hành vi tốt bị phụ thuộc
vào sự tồn tại của hành vi xấu sao? Điều này sẽ nghĩa là hành
vi tốt được lợi bởi hành vi xấu, có nghĩa là một người tốt là
người đang khai thác người xấu.
Không, sự hợp lí cho việc làm hành vi tốt không phải để
triệt tiêu hiệu quả của hành vi xấu. Hành vi xấu làm nảy sinh
bất hạnh còn hành vi tốt làm nảy sinh hạnh phúc. Hành vi tốt
đem lại hạnh phúc - đấy là sự hợp lí của nó. Người muốn
hạnh phúc làm hành vi tốt. Người nghĩ người đó sẽ đạt tới
hạnh phúc bằng cách làm hành vi xấu là người ngu. Người
đó đang chống lại luật và sẽ phải chịu đau khổ.
Sự hợp lí cho việc làm hành vi tốt là ở quả tốt của chúng,
và hành vi xấu làm nảy sinh quả của chúng. Làm sao tính
hợp lí cho việc làm hành vi tốt nằm ở hành vi xấu được?
Chúng không có quan hệ chút nào.
Hành vi tốt đem lại quả của nó và đấy là hạnh phúc;
hành vi xấu đem lại quả của nó và đó là bất hạnh. Nếu chúng
ta có thể hiểu điều này đúng, và nếu việc hiểu này đi sâu vào
tâm trí, thế thì bất kì ai ham muốn hạnh phúc sẽ phải làm
hành vi tốt, thế thì điều đó sẽ có lợi cho xã hội. Bất kì ai làm
hành vi xấu sẽ phải chịu kết quả khổ. Nếu người đó nghĩ
rằng bằng việc làm những hành vi tốt sau đó có thể xoá đi
hành vi xấu, người đó lầm.
Bạn có thể hiểu điều đó theo cách này. Nếu tôi xúc phạm
bạn, tôi làm tổn thương bạn và làm bạn bất hạnh. Bất hạnh
đó đã xảy ra. Thế rồi về sau tôi xin bạn tha thứ và làm cho
bạn hạnh phúc. Bạn có nghĩ rằng bởi vì cảm giác tốt và hạnh
phúc do bây giờ tôi tạo ra bằng yêu cầu được tha thứ, mà cái
bất hạnh trước đây đã xảy ra có thể được coi như là chưa bao
giờ xảy ra không? Không, nó đã xảy ra rồi; cái bất hạnh đó
mà tôi đã gây ra cho bạn đã xảy ra rồi. Việc băng bó vết
thương này, bây giờ bằng việc đem đến hạnh phúc nào đó,
không làm triệt tiêu được bất hạnh đã xuất hiện trước đây, nó
chỉ đem lại một chút xoa dịu thôi.
Tôi xúc phạm bạn, tôi đã làm hành vi xấu - tôi đã chịu
bất hạnh đến với tôi. Tôi xin được tha thứ, tôi đã làm hành vi
tốt - tôi tận hưởng hạnh phúc đến với nó.
Hành vi xấu dẫn tới bất hạnh, hành vi tốt dẫn tới hạnh
phúc. Càng nhiều hành vi tốt, càng nhiều hạnh phúc phát
triển. Càng nhiều hành vi xấu, càng nhiều bất hạnh phát
triển. Người muốn vẫn còn được hạnh phúc phải dần dần vứt
bỏ các hành vi xấu và liên tục làm hành vi tốt.
Nhưng tôn giáo chẳng liên quan gì tới hạnh phúc cả bởi
vì, thông thường, tránh bất hạnh là ham muốn của mọi
người. Chừng nào bạn còn đầy ham muốn tránh bất hạnh,
bạn là người thường, không phải là người tôn giáo. Cũng vậy
với ham muốn của bạn chỉ về hạnh phúc - đây là sự hợp lí
cho việc làm hành vi tốt. Bạn nên được thôi thúc làm những
hành vi tốt; bạn muốn hạnh phúc, bạn sẽ có nó. Bạn không
muốn bất hạnh; thế thì đừng làm hành vi xấu bởi vì điều đó
đem lại bất hạnh.
Nếu sự không tránh khỏi của một hành vi xấu làm nảy
sinh bất hạnh mà được thấy rõ ràng như tay người ta bị bỏng
khi cho vào lửa, mọi người sẽ dừng việc cho tay vào lửa.

Nếu điều không tránh khỏi của việc trở nên hạnh phúc vì đã
làm hành vi tốt cũng được nhận ra rõ ràng như khi tay người
ta ngát hương nếu cầm hoa, mọi người sẽ làm những hành vi
tốt.
Nhưng tôn giáo chẳng liên quan gì với điều này cả; nó
vẫn đạo đức, nó vẫn ở bình diện của đạo đức trong xã hội.
Nhưng một người kinh nghiệm hạnh phúc dần dần đi tới
nhận ra cái gì đó mới, rằng không chỉ bất hạnh là vô nghĩa
mà cả hạnh phúc cũng vô nghĩa nốt. Trong khi bất hạnh quả
có làm cho người ta bất hạnh, ngay cả hạnh phúc sẵn đấy,
tràn đầy bắt đầu cho bất hạnh. Hạnh phúc quá nhiều là thành
chán. Bất hạnh từ hạnh phúc là cái chán.
Bạn đã bao giờ thấy con vật nào chán chưa - một con lừa
chán hay một con trâu chán? Trừ mỗi con người, không con
vật nào trên trái đất này trở nên chán. Tại sao? Bởi vì cả
ngày của con vật được dành cho việc đáp ứng nhu cầu sống
hàng ngày của nó. Nó không bao giờ có khả năng tích luỹ
được hạnh phúc và thoải mái đến độ nó trở nên chán. Việc
chán chỉ nảy sinh khi có hạnh phúc quá mức.
Đây là lí do tại sao người nghèo không chán - chỉ người
giầu. Nếu bạn nhìn vào khuôn mặt của người giầu nó trông
chán chường, dường như đang tuyên bố rằng không có nghĩa
gì cả, rằng người ta đang kéo lê nhưng không có mục đích gì.
Chân của người nghèo có một loại chuyển động. Người
đó có thể yếu đuối, mệt mỏi và xanh xao, nhưng chuyển
động có đó. Người đó có mục đích nào đó để đạt tới; có hi
vọng trong mắt người đó rằng ngày mai người đó sẽ có nhà,
hay ngày kia người đó sẽ có cửa hiệu, rằng con người đó sẽ
có khả năng hoàn thành giáo dục của nó - người đó có cõi
trời được phóng chiếu vào tương lai. Nhưng những người có
con đã về nhà được giáo dục đúng đắn, biết những điều xảy
ra tiếp theo sau, cách người đó cũng đem lại bất hạnh nữa.
Những người có lâu đài của họ được xây dựng đi tới nhận ra
rằng họ đã trở thành tù nhân.
Khi mọi hạnh phúc được đạt tới lần đầu tiên người ta
nhận ra rằng hạnh phúc nữa cũng lại tạo ra chán. Tâm trí
chúng ta phát chán cả với hạnh phúc nữa. Vậy, Mahavira,
Krishna và Rama tất cả đều được sinh ra là con vua. Không
thể nào trở thành một tirthankara hay một hoá thân của
Thượng đế bằng việc sinh vào nhà người nghèo. Lí do là ở
chỗ không có khả năng nào để bị chán với hạnh phúc.
Tất cả hai mươi bốn tirthankara của người Jaina đều là
con vua. Phật, Rama, Krishna - tất cả đều là con vua. Chính
trong sung túc của cung điện nhà vua mà người ta nhận ra
rằng mọi thứ đều vô nghĩa. Bạn chỉ đi tới nhận ra điều này
nếu bạn đã có mọi thứ bạn muốn; làm sao bạn nhận ra được
điều này từ trước đó? Khi Phật nhận ra rằng không có gì giá
trị trong thân thể đàn bà, đấy là vì bố ông ấy đã tập trung gần
như tất cả mĩ nữ của vương quốc về hậu cung của ông ấy.
Chỉ thế thì ông ấy mới nhận ra rằng không có gì trong họ cả.
Bạn thấy một vật vô giá trị chỉ khi bạn có nhiều về nó.
Đây là lí do tại sao Mĩ là nước chán nhất trên thế giới ngày
nay. Và thanh niên nam nữ Mĩ đang chạy khắp thế giới với
hi vọng rũ bỏ được cái chán chường này. Bằng cách nào
không thành vấn đề - có thể dùng ma tuý từ cây dầu, dùng
thuốc phiện, thuốc chích hay bất kì việc gì - nhưng cái chán
chường phải ra đi.
Khi người ta trở nên chán với hạnh phúc và toàn bộ bản
thể họ tràn ngập với cuộc truy tìm để vượt ra ngoài hạnh
phúc, tôn giáo phát sinh.
Cho nên sự hợp lí của việc làm hành vi tốt có hai mặt:
một, ích lợi của hành vi tốt là hạnh phúc. Cho nên những

người muốn hạnh phúc - và mọi người đều ham muốn, dù họ
là hữu thần hay vô thần, dủ là người Hindu hay người Mô ha
mét giáo, dù người đó là bất kì ai - hợp lí cho việc làm hành
vi tốt là ở chỗ nó đem lại hạnh phúc. Hợp lí thứ hai cho việc
làm hành vi tốt là ở chỗ một khi hạnh phúc đã được đạt tới,
cái vô tích sự của nó cũng được thấy. Và khi hạnh phúc trở
thành vô tích sự, thế thì con người bắt đầu cuộc hành trình
hướng tới tôn giáo.
Cuộc hành trình hướng tới tôn giáo có nghĩa là cách vượt
ra ngoài hạnh phúc nữa. Cuộc hành trình hướng tới thế giới
nghĩa là cách gạt bỏ bất hạnh, và cuộc hành trình hướng tới
niết bàn nghĩa là cách gạt bỏ cả hạnh phúc nữa.
Bây giờ chúng ta vào kinh:
Nghiệp, hành động quá khứ, mang tới quả chỉ khi chúng
ta có cảm giác về cái của tôi đối với thân thể mình. Đừng
bao giờ ham muốn có cảm giác về cái của tôi đối với
thân thể. Vậy, bằng cách từ bỏ cảm giác về cái của tôi
đối với thân thể người ta bỏ được quả của nghiệp quá
khứ.

Hành động dính vào chúng ta chỉ khi chúng ta cảm thấy
rằng thân thể này là ‘của tôi’. Mọi hành động đều dính vào
thân thể, không phải vào chúng ta. Nhưng khi chúng ta níu
bám lấy thân thể mình, hành động cũng tự nhiên níu bám lấy
chúng ta. Hành động níu bám lấy thân thể từ bên ngoài và
chúng ta níu bám lấy thân thể từ bên trong, do vậy chúng ta
trở nên bị kết nối với hành động.
Hành động không thể bám lấy linh hồn, chúng bao giờ
cũng chỉ bám vào thân thể. Cũng tựa như ai đó muốn cắt vật
gì đó bằng dao; dao chỉ có thể cắt vật chất. Nếu bạn muốn
cắt bầu trời bằng dao điều đó là không thể được. Dao sẽ thực
hiện hành động cắt nhưng bầu trời vẫn còn nguyên không hề
bị cắt.
Hiệu quả của hành động, hay kết quả của hành động, hay
con dao của hành động, chỉ có thể cắt được vật chất. Thân
thể là vật chất, tâm trí cũng là vật chất. Vật chất có thể đụng
độ với vật chất. Nhưng tâm thức bên trong bạn, bầu trời
trống rỗng bên trong bạn, không thể bị cắt hay bị chạm tới
bởi bất kì hành động nào. Nhưng một điều có thể xảy ra: nếu
tâm thức bên trong bạn tin thân thể là ‘của tôi’, mà nó tự do
tin điều đó, thế thì mọi đau khổ của thân thể sẽ bắt đầu xảy
ra cho bạn nữa.
Để chúng ta hiểu điều đó như thế này. Tôi đã từng nghe
rằng có lần một ngôi nhà bị cháy. Người chủ ngôi nhà, khi
thấy việc này, bắt đầu khóc một cách cay đắng. Nhưng một
trong những người hàng xóm của ông ấy bảo người đó rằng
ông ấy đã thấy con người đó trong văn phòng bảo hiểm hoả
hoạn hôm qua; ngôi nhà này đã được bảo hiểm cháy. Con
người đó đâu rồi? Người con đã đi ra ngoài làm việc gì đó.
Nhưng trong khi đó người bố hết khóc; bởi vì ngôi nhà đã
được bảo hiểm, không còn lí do gì để khóc nữa.
Nước mắt người đó ráo hoảnh - và ngôi nhà vẫn đang
cháy, vẫn ngôi nhà ấy. Nhưng bởi vì người đó nghĩ rằng nó
đã được bảo hiểm, mối quan hệ của cái ‘của tôi’ đã dịch
chuyển từ ngôi nhà sang tiền bảo hiểm. Nhưng thế rồi đứa
con chạy về thấy cảnh đó và thấy bố mình đang đứng trước
ngôi nhà cháy mà cười to. Người con nói, “Con chắc chắn đã
đến văn phòng bảo hiểm hoả hoạn, nhưng chưa hoàn thành
xong giao dịch.”
Lập tức người đàn ông lại bắt đầu khóc cay đắng, “Tôi bị
phá sản rồi, tôi hết cả rồi!” Ngôi nhà vẫn thế, nhưng điều gì

đã xảy ra ở giữa? Cái của tôi đã bị tách khỏi ngôi nhà và rồi
nó lại gắn vào ngôi nhà lần nữa.
Cảm giác về cái của tôi với thân thể là nguyên nhân của
mọi đau khổ của chúng ta, hay mọi hạnh phúc của chúng ta -
của tất cả quả của nghiệp. Nếu cái của tôi đó bị vứt bỏ đi,
hiệu quả của mọi hành động lên thân thể trở thành không còn
quan hệ gì tới chúng ta nữa.
Kinh này nói rằng việc giữ cảm giác về cái của tôi là
giúp tạo ra quá trình của mọi hành động, là hợp tác với quá
trình này. Khi cảm giác đó về cái của tôi qua đi, khi bạn đi
tới nhận ra rằng bạn là ai - rằng bạn không phải là thân thể -,
thế thì bạn vẫn còn không bận tâm, hệt như cách thức người
này vẫn còn không bận tâm tới ngôi nhà cháy một khi người
đó biết nó không phải là nhà của người đó. Phật và Mahavira
nhận ra rằng thân thể, nhà cửa, không phải là của họ và họ
trở thành không bận tâm với việc cháy của nó. Họ đã đi vào
bên trong. Họ đã đi tới biết người sống trong ngôi nhà. Họ đã
đi tới biết người chắc chắn sống trong ngôi nhà này nhưng
không phải là bản thân ngôi nhà.
Việc biến mất của cái của tôi là sự từ bỏ quả của mọi
hành động quá khứ. Thế thì hành động quá khứ không còn
hậu quả nữa, việc từ bỏ đã xảy ra.
Lừa dối này về việc thân thể là bản thân mình là nguyên
nhân tạo ra trong trí tưởng tượng ý tưởng về hành động
quá khứ. Nhưng làm sao cái gì đó có thể đúng mà bị áp
đặt hay bị tưởng tượng về lừa dối?

Tất cả những điều đó đều bị áp đặt, tưởng tượng; nó chỉ
dường như nó là của bạn. Có con của bạn - bạn đang làm
mọi thứ trong quyền lực của mình để dạy dỗ nó. Bạn thậm
chí còn sẵn sàng từ bỏ cuộc đời mình vì đứa con. Và thế rồi
một hôm bỗng nhiên bạn tìm thấy một bức thư ẩn trong một
cuốn sách cũ qua đó bạn biết rằng vợ bạn có dan díu với một
người khác. Bây giờ điều này tạo ra hoài nghi là liệu đứa con
có đúng là của bạn hay không phải là của bạn, và mọi thứ rối
tinh lên.
Người bố bao giờ cũng còn đôi chút hoài nghi, bởi vì
người bố là một hiện tượng rất không liên quan tới việc sinh
ra đứa con - không quan trọng lắm. Người bố không quan
trọng nhiều hơn một mũi tiêm. Chỉ người mẹ biết chắc chắn
rằng đứa con là của cô ấy; người bố bao giờ cũng có sự hoài
nghi ẩn kín, rằng mình không phải là người bố. Chính là để
gạt bỏ cái cảm giác hoài nghi đó mà chúng ta đã tạo ra một
hệ thống hôn nhân chặt chẽ sao cho mọi câu hỏi hoài nghi đó
không nảy sinh ra, bằng không nó sẽ gây ra rắc rối cho cả
đời người ta. Nếu người ta vẫn còn hoài nghi liệu trẻ con mà
người ta phải lao động vất vả để nuôi dưỡng dạy dỗ chúng có
phải đúng là con mình hay không, sẽ có hỗn độn lớn trong
cuộc đời. Đây là lí do tại sao một bộ luật hôn nhân gia đình
rất chặt chẽ đã được thảo ra, và mọi chuyển động của người
phụ nữ đều bị tước đi để cho họ không vào tiếp xúc với
người đàn ông khác. Nếu việc tiếp xúc bị ngăn cản, thế thì
không còn sợ nữa.
Đây cũng là lí do tại sao có nhiều ồn ảo về trinh bạch của
con gái - rằng hôn nhân phải chỉ với gái trinh. Và đây cũng
là lí do tại sao những người cực kì lo nghĩ về những vấn đề
như vậy bắt đầu tảo hôn, để cho đơn giản không còn cách
nào cho bất kì sợ hãi nào: "Điều chắc chắn là đứa trẻ là con
tôi."
Nếu đứa trẻ là của tôi, cái của tôi ấy dễ dàng được phóng
chiếu lên; nếu có bất kì hoài nghi nào, việc phóng chiếu trở

thành khó khăn. Bất kì chỗ nào có phóng chiếu của cái ‘của
tôi’, tôi lại trở nên được đồng nhất và bây giờ tôi có thể làm
mọi thứ vì nó, thậm chí phải chịu đựng đau đớn vì nó. Khi
việc phóng chiếu của cái ‘của tôi’ dịch ra xa, tôi trở thành
không bị đồng nhất, được tách ra khỏi nó.
Tất cả cảm giác này về cái ‘của tôi’ chỉ là phóng chiếu.
Trong thế giới này không có cái gì là ‘của tôi’ cả. Ngay cả
thân thể tôi cũng không phải là ‘của tôi’. Cái đó nữa cũng tới
từ bố mẹ - và cái của bố mẹ cũng không phải là của họ nốt,
họ đã nhận được từ bố mẹ họ. Nếu chúng ta đi sâu hơn trong
việc tìm kiếm, nguyên tử tí hon, mà từ đó thân thể chúng ta
được tạo ra, đã có cuộc hành trình hàng tỉ và nghìn tỉ năm
phía sau nó. Xương không phải của bạn mà thịt không phải
của bạn mà tuỷ cũng không phải của bạn - không một thứ
nào trong những cái này là của bạn cả, cả tâm trí cũng không
phải của bạn. Chỉ có bạn là của bạn. Nhưng bạn không có ý
niệm mơ hồ nào về cái ‘bạn’ đó.
Ai là cái bên trong tôi, cái mà tôi gọi là ‘của tôi’ hay ‘tôi’
vậy? Nếu bạn cứ vứt bỏ ý tưởng của mình về cái ‘của tôi’,
vứt nó đi, khử nó đi - Upanishad gọi là quá trình neti, neti:
“Tôi không là cái này, tôi không là cái kia”... cứ làm việc
này, phá vỡ mọi loại cái của tôi, thế thì bỗng nhiên một hôm
bạn sẽ kinh nghiệm, hệt như ngọn lửa đèn có thể bừng lên
trong bóng tối, bạn là ai.
Khi thoát khỏi cái của tôi, cái ta được kinh nghiệm. Bởi
việc tăng sự mở rộng cái của tôi, cảm giác về cái ta cứ giảm
đi. Cho nên cái của tôi càng bành trướng lớn hơn, kinh
nghiệm về cái ta càng nhỏ đi.
Đây là lí do tại sao Phật và Mahavira chạy trốn khỏi gia
đình và nhà cửa của họ. Rắc rối không phải là ở nhà cửa - họ
có cả vương quốc mở rộng, họ có nhiều thứ có thể gọi là của
tôi, nhưng việc mở rộng của cái của tôi bao la đến mức cái ta
của họ bị mất tăm mất tích; họ không thể tìm ra dấu vết, “Ta
là ai?” Cho nên họ chạy xa khỏi toàn bộ vương quốc của cái
của tôi.
Mahavira đã thực hiện nỗ lực cuối cùng theo cách chạy
đi này. Ông ấy thậm chí còn vứt bỏ cả quần áo và trở nên
trần truồng để cho ông ấy không còn gì gọi là của ông ấy
nữa; bây giờ thậm chí không quần áo của ông ấy là 'của tôi'.
Và tại sao? Bởi vì chỉ một lí do - rằng trong sự bành
trướng bao la của cái ‘của tôi’, cái ta không được kinh
nghiệm và không được cảm thấy chút nào, và nếu tôi trốn
chạy khỏi nó và chỉ còn lại một mình toàn bộ, có lẽ tôi có thể
biết được tôi là ai.
Dễ dàng biết được cái ta khi bạn phá vỡ khỏi mọi thứ
bạn gọi là ‘của tôi’. Nó cứ trở thành khó khăn hơn cho bạn
để biết được cái ta khi bạn thêm nhiều cái bạn gọi là ‘của
tôi’. Cho nên bạn tích luỹ càng nhiều thứ, việc sở hữu càng
tăng thêm, sự bành trướng của chúng càng nhiều, trung tâm
của cái ta cứ càng biến đi, bị che phủ đi.
Toàn bộ mạng lưới của cái của tôi là tưởng tượng. Cái ta
là chân lí, cái 'của tôi’ là phi chân lí.
Từ đâu một vật có thể được sinh ra mà ngay chỗ đầu tiên
nó là không thực? Cái không sinh, làm sao có thể bị
diệt? Làm sao một vật không thật có thể có hành động
quá khứ?

Những điều rất gợi suy nghĩ đã được nói trong kinh này.
Cái không thực... cái không tồn tại. Từ đâu mà cảm giác về
cái ‘của tôi’ được sinh ra? Khi nào nó được sinh ra? Làm sao
nó sẽ đi đến kết thúc? Đó là vấn đề khó khăn, bởi vì chúng ta

cảm thấy rằng khi có cái ‘của tôi’ này, nó đã phải được sinh
ra ở đâu đó, bằng không, làm sao nó có thể có đó? Và nếu
cái gì đó là của tôi, nó cũng phải chết đi một lúc nào đó,
bằng không, làm sao tôi sẽ được tự do khỏi nó?
Để hiểu điều này, chúng ta sẽ phải quay ngược lại phân
loại của cái ‘gần đúng’ mà tôi đã thảo thuận với bạn trước
đây. Hiểu điều này thêm một lần nữa.
Có một dây thừng; nó dường như là con rắn. Thế rồi bạn
đến gần hơn nhìn và phát hiện ra đấy chỉ là dây thừng, không
phải rắn. Bây giờ vấn đề là ở chỗ, vì dây thừng đã được nhìn
như rắn, rắn chắc chắn được sinh ra từ dây thừng - không thì
làm sao nó được thấy tại đó? Nhưng chúng ta biết không có
rắn nào được sinh ra ở đó cả. Làm sao cái gì đó không có đó,
cái giả, được sinh ra? Sau hết, khi bạn lại gần với ngọn đèn
sáng, bạn có thể thấy rõ ràng rằng không có rắn. Cho nên con
rắn chết, nhưng đâu là cái xác chết của con rắn đó?
Điều được thấy nhưng thực ra không có đó, không có
sinh không có chết, nó chỉ là ảo tưởng. Nhưng ảo tưởng có
thể xảy ra, quả có xảy ra. Ảo tượng là phóng chiếu. Trong
dây thừng đó không rắn nào đã bao giờ được sinh ra; tâm trí
riêng của bạn đã phóng chiếu con rắn lên sợi dây thừng và
bạn đã có khả năng thấy nó.
Khi bạn ngồi trong rạp chiếu bóng bạn không bao giờ
quay xung quanh để nhìn bất kì cái gì đằng sau bạn. Thực ra
không có gì ở đó để xem. Mọi thứ được thấy đều trên màn
ảnh phía trước bạn. Luồng mầu sắc, hình dạng, bài hát và âm
nhạc tất cả đều trên màn ảnh phía trước. Nhưng sự kiện thú
vị là ở chỗ thực ra không có gì trên màn ảnh cả; màn ảnh
trống rỗng, chỉ các tia sáng chiếu ánh sáng và bóng trên màn
ảnh. Màn ảnh bản thân nó trống rỗng, mọi thứ ở sau lưng bạn
nơi để máy chiếu.
Từ phóng chiếu này rất hay. Đấy là việc dịch sang tiếng
Anh của từ tiếng Phạn kalpit hay prakshepit, nghĩa là tưởng
tượng hay phóng chiếu.
Máy chiếu được đặt đằng sau bạn. Từ đó mọi thứ được
phóng chiếu lên màn ảnh, và chúng ta thấy chúng trên màn
ảnh nơi thực ra chúng không có. Và bạn không nhìn vào nơi
chúng có, bạn quay lưng lại chúng.
Bạn thấy con rắn trong dây thừng, nhưng dây thừng chỉ
vận hành như màn ảnh; chính tâm trí bạn phóng chiếu hình
ảnh của con rắn lên sợi dây. Và thế rồi bạn chạy trốn khỏi
con rắn đó.
Khi phim ba chiều lần đầu tiên được tạo ra, nhiều điều
rất thú vị đã xảy ra trên khắp thế giới. Tại London, trong một
trong những buổi chiếu phim ba chiều đầu tiên, có chiếu một
người cưỡi ngựa đang phi lên trước và thế rồi người đó vung
chiếc giáo dài ra. Phim ba chiều cho thấy mọi vật dưới dạng
y như thật. Nếu đấy là ngựa, nó xuất hiện tự nhiên như con
ngựa thật - tất cả dưới dạng ba chiều.
Con ngựa lao lên phía trước, tiếng vó nó trở nên to dần
và thế rồi kị sĩ vung chiếc giáo ra... Tất cả khán giả đều rạp
đầu và nghiêng sang một bên trong nỗ lực tránh mũi giáo lao
tới gần và nhường đường cho nó. Những tiếng kêu rú sợ hãi
được nghe thấy và vài phụ nữ bị ngất xỉu.
Điều gì đã xảy ra? Thực ra không có giáo nào cả. Nhưng
trên màn ảnh nó dường như thật thế. Vì hình ảnh ba chiều,
dường như là giáo sẽ xuyên vào họ. Trong khoảng khắc đó
việc cúi mình theo bản năng xảy ra, bởi vì tâm trí không biết
liệu giáo là thật hay không thật. Nó chỉ dường như là thật,
nhưng nó không thật. Đầu rạp sang bên theo thói quen bản
năng, để cứu bản thân họ khỏi bị thương. Điều này xảy ra
trong thoáng chốc - người ta không cần thời gian để suy

nghĩ. Sau đó người ta sẽ cười chính mình: “Mình phải trông
như thằng điên!” Nhưng điều đó đã xảy ra.
Khi vị phật trở nên chứng ngộ, ông ta cũng cười vào cái
điên khùng trước đây của mình.
Có một câu chuyện về Rinzai. Khi ông ấy trở nên chứng
ngộ ông ấy bắt đầu cười to khoái trá. Khi các đệ tử của ông
ấy hỏi ông ấy tại sao ông ấy cười to thế, ông ấy đáp rằng ông
ấy đã trở nên chứng ngộ. Các đệ tử ngạc nhiên hỏi, “Chứng
ngộ sao? Chúng tôi chưa bao giờ nghe nói rằng một người
cười to như thế này khi người đó chứng ngộ. Tại sao thầy
cười?”
Rinzai cười lăn lộn rung lên bần bật và cố gắng nói việc
ông ấy đã xuẩn ngốc thế nào trước đây - và điều đó nữa cũng
vô nghĩa. Không có gì cả. Điều ông ấy đã từng nắm giữ
không có đó, và điều ông ấy đã từng cố gắng từ bỏ cũng
không có nốt. Một mình ông ấy có đó. Dường như là ông ấy
đã từng ôm giữ cái gì đó và ông ấy đã bắt tay riêng của mình.
Đôi khi điều xảy ra vào ban đêm là tay bạn để lên ngực
mình và bạn bắt đầu mơ rằng ai đó đang ngồi lên ngực bạn
bằng vũ lực, và khi bạn thức dậy và mở mắt ra, bạn run rẩy
và toát mồ hôi hột từ cơn ác mộng này.
Tay bạn đã để trên ngực và chính sức nặng của chúng đã
tạo ra giấc mơ này. Trong khi ngủ mọi giác quan trở nên rất
nhạy cảm, do đó một chút ít trọng lượng cũng cảm thấy rất
nặng. Tay của riêng người ta... và điều ấy dường như có ai
đó ngồi lên trên ngực bạn.
Đôi khi bạn có thể thử điều đó. Khi ai đó trong nhà bạn
đang ngủ, cọ nhẹ một cục nước đá vào lòng bàn chân họ.
Không mấy chốc họ sẽ bắt đầu có giấc mơ, đôi khi tựa như
trèo lên núi phủ tuyết và bị đông cứng. Nó rất, rất lạnh... một
khủng hoảng thực sự sẽ bắt đầu với người đó. Hay đem ngọn
lửa của ngọn đèn cháy lại gần lòng bàn chân và người đó sẽ
bắt đầu mơ về địa ngục: ngọn lửa hoang dại, vạc dầu sôi lớn,
rồi người đó bị nhấc ra rồi lại ném vào đó.
Điều gì đang xảy ra bên trong? Tâm trí đã có khái niệm
và ý tưởng của nó: thậm chí hơi chút hướng dẫn và nó bắt
đầu phóng chiếu chúng... giống như bất kì màn ảnh nào và
máy chiếu của bạn được bật lên.
Ngay cả khi chúng ta đang thức, điều chúng ta làm là
cùng một thứ. Khi ai đó trở nên thực sự thức tỉnh - không
phải trạng thái thức của chúng ta, mà là thức tỉnh của vị phật
hay của người thấy của Upanishad - người đó cười, và cái
cười đó là bởi vì người đó hiểu ra người đó đã từng ngu xuẩn
làm sao. Người đó đã từng thấy điều chưa bao giờ có đó.
Người đó đã từng níu bám vào cái gì đó mà chưa bao giờ có
đó. Người đó đã từng cố gắng từ bỏ cái chưa bao giờ có đó.
Và toàn thể trò chơi này là bịa đặt riêng của người đó. Đấy
chỉ là người đó - tâm trí người đó - từ mọi phía. Nếu bạn
phân tích đúng bất kì biến cố nào của cuộc đời bạn, bạn sẽ đi
tới kinh nghiệm chân lí của điều tôi đang nói. Nếu bạn không
phân tích, các hoạt động của tâm trí bạn vẫn tiếp tục sau lưng
bạn; thế giới vẫn còn như màn ảnh và toàn thể trò chơi vẫn
tiếp diễn - cái thấy được trên màn ảnh.
Không, ảo tưởng này không sinh mà cũng không chết.
Cái sai không sinh nó cũng không chết.
Cái của tôi đối với thân thể là kết quả của dốt nát của
chúng ta và nó bị phá huỷ toàn bộ bởi chứng ngộ. Thế thì
làm sao thân thể còn lại? Chính để thoả mãn cho hoài
nghi này của dốt nát mà kinh sách đã cho tính liên tục
của thân thể là do hành động quá khứ từ bên ngoài.

Đây là vấn đề rất khó. Và điều tôi đã nói cho bạn hai hay
ba ngày trước đây sẽ làm phức tạp vấn đề thậm chí nhiều
hơn cho bạn. Tôi đã nói với bạn rằng Phật phải nói dối,
Mahavira phải nói dối, bởi vì bạn, bởi vì bạn chỉ hiểu ngôn
ngữ của nói dối, bạn không hiểu ngôn ngữ khác.
Kinh này nói rằng thực ra không có thân thể không có
hành động quá khứ. Thực ra chân lí không chứa thân thể lẫn
hành động quá khứ trong nó, không hành vi tốt, không hành
vi xấu trong nó, không hạnh phúc không khổ đau trong nó.
Thực ra, thế giới không có.
Đây là thực tại, nhưng nó không thể được nói ra. Kinh
này nói rằng nó không thể được nói cho người dốt nát. Nếu
bạn bảo người dốt nát rằng bạn không là thân thể, họ sẽ nói,
“Cút ngay! Tâm trí anh có bình thường không đấy? Đi mà
uống thuốc cho tâm trí anh đi!”
Nếu bạn nói với người dốt nát rằng không có thế giới, họ
sẽ cho bạn vào nhà thương điên.
Người chứng ngộ giữa những người dốt nát là trong
cùng tình huống như người có mắt trong xứ người mù. Nếu
người đó nói có ánh sáng chói, mọi người mù sẽ cười người
đó. Họ sẽ nói, “Anh đang nói gì thế? Tâm trí anh có bình
thường không đấy? Ánh sáng là gì?” Người đó nói, “Tôi
đang thấy ánh sáng,” còn người mù lại cười và hỏi người đó
định ngụ ý gì về việc thấy. Họ chưa bao giờ nghe nói về cái
vật như việc thấy. Có cái vật như việc thấy không? Một vật
như việc thấy ấy chưa bao giờ xảy ra cho bố mẹ họ, cho ông
bà họ; chắc chắn người có mắt này mất trí rồi.
Bạn có hiểu hoàn cảnh của người có mắt trong xứ mù sẽ
như thế nào không? Nếu người đó còn chút thông minh nào,
người đó sẽ thậm chí không phạm sai lầm nói về những điều
mà người mù không thể thấy được. Và nếu người đó muốn
đem người mù sang đường của người sáng, người đó sẽ phải
tạo ra và dùng nhiều phương cách. Sẽ không tốt cho người
đó để nói trực tiếp với họ, “Tôi có mắt còn anh mù, và tôi
đang định chữa trị mắt anh. Điều anh nghĩ là sai; có cái gì đó
khác mà chỉ được thấy khi mắt mở - anh đang sống trong
một loại sai lầm.”
Nếu một việc như vậy được tiến hành, thay vì việc chữa
trị của người đó cho mắt của họ, người mù sẽ mưu đồ để
chữa mắt cho người đó. Điều này đã xảy ra nhiều lần. Chúng
ta đóng đinh Jesus, chúng ta chặt Mansoor thành nhiều
mảnh, chúng ta đầu độc Socrates. Lí do duy nhất tại sao điều
này được thực hiện là ở chỗ những người này bắt đầu nói
chân lí một cách trực tiếp nhưng họ đã không được hiểu. Nếu
chúng ta theo điều họ nói, chúng ta không thể tồn tại được
theo cách của chúng ta. Cho nên chúng ta cũng không nhầm
lẫn.
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng ở Ấn Độ chúng ta không
đóng đinh Phật hay Mahavira hay Ramakrishna nào. Jesus bị
đóng đinh ở Jerusalem. Mansoor bị người Mô ha mét giáo
giết. Socrates bị người Hi lạp đầu độc. Trên đất nước này
chúng ta không giết người, không đóng đinh hay đầu độc hay
treo bất kì Phật, bất kì Mahavira, bất kì Krishna nào.
Bạn có biết lí do không? Lí do thật đáng ngạc nhiên. Lí
do là ở chỗ Krishna, Phật và Mahavira thạo hơn Jesus và
Socrates trong việc nói với người mù. Đây là lí do duy nhất -
rằng họ thạo hơn. Và cũng có lí do cho cái thạo này. Trong
hàng nghìn, hàng nghìn năm ở đất nước này, Phật và
Mahavira đã nói với người mù, cho nên họ đã phát triển
những phương pháp và phương cách cho nó.

Jesus đã trong khó khăn lớn. Toàn bộ giáo huấn của
Jesus xảy ra ở Ấn Độ: ông ấy không có ý niệm mơ hồ nào về
điều ông ấy bước vào khi quay về từ đây. Khi ông ấy quay
về và bắt đầu nói ở Jerusalem, không có chỗ cho ông ấy
trong những tín ngưỡng ở đó. Jesus dường như là một người
hoàn toàn xa lạ; điều ông ấy nói dường như điên khùng.
Trong kinh Cựu Ước có nói rằng nếu ai đó móc một mắt
bạn, bạn móc cả hai mắt người đó. Đây là ngôn ngữ của kẻ
mù. Và Jesus tới đó bắt đầu nói theo ngôn ngữ của người có
mắt - hoàn toàn bất chợt, không xuất xứ, không cầu nối ở
giữa. Ông ấy nói, “Nếu ai đó tát vào má trái ông, chìa má
phải của ông ra cho họ tát; nếu ai đó lấy áo khoác của ông,
cho người đó cả áo sơ mi nữa; nếu ai đó yêu cầu ông mang
hộ hành lí đi một dặm, mang hộ đi hai dặm - có thể vì xấu hổ
mà người đó chỉ yêu cầu ông mang có một dặm thôi.”
Ngôn ngữ này của người có mắt hoàn toàn vượt ra ngoài
hiểu biết ở nơi mà qui tắc là trả lời cho hòn gạch bằng hòn
đá. Thực tại, Jesus đã phạm một sai lầm bởi việc nói thẳng
và trực tiếp về kinh nghiệm của người có mắt cho người mù.
Phật và Mahavira còn thạo hơn. Và không thể có gì so
sánh được với họ khi có liên quan tới nghệ thuật phát minh
‘gần như chân lí’. Và đây là điều mà kinh này của Upanishad
đang nói, rất rõ ràng. Nó nói rằng bạn không phải là thân thể
lẫn không hề có bất kì hành động quá khứ nào, nhưng để
thoả mãn cho những người dốt nát, việc nhắc tới thân và
hành động quá khứ được thực hiện bề ngoài và hời hợt. Thực
ra, không có thân lẫn hành động quá khứ.
Bây giờ điều này là rất khó. Tất cả các kinh sách có đến
chín mươi chín phần trăm là không đúng. Điều này phải là
như vậy là vì người mù, để giải thích mọi thứ cho họ. Bằng
không họ không hiểu gì và họ sẽ chỉ bị lẫn lộn thêm nếu
chân lí được nói trực tiếp ra.
Cũng giống như khi chúng ta dạy trẻ con bảng chữ
chúng ta cho chúng lặp lại ‘g’, là god (thượng đế). Chữ ‘g’
không chỉ độc tôn cho thượng đế; ‘g’ cũng có thể thay cho
goad (con dê). Nhưng vì rằng Ấn Độ đã trải qua trần tục hoá,
tôi nghe nói ‘g’ viết tắt cho dê trong sách học trò. Khi tôi là
sinh viên thì g viết tắt cho thượng đế... dê là con vật trần tục
hơn. Thượng đế thuộc về tôn giáo nào đó, dê thì không; điều
đó được tìm thấy trong mọi tôn giáo. Kĩ thuật này về nhấn
mạnh ‘g’ trong tâm trí trẻ con với sự trợ giúp của bức tranh
con dê là tốt, nhưng nếu trẻ con bị mắc kẹt với nó và bao giờ
cũng thốt ra từ dê bất kì khi nào đọc ‘g’, điều đó sẽ tạo ra
vấn đề.
Bức tranh về con dê chỉ là trợ giúp để hiểu cái gì đó
thâm thuý hơn tựa như chữ ‘g’. Bởi vì trẻ con có thể hiểu
‘dê’ dễ dàng nhưng không hiểu chữ ‘g’ cho nên bức tranh về
con dê được gắn với ‘g’. Bức tranh con dê chỉ là biểu tượng.
Sau một thời gian nào đó biểu tượng sẽ qua đi, bức tranh sẽ
qua đi; đứa trẻ sẽ bắt đầu đọc chữ ‘g’ trực tiếp.
Vậy, nếu phải làm cho người dốt nát hiểu được, lúc ban
đầu phải nói với họ theo ngôn ngữ họ hiểu. Phải bảo cho họ,
“Đây là hạnh phúc, kia là khổ đau. Nếu bạn muốn hạnh
phúc, làm hành vi tốt; nếu bạn muốn khổ đau, phải làm hành
vi xấu. Cho dù bạn không muốn khổ đau, hành vi xấu vẫn cứ
đem nó tới. Nếu bạn vượt lên trên cả hai, bạn sẽ không thu
về quả nào nữa. Và khi bạn đã không thu về quả nào, bạn
được giải thoát.”
Trong toàn bộ vấn đề này chúng ta xử lí với một giả định
rằng mọi thứ đều thực. Nhưng khi một người trở nên thức
tỉnh, khi người đó ý thức hoàn toàn, khi người đó không
đồng nhất bản thân mình với thân thể nữa và dốt nát của

người đó bị phá huỷ, người đó không thể đừng mà không
cười được. Người đó thấy rằng tất cả cái bị bỏ lại sau đều
không thực, mà chỉ là một giấc mơ lớn. Và các phương pháp
cùng phương cách đã được trao cho người đó cũng làc mơ
trong mơ mà thôi.
Sẽ dễ dàng hơn để hiểu điều đó theo cách này.
Ramakrishna là người sùng kính nữ thần mẹ Kali, và ông ấy
cũng rất khiêm tốn. Nếu bất kì ai muốn dạy cho ông ấy con
đường nào đó khác hơn con đường của sùng kính, ông ấy
đều sẵn sàng học và đi theo.
Một lần một thầy vedantin tên là Totapuri đến thăm ông
ấy. Ông ta bắt đầu hỏi Ramakrishna về cái nông cạn của việc
nhảy và tụng, ca các bài ca sùng kính. Chả ích lợi gì, ông ta
nói. Nếu Ramakrishna thực sự muốn biết về điều tối thượng,
ông ấy nên tìm kiếm cái một tuyệt đối. Nhị nguyên này của
người sùng kính và vị thần của ông ấy là không đúng.
Ramakrishna là một người rất khiêm tốn và duy nhất.
Ông ấy lập tức cúi đầu dưới chân Totapuri và yêu cầu ông
này dạy cho con đường bất nhị. Thế là Totapuri dạy cho ông
ấy cách ngồi thiền. Ramakrishna ngồi với đôi mắt nhắm
nghiền và không mấy chốc ông ấy cảm thấy rất phúc lạc.
Totapuri hỏi ông ấy điều gì đã xảy ra. Ông ấy nói ông ấy đã
thấy nữ thần mẹ. Totapuri không chấp nhận điều này là thất
bại. Ông ta nói rằng nếu Ramakrishna mà thấy nữ thần Kali,
cái gì có đó mà vui vẻ quá đỗi về điều đó vậy? “Tất cả những
điều này là tưởng tượng - mẹ này rồi nữ thần này - tất cả điều
này chỉ là phóng chiếu riêng của ông thôi.”
Ramakrishna nói, “Có thể là như thế, nhưng điều ấy thật
là phúc lạc mênh mông.” Totapuri nói rằng nếu Ramakrishna
muốn còn được thoả mãn với phúc lạc này, ông ấy sẽ không
bao giờ biết tới phúc lạc tối thượng cả. Thế rồi Ramakrishna
hỏi xem ông ấy phải làm gì. Totapuri gợi ý rằng có một
phương pháp: “Khi ông bắt đầu thấy Kali, ngay lập tức lấy
kiếm và chặt bà ta ra làm hai mảnh.” Ramakrishna hỏi ông
ấy lấy đâu ra kiếm.
Điều tự nhiên là hỏi xem người ta đột nhiên lấy đâu ra
kiếm ở bên trong. Cho dù có một chiếc kiếm đó, thực tế nó
nó nằm bên ngoài, làm sao có thể cầm nó bên trong để giết
Kali khi ông ấy trông thấy nữ thần? Totapuri nói rằng tâm trí
đã tạo ra Kali bên trong cũng có thể tạo ra kiếm: “Khi ông đã
thành công trong việc tạo ra Kali bên trong ông, không lẽ
ông không có khả năng tạo ra một vật nhỏ bé như chiếc kiếm
hay sao?”
Đây là kĩ thuật mơ trong mơ. Bạn có hiểu tôi không?
Kali nữa cũng là tưởng tượng bên trong. Một giấc mơ cực
lạc, nhưng tưởng tượng. Nó là phóng chiếu tinh thần riêng
của người ta, nó là cảm giác riêng của người ta đã lấy hình
dạng; nó là ước muốn riêng của người ta, mầu sắc riêng của
người ta mà người ta đã trải ra bên trong. Kali đang đứng
bên trong ông ấy và Ramakrishna phủ phục dưới chân bà
cũng là bên trong bản thân ông ấy... điều đủ thú vị là tất cả
những cái đó chỉ là cảm giác tưởng tượng riêng của
Ramakrishna.
Cho nên Totapuri hỏi ngay ông ấy, “Chiếc kiếm có phải
được lấy từ bên ngoài khi ông đã đưa Kali vào bên trong
không? Khi ông đã tạo ra được Kali ở bên trong ông, ông
cũng có thể tạo ra được kiếm bên trong. Và ông dường như
rất thạo về việc đó. Khi ông trở nên cực lạc thế khi thấy Kali
bên trong ông, điều đó chỉ có nghĩa là ông đã tạo ra một Kali
rất chắc chắn bên trong, chắc đến độ ông không hoài nghi
chút nào về việc bà ấy là thực. Vậy tạo ra một thứ nữa đi -
chiếc kiếm!”

Ramakrishna trở nên rất buồn: “Làm sao điều này xảy ra
được, làm sao bản thân mình giết mẹ Kali?”
Totapuri nói, “Nếu kiếm không thể giết Kali, chúng ta sẽ
nghĩ về cái gì đó khác, nhưng ít nhất hãy cố gắng đi.”
Ramakrishna lại tự hỏi làm sao ông ấy có thể xoay xở
chém được Kali. Totapuri bèn đe doạ bỏ đi. “Ông phải chấp
nhận học theo con đường của Vedanta, bất nhị; ông phải thu
lấy thêm nhiều dũng cảm hơn. Khóc như trẻ con phỏng có
ích gì?”
Totapuri đem một mảnh thuỷ tinh lại và yêu cầu
Ramakrishna ngồi thiền. Ông ấy nói, “Khi ta cảm thấy rằng
ông đã bắt đầu thấy được Kali bên trong, để cho ông khỏi
quên - vì như bị thôi miên khi ông đã trở thành cùng với bà
ấy ông sẽ quên không dùng kiếm... Cho dù ông nhớ, dường
như là ôn g sẽ không có đủ dũng cảm để vung kiếm lên. Ông
dường như tràn ngập tình yêu với bà ấy: làm sao ông cầm
được kiếm lên? Ta hiểu sự khó khăn cho ông, gần giống như
một người mẹ phải chặt con mình ra. Cho nên ta sẽ trợ giúp
cho ông, đừng lo.
“Khi ta cảm thấy rằng ông đã bắt đầu thấy Kali bên
trong, ta sẽ dùng mảnh thuỷ tinh này cứa một vết thương sâu
vào vị trí con mắt thứ ba của ông. Ngay khi ông cảm thấy vết
cắt và máu bắt đầu chảy ra và ông cảm thấy đau - và ta sẽ
tiếp tục cứa bằng mảnh thuỷ tinh này - ngay khoảnh khắc đó
ông cũng phải thu hết dũng cảm và vung kiếm, chặt Kali
thành hai mảnh.”
Điều ấy là phải. Nếu vết cắt được tạo ra ở vị trí con mắt
thứ ba bằng mảnh thuỷ tinh từ bên ngoài - vì chính là qua
con mắt thứ ba mà người ta thấy linh ảnh của Kali hay Rama
hay Krishna hay đó có thể là bất kì ai khác - và đồng thời
người ta thu lấy dũng cảm, thế thì với kinh nghiệm này của
việc cắt vào con mắt thứ ba, bất kì hình ảnh bên trong dù nó
là gì, cũng tan thành từng mảnh.
Ramakrishna đã thu lấy dũng cảm, và hình ảnh bên trong
tan thành từng mảnh. Ramakrishna, sau khi ra khỏi kinh
nghiệm của mình, nói, “Rào chắn cuối cùng đã sụp đổ.”
Nhưng đây tất cả là phương cách. Điều tôi đang giải
thích là ở chỗ Kali một điều không thật bên trong và kiếm là
một thứ không thật khác bên trong - nhưng một thứ không
thật chém vào một thứ không thật khác.
Tất cả những người thấy của Upanishad đều đưa ra
những phương cách để cắt bỏ cái không có, bởi vì chúng ta
duy trì niềm tin vào cái thực ra là không có, cứ dường như là
nó có. Cho nên một số phương cách đã được trao cho chúng
để có thể cắt bỏ cái không tồn tại. Bệnh giả đòi hỏi phương
thuốc giả. Toàn bộ thế giới tâm lí của chúng ta là giả - đây là
lí do tại sao phải cần tới nhiều phương cách. Và bởi chính lí
do đó mà mọi phương cách đều có hiệu quả... bất kì phương
cách nào, với giả định bạn có được mẹo về nó.
Có mơ bên trong mơ: mơ phải giết mơ, không có cách
nào khác. Chân lí thì không bị giết bằng chân lí - điều đó là
không thể được. Phi chân lí cũng không thể bị giết bằng chân
lí - điều đó nữa cũng không thể được, bởi vì chân lí và phi
chân lí không bao giờ có thể gặp được nhau ở bất kì đâu cho
nên làm sao cái nọ có thể giết được cái kia? Chỉ có phi chân
lí giết phi chân lí. Phi chân lí nọ giết phi chân lí kia, và khi
cả hai đều ngã xuống, cái còn lại là chân lí.
Hiểu điều ấy theo cách này: chân bạn bị gai đâm. Bạn
nhặt một chiếc gai khác trên đất và dùng nó để khều chiếc
gai trong chân ra. Xong rồi bạn vứt cả hai đi.
Cho nên kinh này đang nói, bạn không là thân thể, không

có nghiệp, hành động, không nghiệp tích luỹ, hành động quá
khứ - thực ra không có thế giới này. Tuy nhiên nó không yêu
cầu bạn phải tin vào điều đó, bởi vì nếu làm như thế bạn sẽ
rơi vào khó khăn - ngay bây giờ.
Không, với bạn nó vẫn có, vì bạn chưa có. Bạn chưa biết
đến chân lí, do đó mọi điều phi chân lí đều là chân lí đối với
bạn. Cái ngày mà bạn biết chân lí riêng của mình, mọi điều
phi chân lí sẽ tan biến.
Với việc biết về cái ta riêng của mình, thế giới trở thành
giả. Chính bởi vì chúng ta không biết bản thân mình mà thế
giới giả dường như là đúng.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#16Chỉ cái này hiện hữu

Không phải để giải thích cho người biết nhưng để thoả
mãn cho người dốt nát kinh sách nói rằng “Những thứ
kèm theo thân thể là đúng,” và rằng có nghiệp tích luỹ,
có hành động quá khứ.
Thực tại không có gì khác ngoài cái một và Brahman bất
nhị, cái vốn hoàn hảo, vô thuỷ vô chung, không đo được,
không thay đổi, nơi cư ngụ của chân lí, nơi cư ngụ của
tâm thức, nơi cư ngụ của phúc lạc, vĩnh viễn, bất khả
diệt, toàn diện, đều khắp, toàn thể, vô hạn, với đầu ở mọi
hướng, không thể bị mất hay được tìm thấy, vô hỗ trợ,
độc lập, trống rỗng mọi thuộc tính, vô hành động, vi tế,
vô chọn lựa, không tì vết, không định nghĩa được, bên
ngoài tâm trí và lời nói, thực sự phong phú, hiển nhiên,
thuần khiết, có ý thức và không giống mọi thứ chúng ta
biết.
Vậy, việc biết qua kinh nghiệm riêng của ông rằng linh
hồn là không thể phân chia được, là được hoàn thành và
cư ngụ một cách phúc lạc trong linh hồn vô thay đổi.
Không phải để giải thích cho người biết nhưng để thoả
mãn cho người dốt nát kinh sách nói rằng “Những thứ
kèm theo thân thể là đúng,” và rằng có nghiệp tích luỹ,
có hành động quá khứ.

Bất kì điều gì được nói ra đều không chỉ có liên quan tới
người nói mà cũng có liên quan tới người nghe. Thực ra
người mà điều đó được nói cho là quan trọng hơn. Nó phải là
cái gì đó mà người đó có thể hiểu được, cái sẽ không trượt
qua đầu người đó, cái sẽ không làm người đó lẫn lộn mà thay
vì thế đem đến sáng tỏ, cái sẽ trở thành con đường cho người
đó, không phải là rối loạn tâm trí - cái gì đó sẽ không trở
thành chỉ như một cuộc hành trình vào trong suy nghĩ mà có
thể trở thành một kỉ luật để biến đổi cuộc sống người đó.
Kinh này nói rằng kinh sách nói cho người dốt nát theo
một ngôn ngữ này và nói cho người có hiểu biết theo một
ngôn ngữ khác. Thực tại là ở chỗ người đã chứng ngộ nói với
mọi cá nhân theo một ngôn ngữ khác. Đây là lí do tại sao bạn
thấy có nhiều sự không nhất quán đến thế trong các kinh
sách, bởi vì những phát biểu đó đã được nói cho những cá
nhân khác nhau. Phật nói điều này hôm nay, điều khác ngày
mai và điều thứ ba vào ngày kia - và điều đó trở nên khó hiểu
làm sao cùng một người sẽ nói được cả ba điều này vừa mâu
thuẫn vừa đối lập nhau. Không có bất nhất đâu, nhưng người
tin vào Phật cố gắng vất vả để nắm được loại liên hệ nào đó
trong chúng sao cho Phật không dường như là bất nhất.
Nhưng sự kiện thực ra chỉ là thế này, rằng người nói về tất cả
những điều đó chỉ là một nhưng người nghe là khác nhau -
và những phát biểu này đã được đưa ra để giữ cho người
nghe được thấy.

Bác sĩ trị liệu có thể là một nhưng nếu bệnh nhân khác
nhau, thuốc sẽ khác nhau. Phát biểu của Phật, phát biểu của
chư phật không phải là học thuyết mà là phương thuốc. Do
đó bao giờ cũng cần biết lời phát biểu được dành cho ai.
Kinh sách nói điều này cho người dốt nát và điều khác
cho người biết. Đối với người biết nó nói rằng không có gì
như thân thể, chỉ bạn hiện hữu; đối với người dốt nát nó nói
rằng thân thể có đó, nhưng bạn không phải là thân thể. Bây
giờ những phát biểu này là mâu thuẫn. Nếu không có thân
thể thế thì không có thân thể; nó phải là như vậy dù bạn nói
cho người biết hay cho người dốt. Và nếu có thân thể, thế thì
có gì khác biệt khi người nghe là người biết hay người dốt?
Chúng ta đi vào điều này chi tiết hơn.
Có những chân lí là sự kiện khách quan, như, “Đây là
buổi sáng.” Dù một người là người biết hay người dốt, điều
đó không tạo ra khác biệt; buổi sáng là buổi sáng cho cả hai.
Hay nếu mặt trời đã lặn và bây giờ là đêm, nó là đêm cho cả
người biết lẫn người dốt.
Khoa học khám phá sự kiện, do đó phải nói theo ngôn
ngữ nhất quán. Khoa học xử lí với những điều ở bên ngoài,
do đó có nhất quán lớn trong nó. Tôn giáo là hiện tượng chủ
quan. Nó dùng một ngôn ngữ tương ứng với cái bên trong;
nhấn mạnh của nó nhiều vào tính chủ quan, ít vào sự kiện.
Cho nên tuỳ thuộc vào người thấy, khác biệt nảy sinh.
Khi người biết nhìn, thân thể không được người đó nhìn chút
nào. Khi người dốt nhìn, linh hồn không được thấy chút nào.
Người dốt nhìn theo cách người đó chỉ thấy thân thể, người
biết nhìn theo cách người đó chỉ thấy linh hồn. Với người
biết không thể thấy được thân thể và đối với người dốt không
thể thấy được linh hồn.
Đây là lí do mà các hiền nhân như Shankara có thể nói
rằng thế giới là giả, nó không có đó chút nào... và các nhà
duy vật như Brahaspati có thể nói rằng linh hồn và Thượng
đế là không thật, chỉ vật chất là tồn tại. Không có nhất quán
nào giữa hai loại người này, bởi vì không có nền tảng gặp gỡ
cho họ. Đây là hai phát biểu được nhìn qua các cảnh quan
khác nhau. Toàn bộ cách nhìn nhận cuộc sống là khác nhau.
Không thế giới nào được thấy từ điểm mà Shankara nhìn vào
nó; chỉ có thể giới được thấy tại chỗ nhà duy vật Charwak
nhìn. Đây là sự khác biệt về cảnh quan. Đây là những phát
biểu của những người đã nhìn hoàn toàn tách biệt và có cách
nhìn khác nhau.
Nó tựa như thế này: nếu khứu giác là phương thức phát
hiện duy nhất cho bạn, nếu bạn chỉ có mũi là cơ quan cảm
giác... Có những con vật, như chim và côn trùng chỉ sống
bằng mùi vị, tìm đường qua mùi vị. Bây giờ những côn trùng
như vậy, tìm ra đường đi bằng cách ngửi, không có cách nào
biết âm thanh là gì, âm nhạc là gì, bởi vì không có cách nào
phát hiện ra âm nhạc qua giác quan ngửi. Âm nhạc không có
mùi vị gì - nếu nhạc hay, nó không toả hương thơm còn nếu
nó tồi, nó không hôi. Mùi không liên quan gì tới âm thanh.
Cho nên ai đó chỉ được trang bị hệ thống phát hiện mùi
sẽ không biết âm thanh. Với người đó âm thanh không tồn
tại. Cái gì đó chỉ tồn tại trong thế giới của chúng ta khi
chúng ta có phương tiện để phát hiện nó.
Nhớ lấy, chúng ta có năm giác quan, do đó chúng ta có
khả năng nhận biết năm yếu tố. Nếu chúng ta có mười giác
quan, chúng ta sẽ có khả năng nhận ra mười yếu tố. Dưới
con người trong bậc thang tiến hoá là con vật; một số con vật
có bốn giác quan, một số có ba giác quan và một số chỉ có
hai. Thế giới của chúng bị giới hạn bởi số giác quan chúng
có.

Với con vật không có tai, mặc dầu nó có thể có các giác
quan còn lại, không tồn tại âm thanh. Không phải âm thanh
không có đó, nhưng nếu bạn không có phương tiện thu nhận
âm thanh, âm thanh trở thành không tồn tại với bạn, thế giới
này là vô âm thanh cho bạn. Nếu không có mắt, không có
ánh sáng trên thế giới. Cho nên bạn sẽ biết chỉ khi bạn có
phương tiện.
Thế giới của bạn là phương tiện của bạn.
Người dốt tìm kiếm thông qua phương tiện thân thể
mình. Đây là lí do người dốt luôn luôn hỏi, “Thượng đế ở
đâu? Chỉ cho tôi.” Điều người đó đang nói là, “Chừng nào
mắt tôi còn chưa thấy, tôi sẽ không đồng ý.” Khi bạn nói
rằng chừng nào bạn chưa trông thấy Thượng đế bằng mắt
riêng của mình, bạn sẽ không tin, cái gì là điều bạn thực sự
nói? Bạn đang nói rằng chừng nào Thượng đế chưa trở thành
một vật mà bạn có thể thấy được, bạn không thể đồng ý về
sự tồn tại của ngài. Nhưng ai đã bảo bạn rằng Thượng đế là
một vật để cho mắt thấy được? Và nếu Thượng đế không
phải là một vật có thể thấy được bằng mắt thế thì bạn sẽ
không bao giờ đương đầu với ngài, bởi vì chính sự cố chấp
của bạn về việc thấy được ngài qua mắt nhìn sẽ trở thành rào
chắn.
Hình dạng là cái được thấy bằng mắt, và tất cả những
người biết đều nói rằng Thượng đế là vô hình. Nhưng bạn
nói rằng bạn sẽ tin chỉ sau khi thấy được bằng chính mắt
mình. Điều đó có nghĩa là bạn đã quyết định không nhìn
ngài. Đơn giản không có cách nào để bạn có thể thấy được
ngài qua mắt. Bởi vì làm sao bạn có thể thấy hình dạng của
cái, theo bản chất của nó, vô hình? Và nhớ lấy, nếu bạn quả
có thấy được Thượng đế trong hình dạng, bạn sẽ lập tức nói
rằng đây không thể là Thượng đế được vì các kinh sách đều
nói rằng Thượng đế là vô hình.
Marx đã khôi hài nói rằng ông ấy không và không thể tin
được vào Thượng đế bởi vì ông ấy chỉ tin được vào những
thứ có thể chứng minh được bằng khoa học. Nếu ông ấy có
thể thẩm tra được Thượng đế trong một ống nghiệm trong
phòng thí nghiệm, nếu ông ấy có thể mổ xẻ Thượng đế bằng
cách đặt Thượng đế lên bàn thí nghiệm, nếu ông ấy có thể
khảo cứu Thượng đế từ mọi góc độ, chỉ thế thì ông ấy mới
tin vào sự tồn tại của Thượng đế. Nhưng ông ấy lập tức tạo
ra một trò đùa - rằng nếu Thượng đế sai lầm mà vật chất hoá
mình trong một ống nghiệm hay trở thành sẵn sàng để được
xét nghiệm trên bàn thí nghiệm, ngài sẽ dừng là Thượng đế.
Chắc chắn bất kì cái gì bạn có thể thâu tóm và có khả
năng xét nghiệm được trong ống nghiệm đều sẽ trở thành
kém hơn bạn. Cái bạn có thể mổ xẻ và phân tích trong phòng
thí nghiệm sẽ chỉ trở thành vật chất, nó không thể còn là
Thượng đế nữa.
Cho nên yêu cầu của chúng ta lên tới mức có khó khăn
nếu nó được đáp ứng được và có khó khăn nếu nó không
được đáp ứng. Mọi người nói, “Chúng tôi sẽ không tin vào
Thượng đế chừng nào chúng tôi chưa thấy ngài ngay trước
mắt chúng tôi.” Điều này có nghĩa là họ đã quyết định rằng
bất kì cái gì có sẵn trước mắt họ đều là toàn bộ thế giới của
họ, và bất kì cái gì không có trước mắt họ đều không tồn tại.
Nhưng thế giới này là bao la. Cho nên người biết được
giả định làm gì? Người đó, người đã thấy cái không thấy
được bằng mắt, người đã nghe bằng đôi tai bịt kín cái không
nghe được qua đôi tai mở, người đã chạm tới cốt lõi bên
trong nhất của mình, cái không thể được chạm tới - người đó
sẽ nói bằng ngôn ngữ nào để cho ngay cả người dốt cũng có
thể hiểu được? Người đó sẽ phải nói điều đó theo một cách

nào đó. Nếu người đó nói cho người biết theo cùng cách
thức, người biết sẽ cười.
Một thầy tu khổ hạnh Mô ha mét giáo, Sheikh Farid, và
Kabir có lần đã gặp nhau. Không có chuyện trò gì giữa họ.
Họ ở với nhau trong hai ngày, họ cười, họ ôm choàng, họ
ngồi cùng nhau hàng giờ, nhưng không một lời nào. Một
đám đông lớn những người sùng kính của cả Farid và Kabir
và nhiều người tò mò khác đã tụ tập lại. Họ nghĩ rằng khi hai
thánh nhân lỗi lạc như vậy tới với nhau sẽ có đối thoại rất giá
trị, họ sẽ được lợi từ điều đó. Nhưng hai ngày trôi qua hệt
như vậy. Thế rồi đến lúc họ ra đi. Mọi người đều rất thất
vọng. Những người đã tụ tập để nghe trở nên rất buồn. Họ
không thể hiểu vấn đề là gì. Hai người với kinh nghiệm sâu
xa đã gặp gỡ; nếu có đối thoại xảy ra giữa họ, điểu đó sẽ ích
lợi biết bao. Nhưng không ai có đủ dũng cảm để hỏi điều gì
trong khi có sự hiện diện của cả hai.
Khi Farid bắt đầu lên đường, những người sùng kính của
ông ấy hỏi ông ấy tại sao họ không nói chuyện với nhau.
Farid nói, “Bất kì ai nói cũng đều chứng tỏ là người dốt. Và
thế rồi cái gì có đó để nói? Điều tôi biết Kabir cũng biết;
Kabir đang nhìn đi đâu, tôi cũng nhìn đi đấy.”
Kabir cũng được những người sùng kính của ông ấy,
những người thân thiết tại đạo tràng của ông ấy hỏi. Kabir
đáp, “Các ông có điên không? Nhiều nhất chúng ta có thể
cười vào sự kiện là hai người không gặp nhau; sự kiện hai
người đã gặp nhau bên trong là việc gặp gỡ. Người ta nói
cho người nào nữa?”
Kabir đã giải thích về hiện tượng nói. Hai người dốt nói
rất nhiều với nhau, mặc dầu chẳng ai trong hai người này
hiểu nhau chút nào. Hai người dốt tranh cãi không dừng, vô
tận, không kết quả gì - chỉ toàn biện luận, không kết luận,
không cái gì chung cả.
Việc nói chuyện giữa hai người dốt là bằng lời, mặc dầu
lời không đưa người ta đến đâu cả. Hai người chứng ngộ
cũng gặp gỡ nhưng việc dùng lời trở thành không thể được.
Gặp gỡ của họ xảy ra trong im lặng, không lời qua tiếng lại,
bởi vì điều họ đã thấy là như nhau, điều họ đã biết và kinh
nghiệm là như nhau. Cái gì có đó để nói?
Khi nào việc nói có ý nghĩa xảy ra? Nó xảy ra khi một
người đã chứng ngộ và một người chưa chứng ngộ gặp gỡ.
Thế thì người này biết và người kia không biết; có nghĩa nào
đó trong việc nói. Khi cả hai đều biết, việc nói trở thành vô
nghĩa. Khi cả hai đều không biết, việc nói không thể ngăn lại
được. Nhiều điều sẽ được nói, nhưng không có nghĩa và mục
đích nào.
Đây là ba khả năng duy nhất.
Khi một người biết gặp một người không biết, người đó
sẽ nói gì? Một cách là người đó cứ nói mọi thứ người đó biết
mà không bận tâm về người anh ta đang nói cho. Trong
trường hợp đó người đó đang nói với bức tường. Không ai sẽ
nghe, không ai sẽ hiểu - người ta nhiều nhất là hiểu lầm.
Chính điều đối lập lại với điều đã được nói sẽ được hiểu. Nó
sẽ gây ra tác hại nào đó. Tốt hơn cả là vẫn còn im lặng, hay
chỉ nói cái mà người dốt có thể hiểu được. Người dốt sẽ hiểu
lầm.
Thế thì có phương pháp nào để nói điều gì đó theo cách
người dốt có thể được làm quay sang chân lí không? Tất cả
những điều này cần phải được nhớ trong tâm trí. Không có
thân thể, nhưng với người dốt, không có gì ngoài thân thể.
Thế thì cái gì cần được làm? Con đường giữa phải được tìm
ra, được phát minh ra để cho người dốt có thể được bảo,
“Thân thể có và bạn cũng có, nhưng bạn không phải là thân

thể và bạn nên bắt đầu lên đường tìm ra chân lí này.”
Nếu bạn bảo người dốt rằng người đó không là thân thể,
việc tìm kiếm của người đó dừng lại. Người đó sẽ nói, “Thôi
im đi. Tôi không phải là thân thể, anh nói đấy. Nhưng tôi
không kinh nghiệm cái gì khác ngoài thân thể. Tôi cảm thấy
rằng chỉ có mỗi thân thể thôi, không có gì như linh hồn.”
Người đó không nói điều gì sai, người đó đang nói về kinh
nghiệm của mình. Người biết đang nói về kinh nghiệm của
mình, người dốt đang nói về kinh nghiệm của mình.
Bạn đã bao giờ biết bản thân mình là cái gì ngoài thân
thể chưa? Bạn đã bao giờ có thoáng nhìn mà có thể làm cho
bạn nhận ra rằng bạn không phải là thân thể không? Bạn có
hoàn toàn chắc rằng nếu đầu bạn bị chặt lìa khỏi cổ, đấy
không phải là bạn bị chặt không? Bạn đã bao giờ thậm chí có
chút ít hiểu biết rằng khi thân thể bạn bị thiêu trong giàn hoả
thiêu, đấy không phải là bạn bị thiêu không? Không thể
được! Bởi vì bất kì khi nào một chiếc gai nhỏ đâm vào chân,
nó xuyên vào bạn; nếu tay bị bỏng, bạn cảm thấy bạn bị
bỏng, cho nên khi toàn thân bạn sẽ cháy, không thể hi vọng
rằng bạn sẽ cảm thấy rằng bạn không cháy. Khi ngay cả cái
đau nhỏ nhất, ngay cả lời xúc phạm nhỏ nhất xuyên vào bạn
và ảnh hưởng tới bạn, thế thì bạn không thể nghĩ được rằng
khi cái chết thấm vào bạn, bạn sẽ vẫn còn không bị ảnh
hưởng, không bị động chạm tới.
Bạn không có kinh nghiệm rằng bạn là cái gì đó khác
hơn thân thể; kinh nghiệm duy nhất của bạn là ở chỗ bạn là
thân thể. Vâng, bạn có thể tin rằng bạn là linh hồn và rằng
bạn sẽ không chết, nhưng đó chỉ là niềm tin của bạn - và một
niềm tin rất lừa dối và niềm tin là một phần của dốt nát của
chúng ta.
Mọi người đều muốn tin rằng mình sẽ không chết.
Không ai muốn chết. Chú ý tới điều đơn giản này - rằng
không ai muốn chết. Và bất kì ai không muốn chết đều biết
chắc chắn rằng người đó sẽ phải chết; đó là lí do tại sao cảm
giác nảy sinh ngay chỗ đầu tiên rằng người đó không muốn
chết.
Người biết muốn chết, người dốt không muốn chết.
Người biết muốn chết bởi vì người đó biết rằng không có gì
chết đi trong cái chết. Người biết muốn đi vào cái chết bởi vì
người đó biết rằng trên đường đi vào cái chết người đó sẽ có
kinh nghiệm thuần khiết nhất về bất tử.
Nơi cái đối lập hiện diện, việc kinh nghiệm trở nên dễ
dàng hơn. Bạn vẽ một đường trắng trên bảng đen: nó chiếu
sáng rõ ràng hơn. Khi có mây đen và chớp loé, chớp trông rõ
ràng hơn. Để chớp loé trong mây trắng ban ngày, bạn có thể
thậm chí không nhìn thấy nó.
Người biết muốn đi vào cái chết - quả quyết, phúc lạc và
mở hội - tới mức đường trắng đó của tính bất tử được che
giấu bên trong có thể loé sáng rõ ràng trên nền mây đen của
cái chết đang kéo tới bao quanh nó, và để cho kinh nghiệm
được trở thành rất rõ ràng rằng cái chết bao giờ cũng xảy ra
xung quanh người ta và chưa bao giờ bên trong người ta.
Người dốt sợ đi vào cái chết, bởi vì người đó bị thuyết phục
rằng cái chết có nghĩa là kết thúc của mọi thứ, rằng không có
gì sẽ còn lại.
Bây giờ đây là điều rất thú vị: người dốt tin rằng linh hồn
là bất tử cho nên người đó có thể không bị triệt tiêu hoàn
toàn. Niềm tin này không phải bởi vì việc biết của người đó
mà bắt nguồn từ nỗi sợ của người đó.
Đây là lí do cho thanh niên không tin mấy vào vấn đề
linh hồn vân vân. Nhưng khi người đó trở nên già hơn người
đó bắt đầu tin vào nó ngày càng nhiều hơn, bởi vì cái chết tới

gần hơn, nỗi sợ phát triển lớn hơn. Người nằm trên giường
chết thường hay trở nên có tính tôn giáo. Bất kì ai vẫn còn là
phi tôn giáo ngay cả trên giường chết đều là người có can
đảm nào đó. Ngay cả người vô thần vĩ đại nhất cũng trở nên
hơi lung lay vào thời điểm chết vì người đó nhận ra rằng
người đó không biết thực tại là gì, và thế rồi sợ chết tới, sợ đi
vào trong cái đen tối đó. Từ sợ người đó rơi trở lại vào mọi
niềm tin và học thuyết cổ xưa.
Bạn cũng tin rằng linh hồn là bất tử, mặc dầu bạn biết
rằng bạn không là gì nhiều hơn thân thể. Nhưng cái gì là linh
hồn này mà bạn đang nói là bất tử, khi bạn không có kinh
nghiệm về nó? Bạn nói rằng nó là bất tử, vậy mà nó là cái gì
đó mà bạn không có kinh nghiệm gì về nó dù bất kì cái gì.
Nỗi sợ của bạn trở thành học thuyết của bạn.
Người ta càng sợ hãi, người ta càng trở thành người tin
tưởng vào linh hồn. Đây là lí do tại sao hiện tượng này được
thấy chỉ ở Ấn Độ, rằng cả đất nước đều tin vào linh hồn và
vậy mà mọi người đều sợ đi vào bóng tối. Họ tin tưởng mạnh
mẽ vào sự tồn tại của linh hồn. Toàn bộ con người họ run rẩy
vì sợ chết và vậy mà họ có niềm tin vững chắc vào sự tồn tại
của linh hồn.
Đất nước này của những người tin tưởng vào linh hồn
vẫn còn trong nô lệ hàng nghìn năm. Bất kì một cộng đồng
nhỏ bé bên ngoài nào cũng đều có thể cai trị trên giống người
tin tưởng vào linh hồn này. Và những người tin tưởng vào
linh hồn này vẫn tiếp tục tin vào tính bất tử của linh hồn và
cũng tiếp tục sợ chiến tranh.
Sợ hãi, không kinh nghiệm hay biết, nằm ở bên trong
nền tảng của niềm tin của bạn. Bằng không, sẽ không thể nào
biến một người tin tưởng vào tính bất tử của linh hồn thành
kẻ nô lệ. Người biết sẽ không sợ hãi, và cảnh nô lệ chỉ tới từ
nỗi sợ, rằng, “Nếu chúng ta không trở thành nô lệ, chúng ta
sẽ bị giết.” Vậy nên người ta ưa thích còn sống ngay cả với
cái giá trở thành nô lệ.
Nếu như đất nước này thật sự tin vào linh hồn như mọi
người vẫn cứ tuyên bố, nó không thể nào rơi vào cảnh nô lệ
được. Toàn bộ đất nước này có thể thà bị giết, và sẽ trích dẫn
từ kinh sách: “Linh hồn không thể bị vũ khí xuyên qua hay
bị lửa đốt - cho nên cứ để cho chúng giết và đốt.”
Sẽ không thể nào đặt đất nước này vào cảnh nô lệ nếu
như nó là người tin vào linh hồn. Nhưng đất nước này toàn là
những người tin tưởng vào thân thể, không vào linh hồn.
Chính bởi vì sợ nó mà nó cứ nói nó tin vào linh hồn.
Sức thuyết phục của bạn là ở chỗ bạn là thân thể, còn
việc nhận ra của người biết là ở chỗ bạn không phải là thân
thể. Cho nên ở đâu, trên nền tảng nào, việc gặp gỡ là có thể
nơi các bạn có thể hiểu được ngôn ngữ của nhau? Kinh sách
đã tìm ra một phương cách, một kĩ thuật; cho nên ngay từ
đầu người ta không phủ nhận bạn hoàn toàn và nói rằng
không có thân thể chút nào; phủ nhận đó sẽ đóng sập cánh
cửa của bạn và thậm chí sẽ trở nên khó hơn cho bạn hiểu -
cho nên vì bạn họ nói rằng có thân thể. Điều này làm cho
người dốt có một chút ít đảm bảo rằng người đó không hoàn
toàn sai, rằng thân thể là có, và rằng niềm tin của người đó
cũng là đúng. Điều này tạo ra một tâm trạng có trong người
đó.
Một nhà tư tưởng Mĩ, Dale Carnegie đã làm nhiều công
trình về tâm trạng có này. Nó không liên quan gì tới tôn giáo,
ông ta là một chuyên gia trong quan hệ bán hàng: làm sao
bán được mọi thứ tốt hơn, làm sao thu được tình bạn. Sách
của ông ta, Cách thu phục bạn bè và gây ảnh hưởng với mọi
người, là cuốn tiếp theo cuốn Kinh thánh trong buôn bán,

bán khắp thế giới. Làm sao thu phục được bạn bè và làm sao
cũng ảnh hưởng tới người khác? Đấy là một công thức bí
mật để tạo ra tâm trạng có trong người khác. Một khi tâm
trạng có đó đã nảy sinh, sẽ ngày càng khó khăn hơn để nói
không.
Cho nên Dale Carnegie nói rằng nếu bạn muốn ảnh
hưởng tới người nào đó, hay chuyển đổi hay thay đổi tâm trí
người nào đó, đừng nói điều gì ngay lúc đầu mà người kia có
thể phủ nhận thẳng cánh. Nếu người đó đã nói không về cái
gì đó ngay từ đầu, tâm trạng không của người đó trở nên
mạnh mẽ. Thế thì để điều thứ hai được nhắc tới, với điều này
người đó có thể nói có mà nếu như nó đã được nhắc tới trước
đây, người đó sẽ chỉ không. Do đó, ngay lúc đầu nói về một
vài chủ đề mà tự nhiên người đó nói có và chỉ có thế thì mới
nêu ra vấn đề mà thông thường người đó đã nói không.
Sau khi nói có ba hay bốn lần, cảm giác nói không trở
nên yếu đi. Một khi chúng ta đã đồng ý về bốn điều và đã nói
có, khuynh hướng nảy sinh là nói có cho bất kì điều gì người
kia nói về điều thứ năm. Nhưng nếu chúng ta đã nói không
cho bốn điều đầu người này đã nhắc tới, cảm giác nói không
cho cho lần thứ năm cũng tăng lên mạnh hơn.
Dale Carnegie đã viết trong hồi kí rằng có lần ông ấy đã
đến một thành phố và ở lại đó với một người bạn vốn là một
nhân viên bảo hiểm. Người bạn đó nói với ông ấy: “Ông nói
và viết nhiều về cách gây ảnh hưởng đến mọi người và thu
phục bạn bè. Có một bà già trong thành phố này; nếu ông có
thể bán cho bà ta một chính sách bảo hiểm, tôi sẽ đồng ý với
lí thuyết của ông, bằng không đấy tất cả chỉ là nói mà thôi.”
Dale Carnegie bắt đầu điều tra về bà già đó. Đó là một
công việc gay go, vì rất khó thậm chí vào văn phòng bà ta.
Ngay khi một nhân viên của bà ta biết rằng vị khách là nhân
viên bảo hiểm, người đó sẽ bị tống cổ ra ngay. Bà già đó là
một quả phụ tám mươi tuổi, một triệu phú, có đủ mọi thứ
người ta có thể ham muốn, và bà ta chống bảo hiểm đến chết.
Việc vào nơi đó đã khó thế, việc ảnh hưởng tới bà ta dường
như là điều không thể làm được.
Dale Carnegie đã viết, “Sau khi thu thập khá nhiều thông
tin về bà già này, tôi đi dạo buổi sáng vào quãng năm giờ
gần bức tường khu vườn nhà bà ta. Bà già đó quen dậy lúc
sáu giờ. Bà ra vườn và thấy tôi đang đứng gần vườn nhà bà
ngắm hoa, bà hỏi, 'Ông có phải là người yêu hoa không?' Tôi
đáp, 'Tôi không chỉ là người yêu hoa mà tôi còn là một
chuyên gia. Tôi đã từng thấy nhiều hoa hồng trên khắp thế
giới, nhưng những đoá hoa hồng này có trong vườn của bà,
không nơi đâu sánh được.'
“Bà già bảo tôi vào bên trong nhà qua cửa. Bà ấy đưa tôi
đi vòng quanh vườn, chỉ từng kiểu hoa. Bà ấy chỉ cho tôi
xem gà, chim bồ câu và các con vật nuôi bà ấy có trong
vườn.” Dale Carnegie xoay xở để tạo ra tâm trạng có trong
bà ta.
Điều này trở thành thường lệ vào mỗi sáng. Bà già đó sẽ
đứng ở cửa sẵn sàng đón ông ta. Một hôm bà ấy mời ông ấy
uống trà và ăn sáng. Hôm sau trong khi họ đang nói chuyện
trong vườn, bà già nói, “Ông dường như là một người đàn
ông rất thông minh và là một chuyên gia về nhiều chủ đề,
anh nghĩ thế nào về bảo hiểm? Dân bảo hiểm cứ chạy lăng
xăng quanh tôi. Làm bảo hiểm là điều phải hay không?”
Thế rồi Dale Carnegie thảo luận về chủ đề này với bà ấy,
nhưng vẫn không cho phép bà ấy biết rằng ông ta là một
nhân viên bảo hiểm bởi vì điều đó có thể tạo ra trạng thái
không trong bà ta. Vào ngày thứ bẩy, Carnegie làm cho bà ấy
được bảo hiểm.

Một khi mối quan hệ của cái có bắt đầu với một người,
một loại tin cậy trong người đó bắt đầu tăng lên. Khi cảm
giác về tin cậy được tạo ra, việc nói không đối với người đó
trở nên ngày càng khó hơn. Có thể cầm được cả bàn tay chỉ
sau khi đã cầm được các ngón tay.
Cho nên kinh sách nói cho người dốt theo cách tâm trạng
có được tạo ra; chỉ thế thì mới có khả năng tiến thêm nữa.
Nếu người ta được nói thẳng ra rằng không có thân thể,
không có bạn, không có thế giới, người dốt sẽ nói, “Đủ điều
này rồi! Không có gì đáng tin trong điều ông nói.”
Đây là lí do tại sao kinh sách nói cho người dốt rằng
“Những thứ kèm theo thân thể là đúng.” Người dốt lập tức
đứng thẳng dậy, tin tưởng rằng mình không tuyệt đối sai và
rằng người này không nguy hiểm. Bất kì ai cũng đều thấy rất
đau đớn khi biết rằng mình sai tuyệt đối. Người ta thích cảm
thấy rằng người ta cũng đúng đôi chút. Và chính trên cơ sở
của cái đúng chút xíu này mà tiến bộ thêm trong cuộc hành
trình là có thể.
Nhưng bạn là tuyệt đối sai. Kinh nghiệm của tất cả
những người biết đều là ở chỗ bạn hoàn toàn sai, một trăm
phần trăm sai. Nhưng việc nói điều này cho bạn nghĩa là
không thể có mối quan hệ thêm nào nữa với bạn; do đó
người biết nói rằng bạn là đúng tới mức độ lớn. Thân thể có
đó, thế giới có đó, mọi thứ đều có đó - bạn không sai chút
nào. Việc hiểu sai chỉ là hơi hơi, rằng bạn đã coi thân thể là
linh hồn.
Theo cách này tâm trạng có được tạo ra trong người dốt.
Người đó cảm thấy, “Mình cũng đúng tới mức lớn. Khác biệt
giữa mình và người biết là rất nhỏ, và đấy là việc mình đã
coi thân thể là linh hồn.” Và người dốt cũng muốn rằng
người đó không nên hiểu thân thể là linh hồn, bởi vì thân thể
không cho bất kì cái gì ngoài khổ. Và thân thể cũng phải
chết. Cho nên người đó cũng muốn tìm hiểu và biết cái nào
không phải là thân thể để cho người đó đi tới biết cả cái bất
tử nữa. Thế rồi người hiểu biết nói rằng có phúc lạc tối
thượng trong việc biết linh hồn, cái không phải là thân thể.
Cho nên điều này cũng làm nảy sinh tham lam trong người
dốt. Người đó trở nên thiết tha để biết tới phúc lạc tối thượng
đó - và do vậy cuộc hành trình bắt đầu.
Nhưng cuộc hành trình đi theo cách khi người dốt đã tiến
bộ, người đó nhận ra rằng thân thể có sự tồn tại mà người
biết đã xác nhận trước đây thực ra không tồn tại; thế giới có
sự tồn tại mà người biết đã từng xác nhận trước đây, thực ra
không tồn tại. Khi người dốt nát đi sâu hơn, người biết cứ
thêm các điều kiện. Người đó nói rằng nếu bạn trở nên tham
lam về phúc lạc, bạn sẽ không bao giờ có được nó - mặc dầu
ngay chỗ đầu tiên người này đã bắt đầu cuộc hành trình từ
tham lam.
Nhưng tất cả những điều này sẽ tới sau, khi người ta đã
khởi hành trên cuộc hành trình, khi người ta đã đi được một
khoảng cách và việc quay lại đã trở thành không thể được.
Con đường này là con đường mà việc quay lại là không thể
có được; bất kì cái gì bạn đã đi tới biết trên con đường này
đều không thể được hoàn tác. Không có việc quay lại từ tri
thức. Chỉ có thể đi lên trước từ nơi bạn đã đạt tới, không đi
ngược lại.
Và điều thú vị nhất là ở chỗ khi người dốt nát tiến lên
trước trên con đường này, người đó rơi vào vũng rắc rối
nhiều hơn là trước đây người đó đã từng gặp, bởi vì bất kì
cái gì người đó đã biết trước đây, đều sai và tất cả đều phải
cắt bỏ. Khi người đó tiến lên, mọi tri thức trước đây đều trở
thành mù mờ và vô tích sự, và người đó lơ lửng trong tình

trạng lấp lửng. Người đó không thể quay lại được, không có
cách nào khác hơn là tiến lên trước; do đó bất kì điều kiện
nào do người biết đem lại đều phải được hoàn thành. Bây giờ
người biết nói phải vứt bỏ tham lam và sẽ có phúc lạc, mặc
dầu lúc ban đầu người biết đã làm nảy sinh tham lam của
bạn: “Có phúc lạc tối thượng đấy. Sao bạn cứ nằm đây trong
địa ngục này? Sao bạn cứ phải chịu đựng khổ sở thế? Đài
nước cam lồ gần đâu đây thôi - đến đó đi!”
Cho nên trong hi vọng gạt bỏ khổ sở, trong hi vọng thu
được hạnh phúc, người đó hăm hở hạnh phúc đi vào cuộc
phiêu lưu. Sẽ có hạnh phúc lớn ở đó - với hi vọng này người
đó tiến lên trước. Bây giờ đây là tham lam. Nhưng chỉ sau đó
một thời gian, người biết nói, “Bỏ tham lam đi. Đừng hỏi về
phúc lạc nữa, bằng không, ông sẽ không bao giờ đạt được nó
đâu.” Bây giờ người ta trong tình thế khó khăn. Người ta
không thể quay lui được nữa. Tâm trí nghĩ rằng người ta sẽ
khấm khá hơn với hạnh phúc trước đây - nhưng bây giờ
người ta không thể thấy bất kì hạnh phúc nào ở đấy cả, bất
hạnh của tất cả những cái đã tồn tại trước đây bây giờ thấy
được rõ ràng đến thế. Cho nên cái đang trong tay người đó bị
vứt bỏ, và cái mà người đó đang hi vọng dường như không
đi vào trong hiểu thấu của người đó, và trên tất cả những cái
đó, người biết bây giờ yêu cầu người đó thậm chí còn vứt bỏ
cả hi vọng có được mọi thứ. Người ta phải vứt bỏ nó! Người
ta không thể quay lui, người ta chỉ phải vứt bỏ nó.
Vậy người biết làm tan tành ảo tưởng giả của bạn từng li
một và dần dần, dần dần đưa bạn tới nơi mà, nếu ngay từ đầu
bạn được yêu cầu phải đi tới đó, bạn sẽ không đi.
Phật đã phạm phải một sai lầm như thế. Rất ít người có
thể nói về chân lí một cách trực tiếp và đơn giản như Phật.
Đây là lí do tại sao Phật giáo không thể sống sót được ở Ấn
Độ. Có lí do cho điều này, chỉ lí do này, rằng Phật đã không
chấp nhận rằng kĩ năng phải được chấp nhận khi giải quyết
với người dốt. Phật đã đạt tới kinh nghiệm và ông ấy đã diễn
đạt nó dưới dạng trực tiếp. Và lí do là, Phật đã không được
sinh ra trong gia đình brahmin.
Brahmin là người thông minh cổ đại nhất, truyền thống
nghề nghiệp của họ là dài - cổ nhất. Trong thế giới này, từ
thời thượng cổ, họ đã từng trong kinh doanh tri thức. Họ rất
khéo léo về điều đó. Họ biết phải bắt đầu vấn đề từ đâu. Phật
là con trai của kshatriya, đẳng cấp chiến binh; tổ tiên của ông
ấy chưa bao giờ trong kinh doanh này. Ông ấy không có tri
thức chuyên gia về điều đó, ông ấy mới vào kinh doanh này.
Đấy là một cửa hiệu mới; ông ấy không có ý tưởng ít nhất
phải nói gì với khách hàng, cách thuyết phục khách hàng.
Cho nên ông ấy rơi vào rắc rối. Ông ấy đã nói chân lí một
cách thẳng thắn và trực tiếp.
Bạn có biết Phật đã nói gì không? Nếu ai đó đến với Phật
và nói, “Tôi muốn nhận ra linh hồn,”, Phật sẽ nói, “Không có
linh hồn, làm sao ông có thể nhận ra nó?”
Người này sẽ chạy mất. Người đó sẽ tự hỏi về toàn bộ
tình huống này. Chí ít linh hồn phải có chứ. Người ta có thể
đã hiểu nếu được bảo rằng không có thân thể, nhưng bạn
đang nói thậm chí không có cả linh hồn!
Ai đó sẽ tới Phật và nói, “Phải có phúc lạc lớn trong
chứng ngộ.” Phật sẽ nói, “Chứng ngộ gì? Phúc lạc gì? Chỉ
cái không còn lại thôi. Không có phúc lạc và không có chứng
ngộ, vì chừng nào người ta còn có khả năng kinh nghiệm
phúc lạc, đau khổ cũng sẽ vẫn còn. Nó phải có đó, bởi vì chỉ
với cái tương phản mà người ta trở nên nhận biết tới.”
Cho nên Phật nói không có phúc lạc ở đó. Vậy người kia,
người đã đến tới Phật với tham lam nào đó, hi vọng nào đó,

hoàn toàn bị tan tành ngay chính tại bậc cửa. Người đó đơn
giản không đi vào bên trong. Người đó tự nhủ, “Khi thậm chí
không có phúc lạc ở đó, thế thì những hoan lạc ngắn ngủi mà
mình có cũng không đến nỗi tệ. Tại đây không có hạnh phúc
vĩnh cửu nhưng ít nhất mình có những hoan lạc ngắn ngủi
này.” Người biết bao giờ cũng dụ người đó từ bỏ hoan lạc
ngắn ngủi để được hạnh phúc vĩnh cửu.
Phật đã nói đơn giản không có hạnh phúc vĩnh cửu.
Hạnh phúc như thế không tồn tại. Cả hạnh phúc ngắn ngủi
lẫn hạnh phúc vĩnh cửu đều không có; bạn đang trong ảo
tưởng về sự tồn tại của chúng. Người kia chắc sẽ phải xin lỗi
và chắc sẽ nghĩ tốt hơn cả là giữ lấy cái nhỏ bé người đó
đang có. Một nửa ổ bánh mì ở đây còn tốt hơn là cả ổ bánh
mì trên cõi trời: “Và thế rồi ông nói không có cõi trời lẫn ổ
bánh mì nào cả. Thế thì tại sao tôi phải vứt bỏ nửa ổ bánh mì
tôi đang có?”
Mọi người sẽ tới Phật và hỏi liệu họ có đạt tới được
Thượng đế không. Phật sẽ nói rằng không có Thượng đế.
Khi Sariputta, con của một brahmin, người có học và thông
thái, tới gặp Phật lần đầu tiên, ông ấy nói với Phật, “Nếu
không có gì cả, nếu chỉ toàn không có gì và không có gì, thế
thì chúng tôi phải cố gắng cứu lấy thế giới mà chúng tôi đang
có, nơi mà ít nhất chúng tôi cũng có cái gì đó. Thầy đang nói
một điều rất lạ lùng. Thầy muốn giằng lấy mọi thứ mà không
hứa hẹn điều gì. Ai sẽ đi với thầy?”
Người con đó của mọt brahmin đã hỏi, “Ai sẽ đến với
thầy? Thầy muốn chúng tôi từ bỏ mọi thứ. Và khi chúng tôi
hỏi chúng tôi sẽ được lại cái gì, thầy bảo chúng tôi không có
gì để được. Thế thì ai sẽ từ bỏ mọi thứ? Mọi người từ bỏ cái
gì đó trong sự tham lam của mình để thu được cái gì đó khác
chứ.”
Phật nói, “Người mà từ bỏ để được cái gì đó đã không từ
bỏ chút nào. Cái gì là nghĩa của từ bỏ? Nếu từ bỏ được tiến
hành để thu được cái gì đó, đấy là giao dịch kinh doanh,
không phải là từ bỏ. Một người từ bỏ lâu đài của mình để
cho người đó có thể có được lâu đài trên cõi trời - đấy là
chuyện kinh doanh. Một người làm những hành vi đức độ để
trở nên hạnh phúc - đấy cũng là kinh doanh. Một người làm
việc thiện, làm dịch vụ, trở thành tôn giáo, chỉ trong hi vọng
có được kiếp sống tốt hơn trong thế giới nào đó. Đấy là kinh
doanh - từ bỏ ở đâu trong việc ấy?” Phật nói, “Có từ bỏ chỉ
nếu không có trông đợi thu lại được cái gì.”
Sariputta nói, “Có thể điều ấy là như vậy, nhưng thầy sẽ
tìm đâu ra những người từ bỏ như thế?”
Tất cả chúng ta đều là người có tâm trí kinh doanh. Ngay
cả khi chúng ta ham muốn có quan hệ với Thượng đế, đấy là
kinh doanh. Người dốt không thể làm bất kì cái gì khác.
Cho nên Phật giáo không thể sống sót được ở Ấn Độ. Và
khi nó không thể sống sót được ở Ấn Độ, nó còn có thể sống
sót được ở đâu khác nữa? Nó đã sống sót ở các nước khác,
nhưng khi nào? - khi những tín đồ của Phật đã học được mọi
mưu mẹo mà người brahmin đã biết, thế thì nó sống sót.
Bạn có thể ngạc nhiên mà biết rằng bản thân Phật là một
kshatriya nhưng tất cả các đệ tử cao cấp của ông ấy đều là
brahmin... và họ đã xoay xở cho sự sống còn. Nhưng ở Ấn
Độ Phật đã làm hỏng vấn đề; ở Ấn Độ ông ấy đã nói mọi
điều một cách trực tiếp, cho nên ngay cả các đệ tử brahmin
cũng không thể áp đặt được điều gì khác. Phật giáo không
thể sống sót được ở Ấn Độ. Nó đã sống sót ở Sri lanka, Miến
điện, Nhật Bản, Trung quốc, Tây Tạng, Thái Lan và Triều
tiên - trong toàn Châu Á - nhưng không ở Ấn Độ, bởi vì bản
thân Phật đã nói mọi điều một cách trực tiếp, rằng không có

gì để thu được. Do đó ở Ấn Độ rất khó làm sống lại hi vọng
thu được cái gì đó. Nhưng điều đó có thể được xoay xở bên
ngoài Ấn Độ.
Phật giáo tồn tại bên ngoài Ấn Độ là phiên bản khác của
Hindu giáo. Nó không phải là những lời nguyên thuỷ của
Phật, nó không thực, đó là lí do tại sao nó đã sống sót. Nơi
nó là thực nó không sống sót được chút nào. Bạn biết rằng
Mahavira là một kshatriya, nhưng tất cả mười một đại đệ tử
của ông ấy đều là brahmin. Họ là những người chịu trách
nhiệm cho sự sống còn của giáo huấn của Mahavira. Điều đó
ở bên ngoài năng lực của Mahavira.
Kshatriya không có ý tưởng nào - đấy không phải là
nghề chuyên môn của ông ta. Ông ta có thể là giỏi trong
kiếm thuật nhưng thế giới này của kinh sách, trò chơi chữ
này... ông ta không có bí quyết trong khu vực này. Cho nên
tất cả mười một đệ tử của Mahavira, những người brahmin,
đã giúp cho Jaina giáo sống còn. Và có một lỗ hổng cho họ.
Đích thân Phật nói, cho nên không thể có chuyện ngay cả đệ
tử của ông làm hỏng điều đó. Mahavira không nói, ông ấy
vẫn cứ im lặng, chỉ các đại đệ tử của ông ấy nói. Điều này
tạo ra lỗ hổng. Bởi vì bản thân Mahavira không nói, bất kì
cái gì mà các đại đệ tử của ông ấy nói ra xem như việc diễn
giải cái im lặng của ông ấy đều được lấy làm tôn giáo Jaina.
Vậy tôn giáo của Mahavira tồn tại được một cách nào đó.
Nhưng nó dường như không có được cơ sở rộng rãi nào.
Chỉ có khoảng hai triệu rưởi người theo Jaina giáo, hai
mươi nhăm thế kỉ sau khi Mahavira chết. Cho dù chỉ có hai
mươi nhăm người chịu ảnh hưởng của Mahavira và nếu họ
đã xây dựng gia đình, họ cũng sẽ nhân số người hiện tại theo
đạo Jaina lên trong hai mươi nhăm thế kỉ. Cho nên con số
hiện tại không nói cao lắm về sự sống sót của nó. Cái gì là lí
do cho điều đó? Vẫn cùng một lí do - rằng kshatriya không
biết ngôn ngữ đáng phải dùng cho người dốt. Phải mất hàng
thế kỉ để phát triển điều đó.
Kinh này nói :
Không phải để giải thích cho người biết nhưng để thoả
mãn cho người dốt nát kinh sách nói rằng “Những thứ
kèm theo thân thể là đúng,” và rằng có nghiệp tích luỹ,
có hành động quá khứ.
Thực tại không có gì khác ngoài cái một và Brahman bất
nhị, cái vốn hoàn hảo, vô thuỷ vô chung, không đo được,
không thay đổi, nơi cư ngụ của chân lí, nơi cư ngụ của
tâm thức, nơi cư ngụ của phúc lạc, vĩnh viễn, bất khả
diệt, toàn diện, đều khắp, toàn thể, vô hạn, với đầu ở mọi
hướng, không thể bị mất hay được tìm thấy, vô hỗ trợ,
độc lập, trống rỗng mọi thuộc tính, vô hành động, vi tế,
vô chọn lựa, không tì vết, không định nghĩa được, bên
ngoài tâm trí và lời nói, thực sự phong phú, hiển nhiên,
thuần khiết, có ý thức và không giống bất kì cái gì chúng
ta biết.

Mọi thứ khác thực ra là không thực. Chúng ta thấy một
điều là đúng chỉ bởi vì chúng ta không có mắt có thể thấy
được chân lí. Chúng ta chỉ có tâm trí làm phát sinh cái không
thật. Chúng ta có tâm trí tạo ra giấc mơ, nhưng chúng ta
không có mắt thấy được chân lí. Do đó chúng ta có khả năng
thấy cái gì là giả và cái không tồn tại và chúng ta bỏ lỡ cái
tồn tại thực sự. Làm sao để sinh thành nên con mắt đó, con
mắt thứ ba, qua đó chúng ta có thể thấy được chân lí?
Có một đứa trẻ nhỏ: nó sống trong thế giới đồ chơi, đồ

chơi là thực tại đối với nó. Do đó nếu chân búp bê bị gẫy, nó
khóc cứ như là một người thật bị gẫy chân. Nó không thể nào
ngủ trong đêm nếu búp bê không có đó với nó trong giường.
Nó cảm thấy cùng sự mất mát như bất kì người yêu nào mất
người mình yêu.
Với đứa trẻ đồ chơi là thực tại. Nó sẽ cười chính nó sau
khi trở thành người lớn vì làm sao nó ngu vậy. Khi nó lớn
lên nó sẽ quên chúng hoàn toàn. Những đồ chơi đó có thể
nằm lăn lóc đâu đó trong góc vật vô dụng; thậm chí khi
chúng bị vứt đi, nó sẽ không khóc vì chúng. Điều gì đã xảy
ra? Những đồ chơi ấy vẫn thế, nhưng điều gì đã xảy ra cho
người này? Thông minh của người này đã lên cao hơn, người
này đã trở nên có thể thấy được nhiều hơn.
Nhưng một mình điều này sẽ không tạo ra mấy khác biệt.
Những đồ chơi sống khác nào đó sẽ thay thế cho những đồ
chơi này, những con búp bê. Trước đây nó ôm chặt con búp
bê trong lòng khi ngủ, bây giờ người đó sẽ ngủ ôm chặt một
người đàn bà sống trong lòng. Búp bê sẽ thay đổi, nhưng tâm
trí thì sao? Nhưng cũng có những phương pháp vươn lên trên
tâm trí này nữa. Rất ít người trong chúng ta làm điều đó. Mọi
người lớn lên từ tuổi thơ sang tuổi thanh niên. Tại sao? Bởi
vì trưởng thành vào tuổi thanh niên không đòi hỏi bạn phải
làm gì cả, đấy là trưởng thành tự nhiên.
Nếu điều cần thiết cho bạn là làm cái gì đó để lớn lên tới
tuổi thanh niên của bạn, chỉ một nhóm người sẽ đạt được
việc đó trên thế giới này, tất cả những người khác vẫn còn
chỉ là trẻ con. Nhưng bạn không phải làm gì cho nó; tuổi
thanh niên là điều không tránh khỏi, bạn chỉ cứ lớn lên. Thực
ra bạn không thể dừng nó lại được, bạn không thể ngăn cản
được nó - đó là lí do tại sao bạn đạt tới tuổi thanh niên.
Nhưng tâm thức tâm linh, không trưởng thành theo cách đó,
để có trưởng thành đó bạn phải làm cái gì đó. Trưởng thành
đó phụ thuộc vào quyết định của bạn. Tự nhiên không áp đặt
trưởng thành đó cho bạn, điều đó được để lại cho tự do và
chọn lựa riêng của bạn. Do đó chỉ có một nhóm nhỏ những
người có khả năng trở thành một Phật, một Krishna hay một
Christ... bởi vì đấy là một vấn đề dao động vất vả và nỗ lực.
Cái ngày bạn nhìn với con mắt thức tỉnh, toàn thể thế
giới sẽ xuất hiện cho bạn tựa như trò chơi trẻ con. Tại mức
độ chín muồi đó, mọi thứ của quá khứ trở thành giả đối với
bạn.
Kinh này nói rằng trong thực tại chỉ có một Brahman. Và
về Brahman này có một vài hướng dẫn rất quan trọng được
nêu ra trong kinh. Nhiều trong số những thuộc tính đó là
quen thuộc với chúng ta, và tôi sẽ không thảo luận về chúng.
Hoàn hảo, vô thuỷ vô chung, không đo được, không thay
đổi, nơi cư ngụ của chân lí, nơi cư ngụ của tâm thức, nơi cư
ngụ của phúc lạc, vĩnh viễn, bất khả diệt, toàn diện, đều
khắp, toàn thể, vô hạn, với đầu ở mọi hướng... Đây là những
từ quen thuộc chúng ta đã dùng cho Brahman. Nhưng hai
hay ba từ trong số đó có thuộc tính kì diệu. Không thể bị mất
hay tìm được... là một phát biểu rất quan trọng. Cái gì đó
không thể bị vứt bỏ hay bị nắm giữ: điều này nghĩa là gì?
Mọi người tới tôi và nói, “Chúng tôi muốn tìm Thượng
đế.” Tôi hỏi họ, “Các bạn đã lạc Thượng đế ở đâu và khi
nào?” Bởi vì bất kì cái gì bị thất lạc, đều có thể được tìm lại,
nhưng nếu cái gì đó không mất đi chút nào, đấy là vấn đề
khó khăn. Họ nói họ không biết liệu Thượng đế có bị thất lạc
không và khi nào, ở đâu. Tôi yêu cầu họ trước hết hãy chắc
chắn xem liệu họ đã bao giờ thất lạc Thượng đế chưa, bởi vì
nếu bạn chưa bao giờ làm thất lạc và tôi bảo bạn cách tìm
kiếm nó, bạn sẽ trong khó khăn hơn. Bạn sẽ bắt đầu cuộc

hành trình tìm cái mà bạn chưa bao giờ làm thất lạc; làm sao
bạn thành công được? Chính việc tìm kiếm của bạn sẽ dẫn
bạn lạc lối.
Thượng đế là bản tính của chúng ta - làm sao chúng ta có
thể làm mất ngài được? Chúng ta có thể quên ngài nhưng
chúng ta không thể mất ngài.
Cố hiểu khác biệt này. Có thể bạn đã quên - bạn có thể
không để ý tới người đang ẩn bên trong mình trong một thời
gian dài. Nó ở gần bạn đến mức có thể không có nhu cầu để
ý tới người bên trong đó. Tập trung của người ta có thể đã
dồn vào những vật ở xa xa, quên mất cái ở bên trong. Tất cả
những điều này đều có thể, nhưng thất lạc người bên trong là
không thể được.
Đây là lí do tại sao tất cả các thánh nhân đều nói rằng chỉ
cần nhớ lại là đủ, tìm kiếm là không cần thiết. Đấy là lí do tại
sao Nanak, Kabir, Dadu, Raidas, tất cả họ đều nhấn mạnh
vào nam smaran, nhớ lại tên mình. Nam smaran chỉ có nghĩa
là đơn giản không nảy sinh vấn đề tìm kiếm cái mà chưa bao
giờ bị mất, chỉ cần cố gắng nhớ lại ngài. Mà thậm chí cũng
không phải là nhớ lại nữa, gần giống như việc bạn tự lưu tâm
về cái bao giờ cũng có đó.
Kinh này rất cách mạng.
...không thể bị mất hay tìm được...

Cái không bao giờ mất đi là bản tính tinh tuý của chúng
ta. Nếu nó có thể bị mất, nó không thể là bản tính tinh tuý
của chúng ta được. Nếu lửa có thể mất tính nóng bỏng của
nó, tính nhiệt của nó, thế thì nó không có bản tính tinh tuý
của nó. Nếu lửa lại lạnh lẽo, đấy là cái gì đó khác, không
phải lửa.
Nóng là bản tính của lửa. Trống rỗng là bản tính của bầu
trời. Bản tính là cái gì đó không thể bị tách rời khỏi chúng ta,
dù bất kì cái gì có thể xảy ra. Bất kì cái gì mà chúng ta có thể
bị tách ra khỏi nó đều không phải là bản tính của ta. Để chân
lí này chìm sâu vào trong bạn.
Cái gì đó, mà chúng ta có thể được tách bạch khỏi nó,
không phải là bản tính của chúng ta. Cái gì đó mà chúng ta
có thể được hợp nhất với nó, không phải là bản tính của ta.
Chúng ta có thể phá ra khỏi cái mà chúng ta có thể được hợp
nhất vào. Chính bản thể của chúng ta là ở chỗ chúng ta
không thể nào được tách ra cũng như được hợp nhất vào.
Brahman là bản thể chúng ta. Không có cách nào thoát khỏi
nó, không có cách nào tránh né nó, không có cách nào mất
nó, không có cách nào tìm thấy nó.
Nhưng nếu những điều như vậy được nói cho người dốt,
người đó sẽ nói, “Thôi được; thế thì cần gì phải đi tìm cái mà
không bao giờ mất cả? Và cần gì phải đi tìm cái bao giờ
cũng có đó? Thôi được - thế thì cứ để chúng tôi yên trong
cuộc sống trần thế này. Cần gì nữa nào - tại sao thử cái ý
tưởng kì quặc ấy?”
Không, không thể nói như thế cho người dốt được.
Người dốt sẽ phải được bảo, “Bạn đã đánh mất ngài; bạn đã
mất con người thực của bạn - tìm lại nó đi. Chừng nào bạn
còn chưa tìm thấy nó, bạn sẽ vẫn còn trong đau khổ. Chừng
nào bạn còn chưa tìm thấy Thượng đế, cuộc sống của bạn sẽ
không là gì ngoài nỗi thống khổ, lo âu và bi thảm.”
Người dốt hiểu ngôn ngữ này của tìm kiếm, người đó
cảm thấy thoả đáng với nó. Người đó đã tìm kiếm mọi thứ -
tiền tài, địa vị, danh vọng - cho nên người đó nói, “Tốt, ít
nhất, việc tìm kiếm sẽ tiếp tục; bây giờ mình sẽ tìm kiếm tôn
giáo thay vì tiền tài.”

Người dốt hiểu ngôn ngữ này. Qua cuộc đời mình, thực
ra trong nhiều, nhiều kiếp, người đó đã làm chỉ một việc -
tìm kiếm. Người đó biết chỉ một nghề: hôm nay tìm kiếm cái
này, ngày mai tìm kiếm cái kia. Cho nên người đó nói,
“Được thôi: trước đây tôi đã tìm kiếm tiền tài, danh vọng và
địa vị; và ông nói không có hạnh phúc trong chúng - và tôi
cũng kinh nghiệm rằng không có hạnh phúc trong chúng -
cho nên bây giờ tôi sẽ tìm kiếm Thượng đế của ông. Nó cũng
hợp thôi.”
Sau khi người đó đã bắt đầu tìm kiếm, thế rồi về sau
người đó sẽ được bảo thêm, “Thượng đế không thể được đạt
tới đâu; chừng nào ông còn chưa vứt bỏ mọi việc tìm kiếm,
ông không thể tìm thấy được Thượng đế.” Bây giờ người đó
lâm vào khó khăn. Người đó đã vứt bỏ tìm kiếm tiền tài, địa
vị và danh vọng vì chúng vô tích sự, và trong hi vọng rằng
bây giờ người đó đang tìm kiếm cái gì đó có nghĩa người đó
đã đi vào việc tìm kiếm Thượng đế. Và khi người đó đã đi xa
trong việc tìm kiếm và không thể quay lại được - bây giờ
người đó không thể quay lại để tìm kiếm tiền tài nữa, cái đã
trở nên vô nghĩa; thực ra đấy là lí do tại sao người đó lại
quay theo hướng của cái mới này, có nghĩa này - thầy người
đó sẽ bảo người đó vứt bỏ mọi việc tìm kiếm.
Đầu tiên người đó đã từ bỏ tiền bạc, địa vị và danh vọng,
nhưng người đó vẫn giữ lại một nửa đồng tiền - bản thân
việc tìm kiếm. Người đó đã từ bỏ tiền bạc, nhưng giữ lại việc
tìm kiếm. Tiền tài đã ở bên ngoài, tìm kiếm ở bên trong. Dễ
dàng vứt bỏ cái ở bên ngoài, nhưng bây giờ thầy yêu cầu
người đó vứt bỏ mọi tìm kiếm, bởi vì, thầy nói, “Điều ông
đang tìm kiếm cho mình, chưa bao giờ mất chút nào.”
Khi ai đó từ bỏ cả việc tìm kiếm nữa, người đó lập tức đi
vào trong cái mà người đó luôn luôn ở tại đó. Thượng đế là
chính hiện hữu của bạn. Do đó kinh này là rất cách mạng và
rất giá trị.
...không thể bị mất hay tìm được...
Khi Phật trở nên chứng ngộ ai đó đã hỏi ông ấy, “Thầy
đã đạt tới cái gì?” Phật đáp, “Ta không đạt tới cái gì cả. Ta
chỉ đi tới biết cái ta đã có.” Nói cho bạn, “Ta không đạt tới
cái gì cả,” là một sai lầm của Phật. Với một phát biểu như
thế bạn sẽ lập tức phản ứng lại và nói, “Về thôi, để chúng tôi
quay về với công việc riêng của mình đi. Chúng tôi đã phí
hoài không cần thiết tám ngày với người này... và bây giờ,
ông ta nói ông ta không đạt được cái gì cả khi ông ta trở nên
chứng ngộ. Thế thì tại sao chúng tôi làm việc vất vả này, mọi
thứ chạy nhảy và phát mệt lên?... và người này nói chẳng cái
gì được đạt tới vào chỗ cuối.”
Phật nói, “Ta đã không đạt tới cái gì.” Người hỏi nói,
“Thầy đã không đạt được gì sao? Thế thì thầy đang giảng cái
gì cho mọi người?” Phật đáp, “Chính việc này đây, việc mà
ông đi tới một trạng thái không còn gì cần được đạt tới hay
bị mất và điều này trở thành kinh nghiệm riêng của ông -
rằng không cái gì có thể được đạt tới và không cai gì có thể
bị mất.”
Nhưng đây là cái gì đó chỉ có thể được hiểu bởi người
biết.
vô hỗ trợ, độc lập, trống rỗng mọi thuộc tính, vô hành
động, vi tế, vô chọn lựa, không tì vết, không định nghĩa
được, bên ngoài tâm trí và lời nói, thực sự phong phú,
hiển nhiên, thuần khiết, có ý thức...

Cũng có những từ quen thuộc với chúng ta. Không giống
bất kì cái gì chúng ta biết... Nó không thể được so sánh với
bất kì cái gì; nó là duy nhất, vô song. Bất kì so sánh nào
được đưa ra cũng đều là sự bố trí tạm thời. Chúng ta nói,
“Nó trống rỗng tựa như bầu trời.” Nhưng điều này cũng
không đúng, vì bầu trời cũng bị chứa trong ngài. Nó còn lớn
hơn bầu trời, thậm chí nó không thể được so sánh với bầu
trời.
Chúng ta nói, “Nó toả sáng như siêu mặt trời.” Nhưng
điều này cũng chỉ là việc nói nhỏ, bởi vì thậm chí siêu mặt
trời cũng không là gì ngoài ngọn đèn tí hon trước nó. Nó
không thể được so sánh với mặt trời.
Chúng ta nói, “Nó là bản thân phúc lạc.” Khi chúng ta
nói điều này đâu đó trong tâm trí mình chúng ta đang đo
lường nó bằng hạnh phúc. Nó không liên quan gì tới hạnh
phúc cả. Chúng ta nói, “Nó là an bình.” Thế thì trong tâm trí
chúng ta có đâu đó một ý tưởng về an bình là cái gì đó đối
lập với bất ổn. Không, nó chưa bao giờ kinh nghiệm bất ổn
cả; do đó nó không có bất kì ý tưởng nào về an bình của
chúng ta.
Mọi so sánh của chúng ta đều vô dụng. Với kinh nghiệm
đó mọi sự tương tự đều không thích hợp. Những người thấy
đã mô tả nó chỉ như bản thân nó - không giống bất kì ai hay
bất kì cái gì khác, chỉ giống bản thân nó. Không có cách nào
mô tả nó bằng cách dùng sự tương tự với bất kì cái gì chúng
ta đã biết. Nhưng dầu vậy nó được mô tả cho người dốt nát
rằng nó giống thế này thế nọ. Chỉ đến cuối của việc tìm kiếm
mà nó được thấy rằng nó không giống bất kì cái gì.
Thực tại không có gì khác ngoài cái một và Brahman bất
nhị,
Vậy, việc biết qua kinh nghiệm riêng của ông rằng linh
hồn là không thể phân chia được, là được hoàn thành và
cư ngụ một cách phúc lạc trong linh hồn vô thay đổi.
Theo cách này... việc biết qua kinh nghiệm riêng của ông
rằng linh hồn là không thể phân chia được, là được hoàn
thành... Điều đó sẽ không có tác dụng để biết kinh sách.
Kinh sách có thể nói mọi điều - điều đó sẽ không có tác
dụng. Giải pháp sẽ không tới cho bạn bởi việc lắng nghe
chúng, không cái gì sẽ xảy ra. Bạn phải được hoàn thành qua
kinh nghiệm riêng của bạn.

Người đã mãn nguyện, siddha, là một người mà với
người đó không còn cuộc hành trình nữa, không còn chuyển
động thêm nữa - một người mà cái trại cuối cùng, đích đến
cuối cùng đã tới. Mọi con đường đều kết thúc ở đây.
Người chưa mãn nguyện, asiddha, là người như chúng ta
bây giờ. Asiddha nghĩa là, người vẫn còn cái gì đó nữa phải
làm, cái gì đó còn chưa xảy ra cho người đó trở nên hạnh
phúc, cái gì đó còn chưa được đạt tới mà mà hạnh phúc được
mong đợi sẽ theo sau nó.
Hạnh phúc của người chưa mãn nguyện phụ thuộc vào
cái gì đó khác. Người đó phải gặp người đàn bà nào đó,
người đàn ông nào đó; phải sở hữu một ngôi nhà nào đó,
mảnh đất nào đó; người đó phải có địa vị nào đó, phải trở
thành tổng thống, thủ tướng, hay thành thế này thế nọ. Hạnh
phúc của người đó ở đâu đó trong cái gì đó, trong vật nào đó,
và khi cái đó được đạt tới, người đó sẽ có hạnh phúc.
Một siddha, người đã mãn nguyện, nghĩa là người đang
hạnh phúc trong hiện hữu riêng của người đó. Dù người đó
được cái gì đó, dù người đó không được cái gì đó, điều đó
không thành vấn đề. Dù cái gì đó đến với người đó hay cái gì

đó bị lấy đi khỏi người đó... hạnh phúc của người đó không
phụ thuộc vào bất kì cái gì khác ngoài chính hiện hữu riêng
của người đó: ‘Tôi đây’ là đủ. Không có điều kiện khác
thuộc bất kì loại gì. Người có hạnh phúc vô điều kiện là một
siddha. Hạnh phúc của người đó là ở đây và bây giờ.
Hạnh phúc của bạn bao giờ ở lúc nào đó và ở đâu đó
trong tương lai; hạnh phúc của bạn không bao giờ ở đây và
bây giờ. Bạn đã bao giờ thấy một người có thể nói, “Tôi
đang hạnh phúc ở đây và bây giờ” không? Ở đây và bây giờ
mọi người đều bất hạnh, hạnh phúc của họ ở đâu đó trong
tương lai.
Tôi có một người bạn là thứ trưởng của một bang. Anh ta
rất bất hạnh. Tôi hỏi, “Có vấn đề gì với anh vậy?”
Anh ta nói, “Chừng nào tôi chưa là bộ trưởng, tôi không
hạnh phúc được.”
Sau đó một thời gian anh ta trở thành bộ trưởng. Về sau
khi tôi gặp anh ta, anh ta vẫn không hạnh phúc. Tôi hỏi anh
ta, “Bây giờ vấn đề là gì? Anh đã trở thành bộ trưởng rồi;
bây giờ anh đáng phải mãn nguyện chứ?”
Anh ta nói, “Mãn nguyện sao? Chừng nào tôi chưa trở
thành bộ trưởng chủ chốt, không có hạnh phúc. Tôi đang cố
gắng hết sức - đôi khi tôi sẽ đạt tới đó.”
Rồi anh ta cũng trở thành bộ trưởng chủ chốt. Tôi lại hỏi
anh ta liệu bây giờ anh ta đã được mãn nguyện chưa. Anh ta
nói, “Sao anh cứ theo tôi mãi thế? Mãn nguyện dường như
chẳng có đâu xung quanh cả. Tôi đã trở thành bộ trưởng chủ
chốt nhưng chẳng cái gì được giải quyết trong đời tôi cả. Và
đồng thời bây giờ nhiều chức vụ hơn lại trở nên trong tầm
thấy; có lẽ khi nào tôi đạt tới đó đã...”
Hạnh phúc bao giờ cũng cứ lùi xa khỏi bạn. Đấy là đặc
trưng của người chưa mãn nguyện. Đặc trưng của người mãn
nguyện là ở chỗ hạnh phúc là ở đây và bây giờ. Không có
vấn đề về tình huống, không có vấn đề cái gì xảy ra bên
ngoài, không có gì thay đổi trong luồng chảy của suối nguồn
hạnh phúc bên trong. Và cũng không có điều kiện nào được
gắn với nó. Bất kì ai tạo ra điều kiện đều nhất định bất hạnh.
Không điều kiện nào đã bao giờ được hoàn thành. Và cho dù
những điều kiện đặt ra có được hoàn thành đi chăng nữa, cái
tâm trí luôn tạo điều kiện ấy sẽ liền tạo ra những điều kiện
mới.
Nó giống như lá trên cây vậy. Lá úa rụng xuống - điều
đó không tạo ra khác biệt vì lá mới sẽ tới. Thực ra, bởi vì lá
mới muốn tới, lá úa rụng. Lá mới bắt đầu đẩy từ bên trong để
nhú ra, và lá úa bắt đầu rụng. Ngay khi lá úa đã rụng xuống,
lá mới nhú ra. Điều kiện cũ rơi rụng đi chỉ khi điều kiện mới
bắt đầu đẩy từ bên trong để ló ra bề mặt. Trên cây lá mọc;
trong tâm trí con người các điều kiện phát triển.
Cuộc sống của bất kì ai là có điều kiện, bất hạnh sẽ là kết
quả. Cuộc sống của bất kì ai là vô điều kiện, bất kì ai đang
hạnh phúc ở đây và bây giờ không cần lí do gì - nghĩa là
hạnh phúc của người đó không tới từ bên ngoài mà từ bên
trong, dòng suối hạnh phúc của người đó tuôn chảy từ bên
trong cái ta riêng của người đó - từ cội nguồn, tận đài phun -
là người mãn nguyện. Nó không phải là cái gì đó được cầu
xin từ người khác. Cho dù toàn bộ thế giới này có biến mất,
cho dù tất cả các ngôi sao và trăng tan rã hết, cho dù toàn bộ
loài người có chấm dứt, cũng không có thay đổi gì trong
hạnh phúc của một người đã mãn nguyện.
Nhưng với bạn sẽ không có khác biệt trong bất hạnh của
bạn cho dù toàn bộ thế giới có được tạo ra theo ước muốn
của bạn. Có lẽ bạn sẽ trở nên bất hạnh hơn. Khi mọi nhu cầu

của người ta đều được đáp ứng, người ta đi tới nhận ra... tất
cả những lao động đó, tất cả những công việc vất vả đó và
thực sự không cái gì được thu lại. Người ta trở nên bất hạnh
hơn.
Để là một người mãn nguyện, kinh này nói:
Vậy, việc biết qua kinh nghiệm riêng của ông rằng linh
hồn là không thể phân chia được, là được hoàn thành và
cư ngụ một cách phúc lạc trong linh hồn vô thay đổi.

Ở trong nó, vẫn còn trong đó, ở lại trong nó và được lắng
đọng trong nó. Là một với nó. Không nhìn ra ngoài. Chỉ nhớ,
đứng lên hay ngồi xuống, tìm hạnh phúc vô điều kiện. Đi,
ngủ, bước, ăn và uống - dù tình huống có thể là bất kì cái gì -
tìm hạnh phúc vô điều kiện. Cứ hạnh phúc đi.
Điều này dường như rất kì lạ với chúng ta khi nói với ai
đó, “Cứ hạnh phúc đi.” Người đó sẽ hỏi, “Làm sao hạnh
phúc được?” Bởi vì tất cả chúng ta đều có ý tưởng rằng hạnh
phúc tới từ bên ngoài. Hạnh phúc từ bên trong đi! - đây là cái
gì đó chúng ta không có khả năng hiểu nổi. Chúng ta chưa
bao giờ biết tới hạnh phúc bên trong.
Đi tìm nó đi. Bên trong bạn đầy hạnh phúc. Thu lấy dũng
cảm rồi đi vào trong. Vứt bỏ tấm màn điều kiện và bạn sẽ
thấy rằng bạn trở thành tràn đầy với hạnh phúc... nhiều đến
độ nếu bạn muốn bạn có thể trút đầy toàn bộ thế giới bằng
hạnh phúc của bạn. Nó sẽ tiếp tục lan toả khắp nơi xung
quanh.
Chúng ta bao giờ cũng đòi hỏi từ người khác. Chúng ta
đang đòi hỏi từ những người mà bản thân họ đang đòi hỏi từ
phía chúng ta. Đấy là một đám đông những kẻ ăn xin, đứng
trước nhau chìa ra bát xin ăn với hi vọng rằng cái gì đó có
thể được nhận - và tất cả đều đang ăn xin cả. Bạn đã bao giờ
nghĩ rằng toàn thể thế giới này là một cộng đồng những kẻ
ăn xin không?
Tôi đến với bạn để cho bạn có thể cho tôi hạnh phúc nào
đó, bạn đến với tôi để cho tôi có thể cho bạn hạnh phúc nào
đó. Tôi không tìm thấy hạnh phúc nào trong tôi, bạn không
tìm thấy hạnh phúc nào trong bạn. Do đó mọi quan hệ của
chúng ta chỉ cho bất hạnh. Không ai cho hạnh phúc - không
ai có thể cho - vì làm sao bạn có thể cho cái gì đó mà bạn
không có được? Chúng ta không cho được người khác cái
mà chúng ta không có.
Bố đem lại hạnh phúc cho con. Vợ đem hạnh phúc cho
chồng. Con đem hạnh phúc cho mẹ. Trong cả thế giới này
mọi người đều đem hạnh phúc cho người khác và mọi người
đều cay đắng than vãn rằng mình bất hạnh. Dường như
không có ai trở nên hạnh phúc. Bản thân bạn không có hạnh
phúc, và bạn lại định đi ban phát nó cho người khác sao?
Trong thế giới này, chỉ có một cách trở nên hạnh phúc và
đấy là đừng đi tới bất kì ai để hỏi điều đó. Nó không có cùng
những người khác, nó ở bên trong bạn. Bằng cách vứt bỏ
mọi đòi hỏi của bạn, bạn dừng tìm kiếm nó. Cho dù bạn đang
cảm thấy bất hạnh bạn dừng lại trong nó đi, bạn đợi; đừng đi
xin từ người khác. Rồi một hôm nào đó, bỗng nhiên bạn sẽ
nhận ra rằng vì bạn đã vứt bỏ thói quen ăn xin, hòn đá bên
trong được vứt bỏ đi và dòng chảy trào ra, tràn đầy từng tế
bào thân thể bạn bằng hạnh phúc.
Hạnh phúc này vô nguyên nhân. Không ai có thể lấy nó
đi khỏi bạn, nó tới từ bên trong bạn. Và thế rồi có thể là
người khác khi tới tiếp xúc với bạn có thể được chạm tới
dòng suối nguồn hạnh phúc đó.
Điều rất thú vị cần lưu ý là chúng ta đang đòi hỏi hạnh

phúc, và chúng ta cũng muốn cho hạnh phúc. Chúng ta
không có khả năng cho hạnh phúc và chúng ta không có khả
năng nhận hạnh phúc. Một người như vậy, người có suối
nguồn hạnh phúc riêng đã ùa ra, có cội nguồn riêng đã mở
ra, không còn đòi hỏi hạnh phúc từ người khác nữa, người đó
cũng không ham muốn cho người khác hạnh phúc; nhưng từ
người như vậy, hạnh phúc đơn giản được nhận bởi nhiều
người.
Không vị phật nào đã bao giờ đi cho hạnh phúc cho bất
kì ai, nhưng chỉ sự hiện diện của ông ấy... Hoa đã nở trong
người đó, hưong thơm của chúng, đài phun hạnh phúc đã mở
ra bên trong người đó, âm thanh rì rào của nó - tất cả những
cái đó âm vang và vươn tới bất kì ai đến gần người đó, người
cởi mở và không ngồi với cánh cửa trái tim đóng kín.
Và bất kì ai ngồi gần một người như Phật với mắt mở to
cũng có khả năng thấy rằng hạnh phúc của Phật dường như
không tới từ đâu đó bên ngoài, dường như không phụ thuộc
vào bất kì ai, nó dường như tuôn chảy từ bên trong cái ta
riêng của ông ấy. Tia sáng của người đó không phải là vay
mượn, chúng là của riêng người đó. Người đó không giống
như mặt trăng phản xạ tia sáng mặt trời; người đó tựa như
mặt trời có ánh sáng riêng của mình, tia sáng riêng của người
đó toả ra trực tiếp từ người đó.
Điều này chúng ta đã gọi là satang. Ngồi gần một người
như Phật là satang. Có lẽ điều này sẽ làm chấn động chúng ta
ra khỏi cái ngu đần, có lẽ hòn đá ngáng cản chúng ta có thể
cũng tới lúc dịch chuyển, có lẽ khi thấy rằng ai đó có thể
hạnh phúc trong bản thân người đó, ảo tưởng của chúng ta
rằng người khác có thể đem lại cho chúng ta hạnh phúc sẽ
tan tành. Chúng ta cứ đòi hỏi hạnh phúc từ người khác và giữ
mãi ảo tưởng rằng nó sẽ đến một ngày nào đó - nếu không
phải hôm nay, thế thì ngày mai, hay ngày kia - nhưng nó sẽ
đến từ người khác.
Làm cho bản thân bạn thành vô điều kiện, bỏ mọi đòi
hỏi, từ bỏ mọi hi vọng rằng hạnh phúc sẽ tới với bạn từ
người khác; thế thì một ngày nào đó hạnh phúc được đạt tới.
Đây là trạng thái của một siddha, người mãn nguyện, khi
suối nguồn hạnh phúc của người đó được đạt tới.
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

#17Tôi là điều này

Lắng nghe những giáo huấn này từ thầy, đệ tử trở nên
chứng ngộ và bắt đầu nói: Tôi vừa thấy thế giới bây giờ,
nó đã đi đâu rồi? Ai đã đem nó đi mất? Nó đã trở nên
tan biến vào cái gì? Đó là điều ngạc nhiên lớn lao! Nó
không tồn tại sao?
Trong đại dương vĩ đại của Brahman, đầy những cam lồ
của phúc lạc vô tận, bây giờ tôi phải từ bỏ cái gì và phải
lấy cái gì? Bây giờ cái khác là cái gì và cái phi thường là
cái gì?
Ở đây tôi không thấy gì, tôi không nghe thấy gì và tôi
không biết gì, bởi vì tôi bao giờ cũng trong linh hồn phúc
lạc của tôi và bản thân tôi là bản tính riêng của tôi.
Tôi vô gắn bó, vô thân thể, vô giới tính, bản thân tôi là
Thượng đế; tôi là im lặng tuyệt đối, tôi là vô hạn, tôi là
cái toàn thể và cái cổ đại nhất.
Tôi không là người làm, tôi không là người khổ, tôi
không thay đổi và không cạn kiệt, tôi là chỗ trú ngụ của
tri thức thuần khiết, tôi là một mình và tôi là to lớn vĩnh
hằng.
Tri thức này do thầy trao cho Atpantaram, Atpantaram
trao nó cho Brahma, Brahma trao nó cho Ghorangiras,
Ghorangiras trao nó cho Raikva, Raikva trao nó cho
Rama và Rama trao nó cho mọi sinh linh. Đây là thông
điệp của niết bàn và đây là giáo huấn và kỉ luật của
Veda.
Do vậy chấm hết Upanishad này.

Lắng nghe những giáo huấn này từ thầy, đệ tử trở nên
chứng ngộ...

Điều được phát biểu trong kinh này không chỉ khó hiểu,
nó có thể dường như là không thể được với chúng ta. Làm
sao người ta có thể trở nên chứng ngộ chỉ bằng việc lắng
nghe? Tâm trí logic của chúng ta không thể hiểu được nó.
Nếu lắng nghe đã thực sự xảy ra, điều đó không phải là
không thể được, nhưng bởi vì chúng ta không biết cách lắng
nghe, dường như là không thể có việc chỉ lắng nghe đệ tử trở
nên chứng ngộ.
Đầu tiên chúng ta hãy hiểu điều này trước khi đi vào
kinh. Có một khác biệt nền tảng giữa kỉ nguyên hiện thời của
khoa học và kỉ nguyên khi Upanishad được sinh ra. Trong
những ngày đó khi Upanishad được sinh ra cơ sở của tâm trí

là tin cậy. Bây giờ cơ sở của tâm trí là hoài nghi. Trong
những ngày đó tin cậy đã là tự nhiên như hoài nghi là tự
nhiên ngày nay. Tâm trí đã trải qua thay đổi cách mạng. Với
việc ra đời của khoa học, hoài nghi đã thu được một loại giá
trị nào đó. Tại sao? Vì khoa học được sinh ra từ hoài nghi.
Khoa học chỉ hoài nghi. Hoài nghi đúng là chìa khoá để
phát triển khoa học. Sự kiện khoa học chỉ có thể được khám
phá ra nếu người ta cứ hoài nghi.
Hoài nghi là quá trình khám phá chân lí của khoa học.
Khi các khám phá khoa học bắt đầu trở thành hữu dụng cho
con người, khi nó lan toả từ cây kim nhỏ bé nhất cho tới bom
nguyên tử, khoa học bắt đầu thu được uy tín. Và khi nó trở
thành không thể được để con người sống không có khoa học
và khoa học bắt đầu thắng trong mọi lĩnh vực và ngọn cờ
thắng lợi của nó bắt đầu tung bay trong thế giới vật chất, một
cách tự nhiên hoài nghi cũng thu được uy tín bởi vì khoa học
được sinh ra từ hoài nghi.
Khi khoa học trở nên chiến thắng trong thế giới vật chất,
hoài nghi cũng thu được uy tín. Ngày nay trên toàn thế giới
bất kì giáo dục nào chúng ta truyền đạt đều là giáo dục về
hoài nghi. Ngay từ bậc đầu tiên đến bậc cuối cùng của đại
học chúng ta dạy hoài nghi, bởi vì không có hoài nghi, không
có suy nghĩ. Nếu người ta phải nghĩ, người ta phải hoài nghi.
Suy nghĩ càng được làm sắc bén, khía cạnh hoài nghi được
yêu cầu càng sắc bén.
Toàn thể cấu trúc của thế giới hiện đại được tạo ra xung
quanh khoa học. Khoa học đã đi vào mọi thứ - việc ăn của
chúng ta, uống, ngồi, dậy, đi và sống. Nhưng bởi vì khoa học
tồn tại chỉ trên nền tảng của hoài nghi, hoài nghi cũng đã trở
thành hòn đá nền tảng của tâm trí con người hiện tại. Ngày
nay không ai có thể chấp nhận bất kì cái gì một cách yên tĩnh
nữa. Tin cậy không phải là lời nói của hôm nay.
Khi Upanishad được viết ra, tin cậy có cùng uy tín như
hoài nghi có ngày nay. Cũng hệt như hoài nghi là cơ sở cho
khoa học, tin cậy là cơ sở cho tôn giáo. Để cho điều này
được hiểu đúng. Hệt như suy nghĩ không thể tồn tại mà
không có hoài nghi, trạng thái vô trí không thể nảy sinh mà
không có tin cậy.
Hoài nghi và tin cậy là đối lập nhau. Nếu người ta muốn
nghĩ, hoài nghi đúng là cần thiết. Thế thì người ta nên hoài
nghi một cách dũng cảm, mọi li trên đất đều phải đặt vào
kiểm thử, và không cái gì được chấp nhận mà không chuyển
nó qua kiểm thử của logic. Bất kì hậu quả gì, logic vẫn phải
còn là chỗ ẩn náu duy nhất và hoài nghi là con thuyền duy
nhất nếu người ta phải làm bất kì tiến bộ nào trong quá trình
suy nghĩ. Và nếu bất kì kết luận nào phải được đạt tới qua ý
nghĩ, hoài nghi là con đường.
Nhưng tôn giáo không liên can gì tới suy nghĩ. Chính
quá trình tôn giáo là cái đối lập. Tôn giáo nói người ta phải
vượt ra ngoài ý nghĩ. Và bởi vì người ta phải vượt ra ngoài ý
nghĩ, không có chỗ cho hoài nghi, không dùng tới hoài nghi;
con thuyền hoài nghi vô dụng ở đây. Nếu người ta định vượt
ra ngoài tâm trí, sẽ phải dùng tới cái gì đó đối lập với hoài
nghi, bởi vì hoài nghi là cơ sở cho ý nghĩ.
Tin cậy là đối lập của hoài nghi; nó là chấp chận, đức tin.
Đây là hai con thuyền khác nhau, hành trình của chúng khác
nhau.
Nếu ai đó muốn trở thành nhà khoa học, người đó không
thể làm như vậy qua tin cậy. Nếu ai đó muốn trở thành tôn
giáo, người đó không thể làm như vậy mà không có tin cậy.
Hệt như ngày nay khoa học đang ở đỉnh cao và đã lan tràn
trong toàn bộ cuộc đời chúng ta, tương tự như thế, ngày xưa,

tôn giáo đã ở đỉnh cao và đã đi vào từng tế bào, thớ thịt của
cuộc sống chúng ta. Trong những ngày ấy đạt tới thành công
trong tôn giáo là mục đích. Trong những ngày ấy dù người ta
có trở thành nhà khoa học vĩ đại đến đâu, cũng vẫn không có
sức quyến rũ mọi người như một địa vị đáng đạt tới. Thành
tựu lớn nhất trong những ngày ấy là thành tựu của một Phật,
một Krishna, một Angirasa, một Raikva. Trong những ngày
ấy chúng ta đã rất kính trọng những người như thế. Hệt như
ngày nay khoa học đang ở cực đỉnh vinh quanh của nó, trong
những ngày ấy tôn giáo đã ở cực đỉnh vinh quang của nó.
Khi khoa học đang ở đỉnh cao của nó, số đồ vật tăng lên,
số máy móc tăng lên, tính hiệu quả tăng lên và phương tiện
giải trí tăng lên. Khi tôn giáo thành công, tâm thức tăng lên,
linh hồn phát triển và bí ẩn duy nhất của vô ham muốn được
đạt tới. Khi khoa học phát triển, cuộc hành trình vào các đối
tượng bên ngoài tăng lên; khi tôn giáo phát triển cuộc hành
trình bên trong tăng lên. Hai điều này là đối lập, hướng của
chúng là đối lập. Trong những ngày xưa ấy đã có những
ngòn đèn hiệu cao cấp của tôn giáo và tâm trí của toàn bộ
quần chúng đã bị ảnh hưởng bởi những ngọn đèn này. Đã có
những trường, đại học, những đại học của các thầy trong
rừng - mọi giáo huấn đều về tin cậy. Cho nên tin cậy đã tuôn
chảy trong máu chúng ta. Chấp nhận là tự nhiên, không chấp
nhận là rất khó khăn. Người ta phải làm nỗ lực lớn trong vứt
bỏ cái gì đó, nhưng chấp nhận là vô nỗ lực.
Ngày nay, tình huống là sự đảo ngược lại. Ngày nay
không cần nỗ lực chút nào để bác bỏ; đấy là khuynh hướng
tự nhiên của chúng ta. Để chấp nhận cái gì đó người ta phải
nỗ lực không mệt mỏi, và vậy mà vẫn còn điều gì đó bên
trong bạn cứ liên tục bảo bạn rằng điều đó có thể đúng, điều
đó có thể không đúng; nó có thể là thủ đoạn, lừa dối. “Bản
thân mình đã không biết về nó, ai đó khác đã biết về nó, ai
biết được nó đúng thế nào?”
Khi khoa học thắng, hoài nghi thắng. Đây là lí do tại sao
khoa học không thể được sinh ra ở Ấn Độ được. Nó đã
không thể có được. Nơi tin cậy là sâu sắc, không thể có được
bất kì cuộc hành trình nào trong khoa học. Đây là lí do tại
sao những ngày của Upanishad đã là những ngày của không
khoa học; đã không có phát triển của khoa học. Điều này
cũng là lí do tại sao không thể có bất kì sự phát triển nào của
tôn giáo ở phương Tây ngày nay, bởi vì khoa học đã trở nên
thành công ở đó và hoài nghi đã thắng. Hai cuộc hành trình
là đối lập.
Phương Đông đã cho tôn giáo bởi vì nó đã cho tâm trí cơ
sở của sự tin cậy; phương Tây đã cho khoa học, bởi vì nó
cho tâm trí cơ sở của hoài nghi. Tôi không nói rằng hoài nghi
là sai, tôi không nói rằng hoài nghi là đúng. Tôi không nói
rằng tin cậy là đúng, tôi không nói rằng tin cậy là sai. Hiểu
quan điểm của tôi cho đúng.
Nếu ai đó dùng tin cậy cho khoa học, điều đó là sai. Nếu
ai đó dùng hoài nghi cho tôn giáo, điều đó là sai. Nếu ai đó
dùng tin cậy trong tôn giáo, điều đó là đúng; nếu ai đó dùng
hoài nghi trong khoa học, điều đó là đúng. Hoài nghi có khả
năng riêng của nó.
Để biết vật chất, hoài nghi có cách dùng được chấp nhận
của nó; để biết bản thân người ta, nó bất lực. Tin cậy không
có năng lực để biết về vật chất, nhưng để biết về bản thân
người ta, một mình tin cậy có năng lực. Khi chúng ta cố gắng
dùng một phương tiện từ thế giới này vào thế giới đối lập,
chúng ta gặp khó khăn. Không cần phải làm điều như thế.
Nếu tôi muốn đi ra ngoài nhà tôi phải quay mặt ra bên ngoài
nhà và lưng hướng vào trong nhà. Nếu tôi muốn đi vào nhà,
mặt tôi phải hướng vào nhà và lưng tôi phải hướng ra bên

ngoài.
Tin cậy là quay mặt hướng vào nhà, hoài nghi là quay
mặt ra khỏi nhà. Tin cậy và hoài nghi là hai mặt của cùng
một đồng tiền, nhưng việc dùng chúng là khác nhau và thành
tựu của chúng là khác nhau. Một người lẫn lộn về hai điều
này rơi vào khó khăn.
Trong những ngày khi Upanishad được sinh ra, tin cậy
đã là nền tảng; điều được nghe, được hấp thu luôn. Tin cậy
nghĩa là cảm nhận, tin cậy nghĩa là chấp nhận yêu mến.
Chấp nhận này đã là bản chất cho xã hội. Không phải là
ai đó tình cờ nói điều gì đó cho ai đó trong khi bước đi trên
đường; người ta phải ngồi cùng thầy trong nhiều năm trời.
Người ta phải nghe như uống thầy trong nhiều năm, người ta
phải sống cùng thầy trong nhiều năm. Dần dần, dần dần nhịp
thở của thầy sẽ trở thành nhịp thở của đệ tử nữa. Dần dần,
dần dần việc ngồi và đứng dậy của thầy, chuyển động của
thầy sẽ trở thành việc ngồi và đứng dậy của đệ tử nữa. Dần
dần, dần dần hoà hợp, hài hoà bên trong sẽ được tạo ra giữa
hai người, và thế thì đệ tử biết được từ bản thể bên trong nhất
của mình rằng thầy là đúng.
Sự thừa nhận này thường bắt đầu chậm rãi. Nó không
giống như hỏi ai đó đi qua đường, “Có Thượng đế không?”
Tôi bắt gặp những người như vậy. Tôi đang đón một
chuyến tầu hoả và họ dừng tôi ngay giữa đường, ngay trên
sân ga và nói, “Xin thầy một phút, có Thượng đế thật
không?”
Họ đang thực sự nói gì vậy? - dường như câu trả lời có
thể được trao cho bạn liệu Thượng đế có hay không. Dường
như không cần bất kì chuẩn nào để nhận câu trả lời cho câu
hỏi này. Dường như đây là câu hỏi thường lệ về cách xử lí
hàng ngày, giống như hỏi chủ quán, “Bác có thuốc lá
không?”
Có Thượng đế không? Để hỏi điều này, nhiều năm chờ
đợi là cần thiết; để hỏi điều này một loại vừa vặn và thích
đáng là cần thiết. Một loại tâm trí đúng phải được tạo ra để
cho khi câu trả lời tới, người ta có thể có khả năng nghe thấy
nó, hiểu nó.
Biến cố này là vào thời mà đệ tử thường ngồi gần thầy
trong nhiều năm. Chỉ ngồi đấy, chỉ quan sát thầy... Nếu thầy
nói điều gì đó, người đó lắng nghe điều đó nhưng không hỏi.
Người đó sẽ hỏi chỉ khi người đó được thuyết phục rằng
người đó đã trong hoà điệu với thầy, khi người đó cảm thấy
rằng mối quan hệ bên trong nào đó giữa họ đã phát triển, khi
cây cầu giữa họ đã được thiết lập: “Bất kì điều gì thầy nói
bây giờ sẽ không dừng ở tai tôi, nó sẽ chìm sâu vào bên
trong trái tim tôi.”
Chừng nào kết nối này còn chưa được thiết lập với trái
tim bạn và trái tim thầy, sẽ không có nghĩa gì trong việc nói
bất kì điều gì cho bạn. Nhưng Upanishad phải đã được nói
trong khoảnh khắc như vậy. Đây là lí do tại sao kinh này nói
thân thiết với thầy có thể trở thành kỉ luật tâm linh. Nhưng
ngày nay, chúng ta không nhận biết gì về những điều như
thế. Ngày nay chúng ta không có sự thân thiết ngay cả với
những người mà chúng ta yêu lắm. Chúng ta cảm thấy có
khoảng cách ngay cả với những người có thể rất gần gũi với
chúng ta. Ngày nay mọi người đều đã trở nên đóng kín bên
trong bản thân họ, và lí do cho điều này là hoài nghi. Làm
sao thân thiết có thể xảy ra được với những người mà người
ta có hoài nghi? Thân thiết có thể xảy ra chỉ với những người
mà người ta không có hoài nghi thôi. Hoài nghi đóng sập
cánh cửa, khoá trái bản thân nó bên trong; nó cần an ninh.

Tin cậy là không an ninh. Tin cậy không cần tới an ninh.
Chính ý nghĩa của tin cậy là: “Nếu bạn đẩy tôi xuống
mương, tôi sẽ hạnh phúc ngã vào trong nó. Nếu bạn ném tôi
vào mương, phải có lí do bí mật nào đó cho điều đó.”
Vấn đề không phải ở cái mương mà là người ném bạn
vào đó. Nếu thầy đẩy đệ tử vào mương, đệ tử trong những
ngày của Upanishad đơn giản sẽ chạm chân thầy và sung
sướng ngã vào trong đó. Vấn đề không phải là đó là cái
mương, vấn đề là ai là người ném bạn vào.
Nếu ai đó người bạn đã yêu nhiều thế, người mà sự thân
thiết như thế đã xảy ra, đẩy bạn vào mương, nó phải là vì có
lợi và tốt lành nào đó cho bạn: thái độ này được gọi là tin
cậy. Khi cái gì đó được lắng nghe với thái độ này, nó chìm
vào bản thể cốt lõi bên trong nhất của người ta. Và thế thì
không kỉ luật tâm linh nào khác là cần.
Kỉ luật tâm linh thực ra là một cách bù lại cho việc thiếu
tin cậy. Cái không gian trống rỗng đó, cái có đó do thiếu tin
cậy, phải được rót đầy bằng nỗ lực tâm linh. Chúng là vật
thay thế; bằng không chúng là không cần, bởi vì chính quan
điểm của Upanishad là ở chỗ bất kì cái gì định được đạt tới
đều đã có bên trong bạn. Không có vấn đề tìm kiếm và dò
tìm, không nỗ lực nào là cần, vì cái định được đạt tới đã là
hoàn cảnh rồi - bạn chỉ phải nhìn hướng về nó thôi.
Nếu bạn có tin cậy sâu sắc và nếu bạn sẵn sàng mở mắt
nhìn vào cái chưa biết theo hướng dẫn của thầy, mọi việc đã
xong.
Marpa, một nhà sư lạ thường ở Tây Tạng, đã nói, “Tôi
không bao giờ thiền, tôi không bao giờ làm nỗ lực nào, tôi đã
làm chỉ mỗi một việc: tôi tin cậy vào thầy mình.”
Câu chuyện về Marpa rất hay. Khi ông ấy tới gặp thầy
ông ấy nói, “Tôi đã đến được chuẩn bị để tin cậy vào thầy.”
Thầy hỏi ông ta, “Đây có là tin cậy toàn bộ không?”
Marpa đáp, “Tôi chưa bao giờ nghe nói rằng tin cậy có
thể là từng mảnh - làm sao có thể như vậy được?”
Nếu có tin cậy nó là toàn bộ; bằng không nó không có
đó. Để điều này được hiểu đúng.
Một số người nói, “Chúng tôi có chút ít tin cậy.” Họ
không biết điều họ đang nói. Tin cậy không thể ở bộ phận.
Nếu bạn nói với ai đó, “Tôi có một chút tình yêu với bạn” -
điều này nghĩa là gì? Hay nếu bạn nói, “Tôi nói chút ít sự
thật” - điều đó nghĩa là gì? Chút ít sự thật thôi sao?
Những điều này là không thể phân chia được, không ai
có thể phân chia chúng. Hoặc là có tin cậy hoặc không có.
Chút ít nghĩa là không có gì. Nhưng bạn thậm chí không đủ
trung thực để chấp nhận rằng bạn không có tin cậy cho nên
bạn nói, “Tôi có chút ít.”
Marpa nói, “Tin cậy bao giờ cũng đầy đủ. Tôi chưa từng
nghe thấy tin cậy không đầy đủ. Tôi có tin cậy.”
Cho nên thầy ông ấy nói, “Thế thì nhảy ngay khỏi mỏm
đá này xuống vực trước chúng ta đi.”
Marpa lập tức chạy và nhảy xuống vực. Thầy trở nên rất
lo lắng rằng một mạng người bị mất không cần thiết. Ông ta
không nghĩ rằng Marpa sẽ nhảy. Thầy và tất cả các đệ tử
chạy xuống vực và thấy Marpa đang ngồi thiền sâu lắng
ngay dưới đáy tảng đá.
Cái vực này rất sâu và đáng sợ, và không có khả năng
nào sống sót nổi sau khi ngã xuống - vậy mà Marpa thậm chí
lại không bị xây sát gì thân thể. Thầy nghĩ rằng chắc hẳn
phải có sự trùng hợp ngẫu nhiên: phép thử khác sẽ phải tiến

hành.
Có một ngôi nhà bị cháy và cả làng chạy tới nó. Thầy đi
cùng Marpa, và ông ta yêu cầu Marpa đi vào trong đám cháy
dữ dội đó. Marpa chạy vào trong đám cháy, ông ta chạy sâu
vào bên trong ngôi nhà và ở đó ngồi trong thiền. Toàn thể
ngôi nhà trở thành đống tro tàn. Thầy và các đệ tử nghĩ rằng
Marpa cũng chắc phải cháy thành tro rồi. Khi lửa tắt họ đi
vào bên trong; Marpa vẫn ngồi đó giữa đống tro âm ỉ. Ông ta
không bị dính tí lửa nào. Thế rồi thầy hỏi ông ta, “Ông đã
giở thủ đoạn gì vậy? Ông có quyền năng gì mà có thể làm
mọi việc này?”
Marpa đáp, “Quyền năng sao? Mọi thứ tôi có là tin cậy
vào thầy.”
Thế rồi thầy yêu cầu ông ấy đi trên nước. Ông ấy bước đi
cả trên nước nữa. Thế rồi thầy nghĩ bụng, “Khi Marpa có thể
làm được những việc kì diệu như thế nhân danh ta, còn có
cái gì mà ta không thể làm được?” Cho nên thầy thử bước đi
trên nước và bắt đầu bị chìm nghỉm!
Là thầy không phải là vấn đề. Thầy không có tin cậy
rằng người ta có thể bước đi trên nước, rằng người ta có thể
tự cứu mình trong lửa, rằng ngã xuống vực sẽ không bị đau.
Bản thân thầy đã lúng túng không hiểu được làm sao mọi
điều này có thể xảy ra. Ông ta đã nghĩ rằng Marpa phải biết
thủ đoạn nào đó mà ông ta không nhận biết, bằng không, làm
sao người ta có thể đi trên nước được?
Ngay cả sau khi thấy Marpa bước đi trên nước, thầy đã
không tin cậy rằng ai đó có thể làm được việc này. Ông ta
cảm thấy rằng phải có bí ẩn nào đó, thủ đoạn nào đó mà ông
ta chưa biết: “Marpa chỉ lừa dối ta bằng cách nói rằng ông ta
đang làm mọi thứ chỉ từ tin cậy của ông ta. Và nếu có bất kì
sự thật nào trong đó, rằng ông ta có thể bước đi trên nước bởi
vì sự tin cậy của ông ta vào ta, thế thì bản thân ta chắc chắn
phải có khả năng làm như thế.”
Đó là sai lầm. Marpa đã bước đi trên nước do tin cậy của
ông ấy. Tin cậy đó đặt vào ai không thành vấn đề - đã có tin
cậy trong trái tim ông ấy. Mọi điều ông ấy cảm thấy là nếu
thầy yêu cầu ông ấy bước đi trên nước, ông ấy sẽ có khả
năng làm - thậm chí không có lấy mảy may hoài nghi về điều
đó. Nếu như hoài nghi bước vào dù chỉ một khoảnh khắc,
Marpa đã bị chìm nghỉm.
Tin cậy là chiếc thuyền, nhưng nếu có dù chỉ một lỗ nhỏ
trong đó, thuyền sẽ chìm. Thầy đã thử bước và ông ta đã bắt
đầu chìm. Thế rồi thầy nói với Marpa, “Ông lừa ta; ông chắc
chắn biết thủ đoạn nào đó. Ông đã bước đi trên nước nhân
danh ta và bản thân ta không thể làm được điều đó!”
Marpa nói, “Bây giờ thầy làm ngay cả việc đi trên nước
của tôi thành đáng ngờ. Vì tôi đã thấy thầy chìm, vấn đề
xong rồi, tin cậy của tôi đã tan vỡ. Bây giờ ngay cả bởi lầm
lẫn xin thầy đừng ra lệnh cho tôi làm điều như thế nữa, bởi vì
bây giờ tôi sẽ không có khả năng thực hiện được chúng. Nếu
tôi làm, tôi sẽ không thể quay lại còn sống được. Tôi đã thấy
thầy chìm, bây giờ sẽ rất khó khăn cho tôi. Chiếc thuyền tôi
đi đã bị vỡ.” Từ đó Marpa không thể nào bước đi trên nước
được nữa.
Đây là một câu chuyện rất hay, và hữu dụng. Tin cậy có
quyền năng riêng của nó. Nếu tin cậy có đấy, kỉ luật tâm linh
là không cần thiết - tin cậy là đủ. Nếu không có tin cậy, kĩ
thuật là tuyệt đối cần thiết.
Một điều rất thú vị đã xảy ra... Vào thời Trung cổ, các
thánh nhân ở Ấn Độ cảm thấy rằng mọi người đang trở nên
ngày một vô thần hơn và do đó không ai trở nên quan tâm tới
tôn giáo. Không ai muốn tiến hành công phu tâm linh lâu

dài, thực hiện bài tập khổ hạnh, luyện tập yoga hay tuân theo
mật tông. Họ thấy rằng mọi người đang đang trở nên không
quan tâm tới tôn giáo. Cho nên họ nói rằng, trong kaliyuga
này, kỉ nguyên của đen tối, việc tụng tên của Rama là đủ. Họ
nghĩ rằng trong kỉ nguyên kaliyuga mọi người ít nhất sẽ làm
ngần ấy. Hành động này không tốn kém cho họ cái gì.
Nhưng đấy là một sai lầm lớn. Lời khuyên này chống lại
khoa học của tôn giáo. Trong Kaliyuga, kỉ luật tâm linh được
cần nhiều nhất vì không có tin cậy.
Chúng ta hãy hiểu điều này, bởi vì điều tôi đang nói cho
bạn là một phát biểu rất mâu thuẫn. Tôi nói rằng trong
Kaliyuga này việc thực hành tâm linh là cần thiết nhất; trong
Satyuga, kỉ nguyên của chân lí, chúng không cần thiết. Vì
bây giờ không có tin cậy, làm sao người ta có thể bù lại cho
nó? Tên của Rama có thể có tác dụng nhưng chỉ đối với
những người có tin cậy. Cho nên tụng tên của Rama sẽ là
điều đúng trong Satyuga, nhưng không cho bây giờ.
Cho nên tôi khẳng định rằng trong Kaliyuga này không
có gì sắp xảy ra chỉ bởi việc tụng tên của Rama, bởi vì trái
tim tin cậy mà có thể có ích không tồn tại. Bây giờ nỗ lực lớn
lao sẽ phải được thực hiện, bây giờ pcông phu tâm linh
nghiêm ngặt sẽ phải được trải qua, nhiều nỗ lực sẽ phải được
đặt vào đó; chỉ thế thì cái gì đó có thể xảy ra. Tại sao? Bởi vì
cái gì khác có thể bù đắp được cho việc thiếu tin cậy?
Tin cậy có nghĩa là đức tin vào ai đó khác: tin vào thầy,
hay tin vào Thượng đế hay vào cái gì đó khác. Tin cậy nghĩa
là một đức tin sâu sắc đến độ điều mà người kia nói phải xảy
ra. Khi không có tin cậy, người ta phải có đức tin vào chính
mình.
Nỗ lực tâm linh là việc đặt tin cậy vào cái ta riêng của
người ta: “Không cái gì sẽ xảy ra qua sự giúp đỡ của người
khác. Tôi sẽ phải tự làm nỗ lực.”
Trong Kaliyuga này, thực hành tâm linh nghiêm ngặt là
cần thiết; không cái gì sẽ xảy ra qua việc tụng niệm tên của
Rama. Điều ấy đã xảy ra trong Satyuga - thế thì đơn thuần
gọi tên Thượng đế là đủ. Tất cả những điều này là cái cớ, và
bất kì cớ nào cũng có tác dụng bởi vì người ta đã sẵn sàng và
tin cậy - giống như một tia lửa và thuốc súng khô sẽ bùng nổ.
Bởi vì thuốc súng khô của tin cậy không có đó trong con
người để cho tia lửa từ tên của Rama có thể làm nổ nó. Bây
giờ chỉ có nước lạnh của hoài nghi bên trong con người. Nói
gì đến tia lửa - bạn có thể ném cả quả bom lớn vào đó và nó
sẽ bị tắt ngóm trong nước ấy.
Kinh này đáng để hiểu.
Lắng nghe những giáo huấn này từ thầy, đệ tử trở nên
chứng ngộ và bắt đầu nói...
Bất kì điều gì thầy đã nói đã trở thành hiển nhiên cho
người đó. Bất kì điều gì thầy đã nói đều không chỉ được
người đó nghe, mà đã bắt đầu được người đó kinh nghiệm
nữa. Bất kì điều gì thầy đã nói, người đó đã không suy nghĩ
hay ngẫm nghĩ, người đó bắt đầu thấy nó như vậy. Người đó
bắt đầu nói:
Tôi vừa thấy thế giới bây giờ, nó đã đi đâu rồi
Người đó đã nghe thấy rằng thế giới là ảo tưởng, người
đó đã nghe thấy rằng cái đẹp là phóng chiếu riêng của chúng
ta, người đó đã nghe thấy rằng mọi hấp dẫn đều là mơ riêng
của chúng ta... Nhưng nếu người ta đã thực sự nghe thấy,
người ta lập tức sẽ nhận ra rằng bất kì giấc mơ nào người ta

đã thấy cho tới nay đã biến mất. Chúng đã tan vỡ.
Mơ tan vỡ vào khoảnh khắc bạn biết nó là mơ. Cho dù
bạn có thể nghe ai đó, người đã thức tỉnh nói với bạn rằng nó
là mơ, nó sẽ tan vỡ. Thầy nói rằng thế giới là ảo tưởng, giấc
mơ; bạn nghe điều ấy nhưng nói, “Cứ để nó là vậy đi, ai
biết?” Làm sao bạn có thể tin rằng thế giới này là mơ, khi nó
hiện diện rõ ràng khắp xung quanh? Điều đó dường như
không thuyết phục được rằng thế giới là mơ. Cho dù điều đó
dường như có vẻ đáng thuyết phục, chúng ta không muốn
tâm trí riêng của mình bị thuyết phục bởi vì chúng ta có đầu
tư lớn vào mơ của mình, chúng ta đã đầu tư một gia tài vào
trong chúng.
Mọi hạnh phúc của chúng ta nằm trong mơ của chúng ta.
Nếu thế giới là mơ, thế thì cái gì sẽ xảy ra cho hạnh phúc của
chúng ta? Và cái gì sẽ xảy ra cho những đầu tư cả đời của
chúng ta vào chúng, vào hi vọng rằng một ngày nào đó
chúng sẽ trở thành thật? Tất cả những vốn được đầu tư đó sẽ
trở thành phí hoài. Và bỗng nhiên ai đó đang nói thế giới này
là mơ...
Chẳng hạn, bạn đã trở thành hoàng đế trong giấc mơ và
bạn đang tận hưởng nó vô cùng; bạn đang ngồi trên ngai
vàng nạm kim cương, ngọc trai và kim cương bao quanh bạn
thừa thãi. Đúng lúc đó vợ bạn bắt đầu lay bạn và bảo bạn
rằng bạn đang mơ. Bạn bảo cô ấy im đi, cô ấy làm hỏng hết
cả toàn bộ vui thú. Sau một thời gian dài thế giấc mơ này
mới tới... Dường như khó phá vỡ giấc mơ như thế.
Chúng ta tất cả đều đang mơ. Thầy cứ nói rằng tất cả
những điều này là mơ, ảo tưởng. Nhưng ai muốn đồng ý với
điều này? Chỉ người đã sẵn sàng gạt sang bên hạnh phúc và
bất hạnh của mình, tham lam của mình và gắn bó của mình,
và thế rồi nhìn vào trong chân lí này và hỏi xem liệu nó có
thực sự như vậy không. Thế giới này có thực không là gì
ngoài chiếc cầu vồng tan biến khi bạn lại gần nó hơn không?
Có phải chăng chỉ từ xa mà nó mới trông mầu sắc thế, dường
như nó đã ăn trộm tất cả mầu sắc của bướm, dường như nó
đã đánh cắp mọi mầu sắc của bướm cho chính nó, dường như
mọi đã bay trên để hình thành nên cầu vồng này? Nhưng khi
bạn lại gần nó hơn, nó không có ở đâu cả. Nếu bạn cố giữ nó
trong tay, mọi thứ bạn có được là vài giọt nước - không chứa
mầu sắc nào cũng không đẹp gì trong chúng.
Đệ tử này đã nghe mọi điều và bắt đầu nói: Tôi đã thấy
thế giới hệt như bây giờ... Người đó đã thấy nó trước khi
người đó nghe thầy, người đó đã thấy nó trước khi người đó
gặp thầy. Người đó đã thấy nó nhiều đến mức người đó đã
cảm thấy rằng người đó phải cứ thấy nó nhiều hơn nữa, hơn
nữa... Mọi thứ vẫn đấy cho tới bây giờ, bây giờ nó đã đi đâu
rồi?
Phát biểu này rất sâu sắc. Đệ tử này đang nói với thầy,
“Thầy đã làm gì? Thầy đã làm tan tành mọi thứ như giấc mơ.
Thế giới đó đã đi đâu rồi, cái tôi vừa thấy ngay khoảnh khắc
trước đây thôi, cái tôi đã tin là vẫn có đó, cái tôi đã nghĩ là
vẫn có đó? Hôm nay, bỗng nhiên thế giới đó đã tuột khỏi tay
tôi và tôi đã trở thành trống rỗng. Ai lấy nó đi khỏi tôi?”
Trong đó cũng có một loại đau - về việc bị lấy đi của nó.
Trong đó cũng có một loại thức tỉnh - rằng bây giờ người đó
sẽ không có nó lần nữa. Một hiểu biết đã lớn lên. Việc xảy ra
đã xảy ra.
Và: ...Nó đã trở nên bị tan biến vào cái gì? Đó là điều
ngạc nhiên lớn lao! Nó không tồn tại sao?
Chắc chắn, ngạc nhiên nào có thể lớn hơn là biết rằng bất

kì điều gì chúng ta đã biết, bất kì điều gì chúng ta đã sống và
bận rộn trong đó, và bất kì điều gì chúng ta đã ấp ủ - mọi mơ
ước về hạnh phúc và cõi trời - tất cả đều bỗng dưng biến mất
cả đi thế sao? Đó là điều ngạc nhiên lớn lao!... nó đơn giản
không tồn tại sao?
Đệ tử này vẫn đang đứng ở điểm giữa. Thế giới đã có đó
ở phía bên kia nay mất rồi, và người đó vẫn chưa hoàn toàn
lắng đọng với thế giới mới. Cũng tựa như là việc tới bất thần
của ánh sáng và biến mất của bóng tối: bóng tối bị xua đi
nhưng mắt vẫn còn chưa điều chỉnh được với ánh sáng -
chúng loà đi.
Khi thế giới mà đã từng được biết với chúng ta từ lần
sinh nọ sang lần sinh kia biến mất trong chớp nhoáng, thế
giới mất đi nhưng chúng ta chưa thấy Brahman. Cần phải có
một chút thời gian; mắt sẽ phải được điều chỉnh để thấy ánh
sáng. Thói quen lâu dài của chúng ta về việc nhìn bóng tối
tạo ra cản trở cho việc thấy ánh sáng - mắt bị loá. Bởi lí do
này cũng có tính hữu dụng của việc thực hành tâm linh,
trong đó ánh sáng có thể tới dần dần để cho mắt không bị
loá.
Nếu chân lí tới trực tiếp trước bạn, bạn sẽ mù, bởi vì mắt
không thể thấy được chân lí như chúng vậy; chúng sẽ phải
phát triển năng lực để thấy chân lí. Chính trong bùng nổ
mênh mông của ánh sáng mà đôi mắt tí hon của bạn sẽ
không có khả năng chịu đựng được nó, chúng sẽ mất cái nhìn
và trở thành loà. Cũng tựa như là tiến gần mặt trời với mắt
mở.
Đệ tử này bây giờ có khả năng thấy rằng điều người đó
đã tin có đó đã biến mất, nhưng người đó còn chưa có khả
năng thấy cái đáng phải được thấy đúng chỗ của nó.
Đó là điều ngạc nhiên lớn lao! Làm sao một sai lầm lớn
thế trở thành có thể? Làm sao một ảo tưởng lớn thế là có thể,
rằng toàn thể cuộc sống này không là gì ngoài mơ? Chúng ta
cũng sẽ cảm thấy điều này nếu cùng điều đó xảy ra cho
chúng ta một ngày nào đó, rằng không thể có điều ngạc
nhiên nào hơn điều này. Nhưng nó xảy ra, nó đã xảy ra nhiều
lần rồi, nó đã xảy ra cho nhiều người rồi. Chính trong thời
đại hiện nay mà những sự xảy ra như thế đã trở nên ngày
càng ít thường xuyên hơn. Có nhiều lí do cho việc này. Một
lí do là thiếu cảm giác ngạc nhiên. Năng lực của chúng ta để
ngạc nhiên đã sút giảm đi. Điều đó nữa cũng có lí do.
Khoa học đã mở ra nhiều bí ẩn cho chúng ta. Và với mọi
bí ẩn được giải mã, không chỉ bí ẩn đã trở nên ít hơn, nhưng
năng lực của chúng ta để ngạc nhiên cũng trở nên ít đi.
Trẻ con đầy ngạc nhiên. Mọi thứ đều trông kì diệu đối
với chúng. Chúng ta rầy la chúng và bảo chúng yên tĩnh và
nói rằng bất kì cái gì chúng hỏi đều không có gì ngạc nhiên
lớn trong đó. Chúng ta giải thích mọi thứ cho chúng. Nhưng
bạn có nhận biết rằng bởi việc làm như vậy mà bạn đang lôi
chúng ra khỏi thế giới ngạc nhiên của chúng, nơi mọi thứ
nhỏ bé xảy ra không... Một con bướm nhỏ bay qua gây cho
đứa trẻ hạnh phúc nhiều đến mức sau này thậm chí toàn thể
thế giới khoa học của bạn không thể nào cho được. Một đoá
hoa nhỏ nở, hay một ngôi sao sa trên bầu trời, rót đầy đứa trẻ
bằng xúc động mà về sau toàn thể của cải của toàn thế giới
được đem cho nó, hay thậm chí nếu nó được làm thành
người chủ của mọi ngôi sao, cái xúc động tuổi thơ ấy cũng
không thể quay lại được.
Một đứa trẻ nhìn mọi thứ với ngạc nhiên. Tại sao? Vì nó
vẫn dốt, nó không biết cái gì cả. Bởi vì khoa học đã làm cho
biết bao nhiêu điều được biết tới, bạn có cảm giác là bạn biết
điều này, điều kia và điều khác, và việc này đã làm giảm cảm

giác của bạn về ngạc nhiên. Không cần phải như vậy, nhưng
để khuấy động, và để duy trì cảm giác của bạn về ngạc
nhiên, bạn sẽ cần đi rất sâu vào khoa học - không có con
đường nào khác.
Vào lúc chết Einstein đã nói, “Tôi đang chết như một
nhà huyền môn. Tôi đã nghĩ rằng tôi sẽ có khả năng mở khoá
mọi bí ẩn của thế giới. Tôi đã mở khoá nhiều bí ẩn, nhưng
một khi mở khoá được từng bí ẩn, bí ẩn lớn hơn lại đối đầu
với tôi.” Hệt như một nhà ảo thuật lấy một hộp ra từ bên
trong một hộp khác, và cứ thế lấy hết hộp nọ đến hộp kia - có
những bí ẩn bên trong những bí ẩn, nhưng để biết chúng bây
giờ người ta sẽ phải vượt ra ngoài nhiều hộp.
Khi thiên tài của một Einstein bắt đầu cắt xuyên qua mọi
hộp, nó thấy bí ẩn không hề nhỏ bé đi. Nhưng chúng ta,
những người đã tích luỹ một đôi chút tri thức nhỏ bé, cảm
giác của chúng ta về ngạc nhiên chết đi. Chúng ta bắt đầu
giải thích mọi thứ, chúng ta nghĩ chúng ta có mọi câu trả lời.
Khi mọi thứ đã được xác định và được trao cho một
nghĩa, cảm giác của chúng ta về ngạc nhiên sút giảm. Và khi
cảm giác ngạc nhiên kém đi, khả năng của việc mang tính
tôn giáo của chúng ta biến mất. Tôn giáo là bí ẩn, bí ẩn tối
thượng; nó là ngạc nhiên tối cao. Phép màu vĩ đại nhất có thể
xảy ra trong thế giới này là trở thành có tính tôn giáo. Tại
sao? Bởi vì khi trở thành có tính tôn giáo, người ta bắt đầu
nói tựa như người đệ tử này người đang nói: “Đó là điều
ngạc nhiên lớn lao! Thế giới mới ở đây vài khoảnh khắc
trước thôi, thế giới mà tôi đã biết mới vài khoảnh khắc trước
đây thôi, không còn đó sao? Nó đã đi đâu rồi? Nó đã tan biến
vào đâu rồi?”
Nhưng ngay lập tức sau đó phát biểu thứ hai tới. Phát
biểu thứ nhất là về ngạc nhiên, phát biểu thứ hai là về phúc
lạc. Phúc lạc ẩn nấp ngay sau ngạc nhiên. Người đã mất cảm
giác ngạc nhiên sẽ không bao giờ có khả năng đạt tới phúc
lạc, bởi vì ngạc nhiên là cánh cửa tới phúc lạc. Người có
cánh cửa ngạc nhiên bị đóng lại sẽ không có khả năng đi vào
trong lâu đài của phúc lạc được. Phát biểu thứ hai theo sau
ngay lập tức.
Trong đại dương vĩ đại của Brahman, đầy những cam lồ
của phúc lạc vô tận, bây giờ tôi phải từ bỏ cái gì và phải
lấy cái gì? Bây giờ cái khác là cái gì và cái phi thường là
cái gì?

“Nếu toàn thể thế giới biến thành giả, thế thì tôi không
có gì để từ bỏ cả. Bất kì cái gì có thể được từ bỏ đã tan biến
cả rồi. Bây giờ tôi không có gì để mê đắm, vì bất kì cái gì tôi
có thể mê đắm cũng đã biến mất.” Không cái gì để được bám
giữ và không cái gì để được từ bỏ. Không cái gì cần lấy mà
cũng không cái gì cần bỏ; toàn thể thế giới đó của mê đắm và
từ bỏ đó đã biến mất.
Để kinh này được hiểu đúng. Đừng nghĩ rằng với việc
biến mất của thế giới chỉ mê đắm biến mất; từ bỏ cũng biến
mất, bởi vì mê đắm và từ bỏ đều là hai phần của thế giới đó,
cái không còn nữa.
Người tích luỹ tiền bạc, người đó là kẻ mê đắm; người từ
bỏ tiền bạc, người đó là kẻ từ bỏ - nhưng với người mà bản
thân thế giới đã biến mất, bản thân của cải cũng biến mất...
mê đắm là gì và từ bỏ là gì? Do đó các hiền nhân của
Upanishad không phải là người từ bỏ theo định nghĩa của
bạn; theo định nghĩa của bạn họ cũng không là mê đắm. Các
hiền nhân của Upanishad thuộc một loại người hoàn toàn
khác, loại người thứ ba.

Điều chúng ta ngụ ý về ai đó từ bỏ ngày nay là ở đối lập
với ai đó mê đắm. Các hiền nhân của Upanishad, người đã
nêu ra những phát biểu này không phải là những người đã từ
bỏ và chạy trốn khỏi mọi thứ, lang thang trần trụi. Họ không
vẩn vơ đây đó. Họ không phải là người từ bỏ mà cũng không
là người mê đắm, họ là những người cực kì bình thường và
giản dị, sống hệt trẻ con. Với họ toàn thế giới nơi từ bỏ và
mê đắm cùng xảy ra nay đã biến mất. Cả hai chúng đều
không có giá trị gì.
Khi ý thức hệ từ bỏ trở nên phổ cập trên đất nước này,
dưới ảnh hưởng của Phật giáo và Jaina giáo, người ta đi tới
hiểu nó như cái đối lập của mê đắm và dần dần, dần dần các
hiền nhân của Upanishad bắt đầu bị phai mờ dần khỏi kí ức
của chúng ta, bởi vì họ đã là một loại người hoàn toàn khác.
Chúng ta không thể gọi họ là kẻ mê đắm, bởi vì họ chưa bao
giờ hăng hái hở tích luỹ bất kì thứ gì; chúng ta không thể gọi
họ là kẻ từ bỏ, bởi vì họ không hăng hái vứt bỏ cái gì. Nếu
bất kì ai đó cho họ thứ gì, họ sẽ lấy; nếu ai đó lấy bất kì cái
gì từ họ, họ cũng không săn đuổi người đấy. Tôi sẽ kể cho
bạn một giaiat hoại có thể cho bạn ý tưởng nào đó...
Kabir có một người con tên là Kamaal. Kabir không
nhận bất kì quà tặng hay tiền bạc nào, trong khi Kamaal lại
giống như các hiền nhân của Upanishad. Đệ tử của Kabir yêu
cầu ông ấy tống khứ Kamaal ra khỏi vị trí của người đó. Họ
nói, “Khi ai đó cúng dường thầy quà tặng hay tiền bạc, thầy
bảo người đó rằng thầy không cần nó, cứ giữ cái đó lại cho
mình, nhưng Kamaal này ngồi ngoài và nhận mọi thứ từ
những người mà thầy đã từ chối. Người đó ban phúc cho họ
và thế rồi giữ lại mọi thứ. Cậu chàng là một kẻ rắc rối.”
Tôi không biết liệu Kabir có nói câu này không - tôi
không tin Kabir có thể đã nói điều đó, chắc phải là một tín đồ
nào đó của Kabir, người cũng quen biết với Kamaal - phát
biểu là: “Một đứa con tên là Kamaal được sinh ra và toàn bộ
thế phả nhà Kabir bị nhận chìm mãi mãi.” Phát biểu này
nghĩa là Kamaal con của Kabir đã làm hoen ố tên tuổi của
toàn bộ gia đình anh ta.
Cho nên Kabir bảo Kamaal điều mọi người đã nói về anh
ta và hỏi anh ta nghĩ gì về điều đó. Thế rồi Kamaal gợi ý
rằng anh ta sẽ đi và ở một lều tách biệt, điều đó không có vấn
đề gì.
Kamaal chuyển tới ở một cái lều tách biệt. Vua của vùng
Kashi đi tới biết điều này. Nhà vua chưa bao giờ cảm thấy
rằng Kamaal là kẻ mê đắm. Điều anh ta không theo từ bỏ là
rõ ràng, nhưng nhà vua cũng hoài nghi rằng anh ta là kẻ mê
đắm. Nhà vua nghĩ rằng tốt hơn cả là nên kiểm tra lại điều
đó, cho nên ông ta tới với một viên kim cương rất quí giá và
đem tặng nó cho Kamaal. Kamaal nói, “Ông đã đem loại quà
gì đến cho tôi vậy? Không ăn mà cũng không uống được
nó.”
Nhà vua kinh ngạc khi nghe tới lời nhận xét này. Ông đã
nghe mọi người nói rằng Kamaal giữ mọi thứ được cúng
dường cho anh ta, và ở đây nhà vua cho anh ta viên kim
cương đáng giá hàng triệu ru pi và Kamaal này gọi nó chỉ là
đá. Nghĩ rằng bàn tán của mọi người là không đúng và rằng
Kamaal sẽ không lấy món quà, nhà vua lấy lại viên kim
cương và bắt đầu cho vào túi. Kamaal liền ngăn nhà vua lại,
nói, “Ông có điên không đấy? Ban đầu ông mang gánh nặng
này tới đây, rồi bây giờ ông sẽ mang nó về sao? Để nó ở đây
đi!”
Bây giờ nhà vua trở nên rất nghi ngờ, nghĩ có điều gì đó
ám muội về con người này. Nhưng bạn có thấy cách thức

tâm trí chúng ta vận hành không? Điều Kamaal làm là một
điều hoàn toàn logic: “Nếu nó thực sự chỉ là một viên đá
thôi, ông đã phải chịu đựng rắc rối của việc mang trọng
lượng của nó tới chỗ này... vậy mà bây giờ ông muốn mang
cái trọng lượng đó trở về nữa. Buông bỏ nó đi thôi.”
Nhưng ý tưởng đầu tiên đã hấp dẫn nhà vua. Bất kì ý
tưởng từ bỏ nào bao giờ cũng hấp dẫn kẻ đam mê. Nhận xét
thứ hai của Kamaal về việc buông bỏ viên kim cương không
hấp dẫn ông ta chút nào - bây giờ ông ta trở nên nghi ngờ.
Dầu vậy nhà vua vẫn hỏi, “Ta sẽ bỏ nó ở đâu?”
Kamaal nói, “Bây giờ ông đang hỏi bỏ nó ở đâu - điều
đó có nghĩa là ông không coi nó là viên đá. Thế thì tốt hơn cả
là ông lấy lại nó đi. Tại sao câu hỏi này nảy sinh để bỏ nó ở
đâu? Sau hết nó chỉ là một hòn đá - cứ bỏ nó ở bất kì đâu
cũng được.”
Để kiểm tra sự việc thêm nữa nhà vua nói, “Được rồi.”
Túp lều được lợp bằng mái rơm cho nên nhà vua ấn viên kim
cương vào trong mái và nói, “Ta sẽ để nó ở đây.”
Kamaal nói, “Tốt. Ông làm tuỳ thích, nhưng tôi không
thấy có gì quan trọng khi cố giữ một vật như viên đá đấy cả.”
Nhà vua quay lại sau một tháng. Ông ta chắc chắn rằng
ngay ngày hôn sau viên kim cương sẽ được đem bán đi hay
bị giấu ở nơi nào đó khác. Cho nên ông ta quay lại sau một
tháng và hỏi Kamaal, “Một tháng trước đây ta đã bỏ viên
kim cương ở đây. Nó vẫn ở đó chứ?”
Kamaal nói, “Tôi đã nói với ông lúc ấy rằng nó chỉ là
viên đá thôi. Bây giờ ông đang gây ra khó khăn. Ông đã để
nó ở đâu? Có thể ai đó đã lấy nó đi rồi, có thể nó vẫn còn đó
- thử tìm xem sao.”
Nhà vua nghĩ Kamaal thử tỏ ra láu lỉnh khi nói “Có thể
ai đó đã lấy nó đi.” Nhưng khi nhà vua thực sự tìm nó viên
kim cương nó vẫn ở đó tại cùng chỗ, trong rơm của mái nhà.
Các hiền nhân của Upanishad đã giống điều đó. Với họ
cả mê đắm lẫn từ bỏ không có ý nghĩa gì. Tất cả kính trọng
cho từ bỏ có đó bởi vì mê đắm của người ta. Đây là lí do tại
sao người từ bỏ có hấp dẫn cao với người mê đắm - bởi vì
chính cái đối lập nó hấp dẫn. Chú ý của người ta bị hút về
nó, người ta cảm thấy rằng người ta không thể làm được điều
như vậy và con người này đang làm điều đó.
Cho nên người mê đắm chạm chân người từ bỏ. Và có lí
do cho điều đó. Họ cảm thấy rằng họ không thể bỏ qua ngay
cả một bữa ăn và ở đây có người này đã nhịn ăn cả tháng.
“Cúi mình, cúi mình dưới chân người đó đi. Chúng ta không
thể từ bỏ được nhà cửa, và ở đây người này đã từ bỏ mọi thứ.
Chúng ta không thể không mặc quần áo và ở đây người này
đứng trần trên đường. Cúi mình trước người đó!”
Nếu ai đó làm điều chúng ta không thể làm được, chúng
ta cảm thấy người đó xứng đáng cho kính trọng của chúng ta.
Tất cả kính trọng của chúng ta là bởi vì mê đắm của chúng
ta. Do đó một điều rất thú vị xảy ra: xã hội càng sung túc, xã
hội càng mê đắm, nó càng kính trọng người từ bỏ. Người
Jaina giầu có, họ có đủ mọi tiện nghi cuộc sống, cho nên họ
trông đợi tư cách từ bỏ rất nghiêm ngặt từ các sư. Điều rất
thú vị là xã hội của những người mê đắm, của những người
phong lưu, mong đợi từ bỏ ở cấp cao từ các sư, bằng không,
họ đã không thể cho các sư sư kính trọng đến thế.
Người Hindu không nhấn mạnh vào từ bỏ nhiều đến thế -
rằng những người từ bỏ nên từ bỏ ngần này, nên làm điều
này, nên làm điều kia; do đó không người từ bỏ của Hindu
có cơ hội nếu người đó được so sánh với người từ bỏ của
Jaina. Toàn bộ lí do cho điều này là ở chỗ xã hội Hindu chủ

yếu không phải là xã hội giầu có như xã hội Jaina. Một cách
so sánh nó là một nhóm rất nghèo, và xã hội nghèo không
trông đợi cao lắm về việc mức độ cao của từ bỏ đối với
những người từ bỏ của nó.
Cho nên xã hội càng sung túc, tiêu chuẩn về từ bỏ sẽ
càng cao. Chỉ với từ bỏ lớn lao mà xã hội mới chấp nhận
rằng có, người này đã làm việc gì đó, người đó đã từ bỏ điều
gì đó. Chúng ta đánh giá theo tâm trí riêng của mình.
Upanishad nói rằng chừng nào có giá trị được đặt lên
việc từ bỏ, hiểu rõ rằng vẫn có giá trị được đặt lên mê đắm
nữa. Chừng nào có kính trọng với từ bỏ, hiểu rõ rằng bạn
cũng có hấp dẫn hướng về mê đắm. Kính trọng này chỉ là
phản xạ của hấp dẫn. Các hiền nhân của Upanishad nói rằng
với người đã thức tỉnh, với người có ý thức, toàn bộ thế giới
này - cả từ bỏ lẫn mê đắm - biến mất.
Đệ tử này nói, “Tôi sẽ từ bỏ cái gì? Tôi sẽ lấy cái gì và
tôi sẽ bỏ cái gì? Tôi đã chìm đắm trong đại dương phúc lạc
vô hạn.”
Điều đó xảy ra đồng thời: ngay khi thế giới này mất đi
thế giới bất tử mới được đạt tới. Điều này xảy ra trong cùng
khoảnh khắc, mặc dầu lỗ hổng thời gian có thể dường như có
đó trong việc thấy nó.
Ở đây tôi không thấy gì, tôi không nghe thấy gì và tôi
không biết gì,...
Đệ tử này nói, “Trong đại dương của cam lồ phúc lạc vô
hạn này mà tôi đang chìm ngập, tôi không thấy gì cả. Tôi
không thấy gì bởi vì chỉ những cái gì tách khỏi cái này mới
có thể thấy được. Tôi không nghe thấy gì bởi vì chỉ âm thanh
của cái khác mới có thể được nghe thấy. Tôi không biết gì
bởi vì ngay cả việc biết cũng là từ người khác. Tôi chỉ kinh
nghiệm phúc lạc.”
Tôi bao giờ cũng trong linh hồn phúc lạc...
“Tôi không có tri thức khác, tôi không có bất kì cái nhìn
nào, tôi không nghe thấy gì; không một giác quan nào của tôi
hoạt động thêm nữa. Bây giờ chỉ một điều xảy ra trong tôi và
đó là, tôi thường xuyên kinh nghiệm phúc lạc. Và điều đang
được tôi kinh nghiệm hôm nay là duy nhất và vô song.
Không có cách nào khác, không có biểu tượng nào qua đó
giải thích hay xác định nó. Bản thân tôi là bản tính riêng của
tôi.”
Tôi vô gắn bó, vô thân thể, vô giới tính, bản thân tôi là
Thượng đế; tôi là im lặng tuyệt đối, tôi là vô hạn, tôi là
cái toàn thể và cái cổ đại nhất.
Đệ tử này đang kinh nghiệm điều này. Những kinh
nghiệm này bắt đầu vào khoảnh khắc thế giới biến mất.
Khoảnh khắc việc mơ mộng tan vỡ và việc nhận ra chân lí
này bắt đầu rằng...
Tôi vô gắn bó, vô thân thể, vô giới tính, bản thân tôi là
Thượng đế; tôi là im lặng tuyệt đối, tôi là vô hạn, tôi là
cái toàn thể và cái cổ đại nhất.
Tôi không là người làm, tôi không là người khổ, tôi
không thay đổi và không cạn kiệt, tôi là chỗ trú ngụ của
tri thức thuần khiết, tôi là một mình và tôi là to lớn vĩnh
hằng.

Tuyên bố này là từ đệ tử.
Thầy đã nói như vậy, đã giải thích với người đó rằng nó
giống thế này. Đệ tử này có thể nhận nó theo hai cách. Hoặc
người đó sẽ làm cho nó thành một phần của tri thức trí tuệ
của mình và nói, “Được thôi, tôi đồng ý với thầy; bất kì điều
gì thầy đã nói đều có nghĩa cho trí tuệ tôi,” và thế rồi để cho
những phát biểu này, Upanishad này sẽ trở thành vô dụng.
Nhưng lời giải thích cũng có thể trở thành kinh nghiệm của
đệ tử này và người đó nói, “Bất kì điều gì thầy đang nói cũng
đều được tôi thấy. Tôi cũng kinh nghiệm nó.” Và đệ tử này
công bố thêm, “Bản thân tôi là Thượng đế; tôi là cổ đại nhất
và tôi là tính thượng đế vĩnh cửu.”
Tri thức này do thầy trao cho Atpantaram...
Tên của thầy không được nhắc tới. Tên của người tìm
kiếm đầu tiên không được nêu ra. Ai là người đầu tiên đã
biết điều này là không được biết.
Đây là điều rất hay và nên được hiểu cho đúng, bởi vì
tâm linh không phải là cái gì đó mới. Tâm linh là cổ đại nhất,
vĩnh hằng. Tâm linh đã có ở đây từ khi con người có ở đây.
Chúng ta không thể hình dung được thời điểm mà tâm linh
có thể không có ở đây. Chúng ta có thể tưởng tượng được
thời điểm không có khoa học, chúng ta cũng có thể tưởng
tượng được thời điểm không có hình thái nghệ thuật nào -
khi cả nghìn thứ không có đó - nhưng chúng ta không thể
tưởng tượng được một thời điểm khi con người có thể có đó
mà không có tâm linh, bởi vì khao khát tâm linh là đặc trưng
cơ bản của con người.
Cho dù không có khoa học, con người có thể là con
người. Cho dù không có tiền, con người có thể là con người;
cho dù không có giáo dục con người có thể là con người -
người vô học cũng là người và người của xã hội không khoa
học cũng là người - nhưng nếu không có tâm linh con người
không là con người, con người trở thành con vật. Tâm linh là
đặc trưng cơ bản của con người.
Trong định nghĩa con người, Aristotle đã nói, “Con
người là sinh linh hợp lí.” Định nghĩa này không đúng vậy
bởi vì, sau rốt, ngay cả một người bất hợp lí cũng sẽ phải
được gọi là một người. Hợp lí không phải là một đặc trưng
bất biến của con người. Machiavelli đã nói, “Con người là
sinh linh chính trị.” Nếu ra nhìn vào con người ngày nay,
phát biểu của ông ấy là đúng; con người là một sinh linh
chính trị hoàn toàn. Chính trị là thức ăn của người đó, chính
trị là nước uống của người đó; báo chí là nhu cầu đầu tiên
của người đó mỗi sáng sớm và thảo luận về chính trị mãi
trong đêm là nhu cầu cuối cùng của người đó - chính trị
dường như là cuộc đời người đó. Nhưng chính trị cũng
không phải là đặc trưng nền tảng của con người. Nghiên cứu
bây giờ chỉ ra rằng chính trị được tìm thấy ngay cả trong khỉ
và động vật hoang dại. Hệt như có tổng thống, thủ tướng và
nội các trong các quốc gia, tương tự trong các nhóm khỉ cũng
có kẻ cầm đầu, thủ tướng và nội các của chúng.
Không có mấy khác biệt giữa các chính khách và khỉ.
Trong loài người, chính những kẻ có nhiều tính khỉ hơn trở
nên bị hấp dẫn về chính trị.
Nhưng con người là sinh linh tâm linh. Và đó là đặc
trưng đúng đắn của con người.
Cho nên bất kì ai đã khám phá ra tri thức này lần đầu
tiên, tên người không được nêu ra. Và đây là một điều rất tốt.
Nó có nghĩa là tri thức này là cổ đại, vĩnh cửu đến mức tên
của người đầu tiên trở thành người biết nó là không được

biết tới. Tại vị trí tên của người đầu tiên mọi điều được biết
tới chỉ là thế này... Thầy trao nó cho Atpantaram.
Apantaram cũng là một từ kì diệu. Nó có nghĩa là một đệ
tử có tên không được biết. Thầy trao tri thức này cho một đệ
tử có tên không được biết. Tên của đệ tử đầu tiên không
được biết tới, do đó tên của người này trên danh nghĩa được
lấy là Apantaram. Thầy đầu tiên đã đi tới biết đến điều này là
không được biết và đệ tử đầu tiên người nghe được từ thầy
cũng không biết nốt, bởi vì khi đó là người thầy đầu tiên, đệ
tử đầu tiên cũng không biết rằng mình là đệ tử, hay ai là
thầy. Là thầy và là đệ tử tất cả là sự phát triển mãi về sau.
Khi người thầy đầu tiên đi tới biết, người đầu tiên tới
ông ấy phải đã là một đệ tử. Chúng ta có thể gọi người đó là
đệ tử, chỉ với mục đích tên gọi, nhưng người đó chắc đã
không nhận biết về điều đó. Người đó phải đã đến, hệt như bị
hút vào thanh nam châm, và việc biết được truyền qua. Do
đó kinh này nói:
Tri thức này do thầy trao cho Atpantaram, Atpantaram
trao nó cho Brahma, ...
Brahma là đấng sáng tạo vũ trụ. Điều rất thú vị là người
đã sáng tạo ra vũ trụ cũng là một kẻ dốt, cũng phải nhận tri
thức này từ ai đó. Về khía cạnh này điều đó trở thành khó
thăm dò được chiều sâu của suy nghĩ của người Hindu.
Chúng ta gọi Brahma là đấng sáng tạo nhưng chúng ta không
coi ông ấy cũng là người biết, bởi vì nếu ông ấy là người
biết, ông ấy chắc sẽ không tạo ra thế giới mơ này.
Nếu thế giới này là mơ, đấng sáng tạo của nó không thể
là người biết. Công trình của Brahma chỉ là phát triển thế
giới mơ - hệt như lan toả giấc mơ.
Đây là lí do tại sao chúng ta đã không xây nhiều đền của
Brahma; chỉ có một đền Brahma ở Ấn Độ. Đáng ra chúng
phải có nhiều hơn bất kì đền nào khác, bởi vì người đã tạo ra
thế giới này đáng phải được đặt trong nhiều đền thờ để tôn
thờ hơn bất kì vị thần nào khác. Nhưng chỉ có một đền. Tại
sao? - bởi vì chúng ta đi đến hiểu thế giới này là giấc mơ, và
người đã tạo ra giấc mơ này không xứng đáng có nhiều đền.
Chúng ta đã làm số tối đa đền của Shiva, bởi vì ông ấy là
kẻ phá huỷ thế giới này. Trong mọi thành phố, trong mọi
thôn làng bạn sẽ thấy một shivalinga - biểu tượng dương vật
của Shiva - được đặt thực sự dưới mọi cây cối. Chúng ta đã
lấp đầy toàn bộ mảnh đất này bằng Shiva, và có lí do. Tại
sao nhớ tới Brahma? - ông ấy là người đã xô đẩy chúng ta
vào rắc rối này một cách không cần thiết. Chúng ta nhớ tới
Shiva thường xuyên hơn, và có mục đích, bởi vì ông ấy là
người phá huỷ, ông ấy sẽ phá huỷ mọi thứ.
...Atpantaram trao nó cho Brahma, Brahma trao nó cho
Ghorangiras, Ghorangiras trao nó cho Raikva, Raikva
trao nó cho Rama...
Vậy trong dây chuyền đó đã có hàng nghìn người, nhưng
vài cái tên quan trọng được lựa ra. Đã có hàng nghìn cái tên
thậm chí không được biết tới. Một vài tên tuổi nổi tiếng nhất
đã được lựa ra ở đây. Ghorangiras là một trong những người
biết vĩ đại nhất từ thời Upanishad và ông ấy đã truyền tri
thức cho Raikva. Raikva nữa cũng là một hiền nhân xuất
chúng: ông ấy trao nó cho Rama, và đến lượt Rama trao nó
cho mọi sinh linh.
Qua Rama tri thức này trở nên được phổ cập, đạt tới
quần chúng. Trước đó tri thức này là bí truyền và thầy sẽ chỉ

truyền nó cho đệ tử trong bí mật. Rama làm cho nó thành sẵn
có cho mọi sinh linh. Trong tay của Rama nó không còn là bí
truyền nữa, nó trở thành công khai cho mọi người.
Rama trao nó cho mọi sinh linh. Đây là thông điệp của
niết bàn...
Thông điệp của niết bàn là ở chỗ tan biến của cái ‘tôi’.
Hệt như việc ngọn đèn bị tắt đi cái ‘tôi’ bị tắt đi. Người tắt
bản thân mình đạt tới thực tại tuyệt đối, điều không thể bị tắt
đi theo bất kì cách nào.
Điều có thể bị tắt đi bên trong chúng ta là bản ngã của
chúng ta; điều không thể bị tắt đi là Brahman bên trong
chúng ta. Cho nên tắt cái có thể bị làm tắt để cho ta cái
không thể tắt được có thể được kinh nghiệm.
Đây là giáo huấn của Veda. Đây là tinh hoa của mọi
Veda. Và đây là kỉ luật của Veda.
Do vậy kết thúc Upanishad này.
Upanishad này kết thúc một cách rất độc đáo. Nó không
kết thúc bằng giáo huấn của thầy mà kết thúc bằng việc đạt
tới của đệ tử. Nó không kết thúc với điều thầy đã nói mà nó
kết thúc bằng điều đã xảy ra cho đệ tử. Chừng nào mà giáo
huấn còn chưa trở thành một hiện tượng sống nó không có
giá trị. Chừng nào giáo huấn không sống động nó chỉ là trò
chơi tâm trí.
Upanishad này không phải là trò chơi tâm trí, nó là việc
biến đổi cuộc sống.
Thầy trao nó... cho Atpantaram, Atpantaram trao nó cho
Brahma, Brahma trao nó cho Ghorangiras, Ghorangiras
trao nó cho Raikva, Raikva trao nó cho Rama và Rama
trao nó cho mọi sinh linh.
...Và chúng ta đã lại cố gắng chấn hưng giáo huấn diệu
kì này, việc kinh nghiệm này và kĩ thuật tâm linh này bên
trong bản thân mình. Chúng ta đã khơi lại ngọn lửa này bằng
cách chuyển chiếc bấc.
Sau khi đi từ đây, tiếp tục khơi ngọn lửa này đi. Một
ngày nào đó khoảnh khắc đó dứt khoát sẽ tới trong cuộc đời
bạn khi bạn cũng có khả năng nói, Tôi đã thấy thế giới hệt
như bây giờ, nó đã đi đâu rồi?... Nó có đơn giản không tồn
tại không? Và cái ngày điều này sẽ được bạn kinh nghiệm,
bạn cũng sẽ có khả năng nói, “Bản thân tôi là Thượng đế, tôi
là tính thượng đế vĩnh cửu, tôi là vô hạn, tôi là phúc lạc, tôi
là Brahman”
Chừng nào điều này còn chưa xảy ra bên trong bạn,
thông điệp này về niết bàn phỏng có ích gì, tinh hoa này của
Veda phỏng có ích gì? Và chừng nào còn chưa như thế, mặc
dầu Upanishad kết thúc tại đây, nó còn chưa kết thúc cho
bạn.
Cầu mong sẽ có một ngày mà bạn cũng có thể nói, “Giáo
huấn Upanishad kết thúc ở đây cho tôi.”
Đủ cho hôm nay.

*****************************************************

“Lời thầy hàm chứa im lặng quanh đó, lời thầy không phải
là tiếng động. Lời thầy có giai điệu, có nhịp điệu, có âm nhạc
và tại chính cốt lõi của lời thầy là im lặng hoàn toàn. Nếu
bạn có thể hiểu thấu lời thầy, bạn sẽ đi xuyên vào im lặng vô
hạn này. Nhưng để hiểu thấu lời của Phật, cách thức không
phải là phân tích, cách thức không phải là biện luận, cách
thức không phải là tranh luận. Cách thức là chìm vào quan
hệ với thầy, trở thành hoà hợp với thầy, đồng bộ với thầy.
Trong hoà hợp đó, trong sự chân thành đó, người ta đi vào
trong chính cốt lõi lời thầy. Và ở đó bạn sẽ không tìm thấy
bất kì âm thanh nào, bất kì tiếng động nào; ở đó bạn sẽ thấy
im lặng tuyệt đối. Và nếm trải nó là hiểu thầy.”
Osho, Dhammapada: Con đường của Phật, 5

“Từ lời tôi bạn có thể bùng cháy, nhưng bạn sẽ không
thể nào tìm ra bất kì lí thuyết, học thuyết nào. Bạn có thể tìm
ra cách sống, nhưng không tìm ra được giáo lí để thuyết
giáo. Bạn có thể tìm ra tính cách nổi dậy hay tiêm nhiễm
nhưng bạn sẽ không tìm thấy chủ đề cách mạng nào được tổ
chức.

“Lời tôi không chỉ là ngọn lửa. Tôi đang đặt thuốc nổ
đây đó, chúng sẽ nổ tung trong nhiều thế kỉ. Tôi đang đặt
nhiều hơn là sự cần thiết - tôi chưa bao giờ tính hết cơ hội.
Gần như từng câu đều dự định để tạo ra rắc rối cho bất kì ai
muốn tổ chức tôn giáo quanh tôi.”
Osho, Từ cá tính tới cá nhân

END

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro