1. nguyên tác minh bạch hóa hệ thống cs.
Theo GATS, việc tự do hoá thương mại dịch vụ sẽ không thể có
được nếu các nhà cung cấp dịch vụ thiếu đi các thông tin cần thiết về các
quy định mà họ phải tuân thủ khi tham gia vào thị trường của một nước
khác. Do vậy GATS quy định rất rõ ràng về nghĩa vụ minh bạch các
chính sách. Theo nguyên tắc này, tính minh bạch thể hiện ở việc đáp ứng
các yêu cầu sau đây:
- Tất cả các quy định, văn bản pháp lý liên quan, các hiệp định
quốc tế có liên quan hoặc tác động đến thương mại dịch vụ mà
các Thành viên tham gia phải được công bố, ấn hành một cách
công khai, rộng rãi.
- Mọi Thành viên phải có nghĩa vụ đáp ứng đầy đủ các yêu cầu
của bất kỳ Thành viên nào khác về những thông tin cụ thể liên
quan đến việc áp dụng các quy định nêu trên. Các Thành viên
phải thành lập ít nhất một cơ quan chuyên trách cung cấp thông
tin này cho các Thành viên khác khi họ yêu cầu.
Tất cả các Thành viên phải có nghĩa vụ thông báo khẩn trương
và ít nhất mỗi năm một lần cho Hội đồng Thương mại Dịch vụ
của WTO về việc ban hành hoặc bất kỳ sửa đổi nào trong các luật,
quy chế hoặc hướng dẫn hành chính có tác động cơ bản đến
thương mại dịch vụ thuộc các cam kết cụ thể theo Hiệp định này.
Hiệp định GATS không yêu cầu các Thành viên phải cung cấp
các thông tin bí mật là những thông tin nếu bị tiết lộ có thể sẽ gây
ra những khó khăn cho việc thi hành pháp luật, hoặc sẽ mâu thuẫn
với lợi ích công cộng, hoặc sẽ làm phương hại đến quyền lợi
thương mại hợp pháp của một doanh nghiệp cụ thể, dù là doanh
nghiệp nhà nước hoặc tư nhân.
- Các Thành viên không được phép áp dụng những yêu cầu về
chuyên môn, yêu cầu về chất lượng dịch vụ, yêu cầu về giấy phép
cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật quá cao - mà trong chừng mực
nào đó, có thể vô hiệu hóa về mặt pháp lý hoặc làm nguy hại đến
việc thực hiện các cam kết cụ thể
- Khi Chính phủ nước Thành viên đưa ra những quyết định hành
chính có nguy cơ ảnh hưởng tới thương mại dịch vụ, họ cũng phải
thiết lập những công cụ mang tính khách quan để rà soát các
quyết định này nhằm đảm bảo chúng không bóp méo quá đáng
các điều kiện cạnh tranh công bằng của thị trường dịch vụ nội địa.
2, nguyên tắc tự do hóa từng bước thương mại dịch vụ
Việc thừa nhận nguyên tắc tự do hóa từng bước trong GATS là
kết quả đấu tranh của các nước đang phát triển trong đàm phán về thương
mại dịch vụ tại Vòng đàm phán Uruguay. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc
này chính là sự không đồng nhất về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
của các quốc gia. Hơn nữa, khoảng cách về trình độ phát triển, xét cả về
tổng thể nền kinh tế cũng như từng lĩnh vực dịch vụ cụ thể, giữa các
nước phát triển và đang phát triển là rất lớn. Vì vậy, quá trình tự do hóa
thương mại dịch vụ phải được tiến hành từng bước phù hợp với thực tiễn
phát triển của mỗi quốc gia.
Các nước đang phát triển chiếm 4/5 số Thành viên của WTO, tuy
vậy tổng giá trị giao dịch thương mại dịch vụ của các nước này còn rất
khiêm tốn. Hiện nay, các nước đang phát triển đều dành sự quan tâm đặc
biệt đến việc phát triển thương mại dịch vụ. Các quy định của GATS tạo
điều kiện cho các nước đang phát triển ở 2 điểm sau:
Thứ nhất, từng bước tự do hoá thị trường phù hợp với trình độ
phát triển và mục tiêu của chính sách quốc gia của các Thành viên đang
phát triển. Các nước đang phát triển không phải mở rộng thị trường
nhanh chóng và ở nhiều lĩnh vực dịch vụ như các nước phát triển. Các
nước này có thể mở rộng việc tiếp cận thị trường một cách dần dần, để
phù hợp với tình hình phát triển và có thể quy định các điều kiện đi kèm
khi mở cửa thị trường cho người cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Thứ hai, tăng cường sự tham gia của các nước đang phát triển
vào thương mại dịch vụ. Những cam kết của các nước đang phát triển
phải được thiết lập nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các lĩnh
vực dịch vụ tại thị trường trong nước, tăng cường khả năng cung cấp các
dịch vụ ở thị trường nước ngoài thông qua việc tiếp cận công nghệ mới,
nâng cao khả năng tiếp cận các kênh phân phối, hệ thống thông tin ở
nước ngoài, đặc biệt là tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực cũng như
phương thức cung cấp gắn liền với mối quan tâm xuất khẩu của họ.
3. nguyên tắc liên quan độc quyền và đặc quyền
Các Thành viên có thể cho một số ngành dịch vụ được hưởng độc
quyền và đặc quyền. Theo quy định của GATS thì điều này là hoàn toàn
hợp pháp (Điều VIII). GATS không ngăn cản việc duy trì hình thức độc
quyền như vậy nhưng yêu cầu các Thành viên phải đảm bảo rằng hoạt
động của người cung cấp dịch vụ độc quyền phải phù hợp với các nghĩa
vụ chung và nghĩa vụ đã cam kết của Thành viên đó.
Có thể thấy rõ vấn đề độc quyền và đặc quyền này trong một số
lĩnh vực dịch vụ ở đó tồn tại hiện tượng độc quyền tự nhiên (natural
monopoly), ví dụ lĩnh vực thông tin viễn thông. Trong lĩnh vực này
thường tồn tại một công ty viễn thông lớn (thường là do Nhà nước đầu tư
vốn và quản lý) chiếm vị trí độc quyền trong việc cung cấp các dịch vụ
cơ sở về viễn thông (cung cấp đường dây, trục thông tin hữu tuyến). Sự
độc quyền này được hình thành một cách tự nhiên do không có nhà đầu
tư tư nhân nào có khả năng về vốn đủ lớn để đầu tư xây dựng một đường
dây điện thoại thứ hai và nếu có thì việc xây dựng một đường dây thứ hai
Có thể thấy rõ vấn đề độc quyền và đặc quyền này trong một số
lĩnh vực dịch vụ ở đó tồn tại hiện tượng độc quyền tự nhiên (natural
monopoly), ví dụ lĩnh vực thông tin viễn thông. Trong lĩnh vực này
thường tồn tại một công ty viễn thông lớn (thường là do Nhà nước đầu tư
vốn và quản lý) chiếm vị trí độc quyền trong việc cung cấp các dịch vụ
cơ sở về viễn thông (cung cấp đường dây, trục thông tin hữu tuyến). Sự
độc quyền này được hình thành một cách tự nhiên do không có nhà đầu
tư tư nhân nào có khả năng về vốn đủ lớn để đầu tư xây dựng một đường
dây điện thoại thứ hai và nếu có thì việc xây dựng một đường dây thứ hai
như vậy không đem lại hiệu quả kinh tế bằng việc thuê đường dây đã có
của công ty độc quyền nói trên. Trong trường hợp như vậy, GATS cho
phép tồn tại sự độc quyền và đặc quyền cung cấp dịch vụ. Tuy vậy, một
Thành viên cho phép độc quyền và đặc quyền trong lãnh thổ của mình
đối với một ngành dịch vụ nào đó thì việc cho phép như vậy vẫn phải
tuân thủ theo Điều II về nguyên tắc MFN của GATS. Nghĩa là, khi công
ty có độc quyền cho phép những người của một Thành viên sử dụng
mạng thông tin viễn thông của mình để cung cấp các dịch vụ có liên quan
4 nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt
Trước WTO, GATT đã có những ưu đãi nhất định dành cho các
Thành viên đang phát triển thông qua hệ thống các đối xử đặc biệt và
khác biệt (S&D). Tuy nhiên, chỉ đến khi WTO ra đời, sự đối xử đặc biệt
và khác biệt dành cho các Thành viên đang phát triển mới được khẳng
định là nguyên tắc cơ bản điều chỉnh hệ thống thương mại đa phương.
Nguyên tắc này không chỉ kế thừa những quy định ưu đãi của GATT về
thương mại hàng hóa dành cho các nước đang phát triển, mà còn mở
rộng áp dụng cho cả thương mại dịch vụ, đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ.
Đây là thành quả đấu tranh liên tục của các nước đang phát triển qua
những vòng đàm phán trong khuôn khổ GATT, đặc biệt là Vòng đàm
phán Uruguay. Bởi vì, một trong những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ
quốc tế nói chung, thương mại quốc tế nói riêng là bình đẳng và cùng có
lợi. Tuy nhiên, trên thực tế, ưu thế trong thương mại quốc tế thuộc về
những nước công nghiệp phát triển với tiềm lực lớn về công nghệ, tài
chính. Trong khi đó, bất lợi thuộc về các nước đang phát triển do khoảng cách lớn về trình độ phát triển công nghệ và khả năng hạn hẹp về tài
chính so với các nước phát triển. Vì vậy, nguyên tắc bình đẳng, không
phân biệt đối xử trong thương mại dịch vụ chỉ có ý nghĩa đối với các
nước đang phát triển khi họ được hưởng những ưu đãi nhất định so với
các nước phát triển.
Theo quy định của GATS, nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt
dành cho các Thành viên đang phát triển thể hiện ở những nội dung sau đây:
Thứ nhất, những cam kết cụ thể đạt được thông qua đàm phán phải bảo đảm cho các Thành viên là những nước đang phát triển có thể
tăng cường được năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ của mình.
Các nước phát triển phải tạo điều kiện nâng cao khả năng tiếp cận các
kênh phân phối và hệ thống thông tin cho các nước đang phát triển, đồng
thời phải mở cửa thị trường trong các lĩnh vực và phương thức cung cấp
gắn liền với mối quan tâm xuất khẩu của các Thành viên đang phát triển.
Thứ hai, về đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ, những nước
phát triển phải áp dụng phương pháp loại trừ (không mở cửa lĩnh vực nào
thì phải liệt kê trong Danh mục cam kết cụ thể và những lĩnh vực còn lại
đều phải mở cửa), nhưng các nước đang phát triển được áp dụng phương
pháp “chọn-cho”. Nghĩa là mở cửa lĩnh vực nào thì liệt kê lĩnh vực đó
trong Danh mục cam kết cụ thể, các lĩnh vực không liệt kê là những lĩnh
vực không cam kết. Hơn nữa, các Thành viên đang phát triển được
hưởng sự linh hoạt thích đáng trong việc mở cửa thị trường với ít lĩnh
vực dịch vụ hơn, tự do hóa ít loại hình giao dịch dịch vụ hơn. Tuy nhiên,
việc chọn lĩnh vực dịch vụ để cam kết không được thực hiện một cách
tuỳ ý mà phải thông qua đàm phán.
Thứ ba, trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Hiệp định WTO có hiệu
lực, các Thành viên phát triển và các Thành viên khác, tùy theo khả
năng, sẽ lập những điểm liên lạc để tạo điều kiện cho những người cung
cấp dịch vụ của các Thành viên đang phát triển tiếp cận thông tin về thị
trường của những nước đó.
Việc ghi nhận sự đối xử ưu đãi dành cho các nước đang phát
triển, trong các hiệp định của WTO nói chung và trong GATS nói riêng,
thể hiện sự tiến bộ trong quan hệ thương mại quốc tế hiện nay. Tuy
nhiên, phần lớn những ưu đãi được quy định chỉ mang tính định hướng,
thiếu tính cụ thể và khả thi. Chẳng hạn như Điều XIX của GATS quy
định: “dành sự linh hoạt thích đáng cho các Thành viên đang phát triển
trong việc mở cửa thị trường với ít lĩnh vực hơn, tự do hóa ít loại hình
giao dịch hơn..”. . Những ưu đãi nhìn chung vẫn chưa phản ánh đúng
khoảng cách lớn về trình độ phát triển giữa các Thành viên phát triển và
đang phát triển. Ví dụ, Hiệp định Dịch vụ viễn thông cơ bản cho phép
các nước có thu nhập thấp kéo dài thêm 6 năm so với các nước phát triển
trong việc mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông, nhưng thực tế các nước
đó lạc hậu hơn các nước phát triển trong lĩnh vực này từ 20 đến 30 năm.
4. nguyên tắc tối huệ quốc.
Nguyên tắc tối huệ quốc (Most Favoured Nation - MFN) quy định
Chính phủ của Thành viên không được phép có sự phân biệt đối xử giữa
các dịch vụ hoặc các nhà cung cấp dịch vụ của các Thành viên khác mà
phải dành cho họ sự đối xử không kém phần ưu đãi so với mức mà
Thành viên đó đã, đang và sẽ dành cho bên thứ ba nào đó (Điều II
GATS).
Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc trong thương mại
dịch vụ, có vấn đề thực tiễn đã phát sinh là: khi GATS bắt đầu có hiệu
lực thì một số Thành viên đã có những Hiệp định song phương hoặc Hiệp
định khu vực, theo đó, các bên đã dành cho nhau chế độ ưu đãi khá rộng
về lĩnh vực dịch vụ. Các nước này cho rằng không thể ngay một lúc xoá
bỏ các hiệp định song phương hoặc Hiệp định khu vực hoặc đem những
ưu đãi đặc biệt này để áp dụng cho các Thành viên khác. Vì vậy, các
Thành viên của GATS đã nhất trí đi đến thỏa thuận chung là các nước có
thể tiếp tục duy trì những ưu đãi ngoại lệ với một số nước và với một số
hình thức dịch vụ. Các Thành viên phải quy định rõ trong Danh mục miễn trừ đối xử tối huệ quốc những biện pháp được miễn trừ và thời hạn
miễn trừ bên cạnh những cam kết khác.
Danh mục tạm thời áp dụng quy chế MFN là bộ phận không thể
tách rời và có giá trị pháp lý như những điều khoản khác của GATS. Đây
cũng là điểm cơ bản làm nên sự khác nhau giữa GATS với GATT - Hiệp
định về thương mại hàng hoá của WTO.
Bên cạnh đó, GATS còn cho phép các Thành viên dành điều kiện
thuận lợi hơn cho các nước lân cận tại vùng cận biên nhằm thúc đẩy trao
đổi dịch vụ được cung cấp và tiêu thụ trong phạm vi giới hạn vùng cận
biên. Trong các khu vực tự do mậu dịch cận biên, các Thành viên có
chung đường biên giới có thể dành những ưu đãi cho nhau mà không phụ
thuộc vào nghĩa vụ thực hiện đối xử tối huệ quốc đã cam kết trong trong
Danh mục cam kết cụ thể.
5. nguyên tắc đối xử quốc gia
Nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment - NT), cũng như
nguyên tắc MFN, được xây dựng trên nền tảng của nguyên tắc không phân biệt đối xử. Theo quy định của GATS, nguyên tắc MFN được áp
dụng ngay lập tức, vô điều kiện mà mọi Thành viên GATS phải chấp
nhận, nhưng có ngoại lệ. Còn nguyên tắc đối xử quốc gia không phải là
nghĩa vụ chung mà là nghĩa vụ có điều kiện và được đàm phán trong quá
trình gia nhập. Kết quả đàm phán về mở cửa thị trường và đối xử quốc
gia được ghi nhận trong Danh mục cam kết cụ thể. Theo đó, đối với
những lĩnh vực đã được ghi trong Danh mục cam kết cụ thể, mỗi Thành
viên phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành
viên nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà Thành
viên đó đã, đang và sẽ dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của
nước mình. Sự đối xử không thoả mãn yêu cầu của nguyên tắc đối xử
quốc gia là sự đối xử làm cho điều kiện cạnh tranh có lợi hơn cho dịch vụ
hay người cung cấp dịch vụ trong nước so với dịch vụ hay người cung
cấp dịch vụ nước ngoài. Mục đích của GATS là nhằm dỡ bỏ những hạn
chế và phân biệt đối xử đối với người cung cấp dịch vụ nước ngoài, tạo
điều kiện cho họ tiếp cận thị trường trong nước.
Để đảm bảo cho người cung cấp dịch vụ nước ngoài được hưởng
những điều kiện về cạnh tranh tương đương với người cung cấp dịch vụ
trong nước, GATS quy định các Thành viên phải loại bỏ 6 loại hạn chế
sau đây trong những lĩnh vực có cam kết mở cửa thị trường, dù là ở quy
mô vùng hoặc trên toàn lãnh thổ:
- Các hạn chế về số lượng người cung cấp dịch vụ dưới hình
thức hạn ngạch, độc quyền, toàn quyền cung cấp dịch vụ hoặc yêu
cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế;
- Hạn chế về tổng giá trị các giao dịch dịch vụ hoặc tài sản dưới
hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế;
- Hạn chế số lượng các hoạt động dịch vụ hoặc số lượng dịch vụ
đầu ra tính theo số lượng đơn vị dưới hình thức hạn ngạch hoặc
yêu cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế;
- Các biện pháp hạn chế hoặc yêu cầu các hình thức pháp nhân cụ
thể hoặc liên doanh thông qua đó người cung cấp dịch vụ có thể
cung cấp dịch vụ;
- Hạn chế về tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài bằng việc quy
định giới hạn phần trăm tối đa cổ phần của bên nước ngoài hoặc
tổng giá trị đầu tư nước ngoài tính đơn hoặc tính gộp.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro